Tuesday, December 4, 2012

TRẦN VĂN GIÀU * HỒI KÝ VII

Phần thứ năm
TỔNG KHỞI NGHĨA THÀNH CÔNG:
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP BẮT
ĐẦU
1. Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc
Báo tiếng Việt ở Sài Gòn đăng đủ các tin chiến thắng của quân đội Xô
Viết ở xung quanh Berlin, ở Trung Âu, tin chiến thắng của quân Đồng Minh
ở phía tây nước Đức. Có hai điều tôi chú ý về việc đăng tin tức ấy. Một là
các báo hình như muốn người đọc thấy rằng hai phe trong đồng minh (tức
phe Anh-Mỹ một bên và phe Liên Xô) mâu thuẫn nhau ngày càng gay gắt.
Anh-Mỹ sợ Liên Xô vào Berlin trước, sợ Trung Âu được Hồng quân giải
thoát. Hai là mâu thuẫn ấy có thể đưa đến một cuộc chiến tranh thế giới thứ
ba khi chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt, và có thể nổ ngay trên nước
Đức bị tàn phá, đó là theo lời nói hình tượng bấy giờ, một cuộc chiến tranh
giữa đạo quân (tư bản) Anh-Mỹ v.v… xuất hiện từ những ngọn sóng của Đại
Tây Dương và đạo quân (cộng sản) Liên Xô xuất hiện từ đồng cỏ Âu Á. Cái
đó có một phần sự thật. Liên Xô và Anh-Mỹ quả có mâu thuẫn, nhưng tuyên
truyền của Nhật Bản ở Sài Gòn và Hà Nội chắc chắn là có dụng ý, muốn làm
cho dân ta hiểu rằng sự xung đột vũ trang giữa hai ông khổng lồ tây phương
sẽ nổ ra và vô tình cứu nước Nhật khỏi sự đại bại sẽ đến, chắc chắn sau khi
Berlin thất thủ, Hitler đầu hàng. Nhưng rồi việc phải đến đã đến. Hồng quân
chiếm Berlin (2.5.1945). Hitler tự tử trước đó vài hôm. Giữa Mỹ, Anh và
Liên Xô không xảy ra chiến tranh, hai bên nhượng ước với nhau, tuy mâu
thuẫn đã quá rõ.
Ảnh hưởng chính trị ở Sài Gòn của việc Hồng quân chiếm Berlin rất
lớn. Đọc báo, chẳng thấy bình luận gì nhiều lắm. Còn ngồi tiệm nước thì
không ai không nói chuyện: Cộng sản đánh bại phátxít, văn minh thắng dã
man, Hồng quân có mặt hầu hết ở các thủ đô Trung Âu, chính lúc này là lúc
Thanh niên Tiền phong và Tổng Công đoàn, dưới danh nghĩa Thanh niên
230
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Tiền phong ban xí nghiệp, được tổ chức và nhanh chóng mở rộng hoạt động
của mình để “chạy đua với thời gian”.
Tôi không biết gì ráo về cái nghị quyết của Liên Xô, Mỹ, Anh họp ở
Potsdam quy định việc Liên Xô sẽ tham chiến chống Nhật Bản ba tuần sau
khi Đức đầu hàng, và sau khi chiến tranh ở Châu Âu kết thúc. Trong trí tôi
lởn vởn cái ý khá chủ quan rằng sẽ có lợi cho cách mạng thế giới hơn nếu
Liên Xô cứ để mặc cho hai bên Nhật và Anh, Mỹ đánh nhau, cho chiến tranh
Viễn Đông kéo dài, bởi vì trước sau gì Nhật cũng thua, nhưng Nhật kháng
chiến càng lâu thì Mỹ, Anh càng mệt, mà Mỹ, Anh sắp tới đây sẽ là địch thủ
số một của cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa. Khi ấy tôi cho rằng Mỹ-Anh trì hoãn mãi cuộc đổ bộ lên Tây Âu,
trì hoãn để cho Hồng quân Liên Xô mỏi mệt, tổn hao càng nhiều càng hay
trong cuộc chống chọi với Đức Hitler, thì, bây giờ nếu Liên Xô “trả lại cho
họ loại đồng tiền đã trả cho mình”thì cũng là vừa phải thôi, có gì là ác?
Thật thà mà nói, tôi không dè, đầu tháng Tám 1945, Liên Xô tuyên bố tham
chiến chống Nhật, rút ngắn cuộc chiến tranh ở Viễn Đông, tin chắc rằng, đến
một lúc nào đó Hồng quân Liên Xô nhất định sẽ đánh Nhật ở đông bắc nước
Tàu (khi ấy là Mãn Châu quốc) chớ không thể để cho quân Mỹ vào đây.
Việc Hitler tự tử, Đức đầu hàng làm rung động rất mạnh các đảng, các
nhóm thân Nhật, hàng ngũ của họ tan rã càng nhanh.
Trở lại chiến cuộc ở Viễn Đông, Đông Nam Á Châu và Thái Bình
Dương từ sau cuộc đảo chính 9 tháng 3, ở Đông Dương nhất là từ sau khi
Đức đầu hàng, đứng vào vị trí của người Việt Nam mà ngó, mà xét:
Mỹ đã giành lại Philippines từ cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm 1945.
Trên mặt biển Nhật mất Tân Guinée, Philippines và những quần đảo
Salomons, Marshall, Gilbert, Mariannes. Còn trên lục địa và ở Nam Dương
quần đảo, thì “Đại Đông Á”của Nhật không mất mát gì quan trọng mà hãy
còn rộng lớn vô cùng từ Mãn Châu đến Miến Điện –ở đây quân Anh có ghi
được mấy bàn để mở lại đường đi Vân Nam. Đồng thời, với việc chiếm lại
Philippines, quân Mỹ một mặt chiếm thêm mấy đảo Nhật gần Nhật như:
Iwoshima, Okinawa dù phải chịu tổn thất rất lớn. Quân Nhật tổn thất nặng
hơn nhiều. Thử hỏi vậy chớ nước Mỹ đổ bộ lên những đảo nhỏ gần Nhật mà
đã phải trả giá đắt như thế, thì đến khi đổ bộ lên đất Nhật sẽ phải trả giá bao
nhiêu nữa? Liệu chính phủ Mỹ, dư luận Mỹ có dám trả giá đó không? (Phe
thân Nhật ở Sài Gòn cho rằng đất Nhật sẽ là mồ chôn quân Mỹ). Mặt khác,
Mỹ tăng cường việc ném bom vào các thành phố công nghiệp của Nhật bằng
pháo đài bay B29. Đài truyền thanh Mỹ đã thuật lời tuyên bố của tướng Mỹ
231
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Curtis Lemay rằng: “Chúng ta sẽ kéo nước Nhật trở lại thời kỳ đồ đá”, khi
hắn ta, từ trên không quan sát một trận ném bom xuống Đông Kinh, gây ra
một trận cháy lớn nhất trên đời làm mấy trăm ngàn nhà một lượt ra tro. Và
cứ như vậy mãi, lần sau dữ dội hơn lần trước, bởi vì, sau khi đã chiếm được
Iwoshima và Okinawa rồi thì, từ đó máy bay trung bình cũng bay đến Nhật
được, để cùng B29 đi từ Guam gieo chết chóc trên nhân dân vô tội.
Những cuộc ném bom và sự phong toả đã làm cho nước Nhật lâm
nguy; tuy Nhật còn nhiều triệu quân trên lục địa Châu Á. Sau này các nhà
quân sự và chính trị đồng ý rằng không cần phải ném bom nguyên tử xuống
nước Nhật, rồi Nhật cũng phải sớm đầu hàng thôi, để thắng, Mỹ phải dùng
đến bom nguyên tử làm gì? Nhưng Mỹ ném bom còn có mục đích thị uy đối
với thế giới, với Liên Xô, rằng: “ta đây là tuyệt đối vô địch”.
Tám giờ ngày 6 tháng 8 năm 1945, khi công nhân, viên chức các công
tư sở đều đi làm, Mỹ ném một quả bom cực mạnh xuống Hiroshima, một hải
cảng, một thành phố công nghiệp lớn của nước Nhật đông hàng triệu dân cư:
250 ngàn người chết ngay; toàn bộ thành phố đổ nát, trừ vài ba ngôi nhà bê
tông cốt sắt.
Ngày 8 tháng 8 năm 1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, Hồng quân
vào Mãn Châu.
Ngày 9 tháng 8 năm 1945, Mỹ ném một quả bom cực mạnh thứ hai
xuống Nagasaki, cũng một hải cảng, một thành phố công nghiệp lớn của
Nhật, cũng đông hàng triệu dân. Tin truyền bom nổ ở đây còn dữ hơn là ở
Hiroshima.
Bom cực mạnh nổ ở Hiroshima và Nagasaki là bom nguyên tử, vũ khí
giết người lớn nhất loài người chưa hề thấy, tàn phá nhà cửa nhiều nhất, loài
người chưa hề thấy.
Thông tin tuyên truyền của Mỹ ầm ĩ ngay về sức mạnh tàn phá môi
trường của bom nguyên tử, mà nước duy nhất làm ra được là nước Mỹ.
Các báo ở Sài Gòn nói đến bom nguyên tử một cách hãi hùng.
Khi ấy Nhật không biết rằng nước Mỹ chỉ có hai quả bom nguyên tử
đó mà thôi, chưa kịp làm quả thứ ba, quả thứ ba còn phải chờ lâu. Bọn Mỹ
nói dóc rằng quả thứ ba dành cho thủ đô Đông Kinh, nếu Nhật không kịp kíp
đầu hàng!
232
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Mấy ngày rày tôi đeo dính cái máy thu thanh. Ở Sài Gòn bấy giờ
chúng tôi chỉ có cái máy ấy mà thôi. Chúng tôi cho rằng Nhật đầu hàng hoặc
quân Mỹ trực tiếp đổ bộ lên Nhật Bản thì điều kiện khởi nghĩa chín muồi, ta
sẽ phải hành động thật nhanh, giành lấy thời cơ. Lực lượng để khởi nghĩa thì
chúng tôi đã tập hợp khá đủ rồi.
Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Nhật tuyên bố đầu hàng.
Tin này đến với tôi hơi đột ngột. Mấy hôm rày tôi ở miết Sài Gòn. Tôi
tưởng đâu là những người cầm đầu nước Nhật có đủ gan góc để chịu đựng
một thời gian nữa, buộc Mỹ phải chấp nhận một cuộc đổ bộ đại quy mô trên
các hòn đảo Nhật, nghĩa là chấp nhận một trận chiến đấu xáp lá cà hết sức
lớn trong đó chưa chắc gì phần thắng về kẻ có nhiều máy bay, nhiều bom
đạn. Đấy! Mình cứ đem cái tâm trí của mình đặt vào cái thân xác của người
ta, cho nên nghĩ sai, tính không đúng hẳn. Quân Nhật còn nắm cả lục địa
Đông Á và Đông Nam Á từ Mãn Châu đến Mã Lai, gồm cả miền đông nước
Tàu, vậy mà phải đầu hàng không điều kiện hay gần như không điều kiện.
Ai mà biết được? Làm sao mà biết được cái dại cuối cùng của Hitler so với
cái khôn của hắn hồi đầu; khi còn cả triệu quân ở trên vùng Bắc Hải, Bắc Ý,
Ban Căn, hắn không chịu đưa một phần số quân ấy về bảo vệ hang ổ Berlin,
đánh một trận thư hùng trên nước Đức mà chỉ khư khư trông mong cái khả
năng Anh-Mỹ và Liên Xô đánh nhau trên nước Đức, khi ấy Đức sẽ quay
sang liên kết với Mỹ-Anh và bằng cách đó giải vây cho Berlin, đưa lại chiến
thắng cho Đức, y như (hay gần như) chiến thắng của vua Frédéric II đại
vương khi Nga-Áo-Pháp liên minh tan rã trước Berlin hồi thế kỷ XVIII!
Frédéric II chiến thắng, còn Hitler thì tự tử.
Cái tin Nhật đầu hàng làm chấn động mạnh dư luận Sài Gòn, mặc dầu
rằng mấy tháng nay từ sau khi Đức đầu hàng, không còn một ai tin vào
thắng trận của Nhật nữa. Đảng phái, chính khách, quần chúng đều bàn luận
xôn xao. Người ta tự hỏi, hỏi nhau: việc gì sẽ xảy ra ở xứ ta, ở Sài Gòn mấy
ngày tới? Ngồi tiệm cà phê trước chợ Bến Thành, nghe mấy ý kiến lạ tai mà
thích thú:
- Mỹ có bom nguyên tử rồi thì còn nước nào dám đương đầu với Mỹ
nữa? Mỹ cứ đòi hỏi, ra lệnh là được.
- Không chắc! Xưa nay, vỏ quýt dày có móng tay nhọn, chưa hề có
một thứ vũ khí nào mà sau đó lại không có thứ vũ khí khác trừ nó, chẳng qua
nhân loại sẽ giết nhau nhiều hơn mà thôi.

diệt mọi cuộc cách mạng giải phóng, các dân tộc bị áp bức làm sao đánh
thắng nổi thực dân.
- Thì cách mạng chắc chắn sẽ gặp khó khăn hơn, nhưng cách mạng
vẫn tiến và không bị thủ tiêu bởi bom nguyên tử đâu. Kìa hãy xem, đại bác
75 ly là mạnh dữ, mà nó còn làm gì được đối với đàn chim én bay liệng đâu?
Cách mạng giải phóng sẽ nổi lên ở hàng trăm thành phố không lớn như
thành phố Nhật, nổi lên ở làng mạc rừng núi thì bom nguyên tử là vô dụng
hoàn toàn; sợ gì?
Những câu chuyện ngoài tiệm nước này nghe thì hay thật. Nhưng thời
giờ đâu mà ngồi nghe? Vấn đề lớn được đặt ra cấp bách trước Xứ uỷ và
Thành uỷ là phải làm gì bây giờ; tình hình nghiêm trọng, không thể mất thì
giờ được dầu chỉ một ngày. Cái lo lắng nhất của tôi bây giờ là Nam Kỳ phải
tự quyết định một vấn đề hết sức trọng đại mà hoàn toàn không có liên lạc
bàn tính gì với Bắc… Các anh Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp đại biểu của
chúng tôi ra Bắc, chưa biết chừng nào về tới. Không chờ đợi được. Chờ đợi
thì bị động, bị động thì thua thiệt. Phải dám nghĩ, dám làm, dám độc lập tác
chiến, tin rằng trong một tình thế giống nhau, các đồng chí dầu ở phương
trời nào cũng tư tưởng và hành động như nhau, bởi vì chúng ta đều là những
người theo chủ nghĩa Marx-Lenin, theo một phương pháp tư tưởng giống
nhau, nếu trong việc làm cụ thể có khác nhau thì chắc là chỉ khác trong chi
tiết, trong chiến thuật là chính.
2. Uỷ ban khởi nghĩa được thành lập
Thường vụ Xứ uỷ Nam Kỳ họp ngày 15 tháng 8, nhận định tình hình,
xác định nhiệm vụ cần kíp.
Thời cơ khởi nghĩa tới rồi. Thời cuộc chắc sẽ chuyển biến nhanh, ta
phải kịp kíp sử dụng thời cơ lúc quân Nhật đã đầu hàng rồi, còn quân Đồng
minh thì chưa tới; các lực lượng chúng đã tổ chức nay đang tan rã, còn ta thì
đã tập hợp được những lực lượng to lớn, lực lượng này đã phát triển nhảy
vọt mấy tháng nay, tất nhiên phát triển nhảy vọt càng nhanh hơn nữa trong
những ngày tới.
Cho nên trong khi chờ đợi quyết định của cuộc hội nghị Xứ uỷ mở
rộng cho các tỉnh (và mấy đồng chí kỳ cựu giỏi lý luận hiện có mặt ở gần Sài
Gòn) thì chúng tôi chỉ định một Uỷ ban khởi nghĩa làm việc ngay để hoàn
thành sự chuẩn bị mà Xứ uỷ Nam Kỳ và Thành uỷ Sài Gòn đã bắt đầu từ
234
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
lâu, đặc biệt là từ sau đảo chính tháng 3 năm 1945. Cần lắm, và Uỷ ban khởi
nghĩa bắt tay vào việc ngay.
Uỷ ban khởi nghĩa (Nam Kỳ và Sài Gòn) gồm các thành viên:
1. Trần Văn Giàu.
2. Nguyễn Văn Trấn.
Cả hai đều đại diện cho Đảng Cộng sản.
3. Nguyễn Lưu
4. Huỳnh Văn Tiểng, đại diện cho Thanh niên Tiền phong.
Và hai người nữa.
Thường trực Uỷ ban khởi nghĩa là Huỳnh Văn Tiểng, cơ quan Thường
trực đóng ở số 6 Colombert.130
Trên thực tế thì, Tiểng và tôi đã bàn luận nhiều lần về những nét lớn
của kế hoạch khởi nghĩa ở Sài Gòn và ở Nam Kỳ, kế hoạch này phải được
trình cho Xứ uỷ một khi đã quyết định khởi nghĩa. Chẳng những bàn luận
mà đã đi vào thực hiện rồi, việc xây dựng lực lượng chính là nhằm một kế
hoạch khởi nghĩa, với cái lý là, chúng ta phải sẵn sàng, đủ sức để một khi
quân Nhật hạ khí giới, thì có thể tổng khởi nghĩa vài ba ngày sau ở Sài Gòn
và lục tỉnh. Nói một cách khác, vừa sau khi được thành lập, Uỷ ban khởi
nghĩa đã tính được rằng cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn có thể nổ ra và thành
công hôm 17, có trễ là 18 tháng 8 năm 1945, nghĩa là vừa đủ thời giờ thông
báo cho các đơn vị ở nội thành và ngoại thành, thông báo cho các tỉnh. Sau
đây là mười nét chính của kế hoạch khởi nghĩa:
1. Cuộc khởi nghĩa sẽ nổ ra dưới khẩu hiệu: “Chính quyền về tay Việt
Minh”(phỏng theo khẩu hiệu của Lenin –“tout le pouvoir aux Soviets”hồi
tháng Mười 1917). “Việt Nam hoàn toàn độc lập”, “Độc lập hay là chết”,
(sáng kiến của chúng tôi, về sau có người nói là “phỏng theo Cu Ba”không
phải! Lúc ấy chưa có cách mạng Cu Ba), “Việt Nam dân chủ cộng hoà muôn
năm”(theo Nghị quyết Trung ương tháng 11 năm 1939).
2. Khởi nghĩa phải nổ ra sau khi quân Nhật đầu hàng quân Đồng minh
và trước khi quân Đồng minh vào Việt Nam giải giáp quân Nhật. Chính
quyền cách mạng phải được thành lập xong trong khoảng đầu cuả thời gian
đó. Thời gian đó, thời gian giữa khi Nhật đầu hàng và đồng minh đã vào,
130 Colombert: Nay là đường Thái Văn Lung (song song với đường Hai Bà Trưng, nối
liền Lý Tự Trọng với Nguyễn Siêu).
235
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
chắc chắn sẽ là ngắn. Nếu chần chừ đến khi quân Đồng minh đã vào rồi, thì
sẽ không còn khởi nghĩa được, không thành lập được chính quyền cách
mạng nữa. Quân Đồng minh vào Sài Gòn sẽ là quân Anh nhưng chắc chắn là
có quân Pháp theo, và chắc chắn là Anh ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương.
Chúng nó sẽ tới bằng máy bay, tàu chiến, nhanh lắm! “Thời gian vật chất”
mà chúng ta có để khởi nghĩa, lập chính quyền là ngắn như vậy, nhưng
chúng ta đã chuẩn bị từ lâu, không có gì bất cập lắm.
3. Khởi nghĩa sẽ nổ ra trước ở Sài Gòn (Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia
Định - Tân Bình) có sự góp sức và rút kinh nghiệm của các tỉnh lân cận rồi
ngày sau và vài ba ngày kế đó sẽ khởi nghĩa đồng loạt ở toàn bộ Nam Kỳ.
Giành chiến thắng ở Sài Gòn là quyết định, là tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho khởi nghĩa ở các tỉnh gồm cả những tỉnh ở đó sức ta còn yếu. Ở các tỉnh,
lực lượng khởi nghĩa cũng phải tập trung giành tỉnh lỵ trước, tuy không phải
không có việc lấy một số quận tỉnh đồng thời hay trước đó nếu có đủ điều
kiện.
4. Nhật đầu hàng rồi thì đối tượng trực tiếp của khởi nghĩa cách mạng
là chính quyền bù nhìn, chính quyền này đang rệu rã và không có ý chí đề
kháng đáng kể. Cho nên cuộc khởi nghĩa của chúng ta không nhằm đánh vào
doanh trại, cơ quan Nhật mà phải tìm đủ cách để cho quân Nhật trung lập,
không can thiệp vào nội bộ của người Việt Nam. Bây giờ mà khởi nghĩa
nhằm đánh bại quân Nhật là đánh sai mục tiêu, và đánh cũng không nổi.
Mục tiêu là đánh vào bộ máy bù nhìn, giành chính quyền, mà như vậy ta sẽ
thành công nhanh chóng và không gặp khó khăn gì lớn lắm.
5. Lực lượng khởi nghĩa (ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định - Tân Bình)
là các đội xung phong vũ trang rất kiên quyết của Tổng Công đoàn và của
Thanh niên Tiền phong; cũng là các đơn vị quân bảo an đã ngả hẳn về phía
cách mạng rồi và đã được bổ sung cấp tốc bằng nhiều lực lượng mới của
Công đoàn và Thanh niên. Nông dân ngoại thành rất đông đảo là một sức chi
viện không thể thiếu. Quyền lãnh đạo thuộc khởi nghĩa là duy nhất và tập
trung, thuộc Đảng Cộng sản.
6. Đến ngày giờ khởi nghĩa do Xứ uỷ quyết định, Uỷ ban khởi nghĩa
sẽ dùng các đội xung phong của Công đoàn và Thanh niên với số đông
chừng từ 20.000 đến 40.000 nhưng rất kiên quyết, chiếm từ bên trong tất cả
các công sở (và một số các tư sở), chiếm tất cả các cơ quan yết hầu của bộ
máy cai trị, giao thông, thông tin truyền thanh, kinh tế tài chính, điện nước,
236
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
kho tàng (dinh khâm sai,131 toà đốc lý,132 dinh tham biện,133 sở bưu điện, đài
phát thanh, kho bạc, các ngân hàng, bến tàu biển, sân bay, các nhà tù, các
trại bảo an, các bót cảnh sát, các cầu chính, các ngả đường lớn ra vào Sài
Gòn, các quảng trường quan trọng). Dùng một bộ phận lực lượng vũ trang
có băng đỏ trên cánh tay, súng ống tốt, đi tuần tra các đường phố. Các cơ
quan ta chiếm tới đâu thì treo cờ đỏ sao vàng ở đó. Chương trình chiếm đóng
phải được hoàn thành trong vòng mấy giờ đầu của một đêm. Xong, thì ta
thượng lên ở ngả tư đại lộ Charner và đại lộ Bonard134 một cái đài mang tên
các uỷ viên của ban hành chánh lâm thời Nam Bộ do Xứ uỷ chỉ định, đồng
thời ta chuẩn bị một lễ đài ở đường Norodom,135 sau Nhà thờ lớn, đó là nơi
trung tâm cuộc mít tinh rất lớn của ngày mai sau đêm chiếm được các cơ
quan.
7. Lúc các đội xung phong bắt đầu chiếm các cơ quan, thì các đoàn
nông dân vũ trang từ ngoại thành cách Sài Gòn hai, ba chục cây số sẽ bắt
đầu tập trung rồi kéo vào Sài Gòn từ các ngả, có mặt ở trung tâm Sài Gòn từ
mờ sáng. Trong thành phố và ngoại ô phụ cận thì các đoàn thể nhân dân,
131 Dinh Khâm sai: Tòa nhà hiện nay là Viện bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh, ở đường
Lý Tự Trọng (góc đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa). Xây xong năm 1890 để triển lãm sản
phẩm Nam Kỳ, sau đó trở thành Dinh thống đốc (Pháp, rồi Nhật: đây chính là dinh
Minoda mà Hồi ký Trần Văn Giàu nói tới). Ngày 14-8-45, Nhật giao cho chính quyền
Trần Trọng Kim để làm Dinh Khâm sai (đại diện chính quyền ở Nam Bộ) cho Nguyễn
Văn Sâm. Mười một ngày sau, nó trở thành trụ sở của Ủy ban hành chánh lâm thời Nam
Bộ (mà Trần Văn Giàu làm chủ tịch). Khi quân đội Anh đổ bộ vào Sài Gòn, nó trở thành
trụ sở của Phái bộ Đồng Minh, rồi Cao ủy cộng hòa Pháp (tướng Leclerc đóng ở đây).
Năm 1947, thực dân Pháp trao cho Lê Văn Hoạch làm dinh thủ tướng Nam Kỳ Quốc.
Năm sau, Nam Kỳ Quốc nhường chỗ cho Quốc Gia Việt Nam, tòa nhà trở thành Dinh
tổng trấn, rồi Dinh thủ hiến (Trần Văn Hữu). Chính tại đây, ngày 9.1.1950, hàng ngàn
học sinh sinh viên Sài Gòn đã biểu tình, bị chính quyền Trần Văn Hữu đàn áp, học sinh
Trần Văn Ơn bị tử thương, dẫn tới “đám tang trò Ơn”khổng lồ ngày 12.1.1950 và cuộc
bãi khóa lan rộng ra Huế và Hà Nội. Bảo Đại đặt tên dinh này là Dinh Gia Long. Thời
Ngô Đình Diệm, nó trở thành Dinh Quốc khách, nhưng năm 1962, Dinh Độc Lập
(Norodom cũ) bị ném bom, phủ tổng thống phải chuyển về đây cho đến ngày anh em
Diệm Nhu bị lật đổ và giết chết (2.11.1963).
132 Tòa đốc lý: tòa thị sảnh (chính), nay là trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh.
133 Dinh tham biện: Sở thanh tra (Inspection), sau trở thành Tòa Hành chánh Gia Định,
nay là Ủy ban Nhân dân Quận Bình Thạnh.
134 Đại lộ Charner và đại lộ Bonard: Đại lộ Nguyễn Huệ và đại lộ Lê Lợi.
135 Đại lộ Norodom: trở thành đại lộ Thống Nhất, nay là đại lộ Lê Duẩn.
237
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
công đoàn, thanh niên, tập trung trong nội thành từ quá nửa đêm ở những
nơi nhất định. Đến sáng, các tổ chức quần chúng ở nội thành và ngoại ô, ai
theo đường nấy, kéo về tập trung ở đại lộ Norodom. Đoàn nào có chỗ nấy đã
quy định trước cho từng địa phương. Phải huy động cho được một cuộc biểu
tình tuần hành có vũ trang dưới hiệu cờ đỏ sao vàng, của từ bảy, tám trăm
ngàn người đến một triệu. Các khẩu hiệu, cờ băng phải tràn ngập thành phố,
khẩu hiệu đó do Xứ uỷ định, nói lên ý chí của nhân dân khởi nghĩa giành tự
do cho tất cả chính quyền về tay Việt Minh, kiên quyết chống xâm lược thực
dân. Cuộc tuần hành bắt đầu từ Norodom bằng các ngả đường, chủ yếu là
đường Catinat136 sẽ đến trước dinh đốc lý thành phố ở đó có danh sách Uỷ
ban hành chánh lâm thời Nam Bộ được công bố, đại biểu Đảng Cộng sản
Đông Dương và đại biểu Mặt trận Việt Minh sẽ kêu gọi đồng bào ủng hộ
chính quyền cách mạng.
8. Mỗi tỉnh phái lên Sài Gòn một đoàn tham gia cuộc biểu tình khởi
nghĩa vũ trang, rút kinh nghiệm và nhận chỉ thị mới nhất để về làm khởi
nghĩa ở địa phương mình. Đặc biệt là ba tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Bà
Rịa phải cố gắng đưa về Sài Gòn những đoàn đồng bào Mạ, Stiêng có mang
theo cung, ná nên giữ ăn mặc kiểu miền núi rừng bình thường. Sài Gòn thì
động viên đông đảo Hoa kiều đi biểu tình. Cũng cố gắng đưa một vài chục
xe cam nhông đồng bào ở Phnôm Pênh về cho kịp sáng ngày biểu tình khởi
nghĩa.
9. Bắt giữ một số rất ít nhà cầm quyền bù nhìn tiêu biểu và một số
Việt gian nguy hiểm nhằm ngăn chặn mọi sự hoạt động của chúng chống lại
khởi nghĩa cách mạng.
10. Bảo đảm trật tự an ninh trong thành phố, ngừa mọi sự cướp giật và
trả thù riêng, ngừa mọi hành động đánh đập, giết hại người Pháp và người
ngoại quốc khác. Bảo đảm hoàn toàn cho điện nước được duy trì, cho các
nhà thương được hoạt động liên tục. Bảo đảm “ưu thế tinh thần”(supériorité
morale) của lực lượng khởi nghĩa.
Kế hoạch thì như vậy, không phải khó khăn lâu lắc gì lắm để làm kế
hoạch này. Chắc cũng không khó khăn gì to lớn lắm để điều động lực lượng
thực hiện kế hoạch, bởi vì chúng ta đã thử hoạt động nhiều lần rồi, và bởi vì
ta tính chiếm Sài Gòn với lực lượng nội thành Sài Gòn và ngoại ô là chính.
Nhưng còn phải có Nghị quyết khởi nghĩa của Xứ uỷ, được triệu tập Hội
nghị tại Chợ Đệm tối ngày 16 tháng 8.
136 Catinat: đường Tự Do, nay là đường Đồng Khởi.
238
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
3. Hội nghị Chợ Đệm lần thứ nhất
(Tối 16 rạng ngày 17 tháng 8)
Hội nghị Xứ uỷ lần này họp ở Chợ Đệm. Mấy lần trước họp ở Phú
Lạc. Phú Lạc do Bảy Trân lo tổ chức hội nghị; Chợ Đệm có Bảy Trấn lo
việc ấy. Hai ông Trân, Trấn đều là thứ bảy, đều là hai nhân vật của phong
trào cộng sản thời Mặt trận bình dân. Bảy Trấn là một ông tú trường Pétrus
Ký, làm báo Le Peuple; sau lên rừng miền đông Nam Kỳ, có lúc lên tới rừng
miền nam Trung Kỳ, ở núi Laba, động Bàn Tiên, tỉnh Lâm Đồng. Ở đó có
tiếng đồn là có xuất hiện một “đạo”mới, giáo chủ và tín đồ chỉ có 3 người:
một là đại ca Hành (tài bắn như Dương Bá Dương), nhị ca Tươi là người
Tân An, quê tôi, và tam ca là Bảy Trấn. Họ uống trà chờ thời, chờ khởi
nghĩa là chờ cơ hội về Sài Gòn sau khi lánh mặt. Trấn là “Laba sơn, Bàn
Tiên động, trà đạo sư thúc”. Trấn về Sài Gòn gặp tôi hồi 1944, và từ đó
chúng tôi cùng hoạt động.
Ngày trước Chợ Đệm thành danh nhờ vựa bán đệm. Chiếu dệt bằng
cây lát; đệm, đan bằng cây bàng; chiếu để ngồi, nằm, dọn mâm; đệm để phơi
lúa, làm nóp, làm cá ròn. Đệm ở các vùng Đồng Tháp Mười, chở đi Sài Gòn
- Chợ Lớn thì thường vựa ở Chợ Đệm nổi tiếng nhất Nam Kỳ, nổi tiếng như
nem Thủ Đức, như cháo đầu cá lóc Chợ Đồn.
Từ 1930, thì Chợ Đệm còn nổi tiếng vì những cuộc biểu tình cách
mạng của nhân dân vùng “Tam Tân”(tức là ba xã: Tân Kiên, Tân Nhựt, Tân
Tạo). Chợ Đệm như Bà Hom, Bà Điểm, Hóc Môn, Củ Chi, là một khâu
mạnh trong vành đai đỏ của thành phố Sài Gòn. Chợ Đệm là một căn cứ tốt
của Xứ uỷ Nam Kỳ mà Bảy Trấn là một thành viên Xứ uỷ được chỉ định phụ
trách mấy tỉnh miền Đông và một số cơ sở, công tác đặc biệt ở thành phố.
Bây giờ họp hội nghị, dầu là hội nghị lớn, không còn sợ ai bắt nữa. Có
bạn nói: bây giờ mình không bắt ai thì thôi, chớ ai dám bắt mình? Tuy vậy
cũng phải đề phòng. Địch nó ném một quả lựu đạn vào cuộc họp thì cũng
rầy lắm chớ! Cho nên Bảy Trấn xếp cho hội nghị họp ở một cái nhà bên kia
chợ, từ chợ phải qua đò, đi một khúc ở lộ, vô một đoạn bờ hai bên trống
trơn, vào vườn, qua một cái nhà ngói lớn, sau cái nhà lớn là cái nhà nơi bọn
tôi họp. Sau nhà, nhiều dừa nước, có rạch nhỏ, nếu cần thì tạm lánh đi hoặc
rút lui an toàn. Canh gác dễ. Canh gác cho có chừng vậy thôi, chớ xung
quanh mười người thì đã hết chín người cảm tình cộng sản rồi.
239
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Từ Sài Gòn xuống Chợ Đệm mất chừng một giờ đạp xe đạp. Xe ngựa,
xe hơi đều sẵn. Có việc gì xảy ra quan trọng ở Sài Gòn thì bọn tôi biết ngay,
đối phó kịp. Đại biểu lục tỉnh lên họp cũng tiện, khỏi phải đi vòng vo, khỏi
phải đổi xe cộ.
Nguyễn Văn Tạo và hai đồng chí cộng sản Pháp
(ảnh chụp năm 1927 ở Paris).
Dự hội nghị có đông đủ Xứ uỷ viên, một số đồng chí Tỉnh uỷ của các
tỉnh trọng yếu và đặc biệt là có mời ba đồng chí đàn anh là Nguyễn Văn Tạo,
Nguyễn Văn Nguyễn và Bùi Công Trừng. Ba đồng chí này là khách mời
nhưng được công nhận là có quyền thảo luận và biểu quyết. Anh Tạo ở Côn
Lôn về, ở thị xã Rạch Giá, mượn vốn lập tiệm bán nước mắm để cho gia
đình sống qua ngày tháng: một nhân tài làm báo mà chôn chân ở đất cá mắm
khoai tràm, hai ba ngày mới đọc được một tờ báo hai trang. Tụi tôi có cho đi
rước anh từ đầu năm 1945, mà anh hoặc chưa tin cậy hoặc không muốn lãnh
nhiệm vụ gì trong một tình thế còn lắm khó khăn. Anh chỉ muốn làm việc
hợp pháp như trước. Anh ít công tác thực tế; nên tạm chịu cảnh “an trí”, để
bút khô queo; anh mới lên Sài Gòn chừng mươi ngày trước cuộc hội nghị
bàn về khởi nghĩa. Tạo nguyên là Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp,
anh vào Đảng Pháp vài năm trước tôi, tôi là đàn em của Tạo; Tạo đã có vinh
dự tham dự đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VI như là một thành viên của
đoàn đại biểu Pháp. Ở đại hội này bài tham luận của anh (lúc đó lấy bí danh
là An) kịch liệt phản đối cái ý kiến cho rằng ở Đông Dương chưa có giai cấp
công nhân, chưa có phong trào công nhân cho nên chưa tổ chức Đảng Cộng
240
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
sản được. Tạo chứng minh rằng ở Đông Dương giai cấp công nhân đã hình
thành và đã đấu tranh; anh yêu cầu Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản
Pháp phải lo liệu giúp những người cách mạng Đông Dương, lập thành Đảng
Cộng sản. Tạo được bầu vào ban Trung ương của Đảng Cộng sản Pháp, anh
bị trục xuất khỏi nước Pháp (sau tôi gần 2 năm). Về Sài Gòn, anh làm báo
công khai, đắc cử hội đồng thành phố Sài Gòn. Viết báo giỏi. Diễn thuyết
cũng giỏi. Hồi thời làm báo Le Peuple, nhất là trong dịp bầu cử hội đồng
quản hạt 1939, anh có xung khắc khá mạnh với Lê Hồng Phong. Chân đi
khập khiễng. Tạo không xông xáo trong công tác quần chúng, anh chỉ muốn
làm báo là chính. Nhưng lý luận khá.
Nguyễn Văn Nguyễn, dân tỉnh Mỹ Tho, người nhỏ thó, vẻ văn nhân.
Anh đã sớm vào Thanh niên cách mạng đồng chí hội cũng như Dương Văn
Phúc, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Tây. Hồi thời 1936-1939, anh làm báo
tiếng Tây, tiếng ta như Tạo, tôi chú ý theo dõi, thấy tay này viết văn hay, có
duyên, làm phê bình văn học sắc sảo. Nguyễn muốn làm một nhà văn cộng
sản hơn làm một chiến sĩ cách mạng, nên từ chối lời của Khuy, Phúc mời
anh vào tỉnh uỷ Tiền Giang. Phúc phàn nàn thái độ đó của Nguyễn, nhưng
tôi thì cho rằng để Nguyễn làm văn học hơn là mời anh hoạt động quần
chúng. Nhưng sau đảo chính Nhật, anh lên Sài Gòn tham gia công tác với
bọn tôi, giúp giảng bài cho sinh viên, thanh niên cho công nhân nữa. Giảng
kể cũng xuất sắc.
Bùi Công Trừng (1905-1986)
241
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Bùi Công Trừng là một “cây”văn chương và lý luận, người Huế; vào
Nam làm báo đâu hồi thời 1925, 1926 với Trần Huy Liệu; cùng Trần Huy
Liệu cùng một số anh em trẻ khác, lập Thanh niên đảng công khai, một thời
nổi tiếng ở Sài Gòn. Rồi đi Pháp, đi Nga, học ở trường Đại học Đông
Phương một lớp với Trần Phú, Nguyễn Văn Trân. Học giỏi. Năm 1930,
Trừng về Sài Gòn, làm tuyên huấn Trung ương Đảng. Vào tù, dạy lý luận
cho nhiều anh em. Được ân xá năm 1936, hoạt động báo chí, có nhiều bài
hay về lý luận văn học nghệ thuật, hợp tác với Hải Triều. Sau đảo chính
Nhật, lấn xấn ở Huế, anh không làm được việc gì và cũng không làm gì tích
cực, tuy Huế khi ấy là trung tâm chính trị sôi nổi, thu hút đến cả Tạ Thu
Thâu –đối thủ có cỡ của Bùi Công Trừng. Cuối cùng, anh lại vào Sài Gòn
mới mấy ngày rày, lúc quân Nhật đã thua, nước Nhật đã hàng. Nghĩa là anh
Trừng xa thực tế Nam Kỳ và Sài Gòn mười lăm năm nay, nhưng tiếng tăm
về lý luận và sự trung thành của anh với chủ nghĩa thì không một ai nghi
ngờ. Anh hợp tác ngay với bọn tôi. Riêng tôi hy vọng là Trừng sẽ có thể làm
tiếp cái việc thống nhất của Đảng mà tôi và Giáp đều không thành công.
Trừng chưa kịp làm gì về nhiệm vụ tế nhị và quan trọng đó, thì đã đụng phải
vấn đề lớn lao, cần kíp, khẩn trương là khởi nghĩa giành chính quyền.
Chúng tôi có nghĩ tới mà không mời Dương Bạch Mai –đảng viên kỳ
cựu của Đảng Cộng sản Pháp, về Sài Gòn làm báo La Lutte, Le Peuple,
L’Avant Garde, đắc cử hội đồng thành phố, viết báo được, diễn thuyết cũng
được, tính sôi nổi hết sức. Tuyệt đối trung thành với Liên Xô là một đặc sắc
của Mai. Đồng chí này đứng về phía “Giải Phóng”lên án chúng tôi. Mời
đồng chí họp thì hội nghị sẽ thêm sóng gió, không ích gì. Vả lại, mấy tháng
nay, từ ở Côn Lôn, đồng chí về quê ở Long Điền (Bà Rịa), ngày nào cũng
như ngày nào, giết thời giờ bằng bài tứ sắc. Bọn tôi tính sẽ mời Mai tham
gia chính quyền sau khi khởi nghĩa thành công, thì sẽ tiện hơn là mời anh
bàn việc khởi nghĩa. (Hãy ghi rằng hồi trước khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, Mai
được Xứ uỷ đề nghị làm thủ tướng chính phủ cách mạng lâm thời).
Thế là hội nghị Chợ Đệm có thêm ba đồng chí khách được quyền thảo
luận và biểu quyết: Tạo, Nguyễn, Trừng. Anh em không ai phản đối, anh em
ai nấy đều hoan nghênh lời mời của Thường vụ Xứ uỷ. Riêng tôi đặt nhiều
hy vọng vào Trừng, một nhà bác học mác-xít; tôi chắc anh ấy sẽ hơn ai hết
ủng hộ những đề nghị của tôi, của Thường vụ Xứ uỷ.
Ở đây phải nói rằng, việc mời ba anh tham dự hội nghị Xứ uỷ Nam
Kỳ mở rộng là đúng, phải đạo lý nữa. Ba anh già kinh nghiệm, lý luận giỏi,
chắc góp được nhiều ý sáng. Phần thì tôi có cái “phong tục”hơi cũ, là kính
nể bậc đàn anh, làm gì lớn cũng đều tìm cách hỏi ý kiến các bậc đàn anh đó.
242
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Tôi không điều tra thăm hỏi trước xem tình ý các anh ra sao về vấn đề khởi
nghĩa này; đáng lý bàn bạc trước sau rồi mới mời để cho việc thêm chạy
nhanh, tốt, nào dè sự có mặt không nhất thiết phải có của các anh lại là một
trở ngại lớn quá chừng.
Vấn đề chính của hội nghị là quyết định khởi nghĩa, chỉ định chính
quyền cách mạng lâm thời.
Hội nghị bắt đầu từ chập tối ngày 16 tháng 8, anh em ngồi trên đệm
trải dưới đất.
Tôi đại chủ quan, cho rằng nội đêm nay hội nghị sẽ xong, hội nghị sẽ
đồng ý khởi nghĩa ở Sài Gòn nổ ra ngày 17 hay 18 là trễ nhất, rồi một hai
ngày sau Sài Gòn là khởi nghĩa ở tất cả các tỉnh khác của Nam Kỳ. Việc chỉ
định một danh sách Uỷ ban hành chánh lâm thời thì cũng dễ dàng thôi. Tôi
tính trước là, gần sáng ngày 17, một nồi cháo gà sẽ kết thúc hội nghị, các đại
biểu ai về vị trí nấy. Ai về tỉnh nấy thi hành quyết định khởi nghĩa với một
tinh thần chiến thắng cao nhất. Ở Sài Gòn thì mọi sự chuẩn bị đã sẵn, chỉ cần
“bấm nút”thì xong mau. Tôi đi họp ở Chợ Đệm thì ở Sài Gòn hôm sau
Huỳnh Văn Tiểng làm thường trực ngồi chờ tại chỗ, liên lạc chặt chẽ với các
đội xung kích.
Tôi báo cáo chủ trương, kế hoạch của Thường vụ và Uỷ ban khởi
nghĩa, đại ý là:
1. Ngay từ khi Đảng Cộng sản mới ra đời (1930), thì, trong
tập “Luận cương chính trị”đã có mục nói rõ về sự cần thiết, đến ngày
nào đó, như trong một cuộc chiến tranh đã qua, sẽ ra nổ ra cuộc bạo
động cách mạng giành chính quyền. Đại hội Đảng lần thứ nhất (1935)
cũng nói như vậy. Cuối năm 1939, liền sau khi chiến tranh thế giới lần
thứ hai bắt đầu, hội nghị Trung ương có quyết định rằng Đảng Cộng
sản Đông Dương phải thừa cuộc chiến tranh thế giới này mà làm cuộc
cách mạng giành độc lập dân tộc.
2. Khởi nghĩa Nam Kỳ cuối năm 1940, là một cuộc bạo
động non; thất bại không tránh khỏi; tinh thần chiến sĩ thì cao mà kết
quả lại tai hại hết sức lớn. Nhưng sau đó, chúng ta đã khôi phục cơ sở
và hệ thống Đảng ở Nam Kỳ. Và theo đường lối của hội nghị Trung
ương cuối 1939, chúng ta đã nỗ lực, khẩn trương chuẩn bị lực lượng
nhằm đón thời cơ, làm khởi nghĩa. Hiện chúng ta đã tập hợp được lực
lượng mạnh nhất từ trước tới nay và mấy ngày rày một Uỷ ban khởi
nghĩa đã được thành lập và đã làm việc có kết quả mong muốn. (Tôi
báo cáo về tương quan lực lượng).
243
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
3. Nay, thời cơ đã chín muồi. Pháp thì đã bị Nhật lật đổ từ 9
tháng 3. Nhật thì vừa bị Hồng quân Liên Xô và Mỹ đánh bại. Nhật đã
đầu hàng. Quân Nhật ở xứ ta mất hết tinh thần, không còn chút ý chí
nào bám vào Đông Dương nữa. Tinh thần cách mạng của nhân dân ta
lên cao hơn bao giờ hết, các chiến sĩ của ta đang hăng hái, quyết tâm,
chờ lệnh. Chính quyền ngụy và phe thân Nhật hoang mang đến cực
độ. Chúng ta có sức mạnh, có thời cơ để làm ngay một cuộc khởi
nghĩa cách mạng chắc chắn thành công ở Sài Gòn và trên toàn bộ hai
mươi tỉnh Nam Kỳ.
4. Cuộc khởi nghĩa của chúng ta phải nổ ra trong ngày gần
đây nhất trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương (ở Nam thì
quân Đồng minh đó là quân Anh, chắc có quân Pháp theo sau, còn ở
Bắc, quân Đồng minh đó là quân Tàu Tưởng Giới Thạch). Ta phải
khởi nghĩa thành công, lập chính quyền cách mạng xong xuôi, để khi
quân Đồng minh vào thì họ đứng trước một cái thực tế là Việt Nam đã
có chủ, chủ đó chính là nhân dân Việt Nam cách mạng; họ đứng trước
một cái thực tế là nước Việt Nam đã độc lập và thống nhất, do những
lực lượng đã đi với Đồng minh trong chiến tranh bây giờ nắm vững
chính quyền. Nếu chúng ta chậm trễ, thì khi quân Đồng minh vào rồi
thì sẽ không còn khởi nghĩa được nữa.
5. Hiện nay, chúng ta ở đây không biết các đồng chí ở Bắc,
ở Trung đã làm gì, đang làm gì, có làm như ta không? Nhưng lấy lý
mà xét thì chắc họ cũng tính làm khởi nghĩa như chúng ta. Đứng trước
một tình huống giống nhau thì bất kỳ ở đâu, những người cộng sản
cũng tư tưởng và hành động như nhau. Ta không sợ lẻ loi, chỉ sợ ta tới
trễ hay, tệ hơn nữa, sợ ta vắng mặt trong tổng khởi nghĩa.
Rồi tôi trình bày kiến nghị của Uỷ ban khởi nghĩa ta có thể khởi nghĩa
đêm 17 (tối ngày mai) hoặc nếu trễ là đêm 18 (tối ngày mốt), mọi việc đều
đã được sắp xếp xong xuôi gần hết rồi, các chiến sĩ đã sẵn sàng, chỉ còn một
việc nữa là “bấm nút”thì nổ, nghĩa là thông báo hiệu lệnh cho các đơn vị ở
nội thành và ở ngoại thành (hai tỉnh Gia Định- Chợ Lớn), việc thông báo này
thì nhanh chóng thôi, anh em lãnh đạo ở hai tỉnh quanh thành cũng đã sẵn
sàng rồi.
Tôi trình bày tiếp kế hoạch khởi nghĩa của Uỷ ban khởi nghĩa và yêu
cầu hội nghị: Đồng ý quyết định khởi nghĩa và chỉ định Uỷ ban hành chánh
lâm thời Nam Bộ, không quên nhấn mạnh lần cuối cùng là tình hình buộc
chúng ta phải có một quyết định dứt khoát, mau lẹ và chúng ta nhất định sẽ
thành công rực rỡ trong cuộc khởi nghĩa này.
244
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Mấy anh em chất vấn về tình hình nhất là về lực lượng cách mạng, về
các đảng phái, về dự đoán biến chuyển của thời cuộc. Tôi trả lời xuôi chảy.
Tôi tin chắc rằng toàn bộ hội nghị đồng ý với báo cáo và chuẩn bị kiến nghị,
chỉ còn một chuyện phải thảo luận có thể hơi dài là lựa người chấp chánh.
Nhưng bất ngờ cho tôi và cho đa số các đồng chí dự họp, hai anh Bùi Công
Trừng và Nguyễn Văn Nguyễn đặt câu hỏi “trái cẳng ngỗng”, anh Nguyễn
Văn Tạo thì đêm đó không nói gì.
Trừng, Nguyễn nói:
- “Trong tình hình thế giới và tình hình Việt Nam hiện nay, liệu Đảng
ta, dân ta có cần, có nên khởi nghĩa giành chính quyền không? Trong tình
hình hiện nay, có thể nào làm cuộc khởi nghĩa thành công trót lọt hay
không? Hay là bây giờ ta phải đi một ngõ khác, làm một cách khác, một
ngõ, một cách không nguy hiểm mà về lâu dài thì chắc ăn hơn?”.
Hai anh đều bài bác sự cần thiết phải khởi nghĩa, đều phủ nhận khả
năng khởi nghĩa thành công. Họ đề nghị một con đường không bạo động,
con đường hoà bình, con đường đấu tranh bằng chính trị để đi lần đến dân
chủ, độc lập.
Tôi chắc chắn là các anh Trừng, Nguyễn không có bàn trước với nhau,
nhưng cả Trừng lẫn Nguyễn đều đồng thanh bảo rằng: khởi nghĩa hiện nay
là phiêu lưu; cho dầu ta có giành chính quyền đi nữa, đó chỉ là tạm thời, rất
tạm thời thôi. Có những khi có thể giành chính quyền được mà không nên
làm khởi nghĩa; hồi 1871, Marx đã khuyên nhân dân lao động Paris đừng
khởi nghĩa (tất nhiên là khi Công xã Paris được thành lập rồi thì Marx hết
sức ủng hộ chính quyền vô sản đó), Marx khuyên đừng khởi nghĩa là vì một
chính quyền cách mạng ở Paris trong điều kiện lúc ấy sẽ bị kẻ thù tiêu diệt
và chiến sĩ cách mạng công xã sẽ bị phe phản cách mạng tàn sát hết sức dữ
dội, phong trào cách mạng sẽ sụt xuống lâu dài. Trong tình hình trước mắt
của đất nước ta, ít hôm nữa thôi, quân Đồng minh sẽ vào Đông Dương, để
giải giáp quân Nhật, mà nói Đồng minh đây chắc không phải là Liên Xô,
Tàu đỏ, mà là Tàu Tưởng ở miền Bắc, là Anh ở miền Nam, mà sau lưng
Anh, bên cạnh Anh, thì có Pháp; Anh-Pháp sẽ dùng vũ lực tiêu diệt cách
mạng, lực lượng cách mạng sẽ bộc lộ ra hết, sẽ bị tiêu diệt hết như chiến sĩ
Công xã Paris bị phe Versailles tiêu diệt, tổn thất của ta sẽ nhiều lần nặng
hơn tổn thất của khởi nghĩa 1940; nếu vậy thì chừng nào mới khôi phục
được phong trào? Nhớ 1940 không? Biết 1871 không? Chúng ta đều biết,
đều nhớ, đồng chí Giàu hơn ai cả. Cho nên bây giờ mà chủ trương khởi
nghĩa là phiêu lưu, là hết sức phiêu lưu. Ta thắng bù nhìn Trần Trọng Kim
thì chắc được, nhưng ta làm sao đương đầu nổi với Anh, Pháp? Mà Anh,
245
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Pháp là hai đế quốc thực dân lớn nhất, già nhất, chúng nó ủng hộ nhau chống
cách mạng ở thuộc địa. Ta phải “ngó thấy xa hơn ngày mai”. (Câu của
Trừng nói là: phải thấy xa hơn cái chóp mũi của mình; nói tiếng Pháp: il faut
voir plus loin que le bout de son nez).
Tôi theo dõi nét mặt của một số anh em, thấy vài ba người có chiều
nao núng. Lý luận của Trừng, Nguyễn cứng quá và không phải không có căn
cứ nào.
Nguyễn Văn Nguyễn (1910-53)
Trở về trên thì Trừng nói là chính. Nguyễn phụ hoạ, xem chừng như
hai anh đã ăn ý thảo luận với nhau từ hồi nào. Nhưng không phải; họ chỉ
cùng chủ trương. Bây giờ thì Nguyễn ra quân, Trừng tiếp ứng. Nguyễn nói:
- Hiện nay bên Pháp có một chính phủ còn tả hơn cả chính phủ Léon
Blum về mặt thành phần. Trong chính phủ De Gaulle, một chính phủ kháng
chiến chống phát xít, có đảng viên cộng sản làm Bộ trưởng, Tổng Bí thư
Đảng Cộng sản làm Phó Thủ tướng. Chính phủ Pháp đã hứa hẹn và tuyên
bố sẽ cho Đông Dương tự trị. Dĩ nhiên là ta không bằng lòng với cái tự trị
đó, nhưng đó cũng là một bước tới trước, một cái mốc để ta vịn vào đó mà
đấu tranh, Đảng Cộng sản Pháp lớn mạnh sẽ ủng hộ ta như trước kia, hơn
trước kia, để ta tiến lên tự trị, độc lập. Đó là con đường chắc chắn nhất, tuy
chậm mà tránh được phiêu lưu, tránh được sự đàn áp tiêu diệt của địch sau
cuộc khởi nghĩa hoặc thất bại ngay từ đầu hoặc chỉ thành công trong một
lúc thôi. Con đường hoà bình là chậm mà chắc.
246
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Một số đồng chí (tôi nhớ đâu là Tây, Phúc, Khuy, Xuân) rộ lên hỏi:
“Chắc không?”. Chắc gì cái chính phủ Liên hiệp kháng chiến ở Paris đứng
vững lâu dài để cho ta đi lên tự trị rồi từ tự trị lên độc lập? Chẳng thấy nội
các Blum sống có mấy tháng rồi nhường chỗ cho nội các Chautemps, rồi
Chautemps bị Daladier thay thế hay sao? Sao lại không nghĩ được rằng,
đặng chim bỏ ná, đặng cá quên nôm, bọn tư bản Pháp sẽ đuổi các ông bộ
trưởng cộng sản ra khỏi chính phủ, quay qua một chính sách hữu, phản
động? Hứa hẹn của De Gaulle trong chiến tranh thứ hai hơn gì hứa hẹn của
A. Sarraut trong chiến tranh thứ nhất? Rồi thì sẽ khỏi lỗ vỗ vế cả thôi. Đế
quốc thì làm sao mất đi bản chất thực dân được! Con đường hoà bình đi đến
độc lập là ảo tưởng. Không khéo ta đi vào đường lối Phan Châu Trinh, tệ
hơn nữa là đi vào vết xe của Bùi Quang Chiêu, của Phạm Quỳnh. Không
chịu khởi nghĩa, tránh dùng vũ trang, thì đó là gì nếu không phải là rơi vào
chủ nghĩa cải lương mới? (Lúc ấy tôi dùng chữ “néo-réformisme”). Chỉ có
khởi nghĩa thì mới được độc lập tự do. Khởi nghĩa thành công rồi mới có cái
thế để nói chuyện với chính phủ Paris. Trong việc giành độc lập tự do, tiếng
nói có hiệu nghiệm hơn hết là tiếng nói của súng đạn, của bạo lực quần
chúng.
Cú đánh trả này kể cũng khá trúng, khá đau. Mấy anh em phụ hoạ với
tôi. Tây, Thạch, Kỉnh đều khẳng định rằng, chính phủ kháng chiến Liên hiệp
ở Pháp chỉ là tạm thời, nước Pháp vẫn là đế quốc thực dân, không thể trông
cậy. Nhưng xem chừng như là cái ý kiến “chủ bài”để chống khởi nghĩa
(quân Đồng minh sẽ can thiệp, đàn áp khởi nghĩa, đánh tan chính quyền cách
mạng, ta không đánh bại nổi, mà chỉ có thể tan vỡ mà thôi, cuộc phiêu lưu sẽ
dẫn đến thoái trào dài), con chủ bài đó vẫn ám ảnh nhiều đồng chí. Tôi vào
cuộc tranh luận biết rằng mình được “vũ trang”bằng lịch sử cuộc khởi nghĩa
tháng Mười Nga ở Petrogad, lịch sử ấy, ai thì không rõ chứ Trừng thì thuộc
lắm rồi, gợi đến đó thì anh hiểu ngay, hiểu hơn tôi nữa là khác. Tôi nhấn
mạnh vào mấy ý sau đây:
- Làm gì có con đường hoà bình dẫn đến độc lập? Làm gì có chế độ xã
hội chủ nghĩa mà không cần phải khởi nghĩa vũ trang lập chính phủ cách
mạng của công nông? Theo lời của Stalin, đến khi nào hệ thống các nước xã
hội chủ nghĩa bao vây các nước tư bản thì khi ấy mới có khả năng cách
mạng vô sản không cần bạo lực nữa, mà phải đến khi ấy mới có. Quan niệm
của Đảng ta trước nay là, nếu không dùng bạo lực cách mạng, nếu không
dùng khởi nghĩa vũ trang thì đế quốc thực dân sẽ tiếp tục thống trị nhân dân
ta bằng bạo lực phản động. Có lẽ, đến khi bạo lực cách mạng, vũ trang khởi
nghĩa của dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa thành công ở nhiều nơi và sức
ủng hộ quốc tế của cách mạng giải phóng ở thuộc địa lớn mạnh, đều khắp,
247
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
cho đến nỗi đế quốc thực dân không đàn áp xuể, không thể duy trì quyền lợi
nếu không bỏ hình thức cai trị thuộc địa thì khi ấy ở xứ này, xứ nọ, chúng
mới chịu trao trả “độc lập”cho dân tộc thuộc địa chăng? Chớ trước mắt thì
không có khả năng đó. Vả lại nếu có trao lại quyền “tự trị”thì bọn chủ đế
quốc sẽ trao cho đám tôi tớ tư bản địa chủ bản xứ lâu nay đã được chúng
thuần dưỡng, thì cái đó làm sao gọi được là tự trị, tự chủ, độc lập được? Mà
chúng ta, những người cách mạng vô sản, có thêm những “của quý”ấy bao
giờ? Chương trình Brazzaville, tuyên bố Alger của De Gaulle đều là bịp;
ngốc ngác lắm mới tin vào hứa hẹn của đế quốc. Nước Pháp sau chiến tranh
vẫn còn là một nước đế quốc, một đế quốc bị tàn phá bởi chiến tranh nên
càng cần phải có thuộc địa để xây dựng lại, một đế quốc bị nhục nhã vì
chiến bại nên càng cần phải củng cố quyền lực ở các thuộc địa rải rác trên
khắp thế giới, để tỏ ra mình vẫn là cường quốc, oai phong lẫm liệt như trước
đây.
- Vấn đề cấp bách được đặt ra trước mắt chúng ta hiện giờ là: chúng ta
có thời cơ và lực lượng để khởi nghĩa thắng lợi, để lập chính quyền cách
mạng nhân dân do Đảng lãnh đạo thì chúng ta phải khởi nghĩa. Khởi nghĩa
hay chần chờ? Hay đừng khởi nghĩa? Thời cơ, không phải năm nào cũng có;
từ chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) đến giờ, non già 30 năm mới có
một lần. Không thể bỏ qua, nhất là khi ta có lực lượng để giành chính quyền.
Ta không chịu khởi nghĩa thì ta sẽ trả lời thế nào với đồng chí ta, với đồng
bào ta; họ sẽ nói rất đúng là ta ngôn hành bất nhất, ai theo ta nữa, ta nói ai
nghe? Bây giờ mà không chịu khởi nghĩa giành chính quyền thì ấy là từ bỏ
vai trò tiên phong cách mạng của Đảng, là giẫm lên nhiệm vụ lịch sử của
Đảng, nói một cách huỵch toẹt ra, là phản bội chủ nghĩa Lenin, phản bội
cách mạng, là đầu hàng chủ nghĩa quốc gia cải lương.
- Còn như bảo rằng, một thời gian ngắn sau khi ta khởi nghĩa giành
chính quyền, thực dân Pháp sẽ trở lại, ra sức đánh đổ chúng ta, đánh đổ
chính quyền nhân dân, chinh phục lại nước ta một lần nữa, tiêu diệt các lực
lượng cách mạng, tàn sát nhiều lần hơn từ hồi cuối 1940, thì chúng ta hãy
chú ý rằng:
Thứ nhất, không một ai trong chúng ta, trong số những đồng chí chủ
trương khởi nghĩa, khờ khạo cho đến nỗi yên chí rằng ra khởi nghĩa giành
chính quyền, tuyên bố Việt Nam độc lập thống nhất rồi thì, khi quân Anh,
quân Pháp ở xứ ta, họ sẽ “chịu chết”trước tình thế “đã rồi”sẽ công nhận cái
thực tế ấy. Không ai khờ khạo đến thế. Ai cũng biết trước rằng Anh sẽ ủng
hộ Pháp, Pháp sẽ hết sức cố gắng để trở lại làm chủ Đông Dương cho dầu là
bằng võ lực.
248
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Thứ nhì, vậy thái độ ta phải thế nào? Có thể có hai, một là ta biết
trước địch mạnh ta yếu, ta không làm khởi nghĩa nữa, mà chỉ tranh đấu đòi
tự do dân chủ và cải thiện dân sinh mà thôi, (như hồi thời kỳ 1936-1938), hai
là nhanh chóng khởi nghĩa giành chính quyền, lập nhà nước độc lập của Việt
Nam, đến khi Anh vào, Pháp trở lại, chúng phải bị bắt buộc kể tới chính
quyền dân tộc, ta có cái thế để mà nói chuyện với họ, ta có thời giờ (tuy
ngắn) để mà tổ chức thêm lực lượng chính trị và vũ trang, hễ nó đánh thì ta
nghinh chiến, có khi vừa nói chuyện vừa đánh, ta đánh càng mạnh thì nói
chuyện càng dễ; bọn Pháp chưa được chuẩn bị nhiều và đủ trong lúc đầu thì
ta càng có điều kiện để chuẩn bị thêm lực lượng kháng chiến.
Thứ ba, ta giành chính quyền rồi, ta bắt đầu chuẩn bị kháng chiến, thì,
khi trở lại, dễ gì thực dân Pháp có thể bắt bớ chúng ta, tiêu diệt chúng ta?
Đâu có dễ như vậy? Ai xui tay cho nó còng, cho nó xỏ xâu? Ta sẽ kháng
chiến đến thắng lợi. Đâu có thể nói đến một cuộc tàn sát (của phía Pháp) như
hồi cuối 1940, nhân lên gấp bội? Vì hồi 1940, ta khởi nghĩa thất bại, tinh
thần đảng viên và quần chúng xuống; còn bây giờ ta khởi nghĩa thành công:
tinh thần đảng viên và quần chúng lên cao; hồi đó nó càn ta chạy, bây giờ nó
tới ta đánh, ta lại tìm nó mà đánh. Nhân dân, đồng bào được tổ chức, động
viên hàng triệu lượt người để bảo vệ độc lập tự do đã giành được thì dễ gì
nước Pháp chiếm lại nước ta, dễ gì thực dân Pháp bắt được cán bộ ta để mà
tàn sát như bọn Versailles, tàn sát chiến sĩ Công xã hồi 1871. Paris là một
thành phố, Việt Nam là một nước. Versailles thắng Paris Công xã, Pháp
không trị nổi Việt Nam khởi nghĩa. Lấy Paris Công xã 1871 và Nam Kỳ
khởi nghĩa 1940 làm tỷ dụ để ngăn cản khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 là
“rung cây nhát khỉ”, nhát khỉ được, nhát sao được mãnh hổ, nhát sao được
người cách mạng triệt để kiên quyết là chúng ta? Dễ gì một đế quốc Pháp già
cỗi và suy sụp bởi chiến tranh với Đức, có thể chịu đựng nổi cuộc kháng
chiến của ta, cuộc kháng chiến này có thể sẽ lâu dài, đẫm máu mà vô cùng
tốn kém, chắc chắn Việt Nam cuối cùng sẽ thắng lợi như ông cha ta đã đánh
bại quân Minh ngày nào.
Tôi thấy anh em chủ trương khởi nghĩa vững bụng trở lại.
Tôi thấy anh Nguyễn Văn Tạo đầu hôm tới giờ ngồi hút hết điếu thuốc
này đến điếu thuốc khác, im thin thít, chẳng nói chẳng rằng, không phải như
ông Phật trên toà sen, cũng không phải như ông Gióng trong nôi. Tạo không
có ý kiến gì, cứ nghe, và khi giải lao, Tạo nói nhỏ với Trấn (Tạo với Trấn có
bà con xa xa với nhau): “Coi chừng Nhật Bản nó chém ngang lưng, đau lắm
nghen!”. Ý muốn bảo rằng ta khởi nghĩa thì Nhật sẽ can thiệp đàn áp ta.
249
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn G

Nhưng Tạo chỉ nói nhỏ với Trấn, Trấn nói nhỏ lại với tôi, nên ý đó của Tạo
chưa thành vấn đề thảo luận lần này.
Hai “phe”, mà có hai phe thật, nói cho đúng, có tới ba, bên này thì
khởi nghĩa, bên kia thì không khởi nghĩa, ở giữa có mấy anh lưng chừng
chưa quyết, giống y như trong Quốc hội Pháp hồi 1789-1793, có phe “núi”
(Montagne), phe “đồng”(Plaine) và phe chính giữa là phe “bưng”(Marais)
vậy!
Nguyễn Văn Nguyễn nói thêm; anh lưu ý các đồng chí rằng từ sau
cách mạng tháng Mười Nga, cho đến chiến tranh thế giới thứ hai không có
cách mạng thành công trong nước nào hết. Tụi đế quốc thấy cách mạng nổi
lên ở đâu thì xúm lại đánh cho đến chết, ngay cách mạng Tàu cũng ì ạch hết
sức mà đã tới đâu đâu! Chú Mao vẫn còn ở trong thâm sơn cùng cốc của
biên khu Tấn Sát Ký,137 cách Bắc Kinh, Nam Kinh, Thượng Hải hàng ngàn
dặm hay ở thôn quê Giang Tô, Giang Tây. Trong thời kỳ cuối của chiến
tranh thứ hai này, có mấy nước lập được chính quyền cách mạng nhân dân
trước hết là nhờ có Hồng quân Liên Xô kéo vào, không có Hồng quân thì
cũng chẳng làm gì nên. Tôi (Nguyễn) cho rằng: sát biên giới, chung biên
giới với Liên Xô thì cách mạng và khởi nghĩa mới có hy vọng thắng lợi mà
cũng chưa chắc. Huống chi cách mạng Việt Nam hiện nay, nếu thành công,
thì cô lập dữ lắm về mặt địa lý, Liên Xô thì quá xa mà Hồng quân Tàu còn
trong vùng Diên An, trong mấy khu Giang Tô, thì có cách nào hỗ trợ cho
chúng ta đâu? Việt Nam cách mạng sẽ bị Pháp dập chết đã đành mà còn bị
tất cả các nước đế quốc tư bản, chắc gồm cả Tàu Tưởng nữa, hiệp nhau mà
dập thì liệu ta tồn tại được không? Tồn tại thế nào được? Phải nghĩ kỹ, đừng
phiêu lưu mà chết; chết ta không sợ, chỉ sợ lực lượng cách mạng bị phá tan
bởi thực dân Pháp, đồng thời bởi phản động quốc tế liên hiệp nhau.
Nguyễn hỏi thẳng tôi: “Vậy nếu Anh, Pháp đánh ta thì ta lấy sức gì để
mà đánh lại?”. Tôi bèn trả lời ngay: “Lấy cái sức của nhân dân đã khởi
nghĩa thành công để mà kháng chiến; đồng minh quốc tế của ta chắc sẽ
nhiều, kể cả nhân dân Pháp”.
Tôi ngại là lập luận của Nguyễn (và Trừng) có thể làm lung lay tư
tưởng một số anh em, vì sự thật quả có như vậy, như Nguyễn đã nói, giữa
hai cuộc chiến tranh thế giới, mặc dù có sự hô hào sôi nổi của Quốc tế Cộng
sản, không có cách mạng thành công ở nước nào hết, các cuộc khởi nghĩa
đều thất bại, khởi nghĩa Java, khởi nghĩa Quảng Châu, khởi nghĩa
Hambourg, v.v… và v.v.. mãi đến cuối 1944/1945, Hồng quân Liên Xô mới
137 Tấn Sát Ký: biên khu ở ranh giới các tỉnh Sơn Tây –Sát Cáp Nhĩ –Hà Bắc
250
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
giải phóng được mấy nước Trung Âu và ở đó nếu không có mặt của Hồng
quân hay tác động trực tiếp của Hồng quân thì cũng không chắc có cách
mạng giải phóng thắng lợi. Sự thật cho đến hôm nay đúng là như vậy. Song
nếu lập luận kiểu Nguyễn, Trừng thì, nước nào, dân nào ở xa Liên Xô phải
bó tay chịu chết hay sao? Đâu có lý như vậy? Xa hay gần Liên Xô, hẳn là
quan trọng, nhưng gần như Phần Lan thì cách mạng đã nổi lên ở đâu; còn xa
như Việt Nam, khi có điều kiện khởi nghĩa cách mạng sao lại không dám
làm? Ta không thật sự là cô lập, lẻ loi đâu. Việt Nam khởi nghĩa giành độc
lập thành công sẽ là tấm gương sáng cho các dân tộc thuộc địa, là tiếng gọi
những người “đồng bệnh”ấy cùng đứng lên, trước hết là ở thuộc địa Pháp.
Có lẽ đang có và chắc chắn sẽ có nhiều cuộc khởi nghĩa giành độc lập tại Phi
Châu, Á Châu. Thế giới thuộc địa sẽ như một biển lửa, đó là đồng minh
đáng tin cậy của ta. Đảng Cộng sản Pháp hùng mạnh chắc sẽ ủng hộ ta. Đế
quốc Pháp và các đế quốc thực dân sẽ bị căng ra như căng nọc cả bốn tay
chân để mà chịu đòn cách mạng từ khắp bốn phương trời, chúng chắc không
rảnh rang mà tập trung đánh một mình Việt Nam ta đâu. Còn Liên Xô và các
nước được Hồng quân Liên Xô giải phóng thì, khỏi phải nói, nhất định sẽ
đứng về phía ta, họ ở xa mà tiếng nói của họ có sức nặng quốc tế. Cách
mạng chúng ta cuối cùng sẽ chiến thắng. Nay ta phải kịp khởi nghĩa, đến
một lúc, không còn khởi nghĩa được nữa, chúng ta sẽ có tội với lịch sử. Cách
mạng ở mỗi nước là sự nghiệp của nhân dân nước ấy trước hết. Ta không
đợi chờ ai giải phóng cho ta cả, ta không chờ, chờ được giải phóng thì sẽ
không khi nào được giải phóng. “Ta giúp ta thời trời mới giúp ta”- người
Tây phương nói như vậy là đúng.
Tôi trông thấy rõ số đông anh em tán thành lập luận của tôi.
Rồi tôi dùng tỷ dụ lịch sử đập lại luận điểm không chịu khởi nghĩa của
Nguyễn, Trừng, hai anh này đã dùng lịch sử đánh lại chủ trương khởi nghĩa;
hai anh này đã gán cho tụi tôi cái danh hiệu “phiêu lưu”, “thiển cận”, “thiêu
thân”(và cái gì nữa) thì, nhịn nhục nào đi nữa tôi cũng trả cho hai anh một
cái danh hiệu gì mà chữ dùng không do tôi đặt ra, chữ đó do Lenin nói lên
hồi tháng 11 năm 1917, để chống Zinoviev, Kamenev là những người phản
đối chủ trương khởi nghĩa vũ trang của Lênin. Hồi đầu tháng 10 năm 1917,
trong khi Lênin chủ trương phải khởi nghĩa liền thì một số uỷ viên Trung
ương Thường vụ nổi tiếng giỏi lý luận, đảng viên kỳ cựu, đã chủ trương là
không nên khởi nghĩa mà nên chờ đợi cuộc họp Đại hội các Xô viết, chờ đợi
cuộc họp Quốc hội lập hiến rồi sau sẽ tính. Kamenev, Zinoviev tính rằng
Đảng Bôn-sơ-vích sẽ được đa số trong đại hội các Xô viết và như thế ta
(đảng Bôn-sơ-vích) sẽ nắm chính quyền một cách hoà bình, không cần phải
khởi nghĩa vũ trang. Lenin gọi Kamenev, Zinoviev và những ai theo họ là
251
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
“những phần tử mệt mỏi”, Lênin nói rằng: những phần tử mệt mỏi thường
xuất hiện ở những khúc quanh lịch sử. Từ ngữ “mệt mỏi”nhẹ hơn từ ngữ
“phiêu lưu, thiêu thân”.
Ở xứ ta, ở Nam Kỳ nay cũng có những “phần tử mệt mỏi”đó; họ bảo
“không nên khởi nghĩa”, “khởi nghĩa là chết”, họ gieo rắc sự hoài nghi, họ
làm lung lay tan rã tình đồng chí và quần chúng, họ đặc biệt nguy hiểm khi
họ là những nhà cách mạng kỳ cựu, có lý luận chẳng kém gì Zinoviev,
Kamenev. Không biết Trừng, Nguyễn phải là những “phần tử mệt mỏi”
không, nhưng chắc chắn là các anh xa công tác thực tế, xa quần chúng từ
nhiều năm rồi. Họ gây hoài nghi, hoang mang; mà, lập luận của họ khốn
thay, không phải là không có cơ sở nào: quân Anh sắp vào Sài Gòn là chắc
chắn có quân Pháp theo “ăn có”.
Khuya quá rồi. Nói mệt, mà nghe càng mệt. Hội nghị tạm ngưng. Anh
em ăn cháo gà. Chợp mắt một chút. Đến sáng, sau một bình trà đậm, lại tiếp
tục cãi nhau. Sáng ngày 17, tôi sốt ruột hết sức. Như thế là khả năng “bấm
nút”cho khởi nghĩa Sài Gòn nổ ra đêm 17 thì xem như không còn nữa.
Huỳnh Văn Tiểng, ở nhà (6 Colombert) chắc càng sốt ruột hơn tôi. Tôi hy
vọng sáng 17 giải quyết thì chiều 18 có thể “bấm nút”được.
Sáng 17, trong cuộc thảo luận tiếp, không có gì mới. Hai phe “núi”và
“đồng”giữ vị trí cũ; phe “bưng”vẫn còn.
Cuối cùng tôi định phá vỡ sự bế tắc bằng một câu hỏi nhất thiết phải
trả lời và hễ trả lời thì tức là hẹn phải khởi nghĩa. Hỏi rằng, nếu trong mấy
ngày này mà Hà Nội khởi nghĩa, ngoài Bắc khởi nghĩa, thì Sài Gòn phải làm
gì? Trong Nam phải làm gì? Ta khởi nghĩa, hưởng ứng các đồng chí ta, hay
cứ bảo rằng anh em Hà Nội, anh em ngoài Bắc “phiêu lưu”, họ không nắm
vững tình hình thế giới, rồi ta cứ ngồi ngó?
Phe chống khởi nghĩa lúng túng rõ như bị tấn vào vách tường. Thấy
vậy, tôi “cười trong bụng”. Té ra câu hỏi đó đơn giản mà lại có kết quả to
lớn.
Còn tất cả các đồng chí khác, kể cả phê “bưng”đều trả lời: trường hợp
đó thì không còn do dự gì nữa, nhất định chúng ta sẽ phải khởi nghĩa tiếp
theo thôi!
Tôi đưa ra kết luận tạm thời hôm nay và mọi người đều đồng ý là:
1. Chưa quyết định ngày khởi nghĩa, nhưng nắm vững quan
điểm phải khởi nghĩa. Uỷ ban khởi nghĩa, Xứ uỷ, Thành uỷ các tỉnh
có nhiệm vụ cần kíp, khẩn trương, là hoàn chỉnh sự chuẩn bị lực
252
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
lượng vũ trang xung phong và hoàn chỉnh sự chuẩn bị động viên lực
lượng đạo quân chính trị, phát triển mặt trận Việt Minh thật nhanh
chóng có thể bao gồm thêm nhiều cánh tả của những tổ chức quốc gia,
tôn giáo, đẩy phong trào quần chúng lên đến mức cao nhất làm nền
cho một cuộc khởi nghĩa nhân dân to lớn nhất trong lịch sử Nam Bộ.
2. Theo dõi rất sát tình hình miền Bắc, tình hình Hà Nội,
từng ngày từng giờ. Hễ được tin Hà Nội khởi nghĩa thì Sài Gòn và
Nam Bộ khởi nghĩa ngay. Nhận xét rằng nếu Hà Nội khởi nghĩa thì
chắc phải khởi nghĩa trong mấy ngày này thôi, không trễ được, trễ thì
quân Tàu Tưởng chỉ còn mấy bước thì vào biên giới; khi quân Tàu
Tưởng vào tới Hà Nội thì không còn khởi nghĩa được nữa. Cho nên,
các thành viên của hội nghị Chợ Đệm trừ một ít, phải túc trực ở Sài
Gòn và chung quanh Sài Gòn để họp lại, lấy quyết định cuối cùng về
khởi nghĩa và chỉ định Uỷ ban hành chánh lâm thời Nam Bộ.
3. Trong lúc chờ đợi thì “Việt Minh ra công khai”. Thanh
niên Tiền phong ban xí nghiệp lấy lại tên Tổng Công đoàn, làm thành
viên độc lập của Mặt trận Việt Minh. Thanh niên Tiền phong và đoàn
Tân Dân Chủ chính thức tuyên bố là thành viên Mặt trận Việt Minh.
Các đảng bộ toàn Nam Bộ sẵn sàng chờ lệnh khởi nghĩa.
Hội nghị Chợ Đệm tạm ngừng. Tôi đạp xe về Sài Gòn.
Bọn tôi trong Uỷ ban khởi nghĩa gấp rút hoàn chỉnh sự chuẩn bị khởi
nghĩa ở Sài Gòn - Chợ Lớn với lòng tin chắc rằng nay mai đây thôi tin khởi
nghĩa ở Bắc sẽ tới. Không thể không tới. Tiểng nói với tôi: ý kiến khởi nghĩa
ngay không toàn thắng ở hội nghị Xứ uỷ mở rộng, xét cho cùng chúng ta
không mất gì, nếu có mất gì là mất cái danh dự khởi nghĩa trước hết trong
nước. Tôi đỡ lời: Nghe nói anh em ngoài Bắc đã khởi nghĩa từng phần từ
mấy tháng nay rồi; bây giờ là tổng khởi nghĩa trên cả nước; cốt cho toàn
thắng, không cốt ở trước sau.
4. Ta tập hợp lực lượng yêu nước.
Sự phân hoá của các lực lượng chính trị thân Nhật
ở Sài Gòn sau khi Nhật đầu hàng.
Sự thành lập nhanh chóng và sự tan vỡ cấp kỳ
của “Mặt trận Quốc Gia Thống Nhất”
253
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Nhật đầu hàng thì lãnh tụ các đảng, các phái thân Nhật hoang mang
tợn; tuy việc đầu hàng đó, họ đã cầm chắc từ sau khi Đức hạ khí giới, mà sự
hoang mang cứ làm cho họ luống cuống vô cùng: họ không biết phải làm gì;
họ không làm gì được. Một phần họ lo cho đất nước sẽ bị Pháp trở lại thống
trị, mà phần lớn họ lo cho tương lai của họ là những người đã hợp tác với
Nhật, đã giúp Nhật trong chiến tranh, nếu Pháp trở lại thì một số nào đó sao
khỏi bị ông chủ cũ trừng trị bằng cách này hay bằng cách khác. Chớ còn
quần chúng của các đảng phái đó thì có lo chi, hễ thấy đảng nào, mặt trận
nào chân chính yêu nước và có sức mạnh thì ngả theo, mà trong thời thế này,
thì Đảng Cộng sản và Mặt trận Việt Minh là những tổ chức được nhân dân
đặt nhiều hy vọng vào nhất. Trong cái thế ấy, một thế rối và khó, các đảng
phái và phái thân Nhật ở Sài Gòn vận động lập “Mặt trận Quốc Gia Thống
Nhất”vào ngày 14/8/1945.
Mặt trận Quốc Gia Thống Nhất bao gồm:
- Đảng Quốc gia Độc lập (đảng của ông Quyền Khâm sai Hồ Văn
Ngà)
- Liên đoàn Công chức (của nhà cầm quyền tổ chức từ khi có chính
phủ Trần Trọng Kim).
- Cao Đài Trần Quang Vinh.
- Hoà Hảo.
- Đảng Quốc gia.
Mặt trận Quốc gia Thống nhất phát hành một bản Tuyên ngôn; bản
Tuyên ngôn đó nói:
“Giờ cực kỳ nghiêm trọng sắp đến. Nước Việt Nam sắp phải qua giai
đoạn lịch sử mới. Nước nhà còn mất cũng trong lúc này. Số mạng của dân
tộc Việt Nam đã đến giờ định đoạt. Sự định đoạt một phần lớn ở nơi sự
tuyên dương ý chí của dân tộc và sự cương quyết tranh đấu của người Việt
Nam…
Chúng ta kiên quyết chống đế quốc chủ nghĩa xâm lăng, nhất định
không cho ai đụng đến quyền của người Việt Nam ở đất nước Việt Nam”.
Khẩu hiệu của Mặt trận Quốc Gia Thống Nhất là:
- Chống đế quốc Pháp.
- Chống nạn ngoại xâm.
- Bảo vệ trị an.
254
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
- Bài trừ phản động...
Khỏi phải nói rằng “Mặt trận Quốc Gia Thống Nhất”ủng hộ ông
Quyền Khâm sai Hồ Văn Ngà và đón rước long trọng Khâm sai Đại thần
Nguyễn Văn Sâm từ Huế vào nhận chức. Phân tích bản Tuyên ngôn của họ,
tôi lưu ý anh em tới khẩu hiệu “bảo vệ trị an”. Bảo vệ trị an là chống lại
những ai chống chính quyền hiện tại. Mấy hôm rày Nhật vừa “trao trả Nam
Kỳ”cho triều đình Huế, như vậy là “đế quốc Việt Nam”độc lập, thống nhất
rồi, họ muốn bảo vệ cái chính quyền này. Mà chúng ta (Cộng sản, Việt
Minh) thì chủ trương đánh đổ nó. Thế nghĩa là khẩu hiệu “bảo vệ trị an”
chắc hàm ý là nhằm vào cách mạng đang dấy lên. Ta phải dè chừng, cảnh
giác. Nguyễn Văn Sâm về tới Sài Gòn thì việc thứ nhất của y là lo củng cố
cảnh sát, công an, quân đội. Nhưng tôi cũng lưu ý anh em rằng đó là ý thức
chính trị của các lãnh tụ Mặt trận quốc gia muốn bảo vệ chính quyền sẵn có,
chớ còn quần chúng thì quan tâm gì đến cái bọn tai to mặt lớn lâu nay theo
Pháp, theo Nhật? Quần chúng thì chỉ muốn chống đế quốc Pháp, chống
ngoại xâm, tất cả sẽ đi với ta, với Đảng Cộng sản, với Việt Minh là những tổ
chức lâu nay có lịch sử cách mạng đáng tin cậy.
Có điều đáng chú ý là cuộc biểu tình chính trị do Mặt trận Quốc Gia
Thống Nhất tổ chức ở Sài Gòn sau ngày 14 đã huy động được trên dưới
100.000 người là chí ít, đi từ đại lộ Norodom, qua Chợ Mới, xuống giải tán
ở cầu Ông Lãnh. Có báo ước tính 200.000 hay hơn nữa. Các đồng chí trong
Thành uỷ hỏi tôi: “Thế nghĩa là gì?”.
Nghĩa là:
- Các tổ chức tự gọi là quốc gia ở Sài Gòn không phải không kêu gọi
được quần chúng khi họ nêu khẩu hiệu độc lập dân tộc. Chúng ta chớ chủ
quan.
- Khẩu hiệu “chống đế quốc Pháp trở lại”, “chống ngoại xâm”có sức
động viên lớn.
- Ta chưa ra quân thì quần chúng còn nghe kẻ khác. Ta ra quân thì
quần chúng sẽ đi về ta, và một số các tổ chức trong Mặt trận quốc gia sẽ đi
về với Việt Minh, bởi vì ta có thế hơn, và có uy tín lớn nhất ở đất Sài Gòn
này.
Quả thật, tiếp theo sự tập hợp lập tức có sự phân hoá trong Mặt trận
quốc gia.
“Cao Đài thống nhất 12 phái”ở Hậu Giang ngả về ta từ ít lâu nay.
Tịnh độ cư sĩ và đảng Quốc gia (khác với đảng Quốc gia độc lập) cũng vậy.
255
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Trong đảng Quốc gia độc lập, một cánh tả hình thành, kỹ sư Ngô Tấn Nhơn
vừa mới được Khâm sai cử làm giám đốc công an, cảnh sát, nguyên là người
của phong trào học sinh thời 1930-1931, đi lạc đường, bây giờ đã trở lại rồi.
Liên đoàn công chức có nhiều đoàn viên Thanh niên Tiền phong, nên quyết
định đổi tên là Liên đoàn Công chức Cứu quốc. (Tên “công chức cứu quốc”
này do Thành uỷ đề nghị.) “Nhóm trí thức”Trốt-kít thì vẫn triệt để chống
Việt Minh, chống cộng sản đệ tam.
5. Việt Minh “ra công khai”
Từ sáng ngày 18, người ta thấy trước nhà Phạm Ngọc Thạch138treo cờ
đỏ búa liềm, thấy ở nhà hàng “Ánh Long”treo cờ đỏ, sao vàng. Tiếng dội
mạnh trong thành phố. Treo cờ đỏ ở nhà hàng Ánh Long, cơ quan liên lạc
của Thành uỷ, việc treo cờ này do Thành uỷ chủ trương. Nhà hàng Ánh
Long khách đông lắm. Còn ở nhà Phạm Ngọc Thạch thì ông chủ nhà tự ý mà
làm, không xin phép Đảng, ông bác sĩ này làm “một chuyện đã rồi”trước
ngày tuyên thệ lần thứ hai của Thanh niên Tiền phong, tập hợp ở vườn ông
Thượng, sáng ngày 19 tháng 8 năm 1945. Tôi phê bình ông, ông cười trừ.
Chẳng lẽ treo lên rồi bây giờ hạ xuống. Thạch tự làm lộ ra là cộng sản. Thực
ra cũng không ai lấy gì lạ lắm từ ngày anh đọc diễn văn tuyên thệ đề cao
Minh Khai, Hà Huy Tập.
- Ngày 19, như đã báo trước cách mấy hôm, Thanh niên Tiền phong
làm lễ tuyên thệ lần thứ hai. Cuộc lễ này tập hợp hơn 50.000 Thanh niên
Tiền phong (không kể chừng ấy đồng bào đi dự ngoài hàng ngũ), tổ chức
thành đội ngũ hẳn hoi, xem như đơn vị nửa quân sự. Không có chánh đảng
nào ở Sài Gòn, có một tổ chức nửa quân sự đông đảo, hùng dũng và kỷ luật
như vậy. Diễn văn của Phạm Ngọc Thạch hôm đó, công khai đặt Thanh niên
Tiền phong vào chỗ làm thành viên đắc lực của Việt Nam độc lập đồng
minh, quyết đấu tranh cho độc lập tự do của dân tộc, và hô hào một triệu
Thanh niên Tiền phong Nam Bộ sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc.
Tại rạp hát Nguyễn Văn Hảo, liên tiếp tổ chức hai cuộc mít tinh. Cuộc
thứ nhất cho diễn giả cộng sản Nguyễn Văn Tạo rất quen thuộc với công
chúng Sài Gòn nói về Nguyễn An Ninh. Cuộc mít tinh được đặt dưới quyền
chủ toạ danh dự của đồng chí thợ máy Tôn Đức Thắng, lúc đó còn ở tù ở
Côn Lôn. Tại cuộc mít tinh này vang lên khẩu hiệu: “Việt Nam muôn năm”.
138 Nhà Phạm Ngọc Thạch: nhà riêng của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch ở số 106 đường Léon
Combes (nay là Sương Nguyệt Anh) –còn phòng khám bệnh ở đường Chasseloup-
Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai).
256
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Cuộc thứ hai do Liên đoàn công chức cứu quốc, hôm đó đồng chí Bí thư Xứ
uỷ công khai giới thiệu Việt Nam độc lập đồng minh, tức Việt Minh. Cuối
cuộc họp vang lên khẩu hiệu: “Chánh quyền về Việt Minh!”.
Báo Điện tín trong bài “Việt Minh là gì?”kể lại:
“Lần đầu tiên ở Nam Bộ, được nghe tiếng “Vạn tuế Việt Minh”là sau
lễ truy điệu nhà chiến sĩ cách mạng Nguyễn An Ninh tại rạp Nguyễn Văn
Hảo đêm 20 tháng 8. Tiếng hoan hô ấy chính thính giả tung lên chứ không
phải diễn giả. Tuy không công khai nhưng đêm ấy, hai diễn giả Nguyễn Văn
Tạo và Huỳnh Tấn Phát đã vạch rõ chương trình hành động của Việt Minh.
Rồi đêm 21 tháng 8, trong cuộc diễn thuyết do công chức cứu quốc
đoàn cũng tổ chức tại rạp hát Nguyễn Văn Hảo, chiến sĩ cộng sản Trần Văn
Giàu mới công khai giải thích rõ Việt Minh là gì, thế nào gọi là Việt Minh.
Thì ra, Việt Minh không phải là một đảng. Nó là một mặt trận, nó là tên viết
tắt của 6 chữ Việt Nam độc lập đồng minh. Diễn giả nói:
Lại có người hỏi: “Việt Minh có phải là Đảng Cộng sản trá hình
chăng?”. Không! Đảng Cộng sản không trá hình, người cộng sản luôn tranh
đấu dưới cờ đỏ, búa liềm. Như vậy, Việt Minh không phải Đảng Cộng sản
mà Đảng Cộng sản là trụ cột của Việt Minh.
Tại sao? Bởi vì Đảng Cộng sản nhận định rằng không phải một mình
Đảng đem lại sự độc lập cho Việt Nam. Cần phải có nhiều đồng bào, nhiều
chánh đảng yêu nước tham dự. Vả lại, Đảng Cộng sản không bảo rằng mình
có độc quyền về yêu nước. Nước là của dân, dân yêu nước; trong nước có
nhiều tổ chức yêu nước. Xét như vậy, Đảng Cộng sản mới kêu gọi tất cả các
đảng phái yêu nước, tất cả dân chúng liên hiệp lại làm một mặt trận để
chống bọn đế quốc xâm lăng, để mưu đồ cuộc độc lập hoàn toàn cho nước
nhà. Mặt trận ấy là Việt Nam độc lập đồng minh tức Việt Minh”.
Không biết có nơi nào ngoài Sài Gòn, đưa ra khẩu hiệu “chính quyền
về Việt Minh”không? Khi ở Sài Gòn tụi tôi đưa ra khẩu hiệu này vì tụi tôi
nhớ đến khẩu hiệu của Lenin khi giành chính quyền ở Petrograd trong khởi
nghĩa tháng Mười “Tout le pouvoir aux Soviets”. Ảnh hưởng rất lớn.
- “Thanh niên Tiền phong ban xí nghiệp”tuyên bố lấy lại tên Tổng
Công đoàn và tuyên bố đem hơn 300 hội cơ sở và 120 ngàn đoàn viên của
mình chánh thức làm thành viên của Việt Minh. Vì sao có chủ trương này?
Mấy tháng trước công hội lấy danh nghĩa Thanh niên Tiền phong đang hoạt
động công khai gần như là hợp pháp, để chính mình hoạt động công khai
mạnh mẽ, phát triển nhanh. Còn bâyCòn bây giờ thì lấy lại tên Công hội để làm
257
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
thành viên độc lập trụ cột của Việt Minh, công khai đi đầu phong trào, biểu
hiện vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong phong trào yêu nước.
- “Tân Dân chủ đoàn”là tổ chức chính trị của trí thức, sinh viên với
những người có tên tuổi như Huỳnh Văn Tiểng, Huỳnh Tấn Phát v.v… cũng
tuyên bố là thành viên chính thức của Việt Minh.
- Việt Minh mở cuộc đàm phán với Mặt trận Quốc Gia Thống Nhất,
và ngày 20, Mặt trận Quốc Gia Thống Nhất ra thông cáo trước nhân dân
rằng: Mặt trận Quốc Gia Thống Nhất đồng ý hợp tác với Việt Nam độc lập
đồng minh, dưới ba khẩu hiệu:
Thứ nhất: Việt Nam hoàn toàn độc lập.
Thứ nhì: Chánh thể cộng hoà.
Thứ ba: Chính quyền về Việt Minh.
Hơn nữa, Mặt trận Quốc Gia Thống Nhất xin sáp nhập vào Việt Nam
độc lập đồng minh; việc đó còn xét lại, để từng đoàn thể gia nhập thì phải
hơn.
Ở Sài Gòn dư luận hết sức sôi nổi, mong đợi Việt Minh nắm chính
quyền, cho rằng chính quyền về Việt Minh thì thuận hơn hết với thời thế và
với nhân dân.
Từ Hà Nội, tin tức không chính thức, nhưng là tin tức sở Bưu điện đã
được truyền ra là Việt Minh đã nắm chính quyền ở Hà Nội từ hôm qua ngày
19.
Sáng sớm 21 bọn tôi lại kéo nhau đến Chợ Đệm họp cuộc hội nghị lần
thứ hai.
Buồn cười là mấy hôm rày, trong lúc Uỷ ban khởi nghĩa và Thường
vụ Xứ uỷ hoàn thành mọi chuẩn bị để “bấm nút”cho cuộc khởi nghĩa nổ ra
ở Sài Gòn và Nam Bộ, thì Phạm Ngọc Thạch đem lại cho tôi một bức điện
từ Huế gửi vô mời Phạm Ngọc Thạch, Trần Văn Giàu và Huỳnh Văn
Phương “lai kinh”để cùng bàn chuyện lập “nội các mới”, “nội các cứu
quốc”. Thạch và tôi cười xoà rồi cất bức điện vào tập hồ sơ “đã xem”. Tôi
không rõ ông nào gửi bức điện này, Hồ Tá Khanh? Anh ấy là bộ trưởng nội
các Trần Trọng Kim đã từ chức, Tạ Thu Thâu? Ông giáo nhà báo này ít lâu
nay lèo lái gì ở Huế, không rõ. Chứ còn ở ngoài ấy mà biết tôi là ai, ở Sài
Gòn?
258
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
6. Hội nghị Chợ Đệm lần thứ hai và
6. Hội nghị Chợ Đệm lần thứ hai và lần thứ ba
Ngày 21, lại họp hội nghị Xứ uỷ mở rộng với các thành phần đúng
như kỳ trước. Vào hội nghị, tôi chắc là kỳ này mọi việc đều sẽ được thông
qua nhanh chóng trong vài tiếng đồng hồ. Tôi đề nghị là đêm 22 khởi nghĩa
ở Sài Gòn, sáng 23 biểu tình chính trị vũ trang của non già một triệu người ở
Sài Gòn hoan nghênh một danh sách của Uỷ ban hành chánh lâm thời; sau
23 thì, trong một vài ngày, khởi nghĩa nổ ra ở các tỉnh theo hình mẫu của
khởi nghĩa Sài Gòn. Mọi vấn đề sẽ được giải quyết trong buổi sáng 21 này,
trưa 21 có thể chia tay, ai về địa phương nấy, thi hành nghị quyết, có đủ thì
giờ để truyền lệnh đến cơ sở, đơn vị, trong ngày 21, đêm 21 để ngày 22 và
đêm 23 thì huy động các lực lượng khởi nghĩa trong và quanh Sài Gòn, làm
cuộc khởi nghĩa thành công. Tôi hoàn toàn không dè là các anh Trừng,
Nguyễn vẫn cứ cản trở cuộc khởi nghĩa; lần này Tạo ra mặt “tham chiến”
bên phía Trừng, Nguyễn. Ba anh đều cho rằng: Ta đánh ngụy, lật ngụy thì
không khó gì lắm, chắc thắng được nhưng thế nào quân Nhật cũng can thiệp,
cũng chống lại khởi nghĩa, bản chất của quân phiệt là chống cách mạng nhân
dân, và, hơn nữa đế quốc Anh chiến thắng bắt buộc Nhật phải chống cách
mạng nhân dân. Ta không thể nào đánh thắng được, ta không thể nào khởi
nghĩa thành công được. Ở Bắc thì tình hình ra sao ta không rõ, chớ trong
Nam quân Nhật đông lắm. Nó can thiệp thì ta không chọi lại nổi với nó. Ta
chỉ có thể thất bại mà thôi. Không thể tin vào hứa hẹn trung lập của tướng
lãnh Nhật (ý muốn nói hứa hẹn của Terauchi với Phạm Ngọc Thạch).
Nhiều anh em ngơ ngác. Quái thật! Ba ông này cứ làm kỳ đà cản mũi
hoài!
Thạch nổi nóng lên: Nói như mấy anh thì chẳng bao giờ có cách mạng
hết; không Pháp thì Nhật, hết Nhật rồi Anh, kiếp nô lệ biết đời nào xong?
Pháp thì có lúc nó mạnh, có lúc nó yếu. Nhật thì lúc Nhật hưng, Nhật thắng,
có lúc nó suy, nó thua. Hồi 1940, nếu ta khởi nghĩa giành chính quyền thắng
lợi ở Sài Gòn thì chắc chắn là Nhật đã cứu Pháp, đánh chính quyền cách
mạng. Nhưng bây giờ Nhật thua trận, đầu hàng rồi; một mặt nó mất tinh thần
dữ lắm, kêu khóc, tuyệt vọng, làm harakiri, bán súng đạn lấy tiền uống rượu
giải sầu, hoặc bị động chờ ngày về Nhật với vợ con, sĩ quan cao cấp thì chờ
ngày bị đem ra treo cổ; mặt khác, quân Nhật từ lính tới quan đều nuôi một
mối hận thù ngất trời đối với Mỹ, Anh, với Pháp nữa, họ rất ghét phương
Tây da trắng. Ta đừng xem nhẹ cái tâm hồn dân tộc chủ nghĩa ấy. Nếu
chúng ta làm cách mạng bây giờ thì người Nhật, ít nhất là người Nhật ở đây,
sẽ không thấy ở cách mạng của ta là một kẻ thù của họ, mà trái lại, họ có thể
thấy cách mạng của ta một lực lượng đương đầu với bọn địch tây phương
259
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
vừa mới đánh bại họ, ném bom nguyên tử xuống đất nước họ. Anh Thạch
vừa nói vừa cười: “Đừng sợ Nhật chém ngang lưng (ý muốn chê anh Tạo
một cách nhẹ nhàng). Quân Nhật sẽ không can thiệp đâu. Có thể trung lập
hoá được họ”.
Hai bên tranh cãi nhau về khả năng Nhật can thiệp, bên nói có, bên
bảo không. Nhưng có thực tế gì để mà cãi cho ra ăn, ra thua.
Như vậy là tình hình gay go quá. Cãi mãi đến bao giờ? Cãi mãi rồi ta
không còn thời cơ để mà khởi nghĩa thắng lợi nữa!
Tôi bèn đề ra một cái thoả ước là hội nghị giao cho Tỉnh bộ Tân An
làm thí điểm. Tân An là cửa ngõ của thành phố. Con đường bộ duy nhất nối
liền miền Đông và miền Tây Nam Bộ đi qua Tân An, qua hai cầu Vàm Cỏ
Đông và Vàm Cỏ Tây. Quân Nhật ở hai miền tất phải nhờ cái lộ 4 và hai cầu
Vàm Cỏ. Nay ta khởi nghĩa chiếm lĩnh Tân An, kiểm soát lộ 4 và hai cầu
Vàm Cỏ mà vẫn để cho quân Nhật tự do đi lại. Nếu Nhật can thiệp thì nó
phải giành lại đường 4 và hai cầu; nếu nó không giành đường 4 và hai cầu, ta
làm chủ và cho nó đi, ấy là nó không can thiệp. Nó không can thiệp ở nơi
thiết yếu về giao liên của nó thì can thiệp vào các nơi khác làm gì nếu ta
không trực tiếp đánh vào cơ sở đội ngũ Nhật? Kinh nghiệm thực tế ở Tân An
sẽ cho phép ta “bấm nút”cho cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn và ở các tỉnh.
Mọi người đều đồng ý. Các tỉnh uỷ viên tỉnh Tân An có mặt ở hội
nghị lãnh mạng lệnh; Xuân và Trọng xin có đêm 21 và ngày 22 để truyền
lệnh và tập hợp lực lượng để đêm 22 thì khởi nghĩa giành chính quyền ở thị
xã, rồi ở cả tỉnh theo cái mẫu chung của Uỷ ban khởi nghĩa với sáng kiến
cần thiết tùy điều kiện cụ thể của địa phương. Sáng ngày 23 sẽ trở lên báo
cáo. Hội nghị phải ngồi chờ tại chỗ. Tôi “o bế”tỉnh bộ Tân An từ mấy năm
nay một phần vì là tỉnh quê hương mà trước hết vì cái vị trí chiến lược của
nó ở cửa ngõ phía tây nam Sài Gòn. Tôi tin chắc ở thành công cho nên đã
cam đoan với Nguyễn là “ngựa trở về đem tin chiến thắng thì ly rượu tiễn
chưa kịp nguội” (lấy theo tích quan Vân Trường chém Nhan Lương),
Nguyễn đáp: “Cũng mong như vậy!”.
Tụi tôi ở lại Chợ Đệm, thảo luận và quyết định số người ở trong Uỷ
ban hành chánh lâm thời Nam Bộ. Về số người tham gia Uỷ ban hành chánh
lâm thời Nam Bộ tụi tôi thấy số người cộng sản có tiếng tăm hơi nhiều, số
nhân sĩ trí thức đáng lẽ nhiều hơn, nhưng dù không có chủ trương “cô độc”,
dù muốn đưa thêm nhân sĩ trí thức cũng không phải để được họ đồng ý khi
ấy đâu, khi mà chúng ta chưa giành được chính quyền. Anh Thạch và tôi có
thương lượng với vài ba bác sĩ, kỹ sư, luật sư có tiếng tăm, họ đồng ý ủng hộ
260
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
mà không đồng ý tham gia. Cho nên cuối cùng thì trong Uỷ ban lâm thời chỉ
có những người sau đây là chính thức không cộng sản:
- Phạm Ngọc Thạch, bác sĩ.
- Ngô Tấn Nhơn, kỹ sư.
- Nguyễn Phi Hoanh, hoạ sĩ.
- Huỳnh Văn Tiểng, sinh viên.
- Hoàng Đôn Văn, thư ký Tổng Công hội.
Sau ta sẽ tính mở rộng, chắc không muộn. Ở đâu, lúc nào chính quyền
cách mạng lại không thể thêm bớt thành phần. Để cho Uỷ ban bớt màu đỏ
(cộng sản), tôi đề nghị anh Thạch làm chủ tịch, tôi làm phó. Nhưng anh
Thạch giãy nảy chối từ mãi, và viện cớ “cuối cùng”của anh là đã treo cờ
búa liềm ở nhà rồi! Tuy vậy, anh em vẫn nói mãi, buộc Thạch phải nhận,
còn Thạch thì cứ nói mãi là không nhận. Chúng tôi cũng thảo ra những chỉ
thị cụ thể cho Gia Định - Chợ Lớn và các tỉnh tham gia cuộc biểu tình sắp
tới ở Sài Gòn. Chớ còn kế hoạch khởi nghĩa ở thành phố đã ấn định xong
xuôi tỉ mỉ rồi, không có gì phải thêm bớt, chỉ cần biết ngày nào và bắt đầu
giờ nào. Tụi tôi tính rằng nếu sáng 23 Tỉnh uỷ Tân An báo cáo đã hoàn
thành nhiệm vụ suôn sẻ thì tối 24, đầu hôm, ta “bấm nút”, đến 0 giờ đêm thì
xong xuôi. Sáng 25, cuộc biểu tình chính trị vũ trang phải là cuộc biểu tình
lớn nhất trước nay trong lịch sử Nam Bộ, phải là một cuộc thị uy của tám,
chín chục đến một trăm vạn người để cho bạn lẫn thù, người Việt Nam lẫn
ngoại quốc trông thấy rõ là cả một dân tộc nổi dậy làm cách mạng chớ
không phải chỉ có một nhóm nhỏ giành chính quyền. Việc đề ra những khẩu
hiệu trong cuộc biểu tình chiếm khá nhiều thời giờ của bọn tôi; khẩu hiệu
phải tập trung, ngắn gọn, để dễ viết lên băng, dễ hô rập lên, cho mọi người
dễ nhớ; cái “nghề”này tụi tôi đã thông thạo từ lâu, từ 1936 đến 1939, anh
em đã tổ chức biết bao nhiêu cuộc biểu tình thị uy mà kể! Rầy rà nhất là
mình sẽ lập chính quyền mà không biết phải đặt tên như thế nào để cho
giống với ngoài Bắc; thôi thì gọi nó là Uỷ ban hành chánh lâm thời. Về cây
cờ của chính quyền, của Nhà nước thì đã ra khẩu hiệu “chính quyền về Việt
Minh”, tức là cờ phải là cờ đỏ sao vàng; xong chúng tôi có ngờ đâu ngôi sao
ngoài Bắc là ngôi sao “béo”; tụi tôi thì cứ theo “cổ điển”, thông tri cho đoàn
thể may cờ đỏ với sao vàng “gầy”. Tới vụ đánh nhạc: chưa có Quốc ca thì
lấy Quốc tế ca, tôi bảo anh Trương Văn Giàu (đứng đầu Bảo an binh) cho
dàn nhạc binh tập ngay bài Quốc tế ca; lại cứ dùng Thanh niên hành khúc và
Lên đàng mà động viên nhân dân.
261
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Chiều ngày 21 tôi có về Sài Gòn chớp nhoáng ở đến sáng 22, họp một
số anh em như Tiểng, Tư, Lưu để thông báo sự tiến triển của tình hình hội
nghị, để yêu cầu anh em rà lại sự bố trí lực lượng, và để khuyến khích anh
em tổ chức nhiều hơn nữa, rầm rộ hơn nữa các cuộc mít tinh xí nghiệp, khu
phố, cổ động cho khẩu hiệu “chính quyền về Việt Minh”đồng thời tăng
cường sự canh gác giữ trật tự trong thành phố bằng những đội tự vệ có ít
nhiều vũ khí thô sơ của thanh niên và công nhân. Tối 22, tôi trở lại Chợ
Đệm, thảo luận thêm nữa với anh em về thành phần Uỷ ban hành chánh lâm
thời.
Sáng sớm 23, như trông đợi, đoàn đại biểu tỉnh Tân An trở lên Chợ
Đệm, lần này bằng ô tô chớ không phải bằng xe đạp, xe treo cờ đỏ sao vàng
to tướng: từ chiều tối 22, ta đã giành chính quyền ở thị xã, làm chủ đường 4
và hai cầu, quân Nhật không can thiệp, ta đang triển khai cách mạng ra tất cả
các quận, xã.
Hội nghị Chợ Đệm lần thứ ba rất ngắn. Còn gì mà còn bàn cãi?
Nhưng tôi thương các anh Trừng, Tạo, Nguyễn, ba anh hơi bẽn lẽn một chút;
tôi là đàn em không vì thế mà xem thường các anh lớn chút nào. Tối 24,
sáng 25 sẽ khởi nghĩa ở Sài Gòn theo kế hoạch đã định, trước khi lên yên về
trụ sở Uỷ ban khởi nghĩa ở số 6 Colombert, tôi không quên sang nhà lồng ăn
một tô cháo lòng Chợ Đệm.
7. Đêm 24 tháng 8 ở thành phố
Từ lâu Bảy Trân (Phú Lạc) đã giữ được và để dành cho tôi một quyển
sách tiếng Pháp của Lenin nhan đề Sur la route de l’insurrection (Trên
đường khởi nghĩa) do Đảng Cộng sản Pháp xuất bản đâu hồi cuối những
năm 20 kìa. Sách bìa đỏ, bây giờ bìa đỏ ngả vàng rồi và rách nát, được bồi
lại bằng giấy nhựt trình. Sách này gồm mấy bài của Lenin viết về kinh
nghiệm khởi nghĩa 1905 và mấy bức thư, mấy chỉ thị cho các đồng chí
Trung ương Đảng Bôn-sơ-vích về vấn đề chuẩn bị, tiến hành khởi nghĩa
tháng Mười năm 1917. Tối 23 tháng 8 năm 1945, tôi giở lại sách Trên
đường khởi nghĩa để đọc và suy xét cái việc mình đang làm, sắp làm. Tôi
“thuộc bài”lắm rồi. Tôi giảng về vấn đề này trước nay đến mấy chục lần.
Vậy mà cứ thấy cần đọc lại kinh điển. Trước nay mình giảng về “khởi nghĩa
là một nghệ thuật”, chớ đã áp dụng lần nào đâu! Bây giờ phải chính mình
bắt tay vào việc khởi nghĩa ấy. Đọc lại Lenin thì lòng tự tin, tin Đảng, tin
dân sẽ mãnh liệt hơn. Chú Tiểng, thấy tôi đọc Lenin lúc này, vừa cười vừa
bảo rằng tôi là làm như người ngoan đạo Thiên Chúa, cứ giở Kinh Thánh ra
262
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
mãi để xem việc làm của mình đúng hay sai! Tôi cười xoà để đáp lại. Tôi
chú ý đọc lại hai chỗ. Chỗ thứ nhất nói về việc nổ ra khởi nghĩa lúc nào cho
đúng, chỗ thứ hai nói về việc chỉ đạo khởi nghĩa thế nào mới thắng; các câu
dặn dò của cả Marx và Lenin phải được ghi khắc trong tâm trí: “Không bao
giờ được đùa bỡn với khởi nghĩa cả; một khi đã bắt đầu khởi nghĩa thì phải
tiến hành khởi nghĩa cho đến cùng”, tức là cho đến thắng lợi hoàn toàn. Lúc
này khởi nghĩa là đúng lắm rồi: thời cơ chín muồi, lực lượng mạnh, chí
quyết thắng. Còn phải chỉ đạo khởi nghĩa cho khoa học, cho nghệ thuật nữa;
chỉ đạo dở thì có thể phát sinh nhiều vấn đề bất ngờ.
Mọi việc chuẩn bị ở nội thành và ở vành đai (Gia Định - Chợ Lớn)
đều hoàn thành chu đáo rồi.
Nhân dân được Mặt trận Việt Minh và Đảng Cộng sản công khai kêu
gọi biểu tình thị uy sáng ngày 25 bằng vô số truyền đơn, áp phích, nhiều bài
báo. Các khẩu hiệu được phổ biến rộng rãi nhất. Cuộc biểu tình thị uy sáng
ngày 25 tháng 8, dân Sài Gòn và ngoại ô không ai không biết, không có gì là
bất ngờ cả. Thì, trước đó mấy hôm, ngoài hàng trăm cuộc mít tinh ở xí
nghiệp và khu phố, đã có những cuộc biểu tình lớn của Thanh niên Tiền
phong, Mặt trận Quốc Gia Thống Nhất. Nay tới phiên Việt Minh biểu tình;
chắc là lớn; xong chưa ai (trừ bọn tôi) rõ quy mô đến đâu. Có một điều mà
chỉ có một số không đông người “trong cuộc”mới biết, là việc lớn nhất,
quyết định nhất sẽ xảy ra trước, ngay từ đầu hôm 24 cho đến 0 giờ: việc
giành chính quyền bằng những lực lượng xung phong có vũ trang của công
nhân và thanh niên.
Chắc Nguyễn Văn Sâm, khâm sai và Hồ Văn Ngà, nguyên là quyền
khâm sai bây giờ là đổng lý văn phòng phủ khâm sai Nam Bộ, họ đã đánh
hơi phần nào cái chuyện lớn sẽ xảy ra đầu 24 ở Sài Gòn. Tụi tôi có tính
trước điều đó: riêng việc huy động già hai mươi ngàn công nhân và thanh
niên xung phong giành chính quyền và giữ trật tự trong các khu phố, dễ gì
mà giữ hoàn toàn bí mật? Xong điều quan trọng, điều quyết định, là ta khởi
nghĩa trong những điều kiện khách quan và chủ quan như thế nào mà, cho dù
địch thủ có biết đi nữa, họ cũng không làm sao chống đỡ nổi. Tất nhiên cũng
phải giữ một số yếu tố “bất ngờ”. Vả lại, các ông Sâm, Ngà là chỗ quen biết
với tôi, với Nguyễn, Tạo, Thạch. Tôi biết họ, họ không phải là đối thủ đáng
gờm trong lúc này. Tuy vậy, họ cựa quậy, chớ không phải bó tay hẳn.
Trương Văn Giàu báo cáo với tôi là quan khâm sai đánh hơi cuộc khởi
nghĩa, đã điện cho quân bảo an để yêu cầu tăng cường bảo vệ các cơ quan
đầu não, bảo vệ các nhà chức trách và đề phòng Việt Minh, thì Trương Văn
Giàu đã trả lời một cách ôn tồn: “Thưa ngài! Tất cả quân bảo an chúng tôi
263
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
đứng về phía Việt Minh!”. Sâm có yêu cầu gì với quân Nhật không thì tôi
không biết, nhưng tôi biết rằng thống chế Terauchi đã hứa với bác sĩ Thạch
là không can thiệp vào nội bộ Việt Nam; vả lại Uỷ ban khởi nghĩa đã không
ra lệnh đánh đồn trại của Nhật, mà còn chỉ thị phải làm tất cả những gì có
thể làm được để tránh sự xung đột vũ trang với quân Nhật. Người ta nói Sâm
có yêu cầu Mặt trận Quốc Gia Thống Nhất ủng hộ về chính trị (đảng của
Ngà, Sâm, đảng quốc gia độc lập là thành viên sáng lập Mặt trận đó), nhưng
mới hai ba bữa rày Mặt trận Quốc Gia Thống Nhất, dưới sức ép của quần
chúng và của tình hình, cũng đã tuyên bố tán thành chế độ dân chủ cộng hoà
(nghĩa là chống chủ nghĩa quân chủ lập hiến cũng được họ gọi là “quân dân
cộng chủ”của Sâm, Ngà) và đã có tuyên bố tán thành khẩu hiệu “Chính
quyền về Việt Minh rồi”. Nhà cầm quyền Sài Gòn hoàn toàn bị cô lập. Cựa
quậy làm sao được nữa? Đánh hơi được cũng như không thôi.
Thời cơ khởi nghĩa quả là chín muồi. Tới nay mới khởi nghĩa có hơi
muộn; muộn một chút thôi; nhưng chưa phải là đã trễ.
Chuẩn bị đầy đủ rồi thì việc thực hiện không có gì khó lắm. Khó là
việc chuẩn bị kia.
Sẩm tối ngày 24, tôi có mặt ở số 6 Colombert mà chúng tôi có mấy
lần gọi là “Smolny nhỏ”139 để nhớ Lenin 1917, chứng kiến sự tập hợp của
một số những đội trưởng các đội xung phong công nhân và thanh niên đến
lãnh nhiệm vụ cụ thể. Từ chập tối này đến 0 giờ phải hoàn thành nhiệm vụ
chiếm đóng tất cả các cơ quan, trước nhất là những cơ quan yết hầu, chiếm
bằng lực lượng bên trong, liên kết với lực lượng bên ngoài, có chỗ chiếm rồi
giữ luôn, có chỗ chiếm rồi giao lại cho một đội khác đến giữ, hay cùng hợp
sức giữ. Ở đâu cũng có Công đoàn; ở đâu cũng có đội Thanh niên Tiền
phong hay là hội công chức cứu quốc, thì việc chiếm các công tư sở từ bên
trong thật sự không có gì trở ngại đáng kể. Vả lại từ ít lâu nay Thanh niên và
Công đoàn canh gác giữ trật tự ở các khu phố, các công sở, cơ quan chính
quyền, việc mà mọi người công nhận là cần thiết. Hễ chiếm ở đâu thì treo cờ
đỏ sao vàng ở đó. Hầu như quân khởi nghĩa không phải nổ phát súng nào.
Quân bảo an và lực lượng cảnh sát đã ngả về ta rồi thì còn nổ súng với ai
nữa? Tôi và Tiểng ngồi ở số 6 Colombert nghe báo cáo từng phút một. Tin
tức từ nhà giây thép140: lấy như trở bàn tay, lệnh cho viên chức tiếp tục làm
139 Smolnyi nhỏ: Cung điện Smôn-nưi, nơi Lenin lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917, đặt tại Petrograd nay là Saint-Petersburg. "Smolnyi nhỏ" ở số 6 đường
Colombert, nay là Thái Văn Lung.
140 Nhà giây thép: Nhà bưu điện trung ương Sài Gòn, cạnh nhà thờ Đức Bà, trông sang
Quảng trường Công xã Paris.
264
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
việc. Tin từ nhà đèn Chợ Quán: ta làm chủ một cách êm thấm hết sức, nhà
đèn cứ phát điện, điện không tắt. Tin từ gần khắp các nơi đều như vậy, kể cả
sở mật thám Catinat, sở cảnh sát thành phố và các bót quan trọng, đài phát
thanh, dinh đốc lý, tất cả các cầu v.v… Ở các trại lính bảo an, cứu hoả, ta đã
làm chủ từ bấy lâu nay rồi; thế là những nơi có khả năng xảy ra rắc rối trở
ngại thì không có gì rắc rối trở ngại xảy ra. Trong lúc các đội xung phong
của công đoàn và thanh niên chiếm các cơ quan, công sở, treo cờ thì nhiều
đội khác, nhiều đội bảo an tuần tra đường phố đi bộ hoặc đi ô tô, mang băng
đỏ Việt Minh. Các ngả ra vào thành phố quan trọng như ngả Phú Lâm, ngả
cầu Nhị Thiên Đường, ngả cầu Tân Thuận, ngả cầu Thị Nghè, cầu Bông, cầu
Kiệu, ngả Bà Hom, Hóc Môn, Thủ Đức v.v… đều được quân ta chiếm đóng
để đảm bảo cho nhân dân khuya sớm sẽ kéo vào thành phố không trở ngại.
Quân ta lại chiếm các “công trường”(quảng trưởng) chính như ngã tư
Charner-Bonard, Eugene Cuniac, Jeanne d'Arc141, Nhà thờ lớn, Ngã Bảy
v.v… Nhưng không phải mỗi việc đều trôi chảy: quân ta không chiếm được
mấy chỗ quan trọng sau đây:
- Sân bay Tân Sơn Nhất, Bến tàu quân sự, phủ Toàn quyền, ở đó có
nhiều quân Nhật đang đóng và họ yêu cầu ta đừng động tới. Ta thấy tụi Nhật
không thể không giữ mấy cơ quan này nên ta không động tới.
- Ngân hàng Đông Dương, ta biết rằng có quân Nhật đóng giữ nhưng
ta cũng đưa một lực lượng quan trọng đến cố giành lấy. Ta thương lượng với
bọn Nhật tại chỗ; chúng không nhượng bộ, anh em cho người chạy về hỏi tôi
coi phải làm sao bây giờ? Tôi thấy rằng cách mạng tất nhiên là cần chiếm
ngân hàng. Nhưng ngân hàng Đông Dương không còn vàng trong kho, Pháp
và Nhật đã lấy hết rồi; ta chẳng còn gì để lấy, mà nếu xung đột với quân
Nhật ở đây thì sẽ có thể sinh ra xung đột nhiều chỗ khác; rối thêm; nay ta đã
chiếm kho bạc (ở đường Charner, Chợ Cũ) là đã khá rồi; tôi ra lệnh cho anh
em rút lui. (Sau này có người phê bình sự rút lui này, cho là biểu hiện của
tinh thần thiếu kiên quyết. Chưa chắc đã là thiếu kiên quyết!)
Kế hoạch là đến 0 giờ thì xong mọi cuộc chiếm đóng, treo cờ.
Nhưng mới mười giờ đêm (22 giờ) thì kế hoạch đã được thực hiện.
Cho nên, cũng lúc đó, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát cùng mấy chục anh em
dựng lên ở ngã tư đại lộ Charner - Đại lộ Bonard một chiếc kỳ đài cao bằng
gỗ và vải đỏ mang tên chín uỷ viên của Uỷ ban hành chánh lâm thời Nam
141 Charner-Bonard, Eugene Cuniac, Jeanne d' Arc: Charner nay là đại lộ Nguyễn Huệ,
Bonard Lê Lợi, Eugene Cuniac là bùng binh Chợ Bến Thành, tức Quảng trường Quách
Thị Trang, còn Jeanne d’Arc là chỗ Hồ Con Rùa hiện nay.
265
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Bộ. Vừa lúc đó thì tôi đạp xe đạp tới với một toán công nhân, thanh niên đến
xem Huỳnh Tấn Phát đã làm tới đâu; lại trở về xem lễ đài bắt đầu được ráp ở
sau Nhà thờ, trên đại lộ Norodom142; và đến thăm nhân viên bảo đảm móc
toa truyền thanh ở Norodom và ở hai đại lộ Charner - Bonard để hàng chục
vạn đồng bào nghe được tuyên bố, hiệu triệu của Đảng, Mặt trận và chính
quyền cách mạng. Những sự chuẩn bị kỹ thuật này làm trong một đêm, thật
là một kỳ công. Thành uỷ, Xứ uỷ, Thường vụ, Uỷ ban khởi nghĩa đều phấn
khởi: cuộc khởi nghĩa xem như đã được thực hiện hơn một nửa. Nói hơn nửa
vì còn cuộc biểu tình võ trang khởi nghĩa ngày mai.
Đêm đó Xứ uỷ, Thành uỷ, Uỷ ban khởi nghĩa, v.v… không ai ngủ. Lo
quá không ngủ được; mừng quá không ngủ được. Và không ngủ được vì sau
cái giai đoạn chiếm đóng các cơ quan, các cầu, các ngả ra vào thành phố, các
quảng trường và bằng các đoàn đi bộ, đi xe đạp, đi ô tô, tuần tra đường phố
giữ an ninh, lập trật tự gọn gàng thì bắt đầu giai đoạn biểu tình thị uy, không
có gì khó khăn lắm nhưng hết sức phức tạp, một mặt ta huy động tới tám,
chín mươi vạn - một triệu người hay hơn nữa ở Sài Gòn và từ các làng xã
cách Sài Gòn hai, ba mươi cây số về thành phố, chuyện rất không đơn giản:
nội một cái trật tự, lo cũng đủ tháo mồ hôi; rồi đường đi, chỗ đứng, vệ sinh,
chỗ tập họp thứ nhất, chỗ tập họp cuối cùng; mặt khác vì phải hết sức đề
phòng bọn phản động, thực dân phá phách, khiêu khích, đề phòng cả bọn lưu
manh mà thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn này thì thiếu gì lưu manh. Mỗi
người bọn tôi đều ra sức làm, nhưng điều chính là tin tưởng vào tinh thần
yêu nước của dân, tin rằng hễ Đảng bảo làm sao thì dân nghe và làm theo
đúng như vậy.
Khi việc chiếm đóng các cơ quan công sở được hoàn tất ở nội thành
thì ở ngoại ô, ở vành đai, quần chúng đã tập hợp xong trên các tuyến lộ lớn
rồi để đi ngay cho đến hừng sáng phải có mặt gần trung tâm Sài Gòn, đem
theo băng, cờ, và các loại vũ khí sẵn có ở nhà quê từ dao, mác, tầm vông vạt
nhọn, mũi chĩa, tới súng hai lồng, súng mút, có cái gì bén, nhọn, nổ thì mang
nấy, đi với cái ý thức khởi nghĩa cướp chính quyền; tất nhiên cũng đem theo
bánh tét, bánh tổ143 như cha anh ngày xưa, năm 1885, năm 1913, năm 1916,
ông bà đã làm trong các cuộc khởi nghĩa thất bại ấy. Còn ở nội thành và
142 Norodom: nay là đại lộ Lê Duẩn, đi từ hội trường Thống Nhất (Dinh Độc Lập hay Phủ
toàn quyền cũ) tới Thảo Cầm Viên (Sở Thú).
143 Bánh tét, bánh tổ: hai loại bánh phổ biến ở Nam Bộ, thường ăn vào dịp tết. Bánh tét
thành phần giống bánh chưng, nhưng hình ống dài, gói và buộc thật chặt nên giữ được
lâu. Bánh tổ làm bằng bột nếp trộn đường mía (thô), bột va-ni, hấp lên, thêm vừng (mè),
gừng giã, sau đó phơi một, hai nắng. Bánh tổ cũng phổ biến ở Quảng Nam và vùng biển
Hải Phòng (gọi là bánh cấu hay xì-liền-cấu).
266
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
ngoại ô phụ cận có đông công nhân viên chức thì từ nửa đêm anh chị em đã
bắt đầu tập hợp theo đoàn, theo giới, cũng băng cờ, cũng vũ khí thô sơ hay
súng ống. Tôi với vài đồng chí cuốc bộ (phải cuốc bộ vì ngay giờ đó đường
sá đã đông nứt người đi lại chỗ tập họp) xuống cầu Ông Lãnh - đại lộ
Kitchener,144 địa điểm tập trung thống nhất của Tổng Công đoàn. Ở đây
quần chúng sắp hàng đầy đại lộ từ dưới mé sông lên tới ga xe lửa; đông lắm
mà cũng trật tự lắm; gần sáng, sớm hơn ai hết, họ kéo lên Norodom, chiếm
lĩnh trung tâm với thanh niên và binh sĩ. Khắp các ngã khu phố nơi nào cũng
tu huýt thổi vang trời, cũng tập hợp, cũng di chuyển rộn rịp hết sức. Phố
phường thức giấc cả từ nửa đêm, nói cho đúng là suốt đêm không ngủ. Nhà
hát bắt đầu treo cờ đỏ trời.
Cái việc giành chính quyền một cách chớp nhoáng, đồng thời, từ bên
trong, bằng lực lượng bản thân của các công tư sở là chính, là chiến thuật
độc đáo của Sài Gòn, không thấy ở đâu làm như vậy và, làm như vậy, ta
giành chính quyền rất gọn, tất nhiên là trước phải có lực lượng lớn khắp nơi
mới làm được. Dùng chiến thuật độc đáo như vậy và đã thành công, nhưng
anh em Xứ uỷ, Uỷ ban khởi nghĩa tính rằng nếu chỉ có hành động khởi nghĩa
của từ 20.000 đến 40.000 người xung phong, cho dầu 20.000, 40.000 là đã
khá đông rồi thì cũng còn phảng phất một tí mùi vị của chủ nghĩa Blanqui,145
cho nên tiếp theo đêm 24 phải có sáng ngày 25 tháng 8
8. Ngày 25 tháng 8
Lý thường là không nhất thiết có cuộc biểu tình thị uy ngày 25 to lớn
như vậy, bởi vì đêm 24 ta đã dùng lực lượng xung phong của công nhân và
thanh niên, đông từ 20.000 đến 40.000 người, để chiếm đóng cơ quan và
đường phố rồi, nghĩa là giành quyền xong rồi thì, sáng hôm sau, một cuộc
mít tinh chừng 100.000 đến 200.000 người ở chợ Bến Thành Sài Gòn cũng
được lắm; có anh em bảo như vậy. Bảo rằng quảng trường trước cửa Chợ
Mới đã rộng lớn, lại có ba đại lộ chong vào (Bonard, La Somme,
Galliéni),146 đủ chứa đến vài trăm ngàn dân tập hợp lại nghe hiệu triệu.
144 Kitchener: nay là đường Nguyễn Thái Học
145 Blanqui: nhà cách mạng thế kỉ XIX, người Pháp, chủ trương làm cách mạng chỉ cần
một số nhỏ, cướp chính quyền bằng bạo động, rồi đông đảo quần chúng sẽ tự động mà
theo.
146 Danh sách đối chiếu tên đường phố Sài Gòn nói tới trong phần này:
267
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Nhưng Xứ uỷ và Uỷ ban khởi nghĩa không nghĩ đơn giản, “tiết kiệm”như
vậy, mà nghĩ rằng:
 Đây là dịp có một không hai để biểu dương lực lượng của
phe cách mạng, của Đảng Cộng sản và Mặt trận Việt Minh, để cho ai
nấy, người trong nước, cũng như người ngoại quốc, mà nhất là cho
người ngoại quốc, cho Pháp, cho Nhật, thấy tận mắt rằng cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền này không phải chỉ là ý chí và hành động của
một nhúm người, của một chánh đảng thuộc Việt Minh, mà là ý chí và
hành động của tuyệt đại đa số, của toàn thể nhân dân Việt Nam thuộc
tất cả các tầng lớp xã hội, quyết giành độc lập, tự do. Thấy tận mắt
một cuộc biểu tình như vậy, ai là bạn đã tin thì càng tin, còn bọn phản
động và tay sai bản xứ của đế quốc chắc cũng phải sợ hãi, mất nhiều
tinh thần. Ít ra là lúc này, bọn thực dân thì hẳn nhiều đứa phải kinh
hoàng biết rằng giờ tận số của chế độ thuộc địa đã điểm; quân Nhật
thấy vậy càng nể lực lượng cách mạng, càng nể chính quyền cách
mạng là chính quyền thực sự của dân tộc.
 Đây cũng là dịp có một không hai để hàng chục, hàng
trăm vạn nhân dân, bằng sự có mặt vũ trang của mình trên đường phố
Sài Gòn, bằng việc chuẩn y danh sách của Uỷ ban Hành chánh lâm
thời Nam Bộ, ý thức được sức mạnh vĩ đại của quần chúng, ý thức
được hết sức rõ ràng là mình đã tích cực làm khởi nghĩa cách mạng, là
mình đã dựng lên chính quyền cách mạng, đem lại độc lập tự do cho
dân tộc và cho chính mình; và như vậy là ta xây dựng, phát huy cái ý
thức quần chúng sẵn sàng hy sinh để bảo vệ chính quyền cách mạng
đó. Sự thật đúng như vậy; ta chiếm đóng các cơ quan đường phố trong
đêm 24, mà đến sáng 25 ta mới tuyên bố chính quyền cách mạng
trước sự tán thành nhiệt liệt của trăm vạn đồng bào tập hợp, vũ khí
trong tay. Hãy tưởng tượng một người nông dân trước kia lên Sài
Gòn, đầu đội cái nón lá, tay xách cái giỏ, sợ quanh sợ quẩn, sợ mã tà,
sợ Tây, sợ lưu manh, hôm nay lên Sài Gòn, tay cầm mác thông, dao
phay, tầm vông, súng lửa, vạn ức người như một, thét vang ý chí của
Blansubé: Duy Tân, nay là Phạm Ngọc Thạch
Bonard: Lê Lợi
Catinat: Tự Do, nay là Đồng Khởi
Charner: Nguyễn Huệ
Galliéni: Trần Hưng Đạo
La Somme: Hàm Nghi
Norodom: Thống Nhất, nay là Lê Duẩn
268
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
mình, nếu không phải rằng đó là ta làm chủ đất nước ta, làm chủ
đường phố ta, làm chủ làng mạc ta, thì là gì nữa? Ý thức này sẽ đưa
nhân dân hết sức đông đảo, hết sức hăng hái, hết sức bền bỉ vào cuộc
chiến đấu bảo vệ độc lập tự do khi thực dân Pháp quay trở lại.
Lo đủ thứ cho khởi nghĩa và biểu tình vũ trang, tôi quên một việc rất
thiết yếu mà mãi đến sáng ngày 25 mới hay: thiếu một bộ quần áo “vía”để
“ra mắt”đồng bào. Tôi không có bộ âu phục nào hết, chỉ có một cái quần tây
với một sơ mi dài tay, ngoài ra thì có hai bộ bà ba, bộ đen, bộ trắng. Mấy
tháng trước, anh Hai Sô (bên Cư sĩ tịnh độ và đảng Quốc gia của Sô, Hoanh)
có cho tôi một bộ đồ tây xám, tuy cũ mà vẫn còn khá, tôi chưa mặc, đem bỏ
giặt ủi, ở gần ga xe điện Louvain,147 gần nhà in của anh Nguyễn Phú Hữu,
gần nhà hàng Ánh Long. Cái hôm tôi đi lấy bộ đồ tây ở tiệm giặt ủi thì, khi
tôi vào tiệm, còi hụ lên: máy bay B.26 Mỹ đến. Tôi kịp chạy ra khỏi tiệm,
chui vào một cái hầm trú ẩn lõm bõm nước ở đàng trước nhà thờ Tin Lành,
thì ầm, ầm, máy bay đã trút bom chắc là để phá ga Sài Gòn. Còi báo an, tôi
ra khỏi hầm, thì cái tiệm giặt ủi đã thành bình địa, có lẽ với cả cái sòng tứ
sắc trong nhà khi nãy! Hú hồn! Mất quần áo mà không mất mạng! Từ đó, tôi
không nghĩ đến xin ai hay là may đo một bộ đồ tây mà sáng nay, 25 tháng 8,
tôi cần quá. Đành phải ủi lại cái quần, cái sơ-mi, kiếm mượn một chiếc
cravát (đỏ), một đôi giày da. Huỳnh Văn Tiểng lo tất cả cái việc nhỏ nhặt mà
không thể không có đó.
Mới bảy giờ sáng thì các đoàn người đã bắt đầu vào chiếm lĩnh vị trí
đã định trước của mình. Hơn tám giờ, đứng trên lễ đài (cao chỉ hai thước, hai
thước rưỡi) thấy cả một biển người, một rừng cờ và băng. Cái vườn cây sao
rộng lớn trước phủ Toàn quyền đầy nghẹt. Cả đại lộ Norodom từ phủ Toàn
quyền đến tận vườn thú cũng đầy nghẹt, người đi trên lề cũng khó, nói gì dắt
xe đạp. Đường Blansubé đến bót giếng nước cũng giống y như vậy; người là
người, băng cờ là băng cờ! Mỗi đoàn thể có mặt đều xưng tên bằng một tấm
băng đi đầu: Công đoàn Ba Son, Công đoàn Labbé… Thanh niên Tiền
phong đoàn Lê Lai, đoàn Phan Bội Châu… Nông dân trung quận Chợ Lớn,
hội cựu binh sĩ, v.v… và v.v… Gần trăm phần trăm cờ là cờ đỏ sao vàng, cờ
đỏ búa liềm, cờ vàng sao đỏ. Anh Dương Văn Phúc kéo áo tôi, nói nhỏ: có
đồng chí báo cáo là có mặt bọn đệ tứ Trốt-kít148 với băng đề là: “Nhóm
Tranh đấu”, cờ của họ là cờ “ngôi sao xẹt”.
147 Ga xe điện Louvain: gần rạp hát Nguyễn Văn Hảo (nay là rạp Công Nhân) đường Trần
Hưng Đạo
148 Sau khi hai nhóm cộng sản đệ tam và đệ tứ chấm dứt hợp tác với nhau trong tờ La
Lutte, nhóm đệ tam ra hai tờ Le Peuple (tiếng Pháp) và Dân Chúng (tiếng Việt), nhóm đệ
269
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
— Đông không?
— Một hạt muối trong bể.
— Đối phó cách nào?
— Chúng không phá rối thì cứ để yên; chúng khiêu khích thì tự vệ sẽ
trị chúng.
Có Cao Đài, có Tịnh độ cư sĩ, nhiều Hoa kiều tham gia. Đặc biệt là có
mấy trăm đồng bào Thượng từ Biên Hoà, Thủ Dầu Một xuống, gùi và ná
trên vai, trên lưng, chà gạc trong tay. Đông nhất là công nhân, thanh niên,
nông dân. Phúc lại khều tôi, báo:
— Kia kìa, có Lê Kim Tỵ dẫn quân của ổng tham gia biểu tình. Nhớ
Lê Kim Tỵ không?
— Có chớ, Lê Kim Tỵ, “Thiên Bồng nguyên soái”, đứng đầu phái
Tiên Thiên, ở kíp đan giỏ ky của cụ Trần Hữu Độ khi còn ở Tà Lài đó chớ
gì?
— Đúng.
— Đông không?
— Vài ba trăm người mặc quân phục, có súng.
— Trước mắt, Thiên Bồng nguyên soái chưa ló cựa đâu!
Anh em báo cáo liên tục về các thành phần chính trị tham gia… Trước
lễ đài là mấy đại đội binh sĩ chính quy và dàn quân nhạc.
tứ ra tờ báo tiếng Việt lấy tên là Tranh Đấu. Biểu tượng của nhóm đệ tứ (ngôi sao xẹt) là
hình địa cầu, có ngôi sao và tia chớp hình số 4. Theo bác sĩ Trần Ngươn Phiêu (xem bài
Một số chi tiết về Phan Văn Hùm) trong cuộc biểu tình ngày 25.8.1945, có hai nhóm đệ
tứ (khác xu hướng) tham gia: “nhóm Tranh Đấu”(với khẩu hiệu “Võ trang nhân dân, Lập
chính quyền Công –Nông”) và “nhóm Liên Minh”(“Ruộng đất về tay người cày, Quốc
hữu hóa sản nghiệp giao lại cho thợ thuyền kiểm soát, Thành lập Ủy ban Nhân dân...”).
Các khẩu hiệu này cho thấy trình độ ấu trĩ, não trạng tả khuynh và thiểu năng về ý thức
dân tộc của những người trốt-kít thời đó. Điều trớ trêu là về nhiều mặt, họ không khác
đường lối của Stalin và của những người đệ tam được đào tạo trong thập niên 1930, từng
được "phổ biến" là Nguyễn Ái Quốc đi theo con đường cải lương, quốc gia chủ nghĩa,
mơ hồ với tư sản... Người ta hiểu tại sao khi chính phủ Hồ Chí Minh ký Hiệp ước sơ bộ
6-3-1846, các nhóm đệ tứ lên án Hồ Chí Minh "bán đứng cách mạng" (còn các đảng
"quốc gia" thì hô hoán là "bán nước"). Và năm 1953, dưới sức ép ghê gớm của Stalin và
các cố vấn Trung Quốc, cuộc "cải cách ruộng đất" đã được đại đa số đảng viên ĐCS tiến
hành một cách hăng say, mù quáng.
270
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Quên nói rằng, xung quanh lễ đài có các đoàn đại biểu các tỉnh về Sài
Gòn, dự biểu tình cướp chính quyền, rút kinh nghiệm và nhận chỉ thị mới.
Xin chép lại tường thuật của báo Sài Gòn (số báo ngày 27.8.1945).
Báo đăng tít bằng chữ lớn:
“Một kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam! Trên một triệu người
khắp Nam Bộ và từ Cao Miên về cùng các đại biểu Hoa kiều tham dự cuộc
biểu tình Việt Minh, ủng hộ chính phủ cộng hoà dân chủ”.
Sài Gòn ngày 25.8.1945 (ảnh Henri Estirac)
Rồi báo ghi lại những nét đặc sắc của buổi sáng ấy nguyên văn như
sau (đây là bài báo của một phóng viên báo Sài Gòn, không phải bài của anh
em ta viết cho báo ấy):
“Một ngày chưa từng có trong lịch sử nước nhà! Quốc dân ta cử hành
một cuộc biểu tình vĩ đại để tỏ cho hoàn cầu biết dân tộc Việt Nam là một
dân tộc có đủ tư cách hoàn toàn độc lập dưới chế độ cộng hoà dân chủ.
Bởi vậy, từ chiều ngày 24, để được tham gia cuộc biểu tình, những đại
biểu của các lớp quần chúng tận các tỉnh xa đều kéo về Sài Gòn. Ngay đến
đồng bào chúng ta ở Cao Miên cũng sắp đặt một đoàn mười chiếc xe hơi để
đem đại biểu của họ về chứng kiến ngày tươi sáng nhứt của xứ sở. Và cảm
tình hơn nữa là những thanh niên là nông dân ở các vùng lân cận như Biên
Hoà, Thủ Dầu Một, Búng, Lái Thiêu, Nhà Bè, Hóc Môn, Thủ Đức, Bến Lức,
Gò Đen, Bình Chánh, Bình Điền, Cần Đước, Cần Giuộc v.v… vì không đủ
271
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
xe chuyên chở hàng mấy trăm ngàn người từ 12 giờ khuya kéo bộ về Sài
Gòn.
Như thế cuộc biểu tình sáng 25 tháng 8, với trên một triệu người tham
dự đã biểu lộ rõ ràng tinh thần đoàn kết chặt chẽ của dân tộc Việt Nam. Con
số đó là một bằng chứng thiết thực, chứng tỏ rằng Việt Nam Độc lập Đồng
minh đã được quốc dân hoàn toàn tín nhiệm.
Trên một triệu người đó là những đoàn thể, đại biểu của nông dân,
thợ thuyền, công chức, giáo chức, những anh chị em giúp việc trong các tư
sở, anh em viết báo, thanh niên và phụ nữ tiền phong, nam nữ học sinh, Cao
đài giáo, Thiên chúa giáo, Nương tử Hồng thập tự, nghiệp đoàn tiểu công
nghệ, nha tư pháp, liên đoàn thuỷ thủ, liên đoàn hàng hải v.v… hiệp với các
binh sĩ đoàn, thành một khối lực lượng vô cùng hùng hậu.
Đúng chín giờ rưỡi, lễ chào cờ cử hành tại khán đài sau nhà thờ Chúa
Bà. Trong phút đó quốc dân yên lặng, đưa tay nắm lên chào ngọn cờ đỏ
giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Đó là cờ của quốc dân Việt Nam. Phút
thiêng liêng đã qua, ông Chủ tịch Uỷ ban hành chánh lâm thời tuyên bố
những lời quan trọng… ”.
Báo Điện tín cũng là một tờ báo lớn thời kỳ này như tờ Sài Gòn, ghi
lại những đặc điểm nổi bật của cuộc biểu tình vũ trang chính trị 25 tháng 8
như sau:
“Cùng vừng thái dương chói rạng ở phương Đông, mấy ngàn lá cờ đỏ
phấp phới trong một biển người hơn số triệu, nhuộm cả trời Nam một màu
sắc mới.
Sau ngày lịch sử 9 tháng 3, hôm nay cũng lại ngày lịch sử.
Không phải một sự tình cờ hoặc nhờ vào may đưa đến, chính ngày 25
tháng 8, là kết quả của sự tranh đấu quyết liệt của mấy ngàn chiến sĩ cách
mạng hy sinh để giải phóng quốc gia và đời sống của dân chúng.
Biết không thể tháo lui ở một trào lưu mới, biết nhìn nhận một chính
thể trong lúc quốc gia nghiêm trọng và biết tìm một con đường ở ngã ba
đường, thế nên hơn một triệu người của các giới, của các đảng phái, chẳng
những trong châu thành mà luôn các vùng phụ cận đều tham dự cuộc biểu
tình của Mặt trận Việt Minh d
dưới lá cờ ngôi sao vàng — Một lá cờ vẽ bằng
máu.
Trong cái biển người tràn ngập Sài Gòn hôm sáng thứ bảy ngày 25
tháng 8, ngoài một đoàn người Mọi, lại có một đoàn Hoa kiều tham dự.
272
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Có nhiều người lấy làm mừng mà thấy các cuộc biểu tình vừa rồi có
cả khí giới tối tân. Nhưng một điều đáng mừng hơn là ta được thấy và cho
người ngoài thấy một tấm lòng của dân chúng Việt Nam.
Cuộc đảo quyền ngày 25 tháng 8 xảy ra trong vòng trật tự, không hao
một giọt máu. Không tốn một tạc đạn nào. Chỉ trong một tiếng đồng hồ là
chánh quyền ở Nam Bộ đã về Việt Minh, từ phủ Khâm sai đến các ty, các
công sở đều bị đạo quân cảm tử Thanh niên Tiền phong kéo đến chiếm đóng
một lượt hồi sáu giờ sáng. Nghĩa là từ lúc đó, tất cả ty sở lớn nhỏ trong
thành phố đều đặt dưới quyền canh giữ của thanh niên rất nghiêm mật.
Tuy cuộc biểu tình khởi điểm đúng mười giờ, mà, trời vừa mới sáng,
bóng cờ đỏ đã phấp phới khắp các nẻo đường về đại lộ Norodom.
Trời lần lần sáng.
Cả ngàn, cả mấy chục ngàn, cả mấy trăm ngàn, rồi hơn triệu người;
già trẻ, thanh niên nam nữ, Trung Hoa, Mọi, công chức, thợ thuyền, nông
dân, các đảng phái, các tôn giáo đều tham dự.”
Báo Điện tín (27-8) ghi một số chi tiết rất cảm động: “Một nhà tu
hành đã già yếu cũng có mặt trong hàng ngũ. Và một bà già đã ngoại thất
tuần cũng hăng hái phất cờ đi đầu một nhóm phụ nữ. Các đoàn thể biểu tình
mạnh mẽ đưa nắm tay lên, hô những khẩu hiệu:
— Việt Nam độc lập!
— Chánh phủ cộng hoà dân chủ vạn tuế!
— Ủng hộ Việt Minh! Việt Minh muôn năm! Chính quyền về Việt
Minh!
— Đả đảo thực dân Pháp!
— Xử tử bọn Việt gian!
— Tự do dân chủ vạn tuế!
— Quét sạch tham quan ô lại!
— Cải cách hương thôn!
— Việt Nam dân chủ cộng hoà muôn năm!
Công chúng hai bên đường bị kích thích mãnh liệt cũng đưa tay lên
hô theo. Làn sóng người cuồn cuộn chảy mãi đến hai giờ chiều vẫn chưa
thấy đoạn chót…”.
Tường thuật của Điện tín viết tiếp:“Sau khi làm lễ chào cờ tại khán đài ở đại lộ Norodom sau nhà thờ
Đức Bà, đoàn biểu tình tiến hành từ mười giờ sáng đến 12 giờ rưỡi trưa mới
dứt đuôi.
Đến lối một giờ, binh lính, cảnh sát, thanh niên tựu họp có thứ tự
trước Dinh đốc lý, có khí giới trong tay, để hoan nghênh Uỷ ban hành chánh
lâm thời Nam Bộ. Sau bản “Thanh niên hành khúc”và bản “Quốc tế”, chín
uỷ viên của Uỷ ban hành chánh lâm thời ở trên lầu dinh đốc lý bước ra từng
người một để ra mắt quốc dân.
Xong, uỷ viên trưởng Trần Văn Giàu đứng trước máy truyền thanh
tuyên bố như sau:
“Đồng bào! Quốc dân!
Hôm nay là ngày vẻ vang nhất trong lịch sử của Nam Bộ Việt Nam.
Giữa thanh thiên bạch nhựt, chúng tôi, Uỷ ban lâm thời hành chánh, nhân
danh toàn thể quốc dân Nam Bộ tuyên bố trước mặt hoàn cầu, và trước mặt
toàn thể quốc dân Việt Nam rằng:
Chế độ cộng hoà dân chủ thành lập tại Nam Bộ Việt Nam.
Chúng tôi tuyên bố không thừa nhận chính phủ Nam triều và cương
quyết chống chế độ thực dân bất cứ từ đâu đến. Không một ngoại bang nào
có thể viện một lý do gì mà bác bỏ được điều quyết định long trọng của đồng
bào ta hoài bão lâu nay:
Nước Việt Nam hoàn toàn độc lập!
Thay mặt cho Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh miền Nam, chúng
tôi lãnh trách nhiệm nắm giữ chính quyền Nam Bộ đến ngày triệu tập xong
quốc hội sẽ giao lại cho đại biểu toàn quốc.
Trong giai đoạn này, trách nhiệm của chánh phủ rất nặng nề.
Bên ngoài phải giải quyết những vấn đề ngoại giao rất phiền phức.
Bên trong phải cởi bỏ những gánh nặng do chính phủ cũ và chiến
tranh để trên vai chúng ta.
Những trở ngại không ít. Nhưng một chính phủ do toàn thể quốc dân
ủng hộ, một chính phủ của dân chúng bao giờ cũng thắng.
Năng lực của dân chúng là vô tận.
Đối với kiều dân ngoại quốc ở xxứ ta, quốc dân phải giữ thái độ đúng
đắn, chúng ta đấu tranh trong vòng kỷ luật, gìn giữ đừng để xảy ra những
274
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
hành động cá nhân làm thiệt hại sanh mạng hoặc tài sản của người ngoại
quốc. Chúng ta phải tỏ ra cho người thế giới biết dân tộc Việt Nam là dân
tộc có tổ chức, xứng đáng chinh phục quyền tự chủ.
Nước ta hôm nay bắt đầu thực hiện nền độc lập. Sự làm việc chăm chỉ
và tận lực là trách nhiệm của mỗi công dân. Bất luận đứng vào cấp bậc nào
trong nền kinh tế, đồng bào phải cố gắng làm việc để cải tạo cấp tốc những
cơ quan bị phá hoại và để tăng gia sự sinh sản.
Không tăng gia sinh sản, chúng ta không thể mong bước vào một đời
sống khả quan. Vậy đồng bào phải thề quyết cùng nhau nỗ lực làm việc, đó
là phụng sự Tổ quốc một cách thiết thực.
Hôm nay, quốc dân biểu đồng tình đưa chính phủ cách mạng lên cầm
quyền, thì bổn phận của quốc dân là phải bảo vệ chính phủ chống tất cả sự
ly gián của quân thù và tay sai của chúng đương chờ chực khiêu khích.
Quốc dân có trách nhiệm cũng như chính phủ là phải coi chừng những bọn
quấy rối gây hỗn loạn, thừa cơ phá hoại công việc cách mạng của quốc dân.
Chúng ta phải tỉnh táo mà làm việc.
Chúng ta chỉ mới giựt lại chính quyền. Từ bước này đến khi thực hiện
được một xã hội tốt đẹp trong đó có nhân dân đồng lao cộng lạc, tất còn
phải kiên gan bền chí, tranh đấu với nhiều hoàn cảnh khó khăn.
Hỡi đồng bào!
Bây giờ chủ quyền về tay ta rồi nhưng còn phải chờ sức nỗ lực làm
việc và phấn đấu của ta thì mới vững bền và rực rỡ.
Việt Nam độc lập muôn năm!
Việt Nam dân chủ cộng hoà muôn năm!”.
(Bài này tôi lấy ở báo Điện Tín, chớ nguyên văn của nó thì tôi không
tìm lại được trong các hồ sơ còn sót của ta. Bài của Nguyễn Văn Nguyễn sau
đây cũng như vậy).
Kế tiếp Nguyễn Văn Nguyễn, đại biểu của Xứ uỷ Nam Kỳ, của Đảng
Cộng sản Đông Dương tuyên bố:
“Đồng bào!
Đồng chí!
Anh em chị em!
275
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Hơn mười lăm năm đấu tranh cho đời sống dân chúng và cho độc lập
quốc gia, hôm nay Đảng Cộng sản Đông Dương mới công khai ra mặt. Mặt
trận Việt Minh mà Đảng Cộng sản xướng xuất và đã cùng chiến đấu, cùng
hôm nay lật đổ chính quyền quân chủ để khai trương một kỷ nguyên tân dân
chủ ở xứ này.
Tình thế quốc tế và quốc gia buộc Đảng Cộng sản phải tham chánh để
giải quyết các vấn đề khó khăn, nguy hiểm bên trong và bên ngoài để thực
hành và củng cố nền dân chủ lâm thời. Cuộc tham chánh ấy cũng là tiếp tục
cuộc tranh đấu từ mười mấy năm nay và cũng là một đoạn đường trong cuộc
tranh đấu trong tương lai.
Không say sưa khi đắc thắng, không nản chí lúc thất bại, trong tình
cảnh nghiêm trọng hiện thời, Đảng Cộng sản kêu gọi hết thảy anh em thợ
thuyền, nông dân, thanh niên, binh lính và các giới đồng bào nỗ lực làm việc
kiến thiết nền dân chủ quốc gia, đem toàn lực ủng hộ Uỷ ban hành chánh
lâm thời, đương thực hiện một nước Việt Nam độc lập, dân chủ và làm cho
người Việt Nam tự do sung sướng.
Việt Nam độc lập muôn năm!”
Trong cuộc tuần hành từ Norodom, xuống Catinat đến mé sông,
quanh lên Charner, số đông uỷ viên của Uỷ ban hành chánh, một số đồng chí
Xứ uỷ viên, Thành uỷ viên đi sau ba lá cờ rất lớn. Chính giữa và đi trước,
một bước là lá cờ Đảng, bên tả, sau một bước là lá cờ đỏ sao vàng, bên hữu,
sau hai bước là cờ vàng sao đỏ. Cờ Đảng quá lớn, chú Giỏi, thợ Eiffel phải
mang ở cổ tay một tấm da khâu vào cán cờ. Nguyễn Văn Tây đi cạnh tôi
bảo: “Tụi phản động, phe thực dân nó bất ngờ và khiếp vía, chớ nếu nó ném
cho tụi mình mấy quả lựu đạn thì cũng rày rà lắm đó!”. Tôi đáp: “Đi theo
đoàn biểu tình ở trên lề đường và ở trong hàng ngũ có tự vệ; đó, anh em đi
đó; tụi phá hoại chạy đâu cho khỏi”. Thỉnh thoảng Tây nhắc tôi: mặt ngó
thẳng, đừng ngó lên, người ta nói mình “nghinh”. Đằng sau, từng chập, từng
chập, nhân dân vừa đi vừa hô khẩu hiệu; còn thanh niên, công nhân thì vừa
đi vừa hát “Thanh niên hành khúc”, “Lên đàng”. Nhưng đồng bào phần
nhiều là già cả và trẻ em đứng hai bên lề đường vỗ tay, tung nón hoan hô.
Khi bọn tôi ra trước bao lơn thị sảnh với bên cạnh, các nhà báo vừa
được mời lên lầu, thì quang cảnh quần chúng nhân dân biểu tình cũng y như
ở Norodom: đầy ắp đường Charner cho đến mé sông Bến Nghé; đầy ắp
Bonard cho đến Chợ Mới, đầy ắp Bến Thành và đại lộ La Somme. Từ bao
lơn dinh đốc lý thành phố, danh sách uỷ ban Nam Bộ được bác sĩ Phạm
Ngọc Thạch công bố trong tiếng hoan hô như sấm dậy của hàng vạn đồng
bào.
276
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
Tôi đọc tuyên bố của Uỷ ban hành chánh lâm thời. Cuộc biểu tình
chấm dứt trong tiếng nhạc liên hồi, thanh niên hùng tráng và tiếng hát “Lên
đàng”giục giã (dàn nhạc của quân đội gồm mấy chục kèn và trống).
Đến chiều tà, đường phố Sài Gòn - Chợ Lớn mới trở lại bình thường,
trong lúc đó ở toà bố Gia Định và toà bố Chợ Lớn có tập hợp nhân dân tuyên
bố xoá bỏ chính quyền cũ và để hoan hô Uỷ ban hành chánh tỉnh. Đại biểu
các địa phương sau khi nhận thêm chỉ thị của Xứ uỷ tức tốc trở về thực hiện
việc giành chính quyền ở tỉnh mình. Có tỉnh làm được sớm như Bạc Liêu, có
tỉnh làm trễ như Hà Tiên (phải chờ Châu Đốc đưa quân sang giúp), cả Nam
Kỳ hoàn thành khởi nghĩa trong vòng vài ba ngày. Trước cuối tháng 8,
không còn có quận nào, xã nào trên toàn Nam Kỳ mà không có chính quyền
cách mạng của nhân dân.
Ngày 25 ở Sài Gòn đẹp như vậy, đẹp ở đại đoàn kết toàn dân, đẹp ở
sự đại thắng gọn ghẽ của khởi nghĩa cách mạng, ngày 25 đó ở Sài Gòn, tiếc
thay, bị vẩn đục ở một nơi, bởi một việc bất ngờ: cuộc xô xát đổ máu ở Tân
Bình giữa đoàn biểu tình Hóc Môn với Bảo an đóng ở bót Tân Bình. Bót
Tân Bình lực lượng khởi nghĩa đã chiếm từ hôm qua, đã treo cờ đỏ sao vàng.
Nhưng Biện Vi và nhóm anh ta ở trong đoàn “Giải Phóng”kích động anh
em biểu tình ở Hóc Môn xuống tràn vào bót (toan gỡ cờ đỏ này đặng treo cờ
đỏ kia, cũng là cờ đỏ sao vàng cả) muốn lấy bót, gọi là tự tay mình “cướp
chính quyền”! Anh em trong bót không biết tại sao lại có kẻ đánh bót nên
buộc phải nổ súng tự vệ giữ cờ. Đến khi Uỷ ban và Xứ uỷ được báo cáo cho
người đến dàn xếp thì việc đã lỡ rồi! Khổ thay! Khổ nhất là thành kiến đáng
lẽ bị lấp bằng bởi cuộc khởi nghĩa đại thắng, lại bị đào thêm sâu hơn giữa
“Tiền Phong”và “Giải Phóng”. Ngày 25 và 26, nhân dân khởi nghĩa ở Sài
Gòn về làm khởi nghĩa giành chính quyền ở Hóc Môn, đồng chí Mười Thinh
thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong ở quận được bầu làm Chủ tịch chính quyền
cách mạng của quận.
Sài Gòn khởi nghĩa năm ngày sau Hà Nội. Về sau, anh T.C.149 (trong
sách Cách mạng tháng Tám) bảo: “Hà Nội khởi nghĩa ngày 19 tháng 8, còn
Sài Gòn thì “mãi”đến 25 mới khởi nghĩa”, rõ ràng có ý phê bình, chê trách.
Đúng là Sài Gòn đến ngày 24 mới khởi nghĩa sau Hà Nội 5 ngày. Có mấy ai
149 T. C.: Tức là Trường Chinh (Đặng Xuân Khu), tổng bí thư Đảng cộng sản lúc đó.
Chúng tôi còn nhớ, cuối thập niên 70, hỏi Trần Văn Giàu bao giờ ông mới xuất bản hồi
ký, ông cười và nói: còn ông T.C., thì hồi ký Trần Văn Giàu chưa thể xuất bản được. Tất
nhiên đó là T.C. trước cuộc Đổi Mới 1986. Tiếc rằng hai năm sau, ông Trường Chinh qua
đời. Một cuộc tranh luận công khai giữa Trường Chinh và Trần Văn Giàu về năm 1945
không bao giờ diễn ra. Đối với nhà sử học, nhưng với một nhà văn?
277
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
biết rằng tháng 10 năm 1917, Moscou khởi nghĩa sau Petrograd hơn một
tuần, Lenin có phê phán, chê trách gì đâu? Ấy là Moscou nhận được chỉ thị
của Lenin, của Trung ương Đảng về việc khởi nghĩa cướp chính quyền, chớ
Sài Gòn và Nam Bộ có được chỉ thị quá ư cần thiết đó đâu? Nó đã phải tự
động tự quyết cả, tựa như quân đội trong chiến tranh chỉ cần nghe tiếng súng
là chia lửa với nhau không đợi lệnh mới đánh tiếp sức, như vậy là đáng khen
lắm chớ? Ví phỏng Xứ uỷ không làm theo quyết định của chính mình mà
theo “Giải Phóng”(đặc phái viên Trung ương là Hoàng Quốc Việt,150 ngày 2
tháng 9 chiều tối mới tới Sài Gòn ủng hộ) — ngồi chờ chỉ thị, thì làm gì có
cách mạng thành công ở Sài Gòn, Nam Bộ? Vậy thì sao lại chê trách? Mà
chê trách thì chắc cũng được thôi, nhưng phải đúng mức. Chỉ lủi thủi ở vài
địa phương ở đồng quê, lực lượng quá ít ỏi, hoạt động quá yếu ớt, chờ lệnh
Trung ương không biết chừng nào mới đến, thì làm gì có khởi nghĩa Sài
Gòn, ở Nam Bộ? Mà nếu cách mạng không thành ở Sài Gòn, ở Nam Bộ, chỉ
thành công ở Bắc (và ở Trung) thì tình hình chính trị Việt Nam sẽ ra sao đây
khi quân Anh và quân Pháp trở lại? Thấy điều ấy mới thấy cái tự động quyết
định của Xứ uỷ Nam Bộ là hết sức kịp thời. Kịp thời chớ đâu phải là vắng
mặt, huống chi đánh giá về khởi nghĩa tháng Tám ở Sài Gòn và ở Nam Kỳ
không thể không xét tới hai điều kiện sau đây:
— Thứ nhất là Nam Kỳ phải trải qua cuộc khởi nghĩa tháng 11 năm
1940, thất bại rất nặng làm mất gần hết cơ sở và tan vỡ hết hệ thống Đảng,
gây dựng lại hết sức khó khăn, làm cho quần chúng hoang mang; khôi phục
hệ thống, khôi phục sự tín nhiệm rõ ràng là không dễ. Vậy mà các đồng chí
trong Nam Kỳ đã chạy đua kịp với thời gian, với thời cuộc. Thành tích của
họ càng lớn. Đáng tuyên dương chớ sao lại chê trách?
— Thứ hai là ở Nam Kỳ, đối lập với Đảng Cộng sản không phải là
những tổ chức lèo tèo, mà là những chính đảng và giáo phái lớn mạnh, đông
đúc, có lực lượng quần chúng và lực lượng vũ trang. Trong điều kiện đó dễ
gì mà tạo cho ta một “đạo quân chính trị”(cả quân sự) áp đảo để giành chính
quyền về tay nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng? Sách lược của Xứ uỷ
Nam Kỳ có những điều không giống với sách lược của Trung ương, mà ngay
sách lược của khởi nghĩa ở Hà Nội và nhiều tỉnh ở Bắc, Trung cũng không
giống, Hà Nội cũng phải tự động quyết định cho dù từ Tân Trào về Hà Nội
không xa. Hà Nội chưa nhận được chỉ thị Tổng khởi nghĩa của Tân Trào mà
Hà Nội căn cứ vào chỉ thị của Trung ương “Nhật-Pháp đánh nhau ta phải
làm gì?”mấy tháng trước đó để quyết định khởi nghĩa. Thì Sài Gòn không
có chỉ thị khởi nghĩa của Tân Trào, không có chỉ thị “Nhật-Pháp đánh nhau
150 Hoàng Quốc Việt: xem cước chú ___, trang___
278
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
ta phải làm gì?”, thì Sài Gòn thực hiện Nghị quyết Trung ương cuối 1939, và
làm khởi nghĩa. Người mácxít-lêninnít phải tùy điều kiện cụ thể mà chủ
trương thích hợp, miễn sao cho cách mạng thành công, có sai lệch thì uốn
nắn, sửa chữa; nhưng sáng kiến, sáng tạo là điều phải được chấp nhận, nhất
là trong hoàn cảnh mất liên lạc với cơ quan lãnh đạo tối cao mà ở Nam
không một ai phủ nhận quyền lực. Vậy, nên nói: “Còn Sài Gòn và Nam Bộ,
mặc dầu đã phải trải qua cuộc khởi nghĩa 1940, thất bại nặng, mặc dầu về
tương quan lực lượng của đảng phải có những khó khăn lớn, mặc dầu xa
Trung ương, cũng đã khởi nghĩa gần cùng một lúc với Bắc, Trung, Huế, Hà
Nội, trong một cuộc tổng khởi nghĩa vĩ đại, trên một bề dài đất nước hai
nghìn cây số mà chỉ cần một tuần nhật đđã toàn thắng”.
9. Quyết định cho tàu ghe cấp tốc
đi rước tù chính trị Côn Đảo về
Ngày 25 kết thúc với cuộc hội nghị liên tịch giữa Uỷ ban và Xứ uỷ,
trong đó bọn tôi kiểm điểm cuộc khởi nghĩa giành chính quyền và đặt ra
những nhiệm vụ trước mắt.
Nhiều vấn đề được đặt ra, được giải quyết, sau khi ta đã nắm chính
quyền.
Có một vấn đề mà tôi nhớ mãi, không phải chỉ vì nó đặc biệt quan
trọng, mà vì nó đã làm cho tôi khốn khổ một thời gian dài. Ấy là quyết định
đi rước tù Côn Đảo.
Đi rước tù Côn Đảo thì tốt quá chớ “khốn khổ”gì? Ậy! Vậy mà sanh
chuyện khá lớn và kéo dài mới lạ cho chớ! Thành ngữ Việt Nam nói “đất
bằng dậy sóng”! Có thật như vậy chớ không phải người xưa bày vẽ hình
tượng văn chương để mà chơi.
Trong cuộc hội nghị chiều tối ngày 25, tôi có nói với các đồng chí
trong Xứ uỷ: Khôi phục lại hệ thống Đảng ở Nam Bộ sau khởi nghĩa Nam
Kỳ là công đầu của những anh em vượt ngục Tà Lài hợp sức với một số rất
ít những anh em sống sót, ẩn náu sau 1940; xây dựng lực lượng để đi tới
khởi nghĩa tháng 8, công đầu của các anh em trên hợp sức với anh em, chị
em Bà Rá thoát khỏi căng với số anh em đã ẩn náu khác, đã trở lại công tác
sau đảo chánh 9 tháng 3. Bây giờ khởi nghĩa thắng lợi chính quyền về ta,
công việc nhiều mà khó khăn mười lần, trăm lần hơn trước. Lênin bảo: giữ
chính quyền khó hơn cướp chính quyền; không có anh em ở Côn Lôn về thì
không xong. Vả lại, nhiệm vụ của cách mạng là phải giải phóng tất cả tù
279
chính trị mà chính phủ Trần Trọng Kim chưa chịu thả. Phải đưa anh em về
ngay, cộng sản lẫn quốc dân đảng, bằng tất cả các phương tiện ta có, với bất
cứ giá nào. Đừng chậm trễ, chậm trễ có thể sinh điều bất trắc (ví dụ như hải
quân Pháp cản trở). Chắc nội đêm nay anh em ta ở Côn Lôn biết tin Sài Gòn
khởi nghĩa cướp chính quyền rồi, họ nóng ruột lắm. Đừng để các đồng chí
chờ đợi lâu.
Tất cả anh em đều đồng ý, và do tôi đề nghị, chúng tôi cử Đào Duy
Kỳ hợp sức với Nguyễn Công Trung thay mặt Xứ uỷ làm việc gấp rút này.
Kỳ có ở Côn Đảo, là nguyên Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ.
Kỳ đã liền đó đi tìm sự cộng tác của Ngô Văn Chương –một ông
đồng chí cộng sản giàu, có nhiều khả năng thuê tàu, thuê ghe, kiếm tiền –và
sự cộng tác của hai anh em Lý Văn Sâm, Lý Văn Chương; Sâm là kỹ sư
giám đốc thương cảng. Tôi ký tên ngay cho Đào Duy Kỳ, Lý Văn Chương,
em Lý Văn Sâm, trưng dụng tàu nhỏ đi biển, trưng dụng ghe biển miệt Vàm
Láng. Xứ uỷ còn chỉ thị cho các tỉnh uỷ Trà Vinh, Sóc Trăng tiếp tay vào
việc rước tù Côn Lôn.
Công việc tiến hành có trắc trở ít nhiều, chậm trễ hơi lâu.
Nhưng rồi tất cả đồng chí ở Côn Lôn được rước về, trong đó có cụ
Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng v.v… Anh em về đến miền Tây Nam
Bộ thì cuộc kháng chiến đã bắt đầu. Anh em liền bắt tay vào kháng chiến.
Cụ Tôn năm lần bảy lượt đi qua gần nhà mà không ghé nghỉ; việc dân cần
kíp hơn; cụ ông xa cụ bà đã mười bảy năm trường! Chuyện vua Vũ đi trị
thuỷ, qua nhà ba lần không vào, so với chuyện cụ Tôn chưa thấm vào đâu!
Bọn tôi lo đón tù chính trị Côn Lôn về như vậy, đó là Nghị quyết đầu
tiên của bọn tôi, là Nghị quyết đầu tiên tôi ký tên dưới danh nghĩa Chủ tịch
sau khi giành chính quyền. Vậy mà một hôm, sau 1954, trên bục trường
Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội, một lãnh tụ nhóm “Giải Phóng”trước kia, đã
công khai tố cáo việc mà lâu nay họ xầm xì truyền miệng nhằm đả phá tôi,
Trần Văn Giàu, đả phá “Xứ uỷ Tiền Phong”và “chính quyền Tiền Phong”!
Đồng chí ấy nói trước non già một ngàn học viên mà hầu hết là những người
có trình độ Tỉnh uỷ, Quận uỷ, Huyện uỷ, rằng: Chính quyền của anh Giàu,
Xứ uỷ phe Tiền Phong không chịu rước tù Côn Lôn về, không chịu rước
đồng chí Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng về! Sở dĩ không cho đi rước
vì phe Giàu sợ rằng hễ anh em ở Côn Lôn về thì anh em đó sẽ chiếm mất
quyền của phe Giàu, lại có thể là Giàu có ý để cho Phápcó đủ thời giờ quay
280
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
trở lại giữ các đồng chí kia ở Côn Lôn. May nhờ tự lo lấy cho nên các đồng
chí ở Côn Lôn mới về được mà tham gia kháng chiến!
Hay tưởng tượng cái phản ứng tự nhiên của hội trường.
Người ta hét lên những câu gì? Không nói ra cũng có thể biết.
Nếu Trần Văn Giàu có mặt ở đó thì có lẽ đã bị đánh chết ngay rồi!
Nhưng, may quá, tôi ở 20 Phan Huy Chú, làm giáo sư dạy ở trường
Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm, không phải đi học trường Nguyễn
Ái Quốc. Và may hơn nữa là, hôm đó, trong số học viên có Đào Duy Kỳ,
người đã lãnh trách nhiệm của Xứ uỷ và của Lâm uỷ hành chánh chiều ngày
25 tháng 8 về cái vấn đề số 1 của buổi họp, vấn đề đưa tàu, ghe đi rước anh
em ở Côn Lôn về.
Anh Đào Duy Kỳ cãi lại ngay hôm đó, Kỳ nói: “Chính tôi là người
được lệnh của Xứ uỷ và Uỷ ban đi rước anh em kia mà! Và hiện nay, ở Hà
Nội còn có ba đồng chí cùng tôi làm việc này, là Lý Văn Sâm, Lý Văn
Chương –em của Sâm –và Ngô Văn Chương thuộc Uỷ ban hành chánh Sài
Gòn- Chợ Lớn”.
Nỗi công phẫn mấy phút trước nảy lên dữ, bây giờ, sau lời cãi lại của
Kỳ nó xuống cũng mau. Người nghe không hiểu tại sao có sự vu cáo kỳ cục
và nguy hiểm như vậy?
Hôm sau, Đào Duy Kỳ về Viện Bảo tàng Cách mạng mà Kỳ là Chủ
tịch Hội đồng Khoa học, mời các anh Lý Văn Sâm, Lý Văn Chương và Ngô
Văn Chương tới phát biểu có ghi âm về việc họ được lệnh và đi rước tù ở
Côn Lôn như thế nào. Theo Kỳ nói lại với tôi thì băng ghi âm đó, Viện bảo
tàng cách mạng còn giữ. Tôi không được nghe, nhưng tôi được biết là có
thật buổi ghi âm đó; Sâm, Chương đều là bạn thân của tôi từ trước những
ngày vinh quang tháng 8 ở Sài Gòn.
Vu cáo lớn và hết sức ác này, kể theo thời gian là vu cáo lớn thứ tư.
Cái vu cáo này có dịp bùng lên giữa hội trường Đảng nên nó bị nổ tung như
cái bong bóng. Nhưng than ôi! Còn tiếng xầm xì, xậm xịt lâu nay thì ai đính
chính cho tôi? Không có kiểm điểm sự vu cáo. Ai vu cáo cứ vu cáo; còn ai
bị vu cáo cứ phải ráng mà chịu dù sự thật của chúng rõ như ban ngày.
281
Hồi ký (1940-1945) | Trần Văn Giàu
10.

No comments: