Trí Thức và Doanh Nhân
Việt Nam Hải Ngoại
trông đợi được gì
ở Cộng Sản?
Vào
giữa tháng 11 năm 2002 vừa qua tại Bắc Kinh, Trung Cộng đã tổ chức Ðại Hội Ðảng
lần thứ 16. Ðại Hội kết thúc với việc Hồ Cẩm Ðào, 59 tuổi, được bầu làm Tổng Bí
Thư Ðảng Cộng Sản Trung Quốc, thay thế Giang Trạch Dân đã ngót nghét 80. Hồ Cẩm
Ðào đã được 2,114 đại biểu của 65 triệu đảng viên cộng sản chính thức tôn lên
ngôi vị quyền lực tột cùng của Trung Quốc kể từ ngày 15-11-2002. Trong Ðại Hội
Ðảng lần thứ 16 này, Giang Trạch Dân đã đọc báo cáo chính trị quan trọng, nêu
lên điểm thay đổi đảng cương mấu chốt là Ðảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ có 3 thành
phần đại diện : thành phần lao động (nông dân và công nhân), thành phần trí
thức (trí thức tiến bộ), và thành phần doanh nhân (chủ nhân tư sản, lãnh đạo
quốc doanh). Trong diễn văn nhậm chức, Hồ Cẩm Ðào đã dựa vào báo cáo chính trị
này, và xác quyết tư duy 3 thành phần đại diên của Giang Trạch Dân là phù hợp
với chủ nghĩa Mác Lê, tư tưởng Mao Trạch Ðông và lý thuyết Ðặng Tiểu Bình, và
sẽ là ý thức hệ chỉ đạo cho các hoạt động của Ðảng Cộng sản Trung Quốc trong
thời gian tới.
Vì
lẽ Việt Nam tự nghìn xưa vốn có truyền thống tổ chức đất nước rập khuôn theo
các mô thức chính trị, văn hóa và xã hội Trung Quốc, nên rất nhiều người trong
các cộng đồng Việt Nam hải ngoại nghĩ rằng việc thay đổi người lãnh đạo đảng
cộng sản Trung Quốc đi đôi với việc thay đổi đảng cương sẽ ảnh hưởng lớn đến
cục diện Việt Nam. Thật thế, trong đề cương 3 thành phần đại diện có đề cập đến
vai trò và vị thế của trí thức và doanh nhân là một điều rất mới lạ. Một số không
nhỏ trí thức và doanh nhân Việt Nam
hải ngoại nghĩ rằng trong tình hình hiện nay, sớm muộn gì Ðảng Cộng Sản Việt Nam cũng theo
đuôi Ðảng Cộng Sản Trung Quốc, sẽ rập khuôn mô thức 3 thành phần đại diện của
Giang Trạch Dân. Họ nghĩ rằng rồi đây mình sẽ có cơ hội tích cực đóng góp công
sức vào việc xây dựng đất nước, phục vụ nhân dân. Suy nghĩ như vậy có quá đơn
giản và quá lạc quan không?
Trí
thức và doanh nhân là những thành phần chiếm tỷ lệ cao về mặt số lượng trong
các cộng đồng Việt Nam
hải ngoại. Về mặt thu nhập, họ cũng vượt trội các thành phần khác. Nếu trí thức
và doanh nhân Việt Nam
hải ngoại điềm nhiên tọa thị an hưởng cuộc sống ổn định và phồn vinh nơi xứ sở
dung thân thì chuyện này cũng là lẽ thường, chẳng có gì đáng trách. Nếu trí
thức và doanh nhân Việt Nam hải ngoại lại còn nghĩ đến quê cha đất tổ, đến
tương lai của đất nước, đến phúc lợi của đồng bào, mà thiết tha kỳ vọng vào
thiện tâm thiện chí của nhà cầm quyền cộng sản tạo điều kiện cởi mở chế độ để
họ đóng góp công sức vào việc tái thiết và phát triển Việt Nam, thì chuyện này
lại là chuyện đáng khen, đáng khuyến khích. Nhưng chỉ bằng vào đề cuơng 3 thành
phần đại diện của Giang Trạch Dân bên Trung Quốc mà đã hết lòng tin tưởng rằng
cộng sản Việt Nam sẽ theo đuôi cộng sản Trung Quốc đổi mới tư duy, sẵn sàng
dành chỗ đứng xứng đáng cho trí thức và doanh nhân Việt Nam hải ngoại, thì
chuyện này quả tình là vội vàng và xốc nổi, rút cục chỉ là chuyện viễn vông.
Trí
thức và doanh nhân Việt Nam
hải ngoại cần quán triệt 3 vấn đề sau đây để xác định đúng mức thân phận của
mình dưới con mắt lượng giá của tập đoàn lãnh đạo cộng sản Việt Nam :
·
Trí thức và doanh nhân Việt Nam hải ngoại khác với trí thức và
doanh nhân nói trong đề cương 3 thành phần đại diện của Giang Trạch Dân.
·
Cộng sản Việt Nam
không phải lúc nào cũng rập khuôn theo các mô thức tổ chức và phương hướng hành
động của Trung Quốc.
·
Bản chất cộng sản là bất biến, tư duy và hành động của cộng sản có thể
tùy thời mà thay đổi nhưng bản chất cộng sản không bao giờ thay đổi, đó là
nguyên tắc dĩ bất biến ứng vạn biến.
Trí
thức và doanh nhân theo quan điểm cộng sản.
Báo
cáo chính trị của Giang Trạch Dân tại Ðại Hội Ðảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ
16 đề cập đến sự cần thiết phải có mặt trong Ðảng Cộng sản Trung Quốc 3 thành
phần đại diên xã hội là công nông đại diện, trí thức đại diện và tư bản đại
diện, tức là, nói theo ngôn từ cộng sản, đại diện các lực lượng sản xuất
hàng đầu, đại diện các lực lượng văn hóa tiến bộ, và đại diện các quyền lợi
kinh tế của quần chúng. Các lực lượng sản xuất hàng đầu là các thành phần lao
động sản xuất, bao gồm nông dân và thợ thuyền, mà từ trước tới nay được gọi là
liên minh công nông, được xem là nồng cốt của xã hội xã hội chủ nghĩa. Các lực
lượng văn hóa tiến bộ bao gồm các thành phần trí thức đã chịu đầu hàng giai
cấp, các cán bộ cao cấp gốc công nông được tái đào tạo tại chức, các thành phần
chuyên gia trẻ đào tạo trong nước hoặc ở các nước xã hội chủ nghĩa, và gần đây
ở Bắc Mỹ và Tây Âu, và các giới văn nghệ sĩ xã hội chủ nghĩa bao gồm các thành
phần trước tác lẫn trình diễn và sản xuất. Các quyền lợi kinh tế của quần chúng
là các quyền sở hữu và sử dụng vật tư và phương tiện sản xuất, đất đai, nhà
máy, xí nghiệp, mặt bằng, vốn liếng v.v., nghĩa là, nói theo ngôn từ thông
dụng, các quyền lợi của giới chủ nhân tư sản dân tộc, bao gồm các nhà kinh
doanh lãnh đạo các cơ sở kinh tế tư doanh hoặc quốc doanh.
Gạt
qua một bên thành phần công nông đại diện để chỉ phân tích các thành phần trí
thức đại diện và tư bản đại diện, vấn đề được nêu lên ở đây là liệu các giới
trí thức và doanh nhân Việt Nam hải ngoại có ai tự đồng hóa mình được với các
mẫu người trí thức tiến bộ và các ông chủ tư bản đỏ của xã hội xã hội chủ nghĩa
không?
Buổi ban đầu của sự nghiệp cách mạng
vô sản, khi mà mọi nỗ lực đấu tranh mang nặng tính chất bạo lực, cộng sản không
xem trọng trí thức. Hồ Chí Minh đã từng nói trí thức không bằng cục phân. Cục
phân còn dùng được để bón ruộng, chứ trí thức thì hoàn toàn không dùng được vào
việc gì. Gia dĩ, trí thức thời đó xuất phát từ địa chủ và quan lại, bản thân
trở thành tư sản và tiểu tư sản. Ngoại trừ tiểu tư sản, các thành phần trí thức
gốc gác địa chủ phong kiến và tư sản mại bản đều nằm trong diện phải diệt trừ
tận gốc rễ. Trí thức tiểu tư sản thì được xếp vào loại đồng minh có điều kiện,
nghĩa là phải chịu đầu hàng giai cấp. Ðầu hàng giai cấp có nghĩa là tự cải tạo
mình thành vô sản, chịu đi thực tế lao động chân tay để học tập tác phong quần
chúng và hòa đồng với tập thể công nông. Lý thuyết là vậy, nguyên tắc là vậy,
còn thực tế thì vô cùng giản đơn. Ðầu hàng giai cấp là chối bỏ quá khứ và bản
ngã để tuyệt đối trung thành và cúc cung phục vụ cộng sản, tự nguyện hóa thân
làm nô lệ cho cộng sản. Ðến khi cách mạng vô sản đã vững chân, cộng sản mượn cớ
cải cách ruộng đất và rèn quân chỉnh cán để tận diệt trí phú địa hào (trí thức,
phú nông, địa chủ, hào mục), cho dù trước đó họ đã ít nhiều có công với cách
mạng. Ngoài những phần tử xét thấy nguy hiểm cho chế độ đã bị tiêu diệt ngay
lúc mới cướp chính quyền (giai đoạn 1945-1946) như Phạm Quỳnh, Ngô Ðình Khôi, Tạ
Thu Thâu, Trương Tử Anh, Lý Ðông A, Huỳnh Phú Sổ, đến thời kỳ này (giai đoạn
1950-1952), tất cả trí phú địa hào đều bị đào tận gốc, trốc tận rễ,
không còn sót một ai. Trí thức như Tuần phủ Ðặng Văn Hướng, đã giữ chức Tỉnh
Trưởng Nghệ An giúp Hồ Chí Minh ổn định dân tình, địa chủ như bà Cát Hanh Long,
đã dâng hết của cải ruộng vườn cho cách mạng để nuôi bộ đội, tất cả đều bị đấu
tố chết. Trong guồng máy xã hội xã hội chủ nghĩa sạch trơn bóng dáng trí thức
gốc gác phong kiến và tư sản, chỉ còn sót lại lác đác một số những phần tử trí
thức trân tráo vô liêm như Phạm Khắc Hoè, hay tiêu cực cam phận như Phan Anh,
Phan Kế Toại, Bùi Bằng Ðoàn, hay các chuyên gia vô tâm vô hại như Tôn Thất
Tùng, Trần Ðại Nghĩa.
Cũng từ thời kỳ này, cộng sản bắt
đầu xây dựng đội ngũ trí thức mới, được gọi là trí thức tiến bộ, hay trí thức
xã hội chủ nghĩa. Cộng sản tiến hành phương pháp sàng lọc, tuyển sinh theo tiêu
chuẩn lý lịch để gạt bỏ hết các phần tử không phải là công nông, đồng thời đem
chính trị vào học đường, đưa lý thuyết Mác Lê vào chương trình giảng dạy, và
đoàn ngũ hóa giáo chức và học sinh trong các tổ chức đảng đoàn và hiệu đoàn.
Phương châm đào tạo trí thức của cộng sản là hồng hơn chuyên. Giới trí thức
tiến bộ xã hội chủ nghĩa, kể cả các chuyên gia kỷ thuật, cần giỏi chính trị hơn
là giỏi chuyên môn. Giỏi chính trị ở đây có nghĩa là thuộc nằm lòng các giáo
điều mác-xít lê-ni-nít, phát ngôn đúng lập trường giai cấp vô sản, tuyệt đối
trung thành với Ðảng, chấp hành vô điều kiện mệnh lệnh của cấp lãnh đạo Ðảng.
Nói một cách khác, giới trí thức tiến bộ xã hội chủ nghĩa được đào tạo để trở
thành những tên nô lệ cộng sản. Vì Trường Chinh tự ví mình với Nguyễn Trãi, và
tập đoàn lãnh đạo cộng sản nối gót họ Mạc, họ Nguyễn đề cao Nguyễn Trãi để giảm
uy tín Lê Lợi, nên nhà sử học Phan Huy Lê xu thời đã nâng Nguyễn Trãi lên ngang
tầm với Lê Lợi và gọi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc khởi nghĩa Lê Lợi -
Nguyễn Trãi. Vì dân không có thịt để ăn, trẻ con chậm tăng trưởng chiều cao,
người lớn gầy còm không có sức đề kháng chống bệnh tật, nên nhà khoa học Từ
Giấy đã cúi mặt tuân hành lệnh trên, bẻ cong ngòi bút soạn phúc trình nghiên
cứu quả quyết rằng 3 kilô đọt sắn (đọt khoai mì) có giá trị dinh dưỡng bằng 1
kilô thịt bò. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tại miền nam Việt Nam, cộng sản giở
lại bài bản cũ, tiếp tục tiến hành có hệ thống việc triệt tiêu lớp trí thức của
chế độ cũ, và đào tạo lớp trí thức mới tiến bộ theo đúng hệt quy trình đã áp
dụng tại miền bắc. Ngày nay, trên toàn cõi Việt Nam, chỉ thuần còn có một loại
trí thức, bao gồm những phần tử cam tâm chối bõ quá khứ và bản ngã, những cán
bộ chuyên tu tại chức (dốt như chuyên tu, ngu như tại chức), những chuyên gia
gốc gác con em cán bộ cách mạng được đào tạo trong nước hoặc ở các nước xã hội
chủ nghĩa anh em, và gần đây ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Kỳ dư thì nếu không mục xương
trong các trại cải tạo thì cũng thất thểu xó chợ đầu đường, hoặc bỏ đi ra nước
ngoài. Ðại biểu của lớp trí thức tiến bộ này chính là trí thức đại diện nói
trong đề cương của Giang Trạch Dân.
Thành phần tư sản xã hội chủ nghĩa
thì tương đối ít phức tạp hơn. Sau năm 1952, có thể nói rằng không còn phú nông
và địa chủ ở miền bắc. Chiến dịch cải cách ruộng đất đã quét sạch các thành
phần này. Việc đấu tố khốc liệt đến nỗi dân tình náo động khắp nơi, khiến cộng
sản, sau 2 đợt phát động chiến dịch và hoàn tất kế hoạch, đã vờ vĩnh sửa sai,
quy tội cho Trường Chinh để đưa Lê Duẫn lên chức vụ Tổng Bí Thư Ðảng Cộng sản.
Qua năm 1954-1955, khi cộng sản vào các thành phố Hà Nội và Hải Phòng, tất cả
tư sản đều đã di cư vào miền nam. Việc cải tạo công thương nghiệp tư doanh ở
miền bắc tương đối dễ dàng êm thấm. Phải đợi đến sau năm 1975, khi cộng sản đã
chiếm lĩnh Sài Gòn và sát nhập miền nam vào miền bắc, người ta mới thấm thía
thực tế tàn khốc của việc cải tạo công thương nghiệp tư doanh xuyên qua các
chiến dịch đánh tư sản mại bản. Cộng sản sử dụng những danh từ hoa mỹ để phân
loại tư sản làm tư sản dân tộc và tư sản mại bản, kỳ thực chẳng có tiêu chuẩn
gì rõ ràng và chính xác để xếp loại như vậy. Chẳng qua a dua theo cộng sản, làm
việc cho cộng sản, dâng hiến tiền của cho cộng sản, ấy là tư sản dân tộc. Không
phải như vậy là tư sản mại bản, cần đánh để diệt trừ: đóng chốt, xét nhà, tịch
biên, đổi tiền, sung công (quốc hữu hóa), bắt giam (tập trung cải tạo). Thế là
bao nhiêu của cải của tư nhân, từ nhà cửa, ruộng vườn, đến vàng bạc, trương
mục, xí nghiệp, vật tư, phương tiện kinh doanh v.v. một phần được chuyển thành
tài sản nhà nước cộng sản, một phần thất thoát lọt thẳng vào tay các cán bộ
dính dấp với chiến dịch đánh tư sản. Phần tài sản tước đoạt của tư nhân cộng
với các khoản công sản thừa hưởng từ chế độ cũ được biến thành các cơ cấu kinh
tế quốc doanh, để rồi, theo đúng quy luật tiến triển của chính sách bao cấp làm
ăn không cần lời lãi chỉ có thua lỗ, dần dà chuyển thành tài sản riêng của các
cấp cán bộ cộng sản có chức có quyền. Kết cục là giai cấp cán bộ của chế độ
chuyên chính vô sản dần dà hữu sản hóa để trở thành giai cấp tư bản đỏ. Ðại
biểu của những người này chính là tư bản đại diện nói trong đề cương của Giang
Trạch Dân.
Tương quan
chính cương chính sách giữa Việt Cộng và Trung Cộng.
Việt
Nam
với Trung Quốc như môi với răng, môi hở thì răng lạnh. Gia dĩ, tự nghìn xưa
Việt Nam
chịu ảnh hưởng đậm đà của văn hóa Trung Hoa. Các triều đại phong kiến Việt Nam đều mô phỏng
theo Trung Quốc để xây dựng nền tảng quản lý đất nước. Ðến thời kỳ cận đại,
cách mạng vô sản ở Việt Nam thành công, kháng chiến chống Pháp của Việt Nam
thắng lợi, một phần lớn là nhờ có Trung Cộng hậu thuẫn. Bởi vậy, sự kiện một số
trí thức và doanh nhân Việt Nam
hải ngoại ngày nay nghĩ rằng sớm muộn gì Việt Cộng cũng theo đuôi Trung Cộng
đổi mới tư duy, cải tiến chế độ theo đề cương chính trị 3 thành phần đại diện
của Giang Trạch Dân là điều dễ hiểu.
Ðể phân tích và đánh giá nhận định
của các thành phần trí thức và doanh nhân Việt Nam hải ngoại vừa nêu trên,
chúng ta hãy nhìn lại quá khứ liên hệ đến mối tương quan giữa Việt Nam và Trung
Quốc từ đầu thế kỷ 20 đến nay, đặc biệt là mối tương quan chính cương chính
sách giữa Việt Cộng và Trung Cộng, để đặt vấn đề là có phải lúc nào Việt Cộng
cũng rập khuôn các mô thức tổ chức và phương hướng hành động của Trung Cộng hay
không?
Sau cách mạng Tân Hợi,
và nhất là sau chiến dịch Bắc phạt thành công, Quốc Dân Ðảng Trung Hoa dung
dưỡng các thành phần cách mạng Việt Nam chống Pháp nương náu trên đất Tàu, giúp
đỡ phương tiện sinh sống và bồi dưỡng kiến thức chính trị và quân sự cho họ.
Năm 1925, Việt Nam Thanh niên Cách mệnh đồng chí hội được thành lập. Lúc này,
Trung Quốc theo đường lối thân Liên Xô, nên một cán bộ cộng sản cao cấp Liên Xô
là Borodine được bổ nhiệm làm cố vấn cho trường võ bị Hoàng Phố, và Hồ Chí Minh
thì làm phiên dịch viên. Nhiều thanh niên Việt Nam được vào học trường này,
trong số đó buổi đầu có mấy người đáng lưu ý là Vũ Nguyên Bác (sau khi về nước
năm 1945 đổi tên là Nguyễn Sơn), Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Lê Quốc Vọng (tức
Lê Thiết Hùng), Phùng Chí Kiên, Lương Văn Chí. Các sinh viên sĩ quan này phần
đông gia nhập Quốc Dân Ðảng (Trung Quốc), một số khác về sau lại theo Ðảng Cộng
Sản. Nhưng đến năm 1927, Tưởng Giới Thạch làm cuộc chính biến Thượng Hải, thu
tóm đại quyền, thay đổi chính sách, quyết liệt chống cộng. Tưởng ra lệnh cho
Hiệu Trưởng trường Hoàng Phố là Uông Tinh Vệ cách chức cố vấn của Borodine. Hồ
Chí Minh cũng phải theo Borodine rời Quảng Châu, giao Việt Nam Thanh niên Cách
mệnh đồng chí hội lại cho Lâm Ðức Thụ. Các phần tử cộng sản trong tổ chức này
qua năm 1929 bèn tách ra để thành lập 3 đảng cộng sản riêng rẽ : Ðông Dương
Cộng sản đảng ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản đảng ở Trung Kỳ, và Ðông Duơng Cộng sản
liên đoàn ở Nam Kỳ. Cuối năm 1929, tổ chức Ðệ tam Quốc tế (Komintern) ra lệnh
cho 3 đảng này phải kết hợp thành một đảng cộng sản duy nhất không những chung
cho 3 xứ Trung Nam Bắc mà là chung cho toàn bộ Ðông Dương bao gồm cả 3 nước Việt
Miên Lào. Hồ Chí Minh từ Thái Lan về Quảng Châu thi hành mệnh lệnh này và ngày
3 tháng 2 năm 1930, tại Quảng Châu, Việt Nam Cộng sản đảng ra đời. Hồ Chí Minh
hiểu rất rõ tinh thần yêu nước của người Việt Nam, và tình trạng nghi kỵ giữa
người Việt và người Miên nên đã dùng danh xưng Việt Nam thay vì Ðông Dương như
Komintern đã chỉ thị. Vì vậy , vào tháng 11 năm 1930, tại Ðại hội đảng lần thứ
nhất họp tại Hóc Môn, Tổng Bí thư đảng là Trần Phú đổi tên lại là Ðông Dương
Cộng sản đảng. Komintern không hiểu dụng tâm của Hồ Chí Minh lúc đó, cũng như
sau này, cả Staline của Liên Xô lẫn Mao Trạch Ðông của Trung Cộng đã cực lực
phản đối quyết định của Hồ Chí Minh giải tán Ðông Dương Cộng sản đảng để thay
thế bằng Hội Nghiên cứu chủ nghĩa mác-xít sau khi cướp được chính quyền vào
cuối năm 1945. Chủ tâm của Hồ Chí Minh là bằng mọi cách che đậy bộ mặt quốc tế
cộng sản của mình, đồng thời kích động tình tự dân tộc để lợi dụng lòng yêu
nước của nhân dân Việt Nam.
Mặt khác, Hồ Chí Minh âm thầm giúp đỡ Pathet Lào và Khmer Issarack xây dựng lực
lượng cách mạng, tuy cũng tìm mọi cách gây ảnh hưởng với các tổ chức này, cũng
như về sau với các đảng Nhân dân Cách mạng Lào của Cay Xỏn Phom Vi Hản và Nhân
dân Cách mạng Khmer của Hun Xen, nhưng không bao giờ lộ liễu công khai ghép họ vào
một tổ chức chung với Việt Nam.
Chính những điểm này đã làm nổi bật sự
khác biệt về chính cương chính sách giữa Việt Cộng và Trung Cộng. Thực vậy,
Ðảng Cộng sản Trung Quốc buổi đầu bao giờ cũng minh thị nêu cao danh nghĩa cộng
sản quốc tế và rập khuôn mô thức Liên Xô, thậm chí ngoan ngoãn chịu sự chỉ huy
của Komintern. Quân đội thì gọi là Hồng quân, khu giải phóng thì gọi là Khu Xô
viết, quốc hiệu thì đặt tên là nước Cộng Hòa Xô viết Trung Hoa. Tháng 9 năm
1933, Komintern cử một cán bộ cộng sản quốc tế gốc Ðức tên là Otto Braun (Lý
Ðức) đến khu Xô viết trung ương Thụy Kim (Phúc Kiến) để làm cố vấn quân sự cho
đảng Cộng sản Trung Quốc. Otto Braun liền được cử làm cố vấn Hội đồng quân sự
Trung ương, và trong thực tế đã nắm quyền chỉ huy Hồng quân, lấn át cả Chu Ðức.
Gặp lúc Tưởng Giới Thạch điều động gần một triệu quân càn quét khu Xô viết Thụy
Kim, Otto Braun quen với lối đánh chính quy của Tây phương, nên xuất toàn lực
ra nghênh chiến, khiến Hồng quân bị thảm bại, lực lượng vũ trang thất tán nặng
nề, khu Xô viết mỗi ngày một thu hẹp, do đó Trung ương Ðảng Cộng sản Trung Quốc
vào tháng 10 năm 1934 phải quyết định làm cuộc vạn lý trường chinh, mang toàn
đảng toàn quân chạy trốn lên Diên An. Trên đường trốn chạy, Ðảng Cộng sản Trung
Quốc họp Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng ở Tuân Nghĩa (Quý Châu) vào trung tuần
tháng 1 năm 1935, để chấn chỉnh biên chế và cải tổ cơ cấu lãnh đạo, do đó quyền
chỉ huy Hồng quân mới được giao lại cho Chu Ðức và Chu Ân Lai.
Trước đó, Trung Cộng cũng đã làm
một chuyện khác hẳn Việt Cộng. Tháng 1 năm 1934, tại Ðại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ 2 của nước Cộng Hòa Xô viết Trung Hoa, Ðại hội đã bầu một người Việt
Nam là Vũ Nguyên Bác, và một người Triều Tiên là Tôn Lý Ðệ làm Ủy viên Ban chấp
hành nước Cộng Hòa Xô viết Trung Hoa, với tư cách là đại biểu dân tộc ít người.
Việc này đã công khai để lộ dã tâm xâm lược của Trung Cộng đối với các nước
láng giềng Việt Nam và Triều Tiên, xem lãnh thổ Việt Nam và Triều Tiên là đất
Trung Quốc, xem các dân tộc Việt Nam và Triều Tiên là dân thiểu số của Tàu.
Cũng chính Vũ Nguyên Bác cuối năm 1945 được Trung Cộng đổi tên là Nguyễn Sơn và
bố trí về Việt Nam để nắm quyền chỉ huy quân đội Việt Cộng, nhưng khác biệt với
trường hợp Otto Braun, Nguyễn Sơn không được trọng dụng, chỉ được đưa vào Quảng
Ngãi làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam cho đến tháng 7 năm 1947
thì được điều động ra Nghệ An làm Khu trưởng Liên khu IV. Ðến khi phong quân
hàm cấp tướng vào tháng 1 năm 1948, Nguyễn Sơn cũng chỉ được phong Thiếu tướng
một lượt với Hoàng Văn Thái, Hoàng Sâm, Chu Văn Tấn, Trần Tử Bình, Văn Tiến
Dũng, Lê Hiến Mai, Lê Thiết Hùng, trong lúc Võ Nguyên Giáp được phong Ðại tướng
và Nguyễn Bình (Nguyễn Phương Thảo) được phong Trung tướng. Không tranh được
địa vị của Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Sơn bất mãn, công khai tỏ thái độ khinh
thường Võ Nguyên Giáp trong các buổi hội tham mưu, khiến Hồ Chí Minh phải can thiệp.
Hồ Chí Minh cho mời NguyÍn Sơn vào phủ Chủ tịch và
nói với Nguyễn Sơn rằng: “Bác biết chú là người có tài, nhưng chú Giáp chỉ huy
quân đội đã lâu, có công xây dựng và rèn luyện lực lượng vũ trang từ ngày còn
trứng nước, nên để chú ấy phụ trách quân đội. Còn chú, chú chuẩn bị thay thế
Bác”. Nghe Hồ Chí Minh nói như vậy, Nguyễn Sơn và Trung Cộng biết là không thể
nào tiếp tục tiến hành âm mưu hất chân Võ Nguyên Giáp được nên mùa hè năm 1950,
Nguyễn Sơn trở lại Bắc Kinh, gia đình được bố trí chỗ ở trong khu Trung Nam
Hải, bản thân được phong tướng cấp quân đoàn.
Một vài mẩu chuyện trên đây đã tô đậm nét sự khác biệt về
chính cương chính sách giữa Việt Cộng và Trung Cộng. Ðành rằng trong quá trình
hình thành và tồn tại của định chế chuyên chính đỏ ở hai nước láng giềng sông
liền sông núi liền núi, Việt Cộng đã phải dựa vào Trung Cộng nên chịu nhiều ảnh
hưởng, nhưng không phải vì thế mà Việt Cộng luôn luôn rập khuôn mô hình tổ chức
và tư tưởng lãnh đạo của Trung Cộng. Việt Cộng đã không theo đuôi Trung Cộng
làm cách mạng văn hóa, Việt Cộng không có nạn hồng vệ binh, Việt Cộng không
chống Liên Xô, thậm chí có lúc dựa hẳn vào Liên Xô để giải tiêu sức ép của Trung
Cộng. Việt Cộng đã không nghe lời Trung Cộng trường kỳ mai phục ở miền Nam Việt
Nam mà cương quyết phát động chiến dịch Ðồng Khởi năm 1960. Việt Cộng đã không
tuân lệnh Trung Cộng ngưng tiến quân vào Sài Gòn sáng sớm ngày 30 tháng 4 năm
1975, và cương quyết tiến hành chiến dịch đánh tư sản mại bản năm 1976. Phóng
tâm tin tưởng rằng sớm muộn gì Việt Cộng cũng áp dụng đề cương 3 thành phần đại
diện của Giang Trạch Dân là việc làm có phần vội vã.
Tính cách
bất biến của bản chất cộng sản.
Mùa
hè năm 1946, Hồ Chí Minh đi sang Pháp để theo dõi tiến triển Hội nghị Fontainebleau. Huỳnh Thúc
Kháng là Bộ trưởng Nội vụ kiêm nhiệm chức vụ Quyền Chủ tịch Chính phủ. Ra tiễn
đưa Hồ Chí Minh ở sân bay Gia Lâm, Huỳnh Thúc Kháng hỏi Hồ Chí Minh có dặn dò
thêm điều gì để ứng phó với tình hình rối ren lúc bấy giờ. Hồ Chí Minh bèn lấy
tấm thiếp viết mấy chữ Hán dĩ bất biến ứng vạn biến đưa cho Huỳnh Thúc
Kháng. Dĩ bất biến ứng vạn biến có nghĩa là lấy việc không thay đổi (mục tiêu,
cứu cánh) để ứng phó với mọi việc thay đổi (biến cố khách quan) sắp tới. Tuy Hồ
Chí Minh đã mượn lời người xưa để dặn dò Huỳnh Thúc Kháng, nhưng câu nói này
quả tình đã bộc lộ trọn vẹn bản chất của cộng sản. Mục tiêu, cứu cánh của cộng
sản không bao giờ thay đổi, còn phương thức hành động để đạt được mục tiêu có
thể tùy nghi thay đổi cho phù hợp với các biến cố khách quan, tức là để đạt
được mục tiêu, cộng sản không từ nan bất kỳ thủ đoạn tàn độc nào, phương tiện
bất nhân nào, thái độ vô sỉ nào, cung cách giả dối nào, hành động tráo trở nào,
v.v., bởi lẽ cứu cánh biện minh cho phương tiện.
Tuân hành lời dặn dĩ bất biến ứng
vạn biến của Hồ Chí Minh, Huỳnh Thúc Kháng đã phóng tâm tin vào các bản phúc
trình ngụy tạo của Võ Nguyên Giáp về việc khám nghiệm các xác chết tìm thấy
trong khu vườn biệt thự số 9 phố Ôn Như Hầu, Hà Nội, nên đã ký quyết định ngày
13 tháng 7 năm 1946 trị tội những người bị quy kết trách nhiệm, và sự kiện này
là đầu giây mối nhợ cho Võ Nguyên Giáp đem công an và vệ quốc đoàn đánh diệt
cán bộ và quân đội của Ðại Việt Quốc dân đảng và Việt Nam Quốc dân đảng. Cái dĩ
bất biến trong lời dặn của Hồ Chí Minh lúc bấy giờ là giữ vững chính quyền Việt
Minh. Dặn dò Huỳnh Thúc Kháng là ở sân ga Gia Lâm, nhưng trước đó đã năm lần
bảy lượt đặn dò Võ Nguyên Giáp rồi. Chính vì cái dĩ bất biến đó mà Võ Nguyên
Giáp ứng vạn biến, trở mặt đổi bạn thành thù, và trân tráo lấy thù làm bạn.
Thật thế, Quốc Dân Ðảng đang là đồng minh, cùng Việt Cộng đứng chung trong Quốc
hội và trong Chính phủ liên hiệp quốc gia để cùng lo việc chống Pháp thực dân,
ấy vậy mà bất ngờ bị Võ Nguyên Giáp một sớm một chiều trở mặt đánh diệt không
nương tay. Còn Pháp thực dân đang là kẻ thù của dân tộc, ấy vậy mà Võ Nguyên
Giáp lén lút qụy lụy tìm đến gặp Crépin là Tổng Ðại diện Chính phủ Pháp để mượn
đại pháo và chuyên viên tác xạ tấn kích các chiến khu của Quốc dân quân. Bản
thân Hồ Chí Minh cũng chính vì cái dĩ bất biến đó mà vội vã ký với Jean
Sainteny Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, để cho quân Pháp vào đóng ở
các thành phố trọng yếu của Việt Nam phía bắc vĩ tuyến 16. Và cũng chính vì cái
dĩ bất biến đó mà đang lúc ở Pháp, thấy Hội nghị Fontainebleau gay go có mòi
tan vỡ, Hồ Chí Minh đang đêm một thân một mình đến nhà Marius Moutet là Bộ
trưởng Pháp quốc Hải ngoại để ký Tạm ước ngày 14 tháng 9 năm 1946, chấp nhận
quy chế Việt Nam là một nước tự do trong Liên bang Ðông Dương và trong Liên
Hiệp Pháp. Thật là hành động bất chấp nghi thức ngoại giao và nguyên tắc công
pháp quốc tế, và đặc biệt là không mảy may đếm xĩa đến quyền lợi sống còn của
đất nước và khát vọng độc lập tự do của đồng bào, miễn sao lấy lòng thực dân
Pháp để hòa hoãn mua thời gian đánh diệt các thế lực chính trị không cộng sản
đối nghịch ngõ hầu giữ chặt chính quyền chuyên chính vô sản.
Cái dĩ bất biến này, người kế vị Hồ
Chí Minh là Lê Duẫn, trong bài phát biểu trên đài Tiếng nói Việt Nam sáng ngày
3 tháng 2 năm 1970, đã minh thị diễn đạt một cách nôm na nhưng chuẩn xác là nắm
vững chuyên chính vô sản. Ðể nắm vững chuyên chính vô sản, Việt Cộng triệt
để sử dụng bạo lực cách mạng để trấn áp đối phương. Việt Cộng chia đối
phương làm hai loại kẻ địch chính và phụ, và chủ trương liên minh liên kết giai
đoạn, khi thì với kẻ địch phụ để tiêu diệt kẻ địch chính, khi thì với kẻ địch
chính để tiêu diệt kẻ địch phụ, để cuối cùng cả hai loại kẻ địch, chính cũng
như phụ, tất cả đều bị cộng sản tận diệt. Thủ đoạn tàn ác hiểm độc, thái độ giả
dối tráo trở, diễn đạt qua lời phát biểu đầu năm của Lê Duẫn chính là cung cách
ứng vạn biến Hồ Chí Minh lúc sinh thời đặn dò đồ đệ, và lúc lâm chung trối trăn
lại với những người kế nghiệp. Tàn ác hiểm độc, giả dối tráo trở, là bản chất
của cộng sản. Bản chất đó bất biến, nghĩa là không bao giờ thay đổi. Bản chất
bất biến đó nhằm phục vụ một cứu cánh bất biến là giữ chặt chính quyền chuyên
chính vô sản, thông qua một tổ chức chính trị độc tôn là đảng cộng sản.
Năm 1946, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp ra sức o bế, nhân
nhượng Pháp thực dân, tìm mọi cách liên minh liên kết với kẻ thù chính là đội
quân viễn chinh Pháp để tống khứ ra khỏi biên giới kẻ thù phụ là đội quân Tàu
Tưởng đang chiếm đóng miền bắc, và tiêu diệt đồng minh giai đoạn là cán bộ
chính trị và lực lượng vũ trang của Ðại Việt Quốc dân đảng và Việt Nam Quốc dân
đảng mà Việt Cộng luôn luôn cảnh giác là mối lo tâm phúc. Năm 1968, tại miền
nam, Hồ Chí Minh và Lê Duẫn lặp lại y nguyên bài bản liên minh liên kết cũ.
Nhưng lần này, kẻ địch chính là quân đội Mỹ, và việc tranh thủ liên minh liên
kết với kẻ địch chính được tiến hành lặng lẽ và bất ngờ không mấy ai hay biết.
Mặt khác, đối tượng tiêu diệt không phải là kẻ địch mà chính là người nhà, cùng
phe cùng cánh, cùng mẹ cùng cha, đó là Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam.
Thuở bấy giờ, ai cũng nói Mặt trận giải phóng là con đẻ, là công cụ của cộng
sản miền bắc. Mặt trận giải phóng được người Mỹ gọi là Việt Cộng (VC), còn quân
chính quy của cộng sản miền bắc thì được gọi là quân Bắc Việt (NVA). Xưng danh
xưng tánh lẫn lộn lung tung như vậy, nên mọi người chỉ biết có bề ngoài, chứ
mấy ai đã biết được các uẫn khúc nội tình, thấu hiểu được từng chân tơ kẻ tóc
thủ đoạn quỹ quyệt và tâm địa gian manh của tập đoàn lãnh đạo cộng sản miền bắc
đối với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam. Thật vậy, Mặt trận giải phóng
không phải là một tập hợp quần chúng vô sản miền nam được cộng sản miền bắc tổ
chức nổi dậy chống chính quyền đương thời do Mỹ hậu thuẫn, mà chính là những
thành phần nhân dân đủ loại có xu hướng chính trị thân Pháp, từ trí thức đến
địa chủ, công nhân và nông dân, được Pháp thực dân tập hợp để cùng Liên Xô giao
cho Việt Cộng miền bắc huấn luyện và võ trang, lấy danh nghĩa đấu tranh cách
mạng dân chủ nhân dân, phát động chiến dịch Ðồng Khởi chống Mỹ và Việt Nam Cộng
Hòa. Việt Cộng buổi đầu phải ngậm bồ hòn làm ngọt hậu thuẫn cho Mặt trận giải
phóng, rồi dần dà về sau cho Võ Chí Công và Mai Chí Thọ vào lèo lái bộ chỉ huy,
đồng thời tìm cách triệt hạ các cơ sở hạ tầng bằng cách mượn tay kẻ địch truy
bức và tiêu diệt các thành phần nằm vùng bị lộ. Qua biến cố Mậu Thân 1968 và
các chiến dịch bình định (An ninh lãnh thổ, Phượng hoàng, Chiêu hồi) các năm
1969, 1970, có thể nói rằng toàn bộ các cơ sở hạ tầng của Mặt trận giải phóng
đã bị tan rã hoặc hủy diệt. Trong dịp Tết Mậu Thân, Việt Cộng miền bắc đã âm
thầm thỏa hiệp với Mỹ để Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam xuất toàn lực
tổng công kích tổng nổi dậy, cơ sở hạ tầng nằm vùng bấy lâu nhất loạt phơi mình
ra ánh sáng, nên sau đó đã bị chính quyền Việt Nam Cộng Hòa triệt tiêu. Sau khi
bị tập đoàn lãnh đạo cộng sản miền bắc đâm lén sau lưng, Mặt trận giải phóng
chỉ còn có cái vỏ thượng tầng hữu danh vô thực, để rồi đến năm 1976 qua màn kịch
hiệp thương hai miền nam bắc, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam bị cộng sản
bóp chết không một chút xót thương. Rút cục, cuộc cách mạng dân chủ nhân dân mà
Mặt trận giải phóng hứa hẹn mang lại cho miền nam đã tan biến vào cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa của miền bắc. Với việc hình thành nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, toàn bộ quốc
dân Việt Nam, nam cũng như bắc, cùng bị ghìm đầu vào gầm chuyên chính vô sản.
Ðúng là bài bản dàn dựng theo y nguyên tính cách bất biến của bản chất cộng sản
: dĩ bất biến ứng vạn biến theo cách nói của Hồ Chí Minh, hay sử dụng
bạo lực cách mạng để nắm vững chuyên chính vô sản theo cách nói của Lê
Duẫn.
Kết luận.
Trí
thức và doanh nhân Việt Nam
hải ngoại hiện thời không một ai có tư cách và tâm địa của trí thức và doanh
nhân theo quan điểm của các nhà cầm quyền ở Hà Nội và ở Bắc Kinh. Cho dù trí
thức và doanh nhân Việt Nam hải ngoại có một số ít nghĩ rằng mình hội đủ các
tiêu chuẩn trí thức tiến bộ và tư sản dân tộc theo đúng quan điểm cộng sản, thì
chắc chắn số ít người này cũng không thể nào lọt qua được mạng lưới sàng lọc
của cộng sản để được chấp nhận xếp loại vào hàng ngũ những người có thể bầu đại
diện (chỉ có thể bầu đại diện, chứ không phải có thể được bầu làm đại diện).
Nếu cố công phấn đấu lọt được mạng lưới sàng lọc, thì với thân phận ở trong
hàng ngũ những người có thể bầu các trí thức đại diện và tư bản đại diện, trí
thức và doanh nhân Việt Nam hải ngoại cần nhớ tới các nạn nhân của chính sách
liên minh liên kết giai đọan tàn độc và tráo trở của cộng sản. Hãy tìm hiểu các
vụ phố Ôn Như Hầu ở Hà Nội và cầu Chiêm Sơn ở Quảng Nam năm 1946. Hãy nhớ lại các chiến
dịch cải cách ruộng đất và rèn quân chỉnh cán trong vùng giải phóng miền bắc
năm 1952. Hãy lật mặt trái của vụ tổng công kích tổng nổi dậy ở miền nam ngày
Tết Mậu Thân năm 1968. Tất cả nạn nhân đều đã là đồng minh của cộng sản, bản
thân mình thì chân thành nhưng cộng sản chỉ xem là đồng minh giai doạn, chanh
vắt xong nước thì bỏ vỏ không nương tay.
Thảng
hoặc có trường hợp giả dụ một vài trí thức hoặc doanh nhân Việt Nam hải ngoại
vì nặng tình tự dân tộc và tinh thần vị tha mà rơi vào cạm bẫy tâm lý chiến
cộng sản, nhẹ dạ chịu chối bỏ quá khứ và bản ngã để đầu hàng giai cấp, trở
thành một thứ cộng sản hạng hai, thì tương lai cuộc đổi đời cũng chẳng có gì
sáng sủa. Lý do là cộng sản Việt Nam đang xa rời quần chúng công
nông, đang tư sản hóa để hình thành giai cấp tư bản đỏ. Trí thức tiểu tư sản
trong nước đang dần dà rời bỏ giai cấp lãnh đạo cộng sản giàu có để đứng về
phía quần chúng nghèo khổ. Một mai nếu xẩy ra cuộc tranh chấp giữa tư bản chính
thống dân chủ pháp trị và tư bản đỏ chuyên chính vô sản, dù bằng phương thức
đấu tranh chính trị hay bằng phương thức bạo lực cách mạng, tuyệt đại bộ phận
nhân dân sẽ đứng về phía dân chủ chứ không ai lại ủng hộ chuyên chính. Thật
vậy, tư bản chính thống tuy bị tuyên truyền xuyên tạc là tư bản lũng đoạn,
nhưng thông qua định chế chính trị dân chủ pháp trị, tư bản chính thống tôn
trọng nhân quyền và dân quyền. Ngược lại, tư bản đỏ chuyên chính vô sản là tập
đoàn những ông chủ mới gốc gác cán bộ cộng sản có chức có quyền, tham lam và
hung hiểm, cấu kết với những ông chủ nước ngoài tẩu tán tài sản quốc gia và hà
hiếp bóc lột quần chúng lao động. Cũng như xưa kia, khi triều đình Tây Sơn rời
bỏ nông dân mà phong kiến hóa, thì sĩ phu và các giai tầng xã hội khác trong
nước đã nhất loạt quay lại ủng hộ Nguyễn Ánh, bởi lẽ nếu phải chọn lựa giữa hai
thứ phong kiến thì thà chọn lựa phong kiến chính thống quí tộc còn hơn là chấp
nhận phong kiến bình dân mới hình thành đang gây tai gây tiếng, làm nhiều điều
trái với lòng người. Với tình hình như thế, cam tâm bán mình cho cộng sản để
cuối cùng bị chết chùm với cộng sản thì không phải là hành động của người có
trí tuệ, biết cân nhắc, đắn đo.
Tóm
lại, đối với đề cương ba thành phần đại diện của Giang Trạch Dân đọc tại Ðại
hội lần thứ 16 Ðảng Cộng sản Trung Quốc, trí thức và doanh nhân Việt Nam hải
ngoại chẳng có gì để phải bận tâm. Việc là việc bên Trung Quốc, nếu có ảnh
hưởng đến Việt Nam thì trong quá khứ, không phải lúc nào Việt Cộng cũng rập
khuôn các mô hình tổ chức và tư tưởng lãnh đạo của Trung Cộng. Trong trường hợp
giả dụ Việt Cộng theo đuôi Trung Cộng, thì trí thức và doanh nhân Việt Nam hải
ngoại cũng chẳng có vai trò gì xứng đáng trong cấu trúc chính trị đổi mới, bởi lẽ
họ nhất quyết không phải là trí thức tiến bộ và tư sản dân tộc theo quan điểm
cộng sản.
Trí
thức và doanh nhân Việt Nam
hải ngoại không trông đợi được gì ở cộng sản Việt Nam để có cơ hội mang trí tuệ và
tâm huyết ra phụng sự đất nước, phục vụ đồng bào. .
Mùa
Giáng Sinh 2000
Minh
Vũ Hồ Văn Châm
Vùng Huế
Trong Lòng Lịch Sử Đại Việt
Huế là tiếng nôm, thuần Việt, bắt nguồn từ
Hóa của tiếng Hán Việt. Huế là Hóa, là Hóa Châu, là châu Ri (hay châu Lý), cùng
với châu Ô (hay châu Thuận), là sính lễ vua Chế Mân của Chiêm Thành dâng vua Trần
Anh Tông của Đại Việt năm 1306 để cưới Công chúa Huyền Trân.
Vậy Huế ngày nay là Hóa Châu ngày xưa. Nhưng
Hóa Châu ngày đó là cả một giải đất kéo dài từ sông Bồ đến sông Túy Loan, hơn nữa,
Hóa Châu lại liên hệ mật thiết với Thuận Châu, cho nên nói về lịch sử của Huế
thì phải nói về lịch sử của cả vùng Huế. Mặt khác, lịch sử vùng Huế trong lòng
lịch sử Đại Việt không phải chỉ giản đơn bắt đầu từ năm 1307 đời vua Trần Anh
Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 15, là năm nhà Trần đổi hai châu Ô, Rí thành châu
Thuận và châu Hóa, mà lùi lại rất xa về thời sơ sử mịt mù, khi vùng Huế được sử
cũ gọi là bộ Việt Thường nước Văn Lang.
Người Việt Nam chúng ta phần đông thừa nhận rằng
vùng Huế đã đóng một vai trò trọng yếu trong lịch sử hình thành và phát triển của
quốc gia Đại Việt. Từ 1802 đến 1945, Huế lại là kinh đô cảa Đế quốc Việt Nam. Tuy vậy,
các sử gia nước ta từ trước tới nay, khi đề cập đến lịch sử vùng Huế, tùy theo
góc nhìn và thế đứng, đã có những quan điểm không tương đồng. Bài này đặt lại một
số những vấn đề đó, và đưa ra đề nghị phân chia thời kỳ lịch sử vùng Huế trên
cơ sở những nhận thức mới.
Cương vực vùng Huế thời sơ sử.
Sử
cũ chép rằng cách đây hơn bốn nghìn năm, nước ta là nước Văn Lang, có các vua
Hùng cai trị. Nước Văn Lang, phía bắc đến hồ Động Đình, phía đông đến biển,
phía tây giáp nước Lão Qua, phía nam giáp nước Hồ Tôn. Nước Văn Lang được chia
làm 15 bộ. Bộ Việt Thường là bộ cực nam, là miền Bình Trị Thiên ngày nay. Chuyện
nước Văn Lang với các vua Hùng bắt nguồn từ truyền thuyết Tiên Rồng, rất phổ biến
trong các nhóm cư dân bản địa vùng Lĩnh Nam mà người Tàu gọi là Bách Việt.
Truyền thuyết này được Ngô Sĩ Liên đưa vào chính sử (phần ngoại kỷ) vào thời Hậu
Lê. Nước Văn Lang còn có thêm tên là Lạc Việt, Hùng vương còn được gọi là Lạc
vương. Dưới vua Hùng là các Lạc hầu, Lạc tướng. Con trai quý tộc được gọi là
Quan lang, con gái quý tộc được gọi là Mỵ nương (Mệ nàng). Dần dà trong sử cũ,
biên giới phía bắc được lùi xuống giáp tỉnh Quảng Tây cho phù hợp với thực trạng
địa lý. Cương vực 15 bộ của nước Văn Lang (1) được xác định là Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ, với bộ Việt Thường được phỏng đoán là vùng Bình Trị Thiên ngày nay.
Đến thời kỳ Thục Phán từ Tây Âu tiến xuống
đánh bại vua Hùng cuối cùng, tháp nhập Lạc Việt vào Tây Âu để thành lập nước Âu
Lạc (năm 257 trước Công nguyên), thì sử cũ nước ta không đả động gì đến biên giới
phía nam của Âu Lạc, nên ngày nay khó mà đoán định vị trí vùng Huế đối với
cương vực nước Âu Lạc lúc bấy giờ. Với lại, sử cũ có chép rằng sau khi bị Triệu
Đà đánh bại, Thục Phán đem công chúa Mỵ Châu chạy trốn đến núi Mộ Dạ thì cùng
đường, và sau khi thần Kim Quy hiện ra bảo cho biết người làm mất nước chính là
Mỵ Châu, nhà vua rút gươm chém chết Mỵ Châu rồi tự vẫn. Núi Mộ Dạ ở phía bắc
Hoành sơn. Vậy nếu chuyện này không phải do người đời sau đặt ra mà là chuyện
có thực, và núi Mộ Dạ là biên giới cực nam, Thục Phán chạy đến đó thì cùng đường,
thì rõ ràng vùng Huế không nằm trong cương vực nước Âu Lạc. Nhưng nếu thế thì tại
sao sử cũ nước ta không nói, phần phía nam đèo Ngang, tức là bộ Việt Thường nước
Văn Lang trước đây, thời Âu Lạc trở thành dân gì, xứ gì, thuộc nước nào; và tại
sao chính sử nhà Hán khi nói đến việc lấy đất Nam Việt để thành lập Giao Chỉ Bộ,
về phần quận Nhật Nam thì chỉ nói đến việc chia đất đặt quận mới y hệt trường hợp
các quận Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, trong lúc đó thì về phần hai
quận Châu Nhai, Đạm Nhĩ lại ghi chú rõ ràng việc Lộ Bác Đức thừa thắng chiếm đất
mới để đặt thêm hai quận này.
Năm 214 trước Công nguyên, nhà Tần tiến đánh
Bách Việt, lập ra các quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận. Nam Hải là Quảng
Đông, Quế Lâm là Quảng Tây, còn Tượng Quận thì có sách nói là Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ (2), có sách lại nói là Quý Châu và một phần Quảng Tây. Những người chủ
trương Tượng Quận là Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ kéo dài xuống tận Quảng Nam, có lẽ
đã lầm lẫn quận Tượng của đời Tần với huyện Tượng Lâm đời Hán. Hơn nữa, khi nhà
Tần mất, Triệu Đà cát cứ ở Nam Hải, thì vẫn còn nước Âu Lạc, nên về sau mới có
cuộc chiến tranh giữa Triệu Đà và Thục Phán, và mối hận tình Trọng Thủy - Mỵ
Châu. Mặt khác, sử cũ Trung Quốc có nói đến các lãnh tụ kháng chiến kiệt hiệt của
Bách Việt là Dịch Hu Tống và Tây Vu vương. Tây Vu là vùng Cổ Loa, nơi Thục Phán
đóng đô. Vậy vào đời Tần, nước Âu Lạc vẫn tồn tại, và Tượng Quận là Quý Châu và
một phần Quảng Tây; còn nếu Tượng Quận là Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thì nhất thiết
phải chấp nhận giả thuyết Thục Phán đã ra hàng quân Tần và nhận tước phong (Tây
Vu vương). Như vậy, vị trí của Tượng Quận đời Tần còn là vấn đề cần tìm hiểu
thêm. Mặt khác, cho dù Tượng Quận có là Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thì các nhà sử học
Đài Loan ngày nay phần đông cũng đã nhất trí là chính lệnh nhà Tần không xuống
quá đèo Hải Vân (3).
Năm
208 trước Công nguyên, Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc, tháp nhập Âu Lạc vào Nam Việt.
Một số sử gia nước ta gần đây viết rằng Triệu Đà chia đất đai Âu Lạc thành hai
quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Có tác giả còn đi xa hơn, viết rằng Triệu Đà chia Âu
Lạc làm 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Điều này là không đúng. Thứ nhất
là đất đai Âu Lạc, ngoài Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, còn bao gồm cả miền nam Quảng
Tây mà sau này nhà Hán đặt làm quận Thương Ngô. Thứ hai là Triệu Đà không chia
Âu Lạc thành quận huyện mà vẫn duy trì chế độ tù trưởng Lạc hầu Lạc tướng để
cai trị dân Âu Lạc. Thứ ba là Triệu Đà xem Âu Lạc là một bộ phận riêng biệt của
Nam Việt, có lúc đã gọi dân Âu Lạc là dân trần truồng (4). Như vậy, các tên quận
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, cũng chỉ mới xuất hiện cùng lúc với các tên quận
Thương Ngô, Hợp Phố, Châu Nhai, Đạm Nhĩ, sau khi Hán Vũ đế sai Lộ Bác Đức và
Dương Bộc đánh diệt nước Nam Việt và thành lập 9 quận Giao Chỉ Bộ (5) vào năm
111 trước Công nguyên. Điều đáng lưu ý là danh xưng 9 quận của Giao Chỉ Bộ. Tên
quận Nam Hải là tên cũ đời Tần; tên quận Uất Lâm là do Quế Lâm đời Tần mà ra.
Các quận khác đều là quận tân lập, đều mang tên mới, có điều là khi nói về các
quận Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, sử Tàu chỉ nói về việc
chia đất lập các quận mới, trong lúc đó thì về phần hai quận Châu Nhai và Đạm
Nhĩ, sử Tàu ghi rõ ràng rằng sau khi đánh diệt Nam Việt, Lộ Bác Đức thừa thắng
đem quân vượt biển chiếm đất lập thêm hai quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ. Nhận xét
này cho thấy vùng Huế, vào thời điểm thiết lập quận Nhật Nam, vốn từ trước đã nằm
trong cương vực nước Nam Việt.
Nói
tóm lại, vào thời Văn Lang, sử cũ cho rằng vùng Huế là bộ Việt Thường. Qua các
thời Âu Lạc và Nam Việt, sử cũ không đả động gì đến bộ Việt Thường, cũng như
không nói bộ Việt Thường trước kia nay thuộc cương vực nước nào. Mặt khác, sách
xưa của Tàu (thiên Vũ Cống) chép rằng xứ Việt Thường ở phía nam đất Giao Chỉ,
và trong các văn thư trao đổi giữa triều đình Mãn Thanh với vua Gia Long về việc
cầu phong, cả hai phía Tàu lẫn ta đều mặc nhiên dùng danh xưng Việt Thường để
chỉ phần đất phía nam đèo Ngang. Do đó, ta tạm gọi thời kỳ sơ sử của vùng Huế
là thời kỳ Việt Thường.
Cương vực vùng Huế thời Bắc thuộc.
Nhà Hán lấy đất đai nước Nam Việt gộp với đảo
Hải Nam
để lập Giao Chỉ Bộ gồm có 9 quận. Quận cực nam của Giao Chỉ Bộ là quận Nhật Nam, chạy dài từ
đèo Ngang đến đèo Cả, tức là miền trung Trung Bộ ngày nay. Quận Nhật Nam có 5 huyện
: Tỵ Cảnh, Châu Ngô, Tây Quyển, Lư Dung, và Tượng Lâm. Lỵ sở của quận Nhật Nam được L.
Aurousseau đoán định là thành Tây Quyển, ở phía bắc thành phố Huế, trong lưu vực
sông Thạch Hãn (6). Gần đây, theo tài liệu từ trong nước, các khai quật khảo cổ
tiến hành năm 1997 đã phát hiện dấu tích của một tòa thành xưa ở làng Thành
Trung huyện Quảng Điền (7). Còn phải chờ các khảo nghiệm bổ túc để xác định đây
là dấu tích thành lũy đời Hán, hay đây chỉ là di chỉ của một tòa thành khác được
người Chàm xây dựng về sau thay thế thành Tây Quyển đã bị vua Lâm Ấp Phạm Văn
san bằng năm 347 sau Công nguyên, dưới triều Tấn Mục đế. Mặt khác, một số người
cho rằng đây là di tích thành Hóa Châu đời Trần (8). Điều phỏng đoán này có lẽ
đúng, vì rõ ràng thành cũ Hóa Châu đã được Dương Văn An đời Mạc cho là ở ngã ba
Sình, tại làng Lại Ân, huyện Quảng Điền (9).
Năm 192 sau Công nguyên, đời Hán Hiến đế,
niên hiệu Sơ Bình thứ 3, con trai viên công tào huyện Tượng Lâm tên là Khu Liên
nổi dậy giết huyện lệnh, chiếm huyện đường, dựng cờ tự chủ. Gặp lúc Trung Hoa
loạn lạc, triều đình Đông Hán mặc nhiên chấp nhận việc đã rồi, và gọi quốc gia
tân lập này là Lâm Ấp, có nghĩa là đô ấp của huyện Tượng Lâm. Nước Lâm Ấp quay
trở về với nền văn hóa Ấn Độ, nên đường ranh giữa hai huyện Lư Dung và Tượng
Lâm từ đây không chỉ là biên giới giữa Giao Châu và Lâm Ấp mà còn là biên giới
giữa hai nền văn hóa Trung Hoa và Án Độ. Thực vậy, suốt thời Bắc thuộc, vùng Huế
trở thành địa bàn tranh chấp ảnh hưởng giữa phương bắc và phương tây. Cuộc
tranh chấp này mang tính chất giằng co, biên giới thay đổi liên tục từ đèo
Ngang đến đèo Hải Vân, và đến cuối đời Đường khi Lâm Ấp trở thành Chiêm Thành
(Champapura) thì biên giới này ở hẳn đèo Ngang.
Năm 248 sau Công nguyên, Lâm Ấp tiến chiếm quận
Nhật Nam, rồi thừa thắng kéo ra cướp phá các quận Cửu Chân và Giao Chỉ, san bằng
2 quận thành này. Lúc bấy giờ Trung Quốc chia làm ba nước Ngụy, Ngô, Thục; và
Giao Châu thuộc về Ngô. Niên hiệu Xích Ô thứ 11, Ngô chúa Tôn Quyền sai Lục Dận
làm Giao Châu Thứ sử, An Nam Hiệu úy, đem đại binh từ Kiến Nghiệp sang ứng phó,
Lâm Ấp phải lui binh, nhưng vẫn giữ thành Khu Túc. Từ đó, Lâm Ấp sửa sang Khu
Túc thành một căn cứ quân sự hùng hậu, vừa để tiến công Giao Châu, vừa để phòng
ngự kinh đô Trà Kiệu (Shinharpura). Đến đời vua Lâm Ấp Phạm Văn thì thành Khu
Túc được xây lại bằng gạch với qui mô to lớn (10). Di tích thành Khu Túc này là
thành Lồi hiện nay ở bờ nam sông Hương, tại xã Nguyệt Biều, phía tây nam Huế.
Đời Tấn Mục đế, niên hiệu Vĩnh Hòa thứ 3, năm
347 sau Công nguyên, vua Lâm Ấp Phạm Văn tiến đánh Nhật Nam, bắt giết Thái Thú
Hạ Hầu Lãm, san bằng thành Tây Quyển, và đắp lũy đất ở Bình Chánh để làm đường
phân ranh Giao Châu - Lâm Ấp. Phạm Văn gốc gác người Hán, lại đã từng lưu lạc
nhiều năm bên Tàu, học được kỹ thuật xây đắp thành lũy và phương pháp tác chiến
của người Tàu, nên rất giỏi dùng binh. Tướng nhà Tấn là Chinh Tây Đốc Hộ Đằng
Tuấn năm 349 đem đại binh Giao Quảng vào tái chiếm Nhật Nam đã bị Phạm Văn đánh
bại phải lui về Cửu Chân. Tuy vậy, Phạm Văn cũng bị thương mà chết, con là Phạm
Phật lên thay. Thừa cơ, năm 351, Đằng Tuấn hợp binh với Thứ Sử Giao Châu Dương
Bình và Thái Thú Cửu Chân Quán Súy tiến đánh Tây Quyển, Phạm Phật thua chạy, bọn
Đằng Tuấn đuổi theo qua Thọ Lãnh đến Khu Túc rồi hai bên giảng hòa. Để củng cố
biên cương cực nam của Giao Châu, nhà Tấn lấy phần đất phía nam Cửu Chân đặt
thành quận Cửu Đức (Nghệ Tĩnh ngày nay), và phần đất của huyện Lư Dung tiếp
giáp với Lâm Ấp đặt thành huyện Thọ Lãnh (Phú Lộc ngày nay). Nhưng chỉ được ít
lâu, vào năm 359, vẫn đời Tấn Mục đế, niên hiệu Thăng Bình năm đầu, Phạm Phật lại
ra quấy phá Nhật Nam, khiến Thứ Sử Giao Châu là Ôn Phóng Chi phải đem đại binh
thủy lục vào đánh duổi. Phạm Phật giữ vững thành Khu Túc. Hai bên lại giảng
hòa, lấy bến Ôn Công (mũi Chân Mây ở cực nam Thừa Thiên) làm ranh giới Giao
Châu - Lâm Ấp. Tổng kết lại, suốt 12 năm chiến tranh dưới triều Tấn Mục đế, khi
đánh khi đàm, vùng Huế đã bị Lâm Ấp chiếm đóng trong 4 năm trời, và cuối cùng
đường phân ranh Giao Châu - Lâm Ấp trở lại như thời Đông Ngô. Tuy vậy, hòa bình
chỉ được ít lâu, đến năm 399, đời Tấn An đế, niên hiệu Long An thứ 3, con Phạm
Phật là Phạm Hồ Đạt (Bhadravarman I) lại tiến quân đánh hãm Nhật Nam, bắt giết
Thái Thú Cảnh Nguyên, rồi chiếm cứ Cửu Đức, bắt giết Thái Thú Tào Bính, và thừa
thắng tiến ra vây hãm quận thành Giao Chỉ, nhưng cuối cùng bị Thứ Sử Giao Châu
Đỗ Viện đánh bại phải rút về Khu Túc.
Nhà
Tấn mất, Trung Hoa rơi vào cục diện Nam Bắc triều. Năm 421, đời Tống Vũ đế (Nam
triều), niên hiệu Vĩnh Sơ thứ 2, Thứ Sử Giao Châu là Đỗ Tuệ Độ hàng phục được
vua Lâm Ấp Phạm Dương Mại. Vua Tống bèn phong cho Phạm Dương Mại làm Lâm Ấp
vương. Qua đời Tống Văn đế, niên hiệu Nguyên Gia thứ 8, năm 431 sau Công
nguyên, vua Lâm Ấp kế nghiệp là Phạm Dương Mại II đem hơn 100 chiến thuyền ra
cướp phá Cửu Đức, khiến Thứ Sử Giao Châu Nguyễn Di Chi phải cất quân đánh dẹp.
Phạm Dương Mại II lui về cố thủ Khu Túc. Năm 433, niên hiệu Nguyên Gia thứ 10,
Lâm Ấp cử sứ bộ sang đòi Tống triều trao Giao Châu cho Lâm Ấp. Vua Tống không
cho, Phạm Dương Mại II tức giận, thường xuyên đem quân ra cướp phá Giao Châu.
Năm 446, niên hiệu Nguyên Gia thứ 23, Tống Văn đế sai Thứ Sử Giao Châu Đàn Hòa
Chi cùng Tư Mã Tiêu Cảnh Hiến, Chấn Võ Tướng quân Tông Xác, Thái Thú Nhật Nam
Khương Trọng Cơ, Tham Mưu Kiều Hoàng Dân, đem đại binh đi chinh phạt Lâm Ấp.
Đàn Hoà Chi hạ được thành Khu Túc, thừa thắng kéo vào chiếm kinh đô Trà Kiệu,
thu được nhiều vàng bạc châu báu, rồi rút quân về giữ Khu Túc. Mất thành Khu
Túc, từ đó các vua Lâm Ấp chịu quy phục Trung Quốc, biên giới Giao Châu - Lâm Ấp
trở lại như cuối thời Đông Hán, và sang triều Tề, năm 492 đời Tề Vũ đế, niên hiệu
Vĩnh Ninh thứ 10, vua Lâm Ấp Phạm Chư Nông lại còn được gia phong làm An Nam Tướng
quân Lâm Ấp vương.
Năm 541, niên hiệu Đại Đồng thứ 7 đời Lương
Vũ đế, Lý Bôn nổi lên xưng đế ở Giao Châu, lập nên nước Vạn Xuân. Vua Lâm Ấp Luật
Đà La Bạc Ma (Rudravarman) thừa cơ kéo binh ra chiếm lại Nhật Nam, củng cố
thành Khu Túc, và đoạn giao với Trung Quốc. Lâm Ấp còn tiến quân ra Cửu Đức
nhưng bị tướng của Lý Bôn là Phạm Tu đánh bại, phải rút về Nhật Nam. Suốt 62
năm tồn tại của nước Vạn Xuân, trãi qua các triều Lương, Trần (Nam triều) cho đến
khi nhà Tùy thống nhất Trung Quốc, vùng Huế hoàn toàn nằm trong cương vực nước
Lâm Ấp.
Nhà Tùy hàng phục Lý Phật Tử, chiếm lại Giao
Châu, sai Lưu Phương làm Hoan Châu đạo Hành quân Tổng quản, cùng Thứ Sử Khâm
Châu Ninh Trường Chân đem đại binh tiến đánh Lâm Ấp. Năm 605, đời Tùy Dượng đế,
niên hiệu Đại Nghiệp năm đầu, Lưu Phương hạ thành Khu Túc, rồi kéo quân vào chiếm
Trà Kiệu, đuổi vua Lâm Ấp Phạm Phạn Chí chạy vào Panduranga, chia đất Nhật Nam
cũ thành 2 quận Tỵ Cảnh (Quảng Bình), Hải Âm (Quảng trị, Thừa Thiên), và đặt
thêm qưận Lâm Ấp (Quảng Nam, Bình Định). Cương vực vùng Huế trở lại như đời Tây
Hán.
Nhà Tùy mất năm 618, nhà Đường lên thay. Thái
Thú Lý Giao cát cứ vùng Nhật Nam, chống lại nhà Đường. Bấy giờ nước Nam Chiếu ở
mạn Vân Nam thường kéo xuống cướp bóc Giao Châu. Năm 622, nhà Đường hàng phục
được Lý Giao, bèn lập Giao Châu Đô Hộ phủ, đến năm 679 lại đổi thành An Nam Đô
Hộ phủ, do Tiết Độ sứ là chức quan võ cai quản, để ứng phó với tình hình. Quan
binh An Nam Đô Hộ phủ bận bịu với nạn Nam Chiếu, không rảnh tay lo việc phương
nam, nên người Lâm Ấp nổi lên khôi phục đất cũ, và từ năm 749, đời Đường Huyền
Tông, niên hiệu Thiên Bửu thứ 8, Nhật Nam trong thực tế đã thuộc về Lâm Ấp. Từ
năm 758, đời Đường Túc Tông, niên hiệu Càn Nguyên năm đầu, sử Tàu gọi Lâm Ấp là
Hoàn Vương. Năm 875, triều Đường Hy Tông, niên hiệu Kiên Phù thứ 2, người Chàm
dời đô về Đồng Dương (Indrapura) và sử Tàu bắt đầu gọi nước này là Chiêm Thành
(Champapura). Như vậy, từ trung diệp nhà Đường cho đến hết thời Ngũ Đại, lúc
Đinh Bộ Lĩnh dựng nên nước Đại Cồ Việt năm 968, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc,
biên giới An Nam - Chiêm Thành là ở Hoành Sơn. Vùng Huế lúc này thuộc Chiêm
Thành và gồm có 5 châu : Bố Chính, Địa lý, Ma Linh, Ô và Ri (Lý).
Như vậy, vào thời Bắc thuộc, lịch sử vùng Huế
có thể chia làm 2 thời kỳ: thời kỳ Nhật Nam từ năm 111 trước Công nguyên đến
năm 758 sau Công nguyên, và một thời kỳ kế tiếp gọi là thời kỳ Ô Ri từ sau niên
đại đó cho đến hết thời Bắc thuộc và kéo dài đến năm 1306 lúc Giao Châu đã giành
lại quyền tự chủ.
Cương vực vùng Huế thời Lê Hoàn.
Sử
cũ nước ta chép rằng năm Kỷ Dậu (1069), đời Lý
Thánh Tông,
niên hiệu Thiên Huống Bửu Tượng thứ 2, tháng 2, ngày Mậu Tuất, nhà vua thân
chinh đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ dâng 3 châu Bố
Chính, Địa Lý và Ma Linh để chuộc mạng, nên được tha về. Năm 1075, vẫn đời Lý
Thánh Tông, niên hiệu Thái Ninh thứ 4, nhà vua xuống chiếu đổi châu Địa Lý làm
châu Lâm Bình, đổi châu Ma Linh làm châu Minh Linh, và chiêu mộ dân đến lập
nghiệp ở các châu ấy. Sử nước ta về sau cứ theo vậy mà chép, nghĩa là xác định
3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh đã trở về cương vực Đại Việt cùng một lúc
vào triều Lý Thánh Tông.
Chép
như vậy là không đúng theo sự thực lịch sử và thiếu vô tư trong việc lượng giá
sự nghiệp và ghi nhớ công trạng tiền nhân. Thật vậy, chỉ cần lật lại những
trang sử vào cuối thế kỷ thứ 10 liên quan đến vùng Huế và chịu khó suy nghĩ một
chút là thấy ngay châu Bố Chính đã trở về cương thổ Đại Việt từ thời Lê Đại
Hành.
Trong thời Ngũ Đại, Trung Hoa loạn lạc. Cả Quảng
Châu lẫn Giao Châu đều tìm cách giành quyền tự chủ. Tại Quảng Châu, năm 911,
Lưu Cung lập ra nước Đại Việt (năm 947 lại đổi thành Nam Hán), định đô ở Phiên
Ngung. Tại Giao Châu, năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lập ra nước Đại Cồ Việt, định đô ở
Hoa Lư. Trong lúc đó, Triệu Khuông Dẫn thống nhất Trung Qưốc, lập nên nhà Tống
vào năm 960, định đô ở Biện Kinh. Vua Tống sai tướng là Phan Mỹ đánh diệt nước
Nam Hán, nhưng về phần Giao Châu lại tạm thời phong cho Đinh Bộ Lĩnh làm Giao
Chỉ Quận vương vào năm 972. Năm 979, Đinh Bộ Lĩnh bị Đỗ Thích giết, vua kế vị
còn nhỏ tuổi, triều thần khuynh loát lẫn nhau. Nhà Tống thừa cơ, sai Hầu Nhân Bảo
và Lưu Trừng năm 980 đem quân thủy bộ hai mặt tiến đánh, đồng thời đưa thư ước
hẹn vua Chiêm Thành là Tỳ Mi Thuế (Paramecvaravarman) tiến công mặt nam của Đại
Cồ Việt. Quân sĩ bèn tôn Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua, lấy hiệu là
Đại Hành Hoàng đế. Lê Hoàn chia quân giữ chặt mặt thủy, không cho Lưu Trừng vào
sông Bạch Đằng, đồng thời đón đánh đạo quân Tàu đi đường bộ qua ngã Ôn Châu, bắt
giết chủ tướng Hầu Nhân Bảo, và cầm tù bọn bộ tướng Quách Quân Biện và Triệu Phụng
Hiếu. Năm 982, Lê Hoàn gửi sứ bộ sang Tống cầu hoà và được phong Tĩnh Hải Tiết
Độ sứ. Yên được mặt bắc, Lê Hoàn lập tức cất quân chinh phạt Chiêm Thành.
Vua Chiêm Thành Tỳ Mi Thuế xuất quân chống cự
nhưng bị chém chết ngay tại trận tiền. Quân Chiêm bị giết và bị bắt sống hàng mấy
vạn người. Người Chiêm tôn Indravarman IV lên làm vua để lo việc chống giữ,
nhưng không cản được đà tiến quân vũ bão của Đại Cồ Việt vào kinh đô Đồng
Dương. Indravarman IV phải chạy trốn vào Panduranga (Phan Rang). Quân nhà Tiền
Lê chiếm cứ Đồng Dương, thiêu hủy tông miếu hoàng gia Chiêm Thành, và chia quân
đóng giữ các nơi hiểm yếu đến tận Vijaya (Bình Định). Vua Lê Đại Hành ở lại
trên đất Chiêm một năm mới ban sư. Nhà vua lưu lại một đạo quân trú phòng dưới
quyền chỉ huy của quản giáp Lưu Kế Tông để chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành, bao
gồm phần đất quận Nhật Nam
cũ (Bình Trị Thiên), miền Amaravati (Quảng
Nam)
và miền Vijaya (Bình Định).
Những dữ kiện lịch sử trên đây, sử nước ta đều
ghi chép đầy đủ, thậm chí còn ghi chép tỉ mỉ rằng khi rút quân về năm 983 vua
Lê Đại Hành mang theo 100 cung nữ người Chiêm giỏi múa hát và một thầy tăng Ấn
Độ cùng rất nhiều vàng bạc châu báu (11), nhưng sử cũ lại tuyệt nhiên không đả
động gì đến việc vua Lê lưu quân chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành, và lúng túng
mô tả nhân vật Lưu Kế Tông như là một quản giáp đã trốn ở lại, bị vua Lê sai
người đuổi theo bắt được, đem chém. (12). Hơn nữa, sử nước ta không có lấy nửa
lời nói về những việc xẩy ra trên phần đất phía nam đèo Ngang sau năm 983 xuyên
suốt 3 đời vua triều Tiền Lê cho đến hết đời Thái Tổ triều Lý (13). Mãi khi Lý
Thái Tông đi đánh Chiêm Thành năm 1044, niên hiệu Minh Đạo thứ 3, sử cũ mới tỉ
mỉ kể chuyện nhà vua trên đường hành quân đổi tên cửa Đại Ác thành Đại An, gặp
các điềm lành mây đỏ che thuyền ngự, cá trắng nhảy lên chầu v.v., rồi chuyện
Quách gia Di chém Xạ Đẩu (Jaya Simhavarman II), chuyện vua Lý tiến quân vào Phật
Thệ bắt cung nữ múa điệu Tây Thiên, chuyện Mỵ Ê tử tiết ở sông Lý Nhân thuộc phủ
Trường Yên và được truy phong Hiệp chính Hựu thiện Phu nhân. Tiếp đến đời Lý
Thánh Tông, năm 1069, niên hiệu Thiên huống Bửu tượng thứ 2, nhà vua xuất quân
chinh phạt Chiêm Thành, sử cũ lại cũng dài dòng kể lể lộ trình hành quân và các
điềm cát tường, và cuối cùng là chuyện vua Chiêm Thành Chế Củ (Rudravarman III)
bị bắt và dâng 3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh để chuộc mạng.
Trong
thực tế, sau năm 983, trên phần đất phía nam đèo Ngang đã xẩy ra nhiều biến cố
quan trọng mà sử ta không đả động đến nhưng sử Tàu lại ghi chép tỉ mỉ rõ ràng.
Từ năm 983 đến năm 986, Lưu Kế Tông cai trị miền bắc Chiêm Thành. Năm 985,
Indravarman IV cử sứ bộ sang Tống triều khiếu nại với Tống Thái Tông việc Giao
Châu thiêu hủy tông miếu và chiếm cứ đất đai. Năm 986, Indravarman IV chết, Lưu
Kế Tông tự lập làm vua Chiêm Thành và cử phái bộ Lý Triều Tiên sang Tống triều
tiến cống và cầu phong. Người Chiêm nổi dậy chống đối và bị Lưu Kế Tông đàn áp,
phải bỏ chạy sang xin qui phụ Trung Quốc. Sử nhà Tống chép rằng năm 986, đời Tống
Thái Tông, niên hiệu Ung Hy thứ 3, biên thần Đạm Châu tâu rằng người Chiêm là bọn
Bồ La Át bị Giao Châu bức bách nên đem hơn 100 người trong họ chạy sang xin qui
phụ. Sử nhà Tống lại chép trong năm 987, niên hiệu Ung Hy thứ 4, huyện Thanh Viễn,
Nam Hải, thuộc Quảng Châu, tiếp nhận 150 người Chiêm tị nạn; và năm 988, niên
hiệu Đoan Cung năm đầu, biên thần Quảng Châu lại tâu có thêm 301 người Chiêm
xin qui phụ. Năm 988, người Chiêm Thành nổi loạn chiếm lại miền Vijaya (Bình Định)
và tôn Ku Xri Harivarman II (Băng vương La Duệ) lên ngôi vua tại thành Phật Thệ
(Chà Bàn). Lưu Kế Tông lo buồn sinh bệnh và qua năm sau thì mất (năm 989, niên
hiệu Hưng Thống năm đầu đời Lê Đại Hành). Harivarman II thừa cơ tiến lên chiếm
lại Amaravati, Ri, Ô, Ma Linh, Địa Lý. Năm 990, Lê Đại Hành sai quân sang đánh
châu Địa Lý, bắt được nhiều tù binh. Harivarman II liền cử sứ bộ mang tê ngưu
sang Tống triều tiến cống và tố cáo Giao Châu lại xâm chiếm đất đai Chiêm Thành.
Ngay trong năm 990, Tống Thái Tông xuống chiếu yêu cầu vua Lê bãi binh. Lê Đại
Hành chấp nhận nghị hòa, ra lệnh rút quân khỏi châu Địa Lý, đem về đóng giữ
châu Bố Chính. Năm 992, Lê Đại Hành trả cho Chiêm Thành 360 tù binh bị bắt trước
đây ở Địa Lý, và sai Ngô Tử An đem 3 vạn người mở đường bộ từ cửa Sót (Hà Tĩnh)
vượt đèo Ngang xuyên qua châu Bố Chính (Tuyên Hóa, Bố Trạch, Quảng Trạch) để đến
châu Địa Lý (Quảng Ninh, Lệ Thủy). Năm 993, Lê Đại Hành được nhà Tống phong tước
Giao Chỉ Quận vương (14).
Những
sử liệu kể trên cho thấy nhà Tống quyết tâm ngăn cản Đại Cồ Việt thôn tính
Chiêm Thành. Mặt khác, Lê Đại Hành tuy oanh liệt đánh bại quân Tống, nhưng vẫn
muốn cầu hòa và thụ phong. Do đó, trước áp lực của Tống triều, năm 983, Lê Đại
Hành phải minh thị rút đại quân về Bố Chính, và âm thầm lưu quân đóng giữ miền
bắc Chiêm Thành. Triều đình Hoa Lư phủ nhận mọi liên hệ với đạo quân trú phòng
này, rêu rao rằng họ là những phần tử đào nhiệm. Ngay cả việc Lưu Kế Tông tự lập
làm vua Chiêm Thành vào năm 986 cũng là do Hoa Lư chỉ đạo, nhưng lại biện bạch
với Tống triều rằng Lưu Kế Tông chỉ là viên quản giáp đào nhiệm năm 983, đã bị
bắt và bị chém.. Mãi đến khi Lưu Kế Tông chết năm 989, Harivarman II chiếm lại
đất đai đã mất, Lê Đại Hành mới ra mặt, sai quân đánh châu Địa Lý năm 990. Điều
này chứng minh rằng châu Bố Chính trong thực tế đã thuộc cương vực Đại Việt, nếu
không, vua Lê tất phải sai quân đánh châu Bố Chính trước. Lại nữa, sau khi Tống
Thái Tông đích thân can thiệp, Lê Đại Hành chịu bãi binh, và năm 992 sai Ngô Tử
An mở đường bộ vào châu Địa Lý, nếu châu Bố Chính không phải đã là đất Đại Việt
thì làm sao Ngô Tử An mở được đường xuyên qua đồng đất nước người.
Như
vậy, sử cũ nước ta về sau chép việc Chế Củ dâng 3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma
Linh cho Lý Thánh Tông để chuộc mạng là đã chép thêm châu Bố Chính để chính thức
hóa một việc đã rồi. Chính tờ chiếu của Lý Thánh Tông năm 1075, niên hiệu Thái
Ninh thứ 4, về việc đổi tên châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm
châu Minh Linh, và chiêu mộ di dân đến các châu ấy, mà không đả động gì đến
châu Bố Chính, đã xác định điều này. Thời cận đại, giáo sĩ R,D. Cadière nhận
xét cư dân ở Lâm Bình và Minh Linh thường qui tụ người cùng họ để lập thành
làng, như Ngô Xá, Hoàng Xá, Phan Xá, Hồ Xá v.v., và hiện tượng này không thấy
có ở Bố Chính (15). Điều này chứng minh rằng việc di dân đến 3 châu Bố Chính, Địa
Lý và Ma Linh đã không xẩy ra cùng một lúc, nói khác đi, khi lưu dân hưởng ứng
chiếu di dân của Lý Thánh Tông đến lập nghiệp ở Lâm Bình và Minh Linh thì ở Bố
Chính đã có người Việt đến định cư rồi. Như vậy, châu Bố Chính đã trở về cương
vực Đại Việt từ thời Tiền Lê, dưới triều Lê Hoàn.
Vùng Huế và danh xưng Việt Thường.
Vùng Huế là quận Nhật Nam đời Hán. Điều
này đã được chính sử ghi chép rõ ràng. Nhưng vùng Huế còn có một danh xưng khác
xưa hơn: vùng Huế là bộ Việt Thường nước Văn Lang đời Hùng vương. Tuy điều này
chỉ là truyền thuyết, không dựa vào những chứng tích xác tín của khoa khảo cổ,
nhưng đã có những cơ sở vững chắc và dồi dào về mặt lịch sử, văn học và chính
trị. Sử cũ nước ta chép rằng Việt Thường là một trong 15 bộ của nước Văn Lang, ở
vào vị trí vùng Bình Trị Thiên ngày nay (1).
Mặt khác, trong văn học nước ta và văn học Trung Quốc có nhan nhãn những
sáo ngữ “Ngựa Hồ trông gió Bắc, Chim Việt đậu cành Nam” (Hồ mã tê Bắc phong, Việt điểu
sào Nam
chi). Chim Việt là chim của xứ Việt Thường. Sử cũ nước Tàu chép rằng vào đời
Chu Thành vương, sứ bộ xứ Việt Thường đem cống chim trĩ trắng, chim nhớ quê
hương miền nam nên cứ tìm cành nam mà đậu. Sử cũ nước Tàu còn chép thêm rằng sứ
giả xứ Việt Thường nói thứ tiếng phải qua 12 lần trung gian phiên dịch mới hiểu
được, rằng Triều đình nhà Chu (Chu Công Đán) tặng sứ bộ Việt Thường xe chỉ nam
để sứ bộ tiện tìm đường về xứ v.v. Thật ra thì cho tới nay cũng chưa có sách vở
nào khẳng định cái xứ Việt Thường đem cống chim trĩ trắng cho nhà Chu nằm vào
cương vực nước ta ngày nay. Sách xưa của Tàu (thiên Vũ Cống) nói rằng xứ Việt
Thường ở phía nam đất Giao Chỉ, nhưng danh xưng Giao Chỉ chép trong sách xưa của
Tàu là để chỉ vùng đất có giao long (cá sấu) (3), tức là vùng đất ở giữa các hồ
Động Đình và Phiên Dương, chứ không phải là Giao Chỉ Bộ đời Hán. Mặt khác, một
vài nhà khảo cổ người Pháp thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội cho rằng Việt
Thường là nước Xa Lý xưa kia ở trong cương vực tỉnh Vân Nam ngày nay (16). Vậy
chỉ có điều chắc chắn là xứ Việt Thường đó ở về phương nam, trong vùng cư trú của
chủng tộc Bách Việt. Còn khẳng định rằng xứ Việt Thường đó là bắc bộ quận Nhật
Nam đời Hán, tức là vùng Huế ngày nay, thì là một việc làm có phần vội vã. Hơn
nữa, nếu Việt Thường là một bộ của nước Văn Lang thì thử hỏi tương quan giữa bộ
Việt Thường và nhà nước trung ương Văn Lang như thế nào mà địa phương Việt Thường
lại tự tiện đem chim trĩ trắng trực tiếp giao thiệp với nước ngoài.
Mặt khác, nếu cho rằng quận Nhật Nam đời Hán
là bộ Việt Thường thời Hùng vương thì điều ức đoán này của sử cũ nước ta cũng
là hồ đồ, không có đủ cơ sở khoa học, để có giá trị thuyết phục. Các danh xưng
Việt Thường, Cửu Đức, Vũ Ninh, Hoài Hoan v.v. của 15 bộ nước Văn Lang đều là từ
ngữ Hán, mà thời Hùng Vương, dân ta đâu đã chịu ảnh hưởng văn hóa của người
Tàu, dân ta đâu đã biết dùng Hán tự để đặt tên người, tên xứ. Danh xưng của 15
bộ nước Văn Lang, ngoại trừ Việt Thường, chẳng qua là tên châu, tên quận của đời
sau, sử cũ đã chép lại và gán cho các phân hạt hành chánh tưởng tượng của nước
Văn Lang thời Hùng Vương. Mà ngay cả cái quốc hiệu Văn Lang cũng là một mối ngờ
lớn về sự chính xác. Thực vậy, vào thời Hùng Vương, lúc nhà Tần chưa đem quân
vào đất Lục Lương, lập ra các quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng quận, thì người
Tàu thường gọi Quảng Đông là Âu Việt, Quảng Tây là Tây Âu, Việt Nam là Lạc Việt.
Từ thuở các vua Hùng mở nước cho đến khi Thục Phán nổi lên từ Tây Âu đánh bại
vua Hùng cuối cùng và kiêm tính Lạc Việt để lập ra nước Âu Lạc vào năm 257 trước
Công nguyrên thì người Tàu gọi chung xứ này là Môn Lang (làng của người Môn).
Trong quá trình tiến hóa của Hoa ngữ, trước thời Hán Đường, người Tàu đọc văn
là môn, cũng như ngày nay, người Tàu lại đọc văn thành wen (uân). Mà Hán tự lại
là thứ chữ tượng hình, không phải là thứ chữ ký âm, cho nên dù đọc là môn, là
văn hay là wen thì chữ cũng viết y hệt nhau. Dân ta tiếp thụ Hán tự vào thời
Hán Đường, khi mà chữ môn đã được đọc là văn, cho nên Môn Lang trở thành Văn
Lang trong sử sách nước ta. Việc người Tàu trước thời Tần Thủy Hoàng gọi địa
bàn sinh hoạt của cư dân Bách Việt là Môn Lang (làng của người Môn) phù hợp với
các kiến giải nhân chủng học cận đại cho rằng người Môn ở Nam Á (người
Indonesian) bị người Aryens đánh đuổi nên tràn qua Đông Dương và Hoa Nam rồi về
sau Hán hóa mà trở thành người Tiều, người Quảng, người Việt v.v., chỉ rơi rớt
các phần tử rút vào rừng sâu là còn giữ nguyên bản sắc mà điển hình là người Mường
ở bắc bộ Đông Dương. Người Tây Âu và người Lạc Việt thời bấy giờ (người Môn) ở
trần, đóng khố, nên trong văn thư gửi Hán Văn Đế, Triệu Vũ Vương đã nói dân Âu
Lạc là dân trần truồng (4). Gần đây, Hoàng Văn Chí, vốn là dân Thanh Hóa chính
gốc, đã viết rằng dân Mường Thanh Hóa ngày nay vẫn tự xưng: “Tôi là người Môn,
tôi là người Mọi”.
Tuy
vậy, vẫn có sự mặc nhiên công nhận những dữ kiện lịch sử và chính trị khẳng định
vùng Huế xưa kia là xứ Việt Thường, cả về phía chính giới Việt Nam lẫn về phía
chính giới Trung Quốc. Thật vậy, sau khi lên ngôi vua, cùng trong năm 1802, Gia
Long trước sau liên tiếp cử Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định cầm đầu 2 sứ bộ
sang Tàu cầu phong. Trong biểu tấu, Gia Long xin nhà Thanh cho đặt tên nước là
Nam Việt, lấy lý do là đã thống nhất An Nam và Việt Thường làm một mối. An Nam
là Đàng Ngoài, từ Bắc Bộ tới Hà Tĩnh. Việt Thường là Đàng Trong, từ Quảng Bình
tới Nam Bộ. Triều Đình nhà Thanh họp bàn, không mảy may thắc mắc về danh xưng
Việt Thường, nghĩa là mặc nhiên nhận rằng Việt Thường là phần đất phía nam đèo
Ngang, mà chỉ thắc mắc về danh xưng Nam Việt, nghi ngại Gia Long nhắc nhở đến
nước cũ của Triệu Đà với ý đồ xin trả lại đất Lưỡng Quảng. Vì vậy, thay vì Nam
Việt, nhà Thanh đổi ngược lại là Việt Nam, phong cho Gia Long tước vị Việt Nam
Quốc Vương, vẫn với ý nghĩa là đã thống nhất An Nam và Việt Thường làm một mối.
Với việc tấn phong này, cả hai phía Việt Nam và Trung Quốc đều dùng danh
xưng Việt Thường để chỉ phần đất phía nam đèo Ngang, chủ yếu là vùng Huế.
Nước non ngàn dặm ra đi.
Đất nước nào cũng có những con người làm nên
lịch sử của đất nước đó, và lưu lại dấu ấn trên cảnh sắc và phong cách con người
các đời sau. Vùng Huế cũng vậy. Cảnh sắc và phong tư con người vùng Huế xưa nay
đã quyện vào nhau, thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, tạo thành bản sắc đặc biệt
của vùng Huế xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Trên cái tổng thể thiên
nhiên sơn kỳ thủy tú do Tạo hóa an bài, những con người nước non ngàn dặm ra đi
để làm nên lịch sử vùng Huế, cho dù là khách phong lưu tài tuấn, hay là bậc khí
phách anh hào, đã ít mhiều lưu lại dấu ấn sâu sắc cho ngàn sau.
Nước Chiêm
Thành, sau khi bị Lê Hoàn phá hủy kinh thành Đồng Dương, phải thiên đô vào Phật
Thệ (Vijaya) thì thế nước bắt đầu suy yếu. Lại hai lần bị các vua Lý Thái Tông
và Thánh Tông chiếm đất bắt người, nên đối với Đại Việt, Chiêm Thành giữ phận
chư hầu. Từ khi nhà Trần lên thay nhà Lý, người Chiêm Thành thỉnh thoảng sang
cướp phá ven biển, vì thế, năm 1252, niên hiệu Nguyên Phong thứ 2, vua Trần
Thái Tông ngự giá thân chinh, bắt được vương phi là Bố Gia La, nhiều cung nữ và
tù binh, rồi rút về. Từ đó, nhất là sau khi Indravarman V lên ngôi, Chiêm Thành
đều đặn triều cống. Đến khi Hốt Tất Liệt lên làm vua Trung Quốc, lập ra nhà
Nguyên, tức là Nguyên Thế Tổ, vua Nguyên phong cho Indravarman V làm Chiêm
Thành Quận vương, và năm 1280, niên hiệu Chí Nguyên thứ 17, sai Toa Đô và Lưu
Thâm sang chia đất đặt quan cai trị. Người Chiêm Thành không chịu, hai sứ giả
phải trở về. Năm 1282, Nguyên Thế Tổ sai Toa Đô mang quân sang đánh Chiêm
Thành. Vì không mượn được đường bộ qua Đại Việt, quân Toa Đô phải đi đường biển.
Quân Chiêm Thành thực hiện chiến thuật tiêu thổ kháng chiến, quân Nguyên lại
không quen với khí hậu phương nam, hao binh tổn tướng mà không thu được kết quả
gì, nên năm 1285, Toa Đô được lệnh rút thủy sư ra Nghệ An hội quân với Thoát
Hoan đánh Đại Việt. Kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi, Indravarman V xét
mình đã quá già nên truyền ngôi cho con là Harijit. Harijit lên làm vua, lấy hiệu
là Jaya Simhavarman III, sử ta gọi là Chế Mân.
Về phía Đại Việt,
nhà Nguyên Mông ba lần mang quân thủy bộ xâm lược nhưng đều bị thảm bại. Sau
khi đánh đuổi Nguyên Mông, vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông,
lên làm Thái Thượng Hoàng để ngao du sơn thủy. Năm 1301, tháng 2, niên hiệu
Hưng Long thứ 9, Thượng Hoàng Nhân Tông sang Chiêm Thành, ở chơi 9 tháng. Trong
thời gian này, Thượng Hoàng có hứa gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Năm
1305, Chiêm Thành cử sứ bộ Chế Bồ Đài sang dâng 2 châu Ô, Ri làm sính lễ để cưới
công chúa Huyền Trân. Triều thần đều tỏ ý phản đối, chỉ có Văn Túc vương Đạo
Tái cho là việc nên làm. Năm 1306, tháng 6, niên hiệu Hưng Long thứ 14, nhà Trần
đưa công chúa Huyền Trân về Chiêm Thành. Tình cảnh của công chúa lúc bấy giờ,
má hồng da tuyết, sen ngó đào tơ, vì nước vì nhà mà phải cất bước ra đi ngàn dặm,
thử hỏi khách phong lưu tài tuấn đương thời cũng như ngàn sau, có ai không cảm
thấy ngậm ngùi:
Nước
non ngàn dặm ra đi
Cái
tình chi ...
Mượn màu son phấn, đền nợ Ô Ly.
Đắng cay vì đương độ xuân thì
Số lao đao hay là nợ duyên gì?
Má hồng da tuyết
Vàng lộn theo chì ...
(Ca Huế, điệu Nam ai, Ưng Bình
Thúc Dạ Thị)
Đoàn thuyền của công chúa Huyền Trân ghé vào cửa
biển Ô Long (nay là cửa Tư Hiền, phía nam Huế) nghỉ ngơi, nhân đó nhà Trần mới
đổi Ô Long thành Tư Dung. Tư là tưởng nhớ, dung là nét mặt, dáng người. Nhìn cảnh
sắc mà tưởng nhớ tới con người. Tư Dung, thật không có danh từ nào thanh nhã mà
gợi cảm bằng để tỏ lòng tri ân người xưa đã có công mở nước. Đến nhà Mạc, vì
kiêng húy Mạc Đăng Dung, nên cửa biển Tư Dung đổi tên là Tư Khách. Qua triều Lê
Trung Hưng, lại lấy tên Tư Dung như cũ. Năm 1811, triều Gia Long, cửa biển Tư
Dung bị cát bồi nên lần lần trở thành cạn hẹp, tàu lớn không vào được. Năm
1841, niên hiệu Thiệu Trị năm đầu, cửa biển Tư Dung được đổi tên thành Tư Hiền.
Thời trước, cửa Tư Hiền còn rất sâu rộng, các đạo vương sư Lý, Trần và Hậu Lê
chinh phạt Chiêm Thành đều dừng lại nghỉ ngơi ở đây. Vua Lê Thánh Tông còn lưu
lại bài thơ Tư Dung Hải môn lữ thứ :
Lâu thuyền kích cổ đáo Ô Long,
Bách nhị quan hà thử yếu xung.
Liệt chướng huyền nhai thanh xúc xúc,
Kê thiên phách lãng bích trùng trùng..
Tiên triều sự nghiệp truyền di tích
Nam quốc dư đồ nhận cựu phong.
Nạp cấu tàng ô hà hải lượng,
Nhân gian vô xứ bất triều tông.
Đào Duy Từ có
bài Tư Dung vãn ca ngợi cảnh sắc hùng tráng của cửa biển Tư Dung, xin trích mấy
câu:
Khéo ưa thay cảnh Tư Dung,
Cửa thâu bốn bể, nước thông trăm ngòi.
Trên thời tinh tú phân ngôi,
Đêm treo thỏ bạc ngày soi ác vàng.
Dưới thời sơn thủy khác thường,
Động Đình ấy nước, Thái Hàng kìa non (17)
Cửa Tư Hiền mở
vào phá Cầu Hai, ăn thông với đầm Hà Trung và phá Tam Giang ở phía bắc,
bên trái là núi Túy Vân (Qui Sơn), bên
phải là mũi Chân Mây (Cái Sơn), sau lưng là núi Bạch Mã, sông nước mênh mông,
núi non sừng sững, thật là nơi danh thắng đệ nhất. Đã thế, vùng cửa Tư Hiền lại
có nhiều di tích lịch sử thời cổ đại. Thị trấn Cầu Hai (Cao Đôi), huyện lỵ huyện
Phú Lộc ngày nay, là lỵ sở huyện Thọ Lãnh đời Tấn. Mủi Chân Mây là bến Ôn Công
thời Bắc thuộc, dùng làm đường phân ranh giữa Giao Châu và Lâm Ấp. Trên núi Túy
Vân còn có di tích tháp Chàm và chùa Thánh Duyên do chúa Nguyễn Phúc Tần dựng
năm 1648. Năm 1841, vua Thiệu Trị trùng tu chùa, đổi lại tên là chùa Túy Vân,
và làm bài thơ Vân Sơn thắng tích cho khắc vào bia đá dựng bên chùa. Trên núi Bạch
Mã, ở độ cao 1500 mét, là thị trấn nghĩ mát của người Pháp, có gần 700 ngôi biệt
thự lớn nhỏ, và là nơi cắm trại hàng năm của Hướng Đạo Đông Dương. Vì chiến
tranh liên miên, Bạch Mã bị bỏ hoang phế từ năm 1946, và chỉ gần đây mới được
chỉnh trang lại để trở thành một điểm du lịch hấp dẫn của vùng Huế.
Năm 1307, niên hiệu Hưng Thống thứ 15, vua
Anh Tông sai Hành Khiển Đoàn Nhữ Hài vào dẹp loạn ở các sách La Thủy, Tác Hồng,
Đà Bồng, chiêu phủ dân chúng, đổi Ô, Ri làm Thuận Châu và Hóa Châu, chọn người
sở tại làm quan (18), cấp ruộng đất cho dân và miễn 3 năm tô thuế. Thuận Châu
là giải đất từ sông Nhung đến sông Bồ, gồm các phủ Triệu Phong, Hải Lăng và các
huyện Phong Điền, Quảng Điền ngày nay. Hóa Châu là giải đất từ sông Bồ đến sông
Túy Loan, trãi dài từ huyện Hương Trà đến phủ Điện Bàn ngày nay, bao gồm cả 2
thành phố Huế và Đà Nẵng. Đoàn Nhữ Hài là danh nhân tài trí, không phải là người
hoàng tộc mà được ở ngôi đại thần, là điều hiếm thấy tại triều đình nhà Trần.
Đoàn Nhữ Hài được ủy thác liệu lý việc phương Nam, bao nhiêu phen đi sứ Chiêm
Thành đều chu toàn mệnh vua và xiển dương thế nước (19), vỗ yên trăm họ hai
châu Thuận, Hóa, biết chọn lựa và tin dùng thổ quan, nhờ vậy mà chỉ 100 năm
sau, trong đám cư dân bản địa đã phát sinh những nhân vật kỳ vĩ như cha con Đặng
Tất, Đặng Dung, và Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cảnh Dị, là linh hồn cuộc kháng chiến
đời Hậu Trần, khiến chủ soái quân Minh là Trương Phụ phải một phen suýt chết ở
ngã ba Sình, trước thành Hóa Châu.
Thành Hóa Châu còn lưu di tích ở vùng Lại
Ân, thuộc vùng ven Huế.
Thành Hóa Châu do người Chiêm Thành xây dựng vào thời Đường, khi người Tàu dứt
khoát bỏ đất Nhật Nam vào đời Đường Hy Tông (năm 875), và bắt đầu gọi nước láng
giềng phương nam của Giao Châu là Chiêm Thành (Champapura). Sau khi trở lại
cương vực Đại Việt, thành Hóa Châu được
Hồ Quý Ly tu bổ vào năm 1391, niên hiệu Quang Thái thứ 4 đời Trần Thuận Tông.
Năm 1402, niên hiệu Thiệu Thánh thứ 2 triều Hồ Hán Thương, đường cái quan từng
chặng có phố xá, có trạm ngựa, gọi là Thiên lý cù, được thiết lập để nối liền
thành Hóa Châu với kinh thành Tây Giai. Hồ Hán Thương lại sai Hành khiển Đỗ Mãn
đem quân đánh Chiêm Thành, lấy đất Chiêm Động và Cổ Lủy, đặt thành 4 châu
Thăng, Hoa, Tư, Nghỉa và trấn Tân Ninh., đem dân Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá
vào định cư lập nghiệp. Khi quân Minh sang đánh diệt họ Hồ, người Chiêm Thành
thừa cơ lấy lại Chiêm Động và Cổ Lủy, đám di dân Đại Việt phải chạy về Hóa
Châu. Người Minh gộp Thuận Châu và Hóa Châu lại thành phủ Thuận Hóa, và cải
châu Tân Bình thành phủ Tân Bình.
Bình Định vương Lê Lợi khởi nghĩa năm 1418,
đến năm 1425 sai Trần Nguyên Hãn, Lê Nỗ, Lê Ngân, đánh chiếm Tân Bình và Thuận
Hóa, sai hàng tướng Châu Sài lập trại chăn ngựa ở Hóa Châu và định cư tù binh
người Minh ở Tân Bình. Lên ngôi năm 1428, vua Lê Thái Tổ chia nước làm 5 đạo.
Thuận Hóa thuộc đạo Hải Tây, là giải đất chạy dài từ Ninh Bình đến Đà Nẵng ngày
nay. Năm 1466, niên hiệu Quang Thuận thứ 7, Lê Thánh Tông chia nước làm 12 đạo
Thừa tuyên và phủ Phụng Thiên. Thuận Hóa Thừa tuyên gồm 2 phủ là Tân Bình và
Triệu Phong. Phủ Tân Bình lĩnh 2 huyện Khương Lộc (Quảng Ninh) và Lệ Thủy, và 2
châu Bố Chính (Tuyên Hóa, Bố Trạch, Quảng Trạch) và Minh Linh (Vĩnh Linh, Gio
Linh). Phủ Triệu Phong lĩnh 6 huyện Vũ Xương (Đăng Xương), Hải Lăng, Đan Điền
(Quảng Điền, Phong Điền), Kim Trà (Hương Trà, Phong Điền), Tư Vinh (Phú Vang,
Phú Lộc), và Điện Bàn (Điện Bàn, Hòa Vang, Đà Nẵng).
Năm 1471, niên hiệu Hồng Đức thứ 2, Lê
Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, hạ thành Chà Bàn, bắt sống vua Chiêm
Thành Trà Toàn, thu phục đất cũ Chiêm Động và Cổ Lủy để đặt lại các phủ Thăng
Hoa, Tư Nghĩa, và lấy thêm đất Vijya đặt ra phủ Hoài Nhân, gộp chung 3 phủ lại
thành đạo Thừa tuyên Quảng Nam. Như vậy, nước ta lúc bấy giờ có 13 đạo Thừa
tuyên và phủ Phụng Thiên (Hà Nội). Năm 1490, niên hiệu Hồng Đức thứ 21, Lê
Thánh Tông đổi đạo Thừa tuyên làm xứ. Đến đời Lê Tương Dực lại đổi xứ làm trấn.
Sau khi lập thêm đạo Thừa tuyên Quảng Nam, Lê Thánh Tông cho lệnh chiêu mộ dân
Bắc Hà và Thanh Nghệ vào định cư lập nghiệp ở vùng đất mới. Niên đại 1471 đánh
dấu việc hoàn tất sự nghiệp thống nhất Chiêm Thành với Đại Việt, đem huyện Tượng
Lâm trở về với quận Nhật Nam. Những đoàn di dân miệt ngoài, nước non ngàn dặm
ra đi, theo dấu mở đường của công chúa Trần Huyền Trân, thế hệ này tiếp nối thế
hệ khác, đã lưu dấu ấn sâu sắc trên quê hương mới, biến đổi vùng Huế từ vai trò
mũi xung kích của căn cứ địa Thăng Long, trở thành trung tâm hình thành và phát
triển xứ Đàng Trong.
Hoành Sơn nhất đái, vạn đại
dung thân.
Nhà Hậu Lê đến triều Chiêu Tông thì suy yếu,
giặc giả khắp nơi, cuối cùng mất ngôi về họ Mạc vào năm 1527.
Ở Thuận Hóa, các thổ tù nổi dậy, đem binh
chém giết lẫn nhau. Mạc Đăng Dung lên ngôi, lấy niên hiệu là Minh Đức, sai em
là Tín vương Mạc Quyết vào kinh lược Thuận Hóa, bắt giết hết bọn Hoàng Công
Châu, Đinh Liễn, Thuận Hóa mới tạm yên. Sau đó xẩy ra vụ Mạc Chính Trung giành
ngôi, triều đình nhà Mạc phải triệu tướng sĩ Thuận Hóa về kinh dẹp loan. Việc
xong, người Điện Bàn là Nguyễn Lễ được phong tước Đồng Xuân hầu, người Kim Trà
là Hoàng Đình Hiển được phong tước Quế Lâm bá, các người Hải Lăng là Hoàng Bôi
và Hồ Biến được phong tước Viên Trạch bá và Diên Truờng bá, người Minh Linh là
Hồ Công Khanh được phong tước Liễu Chữ bá, người Bố Chính là Phạm Khắc Khoan được
phong tước Kỳ Giang bá (20).
Năm 1533, tại Sầm Nứa, An Thành hầu Nguyễn
Kim lập con của Chiêu Tông là Lê Ninh lên làm vua, lấy niên hiệu là Nguyên Hòa,
ấy là vua Trang Tông. Nguyễn Kim được phong là Thượng phụ Thái sư Hưng quốc
công. Trong thời gian từ 1539 đến 1543, Nguyễn Kim và con rễ là Trịnh Kiểm kéo
quân về lần lượt chiếm lại Thanh Nghệ và Tây Đô. Năm 1545, Nguyễn Kim bị Dương
Chấp Nhất đánh thuốc độc chết, Trịnh Kiểm lên thay giữ chức Đô Tướng Tiết chế
thủy bộ chư dinh, và được gia phong tước Lượng quốc công. Năm 1548, niên hiệu
Nguyên Hòa thứ 16, Lê Trang Tông sai Tây Quận công Lê Phi Thừa đem quân kinh lược
Thuận Hóa và Quảng Nam, quan lại nhà Mạc nhiều người chịu qui thuận. Năm 1554,
nhà Mạc sai Kỳ Giang bá Phạm Khắc Khoan làm Tham chính Thuận Hóa, tụ họp thủ
túc, cùng Tỉnh Xuyên bá Hoàng Chất chống lại nhà Lê, nhưng trước sau đều bị giết.
Viên Trạch bá Hoàng Bôi giữ đầu nguồn Hải Lăng, cầm cự được 5 năm rồi cũng bị bắt
giết. Từ đó Thuận Hóa mới hoàn toàn thuộc nhà Lê.
Hai con trai của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và
Nguyễn Hoàng đều có quân công nên được phong tước hầu. Về sau dưới triều Lê
Trung Tông, Nguyễn Uông lại được tiến phong tước Lãng quận công, và Nguyễn
Hoàng tước Đoan quận công. Trịnh
Kiểm giữ chức Hữu tướng, Nguyễn Uông giữ chức Tả tướng, vì thế Trịnh Kiểm nghi
ngờ Nguyễn Uông âm mưu nắm lại binh quyền nên giết Nguyễn Uông. Nguyễn Hoàng sợ
bị hãm hại nên giả điên và cho người đi vấn kế Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Trạng Trình chỉ núi non bộ trước sân mà nói với sứ giả của Nguyễn Hoàng: “Hoành
sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, nghĩa là một giải Hoành sơn, dung thân muôn đời.
Hiểu ý, Nguyễn Hoàng nhờ chị là Ngọc Báu xin với Trịnh Kiểm cho đi Trấn thủ Thuận
Hóa. Trịnh Kiểm nghĩ rằng Thuận Hóa xa xôi cách trở, rừng thiêng nước độc, dân
tình ngang ngược đảo điên, lại còn đày dẫy dư đảng nhà Mạc, Nguyễn Hoàng vào đó
trước sau rồi cũng chết nên thuận cho.
Năm 1558, niên hiệu Chính trị năm đầu, triều
Lê Anh Tông, Đoan quận công Nguyễn Hoàng và đoàn tùy tùng vào Cửa Việt, ngược
sông Thạch Hãn, đóng dinh tại bãi cát Cồn Cỏ xã Ái Tử, thuộc huyện Vũ Xương
(sau đổi là Đăng Xương, ngày nay là phủ Triệu Phong). Năm 1570, niên hiệu Chính
Trị thứ 13, Nguyễn Hoàng được Lê Anh Tông cho kiêm lĩnh trấn Quảng Nam, đeo ấn
Thuận Quảng Tổng trấn Tướng quân, đặt quân hiệu là dinh Hùng Nghĩa. Nguyễn
Hoàng dời dinh sang xã Trà Bát, cách Ái Tử 2 kilômét, cũng thuộc huyện Vũ
Xương. Sau khi đánh giết bọn thổ hào Mỹ Lương là nội gián của chúa Trịnh và
dùng mỹ nhân kế diệt trừ Lập Bạo là tướng nhà Mạc, trong xứ được yên, Nguyễn
Hoàng cùng các cộng sự viên thân tín là Nguyễn Ủ Dĩ (cậu ruột), Mạc Cảnh Huống
(thông gia), Tống Phước Trị (nguyên Trấn thủ Thuận Hóa) chuyên tâm vào việc sửa
sang nội trị, biến vùng Thuận Quảng thành nơi phồn vinh an lạc, dân tình thuần
hậu, “ngoài đường không ai nhặt của rơi, ban đêm không nhà nào cài cửa”. Nguyễn
Hoàng đều đặn nộp tuế cống và chi viện quân lương cho vua Lê, thỉnh thoảng lại
ra Thanh Hoa chầu vua. Năm 1593, niên hiệu Quang Hưng thứ 16 triều Lê Thế Tông
(một năm sau khi Trịnh Tùng thu phục Đông Đô), Nguyễn Hoàng đem voi ngựa quân
lính ra kinh chầu vua và dâng nạp sổ sách binh lương, kho tàng 2 trấn Thuận Quảng.
Nguyễn Hoàng được vua Lê Thế Tông tấn phong Trung quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc, Chưởng
phủ sự, Thái úy, Đoan quốc công. Nguyễn Hoàng ở lại Đông Đô 8 năm trời, thuờng
đem quân giúp Trịnh Tùng đánh dẹp dư đảng nhà Mạc và các phần tử phản loạn
khác, lập nhiều huân công. Năm 1600, niên hiệu Hoằng Định năm đầu, triều Lê
Kính Tông, Nguyễn Hoàng xúi Phan Ngạn, Ngô Đình Nga, Bùi Văn Khuê làm phản để
mượn cớ đi dẹp loạn mà mang quân bản bộ trở về Thuận Hóa.
Từ đó, Nguyễn Hoàng không ra Bắc Hà chầu vua
Lê nữa. Mầm mống chia cắt Đàng Trong Đàng Ngoài nẩy sinh từ đây. Để hòa hoãn với
Đàng Ngoài, Đoan quốc công Nguyễn Hoàng kết thông gia với Bình An vương Trịnh
Tùng, gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng. Mặt khác, Nguyễn Hoàng lập dinh trấn
Quảng Nam ở Cần Húc (Duy Xuyên ngày nay) để chứa lương, lấy huyện Điện Bàn thuộc
phủ Triệu Phong đặt làm phủ Điện Bàn thống thuộc trấn Quảng Nam, đổi phủ Tiên
Bình làm phủ Quảng Bình, phủ Tư Nghĩa làm phủ Quảng Nghĩa. Năm 1611, niên hiệu
Hoằng Định thứ 12, triều Lê Kính Tông, Nguyễn Hoàng sai quân đánh chiếm vùng đất
phía nam phủ Hoài Nhân, đặt làm phủ Phú Yên gồm 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa.
Nguyễn Hoàng mộ đạo Phật, bình sinh xây dựng
nhiều chùa chiền trên đất Thuận Quảng: chùa Sùng Hóa ở Phú Vang, chùa Bửu Châu ở
Trà Kiệu, chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch (Quảng Bình), chùa Long Hưng ở Cần Húc,
và đặc biệt chùa Thiên Mụ ở Hương Trà.
Chùa Thiên Mụ
do Nguyễn Hoàng cho khởi công năm 1601, tại xã Hà Khê, trên một ngọn đồi sát bờ
sông Hương. Tương truyền trước đây có người chiêm bao thấy một bà già áo đỏ quần
xanh ngồi trên đỉnh đồi nói rằng: “sẽ có chân chúa đến xây chùa ở đây để tụ
linh khí cho bền long mạch”. Nhân đấy, chùa có tên là chùa Thiên Mụ. Năm 1862,
niên hiệu Tự Đức thứ 15, chùa được đổi tên là Linh Mụ, nhưng 7 năm sau, chùa lại
mang tên cũ Thiên Mụ. Chùa Thiên Mụ là đệ nhất danh thắng của xứ Huế. Chùa ở
trên đỉnh đồi cao, hướng mặt ra sông Hương. Bên kia sông là gò Long Thọ, thời
các chúa Nguyễn có tên gọi là Thọ Khương, đời Gia Long đổi lại là Thọ Xương. Từ
Thiên Mụ nhìn về hạ lưu sông Hương, bên bờ bắc là phượng đỏ, bên bờ nam là tre
xanh, nhìn gần thì nhà cửa vườn tược ẩn hiện, nhìn xa thì ruộng đồng đồi núi trập
trùng, cảnh sắc vừa hùng tráng, vừa trữ tình:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
Năm
1715, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 triều Lê Dụ Tông, sau khi đúc chuông (năm
1710) và trùng tu chùa trên quy mô lớn (năm 1714), chúa Nguyễn Phúc Chu cho dựng
bia trước cổng chùa, văn bia mở đầu như sau:
Ngự kiến Thiên Mụ tự
Quốc chủ Nguyễn
Phúc Chu tự Động Thượng chính tông tam thập thế pháp danh Hưng Long hiệu Thiên
Túng đạo nhân đỉnh kiến Thuận Hóa Thiên Mụ tự bi ký minh.
(Chúa dựng chùa Thiên Mụ. Quốc chúa Nguyễn
Phúc Chu kế truyền chính tông phái Động Thượng đời thứ 30, pháp danh Hưng Long,
hiệu Thiên Túng đạo nhân, ghi văn bia và dựng bia vững bền ở chùa Thiên Mụ xứ
Thuận Hóa)
Văn bia cho biết:
“Từ ngoài cổng đi vào có điện Thiên Vương, điện Ngọc Hoàng,, điện Đại Hùng, nhà
Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh. Hai bên chùa thì có lầu chuông, lầu trống, điện Thập
Vương, nhà uống trà, nhà ăn, nhà thiền, điện Đại Bi, điện Dược Sư, phòng thiền
cho tăng lữ, tất cả cũng trên dưới mấy chục ngôi nhà. Thêm vườn Tỳ Da có phương
trượng của sư trụ trì cũng có trên dưới mười mấy phòng, huy hoàng lộng lẫy,
nhìn thấy ai cũng thích thú và nể phục” (21).
Dưới các triều Gia Long và Minh Mạng, chùa
Thiên Mụ đều được sửa sang tu bổ, nhưng quần thể kiến trúc Thiên Mụ thực sự
hoàn hảo là dưới triều Thiệu Trị, sau khi nhà vua sai Vũ Lâm Doanh Hữu Dực Thống
chế Hoàng Văn Hậu xây tháp Phước Duyên và đình Hương Nguyện (từ năm 1844 đén
năm 1846). Đến đời Thành Thái, năm 1904, chùa Thiên Mụ bị bão tàn phá nặng nề.
Năm 1906, chùa được tái thiết nhưng với quy mô khiêm tốn như được thấy ngày
nay.
Gần chùa Thiên
Mụ, về phía thượng lưu sông Hương, là điện Hòn Chén, xây trên núi Ngọc Trản,
trong địa phận xã Hải Cát. Điện Hòn Chén tuy quy mô nhỏ nhưng cũng là một nơi
danh thắng. Núi Ngọc Trản đột khởi trên một nền đất đá nhô ra sông Hương, chân
núi sát bờ vực thẳm, trên núi cây cối bốn mùa xanh tốt, đỉnh núi là một vùng
trũng như miệng chén đầy nước trong vắt, do đó mà có tên núi Ngọc Trản. Trên
lưng chừng núi nguyên là tháp Chàm thờ nữ thần Po Y Nagar. Người Việt di cư đến
tiếp tục thờ thần Po Y Nagar với tên mới Thánh mẫu Thiên Y A Na, và xây điện thờ
thay chổ tháp cũ. Điện có tên là điện Hòn Chén. Ngoài ra còn có các tên điện Ngọc
Trản và Huệ Nam điện, nhưng không thông dụng bằng. Thành phố Huế có hàng trăm
am miễu lên đồng, nhưng điện Hòn Chén là nơi thờ phượng chính và là nơi cử hành
lễ hội hàng năm của Thiên Tiên Thánh giáo. Điện Hòn Chén nhìn mặt ra sông
Hương. Bên trong điện thờ gọi là Minh Kính Đài, ngoài tượng Thánh mẫu Thiên Y A
Na, còn có tượng Phật, tượng Quan công, một số tượng La Hán, các tượng Đồng cô,
Đồng cậu, và ảnh vua Đồng Khánh. Về sau, công chúa Liễu Hạnh tức Vân Hương
Thánh mẫu cũng thờ ở đây. Không biết rõ điện Hòn Chén được kiến tạo vào niên đại
nào, chỉ biết điện được trùng tu một lần năm 1834 dưới triều Minh Mạng, và một
lần năm 1886 dưới triều Đồng Khánh.
Năm 1613, niên
hiệu Hoằng Định thứ 21, Đoan quốc công mất, truyền cơ nghiệp cho con là Nguyễn
Phúc Nguyên. Vua Lê Kính Tông sai sứ giả vào Vũ Xương phúng điếu và phong Nguyễn
Phúc Nguyên làm Trấn Thủ Thuận Hoá và Quảng Nam, gia hàm Thái Bảo Thụy quận
công.
Dư bất thụ sắc, hay là con đường từ Phú Xuân đi Gia Định.
Nguyễn Phúc Nguyên được thủ hạ tôn làm Thống
lãnh thủy bộ chư quân, kiêm Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, Thái
bảo Thụy quận công. Dân chúng thường gọi là chúa Phật, chúa Sãi, hay Sãi vương.
Chúa bãi chức các quan lại do nhà Lê bổ nhiệm, bỏ các ty Đô, Thừa, Hiến, mà
thay bằng các ty Xá sai, Tướng thần lại, và Lệnh sử. Chúa dời phủ từ làng Trà
Bát huyện Vũ Xương vào làng Phước Yên huyện Quảng Điền. Chúa lại đặt dinh Ai
Lao gồm 6 thuyền quân tại thượng nguồn sông Cam Lộ ở nơi tiếp giáp với xứ Lào để
khống chế các bộ tộc Lục Hoàn, Vạn Tượng, Trấn Ninh, Qui Hợp. Chúa bổ nhiệm trưởng
công tử là Chưởng cơ Kỳ làm Trấn thủ Quảng Nam, và sau khi công tử Kỳ mất thì
đưa công tử Anh lên thay thế. Về sau, khi chúa Sãi mất, công tử Anh làm phản,
mưu việc tranh ngôi với thế tử Nguyễn Phúc Lan (chúa Thượng), bị bắt và bị giết,
nên từ đó, các chúa Nguyễn có lệ để các công tử kế nghiệp (thế tử) làm Trấn thủ
Quảng Nam trước khi lên làm chúa.
Nguyễn Phúc Nguyên chiêu hiền đãi sĩ, bình
sinh thu dụng được 3 vị hiền tài khai quốc công thần là Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu
Dật và Nguyễn Hữu Tiến. Cả ba đều là người Thanh Hoa. Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn
Hữu Tiến giỏi việc dùng binh, lập nhiều công trạng trong các chiến dịch đánh
nhau với quân Trịnh. Đào Duy Từ là mưu sĩ tài trí, giúp chúa Sãi chấn chỉnh các
việc cải cách hành chánh, tổ chức phòng thủ, huấn luyện binh lực, phát triển
kinh tế, khuyến khích học thuật, và đối phó với âm mưu khuynh loát của chúa Trịnh
ở Đàng Ngoài.
Chúa Trịnh thường
thác mệnh vua Lê sai sứ giả mang chiếu chỉ đòi chúa Sãi nạp cống phẩm, cho thế
tử ra bắc làm con tin, và thúc dục chúa đích thân ra chầu vua Lê tại Đông Đô. Mặt
khác, các chúa Trịnh không bỏ lỡ các cơ hội có thể chen vào nội bộ Đàng Trong.
Đương thời Bình an vương Trịnh Tùng, nhân có biến loạn các chưởng cơ Hiệp và Trạch
(năm 1620), chúa Trịnh sai Đô Đốc Nguyễn Khải đem quân vào đóng ở Nhật Lệ để
làm thanh viện. Đến khi nghe tin Hiệp và Trạch bị bắt, Nguyễn Khải bèn rút quân
về. Sau việc này, chúa Sãi không nạp tuế cống nữa. Đến đời Thanh đô vương Trịnh
Tráng, năm 1626, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 8 đời Lê Thần Tông, chúa Trịnh sai Thái
Bảo Nguyễn Khải và Thiếu Bảo Nguyễn Danh Thế đem quân đóng ở Hà Trung, rồi liên
tiếp sai Nguyễn Hữu Bổn và Lê Đại Nhậm làm sứ giả vào đòi thuế và khám đất ruộng.
Bị chúa Nguyễn từ chối, năm sau, chúa Trịnh rước vua Lê tiến quân vào Nhật Lệ,
nhưng bị quân Nguyễn cố thủ, nên rút về. Năm 1629, niên hiệu Đức Long năm đầu,
vẫn đời Lê Thần Tông, Trịnh Tráng được tiến phong Thanh vương. Trước khi đem đại
binh đi đánh phương nam, chúa Trịnh sai Lại bộ Thượng thư Nguyễn Khắc Minh đem
sắc vào tiến phong Nguyễn Phúc Nguyên làm Tiết chế Thuận Hóa Quảng Nam nhị xứ
thủy bộ chư dinh, kiêm Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự Thái Phó
quốc công, và giục chúa Nguyễn đến Đông Đô để đi đánh Cao Bằng. Biết rõ thâm ý
của chúa Trịnh chỉ muốn kiếm cớ để động binh, chúa Nguyễn theo mưu của Đào Duy
Từ, chịu nhận sắc phong, hậu đãi sứ giả, để tạm hòa hoãn. Sứ giả về rồi, chúa
Sãi cho đắp lũy Trường Dục để làm tuyến phòng thủ, và ráo riết luyện tập quân
sĩ. Trong vòng một tháng, lũy Trường Dục đắp xong, chúa Sãi sai Tướng thần lại
Văn Khuông dùng cái mâm đồng hai đáy đựng sắc phong và tấm thiếp có viết mấy câu:
mâu nhi vô địch, mịch phi kiến tích, ái lạc tâm trường, lực lai tương địch,
đem lễ vật ra Đông Đô tạ ơn. Trước ngày ra về, Văn Khuông dùng cái mâm hai đáy
đó bày hoa quả lên trên để vào bái biệt chúa Trịnh, rồi lên thuyền nhẹ lẻn về.
Văn Khuông đi rồi, chúa Trịnh sinh nghi, sai phá cái mâm ra, thấy tờ sắc, và
sau khi được Phùng Khắc Khoan giải thích theo khoa chiết tự mấy câu trong tấm
thiếp đính kèm có nghĩa là Dư bất thụ sắc (Ta không nhận sắc), chúa Trịnh
giận dữ đã toan cất quân đi đánh Sãi vương, nhưng vì vụ Cao Bằng chưa yên nên lại
thôi. Thế là nam bắc đoạn giao. Năm sau, 1630, chúa Nguyễn sai quân đánh châu
Nam Bố Chính là phần đất phía nam sông Gianh, cải làm dinh Bố Chính, còn gọi là
dinh Ngói. Năm 1631, Đào Duy Từ và Nguyễn Hữu Dật lại đốc suất quân lính đắp Định
Bắc Trường Thành, từ cửa Nhật Lệ đến chân núi Đâu Mâu, để kiện toàn hệ thống
phòng thủ biên thùy phía bắc.
Năm 1635, niên
hiệu Dương Hòa năm đầu, chúa Hy Tông Nguyễn Phúc Nguyên mất, truyền ngôi cho
con là Nguyễn Phúc Lan. Vị chúa mới được quần thần tôn xưng là Thái Bảo Nhân quận
công, thường gọi là chúa Thượng hoặc Công Thượng vương. Vua Lê sai Nguyễn Quang
Minh và Nguyễn Trật vào điếu tế chúa Sãi, nhưng không phong cho chúa Thượng nữa.
Bắt đầu từ đây, các chúa Nguyễn không nhận sắc phong của vua Lê, nhưng vẫn dùng
niên hiệu của vua Lê. Phong hay không phong là quyết định của chúa Trịnh, không
phải tự ý vua Lê. Chúa Trịnh bức hiếp vua Lê, chúa Nguyễn không nhận sắc phong
là tỏ ý chống đối kẻ nghịch thần. Còn vẫn dùng niên hiệu vua Lê là để nêu rõ
nghĩa tôn phù, chúa Nguyễn cát cứ ở Thuận Quảng nhưng tự xem mình trước sau vẫn
là công thần nhà Lê.
Biết rằng chiến
tranh sắp xẩy ra, chúa Thượng thấy địa thế Phước Yên chật hẹp lại quá gần biên
giới phía bắc nên năm 1637 dời phủ vào xã Kim Long huyện Hương Trà, sát thành
phố Huế ngày nay. Bấy giờ Đàng Ngoài tạm yên, năm 1643, Thanh vương Trịnh Tráng
bèn sai Thái Bảo Trịnh Tạc đem đại binh hộ giá vua Lê và chúa Trịnh vào đánh
Nam Bố Chính. Quân Nguyễn giữ vững phòng tuyến, quân Trịnh đánh mãi không được,
phải rút về. Năm 1648, niên hiệu Phước Thái thứ 6, đời Lê Chân Tông, chúa Trịnh
lại sai Đô Đốc Trịnh Đào đem quân thủy bộ vào cửa Nhật Lệ, trận đầu thắng lợi,
nhưng khi tiến đến Võ Xá, thì bị thế tử Nguyễn Phúc Tần đánh thua to, 3 tỳ tướng
và 3 vạn lính bị bắt sống. Chúa Thượng đem số tù hàng binh này định cư từ miệt
Thăng Hoa trở vào Phú Yên. Cùng năm ấy, chúa Thượng mất, Nguyễn Phúc Tần lên nối
ngôi cha, được quần thần tôn xưng là Thái Bảo Dũng quận công, tục gọi là chúa
Hiền.
Chúa Hiền rất giỏi chiến trận, tính khí cương
cường, chăm lo việc mở mang bờ cõi.. Hồi còn là thế tử, năm 1644, Hiền vương đã
đánh chìm một chiến hạm Hòa Lan ở ngoài khơi Thuận An. Lên làm chúa, năm 1653,
niên hiệu Khánh Đức năm đầu, Hiền vương sai quân lấy đất từ đèo Cả đến Phan
Rang đặt làm dinh Thái Khương, tức là tỉnh Khánh Hòa ngày nay. Nhân năm 1655 Trịnh
Đào lại đem quân xâm lấn Nam Bố Chính, chúa Hiền quyết định cử binh đánh Đàng
Ngoài, dùng Nguyễn Hữu Tiến làm Tiết chế, Nguyễn Hữu Dật làm đốc chiến. Quân
Nguyễn chiếm được Hà Trung, bấy giờ gọi là dinh Cầu. Chúa Trịnh sai Thái Bảo Trịnh
Trượng đem đại binh vào phản công, nhưng bị thua, phải lui về An Trường. Quân
Nguyễn tiến lên chiếm 7 huyện mạn nam sông Lam: Kỳ Hoa, Thạch Hà ,Thiên Lộc,
Nghi Xuân, La Sơn, Hương Sơn, và Thanh Chương. Chúa Hiền xuống lệnh tổ chức việc
cai trị vùng đất mới chiếm, lập tuyển trường để kén lính, thu thuế để nuôi
quân. Mặc dù Thanh vương Trịnh Tráng cho hai con là Trịnh Tạc và Trịnh Ninh đem
đại quân vào tăng viện, quân Nguyễn vẫn giữ vững bờ nam sông Lam. Nguyễn Hữu Tiến
cũng có lần đem quân vượt sông Lam nhưng bị quân Trịnh đẩy lui. Năm 1657, chúa
Trịnh Tráng mất, Trịnh Tạc lên nối ngôi. Trịnh Tạc sai con là Trịnh Căn làm Tiết
chế thay Trịnh Ninh. Quân hai bên cầm cự nhau ở Lam Giang cho đến năm 1660,
niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 3, triều Lê Thần Tông (22), Trịnh Căn phản công, quân
Nguyễn thua luôn mấy trận, tinh thần mệt mỏi, tiếp tế khó khăn, nên Nguyễn Hữu
Tiến rút toàn quân về Nam Bố Chính, 7 huyện Nghệ An và châu Bắc Bố Chính lại
thuộc về Đàng Ngoài. Năm sau, 1661, tháng 12, Trịnh Tạc rước Thần Tông vào đánh
Nam Bố Chính, quân Nguyễn cố thủ, nên tháng 3 năm 1662, quân Trịnh thiếu lương
phải tút về. Qua năm 1672, niên hiệu Dương Đức năm đầu, Tây vương Trịnh Tạc lại
rước vua Lê Gia Tông đem đại binh đi đánh chúa Nguyễn. Quân Trịnh do Trịnh Căn
làm Nguyên súy, quân Nguyễn do Nguyễn Phúc Hiệp làm Tiết chế, hai bên đánh nhau
to trong 6 tháng trời, cầm cự nhau ở lũy Trấn Ninh, bất phân thắng phụ. Cuối
cùng, năm 1673, hai bên giảng hòa, lấy sông Gianh làm ranh giới Đàng Trong Đàng
Ngoài.
Yên mặt bắc,
Hiền vương lo kinh dinh việc phương nam. Năm 1674, nhân Chân Lạp có nội loạn,
chúa Hiền đưa quân sang can thiệp, chia Chân Lạp làm hai, đặt một vua chánh ở
Long Úc, và một vua phó ở Sài Côn. Năm 1679, bọn tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch,
Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình, đem quân binh bộ hạ và chiến thuyền
trốn nạn Mãn Thanh sang tá túc chúa Nguyễn, được chúa trao cho quan chức và đưa
vào khai thác vùng Mỹ Tho, Gò Công.
Năm 1687, chúa
Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn (Phúc Thái) lên nối ngôi, dời phủ sang xã Phú Xuân kế cận,
thuộc huyện Hương Trà, ở góc đông nam kinh thành Huế ngày nay. Phủ cũ Kim Long
thì dùng làm phủ thờ chúa Thái Tông. Năm sau, 1688, ở Mỹ Tho, Hoàng Tiến giết
chủ tướng Dương Ngạn Địch, và ở Long Úc, vua chánh Nặc Thu làm phản, chúa Nghĩa
sai quan quân vào đánh dẹp. Chân Lạp lại thần phục và nạp tuế cống. Đến đời
Nguyễn Phúc Chu, thường gọi là Minh vương, năm 1692, niên hiệu Chính Hòa thứ
13, nhân người Chiêm thường cướp bóc vùng biên giới, chúa Nguyễn lấy đất Chiêm
Thành còn lại đặt trấn Thuận Thành, đến năm 1697 thì đổi làm phủ Bình Thuận.
Năm 1698, Minh vương sai Thống suất Nguyễn Hữu Kính vào lấy đất Đông Phố và Lộc
Dã đặt huyện Phước Long, lập dinh Trấn Biên (Biên Hòa), lấy xứ Sài Côn đặt huyện
Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (Gia Định), di dân đến lập làng xã, và đặt quan
cai trị.
Thế là vì vụ
Dư bất thụ sắc năm 1629 mà phát sinh cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn 1643-1673.
Thật ra thì trước vụ đó, họ Trịnh đã có lần đem quân răn đe họ Nguyễn (năm
1626), và sau vụ đó, họ Nguyễn cũng đã tiến quân chiếm lại Nam Bố Chính (năm
1630), nhưng thực sự đánh nhau là bắt đầu năm 1643. Rồi cũng vì vụ Dư bất thụ sắc mà các chúa
Nguyễn không còn bị ràng buộc với Đàng Ngoài, tự do kinh dinh việc phương nam,
mở thông con đường từ Phú Xuân đi tới Gia Định chỉ trong vòng hai mươi lăm năm
(từ 1673 đến 1698).
Bát Thế Hoàn Trung Đô.
Nguyễn Hoàng gọi nơi đặt bản doanh ở Ái Tử và
Trà Bát là Dinh. Năm 1626, Nguyễn Phúc Nguyên dời bản doanh vào Phước Yên và gọi
nơi này là Chánh Dinh, dinh Trà Bát ngoài Vũ Xương thì gọi là Cựu Dinh, còn chổ
ở thì gọi là Phủ. Năm 1636, Nguyễn Phúc Lan dời vào Kim Long và vẫn gọi nơi ở
là Phủ. Đến năm 1687, Nguyễn Phúc Trăn dời phủ xuống Phú Xuân, rồi năm 1713, Nguyễn Phúc Chu dời phủ về Bác Vọng,
và năm 1739 Nguyễn Phúc Khoát lại dời trở về Phú Xuân, bên tả phủ cũ. Ngày 12
tháng 4 năm 1744, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 5, đời Lê Hiển Tông, để ứng với câu sấm
truyền tụng trong dân gian “Bát thế hoàn Trung Đô”, Nguyễn Phúc Khoát
lên ngôi Vương ở Phú Xuân, chổ ở được gọi là Điện, và Chánh Dinh Phú Xuân thì gọi
là Đô Thành.
Võ vương Nguyễn Phúc Khoát cho đúc ấn quốc
vương nhưng vẫn dùng niên hiệu vua Lê. Vương tổ chức lại cơ cấu chính quyền
trung ương, đặt lục bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công, đổi gọi thân quân là Vũ
Lâm quân, văn chức là Hàn Lâm viện. Vương cải cách phong tục, sửa đổi mũ áo,
qui định triều phục. Ở Đô Thành, Vương ra lệnh kiến trúc thêm cung điện, đền tạ:
dựng hai điện Kim Hoa, Quang Hoa; ba gác Dao Trì, Triêu Dương, Quang Thiên; Tựu
Lạc đường, Chánh Quan đường, Trung Hòa đường, Di Nhiên đường, đài Lương Xuân,
đình Thụy Vân, hiên Đồng Lạc, am Nội Viện, đình Giáng Hương. Bên kia sông
Hương, phía thượng nguồn, lại có phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt
Võ. Tất cả các kiến trúc đều chạm trổ, cực kỳ tinh xảo (23).
Võ vương muốn tự xưng là An Nam Quốc vương,
nhưng triều thần là Nguyễn Quang Tiền bàn là không nên vì còn có nhà Lê. Đối với
họ Trịnh, Võ vương muốn giữ hòa khí nên không đáp ứng lời cầu viện của Lê Duy Mật.
Võ vương cũng nhờ người vận động với Thanh triều để cầu phong, nhưng không có kết
quả. Tuy vậy, việc bang giao với nhà Thanh vẫn tốt đẹp. Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên
giữ đúng phận thần tử. Về phần Chân Lạp, nhân lúc nước ấy có nội biến, Nặc
Nguyên mang quân Xiêm về tranh quyền, Võ vương sai Nguyễn Cư Trinh mang quân
lên Nam Vang can thiệp, Nặc Nguyên bỏ chạy sang Hà Tiên và nhờ Mạc Thiên Tứ làm
trung gian dâng đất Tầm Bôn và Lôi Lạp để chuộc tội. Sau khi Nặc Nguyên chết,
Võ vương lấy thêm các đất Trà Vinh, Ba Thắc và Tầm Phong Long. Vương cho dời
dinh Long Hồ đến Tầm Bào (Vĩnh Long), đặt thêm các đạo Đông Khẩu (Sa Đéc), Tân
Châu, Châu Đốc, Kiên Giang (Rạch Giá), Long Xuyên. Số người Chiêm Thành chạy
sang tị nạn ở Chân Lạp trước đây, gọi là người Côn Man hay Vô Tì Man, nay bị
người Chân Lạp hiếp chế, Võ vương sai Trương Phước Du mang quân sang che chở và
định cư ở Bà Ninh (Tây Ninh). Các nước Thủy Xá, Hỏa Xá ở Tây nguyên, và nước Vạn
Tượng ở Lào đều vào cống. Tóm lại, dưới triều Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, toàn
bộ đất Nam Kỳ ngày nay đã thuộc cương vực Đại Việt, và các sắc dân cư trú ở
phía tây dãy Trường sơn đã tự đặt mình trong vòng ảnh hưởng của chính quyền Phú
Xuân.
Năm 1765, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26, Võ
vương mất. Trương Phúc Loan mưu giết Thái Phó Trương Văn Hạnh, bắt giam công tử
Nguyễn Phúc Luân và tôn công tử Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi chúa, lấy
hiệu là Định vương. Trương Phúc Loan là người tham tàn, làm nhiều điều thất
nhân tâm, nên anh em Nguyễn Văn Nhạc thừa cơ nổi lên, mượn danh nghĩa tôn phù
Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, chiếm ấp Kiến Thành năm 1773, rồi đánh úp thành
Qui Nhơn, dựng cờ hiệu Tây Sơn, chia binh làm 5 đạo tiến ra Quảng Nghĩa. Quân
chúa Nguyễn do Chưởng Cơ Nguyễn Cửu Thống chỉ huy không quen chiến trận, bị
thua to, Nguyễn Cửu Thống tử trận. Chiếm xong Quảng Nghĩa, quân Tây Sơn kéo vào
chiếm các phủ Diên Khánh và Bình Khang. Trong lúc chúa Nguyễn lo điều bát tướng
sĩ vào Quảng Nam chống Tây Sơn thì chúa Trịnh thừa cơ sai Việp quận công Hoàng
Ngũ Phúc đem đại binh vào đánh Thuận Hóa, đích thân Tỉnh Đô vương đem quân vào
Nghệ An đóng ở Hà Trung làm thanh viện. Đến Hồ Xá, Hoàng Ngũ Phúc hiểu dụ dân
chúng rằng quân Trịnh vào là để giúp trừ gian thần Trương Phúc Loan. Triều đình
Phú Xuân bắt Trương Phúc Loan đem nạp, nhưng quân Trịnh vẫn tiến. Quá Hải Lăng,
quân Trịnh không theo đường cái quan vượt sông Ô Lâu ở trạm Hoàng Giang mà ngược
lên thượng nguồn, men chân núi bắc cầu cho quân qua Thác Trầm, Thác Ma (24), rồi
vượt sông Bồ đổ xuống Hiền Sĩ đánh úp đạo quân của Nội tả Chưởng Dinh Nguyễn
Văn Chính. Nguyễn Văn Chính tử trận. Tháng giêng năm 1775, quân Trịnh chiếm
thành Phú Xuân, Định vương Nguyễn Phúc Thuần, Công tôn Nguyễn Phúc Ánh và một số
quan lại tòng vong đi thuyền chạy vào Gia Định, còn Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương
thì qua đèo Hải Vân vào giữ Cu Đê. Định vương là đời chúa thứ 9, nhưng sớm lâm
cảnh lưu vong, đoản mệnh, nên cũng có nhiều người cho rằng triều đại các chúa
Nguyễn Nam Hà chỉ có bát thế và Chính Dinh Phú Xuân trở lại (hoàn) cương vị
biên trấn của phủ Phụng Thiên, ứng với lời sấm truyền Bát thế hoàn Trung Đô.
Tháng 4 năm 1775, Nguyễn Văn Nhạc sai Tập
Đình và Lý Tài đánh bắt Nguyễn Phúc Dương đưa về Qui Nhơn. Qua tháng 5, Hoàng
Ngũ Phúc tiến quân vào Quảng Nam, đánh thắng quân Tây sơn nhiều trận, đồn binh ở
Châu Ổ, đồng thời, quân Nguyễn do Tống Phước Hợp chỉ huy tiến ra lấy lại Diên
Khánh và Phú Yên. Ở thế lưỡng đầu thọ địch, Nguyễn Văn Nhạc qui hàng quân Trịnh,
được Hoàng Ngũ Phúc dâng biểu xin vua Lê phong cho làm Tây Sơn Trưởng hiệu
Tráng tiết Tướng quân. Quân Trịnh ở Châu Ổ bị dịch bệnh chết quá nửa nên Hoàng
Ngũ Phúc rút quân về Thuận Hóa, bàn giao việc trấn thủ Thuận Hóa cho Bùi Thế Đạt,
rồi trở về bắc và mất dọc đường.
Tháng 2 năm
1776, Nguyễn Văn Nhạc sai Nguyễn Văn Lữ vào đánh Gia Định, chiếm được thành Sài
Côn. Nguyễn Văn Nhạc bèn xưng là Tây Sơn vương, đúc ấn vàng, phong Nguyễn Văn Lữ
làm Thiếu Phó, Nguyễn Văn Huệ làm Phụ Chính. Được ít tháng, Đỗ Thanh Nhơn đem
quân Đông sơn chiếm lại Sài Côn. Hoàng tôn Dương bèn trốn khỏi Qui Nhơn chạy
vào Gia Định và được Định vương nhường ngôi cho, lấy hiệu là Tân Chính vương. Định
vương thì lên làm Thái Thượng vương. Năm 1777, Nguyễn Văn Nhạc được chúa Trịnh
tâu vua Lê cho chính thức làm Quảng Nam Trấn thủ Tuyên úy Đại sứ, tước Cung quốc
công. Yên mặt bắc, Tây Sơn vương sai hai em Lữ và Huệ đem đại quân thủy bộ vào
đánh Gia Định, lần lượt bắt giết Tân Chính vương và Thái Thượng vương, chiếm trọn
đất Nam Kỳ. Lữ và Huệ giao Gia Định cho các bộ tướng chia nhau trấn giữ và trở
về Qui Nhơn. Đầu năm 1778, Nguyễn Văn Nhạc lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là
Thái Đức, đổi tên thành Chà Bàn là Hoàng đế thành, phong Nguyễn Văn Lữ làm Tiết
chế, Nguyễn Văn Huệ làm Long nhưỡng Tướng quân.
Năm 1776, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 37, tháng
giêng, chúa Trịnh cử Lê Quý Đôn vào làm Tham Thị, giúp Bùi Thế Đạt kinh lý việc
quân dân bạ tịch trấn Thuận Hóa. Thuận Hóa lúc bấy giờ giàu có, Hoàng Ngũ Phúc
năm trước đã thu trong kho 30 vạn quan tiền đồng thứ tốt đời Đường đời Tống và
rất nhiều đồ đồng, đồ sứ ký kiểu chở về bắc, nay Bùi Thế Đạt lại được lệnh đem
các súng cũ đã rộng lòng, cùng các đỉnh to, vạc lớn của các chúa Nguyễn, cồng kềnh
không chở được, đem đúc tiền Cảnh Hưng Thuận Bửu, thu thêm được 30.362 quan
(20). Tháng 7 năm ấy, chúa Trịnh ra lệnh cho nhân dân Thuận Hóa thay đổi y phục
theo lối Đàng Ngoài. Qua tháng 8, chúa
Trịnh cử Tạo quận công Phạm Ngô Cầu làm Trấn thủ thay Bùi Thế Đạt, lệnh cho Phạm
Ngô Cầu định lại các ngạch thuế, mở khoa thi hương lấy Hương cống và Sinh đồ, hợp
Nam Bắc Bố Chính làm một cho thống thuộc Nghệ An.
Thành Phú Xuân
có hơn 3 vạn quân Trịnh trú đóng, quân dân ở lẫn lộn, quân đội cậy thế lấn hiếp,
cướp đoạt của dân, đã dở các kho hàng trại lính làm củi đốt còn dở cả nhà dân,
đặt trạm khám xét, bắt bớ, bày ra các sở thuế tuần, thuế chợ, thuế đò phiền hà
tuế toái hơn 140 sở (23). Dân tình oán vọng, quân lính mệt mỏi, chủ soái Phạm
Ngô Cầu với Phó soái Hoàng Đình Thể lại không hạp nhau. Tây Sơn dò biết tình
hình ấy nên quyết định đánh Thuận Hóa. Tháng 5 năm 1786, niên hiệu Thái Đức thứ
8, vua Tây Sơn sai Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu quân, Vũ Văn Nhậm làm Tả quân, Nguyễn
Văn Lữ điều khiển thủy quân, Nguyễn Văn Huệ làm Tiết chế, kéo quân ra đánh chiếm
Phú Xuân. Hoàng Đình Thể cùng 2 con và tỳ tướng Vũ Tá Kiên liều chết giữ thành,
người thì tử trận, người thì tự sát. Phạm Ngô Cầu ra hàng, bị đưa về Qui Nhơn,
và bị giết. Quân Trịnh trong thành hơn 3 vạn đều bị giết chết, vượt được sông
Gianh trở về chỉ có vài trăm. Nguyễn Văn Huệ tiến quân ra Dinh Cát và Đồng Hới,
các tướng Trịnh giữ đồn đều đã bỏ chạy. Ngày 14 tháng 5 năm 1786, quân Tây Sơn
chiếm trọn trấn Thuận Hóa (26).
Vượng khí đất Phú Xuân còn thịnh nên từ đây
Phú Xuân lại ra khỏi vòng kiềm tỏa của Đông Đô và trở thành trung tâm quyền lực
của phong trào “áo vải cờ đào”. Bởi lẽ đó, nhiều người lại diễn dịch câu
sấm Bát thế hoàn Trung Đô ứng vào việc Võ vương là đời chúa Nam Hà thứ 8 dời phủ
từ Bác Vọng trở về lại Phú Xuân vào năm 1739, và Trung Đô là Phú Xuân chứ không
phải phủ Phụng Thiên.
Phong trào Áo Vải Cờ Đào và chiếc xuồng câu xứ Huế.
Chiếm xong Thuận
Hóa, Nguyễn Văn Huệ, nghe lời xúi dục của Nguyễn Hữu Chỉnh, kiểu chiếu kéo toàn
bộ thủy lục ra đánh Đàng Ngoài. Quân Trịnh tan vỡ nhanh chóng, các tướng Trịnh
Đinh Tích Nhưỡng, Bùi Thế Dận, Trịnh Tự Quyền, Hoàng Phùng Cơ không sao ngăn cản
được. Nguyễn Văn Huệ vào Đông Đô ngày 21 tháng 7 năm 1786. Đoan Nam vương Trịnh
Khải chạy lên Yên Lãng bị dân bắt, cấu rốn moi ruột tự sát. Nguyễn Văn Huệ yết
kiến vua Lê Hiển Tông nêu rõ ý tôn phù, được vua Lê phong làm Nguyên súy Dực
chính Phù vận Uy quốc công, và gả công chúa Ngọc Hân cho. Ít lâu sau, vua Hiển
Tông mất, Hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Chiêu Thống.
Trong lúc đó, ở Quy Nhơn, vua Thái Đức Nguyễn Văn Nhạc ngờ em có bụng khác nên
tức tốc ra Đông Đô, úy lạo tướng sĩ, trả Bắc Hà lại cho vua Lê, rồi cùng Nguyễn
Văn Huệ rút quân về. Nguyễn Hữu Chỉnh bị bỏ ở lại, sáng dậy thấy quân Tây Sơn
đã rút hết, bèn vội vã chạy theo, được vua Thái Đức cho làm Trấn thủ Nghệ An,
nhân thể tháp nhập Nghệ An vào lãnh thổ Đàng Trong.
Năm 1787, vua
Thái Đức chia đất cho các em, tự mình cai quản từ Quảng Nam đến Bình Thuận,
xưng là Trung Ương Hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn, phong Nguyễn Văn Lữ làm Đông Định
vương, cai quản miền Gia Định, đóng đô ở Sài Côn, và phong Nguyễn Văn Huệ làm Bắc
Bình vương, cai quản Thuận Hóa và Nghệ An, đóng đô ở Phú Xuân. Bắc Bình vương
thấy Thuận Hóa với Quảng Nam xưa nay vẫn khắng khít làm một, nên đòi thêm đất
Quảng Nam. Không được chấp thuận, Bắc Bình vương tiến quân vào vây thành Quy
Nhơn, vua Thái Đức thân lên mặt thành khóc lóc, Bắc Bình vương chịu giảng hòa
và chia đất từ Quảng Nghĩa trở vào cho anh.
Trong lúc anh
em Tây Sơn bất hòa với nhau, Nguyễn Hữu Chỉnh chiêu binh mãi mã, củng cố thế lực
ở Nghệ An, và Trịnh Bồng kéo đồng đảng trở lại Đông Đô, ép vua Lê Chiêu Thống
phong làm Án Đô vương, trở lại làm chúa ức hiếp vua Lê như các đời trước. Nguyễn
Hữu Chỉnh bèn kéo quân ra bắc đánh đưổi Trịnh Bồng, được vua Lê phong làm Đại
Tư Đồ Bằng Trung công, lấy nghĩa phù Lê phản lại Tây Sơn. Nguyễn Văn Huệ bèn
sai Võ Văn Nhậm làm Tiết chế, Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân làm Tham tán quân vụ,
đem quân từ Phú Xuân ra bắc đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Hữu Chỉnh rước vua
Chiêu Thống chạy lên Yên Thế, bị tướng Tây Sơn Nguyễn Văn Hòa đánh úp bắt được,
đem về Đông Đô xử chém. Lê Chiêu Thống trốn tránh lo việc trung hưng, và sai bề
tôi phò bà Hoàng Thái hậu sang Tàu cầu viện. Võ Văn Nhậm bèn tôn Sùng Nhượng
công Lê Duy Cận lên làm Giám Quốc. Võ Văn Nhậm là Phò mã của vua Thái Đức, lại
là người có tài, nay lập công lớn, dùng Lê Duy Cận mà thu tóm đại quyền Bắc Hà
trong tay, Bắc Bình vuơng nghi ngờ có nhị tâm, nên đem kỵ binh cấp tốc ra Đông
Đô bắt chém Võ Văn Nhậm. Bắc Bình vương chỉnh đốn lại mọi việc, vẫn để Lê Duy Cận
làm Giám Quốc, đưa Ngô Văn Sở lên thay Võ Văn Nhậm, cắt đặt các quan lục bộ và
trấn thủ, rồi trở về Phú Xuân.
Năm 1788, vua
Càn Long nhà Mãn Thanh Trung Quốc thừa dịp nhà Lê cầu viện nên sai Tôn Sĩ Nghị
điều động 20 vạn quân và 10 vạn phu chia làm 3 đạo theo các ngã Lạng Sơn, Cao Bằng
và Hà Giang tiến đánh nước ta. Càn Long gửi mật chiếu cho Tôn Sĩ Nghị vạch kế
hoạch phô trương thanh thế và từ từ tiến binh, “ để cho quân Lê đánh nhau với
Tây Sơn, đại binh tiến theo làm thanh viện, đến chừng quân Lê thu phục được đất
cũ, bấy giờ đứng ra giảng hòa hai bên, rồi đóng đại quân ở giữa mà kiềm chế cả
hai. Nhược bằng kẻ kia (Tây Sơn) cường ngạnh, không biết sợ oai trời, bấy giờ sẽ
tiến quân đến tận hang ổ của chúng (Phú Xuân) mà tiêu diệt”. Quân Mãn Thanh
tiến vào nước ta, Chiêu Thống sang Kinh Bắc đón rước vào Đông Đô, còn Ngô Văn Sở
rút quân bộ về giữ Tam Điệp và quân thủy về Biện Sơn, và sai Nguyễn Văn Tuyết
cưỡi ngựa lưu tinh về Phú Xuân cấp báo.
Ngày 24 tháng
11 năm Mậu Thân (1788), tin đến Phú Xuân. Để trấn an lòng người và giữ vững
tinh thần tướng sĩ, Bắc Bình vương Nguyễn Văn Huệ sai đắp đàn ở Bân sơn phía
tây thành Phú Xuân để tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng đế, lấy năm Mậu Thân làm
niên hiệu Quang Trung năm đầu, rồi chỉnh đốn voi ngựa binh lính tiến quân ra bắc.
Thành Phú Xuân lúc bấy giờ có 6 vạn lính, chủ yếu là người Thuận Quảng. Vua
Quang Trung để lại một vạn giữ thành, đem 5 vạn ra bắc. Ngày 29 tháng 11, đại
quân đến Nghệ An, nhà vua sai Hô Hổ Hầu tuyển thêm binh, cứ 3 suất đinh lấy 1
người, được thêm 3 vạn lính nữa. Vua Quang Trung làm lễ điểm binh, tổng cộng được
8 vạn lính và 200 thớt voi. Nhà vua sai Trần Danh Bình cầm đầu sứ bộ mang thư đến
bản doanh của Tôn Sĩ Nghị xin nghị hòa, lời lẽ khúm núm sợ sệt để đánh lạc hướng
quân địch. Quả nhiên Tôn Sĩ Nghị mắc mưu, kiêu căng xé thư và giết Trần Danh
Bình. Vua lại nhờ Nguyễn Thiếp thân hành ra Đông Đô mang thư cho Đề Lĩnh họ
Đinh hẹn làm nội ứng. Bố trí xong mọi việc, vua Quang Trung ra lệnh xuất quân,
ngày 20 tháng chạp năm Mậu Thân, đại binh đến Tam Điệp. Bọn Ngô Văn Sở, Phan
Văn Lân, Ngô Thời Nhậm ra yết kiến và xin chịu tội tự tiện lui binh. Vua Quang
Trung an ủi, tha tội cho các tướng, rồi gộp binh đồn trú ở Bắc Hà với đại quân,
tất cả là 10 vạn người. Nhà vua cho quân lính ăn Tết trước và hẹn đến mồng bảy
tháng giêng vào Đông Đô sẽ ăn Tết tiếp.
Người đời sau
đọc đến đoạn sử này tự hỏi làm sao vua Quang Trung chỉ trong vòng ba bốn ngày
có thể điều động 5 vạn bộ binh từ Phú Xuân ra đến Nghệ An cách nhau hơn 300
kilômét vào thời đại trên bộ chưa có phương tiện vận chuyển cơ khí. Rất may là
sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí (25) đã tường thuật tỉ mỉ việc vua Quang Trung
chia quân ra từng nhóm nhỏ 3 người, mỗi nhóm dùng một chiếc cáng đựng khí giới,
quân trang , lương thực, vật dụng cá nhân của cả nhóm, rồi một người lên nằm
trên cáng để hai người kia khiêng, vừa đi vừa chạy, cứ thế luân phiên nhau, gặp
sông gặp suối thì đặt cáng xuống mặt nước mà lội qua. Những nhà viết sử về sau
dựa vào Hoàng Lê Nhất Thống Chí cũng thuật lại chuyện cái cáng , hoặc đổi ra là
cái võng cho dễ hiểu hơn (26). Có điều là cái cáng (hay cái võng) lịch sử đó thực
ra là chiếc xuồng câu của miền Bình Trị Thiên mà tác giả Hoàng Lê Nhất Thống
Chí chưa trông thấy bao giờ nên tưởng lầm là cái cáng. Miền bắc miền nam có
thuyền đinh, thuyền thúng, ghe bầu, ghe tam bản, ghe cà dom, nhưng không đâu có
chiếc thuyền nan độc đáo của vùng Huế. Thuyền nan, còn gọi là xuồng câu, hình
thon thon, dài chừng 2 đến 3 mét, rộng từ 60 đến 70 centimét, lườn thuyền làm bằng
nan tre quét dầu rái và hắc ín, mạn thuyền kẹp bằng nẹp tre buộc lạt mây. Xuồng
không có cọc chèo, vì di chuyển bằng dầm chứ không phải bằng mái chèo. Dầm có
hai loại: dầm ngắn thì hai tay sử dụng hai cái, dầm dài thì hai tay nắm đoạn giữa
mà lần lượt hạ hai đầu dầm xuống khoắng nước. Xuồng dùng để đi câu hoặc để đuổi
cá vào lưới. Ngay tại Huế thì xuồng còn dùng để chở hàng quà bán rong ban đêm
trên sông Hương.
Ngày 30 tháng
chạp, quân Tây Sơn vượt sông Gián thủy, đánh tan đạo quân của Hoàng Phùng
Nghĩa, và bắt trọn toán xích hầu của Mãn Thanh đi theo quân Lê. Ngày mồng 3 Tết,
vua Quang Trung vây đồn Hà Hồi. Quân Tây Sơn la ó vang trời, quân Thanh bất ngờ
bị tấn công nên kinh hoảng hạ khí giới đầu hàng. Mờ sáng ngày mồng 5, vua Quang
Trung đánh đồn Ngọc Hồi, quân Thanh chống cự kịch liệt nhưng cuối cùng bại trận,
chạy lui về Đông Đô lại bị quân của Đại Đô Đốc Bảo chận đánh lùa xuống Đầm Mực
nên chết thêm hàng mấy vạn người. Trong lúc đó, Đô Đốc Long đánh đồn Khương Thượng
rồi tiến lên công hãm thành Đông Đô. Các tướng Tàu Hứa Thế Hanh, Trương Triều
Long, Thượng Duy Thăng tử trận, Sầm Nghi Đống tự sát. Quân Thanh phần chết trận,
phần chết đuối, phần hoảng sợ dày xéo lên nhau mà chết, sự tổn thất về nhân mạng
vô cùng lớn lao. Tôn Sĩ Nghị vượt cầu phao chạy trốn, đến vùng Phượng Nhỡn lại
bị phục binh của Đại Đô Đốc Lộc đón đánh, phải bỏ cả ấn tín, kỳ bài, sắc thư,
chạy thoát thân về Tàu. Vua Lê Chiêu Thống cũng chạy theo rồi về sau chết ở bên
Tàu. Vua Quang Trung đại thắng tiến quân vào thành Đông Đô ngày mồng 5 tháng
giêng năm Kỷ Dậu (1789), trước kỳ hẹn với quân sĩ hai ngày.
Thấy Tôn Sĩ
Nghị thua chạy không còn manh giáp, vua Càn Long giận lắm, xuống chiếu điều động
quân 9 tỉnh giao cho Phúc Khang An thống lĩnh chuẩn bị sang đánh nước ta. Vua
Quang Trung sai Ngô Thời Nhậm thảo biểu cầu phong với nhà Thanh và vận động Phúc Khang An và Hòa Thân bảo tấu
với Càn Long. Cuối cùng, vua Càn Long nhà Thanh đã nghe lời bàn của triều thần,
bỏ rơi Chiêu Thống và phong Quang Trung làm An Nam quốc vương.
Đánh đuổi quân
Thanh ra khỏi bờ cõi, vua Quang Trung đổi tên Đông Đô làm Bắc Thành, và trở lại
Phú Xuân. Nhà vua thấy lòng người Bắc Hà còn tưởng nhớ nhà Lê, Đông Đô lại ở
quá gần biên giới Tàu, bốn mặt trống trải, nên cả 3 lần ra đánh chiếm Bắc Hà, lần
nào xong việc, nhà vua cũng quày quả trở lại Phú Xuân. Tuy nhiên, vua Quang
Trung có nhờ Nguyễn Thiếp nghiên cứu xây thành Phượng Hoàng ở Nghệ An., ý muốn
dời đô ra đấy là nơi trung độ đất nước. Nhưng rồi vua Quang Trung mất sớm, đô
thành Phượng Hoàng chưa kịp xây. Vua mới Cảnh Thịnh vẫn tiếp tục đóng đô ở Phú
Xuân. Vã lại, lúc này vua Cảnh Thịnh kiêm tính cả giang san của vua bác Thái Đức,
biên giới phía nam của Tây Sơn đến tận Bình Khang, Nghệ An không còn là trung độ
đất nước nữa, nên triều đình Tây Sơn từ bỏ ý định dời đô. Phú Xuân tiếp tục là
đô thành của nhà Tây Sơn cho đến năm 1801 là năm Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại
thành Phú Xuân.
Kinh thành Phú Xuân dưới
triều Nguyễn.
Ngày 13-6-1801 (mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu),
Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại kinh thành Phú Xuân. Hai ngày sau, Nguyễn Phúc Ánh
chính thức vào thành. Tháng 2 năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh đánh tan đạo quân phản
công của Nguyễn Quang Toản ở lũy Trấn Ninh, thu phục toàn cõi Nam Hà. Trong lúc
đó, Nguyễn Quang Toản chạy ra Bắc Hà, cải niên hiệu Cảnh Thịnh thành Bảo Hưng,
sửa sang điện Kính Thiên trong thành Đông Đô, đắp đàn tròn ở Ô Chợ Dừa và khơi
đầm vuông ở Hồ Tây tế cáo Trời Đất, sai Nguyễn Huy Lượng làm bài phú Tụng Tây Hồ
ca ngợi công nghiệp nhà Tây Sơn, mưu tính việc lấy lại sông Gianh làm biên giới
phân tranh nam bắc. Đã có sẵn dự tính thống nhất sơn hà, từ năm 1796, tại Gia Định,
Nguyễn Phúc Ánh cho đúc tiền Gia Hưng, nay trước ý đồ của triều đình Tây Sơn,
tháng 5 năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua tại Phú Xuân, lấy niên hiệu là
Gia Long, và cử đại binh ra đánh chiếm Bắc Hà. Chỉ trong vòng hai tháng, quân
nhà Nguyễn đã bắt trọn vua quan nhà Tây Sơn. Ngày 20-7-1802, vua Gia Long vào thành
Đông Đô, giữ nguyên việc nhà Tây Sơn đổi tên đô cũ của nhà Lê làm Bắc Thành
(Minh Mạng đổi lại là Hà Nội), và trở nên ông vua nhất thống nam bắc.
Sau khi lấy được Bắc Hà, vua Gia Long liên tiếp
gửi 2 sứ bộ sang Tàu cầu phong và xin đặt quốc hiệu là Nam Việt. Vua Càn Long
nhà Mãn Thanh sợ Gia Long có ý đồ khôi phục Lưỡng Quảng, nên phong cho Gia Long
tước hiệu Việt Nam quốc vương. Vua Gia Long phải ra Bắc Thành để làm lễ thụ
phong. Các vua Minh Mạng và Thiệu Trị về sau cũng đều phải ra thành Hà Nội làm
lễ thụ phong. Chỉ đến đời Tự Đức mới làm lễ thụ phong ở Huế. Sau khi lên ngôi,
Minh Mạng đổi quốc hiệu lại là Đại Nam. Ngày 4 tháng 5 năm 1945, Bảo Đại đổi trở
lại là Việt Nam.
Vua Gia Long cải các xứ ở Đàng Ngoài thành trấn
cho giống với Đàng Trong, và để cho 2 miền bắc nam tự trị rộng rãi bằng cách đặt
2 toà Tổng Trấn Bắc Thành và Gia Định Thành. Từ Thanh Hoa ngoại trấn (Minh Mạng
đổi tên là Ninh Bình) trở ra thuộc Bắc Thành, từ Biên Hòa trở vào thuộc Gia Định
Thành. Miền giữa gọi là Trực Lệ hay Trực Kỳ, gồm một số trấn và dinh. Chính
dinh Phú Xuân thời các chúa Nguyễn nay gọi là dinh Quảng Đức, nơi có kinh thành
Phú Xuân. Đến đời Minh Mạng, các tòa Tổng Trấn Bắc Thành và Gia Định Thành được
bãi bỏ, các trấn và dinh được đổi thành tỉnh trực thuộc triều đình. Riêng chính
dinh Quảng Đức được cải thành phủ Thừa Thiên, gộp cùng với kinh thành Huế thành
Kinh sư. Vua Minh Mạng lại lấy đất Cao Mên lập Trấn Tây Thành gồm có 33 phủ và
2 huyện, cử Trương Minh Giảng làm Tổng Trấn. Nhà vua lại lập thêm một số phủ ở
Trung và Hạ Lào, sai Nguyễn Văn Xuân đưa A Nội trở lại Viên Chân làm vua và cho
quân ở lại bảo hộ. Về sau, Thiệu Trị rút bỏ Trấn Tây Thành. Cuối đời Tự Đức, 6
tỉnh Nam Kỳ và 3 thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng trở thành nhượng địa của
Pháp. Người Pháp còn cắt phủ Cần Bột và phần đất phía tây kênh Vĩnh Tế nhập vào
xứ Cao Mên, lấy tất cả đất đai phía tây đường phân thủy Trường Sơn nhập vào xứ
Lào, chia lãnh thổ Đại Nam còn lại làm 3 xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và Nam Kỳ, gộp
chung 5 xứ lại thành Đông Dương thuộc Pháp. Thủ phủ của Đông Dương thuộc Pháp
trước ở Sài Gòn, đến năm 1902 thì dời ra Hà Nội. Huế chỉ còn là kinh đô của xứ
Trung Kỳ. Ngày 11-3-1945, Huế trở lại là kinh đô của Đế quốc Việt Nam gồm cả 3
miền Trung, Nam, Bắc, cho đến ngày 25-8-1945, Bảo Đại tuyên chiếu thoái vị, chấm
dứt triều đại nhà Nguyễn.
Sau khi chiếm lại Phú Xuân và lên ngôi vua,
Gia Long ở và làm việc tạm thời tại tòa thành cũ trên Vương đảo của Võ vương,
trên bờ sông Hương, đoạn giữa 2 sông Kim Long và Bạch Yến, từ Long Hồ đến Tiên Nộn.
Nhà vua bắt tay ngay vào việc thiết kế trên nền tòa thành cũ một tòa thành rộng
lớn hơn, lấy núi Ngự làm bình phong, sông Hương làm minh đường, Cồn Hến làm
thanh long, Dã viên làm bạch hổ, trong địa phận tổng Phú Xuân, bao gồm các làng
Phú Xuân, Vạn Xuân, Diên Thái, An Vân, An Hòa, An Mỹ, An Bảo, Thế Lại. Công việc
xây đắp bắt đầu năm 1805 dưới triều Gia Long, và hoàn tất năm 1832 dưới triều
Minh Mạng, ròng rã 27 năm trời, huy động thường xuyên 30 nghìn nhân lực, làm việc
dưới sự điều khiển của Giám Thành Nguyễn Văn Yên.
Vòng ngoài của
thành Huế gọi là Kinh Thành cao 6 mét 60, dày 21 mét, rộng 525 hecta, chu vi 10
kilômét. Tường thành xây bằng gạch vồ, gồm 3 lớp, mặt thành bằng phẳng, chia
làm 2 cấp, voi ngựa đi lại được, tường ngoài có những ô trống để trí súng đại
bác. Thành có 10 cửa, bên trên có vọng lâu, và 2 thủy quan, thông nước Ngự hà với
hệ thống sông và hào bao quanh thành. Chính giữa mặt trước có kỳ đài với cột cờ
cao 55 mét, dựng năm 1817. Đằng trước kỳ đài là Phu Văn Lâu, dựng năm 1819, và
Nghinh Lương Tạ sát bờ sông Hương. Bên trong 2 cửa Thể Nhân và Quảng Đức có nhà
súng che cho 9 khẩu súng đồng rất lớn gọi là cửu vị thần công. Chung quanh
thành có hào sâu, có cầu gạch bắc ngang để vào các cổng thành. Xa một chút, mặt
trước có sông Hương, mặt tả có sông Đông Ba, mặt hữu và mặt sau có Hộ Thành Hà.
Các sông Kim Long và Bạch Yến thời trước được lấp đi. Trong khuôn viên Kinh
Thành còn có Cơ Mật Viện, Lục Bộ, Di Luân đường, Long An điện, Tàng Thơ lâu, Xã
Tắc đàn, Âm Hồn miếu và Trấn Bình đài.
Vòng thành bên
trong gọi là Hoàng Thành cao 4 mét, dày 1 mét, khởi công xây cất năm 1804.
Hoàng Thành có 4 cửa: Ngọ Môn, Hiển Nhơn, Chương Đức và Hòa Bình. Các công
trình chính trong Hoàng Thành là điện Thái Hòa và lầu Ngọ Môn. Điện Thái Hòa khởi
công tháng 2 năm 1805, đến tháng 10 thì xong. Điện Thái Hòa được xây cất theo lối
trùng thiềm điệp ốc, mái chồng lên nhau 2 tầng nên rất cao, nhà ghép liền sát 3
cái nên rất rộng. Điện Thái Hòa là nơi đặt ngai vàng, nơi cử hành lễ Đăng
Quang, lễ Vạn Thọ, nơi thiết triều, tiếp sứ. Chính tại điện Thái Hòa vua Gia
Long đã chính thức làm lễ Đăng Quang năm 1806, mặc dù nhà vua đã lên ngôi từ
năm 1802. Trước điện Thái Hòa là sân Đại Triều Nghi, từ nơi này vượt qua cầu
Trung Đạo thì đến lầu Ngọ Môn. Lầu Ngọ Môn được xây dựng năm 1833, dưới triều
Minh Mạng, thay thế Nam Khuyết Đài đời Gia Long. Ngọ Môn có 5 cửa, 9 mái lầu.
Chính tại đây chiều 25-8-1945, Bảo Đại đã đọc chiếu thoái vị, chấm dứt 143 năm
triều đại nhà Nguyễn.
Vòng thành
trong cùng là Tử Cấm Thành, rộng 10 hecta, là nơi ở và làm việc của vua và
hoàng gia. Các công trình bên trong Tử Cấm Thành được tái quy hoạch năm 1833,
dưới triều Minh Mạng. Qua Đại Cung Môn là điện Cần Chánh, hai bên có Tả Vu và Hữu
Vu, đằng trước có 2 vạc đồng lớn đúc xong năm 1662 dưới thời chúa Hiền vương.
Đàng sau điện Cần Chánh là cung Càn Thành, sau nữa là điện Kiến Trung. Trong Tử
Cấm Thành còn có Tam cung (Diên Thọ, Tràng Sinh, Khôn Thái) là nơi ở của Hoàng
thái hậu, Thái Hoàng thái hậu, Hoàng hậu, Hoàng quý phi, và Lục viện (Thuận
Huy, Đoan Thuận, Đoan Hòa, Đoan Huy, Đoan Tường, Đoan Trang) là nơi ở của các
cung tần. Ngoài ra còn có Nhật Thành lâu, Dưỡng Tâm lâu, Thiện Thượng lâu, Tịnh
Quang điện, Duyệt Thị đường, Thái Bình lâu, Ngự Tiền Văn phòng. Các công trình
trong Tử Cấm Thành đều đã bị chiến tranh hủy hoại. Cũng như điện Thái Hòa và điện
Long An, điện Cần Chánh, các cung Càn Thành, Diên Thọ, Trường Sanh, Khôn Thái
v.v. trong Tử Cấm Thành đều xây dựng theo lối trùng thiềm điệp ốc, mái lợp ngói
hoàng lưu ly, sân lát đá Thanh hoặc gạch Bát tràng, nóc nhà, đòn đao trang trí
họa tiết pháp lam, đố bản chạm trổ theo lối nhất thi nhất họa, vô cùng công phu
và tinh tế.
Trong Hoàng
Thành còn có khu miếu thờ tổ tiên và vua chúa nhà Nguyễn: Triệu miếu, Thái miếu,
Hưng miếu, Thế miếu. Ngoài ra còn có Phụng Thiên miếu để cho nữ giới đến lễ
bái, và Hiển Lâm các thờ các công thần. Trước sân Thế miếu có 9 đỉnh đồng lớn
đúc dưới triều Minh Mạng, gọi là cữu đỉnh, khởi công từ năm 1835 đến năm 1837 mới
xong, mỗi đỉnh nặng từ 2000 đến 2500 kilôgam, với 153 hình ảnh tiêu biểu sông
núi cây cỏ và cầm thú nước Đại Nam chạm khắc quanh thân đỉnh.
Chung quanh
Kinh Thành Huế có nhiều quần thể kiến trúc như miếu Văn Thánh, đàn Nam Giao,
chùa chiền, giáo đường, phủ thờ các thân vương, dinh thự các đại thần, và đặc
biệt là lăng tẩm các vua nhà Nguyễn.
Lăng Gia Long,
còn gọi là Thiên Thọ lăng, khởi công năm 1814 và hoàn tất năm 1820, nằm giữa
lòng một quần sơn 42 ngọn núi, với diện tích 128 kilômét vuông, chung quanh
không có la thành mà chỉ có rừng thông bát ngát và những trụ biểu vòi vọi uy
nghi. Chính giữa một ngọn đồi bằng phẳng là 2 ngôi thạch thất xây theo lối càn
khôn hiệp đức, nơi an nghỉ nghìn thu của vua Gia Long và Thừa Thiên Cao Hoàng hậu.
Đằng trước là đìện Minh Thành. Xa hơn một chút là Thiên Thọ hữu lăng với điện
Gia Thành, nơi chôn cất và thờ phụng Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, mẹ vua Minh Mạng.
Giáo sĩ R. D. Cadière trước đây có khuyến cáo khách thăm lăng Thiên Thọ nên đến
vào buổi chiều để chiêm ngưỡng nét đẹp tuyệt vời của núi rừng cây cỏ dưới ánh
chiều tà.
Lăng Minh Mạng
được xây cất theo một trục thần đạo 70 mét trong một la thành chu vi 1720 mét.
Từ ngoài vào là Đại Hồng môn, tiếp đến là sân chầu với văn võ bá quan và voi ngựa
bằng đá, rồi đến Bi đình, qua sân 4 bậc đến Hiển Đức môn, Sùng Ân điện, Hoàng
Trạch môn, xuống 17 bậc thềm, vượt hồ Trừng Minh bằng 3 cây cầu Chính Đạo, Tả
Phù, Hữu Bật, đến Minh lâu hình vuông có 2 tầng và 8 mái, tượng trưng cho càn
khôn, lưỡng nghi, tứ tượng, và bát quái, đi tiếp giữa 2 trụ biểu và 2 vườn hoa,
tượng trưng cho vinh hoa phú quý của hoàng gia ở cả hai cõi âm dương, qua cầu
Thông Minh Chính Trực bắc ngang Tân Nguyệt trì là đến Bữu thành, nơi chôn cất
quan quách nhà vua. Lăng Minh Mạng chỉ xây trong 3 năm là xong nhưng phải mất
14 năm suy nghĩ thiết kế, là một công trình kiến trúc kết tụ tinh túy của hội họa,
thi ca và triết học.
Ngoài ra còn
có lăng Thiệu Trị chân phương với hồ Ngưng Thúy, lăng Tự Đức tráng lệ rộng 225
hecta, hòa hợp cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng với 50 công trình nhân tạo tinh xảo:
Tứ bề
núi phủ mây phong,
Mảnh
trăng thiên cổ, bóng tùng vạn niên.
và khu An lăng giản dị, nơi chôn cất các vua
Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân.
Tiếp đến lăng
Đồng Khánh, nguyên là điện thờ Kiên thái vương, đuợc vua Khải Định chỉnh trang
năm 1916, với điện Ngưng Hy, là bước chuyển tiếp giữa phong cách kiến trúc cổ
truyền của lăng Tự Đức và phong cách hiện đại xây cất theo kỷ thuật Tây phương
của lăng Khải Định. Thật vậy, lăng Khải Định là sự giao thoa văn hóa Á Âu trong
nghệ thuật kiến trúc. Xi măng cốt sắt đã thay thế gỗ lim, gỗ kiền kiền, ngói
ardoise đã thay thế ngói hoàng lưu ly, gạch carreau đã thay thế gạch bát tràng,
nhưng vẫn còn quan binh voi ngựa bằng đá hai bên sân chầu, vẫn còn hoa văn, họa
tiết mang mầu sắc phương đông trên nóc điện, trên vách tường nội thất. Nghệ
nhân Phan Văn Tánh và đồng sự đã đưa nghệ thuật tạo hình sành sứ và thủy tinh
lên đỉnh cao với các bức phù điêu và bích họa tuyệt mỹ trong cung Thiên Định và
điện Khải Thành. Đặc biệt là cái bửu tán xi măng cốt sắt che trên bức tượng đồng
trông linh động tưởng như may bằng nhung lụa.
Ngoài lăng tẩm các vua Nguyễn còn có lăng mộ
các chúa Nguyễn và các nhà quý tộc ở Huế. Đáng lưu ý nhất là lăng Ba vành ở
làng Cư Chánh, kế cận lăng Thiệu Trị và lăng Tự Đức. Giáo sư Nguyễn Thiệu Lâu
nghi rằng đây là di tích lăng vua Quang Trung Nguyễn Văn Huệ. Nhưng Lý trưởng
làng Cư Chánh đã có tờ trình lên Tòa Khâm sứ Trung Kỳ rằng đây là lăng Ý Đức hầu.
Quả thật ngày nay bên trong khuôn thành có mộ Ý Đức hầu. Có điều là vòng thành
trong của lăng Ba vành có vết tích đào bới như để lấy hài cốt đi, và quy mô
lăng Ba vành quá rộng lớn đến mức độ khó hiểu đối với lăng mộ của một ông quan.
Chả lẽ trong những điều kiện bình thường thời phong kiến mà con cháu Ý Đức hầu
lại vô ý thức xây lăng mộ cha ông to rộng và bề thế hơn lăng mộ chúa Võ vương bội
phần?
Còn chuyện nữa đáng nói là
Đàn Nam Giao, nơi các vua Nguyễn cử hành lễ tế trời đất, 3 năm một lần (27).
Đàn Nam Giao xây đắp dưới triều Gia Long, lấy đất từ 45 tỉnh thành trong cả
nước gom lại. Đàn gồm 2 tầng, tầng dưới vuông, tầng trên tròn, và trai cung ở
giữa rừng thông, chung quanh có thành cao bao bọc. Rừng thông do các quan triều
theo lệnh vua Gia Long mỗi người trồng một cây, có ghi tên họ chức tước, và tự
tay lo việc chăm sóc. Sau năm 1946, trai cung và tường thành bị phá hủy, rừng
thông bị chặt làm củi đốt. Đàn Nam Giao lâm vào tình trạng hoang tàn đổ nát.
Năm 1955, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho sửa sang lại nền đàn. Theo nhà văn Thanh
Tịnh viết trên tạp chí Sông Hương ấn hành ở Huế sau năm 1975 thì trong lòng đất
bên dưới nền đàn Nam Giao có một hệ thống cộng âm rất tinh xảo, xây bằng những
phiến đá Thanh ghép thành hộc, người đứng trên nền đàn cất tiếng nói hay hát có
thể nghe được từ xa 3,4 trăm mét. Thanh Tịnh ghi lại hồi ức trước năm 1945, lúc
làm phán sự phòng du lịch tòa Khâm sứ Trung Kỳ, đã có dịp hướng dẫn vợ chồng
một vị Bá tước người Pháp thăm đàn Nam Giao. Người chồng đứng trên nền đàn nói
với giọng bình thường mấy tiếng Salut, grand talent! và người vợ đứng cách xa
400 mét đã hân hoan khoa tay gật đầu tỏ ý nghe rõ. Tiếc rằng sau năm 1975, ty
Thông tin Văn hóa Bình Trị Thiên đã đào bới nền đàn Nam Giao để đổ móng xây đài
tưởng niệm chiến sĩ, các phiến đá Thanh đã bị tháo gỡ và tẩu tán, và cái công
trình văn hóa mang đậm dấu ấn lịch sử rất đáng được trân trọng đó đã bị hủy
diệt bởi bàn tay những người làm văn hóa mà thiếu ý thức văn hóa:
Bùi San cùng với Trần Hoàn,
Hai thằng ngu ấy phá đàn Nam Giao.
Tổng kết.
Trên
cơ sở những nhận thức mới, phát sinh từ góc nhìn và thế đứng được điều chỉnh lại,
lịch sử vùng Huế trong lòng lịch sử Đại Việt đối với người Việt Nam chúng ta
ngày nay không phải bắt đầu từ năm 1307 khi nhà Trần đổi 2 châu Ô Lý thành Thuận
Châu và Hóa Châu, mà lùi lại rất xa vào thời sơ sử mịt mù khi sử cũ cho rằng
vùng Huế là bộ Việt Thường nước Văn Lang. Sau kỷ nguyên Hồng Bàng, sử cũ không
nói bộ Việt Thường có danh xưng gì mới, thuộc Thục, thuộc Tần, hay thuộc Triệu,
hay không thuộc một nước nào cả, có điều là vùng Huế thuở bấy giờ vẫn có cùng Lạc
Việt chung một cơ sở đất nước và con người: Văn Lang, hay đúng hơn Môn Lang,
làng của người Môn. đất nước của người Môn. Đến thời Bắc thuộc, vùng Huế là quận
Nhật Nam, và là địa bàn tranh chấp ảnh hưởng của 2 nền văn minh Trung Hoa vá Ấn
Độ. Cuối thời Bắc thuộc, vùng Huế là 2 châu Ô Lý của Chiêm Thành, là địa đầu của
vùng ảnh hưởng Ấn Độ, và thời kỳ này kéo dài lan qua suốt buổi đầu của Giao
Châu tự chủ. Từ năm 1307, vùng Huế là Thuận Hóa của Đại Việt, là mũi xung kích
của căn cứ địa Thăng Long trong sự nghiệp nam tiến. Từ năm 1558, khi Nguyễn
Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, hay chính thức hơn, từ năm 1629, khi Nguyễn Phúc
Nguyên “Dư bất thụ sắc”, vùng Huế là trung tâm quyền lực của xứ Đàng
Trong. Từ năm 1802 đến năm 1945, vùng Huế là đất Kinh Sư, là kinh đô của nước
Việt Nam thống nhất. Sau năm 1945, quyền lực chính trị chuyển về 2 trung tâm Hà
Nội và Sài Gòn, vùng Huế trở thành Cố Đô Huế mà thực chất chỉ là một tỉnh Thừa
Thiên-Huế không có tiềm năng kinh tế, đổ nát, điêu tàn, và bị bỏ quên.
Như
vậy, theo giòng lịch sử, Huế đã trải qua các thời kỳ như sau:
*Thời
kỳ Việt Thường (Hồng Bàng, Thục, Triệu).
*Thời
kỳ Nhật Nam
(từ 111 trước Công nguyên đến 758 sau Công nguyên).
*Thời
kỳ Ô Ri (từ 758 đến 1306).
*Thời
kỳ Thuận Hóa (từ 1307 đến 1558)
*Thời
kỳ Đàng Trong (từ 1558 đến 1802).
*Thời
kỳ Kinh Sư (từ 1802 đến 1945).
*Thời
kỳ Thừa Thiên-Huế (từ 1945 đến nay).
Tuy
rằng đã có lúc Huế bị nhà cầm quyền Hà Nội xếp vào loại thành phố hạng 3, ngang
tầm với các thành phố Lạng Sơn và Cà Mâu, và điều này đã khiến Hiệp Hội Kiến
trúc sư Việt Nam phản đối kịch liệt, nên được xếp hạng lại thành loại thành phố
đặc biệt, mặc dù vậy, Huế ngày nay vẫn được đa số người Việt Nam xem là vốn liếng
văn hóa nước nhà rất đáng trân trọng, và tổ chức UNESCO đã xếp các quần thể kiến
trúc ở Huế vào danh sách các di sản văn hóa thế giới. Mặt khác, vì ở vị trí
trung độ bắc nam của Việt Nam, và đầu mối hành lang đông tây của bán đảo Đông
Dương với cảng biển nước sâu Chân Mây và đường bộ xuyên sơn Hải Vân, Huế vẫn
luôn luôn là một điểm chiến lược quan yếu, vừa là điểm tựa của chiếc đòn gánh
sơn hà Việt Nam, vừa là căn cứ thâm nhập và khai thông nội địa các xứ Tây
Nguyên, Thượng Lào, Bắc Thái. Trong tương lai, Huế kết hợp với Đà Nẵng thành một
phức hợp đô thị hoàn chỉnh để trở thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa
của miền Trung, góp phần vào việc hóa giải các mâu thuẩn nam bắc, củng cố nền
thống nhất quốc gia, tô bồi tình đoàn kết dân tộc.
Tháng tư năm 2003
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Chú giải:
(1) 15 Bộ của nước Văn Lang theo sử cũ:
1. Văn Lang (Bạch
Hạc, Vĩnh Yên)
2. Châu Diên (Sơn
Tây)
3. Phúc Lộc (Trung
châu)
4. Tân Hưng (HưngHóa,
Tuyên Quang)
5. Vũ Định (Thái
Nguyên)
6. Vũ Ninh (Bắc
Ninh)
7. Lục Hải (Lạng
Sơn)
8. Ninh Hải (Quảng
Yên)
9. Dương Tuyền (Hải
Dương)
10.Giao Chỉ (Hà
Nội, Hưng Yên, Nam Định)
11.Cửu
Chân (Thanh Hóa)
12.Hoài
Hoan (Bắc Nghệ An)
13.Cửu
Đức (Nam Nghệ An, Hà
Tĩnh)
14.Việt
Thường (Bình Trị Thiên)
15.Bình
Văn (?)
(2) Người Tàu có câu đối viếng Tôn Thất Thuyết:
Thù
nhung bất cộng đái thiên, vạn cổ phương danh lưu Tượng Quận,
Hộ giá biệt tầm tĩnh địa, thiên niên tàn cốt
ký Long Châu,
(3) Trần Kinh Hòa. Khảo về danh xưng Giao Chỉ. Tạp
Chí Đại Học, số 15, tháng 5, 1960. Viện
Đại Học Huế, VN.
(4) Tư Mã Thiên. Sử Ký. Nam Việt Úy Đà.
Thư Nam Việt vương Triệu Đà gửi Hán Văn đế. Bản dịch của Giản Chi và Nguyễn Hiến
Lê. Lá Bối 1972, Sài Gòn, VN.
(5) 9 quận Giao Chỉ Bộ: Nam Hải, Uất Lâm, Thương
Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai, Đạm Nhĩ.
(6) L. Aurousseau. Bulletin de l’École francaise
d’Extrême Orient, Tome 23. (Tập san Trường Viễn Đông Bác cổ). Hà Nội.
(7) Bùi Minh Đức. Từ Điển Tiếng
Huế, Nhà Xuất bản Tâm An, 9381 Shadwell Drive, Huntington Beach, CA, 92646, USA.
(8) Đại Nam Nhất Thống Chí, Cao Xuân Dục, 1910,
Qưốc sử quán, Huế.
(9) Dương Văn An. Ô Châu Cận Lục ghi: “Sông lớn ở
huyện Đan Điền (Quảng Điền) dòng sông rất xa, đường sông rất dài, miếu cũ Minh
Uy chặn trên đầu núi, thành lớn Hóa Châu dài đến cửa sông”.Cửa sông nói ở đây
là ngã ba Sình, tại làng Lại Ân, nơi sông Bồ đổ vào sông Hương.
(10)
Thủy Kinh Chú chép rằng thành Khu Túc có chu vi 6 dặm, cao 2 trượng, có mở nhiều
lỗ vuông, có 5 tầng gác, có lầu cao 7, 8
trượng, có 13 cửa, chung quanh có 2 vạn nóc nhà.
(11)
Ngô Thời Sỹ. Việt Sử Tiêu Án. Bản dịch của
Hội Việt Nam Nghiên Cùu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu. Nhà Xuất bản Văn Sử, 728 North 9th street,
San Jose, CA 95112,
USA.
(12)
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép năm Thiên Phúc thứ 3 (983), vua Lê sai con nuôi
(không tường danh tánh) đuổi theo bắt được Lưu Kế Tông và đem chém.
(13)
Sử cũ có chép đời Lý Thái Tổ, năm 1011, niên hiệu Thuận Thiên thứ 2, Chiêm
Thành vào dâng sư tử, và năm 1020, niên
hiệu Thuận Thiên thứ 11, vua sai Khai Thiên vương Phật Mã và Đào Thạc Phụ đánh
trại Bố Chính, đến núi Long Tị (huyện Bình Chánh, nay là huyện Quảng Trạch),
chém. được tướng giặc là Bố Linh. Nhưng sư tử ở nước ta là con gì thì khó mà
đoán được. Còn nói đánh trại Bố Chính thì cũng như trước đó sử cũ đã chép việc
đánh Diễn Châu và việc đánh châu Vị Long, chỉ là những chiến dịch trừng phạt thổ
tù làm phản, không phải là chiến tranh với các nước láng giềng.
(14)
Nhà Tống dùng chính sách nhỏ giọt trong việc tấn phong Lê Hoàn để làm áp lực
ngoại giao:
Năm
982 phong Tĩnh Hải Tiết Độ sứ,
Năm
989 phong An Nam Đô Hộ Tĩnh Hải Tiết Độ sứ Kinh Triệu Quận hầu, gia phong Kiểm Hiệu Thái Úy,
Năm
993 phong Giao Chỉ Quận vương,
Năm
997 phong Nam Bình vương.
(15) R. P.
Cadière. Géographie historique du Quảng Bình d’après les annales impériales.
Trong B.E.F.E.O năm 1905.
(16)
B.E.F.E.O. năm 1908, Tome 8. Les barbares du Yun Nan. Hà Nội, VN.
(17) Đoàn
Khoách. Thắng cảnh Tư Dung. Trong Tuyển Tập Nhớ Huế, só 6, 1994, Võ Văn Tùng chủ
biên, 9559 Bolsa Ave, suite D, Westminster, CA
92683, USA.
(18) Khi hai
châu Ô Ri trở về cương vực Đại Việt, người Chàm phần lớn đã bỏ đi, nhưng tại
đây đã có người Việt đến định cư lập
nghiệp từ trước, tỷ như Việt kiều ngày nay ở Mên, Lào và Thái Lan vậy.
(19) Trước
đây, sứ thần nước ta phải lạy vua Chiêm Thành. Đoàn Nhữ Hài đi sứ, vào đại điện,
đặt sắc chỉ vua ta lên hương án để vua Chiêm lạy, xong Đoàn Nhữ Hài cũng lạy,
nhưng là lạy tờ chiếu chứ không lạy vua Chiêm. Từ đó, sứ nước ta cứ nghi thức
đó mà theo, không phải lạy vua Chiêm nữa.
(20)
Phan Khoang. Việt sử xứ Đàng Trong. Nhà xuất bản Xuân Thu, Houston, TX 77272,
USA.
(21)
Nguyễn Hữu Vinh. Về tháp Phước Duyên của chùa Linh Mụ, trích dẫn văn bia của
chúa Nguyễn Phúc Chu, bản dịch của Thích Giới Hương, 1994, do Thích Trí Tựu
cung cấp. Trong Tuyển Tập Nhớ Huế, số 12, 2001, Võ Văn Tùng chủ biên. 9559 Bolsa Ave,
Suite D, Westminster, CA 92683, USA.
(22)
Năm 1643, Lê Thần Tông nhường ngôi cho con là Lê Chân Tông để làm Thái Thượng
Hoàng. Năm 1649, Chân Tông mất, không có con nối ngôi, Lê Thần Tông trở lại làm
vua lần nữa.
(23)
Lê Quý Đôn. Phủ biên tạp lục, quyển II, chép rằng:’.. mái nhà nguy nga, đài cao
rực rỡ, tường bao quanh, cửa bốn bề, chạm vẽ khéo đẹp cùng cực. Vườn sau có núi
giả, đá lạ, ao vuông, hào quanh, cầu vồng, thủy tạ, tường trong tường ngoài xây
dày mấy thước, dùng vôi và mảnh sành đắp thành hình rồng, cọp, lân, phụng, cỏ,
hoa....’
(24)
Gần Thác Ma có bến đò Cây Đa nổi tiếng vì câu chuyện tình dang dở của cô lái
đò:
Trăm năm đà lỗi hẹn hò,
Cây đa bến cộ (bến cũ) con đò khác đưa.
Cây đa bến cộ còn lưa (vẫn còn đó),
Con đò đã thác năm xưa tê (kia) rồi!
(25)
Ngô gia Văn Phái. Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Bản dịch Ngô Tất Tố, Cơ sở Xuất bản
và Báo chí Tự Do, Sài Gòn, 1958.
(26)
Phạm Văn Sơn. Việt Sử Toàn Thư. Thư Lâm Ấn Thư Quán, 231-233 đường Phạm Ngũ
Lão, Sài Gòn, 1960.
(27)
Bửu Liêm. Lễ Tế Nam
Giao. Đặc san Tưởng niệm 200 năm công nghiệp thống nhất quốc gia của Hoàng đế
Gia Long. Hội Đồng Nguyễn Phước tộc hải ngoại ấn hành. California 2002.
Kinh Thành Huế Trong Tay Chính Quyền Cộng Sản
Ngày 13-6-1801 (mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu), Nguyễn
Phúc Ánh chiếm lại kinh thành Phú Xuân. Tháng 2 năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh đánh
tan đạo quân phản công của Nguyễn Quang Toản ở lũy Trấn Ninh, thu phục toàn cõi
Nam Hà. Tháng 5 năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua tại Phú Xuân, lấy niên
hiệu là Gia Long, và cử đại binh ra đánh chiếm Bắc Hà. Ngày 20-7-1802, vua Gia
Long vào thành Đông Đô, giữ nguyên việc nhà Tây Sơn đổi tên đô cũ của nhà Lê
làm Bắc Thành (Minh Mạng đổi lại là Hà Nội), và trở nên ông vua nhất thống nam
bắc.
Sau khi chiếm lại Phú Xuân và lên ngôi
vua, Gia Long ở và làm việc tạm thời tại tòa thành cũ trên Vương đảo của Võ
vương Nguyễn Phúc Khoát, trên bờ sông Hương, đoạn giữa 2 sông Kim Long và Bạch
Yến, từ Long Hồ đến Tiên Nộn. Nhà vua bắt tay ngay vào việc thiết kế trên nền
tòa thành cũ một tòa thành rộng lớn hơn, lấy núi Ngự làm bình phong, sông Hương
làm minh đường, Cồn Hến làm thanh long, Dã viên làm bạch hổ, trong địa phận tổng
Phú Xuân, bao gồm các làng Phú Xuân, Vạn Xuân, Diên Thái, An Vân, An Hòa, An Mỹ,
An Bảo, Thế Lại. Công việc xây đắp bắt đầu năm 1805 dưới triều Gia Long, và
hoàn tất năm 1832 dưới triều Minh Mạng, ròng rã 27 năm trời, huy động thường
xuyên 30 nghìn nhân lực, làm việc dưới sự điều khiển của Giám Thành Nguyễn Văn
Yên.
Chung quanh Kinh Thành Huế (gồm có Kinh
Thành, Hoàng Thành và Tử cấm Thành) còn có nhiều quần thể kiến trúc khác như miếu
Văn Thánh, đàn Nam Giao, chùa chiền, giáo đường, phủ thờ các thân vương, dinh
thự các đại thần, và đặc biệt là lăng tẩm các vua nhà Nguyễn, lăng mộ các chúa
Nguyễn và các nhà quý tộc ở Huế.
Từ năm 1558, khi Nguyễn Hoàng vào
trấn thủ Thuận Hóa, hay chính thức hơn, từ năm 1629, khi Nguyễn Phúc Nguyên “Dư
bất thụ sắc”, không nhận sắc phong của vua Lê, vùng Huế là trung tâm quyền lực
của xứ Đàng Trong. Từ năm 1802 đến năm 1945, vùng Huế là đất Kinh Sư, là kinh
đô của nước Việt Nam thống nhất. Sau năm 1945, quyền lực chính trị chuyển về 2
trung tâm Hà Nội và Sài Gòn, vùng Huế trở thành Cố Đô Huế mà thực chất chỉ là một
tỉnh Thừa Thiên-Huế không có tiềm năng kinh tế, đổ nát, điêu tàn, và bị bỏ
quên.
Tuy vậy, Huế ngày nay vẫn được đa số
người Việt Nam xem là vốn liếng văn hóa nước nhà rất đáng trân trọng, và tổ chức
UNESCO đã xếp các quần thể kiến trúc ở Huế vào danh sách các di sản văn hóa thế
giới. Mặt khác, vì ở vị trí trung độ bắc nam của Việt Nam, và đầu mối hành lang
đông tây của bán đảo Đông Dương với cảng biển nước sâu Chân Mây và đường bộ
xuyên sơn Hải Vân, Huế vẫn luôn luôn là một điểm chiến lược quan yếu, vừa là điểm
tựa của chiếc đòn gánh sơn hà Việt Nam, vừa là căn cứ thâm nhập và khai thông nội
địa các xứ Tây Nguyên, Thượng Lào, Bắc Thái. Trong tương lai, Huế kết hợp với
Đà Nẵng thành một phức hợp đô thị hoàn chỉnh để trở thành trung tâm chính trị,
kinh tế và văn hóa của miền Trung, góp phần vào việc hóa giải các mâu thuẩn nam
bắc, củng cố nền thống nhất quốc gia, tô bồi tình đoàn kết dân tộc.
Nhưng
đó là chuyện của tương lai. Còn thực tế hôm nay là cố đô của vương triều Nguyễn
dưới bàn tay nhà cầm quyền cộng sản cứ tiếp tục kéo lê cuộc sống héo mòn lây lất,
kể từ đêm 19-12-1946, khi phải hứng chịu nhát dao trí mạng ‘tiêu thổ kháng chiến’.
Sau khi tháo gỡ khuân vác tất cả bảo vật trong Đại Nội ra vùng quê Khu IV, nhân
danh kháng chiến chống ngoại xâm, nhà cầm quyền cộng sản đã cho đặt mìn hũy hoại
tất cả các quần thể kiến trúc trong Tử Cấm Thành. Sau ngày quân cộng sản rút khỏi
Huế, khách du lịch đến tham quan Đại Nội chỉ còn nhìn thấy lầu Ngọ Môn với điện
Thái Hòa là nguyên vẹn, chứ cất bước vòng ra đằng sau điện Thái Hòa, khách tham
quan sẽ ngỡ ngàng trước quang cảnh hoang tàn đổ nát ngoài sức tưởng tượng của cố
cung nhà Nguyễn. Từ Đại Cung môn trờ vào là một núi gạch đá ngổn ngang, còn đâu
điện Cần Chánh, còn đâu cung Càn Thành, còn đâu lầu Kiến Trung? Tam cung, Lục
viện, Nhật Thành lâu, Dưỡng Tâm lâu, Thiện Thượng lâu, Tịnh Quang điện, Duyệt
Thị đường, Thái Bình lâu, v.v., cái còn thì đỗ nát bày nền trơ vách, cái mất
thì một chút dấu tích cũng không còn!
Các quần thể kiến trúc vùng ven đô
cũng cùng chung số phận, một phần bị phá hủy vì chính sách tiêu thổ kháng chiến,
một phần vì bom đạn giao tranh, một phần nữa vì cả Pháp lẫn Việt Minh không phe
nào kiểm soát được tình hình và chịu trách nhiệm an ninh nên dân chúng thừa cơ
lẻn vào cướp phá. Các đồi thông Ngự Bình, Nam Giao, Thiên An, Vọng Cảnh bị chặt
trụi để làm củi đốt, đồ thờ tự bằng vàng trong 7 tầng tháp Phước Duyên chùa
Thiên Mụ và đồ ngự dựng bằng sứ ký kiểu men lam Huế trong các lăng tẩm không
cánh mà bay mất. Các con rùa đội bia tiến sĩ ở miếu Văn Thánh con thì đứt đầu,
con thì cụt đuôi, trông thật thảm hại. Phủ đệ các vương công, tư dinh các đại
thần, thảy thảy đều bị thiêu rụi theo đúng chính sách tiêu thổ kháng chiến, nay
chủ nhân các quần thể kiến trúc đó, người thì bị hành hình, người thì phải chạy
trốn, nếu họ còn có con cháu ở lại thì những người này cũng trở nên nghèo khó,
không còn khả năng tái thiết, đành để nền nhà biến thành ruộng rau bãi sắn,
trông đến não lòng. Rồi chiến tranh liên miên, bom đạn vô tình tiếp tay cho sự
tàn phá. Mấy mươi trụ biểu uy nghi vòi vọi quanh lăng Thiên Thọ tiếp nhau gục
ngã, cuối cùng chỉ còn có hai cái đứng vững đến ngày nay. Vùng Huế lại ẩm ướt,
thường xuyên giông bão, lũ lụt, không có cơ quan chủ quản và ngân khoản bảo trì nên cửa thành
Quảng Đức sụp đổ, mái điện Khải Thành tốc nóc, v.v., các di tích lịch sử mỗi
ngày một xuống cấp, sự thiệt hại về cả hai mặt vật chất và văn hóa thật là to lớn.
Cũng may là các chính quyền tiếp
theo, một phần tự lực, một phần nhờ sự tiếp tay của các cơ quan văn hóa nước
ngoài, đã cố công chặn đứng sự hủy thể hoàn toàn và hạn chế sự đỗ nát của các
quần thể kiến trúc Kinh Thành Huế. Một số công trình lại còn được trùng tu, phục
dạng, tái thiết. Cửa Quảng Đức đã được xây lại y hệt như trước, đàn Nam Giao
tuy không còn Trai cung và rừng thông chung quanh nhưng các nền đàn đã được sửa
sang lại như cũ. Lầu Ngọ Môn bị xiêu vẹo vì chiến cuộc Mậu Thân cũng được dựng
lại, và điện Thái Hòa được trùng tu, thay thế các vĩ kèo mục ãi, sơn phết lại
các phần loang lổ của giàn trò và nóc điện.
Sau năm 1975, Kinh Thành Huế trở lại
sống dưới bàn tay nhà cầm quyền cộng sản. Buổi đầu, Kinh Thành Huế phải đối mặt
với thái độ thờ ơ ghẻ lạnh của chính quyền và hành trạng vô trách nhiệm của những
người lính gốc nông dân của đội quân chiếm đóng. Báo chí nước ngoài, đặc biệt
là báo chí Pháp, đăng tải những bài tường thuật của phóng viên hoặc khách du lịch,
đại loại mô tả hoạt cảnh những người lính cộng sản lom khom thổi cơm trước sân
Thế Miếu, đun bếp bằng những thanh củi chẻ nhỏ từ gỗ rui mèn mái nhà, và rữa
rau với nước chứa trong mấy cái đỉnh đồng mỗi cái nặng 2500 kí lô sắp thành
hàng 9 cái trong sân. Suốt hàng mươi năm sau, theo với phong trào cải thiện đời
sống, các đơn vị bộ đội cũng như các cơ quan dân sự nhà nước thi đua nhau làm
kinh tế. Thế là Ngọ Môn 5 cửa 9 mái lầu trở thành quán cà phê, lối đi chính vào
Hoàng Thành trở thành bãi giữ xe đạp. Rất lâu về sau, theo với trào lưu đổi mới
kinh tế, ngành du lịch phát triển, khách nước ngoài và Việt kiều đến Huế tham quan
mỗi ngày một đông đảo. Vì lý do lợi nhuận, nhà cầm quyền cộng sản địa phương mới
thay đổi thái độ trong việc ứng xử với các di tích lịch sử của nhà Nguyễn. Các
quần thể kiến trúc bắt đầu được lưu tâm sửa sang đỗ nát, thu dọn rác rến, che
chắn nắng mưa.
Triều đình nhà Nguyễn, thường gọi
là Nam Triều, từ năm 1885, sau khi Đồng Khánh lên ngôi vua, đã trở thành công cụ
trong tay người Pháp để đánh dẹp phong trào cần vương của văn thân và phong
trào giải phóng dân tộc của các tổ chức chính trị chống Pháp. Các quan lại Nam
Triều thường làm việc thẳng với sở Liêm Phóng Đông Dương và đã tỏ ra rất đắc lực
trong công tác đàn áp những người yêu nước Việt Nam. Bởi vậy, đảng Cộng sản
Đông Dương ngay từ lúc mới thành lập đã lấy việc lật đỗ Nam Triều làm mục tiêu
hàng đầu trong chính cương do Tổng bí thư Trần Phú đệ trình trước Đại hội Đảng
vào tháng 11 năm 1930 tại Hóc Môn. Sau này, khi có chính quyền trong tay, Nhà
Nước cộng sản vẫn một mực giữ thái độ thù hận với triều Nguyễn, không những chê
bai việc làm của vua quan nhà Nguyễn sau năm 1885, mà phủ nhận luôn tất cả công
nghiệp của họ Nguyễn thời trước đó. Các sử gia xã hội chủ nghĩa Trần Văn Giàu,
Phan Huy Lê không tiếc lời mạ lỵ Gia Long cầu viện người Pháp trong lúc hết
lòng ca ngợi Tây Sơn mà quên không nghĩ rằng Tây Sơn cũng đã từng cầu cạnh người
Anh Chapman giúp đỡ vũ khí. Nhà Huế học xã hội chủ nghĩa Phan Thuận An đã nghe
lời gợi ý của trùm văn hóa Nguyễn Khoa Điềm mà viết bài “Tướng ấy không phải là
danh tướng Ngô Văn Sở ” trên Tạp chí Sông Hương để khẳng định rằng tướng Ngô
Văn Sở theo Nguyễn Ánh khác với tướng Ngô Văn Sở theo Nguyễn Huệ. Sự thực đó chỉ
là một người. Ngô Văn Sở trước theo Quang Trung làm Tổng trấn Bắc thành, sau
theo Gia Long làm Trấn thủ Thanh Hoa ngoại trấn. Nhưng dưới con mắt chủ quan
thiên lệch của người cộng sản, tướng ấy (tướng của Gia Long) nhất định không phải
là danh tướng Ngô Văn Sở (tướng của Quang Trung).
Cũng may Phan Thuận An là người biết
phục thiện, sau khi nhiều độc giả thẳng thắn góp ý, và nhất là con cháu Ngô Văn
Sở ở làng Thuận Bài lên tiếng phản đối, đã chịu viết bài công khai đính chính sự
lầm lẫn của mình. Cũng như giới trí thức Việt Nam hiện ở trong nước không phải
toàn một duột xu thời như Trần Văn Giàu, Phan Huy Lê, mà vẫn có những tác giả vô
tư tôn trọng sự thật như Trần Quốc Vượng, đã khách quan đánh giá lại công nghiệp
các vua chúa triều Nguyễn. Về phía nhà cầm quyền cộng sản, sau khi cưỡng chiếm
miền nam, chẳng những đã đưa Tạ Chí Đại Trường đi trại tập trung, mà còn khăng
khăng ép nhà sử học này viết tự kiểm phủ nhận quan điểm của mình trước đây về
triều Nguyễn. Trước lập trường kiên định của Tạ Chí Đại Trường, các cán bộ giáo
dục trại tập trung đành phải nhượng bộ. Ngày nay, trước xu thế suy nghĩ độc lập
của giới trí thức, và nhất là trước nhu cầu trùng tu di tích Huế để phục vụ và
phát triển ngành du lịch để thâu lợi nhuận, nhà cầm quyền cộng sản đã từ bỏ
thái độ ghẻ lạnh đối với các quần thể kiến trúc cung đình của cố đô. Hơn nữa,
các tổ chức văn hóa nước ngoài, nhất là Pháp và Liên Hiệp Quốc, đã tích cực yểm
trợ tinh thần và tài chánh cho công việc trùng tu và phục chế. Sau lễ hội Huế
Festival 2000, bộ mặt các di tích lịch sử Huế đã cải tiến, trông không đến nỗi
hoang tàn đổ nát thảm hại đến đau lòng như trước đây.
Tuy vậy, dưới bàn tay nhà cầm quyền cộng
sản, việc trùng tu tái thiết các quần thể kiến trúc ở Huế lại phải đối mặt với
một nguy cơ mới, đó là sự hạ thấp mỹ thuật cung đình. Đây không phải là ý kiến
chung chung của khách tham quan, mà là nhận xét của hầu hết họa sĩ, kiến trúc
sư, nhà nghiên cứu mỹ thuật, khi đề cập đến việc trang trí trên các công trình
vừa được trùng tu trong Hoàng Thành.
Cung Diên Thọ, được trùng tu từ năm
1997, ngay từ cổng vào phía bên trái có bức bích họa trúc tuớc, nhưng đôi chim tước
đã bay đi đâu mất (đã long lở vì chất lượng kém của keo kết dính) chỉ còn trơ lại
cành trúc với lối vẽ sơ sài đến tội nghiệp. Trong khuôn viên gác Khương Ninh
phía sau cung Diên Thọ có 2 ngôi đền được xây lại và sơn quét bằng vôi màu và
trang trí những hình vẽ theo mô típ ngư tiều canh mục, với lối vẽ ngô nghê
trông hệt các am miễu trong các thôn xóm miền quê. Họa sĩ Phan Thanh Bình, giảng
viên trường Đại học Nghệ Thuật Huế nhận xét: “Ngay thợ tay ngang thường vẽ trên
tường các am miễu cũng không đến nổi kém cỏi như thế”. Kiến trúc sư Hoàng Đạo
Kính, một chuyên gia về trùng tu di tích thì phát biểu rằng: “Các bức vẽ là do
thợ tự nghĩ ra và thực hiện một cách tùy hứng. Làm gì có ngư tiều canh mục
trong cung điện. Mỹ thuật cung đình mà như thế này thì hạ lưu quá”. Thế miếu
sau khi trùng tu được phủ sơn và vôi màu sắc loè loẹt, khiến nhà nghiên cứu Mai
Khắc Ứng, nguyên Trưởng Phòng nghiên cứu đơn vị quản lý di tích này lên tiếng
than thở: “Đó không thể là màu của mỹ thuật cung đình Nguyễn”. Kiến trúc sư Hoàng
Đạo Kính nói thêm: “Mỹ thuật Nguyễn đúng là đa sắc, nhưng nhiều màu khác với
loè loẹt và không hề rẻ tiền”. Bức tranh mai điểu ở cổng bên trái Hưng miếu,
cây mai thì đắp nổi ước lệ, bên cạnh lại có một cây khác vẽ trên mặt phẳng theo
lối tả thực, khiến màu sắc và bố cục không thể nào hài hòa. Họa sĩ Vĩnh Phối,
nguyên Hiệu phó trường Đại học nghệ thuật Huế phân tích: “Các nghệ nhân ngày
xưa vẽ theo bút pháp thủy mặc, còn thợ bây giờ vẽ theo cách tả thực. Ngày xưa
nghệ nhân có kỹ thuật vẽ trên vữa ướt nên tranh chín màu và bền vững với thời
gian, còn thợ ngày nay nếu không có chân truyền chắc không làm được”.
Tình trạng hạ thấp mỹ thuật cung
đình trong việc trùng tu di tích ở Huế có 2 nguyên do chính yếu. Thứ nhất là sự
tắc trách của cơ quan chủ trì việc chỉnh trang phục chế không biết tôn trọng
nguyên tác, không tra cứu tìm tòi tài liệu để hiểu rõ nguyên tác, không cố gắng
phục dạng đúng y nguyên tác. Thứ hai là chế độ gọi thầu trong một cơ chế độc
tôn độc quyền như chế độ xã hội chủ nghĩa hiện nay không có tiếng nói đối lập
đã đưa đến hệ quả là việc giám sát thi công sơ sài, việc tiếp nhận công trình dễ
dãi, nên nhà thầu chỉ tuyển mộ những tay thợ bình thường chịu lấy công rẻ để có
nhiều lợi nhuận chia chác cho các phần tử có chức có quyền. Nhà nghiên cứu Mai
Khắc Ứng đã nói rất rõ về điểm này: “Đúng là đất Huế có nhiều thợ giỏi, nhưng
liệu thợ giỏi của Huế đã được chọn vào làm trong đó chưa?” Ngày xưa, các kiến
trúc cung đình do chính nhà vua chủ xướng, việc giám sát do quan đại thần đảm
trách, việc thi công do những phường thợ chuyên nghiệp thực hiện, tổ chức thành
những nhóm riêng biệt: nề ngõa, sơn thếp, pháp lam, mộc chạm, đúc đồng, ghép
sành sứ, v.v., dưới sự đôn đốc hướng dẫn của các thợ cả bậc thầy đáng mặt nghệ
nhân. Làm tốt công tác thì được ban thưởng tiền bạc phẩm hàm, làm dối trá, tắc
trách thì không những mất chức mất quyền mà còn bị tù bị tội. Thời cận đại, ở
Huế vẫn còn vang danh ông Cữu Tánh, người thợ ghép sành sứ, tác giả các bức
bích họa trong điện Khải Thành lăng Khải Định. Sau năm 1975, phường thợ chạm Mỹ
Xuyên không có công ăn việc làm ở Huế đã kéo nhau vào Sài Gòn mở tiệm đồ gỗ nhại
các kiểu xưa, tạo thành trường phái đồ gỗ Mỹ Xuyên, lưỡng lập với trường phái Bắc
Hà ở đất Nam Đô. Thợ giỏi ở Huế trước đây đời nào cũng có, lẽ nào ngày nay
không còn có ai sao?
Người Việt Nam chúng ta vốn đã mang
tiếng “Việt tục bất hiếu cổ”. Chúng ta ngày nay còn giữ được chút gì xưa cũ thì
nên chắt chiu trân trọng. Kinh Thành Huế đã một lần bị cướp phá tàn bạo năm
1885 bởi đạo quân thổ phỉ De Courcy. Nhưng mất mát chủ yếu lần đó là vàng bạc
ngọc ngà trong Tử Cấm Thành, bị thiêu hủy chủ yếu lần đó là công văn lưu trử của
Lục Bộ và sách vở của lầu Tàng Thơ, chứ đền đài cung điện không đến nổi lâm cảnh
hoang tàn đổ nát. Cho đến năm 1945, Kinh Thành Huế còn giữ được bộ mặt huy
hoàng tráng lệ, và tự điển Larousse của Pháp ngày đó ghi chú về thành phố Huế với
mấy chữ ‘Beaux monuments’. Sau năm 1946, với chính sách tiêu thổ kháng chiến của
chính quyền cộng sản, Kinh Thành Huế chẳng còn gì. Ngày nay, trước xu thế bảo
toàn di sản văn hóa thế giới của UNESCO, trước nhu cầu trùng tu di tích lịch sử
để kinh doanh du lịch, cùng với sự yểm trợ tinh thần và tài chánh của các tổ chức
văn hóa nước ngoài, nhà cầm quyền cộng sản đã lưu tâm bắt tay vào việc chỉnh
trang phục chế các quần thể kiến trúc ở Huế.
Đáng tiếc là nhà cầm quyền cộng sản
đã để cho công việc trùng tu tiến hành một cách vội vã và tắc trách, nếu không
nói là bôi bác, mang lại hậu quả đáng buồn làm tổn thương niềm tự hào về trình
độ văn minh của dân tộc, đó là việc hạ thấp mỹ thuật cung đình xuyên qua việc
trang trí các công trình được trùng tu. Những kẻ có lòng với di sản văn hóa dân
tộc sẽ băn khoăn tự hỏi chã lẽ khiếu thẩm mỹ của các vua nhà Nguyễn và óc sáng
tạo của các nghệ nhân ngày trước lại tầm thường, kém cỏi đến thế sao?
Ngày
25 tháng 5 năm 2003
Minh Vũ
Hồ Văn Châm
Chương Trình Chiêu Hồi
Của Việt Nam Cộng Hòa
Chương trình Chiêu Hồi của Việt Nam Cộng Hòa được xây dựng và tiến hành trên nền tảng chính sách Đại Đoàn Kết Dân Tộc. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa chủ trương lấy tình thương xóa bỏ hận thù, chân thành mở rộng vòng tay đón tiếp những anh chị em ruột thịt chiến đấu trong hàng ngũ cộng sản, lầm lạc phục vụ chủ nghĩa cộng sản mà tưởng là phục vụ quyền lợi quốc gia dân tộc. Tất cả các cán binh cộng sản ra hồi chánh, bất kể quá trình hoạt động bản thân trong hàng ngũ cộng sản như thế nào, nếu ý thức sự lầm lạc trong quá khứ, và nhiệt tình phục vụ lý tưởng tự do dân chủ, đều được phục hồi đầy đủ quyền công dân và hội nhập trọn vẹn vào cộng đồng dân tộc.
Cơ quan phụ trách chương trình Chiêu Hồi.
Chương trình Chiêu Hồi bắt đầu hoạt động vào cuối năm 1962, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Cơ quan phụ trách chương trình Chiêu Hồi là một phân ban của Bộ Công Dân Vụ, gọi là Phân Ban Chiêu Hồi, có đẳng cấp tương đương với một Nha thuộc Bộ.
Sau chính biến 1-11-1963, Phân Ban Chiêu Hồi được chuyển sang thống thuộc Phủ Thủ Tướng. Đến năm 1965, với Ủy Ban Hành pháp Trung ương, chương trình Chiêu Hồi được giao cho Bộ Thông Tin phụ trách, có đẳng cấp tương đương với một Tổng Nha, do Thứ Ủy Chiêu Hồi cầm đầu.
Năm 1967, cơ quan phụ trách chương trình Chiêu Hồi được nâng lên cấp bộ, gọi là Bộ Chiêu Hồi, do Tổng Trưởng Chiêu Hồi cầm đầu, có Phụ Tá Tổng Trưởng Chiêu Hồi giúp việc.
Tháng 2 năm 1974, Bộ Chiêu Hồi được bãi bỏ, chương trình Chiêu Hồi do Tổng Cục Chiêu Hồi thuộc Bộ Dân Vận Chiêu Hồi phụ trách.
Điều đáng lưu ý là chương trình Chiêu Hồi không phải chỉ một mình Bộ Chiêu Hồi chịu trách nhiệm thi hành. Bộ Chiêu Hồi chủ yếu phụ trách mặt nổi của chương trình, như tuyên vận, tiếp nhận, huấn chính, phục hoạt. Trong thực tế, nhiệm vụ chính của Bộ Chiêu Hồi là phối hợp hoạt động của nhiều cơ quan chính phủ như Quân Đội, Cảnh Sát, Tình Báo, Thông Tin, Ngoại Giao, Tư Pháp, và quân đội đồng minh, để tiến hành chương trình Chiêu Hồi trong khuôn khổ chương trình Bình Định và Phát Triển, đặc biệt là về mặt tuyên vận chính nghĩa chống chuyên chính vô sản, và về mặt khai dụng người hồi chánh để nắm vững địch tình.
Tổ chức Điều hành.
Ở cấp trung ương, Tổng Trưởng Chiêu Hồi được sự giúp đỡ của Phụ Tá Tổng Trưởng Chiêu Hồi về mặt công tác, của Tổng Thư Ký về mặt hành chánh, của Thanh Tra Trưởng điều khiển Khối Thanh Tra và Lượng Giá, và của Phụ Tá Kế Hoạch đảm trách Khối Kế Hoạch Chương Trình. Ngoài Văn Phòng Tổng Trưởng và các Nha Quản Trị, Công Tác, Phục Hoạt, Pháp Chế, Tiếp Nhận, và An Ninh Tình Báo, ở cấp trung ương còn có Trung Tâm Chiêu Hồi Trung Ương ở Thị Nghè và Trung Tâm Huấn Nghệ Trung Ương ở Biên Hòa. Các nha được chia thành sở, sở chia thành phòng, phòng chia thành ban.
Ở cấp quân khu có Văn Phòng Đại Diện Chiêu Hồi và Trung Tâm Chiêu Hồi cấp quân khu.
Ở cấp tỉnh có Ty Chiêu Hồi do Trưởng Ty điều khiển, và Trung Tâm Chiêu Hồi cấp tỉnh. Riêng Đô Thành Sài Gòn có Sở Chiêu Hồi do một Chánh sự vụ điều khiển.
Ở cấp quận có Chi Chiêu Hồi do Trưởng Chi cầm đầu. Cấp quận không có trung tâm tiếp nhận thường trực.
Ngành Chiêu Hồi không có cán bộ cấp xã. Phần vụ chiêu hồi ở xã do cán bộ Thông Tin phụ trách.
Nhân viên Bộ Chiêu Hồi ước chừng 11.000 người, gồm công chức chính ngạch, công nhật, hợp đồng, quân nhân biệt phái, cán bộ chiêu hồi, và 90 đại đội võ trang tuyên truyền tuyển chọn trong số cán binh cộng sản ra hồi chánh.
Quản trị Tài chánh.
Khi còn là Phân Ban Chiêu Hồi, các chi phí về chương trình Chiêu Hồi liên quan đến người Hồi Chánh do Quỹ Tạm Ứng Chiêu Hồi đài thọ. Quỹ này là một quỹ ngoại ngân sách do viện trợ Mỹ yểm trợ (1). Các chi phí điều hành (lương nhân viên, trụ sở, vật liệu, văn phòng phẩm) thì do Bộ sở quan (Bộ Công dân vụ, Phủ Thủ Tướng, Bộ Thông Tin) đảm trách.
Khi trở thành một bộ, Bộ Chiêu Hồi có ngân sách riêng, có quy chế và thể lệ dự trù, duyệt xét, chi tiêu, thanh lý, hậu kiểm, y hệt ngân sách các bộ khác của chính phủ. Ngân sách này có 2 phần:
· Phần ngân sách quốc gia phụ trách việc chi trả các khoản điều hành.
· Phần ngân sách viện trợ Mỹ chi trả các khoản liên quan đến người Hồi Chánh: tuyên vận, tiếp nhận, tưởng thưởng, nuôi ăn, may mặc, huấn chính, huấn nghệ, hoàn hương (trở về làng cũ), định cư (thiết lập làng mới), và lương và công tác phí cho các đội viên võ trang tuyên truyền.
Việc quản trị và thanh lý các ngân khoản thuộc phần ngân sách quốc gia được thực hiện theo thể lệ tài chánh quốc gia. Đối với phần ngân sách ngoại viện, Bộ Chiêu Hồi không trực tiếp chi dụng và quyết toán, mà ủy ngân cho các tỉnh để các Trưởng Ty chi dụng và thanh lý với Ty Tài Chánh tỉnh, theo thể thức chi tiêu đặc biệt ‘xây dựng nông thôn’. Ngoài ra, Ty Chiêu Hồi còn được Kho Xây Dựng Nông Thôn địa phương yểm trợ trực tiếp ‘thực phẩm phụng sự hòa bình’ và ‘vật liệu xây dựng nông thôn’, theo quyết định của Tỉnh Trưởng, ngoài sự kiểm soát của Bộ Chiêu Hồi (2).
Ngân sách hàng năm của Bộ Chiêu Hồi (thời gian 1967-1974) trung bình chừng khoảng 500-600 triệu đồng Việt Nam phần ngân sách quốc gia, và chừng khoảng 600-700 triệu đồng Việt Nam phần ngân sách ngoại viện.
Thành quả chiêu hồi về mặt tiếp nhận.
Từ ngày bắt đầu thi hành chương trình vào cuối năm 1962 đến ngày 30-04-1975 đã có khoảng 230.000 cán binh cộng sản ra hồi chánh.
Những năm đầu (1963-1965) và năm cuối (1974) số người ra hồi chánh hàng năm chỉ có chừng vài nghìn. Số người ra hồi chánh lên cao đến 15.000-43.000 mỗi năm trong khoảng thời gian chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tiến hành chương trình Bình Định và Phát Triển từ 1968 đến 1972. Số người ra hồi chánh cao nhất là vào năm 1969 (43.000 người) và năm 1970 (38.000 người).
Cán binh cộng sản ra hồi chánh phần lớn là cán bộ và bộ đội gốc gác trong nam. Một số ít là cán binh tập kết nay quay trở lại miền nam. Cán binh Bắc Việt xâm nhập thì có rất ít, tổng cộng chỉ chừng 4.000-5.000 người. Ngoài ra còn có 3.500 phạm nhân và 11.500 tù binh thuộc thành phần tân sinh hoạt được Ủy Ban Liên Bộ Chiêu Hồi, Nội Vụ, Quốc Phòng, và Tư Pháp, tuyển chọn cho cải danh sang qui chế hồi chánh.
Cấp bậc cao nhất của sĩ quan ra hồi chánh là thượng tá (Thượng tá Tám Hà). Nhân viên dân sự cao cấp nhất ra hồi chánh là Trưởng Ty Y Tế tỉnh Pleiku (Bác sĩ Đặng Tân). Trong số người hồi chánh, có nhà văn có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam (Xuân Vũ Bùi Quang Triết), có nhạc sĩ tác giả khúc nhạc mở đầu của đài phát thanh giải phóng (Phan Thế), có tài tử điện ảnh của đoàn làm phim Hà Nội (Cao Huynh), có nhân viên văn phòng Bí Thư Thành ủy Sài Gòn-Gia Định (Tô Minh Trung).
Thành quả chiêu hồi về mặt phục hoạt.
Tất cả cán binh cộng sản ra hồi chánh, không những thuộc thành phần tự nguyện mà kể cả thành phần cải danh, đều được chính quyền phục hồi sinh hoạt bình thường, cho thủ đắc đầy đủ quyền công dân, và giúp đỡ hội nhập trọn vẹn vào cộng đồng dân tộc.
Cán binh cộng sản ra hồi chánh được đưa về trung tâm chiêu hồi. Tùy theo chức vụ và cấp bậc trong hàng ngũ cộng sản, họ được tiếp nhận ở trung tâm cấp tỉnh, cấp quân khu, hay cấp trung ương. Riêng cán binh Bắc Việt xâm nhập, tất cả đều được đưa về trung tâm chiêu hồi trung ương ở Thị Nghè.
Trong những ngày đầu tại trung tâm tiếp nhận, người hồi chánh được tiếp xúc với nhân viên an ninh Bộ Chiêu Hồi và nhân viên tình báo các cơ quan bạn để khai báo về bản thân, về tổ chức và hoạt động của cơ quan cộng sản, về đường giây nằm vùng, về nơi chôn dấu vũ khí v.v. Sau đó, người hồi chánh được nhân viên cảnh sát làm thủ tục cấp thẻ căn cước, và tham gia một khóa học chính trị cơ bản. Người hồi chánh còn được đưa đi tham quan phố phường, chợ búa, bệnh viện, trường học, xưởng dệt kim, nhà máy cán thép, trại cây ăn trái, để biết rõ thực trạng xã hội miền nam. Trước khi rời trung tâm chiêu hồi, người hồi chánh được hỏi về nguyện vọng sau khi hoàn hương, để được tùy nghi giúp đở. Thời gian ở trong trung tâm tiếp nhận là 2 tháng. Người hồi chánh được nuôi ăn ngày 3 bữa và được cấp phát 2 bộ quần áo. Khi rời trung tâm để về với gia đình, người hồi chánh được cấp vé xe, vé tàu, và tiền hoàn hương.
Những người có nguyện vọng học thêm nghề để kiếm sống sẽ được đưa đến các trung tâm huấn nghệ cấp quân khu hoặc cấp trung ương. Họ được tự do lựa chọn ngành nghề: nghề may, nghề mộc, lái xe và sửa máy xe, sửa điện nhà, radio, tủ lạnh v.v. Tại các trung tâm huấn nghệ, người hồi chánh cũng được nuôi ăn. Sau khi thành nghề, họ được giới thiệu kiếm việc làm.
Những hồi chánh viên quê quán miền bắc không muốn ở các vùng thị tứ, những hồi chánh viên không còn thân nhân, hoặc không muốn trở về làng cũ, thì đuợc đưa đến định cư ở các làng Chiêu Hồi. Tại miền nam thuở bấy giờ có khoảng 20 làng Chiêu Hồi. Mỗi gia đình được cấp 3 mẫu đất canh tác, nông cụ và hạt giống, và lương ăn trong 6 tháng. Hầu hết các làng Chiêu Hồi được cấp máy phát điện.
Thành quả chiêu hồi về mặt hội nhập.
Một số hồi chánh viên được tuyển dụng làm cán bộ võ trang tuyên truyền. Các cán bộ này được tổ chức thành đại đội, trang bị phương tiện truyền thanh và vũ khí nhẹ để thâm nhập vào các vùng xôi đậu làm công tác tuyên vận. Trong mùa hè đỏ lửa 1972, một đại đội võ trang tuyên truyền bị Việt cộng phục kích ở cầu Bồ Bản, Quảng Trị. Thay vì thúc thủ đầu hàng hoặc trốn chạy qua cầu và sẽ bị bắn chết hết, họ đã gan dạ trụ lại chống trả. Việt cộng bị bất ngờ và đã bỏ lại hiện trường 68 xác chết đồng đội. Đại đội võ trang tuyên truyền này đã được Bộ Tư lệnh Quân đoàn I tuyên dương và Bộ Chiêu Hồi tưởng thưởng.
Ngoài những chức vụ đặc biệt dành riêng để tuyển dụng các hồi chánh viên cao cấp như Tham Nghị đặc biệt (cấp Tổng Giám đốc) và Tham Nghị (cấp Giám đốc), một số hồi chánh viên có năng lực và tinh thần hợp tác được tuyển dụng vào các chức vụ chỉ huy thường chỉ dành cho các sĩ quan biệt phái hay công chức chính ngạch cấp đốc sự hoặc tham sự như giám đốc nha, chánh sự vụ sở, quản đốc trung tâm, chủ sự phòng. Những nguời này đã thực sự quên đi dĩ vãng và dốc lòng phục vụ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa với niềm tin tưởng mãnh liệt vào chính sách Đại Đoàn Kết Dân Tộc (3).
Một số hồi chánh viên được tuyển dụng làm cán bộ võ trang tuyên truyền đã được sung vào các Thuyết Trình đoàn của Bộ Chiêu Hồi để thường xuyên đến các trường học, các xưởng máy, các tổ chức cộng đồng tôn giáo và xã hội, để nói chuyện cho đồng bào nghe về thực trạng miền bắc xã hội chủ nghĩa. Năm 1972, một đoàn thuyết trình gồm những người sinh trưởng trên đất Thái đã được đưa qua Thái Lan để nói chuyện cho kiều bào sinh sống tại vùng đông bắc Thái nghe về thực trạng xã hội miền nam. Hồi chánh viên Mai Văn Sổ được đưa qua Paris sinh hoạt với Việt kiều và hai tháng sau Mai Văn Bộ mất chức Tổng Đại Diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Pháp. Hồi chánh viên Hồ Văn Bửu được đưa qua New Delhi nói chuyện về thực chất Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình nhân dịp Bộ trưởng Việt Cộng Nguyễn Thị Bình thăm viếng Ấn Độ. Hồi chánh viên Bùi Công Tương được đưa qua Úc làm chứng trước tòa rằng nhà báo Alfred Burchett viết lách gian dối, không khách quan, khi tường thuật thực trạng tại các vùng giải phóng ở miền nam Việt Nam, trong một vụ kiện đòi bồi thường danh dự giữa nhà báo ấy và một vị nghị sĩ Úc.
Trắc nghiệm thành quả.
Chiều ngày 27-1-1973, Bộ Chiêu Hồi được lệnh của Phủ Tổng Thống tiếp nhận ngay trong đêm 11.500 tù binh cải danh hồi chánh do quân đội chuyển giao từ các trại tù binh Biên Hòa, Cần Thơ và Phú Quốc. Công việc phải hoàn tất trước 8 giờ sáng ngày 28-1-1973 là thời điểm hiệp định Paris có hiệu lực. Khả năng tiếp nhận của các trung tâm chiêu hồi trong toàn quốc là 5.400 người, nay phải tiếp nhận một lúc hơn gấp đôi số lượng, Bộ Chiêu Hồi phải đương đầu với nhiều khó khăn về chỗ ngồi chỗ nằm, về nuôi ăn, về vệ sinh, về trật tự. Tuy rằng mọi việc cũng đã được giải quyết ổn thỏa, nhưng trong bối cảnh vừa mới đình chiến, vừa cận kề ngày Tết, những tù binh cải danh này nếu không chuyển qua quy chế hồi chánh thì giờ này đâu còn bị giữ lại trong các trung tâm chiêu hồi mà đã được trao trả cho Việt cộng và trở về với gia đình. Đương nhiên là tinh thần họ rất giao động, và viễn tượng an ninh tại các trung tâm tiếp nhận thật là đen tối. Bộ Chiêu Hồi đã linh động chỉ lập danh sách theo địa chỉ cư trú rồi cấp giấy hoàn hương và lộ phí cho tất cả 11.500 người này về nhà ăn Tết 15 ngày, sau đó sẽ đến trình diện cơ quan chiêu hồi địa phương để nhập trung tâm, làm thủ tục cấp thẻ căn cước, theo các lớp huấn chính, huấn nghệ. Việc làm này của Bộ Chiêu Hồi vừa để giải quyết khó khăn trước mắt, vừa để trắc nghiệm mức độ thành thật cải hối của các tù binh cải danh. Bộ Chiêu Hồi ước lượng chừng 20% sẽ bỏ đi theo Việt cộng, nhưng trong thực tế chỉ có 4,7% trong số họ đã bỏ đi không ra trình diện mà thôi.
Sau ngày 30-4-1975, tất cả tập thể hồi chánh viên mà Việt cộng thường gọi là thành phần chiêu hồi chiêu hàng, nếu không chạy được ra nước ngoài, đều bị đưa ra toà xét xử về tội phản bội cách mạng. Một số bị kết án tử hình. Ngoài ra thì bị đưa vào giam giữ ở các trại tập trung, y hệt các nhân viên quân sự và dân sự của chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Giữa những người tù chính trị trong các trại giam của Việt cộng không hề có sự phân biệt thành phần chiêu hồi và ngụy. Nếu trong hàng ngũ những người tù thuộc thành phần chiêu hồi có những phần tử xun xoe, bợ đỡ, lập công với cách mạng, thì tỷ lệ những phần tử này còn thấp hơn tỷ lệ trong hàng ngũ những người tù thuộc thành phần không phải chiêu hồi mà Việt cộng gọi là thành phần ngụy. Đây lại thêm một biểu hiện về thành quả hội nhập của các người hồi chánh vào cộng đồng dân tộc sinh sống dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa.
Kết Luận.
Chương trình Chiêu Hồi của Việt Nam Cộng Hòa là một chương trình thành công. Chương trình Chiêu Hồi ngày đó đã bắc nhịp cầu thông cảm giữa những người ở trong chính quyền chống cộng tha thiết với tiền đồ quốc gia dân tộc, với những người ở trong hàng ngũ cộng sản nhưng ý thức sự lầm lạc của mình, đã ngu muội chiến đấu cho chủ nghĩa cộng sản mà cứ tưởng là phục vụ quyền lợi của quê hương, của dân tộc. Chương trình Chiêu Hồi ngày đó mãi đến nay vẫn còn lưu chút dư hương ngọt ngào trong lòng những người không may phải sống trở lại trong vòng kềm kẹp của chính thể chuyên chính vô sản.
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Chú Thích:
1. Các ngân khoản ứng trước do Quỹ Tạm Ứng Chiêu Hồi lập ra để ủy ngân cho các địa phương trước năm 1967 phần lớn chưa được thanh lý. Đầu năm 1972, Bộ Chiêu Hồi cho lập Ủy ban Liên Bộ Chiêu Hồi, Tài Chánh, Giám Sát Viện, Ngân Sách Ngoại Viện để thanh lý hồ sơ chi tiêu các quỹ ứng trước đó. Các địa phương không có hồ sơ thanh lý hợp lệ phải hoàn trả ngân khoản được ứng trước. Bộ Chiêu Hồi đã thu lại 57 triệu đồng Việt Nam cho Quỹ Tạm Ứng Chiêu Hồi, và chuyển hoàn tồn khoản của Quỹ Tạm Ứng Chiêu Hồi cho Quỹ Đối Giá Viện Trợ Mỹ.
2. Thể thức chi tiêu Xây Dựng Nông Thôn được đặt ra để giúp các địa phương không bị ràng buộc với các thủ tục chi tiêu rườm rà của trung ương, nhờ vậy, các địa phương có thể linh động giải quyết nhanh chóng các nhu cầu cấp kỳ. Tuy nhiên, nếu trung ương có thái độ phủi tay (ủy ngân xong là xem như hết trách nhiệm) hay chủ trương tiếp tay (ủy ngân bừa bãi quá mức nhu cầu để chia chác) thì thể thức chi tiêu này cũng như việc sử dụng thực phẩm phụng sự hòa bình và vật liệu xây dựng nông thôn cho người hồi chánh không có sự theo dõi của trung ương, sẽ làm phát sinh nhiều tệ đoan nhũng lạm. Cuối năm 1969, Bộ Chiêu Hồi cho áp dụng một mẩu báo cáo hàng tháng đơn giản mà chính xác, các ty chỉ việc điền các số liệu báo cáo vào các ô thích hợp, nhờ đó, Bộ Chiêu Hồi đã chặn đứng nạn báo cáo ma, và phát hiện nhiều việc phi lý, tỷ như có ty đã nhận từ kho Xây Dựng Nông Thôn một số dầu ăn để cung ứng cho người hồi chánh đang ở tại trung tâm chiêu hồi, mà tính ra thì mỗi hồi chánh viên đã tiêu thụ hàng tháng 1.500 lít dầu ăn.
3. Tiếc rằng đầu năm 1974, Bộ Chiêu Hồi được giải thể để nhập vào Bộ Dân Vận, và trước thái độ ngờ vực và rẻ rúng của các cấp lãnh đạo mới, họ đã vô cùng thất vọng. Bị bãi chức, họ lang thang xó chợ đầu đường. Quản Đốc Trung tâm Chiêu Hồi Trung Ương Thị Nghè, vốn là Đại úy đặc công Việt cộng, vì quá bi phẫn, đã nhảy lầu tự sát, may mà không chết, chỉ bị gãy xương. Cuối năm 1974, có sự thay đổi lãnh đạo Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, họ được gọi trở về nhiệm sở cũ.
Sự Hình Thành Trong Tương Lai
Phức Hợp Đô Thị
Huế - Đà Nẵng
Huế
là Hóa, là Hóa Châu. Hóa Châu cùng với Thuận Châu là sính lễ vua Chiêm Thành Chế
Mân dâng vua Đại Việt Trần Anh Tông năm 1306 để cưới công chúa Trần Huyền Trân.
Hóa
Châu ngày đó là giải đất từ sông Bồ đến sông Túy Loan, bao gồm cả hai thành phố
Huế và Đà Nẵng ngày nay. Từ nhà Trần trở đi, trãi qua các triều Hồ và Hậu Lê, kể
cả thời kỳ Minh thuộc, các vùng đất sau này phát triển thành Huế và Đà Nẵng
luôn luôn cùng thuộc về một phân hạt hành chánh. Chỉ từ thời các chúa Nguyễn
cho đến ngày nay, Huế và Đà Nẵng mới trực thuộc 2 phân hạt hành chánh riêng rẽ.
Tuy vậy, 2 thành phố này có quá trình phát triển khác biệt nhau, do đó có những
chức năng lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội khác biệt nhau, đồng thời lại có những
mặt mạnh mặt yếu có thể bổ khuyết cho nhau, nên có thể tổ chức thành một phức hợp
đô thị vô cùng hoàn chỉnh để trở thành trung tâm địa lý, chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, của miền Trung và của cả nước.
Năm
1558, niên hiệu Chính Trị năm đầu triều Lê Anh Tông, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ
Thuận Hóa, đặt hành dinh tại xã Ái Tử thuộc huyện Vũ Xương. Trấn Thuận Hóa lúc
bấy giờ gồm 2 phủ là Tiên Bình và Triệu Phong. Phủ Tiên Bình lĩnh 2 huyện
Khương Lộc (Quảng Ninh) và Lệ Thủy, và 2 châu Bố Chính (Tuyên Hóa, Bố Trạch, Quảng
Trạch) và Minh Linh (Vĩnh Linh, Gio Linh). Phủ Triệu Phong lĩnh 6 huyện Vũ
Xương (Đăng Xương), Hải Lăng, Đan Điền (Quảng Điền, 1/2 Phong Điền), Kim Trà
(Hương Trà, 1/2 Phong Điền), Tư Vinh (Phú Vang, Phú Lộc), và Điện Bàn (Điện
Bàn, Hòa vang, Đà Nẵng). Năm 1570, niên hiệu Chính Trị thứ 13 triều Lê Anh
Tông, Nguyễn Hoàng được kiêm lĩnh trấn Quảng Nam, đeo ấn Thuận Quảng Tổng Trấn
Tướng quân, đặt quân hiệu là dinh Hùng Nghĩa. Nguyễn Hoàng dời tổng hành dinh sang xã Trà Bát, cũng thuộc
huyện Vũ Xương, đồng thời lập dinh trấn Quảng Nam ở Cần Húc (Duy Xuyên ngày
nay). Nguyễn Hoàng lấy huyện Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong đặt làm phủ Điện
Bàn thống thuộc trấn Quảng Nam, đổi phủ Tiên Bình thành phủ Quảng Bình, phủ Tư
Nghĩa thành phủ Quảng Nghĩa. Năm 1611, niên hiệu Hoằng Định thứ 12 triều Lê
Kính Tông, Nguyễn Hoàng sai quân đánh chiếm vùng đất phía nam phủ Hoài Nhơn, đặt
làm phủ Phú Yên gồm 2 huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa. Thế là miền Trung Trung Bộ, từ
Quảng Bình đến Phú Yên, được chính thức định hình, nhất thống thành một mối
trong tay Đoan Quận công Nguyễn Hoàng. Các cộng sự viên thân tín của Nguyễn
Hoàng như Nguyễn Ủ Dĩ, Mạc Cảnh Huống, Tống Phước Trị, đã hết lòng gíúp đỡ Nguyễn
Hoàng sửa sang nội trị, biến vùng Thuận Quảng thành nơi phồn vinh an lạc.
Vào
lúc bấy giờ, hai trung tâm thị tứ Huế và Đà Nẵng chưa xuất hiện. Cho đến mãn đời,
Nguyễn Hoàng vẫn đặt đại bản doanh ở Trà Bát, thuộc huyện Vũ Xương. Đến đời con
là Nguyễn Phước Nguyên, năm 1626 mới dời vào Phước Yên thuộc huyện Quảng Điền,
và gọi Phước Yên là Chính Dinh, còn Trà Bát thì đổi tên lại là Cựu Dinh. Nhưng
địa thế Phước Yên chật hẹp nên Nguyễn Phước Lan năm 1637 dời phủ vào Kim Long
thuộc huyện Hương Trà, sát cạnh thành phố Huế ngày nay. Đến năm 1687, Nguyễn
Phước Trăn dời phủ xuống Phú Xuân, cũng thuộc huyện Hương Trà, ở góc đông nam
Kinh thành Huế ngày nay. Năm 1713, Nguyễn Phước Chu dời phủ ra Bác Vọng thuộc
huyện Quảng Điền. Năm 1739 Nguyễn Phước Khoát lại dời phủ trở về Phú Xuân, bên
tả phủ cũ. Như vậy, cho dù Kim Long ngày nay đã nằm bên trong thành phố Huế,
chính xác là mãi đến đầu thế kỷ 18 (năm 1739), với việc Võ Vương tám đời trở lại
Trung Đô (bát thế hoàn Trung Đô), đô thành Phú Xuân, tức là thành phố Huế ngày
nay, mới thực sự dứt khoát là thủ phủ của xứ Đàng Trong. Sau thời kỳ các chúa
Nguyễn, nhà Tây Sơn tiếp tục đóng đô ở Phú Xuân. Năm 1802, Gia Long thống nhất
sơn hà, và Phú Xuân trở thành kinh đô của cả nước. Về phần thành phố Đà Nẵng
thì sự xuất hiện chậm hơn, chỉ kể từ khi trở thành nhượng địa của Pháp theo hòa
ước Harmand năm 1883. Vì là nhượng địa được nhà cầm quyền Pháp gia tâm kiến thiết,
lại là cảng biển nước sâu, nằm ở vị trí đầu mối các đường hàng không hàng hải
quốc tế, nên Đà Nẵng nhanh chóng phát triển thành một đô thị đông đúc, thay thế
vai trò của các cảng Hội An và Thanh Hà để trở thành cửa ngõ của Triều Đình Huế
và trung tâm kinh tế thương mãi của miền Trung Trung Bộ.
Bàn
về vị thế của một trung tâm thị tứ, các nhà viết sử nước ta xưa nay có những
quan điểm không tương đồng khi đề cập đến thành phố Huế. Bỏ qua thời sơ sử mịt
mù khi vùng Huế được sử cũ đoán định là bộ Việt Thường, ngay trong thời Bắc thuộc,
từ năm 111 trước Công nguyên trở về sau, sử cũ nước ta tỏ ra rất mờ mịt về vùng
Huế. Sử cũ không mấy khi đề cập đến vùng Huế trong thời kỳ Nhật Nam (1), thảng
hoặc có nói tới thì cũng là nhân dịp nhắc lại những điều trong sử Trung Quốc có
liên hệ đến vùng Huế, với những điều nhận định và phỏng đoán sai lầm. Thí dụ rõ
nét là việc tưởng lầm từ sau năm 248 sau Công nguyên khi thành Khu Túc mất về
Lâm Ấp, Giao Châu không còn quận Nhật Nam, do đó mà có sự lẫn lộn thành Khu Túc
ở Nguyệt Biều phía tây nam Huế với lũy Cao Lao Hạ ở phía bắc Quảng Bình. Đương
nhiên là sử cũ đối với vùng Huế thời kỳ Ô Ri (1) lại càng mờ mịt hơn, sai lầm
hơn, thí dụ như việc đoán định thành Phật Thệ vào thời Lý Thái Tông đánh Chiêm
Thành, chém vua Xạ Đẩu bắt nàng Mỵ Ê, là Thành Lồi Nguyệt Biều ở Huế. Thực tế lịch
sử là Thành Lồi Nguyệt Biều là di tích thành Khu Túc thời Bắc thuộc, và thành
Phật Thệ là thành Vijaya (Chà Bàn) ở Bình Định. Đến khi đứng trên bình diện địa
lý nhân văn mà xét đoán thì quan điểm các nhà viết sử và địa chí nước ta trong
việc khen chê thành phố Huế lại càng khác biệt nhau. Tác giả Ô Châu Cận Lục là
Dương Văn An thì cho rằng thành Hóa Châu rất lớn, núi sông hùng vĩ, hiểm trở : sông
lớn ở huyện Đan Điền dòng sông rất xa, đường sông rất dài, miếu cũ Minh Uy chận
trên đầu núi, thành lớn Hóa Châu dài đến cửa sông. Tác giả Phủ Biên Tạp Lục
là Lê Quý Đôn ca tụng thành Phú Xuân là nơi phồn hoa đô hội : mái nhà nguy
nga, đài cao rực rỡ, tường bao quanh, cửa bốn bề, chạm vẽ khéo đẹp cùng cực.
Các sử quan nhà Nguyễn lại càng chủ quan hơn đến độ đại ngôn quá mức. Đại Nam
Nhất Thống Chí viết rằng phủ Thừa Thiên là cái Kho Trời (Thiên phủ), và
xưng tụng đất Kinh Sư là cái rốn của Trời Đất. Tác giả Việt Nam Sử Lược
là Trần Trọng Kim nhận định rằng Huế ở vào một nơi đường giao thông bất tiện.
Tác giả Việt Sử Toàn Thư là Phạm Văn Sơn, và hầu hết các nhà sử địa học hiện
nay đều có chung quan điểm rằng Huế là một vùng đất nghèo, kinh tế kém phát
triển.
Ngoại
trừ lời lẽ của các sử quan nhà Nguyễn mang nặng tính chất ước lệ nên không phản
ánh thực tế, các quan điểm khác của các nhà viết sử và địa chí nước ta vừa nêu
trên đây đều xác đáng. Tuy nhiên, những điều nhận xét này còn thiếu tính chất
bao quát nên chưa đánh giá đúng mức các mặt mạnh mặt yếu của thành phố Huế. Thật
vậy, sự phê phán chỉ chú trọng đến vị thế của thành phố Huế về mặt kinh tế, lại
còn bị giới hạn bởi thế đứng và góc nhìn thu hẹp trong khuôn khổ sinh hoạt xã hội
phong kiến nông nghiệp. Trong thực tế, thế mạnh của thành phố Huế là ở các mặt
lịch sử và văn hóa, xuyên qua vai trò chính trị và vị trí chiến luợc của trung
tâm thị tứ này từ thời bắt đầu có chính sử cho đến ngày nay. Thật vậy, trước
khi trở thành Phú Xuân, tức là Kinh Thành Huế ngày nay, vùng Huế đã là cái nôi
của nhiều địa điểm chính trị và chiến lược quan yếu như thành Tây Quyển, thành
Khu Túc, huyện Thọ Lãnh, bến Ôn Công, thành Hóa Châu, cửa Tư Dung.
Từ
cuối thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, vào đời Tây Hán, thành Tây Quyển ở phía bắc
Huế là quận lỵ quận Nhật Nam. Các khai quật khảo cổ năm 1997 đã phát hiện di
tích một tòa thành xưa ở làng Thành Trung, huyện Quảng Điền. Còn phải chờ các
khảo nghiệm bổ túc để xác định đây là di tích thành Tây Quyển đời Hán, hay đây
chỉ là di chỉ của một tòa thành khác do người Chiêm xây dựng về sau thay thế
thành Tây Quyển đã bị vua Lâm Ấp Phạm Văn san bằng năm 347 sau Công nguyên, dưới
triều Tấn Mục Đế.
Xa hơn một chút về phía nam là thành
Khu Túc, ngày nay còn di tích là Thành Lồi ở làng Nguyệt Biều huyện Hương Thủy.
Vào đời Tây Hán, Khu Túc là một trạm trên con đường chiến lược nối quận lỵ Tây
Quyển với huyện lỵ Tượng Lâm. Cuối đời Đông Hán, từ khi Tượng Lâm nổi lên tự chủ
vào năm 192, Khu Túc trở thành tiền đồn bảo vệ thành Tây Quyển. Năm 248, đời
Đông Ngô, Lâm Ấp chiếm thành Khu Túc và sửa sang thành căn cứ quân sự trọng yếu,
vừa để làm bàn đạp tấn công Giao Châu, vừa để làm tiền đồn bảo vệ kinh đô Trà
Kiệu. Đến đời Tấn, vua Lâm Ấp Phạm Văn xây lại thành Khu Túc bằng gạch với quy
mô to lớn. Thủy Kinh Chú chép rằng thành Khu Túc có chu vi 6 dặm, cao 2 trượng,
có mở nhiều lỗ vuông, có 5 tầng gác, có lầu cao 7, 8 trượng, chung quanh có 2 vạn
nóc nhà. Từ Khu Túc, năm 347, Phạm Văn tiến ra chiếm Nhật Nam, bắt giết Thái
Thú Hạ Hầu Lãm, san bằng thành Tây Quyển, và đắp lũy Bình Chánh để tính chuyện
chiếm đóng lâu dài. Năm 349, Đằng Tuấn đem đại quân Giao Quảng phản công, nhưng
bị Phạm Văn đánh thua, phải lui về Cửu Chân. Phạm Văn cũng bị thương mà chết,
con là Phạm Phật lên thay. Năm 351, Đằng Tuấn tiến quân chiếm lại Nhật Nam, đuổi
Phạm Phật về lại thành Khu Túc, và cắt phần đất phía nam của huyện Lư Dung đặt
thêm huyện Thọ Lãnh (Huyện Phú Lộc ngày nay) để củng cố biên cương phía nam của
Giao Châu. Năm 359, Phạm Phật lại ra quấy phá Nhật Nam, khiến Ôn Phóng Chi phải
huy động quân thủy bộ vào đánh dẹp. Phạm Phật lại lui về cố thủ thành Khu Túc.
Từ đó, hai bên giảng hòa, lấy bến Ôn Công (Mủi Chân Mây) làm ranh giới Giao
Châu-Lâm Ấp. Năm 399, con Phạm Phật là Phạm Hồ Đạt lại đánh hãm Nhật Nam, bắt
giết Thái Thú Cảnh Nguyên, tiến chiếm Cửu Đức, và bao vây thành Giao Chỉ, nhưng
cuối cùng bị Đỗ Viện đánh bại nên lại lui về cố thủ thành Khu Túc. Đến đời Tống
(Nam triều), năm 431, Phạm Dương Mại II đem chiến thuyền vượt biển ra cướp phá
Cửu Đức, Nguyễn Di Chi phải cất quân đánh dẹp, và Phạm Dương Mại II lại lui về
cố thủ Khu Túc. Những trận đánh vừa kể trên đây đã làm nổi bật vị thế chiến lược
của thành Khu Túc trong các vai trò bàn đạp tiến công Giao Châu và căn cứ phòng
thủ Lâm Ấp. Để giải quyết dứt điểm mối hiểm họa này, năm 446, Tống Văn đế sai
Đàn Hòa Chi, Tiêu Cảnh Hiến, Tông Xác, Khương Trọng Cơ, Kiều Hoàng Dân đem đại
binh chinh phạt Lâm Ấp, hạ thành Khu Túc và tiến chiếm Trà Kiệu. Mất thành Khu
Túc, từ đó, Lâm Ấp chịu quy phụ Trung Quốc. Tuy rằng khoảng 100 năm sau, đời
Lương, nhân Lý Bôn nổi lên xưng đế ở Giao Châu, Rudravarman (Luật Đà La Bạc Ma)
thừa cơ kéo binh ra chiếm Nhật Nam, củng cố lại thành Khu Túc, nhưng chẳng bao
lâu, nhà Tùy chiếm lại Giao Châu và năm 605, sai Lưu Phương đem quân hạ thành
Khu Túc, chiếm đóng Trà Kiệu, lấy lại đất cũ Nhật Nam, và lấy thêm đất Tượng
Lâm đến tận mũi Diều (Varella) đặt quận Lâm Ấp. Từ đó thành Khu Túc biến khỏi
vũ đài lịch sử.
Năm
618, nhà Đường lên thay nhà Tùy, nhưng Thái Thú Lý Giao cát cứ vùng Nhật Nam,
chống lại nhà Đường. Tuy về sau, nhà Đường hàng phục được Lý Giao, nhưng vẫn
không cai trị được Nhật Nam, vì nhân lúc có loạn Nam Chiếu, người Lâm Ấp nổi
lên khôi phục đất cũ. Từ năm 758, đời Đường Túc Tông, toàn bộ Nhật Nam trong thực
tế mất hẳn về Lâm Ấp (có tên mới là Hoàn Vương). Từ năm 875, nhà Đường dứt
khoát bỏ đất Nhật Nam, và gọi nước láng giềng phương nam của Giao Châu là Chiêm
Thành (Champapura). Người Chiêm xây dựng thành Châu Ri (sau này là thành Hóa
Châu), hiện còn di tích tại làng Thành Trung, huyện Quảng Điền, gần Ngã ba
Sình, để cai trị miền bắc Chiêm Thành. Năm 1307, đời Trần Anh Tông, Đoàn Nhữ
Hài đổi tên châu Ri là Hóa Châu, và thành Hóa Châu là lỵ sở của vùng đất trải
dài từ huyện Hương Trà đến phủ Điện Bàn, bao gồm cả hai thành phố Huế và Đà Nẵng
ngày nay. Vì vị trí chiến lược quan yếu, năm 1391, thành Hóa Châu được Hồ Quý
Ly tu bổ đại quy mô, và năm 1402, đường cái quan từng chặng có phố xá, có trạm
ngựa, gọi là Thiên lý cù, được thiết lập để nối liền thành Hóa Châu với kinh
thành Tây Giai. Vị trí chiến lược quan yếu này đã được tướng nhà Minh là Trương
Phụ nêu rõ trong lời thề quyết tử khi tấn công căn cứ địa kháng chiến của nhà Hậu
Trần: Ta sống phen này là ở Hóa Châu, ta chết phen này cũng ở Hóa Châu.
Thành
Hóa Châu và cửa biển Tư Dung (nay là Tư Hiền) là mũi xung kích của căn cứ địa
Thăng Long trong sự nghiệp nam tiến của dân Đại Việt. Các đạo vương sư các triều
Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê chinh phạt Chiêm Thành đều cho thủy quân ghé lại Tư Dung
trước khi tiến công kinh đô Chiêm Thành là thành Phật Thệ. Cửa Tư Dung nguyên
trước tên là Ô Long. Nhân đoàn thuyền đưa công chúa Huyền Trân về Chiêm có ghé
lại nghỉ ngơi nên nhà Trần mới đổi thành Tư Dung. Đời Mạc đổi là Tư Khách, qua
triều Lê Trung Hưng lại lấy tên cũ Tư Dung. Năm 1841, Thiệu Trị năm đầu, đổi
thành Tư Hiền (2). Vua Lê Thánh Tông còn lưu lại bài thơ Tư Dung hải môn lữ thứ:
Lâu thuyền kích cổ đáo Ô Long,
Bách nhị quan hà thử
yếu xung.
Liệt chướng huyền
nhai thanh xúc xúc,
Kê thiên phách lãng
bích trùng trùng.
Tiên triều sự nghiệp
truyền di tích
Nam quốc dư đồ nhận cựu
phong.
Nạp cấu tàng ô hà hải
lượng,
Nhân gian vô xứ bất
triều tông.
Đến
đời Trịnh Nguyễn, Phú Xuân trở thành thủ phủ và là trung tâm phát triển kinh tế
và bành trướng lãnh thổ của Đàng Trong. Kể từ năm 1611, Nguyễn Hoàng sai quân
đánh chiếm vùng đất phía nam phủ Hoài Nhơn đặt làm phủ Phú Yên, gồm 2 huyện Đồng
Xuân và Tuy Hòa, đến năm 1744, Nguyễn Phước Khoát lên ngôi vương, rồi lần lượt
lấy các đất Tầm Bôn, Lôi Lạp, Ba Thắc, Trà Vinh, đặt các đạo Đông Khẩu, Tân
Châu, Châu Đốc, Kiên Giang, Long Xuyên, chỉ trong vòng 150 năm, cương giới phía
nam nước ta đã tiến từ đèo Cù Mông đến bờ vịnh Xiêm La, lãnh thổ mở rộng gấp 2
lần so với lúc vua Lê Thánh Tông thống nhất Đại Việt với Chiêm Thành năm 1471.
Dưới thời các chúa Nguyễn và các vua
Nguyễn, công việc tây tiến cũng rất rầm rộ. Ngay từ năm 1613, Nguyễn Phước Nguyên
đã đặt dinh Ai Lao gồm 6 thuyền quân tại thượng nguồn sông Cam Lộ để không chế
các bộ tộc Lục Hoàn, Vạn Tượng, Trấn Ninh, Qui Hợp. Đến đời Minh Mạng thì một số
phủ nội thuộc được thiết lập tại Trung và Hạ Lào, và Vạn Tượng trở thành đất bảo
hộ. Đối với Chân Lạp, từ năm 1674, Nguyễn Phước Tần đã can thiệp vào nội tình
mà chia nước này làm 2, đặt một vua chánh ở Long Úc, và một vua phó ở Sài Côn.
Đến đời Minh Mạng thì toàn bộ vùng Biển Hồ trở thành Trấn Tây Thành, gồm 33 phủ
và 2 huyện.
Như vậy, từ vai trò xung kích của
căn cứ địa Thăng Long, vùng Huế đã chuyển mình trở thành trung tâm phát triển
kinh tế và bành trướng lãnh thổ của dân tộc Đại Việt, không những về phương nam
mà còn về phương tây, đem cương giới phía tây nước ta đến bờ sông Mêkông và
vùng Biển Hồ. Lãnh thổ nước Đại Nam với kinh đô Huế vào đầu thế kỷ 19, dưới triều
Minh Mạng, đã mở rộng gấp 4 lần so với thời Đinh Tiên Hoàng dựng nước Đại Cồ Việt
với cố đô Hoa Lư vào thế kỷ thứ 10.
Vùng Huế có bề dày lịch sử và văn
hóa vô cùng đồ sộ. Lịch sử vùng Huế trong lòng lịch sử Đại Việt không phải chỉ
bắt đầu từ năm 1306 lúc nhà Trần gã công chúa Huyền Trân đổi lấy 2 châu Ô Ri,
mà lùi lại rất xa vào thời hồng hoang của đất nước chúng ta khi vùng Huế được sử
cũ đoán định là Việt Thường. Sự đoán định này chính xác đến mức độ nào thì còn
là vấn đề cần nghiên cứu thêm. Có điều chắc chắn là vùng Huế, từ thời cổ đại,
cùng với miền bắc Trung Bộ, là địa bàn giao thoa của 2 nền văn minh Đông Sơn và
Sa Huỳnh, và mãi cho tới ngày nay còn bảo lưu nhiều yếu tố văn hoá của nước Việt
cổ. Đến thời Bắc thuộc, với việc vùng Tượng Lâm nổi lên tự chủ và trở lại với
văn hóa Ấn Độ thì vùng Huế là nơi đối đầu của 2 nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ,
xuyên qua những cuộc tranh chấp dằng co kéo dài hàng mười mấy thế kỷ, giữa Giao
Châu và Lâm Ấp, rồi giữa Đại Việt và Chiêm Thành, Chân Lạp, đưa đến kết quả là
sự hình thành đất nước và con người Việt Nam ngày nay. Như vậy, thế mạnh của Huế
là thế mạnh lịch sử và văn hóa, với vị trí chiến lược của thành Khu Túc thời Bắc
thuộc, với vai trò chính trị của thành Hóa Châu thời Trần Lê, với dấu ấn văn
hóa của cố đô Phú Xuân thời các vua chúa nhà Nguyễn. Đem so sánh Huế với các
trung tâm lịch sử và văn hóa khác thì Huế ngang ngữa với Luy Lâu và Thăng Long,
và hơn hẳn Hoa Lư và Gia Định.
Mặt khác, nhiều người nhận xét rằng
Huế ở vào một nơi đường giao thông bất tiện, là một vùng đất nghèo,
kinh tế kém phát triển. Những điểm này đều rất đúng nếu đất nước cứ đứng
mãi một chổ trong khuôn khổ xã hội phong kiến nông nghiệp với các phương tiện
sinh hoạt và kỷ thuật hạn chế. Ngày học giả Trần Trọng Kim viết Việt Nam Sử Lược,
đường số 1 chỉ rộng 4 mét, đường số 9 là đường đất, và xe hơi ở Huế và ở Hà Nội
chỉ đếm trên đầu ngón tay. Hơn nữa, phía tây và phía nam Huế, núi non trùng
trùng điệp điệp, việc đi lại phải lên đèo xuống ải, quả là khó khăn, bất tiện.
Nhưng ngày nay, hầm đường bộ xuyên Hải Vân đã vừa khai thông, chẳng bao lâu nữa
xe hơi sẽ qua lại hai chiều (3). Con đường đèo ngoằn ngoèo quanh co dài 22
kilômét và lên cao 500 mét được thu ngắn chỉ còn 6 kilômét trên cùng một mặt phẳng.
Khoảng cách giữa Huế và Đà Nẵng chỉ còn lại tám, chín chục kilômét, không những
việc ra bắc vào nam trở nên dễ dàng mà việc giao thương với thế giới bên ngoài
thông qua cửa khẩu Đà Nẵng cũng rất thuận tiện. Đường số 9 lại trùng hợp với dự
án xa lộ Á Châu nay mai sẽ thực hiện. Đèo Lao Bảo có độ dốc tương đối thấp, và
những điểm cao nhất cũng chỉ trên dưới 200 mét, nên những dự án công trình quan
yếu như đường xe lửa Đông Hà-Savanakhet được dự trù từ thời Nhật thuộc, và kênh
đào Mêkông-Đông Hải do Viện sĩ Viện Hàn Lâm Pháp Quốc Trần Minh Tiết (4) chủ
trương, đều có thể thực hiện dễ dàng với các phương tiện kỷ thuật tiến bộ hiện
thời. Quốc lộ 1B ngang qua thị trấn A Lưới đang được thi công, đường bộ từ Ngã
ba Tuần lên A Lưới đã có sẵn và đã được nâng cấp, nhờ vậy, việc giao thông giữa
Huế và Tây Nguyên sẽ rất dễ dàng. Với vị trí nằm ở trung độ bắc nam của Việt
Nam, và ở đầu mối hành lang đông tây của bán đảo Đông Dương, Huế vẫn là một địa
điểm chiến lược chính trị và quân sự vô cùng quan trọng. Nay mai, với việc hoàn
chỉnh mạng lưới giao thông vừa nói trên đây, Huế sẽ trở thành một trung tâm
phát triển kinh tế và xã hội cũng quan trọng không kém : Huế sẽ là đầu mối của
việc xâm nhập và khai thông nội địa các xứ Tây Nguyên, Lào và Bắc Thái Lan.
Vai trò đầu mối xâm nhập và khai
thông nội địa của Huế sẽ được Đà Nẵng tích cực hổ trợ. Đà Nẵng có thế mạnh về
kinh tế vì hậu phương Quảng Nam là một vùng đông dân và giàu sản vật. Đà Nẵng lại
là mắt xích quan yếu của hệ thống hàng không hàng hải quốc tế. Đà Nẵng nằm ngay
trên đường bay quốc tế A1
là đường bay chính nối liền Tây Âu với Đông Á.
Đà Nẵng cũng nằm trên thủy đạo quốc tế nối liền Singapore với Hồng Kông. Nếu thủy
đạo này men theo bờ biển Phi Luật Tân thì lệ phí Hồng Kông (HongKong fee) của
Đà Nẵng tương đương với Cam Ranh và Vũng Tàu, và thấp hơn Hải Phòng rất nhiều.
Nếu thủy đạo này men theo bờ biển Trung Bộ và đảo Hải Nam thì Đà Nẵng và Cam
Ranh nằm ngay trên hải trình, lệ phí Hồng Kông bị triệt tiêu. Đà Nẵng lại là cảng
biển nước sâu (cảng Nam Thọ ở mặt đông bán đảo Sơn Chà), thuận lợi hơn các cảng
Sài Gòn và Hải Phòng phải đi vào cửa sông.
Tóm lại, hai thành phố Huế và Đà Nẵng
có quá trình phát triển riêng rẽ và khác biệt nhau, nên có những chức năng
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cũng riêng rẽ và khác biệt nhau. Thế mạnh của
Huế là về mặt lịch sử và văn hóa, nên Huế chủ yếu là một trung tâm chính trị.
Thế mạnh của Đà Nẵng là về mặt giao thương và xã hội, nên Đà Nẵng chủ yếu là một
trung tâm kinh tế. Duy trì tổ chức từ trước tới nay như là hai phân hạt hành
chánh riêng rẽ, Huế và Đà Nẵng, bên cạnh các mặt mạnh không phát huy được hết
ưu điểm, đã bộc lộ nhiều mặt yếu không dễ dàng gì khắc phục. Nhưng nếu kết hợp
Huế và Đà Nẵng lại thành một phức hợp đô thị có cùng chung tổ chức hành chánh
và quản trị, các mặt mạnh mặt yếu riêng rẽ của Huế và Đà Nẵng sẽ bổ khuyết cho
nhau, để biến phức hợp Huế-Đà Nẵng thành một đô thị hoàn chỉnh về mọi mặt. Huế-Đà
Nẵng sẽ trở thành trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội của miền Trung
và của cả nước. Nằm ở vị trí trung độ bắc nam củaViệt Nam, Huế-Đà Nẵng là yếu tố
cơ bản để kết hợp 3 miền Trung Nam Bắc, san lấp các dị biệt và giải hóa các mâu
thuẫn địa phương, củng cố nền móng thống nhất của nước nhà. Nằm ở vị trí giao
điểm các hệ thống hàng không hàng hải quốc tế, Huế-Đà Nẵng là cửa ngõ của Việt
Nam mở thông ra giao lưu với thế giới bên ngoài. Nằm ở đầu mối hành lang đông
tây của bán đảo Đông Dương, Huế-Đà Nẵng là căn cứ xâm nhập và khai thông nội địa
các xứ Tây Nguyên, Biển Hồ, Thượng Hạ Lào, Vân Nam, Miến Điện và Bắc Thái Lan.
Ngày
nay sự hình thành các phức hợp đô thị trên thế giới là một hiện tượng phổ biến.
Theo với xu hướng đô thị hóa nông thôn, các điểm thị tứ lớn rộng ra và dần dà
giáp ranh nhau, đưa đến hệ quả là chung quanh các thành phố lớn là các thành phố
vệ tinh ken thành một mạng dày dặc một vài trăm kilômét. Vùng Los Angeles có bề
rộng hơn hai trăm kilômét, máy bay khi đã vào khu vực đô thị này còn phải bay nửa
tiếng đồng hồ nữa mới tới phi trường chính. Các khu vực đô thị lớn khác như New
York, London, Paris, Berlin, Calcutta, Pekin, Thượng Hải , Tokyo cũng có quá
trình hình thành tương tự, nghĩa là có một thành phố trung tâm và hàng chục
thành phố vệ tinh vây quanh. Trường hợp hai khu vực đô thị lớn ở gần nhau và có
nhu cầu bổ khuyết cho nhau thì vẫn có thể kết hợp thành một phức hợp đô thị có
hai trung tâm gọi là đô thị song sinh hay song lập (twin cites) như trường hợp
Dallas-Fortworth và Mineapolis-Saint Paul.
Huế và Đà Nẵng cách nhau không tới
100 kilômét theo đường chim bay. Mặc dù giữa Huế và Đà Nẵng có những dãy núi
Phước Tượng, Phú Gia, Hải Vân chắn ngang, đường bộ, đường sắt, đường biển giữa
hai thành phố vẫn đi lại dễ dàng. Với phương tiện giao thông thô sơ thời trước,
câu nói mai Huế xế Quảng vẫn là câu nói cửa miệng của dân gian. Ngày nay, tuy với
phương tiện giao thông vẫn còn lạc hậu, khoảng thời gian đó rút ngắn lại còn
vài tiếng đồng hồ. Huống hồ giữa hai thành phố Huế và Đà Nẵng đã có sẵn một chuỗi
dài trung tâm thị tứ: Phú Bài, Nong, Truồi, Cầu Hai, Bạch Mã, Cảnh Dương, Lang
Cô, Liên Chiểu, Nam Ô. Với việc hình thành mạng lưới giao thông mới chung quanh
Huế, với việc hiện đại hóa các tuyến đường sắt đường bộ đã có sẵn, với việc mở
mang các trung tâm thị tứ từ Phú Bài đến Nam Ô, chắc chắn việc hình thành trong
tương lai Phức Hợp Đô Thị Huế-Đà Nẵng là chuyện hiện thực.
Tháng 12 năm 2003
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Chú giải:
1.
Minh Vũ Hồ Văn Châm. Vùng Huế trong lòng lịch sử Đại Việt. Truyền Thông số 8,
Tháng 05-2003, C.P. 101 Succ. Jean Talon, St Leonard, Canada H1S 2Z1.
Theo giòng lịch sử, Huế đã trải qua các thời kỳ
như sau:
*Thời kỳ Việt Thường (Hồng
Bàng, Thục, Triệu).
*Thời kỳ Nhật Nam (từ 111 trước
Công nguyên đến 758 sau Công nguyên).
*Thời kỳ Ô Ri (từ 758 đến 1306).
*Thời kỳ Thuận Hóa (từ 1307 đến
1558)
*Thời kỳ Đàng Trong (từ 1558 đến 1802).
*Thời
kỳ Kinh Sư (từ 1802 đến 1945).
*Thời
kỳ Thừa Thiên-Huế (từ 1945 đến nay).
2. Đoàn Khoách. Thắng cảnh
Tư Dung. Trong Tuyển Tập Nhớ Huế, số 6, 1994,Võ Văn Tùng chủ biên, 9559 Bolsa
Ave, suite D, Westminster, CA 92683,
USA.
3. Hầm đường bộ xuyên Hải
Vân do liên doanh quốc tế Nippon Koei (Nhật), Louis Berger (Mỹ), và TEDI (VN)
xây dựng theo phương pháp NATM của Áo. Khởi công ngày 01-10-2000, thông hầm ngày 07-11-2003.
4. Trần Minh Tiết, Viện
sĩ Viện Hàn Lâm Pháp Quốc. Về chính trị, theo chủ trương trung lập hóa Đông
Dương của De Gaulle.
Từ Anh Khóa, Thầy Đồ
Đến Ông Quan
Tiêu
đề “Từ Anh Khóa, Thầy Đồ, Đến Ông Quan” là câu tóm lược tiến trình sự nghiệp
của người học trò theo học chữ Nho thời phong kiến.
Thời đó, ở nước
ta, chữ Nho là văn tự chính thức của tất cả các hoạt động trong xã hội, từ lãnh
vực hành chánh, giáo dục, luật pháp, truyền thông, cho đến tôn giáo, văn học,
kiến trúc, mỹ thuật và giao tiếp. Chữ Nho, còn gọi là Hán tự, là chữ Hán, là
chữ An Nam, là chữ mà mọi người phải dùng tới. Trên các giấy tờ giao ước viết
bằng chữ Nho, các bên liên quan cho dù không biết chữ cũng phải lăn tay điểm
chỉ vào. Vì thế, thông thạo chữ Nho dù chỉ mới ở mức độ biết đọc biết viết đã
là chuyện tốt. Huống hồ thông thạo chữ Nho tới mức độ mở miệng ra là ngọc nhả
châu phun, vung tay lên là rồng bay phượng múa, thì quả thật là tuyệt vời,
đương nhiên được mọi người chung quanh quí trọng. Người trong nước, ai ai cũng
thi đua nhau cho con em theo học chữ Nho. Học để thông thạo chữ nghĩa, để thi
đậu đi làm quan, trước là nở mặt
nở mày, rạng rỡ tông môn, sau là giúp vua an dân trị quốc.
I. Việc truyền bá chữ Nho vào Giao Châu.
Vai trò của Sĩ Nhiếp.
Chữ Nho truyền
vào nước ta từ đời Hán. Người có công lớn trong việc truyền bá chữ Nho tại Giao
Châu là Sĩ Nhiếp, nên được đời sau tôn là Nam Giao Học Tổ, được nhà Trần phong
làm phúc thần, tước vị là Gia Ứng Thiện Cảm Linh Vũ Đại Vương. Sĩ Nhiếp là
người Thương Ngô, tổ 6 đời gốc người nước Lỗ (Sơn Đông), cha là Sĩ Tứ làm Thái
Thú Nhật Nam nên lúc nhỏ theo cha ở thành Tây Quyển (phía bắc Huế), rồi sang
Kinh sư (Lạc Dương) du học, được cử là Hiếu Liêm, trước bổ làm chức quan Lệnh
Hàm Dương, rồi đến đời Hán Hiến Đế chuyển làm Thái Thú Giao Chỉ. Gặp lúc thiên
hạ đại loạn, Lưu Biểu ở Kinh Châu sai Lại Cung sang kiêm tính Giao Châu. Sĩ
Nhiếp bèn cùng Thái thú Thương Ngô là Ngô Cự đánh đuổi Lại Cung, nhân đó vua
Hán cho Sĩ Nhiếp làm An Viễn Tướng quân, thống lĩnh binh mã 7 quận, tước phong
Long Độ Đình Hầu. Sĩ Nhiếp chia các em đi làm Thái Thú các quận Nam Hải, Hợp
Phố, Cửu Chân, còn tự mình kiêm lĩnh hai quận Thương Ngô và Giao Chỉ. Khi nước
Tàu chia ba, Sĩ Nhiếp theo về Đông Ngô. Ngô chủ Tôn Quyền cử Bộ Chất làm Thứ Sử
Giao Châu, nhưng Sĩ Nhiếp không cho Bộ Chất đến nơi trấn nhậm, buộc lòng nhà
Ngô phải phong cho Sĩ Nhiếp làm Long Biên Hầu, Đệ nhất Thiên Tướng Quân, lĩnh
Giao Châu Thái Thú (1). Sĩ Nhiếp thọ 90 tuổi, cai trị Giao Châu trong 48 năm,
đã gia công mở mang việc học chữ Nho và truyền bá nếp sống phương bắc, làm cho
vùng Lĩnh Nam Hán hóa đậm đà. Sau khi Sĩ Nhiếp chết, con là Sĩ Huy lên thay.
Nhà Ngô sai Lữ Đại sang đánh, Sĩ Huy xin hàng. Ngô chủ Tôn Hạo bèn chia Giao
Châu làm hai là Giao Châu và Quảng Châu.
Tiến cử và Thi cử.
Các triều đại Tấn,
Tống (Nam Bắc triều), Tề, Lương, Trần vẫn theo lề lối tuyển dụng cũ của nhà
Hán, tức là giao cho các quan địa phương tiến cử người hiền tài ra làm việc,
chia làm các hạng hiếu liêm (cử nhân) và mậu tài (tú tài). Đến đời Tùy, vua Tùy
Dạng Đế bắt đầu mở khoa thi để tuyển chọn người ra làm quan. Nhưng phải đến đời
Đường việc thi cử mới có quy củ.
Người trúng
tuyển được chia làm ba loại: sinh đồ, cống cử, và chế cử. Sinh đồ là các học
sinh đã tốt nghiệp các trường ở Kinh sư hay châu quận, nay trúng tuyển kỳ thi
sát hạch ở Tòa Thượng Thư tại tỉnh. Cống cử là những người không theo học ở các
Học (quán), các (học) Hiệu, chỉ thi đỗ sát hạch ở châu quận, nay trúng tuyển kỳ
thi tại Tòa Thượng Thư. Cống cử còn được gọi là hương cống. Chế cử là những
người trúng tuyển kỳ thi đặc biệt do vua đích thân ra đề bài.
Từ cuối đời
Đường sang đời Tống, danh xưng chế cử được đổi thành tiến sĩ, chia làm tiến sĩ
cập đệ và tiến sĩ xuất thân (2). Việc học chữ Nho lúc này tại Giao Châu rất phổ
cập. Sĩ tử Giao Châu gốc bản địa thành đạt mỗi ngày một nhiều nên năm 845, vua
Đường hạn chế số người Nam thi khoa Tiến sĩ không được quá 8 người, khoa Minh
kinh không đuợc quá 10 người (3).
Quá trình hình thành tiếng Hán Việt.
Nhà Đường dấy
nghiệp từ Thái Nguyên, đóng đô ở Trường An, quan lại bổ nhiệm sang Giao Châu
phần lớn là người Quan Nội (Thiểm Tây), nên người Giao Châu được học chữ Hán
phát âm theo phương ngữ Trường An. Từ nhà Tống trở đi, Giao Châu độc lập, và
vẫn dùng chữ Nho làm văn tự chính thức. Nhưng người Việt không còn học chữ Nho
trực tiếp với người Tàu nữa. Bởi vậy, tại Trung Quốc, trải qua các triều Tống,
Nguyên, Minh, Thanh, trung tâm chính trị và văn hóa của Trung Quốc chuyển dần
về phía đông rồi lên phía bắc, đời sống văn hóa xã hội nhiều mặt mang đậm dấu
ấn Mông Cổ và Mãn Châu, nên nghĩa chữ và tiếng nói đổi khác đi, trong lúc đó,
người Việt vẫn tiếp tục học chữ Nho với lối phát âm theo phương ngữ Trường An
đời Đường. Đó là quá trình hình thành tiếng Hán Việt. Với tiếng Hán Việt, người
Việt và người Tàu có thể bút đàm với nhau, nhưng người Việt đọc lên hoặc nói ra
thì người Tàu không hiểu được. Cũng cùng một lý do này mà các bài thơ Đường đọc
theo âm Hán Việt nghe rất xuôi tai, còn đọc theo âm quan thoại nhiều khi lại
khổ độc, vi phạm luật bằng trắc.
II. Việc thi cử trong thời kỳ trước nhà Nguyễn.
Các triều đại buổi đầu của Giao Châu tự chủ
Đinh, Lê, Lý, không tổ chức việc học việc thi để tuyển dụng người làm việc
nhà nước, mà sở cậy giới tăng lữ sử dụng chữ Nho làm văn tự chính thức trong
việc cai trị dân chúng và giao thiệp với người Tàu. Mãi đến đời Lý Thánh Tông
mới dựng Văn miếu vào năm 1070, và đời Lý Nhân Tông mới mở khoa thi Nho học Tam
trường vào năm 1075 để chọn người Minh kinh bác học, và xây Quốc tử giám vào
năm 1076 để con em các hoàng thân quốc thích đến học tập. Sau đó, mỗi khi cần
người, nhà Lý mới mở khoa thi, như năm 1086 để kén người vào Hàn lâm viện, năm
1165 thi Thái học sinh để tuyển người ra làm quan ở các trấn, năm 1185 và năm
1193 để kén người vào Thị học (hầu vua học), và năm 1195 thi Tam giáo cho xuất
thân (ra làm quan). Ngoài ra còn có các kỳ thi Hình luật, Thư toán để kén lại
điển (2,4).
Đời Trần và đời Hồ, việc học hành và
thi cử đã tương đối được tổ chức hoàn bị. Buổi đầu chỉ ở Kinh sư có Quốc học
viện. Đến cuối đời Trần, Lê Quý Ly tổ chức ở các lộ, châu, phủ, các nhà Học,
nhà Hiệu do các Đốc học và Giáo thụ trông nom. Năm 1232, đời Trần Thái Tông, mở
khoa thi Thái Học sinh, người đỗ chia ra Tam giáp: đệ nhất giáp, đệ nhị giáp,
và đệ tam giáp. Năm 1247 lấy 3 người đỗ đệ nhất giáp làm Tam khôi: Trạng
nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Năm 1256 mở
khoa thi Thái Học sinh, phân biệt Kinh (châu thổ sông Hồng) và Trại
(Thanh Nghệ). Đến khoa thi năm 1274 đời Trần Thánh Tông thì việc phân biệt Kinh
Trại này được bãi bỏ. Năm 1304 đời Trần Anh Tông, định phép thi Thái Học sinh 4
trường: trường 1 thi Ám tả, Kinh nghĩa, trường 2 thi Thi Phú, trường 3 thi
Chiếu, Chế, Biểu, trường 4 thi Đối sách. Mạc Đỉnh Chi đỗ Trạng nguyên khoa này.
Tam khôi được đưa ra Long môn và Phụng thành dạo chơi, sau đó, Trạng nguyên
được bổ chức Thái Học sinh, Bảng nhãn chức Chi hậu bổ thư, Thám hoa chức Hiệu
thư.
Năm 1396 đời
Trần Thuận Tông, Tể Tướng Lê Quý Ly định phép thi Cử nhân 4 trường: trường 1
thi Kinh nghĩa, trường 2 thi Thi Phú, trường 3 thi Chiếu, Chế, Biểu, trường 4
thi Sách vấn, hỏi về Kinh, Sử và Thời vụ. Kể từ đây, thi lấy Cử nhân gọi là thi
Hương, thi lấy Thái Học sinh gọi là thi Hội, trúng tuyển thi Hương rồi mới đuợc
thi Hội, trúng tuyển thi Hội mới được vào Ngự thí, tức là thi Đình. Thi Đình
chỉ làm một bài Sách vấn để sắp hạng Tam
khôi, Tam giáp. Lại định lệ
năm trước thi
Hương, năm sau thi Hội và thi
Đình. Năm 1400 đời Hồ Quý Ly, mở khoa thi Thái Học sinh. Nguyễn Trãi đỗ khoa
này. Năm 1405, đời Hồ Hán Thương, mở khoa thi Cử nhân 5 trường, có thêm 2 môn
thi Viết và Toán ở trường 5.
Triều Hậu Lê, buổi đầu đại định, việc
trị an bề bộn nên thi cử còn giản lược. Năm 1429, đời Lê Thái Tổ, mở khoa thi
Hoành từ, cho sĩ dân và quan viên từ tứ phẩm trở xuống được ứng thí để kén
người, tùy tài bổ dụng. Trong khoa này, Thừa chỉ Nguyễn Trãi được cử làm Giám
thí, dưới quyền Thượng thư Lê Văn Linh giữ chức Đề điệu (5). Năm 1434, đời Lê
Thái Tông, định phép thi 4 trường, lại định lệ 6 năm một khoa, năm trước thi
Hương, năm sau thi Hội, người trúng tuyển gọi là Tiến sĩ xuất thân. Năm 1442
bắt đầu dựng bia đá khắc tên Tiến sĩ. Năm 1448, những người trúng tuyển Đình
thí được chia làm Cập đệ, Chánh bảng và Phụ bảng. Năm 1462 đời Lê Thánh Tông,
đặt ra lệ Bảo kết Hương thí, ai đi thi phải đến bản quán đăng ký, danh
sách trúng tuyển được chuyển về
Lễ nghi viện duyệt xét, chỉ những ai được bản quán bảo kết thực sự đức hạnh mới
được cho dự Hội thí. Năm 1466, định lại 3 năm một khoa, ban mũ áo, đãi ăn yến,
cho vinh quy bái tổ. Năm 1475, vẫn đời Lê Thánh Tông, thi Hương đổi gọi là thi
Cống sĩ, Cử nhân gọi là Hương cống, Tú tài gọi là sinh đồ. Năm 1484, Trạng
nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa cải gọi là Tiến sĩ Cập đệ, Chánh bảng là Tiến sĩ
Xuất thân, Phụ bảng là Đồng Tiến sĩ Xuất thân.
Triều Mạc rất trọng khoa cử. Nói chung việc
thi cử vẫn theo lệ cũ nhà Lê. Chỉ duy năm 1565, đời Mạc Mậu Hợp, kỳ đệ tứ khoa
Tiến sĩ xẩy ra chuyện có bài Phú làm bằng chữ nôm. Nguyễn Hiển Tích vào trường
4 không làm được bài, cao hứng xoay qua viết bài phú Lưu Hầu bằng quốc âm rất
hay, và vẫn được lấy đỗ (6). Cũng dưới triều Mạc, Dương Văn An là người Thuận
Hóa đầu tiên đỗ Tiến sĩ. Lại nữa, khoảng đầu thế kỷ 17, lúc nhà Mạc đã chạy lên
Cao Bằng, đời Mạc Kính Cung, có Nguyễn Thị Du cải nam trang thi đỗ Trạng nguyên
(7).
Đời Lê Trung Hưng, buổi đầu chỉ mở các
Chế khoa tại Thanh Hoa song song với các khoa Tiến sĩ của nhà Mạc ở Đông Kinh.
Sau khi diệt xong nhà Mạc thì việc học hành thi cử ở Đàng Ngoài lại được tổ
chức theo lệ cũ. Về sau, từ đời Bảo Thái
trở đi, đặt phép Huyện khảo để
lấy Thứ thông, chuyển lên hai Ty Thừa Hiến duyệt khảo lại để lấy Sảo thông, sĩ
tử phải nộp 5 tiền để trả phí tổn trường thi, gọi là tiền minh kinh. Sảo thông
đỗ tam trường thì gọi là Sảo thông Sinh đồ, đỗ tứ trường thì gọi là Nhất cử
Hương cống. Đến năm 1750, đời Lê Hiển Tông, Thự phủ Đỗ Thế Giai đặt lệ nộp 3
quan tiền, gọi là tiền thông kinh, thì được thi Hương không phải khảo hạch,
khiến nẩy sinh tệ đoan “sinh đồ ba quan”,
lái buôn không biết chữ cũng nộp tiền
rồi thuê người đi thi hộ, trẻ con 10 tuổi cũng
thi đỗ sinh đồ.
Ở Đàng Trong,
sau khi Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ Thuận Hóa năm 1558, qui chế học hành thi
cử thay đổi khác hẳn Đàng Ngoài. Đến năm
1775, chúa Trịnh đưa quân đánh chiếm Phú Xuân và năm sau ra lệnh cho Phạm Ngô
Cầu tổ chức thi Hương tại Thuận Hóa theo qui chế khoa cử Đàng Ngoài, nhưng chỉ
mới tiến hành khảo hạch ở huyện đã thấy sĩ tử không ai hưởng ứng. Tiếp đến,
quân Tây sơn kéo ra đánh chiếm Phú Xuân năm 1786, Đàng Trong loạn lạc kéo dài,
việc học hành thi cử bị đình đốn.
Nhà Tây Sơn chỉ chú trọng vũ công. Tuy
vậy, trong địa bàn cai trị của mình, Quang Trung biết trọng dụng các nho sĩ Bắc
Hà do khoa mục xuất thân. Năm 1789, mở khoa thi Tuấn tài ở Nghệ An, chỉ thi 2
kỳ: chế nghĩa và văn sách. Người thi đỗ gọi là Tuấn sĩ. Khoa này do La sơn Phu
tử làm Đề điệu, và bài thi thuần dùng tiếng Nôm. Đây là một tiến bộ lớn mặc dù
đề thi còn dùng Hán tự.
III. Qui chế thi cử chữ Nho dưới triều Nguyễn.
Việc thi cử chữ
Nho dưới triều Nguyễn có thể chia làm 3 giai đoạn:
-
Thời kỳ các chúa Nguyễn ở Đàng Trong;
-
Thời kỳ các vua Nguyễn trên toàn bộ đất nước thống
nhất;
-
Thời kỳ Pháp thuộc tại các xứ Bảo hộ Trung Bắc Kỳ.
Thời kỳ các chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Từ năm 1632, cứ
5 năm một lần, các chúa Nguyễn cho mở Xuân thiên Quận thí tại các dinh trấn,
thí sinh làm trong một
ngày một bài thơ, một bài văn,
người thi đỗ được gọi là Nhiêu học, được tuyển dụng làm Huấn đạo. Ngoài ra còn
có kỳ thi viết chữ tốt gọi là Hoa văn tự thể để chọn người làm thư lại ở các ty
Xá sai, Tướng thần lại và Lệnh sử. Cứ 9 năm một lần, các chúa Nguyễn cho mở Thu
vi Hội thí tại phủ chúa, thi trong 3 ngày, trãi qua 3 trường: trường 1 làm 3 bài tứ lục, trường 2 làm
thơ
phú, trường 3 làm văn sách, người
trúng tuyển chia làm 3 hạng: hạng giáp gọi là Hương cống, bổ dụng làm Tri phủ,
Tri huyện, hạng ất gọi là Sinh đồ, bổ dụng làm Huấn đạo, hạng bính cũng gọi là
Sinh đồ, bổ dụng làm Lễ sinh. Về sau, năm 1646, Nguyễn Phước Lan cải gọi Thu vi
Hội thí là khoa Chính đồ, định lệ 6 năm một khoa, trúng tuyển hạng giáp thì gọi
là Giám sinh, còn các hạng ất, bính thì vẫn gọi là sinh đồ. Năm 1691, Nguyễn
Phước Chu lập Văn Miếu ở làng Triều sơn. Năm 1695, sau kỳ thi Chính đồ, Nguyễn
Phước Chu mở thêm tại sân phủ chúa 2 khoa mới là thi Văn thức và thi Tam ty, có
thể xem như là hình thức thi Đình đầu tiên ở Đàng Trong (8). Nguyễn Phước Khoát
định lại lệ 3 năm một khoa quận thí, và về sau bỏ việc thi ở quận, chỉ tổ chức
thi Hội nhưng tăng lên 4 trưòng: trường 1 làm 3 bài tứ lục, thi đỗ cho làm
Nhiêu học tuyển trường, trường 2 thi thơ phú, trường 3 làm 2 bài kinh nghĩa,
thi đỗ cho làm Nhiêu học trúng tuyển, trường 4 làm 1 bài văn sách, thi đỗ được
gọi là Hương cống, bổ dụng làm Tri phủ, Tri huyện, Huấn đạo (9). Nói chung, các
chúa Nguyễn không vụ hình thức, chỉ nhắm việc thực tiển là tuyển chọn người
giỏi để dùng. Thí dụ Nguyễn Phước Tần không mở một khoa Chính đồ nào cả, mà
cũng không lấy một người Nhiêu học. Ngược lại, chúa đã đặt ra khoa Thám phỏng,
chỉ thi trong một ngày, hỏi về việc binh, tình trạng quốc dân, việc vua Lê chúa
Trịnh, v.v., người trúng tuyển được bổ dụng vào làm việc ở các ty Xá sai, Tướng
Thần lại, hay Lệnh sử, là những tổ chức tương đương với các ty Đô, Thừa, Hiến ở
Đàng Ngoài.
Thời kỳ các vua Nguyễn.
Gia Long thống
nhất đất nước, dự tính cứ 3 năm một lần mở các khoa thi Hương, thi Hội, nhưng
mãi đến năm 1807 mới mở khoa thi Hương đầu tiên. Phép thi chia làm 4 trường:
trường 1 thi Kinh Truyện, trường 2 thi Chiếu Chế Biểu, trường 3 thi Thi Phú,
trường 4 thi Sách vấn. Đỗ trường trước mới được vào trường sau, đỗ 3 trường gọi
là Sinh đồ, đỗ cả 4 trường gọi là Hương cống. Lúc bấy giờ trong nước có 6
trường thi: Nghệ An, Thanh Hoa, Kinh Bắc, Sơn Nam, Sơn Tây và Hải Dương. Năm
sau 1808, Gia Long xây Văn miếu tại làng An ninh, gần Long Hồ, cách chùa Thiên
Mụ khoảng nửa kilômét. Khoa thi Huương tiếp theo, mở năm 1813, đặt thêm 3
trường thi Quảng Đức (Huế), Thăng Long (Hà Nội), và Gia Định (Sài Gòn), nhưng
lại bãi bỏ 2 trường Kinh Bắc và Sơn Tây. Sĩ tử hai nơi này hiệp thí ở
trườngThăng Long. Năm 1819, trường Quảng Đức cải gọi là trường Trực Lệ. Năm 1821,
Minh Mạng năm thứ 2, mở ân khoa. Năm sau, 1822, mở Hội thí ân khoa. Đây là khoa
thi Hội đầu tiên của triều Nguyễn. Định lệ các Hương cống và Giám sinh thì làm
bài quyển mực, Thư lại và Đằng tả thì làm bài quyển son (4). Sau kỳ Điện thí,
những người trúng tuyển được phân làm 2 hạng: Tiến sĩ và Đồng Tiến sĩ xuất
thân, được ban áo mão, trâm, vải vóc, được đãi yến, và được cấp cờ, biển vinh
qui. Năm 1825, Minh Mạng thứ sáu, định lệ 3 năm mở khoa thi một lần, Hương thí
thi vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Hội thí thi vào các năm Thìn Tuất, Sửu, Mùi.
Lại cải gọi Hương cống làm Cử nhân, Sinh đồ làm Tú tài. Sĩ tử muốn đi thi phải
qua kỳ khảo hạch ở Phủ Huyện do các quan Huấn đạo, Giáo thụ phụ trách. Người
học trò qua được khảo hạch thì gọi là Khóa sinh. Tiếp theo, anh Khóa còn phải trúng tuyển kỳ phúc
hạch tại tỉnh nhà do quan Đốc học chủ khảo nhiên hậu mới được gọi là Thí sinh,
có quyền nộp quyển đi thi Hương. Khoa thi Hương năm này, mỗi trường thi được
vua ban một tấm bài Phụng Chỉ, và một lá cờ Khâm Sai. Trường thi Trực Lệ được
đổi tên là trường thi Thừa Thiên (Trường Thừa), trường thi Thăng Long đổi tên
là trường thi Hà Nội (Trường Hà), trường thi Sơn Nam đổi tên là trường thi Nam
Định (Trường Nam). Trong khoa thi Hội lần này, (năm 1826), Phan Thanh Giản,
người An Thạnh, Vĩnh Bình, đỗ Đệ Tam giáp Tiến sĩ, là người Nam Kỳ đầu tiên đậu
đại khoa. Từ khoa Hội thí năm 1829, vẫn đời Minh Mạng, bài thi được chấm điểm
và phân hạng theo phân số: được 10 hay 9 phân là ưu hạng, được 8 hay 7 phân là
ưu thứ hạng, được 6 hay 5 phân là bình hạng, được 4 hay 3 phân là bình thứ
hạng, được 2 hay 1 phân là thứ hạng, không được 1 phân là liệt, tức là bị loại
ngay. Những người đỗ cả 3 kỳ và được 10 phân trở lên được sắp vào Chánh bảng để
vào Đình thí. Những người đỗ cả 3 kỳ với phân số từ 4 đến 9, và những người đỗ
được 2 kỳ nhưng được 10 phân trở lên thì được xếp vào Phó bảng. Phó bảng cũng
được kể là Đại khoa, nhưng không phải là hàng giáp đệ. Năm 1843, đời Thiệu Trị,
trường Thừa Thiên được kiến thiết bằng gạch ngói với quy mô lớn tại phường Ninh
Bắc để làm nơi thi Hương và thi Hội, và để làm mẫu cho các tỉnh xây cất lại
trường thi. Đến năm sau Hội thí (1844), định lệ cho các Giáo thụ và Huấn đạo do
Cử nhân xuất chính, và các Giám sinh và Tú tài xuất thân được dự Hội thí. Năm
1850, niên hiệu Tự Đức thứ 3, mở thêm trường thi Bình Định. Lại chia việc phê
điểm làm 6 hạng: ưu, ưu thứ, bình, bình thứ, thứ, thứ thứ, và định lệ trở lại
thi Hương thi Hội gồm 4 trường. Về Hương thí, đỗ trường 3 là Tú tài, đỗ trường
4 là Cử nhân. Về Hội thí, đỗ 4 trường thì được vào Đình thí. Nếu bài đối sách
được 4 phân trở lên thì đỗ giáp đệ. Nếu 3 phân trở xuống là Phó bảng. Cuối đời
Tự Đức, năm 1876, lại cải đổi chỉ thi 3 trường. Đến năm 1884, Kiến Phúc nguyên
niên, lại định lệ người nào trúng cả 3 trường mà quyển thi có ưu, bình thì cho
yết bảng ngay, số còn lại thì chia vi vào thi lại cả 3 trường trong 3 ngày để
phúc khảo. Lại định thêm lệ “nhất Cử tam Tú”, cứ một Cử nhân thì lấy thêm 3 Tú
tài.
Buổi đầu thời Pháp thuộc tại Bắc và Trung
Kỳ.
Người Pháp đánh Gia
Định năm 1859 và chiếm trọn Nam Kỳ năm 1867, từ đó việc học hành thi cử chữ Nho
ở xứ thuộc địa Nam Kỳ bị bãi bõ. Trên lãnh thổ 2 xứ bảo hộ Bắc Kỳ và Trung Kỳ,
sau hòa ước Patenôtre năm 1884, Nhà Nguyễn vẫn tiếp tục mở các khoa thi Hương
thi Hội theo thể lệ cũ. Tuy nhiên người Pháp dần dà đưa vào một số thay đổi như
có thêm môn nhiệm ý thi chữ Pháp (dịch Pháp văn ra quốc ngữ). Sự can thiệp của
người Pháp có phần mạnh mẽ và lộ liễu ở Bắc Kỳ hơn ở Trung Kỳ. Trường thi Hà
Nội bị bãi bỏ năm 1886, sĩ tử Hà Nội phải vào thi chung với Nam Định tại trường
mới được cải danh là trường thi Hà Nam. Tổng Trú sứ Paulin Vial gợi ý ra đề mục
trường 1 là “ Phép xã giao đối với bạn hữu và người ngoại quốc”, và đề mục
trường 3 là “Thí sinh nghĩ gì về đương triều và cuộc khởi nghĩa của Văn thân?”
để dọ dẫm dư luận sĩ tử Bắc Kỳ (10). Năm 1903, Thống sứ Bắc Kỳ Luce tư cho Công
sứ các tỉnh yêu cầu các Đốc học loại bớt thí sinh trong danh sách. Năm 1906,
Thống sứ Groleau sức cho Đốc học các tỉnh, tùy tỉnh lớn tỉnh nhỏ, mỗi tỉnh không
được lấy quá 500, 600 người đi thi.Vụ này đã gây nên cuộc biểu tình của hơn
2000 thí sinh trước cổng trường thi Hà Nam, và mào đầu cho phong trào xuất
dương du học. Đến năm 1907, Duy Tân nguyên niên, đặt thêm bộ Học ở Huế. Việc
thi cử trước đây thuộc Tân Hưng Ty bộ Lễ, từ nay thuộc bộ Học. Khoa thi năm
1909 có cải cách lớn là ngoài Kinh Truyện, Bắc Nam Sử, Thi Phú, không còn thi
Chiếu Chế Biểu mà thi 2 đề Luận, một đề chữ Nho và một đề quốc ngữ. Điểm phê từ
0 đến 20, được 10 điểm trở lên là trúng bảng. Nếu có tình nguyện thi chữ Pháp
thì thi thêm 1 trường riêng, cũng phê điểm từ 0 đến 20, nhưng chỉ lấy hàng số
lẻ các điểm thi trên 10 cộng chung vào sổ điểm các trường kia. Trường 1 và
trường 2 phải đủ 10 điểm trở lên mới được thi trường trên. Những quyển thi mà 3
trường được từ 40 điểm trở lên, cùng những quyển thi 3 trường được tối thiểu 30
điểm cộng thêm số lẻ của bài thi chữ Pháp được từ 40 điểm trở lên, thảy đều
được chấm đậu vào trường phúc hạch. Vào phúc hạch thì làm 1 đạo Văn sách, 1 bài
Phú và 1 bài Luận quốc ngữ. Được từ 7 điểm trở lên thì đỗ Cử Nhân. Tổng cộng
các trường được từ 30 đến 39 điểm thì được xếp vào hàng Tú tài để theo thứ tự
được lấy đỗ theo lệ nhất Cử tam Tú. Từ khoa thi này, sĩ tử phải không quá 50
tuổi mới được đi thi, ngoại trừ các hạng Tú tài xuất thân, Giám sinh, Tôn sinh,
Ấm sinh, không hạn chế tuổi. Đến năm 1912 thì hạn tuổi được đi thi giảm còn 40
tuổi trở xuống, và 2 môn Thi Phú bị đình bãi. Riêng trường thi Hà Nam thì chỉ
còn thi 3 trường với rất nhiều cải đổi mới: trường 1 thi Văn sách gồm các môn
Luân lý, Văn chương, Nam sử, Đông Dương Chính trị hay Nam triều Luật lệ, trường
2 thi quốc ngữ về Văn chương, Toán pháp, Sử Điạ và Cách trí, trường phúc hạch
thi Luận chữ Nho 1 đề và Luận quốc ngữ 1 đề. Năm 1915, niên hiệu Duy Tân thứ 9, môn Pháp văn trở
thành môn thi bắt buộc. Khoa Ất Mão năm 1915 này là khoa thi chữ Nho cuối cùng
ở Bắc Kỳ. Năm 1918, niên hiệu Khải Định thứ 3, tại trường thi Thừa Thiên có
thêm môn Toán Đo lường. Khoa Mậu Ngọ năm 1918 này là khoa thi chữ Nho cuối cùng
ở Trung Kỳ.
IV. Thập niên đăng hỏa.
Trước kia, người
Tàu truyền bá chữ Nho vào Giao Châu là để dân ta biết đọc biết viết mà giao
tiếp với họ, giúp họ trong công việc cai trị và khai hóa dân bản xứ. Dần dà
người Tàu mở mang việc học hành, tổ chức việc thi cử, để tuyển chọn người thừa
hành, giúp việc cho chính quyền đô hộ, và cả cho chính quốc. Ngoại trừ giới
tăng lữ học chữ Nho để đọc kinh đọc kệ, đối với những người khác, học chữ Nho
là để được tuyển dụng ra làm việc nhà nước. Kịp đến khi Giao Châu dựng cờ tự
chủ thì chữ Nho vẫn là văn tự chính thức, việc học hành thi cử vẫn na ná như
trước kia, vẫn ít nhiều mô phỏng khuôn mẩu của Trung Quốc, và tinh thần giới
nho sĩ thì trước sau như một, từ Lý Trần đến Lê Nguyễn, vẫn là ra sức mở mang
tri thức và trau dồi phẩm hạnh để thực hiện 3 mộng tưởng lớn trong đời: “ Đỗ
Tiến sĩ, Làm Thượng thư, và Đi Sứ”.
Mười năm đèn
sách quả đã chứa đựng không biết bao nhiêu là công tình. Công là công lao bản
thân dùi mài kinh sử, là công lao gia đình chạy tiền chạy gạo, là công lao thầy
học roi đòn dạy dỗ. Tình là tình nghĩa cha mẹ hy sinh lạc thú bản thân để nuôi
nấng, chăm sóc, khuyến khích con cái cố học thành tài, là tình nghĩa họ hàng,
làng nước tôn trọng người học trò hôm nay còn hàn vi nhưng mai kia có thể làm
rạng danh tông môn, hương đảng, là tình nghĩa người vợ tao khang biết xem nhẹ
tình chăn gối để thúc dục chồng thức khuya dậy sớm, nấu sử sôi kinh, ngõ hầu “mai kia chồng chiếm bảng vàng, võng anh đi
trước võng nàng theo sau”.
Tiến trình thập
niên đăng hỏa bắt đầu khi đứa trẻ lên 5, lên 7, bằng lễ Khai tâm tại gia hoặc
lễ Nhập môn ở trường học. Nếu đứa trẻ học vỡ lòng tại nhà với cha anh hay với
thầy đồ nuôi trong nhà thì trước hết phải ăn mặc chỉnh tề để làm lễ yết cáo
Thánh sư, lễ khấn cáo gia tiên, và lễ bái lạy thầy học, xong rồi bắt đầu buổi
học đầu tiên, thường là học thuộc lòng mấy chữ trong Tam tự kinh. Nếu đứa trẻ
theo học một trường tư thục của thầy đồ thì cha mẹ dắt con đến nhà thầy với một
mâm lễ trầu cau xôi gà để làm lễ Nhập môn. Nếu làng có Văn chỉ thì thầy đồ sẽ
cùng cha mẹ đứa trẻ đưa mâm lễ vật ra đấy để cho đứa trẻ bái yết Thánh sư, rồi
mới trở lại trường làm lễ bái sư, và cho đứa trẻ bắt đầu bài học vỡ lòng.
Chương trình học là chương trình ấu học
và tiểu tập. Sách học buổi đầu là Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi. Tập
viết chữ thì khởi đầu tập đồ trên bảng gỗ bằng bút tre nhúng nước, tiếp đến
dùng bút lông tô mực theo chữ son viết sẵn trên giấy, rồi tập viết phóng, viết buông, viết chữ hàng đôi, hàng ba. Đến 7 tuổi học Sử, Truyện, Luận
ngữ. Đến 9, 10 tuổi học làm câu đối và thơ văn, và tập viết ám tả. Cậu học trò
nhỏ còn được rèn luyện phẩm hạnh, phép tắc, biết lẽ phải trái, biết kính trên
nhường dưới, thông suốt đạo tam cương, ngũ thường. Học giỏi thì được thưởng
giấy mực, bị phê liệt thì phải quét nhà, ăn roi vọt hoặc luồn khố.
Khi được từ 11
đến 14 tuổi, cậu bé theo chương trình
trung tập, vẫn tại trường thầy đồ trong làng, hay tại trường các quan Huấn
đạo, Giáo thụ ở phủ huyện. Sách học gồm Tứ Thư, Ngũ Kinh, Bắc sử, Nam sử, Bách
gia chư tử (11), Đường Tống bát đại gia (12). Hàng ngày đọc và nghe giảng nghĩa
sách, tập viết chữ hàng sáu, hàng tám. Hàng tuần học làm văn: đối thơ 7 chữ,
đối phú 8 chữ, kinh nghĩa, văn sách, chiếu, biểu. Học trò lấy đầu đề đem về nhà
làm bài, hôm sau nộp. Thầy chấm xong, lựa các đoạn hay, bài hay, đưa ra bình văn.
Khoảng 15, 16
tuổi trở lên, nếu học giỏi thì lên tỉnh theo chương trình đại tập ở trường quan Đốc học, hay các trường tư của
các quan cư tang hay hưu trí, để luyện thi Hương. Năm 1825, đời Minh Mạng, định
lệ khóa tập làm văn tiến hành hàng tháng ở nhà Học vào các ngày 3, 9, 17, 25,
chiếu theo đầu bài 4 kỳ thi Hương, có yết bảng để khuyến khích. Trước mỗi kỳ
thi Hương lại có tổ chức thi thử, làm bài ngay tại trường. Lúc này, người học
trò trẻ tuổi đã tạm đủ kiến thức nên được cho đi thi khảo. Trúng tuyển thi khảo
thì được gọi là Khóa sinh, được miễn sưu dịch và được đi thi hạch để ghi tên
vào danh sách những người có đủ khả năng thi Hương chuyển đệ về bộ Lễ. Trúng
tuyển thi hạch thì là Thí sinh, nhưng tùy theo tuổi tác vẫn được mọi người
chung quanh gọi là anh Khóa, thầy Khóa, hay ông Khóa, ngoại trừ người thi hạch
đỗ đầu thì được gọi là ông Đầu xứ.
Đến ngày Vua
xuống chiếu mở khoa thi, anh Khóa sửa soạn lều chõng lên đường. Hành trang gồm
có bộ gọng lều và cuộn vải sơn (hoặc giấy dầu) để căng mái che mưa nắng, cái
chõng tre và chiếc chiếu để ngồi làm bài, cái yên gỗ để kê quyển lên trên mà
viết, cái ống quyển để cất quyển thi, cái bầu be để chứa nước uống, cái tráp
sơn để đựng nghiên bút, giấy mực, các thứ lặt vặt như dao kéo, dùi nhọn và chỉ
giấy xe tẩm sáp để phòng khi phải đóng quyển mới, vài cây đèn sáp, mồi lửa bùi
nhùi, vàng mã và một ít thức ăn làm sẵn. Trước kỳ thi 3, 4 tuần, thí sinh phải
nộp cho quan Đốc học 3 quyển thi, trên mặt quyển có ghi rõ tên họ, niên canh,
quê quán, và cung khai tam đại. Nếu được vào phúc hạch thì quyển thứ tư sẽ đệ
nộp sau. Trước ngày lên đường, bà con họ hàng thường đến thăm và giúp đỡ tiền
lộ phí. Trừ những người may mắn ở gần trường thi, đa số sĩ tử phải đi xa, hoặc
đi bộ, hoặc đi thuyền, có khi cả nửa tháng trời mới tới nơi thi. Con em nhà
giàu đi thi có người nhà đi theo mang hộ lều chõng, con em nhà nghèo phải tự
mang lấy. Mỗi lần đi thi là mỗi lần tốn kém,“nhị
niên tử tam ngưu” (6), nào tiền
ăn, tiền nhà trọ, tiền đò giang, tiền thù tạc, kéo dài hơn cả tháng trời.
Trường thi gồm
có: Khu Thí sinh chia làm 4 vi giáp ất tả hữu, khoa nào quá đông thí sinh thì
mỗi vi lại chia thành 2 phân vi nhất nhì, chính giữa khu là nhà Thập đạo; Khu
Khảo quan chia làm Nội trường dành cho các Sơ khảo, Phúc khảo, Giám khảo, Giám
sát Ngự sử nội trường cùng các lại viên, và Ngoại trường dành cho Chánh Phó Chủ
khảo, Phân khảo cùng Giám sát Ngự sử ngoại trường và lại phòng; và Khu Đề tuyển
(12) nằm giữa Nội trường và Ngoại trường. Trước ngày thi 6, 7 hôm, quan Đốc học
chuyển quyển thi đến trường thi. Trước ngày thi 3, 4 hôm, các Khảo quan tiến
trường và ăn ở luôn trong trường cho đến khi thi cử xong xuôi. Đề tuyển ngoại
trường đóng dấu Diện lên mặt quyển thi, Đề tuyển nội trường đóng dấu Giáp phùng
lên giữa trang 2 và trang 3. Các Đề tuyển chia thí sinh ra làm 4 vi, đôn đốc
lại phòng đóng sổ ghi số hiệu các quyển thi, và rọc phách, rồi lập danh sách
thí sinh từng vi để kịp trước ngày thi 1 hôm treo bảng Yết danh cùng bảng
Trường quy (13) trước cửa mỗi vi.
Đến ngày thi, từ
đầu canh ba, sĩ tử tụ họp ở cửa trường để nghe điểm danh. Nghe gọi đến tên, thí
sinh dạ to rồi mang lều chiếu tiến vào cổng trường để lính kiểm soát, xong nhận
quyển và tiến vào vi tìm chỗ cắm lều ngồi làm bài thi. Đến trưa thì cầm quyển
lên nhà Thập đạo xin dấu Nhật trung. Nếu cánh quyển (quyển thi bị tì ố phải
thay quyển thi mới) thì phải mang theo cả quyển cũ lên nhà Thập đạo để xin đóng
dấu Giáp phùng vào quyển mới. Làm bài xong, đếm số tẩy xóa ghi vào khoản Cộng
quyển nội rồi đem nộp quyển cho Đề tuyển ở nhà Thậo đạo. Bấy giờ người thí sinh
mới dọn dẹp đồ đạc, nhổ lều ra về, chờ kết quả. Nếu trúng tuyển thì được vào
thi trường kế tiếp, mọi chuyện lại diễn tiến y như lần trước, chỉ duy số lượng
thí sinh thì giảm xuống hơn nửa phần. Nếu trót lọt cả 3 trường, nghĩa là tổng
số điểm từ 40 trở lên thì được vào phúc hạch (14). Trước ngày thi phúc hạch 1
hôm, thí sinh phải đến trường nộp 1 quyển thi mới cho Đề tuyển. Lúc này vào
được trường 4, thí sinh còn rất ít, mà khoa danh cũng đã gần kề, không Cử thì
cũng Tú.
Thí sinh vào
phúc hạch thì làm 1 đạo Văn sách, 1 bài Phú, và 1 bài Luận quốc ngữ. Được từ 7
điểm trở lên thì đỗ Cữ Nhân. Thí sinh vào phúc hạch không đỗ được Cử Nhân, và
thí sinh đã thi 3 trường có tổng số điểm từ 30 đến 39, tất cả được xếp vào hàng
Tú Tài để theo thứ tự lấy đỗ theo lệ nhất
Cử tam Tú. Việc công bố danh tánh các ông Cử Nhân tân khoa được diễn ra ở
cổng trước trường thi và gọi là lễ xướng danh. Sau đó, trường cho yết bảng Cử
Nhân (Hổ bảng) ở cửa vi Giáp và bảng Tú Tài (Mai bảng) ở cửa vi Ất. Người đỗ
đầu cử nhân được dân
chúng gọi là Thủ khoa hoặc Giải nguyên. Các Cử
Nhân được ân tứ mũ áo, vải vóc, tiền bạc, và được ban yến Lộc minh. Trước khi
dự tiệc, các vị tân khoa làm lễ bái vọng nhà vua và lễ bái tạ các khảo quan tại
Thí viện, hoặc tại Hành cung, hoặc tại dinh Tổng Đốc. Sau đó, mỗi vị được quan
Tổng Đốc tặng 1 cái lọng xanh để vinh quy bái tổ. Về tới bản quán, vị tân khoa
vào chào quan huyện sở tại rồi được hương lý và thân thuộc rước về làng làm lễ
bái tổ ở từ đường, bái tạ Thành hoàng và Thánh sư ở đình miếu, và dự tiệc khao
vọng. Khao vọng là chuyện không thể thiếu. Tục ngữ có câu: “Vô vọng bất thành quan”.Vị tân khoa được mọi người trọng vọng gọi
là quan Cử. Thế là anh Khóa đã trở thành ông Quan, cho bõ công tình mười năm
đèn sách, và khỏi phụ lòng kỳ vọng của người vợ tấm cám đã “chẳng tham ruộng cả ao liền, tham vì cái bút cái nghiên anh đồ”.
V. Tiến vi Quan, thoái vi Sư.
Quan Cử có thể
tiếp tục dùi mài kinh sử để năm sau lều chõng đi thi Hội, hoặc nằm chờ sắc chỉ
bổ dụng làm quan, thông thường là Huấn đạo, Giáo thụ ở phủ huyện, hay chức Hành
tẩu ở Lục Bộ, vào hàng thất, bát phẩm, với hàm Hàn Lâm viện Đãi Chiếu, hoặc
Cung Phụng (15). Trừ những trường hợp đặc biệt, hoạn lộ của người đỗ Cử nhân thường
được gọi là Hương khoa Huyện lệnh,
nghĩa là chỉ làm đến Tri huyện Tri phủ là cùng. Phải đi thi Hội thi Đình để đậu
Đại khoa, nhiên hậu mới làm tới Đại thần.
Trước kia, vào
đời Lê, những người đỗ Tiến sĩ được chia làm Cập đệ, Chánh bảng, và Phụ bảng.
Đến năm 1484, Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa cải gọi là Tiến sĩ Cập đệ,
Chánh bảng là Tiến sĩ Xuất thân, và Phụ bảng là Đồng Tiến sĩ Xuất thân. Sang
triều Nguyễn, mãi đến năm 1822, đời Minh Mạng mới mở khoa thi Hội đầu tiên, và
sau kỳ Điện thí, vì là ân khoa, những người trúng tuyển chỉ còn được phân làm 2
hạng Tiến sĩ và Đồng Tiến sĩ xuất thân. Từ khoa Hội thí năm 1829, bài thi Hội
được chấm theo phân số tính từ 1 đến 10. Không được 1 phân là liệt, bị loại
ngay. Đỗ cả 3 kỳ với tổng số điểm từ
10 phân trở lên được xếp vào
Chánh bảng. Đỗ cả 3 kỳ với phân số từ 4 đến 9, và đỗ 2 kỳ nhưng phân số được 10
phân trở lên thì được xếp vào Phó bảng, cũng được vào Đình thí, nhưng không
phải là hàng Giáp đệ (16). Trước kia, chỉ có Cử nhân chưa ra làm quan mới được
đi thi Hội. Từ khoa Hội thí năm 1884, đời Thiệu Trị, có định lệ cho Giáo thụ và
Huấn đạo do Cử nhân xuất chính, và các Giám sinh và Tú tài xuất thân được dự
thi Hội. Từ năm 1850, đời Tự Đức, định lại lệ thi Hội 4 trường, đỗ cả 4 trường
thì được vào Đình thí, nếu bài Đối sách được 4 phân trở lên thì đỗ Giáp đệ,
được 3 phân trở xuống là Phó bảng.
Như vậy, rõ ràng
có sự khác biệt giữa Phụ bảng đời Lê với Phó bảng đời Nguyễn. Phụ bảng đời Lê
vẫn thuộc hàng Giáp đệ. Phó bảng đời Nguyễn thời Minh Mạng là đỗ vớt Hội thí,
tuy được vào thi Đình, nhưng được xếp vào bảng riêng, không được truyền lô,
không dự vào hàng Giáp đệ. Phó bảng đời Nguyễn cuối triều Tự Đức được quyết
định trong kỳ thi Đình. Lại còn có vấn đề nhập nhằng trong ngôn ngữ dân gian về
danh vị “quan Bảng, cụ Bảng”. Quan
Bảng, Cụ Bảng đời Nguyễn là Phó bảng chứ không phải là Bảng nhãn đời Trần và Lê
sơ. Ngoài ra còn có sự khác biệt giữa “quan
nghè” của miền Bắc với “thầy nghè”
của vùng Huế. Quan nghè là người đỗ Tiến sĩ. Thầy nghè là Thừa phái ở Lục Bộ và
phủ huyện. Người đỗ Đại khoa sau khi vinh quy bái tổ là được bổ dụng ngay, Phó
bảng đi Tri huyện, hàng lục phẩm, Tiến sĩ đi Tri phủ, hàng ngũ phẩm, rồi từ đấy
hoạn lộ thênh thang, thường thường lên đến ngôi vị Đại thần đứng đầu một địa
phương (Tổng đốc) hay lương đống ở chốn triều miếu (Thượng thư).
Nhưng tiến trình
sự nghiệp của người theo học đạo Nho không phải duy nhất chỉ có mỗi một hướng
“tiến vi quan”. Thật vậy, tôn chỉ của đạo Nho không phải giản đơn là gắng học
để thi đỗ ra làm quan (17), mà chủ yếu là
học tập đạo lý Thánh
Hiền để rèn luyện bản thân nên người vừa có kiến thức, vừa có đạo đức, để “tùy
thời xuất xử”. Gặp đời thịnh trị, lương tể minh quân, người theo học đạo Nho ra
tay kinh bang tế thế, giúp vua trị nước, biết xem nhẹ quyền lợi riêng tư để dốc
lòng chăm lo phúc lợi đại chúng. Nhà Nho hiển đạt “biết lo trước cái lo của thiên hạ, và chỉ vui sau cái vui của thiên hạ”
(tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Gặp đời suy đốn,
tôi nịnh vua hèn, người theo học đạo Nho “thoái vi sư”, nghĩa là lui về ở ẩn,
cam phận hàn nho, mở trường dạy học, rèn luyện môn đồ vun trồng nghĩa khí sĩ
phu, giữ gìn tiết tháo người quân tử, biết tôn trọng thầy, biết hiếu kính cha
mẹ, biết phép tắc lễ nghi, biết trước khi học văn phải lo học lễ, không xu phụ
kẻ quyền thế, không ruồng rẫy vợ tao khang, không bỏ rơi bạn nối khố thuở hàn
vi, và nhất là luôn luôn giữ mình theo chính đạo,“giàu sang không hoang dâm, nghèo hèn không đổi chí, uy vũ không chịu
khuất” (phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất).
Tiến vi quan có
nghĩa là ra làm việc với triều đình, thụ hưởng ơn vua lộc nước. Thoái vi sư là
lui về mở trường dạy học trò, đứng ngoài hệ thống triều chính. Bởi vậy, những
vị học quan phụ trách việc dạy học trò như Huấn đạo, Giáo thụ, Đốc học, Tư
nghiệp, Tế tửu, Phụ đạo, vẫn là những vị tiến vi quan. Mặt khác, những vị thoái
vi sư không nhất thiết là những ông quan từ nhiệm, mà bao gồm cả những ông quan
hưu trí, cư tang, những người học giỏi nhưng ở ẩn không đi thi, và những người
lận đận trường ốc. Có thể kể một vài vị thoái vi sư nổi tiếng: cáo quan như Chu
Văn An đời Trần, cáo lão như Nguyễn Bỉnh Khiêm đời Mạc, ẩn dật như La sơn phu
tử đời Tây sơn, hưu trí như Nguyễn Khuyến, cư tang như Nguyễn Đình Chiểu, lận
đận trường ốc như Trần Tế Xương đời Nguyễn. Ngoại trừ các vị Khoa bảng mở các
buổi bình văn theo chương trình đại tập, các vị thoái vi sư mở lớp dạy học trò
được người đời gọi là Thầy Đồ.
Thầy Đồ ngồi dạy
học tại tư gia các phú hộ, được nuôi cơm và cung ứng quần áo, hoặc có thể mở
trường tư tại nhà riêng. Thầy Đồ có thể có cùng lúc một số học trò có trình độ
khác nhau: học vỡ lòng, học chương trình ấu học, tiểu tập, hoặc trung tập. Thầy
Đồ thường chọn trong số học trò theo học một người lớn tuổi và học khá nhất làm
Trưởng Tràng, giúp đỡ Thầy Đồ trong việc trông nom kềm cặp các học trò học vỡ
lòng hoặc học kém. Thầy Đồ nào cũng có một cây roi mây dài để phạt học
trò. Bổng lộc của Thầy Đồ rất
khiêm tốn. Tiền học mỗi học trò trả cho Thầy Đồ mỗi năm chỉ 4, 5 quan tiền,
ngày tư ngày Tết thì tùy hỉ, con gà, dĩa xôi, chiếc bánh, be rượu, hậu bạc thế
nào cũng xong, chỉ cốt đủ lễ nghĩa. Bởi vậy, Thầy Đồ thường kiêm thêm nghề bốc
thuốc, và viết mướn đối liễn. Thầy Đồ nuôi nổi
thân mình đã là may, việc con
cái, nhà cửa đều trút hết lên vai bà Đồ. Tuy nghèo nhưng Thầy Đồ rất mực quan
tâm tới việc giữ gìn phẩm hạnh, vừa để xiển dương đạo lý Thánh Hiền, vừa để làm
mẩu mực cho học trò noi theo, vì vậy, Thầy Đồ rất được mọi người quý trọng.
VI. Kết Luận.
Trên tiến trình sự
nghiệp của người học chữ Nho trong xã hội phong kiến thời trước, Thầy Đồ là vị
trí trung gian giữa Anh Khóa và Ông Quan. Lúc còn trẻ, Anh Khóa “niên thiếu
công danh” thi đỗ, tức khắc trở thành Ông Quan. Anh Khóa trong lúc hăm hở dùi
mài kinh sử để tiến vi quan đã có lúc tạm làm Thầy Đồ. Lúc lớn tuổi, thi mãi
không đỗ, Anh Khóa trở thành Ông Khóa “lạc tri thiên mệnh” (vui biết mệnh
trời), cam lòng thoái vi sư, tiếp tục làm Thầy Đồ. Ông Quan rong ruỗi trên hoạn
lộ, gặp phải thời thế không thuận lợi, hoặc giả đến lúc lớn tuổi, ngựa nản chân
bon, bèn quyết chí thoái vi sư, cáo quan lui về dạy học, tuy không ai gọi là
Thầy Đồ, nhưng trong thực tế đúng là Thầy Đồ. Thành thử, Anh Khóa, Thầy Đồ, Ông
Quan, cả ba tạo thành cái thế chân vạc thành phần của một giai cấp xã hội gọi
là sĩ phu hay kẻ sĩ. Kẻ sĩ đứng đầu tứ dân trong xã hội cũ. Ở chốn triều miếu, kẻ
sĩ là chính cương chính sách, là mưu lược trị quốc an dân. Ở nơi hương đảng, kẻ
sĩ là mẩu mực đạo đức luân thường, là ngọn đuốc soi sáng chính đạo và hướng dẫn
công luận. Kẻ sĩ được từ Vua đến Dân quý trọng và nghe lời. Được vậy là vì kẻ
sĩ theo học đạo Nho. Kẻ sĩ là nhà Nho, chứ không giản đơn chỉ là người được đào
tạo để ra làm quan. Cho dù là hàn nho, hiển nho, hay ẩn nho, nhà Nho là người
theo học đạo Thánh Hiền từ tuổi ấu thơ, và suốt đời chăm chăm chú chú xiển
dương và truyền bá cái tinh hoa trong sách vở Thánh Hiền.
Ngày nay, nhân
loại đã bước qua khỏi thời kỳ phong kiến nông nghiệp, nhà Nho trở thành lỗi
thời. Tuy vậy, nhắc lại vài điểm chính yếu của tổ chức học hành thi cử chữ Nho
thời trước cũng là một việc hay, bởi lẽ trong vô số những điều mà người hôm nay
trích dẫn ra để phê phán người xưa vẫn có rất nhiều điều có thể bổ khuyết cho
việc đào luyện tư cách con người và hoàn thiện cấu trúc xã hội hôm nay và ngày
mai.
Tháng
tư, 2004
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Chú giải:
1.
Lý Tế Xuyên. Việt Điện U Linh Tập. Bản in lại từ báo
Nhân Dân Điện tử ngày 14/04/2002.
2.
Nguyễn Thị Chân Quỳnh. Khoa Cử Việt Nam. An Tiêm
xuất bản. Paris 2002.
3.
Lê Tắc. An Nam Chí Lược. Ủy Ban Phiên dịch Sử liệu Việt
Nam,
Viện Đại Học Huế, 1961.
4.
Phạm Đình Toái và Cao Xuân Dục. Quốc Triều Hương Khoa
Lục. Bản dịch của Hà Mai Phương, Mai Hiên xuất bản, Santa Clara, CA, 1980.
5.
Minh Vũ Hồ
Văn Châm. Vụ án văn học Lệ Chi Viên. Tập san Định Hướng số 27, Mùa Hè 2001.
Trung tâm Văn hóa Nguyễn Trường Tộ, 13G rue de l’Ill, 67116 Reichstett, France.
6.
Vũ Phương Đề. Công Dư Tiệp Ký. Bản dịch của Tô Nam
Nguyễn Đình Diệm, Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn 1961 & 1962.
7.
Nguyễn Thị Chân Quỳnh. Lối Xưa Xe Ngựa. An Tiêm xuất
bản. Paris
1995.
8.
Trần Gia Phụng. Thi cử tại Huế trước thời Quốc Học.
Giai phẩm Xuân Giáp Thân 2004 Quốc Học-Đồng Khánh Bắc California, CA, USA.
9.
Lê Trọng Ngoạn, Ngô Văn Ban, Nguyễn Công Lý. Lược Khảo
và Tra Cưú về Học chế - Quan chế ở Việt Nam từ 1945 về trước. Văn Hóa Thông
Tin, Hà Nội 1991.
10.
Vial Paulin.
Nos premières années au Tonkin. Voiron 1889.
11.
Tứ Thư là Đại Học, Luận Ngữ, Trung Dung, Mạnh Tử.
Ngũ Kinh là Dịch, Lễ, Thi, Thư, Xuân
Thu.
Bắc sử là sử Trung Quốc, Nam
sử là sử nước ta.
Bách gia chư
tử là gọi chung các học giả, triết gia liên hệ đến đời sống chính trị và văn
hóa Trung Quốc ngày trước: Mặc Tử, Tuân Tử, Hàn Phi Tử, Lý Tư, Dương Tử, Lão
Tử, Trang Tử.
Đường Tống bát
đại gia là Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên đời Đường; Âu Dương Tu, Vương An Thạch, Tô
Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Tăng Củng đời Tống.
12. Đề tuyển, còn gọi là
Đề điệu, thời Lê và Nguyễn sơ, là Chánh khảo. Từ năm 1828, đặt thêm các chức
Chánh Phó Chủ khảo, Đề tuyển chỉ phụ trách việc lập danh sách thí sinh, ghi số hiệu,
rọc phách, phát quyển, thu quyển, chứ không dự vào việc chấm thi.
13. Trường quy là những
luật lệ thi cử mà thí sinh phạm phải thì bị đánh hỏng và nhiều khi còn bị tù
tội: kỵ húy, khiếm tị, khiếm trang, khiếm đài, khiếm cung, bất túc, bất cập,
duệ bạch, bạch tự, di tự, đồ bất thành tự, tì ố, dấu nhật trung, dấu giáp
phùng, thiệp tích, cộng quyển nội, ngoại hàm.
14. Căn cứ vào thể lệ
cải cách của khoa thi năm 1909, việc thi cử bắt đầu thuộc thẩm quyền bộ Học.
Trước năm 1907, Duy Tân nguyên niên, là năm lập thêm bộ Học, việc thi cử do Tân
Hưng Ty bộ Lễ đảm trách.
15. Quan chế nhà Nguyễn
phân biệt rõ ràng chức, tước, phẩm, hàm. Thí dụ:
Chức: Huấn đạo,
Tri huyện, Lãnh binh, Án sát, Bố chính, Tiễu phủ sứ, Tổng đốc, Đô thống, Ngự
sử, Tế tửu, Thượng thư v.v.
Tước: Vương, Công
(Quốc công, Quận công, Huyện công), Hầu, Bá, Tử, Nam.
Phẩm: Từ Cửu phẩm
đến Chánh Nhất phẩm, chia ra Văn giai và Võ giai.
Hàm: Đãi chiếu,
Cung Phụng, Biên tu, Tu soạn, Thị độc, Thị giảng, Hồng lô tự khanh, Thái thường
tự khanh, Hiệp tá, Đông các, Võ hiển, Văn minh, Cần chánh v.v.
16.
Giáp đệ là Đệ nhất giáp, Đệ nhị giáp (còn gọi là Hoàng
giáp), và Đệ tam giáp. Triều Nguyễn không lấy Đệ nhất giáp đệ nhất danh, chỉ có
Đệ nhất giáp đệ nhị danh và Đệ nhất giáp đệ tam danh.
17.
Nguyễn Gia
Kiểng. Tổ Quốc Ăn Năn, Tác giả Xuất bản, Paris
2001. Nguyễn Gia Kiểng đã nặng lời khi đề cập đến thân phận kẻ sĩ vì lẫn lộn 士 (sĩ trong kẻ sĩ) với 仕 (sĩ là người làm quan) được viết có thêm bộ nhân đứng.
Hiểu Thế Nào Là
Tách Đảng Ra Khỏi Nhà Nước
Tác
giả đã nhiều lần đề cập đến vấn đề ‘Muốn có Dân Chủ ở Việt Nam phải tách
Đảng ra khỏi Nhà Nước’. Đảng đây là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhà Nước
đây là Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đó là hai hệ thống quyền lực
song hành đang thống trị nhân dân Việt Nam.
Sự trình bày của
tác giả liên quan đến vấn đề này thường không đi vào chi tiết như là một kế
hoạch hay một chương trình hành động giai đoạn, mà chủ yếu là để đưa ra một đòi
hỏi tiên quyết làm tiền đề cho đề cương dân chủ hóa chế độ chính trị hiện thời
tại Việt Nam. Trong vòng dăm bảy tháng tới đây, Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ lại họp
Đại Hội. Mọi người đang theo dõi hành trạng những người lãnh đạo cộng sản để đo
lường mức độ biểu hiện ý muốn cải tiến chế độ chính trị hiện hành. Mặt khác,
trong mấy tháng gần đây đã xẩy ra nhiều sự kiện liên quan đến vấn đề Dân Chủ
cho Việt Nam, nào là sự hiện diện của một số nhân vật “đối lập” tại buổi tiếp
tân mừng Độc Lập của Lãnh sự quán Mỹ ở Sài Gòn, nào là cuộc Họp Mặt Dân Chủ
2005 của các nhà ‘đấu tranh dân chủ’ ở khắp nơi tụ về Nam Cali, nào là lời đề
nghị họp bàn tròn ‘Tiểu Diên Hồng’ 3 bên của Hoàng Minh Chính. Những sự kiện
này đã làm xôn xao dư luận, gây nên nhiều tranh cãi, nhưng gần như tuyệt đối
không có tiếng nói nào nêu lên cốt lõi của vấn đề là hiện thời mọi rối rắm đều
phát sinh từ sự kiện Đảng Cộng Sản phủ lấp Nhà Nước. Vì vậy, bài này xoáy trọng
tâm vào việc trình bày cho bạn đọc hiểu rõ ý của tác giả khi nêu lên vấn đề cốt
lõi đó: muốn có Dân Chủ phải tách Đảng ra khỏi Nhà Nước. Nói khác đi, mời bạn
đọc hiểu thế nào là tách Đảng ra khỏi Nhà Nước để có Dân Chủ tại Việt Nam.
Trước
hết, việc đòi hỏi tách Đảng Cộng Sản ra khỏi Nhà Nước không nhất thiết đồng
nghĩa với việc đòi hỏi giải thể Đảng Cộng Sản. Trong tình huống Việt Nam hiện
nay, không thể có chuyện tự tay những người lãnh đạo cộng sản giải thể Đảng
Cộng Sản. Cũng chưa thể có khả năng xẩy ra một cuộc can thiệp vũ trang của nước
ngoài xâm lược và chiếm đóng Việt Nam để giải thể Đảng Cộng Sản. Càng chưa thể
có đột biến phát sinh một cuộc cách mạng bằng bạo lực của quần chúng quốc nội
lật đổ chính quyền và giải thể Đảng Cộng Sản. Lại càng chưa thấy bóng dáng
những nhân vật có tư thế và bản lãnh của Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm, để lãnh đạo
đồng hương hải ngoại trở về giải thể Đảng Cộng Sản, làm cái công việc tương tự
như những người đời trước đã từ Trấn Ninh trở về lật đổ nhà Mạc, trung hưng nhà
Lê.
Thứ
đến, đòi hỏi tách Đảng ra khỏi Nhà Nước không có nghĩa là phủ nhận sự kiện Đảng
lãnh đạo Nhà Nước. Thật vậy, công việc của một chính đảng cầm quyền là gì nếu
không phải là chỉ đạo các cơ quan Nhà Nước thi hành, trong khuôn khổ hiến pháp
và luật lệ quốc gia, các chính cương chính sách do Đảng vạch ra. Không cần phải
có một chế độ độc đảng, chuyên chính, toàn trị mới có vấn đề Đảng lãnh đạo Nhà
Nước. Trong một định chế dân chủ pháp trị, đa nguyên đa đảng, Đảng nào được dân
chúng ủng hộ mà chiếm được đa số phiếu bầu, thì đảng ấy trở thành Đảng cầm
quyền. Đảng ấy sẽ lãnh đạo Nhà Nước. Đương nhiên là sự lãnh đạo ấy được tiến
hành theo những phương thức khác biệt với lề lối và tố chức hiện hành của Đảng
Cộng Sản Việt Nam
Như
vậy, đòi hỏi tách Đảng ra khỏi Nhà Nước là đòi hỏi Đảng Cộng Sản trả lại Nhà
Nước cho người Dân. Nhà Nước phải là của Dân, do Dân, và vì Dân. Nhà Nước hiện
tại không phải của Dân làm chủ, không phải do Dân bầu ra, nên không phải vì Dân
mà hoạt động. Nhà Nước hiện tại là của riêng Đảng Cộng Sản, do Đảng Cộng Sản
sắp xếp tổ chức và lãnh đạo điều hành, nên không phục vụ quyền lợi của người
Dân mà chỉ là công cụ khống chế người Dân để bảo vệ quyền lợi của thiểu số cầm
quyền là các đảng viên Đảng Cộng Sản. Trả lại Nhà Nước cho người Dân có nghĩa
là Đảng Cộng Sản Việt Nam từ bỏ vị thế độc tôn, chấm dứt hành động độc đoán,
không ngăn cản người Dân tham gia các sinh hoạt chính trị, không loại bỏ người
Dân ra khỏi các cơ cấu công quyền bằng các phương thức hạn chế quyền bầu cử và
triệt tiêu quyền ứng cử. Trả lại Nhà Nước cho người Dân là để cho người Dân tự
do tuyển chọn đại biểu soạn thảo Hiến Pháp để thiết lập một Nhà Nước dân chủ
pháp trị, để người Dân được thực sự làm chủ bản thân và xã hội, tuyển chọn
chính quyền và kiểm soát chính quyền.
Tách
Đảng ra khỏi Nhà Nước là dẹp bỏ hệ thống Đảng song hành với hệ thống Nhà Nước ở
tất cả mọi cấp chính quyền, từ trung ương đến địa phương, trong các ngành hành
pháp cũng như lập pháp và tư pháp. Hiện tại ở đâu cũng có Đảng. Cấp ủy Đảng chỉ
huy và kiểm soát cấp Nhà Nước tương ứng. Thủ trưởng cơ quan phải là Bí thư Đảng
ủy, Đảng đoàn, hoặc là đảng viên cấp nhỏ hơn, chịu sự lãnh đạo của Bí thư Đảng
ủy, Đảng đoàn. Hệ thống Đảng song hành với hệ thống Nhà Nước vừa vô ích cho
công vụ, vừa tốn kém cho ngân sách. Không có ai phủ nhận vai trò Đảng lãnh đạo
Nhà Nước, nhưng Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng hoạch định chính cương chính
sách, chứ không phải Đảng chỉ đạo và giám sát cơ cấu Nhà Nước các cấp các ngành
làm công việc thừa hành. Đảng chỉ cần lãnh đạo ở cấp trung ương, trong lãnh vực
chính trị, chứ không phải đâu đâu cũng chen chân vào. Đặc biệt là trong các
lãnh vực chuyên nghiệp, Đảng chỉ cần nắm vững chính sách chứ không dẫm chân vào
việc thi hành chính sách, can thiệp thô bạo vào các công tác chuyên môn đến độ
các công tác này đôi khi trở thành phản khoa học, phi nhân bản, hay vi hiến vi
luật.
Ở
Việt Nam ngày nay, Đảng là tối thượng. Đảng đứng trên tất cả mọi thứ. Đảng phủ
lấp Quốc gia, Đảng phủ lấp Dân tộc. Đảng độc quyền chỉ đạo và giám sát Nhà
Nước, Đảng độc đoán cai trị và kềm kẹp Nhân Dân. Không có cơ chế công quyền nào
câu thúc Đảng. Không có tổ chức quần chúng nào kiểm soát Đảng. Đảng hoạt động
bằng tiền của ngân sách nhưng không đóng góp một chút gì cho ngân sách. Tách
Đảng ra khỏi Nhà Nước là dân chủ hóa định chế chính trị, sửa đổi chế độ chuyên
chính toàn trị hiện hành, để Đảng từ bỏ vai trò độc quyền lãnh đạo Nhà Nước,
lui về cương vị một đảng chính trị hoạt động trong khuôn khổ một định chế dân
chủ pháp trị đa nguyên mà mọi người dân không phân biệt nam nữ, mỗi người một
lá phiếu, tự do tuyển chọn người đại diện cho mình thành lập chính quyền và
kiểm soát chính quyền. Đảng lúc đó sẽ là Đảng do Dân mà ra, vì Dân mà làm việc.
Đảng hoạt động bằng tiền của quần chúng ủng hộ đóng góp. Đảng có cầm quyền hay
đứng ngoài chính quyền, Đảng giữ nguyên hình trạng hay phải biến thể, Đảng còn
tồn tại hay bị đào thải tiêu vong, tất cả là do sự phán xét mang tính cách
trọng tài của đại khối nhân dân, là do tương quan lực lượng của các chính đảng
cạnh tranh, là do quần chúng ủng hộ đông đảo hay rời rạc, là do đường lối hành
động và thiện chí phục vụ của Đảng có đáp ứng các điều kiện phát triển đất
nước, có thoả mãn kỳ vọng mưu cầu phúc lợi của đại đa số cộng đồng dân tộc hay
không.
Tách
Đảng ra khỏi Nhà Nước là phục hồi tinh thần thượng tôn pháp luật và xây dựng
một hệ thống pháp luật thỏa đáng. Tinh thần thượng tôn pháp luật cần được tôn
trọng từ phía những người cầm quyền lẫn từ phía những người thuộc thành phần bị
trị. Xây dựng hệ thống pháp luật thỏa đáng là phát triển một hệ thống luật lệ
vô tư, công bằng, trong sạch, và hữu hiệu, về cả hai lãnh vực lập pháp và lập
quy, trong khuôn khổ hiến định. Tại Việt Nam ngày nay, Đảng Cộng Sản khống chế
Nhà Nước, pháp luật do Đảng vo tròn bóp méo tùy ý, nên pháp luật hiện hành là
“luật rừng”. Không còn ai biết đến tinh thần thượng tôn pháp luật. Do đó mà dân
quyền và nhân quyền bị chà đạp. Cũng do đó mà nạn cửa quyền và tệ tham nhũng
phát sinh. Cần tách Đảng Cộng Sản ra khỏi Nhà Nước để người Dân có thể dự phần
vào việc qui định pháp luật, xuyên qua các đại biểu do họ tuyển chọn. Một khi
pháp luật không còn là sản phẩm của thiểu số cầm quyền cưỡng bức mọi người phải
tuân hành, mà là do chính người Dân đã dự phần vào việc qui định pháp luật thì
đương nhiên người Dân sẽ chấp nhận thi hành, tôn trọng và tuân thủ pháp luật.
Lúc đó, pháp luật một phần do Dân mà ra nên sẽ vì Dân mà phát huy tác dụng.
Pháp luật sẽ là công cụ của Nhà Nước dùng để mang lại ổn định và trật tự cho xã
hội, chứ không còn là công cụ của Nhà Nước dùng để bảo vệ Đảng Cộng Sản và bao
che các đảng viên.
Tách
Đảng ra khỏi Nhà Nước là chấm dứt tình trạng giành giật đặc quyền đặc lợi kinh
tế cho giai cấp có chức có quyền xuyên qua các công ty công quản và các xí
nghiệp quốc doanh. Trước xu thế tiến hóa của nhân loại, kinh tế xã hội chủ
nghĩa phải lùi bước, nhường chổ cho kinh tế thị trường, nhưng nhà cầm quyền
Việt Nam còn cố bám víu lấy cụm từ “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, nghĩa là
nền kinh tế hiện tại tuy chấp nhận có năm thành phần nhưng chủ yếu vẫn là kinh
tế quốc doanh. Kinh tế quốc doanh là gánh nặng cho ngân sách. Vốn liếng do ngân
sách đài thọ, lời lãi thì công ty, xí nghiệp chia nhau hưởng, mà thua lỗ thì
ngân sách phải trầm bù. Rút cục, sự phân hóa xã hội mỗi ngày một thêm sâu sắc,
đảng viên có chức có quyền và giới phe phẩy theo đóm ăn tàn mỗi ngày một giàu
có, còn đại khối quần chúng mỗi ngày một thêm lầm than cơ cực. Tách Đảng ra khỏi
Nhà Nước là giải tư tất cả các công ty công quản và các xí nghiệp quốc doanh,
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường tư bản tư doanh mà vai trò của
Nhà Nước là dần dà từ bỏ chức năng quản lý để chỉ giữ vai trò điều hợp. Nhà
Nước chỉ còn quản lý những lãnh vực hoạt động nào mà tư nhân không đủ khả năng
và phương tiện đảm trách, nhưng cũng không giữ độc quyền.
Tách
Đảng ra khỏi Nhà Nước là thể hiện cụ thể sự tôn trọng các quyền căn bản của
người Dân và của con Người. Thể hiện cụ thể sự tôn trọng các quyền căn bản này
có nghĩa là không chỉ thừa nhận suông trên giấy tờ mà phải thực hiện trong cuộc
sống thực tế. Nhà Nước cần dẹp bỏ những hình thức hạn chế, uốn nắn, kìm hảm,
lũng đoạn, ngăn cản, cấm đoán các tổ chức và các hoạt động của quần chúng trong
các lãnh vực ngôn luận, hội họp, cư trú, đi lại, giáo dục, tín ngưỡng, hành
đạo, hành nghề. Hiến pháp thừa nhận mọi thứ tự do liên hệ đến dân quyền và nhân
quyền, nhưng các văn kiện lập quy bao giờ cũng trói buộc hoạt động của các cá
nhân hay đoàn thể thực hiện các thứ tự do đó bằng điều kiện phải tiến hành
trong khuôn khổ các quy định của Đảng Cộng Sản. Tách Đảng ra khỏi Nhà Nước là
cởi bỏ các ràng buộc, tháo gỡ các vướng mắc hiện nay đang kìm hãm các hoạt động
của các cá nhân và đoàn thể để tất cả được tự do thực hiện các quyền căn bản
của người Dân và của con Người. Được vậy thì các mâu thuẫn giữa quần chúng Nhân
Dân và Nhà Nước sẽ được giải hóa, thảm họa nội chiến có thể tránh khỏi, và
triển vọng Đại Đoàn Kết Dân Tộc mới có cơ may thực hiện.
Tóm
lại, tách Đảng Cộng Sản ra khỏi Nhà Nước là tiến hành công việc dân chủ hóa chế
độ chuyên chính toàn trị hiện hành về tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội. Từ khi con người bước ra khỏi tình trạng ăn lông ở lổ, các tổ
chức nhân quần đã tiến hóa từ thị tộc, bộ lạc, thành quốc gia, liên bang, hợp
quốc, liên quốc. Con người ngày hôm nay đang bước vào xu thế sinh hoạt toàn
cầu, và đã bắt đầu phác họa các viễn kiến giao tiếp liên hành tinh. Việt Nam không thể
đóng cửa để cứ ù lì kéo dài cuộc sống lây lất bên lề thế giới loài người. Việt Nam không thể
không hòa nhập với xu thế thời đại, tham gia thị trường mậu dịch tự do, tiến
hành dân chủ hóa chế độ. Đi ngược trào lưu tiến hóa của nhân loại, quốc gia
Việt Nam mỗi ngày sẽ mỗi lạc hậu, đất nước Việt Nam mỗi ngày sẽ mỗi kiệt quệ,
dân tộc Việt Nam mỗi ngày sẽ mỗi hèn yếu. Đó là con đường dẫn đến diệt vong.
Tách
Đảng Cộng Sản ra khỏi Nhà Nước là để cho Tổ Quốc Việt Nam sống còn.
12
tháng 10 năm 2005
Minh Vũ
Hồ Văn Châm
Châu Bố Chính thuộc cương thổ Đại Việt vào thời kỳ
nào?
Sử
cũ nước ta chép rằng năm Kỷ Dậu (1069) đời Lý Thánh Tông, niên hiệu Thiên Huống
Bửu Tượng thứ 2, tháng 2, ngày Mậu Tuất, nhà vua thân chinh đi đánh Chiêm
Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ dâng 3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma
Linh để chuộc mạng nên được tha về. Năm 1075, vẫn đời Lý Thánh Tông, niên hiệu
Thái Ninh thứ 4, nhà vua xuống chiếu đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, đổi
châu Ma Linh làm châu Minh Linh, và chiêu mộ dân đến lập nghiệp ở các châu ấy.
Sử nước ta về sau cứ theo như vậy mà chép, nghĩa là xác định 3 châu Bố Chính,
Địa Lý và Ma Linh đã trở về cương vực Đại Việt cùng một lúc vào triều Lý Thánh
Tông.
Trong
thực tế, sự kiện lịch sử này có đúng là đã xẩy ra như vậy không? Có đúng là cả
3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh đã thống thuộc cương thổ Đại Việt dưới triều
Lý? Hay chỉ có 2 châu Địa Lý và Ma Linh mới đúng nghĩa là phẩm vật chuộc mạng
của Chế Củ dâng vua Lý Thánh Tông, còn châu Bố Chính trong thực tế đã là lãnh
thổ Đại Việt từ trước?
Lý do đặt vấn đề.
Nghi
vấn này sở dĩ được nêu lên là vì căn cứ vào chính ngay sử cũ cũng như căn cứ
vào nhận xét của các nhà khảo cứu cận đại, người viết lượm lặt ra nhiều điểm
không phù hợp với điều xác định của sử cũ rằng 3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma
Linh đã cùng một lúc trở về cương vực
Đại Việt dưới triều Lý Thánh Tông.
Thứ
nhất là sử cũ có chép đời Lý Thái Tổ, năm 1011, niên hiệu Thuận Thiên thứ 2,
Chiêm Thành vào dâng sư tử, và năm 1020, niên hiệu Thuận Thiên thứ 11, vua sai
Khai Thiên vương Phật Mã và Đào Thạc Phụ đánh trại Bố Chính, đến núi Long Tị,
huyện Bình Chánh (nay là huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình) thì chém được
tướng giặc là Bố Linh. Sử cũ nói đánh trại Bố Chính thì cũng như trước đó sử cũ
đã chép việc đánh châu Diễn hay việc đánh châu Vị Long, chỉ là những chiến dịch
trừng phạt thổ tù làm phản, không phải là chiến tranh với các lân bang.
Thứ
hai là sử cũ chép rằng vào năm 989, niên hiệu Hưng Thống năm đầu đời Lê Đại
Hành, vua Chiêm Thành là Băng vương La Duệ (Ku Xri Harivarman II) đem binh
chiếm lại đất đai đã mất, nên năm sau, Lê Đại Hành sai quân sang đánh châu Địa
Lý. Vì sự can thiệp của nhà Tống, Lê Đại Hành chịu bãi binh trả đất, trả tù
binh, và sai Ngô Tử An đem 3 vạn người mở đường bộ từ cửa Sót vượt đèo Ngang để
đến châu Địa Lý. Những sự kiện này chứng minh rằng trong thực tế châu Bố Chính
từ trước năm 990 đã thống thuộc cương vực Đại Việt, nếu không, Lê Đại Hành tất
phải sai quân đánh châu Bố Chính trước, và Ngô Tử An làm sao mở được đường bộ xuyên
qua đồng đất nước người.
Thứ
ba là sử cũ có chép năm 1075, đời Lý Thánh Tông, niên hiệu Thái Ninh thứ 4, nhà
vua xuống chiếu đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, đổi châu Ma Linh làm châu
Minh Linh, và chiêu mộ dân đến lập nghiệp ở các châu ấy. Tờ chiếu không đả động
gì đến châu Bố Chính. Tại sao? Cho dù địa danh Bố Chính nghe rất xuôi tai không
cần phải đổi, nhưng di dân đến đất mới chiếm hữu thì tại sao nói tới 2 châu Địa
Lý và Ma Linh mà không đả động gì đến châu Bố Chính. Phải chăng khi Lý Thánh
Tông hạ chiếu chiêu mộ dân đến lập mghiệp ở Địa Lý và Ma Linh thì ở Bố Chính đã
có dân Việt đến định cư từ trước rồi.
Thứ
tư là giáo sĩ R. P. Cadière trong Tập san Trường Viển Đông Bác cổ (B.E.F.E.O)
năm 1905 nhận xét rằng dân Việt cư trú trên vùng đất từ Bố Trạch đến Gio Linh
(Địa Lý, Ma Linh) qui tụ người cùng họ để lập thành làng (Ngô xá, Phan xá,
Hoàng xá, Hồ xá v.v.), một hiện tượng không thấy có ở Quảng Trạch, Tuyên Hóa
(Bố Chính). Sự kiện này chứng tỏ dân Việt đến định cư tại Bố Chính không cùng
thời điểm với dân Việt đến định cư ở Địa Lý và Ma Linh. Nói khác đi, châu Bố
Chính đã thống thuộc cương thổ Đại Việt trước khi 2 châu Địa Lý và Ma Linh trở
về cương vực Đại Việt dưới triều Lý Thánh Tông.
Vậy
rõ ràng Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh đã không trở về cương thổ Đại Việt cùng một
lúc.
Trở về cương thổ Đại Việt hay trở thành lãnh thổ Đại Việt?
Châu
Bố Chính là vùng lưu vực sông Gianh, ở mạn bắc tỉnh Quảng Bình. Châu Địa Lý là
vùng lưu vực sông Nhật Lệ, ở mạn nam tỉnh Quảng Bình. Châu Minh Linh là miền
bắc tỉnh Quảng Trị.
Đại
đa số người Việt chúng ta, dù là người viết sử hay người đọc sử, đều nhất trí
với nhau ở điểm rằng nước ta xưa là miền Bắc bộ và miền Bắc Trung bộ ngày nay.
Sử cũ nước ta đã phỏng định rằng vào thời sơ sử, địa bàn nước Văn Lang đông giáp
biển, tây giáp Lào, bắc giáp hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn. Cương giới
nước ta về sau, vào thời điểm Đinh Bộ Lĩnh dựng nền tự chủ, lập ra nước Đại Cồ
Việt vào năm 968 sau Công nguyên, thì ở phía đông và phía tây, vẫn thế, không
có gì thay đổi, duy ở phía bắc thì lùi xuống giáp với Quảng Tây, và ở phía nam
thì chỉ tới đèo Ngang nằm giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Lúc bấy giờ, cả 3 châu Bố
Chính, Địa Lý và Ma Linh thuộc cương thổ nước Chiêm Thành. Như vậy, nếu vì một
lý do gì mà có sự thay đổi chủ quyền, hoặc do xâm lược chiếm đóng, hoặc do dâng
đất chuộc mạng, thì phải nói rằng các châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh trở
thành lãnh thổ Đại Việt, chứ sao lại còn đặt vấn đề trở về cương thổ Đại Việt?
Chiêm Thành là
hậu thân của Lâm Ấp, còn Đại Việt thoát thai từ Giao Châu. Giở lại các trang sử
cũ, chúng ta sẽ thấy cương giới giữa Giao Châu và Lâm Ấp, và về sau giữa Giao
Châu và Chiêm Thành, không phải giản đơn là ở đèo Ngang mà cơ bản là ở đèo Hải
Vân nằm giữa Thừa Thiên và Quảng Nam. Đường phân ranh ấy liên tục thay đổi ở
thế dằng co, khi thì kéo lên phía bắc đến Hoành sơn, khi thì lùi xuống phía nam
đến tận mũi Diều (Varella). Buổi đầu lập quốc vào năm 192 sau Công nguyên, niên
hiệu Sơ Bình thứ 3 đời Hán Hiến Đế, nước Lâm Ấp vốn là huyện Tượng Lâm của quận
Nhật Nam, nằm ở phần đất tỉnh Quảng Nam ngày nay. Chỉ nửa thế kỷ sau khi độc
lập, Lâm Ấp đã tính đến chuyện tiến ra miền bắc tranh phong với Đế quốc Hán.
Năm 248, niên hiệu Xích Ô thứ 11 nhà Đông Ngô, Lâm Ấp đánh chiếm thành Khu Túc (ở xã Nguyệt Biều
trên bờ nam sông Hương) của quận Nhật Nam, rồi kéo quân ra cướp phá hai quận
Cửu Chân (Thanh Hóa) và Giao Chỉ (Bắc Bộ). Triều đình Đông Ngô cử Lục Dận làm
Thứ Sử Giao Châu, An Nam Hiệu Úy, đem đại binh từ Kim Lăng sang ứng phó, Lâm Ấp
mới lui quân, nhưng vẫn giữ thành Khu Túc. Từ đó, Lâm Ấp sửa sang Khu Túc thành
căn cứ quân sự xuất phát các cuộc tiến binh cướp phá Giao Châu khiến nhà Tấn
phải lập thêm huyện Thọ Lãnh (huyện Phú Lộc tỉnh Thừa Thiên) để củng cố việc
bảo vệ cương giới cực nam của Giao Châu. Năm 347, đời Tấn Mục Đế, niên hiệu
Vĩnh Hòa thứ 3, vua Lâm Ấp Phạm Văn cử đại binh đánh chiếm quận Nhật Nam, bắt
giết Thái Thú Hạ Hầu Lãm, san bằng thành Tây Quyển (phía bắc Huế), xây lũy Bình
Chánh (mạn bắc Quảng Bình) để làm đường phân ranh Giao Châu-Lâm Ấp, mưu tính
chuyện chiếm đóng lâu dài. Nhưng liền sau đó, nhà Tấn cử Đằng Tuấn làm Chinh
Tây Đốc Hộ huy động quân lính hai châu Giao Quảng, năm 349, vào tái chiếm Nhật
Nam, nhưng bị Phạm Văn đánh bại, phải lui về Cửu Chân. Trong trận này, Phạm Văn
cũng bị thương và chết ít lâu sau đó, con là Phạm Phật lên thay. Đằng Tuấn thừa
cơ hợp binh với Thứ Sử Giao Châu Dương Bình và Thái Thú Cửu Chân Quán Súy, năm
351, tiến vào chiếm lại Tây Quyển, đuổi đánh quân Lâm Ấp qua Thọ Lãnh đến Khu
Túc, rồi hai bên giảng hòa. Nhưng chỉ ít lâu sau khi Đằng Tuấn bãi binh, năm
359, vẫn đời Tấn Mục Đế, niên hiệu Thăng Bình năm đầu, Phạm Phật lại từ Khu Túc
tiến ra xâm lấn Nhật Nam, khiến Thứ Sử Giao Châu là Ôn Phóng Chi phải cử đại
binh thủy lục vào đánh. Phạm Phật rút quân lui về giữ vững thành Khu Túc. Hai
bên nghị hòa, Phạm Phật trả lại đất Nhật
Nam, lấy bến Ôn Công (mũi Chân Mây, cực nam Thừa Thiên) làm ranh giới Giao
Châu-Lâm Ấp. Nhật Nam yên ổn được một thời gian. Đến đời Tấn An Đế, con Phạm Phật
là Phạm Hồ Đạt (Bhadravarman I) lên nối ngôi cha, năm 399, niên hiệu Long An
thứ 3, lại tiến binh đánh hãm quận Nhật
Nam, bắt giết Thái Thú Cảnh Nguyên, rồi thừa thắng tiến ra đánh chiếm quận Cửu
Đức (nhà Tấn lấy phần đất phía nam quận Cửu Chân mà lập ra, ngày nay là Nghệ
Tĩnh), bắt giết Thái Thú Tào Bính, và vây hãm quận thành Giao Châu, nhưng bị
Thái Thú Giao Chỉ là Đỗ Viện đánh bại phải rút quân về. Năm 413, Phạm Hồ Đạt
vượt biển ra cướp phá quận Cửu Chân, nhưng bị thảm bại, rồi mất trong năm đó.
Con cháu Phạm Hồ Đạt không giữ được vương nghiệp, ngôi báu về tay người khác họ
là Phạm Dương Mại. Lúc bấy giờ nhà Tấn mất, và Trung Hoa chia làm Nam Bắc
triều. Năm 420, Lưu Dũ lên ngôi, lập ra nhà Tống (Nam triều), tức là Tống Vũ
Đế. Năm 421, niên hiệu Vĩnh Sơ thứ 2, Tống Vũ Đế phong Phạm Dương Mại làm Lâm
Ấp vương. Năm 433, đời Tống Văn Đế, niên hiệu Nguyên Gia thứ 10, vua Lâm Ấp kế
tiếp là Phạm Dương Mại II cử sứ bộ sang xin nhà Tống cho kiêm tính Giao Châu
nhưng bị từ chối, nên làm phản. Tống Văn Đế bèn sai Đàn Hòa Chi, năm 446, niên
hiệu Nguyên Gia thứ 23, cử đại binh đánh Lâm Ấp, hạ được thành Khu Túc, rồi
tiến vào kinh đô Trà Kiệu đốt phá chém giết, thu vét được nhiều vàng bạc châu
báu. Từ đó, Lâm Ấp suy yếu, chịu giữ phận phiên thuộc nên biên cương phía nam
của Giao Châu (mũi Chân Mây) được tạm yên. Nhà Tề thay nhà Tống, năm 492, niên
hiệu Vĩnh Ninh thứ 10, lại gia phong cho vua Lâm Ấp Phạm Chư Nông tước vị An
Nam Tướng quân Lâm Ấp vương. Nhưng đến khi nhà Lương lên ngôi vua Nam triều,
nhân việc Lý Bôn nổi lên độc lập ở Giao Châu, lập ra nước Vạn Xuân vào năm 541,
đời Lương Vũ Đế, niên hiệu Đại Đồng thứ 7, vua Lâm Ấp là Luật Đà La Bạc Ma
(Rudravarman) thừa cơ đem quân lấn chiếm Nhật Nam rồi kéo ra cướp phá Cửu Đức.
bị tướng nhà Tiền Lý nước Vạn Xuân là Phạm Tu đánh bại, nên phải rút quân khỏi
Cửu Đức, nhưng vẫn chiêm cứ Nhật Nam. Từ đó, suốt 62 năm tồn tại của nước Vạn
Xuân, trãi qua các đời Lương, Trần (Nam triều) cho đến khi nhà Tùy thống nhất
Trung Quốc, Lâm Ấp tiếp tục chiếm cứ Nhật Nam. Sau khi hàng phục Lý Phật Tử,
chiếm lại Giao Châu, nhà Tùy sai Lưu Phương làm Hoan Châu đạo Hành quân Tổng
quản đem đại binh đi kinh lược Lâm Ấp. Năm 605, đời Tùy Dượng Đế, niên hiệu Đại
Nghiệp năm đầu, Lưu Phương cùng Thứ Sử Khâm Châu là Ninh Trường Chân hợp binh
thủy bộ chiếm lại Nhật Nam, hạ thành Khu Túc, rồi kéo quân vào quốc đô Trà Kiệu
đánh đuổi vua Lâm Ấp là Phạm Phạn Chí chạy vào Panduranga, thu vét nhiều vàng
bạc châu báu và kinh sách. Nhà Tùy chia đất mới bình định làm 3 quận là Tỵ Cảnh
(Quảng Bình, Bắc Quảng Trị), Hải Âm (Nam Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng), và
Lâm Ấp (Quảng Nam, Bình Định). Nhưng triều Tùy quá ngắn ngủi, Trung Hoa rơi trở
lại vào cảnh loạn lạc, nhân đó Phạm Phạn Chí nổi lên khôi phục đất cũ. Đến lúc
nhà Đường lên thay, Phạm Phạn Chí và các vua kế vị tuy cung thuận Trung Quốc nhưng
vẫn giữ đất Nhật Nam. Từ năm 758, đời Đường Túc Tông, niên hiệu Càn Nguyên năm
đầu, sử Tàu gọi Lâm Ấp là Hoàn Vương. Các vua Hoàn Vương không triều cống Trung
Quốc, và thuờng xuyên kéo quân ra cướp phá An Nam. Đến mạt diệp nhà Đường, Nhật
Nam mất hẳn về Lâm Ấp. Biên giới Giao Châu-Lâm Ấp là ở Hoành Sơn. Năm 875, Lâm
Ấp thiên đô về Đồng Dương (Indrapura), cũng trong địa hạt Quảng Nam, và bắt đầu
từ đây, sử sách Trung Quốc dùng danh xưng Chiêm Thành (Champapura) có nghĩa là
đất nước của người Chiêm, thay thế danh xưng Lâm Ấp có nghĩa là đô ấp của huyện
Tượng Lâm.
Như vậy, vào năm
1069, đời Lý Thánh Tông, 3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh vốn là đất quận
Nhật Nam của Giao Châu, bị Chiêm Thành lấn chiếm vào mạt diệp nhà Đường, bây
giờ trở lại thống thuộc cương thổ Đại
Việt, chứ không phải 3 châu đó vốn là đất của Chiêm Thành, vì thất trận mà trở thành lãnh thổ Đại Việt.
Châu Bố Chính thuộc cương thổ Đại Việt vào thời kỳ nào?
Vào
cuối đời Đường, Khúc Thừa Dụ ở Giao Châu nổi lên tự lập làm Tiết Độ sứ. Năm 907,
nhà Đường mất, nhà Hậu Lương lên thay, mặc nhiên công nhận Khúc Hạo thay thế
cha giữ chức Tiết Độ sứ Giao Châu. Năm 917, khi Khúc Hạo chết, nhà Lương lại
giao chức Tiết Độ sứ cho con Khúc Hạo là Khúc Thừa Mỹ. Suốt thời Ngũ Đại tiếp
theo, Giao Châu loạn lạc, hết bị khổ nạn ngoại xâm Nam Hán thôn tính lại đến
thảm cảnh nội loạn Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ. May nhờ Ngô Quyền đánh
bại quân Nam Hán năm 938 và xưng vương, Giao Châu tạm yên được ít lâu, nhưng
sau khi Ngô Quyền chết, Giao Châu lại rơi vào nạn Thập nhị sứ quân cát cứ, cho
đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên 12 sứ quân và lên làm vua, tức là Đinh Tiên
Hoàng, Đại Thắng Minh Hoàng đế, lập nên nước Đại Cồ Việt, định đô ở Hoa Lư.
Trong khoảng thời gian này, Triệu Khuông Dẫn thống nhất Trung Hoa, lập nên nhà
Tống. Đinh Bộ Lĩnh cử sứ bộ qua Tống triều cầu phong và năm 972 được vua Tống
phong làm Giao Chỉ Quận vương.
Lúc
này, Chiêm Thành là một quốc gia tự chủ từ bảy tám trăm năm nay và chịu ảnh
hưởng đậm đà văn minh Ấn Độ. Từ năm 749 đời Đường Huyền Tông, niên hiệu Thiên
Bửu thứ 8, Lâm Ấp vĩnh viễn chiếm cứ Nhật Nam và không còn gửi sứ bộ thông hiếu
với Trung Quốc. Đã vậy, các vua Hoàn Vương lại thường xuyên kéo quân ra cướp
phá miền Hoan Ái. Từ năm 875 là năm quốc gia này được sử Tàu bắt đầu gọi là Chiêm
Thành thì nước này đã trở nên cường thịnh, nhất là dưới các triều vua
Indravarman II và Indravarman III. Chiêm Thành đánh thắng Chân Lạp nhiều trận
lớn, mở rộng biên cương về phía nam và phía tây, kiến thiết kinh đô Đồng Dương
và khu thánh địa Mỹ Sơn vô cùng tráng lệ. Chiêm Thành không thông hiếu với
Trung Quốc, nhưng đến khi Triệu Khuông Dẫn chấm dứt thời Ngũ Đại, lên ngôi vua
lập ra nhà Tống thì vua Chiêm Thành lúc bấy giờ là Jaya Indravarman ngay trong
năm 960 đã nhanh chóng gửi sứ bộ mang lễ vật sang chúc mừng và xin nối lại bang
giao với Trung Quốc. Sau đó, Jaya Indravarman cũng như vua kế vị
là Paramecvaravarman mà sử ta gọi
là Tỳ Mi Thuế đều đặn giử lệ triều cống nhà Tống.
Năm
979, Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn bị Đỗ Thích ám hại, vua kế vị
Đinh Toàn còn nhỏ tuổi, triều thần khuynh loát lẫn nhau. Nhà Tống thừa cơ sai
Hầu Nhân Bảo và Lưu Trừng, năm 980, đem quân thủy bộ hai mặt cùng tiến vào
đánh, đồng thời đưa thư uớc hẹn vua Chiêm Thành là Tỳ Mi Thuế tiến công cương
giới phía nam của Đại Cồ Việt. Trước tình thế nguy cấp như vậy, do sự sắp xếp
của Phạm Cự Lượng và sự đồng tình của bà Thái hậu họ Dương, quân sĩ tôn Thập
đạo Tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua, lấy hiệu là Đại Hành Hoàng Đế. Tháng 3 năm
981, quân Tàu tiến vào nội địa Đại Cồ Việt. Lê Hoàn chia quân giữ chặt mặt
thủy, ngăn chặn quân Lưu Trừng không vào được sông Bạch Đằng, đồng thời đón
đánh đạo quân Tàu đi đường bộ qua ngã Ôn Châu, bắt giết chủ tướng Hầu Nhân Bảo
và cầm tù bọn bộ tướng Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huấn.
Năm
981, niên hiệu Thiên Phúc thứ 2, vua Lê sai Từ Mục và Ngô Tử Canh sang Chiêm
Thành giao hiếu. Nhưng vua Chiêm Thành Tỳ Mi Thuế ỷ vào thế liên minh với nhà
Tống, lại thấy quân Tống đang tiến vào nội địa Đại Cồ Việt, nên chẳng những
không chịu bàn việc hòa hiếu mà còn trở mặt bắt giữ sứ giả. Vua Lê vô cùng tức
giận, nên ngay sau khi đánh bại hai đạo quân thủy bộ của nhà Tống, và thành
công trong việc gửi sứ bộ sang Tống triều nghị hòa và cầu phong, năm 982, niên
hiệu Thiên Phúc thứ 3, nhà vua ngự giá thân chinh cất đại quân đi chinh phạt
Chiêm Thành. Vua Chiêm Thành Tỳ Mi Thuế xuất quân chống cự, và chiến trận đã
xẩy ra trong vùng Bình Trị Thiên ngày nay. Tỳ Mi Thuế bị chém chết ngay tại
trận tiền, và binh lính Chiêm Thành bị giết và bị bắt sống hàng mấy vạn. Người
Chiêm tôn Indravarman IV lên làm vua để lo việc chống giữ. Vua Lê Đại Hành đánh
chiếm kinh đô Đồng Dương (Quảng Nam),
Indravarman IV bỏ thành chạy trốn vào Panduranga (Phan Rang). Quân nhà Tiền Lê
san thành Đồng Dương thành bình địa, và thiêu hủy tông miếu hoàng gia Chiêm
Thành. Vua Lê Đại Hành chia quân đóng giữ các nơi xung yếu của Chiêm Thành đến
tận Vijaya (Bình Định). Nhà vua ở lại trên đất Chiêm một năm mới hạ chiếu ban
sư. Nhà vua lưu lại một đạo quân trú phòng dưới quyền chỉ huy của Quản giáp Lưu
Kế Tông để chiếm đóng phần phía bắc nước Chiêm Thành (từ Hoành Sơn đến mũi
Varella).
Năm
985, niên hiệu Thiên Phúc thứ 6, Indravarman IV cử sứ bộ sang Tống triều dâng
cống phẩm và khiếu nại với vua Tống Thái Tông về chuyện Giao Châu (Đại Cồ Việt)
xâm chiếm đất đai và phá hủy tông miếu của Chiêm Thành. Năm 986, niên hiệu
Thiên Phúc thứ 7, Indravarman IV chết, Lưu Kế Tông tự lập làm vua Chiêm Thành.
Người Chiêm Thành nổi lên chống đối và bị Lưu Kế Tông đàn áp. Vua Tống Thái
Tông bèn cử sứ giả qua Hoa Lư đưa thư hỏi về việc Lưu Kế Tông tự lập làm vua và
đàn áp người Chiêm Thành. Vua Lê Đại Hành sai Ngô Quốc Ân cầm đầu sứ bộ sang
Tống triều biện giải rằng Lưu Kế Tông là một tên đào ngũ năm 983 đã bị vua Lê
sai người đuổi theo bắt được và đã đem chém, và thanh minh rằng triều đình Hoa
Lư không dính dấp gì đến hành trạng của các thành phần đào nhiệm trên đất Chiêm
Thành. Năm 988, niên hiệu Thiên Phúc thứ 9, người Chiêm Thành nổi dậy chiếm lại
miền Vijaya, và tôn người lãnh đạo cuộc nổi dậy lên ngôi vua tại thành Phật Thệ
(còn gọi là Chà Bàn, ở Bình Định), lấy hiệu là Ku Xri Harivarman II, sử ta gọi
là Băng vương La Duệ. Lưu Kế Tông lo buồn sinh bệnh. Qua năm sau, 989, niên
hiệu Hưng Thống năm đầu, đời Lê Đại Hành, Lưu Kế Tông mất. Harivarman II thừa
cơ tiến ra khôi phục miền Amaravati và bắc bộ Nhật Nam cũ đến tận châu Địa Lý. Năm
990, niên hiệu Hưng Thống thứ 2, vua Lê Đại Hành sai quân sang đánh châu Địa
Lý, bắt được nhiều tù binh. Vì nhà Tống quyết tâm ngăn cản Đại Cồ Việt thôn
tính Chiêm Thành nên ngay trong năm 990, niên hiệu Thuần Hóa năm đầu triều Tống
Thái Tông, vua Tống gửi chiếu cho vua Lê yêu cầu bãi binh. Vua Lê Đại Hành vì
mới được nhà Tống phong Kinh Triệu Quận hầu, và gia phong Kiểm Hiệu Thái úy,
lại vì việc năm trước vua Chiêm Thành Harivarman II không chứa chấp bọn phản
thần Dương Tiến Lộc, nên chấp nhận việc bãi binh nghị hòa. Vua Lê Đại Hành ra
lệnh rút quân khỏi châu Địa Lý, đem về đóng giữ châu Bố Chính. Năm 992, niên
hiệu Hưng Thống thứ 4, vua Lê Đại Hành trao trả cho Chiêm Thành 360 người bị
bắt tại châu Địa Lý trong trận đánh năm 990. Cũng trong năm 992, nhà vua sai
Phụ Quốc Ngô Tử An đem 3 vạn người mở đường bộ dọc theo bờ biển từ cửa Nam Giới
(cửa Sót ở Hà Tĩnh) vượt đèo Ngang và xuyên suốt qua châu Bố Chính để đến thẳng
châu Địa Lý (miền giữa Quảng Bình).
Như vậy, rõ ràng
châu Bố Chính đã trở về cương thổ Đại Việt từ năm 982, niên hiệu Thiên Phúc thứ
3, triều Lê Đại Hành, trước 2 châu Địa Lý và Ma Linh 77 năm.
Kết Luận.
Đại
Cồ Việt và Chiêm Thành đều là phiên thuộc của Tống triều. Chính sách của nhà
Tống lúc bấy giờ là làm trung gian hòa giải cuộc xung đột Chiêm Việt, đồng thời
sử dụng lá bài tấn phong nhỏ giọt đối với Đại Cồ Việt để ngăn cản Lê Hoàn thôn
tính Chiêm Thành. Tuy Lê Hoàn đã oanh liệt chiến thắng quân Tống, và có dư binh
lực chiếm đóng Chiêm Thành, nhưng Lê Hoàn đã biết tự chế, chịu nghe lời Tống
Thái Tông rút quân trả đất thả tù binh để đổi lấy tước phong Giao Chỉ Quận
vương. Chiến dịch bình Chiêm của Lê Hoàn bắt đầu năm 982 và chấm dứt vào năm
990 khi Lê Hoàn chịu nghị hòa và rút quân khỏi châu Địa Lý, đem về đóng giữ
châu Bố Chính. Chiến dịch này kéo dài 8 năm và mang nhiều hình thái: tiến công
quân sự, chiếm đóng lãnh thổ, minh thị rút quân, âm thầm lưu quân, bố trí người
lên làm vua, rồi lại can thiệp quân sự. Chiến dịch này vô cùng hiển hách, các
triều đại thịnh trị Lý Trần về sau cũng không hơn được, nhưng về mặt chiến lợi
phẩm, vì sự can thiệp của Tống Thái Tông, Lê Hoàn chỉ thu về được châu Bố Chính
và sự công nhận ngoại giao của Tống triều.
Lê
Hoàn cũng như Đinh Bộ Lĩnh đều là người Cửu Chân, gốc gác cư dân bản địa. Triều
thần đều là võ tướng. Công việc từ hàn ở triều đình còn luộm thuộm, sơ sài.
Việc thù tiếp sứ thần nước Tống phải nhờ đến các nhà sư. Bởi vậy, việc lấy châu
Bố Chính có lẽ chỉ là một dữ kiện thực tế, chứ chưa chắc đã có văn bản minh thị
xác định. Lê Hoàn không có sử thần ghi chép hành trạng, không có văn nô lưu lại
các trước tác ca tụng công đức, triều Tiền Lê lại quá ngắn ngủi, nên các sự
việc đời Tiền Lê đều do người đời sau ghi chép lại. Do đó, việc sử cũ chép rằng
năm Kỷ Dậu (1069) đời vua Lý Thánh Tông, vua Chiêm Thành là Chế Củ dâng 3 châu
Bố Chính, Địa Lý, và Ma Linh để chuộc mạng là do sử thần nhà Lý có dụng ý muốn
chính thức hóa tình trạng châu Bố Chính vốn đã thống thuộc Đại Việt từ thời vua
Lê Đại Hành.
18 tháng 11 năm 2005
Minh
Vũ Hồ Văn Châm
Phong Trào Đấu Tranh DânChủ
Và Khả Năng Hình Thành
Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội
Cửa miệng thế gian có câu bá nhân bá tánh. Đó là thường tình của con
người. Vì vậy, bất kỳ cộng đồng nào cũng phải thường xuyên đối mặt với vấn đề
dị biệt ý kiến giữa các thành viên cộng đồng trong việc quản lý và điều hành
cộng đồng. Trên bình diện rộng lớn hơn, quốc gia, dân tộc cũng vậy, trong phần
thế giới loài người tiến bộ hôm nay, giai tầng lãnh đạo xứ sở nào cũng phải
giải quyết các dị biệt về quan điểm của các thành phần dân chúng để tìm sự đồng
thuận tương đối trong việc tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, cũng như trong việc
hoạch định phương thức điều hành sinh hoạt xã hội để phục vụ hữu hiệu quần
chúng nhân dân. Sự đồng thuận tương đối đó là một hiện tượng đại đồng tiểu dị
về mặt quan điểm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, sự đồng thuận
tương đối này hoàn toàn vắng bóng. Mô hình tổ chức quốc gia và phương thức điều
hành xã hội không theo ý muốn đại khối quần chúng mà lại do một thiểu số cá
nhân áp đặt để thụ hưởng đặc quyền đặc lợi. Đó là các chế độ chính trị chuyên
chính. Xưa kia là chuyên chính phong kiến, chuyên chính của các vương hầu, lãnh
chúa, tướng quân. Ngày nay là chuyên chính vô sản, chuyên chính trên danh nghĩa
là của giai cấp công nhân vô sản nhưng trong thực tế là chuyên chính của giai
cấp quý tộc tư bản đỏ.
Nhưng con người là một sinh vật biết suy nghĩ, biết phản ứng với các
điều kiện sinh hoạt trái với ý muốn. Do đó, nhân loại không ngừng tìm cách cải
tiến môi trường sinh sống. Song hành với đà cải tiến các điều kiện sinh hoạt,
mô hình tổ chức nhân quần và quy ước sinh hoạt xã hội cũng thay đổi theo. Nếu các
định chế này không tiệm tiến thay đổi một cách đương nhiên và ôn hoà, mà bị
ngăn trở để cố tình duy trì tình trạng đình trệ có lợi riêng cho thiểu số thống
trị thì sẽ phát sinh những mâu thuẫn xã hội mỗi ngày một thêm trầm trọng. Sự
kiện các mâu thuẫn này cứ bị giới chức cầm quyền cố tình làm ngơ không giải
quyết thỏa đáng sẽ mang lại hậu quả là sự bùng nổ những đột biến chính trị có
tính chất bạo lực như cách mạng tư sản ở Pháp (1789), cách mạng dân tộc ở Tàu
(1911), cách mạng vô sản ở Nga (1918), hay việc phát sinh những diễn biến xã
hội có tính cách hòa bình nhưng cũng đủ uy lực gây ra những hỗn loạn tạo sức ép
đòi hỏi giới chức cầm quyền đổi mới cơ chế quản lý quốc gia như ở Liên Xô và
Đông Âu gần đây.
Tình trạng nước ta hiện nay giống y hệt tình trạng các quốc gia kể trên
với những mâu thuẫn xã hội trầm trọng ở giai đoạn tiền hỗn loạn hay tiền cách
mạng, chỉ chờ cơ hội để nổ tung. Nguyên nhân chủ yếu phát sinh những mâu thuẫn
mỗi ngày một thêm gay gắt này tụ hội chung quanh sự kiện đảng Cộng Sản Việt Nam
đã như bộ da tắc kè luôn đổi màu từng giai đoạn để lừa bịp mọi người, mọi giới,
mọi tổ chức, mọi giai tầng của xã hội Việt Nam để bòn rút tiền bạc, của cải,
trí tuệ, công sức, máu xương, thậm chí sinh mạng của họ, trong mục đích phục vụ
lợi ích riêng của đảng Cộng Sản. Sự lừa bịp này đã từng có những giai đoạn rất
hoàn hão và rất mực thành công, mang lại những thành quả thắng lợi đáng kể cho
đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhưng cái kim dấu trong túi áo lâu ngày cũng phải lòi
ra, mặt khác, quần chúng nhân dân bị áp bức không nương tay, tài sản, trí tuệ
và sức lao động của họ bị khai thác, bị bóc lột đến tận xương tủy, nên mắt họ
phải sáng ra, tai họ trở nên thính hơn, đầu óc họ cũng bớt mê muội. Bởi lẽ đó,
các lốt bịp bợm của giai tầng lãnh đạo cộng sản dần dà bị bóc trần hết lớp này
đến lớp khác, và cho đến ngày hôm nay thì đảng Cộng Sản Việt Nam hầu như đã
hiện nguyên hình là con quỷ dữ.
Khởi nguyên, đảng Cộng Sản Việt Nam kích động lòng căm thù của dân nghèo
để phát động cuộc đấu tranh giai cấp, nêu cao các khẩu hiệu cách mạng vô sản
chống phong kiến, chống địa chủ, chống cường hào. Sau khi cướp được chính
quyền, đảng Cộng Sản vội vàng trút bỏ bộ da quốc tế cộng sản để khoác lên mình
cái lốt quốc gia dân tộc, tự giải thể đảng Cộng Sản Đông Dương, và lập lờ thay
vào đó một tổ chức nhu mì mang tên là Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác Xít. Gặp lúc
thực dân Pháp trở lại xâm lược, đảng Cộng Sản dương cao ngọn cờ yêu nước, kích
động tình tự dân tộc, thành lập chính quyền liên hiệp kháng chiến để động viên
nhân tài vật lực cả nước vào công cuộc chống ngoại xâm. Khi đã vững chân và đã
dựa được lưng vào hậu phương Trung Cộng, đảng Cộng Sản Việt Nam phát động chiến
dịch cải cách ruộng đất, và tiến hành chương trình rèn quân chỉnh cán, bề ngoài
là để bồi dưỡng và chấn chỉnh lực lượng, nhưng thực chất bên trong là để truy
diệt trí phú địa hào là các thành phần xã hội đã tích cực góp công góp của cho
sự nghiệp kháng chiến. Khi được quản lý nửa phần đất nước phía bắc, đảng Cộng
Sản tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn còn dè dặt thu mình
trong cái lốt đảng Lao Động, một mặt nêu cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội để củng
cố gốc rể ở miền bắc, và mặt khác đưa ra chiêu bài cách mạng dân tộc dân chủ để
thôn tính miền nam. Khi đã thống nhất toàn bộ hai miền nam bắc, đảng Cộng Sản
Việt Nam trở lại nguyên hình, thẳng tay tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư
doanh, đánh diệt tư sản mại bản, hợp tác hóa ruộng đất, bề ngoài rêu rao là
tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền nam cho ngang tầm với miền bắc, nhưng thực chất bên trong là cạn tàu ráo
máng vơ vét công khố, chiếm hữu công sản, tước đoạt ruộng vườn, nhà cửa, và vật
tư của nhân dân miền nam. Đảng Cộng Sản trở thành ông chủ độc tôn của đất nước
và đảng viên đảng Cộng Sản dần dà tư sản hóa để trở thành giai cấp quý tộc tư
bản đỏ.
Từ những cán bộ nghèo khó buổi đầu, xuất thân từ giai cấp công nông,
hăng say với lý tưởng cách mạng vô sản, sinh hoạt ba cùng (cùng ăn, cùng ở,
cùng làm) với nhân dân, được nhân dân cưu mang đùm bọc, đến những đảng viên có
chức có quyền ngày hôm nay, vừa giàu sang, vừa quyền thế, vừa gian hiểm, vừa
lọc lừa, vừa xa hoa, vừa trụy lạc, bức tranh nhân sự của đảng Cộng Sản Việt Nam
đã hoàn toàn đổi khác. Lúc trước là xuất phát từ nhân dân, xây dựng từ hạ tầng,
do dân, vì dân. Ngày nay cách mạng thành công (nắm được chính quyền), ăn trên
ngồi trốc, từ trên cao nhìn xuống dưới, mắt chẳng còn thấy ai , cứ nước cờ
chuyên chính vô sản mà tự tung tự tác đè đầu cưỡi cổ nhân dân, ức hiếp, chèn ép
nhân dân, khai thác, bóc lột nhân dân, nghĩa là xa rời quần chúng nhân dân,
trực diện đối kháng với quần chúng nhân dân, và bị quần chúng nhân dân khinh
khi và căm ghét. Cốt lõi của nưóc cờ chuyên chính vô sản này là định chế độc
đảng. Đảng Cộng Sản dành độc quyền lãnh đạo Nhà Nước ở mọi cấp mọi ngành, từ
trung ương đến địa phương, trong cả ba ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp.
Lúc trước đảng Cộng Sản xây dựng lực lượng đấu tranh dựa vào liên minh công
nông, nuôi dưỡng động lực đấu tranh bằng mục tiêu thực hiện công bằng xã hội,
chấm dứt cảnh người bóc lột người, xiển dương tinh thần mỗi người vì mọi người.
Ngày nay đảng Cộng Sản xây dựng lực lượng dựa vào giai cấp quý tộc tư bản đỏ
vừa thành hình, củng cố thành trì quyền lực bằng công an và bộ đội, nuôi dưỡng
tinh thần đấu tranh bằng đặc quyền đặc lợi xuyên qua các hình thức ưu đãi kinh
tế. Công an và bộ đội, bất kể đơn vị lớn nhỏ nào cũng có quyền làm kinh tế song
hành với công vụ. Đảng viên và gia đình, bất kể là cá nhân hay tập thể, đều có
quyền làm kinh tế tư doanh, đặc biệt là có quyền làm xuất nhập khẩu, sử dụng
ngoại tệ, và ký kết hợp đồng với các cơ quan Nhà Nước. Thành trì quyền lực của
đảng Cộng Sản lại còn được che chở bởi một vòng lũy bên ngoài, dày dặc và kiên
cố, đó là tập thể mánh mung phe phẩy, nước đục thả câu, dựa hơi cộng sản mà bóc
lột công sức dân đen và khai thác tài nguyên đất nước. Hơn thế nữa, thành trì
cộng sản chuyên chính toàn trị còn được gia cố bởi kỷ thuật và vốn liếng đầu tư
của tư bản nước ngoài, bởi tiền bạc và dụng cụ, thuốc men cứu trợ của các tổ
chức từ thiện quốc tế, và của cộng đồng tỵ nạn cộng sản bao gồm những người
chạy trốn cộng sản nhưng lại nhẹ dạ dễ xúc động trước cảnh nghèo đói lầm than
của thân nhân và đồng bào sống trong lòng cộng sản.
Thành trì quyền lực của đảng Cộng Sản được xây dựng và củng cố càng vững
chải thì sự bóc lột quần chúng nhân dân và sự lãng phí tài nguyên quốc gia càng
gia tăng. Đành rằng kinh tế quốc dân trong những năm gần đây có phần phát
triển, nhưng mức sống của dân đen không khả quan hơn, sự phân phối của cải
trong xã hội mỗi ngày một mất cân đối, sự cách biệt giàu nghèo mỗi ngày một
thêm gay gắt. Tình trạng này đưa đến hậu quả tất yếu là các mâu thuẫn xã hội
mỗi ngày một thêm trầm trọng. Xã hội bị phân hóa làm hai thành phần đối kháng,
một bên là đảng viên đảng Cộng Sản có chức có quyền và có tiền, và các đồng
minh theo đóm ăn tàn, một bên là đại khối quần chúng nhân dân thấp cổ bé miệng
và các đảng viên hết thời, không chức không quyền và không tiền. Loại đảng viên
quần chúng này khá đông đảo, chiếm tỷ lệ 90% trong số 3 triệu đảng viên trong
toàn quốc, xưa nay vốn là chổ dựa an toàn của đảng Cộng Sản, và ngày nay trở
thành lực lượng đồng minh của phe đối kháng. Phác họa sơ đồ trận địa hai bên
đối kháng trên một mặt phẳng tưởng tượng thì phe thống trị gồm một điểm trung
tâm màu đỏ là Bộ Chính Trị và Trung Ương đảng Cộng Sản, chung quanh là vòng
tròn các đảng viên có chức có quyền, được bảo vệ bởi các vòng thành công an và
bộ đội, bên ngoài có vòng lũy đảng viên và gia đình, tiếp đến là hệ thống các
công sự chiến đấu hổ trợ như Công đoàn, Nông hội, Mặt trận Tổ Quốc, Thanh niên,
Phụ nữ, Cựu Binh, Tôn giáo yêu nước v.v., và sau cùng là tập thể mánh mung phe
phẩy theo đóm ăn tàn. Ngoài ra, phe thống trị còn được hà hơi tiếp sức bằng cầu
không vận đầu tư và viện trợ của nước ngoài, vật phẩm cứu trợ của các tổ chức
từ thiện quốc tế, tiền bạc du lịch du hí và gửi về cho thân nhân của các cộng
đồng người tỵ nạn cộng sản. Toàn bộ hệ thống các vòng tròn đồng tâm này được
nối kết bằng một mạng lưới chính quyền mà đặc điểm là các cơ quan Nhà Nước hoàn
toàn do Đảng Cộng Sản chỉ huy ở mọi cấp, mọi ngành. Trong lúc đó trận địa phe
chống đối gồm nhiều điểm trung tâm tản mác, quy tụ những lực lượng mang màu sắc
khác biệt nhau, ngấm ngầm có, công khai có, hoạt động cả trong nước lẫn ở nước
ngoài. Tựu trung, ngoài các đảng phái chính trị và các giáo hội, các đoàn thể
tương tế, cứu trợ, các tổ chức cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ, các nhóm
đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền, lực lượng phe đối kháng đảng Cộng Sản cầm
quyền đáng quan tâm là tập thể đảng viên cộng sản phản tỉnh, và đại khối quần
chúng nhân dân lao động chán ghét chính quyền.
Quan sát đồ hình bài binh bố trận cũng như phân tích chiến thuật chiến
lược của hai phe đối kháng thì nhận thấy ngay thế trận của phe cộng sản thống
trị được tổ chức chặt chẻ, phân bố liên hoàn, thống nhất chỉ huy, có phòng thủ,
có trấn áp, có tiến công, có địch vận. Thế trận của phe đối kháng thì khí thế
rất hăng say, nhưng bố trí rời rạc, riêng rẻ, không có bộ chỉ huy chung, không
có hành động chung, không có mục tiêu chung, nặng hình thức trình diễn mà nhẹ
phần đấu tranh thực tiễn hữu hiệu, thiên về kêu gọi, lý thuyết, tranh biện, hội
luận, thỏa hiệp, cầu xin, khiếu kiện, mà ít chú trọng đến việc kiện toàn cơ cấu
tổ chức, xây dựng và phát triển lực
lượng chiến đấu, luồn lách tìm kiếm sự đồng tình và hổ trợ của các thế lực
chính trị và kinh tế nước ngoài. Nói chung, phe thống trị nhuộm thắm màu đỏ,
phe đối kháng khoác lên người rất nhiều màu sắc khác nhau. Trong tình huống như
vậy, muốn đấu tranh ngang ngữa và cuối cùng đạt được thắng lợi, phe đối kháng
phải cùng nhau thỏa hiệp để xác định và chấp nhận một số tiêu chuẫn đấu tranh
làm mẩu số chung để hàng ngũ chiến đấu cùng mang một màu cờ sắc áo khi đối trận
với cộng sản. Nói khác đi, các tụ điểm đối kháng rời rạc, riêng rẻ, tản mác
trong và ngoài nước, ngay từ bây giờ, cần phải kết hợp thành một mặt trận liên
hoàn được tổ chức chặt chẻ, có chỉ huy thống nhất, có sách lược đấu tranh đúng
phương hướng, có cùng chung cứu cánh tốt đẹp phục vụ quyền lợi quốc gia dân
tộc, thực thi dân chủ, thăng tiến dân sinh.
Trước khi đi sâu vào việc thảo luận khả năng hình thành một mặt trận đấu
tranh chung như vậy, thiết tưởng việc phân tích các mặt lợi hại, nhận định các
phần chân giả, và cân nhắc tính chất khả thi của một vài kế hoạch đang được
nhiều người, nhiều nhóm quan tâm bàn luận là một điều cần thiết.
Giáo sư Vũ Quốc Thúc chủ trương vận động các đại cường chấp nhận cho
Việt Nam
hưởng quy chế trung lập vĩnh viễn theo quốc tế công pháp. Chủ trương này được Tiến
sĩ Nguyễn Bá Long ủng hộ, cổ súy, và theo lời của G.s. Thúc trong buổi Hội Luận
Paltalk ngày 14-10-2006
thì công việc vận động này đuợc xem như là mục tiêu tranh đấu ưu tiên trong
giai đoạn trước mắt của Phong Trào Hiến Chương 2000. Về mặt lý thuyết, chủ
trương này là tuyệt hảo. Người không động đến ta, ta không động đến người. Tha
hồ ăn no ngủ kỹ. Việt Nam
trung lập cam kết không theo Tàu mà cũng không theo Mỹ. Tàu với Mỹ có đánh nhau
vỡ đầu sứt trán thì cũng chẳng mắc mớ gì đến ta. Thái Lan có xung đột với Căm
Bốt hay Trung Quốc có chèn ép Lào thì Việt Nam vẫn trung lập, cam kết không về
hùa với ai mà cũng không giúp đỡ ai. Thế là Việt Nam hòa bình muôn thuở, độc lập
muôn năm, dân tộc trường tồn, nhân dân hạnh phúc. Lý thuyết là như vậy, nhưng
trong thực tế, sự việc có được như vậy không? Những vị trong nhóm chủ trương
vận động quy chế trung lập vĩnh viễn cho Việt Nam đều xuất thân khoa bảng, chữ
nghĩa bề bề. Tiếc rằng khi luận bàn thế sự, liệt vị là sư tử cầm bút, quá thiên
về lý thuyết hàn lâm, mà không nhìn sự việc bằng con mắt chiến lược thực tế.
Việt Nam bề ngang thì hẹp, bề dọc thì dài, một bên là biển, một bên là Lào với
Căm Bốt. “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân”, chính dãy Trường sơn giữa Việt
Nam, Lào và Căm Bốt là không gian sinh tồn của dân tộc ta. Xưa kia vua Lê Thái
Tổ dẹp xong giặc phương bắc là đem ngay binh mã lên thượng du tiễu phạt Bế Khắc
Thiệu, đánh Bồn Man và Lão Qua, chiếm đóng Trấn Ninh. Các chúa Nguyễn cát cứ ở
Phú Xuân là lập ngay dinh Ai Lao để khống chế Vạn Tượng. Vua Tây Sơn Nguyễn
Nhạc thương lượng với ngưới Anh Cát Lợi Chapman viện trợ vũ khí để đánh Chân
Lạp. Nguyễn vuơng Phúc Ánh vừa mới vững chân ở Gia Định là vội sai Nguyễn Văn
Thoại sang bảo hộ Chân Lạp. Vua Minh Mạng mở đất đến bờ Mê Kông và lập Trấn Tây
Thành. Tại sao người xưa đã hành động như vậy? Tại vì dân tộc ta quay mặt ra
biển đông, nếu không có mặt tây an toàn để dựa lưng thì làm sao có thể đứng
vững trên đời. Nếu việc vận động quy chế trung lập vĩnh viễn cho Việt Nam đạt
kết quả, Tàu cam kết không động đến ta, ta cam kết không can thiệp công việc
của Lào, rồi Lào để cho Tàu lập căn cứ quân sự ở Seno, mở xa lộ từ Cảnh Hồng
đến Savannakhet, đem 10 triệu dân định cư
trên các cao nguyên Xieng Khoang và Boloven, tương lai Việt Nam sẽ ra
sao? Người không động đến ta, nhưng người đứng sau lưng ta, chĩa đao vào nách
ta, dí kiếm vào bụng ta, đao kiếm không chạm vào thịt da ta nhưng mũi đao kiếm
hướng thẳng vào tử huyệt của ta, thế là ta hết đường cựa quậy. Tóm lại, quy chế
trung lập vĩnh viễn chỉ tốt cho Việt Nam khi quốc tế chấp nhận áp dụng
cho toàn bộ Đông Nam Á, hoặc ít ra thì cũng cho cả 3 nước Việt Miên Lào.
Tháng 9 năm 2006, từ trong nước, Luật sư Trần Lâm đề nghị tách đảng Cộng
Sản ra làm hai như là một giải pháp đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết phải mở
rộng tự do dân chủ tại Việt Nam, mà không gây nên bất cứ xáo trộn xã hội nào.
Những nhận xét của Ls. Trần Lâm về sự bất mãn của đảng viên quần chúng và đảng
viên nghỉ hưu, của bộ đội phục viên, cũng như về nổi oan ức thống khổ của đại
khối nhân dân bị chính quyền chèn ép và bóc lột, tất cả đều không có gì mới lạ.
Những nhận xét của Ls. Lâm về sự vận hành của các cơ cấu chính quyền xuyên qua
câu phát biểu ngạo mạn của vua tham nhũng Đào Đình Bình dùng để minh họa vai
trò bù nhìn vô tích sự của Quốc Hội: “Trung
Ương cử tôi, tôi sai phạm thì Trung Ương xử trí tôi”, nghĩ cho cùng thì
cũng là lời nói lòng vòng mang tính chất biện minh cho chế độ hơn là lời cáo
trạng đảng Cộng Sản. Sao không nói huỵch toẹt là Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản tự
xem mình là chí tôn, đạp đầu Quốc Hội, đứng trên Nhà Nước, phủ lấp Quốc Gia, và
điều đó là bản chất của định chế chuyên chính toàn trị hiện thời, là cội nguồn
của tệ trạng tham nhũng. Mặt khác, những đề nghị của Ls. Lâm về giải pháp một
đảng phân cực từ đảng Cộng Sản để thành lập một đảng mới hoạt động song hành
nhưng có chủ trương, đường lối đối lập với đảng Cộng Sản, là những đề nghị
không rõ ràng, không dứt khoát, có tính cách van xin, có lời lẽ e dè, run sợ.
Sau khi rào đón “tôi không dám làm cái
việc tìm hiểu nội bộ của lãnh đạo tối cao, nhưng tôi đã thấy rõ ràng là trong
Đảng đã có sự phân hóa về nhận thức đường lối, về cách thức điều khiển Quốc Gia
ngay từ các cấp dưới”, Ls. Lâm đề nghị các đồng chí lãnh đạo tối cao hình
thành ra hai đảng: với Đảng Cộng Sản hiện nay, người tốt ở lại, người xấu ra
đi, với Đảng mới, sẽ kết nạp thêm người đồng quan điểm, những người đấu tranh
cho dân chủ, những người cần cho sự phát triển. Ls. Trần Lâm dự kiến: “Toàn bộ xã hội sẽ tồn tại và vận hành như
hiện nay, mọi cơ quan nhà nước, bề ngoài vẫn như không có gì thay đổi. Có cái
khác, ở từng cấp, từng tổ chức, ở đâu cũng có đảng viên của hai đảng, họ cùng
làm việc, họ cùng giám sát lẫn nhau”. Như thế là thế nào? Muốn có dân chủ,
phải tách Đảng ra khỏi Nhà Nước. Nhưng theo giải pháp Trần Lâm, ở đâu cũng có
đảng viên của hai đảng, vậy vẫn có tình trạng Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà
nước, cái khác là trước chỉ có một đảng duy nhất, nay thì có đến hai đảng cùng
sản sinh từ một lò, tùy thời thế mà thay phiên nhau làm đảng cầm quyền và đảng
đối lập.. Phải chăng giải pháp Trần Lâm chỉ là lá bài hai mặt, là con thò lò
đảng Cộng Sản sẽ sử dụng trong trò chơi dân chủ giả tạo vào giữa năm 2007 sắp
tới? Giải pháp Trần Lâm chỉ có điểm đáng quan tâm là không gây ra xáo trộn xã
hội. Tuy nhiên, Việt Nam
vẫn có thể thay đổi chế độ mà xã hội không bị xáo trộn nếu những người lãnh đạo
đảng Cộng Sản, sáng suốt nhận thức thời thế bất lợi, tự động rút lui với tinh
thần thể thao trong đấu tranh chính trị, chuyển giao chính quyền cho một chính
phủ chuyển tiếp. Chính quyền chuyển tiếp sẽ dẹp bỏ hệ thống đảng Cộng Sản trong
các cơ quan nhà nước, tổ chức tổng tuyển cử tự do để bầu Quốc Hội lập hiến đa
nguyên đa đảng. Nhưng tin tưởng và đợi chờ người cộng sản tự nguyện rút lui thì
chẳng khác nào mò trăng đáy nước.
Tập đoàn lãnh đạo đảng Cộng Sản là loại người vừa gian tham ác hiểm, vừa
trí trá lọc lừa. Đối trận đấu tranh chính trị với loại người mang đầu óc của
con cáo già và miệng lưỡi của con rắn độc, phe đối kháng phải luôn luôn cảnh
giác để khỏi vướng mắc vào những cạm bẫy gây thương tích cũng như khỏi bị phỉnh
gạt ăn phải những viên kẹo tẩm thuốc độc gây tử vong. Không những thế, phe đối
kháng cũng đừng vội vàng phóng tâm tin tưởng vào thiện chí đổi mới các cơ chế
lỗi thời, bãi bỏ các biện pháp hành chánh sai trái, cải cách các lề lối công vụ
phiền hà, sửa đổi các pháp lệnh hà khắc, mà chính quyền cộng sản rêu rao ầm ỉ
là để “xây dựng Nhà Nước pháp quyền Việt
Nam Xã hội Chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.Sự thực thì mỗi khi đưa ra cải
cách gì mới thì không phải là do thiện chí muốn cỡi mở, mà chủ yếu là để tuyên
truyền, để đánh lạc hướng dư luận, còn thực chất thì trước đó rất lâu chính
quyền cộng sản đã sửa soạn sẵn các biện pháp ràng buộc khác. Thí dụ rõ nét là
việc chính phủ cộng sản trong phiên họp thường kỳ tháng 8 năm 2006 đã ủy nhiệm
Bộ Trưởng Tư Pháp trình Ủy ban Thường vụ Quốc Hội ban hành Nghị quyết hủy bỏ
Nghị định 31/CP ngày 14-4-1997
về quản chế hành chính. Trong thực tế thì trước đó chính quyền cộng sản đã ban
hành Pháp lệnh Xử lý Vi phạm Hành chánh ngày 01-10-2002, Nghị định 38/CP ngày
18-03-2005 về việc tập họp đông người và Nghị định 56/CP ngày 06-06-2006 về văn
hóa và thông tin để ngăn cản và đàn áp những người chống đối chính quyền, đòi
hỏi cải tiến dân sinh, thực thi dân chủ. Theo sự phân tích của Luật sư Lê Thị
Công Nhân, một nhà đấu tranh dân chủ năng nổ hiện ở trong nước, hiệu lực và
phạm vi áp dụng của các văn bản pháp lý này còn tinh vi, đầy đủ, rộng rãi và
ghê gớm hơn Nghị định 31/CP bội phần. Một điểm nữa cần nêu lên là các lực lượng trong phe đấu tranh dân chủ không cần
và không nên minh thị ghi lên giấy trắng mực đen rằng phương pháp đấu tranh của
tổ chức mình là hòa bình bất bạo động như trong Tuyên bố ngày 16-10-2006 thành lập Liên
Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam.
Minh thị khẳng định như vậy sẽ hạn chế hoạt động của tổ chức, tự gò bó tổ chức
trong khuôn khổ một phương thức đấu tranh nhiều khi không hợp thời và không hữu
hiệu. Hơn nữa, minh thị khẳng định như vậy sẽ gạt bỏ ra khỏi hàng ngũ rất nhiều
bạn đồng minh. Đấu tranh bất bạo động là một phương thức tốt trong trường hợp
đối phương có tinh thần mã thượng, không ăn gian nói dối, không hà hiếp kẻ yếu
thế, biết giữ lời cam kết, biết tôn trọng luật chơi, chấp nhận đấu tranh thẳng
thắn chính đại quang minh. Đối với một đối phương gian hiểm lọc lừa, lại ngoan
cố lì lợm, phương thức đấu tranh hữu hiệu không nhất thiết luôn luôn là phương
thức hòa bình, bất bạo động, ngược lại, tùy thời cơ, tùy hoàn cảnh, tùy tương
quan lực lượng, tùy thái độ phản ứng của đối phương, phe đối kháng trong những
trường hợp cần thiết sẽ không thể không sử dụng bạo lực cách mạng.
Khi phân tích các yếu tố có tác động qua lại trong cuộc đối đầu giữa
chuyên chính và dân chủ thì không thể bỏ qua mối tuơng quan giữa phát triển
kinh tế và cải tiến dân chủ. Các lý thuyết gia kinh tế và các nhà hoạch định
chính sách phương Tây chủ trương rằng trong mọi chế độ chính trị, một khi kinh
tế phát triển thì dân chủ sẽ phát sinh. Kinh tế phát triển sẽ mang lại một cuộc
sống về vật chất lẫn tinh thần đầy đủ hơn, tốt đẹp hơn cho người dân, nhờ vậy
người dân bắt đầu ý thức được vai trò xã hội của mình, hiểu rằng mình phải làm
tròn bổn phận với xã hội thì đồng thời mình cũng phải được thụ hưởng các quyền
lợi xã hội dành cho mình. Nói cách khác, kinh tế phát triển thì dân sinh phát
triển và dân trí phát triển theo. Kinh tế phát triển làm nẫy sinh nhanh chóng
một giai cấp trung lưu gồm trí thức tiểu tư sản, và những người buôn bán nhỏ,
những tiểu chủ cơ sở kinh tế thương mại hoặc sản xuất tư doanh. Giai cấp trung
lưu này sẽ làm đầu tàu lôi kéo mọi người đòi hỏi quyền làm chủ vận mạng của
mình. Chính quyền không thể cứ một mực thúc ép người dân đổ mồ hôi sôi nước mắt
làm tròn bổn phận mà không nới lỏng vòng giây chuyên chính, cải tiến chế độ,
tôn trọng nhân quyền và dân quyền. Trên cơ sở nhận thức đó, Tổng Thống Hoa Kỳ
George W. Bush ngày 11-8-2006 tại Texas đã tuyên bố là mọi độc tài sẽ chấm dứt
sau WTO, Việt Nam phải chấp nhận quy luật kinh tế thị trường, kinh tế thị
trường sẽ dẫn đến tự do dân chủ. Mới đây, vào ngày 17-11-2006, tại Hà Nội, cùng
ăn trưa với Thủ Tướng Úc John Howard, Tổng Thống Hoa Kỳ lại đã tiết lộ cho báo
chí biết là Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng có mấy người con đang là du
sinh tại Mỹ, trong số đó có người kết hôn với một công dân Mỹ gốc Việt. Rõ ràng
là Tổng Thống Hoa Kỳ đang làm ra vẻ lạc quan tin tưởng rằng giúp đỡ cho Việt
Nam phát triển kinh tế thị trường, tức là kinh tế tự do, thì sẽ có hệ luận tất
yếu là tự do kinh tế sẽ dẫn đến tự do chính trị, và Việt Nam sẽ từ bõ chuyên
chính để chuyển đổi sang định chế dân chủ. Đành rằng hầu hết các quốc gia thịnh
vượng trên thế giới đều là những nước dân chủ, nhưng điều đó không phải là
không có ngoại lệ, nghĩa là trên thế giới ngày nay, bên cạnh các quốc gia thịnh
vượng và dân chủ vẫn có những nước độc tài giàu có. Điều này có nghĩa là chỉ riêng
một yếu tố kinh tế phát triển không nhất thiết sẽ đương nhiên mang lại tự do
dân chủ. Thí dụ rõ nét nhất là trường hợp Trung Cộng sau cải cách kinh tế cởi
mở của Đặng Tiểu Bình, kinh tế phát triển với tốc độ chóng mặt, nhưng bản chất
chuyên chính của chế độ không mảy may thay đổi. Giới chức lãnh đạo chính thể
độc tài vẫn tìm ra các độc chiêu gia tăng phát triển kinh tế mà vẫn kìm kẹp
hoặc trì hoãn phát triển tự do chính trị. Riêng đối với các nước tiếp nhận viện
trợ nước ngoài để phát triển kinh tế mà không có kèm theo những ràng buộc hoặc
áp lực nhất định, thì trong rất nhiều trường hợp, sự hổ trợ phát triển kinh tế
đã không mang lại tự do chính trị mà còn làm cho chế độ độc tài được vững mạnh
thêm.
Trở lại trường hợp Việt Nam, vấn đề được đặt ra là vào lúc này, sự giúp
đỡ từ bên ngoài về chuyển giao kỷ thuật, vốn liếng đầu tư, ngân khoản vay mượn
để phát triển kinh tế, cần được tiến hành như thế nào để giúp thúc đẩy công
việc cải tiến dân sinh, qua đó thực hiện tự do chính trị, nghĩa là phát triển
dân chủ. Trong thời gian qua, từ khi Đảng và Nhà Nước Cộng Sản mở cửa kinh tế,
không ai phủ nhận là kinh tế Việt Nam đã phát triển với tốc độ khá nhanh, nhưng
đời sống của đại khối nhân dân lao động vẫn không khả quan hơn. Nông dân mất
quyền làm chủ đất đai. Nông phẩm làm ra, ngoài phần khấu trừ để đóng thuế, còn
lại bao nhiêu phải bán cho cơ quan thu mua nhà nước với giá quy định. Đời sống
nông dân nói chung là nghèo khó cơ cực. Thành phần công nhân cũng không khá
hơn. Trong Tuyên Bố Thành Lập Công Đoàn Độc Lập Việt Nam ngày 20-10-2006 có đoạn như sau: “Công nhân thường xuyên bị chủ ức hiếp, đe
dọa sa thải, thậm chí đánh đập, làm nhục mà không có ai bênh vực, bảo vệ. Mức
lương công nhân Việt Nam
lại thấp nhất so với các nước trong khu vực có cùng trình độ tay nghề. Phần lớn
công nhân không được bảo hiểm y tế, ốm đau không được chăm sóc thỏa đáng”.
Sở dĩ có tình trạng tồi tệ này là vì chính quyền không trợ giá nông phẩm, lại
ép giá thu mua để hạ giá sản xuất cho dễ cạnh tranh trong việc xuất khẩu nông
sản, trong lúc đó lại cấu kết với giới chủ nhân hạ lương công nhân để giảm
thiểu giá thành sản phẩm công nghiệp. Tóm lại, kinh tế phát triển nhưng nông
dân và công nhân bị bóc lột thậm tệ, đời sống mổi ngày một thêm cơ cực, trong
lúc đó thì các tổ hợp xuất nhập khẩu hưởng lợi tối đa. Dù là quốc doanh, tư
doanh hay liên doanh với tư bản nước ngoài, các thành phần này đều ở trong hàng
ngũ phe thống trị trong thế trận đối đầu giữa chuyên chính và dân chủ. Chỉ có
giai cấp quý tộc tư bản đỏ là giàu có thêm, nhân dân lao động tiếp tục sống
trong cảnh nghèo khó thì làm sao xã hội có cơ hội phát sinh tầng lớp trung lưu
trí thức để phát triển dân chủ. Đã thế, chính quyền cộng sản lại cấm đoán mọi
thứ tự do. Không có tự do báo chí. Trong nước có khoảng 650 tờ báo in và chừng
100 trang báo mạng, tất cả đều là báo chính quyền. Chỉ có 2 tờ của phe đối
kháng, nhưng thường xuyên bị trù dập. Không có tự do hội họp. Nghị định 38/CP
cấm tụ tập trên 5 người. Không có tự do đi lại. Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công
Nhân, đã có vé máy bay mà vẫn bị ngăn cản vô cớ, không cho lên máy bay đi dự
hội nghị. Không được lên mạng trao đổi thông tin. Những người hoạt động đòi hỏi
cởi mở chính trị lại còn có nguy cơ bị vu vạ là phạm tội xã hội hay bị bệnh tâm
thần để bị đưa vào tập trung trong các cơ sở giáo dục và các cơ sở chữa bệnh,
hoặc bị chụp mũ tội khủng bố để bị đưa vào các trại giam. Nói tóm lại, ở Việt Nam ngày nay,
tuy có phát triển kinh tế nhưng vẫn chưa có phát triển dân chủ, và sự hổ trợ
của quốc tế mà không kèm theo ràng buộc thích đáng và áp lực đúng mức thì thành
trì độc tài mỗi ngày một ổn cố thêm. Tình trạng này, chính quyền Hoa Kỳ nên lưu
tâm điều chỉnh lại chính sách, nếu không, những người đấu tranh cho dân chủ ở
Việt Nam sẽ nghi ngờ thiện chí giúp đở của Hoa Kỳ có hậu ý khác với mục tiêu tốt
đẹp “giúp đỡ phát triển kinh tế để phát
triển dân chủ” mà các chính khách Hoa Kỹ thường nói ra.
Dù sao thì những người đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam không nên phiền
lòng về việc chính giới Hoa Kỳ dành ưu tiên cho mục tiêu phục vụ quyền lợi của
Hoa Kỳ. Điều đáng quan tâm hơn là trong chuyến công du Hà Nội vừa rồi, Tổng
Thống Hoa Kỳ George W. Bush đã thân hành đến thăm viếng Tổng Bí Thư Nông Đức
Mạnh tại trụ sở Đảng Cộng Sản Việt Nam và chụp hình với Chủ Tịch Nước Nguyễn
Minh Triết dưới bóng pho tượng bán thân của Hồ Chí Minh. Đừng vội phê phán việc
làm này trái với lễ tiết ngoại giao. Cũng đừng dễ dãi đồng tình với lời giải
thích của Tham vụ Báo chí Tòa Bạch Ốc. Cần phải bình tâm chú ý đến đầu óc thực
dụng của người Mỹ cũng như bản chất không câu nệ tiểu tiết cốt sao đạt mục đích
của lớp người vừa mạnh thế lực vừa giàu tiền của để suy đoán phần nào dụng tâm
trong hành động khác thường của Tổng Thống Mỹ. Nhiều người còn nhớ rằng, sau
Thế chiến II khá lâu, vị Tổng Thống đương nhiệm của Hoa Kỳ đã từ Washington
D.C. bay lên tận phi trường Anchorage, Alaska đón chào Nhật Hoàng đang dừng
chân ở đó để máy bay lấy tiếp liệu trên đường sang Âu Châu. Thái độ cởi mở
trong hành động khác thường của Tống Thống Mỹ được xem như là một lời tạ lỗi
đối với mối sỉ nhục Nhật Hoàng gánh chịu trước đây khi phải lên chiến hạm Mỹ ký
giấy đầu hàng. Nhưng quan trọng hơn nữa là hành động của Tổng Thống Mỹ lúc bấy
giờ phải chăng là một thông điệp gửi quốc dân Nhật Bản cam kết không lật đổ
chính thể quân chủ của Nhật, và điều này đã giúp lôi kéo quần chúng Nhật Bản ra
khỏi tâm lý cựu thù để trở thành đồng minh tin cậy. Bởi vậy, những người đấu
tranh cho dân chủ ở Việt Nam có quyền nêu lên nghi vấn rằng hành động không
bình thường của Tổng Thống Bush thân hành thăm viếng người lãnh đạo đảng Cộng
Sản Việt Nam phải chăng là sự biểu hiện ý muốn hợp tác lâu dài với chính quyền
cộng sản không những trong lãnh vực phát triển kinh tế mà còn trong nhiều lãnh
vực khác, đặc biệt là lãnh vực an ninh quốc phòng. Vì lợi ích thiết thực của
nước Mỹ, chính giới Mỹ tìm đối tác bản xứ ở các thành phần có khả năng và có
thực lực để thi hành các kế hoạch phục vụ quyền lợi riêng của nước Mỹ. Bởi vậy,
muốn tranh thủ sự đồng tình, sự hổ trợ, sự hợp tác của chính giới Mỹ, phe đối
kháng với cộng sản phải chứng minh được là hàng ngũ mình không những hợp lòng
dân mà chủ yếu là có khả năng, có thực lực, có ưu điểm hơn hẳn tập đoàn quý tộc
tư bản đỏ đang thống trị nhân dân Việt Nam, đang ghìm đầu họ dưới đáy vực lầm
than cơ cực. Ngoài ra, phe đối kháng phải có tinh thần tự lực cánh sinh, xây
dựng thực lực để dựa vào sức mình là chính, đừng như thân cây tầm gửi, mọi việc
đều trông cậy vào người để rồi hoàn toàn lệ thuộc vào người.
Ở một đoạn trên đã có đề cập đến đồ hình trận địa của hai phe đối kháng
chuyên chính và dân chủ. Nói chung, thế trận của phe cộng sản chuyên chính được
tổ chức chặt chẻ, phân bố liên hoàn, thống nhất chỉ huy, có phòng thủ, có trấn
áp, có tiến công, có địch vận. Thế trận của phe đấu tranh dân chủ thì khí thế
rất hăng say, nhưng bố trí rời rạc, riêng rẻ, không có bộ chỉ huy chung, không
có chương trình hành động chung, nặng hình thức trình diễn mà nhẹ phần đấu
tranh thực tiễn hữu hiệu, thiên về kêu gọi, lý thuyết, tranh biện, hội luận,
thỏa hiệp, cầu xin, khiếu kiện, mà ít chú trọng đến việc kiện toàn cơ cấu tổ
chức, xây dựng và phát triển lực lượng
chiến đấu, vận động tìm kiếm sự đồng tình và hổ trợ của các thế lực chính trị
và kinh tế nước ngoài. Với tình hình như vậy, muốn đấu tranh thắng lợi, phe đối
kháng cần kết hợp lại để hình thành một mặt trận đấu tranh có tổ chức chặt chẻ,
có chỉ huy thống nhất, có quần chúng trong nước đông đảo, và có sự đồng tình và
hổ trợ từ bên ngoài. Hiện nay, trong hàng ngũ phe đối kháng với cộng sản có quá
nhiều tổ chức, phe nhóm. Muốn kết hợp lại cần phải có một số tiêu chuẩn mà mọi
tổ chức, mọi phe nhóm đồng tình chấp nhận làm mẩu số chung để đặt nền tảng cho
sự kết hợp.
Trước hết là tinh thần quốc gia dân tộc. Điều hiển nhiên là thành phần
lãnh đạo cũng như lực lượng nòng cốt của bất kỳ tổ chức, bất kỳ đoàn thể, bất
kỳ hiệp hội nào cũng xuất phát từ cộng đồng căn bản của mình, do đó, mục tiêu
tranh đấu ưu tiên là quyền lợi của quần chúng cội nguồn. Nói khác đi, mỗi thành
phần trong hàng ngũ phe đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam đều có mục tiêu tranh đấu
riêng. Nông dân đòi quyền sở hữu đất đai, công nhân đòi tăng lương tối thiểu,
tín đồ đòi quyền đi lễ chùa, lễ nhà thờ, tiểu thương tiểu chủ đòi quyền buôn
bán, kinh doanh, văn nghệ sĩ đòi quyền tự do viết lách, sáng tác, nhóm bảo
hoàng muốn dựng lại chế độ quân chủ, phe cấp tiến chủ trương thiết lập chế độ
cộng hòa, v.v. Mỗi người một ý, mỗi nhóm một mục tiêu. Nhưng tất cả đều là
người Việt Nam
yêu nước thương nòi, mang nặng tinh thần quốc gia và tình tự dân tộc. Nếu song
hành với các mục tiêu riêng rẻ của từng tổ chức, từng đoàn thể, từng đảng phái,
từng giáo hội, tất cả các thành phần trong tập thể đối kháng với cộng sản đồng
thuận dành ưu tiên cho mục tiêu đấu tranh vì quyền lợi của quốc gia dân tộc
thì khả năng kết hợp có cơ may thành
hình. Nông dân đòi đất, công nhân đòi lương, tín đồ đòi tự do hành đạo, thương
nhân đòi tự do buôn bán, văn nghệ sĩ đòi tự do ngôn luận, tự do sáng tác, mỗi
giới, mỗi nhóm đòi một thứ, nhưng không ai là không đau nổi đau mất đất, mất
biển, không ai là không căm giận nhà cầm quyền cộng sản đã vì quyền lợi riêng
mà hy sinh quyền lợi quốc gia dân tộc. Nghe tin ngư dân Thanh Hóa bị tàu tuần
Trung cộng bắn chết, thấy trên tivi cảnh phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan bị
ngược đãi, những người trong hàng ngũ phe đối kháng với cộng sản, không ai là
không xót xa cho thân phận làm công dân trong một chế độ không tôn trọng nhân
quyền và dân quyền, một chế độ chỉ ức hiếp và bóc lột dân mà không hề bảo vệ và
đùm bọc dân. Những người trong hàng ngũ đối kháng với cộng sản, dù cho thuộc
đoàn thể nào, tôn giáo nào, giai cấp nào chăng nữa, nếu chịu khó suy nghĩ một
chút, sẽ thắc mắc tại sao cả Giang Trạch Dân lẫn Hồ Cẩm Đào, sang công du Việt
Nam, sau khi xong việc ở Hà Nội, đều có vào thăm Đà Nẵng, và chỉ thăm Đà Nẵng
mà thôi. Rõ ràng là người Tàu luôn ấp ủ âm mưu chia cắt Việt Nam, ngăn cản
Việt Nam
thống nhất, kìm hãm Việt Nam
phát triển, không muốn Việt Nam
mạnh lên để trở thành tiểu bá khu vực. Nổi lo âu này không phải là không có cơ
sở. Xưa kia, đời nhà Thanh đã có cuộc vận động của Tăng Kỷ Trạch với Jules
Ferry để chia cắt Đại Nam
ở Quảng Bình. Sau Thế chiến II, Đồng Minh phân định Đông Dương làm 2 khu vực
giải giới quân đội Nhật Bản theo vĩ tuyến 16. Hiệp nghị Genève năm 1954 chia
đôi Việt Nam
ở vĩ tuyến 17. Bây giờ Trung cộng để lộ tham vọng lấn chiếm Đà Nẵng, dùng làm
căn cứ quân sự song hành với quân cảng Du Lâm bên Hải Nam để khóa
chặt lối vào vịnh Bắc Bộ. Chủ Tịch Trung Cộng vào Đà Nẵng ngày 15-11-2006. Tổng Thống Hoa
Kỳ vào Sài Gòn ngày 20-11-2006.
Phải chăng Tàu và Mỹ đã ngấm ngầm thỏa hiệp trên đầu nhân dân Việt Nam để chia
vùng ảnh hưởng theo vĩ tuyến 16? Những nổi trăn trở, ưu tư nói trên đây là tâm
trạng chung của tất cả mọi người trong hàng ngũ đối kháng với cộng sản. Đó là
tinh thần quốc gia dân tộc. Đó là một trong các thành tố căn bản dùng làm mẩu
số chung để kết hợp các phe phái không cộng sản thành một mặt trận thống nhất.
Sau tinh thần quốc gia dân tộc, các thành tố khác của mẩu số chung làm
căn bản kết hợp là ý niệm tự do dân chủ và ý thức công bình xã hội. Tự do là
làm theo ý mình muốn, muốn làm gì và làm như thế nào thì làm, miễn là trong
khuôn khổ luật pháp và không phương hại tới người chung quanh. Trong lãnh vực
chính trị, ý niệm tự do được thể hiện trọn vẹn dưới chính thể dân chủ. Dân chủ
là đối vị của chuyên chính., bởi thế, đã là chuyên chính thì không có tự do.
Ngày nay, phong trào đấu tranh dân chủ nở rộ trong nước là để đối kháng với bản
chất chuyên chính toàn trị của chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa do đảng Cộng
Sản áp đặt lên đầu nhân dân Việt Nam. Sau tháng tư năm 1975, cộng đồng tỵ nạn
cộng sản ở nước ngoài tiếp tục chống cộng. Vì cộng sản đồng nghĩa với chuyên
chính nên phong trào chống cộng ở hải ngoại dần dà chuyển đổi sang chống chuyên
chính, trở thành phong trào mang bản sắc chủ yếu là đấu tranh dân chủ, với các
hoạt động phụ họa, cổ vũ, và hổ trợ cho công cuộc đấu tranh dân chủ trong nuớc.
Tuy nhiên, hoàn cảnh trong và ngoài nước, hai bên có khác nhau, nên phương
thức, đường lối đấu tranh hai bên cũng phần nào khác nhau. Đối mặt với bộ máy
công an ngày đêm rình mò và sẳn sàng trù dập không nương tay, cuộc đấu tranh
trong nước mang tính chất ôn hòa, bất bạo động, thiên về kêu xin, thỏa hiệp,
họa hoằn ở thế chẳng đặng đừng mới khiếu kiện, đình công, biểu tình phản kháng.
Trong lúc đó, ở nước ngoài, sống dưới định chế tự do dân chủ, các cộng đồng tỵ
nạn cộng sản tha hồ ăn to nói lớn, rầm rộ t° chức hội thoại để phát biểu
chính kiến, đưa ra những chương trình hành động và những đòi hỏi nhiều khi
không phù hợp với thực tế. Nhưng dù sao thì các hoạt động đấu tranh ở nước
ngoài cũng đã hổ trợ đắc lực cho phong trào trong nước, nhất là về mặt vận động
dư luận quốc tế và một phần nào về mặt yểm trợ phương tiện. Có điều là còn rất
nhiều người chưa có một quan niệm chính xác về các danh từ quốc gia và cộng
sản, lầm lạc nghĩ rằng quốc gia là đối vị với cộng sản nên đồng hóa quốc gia
với chống cộng, quá chú trọng vào việc tách bạch vẽ lằn ranh quốc cộng nhiều
khi không đúng chổ hoặc vướng mắc tính chất kỳ thị địa phương để kết án nặng nề
những nỗ lực đoàn kết dân tộc. Cần nhận thức rõ ràng, chính xác rằng quốc gia
là đối vị với quốc tế và địa phương. Quốc gia đương nhiên là chống cộng vì cộng
sản là quốc tế. Nhưng mặt khác các thành phần chống cộng không phải đương nhiên
là quốc gia. Chống cộng mà làm tay sai cho nước ngoài, hay chống cộng mà chủ
trương phân ly, cát cứ, đi ngược lại quyền lợi quốc gia dân tộc thì đâu phải là
quốc gia. Trong lúc đó, trong hàng ngũ cộng sản cũng có thể có người quốc gia.
Đó là những người cộng sản phản tỉnh. Trước đây, họ đứng trong hàng ngũ cộng sản
và lầm lạc chiến đấu cho chủ nghĩa cộng sản mà tưởng rằng chiến đấu cho quyền
lợi quốc gia dân tộc. Tập thể những người cộng sản phản tỉnh hiện ở trong nước
là một lực lượng đáng kể trong hàng ngũ đấu tranh dân chủ. Tóm lại, cùng với
tinh thần quốc gia dân tộc, ý niệm tự do dân chủ rõ ràng là một thành tố đương
nhiên và căn bản dùng làm mẩu số chung để kết hợp chặt chẻ các phe phái đối
kháng với cộng sản thành một mặt trận thống nhất.
Cuối cùng là ý thức công bình xã hội. Trong hàng ngũ đấu tranh dân chủ,
các tổ chức có lực lượng quần chúng đông đảo nhất đều ở trong nܧc: nông hội, công đoàn, giáo hội, tập thể đảng viên hưu trí và bộ đội
phục viên. Đại đa số các thành phần xã hội này đều nghèo khó, không chức không
quyền và không tiền. Khoảng cách giàu nghèo giữa họ và tầng lớp quý tộc tư bản
đỏ thật vô cùng lớn lao. Họ có cùng chung tâm trạng suy bì ghen tỵ với cuộc
sống giàu có thừa mứa của giới cầm quyền và của giới phe phẩy theo đóm ăn tàn.
Họ có cùng chung khát vọng mưu cầu một cuộc sống dư dã thoải mái hơn. Nói
chung, nổi phẫn uất của họ tích lũy từ trước tới nay là do họ bị chèn ép, bị
bạc đãi, bị thua thiệt, bị bóc lột, bị trấn áp liên tục. Sự phản kháng của họ
là để chống lại những biện pháp cấm đoán hành đạo hành nghề, tước đoạt đất đai,
nhà cửa, hợp tác hóa phương tiện sản xuất. Mục tiêu tranh đấu của mỗi cá nhân,
mỗi đoàn thể, mỗi thành phần xã hội, tùy hoàn cảnh mà có sự khác biệt nhau
nhưng tựu trung đều quy về một điểm chung rất mực tương đồng là đòi hỏi công
bình xã hội. Vì lẽ các tập thể quần chúng đông đảo này đều có chung ý thức đòi
hỏi công bình xã hội nên sự kết hợp họ đứng chung một mặt trận để tranh đấu là
điều có thể thực hiện đuợc. Hơn nữa, chính các tập thể này là kho tàng cung cấp
nhân lực cho phe đối kháng xây dựng lực lượng quần chúng để đấu tranh chính trị
với cộng sản. Trong tình thế hiện nay của đất nước, cũng như với hiện trạng
quân bình giữa các tương quan quốc tế có
ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta, các giới lãnh đạo đấu tranh dân chủ, ở trong
nước cũng như ở ngoài nước, cho dù cực đoan tới đâu chăng nữa, cũng không ai
nghĩ tới khả năng sử dụng phương thức bạo lực vũ trang để lật đỗ chính quyền
cộng sản. Phương thức tối ưu là phát động các phong trào quần chúng để làm áp
lực đấu tranh chính trị, đòi hỏi cải tiến dân sinh, thực hiện dân chủ. Vạn nhất
tới khi tình thế chin muồi, mâu thuẫn xã hội gay gắt tới mức tối đa, mà nhà cầm
quyền cộng sản vẫn ù lì, ngoan cố không khoan nhượng, thì chính các lực lượng
quần chúng này sẽ là thành phần xung kích sử dụng bạo lực cách mạng để lật đổ
chế độ chuyên chính toàn trị của đảng Cộng Sản.
Trên cơ sở những phân tích nói trên, các tổ chức, các hội đoàn, các đảng
phái, các giáo hội, các nông hội, các công đoàn, các cơ sở từ thiện, các cơ
quan phi chính phủ, v.v. trong hàng ngũ phe phái đối kháng với cộng sản, nên
đồng thuận về một sự phân công phân nhiệm rất căn bản như sau: các thành phần
trong nước lãnh đạo phong trào đấu tranh, hoạch định sách lược hành động, xây
dựng và phát triển lực lượng quần chúng; các thành phần hải ngoại hổ trợ các
mặt truyền thông, tài chánh, vận động dư luận quốc tế, tìm kiếm đồng minh nước
ngoài. Trường hợp các tổ chức vừa có cơ sở ở cả bên trong lẫn bên ngoài nước,
sự phân công phân nhiệm trong nội bộ của tổ chức sẽ linh động, uyển chuyển hơn,
vừa có bộ phận công khai, vừa có bộ phận bí mật, tùy tình thế mà hoạt động,
trong nước thì cơ bản phải hoạt động dưới dạng chìm, cắm sâu bám chặt gốc rể
vào các lực lượng quần chúng, ở ngoài nước mới phần nào rầm rộ hoạt động trên
mặt nổi để đánh động dư luận quốc tế và tìm kiếm hổ trợ của đồng minh. Lại còn
cần phải kiểm điểm hàng ngũ, chỉnh đốn hệ thống tổ chức, rà soát lại khả năng
và mức độ trung kiên các cán bộ nòng cốt, thanh lọc các thành phần cơ hội, bất
tài, chuộng hư danh, ham địa vị, và đặc biệt chú tâm vô hiệu hóa các mưu toan
xâm nhập, ly gián, phá hoại từ bên ngoài. Các cá nhân có lòng với phong trào
dân chủ chống chuyên chính, cũng như thành phần lãnh đạo các tổ chức tranh đấu,
cần tỉnh táo và sáng suốt nhận định thực chất các “tổ chức chiến hữu” để phân
biệt chân với giả, thật với cuội, để khỏi rơi vào bẫy sập phản gián của công an
cộng sản. Sau khi đã kiểm điểm hàng ngũ, chỉnh đốn tổ chức, phe phái đấu tranh
dân chủ kết hợp thành mặt trận dựa trên sự đồng thuận về một mẩu số chung gồm
các thành tố: tinh thần quốc gia dân tộc, ý niệm tự do dân chủ, và ý thức công
bình xã hội. Các thành viên mặt trận vẫn giữ nguyên tổ chức, vẫn hoạt động bình
thường như trước, vẫn tiếp tục phục vụ quyền lợi quần chúng của mình. Cái khác
là sau khi đứng chung mặt trận, phe phái đấu tranh dân chủ sẽ phối hợp hoạt
động nhịp nhàng, đồng bộ và hữu hiệu
hơn, và về mặt mục tiêu tranh đấu, trong cái riêng còn có cái chung vô
cùng cao đẹp mà mọi người, mọi giới, ai ai cũng tán đồng.
Tóm lại, thoát thai từ Phong Trào Đấu Tranh Dân Chủ, Mặt Trận Quốc Gia
Dân Chủ Xã Hội có khả năng được hình thành.
Ngày
26 tháng 11 năm 2006
Minh Vũ Hồ văn Châm
No comments:
Post a Comment