Thursday, October 31, 2013

NGUYỄN MẠNH TƯỜNG * KẺ BỊ MẤT PHÉP THÔNG CÔNG I

Kẻ bị mất phép thông công
Hà Nội 1954-1991: Bản án cho một trí thức

Nguyễn Mạnh Tường

Nguyên văn tiếng Pháp:
Un Excommunié
Hanoi: 1954-1991: Procès d'un intellectuel

Người dịch: Nguyễn Quốc Vĩ
(Đây là bản đã đăng nhiều kỳ trên Thông Luận:
http://www.thongluan.org/vn/)
 

 
Bìa bản tiềng Pháp (Paris 1992) 
  
“Bản thảo cuốn sách này đã được soạn và đánh máy trong một tình thế lén lút và bị cô lập. Vì vậy tôi khiêm tốn gửi lời xin lỗi về những lỗi lầm hay sai trật đến những ai quan tâm đến những suy tư và những bài viết của tôi, và mong muốn cuốn sách này sẽ được phát hành ở Pháp”
N.M.T.
13 Tháng 5 năm 1991

 
PHẦN MỘT
ĐẠT ĐẾN ĐỈNH VINH QUANG

Vài tháng sau trận Điện Biên Phủ, tôi được lệnh tập trung lên trình diện tại Chiến Khu Việt Bắc. Tôi nghĩ đây cũng là lần tập trung để học chính trị như những lần trước. Cấp lãnh đạo luôn rất quan tâm đến việc giáo dục quần chúng và truyền giảng cho giới trí thức những ý niệm về chủ nghĩa Marxist-Leninist mà họ tự cho rằng chỉ họ mới là những người duy nhất hiểu biết nó. Bằng con bài chủ của mình, những hiểu biết dó, họ cho rằng có thể áp đặt được sự nể trọng họ lên giới trí thức, và cùng lúc, họ có thể thanh toán được nỗi mặc cảm tự ty của mình. Đúng là ngây thơ, nhưng tất cả các ngài đều mang bệnh ngây thơ ấy. Vì thế, tôi đành phải tự chèo chống lấy mình cho qua những giờ dài đăng đẳng để khỏi nghe vài diễn giả cà lăm lải nhải. Họ không thể nào ngăn được tôi trốn trong một góc khuất, ngáp dài nếu không ngủ hay mơ về bất cứ điều nào mà tôi thích. Nhưng cái chiến thắng vang dội vừa mới đây lại mang đến cho tôi những xì xầm to nhỏ. Sự tiên liệu của tôi đã thành sự thật khi thấy cả ngàn cán bộ thuộc đủ các ngành đang tập trung ở Tân Trào. Sau rốt, chúng tôi biết chúng tôi sắp được học “chính trị” – đây là một cụm từ linh thiêng, ở Việt Nam, mọi chuyện đều là “chính trị”- để tổ chức buổi lễ Chính Phủ Kháng Chiến tiến vào tiếp thu Hà Nội. Quân đội Thực Dân phải ra đi và bàn giao lại tất cả các cơ quan công quyền bao gồm cả nhà cửa, thiết bị dụng cụ và cả những người Việt đang làm việc nơi đây.

Buổi học tập là để biết phải có thái độ gì đối với những công nhân viên đã được chỉ định để bàn giao cơ quan mà trước đây họ làm việc trong thời kỳ Pháp thuộc. Những mật báo viên của chúng tôi đã lập những hồ sơ những người chủ chốt của cơ quan, hồ sơ lý lịch, gia cảnh, thái độ đối với Kháng Chiến, cảm tình đối với xếp trên người Pháp của họ và nước Pháp, cũng như khát vọng và khả năng của họ. Những thông tin đó rất quý giá và nó giúp chúng tôi đánh giá mức độ tin cậy đối với từng người, sự hỗ trợ của mỗi người có thể có cho chúng tôi và những kỳ vọng mà chúng tôi có thể chờ đợi từ mỗi người của họ. Như vậy chúng tôi không phải quá mạo hiểm đi vào một vùng xa lạ, có thể vấp khựng trước những chướng ngại vật hay trượt ngã vào những cạm bẫy bất ngờ.

Câu hỏi nhạy cảm là làm sao tìm ra một thái độ cư xử với những người mà tình cảm được che giấu sau bức màn của lễ độ và của nụ cười? Người của Kháng Chiến phải tự mình hết sức cẩn trọng trong lời nói, cách nhìn, cử chỉ để tránh ám chỉ dù nhẹ nhàng nhất đến sự khinh thường hay chiếu cố riêng đối với từng nhân viên dưới quyền.

Nếu các cấp lãnh đạo cấp cao thấm nhuần và luyện tập bản thân về ý này, thì rủi thay, đám tôi tớ tuỳ tùng không hề bỏ lỡ một cơ hội nào để phô trương sự ngạo mạn một cách lố bịch và đầy tai hại. Chúng nó tự ca tụng và phô trương là đã chịu nhiều gian khổ và bệnh tật trong những năm bí mật kháng chiến, nay chúng đòi phải được trả công bởi những kẻ không “may mắn” được tham gia Kháng Chiến. Tai hại gây nên bởi loại người thiếu thận trọng đó thật lớn lao. Hố ngăn cách hai nhóm người trong xã hội càng đào sâu hơn nữa. Trong số những người bất mãn, có những người bỏ ra nước ngoài mang theo tài sản của Đất Nước và lòng yêu nước, mang những của cải làm quà cho những Đất Nước nhận dung dưỡng và cho họ những cơ hội thích hợp với khát vọng và ước mơ của họ. Những người khác thì đã nức hận thù chống cộng, luôn tìm cơ hội để phát tiết nỗi oán giận, thành lập những tổ chức bí mật, thiết lập quan hệ với kẻ thù của chúng ta ở nước ngoài, nhận tiền và chỉ đạo và ngay cả những trợ giúp quân sự với mục đích gây rối loạn, gây biến động nổi dậy, và nếu được là một cuộc đảo chính. Đại bộ phận dân chúng thì trì trệ trong sự dửng dưng, chọn thái độ chờ xem, chẳng màng suy nghĩ hay kêu gọi những mong đợi của họ về chuyện thay đổi chế độ; họ giữ im lặng, quan sát, nghe ngóng và không làm một hành động hay đưa ra một thái độ nhiệt tình nào trong công việc giao cho họ. Bất cứ công việc nào mà con tim không có, thiếu niềm vui, vắng nhiệt tình, thì nó không thể cho ra kết quả hữu hiệu, ít nhất cũng là việc chính quyền kháng chiến, mặc dù những tuyên ngôn, mà hoá ra như những lời khoác lác làm trò cười cho thiên hạ, đã không cung cấp nổi cho công nhân viên những nhu cầu tối thiểu của đời sống hàng ngày. Những công chức được trả lương hậu hĩnh dưới thời chính quyền Thực Dân trước đây được tiếp tục hưởng lương như thế trong một thời gian. Nhưng một vài “tâm hồn cao quí” trong bọn họ, được sự “chỉ đạo” đúng đắn và bài bản của “lãnh đạo”, không biết dưới sự đe doạ hay được lời hứa thưởng công, đã đưa ra kiến nghị cùng bình đẳng lương bổng, nhưng không phải bình đẳng theo hướng nâng lương lên cao mà cùng giảm lương về mức thấp. Để thuyết phục các đồng nghiệp chấp nhận ăn miếng bánh thanh bạch, những tác giả của kiến nghị “công bằng lương bổng” kéo nhau rỉ tai là “Trong những năm kháng chiến, chúng mình chưa bao giờ bị đói, lạnh, nguy hiểm đến tính mạng; chúng mình sống no đủ hạnh phúc thoải mái với gia đình. Như vậy, chuyện từ bỏ những đặc quyền và giảm bớt lợi tức của chúng ta cho bằng các bạn đồng nghiệp phía kháng chiến có phải là một việc làm có tình có lý hay không? Như vậy chúng ta đã có một hành động công bằng; chúng ta cho thấy khả năng chấp nhận hy sinh và sẽ không bao giờ thành đối tượng bị khinh miệt bởi người khác; chúng ta mang lại sự đoàn kết trong cộng đồng công nhân viên nhà nước, và bình đẳng giữa người này người khác. Chúng ta cùng cực khổ cáng đáng việc xây dựng lại Đất Nước nhé!”. Nhiều người đã rùng mình ớn lạnh khi nghe những lời rủ rỉ phát sinh từ cấp cao nào đó truyền xuống mà thấy miệng đắng như vừa nuốt nguyên túi mật không tên. Đó là mùi vị của khốn cùng mà tất cả công nhân viên nhà nước đang cúi mình gánh chịu.

Về phía dân chúng, đối với chúng tôi họ dành trong lòng một sự tò mò nhưng thân thiện. Họ và chúng tôi cùng dòng máu đang chảy trong huyết quản, cùng một quá khứ đầy tự hào và tủi nhục. Điện Biên Phủ đã tràn ngập con tim của mọi người với cùng độ nức lòng và cùng tầng nhiệt huyết. Nhưng, dù thế nào, kháng chiến vẫn là một thế giới riêng, người đi kháng chiến cũng là những con người thường nhưng với những tập quán thói quen có thể làm ngạc nhiên thế giới văn minh. Người ta có thể nhìn chúng tôi như những kẻ man rợ vì không biết dùng lược và nước hoa để chải đầu hay xài xà phòng tắm để săn sóc làn da; man rợ vì không biết cầm dao nĩa thế nào cho đúng cách; nhưng cũng có người vừa to mắt ngạc nhiên vừa trao tặng chúng tôi một bó hoa; có người chờ xem hành động và lời nói của chúng tôi để xem có thể dành cho chúng tôi mối cảm tình nào đó hay chỉ thuần là một nỗi nể nang sợ hãi, nếu chưa muốn nói đến một sự lãnh đạm xa cách.

Khó khăn lớn nhất của chúng tôi là việc tiếp cận giới trí thức Hà Nội, nhất là khi họ đã được cảnh báo về chủ nghĩa Cộng Sản. Việc họ bỏ nước ra đi sẽ gây thiệt hại đáng kể cho Đất Nước bị mất đi những chất xám mà sau đó chính những nước ngoài là người hưởng dụng. Đó là lãnh vực mà ta cần phải tránh những sai lầm ngớ ngẩn do những người được giáo dục đúc khuôn từ Đảng là thủ phạm, bởi vì họ đầy tự mãn, đầy kiêu căng, bởi vì họ không có trình độ về lãnh vực trí thức và xã hội.

Nhưng, theo đánh giá của cấp Lãnh Đạo, điều tệ hại nhất là điều đe doạ đến tính trong sáng của cán bộ kháng chiến đã hơn mười năm nay được Đảng giáo dục. Khi đến với kháng chiến, toàn bộ hay ít nhất là gần như toàn bộ cán bộ là đã có những vết nhơ của tư sản, của thế giới phản động. Những vết nhơ đã làm hoen ố tâm hồn nhiều hơn là thể xác, làm biến chất con người, làm sai lạc quan điểm và làm méo mó tư duy của họ. Phải cần nhiều năm miệt mài học chủ nghĩa Lenin, hàng năm theo những lớp học chính trị, những buổi phê bình và tự phê bình, những ngày lao động chân tay, trải nghiệm gian khổ để chữa sạch những vết thương mưng mủ, để chữa trị khỏi những tật bệnh nếu không phải là để cho một sự trinh nguyên cho thể xác, thì cũng để đạt đến sự chân thành biến thành những kẻ dễ bảo cho lãnh đạo.

Ngày nay họ lại phải trở về với chính nơi độc nhiễm mà họ trước đây sinh sống, Đảng đã bắt chước Trung Quốc tìm cách cho họ tránh những “viên đạn bọc đường” bằng cách trang bị cho họ những bao ngừa thai để tránh những mầm SIDA chính trị, một bệnh truyền nhiễm chết người, y chang như trang bị cho người để chống SIDA ở đời thường. Cái gì đã quyến rũ các ông quan kháng chiến một khi họ trở về Thủ Đô? Một bữa ăn thịnh soạn có champagne, rượu Tây, thuốc lá Anh, những điệu valse ẻo lả, những ánh mắt đưa tình và những nụ cười mời mọc của những nàng tiên kiều diễm là quá đủ để kéo tên “man rợ” ra khỏi rừng rú ném hắn vào đám yêu tinh và làm hắn phải “bán linh hồn cho quỉ dữ”… Nhưng làm sao sự khôn ngoan và những tiên liệu của Đảng lại có thể ngăn được những đợt thuỷ triều của ham muốn đã nhiều năm bị đè nén và đang đến lúc nổ tung? Trong những năm 1989-1990, cả nước bàng hoàng thất vọng và kinh hoàng trước tội ác của những đảng viên biến chất, nhiều quan chức cao cấp của Đảng và của Nhà Nước đã hành xử như những băng đảng trộm cướp, đã nuốt nhiều tỉ đồng của công quỹ để thoả mãn ham muốn đê tiện của mình. Chưa bao giờ, dù dưới bất cứ chế độ nào, một vụ tai tiếng như thế lại có thể xảy ra, và Đảng phải đỏ mặt vì xấu hổ và đen như nhuộm bùn. Viên đạn bọc đường quả thật đã chơi trội việc giáo dục chính trị.

Ngày 10 tháng 10 năm 1954 đúng 10 giờ sáng, lực lượng Kháng Chiến trọng thể tiến vào Thủ Đô. Dẫn đầu là đoàn quân với những lá cờ tung bay với tiếng trống liên hồi. Những cán bộ đứng trên những chiếc xe tải vẫy tay chào đồng bào đứng đầy hai bên đường đang hô to những tiếng vui mừng, phất phất những lá cờ nhỏ. Tất cả hai bên nhà phố đều trang trí và niềm vui không tả trên ánh mắt của từng người dân. Từng chặp, đoàn quân phải ngừng lại để nhận những vòng hoa của từng đoàn thiếu nữ mang tặng. Sự nồng nhiệt của dân chúng đã lên đến cao độ, thật chân thành và nồng hậu. Kể cả những người mà con tim còn đang nhịp nhẹ những tiếc nuối với người chủ hôm qua, tất cả đều chuẩn bị đầy đủ cho một cuộc găp gỡ dễ thương bằng sự rộng rãi và lịch sự, họ vỗ tay hoan hô những người đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ: chiến công của họ khơi động lại niềm hãnh diện của người dân Việt và phục hồi lại danh tiếng cho nước nhà.

Trong hai tuần đầu, tất cả cán bộ đều được lệnh không ra khỏi nơi đang cư ngụ. Chúng tôi không biết được lý do tại sao. Có phải đây là vì vấn đề an ninh? Không kể những viên đạn bọc đường mà mọi người cho rằng có thể phá vỡ sự trong sáng của những con người kháng chiến sau nhiều năm được cải tạo, thì có phải chăng vì sợ súng đạn của những kẻ quá khích hay gián điệp có thể mang đến những cái chết vô nghĩa cho những người mà Đảng đã mất hàng chục năm để đào tạo và đã biến họ thành những người Cộng Sản trung kiên? Hay đã có những ý nghĩ kỳ quặc đang manh nha trong đầu của vài lãnh đạo đang nắm quyền và họ chỉ muốn thuộc quyền tuân phục một cách mù quáng? Mặc kệ lý do gì! Có chuyện lo bảo vệ an toàn hay chỉ là một nhắc nhở là chúng tôi chỉ là những con chốt tầm thường trong tay của những người lãnh đạo, chúng tôi đều cúi đầu phục tùng cho bạo chúa phán lệnh lúc nào phải hành động y những con rô bốt mà chẳng biết bận tâm suy nghĩ tại sao. Trong khi chúng tôi có thể về thăm nhà ở Hà Nội để có chỗ nơi ăn ở đàng hoàng, giường êm nệm ấm thì chúng tôi phải nằm trên sàn trần, cuốn mình trong những tấm chiếu không khác gì những tử tù đang chớ ngày đút đầu vào máy chém… Chúng tôi tiếp tục sống đời kham khổ kỷ luật như những người Spartan như những năm bí mật kháng chiến; khi bữa ăn kết thúc, chúng tôi lại xếp hàng rửa bát bên vòi nước. Thật ra đâu cần thiết phải đối xử bất nhân kéo dài thêm hai tuần xa cách cho những người đi kháng chiến đã hơn mười năm chưa gặp lại gia đình? Chỉ còn thêm vài trăm bước đường nữa là mọi người trở về đã có thể ôm lại cha mẹ anh em và trao cho nhau những giọt nước mắt mừng tủi sau những năm xa cách mà tưởng như thiên thu. Có phải chăng người Cộng Sản là những anh hùng mà mắt đã không còn lệ, mà trong tim tình cảm gia đình đã biến mất, linh hồn đã bị huỷ diệt bởi một niềm tin điên cuồng vào một học thuyết chủ nghĩa hay một tôn giáo?

Về phần mình, một mặt lòng tôi rộn rã vui sướng được đặt chân trở lại thành phố nơi tôi sinh ra, nơi mà những kỷ niệm đầy nhớ mong đã bám chặt lấy tôi suốt những năm xa cách; một mặt khác, lòng tôi lại héo buồn vì không được quay về nhà trong giờ phút đầu tiên để gặp lại cha mẹ già đang khắc khoải chờ mong gặp lại đứa con trai lớn đang ra vào hiểm nguy mà không cần tranh cãi chi đến đến chuyện nó ra đi là có cần thiết hay chính đáng không.

Điều không vui của tôi kết thúc khi tôi được phân công về nhận trường Luật. Ngay sau khi buổi lễ bàn giao chấm dứt là tôi chạy bay về nhà gặp lại mẹ cha chảy những giòng nước mắt khi thấy con mình còn sống trở về.

Ngày kế, tôi tập họp toàn thể nhân viên trong phòng giám đốc, một căn phòng lớn mênh mông ở phía phải đầu trên cái thang lầu to tướng, đối diện với cái giảng đường to mà hơn mười năm trước tôi vẫn hay đứng giảng bài cho sinh viên hay thuyết trình trong những buổi hội nghị cho mọi người.

Tất cả ban giảng huấn đều biến mất ngoại trừ ông Đào Bá Cường, tất cả đã chọn con đường ra nước ngoài hay quay ra hành nghề luật sư. Tôi chỉ còn lại ba cô thư ký và một lái xe hãnh diện là đã giấu và giữ lại được một chiếc xe thoát khỏi tay cảnh sát của Thực Dân. Trong khi chờ đợi quyết định tổ chức lại hay giải tán trường Luật, chúng tôi chẳng có nhiều việc để làm, nhất là sau khi đã xếp lại thứ tự cho Thư Viện, xếp vào kệ bộ sách Luật Dalloz-Sirey toàn tập mà khối lượng sách đã từng nhiều lần làm tròn xoe mắt của dân không chuyên ngành[1].

Tôi đã phải mất công kéo giờ có mặt của các cô thư ký xuống hai giờ mỗi ngày, bởi “tập thể” – tên mới mà những người cộng sản dùng – không thể ngồi đó lâu hơn vì chả lẽ cứ ngồi đó mà ngáp và không làm gì cả cho hết ngày? Vì vậy, để tránh khỏi sinh ra ức chế vì cả ngày không việc gì làm, những ngưởi cộng tác với tôi yêu cầu tôi khai tâm cho họ về chủ nghĩa Maxist. Không có gì làm họ khó chịu bằng phải nghe những điều đần độn về chủ nghĩa Marxist vả những cái ngạo mạn chỉ đáng cho cái tát vào mặt. Tôi bảo đảm cho những người nghe là nhiều kẻ nói về Marx nhưng chưa lần nào đọc về Marx, hoặc nếu có cơ may đọc được vài đoạn trong cuốn Tư Bản Luận thì họ cũng chả hiểu chi. Chứng cớ là những người Marxist dày dạn đã phạm những sai lầm ghê gớm gây khổ đau cho dân tộc, kéo theo sự nghi ngờ về sự hiểu biết của họ về cái học thuyết mà họ đang theo.

Khi mà tôi không có một mảnh bằng hay đạt một trình độ nào về học thuyết Marxist, tôi cảm thấy không thoải mái khi can thiệp vào lãnh vực chuyên môn của các Tiến Sĩ về chủ nghĩa Marx. Tôi cố gắng giới hạn trong việc thoả mãn trí tò mò của mấy người cộng tác. Tôi trình bày vấn đề bằng cách đặt ra những câu hỏi mà họ có thể dễ dàng trả lời. Nhờ đó qua cách gợi ý tôi đã chuyền cho họ một chút hiểu biết về chủ nghĩa Maxist qua hơn mười năm trong kháng chiến. Tôi nói rõ ràng với họ là hiểu biết về chủ nghĩa Marx của tôi chỉ là một tẹo nhưng cũng đủ để lật mặt nạ những kẻ dốt hay nói chữ như Trissolin[2] hay tháo gỡ những sai lầm do những người Marxist có bằng cấp.

Thời gian trôi qua. Đảng vẫn chần chừ trì hoãn quyết định đóng hay mở Trường Luật. Tôi hiểu những ngập ngừng này. Trong nhiều năm làm việc ở các cấp Toà Án và làm luật sư chỉ định của Chính Quyền, và nhờ việc phải theo dõi tiếp xúc thường xuyên với những cán bộ có trách nhiệm, tôi có dịp quan sát thấy sau cung mê tiềm thức của họ là một sự hãi sợ tột đỉnh về Luật Pháp. Xưa kia, trong thời hoạt động bí mật, những người đi làm cách mạng đã có những ngày đen tối với chế độ xử án của Thực Dân và những quan toà của nó. Vì vậy, họ kết bè với nhau với những ngày hy sinh và cực khổ trong hệ thống xét xử mà họ cho rằng đó là công cụ kềm kẹp trong tay của bọn tư bản. Tuy nhiên nếu họ chịu đào sâu tìm hiểu về hệ thống pháp lý và các bộ Luật của Liên Xô, thì họ sẽ thấy những công cụ trấn áp quần chúng lao động cũng hoàn toàn có thể biến thành những phương tiện bảo vệ Nhà Nước và Cách Mạng chống lại giới tư sản phản động. Họ chỉ cần thay người và mục tiêu.

Nhưng theo tôi, người cộng sản ghét pháp luật có một lý do sâu xa hơn. Có nhiều quan điểm thật khác nhau giữa những con người làm chính trị và những con người chăm lo Luật Pháp, họ khác nhau về thói quen tâm lý và khác nhau cả về tư duy.

Chính trị là một lãnh vực mà mọi biên giới đều mờ nhạt mà một người có thể vượt ngang qua không chiếu khán và thường khi không biết luôn cả việc có biên giới hay không. Đó là một vùng đất đầy những đồi cát mà gió có thể làm biến dạng tuỳ thích, có những đầm lầy cần phải tránh để khỏi một cái chết bị ngập lún. Đây là nơi mà sự nhập nhằng là kẻ chiến thắng. Cái không chính xác về hành động và ngôn ngữ đã tạo cơ hội cho những diễn dịch khác nhau, nhiều khi mâu thuẫn lẫn nhau. Kẻ phải phiêu lưu vào đó phải tránh chuyện logic, sự sáng sủa và chính xác, chỉ phải nghĩ đến những việc ở thời hiện tại mà quên đi những gì liên hệ đến quá khứ hay tương lai, phải gạt bỏ những chuẩn mực đạo đức hay tình cảm và trên hết thảy, phải hành xử với một thái độ cơ hội chủ nghĩa sắc bén và linh động.

Vùng đất của Luật Pháp, ngược lại, được bao bọc bởi núi và sông như những đường ranh giới tự nhiên. Ở đây chỉ có cái chặt chẽ của hình học, của logic thuần lý, sự chính xác của phép tính theo tinh thần Descartes và của một sự rõ ràng minh bạch. Giữa sự hợp pháp và bất hợp pháp là một đường phân rõ ràng như giữa trắng và đen. Ngôn ngữ của Luật thể hiện những ý niệm, ý kiến, định nghĩa từng nội dung và không chấp nhận những vùng khuất trượt lướt chung quanh, những lập lờ chữ nghĩa, những giải thích đầy phù phép và lừa gạt đưa ra. Những tranh luận về Luật kéo theo những đụng độ về ý kiến nhưng phần thắng luôn đến từ những lý luận đặt cơ sở trên nguyên tắc của Luật Pháp, trong những bài viết không còn những từ ngữ rỗng tuếch và còn tranh chấp đúng sai trong cái sự thanh thản của biện chứng, dưới ánh nắng lạnh lùng của lý trí.

Vì thế, sự đối kháng giữa chính trị và luật pháp là không thể nào giải quyết được. Trong khi nhà chính trị muốn khẳng định chủ nghĩa duy ý chí thì nhà Luật học lại chiếm ưu thế về sự hợp lý. Một phe thì luôn đặt vấn đề một cách cụ thể, phân tích từng yếu tố của sự việc, xem xét những tương quan và những tác động qua lại, tìm chọn tất cả những giải pháp để rốt cuộc chọn lấy giải pháp tối ưu và có lợi nhất, và dùng tất cả quyền hành trong tay để thực hiện nó. Loại người đó không hề bị ràng buộc bởi bất cứ nguyên tắc, nghĩa vụ hay niềm tin nào. Họ tự do như những con ngựa hoang trên cánh đồng cỏ mênh mông, tàn phá như những cơn bảo hung tàn đang giật tung những mái ngói và nhận chìm những con tàu chìm sâu vào lòng biển khơi. Dựa vào hoàn cảnh thuận lợi, nhà chính trị đã chơi xả láng con chủ bài của mình và biểu thị một lòng ham muốn vô giới hạn. Nhưng cơ hội của họ lại va chạm đến tính cứng nhắc của hệ thống tư pháp và những qui điều trong Luật. Vì thế họ muốn quét bỏ hệ thống tư pháp và nhảy xổm lên trên Luật Pháp; nhưng dầu thế nào họ cũng đã có một nền tư pháp đang ngủ yên và quên lãng trong Kháng Chiến, nơi mà chính phủ chỉ nói chuyện với cỏ cây thú rừng khi mà những người theo kháng chiến với tấm lòng yêu nước và chỉ lo thi hành bổn phận, không dám quấy rầy giấc ngủ của lãnh đạo.

Nhưng tất cả đều trở nên xáo trộn sau ngày trở về Hà Nội. Ở đây là thái độ một thành phố thu mình không còn nhộn nhịp và ngay sự yên tĩnh cũng gây khó chịu cho chính quyền mới. Thái độ như thế biểu dương một tinh thần tôn trọng Luật Lệ. Bất cứ khi nào quyền lợi của họ bị xâm phạm, lập tức người dân đến gõ cửa Luật Sư và Luật Sư Đoàn như những thành trì của công bằng và Công Lý. Để chứng tỏ thiện chí, chính quyền cộng sản đã không thấy gì trở ngại để giữ lại Luật Sư Đoàn khi mà những Thẩm Phán xử án đã được thay thế bằng những người do Đảng đào tạo và giáo dục, và chính những người này là những người quyết định kết quả của mọi vụ án. Sau ngày tiến vào Hà Nội, trong khi những chuyện có tính nội bộ như thế có thể giải quyết dễ dàng, thì ngoài những nước anh em, Việt Nam còn phải nối quan hệ với các nước tư bản. Những nước này là những nước thượng tôn Pháp Luật và chỉ chịu ký kết những hiệp định phù hợp với khung pháp lý. Bên cạnh đó, những định chế quốc tế hay những tổ chức nghiên cứu rất kỷ về Việt Nam, họ có khả năng giúp Việt Nam hưởng những trợ giúp của họ và đồng thời cũng quy trách được nếu Việt Nam phạm những sai lầm. Bằng con đường quốc tế, những quy điều của Luật đã mạnh mẽ đi vào Việt Nam và nhà cầm quyền bắt buộc phải quan tâm đến.

Sau Điện Biên Phủ, ai cũng biết rằng Hiệp Định (Genève) chia đôi Việt Nam ra thành hai phần: phía Bắc do Nhà Nước Cộng Sản nắm, phía Nam do chính quyền thân Mỹ Ngô Đình Diệm nắm. Mặc dù rất đúng Luật về mặt hình thức, Hiệp Định Genève đã xâm phạm quyền của một dân tộc từ ngàn xưa đã luôn luôn sống trên một Đất Nước duy nhất. Từ rất sớm, khởi nghĩa vũ trang đã được tổ chức trên cả vùng chống lại nhà cầm quyền, khởi đầu cho những bước thống nhất Đất Nước. Để phản công, nhà cầm quyền phía Nam đã bắt cầm tù một số trí thức như Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ và giáo sư Phạm Huy Thông, kết án họ là những người cầm đầu cuộc nổi dậy, và tiến hành việc đàn áp đẫm máu những người mà họ cho rằng nuôi dưỡng những khuynh hướng nhằm thống nhất Tổ Quốc.

Chính nghĩa thống nhất Đất Nước phải được biện hộ trước diễn đàn quốc tế; dư luận quốc tế phải được thông tỏ chuyện gì đang xảy ra ở miền Nam Việt Nam. Năm 1956, Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ triệu tập hội nghị thế giới ở Thủ Đô Bruxelle của Bỉ. Trước cơ hội thật lớn lao đó, nhà cầm quyền (phía Bắc) liền tổ chức một đoàn đại diện để đi tuyên truyền cho chính nghĩa của mình. Trong cương vị là Chủ Tịch Luật Sư Đoàn và là Phó Chủ Tịch Hội Luật Gia Việt Nam tôi được giao phó làm trường đoàn, cùng với Luật Sư người Công Giáo Nguyễn Huy Mân là Hội Thẩm, đồng thời là Chủ Tịch Toà Án Quân Sự và cũng là một quan chức cao cấp của Đảng. Nhiệm vụ của chúng tôi là làm sao được Hội Nghị đưa ra nghị quyết ủng hộ Dân Tộc quyền đấu tranh để thống nhất Đất Nước.

Khi chiếc máy bay Sabrina (Tây Ban Nha) đáp xuống phi trường cũng vừa lúc hoàng hôn. Một thư ký Hôi Nghị đón và đưa chúng tôi về khách sạn. Sau khi tắm rửa và thay quần áo, chúng tôi xuống phòng ăn rộng mênh mông và lộng lẫy sáng chói. Tất cả những chiếc bàn tròn được phủ những chiếc khăn không một vết nhơ trang trí với những bình hoa đều có khách ngồi. Chúng tôi là những kẻ đến sau cùng để chiếm cái bàn duy nhất còn lại. Sau bữa ăn, chúng tôi vào phòng khách và được một đoàn tiến gần tiếp cận: đó là đoàn của Bắc Triều Tiên. Chúng tôi làm quen thật nhanh chóng, hai đất nước chúng tôi có số phận giống nhau.

Đoàn chúng tôi chia nhau mỗi người đi gặp một đoàn bạn để tranh thủ cảm tình cho chính nghĩa của mình. Cá nhân tôi, tôi đã tìm gặp ông Chủ Tịch Luật Sư Đoàn Bruxelles và thảo luận với Chủ Tịch Đoàn của Đại Hội nhằm đưa vào nghị trình vấn đề của chúng tôi. Họ từ chối một cách rất lễ độ là chương trình đã đầy không còn thời gian trống, và hơn nữa Hội Nghị đã định cho mình sứ mạng gìn giữ Hoà Bình và không ủng hộ bất cứ một cuộc khởi nghĩa võ trang nào, dù là có chính nghĩa. Tôi vẫn không mất can đảm, vẫn tiếp tục tranh thủ những trưởng đoàn các nước, những người mà tôi cho rằng là có trình độ trí thức cao, những người mà tôi cho rằng có một ảnh hưởng nhất định, là việc đưa vấn đề cực kỳ thiết thân của chúng tôi vào nghị trình là một việc cần thiết. Những cố gắng ấy cuối cùng cũng được đền đáp bằng một thành công thật may mắn: vấn đề của Việt Nam được đưa vào nghị trình nhưng được sắp vào lúc cuối cùng của Hội Nghị. Chúng tôi thật nản lòng. Kinh nghiệm những hôi nghị quốc tế như thế này, càng lúc vào phút cuối, phần lớn các đoàn là đã tranh thủ lo vé máy bay, sửa soạn hành lý đề đi về. Quả thật chúng tôi thật nặng lòng và buồn phiền chờ buổi kết thúc hội nghị. Chắc chúng tôi tham dự Hội Nghị lần này là mất công toi. Chúng tôi phải ăn nói ra sao với lãnh đạo đây?

Một bất ngờ đã xảy ra. Sau khi bài tham luận chót được đọc thì đoàn Việt Nam được mời lên điễn đàn. Chúng tôi thật tình không chờ đợi một cử chỉ lịch sự như thế vào lúc chót. Tôi liền lên bục ngay sau khi Chủ Toạ Đoàn loan báo hội nghị được kéo dài thêm mười lăm phút. Lòng tôi thật vui sường và tim tôi đập loạn xạ… Bằng giọng nói đầy xúc cảm, tôi bắt đầu trình bày luận đề.

Đấu tranh, dù là có vũ trang, với mục tiêu loại bỏ sai quấy hay trừ bỏ bất công, đàn áp, hành động man rợ, hay để loại bỏ những chướng ngại ngăn cản sự tiến bộ của hoà bình là cái mở đầu, là giai đoạn đầu tiên cho một ngày kiến tạo và gìn giữ hoà bình. Danh ngôn của Hy Lạp đã nói muốn có hoà bình phải chuẩn bị chiến tranh. Phải chăng là không có mâu thuẫn giữa chiến tranh và hoà bình, khi mà chiến tranh xâm lược đã giết chết hoà bình, mặt khác, chiến tranh có chính nghĩa là để giành được hoà bình, gìn giữ và bảo vệ nó. Chỉ có kẻ ngây thơ và trẻ con mới tin rằng chiến tranh là đối ngược với hoà bình, là hai mặt đối kháng lẫn nhau không thể nhân nhượng như thể giữa đêm và ngày. Ai có thể chấp nhận một quan điểm mơ hồ như thế? Tôi đã mang hết những lý lẽ tình cảm, chủng tộc, lịch sử, ngôn ngữ, kinh tế và xã hội để vận động cho chính nghĩa của Dân Tộc Việt Nam.

Trong phần kết, tôi trình bày với người nghe bằng những ý như sau: “Thưa các bạn Ba Lan và Hung Gia Lợi, mới ngày hôm qua, các bạn đã đau khổ nhìn quê hương bị chia năm xẻ bảy; thưa các bạn người Hàn và người Đức, các bạn cũng đau đớn chịu nỗi bất hạnh như thế. Nhưng các bạn may mắn hơn chúng tôi là không phải thấy với chính mắt mình những nét mặt đau đớn, được nghe tận tai tiếng thét của những người, có cùng dòng máu chảy trong huyết quản, có con tim cùng chia sẽ những buồn vui với bạn, phải quằn mình đau đớn dưới bàn tay của những kẻ đao phủ.”

“Tôi không biết, trong số những người đang nghe tôi ngày hôm nay, có ai đã, vì bó buộc của nghề nghiệp, phải tận mắt chứng kiến cảnh thân chủ của mình bị hành hình. Đó là thời Thực Dân chiếm đóng. Toà Án Hà Nội đã chỉ định tôi làm Luật Sư bào chữa cho một tên cướp biển người Hoa bị án tử hình, ngưởi này ở vịnh Hạ Long đã giết hơn mười hành khách trên một chiếc tàu. Tôi được chỉ định bào chữa cho hắn và phải có mặt khi hắn bị hành hình. Bản mặt hung ác của nó không làm ai cảm tình, nhưng ánh mắt cuối cùng khi hắn đút đầu vào máy chém làm tôi thấy tôi nghiệp. Tôi nhìn nơi khác khi lưỡi dao rớt xuống cắt gọn ngang cổ hắn. Một dòng máu phụt ra, cái đầu rớt một bên, cái thân một bên rớt vào cái hòm với đầy mạt cưa”.

“Thưa các bạn, cái máy chém đó, có từ thế kỷ trước. Nó chẳng những được dùng để chém đầu những kẻ phạm tội ác, mà còn dùng để chém đầu những người con yêu nước đang đấu tranh để thống nhất Tổ Quốc, để khủng bố dân lành và để trấn áp lòng yêu nước của họ.”

“Và cầu Hiền Lương với tên gọi mang âm hưởng tử tế như thế lại là cây cầu chia cắt Việt Nam thành hai miền, phải chăng đó là lưỡi dao nhọn đâm thẳng vào da thịt của người dân, chia tách gia đình ở hai bên bờ không thể nhìn nhau với con mắt đầy lệ. Giòng sông không còn là nước chảy mà mang trong lòng nó những giòng nước mắt của phân ly, những giòng máu của những người can đảm vượt sông để rồi ngã xuống bởi những viên đạn bắn từ những con Tàu tuần cao tốc.

Các bạn đồng nghiệp thân mến, trong suốt thời gian hành nghề, chúng ta ít nhất đã một lần chứng kiến cảnh chia tay của một cặp vợ chồng. Trong buổi hoà giải đầu tiên ở Toà, chắc các bạn đã không bao giờ quên nét căng thẳng của hai cha mẹ, và hơn thế nữa ánh mắt sợ hãi và đầy nước mắt của những đứa con hết nhìn cha rồi lại nhìn mẹ, hết nhìn mẹ rồi lại nhìn cha, chúng cảm thấy đau đớn trước thảm cảnh chia lìa của mẹ cha, trước sự sụp đổ của hạnh phúc gia đình, bi kịch của một sự đau khổ đã quét đi một gia đình mà chỉ mới hôm trước đây chung sức xây đắp một gia đình đầy ắp tiếng cười vui, nhưng ngày mai đây, mỗi người sẽ ngồi khóc trầm lặng trong một góc của mình trước nỗi bất hạnh không thể nào cứu vãn. Làm thế nào người thầy cãi chúng ta lại có thể dửng dưng trước một gia đình tan vỡ, nhất là khi cái gánh nặng buồn đau lại đổ trên vai của những đứa con?”

“Hơn thế nữa, các đồng nghiệp thân mến, không phải chỉ có một gia đình bị tan vỡ mà hàng triệu gia đình đang kêu than và khổ não. Vĩ tuyến 17 không chỉ là một đường biên vô hình hay một đường chia tự nhiên của địa hình, mà là một làn sóng phóng đi những tiếng kêu van, trách móc và than khóc của hàng triệu người bị buộc phải xa lìa nhau mà không hề biết tại sao, sự tàn ác của những người đã bắt họ phải chịu đọa đầy vì cách chia và cô quạnh. Làn sóng đó cũng phát đi những tiếng uất hờn và hận thù của hàng chục ngàn người con yêu nước đã phải chết gục dưới làn đạn hay máy chém, duy nhất chỉ vì họ muốn sống trong một đất nước thống nhất, cho họ và cho người khác!”

“Tôi vừa phát âm lên một từ ngữ thiêng liêng: Hoà Bình. Chúng ta tập trung với nhau ngày hôm nay ở đây là để gìn giữ Luật Pháp và Hoà Bình. Nhưng ở Hội nghị này, người ta đã nhân danh Hoà Bình đó để từ chối ghi chuyện của Việt Nam vào chương trình nghị sự. Một vài đồng nghiệp, chắc chắn là rất thiện chí, lại quan tâm đến chữ nghĩa hơn là ý nghĩa sâu thẳm của hai chữ Hoà Bình, đã cho rằng mọi đấu tranh có vũ trang không thể được Hội Nghị ủng hộ vì chúng ta phải bảo vệ Hoà Bình. May mắn thay họ đã nghĩ lại đúng lúc và lương tri đã thắng: chúng tôi đã đứng đây, trên diễn đàn này để mong mọi người quan tâm sâu sắc và ủng hộ những cố gắng của Việt Nam chúng tôi nhằm kiến tạo Hoà Bình và thống nhất lại Tổ Quốc.”

“Chúng tôi thấu hiểu rõ ràng rằng, qua quá nhiều hy sinh mất mát trong Thế Chiến Thứ II, chịu đựng tàn phá cùa bom nguyên tử, sống những ngày như sắp tận thế, nhân loại trở nên tê liệt vì sợ hải, lại càng cảm thấy nhu cầu khẩn thiết được sống trong Hoà Binh và lại càng muốn gìn giữ nó! Nhưng sợ hãi đã trờ thành nổi ám ảnh, mâu thuẫn giữa Chiến Tranh và Hoà Bình đã được đơn giản hoá, bình dân hoá và càng trở nên mù mờ, từ đó cái định kiến Chiến Tranh và Hoà Bình là hai mặt đối kháng lại càng được củng cố. Cách suy nghĩ đó đã cản trở lối suy nghĩ biện chứng cho thấy quan hệ qua lại hai chiều của chúng. Người bình dân thường hay bám vào vào những suy nghĩ hời hợt của vấn đế, họ cũng thường hay lập nên những rào ngăn không thể vượt giữa ngôn từ, chữ này chối bỏ chữ kia. Bổn phận của chúng ta là phải vượt qua cách suy nghĩ chỉ nặng phần ngữ âm và cú pháp, để đào sâu từng ý nghĩa sinh động trong nội dung từng câu chữ, nhận thức chúng qua thực tế cụ thể và sinh động. Chúng tôi lúc nảy có nói đến câu danh ngôn Hy Lạp “Si vis pacem, para bellum” [Muốn có hoà bình phải chuẩn bị chiến tranh], chúng ta không nên hiểu nó như cái gì gây hại, mà phải hiểu là không có lằn ranh giữa chiến tranh và hoà bình.”

“Chúng ta nhớ rằng năm 1938, ông Neville Chamberlain đã ký kết Hiệp Uớc Munich và tuyên bố rằng hoà bình đã được cứu vản! Sai lầm: hiệp ước đó chỉ là là một báo trước cho cuộc chiến xảy ra một năm sau đó! Ngược lại, một cuộc chiến với chính nghĩa và hợp pháp chống lại kẻ xâm lăng giành lại độc lập cho Tổ Quốc và tự do cho Nhân Dân, chấm dứt sự chia cắt hai miền, biến nước mắt vì khổ đau thành nước mắt của mừng vui là có phải chăng là một cuộc chiến báo hiệu cho một nền hoà bình công bằng, vững bền và thật sự, nó đoàn tụ những gia đình ly tán, chấm dứt việc khóc than của những kẻ vô tội, làm những nụ cười khô héo nở hoa trở lại trên môi, mang lại hạnh phúc và hy vọng cho trái tim, tìm được niềm vui của cuộc sống, được tái sinh trở lại như một con người. Trong ngôn ngữ của nhân loại, hay ít nhất là của chúng tôi, cuộc chiến đó tên gọi là Hoà Bình.”

“Không phải bổn phận của chúng ta, những Luật Sư Dân Chủ, là làm dễ dàng cho việc thiết lập nền hoà bình như thế trên thế giới bằng cách ủng hộ những cuộc đấu tranh để có một kết thúc thực mỹ mãn. Cho phép tôi được nêu vấn đề để mong quí vị quan tâm. Tôi hy vọng rằng khát vọng của dân tộc tôi sẽ không bị biến thành thất vọng và tôi hy vọng nhận được những giúp đỡ động viên của quí vị để giúp dân tộc tôi cống hiến nhiều hơn nữa”.

Những cố gắng đã mang lại thành công mỹ mãn và chúng tôi đã đạt được những gì mà dân tộc mong đợi.

Trên đường về nước chúng tôi đã được đoàn Sec mời ghé thủ đô Prague để dự vài buổi làm việc chung. Chúng tôi nhận lời.

Đối thoại với Luật Sư người Séc
Tiếng Pháp được dùng trong buổi thảo luận với Luật Sư đoàn, và vấn đề được bàn là một quan tâm rất lớn của giới Luật gia ở các nước Cộng Sản. Các bạn chủ nhà bắt đầu cuộc thảo luận.

- Trong một nước mà sự phân quyền được áp dụng, thông qua tổ chức các Toà Án, quyền Tư Pháp thi hành Luật và chế tài những kẻ phạm pháp. Nhưng muốn những sinh hoạt Tư Pháp được vận hành tốt và Luật Pháp được áp dụng, giới Luật gia phải hành nghề với tất cả lương tâm và trách nhiệm, vì thế bản thân họ không thể tự đứng ra bảo vệ quyền lợi riêng của mình mà phải nhờ đến sự can thiệp của Hiệp Hội Luật Sư, nhất là vào những khi họ bị chính quyền tăng cường áp bức trong một bối cảnh xã hội phức tạp, hay những khi xảy ra xung đột giữa các hội viên với nhau. Vấn đề nêu ra là để thấy là: chúng ta có cần một sự cho phép của những giới chức chính trị để được hành nghề Luật Sư hay không?

- Tôi đang ở vị thế mà tôi có thể thoả mãn sự tò mò của các bạn. Ở Pháp, năm 1931, khi tôi tuyên lời thề trước Toà Phá Án ở Monpellier, họ không hề đòi hỏi bất cứ hình thái cho phép nào. Để hành xử một nghề tự do, chuyện xin phép một thẩm quyền nào đó là một điều đáng nực cười vì nó đã đánh mất quyền tự do của người này. Ngay cả chuyện quốc tịch cũng không là vấn đề, ít ra là cho những người là công dân của Pháp. Chỉ có hai đòi hỏi duy nhất: một là phải tốt nghiệp một Trường Luật, để nói rằng là đã có một trình độ hiểu biết Luật Pháp tối thiểu và điều thứ hai là chưa một lần mắc tội hình, một lần nữa để nói rằng mình có một đạo đức tốt.

- Rất có lý. Nhưng tại sao ở những nước Cộng Sản, nhà lãnh đạo chính trị cho rằng họ phải nắm Hiệp Hội Luật Sư và cho rằng chúng ta, những người hành nghề phải tuỳ thuộc nơi họ?

- Điều đó có thể giải thích được. Ở một nước Cộng Sản, Đảng tuyệt đối độc quyền chính trị, nắm giữ mọi quyền hành; theo chủ nghĩa Cộng Sản giai cấp nắm quyền không bao giờ san sẻ quyền lực cho bất cứ ai khác. Để mãi mãi nắm quyền, hưởng mọi đặc quyền, kéo dài đến vô tận, khai thác đến tột cùng của chiều sâu; nói một cách gãy gọn, đây là một chế độ chuyên chế ở ba chiều không gian, một chế độ chuyên quyền gần như tuyệt đối, gian xảo nhất, cứng rắn nhất trên thế giới và trong lịch sử nhân loại. Dưới một chế độ như thế, quyền tự do là một lầm lẫn, một loại bệnh hoạn cần phải loại bỏ trong dân chúng. Vì vậy, không bao giờ có bất cứ loại ngành nghề nào là nghề tự do, không có nghề Luật Sư, không có nghề Bác Sĩ mà chỉ có những người là nhân viên làm việc và ăn lương của Nhà Nước, phải nhanh chóng thi hành lệnh của họ. Khi mà Đảng và những người chóp bu không thể có mặt ở mọi lúc mọi nơi để hành xử quyền tuyệt đối của mình, họ bắt buộc phải nhờ vả đến những người có khả năng, mà khả năng nếu có, chỉ là khả năng tuân chỉ người chủ của mình một cách mù quáng và tự động. Hậu quả là những người nắm giữ quyền hành từ cao đến thấp đều làm việc không với kiến thức hay khả năng cần thiết mà bằng sự thiếu sót về văn hoá và sự ngu dốt! Ở vài nước, Bộ Trưởng Giáo Dục chưa hề qua hết lớp Trung Học Phổ Thông, Bộ Trưởng và Thứ Trưởng Bộ Tư Pháp chưa hề học qua Trường Luật. Trong những hoàn cảnh đó, một Luật Sư Đoàn chân chính làm sao có thể hoạt động được? Bị lệ thuộc hoàn toàn vào nhà cầm quyền, Luật Sư Đoàn không thể sinh hoạt theo như truyền thống được.

- Chuyện xảy ra như thế nào?

- Bước đầu, nhà cầm quyền chọn một số người để đưa vào Luật Sư Đoàn: đa số là những nhân viên hưu trí với một lương hưu chết đói và một vài người trẻ tốt nghiệp ở những nơi gọi là trường Luật do một số biết nói chuẩn tiếng Nga và đã học được một vài điều bóng bẩy của Hệ Thống Tư Pháp Liên Xô. Đám người này là những đầy tớ ngoan ngoãn cho Nhà Nước. Cùng lúc ấy, những người đau khổ để lộ một vài ý muốn độc lập thì bị loại ngay tức khắc khỏi Luật Sư Đoàn và bị mất phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả thu nhập. Chỉ nội bao nhiêu đó cũng đủ làm cho họ trở nên cam tâm thuần phục.

Hơn nữa, cái tên là “kẻ bảo vệ nhân dân” gán cho họ cũng để nhắc nhở là họ không phải là những Luật Gia với những kiến thức về Luật đang hành nghề tự do, họ không có quyền hay có những phương tiện vật chất, để mở văn phòng tư. Họ là thành phần của một đoàn thể có một văn phòng là nơi làm việc và tiếp thân chủ. Thiên hạ bu những người cố vấn ấy như những con ruồi bu một tảng đường. Giá phí được định bởi Nhà Nước. Lối tổ chức này nhằm thoả mãn hai yêu cầu: thứ nhất, nguyên tắc làm việc tập thể được áp dụng như bất cứ nơi nào. Thứ hai, việc tập thể hoá là có lợi cho Nhà Nước; họ đưa người của họ và chỉ định Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn, dĩ nhiên người này là một quan chức, hoàn toàn không biết chi về Luật nhưng lại là một tay cự phách trong việc điều hành, nhất là điều hành quân đội.


- Tại sao Đảng lại than van về Luật Sư Đoàn?

- Thứ nhất, bất cứ nhà cầm quyền nào cũng bị điều kiện hoá bởi khuynh hướng chuyên quyền. Nhưng người Cộng Sản lại bị chuyện này hơn ai hết. Để áp đặt quyền thống trị mà họ rất biết đây là vấn đề hết sức tế nhị, chính quyền cộng sản đã sáng tạo ra muôn vàn thủ đoạn bằng cách đưa nhiều người ngoài vào tổ chức, có khi số người ấy lại nhiều hơn là người của chính tổ chức. Bằng cách trộn lẫn người trong người ngoài như thế trong một tổ chức quần chúng, Đảng kiểm soát họ dễ dàng hơn, hiệu quả hơn và gặt hái thành quả của một khối nhân sự mà trong đó có tay sai của mình. Những tay sai như Angus và Ceberus. Bên cạnh đó, bằng cách cấm cản người của họ dùng lý trí và ngôn từ, Đảng đã hạ họ xuống hàng động vật, nhồi nhét họ những phản xạ để biến họ thành những người máy. Chẳng phải không có lý do mà bà phù thuỷ Circé đã biến tù nhân của bà ta thành những con heo được phú cho tài năng duy nhất là biết nhảy qua chiếc máng ăn khi nhận hiệu lệnh. Tất cả các tay nắm quyền đều chung mơ ước là có được chiếc đũa thần của thầy phù thuỷ.

Nhưng, nếu Đảng áp dụng biện pháp khắt khe trên giới Luật gia, trước hết là vì họ là người trí thức và là đối tượng ghét hận của những kẻ chuyên quyền, vì Luật gia là người có cái đầu để suy nghĩ và có cái mồm để nói, hai thuộc tính gây ác cảm nơi kẻ cầm quyền, làm phức tạp cho công việc và gây xáo trộn cho kế hoạch của họ. Hơn nữa, trong giới trí thức, giới Luật gia lại càng nổi trội với kiến thức về Luật, thông thạo, thường nắm vững những hội nghị và những cuộc phê bình, và còn hơn nữa là họ có ý thức về tư cách, danh dự và trách nhiệm. Họ tự mình đặt vào vị thế tương phản với những con người máy khúm núm nịnh bợ với những kẻ chuyên quyền. Từ đó, trong khi tác nghiệp bảo vệ quyền lợi thân chủ trước các cấp Toà Hình Sự, rất thường khi, họ trở nên có thái độ khinh thường, ngay cả láo xược trong những lúc kình chống lại hệ thống Pháp lý của công quyền hay các cấp lãnh đạo chính trị. Đối với quần chúng, trong khi những nhà “bào chữa nhân dân” luôn vạn lần cúi đầu, thì giới Luật gia đứng thẳng trên tầm vóc của mình, gây sự chú ý và vì thế đã trở nên đối tượng bị ghét hận của giới cầm quyền. Họ theo mẫu mực của La Bruyère và chấp nhận đứng về phía của Nhân Dân.


- Có thể nói là giới Luật Sư là một thành phần riêng của thế giới người trí thức?

- Thượng Đế lại phò trợ cho họ! Họ nắm những khuyết điểm của người Luật Sư là những người không chịu hy sinh, không nghĩa danh liệt sĩ, càng không muốn việc thay đổi chính quyền và thường là những kẻ cơ hội chủ nghĩa. Nhưng là người trí thức, họ lại là những người dân đầy tính dân chủ chảy trong dòng máu. Tôi nghĩ rằng tôi có thể khẳng định rằng Luật Sư Đoàn là một tiêu chuẩn của nền Dân Chủ, rằng ở nước nào tiêu chuẩn đó thắng thế và có một Luật Sư Đoàn chân chính hoạt động, nơi đó nền Dân Chủ chiến thắng.

- Bạn hãy cho chúng tôi biết nơi nào có một thể chế như thế?

- Rất dễ hiểu. Trong khi tác nghiệp, và có được quyền tự do ngôn luận, tức là tự do tư tưởng, người Luật Sư sẽ phản đối nạn chuyên quyền của nhà chức trách, sự bất công của hệ thống pháp chế. Bất cứ chế độ chuyên chế nào cũng không chấp nhập quyền lực của họ bị đặt vấn đề, chấp nhận những cái điên rồ của nền pháp lý của họ bị bóc trần. Chỉ có ở những nước Dân Chủ, người dân mới có thể thấy cảnh đó.

- Nhưng vần đề là làm sao một Luật Sư Đoàn với ý thức trách nhiệm của mình, gồng mình can đảm để thực thi Dân Chủ đồng thời làm cho guồng máy chạy?

- Đây là một câu hỏi chính đáng! Luật Sư Đoàn chỉ có thể hoàn thành một cách có hiệu năng vai trò của mình càng nhiều càng tốt, duy nhất là phải có một nền Tư Pháp độc lập ghi rõ trong Hiến Pháp và Luật Sư Đoàn tự mình phải ý thức được trách nhiệm của mình. Toà Án phải là nơi dũng cảm cũng như là nơi của chính trực và liêm khiết, là nơi luôn luôn có quyết tâm mãnh liệt trong việc áp dụng Luật và Công Lý mà không dính đến những hệ luận về bổng lộc hay lợi ích cá nhân do tham nhũng đưa đến. Toà Án và Luật Sư Đoàn, với danh dự và phẩm giá như là hai đức hạnh đương nhiên, là hai cột trụ của một nền Dân Chủ.

Toà Án và Luật Sư Đoàn liên kết với nhau trong cùng một cái nhìn về những ràng buộc của nghề nghiệp, cùng một niềm tôn trọng với Luật Pháp và Công Lý.


- Nhưng ngành Tư Pháp chỉ chăm lo việc áp dụng Luật và trừng phạt kẻ phạm pháp. Nó chỉ tiêu biểu cho khoảng một phần ba của một nền Dân Chủ.

- Vả lại, tự bản thân, nó bảo vệ cho nền Dân Chủ nằm trong một cấu trúc mà nó tham gia. Nền Dân Chủ mà “Chính quyền là của dân, do dân và vì dân” tự nó là tập trung trong tay ngành Lập Pháp nơi làm ra Luật ; và ngành Hành Pháp sẽ lo áp dụng Luật. Sự nguy hiểm sẽ xảy ra khi cả hai đều cùng cho rằng mình có quyền, với những đặc quyền riêng, được đứng trên Luật Pháp. Nguyên tắc cơ bản của một nền Dân Chủ là mọi người đều bình đẳng trước Pháp Luật. Hệ quả là ba ngành cùng tồn tại trong một tương quan “cân bằng và tự kiểm soát lẫn nhau”, tự cô lập mình trong một cách nào đó khỏi phải đi trật đường, rơi vào xa cách và vào cảnh bên lề, để giữ gìn cho một chính quyền vì dân và do dân.

Như thế, việc chia ra làm ba ngành (Lập Pháp, Tư Pháp và Hành Pháp) đã ngăn chận những kẻ độc tài có cơ hội tập trung mọi quyền lực trong tay một người. Nguy cơ tổn hại về kinh tế, xã hội từ những thảm hoạ gây nên bởi sự độc quyền về chính trị, nói một cách chính xác, bởi những tay chóp bu, có thể được tránh khỏi hay có thể giảm đến mức tối thiểu.


Giới Luật Gia Séc rất kinh hoàng khi biết về sự can thiệp của chính trị và của những kẻ độc quyền vào lãnh vực Luật Pháp, về việc Đảng nắm hết chính quyền, cám ơn chúng tôi đã giúp xua tan những khổ tâm của họ. Trước đó họ thấy những tác hại nhưng không làm sao tìm ra nguyên nhân, lý do là họ sống trong một thế giới bưng bít, không hề nhận được một thông tin gì từ thế giới bên ngoài, mà chỉ thấy một dân chúng quỳ lạy suy tôn thần tượng và đồng ca những bài kinh cầu để vinh danh chủ nhân của họ. Họ thấy những tác hại một cách mập mờ rối rắm, nhưng lại không làm sao tìm ra giải pháp cho vấn đề. Ít ra, giờ đây họ đã thấy một chút đại cương về toa thuốc của cơn bệnh đang tàn phá đất nước mà họ là những người đang chứng kiến. Chúng tôi đã mở mắt và mang cho họ nét đại cương của một nền Dân Chủ. Chúng tôi đã đốt ngọn nến tò mò của tri thức, họ sẽ tự tìm thấy những kiến thức với những tìm tòi nghiên cứu. Khi chúng tôi lên đường, trong lòng chúng tôi mong mỏi rồi đây họ và nhân dân của họ sẽ được hưởng ánh sáng ban mai của nền Dân Chủ đang chói sáng về phía chân trời.
 
Đối thoại với Luật Sư Liên Xô

Ghé Moscova trên đường về, chúng tôi được đoàn Luật Sư Dân Chủ của Liên Xô đón. Tôi là trưởng đoàn nên được đưa vào khách sạn Metropole, đối diện với nhạc viện Bolchoï. Căn phòng dành cho tôi được trang hoàng lộng lẫy với những đồ xưa quý giá. Những ngọn đèn pha lê chiếu hắt trên những bàn ghế lộng lẫy thời Sa Hoàng, nhưng phòng tắm lại chiếu rực với những trang bị hiện đại. Một chiếc xe hiệu Zim Zis được dành riêng cho tôi sử dụng; tôi có thể ngả mình nằm dài trên chiếc ghế phía sau, tha hồ mà êm ái. Nhưng tôi cũng cảm thấy chiếc xe được lái tới 120 km một giờ dù rằng người tài xế tỏ ra rất kinh nghiệm và hoàn toàn làm chủ tay lái của mình. Nhưng, hắn thường nực mùi vodka….

Chúng tôi trở nên tò mò và ao ước được nghe những thông tin về những vấn đề quan trọng. Nhưng chúng tôi đành phải kềm chế sự tò mò vì lẽ chúng tôi biết rằng trong thế giới cộng sản, thật không đúng cách khi đặt những câu hỏi mà người đối thoại cảm thấy rất ngại ngùng khi trả lời. Luật im lặng được áp đặt cho họ cũng như cho chúng tôi. Vì thế, như thường lệ, chúng tôi tránh đặt câu hỏi, tự giới hạn mình vào việc nghe những báo cáo đọc đã được đọc đi đọc lại nhiều lần, những báo cáo chắc chắn đã được chỉnh sửa bởi những “người trách nhiệm” của Đảng. Ai cũng có thể nhận biết trước màu sắc, giọng điệu và nội dung của nó. Sau màn tố cáo chế độ Tư Bản thối nát là phần ca tụng những thành quả của chế độ Cộng Sản và, đặc biệt là phần một trăm phần trăm hoàn thành kế hoạch hằng năm và sau hết là phần vinh danh Đảng và các lãnh đạo. Nhưng lần này, phía chủ nhà Liên Xô đã phá lệ. Thứ nhất, không có màn báo cáo thành tích của Luật Sư Đoàn. Sau đó là họ đề nghị trao đổi về Trách Nhiệm của Nhà Nước. Hết sức kinh ngạc, chúng tôi tưởng như đã nhảy văng khỏi ghế ngồi. Đây là lần đầu tiên mà hai cụm từ Trách Nhiệm và Nhà Nước được gắn kề, trách nhiệm của Nhà Nước đã được nêu lên. Chúng tôi tự hỏi phải chăng những ý kiến của Đại Hội lần thứ XX của Đảng Bolchevik đang nhập cuộc và phải chăng ảnh hưởng của Khrushchev đang thắng thế trên đất nước Liên Xô. Mặc kệ, chúng tôi thật vui sướng khi được cùng các đồng nghiệp Liên Xô bắt đầu chung những điều tốt như thế. Không còn gì hấp dẫn hơn là được lướt đi trên con đường không giống ai và có vẻ dị hợm, con đường mà chỉ vài năm trước đây đã có thể đưa chúng tôi trực chỉ lên máy chém hay đi tù ở Siberia!

Người chủ nhà Liên Xô đón tôi với nụ cười.

- Tôi thấy trong mắt của bạn chói sáng một sự ngạc nhiên. Vâng, rất đúng như thế: chúng ta sẽ trao đổi về Trách Nhiệm của Nhà Nước. Khi Stalin còn sống, đây là một chuyện cấm kỵ và người ta có thể bị nguy hiểm dù chỉ ám chỉ nhẹ nhàng đến nó: Nhà Nước không bao giờ chịu trách nhiệm về chuyện gì… Bây giờ thì chúng tôi bớt bị trói buộc và có thể, trong vòng giới Luật Gia, có thể bàn cãi khá nhiều vấn đề!

- Chúng tôi chúc mừng ông và rất vui vì điều ấy. Có thể nào, trong thời gian sắp tới, chúng tôi có thể được tự do và hoàn toàn được tự do phát ngôn trong những buổi thảo luận của chúng ta?

- Ngay cả ngày hôm nay, chúng ta được ở trong phòng riêng vắng những đôi tai bí mật muốn nghe những gì chúng ta nói, chúng ta thật có toàn quyền nói những suy nghĩ của chúng ta.

- Thật là một thời kỳ lạ, một thế giới kỳ lạ! Những Luật Gia lại cư xử như những kẻ âm mưu đang giấu mình khỏi cặp mắt của công an và gián điệp. Nhưng họ đang âm mưu vì Pháp Luật và Công Lý. Có những yếu tố giảm án nếu họ bị bắt và truy tố trước Toà Án.

- Hay đó lại là yếu tố tăng tội khi gặp phải ông quan toà cộng sản hề khoan nhượng và ai cũng rõ sự không khoan nhượng đó đã cấu thành từ sự khiếp sợ của họ đối với Luật Pháp và Công Lý.

- Bây giờ chúng ta đang ở trung tâm của vấn đề đấy. Nếu một nhà nước cộng sản, cũng như trong thời kỳ quân chủ tuyệt đối, đều cho rằng họ không chịu trách nhiệm về bất cứ hoạt động của họ, thì việc của chúng ta còn lại là tập trung vào trọng tâm của vấn đề. Con người tự phân biệt mình với thú vật và cho rằng mình cao hơn thú vật là nhờ ở những đức tính mà chỉ con người mới có. Nhưng lương tâm, tư cách và danh dự lại liên hệ đến đạo đức và dính líu đến mỗi cá nhân. Mỗi người càng có nhiều đạo đức thì càng được nhiều người kính nể. Thiên Đường là nơi thiêng liêng nhưng nơi ấy thì con người không được mời đến. Trong đời sống xã hội, nơi mà người chung đụng với người, nơi mà những quan hệ xã hội được hình thành và tổ chức, mỗi người phải chịu trách nhiệm về suy nghĩ và lời nói của mình, phải giữ gìn cho chính bản thân, trong nghĩa là không gây tác hại về quyền lợi vật chất, thể chất cũng như tinh thần cho người chung quanh. Trật tự xã hội chỉ có thể được duy trì nếu mà bất cứ vụ phạm luật hay làm thiệt hại cho tài sản người khác đều phải bị trừng phạt và bồi thường. Như thế trong một thế giới văn minh, chính là cá nhân và những trách nhiệm của cá nhân là nền tảng để xây dựng xã hội.

Cái nguy hiểm thường trực treo trên đầu nhiều nhà nước trên thế giới là những kẻ bạo quyền luôn đặt mình trên nhân dân của họ, tự cho mình những đặc quyền do sự độc quyền mà họ nắm, tự cho mình trên cả Luật Pháp và tỏ ra vô trách nhiệm. Nói như thế là để nói rằng những ý tưởng và hành động của họ phải được thảo luận và phê bình, những lỗi lầm của họ phải bị trừng phạt.

- Kẻ độc tài xem ra giống như vợ của Caesar: tuy không có chi để nghi ngờ, thế mà Messalina lại phải lang thang suốt đêm khắp thành Roma! Dĩ nhiên, không có tên độc tài nào lại chối bỏ những trách nhiệm mà hắn biết rõ là chỉ là những trách nhiệm của trẻ con hay của những người điên hay mất trí. Những khi đó, ngay đối với những chuyện không được ai nói đến, cũng không có nghĩa là không có chuyện gì xảy ra. Với một xuất thân ngu dốt, không văn hoá kẻ chuyên quyền không hề ý thức được những gì bất bình thường đang xảy ra. Để giành mọi đặc quyền cho mình, họ đưa ra luận điệu ưu việt: họ tán tụng đã liên hệ được với những người ngoài hành tinh, họ là “con của Trời”, họ là “người đã được chọn” hay tự cho mình là chính là Quốc Gia. Louis VIV đã tuyên bố “Quốc Gia chính là ta”. Bốn thế kỷ sau, trong một buổi nhận huy chương cao quý của dân tộc, De Gaulle đã tuyên bố “Quốc Gia không tự mình gắn huy chương cho mình”!

- Bằng cách chiếm hữu, một cách không tốn kém và cũng chẳng có chứng cớ chi, một gốc gác siêu phàm, một thực thể vô hình, bằng cách cho mình là Quốc Gia, kẻ chuyên quyền tự cho mình đứng trên dân chúng, và vì thế được miễn trách mọi trách nhiệm. Kẻ chuyên quyền cộng sản hãnh diện là những người duy vật vô thần thì không kêu rằng họ có nguồn gốc siêu phàm. Họ cũng chẳng cho rằng họ là Quốc Gia. Chỉ có lực lượng nhân dân đưa họ lên đỉnh của quyền lực.

Rất thú vị nếu chúng ta cùng nhau phân tích tiến trình này, nó không giống như tiến trình nắm chính quyền như thời quân chủ chuyên chế.

- Vào thế kỷ 17, ở Pháp, do sự chia rẽ của giai cấp phong kiến và đồng thời cũng nhờ sự tham lam kinh hoàng của giai cấp tư sản đồng minh, nền quân chủ đã thắng phong kiến một cách khó khăn (phong kiến vẫn chưa thừa nhận sự thất bại), quyền lực như tù trên Trời rơi xuống. Biểu tượng “vua-mặt trời” chỉ là để chỉ sự khao khát của Triều Đình chứ không có nghĩa là Thiên Đàng hay Ý Trời. Vua Louis XIV tuyên bố “Quốc Gia là ta!” Nhưng, khi ông ta tự nhận mình là Quốc Gia thì ông ta không hề nhận là có trách nhiệm với nhân dân. La Bruyère và Fenneton tố cáo dân chúng nghèo khổ kinh hoàng nhưng nhà vua không hề cảm thấy có trách nhiệm cho hoàn cảnh đang xảy ra. Câu nói lịch sử mà ông ta nói là chỉ để giữ một ý đơn giản là ông ta sẽ dùng quyền hành mình để đập tan mọi mầm mống phiến loạn, tiêu diệt mọi mầm bệnh truyền nhiểm gây chia rẽ và làm tan rả sự thống nhất còn đang dao động của Đất Nước. Việc lên ngôi của vua Louis XIV được quy định bởi Luật của Triều Đình, nhưng cuộc xung đột chính trị với giai cấp phong kiến mà ông ta tiến hành lại được sự ủng hộ của nhân dân, của giới tài phiệt, giới tư sản trí thức và giới tư sản nghị viện. Nếu ông ta không phải là nạn nhân của những điều ngớ ngẫn vô ích của chính ông ta, nếu ông ta có những cái nhìn chính xác và gẫy gọn về những quyền lợi hiện tại và tương lai, ông ta đã phải dựa vào dân thì nước Pháp đã tránh được một cuộc Cách Mạng.

Đối với những gì liên quan đến Liên Xô, nhân dân đã thoát những ngày gian khổ vào cuối triều Louis XIV. Liên Xô đã hưởng vinh quang và sự vĩ đại của một cường quốc. Nhưng chỉ có Thượng Đế mới biết giá phải trả là bao nhiêu cho việc này? Sau cái chết của Staline, nhờ những hớ hênh ít nhiều được dàn dựng, và cũng nhờ những lời kêu than vì đau đớn, tiếng gầm uất hận của hàng ngàn hàng vạn gia đình, khắp miền Đất Nước, có con có chồng bị giết, bị tra tấn đến chết trong những trại, những lao tù ở Siberia, sự thật về Stalin đã được mọi người biết. Chính quyền cách mạng, vừa mới được xây dựng, còn đang chao đảo, và kẻ thù, trong và ngoài nước, chỉ mong nó chết đi. Cần thiết phải có một người với nắm tay sắt để lèo lái những bước đi, để sống còn và phát triển. Kết quả đã vượt qua những hy vọng. Từ một nước yếu kém, kinh tế yếu kém, chúng ta đã thành một sức mạnh quân sự đủ sức đánh bại quân phát xít Hitler và trở thành một trong những nền kinh tế dẫn đầu thế giới. Stalin xứng đáng được dân chúng tôn sùng vì đã được sống những giờ phút vinh quang của Lịch Sử Liên Xô. Bất hạnh thay, ông ta cũng phạm những tội ác kinh hoàng mà hồ sơ chồng chất năm này qua năm nọ.

Tiến trình nắm chính quyền của những kẻ chuyên quyền cộng sản ở Việt Nam lại là một tiến trình bình thường. Vô số quần chúng ở nông thôn, được kích động bởi một số người, vỡ oà ra hiểu rõ nỗi thống khổ của mình: bị bóc lột bởi phong kiến, bị đàn áp bởi thực dân… Ngày 19 tháng 8 năm 1945, dựa vào thế thuận lợi lịch sử của tình hình thế giới, mặt khác trận đói kinh hoàng đã giết hàng triệu sinh mạng, những người kích động dân chúng còn sống sót nổi dậy và tiêu diệt kẻ thù, chiến đấu mãnh liệt để chiếm lấy thức ăn và áo mặc. Mục tiêu rất đơn giản và rõ ràng, nhưng bọn chuyên quyền đã thất bại và không đạt được mục tiêu tưởng chừng như ít ỏi đó. Mặc dầu vậy, khẩu hiệu “Cơm ăn, áo mặc” cũng đủ biến giai cấp nông dân thành kẻ cuồng tín và biến họ thành những kẻ đi theo cách mạng. Vì thế, cách mạng thành công là nhờ lực lượng quần chúng. Nhưng phe cách mạng cảm thấy cần chính thức hoá sự thành công của mình bằng một cuộc bầu cử Quốc Hội. Không thành vấn đề nếu mà tuyệt đại đa số các đại biểu là thất học, không hề hiểu ý nghĩa của lá phiếu mà họ được mời tham gia. Họ đến tham gia Quốc Hội theo tiếng gọi của một đợt tuyên truyền rất chuyên nghiệp và đến bỏ phiếu thế thôi. Thủ tục hình thức Luật định đã được cứu vãn, nền “Dân Chủ” đã thành hình và những người làm Cách Mạng hả hê vì đã kết dính sự hợp nhất của họ với nhân dân.


- Còn có những gì cần khác hơn?

- Vẻ bề ngoài như thế là đủ. Nhưng có kẻ còn muốn vượt qua vẻ bề ngoài để cố gắng nắm cái thực tiễn. Dù không biết đọc, biết viết, nhưng người ta đã bỏ phiếu và diễn tả rõ ràng ước muốn của mình. Đây là chỗ hiểu lầm, mà như một số người đã nói, mà thảm cảnh bắt nguồn. Người Cộng Sản tưởng rằng đã chiếm được trái tim của nhân dân. Nhưng đó chỉ là một ảo tưởng mà dù sớm hay muộn họ phải dứt bỏ. Lý do hay nhất là, vào những năm 1945-46, có một số người mà con số không quá mười đầu ngón tay, từ Liên Xô hay Trung Quốc quay về nước với một mớ mơ hồ và không rõ ràng về chủ nghĩa Cộng Sản.

- Nhưng người dân đã dùng lá phiếu để bầu cho ai?

- Người ta sẽ trả lời cho bạn là họ bầu cho ông Hồ Chí Minh, họ không bầu cho con người cộng sản đang giấu mặt kín bưng trong cuộc chơi và con người đó không hề đả động gì đến việc đấu tranh giai cấp, nhưng, với dáng dấp một nhà nho truyền thống, với chùm râu không thể thiếu, ông ta chỉ có một câu nói trên cửa miệng: “Đoàn kết, đại đoàn kết”, có nghĩa như ông ta đang đặt mình là người đối lập với đấu tranh giai cấp. Một vài lão thành cộng sản đã xì xầm là ông ta đã từng tự phê bình trước mặt Stalin! Trong bất cứ chuyện gì, tên Hồ Chí Minh đã trở thành bùa chú để chống tai ương và mang lại hạnh phúc. Tệ sùng bái cá nhân đã thành hình, ông ta đã được thần tượng hoá, tên ông ta được dùng khắp nơi, quyền lực của ông được xử dụng để đưa nhân dân vào thế là người có lỗi càng nhiều càng tốt [*]. Vì vậy, huyền thoại Hồ Chí Minh chỉ toả ra một ý nghĩa dân tộc và không cộng sản, trong khi Đảng, cố tình hay vô ý, kéo cả tấm chăn về phía mình và chiếm hưởng tất cả niềm tin của nhân dân.

- Đây là một sự lập lờ đánh lận con đen nhưng nó bi thảm ở chỗ nào?

- Bi thảm là ở chỗ chính Đảng đã tự lừa dối mình, nghĩ rằng mình có thể đưa ra những đường lối chính trị trẻ con phát xuất từ bệnh ấu trĩ, duy ý chí, chủ quan, vi phạm những định luật của khoa học, quay lưng lại với thực tiễn, những chính sách này sớm hay muộn cũng sẽ đưa Đất Nước vào sự nghèo túng và đưa nhân dân vào sự đau khổ. Bên cạnh đó, với niềm tin cho rằng mình là vô địch, Đảng nghĩ rằng mình có thể áp chế nhân dân, chơi đùa trên sinh mạng của họ, buông lơi Luật Pháp, hành động với sự tàn ác vô nhân tính như đã xảy ra trong đợt Cải Cách Ruộng Đất, một kỷ niệm đau buồn không bao giờ quên được trong tâm khảm của người dân. Vì vậy, vấn đề quan tâm là trách nhiệm của Nhà Nước và chính xác hơn, là trách nhiệm của bọn chuyên quyền đã thống trị nó.

- Một nghiên cứu về những kẻ chuyên chế trên thế giới trong lịch sử và qua thời gian đã cho thấy chúng có những nét chung không thay đổi mà chúng ta cần phải nhớ đến. Thứ nhất, ngay cả trong thời kỳ xưa kia của nền quân chủ chuyên chính, vai trò của nhân dân luôn luôn là quyết định, dù rằng họ không đóng vai nổi bật trên chính trường. Mọi cuộc đảo chánh, mọi cuộc Cách Mạng chỉ có thể thành công nếu được nhân dân đồng tình ủng hộ. Chủ nghĩa Marx nói đúng khi cho rằng lịch sử là do quần chúng làm nên. Những học thuyết chủ nghĩa, những lý thuyết đều phát nguồn từ bộ óc của cá nhân, nhưng hành động, muốn có hiệu quả, lại phải tuỳ thuộc vào khả năng và sức năng động của quần chúng. Chủ nghĩa Marx đã dạy điều như thế nhưng những tay chuyên quyền lại hay quên hay không để ý đến. Những tay chuyên quyền khi đã đạt địa vị thì quay lưng và tự cô lập mình và xa rời quần chúng, không còn lắng nghe tiếng nói hay lời than phiền, ước vọng của nhân dân. Chúng gây hại cho nhân dân, chúng bịt tai thành điếc nên không còn nghe lời than van hay đòi hỏi của nhân dân, và như thế họ đã tự giết cả chính mình.

Vì thế, cần phải biết rằng có một ràng buộc qua lại giữa kẻ nắm quyền và nhân dân. Một khi được nhân dân đưa lên đỉnh cao của quyền lực, kẻ nắm quyền phải có trách nhiệm lo cho quyền lợi của nhân dân, và trong mức có thể, họ phải làm tăng trưởng quyền lợi của nhân dân theo số lượng và chất lượng. Một thoả thuận hai bên giữa những kẻ nắm quyền và nhân dân, dù không bằng văn bản hay lời nói, nhưng dưới dạng hiểu ngầm, căn cứ trên những truyền thống lịch sử hay xã hội. Ngay khi những kẻ chuyên quyền vi phạm bổn phận của mình, gây hại cho quần chúng thì lập tức quần chúng được qưyền huỷ bỏ những ràng buộc về phần họ; kẻ chuyên quyền sẽ bị nhân dân trừng phạt và có thể bị nhân dân áp đặt án tử hình.

- Hơn thế nữa, trong suốt thời gian nắm quyền, bất kể kẻ cầm quyền nào cũng thực hiện những chuyện tốt lẫn chuyện xấu. Nhưng dù đã thực hiện được nhiều chuyện tốt cho dân chúng họ vẫn không thể được miễn trách cho những chuyện xấu mà họ đã gây ra. Chỉ có nhân dân mới có cái quyền tối thượng đưa ra phán xét là giữa cái tốt và cái xấu cái nào nặng hơn cái nào. Nếu cái tốt thắng, thì cán cân nghiêng về phía kẻ nắm quyền, và họ sẽ được dân chúng biết ơn một cách chân thành, họ sẽ được đưa vào vinh quang của Lịch Sử mà con cháu đời sau sẽ luôn nhớ! Nhưng nếu cán cân nghiêng sâu về phía xấu, trong cuộc đời của họ, họ sẽ bị hạ bệ vứt đi, và sau khi chết, tên họ sẽ bị nguyền rủa muôn đời.

- Trường hợp của Stalin là môt ví dụ điển hình. Ông ta đã thực hiện được một số lớn chuyện tốt nhưng đồng thời cũng làm một số lớn chuyện xấu. Nhưng không có ai dám chỉ trích những việc xấu mà Stalin đã làm vì cái nguy hiểm kèm theo rất cao. Cái tệ hại nhất là hồi ấy người đời tranh nhau ca tụng Stalin! Bây giờ thì công lý đã có cơ hội để vận hành những nguyên tắc mà dân chúng đã xây dựng qua những tháng ngày sống trong đắng cay và đau đớn. Từ nay trở đi, không có kẻ cầm quyền nào có thể đòi hỏi là những chuyện tốt họ đã làm có thể làm tan biến trách nhiệm về những tội ác mà họ đã để lại nỗi kinh hoàng trong tâm trí của người dân lương thiện. Đó là những trách nhiệm có tính hình sự. Có những tình huống làm nặng thêm hay làm giảm nhẹ tội, nhưng dứt khoát là không có chuyện miễn tội.

- Đây không phải là chuyện xử tội kẻ cầm quyền, mà là chuyện những con người phải trả lời về những tội ác mà họ đã làm. Nhưng, khi mà những sai lầm, hư hại phát xuất từ một chính sách hay đường lối chính trị, sự tàn phá có thể là gây ra trên bình diện rộng lớn và tan thương, trách nhiệm của kẻ cầm quyền vẫn được coi là chính trị… Không có gì đáng ngạc nhiên: trong bậc thang giá trị của con người, mạng sống là luôn luôn cao hơn những của cải vật chất mà họ nắm trong tay. Mặc dù vậy, đã có những người bị mất mạng vì sự cẩu thả, vô ý hay có khi vì chủ ý xấu của người hay một cơ quan của Nhà Nước. Dĩ nhiên, nếu người phạm tội một cách có ý thức, người này phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của họ trước Pháp Luật, nhưng rất nhiều khi họ không có tiền để bồi thường những thiệt hại cho nạn nhân hay trả tiền cho thân nhân của người bị chết. Nhà Nước phải chịu trách nhiệm một cách gián tiếp, dựa trên tính liên đới giữa kẻ phạm tội là người đã hành động trong khuôn khổ trách nhiệm được nhà nước giao phó. Nếu không, đó là một trách nhiệm tập thể của chính quyền đã gây ra thiệt hại trong khi thi hành một công việc mà Nhà Nước hay kẻ cầm quyền trao cho, đã vô tình gây thiệt hại vật chất cho một hay nhiều công dân, nhà nước phải bồi thường những thiệt hại do nhân viên của mình gây ra. Ở Pháp, nguyên tắc trách nhiệm hành chánh của Nhà Nước và của tập thể công nhân viên nhà nước là được công nhận. Có nhiều cấp Toà Án hành chánh mà cao nhất là Hội Đồng Quốc gia (Conseil d’Etat) mà quyền cao nhất là có thể huỷ bỏ một phần hay toàn diện những quyết định hành chánh nếu những quyết định này gây ra thiệt hại vật chất cho công dân. Rủi thay, tôi nghĩ rằng tôi sẽ không lầm khi phải khằng định rằng ở các nước Cộng Sản, Nhà Nước chối bỏ việc chịu trách nhiệm hành chánh, không hề tổ chức những Toà Án Hành Chánh có quyền xét xử Nhà Nước và những đơn vị hành chánh thuộc quyền của Nhà Nước. Vì thế có những vùng rộng lớn mà nhà cầm quyền hành xử như vợ của Caesar – theo ý thích và không sợ ai phán xét. Các cấp cầm quyền cấp dưới và dưới nữa lợi dụng tình hình này ra sức áp bức và khai thác nhân dân là những người mà họ tiếp xúc hàng ngày.

Nếu lãnh vực vô trách nhiệm chính trị càng lớn hơn thì hậu quả lại càng không thể đo lường và sửa chửa được. Nhà Nước chỉ là bàn tay nối dài của Đảng và con người lãnh đạo Đảng chính là người đang nắm trọn quyền lực. Nhân dân không là gì hết, tiếng nói của họ đã bị bịt kín. Tất cả những bộ phận của Nhà Nước là gồm những con người của Đảng hay những người toàn tâm toàn ý với Đảng; tất cả cái giống người này chỉ có cái lưỡi gỗ và cái lưng cong cúi luồn với chủ. Trong những điều kiện như thế, làm sao có được những tiếng nói dấy lên để đòi truất phế và thay những kẻ bạo quyền, hay ít ra là để đưa ra những đề nghị, những ý kiến để làm đứng lại cái xe đang lao mình với tốc độ kinh hoàng về phía hố sâu của sự xấu? Mọi chuyện được quyết định từ hậu cung của Đảng, nơi Thần Bí nhất của Thiên Cung, bao quanh bởi một vòng thành kín bưng như Vạn Lý Trường Thành bên Trung Quốc!

Người ta không thể nói chuyện về trách nhiệm, về Luật Pháp đối với chuyện một con cọp đang sẵn sàng ăn tươi con mồi trước mặt. Chưa bao giờ trong lịch sử con người mà lưỡi tầm sét của Thần Zeus - tức cái búa của Thiên Lôi - cùng với cây gậy thần của Circé lại nằm cả trong tay của một người, làm thành một bộ máy thống trị và áp bức cực kỳ hoàn hảo, một bộ máy chuyên dùng khủng bố làm chất nhờn bôi trơn những trục máy! Hơn nữa, ít nhất là cho tới ngày hôm nay, chưa có một tên bạo quyền cộng sản nào đã bị nhân dân xét xử và kết án. Chúng nó chỉ chết trên giường. Nếu tiếng nói nghe được ngoài hành lang của phòng xác, thì không phải là tiếng nói để vinh danh mà là tiếng nói giành nhau xé cái xác lạnh lẽo kia, và có thêm chăng là những tiếng hét xem ai là kẻ sẽ thay thế vào chức của hắn.

Phân tích của chúng tôi đưa đến kết luận là bạo quyền không bao giờ chịu trách nhiệm về những hoạt động của họ trong cả ba ngành Hành Pháp, Tư Pháp và Lập Pháp. Phải hiểu rằng tình trạng vô trách nhiệm của những người chủ nắm quyền là do, trước nhất là những thủ đoạn tinh vi để kềm kẹp và áp bức của họ, thứ hai cũng phải kể đến tình trạng ù lì của dân chúng. Khi tiếng nói bị ếm nhẹm thì trong lòng trở nên sôi sục uất hận, nhưng dù thế, chưa có một ai dám chịu trách nhiệm với quê cha đất tổ mà giương cao ngọn cờ khởi nghĩa. Trong nhiều thế kỷ, người phương Đông đã quen sống trong một nồi hơi ép mà kẻ cầm quyền nắm giữ sức nóng và sức ép, đã thành công biến nhân dân thành những kẻ không còn nghị lực, trở thành lãnh đạm và dững dưng trước mọi thứ và mọi người. Tinh thần trách nhiệm là một thiếu sót lớn nhất trong quần chúng. Giới quan chức làm gương, lạm dụng quyền hành, phù phiếm, ăn cắp của công, tham nhũng và lạm quyền. Mẫu mực của quan chức này lại được các thuộc cấp noi theo. Trong các bệnh viện, có người bị chết chỉ vì không có tiền hối lộ cho những người được trả tiển và lẽ ra là phải có bổn phận lo cho bệnh nhân. Trong các kỳ thi và thi tuyển, đề thi được bán cho bất cứ ai chịu trả tiền. Mọi thứ đều có thể xảy ra. Tinh thần vô trách nhiệm như ngọn gió thổi trên toàn đất nước và kỷ lục của sự phạm pháp và sự vô liêm sĩ luôn luôn bị phá. Sự vô đạo đức cười nhạo sư vô tội và lương thiện.

Sự vô trách nhiệm của giới cầm quyền, trong mọi lãnh vực chính trị lẫn hành chính, không phải là điều bất thường. Nó tròng lên xã hội vòng vương miện của sự dơ bẩn.


- Chúng tôi đồng ý với bạn. Nhưng từ đó bạn muốn đi tới đâu?

- Chúng tôi muốn nhấn mạnh là ác quyền không thể thắng mãi mãi. Chúng tôi không muốn mình là kẻ thầy bói hay nhà tiên tri. Nhưng cuộc đời đã dạy chúng tôi một bài học biện chứng: cùng tắc biến – từ cái xấu cái tốt sẽ đến. Bất cứ khi nào cái xấu đã đến tột cùng của nó thì tự nó sẽ làm phát sinh ra giải pháp trị bệnh cho nó.

- Bạn hãy giải thích thêm để cho chúng tôi có lý do để hy vọng.

- Không có gì là ma thuật ở đây. Các nhà cách mạng Việt Nam hô hào thúc đẩy nhân dân đứng lên tham gia kháng chiến vì đã làm cho họ thấy xấu hổ là đã không làm gì. Con giun sẽ quằn mình nếu bị ai giày xéo lên nó. Cho đến lúc nào con người, ngay cả kẻ hèn hạ nhất, vẫn còn tiếp tục còn chấp nhận bị phong kiến bóc lột và Thực Dân đàn áp?

Những tiếng nói hô hào như thế quở phạt những người đang trùm chăn trong sự thờ ơ, hèn nhát. Hãy để lúc “chín muồi” đến. Như trận đói năm nào làm vương vãi những xác người chết đói đen kịn trên ruộng vườn và trên những con đường làng. Tất cả sự khốn cùng và sự chết đang ép lên những con người còn trơ xương thì họ sẽ đem hết sức tàn mà tấn công tận sào huyệt của phong kiến và thực dân. Cách Mạng đã ghi nhận một bàn thắng không thể chối cãi được.

Tới đây, chúng ta có thể tựởng tượng rằng, sau một vài nhượng bộ, kẻ cầm quyền vẫn tiếp tục bám víu vào độc quyền chính trị và tiếp tục vô trách nhiệm, tiếp tục tự cô lập mình với quần chúng, đẩy sự khốn cùng lên đến tột đỉnh! Sẽ có lúc mà hàng triệu người sẽ không chịu ngồi đó khoanh tay mà cùng nhau tiến lên chống lại bạo quyền và độc tài. Chúng ta hãy nhớ rằng chính nhân dân là kẻ làm nên lịch sử, đưa lên kẻ cầm quyền và cũng chính nhân dân là kẻ sẽ hạ bệ kẻ cầm quyền đó. Khi mà Đảng không còn làm bổn phận của mình là làm
cho dân, họ sẽ được đưa trở về vị trí ngày xưa bởi dân, những người đang lấy lại trong tay số mệnh của chính mình. Khế ước ngầm giữa nhân dân và kẻ cầm quyền từ nay xem như bị cắt đứt. Sự “đúng” đã chiến thắng không màu mè hoa ngữ hay bàn cải dài dòng vô ích… Sau chế độ bạo quyền, một chính quyền chân chính sẽ bắt đầu một ngày mới.

- Tuyệt! Đây là ý kiến nằm trong logic và chuẩn mực. Theo chúng tôi, vần đề có thể được nhìn dưới một góc cạnh khác. Cái góc nhìn của Luật nó có cái lý của nó. Nhưng cái nhìn của xã hội nó cũng không thể bị từ bỏ được. Như bạn đã biết, ở nhiều nước, nhiều chính thể giá trị đạo đức được nâng lên chin tầng mây. Đối với chủ nghĩa Tư Bản thối nát và đang dẫy chết với giới cầm quyền đầy tham nhũng, người làm Cách Mạng tự cho mình là hiện thân cho sự thiêng liêng, trong sáng trong suy nghĩ, tâm hồn không chút vẩn đục, cao cả trong đạo đức và nếp sống. Khuôn mặt tiêu biểu nhất cho con Tàu Cộng Sản là một Hồ Chí Minh huyền thoại với hai mảnh áo quần bằng Kaki bạc mầu và đôi xăng đan làm bằng lốp xe cũ. Thật vậy, giới vô sản đã tìm cách liên kết giai cấp nông dân vào chung mục đích, họ đã chơi cuộc chơi một cách công bằng ngay thẳng và đã đạt được hậu thuẫn của những người cùng chia sẻ điều kiện sống và cùng có chung niềm khát vọng. Đối với những kẻ làm ăn đủ sống, Hồ Chí Minh với chòm râu của một nhà nho truyền thống đã làm say mê họ và làm họ đi theo. Vì thế với cuộc tổng nổi dậy của mọi tầng lớp nhân dân, trong một khí thế hồ hởi mà Cách Mạng đã tiến hành cuộc đấu tranh và đạt được thắng lợi.

Trong thời kỳ quá độ, những bộ óc biết suy nghĩ bắt đầu nhận chân rằng những người làm cách mạng mà tình yêu tổ quốc và chủ nghĩa anh hùng đáng được đề cao, lại không có đủ văn hoá và khả năng để đưa dân tộc lên một số phận cao đẹp hơn! Những thiệt hại to lớn do những lỗi lầm của họ gây ra đã làm người dân nghi ngờ về khả năng trí tuệ của họ, dù không bị huen ố, nhưng niềm tin của nhân dân về họ cũng đã bị giảm sút, niềm tin mà họ cần có để nâng cao tinh thần chiến đấu. Rủi thay, vì tình trạng không ai chịu trách nhiệm như thế đã mở cửa cho bao nhiêu vi phạm và tội ác; những quan chức của Đảng, với những chữ ký sinh ra vàng, đã để cho mình bị tiêm nhiểm những con vi trùng của tiền của, để tự mình ngày càng chìm sâu trong vũng lầy của tội ác. Những kẻ thuộc quyền, được khuyến khích bởi sự “bất bị quy trách” của xếp mình, trở nên những kẻ đồng loả, tập họp nhau thành băng thành nhóm. Thời sẽ đến khi mà Đảng vẫn còn tiếp diễn những ung nhọt như thế: họ sẽ không còn niềm tin yêu của nhân dân, niềm tin mà họ đã mất cả một thời gian dài mới có được. Đã thiếu văn hoá và khả năng, nay lại mất cả niềm tin yêu của dân là cái cơ sở lớn nhất để họ nắm quyền, một quyền lực mà họ có được là nhờ tư cách đạo đức và cũng sẽ mất nó vì nếu họ thành kẻ ác vô nhân. Khi họ trơ mình trước quần chúng như một người đàn bà đĩ thoã nghèo nàn và trần truồng, tôi ngại rằng họ còn có thể tiếp tục độc quyền chính trị. Cũng có thể lãnh đạo cấp cao không làm ác như những thuộc quyền, nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm đối với những kẻ này, bởi những hành động của những người thứ ba, làm tan rả Đảng vì uy tín Đảng đã bị tan biến bởi những ngọn gió đầy cay đắng và khinh miệt thổi vào. Chừng nào mà con số phạm tội còn nhỏ, chừng ấy Đảng còn che đậy chúng dưới thảm dày để giữ được mầu trắng của sự trong trắng! Nhưng một khi tai tiếng đã trở nên thái quá, không còn giấu giếm được nữa thì Đảng sẽ làm kẻ điếc trước những than phiền chính trị. Đảng sẽ chọn sống xuống cấp trong im lặng thay vì bị nổ tung ra trước ánh sáng ban ngày với những vụ kiện mà uy tín của Đảng sẽ bị mãi mãi mất và thanh danh của Đảng bị huỷ diệt, từ cấp cao đến cấp hạng bét. Bất cứ chọn cách nào, Đảng cũng sẽ thất bại trên hai chuyện uy tín và thanh danh. Chính trị rồi đây sẽ nhường bước cho đạo đức, đạo đức rồi sẽ kéo theo sự can thiệp của Luật Pháp để chấm dứt một quá khứ đau khổ mở đầu cho một kỷ nguyên mà ánh sáng của lý lẽ và công bằng một lần nữa sẽ chiếu rọi với việc tái lập nền Công Lý và bảng tuyên ngôn về trách nhiệm của Nhà Nước và những ai đại diện nó.

Dĩ nhiên, chuyên đó không phải là chuyên xảy ra ngày mai. Nhưng nó đáng cho chúng ta mong đợi!

Hãy cho chúng tôi được hy vọng những gì sẽ xảy ra như bạn nói là sự thật. Hãy cho chúng ta được quyền hy vọng ngày mà chúng ta ăn mừng được thấy lý lẽ và công bằng trở lại ở những nước cộng sản là một ngày không xa lắm!

Khi chia tay, chúng tôi bắt tay nhau lần cuối, nhìn trong mắt nhau và có cảm nghĩ rằng chúng tôi đã cùng chia nhau chung một ý nghĩ. Những suy nghĩ chung với những cảm xúc chia sẽ giống nhau: “Chúng tôi, những người trí thức, một đám người đang bị tất cả những ngươi cầm quyền nguyền rủa, và đặt biệt là những tay chuyên quyền cộng sản. Họ là những người tuyệt vời kỷ luật, và chúng ta là những kẻ mà trong người đã có giòng máu vô kỷ luật đang sôi sục. Họ là những kẻ vui sướng khi nhìn những kẻ cúi đầu tuân phục, hít thở những khói nhang của a dua nịnh bợ, làm những trò ảo thuật, dựng nên những tấn tuồng vĩ đại trên sân khấu. Là những người cứng đầu cứng cổ, chúng ta ngẫng mặt hiên ngang, nhin thẳng vào phía trước với cặp mắt biết quan sát và một bộ óc biết phê phán. Thay vì thốt ra những điều ngu dốt để làm người ta thoả mãn, chúng tôi chọn một sự im lặng đầy trách móc. Chúng ta đã thấy rất rõ cặp mắt của nhà ảo thuật, thấy cái đạo đức của chủ nghĩa hình thức, thấy con dao nhọn dấu dưới tay áo khi chúng vừa lễ độ than mật cúi xuống. Phải công nhận là chúng ta là những người bất trị. Hơn thế nữa, chúng ta không thể biết mình sẽ ở đâu và ngày mai mình sẽ trở thành cái gì!”

Ánh mắt chúng tôi tràn đầy những cảm thông cho nhau. Chúng tôi biết rằng mọi người đã hiểu nhau.

Hai đoàn chúng tôi cùng đồng ý gửi một ý kiến chung đến hai Đảng Cộng Sản Liên Xô và Việt Nam:

“Cho phép chúng tôi được gửi đến quý ông bà những ước vọng và đề nghị của chúng tôi. Quyền lực được giao phó cho quý vị không được dùng để đàn áp, trù dập hay đoạ đầy bất cứ ai lên tiếng nói đến quyền lợi và bổn phận, bất cứ ai lên tiếng nói đến quyền hành và trách nhiệm. Nếu quý vị muốn các tầng lớp nhân dân mà quý vị đang quản lý tôn trọng trật tự và sống trong pháp luật, về phía quý vị, quý vị phải có bổn phận chăm lo cuộc sống đầy đủ của nhân dân và luôn luôn bảo đảm họ được hạnh phúc. Nếu được như thế, quý vị sẽ được nhân dân vinh danh trong hàng trăm năm và quý vị sẽ được nhân dân mãi mãi biết ơn!

Nhưng nếu cứ vướng mãi với những hành động dại dột, mất trí hay điên khùng, quý vị sẽ đưa dân tộc vào nghèo đói và đau khổ, tiếp tục làm những chuyện chuyên quyền, phạm luật và vô nhân đạo thì quý vị sẽ không kéo dài lâu! Ngay sau khi quý vị chết, nhân dân cũng tiếp tục nguyền rủa, đào mồ và quăng cái xác thối rửa của quý vị cho sài lang và diều hâu cắn xé! Tên tuổi của quý vị sẽ bị đóng ghi trong Lịch Sử và sẽ bị khinh bỉ trong hàng trăm năm sau.

Ngày xưa, ở thành phố Roma, một tướng soái thắng trận đang nhận lãnh những vinh quang của ngày chiến thắng. Để tránh bớt cho vì tướng bị những tung hô nhiểm độc, lợi dụng lúc đang gần bên xe trận của ông tướng, một tên nô lệ nói nhỏ với ông rằng “Ngài nên nhớ ngài cũng là một con người”. Cũng như thế, Luật Pháp cững đang nói nhỏ với kẻ cầm quyền “Bổn phận của các ông là phục vụ chứ không phải là nô lệ hoá nhân dân”.

Trở về Hà Nội, chúng tôi được khen ngợi nồng nhiệt bởi đã mang lại những thành quả bất ngờ mà chúng tôi gặt hái được ở Hội Nghị ở Bruxelles. Một buổi chiêu đãi để vinh danh chúng tôi được Bộ Ngoại Giao tổ chức.

Trong những buổi như thế, chúng tôi nhận được tin hai lãnh đạo của Phong Trào Gìn Giữ Hoà Bình Saigon-Chợ Lớn ở miền Nam đã bị bắt giữ: Luật Sư Nguyễn hữu Thọ và giáo sư Phạm Huy Thông. Cha đẻ của giáo sư Thông chỉ định tôi là luật sư để bào chữa cho con ông. Bộ Ngoại Giao và Chủ Tịch Toà Án Tối Cao khuyến khích tôi nhận lãnh sứ mệnh này. Tôi đánh một điện tín vào Toà Án Saigon thông báo họ là tôi sẽ là luật sư bào chữa cho ông Thông và yêu cầu họ cho biết ngày giờ xử của vụ án. Nhưng chính quyền Ngô Đình Diệm đã không cho phép tôi vào Saigon. May thay, tôi cũng không có gì để tiếp tục, vụ án cũng không bao giờ được xử vì hai kẻ tội nhân đã vượt ngục an toàn.


 
PHẦN HAI
MỎM ĐÁ TARPEIENNE[3]
1
Vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm

Về đến Hà Nội, tôi tràn ngập trong “vinh dự”. Khoa Trưởng của trường Luật, một trường đang chết, Phó Chủ Tịch Hội Luật Gia, Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn, phó Khoa Trưởng Sư Phạm, giáo sư phụ trách việc giảng dạy về Văn Chương Pháp, thành viên ban chấp hành Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam đồng thời cũng nằm trong ban bí thư của Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội, thành viên của Hội Huynh Đệ Việt – Pháp, Hội Huynh Đệ Liên Xô - Việt Nam, thành viên của Uỷ Ban Bảo Vệ Hoà Bình Thế Giới, chủ tịch sáng lập Câu Lạc Bộ Đoàn Kết Trí Thức… Đó là những “vinh dự” mà tôi mang, đủ để in đầy hai mặt của tấm danh thiếp.

Những “khuôn mặt uy quyền của chế độ” không làm phiền đến tôi, cuộc sống khiêm nhường của tôi cũng không bị khốn đốn, tôi cũng không cảm thấy mình quan trọng hơn hay nhỏ bé đi. Tôi biết rõ đó chỉ là một màn kịch, nên chẳng cần phải cảm thấy được tung hô hay bị xúc phạm. Chế độ cộng sản rất đam mê tôn thờ chủ nghĩa hình thức: họ tràn ngập thế giới với khẩu hiệu. Danh xưng hoa mỹ và kêu to chỉ để trang trí cho những con rối người đang bị giật dây bởi một ai đó trong nhóm, ở trên hoặc ở phía sau lưng họ. Những kịch sĩ đang diễn trên sân khấu đã thuộc về thế giới xa xưa của những bộ phim câm. Thế hệ phim câm và chủ nghĩa Cộng Sản xuất hiện cùng thời, người ta tự hỏi anh nào ảnh hưởng anh nào?

Tôi đã tự hỏi tại sao tôi lại được hưởng nhiều món hời như thế. Có phải chăng là nhờ tôi là khuôn mặt tiêu biểu cho một phẩm chất hay đại diện cho một cái gì đó? Tôi nghĩ là không. Điều đó không hề xảy ra dù chỉ một thoáng trong đầu của các lãnh tụ. Họ nghĩ rằng, bằng cách đưa một người nào đó vào chức vị cao thì họ sẽ biến người này thành một nhân vật có tầm cỡ, cũng như thế, khi họ đẩy một người nổi tiếng vào bóng tối là họ đã gọn gàng cắt đứt lòng kính phục mà những người này được công chúng dành cho. Nhưng đó là một sai lầm. Đã có nhiều người được hưởng bao nhiêu quyền lợi từ Đảng nay đã biến thành vô danh không tên tuổi, ngay khi họ đang còn chói lọi trong chức vụ. Ngược lại, có những người đầy khả năng và đạo đức được người đời kính trọng và tiếp tục được quần chúng tin yêu dù họ không còn giữ một địa vị gì hào nhoáng!

Có phải chăng Đảng đã chiếu cố đến tôi và muốn thổi tôi lên, biến tôi thành một trong những con khỉ làm hề trong gánh xiếc để chọc cười lũ trẻ con? Đã có lần vào năm 1952, trong vùng chiến khu Bắc Việt, giữa lúc đang kháng chiến chống Pháp, tôi được đề nghị vào Đảng, nhưng tôi đã từ chối “vinh dự” đó. Năm 1946, trước khi tham gia kháng chiến cùng với cha mẹ và gia đình, tôi đã hiến toàn bộ tài sản của tôi, ba căn phố ở Hà Nội, cho Cách Mạng và Dân Tộc. Trong suốt thời kỳ Kháng Chiến tôi chấp nhận hy sinh tất cả và cống hiến tài năng của một giáo sư và một luật gia cho Dân Tộc. Là thành viên của nhiều phái đoàn Việt Nam trong bốn Hội Nghị Quốc Tế, một ở Dalat năm 1946, ở Bắc Kinh năm 1952, ở Vienna năm 1953, và Bruxelles năm 1956, tôi đã đóng một vai trò tích cực và đã mang lại một số thành quả khiêm tốn… Cũng có thể vì đó mà Đảng đã ban cho tôi một giấy khen bằng cách cất nhắc tôi lên những vị trí danh dự nhưng cũng không kém phần vẻ vang tôn kính. Nhưng tôi biết là Đảng có một trí nhớ rất ngắn, dễ dàng quên đi những thành quả của người mà họ khen thưởng trước đây, một khi kẻ này trở nên đối tượng làm họ tức giận. Ngay cả đối với những người cộng sản nổi tiếng đã từng chia những ngày tù tội chung khám với những người đang cầm quyền hiện nay, họ vẫn không thể thoát khỏi bàn tay dững dưng và tàn ác của những người này.

Trong những uỷ ban điều hành các tổ chức quần chúng, người trí thức thường được đưa ra làm phụ tá cho những đảng viên giữ vai trò chủ chốt, nắm tay lái và điều khiển chiếc xe. Những con rối ngồi trên bàn chủ toạ, tuyên bố mở đầu và kết thúc Hội Nghị, nhận những tràng pháo tay nhu nhược và vỗ trả lại những tràn pháo tay nhu nhược không kém. Sinh hoạt này trở thành một thủ tục và một chỉ dấu cho thấy một loại hợp tác chặt chẽ giữa người trí thức ngoài Đảng và các đảng viên. Tôi hiểu rất rõ khía cạnh này và không hề ngạc nhiên về chuyện đó. Tôi chờ vòng thịnh suy của luân hồi quay và chuẩn bị cho tôi chịu đựng sự thống khổ sắp đến với một tâm hồn vui vẻ.

Trong thời gian đó ở Hà Nội, giới trí thức đang trải qua một cuộc khủng hoảng về nhiệt tình. Phong trào Trăm Hoa Đua Nở nổi lên trên toàn nước Việt Nam. Nhiều người, cho tới lúc ấy, nghi ngại và e dè Trung Quốc – nhưng không chống trà và thức ăn của họ - vẫn chưa biết được mặt trái của lá bài, dấn thân hết mình vào Phong Trào. Vắng những chứng cớ thích đáng, không có thông tin đáng tin cậy, nhưng họ vẫn đắm mình vui sướng trong cơn thuỷ triều đang nhởn nhơ dâng, và niềm khát khao dân chủ bị kềm kẹp và đè nén từ lâu nay bỗng nổ bùng thành những tia sáng đầy mầu sắc chói lọi và những chùm hoa đầy đốm lửa xanh. Một tờ báo Nhân Văn được in ra, lập tức được độc giả nhanh chóng giành đọc. Khi tờ báo Giai Phẩm được in ra, lòng người như sôi sục, như pháo hoa.

Khi đó Nguyễn Hữu Đang đến thăm, phỏng vấn tôi cho tờ Nhân Văn, và mong tôi viết bài cho Giai Phẩm. Tôi đã gặp Nguyễn Hữu Đang ít lâu trước đây khi Đang đến kiếm tôi đến gặp ông Hồ vì ông Hồ cần tôi giúp để soạn bản luận cứ mà Chính Phủ sẽ dùng để tranh đấu trong Hội Nghị Đalat năm 1946. Đang là một đảng viên Cộng Sản mà tôi tin cậy. Thời gian đó tôi không tiếp xúc với giới văn sĩ và nhà báo vì không có thì giờ và cơ hội. Nhưng khi tôi được cho biết về khuynh hướng của phong trào, đường hướng mà họ chấp nhận và bảo vệ, tôi sẵn sàng góp chút phần nhỏ mà cũng là ước vọng và mong muốn của tôi.

Năm 1928, vào năm thứ hai của tôi ở Đại Học Luật, cái tiếp xúc đầu tiên của tôi với chủ nghĩa Cộng Sản, vào thời đó, duy nhất là Liên Xô và bập bẹ những từ đầu tiên về chủ nghĩa này. Trong hai giờ giảng, vị giáo sư dạy về kinh tế chính trị dạy chúng tôi những điều căn bản về kinh tế theo Marx-Lenin. Sau đó, trong suốt mười năm theo kháng chiến chống thực dân, tôi được học thêm về chủ nghĩa Marx. Những giảng viên khiêm nhường tự mình nhận là những “báo cáo viên” thường là những người đã được qua học ở Trung Quốc, đôi khi về từ Liên Xô. Phương pháp dạy của họ làm tôi chú ý và khám phá những đặc tính của người cộng sản. Môn học về chủ nghĩa Marx được chia làm nhiều bài học, mỗi bài sẽ được một ông thầy “tương lai” chuyên về một chương đó dạy. Họ thấm nhuần những kiến thức nhồi nhét bởi các thầy giáo người Trung Quốc hay Liên Xô, đúc kết thành bài giảng cho hai giờ học, mang bài giảng cho cấp trách nhiệm phê bình. Sau đó họ chỉ có việc đọc bài giảng cho mọi người chép, hoàn toàn không có ý kiến riêng vì sợ gây những sai lầm về lý luận hay chệch hướng là những điều sẽ gây hại không nhỏ cho họ!

Tôi học được hai điều: thứ nhất, đó là những người thầy thiếu nhân cách và cá nhân tính. Họ là người máy và có thể dễ dàng thay thế bằng một cái máy thu băng. Thứ hai, người cộng sản khi hành xử chuyện gì, họ chỉ làm theo cách họ, tự bó mình trong một lãnh địa chật hẹp, đào sâu trốn kỹ, không hề quan tâm hay biết người chung quanh đang làm gì.

Tôi thật sự bị kích thích bởi phương pháp làm việc của họ và tò mò tìm hiểu muốn biết chế độ Cộng Sản đào tạo bác sĩ y khoa như thế nào. Một người trẻ được chọn vì được người ta khám phá rằng anh này là người thông minh và có khả năng, ngay trong khoá học xoá nạn mù chữ, và nhất là thái độ cuồng nhiệt đối với Đảng. Anh ta được đào tạo thành một y sĩ giải phẫu chuyên về tay và chân. Trong năm năm, anh ta phải phục vụ như một y tá, rồi như phụ tá trong một bệnh viện ở nông thôn, cắt mổ hàng trăm tay chân và rồi cũng có được một số kiến thức về cơ thể học giúp tìm dò những thớ thịt, đường gân, mạch máu của chân tay. Kiến thức của anh ta dừng ở đó và nằm luôn ở đó.

Vì thế, nền giáo dục của cộng sản là không phí thì giờ dạy cho học sinh những điều có tính lý thuyết hay kiến thức tổng quát. Thực tế là họ “vừa học vừa làm”, thay vì thúc đẩy tình tò mò tìm hiểu những điều cao xa hơn, họ lại chọn “tự đào sâu trốn kỹ” trong cái lỗ càng sâu càng tốt. Những trường hợp thành công cá biệt lại được tung hô là tất cả, lấy chiều sâu trùm cả chiều ngang. Trong hoàn cảnh cấp bách, để tiết kiệm thời gian, người ta không đào tạo ai thành một “người chân chính, hiểu biết tất cả và không phiền lòng bất cứ chuyện gì” nhưng theo lối con buôn, chỉ một lần trao đổi mà thôi. Cần phải hiểu đây là cái logic của chủ nghĩa Cộng Sản: để đuổi kịp chủ nghĩa Tư Bản, đạt đến trình độ văn minh tân tiến họ không dư giả thì giờ tiền bạc để đầu tư vào lãnh vực tổng quát và nhằm đào tạo những cái đầu biết tư duy.

Những buổi học về chủ nghĩa Marx chẳng giúp ích gì cho tôi. Những gì tôi biết về nó là tôi đã bị kéo vào thế giới Cộng Sản từ năm 1946. Những quan hệ với con người, những gì tôi quan sát được ở Đảng và những chính sách của họ, ở Nhà Nước với những cơ chế của nó, những ý kiến mà tôi được nghe, những màn kịch mà tôi được xem, cộng chung với những suy nghĩ riêng tư đã làm tôi sinh ra cảnh giác và trở nên cô đơn. Tất cả những chuyện đó là cách tốt nhất mà tôi tiếp cận chủ nghĩa Cộng Sản. Có thể nói một cách chung, những người bận tâm về một vấn đề như thế thường hành xử theo cảm xúc riêng tư và chọn một thái độ mạnh mẽ. Họ theo hoặc chống Cộng Sản! Cá nhân tôi, tôi cho rằng cả hai thái độ đều thiếu tính thuyết phục và công bằng, trong bản sắc cũng như khách quan. Đảng không nuông chiều tôi, những “vinh dự” được ban bố cho tôi chỉ là một màn trưng bày loè loẹt, cũng chẳng mang lại cho tôi và gia đình một chút gì lợi lộc hơn những người biết tán tỉnh, cầu cạnh và biết làm cho Đảng nở những nụ cười hả hê thoả mãn. Ngược lại, mặc dù tôi đã đưa ra những bằng chứng không thể chối cãi được về lòng yêu nước của tôi, mặc dù tôi đã hết lòng trung thành phục vụ Dân Tộc, Đảng cũng đành đoạn đày tôi vào sa mạc, một cuộc hành trình mới đó đã ba mươi lăm năm qua mà tôi sẽ kể lại những khổ đau trong những trang sắp tới. Cũng nên hiểu rằng tôi có quyền trả thù cho những khổ đau mà tôi đã gánh chịu. Tất cả kẻ thù của chủ nghĩa Cộng Sản đang chờ xem tôi trút những cơn giận điên người lên chủ nghĩa Cộng Sản mà tôi là một nạn nhân. Nhưng xin mọi người hãy tha thứ cho tôi. Tôi đã chọn thái độ của một triết gia: chỉ tìm hiểu chứ không xử án. Hiểu biết đòi hỏi mình phải nhìn vấn đề dưới mọi khía cạnh và dưới hai phía: mặt ưu và mặt thiếu sót, mặt trái và mặt phải của trang giấy, sự tốt và sự xấu. Nó sẽ dẫn đến sự công bằng và người trí thức chỉ muốn điều đúng đắn.

Không cần nhắc lại là người cộng sản đã góp phần đấu tranh cho Tự Do và Độc Lập của Dân Tộc. Thật vậy, đây không phải là lần thứ nhất Tổ Quốc bị xâm lăng và đã đánh đuổi ngoại xâm một cách vinh quang. Lòng yêu nước, vì vậy, là yếu tố bất biến và nguyên do sâu xa nhất cho mọi lần thắng giặc. Nhưng lực lượng quần chúng chưa phải là lực lượng tự mình tiến hành giải phóng Dân Tộc. Lực lượng này chỉ phát huy được sức mạnh và hiệu quả dưới sự lãnh đạo lão luyện của một ai biết dẫn dắt nó và làm nó phát huy hiệu quả đến mức tốt nhất. Đó là vinh dự của những ông vua biết giao trách nhiệm cho những vì tướng biết động viên quân sĩ kiên quyết biểu hiện chủ nghĩa anh hùng và quyết lòng hy sinh. Đó là ba nhân tố có tầm quan trọng như nhau mà sự luân phiên vận dụng để đi tới chiến thắng. Thật là bất công nếu chúng ta đã công nhận sự xứng đáng của người cộng sản rồi sau đó chối bỏ sự đóng góp của họ sau ngày thành công. Chuyện quan trọng không phải là đưa người cộng sản lên một vị thế cao hay đưa vào chỗ thấp, mà là chuyện định đặt họ ở đúng vị trí mà họ phải có.

Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đưa Dân Tộc vào con đường Xã Hội Chủ Nghĩa về lâu về dài là một thảm hoạ. Cái lỗi lầm kinh hoàng đầu tiên không thể quên được là cuộc Cải Cách Ruộng Đất, nó không phải chỉ là cuộc thảm sát hàng chục ngàn người dân vô tội, mà nó còn làm giảm sút nghiêm trọng uy tín của Đảng và làm hại đến cái giáo điều “không bao giờ sai lầm” của Đảng. Những cặp mắt mở to, những soi mói nhìn lại chính sách của Đảng, và những “bộ óc biết suy nghĩ”, vội vàng tỉnh giấc Nam Kha để tổ chức những buổi phê bình thích đáng ngay trước khi Đảng lấy lại thế đứng và quan điểm của mình.

Cá nhân tôi, qua những quan sát, phân tích và suy nghĩ, tôi đã đi đến một số kết luận về những sai lầm của Đảng. Thứ nhất, cái mà giáng lên ngay cả những người ít học nhất, là thái độ nô lệ thần phục hoàn toàn trước hai “ông anh lớn” Liên Xô và Trung Quốc. Sự thần phục hoàn toàn không chỉ ở mức độ chủ thuyết mà họ là người biện hộ cho tính chính thống của Liên Xô và Trung Quốc, mà còn biểu hiện ngay trong cách ăn mặc, hội họp riêng chung, cung cách chào hỏi nhau và cả đến lối sống v.v. Việt Nam đã mất bản sắc dân tộc để trở nên một khuôn rập phản ảnh hai nước Liên Xô và Trung Quốc.

Cái rập khuôn thứ nhất là lãnh vực kinh tế, nơi mà chúng ta có thể nhìn thấy cùng một chính sách kế hoạch, tự quyết định chính sách giá cả, sự độc quyền của Nhà Nước trong lãnh vực sản xuất, thương mại trong nước và quốc tế, những chính sách thâu tóm toàn bộ lợi nhuận, bù đắp cho mọi lỗ lã, chọn lựa nhân sự cũng như tính toán tiền lương cho họ. Quyền tuyệt đối và sự hiện diện khắp nơi của Nhà Nước trên toàn nước, bất cứ chỗ nào, đã gạt bỏ mọi sáng kiến, mọi quyền lợi tư nhân, sự vắng mặt của sự cạnh tranh, không có bất cứ một quan hệ gì giữa giá phí sản xuất và giá bán, sẽ dẫn đến không sớm thì muộn một nền kinh tế trì trệ, đến một nền kinh tế suy sụp, một nền kinh tế hoàn toàn được dẫn dắt bởi chính trị, hoàn toàn quay lưng về những quy luật, những giá trị và những hiệu quả đã được chứng nghiệm suốt mấy thế kỷ vừa qua.
Hơn nữa, chưa bao giờ người ta lại khinh miệt và hận thù luât lệ với một thái độ láo xược như thế. Nhà Nước chỉ là bàn tay nối dài của Đảng. Người ta cấm tiệt bất cứ mọi thứ can thiệp hay ngay cả một tia mắt nhòm ngó vào hai lãnh vực Lập Pháp và Tư Pháp. Nguyên tắc “không thể sai lầm” và “không chịu trách nhiệm” của Đảng đã mở cửa cho biết bao chuyện kỳ quặc, bệnh hoạn, tự tung tự tác và hậu quả là đưa đến những hành động phạm pháp bởi mọi tầng cán bộ, bởi các đảng viên hay những người được Đảng nặn ra. Chưa bao giờ nhân dân lại bị đẩy vào một thế im lặng đê hèn và tai hại; không một gợi ý, đề xuất, nhận xét hay ý kiến tư vấn nào mà nhân dân có thể đưa ra cho nhà cầm quyền để cải thiện việc điều hành của Nhà Nước và làm cải thiện tốt hơn cho con dân trong nước. Bất hạnh thay, những điều Luật được “bầu” ra bởi Quốc Hội, các cấp Toà do chính phủ dựng nên chỉ có một và một mục đích duy nhất là bắt người dân quy phục, và tuân thủ vô điều kiện bất kể chuyện gì mà nhà cầm quyền muốn dù là chuyện ngông cuồng vô lý nhất. Mặc dù vậy, để lừa phỉnh trong nước và quốc tế họ luôn luôn ra rả không ngừng là họ dân và do dân.

Những định luật khoa học, những cấu trúc thực tiễn của một nền kinh tế đều bị khinh thường. Niềm cả tin bất khả bại cũng như tinh thần vô trách nhiệm của lãnh đạo làm cho những định chế Lập Pháp và Tư Pháp trở nên vô dụng. Những tai hại đó, dưới hiện tượng siêu hình, trở lại điều khiển mọi sinh hoạt kinh tế chính trị: đó là quy luật của sự đổi thay đổi. Người cộng sản thường hay hãnh diện về những cái biết duy vật biện chứng về sự thay đổi mà họ rao giảng cho hàng tín đồ của họ. Nhưng trên thực tế họ đếch cần đến nó. Họ chỉ biết dựa ngửa trên chiếc ghế bành của lãnh đạo, tuyên phán những câu tuyệt vời là sẵn sàng chết nơi nào mà Đảng đã đặt họ ở đó. Mọi xúc phạm (đến chỗ ngồi của họ) sẽ nhanh chóng biến thành một cuộc đấu tranh giành quyền lực đầy hung bạo, đặc biệt là ở những chỗ ngồi cao cấp; kẻ nắm ghế quyền lực không dễ dàng tự ý nhường ghế cho ai! Vì thế trật tự kiểu lão làng là chỉ thị hành động cho những người cộng sản. Nhưng trong kinh tế, sản xuất và thương mãi, chính tính ù lì không thay đổi này đã gây ra những phiền phức đầy tai hại. Trong một thế giới hiện đại, nơi mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã phát triển tột bực, những phương thức sản xuất, giao thông, viễn thông, tin học, sự chuyển dịch của con người và hàng hoá, tất cả mỗi ngày mỗi thay đổi nhanh chóng. Đã phải mất mấy ngàn năm con người mới biết định cư định canh trong nông nghiệp và cho loài người phát triển tiến lên; phải mất mấy trăm năm để con người khám phá ra nguồn năng lượng mới khởi đầu cho nền văn minh máy móc, cho phép kỷ nghệ được phát triển dưới nhiều hình thức. Khoa học kỹ thuật đã mất chừng ba thế kỷ để khám phá ra những bí mật của thế giới vĩ mô và thế giới vi mô, khám phá ra những nguyên liệu mới khó tin nhưng đầy tuyệt vời, bảo đảm cho một chiến thắng tuyệt vời trên điện tử và xử lý thông tin. Một triết gia người Hy Lạp đã đưa ra một hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc về tính thay đổi của sự vật khi nói “Con người không bao giờ hai lần tắm cùng một nước sông”, ngược lại người cộng sản cứ khư khư chối bỏ không chấp nhận sự thay đổi, luôn luôn bảo vệ tính “liên tục” của các định chế kinh tế và chính trị của họ, đồng thời bám rễ luôn vào chỗ ngồi của mình.

Đối diện với một hoàn cảnh như thế, làm sao tôi có thể góp sức gì cho Phong Trào Trăm Hoa Đua Nở? Tôi sẽ không tham gia bàn cãi về những vấn đề lớn. Tôi sẽ chú tâm vào những điều chi tiết nhưng đó là những tiêu chuẩn của một nền dân chủ: Tôi mong rằng những kẻ lạm quyền nên bớt khắt khe, đừng bịt họng Mặt Trận Tổ Quốc, rằng họ nên chấm dứt việc đòi Thẩm Phán phải hỏi ý kiến xin chỉ thị của Đảng cho những vi phạm Luật hay những án hình sự. Đối những chuyện nhỏ nhặt cần chi phải ồn ào, như người đời thường nói. Tôi không phải là một chiến sĩ, lại càng không phải là kẻ bạo gan. Tôi không có một chút thich thú gì về chuyện xung đột, nhất là khi một thanh kiếm gỗ phải chiến đấu với thanh kiếm sắt. Những đồng nghiệp khác của tôi ở Đại Học như Giáo Sư Đào Duy Anh, sử gia và là một nhà Trung Quốc Học, triết gia Trần Đức Thảo, nhà phê bình văn học Trương Tửu cùng dấn thân trong cùng khuynh hướng dân chủ và cùng giữ mình cẩn thận đối với những người cầm quyền mà ai cũng biết là nổi tiếng đao phủ, tàn bạo thời trung cổ, tất cả đều giấu mình thô thiển dưới danh nghĩa “đấu tranh giai cấp”, chiến đấu cho chủ nghĩa Marx.

Giới sĩ phu Việt Nam, nhất là ở Hà Nội, đa số - ít nhất là những người cầm bút và còn quan tâm đến tự do và liêm sỉ của người trí thức, kể cả những nhà văn còn trong bộ đội – Bộ Đội, như đã từng được biết, là thành trì của tinh thần cách mạng trong sáng và chính thống - đồng tâm đứng lên theo tiếng gọi của dân chủ và tố cáo sự bạo ngược đối với những sinh hoạt trí thức.

Về sau này, Việt Nam còn nghe được những tin khủng khiếp động trời về vụ tàn sát dã man của Hồng Vệ Binh bên Trung Quốc do nhà cầm quyền ra lệnh.

Những tin tức nhận được ở Việt Nam cho thấy cuộc “Cách Mạng Văn Hoá” chỉ đơn thuần là một cái bẫy đưa ra để thanh toán những kẻ thù của chế độ Mao. Nạn nhân, dĩ nhiên, là bao gồm giới trí thức đã quá ngây thơ tin vào lời nói của bọn cầm quyền độc tài và đã hát lên bài thánh ca dân chủ hiến dâng cho giới chức quyền của của Vương Quốc Thiên Triều, và gồm cả những người cộng sản với một quá khứ không tì vết luôn sẵn sàng quy phục dưới thế lực của Đại Vương. Từng bầy Vệ Binh Đỏ tràn khắp đất nước, sôi sục hận thù với những kẻ thù của Chủ Nghĩa Xã Hội, phát tiết sự hung bạo cuồng tín tấn công khắp nơi chỉ bằng vào những lời hứa thần kỳ của lãnh đạo. Chúng tấn công những người vô tội không phương tiện tự vệ, những nạn nhân của những những tên sát nhân đầy mặc cảm tự ti mà sự điên tiết và tàn bạo luôn được nhà cầm quyền khuấy động. Máu đã đổ thành dòng, nhân dân Trung Quốc đã phải ướt chân để vượt qua những cơn thuỷ triều đỏ màu máu, mắt của họ đỏ lên màu đỏ của những lá cờ, biểu ngữ, cờ hiệu đang hể hả tung bay trên những nóc nhà và trên những buyn đinh. Nhưng khi cuộc diệt chủng đến thời kỳ cuối, không còn ai để cắt cổ, thì bọn Vệ Binh Đỏ lại tới phiên mình gục ngã dưới lằn đạn của những khẩu súng máy ngã nhào vào những chiếc mồ chung, cũng từ lệnh ban ra từ những tên quỉ dữ không còn muốn giữ lại một nhân chứng sống nào cho tội ác của chúng! Qua thế giới bên kia, nạn nhân và kẻ giết người sẽ gặp nhau và cùng khóc những giọt nước mắt đắng cay với ảo tưởng đã chết và một niềm tin bị phản bội. Cách Mạng Văn Hoá đã buông màn phủ lên cái chết của những người có văn hoá và lên cái chết của chính cái gì gọi là Văn Hoá.

Ở Việt Nam, người ta bắt đầu vụ xử án liên quan đến những người viết văn, làm báo, thầy giáo mà lý do duy nhất là họ dám giễu cợt trên cái kỳ quặc và nực cười của những người cộng sản. Họ bị kết án là đã bắn mũi tên vào trí tuệ của lãnh đạo, của lực lượng vũ trang. Những kẻ cứng đầu ngoan cố này bị kết án là chống Đảng và làm nhiễm độc Cách Mạng. Nhưng trong kho công cụ trấn áp lại không có loại văn bản nào nói về mấy tội trên. Mặc kệ, họ có thể làm ra ngay một cái. Nhưng văn bản để áp dụng biện pháp trị tội lại không thể có hiệu lực hồi tố. Như trong thời kỳ Thượng Cổ, luật pháp là điều bí mật mà các Pháp Sư và quan toà nắm độc quyền. Không còn gì kinh hoàng hơn là Nhà Nước Cộng Sản đã vực dậy những thứ đã thành quá khứ từ hàng ngàn năm nay để nhảy xổm lên trên Luật Pháp và dùng nó duy nhất là để cô lập, tiêu diệt những người mà họ nghi là có tư tường xét lại chống Đảng, cóc cần biết đến cái gì là công lý và công bằng! Tại sao mọi người phải quan tâm đến chuyện văn bản trong khi quyền lực chỉ ở trong tay một kẻ độc tài?

Một logic như thế chỉ cho thấy mùi vị của một thứ luật rừng, của những bộ lạc rừng rú. Có luật gia nào trung thành với thiên chức của mình lại chịu đánh mất lương tâm, chịu nén cơn thịnh nộ để làm vui lòng những lãnh đạo chính trị mà họ đang đợi mong những điều kỳ diệu? Nhưng thời nào, bao giờ cũng có kẻ sẵn sàng đứng ra làm công việc hèn hạ kết án những người trí thức mà chính họ cũng thừa biết những người này là vô tội đối với Luật Pháp. Tên quan toà đó, tiêu biểu nhất cho loại người cam tâm làm đầy tớ. Và đây là chân dung của loại thẩm phán đó.

 
2
Ông quan toà Việt Nam

Ông ta sinh ra ở một thành phố mà nơi đó đã sản sinh ra bao nhiêu người đi làm Cách Mạng. Trong thời đại ngày nay ở Việt Nam, tinh thần địa phuơng trở nên mạnh mẽ. Địa phương nào cũng khoe khoang về những sản phẩm, tài nguyên thiên nhiên, những thành công về nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ, nền công nghiệp đang khởi sắc, và dĩ nhiên là những nhân vật tài ba của mình. Trước đây, điều nhấn mạnh là những nhà thơ, những tướng soái hay những công thần đã phụng sự đắc lực cho triều đình và cho dân địa phương. Ngày nay, cách làm thì khác đi, người ta tán dương những giá trị Cách Mạng, những “anh hùng” được tôn lên thành “Trời” và đã có được tới những ba mươi tuổi Đảng. Mỗi năm, Trung Ương Đảng mời họ dự những buổi lễ chính thức, và ít nhất một lần, những người cùng quê quán lại cùng nhau họp mặt thân hữu và đôi khi chè chén với nhau.

Hắn có một khuôn mặt gầy với hai gò má nhô ra chai cứng khắc khổ. Đôi mắt thiếu tinh anh với nụ cười gượng gạo không chút vui vẻ. Hắn gầy như một nhà tu khổ hạnh, dường như là hậu quả của một đời sống thiếu thốn vật chất, không phải để hắn được sinh ra để dễ dàng tán gái mà chỉ để hắn chỉ có lo học và thức đêm để học. Người ta cho rằng hắn đã cùng đồng hành với những luật gia đã sưu tập bộ sách Luật Dallos and Sirey. Mặc dù còn trẻ tuổi, nhưng hắn đi đi lại lại với vẻ mặt khó khăn và nghiêm chỉnh của một quan xử án thời Trung Cổ. Thầy bói có thể tiên đoán là tương lai hắn sẽ là một quan Toà: chưa bao giờ người ta thấy hắn không mang theo một chiếc cặp da đựng đầy giấy và sách! Hắn học giỏi và đã lấy một bằng Cử Nhân Luật.

Thời hắn tốt nghiệp, đa số bạn bè chọn làm việc trong chính quyền thực dân và đặc biệt là thành những kiểm soát viên hay thanh tra Thuế Vụ, thư ký Toà Sơ Thẩm hay Toà Phúc Thẩm trong hệ thống Tư Pháp của Pháp. Với những công việc đó họ hưởng mức lương bổng hậu hĩnh, sống ở các thành phố và sống một cuộc đời sung sướng. Ông quan của chúng ta lại chọn đi làm quan cho Triều Đình, có thể ít tự do hơn nhưng lại hưởng lợi tức nhiều hơn nhờ hối lộ từ đám con dân mà ông ta quản lý.

Dĩ nhiên, nghề làm quan triều đình tuy bị báo chuyên châm biếm Phong HoáNgày Nay tha hồ giễu cợt cũng mang lại đôi vẻ uy danh, không phải vị bị giễu là “cha mẹ của dân” mà là do những lợi ích của giàu sang: một biệt thự sang trọng ở Hà Nội, một chiếc ô tô mới tinh, chiêu đãi khách ở những nhà hàng Tàu lớn ở phố Hàng Buồm, những buổi tiệc tùng ở những hộp đêm mà những cô nàng dễ dàng và trẻ đẹp tự gọi mình là “ca ve” sẵn sàng cung ứng những bản nhạc không gì khác hơn là những bản nhạc của thân xác trần truồng!

Vì thế, người anh hùng của chúng ta tự biến mình thành mệnh quan của Triều Đình, chấp nhận cứng đầu không ngán búa rìu báo chí, bỏ túi đầy phẩm vật hiện đại và tham gia một giai cấp mà phẩm trật và khuôn phép là một chuyện đáng phiền và ngay cả nhục nhả. Người đời tin rằng ông ta chọn ra làm quan là vì hám lợi và khát quà hối lộ. Dường như hắn ta đã bỏ lại sau lưng làng huyện của hắn những tiếng thơm của những ông quan ngày xưa đầy trung chính. Vì lẽ nào mà hắn chọn làm quan cho Triều Đình? Nhưng có cần phải tìm hiểu tại sao không? Cái chính yếu đáng quan tâm và sau này cũng sẽ được nhắc lại nhiều lần là sự việc ông ta là một viên quan của Triều Đình Huế.

Sự thành công của Cách Mạng đánh tiếng chuông cáo chung nền phong kiến. Ngôi vua của Bảo Đại sập đổ trong sự dửng dưng của mọi người. Vai trò quan lại chết theo, không người thay thế, toàn bộ quan lại sâu bọ cũng sụp đổ. Ông quan “cha mẹ của dân” cố làm mọi người quên mình, sau khi đã cưỡng đoạt bao nhiêu là tiền của “con” dân, đã tỏ ra bao nhiêu công bộc tôi tớ cho cấp trên người Pháp và Việt Nam. Sự thay hình đổi dạng nhiều khi thật lạ lùng.

Ông luật gia của chúng ta lột xác quan triều để chọn tham gia Toà Án của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Chọn lựa của ông ta thật đầy ý nghĩa và cho thấy một vài góc cạnh của tâm hồn: khao khát uy quyền và sức mạnh dưới hai khía cạnh: tuân phục kẻ trên, chà đạp kẻ dưới.

Từ khi ông ta được bổ nhiệm làm thẩm phán của Toá Án nhân Dân, tôi có nhiều dịp cãi trước mặt hắn, trong những vụ án dân sự lẫn hình sự. Tôi không bỏ một cơ hội nào để nắm bắt những nét cá tính: tôi để ý nghe một vài giọng điệu của ông ta, cùng lúc những lúc nhíu mày, lúc quắc mắt, tất cả những thứ ấy làm tôi nghĩ đây là người nghĩ nhiều về bản thân và khinh khi những ai không có trình độ trí thức và xã hội như ông ta. Trong một vài lần găp lãnh đạo chính trị khá cao mà ông ta chờ nhận chỉ thị, tôi thấy dưới bộ mặt tỏ vẻ tôn kính là những kiêu hãnh cá nhân đang giấu mặt; ông ta cảm thấy mình cao hơn người đối thoại và thường là do những câu trả lời bén nhạy của ông ta quá đủ để cho thấy như thế. Hắn có tư cách và cá tính, và không cho phép ai chà đạp lên đó. Có thể, như trong vở kịch La Bruyère, ông ta phải hạ mình để phục vụ cho những kẻ không thể ngang hàng với mình. Hắn bị tấn công cùng một lúc cả hai thứ mặc cảm tự ti và tự tôn, làm cho hắn trở nên thù nghịch với các ông lớn và hận ghét các ông nhỏ. Hắn che giấu cái quyền uy của hắn trước các ông lớn nhưng lại ra quyền đối với các ông nhỏ. Được bổ nhiệm làm Thẩm Phán Toà Phúc Thẩm và trong khi chờ được đi làm Thẩm Phán Toà Án Tối Cao hắn nén lòng chận cơn khát một vinh quang hạng ba nên đã gia nhập Đảng Xã Hội, một đảng được lãnh đạo Cộng Sản đẻ ra để lường gạt dân chúng trong nước và quốc tế, hầu có cái môn bài “đa nguyên” rẻ tiền để tập hợp giới trí thức vào ủng hộ lý tưởng cộng sản. Hắn cũng đã thành công kiếm được chức Tổng Thư Ký của đảng Xã Hội phân bộ Hà Nội và làm đại biểu cho đảng này trong ban Chấp Hành Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội. Với tham vọng và cơ hội chủ nghĩa hắn vẫn không làm sao thoả mãn được với những chức vụ “to lớn” mà hắn đang có, cũng như một loại người bắt cá hai tay để rồi chẳng được con nào, hắn bám đuôi các nhà lãnh đạo nhưng cũng chẳng hưởng được một ban bố hay che chở nào.

Đảng Cộng Sản rất khôn ngoan sắc sảo: trong chính sách Hoà Hợp Dân Tộc mà họ chủ trương qua trung gian của Mặt Trận Tổ Quốc, tất cả để che đậy một mục tiêu thầm kín nhưng với biểu lộ bề ngoài là rộng lượng khoan dung; họ tự kềm chế để tránh việc làm cho cả một tầng lớp quan lại trở thành kẻ thù không đội trời chung với họ. Họ ban phát cho mấy quan một chút vuốt ve, một vài nụ cười thân thiện để mấy quan yên lòng và thậm chí bổ nhiệm một vài quan vào những chức vụ công quyền chính thức. Họ sẽ không thể kiếm được những tôi tớ nhiệt thành hơn là những tay có một quá khứ “tì vết” và những kẻ chỉ có một nhu cầu thúc bách là được chuộc lại “lỗi lầm” trong quá khứ. Không người đàn bà nào có thể tỏ mình là người đoan trang hơn là những cô gái già. Một khi Đảng đã nắm chắc sự hiến dâng tận tụy của đám người đoan trang kiểu gái già đó, xem như Đảng đã mở rộng tầm nhìn, sự độ lượng bao dung hoàn toàn không có thành kiến và ý đồ trừng phạt trả thù.

Nhưng kẻ được nghe câu “chúng ta hãy làm bạn với nhau…” thật không cảm thấy an lòng. Vì vậy, để giữ cho mình chút tự trọng và để đảm bảo được chủ mới tin tường, hắn chơi trò hàng hai: độc tài trước công chúng và khúm núm xum xoe những khi gặp cấp trên. Hắn càng tỏ ra quyền uy ở chốn công, thì hắn lại càng khúm núm ở nhà riêng của ai đó. Nhưng hắn không thể lường gạt ai, kể cả hắn.

Ông quan Toà nhà ta đã làm cho mình được mọi người biết đến qua một vụ xử án quái lạ duy nhất được biết trong lịch sử ngành tư pháp văn minh ngày nay. Một ít lâu sau khi tiếp quản Hà Nội, các lãnh đạo cao cấp đã cho lệnh đưa ra toà để kết án một giáo sư dạy văn đã đầu độc tâm hồn sinh viên vì đã giảng dạy bài văn có tên là “Sự Cách Ly” (“L’Isolement”) của nhà văn người Pháp Lamartine. Ngàn xưa từ thời Socrates, ai cũng biết là, khi nhà cầm quyền muốn bắt kẻ sĩ nào đó uống thuốc độc thì chỉ cần gán tội cho họ là đã đầu độc tuổi trẻ. Đảng Cộng Sản đã vực dậy một thủ đoạn đã dùng hai ngàn năm trước. Trong mọi thời đại, kẻ độc tài luôn kiếm cách xếp đặt nhân dân theo khuôn mẫu họ muốn, đặc biệt là giới trẻ là những kẻ đang nắm giữ tương lai. Tất cả đường lối giáo dục đều phát xuất từ đường lối chính trị chính của họ như là một hệ luận đương nhiên. Học đường phải là nơi đào tạo những người mà sau này phải chăm lo cho đường lối của nhà cầm quyền. Mọi chệch hướng trong giáo dục cũng đồng nghĩa là đi sai đường lối chính trị mà lãnh đạo đã đưa ra.

Đây chính là cái logic của mọi chuyện! Nhưng điều thảm khốc ở đây là cái logic như thế lại phải cưu mang một cái gì đã lạc hậu nặng nề hơn hai ngàn năm nay. Có ai dám tuyên bố là Chủ Nghĩa Cộng Sản là chỉ mang lại tàn phá trong quá khứ? Tôi không đặt vấn đề một cách chủ quan là giáo dục là để cho nhà nước hay cho con người? Tôi nhấn mạnh ở đây, duy nhất trên sự kiện là nền giáo dục cộng sản tự cho mình cái bổn phận đào tạo người cho nhà cầm quyền, sao cho người ấy hết lòng làm việc cho chính quyền và tất cả phải làm sao cho giáo dục đạt được điều đó.

Trong những điều kiện đó, con người được đào tạo bởi nhà cầm quyền chỉ là một công cụ để thi hành những chính sách cầm quyền và không là gì khác hơn. Người ta tự hỏi đây là thứ chủ nghĩa xã hội loại gì mà không ai thấy có bất cứ nơi đâu nếu có chăng là ở trong trí tưởng tượng của những nhà lý luận. Mặc kệ! Những nhà lãnh đạo hãnh diện với chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa duy vật của mình, phê phán chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thái, đã vận dụng trí tưởng tượng của mình mà xây nên một hình mẫu chủ nghĩa xã hội. Bằng cách chiết xuất vô tư đủ thứ lý thuyết, họ nhồi nhét vào một hình mẫu con người xã hội chủ nghĩa với đủ thứ nết tính tốt đẹp: cứ đọc những văn kiện lập pháp, những thông tư hành chánh, đủ thứ văn bản mà từng đoạn văn dài dành để ca tụng chủ nghĩa cộng sản đang lang thang trên thiên đường của ảo tưởng. Trong những điểm đặc trưng của con người xã hội chủ nghĩa của ngày mai của họ, điểm nhấn mạnh là niềm vui sống, lạc quan chủ nghĩa. Nếu sự thật là thế, là chủ nghĩa xã hội mang đến hạnh phúc cho người dân thì quả là họ đã được thăng hoa trong cuộc sống với thứ chủ nghĩa lạc quan. Các nhà lãnh đạo đã có thấy chăng là đời sống trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa của họ hiện đã trở nên ủ ê ảm đạm, con người bị trói cột dưới sức nặng của bao nhiêu cấm đoán và thiếu thốn, kéo dài những ngày tăm tối và họ đang bị đẩy vào buồn tủi và vô vọng? Mặc dù với đủ mọi chuyện, nhưng có một chuyện không chối cãi là dưới mắt người cộng sản, sự thất vọng, thờ ơ hay bi quan là những chứng cớ tiêu cực về tinh thần, chệch hướng về chính trị, phản động và có ý chống phá Cách Mạng.

Điều bất hạnh là một đã khi nắm được chính quyền và đang chờ thời cơ để tiến hành những cải tổ, lãnh đạo mới tuyên bố sẽ giữ nguyên trạng mọi việc như cũ. Khi những thành phần ưu tú và một số công chức cũ bỏ ra nước ngoài, những người còn lại vẫn giữ nguyên chức vụ và tiếp tục hưởng mức lương cao như ngày trước; chính chuyện này đã gây nên những xung đột giữa những kẻ “hợp tác” (với Pháp) và những người của Kháng Chiến. Đó là trường hợp các giáo chức. Giáo viên dạy Khoa Học thì không sợ gặp vấn đề vì lẽ Khoa Học không có gì gọi là mang tính phản động. Trong khi đó, giáo viên dạy Văn vẫn tiếp tục dạy thơ văn vì chương trình giảng dạy vẫn chưa thay đổi. Vì Lamartine là bài khởi đầu của một số tiểu thuyết lớn, nên ông giáo nhà ta không thể nào loại bỏ nó trong chương trình học. Vì thế ông giáo bị kết án giải trình rằng phân tích cuốn Nỗi Cô Đơn (Isolement) của Lamartine thấy diễn tả tình trạng suy sụp tinh thần, bất mãn chán chường của đời sống từ khi có cuộc Cách Mạng (Tư Sản) 1789, và trong nỗi chán chường và cô đơn tác giả thiên về một đầu tranh cho một thế giới mà ông ta tìm được hy vọng và tình yêu...

Trong thời đó, khẩu hiệu tuyên truyền là “kẻ thù vẫn còn khắp mọi nơi, tay sai của nó vẫn còn ở khắp nơi”. Việc duy trì an ninh đòi hỏi một đề cao cảnh giác cao đến mức báo động, việc gửi những tay công an mật vào tất cả những cuộc hội họp, cũng như việc trưng dụng những tay làm mật báo nghiệp dư hay tự nguyện liên tục rảo quanh các con đường, vỉa hè, vườn hoa hay công viên công cộng, trong những quán cà phê, rạp chiếu bóng hay nhà hát, nhà nghĩ hay những toà nhà công cộng… Tất cả thư tín cá nhân đều được ghi danh sách và kiểm tra, kiểm soát thư tín xảy ra ngày đêm, tất cả các máy thu thanh cá nhân đều được theo dõi nhất là vào những giờ mà các đài phát thanh nước ngoài hoạt động. Trong công sở, ngoài những người mặc đồng phục, còn có những phòng chứa đầy do thám tai giương to, mắt mở lớn. Những giao tiếp giữa những người với nhau, nhất là với người nước ngoài là đối tượng đươc đặc biệt kiếm soát và không ai ngạc nhiên khi thấy thư từ gửi cho mình tự biến mất trên đường đến nơi nhận. Đối với những tay mật thám chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản và có ít nhiều kinh nghiệm thì người bị theo dõi rất khó nhận biết, nhưng ngược lại với những tay không chuyên, nóng lòng kiếm công để lập với cấp trên ở địa phương thì rất dễ biết và chỉ cần một hai mưu mẹo là có thể chơi chúng nó được rồi. Cả Hà Nội là cảnh tượng một đám hình nộm hay là một sân khấu đang có những người đang khoa chân múa tay với ánh mắt bất động, diễn tuồng trong câm điếc, như những người máy cử động được là nhờ những chiếc lò xo gắn bên trong. Nhưng đằng sau bức màn sân khấu, đằng sau góc nhà, ở góc vỉa hè, trong những câu chuyện giữa hai người, những điệu bộ châm biếm giễu cợt đã xuất hiện, để trả thù cho những ngày sống không được nói và phải luôn sống với quán tính cẩn thận dè chừng, như khám phá ra những điều quái gỡ, rồi bật phá ra cười bằng cách bắt chước giọng điệu hay cung cách của nhà lãnh đạo.

Trong các Đại Học, trong các phân khoa, trong mỗi lớp, trong mỗi buổi học, suốt cả năm, trong đám sinh viên luôn có những tay làm do thám. Có hơn một giáo viên thuộc thành phần kháng chiến lo theo dõi các đồng nghiệp, bất kể những người này thuộc thành phần “hợp tác” hay “kháng chiến”, tố cáo với thẩm quyền trực tiếp về những cái gọi là những sai lầm tư tưởng, những chệch hướng mà các giáo viên đã từng ăn lương của chính phủ Đông Dương và nay vẫn còn tiếp tục hưởng lương của chính phủ Cách Mạng. Họ, những giáo viên thuộc thành phần “không kháng chiến” bị khinh khi chỉ vì họ không có một chút hy sinh nào cho Kháng Chiến trong thời kỳ bí mật, họ trở nên đối tượng ganh ghét vì mức sống họ cao so với người khác. Chuyện bất công như thế nên được chấm dứt. Khi mà Đảng và Nhà Nước cần phải tránh bị mang tiếng là tiền hậu bất nhất không biết giữ lời, một số tay “cựu hợp tác” đã được Đảng mua chuộc “thông cảm” mà tự ý đề nghị phải “công bằng” với tất cả về chế độ lương bổng. Như thế làm thế nào mà lãnh đạo không cảm động bởi một thỉnh cầu đúng đắn, phải lẽ và chân thành như thế, nhất là lại nằm trong chính sách hoà hợp dân tộc của Mặt Trận Tổ Quốc? Mặc dầu giúp Kho Bạc Nhà Nước lúc nào cũng thiếu hụt, tiết kiệm được chút tiền và mặc dù có sự cằn nhằn của các người được ưu đãi trước đây, và đặc biệt là các bà từ nay phải thắt lưng buộc bụng, bầu không khí trở nên hân hoan: Nhà Nước tiết kiệm được một giọt nước trong biển cả của thâm thụt, người xuất thân “kháng chiến” từ nay thấy được một chút công bằng, người thuộc chế độ cũ, sau những chịu đựng từ hôm mồng 4 tháng 8, từ đây có thể ngẩng mặt cao và xem mình đứng ở thế ngang tầm với các đồng nghiệp xuất thân kháng chiến.

Trong hoàn cảnh đầy hân hoan như thế, cuộc xử án vị giáo viên dạy Văn bị kết tội là đã làm hư hỏng thanh niên và đầu độc tâm hồn họ kắt đầu. Kẻ bị kết án được khuyên là không nên tìm luật sư biện hộ cho mình vì lẽ một luật sư giỏi, nổi tiếng là rất hiếm hoi, mà ngay có được một, thì ông ta cũng là một loại người cứng cựa đối với những người cộng sản, những người đã từng có những kinh nghiệm kinh hoàng với luật và những luật sư thời trước.

Cho ngay đến những người không thường có thói quen suy nghĩ sâu trên một vấn đề, mọi người đều cảm thấy ý nghĩa của một vụ án như thế này. Nó nhắm biểu diễn cho những người tham dự phiên toà thấy một Nhà Nước rất nghiêm chỉnh trong việc điều hành luật pháp một cách công bằng. Đây là một mẫu mực trong việc điều hành của chính phủ và những việc hành chánh sáng tạo bởi chủ nghĩa Cộng Sản, mà theo đó tất cả những sinh hoạt chính quyền là để giáo dục quần chúng và hướng họ đến việc tôn thờ Đảng Cộng Sản, tôn thờ những kẻ lãnh đạo Đảng và chủ nghĩa Cộng Sản mà họ tự là người đại diện. Những điều luật và nghị quyết ban hành, những văn bản phổ biến đến tất cả các cơ sở giáo dục, từ cấp Tiểu Học đến cấp Đại Học, những buổi hội thảo công cộng do những diễn giả chuyên nghiệp hướng dẫn, những bài xã luận, những cuốn sách được xuất bản, những phiên toà, những cuốn phim được chiếu, những buổi mít tinh được tổ chức, những tuyên bố đưa cho báo chí, tất cả đều phải đặt mình vô điều kiện và tuyệt đối, hiến thân trọn vẹn vào đường lối chuyên chế của Đảng, một đảng không giống bất cứ đảng nào mà phải là Đảng với chữ Đ luôn luôn được viết hoa. Tất cả những người đi kháng chiến trong thời kỳ bí mật đều hiểu được rằng muốn được vào Đảng, họ cần phải sẵn sàng hy sinh tất cả, nếu cần phải làm tội ác cũng phải làm. Mỗi người đều phải trải qua những ngày tập huấn rồi tái tập huấn theo một khuôn đúc đã được định sẵn. Trong thời gian đó họ được khai tâm học tập, họ không cần đếm xỉa gì đến những giá trị nhân bản, chỉ cần chuyên chú vào việc tôn thờ một vị chúa tể duy nhất mà cái tên được người ta dựa vào để sinh ra những ý tưởng kinh hoàng và làm những việc nhơ nhuốc nhất đều được cho phép! Con người bị biến thể, tự biến mình thành những người máy đem tất cả tâm trí và linh hồn để phụng sự cho chiến thắng của bản năng và thú tính, hay đúng hơn là sự chiến thắng của sự thấp hèn và ghê tởm.

Những người kháng chiến đều biết trước diễn tiến của vụ án. Họ đều biết vị chánh án của phiên toà là người có một quá khứ nặng nề của một viên quan của Triều Đình; và mặc dù ông ta đã thành tâm một cách không chối cãi, nhưng chưa bao giờ đạt được những vinh dự mong muốn, rầu rĩ và mụ người trong cái tầm thường dù đã được mạ vàng sáng láng. Khi ông ta được bổ nhiệm làm thẩm phán xử án, ông ta như bị xâu xé bởi một mâu thuẫn nội tâm. Một mặt, sau những năm học Luật, tốt nghiệp và đi làm quan, ông ta có được một sự cân bằng nào đó về kiến thức và ý niệm đạo đức trong bản thân. Nhưng ông ta lại muốn cái “tội ác” ngày xưa được tha thứ theo như cái nhìn của những người Cộng Sản – cho hắn có lại một sự “trinh bạch” để được gia nhập vào giòng người sạch sẽ và trắng ngần hôm nay, để đạt tới một tương lai huy hoàng ở ngày mai, phù hợp hơn với khát vọng và tương lai của mình. Ông ta là hình ảnh của một con giun đang quằn quại mà không biết mình nên tiến hay lùi. Khởi thuỷ cuộc đời hắn, việc chọn đi làm quan cho thấy cái chủ đích thấp hèn và cái ước vọng ác đức của hắn. Một ông chủ tư bản bóc lột công nhân, đẩy người này vào nghèo khó, bóc lột họ đến tận cùng của sức lực. Nhưng một ông quan triều vơ vét tiền của dân, nhẫn tâm trên đủ thứ tội ác, trên hàng vạn con người trong vùng cai trị của hắn. Để nịnh nọt, người dân gọi các quan là “cha mẹ của dân”. Nhưng giữa họ với nhau, họ coi ông quan như là một thứ ký sinh trùng của dân. Chuyện cũng dễ hiểu khi ông quan còn mang trong lương tâm cái mặc cảm của quá khứ. Ông ta cũng hiểu rằng đang có nhiều cặp mắt đang nhìn, không phải duyên cớ nào khác hơn là để “thử thách” khi giao cho ông nắm phiên toà xử tội một người trí thức có tư tưởng chống lại đường lối của Đảng. Trong tình cảnh như thế, ông quan Toà nhà ta không thể nào xử một cách công bằng không thiên vị và phải như Luật đã định.

- Bị cáo! Ông có nhận thấy là ông có tội là đã dạy cho thanh niên của chúng ta một loại Triết lý đầy thê lương, mất niềm tin, bi quan trong khi Đảng của “chúng ta” được giao phó trách nhiệm tuyên truyền cho sự lạc quan, hy vọng và vui sống?

- Thưa ngài chánh án, làm sao tôi biết được là Đảng đang dạy về một cuộc sống đầy niềm vui, hy vọng và lạc quan? Theo chỗ tôi biết, những người làm việc cho chế độ cũ được chính phủ kháng chiến giữ lại làm việc chưa bao giờ học hay đọc bất kỳ ở đâu là Đảng đã dạy những điều như thế. Ngay cả điều đó có thật, tôi cũng ngại rằng một nền giáo dục như thế khó mà đạt được kết quả. Thực vậy, lãnh vực cảm tình không phải là đối tượng nằm trong phạm vi quyền hạn của thế quyền. Những gì xảy ra trong nội tâm của con người nó không biết về những qui luật về logic và lý lẽ, những ràng buộc về luật lệ, công lý và ngay cả về đạo đức. Một cảm xúc được hình thành, lớn lên, tàn phai rồi biến mất hay tự mình biến thể tùy theo những thôi thúc, kích động hay những tác động bởi thế giới bên ngoài và tùy theo cá tính chủ quan của con người trong một nền luân lý, nếu tôi có thể nói thêm về nó, là có liên quan đến con người khi mỗi người thu nhận hay gạt bỏ những gì đến từ môi trường chung quanh theo cách riêng của họ. Đây là lãnh vực mà quyền lực muốn áp dụng những điều răn dạy để chứng minh niềm kiêu hãnh của mình thì cũng sẽ buông tay chịu thua. Nhà chính trị có thể mong muốn mang lại cho nhân dân hy vọng, niềm lạc quan và vui sống. Nhưng việc làm không đi đôi với lời nói, nếu nhũng thực tiễn không đi theo những lý thuyết trừu tượng thì chẳng có chuyện gì xảy ra ngoại trừ chuyện làm phù thuỷ bắt ma! Hy vọng không thể có nếu không có lý do nào để hy vọng và cũng chẳng có gì để mà hy vọng. Lạc quan và vui sống sẽ thấm vào lòng người khi mà ở đâu cũng có trật tự xã hội và phồn vinh, có tối thiểu tự do và có những quyền mà một xã hội loài người văn minh đòi hỏi phải có. Người ta có thể thành điên khùng như lão Don Quichotte khi bị tay Dulchinée mặt mày nhăn nheo, miệng mồm không một chiếc răng lừa phỉnh. Một người trí thức, nhỏ nhoi như tôi, không thể chấp nhận theo đường lối của Đảng, một đường lối tạo dựng bằng hy vọng, lạc quan và vui sống. Nó chỉ là một điều mong muốn mà sự thành công là tùy thuộc Đảng. Lời buộc tôi duy nhất đưa tôi trước vòng móng ngựa ô nhục này không có một cơ sở nào đứng vũng. Tôi cho rằng tôi không có tội là đã làm hại đến một đường lối chính trị mà nói một cách bình thường và đúng đắn là không hiện diện. Cạnh đó, tôi sẽ rất vui khi được cho biết là dựa trên điều khoản nào của Luật Pháp, những điều mà chưa bao giờ có để các ông kết án tôi trước Toà?

- Chúng ta đừng chơi nhau trên chữ nghĩa, ném vào nhau những điều này nọ của bộ Luật Hình. Sự việc đã hiển nhiên. Có hay không có việc ông giảng dạy cho sinh viên tác phẩm Cô Đơn (Isolement) của tác giả Lamartine và ca tụng nhà thơ này? Có hay không có việc ông tán tụng những vần thơ chán chường, mất hy vọng và bi quan yếm thế và hậu quả là đầu độc tâm hồn của giới trẻ đã đứng lên nghe theo tiếng gọi mà Đảng của “chúng ta” mà đứng lên muôn người như một để xây dựng lại nền Tự Do, Độc Lập và Tự Hào Dân Tộc?

- Thưa ngài, tôi không học Luật, nhưng bất cứ người trí thức nào cũng đều hiểu là muốn kết án ai đều phải dựa vào một hay nhiều điều Luật về Hình Sự định rõ tính chất và những điều kiện để cấu thành tội. Hơn nữa họ cũng biết là chính trị và Luật là hai lãnh vực không giống nhau, giống như giấc mơ và sự thật. Mơ ước là điều cho phép nhà chính trị làm khi mà những việc làm của họ là nhắm tới tương lai, nhưng Luật là được xây dựng vững chắc trên những cơ bản vững chắc, của hiện tại và cụ thể vì nó hoạt động trong hiện tại để mà duy trì và xây dựng nên một xã hội phù hợp với ước vọng của mọi người. Mọi lẫn lộn giữa mơ và thực, giống như trường hợp giữa chính trị và Luật, là một bước nhảy lùi về quá khứ hàng thế kỷ.

Lời buộc tội giờ đây có chút thay đổi. Tôi không phê phán đường lối chủ trương của Đảng, nhưng việc tôi ca tụng một nhà thơ mơ mộng, tôi biện hộ cho tư tưởng chán chường, thất vọng và bi quan, tôi tự nhắc với tôi là người trí thức có tiếng tăm không làm chuyện ca tụng bất cứ ai, biện hộ cho bất cứ người nào. Hai từ ngữ đó phải được lấy ra khỏi trong mọi lời lẽ buộc tội: đó là một sự lạc đề không đúng với ý nghĩa chính thức của hai từ đó. Có thể nói một cách chính đáng, đây là một hành động hạ nhục và xúc phạm đến lòng tự trọng của người trí thức. Ngay khi đang lúc tán dương, người trí thức tự kềm chế mình để không bị bất ngờ vì tán dương dỏm và luôn luôn giữ một sự dè dặt nào đó. Nụ cười và thái độ quỳ lạy không nằm trong nghề của họ, nhưng làm vũ khí của những người đã bán rẽ lòng tự trọng để chắc mót được những lợi lộc tồi tàn. Tôi xin nhắc lại: tôi không tán dương một ai, ngay cả người ấy là người được mọi người ca tụng. Tôi không đứng ra bào chữa cho một chủ thuyết nào, ngay cả khi có hàng triệu người theo nó và ca tụng nó. Không, tôi chỉ phân tích, giải thích, cố gắng làm cho sinh viên hiểu cái trạng thái tình cảm mà không một kẻ độc tài nào, không một chế độ độc tài nào có thể xoá bỏ, khi mà tác phẩm ấy đã có mặt hơn một thế kỷ nay. Chính trị có thể thực hiện quyền lực của mình ở hiện tại, đôi khi trong tương lai, nhưng cũng phải chấp nhận là đối với quá khứ thì không thể làm được gì.

Vì vậy, tình cảm mơ mộng là một trạng thái của tâm hồn là chuyện đã có từ lâu, nếu ngài cho phép tôi có ý kiến, là mọi người đều có thể chứng minh đó là một điều chân thành, con người ai cũng liên tục mơ mộng cho đến một tuổi nào đó và trong một hoàn cảnh sống nào đó. Chỉ có những người cộng sản lão đời, những người khắc khổ không còn nước mắt mới cho rằng không thể có những giọt nước mắt khốn cùng của loài người, để tự nâng mình thành một loại siêu nhân.

Thưa ngài, tôi không tự biện hộ cho tôi, tôi chỉ làm công việc trả lời cho sự kết án của ông. Tôi đã biết trước số phận của tôi: không có người nào bị toà án nhân dân xử mà bước ra khỏ đó để về nhà. Tôi có thể nghe buổi xét xử. Tôi có thể đơn giản nhận tội và nhờ sự khoan hồng của Đảng, và với những cố gắng cá nhân, tôi hứa rằng tôi sẽ không từ bỏ một nỗ lực nào nhằm cải thiện và làm trong sạch những suy nghĩ của tôi để đi đúng đường lối của Đảng. Nhưng tôi mong mõi rằng, ít nhất một lần, tiếng nói trung chính của người trí thức được nghe đến, để cho những thế hệ ngày nay và mai sau hiểu chính xác thế nào là một nền công lý cách mạng.


Cái không cho phép kẻ bị kết án làm là làm thay đổi một thẩm phán thành một người có cái nhìn thấu đáo của sự thật, nhất là khi đó là một nguyên quan Triều vừa mới được xức dầu thánh cách mạng. Không, con đường đi đến danh dự không nằm trong những loại vinh dự đó, tất cả những chi tiết như vậy nó không làm hưởng thêm những đồng tiền thưởng còm cõi, không thêm được một bổ nhiệm trong hàng chức sắc, nhưng chỉ là nụ cười cho kẻ đã ban phát cho tên đầy tớ vừa mới làm xong một công việc được chủ giao phó. Thật vậy, có thể là ngược với ý muốn, sau khi đè nén những đau đớn của lương tâm, ngài quan Toà đã kêu án ông giáo sư bốn năm tù giam.

Trong bốn năm tù đày trong một nhà tù cách thủ đô 200 km, người vợ kẻ tù kia ngoài chuyện cần mẫn lo cho gia đình còn phải lo làm thêm, đã không được gia đình giúp đỡ, nhưng mỗi tháng ít nhất một lần phải đạp xe một vòng 400 cây số để mang cho chồng một đôi thứ vụn vặt, để thông tin cho chồng số phận của những đứa con, để động viên chồng thêm can đảm mà chịu đựng thiếu thốn và khổ đau, vừa hy vọng một ngày nào đó công lý, luật pháp và tình người trở lại giữa người với người.

Bản án đó không phải là duy nhất trong hồ sơ của nền công lý cách mạng, như ai cũng có thể dễ dàng đoán biết. Sẽ rất lý thú nếu ai đó tìm được hồ sơ cũ - nếu có và được tàng trữ - của những phiên toà ở thủ đô, ở các tỉnh, những hồ sơ, sẽ cho thấy những cách thức mà công lý đã bị sự bất công chế ngự, thực hiện những vụ án giả mạo, thả lỏng kỷ cương bằng những phương cách bất hợp pháp và khủng bố, bằng cách dùng những tôi tớ mà chính những kẻ này cũng không được thưởng xứng đáng. Và tất cả những chuyện đó được làm nhân danh Đảng và Cách Mạng. Chưa bao giờ trước đây mà chủ nghĩa Cộng Sản lại bị chính những người đấu tranh vì nó ngược đãi như thế.


3
Sấm sét báo hiệu cho cơn bão tố

Trên đường từ Toà Án về và nhiều đêm mất ngủ sau buổi xử án, tôi tập trung suy nghĩ về chuyện xảy ra mà điểm chính là vấn đề công luận. Được sống nhiều năm dài trong xã hội cộng sản và đã có nhiều cơ hội gặp gỡ giới lãnh đạo, tôi biết rõ là không bao giờ tha thứ những sơ suất hay thiếu tiên liệu trong khi thi hành nhiệm vụ hay khi thực hiện hành động. Mọi chuyện đều phải thảo luận, phân tích, nhồi xét nhuần nhuyễn đủ mọi khía cạnh để biết rằng việc làm này có thể mang lợi ích gì cho quyền lợi của Đảng. Sự tuỳ hứng và cá nhân chủ nghĩa được xem là điều kinh khiếp, vì vậy tinh thần trách nhiệm sâu sắc là được thừa nhận. Rủi thay, trách nhiệm tập thể lại biến thành vô trách nhiệm, không ai chịu trách nhiệm cả. Trên tất cả mọi chuyện, cần phải mang ra ánh sáng cái sâu thẳm nhất của vụ xử án này, vụ đầu tiên trong những vụ xử án kiểu này; trái với những lời tuyên bố của nhà cầm quyền mới là không có trả thù, có thái độ thù nghịch hay ganh ghét đối với những người trước đây không tham gia kháng chiến, họ đã kết án một giáo viên là đã đầu độc thanh niên với một triết lý chán chường, vô vọng và bi quan. Cái quan trọng nhất là những tội danh liệt kê bởi chính phủ thì lại không phải là những tội công cộng được định trong bộ Luật Hình Sự mà đó chỉ là những vi phạm về đạo đức hay chính trị là những điều hoàn toàn nằm ngoài vòng thẩm quyền của nhà nước. Có phải chăng lãnh đạo Việt Nam đã tự nhạo báng chính đường lối của mình ban hành và đồng thời nhạo báng luôn dư luận quốc tế! Xem thường cả quốc tế, có phải chăng họ đang muốn khẳng định nguyên tắc là họ có quyền trên mọi chuyện với sự có mặt của họ ở mọi nơi, có quyền trốn tránh những lời trọng thể mà chính họ đã tuyên bố, khinh thường những thông lệ quốc tế về công lý và giới hạn thẩm quyền của Toà Án? Hay, vì niềm tim mù quáng với vai trò tối cao của mình, và với tự tin cùng chung một sự dốt nát đáng thương, họ đã quyết định giáng một cú lớn để qui phục giới trí thức, làm lạnh bớt nhiệt tình đấu tranh của họ, giảm thấp đòi hỏi của họ và bắt họ im tiếng hay giam mình vào cảnh lưỡi gỗ (nói không đâu vào đâu) để làm dễ dàng cho công việc cho những người nắm quyền, thoả mãn niềm kiêu hãnh và mùi vị của chủ nghĩa hình thức, cống hiến cho dân địa phương và du khách một màn sân khấu có đám người trí thức rớt xuống cùng tầng lớp với họ và cùng hô to trung thành với Đảng.

Điều nghĩ suy thứ hai mà làm tôi buồn bực nhiều là nhân cách của vị thẩm phán được giao trọng trách vụ xử và kết án người trí thức kia. Mặc dù phản ứng về vụ này lan tràn ra khắp nước, Đảng lại phủi tay trong bình thản, phát biểu đây là chuyện một trí thức bị một trí thức khác xét xử. Đây là chuyện nội bộ gia đình và tôi hết sức tôn trọng sự độc lập của các thẩm phán, họ có thể nghiêng bên này hay nghiêng bên kia đối với vụ án. Thật là một sự ích kỷ tuyệt vời khi biến tất cả những phê bình thành câm nín hay biến chúng thành những lý lẽ biện minh cho bản án mà sự tuân phục chính quyền là không ai mà không biết.

Tất cả mọi người ai cũng biết là, trước đây, ông thẩm phán đã chịu làm nô lệ cho hai đầu: một là chính quyền Pháp và hai là các người Việt Nam cấp trên của ông. Ông ta buộc phải dâng biếu quà cáp cho các quan chức đã bảo hộ ông sao cho tương xứng với ngôi vị của họ, vì thế có thể nói là vô giá! Trong khi lương bổng thì giới hạn, ông ta chỉ còn cách vơ vét của con dân để trả tiền cho chuyện đó. Vậy thì, ông ta thò tay vào túi tiền của những địa chủ, ngay cả vào túi của nông dân nghèo làm cho họ càng nghèo thêm đến chỗ tán gia bại sản, bệnh tật và đôi khi đi tới chỗ chết. Một người phải có một tâm hồn xấu xa, phủ đầy bùn nhơ mới có thể đi vào con đường quan lại, ăn trên sự đau khổ của người dân vô tội và uống nước mắt của họ.

Ngay sau khi Cách Mạng thành công, ông ta liền cho mình một màu da mới, tìm cách gia nhập vào đoàn Thẩm Phán. Những ai có dịp quan sát ông ta ngồi xử án ở Toà Án Hà Nội đều thấy ông ta đang bị dằn vật nội tâm chỉ bằng vào cử chỉ và lời nói của ông ấy. Hắn hiểu quá rõ là chủ nghĩa cộng sản luôn nung nấu một nhận thức hận thù đối với giới quan lại đại diện cho phong kiến và bóc lột, và luôn là kẻ thù của Cộng Sản. Cái lỗi lầm đã dấn thân vào con đường quan lại cũng to lớn như tội của bà Eva đã ăn trái cấm trong vườn Địa Đàng. Để chuộc lỗi, ông quan đã tự nén chặt lương tâm hầu mong được chút ân huệ của Đảng. Xử án một cách mù quáng những người vô tội bị lãnh đạo của Đảng kết án về những tội lỗi tưởng tượng không hề có trong Luật Pháp! Nhưng cái lương tâm bị xâm phạm đó lại chiến đấu điên cuồng, căng lên trên khuôn mặt hốc hác của ông quan; ông ta không cảm thấy dễ dàng thoải mái dưới vô số cặp mắt, săn đuổi bởi những hồn ma vô hình. Nhưng hắn đã tự làm trò hề với mình khi hắn bắt chước những kẻ nịnh bợ mà thốt lên mấy chữ “Đảng ta” từ cửa miệng mình thoát ra rồi vỡ vụn như vỏ trứng bị đập bởi cái muỗng.

Tiếng sấm nổ vang báo hiệu cho cơn bão sắp đến. Thủ đoạn nham hiểm của những người cộng sản đã quyết định để cho một người trí thức bị một người trí thức khác xử và kết án. Đây là một cuộc huynh đệ tương tàn, một trận đấu gà, nhưng chỉ là trận đấu của một bên, bên được sự hỗ trợ của chính quyền, có quyền lực và luật pháp trong tay để thực hiện mọi ý đồ, và một bên chiến đấu đơn độc với tay không với vũ khí duy nhất là chính nghĩa và cảm tình của quần chúng. Đảng có quyền có tiếng nói cuối cùng, nhưng sự thắng của họ cũng chẳng tăng thêm uy tín thanh thế hay cũng cố thêm niềm tìn của dân chúng mà họ mong sẽ có được. Lý mạnh của con chó sói cũng không làm giảm bớt mối thương cảm dành cho con cừu…

Tiếng sấm nổ vang trên bầu trời đầy xáo trộn đã phát sinh ra một hậu quả trông thấy: một sự chia rẽ đã xuất hiện, một bên là những kẻ thần phục vỗ tay tung hô, miệng khô lưỡi gỗ, ngoắc đuôi mừng. Một bên là họ, những người cộng sản nắm quyền chiếm nhiều ưu đãi và ngồi không lãnh lương, được quyền ban bố, được quyền chọn chỗ nơi, được hưởng những chuyến xuất ngoại đầy tư lợi, được ký kết những hợp đồng mang về đầy túi cho phái viên người Việt bất kể việc gây thêm gánh nặng cho ngành sản xuất mà máy móc lỗi thời đã bị bỏ hoang từ lâu và thường xuyên hư hỏng. Chỉ có nhân dân, đã tả tơi, nay còn phải trả giá cho sự bịp bợm, sự bội tín, trộm cắp được thực hiện, hoàn toàn không chịu một trừng phạt nào, bởi những kẻ tự xưng và tự vinh danh mình là những người đầy tớ trung hiếu của dân. Những người trọng danh dự chân chính khác, thuộc thành phần kháng chiến hay không, quay ra ghê tởm cái chất thâm hiểm của những kẻ đầy tớ của nhân dân đang hình thành áp đặt một loại bóc lột mới, đó là sự bóc lột của cộng sản, là những người, mặc dù như thế nào, vẫn đứng về phía của lẽ phải, của Trời Phật, Thiên Chúa. Họ bị sốc vì sự ngu dốt, vừa thật thà vừa nhẹ dạ của lãnh đạo, và một số người đã xem như cuộc Cách Mạng là thất bại và Nhà Nước là thối nát, đã tìm đường ra nước ngoài, nhằm tìm đến một xã hội có nhiều công bằng, đạo đức và phồn vinh. Ở đó, họ còn có thể gặp những người biết trọng dụng kiến thức và kinh nghiệm của mình, từ đó nhìn một cách cay đắng về con tàu quốc gia với những đứa con vô ơn và phạm pháp đang mỗi ngày đục lỗ để làm đắm con tàu.

Đối với những người còn lại, họ say đắm một tình yêu đất không phải lè nhè mà sinh động, với trung chính và ngay thẳng đạo đức, họ phân tích sự suy sụp của nền kinh tế và sự nghèo đói của quần chúng, kiếm cách tìm ra nguyên do của căn bệnh và tìm kiếm thuốc chữa. Lỗi lầm duy nhất mà họ mắc phải là đã quá tin những người tổ chức phong trào Trăm Hoa Đua Nở và đã hết lòng đi tìm những nguyên nhân và nguồn gốc của những đau khổ mà nhân dân phải gánh chịu. Cái ngao ngán là những phân tích sau rốt đã cho thấy nỗi đau khổ kinh hoàng của nhân dân là do những lỗi lầm về chính trị phát xuất từ sự ngu dốt mà chỉ có hai chữ kiêu ngạo mới có thể sánh được. Trước đây, mọi người cố tránh phê phán, chỉ vì lịch duyệt và tính cẩn thận. Nhưng điểm phát xuất đã khởi sự, dưới tiếng còi của Đảng nay đã thay đổi, rập khuôn với một “Đảng anh em” , những xạ thủ tha hồ bắn vào những mục tiêu chào mừng bởi những tràng pháo tay của người xem... Thật là quá tốt để kéo dài. Trong thời gian chuyển tiếp giữa hai màn diễn, những tâm hồn nhạy cảm đã thấy sự phản công của những người cộng sản.

Sau một thời gian, những phản ứng bắt đầu. Khởi đầu bằng một cuộc mít tinh chỉ cách chỗ tôi khoảng vài trăm thước. Đắm mình trong cái chức vụ nhỏ bé và khiêm tốn, tôi không hề bị con vi trùng tự tôn tự đại tấn công, cũng không như kẻ chả ra chi nhưng tự cảm thấy mình cao ngang hàng với đỉnh núi Everett kể từ ngày Cách Mạng Tháng Tám thành công. Thật vậy, trước một đám đông thính giả hàng nghìn người, một anh chàng nếu không tẩm phết một chất chiếu sáng thì cũng chỉ là cái bóng lẫn trong những cái bóng mờ khác, chợt đến chợt đi mà không một ai để ý đến sự xuất hiện hay biết mất. Vì thế, tôi nghĩ rằng tôi chỉ việc tiếp tục lo cho công việc của tôi trong hoà bình và yên tĩnh. Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy một người đưa tin quan trọng là đích thân ông Giám Đốc Viện Ngôn Ngữ đến mời tôi đến tham dự buổi mít tinh. Để có thể lưu ý đến sự vắng mặt của tôi trong buổi tụ tập đông người như thế, chắc hẳn người ta đã đánh dấu tôi và muốn tôi có mặt trong buổi họp. Tôi không tin là người ta muốn đưa tôi lên ngồi trên trước vì mọi người lo lắng khi không thấy tôi có mặt nơi đây. Kinh nghiệm nhiều năm sống trong thời kỳ kháng chiến bí mật cho tôi hiểu là điều tồi tệ đang chờ đợi tôi phía trước. Buổi mít tinh là một trận đấu bò mà tôi là con bò tót được đẩy ra giữa sân đấu, giữa những tên đấu bò chỉ chờ lúc mà giết tôi sau khi đã nhận những lời giải thích và những yêu cầu cuối cùng cho trận đấu.

Nhân vật đứng ra tổ chức cuộc mít tinh là một thứ trưởng, bộ nào thì tôi đã quên tên, mà tôi đã được “vinh dự” dạy ông cùng đám cựu sinh viên của tôi. Trong thời gian mà tôi đã được biên chế vào một đội Cải Cách Ruộng Đất, tôi đã được nghe những đứa nhỏ tố cha mình về những tội lỗi nhớp nhúa theo lệnh của những cán bộ cộng sản, tôi đã hiểu những giá trị Khổng Mạnh thơm tho từ ngàn xưa thấm nhuần trong tâm hồn người Việt giờ đã chết. Tôi không ngạc nhiên khi thấy một học trò đang chuẩn bị cho cái chết của thầy cũ của mình và thuyết phục những kẻ đấu bò ra cú đòn chí mạng. Sau khi chắt lọc xác bã của tách trà, vị đắng của chua xót đã nhấn ngập lòng tôi vào nỗi buồn khôn tả.

Nhưng con bò không gục ngã ngay dưới những cú đâm của bọn đấu bò, nó đấu đến hơi thở cuối cùng, chơi với tấm vải đỏ và khi đến màn cuối với cú đâm chí mạng, nó đưa ánh mắt cuối cùng về phiá Thiên Đường như muốn ở đây làm nhân chứng cho một sự dã man của chính trị và tiền bạc mà con người tàn bạo đã xếp đặt để giết kẻ vô tội và yếu đuối.

Trong một thời gian, đã có tin đồn được lan truyền là Đảng không muốn ai phê bình họ, dù là những phê bình chính đáng và đứng đắn từ những nhà văn, thầy giáo và ký giả, những người đang phạm một lỗi lầm chết người là đã cả tin là giờ đã đến cho những tiếng kêu chiến thắng vang dội của chủ nghĩa Cộng Sản. Những họng súng đã sẵn sàng nã đạn vào nhóm người trong phong trào Trăm Hoa Đưa Nở, bên cạnh đó là tầng lớp trí thức bị nghi là không chịu quỳ gối tuân phục trước các ông Trời Marxist-Leninist. Dù họ có lên tiếng nói hay tự ép mình trong yên lặng, tất cả đếu cảm thấy cái nguy hiểm thành tù khổ sai. Đây là cơ hội duy nhất, không phải để họ thắng cuộc cho lý tưởng thần thánh một chủ nghĩa Cộng Sản của họ, mà để dẹp tan quần chúng bằng khủng bố, bằng cách áp dụng một cách thô bỉ bàn tay nặng nề và không nhân nhượng để trị tội kẻ cầm đầu nhằm dằn mặt những kẻ khác.

Trong một nền Tư Pháp nghiêm chỉnh chặt chẽ, mọi vụ án đều phải qua những trình tự luật định, khởi tố vụ án, mở hồ sơ, và cho phép người bị kết án được giải thích và tự bào chữa cũng như người thẩm phán xử án phải áp dụng Luật với tất cả lương tâm của mình… nhưng đó là một cách làm của giới tư sản làm mất thời gian vô ích và nhất là nó không đặt quyền ưu việt của Đảng như là quyền lãnh đạo của chính phủ. Đứng trên quan điểm của những người cộng sản, Luật và những thủ tục luật pháp là những phát minh từ những đầu óc không bình thường chỉ làm phức tạp và kéo dài những vụ án. Với tất cả mọi người, điều cơ bản, không thể xâm phạm, giáo điều không thể thay đổi là Đảng là người duy nhất nắm tất cả Sự Thật, có quyền chống lại bất cứ người nào khác, là bất cứ “người dân” nào cũng phải có bổn phận và trách nhiệm đấu tranh cho sự toàn thắng của Đảng, trong tư tưởng cũng như việc làm của Đảng, phải chấp nhận đau khổ và hy sinh – ngay cả việc dâng hiến sinh mạng, nếu cần – nhân danh Đảng và vì Đảng. Tư bản nói về Công Lý của Quốc Gia, người Cộng Sản nói về Công Lý của Đảng, cả hai đều cùng chung một cách làm, xử án vội vã và qua loa, đội xử bắn của tư bản đưa ra để giết và tự vinh danh mình trong Thế Chiến Thứ Nhất. “Tôn giáo” chủ nghĩa xã hội và sự sùng bái Đảng không cho phép mọi tranh cải, chỉ trích về những giáo điều mà họ đưa ra để tuyên bố họ là người vĩnh viễn lãnh đạo và “bách chiến bách thắng” để thiêu sống những ý niệm về Luật, công lý và vô tội của bọn tư sản. Hỡi những người đang ngoan ngoãn đang nghe, xin chúc mừng.

Vì thế, để đối phó với nhóm trí thức đang tỏ ra mất niềm tin đối với những sự thật được Đảng dạy, Đảng cần phải đối phó với đám này bẳng những phiên án khẩn cấp, không cần thủ tục luật định, được tổ chức chu đáo như thời Cải Cách Ruộng Đất. Cuộc dàn dựng đã được xếp đặt trước, như nơi chốn, thời gian, vai trò của những người xử án, những điểm lúc mà họ cần tung ra lời nguyền rủa, những chi tiết dù đúng hay sai để kết luận phiên toà với lời buộc tội đầy thiên vị, độc ác, định kiến và những lời xác nhận thiếu vắng chứng cớ và hệ quả. Bản án đã được nghiên cứu trước: án tử hình sẽ không được tuyên nhưng có hàng ngàn phương án khác để giết người qua những cách xảo trá, quỷ quái âm thầm và trong đêm tối. Tất cả những suy nghĩ ấy, bằng những kinh nghiệm đã sống, dồn đến với tôi khi tôi bước vào phòng họp.

“Báo cáo viên” (theo danh xưng dùng bởi những người cộng sản) bắt đầu đong đưa cái lư hương dưới mũi của đám trí thức. Họ là những đứa con cưng của Đảng. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, họ đã chọn đúng con đường, đứng sau lưng Cách Mạng và cùng hàng ngũ với Dân Tộc mà họ cùng chia sẽ những thiếu thốn cơ cực và niềm trung hiếu, họ tự nâng mình lên đỉnh cao của quyền uy bằng những khả năng và kinh nghiệm cống hiến cho Tổ Quốc. Vinh quang thay cho trí thức, những đứa con xứng đáng của Việt Nam và của nhân dân.

(Thính giả nghe những lời ca tụng với e dè. Họ đã từng được nghe những người cộng sản tung hô trí thức, mặc dù những người trí thức đã bị cộng sản đoạ đầy bí mật từng người một, dùng tất cả họ làm vật hy sinh. Mỗi lần Đảng nói sự thật, phải hiểu đó chỉ là một cử chỉ ngoại giao. Người thợ săn giương cặp mắt hiền hoà và đậm màu tự nhiên là để tiếp cận đến con mồi trước khi siết cò súng giết nó ngay lúc cận kề. Những kẻ trí thức gia nhập Đảng đều được nghe và được học câu nói rằng họ đã được giáo dục thích đáng là để được Đảng sử dụng bất cứ lúc nào, mỗi khi Đảng muốn dỗ ngọt những đồng chí cộng sự viên để nhượng bộ hay hy sinh chuyện gì đó. Đó là cái mà diễn giả đang làm. Ông ta tiếp tục đưa củ cà rốt lố bịch trong khi chờ ra cú đánh của cây gậy).

“Tại sao trí thức lại là đứa con trân quí của Đảng? Đó là nhờ họ đã sống nhiều năm dài với Kháng Chiến trong thời kỳ bí mật, được Đảng giáo dục, học tập về chủ nghĩa Marx-Lenin, hiểu và truyền bá áp dụng những chính sách của Đảng và đã có may mắn sống trong một xã hội cách mạng bởi vì họ cảm thông với giai cấp công nhân và nông dân sống nghèo đói và trong hy vọng, đã giành được trong đời sống cách mạng những giá trị của sự kiên trì, chịu đựng, hy sinh xã thân, và những giá trị đó càng được tăng cường qua những tháng ngày chấp nhận sống trong nghèo đói và thiếu thốn.

“Thế giới của kháng chiến bao gồm những con người có tinh thần cao, đạo đức ngoại hạng, tâm hồn trong sáng và thanh cao, có niềm tin mãnh liệt vào Đảng và Dân Tộc, bền cứng như sắt thép, kẻ thù mãnh liệt của giai cấp tư sản và những tư tưởng phản động, cách sống thoải mái sang trọng của họ bằng những bóc lột xấu xa đối với người vô sản là những người quyết tâm tiến tới chủ nghĩa xã hội, tới một chân trời sáng chói của công bằng và hạnh phúc. Thật hồ hởi khi thấy một hoạt cảnh của nhân loại khi mà tất cả đều mặc đồng phục vàng kaki, mang toàn những đôi dép râu làm từ những chiếc vỏ xe cũ bỏ đi, nhận cùng một lượng gạo hàng tháng, được ăn cùng phần củ độn, giây khoai, nói cùng một luận điệu, được thúc đẩy cùng một động cơ tư tưởng chính trị, đứng chung cùng một vũ đài chính trị. Một sự đoàn kết lộng lẫy tuyệt vời giữa Đảng và Dân, giữa cán bộ và quần chúng!

(Diễn giả thật có lý. Cảm thấy tinh thần hồ hởi lên cao trước sự đoàn kết dựa trên sự đồng nhất, cùng một cử động, phát ngôn như vẹt, bị ép buộc một cách kín đáo và một thái độ đạo đức giả gượng ép. Không thể chối cãi là trong khoảng mười năm nay không khí đạo đức phải nói là rất tốt, những sinh hoạt đều trong sáng, an ninh xã hội được bảo đảm. Ban đêm mọi người đầu có thể đạp xe hay di chuyển mà không sợ rủi ro nguy hiểm. Sự đãi ngộ bình đẳng trong các tầng lớp cán bộ đã loại bỏ lòng ganh tị, làm thối nản chủ nghĩa kiếm chác và chủ nghĩa cơ hội. Tất cả những người sống những năm trong kháng chiến còn bí mật vẫn còn nhớ những tháng ngày trăng mật giữa những người cộng sản và những người trí thức)

“Một khi củ cà rốt đã được phân phát, những cú đập của cây gậy bắt đầu xuất hiện. Gậy đập từng trận đòn lên lưng những cán bộ trong toàn guồng máy Nhà Nước. Hiện tại, trước khi trở về Hà Nội để nhận lãnh những chức vụ hành chánh, tất cả cán bộ công nhân viên đều phải theo học những buổi dạy là phải đề cao cảnh giác với những viên “đạn bọc đường” bắn vào họ nếu họ để mình bị cám dỗ bởi cuộc sống xa hoa do tham nhũng và trụy lạc.

“Rủi thay, những bài học đó đều trở nên vô ích. Trong đời sống thành phố, đối với những con vi trùng mang sự suy đồi về đạo đức, sự xuống cấp của con người, những điều kiện thuận lợi cho chúng sinh sôi xem ra phát triển mạnh. Cán bộ đắm mình trong những cám dỗ và trờ thành con mồi cho bao nhiêu thói hư tật xấu. Buông thả mình trong những tiêu pha hoang phí và sống một mức sống đế vương, họ có những nhu cầu không ngăn nổi về tiền bạc và kiếm cách làm tiền càng nhiều càng tốt. Vì thế họ đã phạm đủ thứ tội lỗi và tội ác, như thế, theo như những gì người cộng sản đã nói, độc quyền thế giới là dành riêng cho bọn găng tơ Chicago. Chuyện đương nhiên là khả năng kiếm được bằng mọi cách và mọi giá những số tiền to lớn để thoả mãn những cơn khát tiêu xài! Không thể dập tắt được, than ôi. Chúng tôi thật đau buồn”.

(Dưới hàng thính giả, có vẻ có một khao khát tự hỏi “Lỗi ai đây?” Anh có thể khóc ra máu mắt. Lý do chính là anh không áp dụng những gì mà chủ nghĩa Maxist mà anh đã dạy. Thứ nhất, anh đã quên qui luật là mọi chuyện đều chuyển động ngược chiều với nhau: chuyện tốt có thể chuyển thành xấu, chất lượng thành hư hỏng, đức hạnh thành đồi bại. Anh đã ngây thơ đặt niềm tin nơi người học sinh mà anh từng ngày chăm sóc theo dõi từng bước tiến, người mà anh đã cấp cho một thứ chứng nhận về đạo đức mà anh nghĩ là rất xứng đáng được anh đặt họ vào những vị trí trách nhiệm. Những hiền triết ngày xưa dạy rằng mọi sự vật, đúng y như những người theo chủ nghĩa Marx đã dạy phương pháp biện chứng là mọi sự đều có mâu thuẩn tồn tại trong chính nó. Anh phổ biến chủ nghĩa duy vật nhưng chính anh lại tự nhốt mình vào chủ nghĩa duy tâm khi mà anh tin tưởng vào sự vĩnh cửu của ý tưởng, của con người và thế giới. Vâng, những con người mà các anh đào tạo, chấp nhận đứng vào hàng ngũ với các anh, những người đã thề trung thành với Đảng và chủ nghĩa Cộng Sản, những người xum xoe nịnh hót đã làm mặt các anh hừng lên nét thoả mãn, các anh đã cho họ một ông Trời tốt lành mà không hề đòi họ những lời xưng tội.

Các anh đã đầu tư vào để họ ngồi chơi xơi nước và đầy những đặc quyền để rồi bị những cám dỗ phủ đầu, những cám dỗ không tên mà đến như thánh Antoine cũng không biết. Các anh đã thất bại trong việc kiểm soát chúng, bao quanh những hoạt động của chúng với một rào cản tối thiểu, giúp chúng khỏi rơi vào vào cạm bẩy của quỷ dữ và ham muốn trần tục; ngược lại các anh lại tin vào sự thánh thiện của chúng. Các anh giáo dục quần chúng rằng kẻ thù sẽ mãi mãi là kẻ thù, bạn sẽ mãi mãi là bạn, rằng những giáo điều Cộng Sản luôn luôn được tắm trong nước giếng trường sinh và giữ đến muôn đời tuổi xuân và sắc đẹp. Các anh tự cho mình là nhân vật thần thoại Adonis, áp đặt những kẻ mà quần chúng sẽ phải tuân phục, đưa họ lên bàn thờ của tổ tiên, các anh tin rằng những kẻ này là đã được phú cho tuổi trẻ không thay đổi, sắc đẹp trường cửu, một trí thông minh bền vững, như thách đố cả thời gian, sự thịnh suy của tuổi tác, sự tàn phai của cơ thể con người, không còn nhược điểm về thể xác cũng như sự yếu đưối về tinh thần.

Vì vậy, cái lỗi lầm cơ bản và không thể tha thứ được là đã không chấp nhận và thực hiện cái triết lý về sự chuyển động và thay đổi của sự vật, hậu quả là các anh đã phớt lờ những ảnh hưởng của nó trên suy nghĩ và hành động của các anh.

Cái lỗi lầm cực kỳ to lớn thứ hai là các anh luôn đỗ lỗi trên người khác về mọi chuyện nhưng không bao giờ có chuyện nào thuộc về lỗi về của các anh. Tính tự phụ tai hại đó không thể chấp nhận được, bởi vì những người bị các anh xử án sẽ không đồng tình trên cái tính chính đáng, đúng đắn của lời buộc tội với đầy dẫy thiên vị, một chiều, một phía và sẽ đứng dậy chống lại hình phạt mà các anh dành cho họ. Nhưng có một chuyện còn nghiêm trọng hơn! Các anh không hề thấy rằng các anh cũng phải có phần trách nhiệm, các anh không chấp nhận là các anh có lầm lẫn, có thiếu sót vì lẽ các anh là người nắm chính quyền và đã để chuyện xảy ra gây những hậu quả càng ngày càng nghiêm trọng. Khi mà anh còn chưa biết gì cả và chưa hiểu được bài học từ những thiếu sót bản thân và những định kiến không sửa được, khi mà những phán quyết đã được định sẵn bởi cái đầu của anh mà không do từ thực tiển, thì cái hậu quả kinh hoàng, đáng trách và tàn khốc kia một khi tái phạm với cái tội lỗi của các anh sẽ còn nặng nề hơn nữa
)

Trong khi những suy nghĩ dấy lên trong đầu của thính giả, nhiều người đang bàn tán xôn xao thì diễn giả nâng cao giọng và đi vào phần đúc kết lời buộc tội:

“Nếu sự suy sụp tinh thần của con người đã trở thành một kich bản đau đớn cho Đảng và giới trí thức, thì việc những người tham gia phong trào “Trăm Hoa Đua Nở” đào ngũ khỏi nền tảng của tư tưởng lại càng bi thảm hơn nữa. Người ta đã đòi hỏi gì? Loại chính trị khỏi mọi sinh hoạt của trí thức và thiết lập nền dân chủ trên cả nước.

“Nhưng có phải là không có dân chủ ở Việt Nam sao? Những ai đòi hỏi nó phải quay nhìn lại và so sánh thời gian trước và sau 1945. Trước đây, ngay trước ngày Cách Mạng, nạn đói đã gây ra hai triệu nông dân chết đói. Hai tỉnh đông dân nhất ở đồng bằng Bắc Bộ là hai tỉnh Thái Bình và Nam Định đã bị tan tác. Hàng triệu nông dân, ốm đói như những bộ xương biết đi, lê lết thân mình khắp đường khắp phố. Họ không phải đi kiếm gạo mà bất cứ thứ gì có thể làm bớt cơn đói đáng đốt cháy bao tử mình. Họ tụm túm trong mọi góc đường thành phố để mong kiếm được thứ gì để kéo dài mạng sống dù trong một chốc lát ngắn ngủi. Nhưng người sắp chết chỉ còn ngã gục và xác người rãi rác khắp đường, khắp nẻo. Ngày nay, những hình ảnh làm thắt lòng người đó không còn nữa: trên đường phố, không ai còn thấy một kẻ ăn xin chìa tay chờ bố thí.

“Trước đây, một dân tộc kiêu hãnh với ngàn năm văn hiến và nền văn học rực rỡ đã phải đau khổ vì nạn thất học. Ngày nay mọi người đều đọc báo chí, trẻ con được đến trường, ngay cả ở những xóm làng xa xôi nhất trên vùng cao nguyên. Số lượng học sinh đến lớp thật đáng kinh ngạc, người đi làm ban ngày ban đêm đi học, và các Đại Học trên cả nước mở cửa đón nhận các học sinh nam và nữ, dạy cho họ những chương trình cấp cao.

“Trước đây, nền sản xuất là thuần nông nghiệp và thủ công nghiệp, ngày nay nhà máy được xây dựng khắp nơi, và sản xuất công nghiệp, trong quá trình phát triển, đã tạo ra một tầng lớp công nhân mà số lượng tăng từng ngày và chất lượng tiếp tục tốt hơn.

“Trước đây, ở nông thôn, các quan triều và các quan làng, quan xóm thi nhau hút máu đồng bào, làm cho họ nghèo kiết xác. Ngày nay, ở mọi cấp độ, những uỷ ban nhân dân mà đa số là nông dân cùng quản lý chuyện đất nước và chỉ ra quyền của nhân dân là chủ nhân của số phận của mình.

“Trước đây, chúng ta đã làm nô lệ cho Thực Dân, ngày nay chúng ta là một nước tự do và độc lập và sau trận Điện Biên Phủ, lời nói của chúng ta là lời nói nặng cân đối với thế giới. Tất cả dân tộc các nước thứ ba đều thèm muốn được uy tín như chúng ta.

“Còn gì để nói thêm nếu không phải là dân tộc ta từ nay tự quyết định đến vận mạng mình mà không bị bất cứ sự can thiệp nào của nước ngoài, vì vậy chúng ta từ nay sẽ hoàn toàn tự chủ và độc lập trong việc quản lý đất nước, tổ chức sản xuất, quản lý Luật Pháp mà từ nay sẽ không còn tuỳ thuộc vào quyền hạn của những toà án thực dân, trong việc bảo vệ đất nước mà không cần đến một quân đội đánh thuê của nước ngoài nào... Vậy thì cho tôi hỏi các ông: Phong kiến và thực dân đã bị đuổi đi, còn ai nữa khác hơn là Nhân Dân Việt Nam đứng vào chỗ đó? Và những người đó sẽ phải làm gì một khi đã đứng ra nắm lấy vận mạng của mình trong tay? Họ đứng ra tổ chức Nhà Nước và làm cho Nhà Nước là của dân và vì dân. Dân chủ phải là như thế: đúng hay sai?

“Các ông hỏi tôi: thế thì chủ nghĩa Cộng Sản làm cái gì trong nền dân chủ của Việt nam? Được, tôi sẽ trả lời các ông. Các ông như là những đứa trẻ đang tập đi. Có cần không việc giúp cho đứa trẻ không trượt không té? – Các ông là những người chủ của những chiếc ô tô mới mà các ông cũng chưa biết làm sao lái xe. Các ông có cần hỏi học ở trường dạy lái xe dạy các ông nắm tay lái để tránh leo cả lên lề đường và gây ra tai nạn không?

“Nếu các ông cho phép, chúng ta hãy trở về với thời gian. Năm 1945, trong nước thời cơ đã đến cho phép chúng ta hy vọng giành lại được Độc Lập và Tự Do. Còn nữa, lúc ấy nhân dân đã bị tan tác vì trận đói, và lại không chút kinh nghiệm chính trị, họ không thể nào tự mình hoàn thành một công việc to lớn của thần Hercule. Ngay cả những người kháng chiến yêu nước và can đảm nhất cũng không xông tới trong một trận đánh mù quáng và nắm chắc một cái thất bại không tránh được nếu không có chỉ huy và kế hoạch. Chính nghĩa tự nó là chưa đủ. Một hướng đi đầy tính toán cần phải có để tránh thảm cảnh vụ tàn sát Xô Viết Nghệ Tĩnh tái diễn. Đảng ta không làm gì ngoài việc lãnh đạo và trách nhiệm sự vận động của Cách Mạng. Các ông đã biết những kết quả tuyệt vời đã thành công từ đó. Sự hợp tác giữa Đảng và Nhân Dân đã rất thành công và hiệu quả. Chúng ta không có quyền chối bỏ những thắng lợi đầy uy tín hay xoá bỏ quá khứ huy hoàng đó.

“Vì vậy, ở nước ta, Đảng và Nhân Dân, chủ nghĩa Cộng Sản và Dân Chủ là gắn bó với nhau. Lịch Sử đã quyết định như thế, chúng ta hãy tôn trọng ý muốn đó. Hơn nữa, từ khi Đảng dẫn dắt nhân dân, dắt từng bước đi, soi sáng con đường đi của họ, nhân dân đã phải tự chúc mừng cho mình: sự hợp tác đã trở nên lợi ích, và nước ta đã có niềm tự hào chánh đáng về những thắng lợi đầy xúc động và bất ngờ mà chúng ta có được dưới sự che chở của chủ nghĩa Cộng Sản. Quá khứ dẫn dắt hiện tại và tương lai.

“Còn nữa, đối với những ai đòi hỏi chấm dứt sự dạy dỗ của Đảng đối với Nhân Dân, có bao giờ họ đã tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra cho Đất Nước nếu Đảng từ bỏ vai trò lãnh đạo nhân dân của mình? Có đảng nào còn có thể thay thế đảng Cộng Sản? Các ông biết quá rõ một đảng phái chính trị là gì trong một thế giới Tư Bản. Mỗi đảng lo bảo vệ quyền lợi của đảng mình, và trong bước bổ sung, là quyền lợi của những ai bỏ phiếu cho mình. Những tay làm chính trị chuyên nghiệp không từ bỏ một sự đê tiện, một xấu xa nào để nhét đầy túi tham và áp đặt những mục tiêu ích kỷ và tham lam của họ trên trước ước vọng của nhân dân. Chúng chẳng quan tâm đến những tai tiếng mà chúng là chủ thể, ngay cả những lời biêu riếu dành cho chúng. Chúng nó luôn sẵn sàng bỏ chạy, kiếm đường trốn thoát ra nước ngoài và khởi sự lại cuộc sống sang trọng. Trong thời Pháp thuộc, những thói quen chính trị từ chủ nghĩa tư bản đã xâm nhập: ngày trước, các ông đã biết quá rõ những hành động của một số chính trị gia thối nát, họ để vàng và tiền bạc, ăn cắp của nhân dân, vào những ngân hàng Thụy Sĩ, xây cho họ những biệt thự sang trọng ở nước ngoài, để có nơi thối lui hạ cánh Chúng nó đã để sẵn những chiếc máy bay sẵn sàng đào thoát mang theo hàng tấn vàng đủ bảo đảm cho họ và người thân một tương lai huy hoàng. Các ông có muốn giao phó số phận của đất nước, ngay cả của các ông và con cháu các ông cho những nhân vật không ra gì như thế hay không?

“Nếu các ông cảm thấy cần có sự lãnh đạo, các ông có chọn lựa nào tốt hơn là Đảng của chúng tôi, một đảng đã có tiếng tăm, đầy vinh quang, lóng lánh trong suốt, có những đảng viên tranh đua nhau trong nhiệt tình cách mạng và niềm tin xã hội chủ nghĩa?”

(Trong giờ giải lao, những người đến nghe xầm xì trao đổi ý kiến - Những lý luận mà chúng ta vừa nghe chỉ có thể có thể thuyết phục được người dân trong một buổi chợ phiên vui nhộn, với trình độ trung bình, không thành thạo về việc phân tích, không quen suy nghĩ, sẵn sàng nuốt nhận bất cứ chuyện gì. Dĩ nhiên, người dân phải được dẫn dắt. Nhưng vấn đề lãnh đạo đưa ra hai câu hỏi. Thứ nhất, có thật cần thiết phải đòi hỏi giao niềm tin hoàn toàn vào một người hay nhóm người lo toan mọi lãnh vực sinh hoạt của quốc gia? Chúng ta phải công nhận rằng không bao giờ có một loại thiên tài vạn năng: một danh tướng có thể, nếu cần thiết, cầm cả một trung đoàn nữ ý tá đi đặt vòng soắn ngừa thai cho quý bà mắn đẻ. Nhưng chuyện lãnh đạo kinh tế và tổ chức sản xuất đòi hỏi phải có những kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn. Người trí thức không thể đặt dưới quyền của những người có chút ít học hành hay chỉ biết đọc biết viết. Hơn nữa, Đảng lại giành độc quyền lãnh đạo tất cả mọi lãnh vực.

Thứ hai, việc lãnh đạo nhân dân sẽ phải giao cho ai? Thông thường, là phải do nhân dân chọn. Nhân dân bầu ra những người đại diện và uỷ thác, giám sát và kiểm tra tư cách và việc làm của những người này trong nhiệm vụ phải lo toan cho quyền lợi và thực hiện khát vọng của mình. Đây là nguyên tắc của dân chủ: để mà nói rằng một chính phủ do dân và vì dân. Còn nữa, ở Việt Nam hay ở những nước Cộng Sản, Đảng đã giành cho mình độc quyền chính trị và đôc quyền lãnh đạo toàn diện chính phủ. Hiến Pháp có thể phân chia các quyền, bổ nhiệm quyền Hành Pháp cho Hội Đồng Chính Phủ, quyền Tư Pháp cho Toà Án mà sự độc lập trên lý thuyết đã được bảo đảm, nhưng trong thực tế, các quyền đã chứa đầy một cách khó hiểu toàn đảng viên cộng sản và họ chỉ làm theo cách mà Đảng muốn. Vì vậy, loại “dân chủ: mà những người cộng sản tung hô chỉ là một sự giả dạng để tạo vui vẻ nhưng, đồng thời, than ôi, gây ra sự phá sản cho đất nước và ngày càng làm cho dân tộc nghèo đi mà không gì cứu vãn được.

Những quyền cơ bản và tự nhiên nhất của con người không được cho phép, ngay cả những quyền tự do cá nhân trong nước cũng không được tôn trọng. Chẳng phải chỉ có riêng chuyện Đảng có thể ra lệnh cho Công An bắt người, nhốt tù người vĩnh viễn, không cần qua bất cứ một cấp Toà Án nào, mà có vài lãnh đạo cao cấp ban đêm đi cùng công an đến bắt tại nhà những kẻ thù chính trị, còng tay đem họ đi, nhốt họ suốt đời, không qua bất cứ lần xét xử nào, vào những nhà giam bí mật mà họ chỉ ra khỏi khi đã thành chiếc thây ma không hồn. Chuyện áo dơ chúng ta giặt ở nhà, nhưng vì có quá nhiều áo dơ phải giặt mỗi ngày nên người ta cảm thấy cần phải tuyên cáo rằng Việt Nam là một thế giới bưng bít, như trong trường họp chung của toàn thế giới cộng sản. Bên trong thế giới đó, người ta tha hồ tự mình cho phép thực hiện những điều bệnh hoạn không thễ tưởng tượng, những vụ truy bức tàn bạo, những việc điên khùng kinh tởm. Không ai có thể nhìn vào cái địa ngục trần gian đó để thấy những tội ác kinh hoàng làm nhục nhã loài người đã và đang xảy ra. Mặt khác, về phía mình, bạo quyền không tha thứ cho bất cứ đề nghị, lời khuyên hay một góp ý nào, không chấp nhận bất cứ chỉ trích nào và không muốn tự nhìn khuôn mặt ma quái của mình trong gương, họ đang chiến đấu với chính mình trong cái vòng lẫn quẫn mà họ đang chết ngộp vì lỗi lầm và tội ác của mình
)

Diễn giả có biết chăng những luồng suy nghĩ như thế đang xảy ra? Có thể. Trong tình huống nào ông ta cũng vẫn tiếp tục kịch liệt chỉ trích chủ nghĩa tư bản. Cùng lúc là những vinh danh cho chủ nghĩa xã hội.

“Các ông có đang chối bỏ những thành tích lớn lao của chủ nghĩa xã hội trên đất nước của chúng ta không? Nhờ vào Đảng mà chúng ta có những điều tốt đẹp như ngày hôm nay. Tôi đồng ý với các ông là Đảng không được nhân dân bầu lên, nhưng nhờ những chiến đấu cách mạng trong quá khứ, đã phải chấp nhận những hy sinh, đạt được những thắng lợi, họ đã được nhân dân hổ trợ và tỏ ra xứng đáng với niềm tin yêu của dân. Quyền lợi của Đảng hoà chung với quyền lợi của quần chúng, Đảng đã làm việc cho lợi ích chung và đã làm cho nhân dân nể trọng vì sự khôn ngoan và đạo đức của mình. Với một mục đích giống nhau như đúc, mối quan hệ về quyền lợi giữa hai bên là một giao ước không thể xoá bỏ được. Nhân dân và Đảng cùng đi trên một chuyến tầu cùng hướng về phía Thiên Đàng của ơn phước. Nhân dân hiểu và chấp thuận cho Đảng được tự cách ly riêng trong sinh hoạt, cách tổ chức, chức năng, trong việc bổ nhiệm cũng như khiển phạt, trong việc xây dựng những đường lối hoạt động và ngoại giao, và nhân dân hiểu chuyện Đảng phải làm việc trong vòng bí mật là vì lợi ích của nhân dân! Nhân dân chẳng những thông hiểu mà còn tán thành việc làm của Đảng.

“Còn có chuyện gì khác làm dân chủ tư sản thèm muốn? Chế độ đa đảng mà trong đó đảng này chống đảng kia với những đấu đá kinh hoàng đề bảo vệ quyền lợi ích kỷ của cá nhân, quên đi quyền lợi của Đất Nước và lơ là đi quyền lợi của nhân dân, gây ra những vụ tai tiếng về tài chính và chính trị, và cuối cùng là việc bóc lột nhân dân, làm tăng thêm nghèo khó và đẩy con người xuống cảnh buồn thảm và bi quan, là điều dễ hiểu!

“Có phải chúng ta, những người trí thức, đang muốn nền dân chủ tư sản để được tự do một cách toàn diện trong lãnh vực trí óc, nghiên cứu hay sáng tạo? Tôi xin hỏi các ông: các nhà xuất bản sẽ ưu tiên cho những tác phẩm của những việc làm có giá trị, cao quý trong tâm hồn hay là những cuốn sách bán chạy nhờ chúng ca tụng những bản năng thú vật của con người hay truyền bá những bôi nhọ chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Xã Hội một cách có dụng ý, bất công và một chiều? Phải biết rằng lòng tham về lợi lộc nó che đen đi lương tâm, hạ thấp tâm hồn mình bằng những chủ quan một chiều, một phía và thiên vị, làm hạ thấp và bán rẽ con người của mình. Các ông có muốn chúng ta té chìm trong những nhà xí mà không khí đã bị ô nhiểm vì những hôi thối của tư bản?”

(Trong hàng thính giả, nhiều quan điểm được trao đổi giữa người này người khác: “Ông diễn giả nhà ta, cũng giống như các anh cộng sản khác, là không có khái niệm về sự tương quan của sự vật, thiếu công bằng và không khách quan. Hắn ta kết án tư bản cả khối cũng như hắn bênh vực chủ nghĩa xã hội cả khối. Chúng ta không chối bỏ những tội ác của chủ nghĩa tư bản và những tên làm chính trị của nó. Nhưng nó cũng có những thuận lợi hấp dẫn mặc dù vẫn có những thiếu sót dính với nó. Tất cả cao hơn hết và nói một cách tổng quát, chủ nghĩa tư bản tôn trọng và thi hành những quy luật tự nhiên của con người, đó là điều làm nên tiêu chuẩn văn minh của xã hội loài người. Không có chế độ chính trị xã hôi nào có thể tự cho mình là hoàn hảo, vì lẽ bất cứ những gì làm ra từ bộ óc và bàn tay của con người đều có những hư hỏng hiển nhiên, cùng chung với những phẩm chất tốt đẹp của nó. Phán xét một chiều và một mặt là một sai lầm vì như thế mới chỉ là một góc cạnh của sự thật.

Vì thế, nếu có những người trí thức bênh vực cho thuyết đa nguyên, dù rằng sẽ có những đám “chính trị gia” xấu xuất hiện, là vì đó là cái logic của đời sống thực tế, nếu muốn đạt những hiệu quả tốt nhận thức đủ tính muôn mặt và mâu thuẩn của một vấn đề nảy sinh. Đa nguyên là chấp nhận những ý kiến trái ngược, những sự thật không giống nhau và đó là ý nghĩa thực của một nền dân chủ. Những người cộng sản không chấp nhận chuyện đó. Họ bám chặt vào độc quyền chính trị, tự cho mình là kẻ duy nhất nắm mọi thước đo về bản chất của dân chủ. Đa nguyên trở thành bãi chiến trường nơi mà dân chủ và chủ nghĩa cộng sản tấn công lẫn nhau.

Thật dễ hiểu khi thấy cộng sản chẳng những bằng lòng khoanh kín thế giới của mình mà còn muốn duy trì sinh hoạt của họ trong vòng tuyệt đối bí mật đối với bên ngoài. Trong trưòng hợp một đảng chính trị bình thường, như những đảng trong những nước dân chủ thì chuyện đảng sinh hoạt bí mật như thế là chuyện bình thường. Nhưng ở đây, chuyện là đảng Cộng Sản đang nắm quyền cai trị đất nước trong một chế độ chuyên quyền và độc tài. Tất cả mọi quyết định của nó là có liên quan đến lợi ích của toàn dân tộc, không chỉ riêng là những đường lối chỉ đạo hay chính sách phổ biến ra ngoài, mà còn dính đến chuyện bổ nhiệm những quanh chức và nhân sự cấp cao trong guồng máy Nhà Nước. Mỗi con người cá nhân có khuynh hướng đi theo một đường hướng lý tưởng và xã hội riêng mà dư luận quần chúng đều biết, vì lẽ đó, việc bổ nhiệm thăng thưởng hay truất quyền có thể cho ta thấy Đảng đang đi về đâu. Vì bí mật là luật chơi nên Đảng khép kín cửa phòng họp của họ cho người ngoài khỏi tò mò nhìn thấy. Nhưng chuyện bí mật gì dù có giữ kín như bưng thì không sớm thì muộn cũng có ngày xì ra ngoài cho công chúng nhờ những hớ hênh của những kẻ bên trong vòng thâm cung bí sử và biết rành đường đi nước bước.

Hơn nữa, công chúng đã có dịp biết được những sự việc hết sức thuyết phục đã xảy ra. Dĩ nhiên, đó là những khoản tiền bí mật được tự ý sử dụng, sự thành hình những cơ quan bí mật, việc tổ chức những chuyến công tác bí mật nằm dưới con dấu “Tối mật” và được bảo vệ rất ư là bí mật. Rất ít những người mới vào đảng được biết những chuyện này.

Nhưng có nhiều sự việc hiển nhiên làm cho mọi người phải suy nghĩ. Mọi người đều biết rằng đằng sau những vụ lường gạt trộm cắp cao cấp là dấu ấn của những quan chức rất cao cấp thông qua những công ty nhà nước có lợi nhuận rất cao. Nhiều quan chức, giống như những con thiêu thân tự đốt cánh mình khi tới tấp nhào vào vùng lửa của tuyệt vời hy vọng. Chúng cung cấp những đãi ngộ huy hoàng và vương giả cho những tên ma lanh, cho họ hàng triệu đồng để rồi đưa họ vào tù. Nhưng không có vụ kiện tụng nào được đưa ra đối với những người này, tính nhẹ dạ nông dân của quan chức bị dính chấu lại được đưa ra để mọi người cùng cười xoà, hết chuyện. Mọi người cùng quyết định tốt nhất là nên giấu chuyện đã xảy ra như giấu một món đồ khuất mắt dưới thùng gạo, và tránh biêu riếu những nạn nhân đã bị bắt quả tang. Thây kệ cho ngân sách Nhà Nước khi mà những kẻ chịu trách nhiệm được lệnh phải hết sức kín tiếng giữ im lặng để tránh cho việc Đảng phải chịu sự khinh miệt của nhân dân. Nhưng nếu một chuyện tai tiếng được dân chúng biết, thì còn nhiều chuyện đáng trách còn đang được giấu kín sau bức tường kín bưng và theo lý lẽ của Đảng! Người ta xầm xì rằng mọi giao dịch trong nước và với nước ngoài, mọi hợp đồng với các chính phủ nước ngoài, dưới trách nhiệm của bộ Ngoại Giao và bộ Ngoại Thương, đều cho phép các quan chức trách nhiệm được quyền nhận những khoản tiền hoa hồng, tiền giảm giá, tiền trà nước để làm giàu cho họ, cho những cán bộ và thân nhân trong nhiều thế hệ. Ngay khi những cá nhân như thế bị Đảng lật tẩy và chịu Đảng xử tội một cách bí mật nhiều nhất cũng chỉ bị đổi đi nơi khác, giáng cấp hay tệ nhất là bị khai trừ Đảng và sa thải khỏi nhiệm vụ đang làm, chẳng cần phải trả lại những tài sản đã ăn cắp của nhân dân.

Nhưng có những sự việc mà không ai có thể ném vào đáy của giếng sâu. Trên tất cả, đó là những tàn phá gây nên bởi nạn bao che và nạn tham nhũng. Sự bao che trước nhất là được trực tiếp thực hiện bởi các ông cao nhất, và sau đó là các kẻ tay sai luôn luôn nồng nhiệt sốt sắng làm vui lòng các ông chủ cấp trên! Đó là lý do tại sao có những con ông cháu cha được đi học ở nước ngoài rồi quay về được bổ nhiệm sau hậu trường để nắm những ghế công chức mà công việc chỉ là ngồi ký tên cho người nào đó để lãnh những đồng lương lớn hay những số tiền huê hồng cũng không nhỏ. Chẳng ai cần lo lắng quan tâm cho chiếc xe của Nhà Nước đang liên tục bị xa lầy và sụp đổ cùng với nên kinh tế, với bốn bánh xe chổng lên trời. Nhưng cái làm cho Đất Nước mau sụp đổ nhất là nạn tham nhũng. Tham nhũng là muôn mặt, nhưng cái chính là trực tiếp hay gián tiếp ăn cắp tài sản Nhà Nước, tham ô, làm và sử dụng những giấy tờ giả mạo, chiếm đoạt đất công, dùng tài sản công vào những chuyện riêng tư. Ngoài tính chất muôn mầu muôn vẻ của nạn tham nhũng ta còn có thể kể thêm là sức sinh sôi của loại dịch bệnh này là rất nhanh. Những lãnh đạo chóp bu đã làm gương rất xấu và chuyện họ không bị hình phạt nào chỉ khuyến khích cấp dưới bước chân vào con đường kiếm chác mà không sợ bị một rủi ro nào. Sớm hay muộn, sự vô đạo đức sẽ chiếm lĩnh xã hội trên bề mặt cũng như bề sâu. Chưa bao giờ ở bất cứ nước nào, ngay cả ở các nước tư bản, mà người ta thấy được một cảnh tượng kinh hoàng, một sự băng hoại vô cùng của đạo đức: toàn bộ guồng máy nhà nước ngập chìm trong sự mua chuộc. Đối với hàng công nhân viên hạng nhỏ cấp dưới, mức lương nhỏ bé là lý lẽ để biện minh cho tội tham nhũng của họ khuyến khích từ gương xấu của cấp trên của họ là những kẻ phạm tội nhưng không chịu bất cứ trừng phạt nào của Pháp Luật hay phải ra trước Toà thông qua hệ thống kỷ luật của Đảng và họ tham nhũng để mưu cầu được mau thăng quan tiến chức. Sự vô đạo đức nó như một cơn thuỷ triều đen chồm lên tràn ngập tất cả mọi cơ phận. Những lương tâm run sợ bay biến khỏi vùng địa chấn, xa tắp khỏi tầng khí độc mà ngập trong đó là một nhà nước đang thối rửa và hấp hối, một nhà nước kết cấu bằng những con người mà quyền hạn là vô chừng và độc đoán đang nắm giữ. Khi mà một nhà nước bị thoái hoá và sự xuống cấp của con người đã vào cuộc với những tác động hổ tương, kết nối chung cùng một hướng, giờ sụp đổ sẽ không còn xa.

Mỗi khi để giải thích về sự độc tôn chính trị của Đảng là điều có thể chấp nhận được, họ đều ca bài ca đề cao uy tín, tính đạo đức, những vinh quang của họ để áp đặt và đạt lòng tin của nhân dân. Rất tiếc, họ dạy rằng mọi sự đời đều chuyển động và thay đổi theo tính biện chứng, nhưng cá nhân họ lại không áp dụng trong việc xây dựng những đường lối hoạt động hay quyết định những chính sách, đảng của họ lại ra sức tấn công những kẻ thù hôm nay, những người có thể trở thành bạn ngày mai. Đầu óc họ cứng nhắc trong chuyện định ai là bạn ai là thù như là một chân lý không thể thay đổi, từ chối nghe tiếng chuông từ mọi phía, và sửa sai những sai lầm. Tất cả chuyện đó sẽ đưa đến một sụp đổ không thể trách được, một sụp đổ mà mức độ trầm trọng mà chính họ phải đánh giá trước.

Thay vì giáng búa rìu lên đầu người trí thức mà tội lỗi duy nhất của họ là yêu Tổ Quốc và Dân Tộc, người cộng sản cần phải hiểu rằng kẻ thù của họ chính là họ chứ không ai khác. Kẻ thù của họ là ai? Là tính chủ quan, một cách quá mức, đã làm cho họ tưởng mình là Thượng Đế được phú cho sức mạnh siêu nhân không thể thất bại, trên Thiên Đàng, trên tất cả những thực tại thế gian, sự hợp pháp, luật pháp, công lý và công bằng. Thật điên khùng khi họ tin rằng họ luôn luôn đúng, và đặc biệt ngay cả những khi họ sai lầm! Loại bệnh hoạn này chỉ có con đường là đưa họ vào bệnh viện tâm thần
.)

Những bàn tán này chỉ xảy ra trong tiếng xầm xì để khỏi mang tiếng vô lễ với người đang đứng độc quyền trên diễn đàn, và cũng để tránh những tên chỉ điểm và tay chủ ngục đang lẫn lộn trong hội nghị.

Diễn giả bắt đầu kết thúc phần chót của bản kết án:

“Thưa các đồng chí thân mến, việc mà tôi nhấn mạnh ở đây là dân chủ, theo nguyên chữ, nói một cách đơn thuần là chính quyền do dân. Nhưng, theo chúng ta là những người cộng sản, chúng ta hiểu chính quyền là dân. Chúng ta hãy nhìn chung quanh chúng ta để ngắm nhìn một hoạt cảnh đầy hạnh phúc! Những nhà trẻ chào đón các cháu bé trong khi các bậc cha mẹ đi làm và lo cho chúng tất cả những săn sóc cần thiết. Những cháu ở tuổi đi học thì tập trung trong các trường học. Những thanh niên nam nữ hiếu học tham dự những buổi giảng ở Đại Học và dành trọn thì giờ rỗi rảnh để vào các Thư Viện để gia tăng kiến thức. Họ hưởng một nền giáo dục miễn phí, cũng như trường hợp những người bệnh được hưởng những săn sóc y khoa, được nằm bệnh viện hay được qua những lần giải phẫu rất tốn tiền mà không phải trả một xu nào. Báo chí và những tác phẩm xuất bản của Nhà Nước đều truyền bá những văn hoá lành mạnh và có đạo đức nhằm dạy dân chúng yêu chủ nghĩa xã hội và yêu hoà bình. Rạp phim và sân khấu cung ứng những buổi giải trí cho quần chúng đầy chất lượng để nâng cao tinh thần và đào tạo những công dân tốt. Cửa hàng nhà nước ngập đầy thực phẩm và hàng tiêu thụ. Tình hình an ninh được bảo đảm: không có những phạm pháp đáng khinh tởm, không nạn chận đường cướp tiền, không tống tiền, đường phố sạch sẽ, con người sống lịch sự với nhau, trẻ con ngoan ngoãn. Các nước anh em theo sát chúng ta và mang cho chúng ta tất cả những giúp đỡ cần thiết. Ở nước ngoài, chúng ta đạt một uy tín mà nhiều người khâm phục. Chúng ta không biết các bệnh xã hội, như đĩ điếm, hút sách và những hang ổ cờ bạc. Cho tiền puộc boa, chúng ta không biết. Tất cả cán bộ và nhân viên tự hào về tính lương thiện và sự trong sạch của mình: họ không bị mua chuộc và không nhận tiền hối lộ. Chúng ta không biết được trong tương lai chúng ta sẽ có gì trong các cửa hiệu kho hàng, không biết còn hay không còn tiếp tục nhận được những giúp đỡ anh em của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng, trong hiện tại, chúng ta đang hưởng một cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc, mặc dù nước ta là một trong những nước nghèo nhất theo như Quốc Tế xếp hạng nước chúng ta. Nhưng không có một thứ của cải nào có thể bù đắp được cái may mắn tuyệt vời được có một Tổ Quốc vinh quang, một Đảng tôn vinh, một niềm tin không lay chuyển vào chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Chúng ta không hãnh diện là những người con của Việt Nam mà số phận đã được thế giới thèm muốn sao?

“Tại sao vào lúc này lại có một số trí thức ngây thơ đến độ đứng lên đòi hỏi tự do và dân chủ như thể là chúng ta đã tước bỏ phần của họ? Đương nhiên, chúng tôi có quan điểm riêng về tự do và dân chủ, nền tự do dân chủ có mang dấu của người cộng sản và ấn của Đảng. Hãy nhìn xem giai cấp trí thức khinh bỉ mấy tay phản bội và thương hại sự mù quáng của chúng như thế nào, hãy xem thiên hạ nhìn mấy tay bệnh hoạn đang nhiểm vi trùng của bọn tư bản như thế nào. Quần chúng biết rõ hơn ai hết món nợ với chủ nghĩa cộng sản: phẩm giá của con người, niềm hạnh phúc được làm chủ chính mình và cùng với đất nước, đánh bại chủ nghĩa thực dân trong trận Đìện Biên Phủ.

“Chúng tôi, những người cộng sản, và nhân dân không coi người trí thức như kẻ thù cần phải loại bỏ, nhưng như một người bị lạc đường và bệnh hoạn, lạc hậu một cách kinh khủng đối với thế giới văn minh, một thế giới tin tưởng rằng tương lai của nhân loại là chủ nghĩa xã hội. Tôi xin hỏi những người chậm trí kia: chân lý nằm phía nào? Về phía của vài tên lạc hậu hay của toàn thể nhân dân, mà trong đó tuyệt đại bộ phận trí thức đang đứng cùng? Vâng, toàn thể nhân dân đều đứng sau lưng Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng.

“Chân lý đứng về phía của nhân dân! Và nhân dân đã đồng tình và ủng hộ Hồ Chí Minh và Đảng của ông. Vì lẽ đó, chúng tôi ra lệnh những ai chối bỏ sự thật của nhân dân là kẻ thù của nhân dân. Tốt hơn là những kẻ này nên lưu ý những gì tôi nói.”

Một sự yên lặng nặng nề lan ra. Không một tiếng vổ tay như thường xảy ra vào lúc kết thức một bài nói chuyện. Cơn bảo đã đến gần. Rời chỗ mít tinh, những người tham gia tụm năm tụm bảy ở khu vực Pasteur, những màn tán gẫu bắt đầu.

- Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một lời tuyên chiến. Họng súng sẽ nổ. Không cần phải ngụy biện. Chân lý không nằm ở bên có bạo lực.

- Mọi người im lặng không có nghĩa là họ chấp nhận thế đứng của Đảng. Trong thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất chủ yếu là nhắm chặt đầu giai cấp địa chủ và việc cải cách nhà ở là nhằm tước bỏ quyền sở hữu của các chủ bất động sản ở thành phố, nhân dân cũng giữ im lặng. Họ đã quen, biết giữ im lặng. Đảng đã nhận lỗi trong Cải Cách Ruộng Đất; trong tương lai họ sẽ nhận lỗi về việc cải cách tư sản. Sự im lặng của dân chúng không có nghiã là một sự đồng lòng mà ngược lại đó là sự sợ hãi đã nảy sinh. Người cộng sản biết quá rõ chuyện đó. Đó là tại vì sao thay vì tự mình áp đặt trên nhân dân, họ núp đằng sau thẩm quyền của Hồ Chí Minh.

- Chúng ta biết rõ mức trầm trọng như thế nào khi người cộng sản gắn bó với mấy chữ “kẻ thù của nhân dân”. Trước nhất, chúng ta hãy than phiền cho số phận mấy đồng chí bị gán cho mấy chữ “lầm lạc” và “lạc hậu”. Nếu họ không bị đưa lên đoạn đầu đài, hay trói vào cột bắn, thì họ cũng sẽ bị chết một cái chết kéo dài, đau đớn hơn nhưng trong vòng kín đáo, cô lập bí mật nơi nào đó. Bất luận như thế nào, trên hết là những cái đầu can đảm hay ngây thơ nhất của chúng tôi, họ muốn hạ tất cả trí thức để cưỡng ép họ giữ một im lặng tuyệt đối, nếu không chịu “tự do” chấp nhận một cách tự nguyện sự độc quyền của cộng sản. Từ nay trở đi, ba “kẻ thù” của Đảng đã bị loại bỏ: tầng lớp địa chủ ở nông thôn, tầng lớp chủ nhà ở thành thị, và những trí thức còn xứng đáng với danh xung đó còn lại trong nước. Từ nay, Đảng có quyền tự do làm những chuyện khác thường và kỳ quặc.

- Thế nhưng, tội lỗi của những người bạn bất hạnh của chúng tôi là gì? Họ không hề có dự định nào loại bỏ Đảng trong cuộc sống chính trị, càng không có ý định truất phế Đảng. Họ chỉ mơ ước được hỏi Đảng trong tư cách là một đảng đang lãnh đạo, chấp nhận thực hiện, với chủ đích là làm đời sống chính trị được tốt hơn, một vài cải tổ, để mang lại những điều tốt lành cho nhân dân cũng như cho Đảng. Như thế thật là ngụy biện khi cho rằng nhân dân ủng hộ Đảng và những người “lầm lạc” là kẻ thù của nhân dân. Những người cộng sản sống bằng dối trá, đạo đức giả, nhưng cái sai lầm lớn nhất của họ là đã đặt cái bạo ngược trên cái bề ngoài hão huyền, từ đó đưa ra những diễn dịch theo ý mình để tiêu diệt những ai mà họ gán cho mấy chữ “kẻ thù của dân tộc”.

Chiếc gươm Damocles treo trên đầu của giới trí thức và nhà cầm quyền có thể chọn đưa họ vào nhà thương tâm thần, hay một án tù chung thân để chết dần trong một nhà tù vô danh nào đó hoặc giả ra những vụ tai nạn mà không ai là người trách nhiệm.

Tôi biết số phận của tôi đang chờ, giống những người khác cũng dính líu vào những cố gắng nhằm mở thêm chút không khí trong lành để thở. Chúng tôi đã bị lừa phỉnh bằng những thủ đoạn đê tiện của những người lãnh đạo rất lão luyện trong việc giăng bẩy, sắp xếp những trận phục kích, giết những người mà họ gọi là kẻ thù. Machiavelli, nếu sống lại ở thế giới này, nên phải ghi danh đi học trường của mấy ông lãnh đạo cộng sản là những con người đầy những dã man gian trá và đầy những sáng kiến vô nhân như chưa từng có trong lịch sử nhân loại.

4
Trận đấu bò đầu tiên trong Mặt Trận Tổ Quốc

Tôi nằm trong mẻ đầu tiên. Mỗi người bị kết án đều phải trình diện trước một toà án gồm những thành viên trong tổ chức mà người ấy sinh hoạt. Trong khi đạp xe từ nhà đến cơ quan trung ương của Mặt Trận Tổ Quốc, theo lời mời của Đảng, tôi cố gắng suy nghĩ xem buổi xử án tôi sẽ xảy ra như thế nào. Dường như đây là buổi tự phê bình mà tôi phải tự trình bày. Thật vậy, đây là một vụ xét xử chính trị mà tôi phải đối phó. Đảng đã chỉ định một số người ngồi sau cái bàn phủ khăn xanh và giữ vai trò công tố tuy không đưa ra bản cáo trạng nào nhưng chỉ đưa ra những câu hỏi nhằm chứng minh là tôi là kẻ có tội. Buổi thẩm vấn diễn ra công cộng, và nội dung là những lời buộc tội chính mà “hội đồng bồi thẩm” đã thiết lập nên. Kịch bản đã được nghiên cứu đến từng chi tiết nhỏ nhất. Phán quyết vụ án không được đưa ra vào phần chót của buổi xử án. Chính Đảng, sau đó sẽ trở lại quyết định nội dung của phán quyết. Mục tiêu được nhắm đến là “giáo dục” lại kẻ phạm tội sao cho kẻ này có thể chuộc lại những lầm lỡ, và đồng thời giáo dục quần chúng để cho họ tránh không mắc phải những lỗi lầm như những người kia.



Vì thế, người ta tham dự một phiên toà chứ không phải là một buổi tự phê bình mà người ta gọi là một buổi hội nghị. Người cộng sản, bên cạnh những tài năng khác, rất lẻo mép. Luôn luôn chơi trò hàng hai, chẳng những tự lừa dối mình còn lừa dối đến những người khác, bóp méo sự thật, tìm cách làm hoa mắt mọi người. Họ dùng những mánh lới quanh co y như đầu óc bẩm sinh quanh co của họ. Một từ luôn được lập lại trong ngôn ngữ của họ: “Giáo dục”. Một động tác đưa ra, một sinh hoạt được tổ chức đều phải nhắm vào một mục đích giống nhau: dạy cho quần chúng cư xử trong cuộc sống y chang như người cộng sản.

No comments: