VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi
Tác giả: Hoành Linh Đỗ Mậu
Chương 14
KỲ THỊ TÔN GIÁO
Một
trong những thể hiện độc đáo nhất của văn hoá nước ta là đời sống tín
ngưỡng rất nồng nàn và rất lâu đời của dân tộc. Cứ nhìn số đền chùa đình
miếu trong mỗi làng mỗi tỉnh, và sau này, số nhà thờ trong mỗi đơn vị
hành chính địa phương thì đã có thể đo lường được sinh hoạt tín ngưỡng
của dân ta mạnh mẽ biết chừng nào. Cứ đem số lượng những ngày cúng kỵ
riêng tư của từng gia đình và những lần tế lễ chung của toàn dân tộc thì
biết cái bản chất hướng nội của người nước ta sâu sắc biết là bao
nhiêu.
Kỵ bên nội, kỵ bên ngoại, lễ Chạp mả, tiết Thanh minh,
cúng Đức Trần, lễ Chùa Hương, Phật Đản, Giáng Sinh, Đức Thầy, Tết Nguyên
Đán, cúng Cô Hồn, lên cây nêu, thờ Thần Táo, chay đàn, cầu siêu, bà Mụ,
Hà Bá, Thành Hoàng, Thánh Gióng,... thật không có một dân tộc nào liên
hệ chặt chẽ với quá khứ và hướng về đời sống tâm linh huyền bí sâu đậm
như vậy.
Do đó mà hầu như người Việt Nam nào cũng có đạo, cũng
là tín đồ của một tôn giáo. Nếu đạo đó không có một vị giáo chủ, những
giáo lý thành văn, hoặc một giáo hội thì ít nhất người Việt Nam đó cũng
chung chung theo đạo thờ tổ tiên ông bà trong cái tổng hợp đẹp đẽ không
mâu thuẫn của nền Tam giáo Đồng Nguyên.
Sau khi cuộc di cư năm
1954 hoàn tất, dân số toàn quốc là 38 triệu mà trong đó 15 triệu người
sinh sống tại miền Nam tự do. Trên phương diện tôn giáo, 15 triệu người
đó được phân chia như sau: Tin Lành ra đời tại Việt Nam từ năm 1921 có
độ 200.000 tín đồ, Hoà Hảo (từ năm 1939) có độ 1.500.000 tín đồ, Cao Đài
(từ năm 1925) có độ 1.500.000 tín đồ, và ngoài hai tôn giáo còn lại là
đạo Phật và Công giáo thì hầu như mọi người đều theo đạo gia tiên.
Đạo
Phật được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ thứ hai sau Tây lịch với hai
đặc tính HOÀ và HOÁ của nó nên không những đã hoà được vào dân tộc một
cách dễ dàng mà còn hoá thành một thứ đạo Phật đặc thù Việt Nam, phân
biệt hẳn với Phật giáo Ấn Độ hoặc Trung Hoa, để đóng góp vào việc dựng
nước và giữ nước trên mọi mặt văn hoá, quốc phòng, học thuật, kỹ
thuật,... Sau năm 1954, số Phật tử tại miền Nam Việt Nam được ước lượng
vào khoảng 4.500.000.
Năm 1553 giữa thế kỷ 16, Thiên Chúa giáo
được du nhập vào Việt Nam dưới thời vua Lê Trang Tôn. Sau 400 năm
truyền giáo, từ vĩ tuyến 17 trở vào, số giáo dân tập trung đông đảo ở
các tỉnh Quảng Trị, Quy Nhơn, KonTum,... còn tại các địa phương khác thì
sống thưa thớt thành từng họ đạo chẳng bao nhiêu. Cuộc di cư năm 1954
đã nâng tổng số đó tại miền Nam lên hơn 1 triệu tư, gần bằng số tín đồ
của Cao Đài, nhưng ảnh hưởng chính trị cũng như kinh tế, xã hội cũng như
giáo dục thì lại vượt hẳn các tôn giáo bạn và lan tràn không những
trong quần chúng mà còn trong bộ máy công quyền cũng như trên chính sách
quốc gia. Trong số 860.026 người Bắc di cư vào Nam, có 676.384 (tức
78,64%) người Công giáo (tức là hơn một nửa số Giáo dân miền Bắc) với 5
giám mục, hơn 700 linh mục (2/3 tổng số linh mục ở miền Bắc).[1]
Theo
nghiên cứu của Jean Lacouture trong "Les Deux Vietnam" mà tôi sẽ đề cập
đến một cách chi tiết hơn sau này, thì trong tổng số hơn một triệu tư
đó, vào năm 1963, những người Công giáo Nam kỳ đã tỏ ra lạnh nhạt và thụ
động bất mãn với chế độ Diệm vì yếu tố kỳ thị địa phương Công giáo Bắc,
Công giáo Nam của gia đình họ Ngô.
Phải nói rõ ra như thế để
thấy rằng chỉ có hơn một triệu người Công giáo gồm Công giáo di cư từ
miền Bắc vào, và đa số giáo dân miền Trung là ủng hộ ông Diệm, tạo thành
một chủ lực hậu thuẫn sắt thép cho ông suốt 9, 10 năm ông trị vì tại
miền Nam Việt Nam.
Với một triệu người Công giáo vừa nhiệt
thành vì tôn giáo, vừa nhiệt tình ủng hộ ông Diệm, với chủ nghĩa Nhân Vị
Duy Linh, với quyền hành tuyệt đối trong tay, với phương tiện dồi dào
của Hoa kỳ, anh em ông Diệm đã có đủ điều kiện để thực hiện tham vọng
của họ là "làm sáng danh Chúa", cũng vốn là nhiệm vụ cao trọng và tối
thiết mà nhà Ngô nghĩ rằng họ đã được Thượng Đế giao phó. Nói rõ hơn,
đối với anh em ông Diệm thì việc làm sáng danh Chúa là "cứu cánh", còn
tổ quốc, dân tộc, kiến thiết quốc gia, chống Cộng chỉ là "phương tiện"
Chúa an bài để họ đạt được cứu cánh đó mà thôi.
Cứ nhìn lại
tiến trình du nhập của Thiên Chúa giáo vào Việt nam, nhìn lại lịch sử
dòng họ Ngô Đình vì bị người Lương khủng bố phải bỏ làng Xuân Dực đến
ngụ cư ở làng Đại Phong, nhìn lại việc ông Ngô Đình Khả được cố đạo
ngoại quốc nuôi cho ăn học rồi về nước làm quan theo Pháp dẹp quân Kháng
chiến Cần Vương, cứ nhìn việc ông Nguyễn Hữu Bài rồi ông Ngô Đình Diệm
đều làm Thượng Thư đầu triều và đều có ý đồ riêng trong việc ủng hộ Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để, ta sẽ thấy rõ anh em ông Diệm đã được hun đúc như
thế nào để chỉ một mặt thì mang nặng hận thù với người bên Lương và mặt
khác thì hết lòng làm nhiệm vụ mở mang nước Chúa theo tham vọng của Hội
Thánh La Mã.
Mà ý Chúa, ý Hội Thánh là gì? Ta hãy nghe Tổng giám mục Drapier, Khâm mạng Toà Thánh tại Huế nói rõ:
"Hội
Thánh là một cơ quan hằng đi tới. Hội Thánh thiết lập ở đâu là sống ở
đó, mà sống tức là cứ bành trướng mãi do một sức mạnh kích phát từ bên
trong. Mầm sống của đạo Công giáo chính là một thứ men nồng không thể
chịu nằm yên, không di dịch. Bản tính nó là làm cho sôi nổi, cho nứt vỡ
giới hạn bên ngoài. Mọi sự ngăn trở, ngược đãi đã không thể khiến nó
nhụt đi lại làm cho nó thêm phấn khởi" [2].
Một lối nói tuy văn vẻ mà hàm ý hiếu chiến và kiêu căng.
Cái
tham vọng làm vị Thánh Tông đồ thứ 13 của gia đình nhà họ Ngô không đợi
đến sau này mới phát hiện mà đã được vun xới từ hồi anh em ông Diệm còn
niên thiếu. Họ đã lập chí ngay từ thời vừa lớn khôn để cho gia đình
phải có một Ngô Đình Thục đi vào Giáo hội để đứng đầu hàng giáo phẩm,
phải có một Ngô Đình Diệm đi vào hoạn lộ để làm quan đến Thượng Thư Bộ
Lại và sau này làm nguyên thủ quốc gia mà ở địa vị nào cũng đòi hỏi cho
được quyền hành tuyệt đối, và có một Ngô Đình Nhu đi vào đường học vấn
để làm cha đẻ một chủ nghĩa Nhân Vị Duy Linh Thiên Chúa giáo. Gia đình
họ Ngô làm đủ mọi cách để có một nhà lãmh đạo tôn giáo, một vị nguyên
thủ quốc gia, và một lý thuyết gia chính trị với tham vọng biến nước
Việt Nam thành "người con gái đầu lòng" của Hội Thánh La Mã tại Đông Nam
Á (La Fille Ainée de L' Eglise Romaine de l' Extrême-Orient).
Nhìn
lại lịch sử nước nhà, từ ngày Thiên Chúa giáo du nhập vào Việt Nam,
những cố đạo ngoại quốc, đặc biệt là các giáo sĩ người Pháp trong "Hội
Truyền Giáo Hải Ngoại" như Alexandre de Rhodes, Pigneau de Béhaine,
Puginier, Pellerin,... đã vì tôn giáo mình mà tìm mọi cách tiêu diệt nền
văn hoá và truyền thống dân tộc Việt, hầu thực hiện việc Công giáo hoá
toàn dân Việt Nam. Nhưng họ đã không làm nổi vì đại đa số người Việt Nam
lòng tràn tình tự dân tộc đâu để cho họ làm.
Cuộc đảo chánh
9-3-45 của Nhật Bản lật đổ và chấm dứt nền đô hộ Pháp rồi sau đó nền độc
lập của nước nhà được ông Hồ Chí Minh tuyên bố ngày 2-9-45 tưởng đã
chấm dứt được trang sử đen tối gần một trăm năm qua để quê hương được
thật sự thuộc vể dân tộc. Nhưng thảm trạng lại xảy ra vì lá cờ đỏ sao
vàng của Việt Minh chỉ là biểu tượng cho một nền độc lập giả mạo được tô
vẽ bởi Đệ Tam Quốc Tế và được sự công nhận giai đoạn của thực dân Pháp
trong ý đồ muốn trở lại Đông dương để tái lập nền thuộc địa cũ. Do đó mà
cuộc chiến tranh Pháp-Việt từ 1945 đến 1954 đã phải xảy ra với kết quả
là đất nước bị chia đôi, lấy giòng sông Bến Hải làm ranh giới cho hai
miền Nam Bắc. Cái thảm trạng cho dân tộc không phải chỉ là vì cuộc chiến
tranh đã xảy ra giữa Cộng Sản Việt và Thực Dân Pháp mà là đau thương
hơn nữa, nó còn vì Pháp muốn tái diễn lại việc dùng người Công giáo làm
hậu thuẫn như thời trước để chống lại người Lương mà việc dùng viên Cao
ủy đầu tiên, Đô đốc Thierry d’Argenlieu, vốn là một Cố đạo, đã rõ ràng
nói lên cái âm mưu thâm hiểm của người Pháp.
Đô đốc d
'Argenlieu, Cao uỷ Pháp đầu tiên tại Đông Dương (1946) đã từng là Bề
trên xứ đạo Louis de la Trinité thuộc dòng Carmen, bị động viên trong
thời Đệ Nhị thế chiến và theo De Gaulle kháng chiến chống Đức. Được cử
giữ chức Cao uỷ Pháp tại Đông Dương, đô đốc d 'Argenlieu vẫn ở trong
tình trạng của một tu sĩ Thiên Chúa giáo. Mỗi buổi sáng, trong một căn
phòng riêng tại dinh Norodom tại Sài gòn, ông ta tự mình làm lễ. Ông ta
chống lại chính sách hoà dịu đối với Việt Nam của tướng Leclerc và đã
chủ trương thành lập nước Nam Kỳ tự trị [3]. D'Argenlieu muốn tái diễn
trò "Nam Kỳ thuộc địa" trăm năm trước để từ đó dần dần đánh chiếm Bắc và
Trung phần. Tuy nhiên, lịch sử chiến tranh 1945-1954 cho thấy chỉ có đa
số người Công giáo nhiệt tình ủng hộ người Pháp còn đại đa số lực lượng
dân tộc Việt, bằng phương thức này hay phương thức khác, chống lại âm
mưu của thực dân như đã nói trong những chương trước của tập hồi ký này.
Theo
ông Văn Thanh trong "L'Autodéfense des Villages" thì vào năm 1952 tại
BắcViệt, người ta đã công khai than phiền việc dân vệ Công giáo được
Pháp võ trang đầy đủ và dùng vũ khí đáng lẽ để chống Cộng Sản thì lại
làm công việc "cướp bóc chùa chiền, tàn phá miếu mạo và ép buộc người
Lương theo đạo” [4].
Cho nên khi đã có đủ quyền lực trong tay,
chính sách cai trị miền Nam của họ Ngô đã chia thành hai vế rõ rệt: vế
thứ nhất là chống Cộng, và vế thứ hai là Công giáo hoá toàn bộ miền Nam.
Nói là chia hai vế nhưng thật ra chúng liên hệ hỗ tương khăng khít với
nhau vì tiêu diệt Cộng Sản vô thần và "Tà thần ngoại đạo" (ám chỉ các
tôn giáo khác tại miền Nam), theo anh em ông Diệm, là làm trọn được
nhiệm vụ Công giáo hoá, mà cụ thể nhất là ý đồ nâng Công giáo lên hàng
quốc giáo độc tôn của Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục. Cũng vậy, khi đẩy
mạnh chính sách ưu đãi và chỉ tin cẩn sử dụng nguồn nhân sự Công giáo
trong chính quyền và quân đội, trong lãnh vực kinh tế và xã hội, thì anh
em ông Diệm cũng đã cho rằng như thế là đủ sức mạnh để đánh Cộng Sản.
Hai vế đó như thiên la địa võng chụp xuống đầu nhân dân miền Nam, đánh
tráo thứ này thành thứ nọ, muốn kết tội ai thì cứ gọi người đó là Cộng
Sản, ai muốn được đặc quyền đặc lợi thì cứ theo Công giáo... đã làm
thành một thế trận hôn mê quật ngã được cả những sức mạnh có truyền
thống lâu đời như các đảng phái, các tôn giáo và các tình tự văn hoá sâu
sắc đã từng miên man quấn quít dân tộc cả ngàn năm nay.
Tuy
nhiên, có hai thế lực lớn đã không ngã quỵ: Cộng Sản đã lợi dụng chính
sách thất nhân tâm đó để khôn khéo vươn lên, và Phật tử đã đứng vững
trên tâm thức "Bồ Tát" mà dẻo dai chịu đựng.
Thật vậy, sau khi
đã vượt qua được những khó khăn của hai năm đầu 1954-1955, và sau khi
đã tê liệt hoá các đảng phái quốc gia, vô hiệu hoá hai giáo phái Hòa Hảo
và Cao Đài, chính quyền Ngô Đình Diệm, dù đang phải đối phó với nhiều
vấn đề cấp bách, vẫn bắt đầu phát động kế hoạch công phá lực lượng Phật
giáo nói riêng, và người Lương theo đạo ông bà nói chung.
Riêng
Phật giáo Việt Nam, mà cuộc chiến Pháp-Việt 45-54 đã tiêu huỷ và làm
kiệt quệ khá nhiều lực lượng tăng sĩ, tín đồ cũng như các cơ sở chùa
chiền, kinh sách vì đã không chịu tham dự vào quyền thế của hai phe lâm
chiến, xưa vốn đã nghèo khổ nay lại càng nghèo khổ thêm. Hoà bình trở
lại, Phật giáo Việt Nam không mong muốn gì hơn là an hoà và thái bình đó
được duy trì mãi mãi để họ được tổ chức lại từ đáy tầng đổ nát, những
cơ sở vật thể khiêm nhường, được trùng tu lại hệ thống tu học tăng ni
đơn giản, phát huy được tinh thần "cho vui cứu khổ" trong quần chúng hầu
đóng góp cho đại cuộc xây dựng miền Nam.
Nhưng thái độ khôn
ngoan và ước mơ chính đáng đó vẫn không làm cho Phật giáo tránh được
những thủ đoạn kích phá trong chính sách kỳ thị tôn giáo của gia đình và
chế độ Ngô Đình Diệm.
Hành động kỳ thị đầu tiên ghi nhận được
vào năm 1956 khi một vị linh mục có tên là Vàng, giảng sư của trung tâm
Nhân Vị Vĩnh Long, đi thuyết trình tại các tỉnh và khi đến Đà Nẵng, ông
đã cho cắm Thập Tự Giá lên núi Ngũ Hành Sơn, nơi có chùa Non Nước lịch
sử mà dân chúng đã từ lâu tôn vinh là đệ nhất thắng cảnh quốc gia, đẹp
hơn cả chùa Hương tại miền Bắc. Buồn cười là mỗi ngày khi cha Vàng cho
cắm Thập Tự Giá lên thì sáng hôm sau lại thấy cây Thập tự bị chặt vất bỏ
trên sườn đồi. Sau ba ngày như thế, linh mục Vàng nổi giận và quy tội
cho Phật tử đã cố tình phá hoại nên khi ra Huế, ông đến gặp Hoà thượng
Trí Thủ, Tổng trị sự Phật giáo miền Trung, đòi Hoà Thượng phải bảo toàn
cây Thánh giá ở Ngũ Hành Sơn ! Hòa thượng Trí Thủ trả lời: "Chính quyền
trong tay các ngài, các ngài muốn làm gì thì làm, chúng tôi có giám cản
trở các ngài đâu". Sau này, nhờ cuộc điều tra của chính quyền mới biết
được sự thật là chính dân chài Sơn Trà, vì mê tín sợ cây Thánh giá cắm
trên đầu nóc chùa có thể làm mất tính thiêng liêng của ngôi chùa, hại
cho nghề đi biển, nên họ đã chặt vất và ném xuống sườn núi.
Năm
1956-1957 tại Huế, cứ đến gần ngày lễ Phật Đản thì dân chúng lại thấy
cầu Trường Tiền băng ngang sông Hương được trang hoàng bằng những Khải
Hoàn Môn có treo cờ ... Tòa Thánh và ảnh tượng Đức Mẹ. Tất nhiên đám
rước Phật từ chùa Từ Đàm qua chùa Diệu Đế không thể đi bộ dưới những ảnh
tượng đó để qua cầu Trường Tiền mà phải qua sông Hương bằng đò. Trong
vụ này, âm mưu thâm độc của Công Giáo Cần Lao là để gây khó khăn, và
nhất là để làm nhục Phật giáo: nếu đám rước cứ đi bộ qua cầu thì tượng
ảnh của Đức Phật, cờ Phật phải chui dưới ảnh tượng của Đức Mẹ, mà nếu
qua sông thì phải tốn tải, phiền hà, mất thì giờ vì phải huy động hàng
ngàn chiếc đò. Và điểm uất ức chất ngất nhất là trong khi đồng bào Phật
tử khó khăn duy trì cuộc rước Phật trong những điều kiện hỗn loạn như
thế thì nhóm Công Giáo Cần Lao lại đắc ý chụp hình, viết phúc trình về
hành động kỳ thị của chúng gởi về cho Đức Cha, ông Cậu. Hành động kỳ thị
lẽ dĩ nhiên nếu đã xảy ra tại Huế thì nhiều nơi ở thôn quê, ở các tỉnh
khác lại càng trầm trọng và thường xuyên hơn. Tướng Tôn Thất Xứng (hiện ở
Canada) lúc còn làm Tư lệnh Sư đoàn I, đã cho tôi biết tại Quảng Trị
chính Đặng Sĩ, một Trung đoàn trưởng của ông ta, cũng đã dùng những thủ
đoạn trên buộc đám rước Phật phải băng qua những đồng ruộng để tránh con
đường tới chùa đã bị cờ và ảnh tượng của Đức Mẹ dựng lên chận ngang.
Lăng
nhục tôn giáo đã là một điều đáng phỉ nhổ rồi, nhưng hạ nhục một tôn
giáo, đạp nó xuống bùn mà mục đích là để cho tôn giáo mình được độc tôn
thì quả thật hoặc đó chỉ là một ngụy giáo, hoặc các tín đồ chỉ là một
thứ phản giáo mà thôi !
Những thủ đoạn này còn kéo dài mãi đến
năm 1959, sau khi ông Ngô Đình Cẩn nhận được nhiều báo cáo cho biết
những bà, những mẹ, những chị buôn thúng bán mẹt ở chợ Đông Ba, chợ
Cống, chợ An Cựu,... những dân lao động, những bác xích lô, những em học
sinh ở các trường tiểu học đã công khai và rộng rãi chưởi bới nhà Ngô
và nhóm Cần Lao Công Giáo thậm tệ, ông Cẩn mới ra lệnh chấm dứt.
Dù
sao thì những thì những thủ đoạn vừa kể trên chỉ là những hành động cục
bộ vì thật ra chính thái độ và các biện pháp của các Tỉnh trưởng, Quận
trưởng, Công an Cần Lao Công Giáo mới nguy hiểm hơn. Họ lạm dụng thủ tục
thăng thưởng, chế tài, đề bạt, thuyên chuyển để áp lực thuộc cấp phải
cải đạo, ai không bằng lòng cải đạo thì không được đề nghị thăng thưởng,
bị sa thải hay bị đổi đến những địa điểm hẻo lánh xa xôi.
Hơn
thế nữa, lên tới cấp chính sách, Cần Lao Công Giáo còn tàn ác hơn khi
chúng lợi dụng phong trào "Tố Cộng" để khủng bố dân lành buộc họ phải bỏ
đạo thờ ông bà để vào Công Giáo. Dân chúng vốn đã sống mười năm dưới
chế độ Việt Minh làm sao khỏi cộng tác và liên hệ ít nhiều với bộ máy
hành chính cũ, biết vậy nên nhóm Cần Lao Công Giáo dựa vào những thành
tích cũ đó để áp bức dân lành theo đạo, nếu không thì sẽ bị bắt bớ, tù
đày. Những sự kiện áp bức này đã được nhiều tác giả đề cập đến [5]. Oan
ức và tội nghiệp nhất là những đảng viên trong những đảng phái quốc gia
như Đại Việt, Việt Quốc, vốn là kẻ thù của Việt Minh, bị Việt Cộng nằm
vùng dưới chế độ Diệm lợi dụng chính sách Tố Cộng để tố ngược lại, làm
những người quốc gia biến thành Cộng Sản, rồi trở thành nạn nhân đau khổ
nhất của Cần Lao. Trái lại, cũng nhờ chính sách cải đạo mà Việt Cộng
len lỏi dễ dàng được vào chính quyền, vì thế mà mới năm 1959, Việt Cộng
đã đặt được hạ tầng cơ sở tại nông thôn miền Nam.
Dinh điền là
một trong những chương trình ông Diệm tự hào nhất trong những năm chấp
chánh. Nhưng nếu chỉ trên mặt kinh tế và chỉ giới hạn trong một vài địa
phương nó có đem lại thành công, thì trên mặt chính trị và nhân văn - mà
điều đó mới là điều quan trọng trong một cuộc chiến tranh nhân dân - nó
đã thật sự thất bại mà kết quả rõ ràng và bi đát nhất là lời oán trách
mỉa mai truyền tụng rộng rãi trong quần chúng: "theo đạo có gạo mà ăn".
Chương trình dinh điền là chính sách đưa dân miền Trung, nơi người đông
đất hẹp, lên vùng Cao Nguyên để lập nghiệp. Đó là một chủ trương xã hội,
kinh tế hợp lý trong công cuộc kiến thiết quốc gia nhưng, như Robert
Shaplen đã nói, bất cứ chánh sách nào mà hễ có ảnh hưởng của Cần Lao
Công Giáo xen vào thì đều thất bại hết.
Để lựa chọn dân đi
dinh điền, những Tỉnh trưởng, Quận trưởng Cần Lao vâng lệnh ông Nhu tổ
chức các buổi Bình Nghị (một bắt trước thô bạo kỹ thuật của Cộng Sản
trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất). Chúng tập họp dân chúng lại, rồi
bọn cán bộ xã ấp tay trong trình bày trường hợp của mỗi người dân (mà
chúng bắt theo đạo) để đề nghị gần như cưỡng ép ghi tên họ vào danh sách
"được" đi dinh điền. Nếu những người dân đó thuận theo đạo thì được ở
nhà, ngược lại thì phải đi Cao Nguyên. Biện pháp này đã dùng chính sách
của quốc gia như một biện pháp chế tài và đem tôn giáo can dự mạnh mẽ
vào sinh hoạt kinh tế của quốc gia. Nhưng lên Cao Nguyên mà nào có được
yên thân, di dân còn bị tai họa không theo đạo không có gạo mà ăn khốn
khổ hơn. Trung tâm trưởng dinh điền là các vị linh mục "Bắc kỳ di cư",
là những ông vua con có quyền sinh sát. Nếu di dân theo đạo thì được các
ông phát gạo, muối, cá khô, dụng cụ và cây giống cho làm ăn sinh sống,
nếu không thì chẳng những không được phát đồ ăn, dụng cụ, mà bàn thờ, lư
hương, tượng Phật còn bị ném vất ra đường... ai kháng cự thì các linh
mục cho lính, dân vệ, bảo an tới đàn áp. Một số dân dinh điền trốn được
về làng báo cáo những hành động kỳ thị áp bức cho các tăng sĩ Phật giáo
nên Hòa thượng Trí Thủ bèn gởi đơn và hồ sơ lên chính phủ và Quốc hội để
xin can thiệp. Đơn gởi đến 5, 7 lần và nhờ những nhân vật Phật giáo
thân với ông Nhu, ông Diệm như Thị trưởng Đà Lạt Trần văn Phước (hiện ở
Canada), cụ Án Võ Vọng trình bày, vận động, ông Diệm mới bằng lòng thành
lập một uỷ ban điều tra để cứu xét vụ kỳ thị tôn giáo ở các dinh điền.
Uỷ
ban điều tra gồm có Chủ tịch quốc hội Trần văn Lắm (hiện ở Úc) làm chủ
tịch với các uỷ viên là tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh quân đoàn II, cụ
Mai Thọ Truyền, chuyên viên Phủ Tổng Thống, Hoà thượng Trí Thủ, đại diện
Tổng Hội Phật giáo, và Thượng tọa Mãn Giác, chánh đại diện Phật giáo
Cao Nguyên. Uỷ ban đã đến từng trung tâm dinh điền ở bốn tỉnh Cao Nguyên
thị sát điều tra và xác nhận những sự kiện kỳ thị khủng bố, lập biên
bản có tất cả các chữ ký của các uỷ viên. Tờ trình của Uỷ ban được gởi
lên cho Tổng thống Diệm và được sao ra cho Quốc hội, Quân đoàn, đại biểu
chính phủ Trung phần và Cao nguyên, và các uỷ viên. Nhưng thời gian cứ
trôi qua mà chính phủ vẫn không có một xét xử nào, không có một biện
pháp nào để chấm dứt sự lộng hành của các linh mục. Đã thế, cũng vì cuộc
điều tra đó mà di dân bị trả thù nặng nề hơn nên trốn gần hết về quê
cũ. Do đó mà kế hoạch dinh điền chỉ thành công ở những trung tâm do giáo
dân khai thác, còn những vùng do hai mươi ngàn di dân từ miền Trung lên
thì đều thất bại và trở thành hoang phế hết.
Không thiếu gì
sách sử đã trình bày chính sách kỳ thị tôn giáo của chế độ Diệm trong
chương trình Khu Trù Mật, trong quốc sách Ấp Chiến Lược, trong kế hoạch
Dinh điền với nhiều tình tiết đau thương đầy máu lệ. Ở đây tôi chỉ trích
lại đoạn văn của nữ văn sĩ Frances Fitzgerald nói về chủ trương "theo
đạo có gạo mà ăn" của chế độ Diệm:
Trong suốt những năm cầm
quyền, Ngô Đình Diệm chỉ có một đồng minh trong nước là khối người Công
giáo, nhất là Công giáo miền Bắc di cư. Ngay từ khởi đầu, ông Diệm đã tự
trói mình một cách chặt chẽ vào khối Công giáo đó và chỉ đã nâng đỡ các
làng Công giáo hơn mọi thành phần dân chúng còn lại. Những chức quyền
của chế độ Diệm hợp tác chặt chẽ với các linh mục trong các làng Công
giáo đã được lãnh viện trợ Mỹ. Những chức quyền đó cho người Công giáo
làm gỗ tại rừng cấm của quốc gia và độc quyền thu lợi tức mùa màng do Mỹ
viện trợ kỹ thuật.
"Theo đạo để có gạo mà ăn" là khẩu hiệu
xưa cũ từ thời đô hộ Pháp. Dưới chế độ Diệm, lương dân miền Nam cũng
chịu sự cưỡng chế đó, đặc biệt là dân miền Trung. Hàng ngàn dân chúng,
nhiều khi cả làng, phải theo đạo Công giáo để tránh khỏi các tạp dịch
nặng nề, hay tránh khỏi việc rời làng vào nơi rừng thiêng nước độc. Tất
nhiên đó là cái lợi cho giới Công giáo. Nuôi sống người Công giáo bằng
sự hy sinh của lương dân, chính phủ Diệm đã có một đường lối chính trị
thiển cận mà ông Diệm không có một sự lựa chọn nào khác hơn, người Mỹ
cũng không hiến cho ông ta một kế hoạch nào [6].
Đúng như
những nhận xét của Frances Fitzgerald, nhiều nơi dân cả làng bị bắt buộc
phải cải đạo để tránh nạn rời làng, vì thế Bản tin Công Giáo Quốc tế,
phát hành tại Paris ngày 15 tháng 3 năm 1963, mới hân hoan thông bào
thành quả của phong trào cải đạo tại miền Nam dưới chế độ Diệm. Ví dụ
làng Phú Hoà tại Bình Định vào năm 1958 chỉ có 692 giáo dân, thế mà năm
1959, con số theo đạo Công giáo đã lên đến 2000 người. Nghĩa là trong
một năm tăng gần 300%. Giám mục Ngô Đình Thục cũng cho biết là tại địa
phận Vĩnh Long có rất nhiều làng "xin" được cải đạo tập thể đến nỗi
thiếu cả kẻ chăn chiên. Theo Ngô Đình Thục thì tại Viễn Đông, ngoài Phi
Luật Tân ra, Việt Nam là quốc gia sẽ đi đến việc cả nước theo đạo [7].
Trên
đây là một số ít các trường hợp điển hình. Thật ra với 9, 10 năm dưới
chế độ Diệm, người dân thấp cổ bé miệng ở nông thôn, nhất là nông thôn
miền Trung, đã phải chịu đựng một chính sách kỳ thị khủng khiếp mà thành
phần trí thức và những người ăn sung mặc sướng ở thị thành mấy ai biết
được nỗi khổ của lương dân. Đã thế, những nhà lãnh đạo Phật giáo lại
cũng chỉ âm thầm chịu đựng tai hoạ do thế lực Công giáo Cần Lao gây ra
mà không có một phản ứng nào. Cho đến năm 1963, bị dày xéo quá độ phải
vùng lên đấu tranh, giáo hội mới gởi lên cho tổ chức Nhân Quyền của Liên
Hiệp Quốc tại New York những tập hồ sơ dày cộm nói về tội ác của chế độ
Diệm [8].
Và sau khi chế độ Diệm bị lật đổ, vào năm 1964, tu
sĩ Tuệ Sĩ mới dám cho xuất bản cuốn Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử do
nhà xuất bản Hoa Nghiêm đường Trần Bình Trọng phát hành để nêu tên tuổi
nạn nhân của chính sách kỳ thị tôn giáo dưới chế độ Diệm (cuốn sách của
Tuệ Sĩ hiện có trong các thư viện lớn tại Hoa Kỳ).
Nếu những
hành động kỳ thị tôn giáo có tính cách cục bộ địa phương là do các linh
mục và chính quyền địa phương thực hiện, thì chính sách kỳ thị quy mô có
tính cách quốc gia toàn diện và thâm độc hơn lại do chính anh em ông
Diệm tự điều khiển lấy.
Năm 1957, chính phủ Diệm bãi bỏ lễ
Phật Đản trong lịch trình ngày nghỉ lễ hàng năm của quốc gia. Thủ đoạn
này là để làm cho công chức quân nhân, học sinh, sinh viên, thợ thuyền
theo đạo Phật không được nghỉ lễ để đi chùa mừng Phật Đản. Trước thủ
đoạn thâm độc đó, Phật tử phản ứng lại bằng cách tổ chức Phật Đản to lớn
hơn, long trọng hơn những năm trước nên lôi kéo được dư luận nổi lên
công phẫn chống đối. Vì thế chính phủ mới chịu "sửa sai" cho ghi lại
ngày nghỉ lễ hàng năm của quốc gia [9].
Vừa nắm được chính
quyền, anh em ông Diệm đã vội nghĩ ngay đến việc trùng tu nhà thờ La
Vang rồi nâng lên hàng Vương Cung Thánh Đường. Vào ngày 9-3-1960, ngôi
nhà thờ này được Toà Thánh Vatican tặng một cây sáp. Ngày 17-8-1961, Ngô
Đình Thục tổ chức một đại lễ "dâng hiến Đức Mẹ hiện ra cách đây 160
năm", có đại điện các đoàn thể và hàng vạn giáo dân tham dự. Điểm cay
đắng là ban đầu dân chúng chỉ tưởng anh em ông Diệm tôn vinh một ngôi
giáo đường của tôn giáo mình mà thôi, ai ngờ họ còn muốn biến nhà thờ La
Vang thành một trung tâm phát huy tinh thần của quốc gia cho toàn dân
toàn quốc. Chẳng những trong việc trùng tu nhà thờ La Vang tiền bạc đóng
góp là của người dân Lương mà đứng đầu danh sách lễ dâng hiến này là
Phó Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà, một Phật tử. Ngô Đình Thục còn cho
dựng một tấm bảng lớn bắng xi măng cốt sắt với hàng chữ "Pháo Đài Tinh
Thần của Quốc Gia” (The Spiritual Bastion of The Country) để 15 triệu
dân miền Nam, dù đại đa số là tín đồ của các tôn giáo khác, phải mặc
nhiên công nhận một ngôi nhà thờ của Thiên Chúa giáo như là biểu tượng
chính trị và văn hoá của quốc gia, như là thành trì tinh thần của dân
tộc.
Hành động kiêu căng và thách đố đó của vị giáo phẩm cao
cấp của Hội Thánh Công Giáo Việt Nam đã nói lên rất rõ ràng ý đồ xâm
lăng tôn giáo, cũng như nhận thức chính trị chỉ đạo cho rằng chỉ có Công
giáo mới chống Cộng của Giáo Hội này. Việc biến nhà thờ La Vang ở Quảng
Trị thành một thứ đền thờ Quốc Tổ (phải gọi là Quốc Mẫu thì đúng hơn!)
đã dám làm thì ngay tại Sài Gòn, việc biến Toà Đô Sảnh của thủ đô thành
một địa điểm tôn giáo để mừng Chúa ra đời không phải là chuyện chế độ
Diệm ngại ngùng nữa. Tại Sài Gòn đã có rất nhiều nhà thờ lớn trên các
khu đất khang trang, có quá nhiều nữa là khác. Ngay tại trung tâm thủ
đô, ở quận nhất sang trọng của giao điểm hai đường Tự Do và Thống Nhất
đã có Vương Cung Thánh Đường đồ sộ, thế mà hàng năm cứ vào dịp lễ Giáng
Sinh, cơ sở quốc gia là Toà Đô Sảnh ở đại lộ Nguyễn Huệ vẫn cứ bị trưng
dụng để treo đèn kết hoa mừng Chúa xuống trần.
Tệ hại hơn nữa
là biết lấy nhà thờ Đức Mẹ La Vang làm "pháo đài tinh thần của quốc
gia", biết lấy Toà Đô Sảnh để vinh danh Thiên Chúa, nhưng anh em ông
Diệm lại không chịu xây đền thờ Quốc Tổ, lại càng không kỷ niệm giỗ tổ
Hùng Vương để duy trì truyền thống dân tộc và thoả mãn nguyện vọng của
nhân dân. Cái danh hiệu Hùng Vương chỉ được đặt tên cho một con đường xa
xôi trong vùng Chợ Lớn của người Tàu, trong khi Đại lộ thênh thang nối
liền trung tâm thành phố với phi cảng quốc tế Tân Sơn Nhất thì lại trang
trọng đặt tên cho người anh là ô ng Ngô Đình Khôi. Thủ đô Việt Nam Cộng
Hoà không có được một Văn Miếu, không có được một bức tượng Tổ, trong
khi những bức tượng đồng của các nhân vật Thiên Chúa giáo thì vẫn được
duy trì chăm sóc như dưới thời Pháp thuộc!
Dinh Độc Lập xây
cất để cho mình và gia đình mình ở thì to, mà đền thờ Quốc Tổ thì không
có, còn đền thờ vị anh hùng khai quốc là Đức Tả Quân trải qua hai triều
Tổng thống vẫn không cao hơn thềm dinh Độc Lập [10].
Tôi còn
nhớ nhà văn Chu Tử có kể lại trong tuần báo Đời ở Sài Gòn câu chuyện của
một giáo sư Đại học nặng lòng với Quốc Tổ Hùng Vương, đã đề nghị ông
Diệm xây đền thờ Quốc Tổ thì bị ông Diệm trỏ mặt nạt lớn: "Tổ anh chứ Tổ
tôi à!" Còn nhà văn Võ Phiến trong tác phẩm "Đất Nước Quê Hương” có cho
biết mãi sau khi chế độ Diệm không còn nữa, nhân dân các tỉnh đã hăng
say tự động xây đền thờ Quốc Tổ. Tại Sài Gòn, nhiều đoàn thể thanh niên,
sinh viên phát động phong trào "về nguồn", thành lập Hội Việt Võ Đạo
sau khi chế độ Diệm bị lật đổ, đã hàng năm tổ chức lễ kỷ niệm Tổ Hùng
Vương để cùng với các thành phần khác của dân chúng vận động xây đền thờ
Quốc Tổ. Lòng dân hướng về Quốc Tổ như thế mà anh em ông Diệm lại không
coi Vua Hùng là giòng họ Việt tộc đã khai mở đất nước mà chỉ lo tôn
vinh các giáo đường.
Trái lại, Cộng Sản Việt Nam nắm vững được
tâm lý nhân dân để vận dụng cho những mục tiêu của họ, đã biết đánh
động vào đúng tình cảm thiêng liêng nhớ nước thương nòi và cái bản sắc
văn hoá chim có tổ người có tông của đồng bào toàn quốc bằng cách chủ
trương công khai và đại quy mô một chương trình trùng tu đền thờ Quốc Tổ
[11]. Ngay từ năm 1976, sau khi chiếm được miền Nam, Cộng Sản đã biết
tổ chức một cuộc triển lãm kỷ niệm vua Hùng rất trọng đại tại Bộ Tài
Chánh cũ ở Sài Gòn với chủ đề rút từ câu nói của ông Hồ Chí Minh "Hùng
Vương dựng nước, chúng ta giữ nước" và đã thu hút được rất đông đồng bào
đến xem [12]. Cộng Sản còn biết bày trò như thế để lấy lòng dân, còn
chế độ Diệm thì chỉ biết độc tôn cái tôn giáo của mình để khiêu khích
dân, trách gì nước chẳng mất!
Vì không xây đền thờ Quốc Tổ nên
ông Diệm dự định xây "Đài Kỷ Niệm Quốc Gia" đồ sộ tại Biên Hoà trên núi
Châu Thới. Họa đồ do Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ vẽ, và ước tính chi tiêu
độ một trăm triệu đồng bạc Việt Nam (dự án này đã được đăng trên báo
Sáng Dội Miền Nam do kiến trúc sư Vũ Đức Diên làm chủ nhiệm). Nói đến
việc xây dựng một đài kỷ niệm quốc gia để kỷ niệm công nghiệp tiền nhân
và tạo dựng cho quê hương một thắng cảnh thì ai lại không hoan nghênh
sáng kiến đó. Nhưng, như tất cả chính sách quốc gia của ông Diệm mà cứu
cánh chỉ phục vụ cho gia đình và tôn giáo của ông ta, dự án này cũng
không thoát khỏi ý đồ đó. Vì để xây dựng đài kỷ niệm quốc gia, đất đai
thiếu gì mà phải chọn ngay địa điểm gần một ngôi chùa tiếng tăm của Phật
giáo trên núi Châu Thới để triệt hạ ngôi chùa đó đi. Trên ngọn núi cao
65 thước này có chùa Hội Sơn được trùng tu vào đầu thế kỷ thứ 19 do công
đức của nhà sư Khải Long, vốn chẳng những là nơi thờ Phật mà còn là một
thắng cảnh của dân chúng Đồng Nai từ lâu đời. Thời thái bình, thập
phương từ các vùng Biên Hoà, Cát Lái, Thủ Đức... kéo về chùa Hội Sơn
quanh năm cúng kiến đông như ngày hội, do đó mới gọi là "Hội Sơn". Câu
ca dao "Bao giờ cạn lạch Đồng Nai. Nghiêng chùa Châu Thới mới phai lời
nguyền" được truyền tụng đời này qua đời khác đã đủ nói lên cái tâm
nguyện thiêng liêng và cái tình cảm thắm thiết của dân Đồng Nai quyết
tôn sùng và bảo vệ chùa Hội Sơn như thế nào. Biết được giá trị lịch sử
và ảnh hưởng văn hoá của chùa Hội Sơn, ông Diệm bèn cho xây một căn cứ
quân sự trên núi Châu Thới gần chùa Hội Sơn để cho binh sĩ phá phách làm
mất vẻ tôn nghiêm của chùa và cho phép công binh cũng như các nhà thầu
khai thác và làm đá chung quanh chùa để cho chân núi Châu Thới mỗi ngày
một lở ra. Vị trí núi Châu Thới bị thâu hẹp, chùa mất vẻ tôn nghiêm,
cảnh trí bị tiêu huỷ, Phật tử tới chùa khó khăn nên các vị sư trụ trì
cũng phải rời đi nơi khác. Nhưng rồi ông Diệm cũng không xây được đài kỷ
niệm quốc gia vì chiến cuộc gia tăng và vì nhiều biến cố chính trị xảy
ra liên tiếp làm cho ông không còn muốn xúc tiến dự án đó nữa. Nhưng dù
sao thì chùa Hội Sơn cũng trở thành hoang phế, và chính điều này đủ thỏa
mãn cho ông rồi.
Ngày còn ở quê nhà, tôi có một số tài liệu
cũ nói về lịch sử nhà thờ La Vang tại Quảng Trị và nhà thờ Đức Bà tại
Sài Gòn. Theo tài liệu này thì ngày xưa, thời Pháp chưa đô hộ Việt Nam,
các vị trí đó là địa điểm của những ngôi chùa, nhưng khi quân Pháp xâm
lăng Việt Nam vào thế kỷ thứ 18, các giáo sĩ ngoại quốc đã cưỡng chiếm
và phá huỷ các ngôi chùa đó đi để xây nhà thờ, Anh em ông Diệm một lần
nữa lại dẫm lên con đường của thực dân và Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp
để tiêu diệt chùa chiền, đền miễu Việt Nam như nhà văn Sơn Nam có kể
lại trong tác phẩm "Văn Minh Miệt Vườn". Cũng trong việc phá chùa dưới
chế độ Diệm, ký giả Bernard Fall, đã kể một câu chuyện về Hoà Thượng Sơn
Vang người Việt gốc Miên như sau:
Tháng 7 năm 1961, quân đội
VNCH hành quân tỉnh Vĩnh Bình và khi rút đi đã để lại hàng ngàn dân quê
khốn khổ, nhà sư chánh đại diện tỉnh đã kêu ca để chống lại việc quân
đội bắn phá chùa chiền và giam cầm một số sư sãi nhưng vẫn không được
xét xử. Mấy tháng sau, tên của Hòa Thượng Sơn Vang xuất hiện trong danh
sách lãnh đạo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam [13].
Việc nhà sư
Miên tại Vĩnh Bình có tên trong danh sách này đã được chế độ Diệm và
những kẻ đồng loã với chính sách kỳ thị tôn giáo như Marguerite Higgins
thổi lớn lên và xuyên tạc rằng Phật giáo là Cộng Sản với chứng cớ rõ
ràng [14].
Vì sao nhà sư Sơn Vang lại theo Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam ? Nếu chế độ Diệm không chủ trương kỳ thị tôn giáo, phá huỷ
chùa chiền, đàn áp sư sãi thì liệu nhà sư có bỏ chùa vào bưng để cho
Việt Cộng khôn khéo đẩy lên làm cấp lãnh đạo tượng trưng không? Huống gì
Vĩnh Bình phải xét trong bối cảnh mâu thuẫn Việt-Miên để thấy rằng nhà
sư gốc Miên đó từ lâu đã muốn yên thân làm một nạn nhân câm nín mong tu
học cho viên mãn mà thôi. Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng muốn ngừng,
sức oằn của thân cây đến một lúc nào bị đè nén quá phải bật dậy phản
ứng. Ngoài ra, cái luận điệu vịn vào chỉ một nhà sư gốc Miên có tên
trong thành phần lãnh đạo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam diễn dịch bừa bãi
rằng cả Phật giáo theo Cộng Sản là một thứ luận điệu nếu không ngu xuẩn
thì quả là độc ác.
Không khác gì vì một linh mục Chân Tín
thân Cộng, vì một linh mục Nguyễn Đình Thi hoạt động cho Cộng Sản tại
Pháp, hay vì một Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình thi hành chỉ thị Cộng Sản
sau 1975 để cho rằng toàn bộ Công giáo Việt Nam đều theo Cộng Sản. Cái
luận điệu vu cáo chụp mũ Phật giáo đó đã hơn một lần giúp tôi, khi nhìn
lại lịch sử cận đại và hiện đại của dân tộc, phân biệt rõ ràng hơn khi
phê phán những tội lỗi đối với dân tộc của giáo hội Công giáo Việt
Nam,vốn là một bộ phận nằm trong cơ cấu của Công giáo La Mã.
Dưới
chế độ Diệm, nhà thờ mọc lên khắp nơi, hầu như mọi đơn vị quân đội
(ngay cả giữa Sài Gòn) đều có một nhà thờ, và ngay những nhà thờ cũ bị
hư hại thời chiến tranh cũng đều được trùng tu lại hết. Những cơ sở văn
hoá, xã hội, kinh tế, các trường tiểu học, trung học, đại học tư, bệnh
viện, Giáo Hoàng học viện Pie X... của Công giáo mọc lên rất nhiều.
Trong
lúc đó thì Cao Đài, Hoà Hảo không có một cơ sở nào đáng kể ngoài các
Toà Thánh, còn Phật giáo cũng chỉ vỏn vẹn mấy trường Bồ Đề cũ từ thời
trước để lại. Thế mà Cần Lao Công Giáo vẫn chưa vừa lòng, vẫn tìm mọi
cách để bành trướng thêm hầu chèn ép các tôn giáo khác.
Hội
Thánh Tin Lành, một tôn giáo nhỏ, không ảnh hưởng gì nhiều đến đời sống
quốc gia và không tranh chấp với ai, những tín đồ lại có tinh thần chống
Cộng rất cao, chỉ xin xây cất một bệnh xá và một trường thần học nhỏ bé
tại Hòn Chồng (Nha Trang) mà cũng bị kỳ thị. Cụ Lê Văn Thái, Hội trưởng
Hội Tin Lành Việt Nam (mất tại Los Angeles năm 1985) gởi đơn khiếu nại
tới chính quyền hơn hai năm liền mà vẫn bị từ khước vì chính quyền cho
rằng đất Cụ xin là bất động sản của trường La San, nghĩa là đất của Công
Giáo (mà thật ra là đất của quốc gia). Trong lúc đó thì Tiểu chủng viện
La San đã chễm chệ chiếm chọn ngọn đồi đẹp nhất thành phố Nha Trang,
không liên hệ gì tới miếng đất ở chân đồi nơi mà cụ Thái xin xây cất cơ
sở cho Hội Thánh Tin Lành. Vốn là chỗ thân tình, cụ Thái bèn can thiệp
với tôi về việc bị Công giáo kỳ thị để nhờ tôi đem vụ này trình thẳng
với ông Diệm. Tôi nhắc cho ông Diệm biết cụ Thái đã từng gặp ông Hồ Chí
Minh hai lần để phản đối ông Hồ Chí Minh đã áp đặt chế độ Cộng Sản lên
đầu dân Việt Nam, và tôi cũng nhắc lại những ngày ông Diệm ra Nha Trang,
ông vẫn thường mời cụ Thái và giám mục Piquet đàm đạo, rồi tôi lưu ý
ông Diệm rằng đất cụ Thái xin là đất của quốc gia, không phải của Công
giáo, đồng thời nêu lên cho ông Diệm biết việc kỳ thị tôn giáo quá trắng
trợn tại địa phương. Đến lúc đó ông Diệm mới chịu ra lệnh cho phép Cụ
Thái xây cất cơ sở xã hội của Hội Thành Tin lành. Việc này quý vị mục sư
Lê Hoàng Phu, Nguyễn Văn Chánh, Nguyễn Bá Quang, v.v... hiện ở Los
Angeles và Seattle đều biết rõ.
-o0o-
Dưới thời Đệ
Nhất Cộng Hoà, các tổ chức Công giáo tha hồ xuất bản báo chí, kinh sách,
tiếng nói Công giáo ra rả ngày đêm trên các đài truyền thanh. Thế mà
kinh điển Phật giáo lại bị kiểm duyệt gắt gao đến nỗi Phật giáo không
dám ra một tờ báo có tính quần chúng suốt mười năm trời, ngay cả việc sử
dụng đài phát thanh cũng không được chấp thuận.
Ngày 23-7-58,
ông Ngô Đình Nhu mở một hội nghị toàn quốc tại Sài Gòn về vấn đề giáo
dục học đường. Sau hội nghị này, một nghị định chính phủ được ban hành,
trong đó có biện pháp "kiểm soát chặt chẽ các trường tư thục". Giới Công
giáo nổi lên phản kháng biện pháp kiểm soát của Ngô Đình Nhu, nhiều tạp
chí Công giáo tại Sài Gòn đã mở một chiến dịch đả kích biện pháp này.
Phong trào đang ồn ào như thế thì bỗng nhiên dịu xuống một cách đột ngột
và lạ lùng. Sau đó người ta mới biết hàng giáo phẩm Công giáo đã được
hai ông Nhu và Thục giải thích cho biết biện pháp này phải được công
khai ban hành để biện minh cho kế hoạch làm tê liệt các cơ sở giáo dục
của Phật giáo. Điển hình đau đớn là từ sau hội nghị giáo dục toàn quốc
đó, trong nội dung giảng dạy về văn chương Việt Nam ta thấy trong muôn
ngàn phong dao, đồng dao nói về tôn giáo tại Việt Nam, những câu thơ
châm biếm sư sãi kiểu "Ba cô đội gạo lên chùa, Một cô yếm thắm bỏ bùa
cho Sư..." đã được cho vào chương trình giáo dục để giảng dạy con em
[15], còn những phân tích lịch sử nghiên cứu rất cần thiết cho thế hệ
thanh niên yêu nước về sự cấu kết giữa thực dân Pháp và Giáo Hội Công
giáo La Mã Vatican trong việc xâm lăng nước ta thì bị cấm giảng dạy vì
bảo đó là tuyên truyền của Cộng Sản [16].
Suốt 9, 10 năm trời
nhà Ngô cho xuất ngoại không biết bao nhiêu là linh mục, giám mục, bà
sơ, sư huynh, đi hành hương tại Fatima, tại Lourdes ở Pháp, tại Y Pha
Nho, đi viếng thăm Đức Giáo Hoàng tại La Mã, đi du học tại các chủng
viện quốc tế, đi du lịch, đi chữa bệnh,... nếu tính ra được thì số ngoại
tệ bị mất không phải là nhỏ. Chế độ Diệm cũng cho rất nhiều sinh viên
Công giáo xuất ngoại du học trong chính sách "trồng người" để đào tạo
cán bộ, công chức cao cấp cho guồng máy chính quyền và tổ chức dân sự để
chuẩn bị cho kế sách Công giáo hoá miền Nam. Thế mà bên Phật giáo chỉ
được chính thức một lần đi dự hội nghị Phật Giáo Quốc Tế nhóm họp tại
Colombo, và một lần ba Thượng Toạ Trí Thủ, Đôn Hậu, Trí Quang tháp tùng
một phái đoàn chính phủ do Tổng trưởng Thông tin Trần Chánh Thành cầm
đầu để tham dự hội chợ That Luong tại Lào mà thôi. Và chỉ có hai nhà sư
được xuất ngoại. Đó là các Thượng toạ Nhất Hạnh và Mãn Giác. Tôi không
được rõ Thượng toạ Nhất Hạnh đi bằng cách nào nhưng chắc chắn không do
chính phủ Diệm cho đi một cách chính thức. Còn trường hợp Thượng toạ Mãn
Giác thì ông Võ Văn Hải cho tôi biết Thượng Toạ được một học bổng của
Asia Foudation cấp cho đi du học tại Nhật Bản nhưng Tổng thống Diệm nhất
định không cho đi. Hải cũng đã hết lời xin cho Thượng Toạ mà không được
nên phải cầu cứu đến thân sinh là cụ Võ Vọng, vốn là một bạn chí thân
với ông Diệm từ thời còn làm quan. Cụ Võ, vốn là một cư sĩ Phật giáo,
bèn về Sài Gòn trách móc ông Diệm sao nỡ có thái độ kỳ thị lộ liễu đến
thế, bấy giờ ông Diệm mới chịu cho Thượng toạ Mãn Giác ra đi.
Ngoài
ra, chính sách kỳ thị tôn giáo trong quân đội lại còn trắng trợn, lộ
liễu hơn. Quân đội là xương sống của quốc gia, là thành trì bảo vệ đất
nước và chế độ, đáng lẽ phải được đối xử hết sức công minh về mặt tâm
linh và tinh thần thì ông Diệm lại không cho thành lập ngành Tuyên Úy
Phật Giáo. Ông chỉ cho Công giáo và Tin Lành thành lập ngành này mà
thôi. Đó là một hành động kỳ thị tôn giáo rõ rệt thế mà nữ ký giả
Margueritte Higgins, người bạn thân của bà Nhu, trong cuốn "Our Vietnam
Nightmare", dám viết rằng sở dĩ ông Diệm không cho Phật giáo thành lập
ngành Tuyên Uý Phật Giáo vì Phật giáo chống chiến tranh. Viết như thế,
người nữ ký giả thiếu lương thiện này đã không biết rằng từ sau khi ông
Diệm bị lật đổ, các chính phủ sau đó đã cho Phật giáo được thành lập
ngành Tuyên Úy và tổ chức này đã sinh hoạt cho đến ngày miền Nam rơi vào
tay Cộng Sản vào tháng 4 năm 1975.
Những sự kiện kỳ thị, đàn
áp, khống chế, hạ nhục, tiêu diệt, đánh phá mà tôi kể ở trên chỉ là
những sự kiện tiêu biểu và khá phổ biến mà cả nước ai cũng biết. Còn
những thảm kịch khác xảy ra hàng ngày trong các địa phương xa xôi, xảy
ra âm thầm trong những đêm tối bí mật thì mãi cho đến sau ngày cách mạng
1-11-63 mới dần hồi được sưu tập và ghi nhận lại.
Sở dĩ chế
độ Diệm dám trắng trợn thi hành những biện pháp đó là vì chính sách kỳ
thị tôn giáo của chính phủ đã - ở một mặt nào đó - được gia đình ông
Diệm tráo trở hợp pháp qua đạo dụ số 10 năm 1952 của thực dân để lại.
Thật
vậy, trong khi tình trạng pháp lý của Công giáo dưới thời ông Diệm là
một tình trạng thả lỏng, nghĩa là không bị ràng buộc bởi một văn kiện
nào thì Phật giáo và các tôn giáo khác lại có cái căn bản Pháp lý của
đạo dụ số 10 chi phối. Đạo dụ số 10 là một sản phẩm hành chánh độc ác và
thâm hiểm nhất của thực dân Pháp trong chính sách tiêu diệt các tôn
giáo tại Việt Nam, vì một mặt chúng nhằm làm tê liệt các sinh hoạt tín
ngưỡng của quần chúng Việt Nam, mặt khác chúng dành độc quyền cho Công
giáo cái ưu thế toàn quyền hành đạo. Điều 1 của đạo dụ liệt mọi tôn giáo
(trừ Công giáo) vào loại hiệp hội thường như đua ngựa, đá banh,... Điều
7 cho phép chính quyền từ chối không cấp giấy phép hoạt động, hoặc cấp
rồi mà vẫn có thể rút lại không cần phải nói lý do. Điều 10 và 12 cho
phép bất cứ nhân viên hành pháp hay tư pháp nào cũng có quyền kiểm soát
các hiệp hội tôn giáo. Điều 14 và 28 giới hạn tài sản của một tôn giáo ở
mức nào đó mà thôi, và dĩ nhiên điều số 44 dành một chế độ đặc biệt sẽ
quy định sau (nhưng rồi chẳng bao giờ quy định) cho các Hội Truyền Giáo
Thiên Chúa Giáo [17]
Rõ ràng phải có một thâm ý độc ác, anh em
ông Diệm mới duy trì cái đạo dụ đầy kỳ thị như thế của thực dân cho các
tôn giáo khác tại miền Nam, trong khi đã xoá bỏ hầu hết mọi cơ cấu, đã
gần như xé bỏ mọi văn kiện pháp lý và hành chánh của chế độ thực dân cũ.
Sự duy trì đạo dụ này cho thấy thâm ý gì nếu không phải là quyết tâm
tiếp tục chính sách Công giáo hoá của thực dân Pháp, tiếp tục biến Việt
Nam thành cánh tay nối dài của một loại đế quốc Vatican Trung cổ tại lục
địa Á Châu?
Thế mà sau này, ngoài những dư đảng Cần Lao Công
Giáo lo làm công tác viết sử hoài Ngô để mong dựng lại một "tinh thần
Ngô Đình Diệm", vẫn còn có những trí thức Công giáo như Cao Thế Dung,
như Nguyễn Kim Long, cho rằng không có kỳ thị tôn giáo dưới chế độ Diệm,
nếu có những đàn áp thì đó chẳng qua chỉ là những "tệ đoan xã hội mà
thôi" [18].
Bảo rằng anh em ông Diệm không kỳ thị tôn giáo thì
tại sao họ giữ lại một đạo luật bất bình đẳng ? Bảo rằng Việt Nam Cộng
Hòa là một quốc gia độc lập tại sao họ cho thi hành một đạo luật bất
công và lỗi thời của thực dân ? Bảo rằng chế độ Diệm là một chế độ nhân
vị, một chế độ "cộng đồng đồng tiến" tại sao lại chỉ có người Công giáo
là có nhân vị, là được đồng tiến, còn tín đồ của các tôn giáo khác lại
mất nhân vị, không được đồng tiến ? Tại sao Công giáo chỉ có một triệu
rưởi tín đồ mà lại được hưởng một thứ siêu quy chế của một tôn giáo có
đủ đặc quyền đặc lợi, trong lúc những tôn giáo kia có đến 14 triệu dân
số lại phải chịu quy chế của một hiệp hội mà sự sinh hoạt sống chết nằm
trong tay chính quyền? Tại sao Phật Giáo Việt Nam ra đời từ 2.000 năm
trước, có công giữ nước, dựng nước, chống Bắc mở Nam lại bị coi là một
hiệp hội trong lúc Thiên Chúa giáo mới du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ
16, nhất là từng giúp cho quân xâm lược Pháp thôn tính quê hương, lại
được nhận là một tôn giáo chính thức không bị pháp luật kiểm soát, và có
quyền sở hữu đất đai của quốc gia. Dưới chế độ Ngô Đình Diệm, biết bao
xương máu của dân và lính, cũng vốn là tín đồ của các tôn giáo khác đổ
ra để bảo vệ "ngai vàng" cho một gia đình, cho một nhóm Cần Lao Công
Giáo, thế mà phần thiêng liêng của họ còn bị tước đoạt. Còn gì chua xót
tủi nhục bằng? Là một người đã làm việc cho ông Diệm hơn 20 năm trời, đã
có những giờ phút tâm tình với ông ta, đã từng nghe ông mỉa mai đạo
Phật, ca ngợi đạo Chúa, đã giao tiếp với anh em ông ta và nhóm Cần Lao
Công Giáo lâu năm và kinh qua không biết bao nhiêu âm mưu thủ đoạn của
họ, tôi có thể nói mà không sợ sai lầm rằng nếu chế độ tồn tại thêm 5, 7
năm nữa thì sách sử của dân tộc sẽ không còn có phương danh những nhân
vật như sư Vạn Hạnh, như Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông,
Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Lý Đông A, Phạm Công Tắc, Huỳnh Phú Sổ,...
những thiền sư đã chiến đấu cho quê hương, dân tộc. Chẳng những thế mà
tác phẩm của Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Trần Trọng Kim,
Phạm Quỳnh, Phan Văn Hùm, Đào Trinh Nhất, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn,
v.v... hễ có ca ngợi đạo Phật, triết lý đạo Phật, đạo Lão, đạo Nho đều
sẽ bị "thất hoá" để chỉ còn lại hình ảnh của "Doang", của "Báp Tít", của
"Phao Lồ", của "Phê Rô",... trong nền văn học sử Việt Nam mà thôi.
Tờ
Infomation Catholique Internationle tại Paris, đã chẳng huênh hoang:
"rồi đây dân Việt Nam sẽ theo đạo (Công giáo) hết" đó sao?
Đạo
dụ số 10 ra đời năm 1952, trong thời gian mà gót giày sắt của quân đội
Pháp còn ngự trị trên đất nước quê hương nên đã đem lại bao nhiêu bất
công, tủi nhục, đau khổ cho một tôn giáo có nhiều tín đồ nhất Việt Nam.
Cho nên khi ông Diệm lên cầm quyền, tưởng nước nhà từ nay độc lập tự do,
Hoà thượng Trí Thủ đã mấy lần gởi đơn lên cho chính phủ, sao gởi cho
mấy ông đại biểu chính phủ Nguyễn Đôn Duyến rồi Hồ Đắc Khương để xin
Tổng thống Diệm huỷ bỏ, thế mà suốt 9, 10 năm trời, tiếng kêu thương của
Phật giáo đồ không làm rung động tâm tư hay thay đổi được sự ngoan cố
của một gia đình chỉ biết "xin Thượng Đế ban phép lành". Sự ngoan cố
càng được biểu lộ rõ rệt hơn trong thời kỳ đấu tranh năm 1963, khi Phật
giáo yêu cầu bãi bỏ đạo dụ số 10 mà Tổng thống Diệm chỉ tìm cách trì
hoãn, rồi đâu vẫn vào đấy. Thế mà trong chương trình "Việt Nam, a
Television History" năm 1983 của ký giả Stanley Kanow trên đài PBS Hoa
Kỳ, cựu Đại sứ Ngô Đình Luyện đã bảo rằng: "anh tôi đã giúp cho Phật
giáo rất nhiều". Tổng thống Diệm đã giúp gì cho Phật giáo? Tại sao việc
đáng giúp nhất, dễ giúp nhất để quốc gia đoàn kết, tôn giáo hoà đồng là
việc bãi bỏ đạo dụ số 10, Tổng thống Diệm lại không chịu giúp? Bãi bỏ
đạo dụ số 10 là một bổn phận hành chánh, một đường lối chính trị đáng
làm và phải làm mà anh em ông Diệm còn không làm, nói gì đến giúp.
Một
điểm quan trọng cần phải nhấn mạnh ở đây là trong suốt 9 năm của chế độ
Ngô Đình Diệm, không phải hàng giáo phẩm nào, lại càng không phải người
Công giáo nào cũng đồng ý với chính sách kỳ thị tôn giáo của chính
quyền Diệm và của Giáo Hội Công giáo Việt Nam.
Đa số người
Công giáo miền Nam (Nam kỳ cũ) và ngay cả người Công giáo miền Bắc, miền
Trung, trong nhiều trường hợp, ngay từ đầu đã không chấp nhận chủ
trương phản dân tộc của anh em ông Diệm.
Không thiếu gì những
cây bút, những phong trào đoàn thể Công giáo đặt lại vấn đề "lương tâm
Công giáo", đòi hỏi người Công giáo phải "tìm về dân tộc". Những nhân
sĩ, những trí trức, những tổ chức Công giáo tiến bộ đó chân thành, khắc
khoải, xót xa với vận mệnh đất nước, muốn đặt lại và tự hỏi về ý nghĩa
cũng như xác tín trước kia để đi đến việc phân biệt rõ đâu là chính, đâu
là tà, đâu là dân tộc, đâu là ngoại lai. Nhưng những vận động, những
hoài bão tha thiết của họ dưới chế độ Diệm đều trở thành ảo tưởng. Những
tiếng kêu trầm thống của người Thiên chúa giáo không muốn "làm kẻ lạ
mặt trên chính quê hương mình"chỉ là tiếng vọng vào sa mạc trước một chế
độ ngu xuẩn, ngoan cố, và tham tàn. Ngay cả cộng đồng Vatican II (1962)
dưới thời đại Giáo Hoàng Joan 23 (28/10/58-4/6/63) bị sức ép của thời
đại mới, phản ảnh cả vào nội bộ giáo hội, đã phải tuyên bố "thích nghi",
mở đường và thúc đẩy cho tinh thần cởi mở và tiến bộ để người Công giáo
có thể đối thoại với người "ngoại đạo" mà vẫn không làm lay chuyển nổi
những con người cố chấp, bảo thủ, lỗi thời như anh em ông Diệm và nhóm
Cần Lao Công Giáo.
Thế rồi sau 9 năm trời Phật giáo cắn răng
chịu đựng những áp bức, những khủng bố, bất công... cuối cùng, khi máu
lệ đã cạn giòng, khi thống khổ đã cùng cực thì không có phép lạ nào có
thể ngăn cản để dòng thác uất ức khỏi bùng ra. Ký giả lão thành Robert
Shaplen, người ký giả đã từng theo dõi tình hình Việt Nam từ 1945, đã
phỏng vấn Tổng thống Diệm suốt 6 tiếng đồng hồ tại dinh Gia Long, một ký
giả có rất nhiều bạn bè Việt Nam trong mọi giới và rất yêu thương nước
Việt Nam, đã sâu sắc tổng kết lại những diễn biến định mệnh của tình
trạng lịch sử này:
Không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc nổi dậy của
Phật giáo vào năm 1963 có nguyên do cả về chính trị lẫn tôn giáo. Rõ
ràng cuộc nổi dậy là để chống đối cái tình trạng khủng hoảng từ lâu của
xã hội Việt Nam, nghĩa là từ năm 1954, khi chế độ Diệm được thành lập và
gần một triệu giáo dân miền Bắc như dòng suối chảy qua vĩ tuyến 17 tràn
vào Nam để trở thành chủ lực hăng say ủng hộ chính phủ ông Diệm. Từ khi
trở thành kẻ tay trắng, người Công giáo di cư đã chọn lựa sống chung
với nhau dưới sự lãnh đạo của những linh mục và xây dựng những xã ấp mới
thường mang tên những làng xóm cũ mà họ đã bỏ lại ngoài Bắc. Vì ông
Diệm chỉ dựa vào những thành phần đó và vì các linh mục dễ dàng ra vào
dinh Độc Lập, những người Công giáo di cư trở thành những phần tử thống
trị trên đa số nhân dân, nhất là tại miền Trung. Đa số những Tỉnh
trưởng, Quận trưởng, và cấp trưởng thôn, trưởng ấp đều là người Công
giáo, ngay cả những cấp chỉ huy quan trọng của quân đội cũng vậy. Tình
trạng giáo dân của các làng như một giai cấp mới nở hoa, hưởng thụ hầu
hết chương trình viện trợ Mỹ. Họ được cấp phát số lớn đất đai để xây
trường học và nhà thương với sự giúp đỡ của quân đội, được ưu tiên mượn
tiền của chính phủ tho chương trình của ngân hàng nông nghiệp, được phép
đốn gỗ chặt rừng, ngay cả rừng cấm, và độc quyền về xuất nhập cảng, kể
cả được quyền thu hoa lợi qua việc trồng trọt cây Kapot, và cây Knaf.
Trong lúc anh em họ Ngô, bằng cách này hay cách kh
Xem tiếp: Chương 15
VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi
Tác giả: Hoành Linh Đỗ Mậu
Chương 15
BIẾN CỐ PHẬT GIÁO NĂM 1963
Biến
cố Phật giáo là một biến cố lớn không những cho chế độ Ngô Đình Diệm
vào năm 1963 mà còn cho cả chính đạo Phật tại Việt Nam. Biến cố này cũng
đã đóng góp vào sự vươn mình của dân tộc cũng như cho những chuyển động
trí thức nhân bản hơn của nhân loại trong thập niên 60. Rất nhiều máu
đỏ đã chảy trong biến cố này, cũng nhiều như mực đen đã chảy sau biến cố
đó để ghi chép và lưu trữ lại những chứng tích và những suy nghiệm về
các tội ác của chế độ Ngô Đình Diệm trong lần trở mình hùng tráng của
Dân Tộc và Phật giáo tại Việt Nam.
Với những biện pháp hành
chánh quỷ quyệt, những thủ đoạn chính trị tàn ác và các chủ trương văn
hóa gian hiểm, trong 9 năm trời, chế độ Diệm đã tìm mọi phương cách để
tiêu diệt dần dần các lực lượng và ảnh hưởng Phật giáo Việt Nam theo kế
hoạch tằm ăn dâu. Đến những năm 1962, 1963, chế độ Diệm lại có thêm
chương trình ấp Chiến Lược mà họ thêm tin tưởng vừa có thể chiến thắng
được Cộng Sản, lại vừa có thể Công giáo hóa toàn dân nông thôn. Chiếm
được nông thôn là chiếm được địa bàn căn bản và lâu đời nhất của Phật
giáo Việt Nam, họ sẽ bao vây Phật giáo, cô lập Phật giáo trong các chùa
chiền ở đô thị và Phật giáo sẽ như cá trong ao khô hồ cạn, không còn
nước nữa để sống còn và bơi lội vẫy vùng.
Nếu anh em ông Ngô
Đình Diệm kiên nhẫn dùng kế hoạch trên thì có lẽ biến cố Phật giáo năm
1963 đã chưa xảy ra vì một lý do rất dễ hiểu là mặc dù nỗi thống khổ của
Phật tử đã đến cùng cực, thế mà Phật tử vẫn chỉ cắn răng chịu đựng.
Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, nhà Ngô đi ngược lòng dân và
ngược ý trời nên mới lấy quyết định cấm treo cờ Phật giáo nhân ngày lễ
Phật Đản, một quyết định ban đầu nhà Ngô tưởng là không mang lại hệ quả
đáng kể nhưng thật sự lại đưa chế độ Diệm vào đường cùng. Với những
người tin vào thuyết lý số và thuyết âm đức thì năm 1963 đúng là năm
chót trong cái đại vận “Phát dã như lôi” thụ hưởng phú quý tột đỉnh của
anh em nhà Ngô để bước vào chu kỳ “Tán gia bại quốc” mang lại nhục nhã
cho dòng họ.
Thật thế, nếu Tổng Giám mục Ngô Đình Thục còn ở
Vĩnh Long thì có lẽ vụ cấm treo cờ Phật giáo đã chưa xảy ra. Không ngờ
Tòa thánh La Mã dưới triều đại Giáo Hoàng Paul 6 lại thuyên chuyển ông
Ngô Đình Thục ra giáo phận Huế, nơi mà đại đa số dân chúng đều theo đạo
Phật, nên nhà Ngô mới bị sa lầy sớm. Đổi ông Thục ra Huế, Tòa Thánh La
Mã chỉ muốn ông Thục, vốn đã làm cho Giáo Hội chịu nhiều tai tiếng xấu
trong cộng đồng thế giới, phải xa lánh Thủ đô, xa tai mắt ngoại giao
đoàn, xa ký giả quốc tế và xa khối trí thức Việt Nam đông đảo tại Sài
Gòn. Không ngờ hảo ý của Tòa Thánh La Mã lại biến thành đại họa cho nhà
Ngô.
Tất cả bắt đầu vào ngày 6 tháng 5 năm 1963, khi Tổng Giám
mục Ngô Đình Thục đi thăm nhà thờ La Vang. Dọc đường, đâu đâu ông Thục
cũng thấy cờ Phật giáo tung bay khắp thị thành thôn xóm để chào mừng
Phật đản trong hai ngày nữa. Cờ Phật mà còn nhiều thì cái mộng Hồng Y
của ông Thục khó sớm thành sự thực vì đã nhiều lần ông lỡ phúc trình với
Tòa Thánh là dân Việt Nam ngày càng cải đạo, càng hướng về Giáo hội La
Mã. Nhưng thực tế hôm đó hiển hiện trước mắt là cờ Phật giáo tràn ngập
khắp nơi đã làm cho ông Thục giận lắm, nên khi trở về Huế, ông cho gọi
Đại biểu chính phủ Trung phần là Hồ Đắc Khương đến Tòa Giám mục để khiển
trách rồi gọi điện thoại viễn liên vào Sài Gòn báo cho em là Tổng thống
Diệm biết tình hình. Ngay sau đó ông Diệm ra luật lệ treo cờ cho các
Tôn giáo.
Theo luật lệ treo cờ của Chính phủ Diệm, cờ Tôn giáo
không được treo ngoài khuôn viên chùa chiền, nhà thờ hoặc các cơ sở tôn
giáo... Vì bị Tổng Giám mục Ngô Đình Thục áp lực, ông Diệm đã đặt vấn
đề treo cờ Phật giáo mà ông quên đi năm ngoái (1962), Phật giáo cũng
treo cờ như năm nay mà không thấy chính phủ khuyến cáo gì cả. Tôi còn
nhớ năm 1959, từ ngày 16 đến 18 tháng 2, tại Thủ đô Sài Gòn và khắp cả
nước, giáo hội Công giáo Việt Nam tổ chức đại hội Thánh Mẫu và lễ nâng
nhà thờ Đức Bà Sài Gòn lên hàng Vương Cung Thánh Đường vô cùng trọng thể
dưới quyền chủ tọa của Hồng Y Agagianan (Đại diện Tòa Thánh La Mã). Cờ
Tòa Thánh và ảnh tượng Đức Mẹ trưng bày khắp Thủ đô, tràn ngập cả công
viên trước dinh Độc Lập từ đường Công Lý đến tận Sở Thú. Ngày 17 tháng 8
năm 1961 tại La Vang, nhân dịp kỷ niệm lễ Đức Mẹ hiện ra cách đây 160
năm và khánh thành Vương Cung Thánh Đường La Vang, những khải hoàn môn
trưng bày ảnh tượng Đức Mẹ và cờ Công giáo Vatican (vàng - trắng) kéo
dài từ thành phố Huế đến thành phố Quảng Trị dọc theo Quốc lộ Một. Rồi
đến lễ khánh thành ngôi nhà thờ Huế do ông Ngô Đình Thục xây cất, và
tiếp theo đó là lễ Ngân Khánh của ông Ngô Đình Thục xẩy ra vài tuần lễ
trước ngày Phật Đản, cờ Công giáo Vatican lại tràn ngập cả thành phố
Huế, nhất là về phía hữu ngạn sông Hương. Dân cả nước ai lại không thấy
rằng hễ mỗi lần Công giáo có lễ lạc là cờ Công giáo Vatican treo ra
ngoài khuôn viên nhà thờ, trên đường phố công cộng và nhiều khi trên cả
các cơ sở quốc gia. Dưới chế độ Diệm, hầu như trong mỗi doanh trại quân
đội đều có nhà thờ mà hễ đến ngày lễ Noel là cờ Công giáo Vatican treo
khắp doanh trại, trước cổng trại lại có cả khải hoàn môn. Dân chúng làm
sao quên được hình ảnh những vùng như Hố Nai, Gia Kiệm, Ngã Ba Ông Tạ,
Ngã Ba Chú Ía, chung quanh Lăng Cha Cả, và những vườn hoa những đại lộ
trước Tòa Đô Chính Sài Gòn tràn ngập ảnh tượng và cờ Công giáo Vatican
trong những ngày lễ Giáng Sinh. Chính vì Công giáo đã đầu tiên và liên
tục đạp lên trên luật lệ treo cờ của Chính phủ đến nỗi sau vụ cờ Phật
giáo tại Huế, ngày 15 tháng 5 năm 1963, Giám mục Nguyễn Văn Bình đã phải
ra thông báo nhắc nhở giáo dân: “Cờ của Tòa Thánh Vatican chỉ được treo
trong nhà thờ hoặc những cơ sở của Hội Thánh”.
Người Công
giáo trắng trợn vi phạm luật treo cờ thì anh em ông Diệm chẳng những
không bao giờ đả động đến mà còn lấy làm sung sướng vì sự ưu thế có tính
cách hình thức đó, thế mà năm 1963, Phật tử treo cờ nhân ngày Phật Đản
thì Ngô Đình Thục tức giận đặt vấn đề thể lệ treo cờ.
Sau khi
nghe ông anh Tổng Giám mục phiền trách việc Phật kỳ tung bay khắp nơi,
ông Diệm nổi nóng gọi ngay Đổng lý Văn phòng là ông Quách Tòng Đức (hiện
ở Pháp), bảo đánh điện cho Tòa Đại biểu Chính phủ tại Huế và khắp các
tỉnh ra lệnh phải hạ cờ Phật giáo. Một lần nữa, quyết định này cho ta
thấy anh em nhà Ngô rõ ràng thiếu ý thức chính trị vì đã không đánh giá
được bản chất và hệ quả của một quyết định liên hệ đến một vấn đề nhân
văn rất tế nhị, nhất là tại một địa phương như Thừa Thiên. Họ lại chẳng
nắm vững được giá trị của quyết định này trên cả hai mặt hành chánh pháp
lý và thực trạng xã hội.
Hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau đó,
ngày 7 tháng 5, trong lúc dân chúng Huế và Thừa Thiên sửa soạn làm lễ
Phật Đản thì cảnh sát đến tận nhà buộc dân chúng phải hạ cờ Phật giáo.
Trước biện pháp bất công và bất minh đó của chính quyền, vài ngàn Phật
tử bèn tự động tổ chức kéo tới Tòa Tỉnh trưởng Thừa Thiên và yêu cầu
Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng can thiệp để Phật kỳ khỏi bị hạ. Tỉnh trưởng
giải thích “đã có sự hiểu lầm lệnh của cấp trên”, rồi ra lệnh cho treo
Phật kỳ trở lại nên dân chúng tự động giải tán ra về. Sở dĩ có biện pháp
đó là nhờ Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng đã gặp ông Ngô Đình Cẩn và được
ông Cẩn cho lệnh “Phật tử đã lỡ treo cờ rồi thì cứ để cho họ treo”.
Vấn
đề đặt ra là tại sao một người đã làm đến Tổng Giám mục như ông Ngô
Đình Thục, tại sao một người đã làm đến Thượng Thư Bộ Lại rồi làm đến
Tổng thống như ông Ngô Đình Diệm mà lại sai lầm một cách ấu trĩ nhưng
lại trầm trọng như thế? Câu trả lời dĩ nhiên nằm trong cái liên hệ sống
chết và cốt tủy quá chặt chẽ giữa dòng họ Ngô Đình với Hội Truyền Giáo
Hải Ngoại Pháp, vì anh em nhà Ngô được đào tạo và nuôi dưỡng bởi một
giáo hội có quá nhiều cấp lãnh đạo chỉ thấy cái Ta là đúng, ngoài Ta ra
tất cả đều sai lầm. Sử liệu đã cho thấy vô số sự kiện nói về bệnh chấp
ngã của Tòa Thánh La Mã. Ở đây, ta hãy nghe một lời dẫn chứng của học
giả Merle Sever trong bài The World of Luther:
Tòa Thánh La Mã
đòi hỏi một sự phục tùng bất khả tư nghị. “Tôi sẽ phải tin rằng vật màu
trắng mà tôi thấy là màu đen, nếu giáo hội quyết định đó là màu đen”.
Ông Ignatius Loyola, sáng lập dòng Jesuite đã nói như thế. Giáo Hoàng
Paul IV cũng xác định rằng: “Ngay nếu cả cha ruột tôi là người phản đạo,
tôi cũng sẽ đi lượm củi để đốt ông ta” [1].
Và đặc biệt trong
tương quan thế quyền và giáo quyền, để chính xác áp dụng cho trường hợp
của anh em ông Diệm, ta hãy nghe giáo sư Malachi Martin, một vị tu xuất
dòng Jésuite, viết về niềm tin giáo điều sắt đá của Giáo Hoàng Léo III:
Xác
định một cách công khai rằng tất cả các quyền lực chính trị trên thế
gian này đều do Chúa ban cho; và chỉ được ban cho cá nhân nào hay chính
phủ nào qua trung gian của vị đại diện Đức Chúa Trời, vốn là vị Hồng Y
La Mã, mà cũng là kẻ kế vị Thánh Phêrô” [2].
Cho nên mù quáng
trước điều mà họ cho là chân lý bất di bất dịch đó, rồi lại riêng cá
nhân ông Thục mang tham vọng trở thành Hồng Y, anh em ông Diệm chỉ thấy
việc Phật giáo treo cờ không đúng với thể lệ của nhà nước là một hành
động thách thức chân lý đó, mà không cần biết đến chính tôn giáo của
mình và chính Tổng Giám mục Ngô Đình Thục đã vi phạm trắng trợn luật
treo cờ từ chín năm nay rồi.
Ngày 8 tháng 5, các chùa tại Huế
cử hành lễ Phật Đản và rước Phật trọng thể từ chùa Từ Đàm qua chùa Diệu
Đế. Sau lễ Phật, trong bài thuyết pháp, Thượng tọa Trí Quang đề cập đến
chủ trương kỳ thị của chính quyền nhằm đàn áp Phật giáo từ 9 năm qua,
nay lại ra lệnh cấm treo cờ tôn giáo, rõ ràng nhắm riêng vào Phật giáo.
Thượng tọa Trí Quang cũng có nhắc đến cờ Công giáo Vatican treo khắp
đường phố vào các dịp lễ sao không cấm, mà lại cấm đúng vào ngày Phật
Đản. Nhiều đoàn thể Phật tử yêu cầu chính quyền cho phát thanh lại bài
thuyết pháp của Thượng tọa Trí Quang, nhưng Giám đốc Đài phát thanh Huế
là ông Ngô Ganh, một Công giáo Cần Lao, không chịu nên vài ngàn Phật tử
kéo đến đài để trực tiếp yêu cầu. Phó tỉnh trưởng Nội An là Thiếu tá
Đặng Sĩ, một Cần Lao Công giáo khác, cũng huy động lính Bảo An và cả
thiết giáp tới để thị uy. Không ngờ trong lúc Tỉnh trưởng Nguyễn Văn
Đẳng, ông Ngô Ganh và Thượng tọa Trí Quang đang thảo luận để tìm một
giải pháp dung hòa thì nhiều tiếng súng và một quả lựu đạn phát nổ làm
cho 7 thường dân chết, 5 binh sĩ và một thường dân bị thương. Máu đã đổ,
cuộc tranh đấu của Phật giáo Việt Nam bắt đầu, biến cố Phật giáo mùa Hè
năm 1963 phát động từ đó.
Tôi cần phải nói rõ và nói lớn ở
đây rằng cuộc đấu tranh của Phật giáo tuy phát động từ sự kiện cấm treo
cờ nhưng nguyên ủy thật sự, động cơ sâu sắc của nó thật ra đã xuất hiện
từ lâu, từ khi anh em ông Diệm tiến hành chính sách tiêu diệt các tôn
giáo khác cho Công được ngôi vị độc tôn trong đời sống tâm linh và tín
ngưỡng của người Việt. Động cơ đấu tranh đó là một động cơ có tính sống
còn của Phật giáo, cho nên ở bước đường cùng, Phật tử đã không thể có
một chọn lựa nào khác nếu không muốn bị tiêu diệt: Từ nhiều năm nay,
Phật giáo đồ đã bị đàn áp, khủng bố khắp nơi, chúng tôi vẫn nhịn nhục
đương nhiên không phải vì hèn yếu mà vì ý thức được những nỗi khổ đau,
tang tóc của dân tộc ta hiện tại. Nhưng đau đớn thay, một số người đã
lợi dụng quyền hành gây ra không biết bao nhiêu tang tóc đối với Tăng và
Tín đồ Phật giáo khắp trong nước, đối xử một cách bất công với một tôn
giáo có hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc [3]. Đó mới là nguyên ủy thật
sự của cuộc đấu tranh, chứ lá cờ chỉ là giọt nước cuối cùng mà thôi.
Chánh pháp như chiếc bè qua sông, qua rồi còn bỏ bè huống gì chỉ một lá
cờ.
Sau vụ đàn áp Phật tử tại đài Phát thanh Huế, Tăng Ni,
Phật tử họp tại Chùa Từ Đàm đưa ra năm nguyện vọng để xin Chính phủ giải
quyết: 1/ Xin chính thức rút lại lệnh cấm treo cờ; 2/ Xin được tự do
hành đạo như Công giáo; 3/ Xin bãi bỏ dụ số 10 xem Phật giáo như một
Hiệp hội; 4/ Xin chấm dứt các vụ khủng bố, đàn áp Phật giáo; 5/ Xin bồi
thường cho các nạn nhân tại đài Phát thanh Huế và trừng trị kẻ đã gây ra
đổ máu.
Nguyện vọng gởi đi đã 8 ngày mà Chính phủ vẫn không
hồi âm, đã thế còn ra thông báo bảo rằng thủ phạm ném lựu đạn là một tên
Việt Cộng dù không đưa ra được bằng chứng cụ thể nào. Năm nguyện vọng
đõ rõ ràng chỉ nhắm vào một mục tiêu rất chính đáng và hợp pháp là công
bằng xã hội (điều 2,4 và 5) bằng cách chấm dứt chủ trương đàn áp tôn
giáo của thực dân Pháp để lại (điều 1 và 3). Vì chính đáng và hợp pháp
nên Phật giáo đã công khai tuyên bố và cảnh cáo luôn những xuyên tạc hay
chụp mũ có thể xảy ra: “Mục tiêu tranh đấu của Phật giáo đó chỉ nhắm
vào lý tưởng tôn giáo bình đẳng trong khuôn khổ lý tưởng công bằng xã
hội. Vì lẽ đó, chúng tôi từ chối mọi sự lợi dụng không phù hợp với tôn
chỉ của chúng tôi, nhất là những người Cộng Sản và những kẻ mưu toan
chức vị chánh quyền” [4].
Rất nhiều ký giả ngoại quốc đã điều tra về biến cố Phật giáo, ở đây ta hãy nghe lời tường trình của ký giả David Halberstam:
Đầu
tiên, lời tuyên bố của Chính phủ là một tên Việt Cộng đã ném vào đám
đông một quả lựu đạn. Nhưng dần dần, luận điệu của Chính phủ bị mất giá
trị vì càng ngày càng có thêm nhiều chi tiết cho thấy sự thật. Một nhóm
giáo sư người Đức dạy tại Đại học Huế đã chụp được hình ảnh chứng minh
luận điệu của Chính phủ là sai. Đã thế, Chính phủ lại vội vã cho chôn
xác các nạn nhân mà không để cho bác sĩ giảo nghiệm để, một lần nữa, đổ
lỗi cho Việt Cộng.
Nhiều ký giả quốc tế khác như Bob Trumbell ,
Charle Mohr,... đều công nhận là lỗi tại Chính phủ. Charle Mohr của tờ
Times viết rằng: “Cũng như mọi chuyện khác, ông Diệm có bao giờ chịu
nhận ông ta sai lầm đâu, Chính phủ của ông ta cũng nghĩ rằng không bao
giờ ông Diệm sai lầm, và tất cả đều nói láo làm cho đa số dân chúng càng
thêm nổi giận”.
Sau vụ lựu đạn nổ ở Huế, Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Bùi Văn Lương được ông Diệm phái đi quan sát tình hình. Vì sự thật đã
được sáng tỏ cho nên một người Mỹ đi theo ông Lương cho rằng cách giải
quyết thật là giản dị: chỉ cần bỏ ra năm trăm ngàn đồng bạc bồi thường
cho các nạn nhân, và chỉ cần một lời tuyên bố của Chính phủ nhận lỗi do
lực lượng an ninh gây ra. Ông Lương trả lời: “Tiền thì dễ nhưng chúng
tôi không thể đưa ra lời tuyên bố như vậy được. Chúng tôi không thể công
nhận lỗi của Chính phủ” [5].
Nhìn lại biến cố Phật giáo 1963,
nếu lúc bấy giờ Chính phủ Diệm tuyên bố nhận lỗi, phạt Đặng Sĩ 40 ngày
trọng cấm và sa thải khỏi quân đội, rồi an ủi và bồi thường các nạn
nhân, bãi bỏ ngay những quy chế bất công về điều lệ tôn giáo trong đạo
dụ số 10 thì chắc chắn biến cố Phật giáo đã ngưng ở đó.
Biến
cố Phật giáo tại miền Nam làm tôi liên tưởng đến vụ Cải cách ruộng đất ở
miền Bắc năm 1956. Vụ cải cách ruộng đất làm cho dân chúng căm phẫn
chống đối chính quyền Hà Nội. Ông Hồ Chí Minh vội vã một mặt tuyên bố
nhận lỗi với đồng bào và xin sửa sai, mặt khác tạm ngưng xúc tiến việc
cải cách và hạ tầng công tác ngay lập tức ông Trường Chinh, người chịu
trách nhiệm chương trình, mặc dù ông Trường Chinh là ủy viên cao cấp của
Chính trị Bộ Trung ương Đảng Cộng Sản.
Tuy những quyết định
đó chỉ là thủ đoạn chính trị, nhưng thực tế chính trị sau đó cho thấy
rằng, người dân miền Bắc thấy “Cụ Hồ” hạ mình xin lỗi đồng bào và dám
cất chức đồng chí “Bí thư Đảng” thì ở một khía cạnh nào đó, họ không còn
lý do và đối tượng để đấu tranh nữa. Riêng đối với quốc tế, công luận
đã thấy ông Hồ Chí Minh biết phục thiện thương dân, biết tiến, biết
thoái, có tài lãnh đạo. Thật trái ngược hẳn với họ Ngô ở miền Nam trên
mặt quyền biến vì rõ ràng từ chín năm qua, họ Ngô đã tiến hành chính
sách kỳ thị hà khắc, nay lại gây thêm tội ác mới, thế mà còn vụng về phi
tang để đổ lỗi cho Việt Cộng.
Hai biến cố đó tuy bản chất
khác nhau nhưng về cường độ thì cũng trầm trọng như nhau. Cả hai đều
đụng chạm đến quyền lợi thiết thân nhất của quần chúng: quyền tín ngưỡng
của Phật tử ở miền Nam và quyền sinh sống của nông dân miền Bắc. Nhưng
nhìn cung cách và phương thức để đối phó thì quả thật trên mặt khả năng
quyền biến, ông Ngô Đình Diệm chỉ đáng là học trò của ông Hồ Chí Minh dù
cả hai đều độc tài, đều sắt máu, và đều muốn đàn áp những cuộc đấu
tranh chính đáng của nhân dân.
Nhận thấy Tổng thống Diệm không
có một chút thiện chí nào, Tăng tín đồ Phật giáo ngày 10 tháng 5 năm
1963 công bố bản Tuyên ngôn để minh định lập trường và xác định lại
những nguyện vọng của mình. Ngày 16 tháng 5, Phật giáo mở một cuộc họp
báo tại chùa Xá Lợi có Bộ trưởng Công dân Vụ Ngô Trọng Hiếu tham dự, để
trình bày năm nguyện vọng và nói rõ thái độ của Tổng thống Diệm trong
cuộc hội kiến hôm qua tại dinh Gia Long. Trong cuộc họp báo này, ông Ngô
Trọng Hiểu chỉ lập đi lập lại một lối giải thích: Tổng thống Diệm chỉ
muốn cho “Quốc kỳ được tôn trọng” mà không hề đề cập đến những nguyện
vọng của Phật giáo.
Ngày 23 tháng 5, trước những xuyên tạc độc
hại của bộ máy thông tin của chính quyền với luận điểu cho rằng cuộc
đấu tranh của Phật giáo đồ là do Cộng Sản điều động và chỉ làm lợi cho
Việt Cộng, Phật giáo cho phổ biến bản Tuyên ngôn thứ nhì với một bản phụ
đính xác định rất rõ ràng vị thế nạn nhân của Phật giáo trong những thủ
đoạn tuyên truyền của Chính phủ:
Ngày trước, những người Cộng
Sản lợi dụng danh nghĩa chống ngoại xâm để tiêu diệt các đảng phái quốc
gia thì ngày nay cũng có cái vẻ người Công giáo lợi dụng công việc
chống Cộng Sản để đàn áp các tôn giáo khác, nhất là Phật giáo chúng tôi.
Đó là nguy cơ cho quốc gia và làm chia rẽ tôn giáo... Tình trạng lợi
dụng danh nghĩa chống Cộng sản để phát triển Công giáo và lấn áp Phật
giáo tạo ra tình trạng chia rẽ ngày càng trầm trọng thì ngay bây giờ và
mai hậu, chỉ người Cộng Sản có lợi mà thôi [6].
Ba tuần lễ
trôi qua, Chính phủ vẫn quyết liệt giữ lập trường cũ và ra thông tư xác
nhận quan điểm về vấn đề tôn giáo là “không kỳ thị, tôn trọng tự do tín
ngưỡng, chỉ quy định việc treo cờ vì tôn trọng quốc kỳ”, thông tư cũng
không hề đá động đến năm nguyện vọng chính đáng và khiêm tốn của Phật
giáo. Trong lúc đó thì ngày 29 tháng 5, lực lượng an ninh vẫn siết chặt
vòng đai ở chùa Từ Đàm, nơi mà sinh viên và Phật tử thường tụ họp đông
đảo để ủng hộ cho những đòi hỏi của Phật giáo, đồng thời chính quyền cho
cắt điện và nước ở ngôi chùa này.
Trước thái độ ngoan cố của
Chính phủ, ngày 30 tháng 5, Phật giáo tổ chức lễ cầu siêu cho các nạn
nhân tại chùa Xá Lợi và chùa Ấn Quang, các Tăng Ni và Phật tử tuyệt thực
48 giờ, đồng thời 300 tăng ni biểu tình trước Quốc hội với những khẩu
hiệu yêu cầu Chính phủ thỏa mãn năm nguyện vọng của Phật giáo.
Thấy
tình hình bắt đầu căng thẳng, ngày 1 tháng 6, Chính phủ Diệm thay Đại
biểu Trung phần Hồ Đắc Khương, Tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Văn Đẳng,
là những người mà Chính phủ cho là nhu nhược, bằng các ông Nguyễn Xuân
Khương (nguyên Tổng giám đốc Điền Địa) và Thiếu tá Nguyễn Mâu (Cần Lao
Công giáo) để hai nhân vật này hành động quyết liệt hơn trong việc đàn
áp Phật giáo. Chính phủ cũng triệu hồi Thiếu tá Đặng Sĩ về Bộ Nội vụ “để
chờ lệnh”.
Trước tình hình nghiêm trọng đó, Bác sĩ Trần Kim
Tuyến, dù lúc này đã bị thất sủng không còn quyền hành ảnh hưởng gì nữa,
nhưng phần vì ông quen biết nhiều trong giới Phật giáo như Thượng tọa
Tâm Châu, các cư sĩ Phật giáo người Bắc di cư, cụ Mai Thọ Truyền (vốn là
chuyên viên Phủ Tổng thống), phần vì muốn hòa giải thật sự giữa Chính
phủ và Phật giáo, nên ông đưa ra sáng kiến thành lập một ủy ban cao cấp
của hai bên để thảo luận hầu giải quyết mọi vấn đề. Do đó, bên Chính phủ
thành lập ủy ban Liên Bộ, và bên Phật giáo hình thành ủy ban Liên Phái,
có tư cách đại diện chính thức và thẩm quyền thương nghị. Ủy ban Liên
Bộ có Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ và các ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ Bùi
Văn Lương, Bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn Đình Thuần. Còn ủy ban Liên Phái
do Thượng tọa Tâm Châu cầm đầu với các Thượng tọa Thiện Hoa, Thiện Minh,
Huyền Quang và Đại Đức Thích Đức Nghiệp. (Sáng kiến của Bác sĩ Tuyến
được Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần trình cho hai ông Diệm-Nhu).
Trong
khi hai ủy ban đang tiến hành những buổi họp thì lực lượng an ninh vẫn
bao vây chùa chiền và gia tăng các biện pháp cắt điện, cắt nước tại các
chùa lớn ở Huế và Đà Nẵng. Riêng tại chùa Tỉnh Hội Nhà Trang, cảnh sát
và công an còn chăng kẽm gai chận đường các Phật tử vào chùa và cản trở
việc đi lại của các Tăng Ni từ Sài Gòn về các tỉnh và ngược lại. Cho đến
ngày 7 tháng 6, Ủy ban Liên Bộ mới công nhận sự kiện thiếu nghiêm chỉnh
đó và gởi văn thư trả lời cho Ủy ban Liên Phái là đã cho cấp lại điện
nước và quân đội không chận đường vào chùa nữa. Tất cả những văn thư của
hai ủy ban đều có đăng tải trên báo Việt ngữ tại Sài Gòn. Nhưng dù có
văn thư chính thức của Ủy ban Liên Bộ, những hành động chống phá Phật
giáo vẫn tiếp tục xảy ra tại các địa phương và ngay giữa thủ đô Sài Gòn.
Độc hại hơn nữa, chính quyền đã cho một số công an và cảnh sát cạo đầu,
giả vờ mặc áo nâu hay áo lam của tăng sĩ để ra chợ chọc gái, ăn thịt,
uống rượu, mua hàng không chịu trả tiền,... nhằm mục đích bôi lọ các nhà
sư và xuyên tạc cuộc đấu tranh của Phật giáo.
Để đối phó với
thái độ phá hoại đó của chính quyền, Phật giáo đành phải lấy những hành
động hy sinh quyết liệt hơn mong cảnh tỉnh và khai thông đầu óc giáo
điều của cấp lãnh đạo Chính phủ. Trong một ngôi chùa vắng lặng giữa Sài
Gòn sôi động, một vị sư già đã lấy một quyết định làm chuyển đổi cả một
chế độ với lời nguyện tâm huyết sau đây:
Tôi, pháp danh Thích Quảng Đức, Trụ trì chùa Quan Âm Phú Nhuận, Gia Định.
Nhận
thấy Phật giáo nước nhà đang lúc nghiêng ngửa, tôi là một tu sĩ mệnh
danh là trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để cho
Phật giáo tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyên thiêu thân giả tạm
này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo.
Mong ơn mười phương chư Phật, chư Đại Đức Tăng Ni chứng minh cho tôi đạt thành ý nguyện sau đây:
1.
Mong ơn Phật tổ gia hộ cho Tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận
năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt Nam ghi trong bản tuyên
ngôn.
2. Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trường tồn bất diệt.
3.
Mong nhờ hồng ân đức Phật gia hộ cho chư Đại Đức, Tăng Ni Phật tử Việt
Nam tránh khỏi nạn khủng bố bắt bớ giam cầm của kẻ ác gian.
4. Cầu nguyện cho đất nước thanh bình quốc dân an lạc.
Trước
khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi lời cho Tổng thống
Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc dân và thi hành
chính sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thủa.
Tôi tha thiết kêu gọi chư Đại Đức Tăng Ni Phật tử nên đoàn kết nhất trí để bảo toàn Phật pháp.
Thích Quảng Đức
(Trích từ Tạp chí Chấn Hưng, số tháng 11 năm 1987 - Los Angeles)
Thế
rồi ngày 11 tháng 6 năm 1963, trước vài trăm tăng ni tụ họp tại ngã tư
Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng, Sài Gòn, Hòa thượng Thích Quảng Đức đã
tự thiêu, hy sinh nhục thể để hiến mình cho chánh pháp. Người ta thấy
Hòa thượng từ trong một chiếc xe bước ra và từ từ tiến tới đám đất trống
quỳ xuống, hai tay chắp trước ngực, miệng khoan thai tụng niệm. Một nhà
sư trẻ khác xách một thùng xăng tưới vào thân thể Ngài. Hòa thượng châm
lửa đốt. Lửa đỏ bốc lên cao nhưng Hòa thượng vẫn ngồi trong tư thế kiết
già cho đến khi ngọn lửa bao trùm lấy thân thể, Ngài mới té nghiêng mà
hai tay vẫn chắp vào nhau trong sự biểu hiện của Từ Bi, Trí Tuệ và Đại
Hùng. Sự hy sinh cao cả của Hòa thượng Thích Quảng Đức, sự hy sinh mà
suốt chiều dài lịch sử hai ngàn năm của Phật giáo lần đầu tiên mới xảy
ra đã làm chấn động tâm thức của dân tộc.
Lửa! Lửa cháy ngất tòa sen!
Tám chín phương nhục thể trần tâm hiện thành thơ quỳ cả xuống
Hai vầng sáng rưng rưng
Đông Tây nhòa lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc
Ánh đạo vàng phơi phới đang bừng lên, dâng lên.
...
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ
Người về phăng đêm tối đất dày
Bước ra ngồi nhập định hướng về Tây
Gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ
Phật pháp chẳng rời tay...
(Trích từ Lửa Từ Bi của Thi hào Vũ Hoàng Chương, sáng tác để tưởng niệm Hòa thượng Thích Quảng Đức)
Cuộc
tự thiêu lịch sử của Hòa thượng Thích Quảng Đức đã được nhiều ký giả
tên tuổi Hoa Kỳ chứng kiến tại chỗ và đã tường thuật trung thực như
David Halberstam, Neil Sheehan, nhiếp ảnh gia Malcolm Brown... Ký giả
Neil Sheehan, tác giả “The Pentagon Papers”, đã phát hành cuốn “A Bright
Shining Lie” vào năm 1988, viết như sau: (tr. 334):
“... Tôi
trở lại Việt Nam đúng lúc để được thấy chế độ đang khiêu khích sự chống
đối trong các thành phố và tỉnh lỵ, bằng cách cũng ngược đãi và ngạo mạn
như đã gây phẫn nộ ở thôn quê. Ngày 8 tháng 5 năm 1963, dòng họ Ngô
Đình đã phát động phong trào khủng bố Phật giáo. Một toán Bảo An do một
sĩ quan Công giáo điều động đã giết chết 9 người trong số đó có vài trẻ
em, gây thương tích cho 14 người khác trong một đám đông ở Cố đô Huế.
Đám đông đó đang phản đối sắc lệnh cấm treo cờ ngày lễ Phật Đản năm thứ
2587. Ông Diệm ban hành sắc lệnh theo sự xúi dục của người anh cả là ông
Thục, Tổng Giám mục ở Huế và là người lãnh đạo hàng giáo phẩm Công giáo
ở Nam Việt Nam năm 1963. Khi ông Thục ăn mừng 25 năm được lên làm Giám
mục trước đó vài tuần, dân Công giáo treo cờ Vatican khắp thành phố Huế,
nơi dòng họ Ngô Đình cư ngụ. Sau vụ giết người, ông Diệm và gia đình đã
lộ rõ chân tướng. Họ không muốn làm nguôi lòng các nhà lãnh đạo Phật
giáo. Những vị sư này đã bị đố kỵ trong 9 năm vì kỳ thị tôn giáo. Thay
vì thay đổi, họ lại ra tay tiêu diệt những nhà lãnh đạo Phật giáo như họ
đã từng tiêu diệt giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và quân phiến loạn Bình
Xuyên năm 1955.
Những vị sư đã chống lại bằng phương thức của
người Việt Nam. Buổi sáng ngày 11 tháng 6 năm 1963, một nhà sư già 73
tuổi tên là Thích Quảng Đức đã ngồi gần một ngã tư đường Sài Gòn, cách
tư dinh của Đại sứ Mỹ Nolting có vài dãy phố. Nhà sư Quảng Đức ngồi theo
thế kiết già, trong khi đó một vị sư khác, với cái bình 5 gallon bằng
mủ, đổ xăng xuống chiếc đầu cạo trọc, xăng ướt đãm cả áo cà sa mầu vàng.
Vị sư già cử động nhanh, tay đưa ra khỏi vạt áo để quẹt diêm, đốt sáng
cơ thể thành một biểu tượng của phẫn nộ và hy sinh và đã nhóm mồi lửa
uất hận trong các trung tâm đô thị của miền Nam Việt Nam”.
Những
biến cố lịch sử trên đây đã được hàng triệu người dân Việt Nam chứng
kiến cũng như rất đông người ngoại quốc và ký giả quốc tế có mặt tại chỗ
lúc bấy giờ đã ghi nhận và tường thuật trên báo chí hay sách vở. Thế mà
vẫn có những trí thức Công giáo đã không cảm thông, chia sẻ sự nhục
nhằn và đau khổ của Phật giáo, lại đang tâm bóp méo sự thật lịch sử để
chạy tội cho chế độ Ngô Đình Diệm. Ông Cao Thế Dung (trong cuốn “Làm thế
nào để giết một Tổng thống”), ông Nguyễn Trân (trong cuốn “Công và
Tội”) đã ngụy tạo vụ ném lựu đạn làm chết người tại Huế là do hành động
của một Đại úy nhân viên CIA. Còn ông Nguyễn văn Chức trong cuốn “Việt
Nam Chính Sử hay là những sai lầm và gian trá trong Việt Nam Máu lửa Quê
Hương Tôi của Đỗ Mậu” đặt nghi vấn: không cho rằng Hòa thượng Quảng Đức
đã tự thiêu mà Ngài đã bị một người khác đốt, mặc dù Hòa thượng Quảng
Đức đã có lời di chúc trước khi tự thiêu, và mặc dù Hòa thượng Tâm Châu
đã có lời minh xác về hành động tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức trên
tạp chí Chấn Hưng số tháng 11 năm 1987.
Trong lịch sử cận đại
của con người, chưa thấy cái chết nào oai linh và có ảnh hưởng sâu rộng
như cái chết Quảng Đức. Hòa thượng Quảng Đức chết đi để cho Bồ Tát Quảng
Đức xuất hiện hầu khai sinh một sức mạnh đại hùng, đại lực mà lại đại
từ, đại bi. Ý nghĩa Bồ Tát đích thực của sự hy hiến cao quý là Cho Vui
và Cứu Khổ mà trước hết là cứu lấy chính những kẻ cầm quyền đang bị
nghiệp chướng nghiệt ngã kềm tỏa trong những vọng động u mê. Mục đích Bồ
Tát đích thực của cái chết lẫm liệt này là Giải thoát và Khai ngộ, mà
trước hết là giải thoát chính chế độ Ngô Đình Diệm khỏi những mê lầm
mộng ảo về quyền lực và tính độc tôn.
Nhưng anh em Ngô Đình
Diệm và những kẻ chỉ biết dùng bạo lực để đối phó với tình thương đã
không biết đến hoặc không thèm để ý đến ý nghĩa cao đẹp và mục tiêu vị
tha đó, nên sự hy sinh cao quý của Hòa thượng Thích Quảng Đức đã bị
chính quyền Ngô Đình Diệm đánh giá như một sự khiêu khích mà thôi.
Trên
mặt quần chúng, ngọn lửa tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức đã thúc đẩy
thêm ngọn lửa chống đối chế độ Cần Lao Công giáo. Tổng thống Diệm vội vã
gởi thông điệp kêu gọi dân chúng bình tĩnh, trong đó có câu: “Mọi sự
khó khăn sẽ được giải quyết trên căn bản lương tri và ái quốc, trong
tình đoàn kết huynh đệ... Không nên tin có âm mưu trì hoãn giải quyết
các vấn đề, sau lưng Phật giáo trong nước hãy còn Hiến pháp, nghĩa là có
tôi”.
Sau khi thông điệp của Tổng thống được công bố vào ngày
14 tháng 6 năm 1963, hai Ủy ban Liên Bộ và Liên Phái lại tái họp tại
Hội trường Diên Hồng. Cùng ngày ấy, Hội đồng Tướng lãnh ra thông cáo kêu
gọi “đoàn kết, bình tĩnh, tránh sự hiểu lầm, đặt quyền lợi quốc gia
trên hết, và mong các vấn đề được giải quyết trong tình huynh đệ”.
Ngày
16 tháng 6 năm 1963, để tìm hậu thuẫn của công luận khách quan trên thế
giới và để bảo đảm thêm sự an toàn của cuộc đấu tranh, gần 200 tăng ni
đã tập họp biểu tình trước Tòa Đại sứ Hoa Kỳ để yêu cầu ủng hộ Phật giáo
đạt được năm nguyện vọng. Đồng thời, độ ba ngàn đồng bào đến chùa Giác
Minh để dự tang lễ Hòa thượng Quảng Đức, nhưng đám tang đã phải dời lại
vì bị cảnh sát dã chiến dùng lựu đạn cay giải tán. Cuộc xô xát này gây
cho cảnh sát bị thương 12 người và dân chúng bị bắt 251 người. Cũng cùng
ngày, hai Ủy ban Liên Bộ và Liên Phái, sau ba ngày đêm thảo luận, đã
hình thành được một bản Thông Cáo Chung xác định những điểm đã thỏa
thuận về cách thức treo Quốc kỳ và Phật kỳ, xét lại dụ số 10 về quy chế
tôn giáo, điều tra các vụ bắt bớ và khoan hồng với những người tranh đấu
cho Phật giáo, dành mọi dễ dàng cho các hoạt động tôn giáo, trừng trị
nhân viên có lỗi, bồi thường cho các nạn nhân. Bản thông cáo này có mang
chữ ký và triện của Tổng thống Diệm.
Sau bản thông cáo chung
đó, để chứng tỏ thiện chí hòa hợp với Chính phủ, Ủy ban Liên Phái bèn
quyết định hạn chế số người tham dự đám tang Hòa thượng Quảng Đức lại
chỉ còn 300 tăng ni và các nhà báo mà thôi để tránh sự tụ họp quá đông
đảo của dân chúng, là cơ hội cho những phần tử phá hoại đặc công Việt
Cộng lợi dụng xách động. Do đó, tang lễ của Hòa Thượng Quảng Đức đã được
cử hành một cách trang trọng trong trật tự, không có một đụng độ nào
giữa nhân viên công lực và dân chúng. Sau khi nhục thể của Hòa Thượng
được hỏa thiêu tại lò An Dưỡng Địa Phú Lâm, xá lợi của Ngài được đựng
trong bình mang về thờ ở Chùa Xá Lợi.
Rõ ràng là với sự hình
thành của bản Thông Cáo Chung và hình thức trang nghiêm giản dị của tang
lễ Hòa thượng Quảng Đức, Phật giáo đồ đã xác định một thái độ chính
trị, nếu gọi đó là chính trị, rất minh bạch và hợp lý là:
...
dù đấu tranh với một chế độ độc tài, một chánh sách tiêu diệt Phật giáo
như thế, Phật giáo, ngay từ đầu cho đến khi chấm dứt cuộc vận động, từ
bản Tuyên Ngôn về năm nguyện vọng của Tăng tín đồ cho đến tất cả mọi
tuyên bố và văn thư gởi cho chính quyền về sau, dù công khai hay bí mật,
đều hoàn toàn không đặt vấn đề thay đổi chế độ, lật đổ chính quyền mà
chỉ đặt vấn đề cải thiện chính sách. Không nhằm mục đích tranh thủ quyền
hành mà chỉ nhắm đến mục tiêu tự do tín ngưỡng và công bằng xã hội,
không muốn tìm kiếm những đặc quyền đặc lợi mà chỉ muốn được đối xử một
cách bình đẳng theo một quy chế chung cho mọi tôn giáo chứ không riêng
cho một tôn giáo nào. Nói cách khác, Phật giáo không chống lại những lý
tưởng về Tự Do, Dân Chủ của một nền Cộng Hòa chân chính mà ngược lại,
chính vì cái lý tưởng Tự Do, Dân Chủ đó mà chống lại cái thực tế bất
công độc tài của một nền Cộng Hòa giả mạo để cho lý tưởng Tự Do, Dân Chủ
trở thành sự thật, và từ đó để cho công cuộc chống Cộng có ý nghĩa và
có được cái sức mạnh cần thiết [7].
Với thiện chí của Uỷ Ban
Liên Phái, nếu Chính phủ quả thật muốn giải quyết vấn đề Phật giáo theo
tinh thần “huynh đệ” thì chỉ cần Chính phủ thi hành ngay những điều
khoản trong Thông Cáo Chung, những điều khoản đơn giản, hợp pháp, chính
đáng, mà với tư cách một Tổng thống đã được Quốc hội ủy cho toàn quyền
hành động, có thể giải quyết ngay vụ Phật giáo trong một ngày là xong.
Khốn nỗi Thông Cáo Chung ra đời ngày 16 tháng 6 năm 1963 mà mãi đến ngày
28 tháng 6 năm 1963, nghĩa là 12 ngày sau, Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc
Thơ mới thông báo cho Ủy ban Liên Phái biết rằng: “Bộ Nội vụ sẽ ra Nghị
định về việc treo cờ, Dụ số 10 sẽ được áp dụng “linh động”, một số sinh
viên và Phật tử đã bị bắt sẽ được thả nhưng có một số sinh viên phải ra
Tòa, chỉ Bộ Nội vụ mới được quyền kiểm tra các chùa chiền, hồ sơ tạo mãi
sẽ được xét mau lẹ, việc bồi thường các nạn nhân phải đợi điều tra”.
Nội
dung bức thư đã nói lên một cách dứt khoát thái độ Chính phủ không muốn
thi hành bản thông cáo chung: tại sao dụ số 10 lại được áp dụng một
cách “linh động”?, tại sao chưa chịu bồi thường cho các nạn nhân mà còn
phải đợi điều tra?, tại sao không nói đến trường hợp của Thiếu tá Đặng
Sĩ, người đã gây ra vụ đổ máu ở đài phát thanh Huế?, tại sao chính phủ
chỉ lo thể lệ treo cờ, lo kiểm tra chùa chiền còn những nguyện vọng căn
bản về hành đạo của Phật giáo lại không được thỏa mãn? Trong lúc đó bà
Ngô Đình Nhu lập đi lập lại nhiều lần lời tuyên bố “vỗ tay hoan nghênh
các vụ tự thiêu” mà bà ta gọi là những vụ “nướng thịt” (barbecue) và
“nếu ai còn muốn tự thiêu mà thiếu dầu xăng thì tôi sẽ cho”.
Sau
văn thư của Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ lộ rõ âm mưu trì hoãn việc
thi hành Thông Cáo Chung lại đến những thủ đoạn của chính quyền muốn
tiêu diệt lực lượng Phật giáo Việt Nam mà lúc bấy giờ Uỷ Ban Liên Phái
đang là đại diện. Một trong những thủ đoạn đó là xuyên tạc tính chất đại
diện chính thức và chính đáng của Uỷ Ban Liên Phái. Ngày 20 tháng 6 năm
1963, nghĩa là mười ngày sau khi thông cáo chung ra đời, Chính phủ tập
họp các tăng sĩ thuộc phái Cổ Sơn Môn tại Phú Thọ Hòa, dưới quyền chủ
tọa của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Bùi Văn Lương, để lập kiến nghị ủng hộ Chính
phủ và đặc biệt đánh điện qua Tích Lan yêu cầu Giáo Hội Phật Giáo Thế
giới “can thiệp và ngăn cản” cuộc đấu tranh của Phật giáo Việt Nam. Đồng
thời cũng được phối hợp trong ngày hôm đó, Ngô Đình Nhu và Cao Xuân Vỹ
huy động Thanh niên Cộng Hòa tổ chức một cuộc biểu tình có cảnh sát hộ
tống, yêu cầu Tổng thống Diệm duyệt lại bản Thông Cáo Chung. Ngày 26-6,
Thượng tọa Thiện Minh gởi văn thư lên Chính phủ phản đối sự kiện “Bản
Thông Cáo Chung không được thi hành và chính quyền đã có những hành
động, những âm mưu không muốn thỏa hiệp. Tại miền Trung, các chính quyền
địa phương vẫn tổ chức mít tinh lên án Phật giáo, vẫn cản trở việc đi
lại của các Tăng Ni, vẫn phong tỏa chùa chiền”...
Trong lúc
cuộc tranh chấp đang đi vào giai đoạn căng thẳng vì thái độ ngoan cố của
chánh quyền và nhất là vì các thành phần khác của dân tộc ý thức được
tính cách liên đới ruột thịt với Phật giáo đồ đang chống bạo quyền nên
đã công khai và đông đảo ủng hộ, thì ngày 5 tháng 7, Chính phủ Diệm lại
phạm thêm một lỗi lầm chính trị khác bằng quyết định đem 19 quân nhân và
34 nhân sĩ của vụ “phản loạn Nhảy Dù 11-11-1960” ra xét xử tại Tòa án
Quân sự Đặc biệt Sài Gòn. Quyết định của anh em ông Diệm nhằm vào thời
điểm đặc biệt đó phát xuất từ tính chủ quan mù quáng, tưởng có thể dùng
vụ án như một hình thức cảnh cáo để hăm dọa trí thức, sinh viên và đảng
phái đang mỗi ngày một đông đảo ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật giáo. Từ
đó, vấn đề đang được giới hạn trong một tôn giáo và những quy chế đặc
thù có tính xã hội, bỗng trở thành một cuộc khủng hoảng có tính chính
trị và liên hệ đến mọi thành phần khác của đại khối dân tộc.
Ngày
7 tháng 7, trong lúc dinh Gia Long đang hân hoan yến tiệc kỷ niệm lễ
“Song Thất” thì trong một căn phòng cô đơn của Thủ đô Sài Gòn, văn hào
Nhất Linh, nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam, con người suốt đời hiến thân
cho quê hương đất nước đó, uống độc dược để kết liễu đời mình với lời di
chúc sang sảng hào hùng như bản án kết tội phản quốc của chế độ Ngô
Đình Diệm:
Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử cả.
Sự việc đem các đảng phái quốc gia đối lập ra xét xử là một trọng tội
đối với quốc gia, chỉ đưa đất nước rơi vào tay Cộng Sản. Vì thế tôi tự
hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu là để cảnh cáo
những ai chà đạp mọi thứ tự do.
Ký tên: Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, ngày 7 tháng 7 năm 1963.
Cái
chết bất khuất của văn hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam quả thật đã như
một ngọn lửa oai hùng nung nấu tâm can nhân dân cả nước, đặc biệt là
giới sinh viên trí thức trẻ, từ lâu đã xem ông như một khuôn mẫu của kẻ
sĩ thời đại. Cái chết đó không khác gì hiệu lệnh cuối cùng trước lệnh
xuất quân của quốc dân Việt, thế mà những con người mất hết lương tri
của dòng họ Ngô Đình vẫn tiếp tục chính sách tiêu diệt Phật giáo không
một phút hồi tâm. Những bước sa lầy, tội lỗi của chế độ lại tiếp tục.
Ngày
12 tháng 7, Đại tá Đỗ Cao Trí, em ruột của Dân biểu gia nô Đỗ Cao Minh,
được thăng Thiếu tướng và được đặc cử giữ chức Tư lệnh quân đoàn I thay
thế cho tướng Lê Văn Nghiêm bị nghi ngờ thân Phật giáo, để Trí thẳng
tay đàn áp cuộc tranh đấu ở Huế và miền Trung.
Ngày 23 tháng
7, Trung tá Trần Thanh Chiêu, một Cần Lao Công giáo giám đốc Nha Dân Vệ,
điều động 100 dân vệ và thương phế binh đến biểu tình trước chùa Xá Lợi
chăng biểu ngữ đòi hỏi “đoàn kết để tránh mọi sự lợi dụng của Việt
Cộng”.
Ngày 3 tháng 8, trong lời hiệu triệu Phụ nữ Bán Quân
Sự, bà Ngô Đình Nhu lên án những vụ tranh đấu tôn giáo và qua ngày 8-8,
để gián tiếp trả lời câu khiển trách “thiếu lễ độ đối với Phật giáo” của
thân phụ là Đại sứ Trần Văn Chương trên đài VOA ngày 6-8, bà Nhu nhận
là có thiếu lễ độ nhưng cho đó là một thái độ cần thiết. Bà cũng cám ơn
ông Đại sứ đã cho bà một dịp để bà bày tỏ ý kiến (!). Ngày hôm sau, 9-8,
bà Nhu lại trả lời cuộc phỏng vấn của tờ New York Times bằng lập
trường: “Quyết liệt đối phó với cuộc tranh đấu hiện nay của Phật giáo”.
Theo
David Halberstam, sau khi thông cáo chung ra đời, trong một buổi ăn
sáng tại dinh Gia Long, bà Nhu đã nặng lời trách móc ông Diệm: “Anh đã
đánh tan Bình Xuyên, đánh bại Hòa Hảo, dẹp yên Nhảy Dù mà bây giờ anh
lại chịu thua mấy tên nhà sư khốn nạn không có một tấc sắt trong tay.
Anh là đồ hèn, anh là sứa”. Bị bà Nhu nặng lời chỉ trích, ông Diệm chỉ
còn biết phân trần với em dâu: “Thím không hiểu rõ vấn đề, vụ Phật giáo
còn liên hệ rắc rối với quốc tế, chúng ta sẽ giải quyết” [8].
Không
riêng ở Sài Gòn ông Nhu đòi “duyệt lại bản thông cáo chung”, bà Nhu đòi
“đối phó quyết liệt với vụ tranh đấu của Phật giáo” mà tại Huế, ông Ngô
Đình Thục cũng khinh thường cuộc đấu tranh của Phật giáo, coi quyết tâm
vùng lên sau bao năm bị áp bức đó chỉ như “một ngọn lửa rơm, bừng lên
rồi tắt, có chi mà sợ” (Theo Bên Dòng Lịch Sử của Linh mục Cao Văn
Luận).
Trước dã tâm của anh em nhà Ngô, và mặc dù lực lượng an
ninh được tăng cường khắp nơi (riêng tại Sài Gòn, Chính phủ đưa về hai
tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến và hai tiểu đoàn Nhảy Dù), phong trào đấu
tranh càng trở nên kiên cường, toàn diện và mãnh liệt hơn. Tại nhiều
tỉnh, các Đại đức, Ni cô tiếp tục tự thiêu, các Phật tử tiếp tục biểu
tình, tuyệt thực, các sinh viên y khoa, luật khoa, văn khoa, học sinh
các trường Chu Văn An, Trương Vĩnh Ký, Gia Long, Trưng Vương,... bãi
khóa, xuống đường, hội thảo. Sư Bà Diệu Huệ, thân mẫu của Đại sứ Bửu
Hội, cũng đòi tự thiêu và nữ sinh Mai Tuyết An, 18 tuổi ở Thị Nghè, sau
khi đi Chùa về đã cầm dao chặt tay để phản đối lời tuyên bố của bà Nhu.
Nhiều đảng viên của các đảng Đại Việt, Việt Quốc, Duy Dân ở Sài Gòn và
các tỉnh đã tích cực hoạt động yểm trợ cho Phật giáo. Đặc biệt giới trí
thức và nhân sĩ, dù âm thầm hay công khai, đều chống lại nhà Ngô mà điển
hình là giáo sư Phạm Biểu Tâm, Khoa trưởng Đại học Y khoa, một nhân vật
có uy tín lớn lao được giới tri thức và sinh viên rất trọng vọng (đã
hai lần được ông Diệm mời làm Bộ trưởng mà vẫn từ chối) và một số giáo
sư bị bắt. Linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng Viện Đại học Huế, vì ủng
hộ phong trào sinh viên tranh đấu nên cũng bị cất chức ngày 16 tháng 8
năm 1963.
Đến đây thì cuộc tranh đấu đã thật sự có tầm vóc
quốc gia. Những phẫn uất câm nín, những đày đoạ nhọc nhằn, những áp bức
tàn bạo bị dồn nén từ chín năm nay trên mọi miền đất nước, trong mọi tấm
lòng của nhân dân, đã nổ bừng lên, kết hợp với phòng trào đấu tranh của
Phật tử để trực diện đối phó với một chính quyền lạnh lùng và hiểm độc.
Những danh từ mỹ miều của ông Diệm như “lương tri”, “ái quốc”, như
“giải quyết trong tình huynh đệ” đã bị chính ông và tập đoàn Cần Lao
Công giáo do anh em ông lãnh đạo chà đạp xuống đất. Dân chúng vốn đã
không tin vào sự “thành tín” của ông, vốn đã kinh qua trăm đắng ngàn cay
do chế độ ông tác hại, thì giờ đây sự công phẫn tích tụ từ lâu chỉ có
thể biểu hiện bằng một thái độ mà thôi: Những kẻ bị đàn áp cùng đứng
chung một chiến tuyến để chống lại tập đoàn thống trị.
Ngay cả
nhà tôi, dù suốt đời vẫn quen sống trong gia đình, thủ phận nuôi chồng
nuôi con, một năm chỉ lên chùa vào ngày Tết và Lễ Phật Đản, Lễ Vu Lan,
và dù biết chồng là một cán bộ rường cột của Tổng thống Diệm, nhưng
trước hành động hung hãn của nhóm Công giáo Cần Lao khi đối với các nhà
tu hành cô thế, cũng đã bí mật gia nhập vào các hoạt động quần chúng để
giúp các chùa trong cơn Pháp nạn tại Nha Trang, nơi nhà tôi và các con
nhỏ đang cư ngụ lúc bấy giờ. Tại thành phố nhỏ này, từ ba tháng nay
nhiều chùa đã bị canh phòng theo dõi, riêng chùa Tỉnh Hội, ngôi chùa lớn
nhất Khánh Hòa bị cô lập, cúp điện, cúp nước và bị cắt đứt mọi nguồn
tiếp tế của Phật tử. Nhiều Tăng Ni bị đánh đập, trói lại và giam tại
quân lao, còn Thầy Trụ trì và Thầy hội trưởng Thích Đức Minh thì bị tra
khảo mang thương tích nặng nề. Do đó, một mặt nhà tôi bí mật liên lạc
với các nhân sĩ có uy tín tại Nha Trang như gia đình cụ Thượng thư Trí
sĩ Tôn Thất Toại, cụ Phủ Tâm, Huyện Tủng (thân sinh của lãnh tụ sinh
viên trường Luật Nguyễn Hữu Doãn), cụ Bùi Liên (thân phụ giáo sư Bùi Ái
hiện ở Pháp), gia đình cụ Võ Đình Dung, Võ Đình Thụy, gia đình bác sĩ
Trần Kiêm Phán (hiện ở Los Angeles) gia đình ông Phó Tỉnh trưởng Lê Bá
Chẩn (hiện ở Pháp), gia đình giáo sư Ưng Trung... bí mật lập ủy ban cứu
đói cho gần 300 Tăng Ni và Phật tử đang bị bao vây trong ngôi chùa Tỉnh
Hội. Nhà tôi còn tác động tinh thần Đại úy Lê An có nhà ở cạnh chùa để
dùng làm trạm liên lạc với chùa và để chứa thực phẩm hầu chuyển vào chùa
trong đêm khuya. Mặt khác, cùng với một số đông đảo quân nhân Phật tử,
nhà tôi tổ chức một cuộc “vượt ngục” cho các nhà sư đang bị giam ở quân
lao, đưa Thầy Hội trưởng về nhà riêng ẩn trốn để Thầy tiếp tục lãnh đạo
cuộc đấu tranh cho đến ngày cách mạng 1 tháng 11 năm 1963 bùng nổ.
Tôi
không trách nhà tôi đã bày tỏ lập trường ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật
giáo, vì người đàn bà Việt Nam, nhất là con nhà gia giáo bảo thủ ai lại
không động lòng trắc ẩn từ tâm, huống chi động cơ của việc làm đó lại
là vì đạo nghĩa. Cái gì đã làm cho một người đàn bà từ 30 năm nay chỉ
biết lo cho chồng con hạnh phúc, nhà cửa êm ấm, chưa hề tham dự một sinh
hoạt tập thể công khai nào, bỗng vùng lên vào chốn nguy hiểm đấu tranh
mà trong thâm tâm dù biết có thể gây lo buồn cho chồng con, có thể làm
đổ vỡ sự nghiệp vững vàng của chồng trong chế độ Diệm (thay vì khuyên
chồng theo đạo Công giáo để được thăng quan tiến chức như một số bà vợ
sĩ quan khác) ? Cái gì đã làm cho một người đàn bà sợ mưu kế, ghét thủ
đoạn, dám dấn thân vào công tác bí mật tổ chức cho tội nhân của Chính
phủ vượt ngục? Cái gì đó chắc chắn phát sinh từ sự mộc mạc và chân thành
của một người đàn bà lấy đạo đức và chân chính làm khuôn thước đo lường
nhân thế: Một người dân trong mười mấy triệu người dân của miền Nam
sống dưới chế độ bạo quản của anh em ông Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ.
Trong
lúc đó thì bề ngoài tôi vẫn hành xử như một Giám đốc Nha An Ninh Quân
đội của chế độ, nhưng bề trong thì con người cán bộ tiền phong xa xưa
của tổ chức Ngô Đình Diệm bắt đầu chỗi dậy để tìm phương thế cứu lấy
thầy mình trong cơn hoạn nạn. Nếu con người của chế độ đã chán chường
bất mãn thì con người cán bộ lại thao thức băn khoăn, vì phương thế duy
nhất mà tôi suy nghĩ phải đủ cứng rắn để tỉnh thức ông Diệm dù trong cái
liên hệ thắm thiết giữa ông và tôi từ 20 năm qua có một điểm không
tương đồng lớn nhất, đó là niềm tin tôn giáo.
Thật vậy, từ
lâu, theo lời Trung tá Nguyễn Văn Châu ở cạnh nhà cho tôi biết thì ông
Diệm thường dò hỏi nếp sống trong gia đình tôi, đặc biệt là việc thờ tự.
Châu cho ông biết trong nhà tôi có bàn thờ Phật, bàn thờ ông bà rất tôn
nghiêm, nhất là vào các dịp Tết nhất cúng kỵ rất trang trọng. Trong thư
phòng của tôi lại có tượng Đức Khổng Tử tỏ ra tôi là con người nặng
lòng với nền Tam Giáo. Ông Diệm đã biết thế mà nhiều đêm thầy trò đàm
đạo, có lẽ vì muốn thuyết phục tôi nên ông không ngại ngùng mỉa mai chỉ
trích đạo Phật là thứ đạo mê tín dị đoan, còn các nhà sư thì quê mùa dốt
nát, chẳng qua vì nghèo đói, không có nghề nghiệp sinh nhai nên mới
phải nương thân nơi của chùa lo việc gánh nước quét lá để kiếm nắm xôi
miếng oản, rồi lâu ngày thành ra sư nọ sư kia. Ông lại ca ngợi đạo Công
Giáo là thứ đạo văn minh khoa học, thứ đạo quốc tế với bảy trăm triệu
tín đồ trên khắp thế giới năm châu. Rồi ông khuyến dụ tôi nên theo đạo
Công giáo. Nghe ông phê phán như vậy tôi chỉ cười thầm trong bụng, tôi
biết ông cũng có đọc Nho, Lão, Phật nhưng ông không thể hiểu cái tinh
túy của Đạo Phật, cái triết lý cao thâm của Phật Giáo. Trái lại, trong
cái hiểu biết của tôi thì Kinh Thánh và tôn giáo của ông có nhiều điều
vô lý, phản khoa học, phản con người, và lịch sử Giáo hội cũng như chính
bản thân một số Giáo Hoàng đã gây nhiều tội ác đối với nhân loại. Đặc
biệt nhất là tôi chưa cảm nhận được tình tự dân tộc, bản chất Việt Nam
trong Thiên Chúa giáo như trong đạo Phật, tuy nhiên, vì nặng nghĩa thầy
trò nên tôi không muốn tranh cãi với ông. Vì vậy, mỗi lần ông đưa lời
khuyến dụ tôi cải đạo, tôi chỉ dùng lời khôn khéo để chối từ: “Thưa Cụ,
tôi còn có người anh quyền huynh thế phụ đã trên 60 tuổi, anh tôi hết
sức bảo thủ, lại đang là khuôn trưởng khuôn A-Dục Phật giáo tại Nha
Trang và là hội viên ban quản trị Hội Khổng học Khánh Hòa, vậy xin Cụ
đợi khi nào anh tôi qua đời tôi sẽ xét lại vấn đề niềm tin rất quan
trọng này”. Tôi chỉ nói đãi đưa cho qua câu chuyện, cho ông Diệm khỏi
buồn lòng, chứ con người của tôi vốn từ bùn lầy nước đọng của quê hương
nghèo nàn khốn khổ mà xuất thân sau khi đã nổi trôi bao cuộc bể dâu thì
dù sao cũng có thể gọi là đã trải mùi nhân thế, làm sao tôi lại có thể
dễ dàng bỏ đạo của dân tộc, của cha ông như một số Bộ trưởng, tướng tá
khác. Huống chi thứ nhất là tôi không tìm thấy ở một đạo nào khác nhân
bản và dân tộc bằng đạo Phật, thứ hai là tôi không vì lợi danh mà dẹp bỏ
“hồn nước với lễ gia tiên” dù tôi là kẻ ít học nhưng cha chú tôi đều là
những người theo đòi nghiên bút, học đạo Thánh hiền, nhạc gia tôi đã
từng cởi áo từ quan, tiền nhân nhà tôi đã có nhiều người tham gia phong
trào Cần Vương, phong trào “Bình Tây Sát Tả”. Huống gì tôi vì đi lính
Khố Xanh cho Pháp mà cảm nhận được cái nhục chung của dân tộc nên đã
công phẫn chống Pháp, làm tiểu đoàn trưởng cho Việt Minh rồi lại phản
tỉnh chống Việt Minh, làm sĩ quan dưới quyền tướng Hinh mà dám công khai
chống lại tướng Hinh, làm cán bộ dưới chế độ mà dám coi thường Cố vấn
Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, nghĩa là luôn luôn ở vào cái thế bị đấu
tranh để giữ lấy hương sen trong bùn hôi, nay há lại bôi đen lòng mình,
bỏ nền phong hóa đạo lý của cha ông để theo một tôn giáo mà mình không
thể chấp nhận được cả về khía cạnh tín ngưỡng lẫn khía cạnh lịch sử đối
với dân tộc.
Vì ông Diệm đã biết rõ cuộc đời của tôi, chí
hướng tôi, gia cảnh tôi, nhất là lập trường tôn giáo của tôi nên tôi
càng phân vân khó xử trước hoàn cảnh đất nước lúc bất giờ, lúc mà anh em
ông ta đang vận dụng toàn bộ sức mạnh của chế độ để đàn áp Phật giáo.
Tôi đoán ông đang thắc mắc về tôi, đang ngờ vực lòng dạ của tôi, vì từ
ngày xảy ra biến cố Phật giáo, ông ít gọi tôi vào Dinh như chỉ cách đó
mấy tháng. Những lúc có công việc khẩn cấp cần phải gặp, tôi thấy ông
không còn có thái độ mặn mà tình nghĩa như trước. Trong lúc đó thì những
người bạn chí thân của tôi mà cũng là cán bộ của ông Diệm như ông
Nguyễn Đôn Duyến (làm ở Bộ Ngoại Giao), như ông Võ Như Nguyện (Giáo sư
Hán Học ở Huế), đều đã bày tỏ quyết liệt lập trường thân Phật giáo chống
lại chế độ. Ông Võ Như Nguyện sau khi mất chức Tỉnh trưởng tỉnh Bình
Định, thấy ông Ngô Đình Cẩn và nhóm Công giáo Cần Lao mỗi ngày mỗi lộng
hành tàn bạo, bèn đem cả nhà lên chùa qui y (xem thư ông Nguyện gởi cho
ông Hoàng Đồng Tiếu trong phần Phụ lục). Trong cuộc đấu tranh của Phật
giáo, ông Nguyện cùng với các giáo sư đại học Huế ký tuyên ngôn kết tội
nhà Ngô nên đã bị bắt giam.
Trước hoàn cảnh khó xử đó, và
trong khi tìm phương cách giải quyết được cuộc khủng hoảng, tôi giữ thái
độ trung lập, không theo chế độ để phản lại niềm tin nhân bản của mình,
mà cũng không theo Phật gi
VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi
Tác giả: Hoành Linh Đỗ Mậu
Chương 16: TỪ ĐỒNG MINH VỚI MỸ-ĐẾN THỎA HIỆP VỚI CỘNG
Trong
lúc biến cố Phật giáo đang sôi nổi thì trong giới chính trị và tình báo
tại Thủ đô Sài Gòn có hai vấn đề cũng được thảo luận và theo dõi gần
như công khai. Đó là nguồn tin về những vận động của chính quyền
Nhu–Diệm nhằm thỏa hiệp với Cộng Sản Hà Nội và những tin tức về các cuộc
đảo chánh có thể xảy ra.
Sài Gòn như lên cơn sốt mùa hè với
những tin đồn phóng đại, những giả thuyết đầy mâu thuẫn và những vận
động ngầm sôi nổi. Đề tài về âm mưu thỏa hiệp với Hà Nội là đề tài nóng
bỏng nhất vì không những nó liên hệ đến chế độ Diệm mà còn trực tiếp tạo
nhiều hệ quả lớn lao cho vận mệnh của miền Nam Tự Do.
Sau
cách mạng 1–11–1963, các bí mật từ từ lộ ra qua các tài liệu Việt Nam và
quốc tế, những nhân chứng trong cuộc cũng từ từ tiết lộ những sự kiện
cụ thể để ta có thể nghiêm túc trình bày lại diễn tiến của âm mưu này,
cũng như để ta có thể chín chắn suy nghiệm về biến cố mà hai anh em
Nhu–Diệm đang từ theo Mỹ đến chống Mỹ và đang từ chống Cộng đến thỏa
hiệp với Cộng.
Âm mưu thỏa hiệp với chính quyền Cộng Sản Hà
Nội của chế độ Diệm là một trong những động cơ quan trọng, nếu không
muốn nói là động cơ thách đố nhất, thúc đẩy quân đội cùng với toàn dân
đứng lên làm cuộc cách mạng 1–11–63. để ngăn chận và trừng phạt dòng họ
Ngô Đình. Chính âm mưu này đã là nguyên động lực làm cho nhiều tổ chức
chống chế độ có thể đoàn kết hợp tác với nhau mà không ngại ngùng, và
đến khi tiếng súng cách mạng phát khởi thì các đoàn thể quần chúng và
nhân dân cả nước cũng đều một lòng yểm trợ cho cuộc cách mạng lật đổ Ngô
triều thành công.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến quyết định
thay đổi lập trường và chính sách chống Cộng của hai anh em ông Ngô Đình
Diệm nhưng tựu trung có thể gồm lại trong bốn điểm chính: thứ nhất là
sự chống đối càng lúc càng quyết liệt của nhân dân và các lực lượng
chính trị đối lập tại miền Nam; thứ hai là áp lực càng lúc càng nặng nề
của lực lượng chính trị võ trang của kẻ thù Cộng Sản; thứ ba là sự căng
thẳng trong mối bang giao Việt–Mỹ mà những đổ vỡ có thể mang đến các di
hại trầm trọng; và thứ tư, quan trọng nhất, là bản chất thủ đoạn cũng
như tính chủ quan của ông Ngô Đình Nhu. Nếu chỉ có một, hay hai, hay cả
ba nguyên nhân mà thôi thì chưa chắc hai ông Diệm–Nhu đã thỏa hiệp với
Cộng Sản, nhưng vì bốn nguyên nhân vừa khách quan vừa chủ quan này đã,
chậm chạp nhưng chắc chắn, cùng phối hợp với nhau nên đã đánh bật lập
trường chống Cộng của anh em Ngô Đình, dù từ lâu mối thù giết anh ruột
đã bắt gốc rễ vào tâm trí họ, và dù sự nghiệp chính trị của họ được xây
dựng trên quyết tâm chống Cộng của quân dân miền Nam.
-o0o-
Thật
vậy, như tôi đã trình bày trong hai chương 11 và 12, cao trào chống đối
của quân dân miền Nam trước chính sách độc tài và đàn áp các lực lượng
quốc gia của chính quyền Ngô Đình Diệm càng lúc càng gia tăng với bản
cáo trạng lên án chế độ của nhóm Caravelle, với hoạt động đối kháng của
Mặt Trận Đoàn Kết do ông Nguyễn Tường Tam chủ xướng, của đảng Tự Do Dân
Chủ do ông Phan Quang Đán thúc đẩy, của Liên Minh Dân Chủ do nhóm các
ông Phan Bá Cầm, Xuân Tùng, Hoàng Cơ Thụy lãnh đạo,… và hai cuộc binh
biến táo bạo cũng như quyết liệt của binh chủng Nhảy Dù và vụ ném bom
dinh Độc Lập. Đó là chưa nói đến những cá nhân hoặc đoàn thể trước kia
đã từng cộng tác, ủng hộ và nhiều khi hy sinh cả đời người cho hoạt động
chính trị của hai ông Nhu–Diệm thì kể từ năm 1960 trở đi, cũng đã công
khai lên án chế độ và bày tỏ thái độ chống đối gia đình họ Ngô. Và đó
cũng chưa kể đến sự công phẫn của quần chúng mà điển hình là cuộc vận
động cách mạng của Phật giáo bắt đầu lan rộng và biến thành những hình
thức đề kháng chế độ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Những
hoạt động chống đối đó đáng lẽ phải được nghiên cứu sâu sắc và truy tầm
nguyên nhân để rút ra những bài học tích cực hầu xây dựng dân chủ và sửa
sai chế độ thì hai ông Nhu–Diệm lại xem đó như những khiêu khích phản
loạn cần phải diệt trừ cho tuyệt hậu họa. Họ đã xem hành động đối lập
của các lực lượng quốc gia như hành động của kẻ thù tối nguy hiểm vì
chính đối lập mới thực sự đe dọa đến quyền hành và danh vọng của họ,
quyền lợi và mạng sống của họ. Họ lo lắng suy nghĩ và dành nhiều phương
tiện cũng như nhân sự của quốc gia để lo đối phó với những thành phần
đối lập quốc gia còn hơn cả đối phó với kẻ thù Cộng Sản. Nhưng như tôi
đã trình bày và lịch sử giai đoạn đó đã chứng minh, chế độ càng đàn áp
thì sự chống đối càng gia tăng. Gia tăng trên cả hai mặt mức độ cũng như
số lượng đến nỗi đã dùng đến cả võ lực (vụ ném bom) vốn là hình thức
cao nhất và dứt khoát nhất của mọi cuộc đấu tranh.
Tình trạng
lớn mạnh của đối lập đó, trong những năm từ 1960 trở đi, tuy chưa trực
tiếp và tức thì đe dọa chế độ, nhưng hai ông Nhu–Diệm cũng đã phải nhận
rằng nếu tình trạng đó kéo dài thì chính các lực lượng chính trị đối lập
đó, chứ không ai khác, trong tương lai sẽ đập tan chế độ và uy quyền
của họ. Nhận định đó, khi biến cố Phật giáo xảy ra vào năm 1963 và nhất
là khi những áp lực của người Mỹ trở thành nặng nề hơn, mới trở thành
một yếu tố tác động lên quyết định thỏa hiệp với Cộng Sản Hà Nội để hoặc
là dùng Cộng Sản như một phụ lực tiêu diệt đối lập, hoặc dùng Cộng Sản
như một mối đe dọa để làm chantage lực lượng đối lập. Kế hoạch hai mặt
đó, hai ông Nhu–Diệm nghĩ rằng nếu không làm tê liệt được quyết tâm thì
ít nhất cũng tiêu diệt được khả năng chống đối của người quốc gia.
Cho
nên chính sự thất bại và bế tắc trong chính sách đàn áp đối lập cuối
cùng đã là nguyên nhân sâu sắc nhất nhưng lại ẩn tàng nhất đẩy hai ông
Diệm–Nhu vào vòng tay Cộng Sản để mong bảo đảm danh vọng và quyền lợi
cho họ.
Đó là nguyên nhân thứ nhất.
Nguyên nhân thứ
hai là sự trưởng thành của lực lượng chính trị quân sự Cộng Sản, một kẻ
thù khác, đang rõ ràng công khai thách thức tư cách chủ nhân miền Nam
của chính quyền Ngô Đình Diệm và đánh phá sức mạnh đã bắt đầu lung lay
của chế độ. Sự ra đời của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam là cao
điểm chính trị của Việt Cộng sau khi đã làm ung thối tình hình thôn quê
miền Nam mà những ấp chiến lược, những khu trù mật, những khu dinh điền,
những chính sách quân phân ruộng đất, những chiến dịch tố Cộng,… đã tạo
ra những phản tác dụng cho Việt Cộng khai thác và bành trướng.
Mặt
khác, sự ra đời của Mặt Trận cũng chính thức hóa sự lệ thuộc của nó vào
hậu phương lớn Bắc Việt trên cả hai mặt chính trị lẫn quân sự, cho thấy
Mặt Trận chính là một bộ phận của Hà Nội và đánh Mặt Trận là trực tiếp
đánh Hà Nội. Trên mặt thuần túy quân sự, sự ra đời của Mặt Trận đã cho
phép họ thâu nhận nhiều yểm trợ khí cụ hơn cũng như kết nạp được nhiều
nhân lực hơn, ngay tại miền Nam, để thành lập những đơn vị chiến đấu
lớn. Thất bại nặng nề của Sư đoàn 13 tại Tây Ninh cuối năm 1960 đã là
dấu hiệu đầu tiên của sự lớn mạnh đó của Mặt Trận.
Hai ông
Diệm–Nhu lẽ tất nhiên đã không xem Việt Cộng như những lực lượng phiến
loạn địa phương kiểu các giáo phái Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo mà họ đã
từng dẹp yên được, lại càng không xem đó như những lực lượng võ trang
quốc gia đối lập kiểu chiến khu Ba Lòng của Đại Việt hay chiến khu Nam
Ngãi của VNQDĐ mà họ đã từng tàn bạo tiêu diệt một cách dễ dàng. Hai ông
Diệm–Nhu đã từng thấy được tính cách trường kỳ dai dẳng của Việt Minh
thời chiến tranh Pháp–Việt, cũng như bắt đầu thoáng thấy được sự vô hiệu
của những chiến lược chống Cộng của họ từ nhiều năm qua, thì hẳn họ
cũng hiểu hơn ai hết là thời gian không đứng về phía họ, nghĩa là trong
cuộc chiến này, càng về dài thì địch càng mạnh họ càng yếu. Cũng như
càng về dài thì ngôi vị, danh vọng, quyền lực, và ngay cả mạng sống của
họ càng bị đe dọa mà thôi.
Cho nên thay vì nhường quyền lãnh
đạo quốc gia cho lực lượng chống Cộng khác, hoặc cải tổ chính quyền và
thay đổi chính sách để đáp ứng hữu hiệu hơn với sự đe doạ đó thì hai ông
Nhu–Diệm, sau này, khi cùng một lúc bị những áp lực khác đè nặng, đã
như con đà điểu chui đầu xuống cát, tìm cách đầu hàng bằng sự thỏa hiệp
với kẻ thù.
Trước khi trình bày nguyên nhân thứ ba, nguyên
nhân mà tôi gọi là sự căng thẳng trong mối bang giao Việt–Mỹ vào những
năm đầu của thập niên 1960 khiến anh em Diệm–Nhu đã đi đến quyết định
thỏa hiệp với Cộng Sản, tôi xin được rất thực tế nêu lên một số biến cố
lịch sử để, qua đó, cụ thể phân tách một khía cạnh rất đặc thù về chính
sách ngoại giao của Mỹ đối với các đồng minh trong sách lược chống Cộng
toàn cầu của họ.
Lịch sử bang giao quốc tế từ thời xa xưa lúc
các quốc gia bắt đầu thành hình cho đến hiện đại, khi mà thế lưỡng cực
Tư Bản – Cộng Sản càng lúc càng gay gắt, đã cho thấy không thiếu những
trường hợp một quốc gia này yêu cầu một quốc gia khác đem quân đến giúp.
Lời “yêu cầu” đó có thể thật hay là giả, chính đáng hay không, hợp với
công pháp quốc tế hay không, là tùy bản chất của sự liên hệ giữa hai
quốc gia. Cũng vậy, “giúp” đó là thật hay giả, ngụy trang xâm lăng hay
thật sự yểm trợ, là tùy tình trạng của biến cố đó.
Hoa Kỳ
không những là một cường quốc, mà còn là một cường quốc lãnh đạo một
khối để trực đối với một khối khác, nên lại càng bị lôi cuốn vào những
tranh chấp tuy cục bộ nhưng lại ảnh hưởng đến tương quan lực lượng Tư
Bản – Cộng Sản. Do đó mà tuy mới 200 năm lập quốc, Hoa Kỳ đã nhiều lần
phải dính dự vào các biến cố nội bộ của các quốc gia thân hữu mà Hoa Kỳ
xem là đồng minh. Những dính dự đó hầu hết là để yểm trợ. Và dù những
yểm trợ đó có lúc bắt nguồn từ quyền lợi của nước Mỹ, cũng đã có lúc
vụng về gây tai hại nhiều hơn là đem đến ích lợi, nhưng nói chung thì
những yểm trợ đó phản ánh đức tính hào hiệp và vị tha của một dân tộc mà
tôn giáo đã là một trong những nguyên ủy lập quốc, mà những lý tưởng về
Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền đã là những sức mạnh duy trì sự cao cả của
dân tộc họ. Đức tính hào hiệp và những lý tưởng lập quốc đó đã chảy
xuyên dòng lịch sử ngoại giao của Hoa Kỳ như một thứ cốt tủy, dù phần
thể hiện của nó là các chính sách ngoại giao, có thay đổi theo thời đại
hay theo từng nhiệm kỳ của mỗi vị Tổng thống. Chúng đã thuộc về căn cước
văn hóa của dân tộc Hoa Kỳ. Hay nói như Coral Bell, một nhà nghiên cứu
Úc, thì:
“Đạo đức và tinh thần thượng tôn pháp luật là hai
tuyến lõi trung ương của nền ngoại giao Hoa Kỳ kể từ khi quốc gia này ý
thức được vai trò cường quốc của mình” [1].
Thật vậy, Hoa Kỳ
đã hai lần đưa quân đội vào nước Pháp giúp giải thoát nước này khỏi gót
giày xâm lăng của quân phiệt Đức. Sau thế chiến thứ hai, Hoa Kỳ lại thực
hiện kế hoạch viện trợ Marshall để giúp Pháp tái thiết xứ sở và nhất là
giúp các lực lượng dân chủ Pháp đánh bại mưu toan cướp chính quyền của
đảng Cộng Sản Pháp, lực lượng mạnh nhất lúc bấy giờ, mạnh đến nỗi đã
đánh bật vị anh hùng cứu quốc De Gaulle ra khỏi chính quyền năm 1946.
Cũng
vậy, tháng 6 năm 1950, Hoa Kỳ gởi quân qua Thái Bình Dương giúp Nam Hàn
chống lại cuộc xâm lăng của Bắc Hàn và Trung Cộng. Trong những ngày đầu
của trận chiến, tướng MacArthur đã khuyên Tổng thống Lý Thừa Vãn bỏ thủ
đô Hán Thành rút về miền cực Nam để bảo toàn lực lượng mà vị Tổng thống
này vì tự ái dân tộc đã không chịu nghe theo. Đến khi Bắc quân đánh
xuống như thế chẻ tre, ông mới rút về Phú San, để từ đó cùng với quân
lực Mỹ của tướng MacArthur phản công đuổi quân thù ra khỏi vĩ tuyến thứ
38. Sau khi hòa bình vãn hồi, nhận rõ áp lực nặng nề vẫn đe dọa đất
nước, Tổng thống Lý Thừa Vãn đã yêu cầu quân Mỹ ở lại để bảo vệ biên
giới phương Bắc, đồng thời thực thi một nền tự do dân chủ có trách nhiệm
để tạo những nền móng chính trị cho nền độc lập và cho những phát triển
kinh tế lẫy lừng sau này.
Cũng tại Á Châu và gần gũi với Việt
Nam hơn, Phi Luật Tân đã bị Hoa Kỳ chiếm đóng trong và sau đại chiến
thứ hai. Nhưng trong khi các nước Á Phi khác phải đổ rất nhiều xương máu
và tốn rất nhiều thời gian để giành lại độc lập thì ngược lại, Phi Luật
Tân đã được Hoa Kỳ hào hiệp trao trả chủ quyền đất nước ngày 4 tháng 7
năm 1946, khác hẳn với chính sách duy trì chế độ thuộc địa của các đế
quốc thực dân khác như Bỉ (ở Congo), Pháp (ở Việt Nam, Algérie), Hòa Lan
(ở Nam Dương).
Để bảo vệ nền độc lập trong trường hợp bị
Trung Cộng xâm lăng và để tỏ thiện chí cho mối giao hảo hầu mở đầu những
bang giao kinh tế tốt đẹp sau này, Phi Luật Tân đã nhượng cho Hoa Kỳ
thuê (Cession and Bail) hai căn cứ quân sự lớn là Clark Air Base và
Subic Bay mà số ngoại tệ thu nhận được từ hai căn cứ này đã đóng góp rất
nhiều vào việc phục hưng nền kinh tế hậu chiến của Phi Luật Tân. Trong
suốt các thập niên 1950 và 60, Hoa Kỳ đã giúp Phi Luật Tân tối đa trên
cả hai mặt kinh tế lẫn chính trị để trở thành một trung tâm vận động của
vùng Đông Nam Á mà điển hình là các định chế kinh tế, quân sự liên vùng
như ADB Asia Development Bank (Ngân Hàng Phát Triển Á Châu), SEATO
Southeast Asia Treaty Organization (Tổ chức Minh Ước Liên Phòng Đông Nam
Á) đều đặt trụ sở hoặc bộ chỉ huy trung ương tại Manila.
Một
trường hợp đặc biệt khác mà tôi muốn đề cập ở đây như một bài học lịch
sử là trường hợp của Nhật Bản. Trong đệ nhị thế chiến, Hoa Kỳ đã từng
tiến đánh và nhiều khi chiếm đóng các đảo của Nhật tại Thái Bình Dương
để trừng phạt quốc gia này đã tấn công Trân Châu Cảng và hợp tác với Đức
Quốc Xã của Hitler.
Sau sự tàn phá khủng khiếp của hai quả
bom nguyên tử tại Hiroshima và Nagasaki, ngày 2 tháng 9 năm 1945, trên
soái hạm Missouri, đại diện Nhật hoàng ký văn kiện đầu hàng vô điều kiện
trước mặt vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Đội Đồng Minh tại mặt trận
Thái Bình Dương là tướng MacArthur. Những Đô đốc, Tướng lãnh, Sĩ quan
thường rất kiêu hãnh của quân đội Thiên Hoàng đã để những giọt nước mắt
từ từ rơi xuống ngay cả trước mặt quân thù. Đó là những giọt lệ chân
thành và chua xót nhất của kẻ chiến bại mà đã một thời từng đánh tan hạm
đội Nga Hoàng, từng tốc chiến tốc thắng tại Lư Câu Kiều (Trung Hoa),
từng tung hoành oanh liệt khắp vùng Đông Nam Á làm bàng hoàng cả thế
giới.
Trước đó, ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Hoàng Hiro Hito
đã ra lệnh chấm dứt cuộc chiến. Tại các mặt trận, quân đội Thiên Hoàng
phải hạ súng, rất nhiều sĩ quan Nhật đã dùng gươm tự sát theo truyền
thống của một võ sĩ đạo để đền nợ nước, trả ơn vua và bảo vệ danh dự
cùng khí phách của một quân nhân. Lá cờ “mặt trời mọc” từ nay vắng bóng
trên bốn bể năm châu, chỉ còn trên mấy hòn đảo xứ Phù Tang nghèo nàn đổ
nát.
Trước nỗi đau khổ nhục nhã vô cùng tận của quân dân, Nhật
Hoàng đã thống thiết kêu gọi dân chúng Nhật… Hãy chịu đựng cái không
chịu đựng nổi và hãy đau khổ cái không đau khổ nổi, và hãy hướng về
tương lai. Sau đó Nhật Hoàng cắt một phần đất của Hoàng thành, nơi mà
Hoàng gia trải bao đời yêu quí gìn giữ, để tặng lại cho dân chúng như
một hành động tạ tội tượng trưng với đồng bào.
Đối với quân
đội chiếm đóng Mỹ, toàn thể dân chúng Nhật đều cố nén uất hận và che dấu
căm hờn mà tự nhiên đối xử một cách lễ độ. Hễ gặp một Mỹ kiều, dù là
thuộc thành phần quân nhân hay dân sự, họ đều nghiêng mình cúi đầu
xuống, chắp tay vái chào theo tục lệ của dân Nhật. Họ không để lộ thái
độ thù hận, chống đối quá khích. Khi bị áp lực của Mỹ phải ký Hòa Ước An
Ninh Hỗ Tương San Francisco (1951) mà trong đó có điều khoản bắt Nhật
không được tái võ trang quá giới hạn phòng vệ, chính giới Nhật Bản vẫn
cam chịu để đổ dồn hết ngân sách vào sức mạnh kinh tế. Thái độ ẩn nhẫn
có vẻ khiếp nhược đó, một phần do lời kêu gọi “tôn trọng kỷ luật đối với
kẻ chiến thắng” của nhà vua, một phần là do tính tình khôn ngoan, cẩn
trọng, thức thời, và ý thức chính trị sáng suốt của con cháu Thái Dương
Thần Nữ. Họ dìu dắt nhau, chỉ dẫn nhau trong ý thức “thất bại là mẹ
thành công” để xây dựng lại quê hương. Chính nhờ triệt để thể hiện cái ý
thức khôn ngoan đó mà người Nhật sớm thu lượm được những kết quả đầu
tiên vô cùng to lớn mà ngay cả họ cũng không ngờ tới.
Bài học
lịch sử đó của dân tộc Nhật Bản là gì nếu không phải là bài học về sự
vận dụng sức mạnh của địch cho sự cường thịnh của chính mình. Và đàng
sau bài học đó là một bài học rất lớn khác cho chúng ta về lòng yêu nước
bằng một quan điểm sáng suốt và bằng một tinh thần thực tiễn, chứ không
phải chỉ bằng những xúc động mù quáng của một thứ tự ái dân tộc nhiều
lúc rất phản quốc.
Trường hợp của Nhật Bản cũng như trường
hợp của Cộng Hòa Liên Bang Đức, một kẻ cựu thù trong Đệ Nhị Thế Chiến,
Hoa Kỳ đã biết mau chóng biến thù thành bạn để cùng xây dựng một khối
NATO hùng mạnh hầu ngăn chận sự bành trướng nguy hiểm của Nga Sô. Các
nhà lãnh đạo Đức, dù bảo thủ như Adenauer hay chủ xướng Ostpolitik như
Willy Brandt, đều biết vận dụng sự yểm trợ của đồng minh lớn Hoa Kỳ để
hùng cường hóa đất nước. Và dù quân đội của Mỹ có đóng trên đất Đức, dù
hỏa tiễn Pershing II có đặt căn cứ trên lãnh thổ Đức, không ai có thể
nói rằng Đức không có chủ quyền, không có độc lập.
Thật trái
hẳn với trường hợp của nước ta đã không vận dụng được sức mạnh đó để cứu
nước chứ đừng nói đến dựng nước, mà lại còn mất chủ quyền, mất độc lập
nữa! Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa, ông Diệm đã không làm nổi một Nhật Hoàng
Hiro Hito, một De Gaulle, một Lý Thừa Vãn thì làm sao trách được sau này
Nguyễn Văn Thiệu không biến miền Nam thành một chư hầu trong quỹ đạo
Hoa Kỳ.
Nêu lên một số sự kiện lịch sử trên đây từ Âu qua Á,
từ bạn đến thù, tôi chỉ muốn nói rằng sau Thế Chiến thứ Hai, trước mưu
đồ bành trướng của Cộng Sản quốc tế, chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ dù
là đối đầu (Confrontation), ngăn chận (Containment), hay lật ngược
(Rollover, chữ của tạp chí Foreign Affairs), thì cũng đều nhằm đem sức
mạnh quân sự, sức mạnh tài lực, sức mạnh kỹ thuật của mình ra mà cứu bạn
và xây dựng cho bạn thì mới cứu được mình và mới xây dựng được mình.
Chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đối với Việt Nam từ sau Đệ Nhị Thế Chiến cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Ngay
sau Thế chiến thứ nhì, Tổng thống Franklin Roosevelt đã chủ trương yểm
trợ cho các phong trào “giải phóng dân tộc” của các quốc gia thuộc địa
trong khuôn khổ của phong trào giải thực toàn cầu mà Việt Nam là một thí
điểm kiểu mẫu. Ngay trong thời kỳ Nhật chiếm đóng Đông Dương, ngày 22
tháng 8 năm 1945, một phái đoàn Mỹ gồm năm sĩ quan do Thiếu tá Archimede
L. Patti cầm đầu đã nhảy dù xuống vùng thượng du Bắc Việt giúp ông Hồ
Chí Minh kháng Nhật, và chính phái đoàn Mỹ này đã về Hà Nội dự lễ Độc
lập đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhưng khi ông Hồ Chí
Minh và Việt Minh để lộ màu sắc Cộng Sản thì phái đoàn Patti được lệnh
chấm dứt mọi liên hệ để hồi hương. Cuộc chiến tranh giữa Cộng sản Việt
Nam vận dụng dân tộc và thực dân Pháp đội lốt “quốc gia chống Cộng” bắt
đầu ngay sau đó. Ngày 29 tháng 12 năm 1947, cựu Đại sứ Hoa Kỳ William
Bullit viết trên tờ Life Magazine một bài báo gọi trận chiến tranh Đông
Dương là “trận chiến tranh buồn thảm nhất” (the saddest war), ông kêu
gọi Pháp phải trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam dù là một Việt Nam do
Đảng Cộng Sản Đông Dương lãnh đạo.
Lời kêu gọi của William
Bullit tuy ngây thơ nhưng phát xuất từ tâm thức “giải phóng dân tộc”,
bắt nguồn từ chính cuộc cách mạng lập quốc 1776 giải phóng khỏi ách đô
hộ của đế quốc Anh, đã đánh động được dư luận Hoa Kỳ, vì vậy khi Điện
Biên Phủ lâm nguy (tháng 5 năm 1954) và khi chính phủ Pháp yêu cầu Hoa
Kỳ yểm trợ bằng lực lượng không quân thì Tổng thống Eisenhower và Ngoại
trưởng Foster Dulles từ chối. Quan điểm của Ngoại trưởng Dulles lúc bấy
giờ là nếu Pháp muốn Hoa Kỳ cứu viện thì phải chịu hai điều kiện: một là
phải trả độc lập hoàn toàn cho thành phần quốc gia Việt Nam không Cộng
Sản, và hai là Mỹ phải giành lấy trách nhiệm lãnh đạo cuộc chiến tranh
Đông Dương. Tuy nhiên, phần vì chính phủ Anh không chấp thuận việc đồng
minh tham chiến tại Đông Dương, phần khác vì cả Pháp lẫn khối Cộng Sản
đều muốn giải quyết mau chóng vấn đề Việt Nam nên chủ trương của Ngoại
trưởng Dulles đã không được thực hiện.
Quy ước của Hội nghị
Genève 1954 đã tạm thời chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17. Phản ánh đúng
đắn đường lối ngoại giao của mình, Hoa Kỳ can thiệp mạnh mẽ vào vấn đề
Đông Dương mà cụ thể là giúp ông Diệm về nước để xây dựng một tiền đồn
chống Cộng tại Đông Nam Á. Vì tiền đồn đó, nếu muốn đóng vai trò chống
Cộng hữu hiệu thì phải thật sự tự do, dân chủ trên mặt chính trị, và
phải thật sự hùng mạnh trên mặt kinh tế và quân sự, nên Hoa Kỳ đã không
ngại ngùng dùng mọi kế sách và phương tiện để ủng hộ cho miền Nam, kể cả
việc không tôn trọng hai điều khoản quan trọng của hội nghị Genève về
vấn đề Tổng Tuyển Cử (năm 1956) và về vấn đề quân đội ngoại nhập. Quân
viện và kinh viện Hoa Kỳ đổ vào miền Nam như thác đổ, chuyên viên và
phương tiện Hoa Kỳ như một kho tàng bất tận cho nhà cầm quyền miền Nam
sử dụng; tiếc thay, anh em ông Diệm đã không biết vận dụng sức mạnh đó
để bổ túc cho sức mạnh cốt lõi của dân tộc hầu chống Cộng cứu nước và
phát triển quốc gia. Đã thế, khi không chống nổi Cộng Sản và trước những
áp lực chính đáng của Hoa Kỳ đòi cải tiến chế độ, họ lại phản bội cả
dân tộc lẫn đồng minh để thỏa hiệp với chính kẻ thù Cộng Sản. Năm 1963
ông Ngô Đình Nhu đã tuyên bố rất rõ ràng:
“Tôi chống Cộng trên
quan điểm ý thức hệ, tôi không phải là người chống Cộng trên quan điểm
chính trị hay nhân bản. Tôi xem những người Cộng Sản như anh em, như
những con chiên lạc đàn. Tôi không theo đuổi một cuộc thánh chiến chống
lại Cộng Sản vì nước tôi chỉ là một nước nhỏ bé. Chúng tôi chỉ muốn sống
trong hòa bình” [2].
Ở đây tôi không bàn đến sự nông cạn trí
thức của ông Nhu về ý thức hệ Cộng Sản khi tách phạm trù chính trị và
nhân bản ra khỏi ý thức hệ này; tôi cũng không cần bàn đến sự ngây thơ
chính trị rất chủ quan của ông Nhu khi cho rằng vì là một nước nhỏ bé
nên không chống Cộng, tôi cũng chưa nhắc lại tại sao năm 1955 anh em ông
Diệm không chịu thực hiện một quy chế Trung lập Hòa bình cho miền Nam
mà nay lại muốn thỏa hiệp với Cộng Sản để được hòa bình, mà tôi chỉ muốn
nhấn mạnh đến lập trường của ông Nhu, người lãnh tụ chính trị thực sự
của miền Nam tự do, qua chính lược không chống Cộng Sản nữa vì họ là
người “anh em”. Trước khi đi sâu vào sự thay đổi đột ngột về lập trường
của ông Nhu và sau khi đã nhìn một cách tổng lược và khái quát về chính
sách ngoại giao của Hoa Kỳ đối với các quốc gia thân hữu hoặc đồng minh,
đặc biệt là Việt Nam, tôi xin trở lại với nguyên nhân thứ ba là sự căng
thẳng trong mối bang giao ruột thịt giữa chính quyền Mỹ và chế độ Ngô
Đình Diệm.
Để hiểu thêm về bản chất và cường độ thực sự của
tình trạng căng thẳng này, tôi xin được trình bày một số sự kiện liên hệ
đến chính sách của các chính quyền Mỹ đối với chế độ Ngô Đình Diệm, một
chính sách đặt nặng tính khuyến cáo xây dựng để chính phủ Diệm sửa sai
hầu phát huy chính nghĩa chống Cộng hơn là áp lực độc đoán để tước đoạt
chủ quyền của miền Nam:
- Thứ nhất là sự kiện thay đổi một vị
Đại sứ trực tính và nhằm phục vụ cho miền Nam bằng một vị Đại sứ mềm dẻo
hơn và chỉ muốn làm hài lòng ông Diệm.
Ngay từ năm 1957, vị
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam là ông Ellridge Durbow đã thấy ông Diệm tiến
hành một chính sách độc tài trong việc quản trị miền Nam cũng như đã
hành xử một cách quan liêu phong kiến, khiến cho nhân dân bất mãn và làm
đình trệ các chương trình phát triển kinh tế, xã hội. Ông Durbow cũng
đã thấy được thái độ lộng quyền thất nhân tâm và phản tuyên truyền của
bà Nhu, nên đã khuyến cáo ông Diệm nhiều lần. Đặc biệt ông đề nghị giảm
bớt các hình thức làm dân bất mãn và tạo cơ hội cho địch tuyên truyền
như giảm thiểu đoàn xe hộ tống đông đảo ồn ào, như đừng bắt dân bỏ công
ăn việc làm cả ngày để chờ chực đón chào Tổng thống, như không nên ngồi
chễm chệ trên ghế bành đặt trên thuyền để sĩ quan lội nước đẩy thuyền.
Ông cũng khuyên nên để bà Nhu ra nước ngoài một thời gian hầu xoa dịu
lòng căm phẫn của dân chúng.
Nhưng những lời khuyến cáo của
Đại sứ Durbow đã không có hiệu quả nào vì lúc bấy giờ Hoa Thịnh Đốn vẫn
còn tin tưởng vào “uy tín và tài năng” của ông Diệm nên không muốn tạo
ra những mâu thuẫn cá nhân giữa hai người, làm phương hại đến mối giao
hảo đang tốt đẹp giữa hai quốc gia. Đã thế, ông Diệm lại bày tỏ sự bất
mãn đối với Hoa Thịnh Đốn về thái độ của Đại sứ Durbow mà ông cho là
“hay sinh sự” để Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ làm áp lực ngược lại ông Durbow.
Quan
hệ giữa ông Diệm và Đại sứ Durbow càng lúc càng trở nên căng thẳng và
lên đến cao điểm sau biến cố ngày 11–11–1960, biến cố mà vì những hằn
học cá nhân ông Nhu cứ nhất định cho là do Mỹ chủ xướng và Đại sứ Durbow
là người đóng vai trò quan trọng. Dù lúc bấy giờ Hoa Thịnh Đốn đã thấy
sự suy sụp của chế độ mà Đại sứ Durbow từng báo trước từ lâu, nhưng vì
muốn duy trì mối liên hệ ruột thịt giữa chế độ Diệm và Hoa Kỳ cũng như
vì muốn làm hài lòng ông Nhu, Tổng thống Kennedy đã kéo Đại sứ Durbow về
nước và cử Đại sứ Nolting qua Sài Gòn thay thế, dù ông này không có
nhiều hiểu biết hoặc kinh nghiệm về Việt Nam cũng như về Đông Nam Á.
Đại
sứ Nolting là một nhà trí thức hòa nhã, một nhà ngoại giao tế nhị mà Bộ
Ngoại Giao đã chỉ thị nên dùng những thái độ mềm mỏng trong khi khuyến
cáo chính phủ Diệm để khỏi chạm tự ái của những nhà lãnh đạo miền Nam.
Ông Nolting đã thi hành quá chỉ thị của thượng cấp đến độ tại Hoa Thịnh
Đốn người ta có cảm tưởng ông ta bị lôi cuốn bởi bà Nhu để trở thành một
vị Đại sứ của ông Diệm bên cạnh người Mỹ hơn là một vị Đại sứ của Mỹ
tại Sài Gòn [3]. Cảm tưởng đó hẳn không sai lầm vì ông Nhu đã thành công
trong việc điều động viên Đại sứ dễ vận dụng này và đã có lần khen ông
Nolting là vị Đại sứ thông minh nhất của Hoa Kỳ tại miền Nam từ trước
đến nay.
Mãi cho đến tháng 3 năm 1963, khi cờ gần tàn cuộc,
ông Nolting mới bắt đầu “thức tỉnh”, làm cho một đồng nghiệp của ông,
Đại sứ Pháp Roger Lalouette, phải chế diễu: “Đại sứ Mỹ Nolting quả thật
đang kẹt lắm. Nào là những hiểu lầm giữa ông ta và Bộ Ngoại giao Mỹ,
giữa ông ta và các phụ tá, giữa ông ta và các tướng lãnh Mỹ. Ông Nolting
lại đang kẹt với báo chí Mỹ, với gia đình và chính phủ Diệm, với tất cả
mọi nhà ngoại giao khác tại Sài Gòn. Tất cả những điều kẹt đó chứng tỏ
ông Nolting bắt đầu chớm hiểu” [4].
Sự kiện thay thế ông
Durbow bằng ông Nolting này biểu hiện một cách rất rõ ràng rằng Hoa Kỳ
sẵn sàng nhượng bộ và làm thỏa mãn anh em ông Diệm dù sự nhượng bộ đó,
về dài, có làm suy yếu chính sách ngoại giao của họ tại miền Nam nói
riêng và sách lược chống Cộng tại Đông Nam Á nói chung. Ta có thể phê
phán người Mỹ thiếu cứng rắn, kém tâm lý, hoặc ta có thể phê phán họ
ngây thơ, nhưng có một điều chắc chắn mà ta phải công nhận là họ đã
nhượng bộ để làm hài lòng hai ông Diệm–Nhu khi quyết định việc thay đổi
nhân sự này.
- Thứ hai là sự kiện người Mỹ đã tìm mọi cách để
nâng uy tín ông Diệm lên cao, một uy tín đang bị sụp đổ và đang cần phải
xây dựng lại gấp hầu duy trì khả năng chống Cộng của chính quyền miền
Nam.
Thật vậy, vừa làm lễ nhậm chức cuối tháng Giêng năm 1961
thì ngày 15 tháng 5, Tổng thống Kennedy đã gởi vị Phó Tổng Thống của
mình qua miền Nam để thẩm định lại tình hình tại chỗ, một tình hình
không mấy lạc quan vì sự gia tăng hoạt động của Việt Cộng và những báo
cáo bi quan về các thất bại chính trị của chính quyền miền Nam. Đồng
thời Tổng thống Kennedy cũng nhờ ông Johnson trao lại một lá thư riêng
cho ông Diệm tái xác định quyết tâm của Hoa Kỳ tiếp tục ủng hộ ông Diệm
và yểm trợ nhân dân miền Nam chống Cộng… Lá thư nói rõ rằng Hoa Kỳ chỉ
giúp phương tiện và ngân phí mà thôi, còn việc chiến đấu bảo vệ quê
hương là do chính nhân dân miền Nam nhận lấy trách nhiệm.
Trong
chuyến viếng thăm này, để làm hài lòng bản chất tự tôn và tính kiêu
hãnh của vị lãnh đạo miền Nam, ông Johnson khi đến Sài Gòn đã không ngại
ngùng công khai ca ngợi “Tổng thống Diệm là Churchill của thập niên
này”. Nếu ta so sánh cuộc đời cũng như sự nghiệp chính trị của Thủ tướng
Churchill và ông Diệm thì ta sẽ thấy lời đề cao quá lố này chỉ là một
lời tuyên bố thuần túy thuộc ngôn ngữ ngoại giao, rất cần thiết nhằm gây
lại uy tín cho ông Diệm vốn đã suy sụp quá nhiều, và đồng thời vừa để
chứng tỏ cho Cộng Sản cũng như nhân dân miền Nam biết rằng Hoa Kỳ vẫn
cương quyết ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm dù những sai lầm và thất bại của
chế độ đó.
Lời tuyên bố đó cần thiết đến độ Johnson đã phải
dùng một sự so sánh không những sai lầm trên mặt lịch sử mà còn hoàn
toàn ngược hẳn với sự đánh giá thầm kín của chính ông ta. Thật vậy, cũng
trong chuyến viếng thăm này, khi ngồi trên phi cơ bay thị sát các quân
khu và bị ký giả Mỹ chất vấn về lời tuyên bố đó, Phó Tổng thống Johnson
đã trả lời: “Xì ! Diệm là đứa duy nhất mà ta có ở đây” (Shit ! Diem’s
the only boy we’ve got out there”) [5].
Loại ngôn ngữ ngoại
giao đầy thủ đoạn chính trị đó, sau này, cũng đã được ông Nixon dùng để
khen ông Thiệu là “một trong bốn lãnh tụ tài ba nhất thế giới” tại vườn
hoa Tòa Bạch Ốc vào năm 1973. Nhưng điểm khác biệt đáng chú ý là ông
Nixon khen ông Thiệu để khuyến khích thi hành hiệp định Paris cho Mỹ có
thể giải kết khỏi miền Nam trong “danh dự”, và ông Thiệu biết lời khen
đó là giả dối, còn ông Johnson khen ông Diệm là để mong tạo uy tín thêm
cho ông Diệm hầu cuộc chiến chống Cộng có thể thành công, trong lúc
trong thâm tâm thì lại nghĩ khác, nhưng ông Diệm lại không biết điều đó.
Vì không biết, nghĩa là không phát hiện ra sự giả dối và không thấy uy
tín mình đang bị mất nên ông Diệm mới dại dột tuyên bố trong một bài
diễn văn đáp từ Johnson rằng: Biên giới của Thế giới Tự Do chạy dài từ
Alaska đến sông Bến Hải, tạo cơ hội cho đài phát thanh Hà Nội lợi dụng
tuyên truyền về bản chất tay sai của chính quyền miền Nam trong quan hệ
Mỹ– Diệm, và đã đập tan cái luận cứ độc lập và dân tộc chống Cộng của
chính nghĩa miền Nam trong nhân dân.
Nhưng dù lời tuyên bố của
ông Johnson có giả dối thì rõ ràng nó cũng phát xuất từ chính sách của
Mỹ muốn cho ông Diệm mạnh thêm và muốn cho miền Nam vững thêm. Một lần
nữa, ta có thể phê phán ông Johnson theo chiều hướng nào cũng được,
nhưng chắc chắn là lời tuyên bố đó phản ánh chính sách thân thiện và ủng
hộ của người Mỹ lúc bấy giờ.
- Sự kiện thứ ba là mặc dầu uy
tín và sức mạnh chính trị bắt đầu bị tổn thương sau vụ thất bại tại
“Vịnh Con Heo” ở Cuba vào tháng 4 nhưng Tổng thống Kennedy cũng đã theo
lời yêu cầu của ông Diệm, tiến hành chiến dịch tăng cường quân nhân tham
chiến (ngụy trang dưới hình thức cố vấn quân sự và chuyên viên cứu trợ
nạn lụt) tại miền Nam Việt Nam sau chuyến điều nghiên của Tướng Maxwell
Taylor và Cố vấn Walt Rostow vào tháng 10 năm 1961. Chiến dịch này đã
được ông Diệm và chính quyền Mỹ đồng thuận thi hành một cách tích cực mà
sự ra đời của Bộ Chỉ Huy Yểm Trợ Quân Sự Mỹ (American Military
Assistance Command) vào ngày 6 tháng 2 năm 1962 đã cho phép ông Diệm
nhận thêm từ 700 “cố vấn” lên đến 12.000 “cố vấn” vào giữa năm 1962.
Nghĩa là gia tăng 1.700 phần trăm trong vòng 8 tháng ! Sự gia tăng đó
mạnh mẽ cả về mặt ý chí lẫn sức mạnh đến nỗi Trưởng phái đoàn Ba Lan
trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến khi đến Bắc Kinh cũng đã nhận
thấy “cấp lãnh đạo Trung Cộng rất lo lắng về sự can thiệp càng lúc càng
gia tăng của người Mỹ tại Việt Nam” [6].
Tất cả chiến dịch đó
đã được chính quyền Mỹ khôn khéo trốn tránh chính Quốc Hội và báo chí
Hoa Kỳ (vốn đang bắt đầu có khuynh hướng chống việc gửi quân nhân Mỹ
tham chiến tại ngoại quốc sau vụ thất bại tại Cuba) để mạo hiểm một mặt
thỏa mãn lời yêu cầu của chính phủ Diệm, và mặt khác để bảo đảm sự thành
công của cuộc chiến chống Cộng tại miền Nam.
Thật vậy, mặc dù
trong cuộc thảo luận với Phó Tổng thống Johnson trước đó năm tháng ông
Diệm đã không muốn đem quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam, nhưng khốn nỗi
vào tháng 10, khi tướng Taylor đang trên đường đến Sài Gòn thì Việt Cộng
phát động các đợt tấn công dữ dội vào tỉnh lỵ Phước Thành, đốt phá các
cơ sở, giết hại cả Tỉnh trưởng lẫn Phó Tỉnh trưởng và rất nhiều binh sĩ,
cán bộ, công chức; đồng thời Việt Cộng lại tấn công nhiều quận lỵ của
tỉnh Darlac và tung ra nhiều đơn vị lớn đánh phá khắp miền Nam, công hãm
các đồn bót chiến lược dọc quốc lộ số 4 và gây thiệt hại nặng nề cho
lực lượng Việt Nam Cọng Hòa. Tình hình an ninh suy sụp đó khiến cho ông
Diệm sợ hãi một cuộc tổng nổi dậy của Việt Cộng nên ông bèn đưa ra lời
tuyên bố chính thức rằng chiến tranh thật sự đã xảy ra tại miền Nam.
Vì
không còn giữ ý định chống lại việc quân đội Mỹ tham chiến tại miền Nam
nữa nên ông Diệm đã yêu cầu Mỹ đem một số “quân chiến đấu tượng trưng”
vào miền Nam và lớn tiếng kêu gọi Hoa Kỳ cùng với Việt Nam Cộng Hòa ký
một hiệp ước phòng thủ song phương [7]. Trước lời kêu gọi đó của ông
Diệm, và trước tình hình an ninh suy thoái một cách trầm trọng của miền
Nam, Bộ Tổng Tham mưu Hoa Kỳ cũng khuyến cáo Tổng thống Mỹ nên gởi quân
qua Việt Nam tham chiến. Ý kiến này được Thứ trưởng Quốc phòng William
P. Bundy ủng hộ mạnh mẽ vì theo ông Bundy, sách lược “tốc chiến tốc
thắng” có thể giúp ông Diệm nhiều may mắn hơn và có thể lật ngược thế
cờ. Nhưng vì việc quân đội Mỹ công khai tham chiến tại Việt Nam có thể
gây nhiều phức tạp trong nội bộ chính trị Hoa Kỳ cũng như có thể gây các
phản ứng quốc tế nguy hiểm, nên Tòa Bạch Ốc bề ngoài đã phải giảm thiểu
những thúc giục ồn ào tại cả Sài Gòn lẫn Hoa Thịnh Đốn, bằng cách giả
vờ lộ một số tin tức cho nhật báo New York Times, tiết lộ rằng “các cấp
lãnh đạo ở Ngũ Giác Đài cũng như Đại tướng Taylor đều tỏ ra miễn cưỡng
về việc gởi các đơn vị chiến đấu Mỹ sang Đông Nam Á”. Bài báo này đã
chận đứng được những tuyên bố quá lộ liễu của ông Diệm.
Những
sự kiện trên đây cho thấy mới giữa năm 1961 mà tình hình chiến sự tại
miền Nam đã đến độ nguy ngập như tôi đã trình bày trong một chương
trước. Sự kiện trên đây cũng cho thấy ông Diệm đã hoảng sợ, phải yêu cầu
Mỹ tăng viện, kể cả việc đem quân chiến đấu ngoại quốc vào miền Nam (sự
thật lịch sử này đã bị nhóm Công Giáo Cần Lao bóp méo với luận điệu cho
rằng ông Diệm bị Mỹ giết vì không chịu cho quân đội ngoại quốc đóng
trên đất nước mình). Sự thật rõ ràng là chẳng những ông Diệm đòi quân Mỹ
vào miền Nam, mà còn nhờ Mỹ vận động với Trung Hoa Dân Quốc gởi một sư
đoàn qua Việt Nam tham chiến. Tài liệu mật của Ngũ Giác Đài dưới đây
tiết lộ một bản mật điện của Tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn gởi về Hoa Thịnh
Đốn, trình bày về cuộc thương thảo giữa Đại sứ Nolting và ông Nguyễn
Đình Thuần, Bộ trưởng Quốc Phòng kiêm Bộ trưởng Phủ Tổng Thống, cho thấy
những bí ẩn đó:
# 25 Những Đòi Hỏi Vào Năm 1961 Của Nam Việt Nam Về Những Đơn Vị Tác Chiến Hoa Kỳ.
Điện
văn từ Tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn gởi Bộ Ngoại Giao / 13-10-1961 / Về
những đòi hỏi của Nguyễn Đình Thuần, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng của Nam
Việt Nam / Bản sao gởi Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Thái Bình Dương và Tòa đại
sứ Mỹ tại Bangkok Thailand và Taipei Taiwan / .
Trong buổi họp 13-10 Thuần đã đưa ra những đòi hỏi sau đây:
1. Thêm phi đoàn AD-6 thay vì phi đoàn T-28 như đã dự định và gởi qua càng sớm càng tốt.
2. Yêu cầu cung cấp phi công dân sự Mỹ để lái máy bay trực thăng, và phi cơ C-47 để bay những phi vụ tác chiến.
3.
Nhiều đơn vị tác chiến Hoa Kỳ, hoặc những đơn vị gọi là “huấn luyện tác
chiến” vào Nam Việt Nam. Một phần để đóng ở phía Bắc gần vĩ tuyến 17 để
thay các lực lượng Quân Đội VNCH ở đó phải bận đi chống du kích ở vùng
cao nguyên. Và cũng để đóng ở nhiều tỉnh của vùng Cao nguyên Trung Việt.
4. Phản ứng của Hoa Kỳ về dự định của Việt Nam yêu cầu Trung Hoa Quốc Gia gởi một sư đoàn tác chiến cho mặt trận Tây Nam.
Thuần
nhắc đến những tập nhật ký lấy được từ những sĩ quan Việt Minh bị giết ở
miền Trung, trong đó có tin tức về những dự án và kỹ thuật của Việt
Minh. Những tài liệu này đang được phân tích, dịch ra và sẽ được chuyển
về (Hoa Kỳ). Thuần nói: ông Diệm, vì thấy hiện tình của Lào, sự xâm nhập
(của Việt Minh) vào Nam Việt Nam và việc Tổng thống JFK gởi Taylor (qua
Việt Nam), đã yêu cầu Hoa Kỳ xét gấp những đòi hỏi của Nam Việt Nam.
Về
việc đòi hỏi gởi những đơn vị huấn luyện tác chiến Mỹ, Nolting hỏi xem
ông Diệm có xét kỹ vấn đề chưa vì đã có nhiều chống đối liên tiếp đòi
hỏi này. Thuần xác nhận rằng có, và rằng ông Diệm đã đổi ý kiến (muốn
Hoa Kỳ gởi quân qua Việt Nam) vì tình hình càng ngày càng tệ hại hơn.
Thuần muốn Hoa Kỳ biểu dương lực lượng gần vĩ tuyến 17 để ngăn ngừa Cộng
Sản tấn công, và để thay thế lực lượng VNCH ở đó. Cũng cần những đơn vị
Hoa Kỳ đóng ở những tỉnh cao nguyên, cho cùng một mục đích: thay thế
cho quân lực VNCH ở đó.
Nolting nói (tại sao lại có) những đòi
hỏi này ngay sau khi ông Diệm yêu cầu có một thỏa ước của cả hai phe,
như vậy có phải ông Diệm muốn thay thế thỏa ước bằng những đòi hỏi trên
hay không? Thuần trả lời những đòi hỏi trên (giải quyết vấn đề) nhanh
hơn thỏa ước. Rằng việc gởi quân sang sẽ thỏa mãn Nam Việt Nam và thích
ứng hơn một thỏa ước. (Về việc thỏa ước này, rõ ràng Thuần chưa suy nghĩ
kỹ, cũng như đã chưa bàn với ông Diệm).
Bàn về Ủy Hội Quốc Tế
Kiểm Soát Đình Chiến, Nolting nói rằng Nam Việt Nam trước đây đã coi
trọng sự hiện diện của UHQTKSĐC. Thuần đồng ý nhưng nghĩ rằng những đòi
hỏi trên không vi phạm vì những đơn vị Hoa Kỳ gởi sang để canh phòng chứ
không phải để tác chiến, ngoại trừ khi bị tấn công. Cho nên có thể dùng
những đơn vị này mà vẫn giữ được UHQTKSĐC ở Việt Nam. Nolting nói rằng
ông nghi ngờ điều này nhưng có thể thử xem (McGarr và tôi lưu ý hai
điểm: về những đơn vị dự định cho mục đích huấn luyện chỉ là một sự giả
mạo - một cái cớ - chứ không phải mục đích thật. Nếu có gởi những đơn vị
Hoa Kỳ thì các đơn vị đó phải đủ mạnh vì chắc chắn Việt Cộng sẽ tấn
công).
Về lực lượng Trung Hoa, Thuần nói rằng Tưởng Giới Thạch
đã có dấu hiệu muốn giúp đỡ (tôi thấy điều này không chắc). Thuần nói
chính phủ Việt Nam không muốn quyết định về việc này nếu không có phản
ứng từ Hoa Kỳ. Ý định là dùng khoảng 10 ngàn quân (Trung Hoa) ở phía Tây
Nam càng xa vĩ tuyến 17 càng tốt. Thuần nghĩ rằng có lẽ nên đưa quân
Trung Hoa vào một cách bí mật, nhưng thấy không được sau khi phân tách
lại vấn đề. Nolting nói: ông nghĩ rằng Trung Hoa chắc sẽ muốn một quyền
lợi nào đó trong việc này, có thể là phương diện chính trị (giảm bớt áp
lực chính trị) nếu gởi quân vào Á Châu lục địa (Nolting nghĩ là chỉ để
thử mà thôi).
Vấn đề chắc chắn sẽ được đặt lại với Taylor. Rõ
ràng chính phủ Nam Việt Nam không thể để mất cơ hội đòi hỏi viện trợ
nhiều hơn vì sự chú ý và lo lắng của chúng ta đã gia tăng. Nhưng tình
hình quân sự và tâm lý đã đi đến hồi mà vấn đề phải được xem xét một
cách nghiêm chỉnh và nhanh chóng [8].
Sau hai tuần lễ quan
sát tại chỗ và thảo luận với các nhà chức trách Việt Nam Cộng Hòa, tướng
Taylor đưa ra đề nghị: tăng quân số các cố vấn quân sự Mỹ, tăng cường
chuyên viên về máy móc, gia tăng các dụng cụ tối tân cho mọi ngành thuộc
quân binh chủng VNCH, đặc biệt là việc tối tân hóa ngành truyền tin,
gởi gấp qua miền Nam trực thăng chiến đấu, thiết vận xa M–113 để tạo lưu
động tính cho các đơn vị chiến đấu miền Nam, thay thế phi cơ T–28 bằng
phi cơ AD–6, và nhiều vũ khí, dụng cụ tối tân khác… Đồng thời với đề
nghị trên đây, tướng Taylor cũng “lưu ý riêng” Tổng thống Kennedy là nên
gửi qua miền Nam 8 ngàn quân chiến đấu Mỹ, ngụy trang thành những đội
chuyên viên giúp miền Nam đối phó với trận lụt đang đe dọa vùng châu thổ
sông Cửu Long. Những sắp đặt trên đây, theo quan niệm của tướng Taylor,
là một sự tham dự giới hạn của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam theo tinh
thần “limited partnership”, nghĩa là “những cố vấn quân sự Mỹ tiến đến
gần hơn (nhưng chưa hẳn là) một bộ chỉ huy hành quân trên một chiến
trường” [9].
Tài liệu mật của Ngũ Giác Đài trên đây và sự gia
tăng nhảy vọt của số lượng “cố vấn” Mỹ tại chiến trường Việt Nam sau đó,
không những đã cải chính sự huyênh hoang tội nghiệp của những phần tử
Cần Lao Công Giáo đang cố bám víu vào cái huyền thoại “Ngô Tổng thống
không chịu cho quân Mỹ vào Việt Nam nên bị Mỹ lật”, mà còn làm nổi bật
lên một sắc thái đặc thù của liên hệ Mỹ–Việt vào năm 1962 của chính phủ
Ngô Đình Diệm: đó là dù ông Diệm có bất lực trong việc chống Cộng, chính
phủ Mỹ vẫn yểm trợ, bảo bọc ông Diệm. Và ông Diệm đã công nhận, đã chấp
thuận sự bảo bọc đó một cách quá trớn, nhất là trong trường hợp can
thiệp lộ liễu của “cố vấn” Mỹ trong những quyết định quân sự, đến nỗi
sau này, lúc hồi tưởng lại năm 1961, khi còn làm phóng viên tiền tuyến
theo dõi các cuộc hành quân, ký giả Ngô Đình Vận đã viết: “Tôi thấy rõ
quân đội trong thời đệ I Cộng Hòa đã không thực sự có được độc lập, có
được đầy đủ sự chủ động ngay cả trong lúc giao tranh với địch quân”
[10].
Sự yểm trợ và bao che đó lại càng nổi bật hơn nữa trong
trận Ấp Bắc mà kết quả thảm bại, dù rất rõ ràng hiển nhiên, đã được ông
Diệm và bà Nhu đổi ngược thành chiến thắng và, trong liên hệ thắm thiết
Mỹ–Việt lúc bấy giờ, đã được một số nhân vật chủ yếu của chính quyền
Kennedy đồng lõa công nhận.
Thật vậy, từ đầu năm 1962, khi các
cố vấn quân sự Mỹ và số khí cụ tối tân mới được tăng viện cho miền Nam
trong kế hoạch Taylor–Rostow thì quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã thu lượm
được một số chiến thắng tại châu thổ sông Cửu Long, và lần đầu tiên đã
tiến được vào chiến khu D, rừng U Minh, vốn là những căn cứ bất khả xâm
phạm của Việt Cộng. Những chiến thắng thuần túy quân sự đó đã gây phấn
khởi cho cả Sài Gòn lẫn Hoa Thịnh Đốn. Để yểm trợ cho mặt trận tuyên
truyền tại Hoa Kỳ, ông Diệm đã cho phép Đại Tá Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh Sư
đoàn 7, diễn hành tại thủ đô Sài Gòn với sự tham dự của một số Dân biểu
Quốc hội. Trong lúc đó tại Mỹ, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara họp báo
tuyên bố miền Nam Việt Nam của ông Diệm đang lật ngược thế cờ.
Nhưng
những chiến thắng đó chỉ như bọt sóng bắn lên tung tóe rồi sau đó tan
vỡ mất vì ngay cả chỉ trên mặt thuần túy quân sự mà thôi, ưu thế lưu
động của hai chiến thuật trực thăng vận và thiết vận xa M–113 đã không
được khai thác đúng mức, hơn nữa chúng lại không hiệu dụng trong một
trận chiến mà kẻ thù đã khôn khéo phối hợp được các kỹ thuật du kích
chiến với những vũ khí tối tân do Nga viện trợ. Nhưng đó vẫn chưa phải
là lý do chính khiến cho Việt Cộng dành lại được ưu thế trên chiến
trường mà lý do chính là vào những năm đầu thập niên 1960, tinh thần
chiến đấu của binh sĩ đã không còn hăng say nữa. Tình cảm bất mãn chế
độ, bất mãn cấp lãnh đạo là gia đình ông Ngô Đình Diệm phát xuất từ
những sự kiện rất thực tế trước mắt, rất liên hệ trực tiếp đến bản thân
của sĩ quan và binh sĩ, đã làm suy giảm rất nhiều tinh thần hăng say và
quyết tâm chiến đấu của quân lực.
Giữa năm 1962, hai phi công
Quốc và Cử ném bom dinh Độc Lập định giết cả nhà, tức là cả chế độ, của
ông Ngô Đình Diệm lại càng nung nấu và càng làm lan rộng sự bất mãn đó.
Đầu năm 1963, ba cán bộ Cần Lao Công Giáo của ông Diệm là Tư lệnh Vùng 4
Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh Sư Đoàn 7 Bùi Đình Đạm và Thiếu tá Tỉnh trưởng
Định Tường Lâm Quang Thơ, với quân số đông hơn, với vũ khí hiện đại hơn,
lại hứng chịu thảm bại nhục nhã tại Ấp Bắc trước tiểu đoàn 514 của địch
không đến 400 quân. (Xin xem thêm “The Bright Shining Lie” của Neil
Sheehan. Bản dịch Việt ngữ “Sự Lừa Dối Hào Nhoáng” của Nhà Xuất Bản Hồng
Lĩnh, 1991).
Thảm bại rõ ràng này không những đã khiến cho
tướng Lê Văn Tỵ phải đích thân xuống điều tra tại chỗ mà chính các cố
vấn quân sự Mỹ, đặc biệt là Trung Tá John Paul Vann – người phối hợp các
phương tiện hỏa lực gồm M–113, trực thăng UH–1A, trực thăng CH–21, các
đơn vị quân đội Mỹ trong vùng cho trận Ấp Bắc này – đã phải nhục nhã gọi
là “một thành tích khốn nạn” vì tướng Cao đã “chọn lựa tăng cường sự
thất bại thay vì nỗ lực để chiến thắng” (“A miserable damn performance…
They choose to reinforce defeat rather than to try for victory”) [11].
Báo
chí Mỹ tức giận vì sự bất lực của quân đội Việt Nam Cộng Hòa và sự vô
hiệu của các chiến cụ viện trợ, đã phanh phui sự thất bại đó và còn quá
khích đòi hỏi chính quyền Mỹ phải giành lấy quyền lãnh đạo chiến tranh
tại Việt Nam để tiêu diệt Cộng Sản. Thảm bại đã rõ ràng như thế, nhưng
để tránh cho cuộc khủng hoảng chính trị tại Sài Gòn khỏi lan rộng thêm
vì một thất bại quân sự nặng nề, ông Diệm – và ngay cả bà Nhu, người
không có thẩm quyền về các vấn đề quân sự – đã tuyên bố rằng Ấp Bắc là
một chiến thắng oai hùng của Sư đoàn 7.
Các nhà lãnh đạo Mỹ,
đặc biệt là Bộ trưởng Quốc Phòng McNamara, Đại sứ Nolting, Đại Tướng Tư
lệnh Quân Đội Mỹ tại Việt Nam Paul Harkins, đành phải bênh vực ông Diệm
bằng cách xác nhận đó là một chiến thắng [12]. Thái độ bưng bít sự thật
để tiến hành chính sách – mà trong giai đoạn đó là chính sách ủng hộ
“người hùng” Ngô Đình Diệm – còn tiếp diễn dài dài sau này suốt cuộc
chiến Việt Nam. Ở đây tôi không phân tích về những lợi và hại của thái
độ đó, mà tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng qua thái độ đó thì cho đến đầu năm
1963, mối liên hệ giữa các nhà lãnh đạo Mỹ và ông Diệm vẫn rất thắm
thiết. Thắm thiết đến độ phải nói láo để bênh vực cho cái thế và cái lực
của một con tốt vô dụng vào lúc cờ tàn.
- Sự kiện thứ năm là
sự đồng lõa của một số viên chức cao cấp Hoa Kỳ nhằm che dấu những thất
bại của quốc sách ấp chiến lược hầu bảo vệ ông Diệm. Chương trình Ấp
Chiến Lược là do sáng kiến của ông Thompson người Anh, Cố lấn Du Kích
chiến của Tòa Bạch Ốc. Chương trình này đã được Tổng thống Kennedy hết
lòng yểm trợ và đặt hết hy vọng vào hiệu quả của nó mà sự thành công đã
được chứng nghiệm tại Mã Lai dù điều kiện ứng dụng có khác. Khi Mỹ đề
nghị thực hiện chương trình này trong mục đích tiêu diệt hạ tầng cơ sở
của Việt Cộng tại nông thôn thì bị ông Ngô Đình Nhu bác bỏ. Mỹ phải vận
động mãi và đặc biệt phải tăng tài phí lên rất cao ông Nhu mới chấp
thuận. Khi tiền viện trợ bắt đầu được tháo khoán, ông Nhu đích thân nắm
lấy việc điều khiển thực hiện chương trình và cho áp dụng kế sách riêng
của ông ta theo đường hướng của chủ nghĩa “nhân vị” và đặc biệt để tạo
một bộ máy nhân sự trung thành với chế độ [13]. Mà bộ máy trung thành đó
có mục đích quyết liệt nhất là gì nếu không phải là nhân danh công cuộc
chống Cộng để phát động và thực hiện cho được âm mưu Công giáo hóa nhân
dân trong các Ấp Chiến Lược như tôi đã trình bày ở một chương trước.
Nếu
công cuộc thực hiện chương trình Ấp Chiến Lược được tiến hành một cách
thực tế hơn, nghĩa là dựa trên thực tế chính trị quân sự cũng như thực
tế xã hội nhân văn của miền Nam, và nếu được thực hiện bởi một cơ cấu
nhân sự trong sạch và vì dân chứ không phải tham nhũng và vì bè phái mà
cụ thể là đừng bắt dân đóng góp vật liệu, đừng bắt dân chúng lao động
cực nhọc suốt đêm ngày không công, đừng quá cứng rắn trong việc bắt dân
dời nhà cửa vườn tược của ông cha họ để lại, nghĩa là đừng làm mất lòng
dân quá đáng, thì có lẽ kế hoạch Ấp Chiến Lược cũng đã có thể thu hoạch
được phần nào thành quả. Khốn nỗi, chương trình Ấp Chiến Lược lại được
chỉ đạo và kiểm soát bởi một Ngô Đình Nhu bệnh hoạn nên mới trở thành
một hỏa diệm sơn thù hận chế độ và làm suy yếu luôn sức mạnh chống Cộng ở
miền Nam.
Trước sự thất bại và hệ quả nguy hại rõ ràng đó,
ông Rufus Phillips, nhân viên cao cấp nhất của Mỹ đặc trách về chương
trình Ấp Chiến Lược, đã phải phúc trình trực tiếp với Tổng thống Kennedy
để yêu cầu tái xét lại ngay cả sự cần thiết của chương trình này. Nhưng
một lần nữa, những nhân vật rường cột của chánh sách Mỹ tại Việt Nam
như Ngoại trưởng Rusk, Bộ trưởng McNamara, Đại sứ Nolting, Tướng
Harkins, và ngay cả Thứ trưởng Ngoại giao Roger Hillsman (người sau này
quyết liệt ủng hộ việc lật đổ chế độ Diệm) vẫn bênh vực ông Diệm và cho
rằng chương trình Ấp Chiến Lược đã thành công.
Mặc dầu thái độ
của họ phát xuất trước hết từ những động cơ khác như vì quyền lợi của
Mỹ, như vì chính sách chống Cộng toàn cầu, như vì muốn giới hạn vai trò
của báo chí… nhưng thái độ đó – khi che dấu sự thật và nhận định trái
ngược hẳn với chính người trực tiếp phụ trách công tác là ông Rufus
Phillips – cũng phát xuất từ ý định nâng đỡ và bao che cho chế độ Ngô
Đình Diệm, nếu không muốn nói là bênh vực và chiều thuận chế độ đó.
-o0o-
Nhìn
mối bang giao Mỹ–Việt, đặc biệt là liên hệ giữa chế độ Diệm và các cấp
lãnh đạo Hoa Kỳ, trong suốt chín, mười năm trời cai trị miền Nam, anh em
ông Diệm đã phạm không biết bao nhiêu lỗi lầm trầm trọng, ta thấy dù
những lỗi lầm đó đã đưa đất nước từ thanh bình đến rối loạn, từ cảnh an
ninh đến tình trạng chiến tranh thật sự, thế mà người Mỹ vẫn một lòng
ủng hộ ông Diệm và chế độ của ông ta. Người Mỹ đã chân thành khuyến cáo
để anh em ông Diệm sửa sai, khuyến cáo không nổi thì nhượng bộ, chiều
lụy, thế mà ngược lại anh em ông Diệm vẫn cứ chê trách chống báng. Mà sự
chống báng đó thật ra không phải phát xuất từ thể diện quốc gia (còn gì
mà thể diện khi đã được khai sinh và nuôi dưỡng) hay độc lập dân tộc
(còn gì mà độc lập khi quân viện và kinh viện đã tràn ngập đất nước) mà
phát xuất từ bản chất phong kiến, quan liêu, tự tôn, tự đại của anh em
dòng họ Ngô Đình.
Năm sự kiện tiêu biểu mà tôi vừa kể trên
kia đã chứng minh thái độ chịu đựng của người Mỹ trước sự ngoan cố của
anh em ông Diệm. Lời trình bày của ký giả Robert Shaplen dưới đây còn mô
tả rõ hơn nỗi chán chường và khổ tâm của người Mỹ trong việc giao thiệp
với những nhà lãnh đ
Xem tiếp: Chương 17 - CUỘC CÁCH MẠNG 01-11-1963
VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi
Tác giả: Hoành Linh Đỗ Mậu
Chương 17: CUỘC CÁCH MẠNG 01-11-1963
Tôi
có hai người cháu mà tôi thương mến đặc biệt: Đỗ Thọ gọi tôi bằng chú,
là Đại úy Không quân trong phi đoàn I Vận tải, và sau này trở thành một
trong bốn sĩ quan tùy viên của Tổng thống Diệm. Thọ trầm tĩnh ít nói,
tính tình cứng rắn và thủy chung. Binh chủng Không quân có đem lại cho
Thọ một ít chất lãng mạn nhưng cũng đủ chừng mực để làm cho Thọ bớt khắc
khổ mà thôi. Thọ không quan tâm nhiều đến tình hình đất nước nhưng lại
rất nặng tình gia tộc.
Tháng 11 năm 1963, Thọ theo ông Diệm
trốn khỏi dinh Gia Long đến nhà thờ Cha Tam. Sau Cách mạng 1963, Thọ trở
về Phi đoàn cũ, và trong một chuyến bay đón Thủ tướng Khánh tại Đà
Nẵng, Thọ bị tử nạn trên không phận Quảng Nam. Năm đó Thọ 29 tuổi, và để
lại cho đời tác phẩm “Nhật Ký Đỗ Thọ” do người em sưu tầm và xuất bản.
Người
cháu thứ nhì là Nguyễn Bá Liên, gọi tôi bằng dượng, là Thiếu tá Tư lệnh
Phó Thủy Quân Lục Chiến, chỉ huy Tiểu đoàn I và II hành quân diệt địch
khắp chiến trường miền Nam. Liên vốn có truyền thống cách mạng trong gia
đình, lại mồ côi cha mẹ từ lúc nhỏ nên tính tự lập, cương cường và khí
phách. Đời sống của binh chủng thiện chiến đã hun đúc Liên thành một sĩ
quan văn võ toàn tài, mà tình yêu quê hương dân tộc chỉ thêm nồng nàn
với những cọ sát sôi bỏng chống kẻ thù và với sự hủy diệt thảm khốc
thường trực của chiến tranh.
Năm 1963, Liên là sĩ quan cầm
quân tiến đánh dinh Gia Long dưới sự chỉ huy của Đại tá Nguyễn Văn
Thiệu. Năm 1966, Liên được đổi tên Kontum làm Tư lệnh Biệt khu 24, một
trong những nút chặn nguy hiểm nhất của đường mòn Hồ Chí Minh, và tử nạn
(năm 1969) trong một cuộc hành quân khốc liệt tại Tân Cảnh, trong vùng
núi Trường Sơn gần Bến Hét. Năm đó Liên 38 tuổi và để lại cho đời tác
phẩm Việt Nam, Việt Nam ơi! với bút hiệu Trường Giang.
Hai
người cháu đặc biệt đó có hai cuộc đời cũng đặc biệt, tuy đối nghịch
nhau trong ngày lịch sử 1–11–1963 nhưng lại gặp nhau trong hành động lấy
sinh mạng trả nợ non sông. Hai người cháu đó đứng hai chiến tuyến khác
nhau trong ngày lịch sử 1–11–1963 đều lấy sự thủy chung làm tiêu chuẩn
chọn lựa: Thọ thì thủy chung với ông Diệm, Liên thì thủy chung với đất
nước quê hương.
Chương này tôi viết trong nỗi niềm nhớ tiếc về
hai đứa cháu thân thương đó mà những hành xử trong ngày 1–11–1963 chỉ
làm cho cả Thọ lẫn Liên trở thành những hành ảnh hùng tráng và thắm
thiết trong gia tộc chúng tôi. Hình ảnh đó cũng tượng trưng cho tâm
trạng tôi trong cuộc Cách mạng 1–11–1963: Thọ là tình người, Liên là
tình nước.
-o0o-
Cuộc Cách mạng 1–11–1963 đã được
nhiều sách vở, tài liệu đề cập đến đầy đủ. Từ những vận động đến tiến
trình thành hình của nó, từ những lực lượng tham dự đến kế hoạch phát
động của nó. Trong chương này, tôi chỉ xin đề cập đến những sự kiện và
suy tư về những hoạt động mà tôi đã trực tiếp đóng góp, hoặc những biến
cố tôi biết rõ trong ngày Cách mạng đó mà thôi.
Vào giữa tháng
7 năm 1963, mặc dù chính quyền Ngô Đình Diệm đã tận dụng mọi thủ đoạn
để đàn áp các cuộc biểu tình chống đối chính phủ và đặc biệt trao quyền
cho Tòa án Quân sự để đem ra xét xử những can phạm quân sự và dân sự
trong biến cố Nhảy Dù với mục đích cảnh cáo, hăm dọa phong trào đấu
tranh, nhưng phong trào chống đối mỗi ngày một sôi động hơn. Các cuộc
biểu tình đấu tranh của Phật giáo đã có sự tham dự đông đảo của hàng ngũ
sinh viên đại học, học sinh trung học và cả các em nhỏ các trường tiểu
học nữa, đến nỗi học giả Douglas Pike, trong cuốn “Viet Cong” đã mô tả
những ngày hè 1963 này bằng hình ảnh của một “Thủ đô Sài Gòn đang bốc
lửa”.
Để đối phó với tình hình sôi động đó, chính phủ Diệm đem
thêm hai tiểu đoàn Dù và hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến về Sài Gòn
tăng cường cho các đơn vị Bộ Binh và Cảnh Sát Dã Chiến để đàn áp các
cuộc xuống đường. Hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến này do Thiếu tá
Nguyễn Bá Liên chỉ huy vì Liên đang là Tư lệnh phó cho Trung tá Lê
Nguyên Khang. Bộ chỉ huy của Liên đóng tại Văn phòng Viện Đại học Sài
Gòn ở góc đường Duy Tân và Trần Quý Cáp.
Một hôm vào cuối
tháng Bảy, tôi đến Bộ Chỉ Huy của Liên và kéo Liên ra vườn để tìm hiểu
thêm về tinh thần binh sĩ trước hiện tình đất nước thì được Liên cho
biết binh sĩ rất hoang mang và nhiều lúc công khai tỏ thái độ bất mãn
với chế độ. Liên nói rằng chẳng những binh sĩ đã không chịu đàn áp biểu
tình mà họ còn tỏ ra thân thiện cởi mở với sinh viên học sinh như để bày
tỏ thái độ đồng tình. Liên giải thích: “Làm sao binh sĩ có thể đàn áp
được khi những kẻ biểu tình là bà con, anh em với họ. Làm sao họ có thể
xuống tay với những em nhỏ mới mười mấy tuổi”. Riêng Liên thì “… Dù cháu
theo đạo Tin Lành, không phải là Phật tử, nhưng hành động kỳ thị, đàn
áp tôn giáo của anh em ông Diệm thật là bất công và tàn bạo! Mỗi lần
cháu đi nhà thờ gặp các vị mục sư, các tín đồ, ai ai cũng chê trách
chính sách về tôn giáo của ông Diệm”.
Thủy Quân Lục Chiến là
một binh chủng thiện chiến, thường đi hành quân khắp các chiến trường và
biết rõ tình hình an ninh suy thoái tại nông thôn nên Liên tỏ ra rất lo
âu.
Sau khi nghe Liên trình bày, tôi bèn hỏi: “Cháu có nghĩ
rằng với tình hình này, liệu quân đội có thể đi đến một cuộc binh biến
lật đổ chế dộ Diệm không?”. Liên suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Cháu
nghĩ có thể lắm vì chính trong Lữ đoàn của cháu, ngoại trừ Đại úy Bằng
theo Công giáo tỏ ý vui mừng đồng ý với các cuộc đàn áp Phật giáo, còn
các Tiểu đoàn trưởng khác, ai cũng tỏ thái độ bất mãn căm thù chế độ
Diệm. Chính nhóm của cháu như bác sĩ Đại úy Nguyễn Phúc Quế, Đại úy Trần
Văn Nhật (tướng Nhật, hiện nay ở Orange County, Cali), như Đại úy Lê
Hằng Minh (em của tướng Lê Minh Đảo mà trong chương trình “Vietnam, a
Television History” của đài PBS, tướng Đảo đã lên án nặng nề chế độ
Diệm) và rất nhiều sĩ quan khác đã bàn đến cuộc đảo chánh lật đổ chế độ
Diệm mà người hăng hái nhất là bác sĩ Quế”. Quế đỗ bác sĩ Y khoa tại
Pháp, nhưng là một trí thức có tinh thần trách nhiệm và có tinh thần
chống Cộng sâu sắc, Quế lại đặt niềm tin vào ông Diệm nên đã bỏ Pháp trở
về Việt Nam để xin phục vụ trong binh chủng TQLC. Là người Công giáo
nhưng Quế thấm nhuần tinh thần dân tộc và tư tưởng dân chủ nên Quế không
thể chịu đựng nổi một chế độ phong kiến, độc tài như chế độ Diệm. Vì
vậy anh tỏ ra vô cùng bất mãn và chán ghét chế độ. Quế nói rằng: “Trước
kia, năm 1960, Nhảy Dù thất bại vì chưa vận động được cả thời lẫn thế,
nay là cơ hội tốt đẹp cho Thủy Quân Lục Chiến vùng lên tiếp nối sứ mạng
lịch sử đập tan chế độ nhà Ngô”.
Tôi lại hỏi thêm để hiểu quan
điểm của Liên: “… Dượng theo ông Diệm đã hơn 20 năm trời, nay nếu đứng
lên phế bỏ ông ta thì có mang tiếng là người thiếu thủy chung không?”
Liên lại suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Ba cháu từng là chiến hữu của
ông Diệm, đã hoạt động cho ông ta, còn dượng thì hy sinh cho ông ta gần
nửa đời người, và cháu tuy còn trẻ nhưng cũng đã từng kéo quân về Sài
Gòn cứu nguy ông ta trong biến cố Nhảy Dù, vậy thì chính ông ta mắc nợ
gia đình mình chứ mình có mang ân nghĩa gì của ông ta đâu! Huống gì đối
với quốc gia dân tộc thì mình không thể vì tình riêng mà bỏ nghĩa chung
được”. Liên còn đem cái nghĩa lý “Sát nhất miêu cứu vạn thử” (giết một
con mèo cứu vạn con chuột) để thuyết phục tôi.
Tuy vậy, lúc
bây giờ tôi vẫn chưa có ý muốn lật đổ chế độ, vì như vậy là lật luôn cả
ông Diệm, mà chủ yếu tôi chỉ muốn triệt hạ vợ chồng Ngô Đình Nhu mà
thôi. Tôi nói với Liên: “Dù sao dượng cũng muốn giữ với ông Diệm một
chút tình cố cựu, vả lại ông Diệm chỉ vì nghe lời anh em mà mang tội cho
nên dượng chỉ muốn triệt hạ ông Ngô Đình Nhu thì chắc ông Diệm sẽ cảnh
tỉnh ngay. Cháu suy nghĩ, phác họa một vài kế hoạch đi rồi cho dượng
biết sau”.
Chỉ độ mấy ngày sau, Liên đến gặp tôi tại nhà riêng
và cho biết tổ chức của Liên có thể hạ sát ông Ngô Đình Nhu dễ dàng:
“Cháu sẽ dẫn một số sĩ quan mặc lễ phục trắng, dấu súng trong mình và
nói rằng đại diện đơn vị Thủy Quân Lục Chiến xin yết kiến ông Cố vấn để
tặng một kỷ vật mừng ông đã lãnh đạo thành công trong quốc sách Ấp Chiến
Lược, trong lúc đó bên ngoài, hai tiểu đoàn của cháu đang hoạt động tại
quận Nhất sẽ sẵn sàng tiếp ứng. Khi vào được phòng đợi của ông Nhu nhóm
cháu sẽ tông cửa vào văn phòng rồi hạ sát ông ta ngay. Trong kế hoạch
này chỉ cần dượng thuyết phục được Đỗ Thọ ra tận cổng dinh Gia Long đón
cháu vào là không ai nghi ngờ gì nữa cả.”
Vốn ra vào dinh Gia
Long luôn và tuy không chịu trách nhiệm vấn đề an ninh của Dinh nhưng
tôi cũng hiểu rõ việc canh phòng và sinh hoạt của nhân viên trong Phủ
Tổng thống, nên tôi thấy kế hoạch ám sát Ngô Đình Nhu của cháu tôi có
thể thực hiện được. Tuy nhiên, kế hoạch này phải dựa vào Đỗ Thọ mà Thọ
thì chỉ là quân nhân thuần túy, không có ý thức chính trị, lại phục ông
Ngô Đình Nhu và thương ông Diệm, do đó có thể Thọ sẽ không nghe lời tôi.
Tôi bèn bác bỏ kế hoạch này và cho Liên biết kế hoạch của tôi: Hạ sách
là kéo một số đơn vị mà chủ lực là Thủy Quân Lục Chiến lên vùng gần Tây
Ninh lập chiến khu đòi hỏi ông Diệm phải đưa vợ chồng Nhu ra nước ngoài,
trả tự do cho tất cả tù chính trị quốc gia, thỏa mãn năm nguyện vọng
của Phật giáo, mở rộng chính phủ, thực hiện đoàn kết với các tôn giáo,
đảng phái để chống Cộng. Tôi nghĩ rằng trước bối cảnh đất nước lúc bấy
giờ, nếu có một tập họp chính trị gồm đảng phái, tôn giáo, quân đội kéo
quân đi lập chiến khu thì sẽ có nhiều đơn vị quân đội hưởng ứng và ông
Diệm sẽ nhượng bộ để thực hiện những đòi hỏi đó. Thượng sách là tổ chức
một cuộc chính biến lật đổ chế độ Diệm do tôi lãnh đạo để có khả năng
giữ ông Diệm lại làm Tổng thống. Lúc bấy giờ tâm hồn tôi vẫn còn bị ám
ảnh bởi hành động của Võ Văn Hải trong biến cố đảo chánh của Nhảy Dù năm
1960. Với vóc dáng thư sinh, với tấm lòng trung nghĩa, Hải đã dám xông
pha vào vòng lửa đạn, gặp lãnh tụ đảo chánh là Trung tá Vương Văn Đông
để xin tha mạng cho ông Diệm, và xin cho ông ta tạm thời giữ chức Tổng
thống vô quyền.
Với hai kế hoạch đó, một mặt tôi bảo Liên về
tổ chức Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến thật chặt chẽ để làm chủ lực quân,
và móc nối với các sĩ quan thuộc binh chủng khác. Một mặt chính tôi đích
thân xây dựng tổ chức cho một cuộc chính biến do tôi chủ trương. Tôi
bắt đầu tổ chức người nhà mà trước hết là em họ tôi, Đại úy Đỗ Như Luận,
đang giữ chức Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Truyền Tin. Luận có người bạn
thân là Đại úy Lê Phước Sang (chánh văn phòng của tướng Nguyễn Giác Ngộ)
có nhiệm vụ tác động các sĩ quan gốc Phật giáo Hòa Hảo, vốn rất căm thù
chế độ Diệm, và có nhiệm vụ vận động trong giới dân sự mà Luận và Sang
quen biết khá nhiều. Luận lại được Thượng Tọa Tâm Châu thương mến tín
nhiệm, được Thượng Tọa chỉ giáo cho phần chính trị và nhân sự để tiến
hành công tác tổ chức và xây dựng hậu thuẫn quần chúng. Luận và Sang đã
tổ chức được nhóm các ông Phan Huy Quát và Trần Thanh Hiệp, nhóm Việt
Quốc của luật sư Nguyễn Tường Bá, và lôi kéo luôn được cả ông Trần Quốc
Bửu, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao Công. Trần Quốc Bửu vốn là bạn thân và
đồng chí của ông Ngô Đình Nhu nhưng lại liên hệ chặt chẽ với các giới
chức Mỹ. Đã từ lâu, tuy bề ngoài ông Trần Quốc Bửu có vẻ trung thành với
anh em ông Diệm nhưng trong thâm tâm ông ta đã chán nản bứt rứt vì biết
ông Nhu đang chống Mỹ để bắt tay với Hà Nội. Có lẽ ông Trần Quốc Bửu
suy luận rằng chế độ Diệm không thể nào tồn tại được nữa cho nên ông sẵn
sàng tham dự vào bất kỳ nhóm đảo chánh nào để có thể rửa được cái “vết
nhơ Cần Lao”. Vì thế, khi Luận và Sang bắt liên lạc thì ông nhận lời
ngay. Tiếc rằng sau này, khi Cách mạng thành công, tướng Mai Hữu Xuân
lại bắt giam ông vào khám Chí Hòa đến nỗi đại sứ Cabot Lodge phải nhiều
lần can thiệp tướng Dương Văn Minh mới chịu trả tự do. Do đó, sau này,
ông Bửu đã coi tướng Minh như kẻ thù và trở nên cố vấn đắc lực cho ông
Nguyễn Văn Thiệu trong những vận động ngoại giao với lực lượng thợ
thuyền Hoa Kỳ. (Các ông Nguyễn Tường Bá, Trần Thanh Hiệp, Lê Phước Sang
hiện nay đều có mặt tại hải ngoại).
Một người cháu rể khác của
tôi là Đại úy Chu Văn Trung (theo chương trình H.O., đã qua Mỹ năm
1992), chỉ huy trưởng tiểu đoàn 1 Truyền Tin đóng cạnh Bộ chỉ huy Lực
Lượng Đặc Biệt của Lê Quang Tung, có nhiệm vụ nguy hiểm là cô lập nhóm
Lê Quang Tung khi hữu sự. Chu Văn Trung là người Bắc, đệ tử của Thượng
Tọa Tâm Châu nên nhờ Thượng Tọa mà lôi kéo được rất đông sĩ quan Phật tử
(người Bắc) tham gia công cuộc chung. Một người cháu khác nữa của tôi
là Phạm Văn Lương, với bạn là Nguyễn Văn Cơ (Bác sĩ Cơ hiện ở Orange
County), là sinh viên Quân Y năm thứ 6, có nhiệm vụ cướp chính quyền
trường Quân Y do bác sĩ Trung tá Hoàng Văn Đức (Công giáo) chỉ huy, và
liên lạc với các tổ chức sinh viên khác để vận động sinh viên đại học
xuống đường, tạo một cuộc nổi dậy tại Đô thành hậu thuẫn cho hành động
của nhóm quân sự. May mắn cho chúng tôi, Lương có người anh rể là Đại úy
Hồ Tiêu đang chỉ huy một tiểu đoàn Dù. Cũng như Lương, Hồ Tiêu là người
Quảng Trị cùng quê với Hòa Thượng Trí Thủ, Thượng Tọa Thích Thiện Minh…
nghe nói đến lật đổ chế độ, Tiêu rất mừng, hăng hái tham gia ngay. Nhờ
Tiêu, chúng tôi có thêm một tiểu đoàn thiện chiến làm chủ lực. Trung
đoàn Thiết giáp ở Gò Vấp là đơn vị hùng hậu do Thiếu Tá Thẩm Nghĩa Bôi
chỉ huy, từng cứu ông Diệm thời Nhảy Dù đảo chánh, chúng tôi cũng tổ
chức được một số sĩ quan trẻ để khi hữu sự có thể cô lập được Thẩm Nghĩa
Bôi và vô hiệu hóa Trung đoàn. Trong binh chủng Không quân, chúng tôi
có Trung tá Đỗ Khắc Mai (hiện ở Pháp) và nhóm cộng sự viên của Mai. Tuy
Mai đã từng ở trong Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia và đảng Cần Lao Nhân
Vị do tôi tổ chức, nhưng vì là người tâm huyết thuộc một gia đình có
tinh thần chống Cộng rất cao, nên khi dần dần thấy anh em ông Diệm tham
nhũng thối nát mà lại bất tài bất lực trong việc chống Cộng đến nỗi
người bạn thân là Đại tá Nguyễn Xuân Vinh (hiện nay đang ở Hoa Kỳ) phải
bỏ chức Tư lệnh Không Quân ra đi, thì Mai trở thành bất mãn và chống chế
độ.
Ngoài các lực lượng quân đội và dân sự ở Sài Gòn, tôi còn
tổ chức được Đại tá Đặng Văn Sơn và Thiếu tá Trần Văn Hai ở Khánh Hòa.
Sơn chỉ huy trường Hạ sĩ quan Nha Trang, lại là một Phật tử thuần thành,
bạn thân của tôi lâu năm. Sơn từng ủng hộ ông Diệm thời ông gặp khó
khăn trong giai đoạn làm Thủ tướng, Sơn đã từng ở trong đảng Cần Lao,
nhưng cũng như mọi người tâm huyết mang tâm trạng bất mãn với nhóm Cần
Lao Công Giáo, lại thấy anh em ông Diệm trắng trợn đàn áp Phật giáo nên
khi tôi ngỏ lời Đặng Văn Sơn hăng hái nhận lời ngay. Thiếu tá Trần Văn
Hai, chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân ở Dục Mỹ (Ninh
Hòa) là một đảng viên Đại Việt, thời 1955–1956 bị nhóm Cần Lao Công Giáo
dân sự vu cáo nên bị bắt giam, nhưng lại được tôi tái xét và bạch hóa
hồ sơ nên từ đó Hai coi tôi như một ân nhân, một người anh, do đó khi
tôi cho người liên lạc móc nối, Hai đồng ý ngay. Là người can trường và
tâm huyết, Hai hứa với tôi sẽ hy sinh đến kỳ cùng để đập tan chế độ Diệm
(Sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản vào năm 1975, tướng Trần Văn Hai
đã tự vẫn không chịu đầu hàng Cộng Sản). Trường Hạ Sĩ quan Nha Trang và
Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ có đến 5, 6 ngàn binh sĩ
thiện chiến, cho nên lực lượng hùng hậu này được tôi giao cho nhiệm vụ
chiếm Nha Trang để khi tôi kéo quân đi lập chiến khu hay khi có chính
biến tại Sài Gòn sẽ nổi lên làm thế ỷ dốc. Nha Trang và Khánh Hòa là quê
hương của Phật giáo cho nên dân chúng địa phương trở thành một hậu
thuẫn nhân dân vững chắc cho những lực lượng cách mạng sau này.
Trong
lúc tiến hành tổ chức cuộc binh biến, tôi không ngờ có nhiều nhóm sĩ
quan khác cũng có những nỗ lực nhằm vận động lật đổ chế độ, mà hầu hết
là người thân tín của ông Diệm. Có ba nhóm lần lượt đến vận động tôi vào
tổ chức của họ. Trước hết là nhóm của tướng Nguyễn Ngọc Lễ và Đại tá
Nguyễn Văn Chuân (tướng Chuân hiện ở Hoa Kỳ). Thứ hai là nhóm của Đại tá
Nguyễn Khương người Huế, cựu chỉ huy trưởng binh chủng Truyền Tin (Đại
tá Khương hiện ở Pháp). Và thứ ba là nhóm của tướng Lê Văn Nghiêm và Đại
úy Nguyễn Bé. Sở dĩ những sĩ quan này dám vận động tôi vào tổ chức đảo
chánh của họ vì họ toàn là bạn thân của tôi nên biết rõ quan điểm chính
trị và tâm trạng của tôi đối với anh em ông Diệm, nhất là đối với vợ
chồng Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn. Tuy nhiên dù biết họ tin tôi, và
dù tôi không nghi ngờ quyết tâm của họ, nhưng vì làm công việc lật đổ
chế độ là một việc làm nguy hiểm có thể đưa đến cái chết vô ích nếu bị
ông Ngô Đình Nhu và nhóm Cần Lao phát hiện nên tôi đã phải rất cẩn mật.
Do đó, dù các tổ chức trên đã đến liên tục thúc giục, tôi chỉ trả lời
một cách lưng chừng mà không chính thức nhận lời. (Có phải thế không anh
bạn Nguyễn Văn Chuân của tôi ơi!)
Ngoài các nhóm mà tôi tạm
gọi là các Tổ chức miền Trung nói trên còn có đảng Đại Việt mà đại diện
là Thiếu tá Huỳnh Văn Tồn (hiện ở Orange County, California). Sở dĩ tôi
khám phá ra được hoạt động của Huỳnh Văn Tồn là nhờ một tờ thông báo của
Trung tướng Thái Quang Hoàng. Nguyên Tồn là huấn luyện viên trường Đại
học Quân Sự Đà Lạt, nhưng Tồn lại bỏ trường đi gần hai tuần lễ không về
đến nỗi tướng Hoàng phải thông báo nhờ An Ninh Quân Đội lùng bắt. Tôi
cho nhân viên dò xét và theo dõi nên biết được Tồn về Sài Gòn liên lạc
với các đồng chí quân sự và dân sự trong đảng để tổ chức đảo chánh. Đặc
biệt, Tồn liên lạc với cả tướng Dương Văn Minh. Cũng trong nhóm của Tồn
từ Đà Lạt về còn có Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến Cổ Tấn Tinh Châu; Châu
về miền Tây tổ chức các đảng viên Đại Việt, và trưa ngày 1–11–1963 trở
lại Thị Nghè điều động một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đến tấn công dinh
Gia Long.
Trong lúc đó thì Ty An Ninh Quân Đội tại Đà Lạt cũng
báo cáo cho tôi biết nhiều “hoạt động lạ lùng” của Trung tá Trần Ngọc
Huyến, Chỉ huy trưởng trường Võ Bị Đà Lạt (hiện ở Mỹ). Lúc đầu tôi không
tin Huyến âm mưu đảo chánh ông Diệm vì Huyến là người Công giáo lại là
em của cựu Bộ trưởng Trần Ngọc Liên, một thuộc hạ đắc lực của ông Diệm
và ông Nhu. Huyến lại được ông Diệm nâng đỡ tín nhiệm giao cho chức Chỉ
huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, một địa vị mang nhiều vinh dự
cho bất kỳ ai được hân hạnh chỉ huy ngôi trường đào tạo nhân tài tương
lai cho quân đội.
Cho đến trung tuần tháng 8, tôi biết được
vào khoảng 7, 8 tổ chức đang tiến hành những vận động để lật đổ chế độ,
mà tổ chức làm cho tôi chú ý một cách đáng ngạc nhiên nhất là của tướng
Trần Văn Đôn, lúc bấy giờ đang là Quyền Tổng Tham Mưu trưởng. Hầu hết
các tổ chức đó đều do thành phần quân nhân chủ xướng với sự hợp tác của
một số lực lượng đảng phái, hoặc với sự yểm trợ của một số khuôn mặt
chính trị hay tôn giáo. Sự kiện có quá nhiều tổ chức đã không làm tôi
ngạc nhiên vì dưới chế độ bạo quản của ông Diệm, và với hệ thống mật vụ
Cần Lao của Nhu, chỉ quân đội mới đủ khả năng và dũng lực để tiến hành
những công tác nguy hiểm và đòi hỏi một kỹ thuật tổ chức tinh vi. Và
cũng vì thế mà dù hệ thống mật vụ của Nhu có phát giác ra một vài tin
tức nhưng chính Nhu cũng không biết ai lãnh đạo và thực lực thế nào.
Ngoài
ra, quân đội, mà cả hai ông Nhu và Diệm đều chủ quan tưởng rằng đã được
Quân ủy đảng Cần Lao kiểm soát chặt chẽ, thật ra lại là trung tâm sôi
động nhất của mọi mầm mống bất mãn và chống đối. Phật giáo bị đàn áp còn
biểu tình phản kháng, đảng phái quốc gia bị đàn áp còn ra tuyên ngôn
chống đối, riêng quân đội thì hành xử như một chiến sĩ, nghĩa là khi bị
khống chế khinh miệt thì sẽ phản ứng một cách quyết liệt và dữ dội mà
điển hình là cuộc binh biến lẫm liệt 11–11–60 của binh chủng Nhảy Dù và
những trái bom nổ lửa ngày 27–2–1962 của hai phi công Quốc và Cử.
Đêm
20–8–1963, đêm định mệnh mà vợ chồng Nhu tấn công chùa chiền, tình cờ
một người bạn thân của tôi là Đại tá Phùng Ngọc Trưng (hiện ở Pháp) đến
chơi và ngủ lại nhà tôi. Trưng vừa mới bị ông Ngô Đình Cẩn cất chức Giám
đốc Quân nhu Quân khu I và được tôi kéo vào Sài Gòn giữ chức Chánh sở
Hành Chánh Tiếp vận cho Nha An Ninh Quân Đội. Đêm ấy hai anh em tôi đang
ngồi nói chuyện thì bỗng vào khoảng một giờ sáng, Thiếu tá Nguyễn Thành
Long, Chánh sở An Ninh Quân Đội Sài Gòn–Gia Định, gọi điện thoại khẩn
cấp báo cho tôi biết cảnh sát Dã chiến và Lực Lượng Đặc Biệt của Lê
Quang Tung đang tấn công chùa Xá Lợi (trung tâm chỉ huy lực lượng Phật
giáo đấu tranh), chùa Ấn Quang và chùa Theravada. Theo Long thì chính bà
Nhu mặc quân phục Thủy Quân Lục Chiến, đi xe Mercedes đến trước cổng
Chùa Xá Lợi để chỉ huy cuộc tấn công chùa này. Và chính nhân viên của
Long thấy bà ta la hét, chỉ trỏ ra lệnh cho lực lượng tấn công. Tôi bèn
bảo Long cứ tiếp tục theo dõi biến cố và ngày mai sẽ làm tờ trình cho
tôi, rồi tôi lại ra trước sân nhà tiếp tục nói chuyện với Đại tá Trưng
cho đến sáng.
Ngôi nhà mà Quân đội cấp cho tôi ở là một biệt
thự trong cư xá Hải quân, kiến trúc theo kiểu Pháp thời thuộc địa, nằm
cuối đường Gia Long gần chủng viện Saint Paul yên tĩnh. Đường Gia Long
có hai hàng me xanh lá chụm đầu vào nhau xào xạc, đêm đó như san sẻ câu
chuyện tâm sự của hai anh em chúng tôi đang bàn tán về chế độ Diệm và
biến cố tấn công chùa chiền.
Là một chứng nhân sống, là một
nạn nhân trực tiếp, Trưng đã kể hết và kể rõ tất cả những tội ác của hai
ông Ngô Đình Thục, Ngô Đình Cẩn và tập đoàn Cần Lao Công Giáo tại Huế
và miền Trung. Với giọng nói bi thiết của một người đã hy sinh tất cả để
rồi bị phản bội độc ác, Trưng kết luận: “Như anh biết, cả gia đình tôi
đã xả thân cho nhà Ngô với tất cả lòng trung tín và hy sinh. Thời kỳ anh
em ông Diệm còn lao đao không ai dám liên hệ, thì chúng tôi đã công
khai ủng hộ, đóng góp nhân lực, vật lực. Khi ông Diệm làm Thủ tướng phải
tứ bề thọ địch và lúc nào cũng sẵn sàng bị tấn công thì em tôi (Đại úy
Phùng Ngọc Bang) chịu vào làm sĩ quan tùy viên, anh ruột tôi chịu vào
trong tiểu đội phục dịch cho tư thất ông Ngô Đình Cẩn… Thế mà vì lòng
tham vô đáy, ông Cẩn đã cho mật vụ bao vây nhà tôi, một đồng chí cũ, một
sĩ quan cấp tá của quân đội, một cán bộ của chế độ, để trắng trợn tịch
thu những gia bảo của tôi. Đã tán tận lương tâm như thế, ông Cẩn còn cất
chức và thuyên chuyển tôi ra khỏi đơn vị, bắt tôi rời khỏi Huế để cho
người Công giáo Phú Cam của ông Cẩn thay thế mà chuyên quyền… Với tôi mà
ông Ngô Đình Cẩn còn xử cạn tàu ráo máng như thế thì dân chúng thấp cổ
bé miệng còn khổ nhục như thế nào! Chế độ như vậy mà anh cứ nhắm mắt
phục vụ sao?”
Hai câu nói cuối cùng của người bạn thân vang
dội trong đêm trường, như lớp sóng cuồn cuộn liên tục đập vào ghềnh đá.
Tôi chỉ im lặng nghe Trưng nói mà không cho bạn biết tâm sự và dự định
của mình. Trưng là người chân thành và trung tín, hơi “quê mùa” một chút
nhưng là cái thứ “quê mùa” vô giá của những tâm hồn nông dân Việt Nam
bình dị. Nhận định và phê phán của Trưng, đối với tôi, bao giờ cũng có
những giá trị rất dân tộc vì phát xuất từ sự trong suốt của tấm lòng
Trưng.
Đêm đó, dưới bầu trời đầy sao của mùa Hạ miền Nam, tôi
còn hỏi Trưng nhiều và chúng tôi thức suốt đêm dài cho đến sáng. Hôm
sau, khoảng 7 giờ, ông Diệm tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn về việc
“Hội Đồng Chính Phủ được triệu tập gấp vào lúc gần sáng. Tổng thống
tuyên bố phải hành động cương quyết và lãnh trách nhiệm trước lịch sử vì
có tin Việt Cộng sắp tràn ngập Thủ đô. Đã ban hành lệnh giới nghiêm,
giao cho quân đội bảo vệ an ninh trật tự. Tướng Tôn Thất Đính, Tổng trấn
Sài Gòn–Gia Định, chịu trách nhiệm thi hành lệnh thiết quân luật…”
Khoảng
10 giờ sáng, tôi đang làm việc tại văn phòng của Nha tại góc đường
Nguyễn Bỉnh Khiêm và Hồng Thập Tự thì tướng Trần Văn Đôn, lúc bấy giờ là
quyền Tổng Tham mưu trưởng (thay tướng Lê Văn Tỵ đi chữa bệnh tại Hoa
Kỳ) gọi điện thoại yêu cầu tôi đến Bộ Tư lệnh của tướng Đính để theo chỉ
thị của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu, làm cố vấn cho Đính về các vấn đề
chính trị trong cuộc khủng hoảng Phật giáo.
Lại một lần nữa,
ông Nhu âm mưu bắt tôi dính dự vào tội ác của dòng họ Ngô Đình: Trước
hết, đây là một vấn đề dân sự thuộc Bộ Nội Vụ chứ không thuộc thẩm quyền
của tôi, thứ hai là các sách lược chính trị không thuộc lãnh vực của
Nha An Ninh Quân Đội, và thứ ba là nếu có một sách lược chính trị thì
ông Nhu dư biết tôi đã từng bày tỏ lập trường chống đối chính sách này,
vả lại tôi có bao giờ được ông Nhu chính thức thông báo sách lược đó
đâu. Không có thẩm quyền, không thuộc lãnh vực, lại không được thông
báo, thế mà tôi vẫn bị ông Nhu đẩy vào cái tư thế, mà đối với quần
chúng, đối với phong trào đấu tranh của Phật giáo và đối với quân đội,
lại là tư thế then chốt để tiến hành chính sách đàn áp Phật giáo của
chánh quyền.
Lúc gặp tướng Đính và người phụ tá quân sự là Đại
tá Nguyễn Hữu Có, tôi thấy cả hai đều có vẻ khẩn trương và ưu phiền. Vì
đặt niềm tin trọn vẹn vào liên hệ thân thiết giữa hai người, Đính đã
trình bày đầy đủ cho tôi biết những thảm họa xảy ra tại các chùa bị tấn
công, nhất là tại chùa Xá Lợi: “Mặt Phật bị bắn nát, các vật dụng thờ
cúng như chuông, mõ, lư hương bị đập phá văng ngổn ngang, các Tăng và Ni
bị đánh bằng báng súng và đâm bằng lưỡi lê, riêng Hòa Thượng Hội chủ
Thích Tịnh Khiết thì bị hành hung nặng”. Đính còn hằn học “… Họ còn dám
ném mấy khẩu Garant M1 vào chùa rồi chụp hình làm tang vật vu khống chùa
có chứa vũ khí, họ còn quăng cả đồ lót đàn bà vào phòng của mấy thầy
rồi xuyên tạc trong chùa có trai gái bậy bạ…”.
Ông Đính càng
hằn học chỉ trích chính quyền tôi càng mừng thầm vì thái độ này phản ánh
những uất ức của một kẻ muốn nổi loạn và biết đâu hai ông Đính và Đôn,
ngoài tình bạn ra, cũng đã là đồng chí trong tổ chức của ông Đôn rồi, dù
bề ngoài ông Đính vẫn tương kế tựu kế giả vờ đóng vai trung thành với
ông Diệm.
Những biến cố xảy ra trong mấy tháng vừa qua, từ âm
mưu thỏa hiệp với Cộng Sản Hà Nội đến vụ đem xử các thành phần đảng phái
quốc gia tại tòa án Quân sự Đặc biệt, từ vụ đàn áp thảm khốc Phật giáo
đến những lời hạch tội của Đại tá Trưng tối hôm qua và của tướng Đính
hôm nay… đã chồng chất thành bản cáo trạng quyết liệt lên án tội ác của
chế độ và bỗng chấm dứt mọi ngần ngại tình cảm cuối cùng của tôi đối với
ông Diệm. Tôi cố viện dẫn khoảng thời gian hơn 20 năm trời liên hệ thắm
thiết giữa ông Diệm và tôi, nhưng vẫn không đủ ngăn chận được những
hành động oan nghiệt của 9 năm trời bạo quản của anh em ông Diệm. Một
bạo chúa Ngô Đình Cẩn không ngại ngùng nhúng tay vào máu trên đau khổ
của đồng bào; một Ngô Đình Nhu ngạo mạn làm giàu bằng thuốc phiện và
chuyển tiền ra ngoại quốc bằng hệ thống mật vụ Cần Lao và sẵn sàng thỏa
hiệp với Cộng Sản trong khi phóng tay đàn áp các lực lượng quốc gia; một
Ngô Đình Thục chà đạp các tôn giáo khác xuống cho tôn giáo mình được
hưởng mọi đặc quyền đặc lợi hầu tiến đến việc Công giáo hóa toàn miền
Nam; một Ngô Đình Diệm nhu nhược đạo đức giả; một Trần Lệ Xuân vô đạo
đức và lộng quyền; một bầy khuyển ưng Cần Lao Công giáo cấu kết thành
một loại trùng độc làm hủy hoại sinh lực của quốc gia và hùng khí của
dân tộc… Tất cả gồm trong một gia đình mà những sân si và danh, lợi,
quyền, lực, đã biến thành những tội đồ của đất nước, mà từ gần nửa năm
nay dân chúng miền Trung đã âm thầm viết thành bản án lịch sử để lại cho
hậu thế đời đời qua hai câu ca dao truyền miệng cho nhau:
Nhà Ngô có bốn gian hùng
Diệm ngu, Nhu ác, Cẩn khùng, Thục điên
Cả
một quá khứ địa ngục với một tương lai đen tối của đất nước đã làm tôi
dứt khoát hẳn với ý định giữ ông Diệm lại làm nguyên thủ quốc gia như
công thức mà Võ Văn Hải đã có lần đề nghị. Tôi nhất định phải lật đổ chế
độ này, và chính ông Diệm cũng phải bị tước quyền công dân trục xuất ra
khỏi nước.
Suy nghĩ chín chắn rồi, chiều 22–8–63, tôi đến Bộ
Tổng Tham mưu để gặp tướng Trần Văn Đôn đề nghị gia nhập vào tổ chức của
ông ta. Lúc đầu tướng Đôn tỏ vẻ nghi ngờ hỏi vặn: “Có phải ông Cố vấn
bảo anh đến đây để thử thách tôi không?” Nhưng đến khi tôi trình bày hết
tâm sự và quyết tâm của mình rồi kết luận một cách chắc nịch rằng “Nếu
tôi là tay sai của Ngô Đình Nhu, nếu tôi ham danh lợi thì tôi đã tố cáo
âm mưu của Trung tướng cho anh em ông Diệm rồi” thì ông Đôn mới bắt đầu
có vẻ tin tưởng hơn nhưng vẫn còn dè dặt bảo tôi trở về làm việc mà
không hề đề cập đến lập trường, chủ trương và tổ chức của ông ta. Ra về,
tôi trở nên bình thản và lạc quan hơn vì chính thái độ dè dặt của ông
Đôn lại càng làm cho tôi tin tưởng ông đang quyết tâm thực hiện cuộc
chính biến. Một cuộc chính biến do một cuộc binh biến phát động mà quân
đội là chủ lực, lại do một vị Tổng Tham mưu trưởng tổ chức thì nhất định
phải thành công.
Độ một tuần lễ sau, hình như sau khi đã cho
điều tra và nắm vững tư tưởng của tôi, ông Đôn bèn cho mời tôi đến gặp
ông ta tại văn phòng. Sau khi trình bày một cách tổng quát chủ trương
làm một cuộc cách mạng lật đổ chế độ, tướng Đôn bèn hỏi tôi: “Quyết định
của anh về sinh mạng của anh em ông Diệm như thế nào?” Tôi trả lời dứt
khoát: “Đối với vợ chồng Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn thì phải bắt
giam rồi đưa ra tòa án Quân sự xét xử theo đúng luật. Riêng đối với ông
Diệm thì đem ông ta lên ở tại dinh số 1 ở Đà Lạt một thời gian, đối xử
đàng hoàng rồi để cho ông ta ra đi muốn sống lưu vong tại nước nào tùy
ông ta lựa chọn”. Tướng Đôn đồng ý với tôi ngay vì hình như đó cũng là
chủ trương của riêng ông.
Ngoài ra, trước khi tôi liên hệ với
tổ chức chính biến do các tướng lãnh chủ xướng, một hôm vào đầu tháng
Chín, Đại tá Phạm Ngọc Thảo đến nhà và không ngần ngại mời tôi tham dự
vào tổ chức đảo chánh của bác sĩ Trần Kim Tuyến mà ông Thảo là đại diện.
Theo ông Thảo, bác sĩ Tuyến chỉ là lãnh tụ tinh thần vì đang sửa soạn
đi nhận chức Tổng lãnh sự ở Ai Cập nên không muốn tiếp xúc với ai, vả
lại bác sĩ Tuyến đang bị Công an đặc biệt theo dõi gắt gao.
Về
trường hợp bác sĩ Trần Kim Tuyến âm mưu lật đổ chế độ Diệm, ký giả Úc
Dennis Warner, một bạn thân của luật sư Trần Văn Khiêm (em ruột bà Nhu)
và là một ký giả khả tín nhất trong giới phóng viên báo chí thế giới về
sự am hiểu tình hình Đông Nam Á đã viết như sau:
Ngày tháng
càng trôi qua, Nhu và các bạn hữu thân cận của ông ta càng cãi vã nhau,
đưa đến đổ vỡ. Từ nhiều năm nay, kẻ chân tay quan trọng nhất của Nhu
trong đảng Cần Lao đồng thời cũng là người điều khiển cơ quan mật vụ của
Nhu là bác sĩ Trần Kim Tuyến, 39 tuổi, dáng người nhỏ nhắn và vốn xuất
thân từ một dòng tu Công Thiên Chúa giáo. Ngoài những thành quả khác,
Tuyến đã học hết chương trình Y khoa trừ năm cuối của chương trình Bác
sĩ. Tuyến là người không chấp nhận cung cách của nhà Ngô trong việc trị
dân, và đã cố gắng thuyết phục chế độ để đi đến một nền hành chánh thực
tiễn và quy củ hơn. Sau khi cuộc đảo chánh tháng 11 năm 1960 thất bại,
ông cùng một số viên chức chính phủ có cùng ý kiến với ông soạn thảo một
văn thư nội bộ gửi cho ông Diệm nêu lên một số đề nghị cải tổ. Hai mươi
trang của văn kiện này được dành riêng để đề cập đến bà Nhu.
Đúng
như Tuyến đã lo ngại, quả nhiên Diệm đã gạt bỏ mọi đề nghị cải tổ còn
bà Nhu thì phản ứng một cách giận dữ. Mặc dù trong hai năm tiếp theo, bề
ngoài Tuyến và Nhu vẫn tỏ ra là một đôi bạn thân, cái “tình bạn” ấy
chấm dứt khi Nhu nói rằng ông đã cho ngầm thu âm các bàn ăn trong nhà
hàng La Cigale, một hàng ăn mà ban đêm Tuyến và bạn bè thường gặp nhau,
và qua các cuộc thu âm ấy, Nhu đã biết được rằng khi Tuyến và bạn hữu
bàn với nhau về “một cuộc đảo chánh” thì nội dung câu chuyện không phải
luôn luôn là lời lẽ của một kẻ đứng đầu một cơ quan mật vụ trung kiên.
Tuy
Tuyến đã “bảo hiểm” sinh mạng của mình bằng cách gửi ra ngoại quốc
chứng liệu về các hoạt động của gia đình họ Ngô, ông ta vẫn thường trực
sống trong tình trạng nguy hiểm, mặc dù Nhu đã bổ nhiệm Tuyến - để Tuyến
không còn là một trở ngại - đi làm Tổng lãnh sự Việt Nam tại Cairo (Ai
Cập). Nhu thường gọi Tuyến là “trente neuf” (ba mươi chín) vì con người
nhỏ nhắn của Tuyến chỉ cân nặng 39 ký. Sau khi hai người hết thân thiện
với nhau, Nhu khôi hài là bây giờ phải gọi Tuyến là “trente huit” (ba
mươi tám) vì Tuyến lo sợ cho mạng sống của mình, đã sụt mất một ký. Qua
cơ quan của Tuyến, Nhu nắm được hồ sơ cá nhân của tất cả viên chức cao
cấp trong chính phủ, kể cả hàng Tổng, Bộ trưởng. Mục tiêu của Nhu là,
nếu được, phải làm cho các viên chức này liên lụy đến một hình thức tham
nhũng nào đó. Trong mẻ lưới này, không một ai có thể làm hại Nhu mà lại
có thể tránh được cho mình khỏi bị hại [1].
Hơn ai hết, ông
Tuyến biết rõ những sai lầm và những tội ác của chế độ Diệm, biết rõ
những âm mưu thâm độc của vợ chồng Ngô Đình Nhu, biết rõ ông Ngô Đình
Cẩn mấy lần định cho người ám sát mình, lại biết vợ chồng Nhu sẽ cất
chức mình, đem em là Trần Văn Khiêm vào thay thế để Khiêm ngụy tạo hồ sơ
biến mình thành con dê tế thần gánh chịu tất cả mọi hậu quả. Biết như
thế và vốn người có lý tưởng quốc gia chân chính nên ông Tuyến không thể
tiếp tục làm tôi trung cho một gia đình, một chế độ ngập tràn tội ác,
ông Tuyến phải chủ trương đảo chánh trong ý nguyện cứu lấy một quốc gia
đang thật sự đứng trên bờ vực thẳm. Từ một công thần hãn mã, ông Tuyến
trở thành một kẻ thù không đội trời chung với anh em ông Diệm. Là một
người quen thân với ông lại năng tiếp xúc đàm đạo với ông, tôi biết rõ
nỗi khổ tâm của người bạn hiền Trần Kim Tuyến.
Còn về Đại tá
Phạm Ngọc Thảo thì từ trước tôi chưa hề gặp mà chỉ biết qua hồ sơ. Ông
Thảo là một tay phản gián tài ba của Việt Cộng và dù có bà con là Phạm
Ngọc Thuần hiện giữ một chức vụ quan trọng ở ngoài Bắc, nhưng nhờ là một
tín đồ Công giáo lại là tay chân của Giám mục Ngô Đình Thục nên được
ông Diệm tín nhiệm và cho mang lon Trung tá. Lúc Thảo làm Tỉnh trưởng
Kiến Hòa, tướng Mai Hữu Xuân, vốn là cựu Tổng Giám đốc Công an, cựu Giám
đốc An Ninh Quân Đội, đã nói với tôi: “Anh nên trình với Tổng thống
rằng dùng Phạm Ngọc Thảo là dâng miền Nam cho Cộng Sản rồi đó”. Tôi đem
lời của Mai Hữu Xuân trình bày cho ông Diệm thì bị ông Diệm gắt gỏng:
“Anh hỏi thằng Xuân nó có biết nguồn gốc gia đình Phạm Ngọc Thảo hơn Đức
Cha không?”. Trong thời gian ông Thảo giữ chức Tỉnh trưởng Kiến Hòa,
tôi đã cho Đại úy Sinh (hiện ở Hoa Kỳ), trưởng phòng Công tác của Nha,
bí mật xuống Bến Tre một tháng để đặc biệt điều tra ông Thảo, và Sinh đã
về báo cáo cho tôi: “… chẳng những Thảo là người chống Cộng mà lại
chống Cộng rất tài tình. Kiến Hòa là căn cứ địa vững chắc của Cộng Sản,
là quê hương của bà Nguyễn Thị Bình, là nơi mà năm 1940 Cộng Sản đã từng
nổi dậy cướp chính quyền, thế mà Thảo vẫn “trị” nổi Cộng Sản tại đó”.
Nhưng chỉ mấy tháng sau, ông Thảo thôi làm Tỉnh trưởng và được ông Ngô
Đình Nhu giao cho nhiệm vụ đi thanh tra công cuộc thiết lập Ấp Chiến
Lược. Ông Thảo vẫn vào ra dinh Tổng thống và thỉnh thoảng vẫn được ông
Diệm gọi vào nói chuyện.
Gặp tôi, ông Thảo cho biết tổ chức đã
kết nạp được một số đơn vị Biệt Động Quân và Bảo An. Và nhờ thường đi
thanh tra Ấp Chiến Lược nên đã tổ chức được rất nhiều sĩ quan trong các
đơn vị chiến đấu tại Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4. Ông Thảo là cộng sự
viên của tướng Trần Thiện Khiêm nên cũng tiết lộ cho tôi biết tướng
Khiêm đã nhận đỡ đầu cho nhóm Thảo. (Thật ra tướng Khiêm đã ở trong tổ
chức của tướng Đôn rồi).
Tôi khen thầm quả thật ông Thảo là
tay tình báo giỏi mới biết được tâm địa và hành động bí mật của mình,
tuy nhiên tôi vẫn phải giả vờ tỏ thái độ trung lập: “Các anh muốn làm gì
thì làm, tôi không chống các anh cũng không phản cụ Diệm”. Sở dĩ tôi
phải nói thế vì cần phải kiểm chứng lại với tướng Khiêm trước khi thật
sự liên hệ với ông Thảo. Mấy ngày sau, tướng Đôn lại gọi tôi đến Bộ Tổng
Tham mưu và cho biết tướng lãnh không đồng ý với tôi về việc giữ ông
Diệm tại Đà Lạt vì sợ những bất trắc có thể xảy ra. Tôi tranh luận một
hồi nhưng không thay đổi được quyết định của tổ chức nên đành nhượng bộ:
“Nếu vậy thì đem ông ta ra Côn Đảo một thời gian và đem một tiểu đoàn
Thủy Quân Lục Chiến ra canh giữ rồi sau khi tân chánh phủ thành lập sẽ
cho ông ta ra đi”. Ông Đôn đồng ý và hứa sẽ đề nghị lại với anh em.
Trong cuộc gặp gỡ lần này, ông Đôn khuyến cáo tôi phải hết sức cẩn thận
đối với những cố vấn quân sự Hoa Kỳ và nhân viên CIA, vì theo ông thì
tướng Harkins và nhân viên của Richardson (Giám đốc CIA tại Việt Nam)
đang ủng hộ ông Diệm và ông Nhu. Tướng Đôn cũng bảo tôi từ nay ông và
tôi chỉ liên lạc bằng điện thoại và chỉ dùng một số mật ngữ để trao đổi
tin tức. Đặc biệt về ngày giờ phát động, ông sẽ cho biết sau.
Ở
đây tôi xin dành vài dòng nói về tướng Trần Văn Đôn, người được xem là
bộ óc của cuộc chính biến 1–11–63. Tướng Đôn sinh tại Pháp nhưng nhà thờ
họ, mồ mả tổ tiên, ruộng vườn tài sản đều ở tại miền Nam. Tuy ông đã
từng mang quốc tịch Pháp nhưng gia đình lại thấm nhuần nền đạo lý Tam
giáo. Trong những giao tế bên ngoài, Trần Văn Đôn là người văn minh lịch
thiệp kiểu Âu–Mỹ, nhưng trong sinh hoạt gia đình ông vẫn theo nề nếp
Đông phương, theo nghi lễ dân tộc. Một lần tôi đến thăm ông tại nhà bỗng
gặp bà Đôn dạy học ở Đà Lạt về nghỉ cuối tuần. Vừa bước vào phòng
khách, bà Đôn vội nghiêm trang chào khách và chào chồng rồi đến ngay bàn
thờ gia tiên thắp hương vái chào, sau đó mới về phòng riêng. Lễ táng bà
cụ sau này, anh em gia đình tướng Đôn theo nghi lễ trong sách “Thọ Mai
gia lễ” cho đúng với phong hóa, tập tục cổ truyền. Trước kia, tôi thường
có thành kiến cho rằng tướng Đôn là một thứ “Tây con”, nhưng từ ngày
nhiều lần chứng kiến được cung cách và nếp sống gia đình của ông, tôi
càng kính mến ông ta nhiều hơn.
Tướng Đôn tuy theo binh nghiệp
nhưng phần lớn cuộc đời của ông lại hoạt động như một chính khách hơn
là một nhà quân sự. Ông đã hoạt động chính trị từ thời còn mang cấp
Trung úy, khi còn là một nhân viên trong văn phòng chính trị của Thủ
tướng Nguyễn Văn Xuân thời 1947–1948. Theo tướng Đôn thì chính ông ta là
tác giả của lá quốc kỳ cờ vàng ba sọc đỏ và là người đề nghị lấy bài
“Thanh Niên Ca” của Lưu Hữu Phước làm quốc ca cho Việt Nam Cọng Hòa. Vì
là vị Giám đốc An Ninh Quân Đội đầu tiên của quân lực Việt Nam Cọng Hòa
nên ông biết rõ lý lịch và lập trường chính trị của hầu hết mọi sĩ quan.
Hơn thế nữa, ông còn là Tham mưu trưởng đầu tiên nên đã đóng góp rất
nhiều trong việc xây dựng quân đội quốc gia.
Gia đình tướng
Đôn và gia đình ông Diệm vốn có thâm tình cố cựu, tướng Đôn đã từng làm
trung gian giữa Thủ tướng Xuân và anh em ông Diệm trong thời kỳ ông Nhu
hoạt động tại Sài Gòn và Đà Lạt. Trong mấy tập album mà bà Nhu có lần
đưa về Huế để khoe với ông Cẩn, tôi đã thấy nhiều bức hình vợ chồng Ngô
Đình Nhu chụp chung với Thủ tướng Xuân và Trần Văn Đôn trong các cuộc du
ngoạn tại Đà Lạt; họ thân với nhau đến độ có những tấm hình chụp ba
người đàn ông mặc âu phục đứng chung với bà Nhu chỉ mặc áo tắm hở hang.
Cũng vì anh em ông Diệm thân thiết với Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cho nên
theo lời của ông Phan Xứng, ông Diệm đã yêu cầu Đinh Xuân Tiếu, chủ
nhiệm báo Thời Cuộc, tránh việc đả kích ông Xuân mặc dù ông Xuân ủng hộ
Cựu Hoàng Bảo Đại trong lúc ông Diệm không những xa lánh mà còn chống
đối Cựu Hoàng. Ngay từ thời ông Diệm chưa cầm quyền vào những năm 47 đến
50, ông Đôn thường liên lạc với ông Diệm và mỗi khi ra Huế thường ghé
thăm ông Ngô Đình Cẩn.
Năm 1955, khi tướng Nguyễn Văn Hinh từ
giã Việt Nam vĩnh viễn để về Pháp, tướng Đôn đã tổ chức lễ đốt tượng
trưng quân hàm và quân hiệu Pháp từ trước vẫn được sử dụng cho quân đội
quốc gia, và chân thành ủng hộ ông Diệm qua công tác điều động các lực
lượng quân sự trong chiến dịch tấn công Bình Xuyên. Cũng bắt đầu từ giai
đoạn mới đó mà quốc gia bắt đầu thực sự được độc lập, tướng Đôn lo trau
giồi Việt ngữ, nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam và luôn luôn mang
tinh thần học hỏi cầu tiến. Trong suốt gần chín năm trời, hết giữ chức
Tham mưu trưởng Quân Đội đến chức Tư lệnh Quân đoàn, Quân khu, tướng Đôn
đã đem hết khả năng phục vụ Quân Đội và chế độ. Ông là vị tướng đã lê
gót khắp đất nước quê hương và tiếp xúc đủ mọi thành phần dân chúng
trong xã hội. Được ông Diệm và anh em ông ta nể vì, tướng Đôn là vị
tướng dám nói thẳng và nói thật với ông Diệm những sự thực bi thảm trong
Quân Đội, cũng như dám trình bày tình hình an ninh suy sụp của nông
thôn miền Nam.
Tôi gặp tướng Đôn lần đầu tiên tại Huế vào năm
1948, khi tướng Đôn tháp tùng Thủ tướng chính phủ đến thăm cố đô. Năm
1952, Trung tá Đôn, với tư cách Giám đốc Nha An Ninh Quân Đội, lại tháp
tùng tướng Hinh ra Huế để cùng với Trung tá Nguyễn Ngọc Lễ và tôi ( lúc
bấy giờ là Tham mưu trưởng Quân khu II) thảo luận về việc đặt các đoàn
cố vấn Pháp vào Bộ tham mưu và vào các đơn vị của Quân đội Quốc Gia Việt
Nam. Trong buổi họp này, tôi đã mạnh mẽ chống lại ý kiến của Tướng Hinh
trong lúc Trung tá Đôn nhìn tôi chăm chú, theo dõi những trình bày của
tôi và tỏ thái độ đồng ý với lập trường của tôi. Tuy nhiên, cũng vì vậy
mà chỉ mấy tháng sau tôi bị mất chức Tham mưu trưởng Quân khu II và bị
đổi ra Bắc. Năm 1954, tại nhà tướng Đôn ở Chợ Lớn, trong cuộc họp rất
đông sĩ quan để tướng Hinh hô hào việc đảo chánh Thủ tướng Diệm, thái độ
quyết liệt của tôi khi công khai phản kháng tướng Hinh và nhóm tay sai
đã làm cho Đại tá Đôn phải lưu ý. Vốn đã nắm vững hồ sơ lại thấy thái độ
khẳng khái của tôi, từ đó tướng Đôn tỏ ra quý mến tôi hơn và coi tôi
như một “chính trị gia”, một “chiến sĩ cách mạng” hơn là một quân nhân.
Khi làm Tư lệnh Quân đoàn I, mỗi lần từ Huế về, ông thường ghé lại Nha
An Ninh Quân Đội đàm đạo với tôi về tình hình đất nước.
Khác
với tướng Dương Văn Minh luôn luôn nghiêm nghị, kín đáo và trầm lặng,
tướng Trần Văn Đôn bình dị, cởi mở và hào hiệp hơn. Tướng Đôn vui vẻ và
dễ dàng thông cảm nên được binh sĩ quý mến trong tình huynh đệ chi binh.
Trong
hàng tướng lãnh Việt Nam ít người giao thiệp rộng rãi hơn tướng Đôn.
Ông quen biết rất nhiều tướng lãnh cao cấp, chính khách quốc tế và hầu
hết các đại sứ ngoại quốc có mặt tại Sài Gòn. Sau này, khi thành lập Lực
Lượng Dân Tộc Việt, chúng tôi thường mời các nhân vật tên tuổi như giáo
sư Trần Ngọc Ninh, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, học giả Đức Quỳnh, Thượng
tọa Trí Quang, Linh mục Hoàng Quỳnh, và tướng Trần Văn Đôn đến thuyết
trình về tình hình quốc tế, quốc nội. Và Thượng nghị sĩ Trần Văn Đôn đã
làm cho cấp lãnh đạo Lực Lượng phải ngạc nhiên và khâm phục về kiến thức
chính trị cũng như khả năng diễn đạt bằng tiếng Việt của ông ta.
Đến
nay, dù có người chỉ trích tướng Đôn trong thời 63–75 đã có nhiều tham
vọng chính trị nhưng tôi vẫn cho rằng tham vọng chính trị đó của ông chỉ
nhằm mục đích bảo vệ miền Nam để chống Cộng chứ không phải cho riêng cá
nhân ông mà thôi. Điều mà tôi phê phán về con người lãnh đạo Trần Văn
Đôn là cái bệnh đa tình của ông. Đã có lần, sau một buổi họp của Hội
đồng Tướng lãnh, nhân thấy tướng Đôn quá sốt sắng trong việc đưa mấy đứa
con bà Nhu đi Pháp sau khi cách mạng thành công, tôi bèn đùa ông ta đã
quá lưu luyến với mối tình già, tướng Đôn đã không ngần ngại trả lời:
“Tại sao anh không trách đàn bà hay “provoquer” (khiêu khích) tôi mà lại
trách tôi vốn chỉ là nạn nhân của đàn bà?”
Sau khi gặp tướng
Đôn lần thứ ba mà mục đích là thảo luận việc đối xử với ông Diệm khi
Cách mạng thành công, tôi bèn qua văn phòng của tướng Khiêm và được
Khiêm xác nhận về quyết tâm lật đổ chế độ Diệm của Phạm Ngọc Thảo. Tôi
và Khiêm vốn cùng ở trong Liên Đoàn Lưu Động số 3 do Trung tá Phạm Văn
Đổng chỉ huy hành quân ở Nam Định–Thái Bình năm 1953, rồi lại cùng tận
lực giúp ông Diệm trong cuộc binh biến của Nhảy Dù năm 1960. Từ ngày ông
Khiêm về giữ chức Tham mưu trưởng, tôi lại thường tiếp xúc nhiều hơn để
trình bày về tinh thần binh sĩ nên chúng tôi có với nhau nhiều mối
thiện cảm. Trong kế hoạch tổ chức lật đổ chế độ, ông Khiêm được coi như ở
trong hàng ngũ lãnh đạo đầu não bên cạnh tướng Dương Văn Minh và Trần
Văn Đôn. Tuy ông Khiêm được anh em ông Diệm tín nhiệm, nhưng vì chính
sách cai trị thất nhân tâm và cách lãnh đạo độc đoán, bất tài của nhà
Ngô đã làm cho Cộng Sản mỗi ngày một phát triển nên ông thường tỏ ra
công phẫn. Ông Khiêm quê ở Long An, thấy tỉnh nhà ở cạnh thủ đô Sài Gòn
mà Cộng Sản đã chiếm hết nông thôn, và trong khi ông Khiêm không về thăm
được họ hàng, mồ mả cha ông thì bà Nhu lại đắc cử gian dối ở Long An
với số phiếu 98%, điều đó lại càng làm cho ông Khiêm chán nản, khinh bỉ
chế độ. Cho nên ngoài những lý do chung mà mọi người đều đồng ý lật đổ
chế độ Diệm, ông Khiêm còn có những công phẫn riêng tư nữa. Gặp ông
Khiêm, tôi hỏi về thái độ của ông Thiệu, một bạn thân của ông Khiêm, thì
được cho biết: “Thiệu cũng cùng một lập trường với chúng ta nhưng anh
nên tác động thêm tinh thần cho Thiệu quyết tâm hơn”.
Trở về
Nha, tôi liền gọi điện thoại mời ông Thiệu, đang là Tư lệnh Sư đoàn 5 ở
Biên Hòa, vờ bảo lên gặp tôi gấp vì có thư nặc danh tố cáo Thiệu tham
nhũng. Độ vài tiếng đồng hồ sau, ông Thiệu đã có mặt tại văn phòng tôi.
Vừa bắt tay Thiệu tôi vừa nghiêm giọng: “Tôi mời anh lên đây để bắt giam
vì anh đang âm mưu tổ chức đảo chánh”. Thiệu tuy hơi biến sắc nhưng
cũng giả vờ tìm cách chối nên tôi vội trấn tỉnh Thiệu ngay. Là người
quyền biến và có ý thức chính trị nên Thiệu hỏi tôi: “Anh nghĩ gì về thể
chế tương lai sau khi hạ được chế độ Diệm?” Tôi bèn trả lời: “Tất nhiên
là thể chế dân chủ, tạo điều kiện và sinh hoạt thuận tiện cho công cuộc
đại đoàn kết quốc gia, trong đó các đảng phái và các lực lượng quần
chúng phải đóng một vai trò quan trọng và căn bản để gây lại hòa khí dân
tộc, phục hồi sinh lực quốc gia để chống Cộng Sản”. Tuy nhiên, tôi nói
tiếp: “Chưa bắt được cọp hãy khoan nói đến chuyện lột da, chúng ta hãy
bàn chuyện tổ chức và hành động để loại trừ lực lượng chính trị và quân
sự của Nhu trước đã”.
Ông Thiệu và tôi quen nhau từ cuối năm
1952 khi hai chúng tôi cùng học lớp Tiểu đoàn trưởng và lớp Liên đoàn
Lưu động ở Hà Nội. Từ đó, trên bước đường binh nghiệp, hai chúng tôi như
có duyên nợ với nhau. Về làm việc chung ở khu chiến Hưng Yên, hai người
kính trọng nhau vì đều có chút kiến thức chính trị. Hồi đó, tôi còn đặc
biệt trọng ông Thiệu vì hai ông bà cụ thân sinh của Thiệu thuộc hàng
tiền bối đạo đức, luôn luôn duy trì gia đình trong truyền thống nền Tam
giáo. Thiệu trầm tĩnh khôn ngoan, lại có khả năng về tham mưu, đã từng
được Đại tướng Pháp De Linarès, Tư lệnh chiến trường Bắc Việt phê điểm
rất tốt. “Thông minh sắc bén, siêng năng, có phương pháp và tỉ mỉ. Sĩ
quan hảo hạng. Có ý thức tuyệt hảo về tổ chức và bảo mật”. (Intelligence
aigue, travailleur, méthodique et minutieux. Très bon officier. Possède
un sens remarquable de l’Organisation et du Secret) [2]. Tướng De
Linarès quả thật đã biết rõ con người của ông Thiệu, nhưng ông không
biết ông Thiệu mang rất nhiều tham vọng chính trị ngay từ thời Thiệu còn
thanh niên, thời Thiệu còn học ở trường Pellerin Huế và trường Lyceé
Yersin Đà Lạt.
Dưới chế độ Diệm, đường binh nghiệp của ông
Thiệu rộng mở thênh thang mà một trong những lý do là nhờ ông Thiệu dứt
khoát bỏ đạo Phật để theo Công giáo bên vợ. Đang làm Tham mưu trưởng Bộ
Tư lệnh hành quân cho tướng Dương Văn Minh, nhờ các linh mục nâng đỡ bảo
bọc, Thiệu được ông Diệm cử giữ chức Chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc
Gia Đà Lạt. Ngày ông Diệm có ý định cử Thiệu giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 5,
ông bảo tôi làm tờ trình về Thiệu. Trong mục ý kiến tôi đã viết rằng:
“Thiệu không theo một đảng phái nào mặc dù có người anh ruột theo đảng
Đại Việt. Ông Thiệu là một trong số những sĩ quan ưu tú nhất của quân
đội”. Dù sao thì Công giáo mới là yếu tố chính để hình ảnh Nguyễn Văn
Thiệu được ghi khắc vào con tim ông Diệm để Thiệu được ông tín nhiệm và
nâng đỡ.
Đầu năm 1963, sau khi về nắm chức Tư lệnh Sư đoàn 5,
ông Thiệu đã đến văn phòng tôi thăm xã giao. Tôi cho ông Thiệu biết: “Số
của Thiệu sắp đến thời làm rất lớn vào hàng văn võ song toàn, ít nhất
cũng vào hàng Bộ trưởng Quốc phòng”. Ông Thiệu rất ngạc nhiên không hiểu
vì sao tôi biết được số tử vi nghĩa là biết được ngày giờ sinh âm lịch
của Thiệu. Tuy nhiên ông Thiệu vẫn dè dặt xin tôi đừng nói ra sợ “Ông Cụ
biết được ông sẽ chém đầu cả hai đứa mình”. Thật thế, ít ai có lá số tử
vi đại quý cách như ông Thiệu và đặc biệt là cung Phúc Đức cho Thiệu
hưởng được hết âm đức của cha mẹ ông bà. Số của Thiệu có đến bốn chữ
“Tý”. Tuổi Giáp Tý (1924), sinh vào giờ Tý (nửa đêm), tháng Tý (tháng 11
Âm Lịch), và cung Mệnh Viên cũng nằm ở Tý. Lại nữa, mệnh của Thiệu lại
là mệnh Kim mà lại nằm ở cung Thủy là rất đắc cách. Năm 1965, Thiệu 41
tuổi đi vào cung Thổ, mà Thổ lại sinh Kim, lại gặp Khoa, Quyền, Lộc,
Binh, Hình, Tướng, Ấn hội chiếu là thượng cách, vì thế Thiệu giữ chức
Chủ tịch Ủy ban Lãnh Đạo Quốc Gia rồi lên chức Tổng thống. Hết đại hạn ở
cung Thổ (năm 1975), Thiệu 51 tuổi đi vào cung Hỏa, mà Hỏa thì đốt cháy
Kim nên Thiệu mất chức Tổng thống. Tuy nhiên vì cung Phúc Đức là gốc
của lá số cho nên tuy hết làm Tổng thống mà Thiệu vẫn thụ hưởng giàu
sang an nhàn cho đến năm 1985, nghĩa là vào hạn Chính Hỏa ở cung Ngọ,
Thiệu sẽ gặp nhiều tai họa và sẽ bị “thiêu đốt” trong đại hạn này (từ
1985 đến 1995). Có một điều tôi vô ý là dù quen biết Thiệu đã lâu ngày
nhưng mãi cho đến khi nhìn ông Thiệu qua màn ảnh truyền hình tôi mới
thấy được cặp mắt “láo liên”, biểu hiện sự gian trá và làm cho ông Thiệu
trở thành tay gian hùng, tham nhũng. (Cái tướng có cặp mắt láo liên của
ông Thiệu cũng giống như cái ẩn tướng không dám nhìn thẳng vào mặt
người đối thoại của ông Diệm đều là tướng người bất chánh, cũng như cặp
mắt rất sắc của ông Hồ Chí Minh nhìn xoáy vào tâm trí kẻ đối thoại là
tướng của kẻ gian hùng nhưng lại là tướng vô cùng thông minh, tinh tế.
Mặc dù ông
Xem tiếp: Chương 18 - BA NĂM XÁO TRỘN
© TuSach.mobi - Đọc truyện online trên mobile
No comments:
Post a Comment