Để Có Dân Chủ Tại Việt
Nam
Nhân
dân Việt Nam, hiện ở trong nước cũng như đang ở nước ngoài, thuộc thành phần
quần chúng hay thành phần đảng viên cộng sản tiến bộ, có xu hướng ủng hộ cộng
sản hay chống đối cộng sản, nếu nặng lòng với tương lai dân tộc, đều đã và
đang, bằng hình thức này hay hình thức khác, biểu lộ ý nguyện đòi hỏi nhà cầm
quyền cộng sản cải tiến chế độ, thực thi dân chủ. Nhưng mãi cho đến nay, Đảng
Cộng Sản Việt Nam vẫn không đếm xỉa mảy may đến chính kiến của người khác, cứ
điềm nhiên tọa thị, ù lì bám chặt đặc quyền đặc lợi, mặc cho đất nước mỗi ngày
một thêm nghèo khó, dân chúng mỗi ngày một thêm lầm than. Nay trước cao trào
đấu tranh dân chủ ở trong nước và xu hướng toàn cầu hóa của tư tưởng nhân loại,
liệu tập đoàn lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam có lưu tâm đến chính kiến của đại
khối dân tộc mà nghĩ đến chuyện cải tiến chế độ, thực thi dân chủ hay không?
Nếu có, thì vấn đề được đặt ra là
trong bối cảnh hiện nay của chính trường Việt Nam, Nông Đức Mạnh và Bộ Chính
Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam phải làm gì để nhân dân Việt Nam có được sinh hoạt
chính trị dân chủ.
Đương nhiên là không ai chờ đợi
những người mác-xít lê-ni-nít Việt Nam tự tay giải thể Đảng Cộng Sản Việt Nam
và thủ tiêu toàn diện chính quyền hiện hành để xây dựng một định chế chính trị
dân chủ pháp trị trên cơ sở tôn trọng dân quyền và nhân quyền. Việc thay đổi cơ
chế quốc gia có tính cách đột biến và triệt để như vậy chỉ có thể xẩy ra sau
một cuộc cách mạng bằng bạo lực của quần chúng hay một cuộc can thiệp võ trang
của nước ngoài, là những điều khó có thể xãy ra vào lúc này. Vậy thì cải tiến
chế độ, thực thi dân chủ phải được quan
niệm một cách cụ thể như thế nào để dân quyền và nhân quyền được tôn trọng,
nghĩa là nhân dân Việt Nam thủ đắc được một định chế chính trị bảo đảm cho toàn
dân được quyền sinh hoạt chính trị thực sự dân chủ. Từ hơn nửa thế kỷ nay, nhân
dân Việt Nam đã chán ngấy những thủ đoạn lừa mị của những người làm chính trị.
Cuối năm 1945, Hồ Chí Minh chả đã tuyên bố giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương đó
sao? Đầu năm 1946, Hồ Chí Minh chả đã mở rộng dân chủ, tổ chức bầu cử Quốc hội
và thành lập Chính phủ liên hiệp đó sao? Thế mà chỉ mới qua tháng bảy năm 1946,
Việt Minh đã dựng nên vụ Ôn Như Hầu để củng cố một chế độ độc tài đảng trị vô
tiền khoáng hậu trong lịch sử pháp chế Việt Nam! Mặt khác, một số chính khách
chống cộng chả đã nhân danh chống độc tài đảng trị để dành độc quyền lãnh đạo
những chính thể không cộng sản mệnh danh là tự do dân chủ mà thực chất là thiếu
tự do và không dân chủ đó sao? Do đó, trọng tâm của bài này không phải là nhằm
vào việc vạch trần thực trạng chuyên chính độc đảng của chính quyền Việt Nam
hiện tại mà chủ yếu là nêu lên cốt lõi của vấn đề cải tiến chế độ, thực thi dân
chủ ở Việt Nam, nói rõ hơn, là đặt thẳng vấn đề làm thế nào (đả phá cái gì, xây
dựng cái gì) để có dân chủ thực sự ở Việt Nam.
Phần thứ nhất
Muốn có Dân Chủ, phải tách Đảng ra khỏi Nhà Nước
Dân chủ là gì? Dân chủ là người dân làm chủ, làm chủ bản thân
mình, làm chủ tập thể mình, làm chủ cộng đồng mình, làm chủ đất nước mình. Nói
khác đi, dân chủ là chính quyền quốc gia thuộc về toàn thể nhân dân. Trong một
định chế dân chủ, nguời dân thể hiện quyền làm chủ qua lá phiếu, mỗi người dân
một lá phiếu, để chọn người đại diện của mình đưa vào chính quyền. Thêm vào đó,
người dân nào cũng có quyền tranh cử. Không một cá nhân nào, không một tổ chức
nào, được quyền áp đặt chính kiến của mình cho người khác, cưỡng bức người khác
phải theo. Các chế độ quân chủ chuyên chính dòng Bourbon ở Pháp thế kỷ 18, hay
ở Nhật trước Thế chiến II, là không dân chủ. Ngược lại, các chế độ quân chủ lập
hiến ở Anh, ở Bắc Âu hay ở Nhật Bản hiện nay lại rất là dân chủ. Trong lúc đó,
những nước cộng hòa theo chủ nghĩa quốc gia và chủ trương chống cộng như Trung
Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch, Việt Nam Cộng Hòa của Ngô Đình Diệm, Đại Hàn
Dân Quốc của Phác Chính Hy thì lại thiếu dân chủ. Phần đông các nước Tây phương
theo chủ trương đa nguyên đa đảng, với những định chế chính trị dân chủ khác
nhau, dù là dân chủ trực tiếp hay dân chủ đại nghị, đều là những nước dân chủ.
Ý hệ Dân chủ Thiên Chúa giáo manh nha ở Pháp từ cuối thế kỷ 19 đã đưa Phong
trào Cộng Hòa Bình dân (M.R.P.) nắm chính quyền sau Thế Chiến II, và cũng chính
ý hệ dân chủ này đã tích cực dự phần vào sinh hoạt chính trị rất dân chủ qua
các chính đảng Xã Hội Thiên Chúa giáo ở Bỉ (P.S.C.), Dân Chủ Thiên Chúa giáo ở
Đức (CDU-CSU) và ở Ý (P.D.C.). Ý hệ Dân chủ Nhân dân hay Tân Dân chủ bắt nguồn
từ tư tưởng Mác-Lê thì theo lời Lê Nin là siêu việt, là khuôn vàng thuớc ngọc
dẫn dắt nhân loại xây dựng những định chế chính trị một triệu lần dân chủ hơn
các định chế chính trị Tây phương. Nay thì thế giới các nước xã hội chủ nghĩa
xây dựng trên ý hệ Dân chủ Nhân dân đó đã tan rã ở Đông Âu và đang biến thể và
lung lay ở Đông Á. Tại Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhân dân cả nước
đang đòi hỏi cải tiến dân sinh, mở rộng dân chủ. Vậy thì thực trạng dân chủ ở
nước ta hiện nay như thế nào mà thậm chí cả tướng tá hồi hưu và đảng viên tiến
bộ Việt Cộng cũng đòi hỏi cải tiến chế độ, thực thi dân chủ?
Tình hình Việt Nam trong hơn nửa thế
kỷ vừa qua thực sự là vô cùng phức tạp. Trãi qua một thời gian dài, người
mác-xít lê-ni-nít manh tâm đội lốt quốc gia; một số người chống cộng mạo danh
là quốc gia chân chính; phần đông người yêu nước quốc gia chủ nghĩa lầm lạc
phục vụ chủ nghĩa cộng sản mà tưởng là phục vụ quốc gia; trong lúc đó, hầu hết
người quốc gia chính hiệu lại bị nhân dân hiểu lầm, bị cộng sản bôi lọ, bị liên
minh thực dân, đế quốc và tay sai cấu kết cùng tập đoàn cộng sản ngày đêm đàn
áp, khủng bố và tiêu diệt. Sở dĩ có tình trạng lẫn lộn vàng thau như vậy là vì
mọi người đều dễ dàng phóng tâm đồng hóa chủ nghĩa quốc gia với chủ nghĩa yêu
nước, lẫn lộn quốc gia với dân tộc, không phân biệt bản thể của quốc gia với
bản thể của nhà nước, không phân định minh bạch ranh giới giữa nghĩa rộng và
nghĩa hẹp của từ quốc gia, và nhất là không quán triệt sự khác biệt định nghĩa
chủ nghĩa quốc gia như là một tổng thể với các thực thể cấu thành quốc gia,
không nhận định được một thực tế đáng buồn là chủ thể phục vụ của các chính
quyền từ trước đến nay tại Việt Nam chưa bao giờ là quốc dân Việt Nam, là quốc
gia Việt Nam cả. Cho đến năm 1975, nhất là sau trò hề hiệp thương năm 1976,
toàn dân Việt Nam từ nam chí bắc bị ghìm vào gầm chuyên chính vô sản của chế độ
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, mọi người mới thấm thía ý thức thế nào là
"Đảng lãnh đạo", và băn khoăn đặt vấn đề rằng một khi Đảng đã lãnh
đạo, Đảng đứng trên Nhà Nước, Đảng bao trùm mọi cơ cấu quốc gia, thì dân chủ có
được thực thi và nhân quyền có được tôn trọng hay không.
Chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam, về mặt đối ngoại, thì Nhà nước mất hẳn quốc gia tính để chỉ còn giản
đơn là một bộ phận của tổ chức quốc tế cộng sản. Thí dụ rõ nét về sự phụ thuộc
này là chỉ thị vào cuối năm 1929 của đệ tam quốc tế cho 3 tổ chức Đông Dương
cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng, và Đông Dương cộng sản liên đoàn phải
hợp nhất lại thành một đảng đặt dưới sự chỉ đạo của đệ tam quốc tế (Chỉ thị này
bằng Pháp ngữ, được công bố trên tạp chí Học Tập tháng 10 năm 1967, Hà Nội).
Một thí dụ khác về sự phụ thuộc này là phái đoàn Phạm Văn Đồng tại Genève năm
1954 đã phải cúi đầu tuân lệnh Chu Ân Lai chịu chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 17,
đi ngược lại ý nguyện toàn dân và không phù hợp với tình hình chiến sự đang
trên đà thắng lợi lúc bấy giờ. Ngược lại, về mặt đối nội, nhà nước xã hội chủ
nghĩa phủ lấp quốc gia qua các ngôn từ chính thức"Đảng và Nhà nước”,"Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Nhà nước là mặt quyền lực
chính trị của chế độ, tự tung tự tác quán xuyến tất cả công việc, lại ở dưới sự
lãnh đạo của đảng, thành thử Đảng là tuyệt đối, ở trên tất cả mọi thứ, ở trên
dân tộc, ở trên quốc gia. Nói trắng ra, tính chất quốc gia bị đảng cộng sản phủ
lấp trong các cơ chế nhà nước xã hội chủ nghĩa. Về phần nhân dân dưới chế độ
cộng sản thì chỉ được chia phần cái bánh vẽ làm chủ tập thể. Nhân dân không có
quyền lực chính trị, nhân dân không có tư thế bảo vệ quyền lợi của mình. Nói
khác đi, hoàn toàn không có dân chủ ở Việt Nam ngày nay. Thực vậy, dưới chế độ
cộng hòa xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân vô sản một mình làm chủ đất nước
thông qua đại diện là đảng cộng sản giữ chức năng lãnh đạo và cơ chế nhà nước
giữ chức năng thừa hành. Đảng và Nhà nước là hai hệ thống song hành, một chìm
một nổi, tuy hai mà một, có mặt ở tất cả các ngành hành pháp, lập pháp và tư
pháp, trong tất cả các lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, từ trung
ương đến địa phương, theo đúng chức năng đã định mà áp đặt quyền lực thống trị
chuyên chính lên toàn bộ nhân dân cả nước. Với chức năng lãnh đạo, cấp ủy đảng
chỉ thị và kiểm soát cơ quan nhà nước cấp tương ứng. Thành thử, chỉ có đảng
viên đảng cộng sản một mình một chợ nắm giữ chính quyền, không chia sẻ với một
ai khác. Người ngoài đảng chỉ được sử dụng trong các địa hạt chuyên môn, nếu có
cần phải đặt để vào các chức vụ chỉ huy trong phạm vi hành chánh thì cũng không
thể hơn chức vụ Trưởng phòng. Ngay cả các đảng viên không phải là cấp ủy, nghĩa
là đảng viên quần chúng, vẫn có nhiều đặc quyền hơn người công dân ngoài đảng,
vì chỉ có họ mới được quyền bầu cử đại biểu vào các cơ cấu chính quyền và Đại
hội đảng, tức là gián tiếp bầu các cấp ủy đảng, còn quần chúng ngoài đảng thì
chỉ được bầu Quốc hội, các cơ quan Nhà nước, Hội đồng nhân dân các cấp, nghĩa
là các cơ chế không có quyền quyết định chính trị. Đảng viên có lớp học chính
trị riêng, có chế độ cung cấp riêng, đặc biệt ưu đãi hơn quần chúng ngoài đảng.
Chỉ có đảng viên mới được ứng cử, vì muốn ứng cử thì phải được Mặt Trận Tổ Quốc
giới thiệu, mà không phải là đảng viên thì làm thế nào mà được Mặt Trận Tổ Quốc
giới thiệu. Quần chúng ngoài đảng đi đến đâu cũng chạm trán với quyền lực của
Đảng, Bước ra khỏi nhà là đụng ngay tổ dân phố và công an khu vực. Tổ trưởng,
tổ phó, ủy viên an ninh tổ dân phố, ít nhất một trong ba vị đó là người của
Đảng. Công an khu vực thì khỏi nói, đã là công an thì lý lịch phải là ba đời
bần cố nông và đương nhiên phải là người của Đảng. Đi học, đi làm thì chạm trán
với hiệu đoàn, đảng đoàn. Thủ trưởng cơ quan phải chịu sự lãnh đạo của bí thư
đảng đoàn. Thủ trưởng cơ quan mà không kiêm nhiệm bí thư đảng đoàn thì chẳng có
chút quyền uy nào.
Nói tóm lại, chủ nghĩa Mác Lê
"bách chiến bách thắng", chủ nghĩa Mác Lê "vô địch", đã thể
hiện trọn vẹn quyền lực chuyên chính quốc tế vô sản tại Việt Nam, dành đặc
quyền đặc lợi cho thiểu số đảng viên cộng sản độc tôn cầm quyền, ghìm đại khối
nhân dân trong nghèo đói, lạc hậu, sợ hãi, lừa dối, đố kỵ và ngu dốt. Dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa, quốc gia không có chỗ đứng; chỉ có tinh thần quốc tế vô
sản và bản chất chuyên chính nhất nguyên mà thôi, thể hiện qua các cơ chế Đảng
và Nhà nước. Nhà Nước là mặt nổi của chế độ. Nhà Nước đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Đảng và Nhà Nước tuy hai nhưng chỉ là một. Quyền công dân tham dự chính
quyền không được đếm xỉa tới. Quyền căn bản của con người bị chà đạp một cách
thô bạo. Sinh hoạt chính trị hoàn toàn thu gọn trong tay các đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam. Định chế chính trị Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hoàn
toàn không có dân chủ.
Thực trạng chính trị tại Việt Nam
hoàn toàn đi ngược trào lưu tư tưởng nhân loại. Ý niệm dân chủ phổ biến cùng
khắp thế giới ngày nay bắt nguồn từ trào lưu tư tưởng Tây phương một vài trăm
năm trở lại đây. Năm 1748, Montesquieu
ấn hành cuốn L'Esprit des lois, phác họa những nét căn bản về hiến pháp, nhất
là vấn đề phân cách các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp. Ít lâu sau, vào
năm 1762, Jean Jacques Rousseau trong tác phẩm Le Contrat social đề cập đến chủ
quyền toàn dân và nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Tuyên ngôn độc lập của
Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ năm 1776 nhấn mạnh việc bảo đảm các quyền tự do căn bản
của con người. Khoảng thời gian 1787-1789, Hiến Pháp Hoa Kỳ đưọc viết thành
văn, cụ thể hóa việc phân cách các quyền hành pháp, lập pháp, tư pháp. Cũng
trong năm 1789, Quốc Hội Pháp công bố Tuyên ngôn về Quyền Con Người và Quyền
Công dân; đồng thời, ở Anh, Jeremy Bentham đề xuất chủ nghĩa thực dụng, khẳng
định giá trị đồng đều của cá thể ("Every man is to count for one, and no
man for more than one"), và xiển dương quyền lực của đa số đối với thiểu
số. Từ năm 1806 trở đi, việc buôn bán nô lệ bị cấm chỉ. Dân chúng các đô thị
mỗi ngày một đông đúc, nên chính quyền đô thị được cải tiến cho dân chủ hơn
(Đạo Luật Cải cách năm 1832 ở Anh); đồng thời kinh tế phát triển khiến nẩy sinh
học thuyết laisser-faire, chủ trương tự do kinh doanh, nhà nước không được can
thiệp vào các hoạt động kinh tế. Để bảo vệ quyền lợi người lao động, khoảng
thời gian 1864-1868, ở Pháp, rồi sau đó ở các nước Tây phương khác, nhiều đạo
luật được ban hành công nhận quyền đình công và cho phép lập nghiệp đoàn. Quyền
bầu cử thì được thừa nhận ở Pháp từ năm 1848, còn ở Anh thì phải đợi đến năm
1884 mới có văn kiện chính thức thừa nhận quyền bầu cử của công dân (Franchise
Act).
Quá trình diễn biến của trào lưu tư
tưởng Tây phương về tự do dân chủ, về quyền con người và quyền công dân, đã tác
động sâu sắc đến các mặt sinh hoạt chính trị, xã hội và kinh tế của loài nguòi
trong hai trăm năm qua, đưa đến một số thay đổi cơ bản như sau:
- Bằng cách mạng bạo lực võ trang,
các định chế chính trị quân chủ chuyên chính ở Pháp, ở Trung quốc, ở Nga, hay
chính quyền thuộc địa bóc lột ở Mỹ đã bị lật đỗ, thay vào đó là các định chế
cộng hòa. Ở một số nước khác thì định chế quân chủ chuyên chính được canh tân
bằng những biện pháp ôn hòa để trở thành những chế độ quân chủ lập hiến.
- Biên cương giữa các dân tộc bị
thay đổi, một số dân tộc bị phân cát, một số khác lại hợp nhất. Thí dụ rõ nét
là sự hình thành của các đế quốc thuộc địa Anh, Pháp, Nga, sự tan rã của đế
quốc Ottoman, và sự thống nhất các dân tộc Đức và Ý. Người Anh cho các thuộc
địa đồng chủng Canada, Australia, New Zealand được tự trị; và sau thế chiến II,
nhiều cuờng quốc thuộc địa lần lượt cho cả các dân dị chủng được độc lập.
- Tư tưởng tự do
được đề cao, bao gồm đủ loại :
Tự do cá nhân,
Tự do tín ngưỡng,
Tự do thông tin báo chí,
Tự đo sáng tác,
Tự do phát biểu,
Tự do doanh thương v. v.
- Sinh
hoạt chính trị dân chủ. Chế độ phổ thông đầu phiếu được công nhận. Mọi người
dân, không phân biệt nam nữ, đều có quyền bầu cử và ứng cử.
- Giáo
dục bình dân đưọc thực hiện cùng khắp. Giáo dục bình dân có tính cách cưỡng
chế. Nạn mù chữ được thanh toán. Nhà thờ đưọc tách ra khỏi các trường công lập.
- Công nhân có quyền
đình công. Công nhân được tổ chức nghiệp đoàn.
- Luật thương
mãi được ban hành. Xã hội được tổ chức theo qui ước để dung hợp tự do cá nhân
với sinh hoạt củacộng đồng.
Rõ ràng
là nhân loại đã có những nỗ lực to lớn trong thời gian qua, cả về tư duy lẫn
hành động, để tổ chức được những định chế dân chủ pháp trị, mà người dân được
bảo đảm các quyền tự do căn bản, toàn thể nhân dân được đồng đều sử dụng quyền
lực chính trị dân chủ xuyên qua lá phiếu để công cử chính quyền, giám sát chính
quyền, uốn nắn chính quyền, và thay đổi chính quyền. Thêm vào đó, xu hướng nhân
đạo được phát triển, khiến nẩy sinh tư tưởng xã hội, giai cấp nghèo khó được
chú trọng để làm đối tượng nghiên cứu, trong chiều hướng cố công tìm ra những
học thuyết và phương thức san bằng chênh
lệch giàu nghèo và xóa bỏ bất công xã hội. Bộ tiểu thuyết nhiều tập Les
Misérables của Victor Hugo ra đời năm 1862 đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng chính trị Âu châu và Bắc Mỹ,
khiến cho chủ nghĩa dân chủ xã hội được phát sinh, và những nước quân chủ lập
hiến như Thụy Điển thời Olof Palme làm Thủ Tướng, tỉnh bang Ontario của Canada
thời Đảng N.D.P. cầm quyền, hay nước Cộng Hòa Pháp thời Mittérand tại chức,
thực sự đã là những xứ sở đầy tình người và nặng tinh thần xã hội. Trong lúc đó
thì những nhà lý thuyết mác-xít lê-ni-nít thừa nhận dân chủ là tốt đẹp, chủ
nghĩa xã hội là mục tiêu tất yếu của loài người, nhưng lại đi quá đà, chủ
trương một mô thức dân chủ dựa trên đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản,
hóa ra dân chủ kiểu cộng sản, tức là dân chủ mới, dân chủ nhân dân, mang những
tính chất khiên cuỡng, không tưởng, nên không ai chịu theo. Thực vậy, từ năm
1848, với Tuyên ngôn Cộng sản, Mác kêu gọi vô sản thế giới liên hiệp lại để đấu
tranh giai cấp; qua năm 1867, Mác cho ra đời cuốn Tư Bản luận, đầu độc tư tưởng
nhân loại bằng cách đơn phương nêu lên những điều xấu xa của chủ nghĩa tư bản
và đoan quyết về tương lai rẫy chết của chế độ tư bản. Kịp đến khi Lê-Nin thực
hiện cách mạng vô sản chuyên chính ở Nga Xô năm 1917, xây dựng một định chế
chính trị mà Lê-Nin đại ngôn rằng một triệu lần dân chủ hơn các định chế Tây
phương, ghìm đầu non nửa nhân loại vào gầm chuyên chính vô sản, thì mọi người
có ý thức đều nhận định rằng dân chủ nhân dân là đi nguợc lại trào lưu tiến hóa
của tư tưởng loài người, dân chủ nhân dân dành quyền quyết định mọi việc cho
thiểu số tập thể đảng viên Đảng Cộng sản, dân chủ nhân dân là dân chủ không có
tự do, dân chủ nhân dân là dân chủ phản động. Lê-Nin, rồi sau đó là Staline, đã
kiến tạo một mô thức chính trị dựa trên hai chủ điểm : dân chủ nhân dân, và
chủ nghĩa xã hội như là bước quá độ để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Dân chủ
nhân dân, còn gọi là dân chủ tập trung, tân dân chủ hay dân chủ mới, khác với
các nền dân chủ khác, kể cả dân chủ xã hội, là mọi quyền lực chính trị được tập
trung vào tay thiểu số đảng viên Đảng Cộng sản. Chủ nghĩa xã hội như là buóc
quá độ để tiến lên chủ nghĩa cộng sản là các tư liệu sản xuất đều là cộng hữu,
nghĩa là ruộng đất, ao vườn, trâu bò, máy cày, máy kéo, cơ xưởng, xe cộ v.v.,
tất cả đều bị tịch thu đưa vào hợp tác xã. Để cưỡng bức nhân dân chấp nhận mô
thức chính trị, kinh tế, xã hội này, các nhà lãnh đạo mác-xít lê-ni-nít đã đem
Đảng vào chính quyền giữ vai trò lãnh đạo, đứng trên Nhà Nước và phủ lấp mọi cơ
cấu quốc gia.
Tình
trạng dân chủ ở Việt Nam
ngày nay là như vậy đó. Đảng có mặt ở khắp nơi, Đảng khống chế chính quyền các
cấp, Đảng quyết định và giải quyết mọi công việc.
Vì Đảng
giữ vai trò lãnh đạo nên Bộ trưởng Bộ Tư pháp hoặc Chánh án Tòa án tối cao đều
phải chấp hành mệnh lệnh của Bí thư Đảng đoàn sở quan.Các cấp địa phương cũng y
hệt như vậy. Đưa một nghi can ra toà xử án, người ta đã bày trò diễn xuất một
màn kịch sân khấu có kịch bản đã duyệt xét. Thực vậy, tội trạng và mức án đã
được đảng bộ sở quan định trước, biện lý, ủy viên công tố, luật sư cũng như
chánh án chỉ có chấp hành. Làm gì có chuyện người dân được luật pháp bảo vệ.
Làm gì có công lý. Làm gì có dân chủ. Cho nên muốn có dân chủ, Đảng
phải ra khỏi Tòa án. Phải tách Đảng ra khỏi Nhà Nước.
Vì Đảng
giữ vai trò lãnh đạo nên giáo viên và học sinh các cấp phải giảng dạy và học
tập theo giáo án đã được các cấp ủy Đảng Cộng sản biên soạn. Giáo dục nói chung
không nhằm mục tiêu chủ yếu nâng cao tri thức và phẩm hạnh con người, ngược lại
chỉ có mục tiêu chính trị là củng cố quyền lực Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong
lãnh vực khoa học nhân văn, khi Đảng chống Trung quốc thì sách giáo khoa đề cao
anh hùng Nguyễn Đình Chính; khi Đảng cần cầu hòa với Trung quốc thì sách giáo
khoa bôi bỏ tên Nguyễn Đình Chính. Rút cục, cứ bằng vào sách vở của Việt Cộng
thì không ai biết Nguyễn Đình Chính có anh hùng hay không, hoặc chuyện Nguyễn
Đình Chính là có thật hay chỉ là chuyện bịa đặt. Vì thân với Bắc Hàn và ghét Mỹ
nên sách giáo khoa mô tả Nam Hàn là một nuớc kinh tế lạc hậu, nhân dân đói
rách. Kịp đến năm 1988, đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh chiếu phóng sự Thế vận hội Seoul, qua đó mọi
người đều thấy được mức độ phồn thịnh của Nam Hàn, nhưng học sinh vẫn cứ phải
học tập theo giáo án cũ. Ngay cả trong lãnh vực khoa học thực nghiệm, Đảng cũng
áp đặt quyền lực chuyên chính để củng cố ngôi vị độc tôn. Khoa bảng như Từ Giấy
cũng phải theo lệnh Đảng viết báo cáo khoa học khẳng định 3 kilô đọt sắn (khoai
mì) có giá trị dinh dưỡng bằng 1 kilô thịt bò. Vì Đảng có mặt trong trường học,
học sinh không được giảng dạy trung thực, giáo viên không được phát biểu ý kiến
riêng, phụ huynh không an tâm về tri thức của con em, nhân dân không tin tưởng
vào các thông tin ở sách giáo khoa và các cơ quan truyền thông nhà nước. Hoàn
toàn không có tự do thông tin, không có tự do sáng tác, không có tự do phát
biểu. Nói khác đi, khi Đảng ra mặt lãnh đạo thì làm gì có tự
do, làm gì
có dân chủ. Muốn có dân chủ, Đảng phải ra khỏi trường
học. Phải tách Đảng ra khỏi Nhà Nước.
Tình hình
ở các nhà thương, nhà máy, nông trại, lâm trường, ngư trường, v.v., cũng y hệt
như vậy. Ở đâu có mặt Đảng là ở đó công bằng xã hội vắng bóng. Ở đâu Đảng lãnh
đạo là ở đó không có dân chủ. Đảng viên và gia đình đi nằm bệnh viện không mất
tiền, chức vụ càng cao thì phương tiện kỹ thuật và dịch vụ y tế cung cấp càng
tối hảo. Quần chúng ngoài đảng lâm nạn đưa đi cấp cứu thì phải theo đúng tuyến
phân bố mới được tiếp nhận, và phải bỏ tiền mua bông, băng, kim khâu, chỉ may,
dịch truyền, v.v. Nếu khờ khạo mua các thứ đó mang đến thì bị chê bai đủ điều,
còn nếu xuất tiền nhờ nhân viên bệnh viện mua giúp thì được chửa trị tức khắc.
Đảng viên và gia đình công tác ở các nông trường được bố trí làm các việc kế
toán, tài chánh, thung dung nhàn nhã trong văn phòng, cũng được ghi điểm chấm
công y hệt các đội viên sản xuất mà phần đông là quần chúng ngoài đảng, phơi
lưng giữa đồng, vất vả một nắng hai sương. Vợ con thủ trưởng các cơ quan quốc
doanh có tài xế đưa đón, có đầu bếp hầu cơm, và những người tăng phái làm việc
riêng tư này cũng được chấm công để hưởng lương y hệt những người công tác sản
xuất thực thụ. Cơ quan nhà nước nào cũng được ngân hàng cấp vốn và sở nhà đất
cấp mặt bằng để mở các cơ sở kinh doanh loại bỏ túi, do đảng viên quản lý, bề
ngoài nói là để cải thiện đời sống công nhân viên chức của cơ quan, nhưng thực
chất là những ổ nhũng lạm, chia chác làm giàu cho thiểu số đảng viên có đặc
quyền. Nói tóm lại, khi Đảng lãnh đạo các cơ quan Nhà Nước thì không có công
bằng, thì không có dân chủ. Muốn có dân chủ, phải tách rời Đảng ra khỏi Nhà
Nước.
Qua các
thí dụ vừa kể trên đây thì rõ ràng công thức "Đảng lãnh đạo, Nhà Nước
quản lý, Nhân Dân làm chủ” là không thể chấp nhận được. Đảng còn lãnh đạo
thì nhân dân chẳng làm chủ được gì, các cơ chế nhà nước không phục vụ nhân dân
mà chỉ phục vụ thiểu số đảng viên có đặc quyền. Muốn cho nhân dân thực sự làm
chủ, nghĩa là chủ quyền quốc gia thực sự thuộc về toàn dân, thì điều tiên quyết
là phải tách Đảng ra khỏi Nhà Nước. Nếu không tách Đảng ra khỏi Nhà Nước thì
những cơ chế nhà nước như Công an và Quân đội không những không phục vụ nhân
dân mà còn biến thành công cụ trấn áp của riêng thiểu số đảng viên có đặc quyền
dùng để chống lại nhân dân đòi hỏi cải tiến dân sinh, thực hiện dân chủ. Nhớ
lại năm 1946, khi toàn dân cần đoàn kết để chống ngoại xâm thì Tổng Bộ Việt
Minh (tiền thân Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay) đã dựng đứng các vụ phố Ôn Như
Hầu ở Hà nội và cầu Chiêm Sơn ở Quảng Nam, để lấy cớ huy động công an và bộ đội
truy kích và tận diệt các lực lượng quốc gia yêu nước có khuynh hướng chính trị
không cộng sản. Bộ trưởng Nội vụ là Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Quốc phòng là
Phan Anh, cả hai đều là nhân sĩ ngoài đảng. Cấp ủy đặc trách công an và bộ đội
là Võ Nguyên Giáp. Vì lẽ chính quyền lúc bấy giờ cũng đã tổ chức rập khuôn theo
mô thức Đảng lãnh đạo các cơ chế nhà nước nên công an và bộ đội chỉ biết tuân
lệnh lãnh đạo cấp ủy mà không cần biết thủ trưởng là ai, nên đã tàn sát không
nương tay những anh chị em ruột thịt của mình để củng cố một chính thể chuyên
chính vô tiền khoáng hậu trong lịch sử pháp chế Việt Nam. Năm 1955, Quân đội
nhân dân đã hoàn tất việc rèn quân chỉnh cán, nghĩa là đã được đảng hóa, và
dưới sự động viên và giám sát của các chính ủy, đã đánh giết giáo dân Ba Làng
vùng Nghệ Tĩnh cũng hăng say như đánh nhau với giặc Pháp xâm lược. Năm 1997, khi nông dân Thái Bình và nhiều nơi
khác trong cả nưóc nổi dậy đòi hỏi cấp đủ ruộng để cày và giảm tô giảm thuế,
cũng như gần đây, ngay trong năm 2001 này, khi giáo dân Nguyệt Biều, Phật tử
miền Trung và tín đồ Hòa Hảo miền Tây Nam Bộ biểu tình đòi hỏi tự do tín
ngưỡng, thì Công an nhân dân và Quân đội nhân dân cũng đã được các cấp ủy đảng
điều động đi thi hành sứ mạng làm công cụ trấn áp của Đảng, thẳng tay bắt bớ,
giam cầm, bắn giết những người dân trong tay không có khí giới, để củng cố thế
lực và quyền lợi thiểu số đảng viên cầm quyền, đi ngược khát vọng của quần
chúng nhân dân cả nước. Như vậy, muốn có dân chủ, Đảng phải ra khỏi các tổ
chức công an và quân sự. Phải tách Đảng ra khỏi Nhà Nước.
Nói tóm
lại, điều kiện tiên quyết để thực thi dân chủ ở Việt Nam ngày nay là tách rời
Đảng Cộng sản ra khỏi các cơ chế Nhà Nước. Cho dù các nhà lãnh đạo chính quyền
Việt Nam có mở rộng cửa đón mời lãnh tụ của tất cả các tổ chức chính trị, tôn
giáo, xã hội văn hóa v.v. trong và ngoài nước tham gia một chính thể liên hiệp
quốc gia, hòa giải dân tộc, mà Đảng vẫn chưa tách rời khỏi Nhà Nước, thì điều
giả dụ này vẫn chưa có thể gọi là một nỗ lực cải tiến chế độ, thực thi dân chủ.
Thực vậy, khi mà công an và quân đội vẫn còn chỉ biết nhắm mắt tuân lệnh cấp ủy
sở quan mà không biết đến thủ trưởng, thì, không chóng thì chầy, sự kiện Tháng
Bảy đen năm 1946 lại tái diễn, lịch sử phân tranh quốc cộng lại ghi thêm một
trang oan khốc. Còn như trường hợp các nhà lãnh đạo chính quyền Việt Nam chịu
nhượng bộ áp lực nước ngoài mà đổi mới chính sách kinh tế, thực thi hiệp ước
mậu dịch tự do, đón nhận đầu tư ngoại quốc, công nhận quyền tư hữu, thu dụng
chuyên viên Việt Nam hải ngoại vào các cơ quan nhà nước, mà Đảng vẫn chưa tách
rời khỏi Nhà Nước, thì việc đổi mới này nhất quyết không phải là may mắn cho
quần chúng nhân dân Việt Nam. Thực vậy, trong tình huống đổi mới này, thiểu số
đảng viên có đặc quyền tiếp tục hưởng đặc lợi, cán bộ đảng viên dần dà hữu sản
hóa, quần chúng nhân dân tiếp tục sống trong nghèo khổ và bị kềm kẹp trong một
định chế chính trị chuyên chính tạm gọi là "chuyên chính tư bản
đỏ", không tự do, không hạnh phúc.
Muốn có
dân chủ, phải tách Đảng ra khỏi Nhà Nưóc. Điều này không có nghĩa là đòi hỏi
các nhà lãnh đạo chính quyền Việt Nam tự tay giải thể Đảng Cộng sản.
Tách Đảng ra khỏi Nhà Nước chỉ có nghĩa là cải tổ chế độ thế nào cho Đảng chấm
dứt vai trò độc quyền lãnh đạo các cơ cấu nhà nước, để nhân dân thực sự làm
chủ, để nhân dân tự do sử dụng lá phiếu, qui định chính thể, tuyển chọn chính
quyền, bảo vệ dân quyền và nhân quyền. Đặt điều kiện tiên quyết "Tách
Đảng ra khỏi Nhà Nước" chỉ có nghĩa là đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt
Nam từ bỏ ngôi vị chúa tể độc tôn, độc đoán, lui về cương vị một chính đảng
sinh hoạt trong khuôn khổ luật pháp. Đã chịu nói đến thực thi dân chủ thì không
thể nào cứ tiếp tục chủ trương chuyên chính, duy trì chính quyền bằng bạo lực,
sử dụng công an và quân đội trấn áp quần chúng nhân dân.
Phần thứ hai
Muốn có Dân Chủ, phải kiến
tạo Xã Hội Dân Sự
Ngược lại
trào lưu tiến hóa của nhân loại, trước thềm thế kỷ 21, xã hội Việt Nam vẫn hoàn
toàn không có dân chủ. Vấn đề cấp thiết đặt ra cho mọi người Việt Nam yêu nước
thương dân là làm thế nào để có dân chủ ở Việt Nam. Trong phần thứ nhất, chúng ta
đã đưa ra tiền đề “muốn có dân chủ, phải tách Đảng ra khỏi Nhà nước”. Nay giả
dụ những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam chịu tách Đảng ra khỏi Nhà nước,
chịu đưa đảng cộng sản lui về cương vị một chính đảng hoạt động trong khuôn khổ
một định chế chính trị pháp định, thì định chế chính trị pháp định này sẽ được
hình thành trên cơ sở một mô thức xã hội như thế nào để có thể đánh giá là tiên
tiến, là ưu việt để thay thế mô thức xã hội dân chủ mới, nói rõ hơn, mô thức xã
hội xã hội chủ nghĩa hiện nay? Nếu không có lời giải đáp rõ ràng, chính xác thì
nhân dân trong cả nước có quyền nghi ngờ những đòi hỏi thực thi dân chủ, cải
tiến xã hội chẳng qua cũng chỉ là những chiêu bài che đậy các nỗ lực vị kỷ nhằm
mục đích thay triều đổi họ, tranh bá đồ vương mà thôi, còn đại khối quần chúng,
rút cục chỉ được chia phần cái bánh vẽ dân chủ giả hiệu, với viễn ảnh đen tối
chuyên chính này thay thế chuyên chính kia, giai tầng này thay thế giai tầng
nọ, hình thức tổ chức công quyền có đổi khác đi mà bản chất quan liêu, tham ô,
cửa quyền của tập đoàn thống trị vẫn thâm căn cố để! Bởi vậy, cho dù Đảng Cộng
sản Việt Nam không mảy may biểu hiện thiện chí giải quyết tiền đề tách Đảng ra
khỏi Nhà nước, vẫn ù lì bám chặt địa vị
độc tôn, tự chuyên đứng trên Nhà nước và phủ lấp Quốc gia, chúng ta không thể
không phác họa ngay lúc này những nét đại cương của mô thức xã hội hậu cộng sản
để thực sự có dân chủ tại Việt Nam. Đó
là : “muốn có dân chủ, phải kiến tạo xã hội dân sự”.
Xã hội
dân sự, còn gọi là xã hội công dân (civil society), là mô thức xã hội tiên tiến
và hiện đại ở các nước Tây phương dân chủ, đã được kiến tạo dần dà từ thời cận
kim, và sẽ tiếp tục được hoàn bị trong thế kỷ 21 này. Tất nhiên, tình trạng
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam hiện nay có nhiều mặt khác
biệt với hoàn cảnh các nước Tây phương, mức độ phát triển dân trí lại không
đồng đều giữa thôn quê và thành thị, tư duy và tâm lý quần chúng còn in
đậm dấu ấn Trung Hoa, nghĩa là nói chung
về mọi mặt của cuộc sống, Việt Nam rất lạc hậu so với các nước Tây phương dân
chủ, khiến chúng ta không thể một sáng một chiều kiến tạo ngay tại Việt Nam một
mô thức xã hội dân sự tiêu biểu để có được dân chủ thực sự. Nhưng ngay từ bây
giờ, với quyết tâm và ý thức, chúng ta đã có thể khởi đầu kiến tạo một số cơ sở
làm nền móng cho xã hội dân sự hậu cộng sản ngày mai.
Tìm hiểu
xã hội dân sự, tức là xã hội công dân, trước tiên, chúng ta phải gạt bỏ ý niệm
dân sự như là một thực thể của cuộc sống đối kháng với thực thể quân sự. Trước
đây, tại miền nam Việt Nam, một số nhà nghiên cứu và lý luận chính trị đã đề
cập đến vấn đề xã hội dân sự, nhưng quần chúng độc giả chẳng có mấy ai quan tâm
bởi lẽ hầu hết mọi người đều lầm lạc hiểu nghĩa từ dân sự như là ý niệm đối
kháng của từ quân sự. Nguyên do của sự lầm lạc đó, một mặt là vì các tác giả
không có ai đào sâu vấn đề xã hội dân sự mà chỉ nói phớt qua nhu cầu cấp thiết
kiến tạo thể chế dân sự để có dân chủ, mặt khác là vì tình trạng xã hội đương
thời đắm chìm trong khói lửa, quân nhân các cấp trung và cao chia nhau nắm giữ
các cơ cấu công quyền. Bởi các lẽ đó mà việc đòi hỏi kiến tạo xã hội dân sự để
có dân chủ bị hiểu lầm là đòi hỏi thành lập chính quyền dân sự, nghĩa là quân
nhân không được tham dự chính quyền, và sự hiểu sai ý nghĩa từ dân sự theo chiều
hướng dân sự đối kháng với quân sự như vậy đã biến các chính trị gia chủ trương
xây dựng xã hội dân sự thời bấy giờ thành những con rối chính trị hoạt đầu
trong các cơn lốc tranh chấp quyền lực dưới con mắt trọng tài của quần chúng
nhân dân. Thật vậy, chính quyền không nhất thiết phải hoàn toàn vắng bóng quân
nhân mới có được dân chủ. Ở Hoa Kỳ chẳng hạn, các bộ Hải quân, Lục quân, Không
quân vẫn do các Đô đốc, các Tướng lãnh làm Bộ Trưởng. Mặt khác, chính quyền
không nhất thiết hễ do các nhân vật dân sự cầm đầu là có ngay dân chủ. Tại Việt
Nam, khi Nguyễn Khánh vốn là Đại Tướng từ chức và trao chính quyền lại cho Phan
Khắc Sửu và Phan Huy Quát là những nhân vật dân sự, Việt Nam Cộng Hòa đâu đã có
thể gọi là dân chủ thực sự. Vậy thì:
- ý niệm xã hội dân sự không mảy may
dính dấp đến ý niệm dân sự như là một thực thể của
cuộc sống đối kháng với thực thể quân sự,
- chủ trương kiến tạo xã hội dân sự
không thể nào bị đồng hóa một cách giản đơn với việc đòi hỏi thành lập chính
quyền dân sự,
- việc đòi hỏi kiến tạo xã hội dân
sự là việc đòi hỏi xây dựng những cơ cấu xã hội rộng lớn bao gồm nhiều mặt sinh
hoạt của tất cả các lãnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, chứ không riêng gìới hạn
trong lãnh vực chính trị và công quyền.
Nói tóm
lại, ý niệm xã hội dân sự khác với ý niệm chính quyền dân sự. Mô thức xã hội
dân sự lại càng không phải là mô thức xã hội mà các cơ cấu công quyền tuyệt đối
không có mặt quân nhân.
Trong xã
hội dân sự, chủ thể của chế độ là người dân, người Công dân, chứ không phải là
thượng tầng Vua quan trong xã hội chuyên chính phong kiến, cũng không phải là
Đảng và Nhà nước trong các xã hội chuyên chính phát xít và chuyên chính vô sản.
Người công dân trong xã hội dân sự là chủ thể thực sự của chế độ, nghĩa là chủ thể trong bản chất,
chứ không phải là chủ thể trên danh nghĩa như trong các chế độ chuyên chính
hoặc dân chủ hình thức, dân chủ ngụy trang, dân chủ trá hình. Đây là điểm khác
biệt căn bản giữa mô thức xã hội dân sự và các mô thức xã hội chuyên chính.
Trong các xã hội chuyên chính, tất cả các cơ cấu xã hội đều do chính quyền tạo
dựng nên, và đều bị chính quyền lãnh đạo và kiểm soát. Mặt khác, trong các xã
hội chuyên chính, người dân không được tham dự chính quyền, người dân hoàn toàn
là thành phần bị trị. Thật vậy, nếu lấy trường hợp Việt Nam làm thí dụ, thì
dưới thời quân chủ chuyên chính ngày xưa, chính quyền là của tập đoàn thống trị
vua quan. “Con vua rồi lại làm vua, Con sãi giữ chùa lại quét lá đa”. Thảng
hoặc cũng có nhà tư tưởng cấp tiến chủ trương “Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân
vi khinh” (Mạnh tử), nhưng phúc lợi người dân được hưởng là do “ơn vua” ban cho
chứ không phải người dân đương nhiên có quyền được hưởng. Dưới chế độ chuyên
chính vô sản hiện nay, điều 4 của Hiến pháp ghi rõ ràng chính quyền là của
riêng Đảng Cộng sản Việt Nam. Tập đoàn thống trị đảng viên chia nhau thụ hưởng
mọi thứ đặc quyền đặc lợi. Người dân chỉ được cái bánh vẽ làm chủ (Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ), và muốn được yên thân thì luôn miệng
phải xưng tụng “Nhờ ơn Bác, nhờ ơn Đảng” mặc dù chẳng được ban phát cái xơ cái
giải gì. Trong lúc đó thì theo mô thức xã hội dân sự, các cơ cấu xã hội không
do chính quyền tạo dựng nên, và không bị chính quyền lãnh đạo và kiểm soát.
Trong xã hội dân sự, chính người dân thai nghén và hình thành các tổ chức của
xã hội, và cũng chính người dân điều hành và lãnh đạo các mặt sinh hoạt của các
cơ cấu xã hội này, kể cả các mặt chính trị và công quyền, tức là chính quyền.
Người dân không bị gạt ra ngoài lề chính quyền. Người dân kiến tạo chính quyền
và thay phiên nhau điều hành chính quyền. Người dân là chủ thể của chế độ. Nói
rõ hơn, trong xã hội dân sự, người dân làm chủ chế độ, và điều này làm cho chế
độ thực sự mang tính chất dân chủ.
Chính
quyền bao gồm hai thành tố: chính trị và công quyền. Trong xã hội dân sự, người
dân kiến tạo và điều hành chính quyền về cả hai mặt chính trị và công quyền. Về
mặt chính trị, người dân công khai bày tỏ chính kiến, viết báo, diễn thuyết,
biểu tình, tham gia các cuộc thăm dò dư luận và trưng cầu dân ý, thành lập các
tổ chức chính trị, cụ thể là các chính đảng, và tích cực tham gia hoạt động của
các tổ chức này. Về mặt công quyền, người dân sử dụng lá phiếu để cử người thay
mặt mình lãnh đạo và điều hành các cơ cấu công quyền ở trung ương cũng như ở
địa phương, trong lãnh vực hành pháp cũng như trong các lãnh vực tư pháp và lập
pháp. Đối với người dân sống ở các nước Tây phương dân chủ thì những điều phác
họa trên đây chẳng có gì là mới lạ, đó là những việc hàng ngày, hoặc là những
việc đang bàn tính thực hiện, nhưng đối với các xã hội hiện thời đang đắm chìm
trong các thể chế chuyên chính thì những điều đó lại là những điều cấm kỵ. Ngay
như tại các nước Tây phương dân chủ, từ khi Jean Jacques Rousseau viết tác phẩm
Le Contrat social đề cập đến chủ quyền toàn dân và nêu lên nguyên tắc thiểu số
phục tùng đa số vào năm 1762 cho đến nay đã ngót nghét ba trăm năm mà mô thức
xã hội dân sự tiêu biểu vẫn còn đang ở trên tiến trình hoàn bị. Nhân loại đã
phải kinh qua những nỗ lực phi thường cả về tư duy lẫn hành động để đạt tới các
mô thức xã hội tiên tiến ngày nay với các định chế dân chủ pháp trị, mà toàn
thể công dân không phân biệt nam nữ được bảo đảm có các quyền tự do căn bản,
được đồng đều sử dụng lá phiếu để tham gia lãnh đạo và điều hành chính quyền.
Tự do, bình đẳng , bác ái, trở thành những tư tưởng chủ đạo của nhân loại dùng
làm kim chỉ nam để xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân, từng bước kiến
tạo những mô thức xã hội dân chủ mỗi ngày một hoàn bị hơn, trên tiến trình đi
lên xã hội dân sự.
Đi ngược
lại trào lưu tiến hóa này là những chủ trương phản động muốn lợi dụng những tư
tưởng mỗi ngày một phổ biến đó làm chiêu bài để che đậy âm mưu đen tối duy trì
đặc quyền đặc lợi cho phe đảng xuyên qua những định chế chính trị chuyên chính
đội lốt dân chủ. Các định chế chuyên chính đội lốt dân chủ ngăn cản người dân
tham gia các sinh hoạt chính trị, và loại bỏ người dân ra khỏi các cơ cấu công
quyền. Các âm mưu này thường được thực hiện bằng phương thức tổ chức bầu cử
gian lận hoặc bằng phương thức hạn chế quyền bầu cử và triệt tiêu quyền ứng cử.
Bầu cử gian lận là phương thức hạ đẳng, thường gây nên những dư luận không mấy
thuận lợi, gia dĩ lại không phải là phương thức an toàn, phe đảng đôi khi có
thể bị thất cử. Hạn chế quyền bầu cử và triệt tiêu quyền ứng cử là phương thức
bá đạo vừa hữu hiệu vừa an toàn, sử dụng những biện pháp trắng trợn và độc ác,
như mua chuộc, ngăn cản hoặc hăm dọa cử tri, bắt cóc, thủ tiêu hay ám sát ứng
cử viên đối lập. Hiện nay, tại Việt Nam, phương thức hạn chế quyền bầu cử và
triệt tiêu quyền ứng cử đang được áp dụng một cách vô cùng tinh tế, người vô
tình có thể không nhận ra. Thật vậy, người dân chỉ được bầu Hội Đồng nhân dân
và Quốc Hội là những cơ quan không có thẩm
quyền lãnh đạo chính trị. Mặt khác, các cấp ủy đảng lãnh đạo các cơ quan
nhà nước cấp tương đương, và chỉ có đảng viên mới có quyền bầu đại biểu đảng để
sau đó những đại biểu này bầu các cấp ủy đảng, như vậy rõ ràng người dân đã bị
tước mất quyền bầu người thay mặt mình lãnh đạo chính quyền. Nguời dân lại
không có quyền ứng cử. Ứng cử viên phải là người do Mặt Trận Tổ Quốc giới
thiệu. Đã thế, số ứng cử viên đưa ra cho mỗi đơn vị cũng bị hạn chế, ví dụ đơn
vị được 5 đại biểu thì Mặt Trận Tổ Quốc chỉ đưa ra 6, 7 ứng cử viên mà thôi.
Quyền ứng cử hoàn toàn bị triệt tiêu. Như vậy, chế độ chuyên chính vô sản đội
lốt dân chủ thực chất là một nền dân chủ hình thức, ngụy trang, mặc dù được
những người cộng sản sơn phết bằng những mỹ từ dân chủ mới, dân chủ tập trung,
dân chủ nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Trong xã
hội dân sự, song song với sự kiện tất cả công dân đều có quyền tham gia lãnh
đạo và điều hành chính quyền là tinh thần thượng tôn pháp luật rất phổ cập
trong toàn dân. Tất cả mọi người đều nghiêm chỉnh tuân thủ luật lệ nhà nước.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tinh thần thượng tôn pháp luật mang tính chất dân
tộc hơn là tính chất xã hội. Họ nêu lên sự kiện có những dân tộc trọng pháp, có
nếp sống khuôn mẫu, kỷ cương, truyền từ đời nọ sang đời kia như là một truyền
thống đặc thù của dân tộc. Sự thật thì tinh thần thượng tôn pháp luật mang tính
chất xã hội rõ rệt. Pháp luật là những qui ước xã hội, sản phẩm của cuộc sống
hợp quần. Pháp luật do con người thỏa hiệp với nhau đặt ra để có thể cùng nhau
chung sống trong ổn định và trật tự, chứ không phải tự nhiên có sẵn như da trắng
da đen, tóc nâu tóc vàng, mũi tẹt mũi lõ. Có điều là pháp luật có thể được mọi
thành viên xã hội thỏa hiệp tạo ra và tự nguyện tuân thủ, hay pháp luật có thể
do một thiểu số thành viên tự dành quyền sáng tác và cưỡng bức toàn thể xã hội
phải chấp nhận và tuân hành. Khi pháp luật do chính người dân dự phần tạo nên,
và do chính người dân chấp nhận thi hành, thì đương nhiên người dân tôn trọng
và nghiêm chỉnh tuân thủ. Khi pháp luật không do người dân dự phần sáng tạo, mà
do một thiểu số có chức có quyền tự tung tự tác áp đặt, ép buộc toàn thể mọi
người tuân hành, thì đương nhiên nẩy sinh hiện tượng miễn cưỡng chấp nhận, miễn
cưỡng tuân hành, hoặc đi xa hơn, nẩy sinh hiện tượng phủ nhận, hiện tượng chống
đối, nói khác đi, pháp luật không được người dân tôn trọng và nghiêm chỉnh tuân
hành. Vậy thì một dân tộc được tiếng là trọng pháp không phải vì dân tộc đó
mang sẵn yếu tố trọng pháp trong người từ thuở ăn lông ở lổ, mà vì dân tộc đó
đã được sống lâu ngày trong một tổ chức xã hội mà người dân dự phần vào việc
qui định pháp luật, và tự nguyện tuân thủ pháp luật. Nói tóm lại, tinh thần
thượng tôn pháp luật nguyên sơ không hề mang tính chất dân tộc mà là một tính
chất đặc thù của xã hội dân chủ mà đỉnh cao là xã hội dân sự. Pháp luật xã hội
dân sự do dân mà ra nên vì dân mà hành sử tác dụng. Pháp luật xã hội dân sự
được mọi người tôn trọng vì là công cụ của chính quyền dùng để mang lại ổn định
và trật tự cho xã hội, chứ không bao giờ là công cụ của chính quyền dùng để bảo
vệ chính quyền và bênh vực người cầm quyền.
Đặc điểm
của xã hội dân sự là người dân không những tham gia lãnh đạo và điều hành chính
quyền mà còn giữ vai trò then chốt trong các lãnh vực quan yếu khác của xã hội
như kinh tế tài chánh và văn hóa xã hội. Thật vậy, các sinh hoạt kinh tế tài
chánh trong xã hội dân sự phần lớn nằm trong tay tư nhân, nhất là trong lãnh
vực thương nghiệp. Nhà nước xã hội dân sự dần dà từ bỏ chức năng quản lý để chỉ
giữ vai trò điều hợp. Nhà nước xã hội dân sự chỉ trực tiếp quản lý những mặt
sinh hoạt xã hội nào mà tư nhân không đủ khả năng bảo đảm đem lại phúc lợi cho
dân chúng như y tế, giáo dục, năng lượng, bưu chính, nhưng cũng không giữ độc
quyền, luôn luôn khuyến khích và nâng đỡ tư nhân dự phần trong phạm vi khả năng
có thể có. Ngược lại, trong các xã hội chuyên chính đội lốt dân chủ, chính
quyền không phải là của dân, do dân mà ra, chính quyền là công cụ của tập đoàn
thống trị, vì vậy, nhà nước dành quyền quản lý tất cả các mặt sinh hoạt phát
sinh lợi nhuận để giành giật đặc quyền đặc lợi cho giai cấp có chức có quyền.
Đó là các công ty công quản, các xí nghiệp quốc doanh. Nhà nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam lại còn đi xa hơn, trắng trợn và triệt để chiếm đoạt thương trường, độc quyền mở các cửa hàng
quốc doanh lớn nhỏ, một mình một chợ kinh doanh đủ loại mặt hàng, từ cung cấp
dịch vụ và chế biến nguyên liệu, cho đến chế tạo hàng tiêu dùng và tư liệu sản
xuất cho công nông nghiệp. Vì làm ăn buôn bán không có cạnh tranh nên không có
nhu cầu trau dồi nghiệp vụ và cải tiến mặt hàng, do đó dịch vụ cung cấp mỗi
ngày một xuống cấp, hàng hóa sản xuất mỗi ngày một đơn điệu và kém phẩm chất,
đưa đến kết quả tất yếu là việc kinh doanh của hầu hết các công ty và xí nghiệp
quốc doanh đều thua lỗ. Kinh tế quốc doanh là gánh nặng cho ngân sách. Vốn
liếng do ngân sách đài thọ, lời lãi thì công ty, xí nghiệp chia nhau hưởng, mà
thua lỗ thì ngân sách phải bù vào. Rút cục, sự phân hóa giàu nghèo của xã hội
ngày càng sâu sắc, đảng viên có chức có quyền và giới phe phẩy theo đóm ăn tàn
mỗi ngày một giàu có, còn đại khối quần chúng mỗi ngày một nghèo khó cơ cực.
Một nhân vật chính trị Đông Nam Á trước đây khuyến cáo Võ Văn Kiệt giải tư các
xí nghiệp và công ty quốc doanh đã ví von rằng thương trường cũng như một sòng
bạc, chính quyền ví như chủ sòng, chủ sòng chỉ nên tổ chức cho thiên hạ tự do
đánh bài để thu tiền xâu (tiền hồ) chứ không nên dự vào việc đánh bài, vì đánh
bài không bỏ tiền túi mà dùng tiền thu hồ thì phóng tay đánh bừa, đánh hoang,
không chịu nhọc công cân nhắc, nên bao giờ cũng thua sạch túi. Lối ví von này
chẳng đẹp đẽ danh giá gì cho giới chức cầm quyền, nhưng thật là chính xác để
nhận xét và phê phán chế độ kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa.
Trong xã
hội dân sự, không phải chỉ có thương nghiệp hoàn toàn nằm trong tay tư nhân, mà
hầu như ở mọi mặt sinh hoạt của xã hội, tư nhân đều giữ vai tuồng then chốt
xuyên qua hoạt động của các tổ chức nằm ngoài các cơ cấu công quyền và không
chịu sự lãnh đạo hoặc sự chi phối của nhà nước. Đó là các tổ chức của tư nhân
mà ở các nước Tây phương người ta quen gọi là các tổ chức phi chính phủ (NGO).
Các cơ cấu phi chính phủ này được tổ
chức dưới nhiều hình thức khác nhau, qui tụ những thành phần xã hội khác nhau,
sinh hoạt trên những địa bàn khác nhau, mang tính cách đặc thù địa phương hay phổ biến trong cả
nước, v.v., nghĩa là phức tạp và đa dạng vô cùng, nhưng tất cả đều có một đặc
tính chung là độc lập với chính quyền. Nói vậy có nghĩa là các tổ chức phi
chính phủ, tùy theo thực trạng chính quyền có phục vụ quyền lợi người dân hay
đi ngược lại khát vọng của người dân, mà có thái độ thân hữu hợp tác với chính
quyền, hay thờ ơ hoặc chống đối lại chính quyền. Các tổ chức phi chính phủ có
thể chỉ là những hội đoàn có qui mô nhỏ nhoi, địa bàn hoạt động hạn chế, như
các hội bảo vệ môi sinh, bảo vệ súc vật, v.v., hoặc là những tổ chức có qui mô
và địa bàn hoạt động rộng lớn hơn như các tổ chức nghề nghiệp, các công đoàn,
nghiệp đoàn, hay những hội từ thiện, hội ái hữu, hội tương tế, v.v., nhưng cũng
có thể là những tổ chức có qui mô vô cùng to lớn, địa bàn hoạt động trãi rộng
khắp cả nước, phạm vi ảnh hưởng bao gồm nhiều mặt sinh hoạt của xã hội như các
giáo hội, các chính đảng và các cơ sở ngoại vi của các tổ chức này. Dù lớn, dù
nhỏ, các tổ chức phi chính phủ hoàn toàn do người dân trực tiếp gây dựng nên,
sinh hoạt bằng phương tiện cơ hữu của người dân, phương châm hành động luôn
luôn hướng về mục tiêu do người dân đề xướng, và thường xuyên tạo sức ép lên
chính sách cai trị của các giới chức cầm quyền. Đây chính là điểm đặc thù của
xã hội dân sự. Đây chính là nền móng cơ bản của định chế thực sự dân chủ. Do
ảnh hưởng to lớn của các tổ chức phi chính phủ, đi đôi với quyền tự do bày tỏ
chính kiến, quyền bầu cử và quyền ứng cử, người dân trực tiếp tham gia việc
lãnh đạo và điều hành chính quyền, chứ không còn tự giới hạn quyền công dân
tham gia chính quyền qua việc cử người đại diện của mình ra nắm giữ các cơ cấu
công quyền. Nói rõ hơn, nền dân chủ trong xã hội dân sự là nền dân chủ dấn thân
(participatory democracy), chứ không chỉ giản đơn là nền dân chủ thay mặt
(representative democracy) như trong hầu hết các xã hội dân chủ hiện nay.
Dưới định
chế dân chủ dấn thân trong xã hội dân sự, người dân cũng dùng lá phiếu để tuyển
chọn người thay mặt mình đứng ra đảm trách việc điều hành các cơ cấu công
quyền, giống y như dưới các định chế dân chủ thay mặt hiện nay. Nhưng sự giống
nhau đó chỉ là về mặt hình thức. Về mặt nội dung, thực chất của hai mô hình dân
chủ dấn thân và dân chủ thay mặt có sự khác biệt sâu sắc, mà đặc điểm cơ bản là
tinh thần tự nguyện dấn thân của người dân, tích cực tham gia các sinh hoạt xã
hội mọi nơi, mọi lúc, kiên trì thực hiện các mục tiêu do chính mình xướng xuất.
Trong nền dân chủ thay mặt, người dân sau khi bầu cử có thể có thái độ bàng
quan, phó mặc mọi chuyện cho người đại diện mình đã tuyển chọn. Nếu tuyển chọn
được người đại diện có thiện tâm thiện chí thì là điều may mắn cho xã hội. Nếu
gặp phải những phần tử hoạt đầu, tự tung tự tác làm những việc chỉ có lợi riêng
cho bản thân, cho phe nhóm, mà người dân lại không có tinh thần tự nguyện dấn
thân, không có phương tiện cơ hữu để gây áp lực hòng uốn nắn họ trở lại chính
đạo, thì xã hội phải chìm đắm trong một định chế dân chủ hình thức, hoặc tệ hại
hơn, một định chế dân chủ trá hình, dân
chủ ngụy trang, nghĩa là một định chế chuyên chính đội lốt dân chủ. Tại các
nước Tây phương dân chủ hiện nay, xã hội đang tiến lên mô thức xã hội dân sự
tiêu biểu qua việc từng bước kiện toàn định chế dân chủ dấn thân để dần dà thay
thế trong thực chất nền dân chủ thay mặt.
Xã hội dân sự tiêu biểu với định chế dân chủ dấn thân là điều kiện lý
tưởng để có dân chủ thực sự.
Kết luận
Tại Việt Nam hiện nay,
xã hội đang ở trong tình trạng bị cưỡng bức đóng khung trong mô thức xã hội xã
hội chủ nghĩa mà thực chất là một định chế chuyên chính được ngụy trang dưới
hình thức một nền dân chủ thay mặt trá hình. Chế độ chuyên chính vô sản tại
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được trình diễn dưới lớp võ giả tạo “Nhân
Dân làm chủ”, trong khi tất cả mọi mặt
sinh hoạt của xã hội đều do “Nhà Nước quản lý”, mà nguyên nhân của sự kiện này là
các cơ cấu công quyền mọi cấp đều do “Đảng lãnh đạo”. Như vậy, muốn có dân chủ
thực sự tại Việt Nam, dù bằng phương thức diễn biến hòa bình hay bằng phương
thức bạo lực cách mạng, bằng phương thức nào chăng nữa thì xã hội Việt Nam cũng phải
kinh qua 2 bước cải tiến quyết định:
bước thứ nhất là tách Đảng ra khỏi Nhà Nước, và bước thứ hai là kiến tạo
xã hội dân sự. Tách Đảng ra khỏi Nhà Nước có nghĩa là tu chính hiến pháp hiện
hành để Đảng Cộng sản Việt Nam chấm dứt vai trò độc tôn lãnh đạo chính quyền, lui
về cương vị một chính đảng hoạt động trong khuôn khổ một định chế dân chủ thay
mặt mà quyền bầu cử không bị hạn chế, quyền ứng cử không bị triệt tiêu, quyền
công dân và quyền con người được tôn trọng. Kiến tạo xã hội dân sự là tạo điều
kiện khuyến khích người dân phát huy tinh thần làm chủ bản thân để làm chủ xã
hội, phát huy tinh thần vị tha và tinh thần công ích cũng như tinh thần thượng
tôn pháp luật, tự nguyện dấn thân tham gia các tổ chức cộng đồng thuộc mọi lãnh
vực sinh hoạt chính trị, tôn giáo, kinh tế, văn hoá, xã hội, v.v., trong khuôn
khổ một định chế dân chủ dấn thân mà chính quyền dần dà từ bỏ chức năng quản lý
để chỉ còn đảm trách chức năng điều hợp.
Trên tiến
trình hai bước thực hiện dân chủ tại Việt Nam, bước thứ nhất tách Đảng ra
khỏi Nhà Nước là bước tiên quyết. Theo lẽ thường, sau khi hoàn tất bước thứ
nhất là bước tiên quyết mới bắt đầu khởi động bước thứ hai là kiến tạo xã hội
dân sự. Nhưng mãi cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn ù lì bám chặt đặc
quyền đặc lợi, không mảy may biểu hiện thiện chí hy sinh quyền lợi riêng tư để
mưu cầu phúc lợi cho nhân dân, thịnh vượng cho đất nước. Mặt khác, mức độ phát
triển của xã hội Việt Nam còn nhiều điểm cách biệt với mức độ phát triển của
các nước Tây phương dân chủ, nên vạn nhất bước thứ nhất có hoàn tất thì Việt
Nam cũng không thể một sớm một chiều thực hiện bước thứ hai mà không kinh qua
những giai đoạn quá độ. Bởi vậy, ngay từ bây giờ, chúng ta đã có thể bắt tay
vào việc phát động những công tác, những chương trình, những chiến dịch liên
quan đến sinh hoạt của xã hội Việt Nam
bao gồm tất cả các lãnh vực chính trị, tôn giáo, kinh tế, văn hóa, giáo
dục, cứu trợ, xã hội v.v., trong khuôn khổ thực hiện giai đoạn quá độ để chuẩn
bị khởi động việc thực hiện bước thứ hai mà không cần phải chờ đợi giải quyết
dứt khoát việc hoàn tất bước thứ nhất.
Đấy
cũng là những công việc các chính đảng, các giáo hội, các tổ chức quần chúng
dân gian, đang lặng lẽ và kiên trì thực hiện ở trong nước, và của các hội đoàn,
các tập thể chính trị và văn hóa, các tổ chức phi chính phủ, các chương trình
người dân đến với người dân, thuộc các cộng đồng hải ngoại có ý thức chính trị
sâu sát, đã và đang tiến hành bằng cách này hay cách khác để đi vào đáy lòng
dân tộc.
Tháng 11 năm 2000
Minh
Vũ Hồ Văn Châm
Thử Tìm Hiểu Tại Sao
Vua Gia Long
Đóng Đô Ở Phú Xuân
Ngày 13-6-1801 (mồng 3 tháng 5 năm Tân
Dậu), Nguyễn Ánh chiếm lại kinh thành Phú Xuân. Tháng 2 năm 1802, Nguyễn Ánh
đánh tan đạo quân phản công của Nguyễn Quang Toản ở lũy Trấn Ninh, thu phục
toàn cõi Nam Hà. Trong lúc đó, Nguyễn Quang Toản chạy ra Bắc Hà, cải niên hiệu
Cảnh Thịnh thành Bảo Hưng, sửa sang điện Kính Thiên trong thành Đông Đô, đắp
đàn tròn ở Ô Chợ Dừa và khơi đầm vuông ở Hồ Tây tế cáo Trời Đất, sai Nguyễn Huy
Lượng làm bài phú Tụng Tây Hồ ca ngợi công nghiệp nhà Tây Sơn, mưu tính việc
lấy lại sông Gianh làm biên giới phân tranh nam bắc. Đã có sẵn dự tính thống
nhất sơn hà, từ năm 1796, tại Gia Định, Nguyễn Ánh cho đúc tiền Gia Hưng, nay
trước ý đồ của triều đình Tây Sơn, tháng 5 năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua
tại Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long, và cử đại binh ra đánh chiếm Bắc Hà.
Chỉ trong vòng hai tháng, quân nhà Nguyễn đã bắt trọn vua quan nhà Tây Sơn.
Ngày 20-7-1802, vua Gia Long vào thành Đông Đô, là đô cũ của nhà Lê mà Tây
Sơn đã đổi tên làm Bắc Thành, và trở nên ông vua nhất thống thiên hạ.
Phú Xuân là đô cũ của các chúa
Nguyễn Nam Hà. Phú Xuân cũng là kinh đô của nhà Nguyễn Tây Sơn. Việc vua Gia
Long chọn Phú Xuân làm quốc đô của nước Việt Nam thống nhất đương nhiên có những
lý do chính đáng của nó. Gia Long là người trì trọng, làm việc gì cũng suy xét
kỹ càng, cân nhắc hơn thiệt, cho nên không thể có sự kiện Gia Long chọn Phú
Xuân làm quốc đô chỉ giản đơn vì Phú Xuân là đất khởi nghiệp của tổ tiên mình,
hay vì Phú Xuân là nơi chôn nhau cắt rốn của chính mình, mà là vì nhiều lý do
quan hệ đến sự hưng vong của triều đại nhà Nguyễn và sự sinh tồn và phát triển
của dân tộc Việt Nam.
Phú Xuân, tức là thành phố Huế
ngày nay, nằm ở phía nam một bình nguyên dài và hẹp của miền trung bộ Việt Nam,
khí hậu khắc nghiệt, đất cát khô cằn,
đường bộ đường biển đi lại khó khăn bất tiện, cho nên xưa nay Phú Xuân không
phải là một trung tâm địa lý trù phú. Bởi lý do đó, đời sau có nhiều người đã
trách cứ Gia Long bỏ Đông Đô (Hà Nội ngày nay) vốn là trung tâm văn hóa lâu
đời, là chiếc nôi lịch sử của dân tộc, mà thiên đô vào Phú Xuân là vùng đất
mới, là nơi đá trọi cây cằn. Nhiều người khác lại trách cứ Gia Long đã bỏ Gia
Định (Sài Gòn ngày nay) vốn là căn cứ địa trung hưng, kinh tế phồn thịnh, dân
cư đông đảo, của cải phong túc, mà trở lại Phú Xuân là nơi ruộng vườn cạn kiệt,
là nơi chó ăn đá gà ăn muối, người dân vất vả một nắng hai sương mà tay làm
không nuôi nổi miệng ăn. Nhiều người khác lại đưa ra nhận xét là nếu chọn Phú
Xuân làm quốc đô vì lý do trung tâm địa lý của đất nước thì phủ Tam Kỳ tỉnh
Quảng Nam mới là ở vị trí trung độ bắc nam chứ đâu phải Phú Xuân vốn gần Hà Nội
hơn Sài Gòn. Sau hết, nhiều người tỏ ý tiếc rẻ là nếu Gia Long không đóng đô ở
Phú Xuân mà đóng đô ở Bắc Thành thì vào hậu bán thế kỷ 19, khi người Pháp xâm
lấn Đại Nam, giải pháp Tăng Kỷ Trạch-Jules Ferry lập một quốc gia trái độn từ
biên giới Quảng Tây đến tỉnh Quảng Bình đã có cơ hình thành, và Việt Nam sẽ chỉ
mất có nửa nước phía nam, nửa nước phía bắc thoát được nạn vong quốc nhờ vào vị
thế trung lập giữa Pháp và Tàu.
Tìm hiểu tại sao Gia Long đóng
đô ở Phú Xuân là lý giải những luận cứ trên đây, xem thử những luận cứ đó có
phù hợp với thực trạng đất nước lúc bấy giờ, đồng thời tìm tòi những dữ kiện
lịch sử liên hệ đến vùng địa lý Phú Xuân, Thuận Hóa, Ô Lý, Nhật Nam, Việt
Thường, để chắt lọc những chất liệu cấu tạo nên đặc tính của đất nước và con
người Phú Xuân, là những yếu tố căn bản của lý do khiến Gia Long quyết định chọn
Phú Xuân làm kinh đô của nước Việt Nam thống nhất.
Hai trăm năm sau khi Gia Long
lên ngôi vua ở Phú Xuân, tình trạng Việt Nam về các mặt chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội, v.v., tất nhiên đã thay đổi rất nhiều. Bởi vậy, lấy con mắt của
người đời nay mà nhận xét việc chọn lựa địa điểm thủ đô cho Việt Nam thì hầu
hết mọi người đều dễ dàng đồng ý rằng, hoặc là Hà Nội, hoặc là Sài Gòn, một
trong hai thành phố đó đương nhiên đứng đầu danh sách. Gạt bỏ qua một bên yếu
tố tình cảm chủ quan, ví dụ như người miền bắc thì thiên về việc chọn lựa Hà
Nội, người miền nam thì thiên về việc chọn lựa Sài Gòn, cứ lấy con mắt vô tư
của người đời nay và căn cứ vào các yếu tố khách quan của thực trạng Việt Nam
hiện thời mà cân nhắc sự khác biệt, đánh giá nét đặc thù, nhận định ưu khuyết
điểm của hai trung tâm địa lý nói trên, thì việc chọn lựa Hà Nội hay Sài Gòn
làm thủ đô của Việt Nam đều có những lý do chính đáng không thể phủ nhận. Cũng
với tinh thần vô tư phán xét đó, cũng trên cơ sở phân tích thực trạng Việt Nam
hiện thời, không mấy ai ngày nay lại nghĩ đến việc chọn lựa Huế làm thủ đô của
nước Việt Nam thống nhất. Nhưng lấy con mắt của người đời nay mà trách cứ Gia
Long đã bỏ Đông Đô vốn là nơi ngàn năm văn vật, là trung tâm văn hóa lâu đời,
là cái nôi lịch sử của dân tộc, hay trách cứ Gia Long đã bỏ Gia Định vốn là đất
căn bản của sự nghiệp hưng vương, là nơi kinh tế phát triển, cư dân đông đảo,
tài nguyên dồi dào, để đóng đô ở Phú Xuân là nơi của khôn người khó, ruộng vườn
chật hẹp, đất cát khô cằn, thì sự trách cứ đó không tránh khỏi mang tính chất
chủ quan và thiển cận. Thực vậy, trong các yếu tố làm cơ sở cho việc quyết định
chọn lựa đất đóng đô thì yếu tố chính trị là quan trọng bậc nhất. Gia Long thế
tất đã phải giải quyết một số vấn đề chính trị đặc thù của thời đại mà vị thế
của Phú Xuân trở thành giải pháp tối hảo. Trong tình huống như thế, các yếu tố
lịch sử và văn hóa, cũng như các yếu tố địa lý và kinh tế, đều trở nên thứ yếu.
Cứ lấy ngay Trung Quốc ở sát liền bên nước ta làm thí dụ thì thấy ngay là sau
thời đại Hán Tùy Đường, tình hình chính trị và xã hội Trung Quốc mỗi ngày một
chuyển biến, do chịu nhiều ảnh hưởng ngoại lai nên mang thêm những sắc thái
mới, vì vậy mà trung tâm chính trị của Trung Quốc không ngừng di chuyển về phía
đông rồi lên phía bắc, cứ xa dần cái nôi lịch sử và văn hóa Trường An. Vậy thì
Gia Long đã vì những lý do chính trị nhất định nên mới quyết định không đóng đô
ở Đông Đô mà đóng đô ở Phú Xuân. Trách cứ Gia Long bỏ nơi phát tích của dân tộc
mà thiên đô vào vùng đất mới Thuận Hóa thì có khác gì trách cứ Tống Thái Tổ bỏ
Trường An mà định đô ở Biện Kinh, Minh Thành Tổ bỏ Kim Lăng mà dời đô lên Yên
Kinh, Mao Trạch Đông không quay về nơi nguồn cội Tây An mà lại lên phía bắc đặt
thủ đô ở Bắc Bình. Đó là về phần các yếu tố lịch sử và văn hóa. Còn yếu tố kinh
tế trên cán cân xét đoán chọn lựa địa điểm đóng đô thì hầu như trong tất cả mọi
trường hợp đều nằm ở vị thế thứ yếu so với yếu tố chính trị. Trách cứ Gia Long
bỏ đất Gia Định trù phú mà trở về định đô ở Phú Xuân thì cũng chẳng khác gì thắc
mắc tại sao người Tàu không lấy Thượng Hải mà lại chọn Bắc Kinh làm thủ đô, hay
trách cứ người Mỹ chỉ đặt thủ đô ở New York một thời gian vô cùng ngắn ngủi rồi
dời về Washington, D.C. Nói tóm lại, trung tâm chính trị của một nước không
nhất thiết phải đồng thời là trung tâm kinh tế.
Luận cứ trung tâm địa lý nêu
lên sự kiện trung điểm thực sự của Việt Nam là thị trấn Tam Kỳ ở Quảng Nam chứ
không phải là thành phố Huế, vì Tam Kỳ nằm đúng vào vị trí trung độ bắc nam chứ
không phải Huế vốn gần Hà Nội hơn là Sài Gòn. Theo đường xe lửa xuyên Việt ngày
nay thì Huế chỉ cách Hà Nội 668 km, và cách Sài Gòn khoảng 1250 km. Luận cứ
trung tâm địa lý không phải là không có cơ sở. Gia Long muốn đóng đô ở miền
trung để tiện liên lạcvới cả hai miền nam bắc, vì lẽ vào thời Gia Long, phương
tiện giao thông còn thô sơ và chậm chạp, thông tin liên lạc chỉ trông vào tấm
hỏa bài cầm tay, ra bắc vào nam, dù bằng ghe bầu hay bằng ngựa trạm thì cũng
mất mười mấy ngày trời, chứ không phải chỉ mất mấy tiếng đồng hồ như ngày nay.
Gia Long chắc chắn cũng có tính toán cân nhắc đến yếu tố trung tâm địa lý,
nhưng tại sao Gia Long lại chọn Phú Xuân mà không chọn Tam Kỳ? Ngự trị ở Phú
Xuân để kiểm soát và canh chừng công việc các tòa Tổng Trấn hai miền tự trị nam
bắc, Gia Long rất an tâm về phía Gia Định thành, bởi lẽ Gia Định là đất kinh
dinh của các chúa Nguyễn, là căn cứ địa hưng quốc của đương triều, cho nên công
thần, lương tướng của nhà Nguyễn phần đông là người Gia Định. Trong lúc đó thì mÓi bận tâm thực sự của Gia Long là Bắc thành. vốn là đất
cũ của nhà Lê, lòng người còn tưởng nhớ đến công nghiệp to lớn của các vua Lê
Thái Tổ, Lê Thánh Tông, và ân sủng của các chúa Trịnh. Bởi vậy, Gia Long đã để
cho miền bắc từ Thanh Hoa ngoại trấn (Ninh Bình ngày nay) trở ra đÜợc tự trị, lục dụng
con cháu các cựu thần nhà Lê, và lập công chúa Ngọc Bình con vua Lê Hiển Tông
làm Đệ Tam cung, để mua chuộc lòng người Bắc Hà. Mặt khác, để canh chừng động
tĩnh của miền bắc, Gia Long đóng đô ở Phú Xuân cũng tạm gọi là nơi trung độ của
đất nước, mà lại có ưu điểm là nằm trên bình nguyên Bình Trị Thiên ăn liền với
đồng bằng Thanh Nghệ và châu thổ Nhĩ Hà, đường đi không cách đèo trở núi (1).
Trong lúc đó thì từ Huế vào Đà Nẵng chỉ có 107 km mà xe lữa ngày nay phải đi
qua 6 đường hầm xuyên sơn, như vậy nếu Gia Long lui về phía nam bên kia núi Hải
Vân để đóng đô ở Tam Kỳ thì sự kiện này đương nhiên mang lại hậu quả là Gia
Long trong thực tế phải tách biệt với miền bắc, mặc nhiên để cho miền bắc thoát
ra ngoài phạm vi ảnh hưởng, và không chóng thì chầy, miền bắc sẽ nổi dậy cát
cứ, người dân nước ta lại thêm một lần nữa ngậm ngùi ngâm ngợi ca khúc Hận Sông
Gianh!
Cuối cùng là luận cứ của những
người nghĩ rằng nếu Gia Long đóng đô ở Bắc Thành thay vì ở Phú Xuân thì cuối
thế kỷ 19, giải pháp thành lập một quốc gia trái độn từ biên giới Quảng Tây đến
tỉnh Quảng Bình có cơ may thực hiện và Việt Nam sẽ chỉ mất nửa nước phía nam,
nửa nước phía bắc sẽ thoát được nạn vong quốc nhờ đứng trung lập giữa Pháp và
Tàu. Luận cứ này không hẳn là hoàn toàn giả dụ, mà đã căn cứ vào những nổ lực
ngoại giao của sứ thÀn nhà Thanh tại Pháp là Tăng Kỷ Trạch với Thủ Tướng
Pháp Jules Ferry. Tăng Kỷ Trạch đề nghị với chính phủ Pháp chia cắt nước Đại Nam làm hai
phần, phần phía nam thuộc ảnh hưởng Pháp, phần phía bắc thuộc ảnh hưởng Tàu. Đề
nghị này không được chính phủ Pháp tán đồng. Những người trách cứ Gia Long nghĩ
rằng nếu trư§c kia Gia Long đóng
đô ở Hà Nội thì vào thời điểm thương lượng lúc bấy giờ nguời Pháp dễ dàng chấp
nhận giải pháp chia cắt hơn, vì lẽ phần lãnh thổ chia cho Pháp không có gì dính
dấp, vướng mắc với triều đình nhà Nguyễn nếu quốc đô ở Hà Nội. Luận cứ này mới
nghe qua thì có tính thuyết phục cao, nhưng phân tích kỹ lưỡng thì có nhiều
điểm không phù hợp với thực tế. Trước hết, chính phủ Pháp không tán đồng chia
hai vùng ảnh hưởng không phải vì lý do trong vùng dự tính chia cho Pháp có kinh
đô Huế, mà vì lúc đầu Pháp đang gặp khó khăn với Phổ, có lúc muốn nhường Nam Kỳ
cho Phổ (2) để nghị hòa, và về sau, thì vì Pháp muốn bành trướng thuộc địa Viễn
Đông không những trên toàn cõi Đông Pháp mà còn dự tính bao gồm cả mấy tỉnh Hoa
Nam (3). Quyết tâm bành trưóng này được thể hiện về sau qua quyết định dời thủ
phủ của Đông Pháp từ Sài Gòn ra Hà Nội năm 1902, cùng với việc mở đường xe lữa
Hải Phòng-Côn Minh, và việc chiếm đóng Fort Bayard trên bờ biển phía nam Quảng
Đông. Vì vậy, cho dù trưóc đây Gia Long có đóng đô ở Bắc Thành thì cũng chẳng
mảy may ảnh hưởng đến quyết tâm chiếm lĩnh toàn bộ nước Đại Nam của chính phủ
Pháp, nghĩa là nỗ lực vận động ngoại giao của Tăng Kỷ Trạch không bao giờ có cơ
may mang lại kết quả thành tựu. Cứ xem sau này việc thỏa ước Bourée-Lý Hồng
Chương ký ngày 20-12-1882 tại Bắc Kinh về việc chia đôi Bắc Kỳ dọc theo sông
Nhĩ Hà bị chính phủ Pháp từ khước chấp nhận thì thấy rõ (4). Bàn luận xa hơn
chút nữa, giả dụ giải pháp thành lập quốc gia trái độn từ biên giới Quảng Tây
đến tỉnh Quảng Bình được thực hiện, thì điều này có mang lại lợi ích thiết thực
gì cho dân tộc Việt Nam hay không, hay lại là cái họa lớn cho dân tộc, bởi lẽ
chia hai đất nước để đặt dưới ảnh hưởng của hai cường quốc có nếp sống văn hóa
khác biệt nhau sẽ làm cho Việt Nam về lâu về dài vỡ vụn không phương hàn gắn?
Nửa phần đất nước phía bắc không lọt vào vòng ảnh hưởng chính trị và văn hóa
của Pháp sẽ vẫn tiếp tục tự nguyện đặt
mình vào vòng ảnh hưởng văn hóa Trung quốc, và dân Việt Nam sẽ tiếp tục dùng
chữ Hán làm văn tự chính thức, sẽ tiếp tục học Bắc sử để đi thi nên thông thạo
chuyện vua quan bên Tàu hơn chuyện Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, sẽ tiếp tục
tin dùng thuốc bắc để chửa bệnh vì nghĩ rằng thuốc bắc hợp với âm dương ngũ
hành, với lục phủ ngũ tạng người phương đông, và chắc chắn hơn hết là vào giờ
phút này, bước chân vào thiên niên kỷ thứ ba, tuổi trẻ Việt Nam sè ngồi sử dụng
máy điện toán mang nhãn hiệu Hán tự! Dân tộc Việt Nam sẽ ra sao? Nửa phần hướng
về phương Tây sử dụng chữ quốc ngữ, nửa phần hướng về phương Bắc sử dụng chữ
Hán, dân tộc Việt Nam lúc đó liệu có còn chung niềm khát vọng kết hợp trở lại
“thành một khối không thể chia lìa mãi mãi đến muôn vạn đời sau”?
Như vậy, vào thời điểm 1802,
Gia Long chủ yếu đã vì lý do chính trị mà quyết định đóng đô ở Phú Xuân. Nhu
cầu cấp thiết lúc bấy giờ là củng cố nền thông nhất đất nước vừa mới thực hiện.
Sau 250 năm đằng đẵng phân chia nam bắc, dân tộc Việt Nam tuy trên danh nghĩa
đều là thần dân của vua Lê, nhưng trong thực tế, không những sống dưới hai hệ
thống chính quyền khác nhau, mà phong tục, tập quán, thậm chí áo quần (phụ nữ)
cũng khác nhau. Gia Long tuy thu gồm giang san từ bắc chí nam về một mối, nhưug
biết bao nhiêu dị biệt còn đó, chính quyền cần áp dụng những chính sách mềm
dẽo, khôn ngoan và tinh tế mới làm chủ được tình hình, mới củng cố được thành
quả thống nhất. Nếu Gia Long cứ tiếp tục đặt bản doanh ở căn cứ Gia Định thì
làm sao kiểm soát được Bắc Hà. Nếu Gia Long thiên đô ra Bắc Hà thì lại lâm vào
tình trạng mạo hiểm bỏ nơi căn bản mà đi vào đất lạ xứ người, bản thân chưa có
ân nghĩa gì với nhân dân. Trong tình huống đó, Gia Long tìm thấy ở Phú Xuân
giải pháp tối hảo, không đơn giản chỉ vì Phú Xuân là đất khởi nghiệp của tổ
tiên, mà chủ yếu là vì vị trí chiến lược của Phú Xuân về cả hai mặt chính trị
và quân sự đã được minh chứng qua tiến trình lịch sử hình thành và phát triển
của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử
tranh giành ảnh hưởng giữa phương bắc và phương tây về cả hai mặt chính trị và
văn hóa. Ảnh hưởng phương bắc đến từ nước Tàu, ảnh hưởng phương tây đến từ Ấn
Độ và gần đây là từ các nước Tây Dương. NÖi đối đÀu lịch sử là miền Trung bộ, chủ yếu là vùng Bình Trị
Thiên. Lược bỏ thời sơ sử mù mịt mà Bình Trị Thiên được sử cũ gọi là bộ Việt
Thường nước Văn Lang, cứ xét thời Bắc thuộc trở về sau, nhất là từ khi nước Lâm
Ấp được thành lập khởi nguyên từ huyện Tượng Lâm quận Nhật Nam (Quảng Nam ngày
nay) vào năm 192, niên hiệu Sơ Bình thứ 3 đời vua Hiến Đế nhà Hán, thì quả tình
suốt một giải đất bắc bộ quận Nhật Nam (Bình Trị Thiên) đã là chiến trường miên
viễn giữa Giao Châu và Lâm Ấp, rồi về sau giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Trong
cuộc chiến tranh giằng co kéo dài qua mười mấy thế kỷ đó đã nổi bật một địa điểm
chiến lược vô cùng quan trọng, đó là thành Khu Túc nằm trên bờ nam sông Hương,
từ xã Nguyệt Biều đến điểm hợp lưu với sông đào Phú Cam ngày nay, thuộc địa
phận thành phố Huế. Các nhà sử học nước ta thời trước ít khi đề cập đến thành
Khu Túc, hoặc giả có nhắc nhở đến thì cũng chỉ là nhân dịp nói lại những điều
ghi chép trong sử Trung Quốc có liên hệ đến thành Khu Túc mà thôi. Ngay cả địa
điểm thành Khu Túc chính xác tọa lạc ở đâu, sử cũ cũng lờ mờ, có sách nói ở bờ
nam sông Hương, có sách nói ở Cao Lao Hạ, Quảng Bình. Đại Nam Nhất thống chí là
cuốn địa chí đầy đủ và đáng tin cậy nhất trong các sách địa chí cũ của ta trước
đây, về tỉnh Quảng Bình, mục c° tích, cũng tỏ ra
trước sau bất nhất khi đề cập đến các di tích Lâm Ấp phế thành và Hoành Sơn cổ
lũy ở huyện Bình Chính, khi thì nghi rằng đây là thành Khu Túc, khi thì cho
rằng đây là lũy cũ do vua Lâm Ấp Phạm Văn đắp để làm ranh giới Giao Châu-Lâm
Ấp. Chỉ gần đây các nhà sử học người Pháp mới đưa ra một vài kết luận cụ thể,
như L. Aurousseau viết trong Tập san Trường Viễn Đông Bác cổ (B.E.F.E.O., tome
23) rằng quận lỵ quận Nhật Nam đời Hán đóng ở huyện Tây Quyển ở gần Huế, và G.
Maspéreau trong cuốn Le Royaume de Champa khẳng định rằng biên giới cực nam của
Giao Châu đời Tấn là huyện Thọ Lãnh ở chung quanh mũi Chân Mây (Choumay) tỉnh
Thừa Thiên ngày nay. Luận điểm của L. Aurousseau và G. Maspéreau phù hợp với sử
liệu Trung Quốc. Tam Quốc chí, Ngô chí chép ràng niên hiệu Xích Ô thứ 11 (năm
248), Lâm Ấp tiến chiếm thành Khu Túc, rồi kéo ra đánh phá các quận Giao Chỉ,
Cửu Chân, san bằng hai quận thành này. Ngô chủ Tôn Quyền sai Lục Dận làm Thứ Sử
Giao Châu, An Nam Hiệu Úy; Lục Dận đem đại binh ứng phó, Lâm Ấp mới lui quân,
nhưng vẫn giữ Khu Túc, và lấy huyện Thọ Lãnh làm cương giới. Tấn thư chép rằng
đời Tấn Mục Đế, niên hiệu Vĩnh Hòa thứ 3 (năm 347), vua Lâm Ấp là Phạm Văn cử
binh đánh chiếm quận Nhật Nam, bắt giết Thái Thú Hạ Hầu Lãm, san bằng huyện
thành Tây Quyển, đắp lũy ở huyện Bình Chánh để làm đường phân ranh Giao
Châu-Lâm Ấp. Niên hiệu Vĩnh Hòa thứ 5 (năm 349), Chinh Tây Đốc Hộ Đằng Tuấn đem
binh Giao Quảng tái chiếm Nhật Nam, bị Phạm Văn đánh bại, phải lui về Cửu Chân,
nhưng Phạm Văn cũng bị thương mà chết, con là Phạm Phật lên thay. Tấn Mục Đế,
niên hiệu Vĩnh Hòa thứ 7 (năm 351), Chinh Tây Đốc Hộ Đằng Tuấn, Thứ Sử Giao
Châu Dương Bình và Thái Thú Cửu Chân Quán Súy hợp binh Giao Quảng tiến đánh vào
quận lỵ cũ Nhật Nam; Phạm Phật thua chạy, bọn Đằng Tuấn đuổi theo qua Thọ Lãnh
đến Khu Túc, rồi hai bên giảng hòa. Vẫn đời Tấn Mục Đế, niên hiệu Thăng Bình năm
đầu (năm 359), Phạm Phật lại xâm lấn Nhật Nam, Thứ Sử Giao Châu là Ôn Phóng Chi
cử đại binh thủy lục vào đánh, Phạm Phật giữ vững thành Khu Túc, hai bên lại
nghị hòa, lấy bến Ôn Công (mũi Chân Mây) làm ranh giới Giao Châu-Lâm Ấp, từ đó
Nhật Nam mới tạm yên.
Các sử liệu trên đây cho thấy
là thành Khu Túc tọa lạc ở Thừa Thiên (bờ nam sông Hương), chứ không thể nào
lại ở Quảng Bình (Cao Lao Hạ). Buổi đầu mới lập quốc, vào cuối đời Đông Hán,
Lâm Ấp lo củng cố thực lực, chỉ hoạt động quanh quẩn trong địa bàn huyện Tượng
Lâm. Qua đời Tam Quốc, Lâm Ấp đủ mạnh để tính chuyện bành trướng thế lực lên
phía bắc, do đó mới có việc Lâm Ấp chiếm đóng thành Khu Túc của quận Nhật Nam và cuộc
chiến tranh với Lục Dận năm 248. Khu Túc trở thành căn cứ quân sự trọng yếu của
Lâm Ấp để xuất phát các cuộc tấn công xâm lấn Giao Châu. Từ Khu Túc, quân Lâm
Ấp tiến lên đánh chiếm Nhật Nam, cướp phá Cửu Chân và Giao Chỉ. Tiến công thất
bại thì quân Lâm Ấp lui về cố thủ Khu Túc, giữ vững cương giới Thọ Lãnh để bảo
vệ Tượng Lâm. Như vậy, thành Khu Túc nhất định phải nằm ở mạn nam quận Nhật Nam, trong địa
phận các huyện Tây Quyển, Lư Dung tiếp giáp với huyện Tượng Lâm. Cứ xem các
trận chiến giữa quân Lâm Ấp và quân Giao Quảng trong đời Tấn Mục Đế thì thấy rõ
vị trí của thành Khu Túc. Rõ ràng sử nhà Tấn đã chép là bọn Đốc Hộ Đằng Tuấn và
Thứ Sử Dương Bình đánh bại Phạm Phật ở Tây Quyển, đuổi theo Phạm Phật qua Thọ
Lãnh đến Khu Túc rồi hai bên nghị hòa. Nếu thành Khu Túc tọa lạc ở Quảng Bình
thì chả lẽ bọn quan binh nhà Tấn đã hành động trái lẽ thường là bỏ qua Khu Túc
để đi vòng ra phía biển xuôi xuống nam đánh chiếm Tây Quyển, đuổi theo Phạm
Phật vào Thọ Lãnh rồi quay ngược trở ra Khu Túc nghị hòa? Mà nếu quả thực bọn
Đằng Tuấn thực hiện thành công được một kế hoạch đánh vu hồi ngoạn mục như vậy
thì Phạm Phật một là chạy thẳng vào Tượng Lâm, hai là thúc thủ chịu trói, chứ
còn có đường nào trở lại phía bắc để cố thủ Khu Túc và thương thuyết giảng hòa!
Như vậy, thành Khu Túc thời trước nằm ở tây nam thành phố Huế ngày nay, di tích
đến bây giờ vẫn còn, được dân chúng địa phương gọi là thành Lồi (5), ở bờ nam
sông Hương, thuộc xã Nguyệt Biều, còn Lâm Ấp phế thành hay Hoành Sơn cổ lũy ở
Cao Lao Hạ tỉnh Quảng Bình là di tích của lũy cũ do Phạm Văn đắp năm 347 để mưu
tính chuyện làm ranh giới Giao Châu-Lâm Ấp, nhưng không thành, vì lẽ sau khi
Phạm Văn chết, con là Phạm Phật liên tiếp bị các Thứ Sử Giao Châu Dương Bình,
Nguyễn Phu, Ôn Phóng Chi đánh bại, nên lui về cố thủ Khu Túc, bằng lòng trả lại
Nhật Nam (năm 359), lấy bến Ôn Công làm ranh giới.
Thành Khu Túc là căn cứ quân
sự trọng yếu của Lâm Ấp. Nếu những dữ kiện vừa nói trên đây đã minh xác vai trò
căn cứ xuất phát tiến công về phía bắc của thành Khu Túc thì những dẫn chứng
tiếp sau đây sẽ nói lên vai trò căn cứ phòng ngự của thành Khu Túc, án ngữ các
cuộc tiến quân từ phương bắc xuống xâm lấn Lâm Ấp. Từ năm 248 là năm Lâm Ấp
chiếm thành Khu Túc trở đi, trải qua các đời Tam Quốc (Đông Ngô), Tấn, Nam Bắc
triều (Tống), trong khoảng 200 năm trời, các cuộc tấn công của Lâm Ấp vào Giao
Châu khi thành khi bại, nhưng Lâm Ấp bao giờ cũng giữ được thành Khu Túc. Lần
chót vào đời Tống Văn Đế, niên hiệu Nguyên Gia thứ 8 (năm 431), vua Lâm Ấp là
Dương Mại II đem hơn 100 chiến thuyền ra cướp quận Cửu Đức (Hà Tĩnh ngày nay),
Thứ Sử Giao Châu là Nguyễn Di Chi đem quân đánh dẹp, đánh đến thành Khu Túc
nhưng không hạ được thành, phải rút về. Dương Mại II đắc chí, năm 433 sai sứ
sang Tống triều đòi trao đất Giao Châu cho Lâm Ấp. Tống triều không cho, Dương
Mại II tức giận, và từ đó thường xuyên ra cướp phá Giao Châu. Niên hiệu Nguyên
Gia thứ 23 (năm 446), Tống Văn Đế sai Thứ Sử Giao Châu Đàn Hòa Chi cùng Tư mã
Tiêu Cảnh Hiến, Chấn Võ Tướng quân Tông Xác, Thái Thú Nhật Nam Khương Trọng Cơ,
Tham Mưu Kiều Hoằng Dân đem đại binh đi đánh Dương Mại II, hạ được thành Khu Túc,
thừa thắng tiến chiếm kinh đô Trà Kiệu (Sinharpura), thu được nhiều vàng bạc
châu báu. Mất thành Khu Túc, từ đó các vua Lâm Ấp không xâm phạm Giao Châu nữa,
chịu qui phục Trung Quốc, và đời Tề Võ Đế, niên hiệu Vĩnh Ninh thứ 10 (năm
492), chịu thụ phong làm An Nam Tướng quân Lâm Ấp vương. Nhưng đến đời Lương Võ
Đế, niên hiệu Đại Đồng thứ 7 (năm 541), nhân Lý Bôn nổi lên xưng đế ở Giao
Châu, Lâm Ấp chiếm lại Nhật Nam, củng cố thành Khu Túc và đoạn giao với Trung
Quốc. Nhà Tùy diệt nhà Trần, thống nhất Trung Quốc, đến đời Tùy Dượng Đế, niên
hiệu Đại Nghiệp năm đầu (năm 605), sai Lưu Phương làm Hoan Châu đạo Hành quân
Tổng quản, kinh lược Lâm Ấp. Lưu Phương tiến chiếm thành Khu Túc rồi kéo vào
kinh đô Trà Kiệu thu vén vàng bạc châu báu cùng kinh Phật đem về Trung Quốc, và
chia đất mới bình định thành 3 quận Tỵ Cảnh, Hải Âm và Lâm Ấp. Cương giới cực
nam của đế quốc Tùy lại tiến đến tận mũi Diều (Varella) như thời Tây Hán. Nhưng
chỉ được 10 năm, Trung Quốc lại loạn lạc, và người Lâm Ấp nổi lên thu phục đất
cũ. Nhà Đường kế nghiệp nhà Tùy, quan binh ở An Nam Đô Hộ phủ (Giao Châu) bận
lo đối phó với Nam Chiếu, nên đất cát quận Nhật Nam thời trước mất hẳn về Lâm
Ấp, ranh giới An Nam-Lâm Ấp lùi về núi Hoành Sơn. Từ đó không thấy sử cũ nhắc
nhở đến thành Khu Túc, chỉ thấy từ đời Đường Túc Tông, niên hiệu Càn Nguyên năm
đầu (năm 758), Lâm Ấp được sử Tàu gọi là nước Hoàn Vương, và từ đời Đường Hy
Tông, niên hiệu Kiền Phù thứ 2 (năm 875) trở đi thì gọi là Chiêm Thành
(Champapura).
Từ khi
Giao Châu giành lại độc lập thì chiến cuộc giữa Đại Việt và Chiêm Thành bước
sang một lối rẽ khác. Trước đây quan binh nhà Đường và Ngũ Đại ở Giao Châu đa
số là người Tàu không quen phong thổ phương nam, nên thiên về thế phòng vệ,
chịu lép mất đất Nhật Nam. Bây giờ tướng sĩ Đại Cồ Việt là dân bản địa dạn dày
sương gió, hăm hở nhìn về phương nam tìm đất mới để mở rộng không gian sinh
tồn, nên thiên về thế tiến công, bước đầu là tái chiếm đất Nhật Nam. Sử chép
vua Lê Đại Hành, niên hiệu Thiên Phúc thứ 3 (năm 982), thân hành đem quân đi
đánh Chiêm Thành, chém vua Chiêm là Tỳ Mi Thuế (Paramecvaravarman) tại trận,
tiến vào chiếm đóng kinh đô Đồng Dương (Indrapura), hủy tông miếu, phá thành
trì, thu báu vật, và trước khi trở về Hoa Lư đã để lại một đạo quân do Quản
Giáp Lưu Kế Tông chỉ huy để quản trị vùng đất mới. Vua mới lên ngôi của Chiêm
Thành là Indravarman IV chạy vào Panduranga (Phan Rang ngày nay). Thế là đất cũ
Nhật Nam đời Hán được thu hồi, cương giới cực nam của Đại Cồ Việt đầu đời Tiền
Lê là ở mũi Diều. Nhưng chỉ 3 năm sau khi vua Lê ban sư, niên hiệu Ung Hy thứ 3
(năm 986) đời Tống Thái Tông, Lưu Kế Tông tự lập làm vua, sai sứ là Lý Triều
Tiên sang triều cống vua Tống. Người Chiêm Thành không tuân phục Lưu Kế Tông,
một số chạy qua tỵ nạn ở Thanh Viễn, Nam Hải (Quảng Châu), và ở Đạm Châu (Hải
Nam), một số nổi lên chống đối và vào năm 988 tôn phù Băng Vương La Duệ
(Harivarman II) lên làm vua ở thành Phật Thệ (Vijaya) thuộc địa phận tỉnh Bình
Định ngày nay (6). Năm sau, Lưu Kế Tông mất, người Chiêm Thành thu phục đất cũ.
Năm 990, Lê Đại Hành sai quân sang đánh châu Địa Lý, nhưng Tống Thái Tông dàn
xếp cho hai bên Việt Chiêm giảng hòa. Vua Lê chịu giải binh, năm 992 chỉ sai
Ngô Tử An đem 3 vạn người mở con đường xuyên Hoành Sơn thông thương với châu
Địa Lý (7). Việc Lưu Kế Tông nổi lên cát cứ và tự lập làm vua chỉ thấy Tống sử
ghi chép rành rẽ, chứ sử ta thì không đả động đến. Đại Việt Sử ký Toàn thư chỉ
thuật vắn tắt rằng Lưu Kế Tông vốn là một viên quản giáp trong đạo quân viễn
chinh của vua Lê Đại Hành bỏ ngũ trốn ở lại, đến năm Thiên Phúc thứ 4 (năm
983), vua Lê sai người đi bắt được, đem chém. Quản giáp đời Tiền Lê là chức
quan võ giữ việc binh của một châu, chứ không phải là người chỉ huy 15 binh sĩ
như đầu đời Lý. Nếu quả thực Lưu Kế Tông đơn thương độc mã trốn ở lại, nghĩa là
không có trong tay đội quân trú phòng vua Lê lưu lại chiếm đóng Nhật Nam, thì
làm thế nào Lưu Kế Tông khuất phục được người Chiêm Thành để tự lập làm vua?
Nếu quả thực Lưu Kế Tông bị vua Lê bắt chém năm 983 thì hà cớ gì Tống sử lại
chép việc Lưu Kế Tông năm 986 gửi sứ giả là Lý Triều Tiên sang triều cống, cũng
như chép biểu tấu các năm 986, 987, 988 của các biên thần Quảng Châu và Đạm
Châu về việc người Chiêm Thành vì chống Lưu Kế Tông nên vượt biển đến xin qui
phụ. Sở dĩ chuyện Lưu Kế Tông tự lập làm vua bị sử cũ nước ta lược bỏ là vì
triều đại Tiền Lê quá ngắn ngủi, Lê Đại Hành lại không có sử thần riêng để tán
tụng công đức, mà trong thực tế, công nghiệp của Lê Đại Hành lại quá to lớn,
chiến công của Lê Đại Hành lại quá oanh liệt, đã thu hồi toàn bộ đất Nhật Nam
và lưu quân trú phòng ở lại chiếm giữ, lại liên tiếp chiến thắng quân Tống hai
trận lớn ở sông Bạch Đằng và ở ải Chi Lăng, chém chết tướng Tống Hầu Nhân Bảo
và vua Chiêm Tỳ Mi Thuế đều ở ngay trận tiền, đánh tiến công giáp mặt chứ không
đánh phòng ngự giằng co, sự nghiệp hiển hách như vậy các triều Lý Trần cũng
không hơn được, nên sử quan các đời sau đã vì chúa mình mà lược bớt. Mặt khác,
Lưu Kế Tông phản phúc tự lập làm vua, mưu chuyện cát cứ, nhưng lòng người Chiêm
không qui phục, đã không giữ được ngôi vị của mình mà còn làm hỏng công việc
bình định mở đất của Lê Đại Hành, là tấm gương biên thần phân cát xấu xa nên sử
cũ nưóc ta xét không đáng để hậu thế biết tới. Rút cục, sự nghiệp nam tiến của
Lê Đại Hành đã vì việc Lưu Kế Tông phản phúc mà chỉ còn thu gọn trong việc lấy
lại châu Bố Chính và mở đường xuyên sơn vào châu Địa Lý, nhưng thành quả này
cũng đã góp phần không nhỏ vào việc các triều đại về sau chiếm trọn cánh đồng
Bình Trị Thiên, mở đường cho quân lính nhà Hậu Lê tiến vào thành Chà Bàn
(Vijaya) năm 1471, đưa cương giới cực nam của Đại Việt trở lại mũi Diều.
Những dữ
kiện lịch sử trên đây đã minh chứng vai trò chiến lược quan trọng của thành Khu
Túc trên cả hai bình diện tiến công và phòng ngự trong các chiến dịch quân sự
trên địa bàn quận Nhật Nam.
Chiếm được thành Khu Túc, quân Lâm Ấp chiếm luôn huyện Tây Quyển, uy hiếp quận
Cửu Chân. Giữ được thành Khu Túc, quân Lâm Ấp bảo vệ được huyện Tượng Lâm và
quốc đô Trà Kiệu. Mất thành Khu Túc, Lâm Ấp mất luôn Trà Kiệu, phải dời đô lùi
xuống Đồng Dương. Không còn thành Khu Túc, quân Tiền Lê đánh thẳng vào Tượng
Lâm, phá hủy Đồng Dương, quân Lý, Trần cướp phá Phật Thệ, quân Hậu Lê chiếm
đóng Chà bàn. Thành Khu Túc biến khỏi vũ đài lịch sử thì thành Hóa Châu xuất
hiện theo với chiến lược đưa má phấn đ°i lấy
trường thành của nhà Trần. Từ đó, thành Hóa Châu trở thành tiŠn đồn xung kích của căn cứ địa Thăng Long trong sự
nghiệp nam tiến của dân tộc Đại Việt. Các đạo vương sư nam phạt đời Lý, Trần, Hậu Lê đều dừng lại nghỉ ngơi ở
cửa biển Tư Dung trước khi tiến vào lãnh thổ Chiêm Thành. Thành Hóa Châu cũng
trở thành hậu cứ kháng chiến ngoại xâm để quang phục Thăng Long của các vua
Giản Định và Trùng Quang nhà Hậu Trần, khiến tướng nhà Minh là Trương Phụ phải
thốt lên lời thề độc địa: “Ta sống phen này là ở Hóa Châu, ta chết phen này
cũng ở Hóa Châu!”.
Huyện thành Tây Quyển, chiến lũy Khu Túc thời Bắc
thuộc, lộ thành Hóa Châu, cửa biển Tư Dung thời Trần Lê, vị trí của các địa
danh này nằm trong vùng phụ cận kinh thành Phú Xuân thời Gia Long. Tìm hiểu tại
sao vua Gia Long đóng đô ở Phú Xuân, ta có thể tóm lược vấn đề này như sau: Trước khi làm vua, Gia Long đã
làm tướng, làm Đại Nguyên soái T°ng Quốc chính,
ròng rã 24 năm trời. Chắc chắn Gia Long đã dùng con mắt nhà chiến lược chính
trị và quân sự từng trải để quyết định việc đóng đô ở Phú Xuân.
Tháng 12, năm 2000
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Chú
thích:
(1). Từ Đồng
Hới đi Vinh, quốc lộ 1 men theo bờ biển phải vượt đèo Ngang, nhưng đường xe lửa
đi trong nội địa ngược lên nguồn sông Gianh rồi xuôi theo thung lũng các sông
Ngàn Phố và Ngàn Sâu không phải chui qua hầm.
(2). Pháp bại
trận trong cuộc chiến tranh ngắn ngủi với Phổ năm 1870. Hoàng Hậu Eugénie de
Montijo, vợ Napoléon III, giữ quyền Nhiếp chính, muốn nhường Nam Kỳ cho Phổ,
thay vì Alsace-Lorraine, để nghị hòa. Thương lượng này thất bại, vì liền sau
đó, ngày 23-10-1870, nền Cộng Hòa Pháp được thành lập, Hoàng Hậu Eugénie bị truất
phế, phải trốn sang Anh tỵ nạn.
(3). Công
luận nước Pháp đương thời chịu ảnh hưởng mạnh mẻ của chủ thuyết bành trướng thuộc
địa Leroy-Beaulieu trình bày trong tác phẩm ‘De la colonisation chez les
peuples modernes’ xuất bản ở Paris năm 1882. Các chính khách Pháp Gambetta và
Jules Ferry tin tưởng rằng chính sách thực dân và bành trướng lãnh thổ hải ngoại
sẽ đưa nước Pháp lên địa vị hùng cường.
(4). Ngày 25-4-1882, Henri Rivière
chiếm thành Hà Nội. Cuối năm đó, nhà Thanh phái Tạ Kính Bưu và Đường Cảnh Tùng
đem quân chiếm Bắc Ninh và Sơn Tây, lấy danh nghĩa cứu viện Việt Nam, nhưng thực
tâm là âm mưu phân chia Bắc Kỳ với Pháp. Ngày 20-12-1882, Đại Sứ Pháp tại Bắc
Kinh là Bourée ký với Tổng Đốc Trực Lệ Lý Hồng Chương một tạm ước qui định những
căn bản về việc chia hai Bắc Kỳ dọc theo sông Nhĩ Hà, phía tả ngạn dành cho
Trung Quốc, phía hữu ngạn dành cho Pháp. Vì đã có quyết tâm bành trướng thuộc địa
nên chính phủ Pháp không chuẩn phê thỏa ước này.
(5). Theo lời
truyền tụng của dân chúng địa phương, Thành Lồi do quân Chiêm Thành đắp xong
trong một đêm ở bờ nam sông Hương để chống nhau với quân Đại Việt đóng ở bên
kia sông. Thay vì giao chiến ngay, tướng chỉ huy hai bên thi đua nhau đắp
thành, ước hẹn sau một đêm, bên nào đắp thành dài lớn hơn thì bên ấy thắng.
Trong lúc quân Chiêm Thành hì hục đào đất đắp thành “thật” thì quân Đại Việt
dùng tre và cót dựng thành “giả”, kết quả đương nhiên là thành bên Đại Việt dài
lớn hơn thành bên Chiêm Thành. Tướng Chiêm Thành tưởng rằng quân Đại Việt đông
lắm nên sợ hãi rút quân. Lời truyền tụng này chỉ là biểu hiện của tâm trạng
khinh thị người Chiêm Thành ngây ngô, hoàn toàn không phù hợp với thực tế lịch
sử. Thành Lồi là di tích của thành Khu Túc được xây dựng và tu bổ nhiều lần từ
thời Bắc thuộc.
(6). Khâm Định
Việt sử và một vài tác giả sau này (Đào Duy Anh, Trần Văn Tích) cho rằng thành
Phật Thệ là thành Lồi ở xã Nguyệt Biều gần Huế. Phạm Văn Sơn thì bất nhất, đoạn
trước nói về đời Lý Thái Tông thì viết vua Lý đánh thành Phật Thệ ở gần Huế, chém
Sạ Đẩu, bắt Mỵ Ê, v.v., đoạn sau nói về đời vua Lý Thánh Tông thì lại viết vua
Lý đi đánh Chiêm Thành, dừng quân ở Tư Dung, vào cửa Thi Nại, tiến lên chiếm
thành Phật Thệ ở Bình Định ngày nay. Sự thực thì dưới thời Bắc thuộc cho đến
nhà Tùy, vùng Huế thuộc quận Nhật Nam, và kinh đô của Lâm Ấp là ở Trà
Kiệu (Quảng Nam).
Từ trung diệp nhà Đường trở đi, Nhật Nam mất về Chiêm Thành, nhưng kinh
đô của Chiêm Thành là Đồng Dương, vẫn trong địa hạt Quảng Nam. Khi Lê Đại
Hành triệt hạ thành Đồng Dương thì vua Chiêm chạy vào Phan Rang, và Lê Đại Hành
lưu quân chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành. Năm 988, người Chiêm Thành nổi dậy,
tôn Harivarman II lên ngôi vua ở thành Phật Thệ (Bình Định). Khi Lý Thái Tông
đánh Chiêm Thành thì kinh đô của Chiêm Thành đã ở Phật Thệ (Bình Định) rồi. Tóm
lại, trước sau chỉ có mỗi một thành Phật Thệ ở Bình Định mà thôi, Huế không bao
giờ là kinh đô của Chiêm Thành, và thành Lồi ở xã Nguyệt Biều là di tích của
thành Khu Túc.
(7). Khi
người Chiêm Thành nổi lên chống Lưu Kế Tông năm 988 thì chỉ lấy lại đất đến
châu Địa Lý mà thôi. Có vậy, sử cũ mới chép năm 990 Lê Đại Hành sai quân đánh
châu Địa Lý, nhưng vì nhà Tống can thiệp nên vua Lê bãi binh, chỉ sai Ngô Tử An
đem 3 vạn người mở đường bộ từ cửa Nam Giới thông thương đến châu Địa Lý. Nếu
châu Bố Chính không phải đã là lãnh thổ Đại Việt thì làm sao Ngô Tử An mở được
đường trên đất nước ngưòi. Sau này, giáo sĩ Cadière có đưa ra nhận xét trên Tập
san Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin des amìs du vieux Hué) rằng người Việt Nam từ Bố
Trạch đến Gio Linh (Địa Lý, Ma Linh) qui tụ người cùng họ để lập thành làng như
Ngô xá, Phan xá, Hoàng xá, Hồ xá, v.v., và hiện tượng này không thấy ở mạn bắc
Quảng Bình (Bố Chính) cũng như ở mạn nam Quảng Trị và Thừa Thiên (Ô, Lý). Điều
này chứng tỏ người Việt di cư đến 3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh không cùng
một lúc. Nói khác đi, khi nhà Lý di dân đến Địa Lý và Ma Linh thì tại Bố Chính
đã có dân Việt đến định cư rồi. Việc sử cũ chép Vua Chiêm là Chế Củ dâng 3 châu
Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh cho Lý Thánh Tông để chuộc mạng là đã nói gồm thêm
châu Bố Chính vốn đã thuộc về Đại Việt từ thời Lê Đại Hành.
Chuyện Một Người Việt
Làm Vua Chiêm Thành
Người Việt làm vua nước Việt, “Nam
Quốc sơn hà Nam
Đế cư”, sự kiện đó là chuyện đương nhiên, chẳng có gì lạ thường để phải dài
dòng bàn luận. Nhưng đây lại là chuyện người Việt làm vua Chiêm Thành, và sự kiện
này có nhiều nét đặc thù liên hệ đến lịch sử nước nhà, nên đáng để hậu thế
chúng ta biết tới và lưu tâm tìm hiểu thêm.
Chuyện xẩy ra vào đời vua Lê Đại
Hành, cuối thế kỷ thứ 10, lúc nền tự chủ của Đại Cồ Việt còn đang ở giai đoạn củng
cố để tự khẳng định, còn Chiêm Thành thì đã là một quốc gia độc lập gần 800 năm
nay, và đang ở vào thời kỳ cực thịnh.
Chiêm Thành lập quốc và tranh chấp biên cương với Giao
Châu.
chiếm
lại Tây Quyển, đuổi đánh quân Lâm Ấp qua Thọ Lãnh đến Khu Túc, rồi hai bên giảng
hòa. Nhưng chỉ ít lâu sau khi Đằng Tuấn bãi binh, năm 359, vẫn đời Tấn Mục Đế,
niên hiệu Thăng Bình năm đầu, Phạm Phật lại từ Khu Túc tiến ra xâm lấn Nhật
Nam, khiến Thứ Sử Giao Châu là Ôn Phóng Chi phải cử đại binh thủy lục vào đánh.
Phạm Phật rút quân lui về giữ vững thành Khu Túc. Hai bên nghị hòa, Phạm Phật trả lại đất Nhật Nam, lấy bến Ôn Công (mũi
Chân Mây, cực nam Thừa Thiên) làm ranh giới Giao Châu-Lâm Ấp. Nhật Nam yên ổn
được một thời gian. Đến đời Tấn An Đế, con Phạm Phật là Phạm Hồ Đạt
(Bhadravarman I) lên nối ngôi cha, năm 399, niên hiệu Long An thứ 3, lại tiến binh đánh hãm quận Nhật Nam, bắt giết
Thái Thú Cảnh Nguyên, rồi thừa thắng tiến ra đánh chiếm quận Cửu Đức (nhà Tấn lấy
phần đất phía nam quận Cửu Chân mà lập ra, ngày nay là Nghệ Tĩnh), bắt giết
Thái Thú Tào Bính, và vây hãm quận thành Giao Châu, nhưng bị Thái Thú Giao Chỉ
là Đỗ Viện đánh bại phải rút quân về. Nhờ quân công này, Đỗ Viện được thăng làm
Thứ Sử Giao Châu, đến khi mất, con là Đỗ Tuệ Độ thay thế. Năm 413, Phạm Hồ Đạt
vượt biển ra cướp phá quận Cửu Chân, gia tướng của Đỗ Tuệ Độ là Đỗ Tuệ Kỳ đánh
giết được Âu Tri là con nối ngôi của Phạm Hồ Đạt, và Phạm Kiện là tướng chỉ huy
quân Lâm Ấp, và bắt sống một người con khác của Phạm Hồ Đạt là Na Năng cùng hơn
một trăm tùy tướng lớn nhỏ. Phạm Hồ Đạt thảm bại, rút quân về, rồi mất trong
năm đó. Con cháu Phạm Hồ Đạt không giữ được vương nghiệp, ngôi báu về tay người
khác họ là Phạm Dương Mại. Lúc bấy giờ nhà Tấn mất, và Trung Hoa chia làm Nam Bắc
triều. Năm 420, Lưu Dũ lên ngôi, lập ra nhà Tống (Nam triều), tức là Tống Vũ Đế,
và vẫn dùng Đỗ Tuệ Độ làm Thứ Sử Giao Châu. Năm 421, niên hiệu Vĩnh Sơ thứ 2, Đỗ
Tuệ Độ hàng phục được Phạm Dương Mại. Tống Vũ Đế bèn phong Phạm Dương Mại làm
Lâm Ấp vương, và từ đó Lâm Ấp chính thức trở thành phiên bang của Trung Quốc.
Năm 433, đời Tống Văn Đế, niên hiệu Nguyên Gia thứ 10, vua Lâm Ấp kế tiếp là Phạm
Dương Mại II cử sứ bộ sang xin nhà Tống cho kiêm tính Giao Châu nhưng bị từ chối,
nên đem lòng oán hận, một mặt lơ là việc triều cống, mặt khác thường xuyên đem
quân cướp phá Giao Châu. Tống Văn Đế bèn sai Đàn Hòa Chi đem bọn Tiêu Cảnh Hiến,
Tông Xác, Khương Trọng Cơ, Kiều Hoằng Dân, năm 446, niên hiệu Nguyên Gia thứ
23, cử đại binh đánh Lâm Ấp, hạ được thành Khu Túc, rồi tiến vào kinh đô Trà Kiệu
đốt phá chém giết, thu vét được nhiều vàng bạc châu báu. Từ đó, Lâm Ấp suy yếu,
chịu giữ phận phiên thuộc nên biên cương phía nam của Giao Châu (mũi Chân Mây)
được tạm yên. Nhà Tề thay nhà Tống, năm 492, niên hiệu Vĩnh Ninh thứ 10, lại
gia phong cho vua Lâm Ấp Phạm Chư Nông tước vị An Nam Tướng quân Lâm Ấp vương.
Nhưng đến khi nhà Lương lên ngôi vua Nam triều, nhân việc Lý Bôn nổi lên độc lập
ở Giao Châu, lập ra nước Vạn Xuân vào năm 541, đời Lương Vũ Đế, niên hiệu Đại Đồng
thứ 7, vua Lâm Ấp là Luật Đà La Bạc Ma (Rudravarman) thừa cơ đem quân lấn chiếm
Nhật Nam rồi kéo ra cướp phá Cửu Đức, bị tướng nhà Tiền Lý nước Vạn Xuân là Phạm
Tu đánh bại, nên phải rút quân khỏi Cửu Đức, nhưng vẫn chiếm cứ Nhật Nam. Đây
là lần đụng độ quân sự đầu tiên giữa Lâm Ấp và Giao Châu độc lập. Từ đó, suốt
62 năm tồn tại của nước Vạn Xuân, trãi qua các đời Lương, Trần (Nam triều) cho
đến khi nhà Tùy thống nhất Trung Quốc, Lâm Ấp tiếp tục chiếm cứ Nhật Nam. Sau
khi hàng phục Lý Phật Tử, chiếm lại Giao Châu, nhà Tùy sai Lưu Phương làm Hoan
Châu đạo Hành quân Tổng quản đem đại binh đi kinh lược Lâm Ấp. Năm 605, đời Tùy
Dượng Đế, niên hiệu Đại Nghiệp năm đầu, Lưu Phương cùng Thứ Sử Khâm Châu là
Ninh Trường Chân hợp binh thủy bộ chiếm lại Nhật Nam, hạ thành Khu Túc, rồi kéo
quân vào quốc đô Trà Kiệu đánh đuổi vua Lâm Ấp là Phạm Phạn Chí chạy vào
Panduranga, thu vét nhiều vàng bạc châu báu và kinh sách. Nhà Tùy chia đất mới
bình định làm 3 quận là Tỵ Cảnh (Quảng Bình), Hải Âm (Quảng Trị, Thừa Thiên),
và Lâm Ấp (Quảng Nam, Bình Định). Nhưng triều Tùy quá ngắn ngủi, Trung Hoa rơi
trở lại vào cảnh loạn lạc, nhân đó Phạm Phạn Chí nổi lên khôi phục đất cũ. Đến
lúc nhà Đường lên thay, Phạm Phạn Chí và các vua kế vị tuy cung thuận Trung Quốc
nhưng vẫn giữ đất Nhật Nam.
Từ năm 758, đời Đường Túc Tông, niên hiệu Càn Nguyên năm đầu, sử Tàu gọi Lâm Ấp
là Hoàn Vương. Các vua Hoàn Vương không triều cống Trung Quốc, và thường xuyên
kéo quân ra cướp phá An Nam. Đến mạt diệp nhà Đường, triều đình suy yếu, quan
binh An Nam Đô Hộ phủ lại bận bịu đối phó với nạn Nam Chiếu thường xuyên từ mạn
tây bắc tràn xuống cướp bóc, không còn hơi sức để lo việc phương nam, nên Nhật
Nam mất hẳn về Lâm Ấp. Biên giới Giao Châu-Lâm Ấp là ở Hoành Sơn. Năm 875, Lâm Ấp
thiên đô về Đồng Dương (Indrapura), cũng trong địa hạt Quảng Nam. Bắt đầu từ
đây, sử sách Trung Quốc dùng danh xưng Chiêm Thành (Champapura) có nghĩa là đất
nước của người Chiêm, thay thế danh xưng Lâm Ấp có nghĩa là đô ấp của huyện Tượng
Lâm. Sự kiện này hàm ý từ bỏ tham vọng khôi phục quận Nhật Nam đời Hán và nhìn
nhận Chiêm Thành là một xứ sở tự chủ ở ngoài cương vực sinh hoạt của dân tộc
Trung Hoa.
Giao Châu tự chủ bước đầu lấn đất Chiêm Thành.
Vào đầu thế kỷ thứ 10, nhân lúc
Trung Hoa loạn lạc, ở Giao Châu, Khúc Thừa Dụ nổi lên tự lập làm Tiết Độ sứ. Năm
907, nhà Đường mất. Nhà Hậu Lương lên thay, cử Lưu Ẩn làm Tiết Độ sứ Quảng
Châu, tước Nam Bình vương, và mặc nhiên công nhận Khúc Hạo thay thế cha giữ chức
Tiết Độ sứ Giao Châu. Năm 911, Lưu Ẩn chết, Lưu Cung lên thay, tách Quảng Châu
thành nước độc lập, và xưng đế, lấy quốc hiệu là Đại Việt, định đô ở Phiên
Ngung. Trong lúc đó, tại Giao Châu, năm 917, khi Khúc Hạo chết, nhà Lương giao
chức Tiết Độ sứ cho con Khúc Hạo là Khúc Thừa Mỹ. Lưu Cung bèn cất quân đi đánh
Khúc Thừa Mỹ. Năm 923, Khúc Thừa Mỹ bại trận, Quảng Châu và Giao Châu lại thống
nhất sau hơn nửa thiên niên kỷ chia cắt. Nhưng Lý Khắc Chính và Lý Tiến cùng bọn
quan lại Lưu Cung đưa sang Giao Châu là bọn tham tàn, dân Giao Châu không phục,
nên chỉ ít lâu sau, năm 931, bị tướng cũ của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ nổi
lên đánh đuổi. Dương Đình Nghệ tự lập làm Tiết Độ sứ. Thừa lúc Giao Châu có nội
loạn (Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền giết Kiều Công Tiễn), năm
938, Lưu Cung cử đại binh sang đánh Giao Châu. Quân hai bên giao chiến trên
sông Bạch Đằng, và quân Lưu Cung đã bị Ngô Quyền đánh bại. Ngô Quyền xưng
vương, nhưng sau khi Ngô Quyền chết vào năm 944, Giao Châu rơi vào nạn 12 sứ
quân cát cứ. Tại Quảng Châu, Lưu Cung nghĩ mình thuộc tông thất nhà Hán nên vào
năm 947 đổi quốc hiệu Đại Việt lại thành Nam Hán. Tại Giao Châu, năm 968, Đinh
Bộ Lĩnh dẹp yên 12 sứ quân, tự lập làm vua, xưng là Đinh Tiên Hoàng, được quần
thần tôn là Đại Thắng Minh Hoàng Đế, lấy quốc hiệu là Đại Cồ Việt, niên hiệu là
Thái Bình, và định đô ở Hoa Lư (Ninh Bình). Trong khoảng thời gian này, Triệu
Khuông Dẫn thống nhất Trung Hoa, lập nên nhà Tống. Vua Tống sai Phan Mỹ đem
binh đánh bắt Lưu Thành, diệt nhà Nam Hán. Quảng Châu lại thuộc bản đồ Trung Quốc.
Trước tình hình đó, liên tiếp các năm 970, 971, Đinh Bộ Lĩnh cử sứ bộ sang Tống
triều cầu phong, và năm 972, vua Tống phong cho Đinh Bộ Lĩnh tước vị Giao Chỉ
Quận vương. Giao Châu được chính thức thừa nhận tự chủ. Năm 979, Đinh Tiên
Hoàng bị Đỗ Thích ám hại, vua kế vị còn nhỏ tuổi, triều thần khuynh loát lẫn
nhau. Nhà Tống thừa cơ sai Hầu Nhân Bảo và Lưu Trừng, năm 980, đem quân thủy bộ
hai mặt cùng tiến vào đánh, đồng thời đưa thư uớc hẹn vua Chiêm Thành là Tỳ Mi
Thuế tiến công cương giới phía nam của Đại Cồ Việt. Trước tình thế nguy cấp như
vậy, do sự sắp xếp của Phạm Cự Lượng và sự đồng tình của bà Thái hậu họ Dương,
quân sĩ tôn Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua, lấy hiệu là Đại Hành
Hoàng Đế. Tháng 3 năm 981, quân Tàu tiến vào nội địa Đại Cồ Việt. Lê Hoàn chia
quân giữ chặt mặt thủy, ngăn chặn quân Lưu Trừng không vào được sông Bạch Đằng,
đồng thời đón đánh đạo quân Tàu đi đường bộ qua ngã Ôn Châu, bắt giết chủ tướng
Hầu Nhân Bảo và cầm tù bọn bộ tướng Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huấn. Năm
982, Lê Hoàn cử sứ bộ qua Tống triều cầu hòa và được phong chức Tĩnh Hải Tiết Độ
sứ. Về sau, Lê Hoàn còn được Tống triều gia phong Giao Chỉ Quận vương vào năm
993, và Nam Bình vương vào năm 997. Yên được mặt bắc, ngay trong năm 982, Lê
Hoàn cất quân chinh phạt Chiêm Thành.
Lúc này, Chiêm Thành là một quốc gia
tự chủ từ bảy tám trăm năm nay và chịu ảnh hưởng đậm đà văn minh Ấn Độ. Từ năm
749 đời Đường Huyền Tông, niên hiệu Thiên Bửu thứ 8, Lâm Ấp vĩnh viễn chiếm cứ
Nhật Nam và không còn gửi sứ bộ thông hiếu với Trung Quốc. Đã vậy, các vua Hoàn
Vương lại thường xuyên kéo quân ra cướp phá miền Hoan Ái. Từ năm 875 là năm quốc
gia này được sử Tàu bắt đầu gọi là Chiêm Thành thì nước này đã trở nên cường thịnh,
nhất là dưới các triều vua Indravarman II và Indravarman III. Chiêm Thành đánh
thắng Chân Lạp nhiều trận lớn, mở rộng biên cương về phía nam và phía tây, kiến
thiết kinh đô Đồng Dương và khu thánh địa Mỹ Sơn vô cùng tráng lệ. Chiêm Thành
không thông hiếu với Trung Quốc, nhưng đến khi Triệu Khuông Dẫn chấm dứt thời
Ngũ Đại, lên ngôi vua lập ra nhà Tống thì vua Chiêm Thành lúc bấy giờ là Jaya
Indravarman ngay trong năm 960 đã nhanh chóng gửi sứ bộ mang lễ vật sang chúc mừng
và xin nối lại bang giao với Trung Quốc. Sau đó, Jaya Indravarman cũng như vua
kế vị là Paramecvaravarman mà sử ta gọi là Tỳ Mi Thuế đều đặn giử lệ triều cống
nhà Tống. Do có mối giao hảo này mà có vụ Tống triều năm 980 gửi thư ước hẹn Tỳ
Mi Thuế liên minh cất quân đánh vào biên giới phía nam của Đại Cồ Việt.
Lê Hoàn là một vị Hoàng đế Tướng
quân có thực tài cả về quân sự lẫn chính trị. Vừa lên ngôi vua, Lê Hoàn một mặt
tích cực chuẩn bị lực lượng vũ trang để đối phó với quân nhà Tống, mặt khác đẩy
mạnh công tác ngoại giao tìm cách thông hiếu với Chiêm Thành. Năm 981, niên hiệu
Thiên Phúc thứ 2, vua Lê sai Từ Mục và Ngô Tử Canh sang Chiêm Thành giao hiếu.
Nhưng vua Chiêm Thành Tỳ Mi Thuế ỷ vào thế liên minh với nhà Tống, lại thấy
quân Tống đang sửa soạn tiến vào nội địa Đại Cồ Việt, nên chẳng những không chịu
bàn việc hòa hiếu mà còn trở mặt bắt giữ sứ giả. Vua Lê vô cùng tức giận, nên
ngay sau khi đánh bại hai đạo quân thủy bộ của nhà Tống, và thành công trong việc
gửi sứ bộ sang Tống triều nghị hòa và cầu phong, năm 982, niên hiệu Thiên Phúc
thứ 3, nhà vua ngự giá thân chinh cất đại quân đi chinh phạt Chiêm Thành. Vua
Chiêm Thành Tỳ Mi Thuế xuất quân chống cự, và chiến trận đã xẩy ra trong vùng
Bình Trị Thiên ngày nay. Tỳ Mi Thuế bị chém chết ngay tại trận tiền, và binh
lính Chiêm Thành bị giết và bị bắt sống hàng mấy vạn người. Người Chiêm tôn
Indravarman IV lên làm vua để lo việc chống giữ, nhưng không cản được đà tiến
quân như vũ bão của Đại Cồ Việt. Vua Lê Đại Hành đánh chiếm kinh đô Đồng Dương
(Quảng Nam), Indravarman IV bỏ thành chạy trốn vào Panduranga (Phan Rang). Quân
nhà Tiền Lê san thành Đồng Dương thành bình địa, và thiêu hủy tông miếu hoàng gia
Chiêm Thành. Vua Lê Đại Hành chia quân đóng giữ các nơi xung yếu của Chiêm
Thành đến tận Vijaya (Bình Định). Nhà vua ở lại trên đất Chiêm một năm mới hạ
chiếu ban sư. Khi rút quân về, nhà vua mang theo 100 cung nữ người Chiêm giỏi
múa hát và một thầy tăng người Ấn Độ, cùng rất nhiều vàng ngọc châu báu. Nhà
vua lưu lại một đạo quân trú phòng dưới quyền chỉ huy của Quản giáp Lưu Kế Tông
để chiếm đóng phần phía bắc nước Chiêm Thành (từ Hoành Sơn đến mũi Varella).
Chuyện người Việt làm vua Chiêm Thành.
Chuyện xẩy ra vào triều vua Lê Đại
Hành. Năm 983, niên hiệu Thiên Phúc thứ 4, vua Lê Đại Hành rút đại quân về Hoa
Lư, và cử Quản giáp Lưu Kế Tông ở lại Đồng Dương chỉ huy đạo quân chiếm đóng miền
bắc Chiêm Thành, bao gồm bắc bộ quận Nhật Nam cũ (Bình Trị Thiên), miền
Amaravati (Quảng Nam) và miền Vijaya (Bình Định). Vua Chiêm Thành Indravarman
IV chạy trốn vào nam, chỉ còn giử được miền Panduranga (Khánh Thuận). Năm 985,
niên hiệu Thiên Phúc thứ 6, Indravarman IV cử sứ bộ sang Tống triều dâng cống
phẩm và khiếu nại với vua Tống Thái Tông về chuyện Giao Châu (Đại Cồ Việt) xâm
chiếm đất đai và phá hủy tông miếu của Chiêm Thành. Vì quân nhà Tống vừa mới bị
Lê Đại Hành đánh bại, nên Tống triều cũng e ngại không muốn xen vào công việc của
hai nước Chiêm Việt, chỉ biết một mặt phủ dụ sứ bộ Chiêm Thành nên cư xử hòa mục
với lân bang, mặt khác hứa hẹn sẽ làm trung gian trong việc thương nghị với Đại
Cồ Việt để giải quyết tranh chấp bằng con đường thỏa hiệp hòa bình. Năm 986,
niên hiệu Thiên Phúc thứ 7, Indravarman IV chết, Lưu Kế Tông tự lập làm vua
Chiêm Thành và cử sứ giả mang phẩm vật sang triều cống vua Tống (1). Người
Chiêm Thành nổi lên chống đối và bị Lưu Kế Tông đàn áp nên phải chạy trốn sang
Hải Nam
và Quảng Châu tỵ nạn. Vua Tống Thái Tông bèn cử sứ giả mang tặng vật qua Hoa Lư
ban cho vua Lê Đại Hành và đưa thư hỏi về việc Lưu Kế Tông tự lập làm vua và
đàn áp người Chiêm Thành, và việc bọn Bồ La Át đem hơn 100 người trong thị tộc
chạy sang Đạm Châu (Hải Nam) xin qui phụ nhà Tống (2). Vua Lê Đại Hành sai Ngô
Quốc Ân cầm đầu sứ bộ sang Tống triều đáp lễ và biện giải về các vụ Lưu Kế Tông
và Bồ La Át (3). Trong những năm tiếp theo, người Chiêm Thành tiếp tục chống đối
Lưu Kế Tông, và bị đàn áp mạnh, nên bỏ chạy sang qui phụ Trung quốc mỗi ngày một
nhiều (4). Năm 988, niên hiệu Thiên Phúc thứ 9, người Chiêm Thành nổi dậy chiếm
lại miền Vijaya, và tôn người lãnh đạo cuộc nổi dậy lên ngôi vua tại thành Phật
Thệ (còn gọi là Chà Bàn, ở Bình Định). Vua mới được tôn lên ngôi lấy hiệu là Ku
Xri Harivarman II, sử ta gọi là Băng vương La Duệ. Lưu Kế Tông lo buồn sinh bệnh.
Qua năm sau, 989, niên hiệu Hưng Thống năm đầu đời Lê Đại Hành, Lưu Kế Tông mất.
Harivarman II thừa cơ tiến ra khôi phục miền Amaravati và bắc bộ Nhật Nam cũ đến
tận châu Địa Lý. Năm 990, niên hiệu Hưng Thống thứ 2, vua Lê Đại Hành sai quân
sang đánh châu Địa Lý, bắt được nhiều tù binh. Harivarman II liền cử sứ bộ mang
tê ngưu và sản vật quí giá sang Tống triều tiến cống và dâng biểu tố cáo Đại Cồ
Việt lại sang xâm chiếm đất đai Chiêm Thành. Vua Tống Thái Tông đích thân đứng
ra giảng hòa hai nước Chiêm Việt. Ngay trong năm 990, niên hiệu Thuần Hóa năm đầu
triều Tống Thái Tông, vua Tống gửi chiếu cho vua Lê yêu cầu bãi binh, và khuyến
dụ nước nào hãy giữ nguyên biên cảnh nước đó, không được xâm lược lẫn nhau. Vua
Lê Đại Hành vì mới được nhà Tống phong Kinh Triệu Quận hầu, và gia phong Kiểm
Hiệu Thái úy (5), lại vì việc năm trước vua Chiêm Thành Harivarman II không chứa
chấp bọn phản thần Dương Tiến Lộc (6), nên chấp nhận việc bãi binh nghị hòa.
Vua Lê Đại Hành ra lệnh rút quân khỏi châu Địa Lý, đem về đóng giữ châu Bố
Chính. Năm 992, niên hiệu Hưng Thống thứ 4, vua Lê Đại Hành trao trả cho Chiêm
Thành 360 người bị bắt tại châu Địa Lý trong trận đánh năm 990. Cũng trong năm
992, nhà vua sai Phụ Quốc Ngô Tử An đem 3 vạn người mở đường bộ dọc theo bờ biển
từ cửa Nam Giới (cửa Sót ở Hà Tĩnh) vượt đèo Ngang và xuyên suốt qua châu Bố
Chính để đến thẳng châu Địa Lý (miền giữa Quảng Bình).
Lưu Kế Tông làm vua Chiêm Thành chỉ
được 3 năm (986-989), thời gian làm vua không đủ dài và sự nghiệp không có gì
hiển hách để lưu lại dấu ấn trong lịch sử bang giao hai nước Chiêm Việt. Tuy vậy,
việc Lưu Kế Tông tự lập làm vua Chiêm Thành là chuyện có thực. Điều đáng nói là
sự kiện lịch sử này sử cũ nước ta hoàn toàn không đả động đến, trong lúc đó thì
sử nhà Tống ghi chép rất rõ ràng việc Lưu Kế Tông lên ngôi vua và gửi sứ bộ qua
Tống triều cầu phong (1), cũng như biểu tấu của các biên thần ở Quảng Châu và Đạm
Châu về việc những người Chiêm Thành chống đối Lưu Kế Tông chạy sang Trung Quốc
xin qui phụ (2,4). Sử cũ nước ta không hề nhắc nhở đến nhân vật Lưu Kế Tông, thảng
hoặc có đề cập đến Lưu Kế Tông thì hoàn toàn không nói đến việc Lưu Kế Tông làm
vua Chiêm Thành mà chỉ nói đến chuyện Lưu Kế Tông trốn ở lại. Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư chép rằng Lưu Kế Tông vốn là một viên Quản giáp trong đạo quân của Lê
Đại Hành đi chinh phạt Chiêm Thành năm Thiên Phúc thứ 3 (982). Khi vua Lê rút
quân về nước năm Thiên Phúc thứ 4 (983), Lưu Kế Tông trốn ở lại. Vua Lê sai người
con nuôi (không tường danh tính) đuổi theo bắt được, đem chém. Điều ghi chép
này của Toàn Thư có mấy điểm không ổn. Thứ nhất, Quản giáp đời Tiền Lê là chức
quan võ phụ trách việc binh bị của một châu, tương đương với chức vụ Tiểu Khu
trưởng hay Tư lệnh Quân khu ngày nay, như vậy, việc đào nhiệm của một Quản giáp
là một sự kiện quan trọng, sử quan không thể giản lược chép “Lưu Kế Tông trốn
ở lại” mà không nói rõ thêm vì sao trốn ở lại, trốn ở lại rồi đi đâu, làm
gì v.v. Thứ hai, việc đuổi bắt thành công một Quản giáp đào nhiệm là một công
trạng khá lớn, người được vua sai phái thi hành công tác lại là con nuôi vua,
thế mà sử quan không có được một vài chữ để nói về thân thế nhân vật này, chỉ
ghi chú “không tường danh tánh”. Thứ ba, việc “vua Lê sai con nuôi đưổi
theo bắt được, đem chém.” được Toàn Thư ghi là xẩy ra vào năm Thiên Phúc thứ
4 (983) đời Lê Đại Hành, trong lúc đó thì Tống sử lại chép năm Ung Hy thứ 3
(986) đời Tống Thái Tông, tức là 3 năm sau, Lưu Kế Tông sai sứ giả là Lý Triều
Tiên sang cầu phong. Chả lẽ Lưu Kế Tông bị chém chết rồi sống lại? Chả lẽ sử
quan nhà Tống đặt chuyện ra để chép bậy? Mà nếu sử nhà Tống chép đúng sự thực
thì việc “đuổi theo bắt được đem chém.” là chuyện không hề xẩy ra. Cứ thế mà
suy thì việc con nuôi vua Lê được sai phái đi đuổi bắt cũng không hề có, và việc
Lưu Kế Tống trốn ở lại khi vua Lê rút quân về Hoa Lư chỉ đúng sự thực có nửa phần,
nghĩa là Lưu Kế Tông đã ở lại chứ không phải trốn ở lại. Nói khác đi, Lưu Kế
Tông đã công khai ở lại, Lưu Kế Tông được chỉ định ở lại để thi hành nhiệm vụ.
Mà nhiệm vụ gì thích đáng hơn để giao phó cho một Quản giáp (là viên chức trông
nom việc binh bị một châu) nếu không là nhiệm vụ chỉ huy đạo quân lưu lại chiếm
đóng phần lãnh thổ mới bình định của nước Chiêm Thành, từ đèo Ngang đến mũi
Varella.
Tóm lại, chuyện Lưu Kế Tông tự lập
làm vua Chiêm Thành là chuyện có thực. Nguyên ủy của việc Lưu Kế Tông làm vua
Chiêm Thành là do vua Lê Đại Hành khi rút quân về Hoa Lư năm 983 đã lưu lại một
đạo quân để chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành, và cử Quản giáp Lưu Kế Tông chỉ huy
đạo quân đó. Nhưng tại sao sử nước ta hoàn toàn không đề cập đến việc Lưu Kế
Tông làm vua Chiêm Thành? Tại sao sử nước ta không ghi chép việc vua Lê có lưu
quân chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành? Và tại sao sử nước ta lại quanh co bịa đặt
chuyện Lưu Kế Tông đào nhiệm, bị bắt và bị xử chém? Đó là những vấn đề cần được
nêu lên để làm sáng tỏ một số dữ kiện lịch sử quan yếu trong giai đoạn nền tự
chủ của nước ta vừa phôi thai, nhân đề cập đến chuyện một người Việt làm vua
Chiêm Thành.
Những vấn đề xoay quanh chuyện Lưu Kế Tông làm vua
Chiêm Thành.
Hầu hết sách sử nước ta không nói đến
chuyện Lưu Kế Tông, thảng hoặc có nói tới thì chỉ nói Lưu Kế Tông trốn ở lại chứ
hoàn toàn không nói vì sao trốn ở lại, trốn ở lại để làm gì. Đương nhiên là
không có trước tác lịch sử nào, kể cả truyện dã sử và lịch sử tiểu thuyết, nói
đến chuyện Lưu Kế Tông làm vua Chiêm Thành. Ngay cả sách sử soạn thảo từ thời cận
đại ấn hành bằng chữ quốc ngữ cũng không có tác phẩm nào đề cập đến chuyện Lưu
Kế Tông, ngoại trừ cuốn Việt Sử: Xứ Đàng Trong của Phan Khoang có trích dẫn
Toàn Thư nói về việc Lưu Kế Tông trốn ở lại, bị bắt, và bị chém, và Tống sử khẳng
định chuyện Lưu Kế Tông có làm vua Chiêm Thành. Nhưng Phan Khoang chỉ đơn thuần
trích dẫn sử ta và sử Tàu mà không đối chiếu, không đánh giá và không kết luận.
Như đã trình bày ở trên, chuyện Lưu
Kế Tông làm vua Chiêm Thành là chuyện có thực. Vậy ta thử tìm hiểu tại sao sử
cũ nước ta hoàn toàn không đề cập đến? Lưu Kế Tông lên ngôi vua Chiêm Thành là
do có nhiều điều kiện khách quan làm tiền đề, nhưng tựu trung chủ yếu vẫn là do
chiến công oanh liệt của Lê Hoàn đã chém chết Tỳ Mi Thuế, đốt cháy Đồng Dương
và chiếm đóng già nửa nước Chiêm Thành. Sự nghiệp bình Chiêm của nhà Tiền Lê quả
là lớn lao, dẫu các đời thịnh trị Lý Trần về sau, trong lãnh vực này, cũng
không hơn được. Do đó, luận giải giản đơn và dễ dàng được chấp nhận nhất về vấn
đề sử cũ nước ta không đề cập đến chuyện Lưu Kế Tông làm vua Chiêm Thành là một
khi đã nói đến chuyện Lưu Kế Tông lên ngôi vua Chiêm Thành, thì phải nói đến
chuyện Lưu Kế Tông được cắt cử ở lại chỉ huy đạo quân chiếm đóng già nửa nước
Chiêm Thành, nghĩa là phải nói đến sự nghiệp bình Chiêm vô cùng hiển hách của
Lê Hoàn. Gia dĩ, Lê Hoàn không có sử thần để lưu lại các trước tác tán tụng
công đức, triều Tiền Lê lại quá ngắn ngủi, con không nối được nghiệp cha, còn
nói gì đến việc ghi chép công trạng mở nước của đời vua trước. Tiếp đến các triều
Lý Trần, sự nghiệp bình Chiêm, hoặc là không có gì vượt trội hơn, hoặc là bị lu
mờ trước vai tuồng trọng yếu của giới khăn yếm (Ỷ Lan (7) đời Lý, Huyền Trân
(8) đời Trần), cho nên đối với công nghiệp của Lê Hoàn, các sử quan đời sau đã
vì chúa của mình mà lược bớt. Cũng cùng một lề lối suy luận giản đơn và dễ dãi
như vậy, có người cho rằng hành động phản phúc của Lưu Kế Tông, cho dù tội nhẹ
bỏ ngũ trốn ở lại, hay tội nặng hơn tự lập làm vua Chiêm Thành, là một chuyện
không mấy tốt đẹp theo tinh thần chính thống nho giáo, bởi lẽ Lưu Kế Tông, dưới
con mắt phán xét của các sử quan các triều đại phong kiến, là kẻ phản thần bạn
nghịch, là tấm gương xấu xa không đáng để người đời sau biết đến, nên lược bỏ
không chép.
Chuyện Lưu Kế Tông liên quan mật thiết
đến việc vua Lê Đại Hành lưu quân chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành. Cũng như đối
với vụ Lưu Kế Tông tự lập làm vua, sử cũ nước ta hoàn toàn không đề cập đến vụ
Lê Hoàn lưu quân. Hơn nữa, không phải chỉ có các sử gia đời sau không nhắc nhở
đến việc lưu quân, mà chính ngay đương thời triều đình Tiền Lê cũng tránh né đả
động đến chuyện này. Rõ ràng là nhà cầm quyền ở Hoa Lư tìm cách phủ nhận tất cả
mọi liên hệ với các vụ việc xẩy ra ở phía nam đèo Ngang sau năm 983 là năm Lê
Hoàn rút đại quân ra khỏi Chiêm Thành, và lưu lại một đạo quân trú phòng dưới
quyền chỉ huy của Lưu Kế Tông để chiếm đóng một miền rộng lớn vừa được bình định,
kéo dài từ đèo Ngang đến mũi Varella. Vấn đề lưu quân chiếm đóng miền bắc Chiêm
Thành là một hạng mục gay go trong các cuộc thương thảo ngoại giao giữa nhà Tống
Trung Quốc và triều đình Tiền Lê Đại Cồ Việt. Tuy đã đánh bại 2 đạo binh thủy bộ
của nhà Tống vào tháng 3 năm 981, Lê Hoàn luôn luôn tiến hành các cuộc vận động
ngoại giao với nhà Tống để cầu phong. Liên tiếp trong các năm 981, 982, 983, Lê
Hoàn gửi sứ bộ mang cống phẩm sang Tống triều lo việc thông hiếu. Mặt khác,
Chiêm Thành là nước phiên thuộc của nhà Tống, vuốt mũi phải nể mặt, triều đình
Đại Cồ Việt luôn luôn phải giải thích với nhà Tống lý do của việc chinh phạt
Chiêm Thành năm 982 cũng như phải biện bạch về các dữ kiện chính trị và an ninh
xẩy ra ở Chiêm Thành từ năm 983 trở về sau. Chính sách ngoại giao của nhà Tống
lúc bấy giờ đối với 2 nước phiên thuộc phương nam là làm trung gian hòa giải cuộc
xung đột Chiêm Việt, đồng thời sử dụng lá bài công nhận ngoại giao (tấn phong)
một cách nhỏ giọt đối với Đại Cồ Việt để tạo áp lực ngăn cản Lê Hoàn thôn tính
Chiêm Thành. Do đó mà năm 982, Lê Hoàn chỉ được nhà Tống phong Tĩnh Hải Tiết Độ
sứ. Đến năm 989, qua bao nhiêu biến cố dồn dập và những nổ lực liên tục của các
sứ bộ, Lê Hoàn cũng chỉ mới được phong An Nam Đô Hộ Tĩnh Hải Tiết Độ sứ Kinh Triệu
Quận hầu, gia phong Kiểm Hiệu Thái Úy. Chỉ sau khi Lê Hoàn chịu bãi binh nghị
hòa (năm 990), rút quân ra khỏi châu Địa Lý theo chiếu chỉ của Tống Thái Tông,
và trao trả tù binh cho Chiêm Thành (năm 992), năm 993, niên hiệu Thuần Hóa thứ
4 đời Tống Thái Tông, Lê Hoàn mới được nhà Tống phong làm Giao Chỉ Quận vương
(5). Những hoạt động ngoại giao quanh co khúc mắc vừa kể trên đã giải thích lý
do triều đình Hoa Lư phủ nhận sự liên hệ với các hành trạng của Lưu Kế Tông
trên đất Chiêm Thành từ năm 983 trở về sau. Triều đình Hoa Lư trước sau đều nói
với các sứ giả nhà Tống rằng Lưu Kế Tông là một tên đào ngũ, đã bị vua Lê sai
con nuôi đi đuổi bắt và chém chết từ năm 983. Triều đình Hoa Lư nhất mực chối từ
trách nhiệm về hoạt động của những người lính Đại Cồ Việt đồn trú trên đất
Chiêm Thành dưới quyền Lưu Kế Tông bằng cách rêu rao rằng họ là những người trốn
ở lại. Triều đình Hoa Lư giả tảng không biết Lưu Kế Tông là ai, làm ngơ để mặc
Lưu Kế Tông muốn làm gì thì làm, kỳ thực thì tất cả các hoạt động của Lưu Kế
Tông đều do Hoa Lư chỉ đạo. Thậm chí việc Lưu Kế Tông tự lập làm vua sau khi
Indravarman IV chết cũng do sự dàn dựng của Hoa Lư. Thực vậy, nếu vua Lê Đại
Hành rút hết đại binh về năm 983, không lưu quân chiếm đóng miền bắc Chiêm
Thành, thì hà cớ gì triều đình Hoa Lư phải quanh co, úp mở, che dấu, thậm chí bịa
đặt chuyện Lưu Kế Tông trốn ở lại, bị bắt, và bị chém chết. Nếu Lưu Kế Tông là
một kẻ phản bội, năm 983 đào ngũ, trốn ở lại một thân một mình, không có đạo
quân trú phòng trong tay, thì làm sao năm 986 lại có thể tự lập làm vua Chiêm
Thành. Nếu Lưu Kế Tông là một kẻ phản bội, năm 986 tự tung tự tác lên ngôi vua,
cử sứ bộ sang Tống triều cầu phong, thì tại sao vua Lê Đại Hành không phát binh
hỏi tội Lưu Kế Tông, mà phải đợi đến sau khi Lưu Kế Tông chết, Xri Harivarman
II khôi phục hầu như toàn bộ đất cũ, vua Lê Đại Hành mới sai quân đánh châu Địa
Lý lúc này đã trở lại trong tay người Chiêm Thành.
Kết luận.
Chuyện một người Việt tên Lưu Kế Tông, vốn là một võ quan trong đạo quân nam chinh của vua Lê Đại
Hành, đã lên làm vua Chiêm Thành là một chuyện có thực, được sử nhà Tống ghi
chép rành rẽ, nhưng sử cũ nước ta hoàn toàn không đề cập đến. Với tài trí siêu
việt của vua Lê Đại Hành, cùng với quân lực hùng hậu của Đại Cồ Việt thuở bấy
giờ, nước ta có thừa khả năng thu phục toàn bộ quận Nhật Nam ngày trước.
Nhưng nhà Tống không muốn Giao Châu trở nên quá mạnh, đích thân vua Tống Thái
Tông đã đứng ra hòa giải để ngăn cản Đại Cồ Việt thôn tính Chiêm Thành, dùng lá
bài tấn phong làm áp lực buộc vua Lê Đại Hành rút quân. Mặt khác, vua Lê Đại
Hành tuy vừa oanh liệt đánh bại quân Tống, nhưng vẫn muốn thông hiếu với Trung
quốc, nên trước đòi hỏi của Tống triều, vua Lê lúc đầu, bề ngoài thì minh thị
rút quân nhưng bên trong thì âm thầm bố trí đạo binh Lưu Kế Tông ở lại chiếm
đóng miền bắc Chiêm Thành, và về sau, khi Lưu Kế Tông chết, người Chiêm Thành nổi
dậy chiếm lại đất cũ, vua Lê buộc lòng ra mặt cất quân đánh châu Địa Lý để rồi
cuối cùng chịu bãi binh chỉ giử lại châu Bố Chính (9) và đổi lấy việc phong
vương trong mục đích tranh thủ Tống triều tiếp tục chính thức thừa nhận nền tự
chủ của Đại Cồ Việt.
Cái tước quận vương Giao Chỉ của nhà
Đinh và nhà Tiền Lê Đại Cồ Việt buổi đầu dựng cờ tự chủ đã mở đường cho cái tước
quốc vương của các triều đại sau này và việc hình thành quốc gia Đại Việt, Đại
Nam, Việt Nam, độc lập và thống nhất. Chính sách ngoại giao kiên trì, mềm dẽo
và khôn khéo của vua Lê Đại Hành xuyên qua câu chuyện Lưu Kế Tông làm vua Chiêm
Thành đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp mở nước của dân tộc ta.
Và Lưu Kế Tông là kẻ có công chứ
không phải là người có tội.
Tháng
5 năm 2001
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Chú thích:
(1) Sử nhà Tống chép rằng trong năm 986, đời Tống
Thái Tông, niên hiệu Ung Hy thứ 3, sứ giả của Lưu Kế Tông là Lý Triều Tiên mang
phẩm vật sang tiến cống.
(2)
Sử nhà Tống chép rằng trong năm 986, đời Tống Thái Tông, niên hiệu Ung Hy thứ
3, biên thần Đạm Châu (Hải Nam) tâu rằng người Chiêm là bọn Bồ La Át bị Giao
Châu bức bách nên đem hơn 100 người trong họ chạy sang xin qui phụ.
(3)
Tiếc rằng ngày nay không tìm thấy sử liệu nào đề cập đến các lời biện giải này.
(4)
Sử nhà Tống chép trong năm 987, huyện Thanh Viễn, Nam Hải, thuộc Quảng Châu, tiếp
nhận 150 người Chiêm đến xin tỵ nạn. Năm 988, niên hiệu Đoan Cung năm đầu, biên
thần Quảng Châu lại tâu có thêm 301 người Chiêm xin qui phụ.
(5)
Lê Hoàn được nhà Tống tấn phong như sau:
-Năm 982 Tĩnh Hải Tiết Độ sứ;
-Năm 989 An Nam Đô hộ Tĩnh Hải Tiết
Độ sứ Kinh Triệu Quận hầu, gia phong Kiểm Hiệu Thái úy;
-Năm 993 Giao Chỉ Quận vương;
-Năm 997 Nam Bình vương.
(6)
Năm 989, niên hiệu Hưng Thống năm đầu triều Lê Đại Hành, Quản giáp Dương Tiến Lộc
làm phản, đem một số thủ hạ người châu Hoan châu Ái chạy sang Chiêm Thành xin
qui phụ, nhưng vua Chiêm Harivarman II không thu nhận.
(7)
Năm 1069, Lý Thánh Tông đem 5 vạn binh đi đánh Chiêm Thành. Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư chép: “Tháng 2, vua thân chinh Chiêm Thành, đánh mãi không thắng, đem quân
trở về, đến châu Cư Liên, nghe tin nguyên phi Ỷ Lan trông nom việc nội trị,
lòng dân hòa hợp, trong nước yên tĩnh, thẹn nghĩ mình là phận mày râu mà không
bằng khách má phấn, bèn quay binh trở lại đánh, và thắng trận”.
(8)
Năm 1306, Trần Anh Tông gã em gái là công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành
là Chế Mân (Jaya Simhavarman III) để đổi lấy 2 châu Ô, Lý (Quảng Trị, Thừa
Thiên và Đà Nẵng).
(9)
Sử cũ chép năm Kỷ Dậu (1069), niên hiệu Thiên Huống Bửu Tượng thứ 2, tháng 2,
ngày Mậu Tuất, vua Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua
Chiêm là Chế Củ. Chế Củ dâng 3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh, và được tha về.
Sử cũ chép như vậy là đã chép để chính thức hóa châu Bố Chính vốn đã thống thuộc
Đại Việt trong thực tế từ đời Lê Đại Hành. Thực vậy, năm 990, vua Lê Đại Hành sai quân đánh châu Địa
Lý, và năm 992, sai Ngô Tử An đắp đường bộ từ cửa Nam giới để đến châu Địa Lý,
như vậy, nếu châu Bố Chính trong thực tế chưa thống thuộc Đại Cồ Việt thì lẽ ra
vua Lê phải sai quân đánh châu Bố Chính trước, cũng như phải đặt vấn đề làm sao
Ngô Tử An có thể mở đường xuyên qua châu Bố Chính nghĩa là trên đồng đất nước
người. Hơn nữa, năm 1075, niên hiệu Thái Ninh thú 4, vua Lý Thánh Tông xuống
chiếu đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh, và
chiêu mộ dân đến lập nghiệp ở các châu ấy, không nhắc nhở gì đến châu Bố Chính.
Điều này phù hợp với nhận xét của giáo sĩ Cadière rằng từ Bố Trạch (Địa Lý) đến
Gio Linh (Ma Linh), dân Việt qui tụ người cùng họ để lập thành làng (Ngô xá,
Phan xá, Hoàng xá, Hồ xá v.v.), một hiện tượng không thấy có ở Quảng Trạch,
Tuyên Hóa (Bố Chính). Nói khác đi, khi dân Việt hưởng ứng chiếu di dân của Lý
Thánh Tông đến lập nghiệp ở Lâm Bình và Minh Linh thì ở Bố Chính đã có dân Việt
đến định cư từ trước rồi.
Tản mạn về
Miền Trung Trung Bộ
Nước Việt chiều ngang thì hẹp mà chiều dọc thì dài, thường được phân biệt
làm ba miền bắc, trung, nam (1). Về đại thể, ba miền hợp thành một quốc gia thuần
nhất về rất nhiều phương diện, nhưng mỗi miền vẫn có một số sắc thái riêng, từ
hình thể núi sông, khí hậu nóng lạnh, cho đến tâm tính và hành trạng của con
người. Các nhà địa lý phương Tây thường ví von nước Việt như chiếc đòn gánh
gánh hai thúng lúa. Còn chuyện dân gian thì kể rằng có ba người đàn ông cùng
chèo một chiếc thuyền ra biển đánh cá, tung lưới thì lưới vướng đáy biển không
kéo lên được; người thứ nhất nhảy xuống lặn ngụp một hồi không gỡ được lưới ra
nhưng khi ngoi lên mặt nước lại tươi cười suýt xoa: “Nước mát quá!”; người thứ
hai tiếp theo lặn ngụp một hồi cũng không gỡ được lưới, leo trở lên thuyền ngồi
lầm lì không nói không rằng, được hỏi thấy gì ở bên dưới thì xẵng giọng trả lời:
“Xuống dưới thì biết!”; người thứ ba liền nhảy xuống cũng lặn ngụp một hồi và
cũng không gỡ được lưới ra nhưng khi vừa ngoi lên chưa kịp bám vào mạn thuyền
thì đã chửi thề om xòm: “Đ. má! Gai không hà!”.
Ba miền bắc, trung, nam là Bắc Bộ,
Trung Bộ, Nam Bộ, trước kia còn có các tên gọi khác là Bắc Kỳ, Bắc Việt, Bắc Phần;
Trung Kỳ, Trung Việt, Trung Phần; Nam Kỳ, Nam Việt, Nam Phần. Ngoại trừ dưới thời
Pháp thuộc (2), khi mà Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ là ba phân hạt chính trị và
hành chánh khác nhau với ba thủ phủ Hà Nội, Huế, Sài Gòn, còn thông thường,
ranh giới địa lý giữa ba miền chẳng có gì là rõ rệt. Tỉnh Thanh Hóa nằm ở cực bắc
Trung Bộ nhưng là hình ảnh thu nhỏ của Bắc Bộ với đầy đủ ba miền thượng du,
trung du và đồng bằng. Tỉnh Thuận Hải nằm ở cực nam Trung Bộ nhưng về tất cả mọi
mặt từ cấu tạo địa lý đến sinh hoạt xã hội đều y hệt miền đông Nam Bộ. Bởi vậy,
cuối thế kỷ 19, Triều đình Huế trong thế yếu đã phải ký hòa ước Harmand năm
1884 cắt Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nhập vào Bắc Kỳ, cắt Bình Thuận nhập vào
Nam Kỳ, khiến cho công luận xôn xao làm nẩy sinh nhiều cuộc nổi dậy khắp nước
và cuộc binh biến ở Kinh Kỳ đánh úp đạo quân trú phòng của Thống Tướng De
Courcy vào giữa năm 1885. Người Pháp qua Hòa ước Patenôtre lại chịu trả Thanh
Nghệ Tĩnh và Bình Thuận cho Trung Kỳ. Thời kháng chiến chống Pháp, Thanh Hóa
thuộc Khu IV nhưng lại là hậu cứ của Khu III, tuy vậy, cả hai quân khu không
khu nào thừa nhận Thanh Hóa là thành phần chủ lực của mình. ‘Thanh Hóa Khu IV tống
ra, Khu III đá vào’. Nói cho ngay, Thanh Hóa ngày xưa là quận Cửu Chân, bao gồm
cả tỉnh Ninh Bình, vốn khác biệt với quận Giao Chỉ là Bắc Bộ ngày nay, và lại
càng khác biệt không những với quận Nhật Nam là Trung Trung Bộ mà cả với Nghệ Tịnh
mà nhà Tấn tách ra để lập thành quận Cửu Đức. Chỉ từ khi Gia Long thiết lập Tòa
Tổng Trấn Bắc Thành, chia trấn Thanh Hoa làm hai theo rặng núi Tam Điệp, Thanh
Hoa Ngoại Trấn (Minh Mạng đổi làm Ninh Bình) thuộc Bắc Thành, và Thanh Hoa Nội
Trấn (Thanh Hóa) thuộc Trực Kỳ, Thanh Hóa mới trở thành tỉnh địa đầu của miền
Trung. Về phần tỉnh Bình Thuận ở cực nam Trung Bộ, sách Trung quốc thuở xưa có
đề cập đến nước Xích Thổ bao gồm cả vùng Bình Thuận, Bà Rịa và Lâm Đồng vốn là
địa bàn sinh hoạt của người Mạ và người Stieng. Về sau, bị người Chiêm và người
Khmer từ hai phía đánh ép lại, người Mạ và người Stieng rút lên Lâm Đồng, để
cho Bình Thuận trở thành bộ phận cực nam của Chiêm Thành. Gia Long lấy đất từ
huyện Long Khánh tỉnh Biên Hòa trở vào để lập Tòa Tổng Trấn Gia Định, còn tỉnh
Bình Thuận thì cho thuộc về Trực Kỳ, và từ đó Bình Thuận trở thành tỉnh địa đầu
của miền Trung. Tuy thời Cộng Hòa, huyện Hàm Tân tỉnh Bình Thuận được tách ra để
lập tỉnh Bình Tuy thuộc Nam Phần, nhưng sau ngày 30-4-1975, huyện Hàm Tân lại
được trả về cho Bình Thuận để cùng với Ninh Thuận lập ra tỉnh mới Thuận Hải.
Chẳng những ranh giới địa lý giữa ba
miền không có gì rõ rệt mà tâm tính và sinh hoạt của cư dân ở hai vùng địa đầu
của miền Trung cũng không khác biệt với hai miền Nam Bắc kế cận. Thật vậy, người
Thanh Hóa tuy gọi cô bằng o, và không phân biệt dấu hỏi dấu ngã ở phần đất phía
tây quốc lộ I, nhưng cũng lanh lợi, hoạt bát, khôn khéo, và buôn bán giỏi không
khác gì người Bắc. Còn người Thuận Hải thì tuy cũng có nơi dùng các từ ôông mệ,
mi tau, nhưng nói chung người Bình Thuận
nói oánh thay vì đánh, giọng nói và phong cách phát biểu tâm tình sôi nổi và thẳng
thắn không khác gì người Nam. Cái lối lầm lì chẳng nói chẳng rằng của người
đánh cá trong câu chuyện dân gian kể ở đầu bài không thể tìm thấy ở phía bắc
đèo Ngang và ở phía nam đèo Cả. Nói khác đi, những nét đặc thù của miền Trung
chỉ được tìm thấy đầy đủ và rõ rệt ở miền Trung Trung Bộ, từ Quảng Bình đến Phú
Yên.
Miền Trung Trung Bộ đi vào chính sử
với danh xưng Nhật Nam
vào năm 111 trước Công nguyên đời Tây Hán. Năm đó, Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức đem
quân đánh diệt nước Nam Việt, rồi thừa thắng chiếm luôn đảo Hải Nam, gộp tất cả
lại thành Giao Chỉ Bộ, chia làm 9 quận: Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố,
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai và Đam Nhĩ (3). Quận Nhật Nam lúc bấy
giờ chạy dài từ đèo Ngang đến đèo Cả, và được chia làm 5 huyện: Tỵ Cảnh (Quảng Bình), Tây Quyển (Quảng Trị), Lư Dung (Thừa
Thiên), Tượng Lâm (Quảng Nam) và Châu Ngô (Bình Phú). Quận lỵ đóng ở huyện Tây
Quyển, phía bắc thành phố Huế ngày nay. Sử cũ nước ta đưa miền Trung Trung Bộ
vào chính sử lùi xa vào trước thời điểm này, thường nhắc nhở đến danh xưng Việt
Thường, cho rằng Việt Thường có từ thời Hùng Vương. Theo sử cũ, Việt Thường là
một trong 15 bộ của nước Văn Lang (4), và nằm ở vị trí bắc bộ Quận Nhật Nam đời
Hán. Nhưng điều ức đoán này của sử cũ nước ta là hồ đồ, không có cơ sở khoa học,
nghĩa là chẳng có chút giá trị thuyết phục nào cả. Các danh xưng Việt Thường, Cửu
Đức, Vũ Ninh, Hoài Hoan v.v. của 15 bộ nước Văn Lang đều là từ ngữ Hán, mà thời
Hùng Vương, dân ta đâu đã chịu ảnh hưởng của người Tàu, dân ta đâu đã biết dùng
Hán tự để đặt tên người, tên xứ. Danh xưng của 15 bộ nước Văn Lang chẳng qua là
tên châu, tên quận của đời sau, sử cũ đã chép lại và gán cho các phân hạt hành
chánh tưởng tượng của nước Văn Lang thời Hùng Vương. Mà ngay cả cái quốc hiệu
Văn Lang cũng là một mối ngờ lớn về sự chính xác. Thực vậy, vào thời Hùng
Vương, lúc nhà Tần chưa đem quân vào đất Lục Lương, lập ra các quận Nam Hải, Quế
Lâm và Tượng quận, thì người Tàu thường gọi Quảng Đông là Âu Việt, Quảng Tây là
Tây Âu, Việt Nam là Lạc Việt. Từ thuở các vua Hùng mở nước cho đến khi Thục
Phán nổi lên từ Tây Âu đánh bại vua Hùng cuối cùng và kiêm tính Lạc Việt để lập
ra nước Âu Lạc vào năm 257 trước Công nguyên thì người Tàu gọi xứ này là Môn
Lang (Làng của người Môn). Trong quá trình tiến hóa của Hoa ngữ, đến thời Hán
Đường, người Tàu đọc môn là văn, cũng như ngày nay, người Tàu lại đọc văn thành
wen (uân). Mà Hán tự lại là thứ chữ tượng hình, không phải là thứ chữ ký âm,
cho nên dù đọc là môn, là văn hay là wen thì chữ cũng viết y hệt nhau. Dân ta
tiếp thụ Hán tự vào thời Hán Đường, khi mà chữ môn đã được đọc là văn, cho nên
Môn Lang trở thành Văn Lang trong sử sách nước ta. Việc người Tàu trước thời Tần
Thủy Hoàng gọi địa bàn sinh hoạt của cư dân Bách Việt là Môn Lang (làng của người
Môn) phù hợp với các kiến giải nhân chủng học cận đại cho rằng người Môn ở Nam
Á (người Indonesian) bị người Aryens đánh đuổi nên tràn qua Đông Dương và Hoa
Nam rồi về sau Hán hóa mà trở thành người Tiều, người Quảng, người Việt v.v.,
chỉ rơi rớt các phần tử rút vào rừng sâu là còn giữ nguyên bản sắc mà điển hình
là người Mường ở bắc bộ Đông Dương. Người Tây Âu và người Lạc Việt thời bấy giờ (người Môn) ở trần, đóng khố, nên trong văn
thư gửi Hán Văn Đế, Triệu Vũ Vương đã nói dân Âu Lạc là dân trần truồng (5). Gần
đây, Hoàng Văn Chí, vốn là dân Thanh Hóa chính gốc, đã viết rằng dân Mường
Thanh Hóa ngày nay vẫn tự xưng: “Tôi là người Môn, tôi là người Mọi”.
Miền Trung Trung Bộ buổi đầu chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc ít
hơn so với các miền khác. Thật vậy, quá trình Hán hóa của Hoa Nam và bắc bộ Đông
Dương tiến triển theo những mức độ khác nhau, càng xuống phía nam chừng nào thì
càng yếu đi và chậm lại. Quận Nam Hải đã bắt đầu Hán hóa sớm từ thời Nhâm Ngao,
khi nhà Tần cung cấp một vạn năm nghìn gái Hoa Bắc cho đạo quân Tần chiếm đóng
Nam Hải. Quận Nam Hải cũng Hán hóa sâu đậm và trọn vẹn vì từ thời đó cho đến
nay, quận Nam Hải vĩnh viễn bị người Tàu đô hộ, lần lượt trở thành một châu (Quảng
châu), rồi một tỉnh (Quảng Đông) của Trung Quốc. Các quận Giao Chỉ, Cửu Chân và
Nhật Nam giao tiếp với văn hóa Hán tộc sau khi Triệu Đà chiếm Âu Lạc, và thực sự
bắt đầu Hán hóa khi nhà Hán gộp tất cả vào Giao Chỉ Bộ vào năm 111 trước Công
nguyên. Nhưng các quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, sau nhiều lần nổi dậy thất
bại, cuối cùng đã thoát được vòng lệ thuộc người Tàu. Hai quận Giao Chỉ, Cửu
Chân bị đô hộ 1049 năm, đến năm 938 sau Công nguyên đời Tống Thái Tổ thì Đinh Bộ
Lĩnh nổi lên từ huyện Gia Viễn, dựng cờ tự chủ, lập nên nước Đại Cồ Việt, đóng
đô ở Hoa Lư (Ninh Bình). Quận Nhật Nam ở xa hơn nên chỉ bị đô hộ 303 năm, đến
năm 192 sau Công nguyên đời Hán Hiến Đế thì Khu Liên nổi lên ở huyện Tượng Lâm
(6), dựng cờ tự chủ, lập nên nước Lâm Ấp, đóng đô ở Trà Kiệu (Quảng Nam). Mức độ
Hán hóa khác biệt giữa Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam không đơn thuần chỉ vì thời
gian Bắc thuộc dài ngắn khác nhau mà còn vì lý do là sau khi độc lập, Giao Chỉ
và Cửu Chân (Đại Cồ Việt, Đại Việt) tự nguyện tiếp tục tiếp thụ văn hóa Trung
Hoa, còn Nhật Nam (Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành) thì trở lại với văn hóa Ấn
Độ. Hai hướng đi riêng rẽ này trãi qua một thời gian dài 1279 năm, và chấm dứt
lúc toàn bộ Nhật Nam vĩnh viễn thống nhất trở lại với Giao Chỉ, Cửu Chân vào
năm 1471 đời Lê Thánh Tông. Miền Trung Trung Bộ lại cùng với Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ tiếp thụ văn hóa Trung Hoa.
Miền Trung Trung Bộ là quận Nhật Nam đời Hán, điều
đó đã được chính sử ghi chép rõ ràng. Nhưng miền Trung Trung Bộ còn có một danh
xưng khác xưa hơn: miền Trung Trung Bộ là bộ Việt Thường nước Văn Lang (Môn
Lang) đời Hùng Vương. Tuy điều này chỉ là truyền thuyết, không dựa vào những chứng
tích xác tín của khoa khảo cổ, nhưng đã có những cơ sở vững chắc và dồi dào về
mặt lịch sử, văn học và chính trị. Sử cũ nước ta chép rằng Việt Thường là một
trong 15 bộ của nước Văn Lang, ở vào vị trí vùng Bình Trị Thiên ngày nay
(7). Mặt khác, trong văn học nước ta và
văn học Trung Quốc thì nhan nhãn những sáo ngữ “Ngựa Hồ trông gió Bắc, Chim Việt
đậu cành Nam”
(Hồ mã tê Bắc phong, Việt điểu sào Nam chi). Chim Việt là chim của xứ
Việt Thường. Sử cũ nước Tàu chép rằng vào đời Chu Thành vương, sứ bộ xứ Việt
Thường đem cống chim trĩ trắng, chim nhớ quê hương miền nam nên cứ tìm cành nam
mà đậu. Sử cũ nước Tàu còn chép thêm rằng sứ giả xứ Việt Thường nói thứ tiếng
phải qua 12 lần trung gian phiên dịch mới hiểu được, rằng Triều đình nhà Chu
(Chu Công Đán) tặng sứ bộ Việt Thường xe chỉ nam để sứ bộ tiện tìm đường về xứ
v.v. Thật ra thì cho tới nay cũng chưa có sách vở nào khẳng định cái xứ Việt
Thường đem cống chim trĩ trắng cho nhà Chu nằm vào cương vực nước ta ngày nay. Sách
xưa của Tàu (thiên Vũ Cống) nói rằng xứ Việt Thường ở phía nam đất Giao Chỉ,
nhưng danh xưng Giao Chỉ chép trong sách xưa của Tàu là để chỉ vùng đất có giao
long (cá sấu) (8), tức là vùng đất ở giữa các hồ Động Đình và Phiên Dương, chứ
không phải là Giao Chỉ Bộ đời Hán. Mặt khác, một vài nhà khảo cổ người Pháp thuộc
trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội cho rằng Việt Thường là nước Xa Lý xưa kia ở
trong cương vực tỉnh Vân Nam ngày nay (9). Vậy chỉ có điều chắc chắn là xứ Việt
Thường đó ở về phương nam, trong vùng cư trú của chủng tộc Bách Việt. Còn khẳng
định rằng xứ Việt Thường đó là bắc bộ quận Nhật Nam đời Hán thì là một việc làm
có phần vội vã. Hơn nữa, nếu Việt Thường là một bộ của nước Văn Lang thì thử hỏi
tương quan giữa bộ Việt Thường và nhà nước trung ương Văn Lang như thế nào mà địa
phương Việt Thường lại tự tiện đem chim trĩ trắng trực tiếp giao thiệp với nước
ngoài. Tuy vậy, vẫn có sự mặc nhiên công nhận những dữ kiện lịch sử và chính trị
khẳng định miền Trung Trung Bộ xưa kia là xứ Việt Thường, cả về phía chính giới
Việt Nam lẫn về phía chính giới Trung Quốc. Thật vậy, sau khi lên ngôi vua,
cùng trong năm 1802, Gia Long trước sau liên tiếp cử Trịnh Hoài Đức và Lê Quang
Định cầm đầu 2 sứ bộ sang Tàu cầu phong. Trong biểu tấu, Gia Long xin nhà Thanh
cho đặt tên nước là Nam Việt, lấy lý do là đã thống nhất An Nam và Việt Thường
làm một mối. An Nam là Đàng Ngoài, từ Bắc Bộ tới Hà Tĩnh. Việt Thường là Đàng
Trong, từ Quảng Bình tới Nam Bộ. Triều Đình nhà Thanh họp bàn, không mảy may thắc
mắc về danh xưng Việt Thường, nghĩa là mặc nhiên nhận rằng Việt Thường là phần
đất phía nam Đèo Ngang, mà chỉ thắc mắc về danh xưng Nam Việt, nghi ngại Gia
Long nhắc nhở đến nước cũ của Triệu Đà với ý đồ xin trả lại đất Lưỡng Quảng. Vì
vậy, thay vì Nam Việt, nhà Thanh đổi ngược lại là Việt Nam, phong cho Gia Long
tước vị Việt Nam Quốc Vương, vẫn với ý nghĩa là đã thống nhất An Nam và Việt
Thường làm một mối. Với việc tấn phong này, cả hai phía Việt Nam và Trung Quốc
đều dùng danh xưng Việt Thường để chỉ phần đất phía nam Đèo Ngang, chủ yếu là
miền Trung Trung Bộ.
Về danh xưng An Nam cũng có nhiều
điều đáng bàn. An Nam
là tên nước ta, do người Tàu đặt ra. Trước thời Gia Long triều Nguyễn, vua nước
ta các triều Lý, Trần, Hồ và Hậu Lê được vua Tàu tấn phong là An Nam Quốc Vương
(3,4). Các vua triều Mạc chỉ được phong An Nam Đô Thống Sứ. Sách giáo khoa môn
sử cấp phổ thông của Trung Quốc hiện nay ghi “Năm 1885 An Nam mất”, hàm ý năm
1885, Trung Quốc phải ký Hòa ước Thiên Tân nhìn nhận quyền của nước Pháp bảo hộ
nước ta. Nhiều người nghĩ rằng danh xưng An Nam người Tàu dùng để chỉ nước ta bắt
nguồn từ danh xưng An Nam Đô Hộ Phủ của thời nước ta thuộc nhà Đường. Người nước
ta không thích hai tiếng An Nam,
nghĩ rằng từ ngữ này ngụ ý khinh miệt. Sự thực thì vào thời nhà Đường, những
vùng xung yếu ở biên cương được giao phó cho tướng võ cai trị, châu được cải
thành đô hộ phủ, thứ sử được thay thế bằng tiết độ sứ, giống như ngày nay có chế
độ quân quản vậy. Trở lại việc cải cách châu quận nước ta vào thời Bắc thuộc
thì thấy rõ. Đời Tây Hán lập Giao Chỉ Bộ. Qua đời Đông Hán thì Giao Chỉ Bộ đổi
thành Giao Châu. Đời Đông Ngô thì Giao Châu được chia làm hai: phần phía bắc là
Quảng Châu, phần phía nam là Giao Châu. Lúc bấy giờ, huyện Tượng Lâm đã nổi lên
độc lập, trở thành nước Lâm Ấp. Năm 248 sau Công nguyên, quân Lâm Ấp đánh chiếm
thành Khu Túc của quận Nhật Nam và cướp phá hai quận Cửu Chân và Giao Chỉ, san
bằng hai quận thành này thành bình địa. Ngô chúa Tôn Quyền sai Lục Dận đem đại
binh sang ứng phó, Lâm Ấp mới lui binh, nhưng vẫn giữ thành Khu Túc (6). Từ đó
trở đi, quân Lâm Ấp và quân Giao Quảng của Trung Quốc đánh nhau liên miên, chủ
yếu là trên phần đất bắc bộ quận Nhật Nam, trong bốn thế kỷ, khi thắng khi bại,
khi thì quân Lâm Ấp của Phạm Văn chiếm đất đến đèo Ngang, khi thì quân của Đàn
Hòa Chi nhà Tống kéo vào chiếm thành Trà Kiệu và quân của Lưu Phương nhà Tùy
chiếm đất đến mũi Diều (còn gọi là mũi Nậy, người Pháp gọi là cap Varella), lại
có khi hai bên giảng hòa, lấy bến Ôn Công (mũi Chân Mây ở cực nam Thừa Thiên)
làm ranh giới (6). Để ứng phó với tình hình căng thẳng như vậy, nhà Tấn lập
thêm quận Cửu Đức (Nghệ Tĩnh) và huyện Thọ Lãnh (huyện Phú Lộc ở nam Thừa
Thiên), và nhà Tùy đặt lại các quận Tỵ Cảnh (Quảng Bình, Bắc Quảng Trị), Hải Âm
(Quảng Trị, Thừa Thiên) và Lâm Ấp (Quảng Nam, Bình Định). Đến khi nhà Đường
thay nhà Tùy thì vua Lâm Ấp là Phạm Phạn Chí nổi lên chiếm lại toàn bộ đất Nhật
Nam cũ, tức là miền Trung Trung Bộ ngày nay, từ đèo Ngang đến mũi Diều. Để củng
cố biên phương, nhà Đường đổi Giao Châu thành An Nam Đô Hộ Phủ, đặt chức Lĩnh
Nam Tiết Độ Sứ để phòng chống Nam Chiếu và Lâm Ấp, cũng như đã đổi Lương Châu
thành An Tây Đô Hộ Phủ và đặt chức Tây Lương Tiết Độ Sứ để phòng chống rợ
Khương vậy, chứ tuyệt nhiên chẳng có hậu ý gì. Hơn nữa, từ ngữ An Nam đã được
người Tàu sử dụng từ trước để chỉ miền đất phía nam Trung Quốc, chứ đâu phải bắt
đầu từ đời Đường. Thực vậy, Ngô chúa Tôn Quyền đã phong Lục Dận làm Giao Châu
Thứ Sử, An Nam Hiệu Úy ngay sau khi quân Lâm Ấp xâm phạm Giao Châu vào năm 248,
nghĩa là trước khi nhà Đường đặt phủ An Nam Đô Hộ bốn năm trăm năm. Nhà Tề thời
Nam Bắc triều cũng đã phong cho vua Lâm Ấp là Phạm Chư Nông tước vị An Nam Tướng
Quân Lâm Ấp Vương vào năm 492, nghĩa là trước khi nhà Đường đặt phủ An Nam Đô Hộ
trên dưới ba trăm năm. Suy diễn rằng danh xưng An Nam bắt nguồn từ An Nam Đô Hộ
Phủ và trách cứ nhà Đường sử dụng từ ngữ An Nam với hàm ý khinh miệt là không
đúng. Nếu có những người Tàu tỏ ra cao ngạo là vì thời Bắc thuộc đa số dân ta
tiêu cực, cam phận làm nô lệ, hoặc về sau này, tuy đã giành lại quyền tự chủ
nhưng tỏ ra quá hâm mộ văn hóa Trung Quốc, chứ nào có liên can gì đến hai tiếng
An Nam.
Miền Trung Trung Bộ là đất hai trấn
Thuận Hóa và Quảng Nam
đời Hậu Lê. Khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, một cựu thần nhà Lê là Nguyễn Kim chạy
sang Lào tìm một người tông thất nhà Lê tôn lên ngôi vua rồi kéo quân về chiếm
lại Thanh Hóa, tạo ra cuộc diện phân tranh Nam Bắc Triều. Bắc Triều là nhà Mạc
từ Sơn Nam
trở ra, Nam Triều là nhà Lê Trung Hưng từ Thanh Hóa trở vào. Sau khi Nguyễn Kim
bị người hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết, binh quyền Nam Triều
về tay người con rể là Trịnh Kiểm. Hai con trai của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông
và Nguyễn Hoàng có ý lấy lại binh quyền nên Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết,
Nguyễn Hoàng phải giả điên. Về sau, Nguyễn Hoàng theo kế của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
“Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” có nghĩa là một dãy Hoành sơn, dung
thân muôn đời, nên xin đi trấn thủ Thuận Hóa là vùng đất ở phía nam Hoành sơn.
Trịnh Kiểm nghĩ rằng Thuận Hóa xa xôi, rừng thiêng nước độc, lại còn dư đảng
nhà Mạc, Nguyễn Hoàng vào đó trước sau cũng chết, nên thuận cho đi. Nguyễn
Hoàng vào Thuận Hóa, lập kế giết được tướng nhà Mạc là Lập Bạo, vỗ yên trăm họ,
ít lâu sau lại kiêm lĩnh Trấn Thủ Quảng Nam, mở mang Thuận Quảng thành một xứ
giàu có an lạc, dân tình thuần hậu, “ngoài đường không ai nhặt của rơi, ban đêm
không nhà nào đóng cửa”. Đến đời con là Nguyễn Phúc Nguyên, quân lương sung
mãn, tướng sĩ một lòng, họ Nguyễn ra mặt chống đối họ Trịnh, gây ra cuộc diện
phân tranh Đàng Trong Đàng Ngoài. Từ đó, miền Trung Trung Bộ chuyển mình, từ
vai trò xung kích của căn cứ địa Thăng Long trong sự nghiệp nam tiến của dân tộc
ta, trở thành điểm trung tâm xuất phát các chiến dịch mở nước vĩ đại về phương
nam và phương tây, thậm chí cả về phương đông, mà các triều đại trước không triều
đại nào sánh kịp. Các chúa Nguyễn rồi đến các vua Nguyễn qui thuận các tàn dư
Chiêm Thành ở Nam Trung Bộ, khai khẩn Thủy Chân Lạp, kiêm tính Hà Tiên, bảo hộ
Cao Miên rồi thiết lập Trấn Tây Thành, tiến lên Tây Nguyên khai hóa Thủy Xá Hỏa
Xá, vượt Trường Sơn bảo hộ Vạn Tượng, thiết lập các phủ huyện Hạ Lào, vượt biển
Đông cắm mốc chủ quyền và khai thác hải sản trên quần đảo Hoàng Sa. Cho đến cuối
thế kỷ 19, khi người Pháp đánh chiếm nước ta làm thuộc địa, quan dân, tướng sĩ
miền Trung Trung Bộ là thành phần chủ lực của lực lượng dân tộc đã mở rộng lãnh
thổ nước ta lớn gấp ba lần trước kia trong vòng chưa đến ba trăm năm.
Thời Pháp thuộc, người Pháp gọi
chung dân ta từ Nam Quan cho đến Cà Mau là người An Nam (Annamite). Ngoài ra, người
Pháp còn dùng danh từ Tonkinois để gọi những người chánh quán Bắc Kỳ và danh từ
Cochinchinois để gọi những người chánh quán Nam Kỳ. Riêng đối với người Trung Kỳ,
chánh quán từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, thì người Pháp vẫn gọi họ là Annamite.
Cũng cùng là người An Nam, tức là người Việt Nam, mà người Pháp phân biệt ra
Tonkinois, Annamite với Cochinchinois, là vì sau khi chiếm nước ta, người Pháp
không những lấy hết đất đai của ta ở phía tây kênh Vĩnh Tế trả lại cho Cao
Miên, ở phía tây núi Trường Sơn nhập vào Lào, mà còn chia cắt phần còn lại của
nước ta làm ba xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và Nam Kỳ. Người Pháp gọi Bắc Kỳ là Tonkin,
Nam Kỳ là Cochinchine, và lập lờ dùng cái tên cũ An Nam của người Tàu đặt ra
trước kia để gọi Trung Kỳ. Sở dĩ như vậy là vì người Pháp thi hành triệt để
chính sách chia để trị đối với Việt Nam, làm cho người Việt Nam chia rẽ nhau,
chống đối nhau, thù ghét nhau, một chính sách thâm độc mà Jules Harmand đã nói
rõ trong một công hàm gửi về Bộ Ngoại giao Pháp ngày 15-07-1885, nhấn mạnh chủ
điểm: “Mục đích của tôi là phá cho tan vỡ khối gắn liền của An Nam, chia cắt nó
ra từng mảnh nhỏ, rời ra, để không bao giờ nó có thể tập họp được lực lượng chống
lại chúng ta” (10). Trong khuôn khổ chính sách chia rẻ đó, người Pháp âm thầm
làm cho mọi người tin rằng người Việt Nam ở ba miền trung nam bắc không cùng
chung chủng tộc, rằng người Trung Kỳ mới là người An Nam chính gốc, Annamite de
pur sang, còn người Bắc Kỳ là dân Tàu lai, và người Nam Kỳ là dân hỗn chủng tứ
xứ. Thật là hồ đồ và cực kỳ phản động! Mặt khác, người Pháp ra mặt nâng đỡ người
Nam Kỳ, cho họ hưởng nhiều đặc quyền chính trị hơn người Bắc và Trung Kỳ, đồng
thời công khai kỳ thị người Trung Kỳ, giới hạn tối đa các quyền lợi pháp định của
người Trung Kỳ qua trung gian bộ máy quan lại nhà nước bù nhìn Nam Triều. Khi
thành lập trường đào tạo sĩ quan ở Tông và ban hành qui chế sĩ quan bản xứ,
Toàn Quyền Đông Dương ký nghị định ghi rõ cấp bậc cao nhất dành cho người Nam Kỳ
là Đại tá, cho người Bắc Kỳ là Thiếu tá, còn người Trung Kỳ tối đa chỉ được
thăng Trung úy. Cũng cần lưu ý là các danh từ Tonkin và Cochinchine không phải
mới ra đời cuối thế kỷ 19, khi người Pháp đến đặt nền đô hộ và lập ra xứ Đông
Dương thuộc Pháp (Indochine francaise) với 5 thành viên Tonkin, Annam,
Cochinchine, Cambodge và Laos, mà đã có từ những ngày xa xưa, lùi lại mấy thế kỷ
về trước, khi người Tây Dương bắt đầu đến Viễn Đông buôn bán và truyền đạo. Lúc
bấy giờ nước ta đang ở tình trạng nam bắc phân tranh, chúa Trịnh cai trị Đàng
Ngoài, từ Bắc Bộ đến sông Gianh, và chúa Nguyễn cai trị Đàng Trong, từ sông
Gianh đến Nam Bộ. Thủ phủ Đàng Ngoài là Đông Kinh (Hà Nội) nên người Tây Dương
gọi Đàng Ngoài là Vương quốc Đông Kinh (Royaume de Tonkin). Tuy thủ phủ Đàng
Trong là Phú Xuân (Huế) nhưng thuyền bè Tây Dương thuận đường thường thường
năng ghé Hội An ở Quảng Nam hơn nên người Tây Dương gọi Đàng Trong là Vương Quốc
Quảng Nam (Royaume de Quang Nam). Lại thêm Đàng Trong ở giữa đường từ Cochin (miền đông Ấn Độ)
đến Trung Quốc (Chine) nên người Tây Dương còn gọi Đàng Trong là Cochinchine.
Còn Nam Bộ ngày nay vì ở vùng châu thổ Mékong đất thấp nên lúc bấy giờ người
Tây Dương gọi là Basse Cochinchine. Chỉ đến thời Pháp thuộc lập ra Indochine
francaise thì Basse Cochinchine mới trở thành Cochinchine.
Miền Trung Trung Bộ, từ Quảng Bình đến Phú Yên, vào những năm 1945-1946,
là Đệ Thất Khu Bộ của Quốc Dân Đảng Việt Nam (11). Quốc Dân Đảng Việt Nam là
liên minh kết hợp 3 đảng phái quốc gia chống Pháp: Việt Nam Quốc Dân Đảng của
Nguyễn Thái Học, Đại Việt Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh, và Đại Việt Dân
Chính Đảng của Nguyễn Tường Tam. Nguyễn Thái Học đã vĩnh viễn đi vào lịch sử
vàng son của dân tộc từ năm 1930 tại Yên Bái. Người đại diện của Việt Nam Quốc
Dân Đảng bấy giờ ngồi chung với Trương Tử Anh và Nguyễn Tường Tam là Vũ Hồng
Khanh, Chủ nhiệm Hải Ngoại Chấp Hành Ủy Viên Hội của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở
Côn Minh. Quốc Dân Đảng Việt Nam chính thức hình thành từ tháng 5 năm 1945 tại
Trùng Khánh, nhưng mãi đến ngày 15-12-1945 mới sinh hoạt công khai tại Hà Nội,
trụ sở của Trung Ương Đảng Bộ đặt ở trường Tiểu học Đỗ Hữu Vị, và sau ngày
13-07-1946 thì dời về số 83 phố Hàng Đẫy. Dưới Trung Ương Đảng Bộ là các Khu Bộ:
Bắc Việt có 5 Khu Bộ, Thanh Nghệ Tĩnh là Đệ Lục Khu Bộ, từ đèo Ngang đến đèo Cả
là Đệ Thất Khu Bộ, phía nam đèo Cả và Nam Bộ có 3 Khu Bộ. Nhìn chung, các Khu Bộ
miền Bắc nặng về quân sự, phần đông đảng viên là từ Trung Quốc kéo về, thiên về
đường lối bạo lực vũ trang để chiếm đóng lãnh thổ và cướp đoạt chính quyền hơn
là nhẫn nại đấu tranh chính trị để tranh thủ nhân tâm và củng cố cơ sở hạ tầng.
Các Khu Bộ miền Nam còn non trẻ, hầu hết cán bộ nòng cốt là nhóm sĩ quan Lạc
Triệu của Đại Việt Quốc Dân Đảng theo Phạm Cao Hùng (Triệu Giang) vào tăng cường.
Rút lại, chỉ có Đệ Lục và Đệ Thất Khu Bộ là vững vàng về ý thức chính trị và tổ
chức cơ sở. Tại Thanh Hóa, Quốc Dân Đảng Việt Nam xây dựng chiến khu Gi Linh
Bái Thượng thành một căn cứ vững chãi. Tại Huế, nơi đặt trụ sở Đệ Thất Khu Bộ,
Bửu Hiệp đã khéo léo lãnh đạo đảng viên đặt quyền lợi quốc gia trên tỵ hiềm đảng
phái, hàng ngày cắt cử Nguyễn Trung Thuyết và Ngô Văn Hân vào Đại Nội họp bàn với
Tố Hữu để giải quyết các vụ xung đột phe phái. Tại Quảng Nam, Trương Phước Tường,
Phan Bá Lân, Hoàng Tăng (Hoàng Bình), Phan Ngô, Huỳnh Hòa, Nguyễn Đình Thiệp, từ
cuối năm 1945, đã xây dựng nhiều cơ sở quần chúng vững mạnh. Bởi vậy, ở miền
Trung Trung Bộ, chính quyền tuy nằm trong tay Việt Minh nhưng lòng dân thì hơn
phân nửa theo về Quốc Dân Đảng Việt Nam. Cánh tay của Đệ Thất Khu Bộ còn vươn
dài ra tới Hà Nội. Đệ Thất Khu Bộ tổ chức một trung tâm huấn luyện tại số 9 phố
Ôn Như Hầu, Hà Nội, do Phan Kích Nam (Phan Xuân Thiện) phụ trách, để cung ứng
cán bộ trung cấp cho Trung Ương và cho các Khu Bộ bạn. Sau khi hiệp định sơ bộ
ngày 06-03-1946 được Hồ Chí Minh và Jean Sainteny ký kết, dư luận trong nước
xôn xao, tờ Thiết Thực của nhóm Ngũ Xã và các tờ Việt Nam, Chính Nghĩa, Sao Trắng
của Quốc Dân Đảng Việt Nam không tiếc lời công kích Việt Minh bán rẻ đất nước
cho thực dân. Mặc dù Lê Khang (Lê Văn Ninh) và Trần Văn Giàu trong ban liên kiểm
đi khắp nơi dàn xếp, “Việt Quốc Lê Văn Ninh, Việt Minh Trần Văn Giàu”, mâu thuẫn
giữa Việt Minh và Quốc Dân Đảng mỗi ngày một lớn. Cuối cùng, Việt Minh trở mặt
bày ra các vụ phố Ôn Như Hầu và cầu Chiêm Sơn để lấy cớ truy lùng và tiêu diệt
cán bộ Quốc Dân Đảng Việt Nam (12). Trong các vụ thảm sát này, Đệ Thất Khu Bộ ở
miền Trung Trung Bộ bị thiệt hại nhiều nhất. Trương Phước Tường bị bắt từ mồng
ba Tết 1946 và bị thủ tiêu năm 1947 tại lao xá Nghi Hạ, huyện Quế Sơn. Phan Kích
Nam bị bắt tại trụ sở phố Ôn Như Hầu sáng 13-07-1946 rồi bị giết cùng với Lê
Khang ở bãi cỏ bên hông đề lao Phú Thọ đầu năm 1947. Nguyễn Trung Thuyết bị bắt
tại nhà Bửu Hiệp một buổi trưa cuối tháng 10-1946 và bị chết ở lao xá Đồng Hới
cuối năm đó. Ngô Văn Hân bị bắt ở Bàu Vá và bị xử bắn ở Nam Đông, ngoại ô thành
phố Huế, vào khoảng năm 1950. Cũng cùng thời gian đó, ngày 29-11-1950, Bửu Hiệp
bị ám sát tại nhà riêng ở Gia Hội. Tại Quảng Nam, các cán bộ Quốc Dân Đảng nòng
cốt bị giam ở Nghi Hạ hoặc Trà Linh, đều thuộc huyện Quế Sơn, chết dần mòn vì bệnh
tật và suy dinh dưỡng, ai sống sót thì cũng bị thủ tiêu vào đầu năm 1947,
“Trăng hai tròn xác chết đã năm thây, mượn đất Trà Linh chôn sấp ngữa; Chiếu một
manh kẹp tre thêm bảy tấm, gọi hồn Tổ Quốc chứng ngay gian”. Nói chung tại miền
Trung Trung Bộ, ngoại trừ một số ít như Phan Quang Bổng ở Quảng Ngãi, Tạ Chương
Phùng, Tạ Chí Diệp ở Bình Định, may mắn kịp thời chạy thoát, các đảng viên nòng
cốt khác của Quốc Dân Đảng Việt Nam đều lần lượt sa lưới cộng sản và bị sát hại.
Từ năm 1945, Việt Minh cũng chia nước ta thành nhiều khu. Miền Trung Trung Bộ, nửa phần phía bắc thuộc
Khu Bốn, nửa phần phía nam là Khu Năm. Hiệp định sơ bộ ngày 06-03-1946 cho Pháp
đem quân chiếm đóng Huế và Đà Nẵng, và từ các cứ điểm đó, lúc chiến tranh bột
phát vào cuối năm 1946, quân Pháp đánh bung ra, phía bắc tới Đồng Hới, phía nam
tới Tam Kỳ. Khi chính quyền Bảo Đại được
thiết lập ở miền Trung vào năm 1948 thì chỉ có đoạn giữa mà thôi, còn hai đầu
thì phần lớn vẫn là Khu Bốn và Khu Năm của Việt Minh, khiến người ta liên tưởng
tới tình trạng miền Trung Trung Bộ của thế kỷ trước: “Gẫm xem thế sự thêm rầu, Ở
giữa Đồng Khánh, hai đầu Hàm Nghi”. Sau hiệp nghị Genève năm 1954, đất nước
chia hai, Quảng Bình và phần đất phía bắc vĩ tuyến 17 trở lại thuộc Khu Bốn,
còn Quảng Trị và Thừa Thiên thì Việt C¶ng tổ chức thành Đặc Khu Trị Thiên. Phần đất
phía nam Hải Vân đối với Việt C¶ng vẫn là Khu Năm như cũ. Phía Việt Nam C¶ng
Hòa thì về mặt hành chánh, phần đất Trung Bộ phía nam vĩ tuyến 17 (Trung Phần)
được chia làm Trung Nguyên và Cao Nguyên, về mặt quân sự thì tổ chức thành Quân
Khu I và Quân Khu II. Sau năm 1963, các tòa Đại Biểu Chính Phủ Trung Nguyên và
Cao Nguyên được bãi bỏ, Quân Khu đổi thành Vùng Chiến Thuật kiêm quản cả hành
chánh lẫn quân sự. Ngày nay, miền Trung Trung Bộ có 7 tỉnh và 1 thành phố thuộc
Trung Ương: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định và Phú Yên. Miền Trung Trung Bộ là xứ đá trọi cây cằn, một bên
là núi cao rừng cả, một bên là biển rộng vũng sâu, lại thêm khí hậu khắc nghiệt,
quanh năm nắng lửa mưa dầu, làm ăn cật lực vẫn không đủ sống, do đó, người dân
miền Trung Trung Bộ chăm làm chứ không ham nói, kiên nhẫn đến độ gan lì, không
nề hà công việc gian khổ, quyết tâm cao, lập chí lớn, giữ vững khí tiết, và bất
khuất trước quân thù. Ngay từ buổi đầu trở về với cội nguồn dân tộc, miền Trung
Trung Bộ đã cung ứng cho đất nước những con người như Đặng Tất, Đặng Dung, Nguyễn
Cảnh Chân, Nguyễn Cảnh Dị, là linh hồn của cuộc kháng chiến đời Hậu Trần, khiến
tướng nhà Minh là Trương Phụ phải mở miệng thề độc: “Ta sống phen này là ở Hóa
Châu, ta chết phen này cũng ở Hóa Châu”. Những khi đất nước lâm cảnh qua phân,
dù ở bên này hay ở bên kia chiến tuyến, người dân miền Trung Trung Bộ luôn luôn
đảm trách công việc đứng mũi chịu sào, xưa kia thì Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ, Nguyễn
Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, gần đây thì Ngô Đình Diệm,
Lê Duẫn, Trương Tử Anh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Ngô Đình Nhu. Trung liệt,
tiết tháo, thà bị giết chết chứ không chịu đầu hàng, hay tự sát không để thân lọt
vào tay quân thù, xưa kia thì Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Thái Phiên, Lê
Trung Đình, gần đây thì Đinh Phu nhân, Ấu Triệu, Nguyễn Khoa Nam. Nêu cao
khí phách sĩ phu, xưa kia thì Nguyễn Lộ Trạch, Phan Chu Trinh, Trần Cao Vân, gần
đây thì Phan Khôi, Huỳnh Thúc Kháng, Tạ Chương Phùng, Phùng Quán. Giới tu hành
gốc gác miền Trung Trung Bộ cũng không hiếm những nhân vật kiệt xuất, ưỡn thân
đón lấy đầu sóng ngọn gió để che đỡ cho giáo đồ, Lê Hữu Từ, Thích Tịnh Khiết,
Thích Trí Quang, Thích Trí Thủ, Nguyễn Kim Điền, Thích Huyền Quang, Nguyễn Văn
Thuận, Thích Trí Tựu, Nguyễn Văn Lý.
Miền Trung Trung Bộ có cái trí dũng
của con người lại thêm cái hiểm trở của núi sông. Nguyễn Hoàng lúc lâm chung đã
dặn bảo con nối nghiệp là Nguyễn Phúc Nguyên rằng: “Đất Thuận Quảng, phía bắc
có Hoành sơn, phía nam có Hải Vân sơn và Thạch Bi sơn, địa thế hiểm trở, là nơi
để cho anh hùng dụng võ, vậy con phải thương yêu sĩ tốt, vỗ yên trăm họ, để xây
dựng sự nghiệp muôn đời”. Núi thì cao, sông thì sâu, “Núi Truồi ai đắp mà cao,
Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu”, lại thêm những cảnh trí trữ tình đi‹m
xuyết, “Mẹ thương con ra ngồi cầu Ái Tử, Gái trông chồng lên đứng núi Vọng
Phu”, miền Trung Trung Bộ quả là nơi địa linh nhân kiệt.
Tháng
9 năm 2001
Minh Vũ
Hồ Văn Châm
Chú giải:
1. Nhượng Tống. Cảm đề lịch sử:
Ba xứ non sông một giải liền,
Máu đào, xương trắng điểm tô
nên.
Cơ trời dù đổi trò tang hải,
Mặt đất chưa tàn nghiệp tổ
tiên.
Có nước có dân đừng rẻ rúng,
Muốn còn muốn sống phải đua
chen.
Giật mình nhớ chuyện nghìn
năm cũ,
Chiêm, Lạp xưa kia vốn chẳng
hèn.
2. Nguyễn Thế Anh. Việt Nam
Thời Pháp Đô Hộ. Lửa Thiêng. 1970. Sài
Gòn. VN.
3. Trần Trọng Kim. Việt Nam
Sử Lược. Tân Việt. 1964. Sài Gòn, VN.
4. Phạm Văn Sơn. Việt Sử Tân Biên. Thư Lâm Ấn Thư Quán. 1960. Sài Gòn,
VN.
5. Tư Mã Thiên. Sử Ký. Thư Nam Việt
Vương Triệu Đà gửi Hán Văn Đế.
6. Phan Khoang. Việt Sử Xứ Đàng Trong. Xuân Thu. Houston, TX, USA.
7.
15 Bộ của nước Văn Lang:
1. Văn Lang (Bạch
Hạc, Vĩnh Yên)
2.
Châu Diên (Sơn
Tây)
3.
Phúc Lộc (Trung
châu)
4.
Tân Hưng (HưngHóa,
Tuyên Quang)
5.
Vũ Định (Thái Nguyên)
6.
Vũ Ninh (Bắc Ninh)
7.
Lục Hải (Lạng Sơn)
8.
Ninh Hải (Quảng Yên)
9.
Dương Tuyền (Hải Dương)
10.Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định)
11.Cửu Chân (Thanh
Hóa)
12.Hoài Hoan (Bắc Nghệ An)
13.Cửu Đức (Nam Nghệ An, Hà Tĩnh)
14.Việt Thường (Bình Trị
Thiên)
15.Bình Văn (?)
8. Trần Kinh Hòa. Khảo về danh xưng Giao Chỉ. Tạp chí Đại Học. 1960. Huế,
VN.
9.
B.E.F.E.O Tome 8. Les barbares du
Yun-Nan. 1908. Hà Nội, VN.
10.Nguyễn
Xuân Thọ. Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp ở Việt Nam.
Mekong 1994. Santa Anna, CA, USA.
11.Hoàng
Văn Đào. Việt Nam Quốc Dân Đảng. Khai Trí. 1964. Sài Gòn, VN.
12.Hồ
Văn Châm. Câu chuyện xoay quanh lá cờ. Tạp chí Cách Mạng số 6, tháng 2-1997.
Houston, TX, USA.
Vị Trí Thành Khu Túc
Lịch
sử Việt Nam là lịch sử tranh giành ảnh hưởng giữa phương bắc và phương tây về cả
hai mặt chính trị và văn hóa. Ảnh hưởng phương bắc đến từ nước Tàu, ảnh hưởng
phương tây đến từ Ấn Độ và gần đây là từ các nước Tây Dương. Nơi đối đầu lịch sử
là miền Trung bộ, chủ yếu là vùng Bình Trị Thiên. Lược bỏ thời sơ sử mù mịt mà
Bình Trị Thiên được sử cũ gọi là bộ Việt Thường nước Văn Lang, cứ xét thời Bắc
thuộc trở về sau, nhất là từ khi nước Lâm Ấp được thành lập khởi nguyên từ huyện
Tượng Lâm quận Nhật Nam (Quảng Nam ngày nay) vào năm 192 sau Công nguyên, niên
hiệu Sơ Bình thứ 3 đời vua Hiến Đế nhà Hán, thì quả tình suốt một giải đất bắc
bộ quận Nhật Nam (Bình Trị Thiên) đã là chiến trường miên viễn giữa Giao Châu
và Lâm Ấp, rồi về sau giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Trong cuộc chiến tranh giằng
co kéo dài qua mười mấy thế kỷ đó đã nổi bật một địa điểm chiến lược vô cùng
quan trọng, đó là thành Khu Túc.
Vấn
đề được nêu lên là Thành Khu Túc chính xác tọa lạc ở nơi nào?
Sở
dĩ có vấn đề này là vì trước đây, sử cũ nước ta không mấy khi đề cập đến thành
Khu Túc, thảng hoặc có nói tới thì cũng chỉ là nhân tiện lặp lại những điều ghi
chép trong sử cũ Trung Quốc có đề cập đến thành Khu Túc. Mà sử cũ Trung Quốc
tuy đôi lúc ghi chép rất rõ ràng về thành Khu Túc, như niên đại các biến cố xẩy
ra trong vùng lân cận thành Khu Túc, hay số lượng vọng lâu, chiều dài, chiều
cao và độ dày của tường thành, v.v., nhưng chỉ đại lược cho biết thành Khu Túc ở
quận Nhật Nam mà không minh thị xác định vị trí cụ thể của thành. Đến thời kỳ
nước Đại Cồ Việt, rồi nước Đại Việt được thành lập, người nước ta bắt đầu soạn
thảo quốc sử, thì toàn bộ quận Nhật Nam đã mất hẳn về Chiêm Thành, biên giới giữa
Đại Việt và Chiêm Thành là ở Hoành Sơn, nên sử cũ nước ta khi chép lại những
tình tiết trong sử Trung Quốc về cuộc
chiến dằng co giữa Giao Châu và Lâm Ấp tại Khu Túc là một chiến lũy tọa lạc ở
biên cương, đã dễ dàng vì thực tế trước mắt (1) mà lầm lạc nhận định rằng chiến
lũy ở biên cương đó tất nhiên là ở vùng địa đầu của Chiêm Thành, nghĩa là trong
địa phận Quảng Bình. Do đó mà di tích thành cổ của Chiêm Thành ở Cao Lao Hạ,
huyện Bình Chánh, tỉnh Quảng Bình, cho dù mang những tên gọi khác nhau, như
Hoành Sơn cổ lũy, Lâm Ấp phế thành, Thành Lồi Kẻ Hạ, v.v., thì đều được hầu hết
các nhà viết sử thời trước phỏng đoán là di tích thành Khu Túc trong thư tịch cổ
Trung Quốc. Tiếp đến các nhà biên khảo thời kỳ gần đây, không có điều kiện trực
tiếp tham khảo các sử liệu Hán văn, nên khi ghi chép lại những dữ kiện nói
trong thư tịch cũ, gặp một trở ngại vô cùng lớn lao là các tên người tên đất
trong các tài liệu viết bằng mẩu tự La Mã phần lớn là không được đánh dấu chính
xác (hoặc không có dấu, hoặc đánh dấu sai). Do đó mà Thọ Lĩnh chỉ còn là Tho
Linh, để rồi chép đi chép lại, cuối cùng bị suy diễn lệch lạc (2), Thọ Lĩnh
không còn là tên huyện Thọ Lĩnh do nhà Tấn cắt phần đất huyện Lư Dung tiếp giáp
với Lâm Ấp để lập ra nhằm mục đích củng cố biên cương cực nam của Giao Châu thời
đó, mà trở thành sông Thọ Linh được chú giải trong ngoặc đơn một cách rất chủ
quan và tùy tiện là tên cũ sông Gianh để khẳng định rằng thành Khu Túc nằm
trong địa phận Quảng Bình. Như vậy, thư tịch cũ nước ta, xưa cũng như nay, hầu
hết phỏng đoán rằng thành Khu Túc thời Bắc thuộc nằm trong địa phận Quảng Bình.
Chỉ riêng Đại Nam Nhất Thống Chí, là cuốn địa chí đầy đủ và đáng tin cậy nhất
trong các sách địa chí cũ của ta trước đây, về tỉnh Quảng Bình, mục cổ tích, có
nêu lên nghi vấn về di tích lũy cũ Chiêm Thành ở huyện Bình Chánh, khi thì cho
rằng đây là di tích thành Khu Túc, khi thì cho rằng đây là lũy của vua Lâm Ấp
Phạm Văn đắp năm 347 để làm đường phân ranh Giao Châu-Lâm Ấp. Các sử thần ngày
trước cũng như các nhà biên khảo về sau này lại càng dễ dàng nghiêng về việc phỏng
đoán thành Khu Túc tọa lạc ở Quảng Bình, bởi lẽ Khâm Định Việt Sử cũng như một
vài tác giả cận và hiện đại cho rằng thành Lồi ở xã Nguyệt Biều gần Huế là
thành Phật Thệ, kinh đô cũ của Chiêm Thành (3,4). Kinh đô Phật Thệ ở Huế thì
biên thành Khu Túc ở Quảng Bình là điều vô cùng hợp lý.
Nhưng thực tế lịch sử là thành Phật Thệ ở
Bình Định, còn thành Khu Túc thời Bắc thuộc thì tọa lạc ở vị trí thành Lồi ngày
nay, trong địa phận thôn Nguyệt Biều, xã Thủy Biều, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa
Thiên-Huế. Di tích thành Lồi chạy dọc theo bờ nam sông Hương, từ Long Thọ đến gần
ngã ba sông đào Phú Cam, đối mặt với Kim Long bên bờ bắc. Muốn xác định di tích
này là thành Khu Túc ngày xưa, việc đầu tiên là phải chứng minh rằng thành Lồi
Nguyệt Biều không phải là di tích thành Phật Thệ, kinh đô cũ của Lâm Ấp-Chiêm
Thành. Việc tiếp theo là phải chứng minh rằng lũy cũ Chiêm Thành ở Cao Lao Hạ tỉnh
Quảng Bình không thể nào là di tích thành Khu Túc. Việc cuối cùng là phải chứng
minh thành Khu Túc ngày xưa chính xác tọa lạc tại vị trí thành Lồi Nguyệt Biều
hiện nay.
Lâm Ấp-Chiêm Thành khởi nguyên từ huyện
Tượng Lâm của quận Nhật Nam, trong địa phận tỉnh Quảng Nam nước ta (5). Sử cũ ghi
rõ năm 192 sau Công nguyên, niên hiệu Sơ Bình thứ 3 đời Hán Hiến Đế, con viên
công tào huyện Tượng Lâm tên là Khu Liên nổi lên giết huyện lệnh, chiếm chính
quyền, dựng cờ độc lập, đóng đô ở Trà Kiệu (Sinharpura). Sử Tàu gọi quốc gia
tân lập này là Lâm Ấp, nghĩa là đô ấp của huyện Tượng Lâm. Chỉ nửa thế kỷ sau
khi độc lập, Lâm Ấp bành trướng vào miền nam và lên Tây nguyên, và bắt đầu quay
ra bắc tranh hùng với người Tàu. Năm 248 sau Công nguyên, niên hiệu Xích Ô thứ
11 nhà Đông Ngô, Lâm Ấp tiến ra chiếm thành Khu Túc của quận Nhật Nam, rồi thừa
thắng cướp phá các quận thành Cửu Chân, Giao Chỉ, và san bằng các quận thành
này. Tướng nhà Ngô là Lục Dận đem đại binh sang ứng phó, Lâm Ấp phải lui quân,
nhưng vẫn giữ thành Khu Túc. Từ đó, Lâm Ấp sửa sang Khu Túc thành một căn cứ
quân sự hùng hậu, dùng làm căn cứ xuất phát tiến công cướp phá Giao Châu, cũng
như làm căn cứ phòng ngự cho kinh đô Trà Kiệu chống lại người Tàu. Suốt sáu bảy
trăm năm chiến tranh dằng co giữa Giao Châu và Lâm Ấp trên địa bàn Bình Trị Thiên
ngày nay, trải qua các triều Đông Ngô, Tấn, Tống (Nam Bắc triều), Tề, Lương,
Tùy, Sơ Đường, có khi quân Lâm Ấp chiếm đóng toàn bộ quận Nhật Nam (Phạm Văn
năm 347, Phạm Hồ Đạt năm 399, Luật Đà La
Bạc Ma năm 541), có khi quân Tàu phản công không những tái chiếm Nhật Nam mà
còn tiến vào thiêu hủy kinh đô Trà Kiệu (Đàn Hòa Chi năm 446, Lưu Phương năm
605), rút cục, hai bên giảng hòa lấy bến Ôn Công (Mũi Chân Mây, tức Cap Choumay
trong sách Pháp, ở cực nam Thừa Thiên) làm đường phân ranh Giao Châu-Lâm Ấp (6).
Trong quảng thời gian này, kinh đô Lâm Ấp là ở Trà Kiệu (Sinharpura), ngoại trừ dưới triều Tùy, khi
người Tàu lấy các vùng Amaravati và Vijaya đặt lại quận Lâm Ấp, người Lâm Ấp phải
dời đô vào Panduranga. Như vậy, không thể có chuyện người Lâm Ấp đã có lúc định
đô ở Thừa Thiên. Đến năm 875, dưới triều Đường Hy Tông, niên hiệu Kiên Phù thứ
2, người Chàm thiên đô về Đồng Dương (Indrapura) cũng trong địa phận Quảng Nam,
và sử Tàu bắt đầu gọi Lâm Ấp là Chiêm Thành (Champapura). Người Chàm kiến thiết
kinh đô Đồng Dương và thánh địa Mỹ Sơn vô cùng tráng lệ. Tuy rằng lúc này, toàn
bộ Bình Trị Thiên mất hẳn về Chiêm Thành, nhưng đất cát Chiêm Thành phía nam
kéo dài đến tận Bình Thuận, Quảng Nam lại là xứ đông dân nhiều của, không có lý
do gì để Chiêm Thành bỏ Đồng Dương mà thiên đô ra Thừa Thiên. Cho đến khi Giao
Châu độc lập, sử cũ rõ ràng đã chép việc vua Lê Đại Hành năm 982 chiếm thành Đồng
Dương, hủy tông miếu hoàng gia Chiêm Thành (điều này có nghĩa là kinh đô Chiêm
Thành lúc đó ở Đồng Dương), thu vét vàng bạc châu báu, và cắt cử Quản giáp Lưu
Kế Tông chỉ huy đạo quân vua Lê lưu lại chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành. Đến
năm 988, dưới triều Lê Đại Hành, niên hiệu Thiên Phúc thứ 9, người Chiêm Thành
nổi lên chiếm lại miền Vijaya, và tôn Ku Xri Harivarman II (Băng vương La Duệ)
lên ngôi vua tại thành Phật Thệ (Chà Bàn) ở Bình Định. Như vậy, không có thời kỳ
nào người Chàm định đô ở Thừa Thiên, và thành Lồi ở Nguyệt Biều không phải là
di tích thành Phật Thệ, kinh đô cũ của Lâm Ấp-Chiêm Thành.
Đành
rằng thành Lồi Nguyệt Biều không phải là di tích của thành Phật Thệ, nhưng muốn
khẳng định thành Lồi Nguyệt Bìều là di tích thành Khu Túc thì còn phải chứng
minh thành cũ Chiêm Thành ở Cao Lao Hạ thuộc huyện Bình Chánh tỉnh Quảng Bình
không thể nào là di tích thành Khu Túc. Việc này cũng không khó. Trước hết là
xét về quy mô và kích thước các tòa thành. Lũy cũ Chiêm Thành ở Cao Lao Hạ, còn
gọi là thành Lồi Kẻ Hạ, là lũy đất, quy mô ngắn hẹp, kích thước thấp nhỏ. Thành
Lồi ở Nguyệt Biều thì theo Trần Quốc Vượng “rất lớn, xây trên vùng đồi Dương
Xuân Thượng, lũy nam 550 mét, lũy đông 370 mét, lũy tây 350 mét, lũy bắc giới hạn
xâm thực của sông Hương 750 mét, với đầy đủ hệ thống hào, hệ thống thoát nước”
(7). Trở lại thư tịch cổ Trung Quốc thì ta thấy Thủy Kinh Chú có ghi quy mô và
kích thước thành Khu Túc như sau: “Thành có chu vi 6 dặm, cao 2 trượng, có mở
nhiều lỗ vuông, có 5 tầng gác, có lầu cao 7, 8 trượng, có 13 cửa, chung quanh
có 2 vạn nóc nhà”. Đành rằng các số liệu này không có tính cách chính xác như đồ
án kiến trúc sư, nhưng cũng phần nào đã nói lên được quy mô to lớn của thành
Khu Túc, và rất phù hợp với thực tế lịch sử. Ban đầu, Khu Túc chỉ là một trạm
biên đình quan quân nhà Hán dựng lên trên con đường cái nối liền quận thành Tây
Quyển và huyện Tượng Lâm. Đến khi Tượng Lâm nổi lên tự chủ, Khu Túc trở thành
tiền đồn phòng ngự quân Lâm Ấp và bảo vệ quận thành Nhật Nam. Sau khi Lâm Ấp
chiếm cứ Khu Túc, Lâm Ấp cải biến Khu Túc thành căn cứ quân sự quan trọng, dùng
làm nơi xuất phát các cuộc tiến công cướp phá Giao Châu. Những khi bị quân Tàu
đánh bại phải rút lui, Lâm Ấp vẫn luôn luôn cố thủ được Khu Túc, và chiến lũy
này trở lại thành tiền đồn phòng vệ kinh đô Trà Kiệu. Có 2 lần Lâm Ấp không giữ
được thành Khu Túc (năm 446 và năm 605), và cả 2 lần đó Lâm Ấp mất luôn kinh đô
Trà Kiệu. Thành Khu Túc về mặt tiến công cũng như về mặt phòng thủ quan trọng
như vậy nên Lâm Ấp mới sửa sang củng cố Khu Túc với quy mô to lớn như ngày nay
còn thấy ở di tích Nguyệt Biều. Di tích nhỏ hẹp của lũy cũ Cao Lao Hạ không thể
nào là thành Khu Túc rộng lớn mô tả trong thư tịch cổ Trung Quốc.
Mặt
khác, việc phân tích diễn biến các trận đánh giữa Giao Châu và Lâm Ấp thuật lại
trong thư tịch cổ Trung Quốc liên hệ đến thành Khu Túc cũng cho thấy thành Khu
Túc không thể nào nằm trong địa phận Quảng Bình. Tam Quốc Chí, Ngô Chí ghi rằng
niên hiệu Xích Ô thứ 11 (năm 248 sau Công nguyên) đời Ngô Tôn Quyền, Lâm Ấp tiến
chiếm thành Khu Túc, rồi kéo quân ra cướp phá các quận Cửu Chân, Giao Chỉ, san
bằng các quận thành này. Ngô chúa bèn phong Lục Dận làm Giao Châu Thứ Sử, An
Nam Hiệu Úy, đem đại binh sang ứng phó, Lâm Ấp mới lui binh, nhưng vẫn giữ
thành Khu Túc. Đây là chiến tranh lần đầu giữa Giao Châu và Lâm Ấp. Biên giới
hai bên lúc bấy giờ là núi Hải Vân ở giữa hai huyện Lư Dung và Tượng Lâm. Thành
Khu Túc là nơi xẩy ra trận đánh quan trọng đầu tiên. Nếu thành Khu Túc ở Cao
Lao Hạ tỉnh Quảng Bình thì hóa ra suốt một giải đất bắc bộ Nhật Nam (Bình Trị
Thiên ngày nay) không có thành lũy nào khác chống cự lại cuộc tiến quân của Lâm
Ấp hay sao? Như vậy, các huyện thành Tây Quyển, Tỵ Cảnh, Lư Dung ở những nơi
nào? Quân Lâm Ấp chiếm thành Khu Túc, rồi ra cướp phá Cửu Chân và Giao Chỉ, san
bằng các quận thành này. Đến khi bị Lục Dận đánh thua, quân Lâm Ấp rút lui
nhưng vẫn giữ thành Khu Túc. Nếu thành Khu Túc ở Cao Lao Hạ tỉnh Quảng Bình thì
từ đấy về sau, lấy lý mà suy, Giao Châu không còn có quận Nhật Nam nữa. Vậy tại
sao Tấn Thư lại chép rằng đời Tấn Mục Đế, niên hiệu Vĩnh Hòa thứ 3 (năm 347sau
Công nguyên), vua Lâm Ấp Phạm Văn đem binh ra đánh quận Nhật Nam, bắt giết Thái
Thú Hạ Hầu Lãm, và san bằng thành Tây Quyển. Thành Tây Quyển ở phía bắc Huế, là
lỵ sở của quận Nhật Nam. Lại cũng Tấn Thư chép rằng đời Tấn An Đế, niên hiệu
Long An thứ 3 (năm 399 sau Công nguyên), vua Lâm Ấp Phạm Hồ Đạt đánh chiếm quận
Nhật Nam, bắt giết Thái Thú Cảnh Nguyên. Rõ ràng Tấn Thư đã minh thị khẳng định
sự hiện hữu của quận Nhật Nam sau khi nhà Đông Ngô bỏ thành Khu Túc, một quận
Nhật Nam có quận thành, có Thái Thú. Vì lẽ thành Khu Túc đã mất về Lâm Ấp từ
năm 248, nếu thành Khu Túc tọa lạc ở Cao Lao Hạ tỉnh Quảng Bình thì chả lẽ lại
có một quận Nhật Nam khác với một thành Tây Quyển khác ở mạn bắc Hoành Sơn hay
sao?
Việc
phân tích sử liệu trong Ngô Chí và Tấn Thư như vừa trình bày trên đây không những
đã bác bỏ sự phỏng đoán thành Khu Túc nằm trong địa phận Quảng Bình, mà còn khẳng
định rằng thành Khu Túc nhất thiết phải ở mạn nam quận Nhật Nam, trong địa phận
huyện Lư Dung tiếp giáp với huyện Tượng Lâm. Thật thế, cũng Tấn Thư chép rằng đời
Tấn Mục Đế, niên hiệu Vĩnh Hòa thứ 7 (năm 357), Chinh Tây Đốc Hộ Đằng Tuấn đem
quân Giao Quảng đánh nhau với vua Lâm Ấp Phạm Phật, tái chiếm quận lỵ cũ của Nhật
Nam, đuổi theo Phạm Phật qua Thọ Lãnh (Thọ Lĩnh) đến Khu Túc, rồi hai bên giảng
hòa. Vẫn đời Tấn Mục Đế, niên hiệu Thăng Bình năm đầu (năm 359), Phạm Phật lại
xâm lấn Nhật Nam, Thứ Sử Giao Châu là Ôn Phóng Chi kéo đại binh thủy lục vào
đánh, Phạm Phật giữ vững thành Khu Túc, hai bên lại nghị hòa, lấy bến Ôn Công
làm ranh giới Giao Châu-Lâm Ấp. Như vậy, đường hành quân truy kích địch của Đằng
Tuấn năm 357 là từ Cửu Đức vào Nhật Nam, qua quận lỵ Tây Quyển và huyện lỵ Thọ
Lĩnh, rồi đến thành Khu Túc. Điều này cho thấy thành Khu Túc không phải là lỵ sở
quận Nhật Nam, cũng không phải là lỵ sở huyện Tây Quyển. Thành Khu Túc là một
thành khác với thành Tây Quyển, và ở phía nam của thành Tây Quyển. Tiếp theo,
chiến dịch vừa đánh vừa đàm của Ôn Phóng Chi năm 359 kết thúc bằng cuộc nghị
hòa với việc lấy bến Ôn Công làm ranh giới Giao Châu-Lâm Ấp. Điều này bổ sung
cho điều trên và cho thấy thành Khu Túc không phải là lỵ sở của huyện Thọ Lĩnh,
thành Khu Túc có vị trí cùng ở trên đường phân ranh Giao Châu-Lâm Ấp như bến Ôn
Công nhưng ở bên trong đất liền. Đối chiếu các địa danh trong thư tịch cổ Trung
Quốc liên hệ đến thành Khu Túc với bản đồ Thừa Thiên ngày nay thì thành Tây Quyển
ở phía bắc Huế, huyện Thọ Lĩnh là huyện Phú Lộc, bến Ôn Công là mũi Chân Mây ở
cực nam Thừa Thiên. Như vậy, thành Khu
Túc ở phía nam thành Tây Quyển và có cùng vị trí nằm trên đuờng phân ranh như bến
Ôn Công nhưng ở bên trong đất liền thì nhất định phải là thành Lồi ở Nguyệt Biều,
trên bờ nam sông Hương, thuộc địa phận huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Kết luận:
Việc
nghiên cứu quy mô và kích thước các di tích thành cổ, việc phân tích diễn tiến
các trận đánh giữa Giao Châu và Lâm Ấp, cùng với việc đối chiếu các địa danh
xưa và nay liên quan đến thành Khu Túc, đã đưa đến kết quả khẳng định rằng
thành Lồi Nguyệt Biều là di tích thành Khu Túc trong thư tịch cổ Trung Quốc.
Sử
cũ nước ta ít đề cập tới thành Khu Túc, nếu có nói tới thì cũng chỉ nhân dịp nhắc
lại những điều trong sử cũ Trung Quốc liên quan đến thành Khu Túc. Trái lại,
các nhà biên khảo nước ta hiện nay lại nhắc nhở nhiều đến thành Khu Túc. Tuyệt
đại bộ phận các nhà viết sử nước ta, xưa cũng như nay, đều phỏng đoán rằng
thành Khu Túc ngày xưa ở tại Cao Lao Hạ Quảng Bình. Sở dĩ như vậy là vì người
nước ta quen nhìn lịch sử nước ta chỉ kể từ khi Giao Châu độc lập, khi toàn bộ
quận Nhật Nam mất hẳn về Chiêm Thành, nước ta chỉ có miền bắc cho đến Hoành Sơn
mà thôi. Thêm vào đó, một số các nhà viết sử ngày nay ít có điều kiện tham khảo
trực tiếp các tài liệu Hán văn, lại có thói quen võ đoán, suy diễn chủ quan, lệch
lạc, không am tường lịch sử thời Bắc thuộc, thậm chí đôi khi không phân biệt
Giao Chỉ với Giao Châu, lẫn lộn Thái Thú với Thứ Sử. Tình trạng này đưa đến hệ
quả là thay vì dè dặt phỏng đoán như sử cũ trước đây, phần lớn các nhà biên khảo
hiện nay lại nối gót nhau thản nhiên khẳng định rằng thành Khu Túc tọa lạc ở
Cao Lao Hạ tỉnh Quảng Bình.
Bài
này không những chứng minh vị trí chính xác của thành Khu Túc ngày xưa là tại
thôn Nguyệt Biều, xã Thủy Biều, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên-Huế ngày nay,
mà còn nói lên tầm quan trọng của bề dày lịch sử vùng Thừa Thiên-Huế. Vùng Thừa
Thiên-Huế, cùng với miền Trung Bộ, còn bảo lưu nhiều yếu tố văn hóa đặc thù của
nước Việt cổ. Cái bánh tét có hình sinh thực khí của miền Trung, liên hệ đến tục
thờ linga, mới đích thực là cái bánh truyền thống của dân Việt ta xuất phát từ
ông con vua Lang Liệu (Tet Seo) thời Hùng Vương, chứ không phải là cái bánh
chưng hình vuông theo quan niệm trời tròn đất vuông của người Tàu. Lịch sử vùng
Thừa Thiên-Huế trong lòng lịch sử Đại Việt không phải bắt đầu từ năm 1306, khi
nhà Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành Chế Mân, mà lùi lại rất xa
về thời sơ sử mù mịt, khi Bình Trị Thiên được sử cũ gọi là bộ Việt Thường của
nước Văn Lang. Đến thời kỳ có chính sử thì thành Tây Quyển quận lỵ quận Nhật
Nam có cùng niên đại với thành Luy Lâu quận lỵ quận Giao Chỉ. Thành Khu Túc với
quy mô lớn như di tích ngày nay ở Nguyệt Biều xuất hiện chậm hơn, nhưng niên đại
vượt xa niên đại thành Tống Bình (8). Cho đến khi thành Khu Túc biến khỏi vũ
đài lịch sử thì thành Đại La của Cao Biền mới xuất hiện.
Tháng tư năm 2002
Minh
Vũ Hồ Văn Châm
Chú thích:
1. Thí dụ rõ nét về sai lạc loại
này là nhiều người vẫn tưởng lầm Long Biên là nội thành Hà Nội ngày nay. Sự thực,
Luy Lâu, rồi sau đó là Long Biên (còn gọi là Long Uyên), là quận lỵ quận Giao
Chỉ đời Hán, nằm trong địa phận Bắc Ninh. Một thí dụ khác là nhiều người đến
nay vẫn lầm lạc tưởng rằng Hồ Lãng Bạc nói trong Hậu Hán Thư là Hồ Tây ở Hà Nội.
Xem: Minh Vũ Hồ Văn Châm. Hồ Lãng Bạc có phải là Hồ Tây không? Tạp Chí Cách Mạng
số 6, Bộ Mới, Tháng hai, 1997, Houston, TX, USA.
2. Tuyến đường sắt từ Thành
Đô đi Thượng Hải là tuyến Lũng-Hải, sách Anh và Pháp ngữ viết là Long-Hai, do
đó, sách giáo khoa Địa Lý bậc Trung học của Tăng Xuân An viết thành tuyến Long-
Hải. Một thí dụ khác là núi Ngoc Linh ở Kontum (Ngoc tiếng Sedang là núi, Linh
là tên núi) trong sách Géographie de l’Indochine francaise của Henri Russier được
các tác giả Việt Nam gần đây suy diễn lệch lạc là Ngọc Lĩnh, rồi theo với phong
trào tẩy chay tiếng Hán Việt mà trở thành Núi Ngọc trong sách giáo khoa ngày
nay.
3. Đào Duy Anh. Hán Việt Từ
Điển, trang 111, Phật Thệ Thành. Nhà xuất bản Minh Tân, 1949, Paris, Pháp.
4. Phạm Văn Sơn. Việt Sử
Toàn Thư, trang 192, Lý Thái Tông dẹp Chiêm Thành. Nhà xuất bản Thư Lâm Ấn Thư
Quán, 1960 Sài Gòn, VN.
5. Phan Khoang. Việt Sử
Xứ Đàng Trong. Nhà xuất bản Xuân Thu, Houston, TX, USA.
6. Minh Vũ Hồ Văn Châm. Chuyện một người Việt
làm vua Chiêm Thành. Tập San Y Sĩ số 151, Tháng 10, 2001, Montréal, Canada.
7. Bùi Minh Đức. Từ Điển Tiếng Huế, trang 433,
Thành Lồi, trích dẫn Trần Quốc Vượng trong Việt Nam, cái nhìn Địa Văn Hoá. Nhà
xuất bản Tâm An, 2001, Huntington Beach, CA, USA.
8. Năm 607 đời
Tùy, quận lỵ Giao Chỉ được dời từ Long Biên (Bắc Ninh) sang Tống Bình (Hà Nội).
No comments:
Post a Comment