Câu Chuyện Xoay Quanh
Vụ Án Văn Học Lệ Chi Viên
Vụ án Lệ Chi Viên xảy ra vào mùa thu năm Nhâm Tuất,
niên hiệu Đại Bảo thứ ba (1442), triều Thái Tông nhà Hậu Lê. Vua đi duyệt binh ở
thành Chí Linh, ghé chơi nhà Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, lúc về có người thiếp của
Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ theo hầu. Ngày mồng tư tháng tám năm Nhâm Tuất, xa
giá về đến Lệ Chi Viên, vốn là một ly cung được xây cất từ triều Lý trong một
trại trồng vải thuộc làng Đại Lại, huyện Gia Bình, tỉnh Hà Bắc ngày nay, thì dừng
lại nghỉ đêm. Trong đêm, vua đột ngột băng hà. Triều đình ghép tội Nguyễn Trãi
và Nguyễn Thị Lộ mưu việc giết vua, lên án Nguyễn Trãi bị giết ba họ (tru di
tam tộc) (1, 2, 3, 4).
Vụ án Lệ Chi Viên là một vụ án hình sự vì có nói đến
chuyện giết ngườì. Vụ án Lệ Chi Viên cũng mang tính chất dân sự vì động cơ là sự
tranh chấp quyền lợi. Vụ án Lệ Chi Viên còn là một vụ án chính trị vì người chết
là vua và nghi can là đại thần. Nhưng trên tất cả những điều ấy, vụ án Lệ Chi
Viên là một vụ án văn học, vì đã trở thành đề tài thảo luận và cảm hứng sang
tác của nhiều công trình văn học đủ thể
loại từ lúc bấy giờ cho đến tận ngày nay.
Tường thuật tình tiết các dữ kiện và nhận định vai trò
các nhân vật trong vụ án Lệ Chi Viên phần lớn mang tính chất chủ quan. Vì nhiều
lý do riêng tư, người đương thời cũng như người đời sau đã thêu dệt câu chuyện
bằng những hư cấu đôi khi hoang tưởng khiến cho một số vấn đề quan yếu liên hệ
đến lịch sử nước ta được giải thích một cách thiếu vô tư, và vì vậy được hiểu
biết một cách vô cùng lệch lạc.
Bài này đặt lại một số vấn đề đó.
1. Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ. Từ bài thơ Bán Chiếu Gon đến câu chuyện
Rắn Báo Oán.
Chuyện kể rằng: Nguyễn Trãi là đại thần nhà Hậu Lê đi
dạo phố Kinh Kỳ. Nguyễn Thị Lộ là cô gái bán chiếu xinh đẹp ở Tây Hồ, tức là Hà
Nội ngày nay. Thấy gái đẹp, Nguyễn Trãi thả lời ong bướm:
Ả ở
đâu ta bán chiếu gon?
Cớ
hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân
thu chừng độ bao nhiêu tuổi?
Đã có
chồng chưa? Được mấy con?
Thấy quan sang, Nguyễn Thị Lộ lẵng lơ đáp lời:
Tôi
ở Tây Hồ bán chiếu gon,
Cớ
chi Ông hỏi hết hay còn?
Xuân
thu tuổi mới trăng tròn lẻ,
Chồng
còn chưa có, nói chi con!
Thấy cô gái trẻ đẹp vừa giỏi ứng đối lại có tài làm
thơ, Nguyễn Trãi đem lòng yêu mến bèn mua về làm nàng hầu.
Câu chuyện trên đây tưởng không có gì phi lý cho bằng.
Nguyễn Trãi sinh năm 1380. Khi vua Lê Thái Tổ nên công đại định, lên ngôi vua ở
Đông Đô năm 1428, thì Nguyễn Trãi đã 48 tuổi. Vậy lúc Nguyễn Trãi đi dạo phố
trong câu chuyện này thì Nguyễn Trãi đã trên dưới năm mươi. Không thể nào có
chuyện một bô lão ở cương vị "phưong diện quốc gia", đã từng
thi đậu Thái Học Sinh, lại vừa viết xong bài Bình Ngô Đại Cáo đầy khí phách hào
hùng, lại thả bộ rong chơi và tán gái giữa đường như thế. Cho dù Nguyễn Trãi vi
hành đi thăm dân cho biết sự tình, rồi gặp người đẹp mà ngẫu hứng cảm tác bài
thơ nói trên, thì xét xem phong cách hành văn, bài thơ này nhất quyết không phải
là thơ Nguyễn Trãi. Thơ Nguyễn Trãi trang trọng, chính đạo, riêng thơ quốc âm
thì dùng nhiều cổ ngữ (5, 6) (như cộc là biết, tua là nên, anh
tam là anh em), cú pháp có nhiều đảo trung tức là đảo ngược ở trong câu (5)
(thí dụ: Toan cùng người mấy thì chăng đủ, người mấy là mấy người; Non
cao bạch thạch nào đời chuyển, nào đời là đời nào), trong một bài thất
ngôn thường chen một vài câu 6 chữ (5,
6):
Lộc
trời cho đã có phần,
Tua hay thừa phận chớ phàn nàn.
Giàu
nhiều của, con chẳng có,
Sống
hơn người, mệnh khó khăn.
Hễ kẻ
danh thơm hay được phúc,
Mấy
người má đỏ phải nhiều lần...
(Bài
175 trong Ức Trai Di Tập của Dương Bá Cung, Nguyễn Định, Ngô Thế Vinh, ấn hành
năm 1868 đời Tự Đức).
Như vậy, rõ ràng bài thơ Bán chiếu gon không phải là của
Nguyễn Trãi. Một người nào đó đã làm ra hai bài thơ xướng họa nói trên rồi gán
cho Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ, rồi một số người khác đưa vào dã sử để tô điểm
thêm cho câu chuyện Rắn báo oán.
Chuyện dã sử kể rằng Nguyễn Thị Lộ là hiện thân của
con rắn thần báo thù Nguyễn Trãi. Hồi còn theo Lê Lợi khởi nghĩa binh đánh nhau
với quân Minh, một hôm Nguyễn Trãi nằm mơ thấy một nguời đàn bà có chửa đến
khóc lóc xin Nguyễn Trãi hoãn việc đuổi nhà ít hôm, vì hiện chồng đang bị
thương tật, còn mình thì bụng mang dạ chửa, chưa kiếm được nơi ở mới. Nguyễn
Trãi thức giấc, băn khoăn không hiểu chuyện nằm mơ vừa rồi là ý nghĩa làm sao,
trằn trọc mãi, đến gần sáng thì ngủ thiếp đi. Tỉnh dậy trời đã sáng rõ, Nguyễn
Trãi ra bên ngoài thì quân hầu báo rằng lúc nảy dọn cỏ quanh nhà quân sĩ có
đánh chết một đôi rắn lớn, con đực cụt đuôi, con cái có chửa. Nguyễn Trãi hốt
nhiên nhớ tới giấc mơ trong đêm, lòng cảm thấy vô cùng ân hận. Ít lâu sau, đêm
ngồi đọc sách một mình, Nguyễn Trãi bỗng thấy từ trên mái nhà rơi xuống một giọt
máu thấm ướt ba trang sách, Nguyễn Trãi nhìn lên thấy một con rắn lớn đang lặng
lẽ cuốn mình quanh xà nhà. Nguyễn Trãi hiểu rằng oan hồn con rắn hiện về báo
thù. Nhưng rồi công việc bận rộn, Nguyễn Trãi cũng quên luôn chuyện cũ. Việc khởi
nghĩa thành công, Lê Lợi lên ngôi tôn, Nguyễn Trãi làm đại thần. Nguyễn Trãi gặp
Nguyễn Thị Lộ, mua nàng về làm thiếp. Lê Lợi băng hà, Lê Nguyên Long lên kế vị,
tức là vua Thái Tông. Vua mới còn trẻ tuổi, mê say Nguyễn Thị Lộ, vời nàng vào
cung làm Lễ Nghi Học sĩ. Nguyễn Thị Lộ dùng sắc đẹp mê hoặc vua, xúi vua giết đại
thần, phế nguyên phi, gây rối loạn ở cả triều đình lẫn nội cung. Đêm hôm hầu
vua ở hành cung Lệ Chi Viên, Nguyễn Thị Lộ bỏ thuốc độc vào rượu giết chết vua
rồi khai là do Nguyễn Trãi bày mưu. Do đó, Nguyễn Trãi bị khép tội giết ba họ.
Hôm hành hình, khi Nguyễn Thị Lộ bị chém thì trong cổ phun ra một luồng khí đen
hóa thành con rắn lớn biến mất. Từ đó, người ta mới biết Nguyễn Thị Lộ là hiện
thân của oan hồn con rắn đến báo thù Nguyễn Trãi.
Câu chuyện quả tình là hoang tưởng. Làm sao rắn đã chết
lại có thể hiện hình thành cô gái nhan sắc để mưu chuyện hại người. Rõ ràng câu
chuyện rắn báo oán là công trình sáng tạo của các chuyên gia chiến tranh tâm lý
tung ra để xoa dịu dư luận bi phẫn đương thời. Vụ án Lệ Chi Viên quá ư oan khốc,
Nguyễn Trãi lại là bậc danh nho đại thần. Vua Thái Tông vì đi đường mệt nhọc, lại
trải qua một đêm tửu sắc quá độ, nên cảm mạo phong sương, hoặc đứt mạch máu não
mà chết. Dựng đứng lên việc vua bị đầu độc để vu cáo Nguyễn Trãi bày mưu cho
Nguyễn Thị Lộ giết vua để lấy cớ tru di ba họ Nguyễn Trãi thật là một việc làm
quá ư tàn nhẫn, bởi thế những người chủ động phải sáng tạo ra câu chuyện rắn
báo oán cho nhẹ bớt sự dằn vặt của lương tâm và xoa dịu lòng bi phẫn của dân
chúng đương thời. Chả thế mà sử gia Ngô Sĩ Liên cũng chép câu chuyện này vào Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư (1).
2. Nguyễn Trãi và Hồ Quý Ly. Bề tôi thoán nghịch hay chính khách anh
hùng?
Nguyễn Trãi là bậc danh nho chính đạo, lại là cháu ngoại
họ Trần. Bởi vậy, phần đông những người đọc sử ở nước ta trước nay vẫn dễ dãi lầm
lạc nhận định rằng dưới con mắt phán xét của Nguyễn Trãi, Hồ Quý Ly là bề tôi
thoán nghịch. Sự thực thì ngược lại, Nguyễn Trãi rất ngưỡng mộ Hồ Quý Ly, tôn
vinh Hồ Quý Ly là chính khách anh hùng. Thân thế và sự nghiệp của thân phụ Nguyễn
Trãi, cùng với tình hình kinh tế xã hội nước ta vào cuối đời Trần, đã trải qua
một giai đoạn đột biến sâu đậm vì công việc cải cách của Hồ Quý Ly, và sự kiện
này đã tác động đến tư duy của Nguyễn Trãi, khiến Nguyễn Trãi vô cùng ái mộ
nhân vật chính trị này.
Nhà Trần nhờ hôn nhân mà được thiên hạ. Nhà Trần cũng
dùng hôn nhân để củng cố thế lực và duy trì địa vị chí tôn. Buổi đầu, Trần Lý
dâng con gái cho vua Lý Huệ Tông, mở đường cho cha con, anh em, chú cháu họ Trần
vào triều chia nhau chiếm giữ quyền bính. Tiếp theo, Trần Thủ Độ thu xếp cho
công chúa Phật Kim mới 7 tuổi lên ngôi vua lấy hiệu là Lý Chiêu Hoàng, rồi đem
gả cho cháu mình là Trần Cảnh lúc bấy giờ được 8 tuổi, và sau đó, bắt ép Lý
Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Thế là nhà Lý chấm dứt, nhà Trần lên thay
làm vua. Buổi đầu lòng người chưa qui phục,
Trần Thủ Độ đem công
chúa Ngoạn Thiềm gả cho Nguyễn Nộn, xúi Nguyễn Nộn đánh diệt Đoàn Thượng. Khi
Mông cổ xâm lăng, Trần Thủ Độ đem công chúa An Tư dâng cho Thoát Hoan để mưu cầu
hòa hoãn. Về cuối đời Trần, vua Anh Tông đem công chúa Huyền Trân gả cho vua
Chiêm Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý. Cái chiến thuật đưa má phấn đổi lấy
trường thành của họ Trần quả thật là lợi hại. Chính vì kinh ngiệm bản thân đề
phòng nạn ngoại thích, bảo vệ địa vị chí tôn của mình, mà nhà Trần có lệ anh em
trong họ Trần kết hôn với nhau, con gái tông thất họ Trần không bao giờ đem gả
cho con trai bách tính. Cái lệ này lại là nguyên do chủ yếu tạo nên mối duyên nợ
của cha con Nguyễn Trãi đối với họ Hồ từ lúc Nguyễn Trãi chào đời.
Thân phụ Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long, vốn là học
trò nhà nghèo, vào làm gia sư trong phủ đệ Tư Đồ Chung Túc Quốc Thượng Hầu Trần
Nguyên Đán. Cô con gái quan Tư Đồ là Trần Thị Thái đem lòng yêu mến thầy học. Đến
khi Trần Thị Thái mang thai, quan Tư Đồ buộc lòng cho hai người lấy nhau, nhưng
bắt phải ra ở riêng. Hai người sinh hạ được 3 gái và 2 trai là Nguyễn Tạc và
Nguyễn Trãi. Năm 1374, trước khi Nguyễn Trãi ra đời, Nguyễn Ứng Long thi đậu
Thái Học Sinh (Tiến Sĩ), nhưng không được bổ làm quan. Năm 1385, bà Trần Thị
Thái chết, Nguyễn Trãi được ông ngoại đem về Thanh Hư Động ở Côn Sơn nuôi dạy
cho đến năm 1390, khi ông ngoại mất, thì trở về ở hẳn với cha. Nguyễn Trãi còn
có 4 em trai cùng cha khác mẹ là Phi Bảo, Phi Hùng, Nhữ Soạn và Nhữ Trạch.
Nguyễn Ứng Long thi đậu Thái Học Sinh mà không được bổ
dụng không phải chỉ đơn thuần vì cái tội con nhà bách tính mà lấy vợ hoàng tộc,
mà còn vì chính sách phong kiến thế tập của nhà Trần. Con trai họ Trần được thừa
ấm, tập tước, cha truyền con nối độc quyền nắm giữ các chức vụ quan yếu trong
triều ngoài nội, được lập thái ấp, được tuyển gia thần, được nuôi
gia binh, được chứa vũ khí. Buổi đầu, tông thất nhà Trần
còn ít người, lại có chiến tranh với Mông cổ, nên thảng hoặc còn có người khác
họ được bổ dụng vào cấp chỉ huy, như Phạm Ngũ Lão chẳng hạn, nhưng cũng phải xuất
thân từ hàng gia đồng của các vương hầu, chứ về sau thì tuyệt đối các chức vụ
tiết chế, chỉ huy các quân, các đô, chỉ dành riêng cho người họ Trần mà thôi.
Con cháu nhà dân, dù giàu có ức vạn, dù chữ tốt văn hay, cũng chỉ đời đời làm
lính. Con cháu những người không có quan tước không bao giờ được bổ dụng vào sĩ
đồ (4). "Con vua thì lại làm vua, con sãi giữ chùa lại quét lá đa".
Ông nội Nguyễn Trãi là Nguyễn Minh Du chỉ là một viên võ quan cấp thấp trong đội
quân túc vệ canh giữ cấm thành, vậy dù cho thân phụ Nguyễn Trãi không phạm phải
tội con nhà bách tính mà lấy con gái hoàng tộc, thì cũng vẫn không bao giờ được
bổ làm quan. Bị đè nén ức hiếp như vậy, làm sao Nguyễn Ứng Long không hoan
nghênh công việc cải cách của Hồ Quý Ly, trong đó có việc tước bỏ những đặc quyền
đặc lợi của giai cấp quý tộc nhà Trần: hạn chế thái ấp, bãi bỏ tập ấm, giải tán
gia binh gia đồng, nghiêm cấm mua bán nô tỳ, tàng trữ khí giới v.v. Bởi vậy,
năm 1400, khi Hồ Quý Ly lên làm vua, Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi
Khanh và ra làm quan với nhà Hồ, giữ chức Trung Thư Thị Lang và Quốc Tử Giám Tư
Nghiệp. Cũng năm đó, Nguyễn Trãi lều chõng ứng thí, đậu Thái Học Sinh và ra làm
quan, lần lần đến chức Ngự Sử Đài Chính Chưởng. Nguyễn Trãi là người học rộng
biết nhiều, lại nặng lòng yêu nước thương dân, tất nhiên Nguyễn Trãi nhận chân
được chỗ cao thâm cũng như sự ích lợi của công cuộc cải cách có tính chất cách
mạng của Hồ Quý Ly mà sinh lòng cảm phục và tôn kính người chủ xướng. Sau này,
khi nhà Hồ đã bị diệt, đi qua cửa biển Thần Phù, chạnh nghĩ đến các công trình
phòng ngự ngoại xâm của Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi cảm khái làm bài thơ Quan Hải
(khoá cửa biển), và đã chân thành xưng tụng Hồ Quý Ly là anh hùng.
3.Nguyễn Trãi và Nguyễn Ứng Long. Tiễn biệt ở Nam quan hay lưu lạc sang
Trung quốc?
Câu chuyện Nguyễn Trãi đưa tiễn cha đến cửa Nam Quan rồi
nghe theo lời cha gạt lệ trở về lo trả thù nhà, đền nợ nước, người đọc sử ai ai
cũng biết, người nghe sử ai ai cũng tin, rồi thơ ngâm vịnh, rồi chuyện dã sử,
các tác gia đua nhau theo đó mà thêu dệt nhiều tình tiết mỗi lúc một thêm ly kỳ.
Sự thực như thế nào?
Chuyện kể rằng tướng nhà Minh là bọn Trương Phụ, sau
khi đánh chiếm nuớc ta bèn chia làm quận huyện và đặt quan cai trị, rồi bắt giải
Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương cùng triều thần văn võ nhà Hồ về Tàu trị tội, trong
số này có Nguyễn Phi Khanh. Con Nguyễn Phi Khanh là Nguyễn Trãi theo tiễn cha đến
cửa Nam Quan, và được cha bảo rằng: "Con hãy trở về để lo trả thù nhà, đền
nợ nước, chứ đi theo khóc lóc thì phỏng có ích gì". Nghe lời cha, Nguyễn
Trãi quay về, cư trú ở Đông Đô một thời gian, rồi cùng với người anh cô cậu là
Trần Nguyên Hãn tìm vào Thanh Hóa giúp vua Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, giải
phóng đất nước khỏi ách đô hộ của nhà Minh.
Về sau, câu chuyện được bổ sung một số tình tiết để lấp
đầy các lỗ hổng. Ví dụ khoảng trống thời gian từ 1408 lúc Nguyễn Trãi giã từ
cha ở cửa Nam Quan đến 1420 lúc Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đến theo Lê Lợi ở
Lội Giang (khúc sông Mã thuộc Cẩm Thủy, Thanh Hóa), trong khoảng thời gian này,
Nguyễn Trãi đi đâu, làm gì, tại sao Nguyễn Trãi không tham gia cuộc khởi nghĩa
của các vua Hậu Trần Giản Định và Trùng Quang? Để bổ khuyết, người đặt chuyện
bèn đưa thêm vào một tình tiết khá ngộ nghĩnh là trong khoảng thời gian này,
Nguyễn Trãi bị giam lõng ở Đông Đô. Một điểm nghi vấn khác là ở cửa Nam Quan
Nguyễn Trãi nghe lời cha mà gạt lệ quay trở về thì đạo hiếu làm con của Nguyễn
Trãi để đâu? Nhà nho khi cha mẹ chết còn phải từ quan để cư tang ba năm, làm
nhà lều ở bên mộ để sớm hôm hương khói, vậy mà nay, mới tới cửa Nam Quan, Nguyễn
Trãi đã đành lòng bỏ lại cha già một
mình trên con đường lưu đày đầy gió sương và còn dài dằng dặc. Để bổ khuyết,
người đặt chuyện bèn đưa thêm vào một tình tiết khá chính xác là tiễn đưa cha đến
cửa Nam Quan, ngoài Nguyễn Trãi còn có Nguyễn Phi Hùng là em cùng cha khác mẹ với
Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi quay về, Nguyễn Phi Hùng tiếp tục theo cha sang Tàu.
Tuy được bổ khuyết nhưng câu chuyện tiễn biệt ở Nam
Quan vẫn còn chứa đựng nhiều điểm không ổn. Nguyễn Trãi theo cha đến Nam Quan,
rồi nghe lời cha quay trở về. Như vậy, suy diễn từ những tình tiết trong truyện
dã sử, thì nhân thân Nguyễn Trãi hoàn toàn tự do, Nguyễn Trãi không bị bắt giữ,
Nguyễn Trãi không bị lưu đày. Vậy thì hà cớ gì trở về Đông Đô, Nguyễn Trãi lại
bị giam lõng hơn mười năm trời, từ 1408 đến 1420? Lại nữa, Nguyễn Trãi làm quan
nhà Hồ với chức vụ khá lớn, khi nhà Hồ mất nước, Nguyễn Trãi đang giữ chức Ngự
Sử Đài Chính Chưởng. Vậy vì sao Nguyễn Trãi lại không bị bắt giải về Tàu như
các quan chức khác cùng cấp bậc? Nguyễn Trãi còn trẻ, đã đậu Thái Học Sinh lại
nổi tiếng văn học, tại sao người Minh lại không bắt mang về Tàu trước là để sử
dụng, sau là để triệt hạ tiềm năng quật khởi và bản sắc văn hóa của dân tộc ta,
như việc người Minh thu hết sách vở của ta, bắt nho sĩ và thợ giỏi đem về Tàu,
đập phá đền Hùng Vương, tiêu hủy An Nam đại tứ bảo? Vậy thì trong thực tế, Nguyễn
Trãi đã bị người Minh bắt giữ, bị người Minh áp giải lên Nam Quan để đưa sang
Tàu, nghĩa là Nguyễn Trãi cũng đang ở qui chế tù nhân lưu đày như Nguyễn Phi
Khanh, và Nguyễn Trãi không thể nào lại thung dung muốn đi theo tiển chân cha
thì đi, muốn nghe lời cha gạt lệ quay trở về thì trở về. Chuyện khóc lóc tiễn
biệt ở Nam Quan là chuyện hoàn toàn bịa đặt.
Vua tôi nhà Hồ bị bắt giải về Yên Kinh. Hồ Quý Ly và Hồ
Hán Thương bị khép tội xử trảm, nhưng sau được tha chết, chỉ phát vãng đi làm
lính tuần ở Quảng Tây. Hồ Quý Ly có đề cập đến vụ thoát chết này trong một bài
thơ còn lưu truyền đến nay, nguyên văn như sau:
Cảm
Hoài
Canh
cải đa đoan tử phục sinh,
Du du hương lý bất thăng tình.
Nam quan
thiều đệ ưng đầu bạch,
Bắc quán
yêm lưu giác mộng kinh.
Tác t‹ tài sơ tàm Lý Bật,
Thiên đô
kế chuyết khốc Bàn Canh.
Kim âu kiến khuyết do vô hợp,
Đãi giá tu tri ngọc phỉ khinh.
(Thiên
Nam Ngữ Lục)
Con trưởng Quý Ly là Nguyên Trừng, cháu đích tôn Quý Ly
là Nhuế Lỗ được tha. Vì Nguyên Trừng giỏi nghề đúc súng thần cơ nên được bổ dụng
làm việc ở bộ Công, về sau được thăng đến chức Công Bộ Thượng Thư. Em Quý Ly là
Quý Tỳ, cháu là Vô Cữu, quan võ là Hồ Đổ, Đoàn Kích, Đỗ Mãn, quan văn là Nguyễn
Ngạn Quan, Lê Cảnh Kỳ, Nguyễn Phi Khanh, Trần Nhật Chiêu đều bị phát vãng làm
lính thú mỗi người một nơi (4), duy có Nguyễn An giỏi nghề kiến trúc được tuyển
dụng làm công trình sư xây dựng cung điện thành Bắc Kinh. Những quan chức cấp
nhỏ hơn đều được tha, cho tự do tìm đất lập nghiệp. Sau khi An Nam hoàn toàn được
bình định, một số được phép trở về quê hương. Sau khi chết, Hồ Quý Ly cũng được
gia đình đem linh cữu về chôn cất ở Thanh Hóa.
Nguyễn Trãi thuộc loại tội phạm thứ ba, tức là được tha
cho tự do đi kiếm đất sinh sống. Do đó, Nguyễn Trãi đã trãi qua một thời gian
10 năm lưu lạc ở Trung Quốc*, đi lại nhiều nơi ở miền nam nước Tàu, rồi trở về
nước tổ, cư trú ở Bắc Hà 2 năm trước khi lặn lội vào Thanh Hóa tìm đến Lam Sơn
tụ nghĩa. Chứng cớ của sự kiện này là ngày nay còn lưu truyền chừng trên dưới hai
mươi bài thơ Hán tự của Nguyễn Trãi làm trong khoảng thời gian 1408-1418, trong
đó có đề cập đến các địa danh ở Trung Quốc** mà người đọc dễ dàng nhận thấy là
tác giả nhân đối cảnh sinh tình mà cảm hứng làm ra, như bài thơ dẫn ra đây:
Thái
Thạch tằng văn Lý trích tiên
Kỵ kình
xuy khứ kỷ đa niên.
Thử
giang nhược biến vi xuân tửu,
Chỉ khủng
ba tâm thượng túy miên.
(Từng nghe ông
tiên bị đọa họ Lý ở Thái Thạch đã cỡi cá kình ra đi biết bao năm rồi. Ví thử
sông này nay biến ra rượu xuân , thì e rằng lại thấy ngài nằm ngủ say trong
lòng sóng).
Thái Thạch là một nhánh sông Dương Tử nơi Lý Bạch đã nhẩy
xuống ôm trăng mà chết. Nguyễn Trãi có đến tận bờ sông Thái Thạch nhiên hậu đối
cảnh sinh tình mới cảm hứng thốt lên hai tiếng "Thử giang"
(sông này). Nguyễn Trãi nhất quyết không phải là thợ thơ để có thể đứng trên bờ
bất cứ con sông nào, hoặc tệ hại hơn, ngồi trong bất cứ xó xỉnh nào, cũng loay
hoay ghép chữ lựa vần, viết đại hai chữ thử giang để tưởng tới anh hồn Lý Bạch
đang ngủ say trong lòng sóng.
4. Nguyễn Trãi và khởi nghĩa Lam Sơn. Vai trò và vị thế của Nguyễn Trãi.
Từ trước đến nay, sách vở nào cũng nói Nguyễn Trãi làm
quân sư cho Lê Lợi; sau khi nên công đại định, Lê Lợi phong thưởng công thần,
thì Lê Vấn đứng đầu bên võ, Nguyễn Trãi đứng đầu bên văn (3, 4). Một số sử gia
còn ghi thêm việc Nguyễn Trãi dâng lên Lê Lợi Bình Ngô Sách lúc mới theo về tụ
nghĩa ở Lam Sơn, và thay lời Lê Lợi trước tác Lam Sơn Thực Lục sau khi đã quét
sạch giặc Ngô ra ngoài bờ cõi. Những người viết dã sử thì thêu dệt ra chuyện
Nguyễn Trãi lúc mới đến Lam Sơn, đang nằm ẩn trên cây thấy Lê Lợi tính sai số
Thái Ất vội nhẩy xuống ra mắt, nhân thể giúp Lê Lợi tính lại cho đúng; chuyện
Nguyễn Trãi chê cười Lê Lợi thô lậu, ngồi xổm thái thịt lợn ăn trong ngày giổ
cha nên đã toan bỏ đi, nhưng sau nghĩ lại, lấy việc trả thù nhà đền nợ nước làm
trọng, nên lại thôi, không bỏ đi nữa; chuyện Nguyễn Trãi cho người lấy mật mía
viết lên lá cây rừng mấy chữ “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”, kiến
ăn mật mía đục thành chữ khiến dân chúng tin rằng Lê Lợi được trời giúp nên nức
lòng theo về tòng quân đánh giặc. Đến đời Nguyễn lại xuất hiện cuốn dã sử Sóng
Nước Hồ Gươm với nhân vật chính là Nguyễn Tiên tài cao chí cả, có công trạng lớn
lao giúp vua Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh, mà người đọc muốn hiểu đó là Nguyễn
Công Duẫn tổ tiên nhà Nguyễn Gia Miêu, hay là Nguyễn Trãi, thì tùy ý. Gần đây,
nhà sử học Phan Huy Lê của Hà Nội lại đặt Nguyễn Trãi ngang tầm với Lê Lợi, và
gọi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc khởi nghĩa Lê Lợi-Nguyễn Trãi.
Sự thực thì Nguyễn Trãi đã đóng vai trò gì trong cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn? Vị trí đích thực của Nguyễn Trãi trong hàng ngũ lãnh đạo của
nghĩa quân Lam Sơn như thế nào?
Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn tìm đến gia nhập nghĩa
quân Lam Sơn vào tháng 10 năm Canh Tý (1420) lúc Bình Định Vương đóng quân ở Lội
Giang để uy hiếp Tây Đô, sau khi đánh thắng Lý Bân một trận lớn tại Thi Lang.
Như vậy, Nguyễn Trãi chẳng những đã không phải là một trong số 19 người có mặt
trong buổi hội thề ở Lũng Nhai vào mùa xuân năm 1418, mà Nguyễn Trãi cũng không
chia sẻ với Lê Lợi những gian nguy nhục nhã buổi đầu khởi nghĩa, mất vợ mất
con, đói cơm khát nước, vì thất trận, vì bị vây, phải nhờ mưu "Lê Lai
liều mình cứu chúa" mới chạy thoát. Lê Lợi tuy là thổ hào (Mục Lợi),
không chuyên việc bút nghiên, nhưng bên cạnh Lê Lợi có mặt một thổ hào khác là
Lê Thận (Mục Thận, vốn họ Nguyễn, sau được ban quốc tánh) rất thông thạo chữ
nghĩa, phụ trách việc từ hàn. Từ khi có thêm Nguyễn Trãi, Lê Lợi giao cho Nguyễn
Trãi việc giao thiệp với quân Minh, còn việc giấy tờ cơ mật vẫn chỉ một mình Lê
Thận đảm trách. Nói một cách ví von với các chức vụ thời nay thì Nguyễn Trãi là
Bộ Trưởng Ngoại Giao, còn Lê Thận là Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống. Đành rằng Nguyễn
Trãi không lớn tuổi hơn Lê Lợi để giúp Lê Lợi như Chu Công giúp Chu Thành
Vương, Hoắc Quang giúp Hán Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Thục Hậu Chủ, Tô Hiến
Thành giúp Lý Cao Tông, nên không thể ban cho Nguyễn Trãi tranh "Tứ Phụ
Đồ", nhưng Nguyễn Trãi lại cũng không tài giỏi vượt bực hơn chủ soái
như Phạm Lãi với Việt Vương, Trương Lương với Hán Vương, hay Đào Duy Từ với Sãi
Vưong, nên cũng không thể tôn xưng Nguyễn Trãi là Quân Sư được. Trước sau, Nguyễn
Trãi cùng lắm cũng chỉ là Bộ Trưởng Ngoại Giao của Lê Lợi mà thôi. Nhờ những ưu
điểm của Nguyễn Trãi như giao thiệp giỏi, viết văn hay, lại nói thạo tiếng quan
thoại vì đã lưu lạc 10 năm ở Trung Quốc mà việc quan hệ giữa đôi bên thù địch
được tiến hành trong không khí thông cảm và tôn trọng lẫn nhau. Chứng cớ là Thượng
Thư nhà Minh Hoàng Phúc bị bắt trong trận Xương Giang đã vẽ tặng Nguyễn Trãi bức
họa chân dung ngày nay còn treo tại đền thờ Nguyễn Trãi ở Hà Đông.
Vị thế đích thực của Nguyễn Trãi trong hàng ngũ nghĩa
quân Lam Sơn đuợc biểu hiện rõ nét qua việc phong thưởng công thần sau khi Lê Lợi
lên ngôi vua. Nguyễn Trãi được phong tước Quan Phục Hầu***, lĩnh chức Hàn Lâm
Viện Thừa Chỉ Học Sĩ, đứng hàng thứ gần 100 trong số 221 người được phong vào dịp
ấy. Đành rằng Nguyễn Trãi không thể tranh đua với những thủ túc thân tín của Lê
Lợi, đã theo Lê Lợi từ buổi đầu khởi nghĩa như Lê Thận, Lê Văn Linh, Lê Sát, Lê
Ngân, Đinh Liệt, Trịnh Khả, Nguyễn Xí, nhưng ngay cả những ngưởi ít thân với Lê Lợi như Trần
Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Nguyễn Trãi cũng không bằng họ. Trần Nguyên Hãn được
phong Tả Tướng Quốc, Phạm Văn Xảo được phong Thái Úy. Nếu Nguyễn Trãi là quân
sư, nếu cuộc khởi nghĩa Lam sơn là cuộc khởi nghĩa Lê Lợi-Nguyễn Trãi, thì tại
sao Nguyễn Trãi lại chỉ được phong thưởng tước hầu hạng áp chót, tại sao Nguyễn
Trãi lại chỉ được giữ một chức vụ nhũn nhặn trong viện Hàn Lâm? Nếu Nguyễn Trãi
đứng đầu hàng quan văn trong dịp phong thưởng này thì chức Tả Tướng Quốc của Trần
Nguyên Hãn, chức Thượng Thư của Lê Văn Linh, so sánh như thế nào với chức Thừa
Chỉ Học Sĩ của Nguyễn Trãi? Nếu Nguyễn Trãi đứng đầu hàng quan văn thì tại sao
năm sau, niên hiệu Thuận Thiên thứ hai (1429), vua Thái Tổ mở khoa thi Hoành Từ,
Thừa Chỉ Nguyễn Trãi lại được cắt đặt giữ chức Giám Thí, đứng dưới Thượng Thư
Lê Văn Linh giữ chức Đề Điệu?
Tóm lại, vai trò và vị thế của Nguyễn Trãi trong hàng ngũ
nghĩa quân Lam Sơn đã đuợc người đời sau phóng đại quá đáng, hoàn toàn không
đúng với sự thực. Chính Nguyễn Trãi, dù sau này cao ngạo đắc chí đến mức nào
chăng nữa, cũng không tự ví mình với Phó Duyệt, Lã Vọng, Trương Lương, Khổng
Minh, mà chỉ tự ví mình với Tiêu Hà mà thôi:
Vệ nam mãi mãi là tay thước,
Điện
bắc đà đà yên phận tiên.
Nghiệp
Tiêu Hà làm khá kịp,
Xưa
nay cùng một sử xanh truyền.
( Bài số 183, Ức Trai Di Tập)
Sở dĩ như vậy trước hết là vì những người đọc sử và viết
sử đã lẫn lộn các chức vụ của Nguyễn Trãi dưới triều vua Lê Thái Tổ với các chức
vụ của Nguyễn Trãi dưới triều vua Lê Thái Tông. Với vua Thái Tông, Nguyễn Trãi
đã bước lên bậc tột cùng của thang danh vọng với chức vụ Nhập Nội Hành Khiển,
kiêm quản việc quân dân bạ tịch và từ tụng hai đạo Đông và Bắc. Trong triều, Nhập
Nội Hành Khiển đứng đầu trăm quan. Bên ngoài, cả nước có 5 đạo thì Nguyễn Trãi
đã cai quản 2 đạo. Quyền uy như vậy là nghiêng nước, danh vọng như vậy là tột
cùng. Vì lầm lẫn những chức vụ sau này với chức vụ lúc được phong thưởng năm
1428, người đời sau mới tưởng lầm Nguyễn Trãi đứng đầu hàng quan văn dưới triều
vua Thái Tổ, và từ đó suy diễn ra vai trò và công trạng to lớn của Nguyễn Trãi
làm thầy vua trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Thứ đến, những người đặc trách công
tác tâm lý chiến của các triều đại về sau lại cố tình sử dụng sự lầm lẫn này để
làm cho người Bắc Hà quên đi sự nghiệp to lớn của vua Lê Thái Tổ. Bằng cách đề
cao Nguyễn Trãi, gán cho Nguyễn Trãi những công trạng không có thực, người ta cố
tình hạ bớt uy tín của Lê Lợi. Thực vậy, thời Lê Mạc phân tranh, nhà cầm quyền
Bắc Triều (nhà Mạc) tìm cách làm cho lòng dân Bắc Hà quên nhà Lê. Thời nhà Nguyễn
thống nhất nam bắc, vua quan nhà Nguyễn cũng tìm cách làm cho lòng dân Bắc Hà
quên nhà Lê. Do đó mà huyền thoại về Nguyễn Trãi mỗi ngày một nhiều, bao nhiêu
công nghiệp giải phóng đất nước thoát khỏi sự đô hộ hà khắc của giặc Minh dồn hết
cho Nguyễn Trãi. Hãy lấy thí dụ câu chuyện tính số Thái Ất ra phân tích thì thấy
rõ sự vô lý cùng cực của câu chuyện và dụng tâm của người đặt chuyện đề cao
Nguyễn Trãi để hạ uy tín của Lê Lợi. Nguyễn Trãi đến ra mắt Lê Lợi vào cuối năm
1420 tại Lội Giang. Phía quân Minh, Lý Bân vừa thua trận Thi Lang, Trần Trí được
phái tới tăng viện. Lý Bân và Trần Trí chia nhau đóng các đồn Nga Lạc và Quan
Du bên bờ sông Mã để chống lại quân Lê Lợi, bảo vệ Tây Đô. Vậy thì Nguyễn Trãi
vốn là thư sinh văn nhược, lặn lội đến được Lội Giang đã là một kỳ công, huống
hồ lại còn có khả năng lọt vào bản doanh nghĩa quân trèo lên núp trên cây để
nghe lén Lê Lợi tính số Thái Ất, bàn kế hoạch tác chiến với bộ tham mưu. Nếu sự
canh phòng của nghĩa quân lơi lỏng như vậy thì chắc chắn Lê Lợi đã bị quân tế
tác của Lý Bân và Trần Trí giết chết từ lâu, còn đâu nữa mà ngồi dưới gốc cây
tính số Thái Ất, và lịch sử nước ta đã
không có triều Hậu Lê! Người đời sau bịa đặt ra một câu chuyện phi lý như vậy
chẳng qua là muốn nhấn mạnh chủ điểm Nguyễn Trãi thông minh tài tuấn còn Lê Lợi
thì ngu độn võ biền, với dụng ý đề cao Nguyễn Trãi để hạ bệ Lê Lợi, nhằm mục
đích làm cho dân chúng Bắc Hà đừng tưởng nhớ nhà Lê.
5. Nguyễn Trãi và triều đình Hậu Lê. Tranh chấp quyền lực giữa Thanh Hoa và
Bắc Hà.
Lê Lợi lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thuận Thiên, đóng
đô ở Đông Đô (Hà Nội ngày nay), chia nước làm 5 đạo: Bắc Đạo, Đông Đạo, Tây Đạo,
Nam Đạo, và Hải Tây Đạo (1, 3, 4). Bốn đạo đông tây nam bắc là Bắc Bộ ngày nay,
trừ Ninh Bình. Hải Tây Đạo là giải đất từ Ninh Bình đến Thừa Thiên . Vua lại
cho xây dựng Lam Kinh ở quê nhà Thanh Hoa, kiến tạo cung điện miếu vũ, đền đài
các tạ, to lớn tráng lệ không thua gì ở Đông Đô, để vinh hiển tổ tiên, và để thỉnh
thoảng về nghỉ ngơi. Tuy thành Tây Giai của nhà Hồ không còn là kinh đô nữa,
nhưng cái thế song lập tương tranh giữa Đông Đô và Tây Đô vẫn còn bàng bạc
trong tâm trí vua tôi nhà Hậu Lê. Trong triều thì các chức vụ quan yếu đều ở
trong tay các võ tướng gốc Thanh Hoa. Trong hậu cung thì phi tần mỹ nữ đều tuyển
từ các gia đình quan lại cao cấp gốc Thanh Hoa. Với tình hình như vậy đương
nhiên phải phát sinh trong nội bộ triều đình cũng như trong cung cấm tinh thần
đố kỵ địa phương giữa Thanh Hoa và Bắc Hà, và Nguyễn Trãi đã bị cuốn hút vào
cơn lốc tranh chấp quyền lực giữa các phe phái đó.
Điểm cần lưu ý là từ triều Hậu Lê trở về trước, Thanh Hóa
có tên là Thanh Hoa và bao gồm luôn tỉnh Ninh Bình. Sự kèn cựa giữa hai địa
phương Thanh Hoa và Bắc Hà đã phát sinh ngay từ thời nhân dân Đại Việt mới dành
lại quyền tự chủ. Các triều Đinh và Tiền Lê đều là dân bản địa gốc gác Thanh
Hoa nên chọn Hoa Lư làm kinh đô. Các triều Lý, Trần vốn là dòng dõi di dân gốc
Hán định cư lập nghiệp ở Bắc Ninh (Lý), Nam Định (Trần) nên chọn Bắc Hà làm đất
căn bản. Thăng Long là đại địa, trung tâm của một miền đông dân và giàu có,
nhưng bốn mặt trống trải, trong những giờ phút đen tối của lịch sử dân tộc lại
không bằng Thanh Hoa có núi sông hiểm trở. Lại nữa, Thăng Long là đô cũ của Cao
Biền, nên buổi đầu thiên đô ra Thăng Long, vua Lý Thái Tổ muốn xóa bỏ những tàn
tích thời đô hộ, đồng thời để cố kết lòng người, nhà vua đã tái tạo tại Thăng
Long những kiến trúc cũ của Hoa Lư. Ai đã qua thăm di chỉ Hoa Lư thì thấy ngay
chùa Diên Hựu ở Hà Nội là bản sao y của chùa một cột ở Hoa Lư. Nhưng qua đến đời
Trần thì triều đình dung dưỡng tinh thần phân biệt đối xử đối với địa phương
phía nam. Mở khoa thi Thái Học Sinh, lấy Trạng Nguyên thì phân biệt Kinh Trạng
Nguyên (ở Bắc Hà) và Trại Trạng Nguyên (ở Thanh Nghệ). Tuyển quân lính thì ngoại
trừ du quân có lấy người ở các lộ khắp nước, còn thân quân chỉ tuyển mộ nguời
các lộ đông và nam, các vương hầu gia đồng chỉ gồm toàn người ở Kinh Kỳ và ở Tức
Mặc. Lúc đánh nhau với Mông Cổ, triều đình cần nhiều lính, vậy mà cũng chưa
tính đến việc động viên lính Thanh Nghệ. Vua Nhân tông đã có câu thơ ám chỉ sự
kiện này:
Cối
Kê cựu sự quân tu ký,
Hoan Diễn do tồn thập vạn binh.
(Cối Kê chuyện cũ anh nên nhớ, Hoan Diễn hãy còn mười
vạn binh chưa sử dụng đến)
Tiếp đến nhà Hồ nhờ vào vị thế ngoại thích mà thu tóm
đại quyền rồi thiên đô vào Thanh Hoa để dễ bề uy hiếp triều đình, mưu chuyện
thoán nghịch. Nay vua Lê Thái Tổ lại trở ra đóng ở Đông Đô, nhưng quyền bính đều
nằm trong tay phe phái Thanh Hoa, lòng dân Bắc hà cũng có phần nào dao động.
Chính trong bối cảnh đó mà phát sinh việc giết hại
công thần gốc Bắc Hà, mở màn cho những tranh chấp quyền lực giữa các phe phái
Thanh Hoa và Bắc Hà, từ ngoài triều đình cho đến trong nội cung, để rồi kết
thúc bằng vụ án Lệ Chi Viên vô cùng oan khốc và bi thảm. Nạn nhân đầu tiên của
cơn lốc tranh chấp quyền lực là Tả Tướng Quốc Trần Nguyên Hãn và Thái Úy Phạm
Văn Xảo. Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo là những đại tướng gốc Bắc Hà của
nghĩa quân Lam Sơn từng lập nên nhiều công trạng lớn trên chiến trường. Trần
Nguyên Hãn có công thu phục Tân Bình, Thuận Hóa. Phạm Văn Xảo có công cầm cự với
Mộc Thạnh ở cửa Lê Hoa (Lào Kay). Sau khi nghĩa quân nên công đại định, Trần
Nguyên Hãn được phong Tả Tướng Quốc (Tả Thừa Tướng), nhưng chỉ ít lâu sau xin từ
quan để lui về Sơn Đông trông nom thái ấp của gia đình. Theo nếp cũ đời Trần,
Trần Nguyên Hãn xây dựng phủ đệ, chiêu tập gia binh, nuôi dưỡng gia đồng, đóng
tàu thuyền, trữ khí giới, uy tín lên cao trong dư luận dân chúng Bắc Hà. Trần
Nguyên Hãn lại là cháu nội Tư Đồ Trần Nguyên Đán đời vua Trần Nghệ Tông, thuộc
dòng dõi Đại Vương Trần Quang Khải. Vì vậy, vua Lê Thái Tổ nghi ngờ Trần Nguyên
Hãn có nhị tâm nên sai người đến thái ấp bắt giải về Đông Đô xử tội. Trên đường
về Đông Đô, Trần Nguyên Hãn bị trận gió lớn làm lật thuyền nên bị chết đuối
(4). Phạm Văn Xảo chơi thân với Trần Nguyên Hãn, lại cũng là người Bắc Hà và
đang giữ binh quyền, nên cũng bị liên can vào âm mưu phản loạn, và bị xử tội chết.
Riêng Nguyễn Trãi, tuy là anh em con cô con cậu với Trần Nguyên Hãn, nhưng
không giữ chức vụ quan trọng, lại thư sinh văn nhược trong tay không có binh
quyền, nên chỉ bị bắt giam vào ngục, và sau một thời gian, xét thấy vô can nên
được tha cho về trí sĩ ở Côn Sơn vốn là thái ấp của ông ngoại.
Vua
Thái Tổ làm vua được 6 năm thì mất (1434), Thái Tử Nguyên Long lên nối ngôi, tức
là vua Thái Tông. Lúc lên ngôi, nhà vua mới 11 tuổi. Đại Tư Đồ Lê Sát được cử
làm Phụ Chính. Ít năm sau, vua Thái Tông lập con gái Lê Sát là Lê Thị Ngọc Dao
làm Nguyên Phi. Phe phái Thanh Hoa tiếp tục một mình một chợ, hoàn toàn làm chủ
ở cả triều đình lẫn nội cung như dưới thời vua Thái Tổ. Chính vào thời điểm này
vua Thái Tông nghe tiếng tài sắc Nguyễn Thị Lộ nên vời nàng vào cung làm Lễ
Nghi Học Sĩ dạy chữ nho và nghi thức cung đình cho các phi tần và các cung
nhân. Nguyễn Trãi thỉnh thoảng cũng được vua triệu vào triều để hỏi han việc nước.
Nguyễn Trãi không được lòng Phụ Chính Lê Sát. Mặt khác, Nguyễn Thị Lộ được vua
Thái Tông tin yêu, những lúc cận kề bên vua thường tìm cách lạm bàn việc triều
chính. Nguyễn Thị Lộ tỉ tê với Thái Tông những việc làm lộng quyền của Lê Sát
khiến nhà vua nổi giận bắt giết Lê Sát (1437), và cử Đại Đô Đốc Lê Ngân thay thế
làm Phụ Chính. Nguyên Phi Ngọc Dao bị phế xuống làm thứ nhân. Con gái Lê Ngân
là Lê Thị Nhật Lệ trước đã lập làm Huệ Phi, nay được tôn lên ngôi Nguyên Phi.
Nguyễn Trãi thì được phong làm Nhập Nội Hành Khiển, kiêm quản việc quân dân bạ
tịch và từ tụng Đông Đạo. Lúc này là lúc đắc chí của Nguyễn Trãi. Lê Ngân tuy
làm Phụ Chính nhưng là võ tuớng ít học, thiếu quyền mưu, bởi vậy, Nguyễn Trãi
thường xuyên vào triều chầu vua, quyết định các việc quân quốc trọng đại. Ít
lâu sau, Lê Ngân bị dèm pha và bị Thái Tông giết chết, con gái bị giáng xuống
làm Tư Dung. Nguyễn Trãi lại được kiêm tính thêm Bắc Đạo, uy quyền Nguyễn Trãi
lúc này lên đến mức tột cùng. Phe phái Thanh Hoa bị thất thế rõ rệt. Nhưng từ
tháng 6 năm 1441, Tuyên Phi Nguyễn Thị Anh, người làng Bố Vệ, huyện Đông Sơn, xứ
Thanh Hoa, sinh hạ hoàng tử Bang Cơ và được Thái Tông sủng ái, thì phe phái
Thanh Hoa do Lê Khả, Đinh Liệt, Lê Khắc
Phục cầm đầu dựa vào thế lực của Nguyễn Thị Anh mưu tính việc nắm lại quyền
bính. Tháng 11 năm ấy, Bang Cơ được phong làm Hoàng Thái Tử. Nguyễn Thị Anh vận
động với vua buộc Nguyễn Thị Lộ từ chức Lễ Nghi Học Sĩ để trở về Côn Sơn với
Nguyễn Trãi. Mùa thu năm 1442, vua Thái Tông đi duyệt binh ở Chí Linh, ghé chơi
nhà Nguyễn Trãi, lúc trở về có Nguyễn Thị Lộ theo hầu. Ngày mồng tư tháng tám,
xa giá dừng lại nghỉ ở Lệ Chi Viên, và vua Thái Tông đã đột ngột chết trong
đêm. Lê Khả là người có mặt bên vua, bèn cho đem Nguyễn Thị Lộ ra tra khảo, bắt
ép khai là Nguyễn Trãi bày mưu cho nàng đầu độc vua. Triều đình bèn khép tội
Nguyễn Trãi bị giết ba họ. Lê Khả nhận cố mệnh lập Bang Cơ lên nối ngôi vua, tức
là Lê Nhân Tông. Nguyễn Thị Anh được tôn làm Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu và giữ quyền
nhiếp chính. Lê Khả (vốn họ Trịnh, sau được ban quốc tính) được trao chức Nhập
Nội Tư Mã (4). Phe phái Thanh Hoa lại thắng lợi hoàn toàn. Còn gia đình Nguyễn
Trãi phải chịu số phận thảm khốc, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, con trai là Nguyẽn
Khuê, và mấy người cháu nội con Nguyễn Khuê, bị đưa ra pháp trường hành quyết.
Thật là một mối oan vạn cổ.
6. Nguyễn Thị Lộ và Lê Thái Tông. Vai trò và vị thế của Nguyễn Thị Lộ.
Khi vua Lê Thái Tổ mất thì Nguyễn Trãi đã lui về ở Côn
Sơn. Đạo thần tử bắt buộc Nguyễn Trãi phải đến Đông Đô phục tang. Sau khi Thái
Tông lên ngôi, Nguyễn Trãi lại nhiều phen về triều bái yết vua mới. Trong quảng
thời gian sau đó, Thái Tông nghe đồn đãi về tài sắc nàng hầu của Nguyễn Trãi là
Nguyễn Thị Lộ nên hạ chỉ vời nàng vào cung làm Lễ Nghi Học Sĩ, dạy chữ và dạy
triều nghi cho các cung nhân. Vấn đề được đặt ra là quan hệ tình cảm giữa Thái
Tông và Nguyễn Thị Lộ đạt tới mức độ nào, Nguyễn Thị Lộ can dự vào việc triều
chính ra sao, Nguyễn Thị Lộ và Nguyễn Trãi có trách nhiệm gì trong những quyết
định của Thái Tông giết liên tiếp hai vị Phụ Chính và truất phế hai bà Nguyên
Phi?
Đây là một chuỗi dài những mắt xích mà khâu chính yếu
là thái độ và tâm trạng của hai nhân vật Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ khi phải
đối mặt với việc Thái Tông vời Nguyễn Thị Lộ vào cung làm quan. Sử sách xưa nay
đều chép rằng dù muốn dù không, lệnh vua đã truyền thì thân phận thần tử là phải
nhắm mắt tuân hành, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ đành phải nuốt lệ "nghiến
răng bẻ một chữ đồng làm hai". Nguyễn Trãi đành cam chịu mất vợ, còn
Nguyễn Thị Lộ thì phải thụ động chấp nhận mối tình nồng nàn đắm say của bậc
vương giả. Điều đáng lưu ý là gần đây có nhiều tác giả lại còn đi xa hơn, đã
trích dẫn hai bức thư viết bằng Hán tự theo thể biền ngẫu, chép trong gia phả dòng họ Nguyễn Nhữ Soạn ở Thanh Hóa, một của
Nguyễn Trãi, một của Nguyễn Thị Lộ, để chứng minh rằng Nguyễn Trãi đau khổ vì
phải xa vợ, vì bị dày vò bởi nghi ngờ ghen tuông, còn Nguyễn Thị Lộ thì trước sự
say mê của ông vua trẻ tuổi đa tình vẫn một lòng một dạ chung tình với Nguyễn
Trãi (7). Xin trích dẫn vài đoạn (bản dịch của Vân Trình):
Nguyễn Trãi trách Nguyễn Thị Lộ:
Trách
kẻ lòng sơ,
Riêng
ta bền chí.
Luống
thở than mà rằng:
Nói
làm tương ứng, vốn người quân tử bản tâm;
Chí
khí tương cầu, thật người trượng phu ý nguyện.
. . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Lời
thề khắc Nam Sơn, sừng sững Nam Sơn đó,
Lời
nguyền ghi Đông Hải, bao la Đông Hải đây.
Lòng
ta đã không sờn,
Chí
nàng ắt chẳng đổi.
Thế
nhưng:
Tình
đời lắt léo,
Lòng
gái không thường.
Có kẻ
tình ngoại giết chồng, nào sợ trời xanh lồng lộng,
Có
người mê chơi bỏ nghĩa, chẳng hay vầng nhật sáng choang !
. . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
.
Việc
ngày xưa đã đành,
Chuyện
ngày nay đáng trách.
Một lần
như thế, hai lần như thế, ta đã thấy, đã nghe,
Tam
tòng là gì, tứ đức là gì, nàng nên lo nên sửa.
. . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. .
Nguyễn Thị Lộ trả lời:
Thiếp
đây:
Do âm
dương biến hóa,
Từ
cha mẹ sinh thành.
Học
chữ tam tòng, càng học càng sáng,
Nhớ
điều tứ đức, càng nhớ càng vui.
. . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . .
Chiều
sớm sắt cầm vẫn nhớ,
Thở
than mộng mị khó quên.
Nỗi
gái tình thâm nhớ đến trai,
Nỗi trai chí lớn sao ngờ gái?
Tấc lòng
khó tả, đáng buồn thay, đáng giận thay,
Muôn cảnh
vẫn còn, nhớ lắm đấy, mong lắm đấy.
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . ..
Chớ nghĩ
ai quên mối tình muộn màng?
Núi tuy
khuyết mà lòng thiếp không khuyết.
Chớ lo
ai nhạt lời thề cố cựu?
Sông dù
vơi mà ý thiếp chẳng vơi.
Còn gì
liệu đáng băn khoăn?
Phải
chăng tự mình chuốc lấy?
. . . .
. . . . . . . . . . . . . . .. . . .
. . . . . .
Hai bức thư trích dẫn trên đây có thực là của Nguyễn Trãi và Nguyễn
Thị Lộ hay không? Hai bức thư này được chép trong gia phả dòng họ Nguyễn Nhữ Soạn,
mà Nguyễn Nhữ Soạn lại là em cùng cha khác mẹ với Nguyễn Trãi. Đem lời lẽ và
tình tiết trong hai bức thư ra đối chiếu với thực trạng những diễn biến đương
thời thì không tìm đâu ra những chỗ tương đồng. Người đọc bắt buộc phải nghi ngờ
rằng đây chẳng qua chỉ là trước tác của người trong gia đình họ Nguyễn Nhị Khê
muốn che đậy một câu chuyện bất hạnh có phương hại đến thanh danh dòng họ, cũng
y hệt như việc con cháu của Nguyễn Trãi đã sửa đổi phả hệ họ Nguyễn, ghép vị thế
Nguyễn Trãi vào vị thế của Nguyễn Công Duẫn, nhận vơ Trường Lạc Hoàng Hậu là
con gái Nguyễn Trãi, để nhập nhằng cho người đời sau tưởng lầm rằng Nguyễn Trãi
là tiên tổ các vua chúa họ Nguyễn Gia Miêu (8).
Trong thực tế thì việc Nguyễn Thị Lộ vào cung nhậm chức
có được sự bằng lòng của Nguyễn Trãi nếu không muốn nói là do sự thu xếp sắp đặt
của Nguyễn Trãi. Thực vậy, Nguyễn Trãi là con người tha thiết với giấc mộng
công khanh. Niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất, Nguyễn Trãi đã cùng 6 bạn đồng liêu
liên tiếp xin bệ kiến vua Thái Tổ để dâng kế sách trị quốc an dân (4), nhưng bị
phe phái Thanh Hoa bao vây nên không gặp được Thái Tổ. Năm sau lại xảy ra vụ án
Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi bị liên lụy suýt mất mạng, thất chí lui về Côn Sơn
ở ẩn. Gặp khi Thái Tông lên ngôi, Nguyễn Trãi tìm cách liên hệ với vị tân vương
niên thiếu, những mong đem sở học ra giúp đời. Trong những lần về triều bệ kiến,
Nguyễn Trãi vừa thuyết phục nhà vua chấp nhận kế sách trị nước an dân của mình,
đồng thời bằng một hình thức tinh tế nào đó, giới thiệu tài sắc người thiếp yêu
của mình. Có thể Nguyễn Trãi đã đề xuất lên vua chương trình học tập triều nghi
tổ chức cho các cung nhân, do đó mà có chiếu chỉ bổ dụng Nguyễn Thị Lộ làm Lễ
Nghi Học Sĩ. Vào làm nữ quan trong cung cấm, với tuổi trẻ và sắc đẹp trời cho,
với tài năng ứng đối như nước chảy triều dâng, Nguyễn Thị Lộ dễ dàng làm cho vị
vua 13,14 tuổi, niên thiếu phong lưu, phải say hoa đắm nguyệt. Một khi đã được
sự tin yêu của đấng quân vương, Nguyễn Thị Lộ mới khởi đầu tiến hành việc kết
bè kết cánh trong cung, sau dần dần tiến lên chuyện lạm bàn chính sự, dèm pha
và bức hại đại thần, mà chiến công đầu tay là cái chết của Phụ Chính Đại Tư Đồ
Lê Sát, người thù không đội trời chung của Nguyễn Trãi. Mấy tháng sau cái chết
của Lê Sát là cái chết của Đại Đô Đốc Lê Ngân. Phe phái Thanh Hoa hoàn toàn bị
đánh gục. Nguyễn Trãi được vua Thái Tông triệu về kinh ban chức Nhập Nội Hành
Khiển kiêm quản việc quân dân bạ tịch và từ tụng Đông Đạo, và về sau kiêm thêm
cả Bắc Đạo, đứng đầu trăm quan.
7. Nguyễn Thị Lộ và Nguyễn Thị Anh. Tranh chấp
quyền lực hay ghen tuông tình ái?
Phụ Chính Lê Sát chết thì con gái Lê Sát là Nguyên Phi Lê
Thị Ngọc Dao bị phế làm thứ nhân. Phụ Chính Lê Ngân chết thì con gái Lê Ngân là
Nguyên Phi Lê Thị Nhật Lệ bị giáng làm Tư Dung. Trong vụ sau này, chính sử chép
rõ ràng có sự dính líu đến Nguyễn Thị Lộ. Nguyên con gái Lê Ngân đã được phong
làm Huệ Phi. Vì mong mỏi chóng sinh hoàng nam, Huệ Phi cho lập bàn thờ mời thầy
mo cúng vái để được vua yêu. Sau khi Lê Ngân lên làm Phụ Chính, Huệ Phi được
lên ngôi Nguyên Phi. Phe phái thù nghịch với Lê Ngân bèn tố giác việc lập bàn
thờ thầy mo trong phủ Phụ Chính để trấn yểm nhà vua, mưu việc thoán nghịch, do
đó, Lê Ngân bị giết và Huệ Phi bị giáng. Những người dính dấp với Huệ Phi đều bị
án phát lưu, trong số này có Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc Giao. Nguyễn Trãi bèn xúi
Nguyễn Thị Lộ đứng ra bảo lãnh cho Tiệp Dư, xin Thái Tông giảm tội. Nhưng ít
lâu sau, khi Ngô Thị Ngọc Giao mang thai, bà Nguyên Phi Nguyễn Thị Anh ghen
ghét, mưu toan hãm hại, Nguyễn Thị Lộ bèn mang Tiệp Dư đi dấu tại chùa Huy Văn ở
huyện Thọ Xương thuộc ngoại thành Đông Đô. Sau khi sinh nở, Nguyễn Thị Lộ lại cho
người đưa hai mẹ con Tiệp Dư ra ẩn trốn ở miền An Bang (Quảng Yên ngày nay).
Nguyễn Trãi thường xuyên sai người đem tiền gạo đến chu cấp. Sở dĩ chính sử
chép rành rẽ về vụ này là vì Tiệp Dư Ngô
Thị Ngọc Giao sinh hạ hoàng tử Tư Thành, sau này là vua Thánh Tông. Nhưng đồng
thời chính sử cũng vô tình hé mở cho người đọc sử nhận ra vai trò chủ động rất
tích cực của Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ trong cơn lốc tranh chấp quyền lực ở
triều đình cũng như trong cung cấm buổi đầu nhà Hậu Lê. Chủ ý của Nguyễn Trãi
khi hết lòng bảo bọc mẹ con Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc Giao là sau này, vạn nhất con
trai của Tiệp Dư chiếm được ngôi Thái Tử thì địa vị Nguyễn Trãi đương nhiên vững
chãi như núi Thái Sơn. Nhưng cũng chính vì hậu ý này mà Nguyễn Trãi và Nguyễn
Thị Lộ trở thành kẻ thù chính trị không đội trời chung với một nhân vật kiệt xuất
của giới nữ lưu là Nguyên Phi Nguyễn Thị Anh, đưa đến hậu quả là cái án Lệ Chi
Viên oan khốc và bi thảm.
Nguyễn Thị Anh là người làng Bố Vệ, huyện Đông Sơn, xứ
Thanh Hoa. Sau khi tiến cung, Nguyễn Thị Anh được phong Tuyên Phi. Lúc bấy giờ,
Nguyên Phi là Dương Thị Bí đang được vua Thái Tông sủng ái vì đã sinh hạ được
hoàng tử Nghi Dân. Tháng 3 năm Canh Thân (1440), Nghi Dân được phong làm Hoàng
Thái Tử. Nguyễn Thị Anh bèn kết phe đảng với hai đại thần trong triều là Lê Khả
và Đinh Liệt, đồng thời mua chuộc các cung nữ và bọn hoạn quan do Tạ Thanh cầm
đầu, thế lực mỗi ngày một mạnh. Tháng 6 năm Tân Dậu (1441), Nguyễn Thị Anh sinh
hạ hoàng tử Bang Cơ. Nguyên Phi Dương Thị Bí bị dèm pha nên bị giáng làm thứ
dân, Nghi Dân cũng bị truất phế khỏi ngôi Thái Tử và bị giáng làm Lạng Sơn
Vương. Tháng 11 năm ấy, Bang Cơ được tấn phong Hoàng Thái Tử và Nguyễn Thị Anh
lên ngôi Nguyên Phi. Chính vào thời điểm này Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc Giao mang
thai nên Nguyên Phi Nguyễn Thị Anh sinh lòng ghen ghét và lo ngại, toan khơi lại
vụ án Huệ Phi để kiếm cớ hãm hại Tiệp Dư. Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ bèn đưa
Tiệp Dư đi trốn, như đã đề cập ở đoạn trên.
Thực ra thì không phải đến lúc này mới thấy vai trò tích
cực và vị thế ưu thắng của Nguyễn Thị Lộ trong hậu cung nhà Hậu Lê. Từ khi vào
làm nữ quan trong cung cấm, Nguyễn Thị Lộ đã gây được ấn tượng tốt đẹp và ảnh
hưởng mạnh mẽ trong đám cung nhân. Những người không ăn cánh với thầy học đều bị
liệt vào loại mà sử nhà Lê gọi là "cung nữ cứng đầu", tất cả đều
bị bắt giam vào lãnh cung hoặc bị thải hồi về làm thứ dân. Các bà phi trước đây đều hiền lành, tiêu cực,
Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc Giao thì trở thành thủ túc, Vua Thái Tông thì đắm say mê
muội, nên Nguyễn Thị Lộ mặc sức thao túng mọi việc trong chốn tam cung lục viện.
Bên ngoài thì Nguyễn Trãi đứng đầu trăm quan, cai quản việc quân dân bạ tịch cả
hai đạo phía đông và phía bắc. Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ đã đạt tới mức độ tột
cùng của quyền uy và vinh hiển. Nay đụng đầu với đối thủ mới là Nguyên Phi Nguyễn
Thị Anh vốn là bậc nữ lưu kiệt xuất, Nguyễn Thị Lộ bắt đầu phải lui bước. Trong
cung thì bọn hoạn quan Tạ Thanh giúp Nguyễn Thị Anh lần lượt loại trừ các cung
nhân theo phe Nguyễn Thị Lộ. Trong triều thì bọn Nguyễn Xí, Lê Khả, Lê Khắc Phục
làm tai mắt cho Nguyễn Thị Anh, luôn luôn kèm sát nhà vua, ly cách nhà vua với
các triều thần. Cuối cùng, Nguyễn Thị Lộ phải từ chức Lễ Nghi Học Sĩ, lui về ở
Côn Sơn với Nguyễn Trãi.
Trong đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 tháng 8 năm Nhâm Tuất
(1442), vua Thái Tông đột ngột băng hà tại hành cung Lệ Chi Viên, bên cạnh nhà
vua chỉ có Nguyễn Thị Lộ theo hầu chăn gối. Lê Khả chỉ huy đoàn quân hộ giá bèn
đem Nguyễn Thị Lộ ra tra khảo, bắt ép Nguyễn Thị Lộ khai Nguyễn Trãi bày mưu
cho nàng đầu độc nhà vua. Dựa vào cung từ đó, triều đình nghị án ghép Nguyễn
Trãi và Nguyễn Thị Lộ vào tội thí nghịch, chịu án tru di tam tộc. Ngày 16 tháng
8 năm Nhâm Tuất, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, con trai là Nguyễn Khuê, mấy người
cháu nội con Nguyễn Khuê, bị đưa ra pháp trường xử trảm. Thật là nổi oan vạn cổ.
Làm sao Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ lại âm mưu đầu độc vua Thái Tông! Nguyễn
Thị Lộ đang còn được vua yêu. Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ còn nhiều cơ duyên dựa
vào nhà vua để giữ vững địa vị. Chuyện đầu độc vua là chuyện phe phái Nguyễn Thị
Anh ngụy tạo để lấy cớ tiêu diệt kẻ thù không đội trời chung, vừa là kẻ thù
chính trị, vừa là kẻ thù tình ái. Còn sự thực thì vua Thái Tông đã trải qua một
đêm tửu sắc quá độ, bị cảm mạo phong sương, hoặc bị xuất huyết não, hoặc có thể
do phe phái Nguyễn Thị Anh đầu độc, mà chết (4). Cái không may của Nguyễn Trãi,
và của cả gia đình Nguyễn Trãi, là Nguyễn Thị Lộ có mặt bên cạnh vua đúng vào
đêm hôm đó! Lê Khả rước di hài vua Thái Tông về kinh phát tang, theo cố mệnh
phò Thái Tử Bang Cơ lên ngôi, tức là vua Nhân Tông. Nguyễn Thị Anh được tôn làm
Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu, giữ quyền Nhiếp chính.
Kết luận.
Kết luận.
Nguyễn Trãi là bậc danh nho chính đạo, đã có thực học lại
có văn tài. Bình Ngô Đại Cáo là một áng văn trác tuyệt. Quan điểm tiến bộ của
Nguyễn Trãi đối với công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly chứng tỏ Nguyễn Trãi nặng
lòng yêu nước thương dân chứ không bo bo cố chấp và vị kỷ như giai cấp quý tộc
đương thời. Nguyễn Trãi trèo đèo lội suối theo nghĩa quân Lam Sơn đánh đuổi
quân Minh ra khỏi bờ cõi, những mong sau khi nên công đại định, có dịp đem hết
sở học giúp vua trị nước yên dân. Nhưng không may cho Nguyễn Trãi, triều đình đầu
đời Lê đắm chìm trong cơn lốc tranh chấp quyền lực mang nặng tính chất kỳ thị địa
phương, khiến Nguyễn Trãi chán chường thất chí, để rồi cuối cùng cũng bị cuốn
hút vào, tuy có lúc vinh hiển tột mức, mà rút cục phải rước lấy cái chết thảm
thương với nổi oan vạn cổ!
Người đời sau không ai không ngậm ngùi cảm thương số phận
của bậc vĩ nhân tài cao mà phúc bạc ấy. Để tỏ lòng tri ân và ngưỡng vọng người
xưa, các chính quyền trước năm 1954, hàng năm cử hành lễ tế tại đền thờ Nguyễn
Trãi ở Hà Đông. Đặt lại một số vấn đề liên hệ đến vụ án Lệ Chi Viên cũng không
ngoài mục đích đính chính những thông tin lầm lạc về thân thế và sự nghiệp của
Nguyễn Trãi, đồng thời tẩy xóa những hư cấu tô sơn trát mực lên cuộc đời đích
thực của Nguyễn Trãi để tạo nên những huyền thoại hoang đường vì mục đích riêng
tư, đã không vẻ vang gì thêm cho Nguyễn Trãi, mà cũng không làm gia tăng lòng
ngưỡng vọng của hậu thế đối với công nghiệp to lớn của bậc danh nho anh hùng ấy.
Tháng 4 năm 2000
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Chú giải :
* Bài thơ sau đây của Nguyễn Trãi chứng tỏ tác giả
đã ở Trung quốc tối thiểu 10 năm:
Thanh Minh
Nhất tòng
luân lạc tha hương khứ,
Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua.
Thiên lý phần doanh vi bái tảo,
Thập niên thân cựu tẫn tiêu ma.
Sạ tình thiên khí mô lăng vũ,
Quá bán xuân quang tê cú hoa.
Liên bả nhất bôi hoàn tự cuỡng,
Mạc giao nhật nhật khổ tư gia
Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua.
Thiên lý phần doanh vi bái tảo,
Thập niên thân cựu tẫn tiêu ma.
Sạ tình thiên khí mô lăng vũ,
Quá bán xuân quang tê cú hoa.
Liên bả nhất bôi hoàn tự cuỡng,
Mạc giao nhật nhật khổ tư gia
** Các địa phương trong các bài thơ sau đây của Nguyễn Trãi đều ở Trung quốc:
Quá Giang Tây
Tự cổ Hồng Đô xưng thắng địa
Kim triêu khách lý tạm tương qua
Yên thu Nam Phố tình quang hảo
Nhật lạc Tây Sơnmộ cảnh gia (giai)
Cáo kiết thành phong liên tục bạc
Từ chương hữu học trúng khoa đa
Tinh Dương thiết trụ kim do tại
Bi khắc thiên niên tiển dĩ hoa.
Kim triêu khách lý tạm tương qua
Yên thu Nam Phố tình quang hảo
Nhật lạc Tây Sơnmộ cảnh gia (giai)
Cáo kiết thành phong liên tục bạc
Từ chương hữu học trúng khoa đa
Tinh Dương thiết trụ kim do tại
Bi khắc thiên niên tiển dĩ hoa.
(Giang Tây ở hạ lưu sông Trường Giang, nổi tiếng về khoáng
sản và đồ sứ).
Lam Quan hoài cổ
Hành tận thiên sơn dữ vạn sơn
Sóc phong suy khởi mãn Lam Quan
Quân vương tằng thử tư trung gián
Chướng hải diêu quan thất mã hoàn
Sóc phong suy khởi mãn Lam Quan
Quân vương tằng thử tư trung gián
Chướng hải diêu quan thất mã hoàn
(Lam
Quan là tên một cửa ải ở Thiểm Tây).
Du Nam Hoa tự
Thần tích phi lai kỷ bách xuân
Bảo Lâm hương hỏa khế tiền nhân.
Hàng long phục hổ cơ hà diệu;
Vô thụ phi đài ngữ nhược tân.
Điện tắt khởi lâu tàng Phật bát;
Kham trung di tích thuế chân thân.
Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần.
Bảo Lâm hương hỏa khế tiền nhân.
Hàng long phục hổ cơ hà diệu;
Vô thụ phi đài ngữ nhược tân.
Điện tắt khởi lâu tàng Phật bát;
Kham trung di tích thuế chân thân.
Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần.
(Du
Nam Hoa tự là đi chơi chùa Nam Hoa, Quảng Đông)
Quá lĩnh
Tiền cương nhật lạc mã hôi đồi
Hành tận Mai quan bất kiến mai
Giáp đạo thiên tùng xanh Hánlập
Duyên vân nhất lộ phách sơn khai
Trường An nhật cận liêu thư mục
Cố quốc thiên diêu trọng cảm hoài
Đường tướng nhất tùng thông thử đạo
Bách tri kim kỷ bách niên lai
Hành tận Mai quan bất kiến mai
Giáp đạo thiên tùng xanh Hánlập
Duyên vân nhất lộ phách sơn khai
Trường An nhật cận liêu thư mục
Cố quốc thiên diêu trọng cảm hoài
Đường tướng nhất tùng thông thử đạo
Bách tri kim kỷ bách niên lai
(Lĩnh là đỉnh núi, đây là núi Đại Dũ (Dũ Lĩnh), phía bắc
Nam Hùng, Quảng Đông . Đời Đường, Trương Cửu Linh mở đường trồng mai trên núi,
nên còn gọi là Mai Lĩnh, Mai quan)
Tĩnh
An vãn lập
Trường thiên mạc mạc thủy du du
Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ thu
Tiện sát hoa biên song bạch điểu
Nhân gian luỵ bất đáo thương châu
Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ thu
Tiện sát hoa biên song bạch điểu
Nhân gian luỵ bất đáo thương châu
(Tĩnh An vãn lập
có nghĩa là buổi chiều đứng ở Tĩnh An, thuộc địa phận Giang Tây).
*** Quan phục hầu là tước hầu áp chót.
Thuận Thiên năm đầu (1428), Nguyễn Trãi
được phong tước Quan
phục hầu . Đây là tước hầu áp chót. Các tước hầu mà vua Lê Thái Tổ phong cho
các công thần là :
1) Huyện thượng hầu
2) Á thượng hầu
3) Hương thượng hầu
4) Đình thượng hầu
5) Huyện hầu
6) Á hầu
7) Quan nội hầu
8) Quan phục hầu
9) Trước phục hầu
Tài liệu tham khảo :
1. Ngô Sĩ
Liên. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Bản dịch của Nhượng Tống. Đại Nam xuất bản,
Glendale, CA, USA.
2. Ngô Thời Sỹ.
Việt Sử Tiêu Án. Bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên lạc Văn Hóa Á Châu. Văn Sử xuất bản. San
Jose, CA, US, 1991.
3. Trần Trọng
Kim. Việt Nam Sử Lược. Trung Tâm Học Liệu, Bộ Giáo Dục xuất bản. Sài Gòn, VN,
1971.
4. Phạm Văn
Sơn. Việt Sử Toàn Thư. Thư Lâm Ấn Thư Quán xuất bản. Sài Gòn, VN, 1960.
5. Phạm Thế Ngũ. Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân
Biên, Tập 2, Văn Học Lịch Triều, Việt Văn. Anh Phương ấn quán. Sài Gòn, VN,
1962.
6. Nguyễn
Trãi. Nguyễn Trãi Toàn Tập, Quốc Âm Thi Tập. Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội. Hà Nội,
VN, 1976.
7. Phan Thanh Hy. Cái Ghen Của Nguyễn Trãi. Tạp chí
Làng Văn, Bộ XVI, số 187, ngày 1-8-1999. Toronto, ON, Canada.
8. Nguyễn Thiên Thụ. Phải Chăng Nguyẽn Trãi Là Tổ Của
Các Vua Chúa Nhà Nguyễn? Văn Tập số 2, Xuân Hạ 99, ấn phẩm của Câu Lạc Bộ Văn Hữu,
Ottawa, ON, Canada.
Trao Đổi Quan Điểm
Thư trao đổi quan điểm về ý niệm
Dân Tộc với Đỗ Hữu Long,
nguyên Đại Diện Chiêu Hồi Vùng IV
Chiến Thuật, Thành viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đại Việt Quốc Dân Đảng.
Ngày 9 tháng 4 năm 2001
K/g Ông Đỗ Hữu Long
1894 Schulte
Drive, Apt 202
San
Jose, CA
95133-2163
USA
Thưa anh Long,
Chúng tôi xin gửi lời
thăm anh chị và quý quyến bình yên sức khỏe.
Tôi đã nhận sách và các tài liệu do anh Mẫn chuyển
lại. Tôi cám ơn anh nhiều và rất cảm kích về lời đề tặng chứa chan tình cảm của
anh đối với tôi ghi nơi đầu sách.
Tôi vẫn nghĩ anh là một trong những người hiếm hoi hôm
nay còn dành thì giờ nghĩ đến tương lai quốc gia dân tộc. Tôi chia sẻ quan điểm
của anh chủ trương rằng Đông Nam Á là cái nôi phát tích văn minh nhân loại,
hoặc ít nhất là trong phạm vi tương quan ảnh hưởng giữa Việt tộc và Hán tộc thì
thuở ban sơ hướng phát triển là từ phương nam lan lên phía bắc, chứ không phải
như từ bấy lâu nay lũ con cháu rợ Chu hàm hồ áp đặt quan điểm ngược lại.
Nhân đây, tôi muốn trao đổi với anh về vấn đề diễn
giải ý niệm dân tộc trong chủ thuyết dân tộc sinh tồn để khỏi vô tình sa lầy
vào chủ trương dân tộc hẹp hòi, rất nguy hiểm và trái với chủ trương của Đảng
Trưởng. Chắc anh cũng thấy rằng thế kỷ 21 là thế kỷ của tranh chấp giữa các dân
tộc mà các siêu cường cố tình cổ súy và khai thác để xé nát các quốc gia ra
thành nhiều mảnh vụn, như trường hợp Yougoslavia trước đây và Indonesia hiện
nay. Việt Nam
là một quốc gia nhiều dân tộc nên cần phải thận trọng trong chính sách dân tộc
để khỏi vướng vào nạn phân tranh dân tộc. Vậy ý niệm dân tộc phải gắn liền với
ý niệm quốc gia, nghĩa là dân tộc nói ở đây là quốc dân, bao gồm dân tộc chính
và các dân tộc ít người hơn (mà tôi nghĩ rằng dùng từ sắc tộc chính xác hơn là
từ dân tộc). Việt Nam
phải cố tránh việc phân tranh dân tộc (sắc tộc) để khỏi bị vỡ tan thành nhiều
mãnh vụn. Chủ thuyết dân tộc sinh tồn đề cập đến toàn bộ quốc dân trong một
quốc gia, mà trong trường hợp Việt Nam là gồm người Kinh lẫn người Thượng,
người Miên, người Lào, người Tày, người Mường, người Chăm, người Lô Lô, v.v.
tập họp thành một khối dân tộc gọi là quốc dân Việt Nam, chứ không chỉ riêng
người Kinh.
Mong có dịp gặp mặt hàn huyên.
Hồ Văn Châm
Góp ý về
Từ Điển Tiếng Huế
Của Tác giả Bùi Minh Đức
(Bác sĩ Bùi
Minh Đức ở California
có trước tác cuốn Từ Điển Tiếng Huế, và nhà Xuất bản Tâm An, 9381 Shadwell Drive, Huntington Beach, CA 92646, USA,
đã ấn hành cuối năm 2001. Từ đó đến nay, nhiều thân hữu gọi điện thoại hoặc gửi
điện thư hỏi ý kiến tôi về một số vấn đề trong tác phẩm nêu trên. Tôi nghĩ rằng
có thể còn nhiều độc giả khác có những thắc mắc tương tự, nên tôi cho đăng tải
lá thư góp ý tôi gửi tác giả Bùi Minh Đức trước đây để công luận có thêm dữ
kiện suy gẫm, phán xét. Lá thư góp ý này tuyệt nhiên không phải là một bài phê
bình mà chỉ là những ý kiến xây dựng gửi bạn thân với chủ đích giúp bạn trau
chuốt tác phẩm của mình cho hoàn hảo hơn.)
Ngày
18 tháng 2 năm 2002
Bác
sĩ Bùi Minh Đức
9131 Bolsa Avenue, Suite 201
Westminster,
CA 92683
USA
Đức
thân,
Đã
nhận được quyển Từ Điển Tiếng Huế của tác giả Bùi Minh Đức. Bưu kiện còn bọc
kín trong giấy gói nhưng thoáng thấy tên người gửi là đã đoán được bên trong có
cái gì rồi. Số là Lê Văn Lân cứ điện thoại hỏi thăm đã nhận được quyển Từ Điển
Tiếng Huế của Bùi Minh Đức chưa. Chưa nhận được thì phải trả lời là chưa, nhưng
trong lòng cũng có điều lấn cấn. Bạn bè thân thiết từ thuở mài đũng quần trên
ghế trường tiểu học Chaigneau, vậy mà nay ăn nên làm ra, nổi tiếng bác học, xuất
bản từ điển, mà không nhớ gì tới nhau sao?
Mình
tuyệt nhiên không có ý làm chuyện trơ trẽn mặc áo thụng bái lạy tôn vinh nhau,
nhưng mình không thể không bày tỏ lời thán phục Đức đã dày công và bền chí kiến
tạo nên một công trình sưu khảo và trước tác tương đối đồ sộ như thế này. Sách
in đẹp, nét chữ sắc sảo, trình bày mỹ thuật, lại thêm sách khá dày, giấy tốt,
bìa cứng, khổ rộng, cho nên Từ Điển Tiếng Huế của Bùi Minh Đức trông dễ nể lắm.
Hình tác giả in bên trong bìa sách vừa trẻ vừa đẹp trai, đi sóng đôi với mấy
dòng tiểu sử tuy tóm lược mà rất mực oai hùng, chắc chắn sẽ chinh phục không ít
con tim các độc giả phái yếu. Tóm lại, về mặt hình thức thì tác phẩm của Đức rất
xứng đáng được khuyên son.
Về
mặt nội dung thì mình chưa có đủ thì giờ đọc kỹ, nhưng nhìn chung, Từ Điển Tiếng
Huế của Bùi Minh Đức như vậy là được lắm. Hơn nữa, tác phẩm của Đức không chỉ
là từ điển thuần túy ngôn ngữ mà là từ điển mang phần nào tính chất bách khoa.
Điều này đòi hỏi tác giả phải mất nhiều công sức sưu khảo dữ kiện, lại phải có
căn bản kiến thức vững vàng về nhiều lãnh vực chuyên môn để sàn lọc tài liệu,
nhiên hậu mới tuyển chọn chỉ đưa những ‘điển’ chính xác vào tác phẩm để chú giải
các ‘từ’. Chính vì điểm này mà việc làm của Đức xứng đáng được khen ngợi và
khuyến khích. Và cũng chính vì điểm này mà trong tác phẩm của Đức rải rác có những
điều chưa có sự nhất trí của các nhà biên khảo, khiến những độc giả khó tính có
thể không lấy làm hài lòng.
Mình
viết cho Đức mấy giòng nhận xét này, theo lời yêu cầu của Đức, tuyệt nhiên
không nhằm mục đích phê phán, mà chỉ với lòng mong mỏi giúp bạn trau chuốt tác
phẩm của bạn hoàn hảo hơn, giá trị hơn mà thôi.
x
x x
1.
Trước hết là tựa đề Từ Điển Tiếng Huế. Mình nghĩ là Đức không hề có ý định phân
biệt tiếng Huế với tiếng miền quê Thừa Thiên. Điều này chính Đức cũng đã nói rõ
trong Lời Mở Đầu. Thật vậy, các từ nêu lên trong tác phẩm của Đức hầu hết là
các từ được sử dụng ở các vùng quê Thừa Thiên, ở chung quanh Huế, chứ không phải
ở Huế. Người Huế không nói sương nác mà nói gánh nước, không nói ôống thổi lã
mà nói ống thổi lửa, không nói con tắn cắm bắp chưn mà nói con rắn cắn bắp
chưn. Vậy thì sương nác, ôống thổi lã, tắn cắm chưn là tiếng miền quê Thừa
Thiên, chỉ có từ chưn vừa là tiếng miền quê Thừa Thiên vừa là tiếng Huế mà
thôi. Do đó, tác phẩm của Đức phải có tựa đề chính xác hơn là Từ Điển Tiếng Thừa
Thiên-Huế.
2.
Nhưng đem tiếng Huế ghép chung với tiếng miền quê Thừa Thiên thì có điều không ổn.
Tiếng miền quê Thừa Thiên là nhánh cực nam của phương ngữ miền Trung (từ Tam Điệp
đến Hải Vân), chính xác hơn là của phương ngữ Bình Trị Thiên. Phương ngữ miền
Trung nói chung, phương ngữ Bình Trị Thiên nói riêng, đáng được quan tâm nghiên
cứu là bởi tiếng miền Trung còn bảo lưu nhiều yếu tố đặc thù của tiếng Việt cổ,
ít bị Hán hóa hơn các miền khác, vì xa cách với Trung Quốc hơn và vì độc lập với
Trung Quốc sớm hơn. Trong lúc đó thì tiếng Huế là tiếng Việt phổ thông, không mấy
khác biệt với tiếng Việt phổ thông ở các miền khác, nên không nhất thiết là đối
tượng nghiên cứu về phương diện này (tìm hiểu tiếng Việt cổ và các vấn đề liên
hệ).
3.
Không riêng gì Đức mà có rất nhiều người
trong Nam ngoài Bắc (kể cả người đề tựa) cũng không phân biệt tiếng Huế với tiếng
miền quê Thừa Thiên. Do đó, họ dễ dãi nghĩ rằng tiếng Huế là một phương ngữ. Họ
không hề có ý tưởng rằng tiếng Huế là tiếng Việt phổ thông cũng như tiếng Hà Nội
hay tiếng Sài Gòn. Họ không ý thức được rằng nếu tiếng Huế có một vài nét khác
biệt với tiếng Việt phổ thông các miền khác ở lối phát âm (lẫn lộn hỏi ngã,
thương tiếc phát âm không khác thời tiết v.v.) và cách dùng từ (mi tau, răng rứa),
thì điều này cũng xảy ra và dễ dàng nhận thấy ở các miền khác, tỷ như người Hà
Nội phát âm không phân biệt trong (trong ngoài) với chong (chong đèn), nói cuốc
ra thay vì quốc gia, bồ hôi thay vì mồ hôi, và điều này không hề làm cho tiếng
Hà Nội mất đi tính cách tiếng Việt phổ thông. Ngược lại, tiếng miền quê Thừa
Thiên rõ ràng là một phương ngữ khi người Thừa Thiên nói y hệt người Quảng Trị
rằng ‘đi vô đụng trôốt cúi, đi ra đụng trắp bả’ (đi vô đụng đầu gối, đi ra đụng
bắp đùi) là một lối dùng từ không thấy có trong tiếng Việt phổ thông, và người
Huế không hề nói như vậy.
4.
Có những từ đặc biệt Huế gốc gác từ phương ngữ miền Trung nay đã trở thành phổ
thông và được sử dụng rộng rãi khắp nước nhưng Đức lại bỏ sót, như từ mạng (vua
Minh Mạng, cuộc cách mạng). Mạng vốn là mệnh trong tiếng Việt phổ thông. Người
Huế, cũng như dân Khu Tư cũ, không nói mệnh mà nói mạng. Vì lẽ Huế, cùng với
Khu Tư cũ, là cái nôi phát xuất quyền lực trong lịch sử hình thành và phát triển
dân tộc Việt Nam nên một số phương ngữ miền Trung được áp đặt cho các miền
khác, hoặc được các miền khác tự nguyện chấp nhận, do đó mà trở thành tiếng Việt
phổ thông. Ngày nay không ai biết đến tập tài liệu huấn luyện “Đời Kách Mệnh” của
Hồ Chí Minh, hay chương “Vua Minh Mệnh” trong sách Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng
Kim, mà khắp nước ai ai cũng nói “cách mạng, Minh Mạng”. Quyền lực ảnh hưởng đến
ngôn ngữ trong trường hợp này y hệt chuyện người Hà Nội hôm nay nói bánh mì mà
không nói bánh tây như hồi trước 1954.
5.
Ngược lại, Đức đã đưa vào Từ Điển Tiếng Huế hàng loạt từ và cụm từ tiếng Việt
phổ thông. Ngay mấy trang đầu đã thấy nhan nhản ‘ai, ai mà chịu nổi, am (miếu),
anh em cốt nhục, áo thụng, áo the, áo quan, áo xống, ăn chực nằm chờ, ăn cơm
chúa múa tối ngày, ăn tươi nuốt sống, ăn xổi ở thì, v.v. Những từ và cụm từ này
nào phải là của riêng Huế. Người Việt Nam trong nước từ nam chí bắc ai cũng nói
cũng hiểu. Người Việt Nam ở nước ngoài, nếu biết nói tiếng Việt, thì dù cư trú ở
Bắc Mỹ hay Tây Âu, ai cũng nói cũng viết như vậy. Đó là tiếng Việt phổ thông. Nếu
đưa vào từ điển thì phải là Từ Điển Tiếng Việt Nam, chứ không thể gọi là Từ Điển
Tiếng Hà Nội, Từ Điển Tiếng Sài Gòn hay Từ Điển Tiếng Huế.
6.
Vị trí của Huế lọt sâu trong địa bàn phương ngữ Bình Trị Thiên nên khởi nguyên
tiếng nói vùng Huế y hệt tiếng miền quê Thừa Thiên ngày nay. Nhưng Nguyễn Hoàng
đã đem đông đảo dân Thanh Hoa và Bắc Hà theo vào Ái Tử. Đám dân này và con cháu
của họ theo sự chuyển dịch về nam của thủ phủ xứ Đàng Trong mà qui tụ ở Phú
Xuân, tức là Huế ngày nay, lập nên nhiều dòng họ lớn như họ Nguyễn Phước, họ Tống
Phước, họ Nguyễn Khoa, họ Nguyễn Cữu. Tiếp đến là tông thất nhà Mạc và quan lại
nhà Minh tìm đến Huế xin nương náu, lập nên họ Nguyễn Hữu, và các họ Minh
Hương. Gia Long thống nhất sơn hà, người cả nước tụ hội về kinh đô lập nghiệp,
gồm quan lại, nho sĩ, thương nhân, thợ thủ công v.v., phần đông là người Bắc
Hà. Nhu cầu đúc kim loại, nhất là đúc đồng, đã gom góp thợ giỏi gốc Bắc, gốc
Thanh, gốc Quảng về ở Phường Đúc, tạo nên “tiếng Phường Đúc”. Vua Minh Mạng, vốn
sinh trưởng ở trong Nam, thường thích tả hữu tâm phúc và cung tần mỹ nữ trong Đại
Nội nói tiếng Nam; các bà Hoàng phi Hồ Thị Hoa, Phạm Thị Hằng, và bà Tiếp dư
Nguyễn Nhược Thị Bích, đã đưa người Gia Định, Gò Công, Tả Kỳ, vào ở đầy tam
cung lục viện, tạo nên “tiếng trong Nội”. Tất cả các tiếng nói đó của muôn
phương đã trộn lẫn với nhau, tan biến vào nhau, để cấu thành tiếng Huế ngày
nay, hoàn toàn khác biệt với tiếng miền quê Thừa Thiên.
7.
Quá trình hình thành và phát triển đã in đậm dấu ấn tiếng Việt phổ thông lên tiếng
nói của vùng Huế. Nói khác đi, tiếng Huế là tiếng Việt phổ thông, là quốc ngữ,
khác biệt với tiếng miền quê Thừa Thiên là phương ngữ. Mặt khác, tiếng Huế cũng
có những nét đặc thù, làm cho tiếng Huế khác biệt với tiếng Việt phổ thông các
miền khác. Ngoài giọng nói, lối phát âm, và sự hiện hữu của một số từ gốc gác
phương ngữ miền Trung, người Huế lại còn cố tình tạo ra một số từ mới. Những từ
này chính thị là tiếng Huế cần ghi chú vào từ điển để người học tiếng Việt tra
cứu tìm hiểu, nhưng đáng tiếc là Đức lại bỏ sót, hoặc nói chưa hết ngọn nguồn.
Thí dụ từ “anh em” trong tiếng Việt phổ thông thì phương ngữ Thanh Nghệ nói là
“anh tam”, phương ngữ Bình Trị Thiên nói là “eeng tam”, một vài miền quê Thừa
Thiên nói là “iêng iêm”, còn người Huế vẫn nói là “anh em” theo lối phổ thông,
nhưng một số “các Mệ” khi sử dụng từ anh vào ngôi thứ hai thì lại đổi thành
“iêng” (Iêng! Iêng đi mô đó?). Đến các từ chỉ số thứ tự hai ba bốn năm sáu thì
người trong phủ đệ các thân vương cố tình nói trại thành “hơi bơ tư niêm siếu”
(Ông Hoàng Hơi, Ông Hoàng Bơ của các bà lên đồng, người đẹp O Siếu của Phủ Tuy
Lý) .
8.
Người Huế cũng sử dụng nhiều từ rất đặc biệt để xưng hô: Ngài Ngự để chỉ Vua,
Ngài Hoàng để chỉ Hoàng Hậu, Đức Từ (bà Từ Cung) để chỉ Đoan Huy Hoàng Thái Hậu,
Cụ Lớn để chỉ Đường quan (từ Án sát trở lên), Quan Lớn để chỉ Thuộc quan (từ
Tri phủ trở xuống), Thầy để chỉ công chức, nha lại. Tổng Đốc nói với Tri Huyện
dưới quyền vẫn sử dụng từ Quan Lớn (Quan Lớn cứ đúng phép nước trừng trị chúng
nó cho tôi!). Lâu ngày mới được tin bạn cố tri, tìm đến nhà thăm, không gặp bạn,
chỉ gặp vợ bạn, thấy người đàn bà chưa từng giáp mặt ấy ăn trắng mặc trơn, trâm
cài lược giắt, chỉ ghế nói “mời thầy ngồi”, thế là khách biết ngay bạn mình nay
tệ lắm thì cũng đã là ông huyện ông tham, còn mình dưới con mắt của vợ bạn thì
tùy theo phục sức và dáng dấp mà được đánh giá là thầy nghè thầy lại, hay thầy
ký thầy cai! Cũng cần nói rõ từ “nghè” trong tiếng Huế là để chỉ viên chức cấp
nhỏ của Nam Triều như Thừa Phái, Lục Sự, chứ không phải để chỉ các vị Đại Khoa
như ở ngoài Bắc.
9.
Từ Điển Tiếng Huế phần nào mang tính chất bách khoa. Điều này đáng khen, đáng
khuyến khích, nhưng một mình Đức đơn thương độc mã xông xáo vào con đường này
thì quả là mạo hiểm. Đức phải có nhiều cộng sự viên giỏi ở các lãnh vực chuyên
môn, bản thân Đức phải bỏ nhiều thì giờ tham khảo và sàn lọc tài liệu, nhiên hậu
mới chú giải đầy đủ và đúng đắn các từ liên hệ đến các môn học chuyên khoa. Chỉ
nói theo một vài tác giả thì chưa đủ, nếu tác giả đó nói sai thì lại càng tai hại.
10.
Hãy lấy thí dụ từ An Nam ở trang 2. An Nam đưa vào Từ Điển Tiếng Huế thì đúng lắm
rồi, vì Huế trước kia là sính lễ cưới vợ vua Chiêm dâng cho vua Trần là người
được Tàu phong tước vị An Nam Quốc Vương, và sau này là thủ phủ xứ Trung Kỳ mà
người Pháp gọi là Annam. Chú giải như thế là đủ, việc gì phải trích dẫn Li Tana
để vòng vo lúng túng nói toàn chuyện chẳng ăn nhập gì với từ An Nam. Huống hồ,
nếu không bị gò bó trong khuôn khổ địa danh Huế thì thiếu gì vấn đề đáng nói
liên hệ đến từ An Nam. Chẳng hạn, từ An Nam có phải thực sự bắt nguồn từ mấy chữ
An Nam Đô Hộ Phủ hay không? Trước khi
nhà Đường đặt An Nam Đô Hộ Phủ trên dưới ba trăm năm thì nhà Tề thời Nam Bắc
triều đã phong vua Lâm Ấp Phạm Chư Nông tước vị An Nam Tướng Quân Lâm Ấp Vương
(năm 492 sau Công nguyên). Lùi xa hơn nữa, trước khi nhà Đường đặt An Nam Đô Hộ
Phủ bốn năm trăm năm thì chúa Đông Ngô thời Tam Quốc đã phong Lục Dận làm Giao
Châu Thứ Sử, An Nam Hiệu Úy, ngay sau khi quân Lâm Ấp xâm phạm Giao Châu (năm
248 sau Công nguyên). Lại còn chuyện An Nam thống nhất với Việt Thường để thành
Việt Nam; chuyện An Nam cuối thế kỷ 19 đối với Tàu là từ Quảng Tây đến Quảng
Bình (giải pháp Tăng Kỷ Trạch), đối với Pháp là từ Thanh Hóa đến Bình Thuận
(hòa ước Patenôtre), có khi lại là từ Hoành Sơn đến Cà Ná mà thôi (hòa ước
Harmand).
11.
Từ Kinh Thành mà chú giải rằng Kinh là kinh sư, Thành là tường bao quanh kinh
đô, thì chỉ đúng trong trường hợp từ điển tiếng Việt phổ thông, chứ không đúng
trong trường hợp Từ Điển Tiếng Huế. Kinh Thành nếu đưa vào Từ Điển Tiếng Huế
thì phải chú giải là tên gọi vòng thành lớn ở Huế, có hào sâu, có cột cờ, có
các cửa Đông Ba, Thượng Tứ, cửa Hữu, cửa Ngăn v.v., bên trong có Hoàng Thành là
vòng thành nhỏ hơn với các cửa Ngọ Môn, Hiển Nhơn, Chương Đức, Hòa Bình, bao bọc
Tử Cấm Thành ở trong cùng có Đại Cung Môn, cung Càn Thành, cung Khôn Thái v.v.
Nói khác đi, Kinh Thành ở đây là một địa danh.
12.
Cụm từ Kinh đô Chàm ở trang đối diện được chú giải rành rọt, nêu rõ sự chuyển dịch
dần dà về phương nam của kinh đô Chàm trước áp lực của xứ láng giềng phương bắc.
Chỉ duy việc viện dẫn R.A. Stein nói rằng kinh đô của Lâm Ấp xưa ở Văn Xá, huyện
Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, là điều không đúng. Nước Lâm Ấp khởi lên từ huyện
Tượng Lâm, quận Nhật Nam, kinh đô đóng ở Trà Kiệu ( Sinharpura), thuộc tỉnh Quảng
Nam ngày nay. Sau khi Trà Kiệu bị tướng nhà Tùy là Lưu Phương tàn phá, người
Chàm dời đô về Đồng Dương (Indrapura), cũng trong địa hạt tỉnh Quảng Nam. Tuy
người Chàm nhiều lần đem quân lấn chiếm Nhật Nam ( Bình Trị Thiên), và đến
trung diệp nhà Đường thì chiếm hẳn Nhật Nam, nhưng người Chàm không bao giờ dời
đô ra Thừa Thiên cả. Ngoài ra, việc ghi chú địa danh Trà Kiệu theo tiếng Phạn
là “Sinharpura hay Champapura” chỉ đúng nửa phần. Thật vậy, Champapura là Chiêm
Thành chứ không phải là Trà Kiệu.
13.
Mục Miếu Chiêm Thành (trang 297) ghi “tại Nguyệt Biều, ... trên nền cũ Thành Lồi
thuộc cố đô Phật Thệ ...”, và mục Thành Champa ( trang 432) ghi “Thành Lồi ở xã
Nguyệt Biều, trước gọi là Thành Phật Thệ...” . Như vậy, Phật Thệ là ở Thừa
Thiên. Nhưng trước đó Đức viết ở mục Kinh Đô Chàm (trang 246) rằng sau khi kinh
đô Đồng Dương bị Lê Đại Hành đánh chiếm, “người Chàm dời đô về đóng tại thành
Chà Bàn (Vijaya), người Trung Hoa gọi là Phật Thệ”. Như vậy, Phật Thệ là ở Bình
Định. Sở dĩ có chuyện trước sau bất nhất như vậy là vì Đức đã trích dẫn nhiều
nguồn tư liệu khác nhau mà không chịu khó hoặc không đủ thì giờ sàn lọc để loại
bỏ hoặc hiệu đính các dữ kiện sai sót. Sự thật lịch sử là thành Phật Thệ ở Bình
Định.
14.
Mục Thành Lồi Kẻ Hạ (trang 433) trích dẫn Thủy Kinh Chú nói về thành Khu Túc để
phỏng đoán thành Khu Túc ngày xưa ở trong địa phận Quảng Bình ngày nay là không
đúng. Thành Lồi Kẻ Hạ, sử cũ gọi là Hoành sơn cổ lũy hoặc Lâm Ấp phế thành, là
lũy cũ do vua Lâm Ấp Phạm Văn đắp ở Bình Chánh, Quảng Bình, vào năm 347 sau
Công nguyên dưới triều Tấn Mục Đế, niên hiệu Vĩnh Hòa thứ 3. Còn thành Khu Túc
là do người Tàu đắp ở Nguyệt Biều, Thừa Thiên, trước đó rất lãu, vào thời Tây
Hán, để bảo vệ lỵ sở quận Nhật Nam, lúc bấy giờ đóng ở Tây Quyển. Thành Khu Túc
bị quân Lâm Ấp đánh chiếm năm 248 sau Công nguyên, dưới triều Ngô Tôn Quyền,
niên hiệu Xích Ô thứ 11. Từ đó người Lâm Ấp sửa sang Khu Túc thành căn cứ quân
sự để xuất phát các cuộc tiến công cướp phá Giao Châu.
15.
Cũng mục Thành Lồi Kẻ Hạ ghi rằng “Theo Hậu Hán Thư thì năm 137 đã có nước Lâm Ấp ... Năm 148,
Lâm Ấp tiến ra đến sông Thọ Linh, nhà Ngô phải bỏ đất này ( quận Nhật Nam) cho
người Chàm, lui về giữ quận Giao Chỉ từ phía bắc Hoành sơn trở ra”. Người đọc sẽ
tự hỏi những điều sai lạc trên đây phải chăng là do lỗi của ấn công hay do lỗi
của chính tác giả tài liệu trích dẫn. Nước Lâm Ấp khởi lên từ huyện Tượng Lâm
quận Nhật Nam vào năm 192 sau Công nguyên, niên hiệu Sơ Bình thứ 3 đời Hán Hiến
Đế. Quân Lâm Ấp chiếm thành Khu Túc và quận thành Nhật Nam (Thừa Thiên), san bằng
các quận thành Cửu Chân (Thanh Hóa) và Giao Chỉ (Bắc Ninh) năm 248 sau Công
nguyên, niên hiệu Xích Ô thứ 11 nhà Đông Ngô. Vua Đông Ngô sai Lục Dận đem đại
binh sang ứng phó, Lâm Ấp mới lui quân, nhưng vẫn giữ thành Khu Túc. Vậy ngoài
sự sai lầm về niên đại, đoạn trích dẫn nêu trên phải được hiệu đính như sau:
“... nhà Ngô phải bỏ đất này (thành Khu Túc) cho người Chàm, lui về giữ bắc bộ
quận Nhật Nam (Bình Trị Thiên ngày nay)”. Nếu nhà Ngô bỏ quận Nhật Nam, lui về
giữ từ phía bắc Hoành sơn trở ra thì làm sao về sau lại xảy ra việc quân Lâm Ấp
nhiều lần xâm phạm Nhật Nam, thí dụ năm 347 sau Công nguyên bắt giết Thái Thú Hạ
H ầu Lãm và năm 399 sau Công nguyên bắt giết Thái Thú Cảnh Nguyên? Chả lẽ quận
Nhật Nam nằm ở phía bắc Hoành sơn?
16.
Trích dẫn Po Dharma để chú giải các mục Lâm Ấp và Vương quốc Champa là vừa vô bổ,
vừa có hại. Tập san Champaka viết bằng ngoại ngữ nặng về mục đich chính trị nên
sự thật lịch sử nhiều khi bị bóp méo. “....các bộ tộc sống ở vùng Je Nan (thuộc
khu vực Huế bây giờ) đã vùng lên chống lại sự đô hộ của Tàu để lập nên nước Lin
Yi. Dân tộc này thuộc ngữ hệ Malayo-Polynesian và về phương bắc bành trướng đến
Quảng Bình bây giờ. Phía bắc Quảng Bình hồi đó là của dân tộc Tiền Việt”. Đối với
người Việt và người học tiếng Việt muốn tra cứu từ điển tiếng Huế thì đã có sẵn
các danh từ Nhật Nam và Lâm Ấp, việc gì phải dùng tiếng Tàu phổ thông phiên âm
ra Anh ngữ cho thêm rắc rối. Ranh giới ngữ hệ Tiền Việt và Nam Đảo là ở Quảng
Nam và Tây Nguyên, tuy lẫn lộn xen kẻ vô cùng phức tạp, nhưng ngày nay vẫn còn
dễ dàng nhận thấy sự khác biệt giữa cư dân
miền núi huyện Hiên và huyện Giàng trên đường mòn nối dài quốc lộ 14
trong địa phận Quảng Nam. Người huyện Hiên y hệt người Ka Tu và người Vân Kiều ở
Trị Thiên là những nhóm Tiền Việt gốc Môn Nam Á. Nếu ranh giới ngữ hệ này ở
Hoành sơn thì tại sao nhiều tác giả đã được Đức trích dẫn trong Lời Mở Đầu để
xác định rằng phương ngữ Bình Trị Thiên còn bảo lưu nhiều yếu tố cổ của tiếng
Việt?
17.
Trong mục Khâm sứ (trang 234) đã có sự nhầm lẫn giữa các chức vụ Khâm sứ với
Công sứ. Viên chức chính quyền Bảo Hộ đứng đầu một tỉnh là Công sứ (Résident).
Dinh thự gần nhà ga Huế là dinh Công sứ Thừa Thiên. Còn Khâm sứ (Résident
Supérieur) là viên chức chính quyền Bảo Hộ đứng đầu xứ Trung Kỳ, tương đương với
Thống sứ đứng đầu xứ Bắc Kỳ (tiếng Pháp vẫn là Résident Supérieur). Tòa Khâm sứ
Trung Kỳ ở phía dưới cầu Trường Tiền, quay mặt ra sông Hương; bên kia sông là
chợ Đông Ba.
18.
Các mục quận huyện ở Thừa Thiên (trang 391, 392) có sự lẫn lộn giữa huyện với
xã. “Quận Hương Điền năm 1969 gồm các huyện sau: Điền Hòa, Điền Hương ...” Thời
đó, quận không chia thành huyện mà chia thành xã, xã Điền Hòa, xã Điền Hương
v.v. Mặt khác, trong khuôn khổ một quyển từ điển mang tính chất bách khoa, các
phân hạt hành chánh nên kể lùi lại ít ra là từ trước 1945 và cập nhật hóa cho đến
ngày hôm nay. Trước 1945, Thừa Thiên được gọi là phủ và chia làm 6 huyện, huyện
chia thành tổng, tổng chia thành làng. Sau 1945, đổi phủ thành tỉnh, bỏ tổng lập
xã. Thời Cộng Hòa, đổi huyện thành quận, tỉnh Thừa Thiên có 10 quận, quận chia
thành xã, xã chia thành ấp. Hiện nay, bỏ quận để tái lập huyện, huyện chia thành
xã, xã chia thành thôn.
19.
Lác đác đó đây có những lỗi chính tả, thường là lỗi bỏ dấu, có thể là lỗi của ấn
công, cũng có thể là lỗi bắt nguồn từ tài liệu tham khảo. Tên vua Gia Long là
Nguyễn Ánh chứ không phải Nguyễn Anh (trang 96). Quận Phong Điền có xã Phong
Hòa chứ không phải xã Phong Hóa (trang 391). Câu thơ của vua Tự Đức về thời tiết
ở Huế đúng ra là Tứ thời giai thị hạ (trang 448). Cuối mỗi chương có in lại một
bức ký họa lấy từ các sách của người Pháp, điều này làm tăng duyên dáng cho tác
phẩm. Chỉ duy bức ký họa sau cùng (trang 531) vẽ người lính chạy trạm ở trần
đóng khố thì thật là bôi bác và bịa đặt có ác ý, nên loại bỏ đi. Lính của ta
ngày trước “ngang lưng thì thắt bao vàng, đầu đội nón dấu vai mang súng dài”,
chứ đâu có đóng khố, bịt khăn. Lính trạm thì cỡi ngựa, tay cầm hỏa bài, vai
mang túi công văn. Dọc đường cái quan thì có trường đình, đoản đình, có những
trạm để đổi ngựa, để nghỉ lưng, ở Thừa Thiên ngày nay còn lưu dấu tích, như trường
đình ở An Hòa, trạm ngựa Hoàng Giang ở Phước Tích tiếp giáp Mỹ Xuyên và bến đò
Kẻ Lạng.
x
x x
Những
nhận xét trên đây viết gửi cho Đức với thìện ý giúp bạn trau chuốt tác phẩm của
bạn trở thành hoàn hảo hơn. Mình chỉ mới đọc qua, chắc chắn là còn nhiều điểm cần
bổ khuyết nữa. Mình không dài dòng về các ưu điểm của Từ Điển Tiếng Huế, chỉ vắn
tắt nói rằng tác phẩm của Bùi Minh Đức là một công trình sưu khảo rất đáng trân
trọng. Làm việc một mình, lại còn bận bịu phòng mạch, mà thực hiện được một tác
phẩm đồ sộ như vậy thì thật là đáng khen, đáng khuyến khích. Nêu lên một vài nhận
xét không phải là làm công việc phê phán mà chỉ là vì yêu bạn, góp ý với bạn về
một số vấn đề theo quan điểm của mình, đôi khi hoàn toàn khác biệt với các nhà
biên khảo trước nay. Đọc những nhận xét này, bạn có thể đối chiếu với các tài
liệu đã sử dụng, sưu tập và tham khảo thêm các tài liệu khác, thảo luận với các
tác giả hữu quan, để rồi tự mình làm công việc đánh giá và sàn lọc, ngõ hầu đem
vào tác phẩm những lời chú giải đúng đắn, làm cho tác phẩm của bạn trở nên toàn
bích.
Một
lần nữa thành thực ngợi khen bạn. Chúc bạn và gia đình vạn sự an lành.
Thân,
Hồ Văn Châm
Những mắt xích cần nối lại
(Thành Khu Túc,
miếu Triệu nương,
và câu chuyện bánh
chưng, bánh tét)
Có
những lúc tình cờ bắt gặp một số mắt xích han rỉ, lẻ loi, rời rạc, trong kho
phế liệu bỏ quên lâu ngày, chúng ta có thể vô tình lướt nhìn một cách thờ ơ,
không mảy may lưu tâm, không mảy may băn khoăn, thắc mắc, rằng những mắt xích
đó xuất xứ từ đâu ra, nguyên là những vật dụng gì, có liên quan với nhau như
thế nào, và nhất là có chứa đựng chút ý nghĩa hoặc chút giá trị thực tiển nào
không. Nếu những mắt xích đó lại được phủ những lớp sơn khác nhau, hoặc bị méo
mó, bị đổi dạng thay hình, thì chúng ta lại càng không tài nào tưởng tượng được
mối liên hệ trước đây giữa chúng với nhau, và chúng ta cứ điềm nhiên bỏ mặc
chúng chìm vào quên lãng.
Nhưng
nếu chúng ta tinh tế một chút, nhẫn nại một chút, và nhất là có lòng tìm hiểu
cội nguồn một chút, chúng ta cạo sạch các rét xỉ, tẩy xóa các sơn phết, uốn nắn
lại hình dạng, chúng ta sẽ nhận ra sự thuần nhất của chất liệu cấu thành, sự
tương đồng của mục tiêu sử dụng. Ðem nối các mắt xích lại với nhau, chúng ta có
được một sợi xích hoàn chỉnh, vốn là một bộ phận thiết yếu của một cỗ máy chúng
ta đã từng biết qua.
Hôm nay, chúng ta nhặt được 3 mắt
xích như vậy: thành Khu Túc, miếu Triệu nương, và câu chuyện bánh chưng bánh
tét. Ðó là những mắt xích cần nối lại.
x
x x
Trên
bờ nam sông Hương, trong địa phận thôn Nguyệt Biều, xã Thủy Biều, huyện Hương
Thủy, tỉnh Thừa Thiên -Huế, đối diện với Kim Long huyện Hương Trà bên bờ bắc,
ngày nay còn di tích một tòa thành cổ gọi là Thành Lồi. Lồi là danh từ dùng để
chỉ người Chàm. Dân chúng địa phương truyền tụng rằng vào cuối đời Trần, quân
Chiêm Thành xâm phạm Hóa Châu, đóng quân tại đó, sửa soạn giao chiến với quân
Ðại Việt án ngữ bên bờ bắc. Thay vì xua quân đánh nhau, tướng chỉ huy hai bên
giao ước thi nhau đắp thành. Trong một đêm, bên nào đắp thành cao và dài hơn
thì thắng, bên kia phải rút quân lui. Trong lúc quân Chiêm Thành đắp thành thật
bằng đất và gạch đá thì quân Ðại Việt đắp thành giả bằng tre và cót. Ðương
nhiên là thành bên Ðại Việt cao dài hơn, và quân Chiêm Thành tưởng rằng quân
Ðại Việt đông lắm nên sợ hãi y ước rút về. Lời truyền tụng này không đúng với
thực tế lịch sử, chẳng qua phản ánh tâm lý của dân ta khinh thị người Chiêm
Thành ngây ngô mà thôi. Thật vậy, vào đời Trần, Ðoàn Nhữ Hài phải vất vã lắm
mới đuổi được quân Chiêm Thành ra khỏi Hóa Châu, và thành Lồi Nguyệt Biều ngày
nay là di tích của thành Khu Túc thời Bắc thuộc.
Vào
đời Hán, Khu Túc là một đồn nhỏ trên đường nối liền hai huyện Tây Quyển và
Tượng Lâm. Từ khi Tượng Lâm độc lập, Khu Túc trở thành tiền đồn bảo vệ thành
Tây Quyển (ở phía bắc Huế) là quận lỵ của quận Nhật Nam. Ðến thời Tam Quốc, Trung Hoa
loạn lạc, Giao Châu hết thuộc Lưu Biểu lại về tay Tôn Quyền. Quân Lâm Ấp thừa
cơ, năm 248 sau Công nguyên, tiến đánh đồn Khu Túc rồi vượt sông chiếm thành
Tây Quyển, và thừa thắng kéo ra cướp phá Cửu Chân và Giao Chỉ, san bằng hai
quận thành Cư Phong và Luy Lâu. Cũng trong năm 248, ở vùng Trung Sơn, quận Cửu
Chân, nay là huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, Triệu Quốc Ðạt cùng bọn Vương
Thiện, Lãnh Long, Bao Thúc, Tốn Thận, dựng cờ khởi nghĩa, chống lại Ðông Ngô.
Nhưng được mấy tháng thì Triệu Quốc Ðạt bị bạo bệnh chết. Nghĩa quân bèn tôn em
gái Triệu Quốc Ðạt là Triệu Thị Trinh lên thay anh. Triệu Thị Trinh thường cưỡi
voi đánh thắng quân Ngô nhiều trận. Quân giặc sợ hãi, gọi bà là Lệ Hải Bà
vương. Bà là người tuổi trẻ lại có nhan sắc, cầm quân xung trận, dũng lược hơn
người, nên quân sĩ tôn vinh danh hiệu bà là Nhụy Kiều tướng quân:
Kiều kiều nữ tướng quân
Anh danh động phong
trần.
Năng hàn Ngô tử đảm
Phiêu dục động nhân
tâm.
(Bà nữ tướng xinh đẹp, Tiếng tăm
chấn động phong trần. Có thể làm mất vía quân Ngô, Sắc đẹp lại xúc động lòng
người).
Biến
loạn ở Giao Châu làm chấn động triều đình Ðông Ngô. Tôn Quyền bèn phong Lục Dận
làm Giao Châu Thứ sử, An Nam Hiệu úy, đem đại quân từ Kiến Nghiệp sang ứng phó.
Lâm Ấp phải lui binh, nhưng vẫn giữ thành Khu Túc. Từ năm 248, Lâm Ấp sửa sang
Khu Túc thành căn cứ quân sự hùng hậu, và đến triều vua Phạm Văn thì xây lại
bằng gạch với qui mô to lớn như ngày nay còn thấy ở di tích Nguyệt Biều. Cũng trong
năm 248, sau khi Lâm Ấp lui binh, nghĩa quân của Triệu Thị Trinh cô thế phải
tan rã. Triệu Thị Trinh cắt cổ tự tử. Dân chúng Cửu Chân thương cảm lập đền thờ
bà. Thuở bấy giờ, dân chúng Cửu Chân còn giữ nhiều tập tục của người Việt cổ
nên trong miếu thờ Triệu nương có bày nhiều đồ thờ có hình dạng dương vật, liên
hệ đến tục thờ linga. Những đồ tự khí này mãi đến đời Trần vẫn còn được nhắc
nhở tới (Việt Ðiện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên).
Tuy
nhiên, vì càng ngày càng Hán hóa đậm đà nên người Việt về sau lại theo đuôi
người Tàu truyền tụng những điều người Tàu đã bịa đặt có tinh cách thóa mạ vị
anh thư đáng kính đó của dân ta. Chuyện kể rằng Lục Dận biết được Triệu Thị
Trinh tuy anh dũng nhưng là con gái trẻ tuổi chưa chồng, có tính cả thẹn, nên
cho tướng sĩ để trần truồng mà ra trận, Triệu Thị Trinh thấy vậy mắc cỡ, chưa
đánh đã thua. Chuyện lại kể rằng chết đi Triệu nương được Thượng đế cho làm
thần ôn dịch, vì thế quân lính Ðông Ngô nhiều người mắc bệnh, Lục Dận cho thợ
đẽo nhiều ngọc hành bằng gỗ đem treo tại doanh trại để trấn áp, nhờ vậy mà bệnh
dịch chấm dứt. Mãi đến đời Lê Cảnh Hưng, năm Giáp ngọ (1774), Chủ bạ bộ Lễ là
Hồng Ðô Chư Cát Thi, khi hiệu đính Việt Ðiện U Linh Tập, còn phê phán việc thờ
linga ở miếu Triệu nuơng là việc làm sai trái, là thói tục xấu xa của dân chúng
Cửu Chân. Sử cũ nước ta sau ngày Ðinh Bộ Lĩnh dựng cờ độc lập năm 968 vẫn theo
đuôi người Tàu gọi Triệu nương là con mụ Triệu (Triệu Ẩu), gọi đạo quân Lâm Ấp
tràn vào Giao Châu năm 248 là quân giặc cướp.
Sự
thực thì binh lính bộ hạ của anh em họ Triệu là nghĩa quân Cửu Chân nổi dậy
chống ách đô hộ của người Tàu, binh lính Lâm Ấp là quân lính Tượng Lâm kéo ra
giải phóng dân Giao Châu thoát khỏi sự thống trị của dân Hán. Hai đạo quân đó
hoạt động cùng thời điểm (năm 248), theo đuổi cùng mục đích (chống Ðông Ngô).
Hai đạo quân đó là đồng minh với nhau, và đều là kẻ thù của người Tàu, y hệt
200 năm trước (năm 40 sau Công nguyên) Hai Bà Trưng khởi binh ở Giao Chỉ thì
dân Cửu Chân tham gia và dân Nhật Nam, Hợp Phố hưởng ứng. Hơn nữa, vào thời bấy
giờ, cư dân Tượng Lâm nào có gì khác biệt với cư dân Cửu Chân, Giao Chỉ. Họ đều
là hậu duệ đám di dân đợt II người Môn Nam Á (Bách Việt) tiến vào bờ biển bắc
bộ Ðông Dương vài nghìn năm trước. Có khác biệt chăng là cư dân Tượng Lâm sau
khi độc lập đã trở lại với văn hóa Ấn Ðộ, còn cư dân Giao Châu đang bị người
Tàu đô hộ thì bắt đầu thấm nhuần văn hóa Trung Hoa, và dần dà xa rời bản chất
Tiền Việt vốn chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn độ. Như vậy, quân Lâm Ấp có là quân
giặc cướp thì là giặc cướp đối với người Tàu. Ðối với cư dân bản địa các quận
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, vạn nhất quân Lâm Ấp đuổi được người Tàu ra khỏi
bờ cõi, thì cuộc tiến quân của Lâm Ấp năm 248, hay các cuộc tiến công về sau
này của Chiêm Thành, là những nổ lực chống đối ngoại xâm, giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, để tiến tới mục tiêu hình thành một quốc gia càng ngày
càng rộng lớn và hùng mạnh hơn.
Cùng một góc nhìn như
vậy, các đồ vật thờ tự có hình dạng sinh thực khí trong miếu thờ Triệu nương
phải được xem là biểu trưng của hiện tượng bảo lưu văn hóa của người Việt cổ
còn rơi rớt trong các vùng chưa Hán hóa đậm đà. Ðiều này làm chúng ta liên
tưởng tới bánh chưng bánh tét trong các ngày tư ngày Tết. Chuyện dân gian kể
rằng ngày xửa ngày xưa, vào đời Hùng vương thứ 6, ông con vua Lang Liệu dùng
gạo nếp chế ra bánh chưng bánh giầy đem dâng lên vua cha, vua cha nếm thử thấy
ngon hơn tất cả mọi thứ sơn hào hải vị do các ông con vua khác dâng lên nên
quyết định truyền ngôi cho Lang Liệu. Có điều là ngày nay bánh chưng chỉ có ở
miền Bắc, còn tại miền Trung và miền Nam chỉ có bánh tét chứ không có
bánh chưng, ngoại trừ ở các nơi thị tứ lớn như Huế và Sài Gòn thì có cả hai thứ
bánh chưng và bánh tét. Nếu danh từ Mệ nàng vẫn còn được sử dụng
trong địa bàn sinh hoạt của người Mường để chỉ con gái quí tộc, thì ở vùng
người Kinh sinh sống, Mệ nàng thời Hùng vương đã theo trào lưu Hán hóa mà biến
thành Mỵ nương như đang thấy trong câu chuyện cổ về mối tình Trương Chi
với Mỵ Nương, con vua Hùng vương thứ 18. Cũng cùng chung một quy luật diễn
biến, cái bánh tét có hình dạng sinh thực khí liên hệ với tục thờ linga của
người Việt cổ mới đúng là cái bánh do Lang Liệu sáng chế dâng lên vua Hùng
vương thứ 6. Cái bánh tét cổ truyền đó ngày nay còn tồn tại ở miền Trung, nơi
còn bảo lưu được ít nhiều bản sắc văn hóa cũ, rồi từ đó tràn vào miền Nam theo chân
các đoàn người Việt thiên di vào nam tìm đất sống. Tại các vùng chịu ảnh hưởng
sâu đậm văn hóa phương bắc, bánh tét có hình dạng sinh thực khí thuở ban sơ đã
biến đổi thành bánh chưng hình vuông theo quan niệm trời tròn đất vuông của
người Tàu.
x
x x
Một
số mắt xích đã đuợc nối lại. Ðiều này quả tình đã giúp chúng ta nhiều nhận thức
mới mẻ để soi sáng quá khứ của dân tộc, theo góc nhìn và thế đứng của chính
chúng ta, chứ không phải cứ lẽo đẽo theo đuôi người ngoài.
Tháng
ba, năm 2003
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Nhân Giới
Thiệu
TRUYỆN LỤC-VÂN-TIÊN
của NGUYỄN-ĐÌNH CHIỂU
Do NGUYỄN-BÁ-TRIỆU
chú giải, khảo dị và phục dạng *
Nghĩ Về Tiếng Việt Phổ Thông
Trên đất nước thân yêu của chúng ta
có một đường phân ranh vô hình nên rất ít người Việt Nam biết đến. Ngược lại, nhiều học
giả người Pháp trong nửa đầu thế kỷ XX lại thường xuyên nhắc nhở trong các công
trình khảo cứu của họ, tỷ như Bác sĩ Alexandre Yersin, nhà vi trùng học, giáo
sư Henri Russier, nhà địa lý học, và học giả Pierre Gourou, nhà khoa học nhân
văn đã mệnh danh văn minh Việt Nam là văn minh thảo mộc. Các vị này không chỉ
khẳng định sự hiện hữu mà còn xác quyết vị trí của đường phân ranh đó chạy dọc núi
Hải Vân theo một trục thẳng nối liền Đà Nẵng với Tchépone, chia cắt Đông Dương
thành hai miền bắc nam khác biệt nhau về nhiều phương diện: dịch bệnh, thủy
văn, địa chất, thảo mộc, nhân chủng v.v.
Nhận định trên đây đã đặt cơ sở trên
sự quan sát những dữ kiện khoa học thực nghiệm. Thật vậy, bất kỳ bệnh dịch nào,
nếu từ Hồng Kông tràn qua thì cũng dừng lại ở đèo Hải Vân, nếu từ Singapore
truyền lên thì cũng không đi xa quá Đà Nẵng. Khi ở miền bắc đường phân ranh
đang là mùa mưa lạnh thì ở miền nam thời tiết khô nóng. Về phương diện địa chất,
phía bắc trục Đà Nẵng-Tchépone là miền đá vôi, phía nam là miền đá hoa cương.
Hoa mai, lan ngọc điểm, cây cao su chỉ ra tới Quảng Bình, hoa đào, lan lá kiếm,
cây hồng thị không vào tới Nam Ngãi. Đối với các sắc tộc bản địa nguyên thủy,
phía bắc đường phân ranh là địa bàn cư dân Tiền Việt, phía nam là địa bàn cư
dân Nam
Đảo. Tất nhiên cũng có một vài biệt lệ, nhưng có biệt lệ mới có định luật, đó
là lẽ thường.
Điều đáng nói là đối với người bình
dân Việt Nam,
những chuyện vừa đề cập trên đây có vẻ là chuyện xa vời. Thực tế trước mắt là tại
Việt Nam
trước đây, người bình dân miền bắc ai cũng ngâm nga truyện Kiều, còn người bình
dân miền nam ai cũng thuộc lòng truyện Lục
Vân Tiên. Truyện Kiều rất phổ biến ở miền bắc cho đến Huế. Truyện Lục Vân Tiên
rất phổ biến ở miền nam và cũng chỉ ra tới Huế. Đi về hướng nam quá khỏi Huế
thì không còn thấy truyện Kiều. Đi về hướng bắc quá khỏi Huế thì cũng không ai
biết Lục Vân Tiên. Mà Huế thì đúng là nằm trên trục Đà Nẵng-Tchépone. Vậy vấn đề
được đặt ra là sự khác biệt về địa bàn phân phối và mức độ phổ cập của hai tác
phẩm Kiều và Lục Vân Tiên có liên quan gì đến sự khác biệt nam bắc của bán đảo
Đông Dương về mặt văn hóa để bổ sung cho sự khác biệt về các mặt dịch bệnh, thủy
văn, địa chất, thảo mộc, nhân chủng mà các học giả người Pháp đã cố công tìm
tòi, nghiên cứu ? Cũng may là không!
May là không! Thật vậy, chuyện nắng
mưa, nóng lạnh của trời, chuyện đất đá, cây cỏ của đất, cũng như chuyện tật bệnh,
giòng giống của người, thảy thảy đều là những chuyện không dễ gì thay đổi theo
ý muốn nhất thời của con người. Nhà cầm quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã nhiều
phen cố gắng trồng cao su ở miền bắc nhưng chỉ thâu hoạch được chút ít mủ và
chút ít crêpe từ mấy cái đồn điền èo uột vùng Quảng Bình. Nhà cầm quyền Việt
Nam Cộng Hòa trước đây bỏ công đem đào và hồng thị vào trồng trên cao nguyên Đà
Lạt nhưng đào chỉ là đào anh túc, còn hồng thị thì kém ngọt kém dòn. Còn tình
trạng truyện Kiều và truyện Lục Vân Tiên lại khác. Sau năm 1945, với việc dùng
Việt ngữ trong giảng dạy, song hành với việc nâng tầm quan trọng của môn Việt
văn, truyện Kiều và truyện Lục Vân Tiên được đưa vào chương trình giáo dục bậc
trung học, và ngày nay tại Việt Nam cả hai tác phẩm Kiều và Lục Vân Tiên đều đã
được biết đến trong cả nước. Âu cũng là điều vui mừng cho tiến trình đại chúng
hóa các tác phẩm tiêu biểu của nền văn học nước nhà, và là biểu hiện đậm nét của
xu hướng thống nhất sở thích và tình cảm của con người Việt Nam.
Nổi vui mừng ngày hôm nay làm liên
tưởng tới thân phận hẩm hiu của truyện Lục Vân Tiên trong tâm tư giới sĩ phu
ngày trước. Trong lúc truyện Kiều chữ nôm từ Huế trở ra Bắc nhan nhãn khắp nơi,
ngoài dân gian, trong triều nội, nào là bản Kinh, nào là bản phường, thì truyện
Lục Vân Tiên chỉ được giới bình dân hâm mộ truyền tụng mà không được giới nho
sĩ quan tâm bình phẩm tán dương. Nhìn quẫn nhìn quanh, truyện Lục Vân Tiên chữ
nôm ngày trước chỉ được một vài học giả người nước ngoài lưu tâm san định và ấn
hành, như bản Lục Vân Tiên Truyện do Duy Minh Thị hiệu đính tại Gia Định, khắc
gỗ và đưa in năm 1874 tại Phật Trấn, Việt Đông, và bản Lục Vân Tiên Ca Diễn do
Abel Des Michels, Giáo sư trường Sinh Ngữ Đông Phương diễn âm và chuyển ngữ, và
nhà xuất bản Ernest Leroux ấn hành năm 1883 tại Paris. Cả một thế kỷ trôi qua,
truyện Lục Vân Tiên đụng đầu với sự thờ ơ lạnh nhạt của giai cấp nho sĩ, cũng
như của giới trí thức tân học. Thật thế, ngoại trừ một bản Duy Minh Thị khác cổ
hơn in trước 1865, một bản chữ nôm chép tay không rõ tự dạng của ai, và bản
Jeanneaux in năm 1873 tại Sài Gòn, là 3 bản mà Abel Des Michels dùng làm tài liệu
so sánh, hiệu đính, diễn âm và dịch ra Pháp văn, tức là tác phẩm Lục Vân Tiên
Ca Diễn, trước sau chỉ lèo tèo có mấy học giả quan tâm nghiên cứu và chú giải
truyện Lục Vân Tiên: Aubaret, Bajot, Trương Vĩnh Ký, Sorilène, Nguyễn Thanh
Tâm, Ngọc Hồ.
Nếu truyện Lục Vân Tiên đã phải cam
chịu thân phận hẩm hiu không được hoan nghinh và phổ cập rộng rãi trong thượng
tầng xã hội trí thức Việt Nam thì ngược lại, truyện Lục Vân Tiên đã được nồng
nhiệt đón mừng và chân thành trân trọng bởi quảng đại quần chúng bình dân, đặc
biệt là ở Nam Kỳ Lục Tỉnh, không phải nhờ một bản chép tay hay bản khắc gỗ nào
đặc biệt mà nhờ bản văn truyền khẩu Thơ Vân Tiên Nói Thuộc Lòng. Năm 1973, tại
Sài Gòn, Ủy Ban San Định Các Tác Phẩm Của Nguyễn Đình Chiểu thuộc Phủ Quốc Vụ
Khanh Đặc Trách Văn Hóa, khi ấn hành cuốn Lục Vân Tiên Chữ Nôm và Hiệu Đính, đã
đưa ra nhận xét rằng bản Abel Des Michels được soạn thảo công phu và khoa học,
và rất gần với nguyên tác, hơn hẳn bản Duy Minh Thị 1874, vì lẽ rất giống bản
văn nói thuộc lòng lưu truyền trong dân chúng miền Lục Tỉnh. Cho hay cửa miệng
thế gian thường phản ánh trung thực việc làm và tâm trạng người đời, nên đôi
lúc đáng tin cậy hơn cả những công trình lưu ký thành văn. Hơn nữa, sau khi
truyện Lục Vân Tiên ra đời được vài chục năm, việc ghi chép và ấn loát ở nước
ta đã trải qua một thời kỳ thay đổi sâu xa và toàn diện. Thật vậy, các khoa thi
hương được bãi bỏ ở Bắc Kỳ từ năm 1915, và ở Trung Kỳ từ năm 1918, các lớp học
của các thầy đồ dạy chi hồ giả dã được thay thế bằng các trường học dạy chương
trình Pháp Việt, và chữ Nôm viết theo tự dạng Hán được thay thế bằng chữ quốc
ngữ viết theo mẫu tự La Tinh. Trong bối cảnh đó, truyện Lục Vân Tiên bắt đầu được
ấn hành bằng chữ quốc ngữ.
Việc ấn loát và phát hành sách báo
chữ quốc ngữ là một bước ngoặc quan trọng trên tiến trình thống nhất ngôn ngữ
và văn tự của dân tộc ta ở cả ba miền trung nam bắc. Thật thế, trước đây, dân
ta ở mổi miền chẳng những phát âm theo giọng nói khác biệt nhau mà còn sử dụng
một số từ ngữ đặc thù mang tính cách địa phương rõ rệt. Ngay cả những từ ngữ phổ
quát cho cả ba miền mà người bắc với người nam, người mỗi miền vẫn có những lối
phát âm riêng biệt. Người miền bắc lẫn lộn trong (trong ngoài) với chong (chong
đèn), sung (sung túc) với xung (xung đột), rồi (rồi việc) với dồi (dồi dào).
Người miền nam lẫn lộn biếc (xanh biếc) với biết (biết chữ), lượn (bay lượn) với
lượng (độ lượng), và người cư trú từ phía tây quốc lộ 1A tỉnh Thanh Hóa trở vào
Nam Kỳ Lục tỉnh thì không phân biệt dấu hỏi với dấu ngã. Việc phát âm lẫn lộn một
số tiếp đầu và tiếp vĩ, cũng như việc không phân biệt các dấu giọng hỏi ngã, đã
đưa tới hệ quả là khi ghi chép sách truyện dưới tự dạng Hán Nôm, các bản văn khắc
gỗ ngày trước trong nam ngoài bắc khác biệt hẳn nhau vì lẽ Hán Nôm là thứ chữ
theo cấu trúc tượng hình hoặc hội ý, không phải là thứ chữ ký âm. Sự khác biệt
của các bản khắc, nếu không đem ra tỉ mỉ nghiên cứu, đối chiếu, thì không thể
nào nhận ra sự tương quan liên hệ. Việc ấn hành sách báo bằng chữ quốc ngữ, ngược
lại, làm nổi bật sự khác biệt giữa các văn bản ghi chép theo lối phát âm địa
phương, nhưng đồng thời cũng cho người đọc thấy được sự tương đồng của phần căn
bản. Chính điểm này đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển tiếng
Việt phổ thông, là tiếng nói tiêu chuẫn, tiếng nói thống nhất của cả ba miền
trung nam bắc. Người mỗi địa phương tuy phát âm khác nhau một số tiếp đầu tiếp
ngữ , có hoặc không có phân biệt các dấu giọng, nhưng khi viết thì cố gắng viết
theo quy ước chung của tiếng nói tiêu chuẫn, tức là chữ quốc ngữ.
Năm 1902, người Pháp chuyển trung
tâm hành chính của Đông Dương thuộc Pháp từ Sài Gòn ra Hà Nội, các Toàn Quyền
Paul Beau, Paul Doumer và nhất là Albert Sarraut ra sức mở mang Hà Nội, vốn là
trung tâm văn hóa của Việt Nam, thành trung tâm phô trương văn minh Đại Pháp, với
chủ đích biến Hà Nội thành điểm hấp lực không những của toàn bộ Đông Dương mà
còn của các tỉnh Vân Nam và Lưỡng Quảng. Trong bối cảnh đó, chữ quốc ngữ được
hoàn thiện song hành với đà phát triển văn hóa và cải cách giáo dục theo mẩu mực
Tây phương. Đông Pháp Tiểu Học Tùng Thư được thành lập để biên soạn các sách
giáo khoa chương trình sơ đẳng, dưới sự trông nom của các ông Trần Trọng Kim,
Bùi Kỷ, Đậng Đình Phúc, và Đỗ Thận. Mấy cuốn sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư các lớp
Đồng ấu, Dự bị và Sơ đẳng của cơ quan này đã tích cực góp phần vào sự hình
thành tiếng Việt phổ thông và chữ viết tiêu chuẫn. Mặt khác, Chánh sở Liêm
phóng Đông Pháp Louis Marty yểm trợ học giả Phạm Quỳnh xuất bản báo Nam Phong ở
Hà Nội và cổ động mọi người đọc truyện Kiều, trong lúc chủ nhiệm báo Le
Courrier Saigonnais Henri Blaquière giúp phương tiện tài chánh cho con gái cụ Đồ
Chiểu là nữ sĩ Suơng Nguyệt Anh xuất bản tờ Nữ Giới Chung ở trong nam. Thế là
chữ Hán chỉ còn được sử dụng giới hạn trong các công văn của Nam triều và các sớ
điệp cúng tế ở đền chùa, còn chữ nôm thì hầu như hoàn toàn nhường chổ cho chữ
quốc ngữ. Trên văn đàn, sách truyện, báo chí chữ quốc ngữ theo nhau xuất hiện,
nở rộ nhất loạt như hoa mùa xuân.
Theo với trào lưu, truyện Lục Vân
Tiên chữ quốc ngữ được ấn hành. Đương nhiên là các bản Lục Vân Tiên quốc ngữ có
các sai lầm tự dạng của nguyên bản nôm, những sai lầm mà chính tác giả là cụ
Nguyễn Đình Chiểu không kiểm soát được vì cụ bị lòa, phải nhờ người chép hộ.
Ngoài ra, khi chuyển nôm thành quốc ngữ, tùy thuộc gốc gác sinh trưởng và căn bản
học thức của người chuyển tự dạng mà phát sinh nhiều khác biệt giữa các văn bản
chữ quốc ngữ do sự phát âm lẫn lộn các tiếp đầu tiếp ngữ và sự không phân biệt
các dấu giọng hỏi ngã gây nên. Sau cùng phải kể tới việc một số người đảm trách
công tác chuyển tự dạng, khi gặp các từ và các cụm từ viết sai hoặc chép sai,
hoặc tối nghĩa, đã vì sở kiến chủ quan của mình mà tự ý sửa chữa một cách khẳng
định, không ghi chú để tồn nghi, nên bản văn lại càng khác xa nguyên bản.
Năm 1973, Ủy Ban San Định các Tác
Phẩm của Nguyễn Đình Chiểu thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa ở Sài Gòn
đã biên soạn và ấn hành cuốn Lục Vân Tiên Chữ Nôm và Hiệu Đính. Đây là công
trình sưu khảo tập thể công phu và rất đáng được trân trọng của nhóm các ông Lê
Thọ Xuân, Đỗ Thiếu Lăng, Tăng Văn Hỷ, Bùi Đức Tịnh, Lê Ngọc Trụ, Nguyễn Văn Y,
Ngọc Hồ, Trần Văn Mãi, Vũ Văn Kính và bà Ái Lan. Tuy rằng cuốn sách này đã đạt
được thành quả tích cực là chỉnh lại bản chữ nôm Abel des Michels và so sánh sự
dị biệt với các bản quốc ngữ khác, nhưng vẫn còn bộc lộ một vài khuyết điểm như
không chú thích điển tích, không diễn giải ý tứ các câu văn tối nghĩa, và không
ghi chú các từ ngữ cổ mà ngày nay không còn thông dụng. Người đọc truyện Lục
Vân Tiên, dù là đọc chơi để tiêu khiển, hay đọc chăm chú để nghiên cứu, đều phải
mất thêm nhiều công sức tìm tòi. Nếu không kiếm được lời giải thích thỏa đáng
thì khát vọng học hỏi cứ canh cánh mãi trong lòng.
Ông Nguyễn Bá Triệu đã đáp ứng đúng
lúc khát vọng đó của bạn đọc muôn phương. Trong Truyện Lục Vân Tiên Chữ Nôm do
Nguyễn Bá Triệu biên soạn, chú giải, khảo dị, và phục dạng, ngoài bản nôm Abel
des Michels, tác giả còn in thêm bản nôm Duy Minh Thị, cả hai bản đều được phục
dạng rõ ràng, tự dạng gốc vẫn được giữ nguyên vẹn, và được trình bày đối mặt với
bản quốc ngữ. Người đọc sẽ dễ dàng nhận ra những dị biệt tự dạng và chính tả giữa
hai bản nôm, và nhất là những dị biệt ký âm và chuyển tự dạng giữa hai bản nôm
với bản quốc ngữ tương ứng. Ngoài ra, tác giả chú thích đầy đủ các điển tích,
ghi chú các từ ngữ c° không còn thông dụng, và diễn giải thành tiếng Việt phổ thông các tiếng
đặc thù của miền nam còn rất xa lạ đối với bạn đọc các địa phương khác.
Tưởng cũng nên nhắc đến dụng tâm
công phu của tác giả Nguyễn Bá Triệu trong việc phục dạng các bản nôm. Phục dạng
hoàn toàn không hàm ý phục chế, nghĩa là không phải viết lại chữ mới. Từng chữ,
từng chữ trong nguyên bản, đều được cẩn trọng giữ nguyên tự dạng. Tác giả và
các người giúp việc đã tỉ mỉ tô đậm những chỗ bị mất, bị mờ, theo sát khuôn khổ
của khung chữ cũ, nhờ vậy mà cả hai bản nôm Abel des Michels và Duy Minh Thị,
sau khi được phục dạng, đã trở nên rõ ràng mà tự dạng gốc vẫn được giữ nguyên vẹn.
Mặt khác, các sai lầm chính tả đều được chỉnh đốn lại. Các bạn đọc đã có căn bản
Hán tự đều có thể sử dụng các văn bản này để tự học chữ nôm.
Điều đáng quý trong công trình sưu
khảo của Nguyễn Bá Triệu là tác giả đã thẳng thắng và mạnh dạn trình bày phần ý
kiến riêng của mình. Những người thiếu tự tin và không có tinh thần trách nhiệm
thường chỉ nói ra những điều chung chung, ai cũng đã biết qua, ai cũng sẵn sàng
chấp nhận. Tác giả Nguyễn Bá Triệu thì khác. Tuy đã lớn tuổi, ông Nguyễn Bá Triệu
là người hình hài tráng kiện, dáng dấp quắc thước, tinh thần minh mẫn, tính khí
bộc trực, ưa ăn to nói lớn, và dám nghĩ dám làm. Ông sinh trưởng ở miền Vĩnh Bảo,
Hải Dương, và rất tự hào về quê hương sản xuất thuốc lào của ông. Ông là một
trong những người miền bắc rất hiếm hoi không nhận vơ mình là người của đất
ngàn năm văn vật. Ông thường có những nhận xét tế nhị về sự dị biệt giữa tiếng
Hà Nội và tiếng Việt ph° thông. Ngay hồi còn học ở trường tỉnh, ông đã vô tình c° súy cho tiếng Việt phổ thông
qua câu chuyện có thật “trâu trắng, tâu tắng, châu chắng” giữa mấy người bạn
cùng lớp. Lớn lên, ông sống lâu năm ở Sài Gòn, rồi thiên cư qua Canada, thường
xuyên chung đụng với người Việt tứ xứ, ông lại càng thiết tha với tiếng Việt phổ
thông. Quả tình ông Nguyễn Bá Triệu có lý khi ông nhiệt tình cổ súy cho tiếng
Việt phổ thông. Chúng ta cứ việc thoải mái nói gà trống hay gà sống, miễn là
chúng ta nghĩ rằng đó là gà đực, không phải là gà mái, và viết ra giấy trắng mực
đen là gà trống. Cứ để cho cô nữ sinh Sài Gòn nói “Xời ời!”, cô nữ sinh Cần Thơ
nói “Chời ơi!”, cô nữ sinh Hà Nội nói “Giời ơi!”. Để họ nói như vậy mới cảm nhận
được trọn vẹn nét duyên dáng và vẻ kiều mị của họ, bởi lẽ người Việt Nam khắp nơi đều
hiểu là họ muốn kêu Trời. Về mặt này, ông Nguyễn Bá Triệu đã mạnh dạn và thẳng
thắng trình bày ý kiến riêng của mình trong các tác phẩm biên khảo trước đây của
ông. Ông đã từng chỉnh lại thành ngữ “tai vách mạch dừng” đúng theo tiếng Việt
phổ thông. Dừng (ông Nguyễn Bá Triệu viết là giừng) là những nan tre làm khung
cốt cho vách đất. Tai vách mạch dừng có nghĩa là dừng có mạch, vách có tai,
chuyện thầm kín đến đâu vẫn có người biết được. Nhiều người không hiểu dừng là
gì, lầm tưởng người sử dụng thành ngữ đã nói sai, viết sai theo lối phát âm đặc
thù địa phương, nên chủ quan tùy tiện chửa lại thành tai vách mạch rừng.
Nay với Truyện Lục Vân Tiên do ông
biên soạn, chú giải, khảo dị và phục dạng, thêm một lần nữa, ông đã nhiệt tình
góp phần không nhỏ vào việc bảo tồn các áng văn cổ viết bằng chữ Nôm và hoàn chỉnh
tiếng Việt phổ thông.
Ottawa, tháng 5 năm 2003
Minh
Vũ Hồ Văn Châm
*
Truyện Lục Vân Tiên Chữ Nôm. Nguyễn Bá Triệu biên soạn, chú giải, khảo dị, phục
dạng. Tác giả xuất bản. Printing 2003-ISBN 0-9730214-0-3 by Nguyen Ba Trieu, 22
Elderwood Trail, Stittsville,
ON K2S 1C9,
Canada.
Phiếm Luận
Mặt Sau Của Bức Tranh
Biến Cố Tết Mậu Thân
Nhìn lướt qua những bức tranh trên
tường phòng triển lãm, khách tham quan chỉ nhìn mặt trước. Dừng lại thưởng lãm
những bức tranh vừa mắt, người xem tranh, tiến lại gần để xăm xoi các chi tiết,
hay lùi ra xa để bao quát cái tổng thể, cũng chỉ nhìn mặt trước. Đến khi quyết
định mua bức tranh, tháo gỡ xuống để mang về nhà, bấy giờ người mua tranh mới lật
ngửa ra để xem qua mặt sau. Nhưng cũng chỉ là cái nhìn chiếu lệ, nhìn do thói
quen, hay nhìn để khỏi mang tiếng vô tâm, tắc trách.
Riêng những nhà nghiên cứu có nhiệm
vụ tìm hiểu nguồn gốc, xác định niên đại tạo thành, thẩm định giá trị nghệ thuật
của bức tranh, hay những chuyên viên đồ cổ có mục đích định giá, đối với họ, mặt
trước mặt sau của bức tranh đều quan trọng như nhau. Nhất là những bức tranh
quý giá, mặt trước đôi khi chỉ là mặt giả tạo che phủ mặt thật bên dưới, còn mặt
sau luôn luôn là mặt thật có thể giúp người quan sát tìm ra mặt thật của mặt
trước bức tranh.
Biến cố Tết Mậu Thân là một bức
tranh thời sự quan trọng, rất được nhiều người nhắc nhở tới. Nhưng những điều
đã được nhắc nhở tới, từ trước đến nay, hầu hết là những mảng mầu sắc lung linh
hư ảo của mặt trước bức tranh. Những tác giả của bức tranh thời sự này đã tiếp
tay nhau tạo ra một bộ mặt giả tạo để che phủ bộ mặt thật của biến cố Tết Mậu
Thân. Muốn nhìn rõ dung nhan, thấy rõ thực chất, hiểu rõ căn nguyên, chúng ta
hãy cùng nhau lật ngửa bức tranh lại để quan sát mặt sau, nhiên hậu mới quán
triệt tường tận bản chất các sự kiện lịch sử đã làm nền tảng cho sự cấu thành mặt
thật của bức tranh Tết Mậu Thân.
Biến cố Tết Mậu Thân là sự đụng đầu
võ trang giữa những người Việt Nam cộng sản và không cộng sản trên địa bàn phía
nam vĩ tuyến 17. Nói một cách chính xác hơn, đó là sự đụng đầu võ trang giữa
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa với lực lượng tổng công kích tổng nổi dậy của Mặt
Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Đứng đằng sau yểm trợ cho Việt Nam Cộng Hòa
là quân đội Mỹ, cho Mặt Trận Giải Phóng là quân đội Bắc Việt. Cơ quan thông tin
tuyên truyền của hai bên luôn luôn rêu rao Việt Nam Cộng Hòa là bù nhìn tay sai
Mỹ, Mặt Trận Giải Phóng là công cụ xâm lược miền Nam của Cộng sản Bắc Việt. Vào
dịp Tết Mậu Thân, đã có thỏa hiệp công khai hưu chiến giữa hai bên, nhưng sau
đó Việt Cộng bội ước, nửa đêm về sáng mồng một Tết bất thần đánh vào các thành
phố phía nam vĩ tuyến 17. Phía Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn bị bất ngờ. Cả Tổng
Thống lẫn Phó Tổng Thống đều không có mặt ở Sài Gòn, người về Mỹ Tho, người ra
Khánh Dương. Tuy thế, Quân Lực VNCH đã chống trả hữu hiệu, giữ vững vị trí, ngoại
trừ Thành phố Huế bị mất vào tay quân đội Bắc Việt. Mấy ngày đầu, quân đội Mỹ
bàng quan bất động, sau đó mới hợp tác cùng chính quyền VNCH đánh chiếm lại Huế
và truy lùng tiêu diệt Việt Cộng đã xâm nhập vào các thành phố. Tổng kết, trong
biến cố Tết Mậu Thân, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được cái lợi về mặt
tuyên truyền quốc ngoại, nhưng trong thực tế đã thất bại thê thảm : toàn bộ lực
lượng nằm vùng và cơ sở hạ tầng bị phát hiện và bị tiêu diệt. Sau đó, cán bộ
tuyên truyền của cộng sản miền Bắc rỉ tai dân chúng rằng Bác Hồ đau đớn về sự mất
mát nhân sự ở miền Nam nên sinh bệnh mà qua đời vào đầu tháng 9 năm 1969.
Những sự kiện tóm lược trên đây là mặt
trước của bức tranh thời sự biến cố Tết Mậu Thân. Lật mặt sau ra quan sát kỹ lưỡng
thì sẽ thấy còn có nhiều điều hay. Thật vậy, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền
Nam không phải là con đẻ của cộng sản Việt Nam, mà là một sản phẩm chính trị do
thực dân Pháp và cộng sản Nga phối hợp nhào nặn ra để gán ép cho cộng sản Việt
Nam nuôi dưỡng và sử dụng. Nói một cách ví von thì Mặt Trận Giải Phóng không phải
là con đẻ mà là vợ gán ép của cộng sản Việt Nam, một người vợ phải cưới một
cách gượng gạo qua một cuộc hôn nhân được thu xếp hoàn toàn vì quyền lợi riêng
tư của các phía có liên quan. Thật vậy, đầu năm 1960, ngoại trưởng Pháp
Schumann đi Mạc Tư Khoa gặp ngoại trưởng Liên Xô Molotov, và hai bên đã thỏa
thuận để cho những thành phần thân Pháp chống Mỹ ở miền Nam Việt Nam tập hợp
thành một tổ chức chính trị hoạt động dưới danh nghĩa nhân dân miền Nam Việt
Nam chống chính quyền Ngô Đình Diệm. Những thành phần thân Pháp này, nếu đứng
riêng rẽ thì không thể nào có danh nghĩa để tranh thủ sự đồng tình của dư luận
quốc tế. Nếu đứng riêng rẽ thì trước mắt dân chúng Việt Nam, họ lại
càng lộ rõ bộ mặt tay sai của thực dân Pháp. Bởi vậy, đứa con gái của thực dân
phải đem gã bán cho cộng sản để đội lốt họ nhà chồng ngõ hầu đánh lừa thiên hạ,
mập mờ đánh lận con đen. Kềt quả của những toan tính chính trị này là cuối năm
1960, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam ra đời. Như vậy, Mặt Trận Giải
Phóng nhất quyết không phải là con đẻ của cộng sảnViệt Nam. Nhưng bảo
rằng sự ra đời của Mặt Trận Giải Phóng không có sự đồng tình của cộng sản Việt Nam thì cũng
không đúng. Cộng sản Việt Nam
phải ngậm bồ hòn làm ngọt để nhận người em gái kết nghĩa này. Chẳng những phải
thừa nhận mà còn phải ra sức hổ trợ, theo lệnh của cha đẻ Liên Xô. Mặt Trận Giải
Phóng với những lãnh tụ như Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết, Dương
Quỳnh Hoa, Truơng Như Tảng, căn bản là những thành phần thân Pháp, nay đội lốt
họ nhà chồng, khoác lên mình chiếc áo giải phóng dân tộc, đấu tranh dân chủ, cải
tiến dân sinh để tranh thủ dư luận Việt Nam và thế giới. Miền Nam Việt Nam đối
kháng với chính quyền Ngô Đình Diệm được tổ chức theo khuôn khổ cổ điển của cộng
sản quốc tế với ba thành phần Nhân Dân, Đảng và Nhà Nước. Mặt Trận Giải Phóng đại
diện nhân dân, Đảng thì có Đảng Nhân Dân Cách Mạng, còn nhà nước thì có Chính
Phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam. Trong những năm đầu của thập niên 60, Đảng Nhân
Dân Cách Mạng Miền Nam Việt Nam với Huỳnh Tấn Phát cầm đầu có vị thế giống như
Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào của Cay Xỏn Phom Vi Hãn.
Rõ ràng là với sự đồng lõa của cộng
sản Liên Xô, thực dân Pháp đã thành công trong việc đưa con gái len lỏi vào bên
trong ngôi nhà Nam Việt Nam
mà họ đã phải cay cú rời bỏ năm 1955. Nhiệm vụ giao cho con gái thật là rõ ràng
: mượn danh nghĩa họ nhà chồng, lợi dụng sức lực ông anh kết nghĩa, ra sức chống
phá Mỹ-Diệm để đoạt lại cơ ngơi đã mất. Nhưng cộng sản Việt Nam tất nhiên
không ngồi yên để bị trắng trợn lợi dụng. Cộng sản Việt Nam đã tích cực
phản ứng rất hữu hiệu để khỏi thấp mưu thua trí thực dân. Đòn phép của cộng sản
Việt Nam
là lấy luôn người em kết nghĩa làm vợ. Từ nay, tuy cũng cần giữ ý để tiếp tục
đánh lừa những người nhẹ dạ, lúc ban ngày ban mặt, giường ai nấy nằm, nhưng lúc
tối lửa tắt đèn, minh minh trường dạ, cộng sản Việt Nam đã cưỡng ép người em kết
nghĩa phải nhất nhất làm theo ý mình, tuân hành triệt để các chỉ thị của mình,
thực thi trọn vẹn các kế hoạch của mình, để tranh đoạt ngôi nhà Nam Việt Nam
cho mình. Người em gái kết nghĩa trở thành người vợ tuyệt đối phục tùng. Âm thầm
trong bóng tối, Đảng Nhân Dân Cách Mạng Miền Nam Việt Nam bị giải thể.
Mặt Trận Giải Phóng và Chính Phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam được đặt dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của cộng sản Việt Nam qua hai nhân vật Võ Chí Công và Mai
Chí Thọ được sung vào ban lãnh đạo Mặt Trận. Bộ mặt trân tráo, thô bạo và nham
hiểm của người chồng cộng sản được che đậy phần nào bởi những khuôn mặt vô thưởng
vô phạt như Nguyễn Đóa được đưa vào làm Phó Thủ Tướng, và Nguyễn Thị Bình, một
cán bộ giáo dục trung cấp, được đôn lên làm Bộ Trưởng Ngoại Giao trong Chính Phủ
Lâm Thời Miền Nam Việt Nam. Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam từ nay, dưới
con mắt nhận xét của những nhà phân tích chính trị thượng tầng, đã có danh phận
rõ ràng hơn. Diễn đạt theo lối ví von, Mặt Trận Giải Phóng là con gái thực dân
Pháp, đem gã làm dâu cộng sản Nga, và là vợ cưỡng bức của cộng sản Bắc Việt.
Thói thường, hồng nhan đa truân chỉ
vì đa tình, huống hồ lại là thứ hồng nhan bạc mệnh, cuộc sống lứa đôi đã không
phải vì tình mà cũng không hẳn vì lợi, một cuộc sống lứa đôi gượng ép, cưỡng bức.
Bởi vậy, người vợ bất đắc dĩ, người vợ không có hạnh phúc, đã ngoại tình không
chút đắn đo suy tính khi bắt gặp cơ hội đầu tiên, mà nguời tình lại là kẻ địch
hiện tại của chồng, người tình lại là kẻ thù không đội trời chung của cả họ nhà
chồng. Nguời tình đó không phải là ai xa lạ. Người tình đó là đế quốc Mỹ. Bạn đọc
không tin ư ? Thưa rằng vụ đi đêm này đã để lại chứng tích cụ thể là một bé
trai kháu khỉnh mang hai dòng máu Mỹ-Việt, và về mặt huyết thống thì là cháu
ngoại của lãnh tụ Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Mẹ của
cháu bé, trước năm 1975, đã bao nhiêu lần tay xách nách mang, lặn lội vào cục R
thăm cha. Nào ai biết, ngoài các nhu yếu phẩm mang vào tiếp tế cho cha già, người
thiếu phụ can trường và duyên dáng đó còn mang theo những thứ gì khác? Chỉ biết
rằng sau mỗi lần từ cục R trở về, nàng thường bị Cục Trung Ương Tình Báo Việt
Nam làm khó khăn và lại thêm một lần nhọc công đại sứ Mỹ Bunker vào ngồi chờ ở
phòng khách Dinh Độc Lập để can thiệp xin ân xá cho nàng. Sau tháng tư năm
1975, cháu bé không theo cha mẹ về Mỹ mà ở lại Sài Gòn sống với ông ngoại.
Mặt Trận Giải Phóng không phải chỉ
có mỗi một người tình là đế quốc Mỹ, mà còn có thêm một người tình nữa là cộng
sản Trung Quốc. Sự thực là lúc đầu, Trung Cộng không ủng hộ chiến dịch Đồng Khởi
ở miền Nam Việt Nam. Năm 1954, khi đập bàn quát tháo Phạm Văn Đồng, thúc dục ký
hiệp nghị Genève, Chu Ân Lai đã lộ thâm ý muốn chia cắt Việt Nam về lâu về dài.
Sau này, cộng sản Trung Quốc vẫn kiên trì thuyết phục cộng sản Việt Nam chấp nhận
sách lược trường kỳ mai phục. Chỉ khi cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn khống chế
được Mặt Trận Giải Phóng, nhất là sau thông cáo Thượng Hải năm 1972, Trung Cộng
mới bắt đầu ve vãn Mặt Trận Giải Phóng, những mong tách được Mặt Trận Giải
Phóng ra khỏi sự phụ thuộc quá đáng vào cộng sản Việt Nam. Khác hẳn cuộc tình
duyên vụng trộm với đế quốc Mỹ, vụ ngoại tình với Trung Cộng mang tính cách gần
như công khai. Trung Cộng và Chính Phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam ký kết với
nhau những văn kiện chính thức ở cấp bậc chính phủ, tỷ dụ như hiệp ước về kiều
dân hai nước đi lại không cần phải xin chiếu khán, và việc thiết lập các cơ sở
ngoại giao ở cấp bậc Đại Sứ khi tình hình cho phép. Bước qua những năm đầu của
thập niên 70, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, bên trong càng bị người chồng
cộng sản Việt Nam kiểm soát, trói buộc chừng nào thì bên ngoài lại càng được
người tình cộng sản Trung Quốc chiều chuộng, tô chuốt và đề cao bấy nhiêu. Sau
hiệp định Paris tháng giêng 1973, Mặt Trận có cơ sở và đại diện ngoại giao ở Bắc
Kinh. Trung Cộng cố tình tạo cho Mặt Trận Giải Phóng có bộ mặt của một nhà nước
chính thống, không khác gì Hà Nội. Dụng tâm này của người tình cộng sản Trung
Quốc đã làm cho người chồng cộng sản Việt Nam căm giận thâm gan tím ruột.
Cả hai người tình đế quốc Mỹ và cộng
sản Trung Quốc đã tìm đến ve vãn người đẹp Mặt Trận do những hoàn cảnh và với
những dụng ý khác nhau. Đế quốc Mỹ nguyên lai cảm thấy khó chịu khi bị thực dân
Pháp cấu kết với cộng sản Nga đưa con gái ruột len lỏi vào bên trong ngôi nhà
Nam Việt Nam để chống phá và âm mưu sang đoạt. Phản ứng lúc đầu của Mỹ là triệt
hạ những vây cánh thân Pháp của Mặt Trận. Những vây cánh này mọc gốc mọc rễ ở hạ
tầng cơ sở. Người Mỹ một mặt triển khai chiến dịch Phượng Hoàng năm 1967 trong
khuôn khổ chương trình Bình Định và Phát Triển, mặt khác đã không ngần ngại thỏa
hiệp với cộng sản Việt Nam bật đèn xanh cho Mặt Trận Giải Phóng dốc toàn lực tiến
hành tổng công kích, tổng nổi dậy đầu năm 1968, tức là biến cố Tết Mậu Thân. Cả
Mỹ lẫn Bắc Việt đều mang dụng tâm mượn tay quân lực VNCH, với sự tiếp sức về
sau của quân đội Mỹ, truy lùng và tận diệt những thành phần thân Pháp ở miền
Nam. Kết quả là từ Tết Mậu Thân đầu năm 1968 đến cuối năm 1971, toàn bộ hạ tầng
cơ sở của Mặt Trận Giải Phóng đã hoàn toàn bị vô hiệu hóa. Các thành phần nằm
vùng, tất cả đều bị lộ diện, nếu không bị tiêu diệt thì cũng phải bỏ chạy vào mật
khu. Vụ Mậu Thân có lợi chút đỉnh cho cộng sản về mặt tuyên truyền quốc ngoại,
nhưng có lợi là có lợi cho người chồng cộng sản Việt Nam, còn về phần người vợ
Mặt Trận thì kết quả thật là muôn phần bi thảm, từ nay trắng tay, đồ tế nhuyễn,
của riêng tư, muôn phần còn lại không được một, cuộc sống thường nhật hoàn toàn
phải lệ thuộc vào chồng. Chính vào lúc này người Mỹ thay đổi thái độ, đổi thù
thành bạn, kẻ địch trở thành người tình lén lút, và hòa nghị Paris bắt đầu với
câu chuyện cái bàn tròn nổi tiếng.
Cũng vào thời điểm này, người tình Trung Cộng
tìm đến ve vãn người đẹp Mặt Trận. Vụ ngoại tình này xảy ra công khai, và còn
được phía Trung Cộng thổi phồng lên một cách quá đáng. Trung Cộng cố tình phá
hoại gia đạo cộng sản Việt Nam, cố tình chia uyên rẻ thúy, ra sức tách rời Mặt
Trận ra khỏi sự khống chế của cộng sản Việt Nam, theo đúng chủ truơng chia cắt
Việt Nam về lâu về dài. Bởi vậy, cái thứ chính phủ không có đất đặt thủ đô cũng được cộng sản
Trung Quốc ra công tô lục chuốt hồng, bày trò ký kết hiệp ước, cho mở cơ sở và
tiếp nhận đại diện ngoại giao. Trước đây, Trung Quốc rất thỏa mãn với hiệp nghị
Genève 1954 chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 17. Trung Quốc ra sức thuyết phục Hà Nội
tiến hành cuộc cách mạng văn hóa ở miền Bắc và thực thi chiến lược trường kỳ
mai phục ở miền Nam. Tất cả những chủ trương này đều nằm trong khuôn khổ của một
quan điểm lịch sử rất nhất quán của người Trung Quốc đối với vấn đề Việt Nam. Đối
với họ, Việt Nam có hai vùng khác biệt, và vùng phía bắc là đất của Trung Quốc.
Chả thế mà sách giáo khoa trung cấp hiện nay đang được giảng dạy ở các trường học
tại Trung Quốc, về lịch sử thì viết "năm 1885 An Nam mất", còn về địa
lý thì vẽ bản đồ có biên giới phía nam lấn đến vùng Quảng Bình. Nhận thức được
điều đó thì sẽ hiểu vì sao đầu thập niên 60, Trung Cộng không ủng hộ việc phát
động chiến dịch Đồng Khởi ở miền Nam Việt Nam, và đầu thập niên 70, Trung Cộng
lại hết sức đề cao Mặt Trận Giải Phóng và Chính Phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam.
Cuộc tình tay ba tiếp tục kéo dài mặc
cho thời cuộc mỗi ngày một thêm sôi động. Đến đầu năm 1975, tình hình trở nên
nóng bỏng và miền Nam Việt Nam biến thành sân khấu của một vở kịch lớn vừa bi vừa
hài. Người tình Mỹ với chủ tâm đã có sẵn, dứt khoát rút chân ra khỏi ngôi nhà
Nam Việt Nam, rủ rê thêm người bạn đồng minh chủ nhà tháo cửa tháo ngõ trước
khi ra đi. Người chồng cộng sản Việt Nam với ý đồ chiếm đoạt nung nấu gan ruột
bấy lâu, đã chuẩn bị sẵn tay chân tâm phúc, hễ chủ nhà theo lệnh bạn đồng minh
rút then chỗ nào là nhanh tay đẩy cửa len vào chiếm cứ. Chỉ tội nghiệp cho người
vợ Mặt Trận chậm chạp và bất tài, đã sạch hết vốn liếng lại không còn tay chân,
sững sờ nhìn nguời chồng gian manh làm mưa làm gió. Lại thương hại cho người
cha thực dân mất cả chì lẫn chài lại còn mang tiếng "bố vợ phải đấm",
vì không may sinh phải đứa con gái quá ngu dại lại gặp phải thằng con rể quá
ngoan cường. Biết rõ con gái mình bất lực trước thằng chồng lưu manh và thô bạo,
người cha đã dụng tâm quay lại liên minh với chủ nhà, rủ rỉ rù rì thuyết phục
chủ nhà chốt cửa chốt ngõ cho chặt, la làng la xóm là đang bị cướp để kêu cứu
người tình Trung Cộng của con gái lên tiếng can thiệp, hứa hẹn làm trung gian để
chủ nhà thoải mái tính chuyện ăn chia cơ đồ Nam Việt Nam với con gái mình.
Nhưng cũng chỉ là công cốc. Người chủ nhà đã quá nặng tình với bạn đồng minh,
chỉ biết nhắm mắt nghe lời bạn mà quên hết mọi đường phải trái lợi hại, nên trọn
một năm 1974 cho đến sáng 30 tháng 4 năm 1975, những lời to nhỏ của Tướng
Vanuxem và Đại Sứ Mérillon chỉ như nước đổ đầu vịt mà thôi! Thế rồi bỏ mặc
ngoài tai lời khuyến cáo của người bạn hậu phương lớn của mình đồng thời là người
tình của vợ mình, một trượng phu vừa dài hơi vừa to xác, người chồng cộng sản
Việt Nam đường hoàng vào chiếm cứ ngôi nhà Nam Việt Nam. Người vợ Mặt Trận khép
nép theo vào và tấn tuồng bi hài lại tiếp diễn sang màn khác.
Tình cảnh người vợ khi khép nép theo
chồng dọn vào ở trong ngôi nhà mới chiếm đoạt thật là tội nghiệp. Mặt trận chỉ
được thảnh thơi một mình tung cờ trước gió vẻn vẹn được hai ngày. Sau đó thì có
lệnh phải treo cờ Mặt Trận cùng với cờ Dân Chủ Cộng Hòa. Dinh Độc Lập là đại bản
doanh của Ủy Ban Quân Quản và là nhà vãng lai của các cán bộ miền Bắc vào tham
quan hoặc công tác. Chính Phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam chỉ được họp có một lần
vào ngày 7 tháng 5 năm 1975 tại Phủ Thủ Tướng chế độ cũ. Sau phiên họp đó thì
toàn thể các thành viên chính phủ nằm dài chờ đợi mà không thấy được triệu tập
nhóm họp hay điều động nhận công tác và nhiệm sở. Những nổ lực của hai người
tình Mỹ và Trung Cộng nhằm mục đích lưu ý thế giới về sự hiện hữu của chính phủ
miền Nam Việt Nam (cộng sản) chỉ là đấu muối đem bỏ biển khơi. Bộ Trưởng Ngoại
Giao Nguyễn Thị Bình được mời sang Trung Đông để thảo luận về vấn đề dầu khí,
nhưng những lời phát biểu khi tiếp xúc với chính quyền hay với báo chí đều bị
tướng BắcViệt Lê Quang Hòa át giọng. Có được hai đặc sứ của hai nước Trung Đông
đệ trình ủy nhiệm thư với lãnh tụ Mặt Trận Nguyễn Hữu Thọ. Rồi thôi! Tướng
Vanuxem đã bỏ về. Đại sứ Mérillon và Đức Ông Khâm Mạng Lemaitre lần lượt bị trục
xuất về nuớc. Nhìn quẩn nhìn quanh, quả là tứ cố vô thân, chỉ thấy toàn là gia
nhân đệ tử nhà chồng ngày đêm rình rập, dòm chừng. Kéo dài cuộc sống lây lất, kềm
kẹp đó được chừng một năm thì có lệnh từ Trung Ương tổ chức Hiệp Thương thống
nhất hai miền Nam Bắc. Thế là chấm dứt vai trò Mặt Trận. Người vợ bất đắc dĩ, bất
tài bất lực, lại hèn yếu, sau mười mấy năm trời bị trắng trợn lợi dụng và thô bạo
đối xử, đã bị chính người chồng bóp chết không chút xót thương.
Nói
tóm lại, mặt sau của bức tranh thời sự biến cố Tết Mậu Thân đã cho chúng ta nhiều
nhận thức đúng đắn để nhìn xuyên suốt các mảng mầu sắc lung linh hư ảo của mặt
trước, nhờ đó mà hình dung được bộ mặt thật của sự kiện lịch sử quan trọng này.
Mặt Trận
Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam không phải là một tập hợp quần chúng vô sản miền
Nam được cộng sản miền Bắc tổ chức nổi dậy chống chính quyền đương thời do Mỹ
hậu thuẫn, mà chính là những thành phần nhân dân đủ loại có xu hướng chính trị
thân Pháp, từ trí thức đến địa chủ, công nhân và nông dân, được Pháp thực dân
tập hợp để cùng Liên Xô giao cho Việt Cộng miền Bắc huấn luyện và võ trang, lấy
danh nghĩa đấu tranh cách mạng dân chủ nhân dân, phát động chiến dịch Ðồng Khởi
chống Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa. Việt Cộng buổi đầu phải ngậm bồ hòn làm ngọt hậu
thuẫn cho Mặt Trận Giải Phóng, rồi dần dà về sau cho Võ Chí Công và Mai Chí Thọ
vào lèo lái bộ chỉ huy, đồng thời tìm cách triệt hạ các cơ sở hạ tầng bằng cách
mượn tay kẻ địch truy bức và tiêu diệt các thành phần nằm vùng bị lộ. Qua biến
cố Tết Mậu Thân đầu năm 1968 và các chiến
dịch bình định (An ninh lãnh thổ, Phượng hoàng, Chiêu hồi) các năm 1969, 1970,
1971, có thể nói rằng toàn bộ các cơ sở hạ tầng của Mặt Trận Giải Phóng đã bị
tan rã hoặc hủy diệt. Trong biến cố Tết Mậu Thân, Việt Cộng miền Bắc đã âm thầm
thỏa hiệp với Mỹ để Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam xuất toàn lực tổng
công kích tổng nổi dậy, cơ sở hạ tầng nằm vùng bấy lâu nhất loạt phơi mình ra
ánh sáng, nên sau đó đã bị chính quyền Việt Nam Cộng Hòa triệt tiêu. Sau khi bị
tập đoàn lãnh đạo cộng sản miền Bắc đâm lén sau lưng trong biến
cố Tết Mậu Thân, Mặt Trận Giải Phóng chỉ còn có cái vỏ thượng tầng hữu danh vô
thực, để rồi đến năm 1976 qua màn kịch hiệp thương hai miền nam bắc, Mặt Trận
Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam bị cộng sản khai tử không một chút xót thương. Rút
cục, cuộc cách mạng dân chủ nhân dân mà Mặt Trận Giải Phóng hứa hẹn mang lại
cho miền Nam
đã tan biến vào cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của miền Bắc.
Điều đáng tức cười nhất trong câu
chuyện mặt trước mặt sau của bức tranh biến cố Tết Mậu Thân là các cán bộ tuyên
truyền cộng sản đã trân tráo rỉ tai dân chúng rằng Bác Hồ buồn phiền về việc
cán bộ Mặt Trận bị chết quá nhiều trong chiến dịch tổng công kích tổng nổi dậy nên sinh bệnh mà chết. Sự thật thì Bác Hồ đã chết già. Bác Hồ
chết vào năm 80 tuổi theo lối tính của người Á
Đông. Trước khi chết, Bác Hồ còn xoa bụng mỉm cười, đắc chí về mưu cao kế độc của
mình, mượn tay kẻ địch tiêu diệt trọn ° những người bạn đồng minh bất đắc dĩ có
thể nay mai trở thành kẻ thù nguy hiểm. Bác Hồ nói nhỏ với đám thủ hạ vây quanh
: “Cái tụi theo Tây trong Nam, mình phải tốn người tốn của yểm trợ chúng chống
đánh Mỹ Ngụy. Vạn nhất thành công, Mỹ cút Ngụy nhào, chúng sẽ theo lời Tây tách
miền Nam ra đứng trung lập. Chừng đó thì là công cốc! Không ra tay trước không
xong”.
Tháng
chín năm 2003
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Nhân chuyện mấy
ngôi nhà cổ
Nghĩ Về Sách Lược
Phát Triển Miền Trung
Báo chí trong nước gần đây (tháng sáu năm 2003), ở cả Hà Nội lẫn Sài
Gòn, và đài Truyền hình Huế, có đăng bài và chiếu băng hình phóng sự về một
ngôi làng nằm trên bờ nam sông Ô Lâu, thuộc miền Trung Trung Bộ, cách Huế chừng
40 kilômét về phía bắc. Đó là làng Phước Tích, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Trọng tâm của các bài viết và băng hình phóng sự xoay quanh vấn đề làm
sao bảo trì những ngôi nhà cổ trong làng, có cái gần 200 năm tuổi, mà Hội Kiến
trúc sư Việt Nam qua khảo sát buổi đầu đã đánh giá là di sản văn hóa rất đáng
trân trọng. Nổi ưu tư của các nhà văn hóa không phải là sự lo sợ các ngôi nhà
rường bị thay thế bằng những ngôi nhà bê tông cốt sắt, mà là viễn tượng rành
rành trước mắt làng Phước Tích đang dần dà đi vào dĩ vãng. Thật vậy, dân làng
bây giờ còn rất ít, chỉ có khoảng 300 người, mà hầu hết là ông già bà lão.
Thanh niên không mấy người ở lại làng, mà trẻ em cũng rất ít. Cả làng chỉ có chừng
15-20 đứa trẻ. Lớp người thuộc lứa tuổi lao động, nam cũng như nữ, đều đã bỏ
làng đi xa kiếm sống, phần đông đã an cư lạc nghiệp nơi quê hương mới, không
còn tính đến việc trở về làng cũ. Người làng Phước Tích ngày nay làm ăn sinh sống
khắp nơi trong nước, ở Huế, ở Đà Nẵng, trên Tây nguyên, trong Nam, ngoài Bắc, từ
chổ núi rừng u tịch như A Lưới, Dầu Tiếng, đến nơi đô hội phồn hoa như Hà Nội,
Sài Gòn. Số người thiên di ra nước ngoài cũng không phải là ít, và họ có mặt khắp
nơi, Tây Âu, Bắc Mỹ, Úc Châu. Không một ai có ý định trở về làng sinh sống, bởi
một lẽ giản đơn là về làng sinh sống thì khó có thể kiếm được việc gì làm khả
dĩ kiếm đủ lợi tức mà sống qua ngày. Bởi vậy dân làng ngày nay chỉ toàn là người
già. Họ sống một phần nhờ vào sự trợ cấp của con cháu đang đi làm ăn xa, và một
phần nhờ vào hoa lợi thu hoạch từ khu vườn cây ăn trái bao quanh nhà.
Tác giả các bài báo cũng như Kiến
Trúc sư Hoàng Đạo Kính trong băng hình phóng sự đưa ra nhận xét là những khu vườn
này không khác gì những khu vườn ở Huế, cũng bình phong bể cạn trước sân, cũng
hàng chè tàu xanh bao quanh nhà, cũng những dây trầu quấn quanh gốc cau, cũng
những hàng cây ăn trái đủ loại mà có phóng viên cho là còn phong phú và quý hiếm
hơn cả các khu vườn trong Huế, như bồ quân, trần bì. Ngoài ra, nhà nào cũng trồng
hoa, hoa thân thảo như tường vi, tỷ muội, hồng bạch, thiên lý, leo dọc thừa ly
(1) hay bò trên giàn, hoa thân mộc như mai, lựu, hàm tiếu, hải đường, bích đào,
hoàng lan, ngọc lan, trồng rải rác ven sân và ở đầu hồi, bốn mùa thi đua nhau
khoe hương, khoe sắc, khiến cho toàn bộ ngôi làng chìm ngập trong một không
gian màu xanh lục tươi mát. Trong một làng ít người, không quá 300 dân, mà 80%
là ông già bà lão, hội Kiến Trúc sư Việt Nam đã kiểm kê sơ khởi được 27 ngôi
nhà cổ, cái trẻ nhất cũng đã hơn trăm năm, cái già nhất thì đã 180 năm tuổi đời.
Những ngôi nhà cổ này là loại nhà rường, giàn trò làm bằng gỗ nguyên cây, cột
kèo, xuyên trính, bản khoa, vách đố, rầm thượng rầm hạ, tất cả được nối ráp với
nhau bằng mộng, chứ không dùng đinh hoặc bù lon. Má kèo, đuôi trính, liễn ba,
đòn lương, cửa buồng, tất cả đều được chạm trổ tinh tế. Sự tươi tốt mượt mà của
cây trái, hoa cỏ ngoài vườn tương phản rõ rệt với vẻ củ kỹ tàn tạ của ngôi nhà
và nhất là với nét già nua khô héo của chủ nhà. Điều này cho thấy làng Phước
Tích đang dần dà tàn lụi. Vườn cây lá mỗi ngày một xanh nhưng mái đầu chủ nhân
tóc mỗi ngày một bạc. Rồi đây họ nằm xuống, không còn người thay thế trông nom
nhà cửa vườn tược, những ngôi nhà cổ in đậm dấu ấn một thời vàng son này sẽ ra
sao?
Nhưng nỗi ưu tư đó là việc của các nhà văn hóa muốn bảo lưu di sản dân tộc.
Đối với chúng ta, vấn đề được đặt ra là thử tìm hiểu tại sao giữa một vùng thôn
ấp miền Trung nghèo khó, nắng lữa mưa dầu, ruộng vườn cạn kiệt nước tưới mùa
khô và ngập úng nước lụt mùa lũ, người dân vất vã một nắng hai sương cày sâu cuốc
bẩm mà cơm ăn không đủ no, áo mặc không đủ ấm, lại đã từng phát sinh một ngôi
làng giàu có và văn vật nhường ấy. Cứ nhìn những ngôi nhà vườn kiểu Huế ở Phước
Tích thì hình dung được ngay dân cư làng này ngày trước đã từng có cuộc sống
phong túc đến mức độ nào. Khơi dậy tro tàn quá khứ để tìm hiểu họ đã làm ăn
sinh sống ra sao, cách nghĩ cách làm của họ có gì khác biệt với dân cư các làng
khác trong vùng, là có thể thu lượm được một số nhận thức thực tiễn để phác họa
những nét đại lược cho sách lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội miền Trung
đất mẹ cày lên sỏi đá.
Làng Phước Tích tọa lạc ở xứ Cồn
Dương, trước là đất quận Nhật Nam của Giao Châu, từ đời Đường về sau là châu Ô
của Chiêm Thành, đời Trần đổi làm châu Thuận. Khi vùng đất này được chuyển giao
cho Đại Việt, thổ dân đều bỏ đi, hoặc vào Amaravati (Quảng Nam ngày nay), hoặc lên miền núi. Đời
Hồ và Lê sơ, trong vùng lác đác đã có một số làng mạc người Việt được thành lập
: Phò Trạch, Ưu Đàm (Ưu Điềm), Đường Long (Chí Long), nhưng xứ Cồn Dương vẫn
chưa có người ở. Năm 1470, quân Chiêm Thành xâm phạm Hóa Châu, vua Lê Thánh
Tông sai quan quân đi đánh dẹp. Năm sau, 1471, niên hiệu Hồng Đức thứ 2, nhà
vua ngự giá thân chinh, tiến chiếm kinh đô Chà Bàn (Vijaya), cắt đất Chiêm
Thành lập Thừa Tuyên Quảng Nam. Trong đạo vương sư chinh phạt Chiêm Thành có
người họ Hoàng tên Minh Hùng, người huyện Quỳnh Lưu xứ Nghệ An, giữ chức Thượng
Tướng quân Cẩm Y vệ Đô Chỉ Huy sứ Quản trị Phó Tướng. Vì có quân công, Hoàng
Minh Hùng được vua phong quan tước là Hùng Minh Hầu đặc tấn Phụ Quốc Thượng Tướng
quân, và ban cho xứ Cồn Dương làm thái ấp. Hoàng Minh Hùng cùng với 11 thuộc tướng,
tất cả đều là người Quỳnh Lưu, chung nhau khai khẩn xứ Cồn Dương, lập ra làng Cảm
Quyết, còn được gọi là Dũng Quyết, thuộc huyện Kim Trà, phủ Triệu Phong, Thừa
Tuyên Thuận Hóa. Đời Nguyễn, Hoàng Minh Hùng được sắc phong Khai Canh, các thuộc
tướng được sắc phong Hậu Khai Khẩn, tất cả 12 người đều được phong Dực Bảo
Trung Hưng Linh Phù Chi Thần.
Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ
Thuận Hóa, mang theo một số dân Thanh Hoa và Bắc Hà. Vì làng Cảm Quyết quá rộng,
cư dân chỉ quần tụ ở vùng cồn cao giữa làng, chung quanh có sông Ô Lâu uốn
khúc, nên các vùng đất trống bên ngoài bị chính quyền đương thời trưng dụng để
định cư đám dân mới đến, lập nên các làng Mỹ Xuyên, Mỹ Can, Hội Kỳ, Mỹ Chánh.
Do đó mà ngày nay miếu thờ Khai Canh tọa lạc ngay trong làng Phước Tích còn
lăng mộ Khai Canh lại ở mãi tận làng Mỹ Xuyên. Sau khi các chúa Nguyễn cát cứ
Nam Hà, Thừa tuyên Thuận Hóa được chia ra làm Cựu Dinh và Chính Dinh. Huyện Kim
Trà được đổi tên thành huyện Hương Trà và huyện Đan Điền thành huyện Quảng Điền.
Cảm Dũng Quyết cũng được đổi tên là Phước Giang, thuộc huyện Hương Trà, Chính
Dinh. Đời Tây Sơn, Phước Giang được đổi làm Hoàng Giang. Đây chính là trạm
Hoàng Giang nơi Thái sư Bùi Đắc Tuyên đày Trung Thư lệnh Trần Văn Kỷ ra chăn ngựa
cắt cỏ nói trong sách Hoàng Lê Nhất Thống chí. Đầu đời Nguyễn, vua Gia Long lấy
đất Phú Xuân xây Kinh thành Huế, cho dân Phú Xuân thấy nơi nào đất bỏ trống là
có quyền cắm mốc lập làng. Một bộ phận dân Phú Xuân thấy cồn đất bồi trồng thuốc
lá của Hoàng Giang có vẻ là nơi đất lành chim đậu nên đứng đơn xin chính quyền
sở tại chiếu mệnh vua buộc dân Hoàng Giang cắt đất để lập làng mới Phú Xuân.
Niên hiệu Minh Mạng thứ 15 (1835), huyện Phong Điền được thiết lập do đất của
hai huyện Quảng Điền và Hương Trà cắt tách ra. Hoàng Giang được đổi lại là Phước
Tích, thuộc tổng Phò Trạch, huyện Phong Điền, phủ Thừa Thiên, thuộc về Kinh Sư.
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, chính quyền bỏ tổng lập xã, làng Phước Tích thuộc
xã Phong Lâu, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Thời Việt Nam Cộng Hòa, Phước
Tích hợp với Phú Xuân thành ấp Phước Phú, thuộc xã Phong Hòa, quận Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên. Năm 1975, các quận Phong Điền, Quảng Điền, Hương Điền, Hương
Trà hợp nhất thành huyện Hương Điền; các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên
hợp nhất thành tỉnh Bình Trị Thiên; ấp được đổi thành thôn; do đó thôn Phước
Phú thuộc xã Phong Hòa, huyện Hương Điền, tỉnh Bình Trị Thiên. Ngày nay, các tỉnh
và huyện cũ được tái lập, thôn Phước Phú lại thuộc xã Phong Hòa, huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Từ đầu năm 1947 trở về sau, vì tình hình chiến tranh giằng co giữa Pháp
và Việt Minh trong vùng huyện Phong Đíền, dân cư Phước Tích lâm vào cái thế một
cổ hai tròng. Ban ngày quân Pháp từ đồn Mỹ Chánh bên kia sông Ô Lâu kéo qua ruồng
bố, bắt bớ những người bị nghi là Việt Minh. Ban đêm Việt Minh từ chiến khu Hòa
Mỹ kéo về đốt nhà và dùng mã tấu chém chết những người bị kết tội là Việt gian.
Thế là cuộc di tản âm thầm của cư dân làng Phước Tích bắt đầu. Một số lén lút
chạy về các thành phố, chủ yếu là vào Huế. Một số di chuyển lên các mật khu dọc
Trường sơn hay xuống vùng duyên hải an toàn mà báo chí đương thời đặt tên là
con đường buồn thiu (2). Đến năm 1950, Tướng Lebris, Tư lệnh quân viễn chinh
Pháp tại Trung Việt, tổng tấn công an toàn khu con đường buồn thiu và bình định
vùng bắc Phong Điền. Những người Phước Tích theo Việt Minh rút sâu vào các chiến
khu Trường sơn hoặc tập kết ra Nghệ Tịnh. Những người Phước Tích khác, bấy lâu
bị cầm chân trong vùng quê Phong Điền, nay nhân dịp vỡ mặt trận, rần rần kéo
toàn bộ gia đình chạy vào Huế. Tiếng là đã được bình định, không còn là vùng
xôi đậu nữa, nhưng Phước Tích vẫn không phải là nơi tuyệt đối an toàn. Đối với
lớp người thuộc lứa tuổi lao động, nhất là giới thanh niên nam nữ, muốn cho
tính mạng khỏi bị đe dọa thì tốt nhất là nên bỏ làng ra đi. Ở lại làng chỉ còn
các ông già bà lão.
Trong số những người bỏ làng ra đi,
sau này không có mấy người trở về quê cũ sinh sống. Năm 1954, hòa bình lập lại,
nhưng đất nước chia đôi, những người Phước Tích theo Việt Minh, bấy lâu lẫn lút
trong vùng mật khu, nay phải tập kết ra bắc đã đành, mà những người Phước Tích
theo phía quốc gia cũng không thấy có ai trở lại sinh sống ở làng. Đến năm
1975, đất nước thống nhất, những người Phước Tích thuộc phe chiến thắng từ miền
bắc trở về thăm làng thì có chứ trở về sinh sống ở làng thì cũng không thấy một
ai. Sự kiện này có vẻ kỳ lạ đối với khách bàng quan, nhưng đối với cư dân làng
Phước Tích thì là điều dễ hiểu : về sống ở làng thì khó có thể kiếm được việc
làm để nuôi thân. Nhưng tại sao trước năm 1945 làng Phước Tích lại giàu có phồn
thịnh, mà bằng cớ rành rành là trong làng vẫn còn những khu vườn kiểu Huế và những
ngôi nhà rường cũ kỹ trên dưới 150 năm tuổi đời, chạm trổ tinh vi, tuy con cháu
không có khả năng và phương tiện bảo trì đúng mức, nhưng vẫn trơ gan cùng năm
tháng tồn tại mãi đến ngày nay. Những người Phước Tích giàu có thuở trước đã
làm ăn như thế nào, theo đuổi những nghiệp vụ gì, áp dụng những phương thức
kinh doanh đặc biệt gì mà ngày nay làng nước thanh bình trở lại mà con cháu lại
không có đủ khả năng hoặc không có điều kiện kế tục sự nghiệp, để đến nổi không
thể trở về quê cũ làm ăn mà phải tiếp tục tứ tán ly hương tìm đất mới sinh sống?
Từ năm 1945 trở về trước, nghề nghiệp
căn bản của dân Phước Tích là nghề gốm. Gốm Phước Tích làm bằng đất sét nung
già lửa, không tráng men. Phước Tích không sản xuất gốm mỹ thuật, không sản xuất
lu mái, mà chỉ sản xuất những loại vật dụng trong nhà như vại, thạp, ghè (đột),
hủ, âu, chậu, nồi, om, trách, và gạch ngói. Hiện trong làng còn miếu Đào Nghệ
(dạy nghề), thờ người dạy dân làng kỷ thuật làm gốm. Tên họ của ngài không ai
biết. Dân làng chỉ truyền tụng với nhau tên tục của ngài là Nồi (3), bởi thế,
người Phước Tích kiêng tên húy của ngài nên gọi cái nồi là cái nghẹ. Nghề gốm tạo
nên những thành phần nghiệp vụ khác nhau về nhiều mặt : giới chủ lò nung, tức
là những người xuất vốn sản xuất; giới thợ đất chuyên đi lấy đất sét chở về
làng bằng thuyền; giới thợ rừng lên núi đốn cây kết bè thả trôi sông đưa về
nung lò; giới thợ xên chuốt nhào nặn đất sét thành vật dụng ở dạng gốm sống; giới
nung đột xếp gốm sống vào lò rồi đốt lửa nung chín; và cuối cùng là giới phân
phối đưa gốm thành phẩm ra thị trường tiêu thụ. Trong các thành phần trên thì
hai giới chủ lò nung và phân phối gốm thành phẩm là hưởng lợi nhiều nhất. Họ có
những cửa hàng gốm ở khắp các chợ lớn nhỏ trong vùng, từ Đông Ba An Cựu ở Huế đến
chợ Sòng chợ Sãi ngoài Quảng Trị. Họ chở gốm thành phẩm (hàng đột) đến nơi tiêu
thụ bằng thuyền lớn gọi là nôốt nên làng Phước Tích có tên nôm là Kẻ Đột và dân
Phước Tích có biệt danh là dân nôốt đột. Họ làm ăn bận bịu quanh năm :
Sáng chợ Cần, chợ Kệ,
Tối Thủ Lễ, Hạ Lang.
Ba mươi Tết anh ở chợ ra về,
Rạng ngày mồng một anh còn lề mề
trên phá Tam Giang.
Hiếu trung chi bên anh, anh cũng phải
bỏ, huống chi bên
nàng, nàng ơi!
Nghề nghiệp căn bản thứ hai của dân Phước Tích là đi học và thi đậu để
ra làm việc nhà nước, tức là làm quan và làm công chức hay làm thầy cô giáo. Việc
học rất được xem trọng. Trong lúc còn có những tỉnh chưa có miếu thờ Khổng Tử
thì làng Phước Tích, ngoài Đình thờ Thành Hoàng và Chùa thờ Phật, lại có cả Văn
chỉ thờ Vạn Thế Sư Biểu. Những người học hành đỗ đạt ra làm việc nhà nước hầu hết
cưới vợ người làng. Cho dù thuyên chuyển đi các tỉnh xa hay làm việc ngay tại
Huế, họ đều để vợ con ở nhà, và dành dụm tạo mãi nhà cửa ở làng. Do thói quen
phong nhã của những người theo học chữ nho thường thích chơi cây cảnh và ưa
ngâm hoa vịnh nguyệt, cũng như do địa thế cao ráo và có sông uốn khúc bọc quanh
rất thuận lợi cho việc lập vườn trồng cây ăn trái mà làng Phước Tích có những
khu vườn kiểu Huế sum sê tươi tốt và những ngôi nhà rường chạm trổ với bể cạn
bình phong còn tồn tại mãi tới ngày nay. Với bản tính cần kiệm, người dân Phước
Tích ra làm việc nhà nước, cho dù là đường quan thuộc quan hay thừa phái lại mục,
là tham tá phán sự hay ký lục thông ngôn, là đốc học đốc trường hay trợ giáo
hương sư, vị nào cũng chỉ để ra một khoản tiền khiêm tốn dành cho việc ăn ở,
lương bổng còn lại bao nhiêu đều chắt chiu gửi về làng để vợ mua ruộng cho thuê
tá canh, hay làm vốn buôn bán hàng nằm.
Làng Phước Tích là làng vườn, không có ruộng, nhưng dân Phước Tích đứng
tên sở hữu rất nhiều ruộng ở các làng trong vùng thuộc huyện Phong Điền và phủ
Hải Lăng. Các địa chủ Phước Tích không trực tiếp canh tác mà cho nông dân sở tại
thuê tá canh, đến mùa thu hoạch thì đóng tô bằng lúa. Thành phần địa chủ có nhiều
gốc gác khác nhau, từ quan lại và viên chức nhà nuớc, chủ lò nung và chủ cửa
hàng gốm, chủ các cơ sở buôn hàng nằm và chế biến nông sản dự trử, đến các ông
con nhà giàu thừa hưởng ruộng đất cha mẹ để lại. Cho dù là địa chủ chuyên nghiệp
hay địa chủ tài tử, họ giống nhau ở một điểm là nhà cửa cao ráo rộng rãi để tiện
việc cất giữ lúa. Một khu dinh cơ địa chủ điển hình gồm có nhà chính để ở, để
tiếp khách và thờ tự, nhà ngang để sinh hoạt gia đình, nhà lẫm (nhà lậm) để cất
giữ lúa, nhà bếp để nấu ăn, nhà cối để xay lúa giả gạo. Ngoài ra còn có nhà cầu
nối liền nhà chính với nhà ngang và nhà lẫm, chuồng heo chuồng gà xây sát nhà bếp,
và đụn rơm đằng sau vườn. Trước nhà chính là sân rộng lát gạch hay bằng đất nện
để phơi lúa và nông sản các loại. Ngoài nhà lẫm, lúa còn được cất giữ ở nhà
chính và nhà ngang, trên rầm thượng sát nóc nhà (dân Phước Tích gọi là cái
tra), và trong các gian buồng có lót rầm hạ đã được cải biến thành vựa quây bằng
những tấm cót tre. Ngoài lợi tức thu tô tá canh, các địa chủ còn hưởng tiền lời
quy ra lúa trong dịch vụ cho nông dân mượn tiền và vay lúa để làm mùa và ăn
giáp hạt.
Trong các nghề làm ăn mang tính chất đặc thù và phổ biến rộng rãi của
dân Phước Tích trước nhất phải kể đến nghề buôn hàng nằm. Hàng nằm là hàng hóa
được tích trử. Buôn hàng nằm là bỏ vốn mua hàng lúc giá rẻ rồi tích trử lại đợi
lúc khan hiếm bán ra với giá cao. Nhưng buôn hàng nằm của dân Phước Tích không
mang ý đồ xấu xa của gian thương đầu cơ tích trử. Ngược lại, nghề buôn hàng nằm
của dân Phước Tích vừa làm giàu cho dân Phước Tích, vừa giúp cho dân quê lân cận
suốt bốn mùa trong năm có đủ nhu yếu phẩm sinh hoạt. Thật vậy, dân quê quanh vùng,
lúa gạo còn không biết cất giữ để ăn cho giáp hạt, còn nói chi đến chuyện muối
đường cá mắm. Tích trử hàng nằm đi đôi với kỷ thuật chế biến và bảo quản. Ớt đậu,
khoai sắn, hồ tiêu, cau tươi, thuốc lá v.v., đương mùa thu hoạch, nếu không có
dân Phước Tích mua về phơi phong, sàn sãy, hoặc chế biến thành ớt bột, khoai
khô, sắn lát, tiêu hột, cau khô, thuốc bánh, rồi tích trử trong những cái hủ gốm
cao cổ nút kín, hay trong những lu mái đằng đậy kỹ càng bằng giấy báo và con
cúi rơm, thì nhất thời không tiêu thụ hết sẽ ung thối mốc meo phải đổ bỏ đi. Muối,
đường, cá khô, mắm ruốc, do ghe mành Quảng Ngãi, Bình Định, nhân mùa gió thuận,
chở ra bán cho dân Phước Tích nguyên cả ghe, nếu không có dân Phước Tích thông
thạo kỷ thuật bảo quản trong những lu mái và những cái kiệu khổng lồ cao quá đầu
người, thì đến mùa mưa bão, dân quanh vùng tìm đâu ra các nhu yếu phẩm đó cho
sinh hoạt hàng ngày. Bởi vậy, buôn hàng nằm của dân Phước Tích khác với đầu cơ
của gian thương. Đầu cơ của gian thương là dìm giá, ép giá, tạo giá mua vào bán
ra để trục lợi. Buôn hàng nằm của dân Phước Tích, ngược lại, thuận theo quy luật
cung cầu của thị trường, mua vào lúc dân quê cần bán ra, và bán ra lúc dân quê
có nhu
cầu tiêu dùng
qua các hình
thức mua sắm bằng tiền,
đổi chác lấy lúa, hoặc vay mượn quy ra lúa.
Cũng như nghề gốm, nghề buôn hàng nằm tạo ra nhiều thành phần nghiệp vụ
phụ thuộc. Ngoài thành phần chủ cơ sở hàng nằm là những người có vốn, có phương
tiện chế biến, và có kho vựa lu mái tích trử, đội ngũ chủ yếu của nghề buôn
hàng nằm là các gánh hàng bày bán ở các chợ và các gánh hàng đi đổi lấy lúa vào
các ngày mùa. Hình thức đổi hàng lấy lúa này quả tình rất là đặc biệt. Vào những
ngày dân quê các làng lân cận thu hoặch lúa, đàn bà con gái Phước Tích từ sáng
tinh mơ gánh hàng nhu yếu vượt mươi mười lăm cây số đường trường đến tận các
sân đạp lúa đổi hàng lấy lúa. Họ chịu khó đi hết nhà này đến nhà khác, từ làng
này đến làng khác. Chiều tối, họ cho lúa đổi được vào bao đệm đem gửi ở nhà
quen. Liên tiếp chừng tuần lễ, lúa đổi được đã khá nhiều, họ thuê thuyền đi chở
lúa về. Trong dịch vụ đổi chác này, mặt hàng đắt khách nhất là đường, muối, vải
vóc, guơng lược. Sẵn lúa mới gặt về đầy sân, người dân quê hào phóng đổi lấy đường
nấu chè cùng bầu bạn ăn tại chổ, và mua sắm cho vợ con không một chút đắn đo dè
dặt.
Nét sinh hoạt đặc thù khác của cư
dân Phước Tích là lập vườn trồng cây ăn trái. Thật ra đây không hẳn là nghề làm
ăn mà là một thú vui tiêu khiển có phát sinh hoa lợi. Vườn tược ở Phước Tích
không rộng, trung bình chỉ chừng dăm ba sào (sào Bắc bộ và Trung bộ = 360 mét
vuông). Rất hiếm có những khu vườn trên một mẫu. Vườn không rộng nhưng canh tác
theo lối mật thận. Gia dĩ, đất thịt gò đồi cao ráo, lại có sông uốn khúc bọc
quanh, nên cây cối trong vườn cành lá tươi tốt, hoa quả sum sê. Vườn nào cũng
có trồng cau trầu. Chung quanh gốc cau, người ta đắp đất thành bồn tròn, bên
trong bón phân chuồng và cắm 4 dây trầu. Các cây ăn trái thông thường là mãn cầu,
cam, quýt, chanh, ổi, vã, khế, chuối, bưởi, trồng rải rác khắp vườn. Dọc hàng
rào quanh vườn là mít và chung quanh gốc mít là thơm (dứa). Chỉ những khu vườn
thật rộng mới trồng một vài cây có tán rộng như nhãn, dâu gia, hồng quân, giáng
châu (măng cụt), trần bì, chùm kết, và trồng tre bao quanh vườn. Các cây hoa
thân mộc thì trồng quanh sân và đầu hồi. Cây cối trong vườn mỗi năm được bón
phân chuồng một lần, được tưới nước gánh từ dưới sông lên khi trời làm khô hạn,
và mùa hè các gốc cây được tủ bổi (cành lá sim) để che nắng và giữ hơi ẩm. Các
chủ vườn thường chỉ lo việc chăm bón các khóm hoa, luống cải, bụi trầu, còn mọi
công việc nặng nhọc như rào dậu, tủ bổi, ra phân, ủ phân, đào lỗ trồng cây, đều
thuê người làm.
Các phương thức làm ăn kể trên đây
không chuyên biệt dành cho giới nào hay cho gia đình nào. Chỉ riêng nghiệp vụ
làm gốm mới có những gia đình chuyên ngành, còn lại thì trong bất kỳ gia đình
nào người cha có thể là quan lại kiêm địa chủ, người mẹ buôn hàng nằm, con trai
lớn làm thầy giáo, con trai thứ làm công chức, con dâu bán hàng xén, con gái
ngày mùa gánh hàng nhu yếu phẩm đi đổi lúa và ngày thường thu hoạch hoa lợi
trong vườn đem bán ở chợ làng bên. Gặp lúc công việc dồn dập, tất cả mọi người
xúm lại, mỗi người một tay: thu góp lúa, cất muối, cất đường, chế biến nông sản,
bửa cau khô, làm mắm cá v.v. Rộn rịp nhất trong năm là vào mùa hè. Đó là mùa
thu hoạch lúa và các loại nông sản, và là mùa các ghe Quảng chở muối, chở đường
ra bán. Đó cũng là mùa nắng nóng rất thuận tiện cho việc phơi phong để tích trử
nhưng lại hay có mưa giông vào buổi xế chiều. Hàng hóa đang phơi mà trời chuyển
giông là cả nhà náo nhiệt hẳn lên, rầm rập chạy mưa, chớp mắt lúa đã vào vựa,
khoai đã vào bồ, đường đã vào mái, ớt đã vào hủ để ngày hôm sau lại được đưa ra
sân phơi tiếp. Im vắng nhất trong năm là vào mùa đông, mùa mưa dầm gió bấc. Dăm
bảy ngày mới có một buổi bạn hàng mua sỉ đến lấy hàng hóa, mươi bữa nửa tháng mới
có một vài nông dân các làng bên đến vay lúa ăn giáp hạt hay mượn tiền làm mùa.
Kỳ dư thì vô cùng rỗi rãi. Có những ngày mưa lớn quá, chợ không họp, cả nhà
đóng sòng ngồi nhìn mưa và chờ ăn. Được cái là người Phước Tích rất giỏi chế biến
và bảo quản thực phẩm, nên dù thời tiết thất thường mấy ngày liền không có chợ
búa, suốt mùa mưa gíó họ vẫn có đầy đủ thức ăn dự trữ từ mùa hè, béo bổ và ngon
lành.
Từ sau năm 1945, cuộc sống của cư dân Phước Tích bắt đầu khó khăn. Trừ
nghề gốm và làm vườn, các phương thức kinh doanh buôn bán khác đều không phù hợp
với đường lối chính trị của chính quyền cách mạng. Quan lại cũ của Nam
triều là phong kiến phản động. Công chức cũ của Bảo hộ là Việt gian bán nước.
Chủ ruộng cho nông dân tá canh là địa chủ bóc lột. Nhà giàu cho nông dân vay mượn
là phú nông cho vay nặng lãi. Người buôn hàng nằm là gian thương đầu cơ tích trử.
Đa số đàn ông con trai Phước Tích có học lực từ trung bình trở lên. Ngoại trừ
những người được tuyển chọn vào Vệ quốc đoàn, vào Thanh niên cứu quốc, vào văn
phòng các Ủy ban hành chánh Xã và Huyện, những người trẻ tuổi khác đều bị theo
dõi vì là trí thức chao đảo không được tin cậy. Đầu năm 1947, quân trú phòng
Pháp ở Huế được tăng viện, đánh bung ra, đến đóng đồn ở Mỹ Chánh bên kia sông.
Ngay tối hôm đó, rất nhiều trí phú địa hào Phước Tích bị trói ké đưa ra các đồi
cát làng Mỹ Xuyên chém chết với tội danh toan tính chạy theo Tây. Mấy hôm sau,
nguyên Lý trưởng làng Phước Tích (4) bị đốt nhà, bản thân và con trai nhanh
chân trốn chạy nên thoát chết trong đường tơ kẻ tóc, trong lúc con gái bị chém
chết, vợ bị chém cụt tay, vợ hầu bị bắt dẫn đi mất tích. Sáng sớm hôm sau, viên
Lý trưởng dẫn lính Tây đến thẳng một nhà trong làng, lùa mọi người ra ngoài rồi
châm lửa thiêu rụi ngôi nhà. Được cái là ông ta biết rõ ai là đầu sỏ gây ra tai
vạ hôm qua cho gia đình mình, nhưng nay kẻ kia đã cao chạy xa bay rồi, ông ta
chỉ đốt nhà trả đủa chứ không nhẫn tâm giết hại người nhà của hắn để trả thù.
Thế là từ đó, ban ngày lính Tây đi bố ráp, bắt người, đốt nhà, ban đêm Việt
Minh cũng đi lùng sục, chém người, đốt nhà. Để tránh tai họa, người Phước Tích
âm thầm bỏ làng ra đi. Ở lại làng chỉ còn một số ông già bà lão, điếc không sợ
súng, hoặc là dù muốn đi cũng không biết đi đâu, đành liều mạng tra (già) ở lại
giữ nhà.
Từ đó, đã bao nhiêu nước chảy qua cầu,
nhiều chế độ chính trị liên tiếp đã cai trị làng Phước Tích, nhưng dân làng
không bao giờ tìm lại được cuộc sống vàng son ngày trước. Những người dân đã bỏ
làng ra đi, không có mấy người trở lại làng sinh sống. Những nghề nghiệp ngày
xưa đã từng làm giàu cho cha ông họ, ngày nay không còn hợp thời hợp cảnh. Ruộng
đất đã bị truất hữu, chế độ tá canh không còn, nên thành phần địa chủ đương
nhiên biến mất. Những người làm việc nhà nước quen với nếp sống tiện nghi ở
thành thị, ngày nay không ai lại để vợ con sinh sống ở làng. Gia dĩ, luơng bổng
chỉ vừa đủ ăn tiêu, không còn dư dã để dành dụm làm nguồn cung cấp tư bản cho
việc kinh doanh như trước năm 1945. Các bà các cô buôn bán đổi chác hàng nằm
ngày trước, nay con cháu muốn nối nghiệp thì có thể kinh doanh tại chỗ cư trú,
không cần phải trở lại làng. Huống hồ thương nghiệp là độc quyền nhà nước, buôn
bán nhỏ cũng bị ngăn trở, nói chi đến chuyện đầu cơ tích trử. Ngay cả nghề gốm,
dù không liên can gì đến các biến cố chính trị, cũng tàn tạ không thể phục hồi.
Thật vậy, gốm sành nung chín của Phước Tích tuy bền nhưng nặng nề, thô kệch,
không cạnh tranh nổi với vật dụng đun nấu bằng nhôm và vật dụng chứa đựng bằng
nhựa của Sài Gòn, hoặc với om trách Quảng Nam tuy cũng bằng đất nung nhưng mỏng
và nhẹ. Từ thời cộng hòa, việc chuyển hướng sang sản xuất gạch ngói vại khạp
cũng không thành công vì vướng mắc chuyện an ninh và nạn sách nhiễu đóng thuế
chui, lên rừng lấy củi hay xuống vùng dưới lấy đất sét là đụng đầu với Việt Cộng.
Thời hiện tại thì gặp khó khăn với các vấn đề công đoàn và hợp tác hóa. Cũng đã
có những nổ lực gửi người vào Biên Hòa và ra Hải Dương học hỏi bí quyết làm gốm
tráng men, nhưng nguyên liệu sở tại không thích hợp với kỷ thuật tráng men đang
áp dụng tại các nơi đó. Rút cục, chỉ còn nghề làm vườn là còn thoi thóp. Thoi
thóp vì lẽ làm vườn trước đây là thú tiêu khiển, là nghề làm chơi, ngày
nay với
nghề làm vườn
tài tử như vậy
thì làm
sao thư thả
kiếm
sống được, nói chi đến chuyện làm giàu?
Xuyên qua việc phân tích các phương
thức làm ăn của dân làng Phước Tích trước năm 1945, chúng ta có thể rút ra nhận
xét tổng quát là : mặc dầu ở vị trí địa lý thuộc miền Trung Trung Bộ, đất đai cằn
cỗi, khí hậu khắc nghiệt, nhưng dân làng Phước Tích giàu có, văn vật, chứ không
nghèo khổ, vất vả như dân các làng khác trong vùng, là vì dân làng Phước Tích
không có ruộng nên không chú trọng nông nghiệp, ngược lại chuyên tâm vào công nghiệp
sản xuất đồ gốm, vào công nghiệp chế biến nông sản, vào thương nghiệp mua bán,
tích trử, đổi chác nhu yếu phẩm và một số mặt hàng tiêu dùng. Mặt khác, dân
làng Phước Tích xem trọng việc học hành, cung cấp dịch vụ hành chánh và giáo dục
cho nhà nước, để đổi lấy đồng lương, chắt chiu dành dụm gửi về làng cho người
nhà làm vốn. Lương bổng thời đó rất hậu, lương tri huyện, tham tá, 80 đồng,
lương phán sự, trợ giáo, 25 đồng, trong lúc giá một lượng vàng chỉ có 5 đồng.
Vì vậy, đi làm việc nhà nước và để dành tiền gửi về cho vợ làm vốn là một nguồn
cung cấp tư bản dồi dào và đều đặn. Còn việc địa chủ thu tô và cho nông dân vay
mượn không phải là hoạt động nông nghiệp mà có thể được xem như là những hình
thức đầu tư tư bản và vật tư sản xuất.
Sau năm 1945, dân làng Phước Tích gặp khó khăn, trở nên nghèo khổ, vất vả
có phần hơn cả dân các làng lân cận, là vì dân làng Phước Tích ở tại làng không
còn có điều kiện hoạt động công nghiệp, thương nghiệp, cung cấp dịch vụ trí tuệ,
đầu tư tư bản và vật tư sản xuất như trước đây. Mặt khác, cùng với tình trạng
thiếu thốn lao động vì người trẻ bỏ làng ra đi, người già ở lại cũng thất nghiệp
chỉ biết sống nhờ vào một ngành nông nghiệp vốn dĩ là một hoạt động nghiệp dư
là nghề làm vườn. Nhưng nghĩ cho cùng thì cuộc sống sa sút của cư dân Phước
Tích sau năm 1945 không phải đơn thuần do các yếu tố khách quan chiến tranh và
cách mạng xã hội chủ nghĩa gây nên, mà còn do một số nguyên nhân nội tại tiềm
tàng trong cách nghĩ cách làm của chính bản thân cư dân Phước Tích. Thật vậy,
nói rằng dân Phước Tích hiếu học, nhưng lại là thứ hiếu học từ chương, học để
thi đậu ra làm việc nhà nước, cung cấp dịch vụ trí tuệ để đổi lấy lương bổng,
chứ không phải là cái học thực dụng để mưu cầu kiến thức thực tế liên hệ với cuộc
sống hàng ngày. Đáng lẽ dân Phước Tích phải có người đi tìm học những tinh hoa
nghề nghiệp của ngành gốm, cải tiến mẫu mã, kỷ thuật tráng men, thị hiếu khách
hàng, quy luật thị trường v.v. Đáng lẽ dân Phước Tích phải có người nghĩ đến việc
áp dụng bài học hóa học hữu cơ lớp 9 về sự thủy phân đa đường saccharốt thành
đơn đường glucốt để chế biến tinh bột khoai sắn (khoai lang và khoai mì) thành
đường maltốt dùng làm kẹo theo quy trình công nghiệp, thay vì cứ đời này qua đời
khác, chế biến khoai sắn thì chỉ có thái lát phơi khô. Sông Ô Lâu uốn khúc bọc
quanh làng, những đoạn vành cung của giòng sông, bên lở nước sâu thăm thẳm, rất
thích hợp với việc nuôi cá bè, đáng lẽ dân Phước Tích phải cho con cái theo học
ngành ngư nghiệp, gia tâm nghiên cứu cách ép cá, cách sản xuất cá bột, cách
nuôi dưỡng cá, cách tuyển chọn giống cá v.v. Dân Phước Tích có nghề làm đậu
tương gia truyền rất ngon, sản xuất thứ nước tương còn nguyên hột đậu, tức là
loại tương Nam Đàn rất khác biệt với tương Bắc và tương Huế, đáng lẽ dân Phước
Tích phải biết khai thác nguyên liệu tại chỗ để đưa vào sản xuất đại trà, gửi
ngưòi đi nghiên cứu kỷ thuật đóng chai, quảng cáo chiêu hàng, để tung ra thị
trường bên ngoài, thay vì chỉ sản xuất theo quy mô gia dụng. Đằng này cha dạy
con, anh khuyên em cố gắng học hành theo lối từ chương để thi đậu làm ông phủ
ông huyện, ông tham ông phán, hay ít ra thì cũng đi dạy học, làm ông đốc trường,
ông trợ giáo. Lại nữa, dân Phước Tích chỉ cho con trai đi học, còn con gái từ
nhỏ đã phải theo mẹ học việc bán buôn. Cũng có một số đàn bà con gái đỗ đạt,
nhưng rồi cũng đi làm cô giáo, không có người nào đem sở học phục vụ lãnh vực
kinh doanh.
Kiểm điểm lại cung cách làm ăn và lề
lối sinh hoạt của cư dân làng Phước Tích trước và sau năm 1945, xuyên qua các
thời kỳ phát triển thịnh vượng và suy thoái nghèo khó, chúng ta đã có thể thu
lượm được một số nhận thức thực tiễn giúp chúng ta phác thảo những nét đại lược
về sách lược phát triển vùng Phước Tích nói riêng và miền Trung Bộ nói chung. Đứng
về phương diện kinh tế mà xét, tương quan giữa Phước Tích với các làng chung
quanh cũng na ná như miền Trung Bộ với hai miền Bắc, Nam
kế cận. Phước Tích không có ruộng, trong lúc các làng chung quanh có nhiều ruộng
tốt, cũng như Trung Bộ đất đai khô cằn, trong lúc hai miền Bắc Bộ và Nam Bộ đất
đai mầu mỡ, ruộng đồng cò bay thẳng cánh. Trước đây dân làng Phước Tích đã
không theo đuổi nghề nông mà chuyên tâm vào công nghiệp và thương nghiệp nên đã
phát triển và thịnh vượng hơn các làng khác trong vùng. Còn Trung Bộ, trước kia
cũng như ngày nay, ngày đêm than vãn “quê em nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu áo
mùa hè thiếu cơm”, là bởi cứ lạch bạch chạy theo hai miền Bắc, Nam,
lễ mễ ôm cứng lấy khối đá nông nghiệp. Sở dĩ gọi là khối đá nông nghiệp bởi lẽ
đối với miền Trung, nông nghiệp quả tình là một gánh nặng. Đất hẹp người đông,
ruộng nương đã xấu mà khí hậu lại khắc nghiệt, mưa nắng bất thường, nay lụt mai
bão, đời sống người nông dân thật là cơ cực. Huống hồ nông nghiệp miền Trung
xưa nay chủ yếu là nông nghiệp trồng cây lương thực, có được mảnh đất nào là
gieo lúa gieo bắp, trồng đậu trồng khoai, chỉ lo có cái ăn, quần quật quanh năm
mà tay làm không đủ cho hàm nhai! Người miền Trung trước đây hầu như không nghĩ
đến trồng cây công nghiệp. Trà, cà phê, cao su, chỉ từ thời Pháp thuộc mới thấy
trồng ở các đồn điền của người Pháp. Với các đồn điền trồng cây công nghiệp,
người dân miền Trung cũng chỉ làm công việc người phu đồn điền, ăn nhẹ vác nặng,
hay cùng lắm là sắm vai tiểu chủ cung cấp nguyên liệu mà giá cả hoàn toàn nằm
trong tay người mua, tuyệt nhiên không có lấy một người xung phong len lỏi vào
lãnh vực chế biến nguyên liệu và phân phối thành phẩm ra thị trường. Bao nhiêu
mối lợi lọt hết vào tay người nước ngoài.
Miền Trung khư khư giữ chặt nếp sống
nông nghiệp đã đành là do dân ta bảo thủ, nhưng chủ trương chính sách của nhà cầm
quyền không phải là không dự phần chủ yếu. Chẳng hạn, nghị quyết 9 của đảng Cộng
sản vào đầu thập niên 70 của thế kỷ 20 nhấn mạnh phương hướng hoạt động “ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ”, và vạch rõ chỉ tiêu thực hiện là “ mỗi huyện là một đơn vị quốc phòng có
thể tự lực chiến đãu, mỗi tỉnh là một đơn vị kinh tế có thể tự túc lương thực”.
Do đó mà các phân hạt hành chánh được tổ chức lại, nhiều huyện được gom thành một
huyện mới, hai ba tỉnh cũng được sát nhập lại thành một tỉnh lớn hơn. Sau tháng
tư 1975, miền nam nước ta thống nhất với miền bắc, nên Phước Tích trước đây thuộc
huyện Phong Điền, nay thì 4 huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Điền, Hương Trà
gộp lại thành một huyện thôi gọi là huyện Hương Điền, và 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên và thành phố Huế gộp lại thành tỉnh Bình Trị Thiên. Theo tinh
thần nghị quyết 9, huyện Hương Điền (mới) là một đơn vị quốc phòng, tỉnh Bình
Trị Thiên là một đơn vị kinh tế. Vì không còn chiến tranh nên huyện Hương Điền
không có cơ hội thể nghiệm khả năng tự lực chiến đãu, trong lúc đó thì tỉnh
Bình Trị Thiên bắt buộc phải gồng mình để thực hiện chỉ tiêu nuôi ăn cho dân
trong tỉnh mà không cần nhập lương thực từ bên ngoài. Bình Trị Thiên rất ít ruộng
trồng được lúa nước, còn thì chỉ có thể trồng sắn và cây công nghiệp ở miền ven
Trường sơn, và trồng khoai và cây ăn trái ở miền ven biển. Cây công nghiệp và
cây ăn trái mang lại những mối lợi lớn nhưng không thể quy ra thóc. Khoai sắn nếu
chế biến thành tapioca xuất khảu cho Tây nấu xúp, hoặc thành đường maltốt chở
vào Đà Nẵng hoặc Sài Gòn làm kẹo công nghiệp, thì cũng thu được những mối lợi lớn,
nhưng lại không thể quy ra thóc. Thành thử, đất đỏ basalt mầu mỡ là thế, đáng lẽ
trồng cà phê xuất khẩu thì chỉ được trồng sắn để thái lát phơi khô; các bãi cát
Đại Trường sa, Tiểu Trường sa, mênh mông là thế, nếu được cải tạo với đất sét
Thái Mỹ chở từ trong nam ra thì sẽ trở thành những vườn cây ăn trái bất tận,
nhưng cũng chỉ được trồng khoai để thái lát phơi khô mà thôi! Phải trồng khoai
trồng sắn, bởi lẽ khoai sắn thái lát phơi khô mới được quy ra thóc. Có vậy nghị
quyết 9 mới được thi hành, chỉ tiêu tự túc lương thực mới được thực hiện, đảng
ta lập thêm thành tích vẻ vang, mặc cho dân chúng quanh năm ăn độn khoai sắn,
và ngày càng thêm nghèo thêm khổ.
Như vậy, người dân miền Trung, nếu
muốn có đủ cơm áo, gạo tiền, sống cho ra sống, thì đừng theo đuôi hai miền Nam
Bắc mà cứ khư khư ôm cứng khối đá nghìn cân là nền nông nghiệp truyền thống trồng
cây lương thực. Muốn được ăn no và ăn ngon thì cần có nhiều tiền, chứ không phải
cần có đủ lúa trong vựa, đủ khoai sắn trong bồ. Hãy khai thác hợp lý các thế mạnh
của miền Trung để có tiền, có thật nhiều tiền, đổi lấy thóc gạo, thịt cá, và
hàng tiêu dùng. Đất đai và khí hậu miền Trung rất thích hợp với một số cây công
nghiệp có giá trị kinh tế cao. Đừng dừng lại ở khâu cung cấp nguyên liệu mà nhất
thiết phải phát triển công nghiệp chế biến ra thành phẩm tiêu thụ song hành với
việc kiện toàn khâu phân phối xuyên qua việc phát triển thương nghiệp cả trong
nước lẫn ngoài nước. Miền Trung có bờ biển dài, nhiều vũng sâu, nhiều vịnh kín
gió, rất thuận lợi cho vìệc hải hành, cho việc vận chuyển trao đổi hàng hóa. Sắn
Quảng Trị chế biến thành kẹo, mía Quảng Ngãi chế biến thành rượu, chở vào trong
Nam
đổi lấy gạo. Đất sét Thái Mỹ trong Nam chở ra Nghệ Tịnh, Bình Trị
Thiên, cải tạo các đồi cát ven biển thành vườn mãn cầu (quả na), đem ra ngoài Bắc
đổi lấy hàng công nghiệp tiêu dùng. Phải chú trọng phát triển ngành đánh cá xa
bờ, song hành với việc phát triển công nghiệp chế biến và đóng gói hải sản xuất
khẩu. Đã tới lúc tiến hành việc thử nghiệm nuôi cá nuôi tôm nước ngọt, nước lợ,
nước mặn trong các bè, các ao vũng, đầm phá ở miền Trung. Cũng đã tới lúc khuếch
trương việc nuôi dê nuôi cừu ở Quảng Trị, Phan Rang, nuôi bò nuôi trâu ở Nghệ
An, Ban Mê Thuột thành phong trào chăn nuôi đại trà, trên quy mô công nghiệp.
Nói tóm lại, muốn khỏi đói khỏi
nghèo, miền Trung trước mắt phải lập tức chuyển hướng cách nghĩ cách làm trong
lãnh vực nông ngư nghiệp đi kèm với việc cải tiến công nghiệp chế biến nông hải
sản, chú trọng sử dụng các phương tiện vận chuyển đường biển để phát triển
thương nghiệp trong nước nhằm mục đích trao đổi sản phẩm, và khuyếch trương ngoại
thương với các quốc gia láng giềng cũng như với các quốc gia thân hữu khác để
bước đầu chen chân xâm nhập thị trường thế giới. Thực hiện thành công những bước
đi đầu tiên đó, nhiên hậu mới tính đến việc khai thác những thế mạnh khác của
miền Trung trong các lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp liên hệ đến các tài
vụ phức tạp mang tính chất đa quốc gia như công nghiệp hóa dầu, công nghiệp luyện
kim, khai thác khoáng sản, dịch vụ du lịch, sản xuất vật liệu xây cất (nhất là
xi măng với vĩa đá vôi khổng lồ Bình Trị Thiên kéo dài từ Long Thọ ra Kẻ Bàng
lan qua Hạ Lào). Nhưng bao trùm lên tất cả những chương trình đó là việc cải
cách chính sách giáo dục, nhẹ về chiều hướng từ chương mà nặng về chiều hướng
thực dụng, và việc thay đổi chính sách kinh tế trên cơ sở tôn trọng quyền sở hữu
cá nhân và khuyến khích tinh thần tự do cạnh tranh trong kinh doanh.
Cải cách giáo dục không chỉ giản đơn thu gọn trong việc tăng gia mức độ
đầu tư vào lãnh vực giáo dục, mà chủ yếu là việc tập trung công sức vào việc áp
dụng tất cả các biện pháp cứng rắn nhằm mục tiêu thay đổi triệt để tư duy và
hành động của các giới giáo chức, phụ huynh, học sinh và sinh viên các cấp các
ngành. Phải bài xích việc giáo sư soạn thảo và giảng dạy theo giáo án khuôn mẫu.
Phải chấm dứt việc giáo sư đọc bài giảng cho học sinh sinh viên chép đem về nhà
học thuộc lòng. Phải tẩy xóa đầu óc ham chuộng hư danh và bằng cấp trong quần
chúng. Vì lòng ham chuộng không đúng chỗ này mà các bậc phụ huynh ngày trước
cũng như hôm nay cứ mong muốn và ép buộc con em theo học nghề bác sĩ. Cũng vì
lòng ham chuộng tai hại này mà thời Pháp thuộc câu nói cửa miệng “phi cao đẳng
bất thành phu phụ” có giá trị quyết định đến nỗi các cậu ấm, con quan, nhà
giàu, nhưng học không giỏi, phải phát minh ra cái bằng cấp candidat au Bac (Bac
là baccalauréat, là bằng tú tài). Tinh thần ham chuộng hư danh và tôn trọng bằng
cấp đó ngày nay vẫn tồn tại, vẫn phổ biến, nên rất nhiều sinh viên Việt Nam tại
hải ngoại lận đận nghiệp sách đèn bèn theo gương các đàn anh ngày trước mà tự
phong là Ph.D. candidate, hoặc bỏ tiền ra mua bằng Ph.D. giả mạo của một số trường
ma giáo để loè bịp thiên hạ. Cuối cùng việc cải cách giáo dục nói ở đây chủ yếu
có nghĩa là cần tìm mọi cách tiêm nhiễm vào đầu óc sinh viên học sinh tinh thần
phát huy sáng kiến, ham chuộng học hỏi tìm tòi sự mới lạ, để đưa vào thực tế đời
sống, nghĩa là có thể áp dụng vào cuộc sinh hoạt hàng ngày của chính bản thân
mình và của những người chung quanh mình.
Việc thay đổi đường lối kinh tế
trên cơ sở tôn trọng quyền tư hữu cá nhân và tinh thần tự do cạnh tranh trong
kinh doanh đòi hỏi những đổi mới về đường lối chính trị, về tổ chức hành chánh
và phối trí lãnh thổ, và về mức độ tương quan quyền hành và trách nhiệm giữa
trung ương và địa phương. Những chương trình chính yếu trong sách lược phát triển
miền Trung nhằm mục đích xóa đói giảm nghèo phác họa trên đây không thể nào thực
hiện được với chính sách hiện hành là chính sách kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
kinh tế 5 thành phần trong đó các công ty quốc doanh là thành phần chủ yếu. Các
công ty quốc doanh là gánh nặng cho xã hội, có còn tiền bạc lời lãi gì mà mong
góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo cho dân chúng miền Trung. Như vậy, nhất
thiết phải thay đổi chính sách kinh tế hiện hành sang kinh tế tự do cạnh tranh,
nghĩa là phải thay đổi định chế chính trị hiện thời thành một định chế chính trị
xây dựng trên cơ sở dân chủ pháp trị. Lại nữa, muốn phát triển kinh tế thì phải
cho địa phương tự trị rộng rãi. Địa phương biết rõ nhu cầu và khả năng của
mình, vì vậy phải cho địa phương có đủ quyền hành để tự mình hoạh định và thực
hiện kế hoạch phát triển. Lấy thí dụ miền Trung nguyên Trung phần thời cộng
hòa, hàng ngoại nhập phải qua cửa khẩu Sài Gòn nên tại thị trường Đà Nẵng giá
cao hơn ở Sài Gòn. Từ 1971 trở đi, bộ Kinh Tế VNCH cho hàng ngoại vào miền
Trung được nhập thẳng qua cảng Đà Nẵng, nhờ đó mà giá cả bằng với giá cả trong
Nam, đời sống dân chúng miền Trung bớt khổ được nhiều phần. Như vậy, tản quyền
cho địa phương là yếu tố quyết định trong kế sách phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, vẫn có những ý kiến phản bác, sợ rằng tản quyền rộng rãi về địa phương sẽ
đưa đến tệ nạn địa phương phân cát. Do đó, cần phải đặt lại vấn đề tái phối trí
lãnh thổ, theo chiều hướng vùng hành chánh kinh tế tự trị không được quá rộng
như các miền Trung, Nam, Bắc để có thể tách riêng ra độc lập, nhưng nhất thiết
không được quá nhỏ như các tỉnh hiện nay, vì không đủ tài nguyên nhân lực để thực
hiện các chương trình tự túc phát triển kinh tế, cải tiến dân sinh. Trong tinh
thần đó, các vùng hành chánh kinh tế tự trị có thể có quy mô như các quân khu
trước đây, miền Bắc 3 vùng, miền Trung 3 vùng, miền Nam 2 vùng.
Nhân chuyện mấy ngôi nhà cổ ở làng Phước Tích mà tìm hiểu cái lẽ thịnh
suy bĩ thái của dân làng này suốt năm trăm năm qua, để rồi nghiền ngẫm về thân
phận đói nghèo cố hữu của dân chúng miền Trung, cái thân phận bất hạnh mà họ có
thể tránh khòi nếu họ được tự do tìm một lối đi riêng, dứt khoát không đi theo
con đường mòn có sẵn. Trong hai thế kỷ 17 và 18, Đàng Trong phát triển thịnh vượng
hơn Đàng Ngoài, vì tranh thủ được độc lập với miền Bắc nên tự do mở tung cửa
nhìn xa ra thế giới bên ngoài, bớt chú trọng nông nghiệp mà chuyên tâm vào việc
chấn hưng công nghiệp và khuyếch trương thương nghiệp. Từ thế kỷ 19 trở đi, đất
nước thống nhất, tuy miền Trung vẫn là trung tâm quyền lực của cả nước, nhưng từ
chính quyền cho đến dân chúng lại quay về nề nếp suy nghĩ xưa cũ phát xuất từ
miền Bắc, khiến cho bánh xe tiến hóa của đất nước cứ luẫn quẫn mãi trong vòng
thành xã hội phong kiến nông nghiệp, không theo kịp bước chân thế giới bên
ngoài.
Tóm lại, tất cả cốt lõi của sách
lược phát triển miền Trung là sự thay đổi toàn diện cách nghĩ cách làm, từ cả
phía chính quyền lẫn phía dân chúng.
Tháng
mười, 2003
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Chú thích:
1.
Thừa ly, danh từ gốc Hán, đúng ra là sơ
ly, là hàng rào bằng tre chẻ nhỏ dựng quanh sân trước nhà
2.
Con
đường buồn thiu (la route sans joie) là danh từ báo chí đương thời gọi đoạn
đường từ Diên Sanh trên Quốc lộ 1 đi về Kế Môn, Đại Lược, Thế Chí, bên kia bờ
phá Tam Giang, thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Vùng này, thời
kháng chiến chống Pháp là khu an toàn dưỡng quân của Việt Minh.
3.
Nồi,
biến âm của Lồi, là tiếng dân ta gọi người Chăm.
4.
Viên
Lý Trưởng này con nhà giàu, có học, bản thân là địa chủ, anh em đều làm quan,
mặc Âu phục rất thời thượng, giày golf và nón kết gửi mua tận bên Pháp, có việc
xuống huyện hầu quan là vào thẳng bàn giấy bắt tay quan huyện và nói chuyện với
quan toàn bằng tiếng Pháp, trong lúc Lý Trưởng các làng khác khăn đóng áo dài
phải chầu chực, khúm núm trước mặt quan.
Tùy Bút
Thương Về Quê Vợ
Vợ tôi người Quảng, vì vậy, thương
về quê vợ có cùng nghĩa với thương về xứ Quảng. Và Quảng đây là Quảng Nghĩa hay
Quảng Ngãi, chứ không phải Quảng Nam hay Quảng Đông.
Thật ra, lòng tôi không phải đợi đến
lúc lấy vợ mới biết thương về xứ Quảng. Trước đó rất lâu, từ những ngày ấu thơ
chưa được cắp sách đến trường, tôi đã làm quen với những con người Quảng Ngãi hằng
năm chở đường đến bán cho mẹ tôi. Mẹ tôi buôn hàng nằm, tức là mua sỉ các loại
tạp hóa và nhu yếu phẩm để tích trữ lại bán lẻ cho người tiêu dùng. Trong các mặt
hàng nằm thông dụng mẹ tôi buôn có các loại đường Quàng Ngãi : đường bánh (đường
bát), đường xe (đường khúc), đường muốn, đường cát, đường phèn, đường phổi. Các
lái buôn Quảng Ngãi chở đường bằng ghe bầu đến bỏ neo giữa sông Hương trước mặt
Bao Vinh. Từ nơi đây, đường được chuyển qua đò để đưa đến các cửa hiệu buôn
hàng nằm ở các phố Hàng Bè và Hàng Đường dọc hai bờ sông Đông Ba. Cha mẹ tôi
không sống ở Huế mà sống tại làng quê, cách Huế hơn ba mươi kilômét. Vì vậy, mẹ
tôi không có cửa hiệu ở Hàng Bè hay Hàng Đường. Mẹ tôi trữ hàng nằm ngay trong
nhà tại làng. Sông Ô Lâu uốn khúc bọc quanh làng, chảy ra phá Tam Giang, ăn
thông với sông Hương, nên đường Quảng Ngãi từ Bao Vinh cũng được chở bằng đò thẳng
đến nhà cho mẹ tôi. Chủ đò là người làng bên, có đủ trai bạn để chèo đò và bốc
chuyển đường để lấy tiền công. Lần nào cũng có một hai lái buôn Quảng Ngãi đi
theo đò đến tận nhà tôi để giao hàng và nhận tiền. Đó là những người vóc dáng tầm
thước, nước da sậm màu vì thường xuyên phơi nắng và tẩm hơi nước biển, giọng
nói nghe khang khác với giọng nói người làng tôi, đầu cổ lúc nào cũng quấn khăn
rằn và áo quần thì chỉ độc có mỗi một màu đen. Sau khi trao đổi hàng hóa tiền bạc,
mẹ tôi thường đãi họ ăn một bữa cơm. Họ trở về Huế ngay bằng xe lửa hay xe hàng
chứ không ở lại một hai hôm chờ chuyến đò sắp tới. Cử chỉ thân thiện cởi mở của
họ đối với người làm trong nhà của chúng tôi và thái độ e dè tôn kính của họ đối
với cha mẹ tôi khiến cho lòng tôi tràn ngập cảm tình với những người lái buôn
xa lạ mỗi năm đến nhà chỉ có một lần.
Kịp đến tuổi đi học, tôi vào Huế ở
với anh cả tôi. Dạo đó, anh tôi làm việc ở Tòa Khâm sứ Trung Kỳ. Theo đúng tập
tục từ lâu đời của người làng quê tôi đi làm việc nhà nước, anh tôi để vợ con ở
nhà với cha mẹ tôi, và ở trọ tại nhà ông Cửu C. là Lý cựu phường Phú Hội thành
phố Huế. Ông Cửu C. xây thêm ở đầu hồi nhà chính một ngôi nhà Tây để nhận 6 người
ở trọ ăn cơm tháng. Ngoài tôi là học sinh tiểu học, mấy người khách trọ kia đều
là công chức nhà nước Bảo Hộ, ra đường ăn mặc Âu phục chững chạc, mùa đông hàng
len Cheviotte hay Dormeuil, mùa hè hàng tropical, lụa tussor hay vải coton
ramie. Trong số họ có một người rất trẻ, tuổi vừa chẵn hai mươi, quê quán Quảng
Ngãi, mới cưới vợ con nhà giàu, lại may mắn vừa trúng tuyển ngạch Phán sự Tòa sứ
là được thuyên chuyển ngay về Huế làm việc tại Tòa Khâm sứ Trung Kỳ. Qua các buổi
chuyện trò trà dư tửu hậu của người lớn, tôi được biết lỏm bỏm thầy Phán trẻ tuổi
người Quảng Ngãi đó thuộc loại con nhà vừa có tiền vừa có thế lực. Nhà vợ thầy
Phán có nhiều ruộng loại nhất đẳng điền, lại có bảy tám guồng xe nước, tha hồ
thu lúa của nông dân tá canh và các chủ ruộng cần nước tưới. Dạo đó, tôi chưa
hình dung đúng mức kích thước và năng suất của guồng xe nước Quảng Ngãi, cứ tưởng
cũng na ná như các xe đạp nước bằng gỗ vùng Bình Trị Thiên. Chỉ sau này trưởng
thành, có dịp đi ngang Quảng Ngãi, thấy tận mắt các guồng xe nước trên sông Trà
Khúc và hệ thống mương rãnh hai bên bờ sông, tôi mới ý thức được phạm vi rộng lớn
của vùng ruộng nương tiếp nhận nước tưới. Có điều là cho mãi tới tận bây giờ
tôi vẫn chưa hiểu rõ cội nguồn phát sinh của các guồng xe nước Quảng Ngãi. Tại
sao tại miền Trung chỉ Quảng Ngãi có guồng xe nước, Quảng Nam không có,
Bình Định không có ? Miền thượng du Bắc Bộ vài nơi cũng có guồng xe nước, nhưng
kích thước và năng suất thấp nhỏ so với guồng xe nước Quảng Ngãi bội phần.
Lúc bấy giờ ở Huế không phải chỉ có
thầy Phán trẻ tuổi ở trọ chung với chúng tôi là người Quảng Ngãi. Ngược lại, Huế
là kinh đô, người bốn phương tụ hội đông đúc, nên những người gốc gác Quảng Ngãi
ở Huế thiếu gì. Chỉ nguyên con cháu nội ngoại của Cần Chánh Điện Đại Học sĩ,
Túc Liệt Tướng, Diên Lộc Quận công Nguyễn Thân là đã lên tới số hàng trăm rồi.
Lúc bấy giờ cụ Cần đã ra người thiên cổ từ lâu, nhưng chuyện về cụ vẫn còn được
truyền tụng rộng rãi trong dân chúng miền Trung. Cũng như thầy Phán Quảng Ngãi ở
trọ chung với chúng tôi, cụ Cần bước vào hoạn lộ lúc mới 18 tuổi, làm Thừa phái
ở Sơn phòng Nghĩa Định. Gặp lúc mọi Đá Vách tràn xuống cướp phá, khắp Sơn phòng
đều khiếp sợ, không ai dám ra chống cự, chỉ duy có Nguyễn Thân xin Tĩnh Man Tiễu
phủ sứ Đỗ Đăng Đệ cấp 300 quân kéo ra đuổi đánh giặc mọi, truy kích đến tận
buôn làng của chúng trên vùng cao, khiến chúng sợ hãi đem toàn bộ tộc ra quy phục
Triều Đình. Mến Nguyễn Thân tuổi trẻ tài cao, Đỗ Đăng Đệ lưu tâm cất nhắc và
đem con gái là Đỗ Thị Viên gã cho Nguyễn Thân. Bà này đã sinh ra Binh Bộ Thượng
thư Nguyễn Công Kế và Hoàng Quý phi Nguyễn Thị Liễu, vợ chính (đệ nhất giai
phi) vua Thành Thái. Dạo đó, tôi nghe người lớn kể rằng Nguyễn Thân đã chiêu phủ
giặc mọi Đá Vách bằng đường phèn. Nguyễn Thân sai thủ hạ bỏ đường phèn lẫn lộn
với đá cuội bưng ra cho ông ăn trước mặt bọn mọi khiến chúng hoảng sợ tưởng ông
là người nhà trời nên chịu quy hàng. Mãi gần đây, đọc sách Lịch sử Vùng Cao qua
Vũ Man Tạp Lục Thư của giáo sư sử học Nguyễn Đức Cung, tôi mới biết chính xác
người đã khuất phục mọi Đá Vách bằng đường phèn không phải là Nguyễn Thân mà là
Nguyễn Tấn, thân phụ của Nguyễn Thân. Năm 1863, dưới triều Tự Đức, Án Sát sứ
Thái Nguyên là Ôn Khê Nguyễn Tấn, người thôn Thạch Trụ, Mộ Đức, Quảng Ngãi,
nghe tin giặc mọi Đá Vách tràn xuống cướp phá quê nhà, nên dâng sớ xin vua cho
cầm quân dẹp giặc. Vua y lời, phong Nguyễn Tấn làm Tĩnh Man Tiểu phủ sứ, cấp
cho 3 nghìn quân, hạn trong 6 năm, phải bình định xong giặc mọi. Nguyễn Tấn là
người thao lược. Ông chia quân đóng đồn lũy, thao dượt binh sĩ, phong bế tiếp vận,
đột kích sào huyệt, rồi cuối cùng phủ dụ chiêu hàng. Dùng kế bỏ đường phèn lẫn
với đá cuội bốc ăn trước mặt bọn thủ lĩnh giặc mọi chỉ là một phương thức tâm
lý chiến trong các kế sách bình định vùng cao của Nguyễn Tấn. Sau khi Nguyễn Tấn
qua đời, những người kế nhiệm không ai có đủ bản lĩnh chế ngự bọn mọi nên chúng
lại nổi dậy làm phản, khiến người thanh niên 18 tuổi do chân tập ấm sung chức
Thừa phái ở Nghĩa Định Sơn phòng tên là Nguyễn Thân có dịp phô trương bản lĩnh,
kế tục sự nghiệp Tĩnh Man Tiểu phủ sứ của cha mình ngày trước.
Các mẫu chuyện trà dư tửu hậu ở ngôi
nhà trọ phường Phú Hội thuở ấy liên quan đến Quảng Ngãi thường có dính dấp đến
mía đường. Quả tình Quảng Ngãi là xứ sản xuất mía đường. Một hôm tôi được nghe
người lớn ở chung nhà trọ nói chuyện về một cậu ấm xứ mía đường xuất dương qua
Pháp du học. Mười một mười hai năm trời ở bên Tây, cậu ấm không tốt nghiệp một
ngành nghề nào cả, nhưng chuyện này lại chỉ là chuyện riêng của cậu và nhà nước
Bảo Hộ, còn gia đình cậu ấm thì vẫn được báo cáo là việc học hành của cậu tiến
triển bình thường. Kịp đến khi thân phụ cậu ấm, vốn là đại thần đứng đầu trăm
quan, thông báo cho Tòa Khâm sứ Trung Kỳ ý định rút cậu về nước để xuất chính,
Tòa Khâm bèn trình về Bộ Thuộc Địa. Gặp trường hợp khó xử, không lẽ trả cậu về
nước hai tay không, Bộ Thuộc Địa bèn gọi cậu đến hỏi rằng xứ cậu có thứ gì là đặc
sản, và sau khi được cậu cho biết xứ cậu là xứ mía đường, Bộ Thuộc Địa bèn liên
hệ với trường Cao đẳng Canh nông cấp cho cậu bằng Kỹ sư Canh nông, chuyên khoa
chế biến mía đường. Sau này lớn khôn, lăn lóc ngoài đời, khi lên voi lúc xuống
chó, tôi chẳng hề bận tâm tìm hiểu thêm về câu chuyện ngày trước. Huế thì thiếu
gì kỹ sư canh nông cậu ấm đại thần. Mà kỹ sư canh nông cậu ấm đại thần gốc gác
xứ Quảng cũng có đến ba bốn người. Gia dĩ Huế không phải là xứ mía đường, Huế
không có lò đường, việc gì phải bận tâm đến chuyện con bò trắng răng sản xuất với
chế biến mía đường có đúng hay không đúng quy trình kỷ thuật. Cậu ấm về nước lại
không theo nghề mía đường mà lại đi làm việc nhà nước, nghĩa là kế tục sự nghiệp
của thân phụ, làm quan đại thần. Học vị, bằng cấp, tất cả chỉ là chiếc áo khoác
trang trí, tô điểm bên ngoài thêm phần hào nhoáng để cậu ấm đường mây thênh
thang nhẹ bước. Hư hay thực thì có gì là quan trọng ? Chả thế mà sau này phái bộ
Westley R. Fishel giúp việc cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm gồm toàn chuyên viên
tình báo chiến lược cũng nhất loạt khoác áo giáo sư Đại Học Michigan. Xin đừng hỏi tại sao!
Năm 1942, chị dâu tôi mất, anh tôi tục
huyền với một phụ nữ người Huế, và quyết định không theo lề lối cũ để vợ con sống
ở làng còn mình thì tiếp tục ở trọ ăn cơm tháng. Thế là tôi theo anh tôi từ giã
ngôi nhà của ông Cửu C. và không còn dịp nghe người lớn nói chuyện phiếm về xứ
mía đường. Tuy vậy, nhờ đã khôn lớn hơn, tôi biết thêm khá nhiều chuyện về xứ
Quảng qua việc đọc sách và học bài nhà trường. Một hôm, thầy dạy sử địa là Giáo
sư Dương Kỵ vui miệng nói với chúng tôi rằng tổ tiên nhà Nguyễn rất linh thiêng
khiến cho vua Tự Đức không có con, nếu không thì nhà Nguyễn đã mất ngôi từ giữa
thế kỷ 19. Thầy nói cho chúng tôi biết vua Tự Đức là con trai của Tuy Thịnh Quận
công Trương Đăng Quế, người huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi. Vua Thiệu Trị và Trương
Đăng Quế đều là con rễ Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng, vua Thiệu Trị kết hôn với
bà chị, tức là bà Từ Dũ, còn Trương Đăng Quế thì kết hôn với bà em. Bản thân Phạm
Đăng Hưng vốn là đệ nhất quyền thần, đã giữ chức Thái sư trải 3 triều vua, nay
con gái (Từ Dũ) ở ngôi mẫu nghi thiên hạ, con rễ (Trương Đăng Quế) kế nghiệp đứng
đầu trăm quan, quyền uy họ Phạm họ Trương quả là nghiêng nước. Ngặt một nỗi
chính cung vẫn chưa có con trai trong lúc các hoàng nam của nhà vua do các bà
thứ phi sinh ra thì đã bắt đầu trưởng thành. Vạn nhất vua Thiệu Trị có mệnh hệ
gì thì địa vị và quyền uy của hai gia đình họ Phạm họ Trương bị đe dọa. Vì vậy,
kịp lúc hai chị em bà Từ Dũ cùng có thai, hai bà mới bí mật ước hẹn với nhau rằng
nếu bà Từ Dũ vẫn sinh con gái mà bà Trương Đăng Quế sinh con trai thì hai bên sẽ
tráo con cho nhau. Sự việc đã diễn ra y như dự kiến, và con trai ông Trương
Đăng Quế đã trở thành con trai vua Thiệu Trị, nhà Nguyễn mất ngôi trong 36 năm
trời (1847-1883). Thầy Dương Kỵ là người hoàng tộc, lại là giáo sư sử học, nên
chuyện thâm cung bí sử thầy vui miệng kể ra không phải là chuyện hoang đường.
Huống hồ sự uất hận trào máu của Hồng Bảo, sự bột phát ào ạt của giặc Chày Vôi,
sự nổi dậy làm loạn của Đinh Đạo (Ưng Đạo), dù chính sử nhà Nguyễn không ghi
chép nguyên ủy thực sự, nhưng thiên hạ đương thời cũng như hậu thế đều thấu rõ
ngọn nguồn sâu kín bên trong. Lại nữa, người họ Nguyễn hoàng tộc dong dõng cao,
như phần đông người gốc gác Thanh Hóa, trong lúc vua Tự Đức chỉ cao 1 mét 42, tầm
vóc bé nhỏ, có phần gần gũi với tầm vóc người xứ Quảng mía đường. Dù sao thì
câu chuyện này cũng chỉ là chuyện phiếm kể cho nhau nghe lúc trà dư tửu hậu. Thầy
Dương Kỵ kể cho chúng tôi nghe khi đã giảng xong bài học, mà tôi viết lại đây hầu
chuyện bạn đọc thì cũng viết dưới dạng tùy bút, nhớ gì viết vậy, tuyệt đối
không phải là một công trình biên khảo.
Quảng Ngãi có hai ngọn núi Thiên Ấn
và Thiên Bút. Núi Thiên Ấn vuông vức, nằm sát bên sông Trà Khúc, trông giống
như chiếc ấn đóng xuống cánh đồng ven sông : Thiên Ấn niêm hà. Núi Thiên Bút nhỏ
hơn, nhưng cao hơn, vươn lên như muốn đưa tay với tới tầng mây : Thiên Bút phê
vân. Tương quan giữa hai ngọn núi dưới mắt nhân thế là hòn Ấn lấn hòn Bút. Nói
cách khác, núi Thiên Ấn to lớn đồ sộ hơn núi Thiên Bút bội phần. Đứng về mặt
phong thủy mà suy diễn, chiếc ấn tượng trưng cho quan quyền, ngòi bút tượng
trưng cho văn chương chữ nghĩa, như vậy, hòn ấn lấn hòn bút có nghĩa là đất Quảng
Ngãi có nhiều người làm quan to, nhưng không thịnh đạt lắm về mặt văn học.
Chúng ta chưa biết gì nhiều về các nhân vật thời trước, khi Quảng Ngãi còn là
Tượng Lâm, Lâm Ấp, Chiêm Thành. Một thời gian dài sau khi Thượng Hoàng Hồ Quý
Ly ép sứ giả Chiêm Thành là Bố Điền thay đổi quốc thư, nhường thêm Cổ Lũy cho
nước ta vào năm 1402, sử sách cũng chưa từng ghi tên danh nhân kiệt xuất xứ Quảng.
Mãi đến đời Lê Trung Hưng mới thấy xuất hiện Bùi Tá Hán, người huyện Chương
Nghĩa, Quảng Ngãi, làm quan nhà Lê từ chức thổ quan đến chức Bắc quân Đô Đốc
Chưởng Phủ sự Tổng trấn Quảng Nam Thiếu bảo Trấn Quận công. Nhưng đến triều
Nguyễn thì đất Quảng Ngãi phát quan to, đời nào cũng ở ngôi vị đứng đầu trăm
quan. Đời Gia Long, Minh Mạng có Tả Quân Lê Văn Duyệt, người huyện Mộ Đức, làm
Tổng Trấn Gia Định thành, là Cố mệnh Đại thần, có quyền tiền trảm hậu tấu. Đời
Thiệu Trị, Tự Đức có Cần Chánh Điện Đại Học sĩ Tuy Thịnh Quận công Trương Đăng
Quế, người huyện Bình Sơn, giữ ngôi vị Thái sư, đứng đầu trăm quan, quyền
khuynh thiên hạ. Đời Hàm Nghi, Đồng Khánh có Thái Tử Thiếu Phó Đông Các Đại Học
sĩ sung Quốc sử quán Tổng Tài Trương Quang Đảng, con trai Trương Đăng Quế. Đời
Đồng Khánh, Thành Thái có Cần Chánh Điện Đại Học sĩ Túc Liệt Tướng Diên Lộc Quận
công Nguyễn Thân, người huyện Mộ Đức, có công giúp người Pháp đánh dẹp Văn Thân
Cần Vương miền Trung, giữ chức Phụ Chính Đại Thần, kiêm Thượng Thư bộ Lại, có
quyền tiền trảm hậu tấu trong thời gian làm Khâm Mạng Tiết Chế Quân vụ Đại Thần
đánh dẹp phong trào Cần Vương Phan Đình Phùng. Đời Bảo Đại có Nguyễn Diệu* sáng
lập An Nam Cộng Sản Đảng, có Nguyễn Hy làm Tổng Đốc Thanh Hóa, làm Chưởng Lý
Tòa Thượng Thẩm Huế. Gần đây thì có Phạm Văn Đồng làm Thủ Tướng miền Bắc; Nguyễn
Ngọc Thơ làm Phó Tổng Thống, Trần Thiện Khiêm làm Thủ Tướng miền Nam. Còn hiện
nay thì có Trần Đức Lương làm Chủ Tịch Nước. Tóm lại, về mặt hoạn trường, đất
Quảng Ngãi là đất phát Tể Tướng. Ngược lại, về mặt văn học, Quảng Ngãi không có
gì xuất chúng, thua xa Quảng Nam, nhưng vẫn trội hơn Bình Định bội phần :
“Tiếc công Bình Định
xây thành
“Để cho Quảng Ngãi vô
dành thủ khoa.
Đại khái sự hiểu biết và mức tình cảm
của tôi về đất nước và con người Quảng Ngãi chung chung là thế. Kịp khi tôi đến
tuổi lập gia đình, liên hệ giữa tôi và xứ Quảng bỗng dưng bước sang một khúc rẽ
quan trọng. Tôi cưới vợ người Quảng Ngãi. Thật ra vợ tôi không hoàn toàn là người
Quảng Ngãi, mà chính xác chỉ là người quê quán Quảng Ngãi. Bên nội vợ tôi là
người Quảng, còn bên ngoại là người hoàng tộc. Hơn nữa, vợ tôi sinh ra và lớn
lên ở Huế, chưa bao giờ đặt chân đến Quảng Ngãi. Bởi vậy, ngày mới quen biết
nhau, dưới mắt tôi, người con gái tôi đem lòng thương yêu và dự tính cưới làm vợ
là một người con gái Huế với đầy đủ nết hay tật xấu điển hình. Chỉ sau khi vợ
chồng ăn ở với nhau đã mấy mặt con, tôi mới dần dà phát hiện những đức tính đặc
thù Quảng Ngãi rất đáng trân trọng trong thăm thẳm tột cùng của tâm tư và cảm
nghĩ của vợ tôi. Pha lẫn trong bản chất mềm yếu tiêu cực cố hữu của người phụ nữ
là sự cương cường chống lại áp bức và bất công những khi buộc lòng phải đối mặt với những ngang trái của
cuộc đời. Mà những tình cảm và hành trạng quật cường này thường không bột phát
vì quyền lợi của riêng mình mà là vì người khác, cho cha cho mẹ, cho chồng cho
con, và đôi khi cả cho đất nước, cho đồng bào. Thật vậy, sáng ngày 30 tháng 4
năm 1975, khoảng 10 giờ sáng, nghe đài Sài Gòn phát thanh lời tuyên bố đầu hàng
của Dương Văn Minh, vợ tôi đã lặng thinh chảy nước mắt, lẩm bẩm mấy tiếng ‘thua
thì phải chịu nhục’ rồi gục mặt xuống bàn khóc tức tưởi. Lòng tôi bỗng dưng
tràn ngập một mối cảm xúc kỳ lạ, nửa phần xót thương, nửa phần cảm phục. Xót
thương là xót thương cho thân phận liễu bồ, nay mai phải đối đầu với sóng gió của
cuộc đổi đời, chỉ một thân một mình tự liệu lý mọi việc, không có chồng bên cạnh
che chở, khuyến khích, đỡ đần; cảm phục là cảm phục tinh thần vị tha, trong
thương thân còn có thương nguời, trong tình nhà còn có nỗi nước, nhân nghe cái
lệnh đau lòng buông súng đầu hàng mà phát sinh mối cảm khái bi lụy nhục nhã về
cảnh nước mất nhà tan. Thêm vào cái bản tính quật cường đó, vợ tôi còn là con
người chân chất thực thà, thuần lương trung hậu, nghĩ sao nói vậy, không che đậy,
giả dối, không lật lọng, tráo trở, không nói có thành không, không nói không là
có. Mà đó chính là cái nghĩa khí của người xứ Quảng. Người các xứ khác, như người
Bắc, người Huế, nghĩ rằng mình khôn ngoan hơn, lanh lợi hơn, tế nhị hơn, mềm dẽo
hơn, nên có thể đã từng cho rằng thái độ ứng xử như vậy là quá bộc trực, là thiếu
tinh tế. Nhưng mà tôi đây, hơn nửa đời lăn lóc nổi trôi trong chính trường, khi
lên voi, lúc xuống chó, càng va chạm nhiều cảnh đời phũ phàng ngang trái, càng
kinh quá nhiều thói đời đen bạc lọc lừa, lại càng thấy quý trọng bội phần tâm
tính và khí tiết con người xứ Quảng.
Cái phần sâu lắng đặc biệt Quảng
Ngãi trong thăm thẳm tột cùng của tâm tư và cảm nghĩ của vợ tôi, sở dĩ lâu ngày
tôi cũng dần dà phát hiện được, là nhờ mối tương quan bố vợ chàng rễ, nói rõ
ra, là nhờ cuộc sống chung đụng giữa tôi với nhạc phụ tôi, một người con xứ Quảng
điển hình. Nhạc phụ tôi là Lê Trung Chi, người Phú Nhơn, huyện Sơn Tịnh, Quảng
Ngãi, miền đất có hai thắng cảnh Long đầu hí thủy và Thiên Ấn niêm hà. Nhạc phụ
tôi có đầy đủ các cá tính đặc thù Quảng Ngãi nói trên đây, thừa hưởng đức tính
và nghĩa khí của cha ông truyền lại, nên bình sinh không khi nào nói tới hai lời,
không vì lợi ích riêng tư mà chịu khuất phục trước những người quyền thế, không
hèn hạ xu phụ kẻ có chức có quyền mà hiếp đáp người dân thấp cổ bé miệng. Năm
1938, lúc làm Tri Huyện Yên Thành, Nghệ An, nhạc phụ tôi đã đứng về phía những
người dân quê Yên Thành, xử cho họ thắng kiện, khi họ đứng đơn kiện một người
Pháp chủ đồn điền ngang nhiên cướp công điền công thổ của họ. Viên công sứ Nghệ
An bênh vực tên Tây ăn cướp nên đã phúc trình về Toà Khâm sứ Trung Kỳ rằng nhạc
phụ tôi bênh vực đám dân làm loạn, thành thử chuyện bé xé ra to, Thượng Thư Bộ
Hình Bùi Bằng Đoàn phải thân hành ra tận nơi giải quyết. Nhận thấy nhạc phụ tôi
làm đúng, Bộ Hình đã chung thẩm y án, nhưng để tránh sự căng thẳng với bên Bảo Hộ, Nam
Triều chuyển nhạc phụ tôi ra làm Tri Huyện Yên Định, Thanh Hóa. Đầu năm 1944,
lúc đương chức Tri Phủ Quảng Xương, nhạc phụ tôi không nhẫn tâm cưỡng ép dân
quê nhổ mạ trồng đay theo lệnh chính quyền Pháp-Nhật nên đã bị cách chức, không
những chỉ mất chức Tri Phủ mà còn bị đuổi về vườn, tước bỏ hết quan chức phẩm
hàm. Giữa năm 1955, đương chức Tỉnh Trưởng Quảng Nam, vì không làm vừa ý viên Cố
vấn người Mỹ tØ Sài
Gòn ra thanh sát đòi hỏi thay đổi toàn bộ nhân sự tại tỉnh
đường, lại còn sử dụng một số đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng làm Quận Trưởng
một số quận ở miền núi, nên nhạc phụ tôi đã bị cách chức Tỉnh Trưởng. Hai tháng
sau, khi chính phủ Ngô Đình Diệm đàn áp đảng phái, các quận trưởng này bỏ quận
đường kéo lính Nghĩa Dũng vào núi lập chiến khu, và nhạc phụ tôi bị đuổi ra khỏi
ngành công vụ và bị chỉ định cư trú tại Nha Trang. Đến năm 1963, khi vụ Phật
giáo xẩy ra, nhạc phụ tôi lại còn bị đưa lên an trí ở Ban Mê Thuột. Tóm lại,
cái ý chí quật cường, cái tinh thần không ham danh lợi, đã liên tục lưu truyền
đời này sang đời khác trong huyết quản những người trong cái gia đình ở Phú
nhơn, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi ấy, theo đúng đạo lý nhà Nho : “Phú quý bất năng
dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
Với thân phận con rễ tỏ tình hiếu
kính cùng nhạc phụ, nhưng đồng thời cũng với tấc lòng một kẻ sĩ ngưỡng mộ một kẻ
sĩ, năm nhạc phụ tôi tuổi tròn 80, tôi đã dâng tặng bài thơ sau đây :
岳父黎忠大人八旬慶壽
八十年萊家國心
孝忠仁義甚高深
龍頭節操長山水
天印風姿照古今
帝闕曾時圓佳偶
南城几度獨勞心
浮雲名利非公願
此片丹心未易尋
壻胡文箴恭賀
Nhạc phụ Lê Trung Đại nhân bát tuần khánh thọ
Bát thập niên lai gia quốc
tâm
Hiếu Trung Nhân Nghĩa thậm
cao thâm.
Long Đầu tiết tháo trường
sơn thủy,
Thiên Ấn phong tư chiếu cổ câm (kim).
Đế khuyết tằng thời viên
giai ngẫu,
Nam thành kỷ độ
độc lao tâm.
Phù vân danh lợi phi
công nguyện,
Thử phiến đan tâm vị dị
tầm!
Tế Hồ Văn Châm cung hạ.
(Mừng
thọ bát tuần của nhạc phụ Lê Trung Đại nhân. Tám mươi năm tình nhà nổi nước,
Các mặt Hiếu Trung Nhân Nghĩa đều rất mực cao sâu. Tiết tháo đất Long Đầu còn
dài với sông núi, Phong tư núi Thiên Ấn sáng mãi với cổ kim. Đã vẹn toàn mối
duyên tốt đẹp nơi đế khuyết (Huế), Mà bao lần còn một mình lo nghĩ (cho dân cho
nước) tại chốn thành Nam
(Sài gòn).Danh lợi là phù vân, không phải là sở nguyện. Tấm lòng son ấy, thế
gian chưa dễ tìm. Con rễ Hồ Văn Châm kính mừng.)
Nay xét phong tư và tiết tháo của
con cháu đời sau là có thể suy đoán được tư cách và hành trạng của cha ông đời
trước. Nhạc phụ tôi đã không nghe lời chủ đồn điền Tây, đã không tuân lệnh quan
cai trị Pháp-Nhật, lại cũng không nể nang cố vấn Mỹ, thà chịu thiệt thòi cho bản
thân chứ không chịu làm những việc trái với lương tâm, có phương hại đến quyền
lợi quốc gia dân tộc. Vậy thì có lẽ nào các bậc tiền bối ngày trước lại có thể
có những hành vi phản bội, hèn yếu, khiếp nhược? Chẳng hạn, ông tổ bốn đời của
nhạc phụ tôi là Lê Đăng Lượng, tính tình ngay thẳng, khi làm Bố chính Bình Thuận,
đang đêm sai lính mở cổng thành cho người nhà đi bốc thuốc, nên bị Tuần phủ sở
tại gièm pha tâu về Triều Đình khiển trách tội tự tiện mở cổng thành ban đêm tư
thông với giặc, phải đổi đi làm Tiễu Phủ sứ Sơn phòng Thanh Hóa. Nguyên do sự
gièm pha vu cáo là tình trạng hiềm khích giữa hai quan lớn đầu tỉnh bởi vì lòng
dạ Bố chính bộc trực, thường hay công khai chê bai Tuần phủ ham ăn của đút. Ra
nơi trấn nhậm mới, Lê Đăng Lượng có công lập một số làng ở thượng du Thanh Hóa
nên mãi gần đây vẫn còn được dân các làng ấy thờ làm Tiền Hiền. Hai con trai lớn
của Lê Đăng Lượng là Lê Trung Phu và Lê Trung Đình hưởng ứng chiếu cần vương của
vua Hàm Nghi, ngày 13-7-1885, khởi nghĩa binh chiếm tỉnh thành Quảng Ngãi để chống
Pháp. Về sau, cuộc khởi nghĩa bị thất bại, Lê Trung Phu tự vẫn, Lê Trung Đình bị
bắt và bị xử trảm. Về hành trạng của Lê Trung Đình, hầu hết sử sách trước nay đều
tỏ lòng tán đồng và biểu dương. Quân cần vương Quảng Ngãi được ghi nhận là đã ứng
nghĩa trước nhất. Chiếu cần vương vừa được phát ra là Quảng Ngãi đã khởi binh ứng
nghĩa chiếm tỉnh thành. Đại Nam Thực lục cho rằng sở dĩ Quảng Ngãi hành động
mau chóng như vậy là vì trước đây đã nhận được lệnh Tôn Thất Thuyết tổ chức
Nghĩa Hội để sẵn sàng khởi binh. Thật vậy, để kháng chiến chống Pháp, Tôn Thất
Thuyết đã cho xây thành Tân Sở ở Quảng Trị, tăng cường biền binh Quảng Nam và
Nghĩa Định cho các mặt trận Thuận An và Hưng Hóa, và tổ chức Nghĩa Hội trong giới
văn thân Trung Kỳ. Sau khi vua Đồng Khánh được người Pháp lập lên, ngoại trừ
chung quanh Kinh thành Huế, suốt một giải đất từ Bình Thuận đến Thanh Hóa,
phong trào Văn Thân Cần Vương nổi lên cuồn cuộn theo vua Hàm Nghi chống lại tân
triều:
“Gẫm xem thế sự thêm rầu,
“Ở giữa Đồng Khánh, hai
đầu Hàm Nghi.
Vào thời điểm Lê Trung Đình khởi
binh chiếm tỉnh thành Quảng Ngãi, các Tiễu Phủ sứ Sơn phòng Quảng Nam Trần Văn
Dữ và Tiễu Phủ sứ Sơn phòng Nghĩa Định Nguyễn Thân đều có tham gia Nghĩa Hội.
Chính Nguyễn Hy (con trai Nguyễn Thân) đã viết trong gia phả : “Tiên công khi
làm Tiễu Phủ Sơn phòng gặp khi quốc nạn thiệt là gian nan lắm, nhất là thiệt hết
sức khổ tâm vì là khi đó thương hào 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định
giao ước tôn tiên công làm nguyên soái để bình Tây sát Tả. Đã đúc ấn nguyên
soái rồi”. Vua Đồng Khánh cử Phan Liêm làm Khâm sai Đại thần Tả Trực Kỳ để đánh
dẹp Văn Thân. Phan Liêm bèn sai Trần Văn Dữ đem quân Sơn phòng vào chiếm lại
thành Quảng Ngãi. Trần Văn Dữ thối thác không chịu tiến quân nên bị đổi đi làm
Bố chính Bình Thuận. Trần Văn Dữ không đi nhậm chức mới, ở lại Quảng Nam khởi binh cần
vương chống lại tân triều. Phan Liêm sai Đinh Hội mang 900 biền binh vào đánh
Lê Trung Đình. Đinh Hội chưa vào tới địa phận Quảng Ngãi thì được tin Nguyễn
Thân đã chiếm lại tỉnh thành Quảng Ngãi, Thủ lĩnh Lê Trung Đình bị bắt, Phó Tướng
Nguyễn Tự Tân bị chém chết. Số là Nguyễn Thân tuy có tham gia Nghĩa Hội nhưng
muốn trở cờ lập công với tân triều nên ngày 26-7-1885 (theo Philippe Devillers)
mang quân Sơn phòng về tỉnh thành nói là để hội quân ứng nghĩa, nhưng khi đã
vào trong thành thì bất thần trở mặt chém chết Nguyễn Tự Tân và bắt trói Lê
Trung Đình để hôm sau đem xử trảm. Về việc thay đổi lập trường của Nguyễn Thân,
Đào Trinh Nhất trong sách Phan Đình Phùng đã viết như sau : “Ông (Nguyễn Thân)
sinh vào hồi nhà nước lâm nạn, nên khi đầu, đối với thời thế, ông cũng xem bằng
con mắt bi quan và có lòng phẫn khích lắm. Song vì tấm lòng lập công danh nặng
hơn lòng yêu nước, cho nên sau ông đổi ý kiến ngay, đem thời thế vào lợi dụng
cho mình”. Chỉ vì về sau Nguyễn Thân đã tận lực giúp người Pháp đánh diệt phong
trào cần vương, làm nhiều việc trái với lòng người, nên các tài liệu gia phả
liên quan đến Nguyễn Thân (Nguyễn Tộc gia phả do Nguyễn Hy viết) có nhiều điều
không đúng sự thật nhằm mục đích biện minh cho hành động của Nguyễn Thân. Thí dụ
trong vụ chiếm lại tỉnh thành Quảng Ngãi, để tránh cho Nguyễn Thân khỏi mang tiếng
phản trắc, tráo trở, tài liệu gia phả viết rằng Nguyễn Thân sai Đinh Hội đem
900 biền binh đến lấy lại tỉnh thành, Lê Trung Đình chỉ có trong tay 400 dân
phu, liệu sức không chống lại nổi, nên mở cửa ra hàng, Nguyễn Tự Tân xách gươm
xông ra chống đối nên bị chém chết. Rõ ràng đây là những lời lẽ thiếu trung thực,
nếu không muốn nói là bịa đặt có hậu ý. Đinh Hội thuộc nhân số Sơn phòng Quảng Nam, Nguyễn
Thân chỉ huy Sơn phòng Nghĩa Định, làm sao Nguyễn Thân điều động được? Lê Trung
Đình trong tay chỉ có 400 dân phu theo như tài liệu gia phả h† NguyÍn,
nhưng L.Sogny cho biết trong thành Quảng Ngãi nhân số nghĩa quân lên đến hàng
nghìn : “A Quảng Ngãi, le 13 Juillet 1885, le Prince Tuy Ly était proclamé Phụ
Quốc Vương par le Cử nhơn Lê Trung Đình et le Tú Tài Nguyễn Tự Tân qui avaient
réuni sur les rives du Trà Khúc plusieurs milliers d’hommes armés”. Nói rằng Lê
Trung Đình mở cửa thành ra hàng, nhưng Đinh Hội chỉ là một quan chức nhỏ của
Sơn phòng Quảng Nam, Lê Trung Đình lại có mệnh vua trong tay, nhân sự dưới quyền
cũng đông đảo hơn bội phần, Lê Trung Đình sợ gì Đinh Hội mà phải ra hàng. Cho
dù Lê Trung Đình có hèn nhát, khiếp nhược, không còn là con người nghĩa khí của
đất Quảng Ngãi, mà chịu cúi mặt ra hàng thì Lê Trung Đình về sau cũng đã áo mão
xênh xang như Trương Quang Đảng, lẽ nào lại bị bắt trói và hôm sau bị đem xử trảm?
Tài liệu gia phả của Nguyễn Hy đầy dẫy những chuyện thiếu trung thực và phi lý
như vậy, tiếc rằng nhiều nhà biên khảo ngày nay đã phóng tâm lấy đó làm tin nên
nhiều chỗ trong công trình của họ không đúng với sự thật lịch sử.
Dù sao thì “Trăm năm bia đá (hay tài
liệu thành văn) cũng mòn, Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Chỉ có người dân
Quảng Ngãi là nhân chứng lịch sử, là trọng tài vô tư, là quan tòa đầy đủ thẩm
quyền luận công định tội. Nhân dân Quảng Ngãi đã đánh giá tư cách và hành trạng
Lê Trung Đình như thế nào, mọi người đều rõ. Chả thế mà
chính quyền Việt
Minh đã lấy tên Lê Trung Đình gọi tỉnh Quảng
Ngãi, và chính quyền Cộng Hòa đã lấy tên Lê Trung Đình đặt tên cho một trong 2
con đường lớn của thị xã Quảng Ngãi.
Ngày vào thu, 23 tháng 9 năm 2003
Minh
Vũ Hồ Văn Châm
Ghi chú:
*
Nguyễn Thiệu, theo bài góp ý của Nguyễn Đức Cung “Chung quanh câu chuyện văn
chương và lịch sử xứ Quảng” đăng ở Tập San Y Sĩ số 165, Tháng 4, 2005, Hội Y Sĩ
Việt Nam tại Canada, 6338 Victoria, suite 6, Montréal, Qc. H3W 2S5, ấn hành.
Người viết không có điều kiện kiểm tra lại, nên ghi chú để tồn nghi.
Vua Quang Trung
và chiếc xuồng câu xứ Huế
Năm 1786, chiếm xong Thuận Hóa,
Nguyễn Văn Huệ, nghe lời xúi dục của Nguyễn Hữu Chỉnh, kiểu chiếu kéo toàn bộ
thủy lục ra đánh Đàng Ngoài. Quân Trịnh tan vỡ nhanh chóng, các tướng Trịnh
Đinh Tích Nhưỡng, Bùi Thế Dận, Trịnh Tự Quyền, Hoàng Phùng Cơ không sao ngăn
cản được. Nguyễn Văn Huệ vào Đông Đô ngày 21 tháng 7 năm 1786. Đoan Nam vương Trịnh
Khải chạy lên Yên Lãng bị dân bắt, cấu rốn moi ruột tự sát. Nguyễn Văn Huệ yết
kiến vua Lê Hiển Tông nêu rõ ý tôn phù, được vua Lê phong làm Nguyên súy Dực
chính Phù vận Uy quốc công, và gả công chúa Ngọc Hân cho. Ít lâu sau, vua Hiển
Tông mất, Hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Chiêu Thống.
Trong lúc đó, ở Quy Nhơn, vua Thái Đức Nguyễn Văn Nhạc ngờ em có bụng khác nên
tức tốc ra Đông Đô, úy lạo tướng sĩ, trả Bắc Hà lại cho vua Lê, rồi cùng Nguyễn
Văn Huệ rút quân về. Nguyễn Hữu Chỉnh bị bỏ ở lại, sáng dậy thấy quân Tây Sơn
đã rút hết, bèn vội vã chạy theo, được vua Thái Đức cho làm Trấn thủ Nghệ An,
nhân thể tháp nhập Nghệ An vào lãnh thổ Đàng Trong.
Năm 1787, vua Thái Đức chia đất cho
các em, tự mình cai quản từ Quảng Nam đến Bình Thuận, xưng là Trung Ương Hoàng
đế, đóng đô ở Quy Nhơn, phong Nguyễn Văn Lữ làm Đông Định vương, cai quản miền
Gia Định, đóng đô ở Sài Côn, và phong Nguyễn Văn Huệ làm Bắc Bình vương, cai
quản Thuận Hóa và Nghệ An, đóng đô ở Phú Xuân. Bắc Bình vương thấy Thuận Hóa
với Quảng Nam
xưa nay vẫn khắng khít làm một, nên đòi thêm đất Quảng Nam. Không được
chấp thuận, Bắc Bình vương tiến quân vào vây thành Quy Nhơn, vua Thái Đức thân
lên mặt thành khóc lóc, Bắc Bình vương chịu giảng hòa và chia đất từ Quảng
Nghĩa trờ vào cho anh.
Trong lúc anh em Tây Sơn bất hòa với
nhau, Nguyễn Hữu Chỉnh chiêu binh mãi mã, củng cố thế lực ở Nghệ An, và Trịnh
Bồng kéo đồng đảng trở lại Đông Đô, ép vua Lê Chiêu Thống phong làm Án Đô
vương, trở lại làm chúa ức hiếp vua Lê như các đời trước. Nguyễn Hữu Chỉnh bèn
kéo quân ra bắc đánh đuổi Trịnh Bồng, được vua Lê phong làm Đại Tư Đồ Bằng
Trung công, lấy nghĩa phù Lê phản lại Tây Sơn. Nguyễn Văn Huệ bèn sai Võ Văn
Nhậm làm Tiết chế, Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân làm Tham tán quân vụ, đem quân từ
Phú Xuân ra bắc đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Hữu Chỉnh rước vua Chiêu Thống
chạy lên Yên Thế. Nguyễn Hữu Chỉnh bị tướng Tây Sơn Nguyễn Văn Hòa đánh úp bắt
được, đem về Đông Đô xử chém. Lê Chiêu Thống trốn tránh lo việc trung hưng, và
sai bề tôi phò bà Hoàng Thái hậu sang Tàu cầu viện. Võ Văn Nhậm bèn tôn Sùng
Nhượng công Lê Duy Cận lên làm Giám Quốc. Võ Văn Nhậm là Phò mã của vua Thái
Đức, lại là người có tài, nay lập công lớn, dùng Lê Duy Cận mà thu tóm đại
quyền Bắc Hà trong tay, Bắc Bình vuơng nghi ngờ có nhị tâm, nên đem kỵ binh cấp
tốc ra Đông Đô bắt chém Võ Văn Nhậm. Bắc Bình vương chỉnh đốn lại mọi việc, vẫn
để Lê Duy Cận làm Giám Quốc, đưa Ngô Văn Sở lên thay Võ Văn Nhậm, cắt đặt các quan
lục bộ và trấn thủ, rồi trở về Phú Xuân.
Năm 1788, vua Càn Long nhà Mãn Thanh
Trung Quốc thừa dịp nhà Lê cầu viện nên sai Tôn Sĩ Nghị điều động 20 vạn quân
và 10 vạn phu chia làm 3 đạo theo các ngã Lạng Sơn, Cao Bằng và Hà Giang tiến
đánh nước ta. Càn Long gửi mật chiếu cho Tôn Sĩ Nghị vạch kế hoạch phô trương
thanh thế và từ từ tiến binh, “để cho quân Lê đánh nhau với Tây Sơn, đại binh
tiến theo làm thanh viện, đến chừng quân Lê thu phục được đất cũ, bấy giờ đứng
ra giảng hòa hai bên, rồi đóng đại quân ở giữa mà kiềm chế cả hai. Nhược bằng
kẻ kia (Tây Sơn) cường ngạnh, không biết sợ oai trời, bấy giờ sẽ tiến quân đến
tận hang ổ của chúng (Phú Xuân) mà tiêu diệt”. Quân Mãn Thanh tiến vào nước ta,
Chiêu Thống sang Kinh Bắc đón rước vào Đông Đô, còn Ngô Văn Sở rút quân bộ về
giữ Tam Điệp và quân thủy về Biện Sơn, và sai Nguyễn Văn Tuyết cưỡi ngựa lưu
tinh về Phú Xuân cấp báo.
Ngày 24 tháng 11 năm Mậu Thân
(1788), tin đến Phú Xuân. Để trấn an lòng người và giữ vững tinh thần tướng sĩ,
Bắc Bình vương Nguyễn Văn Huệ sai đắp đàn ở Bân sơn phía tây thành Phú Xuân để
tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng đế, lấy năm Mậu Thân làm niên hiệu Quang Trung
năm đầu, rồi chỉnh đốn voi ngựa binh lính tiến quân ra bắc. Thành Phú Xuân lúc
bấy giờ có 6 vạn lính, chủ yếu là người Thuận Quảng. Vua Quang Trung để lại một
vạn giữ thành, đem 5 vạn ra bắc. Ngày 29 tháng 11, đại quân đến Nghệ An, nhà
vua sai Hô Hổ Hầu tuyển thêm binh, cứ 3 suất đinh lấy 1 người, được thêm 3 vạn
lính nữa. Vua Quang Trung làm lễ điểm binh, tổng cộng được 8 vạn lính và 200
thớt voi. Nhà vua sai Trần Danh Bình cầm đầu sứ bộ mang thư đến bản doanh của
Tôn Sĩ Nghị xin nghị hòa, lời lẽ khúm núm sợ sệt để đánh lạc hướng quân địch.
Quả nhiên Tôn Sĩ Nghị mắc mưu, kiêu căng xé thư và giết Trần Danh Bình. Vua lại
nhờ Nguyễn Thiếp thân hành ra Đông Đô mang thư cho Đề Lĩnh họ Đinh hẹn làm nội
ứng. Bố trí xong mọi việc, vua Quang Trung ra lệnh xuất quân, ngày 20 tháng
chạp năm Mậu Thân, đại binh đến Tam Điệp. Bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Ngô
Thời Nhậm ra yết kiến và xin chịu tội tự tiện lui binh. Vua Quang Trung an ủi,
tha tội cho các tướng, rồi gộp binh đồn trú ở Bắc Hà với đại quân, tất cả là 10
vạn người. Nhà vua cho quân lính ăn Tết trước và hẹn đến mồng bảy tháng giêng
vào Đông Đô sẽ ăn Tết tiếp.
Người đời sau đọc đến đoạn sử này tự
hỏi làm sao vua Quang Trung chỉ trong vòng ba bốn ngày có thể điều động 5 vạn
bộ binh từ Phú Xuân ra đến Nghệ An cách nhau hơn 300 kilômét vào thời đại trên
bộ chưa có phương tiện vận chuyển cơ khí. Rất may là sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí
đã tường thuật tỉ mỉ việc vua Quang Trung chia quân ra từng nhóm nhỏ 3 người,
mỗi nhóm dùng một chiếc cáng đựng khí giới, quân trang , lương thực, vật dụng
cá nhân của cả nhóm, rồi một người lên nằm trên cáng để hai người kia khiêng,
vừa đi vừa chạy, cứ thế luân phiên nhau, gặp sông gặp suối thì đặt cáng xuống
mặt nước mà lội qua. Những nhà viết sử về sau dựa vào Hoàng Lê Nhất Thống Chí
cũng thuật lại chuyện cái cáng , hoặc đổi ra là cái võng cho dễ hiểu hơn. Có
điều là cái cáng (hay cái võng) lịch sử đó thực ra là chiếc xuồng câu của miền
Bình Trị Thiên mà tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí chưa trông thấy bao giờ nên
tưởng lầm là cái cáng. Miền bắc miền nam có thuyền đinh, thuyền thúng, ghe bầu,
ghe tam bản, ghe cà dom, nhưng không đâu có chiếc thuyền nan độc đáo của vùng
Huế. Thuyền nan, còn gọi là xuồng câu, hình thon thon, dài chừng 2 đến 3 mét,
rộng từ 60 đến 70 centimét, lườn thuyền làm bằng nan tre quét dầu rái và hắc
ín, mạn thuyền kẹp bằng nẹp tre buộc lạt mây. Xuồng không có cọc chèo, vì di
chuyển bằng dầm chứ không phải bằng mái chèo. Dầm có hai loại: dầm ngắn thì hai
tay sử dụng hai cái, dầm dài thì hai tay nắm đoạn giữa mà lần lượt hạ hai đầu
dầm xuống khoắng nước. Xuồng dùng để đi câu hoặc để đuổi cá vào lưới. Ngay tại
Huế thì xuồng còn dùng để chở hàng quà bán rong ban đêm trên sông Hương.
Tết, vua Quang Trung vây đồn Hà Hồi.
Quân Tây Sơn la ó vang trời, quân Thanh bất ngờ bị tấn công nên kinh hoảng hạ
khí giới đầu hàng. Mờ sáng ngày mồng 5, vua Quang Trung đánh đồn Ngọc Hồi, quân
Thanh chống cự kịch liệt nhưng cuối cùng bại trận, chạy lui về Đông Đô lại bị
quân của Đại Đô Đốc Bảo chận đánh lùa xuống Đầm Mực nên chết thêm hàng mấy vạn
người. Trong lúc đó, Đô Đốc Long đánh đồn Khương Thượng rồi tiến lên công hãm
thành Đông Đô. Các tướng Tàu Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng
tử trận, Sầm Nghi Đống tự sát. Quân Thanh phần chết trận, phần chết đuối, phần
hoảng sợ dày xéo lên nhau mà chết, sự tổn thất về nhân mạng vô cùng lớn lao.
Tôn Sĩ Nghị vượt cầu phao chạy trốn, đến vùng Phượng Nhỡn lại bị phục binh của
Đại Đô Đốc Lộc đón đánh, phải bỏ cả ấn tín, kỳ bài, sắc thư, chạy thoát thân về
Tàu. Vua Lê Chiêu Thống cũng chạy theo rồi về sau chết ở bên Tàu. Vua Quang
Trung đại thắng tiến quân vào thành Đông Đô ngày mồng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu
(1789), trước kỳ hẹn với quân sĩ hai ngày.
Thấy Tôn Sĩ Nghị thua chạy không còn
manh giáp, vua Càn Long giận lắm, xuống chiếu điều động quân 9 tỉnh giao cho
Phúc Khang An thống lĩnh chuẩn bị sang đánh nước ta. Vua Quang Trung sai Ngô
Thời Nhậm thảo biểu cầu phong với nhà Thanh
và vận động Phúc Khang An và Hòa Thân bảo tấu với Càn Long. Cuối cùng,
vua Càn Long nhà Thanh đã nghe lời bàn của triều thần, bỏ rơi Chiêu Thống và
phong Quang Trung làm An Nam quốc vương.
Đánh đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi,
vua Quang Trung đổi tên Đông Đô làm Bắc Thành, và trở lại Phú Xuân. Nhà vua
thấy lòng người Bắc Hà còn tưởng nhớ nhà Lê, Đông Đô lại ở quá gần biên giới
Tàu, bốn mặt trống trải, nên cả 3 lần ra đánh chiếm Bắc Hà, lần nào xong việc,
nhà vua cũng quày quả trở lại Phú Xuân. Tuy nhiên, vua Quang Trung có nhờ
Nguyễn Thiếp nghiên cứu xây thành Phượng Hoàng ở Nghệ An., ý muốn dời đô ra đấy
là nơi trung độ đất nước. Nhưng rồi vua Quang Trung mất sớm, đô thành Phượng
Hoàng chưa kịp xây. Vua mới Cảnh Thịnh vẫn tiếp tục đóng đô ở Phú Xuân. Vã lại,
lúc này vua Cảnh Thịnh kiêm tính cả giang san của vua bác Thái Đức, biên giới
phía nam của Tây Sơn đến tận Bình Khang, Nghệ An không còn là trung độ đất nước
nữa, nên triều đình Tây Sơn từ bỏ ý định dời đô. Phú Xuân tiếp tục là đô thành
của nhà Tây Sơn cho đến năm 1801 là năm Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại thành Phú
Xuân.
Tháng 4 năm 2003
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Phiếm Luận về Ăn Chay
Động từ Ăn Chay
gốc gác từ chữ Hán. Ăn Chay tiếng Hán Việt là Trai, là Thực Trai, đọc theo âm
quan thoại là T’xư Chai, theo âm Quảng Đông là Xực Chai. Cho dù là T’xư Chai
hay Xực Chai thì cũng đều là Chai cả, và Chai đã trở thành Chay khi chuyển
thành tiếng Việt phổ thông.
Nói
một cách tổng quát thì ăn chay có nghĩa là kiêng ăn thịt cá, kiêng ăn những
thức ăn có nguồn gốc động vật. Trong ngôn ngữ bình dân, ăn chay cũng thường
được hiểu là kiêng ăn mặn. Nhưng kiêng ăn mặn ở đây là kiêng thịt cá, chứ không
phải kiêng mắm muối, thành thử kiêng ăn mặn của con nhà Phật khác nghĩa với kiêng
ăn mặn của các vị hành nghề dao bầu thuyền tán, ống chích ống nghe.
Tiếng
Việt có thành ngữ ‘Đời cha ăn mặn, đời con khát nước’. Thành ngữ này là một
nhận xét sâu sắc và chính xác về cả hai mặt tư tưởng và sinh lý. Chúng ta lược
qua mặt tư tưởng vì nó liên hệ đến nhiều vấn đề phức tạp như thuyết nhân quả,
luật ân oán. Chúng ta chỉ bàn phiếm một chút về mặt sinh lý của hiện tượng ăn
mặn và khát nước. Trong vấn đề này, ăn mặn thì khát nước vừa đúng cho trường
hợp ăn mặn là ăn nhiều mắm muối, mà cũng đúng cho trường hợp ăn mặn là ăn nhiều
thịt cá. Thật vậy, khi chúng ta ăn nhiều mắm muối, cơ thể chúng ta hấp thụ
nhiều clorua natri, các tế bào trong cơ thể sẽ bị trương nước, nghĩa là cơ thể
sẽ cần rất nhiều nước, do đó, chúng ta khát nước, chúng ta sẽ phải uống nhiều
nước để đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Trong trường hợp chúng ta ăn nhiều thịt cá,
nghĩa là nhiều protít, một phần lớn lượng protit này phải chuyển hóa thành
đường để phát sinh năng lượng. Quá trình chuyển hóa này cần rất nhiều nước để
lấy gốc amin ra khỏi protit. Gốc amin này khi bị tách ra sẽ trở thánh a mô nhác
rất độc, nên cơ thể lại phải cần thêm nhiều nước để biến a mô nhác thành u rê
không độc được thải ra ngoài qua đường tiểu tiện. Do đó, ăn nhiều thịt cá thì
sẽ phải uống nhiều nước.
Trở
lại vấn đề ăn chay theo định nghĩa là kiêng ăn thịt cá. Nói cho chính xác hơn,
ăn chay là kiêng không ăn những thức ăn có nguồn gốc động vật. Người ăn chay
tìm cách thoả mãn các nhu cầu dinh dưỡng bằng các thức ăn có nguồn gốc thực vật
hoặc vô cơ. Nhưng ranh giới giữa động vật và thực vật là một vấn đề khó mà xác
định rạch ròi. Người ta định nghĩa động vật là sinh vật có giác quan, khác với
thực vật vô tri không biết biểu hiện cảm xúc, không biết tiếp nhận cảm thụ. Bởi
vậy, những người bệnh nặng bị hôn mê, ăn uống bài tiết hoàn toàn do máy móc đảm
trách được gọi là những người có đời sống thực vật. Nhưng có thể nào loại bỏ
những người này ra khỏi chủng loại con người và liệt họ vào hàng cây cỏ được
sao! Mặt khác, cây cỏ có quang động dương, luôn luôn tìm cách hướng về nơi có
ánh sáng mặt trời. Thân cây có địa hướng động âm, luôn luôn vươn lên cao, trong
lúc rể cây có địa huớng động dương, luôn luôn ăn sâu xuống đất. Như vậy, thực
vật đâu đã hoàn toàn vô tri vô giác.
Vấn đề phân định
lằn ranh giữa thức ăn có nguồn gốc động vật với thức ăn có nguồn gốc thực vật
lại càng phức tạp hơn khi người ăn chay vô tình ăn những thức ăn có nguồn gốc
động vật mà cứ đinh ninh tưởng rằng đó là thức ăn có nguồn gốc thực vật. Thí dụ
rõ nét về sự kiện này là các chai xì dầu sản xuất ở Sài Gòn phần lớn đều được
chiết xuất chất đạm từ xương trâu xương bò. Ai đã sinh sống ở Sài Gòn trước đây
nhất định đã từng thấy những xe ba gác chất cao xương súc vật nghễu nghện đi
ngoài phố, hướng về các xưởng sản xuất xì dầu. Trong quy trình sản xuất nước
tương xì dầu, nguyên liệu chủ yếu là đậu nành hoặc xương trâu bò, và công đoạn
quan trọng là chiết xuất chất đạm của nguyên liệu bằng acit clohydric, rồi sau
đó sẽ dùng xút để tách riêng chất đạm ra mà chế tạo xì dầu. Như vậy, nếu ăn
chay với xì dầu sản xuất từ xương trâu bò thì không còn đúng theo định nghĩa ăn
chay là kiêng ăn các thức ăn có nguồn gốc động vật.
Lại có chủ
trương ăn chay là kiêng ăn những thứ liên quan đến sự hủy diệt sinh mạng động
vật, chứ không phải là kiêng ăn tất cả các thức ăn có nguồn gốc động vật. Ăn
thịt cá thì phải giết trâu bò, gà vịt, tôm cá. Kiêng ăn thịt cá để khỏi phải
tổn hại sinh mạng các động vật đó. Như vậy, ăn bơ, uống sữa của trâu bò, hay ăn
trứng gà trứng vịt không chịu trống, thì không liên quan gì đến sự hủy diệt
sinh mạng động vật, nên người ăn chay có thể ăn các thứ đó. Nhưng lý luận như
vậy cũng chưa hẳn là đã hết lý lẽ để phản biện. Sữa trâu bò là để nuôi nghé,
nuôi bê. Nay ăn bơ uống sữa trâu bò là cướp đoạt một phần thức ăn của trâu con,
bò con, tuy không đến nổi đưa đến hậu quả hủy diệt sinh mạng nhưng chắc chắn là
có phương hại cho sự tăng trưởng cơ thể và việc giữ gìn sức khỏe của chúng. Đến
như chủ trương ăn chay có thể ăn trứng gà trứng vịt không chịu trống bởi lẽ
việc này không liên quan đến sự hủy diệt sinh mạng thì điều này hoàn toàn không
phù hợp với các kiến thức sinh học. Thật vậy, khi đem soi trứng gà trứng vịt
không chịu trống trước một nguồn sáng, chúng ta không thấy có vệt máu, tức là
bên trong không có thai phôi, nhưng điều này không có nghĩa là trứng gà trứng
vịt không chịu trống là hoàn toàn không có mầm sống. Dù có chịu trống hay không
chịu trống thì trứng gà trứng vịt đã có chứa noãn của gà mái vịt mái, là một tế
bào sinh dục có một nửa số nhiễm thể n của gà của vịt.
Nói cho cùng, đi
tìm tiêu chuẩn tuyệt đối cho việc xác định các thức ăn chay là một việc làm
mang tính chất chẻ sợi tóc làm tư. Trong thực tế, ăn chay, tức là kiêng ăn thịt
cá, là để tránh phạm vào sát giới. Như vậy, vấn đề cốt lõi là kiêng cử việc
giết sinh vật để ăn thịt chứ không phải việc ăn thịt. Một vài giáo phái đồng
thời với Đức Phật đã đưa ra nhiều câu chuyện để giải thích việc ăn chay không
hoàn toàn đúng với ý của Ngài mà chỉ cốt để xuyên tạc nguyên ủy phát sinh sự
kiện ăn chay, với mục đích làm phương hại thanh danh của Ngài. Thí dụ, kinh
sách Kỳ Na giáo kể rằng:
‘Đức
Phật đến thành Vai’sâli. Tù trưởng Shiha của bộ lạc Lichchhavi vốn là đệ tử của
Nataputta theo giáo phái Nigantha, đã không tuân lệnh cấm của giáo chủ, tự ý
đến nghe Đức Phật thuyết pháp, và sau đó, đã quy y Phật. Để tỏ lòng tôn trọng
Ngài, Shiha mời Ngài dùng cơm, và đã sai đệ tử dâng thịt. Chuyện này đến tai
tín đồ giáo phái Nigantha. Những người này bèn tụ tập đông đảo và chia nhau đi
rêu rao khắp thành Vai’sâli rằng Shiha đã giết một con bò mộng để xẻo thịt dâng
Đức Phật. Họ buộc tội Đức Phật đã gây ra cái chết của con vật vì Ngài ăn thịt
nó mặc dầu đã biết vì Ngài mà nó bị giết thịt. Từ đó, Đức Phật phát nguyện
kiêng ăn thịt và cấm tín đồ không được ăn thịt một khi đã biết con vật vì mình
mà bị giết.’
(Johann Georg Buhler. The Indian
Sect of the Jainas. Nhà Xuất bản Susil Gupta Private Ltd. Calcutta 1963).
Trong sự kiện ăn
chay, tức là kiêng ăn thịt cá, chúng ta cần lưu ý đến cả 2 mặt tư duy và hành
động của vấn đề. Ăn thịt cá hay kiêng ăn thịt cá là mặt hành động. Nếu nghiên
cứu giáo lý nhà Phật với tinh thần thâm diệu thì sẽ thấy mặt hành động này
không có gì là quan trọng. Ngược lại mặt tư duy của vấn đề mới thực sự cần được
phân tích tỉ mỉ. Trong lúc quan điểm duy vật của ý hệ Mac-xit cho rằng Cuộc
Sống bắt đầu với Sự Sinh và chấm dứt với Sự Chết, và triết thuyết Cơ Đốc chủ
trương sau khi chết, con người bước vào một Cuộc Sống miên viễn, đợi chờ ngày
phán xét cuối cùng, thì Đức Phật dạy tín đồ rằng Cuộc Sống không bắt đầu với Sự
Sinh, không chấm dứt với Sự Chết, mà Tái Sinh theo quy luật Luân Hồi, tùy theo
Nghiệp Chướng tích lũy kiếp này qua kiếp khác. Sát sinh, nghĩa là giết chóc, vì
ganh đua, vì đố kỵ, vì thịnh nộ, vì hận thù v.v., đều là nghiệp chướng vô cùng
nặng nề. Trong trường hợp giết sinh vật để ăn thịt thì việc giết mới tạo nghiệp
chướng chứ không phải việc ăn. Tuy nhiên, vẫn có mối liên hệ giữa tư duy và
hành động: không có chuyện muốn ăn thì làm sao có việc quyết giết. Do đó mà
phát sinh sự khác biệt giữa Phật giáo Tiểu Thừa (Theravada) và Phật giáo Đại
Thừa (Mahayana) về vấn đề ăn chay. Tu sĩ Tiểu Thừa cầm bình bát đi khất thực,
thản nhiên ăn tất cả mọi thứ thức ăn trong bình bát, bất kể là rau đậu hay thịt
cá. Tín đồ Đại Thừa thì chủ trương ăn chay, kiêng ăn thịt cá toàn thời gian
(trường trai), hay một tháng dăm bảy ngày.
Khía cạnh cuối
cùng được đề cập đến là khía cạnh y học: ăn chay có lợi hay có hại cho sức khoẻ
con người?
Thức ăn thông thường được chia
làm 4 nhóm:
- Nhóm chất đạm gồm thịt, cá, trứng, đậu, nấm.
- Nhóm chất béo gồm bơ, kem, mỡ, dầu.
- Nhóm đường bột gồm cơm, bún, khoai sắn, bánh mì, mì sợi, kẹo bột, đường, mật.
- Nhóm rau quả và vitamin.
Thức ăn của người ăn chay và thức ăn của người
không ăn chay chỉ khác nhau ở 2 nhóm chất đạm và chất béo, liên quan đến nguồn
gốc động vật hay nguồn gốc thực vật. Nói chung, nếu kiêng ăn thịt cá mà vẫn ăn
đầy đủ các chất đạm có nguồn gốc thực vật thì không phương hại gì đến sức khỏe,
không làm giảm thiểu tốc độ tăng trưởng, không làm suy yếu khả năng kháng bệnh.
Nhiều thức ăn nguồn gốc thực vật như đậu và nấm chứa rất nhiều chất đạm. Tuy
nhiên, người ăn chay nên lưu ý đến khía cạnh quân bình của thành phần các acit
amin cần thiết trong chất đạm nguồn gốc thực vật. Thí dụ đậu nành là nguồn cung
ứng chất đạm tốt, nhưng chứa rất ít méthionine, trong lúc mè (vừng) lại chứa
nhiều méthionine mà lại có rất ít các acit amin cần thiết khác. Việc phối hợp
đậu nành với mè trong việc chế biến thức ăn là việc làm thông minh và có cơ sở
khoa học. Các loại dầu ăn thực vật chứa các acit béo không trung hòa, nói chung
là có lợi cho cơ thể hơn bơ và mỡ, nhưng không phải dầu ăn thực vật nào cũng
tốt như nhau. Có loại chất béo thực vật như nước cốt dừa làm gia tăng lượng
cholesterol xấu trong máu. Các vị ăn chay trường trai nên thường xuyên tham khảo
ý kiến các bác sĩ chuyên khoa dinh dưỡng và biến hợp.
Bàn phiếm về vấn đề ăn chay là một việc làm mạo
hiểm. Thực vậy, vấn đề ăn chay là một vấn đề tế nhị, liên quan đến nhiều lãnh
vực sinh hoạt cộng đồng, từ văn hóa, xã hội, đến tín ngưỡng, y học và kinh tế.
Tác giả không hành nghề y đã lâu, lại không có điều kiện tiếp cận với các kiến
thức khoa học hiện đại. Tác giả lại không phải là nhà Phật học, không có duyên
phận thâm cứu giáo lý cửa Thiền. Bởi vậy, bài phiếm luận này chỉ là câu chuyện
trà dư tửu hậu góp vui với bạn bè trong buổi họp mặt đầu năm, tuyệt đối không
phải là một công trình biên khảo. Tuy nhiên, nếu có bạn đọc nào hay đồng nghiệp
nào quan tâm nghiên cứu vấn đề ăn chay mà có nhã hứng tìm hiểu các dữ kiện về
nhân thể, lâm sàng, khẩu phần, và sinh hóa (Anthropological, clinical, dietary,
and biochemical data) của vài chục năm trước, thì tác giả giới thiệu cuốn ‘The
vegetarian diet of the Vietnamese Buddhist’ do tác giả biên soạn năm 1969 và
Kim Lai ấn quán in năm 1971, hiện có tại thư viện Trường Y Đại Học Columbia,
New York, Viện Pasteur và Trường Y Đại Học Sài Gòn, cũng như Trường Y Đại Học
Huế.
Ottawa, ngày 12 tháng 2
năm 2005
Minh
Vũ Hồ Văn Châm
Các Điểm Đề Nghị Của Thiền Sư
Nhất Hạnh Và Câu Chuyện
Vua Nước Sở Mất Cung
Ngày xưa, vua nước Sở đi
săn, đánh mất cây cung. Các quan theo hầu chia nhau đi tìm. Nhà vua ngăn
lại, phán rằng: “Vua nước Sở mất cung, người nước Sở bắt được, có mất đi đâu mà
phải tìm”. Chuyện đến tai Đức Khổng Tử, ngài bảo học trò rằng: “Lời nói ấy tuy
phải, nhưng vẫn còn là hẹp. Sao không nói rằng của người này mất đi, người khác
bắt được, có mất đi đâu mà phải tìm”.
Ngày
nay, Thiền Sư Nhất Hạnh đề nghị với Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam thực hiện
bảy điểm để giải quyết những khó khăn giữa chính quyền và cộng đồng Phật giáo
Việt Nam.
Ngoài ra, Thiền Sư Nhất Hạnh còn đưa ra sáu điểm gợi ý về sự cởi mở của Đảng
Cộng Sản Việt Nam để có thể tiếp xúc với cộng đồng Phật giáo trong nước như một
tiềm lực lớn lao của dân tộc.
Thiền
Sư Nhất Hạnh là người tu hành đạo Phật. Trong tình hình chính trị nước nhà hiện
nay, tất nhiên các điểm đề nghị của Thiền Sư Nhất Hạnh đều đặt cơ sở trên cương
vị một tu sĩ Phật giáo và giới hạn trong khuôn khổ vấn đề tự do hành đạo dưới
một thể chế chính trị mệnh danh là chuyên chính vô sản. Lời lẽ của Thiền Sư
Nhất Hạnh quanh co, khéo léo và rất mực ôn hòa. Tuy rằng trong lời lẽ của Thiền
Sư Nhất Hạnh cũng còn rơi rớt một vài điểm cần bàn thảo lại, nhưng nhìn chung
các điểm đề nghị của Thiền Sư Nhất Hạnh đan kết với nhau thành một mạng nối kết
chặt chẻ mà nét chủ yếu là việc đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản xác nhận ý muốn
thực hiện sự tách rời giáo quyền ra khỏi chính quyền. Đây là một đòi hỏi thiết
thực và chính đáng, nhưng liệu nhà cầm quyền cộng sản có chập nhận thi hành hay
không? Với lại, vạn nhất người cộng sản chịu xác nhận ý muốn thực hiện sự tách
rời giáo quyền ra khỏi chính quyền theo như đòi hỏi thì có gì bảo đảm để sự xác
nhận đó có giá trị thực thi để quần chúng Phật giáo được hành sử quyền tự do
tín ngưỡng, nói rõ hơn, quyền tự do hành đạo theo đúng giáo lý cửa Thiền?
Chính
quyền tại Việt Nam
hiện nay là chính quyền chuyên chính vô sản. Đảng Cộng Sản Việt Nam thực hiện
một định chế chuyên chính toàn trị, triệt để sử dụng bạo lực cách mạng để nắm
vững chuyên chính vô sản. Tuy thời gian gần đây cụm từ “chuyên chính vô sản” đã
được thay thế bằng cụm từ “hệ thống chính trị”, nhưng đây chỉ là xảo thuật dùng
ngôn từ hoa mỹ như lớp sơn phủ bên ngoài để che đậy cốt lõi thực chất bất biến
bên trong vốn là một định chế chuyên chính toàn trị. Theo nhà lý luận Nguyễn
Phú Trọng của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì hệ thống chính trị vẫn là Đảng lãnh
đạo, Nhà Nước quản lý, chỉ có khác ở điểm Mặt Trận Tổ Quốc và các Đảng phái,
Đoàn thể thay mặt Nhân Dân hành sử quyền làm chủ. Như vậy, quần chúng Phật giáo
và các thành phần nhân dân khác của cộng đồng dân tộc Việt Nam sống dưới
sự thống trị của Đảng Cộng Sản có cơ hội hành sử quyền làm chủ hay không?
Nhà
Nước cộng sản là mặt quyền lực của chế độ, được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản. Đảng giữ chức năng lãnh đạo, cơ chế Nhà Nước giữ chức năng thừa hành.
Đảng và Nhà Nước là hai hệ thống song hành, một chìm một nổi, tuy hai mà một,
có mặt ở tất cả các ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp, trong tất cả các lãnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, từ trung ương đến địa phương, theo
đúng chức năng đã định mà áp đặt quyền lực chính trị chuyên chính lên toàn bộ
nhân dân cả nước. Với chức năng lãnh đạo, cấp ủy Đảng chỉ thị và kiểm soát cơ
quan Nhà Nước cấp tương ứng. Như vậy, tại Việt Nam ngày nay, Đảng Cộng Sản là
tối thượng, Đảng đứng trên Nhà Nước, Đảng phủ lấp Quốc Gia, với hệ luận tất yếu
là chỉ có đảng viên Đảng Cộng Sản một mình một chợ nắm giữ chính quyền. Hệ
thống chính trị này là một định chế chuyên chính toàn trị đội lốt dân chủ được
xây dựng một cách tinh tế bằng các phương thức hạn chế quyền bầu cử và triệt
tiêu quyền ứng cử, nhằm mục đích ngăn cản người dân tham gia các sinh hoạt
chính trị, và loại bỏ người dân ra khỏi các cơ cấu công quyền. Về việc hạn chế
quyền bầu cử, luật lệ quy định chỉ có đảng viên mới có quyền bầu đại biểu vào
các cơ cấu chính quyền và Đại Hội Đảng, tức là gián tiếp bầu các cấp ủy Đảng,
còn quần chúng ngoài Đảng thì chỉ được bầu Quốc Hội, các cơ quan Nhà Nước, Hội
Đồng Nhân Dân các cấp, nghĩa là các cơ chế không có quyền quyết định chính trị.
Về việc triệt tiêu quyền ứng cử thì trong thực tế chỉ có đảng viên Đảng Cộng
Sản mới được ứng cử, vì luật lệ quy định ứng cử viên phải là người do Mặt Trận
Tổ Quốc giới thiệu. Nói tóm lại, hệ thống chính trị chuyên chính toàn trị đội
lốt dân chủ này về bản chất là một định chế dân chủ hình thức, ngụy trang, giả
mạo, được những nhà lý luận cộng sản sơn phết bằng những danh từ hoa mỹ dân chủ
mới, dân chủ tập trung, dân chủ nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hãy
trở lại đề nghị của Thiền Sư Nhất Hạnh về vấn đề tách rời giáo quyền ra khỏi
chính quyền. Một vài thế kỷ về trước, ở Âu châu đã có đạo luật tách rời Giáo
Hội với Nhà Nước. Lúc bấy giờ, Giáo Hội khống chế toàn diện mọi sinh hoạt chính
trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của Âu châu. Thí dụ Giáo Hoàng La Mã đã ban
hành sắc lệnh phân chia các đại dương trên địa cầu cho hai cường quốc hàng hải
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Giáo Hội chủ trì nghi lễ tấn phong vua nước Pháp
xuyên qua việc Giáo chủ thành Reims đội vương
miện lên đầu nhà vua trong lễ đăng quang. Rõ ràng giáo quyền đã đứng trên chính
quyền, Giáo Hội đã phủ lấp Nhà Nước. Vì mục đích để cho người dân có cơ hội
kiến tạo và điều hành chính quyền về cả hai mặt chính trị và công quyền, các
nhà vận động dân chủ mới đấu tranh để có đạo luật tách rời Giáo Hội ra khỏi Nhà
Nước. Tách rời Giáo Hội ra khỏi Nhà Nước, về mặt chính trị, người dân mới có cơ
hội công khai bày tỏ chính kiến, thành lập và tham gia các tổ chức chính trị,
cụ thể là các chính đảng, và về mặt công quyền, người dân được sử dụng lá phiếu
để cử người thay mặt mình lãnh đạo và điều hành các cơ cấu công quyền, ở trung
ương cũng như ở địa phương, trong lĩnh vực hành pháp cũng như trong các lĩnh
vực tư pháp và lập pháp. Nhờ vậy mà ngày nay một phần nhân loại tiến bộ đã đạt
tới những mô thức xã hội tiên tiến với các định chế chính trị dân chủ pháp trị
mà toàn thể công dân không phân biệt nam nữ được bảo đảm có các quyền tự do căn
bản, được đồng đều sử dụng lá phiếu để tham gia lãnh đạo và điều hành chính
quyền.
Tình
trạng Việt Nam ngày nay y hệt Âu châu các thời Trung Cổ và Phục Hưng, tức là
thời kỳ giáo quyền đứng trên chính quyền, Giáo Hội phủ lấp Nhà Nước. Điểm khác
biệt là tại Việt Nam ngày nay, thay vào vị thế Giáo Hội là vị thế Đảng Cộng Sản
Việt Nam: Đảng Cộng Sản đứng trên chính quyền, Đảng Cộng Sản lãnh đạo Nhà Nước.
Những hiểu lầm, những mâu thuẫn, những tranh chấp, những kèn cựa, những xung
đột giữa Nhà Nước và quần chúng Phật giáo, giữa Nhà Nước và các Giáo Hội Phật giáo, cũng như giữa các Giáo Hội Phật
giáo với nhau, không thể giải quyết ổn thỏa bằng phương thức tách rời giáo
quyền ra khỏi chính quyền như đề nghị của Thiền Sư Nhất Hạnh. Nếu ngày trước ở
Âu châu, giáo quyền đứng trên chính quyền, Giáo Hội phủ lấp Nhà Nước, và việc
tách rời Giáo Hội ra khỏi Nhà Nước đã mang lại những kết quả vô cùng tốt đẹp,
thì ngày nay, tại Việt Nam, những khó khăn giữa chính quyền và Phật giáo không
phải đơn giản bắt nguồn từ sự xung đột quyền lực giữa Nhà Nước và Giáo Hội Phật
giáo, mà nguyên ủy sâu xa của những khó khăn này là tham vọng quyền lực toàn
trị bao trùm xã hội của Đảng Cộng Sản Việt Nam, xuyên qua sự kiện Đảng lãnh đạo
Nhà Nước. Tại Việt Nam ngày nay, tuyệt đối không có hiện tượng giáo quyền đứng
trên chính quyền, không có tôn giáo nào được thừa nhận là quốc giáo, cũng như
không có Giáo Hội nào phủ lấp Nhà Nước, mà ngược lại, mọi rối rắm đã xẫy ra chỉ
vì Nhà Nước tìm cách lấn lướt, kìm hãm, uốn nắn, chỉ đạo các Giáo Hội theo các
qui định của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Như vậy, cốt lõi của vấn đề không phải là
tách rời giáo quyền ra khỏi chính quyền, mà là tách rời Đảng ra khỏi Nhà Nước.
Có như vậy thì quần chúng Phật giáo mới có cơ hội cùng với các tầng lớp nhân
dân khác trong cộng đồng dân tộc sử dụng quyền làm chủ của mình để kiến tạo một
mô thức xã hội thích nghi với các định chế chính trị dân chủ pháp trị.
Liên
hệ đến chuyện ngày trước vua nước Sở mất cung, những người ưu thời mẫn thế hôm
nay nghĩ rằng: "Các điểm đề nghị của Thiền Sư Nhất Hạnh với Thủ Tướng cộng
sản Phan Văn Khải tuy phải, nhưng lời lẽ còn quá nhẹ nhàng và hạn hẹp. Sao
không quyết liệt đòi hỏi nhà cầm quyền Hà Nội tách Đảng ra khỏi Nhà Nước?"
Tháng
tư, 2005
Minh
Vũ Hồ Văn Châm
Huế 700 năm tưởng nhớ những Người
Nước non ngàn dặm ra đi
(Như một lời cám ơn chân thành những người ngày xưa đã
làm nên lịch sử vùng Huế)
Đất
nước nào cũng có những con người làm nên lịch sử của đất nước đó, và lưu lại dấu
ấn trên cảnh sắc và phong tư con người các đời sau. Vùng Huế cũng vậy. Cảnh sắc
và phong tư con người vùng Huế xưa nay đã quyện vào nhau, thế hệ này tiếp nối
thế hệ khác, tạo thành bản sắc đặc biệt của vùng Huế xuyên suốt chiều dài lịch
sử dân tộc. Trên cái tổng thể thiên nhiên sơn kỳ thủy tú do Tạo hóa an bài, những
con người nước non ngàn dặm ra đi từ căn cứ địa Thăng Long để làm nên lịch sử
vùng Huế, cho dù là khách phong lưu tài tuấn, hay là bậc khí phách anh hào, tất
cả đã ít mhiều lưu lại dấu ấn sâu sắc cho ngàn sau.
Nước
Chiêm Thành, sau khi bị Lê Hoàn phá hủy kinh thành Đồng Dương, phải thiên đô
vào Phật Thệ (Vijaya) thì thế nước bắt đầu suy yếu. Lại hai lần bị các vua Lý
Thái Tông và Thánh Tông chiếm đất bắt người, nên đối với Đại Việt, Chiêm Thành
giữ phận chư hầu. Từ khi nhà Trần lên thay nhà Lý, người Chiêm Thành thừa cơ thỉnh
thoảng sang cướp phá ven biển, vì thế, năm 1252, niên hiệu Nguyên Phong thứ 2,
vua Trần Thái Tông ngự giá thân chinh, bắt được vương phi là Bố Gia La, nhiều
cung nữ và tù binh, rồi rút quân về. Từ đó, nhất là sau khi Indravarman V lên
ngôi, Chiêm Thành đều đặn triều cống. Đến khi Hốt Tất Liệt lên làm vua Trung Quốc,
lập ra nhà Nguyên, tức là Nguyên Thế Tổ, vua Nguyên phong cho Indravarman V làm
Chiêm Thành Quận vương, và năm 1280, niên hiệu Chí Nguyên thứ 17, sai Toa Đô và
Lưu Thâm sang chia đất đặt quan cai trị. Người Chiêm Thành không chịu, hai sứ
giả phải trở về. Năm 1282, Nguyên Thế Tổ sai Toa Đô mang quân sang đánh Chiêm
Thành. Vì không mượn được đường bộ qua Đại Việt, quân Toa Đô phải đi đường biển.
Quân Chiêm Thành thực hiện chiến thuật tiêu thổ kháng chiến, quân Nguyên lại
không quen với khí hậu phương nam, hao binh tổn tướng mà không thu được kết quả
gì, nên năm 1285, Toa Đô được lệnh rút thủy sư ra Nghệ An hội quân với Thoát
Hoan đánh Đại Việt. Kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi, Indravarman V xét
mình đã quá già nên truyền ngôi cho con là Harijit. Harijit lên làm vua, lấy hiệu
là Jaya Simhavarman III, sử ta gọi là Chế Mân.
Về
phía Đại Việt, nhà Nguyên Mông ba lần mang quân thủy bộ xâm lược nhưng đều bị
thảm bại. Sau khi đánh đuổi Nguyên Mông, vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con
là Anh Tông, lên làm Thái Thượng Hoàng để ngao du sơn thủy. Năm 1301, tháng 2,
niên hiệu Hưng Long thứ 9, Thượng Hoàng Nhân Tông sang Chiêm Thành, ở chơi 9
tháng. Trong thời gian này, Thượng Hoàng có hứa gả công chúa Huyền Trân cho Chế
Mân. Năm 1305, Chiêm Thành cử sứ bộ Chế Bồ Đài sang dâng 2 châu Ô, Ri làm sính
lễ để cưới công chúa Huyền Trân. Triều thần đều tỏ ý phản đối, chỉ có Văn Túc
vương Đạo Tái cho là việc nên làm. Năm 1306, tháng 6, niên hiệu Hưng Long thứ
14, nhà Trần đưa công chúa Huyền Trân về Chiêm Thành (1). Từ đó đến nay vừa
đúng 700 năm (1306-2006). Tình cảnh của công chúa lúc bấy giờ, má hồng da tuyết,
sen ngó đào tơ, vì nước vì nhà mà phải cất bước ra đi ngàn dặm, thử hỏi khách
phong lưu tài tuấn đương thời cũng như ngàn sau, có ai không cảm thấy ngậm
ngùi:
Nước non ngàn dặm ra đi
Cái tình chi ...
Mượn
màu son phấn, đền nợ Ô Ly.
Đắng cay vì đương độ xuân thì
Số lao đao hay là nợ duyên gì?
Má hồng da tuyết
Vàng lộn theo chì ...
(Ca Huế, điệu Nam ai, Ưng Bình Thúc Giạ Thị)
Đoàn thuyền của công chúa Huyền Trân
ghé vào cửa biển Ô Long (nay là cửa Tư Hiền, phía nam Huế) nghỉ ngơi, nhân đó
nhà Trần mới đổi Ô Long thành Tư Dung. Tư là tưởng nhớ, dung là nét mặt, dáng
người. Nhìn cảnh sắc mà tưởng nhớ tới con người. Tư Dung! Thật không có danh từ
nào thanh nhã mà gợi cảm bằng để tỏ lòng tri ân người xưa đã có công mở nước.
Sau khi Chế Mân băng hà, công chúa Huyền Trân theo sứ bộ Trần Khắc Chung giả từ
Chiêm quốc. Bà về đến Thăng Long tháng 9 năm 1308, và đã xuống tóc, xuất gia ở
chùa núi Trâu Sơn, còn gọi là núi Vũ Ninh, thuộc huyện Quế Dương, trấn Kinh Bắc,
lấy pháp danh là Hương Tràng. Cuối năm 1309, sư Hương Tràng chuyển về làm trú
trì chùa Hổ Sơn ở huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam. Trải mấy mươi năm công quả ở cửa
Thiền, bà đã viên tịch lúc ngoài năm mươi tuổi, và đã trở thành một linh thần
được dân làng Hổ Sơn thờ phụng (2).
Đến nhà Mạc,
vì kiêng húy Mạc Đăng Dung, nên cửa biển Tư Dung đổi tên là Tư Khách. Qua triều
Lê Trung Hưng, lại lấy tên Tư Dung như cũ. Năm 1811, triều Gia Long, cửa biển
Tư Dung bị cát bồi nên lần lần trở thành cạn hẹp, tàu lớn không vào được. Năm
1841, niên hiệu Thiệu Trị năm đầu, cửa biển Tư Dung được đổi tên thành Tư Hiền.
Thời trước, cửa Tư Hiền còn rất sâu rộng, các đạo vương sư Lý, Trần và Hậu Lê
chinh phạt Chiêm Thành đều dừng lại nghỉ ngơi ở đây. Vua Lê Thánh Tông còn lưu
lại bài thơ Tư Dung Hải môn lữ thứ :
Lâu thuyền kích cổ đáo Ô Long,
Bách nhị quan hà thử yếu xung.
Liệt chướng huyền nhai thanh xúc xúc,
Kê thiên phách lãng bích trùng trùng..
Tiên triều sự nghiệp truyền di tích
Nam quốc dư đồ nhận cựu phong.
Nạp cấu tàng ô hà hải lượng,
Nhân gian vô xứ bất triều tông.
Đào Duy Từ có bài Tư Dung vãn ca ngợi cảnh sắc
hùng tráng của cửa biển Tư Dung:
Khéo ưa thay cảnh Tư Dung,
Cửa thâu bốn bể, nước thông trăm ngòi.
Trên thời tinh tú phân ngôi,
Đêm treo thỏ bạc ngày soi ác vàng.
Dưới thời sơn thủy khác thường,
Động Đình ấy nước, Thái Hàng kìa non (3)
Cửa Tư Hiền mở
vào phá Cầu Hai, ăn thông với đầm Hà Trung và phá Tam Giang ở phía bắc,
bên trái là núi Túy Vân (Qui Sơn), bên
phải là mũi Chân Mây (Cái Sơn), sau lưng là núi Bạch Mã, sông nước mênh mông,
núi non sừng sững, thật là nơi danh thắng đệ nhất. Đã thế, vùng cửa Tư Hiền lại
có nhiều di tích lịch sử thời cổ đại. Thị trấn Cầu Hai (Cao Đôi), huyện lỵ huyện
Phú Lộc ngày nay, là lỵ sở huyện Thọ Lãnh đời Tấn. Mủi Chân Mây là bến Ôn Công
thời Bắc thuộc, dùng làm đường phân ranh giữa Giao Châu và Lâm Ấp. Trên núi Túy
Vân còn có di tích tháp Chàm và chùa Thánh Duyên do chúa Nguyễn Phúc Tần dựng
năm 1648. Năm 1841, vua Thiệu Trị trùng tu chùa, đổi lại tên là chùa Túy Vân,
và làm bài thơ Vân Sơn thắng tích cho khắc vào bia đá dựng bên chùa. Trên núi Bạch
Mã, do Bác sĩ Yersin phát hiện, ở độ cao 1500 mét là thị trấn nghỉ mát của người
Pháp, có gần 700 ngôi biệt thự lớn nhỏ, và là nơi cắm trại hàng năm của Hướng Đạo
Đông Dương. Vì chiến tranh liên miên, Bạch Mã bị bỏ hoang phế từ năm 1946, và
chỉ gần đây mới được chỉnh trang lại để trở thành một điểm du lịch hấp dẫn của
vùng Huế.
Năm 1307, niên hiệu Hưng Thống thứ 15,
vua Anh Tông sai Hành Khiển Đoàn Nhữ Hài vào dẹp loạn ở các sách La Thủy, Tác Hồng,
Đà Bồng, chiêu phủ dân chúng, đổi Ô, Ri làm Thuận Châu và Hóa Châu, chọn người
sở tại làm quan (4), cấp ruộng đất cho dân và miễn 3 năm tô thuế. Thuận Châu là
giải đất từ sông Nhung đến sông Bồ. Hóa Châu là giải đất từ sông Bồ đến sông
Túy Loan, bao gồm cả 2 thành phố Huế và Đà Nẵng ngày nay (5). Đoàn Nhữ Hài là
danh nhân tài trí, không phải là người hoàng tộc mà được ở ngôi đại thần, là điều
hiếm thấy tại triều đình nhà Trần. Đoàn Nhữ Hài được ủy thác liệu lý việc
phương Nam, bao nhiêu phen đi sứ Chiêm Thành đều chu toàn mệnh vua và xiển
dương thế nước (6), biết chọn lựa và tin dùng thổ quan để vỗ yên trăm họ hai
châu Thuận, Hóa, dần dà đưa họ vào nếp sống ổn định.
Nhà Trần nhận
thức rõ vị trí xung yếu của châu Hóa, nên đã giao việc trấn thủ cho các hoàng
thân hoặc trọng thần. Năm 1342, Hưng Hóa vương Trần Quốc Oai được cử làm trấn
thủ Hóa Châu. Tháng 3 năm 1352, vua Chiêm Thành
là Bà La Trà Toàn kéo quân ra đánh châu Hóa, quân trú phòng chống giữ
khó khăn. Vua Trần Dụ Tông phải cử Tả Tham tri chính sự Trương Hán Siêu vào trấn
thủ châu Hóa, ổn định tình hình. Mười năm sau, quân Chiêm Thành lại sang cướp
phá, nhà vua sai Đỗ Tử Bình đem quân vào tăng viện và tu bổ thành Hóa Châu. Hơn
nữa, để cố kết lòng người nơi biên viễn, vua Trần Nhân Tông đã cất nhắc một
viên quan người địa phương là Hồ Long làm Đại Tri châu. Đến năm 1391, vua Trần
Thuận Tông cử Hồ Quý Ly đi tuần tra châu Hóa, xét định quân ngũ, sửa chữa thành
trì, Hóa Châu mới ổn định. Nhờ sự quan tâm đặc biệt của triều đình mà chỉ 100
năm sau khi trở về với Đại Việt, trong đám cư dân bản địa đã phát sinh những
nhân vật kỳ vĩ như cha con Đặng Tất, Đặng Dung, và Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cảnh
Dị, là linh hồn cuộc kháng chiến đời Hậu Trần, khiến chủ soái quân Minh là
Trương Phụ phải một phen suýt chết ở ngã ba Sình, trước thành Hóa Châu.
Thành
Hóa Châu còn lưu di tích (7) ở gần ngã ba Sình, xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền,
tỉnh Thừa Thiên Huế. Thành Hóa Châu do người Chiêm Thành xây dựng để làm lỵ trấn
cho miền Ulick (Ô Lệ hay Ô Ri). Sau khi trở lại cương vực Đại Việt, thành Hóa Châu là lỵ sở của châu Hóa, và được
Hồ Quý Ly tu bổ đại quy mô vào năm 1391, niên hiệu Quang Thái thứ 4 đời Trần
Thuận Tông. Thành Hóa Châu tường cao hào sâu, quy mô rộng lớn, như đã tả trong
bài thơ Hóa Thành của Hồ Thành. Năm 1402, niên hiệu Thiệu Thánh thứ 2 triều Hồ
Hán Thương, đường cái quan từng chặng có phố xá, có trạm ngựa, gọi là Thiên lý
cù, được thiết lập để nối liền thành Hóa Châu với kinh thành Tây Giai. Hồ Hán
Thương lại sai Hành khiển Đỗ Mãn đem quân đánh Chiêm Thành, lấy đất Chiêm Động
và Cổ Lủy, đặt thành 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và trấn Tân Ninh., đem dân
Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá vào định cư lập nghiệp. Khi quân Minh sang đánh diệt
họ Hồ, người Chiêm Thành thừa cơ lấy lại Chiêm Động và Cổ Lủy, đám di dân Đại
Việt phải chạy về Hóa Châu. Người Minh gộp Thuận Châu và Hóa Châu lại thành phủ
Thuận Hóa, và cải châu Tân Bình thành phủ Tân Bình.
Bình Định vương Lê Lợi khởi nghĩa năm
1418, đến năm 1425 sai Trần Nguyên Hãn, Lê Nỗ, Lê Ngân, đánh chiếm Tân Bình và
Thuận Hóa, sai hàng tướng Châu Sài lập trại chăn ngựa ở Hóa Châu và định cư tù
binh người Minh ở Tân Bình. Lên ngôi năm 1428, vua Lê Thái Tổ chia nước làm 5 đạo.
Thuận Hóa thuộc đạo Hải Tây là giải đất chạy dài từ Ninh Bình đến Đà Nẵng ngày
nay. Năm Thuận Thiên thứ 3 (1430), vua sai Hành quân Tổng quản Lê Khôi đóng
quân ở Hóa Châu để trấn giữ Chiêm Thành. Năm 1434, nghe tin vua Thái Tổ băng
hà, vua Chiêm là Bồ Đề đưa quân áp sát biên giới, âm mưu đánh cướp Hóa Châu.
Vua Thái Tông cử Tư mã Lê Liệt đem đại quân đi tuần du Tân Bình, Thuận Hóa,
tình hình mới tạm yên. Năm 1443, Tổng quản Lê Chuyết được cử trông coi Tân
Bình, Thuận Hóa, và liên tiếp những năm sau đó, đã cùng Tuyên Phủ sứ Nguyễn
Liêu đánh lui các đạo quân Chiêm xâm phạm Hóa Châu. Năm 1446, dưói triều Lê
Nhân Tông, Lê Khôi, Lê Chuyết được lệnh cùng Lê Thận, Nguyễn Xí đánh thành Đồ
Bàn, bắt được vua Chiêm là Bí Cai.
Năm 1466, niên
hiệu Quang Thuận thứ 7, vua Lê Thánh Tông chia nước làm 12 đạo Thừa tuyên và phủ
Phụng Thiên. Thuận Hóa Thừa tuyên gồm 2 phủ là Tân Bình và Triệu Phong. Phủ Tân
Bình lĩnh 2 huyện Khương Lộc (Quảng Ninh) và Lệ Thủy, và 2 châu Bố Chính (Tuyên
Hóa, Bố Trạch, Quảng Trạch) và Minh Linh (Vĩnh Linh, Gio Linh). Phủ Triệu Phong
lĩnh 6 huyện Vũ Xương (Đăng Xương), Hải Lăng, Đan Điền (Quảng Điền, Phong Điền),
Kim Trà (Hương Trà, Phong Điền), Tư Vinh (Phú Vang, Phú Lộc), và Điện Bàn (Điện
Bàn, Hòa Vang, Đà Nẵng). Nhà vua đặt ty Tuyên Chánh sứ tại các đạo và cử Nguyễn
Đặc Đạt làm Tuyên Chánh sứ, Đặng Thiếp làm Tham nghị Thừa Tuyên sứ Hóa Châu.
Các quan chức do Triều đình cử vào kinh lý Hóa Châu, đặc biệt là Đặng Thiếp, đã
có công lớn trong sứ mạng ổn định dân tình và phát triển nông nghiệp.
Năm 1471, niên
hiệu Hồng Đức thứ 2, vua Lê Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, hạ thành
Chà Bàn, bắt sống vua Chiêm Thành Trà Toàn, thu phục đất cũ Chiêm Động và Cổ Lủy
để đặt lại các phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa, và lấy thêm đất Vijya đặt ra phủ Hoài
Nhân, gộp chung 3 phủ lại thành đạo Thừa tuyên Quảng Nam. Như vậy, nước ta lúc
bấy giờ có 13 đạo Thừa tuyên và phủ Phụng Thiên (Hà Nội). Năm 1490, niên hiệu Hồng
Đức thứ 21, vua Lê Thánh Tông đổi đạo Thừa tuyên làm xứ. Đến đời Lê Tương Dực lại
đổi xứ làm trấn. Sau khi lập thêm đạo Thừa tuyên Quảng Nam, vua Lê Thánh Tông
cho lệnh chiêu mộ dân Bắc Hà và Thanh Nghệ vào định cư lập nghiệp ở vùng đất mới.
Niên đại 1471 đánh dấu việc hoàn tất sự nghiệp thống nhất Chiêm Thành với Đại Việt,
đem huyện Tượng Lâm trở về với quận Nhật Nam.
Nhà Hậu Lê đến
triều Chiêu Tông thì suy yếu, giặc giả khắp nơi, cuối cùng mất ngôi về họ Mạc
vào năm 1527. Ở Thuận Hóa, các thổ tù nổi dậy, đem binh chém. giết lẫn nhau. Mạc
Đăng Dung lên ngôi, lấy niên hiệu là Minh Đức, sai em là Tín vương Mạc Quyết
vào kinh lược Thuận Hóa, bắt giết hết bọn Hoàng Công Châu, Đinh Liễn, Thuận Hóa
mới tạm yên. Sau đó xẩy ra vụ Mạc Chính Trung giành ngôi, triều đình nhà Mạc phải
triệu tướng sĩ Thuận Hóa về kinh dẹp loan. Việc xong, người Điện Bàn là Nguyễn
Lễ được phong tước Đồng Xuân hầu, người Kim Trà là Hoàng Đình Hiển được phong
tước Quế Lâm bá, các người Hải Lăng là Hoàng Bôi và Hồ Biến được phong tước
Viên Trạch bá và Diên Truờng bá, người Minh Linh là Hồ Công Khanh được phong tước
Liễu Chữ bá, người Bố Chính là Phạm Khắc Khoan được phong tước Kỳ Giang bá.
Năm
1533, tại Sầm Nứa, An Thành hầu Nguyễn Kim lập con của vua Chiêu Tông là Lê
Ninh lên làm vua, lấy niên hiệu là Nguyên Hòa, ấy là vua Trang Tông. Nguyễn Kim
được phong là Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công. Trong thời gian từ 1539 đến
1543, Nguyễn Kim và con rễ là Trịnh Kiểm kéo quân về lần lượt chiếm lại Thanh
Nghệ và Tây Đô. Năm 1545, Nguyễn Kim bị Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc chết, Trịnh
Kiểm lên thay giữ chức Đô Tướng Tiết chế thủy bộ chư dinh, và được gia phong tước
Lượng quốc công. Năm 1548, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 16, vua Lê Trang Tông sai
Tây Quận công Lê Phi Thừa đem quân kinh lược Thuận Hóa và Quảng Nam, quan lại
nhà Mạc nhiều người chịu qui thuận. Năm 1554, nhà Mạc sai Kỳ Giang bá Phạm Khắc
Khoan làm Tham chính Thuận Hóa, tụ họp thủ túc, cùng Tỉnh Xuyên bá Hoàng Chất
chống lại nhà Lê, nhưng trước sau đều bị giết. Viên Trạch bá Hoàng Bôi giữ đầu
nguồn Hải Lăng, cầm cự được 5 năm rồi cũng bị bắt giết. Từ đó Thuận Hóa hoàn
toàn thuộc nhà Lê.
Hai
con trai của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng đều có quân công nên được
phong tước hầu. Về sau dưới triều Lê Trung Tông, Nguyễn Uông lại được tiến
phong tước Lãng quận công, và Nguyễn Hoàng tước Đoan quận công. Trịnh Kiểm giữ
chức Hữu tướng, Nguyễn Uông giữ chức Tả tướng, vì thế Trịnh Kiểm nghi ngờ Nguyễn
Uông âm mưu nắm lại binh quyền nên giết Nguyễn Uông. Nguyễn Hoàng sợ bị hãm hại
nên giả điên và cho người đi vấn kế Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình
chỉ núi non bộ trước sân mà nói với sứ giả của Nguyễn Hoàng:’Hoành sơn nhất
đái, vạn đại dung thân’, nghĩa là một giải Hoành sơn, dung thân muôn đời. Hiểu
ý, Nguyễn Hoàng nhờ chị là Ngọc Báu xin với Trịnh Kiểm cho đi trấn thủ Thuận
Hóa. Trịnh Kiểm nghĩ rằng Thuận Hóa xa xôi cách trở, rừng thiêng nước độc, dân
tình ngang ngược đảo điên, lại còn đày dẫy dư đảng nhà Mạc, Nguyễn Hoàng vào đó
trước sau rồi cũng chết nên thuận cho.
Năm 1558, niên
hiệu Chính trị năm đầu, triều Lê Anh Tông, Đoan quận công Nguyễn Hoàng và đoàn
tùy tùng gồm một số quan lại tướng sĩ Bắc Hà và dân chúng huyện Tống Sơn, trấn
Thanh Hoa đi thuyền vào Cửa Việt, ngược sông Thạch Hãn, đóng dinh tại bãi cát Cồn
Cỏ xã Ái Tử, thuộc huyện Vũ Xương (sau đổi là Đăng Xương, ngày nay là phủ Triệu
Phong). Năm 1570, niên hiệu Chính Trị thứ 13, Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông
cho kiêm lĩnh trấn Quảng Nam, đeo ấn Thuận Quảng Tổng Trấn Tướng quân, đặt quân
hiệu là dinh Hùng Nghĩa. Nguyễn Hoàng dời dinh sang xã Trà Bát, cách Ái Tử 2
kilômét, cũng thuộc huyện Vũ Xương. Sau khi đánh giết bọn thổ hào Mỹ Lương là nội
gián của chúa Trịnh và dùng mỹ nhân kế diệt trừ Lập Bạo là tướng nhà Mạc, trong
xứ được yên, Nguyễn Hoàng cùng các cộng sự viên thân tín là Nguyễn Ủ Dĩ (cậu ruột),
Mạc Cảnh Huống (thông gia), Tống Phước Trị (nguyên Trấn Thủ Thuận Hóa) chuyên
tâm vào việc sửa sang nội trị, biến vùng Thuận Quảng thành nơi phồn vinh an lạc,
dân tình thuần hậu,’ngoài đường không ai nhặt của rơi, ban đêm không nhà nào
cài cửa’.
Liên tục suốt
700 năm dặm dài lịch sử trở về với Đại Việt, quan lại và tướng sĩ Bắc Hà, cùng
với những đoàn di dân miệt ngoài, nước non ngàn dặm ra đi, theo dấu mở đường của
công chúa Trần Huyền Trân, thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, đã lưu dấu ấn sâu sắc
trên quê hương mới, biến đổi vùng Huế từ vai trò mũi xung kích của căn cứ địa
Thăng Long, trở thành trung tâm hình thành và phát triển xứ Đàng Trong.
Tháng 9 năm 2006 Minh
Vũ Hồ Văn Châm
Chú giải:
(1) Niên đại 1306 là một mốc lịch sử
quan trọng của vùng Huế. Tuy vậy, nìên đại đó không phải là điểm khởi đầu của lịch
sử vùng Huế trong lòng lịch sử Đại Việt như nhiều người bấy lâu nay đã ngộ nhận.
Thật thế, trống đồng Phong Mỹ phát hiện gần đây ở Phong Điền là trống đồng
Hegel loại I thuộc văn hóa Đông Sơn. Thành Lồi Nguyệt Biều là di tích thành Khu
Túc có từ đời Hán. Những đồng tiền đời Tùy, đời Đường thu nhặt ở di chỉ làng
Thành Trung cho biết tòa thành cổ này ít ra cũng có cùng niên đại với thành Tống
Bình.
(2)
Các triều đại đều có sắc ban danh hiệu. Gần nhất là sắc phong năm Khải Định thứ
9 (1925): "Sắc Nam Định tỉnh, Vụ Bản huyện, Hổ Sơn xã tòng tiền phụng sự
Trần triều Huyền Trân công chúa nguyên tặng Trinh Uyển Dực Bảo, chi thần hộ quốc
tí dân nẫm trứ linh ứng, tiết nông ban cấp sắc văn chuẩn hứa phụng sự. Tư kim
chánh trí trẫm tứ tuần đại khánh tiết, kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng
trật, khả gia tặng Trai Tĩnh trung đẳng thần, đặc chuẩn phụng sự, dụng chí quốc
khánh nhi thân tự điển. Khâm tai". (Sắc cho làng Hổ Sơn huyện Vụ Bản tỉnh
Nam Định từ trước đã phụng thờ công chúa Huyền Trân triều Trần, vốn được tặng
là vị thần Trinh Uyển giúp đỡ công cuộc trung hưng, đã bảo vệ nước, che chở cho
dân tỏ rõ linh ứng, đã lần lượt được ban cấp sắc văn chuẩn cho được phụng thờ.
Bèn nay gặp lễ đại khánh tứ tuần của Trẫm lại được ban bảo chiếu đền ơn, tăng
thêm thứ trật cho tốt đẹp lễ nghi, được tặng thêm là Trai Tĩnh trung đẳng thần,
đặc biệt chuẩn cho phụng thờ, để ghi khắc ngày vui cả nước, và tỏ bày điển lễ
thờ tự. Hãy kính đấy).
(3) Trích đoạn
theo Đoàn Khoách: Thắng cảnh Tư Dung. Trong Tuyển Tập Nhớ Huế, số 6, 1994, Võ
Văn Tùng chủ biên, 9559 Bolsa Ave, suite D, Westminster, CA 92683, USA.
(4) Khi hai
châu Ô Ri trở về cương vực Đại Việt, người Chiêm Thành phần lớn bỏ đi vào
Amaravati, nhưng sử ta không thấy nói đến việc Triều đình xuống chiếu di dân từ
miền Bắc vào, bởi lẽ Ô Ri vốn là đất cũ Nhật Nam của Giao Châu, tại đây đã có
người Việt định cư lập nghiệp từ trước.
(5) Dưới đời Trần, cả nước được chia
làm 12 lộ. Dưới lộ là phủ, châu, huyện và xã. Hoá châu đời Trần cai quản 7 huyện
là: Trà Kệ, Lợi Bồng, Sa Lệnh, Tư Dung, Bồ Đài, Bồ Lãng và Thế Vinh với khoảng
trên 40 làng, ấp, thôn, trại, sách. Đứng đầu châu là một viên Đại Tri châu.
(6) Trước đây,
sứ thần nước ta phải lạy vua Chiêm Thành. Đoàn Nhữ Hài đi sứ, vào đại điện, đặt
sắc chỉ vua ta lên hương án để vua Chiêm lạy, xong Đoàn Nhữ Hài cũng lạy, nhưng
là lạy tờ chiếu chứ không lạy vua Chiêm. Từ đó, sứ nước ta cứ nghi thức đó mà
theo, không phải lạy vua Chiêm nữa.
(7) Thành Hóa
Châu có cấu trúc gần với hình chữ nhật, nằm dọc theo hướng đông bắc-tây nam,
song song với khúc sông Hương từ ngã ba Sình đến cồn Quy Lai. Tường thành đắp đất
dày cao, đầm lèn vững chắc, xung quanh thành là hệ thống đầm phá, sông ngòi bao
bọc tạo nên hệ thống giao thông đường thủy thuận tiện giữa trong và ngoài
thành.
Thành Hoá Châu
có hai vòng thành: thành ngoại và thành nội.
Vòng thành ngoại
gần với hình chữ nhật: Lũy thành dọc tây-bắc: dài 1920m, độ cao trung bình của
lũy thành từ 1,80m đến 2,50m. Lũy thành dọc đông nam: có độ dài là 1890m, chỗ hẹp
nhất ở hướng Đông là 3,6m mở rộng sang hướng Nam, rộng trung bình từ 12m đến
15m, chỗ rộng nhất lên tới 52m. Độ cao trung bình của lũy thành từ 1,8m đến
2,0m Lũy thành ngang đông bắc: dài 570m, nửa thành hướng Bắc nơi hẹp nhất là
28m, nơi rộng nhất là 40,60m. Độ cao trung bình từ 1,70m đến 2,20m Lũy thành
ngang tây nam: dài 590m, nửa hướng Bắc: chỗ rộng nhất là 17m, chỗ hẹp nhất là
15m. Nửa thành hướng Nam: hẹp nhất của lũy thành là 24m, trung bình rộng 35m và
nơi rộng nhất là 44m.
Tòa thành nội
nằm gọn về hướng Bắc của sông Thành Trung, cách bờ sông Thành Trung khoảng
150m, cách thành ngoại hướng Tây Bắc khoảng 80m đến 100m. Di tích thành nội
ngày nay là dải đất cao hình chữ L, mà cạnh dài của chữ L này nằm dọc theo sông
Thành Trung. Lũy thành ngang hướng tây nam dài 160m, rộng trung bình 1,5m đến
1,8m. Lũy thành này vuông góc với sông Thành Trung; lũy thành dọc hướng đông
nam dài 300m, trên mặt thành chỗ hẹp nhất là 1,80m. Lũy thành này vuông góc với
lũy thành hướng tây nam, chạy dọc theo sông Thành Trung, đến chùa Thành Trung
thì chấm dứt, do đó dân địa phương còn gọi lũy thành này là thành cụt.
(Trích Báo cáo
kết quả khai quật khoa học di tích thành Hóa Châu xã Quảng Thành, huyện Quảng
Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế năm 1997. Viện Khảo cổ học, Hà Nội 1997)
Thăm Nuôi Tù Cải Tạo
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Nhân
buổi ra mắt tại Montréal tập
sách Souveniers et Pensées* của nữ đồng nghiệp Nguyễn Thị Đảnh đến từ Oslo, Na Uy, tôi có trình bày một vài cảm nghĩ về tâm trạng những người
thiếu phụ mang kiếp thân cò, cơm đùm gạo bới đi thăm nuôi người thân đang lâm cảnh
đọa đầy trong các trại tập trung cải tạo. Lời phát biểu của tôi xuất phát từ mối chân tình
cảm thông với nổi niềm khổ đau tủi nhục của những người cùng chung cảnh ngộ, bởi
vậy, tôi xin chép lại đây để bạn đọc nhàn lãm, không phải với mục đích phân tích
và giới thiệu tác phẩm, mà chủ yếu là để chia sẻ cùng bạn đọc cảm nghĩ của tôi
về tác phẩm, một công trình rất đáng trân trọng cả về mặt văn chương lẫn mặt tư
tưởng.
Đọc
Souvenirs et Pensées, tôi cảm thấy trong lòng bao nổi xao xuyến, nửa như bâng
khuâng, nửa như ngậm ngùi. Đây là một bản
trường ca về nổi lòng thương xót người chồng thân thương lâm cảnh lưu lạc đọa
đày. Thương xót chồng nên thay chồng nói lên những điểu khổ đau tủi nhục mà
chồng đã trải qua nhưng chồng không còn muốn nhắc nhở tới. Và cũng vì thương xót
chồng mà trong nổi thương chồng còn có nổi thương thân, tích tụ qua hoài niệm về
những ngày tháng cũ nhớ nhung đợi chờ, nên thay chồng mà phát tiết ra muôn vàn
uẩn ức đắng cay trước cảnh đổi đời phủ phàng, đen bạc. Bạn đọc nào có chút thì
giờ đọc tác phẩm này, xin đọc từ từ, thong thả, kèm chút nghiền ngẫm, suy tư, sẽ
thấy lời tôi nói không phải là giọng lưỡi bán rao chào khách. Tôi thật lòng nói
lên cảm nghĩ của mình. Những chuyện chị Bs Nguyễn Thị Đảnh đề cập trong tác phẩm
này đều liên can đến những người thật, việc thật. Những ai đã từng đi tù cải tạo,và
những ai đã từng thăm nuôi tù cải tạo, đều thấy phản ánh trong tập sách này một
mảnh đời mình và một chút tâm trạng của mình. Bản thân tôi cũng là tù cải tạo.
Tôi lại được cái may mắn có người bạn đời hết lòng chăm lo cho chồng, cho con,
cho gia đình, trong suốt thời gian tôi gặp cảnh cá chậu chim lồng, nên hơn ai hết,
tôi cảm thông trọn vẹn nổi lòng của tác giả bàng bạc qua từng trang sách
Souvenirs et Pensées.
Cuộc sống của vợ chồng chúng tôi với vợ chồng tác giả
Souvenirs et Pensées trước tháng tư đen năm 1975 có nhiều điểm tương đồng. Chúng
tôi cùng sinh sống ở Sài Gòn. Chúng tôi cùng trang lứa về mặt tuổi tác, cùng giai
tầng về mặt xã hội. Chúng tôi đều đông con, gia đình thuận hòa êm ấm. Trên cùng
chung một căn bản sinh hoạt như vậy nên những chuyện trái tai gai mắt, cũng như
những điều ngậm đắng nuốt cay tôi bắt gặp trong sách, đều giống hệt những chuyện
bản thân tôi đã từng chứng kiến, đã từng cảm thụ, hay về sau được nghe vợ tỉ tê
kể lại. Đây rõ ràng là những mẩu tự sự chân thật, những mãng tâm tư chân tình,
không bóp méo vì thiên kiến, không xuyên tạc vì hận thù, không mầu mè để làm
duyên, không che đậy vì mặc cảm. Đây hoàn
toàn chỉ có sự thật, người thật, việc thật, thời gian có ngày tháng, giờ khắc
rõ ràng, không gian có khoảng cách, tọa độ nhất định, không có dữ kiện nào là
phỏng chừng, là hư cấu, là bịa đặt, là có nói thành không, là không nói thành có.
Cho nên tôi nghĩ rằng tác phẩm Souvenirs et Pensées là một công trình rất đáng
trân trọng, rất đáng được nghiền ngẫm, nhất là cho những ai là Việt Nam may mắn
thoát được cái cảnh ngộ bị ghìm đầu vào vòng kềm kẹp chuyên chính sau tháng tư đen
năm 1975, cũng như cho thế hệ trẻ trung hơn, thế hệ các con em Việt Nam, sinh
ra và lớn lên ở các vùng đất tự do trên mặt địa cầu.
Đọc tác phẩm này chẳng những nên đọc từ từ, đọc
thong thả để ghi nhận hết những sự kiện có thật, mà còn phải chịu khó dành chút
ít thì giờ nghiền ngẫm, suy tư, để cảm thông với tâm trạng những người trong cuộc,
một tâm trạng hết sức đặc biệt phát sinh từ cuộc sống ngột ngạt sau tháng tư đen
năm 1975. Chỉ một phần cái tâm trạng đó được diễn tả nên lời, còn phần lớn là ẩn
tàng trong hơi thở, trong khoé mắt, trên vầng trán nhăn, hay trên làn môi khô, đôi
má hóp, của những người chạy loạn, của những kẻ mất cửa mất nhà, của những người
chạy đôn chạy đáo tìm phương tiện ra đi, và đặc biệt của những người băn khoăn
ray rứt trong cuộc giằng co nội tâm nửa phần muốn ra đi, nửa phần muốn ở lại.
Cho nên câu chuyện trận đánh cầu Sài Gòn chỉ là mặt nổi của hồi ức mà người đọc
có thể cảm thụ bằng giác quan, như tiếng súng nổ, đường đạn bay, người bị thương,
kẻ bị chết, còn cái phần sâu lắng không diễn tả tách bạch nên lời là cuộc đấu
tranh nội tâm “phải ra đi hay nên ở lại”
ở trong lòng người chồng, là sự tranh biện với các “lý lẽ hơn thiệt về vấn đề đi hay ở” giữa người vợ và người chồng, là
kết quả chịu khuất phục một cách cam phận của người vợ trước “quyết định võ đoán ở lại” dựa vào những
lý lẽ vu vơ của người chồng. Khi tiếng súng im bặt báo hiệu trận đánh cầu Sài Gòn
đã kết thúc, và tàu VNTT cũng đã nhổ neo, là lúc vở bi kịch giằng co nội tâm “đi hay ở” cũng hạ màn. Lịch sử đã sang
trang, mọi việc đã lỡ dĩ, vợ chồng tác giả Souvenirs et Pensées chỉ còn biết ngồi
lặng lẻ bên nhau, đăm chiêu nghĩ đến viễn ảnh đen tối của cuộc “đổi đời”.
Nghĩ cho cùng thì nổi phân
vân ray rứt ra đi hay ở lại quả tình là một bi kịch giáng xuống nhiều gia đình
Việt Nam vào thời điểm tháng tư năm 1975. Một
phần nhỏ dân chúng Sài Gòn lúc bấy giờ cương quyết ra đi. Họ là những người
giàu có, đã chuẩn bị sẵn cơ sở sinh sống ở nước ngoài. Họ rất sợ phải đối mặt với
cộng sản, nên dứt khoát ra đi, và ra đi rất sớm, để tiếp tục cuộc đời hưởng thụ.
Ngoài ra còn có những người hăng hái ra đi vì chẳng có gì để quyến luyến, chẳng
có gì để mất mát, chẳng có gì để tiếc rẻ. Họ ra đi để tìm vận hội mới, ra đi
vong mạng không một chút đắn đo, may ra lại được đổi đời. Ở nơi xứ lạ quê người,
họ hy vọng biết đâu cuộc sống của họ lại ấm no, nhàn nhã, thoải mái hơn cuộc sống
bấy lâu nay tại quê nhà. Họ tự xét không có làm gì nên tội để phải tránh né cộng
sản. Họ nghĩ rằng họ chẳng có giây mơ rể má gì với cộng sản, và cũng chẳng có nợ
máu nợ xương gì với cộng sản. Họ tìm mọi cách để ra đi. Họ ra đi vì lý do kinh
tế chứ không phải vì bị kỳ thị chính trị. Họ thuần tuý là những người cơ hội chủ
nghĩa. Họ nhất quyết ra đi, chỉ với mục đích may gặp hên thì được sướng cái thân
xác, được nở mặt nở mày.. Cùng với lớp người giàu có nói trên, họ là hạng người
vị kỷ. Ngoài hai thành phần đó ra, đại bộ
phận dân chúng Sài Gòn lúc bấy giờ đều mang cái tâm trạng phân vân ray rứt nửa
phần muốn ra đi, nửa phần phải ở lại. Trước hết là thành phần quân nhân công
chức. Họ không muốn mang tiếng đào vong . Họ không muốn bị quy tội bỏ nhiệm sở.
Họ là những người lương thiện, tinh thần trách nhiệm cao, nhưng đồng thời cũng
có phần e dè, nhút nhát, sợ bị kỷ luật, ngại rủi ro dọc đường. Rồi đến thành phần
những người nặng gánh gia đình: cha già mẹ yếu, vợ dại con thơ. Ra đi một mình
sao đành. Đã từng có những người thoát được tới đảo Guam, rồi nhớ vợ thương
con, lên tàu VNTT trở về để chết rũ trong tù. Muốn cùng đi với cả gia đình trọn
vẹn thì lại không phải là chuyện dễ dàng. Nào phải như năm 1954 được chính quyền
lo liệu phương tiện để ra đi. Lúc này mạnh ai nấy chạy, may ai thì thoát, rủi
ai thì đành cam phận “rau răm kẹt lại chịu điều đắng cay”. Đã thế, người Mỹ còn tung hỏa mù hòa
hợp hòa giải, chính quyền liên hiệp ba thành phần, thông qua các tổ chức chính
trị và tôn giáo, để khuyến khích mọi người ở lại. Sau cùng phải kể đến thành phần
những người biết suy nghĩ, có lòng tự trọng, thà ở lại chiụ chết chứ không muốn
ra đi để phải mang tiếng oan làm tay sai cho Đế quốc nên phải chạy trốn theo người
nước ngoài. Đến đây thì quý vị đã hiểu, lúc có phong trào vượt biên và chương
trình HO, trong thành phần phải rời bỏ quê hương xứ sở ra đi tỵ nạn, vì sao có
nhiều người không đi Mỹ, và vì sao gia đình tác giả Souveirs et Pensées không đi
Pháp định cư mà lại chọn Na Uy làm quê hương mới.
Có nhiều chi tiết vu vơ, vụn vặt nhưng đủ để khơi
mào cho nhiều câu chuyện đáng suy gẫm. Tác giả ghi lại hồi ức về một cái nồi
kim loại mà một anh lính bộ đội mang trả lại cho chủ nhà trong vùng trú quân.
Chiếc nồi dùng nấu ăn lâu ngày nhưng có vẻ như chưa được một lần chùi rữa. Khi
chủ nhà nhận lại cái nồi và đem kỳ cọ kỷ lưỡng thì người lính trẻ tỏ vẻ vừa ngạc
nhiên vừa không tán đồng, vì cho rằng làm như vậy vừa mất công, vừa tốn nước. Nếu
chỉ đọc lướt qua thì quý vị có thể hiểu lầm là tác giả ngầm chê trách anh bộ đội
miền Bắc ăn ở thiếu vệ sinh, lười biếng, quen thói ăn xổi ở thì. Đi xa hơn chút
nữa thì quý vị có thể nghĩ rằng tác giả đưa người lính trẻ đó ra để trình bày hình
ảnh chung của bộ đội miền Bắc với ít nhiều dụng ý chê bai mang tính chất kỳ thị
địa phương. Thực tế thì tác giả không hề có ý định như vậy. Tác giả chỉ trình bầy sự thật: người thật, việc thật.
Và tác giả để cho người đọc suy gẫm. Trong những điều kiện sinh hoạt khó khăn
trên đường hành quân, đương nhiên phải ưu tiên để dành thì giờ và công sức cho
việc tác chiến, ai hơi đâu lo đến chuyện kỳ cọ cái nồi nấu ăn. Suy gẫm thêm một
chút, người đọc sẽ nhận thức rằng chính những nguời lính bộ đội, công an, cán bộ
các cấp các ngành, buổi đầu vào Nam như thế đó, sau hai ba chục năm, đã hoàn toàn
lột xác. Có chức, có quyền, và có tiền, họ ngự trên xe hơi bóng loáng, họ ở
trong những ngôi biệt thự chung quanh có vườn cây cảnh cồ thụ và phù điêu tượng
Chàm. Ở một mức thấp hơn thì cũng có đủ ti vi, tủ lạnh, xe gắn máy, đồng hồ đeo
tay. Hiện tượng này phổ biến cùng khắp, Sài Gòn, Lục tỉnh, ngoài Trung, ngoài Bắc.
Tiền bạc từ đâu mà có? Thì từ tài nguyên đất nước bị khai thác cùng kiệt, từ bớt
xén ngân khoản vay mượn vô tội vạ của nước ngoài, từ tiền bạc du hí du lịch và
gửi về cho thân nhân của tập thể người Việt hải ngoại, và từ phẩm vật và tiền bạc
cứu trợ của các tổ chức nhân đạo nước ngoài. Xa xỉ trong sinh hoạt và cuồng
loạn trong hưởng thụ. Tiệc rượu thì võ chai chồng lên từng két để tính tiền, cá
độ thì mức ăn thua lên đến hàng triệu đô la Mỹ, cưới vợ thì cưới hoa khôi và
bao gái thì chọn lựa toàn loại chân dài. Từ người lính bộ đội lễ mễ bưng trả cái
nồi không hề được cọ rửa đến anh cán bộ nghênh ngang ngày hôm nay, bức tranh nhân sự của chế độ đã hoàn toàn
thay đổi. Quả tình tác giả Souvenirs et Pensées chỉ nêu lên một chút hồi ức
nhưng đã để chúng ta suy gẫm rất nhiều.
Tôi nghĩ lẩn thẩn đến cụm từ “thăm nuôi tù cải tạo”mà lòng thấy cảm
thương cho bao nhiêu bà mẹ, bà vợ, sau tháng tư đen năm 1975, mang kiếp thân cò
lặn lội thăm nuôi chồng con bị giam giữ trong các trại tập trung. Những ai may
mắn thoát khỏi kiếp làm thân cò, đọc tập sách này, có thể hình dung phần nào nổi
vất vả nhọc nhằn trong việc thăm nuôi tù cải tạo. Đi thăm tù đã vất vả, mà chủ
yếu của công việc thăm nuôi tù là nuôi
tù, cho nên nhiệm vụ càng nặng nề hơn,
công việc cũng khó khăn hơn. Đi thăm tù là đi gặp mặt người thân đang ở tù, có
hay không mang theo chút quà. Đi thăm tù như thế còn được gọi là thăm gặp. Đi nuôi tù có thể được gặp mặt
hoặc không, chủ yếu là mang đến cho người thân đang ở tù những thức ăn cần thiết
để sống, những thuốc men cần thiết để phòng ngừa bệnh tật. Đi nuôi tù mà được gặp
mặt thì gọi là thăm nuôi. Lần thăm gặp
đầu tiên rất quan trọng, có thể được xem như là giấy biên nhận của Nhà nước chứng
với thân nhân rằng đã có tiếp nhận tù nhân vào trại, nhất là đối với tù nhân bị
bắt chứ không phải tự tới trình diện đi học tập. Tù nhân bị bắt thường bị đem đi
cách ly biệt tích. Người nhà tha hồ chạy đông chạy tây thăm hỏi dò la, không cơ
quan nào chịu tiết lộ tông tích. Chỉ khi nào khai thác xong xuôi, công an mới
thông báo cho thân nhân liên lạc hoặc thăm gặp. Chỉ đến giai đoạn này người tù
mới biết mình được xếp vào loại không bị thủ tiêu. Những lần thăm gặp về sau, tùy
giai đoạn, tùy mức độ, có thể cách nhau vài ba tháng, sáu tháng, hay một năm.
Thời gian gặp mặt thông thường là 15 phút hoặc nửa giờ, đặc biệt sau ngày Tướng Vessie và Bộ trưởng Nguyễn Cơ
Thạch ký kết thỏa hiệp cho tù cải tạo được trả tự do và đi nước ngoài thì còn có
chế độ thăm nuôi 24 tiếng đồng hồ. Người tù biệt giam ở xà lim cũng như người tù
thuộc giai đoạn lao động cải tạo đều bị đói dài dài. Quý vị sẽ bắt gặp trong tập
sách này những mẩu hồi ức thú vị về sự hấp dẫn của miếng cơm cháy hay nghệ thuật
phân chia thịt thà một cách chi li mỗi lần có lễ lạc. Đói dài dài như thế nên
không có thăm nuôi thì người tù khó lòng sống sót. Điều này được chứng minh một
cách đơn giản là so sánh mức độ tử vong giữa hai thành phần tù chính trị và tù
hình sự trong cùng một trại cải tạo. Ít được gia đình thăm nuôi hơn tù chính trị
nên tù hình sự bị chết nhiều hơn. Tóm lại, thăm nuôi cũng là một phương thức khống
chế tù nhân chấp hành nội quy, khuất phục bạo quyền.
Người thiếu phụ
tội nghiệp, ngoài nổi niềm nhớ thương khắc khoải người chồng tù tội, còn mang
thêm gánh nặng lo lắng ngày đêm thay chồng nuôi dạy đàn con. Mà nhiệm vụ này đâu
có dễ dàng, suông sẻ. Đi đến đâu cũng đụng đầu với trở ngại lý lịch. Đơn xin đi học phải có phường xã xác nhận lý lịch.
Đã mang lý lịch ngụy quân ngụy quyền hay tôn giáo đảng phái phản động là con lớn
không thi được vào Đại học, con nhỏ hơn không vào được lớp 10, con nhỏ hơn nữa
không vào được cấp một. Người ta bày vẻ ra nhiều tiêu chuẩn phi lý để trắng trợn
loại bỏ những thành phần có lý lịch phi vô sản. Thi cử thì đặt ra hai mức thang
chấm điểm khác nhau, một cho con em cán bộ, một cho thí sinh quần chúng ngoài đảng.
Đi kiếm việc làm cũng khó khăn. Dù tay nghề có giỏi giang và lý lịch đã khéo léo
dấu diếm, chỉ ít lâu sau cũng bị phát hiện và bị cho nghỉ việc. Rút cục chỉ còn
đợi được trúng tuyển nghĩa vụ đi thanh niên xung phong qua Campuchia tải đạn ra
chiến trường. Người ta đã mù quáng và xuẫn động kiên định lập trường giai cấp mà
cương quyết ngăn đường lấp lối tuổi trẻ thuộc các thành phần ngoài đảng tiến lên,
loại bỏ oan uổng bao nhiêu tài năng của đất nước. Bị dồn vào thế chẳng đặng đừng,
người mẹ cương cường chỉ còn cách tổ chức cho con trốn trại để vượt biên ra nước
ngoài. Ngoài một số may mắn đến được bến bờ tự do, được tiếp tục học hành, được
trở thành người hữu dụng, thử hỏi có bao nhiêu thanh niên nam nữ đã phải bỏ phí
tuổi thanh xuân và khả năng trí tuệ cho cuộc mưu sinh chật vật đầu đường xó chợ,
hay tệ hại hơn, đã bỏ xác oan uổng giữa rừng sâu nơi chiến địa quê người? Sự kiện
đau đớn phủ phàng này là điều đáng suy gẫm dành cho thế hệ con em Việt Nam tuổi trung
niên trở xuống được may mắn thoát khỏi cuộc sống kềm kẹp trong gông cùm chuyên
chính cộng sản. Các cháu nên tự hỏi nếu không may mắn được sinh sống trên các vùng
đất tự do thì cuộc đời các cháu sẽ ra sao? Các cháu có đuợc tự do thoải mái muốn
ăn thì ăn, muốn nói thì nói, hay phải chịu bị bịt miệng như linh mục Nguyễn Văn
Lý trước toà án Thừa Thiên-Huế hồi đầu năm nay? Bây giờ các cháu đang được phỉnh
nịnh là khúc ruột nghìn dặm, là tương lai đất nước. Các cháu nên tìm hiểu tâm sự
đắng cay của những người đi trước, những Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Nguyễn
Khắc Viện, Dương Quỳnh Hoa, để đừng nhẹ dạ cả tin mà hỏng cả cuộc đời.
Người đi tù
trong các trại tập trung cải tạo của cộng sản thông thường phải trải qua bốn
giai đoạn: biệt giam, kiên giam, lao động
cải tạo, và lao động tự giác. Thoạt đầu, người tù bị giam cách ly trong xà
lim, còn gọi là phòng tối, để khai thác tin tức, lấy khẩu cung, nên tuyệt đối
không được liên lạc với bên ngoài. Ít lâu sau họ được chuyển qua quy chế kiên
giam, tức giam kỹ từng nhóm từ vài ba người đến vài chục người trong một phòng để
điều tra bổ túc, và đề phòng trốn trại. Đến giai đoạn này thì người tù có thể được
trại giam cho gia đình thăm gặp. Tiếp đến là giai đoạn lao động cải tạo. Người
tù được đưa đến các trại lao động, được phiên chế thành đội ngũ để làm việc khổ
sai. Trước khi được trả tự do, một số tù nhân có thể được đưa qua quy chế lao động
tự giác, tức là lao động bên ngoài trại không cần có bảo vệ canh giữ, như nuôi
cá, chăn bò, hái thuốc trong núi, khai thác mây gỗ trên rừng. Qua được giai đoạn
biệt giam mới hy vọng là mình có thể không bị thủ tiêu. Được chuyển đến các trại
lao động mới phần nào an tâm là hồ sơ điều tra đã hoàn tất. Nhưng cho dù đến được
giai đoạn nào chăng nữa mà bị phát hiện còn có những điểm khai báo chưa rõ ràng,
hoặc trong quá trình cải tạo đột nhiên có những biểu hiện chống đối, thì tù nhân
vẫn có thể bị đưa trở lại về giai đoạn khởi đầu. Tù nhân luôn luôn bị lừa gạt sống
trong ảo giác rằng mình được cách mạng thừa nhận là tội không quá lớn, không mắc
nợ máu với nhân dân , sắp sửa được tha, sẽ được trở về phục vụ chế độ mới. Cứ mỗi
lần sắp đến các ngày lễ lớn là cán bộ trại giam tung tin vịt người này sẽ được
tha, người kia sẽ được giảm án, để tù nhân bám víu vào ảo vọng mà cố gắng cải tạo
tốt. Nuôi dưỡng hi vọng sắp được tha, và bắt chịu đói chịu khát dài dài để gây áp
lực lên tâm lý trông chờ người nhà thăm nuôi, là những phương thức hữu hiệu để
ghìm đầu tù nhân vào tình huống phải khuất phục quy chế cải tạo, cụ thể là đừng
gây rối trật tự trong trại giam và đừng trốn khỏi trại. Những phương thức này được thực hiện tinh vi
qua những bản “lý lịch trích ngang” tù nhân thường xuyên phải khai đi khai lại
các tiểu mục trình diện hay bị bắt, có thân nhân cách mạng hay không, cũng như
qua các quy định khắc khe về thể thức thăm nuôi tù cải tạo đối với người tù và
thân nhân người tù. Sự thật thì trình diện hay bị bắt có khác gì nhau, cũng đều
là tù cả. Tự thân trình diện thì công an đỡ mất công tìm bắt còng tay đưa vào
trại tù, nhưng người tù trình diện cảm thấy mình nhẹ tội đối với cách mạng hơn
là người tù bị bắt. Được kê khai trong bản lý lịch trích ngang là thân nhân cách
mạng gây nên tâm lý gần gũi là “phe ta, người đàng mình”, và ảo tưởng sẽ đuợc
huởng giảm án, hoặc đặc xá, nên người tù moi tim nặn óc tìm tòi bà con nội ngoại
bên vợ bên chồng khai báo hết giây mơ rể má, đâu có biết là đã lọt vào cái thòng
lọng kỷ thuật rà soát nội bộ của cục phản gián công an.
Theo đúng sách lược,
người tù cải tạo không bao giờ được trở về sống dưới mái nhà xưa. Sau một thời
gian nhất định, người tù sẽ được đưa đến các vùng kinh tế mới đèo heo gió hút để
đuợc tập trung trong các trại lao động cải tạo rồi được xét chuyển dần dần qua
quy chế cải tạo tự giác, rồi cuối cùng được tha, và được định cư tại chổ. Người
tù hôm qua, nay là người công dân mới, được chính
quyền địa phương quản chế chặt chẻ, sống một mình hay có thể đem gia đình lên
sống chung. Vợ chồng con cháu dần dà sẽ trở thành cư dân địa phương. Nhưng tình
hình thế giới không diễn biến như dự liệu. Chiến tranh với Campuchia và Trung
quốc đã làm đảo lộn tất cả kế hoạch. Các trại giam gần biên giới đều phải dời về
nội địa an toàn. Sau khi chiến tranh với các nước láng giềng chấm dứt, một số ít
tù được trả tự do nhưng không có đất để định cư như kế hoạch nên cho về sống với
gia đình, chịu sự quản chế của địa phương. Thế là người tù mới được phóng thích
phải chịu đựng đủ thứ phiền hà để có thể đăng ký hộ khẩu và xin cấp chứng minh
nhân dân. Hàng tuần, hàng tháng, phải trình diện khóm phường, phải khai báo việc
đi lại và các quan hệ giao tiếp. Thư tín bị kiểm duyệt, hành tung bị theo dõi,
sinh hoạt hàng ngày trong gia đình bị nhòm ngó. Ruộng vườn bị truất hữu đã đành,
ngay cả nhà đang ở, nếu gia đình không bị đuổi sau ngày đi cải tạo, thì bây giờ
cũng thuộc diện do nhà nước quản lý (diện 2/4), không được sang nhượng, không được
đoạn mãi. Bạn đọc nào may mắn không phải mắc vào vòng kềm kẹp quản lý của chính
quyền địa phương sẽ tìm thấy trong chương áp cuối của tập sách Souvenirs et
Pensées những tình tiết liên hệ đến sự kiện địa phương quản chế này để cảm thông
với tâm trạng những người trong cuộc. Chỉ tới khi có thoả hiệp dứt khoát cho tù
nhân ra đi nước ngoài với đợt phóng thích ào ạt cuối tháng hai năm 1988 thì những
chuyện phiền hà này mới được hạn chế. Lúc bấy giờ là giáp Tết Mậu Thìn, tù cải
tạo được thả gần hết, được cho về nhà ăn Tết với gia đình, đến mồng năm Tết mới
phải trình diện ở sở công an thành phố để làm hộ khẩu và cấp chứng minh nhân dân.
Thói đời là mềm thì nắn rắn thì buông. Tình thế lúc này đã đổi khác. Đằng nào cũng
phải thả và cho đi ra nước ngoài. Không bắt chẹt được, không bóp chết được, thì
tha làm phúc, giã lã để lấy lòng.
Tóm lại, chuyện
dài tù cải tạo thì nói mấy cũng không đủ. Nổi khổ nhục của những người chồng và
niềm thương đau của những người vợ, cho dù sóng Đông hải cũng không xóa sạch, và
trúc Nam
sơn cũng không đủ để ghi chép cho hết ngọn ngành. Bởi vậy, Souveniers et Pensées
không phải là phóng sự, cũng không phải là biên khảo, nên không nói hết tất cả
các sự kiện và tình huống của chế độ cải tạo.
Souvenirs et Pensées lại còn bị giới hạn về không gian và thời gian.
Souvenirs et Pensées chính xác là bản trường ca về nổi lòng thương xót người chồng
thân thương lâm cảnh lưu lạc đọa đầy. Nó tấu lên khúc nhạc bi thương ai oán của
một thời những người thiếu phụ mang kiếp thân cò cơm đùm gạo bới lặn lội đi thăm
nuôi chồng con để chúng ta lắng nghe mà thương cảm cho những người trong cuộc.
Và hơn thế nữa, Souvenirs et Pensées để lại dư âm trầm buồn cho chúng ta nghiền
ngẫm để rút tỉa những kết luận vô cùng quý báu.
2007 Minh
Vũ Hồ Văn Châm
- Souvenirs et Pensées, nguyên tác tiếng Pháp của Nguyễn Thị Đảnh, chuyển ngữ tiếng Việt của Từ Uyên, Cơ sở Truyền Thông ấn hành, C.P.101 Succ. “Jean Talon”, St Leonard, Canada H1S 2Z1.
Nguyễn Trãi Lưu Lạc Ở Trung Quốc
Nguyễn Trãi sinh
năm 1380, quê quán ở Nhị Khê, Thường Tín, Hà Đông. Nguyễn Trãi là một nhân vật
lịch sử đặc biệt. Nguyễn Trãi không những nổi tiếng vì là người đã viết thiên
anh hùng ca trác tuyệt kim cổ Bình Ngô đại cáo, mà còn vì những mẩu chuyện hư cấu
thêu dệt chung quanh cuộc đời đích thực của Nguyễn Trãi mà thế gian truyền tụng
mãi đến ngày nay. Chuyện Nguyễn Trãi tiễn đưa cha đến cửa Nam Quan rồi nghe lời
cha gạt lệ quay trở về là một trong những chuyện hư cấu đó.
Ông nội Nguyễn Trãi là Nguyễn Minh Du, là một
võ quan cấp nhỏ trong đạo quân túc vệ canh giữ kinh thành Thăng Long. Thân phụ Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng
Long, thuở còn trẻ, được vào làm gia sư trong phủ đệ quan Tư Đồ Chung Túc Quốc Thượng hầu Trần Nguyên Đán. Tiểu thư quan Tư Đồ là Trần
Thị Thái đem lòng yêu thương vị gia sư. Đến khi tiểu thư mang thai, tuy nhà Trần
có lệ không gả con gái cho người khác họ, nhưng quan Tư Đồ cho hai người lấy
nhau, và buộc họ phải dọn ra ngoài ở riêng. Hai người sinh hạ được 3 gái và 2 trai là Nguyễn Tạc
và Nguyễn Trãi. Năm 1374, trước
khi sinh ra Nguyễn Trãi, Nguyễn Ứng
Long đi thi, và đỗ Thái Học sinh (các triều đại về sau Lê, Nguyễn gọi là Tiến sĩ).
Tuy vậy, Nguyễn Ứng Long không được bổ dụng làm quan, phải làm thầy đồ để sinh
sống. Năm 1385, bà Trần Thị Thái chết, Nguyễn
Trãi được ông ngoại đem về Thanh Hư Động ở Côn Sơn nuôi dạy cho đến năm 1390, khi
ông ngoại mất, thì trở về ở hẳn với cha. Nguyễn Trãi còn có 4 em trai cùng cha
khác mẹ là Phi Bảo, Phi Hùng, Nhữ Soạn và Nhữ Trạch.
Nguyễn Ứng Long thi đậu Thái Học sinh mà không được bổ
dụng không phải chỉ đơn thuần vì cái tội con nhà bách tính mà lấy vợ hoàng tộc,
mà còn vì chính sách phong kiến thế tập của nhà Trần. Con trai họ Trần được thừa
ấm, tập tước, cha truyền con nối độc quyền nắm giữ các chức vụ quan yếu trong
triều ngoài nội, được lập thái ấp, được tuyển gia thần, được nuôi gia binh, được
chứa vũ khí. Buổi đầu, tông thất nhà Trần còn ít người, lại có chiến tranh với
Mông cổ, nên thảng hoặc còn có người khác họ được bổ dụng vào cấp chỉ huy, như
Phạm Ngũ Lão chẳng hạn, nhưng cũng phải xuất thân từ hàng gia đồng của các
vương hầu, chứ về sau thì tuyệt đối các chức vụ tiết chế, chỉ huy các quân, các
đô, chỉ dành riêng cho người họ Trần mà thôi. Con cháu nhà dân, dù giàu có ức vạn,
dù chữ tốt văn hay, cũng chỉ đời đời làm lính. Con cháu những người không có
quan tước không bao giờ được bổ dụng vào sĩ đồ. "Con vua thì lại làm
vua, con sãi giữ chùa lại quét lá đa". Ông nội Nguyễn Trãi chỉ là một
viên võ quan cấp thấp trong đội quân túc vệ canh giữ cấm thành, vậy thân phụ
Nguyễn Trãi vốn là con nhà dân, dù cho không phạm phải tội con nhà bách tính mà
lấy con gái hoàng tộc, thì cũng vẫn không bao giờ được bổ làm quan. Bị đè nén ức
hiếp như vậy, làm sao Nguyễn Ứng Long không hoan nghênh công việc cải cách của
Hồ Quý Ly, trong đó có việc tước bỏ những đặc quyền đặc lợi của giai cấp quý tộc
nhà Trần: hạn chế thái ấp, bãi bỏ tập ấm, giải tán gia binh gia đồng, nghiêm cấm
mua bán nô tỳ, tàng trữ khí giới v.v. Bởi vậy, năm 1400, khi Hồ Quý Ly lên làm
vua, Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh và ra làm quan với nhà Hồ, giữ
chức Trung Thư Thị Lang và Quốc Tử Giám Tư Nghiệp. Cũng năm đó, Nguyễn Trãi lều
chõng ứng thí, đậu Thái Học sinh và ra làm quan, lần lần đến chức Ngự Sử Đài
Chính Chưởng.
Nhưng nhà Hồ ở ngôi vua không được lâu. Con cháu và bề
tôi nhà Trần kéo nhau sang Trung quốc cầu viện nhà Minh, rước quân Minh về nước đánh bại quân nhà Hồ. Tướng nhà Minh là bọn
Trương Phụ, sau khi đánh chiếm nuớc ta bèn chia làm quận huyện và đặt quan cai
trị, rồi bắt giải Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương cùng triều thần văn võ nhà Hồ về
Tàu trị tội, trong số này có Nguyễn Phi Khanh. Truyện dã sử kể rằng con Nguyễn Phi Khanh là Nguyễn Trãi theo tiễn cha đến
cửa Nam Quan, và được cha bảo rằng: "Con hãy trở về để lo trả thù nhà, đền
nợ nước, chứ đi theo khóc lóc thì phỏng có ích gì". Nghe lời cha, Nguyễn
Trãi quay về, cư trú ở Đông Đô một thời gian, rồi cùng với người anh cô cậu là
Trần Nguyên Hãn tìm vào Thanh Hoa giúp vua Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, giải
phóng đất nước khỏi ách đô hộ của nhà Minh. Câu chuyện hư cấu trên đây được
truyền tụng rộng rãi trong dân gian cho mãi đến ngày nay, người đọc sử ai ai cũng
biết, người nghe sử ai ai cũng tin, rồi thi ca ngâm vịnh, rồi kịch bản dã sử, các
văn nhân nghệ sĩ cứ theo đó mà thi đua nhau thêu dệt thêm nhiều tình tiết ly kỳ.
Câu chuyện tiễn biệt ở Nam Quan chứa đựng nhiều điểm
không ổn. Nguyễn Trãi theo cha đến Nam Quan, rồi nghe lời cha quay trở về. Như
vậy, suy diễn từ những tình tiết trong truyện dã sử, khoảng trống thời gian từ
1408 lúc Nguyễn Trãi giã từ cha ở cửa Nam Quan đến 1420 lúc Nguyễn Trãi và Trần
Nguyên Hãn đến theo Lê Lợi ở Lội Giang (khúc sông Mã thuộc Cẩm Thủy, Thanh
Hóa), trong khoảng thời gian này, Nguyễn Trãi đi đâu, làm gì, tại sao Nguyễn
Trãi không tham gia cuộc khởi nghĩa của các vua Hậu Trần Giản Định và Trùng
Quang, hoặc ít ra cũng phải nói Nguyễn Trãi có công ăn việc làm hay hoạt động,
hành tung gì cụ thể. Cho dù câu chuyện hư cấu về sau được bổ khuyết thêm tình
tiết là trong khoảng thời gian này Nguyễn Trãi bị giam lõng ở Đông Đô. thì suy
diễn từ những tình tiết trong truyện dã sử, lúc tiễn biệt cha ở cửa Nam
Quan, nhân thân Nguyễn Trãi hoàn toàn tự do,
Nguyễn Trãi không bị bắt giữ, Nguyễn Trãi không bị lưu đày. Vậy thì hà cớ gì trở
về Đông Đô, Nguyễn Trãi lại bị giam lõng hơn mười năm trời, từ 1408 đến 1420? Lại
nữa, Nguyễn Trãi làm quan nhà Hồ với chức vụ khá lớn, khi nhà Hồ mất nước, Nguyễn
Trãi đang giữ chức Ngự Sử Đài Chính Chưởng. Vậy vì sao Nguyễn Trãi lại không bị
bắt giải về Tàu như các quan chức khác cùng cấp bậc? Nguyễn Trãi còn trẻ, đã đậu
Thái Học Sinh lại nổi tiếng văn học, tại sao người Minh lại không bắt mang về
Tàu trước là để sử dụng, sau là để triệt hạ tiềm năng quật khởi và bản sắc văn
hóa của dân tộc ta, như việc người Minh thu hết sách vở của ta, bắt nho sĩ và
thợ giỏi đem về Tàu, đập phá đền Hùng Vương, tiêu hủy An Nam đại tứ bảo? Vậy
thì trong thực tế, trái ngược với những điều truyền tụng trong dân gian, Nguyễn
Trãi đã bị người Minh bắt giữ, bị người Minh áp giải lên Nam Quan để đưa sang
Tàu, nghĩa là Nguyễn Trãi cũng đang ở qui chế tù nhân lưu đày như Nguyễn Phi
Khanh, và Nguyễn Trãi không thể nào lại thung dung muốn đi theo tiển chân cha
thì đi, muốn nghe lời cha gạt lệ quay trở về thì trở về. Chuyện khóc lóc tiễn
biệt ở Nam Quan là chuyện hoàn toàn bịa đặt.
Thực tế lịch sử là cả Nguyễn Phi Khanh lẫn Nguyễn
Trãi đều cùng ở trong đoàn tù nhân vua tôi nhà
Hồ bị quân Minh bắt giải về Yên Kinh. Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương bị khép tội xử
trảm, nhưng sau được tha chết, chỉ phát vãng đi làm lính tuần ở Quảng Tây. Hồ
Quý Ly có đề cập đến vụ thoát chết này trong một bài thơ còn lưu truyền đến nay,
nguyên văn như sau:
Cảm
Hoài
Canh
cải đa đoan tử phục sinh,
Du du hương lý bất thăng tình.
Nam quan
thiều đệ ưng đầu bạch,
Bắc quán
yêm lưu giác mộng kinh.
Tác t‹ tài sơ tàm Lý Bật,
Thiên đô
kế chuyết khốc Bàn Canh.
Kim âu kiến khuyết do vô hợp,
Đãi giá tu tri ngọc phỉ khinh.
(Thiên Nam Ngữ Lục)
Con trưởng Quý Ly là Nguyên Trừng, cháu đích tôn Quý Ly
là Nhuế Lỗ được tha. Vì Nguyên Trừng giỏi nghề đúc súng thần cơ nên được bổ dụng
làm việc ở bộ Công, về sau được thăng đến chức Công Bộ Thượng Thư. Em Quý Ly là
Quý Tỳ, cháu là Vô Cữu, quan võ là Hồ Đổ, Đoàn Kích, Đỗ Mãn, quan văn là Nguyễn
Ngạn Quan, Lê Cảnh Kỳ, Nguyễn Phi Khanh, Trần Nhật Chiêu đều bị phát vãng làm
lính thú mỗi người một nơi, duy có Nguyễn An giỏi nghề kiến trúc được tuyển dụng
làm công trình sư xây dựng cung điện thành Bắc Kinh. Những quan chức cấp nhỏ
hơn đều được tha, cho tự do tìm đất lập nghiệp. Sau khi An Nam hoàn toàn được
bình định, một số được phép trở về quê hương. Sau khi chết, Hồ Quý Ly cũng được
gia đình đem linh cữu về chôn cất ở Thanh Hoa.
Nguyễn Trãi thuộc loại tội phạm thứ ba, tức là được tha
cho tự do đi kiếm đất sinh sống. Do đó, Nguyễn Trãi đã trãi qua một thời gian
lưu lạc ở Trung Quốc, từ 1408 cho đến khi trở về nước và vào Thanh Hoa tham gia
nghĩa quân Lam Sơn vào năm 1420. Thật vậy, bài thơ Hán tự sau đây của Nguyễn Trãi với những chữ luân lạc, tha hương, thiên lý, thập
niên, chứng tỏ tác giả đã ở Trung quốc
tối thiểu 10 năm:
Thanh Minh
Nhất
tòng luân lạc tha hương khứ,
Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua.
Thiên lý phần doanh vi bái tảo,
Thập niên thân cựu tẫn tiêu ma.
Sạ tình thiên khí mô lăng vũ,
Quá bán xuân quang tê cú hoa.
Liên bả nhất bôi hoàn tự cuỡng,
Mạc giao nhật nhật khổ tư gia
Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua.
Thiên lý phần doanh vi bái tảo,
Thập niên thân cựu tẫn tiêu ma.
Sạ tình thiên khí mô lăng vũ,
Quá bán xuân quang tê cú hoa.
Liên bả nhất bôi hoàn tự cuỡng,
Mạc giao nhật nhật khổ tư gia
Dịch nghĩa:
Tha hương đất khách từ lưu lạc,
Bấm đốt thanh minh đã mấy lần.
Muôn dặm mộ phần khôn viếng lễ,
Mười năm thân thích cứ vơi dần.
Mưa rào đổ tạnh, đang vào tiết,
Hoa đẹp đơm bông, quá nửa xuân.
Gượng chén tay nâng khuây khỏa chút,
Nỗi nhà nỗi khổ liệu xua tan
Bấm đốt thanh minh đã mấy lần.
Muôn dặm mộ phần khôn viếng lễ,
Mười năm thân thích cứ vơi dần.
Mưa rào đổ tạnh, đang vào tiết,
Hoa đẹp đơm bông, quá nửa xuân.
Gượng chén tay nâng khuây khỏa chút,
Nỗi nhà nỗi khổ liệu xua tan
(Ngô văn Phú dịch)
Nguyễn Trãi đi lại nhiều nơi ở nước Tàu, rồi trở về nước
tổ, cư trú ở Bắc Hà 2 năm trước khi lặn lội vào Thanh Hoa tìm đến Lam Sơn tụ
nghĩa. Chứng cớ của sự kiện này là ngày nay còn lưu truyền chừng trên dưới hai
mươi bài thơ Hán tự của Nguyễn Trãi làm trong khoảng thời gian 1408-1418, trong
đó có đề cập đến các địa danh ở Trung Quốc mà người đọc dễ dàng nhận thấy là
tác giả nhân đối cảnh sinh tình mà cảm hứng làm ra, như các bài thơ dẫn ra đây:
Quá Giang Tây
Tự cổ Hồng Đô
xưng thắng địa
Kim triêu khách lý tạm tương qua
Yên thu Nam Phố tình quang hảo
Nhật lạc Tây Sơnmộ cảnh gia (giai)
Cáo kiết thành phong liên tục bạc
Từ chương hữu học trúng khoa đa
Tinh Dương thiết trụ kim do tại
Bi khắc thiên niên tiển dĩ hoa.
Kim triêu khách lý tạm tương qua
Yên thu Nam Phố tình quang hảo
Nhật lạc Tây Sơnmộ cảnh gia (giai)
Cáo kiết thành phong liên tục bạc
Từ chương hữu học trúng khoa đa
Tinh Dương thiết trụ kim do tại
Bi khắc thiên niên tiển dĩ hoa.
Dịch nghĩa :
Hồng Đô thắng cảnh tiếng từ xưa
Trên chuyến đi, rày tạm ghé qua
Nam Phố khói un, trời sáng đẹp
Tây Sơn chiều xuống, phút nên thơ
Thói lề kiện cáo, dân phong kém
Đỗ đạt văn khoa, sĩ chí thừa
Trụ sắt Tinh Dương còn mãi đấy
Nghìn năm bia phủ lớp rêu mờ
Trên chuyến đi, rày tạm ghé qua
Nam Phố khói un, trời sáng đẹp
Tây Sơn chiều xuống, phút nên thơ
Thói lề kiện cáo, dân phong kém
Đỗ đạt văn khoa, sĩ chí thừa
Trụ sắt Tinh Dương còn mãi đấy
Nghìn năm bia phủ lớp rêu mờ
(Lê Cao Phan
dịch)
(Giang Tây ở hạ lưu sông Trường Giang, nổi tiếng về khoáng
sản và đồ sứ).
Lam
Quan hoài cổ
Hành tận thiên
sơn dữ vạn sơn
Sóc phong suy khởi mãn Lam Quan
Quân vương tằng thử tư trung gián
Chướng hải diêu quan thất mã hoàn
Sóc phong suy khởi mãn Lam Quan
Quân vương tằng thử tư trung gián
Chướng hải diêu quan thất mã hoàn
Dịch nghĩa :
Nghìn non vạn núi, vượt muôn trùng
Gió bắc trùm quan ải lạnh lùng
Thuở ấy lời trung vua hiểu thấu
Thì đâu tủi bóng ngựa về không?
Gió bắc trùm quan ải lạnh lùng
Thuở ấy lời trung vua hiểu thấu
Thì đâu tủi bóng ngựa về không?
(Lê Cao Phan dịch)
(Lam
Quan là tên một cửa ải ở Thiểm Tây).
Du Nam Hoa tự
Thần
tích phi lai kỷ bách xuân
Bảo Lâm hương hỏa khế tiền nhân.
Hàng long phục hổ cơ hà diệu;
Vô thụ phi đài ngữ nhược tân.
Điện tắt khởi lâu tàng Phật bát;
Kham trung di tích thuế chân thân.
Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần.
Bảo Lâm hương hỏa khế tiền nhân.
Hàng long phục hổ cơ hà diệu;
Vô thụ phi đài ngữ nhược tân.
Điện tắt khởi lâu tàng Phật bát;
Kham trung di tích thuế chân thân.
Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần.
Dịch nghĩa :
Bao thế kỷ gậy thần đáp xuống
Bảo Lâm thờ phượng đúng nguyên nhân
Trị rồng cọp giỏi như thần
Bồ đề, gương sáng chẳng cần, cũng linh
Phật bát quý thờ bên chính điện
Trong am còn dấu hiệu hóa thân
Tào Khê trước cổng chảy gần
Nước trong tẩy sạch ô trần thế gian
Bảo Lâm thờ phượng đúng nguyên nhân
Trị rồng cọp giỏi như thần
Bồ đề, gương sáng chẳng cần, cũng linh
Phật bát quý thờ bên chính điện
Trong am còn dấu hiệu hóa thân
Tào Khê trước cổng chảy gần
Nước trong tẩy sạch ô trần thế gian
(Lê Cao Phan
dịch:)
(Du
Nam Hoa tự là đi chơi chùa Nam Hoa, Quảng Đông)
Quá lĩnh
Tiền
cương nhật lạc mã hôi đồi
Hành tận Mai quan bất kiến mai
Giáp đạo thiên tùng xanh Hánlập
Duyên vân nhất lộ phách sơn khai
Trường An nhật cận liêu thư mục
Cố quốc thiên diêu trọng cảm hoài
Đường tướng nhất tùng thông thử đạo
Bách tri kim kỷ bách niên lai
Hành tận Mai quan bất kiến mai
Giáp đạo thiên tùng xanh Hánlập
Duyên vân nhất lộ phách sơn khai
Trường An nhật cận liêu thư mục
Cố quốc thiên diêu trọng cảm hoài
Đường tướng nhất tùng thông thử đạo
Bách tri kim kỷ bách niên lai
Dịch nghĩa:
Lên đèo ngựa nhọc buổi hoàng hôn
Danh gọi Mai quan, mai chẳng còn
Vươn ngọn, nghìn tùng lên giải hán
Vờn mây, một lộ xẻ sườn non
Trường An gần đến, thư tầm mắt
Cố quốc vời xa, nặng cõi hồn
Công lớn tướng Đường xưa mở lối
Qua bao thế kỷ dấu lưu tồn
Danh gọi Mai quan, mai chẳng còn
Vươn ngọn, nghìn tùng lên giải hán
Vờn mây, một lộ xẻ sườn non
Trường An gần đến, thư tầm mắt
Cố quốc vời xa, nặng cõi hồn
Công lớn tướng Đường xưa mở lối
Qua bao thế kỷ dấu lưu tồn
(Lê Cao Phan dịch:)
(Lĩnh là đỉnh núi, đây là núi Đại Dũ (Dũ Lĩnh), phía bắc
Nam Hùng, Quảng Đông . Đời Đường, Trương Cửu Linh mở đường trồng mai trên núi,
nên còn gọi là Mai Lĩnh, Mai quan)
Tĩnh
An vãn lập
Trường thiên mạc mạc thủy du du
Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ thu
Tiện sát hoa biên song bạch điểu
Nhân gian luỵ bất đáo thương châu
Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ thu
Tiện sát hoa biên song bạch điểu
Nhân gian luỵ bất đáo thương châu
Dịch nghĩa:
Bát ngát mênh mông trời lẫn nước
Lá vàng rơi báo hiệu tàn thu
Chim trắng bên hoa, nhìn những mến
Nơi xa này, tục luỵ còn ư?
Lá vàng rơi báo hiệu tàn thu
Chim trắng bên hoa, nhìn những mến
Nơi xa này, tục luỵ còn ư?
(Lê
Cao Phan dịch:)
(Tĩnh
An vãn lập có nghĩa là buổi chiều đứng ở Tĩnh
An, thuộc địa phận Giang Tây).
Thái Thạch
Thái Thạch tằng văn Lý trích tiên
Kỵ kình
xuy khứ kỷ đa niên.
Thử
giang nhược biến vi xuân tửu,
Chỉ khủng
ba tâm thượng túy miên.
Dịch nghĩa:
Từng nghe ông tiên bị đọa họ Lý ở Thái Thạch
Cỡi cá kình ra đi biết bao năm rồi.
Ví thử sông này nay biến ra rượu xuân ,
E rằng lại thấy ngài nằm ngủ say trong lòng sóng.
(Thái Thạch là
một nhánh sông Dương Tử nơi Lý Bạch đã nhẩy xuống ôm trăng mà chết).
Tóm lại, Nguyễn Trãi đã lưu lạc một
thời gian tối thiểu là 10 năm trên đất nước Trung quốc. Như vậy, vào thời điểm
1408, tại cửa Nam Quan, cả hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi đều có mặt
trong đoàn tù nhân vua tôi nhà Hồ bị quân Minh bắt giải về Tàu. Nguyễn Trãi đang
là tù nhân, Nguyễn Trãi không thể nào có tự do muốn đi theo cha thì đi, muốn
nghe lời cha trở về thì trở về. Chuyện khóc lóc, khuyên răn, tiễn biệt ở Nam
Quan hoàn toàn là những chuyện bịa đặt.
Tháng
11, năm 2008
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Tản Mạn Về Hương Xưa Làng Cổ
Hương Xưa Làng Cổ là tên một tour du lịch
được tổ chức trong khuôn khổ Festival Huế từ năm 2006.
Tôi đã từng nghe nói đến
Tiếng xưa, Dáng xưa, Lối xưa ... trong các sinh hoạt văn hóa. Nay lại được nghe
thêm Hương xưa trong Hương Xưa Làng Cổ. Đề cập đến Tiếng xưa thì chắc chắn là
có ý nhắc nhở đến tiếng nói tiếng cười hay tiếng đàn tiếng hát của người xưa.
Nói đến Dáng xưa thì rõ ràng là hoài niệm về hình bóng người xưa: “Mưa hè nắng chái oanh ăn nói, Sớm ngõ trưa
sân liễu đứng ngồi”. Còn gợi nhớ đến lối xưa thì đúng là mô thức tuyệt hảo
để diễn tả lòng hoài cổ: “Lối xưa xe ngựa
hồn thu thảo”, hay tâm sự u buồn,
cảm tưởng bâng khuâng, mất mát của những kẻ không được may mắn trong tình
trường: “Cuối tường gai góc mọc đầy, Đi
về này những lối này năm xưa”.
Trạng nguyên”(Trẩm không đi thi, nếu đi thi, tất đậu
Trạng nguyên). Lý do vô cùng đơn giản: Hương xưa ở đây không phải là hơi hám
người đẹp đã bỏ ra đi, “Sàng không tú bị
quyển bất tẩm, Chí kim tam tải văn dư hương”(Ba năm chăn cuốn còn nguyên
nếp, Mà vẫn thơm tho chút phấn thừa), mà là vang và bóng của một thời đã qua
còn lưu lại chút dư hương ở một làng quê nằm bên bờ nam sông Ô Lâu, cách thành
phố Huế non 40 ki lô mét về phía bắc: làng cổ Phước Tích.
Phước Tích ngày nay thuộc
thôn Phước Phú, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Danh xưng
Phước Phú có từ thời Cộng Hòa do sự sáp nhập hai làng Phước Tích, Phú Xuân và
một vạn chài trên bãi sông Phước Tích để thành lập ấp Phước Phú Vạn vào năm
1958. Vạn chài gồm một nhóm cư dân bản địa gốc Tiền Việt, chuyên nghề chài
lưới, sinh hoạt riêng lẻ, chỉ giao tiếp với cư dân quanh vùng qua mỗi một việc
trao đổi cá tôm lấy tiền đong gạo muối. Rõ ràng họ đã định cư lập nghiệp ở đây
từ thời kỳ Ô Lý, hoặc trước nữa, và đã không bỏ ra đi khi vùng đất này trở về
với Đại Việt. Ngược lại, cư dân Phú Xuân là khách hộ, chỉ mới đến định cư ở đây
từ đời Gia Long, vào đầu thế kỷ XIX. Nguyên lai, nhà vua lấy đất tổng Phú Xuân
để xây kinh thành nên cho cư dân Phú Xuân được quyền đến định cư ở bất cứ nơi
nào có đất trống. Làng Phước Tích lúc bấy giờ có bãi đất cồn chỉ để trồng thuốc
lá, không có nhà cửa, nên một nhóm cư dân Phú Xuân đến đây đã xin quan địa
phương chiếu mệnh vua cho lấy đất ấy để lập làng Phú Xuân. Đến thời Xã Hội Chủ
Nghĩa, ấp Phước Phú Vạn được đổi thành thôn Phước Phú, nhưng vì những lý do gốc
gác khác biệt trong quá trình thành lập nêu trên mà danh xưng Phước Phú chỉ
mang ý nghĩa hành chính. Thật thế, khi đi sâu vào các mặt sinh hoạt văn hóa xã
hội thì các nhóm cư dân thành viên của Phước Phú đều bộc lộ những nét đặc thù
riêng biệt, do đó, cụm từ Làng cổ của tour du lịch Hương Xưa Làng Cổ tổ chức
trong khuôn khổ Festival Huế chỉ để nói về làng Phước Tích.
Làng Phước Tích được thành
lập năm 1471, dưới triều Lê Thánh Tông. Không nói đến các làng cổ ở miền Bắc,
chỉ so sánh với một số làng xã tại địa phương Thuận Hóa thì làng Phước Tích
không phải là làng cổ nhất. Thật thế, kể từ năm 1307, khi Đoàn Nhữ Hài đổi hai
châu Ô Lý thành Thuận châu và Hóa châu thì một số làng xã của cư dân Đại Việt
lần lượt được thành lập trên cơ sở hệ thống làng xã người Chămpa để lại mà sử
sách có đề cập nhưng nay trên thực địa không còn dấu vết như La Thủy, Tác Hồng,
Đà Bồng, hoặc nay đã đổi ra danh xưng Hán Việt như Trà Kệ (về sau là Thanh Kệ,
nay là Thanh Lương), Lợi Bồng (Kim Bồng), Bồ Đài (Bồ Điền), Bồ Lãng (Bằng
Lãng), U Cần (Hương Cần), Đào Cù (Vân Cù), hoặc còn lưu dấu vết ở danh xưng
thuần Việt như Kẻ Lừ, Kẻ Liệu, Cổ Liễn, Cổ Bối, Cổ Bưu, Cổ Bi. Nửa đầu thế kỷ
XV, từ triều Hồ Hán Thương đến đầu triều Hậu Lê là giai đoạn di dân thứ hai vào
Hóa châu với việc thành lập các làng Đa Cảm (Mỹ Xuyên), Đàm Bổng (Ưu Điềm),
Đường Long (Chí Long), Bể Thu (Phú Nông), Hoa Lang (Hiền Lương), Triều Sơn, Địa
Linh, La Khê. Làng Phước Tích được thành lập vào đợt di dân thứ ba, sau chiến
dịch Chà Bàn, từ năm 1471 và rải rác trong các năm về nửa sau thế kỷ XV, cùng
thời với các làng Tân Quán (Lương Quán), Nguyệt Biều, An Cựu, Dã Lê, Thanh
Toàn, Dưỡng Mông, An Truyền, Vĩ Dạ, Nam Phổ, Minh Nông (An Nông), Phù Bài, Phấn
Vũ (Vân Dương), Khúc Ốc (Phú Ốc), Lương Mai, Văn Xá. Lúc đầu, làng có tên là
Cảm Quyết, thuộc huyện Kim Trà, phủ Triệu Phong, thừa tuyên Thuận Hóa. Đến khi
các chúa Nguyễn cát cứ ở Đàng Trong, xứ Thuận Hóa được chia thành nhiều dinh,
và huyện Kim Trà được đổi thành Hương Trà, thì làng Cảm Quyết được đổi lại là
Phước Giang, huyện Hương Trà, thuộc về Chính Dinh. Đời Tây Sơn đổi thành Hoàng
Giang. Năm 1835, niên hiệu Minh Mạng thứ 15 nhà Nguyễn, lập thêm huyện Phong
Điền từ đất của hai huyện Quảng Điền và Hương Trà, làng Hoàng Giang lại đổi tên
thành Phước Tích, thuộc tổng Phò Trạch, huyện Phong Điền, phủ Thừa Thiên.
Như vậy, nếu chỉ đứng về mặt niên đại thành lập mà
xét thì trong địa hạt Thừa Thiên Huế, làng Phước Tích không phải là làng cổ
nhất, mặc dù tính đến nay làng đã tồn tại và phát triển non 600 năm. Thật vậy,
làng Phước Tích hình thành trong đợt di dân thứ ba của cư dân Đại Việt từ Đàng
Ngoài vào, muộn hơn các làng thuộc đợt di dân thứ nhất từ 100 đến 150 năm, các
làng thuộc đợt di dân thứ hai khoảng 50 năm, và sớm hơn các làng thuộc đợt di
dân thứ tư chỉ trên dưới 130 năm. Nhưng làng Phước Tích được giới nghiên cứu
văn hóa tôn vinh là làng cổ, thậm chí còn xúc tiến việc lập hồ sơ xin nhà chức
trách thẩm quyền công nhận là làng di sản văn hóa, bởi lẽ làng Phước Tích còn
bảo lưu nhiều giá trị vật thể và phi vật thể ít khi tìm thấy ở các nơi khác tại
miền Trung như địa thế yên ngựa cao ráo với dòng sông Ô Lâu uốn khúc bao quanh
ba mặt, cảnh quan tươi mát với vườn tược và nhà rường trong một không gian mở
rộng chen lẫn các công trình kiến trúc thờ phượng cổ kính và các di chỉ văn hóa
nhiều thứ có niên đại lùi xa về thời đại Lâm Ấp - Nhật Nam. Chả thế mà nhà báo
Hoàng Thái Lộc trong bài “Làng cổ Phước Tích là một phát hiện lớn” đăng trên
báo Thừa Thiên Huế ngày 17-5-2003 đã trích dẫn lời phát biểu của Kiến trúc sư
Hoàng Đạo Kính: “Người ta cứ quen nghĩ
những gì cổ kính, xa xưa phải nằm ở đất Bắc. Đến Phước Tích tôi thực sự sửng
sốt. Nó là một cái làng cổ của người Việt có từ thế kỷ XV”.
Liên
tiếp mấy tháng trong nửa sau
năm 2003, báo chí ở cả Hà Nội lẫn Sài Gòn, và đài truyền hình Huế, lần lượt
đăng bài và chiếu băng hình phóng sự về ngôi làng cổ nói trên mà trọng tâm xoay quanh vấn đề làm sao bảo trì những ngôi nhà
cổ trong làng, có cái gần 200 năm tuổi, mà Hội Kiến trúc sư Việt Nam qua khảo
sát buổi đầu đã đánh giá là di sản văn hóa rất đáng trân trọng. Qua năm 2004, một
cuộc Hội thảo khoa học về Làng di sản Phước Tích được tổ chức tại Huế do sự phối
hợp của Hội Kiến trúc sư Việt Nam, Sở Văn hóa Thông tin Thừa Thiên Huế và Ủy
ban nhân dân huyện Phong Điền, có sự tham dự của các nhà khoa học thuộc Trung
tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Việt Nam, Viện Đại học Huế, và một số các nhà
nghiên cứu đến từ Hà Nội và tại địa phương. Một tập kỷ yếu đúc kết các bài tham
luận đã được ấn hành để làm cơ sở cho việc lập hồ sơ khoa học trình xin Bộ Văn
hóa Thông tin công nhận làng Phước Tích là làng di sản cấp quốc gia. Trong
khuôn khổ Festival Huế 2006, một tour du lịch được tổ chức với tên gọi “Hương
xưa làng cổ”, giới thiệu du khách đến Phước Tích thăm cảnh quan và tìm hiểu nghề
gốm truyền thống của làng. Đến Festival Huế 2008, tour du lịch Hương xưa làng cổ
được mở rộng để du khách đến Phước Tích có cơ hội làm quen thêm sản phẩm các
làng nghề truyền thống lân cận như gỗ chạm Mỹ Xuyên, đệm bàng Phò Trạch, vàng bạc
Kế Môn. Trong tương lai, để bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử và văn hóa của
làng di sản Phước Tích, đồng thời nâng cao mức sống của dân làng song hành với
việc khuyến khích tinh thần hợp tác tích cực của họ trong các dự án phát triển
kinh tế địa phương mà du lịch là hoạt động chiến lược mũi nhọn, các nhà nghiên
cứu và hoạch định chính sách đều có chung quan điểm là lấy Phước Tích làm trung
tâm kết hợp và lan tỏa cho khu vực các làng nghề truyền thống nam Ô Lâu cũng
như cho các tuyến du lịch phía bắc Huế.
Tôi
sinh ra và sống những ngày
thơ ấu trong lòng Phước Tích. Mặc dù tôi xa làng từ năm lên sáu để vào Huế học,
nhưng tôi vẫn đều đặn về làng trong những dịp nghỉ Tết, nghỉ hè. Chỉ từ năm
1947 trở đi, khi dòng sông Ô Lâu trở thành giới tuyến ngăn cách đôi bờ, một bên
là quân Pháp đóng đồn tại Mỹ Chánh, ngày ngày qua sông lùng sục bắt bớ, một bên
là bộ đội Việt Minh trở về từ các an toàn khu Hòa Mỹ và Đại Lược, luồn lách
trong các thôn xóm nam Ô Lâu thu gom nhu yếu phẩm, kể từ dạo đó, tôi không mấy
khi có dịp về thăm làng cũ, mà có ghé tạt ngang thì cũng không bao giờ ngủ lại
qua đêm. Về sau, khi mọi người trong gia đình tôi lần lượt vào Huế rồi vào Sài
Gòn sinh sống, tôi không còn dịp trở về nơi cắt rốn chôn nhau. Mặc dầu vậy,
trong thăm thẳm tột cùng của tâm tư, cảnh quan và nếp sống của làng quê thân
yêu ngày trước vẫn còn lưu lại những dấu ấn đậm nét. Những hình bóng của tuổi
thơ vẫn không hề mờ nhạt, cũng như âm vang của những ngày tháng ấy không bao
giờ tắt lịm trong tôi. Kể từ khi đôi chân bé dại lẽo đẽo theo người lớn rời xa
quê nhà cho đến nay tính ra cũng đã bảy mươi năm tròn. Biết bao nhiêu nước đã
chảy qua cầu! Giá bây giờ tôi có dịp trở về quê cũ thì cái tình cảnh của tôi có
lẽ cũng bẽ bàng như lời thơ của Hạ Tri Chương ngày trước:
“Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi
Hương âm vô cải mấn mao tồi.
Nhi đồng
tương kiến bất tương thức
Tiếu vấn
khách tòng hà xứ lai”.
(Lúc nhỏ ra đi, già trở về, Giọng nói chẳng đổi,
râu tóc bạc trắng. Bọn trẻ chào đón, không một ai nhận ra tôi là người quen.,
Cười hỏi: khách từ đâu tới đây?)
Nhưng
mối bận tâm của tôi mỗi lần để tâm trí mình hướng về quê cũ thì nhất quyết
không phải ở điểm này. Thật vậy, tôi hiểu rất rõ thời gian qua đi thì có ai tìm
lại được trọn vẹn cảnh xưa người cũ. Mà sao dời vật đổi là lẽ đương nhiên của
quá trình tuần hoàn trong trời đất. Bởi vậy, tôi không hề cảm thấy ngỡ ngàng
khi được nghe, được biết những biến đổi đã xẩy ra tại nơi chôn nhau cắt rốn,
cũng như không mảy may tiếc nuối việc không thể tìm lại cảnh quan và nếp sống của
gia đình mình ngày trước. Cuộc đời nổi trôi đẩy đưa tôi đi khắp năm châu bốn bể,
một chút hoài niệm về những ngày thơ ấu tại quê nhà tôi hằng ôm ấp trong lòng
đã là quá đủ. Điều tôi thật sự canh cánh bên lòng là chút “hương xưa làng cổ” mà người thời nay trân trọng tìm kiếm liệu có
còn chút gì tương xứng với thực tế của thời xưa. Những giá trị văn hóa vật thể,
tuy ngày nay điêu tàn, đổ nát, nhưng còn có thể vớt vát nắm bắt được phần nào,
chứ những giá trị phi vật thể, tai tuy có nghe nhưng mắt không nhìn thấy, nay
đem đối chiếu với thực tế trước mắt, thì dù cho trí tưởng tượng của du khách
hay của nhà nghiên cứu điền dã, có phong phú đến mức độ nào chăng nữa, cũng khó
mà cảm nhận đúng mức được. Chẳng hạn, các phóng sự báo chí và truyền thanh truyền
hình, cũng như các báo cáo khoa học xã hội và nhân văn, đều có đề cập đến sự hiện
diện của miếu thờ Khổng tử (Văn chỉ) để nhấn mạnh về truyền thống hiếu học và
tinh thần tôn sư trọng đạo của dân làng Phước Tích, nhưng đối diện với thực tế
trong làng ngày nay chỉ toàn là ông già bà lão quanh năm chật vật với chén cơm manh áo, thì làm sao khách
phương xa đến tham quan có thể cảm thụ được cái phong cách văn vật của nếp sống
Phước Tích ngày trước để gọi là tìm lại chút hương xưa?
Ngày trước, vì theo học chữ nho nên phần đông dân
làng Phước Tích có thói quen sử dụng các từ Hán Việt trong cuộc sống thường
nhật. Đèn sáp trắng thì gọi là bạch lạp. Đèn dầu hỏa thì phân chia các loại đèn
bỏng cầm tay, đèn tọa để bàn, đèn huyền (đèn ba giây) treo trên xà nhà. Trồng
cây măng cụt trong vườn, khi cây kết trái thì gọi trái măng cụt là giáng châu,
nghĩa là viên ngọc từ trên trời rơi xuống. Có nhà trồng cây trần bì, không phải
để dùng làm thuốc, cũng không phải để lấy trái ăn. Trồng bưởi thì trồng đủ
chủng loại, nào là thanh yên, thanh trà, phật thủ, bưởi cùi đỏ, bưởi cùi trắng,
mỗi thứ một cây. Chủ nhân trồng cây để hoàn chỉnh cảnh quan nhà vườn chứ không
phải với chủ tâm kiếm lợi. Bao quanh sân, nếu không phải là hàng chè tàu cắt
tỉa ngay ngắn thì là hàng rào bằng tre chẻ nhỏ gọi là “thừa ly” làm giàn leo
cho các giây hoa tỷ muội, tường vi, hồng bạch, thiên lý. Chỉ có dân làng Phước
Tích mới gọi hàng rào tre chẻ nhỏ là thừa ly, và chính điều này cùng với miếu
thờ Khổng tử sẽ giúp khách phương xa cảm nhận phần nào ảnh hưởng sâu đậm của
nền cựu học đối với nề nếp sinh hoạt của dân làng Phước Tích ngày trước. Thật
vậy, thừa ly là tiếng đọc trại của từ Hán Việt “sơ ly” để trở thành từ thuần
Việt:
“.
. . . . . . . . . . . . . . . .
Sơ
ly ngoại, đào hoa chước,
Trì
đường thượng, dương ti nhược.
Tiệm
mao thiềm nhật noãn.
Tiểu
cô y bạc,
Xuân
cữu mãn viên tùy ý tiển.
Lạp
phô bán ủng ao nhân chước.
Hỷ!
Bạch đầu nhân túy bạch đầu phò.
Điền gia lạc!”
(Xuân thì điền
gia khổ lạc ca)
(Ngoài rào tre, hoa đào khoe sắc, Trên đường
ao, liễu mềm buông tơ. Mái tranh ấm dần. Cô bé áo mỏng, Rau xuân đầy vườn tha hồ
hái. Nửa vò rượu hồi trong năm đem ra mời khách. Mừng thay! Kẻ đầu bạc say có đầu
bạc dìu. Niềm vui của nhà nông đấy!).
Làng
Phước Tích thời phong kiến chưa ai đỗ đại khoa, lại cũng không có ai nổi tiếng
trong quan trường như kiểu Nguyễn Tri Phương làng Chí Long đắp đồn chống quân
xâm lược Pháp, hay Hồ Oai làng Mỹ Cang đóng cửa cấm cung ngăn giặc Chày vôi.
Nhưng khoa hoạn ở mức độ hương khoa huyện lệnh thì không hiếm, lại phổ cập khắp
làng, không tập trung riêng về một dòng họ nào. Bởi thế phong thái văn vật
trong làng rất thuần nhất, dàn trãi đều khắp, hun đúc nên tinh thần tự hào về nề
nếp sinh hoạt khoan hòa thuần hậu của tất cả con em trong làng. Trung hiếu, tiết
trinh, lễ nghĩa, đạo đức, mọi người đều theo đó lấy làm phương châm cho cuộc sống.
Không có người bần cùng phải đi ăn xin, cũng không có kẻ hung tàn gian manh đến
độ trở thành quân đạo tặc. Phụng dưỡng cha già mẹ yếu lúc sinh tiền. Khi cha mẹ
khuất núi, gặp ngày húy nhật, cảnh nhà thanh bạch thì cũng có đủ nén hương mâm
cỗ, cảnh nhà phong túc thì dâng lễ tam sinh (một bò, một dê, một heo). Phụ nữ
trong làng tảo tần một nắng hai sương, chăm lo bổn phận gánh vác giang sơn nhà
chồng. Gặp cảnh chồng mất sớm thì ở vậy thờ chồng nuôi con, có người được triều
đình sắc tứ bảng vàng “Tiết hạnh khả
phong”. Giao lưu bằng hữu bốn phương thì cũng đủ mặt khách phong lưu tài tuấn.
Tuổi thơ của tôi còn vương chút hình bóng nhạt nhòa những người bạn văn chương
của ông ngoại, những ông Phó bảng Phan, Phó bảng Lê, những cụ Thượng Làng Rào,
Thượng Thế Chí. Lớn lên, tôi có dịp được ông bác trong họ đọc cho nghe một câu
đối treo ở nhà thờ họ: “Tộ lại hiếu tôn
dư Phước địa, Thủy thiên tiên tổ tự Hoan châu” (Cháu hiếu dõi truyền nơi đất
Phước, Tổ xưa nguyên cỗi tự châu Hoan) do Tế Tửu Quốc tử giám người họ Khiếu tặng.
Sau này, có dịp tra cứu cuốn Quốc triều
đăng khoa lục của Cao Xuân Dục, tôi được biết người họ Khiếu tác giả câu đối
nói trên là vị đại khoa triều Nguyễn người Bắc Hà tên là Khiếu Năng Tỉnh. Sau
chiến tranh, nhà thờ họ đã
qua mấy lần tu bổ, liệu dấu tích người xưa có còn phảng phất chút hương thừa để
thỏa lòng khách phương xa cất công đến tham quan hay chỉ là kỷ niệm mờ nhạt
trong ký ức một vài người hoài cổ nặng nợ văn chương!
Cũng may mà trước sân đình làng còn nguyên ba tấm
bia đá ghi công ơn ba người phụ nữ trong làng là Hồ thị Quỳnh Dao, Lương thị
Dao, và Lương thị Toại đã cúng gạo, cúng tiền, cấp cho dân phu đắp đường và
phát chẩn cứu đói. Các văn bia chữ Hán do các vị Nguyên thự Tuần phủ lãnh Phiên ngu (Bố chánh) Sử Trần tử tước, Nhâm Thìn khoa nhị giáp Tiến sĩ Hà Nội Nguyễn Đĩnh
Thần (Mai Sơn Nguyễn Thượng Hiền), và
Tuy an Quận công phủ dực thiện Nguyễn Uyên Ngu soạn. Nội dung các bài văn
bia cũng như thân thế các soạn giả là những minh chứng cụ thể về truyền thống
tương thân tương ái và tinh thần tôn sư trọng đạo của dân làng Phước Tích ngày
xưa. Phong thái nho nhã và thói quen lễ nghĩa của dân làng còn biểu hiện qua
cung cách ẩm thực. Người dân Phước Tích trước đây, cho dù ăn uống tập trung
đông người như trong các dịp kỵ giổ, ma chay, khao vọng, đình đám, cũng không
mấy khi tổ chức cỗ bàn đơn giản theo lối “xôi thịt”, nghĩa là dọn cơm nếp ăn với
thịt heo luộc hoặc thịt bò xáo như tập tục phần đông dân quê nước ta. Cúng kỵ
thì dân làng Phước Tích sửa soạn dăm ba mâm cơm, tiệc tùng thì dân làng Phước
Tích đãi đằng tiệc cơm tiệc rượu, dù đơn giản bầu dưa bí mướp, không mâm cao cỗ
đầy với sơn hào hải vị chăng nữa, thì cũng đầy đủ lễ bộ với những chiếc mâm
đồng trên đặt một vài cái bát chiết yêu đựng các món ninh, món hầm, món nấu,
chung quanh là các chén dĩa đựng nước chấm và thức ăn các loại, tất cả đều là
đồ sứ, đồ sành, vòng trong vòng ngoài, lớp trên lớp dưới, chừng mười lăm hai
chục món, y hệt như cỗ bàn trong Huế. Cảnh quan nhà vườn và cung cách ẩm thực
vừa miêu tả trên đây là hai nét văn hóa, một vật thể, một phi vật thể, tuy mang
tính chất cung đình nhưng rất phổ cập trong giai tầng khá giả ở Phước Tích ngày
trước. Vật thể thì ngày nay may ra còn lại được một vài phần, phi vật thể thì
thực tế hiện tại khó tìm thấy vang và bóng!
Dân làng Phước Tích truyền miệng với nhau và gia
phả các họ đều có chép, rằng tổ tiên ngày trước quê quán gốc là làng Cảm Quyết,
xứ Nghệ An, nên khi thiên di vào Hóa châu lập làng đã lấy tên làng gốc đặt tên
cho làng mới. Đúng là làng Phước Tích lúc mới thành lập có tên là Cảm Quyết.
Nhưng khẳng định rằng tất cả 12 tiên tổ các họ khai canh đều gốc gác làng Cảm
Quyết, huyện Quỳnh Lưu, xứ Nghệ An, thì có nhiều điểm bất ổn, cần xét lại. Nếu
quả thật đúng như vậy thì tất cả 12 tiên tổ các họ xuất phát từ Nghệ An đã là
người cùng một làng, thì đương nhiên tất cả 12 vị phải là người cùng một huyện,
một xứ. Thế tại sao tiên tổ họ Hoàng là người làng Cảm Quyết huyện Quỳnh Lưu,
trong lúc một số gia phả họ Hồ ghi tổ tiên là người làng Cảm Quyết huyện Nam
Đàn, và nhà thờ họ Lê Trọng có câu đối: “Chung
cổ Tùng sơn căn bổn cố; Hoàng giang biệt tử phái lưu trường” mà Tùng sơn
lại có người đoán định là ở Thanh Hóa? Vậy việc dân làng truyền miệng nhau tổ
tiên xưa vốn là người làng Cảm Quyết phải được hiểu rằng Cảm Quyết là tên làng
lúc mới thành lập hoặc là tên đã có sẵn của vùng đất lúc tổ tiên từ miệt ngoài
thiên di vào, chứ không phải là tên làng gốc ở Nghệ An từ đó các tiên tổ đã ra
đi. Bài tham luận của Trần Đại Vinh trong Hội thảo khoa học năm 2004 về làng di
sản Phước Tích có liệt kê các làng xã đã được thành lập tại Hóa châu qua 4 đợt
di dân. Làng Cảm Quyết được thành lập vào đợt di dân thứ 3, nửa sau thế kỷ XV,
trong lúc làng Đa Cảm ở liền đó, tức là Mỹ Xuyên sau này, được thành lập vào
đợt di dân thứ 2, nửa đầu thế kỷ XV. Sách Ô Châu Cận Lục đời Mạc gọi vùng này
là Cảm Quyết, Dũng Quyết, hoặc Dũng Cảm Quyết. Điều này đã xác định rằng khi
làng Cảm Quyết được thành lập thì đã có làng Đa Cảm tồn tại ở kề bên, và từ đó
suy luận rằng cũng có thể phần đất của làng Cảm Quyết là phần đất vốn thuộc
làng Đa Cảm được tách ra. Mặt khác, khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa,
một số quan lại và tướng sĩ Bắc Hà và Thanh Hoa theo vào, làng Cảm Quyết quá
rộng nên được cắt bớt đất lập các làng Mỹ Xuyên, Mỹ Cang, Mỹ Chánh, Hội Kỳ để
định cư lớp di dân mới đến (thuộc đợt di dân thứ tư). Làng Cảm Quyết được thu
hẹp lại và đổi tên thành Phước Giang, do đó mà ngày nay có sự kiện lăng mộ thủy
tổ họ Hoàng tọa lạc ở Mỹ Xuyên, thủy tổ họ Lê Trọng ở Hội Kỳ. Dân làng Phước
Tích về sau truyền miệng với nhau, thay vì nói đất làng vốn gốc gác từ đất của
Dũng Cảm Quyết tách ra, hoặc nói làng xưa vốn có tên là làng Cảm Quyết, thì lại
nói một cách lầm lạc rằng tổ tiên xưa vốn gốc gác là người làng Cảm Quyết, xứ
Nghệ An. Đương nhiên là nghi vấn này sẽ chỉ được giải quyết trọn vẹn nếu có
điều kiện truy cứu các sách địa chí liên quan đến vùng Thanh Nghệ để chứng minh
là xưa nay không hề có làng nào có tên là Cảm Quyết ở hai xứ này.
Một điểm khác cần đặt lại vấn đề là tên tục của
ngài khai canh họ Hoàng. Dân làng Phước Tích truyền miệng với nhau rằng húy
danh ngài khai canh là Nồi, nên để tránh phạm húy, dân làng thường ngày gọi cái
nồi là cái “nghẹ”. Tên ngài khai canh
là Hoàng Minh Hùng, tên họ rõ ràng còn lưu lại đầy đủ trên bia đá tại miếu thờ
Khai Canh và ghi chép trong gia phả các dòng họ, cũng như trên sắc phong của
Triều Đình. Vậy tại sao để tránh phạm húy ngài khai canh, dân làng không kiêng
húy tên Hùng mà lại kiêng tên Nồi? Cho dù có biện giải rằng Nồi là tục danh của
ngài khai canh lúc nhỏ tuổi, nhưng cho tới nay không có một tài liệu nào xác
nhận tên ngài khai canh là Nồi để hổ trợ cho lời truyền miệng, lại nữa khi
kiêng húy thì người ta thường kiêng tên chính thức chứ không ai lại kiêng húy
tên kêu chơi mà không kiêng tên chính thức. Từ đó suy ra thì rõ ràng Nồi không
phải là tên ngài khai canh mà là tên một người khác, hoặc là danh từ để chỉ một
người khác, cũng quan trọng đối với dân làng, có thể quan trọng ngang tầm với
ngài khai canh. Đó là tên để gọi người dạy cho dân làng nghề làm đồ
gốm, người mà dân làng đã lập miếu thờ gọi là miếu Đào Nghệ (dạy nghề), song
lập với miếu Khai Canh. Vậy có thể suy diễn rằng tại quần thể miếu đôi ngày
nay, miếu Khai Canh thờ Tướng quân Hoàng Minh Hùng, miếu Đào Nghệ thờ người đã
dạy dân làng làm nghề gốm, người mà dân làng thời trước đã gọi là Ông Nồi, và
thời nay còn kính cẩn kỵ húy nên gọi cái nồi là cái nghẹ.
Gốm Phước Tích trước đây là gốm sành, do đất sét
thô nung già lửa tạo thành, không phải là gốm sứ đất sét trắng tráng men. Gốm
Phước Tích gần gũi với gốm cổ phát hiện ở Mỹ Xuyên gần đây. Năm 1993, Viện Khảo
cổ học đã tiến hành khai quật các lò gốm cổ ở Mỹ Xuyên và thu lượm được một số
hiện vật gốm sành có giá trị, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Tổng hợp Thừa
Thiên Huế. Bài tham luận của Nguyễn Thế cho biết nhà khảo cổ học Trịnh Cao
Tưởng đã ghi nhận sự kiện các sản phẩm gốm sành này đã từng xuất hiện ở Nhật Bản
từ những thế kỷ trước; và nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thông cho rằng một số hiện
vật gốm sành ở các lò gốm cổ Mỹ Xuyên mang đậm yếu tố văn hóa bản địa, tức là
văn hoá Chămpa. Như vậy, Mỹ Xuyên đã từng là một trung tâm sản xuất gốm sành
tiêu thụ trong vùng và bán ra nước ngoài, nhưng cư dân Mỹ Xuyên ngày nay không
có một chút ý niệm gì về nghề gốm đã từng tồn tại trên địa bàn họ đang sinh
sống. Mặt khác, những nghệ nhân lão thành Phước Tích đến quan sát các hiện vật
khai quật từ các lò gốm cổ Mỹ Xuyên thì có nhận xét là cấu tạo sản phẩm tuy
giống nhau nhưng kiểu dáng sản phẩm ở đây khác với gốm Phước Tích, có nhiều sản
phẩm họ không biết tên gọi. Như vậy, việc một số nhà nghiên cứu phỏng đoán rằng
đã từng có sự hoạt động song hành của 2 làng nghề gốm người Việt ở Phước Tích
và Mỹ Xuyên là hoàn toàn thiếu cơ sở. Trong thực tế, khi các lò gốm Phước Tích
của di dân người Việt bắt đầu hoạt động thì các lò gốm Mỹ Xuyên đã đóng cửa từ
lâu. Các lò gốm này là của người Chămpa. Họ đã đóng cửa lò và bỏ đi từ thế kỷ XIV
khi người Việt đến thành lập các làng xã trong đợt di dân thứ nhất.
Sử cũ chép rằng khi hai
châu Ô Lý trở về với Đại Việt (1306), cư dân Chămpa đều bỏ đi. Sự thật thì vẫn
còn một số dân Chămpa ở lại sống chung với người Việt. Căn cứ vào màu da và
giọng nói của dân vạn chài ngày nay cư trú trên giải đất cát ven sông Ô Lâu ở
Bến cạn Phước Tích mà xét đoán thì thấy rõ ràng họ là hậu duệ của thổ dân
Chămpa ngày trước. Họ Bùi làng Câu Nhi, huyện Hải Lăng, ở gần bên, đang lưu trữ
một tư liệu gọi là “Thỉ thiên tự” do tiên tổ là Bùi Thành viết về buổi đầu lập
làng có đoạn: “Nguyên trước kia, tôi đã
có bàn bạc với người Chiêm thành ở đấy, định chỗ ăn ở rồi, nên nay không phải
lời qua tiếng lại nào nữa, nhân đó mua tranh gỗ dựng nhà. . . .” Đã như vậy
thì không thể loại bỏ khả năng trên địa bàn Dũng Cảm Quyết vào các thế kỷ XIV,
XV vẫn còn lác đác một số người Chămpa ở lại sống xen cư với người Việt, trong
đó có một số là thợ lò gốm nắm vững kỹ thuật chế tác gốm sành. Mặt khác, không
có một tài liệu nào chứng minh người di dân Đại Việt từ Nghệ An vào Dũng Cảm
Quyết đã mang theo kỹ thuật làm gốm của miền quê cha đất tổ. Gia phả họ Hoàng
chỉ ghi chép công đức ngài thủy tổ đã tìm kiếm chỗ lấy vật liệu mở lò gốm. Gia
phả họ Phan chép một cách chung chung rằng thời các tiên tổ tới Cồn Dương theo
ngài khai canh lập ấp bày làm nghề gốm lưu truyền cho con cháu làm ăn. Gia phả
các họ Nguyễn Duy, Lê Ngọc chép mơ hồ rằng tiên tổ vào canh khẩn xứ Cồn Dương,
theo nghiệp “Hà Tân” làm đồ gốm. Nghiệp hà tân là sinh hoạt nghề nghiệp trên bờ
sông, ở ven sông, không nhất thiết hàm ý thông thạo kỹ thuật làm nghề gốm. Như
vậy, ngài khai canh họ Hoàng và các vị tôn thần của 3 họ chánh làm nghề gốm
Phan, Nguyễn Duy và Lê Ngọc nói trong văn tế bổn nghệ ở làng không phải là các
vị đã truyền dạy nghề gốm cho dân làng. Nếu họ là những người đã truyền dạy
nghề gốm cho dân làng thì tại sao tên họ các vị đó đã không được ghi trong thần
tích và khắc trên bia đá đáng lẽ đã được dựng ở miếu Đào Nghệ? Vậy các vị đó
chính xác chỉ là những người đã có công xướng xuất đầu tư, tổ chức, xây dựng và
điều hành các cơ sở làm gốm buổi ban đầu. Họ đã thuê mướn các thợ lò gốm cũ và
các chuyên viên kỹ thuật chế tác gốm sành người Chămpa còn ở lại để xây dựng và
vận hành các lò gốm mới. Chính những thổ dân Chămpa này mà dân ta quen gọi là
người Lồi mới là những người dạy nghề gốm cho dân làng.
Dân làng Cảm Quyết đã gọi người dạy nghề gốm cho
dân làng là ông Lồi vì ngài là người Chămpa. Về sau, khi hệ thống làng xã đã
định hình, sinh hoạt dân chúng đã ổn định, dân làng Cảm Quyết kiến lập quần thể
miếu đôi để ghi nhớ công đức của hai người có ân sâu nghĩa nặng với dân làng,
là ngài Khai Canh Hoàng Minh Hùng, và người dạy nghề gốm (Đào Nghệ) là ông
Lồi.Vì không biết tên họ ông Lồi, mà nếu có còn nhớ thì cũng không biết phải
viết ra làm sao bằng Hán tự, nên tại miếu Đào Nghệ không có ghi khắc tên họ ông
Lồi. Mà cũng có thể là vì về sau, do việc học chữ Nho hưng thịnh mà dân làng
Cảm Quyết rập khuôn thói tục của người Tàu quen gọi dân dị chủng là dân man,
nên vì tinh thần tự tôn dân tộc mà miếu Đào Nghệ tuy được hương chức sở tại
kiến lập để nhớ ơn người dạy nghề nhưng
lại lược qua nguồn gốc Chămpa của ngài, không ghi lại tên họ ngài trong thần
tích và khắc vào bia đá. Rút cục chỉ còn lại danh xưng ông Lồi trong cửa miệng
thế gian. Qua quá trình biến âm của Việt ngữ, Lồi biến thành Nồi, ông Lồi trở
thành ông Nồi. Dân làng lập miếu Đào Nghệ để thờ người dạy nghề là ông Nồi, và
kiêng húy để tỏ lòng biết ơn nên gọi cái nồi là cái nghẹ. Trải qua một thời
gian dài năm sáu thế kỷ, chuyện truyền miệng dần dà sai lạc với nguyên thủy,
khai canh lẫn lộn với đào nghệ, do đó mà sinh ra sự kiện tên gọi Ông Nồi (người
Lồi) để chỉ người dạy nghề lại biến thành tên tục ngài Khai Canh người Việt. Mà
ngẫm nghĩ cho cùng thì sự nhầm lẫn này chưa hẳn là hoàn toàn ngẫu nhiên. Việc
đem râu ông nọ cắm vào cằm bà kia, tức là câu chuyện Nồi là tên gọi người dạy
nghề lại được truyền miệng là tên ngài Khai Canh, có thể là sản phẩm của những
người nặng đầu óc kỳ thị sắc tộc muốn xóa sạch mọi dấu tích của quá khứ liên
quan tới những cư dân bản địa đã có ân nghĩa với dân làng, và được dân làng
sùng bái, y hệt sự kiện hiện nay đang manh nha xu hướng của một số người có hậu
ý muốn đổi tên miếu Đào Nghệ thành miếu Bổn Nghệ để dứt khoát không còn dây dưa
với người tuy đã có công dạy nghề cho dân làng nhưng lại không cùng gốc gác,
không cùng nòi giống.
Ngay từ lúc làng cổ Phước Tích mới được phát hiện,
các kiến trúc sư và các nhà nghiên cứu văn hóa đã có ý định đề nghị giới chức
thẩm quyền xếp hạng làng Phước Tích là làng di sản văn hóa. Dự án này đến nay đã
có cơ trở thành hiện thực qua quyết định bằng văn bản (Công văn số 1180/UBND-VX
ngày 12 tháng 4 năm 2006) của tỉnh Thừa Thiên Huế, giao trách nhiệm cho Sở Văn
hoá Thông tin chủ trì phối hợp cùng với huyện Phong Điền và các đơn vị liên
quan tổ chức việc nghiên cứu khảo sát các di tích tiêu biểu ở làng cổ Phước
Tích để lập hồ sơ đề nghị xếp hạng cấp quốc gia. Đó là một việc làm có ý nghĩa,
có giá trị thực tiễn, và là động lực thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, bảo tồn,
phục hồi, khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể ở làng cổ Phước
Tích. Các di tích tiêu biểu ở nơi đây bao gồm nhiều hạng mục đa dạng, chứa đựng
những giá trị văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Đại Việt, nhưng đồng thời cũng biểu
hiện sự kế thừa, sự hội nhập, sự giao lưu của hai dòng văn hóa Đông Sơn và Sa
Huỳnh, cũng như ảnh hưởng của hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ tác động lên đời
sống của hai quốc gia Đại Việt và Chiêm Thành, hoặc lùi xa hơn nữa, của hai tập
thể cư dân Giao Châu và Lâm Ấp. Ý thức được điều này thì những người có trách
nhiệm nghiên cứu khảo sát sẽ nhận ra vai trò quan trọng cũng như nhiệm vụ nặng
nề của mình. Điều kiện tiên quyết để chu toàn vẻ vang và trọn vẹn trách nhiệm này
là gột bỏ thiên kiến rập khuôn theo thói tục người Tàu xem những người sắc tộc
anh em là dân man mọi thấp kém, nên phạm sai lầm do mặc cảm tự tôn, không chịu
thừa nhận những đóng góp của họ vào quá trình tiến hóa chung của cộng đồng dân
tộc. Thứ đến là biết thay đổi góc nhìn và thế đứng để nhận định rằng lịch sử vùng
Huế trong lòng lịch sử Đại Việt không phải chỉ bắt đầu từ năm 1306 mà lùi lại rất
xa vào thời đại tiền sử. Thật thế, trống đồng Đông Sơn đã được phát hiện ở xã
Phong Mỹ, huyện Phong Điền, kế bên Phước Tích. Có được như vậy thì việc nghiên
cứu khảo sát để lượng định giá trị văn hóa các di chỉ tiêu biểu ở Phước Tích,
nhất là các di chỉ có niên đại trước năm 1306 như miếu Quảng Tế, di tích Yoni Cồn
Trèn, nền móng và chân trụ cổ tháp, và những mảnh gốm cổ ngẫu nhiên đào được
trong khu vực Miếu Vua mấy tháng gần đây, mới mang lại những kết quả tốt đẹp,
phản ánh đúng mức thực tế lịch sử, soi sáng nhiều khía cạnh mới mẻ trong sứ mệnh
đi tìm Hương xưa nơi Làng cổ.
Các báo điện tử VNExpress và Tuổi Trẻ Online ngày
20 tháng 3 năm 2009 đưa tin Bộ Văn hóa Thông tin và Du lịch đã có quyết định đưa
làng cổ Phước Tích vào bảng xếp hạng di tích quốc gia. Đây không những chỉ là điều
đáng mừng cho dân làng Phước Tích mà còn là niềm khích lệ cho các kiến trúc sư
và các nhà nghiên cứu văn hóa có lòng với đất nước. Sự kiện này không nên quan
niệm một cách đơn giản như là một hành động tôn vinh di tích của tiền nhân và
biểu dương thành quả người đương đại, cũng như không nên chuyên chú nhắm vào mục
đích thiển cận khai thác du lịch để gom góp lợi nhuận kinh tế tầm thường. Các
di tích đa dạng ở làng cổ Phước Tích chứa đựng những giá trị biểu hiện sự kế thừa,
sự hội nhập, sự giao lưu của hai dòng văn hóa Đông Sơn và Sa Huỳnh, liên quan đến
quá trình tiến hóa của hai tập thể cư dân Giao Châu và Lâm Ấp để tiến tới sự thống
nhất An Nam với Việt Thường. Người Việt Nam chúng ta thường xuyên phải đối đầu
với âm mưu của người ngoài luôn luôn toan tính xé nát quốc gia Việt Nam làm nhiều
mảnh, chia rẻ quốc dân Việt Nam thành nhiều nhóm, bằng nhiều hình thức tinh tế
và đa dạng, nhằm mục đích khoét sâu các dị biệt nam bắc, các bất đồng địa phương,
các mâu thuẫn sắc tộc. Các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể ở làng cổ Phước
Tích cần được triển khai và vận dụng vào việc phát huy tinh thần quốc gia, vun
quén tình tự dân tộc, củng cố sự đoàn kết quốc dân, để vô hiệu hóa âm mưu thâm độc
của người ngoài. Thật vậy, dân làng Phước Tích ngày trước đã xây miếu Đào Nghệ
thờ ông Lồi (Nồi) gốc sắc tộc Chăm, song lập với miếu Khai Canh thờ Tướng quân
Hoàng Minh Hùng. Nhóm dân vạn chài gốc Tiền Việt hàng thế kỷ nay vẫn an cư lạc
nghiệp trên bãi cát ven sông làng Phước Tích. Triều đình nhà Nguyễn đã lập miếu
thờ các vua chúa Chiêm Thành trong khu vực Thành Lồi ở ngoại ô thành phố Huế.
Không phải vô tình mà nhà chức trách Pháp thời Thuộc địa đã mượn cớ mở đường lộ
để triệt hạ miếu thờ này. Không phải ngẫu nhiên mà phong trào FULRO phát sinh
sau khi Công giáo được truyền giảng ở Tây Nguyên, cũng như không phải vô cớ mà
tổ chức Cộng Hòa ĐÊ GA được hình thành mang màu sắc tôn giáo Tin Lành. Ngoài các
mưu toan nhẹ nhàng, tinh tế, đượm tính chất tâm linh, muợn lốt áo tôn giáo, gần
đây lại phát sinh các mưu toan lộ liễu gây chia rẻ dân tộc, phân cát lãnh thổ,
mang màu sắc đấu tranh chính trị, như tổ chức Người Thượng Chămpa ở Kampuchia,
hay Chính phủ Chămpa lưu vong trước ở Hải Nam và nay đã dời qua Thụy Điển. Dư
luận hiện nay lại xôn xao về Dự án khai thác Bâu xít ở Lâm Đồng và Đák Nông đi
kèm với dự án kiến tạo đường sắt Tây Nguyên và cảng biển Bình Thuận, mà hầu hết
những người Việt Nam quan tâm đến tiền đồ đất nước đều lo ngại là một mưu toan
dài hạn vô cùng thâm hiểm mang hình thức kinh tế để che đậy mục đích tối hậu
chia rẻ dân tộc và xé nát lãnh thổ Việt Nam. Dù sao thì những toan tính của người
ngoài nhằm phá hoại khối đoàn kết quốc dân Việt Nam cũng đi ngược thực tế lịch
sử mà bằng chứng cụ thể là những di chỉ đa dạng ở làng cổ Phước Tích. Với góc
nhìn và thế đứng được điều chỉnh đúng mức hơn, việc khảo sát và lượng định giá
trị văn hóa các di chỉ này, cùng với việc nghiên cứu khách quan quá trình hình
thành công nghệ gốm sành Phước Tích, sẽ minh chứng sự kiện đi tìm Hương Xưa nơi
Làng Cổ là tìm về sự kết hợp hòa đồng của hai sắc tộc anh em trong tinh thần
Chiêm Việt một nhà.
Tiết
Xuân phân, năm 2009
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Tản Mạn Về
“Sống Còn Với Dân Tộc”
“Sống Còn Với Dân Tộc” là nhan đề cuốn hồi
ký chính trị của cố Chủ Tịch Đại Việt Cách Mạng Đảng Hà Thúc Ký.
Kỹ sư Hà Thúc Ký sinh
trưởng ở Huế, xuất thân là quan chức ngành Thủy Lâm thời Pháp thuộc. Sau khi
Việt Minh nắm chính quyền, quan Tham Thủy Lâm Hà Thúc Ký gia nhập Giải Phóng
Quân (Vệ Quốc Đoàn) chiến đấu ở Mặt Trận Nam Lào. Vì có mâu thuẫn cá nhân với
viên chính ủy mà bị quy chụp là thành phần phản động Việt Nam Quốc Dân Đảng, Hà
Thúc Ký rời quân ngũ, ra Hà Nội sống trở lại đời sinh viên. Tại đây, chàng trai
25 tuổi Hà Thúc Ký gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng, và được giao công tác làm
Trưởng ban Báo chí Nội Thành. Cuối năm 1946, Hà Thúc Ký được lệnh trở về Huế làm
Phụ tá cho Bác sĩ Bửu Hiệp là Xứ Ủy Xứ Bộ Trung Việt của Đại Việt Quốc Dân
Đảng. Sau khi Bửu Hiệp bị ám sát, Hà Thúc Ký thay thế làm Xứ Ủy, và đã cùng một
số cộng sự viên xây dựng cơ sở vững mạnh cho đảng Đại Việt tại miền Trung, đặc
biệt là ở hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Sau biến cố Ba Lòng, đảng Đại Việt
bị chính quyền đương thời đàn áp, bản thân Hà Thúc Ký bị kết án và bị bắt giam.
Qua thời đệ nhị Cộng Hòa, Hà Thúc Ký tập họp đồng chí tản mác khắp nơi để tái
lập Đại Việt Quốc Dân Đảng. Tổ chức mới tiếp nối truyền thống Trương Tử Anh,
xiển dương chủ nghĩa dân tộc sinh tồn, chủ trương cách mạng, nên mang danh xưng
là Đại Việt Cách Mạng Đảng. Lãnh tụ Hà Thúc Ký đưa Đại Việt Cách Mạng Đảng ra
hoạt động công khai, bố trí đảng viên tham gia chính quyền trong các ngành lập
pháp, hành pháp, quân đội, công an, cảnh sát, chiêu hồi, xây dựng nông thôn.
Sau ngày Sắc Luật Tu Chính Quy Chế Chính Đảng được ban hành vào năm 1972, Đại
Việt Cách Mạng Đảng trở lại hoạt động bí mật. Từ năm 1975, tại hải ngoại, Chủ Tịch
Hà Thúc Ký tiếp tục được tín nhiệm ở vị thế lãnh đạo Đảng cho đến năm 2005. Hà
Thúc Ký mất năm 2008 tại Mỹ, hưởng thọ 88 tuổi.
Cuốn hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc” của Hà Thúc Ký khổ
trung bình, dài 371 trang, bìa cứng, giấy trắng, ấn loát rõ ràng, trình bày
trang nhã, do Phương Nghi ấn hành năm 2009. Ngoài phần đầu ngắn gọn dành cho
các hồi ức về thời niên thiếu ở Huế và cuộc đời công chức ở Cà Mâu, hồi ký của
Hà Thúc Ký chủ yếu nói về các hoạt động của tác giả từ năm 1945 đến năm 1975,
kể từ khi gia nhập Giải Phóng Quân chiến đấu ở Mặt Trận Nam Lào cho đến ngày
lên tàu Trường Xuân di tản ra nước ngoài, sống đời lưu vong của người tỵ nạn
cộng sản. Hồi ký của Hà Thúc Ký hầu như không nhắc nhở gì đến các hoạt động từ
năm 1975 trở đi. Có lẽ tác giả nghĩ rằng trong cuộc đời hoạt động chính trị của
mình có những công việc mà tới giờ phút lâm chung tác giả vẫn chưa tiện nói ra
hết các tình tiết, ngọn ngành, nhất là những công việc đã làm trong thời gian
sống lưu vong trên đồng đất nước người, bởi lẽ thời cơ chưa thuận lợi, vận nước
chưa hanh thông, một số lớn những người có liên hệ đến các công việc đó đang
còn ở trong vòng kiềm tỏa của chính quyền chuyên chính trong nước.
Người viết những dòng tản
mạn này được nhà xuất bản Phương Nghi ưu ái gửi cho một bản với lời đề tặng
thân tình kèm chữ ký ghi chú “Ký thay anh Cả”. Phương Nghi không ai khác là phu
nhân của tác giả cuốn hồi ký. Chính vì cảm kích ân tình tri ngộ của anh chị Hà
Thúc Ký mà người viết nảy sinh ý định ghi lại những dòng tản mạn này về cuốn
hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc”, trước là để nói lên những cảm nghĩ chân thành
của mình về người lãnh tụ nay đã khuất núi, sau nữa là để soi sáng một số vấn
đề tuy có nêu ra trong cuốn hồi ký nhưng tác giả không tiện kể hết tình tiết,
ngọn ngành, bởi lẽ tác giả nghĩ rằng cái tôi là cái đáng ghét, tác giả không
muốn mang tiếng khoe khoang để tự đề cao hay biện minh để đổ trách nhiệm cho
người khác.
Tác giả cuốn hồi ký “Sống
Còn Với Dân Tộc” thuộc dòng dõi quan lại, bên nội bên ngoại đều là đại thần
lương đống triều đình. Bản thân tác giả cũng là người thành đạt trên cả hai mặt
khoa hoạn. Thế nhưng tác giả Hà Thúc Ký là con người rất mực khiêm cung. Nếp
sống bình nhựt của tác giả rất ngăn nắp và giản dị. Tác giả không uống trà,
không uống rượu, không hút thuốc lá, không ghiền cà phê. Trong bữa tiệc tại tư
gia Thiếu tá Thao Ô chỉ huy trưởng lực lượng Lào Độc Lập Ê Cà Lạt ở mặt trận
quốc lộ 9, tác giả Hà Thúc Ký, dù đã nín thở cố nuốt trôi món ruột trâu chấm
mật để giữ phép lịch sự tôn trọng chủ nhà, vẫn cương quyết từ chối uống rượu
trong lúc các quan khách khác, phần lớn là các tài xẻng địa phương, thi nhau uống rượu như hũ chìm. Tác giả Hà
Thúc Ký không ham ăn ngon mặc đẹp, không quen nếp sống xa hoa, không mấy khi
lui tới các nơi trà đình tửu quán, và không bao giờ đi ngang về tắt, lân la sớm
mận tối đào. Dù ở cương vị Đảng trưởng hay ở cương vị Bộ trưởng, những khi đi
công tác bên ngoài mà có sinh hoạt liên hoan với anh em đồng chí hay với thuộc
hạ dưới quyền, tác giả Hà Thúc Ký luôn luôn nêu cao tinh thần đồng cam cộng khổ
với mọi người. Tác giả Hà Thúc Ký từ chối không tiếp nhận những biệt đãi dành
riêng cho lãnh đạo. Người viết còn nhớ một lần tháp tùng anh Cả đi công tác
đảng vụ ở Vũng Tàu, ngoài các buổi sinh hoạt tập thể với anh em đảng bộ địa
phương, hai người chúng tôi lui về trú ngụ trong ngôi biệt thự của kỹ sư Nguyễn
Thôn là bạn đồng nghiệp Thủy Lâm của tác giả, để sáng sớm thảnh thơi tắm biển
và điểm tâm bằng một chiếc bánh ú với nước lã đun sôi để nguội, bỏ ngoài tai
lời nài nỉ thiết tha của các đồng chí có lòng mến mộ mời chúng tôi đi thưởng
thức đặc sản của Vũng Tàu. Một lần khác đưa theo người viết ra Huế sinh hoạt
đảng vào mùa hè nắng nóng, Tổng Bí Thư Hà Thúc Ký đã nhờ đồng chí Tôn Thất Tế
là Bí thư Đảng bộ Liên Tỉnh Bắc Hải Vân tổ chức cho chúng tôi ngủ đò trên sông
Hương thay vì ngủ qua đêm ở khách sạn. Người viết cùng với mấy anh em lãnh đạo
đảng bộ địa phương đã trải qua những giờ khắc tuyệt vời bên cạnh vị lãnh tụ ít
nói ít cười, rất mực nhân từ và độ lượng được dấu kín trong cái võ bọc nghiêm
nghị và khắc khổ. Những giờ khắc đó là những giờ khắc trong sáng và lành mạnh
đúng nghĩa, không trà không rượu, không có thương nữ hát khúc Hậu Đình Hoa, duy
chỉ có trăng thanh gió mát với sóng vỗ mạn thuyền.
Tác giả hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc” quen lề lối
làm việc nghiêm túc, nói năng cẩn thận và khúc chiết, đôi khi có phần bộc trực,
không quanh co khuất tất, không dối trá phỉnh nịnh để làm đẹp lòng người đối
thoại. Bởi vậy, khi giải bày ý tưởng lên giấy trắng mực đen, tác giả hồi ký
“Sống Còn Với Dân Tộc” có lối hành văn rõ ràng với ngữ nghĩa minh bạch, bút
pháp vững chải, lời lẽ cô đọng và ý tứ súc tích. Điều này được thể hiện rõ nét
qua độ dày vừa phải của cuốn hồi ký. Thật vậy, khối lượng dữ kiện được đề cập
đến trong tác phẩm rất phong phú và đa dạng. Với lề lối kể lể dông dài thường
bắt gặp trong phần lớn các cuốn hồi ký đã xuất bản trong mấy thập niên vừa qua,
hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc” có thể dày đến trên dưới một nghìn trang thay vì
thu gọn trong ba bốn trăm trang. Nói về quê quán của mình, tác giả chỉ viết sơ
lược về “cuộc đất Dinh”, về cột lim
đình làng, về đại hồng chung của chùa làng. Tác giả không lan man đề cập đến
thân thế và sự nghiệp Tư Đồ Võ Văn Dũng, cũng như không đả động đến câu tục ngữ
“thình thình như cột đình La Chữ”quen
thuộc ở cửa miệng dân gian. Nói về truyền thống hiếu học của La Chữ, tác giả
chỉ mô tả địa cuộc “nghiên bút” theo
quan điểm phong thủy của dân làng. Tác giả tuyệt nhiên không mảy may tiết lộ về
gia thế của mình. Chỉ tính riêng khoa thi Hương năm Bính Ngọ, niên hiệu Thành
Thái thứ 18 (1906), trường Thừa Thiên (dành cho sĩ tử từ Quảng Bình đến Quảng
Nam) có 25 người đậu Cử nhân thì La Chữ đã chiếm hết 5 người. Đó là các ông Lê
Hoàn, Hà Xuân Hải, Hà Thúc Tuân, Hà Thúc Du, và Hà Thúc Huyên. Ba ông Hà Thúc
này là ba anh em ruột, và ông Hà Thúc
Huyên là thân phụ tác giả. Cả ba ông Hà Thúc này về sau đều là đại thần lương đống triều đình, góp
phần tạo thành câu nói cửa miệng của người đương thời ở đất Thần Kinh “nhất Thân, nhì Đặng, tam Hà”.
Với cương vị người lãnh đạo một chính đảng, Chủ
Tịch Hà Thúc Ký thường xuyên được anh em đồng chí khắp nơi thông báo các sự
kiện quan trọng xảy ra bên trong Việt Nam. Chắc chắn tác giả hồi ký “Sống Còn
Với Dân Tộc” đã nghe nói đến các khai quật khảo cổ tại Cồn Ràng và Cồn Dài
trong địa phận xã Hương Chữ. Những phát hiện tại hai di chỉ này rất quan trọng.
Các hiện vật mang dấu ấn văn hóa Sa Huỳnh tại Cồn Ràng, nhất là hàng trăm mộ
chum và hiện vật tùy táng phân bố dày đặc tại Cồn Dài, đã dứt khoát khẳng định
sự kiện văn hóa Sa Huỳnh không chỉ lan tỏa trong phạm vi Nam Hải Vân mà còn
tiến xa hơn lên phía bắc. Gần đây, nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan ở Huế đã sưu tập
rất nhiều cổ vật được trục vớt từ đáy sông Hương. Ngoài những đồng tiền đời
Tùy, đời Đường, điều đáng quan tâm trong bộ sưu tập là sự đa dạng và phong phú
của những mảnh gốm mang dấu ấn văn hóa Sa Huỳnh. Các hiện vật thu lượm được ở
Hương Chữ thuộc huyện Hương Trà cùng với việc phát hiện trống đồng Đông Sơn ở
Phong Mỹ thuộc huyện Phong Điền ở kế bên, đã minh chứng một thực tế trong quá khứ
xa xưa rằng vùng Huế là địa bàn giao thoa, hay hơn thế nữa, là trung tâm hội tụ
của hai nền văn hóa rực rỡ Đông Sơn và Sa Huỳnh. Việc khai quật khảo cổ đã xảy
ra trên chính làng quê La Chữ của mình, nhưng tác giả hồi ký “Sống Còn Với Dân
Tộc” không đưa vào trong tác phẩm. Tác giả nghĩ rằng chuyện này xảy ra sau năm
1975, tác giả không thể có mặt ở trong nước, không thể có điều kiện tự thân mắt
thấy tai nghe để hiểu rõ tường tận tình tiết ngọn ngành, nên lược bỏ không bàn
tới. Ngược lại, tác giả đã để dành nhiều trang viết về khuôn phép học đường, tổ
chức hành chánh, lễ tế Nam Giao, cùng với một vài nét văn hóa đặc thù thời Pháp
thuộc, là những điều tác giả am tường, thông thạo, vì lẽ tác giả ít nhiều là
người trong cuộc, kiến thức thu góp được chủ yếu rút tỉa từ kinh nghiệm bản
thân. Tác giả mong muốn truyền đạt những thông tin ấy cho lớp người trẻ đi sau.
Nói tóm lại, những gì nên viết ra, những gì nên lược bỏ, tác giả đều đắn đo suy
tính kỹ càng. Đó là dụng tâm của tác giả hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc”, và là
biểu hiện bản chất cẩn trọng trong lời nói và việc làm của con người Hà Thúc
Ký.
Bản chất cẩn trọng đó bàng bạc trong văn phong của
tác giả. Độc giả thường xuyên của Tạp chí Cách Mạng những năm trước đây quen
thuộc với các bút hiệu Nam Phong, Bắc Vũ đều có chung nhận xét rằng trong các
bài viết của tác giả Hà Thúc Ký, không những câu văn mạch lạc, ý tứ khúc chiết,
mà việc dùng từ và đánh dấu cũng không hề vượt ra ngoài quy phạm của tiếng Việt
phổ thông. Bởi vậy, một vài khuyết điểm nhỏ nhặt về hình thức bắt gặp rải rác
trong hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc” không phải là sơ sót của tác giả mà chủ yếu
là do khâu ấn loát. Vì lý do bệnh tiểu đường trở nặng, tác giả không có điều
kiện rà soát lại bản layout trước khi đem in. Những lỗi chính tả như Hội Quảng
Trị (Hội Quảng Tri), cung Càng Thành (cung Càn Thành), xắp xếp (sắp xếp), giậu
đổ bình leo (giậu đổ bìm leo) v. v. rõ ràng là lỗi lầm từ người đánh máy do
thói quen phát âm sai hoặc không thông suốt ngữ nghĩa. Quảng Tri là biết rộng,
là tên một hội văn hóa, không liên quan gì đến tỉnh Quảng Trị. Càn là Trời, là
Vua, cung Càn Thành là nơi vua ở, chứ Càng Thành thì không có nghĩa gì cả.
Xuyên suốt hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc”, tác giả viết toàn chuyện thật, người
thật, không rườm rà cà kê nghê ngỗng. Hãy lấy thí dụ ở Chương 5, đoạn Chung Cục
Của Một Triều Đại. Nói về liên hệ gia đình với nhà Nguyễn, tác giả chỉ viết vắn
tắt bác và cha đều làm quan nhà Nguyễn,
mẹ và vợ đều là người hoàng tộc. Tác giả đâu có kể lể dài dòng các bác
người thì Hiệp Tá Đại Học sĩ, người thì Tuần Vũ, còn thân phụ thì Tham Tri bộ
Hình, rồi chuyển qua Tham Tri bộ Lại. Tác giả cũng không đi quá xa đề tài, lan
man nói mẹ là người hệ 9, hậu duệ của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, vợ là người
hệ 3, hệ tổ là Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên. Vậy thì một vài khuyết điểm như
vừa nêu trên đã phát xuất từ khâu ấn loát, xét ra lại chẳng quan trọng gì, độc
giả chắc chắn cũng rộng tình thông cảm.
Sau khi Hiến pháp 1-4-1967 được ban hành, các tổ
chức chính trị ở miền Nam Việt Nam náo nức chuẩn bị người ra tranh cử vào các
cơ quan công quyền. Đại Việt Cách Mạng Đảng đưa Liên Danh Bông Lúa Hà Thúc Ký -
Nguyễn Văn Định ra tranh cử Tổng Thống - Phó Tổng Thống, và 4 Liên Danh Bông
Lúa, Bó Lúa, Cấy Lúa, Gặt Lúa ra tranh cử Thượng Viện. Mỗi liên danh tranh cử
Thượng Viện gồm 10 ứng viên chính thức và 1 ứng viên dự khuyết. Đưa ra một loạt
4 liên danh gồm 44 người để tranh cử 60 ghế Nghị sĩ, Tổng Bí Thư Hà Thúc Ký hy
vọng đắc cử được 1 liên danh. Vì vậy, tinh binh mãnh tướng của Đại Việt Cách
Mạng Đảng đều dồn hết cho Liên Danh Bông Lúa là liên danh tranh cử Thượng Viện
được mang cùng dấu hiệu đảng huy với liên danh tranh cử Tổng Thống – Phó Tổng
Thống. Người viết được xếp vào Liên Danh Cấy Lúa. Biết được dụng tâm của người
lãnh đạo Đảng, một vài anh em có hỏi sao không sắp xếp để người viết vào Liên
Danh Bông Lúa thì được anh Cả cho biết là đã có chủ trương để người viết đảm
trách nhiệm vụ khác. Số là Tổng Bí Thư Hà Thúc Ký nhận xét rằng người viết có
khả năng tổ chức và điều hành hơn là công tác vận động hành lang nên chuẩn bị
đưa người viết tham gia ngành hành pháp chứ không muốn người viết đắc cử vào
nghị trường. Trước đây không lâu đã có lần Đại Việt Cách Mạng Đảng giới thiệu
người viết làm Tỉnh Trưởng Quảng Trị thay thế Đại Tá Nguyễn Ấm xin từ chức. Nay
gặp lúc giới chính trị Sài Gòn phản đối việc cả Tướng Thiệu lẫn Tướng Kỳ đứng
chung một liên danh mà cuộc bầu cử lại do chính quyền đương nhiệm tổ chức nên
đòi hỏi phải có một chính phủ chuyển tiếp để việc bầu cử được vô tư và công
bằng, Đại Việt Cách Mạng Đảng một mặt vẫn ráo riết chuẩn bị việc tranh cử, mặt
khác cử Bác sĩ Nguyễn Thạch và Kỹ sư Nguyễn Thôn cùng với người viết tham gia
chính phủ chuyển tiếp. Gần đến ngày nộp hồ sơ cho ủy ban bầu cử, sau khi duyệt
xét lần cuối các danh sách ứng viên, Tổng Bí Thư Hà Thúc Ký sợ rằng Liên Danh
Cấy Lúa có thể đắc cử nên đã rút tên 2 ứng viên sáng giá Nguyễn Đình Hoan, Giáo
sư Viện Đại Học Huế và Đoàn Ý, Luật sư Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn, ra khỏi Liên
Danh Cấy Lúa để tăng cường cho các liên danh khác. Có lẽ đoán được ý nghĩ của
Tổng Bí Thư Hà Thúc Ký không mong muốn cho Liên Danh Cấy Lúa đắc cử nên vào
phút chót Đại Tá Phạm Đỗ Thành, Giám Đốc Nha Quân sản Bộ Quốc Phòng, đã rút tên
ra khỏi Liên Danh Cấy Lúa khiến người viết phải vất vả ngược xuôi kiếm người
điền khuyết để kịp hoàn tất hồ sơ đúng hạn kỳ.
Đầu năm 1969, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ủy nhiệm
Phụ tá Nguyễn Cao Thăng thương nghị với các tổ chức chính trị trong nước để
thành lập Mặt Trận Dân Chủ Xã Hội. Kết quả có 6 đoàn thể thỏa hiệp tham gia Mặt
Trận. Đây là một cuộc hôn nhân vì lý trí chứ không phải là một sự gắn bó tình
nghĩa để phụng sự lý tưởng chung. Tổng Thống Thiệu lợi dụng Mặt Trận để tuyên
truyền rằng chính quyền có hậu thuẫn quần chúng. Các đoàn thể trong Mặt Trận
lợi dụng danh nghĩa hợp tác để sử dụng phương tiện chính quyền trong mục đích
bành trướng cơ sở và phát triển thế lực, nhất là để tham gia các cương vị công
cử cấp trung ương. Kịp đến khi chính phủ Trần Thiện Khiêm thành lập vào đầu
tháng 9 năm 1969 thì chỉ có 2 đảng Nhân Xã và Đại Việt Cách Mạng được mời tham
gia. Các đoàn thể không được mời lặng lẽ quay sang phía đối lập. Mặt Trận âm
thầm tan rã. Để công chúng không chú ý đến sự kiện này, nhật báo Chính Luận,
trong bài nhận định về tân Nội các, đã viết rằng 2 ông Hồ Văn Châm và Ngô Khắc
Tỉnh tham gia chính phủ với tư cách nhân sĩ độc lập, cũng như bản tin Việt Tấn
Xã đã đăng danh sách các thành viên Nội các mà không hề đả động đến xuất xứ
đảng phái của người viết và của Dược sĩ Ngô Khắc Tỉnh. Ngược lại, sau màn độc
diễn năm 1971 của liên danh Nguyễn Văn Thiệu - Trần Văn Hương, Đại Việt Cách
Mạng Đảng chuyển sang thế đối lập với chính quyền, rồi tiếp đến, Sắc Luật Tu
Chính Quy Chế Chính Đảng được ban hành năm 1972 giải tán các chính đảng, Đại
Việt Cách Mạng Đảng lui về hoạt động bí mật, thì trong dịp công bố Nội các cải
tổ tháng 2 năm 1974, Việt Tấn Xã lại loan tin người viết tham gia Nội các với
tư cách là Tổng Ủy viên Tổ chức Ban Chấp Hành Trung Ương Đại Việt Cách Mạng
Đảng. Việc người viết đã ở lại trong Nội các qua mấy lần cải tổ trước đây là
chuyện bàn tính riêng giữa người viết với Chủ Tịch Hà Thúc Ký, không mảy may
gây sự chú ý của một ai. Nhưng lối loan tin lần này của Việt Tấn Xã đã gây nên
dư luận sôi nổi trong giới chính trị đối lập với chính quyền, và đặt Chủ Tịch
Đại Việt Cách Mạng Đảng vào vị thế khó ăn khó nói. Đương nhiên Việt Tấn Xã
không đưa tin như thế nếu không có chỉ thị từ cấp cao hơn. Dù sao thì chính
quyền một phần nào cũng đạt được mục đích gây phân hóa trong hàng ngũ các tổ
chức đối lập.
Để làm êm dịu dư luận, nhất là để hóa giải sự nghi
kỵ Đại Việt Cách Mạng Đảng đi đêm với chính quyền đương nhiệm, Chủ Tịch Hà Thúc
Ký cho phổ biến tại hành lang Thượng Viện tờ xác minh người viết không ở trong
Đại Việt Cách Mạng Đảng kể từ 31-12-1972. Văn kiện xác minh này được soạn thảo
rất khéo, chỉ nêu lên sự việc mà không nói lý do cũng như không kèm theo lời
giải thích, để người đọc muốn hiểu sao thì hiểu. Rõ ràng là Sắc Luật Tu Chính
Quy Chế Chính Đảng ban hành vào giữa năm 1972 sửa đổi Luật 19-6-1969, với những
điều lệ ràng buộc hết sức khắt khe, đã gián tiếp giải tán tất cả các chính đảng
đương thời kể từ ngày 31-12-1972. Như vậy, đứng về mặt hợp pháp để được hoạt
động công khai, đảng đã không tồn tại thì đương nhiên đảng viên không còn ở
trong đảng. Dù sao thì việc loan tin người viết không ở trong Đại Việt Cách
Mạng Đảng kể từ 31-12-1972 cũng giải hóa được sự nghi kỵ của các tổ chức đối
lập, gỡ cho Chủ Tịch Hà Thúc Ký thoát ra khỏi cái lúng túng nhất thời và đưa
Đại Việt Cách Mạng Đảng trở về vị trí nguyên thủy trong hàng ngũ Lực lượng thứ
ba. Nhưng dư luận anh em trong nội bộ Đại Việt Cách Mạng Đảng thì lại khác,
nhất là sau ngày người viết chuyển sang bộ Cựu Chiến Binh lại kiêm nhiệm thêm
bộ Dân Vận Chiêu Hồi. Một vài nhóm anh em ở miền Trung đòi hỏi thi hành kỷ luật
sắt máu, khiến Chủ Tịch Hà Thúc Ký phải lên tiếng ngăn cản, và Ban Bảo vệ yếu
nhân của cảnh sát Sài Gòn phải tăng cường nhân sự canh gác nhà riêng cũng như
sở làm của người viết. Chủ Tịch Hà Thúc Ký chỉ lên tiếng ngăn cản dự tính của
các phần tử quá khích, chứ không tiết lộ bất kỳ tình tiết gì, mà bản thân người
viết cũng im lặng, không biện minh, không giải thích với bất kỳ ai, ngay cả với
vợ con trong nhà. Bởi vậy, sự việc tuy có gây nên công luận sôi nổi nhất thời,
nhưng rồi cũng theo ngày tháng trôi qua, ai hiểu sao thì hiểu, không một ai
biết rõ ẩn tình, duy chỉ có người viết hết lòng cảm phục Chủ Tịch Hà Thúc Ký đã
đi một nước cờ tuyệt vời của bậc thầy cao thủ.
Liên hệ giữa tác giả “Sống Còn Với Dân Tộc” Hà
Thúc Ký và người viết chủ yếu là tương quan đảng vụ. Tuy vậy, do sự đẩy đưa của
thời thế, cộng thêm một số yếu tố riêng tư, tương quan này đã trở nên giao tình
tri ngộ. Tác giả với người viết không phải đồng trang lứa. Tuổi chúng tôi chênh
lệch nhau đúng một con giáp. Tác giả với người viết không phải là đồng nghiệp,
lại cũng không phải là bạn bè, cho dù là bạn vong niên. Tác giả với người viết
cũng không phải là bà con, mặc dù tác giả với vợ người viết là anh em con dì
con già. Thật vậy, tác giả với người viết làm việc chung với nhau đã lâu, thế
mà mãi đến giữa năm 1967, tác giả có việc cần nên đến tìm người viết tại nhà
riêng mới vỡ lẽ là em gái bà con với mình là vợ của người Tổng Ủy viên Tổ Chức
của mình. Rõ ràng là tác giả “Sống Còn Với Dân Tộc” và người viết gắn bó với
nhau hoàn toàn là do công việc chung. Điều đáng nói là sự gắn bó đó được kết
dính bởi lòng tin cậy vào khả năng và tinh thần tận tụy với công việc của nhau,
chứ không phải do cảm tình cá nhân hay do liên hệ gia đình. Gia dĩ, tác giả Hà
Thúc Ký và người viết cá tính có nhiều điểm giống nhau, bẩm sinh đều ít nói,
lại quen tính quyết đoán, không thích bàn bạc dài dòng, nên gặp lúc ý kiến
không thống nhất với nhau thì đi đến sự đồng thuận là trong phạm vi trách nhiệm
của ai thì người ấy làm. Người viết được Chủ Tịch Hà Thúc Ký ủy thác công việc
trong tinh thần tin cậy. Cho dù phải tự lo tự liệu, công việc đôi lúc kinh qua
nhiều giai đoạn khó khăn, nhưng cuối cùng kết quả đều tốt đẹp, nên tương quan
giữa chúng tôi y hệt mối tương quan công vụ giữa Hoàng Đế Napoleon Bonaparte và
Thượng Thư Talleyrand-Perigord thời Đế chế nước Pháp. Đó là điều mà người viết
gọi là giao tình tri ngộ. Một sự kiện khác cũng cần nêu lên là mối liên hệ giữa
tác giả “Sống Còn Với Dân Tộc” và Cố Nghị sĩ Trần Điền. Sự thật chỉ giản đơn
Trần Điền là anh rể của Hà Thúc Ký. Thế nhưng, bất kỳ ai ở Huế lưu tâm đến
chuyện thời thế cũng cho rằng Trần Điền là đảng viên Đại Việt, nhất là sau vụ
biến động Ba Lòng, Tỉnh trưởng Quảng Trị Trần Điền mất chức và một số lớn đảng
viên Đại Việt ở miền Trung phải ra tòa lãnh án tù. Tỉnh Trưởng Trần Điền trong
phạm vi quyền hạn của mình theo tinh thần Dụ số 10 đã bổ nhiệm Quận Trưởng
Nguyễn Ngọc Cứ và điều động các đại đội Nghĩa Dũng đoàn lên chiếm đóng Ba Lòng
hoàn toàn vì mục tiêu công vụ, không giây mơ rể má gì đến quan hệ gia đình hay
đảng phái. Trần Điền ngay dưới thời Bảo Đại đã là người của nhóm nhân sĩ miền
Trung hoạt động ủng hộ Ngô Đình Diệm, và sau này đắc cử vào Thượng Viện do đứng
tên trong một liên danh không phải là Đại Việt. Bởi vậy, dư luận bàn tán về
tinh thần gia đình trị trong lề lối sử dụng nhân sự của Đại Việt Cách Mạng Đảng
là hoàn toàn phiến diện.
Lùi xa hơn về quá khứ, việc các đảng viên Đại Việt
cao cấp Lê Thăng và Nguyễn Tôn Hoàn tham chính thời Quốc Trưởng Bảo Đại, việc
cảm tình viên Đại Việt Phan Huy Quát hết giữ chức Bộ Trưởng Giáo Dục lại giữ
chức Bộ Trưởng Quốc Phòng, cũng như việc Thủ Hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí đưa
một số quan chức cũ thời phong kiến về làm việc trong guồng máy hành chánh
thuộc quyền, đã làm nẩy sinh cụm từ “Đại Việt Quan Lại” lưu truyền trong công
luận đương thời với hậu ý không mấy thân thiện, quả tình là một sự ngộ nhận
đáng tiếc. Cũng có dư luận cho rằng đảng Đại Việt ở miền Trung thuộc hệ phái
“Đại Việt Ky Tô” dựa trên nhận xét phiến diện rằng đa số đảng viên là tín hữu
Công giáo có quan hệ mật thiết với giáo quyền địa phương. Đành rằng trong số
cán bộ nòng cốt của Đại Việt Cách Mạng Đảng ở miền Trung lúc bấy giờ có nhiều
người có tiếng tăm như Cựu Nghị sĩ Nguyễn Văn Mân, Cố Nghị sĩ Hoàng Xuân Tửu,
hoặc có thành tích hoạt động năng nổ như Cựu Dân biểu Nguyễn Lý Tưởng, Cựu Dân
biểu Nguyễn Đức Cung, những người đó đều là người Công giáo, nhưng cùng với
những đảng viên khác tại miền Trung không phải là Công giáo, họ gia nhập đảng
Đại Việt với tư cách người công dân Việt Nam yêu nước, lấy lý tưởng phụng sự quyền
lợi quốc gia làm cứu cánh, và mưu cầu phúc lợi dân tộc làm đối tượng. Việc bàn
ra tán vào hệ phái này hệ phái nọ chỉ là chuyện chẻ sợi tóc làm tư, gặp khi trà
dư tửu hậu thì tìm cách bới bèo ra bọt để mua vui và giết thời giờ. Về sau,
tình hình chính trường Việt Nam gặp nhiều biến chuyển, đảng phái chính trị cũng
phải uyển chuyển tìm cách thích nghi với thời thế, nên mới phát sinh những hiện
tượng gọi là “thống nhất với phân hóa”, “cựu với tân”, “cấp tiến với cách mạng”
v.v., nhưng tất cả đều là những nhánh sông có cùng chung một nguồn và cùng chảy
một hướng, chỉ vì gặp phải địa hình hiểm trở mà phải tạm chia nhánh, phân dòng,
để mai đây ra tới đồng bằng thì lại hội tụ hoặc cùng nhau song hành xuôi về
biển đông. Người đảng viên Đại Việt đặt yếu tố quốc gia dân tộc lên hàng đầu,
một lòng một dạ chung vai sát cánh với mọi người Việt Nam yêu nước thương nòi,
không phân biệt giai cấp, địa phương, tôn giáo, và luôn luôn biết quên mình để
phụng sự lý tưởng chung. Trước đây, Đại Việt Quốc Dân Đảng đã từng kết hợp với
Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Dân Chính Đảng để thống nhất thành Quốc Dân
Đảng Việt Nam. Lẽ nào ngày nay một vài chi lưu của con sông có chung nguồn và
chảy cùng hướng lại mãi mãi chia nhánh phân dòng?
Đó cũng là lời nhắn nhủ tâm huyết với lớp người
trẻ của tác giả “Sống Còn Với Dân Tộc”.
Tháng 11
năm 2009
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Lời Kết
Đã có
Lời Mở
Đầu để
khai trương tất nhiên phải có Lời Kết để cô đọng những điều vừa trình bày
trên mấy trăm trang sách trước đây thành một lời khuyến cáo rằng đã đến lúc
người Việt Nam chúng ta cần phải điều chỉnh lại góc nhìn và thế đứng khi đề cập
đến một số vấn đề chính trị và văn hóa Việt Nam.
Trong
thực tế, các vấn đề chính trị và văn hóa Việt Nam trong tập sách này tuy mang
tính chất đa tạp nhưng thường thường lại đan kết với nhau. Mỗi một vấn đề nhiều
khi lại bao gồm cả các mặt chính trị và văn hóa, thậm chí lan qua cả các lĩnh
vực kinh tế và xã hội. Do đó, trong phần đúc kết này, tác giả xin tóm lược quan
điểm của mình thành những ý kiến xây dựng, có khi liên quan đến từng vấn đề, mà
cũng có lúc chung cho nhiều vấn đề, và không nhất thiết phân biệt tách bạch
khía cạnh chính trị hay văn hóa.
Trước hết là vấn đề quốc gia
với cộng sản. Ngườì Việt Nam chúng ta từ trước tới nay quen đem quốc gia ra đối
kháng với cộng sản. Tàu Tưởng với Tàu Mao đánh nhau thì gọi là chiến tranh Quốc
Cộng. Việt Minh với Quốc Dân Đảng kình chống nhau thì gọi là phân tranh Quốc
Cộng. Hễ cái gì chống cộng sản thì được gộp lại thành một danh xưng chung chung
là quốc gia. Như vậy là không được chính xác. Từ quốc gia bao hàm nhiều ý niệm
cao sâu, không thể tùy tiện dùng làm đối vị với từ cộng sản. Đối vị chính xác
của từ cộng sản là cụm từ “không cộng sản”.
Mặt
khác, đối vị của quốc gia là quốc tế và địa phương. Quốc gia là nước. Lớn hơn
nước là quốc tế, nhỏ hơn nước là địa phương. Quốc tế có thể mang nhiều hình
thái. Quốc tế có thể là chính trị, là quân sự, là tôn giáo, là kinh tế, là văn
hóa, là xã hội. Một khi đã là quốc tế, thì quốc gia bị phủ lấp, quyền lợi quốc
gia không được tôn trọng, phúc lợi dân tộc phải chịu hy sinh cho nghĩa vụ quốc
tế. Tinh thần địa phương cũng tác hại không kém. Địa phương xói mòn, phá nát sự
thống nhất quốc gia. Địa phương phân hóa, hủy hoại tình đoàn kết dân tộc. Tinh
thần địa phương làm nẩy sinh sự đố kỵ giữa các địa phương, sự bất phục tùng
trung ương, đưa đến hậu quả cát cứ và nội chiến, quốc gia vỡ vụn thành nhiều
mảnh, dân tộc chia rẽ thành nhiều nhóm sống trong hận thù.
Quốc
gia là không cộng sản, vì lẽ cộng sản là quốc tế. Nhưng cộng sản Việt Nam trong
quá khứ lại thường gian trá đội lốt quốc gia, và triệt để khai thác tình tự dân
tộc. Thực tế phũ phàng là đối với cộng sản Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản mới là
cứu cánh, còn quốc gia chỉ là chiêu bài, dân tộc chỉ là phương tiện. Tuy vậy,
cộng sản Việt Nam ngày nay vẫn tiếp tục lừa mị quần chúng ngây thơ, nhất là trí
thức và tuổi trẻ nhiệt tình, sử dụng các hình thái văn nghệ tâm lý chiến để
kích động lòng yêu nước thương dân của các thành phần này, đồng thời mập mờ
khoác trở lại lên mình cái lốt mới quốc gia dân tộc. Bởi vậy, người Việt Nam
chúng ta ngày nay vẫn cần phải cảnh giác thủ đoạn quỉ quyệt của người cộng sản
để ý thức rằng người cộng sản luôn luôn đặt quyền lợi Đảng Cộng sản của họ lên
trên quyền lợi quốc gia và không đếm xĩa gì đến phúc lợi dân tộc. Mọi hành vi
và ngôn ngữ yêu nước thương nòi chỉ là những màn kịch khéo đóng.
Quốc
gia là chống cộng, nhưng ngược lại, không phải bất cứ cơ cấu chống cộng nào cũng
có thể gộp chung lại thành một tổng thể để mệnh danh là quốc gia. Thực vậy, nếu
có những cơ cấu chống cộng ở phạm trù cả nước thì cũng có những cơ cấu chống
cộng mang tính chất quốc tế hoặc địa phương. Mặt khác, đã từng có những cơ cấu
chống cộng tự nhận là quốc gia nhưng không lấy quyền lợi quốc gia làm cứu cánh,
lấy phúc lợi dân tộc làm đối tượng, mà trong thực tế, chỉ nhằm vào việc đấu
tranh với đảng cộng sản cầm quyền để tranh giành đặc quyền đặc lợi cho một
thiểu số thành phần nhân dân mang tính chất giai cấp, tôn giáo, địa phương,
hoặc chủng tộc. Quốc gia và chống cộng có chung một mục tiêu đấu tranh là thực
hiện sự giải thể chế độ cộng sản và triệt tiêu chính quyền chuyên chính vô sản,
nhưng quốc gia với chống cộng cực đoan có sự khác biệt tế nhị là quốc gia chống
cộng nhưng không bao giờ vì sự nghiệp chống cộng mà đi ngược quyền lợi tối
thượng của quốc gia và hy sinh phúc lợi của đại khối dân tộc.
Tinh
thần quốc gia là yếu tố căn bản để thực hiện và củng cố sự thống nhất quốc gia
và tình đoàn kết dân tộc. Song song với sự nghiệp bảo vệ đất nước chống lại các
hình thái xâm lược hoặc áp đảo của các thế lực quốc tế, người Việt Nam chúng ta
ngày nay cần phải nhanh chóng tìm cách giải tiêu tinh thần địa phương vốn là
uyên nguyên của tình trạng kỳ thị và chia rẽ nam bắc của đất nước chúng ta
xuyên suốt chiều dài lịch sử phát triển dân tộc. Các yếu tố lịch sử và địa lý
đã hình thành trên quốc gia Việt Nam hai khu vực lớn chung quanh Hà Nội và Sài
Gòn. Hai trung tâm này kèn cựa nhau để tranh giành ngôi vị thủ đô nước Việt Nam
thống nhất. Tình trạng này quả tình là không thuận lợi cho chính sách trung
ương tập quyền. Muốn củng cố sự thống nhất thì cần thực hiện ngay sự phân quyền
rộng rãi cho địa phương. Trung ương chỉ cần nắm chính cương chính sách, và một
vài lĩnh vực trọng yếu trên phạm trù quốc gia như ngoại giao, quốc phòng, tiền
tệ, năng lượng v.v. Mọi việc khác nên để cho địa phương tự trị. Địa phương sẽ
tùy nghi huy động nhân tài vật lực cơ hữu để phát triển khu vực của mình dưới
sự điều hợp của trung ương cho ăn nhịp với chính sách chung của cả nước.
Hà
Nội và Sài Gòn đều là đại địa, là trung tâm của những miền rộng đất, đông dân
và nhiều của. Tuy vậy, chính quyền trung ương của nước Việt Nam thống nhất
không nên đóng ở Hà Nội hoặc Sài Gòn. Nếu thủ đô đóng ở một trong hai trung tâm
lớn này thì trung tâm kia sẽ cảm thấy bị thua thiệt, bị lấn ép, bị khai thác,
vì nghĩ rằng trung ương qui tụ nhân tài và tập trung vật lực của cả nước vào
việc tô bồi, tân tạo và phát triển thủ đô. Cứ cái đà này thì mâu thuẫn bắc nam
mỗi ngày một thêm trầm trọng, tinh thần kỳ thị địa phương mỗi ngày một thêm sâu
sắc, nguy cơ cát cứ và phân ly mỗi ngày một thêm đè nặng lên nền thống nhất
quốc gia và tình đoàn kết dân tộc. Bởi vậy, song hành với việc để các địa
phương nam bắc được tự trị rộng rãi, chính quyền trung ương của nước Việt Nam
thống nhất nên đặt ở một nơi khác, không nam không bắc. Nếu Việt Nam chia làm
hai miền tự trị thì chính quyền trung ương đặt ở Huế. Nếu Việt Nam chia làm ba
miền Trung Nam Bắc thì chính quyền trung ương đặt ở Đà Lạt.
Nếu
Việt Nam chia làm hai miền thì từ Quảng Trị trở ra thuộc về Hà Nội, từ Quảng
Nam trở vào thuộc về Sài Gòn. Nếu Việt Nam chia làm ba miền thì Thanh Hóa thuộc
về miền Bắc, Bình Thuận thuộc về miền Nam, từ Nghệ An đến Ban Mê Thuột và Khánh
Hòa là miền Trung. Để phát triển khu vực miền Trung ngang tầm với hai miền Nam
Bắc, cần gộp hai thành phố Huế và Đà Nẵng thành một phức hợp đô thị có một tổ
chức quản lý hành chánh duy nhất. Huế-Đà Nẵng sẽ vừa là trung tâm địa lý, chính
trị, kinh tế và văn hóa của miền Trung, vừa là nền móng vững chãi để củng cố sự
thống nhất lãnh thổ và sự hòa hợp nhân tâm của quốc gia và dân tộc Việt Nam.
Huế có thế mạnh lịch sử và văn hóa, Đà Nẵng có thế mạnh địa lý và kinh tế. Tổ
chức lại thành một phức hợp đô thị, Huế-Đà Nẵng sẽ bổ khuyết cho nhau để tự
giải hóa các mặt yếu, đồng thời phát huy được tối đa các mặt mạnh. Nằm ở đầu
mối giao thông hàng không hàng hải quốc tế, Đà Nẵng lo việc giao lưu với bên
ngoài. Nằm ở đầu mối hành lang đông tây, Huế phụ trách việc thâm nhập và khai
thông nội địa.
Mỗi khi đề cập các vấn đề
chính trị và văn hóa của đất nước, cũng như thảo luận các vấn đề phát triển
kinh tế và cải tiến dân sinh, người Việt Nam chúng ta ngày nay nên nâng tầm
nhìn lên cao để bao quát toàn bộ lãnh thổ quốc gia, từ bắc xuống nam, từ biển
lên rừng, chứ không nên khư khư tự khép mình trong khuôn khổ một khu vực, một
địa phương. Nhìn lại quá khứ, chúng ta không nên tự giới hạn lãnh thổ ban đầu
của chúng ta trong mỗi một huyện Tây Vu hoặc quận Giao Chỉ. Nước Văn Lang hay
Môn Lang, có nghĩa là làng của người Môn, đất nước của người Môn, vươn dài lên
tới hồ Động Đình. Cha rồng họ Lạc, mẹ tiên họ Âu, rõ ràng đất nước thời hồng
hoang đã bao gồm cả Bắc Việt (Lạc Việt) lẫn Lưỡng Quảng (Âu Việt).
Công nghiệp của Thục Phán và
Triệu Đà đều nên được xem như là nỗ lực thống nhất dân tộc, nghĩa là thâu gồm
các lãnh thổ vụn vặt thành một đất nước rộng lớn, tập hợp các vương quốc nhỏ bé
thành một quốc gia hùng mạnh, trên nền móng một quốc dân hợp nhất là chủng tộc
Bách Việt. Sự kiện này được nhìn nhận trong bức thư của Hán Văn Đế gửi Triệu Vũ
Vương, cũng như qua quyết định của Hán Vũ Đế duy trì toàn thể lãnh thổ Nam Việt
trong một tổ chức riêng biệt gọi là Giao Chỉ Bộ, mà về sau được đổi lại là Giao
Châu. Nếu Thục Phán đã được nhận là người sáng lập nhà Thục, nếu Sĩ Nhiếp đã
được tôn là Sĩ Vương, là Nam Giao Học Tổ, thì lẽ nào Triệu Đà, người đã đưa dân
ta từ văn minh đồ đồng tiến lên văn minh đồ sắt, lại không được thừa nhận là
vua chúa Việt Nam.
Cũng cùng một
chiều hướng, việc Khu Liên ở huyện Tượng Lâm dựng nền tự chủ, lập ra nước Lâm
Ấp, phải được xem như là sự nghiệp giải phóng cư dân bản địa thoát khỏi sự đô
hộ của người Tàu. Vào thời điểm này, cư dân bản địa ở huyện Tượng Lâm không có
gì khác biệt với cư dân bản địa ở huyện Tây Quyển hoặc ở huyện Tây Vu. Mặt
khác, một số vua chúa Lâm Ấp buổi đầu như Phạm Văn, Phạm Phật, Phạm Hồ Đạt lại
là di dân gốc Hán, y hệt Triệu Đà ở Nam Hải, Sĩ Nhiếp ở Thương Ngô, Lý Bôn ở
Giao Chỉ. Vua Lâm Ấp Phạm Dương Mại II lại đã từng đòi hỏi nhà Tống (Nam Bắc
triều) giao trả quyền thống lĩnh toàn bộ Giao Châu. Bởi vậy, cuộc chiến tranh ở
biên cương giữa Lâm Ấp với Giao Châu phải được người Việt Nam chúng ta ngày nay
xem là cuộc đấu tranh với quân giặc xâm lược để tiếp tục hoàn chỉnh sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Nếu Thục Phán và Triệu Đà đã được sử
cũ xem là vua chúa Việt Nam thì vua chúa Lâm Ấp cũng như vua chúa Chiêm Thành
về sau phải được người Việt Nam chúng ta ngày nay thừa nhận là vua chúa Việt
Nam, ít nhất cũng ngang tầm với vua chúa các thời đại đất nước qua phân Mạc, Lê
Trung Hưng, Trịnh, Nguyễn, và Tây Sơn.
Với góc nhìn và thế đứng được
điều chỉnh lại, song hành với việc tái tổ chức lãnh thổ và việc phân quyền rộng
rãi cho các địa phương, người Việt Nam chúng ta ngày nay, một mặt sẽ gột bỏ
được tinh thần kỳ thị địa phương, chia rẽ nam bắc, mặt khác sẽ rũ sạch tâm lý
phục Tàu, sợ Tàu, chạy theo đuôi Tàu, đồng thời sẽ có thái độ thân ái hơn, cư
xử bình đẳng hơn, không còn mang nặng đầu óc tự tôn quá đáng trong khi giao
tiếp với các sắc tộc anh em trong cộng đồng dân tộc. Chúng ta nâng tầm nhìn lên
cao để bao quát cả khu vực cư dân Bách Việt, rọi ánh sáng tìm tòi lùi xa trở
lại thời sơ sử mịt mù, chúng ta sẽ hóa giải mưu mô thâm độc của người Hán cứ tìm
mọi cách để chúng ta tự mình đồng hóa với người Tàu. Cha rồng họ Lạc, mẹ tiên
họ Âu đều là người đồng chủng. Làm gì có chuyện Âu cơ vốn là người bắc (người
Hán), muốn đem 50 con về bắc nhưng bị Hoàng Đế đem binh ngăn trở. Lúc bấy giờ,
Hoàng Đế còn ở tận trên thảo nguyên Cam Túc, đâu đã có mặt ở Giang Nam. Thực tế
lịch sử là không hề có liên hệ huyết thống giữa Việt tộc và Hán tộc vào thời
bấy giờ. Chỉ từ khi Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư mang quân đi đánh Bách Việt, sự
hỗn chủng mới xẩy ra. Do yếu tố di dân Hán mà phát sinh sự phân hóa cư dân Tiền
Việt thành hai tộc Việt Mường riêng rẽ, nhưng người Việt vẫn không phải là
người Hán, người Việt vẫn bảo lưu được nhiều đặc điểm nhân chủng và yếu tố văn
hóa cội nguồn, nhờ vậy mà người Việt không bị tuyệt giống.
Người Việt Nam chúng ta ngày
nay cần ý thức rằng cho dù gia phả chúng ta còn ghi tiên tổ xa xưa vốn người
Chân Định (Triệu Đà) hay người nước Lỗ (Sĩ Nhiếp), người đất Mân (Trần Thủ Độ)
hay người Triết Giang (Hồ Quý Ly), thì trong máu thịt chúng ta cũng vẫn có ít
nhiều yếu tố bản địa, khiến đầu chúng ta đa số có chỉ số sọ dài, khiến máu
chúng ta đa số thuộc nhóm máu loại O. Dứt khoát chúng ta là người Việt chứ
không phải là người Hán. Chúng ta phải chấm dứt việc sử dụng góc nhìn và thế
đứng rập khuôn theo người Tàu mỗi khi đề cấp đến các vấn đề chính trị và văn
hóa Việt Nam. Chúng ta đừng theo đuôi người Tàu gọi bà Triệu là con mụ Triệu
(Triệu Ẩu). Chúng ta cũng đừng theo đuôi người Tàu gọi người Lâm Ấp là dân man,
gọi các đạo binh Lâm Ấp đánh vào Nhật Nam, Cửu Chân và Giao Chỉ là quân giặc
cướp, bởi lẽ tiên tổ người Lâm Ấp-Chiêm Thành cũng là di dân người Môn Nam Á
đợt hai đã từ Hoa Nam tiến vào bờ biển Tượng Lâm cùng thời với đám di dân tiến
vào bờ biển Giao Chỉ, và thực tế lịch sử đã chứng minh rằng mục đích tiến quân
của Lâm Ấp lên phía bắc là để đánh đuổi quân Tàu xâm lược ra khỏi Giao Châu,
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Người Việt Nam chúng ta thường
xuyên phải đối đầu với âm mưu của người ngoài luôn luôn toan tính xé nát quốc
gia Việt Nam làm nhiều mảnh, chia rẽ quốc dân Việt Nam thành nhiều nhóm, bằng
nhiều hình thức tinh tế và đa dạng nhằm mục đích khoét sâu các dị biệt nam bắc,
các bất đồng địa phương, các mâu thuẩn sắc tộc. Với góc nhìn và thế đứng được
điều chỉnh lại như thế, chúng ta dễ dàng phát huy tinh thần quốc gia, vun quén
tình tự dân tộc, và củng cố sự đoàn kết quốc dân, để vô hiệu hóa các kế hoạch
thâm độc của người ngoài. Thực tế lịch sử là không hề có sự kiện vương quốc Đại
Việt thôn tính vương quốc Chiêm Thành, sắc dân Kinh đồng hóa sắc dân Thượng.
Quốc gia Việt Nam ngày nay là kết quả của sự thống nhất An Nam với Việt Thường,
được hình thành từ thuở hồng hoang trên cùng chung một cơ sở đất nước và con
người : Văn Lang, hay Môn Lang, làng của người Môn, đất nước của người Môn.
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Vài nét về Tác giả
Minh Vũ Hồ Văn Châm sinh năm 1932 tại
Thừa Thiên - Huế; tốt nghiệp Bác sĩ Y
Khoa, Viện Đại Học Sài Gòn, Việt Nam, Tiến sĩ Khoa Học Dinh Dưỡng và Y
Tế Học, Viện Đại Học Columbia, New York,
Hoa Kỳ; nguyên Tổng Trưởng Chiêu Hồi, Tổng Trưởng Cựu Chiến Binh, Tổng Trưởng
Cựu Chiến Binh kiêm nhiệm Quyền Tổng Trưởng Dân Vận Chiêu Hồi chính phủ Việt
Nam Cộng Hòa.
Về mặt
hoạt động chính trị, khởi nguyên tuyên thệ gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng, về
sau sinh hoạt trong Đại Việt Cách Mạng Đảng sau ngày Đại Việt Quốc Dân Đảng
phân hóa.
Sau biến
cố năm 1975, bị tập trung cải tạo mười ba năm. Tháng 5 năm 1993, thiên di sang Canada. Hiện cư
trú tại 199 Deerfox Drive,
Ottawa, Ontario,
Canada K2J 4W8.
Mục Lục
Lời Mở Đầu
Trang
3
Trang 3
Lời Nói Thêm 11 11
Phần Khảo Luận
13
- Vai trò và vị thế người trí thức hải ngoại. 15
- Tản mạn về chữ 'Ngụy' của người Cộng sản. 29
- Gương sáng lưu lại ngàn sau: Không vì hiềm
riêng mà quên nghĩa cả. 41
- Phiếm luận về Mặt Trận. 47
- Câu chuyện xoay quanh lá cờ. 57
- Vấn đề kết hợp cộng đồng. 87
- Muốn đấu tranh thắng lợi, phải kiểm điểm
lại hàng ngũ. 97
- Quốc gia, Dân tộc và Quốc tế vô sản. 107
- Quốc gia, Dân Tộc và Địa Phương Phân Quyền.117
- Nhận diện người yêu nước quốc gia chủ nghĩa. 129
- Vai trò và vị thế người quốc gia chủ nghĩa. 139
- Cựu Hoàng Bảo Đại và chế độ Quốc trưởng
dưới mắt người quốc gia chủ nghĩa. 151
- Muốn có Dân chủ, phải tách Đảng ra khỏi
Nhà
Nước. 163
- Câu chuyện xoay quanh lá quốc kỳ. 181
- Chủ nghĩa quốc gia nhìn từ góc độ chủ thể
được phục vụ. 203
- Hậu quả của sự cấu kết Thực dân Pháp-Phát
Xít Nhật
tại Việt Nam hồi Thế chiến II. 217
- Việt Nam thế kỷ 21 hướng về phương Bắc hay phương Tây? 231
- Để có Dân chủ tại Việt Nam. 257
- Thử tìm hiểu tại sao vua Gia Long đóng đô
ở Phú
Xuân. 285
- Chuyện một người Việt làm vua Chiêm Thành. 303
- Tản mạn về miền Trung Trung Bộ. 321
- Vị trí Thành Khu Túc. 339
- Trí thức và doanh nhân VN Hải Ngoại trông
đợi
được gì ở Cộng sản? 351
- Vùng Huế trong lòng lịch sử Đại Việt. 369
- Kinh thành Huế trong tay chính quyền cộng sản.425
- Chương trình Chiêu Hồi của ViệtNam CộngHòa435
- Sự hình thành trong tương lai Phức hợp Đô Thị Huế-Đà Nẵng. 447
- Từ Anh Khóa, Thầy Đồ, đến Ông Quan. 461
- Hiểu thế nào là tách Đảng ra khỏi Nhà Nước 487
- Châu Bố Chính thuộc cương thổ Đại Việt vào
thời kỳ nào?
495 495
- Phong trào đấu tranh Dân Chủ và khả năng
hình
thành Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội507
- Chặng cuối hành trình Không Tưởng của
Chủ nghĩa Xã Hội
529
Phần Tạp Văn 545
- Cảm nghĩ về Đường Đi Không Đến. 547
- Mấy vần thơ từ ngục tối. 535
- Tiếc thương anh 551
- Văn điếu nhạc phụ. 555
- Tản mạn về Hương Bình thi xã. 561
- Hoài niệm trường xưa. 567
- Mộng nhà Nho. 577
- Câu chuyện đứa con đầu lòng 595
- Nhớ người không quen. 599
- Gió đưa cành trúc la đà. 611
- Khải Định nghĩ về Đồng Khánh. 617
- Lặn lội thân cò. 625
- Hồ Lãng Bạc có phải là Hồ Tây không? 639
- Góp ý về bài Tiếng chuông Thiên Mụ. 647
- Công chúa Đông Đô, Hoàng hậu Phú Xuân,
nàng là ai? 653
- Ý nghĩa ngày họp mặt Quốc Học-Đồng Khánh. 675
- Chuyện ông già sĩ quan tình báo chiến lược. 679
- Câu chuyện xoay quanh vụ án văn học Lệ
Chi Viên. 693
- Trao đổi quan điểm về ý niệm dân tộc. 723
- Góy ý về Từ điển Tiếng Huế. 725
- Những mắt xích cần nối lại. 739
- Nhân giới thiệu Truyện Lục Vân Tiên, nghĩ
về tiếng Việt phổ thông. 745
- Mặt sau của bức tranh biến cố Tết Mậu Thân. 755
- Nhân chuyện mấy ngôi nhà cổ, nghĩ về sách lược phát triển miền Trung. 767
- Thương về quê vợ 789
- Vua Quang Trung và chiếc xuồng câu xứ Huế 805
- Phiếm luận về ăn chay 811
- Các điểm đề nghị của Thiền sư Nhất Hạnh và
câu
chuyện vua nước Sở mất cung
817
- Huế 700 năm tưởng nhớ những người nước
non ngàn dặm ra đi 823
- Thăm nuôi tù cải tạo 835
- Nguyễn Trãi lưu lạc ở Trung quốc 847
- Tản mạn về Hương Xưa Làng Cổ 857
- Tản mạn về Sống Còn Với Dân Tộc 875
Lời Kết 889
Vài nét về Tác giả 897
Mục Lục 899
No comments:
Post a Comment