VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi
Tác giả: Hoành Linh Đỗ Mậu
LỜI MỞ ĐẦU
Đó
là một thời kỳ đầy đau thương của đất nước. Đó là khi người Pháp nhân
danh nền văn minh Thiên Chúa giáo để “khai hóa”, xâm lăng và đô hộ đất
nước Việt Nam cho đến ngày nay, khi người Cộng Sản nhân danh cách mạng
vô sản chuyên chính để “giải phóng”, khống chế và bạo quản dân tộc Việt
Nam.
Tôi đã sống một giai đoạn của thời kỳ đó không những như
một nhân chứng mà còn may mắn được tham dự tích cực vào một số biến
chuyển và hoạt động sát cánh với một số nhân vật lịch sử. Trên con đường
ba mươi năm sống và hoạt động đó, tôi chỉ có một tâm nguyện: ấm no và
an vui cho đồng bào.
Nhưng tâm nguyện đó không thành tựu vì trên
quê hương tôi đau thương vẫn còn đó, nghèo khổ vẫn còn đó. Các bậc đàn
anh của tôi, đồng chí và bằng hữu của tôi cũng đã không thực hiện được
hoài bão của đời họ. Tất cả, từ những người có lòng nhất đến những người
tài ba đảm lược nhất đều đã thất bại, dù trong cuộc hành trình hùng
tráng và bi thiết này, không biết bao nhiêu người đã hy sinh gục ngã.
Quyết
định viết hồi ký được khơi nguồn từ ý muốn đi tìm những nguyên nhân lớn
nhất, thực nhất của cái thảm trạng mà ngày nay cả dân tộc ta phải nhận
chịu, dù những nguyên nhân đó có làm đảo lộn những nề nếp suy nghiệm cũ
và làm lung lay những đánh giá lịch sử đã được một số người hài lòng
công nhận. Những nguyên nhân này được cố gắng trang trải như một bài học
lịch sử để từ đó và do đó, hy vọng những lớp người đang đi tới sẽ tránh
được những vết xe đổ đã nghiền nát bao nhiêu trang sử hiện đại dân tộc.
Cuốn
sách này được chia làm ba phần tổng quát. Phần thứ nhất nói về thời kỳ
thơ ấu và thanh niên. Phần thứ hai, về giai đoạn mấu chốt nhất của lịch
sử cận đại: chín năm của nền Cộng Hoà đầu tiên của đất nước. Và phần
chót, về hậu quả bi thảm của một chế độ phi dân tộc.
Vì là hồi
ký chính trị của một cá nhân nên các sự kiện có thể thiếu sót do tính
chất phức tạp của các biến cố, nhưng chắc chắn là xác thực. Các suy
nghiệm cũng vậy, đôi khi chủ quan nhưng luôn luôn nghiêm chỉnh vì chúng
bắt nguồn từ và kết tụ về một quy luật đặc thù của lịch sử Việt:
HỄ ĐÃ PHI DÂN TỘC
THÌ THẾ NÀO CŨNG PHẢN DÂN TỘC
Điều
này đã được chứng nghiệm rõ ràng khi suy giải trách nhiệm của những
người nắm chức vụ lãnh đạo Việt Nam trong 30 năm qua. Người thì đến giờ
hấp hối còn ước mong được gặp Các Mác, Lê-nin bên kia thế giới, người
thì muốn nối dài biên giới Hoa Kỳ từ Alaska đến sông Bến Hải, người thì
đào nhiệm bỏ ngũ khi Hoa Kỳ ngưng viện trợ “chống Cộng”…
Tất cả đã không có căn bản dân tộc nên đã làm khổ đau dân tộc.
Vì
vậy, nếu cuốn sách nhỏ này, với văn phong bộc trực và võ biền của một
người lính già, với tâm tình thô thiển nhưng chân thành của một người
dân xa nước, mà khắc đậm thêm được quy luật lịch sử đó trong lòng người
đọc, thì tác giả thấy ước vọng của mình có thể trở thành hy vọng về một
tương lai tươi sáng cho đất nước.
Cuối cùng tác giả muốn bày
tỏ lòng tri ân đến các bậc đàn anh, các thân hữu đã khuyến khích, bổ
khuyết, giúp ý kiến và tài liệu giá trị rất khó tìm ở hải ngoại, cũng
như đã yểm trợ phương tiện ấn loát và tài chánh để cuốn sách này được
hình thành.
Trong phần Phụ Lục ở cuối sách, tác giả mạn phép
trích dẫn ý kiến của 100 nhân vật, tổ chức Việt Nam đã đăng trên các
sách báo và một số thư từ các bằng hữu đã viết riêng. Việc này theo
thường tình là thất lễ bởi đã không xin phép trước, nhưng tin quý vị sẽ
sẵn sàng tha thứ bởi vì tác giả trộm nghĩ rằng các suy nghiệm can đảm và
chân thành của quý vị không những chỉ có giá trị cho riêng cá nhân tác
giả mà còn cho rất nhiều người khác. Bây giờ cũng như mai sau.
Hải ngoại, Trọng Đông năm Ất Sửu (1985)
Hoành Linh Đỗ Mậu
hương 1
QUẢNG BÌNH
QUÊ HƯƠNG ĐỊNH MỆNH
Trong
suốt quá trình lịch sử cận đại của nước ta, trên cả ba miền đất nước mà
đặc biệt tại miền Trung, khi nói đến cái “lò” cách mạng hay cái “nôi”
văn học là phải nói đến hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ở phía Bắc Đèo Ngang,
và hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi ở phía Nam Đèo Hải Vân. Những bậc hào
kiệt tài danh đứng đầu ngọn sóng cách mạng hoặc làm đẹp cho nền thi văn
đất nước như các cụ Phan Bội Châu, Phan Đình Phùng, Nguyễn Du, Nguyễn
Công Trứ đều xuất thân từ vùng đất Nghệ-Tĩnh; còn những tên tuổi của các
cụ Phan Chu Trinh, Trần Cao Vân, Trần Quý Cáp thì lại vươn lên từ vùng
đất Nam-Ngãi, nơi được mang danh là đất của “Ngũ Phụng Tề Phi” (năm con
phượng cùng bay) nhờ kỳ thi Hội năm Mậu Tuất (1898), ba tiến sĩ và hai
phó bảng trong số mười tám vị chiếm bảng vàng đều xuất thân từ tỉnh
Quảng Nam, cho nên vua Thành Thái mới ban cho năm vị tân khoa bốn chữ
“Ngũ Phụng Tề Phi” vang rền đất nước.
Nghệ-Tĩnh và Nam-Ngãi,
dưới thời Pháp thuộc, cũng chính là vùng đất bất khuất, tiếp nối truyền
thống cách mạng chống ngoại xâm của cha ông, vùng lên đối kháng chính
quyền bảo hộ Pháp mà điển hình là các cuộc đấu tranh của Văn Thân và Cần
Vương, là phong trào chống thuế ở Nam-Ngãi, là phong trào Sô-Viết ở
Nghệ-Tĩnh. Các ông Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và một số các lãnh tụ khác
của đảng Cộng Sản Việt Nam, cũng xuất thân từ lò luyện thép này.
Bên
cạnh vóc dáng và khí thế lẫy lừng của bốn tỉnh kể trên, Bình-Trị-Thiên
là ba tỉnh nằm giữa hai ngọn đèo lớn đó của miền Trung, vì quen nhọc
nhằn chống lại thiên nhiên hà khắc, lại vốn làm cái đòn gánh chính trị
oằn vai vì sức nặng cách mạng của bốn tỉnh tiếp giáp nên cũng đã cưu
mang trong sức sống tất cả cái hào hùng và oan nghiệt của lịch sử. Tỉnh
Quảng Bình, tuy là một tỉnh nhỏ về cả hai phương diện dân số lẫn diện
tích, nhưng nhờ vậy lại chiếm địa vị của một vùng đất quê hương nổi
tiếng địa linh nhân kiệt.
Từ đời Hùng Vương, Quảng Bình đã là
một trong mười lăm bộ của nước Văn Lang, có tên là Việt Thường với thủ
đô là Phong Châu[1]. Vì là tỉnh cực Nam tiếp giáp với biên giới Chiêm
Thành nên suốt một thời gian dài trong quá trình dựng nước và mở nước,
Quảng Bình đã là chiến địa khốc liệt và dai dẳng, lắm phen thay ngôi đổi
chủ giữa hai dân tộc Chiêm-Việt. Cho đến năm 1069, khi vua Lý Thánh
Tông xuất quân đánh Chiêm Thành bắt được vua Chế Củ và sát nhập ba châu
Địa-Lý, Ma-Linh, và Bố-Chính thì Quảng Bình (và phần đất phía Bắc tỉnh
Quảng Trị) mới hoàn toàn thuộc về lãnh thổ nước Việt Nam và thuộc về chủ
quyền dân tộc Việt Nam cho đến bây giờ.
Tuy là một tỉnh nhỏ,
dù bề dài 110 cây số, và bề ngang, chỗ hẹp nhất, chỉ vào khoảng 45 cây
số, quanh năm ách nước tai trời, lưng dựa vào Trường Sơn huyền bí, mặt
nhìn về biển Đông thét gào, đất cày lên không sỏi thì đá, nhưng tạo hóa
lại đền bù cho Quảng Bình nhiều danh lam thắng cảnh để tô điểm cho thêm
thanh kỳ, mỹ tú mà nhiều tỉnh khác không có. Lũy Thầy, Đèo Ngang, sông
Linh Giang, động Phong Nha… không những là kỳ tích của thiên nhiên mà
còn là những địa danh ghi đậm những biến cố hào hùng trong lịch sử nước
nhà.
Đèo Ngang nằm trên một rặng núi bắt nguồn từ dãy Trường
Sơn, vươn ra biển Nam Hải như một bức trường thành hùng vĩ nên có lẽ vì
thế mà rặng núi này được gọi là Hoành Sơn. Sử chép rằng chúa Nguyễn
Hoàng thời Lê Mạt trước khi vào trấn nhậm Đàng Trong, có cho người đến
thỉnh ý cụ Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cụ nhìn thấy một đàn kiến đang bò
trên hòn giả sơn trước sân nhà, bèn nói Hoành sơn nhất đái vạn đại dung
thân (núi Hoành một dãy, vạn đời dung thân). Câu chuyện thuộc về dã sử
không rõ thực hư, nhưng kể từ năm 1558, khi chúa Trịnh cho Nguyễn Hoàng
vào Nam trấn nhậm cho đến khi nhà Nguyễn lập quốc xưng vương vào năm
1802, rồi kéo dài cho đến năm 1945, khi vua Bảo Đại thoái vị trao quyền
lại cho ông Hồ Chí Minh, tổng cộng gần 400 năm kể cũng là vạn đại lắm
rồi.
Cảnh vật Đèo Ngang như là nơi tao ngộ của trời mây non
nước, đất đá cỏ cây, lại có ải-quan trơ gan cùng ngày tháng, có Cổ Lũy
pha đậm nét rêu phong, cảnh trí vừa hùng vĩ, vừa nên thơ dễ làm động
lòng khách du quan mỗi khi đi qua Đèo. Vua Lê Thánh Tôn, Bà Huyện Thanh
Quan, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu… những thi hào tên tuổi của Việt Nam dừng
chân trên đỉnh đèo, động lòng hoài cảm trước cảnh vật giao hòa đã để lại
những vần thơ láng lai tình non nước. Người Việt Nam không mấy ai không
biết bài thơ hoài cảm Qua Đèo Ngang tức cảnh của Bà Huyện Thanh Quan:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con quốc-quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia-gia.
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cách
Đèo Ngang 15 cây số về phía Nam có con sông Gianh mà lòng sông vừa sâu
lượng nước lại vừa chảy mạnh. Sông Gianh bắt nguồn từ núi rừng Trường
Sơn hiểm trở, bạt núi xuyên ngàn tạo ra nhiều thác lắm ghềnh và đổ òa ra
biển Đông, cắt đôi đất nước thành hai miền riêng biệt. Bề ngang rộng
lớn của dòng sông và thế chảy mãnh liệt của dòng nước biến sông Gianh
thành một trở lực thiên nhiên hữu ích cho các nhà quân sự muốn tạo ra
một thế bố phòng vững chắc vào cái thời mà vũ khí và các phương tiện vận
tải còn giới hạn.
Cửa sông Gianh nước chảy xiết, khó bắc cầu, thuyền bè qua lại khó khăn nguy hiểm nên dân gian mới ví von:
Bao giờ nước cạn Đồng Nai,
Sông Gianh bớt chảy mới phai lời nguyền.
Tuy
cửa sông Gianh hiểm trở nhưng đây cũng lại là nơi phong cảnh hữu tình,
nên thơ với tiếng gió thổi lộng qua hàng dương liễu vi vu trỗi lên những
bản nhạc du dương trầm hùng, với những cánh buồm nâu trở về bến cũ khi
bóng xế chiều tà, với tiếng sóng dạt dào theo con nước thuỷ triều lên
xuống. Khách lữ hành mỏi mệt sau những chặng đường dài trên con đường
thiên lý, đến cửa sông Gianh dừng chân nghỉ lại trong những ngôi quán
tranh của dân xóm Thanh Hà, phía hữu ngạn sông Gianh, nếm mùi hải vị,
uống chén chè tươi, ngắm nhìn bức tranh thiên tạo, hưởng làn gió mát
trước khi tiếp tục cuộc hành trình ngược Bắc xuôi Nam.
Rời
sông Gianh, theo phương Nam mà đi gần 30 cây số nữa, khách lữ hành sẽ
gặp Đồng Hới, tỉnh lỵ Quảng Bình, có Động Hải, có sông Nhật Lệ, có cổng
Bình Quan, có cổ lũy Phú Ninh, có những tiền đồn của Lũy Thầy, những di
tích còn sót lại của thời Trịnh Nguyễn phân tranh.
Tiếp tục đi
về phía Nam, băng qua sông Nhật Lệ, khách lữ hành sẽ tìm thấy những
kiến trúc rêu phong vốn là vết tích của Lũy Thầy, còn được gọi là Trường
Thành Định Bắc. Lũy Thầy, chiến lũy vững vàng đã từng chận đứng rất
nhiều chiến dịch Nam tiến của quân chúa Trịnh, được xây từ năm 1629 do
sáng kiến chiến lược của vị quân sư tài ba và đầy mưu lược của nhà
Nguyễn là ông Đào Duy Từ. Ông vốn xuất thân từ một gia đình làm nghề hát
xướng, cái nghề mà xã hội phong kiến ngày xưa thường khinh bỉ gọi là
“xướng ca vô loại”. Thủa thiếu thời, có lúc ông phải đi ăn xin từ làng
này qua làng khác và rất nhiều lần phải chăn trâu cho các nhà phú hộ để
đổi lấy bát cơm thừa. Trong hoàn cảnh khốn cùng đó, tương lai lại còn bị
chận đứng bởi bức thành giai cấp cổ tục, ông vẫn quyết tâm sôi kinh nấu
sử một mình để trau dồi trí đức và sau này trở thành một bậc hiền tài
mưu cao chí lớn được chúa Nguyễn Phúc Nguyên và các quan xem như bậc
thầy.
Lũy Thầy dài ba trăm trượng, chạy từ chân núi Đầu Mâu,
phía Tây huyện Lệ Thủy, đến cửa sông Nhật Lệ thuộc phủ Quảng Ninh, đã là
chiến lũy chận đứng được nhiều cuộc tấn công của quân Đàng Ngoài. Vì
thế mới có lời truyền tụng:
Khôn ngoan qua cửa sông La,
Dù ai có cánh khó qua Lũy Thầy.
Ngoài
những cảnh trí non nước đã được nhắc nhở nhiều trong sử sách ngàn đời
của dân tộc Việt, Quảng Bình còn có nhiều phong cảnh đem tự hào cho dân
chúng địa phương. Cách tỉnh lỵ Đồng Hới 17 cây số về phía Tây Nam, có
động Phong Nha thuộc huyện Bố Trạch, một thắng cảnh vô cùng kỳ vĩ. Muốn
vào động phải đi bằng thuyền, phải có đuốc dẫn đường; trong động có suối
nước xanh màu ngọc bích, có thạch nhũ nhô ra như những bàn tay Phật, có
những kiến trúc thiên nhiên như những toà lâu đài tráng lệ huy hoàng,
lại có những sân khấu do thợ Trời sắp đặt với phong cảnh trang trí, đào
kép múa may thật diễm ảo thần tiên. Những giọt nước từ nhũ đá rơi xuống
suối nằm sâu trong lòng động tạo thành những điệu nhạc trầm buồn và mỗi
khi nước chao động đập vào ghềnh đá thì có tiếng âm vang như tiếng
chuông chùa. Theo dân chúng địa phương thì những tiếng chuông chùa này
chỉ ngân lên vào đêm Rằm và đêm mồng Một âm lịch mà thôi.
Trời
trên vòm động có những đám mây ngũ sắc từ chóp núi Trường Sơn tụ lại
làm cho cảnh vật Phong Nha thêm huyền ảo, thanh kỳ khiến khách du quan
tưởng mình như lạc đến chốn Bồng Lai Tiên Cảnh.
Cụ Chu Mạnh
Trinh cho rằng động Hương Sơn ở Hà Tây là Nam Thiên đệ nhất Động, còn
học giả Thái Văn Kiểm (từng sống lâu năm và từng nghiên cứu về địa lý
dân tình tỉnh Quảng Bình và miền Trung) thì lại cho rằng Phong Nha là
“Đệ Nhất Kỳ Quan” của nước Việt Nam. Theo ông Thái Văn Kiểm thì ông
Barton, nhà chiêm tinh học người Anh, cho biết động Phong Nha không kém
gì động Padirac của Pháp hay Cuevas del Drach ở Mallorque của xứ Tây Ban
Nha[2]. Chỉ tiếc rằng động Phong Nha, một kỳ quan của đất nước quê
hương, mà chỉ có người Âu Châu thăm viếng nhiều còn người Việt Nam chưa
mấy ai lui tới chỉ vì giao thông trắc trở, vì chiến tranh cản ngăn.
Nếu
động Phong Nha đã tô điểm cho huyện Bố Trạch thành một vùng giang sơn
cẩm tú thì núi Đầu Mâu và đầm Hạc Hải ở Lệ Thủy và Quảng Ninh lại là nơi
tụ hội của khí thiêng sông núi hun đúc nhân tài tỉnh Quảng Bình. Núi
Đầu Mâu cao vút, quanh năm mây mù bao phủ đầu non, hình chóp núi nhọn
như ngòi bút, còn đầm Hạc Hải hình thể như cái nghiên mực có lạch riêng
cho thuyền bè qua lại, phía Đông Nam bao bọc bởi những động cát chập
chùng, phía Tây Bắc có vách núi Trường Sơn làm thành quách. Cảnh vật Đầu
Mâu và Hạc Hải trông giống như ngòi bút và đĩa nghiên cho nên tiền nhân
mới gọi Đầu Mâu vi bút, Hạc Hải vi nghiên, làm biểu tượng cho nền văn
học tỉnh Quảng Bình. Quanh Đầu Mâu và Hạc Hải có nhiều động, nhiều hang
thiêng liêng, thần bí khác, đặc biệt là động Chấn Linh được tiền nhân ca
ngợi là chốn đào nguyên hạ giới, người trần tục không nên lui tới: Động
môn vô tỏa thực, tục khách bất tàng lai [3].
Quảng Bình, quê
hương tôi, còn rất nhiều sơn kỳ, thủy tú. Có lẽ vì tạo hóa đặc biệt ân
thưởng để đền bù cho một vùng đất vốn không được ưu đãi về mặt kinh tế
như các vùng khác của đất nước, lại gặp quá nhiều đau khổ vì ách nước
tai trời, vì chinh chiến triền miên theo dọc chiều dài lịch sử. Trong
thời xa xưa, Quảng Bình liên tiếp đã là bãi chiến trường của hai quốc
gia Chiêm-Việt; đến đời nhà Lê, Quảng Bình lại đắm chìm trong can qua vì
cuộc phân tranh của hai nhà Trịnh-Nguyễn. Trong thời Pháp thuộc, vùng
Tuyên Hoá phía Tây Quảng Bình là chiến khu của vua Hàm Nghi, vùng tả hữu
ngạn sông Gianh trở thành chiến địa giữa nghĩa quân Cần vương và quân
đội viễn chinh của thực dân, giữa người Lương chống Pháp và người Giáo
theo Pháp. Thời chiến tranh Pháp-Việt, 1945-1954, vùng Bắc Quảng Bình là
biên giới của hai phe lâm chiến, nhiều trận giao phong ác liệt đã xảy
ra nơi vùng tiền tuyến của hai bên. Thời chiến tranh Nam Bắc Quốc Cộng
(1954-1975) Quảng Bình là tuyến đầu của quân đội miền Bắc, được sử dụng
như một căn cứ tiền phương với nhiệm vụ tình báo, tồn trữ quân nhu, quân
cụ và là xuất phát điểm của những chiến dịch xâm nhập hay tấn công quân
đội miền Nam, nên đất và dân Quảng Bình đã phải hứng chịu nhiều trận
mưa bom hãi hùng, bất tận của không quân Mỹ-Việt.
Ông bà xưa
thường nói người khôn của khó. Câu nói đó áp dụng đúng cho trường hợp
nhân dân Quảng Bình. Dân Quảng Bình nghèo khó, dân Quảng Bình gặp tai
ương triền miên, nhưng người Quảng Bình lại thông minh, khí phách, can
trường và nhất là dám sống chết cho lý tưởng.
Tuy Quảng Bình
không có những nhân vật nổi tiếng về văn học và cách mạng như các danh
sĩ Nghệ-Tĩnh và Nam-Ngãi, nhưng số người đỗ đạt khoa giáp lại rất nhiều,
đặc biệt là tại hai phủ Quảng Trạch và Quảng Ninh. Quảng Trạch có bốn
đại xã văn học là SƠN (Lệ Sơn), HÀ (La Hà), CẢNH (Cảnh Dương), THỔ (Thổ
Ngọa). Quảng Ninh có bốn đại xã là VĂN (Văn La), VÕ (Võ Xá), CỔ (Cổ
Liễu), KIM (Kim Nại). Tên của tám xã góp lại thành hai vế của một câu
đối là Sơn Hà Cảnh Thổ đối với Văn Võ Cổ Kim, đã đem lại danh dự cho dân
chúng Quảng Bình. Ngoài hai phủ Quảng Trạch và Quảng Ninh, huyện Lệ
Thủy cũng là một quê hương có nhiều nhân tài khoa hoạn, nhiều tiến sĩ,
phó bảng. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí cho biết từ đời nhà Lê cho đến đời
nhà Nguyễn, Quảng Bình có rất nhiều người đỗ đạt và làm quan phục vụ
cho dân, cho nước mà toàn là những người nổi tiếng về khí tiết, đức độ,
liêm chính, tài năng, mưu lược. Có những nhân vật đức độ được ca ngợi là
Phật sống, là Bồ Tát, có những nhân vật văn võ vẹn toàn, có những người
đa mưu túc trí được so sánh với Khổng Minh, với Lưu Bá Ôn, những nhân
tài đời Hán, đời Minh bên Trung Quốc. Có những người chỉ xuất thân từ
hàng sĩ tốt, nhờ tài thao lược, nhờ dũng khí, can trường làm nên đến Đô
Thống, Quận Công. Quảng Bình tỉnh nhỏ, người thưa mà lại có nhiều vị
khoa giáp, tài đức, học hành toàn vẹn được nhiều đời Vua mời vào cung
giữ chức “Phụ Đạo”, làm thầy dạy học cho các Hoàng Tử, Hoàng Đệ như
Nguyễn Đăng Tuấn, Ngô Đình Giỏi, Vũ Xuân Cẩn, Nguyễn Hàm Ninh. Có người
như Nguyễn Tử Kính làm quân sư cho vua Lê đánh đuổi giặc Tàu, như Lê
Trực, Nguyễn Phạm Tuân lãnh đạo nghĩa quân Cần Vương, phò vua Hàm Nghi
đánh Pháp. Có người như Nguyễn Hàm Ninh (bạn tri kỷ của Cao Bá Quát) nửa
đường công danh không muốn tiếp tục vào lòn ra cúi, cởi áo từ quan về
nhà sống cuộc đời thanh bần. Lại có người như tiến sĩ Phạm Phi Diệu đỗ
đạt rồi mà không màng lợi danh, chỉ muốn sống cuộc đời ẩn dật vui với
non nước, cỏ cây chốn thôn dã bần hàn:
Bảng chiếu dương Ngô mai bạch tuyết,
Tâm lao hậu bỉ Thảo, Huyền nhân.
Ý
muốn nói là thi đỗ rồi chỉ muốn bồi dưỡng tâm hồn cho trắng như tuyết,
cho sạch như mai, không nhọc lòng làm kẻ viết kinh Huyền, kinh Thảo[4].
Đến
thời cận đại, khi nền giáo dục Tây phương theo chân quân xâm lăng tràn
vào bờ cõi để đánh bật tận gốc rễ nền giáo dục Nho Hán và thay vào đấy
bằng một nền giáo dục gọi là Tây học thì Quảng Bình, trong cơn chuyển
đổi ngặt nghèo, cũng sản xuất ra được những nhân vật tiếng tăm lẫy lừng
như giòng họ Ngô Đình chẳng hạn, giòng họ đã có người làm đến Tổng Đốc
Thượng Thư dưới thời bảo hộ Pháp, có người làm đến Tổng thống, Tổng giám
mục dưới thời ảnh hưởng Mỹ. Cũng trong thời kỳ này, khi chiến tranh bao
phủ non sông và bao nhiều người con yêu của tổ quốc đều chọn binh
nghiệp làm lẽ sống thì Quảng Bình cũng có người làm đến Đại tướng hay Bộ
trưởng như ông Võ Nguyên Giáp chẳng hạn, tạo ra những chiến công hiển
hách trong quân sử nước nhà. Quảng Bình cũng còn nằm trong bộ phận đại
quần chúng để cung cấp cho dân tộc những nghệ sĩ biết rung động với
thiên nhiên và thời đại, những kỹ thuật gia biết vận dụng năng lực sáng
tạo để khắc phục khó khăn.
Lật trang sử cũ, ta thấy Quảng Bình
quả thật là quê hương địa linh nhân kiệt, vùng đất vốn chật hẹp, nghèo
nàn mà núi sông lại hùng vĩ, phong cảnh lại hữu tình, sản xuất không
biết bao nhiêu là văn tài, võ tướng, hào kiệt, trượng phu, tô điểm vàng
son cho lịch sử nước nhà. Nhưng rồi như cổ nhân đã dạy dân có vận, nước
có tuần, đến giữa thế kỷ 20, chính những người con dân Quảng Bình lại là
những người chủ trương gây cảnh huynh đệ tương tàn, chiến tranh suốt 30
năm trời, quê hương núi xương sông máu, mà tiêu biểu rõ ràng nhất là
hai nhân vật Ngô Đình Diệm và Võ Nguyên Giáp.
Ý nghĩa lịch sử
đích thực của cuộc chiến tranh đó nhìn bằng con mắt của 50 triệu người
dân Việt và đặt nó nằm trong dòng sinh mệnh gần 5000 năm ngút ngàn của
tổ quốc Việt Nam thì chỉ là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Vì dù có
nhân danh bất kỳ một chủ nghĩa nào (Cộng sản hay Tư bản), dù có biện
minh bằng một nguyên ủy nào (Giải phóng hay Tự do), thì rõ ràng chính
máu xương của người Việt đã đổ ra, chính người Việt này đã giết người
Việt kia không bằng sự tỉnh táo và tự do của một con người Việt bình
thường mà ước vọng về cuộc sống thì thật là giản dị. Người Việt đã không
phát kiến ra những hệ ý thức để mâu thuẫn nhau, lại càng không phát
minh ra những vũ khí để tiêu diệt nhau. Đi tìm nguồn gốc lịch sử sâu xa
của cuộc chiến Quốc Cộng là phải đi xa hơn nữa vào chiều dài của lịch
sử, kể từ lúc ngọn gió dữ phương Tây quái ác cuộn vào đất nước làm bật
tung cây cổ thụ văn hóa của dân tộc, cây cổ thụ đã được vun trồng bởi
Quốc Tổ Hùng Vương, và được tưới bằng máu của biết bao anh hùng liệt nữ
trải dài gần 5000 năm văn hiến, và cây cổ thụ đã một thời xanh tốt vững
chãi bằng đất lành khí mát của nền Tam giáo đồng nguyên.
Năm
1558, khi Nguyễn Hoàng được phép anh rể là Trịnh Kiểm vào Nam trấn nhậm,
ông ra đi mang theo cái mộng trả thù cho cha anh và cái chí mưu bá đồ
vương, anh hùng một cõi. Ông lập nên nghiệp Chúa ở Đàng Trong, mở mang
bờ cõi đến tận Châu Đốc, Hà Tiên, xây dựng một giang sơn riêng biệt
quyết chí đương đầu với chúa Trịnh ở phương Bắc. Từ đó Việt Nam bị chia
đôi bằng dòng sông Gianh của tỉnh Quảng Bình và dân tộc Việt Nam phải
chịu hai hệ thống cai trị. Tất nhiên cuộc Nam Bắc phân tranh đã phải xảy
ra giữa hai họ Trịnh Nguyễn, với hệ quả tất yếu là cuộc nội chiến giữa
Nguyễn Gia Long và Nguyễn Tây Sơn, kéo dài cho đến năm 1802 khi Gia Long
thống nhất đất nước mới chấm dứt. Trong giai đoạn này, từ ải Nam Quan
cho đến mũi Cà Mau, dân tộc Việt đã phải gánh chịu cảnh cốt nhục tương
tàn trên 200 năm trời.
Gia Long chấm dứt 200 năm nội chiến và
thống nhất sơn hà phần lớn nhờ vào sức mạnh của vũ khí Tây phương qua sự
vận động của các giáo sĩ Kitô giáo. Cho nên nội chiến chấm dứt rồi, sơn
hà thống nhất rồi mà dân ta vẫn chưa được hưởng thái bình an lạc vì các
giáo sĩ Kitô giáo, khi đến Việt Nam, không phải chỉ có một mục đích rao
giảng tin mừng của Thiên Chúa mà còn có một mục đích xâm thực văn hóa
nữa. Mục đích xâm thực này phù hợp hoàn toàn với mục đích chiếm đất
giành dân của chính quyền thực dân Pháp để cấu kết với nhau trở thành
một chiêu bài mà họ gọi là “nhiệm vụ khai hóa” (mission civilisatrice).
Cho
nên Phong kiến không tự nó đẻ ra được Cộng sản trong trường hợp nước ta
mà chính Thực dân đã đẻ ra Cộng sản. Và sau này, cũng chính hai sản
phẩm này của nền văn minh Tây phương là Thực dân và Cộng sản đã thôi
thúc dân ta rơi vào cảnh huynh đệ tương tàn.
Vì vậy, bất hạnh
thay cho dân tộc Việt, đúng 25 năm trước cuộc Nam tiến của Nguyễn Hoàng,
vào năm 1533 thời vua Lê Trang Tôn, các giáo sĩ Kitô giáo Tây phương đã
đi đường biển lẻn vào nước ta để giảng đạo. Nếu hoạt động của các giáo
sĩ Tây phương chỉ cốt để truyền giáo mà thôi, như Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu
Chi đến Hà Đông năm 580 để truyền bá đạo Phật chẳng hạn, thì có lẽ không
có cái hậu quả 30 năm chiến tranh Quốc Cộng 1945-1975 sau này. Khốn nỗi
họ lợi dụng việc truyền giáo, toa rập với các lực lượng Thực dân và Đế
quốc phương Tây, để mưu đồ thôn tính Việt Nam. Không những họ đã làm đảo
lộn cương thường đạo lý, tập tục cổ truyền của nền văn hóa dân tộc, mà
họ còn gây căm thù chia rẽ giữa người Việt với người Việt, họ xây dựng
một đạo quân thứ 5 bản xứ làm đội quân mai phục đưa đường dẫn lối cho
quân đội Pháp sau này. Đây không phải là một biệt lệ cho trường hợp Việt
Nam mà là một chính sách toàn cầu của đạo Công giáo La Mã được Toà
thánh Vatican thực hiện một cách hiệu quả đến mức giáo hoàng John Paul
II ngày nay phải đi nhận tội và xin lỗi ở khắp nơi từ Nam Mỹ đến Phi
Châu.
Dưới thời chúa Nguyễn Ánh, giám mục Pigneau de Béhaine
đã cùng với Hoàng tử Cảnh, con trai đầu lòng của Nguyễn Ánh, đến Pháp bệ
kiến vua Louis 16 để xin viện trợ và ký hiệp ước Versailles, hiệp ước
đầu tiên bán nước Việt Nam cho Pháp. Hiệp ước Versailles tuy không được
áp dụng, nhưng từ đó và nhờ đó, Pigneau de Béhaine, các giáo sĩ và các
sĩ quan hiếu động, nhiều tham vọng của Pháp đã khai thác cơ hội để thực
hiện âm mưu thôn tính Việt Nam. Với những mưu đồ đen tối, với những thủ
đoạn xảo quyệt, họ đã thúc đẩy được chính phủ Pháp đem quân xâm chiếm
Việt Nam, đặt nền đô hộ gần suốt 100 năm trời.
Trong tác phẩm
nghiên cứu lịch sử nổi tiếng Việt Nam Pháp Thuộc Sử (in lại tại Mỹ gần
đây), giáo sư Phan Khoang đã đưa ra những sử liệu rất rõ ràng về vai trò
của các giáo sĩ Kitô giáo.
“Nói về nước Pháp thì sau cuộc
chiến tranh bảy năm, đã mất nhiều thuộc địa, ở Ấn Độ chỉ còn năm nơi
thương phụ, vậy muốn khôi phục thế lực ở Á Đông, người Pháp phải gắng
kiếm thêm đất đai ở bên này mới được.
Một giáo sĩ Pháp sẽ tìm cơ hội can thiệp vào nước Việt Nam và đặt viên đá đầu tiên cho cuộc xâm nhập nước mình” (trang 32).
và cũng trong cuốn Sử đó, ông đã đi vào chi tiết rõ hơn:
“Những
người đề xướng đầu tiên cuộc chinh phục nước Nam là mấy sĩ quan hải
quân của hạm đội Pháp ở biển Trung Quốc như các ông Cécille,
Rocquemaurel, Fourichon, Jaurès Maison-Neuve, mấy đại diện ngoại giao kế
nhau ở Toà lãnh sự Pháp ở Macao như các ông Forth Rouen, De Courcy,
Bourboulon; các ông ấy đã nhiều lần đề nghị với chánh phủ đem quân can
thiệp ở nước Nam.
Nhưng hoạt động hăng hái hơn cả để làm cho
chánh phủ Pháp quyết định là các Giáo sĩ, nhất là giáo sĩ Huc, Giám mục
Retord, Giáo sĩ Libois và Giám mục Pellerin.
Giáo sĩ Huc trước
đã dâng vua Napoléon III một kế hoạch thành lập một công ty để lo việc
chinh phục và khai thác các xứ Cao Ly, Đà Nẵng, Madagascar; năm 1857 lại
dâng một bức thư nhắc lại Pháp-Nam hiệp ước 1857 và sự cần thiết phải
thiết lập gấp một căn cứ ở nước Nam. Chính lá thư ấy đã làm cho chánh
phủ vua Napoléon III quyết định đặt một ủy ban để Nghiên Cứu vấn đề Nước
Nam (Commission de la Cochinchine), trong ủy ban ấy, Giáo sĩ Huc đã tỏ
bày ý kiến. Sau khi dâng bức thư kia, Giáo sĩ Huc được vua vời đến diện
yết, và Giáo sĩ đã làm cho vua tin tưởng ở lời nói mình.
Giám
mục Pellerin thì trong các năm 1851, 1855 đã xin chánh phủ Pháp giúp đỡ
các giáo sĩ, giáo đồ đương bị bạc đãi và giết hại. Như ta đã thấy, năm
1856, Giám mục lén đến Đà Nẵng, gặp thuyền trưởng tàu Capricieuse.
Nhân
đó, Giám mục có dự cuộc thương thuyết của Montigny và các quan ta, rồi
về Pháp bày tỏ trước công chúng những cảnh tượng bi thảm mà Giáo hội ở
nước Nam đã phải trải qua. Giám mục có ra trước Ũy ban Nước Nam, được
diện yết vua Napoléon III nhiều lần và dâng lên vua hai tờ điều trần
dài.” (trang 115-117)
Hai tờ điều trần mở đầu cho tàu chiến súng đạn Pháp xâm lăng nước ta.
Tuy
nhiên âm mưu xâm chiếm Việt Nam thật ra đã có từ thời giáo sĩ Alexandre
de Rhodes kể từ khi ông ta đến Việt Nam (1624), nghĩa là hơn 200 năm
trước.
Ánh sáng của sự thật càng ngày càng được chiếu rọi vào
hồ sơ mật trong các văn khố của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp và đã cho
phép các sử gia xác định âm mưu thôn tính Việt Nam của Thiên Chúa giáo
vốn có từ thời Cố đạo Alexandre de Rhodes chứ không phải dưới thời
Pigneau de Béhaine và Nguyễn Ánh, như một số người chưa chịu nghiên cứu
kỹ vẫn bị nhầm lẫn.
Alexandre de Rhodes đến Việt Nam năm 1624
và vĩnh viễn rời Việt Nam năm 1645. Thời gian ở Việt Nam ông viết rất
nhiều sách giúp người Âu Châu tìm hiểu tình hình chính trị, địa hình,
địa vật, sông núi, sản phẩm, tài nguyên, v.v… của xứ Việt Nam. Ông cũng
hoàn bị công trình của các Giáo sĩ Bồ Đào Nha trưóc đó, dựa vào chữ La
tinh mà chế ra chữ Quốc ngữ, để trước hết là cho giáo dân dễ học Kinh
thánh và dễ dàng giao thiệp với những thừa sai ngoại quốc. Nhiều lần ông
đã bị chúa Trịnh đuổi đi, nhưng từ Áo Môn, năm 1640 ông tìm cách trở
lại Việt Nam để hoạt động cho đến năm 1645:
Năm đó, cấp trên
bảo ông trở về Âu châu để xin viện trợ vật chất và tuyển người truyền
giáo mới. Ông đến La Mã năm 1649 đúng lúc Toà thánh cố tách rời việc
truyền giáo tại châu Á ra khỏi quyền hành thế tục của Bồ Đào Nha. Ông
trình bày trước Hiệp Hội Truyền Giáo “Congrégations Propaganda Fide”, kế
hoạch thiết lập tại Việt Nam một giáo đoàn thoát khỏi sự bảo trợ của Bồ
Đào Nha. Được Giáo hoàng hân hạnh tiếp nhận. Vị tu sĩ dòng Tên xứ
Avignon được lựa chọn trong mục đích đó, Alexandre de Rhodes bèn quay về
Pháp.
Ông viết: “Tôi tin rằng Pháp, vì là nước ngoan đạo
nhất thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều binh sĩ để đi chinh phục toàn
thể phương Đông. Cũng như ở đó tôi sẽ có cách có nhiều Giám mục vốn là
các Cha và các Thầy của chúng ta ở trong nhà thờ. Tôi rời La Mã ngày
11-9-1652 với ý định đó.”
Về Paris, Alexandre de Rhodes gặp
một nhóm linh mục trẻ liền quyết tâm biến việc đào tạo này thành sự vụ
riêng của Pháp (affaire Francaise). Đó là thời kỳ chính trị Pháp bắt đầu
chịu ảnh hưởng sự thu hút của biển cả. Được Hoàng hậu Pháp và một nhân
vật cao cấp ủng hộ, kế hoạch bị Bồ Đào Nha tấn công mạnh mẽ, họ viện dẫn
sự bảo trợ hoàn toàn mà năm 1493 Giáo hoàng Alexandre Borgia đã giao
cho họ. Alexandre de Rhodes chết năm 1660 khi chưa thấy được kế hoạch
của mình thực hiện, nhưng cố gắng của ông đã thành tựu. Năm 1658 La Mã
bổ nhiệm hai vị đại diện Tông Toà người Pháp là Francois Pallu
(1626-1684) và Lambert De la Motte (1637-1693) đại diện trực tiếp Giáo
hoàng… Lịch Sử của Hội này (Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp) sẽ gắn liền
chặt chẽ với lịch sử chiếm đóng của Pháp tại Việt Nam (La Société des
Missions Etrangères fut alors créée dont l’histoire allait être
intimement liée avec celle de l’implantation francaise au Vietnam). (Xem
Đạo Thiên Chúa và Chủ nghĩa Thực dân tại Việt Nam, luận án tiến sĩ của
Cao Huy Thuần, bản Việt văn trang 47, 48, bản Pháp văn trang 9, 10).
Giáo
sư sử học Joseph Buttinger trong Vietnam a Political History (trang 63,
64) cũng có những nhận định như của tiến sĩ Cao Huy Thuần, được tạm
dịch ra như dưới đây:
Công cuộc phát triển đạo Thiên Chúa tại
Đông Dương trở thành công tác đặc biệt của một tổ chức Pháp được gọi là
Hội Truyền Giáo Hải Ngoại (Society of Foreign Mission) thành lập năm
1664 tại Paris. Tổ chức này đi song hành với Công ty Đông Ấn Pháp do các
giáo sĩ Paris, Rouen thành lập. Ông viết:
“Các tổ chức song
hành “thương mãi-tôn giáo đó” mở một trang sử khó quên cho nền thực dân
Tây phương (A memorable chapter in the history of Western Colonialism)
được thành lập vào khoảng 1650. Người Pháp mở một trung tâm thương mãi
Pháp Việt ở Hà Nội nhưng những người cư ngụ trong trung tâm đó là những
giáo sĩ cải trang thành thương nhân người Pháp. Có vài dịch vụ trao đổi
hàng hóa nhưng mục đích chính là để che đậy công tác bí mật nhằm tổ chức
người cải đạo (Some trade was made but it served mainly as a cover for
clandestine proselytizing).
“…Pallu và De la Motte cố gắng
tiếp tục công việc của Rhodes đã bỏ dở mặc dù bị các chính phủ Đàng
trong và Đàng ngoài cấm giáo sĩ ngoại quốc xâm nhập vào Việt Nam. Họ
chiến đấu bằng sự cải trang thành thương nhân để lo chuyện thương mãi,
nhưng khi các dịch vụ thương mãi bị đình trệ thì số phận của họ lại phải
tuỳ thuộc vào sự hoạt động tôn giáo tại Việt Nam. (“Vietnam a Political
History”, Joseph Buttinger trang 64)
Buttinger còn viết:
“Đặc
biệt Pallu là một nhà kế hoạch chính trị, thường đi xa hơn các chỉ thị
của cấp trên. Có thể gọi ông ta là người sáng chế mô thức thuộc địa
trong đường lối chính trị tại Paris với phương sách “đã rồi”
(accomplished facts). Ngoài những công việc đã thực hiện tại Á Châu
trong khuôn khổ của Hội truyền Giáo mới thành lập, Francois Pallu còn lo
việc tại Pháp, hợp tác với chính phủ khuếch trương ảnh hưởng Pháp tại
Viễn Đông.
Như vậy chính Alexandre de Rhodes là người đầu tiên
đã âm thầm hoạt động cho mưu đồ thực dân Pháp và lộ rõ vào năm 1649 khi
được yết kiến Giáo Hoàng. Tuy nhiên, mưu đồ chưa thành hình thì ông đã
chết, sự nghiệp thực dân của ông ta được giáo sĩ Pallu tiếp nối.
Còn
ông Yoshiharu Tsuboi, giáo sư đại học Đông Kinh xuất thân từ Đại học
Paris, trong cuốn “L’Empire Vietnamien Face à la France et à la Chine”
(trang 31-57) đã viết như sau:
“…Sau hết người ta đã thảo luận
dài dòng về những nguyên nhân của sự can thiệp và xâm chiếm thuộc địa
của Pháp tại Việt Nam, tác giả này thì nhấn mạnh vào những nguyên nhân
chính trị, tác giả khác lại chú ý tới những nguyên nhân kinh tế.
Phần
chúng tôi, chúng tôi muốn tập trung sự chú ý vào những người Pháp từng
làm việc tại Việt Nam, qua đó và căn cứ vào quá trình truyền thông những
tin tức về mọi mặt có liên quan đến Việt Nam để đưa về Pháp. Làm thế
nào để cho nổi rõ những nguồn thông tin từng thúc bách chính phủ Pháp
phải can thiệp vào Việt Nam và chiếm lấy nước này làm thuộc địa (…de
mettre en évidence les sources de renseignements qui ont déterminés
l’intervention des gouvernements Francais au Vietnam et la colonisation
de ce pays). Rút lại, tôi muốn đưa ra mấy yếu tố để trả lời một câu hỏi
đơn giản song quan trọng: Tại sao không phải Anh Cát Lợi, Hòa Lan, Bồ
Đào Nha, Tây Ban Nha mà chỉ có một mình nước Pháp “gắn bó” với Việt Nam?
Và mặt khác tại sao không phải Phi Luật Tân, Triều Tiên, Nhật Bản, Xiêm
La mà chỉ có nước Việt Nam bị Pháp gắn bó?”
Câu trả lời của vị giáo sư Nhật Bản là:
“Trong
công cuộc “Phúc âm hóa” nước Việt Nam có một tổ chức và năm giáo sĩ
người Pháp đã giữ một vai trò quan trọng: Hội Thừa Sai Paris và các giáo
sĩ Alexandre de Rhodes, Francois Pallu, Pigneau de Béhaine, Francois
Marie Pellerin và Paul Francois Puginier”.
Như vậy là từ khi
đến Việt Nam năm 1624, Alexandre de Rhodes đã nghiên cứu tình hình chính
trị, kinh tế, địa dư nước Việt Nam, huấn luyện và tổ chức những tập
đoàn tín đồ Thiên Chúa giáo bản xứ trung thành với Toà thánh Vatican rồi
trở về Âu châu năm 1645 và qua năm 1646 trình bày kế hoạch Phúc âm hóa
Việt Nam với Giáo Hoàng và trình bày kế hoạch thôn tính Việt Nam với
chính phủ Pháp.
Nói tóm lại, âm mưu thôn tính Việt Nam đã do
các giáo sĩ sắp đặt từ 1649 (nếu không muốn nói là từ 1624) chứ không
phải từ khi có cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Nguyễn Ánh và Pigneau de Béhaine
năm 1776 (hay 1777) như nhiều người đã vô tình hay cố ý bóp méo sự
thật.
Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam vốn hào hùng bất khuất, vốn
có truyền thống chống ngoại xâm như một truyền thống dựng nước và giữ
nước, đã từng ba lần chiến thắng quân Mông Cổ, thì đời nào chịu làm thân
nô lệ cho ngoại bang. Do đó, từ ngày Pháp đặt được nền đô hộ, truyền
thống đề kháng chống ngoại xâm bùng lên và những cuộc nổi dậy chống đối
đã liên tục xảy ra từ Bắc chí Nam để thể hiện quyết tâm đánh đuổi giặc
Pháp.
Những cuộc nổi dậy lúc đầu chỉ do người Việt lãnh đạo
như phong trào Văn Thân, Cần Vương, như Việt Nam Quang Phục Hội,… nhưng
đến thượng bán thế kỷ 20 thì chủ nghĩa Mác-Lê âm thầm len lỏi vào Việt
Nam, cho nên từ đó những cuộc nổi dậy chống đế quốc Pháp lại có thêm lực
lượng của phong trào Cộng Sản quốc tế nữa.
Trước đó, trong
phong trào Cần Vương yêu nước chống Pháp (1885-1898), Nho giáo và Phật
giáo đã là hai lực lượng yểm trợ chủ yếu. Giới tăng sĩ liên kết với các
nho sĩ trung quân ái quốc phát động nhiều cuộc đấu tranh chống Pháp và
tay sai bản xứ. Điển hình là vụ tăng sĩ Võ Trứ liên kết với nho sĩ Trần
Cao Vân để thực hiện cuộc khởi nghĩa ở Phú Yên (1898) mà Pháp và bọn tay
sai đã gọi là “giặc thầy chùa”. Ở miền Bắc có tăng sĩ Vương Quốc Chính
tổ chức “Hội Trương Chí” thiết lập một màng lưới tổ chức trong các ngôi
chùa từ Nghệ An tới Bắc Ninh dấy động một phong trào nhân dân chống quân
đội Pháp và chống văn hoá Pháp; ở miền Nam, nhiều tổ chức kháng Pháp
như các tổ chức Nghĩa-Hoà, Thiên Địa Hội, Nhân Hòa Đường,… kết hợp lòng
yêu nước với mẫu số chung tín ngưỡng Phật giáo qua các cơ sở quần chúng
của Phật giáo Hòa Hảo và Cao Đài để liên tục chống giặc Pháp xâm lăng
[5].
Đau đớn thay, trong lúc các lực lượng của nền Tam giáo
tiếp tục hy sinh đấu tranh cho nền Độc Lập nước nhà thì khối Công giáo
vẫn cứ làm tay sai cho Thực dân Pháp. Bài “Hội hè của đồng bào Thiên
Chúa giáo” (xem tác phẩm “Hội Hè Đình Đám” của Toan Ánh và lời nhận xét
của tạp chí Ánh Sáng Dân Tộc số 2 tháng 11 năm 1989) được trích đăng vào
phần Phụ Lục cuốn sách này chứng minh một cách hùng hồn việc người Công
giáo Việt Nam vẫn cứ ôm chặt chân người Pháp, vẫn coi nước Pháp là Mẫu
quốc và vẫn vinh danh cố linh mục Trần Lục (Phát Diệm), kẻ đã làm tay
sai đắc lực cho quân đội Pháp trong cuộc xâm lăng Việt Nam, đặc biệt là
đã cùng với 5000 giáo dân giúp Pháp triệt phá chiến khu Ba Đình của anh
hùng Đinh Công Tráng.
Trong khung cảnh đất nước lúc bấy giờ,
và thể hiện rõ ràng trong đời sống ở thôn quê cũng như ở thị thành, ở
trong chính quyền cũng như ở ngoài quần chúng, ba luồng ý thức đối
nghịch nhau như nước với lửa, như đêm với ngày, chi phối toàn bộ sinh
hoạt quốc gia Việt Nam là ý thức dân tộc nhân bản của nền Tam giáo, ý
thức độc thần của Kitô giáo, và ý thức duy vật của chủ nghĩa Mác-Lê.
Thời đô hộ, những mâu thuẫn ý thức dưới hình thái văn hoá đó chỉ xảy ra
ngấm ngầm giữa ba thành phần dân chúng nhưng chưa đến nỗi khốc liệt vì
lực lượng Công giáo Việt Nam vẫn còn nắm được ưu thế tuyệt đối nhờ có bộ
máy quyền lực của thực dân che chở bảo vệ.
Nhưng cuộc tranh
chấp của ba luồng ý thức bổng bộc phát mãnh liệt và trở thành một cuộc
sống mái tay đôi sau Đệ Nhị Thế Chiến khi thế lực thực dân đế quốc bắt
đầu suy yếu và khi nền móng của nền Tam Giáo bắt đầu lung lay.
Thật
vậy, trong cuộc chiến tranh Đông Dương thứ nhất (1945-1954), Cộng Sản
kiểm soát và điều động kháng chiến trong phong trào Việt Minh, hô hào
toàn dân chống xâm lăng giành độc lập cho nước nhà và trở thành một lực
lượng quần chúng lớn. Còn thực dân Pháp thì mượn chiêu bài chống Cộng để
che dấu âm mưu tái chiếm Việt Nam bằng cách dựa vào một chút chính danh
của hư vị triều đình nhà Nguyễn và một chút chính nghĩa từ hậu thuẫn
của hầu hết giáo dân Việt Nam để cũng trở thành một lực lượng (chính
quyền) lớn. Riêng Phật giáo và những đại bộ phận khác của dân tộc, thế
không thể dựa được vào ngoại bang, lực không kết tụ được thành sức mạnh,
đành nằm trong cảnh trên đe dưới búa và chuyển địa bàn ý thức và ảnh
hưởng vào nông thôn với lòng hoài vọng về một ngày thành công của kháng
chiến Việt Nam.
Cho đến năm 1954, khi cả Việt Minh và Pháp
đều kiệt quệ trên cả hai mặt quân sự lẫn chính trị sau trận đánh tại
lòng chảo Điện Biên Phủ và sau gần mười năm quần thảo, thì Pháp muốn cầu
hoà rút khỏi Đông Dương để giải quyết nội tình băng hoại của nền Đệ Tứ
Cộng Hòa, đồng thời củng cố vùng ảnh hưởng tại Bắc Phi; còn Việt Minh
thì trước áp lực của Nga Sô và Trung Cộng, và vì nhu cầu ổn định để bồi
dưỡng thực lực, bèn thỏa hiệp với nhau qua Hiệp Ước Genève. Đất nước lại
hai phần chia cách, người dân lại hai miền ly biệt vì hiệp ước này trao
miền Bắc cho Cộng Sản quản lý, còn miền Nam thì tạm thời vẫn thuộc
quyền người quốc gia chống Cộng trong lúc chờ đợi hai miền tổng tuyển cử
thống nhất đất nước theo qui định của Hiệp Ước.
Trong lúc đó,
Hoa Kỳ đã có chủ định riêng, họ không ký vào bản Hiệp định vì đã thủ
sẵn lá bài Ngô Đình Diệm do Hồng y Spellman và Công giáo quốc tế bảo
đảm, lá bài vốn đã được khai sinh và nuôi dưỡng tại Mỹ từ cuối năm 1950.
Mỹ dùng lá bài Ngô Đình Diệm để nhảy vào miền Nam trong ý đồ thiết lập
một tiền đồn tại Đông Nam Á hầu chặn đứng sự bành trướng của Cộng Sản
quốc tế. Vì vậy, cuộc chiến tranh Quốc Cộng lại tái diễn trên đất nước
Việt Nam, chỉ thay đào đổi kép cho một vở tuồng cũ mà thôi! (Xem thêm
The Life and Times of Francis Cardinal Spellman, trang 238 đến 245)
Phần
đầu của cuộc chiến tranh Đông Dương thứ hai này là một cuộc chiến đã
được cả hai phe lâm chiến tô vẽ cho một bản chất ý thức hệ mà một bên là
ý thức Mác-Lê duy vật, và một bên là ý thức Kitô giáo độc thần. Nghĩa
là một bên do đảng Cộng Sản Việt Nam với những lãnh tụ Mác xít như Hồ
Chí Minh, Võ Nguyên Giáp lãnh đạo tại miền Bắc, một bên do một gia đình
Công giáo của ông Ngô Đình Diệm, Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục và đảng Cần
Lao gồm hầu hết là người có đạo Công giáo cai trị miền Nam.
Phật
giáo Việt Nam, lực lượng đại đa số trong cộng đồng quốc gia, từ sau khi
đất nước bị chia đôi, đã nhận thức rõ vai trò áp đảo của Cộng Sản trong
mặt trận Việt Minh, bèn bỏ hẳn chủ trương thân Việt Minh trước kia như
hầu hết các đảng phái quốc gia khác. Nhưng bất hạnh cho Phật giáo, muốn
tránh vỏ dưa lại đạp phải vỏ dừa, vì miền Nam lại bị cai trị bởi gia
đình ông Diệm và đảng Cần Lao Công giáo, vốn chủ trương tiêu diệt các
đảng phái quốc gia, kì thị, khủng bố và đàn áp các tôn giáo trong đó có
Phật giáo. Bị kẹt giữa hai kẻ đối nghịch, Phật giáo phải chịu đựng thống
khổ nhục nhã suốt gần 9 năm trời dưới chế độ độc tài Công giáo trị Ngô
Đình Diệm. Cho đến 1963, tình trạng không thể chịu đựng được nữa, lại
nhân vì ông Ngô Đình Diệm ra lệnh hạ cờ Phật giáo nhân dịp lễ Phật Đản,
Phật tử, dưới sự lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo, buộc phải vùng lên đấu
tranh đòi hỏi bình đẳng tôn giáo, đòi hỏi tự do hành đạo như bên Công
giáo, mở đầu cho một cuộc vận động cách mạng dân tộc. Cuộc đấu tranh của
Phật giáo là cuộc đấu tranh bất bạo động và hợp lòng dân nên đã mang
một tầm vóc rộng lớn vì được sự ủng hộ của đa số nhân dân của tất cả các
tỉnh, thị miền Nam.
Cuộc tranh chấp công khai của người Việt
Nam trước đây chỉ có hai phe lâm trận, nay lại có thêm phe thứ ba là
Phật giáo. Cuộc tranh chấp ý thức hệ này từ nay được lãnh đạo bởi ba lý
thuyết chánh trị rõ rệt: lý thuyết cực tả của Cộng Sản quốc tế, lý
thuyết cực hữu của Kitô giáo quốc tế và lý thuyết trung dung của Phật
giáo dân tộc. Thật ra, nếu anh em ông Diệm biết đặt quyền lợi tổ quốc và
dân tộc trên quyền lợi của Công giáo La Mã, nếu ông Diệm tự coi mình
mang trách nhiệm của một vị nguyên thủ quốc gia hơn là trách nhiệm của
một tông đồ và biết tạo sự đoàn kết giữa người quốc gia, thì trận chiến
tranh Việt Nam đã chỉ là trận chiến tranh giữa phe dân chủ tự do với phe
Cộng Sản độc tài, và hai tôn giáo lớn tại Việt Nam đã có thể hài hoà
sống chung để cùng rao giảng từ bi, bác ái. Bất hạnh cho miền Nam, gia
đình ông Diệm, và do đó chế độ của ông ta, lại là kẻ thừa kế đích thực
của ba tệ hại lớn nhất: tệ hại phong kiến quan lại của thời Nguyễn Mạt,
tệ hại hủ nho của một nền Tống Nho đã đến lúc suy tàn và sâu đậm nhất,
tệ hại độc tôn giáo điều của một giáo hội Công giáo Việt Nam đang lên
đến cao điểm nhờ sự khai sinh và nuôi dưỡng của thực dân Pháp từ hơn 100
năm và nhờ sự thừa nhận của Thiên Chúa giáo quốc tế (Vatican và Mỹ) như
sức mạnh chống Cộng độc nhất ở Việt Nam. Cho nên ông Diệm và gia đình
của ông cũng đi con đường “Công giáo hóa” miền Nam như các cố đạo trước.
Vì thế, hậu quả khốc liệt đã đến với gia đình ông và với miền Nam sau
này.
Như đã nói, định mệnh trớ trêu đưa đẩy dòng lịch sử của
dân tộc đến một giai đoạn tranh chấp giữa ba xu hướng từ tầng chính trị
bước lên kích thước văn hóa trong suốt những năm giao động của hai thập
niên 50 và 60. Ba xu hướng này va chạm vào nhau và nổ bùng thành những
cơn lốc chính trị và được lãnh đạo bởi ba nhân vật cùng một quê quán
Quảng Bình. Đó là ông Võ Nguyên Giáp quê làng An Xá, ông Ngô Đình Diệm
quê làng Đại Phong và Thượng Toạ Thích Trí Quang quê làng Diêm Điền.
Làng
An Xá cách làng Đại Phong hai con suối nhỏ và một cánh đồng lầy lội,
còn làng Diêm Điền thì nằm chếch hẳn một bên và cách đều hai làng này
khoảng 20 cây số. Ba nhân vật trên đây, từ đời nội tổ trở lên chỉ là
những dòng họ khố rách áo ôm thuộc hàng bần dân nghèo dốt. Đến đời thân
phụ ông Diệm là ông Ngô Đình Khả, nhờ theo các cha cố và chính quyền bảo
hộ Pháp mới được làm quan. Ông Võ Nghiễm, thân phụ ông Võ Nguyên Giáp
chỉ vươn lên tới được chức cửu phẩm là chức thấp nhất trong hệ thống
quan lại Nam triều, và phụ thân của Thượng Tọa Thích Trí Quang thì mãi
vào những năm đầu của thế kỷ 20 mới bắt đầu ăn nên làm ra.
Trong
khung cảnh của một vùng đất khốn khổ và dân tình nghèo đói như tỉnh
Quảng Bình, 40 năm về trước, có ai ngờ ba đứa bé mở mắt chào đời vào
buổi bình minh của thế kỷ thứ 20 lại có thể trở nên những nhân vật lẫy
lừng làm chao nghiêng lịch sử và làm sụt sùi dân tộc. Có ai ngờ một cậu
ấm tử sinh trưởng trong một gia đình quan lại của một chế độ phong kiến
mục nát lại trở nên Tổng thống của một quốc gia, dù nội dung thực sự là
gì, thì hình thức cũng là của một chế độ Cộng Hòa Dân Chủ kiểu Tây
phương; có ai ngờ một chú sa di đầu tròn áo vuông lại trở nên linh hồn
của một phong trào tôn giáo quần chúng lớn “làm rung chuyển nước Mỹ” với
tham vọng thực hiện cuộc Tổng Hợp Đề văn hóa để hòa giải dân tộc; và có
ai ngờ một cậu học trò áo vải chân đất ê a mấy chữ a, b, c trong làng
quê của một nước thuộc địa lại trở nên một nhân vật quân sự lẫy lừng,
cầm chân và đánh bại được hai bộ máy chiến tranh hiện đại của Pháp rồi
Mỹ.
Ba nhân vật tiếng tăm của đất Quảng Bình nghèo khó nhưng
lạ lùng đó, mỗi người có tham vọng riêng, có quyền thế riêng, có hậu
thuẫn riêng và dĩ nhiên có chỗ đứng riêng trong chiều dài lịch sử nước
ta cũng như trong chiều sâu của lòng dân tộc ta. Họ có lý do để chống
đối nhau và tiêu diệt nhau vì chủ nghĩa, vì lý tưởng, vì đặc quyền, đặc
lợi phe đảng hay vì bất cứ một cái “vì” nào khác, còn kẻ viết thì cũng
xuất thân từ vùng đất cày lên sỏi đá xơ xác đó, nên hình như cũng đã
được định mệnh an bài để không thể trở thành một kẻ đứng bên dòng lịch
sử, bàng quan và lạc lõng, mà lại bị cuốn hút vào cơn cuồng phong của
thời đại, nên đều liên hệ với cả ba nhân vật này mà đặc biệt là liên hệ
khắng khít với ông Ngô Đình Diệm từ những ngày đầu tiên khi còn là một
trong những cán bộ tiên phong và nòng cốt của cái tổ chức mới manh nha
của ông ta. Nhưng rồi sau suốt 22 năm trời kể từ 1942, chia sẻ với nhau
những giây phút vinh quang và khốn khổ của bao cuộc thăng trầm vinh
nhục, trở thành chiến hữu trung kiên và cốt cán của tổ chức (và sau này
của chế độ), cuối cùng kẻ viết lại trở thành một nhân vật trọng yếu
trong công cuộc lật đổ và chấm dứt chế độ của ông Diệm vào năm 1963 để
cho lý tưởng ban đầu của mình vẫn là lý tưởng keo sơn với dân tộc, để
cho chuyển mình của mình gắn bó với chuyển mình của thời đại.
Ôn
lại dĩ vãng, và bây giờ ở vào cái tư thế có thể nhìn lại một cách sáng
suốt và tự do hơn chuỗi biến cố của lịch sử đất nước kể từ khi làn gió
dữ Tây phương cuộn thổi vào quê hương trải dài thành gần trăm năm đô hộ
Pháp và hơn 30 năm chiến tranh Quốc Cộng, lại được dịp lần giở kinh xưa
sách cũ và đàm luận cùng những người bạn hiền thầy giỏi cùng thế hệ, kẻ
viết lại chủ quan thấy thấm thía hơn về cái thuyết “Vô Thường” của đạo
Phật và cái thuyết “Lý Số” của đạo Nho, để từ đó chấp nhận như là nhân
sinh quan khoáng đạt và giải thoát của chính mình.
Trong cuốn
Nho Giáo, học giả Trần Trọng Kim đã sơ giải cái Tổng Hợp Đề cần thiết
cho sự Đồng Nguyên huyền diệu của Tam Giáo ở nước ta khi ông viết:
Có
một điều ta nên chú ý là cái tư tưởng của Nho Giáo đời Tống có lắm chỗ
phảng phất tương đồng với Lão Giáo và Phật Giáo. “Số” là cái uyên nguyên
của Nho Giáo do Kinh Dịch mà ra, mà Kinh Dịch là sách bàn về Lý Học,
chung cả bên Lão lẫn bên Nho. Dịch Học cho cái đầu của vũ trụ do “Động,
Tĩnh” mà biến thành Âm Dương rồi sinh ra vạn vật, vạn vật chung quy lại
trở thành Thái Cực. Đó là cái lý “Đồng quy nhi thù đồ, Nhất trí nhi bách
lự” của Khổng Tử đã nói trong Hệ từ. Lý Thái Cực ấy bên Lão Giáo gọi là
ĐẠO, bên Phật Giáo gọi là BHUTA TATHATA danh hiệu tuy khác nhưng cùng
đồng một thể. Bởi cái lý đồng cho nên các học thuyết ấy đều theo một chủ
nghĩa “Thiên địa vạn vật nhất thể”. Song mỗi học thuyết đi ra một đường
là vì cách lập giáo và sự hành đạo khác nhau.
Ý niệm ấy lại
được triển khai và lý giải rõ ràng hơn và hiện đại hơn qua Lê Văn Siêu
trong cuốn “Việt Nam Văn Minh Sử Cương”, qua Nguyễn Đăng Thục trong cuốn
“Tư Tưởng Việt Nam” và qua Phạm Văn Diêu với những tài liệu giảng huấn
tại đại học Văn Khoa Sài Gòn v.v…
Có lẽ chính cái quan niệm Vô
thường và Lý số, tuy bàng bạc và đại chúng hơn trong dân dã, nhất là
cái dân dã tuyệt đại đa số và tuyệt đại nghèo khổ của nước ta đã tạo nên
sức mạnh của dân tộc. Cái sức mạnh đã giúp dân ta vẫn kiên cường trước
sự tàn bạo của thiên nhiên và của quân thù, cái sức mạnh đã giúp dân ta
khoan dung và nhân nghĩa trước những bạc bẽo và hận thù của đời sống.
Và
có lẽ chính nhờ được nuôi dưỡng và lớn lên trong dòng suối văn hóa Đông
phương vốn mang tính chất Tổng hợp và Hướng nội, kẻ viết mới cảm nhận
và thông hiểu được qua lăng kính của hai thuyết Vô thường của nhà Phật
và Lý số của nhà Nho, những thảm cảnh nghiệt ngã và bèo bọt về cảnh ngộ
của cụ Võ Hiển Nguyễn Hữu Bài, và đặc biệt của gia đình ông Ngô Đình
Diệm mà kẻ viết sẽ ghi lại trong tập sách này, những nhân vật và gia
đình đại vọng tộc, bỗng một phút định mệnh, tán gia bại sản đời đời
chuốc lấy oán cừu.
Văn hóa Tây phương, mà bây giờ con em ta
đang hấp thụ, dù là Tây phương tư bản hay Tây phương Cộng Sản, vốn có
đặc tính phân tích và hướng ngoại, thì khó mà cảm nhận và giải thích
được những hiện tượng nhân sinh này, lại càng khó mà hiểu biết và chấp
nhận được quan niệm Vô thường và Lý số của Đông phương, dù gần đây,
trước bế tắc nhân văn của con người và bên bờ vực thẳm của một cuộc
chiến tranh hạch tâm khốc liệt, đã có nhiều nỗ lực tìm về phương Đông để
tìm câu trả lời cho cuộc khủng hoảng nhân văn toàn cầu.
Những
nỗ lực đó không những được thể hiện nơi các nghiên cứu của các nhà xã
hội học và triết gia Tây phương như Paul Mus (Thousand Armed Kannon, A
Mystery Or A Problem, 1964), John Blofeld (Bodhi Satva Of Compassion,
1978), Frederic J. Strend (Understand Religious Man, 1969)… mà còn nổi
bật rõ ràng hơn nơi các nhà khoa học tự nhiên, vốn là thành phần rường
cột và được ưu đãi của xã hội Tây phương thuần lý và thuần kỹ thuật. Đứa
con trai út của kẻ viết, trong thời gian học về vật lý không gian có
tặng cho kẻ viết cuốn “The Tao of Physics” của giáo sư khoa học gia
Fritjof Capra mà kẻ viết trích dẫn một vài đoạn sau đây để chứng minh
rằng xu hướng tìm về nguồn suối triết học nhân bản của Đông phương càng
lúc càng mạnh mẽ nơi xã hội độc thần, duy lý và duy vật này.
Julius Robert Oppenheimer (cha đẻ bom nguyên tử Hoa Kỳ) tác giả cuốn “Science and the Common Understanding” cho rằng:
Những
khái niệm tổng quát về sự hiểu biết của con người, được biểu hiện bằng
những khám phá trong ngành vật lý nguyên tử, không phải là những khái
niệm có bản chất xa lạ, mới mẻ hay chưa bao giờ được nhắc đến. Ngay cả
trong nền văn hóa của chúng ta, những khái niệm này đã từng có một lịch
sử vững vàng. Trong hệ thống tư tưởng của Phật giáo và Ấn Độ giáo, những
khái niệm này còn giữ một địa vị rường cột và quan trọng hơn nữa, đem
đến cho chúng ta một tấm gương sáng để noi theo, một niềm khích lệ tinh
thần và sự kiện toàn của nền triết lý Đông phương sáng suốt [6].
Werner Heisenberg (trong tác phẩm “Physic and Phylosophy” trang 202) cho rằng:
Một
đóng góp lớn lao của Nhật Bản từ cuối Thế chiến thứ 2 cho lý thuyết vật
lý là đã cho thấy một sự tương quan nào đó giữa những tư tưởng triết lý
của truyền thống văn hóa Viễn Đông và chất triết lý trong lý thuyết vật
lý tư tưởng.[7]
Niels Bohr, bác học gia Đan Mạch, giải thưởng Nobel, (tác giả cuốn “Atomic Physics and Human Knowledge”) cho rằng:
Các
tư tưởng gia đã đạt đến mức thành công như Phật Thích Ca hay Lão Tử đã
từng phải đối diện với những khó khăn đó khi ta cố hòa hợp hai thế đứng
(vừa là khán giả vừa là diễn viên) của ta trong vở kịch vĩ đại của kiếp
nhân sinh. Có thế ta mới có thể so sánh được với bài học rút tỉa từ lý
thuyết của ngành vật lý nguyên tử.[8]
Tất cả quan niệm đó đã được Fritjof Capra, tác giả cuốn sách, tổng kết lại trong một nhận định chắc nịch rằng:
Với
triết học phương Tây, môn luận lý và sự suy luận đã luôn luôn là những
phương tiện chính để phát biểu tư tưởng triết lý, kể cả theo Bertrand
Russel, những tư tưởng thuộc lãnh vực tôn giáo. Ngược lại, đối với Đông
phương huyền bí, ai cũng vốn hiểu được rằng sự thật được thể hiện một
cách sâu xa hơn khả năng diễn đạt của ngôn ngữ bình thường: các nhà hiền
triết Đông phương đã không e ngại gì mà không vượt quá sự hợp lý và
những quan niệm thông thường. Tôi nghĩ rằng đây là lý do chính khiến cho
những mẫu mực của Đông phương đã gầy dựng được một nền tảng triết lý
kết hợp với nền vật lý ngày nay hơn là những mẫu mực của triết lý Tây
phương.[9]
Tuy nhiên, những nghiên cứu và hiểu biết của kẻ
viết, dù đến từ kinh xưa sách cũ, hay tích luỹ từ bạn hiền thầy giỏi vẫn
không phải là và chưa đủ là những kiến thức xây dựng thành quan niệm
nhân sinh của kẻ viết, nếu những kiến thức lý thuyết đó đã không được
đối chiếu với những kinh nghiệm thực tế của chính cuộc sống kể từ ngày
người viết còn là một đứa trẻ nghèo khó trong một gia đình thanh bần của
đất Quảng Bình xơ xác, kinh qua bao lên xuống của cuộc đời và trôi nổi
trong thăng trầm của nhân thế cho đến nay, ở vào cái tuổi thất tuần,
sống xa vời cố quận mà hồn thì vương vấn quê xưa.
Chính những
kinh nghiệm thực tế xương máu đó, những mồ hôi và nước mắt, những vinh
quang và tủi nhục, những thù hận và độ lượng, những phản trắc và nhân
ái, những tà niệm và tỉnh thức… đã là những xác tín làm cho kẻ viết tin
tưởng hơn vào tính cách vô thường của cuộc đời và những vận động cơ cấu
của lý số cho kiếp nhân sinh. Chính trong cái nhìn Vô thường đó của Đạo
Phật và cái nhìn Lý số đó của Đạo Nho mà người viết sẽ trang trải lại
trên những trang giấy sau một phần cuộc đời của mình có liên hệ với cuộc
đời của ông Ngô Đình Diệm và của đất nước.
Những thiếu sót và
sai lầm nếu có là do kiến thức chưa thực thâm sâu hoặc do ký ức bắt đầu
phai nhạt chứ nhất định không phát xuất từ thiên kiến giáo điều hoặc cố
tâm muốn bóp méo sự thật. Những cảm xúc và nhận định mà người đọc thấy
thấp thoáng trên những trang sách là những cảm xúc và n
Xem tiếp: Chương 2
Trong
những năm đầu tiên của đệ nhị thế chiến, có hai biến động xảy ra ngoài
nước Việt Nam nhưng lại đặc biệt liên hệ chặt chẽ đến vận mệnh nước ta
vào lúc đó. Liên hệ chặt chẽ vì hai biến động này xảy ra trong hai quốc
gia và cho hai dân tộc đã từng xâm chiếm và đặt nền đô hộ trên lãnh thổ
Việt Nam.
VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi
Tác giả: Hoành Linh Đỗ Mậu
Chương 2
VÀO ĐƯỜNG ĐẤU TRANH
Biến cố thứ nhất xảy ra vào ngày 19 tháng 6 năm 1940, khi
gót giày sắt của quân đội Đức Quốc Xã giẫm nát vỉa hè thủ đô Balê tiến
vào chiếm điện Elysée và bắt đầu khống chế nước Pháp bằng một chế độ
quân quản sắt đá, chấm dứt uy thế và quyền lực của Chính phủ Pháp không
những trên lãnh thổ Pháp quốc mà còn làm suy yếu thực lực và tinh thần
của các bộ máy chính trị quân sự tại các nước thuộc địa.
Biến
cố thứ hai xảy ra tại Trung Hoa vào đầu năm 1940 khi Nhật Bản, khởi đầu
bằng cuộc đổ bộ ở Lư Câu Kiều vào năm 1937, điều động đoàn quân tinh
nhuệ với những vũ khí hiện đại đánh tan các lộ quân của Thống chế Tưởng
Giới Thạch, tràn xuống miền Nam Hoa, chiếm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng
Tây, và chuẩn bị kế hoạch tấn chiếm Đông Dương để hoàn thành các mắt
xích chiến lược của kế sách địa lý chính trị “Đại Đông Á”.
Kết
quả hỗ tương và nhịp nhàng của hai biến cố đó đã chấn động tình hình
chính trị tại Việt Nam và đẩy bộ Chỉ huy Quân sự của Nhật Bản đến quyết
định đặt yêu sách đòi chính quyền của Pháp tại Đông Dương phải chấm dứt
giao thương với Trung Hoa và giành quyền thiết lập một lực lượng kiểm
soát việc thực thi quyết định này tại cảng Hải Phòng. Lúc bấy giờ Decoux
vừa mới thay Catroux trong nhiệm vụ Toàn quyền Đông Dương và được Chính
phủ Pháp, trong cơn ngặt nghèo lúng túng của chính nội tình mẫu quốc,
ủy nhiệm toàn quyền chỉ huy quân sự, chính trị để giữ vững bán đảo Đông
Dương.
Ban đầu Decoux nhất quyết chống đối quyết định đó của
Nhật Bản nên ngày 22 tháng 9 năm 1940, ngày quân Nhật từ Quảng Đông phối
hợp hỏa lực mãnh mẽ của lục quân và đoàn quân cơ giới thần tốc xua quân
đánh tan một số căn cứ quan trọng tại biên giới và tấn chiếm Lạng Sơn
(vốn là bộ Chỉ huy trung ương của Pháp, phụ trách tuyến phòng ngự Việt
Bắc) và bắt Pháp phải nhượng bộ. Quân Nhật không những đã ngang nhiên
đóng quân tại nhiều địa điểm chiến thuật ở sâu trong vùng đồng bằng mà
còn sử dụng đường hỏa xa, các hải cảng, các phi trường và mua cao su,
gạo, nhiên liệu cùng nhiều sản phẩm địa phương cần thiết với giá rẻ để
cung ứng cho nhu cầu quân nhu và vận tải của quân đội viễn chinh Nhật
(mà đường tiếp liệu xa chính quốc gần 10 ngàn cây số càng lúc càng khó
khăn). Ngược lại, Nhật Bản tôn trọng tư cách và quyền hành cai trị của
Pháp tại Đông Dương cũng như tư cách và quyền hành của vua Bảo Đại tại
Trung Kỳ.
Trong biến cố này, vì những hứa hẹn chính trị và yểm
trợ vũ khí của Nhật Bản, một lực lượng Phục quốc quân do chí sĩ Trần
Trung Lập chỉ huy đã giúp quân đội Nhật Bản tấn công căn cứ Lạng Sơn và
chiếm đóng thành phố này. Đau đớn thay, sau khi đã được Pháp nhượng bộ,
Nhật phản bội lực lượng Việt Nam này và trao lại toàn bộ đơn vị phục
quốc quân cho người Pháp như một điều kiện trong thỏa hiệp Nhật-Pháp.
Chí sĩ Trần Trung Lập hy sinh và hầu hết phục quốc quân Việt Nam kẻ bị
tử hình, người bị tù chung thân, chỉ một số ít liều mình vượt thoát được
qua Trung Hoa. [1]
Song song với việc thiết lập những cơ sở
quân sự và nắm chặt tình hình an ninh tại Đông Dương, Nhật Bản vẫn khôn
ngoan duy trì hệ thống hành chánh và hư danh của bộ máy bảo hộ Pháp để
có thì giờ chuẩn bị cho cuộc đấu tranh chính trị ở tầng quần chúng qua
cơ quan phản gián Kempeitai, qua tờ báo Tân Á xuất bản bằng tiếng Việt
nhằm tuyên truyền chống Pháp, đề cao chủ nghĩa “Đông Á của người Á
Đông”, hô hào nước Việt Nam “độc lập trong khối thịnh vượng Đại Đông Á”.
Họ tổ chức các lớp học Nhật ngữ nhằm chuẩn bị một lực lượng cán bộ hành
chánh bản xứ, họ tuyển mộ một số thanh niên Việt Nam vào đội Hiến binh
và thông ngôn của họ, và đặc biệt họ ngấm ngầm tuyên truyền cho sự trở
về tất yếu của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, lúc bấy giờ đang lưu vong trên đất
Nhật.
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để nguyên là cháu đích tôn của Mỹ
Đường Nguyễn Phúc Đan mà ông này lại vốn là trưởng nam của Hoàng tử
Cảnh. Quyết định xuất dương để vận động chống Pháp của Hoàng thân Cường
Để là vừa để trả nợ nước vừa để trả thù nhà. Trả nợ nước là nhiệm vụ
chung của toàn dân ta trong giai đoạn bị ngoại thuộc đó, dù ở giai tầng
nào trong xã hội, dù đứng ở vị trí nào trong lòng dân tộc, ngoại trừ một
thiểu số được thụ hưởng đặc quyền đặc lợi của Pháp và liên hệ máu thịt
với những định chế giáo quyền và thế quyền tại mẫu quốc. Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để là Hoàng thân quốc thích vừa lại là người thật tâm yêu nước,
yêu dân nên việc ông xả thân tranh đầu là điều hiển nhiên. Trả thù nhà
là vì sau khi vua Gia Long băng hà, chi hệ thuộc Hoàng tử Cảnh vì đã bỏ
đạo gia tiên, nhục mạ Phật giáo, lại còn bị giám mục Pigneau de Béhaine
xúi dục theo Công giáo La Mã qua hành động đòi mẹ bôi phân lên tượng
Phật, nên không được Hoàng phái đồng ý cho nối nghiệp cha [2] mà lại để
cho vua Minh Mạng, một vị vua thông minh, cương nghị và chống Pháp trong
tinh thần quốc gia cực đoan nối ngôi.[3] Chi hệ Hoàng tử Cảnh bị biếm
hạ xuống thành hàng thứ dân và phải sống khổ nhục cho đến năm 1848 mới
được vua Tự Đức gia ân phục hồi lại tước vị và ban cho một số tiền phụ
cấp nhỏ nhoi.[4]
Hoàng thân Cường Để xuất dương qua Nhật, cùng
với cụ Phan Bội Châu hoạt động chống Pháp dành độc lập nhằm quang phục
đất nước và được cụ Phan tôn làm Minh chủ trong tổ chức Cách Mạng Việt
Nam Quang Phục Hội do cụ thành lập. Hai người con trai của cụ Hoàng thân
là ông Tráng Liệt và ông Tráng Cử ở lại quê nhà trong cảnh nghèo khó,
không ai để nương tựa, lại bị người Pháp gây khó khăn nên không tiến
thân được. Ông Tráng Liệt sau đó được làm thư ký công nhật ở phòng Văn
khố tòa Khâm sứ Huế, còn ông Tráng Cử thì đi dạy ở một trường tiểu học
nhỏ tại Trung phần, trong chánh sách mua chuộc của người Pháp.
Lúc
bấy giờ, thế chiến thứ hai đang ở cao điểm thắng lợi của phe Trục
Đức-Ý-Nhật. Quân đội của họ đánh tan các lực lượng đề kháng yếu ớt và
thiếu chuẩn bị của khối Đồng minh. Và mặt trận Đông Dương, vì bộ máy Bảo
hộ bị gián đoạn với mẫu quốc, lại bị hăm dọa bởi lực lượng quân sự hùng
hậu của Nhật, đã trở thành một cơ hội thuận tiện cho những người Việt
muốn đấu tranh để giành độc lập cho nước nhà.
Mùa xuân năm
1941, sau gần 30 năm biệt xứ, ông Nguyễn Tất Thành, tức Chín Thẩu, tức
Ba, tức Nguyễn Ái Quốc, cải trang thành một phóng viên Trung Hoa, theo
đường bộ vượt qua biên giới Hoa Việt và cùng với các ông Phạm Văn Đồng
và Võ Nguyên Giáp xây dựng một căn cứ địa an toàn, thành lập “Việt Nam
Độc Lập Đồng Minh” với chủ trương đánh Pháp đuổi Nhật. Tại hang Păc Pó,
ông Nguyễn Tất Thành đổi tên thành Hồ Chí Minh [5], chính thức phát động
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, đồng thời bành trướng chủ nghĩa
Cộng Sản tại Việt Nam, mở màn cho hai cuộc chiến tranh Đông Dương đẫm
máu sau này. Trong khi đó thì hầu hết các cá nhân tổ chức thuộc phe quốc
gia lại tìm cách hợp tác với quân đội Nhật với hy vọng sẽ cùng với Nhật
Bản lật đổ Pháp tại Đông Dương để dành độc lập cho Việt Nam, một nền
độc lập thực sự hay ngay cả một nền độc lập trong khối Đại Đông Á.
Lúc
bấy giờ, theo khuynh hướng này, đại để ở miền Bắc có những nhân vật như
nhà báo Vũ đình Dy, bác sĩ Nguyễn xuân Chữ, bác sĩ Lê Toàn, cụ Trần
Trọng Kim, cụ Dương Bá Trạc, hoặc như một bộ phận đảng Đại Việt của ông
Trương Tử Anh, đảng Dân Chính của ông Nguyễn Tường Tam... Còn ở miền Nam
thì có những cá nhân nổi bật như nhà báo Trần Văn Ân, ông Nguyễn Văn
Sâm, hoặc khối Cao Đài, lực lượng Hòa Hảo... Riêng tại miền Trung, Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để từ Nhật gửi thư về Huế nhờ nhà cách mạng Huỳnh Thúc
Kháng làm đại diện cho Ngài để liên lạc và thảo luận với người Nhật,
nhưng cụ Huỳnh lấy lý do tuổi già sức yếu để từ chối lời yêu cầu này và
cụ nhờ người con trưởng của Kỳ Ngoại Hầu là ông Tráng Liệt viết thư cho
cha đề cử ông Ngô Đình Diệm thay thế Cụ.
Điều đáng lưu ý là 5
năm sau, năm 1946, cụ Huỳnh lại nhận lời của ông Hồ Chí Minh để đảm nhận
chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ tại Hà Nội mặc dù, lúc bấy giờ, cụ tuổi già
sức yếu hơn nhiều. Có hai lý do giải thích hai quyết định có vẻ mâu
thuẫn này trong đời hoạt động của cụ Huỳnh.
Thứ nhất là cụ từ
chối lời yêu cầu của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để vì lập trường quốc gia quá
khích của cụ. Khác với người bạn thân là cụ Phan Bội Châu, cụ Huỳnh
không tin tưởng vào sự hợp tác chân thành của người Nhật nói riêng và
người ngoại quốc nói chung. Chính vì lập trường quá khích đó mà năm
1946, ông Hồ Chí Minh đã thuyết phục và lôi kéo được cụ với lá cờ dân
tộc chống xâm lăng.
Và thứ hai là cụ không chủ trương đấu
tranh chống Pháp cho một nước Việt Nam theo thể chế quân chủ lập hiến
trong tương lai như ông Diệm mà phải là một nước Việt Nam không những
độc lập mà còn dân chủ nữa. Vì thế, giới thiệu ông Ngô Đình Diệm, một
người mà cả ba đời bề tôi trung thành của nhà Nguyễn, để làm đại diện
cho Kỳ Ngoại Hầu, một người Hoàng phái dòng chính thống, là một việc làm
mà cụ Huỳnh thấy vừa hợp lý vừa thuận tình. Lại vừa nói lên cái thâm
thuý của nhà Nho ở chỗ cụ vốn đánh giá rất thấp khả năng và đạo đức của
ông Diệm, nên mới giới thiệu cái gánh nặng chính trị đó cho tổ chức của
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, mà cụ vốn chê là có xu hướng vọng ngoại [6], nếu
không muốn nói là có khả năng trở thành một tổ chức phản động trong cuộc
cách mạng sau này. Khi đề cập đến quan điểm chính trị “chống vọng
ngoại” này của một sỹ phu thời đó, giáo sư Nguyễn Văn Xuân đã xác quyết
trong tác phẩm biên khảo “Phong trào Duy Tân” rằng:
“Cụ Huỳnh Thúc Kháng sau này không chịu nhận hợp tác với Nhật chắc chắn là vì đã rút gọn được kinh nghiệm cũ”.[7]
(Việc này cũng để cải chính một số luận điệu rằng nhà cách mạng Huỳnh Thúc Kháng đã hợp tác với ông Diệm lúc bấy giờ).
Sau
khi nhận được thư của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để gởi về đồng ý cho ông Ngô
Đình Diệm làm đại diện và lãnh đạo một phong trào thân Nhật tại miền
Trung, ông Tráng Liệt bèn đi với ông Nguyễn Bá Mưu đến gặp ông Diệm một
cách bí mật và trao thư cùng giấy ủy nhiệm của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để cho
ông ta. Ông Diệm vô cùng hân hoan, vội viết thư phúc đáp, tỏ lời cảm tạ
và hứa sẽ hết lòng phục mệnh Kỳ Ngoại Hầu. Ông Diệm lúc bấy giờ đang là
một vị quan mất hết phẩm hàm, sống ẩn dật tại Huế.
Ông Nguyễn
Bá Mưu là anh vợ của tôi và bạn cùng sở với ông Tráng Liệt và ông Võ
Như Nguyện, lúc bấy giờ đều làm Phán sự ở Tòa Khâm sứ Huế, ông Mưu đã có
cảm tình với phong trào Cường Để từ lâu vì ông với anh em ông Tráng
Liệt đã là những bạn thân tri kỷ từ trước.
Với tư cách là đại
diện chính thức của tổ chức có thế yểm trợ quốc tế, lại được mang tính
chính thống của dòng họ nhà Nguyễn, ông Diệm mới bắt đầu dự trù những kế
hoạch chính trị có tầm vóc toàn quốc hơn và có nội dung đấu tranh hơn.
Khi
ông Diệm từ quan (rồi mất hết phẩm hàm) vào năm 1933, trong gia đình
ông cũng đã có nhiều tranh luận sôi nổi, người theo, kẻ chống quyết định
này. Dư luận trong giới quan trường tại Huế có xôn xao một dạo rồi biến
cố đó cũng chìm dần vào quên lãng: người thì khen ông Diệm cứng rắn
chống nhà nước Bảo hộ mà từ quan, người thì cho rằng ông Diệm chống nhau
với Thượng thư Phạm Quỳnh bị thua nên uất ức mà từ chức. Riêng ngoài
quần chúng, ngay cả tại Huế, không mấy ai để ý đến chuyện lên voi xuống
chó trong chốn Triều Trung vì họ cho rằng Nam triều chỉ đóng vai bù nhìn
của Pháp, việc lên hay xuống, ở hay đi của các vị quan lại chẳng qua là
việc tranh giành địa vị, đua chen lợi danh chứ không ảnh hưởng gì đến
chánh sách của Pháp, lại càng không ảnh hưởng gì đến đời sống quần chúng
hay vận mệnh quốc gia. Thật vậy, kể từ ngày Kinh đô thất thủ (1885) làm
cho vua Hàm Nghi bôn đào, rồi vua Thành Thái bị truất biếm, và nhất là
kể từ khi vị vua trẻ tuổi Duy Tân mưu đồ cách mạng bị thất bại rồi cả ba
vị vua Việt Nam bị Pháp bắt đi lưu đày, thì người dân Huế đâm ra bi
quan. Họ nhìn về tương lai mịt mù với tất cả chán chường và thất vọng.
Họ nhìn rêu phủ trên thành quách, lau mọc bên bờ sông, trăng tàn trên
nội điện mà cảm thương cho vận nước lao lung.
Hầu như tất cả người dân xứ Huế đều thuộc lòng 5 câu thơ mà sau này trở thành những câu hò rất phổ biến trong nhân gian:
Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông?
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
Họ
mượn câu hò để ghi lại một biến cố đau buồn của lịch sử và đồng thời
cũng để ký thác nỗi niềm tâm sự của mình. Nỗi niềm thương tiếc một nhà
vua yêu nước mà bị gian truân, một bậc trung thần can trường mà đầu rơi
máu chảy, tâm sự của một người dân nhìn đất nước suy vong mà chỉ biết
đưa câu mái đẩy để chạnh lòng nước non!
Họ lại càng trở nên chai lỳ
hơn với những đổi thay của thời cuộc kể từ khi vua Khải Định hành xử như
một tên Việt gian vô trách nhiệm, chỉ biết cúi đầu vâng dạ người Pháp
để có cơ hội tiêu xài phung phí công quỹ. Từ đó về sau, người dân Huế
xem những buổi tế lễ ở đàn Nam Giao, những buổi thiết triều trong Đại
Nội với áo mão xênh xang, tiền hô hậu ủng cũng giống như những xuất hát
bộ trên sân khấu của rạp hát bà Tuần. Họ sống với hiện tại nhưng lòng
thì chỉ hoài niệm về quá khứ, một quá khứ mà quê hương còn vắng bóng
ngoại nhân đô hộ, còn có vua quan là minh quân. Vì vậy, việc ông Diệm từ
quan hay ông Quỳnh thắng thế không làm xúc động hay gây được sôi nổi
trong đời sống vốn rất trầm mặc của họ.
Mùa xuân năm 1942, khi
những cơn sóng ngầm bắt đầu chuyển động trong sinh hoạt chính trị của
người Việt thì tôi được thuyên chuyển về Huế làm huấn luyện viên các lớp
Hạ sĩ quan. Đối với tôi, về Huế là về kinh đô của quốc gia, là về với
cung đài diễm lệ của trung tâm đất nước. Vì thuở thiếu thời chỉ biết lũy
tre làng và đồng ruộng khô, thời niên thiếu thì bận học hành, lớn lên
gia nhập quân đội chỉ biết kỷ luật thép và hàng rào sắt, nên khi được
đổi về Huế, tôi đã lợi dụng dịp này để ngao du khắp các ngõ ngách của
kinh thành.
Phong cảnh đất Thần kinh vừa u trầm cổ kính, vừa
thơ mộng hữu tình rất phù hợp với tinh thần vốn bảo thủ và nặng lòng
hoài cổ của tôi. Những ngày nghỉ lễ, tôi thường lang thang đi bộ viếng
thăm những danh lam thắng cảnh của kinh đô như hồ Tịnh Tâm, chùa Thiên
Mụ, đàn Nam Giao, cửa Ngọ Môn, thôn Vĩ Dạ, vườn Ngự Viên, cầu Bạch Hổ,
núi Ngự Bình, chùa Diệu Đế, làng Kim Long, trường Quốc Tử Giám... ở đâu
và lúc nào, tôi cũng tìm được những rung cảm tuyệt vời. Từ tiếng chuông
thu không của những buổi chiều bảng lãng đến tiếng hò não nùng trong
sương mờ của buổi sáng sông Hương, từ cô gái giặt áo ở mặt nước ven sông
đến tà áo tím Đồng Khánh của mùa thu tan trường về, từ hàng cau thôn Vĩ
đến tiếng thông reo đỉnh Ngự, tất cả đều có sức thu hút lạ lùng và đều
để lại trong tâm tưởng tôi những hình ảnh không quên. Lần băng cầu Lò
Rèn để đi Phú Cam , tôi đi qua nhà ông Diệm và thầm cảm phục vị Thượng
thư đầu triều, tuy còn trẻ tuổi mà không màng danh lợi, dám cởi áo từ
quan trong giai đoạn mà nhiều người bán hết gia tài để mua chút phẩm
hàm, hoặc dâng vợ cho giặc để kiếm chức tri huyện.
Đời sống
của tôi tại Trung tâm Huấn luyện Hạ sĩ quan càng ngày càng trở nên căng
thẳng và bực bội. Những va chạm với những quân nhân Pháp trong lúc điều
hành công tác giảng huấn, những hành vi hống hách kỳ thị của họ đối với
quân nhân Việt Nam, những áp bức và bất công trong đời sống trong và
ngoài doanh trại, và nhất là thái độ khúm núm sợ hãi đến độ tội nghiệp
của một số đồng ngũ người Việt Nam... như biến thành giọt nước cuối cùng
làm tràn ly nước của thời thơ ấu thôn quê của tôi, mà chết chóc, đốt
phá, hãm hiếp, tù đày do người Pháp và tay sai của họ gây ra đã chồng
chất bấy lâu nay.
Cho đến một hôm vào tháng 6 năm 1942, tôi
đang dạy tác chiến cho một trung đội khóa sinh tại chân núi Ngự Bình thì
ông Trần Văn Dĩnh (sau này là Giám đốc Thông tin dưới thời ông Diệm và
hiện đang sống tại Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ [8]) và một người lạ mặt đến
thao trường xin gặp tôi. Ông Dĩnh tự giới thiệu tên họ của mình và người
lạ mặt (mà bây giờ tôi mới nhớ ra tên Nguyễn Huy Tuân), một công chức
của Chính phủ Bảo hộ.
Ông Dĩnh đặt ra một số vấn đề thời sự để
thẩm định lòng yêu nước và quyết tâm dành độc lập cho nước nhà của tôi,
rồi phân tích tình hình chính trị thế giới và Việt Nam cho tôi nghe để
đi đến kết luận là chế độ bảo hộ của Pháp tại Việt Nam thế nào cũng phải
chấm dứt và Việt Nam thế nào cũng được độc lập. Tuy còn trẻ, nhưng ông
lý luận rất khoa học và ông đặt vấn đề rất đúng đắn, cách trình bày của
ông, tuy rất tổng quát, nhưng lại phù hợp hoàn toàn với những suy tư của
tôi từ lâu.
Trả lời thắc mắc vì sao ông biết tôi và dám đến
để làm công tác tuyên truyền này thì ông cho hay là đã điều nghiên và
thiết lập được danh sách những quân nhân Việt Nam tại Huế từng chứng tỏ
có lòng yêu nước và dám xả thân chống Pháp. Trước khi về, ông khuyên tôi
nên gia nhập một tổ chức đấu tranh để đi vào hoạt động cách mạng và hẹn
gặp tôi vào một dịp khác chưa định trước được.
Ngay tối hôm
đó, tôi liền đến nhà ông Nguyễn Bá Mưu kể rõ lại trường hợp gặp gỡ và
nội dung buổi nói chuyện. Nghe tôi nhắc đến tên ông Trần Văn Dĩnh, anh
vợ tôi cười rồi cho biết rằng tuy chưa quen Dĩnh nhưng ông biết Dĩnh là
em ruột ông Trần Văn Hướng, con của cụ Tú Trần Văn X, và cũng như ông,
cả ba cha con đều ở trong phong trào ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để do ông
Diệm lãnh đạo. Nghe anh tôi nói rõ, tôi mới yên tâm vì trong lòng vẫn
ngại Dĩnh là nhân viên trá hình của sở Mật thám Pháp.
Mấy tuần
sau, cũng tại chân núi Ngự Bình, Dĩnh lại tìm đến gặp tôi. Lần này thì
Dĩnh cho biết thẳng là đang làm việc cho tòa Lãnh sự Nhật Bản tại Huế và
hoạt động rất an toàn vì được cơ quan Hiến binh của Nhật (lúc bấy giờ
đóng ở trường trung học Hồ Đắc Hàm cũ) bảo vệ kỹ càng. Trong lần nói
chuyện này, chúng tôi thảo luận sâu xa hơn nhưng rõ ràng là Dĩnh tìm
cách tác động tinh thần yêu nước chống Pháp của tôi mà cụ thể là theo
Nhật để đánh đổ Pháp. Theo Dĩnh thì thế nào Nhật cũng đảo chánh Pháp và
cả vua Bảo Đại, để đưa Kỳ Ngoại Hầu về nước cầm chính quyền với ông Diệm
làm Thủ tướng Chính phủ.
Vốn đã được nghe anh vợ tôi phân
tích tình hình chính trị đương thời trong chiều hướng đó với những triển
vọng thật lạc quan, lại đang ẩn ức vì cứ phải ôm những hoài bão của
mình trong lòng mà vẫn phải làm việc chung với người Pháp, nay nghe Dĩnh
phân giải và thúc đẩy hoạt động với một sách lược cụ thể trong một tổ
chức có thật, tôi rất xúc động và hứa sẽ cùng hoạt động với ông ta. Tôi
liền được Dĩnh trao cho công tác bí mật theo dõi hoạt động của những sĩ
quan Pháp trong đơn vị của tôi, theo dõi số lượng vũ khí xuất nhập kho
và tìm cách kết nạp thêm nhiều đồng chí khác.
Sau một vài lần
nữa tiếp xúc với Dĩnh, cuối cùng tôi được anh vợ tôi và ông Tráng Liệt
giới thiệu tôi vào tổ chức của ông Ngô Đình Diệm. Lúc đó là vào mùa thu
năm 1942.
Anh vợ tôi mà một số các vị Mục sư Tin Lành (hiện
sống ở Los Angeles) cũng như ông Võ Như Nguyện (hiện đang sống tại Mỹ)
đều biết là một người tính tình ngay thẳng, cương nghị và có chí lớn. Vì
nhà nghèo, nên sau khi đỗ bằng Thành Chung, ông bèn thi vào ngạch Thư
ký tòa Sứ để có phương tiện sinh sống. Vừa mới có đứa con đầu lòng (sau
này là cố Chuẩn tướng Nguyễn Bá Liên) được 15 ngày thì vợ chết, ông rất
buồn nên tìm nguồn an ủi trong giáo lý của đạo Tin Lành. Thân phụ của
ông là cụ Nguyễn Bá Dĩnh, đỗ Cử nhân và được bổ làm Tri huyện Yên Thành
tỉnh Nghệ An. Được mấy năm, chán cảnh quan trường, lại bất mãn vì triều
đình bất lực trước ngoại nhân, cụ từ quan về làng mở trường dạy học sống
cảnh an bần lạc đạo. Người con gái đầu của Cụ, tức là chị ruột của ông
Nguyễn Bá Mưu, lấy người con trai của cụ Cử Lưu Trọng Kiến ở huyện Bố
Trạch, vốn là thân phụ của hai thi sỹ Lưu Kỳ Linh và Lưu Trọng Lư, mà
người em đã đi vào lịch sử thi văn nước nhà với bốn câu thơ bất hủ [9]:
Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô...
Còn
thân phụ tôi tuy không đỗ đạt cao nhưng cũng có công dùi mài kinh sử
nên người trong huyện gọi là ông “Đầu Xứ”, còn chú tôi thì vào đến Tam
Trường mới hỏng cho nên nơi hương đẳng đình trung cũng được liệt vào
hàng những nhà Nho trọng vọng. Vì thế, cụ cử Nguyễn Bá Dĩnh và gia đình
tôi trở nên bằng hữu thân thiết trong khung cảnh của một làng quê nghèo
nàn nhưng nề nếp. Lạ gì thanh khí lẽ hằng, cụ Cử và cha chú tôi vốn là
những môn đồ Khổng Mạnh vào cái thời mà văn minh Tây phương đang công
phá những thành trì văn hóa và chính trị cuối cùng của nếp sống nho
phong, nên trở thành bạn tâm giao tri kỷ một cách dễ dàng, và cũng nhờ
đó mà hai nhà mới trở thành thông gia và tôi trở thành em rể của ông
Nguyễn Bá Mưu.
Một mặt nhờ giòng máu bất khuất của tổ tiên, mặt khác
nhờ tấm gương sĩ khí của nhạc gia và anh vợ, nhưng sâu sắc nhất là nhờ
làm việc trực tiếp với quân đội Pháp nên càng ngày tôi càng thấy rõ
chính sách hà khắc và thâm độc của người Pháp, cũng như thái độ lòn cúi
nhục nhã của quan lại An Nam. Chính những sinh họat thực tế hàng tháng,
hàng ngày, hàng tuần đó... chính những chứng kiến trong công việc, trong
đời sống đó... đã nẩy mầm và nuôi dưỡng trong tâm hồn tôi cái quyết tâm
khước từ và chống lại sự cai trị của một chính quyền ngoại nhân trên
đất nước. Vì thế khi ông Tráng Liệt và ông Trần Văn Dĩnh tổ chức tôi vào
phong trào của cụ Cường Để với mục đích tối hậu là giành lại độc lập và
chủ quyền cho quốc gia trong tay chính quyền Pháp thì tôi hăng hái nhận
lời gia nhập ngay, dù ý thức được rằng là một quân nhân, nếu bị Pháp
khám phá ra, tôi có thể mang tội tử hình như một số quân nhân khác trong
phong trào “Đầu độc Hà thành”, trong vụ “Khởi nghĩa Yên Bái”, trong vụ
“Đội Cung ở Nghệ An”...
Lúc bấy giờ, ý thức đấu tranh cách
mạng hay quan niệm một đảng đấu tranh cách mạng, đối với tôi, không phải
là nhu cầu cấp bách nhất. Quyết định của tôi chỉ được vận động bằng
tình cảm căm thù Pháp đô hộ và chỉ bằng tình cảm đó mà thôi, nên bất kỳ
một tổ chức nào, Việt Quốc, Tân Việt hay ngay cả đảng Cộng Sản, nếu đến
tuyên truyền và kết nạp, tôi cũng sẵn sàng gia nhập ngay.
Thế
rồi vào một đêm mưa phùn gần cuối năm 1942, khoảng 11 giờ khuya, ông
Tráng Liệt đến nhà tôi và rủ đi gặp ông Ngô Đình Diệm. Chúng tôi đi dọc
theo tả ngạn sông Hương hướng về phía Phú Cam và dừng lại trước ngôi nhà
cổ kính, từ đường của gia tộc Ngô Đình.
Được người vào báo,
ông Diệm ra tận bậc cấp trước cửa nhà để đón chúng tôi. Đó là lần đầu
tiên tôi gặp ông Diệm. Ông rất trẻ so với tước vị và những huyền thoại
về ông. Dù đã khuya, ông vẫn mặc áo lương, khăn đóng, giày hạ, ra mời
chúng tôi vào phòng khách chính, nơi có bộ bàn ghế mây xưa mà chú Phẩm,
người đầy tớ trung thành của ông, đã dọn ra ba chén nước chè xanh để mời
khách.
Dưới ngọn đèn mờ, trong một phòng khách cổ kính, trước
một nhân vật đã từng là Thượng thư đầu triều, đã từng cởi áo từ quan,
và bây giờ đang thay mặt Kỳ Ngoại Hầu Cường Để cầm đầu một tổ chức chống
Pháp, tôi có cảm tưởng như mình lạc vào một thế giới khác, xa lạ hẳn
với thực tế sôi động của tình hình đất nước. Sau khi mời chúng tôi dùng
nước chè xanh, ông Diệm bắt đầu hỏi về gia thế và sinh hoạt của tôi,
cũng như hỏi về đời sống và tinh thần của quân nhân Việt Nam trong mối
tương quan với quân nhân Pháp.
Có lẽ nhờ đã được ông Tráng
Liệt giới thiệu trước về hoàn cảnh và ước vọng của tôi cũng như có lẽ
nhờ có người anh vợ của tôi vốn đã là thành viên trong tổ chức, nên sau
phần mở đầu đó của câu chuyện, ông Diệm tỏ ra tin tưởng và thân tình với
tôi hơn. Vì vậy, ông bắt đầu kể chuyện đời ông như để trang trải tâm sự
hơn là để khoe khoang nhằm thuyết phục: ông nói nhiều về giai đoạn ông
làm Tri huyện rồi Tri phủ mà công tác chính là cùng với các trưởng đồn
người Pháp đi thanh sát ở làng quê, hoặc khám phá và lùng bắt những tổ
chức Cộng sản thời 1929-30 khi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bị đàn áp.
Ông cũng trình bày chuyện ông từ bỏ quan trường vì người Pháp đã không
thực tâm khai hóa nhân dân Việt Nam. Cuối cùng, ông đi vào trọng tâm của
buổi nói chuyện là khơi dậy lòng yêu nước, nung nấu chí căm thù thực
dân và tay sai như Bảo Đại và ba ông Thượng thư đồng triều mà ông thù
ghét nhất, là Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản và Hồ Đắc Khải. Ông cũng đề cập
đến cuộc đời và con đường hoạt động của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và của cụ
Phan Bội Châu để kết thúc câu chuyện đã quá dài.
Suốt buổi gặp
gỡ, ông Tráng Liệt và tôi nghe nhiều hơn nói. Riêng tôi, tuy có ý chờ
ông trình bày về tổ chức mà ông đang phụ trách nhưng vì ông không đề cập
đến nên tôi cũng chưa tiện hỏi. Đêm đã quá khuya, ông Tráng Liệt bèn
xin phép ra về. Ông Diệm tiễn chúng tôi ra tận cửa, hẹn gặp lại tuần sau
và dặn kỹ không nên vào bằng cửa chính để tránh sự theo dõi của mật
thám Pháp mà nên đi bằng cửa bí mật ở vườn sau gần đường xe lửa, lối vào
chỉ có một số đồng chí được ông cho biết mà thôi.
Trên đường
về, trong cái rét buốt của xứ Huế buổi trọng Đông, tôi cảm thấy xúc động
lạ thường vì buổi gặp gỡ đó. Buổi gặp gỡ mà tôi cho như là một xác tín
cá nhân về tư cách của một đảng viên trong một phong trào cách mạng, có
một lãnh tụ thuộc gia đình vọng tộc đã dám từ quan để đấu tranh cho quê
hương dân tộc. Trong cái tâm trạng mang mang của một người từ nay có một
tổ chức để nương dựa, có một lãnh tụ để được hướng dẫn, có một lý tưởng
để đấu tranh, tôi vẽ ra cho mình những ước mơ sáng tươi trong cái tươi
sáng chung của tương lai dân tộc.
Từ đấy, hầu như mỗi tuần lễ
tôi đều đến ngôi nhà ở Phú Cam, vốn được xem như trụ sở trung ương của
tổ chức, để sinh hoạt và thảo luận cùng ông Diệm và các đồng chí của
ông. Trong số này có hai người cốt cán là ông Hoàng Xuân Minh làm Tham
tá ở tòa Khâm sứ Huế và ông Nguyễn Tấn Quê làm thư ký cho sở Mật thám
Trung kỳ. Hai người này đặc biệt được ông Diệm trọng vọng và tin tưởng,
nhất là ông Nguyễn Tấn Quê, tuy chỉ mới đỗ Trung học nhưng là người được
ông Diệm xem như mưu sỹ chính.
Sau gần nửa năm hoạt động với
ông Diệm và các đồng chí, tôi đi đến nhận xét rằng sinh hoạt và phương
thức tổ chức của nhóm về mặt nội dung lẫn cơ cấu có vẻ là một phong trào
chính trị hơn là một đảng cách mạng chặt chẽ. Nhóm không có một hệ
thống tổ chức với các cơ cấu và chức năng rõ ràng, không có chủ thuyết
chỉ đạo cũng như không có một sách lược đấu tranh với các kế hoạch giai
đoạn nhất định. Tại các tỉnh, và đặc biệt tại Huế, bất cứ ai đồng ý
chung chung với chủ trương thân Nhật và kính phục ông Diệm thì đều có
thể gia nhập phong trào của ông. [10]
Nói tóm lại, ngay từ lúc
đó, tôi đã đánh giá được bản chất của tổ chức là một bản chất chính trị
vận dụng chứ không phải cách mạng đấu tranh như các đảng khác. Tổ chức
đó được kết tinh sau lưng uy tín của một lãnh tụ và hoạt động theo sự
biến chuyển của tình thế.
Dù nhận định như vậy, tôi vẫn quyết
định hợp tác với ông Diệm vì lý do tình cảm nhiều hơn là vì chọn lựa
chính trị có ý thức. Công tác của tôi được ông Diệm giao phó là tổ chức
một lực lượng quân nhân Khố xanh trong khắp các cơ binh thuộc xứ Trung
kỳ, bao gồm từ Thanh Hóa vào đến Phan Thiết và các tỉnh Cao Nguyên. Về
quân nhân Khố đỏ thì do Thiếu úy Phan Tử Lăng đang phục vụ trong thành
Mang Cá ở Huế phối hợp với ông Đội khố đỏ Nguyễn Vinh (mà sau này, khi
ông Diệm mới chấp chánh, là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Danh dự, tiền
thân của Liên binh Phòng vệ Tổng Thống phủ) phụ trách việc liên lạc và
thông tin các cơ sở quân sự đóng tại Huế và Phú Bài.
Đặc biệt
ông Diệm giao cho tôi thảo một kế hoạch hoạt động chi tiết để phối hợp
với quân đội Nhật Bản khi nào Nhật làm cuộc đảo chánh tấn công quân
Pháp, và một dự án dài hạn khác về việc tái tổ chức quân đội Bảo An cho
quốc gia sau khi Hoàng thân Cường Để lấy lại chính quyền trong tay người
Pháp. Hai dự án này, nhờ sự hội ý của hai ông Hoàng Xuân Minh và Nguyễn
Tấn Quê, và nhất là nhờ được sử dụng những tài liệu quốc phòng của Pháp
tại Trung tâm Huấn luyện, đã được tôi hoàn tất đúng kỳ hạn và trình cho
ông Diệm nghiên cứu. Độ hai tuần sau ông cho biết là đã đọc kỹ và đồng ý
hoàn toàn.
Nhờ uy tín và vị thế huấn luyện viên của các khóa
hạ sỹ quan, tôi thiết lập được liên lạc và tổ chức một hệ thống các tổ
gồm từ 5 đến 7 người trong suốt 20 cơ binh của miền Trung. Những học
trò, những bạn bè của tôi được tổ chức vào phong trào Cường Để do ông
Diệm lãnh đạo, nhiều người được các ông Võ Như Nguyện, Trần Văn Hướng
hay Phùng Ngọc Trưng hiện ở hải ngoại biết rõ.
Ngoài ra, lợi
dụng 15 ngày nghỉ phép thường niên của tôi, ông Diệm còn giao cho tôi
công tác đi khắp các tỉnh Trung Kỳ để liên lạc với các đồng chí có uy
tín và thực lực khác. Tôi đã từng đi Thanh Hóa liên lạc với cụ Nguyễn
Trác (là thân phụ của kỹ sư Nguyễn Luân và cũng là nhạc phụ của luật sư
Nghiêm Xuân Hồng một nhân sỹ có tinh thần cách mạng đã từ chức Tri huyện
để hoạt động) đi Hà Tĩnh liên lạc với ông Trần Văn Lý đang làm Tuần vũ
tại đây, đến Quy Nhơn gặp bác sỹ Lê Khắc Quyến, đến Phan Thiết gặp ông
Trần Tiêu, một người đồng hương đang giữ chức Kinh lịch, v.v...
Nhờ
những chuyến đi này và kinh qua những lần tiếp xúc với các vị đàn anh,
tôi được học hỏi nhiều thêm về ý thức chính trị và khả năng phân tích
tình hình. Cũng nhờ những chuyến đi này, tôi được biết không những người
trong giới quan lại ủng hộ ông Diệm, đặc biệt là cụ án sát Phan Thúc
Ngô ở Quảng Bình, mà còn có một số trí thức tân học, tuy không ở trong
phong trào, nhưng cũng có cảm tình với ông Diệm như bác sỹ Ung Vi ở Phan
Thiết hay kỹ sư Đặng Phúc Thông ở Nha Trang. (Kỹ sư Thông sau này giữ
chức Bộ trưởng Công Chánh một thời gian ngắn trong Chính phủ đầu tiên
của Việt Minh)...
Ngoài hai công tác chính này, riêng tại Thừa
Thiên, tôi cũng đã đẩy mạnh công tác kinh tài cho tổ chức bằng cách
tuyên truyền và vận động một số các thương gia giàu có tình nguyện đóng
góp cho ông Diệm. Có người đóng góp 4 đồng bạc Đông Dương mỗi tháng,
riêng có một vị lương y (là thân phụ của Trung Tá Nguyễn Mễ, hiện ở Mỹ)
tình nguyện đóng góp hết 6 đồng (mỗi đồng bạc Đông Dương vào thời đó, có
giá trị rất lớn. Một kí gạo chỉ 25 xu).
Trong suốt thời gian
này, không bao giờ tôi thấy ông Diệm rời khỏi Huế cũng không bao giờ
thấy ông xuất hiện hoạt động trong giới chính trị công khai hoặc bí mật.
Hàng ngày ông đi lễ nhà thờ và buổi chiều thường mặc áo lương đen đi
lang thang một mình dọc bở sông Phú Cam để hóng mát. Cũng trong suốt
thời gian này (cho đến năm 1948), dù thường đến nhà ông Diệm tôi cũng
không hề thấy mặt ông Ngô Đình Cẩn. Tôi gặp ông Nhu hai lần: một lần vào
năm 1943 trong dịp tang lễ của cụ Thân Thần Tôn Thất Hân (khi tôi dẫn
trung đội lính đi dàn chào lúc làm lễ động quan), và lần thứ hai, gặp cả
hai vợ chồng tại văn phòng Văn Khố tòa Khâm sứ Huế khi tôi đến thăm ông
Tráng Liệt. Ông Tráng Liệt cho biết cứ hai hay ba ngày, bà Nhu lại đến
văn phòng chồng để gặp gỡ và nói chuyện. Bà Nhu đến bằng xe kéo gọng
vàng do một người đầy tớ thân tín và lực lưỡng kéo. Xe kéo của bà Nhu là
một trong những chiếc xe sang nhất ở Cố Đô mà các cậu Ấm và cô Chiêu
trong triều đình nhà Nguyễn thường dùng để di chuyển trong thành phố.
Về
trường hợp ông Nhu, ông Diệm thường dặn dò chúng tôi: “Chú ấy theo Tây,
ham ăn sung mặc sướng, không thiết gì đến chính trị hay cách mạng đâu,
các ông chớ nên gặp gỡ hay thân thiết với chú ấy làm gì”. Lúc đầu chúng
tôi thực sự ngạc nhiên vì lời dặn dò lạ lùng đó, tự hỏi tại sao anh thì
muốn làm cách mạng mà em thì lại hủ hóa như vậy; nhưng từ từ chúng tôi
mới hiểu được rằng lời dặn dò đó là một trong những biện pháp an ninh
phát xuất từ tình cảm gia đình mà ông Diệm chỉ muốn một mình chịu trách
nhiệm và hậu quả về hoạt động thân Nhật và chống Pháp của ông, chứ không
muốn làm liên lụy cả gia đình. Hơn nữa, ông Nhu vừa mới ở Pháp về, và
cũng vừa lập gia đình với một người vợ còn son trẻ (bà Nhu sinh năm
1924) của Hà thành hoa lệ, ông ta cần có thời gian để củng cố địa vị của
một công chức Bảo hộ cao cấp và củng cố đời sống gia đình mà người vợ
vốn quá tự do tân thời, tự thấy bị tù túng mà lại còn phải ganh đua giữa
một kinh kỳ có nhiều mệnh phụ quý phái.
Cuối năm 1943, những
hệ quả chính trị và kinh tế của đệ nhị thế chiến thật sự ảnh hưởng đến
hoạt động và đời sống hàng ngày của những người như tôi. Giá sinh hoạt
leo thang vùn vụt, đồng bạc Đông Dương bị mất giá thảm hại, gạo từ 25 xu
lên đến một đồng một ký khiến lương hàng tháng 40 đồng của một quân
nhân trung cấp như tôi quả thật không đủ cho tiểu gia đình tôi đủ sống.
Vì vậy, và cũng vì không muốn vướng bận thê nhi trong hoạt động đấu
tranh của mình, tôi đã phải bùi ngùi quyết định cho vợ tôi và hai đứa
con trai nhỏ về quê sống với bên ngoại. Về quê, tuy đời sống thanh đạm
và thiếu thốn hơn, tuy có phải tảo tần cực khổ một nắng hai sương nhưng
ít ra vợ con tôi còn có một mảnh vườn để trồng rau cỏ, một hồ nước có
tôm cá, một rừng tràm có củi nứa và nhất là có bà con thân thuộc để có
thể đắp đổi sống qua ngày. Buổi biệt ly, nhìn chiếc xe đò cũ kỹ chập
chùng đưa vợ con về cố quận thân thương, người cán bộ 26 tuổi đời như
tôi không khỏi có một chút xao xuyến xót xa. Được biết quyết định đó của
tôi, ông Diệm hân hoan lắm và khen tôi làm cách mạng thì phải biết hy
sinh cá nhân, phải biết thoát ly gia đình để có nhiều thì giờ và năng
lực cống hiến cho đại cuộc.
Đại cuộc đó, hay nói đúng ra là
những vận động chính trị của nhóm ông Diệm trong khuôn khổ cuộc tranh
chấp ảnh hưởng giữa Nhật và Pháp tại Việt Nam, vẫn tiếp tục thăng trầm
theo nhịp độ thắng hay bại của phía người Nhật. Quân đội Nhật Bản, chiến
thắng oanh liệt trong những năm đầu của thế chiến, từ cuối năm 1943 trở
đi, đã trở về thế phòng ngự thụ động. Và tại các mặt trận lớn ở Ấn Độ,
Miến Điện, Nam Dương... quân Nhật hứng chịu những thất bại quân sự nặng
nề đến nỗi phải rút lui ra khỏi những quốc gia bị chiếm đóng... Đầu xuân
năm 1944, chuyện phải đến đã đến, mật thám Pháp và Thượng thư Phạm
Quỳnh tổ chức vây bắt ông Diệm mà nếu không nhờ Hiến binh Nhật, với khả
năng tình báo của sở gián điệp Kempeitai, kịp thời can thiệp để cứu
thoát trong đường tơ kẽ tóc thì có lẽ sinh mạng và chính tổ chức của ông
Diệm đã không còn.
Nguyên tổ chức có một đồng chí tên là
Khang làm thư ký ở sở Bưu điện Huế, đêm đó trực ở phòng điện tín đến
khuya mà vẫn còn thấy viên trưởng sở bưu điện người Pháp ở lại đích thân
thảo và đánh điện tín, ông bèn tìm cách lén đọc được một số công điện
mà trong đó có công điện mang nội dung về việc bắt ông Diệm. Ông liền
thông báo cho một anh em có liên hệ đến bên tình báo của Nhật biết tin
này. (Cũng có thể có nhiều đường giây khác nữa mà tôi không được biết).
Khoảng
gần 11 giờ đêm thì ba người Hiến binh Nhật Bản đến nhà ông Diệm ở Phú
Cam và độ nửa giờ sau thì họ ra về trước cặp mặt xoi mói của nhân viên
mật thám Pháp đang canh chừng nhà ông Diệm. Mãi đến quá nửa đêm, các
nhân viên mật thám Pháp mới bố trí xông vào nhà bắt ông Diệm nhưng họ
chỉ gặp được bà cụ thân mẫu của ông, người đầy tớ tên Phẩm và một người
hiến binh Nhật Bản... Thì ra ông Diệm, vốn người thấp lùn, nên đã giả
trang mặc quân phục Hiến binh trốn theo cùng với hai người hiến binh
Nhật kia ra đi từ lâu, làm mất công viên chánh sở mật thám Đông Dương là
Pierre Arnoux từ Hà Nội vào đích thân điều khiển công tác vây bắt nhân
vật thân Nhật Bản quan trọng nhất tại Trung Kỳ. Nhóm mật thám Pháp dọa
dẫm bà cụ thân mẫu ông Diệm, tra tấn anh Phẩm một hồi rồi hậm hực ra về.
Hiến
binh Nhật đưa ông Diệm về tạm trú tại tòa Lãnh sự Nhật của ông Ishida
[11] vài tiếng đồng hồ rồi chở ông đến thẳng trụ sở Hiến binh tại trường
Hồ Đắc Hàm cũ để được an toàn hơn và để tránh những va chạm ngoại giao
có thể có với người Pháp. Cụ Thái Văn Châu (nguyên Phó chủ tịch Phòng
Thương mại Sài Gòn và hiện tị nạn tại Pháp), lúc bấy giờ là một thương
gia có khuynh hướng thân Nhật và đang được đấu thầu cung cấp thực phẩm
cho quân đội Nhật, biết tin nên vội vàng vào thăm và mang một ít đòn chả
Huế cho ông Diệm dùng chung với khẩu phần đạm bạc tại sở Hiến binh
Nhật. Theo lời cụ thì ông Diệm có vẻ suy tư và nỗi lo âu lộ hẳn ra mặt.
Được
vài ngày, người Nhật liền hộ tống ông Diệm bằng ô tô nhà binh vào Đà
Nẵng và từ đó chở ông bằng phi cơ quân sự vào Sài Gòn. Ban đầu họ để ông
tạm trú tại trụ sở trung ương của sở Hiến binh Nhật, sau đó họ di
chuyển ông đến văn phòng chính của Đại Nam Công ty, vốn là bề mặt ngụy
trang của Bộ chỉ huy trung ương của ông Matsuisita, trùm gián điệp của
Nhật tại Đông Dương. Thời ông Diệm làm Tổng thống, ông Matsuisita trở
lại miền Nam Việt Nam làm ăn buôn bán và đã giúp ông Diệm rất đắc lực
trong quan hệ ngoại thương giữa VNCH và Nhật Bản. Sau ngày chế độ ông
Diệm bị toàn dân lật đổ, ông Matsuisita bị Hội Đồng Tướng Lãnh làm khó
dễ trong vấn đề tài sản và các thương vụ của ông tại Sài Gòn, nhưng vì
nghĩ tình xưa giữa ông Diệm và ông ta, tôi đã tìm cách can thiệp và giúp
đỡ.
Sau ngày ông Diệm bị bắt hụt và được Nhật che chở mang đi
mất vào Sài Gòn, viên chánh sở mật thám Trung Kỳ Perroche, vốn cụt một
tay và nổi tiếng tàn ác, bắt đầu nghi ngờ có nhân viên chìm của ông Diệm
trong sở mật thám Huế, bèn yêu cầu với trung ương cho biệt phái ông
Lombert, viên chánh sở mật thám Vinh vốn thông thạo về tình hình đảng
phái và nhân sự Việt Nam, vào Huế và thành lập một ủy ban đặc nhiệm phụ
trách điều tra “vụ án Ngô Đình Diệm”. Ông Hoàng Đồng Tiếu, (hiện ngụ tại
Portland, tiểu bang Oregon), lúc bấy giờ còn đang có cảm tình với cá
nhân ông Diệm và đang làm phán sứ tại sở mật thám Huế, tuy có thông báo
sự kiện này cho một số người trong tổ chức ông Diệm biết, nhưng cũng
không tránh khỏi tình trạng một số chiến hữu lần lượt bị sa lưới mật
thám Pháp.
Trước hết là cụ Án Sát Phan Thúc Ngô bị lột chức và
bắt giải vào giam ở Huế, rồi đến ông Tuần vũ Hà Tĩnh Trần Văn Lý suýt
bị bắt nhưng nhờ có bà vợ là bà con gần với Nam Phương Hoàng Hậu nên chỉ
bị hạ tầng công tác, thuyên chuyển vào Phú Yên và vĩnh viễn không được
đề nghị thăng thưởng. Ông Võ Như Nguyện và ông Lương Duy Uỷ (sau này làm
tỉnh trưởng Phú Yên và Vĩnh Bình dưới thời ông Diệm), hai đồng chí thân
thiết nhất với tôi lúc bấy giờ, cũng bị bắt đày lên Dakto. Ngoài ra,
một số các đồng chí khác tại Huế và các tỉnh Trung Kỳ, người thì vào
vòng lao lý, người thì bị truy lùng.
Về phía quân nhân bên Khố
đỏ chỉ có mấy người Đội cao cấp bị bắt giữ, còn bên Khố xanh, từ Thanh
Hóa vào đến Phan Thiết, bị mật thám Pháp bắt giữ rất nhiều. Có người bị
tra tấn đến gẫy cả hai hàm răng và xương quai hàm như anh đội Lộc ở Phú
Bài, có người bị đánh què chân như anh đội Xự ở Quảng Trị. Đa số các hạ
sĩ quan Khố xanh bị bắt và giam tại các nhà lao Bái Thượng ở Thanh Hóa,
nhà lao Lao Bảo ở Quảng Trị hoặc tại các nhà lao khác ở Cao nguyên Trung
phần. Riêng phần tôi, vì là người lãnh đạo toàn bộ nhóm quân nhân Khố
xanh nên bị bắt giam và tra tấn tàn bạo ở sở mật thám Huế và tống giam ở
lao Thừa phủ gần hai tháng, trước khi bị đày lên Di Linh để biệt giam
trong một nhà lao do lính Thượng canh giữ.
Đầu năm 1945, quân
đội Nhật Bản bị phản công và bị dồn vào thế tuyệt vọng tại các mặt trận
Trung Hoa cũng như trên các tuyến phòng vệ Đông Nam Á. Trong khi đó,
trên chiến trường Âu Châu, sau cuộc đổ bộ ngày 6/6/1944 tại bờ biển
Normandie của quân lực Đồng Minh, tướng De Gaulle dẫn toàn bộ Chính phủ
lâm thời từ Alger trở về Pháp nắm chính quyền vào tháng 8 cùng năm đó.
Trên
mặt trận Thái Bình Dương, tướng Mac Arthur đã chiếm xong Phi Luật Tân
và đang tung quân tấn chiếm các quần đảo phòng vệ chiến lược của xứ Phù
Tang, yểm trợ cho một kế hoạch tái chiếm Đông Dương của liên quân
Anh-Pháp. Trước nguy cơ có thể bị nội công ngoại kích đó, quân đội Nhật
Bản tại Việt Nam bèn đảo chánh chính quyền Pháp vào đêm 9/3/1945, bắt
toàn quyền Decoux và thiết lập nhiều trại tập trung để giam giữ công
chức và quân nhân Pháp tại nhiều địa điểm trên toàn lãnh thổ Đông Dương.
Tại Bắc Kỳ, một số đơn vị Pháp chống lại cuộc đảo chánh này đều bị đàn
áp, kẻ thì bị bắt, kẻ thì trốn qua Tàu.
Thế là sau gần 100 năm
đô hộ Việt Nam, tiến hành một chính sách thực dân tàn ác để khai thác
tối đa tài nguyên và nhân lực của nước ta, tiến hành một chính sách xâm
lược văn hóa xảo quyệt để phá nát truyền thống của dân ta, tiến hành một
chính sách cai trị dựa trên bạo lực và phân hóa, chỉ cần một đêm và một
đêm thôi, toàn thể bộ máy thống trị của Pháp hoàn toàn bị sụp đổ. Huyền
thoại về “nhiệm vụ khai hóa” đầy nhân đạo của các quan toàn quyền và
các vị cố đạo theo lá cờ Tam tài rơi rũ xuống đất.
Biến cố
lịch sử đêm mồng 9/3/1945, và nhất là hai ngày sau đó, khi vua Bảo Đại
tuyên bố “Việt Nam độc lập” trong khối “Thịnh vượng chung Đại Đông Á”,
dù không phải là kết quả của một cuộc đấu tranh thực sự do người Việt
chủ xướng, dù sau đó sẽ đưa Việt Nam đến một chân trời đầy lọc lừa và
cạm bẫy, đầy máu và nước mắt, đầy đau đớn và tủi nhục, nhưng ngày đó, tự
nó, có một ý nghĩa lịch sử lớn như một trở mình của lịch sử, có tác
dụng mạnh trong sự thức tỉnh sảng khoái của nhân dân cả nước sau 100 năm
dài chìm đắm trong giấc mộng bị trị hãi hùng.
Tôi xin trích
lại ở đây một đoạn hồi ký của một nhân chứng đã sống trong ngày đó và đã
bộc bạch một cách thành thật tâm sự của mình trước, sau và trong ngày
đó. Chứng nhân này là ông Lý Chánh Trung, một tri thức Công giáo, từ sau
1975 đã ở lại Việt Nam làm việc cho chính quyền Hà Nội. Hồi ký đó được
trích từ tác phẩm “Tìm về Dân tộc”, xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1967.
Tôi cũng cần phải nói rằng với tư cách một người đã chống lý thuyết và
chế độ Cộng sản từ 30 năm nay bằng chính máu xương của mình, với tư cách
là người đã từng cầm đầu một bộ phận về an ninh đối đầu với người Cộng
Sản, với tư cách là chiến hữu, đồng chí, bạn bè của những nhân vật Việt
Nam đã từng là nguyên thủ của hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa, ở vào
thời điểm nầy, trong buổi hoàng hôn của cuộc đời nơi xứ lạ quê người,
khi đọc hai tác phẩm “Tìm về Dân tộc” và “Tôn giáo và Dân tộc” của Lý
Chánh Trung, tôi vẫn không giám quả quyết ông Trung có thật tâm theo
cộng sản hay không? Cũng như tôi vẫn không giám quả quyết là những người
như ông Trung, suốt chiều dài của cuộc chiến 30 năm Quốc-Cộng, dù đứng
bên này hay bên kia chiến tuyến, có thật sự là đã có tự do và sáng suốt
để lựa chọn hay không? Hay tất cả chỉ muốn thể hiện lòng yêu nước của
mình nhưng lại bị xảo quyệt vận dụng bởi những ngôn từ, những ảnh tượng,
những thủ đoạn của các thế lực oan nghiệt khác.
Đoạn hồi ký
của ông Lý Chánh Trung, dù được viết lại hơn 20 năm sau, vẫn nói lên
được rất rõ ràng sức chấn động lạ lùng của biến cố đêm 9/3/1945:
Từ trường Taberd Sài Gòn ra Huế, tôi được học ở trường Providence, thọ giáo với các linh mục của hội Mission Etrangère.
Nói
đến xứ Trung Kỳ, nghe xa lạ làm sao. Từ nhỏ chí lớn, tôi chỉ biết có cờ
Tam sắc, bây giờ ra Huế mới hay rằng xứ An Nam còn có một lá cờ, lá cờ
vàng sọc đỏ (thuở đó mới có một sọc thôi...)
Nhưng lá cờ đó
không gây cho tôi một sự hãnh diện nào mà trái lại: Tất cả những vật đó
có vẻ mốc meo, mục nát, lỗi thời, không còn một chút gì liên hệ với tôi.
Tôi
còn nhớ buổi chào cờ trọng thể đầu niên học tại trường Providence, tòa
Khâm sứ và Chính phủ Nam triều đều cử đại diện đến tham dự. Bên người
Pháp là hai ông sĩ quan trẻ tuổi hùng dũng trong bộ quân phục trắng
tinh. Bên người Việt có hai cụ sồn sồn bụng phệ, khăn đóng áo rộng thùng
thình lẹp xẹp đôi dép hàm ếch, lại còn phe phẩy cái quạt đồi mồi ngay
trong lễ thượng cờ. Chúa ơi! Trông mới chán đời làm sao!
Trường
Providence tân tiến hơn trường Taberd, có một nền giáo dục hoàn bị, cởi
mở hơn trường Taberd. Các Cha gần gũi học sinh hơn các sư huynh. Nơi
đây tôi đã hấp thụ những kiến thức vững chắc để có thể hiểu biết nền văn
hóa Tây phương là nền văn hóa quân bình, nhân bản và sâu sắc. Tôi cũng
đã thấm nhuần nền đạo lý Kitô giáo để cảm thấy cái đòi hỏi (ít ra cũng
được như thế) hướng cuộc đời mình về một cái gì tốt.
Nền giáo
dục này hội điều kiện cho tôi “thành người”. Chỉ tiếc một điều là “con
người đào tạo nơi đây không phải là con người Việt Nam”! Quê hương vắng
bóng ngay giữa lòng quê hương!
Trong mấy năm trường, chúng tôi
đã sống bên ngoài dân tộc, bên lề lịch sử. Cho nên đêm mồng 9/3/1945,
khi tiếng súng của quân đội Nhật hoàng đì đùng báo hiệu sự cáo chung của
nền đô hộ Pháp, chúng tôi chẳng hiểu mô tê gì.
Vài ngày sau,
học sinh trường Khải Định, Đồng Khánh biểu tình mừng độc lập: Việt Nam
Độc Lập! “Việt Nam” đã lạ tai rồi, “Độc Lập” nghe còn quái đản hơn.
Ngày
biểu tình, chúng tôi tò mò đi xem, nhìn thiên hạ vác biểu ngữ reo hò
“Việt Nam! Việt Nam!” mà chẳng thấy vui mừng chi, chỉ nghe ấm ức và bực
bội và cảm thấy mình bơ vơ, lạc loài giữa đám đông. Tôi còn nhớ một đứa
trong bọn tôi đã nói lớn “Độc lập là cái cóc gì?” Câu hỏi xấc xược, ngô
nghê này diễn đạt cái tâm trạng chung của chúng tôi lúc ấy. Quả tình
chúng tôi không hiểu...[12]
Hai mươi năm sau, câu hỏi Độc lập
là cái cóc gì? mới nổ lớn thành câu trả lời rực lửa trong lòng Lý Chánh
Trung để ông “Tìm về với Dân Tộc”, để khỏi vắng bóng giữa lòng quê
hương... Là một tín đồ Công giáo La Mã mộ đạo, là một tri thức xuất thân
từ các trường Dòng mà nội dung giáo dục thiên Tây phương, ông Trung đã
phải lục ký ức tìm về một ngày lịch sử xa xưa để tỉnh thức tìm về dân
tộc nhưng cuối cùng lại phục vụ cho Cộng sản. Nguyên ủy nào đã đưa đẩy
thân phận của một trí thức Công giáo trôi giạt vào thảm cảnh của một
người Việt Nam thấy lạc loài ngay chính trên quê hương mình để cuối cùng
phải bám víu vào những ảo ảnh của một lý thuyết phi dân tộc hầu thỏa
mãn những khát khao muốn có một chỗ đứng trên đất Mẹ ở giữa lòng quê
hương?!
Sau đêm mồng 9 tháng 3, sau cơn bàng hoàng chính trị
chung của cả nước, mọi người, và đặc biệt tại Trung Kỳ, đều dự đoán là
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để sẽ nắm được cơ hội mà về nước lên ngôi Vua để trao
cho ông Diệm chức Thủ tướng, thành lập nội các để điều khiển quốc gia.
Không ngờ chỉ hai ngày sau, ngày 11/3/1945, vua Bảo Đại vẫn tại vị và
tuyên bố Việt Nam độc lập trong khối Đại Đông Á, hủy bỏ mọi hiệp ước bảo
hộ đã ký kết với Pháp từ trước và mời học giả Trần Trọng Kim thành lập
Chính phủ. Chính phủ này được thành lập và ra mắt đồng bào vào ngày
17/4/1945 mà Kỳ Ngoại Hầu Cường Để vẫn ở Nhật và ông Diệm vẫn cô đơn nằm
tại Sài Gòn một cách im lặng lạ lùng.
Sau này, ông Bảo Đại
cho biết người Nhật đã dứt khoát không tiếp tục ủng hộ ông Diệm nữa
[13], và cụ Trần Trọng Kim trong hồi ký “Một cơn gió bụi” cũng kể lại
rằng trong cuộc gặp gỡ giữa cụ và ông Diệm tại Bộ tư lệnh Nhật Bản tại
Sài Gòn, ông Diệm cho cụ biết người Nhật đã không cho ông Diệm biết gì
cả, ngay cả bức điện tín của vua Bảo Đại gởi mời ông Diệm về Huế cũng bị
dấu kín.[14]
Những sử liệu và những dự kiện thực tế này cho
ta thấy Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và ông Diệm, dù trước đó đã thật tâm ủng
hộ người Nhật, cuối cùng đã thực sự bị người Nhật bỏ rơi vì uy tín và
sức mạnh chính trị của họ (dù dưới mắt người Nhật chỉ là vị trí và sức
mạnh của một lá bài chính trị bản xứ cho một nhu cầu ổn định giai đoạn)
không còn phù hợp với nhu cầu mới của chính sách của Nhật tại Đông
Dương. Và điều này cũng cải chính luôn luận điệu của một số tài liệu do
bộ máy tuyên truyền của chế độ ông Diệm vào những năm ông mới chấp
chánh, cũng như những tài liệu do những “sử gia” hoài Ngô sau 1963, cố
tình cho rằng “ông Diệm không bao giờ chịu hợp tác và nương dựa vào
người Nhật”.[15]
Trường hợp ông Diệm bị Nhật Bản bỏ rơi và
phản bội sau gần bốn năm hợp tác chân thành với Nhật chỉ là sự lập lại
của một quy luật chính trị cổ điển và sơ đẳng trong các tương quan quốc
tế, nhất là tương quan giữa một trong nhiều thế lực chính trị của một
nước nhược tiểu với một cường quốc như Nhật Bản. Thật vậy, Nhật Bản phản
bội ba lần cùng một tổ chức Việt Nam (trực tiếp hay gián tiếp do Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để lãnh đạo):
- Năm 1909, trục xuất Kỳ Ngoại Hầu và cụ Phan Bội Châu sau khi họ ký hiệp ước thân hữu với Pháp.
-
Năm 1940, bắt giam và trao lại cho Pháp lực lượng Phục quốc quân của
chí sĩ Trần Trung Lập, Trần Huy Thanh và Hoàng Lương sau trận Lạng Sơn.
-
Năm 1945, bỏ rơi cụ Cường Để và ông Diệm để thừa nhận vua Bảo Đại với
Chính phủ Trần Trọng Kim, sau biến cố 9 tháng 3 năm 1945 đảo chánh quân
Pháp.
Quả thật ông Diệm và những mưu sĩ trong bộ tham mưu của ông đã không học được hai bài học trước.
Sau
thất bại chính trị nói trên, ông Ngô Đình Diệm buồn rầu chán nản vô
cùng, nhất là khi Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời, hầu như ông không còn
nghị lực để tiếp tục cuộc đấu tranh nữa. Mang tâm trạng của người thất
thế, ông lui về sống cô đơn không tiếp xúc với ai nữa tại nhà người em
là Ngô Đình Luyện ở Chợ Lớn, hoặc thỉnh thoảng xuống thăm người anh là
giám mục Ngô Đình Thục ở Vĩnh Long. Gia đình và tình anh em luôn luôn là
pháo đài kiên cố làm nơi nương dựa cho ông trong hoạn nạn cũng như
trong đắc thắng.
Trong lúc đó thì tại Huế, vì vấn đề liên lạc
cách trở, thông tin chậm chạp, người anh trưởng là ông Ngô Đình Khôi vẫn
không nắm vững tình hình để thấ
VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi
Tác giả: Hoành Linh Đỗ Mậu
Chương 3: THĂNG TRẦM TRONG- CUỘC CHIẾN VIỆT PHÁP
Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng sau khi hứng chịu
hai quả bom nguyên tử tiêu huỷ hoàn toàn hai thành phố Hirosima và
Nagasaki. Ngày 18, tại Đông Dương, Bộ chỉ huy Nhật Bản trao quyền lại
cho chính phủ Việt Minh và ngày 23 vua Bảo Đại thoái vị. Chủ tịch Hồ Chí
Minh thành lập chính phủ lâm thời tại Hà Nội vào ngày 19 tháng 8, mời
công dân Vĩnh Thụy làm cố vấn Tối Cao để ngày 2 tháng 9 năm 1945, tuyên
bố Việt Nam độc lập. Quân đội Anh, dưới quyền của tướng Douglas Gracey,
đổ bộ lên Sài Gòn ngày 13 tháng 9 để giải giới quân đội Nhật và sau đó
trao quyền lại cho quân đội Pháp.
Chỉ trong vòng một tháng
ngắn ngủi đó, bao nhiêu biến cố trọng đại đã dồn dập xảy ra trên chiến
trường và chính trường Việt Nam, đưa vận mệnh đất nước vào một khúc
quanh nghiệt ngã mới. Trong khi đó, tại Đà Lạt, sau khi ông Diệm đi được
mấy hôm, và tôi chỉ mới bắt đầu nhậm chức Tư lệnh Bảo an của bốn tỉnh
cực Nam Trung phần, thì các đoàn thể thanh niên tại thị xã họp đại hội
và bầu tôi làm Thủ Lãnh Thanh Niên Tiền Phong Đà Lạt (Thanh niên Phan
Anh) dù lúc đó Việt Minh đã bắt đầu trải người hoạt động mạnh. Cờ đỏ sao
vàng và truyền đơn kêu gọi nổi dậy chống Nhật và Pháp rải đầy thành
phố, một vài vụ bạo động và nguồn tin sẽ có đình công bãi thị càng làm
cho không khí thị xã thêm căng thẳng.
Đầu tuần lễ thứ nhì của
tháng chín, Việt Minh cướp chính quyền tại Đà Lạt bằng một cuộc biểu
tình rầm rộ, vây dinh Tổng đốc bắt ông Trần Văn Lý giải về Huế, còn tôi
thì họ giữ lại tại địa phương để điều tra bổ túc. Vừa thoát khỏi ngục
Pháp được mấy tháng tôi lại bước vào cửa ngục Việt Minh.
Trong các lần thẩm vấn, tôi quyết định khai hết sự thật vì nghĩ rằng
"vàng thật sợ gì lửa đỏ", tôi là người thật tâm yêu nước, nếu có làm
việc trong hệ thống quân đội của Pháp thì chẳng qua cũng là vì thời thế
bắt buộc, nếu có ở trong hệ thống hành chính của Nhật thì chẳng qua cũng
là vì hoàn cảnh, miễn rằng tâm và chí của mình không thân Tây vọng
Nhật. Duy có việc tham gia một phong trào chống Pháp thì tôi cố càng dấu
tổ chức của mình càng nhiều càng tốt, nhất là danh tánh các đồng chí.
Lúc bấy giờ, tôi chưa biết Mặt Trận Việt Minh do đảng Cộng Sản chỉ đạo
và điều động mà chỉ biết họ như một tổ chức cách mạng lớn, cướp chánh
quyền để đánh đổ chế độ phong kiến, chống thực dân Pháp và phát xít Nhật
cho độc lập, tự do, hạnh phúc của toàn dân Việt Nam. Cho nên ở một mặt
nào đó, tuy bị giam cầm và tù ngục, tôi vẫn yên tâm và còn có ý trông
chờ ngày được họ phóng thích để trở về Huế. Quả nhiên, chỉ hơn một tuần
lễ sau, tôi được mời lên một văn phòng trông đàng hoàng hơn phòng lấy
khẩu cung thường lệ, và cho biết vì hồ sơ cá nhân của tôi sạch sẽ, tứ
thân phụ mẫu đều thuộc giai cấp nho sĩ vô sản, và hồ sơ binh sách của
tôi bị phê là có hoạt động chống Pháp nên tôi được họ thả với lời "yêu
cầu" ở lại Đà Lạt hợp tác với chính quyền cách mạng địa phương.
Tin tức Sài Gòn đưa về cho biết tình hình rất sôi động vì quân Pháp,
sau khi được quân đội Anh trao lại quyền quản trị, đã cấp tốc thiết lập
các đơn vị tác chiến để tái lập trật tự tại Sài Gòn và mở rộng vùng ảnh
hưởng ra toàn bộ Nam kỳ. Chính quyền Việt Minh tại Đà Lạt vội tổ chức
khẩn cấp hai tiểu đoàn Vệ Quốc Quân. Một tiểu đoàn được giao cho Nguyễn
Lương, người Quảng Ngãi, nguyên là thư ký toà Sứ Đà Lạt nhưng có lẽ đã
tham gia Việt Minh từ trước, chỉ huy ; và tiểu đoàn thứ hai được giao
cho tôi điều khiển. Trong tiểu đoàn thứ nhất này còn có ông Tôn Thất
Đính làm uỷ viên chính trị trung đội và ông Phạm Đăng Tải (ông Tải sau
làm ở Bộ Ngoại giao thời Đệ Nhất Cộng Hoà và hiện sống ở Monterey, Hoa
Kỳ).
Vì quân Pháp đang âm mưu tiến về miền Trung và đánh
chiếm các tỉnh Cao Nguyên Trung phần nên ông Võ Nguyên Giáp, lúc bấy giờ
là Bộ trưởng Nội vụ trong chính phủ Hồ Chí Minh, vội cầm đầu một phái
đoàn quân chính lên Đà Lạt để tham quan tình hình và cho những chỉ thị
cần thiết[1]. Chúng tôi được lệnh dàn quân chung quanh trụ sở Uỷ Ban
Hành Chính Tỉnh và gia nhập phái đoàn đón tiếp ông Võ Nguyên Giáp. Khi
ông Giáp đến, trong phái đoàn tuỳ tùng, tôi thấy có cả Thiếu uý Phan Tử
Lăng (vốn là Tổng chỉ huy Bảo an Trung kỳ và là một đồng chí trong tổ
chức ông Diệm) bấy giờ là đại diện cho Uỷ Ban Quân Sự Trung Bộ của Việt
Minh tại Huế. Thấy Lăng, tôi bàng hoàng, nhưng cũng gọi tên và giơ nắm
tay lên cao để chào, nhưng Lăng chỉ mỉm cười kín đáo rồi trả lời vừa đủ
để tôi nghe: "Việc cũ bỏ hết, đừng nhắc lại nữa".
Tuy đã có
lần nghe ông Diệm kể chuyện ông Giáp đến thăm ngôi nhà ở Phú Cam và tuy
đã được nghe tiếng tăm của ông Giáp từ lâu, nhưng đây là lần đầu tiên
tôi trực tiếp gặp ông ta. Tôi không ngờ ông ta còn quá trẻ và phong cách
thì như một bạch diện thư sinh chưa từng dãi nắng dầm sương. Mặc dù lúc
bấy giờ tôi không đồng quan điểm với Việt Minh nhưng vẫn chưa có gì để
chống đối thù nghịch nên trong thâm tâm tôi thoáng có một chút cảm phục
và tự hào về nhân vật đồng hương trẻ tuổi nhưng tài cao chí lớn nầy.
Ông Giáp làm Bộ trưởng Nội vụ năm 32 tuổi trong một chính phủ độc lập
của một quốc gia thống nhất từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu, trong khi
người đồng hương của ông ta là ông Diệm, cũng năm 32 tuổi, làm Thường
thư Bộ Lại cho một triều đình phong kiến bù nhìn của một xứ Bảo hộ Trung
kỳ. So sánh đó tuy có thoáng qua rất nhanh trong óc tôi, nhưng trong
buổi gặp gỡ ông Giáp tại trụ sở Ủy Ban Hành Chánh Đà Lạt, hình bóng của
ông Diệm với bao kỷ niệm cũ vẫn có đủ sức mạnh đánh đổ cái hấp lực hào
hùng của ông Giáp.
Ông Võ Nguyên Giáp sinh năm 1912, quê làng
An Xá, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình, cách làng Đại Phong của ông Diệm
chỉ có hai con hói. Học trường tiểu học Lệ Thuỷ rồi vào Huế học trung
học ở trường Khải Định, ông Giáp nổi tiếng thông minh và thuộc lòng sử
Pháp lẫn sử Việt. Ông thuộc từng chi tiết về cuộc đời, sự nghiệp và
những trận đánh của Nã Phá Luân. Tại trường Khải Định, mặc dù là học
sinh trung học Đệ nhất cấp mà ông vẫn được giáo sư Sử-Địa Pháp mời
thuyết trình sử Pháp cho hầu hết giáo sư và học sinh toàn trường nghe.
Ông được chú ý sớm nhờ tính tình văn nghệ và nhờ mang tư tưởng cách mạng
của chí sĩ Phan Bội Châu. Mới 14 tuổi, ông đã gia nhập "Tân Việt Cách
Mạng Đảng", tham dự phong trào bãi khoá để tang cho chí sĩ Phan Chu
Trinh. Năm 1930, nhân những vụ nổi loạn ở Nghệ An, ông bị mật thám Pháp ở
Trung kỳ bắt giam vào lao Thừa Phủ, Huế. Sau mấy tháng ở trong tù, nhờ
lời khai thú tội nên được Giám đốc Sở Chính trị Phủ Toàn quyền là Marty
can thiệp trả tự do. Ông Giáp được Marty nâng đỡ giúp cho vào trường
trung học Pháp Albert Sarraut ở Hà Nội. (Theo tôi thì việc đầu hàng Sở
Chính trị của thực dân chỉ là sự đầu hàng giả trá, sự đầu hàng đã được
đảng Cộng Sản Đông Dương cho phép và tổ chức, vì lúc bấy giờ ông Giáp đã
trú ngụ từ lâu tại nhà giáo sư Đặng Thai Mai, một đảng viên Cộng Sản).
Trong lúc còn là học sinh, ông Giáp đã cộng tác với ông Phạm Văn Đồng
trên tờ báo Pháp ngữ "Le Peuple'. Tiếp tục lên đại học, ông thi đỗ cử
nhân Luật khoa năm 1937. Điều buồn cười là trong kỳ thi cử nhân luật đó,
ông Giáp hoàn toàn hỏng môn Quốc Tế Công Pháp nhưng nhờ môn kinh tế
chính trị được 18 điểm trên 20, nên mới khỏi bị đánh rớt. Đỗ cử nhân
xong, ông dạy ở trường Thăng Long, vốn là một môi trường tốt để truyền
bá chủ nghĩa Mác-Xít trong đám bạn bè và sinh viên. Năm 1945, sau khi
cướp được chính quyền, công an dưới quyền ông Giáp đã sát hại chính vị
hiệu trưởng trường Thăng Long là giáo sư Tôn Thất Bình và bắt cha vợ của
ông Bình là Thượng thư Phạm Quỳnh đem đi thủ tiêu.
Chiến
tranh thế giới bùng nổ, ông Giáp thoát ly gia đình, để vợ sống một mình ở
Vinh, rồi lui vào bóng tối hoạt động bí mật. Người vợ cũng là một chiến
sĩ cách mạng bị bắt năm 1941, bị kết án chung thân khổ sai và chết
trong lao tù, sau đó người em gái vợ cũng bị tra tấn và chết tại khám
lớn Sài Gòn. Thảm cảnh gia đình càng làm cho ông ta thêm thù hận người
Pháp, ông bèn trốn qua Tàu và nghe nói có theo học một lớp quân sự tại
Diên An. Tại Trung Hoa, ông Giáp gặp các ông Hồ Chí Minh và Phạm Văn
Đồng để từ đó trở lên một trong những nhân vật tối quan trọng của đảng
Cộng Sản Đông Dương.
Năm 1944, ông Giáp tổ chức dân thiểu số
vùng Việt Bắc vào các đội du kích quân, và kết nạp được ông Chu Văn Tấn
thuộc dân thiểu số, và tuy là một Cai Lính dõng, nhưng ông Tấn đã trở
thành một trong những tướng lãnh giỏi của Cọng sản sau nầy. Ông Giáp là
cha đẻ của Chiến tranh Du kích và của Quân đội Nhân dân tại Việt Nam.
Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, ông Giáp được coi như nhân vật trọng
yếu thứ nhì của Việt Minh, sau ông Hồ Chí Minh. Theo Bernard Fall thì
từ khi chiến tranh Pháp-Việt mở màn cho đến ngày Cộng Sản toàn thắng,
với tư cách là Tổng tư lệnh quân đội Việt Minh, ông Giáp chỉ phạm lỗi
lầm chiến lược có một lần trong trận tấn công Vĩnh Phúc Yên, Đông Triều
và Ninh Bình (để bị tướng De Lattre de Tassigny đánh bại), vì tuy rất
thông minh nhưng vẫn là người tự học một mình và vì ông ta chủ quan sau
chiến thắng Cao Bằng, đường số 4. Từ đó về sau, ông Giáp luôn luôn chiến
thắng. Trong suốt bốn năm đầu của cuộc chiến tranh Pháp-Việt, ông để
cho du kích địa phương cầm chân tiêu hao lực lượng viễn chinh Pháp, mà
chỉ nỗ lực tổ chức và huấn luyện quân chính quy tại vùng núi rừng Việt
Bắc và tại phía Nam Trung Hoa.[2]
Thân phụ của ông Võ Nguyên
Giáp là ông Võ Nghiễm, nguyên là một thư ký của ty Hành Chánh tỉnh Quảng
Bình thời phong kiến, được hàm Cửu phẩm văn giai cho nên thường được
gọi là ông Cửu Nghiễm. Gia đình ông Cửu Nghiễm là gia đình tiểu tư sản,
có ruộng cho thuê và có tiền cho vay. Người con gái đầu lòng của ông Cửu
Nghiễm lấy chồng là một quản lính Khố đỏ và sống ở thôn quê. Hai người
con trai của ông Cửu Nghiễm là Võ Nguyên Giáp và Võ Thuần Nho, ngược
lại, đều theo Việt Minh và đều là những nhân vật sắt máu. Ông Võ Thuần
Nho giữ chức Uỷ Viên Tư Pháp tỉnh Quảng Bình, khi Việt Minh cướp chính
quyền năm 1945 đã xử tử nhiều người. Trước nhà ông Võ Nghiễm có một bức
bình phong kết bằng những cây chè cắt hình một con cọp, mỗi lần gió
thổi, cọp chè lay động theo bóng đêm làm nhiều người đi qua trông thấy
phải giật mình. Năm 1947, khi quân Pháp đổ bộ lên Quảng Bình, ông Võ
Nghiễm bị bắt đem về giam ở lao Thừa Phủ, Huế. Ông ta chết ở trong lao
và được chôn tại đó nhưng không biết làm sao mà hài cốt được Việt Minh
đào lên và di chuyển đến một chỗ bí mật khác, có lẽ đã đem về chôn ở
Quảng Bình.
Sự kiện ông Võ Nguyên Giáp phải đến thị sát Đà
Lạt và vùng Tây Nguyên đã nói lên tính cách nghiêm trọng của tình hình
miền Nam và Cao nguyên lúc bấy giờ. Sau cuộc thị sát của ông Võ Nguyên
Giáp, tôi được chỉ thị của Uỷ Ban Hành Chánh Kháng Chiến Đà Lạt đem tiểu
đoàn bố trí từ ngoại ô thành phố đến Dran (Đơn Dương), có một trung đội
của ông Từ Bộ Cam từ Huế vào tăng cường. (Ông Từ Bộ Cam sau này là Đại
tá Không quân, hiện ở tiểu bang Washington). Tiểu đoàn gồm độ 500 binh
sĩ nhưng vũ khí đều là loại vũ khí cũ của Pháp và Nhật để lại, hoả lực
chính của tiểu đoàn là ba khẩu liên thanh kiểu FM 1924-1929. Chủ lực của
tiểu đoàn gồm một số lính Khố xanh cũ có kinh nghiệm tác chiến, nhưng
phần lớn còn lại toàn là thanh niên mới gia nhập, chưa được huấn luyện
gì. Tình trạng tiểu đoàn như thế mà tôi phải đương đầu với cuộc tấn công
của liên quân Anh-Pháp-Nhật, được yểm trợ bởi một chi đội thiết giáp.
Sau khi thảo luận với chính trị viên của tiểu đoàn, tôi quyết định
tránh đụng độ trực diện với kẻ thù, chỉ tìm cách cầm chân hay giảm thiểu
sức tiến của địch để bảo toàn đơn vị và để chờ bộ chỉ huy Đà Lạt có thì
giờ triệt thoái. Áp dụng kỹ thuật hoán vị các đại đội, tôi cho ba tổ
liên thanh di chuyển từ cao điểm này đến cao điểm khác của vùng đồi núi
Đơn Dương, bám theo đà tiến của kẻ thù mà phục kích tấn công. Dĩ nhiên
hoả lực yếu kém của chúng tôi chỉ làm cho địch chuyển quân chậm hơn và
gây thiệt hại không đáng kể, chứ không thể nào cầm chân hay công phá
được sức tiến của đoàn thiết giáp. Sau một ngày một đêm vừa đánh vừa
lùi, cuối cùng tôi ra lệnh bỏ chiến trường Đơn Dương, rút quân về Ninh
Thuận. Với hơn 300 binh sĩ còn lại, tôi và bộ chỉ huy tiểu đoàn băng
rừng về miền núi phía Tây tỉnh Phan Rang và lập chiến khu ở vùng Ba Râu.
Tại đây, theo lệnh của Uỷ Ban Kháng Chiến Trung Uơng, tôi được lệnh mở
những cuộc đột kích quân đội Pháp để tạo tình trang bất an ninh trong
vùng và để cầm chân những đơn vị này không thể tăng phái về các mặt trận
khác. Sau nửa năm, tình trạng của tiểu đoàn trở nên nguy kịch, thiếu
đạn dược, thiếu thực phẩm, thiếu thuốc men, binh sĩ của tôi càng ngày
càng mất khả năng cũng như tinh thần chiến đấu. Bị cô lập và phải hoàn
toàn tự lực tất cả mọi mặt, tôi không tìm ra được phương thế nào để chấn
chỉnh lại sức mạnh của đơn vị đang càng lúc càng rơi vào tình trạng tê
liệt. Đã vậy, thỉnh thoảng các chính trị viên Việt Minh đến thanh tra
chiến khu lại gay gắt phê bình và lên án những nhược điểm của chúng tôi
mà không đề nghị một biện pháp giải quyết nào cả.
Đồng thời,
qua những sinh hoạt hàng ngày, tôi bắt đầu phát hiện ra vai trò quyết
định và đầy ưu thế của đảng Cộng Sản Đông Dương đằng sau mặt trận Việt
Minh, một vai trò không những giành độc quyền chỉ đạo cuộc kháng chiến
chống Pháp mà còn giành độc quyền quản trị đất nước ngay từ bây giờ cũng
như trong tương lai. Tính độc quyền đó, ngay cả trong giai đoạn kháng
Pháp mà nhu cầu đoàn kết là một nhu cầu tối quan trọng, vẫn được thể
hiện qua những vụ thanh trừng các nhân vật và lực lượng không Cộng Sản.
Vừa bực mình vì thái độ vô trách nhiệm của chính uỷ, vừa bắt đầu lo sợ
vì màu sắc chính trị không Cộng Sản của mình, và nhất là vừa nhớ nhà sau
hơn hai năm trời biền biệt khói lửa, nên vào một buổi chiều nọ, tôi rời
khỏi chiến khu Ba Râu, trốn ra vùng biển Ninh Chữ, giả vờ làm thường
dân tản cư thuê ghe về Tuy Hoà để từ đó tìm đường về quê. Ra đến Tuy
Hoà, không ngờ tôi lại tạm trú tại nhà một vị cựu công chức Nam triều
nên được biết một số tin tức về ông Diệm.
Nguyên sau khi Việt
Minh cướp chính quyền tại Nam bộ, ông Diệm liền theo đường bộ rời Sài
Gòn để về Huế. Cùng đi với ông có ông Võ Văn Hải và một đồng chí trẻ
tuổi tên là Bảo. Đến Nha Trang thì ông bị Việt Minh bắt giữ nhưng nhờ kỹ
sư Đặng Phúc Thông đang làm việc ở ty Hoả Xa và một trung uý hiến binh
Nhật can thiệp nên được trả tự do. Sáng hôm sau, ông tiếp tục cuộc hành
trình chỉ với Bảo, nhưng cả hai lại bị Việt Minh chận bắt tại sông Cầu.
Riêng ông Võ Văn Hải, vì ngủ quên tại nhà người quen tại Nha Trang nên
thoát khỏi.
Sau gần hai tuần lễ chỉ để vượt một đoạn đường
không đến 500 cây số, lúc thì đi bằng thuyền, lúc thì xe hoả, lúc xe
hàng, cuối cùng tôi đã đặt chân được tới Huế.
Tại ngôi nhà
Phú Cam, tôi mới biết tin ông Diệm bị Việt Minh bắt đem ra Bắc không
biết số phận như thế nào, còn ông Ngô Đình Khôi và người con trai độc
nhất của ông là Ngô Đình Huân cùng bị bắt với ông Phạm Quỳnh và sau đó
bị thủ tiêu tại một địa điểm ở phía Bắc tỉnh Thừa Thiên. Một số lớn đồng
chí của tôi, trong đó có Nguyễn Tấn Quê, kẻ thì bị bắt giam vào lao
Thừa Phủ, kẻ thì bị giam giữ ở những trại tù bí mật xa thành phố Huế, có
người lại bị thủ tiêu mất tích.
Về Huế mà tôi như lạc lõng
đến một vùng đất xa lạ. Cũng thành quách soi bóng nước sông Hương mơ
màng, cũng cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp, cũng tiếng chuông chùa
Thiên Mụ ngân vang, cảnh cũ vẫn đó mà người xưa đâu còn. Ngọn cờ đỏ sao
vàng ngạo nghễ tung bay trên kỳ đài Ngọ Môn đã làm đảo lộn dân tình xứ
Huế. Nhân dân tự vệ, Vệ Quốc quân đang soạn sửa để chờ đợi cuộc giao
tranh, dân chúng đang lo lắng để tản cư về vùng thôn dã. Công dân Vĩnh
Thuỵ ra đi, kinh thành trưởng giả, đài trang, cổ kính xưa kia, nay đã
biến thành một quê hương ly loạn. Mấy năm sau, đọc bài thơ của Vũ Hoàng
Chương, tôi vô cùng thán phục thi nhân đã lột tả được một cách thần tình
những thay đổi của Cố Đô và tâm trạng của những con người vốn nặng lòng
hoài cổ:
Một gánh gươm đàn tới Cố Đô,
Mưa liền sông tạnh tưởng vào Ngô.
Bìm leo cửa khuyết ai ngờ rứa,
Rồng lẫn mây thành chẳng thấy mô.
Lăng miếu tỉnh chưa hồn cựu mộng,
Vàng son đẹp nhỉ bức dư đồ.
Tiếng chuông Thiên Mụ riêng hoài cảm,
Tốt đã vào cung loạn thế cờ.
Sau khi ở Huế mấy hôm để dò la thêm tin tức và đau đớn chấp nhận một
thực tại khốc liệt là tổ chức đã tan, lãnh tụ đã bị bắt, thế cờ đã loạn,
tôi quyết định rời Huế để trở về lại quê làng Thổ Ngoạ của tôi.
Trận đói Ất Dậu (năm 1945) khủng khiếp vẫn còn hằn in nét đau thương
kinh hoàng trên từng luống đất của làng xóm, trên mỗi khuôn mặt của bà
con: mồ mả ngổn ngang mọc đầy đồng làm loang lổ những đám ruộng nứt nẻ,
bà con chỉ còn xương bọc da thất thểu đi tìm nhau trong tuyệt vọng. Chỉ
có cán bộ Việt Minh và Nhân dân tự vệ, tay súng tay dao, hung hăng hành
xử quyền làm chủ một đại xã nổi tiếng văn học, nho phong của ngày xưa.
Gặp lại người vợ ngày xưa mòn mỏi vì trông đợi mà đôi vai gầy như oằn
xuống vì sức nặng của nhớ mong và của thiên tai, gặp lại hai đứa con
trai còm cõi tay lấm chân bùn đang ê a những mẫu tự vỡ lòng trên chiếc
chiếu lá xơ xác, lòng tôi như quặn lại. Tôi tự nghĩ, chí hướng và sự
nghiệp của mình đã dang dở mà Việt Minh thì bây giờ lại xem mình như
thành phần đã từng hợp tác với Pháp, cuộc sống tương lai chắc chắn sẽ
vạn phần bấp bênh nguy hiểm.
Bị dằn vặt trong tâm trạng đó,
tôi bèn giữ thái độ "gặp thời thế thế thời phải thế', chủ trương sinh
hoạt như một kẻ an phận thủ thường để lo nuôi vợ dạy con, vốn đã quá cơ
cực bần hàn với ước mơ chịu đựng cho qua cơn bão tố để chờ ngày trời
quang mây tạnh.
Nhưng người anh vợ của tôi, ông Nguyễn Bá
Mưu, vốn bất khuất, luôn luôn mang đầu óc quật cường, đã cùng với một số
đảng viên Việt Quốc thành lập một tổ chức đối kháng lại với Việt Minh,
tìm cách bắt liên lạc với những đảng phái quốc gia ở ngoài Bắc. Ông kết
nạp những thành phần cựu hào lý, quân nhân, công chức chế độ cũ gồm
người cùng làng và những làng lân cận, trong đó có hai người anh ruột và
anh rể của tôi. Nhưng chẳng may âm mưu bị bại lộ, ông Nguyễn Bá Mưu
cùng một số đảng viên Việt Quốc bị ban ám sát của Việt Minh đang đêm đến
chặt đầu ngay tại nhà. Người anh rể, một người anh ruột và tôi bị bắt
lên chiến khu Trung Thuần, mỗi người bị đem giam một chỗ.
Trong khi tôi nằm đếm ngày tháng mòn mỏi trôi qua trong ngục tù của Việt
Minh thì tình hình chính sự bên ngoài vẫn biến chuyển sôi động. Vào
cuối tháng 5 năm 1946, ông Hồ Chí Minh đi Pháp tham dự hội nghị
Fontainebleau để điều đình với Pháp cho đến tháng 9 mới trở về với một
bản "modus vivendi' về các hợp tác kinh tế để chấm dứt các vụ xung đột.
Tháng Sáu cùng năm đó, đô đốc Thierry d'Argenlieu, Cao ủy Pháp tại Đông
Dương, đã vi phạm thoả ước ký kết với nhau từ tháng Ba, tuyên bố thành
lập một chính phủ tự trị cho Nam kỳ. Ngày 23 tháng 11, trước mâu thuẫn
quyền lợi không thể thoả hiệp được và trong thế sống mái quân sự một mất
một còn, các chiến hạm của Pháp tại cảng Hải Phòng bắt đầu pháo vào thị
xã và đổ quân vào thành phố để hành quân tiến về Hà Nội. Quân đội Việt
Minh rút về bảo vệ thủ đô nhưng đến tuần lễ thứ nhì của tháng 12 thì
quyết định bỏ trống Hà Nội cho các đơn vị thanh niên chống trả, ông Hồ
Chí Minh dẫn bộ tham mưu và chủ lực chính quy rút về Việt Bắc lập chiến
khu, mở màn cho cuộc chiến tranh Pháp-Việt.
Tháng 6 năm 1947,
bắt được tin tình báo cho hay một đơn vị quân Pháp đang đóng ở Quảng
Khê (sông Gianh) sẽ phối hợp với một đơn vị khác đóng tại làng Công giáo
Đan Sa tái chiếm Ba Đồn, một vị trí chiến lược nằm ngay cửa chính mở
vào mật khu của họ, Việt Minh bèn thủ tiêu hết những tù nhân mà chúng
cho là nguy hiểm đang bị cầm tù. Cả anh ruột lẫn anh rể của tôi đều bị
sát hại trong quyết định tàn ác này. Hai các chết đó đã ám ảnh tôi rất
sâu đậm trong suốt cuộc đời đấu tranh của tôi sau này.
Riêng
tôi và một số anh em Công giáo khác đang bị biệt giam ở một trại tù ở
dưới chân núi đèo Ngang, kịp thời phá tù trốn thoát được trong đường tơ
kẽ tóc. Tôi dựa vào bóng đêm và men theo đường rừng, mò mẫm về được làng
cũ trong bí mật. Nhưng chỉ mấy hôm sau, để tránh tai hoạ cho gia đình,
vào một buổi tối mưa lớn đổ ào ạt, nhìn lại lần cuối hai đứa con trai
đang ôm nhau ngủ vùi trong manh chiếu rách, hôn vợ và ôm chặt đứa con
trai thứ ba vừa mới sinh được hai tháng, tôi lại lầm lũi ra đi, rời làng
vào Đồng Hới. Mưa xối nặng nề trên mái tranh xác xơ của ngôi nhà như
nước mắt của người vợ hiền tiễn chồng ra đi ngút ngàn vì nghiệp dĩ đấu
tranh...
Vào đến Đồng Hới, đang bơ vơ chưa biết sẽ liên lạc
với ai để tìm lại các đồng chí cũ thì tình cờ gặp được ông Hoàng Văn
Toản, lúc bấy giờ đang làm Tổng thư ký của toà Hành chính tỉnh, cũng là
một thành viên trong tổ chức của ông Diệm ngày xưa. Ông cho biết ông
Trần Văn Lý, hiện đang làm Chủ tịch Hội Đồng Chấp Chánh Trung phần, ra
lệnh phải tìm kiếm tôi để phụ trách đơn vị Bảo Vệ Quân tỉnh Quảng Bình.
Tôi bèn cấp tốc vào Huế gặp ông để từ chối chức vụ Chỉ huy trưởng Bảo Vệ
Quân và trình bày thẳng ý định của tôi về ưu tiên huấn luyện một tầng
lớp cán bộ chính trị quân sự. Ông Lý đồng ý và thảo liền công văn cho
tỉnh trưởng Quảng Bình là ông Nguyễn Hữu Nhân về việc thiết lập một khoá
huấn luỵện quân sự và chính trị do tôi phụ trách.
Trong dịp
gặp riêng ông Lý ngoài giờ làm việc, tôi hỏi thăm tin tức về ông Diệm và
được biết rằng sau khi bị bắt ở Sông Cầu, ông Diệm bị đem ra Bắc cô lập
ở một vùng rừng núi Việt Bắc cho đến đầu năm 1946, nhờ giám mục Lê Hữu
Từ, lúc bấy giờ đang là cố vấn tôn giáo của ông Hồ Chí Minh, can thiệp
nên ông được trả tự do. Sau đó ông Diệm về Hà Nội ở tại nhà thờ dòng
Chúa Cứu Thế Nam Đồng một thời gian rồi khi thì lên Cao Nguyên sống với
vợ chồng ông Ngô Đình Nhu tại Đà Lạt, khi thì xuôi miền Nam sống với
giám mục Ngô Đình Thục tại Vĩnh Long. Về việc ông Diệm bị bắt, có một số
báo chí và sách vở Cần Lao cho rằng trước khi được phóng thích từ Thái
Nguyên, ông Diệm đã từ chối lời mời tham gia hợp tác chính phủ Hồ Chí
Minh, và ông Hồ đã phải thả ông Diệm ra sau đó. Nhưng theo ông Hồ Sĩ
Khuê (tác phẩm Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng, tái
bản lần thứ nhất) thì ông Diệm bị "giam lỏng trong bệnh viện Lannessan
(Hà Nội) do các bà Soeurs trông coi. Đêm Tổng khởi nghĩa 19/12/1946, ông
Hồ và Việt Minh phải đương đầu với tình thế cấp bách mà bỏ quên ông
Diệm tại Hà Nội trong bệnh viện này. Nhờ thế, ông Diệm đã thoát khỏi tay
ông Hồ".
Ngoài ra, ông Lý cũng cho biết Cựu Hoàng Bảo Đại
hiện ở Hồng Kông và trở thành một "giải pháp" cho cả hai ông Diệm và Lý.
Không như các tổ chức của Nguyễn Phước tộc ủng hộ Bảo Đại để phục hồi
nền quân chủ cũ, hai ông Diệm và Lý ủng hộ Bảo Đại để tiến đến một chế
độ quân chủ lập hiến. Theo ông Trần Văn Lý thì chế độ này là một thể chế
trung dung giữa chế độ quân chủ phong kiến đã lỗi thời và chế độ Cộng
Hoà Tây phương còn quá mới lạ với quần chúng cũng như truyền thống chính
trị Việt Nam. Nhưng dù sao thì, theo ông, tối thiểu Việt Nam cũng phải
có một qui chế như Dominion mới lôi kéo được nhân dân Việt Nam ra khỏi
hấp lực của Hồ Chí Minh mà về với Bảo Đại. Cũng cần phải nói rõ thêm như
Bernard Fall đã mô tả thì ông Diệm là người có đầu óc phong kiến, quan
lại, cổ hủ, chỉ muốn bảo vệ một nền quân chủ. Cho đến năm 1955, vì ở vào
tình trạng tranh chấp với Bảo Đại và muốn có quyền hành thật to lớn,
ông mới chủ trương thành lập nền Cộng Hoà để làm một nhà độc tài [3].
Đối với tôi, chọn lựa này rất phù hợp với tư thế chính trị và bản chất
đấu tranh của những người như ông Diệm và ông Lý, vốn là những vị quan
lại được sinh ra và lớn lên, rồi lại được thăng hoa trong hệ thống phong
kiến, nhưng lại có va chạm với những định chế Tây phương trong vị trí
của một viên chức công quyền. Lửa cách mạng để lột xác một cách triệt để
và toàn diện, để dứt khoát hoàn toàn với quá khứ không thể có được
trong các ông. Chính một cộng sự viên thân tín của ông, sáu năm sau ngày
ông bị lật đổ, nhìn lại khoảng thời gian làm việc chung với ông cũng đã
phê phán như sau:
"Nhưng ông Ngô Đình Diệm không phải là
người có tâm lý chính trị mới mẻ như vậy. Sinh trưởng trong một gia đình
triều thần, được đào tạo theo nếp giáo dục cổ truyền, rồi chính ông lại
thừa nghiệp nhà mà thờ nhà Nguyễn: hẳn ông không phủ nhận những mối
liên lạc tinh thần giữa vua tôi và thầy trò thuở trước. Chứng cớ là
không thấy ai bắt buộc hơn ông và ông Nhu sự trung thành ở người cộng
sự. Trung thành là điều kiện ưu tiên được đặt trên cả tài năng" [4].
Tuy nhận định như vậy, nhưng lúc bấy giờ, đối với tôi, thể chế tương
lai chưa phải là mối quan tâm hàng đầu mà chính sự xây dựng một tổ chức
vững mạnh với một đội ngũ cán bộ kiên trì mới là yếu tố quan trọng để
khi đuổi Tây đi, giành được độc lập thì vẫn còn sức mà "sống mái" với
lực lượng Việt Minh của ông Hồ Chí Minh. Lý luận đơn giản và chắc nịch
như thế, nên tôi để mặc những vấn đề thể chế cho các vị đàn anh như ông
Diệm hay ông Lý, còn mình thì chỉ xả thân hoạt động trong phạm vi của
mình.
Tôi trở lại Đồng Hới làm việc dưới quyền của ông Tỉnh
trưởng Nguyễn Hữu Nhân để điều khiển một lớp đào tạo cán bộ gần 40 khoá
sinh, mà nội dung giảng huấn gồm cả hai phần chính trị lẫn quân sự, nhằm
mục đích xây dựng cái lõi nhân sự đầu tiên cho một đơn vị quân chính
tương lai.
Độ gần một tháng sau, nhân chuyến đi kinh lý ở
Đồng Hới, ông Trần Văn Lý có ghé thăm lớp huấn luyện và tỏ ra rất ngạc
nhiên về những tiến bộ và thành quả của khoá. Cùng đi với ông còn có kỹ
sư Lê Thế Ngạc (hiện nay đang ở Mỹ), lúc bấy giờ là Uỷ Viên của Hội Đồng
Chấp Chánh, và ông Trần Trọng Sanh, một lãnh tụ Việt Quốc tại Huế đang
làm Giám đốc Công an Trung phần (hiện ở Mỹ).
Song song với
việc điều hành lớp huấn luyện, tôi bắt đầu tổ chức lại từ căn bản phong
trào ủng hộ ông Diệm trong địa phương của mình, đặc biệt là gây dựng lại
hệ thống nhân sự cho tổ chức. Vì Đồng Hới là cửa ngõ mở ra liên khu Tư
nhưng cũng là cửa thoát cho các phần tử quốc gia muốn rời bỏ Việt Minh
để "về tề", nên tôi đã thành lập một bộ phận chỉ chuyên điều nghiên để
kết nạp các phần tử này.
Hoạt động của tôi dù kín đáo bao
nhiêu nhưng cuối cùng cũng không thoát khỏi đôi mắt nghi ngờ của mật
thám Pháp. Nghi ngờ đó biến thành thái độ đối phó khi họ quyết định bắt
tôi và ba đồng chí cốt cán của tổ chức lúc khoá huấn luyện sắp kết thúc.
Thế là ông Hiệu (trưởng ty Công an tỉnh Quảng Bình), ông Đặng Phúc (một
người bà con của ông Diệm), ông Phạm Đăng Tải quận trưởng quận Lệ Thủy
(hiện ở Mỹ) và tôi bị phòng Nhì Pháp ập vào nhà riêng từng người bắt
giam, và sau đó giải về phòng điều tra của phòng Nhì Pháp tại Huế.
May mắn thay, nhờ có đồng chí kịp thời thông báo, ông Trần Văn Lý vội
can thiệp ngay với tướng Lebris, đang vừa là Uỷ Viên Cộng Hoà, vừa là Tư
lệnh quân đội Pháp ở miền Trung, nên chúng tôi được trả tự do.
Cuối tháng 12, Bảo Đại ký thông cáo chung với Cao uỷ Emile Bollaert,
chuẩn bị cho Việt Nam độc lập trong Liên hiệp Pháp. Tôi quyết định
chuyển từ đấu tranh bí mật sang đấu tranh công khai. Quyết định này phát
xuất từ ba lý do rất rõ ràng: Trước hết, trong khung cảnh đấu tranh
chính trị lúc bấy giờ, vấn đề biểu dương lực lượng để xác định sự hiện
diện và sự lớn mạnh của tổ chức rất cần thiết; thứ nhì là cần tạo một số
cơ sở quần chúng để đưa tổ chức dựa lưng vào nhân dân; và cuối cùng là
cá nhân tôi và một số đồng chí đàng nào cũng có hồ sơ và cũng bị mật
thám Pháp theo dõi rồi.
Một cơ quan ngôn luận vừa có chức
năng thông tin tuyên truyền, vừa có nhiệm vụ đấu tranh là hình thức
thích hợp nhất và có thể trả lời được ba điều kiện trên. Tôi bèn bàn với
anh Phan Xứng, người bạn tri kỷ của tôi, quyết định cho ra đời tuần báo
Tiếng Gọi. Tôi làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, còn anh Xứng thì làm Tổng
thư ký toà soạn với sự hợp tác của anh Nguyễn Văn Chuân (sau này là
thiếu tướng, và hiện ở Mỹ) và Nguyễn Khương (sau này là đại tá, và hiện ở
Pháp). Bốn người chúng tôi là chủ lực phụ trách phần bài vở nói lên
đường lối của tờ báo và lo phần điều hành, những bài vở khác có nội dung
văn nghệ nhưng phù hợp với chủ trương của tờ báo thì do một số nhà văn ở
cố đô Huế được mời viết.
Lúc bấy giờ ở Huế đã có hai tờ báo
khác: nhật báo Quốc Gia của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp, do cựu Thượng
thư Trần Thanh Đạt chủ trương, và bán tuần san Lòng dân, tiếng nói bán
chính thức của Hội Đồng Chấp Chánh Trung Kỳ, do ông Võ Như Nguyện điều
khiển. Hai tờ báo này có lập trường chính trị rất rõ rệt là chống Cộng
Sản và cổ xuý cho giải pháp Bảo Đại. Tuần báo Tiếng Gọi của chúng tôi,
ngoài lập trường chống Cộng, còn chủ chương đấu tranh chống thực dân đế
quốc, ủng hộ đường lối và cá nhân ông Ngô Đình Diệm.
Năm 1948
mở màn với những vận động sôi nổi tại Hồng Kông, nơi ông Bảo Đại trú
ngụ. Trước sự thành hình minh nhiên của giải pháp Bảo Đại, tôi viết một
bài quan điểm nẩy lửa kêu gọi ông Bảo Đại nên chấp thuận lập trường và
chủ trương của ông Ngô Đình Diệm. Chủ đích của bài báo là vừa giới thiệu
thân thế và sự nghiệp của ông Diệm với quần chúng đông đảo, vừa chứng
minh rằng một lập trường cứng rắn trong giai đoạn này là thích ứng nhất
cho vận mệnh đất nước. Số tiếp theo, số 8, tôi lại viết một bài nhan đề
Con chó đá bên mộ cụ Phan Bội Châu, đả kích và lên án gắt gao thái độ
ngoan cố của thực dân Pháp đang tiến hành chính sách tái lập nền đô hộ.
Bài này lại được tờ Quốc Gia của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp trích đăng
đầy đủ.
Mấy ngày sau, trong lúc đang cùng với anh em toà soạn
chuẩn bị ra số tiếp theo thì nhận được tin sở Liêm Phóng Pháp sắp bắt
tôi một lần nữa. Ông Trần Văn Lý lại phải can thiệp với tướng Lebris để
tôi khỏi vào tù, nhưng tờ Tiếng Gọi thì bị thâu hồi giấy phép, đóng cửa
vĩnh viễn. Sau tám số tung hoành ngang dọc, tờ Tiếng Gọi đành im tiếng,
nhưng lời kêu gọi của nó vẫn còn vang vọng trong lòng một số người dân
cả ba kỳ. Tôi thanh toán các hồ sơ còn dang dở, thu xếp bàn ghế và dụng
cụ rồi bùi ngùi đóng cửa toà soạn với rất nhiều cảm xúc. Phan Xứng lên
đường đi Đà Lạt và Sài Gòn.
Cuối tháng ba, Mặt trận Quốc Gia
Liên Hiệp vận động cất chức ông Trần Văn Lý và thành công trong việc
thay thế ông Lý bằng ông Hà Xuân Hải trong chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng
Chấp Chánh Trung Kỳ (nhiều sách Việt ngữ [5] và ngoại quốc, sau này, đã
sai lầm khi viết rằng ông Diệm là lãnh tụ của Mặt Trận Quốc Gia Liên
Hiệp tại Huế. Thật ra, mặt trận này đã xem ông Diệm và ông Lý là những
đối thủ quan trọng).
Đến tháng Năm thì giải pháp Bảo Đại thật
sự thành hình với sự ra đời của Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời tại Sài
Gòn do ông Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng, và ông Phan Văn Giáo, một cộng
sự viên thân tín của ông Bảo Đại, từ Hồng Kông về Huế đảm nhận chức vụ
Tổng trấn Trung phần.
Ông Phan Văn Giáo nguyên là một dược sĩ
ở Thanh Hoá và đã từng là bạn thân với ông Ngô đình Diệm và ông Nguyễn
Đệ. Ông bị Việt Minh bắt giam gần một năm rưỡi, khi ra khỏi tù, ông liền
qua Hồng Kông cộng tác với Cựu Hoàng Bảo Đại. Ông Giáo là một chính trị
gia nhìn xa thấy rộng, hoạt bát, lanh lợi, và rất bình dân. Đối với
binh sĩ và cán bộ dân sự thường phải trực tiếp đối đầu với hiểm nguy,
ông coi họ như bà con ruột thịt, thường giúp đỡ tiền bạc mỗi khi họ túng
thiếu. Thỉnh thoảng ông đi hành quân với binh sĩ, ngủ lại đêm với họ ở
những tiền đồn hẻo lánh xa xôi.
Về Huế nhậm chức Tổng trấn,
việc đầu tiên của ông là tiến hành việc tổ chức và xây dựng một quân đội
quốc gia tại miền Trung mà ông có tham vọng sẽ thay thế quân đội Pháp.
Ông xin đại uý Nguyễn Ngọc Lễ, lúc bấy giờ đang làm việc trong quân đội
Pháp, về giữ chức Tư lệnh đội quân quốc gia mà ông đặt tên là Việt Binh
Đoàn. Theo ông Giáo, Việt Binh Đoàn là V.B.Đ. ngầm ý là vua "Vua Bảo
Đại", "Vì Bảo Đại", hay "Với Bảo Đại". Đại uý Nguyễn Ngọc Lễ dù cấp số
thuộc quân đội Pháp nhưng là một phần tử quốc gia yêu nước mà nhà văn
Nguyễn Vỹ có đề cập đến trong tác phẩm Tuấn, chàng trai nước Việt. Ông
Lễ, từ khi chuyển qua Việt Binh Đoàn được thăng cấp thiếu tá, là một
người hiền hậu, chân thành, ông xem binh sĩ cấp dưới như anh em ruột
thịt trong nhà.
Với chỉ tiêu của đợt thành lập đầu tiên là
10.000 quân nhân cho quân lực Việt Binh Đoàn, ông Lễ có rất nhiều cộng
sự viên có khả năng trong bộ tham mưu của ông. Do đó, tuy không quen
nhau từ trước nhưng chỉ vì có nghe đến khả năng tham mưu và thành tích
đấu tranh của tôi mà ông cho mời tôi đến và hợp tác. Trong buổi hội kiến
đầu tiên, điều làm cho tôi ngạc nhiên thật sự và có phần nào cảm phục
là ông Lễ (và cả ông Giáo) đều biết tôi là một cán bộ nòng cốt của tổ
chức ông Diệm, đối thủ trực tiếp và đáng kể của cả hai ông, thế mà vì
nhu cầu quốc gia, hai ông đã không ngần ngại kêu gọi làm việc chung.
Sau khi hội ý với một số anh em, tôi quyết định nhận lời để duy trì sự
hiện diện của mình trong một bộ phận trung ương của quân đội tương lai.
Tôi được giữ chức Trưởng Phòng Ba, đặc trách về tổ chức, huấn luyện, và
hành quân, đồng thời kiêm nhiệm chức chủ nhiệm tuần báo Tiếng Kèn, cơ
quan ngôn luận chính thức của quân đội Việt Binh Đoàn. Cả hai nhiệm vụ
này đều phù hợp với khả năng và sở thích của tôi. Tôi thầm nghĩ: sau
Tiếng Gọi yêu nước, bây giờ là Tiếng Kèn lên đường, đều là những tiếng
KÊU tranh đấu cả.
Chỉ hơn một năm sau, quân đội Việt Binh
Đoàn đã phát triển mạnh mẽ, tinh thần chiến đấu cao và khả năng tác
chiến ở mức khá hiện đại. Tại nhiều địa phương chiến lược, đơn vị Việt
Binh Đoàn đã thay thế các đơn vị của quân đội Pháp. Uy tín và uy thế của
Việt Binh Đoàn càng ngày càng lên cao làm cho các chính khách ở ngoài
Bắc cũng như trong Nam và các cấp chỉ huy Pháp đi từ ngạc nhiên đến thán
phục. Nhiều khi họ tổ chức hẳn thành những phái đoàn đến thăm để nghiên
cứu.
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, cựu hoàng Bảo Đại và Tổng
thống Pháp Vincent Auriol ký thoả ước Elysée biến Việt Nam thành một
quốc gia "Độc lập trong Liên Hiệp Pháp", nhưng Quốc phòng, Ngoại giao và
Tài chính vẫn bị Pháp chi phối, kiểm soát.
Tháng 4 năm 1949,
Quốc trưởng Bảo Đại hồi loan sau ba năm tự ý lưu vong nơi hải ngoại.
Ông đi công du ba miền để thăm viếng đồng bào, về Huế thăm lại Cố Đô,
thăm mẹ già và cúng kỵ Tiên Vương. Ông sung sướng thấy tại miền Trung
một quân đội hoàn toàn Việt nam, do chính sĩ quan Việt Nam chỉ huy, tinh
thần cũng như tác phong hùng dũng, gương mẫu, không thua gì quân đội
chính qui ở các nước tiên tiến. Cũng cần nhắc lại năm ngoái, năm 1948,
ông Phan Văn Giao được Quốc trưởng Bảo Đại thăng hàm Trung tướng, do đó
một buổi lễ diễn binh long trọng do tôi tổ chức trước lầu Ngọ Môn để Thủ
tướng chính phủ Nguyễn Văn Xuân, đại diện cho Cựu Hoàng đang ở Hồng
Kông, gắn lên vai Trung tướng Phan Văn Giáo ba ngôi sao bạc. Còn năm
1949, một chợ phiên qui mô, to lớn để trình bày thành tích của Việt Binh
Đoàn cũng do tôi tổ chức tại Bến Thương Bạc và trên sông Hương, đã thu
hút hàng chục vạn người tham dự. Các chính khách, tướng tá, các nhân sĩ,
thương gia từ Hà Nội, Đà Lạt, Sài Gòn, đến dự chợ phiên đông đảo, tạo
cho quang cảnh cố đô mười ngày đêm tưng bừng rộn rã vô cùng.
Nước Việt Nam, trong tiến trình lập quốc rồi Nam tiến mở mang bờ cõi, và
cận đại hơn, trong chuỗi thời gian Pháp đô hộ, Nhật chiếm đóng, Việt
Minh cướp chính quyền, cho đến khi Pháp trở lại và giải pháp Bảo Đại ra
đời, đã có đến ba thủ đô: Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Tùy hoàn cảnh chính
trị, tuỳ triều đại, tuỳ những đổi thay của thời cuộc mà mỗi thành phố
lần lượt mang vai trò thủ đô lãnh đạo chính trị, hành chánh quốc gia. Ví
dụ như từ triều đại nhà Lý đến hậu Lê, Hà Nội là thủ đô quốc gia ;
triều đại nhà Nguyễn từ thời Gia Long đến hết đời Tự Đức, thủ đô là Huế;
và thời Pháp thuộc, thủ đô là Sài Gòn. Tuy nhiên, mỗi thủ đô có một cá
tính đặc thù, như Hà Nội có tiếng là đất ngàn năm văn vật, Sài Gòn thì
mang tên hòn ngọc Viễn Đông, còn Huế, từ thời nhà Nguyễn đến thời Việt
Nam Cộng Hoà, đã đóng vai trò gìn vàng giữ ngọc cho nền văn hoá dân tộc.
Hình ảnh và dư âm của những trường thi Hương, thi Hội, những chùa
chiền, lăng tẩm, miếu vũ, đền đài, Hoàng thành, Đại nội, Văn Võ Thành,
Tàng thư, Di Luân Đường, những biến cố truất biếm hay lưu đầy các vị vua
cách mạng, sự hiện diện của chí sĩ Phan Bội Châu mười lăm năm trời tại
Bến Ngự, những điệu hò mái nhì, mái đẩy, những câu ca Nam Bình, Nam Ai,
hay cái áo dài muôn thuở của người con gái xứ Huế ... đã là những biểu
tượng sống động của nền văn hoá và tình tự dân tộc. Nếu chưa cho những
thành tựu, những kết tinh đó là đủ thì phong cảnh, cỏ cây, hoa lá của xứ
Huế, hơn nơi nào hết, đã hoà tình người với cảnh vật, đã hoà hồn cá
nhân với hồn vũ trụ tạo nên khí thiêng và sức sống của dân tộc.
Trong bối cảnh lịch sử của thập niên 50, trong khi Hà Nội như đang đi
vào dĩ vãng, Sài Gòn thì đang cựa mình vươn lên để đón nhận một tương
lai kinh tế và thương mại phồn thịnh, thì Huế vẫn tượng trưng cho sự
quyết tâm bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc, kiên trì bám chặt lấy
truyền thống cốt lõi. Cho nên Huế đã giữ đúng vai trò trọng yếu trong sự
phát huy quốc học nói chung và Phật học nói riêng. Thử kiểm điểm những
bia miếu, liệt kê trong những ngôi chùa, thử làm một danh bản những bậc
cao tăng, ghi lại những nhọc nhằn đau đớn mà dân tộc đã gánh chịu, những
hân hoan kiêu dũng của một kinh đô giữa lòng đất mẹ, thì ta sẽ thấy
ngay một bức tranh sinh động về văn hoá và tinh thần của dân tộc Việt
Nam. Vì quen nghĩ đến Huế như một biểu tượng bình lặng, khuất chìm trong
cuộc sống nên ít người biết rằng dưới cái lớp vỏ u hoài cô tịch của xứ
Huế, có một sức sống mãnh liệt, dạt dào đang luôn sôi sục để nếu có một
cơ hội là vùng lên phát huy, tung nở đoá hoa dân tộc. Những biến cố lịch
sử cận đại cũng đủ để chứng minh điều đó rồi.
Sau những mùa
chiến chinh ly loạn với bao thay đổi đoạn trường, những lá cờ cũng thay
hình biến dạng đổi màu từ cờ Long Tinh qua cờ Quẻ Ly, rồi từ cờ đỏ sao
vàng biến thành cờ tam tài xanh trắng đỏ cho phù hợp với những đổi thay
phông cảnh, đào kép trên sân khấu chính trị. Riêng dân Việt Nam, tôi
muốn nói đến những người Việt quốc gia chống Cộng phải chấp nhận thế
đứng đớn đau ở bên này chiến tuyến, quả thật đã hoàn toàn tuyệt vọng vì
có chính nghĩa mà không làm sáng bùng lên chính nghĩa đó khi (vì lý do
này hay lý do khác, dưới hình thức này hay hình thức khác) phải cùng với
người Pháp bảo vệ những mảnh đất quê hương còn tự do. Cho nên sự trở về
của vua Bảo Đại, với sự ra đời của lá cờ vàng ba sọc đỏ như một biểu
tượng hồi sinh mới, đã tượng trưng cho một niềm hy vọng.
Đồng
ý là vua Bảo Đại đã có thời gian là một vị vua bù nhìn, sống cuộc đời
thụ hưởng ở quê người. Nhưng năm 1948, sau những vận động ngoại giao
khôn khéo trong những điều kiện khó khăn nhất của một kẻ mất đất mất
dân, yếu thế, ông đã thành công trong nỗ lực tiến lên một bước, một bước
đầu tuy ngắn nhỏ nhưng cơ bản, để đặt nền móng cho chế độ gọi là quốc
gia sau này. Một ông vua đã lột xác, đã thức tỉnh để giữ đúng và giữ
trọn tinh thần của lời tuyên bố bốn năm trước rằng:
"Trẫm hy
sinh ngai vàng điện ngọc cho quốc dân" và "Trẫm thoái vị để thà làm dân
một nước độc lập, còn hơn làm vua một nước nô lệ" [6].
Vì
vậy, ông trở về và đã được những lực lượng đấu tranh trong nước đón nhận
như một biểu tượng của thế quốc gia chống Cộng của người Việt Nam.
Nhiều chính khách, nhân sĩ yêu nước và có hoạt động cách mạng, trước đây
giữ thái độ trùm chăn hoặc chống đối người Pháp bằng thái độ bất hợp
tác, nay cũng quyết định ra mặt ủng hộ Quốc trưởng Bảo Đại như các ông
Phan Khắc Sửu, Nguyễn Tôn Hoàn, Hoàng Nam Hùng,Vũ Hồng Khanh, Ngô Thúc
Định, Nguyễn Phan Long... và nhiều nhân vật trọng yếu trong các đảng Đại
Việt, Việt Quốc, hay các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo. Đặc biệt, giám mục
Lê Hữu Từ vốn là Cố vấn Tôn Giáo của ông Hồ Chí Minh và từng duy trì
giáo phận Phát Diệm của ngài trong tư thế "tự trị", cũng từ bỏ thái độ
này và sát nhập vùng tự trị Phát Diệm vào cộng đồng quốc gia dưới quyền
cai trị của Quốc trưởng Bảo Đại [7]. Ngay cả ông Ngô Đình Diệm, dù sau
này đã từng xuống tay hạ nhục ông Bảo Đại bằng một cuộc trưng cầu dân ý
lạ lùng, thì cũng là một Thủ tướng do chính Bảo Đại bổ nhiệm, và tháng 7
năm 1954, khi vị Tân Thủ tướng ra Huế, thì cũng đã phải đến cung Diên
Thọ trong nội thành cố đô Huế để cúi đầu bái yết đức Từ Cung, thân mẫu
của Quốc trưởng Bảo Đại. (Tâm trạng của ông Diệm và ý nghĩa đích thực
của cuộc trưng cầu dân ý năm 1955 đã được ông Đoàn Thêm phân tách rõ
ràng trong chương "hạ bệ và suy tôn" của tác phẩm Những ngày chưa quên).
Cho nên, lật lại những trang sử cũ, khách quan và nghiêm chỉnh nhìn lại
những biến động của đất nước trong thời gian đó để đừng vì tinh thần bè
phái và xúc động chủ quan mà bóp méo sự thật, ta phải công nhận rằng
chính Bảo Đại đã đặt viên đá đầu tiên xây dựng nền tảng pháp lý, cơ sở
quốc gia, và nội dung chống Cộng cho các chế độ Cộng hoà sau này. Nền
tảng đó, cơ sở đó, nội dung đó, nếu sau này theo tình hình mà tăng
trưởng hay lụn bại, mà đẹp thêm hay xấu đi thì viên đá đầu tiên, với
những giới hạn của trạng huống đất nước lúc đó, vẫn có giá trị không
chối cãi được của một viên đá đầu tiên.
Nói rõ ra, phải có
một Bảo Đại mới có một Ngô Đình Diệm. Cũng như phải có một Ngô Đình Diệm
thì mới có một Nguyễn Văn Thiệu trong sự liên tục luân lưu của lập
trường chống Cộng từ năm 1949 cho đến năm 1975. Sự sụp đổ thảm bại của
quyết tâm đó và lực lượng đó, ngoài những yếu tố khách quan và ngoại vi
khác, là do ông Ngô Đình Diệm và ông Nguyễn Văn Thiệu, chứ phần lớn nhất
không phải là và không thể là do ông Bảo Đại.
Giải pháp Bảo
Đại đã khai sinh ra Việt Binh Đoàn, tiền thân đích thực của Quân đội
Việt Nam Cọng Hòa sau này, một đội quân hoàn toàn Việt Nam trên phương
diện tổ chức, nhân sự và đường lối. Tuy người Pháp lúc bấy giờ có thành
lập một số "tiểu đoàn Việt Nam" nhưng những tiểu đoàn này vẫn do sĩ quan
Pháp hoặc tay sai của họ chỉ huy và vẫn bị người Việt Nam khinh bỉ vì
bản chất "lính đánh thuê" của chúng. Trái lại, Việt Binh Đoàn, dù chưa
có truyền thống của một quân đội độc lập lâu dài, dù còn phải phối hợp
với quân đội Pháp để cùng chiến đấu chống lại bộ đội Cộng sản, đã thực
sự là một quân đội quốc gia (trong ý nghĩa chủ quyền và tự quyết) để che
chở và bảo vệ nhân dân đang kẹt giữa hai lằn đạn của Việt Minh và Pháp.
Chính Việt Binh Đoàn với trường Võ Bị Quốc Gia đầu tiên ở Huế đã cung
cấp cho quân lực Việt Nam Cộng Hoà sau này những sĩ quan chỉ huy cấp
tướng và cấp tá. Cũng chính Việt Binh Đoàn đã đào tạo ra những chiến sĩ
anh dũng (sau này được chọn lựa vào Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Tổng
Thống Phủ của ông Diệm) và những cấp chỉ huy của hai sư đoàn 1 và 2 can
trường đương đầu sóng gió Trị Thiên.
Nhớ lại thời kỳ chập
chững hình thành của Việt Binh Đoàn với bao khó khăn và trở ngại phải
khắc phục, nhớ lại thời kỳ phát triển vàng son của Việt Binh Đoàn với
những chiến thắng oanh liệt, tôi không khỏi liên tưởng đến cựu Trung
tướng Nguyễn Ngọc Lễ bây giờ đã là người ngàn thu, và ông Trần Nguyên An
(hiện ở Mỹ) nguyên Tham Mưu Trưởng Việt Binh Đoàn. Một người tượng
trưng cho lý tưởng, tinh thần và ý chí, một người biểu tượng cho óc tổ
chức, tài quyền biến và khả năng vận động của lực lượng võ trang đầu
tiên này của quốc gia Việt Nam. Chính hai người này, trong tình nghĩa
chung lưng đấu cật với tôi, trong nỗi chia sẻ công tác khó khăn với tôi,
đã ảnh hưởng khá nhiều đến con người nhà binh của tôi sau này.
Tuy nhiên, dù bận rộn vì công vụ, dù tâm tình có chia sẻ với những
người bạn mới trong công tác chung, và dù trên mặt hệ thống quân giai có
trực thuộc ông Nguyễn Ngọc Lễ và ông Phan Văn Giáo (do đó, Quốc trưởng
Bảo Đại), lòng tôi vẫn luôn luôn nghĩ về ông Ngô Đình Diệm vì những liên
hệ keo sơn đã kết tinh từ lâu, và nhất là vì ý thức chính trị và kinh
nghiệm đấu tranh thực tiễn cho tôi thấy rằng tình hình Việt Nam không
thể ngưng lại trong tình trạng của một quốc gia độc lập mà lại còn có
chính quyền Pháp kiểm soát, của một quân đội chống Cộng mà lại còn phối
hợp với lính viễn chinh Pháp đang khủng bố, tàn sát đồng bào ruột thịt.
Giải pháp Bảo Đại chỉ là giải pháp tạm thời để khai thông một số bế tắc
chính trị. Sự hợp tác giữa ông Bảo Đại và Pháp chỉ là sự hợp tác giai
đoạn, kết quả của một thế chính trị có lợi cho cả hai bên, do đó, không
sớm thì muộn, một giải pháp khác sẽ phải ra đời cho phù hợp với tình
hình quốc tế và sự đe doạ càng lúc càng nguy hiểm của đảng Cộng Sản
trong lòng cuộc kháng chiến của Việt Minh. Giải pháp khác đó phải đặt
nền tảng trên chủ quyền quốc gia của người Việt mà thể hiện đầu tiên và
rõ ràng nhất là quân đội quốc gia phải hoàn toàn thuộc về một chính phủ
Việt Nam. Tôi suy nghĩ (và ước mơ) rằng giải pháp đó là giải pháp Ngô
Đình Diệm.
Vì thế, từ khi trở lại Huế vào cuối năm 1948, tôi
đã tiếp tục đến sinh hoạt ở ngôi nhà Phú Cam, nơi ông Ngô Đình Cẩn đang
ở, để cùng với một số anh em thảo luận những kế hoạch chính trị nhằm ủng
hộ cho ông Diệm.
Ông Ngô Đình Cẩn là một người có cung cách
và tác phong giống hệt một viên chánh tổng của miền quê Bắc Việt. Chân
đi guốc gỗ, mặc áo bà ba lụa trắng, miệng nhai trầu nhóp nhép nhưng nói
phô trịch thượng và lại khinh người. Với ai ông Cẩn cũng gọi là thằng
nọ, thằng kia, ngay cả với ông Bảo Đại. Ông Cẩn chỉ trích và chê bai tất
cả các đảng phái và thường huyênh hoang bảo rằng "bọn Đại Việt, Việt
Quốc có đến mời tôi làm lãnh tụ nhưng "bọn đó" chẳng làm nên trò trống
gì nên tôi từ chối". Ông Cẩn có tiếng nói rõ ràng và cặp mắt rất sắc,
đôi lông mày rậm và hơi xếch lên theo cái tướng của những người hiểm ác,
dám làm những việc táo bạo. Sáu người con trai của ông Ngô Đình Khả ai
cũng học hành thành tài và có sự nghiệp, chỉ riêng ông Cẩn mới học đến
lớp ba tiểu học thì vì ham chơi mà đứt ngang việc học hành. Cũng vì thế
mà khi lớn lên, Ông Cẩn chỉ lo việc đồng áng, chăm sóc bà cụ thân sinh
và phụ trách các việc quan, hôn, tang, tế trong giòng họ Ngô Đình.
Từ năm 1948, một phần vì tổ chức bị tan rã từ trước và phần khác vì ông
Diệm không có mặt thường trực tại Huế. nên số cán bộ cũ không còn lại
bao nhiêu người, chỉ thưa thớt có các ông Võ Như Nguyện, Trần Văn Hướng,
Nguyễn Vinh, và tôi, vốn là những đồng chí cũ của ông Diệm từ thời tiền
1945.
Dần dần, nhờ nỗ lực phát triển của chúng tôi và nhất
là nhờ có một số người ý thức được rằng giải pháp Bảo Đại chưa phải là
một giải pháp lâu dài để giải quyết dứt khoát và toàn bộ vấn đề Việt
Nam, nên họ lượng định lại "lá bài" Ngô Đình Diệm, và muốn liên hệ với
chúng tôi như một lối thoát chính trị trừ bị, do đó họ cùng đến sinh
hoạt và ủng hộ chúng tôi. Nhóm này có các ông Nguyễn Đôn Duyến, Tôn Thất
Trạch, Phạm Văn Nhu, Trương Văn Huế, Phùng Ngọc Trưng, Nguyễn Văn Đông,
Bùi Tuân, Huỳnh Hữu Hiến... Linh mục Nguyễn Văn Thính thuộc dòng Chúa
Cứu Thế ở Huế, cũng thường lui tới ngôi nhà Phú Cam để yểm trợ và theo
dõi tình hình.
Số lượng ủng hộ ông Diệm càng ngày càng gia
tăng, phần đông là các linh mục và những người theo Công Giáo. Tuy
nhiên, cho đến ngày ông Diệm về nước (vào năm 1954), số lượng đó chỉ hơn
30 người ở khắp bốn tỉnh miền trung Trung phần. Ông Trần Điền (sau này
là nghị sĩ Quốc Hội thời Đệ Nhị Cộng Hoà) và ông Nguyễn Trân (sau này là
Tỉnh trưởng Nha Trang dưới thời ông Diệm) cũng thỉnh thoảng đến nhà ông
Ngô Đình Cẩn, nhưng hai ông này chỉ đến gây cảm tình và để nghe ngóng
tình hình chứ không phải thực sự ủng hộ ông Diệm. Ông Trần Điền, vì một
mặt có bà con với ông Hà Thúc Ký (một lãnh tụ Đại Việt ở miền Trung),
mặt khác là cộng sự viên thân tín của ông Trần Văn Lý, lại có ý khinh bỉ
ông Cẩn nên không thực tâm ủng hộ; còn ông Nguyễn Trân, vì có mặc cảm
là một cựu tri phủ tham nhũng của Nam Triều bị hạ hồi dân tịch, lại có
xu hướng thân Pháp, nên không dám hoạt động cho giải pháp Ngô Đình Diệm
[8]
Ông Trần Văn Lý, vốn là một đồng chí kỳ cựu của ông Diệm,
trong thời kỳ làm Chủ tịch Hội Đồng Chấp Chánh đã giúp đỡ tiền bạc để
ông Diệm tiêu dùng và chi phí việc đi lại Hồng Kông gặp gỡ Cựu hoàng Bảo
Đại. Nhưng từ khi ông Cẩn thấy tổ chức của anh mình bắt đầu sống lại và
càng ngày càng phát triển mạnh thêm thì bắt đầu có thái độ khinh thường
ông Lý, cho nên kể từ tháng 3 năm 1948, khi ông Lý mất chức Chủ tịch
Hội Đồng Chấp Chánh thì hai gia đình không còn liên hệ gì với nhau nữa.
Các ông Diệm, Nhu, và giám mục Thục có lẽ vì nghe lời dèm pha và xúi
giục của ông Cẩn nên cũng chấm dứt mối tương quan với ông Lý.
Thời bấy giờ ở Huế, ông Cẩn công khai bày tỏ sự căm thù đối với dược sĩ
Nguyễn Cao Thăng, và gọi là Việt gian, vô luân, vì ông Thăng là bạn
giao tình của Thủ hiến Phan Văn Giáo, người mà ông Cẩn thù ghét. Ông
Nguyễn Cao Thăng còn là tay chân thân tín của Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm
và là đại diện thợ thuyền của ông Tâm tại Trung phần. Nhưng lý do chính
và sâu kín nhất mà ông Cẩn thù hằn ông Thăng là vì ông này thường công
khai gọi ông Cẩn là "hạng nhai trầu, dựa tên tuổi của cha anh mà làm
tàng, hàng chánh tổng mà đòi làm lãnh tụ..." Ông Cẩn còn tuyên bố với
anh em chúng tôi là hễ có chính quyền trong tay thì người đầu tiên ở Huế
mà ông ta chặt đầu là Nguyễn Cao Thăng. (Cuối năm 1954, khi ông Diệm đã
làm Thủ tướng, tức là ông Cẩn "đã có chính quyền trong tay", ông bèn ra
lệnh cho nhóm Lê Quang Tung, Trần Thái ném lựu đạn vào nhà riêng của
ông Trần Văn Lý và vào nhà thuốc của ông Nguyễn Cao Thăng ở đường Trần
Hưng Đạo. Ông Trần Thái hiện sống ở Mỹ).
Từ năm 1948, các ông
Thục, Diệm, và Nhu thỉnh thoảng về Huế để thăm bà cụ thân sinh. Cứ mỗi
lần như vậy, nhất là khi chính ông Diệm về, chúng tôi lại tổ chức các
cuộc gặp
Xem tiếp: Chương 4
© TuSach.mobi - Đọc truyện online trên mobile
No comments:
Post a Comment