Monday, December 12, 2011

HỘI LONG HOA II

CHƯƠNG THỨ NĂM

Phật-giáo Hòa-Hảo




I.-ĐỨC HUỲNH GIÁO-CHỦ

Như mọi người đều biết ở Nam-Việt có hai đạo giáo mạnh nhứt là Cao Đài giáo ở miền Đông và Phật giáo Hòa Hảo ở miền Tây.

Đức Huỳnh Giáo-chủ ra mở đạo nhằm năm Kỷ-mão(1939), cho đến nay, trong vòng mười bốn năm,một thời gian rất ngắn đối với các đạo giáo khác, thế mà hấp dẫn một số tín đồ không thể tưởng tượng.Hầu hết các tỉnh miền Tây, đa số dân chúng đều qui-ngưỡng theo đạo Phật-giáo Hòa Hảo.

Riêng hai tỉnh Châu đốc và Long xuyên, tỷ số tín đồ Hòa-Hảo chiếm từ 80 đến 90 phần trăm trong toàn số dân chúng.Như thế Đức Huỳnh Giáo-chủ phải có sức mầu nhiệm gì mới có thể thức tỉnh một số chúng sanh to tác dường ấy.

Theo sự nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có nhiều nguyên nhân mà chúng tôi xin tóm lược như dưới đây:

1- Bản thân của Đức Huỳnh Giáo-chủ.-

Ngài vốn xuất thân là người ít học.Cứ như được biết thì Ngài đâu học hết lớp ba trường làng, vì mãi đau ốm mà không theo đuổi nữa được.Bỗng một hôm Ngài được sáng tỏ phi thường, đến các hàng cư nho ở trong thôn, các nhà Tây học ở khắp nơi, một khi đến hầu chuyện với Ngài đều phải ngạc nhiên trước sự thông minh phi thường của Ngài.

Nhiều ông cự nho đem thơ đến thử đều được Ngài họa lại ngay khi ấy,không cần phải bóp trán suy nghĩ.Thế mà bài thơ nào của Ngài làm ra cũng đều siêu nhiên thoát tục, ai đọc cũng tưởng là một đấng siêu phàm nào giáng cơ.Chẳng những thế, Ngài còn có tài hùng biện, ứng khẩu thành thi diễn giảng thao thao bất tuyệt.

Nhứt là những người lảu thông kinh điển nhưng còn thắc mắc một vài nghi vấn nào đều được Ngài làm cho thõa mãn bằng những giải thích cao siêu.Đứng trước một người không học mà thông minh lỗi lạc dường ấy, thử hỏi ai chẳng ngạc nhiên hay cảm phục? Chính vì đó mà một phần lớn trong hàng cự nho và Tây học, người có căn lành đều sớm tỉnh ngộ quay về Phật pháp dưới sự phổ hóa của Ngài.

2- Cách chữa trị kỳ diệu của Ngài.-

Giáo chủ được nổi tiếng và được dân chùng ngưỡng mộ qui y, một phần lớn là nhờ cách chữa trị của Ngài. Đại đề chúng tôi xin kể ra một vài trường hợp mà Ngài thâu phục tín đồ bằng phương pháp mầu nhiệm. Có nhiều bịnh điên từ lâu không phương cứu chữa, hung dữ một cách lạ thường khi đem đến, Ngài chỉ lấy dây chuỗi cột đâu ngồi đó, rồi bắt niệm Phật và uống nước lã, thế là hết bịnh.

Còn nhiều bịnh ngặt nghèo khác, các thầy thuốc Tây thuốc Nam đều chạy, đến Ngài chỉ cho uống lá xoài, lá ổi, lá mít, bong trang… mà hết bịnh mới kỳ.Điều kỳ diệu nhứt là nhiều người ghiền á-phiện đã uống nhiều thuốc cai mà không bỏ được, đến Ngài chỉ cho uống nước lã, là bỏ hút cái một, không hành phạt chi cả.Với sự cứu bịnh bằng phép huyền diệu ấy, còn ai chẳng hồi tâm hướng thiện.Thế là Đức Huỳnh Giáo-chủ bằng phương pháp Tiên thuật, hóa độ một phần lớn chúng sanh.

3-Những lời tiên tri cảnh tỉnh.-Ngài sáng tác Sấm giảng văn thơ rất nhiều, trong đó Ngài tiên tri nhiều điều hoặc thưc hiện nhãn tiền hay lần lượt được thời gian xác nhận.Một điều làm cho con người ta kinh ngạc là Ngài nói ngay những ý tưởng của người đời.

Đây là một thí dụ: một hôm có một ông lão cự nho đến tính thử Ngài, có làm sẵn hai bài thi, nặn nọt suốt đêm.

Khi lão nhà nho vừa bước đến, chưa kịp trình thư ấy ra thì Ngài đã ra đón trước, vỗ vao ông lão mà rằng: Ý ông muốn làm thơ lắm phải không? Được. thôi thì vào đây làm thơ với tôi chơi.Nói rồi, Ngài mời ông lão vào nhà, liền lấy viết làm hai bài thơ trao cho ông lão ấy.Một điều làm cho ông lão kinh hồn là hai bài thơ ấy họa nguyên vận hai bài thơ còn trong túi của ông.Chính nhờ có tha-tâm-thông và những lời tiên tri linh ứng mà Đức Huỳnh Giáo-chủ đã cảnh tỉnh một phần lớn người đời.

4-Những pháp môn hành đạo.-Mặc dầu đạo Phật đã mở ra khắp trong nước, những kẻ sùng ngưỡng lại rất ít.Một phần là do các nhà sư tu theo Thần Tú, bày ta bao nhiêu điều mị dối làm cho Phật pháp một ngày một suy đồi.Dân chúng một ngày một xa cửa thiền, một phần lớn cũng vì chán ghét cách tu giả dối ấy. Đức Huỳnh Giáo-chủ ra đời nêu lên một pháp môn vô vi đúng chơn truyền của Đức Thế Tôn cực lực bài xích những điều mị dối của phái tu theo Thần Tú.Những người có căn lành nhận thấy pháp môn của Ngài rất thích hợp nên quay về với pháp vô vi của Phật.

Ngoài số người tu theo pháp vô vi, còn những tín đồ của Đức Phật Thầy Tây An trước kia, cũng quay về với Đức Huỳnh Giáo-chủ.

Ai cũng nhận thấy ở miền Tây nhứt là tỉnh Châu đốc và Long xuyên, đa số dân chúng đều tu theo phái của Đức Phật-Thầy Tây -An.

Nay Đức Huỳnh Giáo-chủ ra đời nêu lên một giáo pháp mà những tín đồ phái Phật Thầy nhận thấy không có chỗ nào khác với những điều Đức Phật-Thầy Tây-An, Đức Phật Trùm.Ông Sư Vãi Bán Khoai đã dạy nhứt là Đức Phật-Thầy Tây-An.Chẳng hạn như Đức Huỳnh Giáo-chủ giải về Tứ Ân : Ân Tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân Tam bảo, Ân đồng bào nhơn loại thì không có chỗ nào khác Đức Phật-Thầy Tây-An.

Thứ nhứt là khi đọc Sấm-Giảng của Đức Huỳnh Giáo chủ, những người tu theo Đức Phật-Thầy Tây-An , ông Sư Vãi Bán Khoai… thấy sao, cả vừa tư tưởng lẫn câu văn, nó giống như do một người sáng tác.Về những nhận xét này, rồi đây chúng tôi sẽ đem đối chiếu nhiều đoạn văn của Đức Huỳnh Giáo chủ với những đoạn văn của ông Sư Vãi Bán Khoai sẽ thấy rõ chỗ giống nhau ấy.

Đứng trước sự trùng ngôn trùng ý như thế, tín đồ của phái Phật-Thầy không còn ngần ngại gì nữa mà chẳng qui y theo Đức Huỳnh Giáo chủ, vì họ đã nhận biết Ngài là ai rồi.Do đó mà đa số tín đồ của phái Phật-Thầy ngày trước nay đã trở thành tín đồ Phật giáo Hòa Hảo.

Nhưng sứ mạng của Ngài ra sao? Tưởng không gì bằng trích ra đây bài lịch sử của đời Ngài, do Ngài viết ra từ năm 1942.

LỊCH SỬ ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ

Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão, vì thời cơ đã đến, lý Thiên-đình hoạch định cuộc nguy cơ thảm họa sắp tràn lan.Ta đây tuy không thể đem phép huệ linh mà cứu an tai họa chiến tranh tàn khốc do loài người tàn bạo gây nên, nhưng mà thử nghĩ: Sinh trong vòng đất Việt Nam nầy, trải qua bao kiếp trong địa cầu lăn lộn mấy phen,tuy có phải chuyển kiếp luân hồi ở nơi hải ngoại để thu thập những điều đạo học kinh nghiệm huyền thâm, lòng mê si đã diệt, sự vị kỷ đã tan, mà kể lại nguồn gốc phát sinh ,trải bao đời giúp nước vùa dân cũng đều mãi sinh cư nơi đất Việt.Những tiền kiếp dầu sống cũng là dân quan đất Việt, dầu thác cũng quỉ Thần đất Việt chớ bao lìa.Những kiếp gần đây may mắn gặp minh sư, cơ truyền Phật pháp gội nhuần Ân đức Phật, lòng đà quảng đại từ bi hềm vi nỗi cảnh quốc phá gia vong, máy huyền cơ đã định lòng thương trăm họ vướng cảnh đồ lao chi xiết xót thương chúng sanh vạn khổ.

Nghĩ lúc còn là người trong biển tục lăn lộn chốn mê đồ, mà chẳng quản thân giúp thế cứu dân, vong thân vị quốc, huống chi nay cơ mấu đà thấu tỏ, sớm chiều hầu chơn Phật nghe kinh, ngao du tứ hải dạo khắp Tiên bang, cảnh an nhàn của người liễu đạo, muôn ngày vô sự long sạch phàm tâm, sao chẳng ngồi nơi ngai vị hưởng quả bồ đề trường thọ mà còn len lỏi xuống chốn hồng trần, đặng chịu cảnh chê khen?-Vì lòng từ bi chứa chan, thương bách tính tới hồi tai họa, Phật vương đà chỉ rõ máy diệu huyền, chuyển lập Hội Long-Hoa, chọn những đấng tu hành cao công quả để ban cho xứng vị xứng ngôi, người đủ các thiện căn giáo truyền đại Đạo, định ngôi thứ, gây cuộc hòa bình cho vạn quốc chư bang.

Thiên Tào đã xét định khắp chúng sanh trong thế giới trong cái buổi Hạ-Nguơn này say mê vật dục, chìm đắm trong biển lợi danh, gây nên nghiệp quả, luật Trời đã trị tội , xét kẻ thiện căn thì ít, người tội ác quá nhiều, chư Phật mới nhủ lòng từ bi cùng các vị chơn Tiên phải lâm phàm độ thế, trước ra công cứu khổ, sau chỉ rõ cơ huyền,khuyên kẻ thế hướng thiện, quay đầu cải là qui chánh thì mới mong Thiên đình ân xá bớt tội để kịp đến hội Long-Hoa chầu Phật, trước biết rõ luật Trời thưởng phạt,cùng hữu duyên nghe Phật pháp nhiệm mầu, kiến diện bậc chơn sư, tu hành mau đắc quả, sau làm dân Phật quốc, hưởng sự thái bình, bởi đời nay pháp môn bế mạc.Thánh đạo tăng du người tâm trí tối đen đời lắm ma vương khuấy rối.Ta là một trong các vị cứu đời ấy.Ai liễu đạo nơi quốc độ nào thì cũng phải trở về quốc độ ấy mà trợ tế nhân dân vì thế lòng từ bi bác ái cùng thờ pháp những linh hồn đã trợ duyên trong nhiều kiếp giúp Ta nương cậy tu hành nên ngày18 tháng 5 năm Kỷ Mão Ta hóa hiện ra đời cứu độ chúng sanh.Tuy nhơn dân mới rõ Pháp mà tưởng rằng Ta thượng xác cỡi đồng chớ có dè đâu chuyển kiếp đã từ lâu cho đến ngày Ta Trợ thế.Nên phương pháp của Ta tùy trình độ cơ cảm của tín nữ thiện nam, trên thì nói Phật pháp cho kẻ có lòng mộ đạo qui căn, gây gốc thiện duyên cùng Thầy Tổ, dưới dùng huyền diệu của Tiên gia độ binh để cho kẻ ít căn lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ bi của chư vị với trăm quan, thảm thiết lê dân, lầm than thống thiết mà lời lành nghe tựa hồ như nhớ như quên nên kể xa xôi từ nan chẳng tới, người láng giềng tiếng kệ nhầm tai.Đến trung tuần tháng tám Ta cùng đức Thầy mới tá hiệu Khùng Điên, mượn bút mực tiết lộ lấy Thiên cơ, truyền cho kẻ xa gần đều rõ biết hầu ăn năng cải hóa làm lành, còn kẻ chẳng tỉnh tâm sau đền tội cũng chẳng trách Phật Tiên không chỉ bảo.

Vẫn biết đời Lang sa thống trị phép nước nghiêm hình, dân chúng nếu yêu thương sẽ lắm điều hềm khích; nhưng mà Ta nghĩ nhiều tiền kiếp Ta cũng hy sinh vì đạo, nào quản xác thân.Kiếp chót này đây há lại tiếc chi thân phàm tục, song vì tình cốt nhục tương thân, cũng ủng hộ, chở che cho xác phàm bớt nỗi cực hình.

Bạc-liêu ngày 18-5 Nhâm-Ngũ (1942)

ĐỐI CHIẾU TƯ TƯỞNG

Để nhận thấy chỗ liên hệ giữa Đức Phật-Thầy Tây-An, ông Sư-Vãi Bán-Khoai với Đức Huỳnh Giáo chủ tưởng cũng nên đem đối chiếu những tư tưởng đồng nhứt giữa ba Ngài.

Trước hết ta nhận thấy rằng: trong phái Phật-Thầy, các Ngài một khi lâm phàm cứu thế thường xưng Khùng xưng Điên, ý chừng đối lại người đời xưng khôn xưng lanh, thường khinh khi Phật, Tiên, Thần, Thánh.

Mặc dầu xưng Khùng xưng Điên nhưng đối với những người có thiện căn, các Ngài không hẹp lượng mà chẳng cho biết rằng: Khùng Điên là của Phật, của Thầy chớ không phải của người lảng trí.Đây là đoạn văn của ông Sư Vãi Bán Khoai xưng Khùng, xưng Điên:

Điên nầy Điên Phật, Điên Thầy,

Chẳng sợ ai rầy nên nói cù nhây.

Ta hãy xem một đoạn văn dưới đây của Đức Huỳnh Giáo chủ thì sẽ thấy chỗ đồng nhứt tư tưởng ấy:

Bởi chữ Khùng của Phật của Thầy,

Chớ không phải của người lảng trí.

Bởi Khùng Điên của Phật của Thầy, cho nên rõ thiên cơ,đoán biết âm dương kết liễu.Đây là phải đọc ông Sư Vãi Bán Khoai:

Khùng sao mà biết thiên cơ,

Cũng là Phật khiến cho Khùng dại điên.

Cũng đồng một tư tưởng này, Đức Huỳnh Giáo chủ đã viết:

Khùng đoán biết âm dương kết liễu,

Khùng huyền cơ, Khùng đạo Thích Ca.

Ngoài sự xưng hô giống nhau , chúng ta còn thấy cả sự nhận định thời cơ cũng giống nhau nữa.Ông Sư Vãi Bán Khoai viết:

Hết đây đến nước dị kỳ,

Dỗ dành thiên hạ vậy thì chẳng an.

Đến Đức Huỳnh Giáo chủ cũng thế:

Hết đây rồi đến dị kỳ,

Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha.

Xưa nay, sự trùng ngôn trùng ý vẫn là điều thường thấy xảy ra luôn, nhưng chúng tôi dám chắc chẳng bao giờ có một sự đồng nhứt tư tưởng như thế này.Trong quyển Sấm giảng người đời,ông Sư Vãi Bán Khoai trong cuộc đi phổ độ chúng sanh thường nói là một Thầy ba tớ.Đây là lời ông Sư Vãi Bán Khoai tự thuật:

Chừng nào nước chảy đông nguồn,

Một Thầy ba tớ hết đường lao đao.

Ông thường nhắc đến luôn:

Nào khi nắng bụi bay tuôn,

Một Thầy ba tớ chẳng buồn lại vui.

Đến Đức Huỳnh Giáo chủ cũng thế,trong Sấm Giảng Ngài nhắc lại cuộc châu du độ thế, cũng cho biết là một Thầy ba tớ:

Khùng thời ba tớ một Thầy,

Giảng dạy dẫy đầy rõ việc thiên cơ.

Chẳng những cho biết là một Thầy ba tớ mà ông Sư Vãi Bán Khoai còn cho biết cả danh hiệu nữa.Đây là danh hiệu mà ông Sư Vãi Bán Khoai thường xưng:

Huệ Lựu ký tả một bài,

Viễn bang châu quận hậu lai khán tường.

Hoặc giả:

Huệ Lựu bút ký tả rồi,

Đặng cho thiên hạ dấu soi để đời.

Các danh hiệu này được Đức Huỳnh Giáo chủ lập lại trong Sấm giảng của Ngài:

Đừng thấy ngu dại mà khi,

Thầy là Huệ Lựu tớ thì Huệ Tâm.

Khi đọc đến đoạn này thử hỏi còn tín đồ nào của ông Sư Vãi Bán Khoai không nhận thấy chỗ xuất sứ của Đức Huỳnh Giáo chủ.Họ không còn ngần ngại gì nữa mà chẳng nhận Đức Huỳnh Giáo Chủ là chuyển kiếp của ông Sư Vãi Bán Khoai.

Thật thế chúng ta hãy đọc đoạn văn nầy của ông Sư Vãi Bán Khoai:

Tôi đâu mà có an thân,

Bây giờ Phật biểu tôi sang nước Tần.

Mến là mến nghĩa Hoàng-Lân,

Thương là thương lấy vạn dân mắc nàn.

Rồi đọc đoạn văn nầy của Đức Huỳnh Giáo chủ, chúng ta sẽ thấy chỗ nhận định của tín đồ của Sư Vãi Bán Khoai là đúng:

Dạy đạo chánh vì thương Nam-Việt,

Ở Cao miên vì mến Tần Hoàng;

Trở về Nam đặng có sửa sang,

Cho thiện tín được rành chơn lý.

Như thế thì rõ lắm rồi, nhưng cũng còn chưa rõ vì đoạn văn sau đây:

Đừng ham nói nọ nói nầy,

Lặng yên coi thử Điên nầy là ai?

Cảm thương ông lão Bán Khoai,

Vì yêu dân chúng chẳng nài nắng mưa.

Thế là bức màn huyền vi giữa ông Sư Vãi Bán Khoai và Đức Huỳnh Giáo chủ đã hé mở.Chẳng những thế mà bức màn huyền vi giữa Đức Phật Thầy Tây An và Đức Huỳnh Giáo chủ cũng được vén lên. Đức Huỳnh Giáo chủ cho biết:

Khùng nầy quê ngụ núi Sam,

Còn Điên chẳng có chùa am dưới nầy.

Núi Sam là chỗ Đức Phật Thầy Tây An đã tịch, cho nên khi nói đến Núi Sam là tín đồ phái Phật Thầy hiểu ngay là chỉ Đức Phật-Thầy Tây-An.

Mặc dù cho biết quê ngụ Núi Sam để cho dân chúng đừng nghi nan, nhưng Đức Huỳnh Giáo chủ vẫn thấy người đời còn thờ ơ, cho nên không dứt lặp đi lặp lại:

Thương lê thứ bày tường trong đục,

Mặc ý ai nghe phải thì làm;

Lời của người di tịch Núi Sam,

Chớ chẳng phải bày điểu huyễn hoặc.

Cảnh Thiên trước thơm tho nồng nặc,

Chẳng ở yên còn xuống phàm trần.

Ấy vì thương trăm họ vạn dân,

Nên chẳng kể tấm thân lao khổ.

Giả quê dốt khuyên người tỉnh ngộ,

Giả bán buôn thức giấc người đời.

Rằng ngày nay có Phật có Trời ,

Kẻo dân chúng nhiều người kiêu ngạo.

Xuống mượn xác nhằm năm Kỷ-mão,

Buồn xóm làng cứ ghét Điên Khùng.

Nếu trẻ già có biết thì dùng,

Chẳng có ép có nài bá tánh.

Thử hỏi, khi đọc đến đoạn này, tín đồ nào của Đức Phật Thầy Tây An, chẳng nhận ra Đức Huỳnh Giáo chủ là ai?Chắc sao cũng có người sẽ hỏi: Đức Huỳnh Giáo chủ lại vừa ông Sư Vãi Bán Khoai chuyển kiếp lại vừa Đức Phật Thầy Tây An chuyển kiếp?Điều này, chúng ta đã biết: giữa Đức Phật Thầy Tây An, Đức Phật Trùm,ông Sư Vãi Bán Khoai và Đức Huỳnh Giáo chủ vẫn không có sự sai biệt.Chính Đức Huỳnh Giáo chủ trong bài Lịch sử về đời Ngài, có đoạn cho biết: “ Tuy là nhơn dân mới rõ pháp mà tưởng rằng Ta thượng xác cưỡi đồng, chớ dè đâu chuyển kiếp đã từ lâu cho đến ngày ra trợ thế”, đủ hiển thị chỗ nhận định ở trên.

Bởi do nhiều “ chuyển kiếp đã từ lâu”, cho nên Đức Huỳnh Giáo chủ diễn giải về Tận Thế và Hội Long Hoa không khác ông Sư Vãi Bán Khoai và ông Ba Thới.

GIẢNG VỀ TẬN THẾ

Như ta đã biết ông Sư Vãi Bán Khoai mở đầu Sấm giảng người đời , bắng câu:

Hạ-Nguơn Giáp-tý bằng nay,

Cơ Trời đã khiến lập đời thượng lai.

Thì Đức Giáo Chủ cũng mở đầu quyển Sấm giảng khuyên đời tu niệm của Ngài bằng câu:

Hạ-Nguơn nay đã hết đời,

Phong ba biến chuyển đổi dời gia cang.

Ngài cũng nhận thời kỳ này là thời kỳ Hạ-Nguơn và danh từ này được Ngài lập lại nhiều lần:

Đời Nguơn-Hạ nhiều người hung dữ,

Nên xảy ra lắm sự tai ương.

Hoặc là:

Chữ vinh hoa giờ chớ có màng,

Bởi giả tạm của đời Ngươn-Hạ.

Ngài cho đời nầy là đời giả tạm vì rồi đây tuồng đời sắp hạ:

Khuyên răn trần thế một khi,

Tuồng đời sắp hạ bằng ni rõ ràng.

Nghĩa là nhơn loại sẽ đến ngày Tận Thế và ngày ấy theo Đức Huỳnh Giáo chủ còn chẳng bao lâu nữa:

Tận thế gian còn có bao lâu,

Mà chẳng chịu làm tròn nhơn đạo.

Người đời chưa chịu làm là vì người đời còn lần lựa, bởi thế Ngài khôn ngớt nhắc nhở:

Đời Tận Thế mà còn lần lựa,

Chẳng chịu mau cải dữ về lành.

Và Ngài cho biết là nó mỏng mẻo lắm rồi:

Đời Nguơn Hạ ngày nay mỏng mẻo,

Khuyên Thế Trần hãy rán kiêng dè.

Vì lý do gì Tuồng đời sắp hạ,loài người sắp đến cơ tận-diệt? Đức Huỳnh Giáo chủ cùng một nhận xét như ông Sư-Vãi Bán Khoai cho rằng người đời gây ra hằng ngày biết bao tội ác.Các du thần đem những tội ác ấy tâu lại Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngài muốn xử tiêu cho rồi.

Lưỡng Thần ghi chép liên miên,

Nào tội nào phước dưới miền trần gian.

Tâu qua Thượng Đế Ngọc Hoàng,

Dương trần hung ác đa đoan quá nhiều.

Chúng sanh ngang ngược làm liều,

Ngọc Hoàng Ngài muốn xử tiêu cho rồi.

Nhưng đứng trước sự phán quyết của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đức Minh Vương vô cùng thương xót đến cầu Phật Tổ cứu trần.Về đoạn nầy ông Sư Vãi Bán Khoai đã viết:

Hạ-Nguơn gian ác rất nhiều,

Thiên đình Ngài muốn xử tiêu cho rồi.

Minh Vương không xiết hỡi ôi!

Lo mưu định kế cứu rày Hạ-Nguơn.

Chư Phật đến trước đơn trì,

Tâu cùng Ngọc Đế chớ hờn chúng sanh.

Để cho Phật dạy làm lành,

Chừng nảo chẳng đặng sẽ hành bịnh căn.

Về đoạn này Đức Huỳnh Giáo chủ cũng cho biết như thế:

Minh-Vương khó đứng không ngồi,

Thảm thương lê thứ mắc hồi gian truân.

Trước đền mắt ngọc lụy rưng,

Quí yêu bá tánh biết chừng nào nguôi.

Làm sao da nọ được vui,

Cúi đầu lạy Phật cầu xin cứu trần.

Và Đức Huỳnh Giáo chủ còn nhắc thêm rằng:

Lời khuyên xưa cũng một lần,

Nay mượn xác trần xuống bút ra cơ.

Để nhắc lại một lần nữa rằng Ngài đã khuyên một lần rồi, chớ phải không sao.Câu này ám chỉ rằng: Với chuyển kiếp của ông Sư-Vãi Bán-Khoai, Ngài đã khuyên một lần rối.

Chính nhờ có Phật xin cứu trần mà chư Phật chư Tiên lâm phàm.Về điều này Đức Huỳnh Giáo chủ cũng cho biết như ông Sư-Vãi Bán-Khoai rằng:

Kể từ ngày vàng lộn với thau,

Phật, Tiên, Thánh cùng nhau xuống thế.

Hoặc giả:

Cờ thế giới ngày nay gần thúc,

Nên Phật, Tiên phải xuống hồng trần.

Đức Huỳnh Giáo chủ cho biết Ngài cũng “là một trong các vị cứu đời ấy.Ai liễu đạo nơi quốc độ nào thì cũng phải trở về quốc độ ấy mà trợ thế nhân dân” vì thế mà Ngài lâm phàm, nhằm khi thế gian đương gặp lúc nảo nồng:

Xuống dương thế dạo trong lê thứ,

Thấy bá gia gặp lúc não nùng.

Ngài cho biết Ngài xuống thế mấy lần rồi mà nào có ai hay:

Chim Ô đà dựa cầu Ngân,

Người xưa trở gót mấy lần không hay.

Và Ngài cho biết Ngài xuống An-giang tức là tỉnh Châu-đốc trong miền Nam nước Việt:

Tây phương trở gót quá xa đàng,

Thương xót Nam kỳ lại An giang.

Đoái thấy xóm làng thêm bắt chán,

Yêu đời mê muội luống bầm gan.

Và chuyển kiếp vào một xác “ thanh sắc trẻ”, họ Huỳnh ở thôn Hòa Hảo.Chính với danh từ này Ngài đặt cho nền đạo của Ngài hoằng hóa là Phật giáo Hòa Hảo:

Hòa thôn Hảo cảnh xứ chi ta,

Tạm dắt nhơn sanh khỏi ái hà.

Tạo xác Huỳnh danh thanh sắc trẻ,

Chờ thời Thiên định thiết hùng ca.

Năm Ngài lâm phàm là năm Kỷ-mão (1939):

Xuống mượn xác nhằm năm Kỹ mão,

Buồn xóm làng cứ ghét Điên Khùng.

Hoặc giả:

Kỷ mão hạ san mượn xác trần,

Cảnh tình đồng loại lão khuyên dân.

Thậm thâm đây có niềm liên ái,

Hợp tác cùng nhau nối bút thần.

Ngài xuống thế để “ nối bút thần ” tiếp tục công cuộc cứu thế của Ngài, nhưng lần chuyển kiếp nầy, sứ mạng của Ngài ra sao? Có giống mấy lần chuyển kiếp trước không?

SỨ MẠNG CỦA ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ

Đức Huỳnh Giáo chủ cho biết lần xuống thế kỳ này là Ngài vưng lịnh của Phật-Tổ:

Ta vì vưng sắc lịnh Ngọc-Tòa,

Đền Linh Khứu sơn trung chịu mạng.

Ngài cho biết là Ngài xuống thế gian mà truyền diệu pháp cho đời cải tà qui chánh:

Ngọc Tòa Phật Tổ nấy sai Ta,

Xuống cứu thế gian nẻo vạy tà.

Hiệp sức tớ Thầy truyền diệu pháp,

Cho đời thấu rõ đạo Ma ha.

Đã đành “ ai liễu đạo nơi quốc độ nào thì cũng phải trở về quốc độ ấy mà trợ thế nhân dân”, nhưng cái lý chánh vì cõi đất Việt Nam sau nầy sẽ là cõi Trung-Ương.Nên chi Ngài cho biết rằng:

Tuy là nương dựa non Tần,

Ngày sau thế cuộc xoay vần về Nam.

Câu nầy ám chỉ trong một chuyển kiếp làm ông Sư-Vãi Bán-Khoai ở nước Tần, nhưng cũng về Nam vì nước Nam sẽ là coi Trung-Ương:

Cõi Trung-Ương luân chuyển phương Nam,

Mở hội Thánh chọn người trung hiếu.

Bởi hội Thánh sẽ mở tại Trung Ương cho nên các vị Phật Tiên đều xuống thế ở Việt Nam:

Nước Việt Nam nhằm cõi Trung Ương,

Sau sẽ có Phật Tiên tại thế,

Và chính vì thế mà Đức Huỳnh Giáo chủ được lịnh lâm phàm:

Ngày vâng chỉ đáo lai trần thế,

Cõi Trung Ương nhằm đất nước Việt Nam.

Chọn một chàng tuổi trẻ tục phàm,

Mượn tay gã, tờ hoa thần hạ bút.

Để thi hành sứ mạng cao cả của Ngài trong công cuộc dắt dìu chúng sanh đi đến Hội Long Hoa để cảnh tỉnh người đời như Đức Phật Thầy Tây An và ông SưVãi Bán Khoai trước kia, Ngài xưng Khùng xưng Điên mà người đời mấy ai có biết:

Ra đời xưng hiệu Khùng Điên,

Nào ai có rõ Thần, Tiên là gì!

Mặc dầu người đời không biết, Ngài vẫn không vì đó mà giục thúc người đời tầm Tiên lánh tục:

Điên như ta Điên giống Tiên Rồng,

Điên gở ách xích xiềng thế tục.

Chuông Linh Khứu ba hồi giục thúc,

Đờn Lôi-Âm khởi điệu êm lai.

Con lành duyên khá trở gót hài,

Điên quyết chí dắt người lánh tục.

Trong lúc đi hóa độ, Ngài hóa hiện ra đủ hạng người, khi thì già, khi thì trẻ:

Khi già lúc lại trẻ thơ,

Giả quê giả dốt khắp trong thị thiềng.

Khi làm người tàn tật:

Giả người tàn tật đón xe,

Rồi lại nói vè ròng việc thiên cơ.

Khi thì giả người buôn bán:

Nói ra thêm thảm thêm thê,

Ông Lãnh dựa kề giả bán trầu cau.

Khi thì giả ra người nhà quê:

Giả quê dốt khuyên người tỉnh ngộ,

Giả bán buôn thức giấc người đời.

Rằng ngày nay có Phật có Trời,

Kẻo dân thứ nhiều người kiêu ngạo.

Đức Huỳnh Giáo chủ không ngại mà bày tỏ:

Cảnh Thiện trước thơm tho nồng nặc,

Chẳng ở yên còn xuống phàm trần;

Ấy vì thương trăm họ vạn dân,

Nên chẳng kể tấm thân lao khổ.

Đức Phật Thầy hay ông Sư Vãi Bán Khoai lâm phàm với sứ mạng chỉ thức tỉnh người đời tu hành cho kịp Hội Long Hoa, đến như Đức Huỳnh Giáo chủ thì Ngài cho biết chẳng những Ngài có sứ mạng nhắc nhở người đời mà Ngài còn đóng vai trò quan trọng trong Hội Long Hoa nữa:

Muôn thu Thiên định khắp kỳ,

Hạ-Nguơn sắc lịnh khai kỳ Long Hoa.

Rán vẹt phá sương mù trước mắt,

Chớ để cho quỉ dắt linh hồn.

Lão đây vưng lịnh Phật Tôn,

Lãnh câu thưởng phạt chư môn dữ lành.

Khá chí tâm học hành kinh sám,

Thoát nơn miền hắc ám phong ba.

Trở chơn cho kịp Long Hoa,

Long Hoa có mặt ấy là hiền nhơn.

Bởi thế, Hội Long Hoa là một trường thi, lập ra để chọn người hiền đức:

Long Hoa Tiên Phật đảo ta bà,

Lừa lọc con lành diệt quỉ ma.

Nên mãi mê mang mùi tục lụy,

Linh hồn chìm đắm chốn nê hà.

Có lập Hội Long Hoa mới biết người hiền đức còn được bao nhiêu:

Lập rồi cái Hội Long Hoa,

Đặng coi hiền đức được là bao nhiêu?

Gian tà hồn xác cũng tiêu,

Thảm thương bá tánh chín chiều quặn đau.

Nhưng Hôi Long Hoa sẽ lập ra như thế nào:

Long Hoa Hội ân cần lo lập,

Lập cho rồi tam thập lục nhơn.

Lôi âm dục khởi tiếng đờn,

Thất Sơn dấy loạn là cơn hiểm nghèo.

Nơi phía trước cheo leo tiếng khóc,

Đứng sau lưng hình vóc dãy chơn.

Nước kia lửa nọ tưng bừng,

Thảm cho thế sự lẫy lừng nạn tai.

Thời cũng lại không ai tu niệm,

Cứ lẳng lơ ngạo biếm khoe khoang.

Đến nay là buổi tan nàn,

Tam thiên lục bá khắp tràn hại dân.

Đến Thân Dậu Thánh Thần náo động,

Thảm cho trần nhà trống ruộng hoang.

Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn,

Nạn tai dồn dập xóm làng còn chi!

Đại lu75c thảm trạng của Hội Long Hoa sẽ diễn ra như thế.Nhưng trước khi đi đến Hội Long Hoa, cuộc thế sẽ biến chuyển ra làm sao?

GIẢNG VỀ CÁC TAI BIẾN

Cũng như ông Sư Vãi Bán Khoai và ông Ba Thới, Đức Huỳnh Giáo chủ cũng nhận Hội Long Hoa là một trường thi lập ra để chọn người hiền đức.Bởi thế muốn đi đến Hội Long Hoa, có mặt trong Hội Long Hoa không phải là một việc dễ, vì người có mặt trong Hội Long Hoa hẳn là người hiền mới được:

Trở chơn cho kịp Long Hoa,

Long Hoa có mặt ấy là hiền nhơn.

Có mặt trong Hội Long Hoa đã là một việc khó, thì Hội Long Hoa chẳng phải lập lên trong một sớm một chiều hay lập lên trong cảnh thái bình.Vốn là một cuộc lọc lừa để chọn con Tiên cháu Phật, cho nên được đi đến Hội Long Hoa, con người phải trải qua bao nhiêu biến thiên nguy khốn, trong sự chuyển xoay trái đất:

Phải chuyển xoay trái đất một bầu,

Đặng lừa lọc con Tiên cháu Phật.

Và sự chuyển biến ấy, sẽ diễn ra những cảnh thảm sầu khổ não báo hiệu rằng đời đã tới:

Hạ-Nguơn lòng dạ đổi dời,

Bây giờ khổ não đến đời là đây.

Cảnh thảm khổ đã xảy ra ở ngoại quốc, rồi đây nó sẽ diễn đến nước Nam:

Cảnh thảm khổ chiều mai sẽ đến,

Sao dân còn chiếu mến trần mê.

Mắt nhìn ngoại quốc thảm thê,

Nam bang cảnh khổ cũng kề bên tai.

Lời trên đây đã xuất hiện từ năm 1938 trong lúc nước Nam còn yên tịnh.Mặc dầu thấy yên, nhưng Đức Huỳnh Giáo chủ cho biết trước:

Ai mà biết đặng ngày mai,

Ngày nay yên tịnh ngày mai thảm sầu.

Từ đây gặp cảnh buồn rầu,

Cho người tàn bạo cứng đầu khinh khi.

Và cuộc biến chuyển sẽ đổi thay quá mau, từ giờ qua phút:

Nhìn cuộc thế đổi thay quá gắt,

Máy thiên cơ mỗi phút mỗi thay.

Ngài khuyên dân chúng hãy nhìn xem thì thấy:

Thôi thôi cảnh khổ hầu gần,

Ta khuyên dân chúng ân cần nhìn xem.

Như ông Sư Vãi Bán Khoai thì cho biết là sẽ có điềm trời, còn Đức Huỳnh Giáo chủ thì nhắc cho người đời để ý về mùa tiết, nay cũng đã khác xưa rồi:

Trời đông gió sái mùa sái tiết,

Nắng cùng mưa cũng khác xưa rồi.

Và người đời cứ mãi ước sao đời không tới phứt cho rồi:

Thấy trần thế ai ai cũng ước,

Đời sao không tới phứt cho rồi.

Nhưng Đức Huỳnh Giáo chủ cho biết là đã tới rồi,mà khi đã tới người đời còn ngơ ngẩn:

Nay tới nơi khó đứng khôn ngồi,

Lúc đói cơm buồn lòng ngơ ngẩn.

Dầu vậy cũng chưa mấy thê thảm, rồi đây sợ khi nhìn thấy phải lạc phách bay hồn,trước cảnh máu sông xương núi:

Khổ với thảm ngày nay có mấy,

Sợ mai sau dòm thấy bay hồn.

Trừ tà gian còn thiện chỉ tồn,

Cảnh sông máu núi xương tha thiết.

Trần với thế bây giờ nào biết,

Chừng nhìn xem hư thiệt mới tường.

Thật vô cùng cảm thương cho lê thứ:

Thấy thiên cơ khó nổi yên ngồi,

Thương lê thứ tới hồi khổ não.

Bởi từ đây sẽ có nhiều cuộc biến đổi dị kỳ:

Từ đây biến đổi dị kỳ,

Dương thế chuyện gì cũng có chuyển xoay.

Đức Huỳnh Giáo chủ còn cho biết rồi đây sẽ xảy ra nào là cảnh người đua nhau mà chạy đất cày:

Mai sau nhiều cuộc đất cày,

Đua nhau mà chạy lầu đài cũng xa.

Và chừng đó khó đứng khôn ngồi vì quá thương nhà tiếc của:

Để sau khó đứng khôn ngồi,

Thương nhà tiếc của biết hồi nào nguôi.

Là vì nhà cửa ấy, nó tuôn trong một giờ là sạch:

Giàu sang như nước trên nguồn,

Gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ.

Nào giặc giã bốn phương nổi lên:

Đến chừng đó bốn phương có giặc,

Khắp hoàn cầu thiết thiết tha tha.

Nào là nạn đói khó:

Trong bổn đạo từ đây kim chỉ,

Đói với nghèo sắp đến bây giờ.

Mà một nạn đói xảy ra thì người đời diêu linh, vì nó kéo dài đến 5 năm sáu tháng:

Bửu ngọc trường quang ẩn tịch kỳ,

Sơn đài lộ vẻ liễu huyền vi.

Năm năm lục ngoạt cơ hàn thử,

Non lịch đài máy rang tu mi.

Bảy niên hòa địa nhơn hiền thủ,

Núi ngự Hoàng san tự Đỉnh Chi.

Cái nạn đói này, Đức Huỳnh Giáo chủ cho biết kéo dài cho đến ngày lập đời Thượng-Nguơn mới dứt:

Ngũ niên viễn tự cơ hàn,

Đến chừng qui phục Hớn-Đàng mới yên.

Bởi thế Ngài hằng khuyên những người giàu có:

Kẻ phú quí đừng vong cơm nguội,

Sau đói lòng chẳng có mà dùng.

Cũng như Ngài đã khuyên cả mọi người:

Khuyên trần sớm liệu bắp khoai,

Cháo rau đỡ dạ tháng ngày cho qua.

Về nạn đói, chúng ta thấy Đức Huỳnh Giáo chủ nhận định như ông Sư Vãi Bán Khoai về thời hạn năm năm sáu tháng.Đây là lời của ông Sư Vãi Bán Khoai:

Năm năm sáu tháng long đong,

Nhân dân thiên hạ mắc vòng gian nan.

Hoặc là:

Năm năm sáu tháng cơ hàn,

Quỉ vương gây loạn nào an thế trần.

Nào là nạn Quỉ vương gây tai nạn cho dân chúng, như ông Sư Vãi Bán Khoai vừa nói trên:

Đạo Quỉ vương rất nhiều chi nhánh,

Khuyên dương trần sớm tránh mới mầu.

Để ngày sau đến việc thảm sầu,

Rán nghe kỹ lời ta mách trước.

Đức Huỳnh Giáo chủ cho biết là Trời đã mở cửa cho nó xuống:

Thời kỳ này nhiều quỉ nhiều ma,

Trời mở cửa Quỉ vương xuống thế.

Nó rất tinh tường biết cả tên người mà kêu:

Sau Quỉ vương đi đứng nữa lừng,

Thêm tên tuổi chúng sanh nó biết.

Làm đủ cách xuống lên tha thiết,

Ở ngoài đường nó biết tên mình.

Nào là cửa nhà tan nát:

Khắp thế giới cửa nhà tan nát,

Cùng xóm làng thưa thớt quạnh hiu.

Bấy lâu nay nuôi dưỡng chắt chiu,

Nay tận diệt lập đời trở lại.

Nào là cha con, chồng vợ lạc nhau, nhà không ai ở:

Cha nọ bồng con vợ khóc òa,

Tan nát xóm giềng khổ dữ a!

Nhà không người ở,ôi! nói trước,

Nếu chẳng tin lời gặp thiết tha.

Ngoài những tai biến vừa kể, Đức Huỳnh Giáo chủ còn cho biết nào là nạn ác thú kỳ hình dị trạng sát hại sinh linh đúng như ông Sư Vãi Bán Khoai và ông Ba Thới cho biết.Chúng ta thử so sánh, đây là ông Sư Vãi Bán Khoai:

Thú sao nhiều thứ dị-kỳ,

Biết sao cho hết khác thì thú nay.

Lớp bay lớp chạy lăng xăng,

Chừng đó cầu nguyện Phật ngừa đặng đâu.

Và đây là lời của ông Ba Thới:

Có hổ lang ác thú tới nhà,

Hùm tha sấu bắt trẻ già thương ôi!

Còn đây là lời của Đức Huỳnh Giáo chủ:

Mưu sâu thì họa cũng thâm,

Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê.

Hùm beo tây tượng bộn bề,

Lại thêm ác thú mảng xà rít to.

Các loài thú ấy đều biết bay, đúng như ông Sư Vãi Bán Khoai đã viết:

Hổ lang ác thú muôn bầy,

Lớp bay lớp chạy sau này đa đoan.

Ai mà ăn ở nghinh ngang,

Đón đường nó bắt xé tan xác hồn.

Mặc dầu là kỳ hình dị tượng, nhưng loài thú ấy có tánh linh, biết phân biệt kẻ hiền người ác.Với kẻ hiền đức thì nó cuối đầu, còn với người hung ác thì nó sát phạt:

Sau kẻ đó làm mồi mảnh hổ,

Cảnh núi non nhiều thú dị-kỳ.

Nó trọng ai hiền đức nhu mì,

Sát phạt kẻ bội cha phản chúa.

Nào là nạn binh Trời mà ông Sư Vãi Bán Khoai và ông Ba Thới gọi là âm binh.Đây là lời ông Sư Vãi Bán Khoai nói về âm binh:

Lại còn một mối âm binh,

Làm đau nhiều chứng trong mình chẳng an.

Kẻ thời nát ruột nát gan,

Người lại nát thịt tan xương chẳng còn.

Và đây là lời của ông Ba Thới:

Xuất ngôn vô độ hữu âm binh,

Xử phân bất chánh bất minh khổ đời.

Còn đây là lời của Đức Huỳnh Giáo chủ nói về nạn binh Trời:

No chiều rồi lại đói mơi,

Dương trần sắp vướng binh Trời từ đây.

Nào là nạn Bàn môn, tả đạo nhiễu hại sanh linh.Về đoạn nầy ông Sư Vãi Bàn Khoai cho biết:

Bàn môn thả thú rất nhiều,

Kỳ lân sư tử lại nhiều thú hung.

Hay là:

Bàn môn diệu thuật đa đoan,

Hóa lửa nó đốt muôn ngàn người ta.

Còn Đức Huỳnh Giáo chủ thì cho biết:

Ai mà Ta dạy chẳng gìn,

Thì sau đừng trách mất tình yêu đương.

Bàn môn tà phép nào tường,

Kêu Trời giậm đất cũng thì dạ ran.

Nói cho trần thế liệu toan,

Chớ theo tả đạo mà tan xác hồn.

Nó làm nhiều phép nhiều môn,

Bùa mê thuốc lú mê hồn chúng sanh.

Thành đậu cũng rành,

Nếu tin thì mắc tan tành về sau.

Nào là nạn Thiên la địa võng, ngăn đường đón ngỏ,kẻ hung ác không chạy đâu cho thoát:

Đến chừng đó Thiên la lưới bủa,

Mới biết rằng Trời Phật công bằng.

Nào là nạn sơn băng thủy kiệt:

Sau đến việc sơn băng thủy kiệt,

Khùng thảm thương bà tanh quá chừng.

Nhìn xem trần nước mắt rưng rưng,

Cảnh áo não kể sao cho xiết.

Nào là nạn Đại Hồng Thủy và lửa Trời cháy rực.Về đoạn này ông Sư Vãi Bàn Khoai có viết:

Nước đâu ngập lút gò cao,

Lửa đâu dậy cháy lao xao khắp ngàn,

Và đây là lời Đức Huỳnh Giáo chủ nói về nạn Đại Hồng Thủy:

Ngọn thủy triều nô nức sụt sôi,

Bầu trái đất một phen luân chuyển.

Và nói về nạn nước và lửa:

Nước kia lửa nọ tưng bừng,

Thảm cho thế sự lẫy lừng nạn tai.

Trải qua những Thiên tai Địa ách ấy người chết chẳng biết bao nhiêu mà kể cho xiết.

Ông Sư Vãi Bán Khoai mô tả thảm trạng ấy với câu:

Ngồi trên đỉnh núi cheo leo,

Thấy trong thiên hạ như bèo trôi sông.

Ông Ba Thới thì cho biết người ta chết đến không ai chôn:

E thân thác chẳng đặng bỏ bì,

Bây giờ quan quách cô gì chế tang.

Về cảnh trạng nầy Đức Huỳnh Giáo chủ viết:

Lớp đau chết kể thôi vô số,

Thêm tà ma yêu quái chật đường.

Hay là:

Chinh chinh bong xế về tây,

Đoái nhìn trần thế xác thây ê hề.

Trong các Thiên tai Địa ách, riêng về hai tỉng Long Châu (Long xuyên và Châu đốc) còn chịu một tai nạn khủng khiếp của con Long ác nghiệt.

Trong lịch sử Đức Phật Thầy Tây An có đoạn nói rằng:

Một hôm ông Đình Tây, một môn đệ của Đức Phật Thầy Tây An, được lịnh Thầy đi xuống vùng Láng, gặp lúc vợ tên Xinh chuyển bụng đẻ mà không có chồng ở nhà.Ông Đình Tây thấy vậy chạy lo làm giường và rước mụ dùm.Khi tên Xinh đi bắt rắn bắt rùa ở ngoài đồng về nghe rỏ tự sự thì hết sức cảm ơn ông Đình Tây.Ông này thấy trong giỏ của Xinh có một con sấu con, mũi đỏ có năm giò thì rất thích bèn nài nỉ hỏi mua.Nhưng vì thọ ơn ông Đình Tây mới vừa giúp vợ mình sanh đẻ nên Xinh vui lòng biếu con sấu ấy cho ông.Được con sấu ấy, ông Đình Tây đem khoe với Thầy.Té ra Thầy biết đó là loại sấu Thần, nên có bảo ông Đình Tây đem giết để trừ hậu hoạn.Đã không nghe lời Thầy, ông Đình Tây lén nuôi con sấu ấy.Được ba năm con sấu ấy bỏ đi mất.Không giám dấu giếm, ông bèn đem việc ấy bạch lại với Đức Phật Thầy thì Ngài chắt lưỡi, rồi cắt nghĩa cho ông Đình Tây biết sau nầy con sấu ấy sẽ nhiễu hại dân chúng không biết bao nhiêu mà kể.

Trong Sấm Giảng của Đức Huỳnh Giáo chủ chúng ta thấy Ngài không dứt nói đến tai nạn phải chịu về con sấu năm giò ấy mà dân chúng miệt Long xuyên và Châu đốc kêu tôn là ông Năm Chèo, còn Đức Huỳnh Giáo chủ thì gọi là con Long ác-nghiệt.

Về con Long ác nghiệt, Đức Huỳnh Giáo chủ có chỉ vị trí của nó và những tai nạn do nó gây ra:

Con sông nước chảy vòng cầu,

Ngày sau có việc thảm sầu thiết tha.

Chừng ấy nổi dậy phong ba,

Có con nghiệt thú nuốt mà người hung.

Đến chừng thú ấy phục tùng,

Bá gia mới biết người Khùng là ai?

Con thú ấy phục tùng ai? Đức Huỳnh Giáo chủ không ngại mà cho biết rằng:

Ta chịu lịnh Tây phương thọ ký,

Gìn nghiệt long đặng cứu dương trần.

Nên ra đời dạy dỗ ân cần,

Khuyên bá tánh vạn dân liệu lấy.

Và đến chừng đó khắp nơi mới mến yêu Ngài:

Thâu cho được con Long ác nghiệt,

Thì khắp nơi mới biết mến yêu.

Trong bao nhiêu tai trời ách nước mà người đời phải chịu trong thời kỳ Hạ Nguơn nầy, tuy là vô cùng khốn khổ, nhơn loại điêu linh, nhưng chưa khủng khiếp bằng tiếng sấm nổ, báo hiệu thời kỳ chuyển biến bước qua cõi đời Thượng Nguơn…

GIẢNG VỀ TIẾNG SÂM NỔ

Tiếng sấm nổ sẽ gây ra nhiều hiện tượng như: Sự thay đổi địa hình, người đời đê mê bất tỉnh, các vị Phật Tiên thừa vân lai thế công đồng thưởng phạt, lập nên đời Thượng-Nguơn…

Về tiếng sấm nổ, ông Sư Vãi Bán Khoai có viết:

Thương thay trần hạ hết tình,

Sấm Trời sao lại thình lình nổ ra.

Chừng ấy mới thấy quỉ ma,

Ai lành ai dữ ai là Phật Tiên?

Còn ông Ba Thới thì viết:

Chừng nào nghe một tiếng âm thinh,

Lạ quê lạ kiểng bình minh lạ người.

Lạ non núi lạ dạng nói cười,

Mặt mày lơ láo như người cuồng phu.

Đều cho biết những hiện tượng vừa kể trên trong khi sấm nổ.

Về sấm nổ Đức Huỳnh Giáo Chủ giải rất dài, vì đây là một hiện tượng quan trọng.Trước hết, tiếng sấm nổ ấy, làm bộc lộ kiểng Tiên:

Vang vầy sấm nổ chuyển luân,

Kiểng Tiên lộ vẻ vui mừng cha con.

Sau nữa, tiếng sấm nổ làm lộ bảng vàng, các nước vì tham báu kéo qua gây chiến tranh thảm khốc:

Sấm vang thì lộ bảng vàng,

Chư nhu thế giới khắp tràng đến thi.

Chữ thi gần chữ sầu bi,

Bị ham của báu ly kỳ máu rơi.

Tại đâu các nước kéo qua tranh báu,và báu ấy ở đâu? Về vấn đề nầy ông Sư Vãi Bán Khoai có viết:

Chừng nào Bảy Núi thành vàng,

Thời là mới đặng thanh nhàn tấm thân.

Hay là:

Chừng nào Núi Cấm hóa lầu,

Thời là bá tánh đâu đâu thái bình.

Còn ông Ba Thới thì cho biết:

Vận nghèo ai chẳng phi ơn,

Của Trời Phật để Thất Sơn thiếu gì.

Đức Huỳnh Giáo chủ thì Ngài không ngớt nhắc đi nhắc lại:

Trên Bảy Núi còn nhiều báu lạ,

Rán tu tâm dưỡng tánh coi đời.

Coi là coi được Phật được Trời,

Coi phép lạ của Tiên của Thánh.

Ngài cho biết rằng tuy nay là chốn rừng sâu u minh nhưng mà trong đó có vàng:

Hỡi bá tánh rừng sâu có mạch,

Tuy u minh mà có đền vàng.

Và Ngài không ngớt khuyên dân chúng hãy rán tu để sau xem báu ngọc ấy:

Đời cùng tu gấp kịp thì,

Đặng xem báu ngọc ly kỳ Năm Non.

Ngài quả quyết trong ruột Năm Non ấy có lâu đài:

Rừng lâm cây đá thấy ngày nay,

Mà ruột Năm Non có các đài.

Chờ đợi con hiền noi tục cổ,

Tới thời Thượng cổ điểu hòa mai.

Và Ngài cho biết lầu đài ấy sẽ lộ nay mai:

Lầu đài Núi Cấm lộ nay mai,

Thức tỉnh chúng sanh sớm tỏ bày.

Khuyên dạy dân tình minh đạo đức,

Tu hành được thấy cảnh Bồng-Lai.

Mà khi lầu đài lộ vẻ rồi thì chừng ấy sẽ thấy nhiều việc ly kỳ ở Năm Non:

Làm sao cho rồi phận tu mi,

Sau nầy sẽ thấy ly kỳ năm non.

Và những chuyện ly ky ấy không chi khác hơn là các nước khi thấy đền đài châu báu lộ ra quá tham mà kéo đến:

Lao xao bể Bắc Non Tần,

Quân Phiên tham báu xa gần cũng qua.

Tranh phân cho rõ tài ba,

Cùng nhau giành giựt mới là thây phơi.

Bởi thế Đức Huỳnh Giáo chủ thường khuyên:

Khuyên bổn đạo chớ nên mê ngủ,

Thức dậy tầm đạo chánh của Khùng.

Đặng sau xem liệt quốc tranh hung,

Đặng sanh sống nhờ ơn chin bệ.

Hoặc là:

Đức Diêm Chúa yêu người hiền thảo,

Trọng những ai biết niệm Di Đà.

Lại được gần bệ ngọc long xa,

Coi chư quốc tranh giành châu báu.

Hay là:

Hãy mau khuya sớm chuyên cần,

Đặng xem chư quốc non Tần giành chia.

Nhưng đến khi ấy người hiền thảo thì được dựa kể bệ ngọc các lân xem chư quốc tranh hung, còn người hung ác phải chịu cảnh vợ xa chồng, con lạc mẹ vì cuộc chiến tranh tàn khốc ấy:

Thảm cho trẻ hài nhi lịu điệu,

Vợ xa chồng bận bịu thê lương.

Phong trần dày dạn gió sương,

Chư bang ham báu hung cường đua tranh.

Còn một cuộc chiếu manh giành xé,

Khắp hoàn cầu ó ré một nơi.

Dòm xem châu ngọc chiều mơi,

Sao đời không sớm tách dời cõi mê.

Tuy biết rằng vì ham báu mà các nước kéo qua tranh giành gây nên cuộc xâu xé nhau làm cho nhơn dân chịu họa lây, nhưng có đến cảnh thê thảm ấy, người hiền đức mớt thấy phép mầu của Phật Tiên Thần Thánh:

Thất Sơn lộ vẻ lầu đài,

Chừng ni mới thấy nhiệm mầu của Ta.

Bởi vì chính lúc thảm khổ ấy, lúc sanh linh chết thôi vô số kể, các đấng Tiên Phật mới hiện ra mà Đức Huỳnh Giáo chủ đã khuyên tín đồ lo tu để sau sẽ thấy việc gì trên mây.

Tu hành tâm trí ràn trì,

Sau nầy sẽ thấy việc gì trên mây.

Hoặc là:

Nầy nầy lời lẽ rán ghi,

Sau đây sẽ thấy việc gì trên mây.

Chừng đó những người hiền đức sẽ được tận mặt nhìn thấy Phật Tiên và lâu đài quốc vương.

Nguyện cầu qua khỏi nạn tai,

Đặng coi Tiên, Thánh lầu đài quốc vương.

Hay là:

Chữ Nam mô đẹp được lòng sầu,

Sau thấy được nhà Tiên cửa Thánh.

Chẳng những được thấy Tiên Phật mà còn được xem phép mầu của mấy ngài nữa:

Thương sanh chúng tỏ bày quá kỹ,

Hỡi dương trần hãy sớm quay đầu!

Đặng sau xem Phật pháp nhiệm mầu,

Với báu quí đài lầu tươi tốt.

Về những phép lạ này, Đức Huỳnh Giáo chủ có nói đến nhiều đoạn, như:

Sớm chiều rèn đúc kinh tinh,

Ngày sau mới thấy phép linh của Trời.

Những phép lạ ấy sở dĩ Phật Tiên hóa hiện ra trừ lũ Hung Nô:

Gắng công tu xem nhiều phép lạ,

Của Thần Tiên trừ lũ Hung Nô.

Phải có phép Phật mới trừ nổi lũ Hung Nô, vì chúng nó tài phép đa đoan lắm.Về đoạn nầy, ông Sư Vãi Bán Khoai có viết:

Các nước vây phủ tư bề,

Phật cùng chư vị nào hề rảnh đâu.

Minh Hoàng ngự tại Nam lầu,

Phật cùng chư vị lo thâu phép Thần.

Còn ông Ba Thới thì viết:

Mãn nhứt thinh các nước đều vô,

Đầu sơn giao chiến Nam mô tranh tài.

Thập bát quốc vây phủ bên ngoài,

Thiền trung xuất trận phép tài quan Thiên.

Đoái Ngũ long tiền trận Nữ Phiên,

Giao chinh tam trận chư Tiên lai đầu.

Phật thâu phép chư quốc chư hầu,

Qui lai thiền nội ứng hầu Phật vương.

Và Đức Huỳnh Giáo chủ thì viết:

Địa Tiên tài phép đa đoan,

Phi đao bửu kiếm mê mang mắt trần.

Phật truyền thâu hết phép Thần,

Cứu an bá tánh một lần nạn nguy.

Phiên binh bốn phía tứ vi,

Kể sao cho xiết chuyện ni sau nầy.

Lớp thì thú ác dẫy đầy,

Lớp thì tranh đấu tối ngày chẳng thôi.

Kẻ hung chừng đó làm mồi,

Cho bầy ác thú đền bồi tội xưa.

Nhưng khi Phật thâu hết phép rồi, Phiên binh hàng đầu làm cách nào?

Ông Ba Thới cho biết Việt Nam có một vị quân sư thượng trí anh hào coi mười tám nước:

Nam triều sau có quân sư,

Coi mười tám nước chư châu phục tùng.

Ngày sau nhiều kẻ anh hùng,

Nghề văn nghiệp võ trí chung không cùng.

Vị quân sư ấy đóng một vai trò quan trọng mà ông Ba Thới cho biết thêm rằng:

Hữu quân sư thượng trí anh hào,

Dạy mười tám nước chỗ nào văn thơ.

Mười tám nước tài phép trơ trơ,

Phật thâu trả quả ngẩn ngơ chư hầu.

Mười tám nước lại giáng hang đầu,

Thường năm cống lễ ứng hầu Hớn-bang.

Chỉ dùng thượng trí mà quân sư ấy làm cho tài phép của các nước phải trơ trơ.Về đoạn nầy Đức Huỳnh Giáo chủ nói rõ cho người đời thấy rằng:

Thất Sơn tiếng nổ,

Quí cổ diệt kim.

Cửu cửu y nhiên,

Tinh riêng tham báu.

Đổ máu tuông rơi,

Khùng mới nói chơi,

Chư bang hàng phục.

Cũng đồng một ý nghĩa như ông Ba Thới rằng: Khùng mới nói chơi, chư bang hàng phục, nghĩa là khắc phục Phiên binh bằng phương pháp bất chiến. Để bộc lộ tánh cách bất chiến ấy, Đức Huỳnh Giáo chủ viết thêm rằng:

Anh hố hò khoan,

Tình tang xự xế.

Bỏ phế hương thôn,

Ác đức vô môn.

Rồng mây hội yến,

Ra đời bất chiến.

Nổi tiếng từ bi,

Lời lẽ rán ghi.

Thành công êm thấm,

Có lắm người yêu.

Và đoạn nầy nhiều người đem so sánh cho rằng giống một đoạn sấm của cụ Trạng Trình.

Phân nhân tòng bắc khởi,

Nhiểu nhiểu xuất đông chinh.

Bảo Sơn thiên tử xuất,

Bất chiến tự nhiên thành.

Chắc sao cũng có kẻ hỏi: tại đâu chỉ mới nói chơi mà chư bang hàng phục, chẳng chiến mà thành? Có người giải thích rằng: khi sấm nổ rồi thì súng chai, các võ khí không còn hiệu lực nữa.Trong lúc ấy chỉ còn đấu phép hay đấu trí.Xưa nay sở dĩ có chiến tranh nước khai hấn bao giờ cũng có giữ nhiều mưu đồ chiến lược bí mật, chắc chắn rằng bên địch không lường nổi.Nay nước Việt Nam có một vị quân sư thượng trí, có lục không ( Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Thần túc thông, Tha tâm thần,Túc mạng thông, Lậu tận thông), ngồi một nơi mà thấy xa, nghe xa biết cả ý muốn của người nữa, thử hỏi khi chiến lược mà người biết,đều toan tính trong lòng mình mà người lại hay, còn ai có gan dạ nào khai chiến chẳng hàng đầu chớ.

GIẢNG VỀ THƯỢNG NGUƠN

Một khi mười tám nước phục tùng thì Tam giới công đồng hội hiệp để trừng trị những người hung ác ban thưởng người hiền lương:

Người hung chết rất chật thây,

Nhìn xem bắt thảm ngày rầy cho dân.

Mấy người còn được xác thân,

Thì là đài ngọc, các lân mới kề.

Về đoạn Tam giới công đồng hội hiệp, ông Sư Vãi Bán Khoai có viết:

Thiên đàng Địa ngục hiệp sang,

Trung Ương Tam giới xuê xang phỉ tình.

Nói cho bá tánh làm tin,

Đừng mê đạo khác mà quên Nam đình.

Đến chừng gặp hội bình minh,

Gươm nào tội nấy chớ tình thở than.

Còn ông Ba Thới thì viết:

Sau Tam giới hội lại một ngôi,

Muôn dân lạc nghiệp chúa tôi thuận hòa.

Về đoạn nầy Đức Huỳnh Giáo chủ giải rất rõ:

Hiền lành chừng đó sum vầy,

Quần thần cộng lạc mấy ngày vui chơi.

Đến đó Ta mới mừng cười,

Nhìn xem Ngọc Đế giữa trời định phân.

Thiên hoàng mở cửa các lân,

Địa hoàng cũng mở mấy từng ngục môn.

Mười cửa xem thấy ghê hồn,

Cho trần coi thử có mà hay không?

Nhơn hoàng cũng thấy lẽ công,

Cũng đồng trừng trị kẻ lòng tà gian.

Ấy là đến lúc xuê xang,

Tam hoàng trở lại là đời Thượng Nguơn.

Về việc Đức Ngọc Đế định phân,Đức Huỳnh Giáo chủ còn cho biết thêm rằng:

Có ngày mở rộng qui khôi,

Non Thần vang chuyển Khùng ngồi xử phân.

Huyền cơ máy tạo xoay vần,

Đổng về Phật cảnh mười phần xinh tươi.

Chẳng những Ngài dự một phần trong việc phân định của Đức Ngọc Đế, mà còn lãnh một trọng trách trong việc lập bảng Phong Thần nữa.

Về bảng Phong Thần, Đức Huỷnh Giáo chủ có viết :

Các nơi Tiên trưởng đâu đâu,

Lư bồng hội hiệp đồng chầu Thánh vương.

Trụ kia bạo ác phải nhường.

Võ vương hữu đức đường đường trị dân.

Thì rõ việc Phong Thần trở lại,

Thuyền Đông Pha lèo lái cánh trương.

Và chỉ có người hiền đức mới xem đươc cuộc Phong Thần đăng bảng:

Nhờ ơn Trời ban bố đức ân,

Xem chung cuộc Phong Thần tại thế.

Nhưng vị nào lãnh phần đứng ra dựng bảng Phong Thần? Đức Huỷnh Giáo chủ không e ngại mà cho biết:

Đến kỳ thi danh Thầy chạm bảng,

Trên đài cao gọi các linh hồn.

Chỉ có một hội nầy mới biết ai được ai mất.Bởi thế Đức Huỳnh Giáo chủ không dứt khuyên răn:

Lo lo liệu liệu chịu tiếng trần,

Có một hội nầy rán lập thân.

Chớ để trễ chầy rèn chẳng kịp,

Khuyên ai khuya sớm rán chuyên cần.

Và một khi được bước đến cõi Tiên bang mới hưởng được sự an nhàng dựa kề cửa Thánh:

Gắng công khỏi buổi nghèo nàn,

Sum vầy một cuộc Hớn đàng loại thay.

Người nào vẹn được thảo ngay,

Dựa kề cửa thánh đài mây an nhàn.

Nhưng hỡi ôi! Những người được hưởng phước huệ ấy còn chẳng được bao nhiêu.

Theo ông Sư Vãi Bán Khoai thì trong mười người còn lại hai người:

Tôi buồn bốn phía không yên,

Kẻ dữ hết tám, người hiền còn hai.

Nhưng theo ông Ba Thới thì trong mười người chỉ còn có một:

Càng ngày càng hao càng mòn,

Mười phần hết chín chẳng còn người hung.

Còn Đức Huỳnh Giáo chủ thì cho biết cả thế giới số người còn lại lối hai ba phần:

Thiên cơ biến đổi can qua,

Gẫm trong thế giới còn đôi ba phần.

Mau mau kíp kíp chuyên cần,

Chúng sanh còn có lập thân hội nầy.

Nhưng số người còn lại ấy, có thể giữ được tấm thân ô trượt trong thời kỳ Thượng Nguơn chăng? Một thời kỳ mà quả đất đổi hình, cảnh vật đều xinh tươi, khí hậu thanh khiết ôn lương, ngày thì mặt trời mọc, đêm thì có trăng sáng như ban ngày? Từ ông Sư Vãi Bán Khoai, trãi qua ông Ba Thới đến Đức Huỳnh Giáo chủ, đều nhìn nhận là có sự thay hồn đổi xác, phản lão hoàn đồng.

Về vấn đề nầy ông Sư Vãi Bán Khoai có viết:

Tu hành nhơn đức thì hơn,

Thay hồn đổi xác nhờ ơn Cửu trùng.

Hết tục rồi lại đến Tiên,

Giữ lời Phật dạy mới yên mới lành.

Ông Ba Thới cũng nhìn nhận sự phản lão hoàn đồng, hết tục đến Tiên ấy là nhờ phép Phật:

Khá bủa câu thả lưới đợi chờ,

Phật cho tài phép một giờ thoát mê.

Cõi dương gian ba kiểng ba quê,

Ba ngôi ba chúa châu quê nhứt điều.

Thương cho người sống ít thác nhiều,

Linh đơn Phật rưới mai chiều hóa Tiên.

Về vấn đề nầy Đức Huỳnh Giáo chủ có viết:

Chừng Bảy Núi lầu son lộ vẻ,

Thì người già hóa trẻ dân ôi!

Tu hành ắt được thảnh thơi,

Lại xem được Phật được Trời báu thay.

Đức Huỳnh Giáo chủ còn cho biết cái hiện tượng thay hồn đổi xác chẳng riêng gì ởViệt Nam mà ở khắp hoàn cầu:

Sau lập hội thì già hóa trẻ,

Khắp hoàn cầu đổi xác thay hồn.

Đức Ngọc Hoàng mở cửa thiên môn,

Đặng ban thưởng Phật Tiên với Thánh.

Và Ngài cho biết cũng như ông Sư Vãi Bán Khoai và ông Ba Thới rằng: việc thay hồn đổi xác, già hóa trẻ ấy là nhờ phép Tiên phép Phật:

Cổ ngữ hằng ghi hậm khổ đa,

Tận diện nhơn gian, trực Tiên khoa.

Lão giả hậu qui nhơn ấu giả,

Ly kỳ Thiên định dĩ thiên la.

Thế là đời Thượng Nguơn đã lập với sự đổi mới địa hình, nhơn vật.Về đoạn nầy ông Sư Vãi Bán Khoai có viết:

Phật Trời nói chẳng sai lời,

Long Hoa là hội Phật Trời lập ra.

Lập rồi cái Hội Long Hoa,

Chọn người tu niệm đặng rày bao nhiêu?

Chọn lựa coi thử ít nhiều,

Người lành kẻ dữ còn tiêu kẻ nào?

Minh Vương xuất đế ngôi cao,

Lập đời Thượng cổ anh hào hiền lương.

Chọn người của Phật mến thương,

Đặng giao mối nước cho Vương Minh Hoàng.

Còn ông Ba Thới thì viết:

Phật thâu phép chư quốc chư hầu,

Qui lai thiền nội ứng hầu Phật vương.

Đồng chúc Thánh vạn thọ an khương,

Tuế tăng vạn tuế Phật vương thọ trường.

Phân chư quốc cống lễ minh tường,

Tiểu bang lãnh sắc thường thường thọ ân.

Đãi yến diên chư quốc quan dân,

Chỉnh tề trở lại hương lân an phần.

Phân thượng hạ quan chức quân thần,

Phân ngôi phân thứ định phần quan dân.

Chức Hớn trào miên viễn hoàng ân,

Trường sanh thọ tuế muôn dân thanh nhàn.

Thế là ông Sư Vãi Bán Khoai và ông Ba Thới đồng nhận ở thời kỳ Thượng Nguơn sẽ do Đức Minh Vương ngự trị.

Đến Đức Huỳnh Giáo chủ, Ngài cũng nhận như thế:

Khắp lê thứ biến di thương hải,

Dùng phép mầu lập lại Thượng Nguơn.

Việc Thiên cơ Khùng tỏ hết trơn,

Cho trần hạ tường nơi lao lý.

Lão nào có bày điều ma mị,

Mà gạt lường bổn đạo chúng sanh.

Đức Minh Vương ngự ở Nam thành,

Đặng phân xử những người bội nghĩa.

Và Ngài cho biết Đức Minh Vương sửa trị thì đời mới an cư;

Đạo đời nào có tư riêng,

Minh Vương sữa trị mới yên ngôi Trời.

Và đời an cư ấy là ngày Thượng Nguơn hồi phục:

Làm cho rõ mặt râu mày,

Thượng Nguơn hồi phục là ngày an cư.

Ông Sư Vãi Bán Khoai cũng nhận như Đức Huỳnh Giáo chủ rằng có Đức Minh Vương trị nước thì dân mới thái bình:

Các nước chư quốc khiêm nhường,

Minh Vương trị nước như Đường Cao Tôn.

Nam trào Phật ngự rất đông,

Vua lên chánh điện thì dân thái bình.

Về thời kỳ thạnh trị ấy, Đức Huỳnh Giáo chủ cho biết thứ nầy:

Ngày nào mà Phật, Tiên tọa vị,

Ấy thời lai bình trị muôn dân.

Khắp các nơi chư quốc xưng thần,

Trong bốn biển chúng dân lạc nghiệp.

Theo dõi gót người xưa mới kịp,

Vừng mây lành ngũ sắc háo quang.

Phật, Thánh, Tiên Đông độ bước sang,

Miền Nam địa phân chia đẳng cấp.

Nước cờ mới nay đà khởi sấp,

Trổ tài hay biển lấp non dời;

Dưới cùng trên ảm đạm khí Trời,

Cả thế giới mưa hòa gió thuận.

Tạo nên móng Thánh quân đặt vững,

Nơi triều ca gầy dựng tôi hiền.

Mà sở dĩ khắp thế giới đều một niềm hòa thuận, là vì ở thời kỳ Thượng Nguơn sẽ có Phật, Tiên tại thế, và việc nước đều gom về một mối, đặt dưới sự sữa trị của một vị Thánh quân:

Cùng no bốn biển một cha thôi,

Bỏ dứt thói hư với tật tồi.

Trên có Phật Trời soi việc thế,

Dưới đầy cơm áo lão về ngôi.

Về sau nầy, khi đời Thượng Nguơn được lập thì nước Việt Nam sẽ đổi quốc hiệu là Hớn bang.Về điều này ông Sư Vãi Bán Khoai đã có nói:

Nói cho già trẻ lo âu,

Minh Vương khôi phục Hớn Châu Phong Thần.

Còn ông Ba Thới thì viết:

Mười tám nước lai giáng hàng đầu,

Thường năm cống lễ ứng hầu Hớn bang.

Hay là:

Phân thương hạ quan chức quân thần,

Phân ngôi phân thứ định phần quan dân.

Chúc Hớn trào miên viễn hoàng ân,

Trường sanh thọ tuế muôn dân thanh nhàn.

Về quốc hiệu sau nầy của Việt Nam, Đức Huỳnh Giáo chủ cũng nhận là Hớn bang hay Hớn đàng:

Ngũ niên viễn tự cơ hàn,

Đến chừng qui phục Hớn đàng mới yên.

Bởi Hớn bang là một cõi Tiên bang sau nầy cho nên muốn đi đến cõi ấy, Đức Huỳnh Giáo chủ hằng khuyên hãy cố gắng tu hành:

Gắng công khỏi buổi nghèo nàn,

Sum vầy một cuộc Hớn bang toại thay!

Người nào vẹn được thảo ngay,

Dựa kề cửa Thánh đài mây an nhàn.

Và muốn đi tới cõi tốt đẹp ấy, cần phải nhẫn nại trông chờ:

Duyên sự đê mê cảnh Hớn đàng,

Lần dò cho thấu nẻo Tiên bang.

Xuê xang mấy kiểng nhìn sương gió,

Lòn cúi chờ trông lúc khải hoàn.

Mà ngày khải hoàn ấy là ngày thấy được phụng hoàng xuất hiện, tức là điềm Thánh chúa ra đời:

Chừng nào thấy được phụng hoàng,

Rồng chầu chớp nháng Hớn đàng hiển vinh.

Và ngày hiển vinh ấy là ngày Hớn đàng vững đặt:

Một tay ta quốc an bang,

Nước nhà vững đặt Hớn đáng hiển vinh.

Cứ theo Đức Huỳnh Giáo chủ thì ngày hiển vinh vui tươi ấy cũng gần lố bong, chớ không còn xa:

Ngày vui tươi cũng đà lố bóng,

Cớ sao đời còn mãi say sưa?

Không tìm Thầy đặng hưởng phước thừa,

Ngày lập hội tay vịn cành quế.

Cái cơ hội được vịn cành quế chỉ có một hội nầy mà thôi.Bởi thế Ngài khuyên hãy rán chuyên cần, bằng để trễ chầy thì chẳng kịp.Nhưng chừng nào Hội Long Hoa mới lập?Ngày tận diệt còn xa chăng?

NHỮNG LỜI TIÊN TRI

Đọc qua các Sấm Giảng từ ông Sư Vãi Bán Khoai trải qua ông Ba Thới cho đến Đức Huỳnh Giáo chủ, ai cũng nhận thấy có nhiều đoạn nói về thời gian rất phù hạp nhau, mà phù hạp cả Sấm của Trạng Trình nữa.

Trong Sấm Trạng Trình có đoạn viết:

Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,

Can qua xứ xứ khởi đao binh.

Mã đề dương cước anh hùng tận,

Thân dậu niên gian kiến thái bình.

Ông Sư Vãi Bán Khoai cũng nhận định như thế, nên có nhiều đoạn viết như:

Mèo kêu nghe tiếng ai bi,

Quần thần phụ tử xiết chi ưu phiền.

Rồng bay xao xuyến nào yên,

Rắn bò giáp giới đảo điên dương trần.

Chừng nào có ngựa có lân,

Có qui có phụng có quân có thần.

Hay là:

Năm Mẹo tháng Mẹo chưa buồn,

Năm Mẹo tháng Hợi lụy luôn dầm dề.

Vậy mà chưa thấy ủ ê,

Trung ương rồng lộn ê hề thây thi.

Mèo kêu riết tới ai bi,

Tới gà về ổ dân thì bình an.

Như thế là cùng nhận như Đức Trạng qua dậu mới thái bình.

Ông Ba Thới cũng nhận rằng:

Con Mèo ngồi sợ rắn xa đàng,

Dê thời ghét Khỉ xóm làng sạch trơn.

Thập bát quốc làm hội đầu sơn,

Thăng thiên độn thổ nhờ ơn Phật Trời.

Trong Sấm Giảng của Đức Huỳnh Giáo chủ cũng thấy đồng một nhận định ấy:

Mèo kêu bá tánh lao xao,

Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê.

Con ngựa lại đá con dê,

Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.

Khỉ kia cũng bị xáo xào,

Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng.

Và cho biết đến Dậu là có Phật ra đời:

Chừng nào mới đặng thảnh thơi,

Dậu Phật ra đời thế giới bình yên.

Và nhắc lại rằng những điều cho biết trên đây là đúng theo sấm truyền của Đức Trạng:

Ngày nay xe lết xe lôi,

Đúng lời truyền sấm của hồi đời Lê.

Là năm Rồng,Rắn, Ngựa, Dê,

Chúng sanh thế giới ê hề thây phơi.

Trạng Trình truyền sấm mấy lời,

Ngày nay dân chúng vậy thời rán tri.

Về bài sấm của Trạng Trình, có người cho rằng đã ứng hiện trong trận đại chiến thứ hai vừa rồi.Nhưng trong quyển Phi Lạc sang Tàu , ông Hồ hữu Tường cãi lại rằng bài sấm của Đức Trạng chỉ vào trận giặc cuối cùng là trận giặc thứ ba.

Nhưng có điều mà các Sấm Giảng đều nhận là thế nào giặc Tần cũng khởi trước, mở màng cho cơ tận diệt.

Về điểm này ông Ba Thới viết:

Lòng tưởng Phật có người bảo hộ,

Của bá gia cứu độ bá gia.

Việc trước thời Tần khởi loạn ra,

Sát nhơn vật người ta thậm khổ.

Tứ Thánh cũng có viết:

Để rồi cuộc loạn quân Tần,

Biết cho Tứ Thánh bắt vần hay không.

Ếch ngồi đáy giếng mắt trông,

Vịt nghe tiếng sấm cũng không biết gì.

Khoai lang lại với khoai mì,

Đến khi Tần khởi độ thì khẩu ta.

Trong Sấm Giảng, Đức Huỳnh Giáo chủ cũng cho biết Tần sẽ diêu động trước:

Tam châu hữu ngạn lụy nhỏ sa,

Thập bát chư bang động can qua.

Dương gian mãnh thú trừ tàn ác,

Lê thứ hậu lai khổ thiết tha.

Tần bang hậu hận tiên diêu động,

Nam quốc lương dân kiến linh xa;

Phồn hoa đô hội lưu giang huyết,

Dư đảng dọc ngang cấp Ma ha.

Nhưng dầu sao cũng chỉ là những lời tiên tri, vì chưa thực hiện nên còn chưa tin. Đức Huỳnh Giáo chủ cũng biết thế nên chi có nói trước:

Nữa sau đến việc biết đời,

Bây giờ chưa thấy nó thời không tin.

Mặc dầu tin hay không tin, Ngài cũng nói:

Nghe không thì cũng mặc tình,

Nói cho rõ rệt dân tin không là.

Và đây là những lời tiên tri đã ứng hiện:chúng tôi muốn nói về hiện tượng lúa bay.

Nói lúa mà biết bay, thiệt không có ai ngờ,nhưng hiện tượng ấy đã xảy ra.Cứ theo báo chí đăng tải thì hiện tượng này đã xảy ra ở tỉnh Bạc Liêu mà người tường thuật không ai khác hơn là một vị cao cấp trong tòa án ởBạc Liêu trước kia đã từng lăn lộn trong nghề báo, có đứng chủ chương cả tuần báo lẫn nhựt báo.

Như thế thì lời tường thuật không còn nghi ngờ là lời bịa đặt.Người ta có đưa ra giả thuyết cho rằng con chốt hốt lúa bay đi, nhưng theo lời tường thuật thì không thể cho đó là một hiện tượng do con trốt gây ra vì rằng khi thấy lúa bay thì người nhà cố đậy ém nó lại nhưng nó vẫn chui ra bay như thường, trong lúc không có gió dông gì cả.

Cái hiện tượng nầy cũng thấy xảy ra ở trong tỉnh Long xuyên và Châu đốc, ngặt vì không có ao tường thuật lên mặt báo nên không ai hay biết.

Cái hiện tượng nầy đã được Sấm Giảng từ mười mấy năm về trước cho biết và cắt nghĩa lúa ấy bay về đâu?Đây là đoạn Đức Huỳnh Giáo chủ giải thích về lúa bay:

Ngồi chơi đạo lý bàn qua,

Mấy bà có biết lúa mà bay không?

Có người đạo lý hơi thông,

Xin ông bày tỏ cho tôi hiểu rày.

Điên nghe liền mới tỏ bày,

Lúa bay về núi để dành ngày sau.

Thế là lúa ấy bay về núi để dành ngày sau mà trong Kim cổ kỳ quan của ông Ba Thới đã cho biết:

Đói ăn bắp đói nữa ăn khoai,

Hết khoai hết bắp chiều mai ăn đá.

Thế là lời tiên tri về lúa bay từ mười mấy năm về trước ngày nay đã ứng hiện.

Và đây là lời tiên tri mà Đức Huỳnh Giáo chủ cho biết trước rằng sau này khó kiếm được Ngài:

Tu kíp kíp nếu không quá trễ,

Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng.

Hay là:

Rán nghe lời dạy của Thầy,

Đến chừng đến việc kiếm Thầy không ra.

Ngoài ra Ngài còn cho biết trước những biến chuyển về thời cuộc Việt Nam mà lần lượt được thấy ứng hiện không sai.Như khi Nhựt chiếm đóng, Ngài cho biết Nhựt ăn không hết nửa con gà trong lúc người ta tin chắc Nhựt sẽ thắng đồng minh.

Lời tiên tri ấy được ứng hiện rõ ràng.

II.- ÔNG THANH SĨ HAY NGƯỜI CÓ HUỆ

Dân chúng ở miệt Hậu-giang và một số người ở Saigon không còn lạ với ông Thanh Sĩ.Ông tên tộc là Trần Duy Nhứt mà người đời thường gọi là Cậu Hai nhỏ.Năm nay, ông mới 25 tuổi, vốn là người sanh trưởng ở Nha mân thuộc tỉnh Sa đéc.Mồ côi cha từ nhỏ, ông sống với mẹ già, nhà nghèo nên sự học chểnh mảng.Ông chỉ học đến lớp ba trường làng rồi thôi.Ông sống với mẹ và lo việc tu hành theo phái cư sĩ tại gia, pháp môn của Đức Huỳnh Giáo chủ hoằng hóa, chú trọng về đạo Tứ ân, học Phật tu nhơn, chớ không có khổ hạnh trường chay, hay luyện đơn hóa khí gì, nghĩa là tu như bao nhiêu tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo.

Ấy thế, mà khi ông lên mười sau tuổi thì bỗng nhiên ông sáng tỏ, thông minh một cách lạ thường nhưng hồi ấy ông chưa biểu lộ cho ai biết.Gặp lúc loạn lạc, ông và mẹ bỏ đất Nha mân tản cư lên miệt Châu đốc và Long xuyên. Và vào mùa xuân năm 1948, lúc ông được 21 tuổi thì ông ra đời nói pháp.

Và đây là những điều kỳ diệu mà người đời phải ngạc nhiên.Ông có tài hùng biện mà xưa nay chưa từng thấy.

Chúng ta thường thấy các vị cao tăng thuyết pháp, người kém học thi hoặc viết bài sẵn rồi đọc, kẽ lảu thông thì hoặc ứng khẩu, nhưng hầu hết đều dùng loại văn xuôi.Đến như ông Thanh Sĩ thì chẳng thế.Bất cứ ở đâu ông cũng ứng khẩu và thuyết pháp bằng thi trường thiên, khi thì thượng lục hạ bát, khi thì song thất lục bát, khi thì thất ngọn trường thiên, khi thì tứ cú liên hoàn, thao thao bất tuyệt cả ba bốn giờ đồng hồ mà kgông ngưng đứng trước hằng năm bảy ngàn thiện nam tín nữ.Nhưng chớ tưởng ứng khẩu như thế là thi không điêu luyện.

Những nhà thi bá một khi nghe ông thuyết pháp phải lắc đầu, vì lối thi của ông rất điêu luyện và trác tuyệt. Nếu phải là tay thi gia, chưa hẳn ngồi nặn nọt mà làm được.Có người nghi ngờ cho ông đã làm sẵn, rồi học thuộc lòng.Điều nghi ngờ này bị phá tan khi có nhiều nơi đưa đầu đề ra nhờ ông giảng là ông liền ứng khẩu giảng cả hai ba tiếng đồng hồ mà không dứt.

Hoặc giả , người ta muốn thử coi ông có làm sẵn không, bèn đưa ra cùng một đầu đề đó mà ở nơi này thì giảng khác, còn ở nơi nọ thì lại giảng khác nữa.Nói tóm lại một điều là ông tùy căn cơ và trình độ của thính giả mà hóa độ.Ông biết rõ căn cơ và đi thấu vào ý tưởng của mỗi người đến hầu chuyện với ông.

Chính vì chỗ cơ huyền nầy mà nhiều người đến hoặc hỏi pháp hoặc xin thơ đều được ông làm thỏa mãn.Ông cho thơ ngay tại chỗ, viết trước mặt mọi người.Và điều kỳ diệu mà người đến xin thơ phải ngạc nhiên là bài thơ ấy nói đúng vào bản tính của mình.Có một lần, có một người được ông cho thơ, khi đọc đến phải khủng khiếp, vì những lời mà người ấy nguyện hằng đêm trước bàn Phật đều được lặp lại trong bài thi.

Còn một điều mà các nhà thơ phải khâm phục là ông thường làm một lối thơ khoán yêu nghĩa là hạn chữ ở nửa chừng câu.

Đây chúng tôi xin đơn cử ra một bài thơ ông cho một ông đốc phủ nọ ở Saigon, một bài thơ bằng chữ nho, mặc dầu từ bé đến lớn ông chưa hề có học, vừa khoán thủ, vừa hai lần khoán yêu.Bài này lam ngay khi ông đốc phủ ấy đến xin:

Cứu trần Thiền duyệt Kiếp mê si,

Dân chúng Tông đồ Mới sự phi.

Mạt pháp Tịnh diêu Tà chánh khởi,

Kiếp phàm Độ tái Loạn binh thi.

Phật sanh Kiêm thế Qui liên tọa,

Tiên hoạt Hành nhơn Kiến ngọc trì.

Lâm khổ Bất cầu Long hỗ trợ,

Trần hoàn Di dịch Hội chi nguy.

Xin tạm lược đại ý như vầy:

- Xuống trần cứu người khỏi kiếp mê si, trở lại vui thích ở cửa thiền.

- Cho dân chúng tông đồ hối cải việc quấy.

- Ở thời kỳ mạt pháp thì khởi ra hai mối tài chánh.

- Ở kiếp phàm thi vẫn trở qua trở lại loạn với binh thi nhau.

- Phật ra đời để đem về tòa sen.

- Tiên giáng trần khiến người thấy được bệ ngọc.

- Cảnh khổ đã đến sao chẳng cầu Long hổ cứu trợ.

- Cuộc trần hoàn sắp thay đổi, nỗi nguy khổ dồn đôn.

Đọc toàn bài đã có nghĩa , mà khi đọc dọc xuống hàng thứ nhứt, thứ ba và thứ năm,chúng ta sẽ thấy ba câu:

Câu đầu: Cứu dân mạt kiếp Phật Tiên lâm trần, có nghĩa: Phật Tiên xuống phàm cứu dân trong thời kỳ mạt kiếp.

Câu thứ ba: Thiền tong Tinh độ kim hành bất di, có nghĩa: Hãy tu hành cả pháp môn Thiền tông và Tinh độ chớ dời đổi.

Câu thứ năm: Kiếp mới tà loạn qui kiến Long Hội, có nghĩa: Hãy mau cải tà qui chánh thì sẽ thấy Hội Long Hoa.

Như thế đủ thấy tài làm thi của ông là tuyệt và sự nhận định huyền cơ của ông cũng siêu phàm.

Đây chúng tôi xin trích thêm một bài thơ bằng văn Việt để cho ai ai cũng có thể thưởng thức, chẳng những cái hay của lối thơ khoán yêu, mà còn nhận thức những lẽ huyền cơ của ông Thanh Sĩ về cõi đời Hạ Nguơn nầy:

Xót thương Hạ giới chịu tan tành,

Ấy cũng Nguơn do nghiệp bất lành.

Đến lúc Gần đây tuồng nhị Chúa,

Sẽ ra Có cuộc trổ tam Thanh.

Nước tràn Tẩy sạch người vô đạo,

Lửa dậy Trần thiêu lũ bất minh.

Hởi trẻ Bớ già mau tỉnh ngộ!

Tu cầu Dân chúng sớm thăng binh.

Ngoài ý nghĩa của toàn bài cho biết cuộc biến thiên trong những ngày sắp tới mà ai ai cũng nhận thấy, chúng ta khi đọc câu thứ ba theo chiều dọc xuống còn thấy câu khoán yêu nầy: Hạ Nguơn gần có tẩy trần bớ dân! Như thế thật là tài tình, ở chỗ toàn ý bài thơ với câu khoán yêu cùng một ý nghĩa.

Cái lối thơ khoán yêu là cái lối thơ sở trường của ông Thanh Sĩ. Nói thế, chẳng phải về các bài thơ khác ông không tin.Cho đến nay ông sáng tác được ba tập thơ: Châu thuyết, Tiếng chuông cảnh tỉnh và Tỉnh thế.Ngoài ra ông cho thơ rất nhiều và viết nhiều bài trường thiên, nhưng tiếc vì tản mát một nơi một mớ, nên không kết tập được.Một điều đáng tiếc nữa là mỗi lần thuyết pháp, ông đều dùng lối ứng khẩu không được ký âm, cho nên không còn dấu tích lưu lại.

Một người từ chỗ vô học mà trở nên sáng tỏ, thông minh như thế, thật là một việc hy hữu.Trong người ấy hẳn có cái gì siêu phàm lắm.

THẾ NÀO LÀ NGƯỜI PHÁT TUỆ?

Trước khi đi sâu vào tư tưởng giới của ông Thanh Sĩ, tưởng cũng nên biết qua thế nào là người phát Huệ, và có phải đó là một hiện tượng thần bí không?

Về sự phát Huệ, trong Sấm Giảng của Đức Huỳnh Giáo chủ có đoạn viết:

Nếu ai mà biết chữ tu trì,

Tâm bình tịnh được thì phát Huệ.

Như thế đủ thấy rõ rang hễ cái tâm đã định thì tức nhiên Huệ phát.Cũng như một hồ nước mà cứ mãi động, cặn cáu nổi lên thì không làm sao thấy được đáy hay ngồi trên bờ hồ dòm xuống mà thấy rõ diện mục.Phải làm sao cho đáy hồ yên tịnh, cho cặn cáu lắng xuống thì nước hồ tự nhiên trong, tức nhiên ngó thấy được đáy.Cái tâm con người cũng thế, hễ nó xao động thì nó gây thêm vô minh, duy nó yên tịnh thì nó mới phát Huệ, nghĩa là đạt đến sự sáng tỏ.

Để đạt được Huệ, trong nhà Phật có sáu pháp Ba la mật phải tu mà Tàu dịch là Lục Độ nghĩa là sáu chiếc đò đưa đến bến giác, tức là Huệ vậy.

Sáu pháp Ba la mật ấy là:

1. Đàn na (Dana) tiếng Phạn, Tàu dịch là Bố thí nghĩa là đem tiền của, thân mạng, pháp mà ban bố cho chúng sanh.

2. Thi la (Sila) tiếng Phạn, Tàu dịch là Tri giới nghĩa là giữ các giới luật của kẻ hoặc tu tại gia hoặc tu xuất gia.

3. Sắn đề (Ksanti) tiếng Phạn, Tàu dịch là Nhẫn nhục nghĩa là nhẫn chịu mọi sự đau khổ trên đời.

4. Tl lê da (Virya) tiếng Phạn, Tàu dịch là Tinh tấn nghĩa là nhứt tâm sấn bước tới, không hề nản chí.

5. Thiền na (Dhyana) tiếng Phạn, Tàu dịch là Thiền định nghĩa là yên tịnh cõi lòng và dứt tâm tán loạn.

6. Bát nhã (Prajoa) tiếng Phạn, Tàu dịch là Trí huệ nghĩa là trí thông suốt các pháp, thấu hiểu chơn lý.

Như thế muốn được Huệ phải hành sáu pháp Ba la mật.Như trường hợp của ông Thanh Sĩ, có phải ông cũng đã hành y theo pháp Lục độ kia không? Như chúng ta đã biết: ông Thanh Sĩ chỉ tu theo phái cư sĩ tại gia pháp môn của Đức Huỳnh Giáo chủ, một pháp môn chỉ tu nhơn đạo, học Phật tu nhơn, thì nhờ đâu ông lại phát Huệ? Vì đâu người không học mà nói pháp rất rành?

Về điều nầy trong Sấm giảng của Đức Huỳnh Giáo chủ có đoạn giải rằng:

Đức Lục Tổ í tai dám sánh,

Người dốt mà nói pháp quá rành.

Lựa làm chi cao chữ học hành,

Biết tỏ ngộ ấy là gặp đạo.

Như thế rất rõ: trường hợp của Lục Tổ Huệ Năng không có học mà nói pháp rất rành, cũng chẳng qua là nhờ tỏ ngộ mà thôi.

Nhưng biết đâu sự tỏ ngộ của Đức Huệ Năng chẳng chỉ để hoàn thành bao nhiêu sự học hỏi của tiền kiếp?

Và điều nầy, ông Thanh Sĩ trong quyển Châu thuyết cũng có viết:

Có học có biết có tường,

Không học mà biết phi thường khó thay!

Bông có trái nhờ cây,

Có công tu luyện được tài Thần thông.

Cũng là một ý nghĩa cho biết đã có công tu luyện ở tiền kiếp, chớ chẳng phải không.Như thế trong những người sáng tỏ, phát Huệ ngày nay hẳn có một tiền kiếp siêu phàm.

Về trường hợp của ông Thanh Sĩ, không thấy ông cho biết điều gì quá sự hiểu biết của người phàm tục.Ông rất khiêm tốn mà cho biết rằng:

Lòng nguyền một kiếp một thân,

Vừa lo tự giác, vừa lần giác tha.

Và bổn phận của ông là để nhắc nhở lại những điều giáo hóa của Thầy cho người đời phấn khởi tu hành:

Kể từ ngày lố dạng Sĩ Thanh,

Miền Châu đốc chỉ rành đường lối.

Khi vắng mặt Đức Thầy tăm tối,

Giục giã người phấn khởi tu hành.

Mặc dầu ông quá khiêm nhượng không xưng hô nhưng người ta cũng nhận thấy ở ông một bực siêu phàm, trong bài thơ tự than khoán thủ dưới đây:

Thân do tứ đại hợp nên hình,

Ta đã hồi quan rất bạch minh.

Sống ngụ hồng trần gieo giống thiện,

Thác hồi cựu vị dạo non linh.

Vẫn không nhiễm loạn nơi phàm tục,

Xem khắp ta bà độ chúng sinh.

Như phải quyên thân vô lượng kiếp,

Thường vui tái hiện cứu mê tinh.

Với câu “ thác hồi cựu vị dạo non linh” đủ biểu lộ tánh siêu phàm ấy.Càng bộc lộ tánh siêu phàm và lòng quảng ái của ông hơn nữa là bài thơ “ Lòng ta” sau đây:

Mong mỏi trau giồi tánh Phật nhi,

Độ đời nối chí đấng từ bi.

Chúng sanh nếu mãi còn luân chuyển,

Nguyện gánh cho trần cái khổ ni!

Khổ ni lãnh chịu cõi trần gian,

Lần lượt non đài đặng rảnh rang.

Nếu một phút nào dân thống khổ,

Ta dầu cực lạc khó ngồi an.

An ngồi tự tại một mình ta,

Hạ giái điêu linh mấy vạn nhà.

Dám hỏi tâm phàm đau đớn chẳng,

Huống hồ Phật Thánh đặng nhàn ca.

Trường hợp của ông Thanh Sĩ là như thế thì những người phát Huệ khác cũng như thế.

LUẬT TUẦN HOÀN CỦA ĐỜI SỐNG VÔ VI VÀ HỮU VI

Về vấn đề Tận Thế và Hội Long Hoa, ông Thanh Sĩ nhận thức không khác Sấm giảng.Ông nhận thời kỳ này là thời kỳ Hạ-Nguơn, đúng như lời di giáo:

Đức Thầy dẫn bảo cạn lời,

Hạ Nguơn nay đã hết đời rán tu.

Vì là thời kỳ tận diệt:

Rằng Hạ Nguơn tận diệt từ đây,

Phật Thánh Tiên xuống thế đông vầy.

Và ông cho biết trong muôn thuở mới có một lần như thế:

Đời tới đây tai khổ lu bù,

Vì Tận Thế muôn thu mới có.

Mà sở dĩ có cuộc Tận Thế là vì số trời đã định:

Chẳng qua phải lúc tai nàn,

Nghiệp trần số hệ Thiên hoàng đã phân.

Đúng với luật tuần hoàn vũ trụ:

Có câu thiên địa tuần huờn,

Đáo đầu thiện ác một cơn tan tành.

Cái luật tuần hoàn ấy đã định trong thế kỷ hai mươi này, và ông Thanh Sĩ cũng nhận cái luật ấy đúng với lý Tam-nguơn, như Cao Đài Giáo đã nêu ra.Sở dĩ phải lập lại Tam nguơn là bởi con người trong thế kỷ hai mươi này quá trầm luân đọa lạc:

Trong rất nhiều kinh pháp siêu sinh,

Người đọa lạc trầm luân mãi mãi.

Nên mới đánh Tam-Nguơn lập lại,

Đời hai mươi thế kỷ tiêu điều.

Trong hội này công quả ít nhiều,

Tùy duyên nghiệp luật triều thưởng phạt.

Ông Thanh Sĩ cho biết cái luật tuần hoàn của Tam Nguơn không bao giờ dứt.

Sự tuần hoàn ấy có nghĩa là một cuộc sa thải, một cuộc chọn lọc có ý nghĩa tiến hóa chứ không phải có ý nghĩa thối hóa, một cuộc chọn lọc tùy ở duyên nghiệp của chúng sanh hoặc được thưởng, tiến hóa cất nhắc lên hoặc bị phạt, thối hóa ngưng trệ lại.Trong thời kỳ Thượng Nguơn con người về tánh chất rất hồn nhiên, đã cảm ứng với lý siêu nhiên, cho nên sự tiến hóa rất dễ dàng, một phần lớn đã đắc đạo, vượt lên một thế giới cao khiết hơn.Phần nào không tiến hóa thì đọa lạc xuống Trung Nguơn.

Trong thời kỳ nầy cũng có một phần được tiến hóa thì vượt lên còn phần nào không tiến hóa thì trầm luân xuống thời kỳ Hạ-Nguơn.Nhưng đến thời kỳ này thì phần không tiến hóa không còn được lưu lại, vì là thời kỳ cùng tột.Phần nào được chọn lọc thì đem về đời Thượng Nguơn để có dịp tiến hóa lên, còn phần nào không được chọn lọc thì sẽ bị sa thải, đọa lạc, đợi cho đến mấy muôn năm sau, khi từ Thượng Nguơn chuyển dần xuống Hạ Nguơn, tùy cảnh đời nào thích hợp với căn cơ, nghiệp quả của mình mà lộn trở lại.

Cái luật tuần hoàn của Tam nguơn là như thế.Mà cả luật huyền vi, ông Thanh Sĩ cũng cho biết sẽ diễn tiến như thế nữa.

Ở thời kỳ Thượng Nguơn, con người sông về vô vi.Trong con người chứa đựng đủ sự nhiệm mầu của vũ trụ, vì con người lúc bấy giờ sống phù hợp với lý siêu nhiên.Con người có thể bay được, nghĩa là có đủ phép thần thông: như đằng vân, độn thổ, có huệ nhãn: ngồi một nơi mà thấy xa được; có huệ nhĩ: ngồi một nơi mà nghe được xa;có tha tâm thông: ngồi một nơi mà biết chuyện xảy ra ở phương xa hay tai biến sắp xảy đến.

Nhưng con người huyền linh ấy qua đến thời kỳ Trung-Nguơn trở đi sống xa với lý siêu nhiên, cho nên cái bản tánh huyền linh ấy dần dần mất đi, hay giải thích một cách khác, lớp người huyền linh đã được tiến hóa qua thế giới khác, chỉ còn hạng người không tiến hóa, nghĩa là kém huyền linh ở lại.Vì mất bản tánh huyền linh cho nên con người phải sống về hữu vi, nghĩa là giả tá vật chất bên ngoài để bù đấp lại chỗ bản tánh huyền linh của mình.

Vì vấn đề cần sống và để giúp đỡ cho cuộc sống dễ dàng, con người phải tìm phương sáng chế về vật chất.Chính vì đó mà sự phát minh máy móc xuất hiện.Để thỏa thích cái bản tánh đằng vân, người ta sáng chế ra phi cơ; để nghe được xa , người ta sáng chế ra vô tuyến truyền thanh; để thấy được xa, người ta sáng chế ra vô tuyến truyền hình.Người ta còn đương tìm kiếm và sáng chế ra nữa để đạt đến tha tâm thông nhưng chưa có kết quả.

Mặc dầu nhờ sự sáng chế, con người đã đạt được một phần mà bản tánh huyền linh của mình đã có nhưng sự sáng chế ấy, kể ra chỉ đạt được một phạm vi rất hẹp chớ không được như bản tánh huyền linh vô biên vô tận.

Như máy vô tuyến truyền hình chỉ giúp cho người ở xa thấy được những hình nào mà người ta cho thâu vào, chớ không như huệ nhãn muốn phóng đến cõi nào cũng không hề có chướng ngại.

Con người một khi sáng chế ra được máy móc thì lấy làm thỏa thích với sự sáng chế của mình, cho nên một ngày một đi sâu vào đời sống vật chất, chẳng màng đến đời sống vô vi.Họ không màng hay không còn nhớ là vì họ đã sống xa thời kỳ vô vi, lâu quá rồi.Chẳng những không màng nghĩ, mà họ còn phủ nhận đời sống vô vi, cho đó là một sự huyền ảo không thực.

Đó là căn tánh của con người sống trong thế kỷ hai mươi nầy, nhứt nhứt đều lấy khoa học làm chuẩn thắng.Hễ cái gì khoa học không thể khám phá ra hay không có thể đạt đến, họ cho là phản khoa học, phản tiến hóa.

Ông Thanh Sĩ cho biết rằng: vì quá sùng phụng vật chất máy móc mà rồi đây con người phải đi đến chỗ tiêu diệt bằng những máy móc do họ sáng chế ra.Đó là luật tuần hoàn của lý vô vi.

Xã hội loài người tiến từ đời sống vô vi đến đời sống hữu vi, để rồi đây trở lại đời sống vô vi trong thời kỳ Thượng Nguơn sẽ tới.Cuộc Tận Thế lần này là một cuộc tiến hóa lớn của nhơn loại.Rồi đây khi đời Thượng Nguơn được lập, xã hội loài người sẽ tiến hóa bằng cả muôn ngàn lần xã hội văn minh ngày nay.

Luật tuần hoàn dĩ đáo cơ tận diệt đã hầu kề. Vì thế Phật, Tiên, Thánh lập ra Hội Long Hoa để chọn người hiền đức nghĩa là có bản tánh vô vi lập lên đời Thượng Nguơn.

NHỮNG TAI BIẾN TRƯỚC NGÀY HỘI LONG-HOA

Luật tuần hoàn đã hiển nhiên như thế và lý tận diệt cũng đã rõ như thế, tận diệt để tẩy sạch lớp trược trần.

Nhìn cuộc đời quá ác trược, ông Thanh Sĩ không dứt tiếng than:

Mở lời hột lụy muốn tuôn,

Thấy đời tồi tệ lòng buồn nào hơn!

Ngoài môi trau chuốt nghĩa nhơn,

Trong lòng bội bạc oán hờn ai hay.

Lời ngay mà dạ chẳng ngay,

Đời này miệng ngọt lòng cay thiếu gì.

Buồn ai đem bạc đổi chì,

Tiên bồng chẳng tưởng, tưởng thì trần mê.

Và vì quá đắm mê mà người đời gây ra bao nhiêu tội ác, loạn luân cang kỷ:

Tình anh em gây ra thù hận,

Đạo cha con giết lẫn với nhau.

Tranh tước quyền xâu xé đồng bào,

Nghĩa chồng vợ hại nhau tàn nhẫn.

Ở chòm xóm lắm điều nhơ bẩn,

Nào dâm ô nghịch lẫn oán thù.

Phạm tội tình cướp trộm lu bù

Đường đạo đức mờ lu thái quá.

Nếu cái dòng đời ác trược như thế cứ lôi cuốn đi tới mãi, loài người sẽ tiến đến đâu? Nếu không đến ngày tận diệt.Và cái cơ tận diệt ấy đã được báo hiệu bằng những cuộc biến chuyển, bằng những cuộc chiến tranh ác liệt:

Đời Hạ-Nguơn loạn lạc chiến tranh,

Chúng áp dụng thăng binh dân chủ.

Ỷ thông báo chê đè cổ hủ,

Lo đua chen hấp thụ văn minh.

Nào tự do trai gái kết tình,

Chúng mặc sức ăn xinh mặc tốt.

Đời mạt hạ nay đà cùng tột,

Đến đây là ráo rốt cuộc đời.

Cuộc tuần huờn chuyển động chiều mơi,

Tiếng gầm thét rụng rời thân thể.

Khắp thế giới từ đây hết kể,

Sự cạnh tranh cấu xé lan tràn.

Miễn cho mình danh vị cao sang,

Mặc ai bị tai nàn trối kệ.

Chẳng những loài người điêu linh mà cả vạn vật cũng chung số phận:

Đời Tận Thế lắm cơn dông tố,

Cả muôn người chịu khổ điêu linh.

Giống cỏ cây sắc đá vô tình,

Cũng chung chịu với mình bi thảm.

Vì thấy đời sắp đến cơ tận diệt, Đức Thế Tôn động lòng bi cảm, truyền cho các Bồ Tát xuống trần phổ hóa cứu vớt chúng sanh;

Phật từ bi lấy lòng thâm cảm,

Thấy chúng sanh tai nạn dập dồn.

Động lòng thương Đức Phật Thế Tôn,

Truyền Bồ Tát tách chơn xuống thế.

Khai đạo pháp tùy duyên phổ tế,

Có dắt dìu những kẻ chúng sanh;

Quá mê sit ham nhiễm tập tành,

Vì quyền tước lợi danh chen lấn.

Và các đấng Phật, Bồ Tát đã xuống trần vào thế kỷ hai mươi nầy:

Đạo ngày nay hai mươi thế kỷ,

Phật ra đời dẫn chỉ trần ai;

Đặng sớm lo tạo cảnh nguyệt đài,

Dìu bá tánh khỏi nơi khổ hải.

Đạo từ bi muôn đời ban rải,

Nay vẫn còn tồn tại trường miên.

Buổi Hạ Nguơn sanh chúng đảo điên,

Đem đạo đức tạo giềng an lạc.

Các đấng Thiêng Liêng ấy ngày nay vì mượn xác trần cho nên dân chúng không tin, nhưng rồi đây sẽ thấy các Ngài tại thế:

Rồi sau đây đặng thấy Phật Tiên,

Cõi thế gian tháo mở gông xiềng,

Đưa nhơn loại non Tiên dựa kế.

Đó là tới thì giờ biến thế;

Nay còn đang lọc lựa chánh tà.

Nên thảm sầu khắp cả bá gia,

Chịu lắm cuộc phong ba cuồn cuộn.

Bởi còn trong thời kỳ lừa lọc cho nên cuộc đời càng ngày càng bối rồi, muôn dân đồ thán đảo điên:

Cả muôn dân đồ thán đảo điên,

Cam siết chặc truân chuyên nhiều nỗi.

Ngày càng ngày việc đời bối rối,

Đường rộng dài khó nỗi tới lui.

Mà nhất là miền Á Đông thì còn chịu biết bao nhiêu tang tóc:

Từ đây cho đến định quyền,

Biết bao tang tóc khắp miền Á Đông.

Và ông Thanh Sĩ cho biết rằng đời khổ đã tới rồi nên khuyên bá gia gắng bó tu hành:

Lời giục thúc tu hành gắng gổ,

Nầy bá gia đời khổ tới rồi.

Và sự cố ấy đã diễn ra bằng tai nạn dập dồn:

Lòng lo lắm việc bất tường,

Một ngày một đến đủ đường nạn tai.

Nào là nạn đạn lạc tên bay:

Nỗi sầu đạn lạc tên bay,

Nỗi thương giặc giã trong ngoài hại dân.

Làm cho cửa nát nhà tan:

Giang san phải nhuộm máu điều,

Giống nòi rời rã sanh nhiều việc hư.

Có thấy chăng gia cư tan nát?

Cả xóm chòm xơ xác đảo điên.

Nào là giặc nổi lên khắp thế giới:

Khắp thế giới thảm thê thê thảm,

Giặc bao trùm xe trạm đua chen.

Và cái nạn binh đao sở dĩ xảy ra, sát hại sanh linh bỏ thây thi ê chề là bởi thời kỳ tận diệt:

Từ đây nước lửa tràn trề,

Binh đao dồn dập ê hề thây thi.

Đó cũng bởi thời kỳ tận diệt,

Nên nhiều điều thảm thiết lê dân.

Nào là nạn đói đau, nên chi ông Thanh Sĩ thường khuyên :

Lo cần kiệm tu hành chánh kỷ,

Vì đói đau lộ vĩ gần đây.

Nên cần lao trồng trặc lúc khoai,

Đặng chi độ qua ngày thống khổ.

Ông mãi lặp lại nạn đói đau ấy đã gần lắm rồi:

Đói đau cuộc thế hầu gần,

Cơ trời xoay chuyển cõi trần ngày nay,

Càng siết chặt nhiều ngày khổ não.

Vì chịu bao nhiêu tai họa dồn dập nên gia cư lần lần thưa thớt:

Việc sắp đến trời long đất lở,

Cảnh điều hiêu vỏ vỏ sầu tư;

Mãi lần lần thưa thớt gia cư,

Đó mới biết trường đồ mã lực.

Nhưng bấy nhiêu tai nạn cũng chưa hết, vì từ nay cho đến ngày lập đời Thượng Ngươn còn nhiều nỗi đau khổ chông gai:

Từ nay đến gặp đời Thượng cổ,

Lướt bụi bờ nhiều chỗ gai chông.

Nào là nạn sơn băng thủy kiệt:

Cũng đừng ỷ chúng kiếp cô,

Sơn băng thủy kiệt đói khô bây giờ.

Cùng một nhận định với Sấm giảng của Đức Huỳnh Giáo chủ về đoạn:

Sau đến việc sơn băng thủy kiệt,

Khùng thảm thương bá tánh quá chừng.

Nào là nạn ác thú nhiễu hại sanh linh như sấu bắt hùm tha.Về tai nạn sấu bắt hùm tha này ý kiến ông Thanh Sĩ không khác ông Ba Thới.Đây chúng ta thử so sánh.

Ông Ba Thới thì viết:

Có hổ lang ác thú đến nhà,

Hùm tha sấu bắt trẻ già thương ôi!

Ông Thanh Sĩ thì viết:

Để rồi đến việc can qua,

Đầy đường sấu bắt hùm tha túng cùng.

Ông Thanh Sĩ còn mô tả cảnh thảm khốc ấy, ai trông đến cũng lạc phách kinh hồn:

Mắt trông thấy tứ vi hổ báo,

Tai nghe rền cầy cáo mài nanh.

Mãng xà núp ẩn rừng xanh,

Lội bơi uốn khúc hoành hành gớm ghê.

Kẻ bạo ác hồn mê bất tỉnh,

Dưới sông thời lỉnh nghỉnh sấu to.

Dưới trên con hét con hò,

Lớp bay lớp chạy vày vò người hung

Lũ gian ác vô cùng sợ hãi,

Người lương hiền chẩm rải bước đi;

Nhờ ơn các bực Thần kỳ,

Thương người trung hậu hộ trì bình an,

Kẻ bạc ác thầm than trộm trách,

Phật Trời không mở vạch đường mê;

Đến nay gặp việc thảm thê,

Hồn phi phách tán tái tê mặt mày.

Lời bút tích trưng bày thâm diệu,

Bởi tối tăm chẳng hiểu thời thôi.

Để chừng đến việc khổ rồi,

Biết đâu trốn khỏi, lưới trời bủa giăng.

Và đây là cảnh mà người hung ác bị thú phân thây xẻ thịt:

Kéo lũ lượt qua truông vượt ải,

Bị thú hùm giết hại thớt thưa.

Ruột rà muối xát tới tưa,

Nhăn mày nhíu mặt đổ thừa cho ai?

Con đứa cỏng đứa đai lịu điệu,

Phận túng nghèo kẻ níu người lôi;

Yêu tinh bắt giết làm mồi,

Thương người ăn ở bạc vôi không còn.

Nào là nạn nước lửa sấm sét làm chuyển động khắp hoàn cầu:

Nạn thủy hỏa phong lôi sấm chớp,

Khắp hoàn cầu Trời Đất chuyển xoay.

Dụng thần thông Nam Bắc Đông Tây,

Cả vạn vật muôn loài ngơ ngác.

Mà sở dĩ loài người chịu bao nhiêu tai nạn thê thảm như thế, vì đây là một cuộc lọc lừa chọn người hiền đức đặng chầu Chúa Thánh:

Từ đây lựa lọc sạch tinh,

Đặng chầu Chúa Thánh Long đình xướng ca.

Và cũng như các Sấm giảng, ông Thanh Sĩ nhận cuộc lừa lọc là một trường thi cho những người tài đức:

Từ đây nhiều bực nhiều trang,

Siêu quần bạt chúng lập đàng công danh.

Trường thi Trời Phật đã dành,

Ai người hiền đức ra tranh bảng vàng.

Cái trường thi nầy không như trường thi của người đời chọn kẻ văn hay võ giỏi , mà là một trường thi đạo đức, chọn căn hạnh, bản tánh:

Trong hội nầy công quả ít nhiều,

Tùy duyên nghiệp luật triều thưởng phạt.

Đáp những công hiền nhu khao khát,

Nhờ mưa lành tưới mát bá lòng.

Cái trường thi đạo đức rất thông,

Mà cũng ở vào trong căn hạnh.

Thi đức trí thi trong bản tánh,

Chỗ bại thành do bởi lòng người.

Và cái trường thi ấy không chi khác hơn là Long Hoa Đại Hội.

GIẢNG VỀ HỘI LONG HOA

Ông Thanh Sĩ còn cho biết cái trường thi đạo đức ấy, cuộc Đại Hội ấy sẽ mở tại Nhà bàn:

Long Hoa Đại Hội Nhà bàn,

Thương thay những kẻ bạo tàn còn chi!

Bởi Long Hoa Hội là một trường thi chọn người hiền đức, cho nên muốn đi đến phải là những bực trung lương đã sửa thân cải tánh.Bởi thế, ông Thanh Sĩ thường khuyên:

Rán mà cải tánh sửa thân,

Long Hoa mới đặng hầu gần Phật Tiên.

Chín tòa sen báu hoa liên,

Phật Ngài lộ vẻ nhơn hiền ai đương.

Rạng mày những bực trung lương,

Gian dâm vô đạo đầy đường huyết lưu.

Và chỉ khi nào Hội Long Hoa mở ra mới hết cơn khổ não, nước trị nhà an:

Muốn cho nước trị nhà an,

Cầu Trời mở Hội Long Hoa non đoài.

Và đây là cảnh Long Hoa Đại Hội được ông Thanh Sĩ mô tả rất rõ:

Muốn hầu dưới cội Hoa Long,

Được xem Tiên Phật công đồng thưởng ban;

Đem bao tiếng ngọc lời vàng,

Tuôn nghe như suối trên ngàn đổ ra,

Vừa thâm vừa diệu lại xa,

Khiến cho vạn vật hiền hòa như nhau;

Mùi hương phưởng phất ngạt ngào,

Khắp trong vũ trụ nơi nào cũng nghe.

Mây mù thấy chẳng còn che,

Trăm ngàn nhựt nguyệt sua se ánh hồng;

Nổi lên nhiều trận mưa bông,

Thập phương chư Thánh tỏ lòng cúng dưng.

Côn trùng thảo mộc đồng mừng,

Được nhờ đức Phật gội nhuần phước dư.

Thế gian tử hiếu phụ từ,

Khắp trong thiên hạ an cư thái bình.

Thật là một cảnh tượng vô cùng đẹp xinh, một cảnh do phép của Phật Tiên tạo ra.Như thế, muốn được thấy cảnh tượng ấy, đâu phải là dễ.Nhưng chừng nào mới mở ra Hội Long Hoa? Ông Thanh Sĩ bảo hãy chờ cho sấm nổ thì sẽ rõ:

Sắm vang rõ biết rừng tòng,

Điễn quang chớp nháng Lạc Hồng khởi phong.

Sẽ rõ biết Hoa Long Đại Hội,

Cân công binh chẳng mối vị tư.

Tiếng sấm nổ ông Thanh Sĩ cho biết cũng như các Sấm Giảng từ ông Sư Vãi Bán Khoai cho đến Đức Huỳnh Giáo chủ sẽ là một hiện tượng vô cùng quan trọng, vì tiếng sấm ấy sẽ làm lộ lầu đài cung điện:

Sắm vang điện ngọc lộ ra,

Hào quang Đức Phật Di Đà sáng trưng.

Trên nhạc thổi chín từng mây bạc,

Dưới điện đài lầu các nguy nga.

Vì đâu sấm nổ lại lầu các lộ ra? Và lộ ra ở đâu? Ông Thanh Sĩ không nói ra, nhưng cho biết rằng những cảnh đẹp xinh ấy nay vẫn còn ở chốn sơn lãnh, đương chờ người trọn lành bước tới:

Chốn sơn lãnh nay còn chờ đợi,

Người trọn lành bước tới xem qua.

Kia tường vân năm thức chói lòa,

Nọ rực rở trăm hoa ngũ sắc.

Cảnh xinh đẹp cửu trùng đài các,

Đời thiếu chi vàng bạc của tiền.

Ông Thanh Sĩ vẫn nhắc cho người đời nhớ rằng: mặc dầu ngày nay thấy là núi rừng nhưng mai sau chính nơi đó sẽ có nhiều quí báu, qui tụ Thánh Thần:

Nay núi rừng chim kêu vượn hú,

Sau rồi xem qui tựa Thánh Thần.

Được trưng bày phép lạ phi thân,

Đầy hạnh phúc muôn dân thọ hưởng.

Ban đầu ông Thanh Sĩ còn nói bao quát rằng những đền đài châu báu ấy còn ẩn trong lâm san, sau ông tiến gần một chút nữa mà cho biết những châu báo ấy còn ở trong đá, và rồi đây đá ấy hóa vàng nên chi ông khuyên:

Lời lành khuyên nhủ thế gian,

Rán tu gặp đá hóa vàng mà coi.

Và ngày mà đá hóa vàng ấy sẽ là ngày phụng hoàng chớp cánh:

Đợi chờ xem núi đá hóa vàng,

Cảnh lâm sơn chớp cánh phụng hoàng;

Nhà Thượng Cỗ sửa sang cho chúng.

Tuy nói ẩn ước nào là đền đài châu báu còn ẩn trong lâm sơn, trong đá, nhưng rốt cuộc rồi, ông Thanh Sĩ cũng không giấu mà chỉ ngay ra:

Long Hoa riết tới cho bền,

Rõ ràng Bảy Núi lầu đền nguy nga.

Nhưng cũng chưa rõ bằng câu sau đây:

Chờ cho non cấm hóa lầu,

Phật ra công dụng phép mầu mới an.

Như thế là ông Thanh Sĩ cùng một nhận định như ông Sư Vãi Bán Khoai và Đức Huỳnh Giáo chủ.

Về điều này ông Sư Vãi Bán Khoai đã viết:

Chừng nào núi cấm hóa lầu,

Thời là bá tánh đâu đâu thái bình.

Và Đức Huỳnh Giáo chủ thì viết:

Lầu đài núi Cấm lộ nay mai,

Thức tỉnh chúng sanh mới tỏ bày.

Khuyên dạy dân tình minh đạo đức,

Tu hành được thấy cảnh Bồng Lai.

Ông Thanh Sĩ cũng nhận như ông Sư Vãi Bán Khoai rằng chừng nào Cấm sơn lộ vẻ thì thiên hạ mới yên.

Chừng nào cá nọ hóa long,

Cấm sơn lộ vẻ đến rồng mới yên.

Về Thất Sơn, ngoài hiện tượng hóa hiện đền đài châu báu, ông Thanh Sĩ còn cho biết nhiều hiện tượng khác nữa, như cảnh Phật Tiên xuất hiện trên mây:

Xem coi đến việc Thất Sơn,

Hào quang Phật hiện nghe đờn trên mây.

Và Thất Sơn sau này sẽ là bãi chiến trường ghê gớm giữa các nước đến tranh giành châu báu:

Ngày sau dân sự chật đường,

Thất Sơn đồng lớn chiến trường gớm ghê.

Kẻ ác đức chịu bề khói lửa,

Nỗi đao binh chan chứa một bầu.

Từ đây đến việc không lâu,

Tu đừng mạnh yếu nạn sầu bên lưng.

Và khi sanh linh đồ than, máu chảy thành song, xương chồng tợ núi thì khi ấy, người đời mới thấy rõ Phật Tiên:

Rồi sau đây thấy rõ Phật Tiên,

Cõi thế gian tháo mỡ gông xiềng,

Đưa nhơn loại non Tiên dựa kế.

Các Ngài từ trên chín từng mây bạc thừa hạt xuống trần:

Phật Tiên Thánh mấy từng mây bạc,

Lìa vị ngôi thừa hạt phàm gian.

Thiêng liêng Phật định vén màn,

Đủ đầy mầu nhiệm phép tràng trị dân.

Chỉ có phép mầu của Phật mới thâu phục và định phân các nước:

Long Hoa Hội ân cần lo lập,

Lập cho rồi tam thập lục nhơn.

Và khi bảng Phong Thần được thiết lập, kẻ hung ác đã bị xử tiêu thì sẽ đến Long đình hội yến ban thưởng kẻ hiền đức:

Xem rõ biết Phong Thần dựng bảng,

Hội Mây Rồng tỏ rạng non thiều.

Chư Thiên hưởng cảnh tiêu diêu,

Đờn ca sáo thổi thêm nhiều báu xinh.

Sẻ đến lúc Long đình hội yến,

Trên Thiên nhan ban thưởng tôi hiền.

Chói ngời đền ngọc Rồng Tiên,

Muôn thu thanh thới trường niên Lạc Hồng.

Để hiểu tổng quát những biến cố xảy ra từ sấm nổ cho đến ngày Thánh Chúa trị an, ông Thanh Sĩ tóm lược trong mấy vần thơ gọn ghẽ nầy:

Chừng nghe đặng tam thinh tiếng nổ,

Cảnh rừng tòng nhị trổ hoa đơm.

Non đoài bát ngát hương thơm,

Thần Tiên xuất thế tiếng đàm Ma ha.

Phong Thần hội Tiên gia trổ mặt,

Dụng phép mầu dẹp giặc trừ thù.

Cơ đồ Minh Chúa tay thu,

Trị an bá tánh đâu đâu thanh nhàn.

Chỉ có Thánh Vương trổ mặt mới đem lại thái bình trong thiên hạ:

Lời kêu gọi trai gái tỉnh thức,

Nhẹ gót hồng chầu chực bệ đơn.

Giọng vàng phụng gáy Kỳ Sơn,

Thánh vương trổ mặt thần dân thái bình.

Sấm vang điện ngọc lộ ra,

Hào quang Đức Phật Di Đà sáng trưng.

Trên nhạc thổi chín từng mây bạc,

Dưới điện đài lầu các nguy nga.

Phật Tiên Thần Thánh hằng hà,

Định phân chư quốc phục hòa từ đây.

Đến chừng đó sum vầy tôi Chúa,

Lúc khải hoàn Thầy tớ xướng ca.

Và chính lúc Phật Tiên thừa hạc lâm phàm,Chúa Thánh mới trổ mặt:

Chin từng mây chư Tiên thừa hạc,

Đồng ứng thinh khúc nhạc reo vang.

Chúc vạn dân hưởng được an nhàn,

Đặng phò tá tôn nhan Thánh Chúa.

Khắp thế giới mây lành bay tủa,

Được vui cười Thượng cổ thanh tân.

Đồng gội nhuần Minh đức Tân dân,

Trời phân định cõi trần chí thiện.

Và cũng chính lúc ấy mới thấy bảng Phong Thần trong mấy ngàn năm mới thiết lập lại một lần:

Nền Phật pháp thành lòng yêu chuộng,

Nếu bỏ qua rất uổng bớ dân!

Mấy ngàn năm mới có một lần,

Non nhược thủy Phong Thần thiết lập.

Tạo lư đồng trận đồ bủa khắp,

Có định tuồng tam thập lục nhơn.

Người tu hành được hưởng phước dươn,

Kẻ hung ác Thần Tiên nã tróc.

Về câu “ Tam thập lục nhơn” ông Thanh Sĩ cùng một nhận định như Đức Huỳnh Giáo chủ ở câu:

Và chỉ có Thánh Chúa trị vì chư quốc mới khâm tôn,thần phục:

Ngai vàng Chúa Thanh chăn dân,

Rồng chầu hổ phục quần thần kim giai.

Đến chừng đó nước ngoài tùng phục,

Đồng tung hô cầu chúa Minh Vương.

Tuế tăng vạn tuế thọ trường,

Khâm tôn chư quốc Hầu vương trị vì.

Và chừng đó nước Việt Nam sẽ lấy hiệu là Hớn bang, có dựng lên một cây Châu kỳ nghĩa là cây cờ có hột ngọc minh châu, chói sáng cả thế giới, thấy tốt đẹp vô cùng, rực rở như ánh thái dương:

Chừng đến đó Châu kỳ hạnh phúc,

Hiện ngày nay trong đục chưa trường.

Chờ ngày hội hiệp âm dương,

Thì là Hậu Hớn Tiền đường bình an.

GIẢNG VỀ ĐỜI THƯỢNG NGUƠN

Như chúng ta đã biết tiếng sấm nổ làm cho núi tan vỡ, đền đài châu ngọc hiện ra , đã là một hiện tượng không ai ngờ, nhưng ngoài hiện tượng ấy còn một điều kỳ diệu nữa là sự thay hồn đổi xác của chúng sanh, tùy căn hạnh mà thành Tiên, thành Phật. Về hiện tượng này ông Thanh Sĩ có viết:

Chúng sanh được thay hồn đổi xác,

Tùy thiện căn làm Phật làm Tiên.

Đó mới tri rõ việc cơ huyền,

Trong bá tánh bình yên vô sự.

Chẳng những thay hồn đổi xác mà còn phản lão hoàn đồng nữa:

Long Hoa Hội xem vào quí báu,

Phật Thần thông phản lão hoàn đồng.

Kim liên đua nở dưới sông,

Hào quang Phật rọi dặm hồng ngũ vân.

Ngày ngày được hầu gần bệ ngọc,

Rất toại lòng mưa mốc gội nhuần.

Và được như thế là nhờ phép mầu của Phật:

Đến khi nào loạn quỉ tà,

Có bầu linh dược của Bà cứu cho.

Một khi đời Hạ-nguơn được giải thoát tức là đi đến đời Thượng Nguơn an lạc:

Đời Nguơn-Hạ một lần giải thoát,

Cảnh Thượng Nguơn an lạc nhà nhà.

Và đây ông Thanh Sĩ cho chúng ta biết về đời Thượng Nguơn tốt đẹp mà mọi người đều mong ước.Trước hết ông Thanh Sĩ cho biết đời Thượng Nguơn là một đời mà khắp thế giới đều an cư lạc nghiệp, cách ăn thói ở đều khôn ngoan, không có cảnh gái trai lăng loàn:

Khắp thế giới an cư lạc nghiệp,

Đời Thượng Cổ giữ theo nề nếp,

Cách ở ăn bặt thiệp khôn ngoan.

Cả gái trai chẳng có lăng loàn,

Bỏ thói mới văn minh cặn bã.

Con người ở thời kỳ này đều là hạng tài ba, từ ngoài đường cho đến trong nhà đều an hòa, thuần phong mỹ tục:

Tu cho sống sót mà coi,

Coi người Thượng cổ hẳn hòi tài ba.

Dựng lên quốc tịnh dân hòa,

Ngoài đường mỹ tục trong nhà thuần phong.

Chẳng những đời sống xã hội Thượng Nguơn được mỹ lệ mà còn hòa hợp nhau không có tư riêng, dẫy đầy châu báu cho đến của rơi không người lượm:

Hòa hợp nhau chẳng có tư riêng,

Đời bình trị nhà không đóng cửa.

Giữ thức lệ cách ăn thói ở,

Chẳng lưu manh gian trá mị dân.

Đời dẫy đầy báu ngọc châu trân,

Không có kẻ gian thần dòm ngó.

Đức Thánh Chúa như trang vua Võ,

Trị vì dân lớn nhỏ an cư.

Nhờ từ bi Phật xuống phước dư,

Cho bá tánh được câu hạnh phúc.

Con người thì thanh nhàn thong thả, phải chăng không cần lo miếng ăn vật uống, vì ngoài đồng đã có lúa trời mọc sẵn như ông Ba Thới cho biết, cho nên tiêu diêu tự tại, ngao du bốn biển năm hồ:

Đời nay nặng việc thuế sưu,

Thượng Nguơn thong thả oán cừu cũng không.

Nghêu ngao ra Bắc hò Đông,

Trầm ngâm như gã Tử Phòng sáo tiêu.

Năm hồn bốn biển tiêu diêu,

Vui vầy đất Thuấn Trời Nghiêu khỏe lòng.

Ở ăn trên dưới giữ đồng,

Thánh quân nhiếp chánh thời thần thuận trung.

Ông Thanh Sĩ cho biết Thánh Vương ở đời Thượng Nguơn sẽ noi theo gương của vua Nghiêu vua Thuấn mà trị dân, cho nên đời ấy rất hiền đức:

Đức Thánh chúa noi theo Nghiêu Thuấn,

Đời an khương gầy dựng tôi trung.

Khắp thần dân hưởng sự thung dung,

Cả muôn hạ vui mừng hả dạ,

Đời hiền đức gìn theo phong hóa,

Khắp hoàn cầu một dạ yêu nhau.

Mà sở dĩ khắp hoàn cầu đều một dạ yêu nhau, hòa thuận nhau, là vì ở đời Thượng Nguơn, tam giáo qui nguyên, các nước đều tu có một đạo, củng một lối giáo dục như nhau.Chính nhờ đó mà xã hội Thượng Nguơn sẽ được thái bình vĩnh viễn cả mấy muôn năm:

Lập đời Thượng cổ huy hoàng,

Dưới trên hòa thuận gia đàng ấm no.

Mùi bát nhã thơm tho khắp chốn,

Tam giáo đều một bổn thủy nguyên.

Thánh tài xuất thế bình yên,

An bang tế thế vô biên trí mầu.

Khắp thiên hạ cuối đầu khâm phục,

Cả hoàn cầu giáo dục như nhau.

Đại đồng bác ái thanh cao,

Phật Trời phân định nước nào cũng tu.

Thương lẫn nhau không thù không oán,

Xớt ngọt bùi giới hạn nào phân.

Sạch lòng chẳng chấp ngũ nhân,

Trên vua ngay thẳng dưới Thần cúc cung.

Trong gia đạo ngoài cùng lân quốc,

Nhường nhịn nhau ở thật ăn ngay.

Đâu đâu thạnh trị trong ngoài,

Từ trên nhân vật đến loài cỏ săn;

Cũng được hưởng gió trăng đầm ấm,

Vẻ tươi cười đượm thắm hoa xinh.

Về vấn đề tam giới qui nguyên, chúng ta cũng thấy ông Ba Thới nói tới với những câu:

Qua ngày sau không miễu không đình,

Hội tề công sở nhứt tình quốc gia.

Nước Tây Phiên nhà thờ không cha,

Niệm Trời niệm Phật quốc gia an hòa.

Mười tám nước như con một nhà,

Đều thời niệm Phật Di Đà công phu.

Như thế chúng ta đủ thấy rằng ông Thanh Sĩ nhận định huyền cơ, nhứt nhứt đều phù hợp với sự nhận định, tiên tri của ông Sư Vãi Bán Khoai, ông Ba Thới và Đức Huỳnh Giáo chủ, nghĩa là cả phái của Đức Phật Thầy Tây An.

Ông Thanh Sĩ cũng như mấy Ngài trong phái Phật Thầy, cho biết thế nào người đời cũng sắp đến cơ tận diệt và Hội Long Hoa sắp mở ra để chọn người hiền đức, lập đời Thượng Nguơn, nhưng định ngày giờ chừng nào Hội Long Hoa mở ra thì không ông nào dám nói.Tứ Thánh đã than “ Thiên cơ bất lậu”.Đến ông Thanh Sĩ, ông cũng thú nhận là không dám bàn:

Thiên cơ đây chẳng dám bàn,

Chỉ đem ý nghĩ phổ troàn vậy thôi.

Mặc dầu ông không dám định ngày giờ, nhưng ông luôn nhắc cho người đời nhớ rằng: Thế cuộc đã cận lắm rồi,không còn lâu.

Ngày nay thế cuộc hầu gần,

Rán mà để dạ ân cần chùi lau.

Hay là:

Từ đây đến việc không lâu,

Tu đừng mạnh yếu nạn sầu bên lưng.

Và muốn cho người đời nhận thức ý nghĩa của những danh từ “ hầu gần” hay “ không lâu” đó thế nào ông không ngần ngại mà ví nó như trái chín mùi muốn rụng:

Chín mùi trái nọ muốn rơi,

Mà còn chim chuột khuấy chơi lỡ làng.

Hoặc giả:

Đời nay như trái chín mùi,

Sao còn lắm kẻ ham vui lợi quyền.

Và đây là một tin quan trọng mà ông báo trước cho người đời sớm liệu lấy thân, tu hành tinh tấn:

Than ôi! Sắp khởi ngòi chiến quốc,

Vận Nam bang quả đất Trung Ương.

Và đây là một bài thi khoán thủ, có ý nghĩa thức tỉnh người đời mà ông đã thân tặng một vị bác sĩ nọ ở Sàigòn:

Trong trần khởi động cuộc phong ba,

Hai lẽ trầm thăng với nghịch hòa.

Ngàn việc cao sang như ảo mộng,

Năm điều giới luật tợ châu sa.

Tận kim bởi quả kim điêu xảo,

Thế cổ vì nhân cổ thật thà.

Đến lúc châu nhi huờn phục thỉ,

Nơi nơi hãy tỉnh giấc Nam kha.

Ông Thanh Sĩ cho biết dưới câu khoán thủ : “Trong hai ngàn năm Tận Thế đến nơi.”

No comments: