Tuesday, December 4, 2012

TRẦN VĂN GIÀU * HỒI KÝ III

Phần thứ ba
TỔ CHỨC LẠI XỨ UỶ
Dự kiến kế hoạch kỹ mấy rồi cuối cùng cũng thấy thiếu sót. Trong vụ
vượt ngục Tà Lài của chúng tôi cũng vậy thôi. Khi vượt ngục chúng tôi đều
nghĩ rằng và ít nhất là mong rằng, tuy thực dân khủng bố trước, trong và sau
khởi nghĩa Nam Kỳ, là dữ dội nhất từ trước tới nay, nhưng, “cháy nhà cũng
còn bờ tre”; thế nào rồi Xứ uỷ cũng được tổ chức lại sớm hay muộn, mạnh
hay yếu. Cho nên bọn tôi dặn nhau là, trong hoạt động của mình, trước hết
phải xem còn ban lãnh đạo nào không, xứ uỷ hay tỉnh uỷ, dù là lâm thời
được tổ chức lại sau tháng 11 năm 1940. Nếu có thể, điều tra kỹ, rồi nhập
vào đó hay liên lạc gắn bó, tránh mọi sự chia rẽ bao giờ cũng tổn hại (hồi
1933 khi tôi về tới Nam Kỳ thì trước đó vài tháng Xứ uỷ Nam Kỳ do đồng
chí giáo Long làm bí thư, đã bị địch tóm gọn nên tôi với các đồng chí Nữ,
Bang lập Xứ uỷ mới mà không lo sinh ra chia rẽ nghi ngờ nào). Bây giờ, sau
một thời gian dài hoạt động, ở hầu khắp các tỉnh Nam Kỳ, cả đồng chí Phúc,
tôi và các đồng chí Tà Lài về, như nhau, đều không thấy dấu hiệu sống còn
của một xứ uỷ, một tỉnh uỷ nào hết. Cho nên, cuối cùng, do tình thế bức
bách, Phúc phải họp hội nghị đại biểu các “tỉnh uỷ” lâm thời của anh lập ra
rồi, để bầu một xứ uỷ. Và tôi, cũng tựa như thế phải họp hội nghị đại biểu
các “ban cán sự” thành và tỉnh của tôi dựng lên, để chỉ định một “ban cán sự
miền Đông” nhằm lãnh đạo chung. Khi ấy, vào năm 1943, Phúc và tôi chưa
gặp lại nhau tuy đã có hẹn trước, khi cần thiết thì lấy nhà bác hương trưởng
Hoài (quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho) làm địa điểm liên lạc, ở đây sẵn có Khuy
trong toán ba anh em Tà Lài vượt ngục trước tiên.
Việc phải đến, đã đến. Tôi từ U Minh về, đầu năm 1943, đã ghé nhà
bác hương trưởng Hoài. Ông này ở cách nhà cha mẹ tôi không đầy mười cây
số. Nhắc chuyện cũ là năm 1926, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc từ Sài Gòn
xuống lục tỉnh thì cụ bắt đầu ghé nhà ông hương trưởng Ninh (là bố vợ, từ
1930, của tôi); ông hương trưởng Ninh đưa cụ Sắc qua bác Hoài, bác Hoài
đưa cụ Sắc đi Bến Tre, v.v… Tôi đã qua nhà bác Hoài từ năm 1933. Lần này
đầu 1943, ghé nhà bác Hoài, tôi được Khuy báo cáo hoạt động của anh ấy ở
69
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Mỹ Tho, Gò Công và một phần nào hoạt động của Phúc ở đồng bằng sông
Cửu Long. Rồi, lên Sài Gòn, tôi bắt đầu theo dõi đồng chí Mười Thức, thợ
giày thành phố, để giúp tôi hoạt động. Thức khi ấy là rể của ông Hoài, còn
Khuy là con nuôi. Lên tới Sài Gòn, tôi lập ngay ban cán sự Thành, với ba
đồng chí Oanh, Chí, Thức. Cả ba anh đều là công nhân lao động đã từng
hoạt động cách mạng, suốt thời kỳ Mặt trận bình dân, quen biết rất nhiều;
vài năm nay các anh nằm im vì không được ai dẫn dắt. Từ năm ngoái sau khi
tôi ghé nhà Bảy Trấn, ở đó mấy ngày, thì nhóm Phú Lạc có đi bắt liên lạc
với nhiều đồng chí ở hai tỉnh Chợ Lớn và Gia Định, cả Tân An nữa. Liên lạc
thôi chớ không tổ chức và hoạt động gì, nhưng nhờ đó mà, đầu 1943, sau
Ban cán sự Sài Gòn, tôi đã tổ chức được Ban cán sự tỉnh Chợ Lớn, rồi Ban
cán sự tỉnh Gia Định, tới Ban cán sự tỉnh Tân An, tỉnh nhà của tôi. Các đồng
chí Hoằng (Tân An), Hoành (Chợ Lớn), Tổng, Công, Khương, Nỉ (Gia
Định) hoạt động đắc lực. Tôi với tay đến Thủ Dầu Một, tìm được Văn Công
Khai, thợ cúp tóc là một “đồ đệ” hồi ở Khám Lớn. Tới Biên Hoà, tôi liên lạc
với Châu, nguyên là cán bộ đã từng hoạt động với tôi ở quận Càng Long
(tỉnh Trà Vinh) từ năm 1933. Đồng chí Phải, cựu sinh viên đại học Đông
Phương, khoá trước của tôi, nay ở Bà Rịa cũng hứa hoạt động trong tỉnh Bà
Rịa và thị trấn Vũng Tàu. Chưa bắt được mối ở Tây Ninh. Thế nhưng bấy
nhiêu “ban cán sự” đó nếu hợp tác với các “tỉnh uỷ lâm thời” của Phúc, đã
đặt ra yêu cầu phải có một Xứ uỷ chính thức đủ danh nghĩa lãnh đạo các
đảng bộ toàn Nam Kỳ. Mà, cho đến nay chúng tôi chưa thấy tăm hơi nào của
một Xứ uỷ còn sống sót sau đại khủng bố 1940-1941. Phúc nhạy bén và bạo
dạn hơn tôi; vì vậy mà anh tổ chức đại biểu hội nghị xứ ở Chợ Gạo tháng 10
năm 1943. Còn tôi, không biết phải e dè cẩn thận hay là không nhạy bén bạo
dạn bằng, tôi quả thật sợ một cuộc đại biểu hội nghị xứ đông đảo bị lộ bí
mật, bị địch tóm gọn trong lúc mới khôi phục, thì biết bao giờ mới vươn lên
nổi. Cho nên tôi vắng mặt ở hội nghị Chợ Gạo. Tuy rằng lúc ấy tôi ở Phú
Lạc chớ không đâu xa, từ Phú Lạc đi Chợ Gạo bằng xe đạp chỉ mất một buổi
sáng. Vậy mà, anh em vẫn bầu tôi làm bí thư. Tôi cảm động biết mấy! Cơ sở
của Phúc ở miền Trung, miền Tây là chủ yếu; cơ sở của tôi ở Sài Gòn và
miền Đông45 là thứ yếu; hai cánh hợp nhau thì có một Xứ uỷ chánh thức khá
mạnh từ gần cuối năm 1943.
Bầu cử Xứ uỷ, là một thành công lớn, lớn nhất từ sau ngày vượt ngục
Tà Lài. Tuy vậy, hệ thống và cơ sở Đảng ở toàn bộ Nam Kỳ vẫn còn là vấn
đề lớn, rất lớn. Đi đôi với vấn đề tổ chức là vấn đề đường lối chính trị mà
bọn tôi biết bao lần đặt ra nhưng chưa hề được giải quyết ổn thoả. Ổn thoả
45 Miền Trung Nam Bộ, miền Tây Nam Bộ, miền Đông Nam Bộ.
70
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
sao được, bởi vì, giỏi mấy mình vẫn là một địa phương thôi. Còn Trung
ương46 [2] thì có những quyết nghị gì, mình hoàn toàn không biết.
Ở đây, tôi muốn nói thêm rằng nhà bác hương trưởng Hoài, tuy bọn
cầm quyền thực dân không đứa nào không biết là nhà cách mạng, nhưng
thực tế là một nơi dung thân rất tốt của nhiều đồng chí: nhà ông ở xa trong
vườn, từ lộ cái vào phải hơn cây số vườn dừa, trên đường vào có rất nhiều
cầu qua mương, cầu bằng thân cây dừa, xe đạp qua phải dắt, trên đường vào
toàn là nhà tá viên, bà con, ai coi bộ khả nghi thì người nhà lấy chày giã gạo
gõ nhịp trên cối giã làm hiệu. Sau nhà bác hương trưởng là vườn, là dừa
nước, là sông rạch chằng chịt, thoát ra một phút thì có trời mà kiếm. Tôi hay
nghỉ ngơi, để viết sách, ở nhà bác hương trưởng ở Tân Thuận Bình, Chợ
Gạo, là vì vậy. Nơi đây, từ 1943 tôi tổ chức một “nhà in”, một “nhà xuất
bản” in phát một số quyển như “Việt Nam trên đường độc lập”, “Rạng đông
của dân tộc”thường ký tên là “Xuyên Vân Nhạn”47, mà mục đích là giúp các
đồng chí tuyên truyền chống “chủ nghĩa Đại Đông Á” của Nhật, chống
46 Trung ương: Năm 1943, Trường Chinh là quyền tổng bí thư, hai ủy viên ban thường vụ
khác là Hoàng Văn Thụ (bí thư xứ ủy Bắc Kì, bị bắt tháng 8.1943, bị Pháp xử bắn tháng
5.1944) và Hoàng Quốc Việt. Người tiền nhiệm của Trường Chinh, Nguyễn Văn Cừ, đã
chủ trì Hội nghị Trung ương tháng 11.1939 ở Bà Điểm (Nam Kì), sau đó bị bắt cùng với
nhiều người khác (như Lê Duẩn). Hội nghị Trung ương tháng 11.1940 họp ở Đình Bảng
(Bắc Kì) cử Trường Chinh làm quyền tổng bí thư. Phan Đăng Lưu trở về miền Nam phổ
biến quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa mà chính ông và Xứ ủy Nam Kì đã quyết định mấy
tháng trước đó: quá muộn. Cuộc khởi nghĩa Nam Kì (23.11.1940) bị dìm trong biển máu.
Phan Đăng Lưu và hầu hết lãnh đạo ở Nam Kì bị bắt, nhiều người bị xử tử. Nguyễn Ái
Quốc đặt chân tới Pắc Bó (tháng 1.1941) sau 30 năm bôn ba, vào đúng điểm mà tổ chức
cách mạng do ông thành lập 11 năm trước đó bị đàn áp nặng nề, hầu hết những người
lãnh đạo bị thực dân bắt giam hoặc thủ tiêu. Trong cái rủi cũng có cái may, có thể nói hai
lần may. Một là cũng với sự tiêu vong của ban lãnh đạo 1930-1940, là thất bại của đường
lối tả khuynh, giáo điều mà họ đã áp dụng theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản –nhân danh
đường lối ấy, Nguyễn Ái Quốc đã bị phê phán nặng nề và vô hiệu hóa, ngay sau khi
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 2.1930), và nhất là trong những năm 1934-
1938. Hai là, ở Liên Xô, Stalin rối bời trước cuộc tấn công của Hitler, Hồng quân thua
đậm trong thời kì đầu (tổng tư lệnh và phần lớn bộ chỉ huy Hồng quân đã bị Stalin tàn sát
từ cuối thập niên 1930); ở Trung Quốc, thì Mao và lãnh đạo ĐCS Trung Quốc còn ẩn náu
mãi tận Diên An; Nguyễn Ái Quốc không còn bận tâm vì các đồng chí của mình, có thể
vạch ra và theo đuổi đường lối giải phóng dân tộc đã từng bị lên án. Tất nhiên, thực hiện
chính sách Mặt trận Việt Minh không dễ dàng khi đất nước còn nằm dưới ách thống trị
của bộ máy thực dân Pháp theo Pétain và bộ máy quân phiệt Nhật Bản, hàng ngũ ĐCS bị
đàn áp nặng nề, liên lạc với các xứ ủy Trung Kì và Nam Kì dường như bị cắt đứt trong
mấy năm. Tình trạng phân hóa khá phổ biến: như ta sẽ thấy, Nam Kì sẽ có hai xứ ủy; ở
Trung Kì, có tỉnh có tới ba tỉnh ủy bất đồng với nhau (xem David G. Marr: Vietnam 1945
/ The Quest for Power, University of California Press, 1995).
47 Xuyên Vân Nhạn: con chim nhạn bay xuyên qua mây mù.
71
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
“Chủ nghĩa Liên bang”-- cũng gọi là “chủ nghĩa Pháp Việt phục hưng”--
của Decoux. Gây lại tin tưởng vào tiền đồ của cách mạng Việt Nam.
1. Xác định đường lối cách mạng
Việc lập lại Xứ uỷ Nam Kỳ như vậy là đã xong về cơ bản; nói rằng làm
xong về cơ bản nghĩa là sau khi đã gây dựng lại một số tỉnh uỷ lâm thời
(theo cách của Dương Văn Phúc) và một số ban cán sự tỉnh hay thành (theo
cách của tôi), vấn đề còn lại về tổ chức là các tỉnh thành phải lo gây dựng lại
cơ sở của mình, tập hợp lại quần chúng vài ba năm nay bị rời rạc, tan tác.
Xét ra thì việc lập lại Xứ uỷ tất nhiên là một việc khó mà tương đối dễ; bọn
tôi có kinh nghiệm bản thân, riêng tôi đã từng thực hiện loại nhiệm vụ đó hồi
1933, thành công và thất bại ở những chỗ nào, đến nay tôi hãy còn nhớ kỹ
như là nhớ chuyện ngày hôm qua; phần khác những đồng chí nào “kinh cung
chi điểu”48 thì thôi, chớ nếu đã đồng ý lãnh nhiệm vụ mới thì đều là những
đồng chí từng kinh qua cấp uỷ của Đảng hay của hội, nhiều hay ít đều được
quần chúng tin cậy. Khó mà dễ, là như vậy.
Còn hai việc lớn nữa phải làm cho tốt, cho mau; một là phải nỗ lực làm
sao cho Đảng ở Nam Kỳ, sau một thời gian tan vỡ, trở lại mạnh như trước,
mạnh hơn trước, ngõ hầu theo kịp với tình hình thế giới và trong nước chắc
chắn sẽ biến chuyển nhanh về hướng có lợi cho cách mạng. Việc này là bình
thường, là thường xuyên. Hai là phải xác định đường lối cách mạng, xác
định đặc điểm và triển vọng của tình hình, đề ra các nhiệm vụ cần kíp trên
con đường chiến đấu của đất nước và của địa bàn mình phụ trách. Việc này,
thoáng qua thì hình như là dễ, ta đã sẵn có đường lối chiến lược “cách mạng
tư sản dân quyền” từ năm 1930 rồi kia mà, sau luận cương cách mạng tư sản
dân quyền thì ta đã có “chương trình hành động” phổ biến từ 1932, được
Quốc tế Cộng sản tán thành kia mà.

Thật thà mà nói, Văn, bạn học tôi trường Stalin, Văn nay đã chết rồi,
chết từ 1941, chết trong tay mật thám, thì không còn đồng chí vượt ngục nào
48 Kinh cung chi điểu: con chim đã bị tên bắn rồi thì trông thấy cành cong cũng kinh hãi
(tưởng là cung).
72
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
có khả năng lý luận khá. Toàn là những tay hoạt động thực tiễn giỏi mà ít lý
luận. Kể cả Phúc; Phúc kiên trì hoạt động thì ít ai hơn, ít ai bằng, nhưng ít
đọc, càng ít viết, Phúc (Bà Rịa) thì học nhiều mà không hoạt động tích cực.
Tây thì viết được mà chưa chịu ra. Nhiệm vụ vạch đường lối rơi vào tôi,
túng quá phải gánh, không chối được, chờ liên lạc với Trung ương, chờ chỉ
thị thì chừng nào mới có?
Tôi có ý thức rất rõ, có ý thức đầy đủ rằng, ngày nay lịch sử thế giới và
lịch sử dân tộc đã vào một thời kỳ mới, thời kỳ chiến tranh và cách mạng
chắc chắn rộng hơn thời kỳ chiến tranh 1914-1918 và cách mạng vô sản sau
chiến tranh đó. Đường lối đã vạch ra từ hồi 1930, 1932 nay đâu còn thích
hợp nữa. Vậy phải có một đường lối mới thích hợp hơn. Trung ương hội
nghị lần thứ VI họp ở Bà Điểm cuối năm 1939, đã bắt đầu đề ra một đường
lối mới. Mà nay là 1943 rồi, không phải là 1939 nữa. Năm 1939, chiến tranh
thế giới còn là chiến tranh giữa phe Đức phát xít và Pháp, Anh đế quốc thực
dân. Nay chiến tranh đã mở rộng ra khắp thế giới tây đông, mà mặt trận
chính là Đức, Nga, và nay Anh, Mỹ là tư bản chủ nghĩa, đồng minh của Liên
Xô là xã hội chủ nghĩa. Pháp đã mất nước từ tay Đức. Hai ba năm trước, một
mình Pháp thống trị Đông Dương, bây giờ Đông Dương bị Pháp và Nhật
cùng thống trị. Thì đường lối cách mạng của Đảng ta phải như thế nào mới
đúng? Đúng nghĩa là chắc chắn đưa đến cách mạng thành công?
Tôi hiểu rằng một cái Xứ uỷ cho dầu là cứng hơn, vững hơn bọn tôi
mấy lần đi nữa, cũng không có quyền vạch ra đường lối cách mạng là đường
lối của toàn Đảng, toàn quốc; cho nên xác định đường lối cách mạng phải là
nhiệm vụ của Đại hội Đảng hay là của Ban chấp hành Trung ương Đảng, các
cấp bậc ấy mới có đủ quyền hạn. Nhưng ở Nam Kỳ bấy giờ không còn có cơ
quan Trung ương cũng không còn có uỷ viên Trung ương từ sau những vụ bị
bắt ở đường Nguyễn Tấn Nghiêm và xung quanh cuộc khởi nghĩa 1940.
Ngày nay nhìn lại thì thấy rằng mãi cho đến sau cách mạng tháng Tám,
chúng tôi, không biết có nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VIII –một
cuộc hội nghị Trung ương có Nguyễn Ái Quốc tham dự49. Lúc đó chúng tôi
49 Hội nghị Trung ương lần thứ VIII: họp từ ngày 10 đến 19.5.1941 tại Pắc Bó (Cao
Bằng), chấp nhận sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, quyết định thành lập Mặt trận Việt
Minh: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn
vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc
giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến
vạn năm cũng không đòi lại được. Đó là nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn đề dân tộc ”;
“Đế quốc Pháp - Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày, mà chúng
nó áp bức bóc lột cả các dân tộc không chừa một hạng nào. Dẫu là anh tư bản, anh địa
chủ, một anh thợ hay một anh dân cày đều cảm thấy cái ách nặng nề của đế quốc là
73
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
cảm giác bơ vơ trong một thời cuộc cực kỳ rối và khó. Phải tự vạch đường
mà đi hay là phải chờ đợi? Mà chờ đợi đến chừng nào? Chờ đợi ai? Trong
lúc không thể dẫm chân một chỗ. Mà thời thế xem chừng như là cấp bách.
Sau Stalingrad rồi! Người chiến sĩ cách mạng, đoàn thể cách mạng cần biết
tự động, có sáng kiến, phải sáng kiến tự động giống như một sĩ quan cầm
đầu một đơn vị chiến đấu đang cơn hỗn loạn ở chiến trường, đứt liên lạc với
cấp trên và với tả hữu, tất phải tự động sáng kiến mà tiến thoái. Nhớ lại hồi
1933, Xứ uỷ cũ không còn, Xứ uỷ mới vừa thành lập, Trung ương không có,
các bạn và tôi vạch lấy con đường mà đi; trong nhiều việc mới chưa có tiền
lệ, như việc tranh cử hội đồng thành phố Sài Gòn, Xứ uỷ đã tự mình giải
quyết đúng đắn, lần đầu tiên kết hợp bí mật và công khai, dám sử dụng các
cơ hội hợp pháp để hoạt động cách mạng, nhờ đó một phần mà gây lại được
phong trào quần chúng rộng lớn và sôi nổi ở Nam Kỳ. Bây giờ, mười năm
sau, tình thế đơn độc thì giống mười năm trước mà tình hình chính trị của
thời chiến ngày nay gay go hơn biết mấy! Nhưng rồi cũng phải tự vạch con
đường mà đi thôi. May là, trong Nam, từ cuối 1939, đã có nghị quyết Trung
ương lần thứ VI. Mà Trung ương hội nghị lần thứ VI họp trong lúc ở châu
Âu đã nổ ra chiến tranh giữa Đức và Pháp, Anh, chưa có chiến tranh Đức -
Liên Xô, Pháp chưa bại trận. Á Đông thì quân Nhật chưa vào Đông Dương,
chiến tranh Thái Bình Dương chưa nổ ra. Bây giờ, 1943, thì tình hình khác
xa hồi cuối 1939, chắc chắn là nghị quyết Trung ương VI còn có nhiều phần
ứng dụng được, nhưng không đủ nữa. Thì làm thế nào bây giờ? Suy nghĩ
nhiều, thảo luận mãi, chúng tôi, đi đến chỗ quyết định phải tự trao cho mình
trách nhiệm vạch ra đường lối mà đi tới, đó là đường lối cách mạng do tôi đề
nghị và tôi phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về sai đúng của nó.
không thể nào sống được. Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc
nguy vong không lúc nào bằng”. Quan niệm, tầm nhìn, ngôn ngữ khác xa quan niệm “trí,
phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”của những Trần Phú, Hà Huy Tập…
74
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Trần Văn Giàu diễn thuyết tại Nhà hát lớn Hà Nội ngày 13.03.1946
(mít tinh về tình hình mặt trận Nam Bộ)
Phúc sau này lấy tên là Năm Đông 50, thấy tôi lúng túng nên đề nghị
hãy lấy nghị quyết Trung ương thứ VI làm cơ sở của đường lối rồi thi hành
châm chước theo tình hình mới, như vậy sẽ “hợp pháp” hơn. Văn và Phúc
chỉ có hai người trong đám vượt ngục Tà Lài đã được biết nghị quyết ấy
50 Năm Đông: Dương Quang Đông, tức Dương Văn Phúc (1902-2003). Ông Năm Đông
là nhà cách mạng lão thành đã tham gia Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc và sớm hoạt động trong Công hội Đỏ của cụ Tôn Đức Thắng. Ủy viên
thường vụ Xứ ủy Nam Kì. Trong thời kháng Pháp, ông là Phó phòng Hàng hải Nam Bộ,
phụ trách văn phòng thường trực của ta ở thủ đô Xiêm quốc, Bangkok. Ông đóng vai
doanh thương có cửa hàng xuất nhập cảng lớn tại thủ đô Bangkok, mua sắm tàu biển chở
súng đạn, hóa chất, máy móc về nước đánh Tây. Trong cuộc sống đầy gian nguy giữa
hàng ngũ mật vụ Pháp bố trí dày đặc ở Xiêm, dưới cái tên Xiêm là Nai Chran ông vẫn
bình tĩnh làm tròn sứ mạng của mình cho tới ngày bị phe đảo chính bắt. Xem tiểu sử đầy
đủ trong cuốn Dương Quang Đông xuyên Tây của Nguyên Hùng (sách đã dẫn). Những
năm cuối đời, tuy tuổi cao, ông vẫn lên tiếng chống tiêu cực và sự lưu manh hóa hàng
ngũ đảng (như tố cáo sự gian trá của tướng Lê Đức Anh).
75
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
song cũng chưa bao giờ nghiên cứu cho thấu đáo, cho nên, học lóm, tôi chỉ
biết vài nét đại cương; nay Văn chết rồi, còn Phúc thì quên ráo, trừ ra cái
nhiệm vụ phải thừa cơ chiến tranh thế giới để làm cách mạng giải phóng
thành công. Tìm kiếm mãi, tôi bắt gặp mấy đoạn chép tay nghị quyết VI ở
nhà Prigorny (Trân51 - Phú Lạc) giấu trên mái lá của chuồng trâu. Tôi hết
sức cảm động khi đọc đoạn chót của nghị quyết, lời kêu gọi thống thiết toàn
thể đảng viên cộng sản:
“Các đồng chí! Thời cuộc hết sức nghiêm trọng, nhiệm vụ mà lịch sử
phú thác cho ta rất nặng nề. Là những phần tử tiên tiến của giai cấp thợ
thuyền và là những con cháu tinh anh tận tụy với công cuộc giải phóng dân
tộc, chúng ta phải giác ngộ rõ cái sứ mệnh lớn lao ấy và đủ can đảm, đủ
nghị lực, đủ sáng suốt để gánh vác nó.
Các đồng chí hãy xiết chặt hàng ngũ lại!
Muôn người cố kết như một!
Tiến lên thực hiện Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
Tiến lên lật đổ ách đế quốc, tranh lấy độc lập, giải phóng tự do, bình
đẳng, hoà bình, hạnh phúc…”.
Và kêu gọi thống thiết toàn thể đồng bào:
“Anh chị em đồng bào!
Dân tộc chúng ta đứng ở vào tình thế một còn một mất.
Là dòng dõi tinh anh của Trưng Vương, Triệu Ẩu, Trần Hưng Đạo, Lê
Lợi, Nguyễn Huệ, Phan Đình Phùng, lại là dân tộc đông nhất, dân tộc Việt
Nam hãy mau mau đoàn kết lại, thống nhất Trung Nam Bắc, liên hiệp với
Miên Lào và tất cả các dân tộc thiểu số khác dưới ngọn cờ Mặt trận thống
nhất dân tộc phản đế Đông Dương, kẻ xuất công người xuất của, ra sức đấu
tranh chống đế quốc chiến tranh và giải phóng các dân tộc Đông Dương ra
khỏi đế quốc Pháp.
Chỉ có chiến tranh giải phóng mới thật là chiến tranh vì công lý, tự
do”.
Đọc nghị quyết tháng 11 năm 1939, tôi chú ý đặc biệt đến một số tư
tưởng mang nhiều tính sáng tạo so với luận cương cách mạng tư sản dân
quyền (1930) và Chương trình hành động (1932), những tư tưởng đem lại
nhiều gợi ý lớn cho tôi khi tôi phải đề nghị một dự thảo đường lối cách
mạng cho Xứ uỷ 1943. Những tư tưởng gợi ý đó là:
51 Tức Nguyễn Văn Trân: xem chú thích ở các phần (I) và (IV).
76
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
“Đứng trong một tình thế ít nhiều khác với tình thế 1930-1931, chiến lược
cách mạng tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với
tình thế mới. Cách mạng phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách
mạng tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mạng điền địa thì
không giải quyết được cách mạng phản đế; không giải quyết cách mạng
phản đế thì không giải quyết được cách mạng điền địa. Các nguyên tắc ấy
không bao giờ thay đổi được; nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn
khéo thế nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mạng là
đánh đổ đế quốc”.
Ngay khi đọc nghị quyết, tôi liền thấy rằng đây không phải là “các
nguyên tắc ấy - cách mạng phản đế và điền địa song song, không tách,
không cái nào thứ nhất, cái nào thứ yếu - không bao giờ thay đổi được”.
Thực tế thì hội nghị Trung ương 1939 đã “thay đổi” nguyên tắc ấy, đã
chuyển hướng chiến lược, trước là cách mạng phản đế và điền địa, nay là
cách mạng dân tộc giải phóng, nhiệm vụ phản đế là “chính cốt”; không nói
tách bạch ra nhưng cũng đã đủ rõ rằng cách mạng điền địa là thứ yếu, nhưng
cần viết lại sao cho các đồng chí hiểu rằng dù nó là quan trọng lớn, lớn nào
cũng không bằng cách mạng phản đế; đặt cách mạng phản đế làm “chính
cốt” là cốt để tập hợp được lực lượng yêu nước của cả dân tộc đến mức cao
nhất có thể được. Đúng là đã có thay đổi ở nguyên tắc chính. Nghị quyết nói
rõ hơn nữa:
“Hiện nay tình hình có đổi mới. Đế quốc chiến tranh, khủng hoảng cùng với
ách thống trị phát xít thuộc địa đã đưa đến vấn đề dân tộc thành một vấn đề
khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu địa chủ và tư bản bản xứ
cũng căm tức đế quốc. Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền
lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mạng, cả vấn đề
điền địa cũng phải nhằm vào mục đích ấy mà giải quyết”.
Lâm thời không đưa ra khẩu hiệu “tất cả ruộng đất về tay dân cày”
nữa mà đưa ra khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của thực dân và của địa chủ
phản bội quyền lợi của dân tộc”.
Bạo dạn lắm và rất đúng, rất hay. Về sau, tôi nghĩ rằng trên thực tế lịch
sử, sự chuyển hướng chiến lược lớn của Đảng ta đã bắt đầu từ tháng 11 năm
1939, còn nghị quyết Trung ương VIII thì tiếp tục và hoàn thiện một sự
nghiệp phát triển lý luận bắt đầu từ nghị quyết Trung ương VI. Năm 1943,
sau khi lập Xứ uỷ, trong việc tự vạch một đường lối cách mạng, chúng tôi ở
Nam Kỳ, đặc biệt là tôi, đã chịu ảnh hưởng cực kỳ sâu sắc của nghị quyết
Trung ương VI về sự xác định “nhiệm vụ chính cốt” của cách mạng Đông
Dương, cách mạng Việt Nam. Giống như cái thời (1928-1929, khi tôi gõ cửa
77
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
xin gia nhập Đảng Cộng sản Pháp) mà tôi “phát hiện” ra trong nghị quyết
của Quốc tế Cộng sản đại hội lần thứ VI nhiệm vụ chiến lược cách mạng
điền địa gắn liền với cách mạng phản đế.
Chưa hết cái sáng tạo của Hội nghị tháng 11 năm 1939, tại Bà Điểm.
Nghị quyết còn nói đến vấn đề tính chất và hình thức của chính quyền cách
mạng đã thành công. Nghị quyết rút lại khẩu hiệu “lập chính phủ Xô Viết
công nông”mà đưa khẩu hiệu lập chính phủ cộng hoà dân chủ mang tính
chất đoàn kết rộng rãi bao gồm nhiều thành phần xã hội ngoài công nông tuy
là dựng trên cơ sở liên minh công nông.
Bạo dạn lắm; cũng là thức thời lắm!
Vấn đề Miên Lào được quan niệm một cách khác hơn hồi 1930, 1932
khi ra đời Luận cương chính trị và Chương trình hành động. Nghị quyết
tháng 11 năm 1939 nói:
“Không một dân tộc nào có thể giải phóng riêng lẻ, vì Đông Dương ở dưới
quyền thống trị duy nhất của đế quốc Pháp về mặt chính trị, kinh tế và binh
bị. Không thể có một bộ phận nào thoát khỏi nền thống trị ấy mà chẳng liên
quan đến cả nền thống trị của đế quốc Pháp. Sự liên hiệp các dân tộc Đông
Dương không nhất thiết bắt buộc các dân tộc phải thành lập một quốc gia
duy nhất vì các dân tộc Việt Nam, Miên, Lào xưa nay vẫn có sự độc lập.
Mỗi dân tộc có quyền giải quyết vận mệnh theo ý muốn của mình song sự
tự quyết cũng không nhất định nghĩa là rời hẳn nhau ra”.
Nói một cách khác hơn, rõ hơn, không đặt vấn đề thành lập Liên bang
Đông Dương như hồi 1930 nữa, mà đặt vấn đề liên minh chiến đấu giữa
Việt, Miên, Lào chống đế quốc thực dân Pháp nhằm giành lại độc lập cho
nhau, mỗi dân tộc Việt, Miên, Lào có quyền quyết định chế độ chính trị của
mình mà cả ba đều ủng hộ nhau để hoàn thành và bảo vệ nền độc lập đó.
Thế là rõ. Thế là hội nghị tháng 11 năm 1939 đã cho phép ta đánh đổ
một chính sách tuyên truyền “chia để trị” của Pháp. Duy, ngay sau tháng 11
năm 1939, ta không có cơ hội để tuyên truyền cổ động rộng rãi cho một
chiến lược đổi mới vừa hợp với lịch sử, vừa hợp với lòng dân của cả ba dân
tộc Việt, Miên, Lào.
Bên trên, tôi vừa nói đến ba chuyển hướng chiến lược đặc biệt quan
trọng của Trung ương hội nghị tháng 11 năm 1939. Ba điều ấy được chúng
tôi, hồi 1943-1944, lấy làm cơ sở để vạch ra đường lối của Xứ uỷ.
Đọc lại một số đoạn của nghị quyết VI, tôi lấy làm lạ, đồng thời cũng
rất cảm động, khi thấy rằng cuối năm 1939, trong lúc Thường vụ Trung
ương còn toàn vẹn và an toàn mà hội nghị đã đặc biệt chú tâm đến vấn đề
78
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
nối chắp liên lạc dưới trên, Nam Bắc trong Đảng bị địch làm tổn hại nguy
hiểm. Nghị quyết nói phải:
“Tìm cách khôi phục hệ thống Trung Nam Bắc và phải làm cho sự liên lạc
từ chi bộ đến Trung ương được khắng khít. Nhất là trong lúc này (là lúc)
Đảng thay đổi chính sách, phải làm cho chính sách ấy phổ cập trong toàn
Đảng… Và trong lúc tình thế nghiêm trọng này, phong trào quần chúng sẽ
tiến tới một tốc độ không ngờ, nếu các tổ chức Đảng từ trên tới dưới không
liên lạc mật thiết như một người thì Đảng không thể chỉ huy phong trào
một cách đúng đắn được. Phong trào cách mạng của quần chúng sẽ vì đó
mà yếu ớt đi, cách mạng sẽ không thực hiện được, Đảng ta sẽ mang tội với
vô sản, với dân tộc, với cách mạng toàn thế giới”.
Chúng tôi càng thấm thía tầm quan trọng đặc biệt của nhiệm vụ “khôi
phục hệ thống Trung Nam Bắc” được đặt ra ngay từ cuối năm 1939, nhiệm
vụ càng cấp bách vào năm 1943-1944… tới đó mà vẫn chưa thực hiện được,
tới đó mà chúng tôi ở Nam chưa biết Trung ương còn hay không, còn thì đã
vạch ra đường lối cách mạng thế nào cho tất cả các tổ chức cộng sản đều
theo đúng như vậy. Về sau ai nói đông tây gì mặc kệ, chớ hồi 1943, khi lập
lại Xứ uỷ chúng tôi Phúc, Giàu… nhắc mãi cái câu tâm huyết của nghị quyết
VI: “Nếu các tổ chức Đảng từ trên xuống dưới không liên quan mật thiết
như một người… cách mạng không thực hiện được… ta mắc tội với vô sản,
với dân tộc…”.
Không đành chịu ngồi chờ, bất đắc dĩ chúng tôi phải tự vạch ra một
đường lối cách mạng mà dù tự tin mấy cũng không khỏi phải âu lo rằng có
thể có sự khác biệt đáng lẽ tránh được với các đồng chí ở Bắc Trung. Sau
này, ai hiểu được cho tôi thì tôi nhờ, ai hiểu không được hay không muốn
hiểu thì tôi chịu, chớ bảo nhau “ngồi chờ” quyết không phải là thái độ của
tôi hay của bất cứ người “cách mạng chuyên nghiệp” nào. Khi ấy, ở Nam
Kỳ, ở trong tình thế phải tự vạch ra con đường để mà đi tới trước, nếu có sai
biệt gì với bên trên (mà chúng tôi không biết chắc là còn hay mất) thì tôi sẵn
sàng chịu phê bình, nhưng người ta không những phê bình mà còn công kích
dữ dội, ác liệt, cái lối xử sự ấy quả là khó chấp nhận lắm.
2. Vấn đề “một cổ hai tròng”, ách của hai đế quốc Pháp và
Nhật
Hồi cuối năm 1939, đầu năm 1940, chỉ có một mình Pháp thống trị
Đông Dương.
79
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Khi ấy, trong những năm cuối thời Mặt trận bình dân, đứng trước nguy
cơ chiến tranh giữa Nhật- Pháp ở Đông Á, anh Lê Hồng Phong chủ trương
“phòng thủ Đông Dương”. Còn tôi, dù ở trong Khám Lớn Sài Gòn, tôi có
gởi bài đăng ở báo Avant garde chủ trương là “giữa bệnh dịch tả và bệnh
dịch hạch, ta không lựa chọn cái nào”(entre la peste et le choléra, on ne
choisit pas). Khi ấy, có mặt Honel nghị sĩ cộng sản Pháp được Đảng Cộng
sản Pháp phái sang Sài Gòn, anh ấy phản đối tôi hết sức dữ dội, và không
phải chỉ có một mình Honel phản đối tôi. Nhưng quần chúng và cán bộ thì
bàn tán nhiều, không phải ai cũng ủng hộ “phòng thủ Đông Dương”. Anh
tuyên chiến với Đức. Đồng minh của Đức là Nhật đem quân vào Đông
Dương, Pháp-Nhật câu kết nhau.
Ngay từ khi chiến tranh thế giới bắt đầu, Đảng đã quyết định sẽ nhân cơ
hội chiến tranh đế quốc để làm cách mạng giải phóng thành công, điều này
đã ghi trong Luận cương chính trị 1930 và Chương trình hành động 1932.
Giữa năm 1940, Pháp bị Đức đánh bại phải đầu hàng, một chính phủ chư
hầu, tay sai của Đức được thành lập ở Pháp và Pháp được giữ nguyên các
thuộc địa. Chính phủ thuộc địa tại Đông Dương theo đường lối của chính
phủ Pétain ở Pháp. Quân Pháp theo Pétain nắm trọn quyền ở Đông Dương.
Nhưng cuối 1940 và đầu 1941, Pháp chấp nhận để quân đội Nhật vào Đông
Dương. Từ đó, thống trị Đông Dương không phải chỉ có đế quốc Pháp mà
còn có quân phiệt Nhật. Một cổ hai tròng là thế. Ai đoán trước được? Cuối
năm 1940, nổ ra cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Khởi nghĩa thất bại. Pháp đàn áp
dữ dội, khốc liệt nhất từ khi chúng đến đồng bằng Cửu Long, Đồng Nai. Khi
nổ ra khởi nghĩa Nam Kỳ chưa có đại quân Nhật vào đây; nay thì quân Nhật
có mặt ở cả Bắc, Trung, Nam, Miên, Lào nữa, đóng căn cứ hành quân khắp
nơi. Nhật dung dưỡng Pháp và Pháp phục vụ lại Nhật, hai thằng đế quốc tuy
có mâu thuẫn với nhau mà cùng nhau đè đầu cưỡi cổ dân ta. Nhân dân và cả
đồng chí nữa đặt câu hỏi: một đế quốc Pháp, đã bị phát xít Đức đánh bại, mà
ta còn đánh đổ không nổi, ta còn thua, nay thêm một đế quốc Nhật, đế quốc
đó lại đang thắng Mỹ, Anh, Hà như chẻ tre, cả hai kẻ xâm lược Pháp, Nhật
cùng thống trị dân tộc ta, thì ta làm sao đánh đổ nổi chúng để giành lại độc
lập?
Trong câu hỏi có xen ý hoài nghi tiền đồ cách mạng. Chúng tôi đã trả
lời câu hỏi một cách đơn giản mà không có ai trong số các đồng chí (và
trong quần chúng cảm tình) không cho là đúng:
Pháp sở dĩ chấp nhận để cho quân đội Nhật vào Đông Dương vì chúng
không có sức đương đầu với Nhật, một trận Lạng Sơn đủ chứng tỏ điều ấy
rồi. Đánh Nhật thì Pháp (ở Đông Dương) chết ngay, mất hết. Nhân nhượng
thì may ra còn. Vả lại, chính phủ Pétain ở Pháp chịu phục tùng Đức, mà Đức
80
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
thì muốn cho Pháp cứ giữ thuộc địa, Nhật là đồng minh của Đức; cho nên
Pháp ở Đông Dương nuôi hy vọng có thể giữ được bộ máy cai trị của chúng
cho đến ngày hết chiến tranh mà chúng tưởng rằng phe trục phát xít sẽ
thắng.
Nhật tất nhiên là muốn ăn hết miếng mồi Đông Dương chớ không
muốn chia phần cho Pháp. Nhật hất cẳng Pháp không khó khăn, dễ như móc
thuốc lá trong túi. Nhưng nếu như Nhật hất cẳng Pháp ngay thì cái khó khăn
lớn của Nhật là phải tổ chức ra bộ máy cai trị của chúng, liệu bộ máy mới có
giữ trật tự nổi trong một nước có truyền thống cách mạng rất mạnh như Việt
Nam không? Chi bằng tạm để quân Pháp ở đó, buộc Pháp nếu muốn tồn tại
để chờ thời, thì một mặt phải làm việc giữ trị an bằng bộ máy Nhà nước đã
xây dựng từ gần một trăm năm nay, mặt khác phải lo bảo đảm hậu cần cho
quân đội Nhật, cần lương thực có lương thực, cần nhân công có nhân công,
cần tiền có tiền, bến tàu, sân bay, đường sá đều sẵn. Lợi hơn là trực tiếp nắm
tất cả quyền hành. Mà người chủ thật sự là Nhật, không phải là Pháp. Đến
lúc nào cần thiết thì Nhật sẽ lật Pháp dễ như trở bàn tay, việc này có ngày
nhất định sẽ xảy ra, vấn đề là sớm hay muộn chớ hai con chó không thể cùng
chia êm một miếng mồi ngon. Chúng nó sẽ cắn nhau, một con sẽ chết. Con
chết trước là thực dân Pháp. Hai kẻ thống trị sẽ còn một, hai ách sẽ chỉ còn
một, mà ách thống trị còn đó cũng sẽ không kiên cố lâu dài gì bởi vì Nhật sẽ
thua trong cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trong cuộc xâm lăng Trung
Quốc. Nhật lật đổ Pháp sẽ không có phần trợ lực nào hết dù là gián tiếp của
lực lượng ta, nhân dân ta đóng góp càng lớn thì cách mạng Việt Nam, cách
mạng Đông Dương càng có điều kiện dễ thắng lợi.
Vậy không có gì phải ngán, phải bi quan với cái sự thật đáng ghét là
một cổ hai tròng, một dân tộc thuộc địa mà hai đế quốc hè nhau thống trị.
Cũng do nhận định như thế mà tôi đề nghị với các đồng chí là ta không
để ngang hàng thực dân Pháp với quân phiệt Nhật, ta phải xem đế quốc Nhật
là kẻ thù số một mặc dù nó không ngồi ghế toàn quyền, thống sứ, thống đốc;
tôi đề nghị khẩu hiệu chiến lược là “đánh đổ đế quốc Nhật, bài trừ phản
động Pháp, Đông Dương độc lập muôn năm”. Khẩu hiệu này bao hàm ý
nghĩa rằng ta có thể cần phải lợi dụng mâu thuẫn của Pháp và Nhật, hàm ý
nghĩa rằng Pháp, Nhật đều là kẻ thù của ta, mà bây giờ thì kẻ thù chính là
Nhật; cũng hàm ý nghĩa rằng Nhật thế nào cũng sẽ lật đổ Pháp, rằng những
người Đông Dương yêu nước trong trường hợp cụ thể và trong điều kiện
nhất định có thể là đồng minh chiến đấu của phe kháng chiến Pháp chống
Nhật và chống phe Decoux thân phát xít. Về sau tôi mới biết được ở ngoài
Bắc, các đồng chí ta từ năm 1941,1942 đề ra khẩu hiệu “đánh Pháp, đuổi
Nhật” cho đến khi nổ ra sự kiện 9 tháng 3 năm 1945, Nhật lật đổ Pháp. Như
81
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
vậy là trước ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nam, Bắc có sự khác biệt không phải
đâu đó muốn khác nhau như thế nào, mà vì hệ thống Đảng chưa được khôi
phục. Nhà làm sử về sau có thể đánh giá là ở Nam Bộ, và riêng ở tôi, sai
đúng tới mức nào, nặng bao nhiêu nhưng trong vấn đề này, tôi muốn được
thấy rõ sai lầm của tôi nếu quả đó là sai lầm về khẩu hiệu chiến lược.
Trong một lần Hội nghị Xứ uỷ ở Chợ Gạo năm đó (cuối 1943), tôi đã
yêu cầu các đồng chí chú trọng đặc biệt đến nhiệm vụ –cũng mang tính chất
chiến lược –đấu tranh tư tưởng chính trị chống “chủ nghĩa Pháp-Việt phục
hưng”của thực dân Pháp ở Đông Dương và “chủ nghĩa Đại Đông Á” của
Nhật. Vào thời điểm đó, trong khi tôi nhận định rằng trong hai kẻ thù đế
quốc, đế quốc Nhật là số một, thì tôi nhận định rằng trong hai tư tưởng địch
thủ, không cái nào là thứ hai, cả hai đều rất nguy hiểm; từ năm 1943 trở đi,
cái chủ nghĩa Đại Đông Á có sút giảm ảnh hưởng bởi vì chiến tranh Thái
Bình Dương bắt đầu chuyển sang chiều hướng bất lợi khó gỡ cho Nhật và
bởi vì hơn vài năm nay đám thân Nhật coi như là “mỏi mòn trông đợi”, mất
dần tin tưởng vào Nhật cho đến nỗi tướng Tòng Tỉnh chủ tịch Liên Á phải
sang Sài Gòn để “trấn an”, để “lên dây cót”cho đám tay chân người bản xứ,
cái xu thế của chủ nghĩa Đại Đông Á càng lâu càng mất đà, khó gỡ. Còn cái
“chủ nghĩa Pháp-Việt phục hưng”cũng gọi la “chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề
mới” của phái Decoux thì với cái sức mạnh đang chuyển sang đà thắng của
đồng minh Anh, Mỹ, Liên Xô, dẫn đến chỗ thực dân Pháp và đồng minh bản
xứ lâu đời của chúng hy vọng một cuộc khôi phục nước Pháp, hy vọng vào
hoạt động của De Gaulle và đám gaullistes ở Đông Dương. Cho nên, trên cơ
sở đường lối cách mạng (mà chúng tôi tự vạch ra), cuộc đấu tranh tư tưởng
chính trị chống chủ nghĩa “Pháp-Việt phục hưng”và “chủ nghĩa Đại Đông
Á”được chúng tôi xem như là điều kiện cốt yếu để đẩy phong trào cách
mạng tới thành công. Về sau, tôi nhận thấy rằng, trên mặt trận này, chủ
trương đường lối ở Bắc và ở Nam không có khác biệt nhiều, duy ở trong
Nam lực lượng thân Nhật, tiêu biểu là các giáo phái, to lớn lắm, hoạt động
dữ lắm, đấu tranh với họ vừa vất vả, vừa tế nhị hết sức. Những quyển sách
loại “bỏ túi” của tôi phát hành lúc đó chống “chủ nghĩa Pháp-Việt phục
hưng”(hay là “chủ nghĩa Liên bang của Decoux), chống “Chủ nghĩa Đại
Đông Á”của Nhật có giúp cho anh em ta tuyên truyền cách mạng, khôi phục
lòng tin vào cách mạng, nhưng phải nói rằng có tác dụng quyết định trong
việc khôi phục lòng tin vào cách mạng là những chiến thắng của Hồng quân
Liên Xô từ Stalingrad trở đi.
82
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
3. Vấn đề tập hợp lực lượng
Vấn đề tập hợp lực lượng để đi tới khởi nghĩa cách mạng là vấn đề rất
lớn trong việc xác định đường lối sau khi đã rõ đối tượng tính chất của cách
mạng. Nói giải phóng dân tộc, giành độc lập, các thời kỳ, các tổ chức, các vị
yêu nước đều nói; nhưng tới nay thì chưa ai làm được. Khởi nghĩa Yên Bái
1930, khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, đều biểu hiện ý chí giải phóng dân tộc,
nhưng đều thất bại; một trong những nguyên nhân lớn của sự thất bại là đã
chưa tập hợp đủ lực lượng để làm cách mạng. Nam Kỳ 1940 tập hợp được
lực lượng nhiều lần hơn Yên Bái 1930, mà cả hai đều thiếu; Nam Kỳ khởi
nghĩa, ngay khi nhìn ở tầm địa phương, cũng là một cuộc nổi dậy với lực
lượng tập hợp còn xa mới đủ: công nhân lao động thành thị chưa nổi lên,
không có binh lính nổi lên, đa số các quận huyện không có nổi lên và ngay
nông dân ở các quận huyện có khởi nghĩa cũng chỉ một số ít cầm vũ khí
đánh giặc Pháp. Vả chăng, trong một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
nếu chỉ có công nông binh trong tổ chức của Đảng nổi lên thì một sự tập hợp
lực lượng như thế vẫn còn hẹp hay là chưa đủ rộng lớn cần thiết. Xứ uỷ
chúng tôi nhận định như vậy. Nhận định như vậy, quyết không phải là “chê”
các đồng chí lãnh đạo khởi nghĩa 1940, nhận thấy khuyết điểm ấy là để xác
định rằng muốn khởi nghĩa thành công phải có không chỉ hàng vạn mà hàng
ức triệu người nhất tề nổi lên mới được.
Từ nay cho đến khi có thời cơ khởi nghĩa, phải làm cho kỳ được những
gì trong trách nhiệm tập hợp lực lượng?
–Phải chú trọng đặc biệt vào công nhân, người lao động; chú trọng vào
công chức của chính quyền ở thành thị, trước hết là ở Sài Gòn đầu não; thật
sự biến các xí nghiệp lớn và các công sở chính làm “thành trì của cách
mạng”, giống như đặt quả bom, đặt trong bụng của địch nhân, như đóng cái
đinh vào đầu của chúng; nếu quả ta tính đánh địch một đòn chết tươi thì phải
đánh thẳng vào bộ não, trái tim của chúng; có thể nghĩ ngay bây giờ là ngày
mai, khi nổi lên khởi nghĩa, ta sẽ chiếm các công sở Sài Gòn chủ yếu bằng
lực lượng cách mạng ở trong công sở đó. Vậy từ bây giờ, ta phải dồn phân
nửa sức mạnh của đảng bộ vào công tác trọng tâm này, để không bao giờ lặp
lại cái dở tai hại của tháng 11 năm 1940, là nhiều nơi ở nông thôn nổi lên mà
Sài Gòn thì lại yên tĩnh.
- Phải thu hút đông đảo nông dân cho bằng và nhiều hơn hồi 1930-
1931, 1937-1938, đặc biệt là, ở mỗi tỉnh, ta phải tập trung nhiều cán bộ giỏi
hoạt động tổ chức tuyên truyền ở các quận huyện gần châu thành của tỉnh ấy
là chính chớ không phải dàn đều; cũng ra sức hoạt động tổ chức tuyên truyền
83
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
ở dọc theo các đường giao thông huyết mạch. Trong toàn bộ Nam Kỳ thì
nông vận phải chú trọng riêng các tỉnh xung quanh Sài Gòn, làm sống lại và
mạnh hơn lên cái “vành đai đỏ” từng nổi tiếng để có ngày tiếp ứng mãnh
liệt cho lực lượng khởi nghĩa của thành phố.
- Phải phát huy truyền thống binh vận và nắm cho kỳ được số lính khố
xanh ở Sài Gòn, Chợ Lớn và mỗi tỉnh. Từ ngày Pháp đầu hàng Đức và dạ dạ
vâng vâng trước Nhật thì công tác binh vận có nhiều cơ hội thành công hơn
trước. Lênin đã làm khởi nghĩa ở Petrograd với nhiều đơn vị lục quân và hải
quân của chính quyền tư bản. Năm 1940, các báo cáo về kết quả binh vận là
không đúng thực tế. Chúng tôi biết rõ tầm quan trọng của binh vận, nhưng
khác xa với Quốc dân đảng, chúng tôi cho rằng chỉ khi nào chúng ta tập hợp
được một lực lượng công nông thật lớn thì binh lính mới mạnh dạn đứng về
phe cách mạng.
–Phải đặc biệt chú trọng tập hợp lực lượng thanh niên ở thành thị và
nông thôn, không phân biệt là thanh niên thuộc thành phần giai cấp nào. Nếu
ví Đảng là một con người thì công nhân và thanh niên là tay mặt tay trái của
con người đó. Cả Pháp lẫn Nhật, mấy năm nay đã chú trọng chinh phục
thanh niên. Ta phải cản trở, đánh bại những cố gắng ấy của chúng. Mấy năm
nay, cũng thấy nảy nở ra ở Sài Gòn và nhiều tỉnh một phong trào sinh viên,
học sinh chưa xác định rõ được tính chất chính trị, mà điều chắc chắn nhất là
Đảng ta không được để cho tụi tay chân của Pháp, của Nhật lôi kéo thanh
niên; ta phải quyết tâm giành thanh niên với chúng. Nhiệm vụ này chỉ có thể
hoàn thành tốt nếu Đảng ta tạo được một sức mạnh lớn công nông liên minh
có khả năng “lôi kéo” các giai cấp trung gian và nếu Đảng ta có một số cán
bộ đại trí thức có tiếng tăm và nhân cách. Chỗ này lâu nay là một nhược
điểm lớn của Đảng, ta cần phải khắc phục nhanh chóng. Công tác này rất
khó mà không thể xem nhẹ.
–Đặc điểm chính trị xã hội Nam Kỳ là có nhiều chánh đảng và giáo
phái lớn; có cả chánh đảng hoạt động dưới hình thức tôn giáo. Phải điều tra
kỹ tình hình đảng phái và giáo phái ở Nam kỳ, xem xét khả năng “làm
đoàn”trong một số phái có đông quần chúng, phân hoá họ và cảnh tỉnh
những cánh nào có thể cảnh tỉnh, đoàn kết với họ. Công tác này khó khăn và
tế nhị, cần giao cho một số ít cán bộ có năng lực, có tư cách. Khi cần, ta có
thể bàn đến khả năng một số ít đồng chí có năng lực, có tư cách đứng ra trợ
lực, hướng dẫn cho những người yêu nước nào đó thành lập chính đảng cách
mạng quốc gia, dân chủ, góp phần đấu tranh giải phóng dân tộc.
Vào năm 1943 trở đi, sau khi chiến dịch đại thắng của Hồng quân Liên
Xô tại Stalingrad thì các đồng chí cộng sản nằm yên hay ẩn núp từ 1940, nay
84
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
bắt đầu được vực lên về mặt tinh thần; số anh chị em đó còn nhiều; có thể và
cần phải đưa họ trở lại hoạt động cách mạng với Xứ uỷ, đó là điều kiện quan
trọng để thực hiện nhiệm vụ “tập hợp lực lượng”. Tập hợp lực lượng nhân
dân tất nhiên phải bắt đầu và đi song song với tập hợp lực lượng các chiến sĩ
cộng sản bị tan tác sau cuộc khởi nghĩa thất bại 1940.
Hồi cuối năm 1943 đó, khi vạch ra cho mình một đường lối cách mạng
thì tôi và các bạn của tôi chưa đặt ra và bàn luận vấn đề lập “Mặt trận dân
tộc thống nhất phản đế” mà Hội nghị Trung ương 1939 ở Bà Điểm đã đặt ra.
Tôi chưa biết có nghị quyết lập Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh)
của hội nghị Trung ương lần thứ VIII, năm 1941, ở Cao Bằng. Cho nên
chúng tôi tổ chức Đảng và hội, để tập hợp lực lượng, y như hồi Đảng Cộng
sản mới ra đời; cũng công hội, nông hội như trước chớ không phải “công
nhân cứu quốc”, “nông dân cứu quốc” v.v… (sau tôi sẽ có dịp trở lại vấn đề
này). Còn về việc lập “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế” thì Nghị quyết
VI không nói rõ sẽ tổ chức ra sao? Gồm những ai? hoạt động cách nào? Tôi
nói với các đồng chí trong cuộc họp để bàn về đường lối cách mạng và
những nhiệm vụ cần kíp rằng, khi nào năm, sáu nhiệm vụ lớn (đã kể trên)
được thực hiện có kết quả thì khi ấy mới có điều kiện để lập Mặt trận dân
tộc thống nhất phản đế ở Nam Kỳ; chớ bây giờ thì chưa có thể lập Mặt trận
dân tộc thống nhất phản đế được; nếu bây giờ lập mặt trận thì mới chỉ có
hình thức, chớ chưa có thực tế bởi lẽ ta chỉ có Đảng ta và các tổ chức công
nông thanh phụ còn yếu ớt của chúng ta, cái đó chưa phải là mặt trận. Mặt
trận theo đúng ý nghĩa của nó phải là một liên minh chiến đấu theo một
chương trình hành động chung giữa các chính đảng, các đoàn thể, các giai
cấp, các sắc tộc, các tôn giáo, các thân sĩ tiêu biểu. Nay (1943, 1944) ta chưa
có điều kiện để lập mặt trận; riêng Đảng Cộng sản và công hội, nông hội
chưa thành mặt trận; liên minh công nông là cơ sở của mặt trận dân tộc
thống nhất nhưng chưa trở thành tổ chức mặt trận rộng lớn mà ta hướng tới.
4. Vấn đề tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
Viết đến đây tôi muốn để ít thời giờ để kiểm điểm và tự kiểm điểm về
vấn đề: Tại sao Nam Bộ không sớm tổ chức Việt Minh? Tại sao? Thời điểm
đó tôi chưa nghe hai chữ Việt Minh. Tới tháng 7 năm 1945, tôi mới có
chương trình điều lệ Việt Minh trong tay, thì làm sao hồi 1943, 1944 có chủ
trương theo đường lối của hội nghị Trung ương VIII được? Mà ví phỏng
trước hay trong các cuộc hội nghị đại biểu ở Phú Lạc, Chợ Gạo tôi đã nắm
được chương trình điều lệ Việt Minh mà chưa được giải thích thật kỹ, chắc
85
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
gì tôi không “thắc mắc” về một số điểm trong đó có việc biến đổi các công
hội, nông hội thành “hội công nhân cứu quốc”. Tuy vậy tôi sẽ tán thành tổ
chức “Hội thanh niên cứu quốc”, “Hội văn nghệ cứu quốc”, “Hội phụ nữ
cứu quốc”. Còn những tổ chức mang tính chất giai cấp của công nhân, nông
dân (công hội, nông hội) thì bản chất của nó vốn đã đậm đà chất cứu quốc
rồi, bản chất và nhiệm vụ của nó còn cao hơn là cứu quốc, nên tôi nghĩ rằng
việc gì phải lấy một cái tên khác tiêu biểu chỉ cho cách mạng phản đế? Mặt
trận Việt Minh mà chúng tôi sẽ tổ chức ở Nam Kỳ vào giữa năm 1945, sẽ
bao gồm: Đảng Cộng sản, Tổng Công đoàn, Thanh niên Tiền phong, đảng
Tân Dân chủ, Cánh tả đảng Quốc gia (Cư sĩ tịnh độ), Cao Đài cứu quốc, hội
binh sĩ yêu nước… không giống như điều lệ Việt Minh chính thức, cho nên
khi đó, một số anh em mỉa mai gọi chúng tôi là “Việt Minh mới”, gọi chúng
tôi là “Việt Minh mới” là không đúng lắm, nhưng cũng không phải là không
duyên cớ! Sau này tôi còn nghe nói “Việt Minh thiệt, Việt Minh giả” nữa!
Phiền phức quá! Mà tránh sao được khi đồng chí ở mỗi nơi đều ra sức tự
động thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển, chớ không ngồi chờ.
Tôi nhớ rằng khi ấy các đồng chí ở Nam không mấy ai quan tâm thực
hiện vấn đề Mặt trận. Trái lại thì anh em quan tâm đến vấn đề khởi nghĩa
giành chính quyền. Khi ấy, sở dĩ, trong lúc Xứ uỷ Đảng mới khôi phục, anh
em ai nấy đều quan tâm đến vấn đề khởi nghĩa, hẳn là vì ai nấy đều không
thể quên cuộc khởi nghĩa thất bại năm 1940, dưới thời kỳ của Xứ uỷ do
đồng chí Tạ Uyên lãnh đạo. Phải tránh vết xe đổ, nhiều đồng chí nói. Đòn
đau 1940 hãy còn thấm thía lắm; nhưng hội nghị vẫn khẳng định với Trung
ương VI (1939) và luận cương chính trị (1930) rằng không thể nào giành
được độc lập mà không trải qua cuộc vũ trang khởi nghĩa (lúc bấy giờ cũng
được gọi là “bạo động”). Khởi nghĩa, bạo động là thuộc vào đường lối cách
mạng, là bộ phận quan trọng bậc nhất của một đường lối cách mạng.
Cuối năm 1943, chúng tôi ở Nam Kỳ quan niệm như thế nào về khởi
nghĩa, về “bạo động” cách mạng? Tôi đã nhiều lần ra sức thử tổng kết kinh
nghiệm của cuộc khởi nghĩa 1940, rút những bài học lớn. Nay cuối năm
1943, ở các cuộc hội nghị Chợ Gạo, Phú Lạc, để “hoàn chỉnh” về cơ bản
một đường lối cách mạng, ít nhất là tạm thời trong lúc chưa nối được liên lạc
với Trung ương –tôi đã trình bày những ý kiến chủ đạo sau:
Thứ nhất là: ý kiến của Nghị quyết VI. Nghị quyết VI nói:
Muốn đi tới đánh đổ đế quốc, phải huy động dân chúng chống đế quốc
chiến tranh, và kêu gọi lòng ái quốc chân chính, phát huy những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc; phải biết gắn kết với những quyền lợi thiết
thực của các tầng lớp nhân dân với quyền lợi dân tộc và kêu gọi thống
86
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
nhất dân tộc. Cái tinh thần ái quốc và đòi thống
nhất dân tộc. Cái tinh thần ái quốc và đòi thống nhất dân tộc, giải
phóng dân tộc càng phát triển thì tinh thần phản đế càng mạnh mẽ. Mở
rộng và nâng cao tinh thần dân tộc, làm cho mỗi người trong các giai
cấp có ý thức về sự tồn vong của dân tộc và sự mật thiết của vận mệnh
dân tộc với lợi ích cá nhân mình; đặt quyền lợi dân tộc lên trên tất cả
các quyền lợi khác; thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để
đánh đổ đế quốc Pháp…
“Xoay tất cả phong trào đấu tranh lẻ tẻ vào cuộc đấu tranh chung,
phản đối đế quốc chiến tranh, chống đế quốc Pháp và bè lũ, dự bị điều
kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc”.
Như vậy nghĩa là giương cao ngọn cờ dân tộc, đi tới khởi nghĩa vũ
trang. Hoàn toàn không vì khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại mà chọn con đường
nào khác; không có con đường nào khác để giành độc lập dân tộc ngoài con
đường dẫn đến khởi nghĩa, “bạo động” cách mạng. Mọi sự tập hợp lực lượng
đều nhằm vào một trận thư hùng, một cuộc khởi nghĩa vũ trang quyết thắng,
không có quyền bại.
Trong cuộc chiến tranh thế giới ngày nay, đế quốc Pháp ở Đông Dương
rồi sẽ bị đế quốc Nhật lật đổ. Cuộc hợp tác ma quỷ Nhật-Pháp sẽ chấm dứt
không sớm thì chầy. Rồi sau đó, phát xít Nhật hùng cường sẽ bị quân Mỹ,
Anh, Trung Quốc đánh bại, việc nhất định phải đến, sẽ đến, chỉ có sớm hay
muộn thôi. Chúng ta tin chắc rằng không phải là Nhật đánh đổ Pháp thì tự
nhiên đem lại độc lập cho dân tộc ta và cho các dân tộc Đông Dương, cái
độc lập đó cho dù có tuyên bố cũng quyết không phải là độc lập thực sự mà
chỉ là hình thức thôi, giả mạo thôi; chúng ta không hề muốn cái thứ độc lập
ấy. Chúng ta cũng chắc chắn rằng dù đồng minh Mỹ, Anh, Trung Quốc
thắng Nhật cũng không trả lại độc lập cho dân tộc Việt Nam đâu, mà sẽ trả
lại chủ quyền cho Pháp, hay nhiều nhất là họ đặt chế độ “uỷ trị” và giao lại
cho Mỹ và một đế quốc nào khác. Ta phải nhận thức rõ rằng không đời nào
có “bất chiến tự nhiên thành”, không có độc lập do ai ban cho mình; chỉ có
độc lập do bản thân ta chinh phục mới thực sự là độc lập. Độc lập thật sự chỉ
có thể giành được bằng khởi nghĩa vũ trang, bằng bạo động cách mạng. Một
đường lối cách mạng phải khẳng định điều này, hoàn toàn trái với lời hứa
hẹn của Nhật với các chính đảng và giáo phái theo chủ nghĩa Đại Đông Á.
Cũng khác hẳn với kế hoạch “Liên bang Đông Dương”lừa bịp của Decoux.
Còn như hỏi: chừng nào mới khởi nghĩa, thì ta trả lời rằng: khi các điều
kiện khách quan đã đủ, đã chín (hồi 1943, 1944 chưa ai dùng chữ “chín
muồi”) và khi tập hợp đủ lực lượng. Còn như lực lượng tập hợp chưa đủ,
điều kiện khách quan chưa chín, mà cứ phát động khởi nghĩa, là manh động,
87
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
là khởi nghĩa non, mà non thì thua. Khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11 năm 1940,
là khởi nghĩa non, nên thất bại thấy trước.
Hôm đó, một lần nữa, tôi nêu ra cái sai lầm lớn của các đồng chí lãnh
đạo khởi nghĩa Nam Kỳ. Tất nhiên tôi không trách Thường vụ Trung ương
đã bị bắt gần một năm trước mà trách hai đồng chí ủy viên Trung ương còn
sót (là anh Tần và anh Lưu) sao không kiên quyết ngăn cản Tạ Uyên và Xứ
uỷ trên con đường bạo động non dẫn đến thất bại kia. Cuối 1940 đã không
có thời cơ đủ chín cho khởi nghĩa, lại chưa có lực lượng đủ mạnh cho bạo
động, mà cứ bạo động, khởi nghĩa là làm liều, nổi lên thì rất anh dũng mà
thất bại thì rất lớn, không đáng có. Lần tới, ta phải làm khởi nghĩa theo khoa
học và nghệ thuật Lênin, theo mẫu mực cách mạng tháng Mười Nga. Nói
cho rõ hơn, tôi và các đồng chí của tôi không ưng ý với chủ trương khởi
nghĩa bằng lực lượng du kích, bằng khởi nghĩa địa phương, bằng chiến lược
“nông thôn bao vây thành thị”. Tôi thấy hồi 1940 Xứ uỷ Nam Kỳ chịu ảnh
hưởng của Mao Trạch Đông, việc phát hành quyển “chiến tranh du kích”
vào giữa năm 1940 nói rõ điều ấy. Bằng du kích làm sao mà giành chính
quyền được? Phải làm khởi nghĩa cách mạng, một cuộc quyết chiến bằng
bạo lực chính trị và bạo lực vũ trang kết hợp nổ ra trên đỉnh cao nhất của
một phong trào quần chúng, mà địch dù thấy trước cũng không làm sao ngăn
cản nổi, không làm sao trở tay kịp. Chúng tôi lại đinh ninh rằng một cuộc
khởi nghĩa muốn thành công, phải là một cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc,
không phải là một cuộc khởi nghĩa địa phương dù là một địa phương rộng
lớn và có tầm chiến lược như Nam Kỳ. Có thể đoán trước rằng cuộc tổng
khởi nghĩa sẽ nổ ra vào khoảng tàn cuộc của chiến tranh thế giới lần thứ hai,
vào năm tháng nào khó mà đoán trước, song từ nay tới đo ta phải nỗ lực.
–Tập hợp lực lượng lớn nhất có thể được.
–Nối hệ thống tổ chức giữa Xứ uỷ với Trung ương và toàn Đảng.
Đại để, chúng tôi, Xứ uỷ Nam kỳ, vào cuối năm 1943, đã tự vạch ra
một đường lối cách mạng như thế. Ngoài chúng tôi ra, lúc ấy ở Nam Kỳ
không thấy có ai khác, không biết có nhóm nào khác vạch ra một đường lối
cách mạng.
Ban Tuyên huấn của Xứ uỷ Nam Kỳ lập ngay kế hoạch phát hành một
số sách “bỏ túi” (theo kiểu “cộng sản tùng thư”hồi 1933, 1934) để phổ biến
những vấn đề thuộc đường lối mà Xứ uỷ đã vạch. Những quyển sách “bỏ
túi”đầu tiên là quyển “Việt Nam trên đường độc lập”, “Rạng đông của một
88
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
dân tộc” của Xuyên Vân Nhạn (tức là tôi) mà sau đó bị Trường Chinh52 phê
phán. Bộ sách bỏ túi này chú trọng công kích chủ nghĩa Đại Đông Á của
Nhật và chủ nghĩa Liên bang của Decoux.
Từ cuối 1943, ở Nam Kỳ chúng tôi đã lập lại Xứ uỷ và Xứ uỷ ấy tự
trang bị cho mình một đường lối chủ trương vận động cách mạng trong khi
chờ đợi những chỉ thị của Trung ương Đảng. Những chỉ thị của Thường vụ
Xứ uỷ cho Ban cán sự Sài Gòn trở thành một bộ phận cấu thành chủ trương
đường lối của đảng bộ Nam kỳ.
Tôi trở lại Sài Gòn và từ nay tôi để gần hết tâm lực, trí lực vào hoạt
động ở Sài Gòn và các tỉnh xung quanh Sài Gòn. Trên đường về lại Sài Gòn,
tôi ghé thăm mẹ. Nhà tôi cách Tân Thuận Bình Chợ Gạo khoảng mười cây
số. Từ năm 1941, tôi đã qua lại Chợ Gạo đến ba lần mà đều “tam quá kỳ lư
bất nhập”53.
5. Về nhà thăm mẹ
Chuyện lớn phải lo mà chuyện nhỏ đừng quên. Việc công là trọng, mà
việc tư thỉnh thoảng cũng phải nhớ. Tôi hay nghĩ lẩn thẩn như vậy, khi ở
chân trời góc biển, tôi luôn luôn nhớ đến mẹ, đến vợ, đến làng quê; nhớ lắm.
Từ lâu, 1930, tôi được liệt vào loại cán bộ mà thời ấy được người ta gọi
là “thoát ly gia đình”. Khái niệm “cán bộ thoát ly gia đình”ở Việt Nam
trước cách mạng cũng giống như khái niệm “cán bộ cách mạng chuyên
nghiệp” (révolutionnaire professionnel) Lênin đã dùng khi Người viết sách
“Làm gì?”. Lênin cho rằng, để xây dựng một đảng cách mạng nhất là trong
điều kiện khủng bố trắng, phải có một loại đồng chí làm “cách mạng chuyên
nghiệp” nghĩa là không làm nghề gì khác hơn là làm cách mạng, số đồng chí
đó để hết thời giờ của mình vào hoạt động cách mạng. Bên Việt Nam những
năm 1920, 1930 (cả hồi đầu những năm 1940 nữa) bọn tôi lấy cái ý mà
không lấy cái từ của sách “Làm gì?”; nhưng trong phiên toà thực dân Pháp
xử tôi năm 1935, khi quan toà hỏi: “Ông làm nghề gì?”thì tôi trả lời: “Làm
cách mạng chuyên nghiệp”. Chớ không lẽ trả lời: “Tôi thoát ly gia đình”?
“Thoát ly gia đình”để làm gì? Có thể là để làm cách mạng, có thể để làm
52 Chúng tôi chưa tìm ra được những tập sách bỏ túi này cũng như những lời phê phán
của Trường Chinh. Rất mong được bạn đọc giúp đỡ.
53 Tam quá kỳ lư bất nhập: ba lần đi qua ngôi nhà nhỏ đó mà không ghé vào. Người biên
tập xin cảm ơn nhà Hán học Nguyễn Xuân Diện đã cho biết đây là tích Đại Vũ bận trị
thủy, việc gấp, nên ba lần đi qua nhà mà không có thời giờ tạt qua.
89
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
bất cứ cái gì mà trong gia đình mình làm không được, không nhất thiết phải
là làm cách mạng. Tuy vậy, tôi vẫn thích thú với khái niệm “thoát ly gia
đình”mà anh em ta dùng thời đó, bởi vì khái niệm ấy, trong lịch sử xuất
hiện của nó, đã có thời bao hàm một ý nghĩa triết lý, chính trị. Mãi đến sau
chiến tranh thế giới thứ nhất, ở Việt Nam còn nhiều gia đình mang nặng tư
tưởng, tình cảm, tập tục Nho giáo phong kiến; chẳng những phần lớn là các
gia đình thân sĩ theo đạo Khổng, Mạnh, Trình, Chu đều theo lối xưa như thế,
mà ngay cả một số gia đình trung nông, viên chức, thương nhân cũng vậy.
Tuổi trẻ thường bị ràng buộc nhiều lắm bởi cương thường Nho giáo đã thâm
căn từ mấy chục đời rồi. Nhưng tuổi trẻ, nhất là tuổi trẻ có ít nhiều Tây học,
thấy rằng mình cần bay nhảy tự do. Thanh niên Sài Gòn đã vỗ tay hoan
nghênh Nguyễn An Ninh khi anh Ninh (tại một cuộc mít tinh ở Nam Kỳ
Khuyến hội học năm 1923) kêu gọi thanh niên hãy đi xa, đi thật xa nhà tổ
phụ để tìm lý tưởng mới, đừng lẩn quẩn lại xó bếp gia đình chật hẹp và lạc
hậu. Đó là cái lý vào những năm cuối 1920, người ta gọi là “thoát ly gia
đình”, ý đó có nghĩa là chống lại tàn dư tư tưởng tập quán phong kiến, đi tìm
chân trời mới. Nhưng ngay cả khi anh Ninh khi ấy cũng chưa chắc đã rõ lắm
cái “chân trời mới” đó là gì. Đến khi Nguyễn Ái Quốc lập Thanh niên cách
mạng đồng chí hội vào năm 1925 và Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) thì cái
lý tưởng cách mạng đã rõ. Khái niệm “thoát ly gia đình”ra đời với nội dung
mà Lênin đề ra trong sách “Làm gì?”: Đảng cách mạng chẳng những gồm
đại đa số đồng chí là những người lao động tay chân và trí óc, vừa làm ăn
bình thường, cầm búa, cầm cày, cầm bút, vừa để một phần thời giờ cho công
tác tuyên truyền, tổ chức, hội họp, đấu tranh; Đảng Cách mạng còn phải có
một số đồng chí dành hết quỹ thời gian của mình cho hoạt động cách mạng,
các đồng chí ấy thường nhất là không ở tại nhà mình nữa, mà đi xa, nhiều
khi đi rất xa, từ Bắc vào Nam, từ nông thôn ra thành thị, từ phố phường hay
trường học, vào đồn điền, hầm mỏ, để tuyên truyền, tổ chức, đấu tranh, in
phát báo bí mật, làm bất cứ việc gì dù lớn dù nhỏ, dù an dù nguy, mà Đảng
cách mạng cần. Đó là những anh chị em “thoát ly gia đình”, làm “cách
mạng chuyên nghiệp”. Loại cán bộ này trong Đảng Cộng sản đông tới hàng
trăm. Tôi là một trong số đó.
Từ cuối năm 1930, tôi đã bắt đầu “thoát ly gia đình”, và trở thành
người hoạt động “cách mạng chuyên nghiệp”.
Gia đình tôi không đến nỗi quá phong kiến lạc hậu, với tâm lý: “Cha
mẹ còn, con cái không nên đi xa”. Nhưng tôi vẫn phải thoát ly gia đình,
trước tiên bởi vì nếu không “vào bí mật” thì không hoạt động cách mạng
được, địch theo dõi sát quá và sẽ bắt giam tôi, bắt luôn cả những ai đi lại với
tôi. Thú thật, nếu Đảng Cộng sản được quy chế hợp pháp hay nửa hợp pháp,
90
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
tôi sẽ thích làm người “cách mạng chuyên nghiệp” mà không “thoát ly gia
đình”. Hết ngày công tác tuyên truyền, huấn luyện, tổ chức, hết đợt hoạt
động náo nhiệt và căng thẳng thì về nhà tìm yên tĩnh âu yếm với cha mẹ, vợ
con, chẳng hơn là đất khách quê người, ăn trong bếp, ngủ dưới đất, nghe chó
sủa đã phải đề phòng hay sao? Nhưng “thời thế thế, thế thì phải thế”. Từ
cuối 1930 đến nay (hết 1943), tôi chỉ được sum họp với gia đình trước sau
ba lần, cộng lại chừng hơn ba tháng. Cha tôi chết; con tôi chết; mẹ tôi già,
tựa cửa trông tôi. Vợ tôi hiu quạnh, nước mắt ướt gối. Tôi nhớ nhà lắm chớ!
Tim tôi đâu phải bằng đá? Vượt ngục Tà Lài từ đầu năm 1941, đến giờ hơn
hai năm, gần ba năm, tôi chưa lén được về nhà lần nào. Chị tôi, vợ tôi có bí
mật đi thăm tôi. Nhưng má tôi chỉ biết rằng tôi còn sống, mạnh giỏi, đang
hoạt động cách mạng. Nay, nhân một chuyến đi họp ở Mỹ Tho, thấy tình
hình cho phép. Tôi tạt qua nhà thăm mẹ. Tôi thèm hôn mẹ tôi và thèm được
mẹ tôi xoa đầu như hồi còn nhỏ.
Thuở tôi còn học trường Tầm Vu, nhà tôi đông người lắm; tứ đại đồng
đường: cha mẹ tôi, anh chị tôi, cháu gọi tôi bằng cậu, chú và con của con
đầu lòng anh Năm tôi, chưa kể hai anh ở mùa, cầm cày, đập lúa, chăn trâu.
Nhưng rồi dần dà, anh Năm, anh Bảy, anh Mười tôi ra riêng, mỗi người trấn
một dãy ruộng; tới phiên chị Chín tôi cất nhà ở trong vườn. Vợ tôi vì không
có chồng ở nhà nên về bên xã Phú Ngãi Trị với cha mẹ ruột, mấy tháng mới
vô thăm tía má tôi một lần, mỗi lần tía má tôi được con dâu về thăm thì hai
cụ như sống lại, ít hôm sau gạt nước mắt đưa con dâu ra cửa ngõ, trông theo
mà càng buồn. Rồi tía tôi chết. Mẹ tôi còn chỉ có một mình. May có đứa
cháu gái goá bụa về ở cùng tại nhà dưới. Nhà tôi bây giờ giống như một ngôi
chùa không tượng Phật, chỉ có hai bà vãi tối tối đốt nhang, đánh chuông. Cả
ngày cả đêm hầu như không có tiếng động nếu không có con Vện già sủa
trăng hay điểm khách qua đường ngoài cửa ngõ. Hiu quạnh lắm. Buồn bã
lắm. Bà con hàng xóm có người nói: “Tại chú Út đi đâu mất mới ra cảnh
này”. Người khác bảo: “Ruộng vườn, nhà cửa, vợ trẻ, có gì cột được chân
ông ấy đâu; làm trai phải vậy chớ sao? Nước mất mà nhà an thì cũng
hiếm”. Ruộng nhà bị bán đi lần lần, không còn mấy, trừ ruộng hương hoả;
nhưng nợ nần cũng được trang trải hết. Bồ lúa nhỏ đi mà vẫn đầy. Túi tiền
cạn mà không khổ. Má tôi, chị tôi, cháu tôi đã sống được lại còn có thể chu
cấp cho tôi sống mà công tác. Vợ tôi tần tảo, nuôi heo, chà gạo, làm tá điền
cho ông Cụ, ăn chung mà làm riêng nên dư dả, không ai dám khinh miệt,
đạo đức gương mẫu, dân làng kính nể, trong quê ngoài chợ ít ai bảo con trai
bắt chước chú Mười vì gian lao quá, nhưng rất nhiều phụ huynh dạy con gái
hãy theo gương cô Sáu, một tấm gương chung thuỷ vì nghĩa như Kiều
Nguyệt Nga.
91
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Trần Văn Giàu và gia đình thời còn trẻ
(ảnh tư liệu Trầm Hương)
Khi mặt trời sắp lặn thì tôi đã băng đồng, từ kinh Chợ Gạo đi qua chợ
Ông Văn, tránh lộ dây thép, tránh cả lộ me, không sợ lính xét giấy thuế thân,
chỉ sợ gặp người quen. Trong mình tôi có thẻ thuế thân, trong túi cũng lắm
tiền, lưng quần lận một cây súng lục đầy đạn, vai vác một cây đòn xóc có
lủng lẳng một đôi dép, đầu đội nón lá, chân đi đất, quần áo xềnh xoàng như
nông dân đi đồng. Ma nào mà biết rằng tôi là ông Giàu đi về thăm nhà? Vợ
anh Hiển, người chợ Ông Văn, báo cáo cho tôi tình hình tuần tra ban đêm
của lính đồn Ông Văn: “Chẳng có gì đáng lo, tụi lính đi kiếm ăn ở những
sòng cờ bạc. Theo báo cáo mới nhất thì từ hơn một năm nay, làng lính không
còn chú ý đến nhà tôi nữa vì đã chú ý nhiều năm mà chẳng thấy gì”.
Trời nhá nhem thì tôi đã qua khỏi chợ. Trở ngại xem như không còn.
Cầu Đồn bây giờ không có đồn. Qua cầu rồi thì tới làng tôi; nhà tôi ở đầu kia
làng, phải mất một giờ nữa mới tới. Vào thời điểm này, đồng đã khô vì lúa
đã gặt xong. Tôi đi tắt, vừa để rút ngắn quãng đường, vừa để tránh gặp
người. Thời đó, không ai ăn trộm lúa vì lúa quá rẻ, bán không được, chỉ có
Pháp thu mua để cung cấp cho quân Nhật và để thay thế cho than đá đốt lò
nhà đèn Chợ Quán Sài Gòn; tôi không gặp một ai trên đường đi. Gần tới
vuông tre nhà tôi, tôi ngồi xuống để xem động tĩnh ra sao, trước hết để nhìn
rõ mộ cha tôi; tôi mặc niệm hồi lâu. Cha tôi chết khi tôi còn bị đày ra đảo
92
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Côn Lôn. Chị Chín tôi có lần kể lại rằng trước khi tắt thở, cha tôi dốc tàn
lực, vịn cột nhà đứng dậy, lần theo vách, vừa đi vừa kêu: “Ký ơi! Ký ơi! Con
ở đâu không về với tía”. (Ký là tên tôi hồi tôi chưa đi học). Người nhà bà
con ai cũng mủi lòng, dắt cha tôi trở lại giường. Như vậy là cái hình ảnh
cuối cùng trong tâm trí cha tôi là đứa con bất hiếu này! Tôi nguyện lấy trung
với nước mà làm hiếu với cha; chớ làm sao khác được? Nhớ lại lần tôi bị
trục xuất từ Pháp về và hai lần tôi bị Pháp bắt bỏ tù về, cha tôi không hề rầy
la tôi sao không lo công danh, sao không lo vợ con. Cha tôi không tham gia
chiến đấu chống Pháp như ông nội tôi, nhưng Cụ dù có ruộng vườn cũng
không hề ra làm hương chức. Cụ chỉ làm ông “tiên bái”lo việc cúng tế
thuần làng; con trai lớn của Cụ là anh Năm tôi thì tham gia nghĩa quân Thiên
địa hội năm 1916, Cụ không ngăn cản.
Ở quê, chín giờ tối đã khuya. Xóm làng ngủ hết. Đường không còn ai.
Quan sát hồi lâu tôi không thấy động tĩnh gì, bèn vo quần bước xuống một
cái cống đào tự bao giờ, tôi lớn lên đã thấy nó rồi; cái cống xẻ ngang bờ tre,
cho nước sông lên, cho nước đồng xuống. Phải vạch ô rô để vào mương, leo
lên tiếp mới vào nhà chị tôi ở góc vườn. Tôi vừa leo lên bờ thì, bất ngờ, một
con vật gì lủi tôi: con chó; nó định sủa, nhưng rồi nó nín thinh, nó ngửi được
mùi tôi, rồi liếm tay và vẫy đuôi lia lịa, kêu hự hự, mừng quýnh. Té ra con
Vện già! Tôi rờ đầu nó, nó đứng lên ôm eo ếch tôi. Hồi tôi từ Khám Lớn về
nhà cách đây ba năm, ngày nào tôi cũng cho Vện ăn ngon, vuốt ve nó, nói
chuyện với nó. Nó mến tôi lắm. Tối, nó ngủ dưới chân tôi, tôi trải manh đệm
cho nó nằm. Có một buổi tối nọ, mật thám Tây, phủ Hoài và cả phủ Mai dắt
lính đến nhà bắt tôi thì Vện sủa dữ, bị thằng cò đá một đá, nó la hoẳng, chạy
trốn dưới sàn, nhưng nó dám đưa tôi ra tới cổng. Bây giờ nó còn nhớ hơi tôi!
Như vậy là Vện đã hay tôi về khi tôi còn lội dưới mương. Nếu nó sủa ầm lên
thì cũng sanh rầy: hàng xóm, mấy ông già chưa ngủ, sẽ đoán rằng bà Bái có
khách khuya. Con Vện dường như cũng biết giữ bí mật cho chủ nó. Khôn
thật! Chị Chín tôi còn thức. Linh tính khiến chị ngó qua vách, hỏi khẽ: “Em
đó hả?”. Tôi khẽ lên tiếng “Em đây!”.
Trong nhà chị tôi chỉ có một cây đèn dầu leo lét trên bàn thờ Phật, ngọn
chỉ bằng hột bắp, chiếu sáng lờ mờ một khoảng bằng cái cơi trầu. Chị tôi mở
cửa sau rước tôi vào nhà. Hai cháu gái mừng cậu trong bóng tối, khóc thút
thít. Con Vện liếm chân tôi một hồi rồi ra nằm ngoài sân, như để canh
chừng.
93
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Ông bà Trần Văn Giàu những năm cuối đời
(ở nhà riêng, 70 Phạm Ngọc Thạch, Sài Gòn)
Chị Chín tôi cực khổ với tôi lắm. Hồi tôi còn đi học ở trường Tầm Vu,
chị tôi phải dậy sớm nấu cơm, rang vài bát cho tôi ăn liền, còn vài ba bát nữa
thì tôi đem theo trong một cái giạ nhỏ xíu xinh xinh với mấy con tép hay
một khứa cá kho khô. Khi tôi bị tù rạc thì chị Chín tôi đi thăm. Tôi trốn ở
Nam Trung Kỳ thì chị Chín lặn lội đem tiền ra cho tôi. Chưa kể hằng đêm
chị tôi tụng kinh cầu Phật phù hộ em. Bây giờ chị kể hết việc nhà, từ khi tôi
trốn khỏi căng Tà Lài tới nay; chị nói: “đám lính rình rập mãi năm, sáu
tháng rồi thôi, em có thể ở nhà mấy bữa mà không hề gì”.
Trong lúc tôi bắc ghế trên phản với lên mái nhà cắt năm ruột lạt cột lá
dừa (đề phòng có biến sẽ đu lên nóc) thì hai cháu Ba, Tư lên nhà thờ rước bà
ngoại xuống nhà tụi nó, nói rằng có ông thầy chùa ở chợ Ông Văn sang thăm
và lạc quyên để sửa tượng Phật. Má tôi vô nhà chị tôi rồi mới hay rằng ông
thầy chùa đó là tôi. Mẹ con ôm hôn nhau, mừng mừng tủi tủi. Mẹ tôi hôn tôi
khắp mặt, cổ, tay, hôn tới đâu nước mắt cụ thấm ướt tới đó. Trong đêm tối,
tôi cảm thấy má tôi già thêm nhiều so với ba năm trước. Làm da má nhăn
sâu hơn, cái răng cửa hồi đó còn, bây giờ rụng mất rồi; lưng má tôi còng
hơn. Má tôi năm nay ngót 80 tuổi. Bà kể lại rằng hôm cò Tây tới bắt tôi, má
tôi tưởng đâu Pháp bắt tôi đem đi bắn bởi vì chiến tranh đã nổ ra rồi. Má tôi
còn kể lại rằng, sau khi tôi bị bắt, sáng sớm má tôi rải lúa cho bầy gà bầy vịt
để dành cho tôi thì má tôi khóc hết nước mắt. Má tôi cũng kể lại rằng, khi tôi
vượt ngục Tà Lài, đám quan chức trong làng báo tin tôi đã bị dân thiểu số
bắt lại, chặt đầu đem nộp cho Tây lấy thưởng bằng gạo, bằng muối. Nghe tin
sét đánh đó, mấy lần má tôi chết ngất. Mãi đến khi chị Chín tôi ra Nha Trang
gặp tôi rồi về nói cho má tôi biết thì má tôi mới tin chắc là tôi còn sống. Má
tôi cưng tôi nhất nhà, bởi vì tôi là con út, là đứa có trách nhiệm nuôi cha mẹ
94
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
lúc già và giỗ cha mẹ khi mất; nhưng bao nhiêu hy vọng của cha mẹ gởi vào
tôi đều chẳng được chút gì. Cha tôi chết khi tôi còn ở tù. Không biết rồi khi
má tôi theo cha đi, tôi sẽ có mặt ở nhà không? Hay lại cũng nơi chân trời góc
biển?
Cả má và chị Chín đều bảo tôi ở lại chơi một vài ngày, để có thời giờ
cho các cháu đi Phú Ngãi Trị rước vợ tôi về An Lục Long. Tôi cũng muốn
như vậy lắm. Song, làm sao tính cho hết sự bất ngờ? Rủi ro có bề gì thì đã
thiệt mạng mình mà mình lại đắc tội với dân tộc, với Đảng. Nên tôi quyết
định là quá canh ba tôi sẽ lên đường; mục đích về thăm mẹ đã đạt rồi. Vài
hôm nữa, tôi phải có mặt ở một địa điểm thuộc tỉnh Chợ Lớn (Phú Lạc), hay
một địa điểm thuộc Gò Vấp (Hàng Điệp, Bào Lăng, Gia Định) để họp với
Ban cán sự thành Sài Gòn mở rộng. Đứng vững trên căn cứ nơi ngoại thành
Sài Gòn, tôi sẽ có dịp nhắn vợ tôi lên, không muộn.
Gà gáy mấy chập. Trăng sắp mọc.
Tôi ôm hôn mẹ, chị, hai cháu, rồi gạt nước mắt ra đi, không quên vuốt
đầu vỗ lưng con Vện và để nó hít tay tôi, nó vừa hít vừa ngoáy đuôi lia lịa.
Tôi lại vo quần, xuống mương, ra bằng ngõ đã vào. Đứng yên trong bụi một
lúc, không thấy động tĩnh gì, tôi thong thả lên đường, chốc chốc ngoái lại
mộ cha, nhà mẹ, rặng tre thân thiết nơi đã chứng kiến tôi được sinh ra, lớn
lên và vào đời chiến sĩ. Tôi nào ngờ gặp mẹ lần này là lần cuối. Tháng Tám
năm 1945, cách mạng thành công, tôi chưa kịp thu xếp một ngày về quê
thăm mẹ, thì kháng chiến chống Pháp nổ ra; việc lớn này chưa làm lại xảy ra
việc lớn hơn. Má tôi mất năm 1950, khi tôi đang từ mặt trận Đăngrêch
(Campuchia) về ở Việt Bắc. Tôi ân hận mãi không được gặp lại mẹ tôi ban
ngày ban mặt hay dưới ánh sáng đèn điện để ghi lại trong đáy mắt chân dung
người mang nặng đẻ đau sinh ra đứa con bất hiếu này.
6. Về lại Sài Gòn:
Chỉ thị của Xứ ủy cho Ban cán sự thành
Về Sài Gòn lần này, lần cuối năm 1943, tôi đi thẳng lên Gò Vấp. Gò
Vấp là một quận ngoại ô kế cận của Sài Gòn. Trong ý thức của tôi, Gò Vấp
của Sài Gòn là Saint-Denis của Paris; sát với Paris, thị xã Saint-Denis nổi
tiếng là thị xã “đỏ”, ở đây Đảng Cộng sản luôn luôn toàn thắng trong các lần
bầu cử hội đồng thị xã. Đa số nhân dân Gò Vấp có cảm tình với Đảng Cộng
sản Đông Dương, không phải mới đây thôi mà từ 1930 kìa. Những năm
1933, 1934, 1935, khi Xứ uỷ Nam Kỳ lập lại và hoạt động, thì vùng Xóm
95
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Thuốc - Bàu Lăng - Hàng Điệp từng là căn cứ, là một nơi an toàn của Xứ uỷ
chúng tôi. Năm 1942, khi tôi từ Đà Lạt về Phú Lạc, tôi đã nhờ Bảy Trân lên
Gò Vấp, lại nhà Sáu Sáng để xem nơi đó còn là nơi an toàn không? Kỳ này
về Sài Gòn, định “cắm sào”hơi lâu, thì ngoài Phú Lạc, tôi chọn Gò Vấp làm
một nơi căn cứ, căn cứ thứ hai, căn cứ thứ ba sẽ là Chợ Đệm sau khi tôi gặp
Bảy Trân.
Xóm Thuốc, Bàu Lăng, Hàng Điệp là một vùng tiểu công nghiệp:
nhuộm vải, sắc thuốc. Đa số dân làm nghề nhuộm, sắc thuốc. Ở đây gần con
sông thường được gọi là sông “Miếu nổi” (có một cù lao trên đó dựng lên
một cái miễu không biết từ bao giờ, tiếng đồn linh thiêng lắm), dưới sông
này có một thứ bùn gì mà, hễ vải dệt xong, đem chôn dưới bùn đó một thời
gian, vải trắng trở thành vải đen, đem vải phơi ở miếng đất trống xung quanh
cái đồn Tây bỏ hoang gần đó khô rồi cuốn lại thành cây vải, đem về đập nện
mấy ngày thì vải trở nên láng lẫy. Tiếng vồ đập vải cộp cộp cả ngày đêm,
tháng này qua tháng nọ. Vùng này lại là vùng trồng thứ thuốc lá ngon nhất
Nam Kỳ, thuốc Gò Vấp, hút say mê tơi; tới mùa thì cây thuốc đầy đồng bao
nhiêu chục, có khi cả trăm mẫu, cao lút đầu người. Họp hội nghị trong đám
ruộng thuốc lá thì có trời mới phát hiện nổi và có trời mới vây bắt được. Dân
chúng ở cái vùng ngoại ô này làm nghề nhuộm, nghề sản xuất thuốc lá, rồi
cả ngàn người làm thợ, làm thầy trong thành phố, chiều năm giờ, sáu giờ thì
cỡi xe đạp về nhà để sáng sớm lại vào thành. Các tiểu chủ xe thổ mộ, những
người trồng, sắc thuốc, dệt nhuộm và công nhân lao động của vùng này đã
từng đi biểu tình vào Sài Gòn nhiều lần từ những năm 1936-1937, từng tham
gia tổng bãi công để ủng hộ Tạo54 , Ninh55, Thâu56 khi các anh này bị Thống
đốc Nam Kỳ bắt giam hồi thời Mặt trận Bình dân.
54 Tạo: Nguyễn Văn Tạo (1908-1970), Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, phụ
trách các vấn đề thuộc địa (1929), bị trục xuất về nước cùng với Tạ Thu Thâu, Trần Văn
Giàu… năm 1930 sau cuộc biểu tình ở trước phủ tổng thống Pháp, một trong những
người lãnh đạo cộng sản ở Nam Bộ, cùng Dương Bạch Mai làm báo La Lutte (do Nguyễn
An Ninh chủ trương) cùng với những người trốt-kít như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm… ,
bộ trưởng Bộ Lao động trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946-1965).
55 Ninh: Nguyễn An Ninh (1900-1943), sang Pháp học luật năm 1918, một trong nhóm
“Ngũ Long”(Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế
Truyền), hợp tác với Nguyễn Ái Quốc làm báo Le Paria, về nước năm 1922, diễn thuyết
kêu gọi thanh niên học hành đàng hoàng: “Bằng cứ theo nẻo hoạn đồ, lấy việc làm quan
là mục đích của việc học thì hỡi ơi! Sau này giòng giống sẽ yếu ớt, ắt có ngày kia rút vô
rừng mà ở! ”(hoạn đồ, làm quan, nghĩa hiện đại là vào đảng, làm cán bộ). Từ đó đến
ngày mất trong tù (14.8.1943), ông trở lại Pháp ba lần (trong những thời gian ngắn), ngồi
tù bốn lần, ra báo (La cloche fêlée, La Lutte), lập đảng (Thanh niên cao vọng). Ông là
96
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Trần Văn Giàu gặp tổng thống Pháp François Mitterrand tại TP. HCM trong chuyến đi
thăm Việt Nam của Mitterand (tháng 2, 1993). François Mitterrand thua Trần Văn Giàu
5 tuổi, thuở trẻ thuộc phe hữu (thậm chí cực hữu). Lúc Trần Văn Giàu bị giam ở Tà Lài
thì cũng là lúc Mitterand bị bắt làm tù binh ở Đức. Cả hai vượt ngục thành công. Năm
1943, khi Trần Văn Giàu làm Bí thư Xứ ủy Nam Kì, Mitterand mới bắt đầu tham gia
kháng chiến.
người Việt Nam đầu tiên dịch Khế ước xã hội của J.-J. Rousseau và Tuyên ngôn cộng sản
của Marx và Engels.
56 Thâu: Tạ Thu Thâu (1906-1945), sang Pháp năm 1927, học khoa học ở Đại học Paris,
gia nhập nhóm “Đối lập phái tả” (trốt-kít). Tháng năm 1930, tổ chức cuộc biểu tình trước
phủ tổng thống Pháp, phản đối đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Bái, bị trục xuất về nước
(cùng với Nguyễn Văn Tạo, Huỳnh Văn Phương… ). Về nước, thành lập nhóm trốt-kít
Đông Dương cộng sản (cơ quan ngôn luận là báo Vô sản), một trong ba, bốn nhóm trốtkít
ở Việt Nam (khác với các nhóm cộng sản trước năm 1930, các tổ chức trốt-kít ở Việt
Nam –cũng như trên thế giới –chưa bao giờ hợp nhất được). Tuy nhiên, được sự thôi
thúc của Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu và các đồng chí đã hợp tác với các đảng viên
cộng sản Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, ra báo La Lutte, ứng cử (và thắng cử) trong
cùng một danh sách “Sổ lao động”. Từ năm 1932 đến 1944, ông bị bắt 6 lần, kết án 6 lần
(tổng cộng các bản án là 13 năm tù, 10 năm biệt xứ). Cuối năm 1944, được phóng thích
từ Côn Đảo về, ông đi vận động thành lập đảng Xã hội Thợ thuyền từ nam ra bắc (theo
Hồ Hữu Tường kể với D. Marr, Tạ Thu Thâu ra bắc cùng với Komatsu Kiyoshi, một
nhân vật khó định vị). Nhật đầu hàng, triển vọng tổ chức ở Bắc Bộ không mấy sáng sủa,
ông lên đường về nam, tháng 9-1945 ông bị bắt ở Quảng Ngãi và bị thủ tiêu tại đây.
Quảng Ngãi là nơi nhiều người hoạt động chính trị đi qua đã bị bắt, có người bị giết, có
người thoát chết, đủ mọi xu hướng: Lê Văn Hiến (cộng sản), Ngô Đình Diệm, Hồ Tá
Khanh… Ai, cấp nào đã ra lệnh thủ tiêu Tạ Thu Thâu? Câu hỏi này chưa được trả lời dứt
khoát. Một số người trốt-kít quy trách nhiệm vào Hồ Chí Minh (viện dẫn ba bức thư năm
1939 của Nguyễn Ái Quốc lên án chủ nghĩa trốt-kít) hay Trần Văn Giàu (mà người ta cho
rằng có trách nhiệm trong việc thủ tiêu các lãnh tụ trốt-kít ở Nam Bộ năm 1946). Các nhà
sử học có uy tín như D. Hémery, D. Marr đều cho rằng đây là trách nhiệm của một nhóm
Việt Minh ở địa phương.
97
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Trong số hàng trăm gia đình cảm tình cách mạng, tôi tin cậy nhất là gia
đình anh Sáu Sáng, tôi đã ở đó trong những năm 1933-1935 và luôn luôn
được an toàn. Những khi tôi bị bắt, căn cứ Xóm Thuốc, Bàu Lăng, Hàng
Điệp vẫn không hề hấn gì. Anh em nhà Sáu Sáng làm việc ở bệnh viện Đồn
Đất57 và ở tổng kho súng đạn Pyrotechnie, gần cầu Thị Nghè, Sài Gòn. Anh
Sáu Sáng, trước là học sinh trung học, thạo tiếng Pháp, người cao lòng
khòng, gầy nhom; chị Sáu thì lùn, giỏi bếp núc, đóng vai hậu cần và bảo vệ
tin cậy được. Vợ chồng Sáu Sáng gặp lại tôi, tôi trở lại thăm vợ chồng Sáu
Sáng, mừng mừng tủi tủi, chỉ có nhà văn trữ tình mới tả được nỗi lòng. Anh
chị đọc báo biết tôi là tù vượt ngục mà anh chị vẫn tiếp tôi không có vẻ sợ
sệt gì hết, chỉ sợ bà con hàng xóm nhận ra tôi, nên phải đề phòng kỹ lưỡng;
vả lại nhà Sáu Sáng cũng trồng thuốc như xưa, vườn không rộng mà nhà đủ
kín đáo; ngõ vào có một, ngõ ra thì nhiều. Được sự đồng ý của anh Sáu
Sáng, tôi triệu tập ở nhà anh một cuộc hội nghị mở rộng của ban cán sự
thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Ban cán sự lúc đó mới có ba đồng chí: anh
Oanh (cũng có tên là Bạch Đằng lớn), anh Tư Chí và anh Mười Thức, cả ba
là công nhân kỳ cựu của thành phố, mời thêm hai đồng chí nữa là Hảo,
nguyên học sinh tốt nghiệp trường Kỹ nghệ thực hành và chú thanh niên
Hoàng, cháu tôi, học sinh lớp Tú tài trường trung học Pétrus Ký. Oanh, trạc
tuổi với tôi, người Bắc Ninh, làm thợ giỏi, giao thiệp rộng, siêng công tác,
chỉ có một cái dở là thỉnh thoảng ghé tiệm “làm vài điếu”58 nhưng không
ghiền. Anh sống ở Chợ Cũ, đường Guynemer59, hồi đó có thể xem là khu
phố đóng giày; anh hoạt động đâu từ 1935, 1936, cũng đã sẵn sàng khởi
nghĩa hồi tháng 11 năm 1940 mà giờ chót không được lệnh. Thức, rể ông
hương trưởng Hoài, chồng đồng chí Mười, cũng thợ giày, cùng người Bắc,
từ chiến tranh về ở Tân Thuận Bình, tôi mời anh trở lại Sài Gòn, nơi anh
từng hoạt động những năm Mặt trận bình dân. Từ Chí, người Quảng Nam,
làm bồi bếp cho Tây ở bót mật thám Bô-Lô, Chợ Lớn, đã dám mở còng cho
Hà Huy Giáp chạy trốn, bấy lâu nay về vùng Phú Lạc mở tiệm bán cá khô
không xa nhà Bảy Trân, là người trong nhóm cộng sản Phú Lạc.
Cuộc họp Ban cán sự lần này quan trọng nhiều cho công tác Đảng ở Sài
Gòn vì một mặt Ban cán sự thành lập chưa đầy nửa năm, đã bắt đầu tập hợp
được cả chục đảng viên “nằm chờ” từ sau 1940, mặt khác, và đây mới là
điều quyết định nhất, một phương châm được vạch ra cho Thành bộ theo đó
mà hoạt động. Những chỉ thị của Thường vụ Xứ ủy cho Ban cán sự thành có
thể được xem như một bộ phận của đường lối chung của Xứ ủy (đã được
57 Tức là bệnh viện Grall, nay là bệnh viện Nhi đồng 2
58 Làm vài điếu: thuốc phiện.
59 Guynemer: nay là đường Hồ Tùng Mậu.
98
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
trình bày trên kia). Hãy nói lại rằng: nếu người phụ trách Sài Gòn là anh
Phúc thì anh ấy đã lập Thành uỷ lâm thời rồi. Tôi tổ chức hơi khác anh Phúc
một chút; tôi lập Ban cán sự để rồi sau đó xây dựng lại được một số cơ sở,
một Đại hội đại biểu sẽ bầu ra Thành ủy. Hai cách làm không chắc cách nào
hơn cách nào.
Thay mặt cho Xứ ủy, tôi truyền đạt và giải thích tỉ mỉ cho Ban cán sự
thành những điểm sau đây của một đường lối cách mạng trong thành phố,
một phương hướng hoạt động nhằm làm cho Sài Gòn và ngoại ô thật sự trở
thành một pháo đài của chủ nghĩa cộng sản.
Thứ nhất: trong tương lai, chắc là không xa mấy, Sài Gòn sẽ phải trở
thành trung tâm điểm của một phong trào đấu tranh cách mạng nổi lên khắp
Nam Kỳ lục tỉnh nhằm thực hiện thành công nhiệm vụ vinh quang nhất,
cũng là khó khăn nhất là khởi nghĩa vũ trang giành độc lập dân tộc. Có khởi
nghĩa vũ trang mới có độc lập dân tộc; không có cách nào khác giành độc
lập cho nên mọi hoạt động của chúng ta bây giờ đâu phải nhằm vào cái mục
tiêu khởi nghĩa cách mạng. Và cần phải khẳng định rằng một cuộc khởi
nghĩa ở Nam Kỳ, muốn thành công, muốn tránh khỏi thất bại đau đớn như
hồi 1940, thì nó phải là bộ phận không tách rời của một cuộc khởi nghĩa trên
toàn quốc. Khởi nghĩa địa phương, cô độc, không thể thành công dù là ở
trong một địa phương lớn như là Nam Kỳ. Một cuộc tổng khởi nghĩa, tất
nhiên là cuộc tổng khởi nghĩa trên toàn quốc, chắc không thể nổ ra cùng
ngày mà sẽ nổ ra chỗ trước chỗ sau, nhưng trước sau phải không cách nhau
bao lâu. Kinh nghiệm khởi nghĩa tháng Mười năm 1917 ở Nga do Lênin chỉ
đạo, đã cho ta biết như vậy. Xứ ta, Bắc, Trung, Nam cách bức, phương tiện
liên lạc của ta còn thô sơ thì càng không có khởi nghĩa đồng thời được. Xưa
nay, trên thế giới, ở nước nào cũng vậy, phong trào cách mạng phát triển bất
đồng. Vấn đề lớn được đặt ra trước mắt của chúng ta là, mặc dù hậu quả
những cuộc đàn áp thực dân hồi 1939, 1940, 1941 rất nghiêm trọng cho
phong trào cách mạng ở Nam Kỳ, đương nhiên Nam Kỳ không được phép
vắng mặt, cũng không được phép đến quá trễ trong một cuộc tổng khởi
nghĩa cách mạng nhất định sẽ phải nổ ra trong thời gian chiến tranh thế giới
lần thứ hai bùng nổ. Điều đáng lo nhất là, nếu hồi đầu chiến tranh (1939,
1940), Đảng bộ Nam Kỳ có đông đảo đảng viên, đông đảo quần chúng
(được Trung ương nhận xét là xứ bộ mạnh nhất nước), thì sang 1941, 1942,
cơ sở của ta còn lại hết sức thưa thớt, hệ thống của chúng ta tan vỡ, quần
chúng của chúng ta phần thì mất phương hướng, mất lòng tin, phần thì chưa
tập hợp lại được. Sắp tới, nếu tình hình chiến tranh thế giới chuyển biến mau
có lợi về phe ta (thời điểm này đã bắt đầu trông thấy rõ) thì liệu ta, ở Nam
Kỳ có kịp xây dựng lại cơ sở và hệ thống Đảng, tập hợp đủ lực lượng nhân
99
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
dân hợp lực với Trung, Bắc làm tổng khởi nghĩa cùng một lúc, hoặc gần
cùng một lúc, hay là, đến khi có điều kiện khách quan, có thời cơ lịch sử, thì
ở Nam Kỳ và ở Sài Gòn ta lại bất lực đứng nhìn thời cuộc trước những lực
lượng kình địch to lớn hơn ta nhiều? Nam Kỳ mà không khởi nghĩa kịp với
Bắc, Trung, thì tình hình đó sẽ gây ra vô cùng khó khăn cho cách mạng Việt
Nam, cách mạng Đông Dương. Ta mà không giành được chính quyền ở
Nam thì kẻ địch ngoại bang hoặc tay sai bản xứ của đế quốc sẽ giành lấy và
các đế quốc sẽ dựa vào Nam Kỳ chưa làm nổi cách mạng để mà chống phá
cách mạng thành công ở Bắc, Trung tựa như một trăm năm trước Pháp căn
cứ vào Nam Kỳ lục tỉnh để đánh lấy Bắc Kỳ. Bởi vậy cho nên chúng ta ở
Nam Kỳ phải nỗ lực “chạy đua với thời gian”, khẩn trương, không để mất
thời giờ, cũng hết sức thận trọng không để tổn thất lớn về lực lượng nòng cốt
–cán bộ đảng viên nay còn lại không bao nhiêu. Vấn đề lớn được đặt ra là
mấy năm nay, ở Nam Kỳ, chúng ta không được biết là Trung ương Đảng
còn hay không (sau khi Thường vụ bị bắt đầu 1940 ở Sài Gòn), nếu còn thì
đã có những nghị quyết, chỉ thị gì? Chúng ta cho tới bây giờ chưa có liên lạc
được với Đảng bộ Bắc, Trung. Đọc nghị quyết Trung ương cuối 1939, thấy
ghi rằng Đảng phải “tìm cách khôi phục hệ thống Trung, Nam, Bắc”; như
vậy có nghĩa là hệ thống Trung, Nam, Bắc của Đảng ngay từ chiến tranh thế
giới bắt đầu đã bị trục trặc, đứt đoạn như thế nào đó chớ không đợi đến sau
khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại. Cho nên để đảm bảo cho tổng khởi nghĩa sắp
tới mang tính chất toàn quốc, chúng ta phải “tìm cách khôi phục hệ thống
Trung, Nam, Bắc”.
Thứ hai: Trong tương lai, một cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ phải lấy
thành phố Sài Gòn làm nơi quyết định sự thành bại. Chúng ta hoàn toàn
không xem nhẹ nông thôn; ở đảng bộ Nam Kỳ từ những năm 1930, đã có
truyền thống nông vận mạnh, truyền thống tổ chức và lãnh đạo nông dân đấu
tranh. Nay ta tiếp tục truyền thống đó. Nhưng ngày nay là lúc vấn đề chuẩn
bị tổng khởi nghĩa cách mạng đã được đặt ra thì chúng ta cần có ý thức rất rõ
rằng đầu não của địch, yết hầu của địch tại Nam Kỳ đều tập trung ở Sài Gòn.
Muốn đánh địch cho chết tươi, chết không kịp ngáp, thì phải đánh mạnh nhất
vào đầu não, vào yết hầu của chúng. Ví như ta lấy được năm, mười quận, ba,
bốn tỉnh mà chưa làm chủ được Sài Gòn thì cách mạng ở Nam Kỳ chưa thể
xem là thắng lợi. Đốn cành mà chưa chặt bứt gốc thì cây chưa đổ. Gốc còn
thì cành lá sẽ mọc lại. Chúng ta tin rằng cuộc “chạy đua với thời gian”ở
Nam Kỳ sẽ kết thúc thắng lợi cho ta mặc dầu rằng nơi đây năm 1940, chúng
ta đã bị địch giáng cho những đòn tối tăm mày mặt. Nhưng trong Sài Gòn
hồi 1940 không có khởi nghĩa nên tổn thất của ta tương đối ít vì lực lượng
không phải đã bộc lộ hết, cán bộ còn khá nhiều các hội ái hữu (làm nhiệm vụ
100
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
công đoàn) cũng còn khá nhiều, có thể móc nối lại và dựa vào đó mà phát
triển mau. Nội thành Sài Gòn, nhân dân, không chỉ nhân dân lao động, có
truyền thống đấu tranh mạnh nhất Đông Dương, không có thành phố nào
hơn, không có thành phố nào bằng. Và, đặc biệt là chung quanh Sài Gòn, ta
có một “vành đai đỏ”nổi tiếng mà sức chiến đấu phối hợp với nội thành đã
từng được chứng minh nhất là ở những năm 1936-1937, hay trở về trước, ở
những năm 1930-1931. Ta sẽ “nắm sừng con trâu để vật ngã nó”; ta phải
đánh quỵ địch ngay tại chỗ nó mạnh nhất là Sài Gòn. Giành được chính
quyền ở Sài Gòn là tạo điều kiện thuận lợi để mau chóng giành chính quyền
ở các tỉnh, các quận, dễ như trở bàn tay. Bởi vậy cho nên các tỉnh đảng bộ sẽ
có lợi mà đóng góp cho Sài Gòn những cán bộ biết công tác thành thị. Xứ ủy
Nam Kỳ sẽ tập trung nhiều trí tuệ, nhiều lực lượng về Sài Gòn, các tỉnh lân
cận và ngoại ô thành phố, nhằm có ngày phải đánh một đòn quyết định, một
đòn chí tử vào đầu não, vào yết hầu của địch. Khởi nghĩa sắp tới sẽ được
thực hiện khác hẳn với hồi tháng 11 năm 1940.
Thứ ba: Một cuộc khởi nghĩa cách mạng muốn được thành công thì
không thể làm theo kiểu Blanqui60 ở Pháp, hoặc theo kiểu Thiên Địa Hội ở
Nam Kỳ những năm 1911, 1916, hoặc theo kiểu Việt Nam Quốc dân đảng ở
Bắc Kỳ năm 1930, chỉ tập trung ra trận một số chiến sĩ kiên quyết mà đồng
thời chưa có phong trào đấu tranh của nhân dân lên cao đến tột đỉnh. Một
cuộc khởi nghĩa cách mạng không thể là một cuộc “âm mưu”; đảng cách
mạng, đảng mác-xít, đảng cộng sản tuy là đảng bí mật “bất hợp pháp”
nhưng không phải là một “hội kín”. Ta sẽ làm cuộc khởi nghĩa theo những
chỉ thị của chủ nghĩa Marx và Lenin; theo Marx và Lenin thì khởi nghĩa là
một khoa học, một nghệ thuật, ta phải nắm chắc. Các đồng chí lãnh đạo Xứ
uỷ và Thành bộ phải thuộc lòng những lời dạy của Lênin về khởi nghĩa, chớ
không phải của ai khác, thì mới tránh được những sai lầm tai hại của xứ ủy
năm 1940.
Cụ thể trước mắt, chúng ta ở Sài Gòn phải nỗ lực đến mức cao nhất làm
cho được năm công tác lớn sau đây:
Một là: Xây dựng lại cơ sở và hệ thống Thành bộ Sài Gòn của Đảng
cho hoàn chỉnh, cho vững chắc, nhanh chóng, đủ số lượng tối thiểu cho việc
thực hiện quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cái thành phố lớn
nhất Đông Dương (với số dân non già 800.000 người) và trong đó có nhiều
60 Auguste Blanqui, nhà cách mạng Pháp (thế kỉ XIX), chủ trương cách mạng là bạo động
của một nhóm nhỏ, rồi quần chúng sẽ “tự động” hưởng ứng.
101
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
đảng phái chính trị và nhiều tổ chức tôn giáo có lực lượng lớn và ảnh hưởng
sâu. Vực dậy các đồng chí ẩn náu, đưa thêm đồng chí ở các tỉnh lên.
Hai là: Mạnh dạn thâm nhập vào đội ngũ công nhân, đi vào xí nghiệp,
thu phục đa số giai cấp công nhân, khắc phục cho kỳ được cái nhược điểm
lớn từ trước tới nay của ta là mạnh ở công nhân lao động lẻ tẻ, ở khu phố và
xí nghiệp nhỏ mà yếu ở công nhân lao động tập trung, ở các công sở và tư
sở. Nói đi vào công nhân lao động cũng là nói đi vào tầng lớp công chức và
tư chức (tầng lớp các “thầy”). Ở Sài Gòn lâu nay hai chữ thầy thợ, đi liền
nhau. Xem trọng thợ mà không được xem nhẹ thầy. “Biến các công sở và tư
sở thành pháo đài của chủ nghĩa cộng sản”điều này ta nói mãi mà từ khi
lập đảng tới nay, ít nhất là ở Sài Gòn ta chưa làm được; bây giờ, để đi đến
tổng khởi nghĩa thì điều chủ yếu là phải khởi nghĩa thành công ở Sài Gòn
trước hết; Sài Gòn khởi nghĩa phải thành công thì khởi nghĩa mới thành
công ở khắp Nam Kỳ. Muốn được như vậy phải tổ chức công đoàn và nhiều
hội biến tướng như hồi thời kỳ Mặt trận dân chủ; ta phải chú trọng đặc biệt
vào việc cấp tốc đào tạo cán bộ công đoàn, có như vậy mới đáp ứng được
yêu cầu nhảy vọt một khi tình thế cách mạng xảy ra. Tình thế cách mạng sẽ
xảy ra, nếu ta không có đủ cán bộ thì không lãnh đạo nổi quần chúng, quần
chúng không được lãnh đạo thì đã không thành sức mạnh thật sự mà lại còn
có thể bị đảng này, phái nọ lôi kéo đi vào hướng sai lệch nguy hiểm. Hãy
nhớ rằng một thời, phái La Lutte trốt-kít có ảnh hưởng trong một số không
nhỏ công nhân viên chức Sài Gòn. Ta phải làm thế nào để cho đa số, cho tất
cả công nhân viên chức nhất trí đứng dưới cờ lãnh đạo của Đảng cộng sản để
cho ta có thể chiếm lấy các cơ quan của địch chủ yếu bằng lực lượng của
công nhân viên chức trong các cơ quan đó, chớ không phải chủ yếu bằng
dân làng được đưa lên “ém”trước trong nội thành như kế hoạch hồi 1940,
lực lượng nông dân quanh thành sẽ hỗ trợ đắc lực cho nội thành là khi nào
bản thân dân nội thành là chủ lực.
Ba là: Chú trọng vận động thanh niên thành phố. Ở thành phố Sài
Gòn, nếu công nhân được xem là tay mặt của đảng thì thanh niên phải được
xem là tay trái. Ở đây, nói thanh niên là chẳng những nói thanh niên lao
động, mà còn nói cả thanh niên học sinh, sinh viên, tiểu tư sản, trí thức nữa.
Họ là tầng lớp tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, có nhiều khả năng đấu tranh cho cách
mạng giải phóng dân tộc, dám hy sinh, nếu ta biết đem lại cho họ một lý
tưởng cách mạng tốt đẹp và khoa học. Ở Sài Gòn, lâu nay, người ta thấy
thanh niên học sinh và sinh viên từ Hà Nội về nghỉ hè sáng tạo nhiều hình
thức hoạt động yêu nước đáng được khuyến khích như diễn những vở kịch
lịch sử dân tộc, hát những bài hát yêu nước hùng tráng, cắm trại hè rầm rộ ở
102
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Thủ Đức, họ không theo phong trào của “Tổng ủy Thể dục và thanh niên”61
của chính quyền thực dân Pháp. Triệu chứng rất tốt. Ta có thể tìm cách
chuyển về hướng cách mạng các phong trào đang phát triển đó. Nếu ta
không làm được công việc quan trọng này thì sẽ có những chính đảng tư sản,
hay tiểu tư sản, hay trốt-kít, lôi cuốn thanh niên đi chệch con đường yêu
nước chân chính. Điều mà ta thấy quá rõ là cả Nhật lẫn Pháp đều ra sức hoạt
động để lôi kéo thanh niên, trước hết là thanh niên có học thức. Ta phải gấp
gáp tìm cho những hình thức tổ chức thích hợp và có hiệu quả (hiện tại ta
chưa tìm ra) để thu hút thanh niên về phía cách mạng giải phóng dân tộc.
Các cuộc xung kích chiến đấu sau này phải cậy nhiều ở thanh niên và công
nhân. Tin cậy thanh niên thì cầm chắc là không thất vọng.
Bốn là: Đi vào nông dân các quận huyện, các tỉnh xung quanh Sài Gòn
trong vòng ba, bốn mươi cây số. Lịch sử các cuộc khởi nghĩa 1885, 1911,
1916, 1940, rồi các cuộc tổng bãi công, tổng biểu tình trong thời kỳ giữa hai
cuộc chiến tranh thế giới, đều nói lên rằng nội và ngoại thành Sài Gòn, nhân
dân vì được thống nhất nên rất mạnh, nội thành, ngoại thành tương tuỳ mật
thiết. Vả lại, hơn nửa số công nhân viên chức Sài Gòn, Chợ Lớn có nhà cửa
ở ngoại thành, sớm đi tối về; công nhân nông dân thực tế là sát cánh. Những
điều ấy cho phép chúng ta thấy trước rằng một cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn sẽ
phải do hàng chục vạn công nhân lao động, thanh niên và nhân dân thành
phố thực hiện, những cuộc nổi dậy đó nhất thiết phải được sự yểm trợ tích
cực của cả triệu nông dân ở ngoại thành và ở các tỉnh kế cận. Bởi vậy cho
nên Xứ ủy và Thành ủy cần giúp sức cho hai Tỉnh đảng bộ Gia Định và Chợ
Lớn xây dựng lực lượng nông dân cho vững vàng, nhanh chóng để cho việc
phối hợp được thực hiện thành công tốt đẹp nhất trong những ngày tổng
khởi nghĩa.
Năm là: Đi vào binh vận một cách mạnh dạn và có kế hoạch, trước hết
là vận động số lính người Việt Nam trong quân đội Pháp, số này đông cả
mấy vạn người. Một vạn người tay trắng là ít; một vạn người có súng đạn
trong tay là lớn. Chắc rằng lực lượng chính trị nào cũng ra sức tranh thủ số
binh lính đó. Nhưng cũng chắc chắn rằng số binh lính đó sẽ ngả về phía
61 Cơ quan do toàn quyền Decoux thành lập, đặt dưới quyền của “tổng ủy” Maurice
Ducoroy, đại úy hải quân, chủ trương tập hợp thanh niên, chạy đua ảnh hưởng với Nhật.
Ducoroy cho rằng thanh niên bản xứ, giữa hai con đường “Nhật hoàng, chúng con đây”
và “Thống chế (Pétain), chúng con đó” (!), nhất thiết phải chọn một. Thanh niên phong
trào Ducoroy hát bài “Maréchal, nous voilà!”và đi đều bước sau ngọn cờ… Jeanne d’Arc
(đoàn thanh nữ mang tên là “Jeannettes”). Đầu óc Ducoroy không mường tượng ra khả
năng thứ ba: thanh niên Việt Nam chọn con đường giải phóng đất nước (xem Maurice
Ducoroy, Ma trahison en Indochine, Paris 1949).
103
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
chính đảng nào có nhiều quần chúng công nông dưới cờ. Từ chiến tranh thế
giới lần thứ hai, Pháp tăng nhiều số lính người Việt Nam; chúng đào tạo ra
một lớp sĩ quan người Việt Nam; chúng đưa số lính các binh chủng ở Nam
Kỳ lên tới 40.000 người; riêng ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định có khoảng
10.000 quân. Vài năm nay, Nhật tổ chức quân “Hai Hô”, một thứ lính thủy
đánh bộ. Nhật cũng tổ chức một lực lượng bán vũ trang của Cao Đài phái
Trần Quang Vinh. Trọng tâm binh vận của ta là binh đoàn bảo an lưu động
Gia Định Chí Hoà (brigade mobile) và binh đoàn phụ thuộc sở Sen đầm Chợ
Lớn (brigade auxiliare de la gendarmerie de Cholon). Phải làm tất cả để cho
các binh đoàn đó ngả về phía cách mạng. Chúng ta chưa đủ cán bộ để làm
binh vận đối với lính Pháp, lính Nhật; việc binh vận trong số lính người Việt
mà thành công sẽ giải quyết được một phần vấn đề vũ trang quần chúng
trong khởi nghĩa cách mạng sắp tới. Pháp đã bị Đức đánh bại, Nhật sẽ bị
Mỹ, Anh, Trung Quốc đánh bại, thì việc binh vận của ta hiện nay và từ nay
về sau khắc có điều kiện thuận lợi. Vấn đề còn lại là phải đưa một số cán bộ
giỏi làm việc binh vận.
Đó là năm nhiệm vụ, năm phương hướng công tác chủ yếu mà tôi, nhân
danh Xứ ủy đã đề ra cho ban cán sự thành Sài Gòn những ngày cuối năm
1943. Dĩ nhiên là tôi đã dành đủ thời gian để giải thích luôn đường lối cách
mạng mà Xứ ủy đề ra.
Lúc này Xứ ủy ra quyết định ra báo “Tiền Phong”làm cơ quan tuyên
truyền của mình. Báo Tiền Phong, cơ quan của Xứ uỷ Nam Kỳ đặc biệt chú
trọng vào hai đề tài lớn trong nước: đấu tranh chống “Chủ nghĩa Liên Á”(
Đại Đông Á) của Nhật và đấu tranh chống chủ nghĩa “Pháp-Việt phục hưng”
của gã thực dân Pháp Decoux. Từ năm 1943 việc giải thích tình hình chiến
tranh thế giới không còn khó khăn lớn như trước nữa, nhưng báo Tiền Phong
cũng ra sức cung cấp cho các đồng chí những lập luận cần thiết đã nói lên
rằng Liên Xô, Trung Quốc và phe Đồng minh nhất định thắng, phe Đức, Ý,
Nhật nhất định thua, phe phát xít quân phiệt thua thì càng có điều kiện thuận
lợi, càng mau thắng, song phải rõ, Đồng minh thắng thì không phải tự nhiên
Việt Nam ta được giải phóng đâu, ta phải nỗ lực hết sức, thừa cơ để làm
khởi nghĩa cách mạng, tự mình giải phóng cho mình, bằng không làm nổi
cách mạng thì nước ta sẽ bị thống trị nữa dưới ách một vài trong số các nước
Pháp, Anh, Trung Quốc, Mỹ.
Bước sang năm 1944, tôi gần như là túc trực ở vùng Sài Gòn, Chợ Lớn,
Gia Định thỉnh thoảng mới đi Tân An, Mỹ Tho, Bến Tre.
104
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
7. Đấu tranh chống “Huyền thoại Đông Dương”
(mythe de l’Indochine) của Pháp và chống
“Chủ nghĩa Đại Đông Á”của Nhật
Trong suốt năm 1942 và phần lớn năm 1943, mọi hoạt động của bọn tôi
đều nhằm dựng dậy một số đồng chí còn sót lại sau khởi nghĩa 1940, đang
ẩn náu, đang nằm nhà và tránh mọi công tác Đảng. Nói các đồng chí ấy là
“mất tinh thần”thì không đúng lắm. Gọi họ là “Chờ xem”thì đúng hơn. Quả
tình thời thế lúc ấy buộc phần lớn các đồng chí ấy “chờ xem”, chờ xem coi
sau 1940 các nhà lãnh đạo Đảng rút ra những bài học gì, chẳng lẽ cứ theo
dấu xe đã đổ thì theo sao được? Nhưng lãnh đạo ở miền Nam thì đã bị bắt
hết rồi còn ai đâu mà rút kinh nghiệm? Còn ai đâu mà vạch đường lối? Làm
cách mạng không phải ai cũng có sức và có chí tự động. Phần thì khi ấy tình
hình chiến tranh thế giới đen tối quá, triển vọng cách mạng thế giới chưa
sáng sủa chút nào. Vậy thì, trong hoàn cảnh đó, “nằm chờ”có một mặt ý
nghĩa tích cực là bảo tồn những cán bộ đã được đào tạo từ hàng chục năm,
phòng có ngày xây dựng lại sự nghiệp. Những anh Khiêm (Ung Văn
Khiêm), anh Tây (Nguyễn Văn Tây), v.v… miễn là các anh ấy còn sống, thì
sẽ có ngày đắc dụng hết sức. Nhưng cần phải biết rõ trong số đồng chí 1939,
1940 còn sống thì ai ở đâu, ai “rót”62 hẳn, ai còn có thể dựng dậy, muốn
dựng họ dậy thì cần giải quyết những vấn đề tư tưởng gì? Bởi vậy cho nên
trong lúc đầu, vào 1942 đầu 1943, tôi để hết tâm trí làm một cuộc tuyên
truyền hẹp, chủ yếu là trong số đồng chí còn sống sót sau cuộc khủng bố
1939 và 1940, và ngay trong số đó cũng chỉ chọn một ít mà thôi. Không có
báo, không có sách, không có hội nghị học tập. Chỉ tuyên truyền miệng, giải
thích cho từng cá nhân, từ nhóm nhỏ là chính; đến không tiếng, đi không
dấu, bảo đảm bí mật an toàn.
Nhưng từ khi Ban cán sự Sài Gòn, miền Đông, và Xứ uỷ Nam Kỳ được
thành lập lại rồi thì sự tuyên truyền cách mạng phải rộng ra để vũ trang lý
luận cho đồng chí, để trong chừng mực có thể, truyền bá rộng đường lối của
đảng bộ và đấu tranh chống các tư tưởng địch đang tuyên truyền lúc bấy giờ.
Lúc bấy giờ tư tưởng địch, chính trị địch đang quảng bá rộn ràng nhất là
“chủ nghĩa liên bang”của Decoux, còn gọi là “Huyền thoại Đông Dương”
và chủ nghĩa Đại Đông Á, cũng gọi là “Liên Á”của Nhật. Cả Pháp lẫn Nhật
đều dùng tất cả các phương tiện để cổ vũ cho “chủ nghĩa”của chúng bằng
những nha, những hãng thông tin, bằng những đoàn thể thân Pháp, thân
Nhật, và chúng tuyên truyền cổ động trên các mặt báo chí, bằng thể dục thể
62 rót: phương ngữ Nam Bộ, nghĩa là bỏ cuộc, rút lui hay đầu hàng.
105
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
thao, văn hoá, nghệ thuật, giáo dục, v.v… Từ giữa 1943 tụi tôi có kế hoạch
tuyên truyền cách mạng ở Nam Kỳ, chủ yếu là chống chủ nghĩa Đại Đông Á
và chống chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề mới, và bằng cách đó, khẳng định
đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản.
Tôi bàn với các đồng chí là phải xuất bản một loạt sách tuyên truyền
“bỏ túi”, giống như lời “Cộng sản Tùng thơ”hồi 1933, 1934, 1935; mỗi
quyển dài bằng một bài tạp chí gọn giải quyết một vấn đề. Các vấn đề nối
tiếp nhau có hệ thống. Sách “bỏ túi”phải ra đều kỳ nhất có thể được, một
vài tháng một lần. Có hai cái khó; thứ nhất là Văn (Kiệt) chết rồi, lúc ấy chỉ
còn có một mình tôi viết được sách dù là sách “bỏ túi”để cho các đồng chí
căn cứ vào đó mà có nội dung tuyên truyền thống nhất; thứ hai là, nếu hồi
1933, 1934, tôi có một cái máy Gestetner63 của Đảng Cộng sản Pháp mua
dùm, thì, bây giờ phương tiện in ấn của tôi hết sức lạc hậu: xu xoa64 [11].
Tụi tôi có cải tiến nghề in của chúng tôi: cắt kiếng, đổ xu xoa mấy lớp một
lần nấu, mỗi tấm kiếng cho phép in hai mặt, mỗi mặt in được mấy chục trang
lớn bằng giấy học sinh. Tạm được. Kế bên bộ “tùng thơ”còn có tờ báo Tiền
Phong phát hành không đều kỳ để thông tin về tình hình lớn trong nước và
trên thế giới. Sách tuyên truyền bỏ túi và báo Tiền Phong đều do tôi làm cả!
Bao biện quá; mà làm thế nào khác được? Do “biên tập” có một mình tôi và
phương tiện in ấn hết sức đơn giản, cho nên “trụ sở” biên tập lúc thì như đi
theo tôi lúc ở Phú Lạc, lúc thì ở Gò Vấp, lúc thì ở Chợ Gạo. Ở mỗi “trụ sở”
thì chọn một chú hay một cô học khá văn không cần hay nhưng chữ viết thì
63 Gestetner: Máy in roneo thường dùng trong văn phòng, thông dụng từ đầu thế kỉ 20
cho đến thập niên 1970, khi được thay thế bằng máy photocopy, rồi bắng máy tính và
máy in điện tử. Máy in roneo mang tên người sáng chế, gốc Hung: David Gestetnet
(1854-1939). Máy Gestetner đã đóng một vai trò quan trọng trong công tác tuyên truyền
của Đảng Cộng sản, nên khi nắm toàn bộ chính quyền ở miền Bắc (1954-1975), Đảng đã
trưng thu tất cả các máy in, máy chữ -- kể cả máy chữ xách tay Hermès Baby cũng phải
đăng kí.
64 Xu xoa: thạch trắng (agar agar). Đây là lối in thủ công. Đoạn văn sau đây, do Nguyễn
Ngu Í ghi lại lời kể của Hồ Hữu Tường, mô tả khá chính xác cách in xu xoa: “Úp bản cái
lên mặt khuôn xu xoa, vuốt cho đều tờ giấy, để đó mười lăm phút cho mực thấm vô xu
xoa, vuốt cho giấy sát. Rồi gỡ bản cái ấy lên, mình có bản chánh "in" ngược lên xu xoa.
Giờ chỉ còn lấy giấy để lên mặt xu xoa, vuốt giấy cho sát, để chừng một phút, gỡ ra. "In"
độ năm mươi bản thì chữ mờ. Tôi có nghĩ ra một cách có lợi cho việc "in xu xoa" này.
Thói thường là nấu xu xoa, đổ vô một cái khuôn, và chỉ dùng được có mặt xu xoa ở trên
mà thôi. Tôi cho cắt những tấm kiếng bằng nhau để trong khuôn, tấm này cách tấm kia
độ một phân (giữa hai tấm kiếng ở hai đầu, có cây cạnh cao chừng một phân), đổ xu xoa
vô, thì mỗi lớp xu xoa có hai mặt, mặt trên in cũng được, mà lật lại mặt dưới, in cũng
được. Ví như ta có năm tấm kiếng thì ta có sáu miếng xu xoa, tức là mười một mặt xu xoa
in được.”
106
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
phải đẹp. Quả là tôi bao biện, bao biện thì không nên, nhưng bây giờ làm sao
khác được? Các tay “bỉnh bút” còn ở trong tù.
Máy in roneo của hãng Gestetner, mẫu 1913 (quay tay)
8. Chống chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề mới
Hồi 1942, 1943, cái “Huyền thoại Đông Dương” (mythe de
l’Indochine), còn gọi là “Pháp-Việt đề huề mới” của Decoux, được Pháp và
đám tay sai của Pháp tuyên truyền mạnh lắm. Còn lúc ấy, ở cả Việt Nam nói
chung và Nam Kỳ nói riêng, cái hy vọng mà bọn thân Nhật đặt vào Nhật (lật
đổ Pháp) ban đầu (1942) rất mạnh, đến sau 1943, yếu dần, suy dần cho đến
đỗi chủ tịch Hội Liên Á là tướng Tòng Tỉnh phải bay sang Sài Gòn, Hà Nội
để “lên dây cót”cho bè đảng người bản xứ, rồi Nhật phải gởi một số lãnh tụ
tay sai (người Việt Nam, nghe đâu trong số đó có Diệm, Ân, Sâm65) sang
lánh mặt ở Singapore. Tụi thân Pháp lên chân một chút. Thì chính trong lúc
ấy tôi viết một loạt sách “bỏ túi” để công kích chủ trương chính sách “Liên
bang Đông Dương”của Decoux. Mấy mũi nhọn tôi chĩa vào chính sách của
Decoux là:
Thứ nhất: Cái “Liên bang Đông Dương”ngày nay của Decoux, cũng
như cái “nước Pháp Á châu” (la France d’Asie) của Sarraut hồi chiến tranh
thế giới thứ nhất, cũng như cái “chính sách đề huề hợp tác” (politique de
collaboration) của Varenne hồi 1925 khi ảnh hưởng của cách mạng Trung
Quốc dội mạnh vào Việt Nam, đều là những cách của thực dân đối phó với
65 Diệm, Ân, Sâm: tức là Ngô Đình Diệm, Trần Văn Ân, Nguyễn Văn Sâm
107
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
một tình thế khó khăn, đều là những lừa phỉnh, đều là những bánh vẽ chỉ có
nghe nhãn hiệu mà chưa hề thấy đường bột, hễ khó khăn qua thì Pháp không
nói tới nữa. Decoux, Varenne, Sarraut giống nhau. Mà kỳ này thì Decoux
chắc sẽ không có thì giờ để mà ca ngợi lâu cái bánh vẽ của mình, chó sói
Pháp sẽ bị chó sói Nhật giật mất miếng mồi ngon trước khi quân Đồng minh
vào Đông Dương. Vấn đề tư tưởng cần giải quyết ở đây là làm cho đồng chí,
đồng bào không bi quan ở chỗ Việt Nam một cổ hai ách khó bề giải thoát.
Thứ nhì: cái “Liên bang Đông Dương”của Decoux đề nghị sẽ chỉ là
cái “nhà tù trong nhà tù”thôi, không có gì mới. Decoux tính sẽ lập ra “năm
nước”: nước Lào, nước Miên, nước Bắc Kỳ, nước Trung Kỳ, nước Nam Kỳ.
“Năm nước” hợp lại thành Liên bang Đông Dương do Pháp nắm các đòn
bẩy chỉ huy. Liên bang Đông Dương đó ở trong Liên hiệp Pháp; dân mỗi
nước có quyền lập chế độ cộng hoà hay giữ chế độ quân chủ, có quyền nói
lên lòng yêu đất nước mình nhưng có nghĩa vụ phải yêu nước Pháp là nước
“cha đỡ đầu” cho Liên bang Đông Dương. Dân mỗi nước được phép tuyên
dương những sự kiện lịch sử anh hùng của dân tộc mình miễn là không
chống đối lại Pháp. Như vậy, Pháp vẫn giữ chính sách chia cắt Việt Nam
làm ba; cái “nước Nam Kỳ” phải ở trong Liên bang Đông Dương, Liên bang
phải ở trong Liên hiệp Pháp; tất cả phải trung thành với Pháp. Nhà tù nhỏ ở
trong tù vừa, tù vừa ở trong tù lớn. Cái “Huyền thoại Đông Dương”của
Decoux chỉ là thế thôi. Rốt cuộc lại thì Decoux chỉ đề nghị là sẽ thay chữ
“Đông Dương thuộc Pháp” bằng chữ “Liên bang Đông Dương”, sẽ thay
những chữ “xứ thuộc địa”, “xứ bảo hộ”, bằng cái chữ “bang”, chữ “nước”;
sẽ không còn “Trung Kỳ xứ bảo hộ”, “Nam Kỳ xứ thuộc địa” mà thành ra
“nước Trung Kỳ”, “nước Nam Kỳ”, “nước Bắc Kỳ”, cả ba ở trong “Liên
bang Đông Dương”do nước Pháp làm “cha đỡ đầu”.
Ai muốn theo thì theo! Cái bánh thời Decoux hơn là cái bánh thời
Sarraut, Varenne ở chỗ nó có hình vẽ, nội việc xem hình vẽ thôi thì đã ớn
rồi! Nhưng nếu không kịp thời vạch trần thực chất của chủ trương “Liên
bang Đông Dương”thì chủ trương này có thể đánh lừa nhiều người, nhiều
người tưởng đâu bây giờ để cạnh tranh với Nhật, Pháp chịu một số nhượng
bộ nào đó cho chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, tưởng đâu Pháp dọn đường cho
một chủ trương Đông Dương tự trị sau chiến tranh.
Nếu chỉ có thế thôi thì chủ trương đường lối của Decoux sẽ không lấy
gì làm nguy hiểm, không lừa dối được số đông dân. Decoux trong những
năm 1942, 1943, 1944 còn làm làm nhiều chuyện mị dân có ít nhiều kết quả.
Tôi chú ý đến hai việc nổi bật sau đây:
108
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
tuyên truyền sâu rộng cho chủ nghĩa yêu nước. (Việc này tôi sẽ có dịp nói lại
khi nói tới vấn đề thanh vận và Thanh niên Tiền phong ở Sài Gòn).
Trước những ngày tàn tạ, chết yểu của “Huyền thoại Đông Dương”(le
mythe de l’Indochine) của Decoux, thì De Gaulle ở Brazzaville đề nghị cho
Đông Dương một thứ “tự trị sau một thời gian”. Cái bả De Gaulle và cái
huyền thoại Decoux đều trở thành mảnh giấy lộn.
Vấn đề là tuyệt đối không được trông mong ở bất cứ phái nào của đế
quốc dù Pháp Pétain hay Pháp De Gaulle, sẽ ban bố tự trị cho Việt Nam, cho
Đông Dương. Vấn đề là phải tính toán, phải hoạt động sao cho chính quyền
Pháp bị đánh đổ, các dân tộc Đông Dương, trước hết là dân tộc Việt Nam
được giải phóng bằng một cuộc cách mạng nổ ra ngay trong lúc tàn cuộc
chiến tranh thế giới hiện nay. Pháp vẫn cứ là đế quốc thực dân dù là tàn cuộc
chiến tranh thế giới Pháp thoát khỏi ách của Đức Hitler, cái hứa hẹn “tự trị
sau một thời gian” chỉ có thể là một thứ mặt nạ Pháp đeo vào để tranh giành
ảnh hưởng của Nhật, để cố giữ Đông Dương dưới ách của nó.
Vấn đề là tuyệt đối không phải lựa chọn giữa Nhật và Pháp; chúng đều
là đế quốc thực dân cả; không thằng nào hơn thằng nào. Mà kẻ thù số một
trong thời thế bấy giờ là Pháp, đế quốc Nhật; Nhật cho Pháp sống sót một
thời gian và chỉ một thời gian thôi, để làm việc hậu cần cho Nhật, để giữ an
ninh cho quân Nhật trên một đất nước có truyền thống cách mạng giải phóng
dân tộc. Tới ngày nào đó, trong cuộc chiến tranh, Nhật sẽ lật đổ Pháp để gạt
bỏ một lưỡi gươm bên hông, điều ấy hoàn toàn sẽ không có ý nghĩa rằng
Nhật giải phóng Việt Nam, mà chỉ có ý nghĩa rằng Nhật giành quyền độc
chiếm Đông Dương; một sự thay thầy đổi chủ, không hơn không kém.
9. Chống chủ nghĩa Đại Đông Á
“Chủ nghĩa Đại Đông Á”hay là “chủ nghĩa Liên Á”của Nhật thực tế
chỉ là một ngọn cờ xâm lược thực dân. Nhưng không phải ai cũng biết như
thế. Và có nhiều người biết song lại cho rằng có thể “tương kế tựu kế”lợi
dụng Nhật được. Tư tưởng này đã có từ đầu thế kỷ XX lận kìa chớ đâu phải
bây giờ mới có.
110
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
tuyên truyền sâu rộng cho chủ nghĩa yêu nước. (Việc này tôi sẽ có dịp nói lại
khi nói tới vấn đề thanh vận và Thanh niên Tiền phong ở Sài Gòn).
Trước những ngày tàn tạ, chết yểu của “Huyền thoại Đông Dương”(le
mythe de l’Indochine) của Decoux, thì De Gaulle ở Brazzaville đề nghị cho
Đông Dương một thứ “tự trị sau một thời gian”. Cái bả De Gaulle và cái
huyền thoại Decoux đều trở thành mảnh giấy lộn.
Vấn đề là tuyệt đối không được trông mong ở bất cứ phái nào của đế
quốc dù Pháp Pétain hay Pháp De Gaulle, sẽ ban bố tự trị cho Việt Nam, cho
Đông Dương. Vấn đề là phải tính toán, phải hoạt động sao cho chính quyền
Pháp bị đánh đổ, các dân tộc Đông Dương, trước hết là dân tộc Việt Nam
được giải phóng bằng một cuộc cách mạng nổ ra ngay trong lúc tàn cuộc
chiến tranh thế giới hiện nay. Pháp vẫn cứ là đế quốc thực dân dù là tàn cuộc
chiến tranh thế giới Pháp thoát khỏi ách của Đức Hitler, cái hứa hẹn “tự trị
sau một thời gian” chỉ có thể là một thứ mặt nạ Pháp đeo vào để tranh giành
ảnh hưởng của Nhật, để cố giữ Đông Dương dưới ách của nó.
Vấn đề là tuyệt đối không phải lựa chọn giữa Nhật và Pháp; chúng đều
là đế quốc thực dân cả; không thằng nào hơn thằng nào. Mà kẻ thù số một
trong thời thế bấy giờ là Pháp, đế quốc Nhật; Nhật cho Pháp sống sót một
thời gian và chỉ một thời gian thôi, để làm việc hậu cần cho Nhật, để giữ an
ninh cho quân Nhật trên một đất nước có truyền thống cách mạng giải phóng
dân tộc. Tới ngày nào đó, trong cuộc chiến tranh, Nhật sẽ lật đổ Pháp để gạt
bỏ một lưỡi gươm bên hông, điều ấy hoàn toàn sẽ không có ý nghĩa rằng
Nhật giải phóng Việt Nam, mà chỉ có ý nghĩa rằng Nhật giành quyền độc
chiếm Đông Dương; một sự thay thầy đổi chủ, không hơn không kém.
9. Chống chủ nghĩa Đại Đông Á
“Chủ nghĩa Đại Đông Á”hay là “chủ nghĩa Liên Á”của Nhật thực tế
chỉ là một ngọn cờ xâm lược thực dân. Nhưng không phải ai cũng biết như
thế. Và có nhiều người biết song lại cho rằng có thể “tương kế tựu kế”lợi
dụng Nhật được. Tư tưởng này đã có từ đầu thế kỷ XX lận kìa chớ đâu phải
bây giờ mới có.
110
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Xe tuyên truyền cho "chủ nghĩa Đại Đông Á" của Nhật ở Sài Gòn.
Bên trái là áp-phích ca ngợi Thống chế Pétain của Pháp.
(Nguồn: J. M. Pedrazzani, La France en Indochine de Catroux à Sainteny, Flammarion).
Trong số sách của tôi viết ra hồi thời kỳ khôi phục cơ sở và hệ thống
Đảng ở Nam Kỳ trong chiến tranh thế giới thứ hai, tôi xem quyển “Việt Nam
trên đường độc lập” chống “chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề mới” và quyển
“Rạng đông của một dân tộc”- chống “chủ nghĩa Đại Đông Á”, chống Nhật
xâm lược, là tài liệu tuyên truyền chính trị và tư tưởng có tác dụng thiết thực
nhất. Hồi đó (1942, 1943), ảnh hưởng tai hại của “chủ nghĩa Đại Đông Á” ở
Nam Kỳ rất lớn, có thể nói là đến mức cao nhất. Tôi nói ở Nam Kỳ là nơi tôi
đang hoạt động lúc bấy giờ. Chắc là khắp Nam, Trung, Bắc không nơi nào
mà bè đảng thân Nhật nhiều và mạnh như ở Nam Kỳ. Ở Nam Kỳ thì một
phần số đạo Cao Đài chủ yếu là phái Cao Đài Tây Ninh mà người đứng đầu
lúc này là Trần Quang Vinh, ra mặt thân Nhật; Cao Đài có vài triệu tín đồ
khắp lục tỉnh. Còn Phật giáo Hoà Hảo thì phát triển rộng ở Hậu Giang, và từ
khi quân Nhật đưa thầy Hoà Hảo (bị Pháp an trí ở Bạc Liêu) về Sài Gòn, ở
đường Miche66, và được sở Sen đầm Nhật bảo vệ, thì Phật giáo Hoà Hảo
cũng hướng mạnh về phía Nhật. Tín đồ của Phật giáo Hoà Hảo cũng đông có
tới hàng chục vạn. Ngoài ra, Nhật còn làm chỗ dựa cho phái chính trị gọi là
Phục quốc do Trần Văn Ân đứng đầu, cựu chủ tịch hội nhà báo là Nguyễn
Văn Sâm cũng ở trong đó. Họ suy tôn Cường Để lâu nay ở bên Nhật (tôi
không rõ ông Cường Để có đồng ý hay không) và tiếng đồn khắp xứ là Nhật
sẽ hạ Pháp, sẽ đem Cường Để về làm vua của nước Việt Nam được trao trả
độc lập. Tất cả chúng đều đi theo cờ “chủ nghĩa Đại Đông Á” cũng gọi là
“chủ nghĩa Liên Á”. Từ 1941 cho đến giữa năm 1943, quân Nhật luôn luôn
66 Rue Miche: nay là đường Phùng Khắc Khoan.
111
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
chiến thắng ở tây và nam Thái Bình Dương đánh bại Mỹ, Anh, Hà Lan, thế
như chẻ tre, đến đâu Nhật cũng phất cờ chủ nghĩa Đại Đông Á, khua môi
múa mép rằng Nhật là người anh cả da vàng quyết tâm và có đủ sức giải
phóng các nước Á châu khỏi ách các đế quốc thực dân da trắng. Ảnh hưởng
lớn, rộng, không dễ gỡ.
Để làm cho đồng bào trước hết là cán bộ, đảng viên hiểu sự thật, hiểu
các chính sách của Nhật, tôi viết một loạt sách tuyên truyền “bỏ túi” về
những vấn đề như:
- Mấy nét về cuôc duy tân của Nhật. Nhật đã trở thành một cường quốc
tư bản chủ nghĩa. Các cuộc xâm chiếm thuộc địa của Nhật hồi đầu thế
kỷ XX.
- Tham vọng bá chủ của Nhật; chương trình Điền Trung (Tanaka) và sự
khởi đầu thực hiện chương trình đó trong thời gian trước chiến tranh
thế giới lần thứ nhất. Nhật đánh Trung Quốc.
- “Chủ nghĩa Đại Đông Á” chỉ là kế hoạch của Nhật làm bá chủ ở châu
Á, là kế hoạch chiếm lấy thị trường lớn nhất thế giới.
Tôi nhắc lại chuyện Phan Bội Châu và các chí sĩ Đông Du, hồi 1908 bị
chính phủ Nhật trục xuất theo lời yêu cầu của Pháp; đế quốc Nhật, đế quốc
Pháp cũng đồng một phường, khác nhau là nước Nhật và nước ta gần nhau,
sớm đi tối về được, nếu Việt Nam bị Nhật thống trị thì càng khó giải phóng
và khác nhau là Pháp ít dân đất rộng, còn Nhật đất hẹp người đông, nước ta
về tay Nhật có thể trở thành một thuộc địa di dân, nếu ngày nào đó ở trong
nước ta và ở Miên, Lào có năm mười triệu người Nhật định cư, thì khi ấy
cuộc giải phóng sẽ khó khăn đến chừng nào? Tai hoạ của một chủ nghĩa Đại
Đông Á thành công sẽ là tai hoạ vô biên. Sách “Rạng đông của một dân
tộc” được in lại nhiều lần, quay roneo nữa.
Vào 1943 thì Nhật dẫm chân và bắt đầu thối lui ở tất cả các chiến
trường, uy tín Nhật bắt đầu xuống, tướng Tòng Tỉnh, Chủ tịch Hội Liên Á
được phái qua Sài Gòn, Hà Nội để “lên dây cót”cho đám tay sai thân Nhật,
mà chỉ “lên”được một lúc nào, một phần nào thôi. Hẳn rằng chủ nghĩa Đại
Đông Á mất đà từ 1943 trở đi, tất nhiên là không phải nhờ các sách tuyên
truyền bỏ túi chống Nhật của tôi… Vài tuần một tập sách dày không quá 32
trang, in không quá một trăm bản làm thế nào ảnh hưởng đáng kể đến thời
cuộc, nhưng hoạt động tư tưởng chính trị đó của toàn Đảng bộ Nam Kỳ ít
nhất cũng nói lên được rằng, ở Nam Kỳ, Đảng Cộng sản không chết mất sau
cuộc đại tàn sát 1940, mà đã hồi sinh rồi và sẽ tới ngày đứng lên phất cờ giải
phóng dân tộc.
112
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Đó, hình như cái “nghiệp” của tôi là vừa làm công tác thực tiễn vừa làm
công tác tư tưởng, mà công tác tư tưởng, có những lúc là chính. Tôi nhận
thấy rằng khi nào và ở đâu mà công tác tư tưởng hoặc bị xem nhẹ hoặc bị
quên lửng thì không thể làm việc tổ chức và lãnh đạo đấu tranh được. Cho
nên sau khi từ trại giam Tà Lài về tới Phú Lạc là tôi lo giải quyết các vấn đề
tư tưởng cho các đồng chí còn sống sót sau những cuộc khủng bố trắng
1940, 1941. Cho nên, khi Xứ ủy được thành lập lại, tôi đã nghĩ đến các vấn
đề tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Và để giành nhân dân với các tổ chức
thân Nhật, thân Pháp tôi có ý thức dành nhiều thời giờ viết sách, mở lớp
huấn luyện chính trị nhằm giải thích đường lối cách mạng, củng cố lòng tin,
đả phá nguy cơ của chủ nghĩa Đại Đông Á, của chủ nghĩa Pháp –Việt phục
hưng. Bọn tôi làm được việc, một phần do nỗ lực chủ quan, một người làm
việc bằng năm, bằng mười, phần nữa là do tình hình thế giới từ 1943, 1944
mới thêm thuận lợi lạc quan, có “tận lực” mà trước hết là có “thời thế”.
Không phải nói như thế để ra vẻ “khiêm tốn” đâu, sự thật quả như thế.
Về sau, kiểm điểm lại, tôi thấy Xứ ủy Nam Kỳ đã “dám”tự mình vạch
ra một đường lối để tiến tới trong thời kỳ tiền cách mạng. Thực tế là dám
nhận lãnh trách nhiệm trước lịch sử và nhìn chung, đường lối tự vạch ra đó
là đúng, bằng cớ của cái đúng ấy là Cách mạng Tháng Tám ở Nam Bộ đã
thành công gần cùng một lúc với Cách mạng Tháng Tám ở Bắc, Trung. Tuy
vậy, truy nguyên thì không phải là cái “dám lãnh trách nhiệm” ấy nó khai
đường cho chiến thắng. Khai đường mở lối cho chiến thắng là chủ trương
của Lênin: rằng những người cách mạng phải ra sức thừa cơ hội chiến tranh
thế giới để làm cách mạng thành công, chủ trương đó được Đảng Cộng sản
Đông Dương khẳng định lại trong Luận cương chính trị 1930, và một lần
nữa trong Nghị quyết Trung ương lần thứ VI cuối năm 1939, mà chủ yếu,
hơn hết, là chủ nghĩa Lênin về vấn đề chiến tranh đế quốc và cách mạng vô
sản mà người cộng sản nào cũng thấm nhuần ngay từ khi mới vào Đảng.
Ngay từ khi gặp Đảng thì không người yêu nước nào mà không đặt câu hỏi
chính, câu hỏi này được trả lời thông suốt thì người yêu nước đó mới vào
Đảng. Đó là hai câu hỏi:
- Đế quốc thực dân Pháp mạnh như thế, lại có sự tương trợ của các đề
quốc Anh, Hà Lan - như lời Nguyễn An Ninh đã nói nhiều lần - thì làm
sao ta có thể đánh đuổi nó được?
Trả lời:
- Để quốc có lúc thịnh, lúc suy, lúc mạnh, lúc yếu; nhưng suy yếu nhất
là lúc nổ ra chiến tranh giữa các đế quốc, như cuộc chiến tranh 1914-
1918, khi ấy chúng như cọp bị mắc bẫy một chân, nếu ta đồng lòng nổi
113
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
dậy thì ta có thể tiêu diệt được chúng và ta phải tiêu diệt chúng trong
thời cơ chúng bị kẹt, bị mắc bẫy một chân đó, nhất thiết không để cho
thời cơ trôi qua mà không làm việc giải phóng.
Cho nên, năm 1939, khi chiến tranh thế giới nổ ra thì các đồng chí cộng
sản bất kỳ ở đâu cũng đều nói: “Thời cơ tới rồi!”. Vấn đề chỉ là: ta có đủ sức
hay không? Những người đã thuộc chủ nghĩa Mác-Lênin như Văn, như tôi,
không có quyền ngồi chờ nghị quyết, chỉ thị cấp trên, ngồi chờ sẽ là một
hình thức ta bỏ trách nhiệm trước khó khăn. Phải dám chủ động, tự vạch
đường đi tới, nếu sai lệch chút ít chắc lịch sử sẽ hiểu cho mình.

No comments: