Tác giả: Hoành Linh Đỗ Mậu
Chương 4
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG
CỦA THỰC DÂN PHÁP
Cho
đến đầu Thu năm 1952, tổng số quân nhân Pháp bị tử trận, thương vong và
mất tích tại Đông Dương lên đến hơn 90.000 người. Chi phí cho chiến
trường này bằng hai lần số kinh viện của Hoa Kỳ trong khuôn khổ chương
trình viện trợ tái thiết Marshall. Tại quốc hội Pháp, từ ngữ “la sale
guerre” (cuộc chiến tranh bẩn thỉu) bắt đầu được xử dụng trong các cuộc
tranh luận giữa các phe chủ chiến và chủ hòa.
Trong khi đó thì
tại miền Bắc Việt Nam, tướng Võ Nguyên Giáp đánh bật các đơn vị thiện
chiến của tướng Raoul Salan ra khỏi cứ điểm Hòa Bình và bắt đầu tung ba
sư đoàn chiếm một ngôi làng bé nhỏ tên là Mường Thanh ở biên giới Việt -
Lào trong một vùng lòng chảo bề dài 18 cây số, bề ngang 8 cây số có tên
gọi là Điện Biên Phủ.
Mấy tuần lễ trước khi Hòa Bình thất
thủ, tôi bị tướng Nguyễn Văn Hinh thuyên chuyển ra Bắc. Hồi bấy giờ, “ra
Bắc” được xem như là một biện pháp chế tài đối với những sĩ quan ở miền
Trung và miền Nam, vì tình hình sôi động của chiến sự và vì những tổn
thất nặng nề về phía những quân nhân Việt Nam. Hầu hết những sĩ quan
Việt Nam trung cấp bị đổi ra Bắc đều ít nhiều có hồ sơ chống Pháp, hoặc
chống Bộ Tổng Tham mưu của tướng Nguyễn Văn Hinh.
Tôi theo học
khóa Tiểu Đoàn trưởng và khóa Liên Đoàn Lưu Động (để được cập nhật hóa
với chiến trường Việt Bắc) do Đại tá Vanuxem, một trong những sĩ quan
cao cấp xuất sắc nhất của Pháp lúc bấy giờ điều hành. Cùng khóa với tôi
có Trung úy Nguyễn Văn Thiệu.
Mãn khóa, Thiệu, có thêm Trung
úy Cao Văn Viên và tôi, được lệnh thuyên chuyển ra mặt trận Hưng Yên,
trình diện với Trung tá Dương Quý Phan, một sĩ quan nổi tiếng thân Pháp,
tay chân của tướng Cogny. Tư Lệnh miền Đông Bắc Việt đang đóng ở Hải
Dương. Mặt trận Hưng Yên vừa được bộ tư lệnh Pháp trao trả phần trách
nhiệm lại cho quân đội quốc gia Việt Nam và đang bị những áp lực nặng
nề. Bộ Tổng Tham mưu Sài gòn chỉ định tôi làm Tham mưu trưởng, Cao Văn
Viên làm trưởng phòng Nhì và Nguyễn Văn Thiệu làm trưởng phòng Ba. Còn
phòng Tư vẫn do một Đại úy người Pháp phụ trách. Bộ chỉ huy và trung tâm
hành quân khu chiến được đặt tại ngôi giáo đường to lớn rộng rãi của
tỉnh lỵ Hưng Yên mà linh mục bề trên đã vui lòng cho quân đội Pháp xử
dụng từ trước.
Ba anh em chúng tôi được cấp phát chung một căn
phòng nhỏ vừa đủ để ba cái ghế bố loại nhà binh và hàng ngày ăn cơm tại
câu lạc bộ sĩ quan. Buổi tối, lúc trở lại phòng để chuẩn bị đi ngủ,
Thiệu và tôi thường phân tích và luận bàn về tình hình chính trị và
chiến sự đến khuya. Riêng Viên vốn tính ít nói nên chỉ thỉnh thoảng góp ý
kiến mà thôi.
Tháng 4 năm 1953, tuy tình hình chiến sự ở Lào
trở nên quyết liệt hơn khi Việt Minh chiếm Cánh Đồng Chum và tiến quân
về Luang Prabang, thủ đô Hoàng gia Lào, nhưng không vì thế mà áp lực
quân sự giảm bớt tại chiến trường Bắc Việt. Tháng 5 năm đó, tướng Henri
Navarre thay thế tướng Salan nhưng chỉ làm cho quân Pháp thêm lúng túng
vì quan điểm chiến lược thiếu thực tế của vị tướng lạnh lùng và cô đơn
đã từng tham gia hai trận thế chiến này. Quân đội Pháp hoàn toàn bị động
ngay cả ở thế phòng thủ. Hết căn cứ này đến căn cứ khác lần lượt bị mất
vào tay địch hoặc bị rút bỏ, chỉ còn giữ lại một ít địa bàn ở các giáo
phận Công giáo như Bùi Chu, Phát Diệm, Kẻ Sặt…và các tỉnh chung quanh Hà
Nội và Hải Phòng.
Trước tình thế bi quan đó, một hôm Nguyễn
Văn Thiệu đã hỏi tôi: “Theo anh thì cuộc chiến tranh hiện tại sẽ đi về
đâu và tương lai Việt Nam sẽ như thế nào?” Đó là câu hỏi có tính toàn bộ
và lâu dài nhưng tôi vẫn xác quyết với Thiệu và Viên là “thế nào Pháp
cũng bị bại trận và tìm giải pháp thỏa hiệp với Việt Minh, đất nước sẽ
bị chia đôi nhưng không biết chia ở khu vực nào. Hoa kỳ sẽ can thiệp vào
Việt Nam để chận đứng mưu đồ bành trướng của Cộng Sản ở Đông Nam Á và
Hoa Kỳ sẽ đưa ông Diệm về nước nắm chánh quyền”. Sau này tại Sài Gòn,
mỗi lần gặp tôi, Thiệu không quên nhắc lại chuyện cũ và công nhận tôi
nhìn xa thấy rộng.
Sống tại Bắc Việt và đặc biệt tại Hưng Yên,
tôi ở vào tình trạng của một sĩ quan đang thọ phạt dưới hình thức của
sự lưu đày. Những đêm trăng lạnh lùng của xứ Bắc, với cái tâm trạng “cử
đầu vọng minh nguyệt, đê đầu tư cố hương”, tôi nhớ về quê hương miền
Trung, nơi đang có gia đình, bạn bè và tổ chức. Tôi hồi tưởng đến những
công tác đang dang dở và những đồng chí đang lưu lạc với rất nhiều nhớ
thương. Nỗi niềm đó cộng với ý thức chính trị, tinh thần dân tộc cực
đoan un đúc bởi mười năm hoạt động, làm tôi không thiết tha một chút nào
với công việc hiện tại, một công việc tuy gọi là chống Cộng sản nhưng
trước hết chỉ làm lợi cho người Pháp trong ý đồ bám víu lấy mảnh đất
thuộc địa mà không thực tâm trao trả độc lập lại cho người Việt Nam, một
nền độc lập đã biến thành ý thức chỉ đạo của dân tộc, mà vì nó và do nó
mà trước tôi đã tồn tại đến ngày nay. Cho nên trong suốt thời gian ở
tại Hưng Yên, tôi đã cố tình không để một chút nhiệt tâm nào vào công
vụ.
Thái độ đó lại được củng cố vững chắc hơn vào ngày 27
tháng 5 năm 1953, khi tại Sài Gòn, hội nghị Đoàn Kết đòi hỏi “độc lập
hòa bình cho Việt Nam” do các đoàn thể chính trị của các giáo phái Cao
Đài, Hòa Hảo, các đảng phái chính trị như Đại Việt, Việt Quốc và các
nhân vật tên tuổi như Trần Trọng Kim, Trần Văn Ân, Nguyễn Xuân Chữ, Ngô
Đình Nhu,…tổ chức đã phổ biến lập trường quyết liệt của nhân dân Việt
Nam. Do đó, tôi thường tìm cơ hội lên Hà Nội liên lạc với một số đồng
chí và thân hữu như ông Mai Văn Toan (sau này làm Dân biểu dưới chế độ
ông Diệm), ông Trần Trung Dung (sau này giữ chức Phụ tá Bộ trưởng Quốc
Phòng thời Đệ Nhất Cộng Hòa)…để theo dõi hoạt động của ông Diệm tại Hải
ngoại và tìm hiểu những biến chuyển mới của tình hình chính trị.
Mỗi
lần đi Hà Nội về, tôi lại mang theo một số báo Xã Hội (do ông Nhu chủ
trương) để phổ biến cho một số sĩ quan và nhân sĩ tại Hưng Yên trong mục
đích xây dựng hậu thuẫn cho chủ trương chính trị của ông Diệm. Trong
những dịp đi hành quân hay thanh tra các đơn vị, tôi cũng thường trình
bày cho các sĩ quan biết tình cảnh trôi nổi hiểm nghèo thật sự của đất
nước Việt Nam trong cái thế tương tranh Pháp - Cộng và thuyết phục họ về
con đường nào mà một người Việt Nam thực sự yêu nước, đặc biệt nếu
người Việt Nam đó lại là một chiến sĩ cầm súng, nên chọn lựa.
Nhưng
rồi những hoạt động “phi quân sự” đó của tôi dần dần bị báo cáo lên cho
Bộ chỉ huy rồi đến tai Trung tá Dương Quý Phan, nên tôi bị tướng Cogny
phạt 60 ngày trọng cấm, hạ tầng công tác và thuyên chuyển về Liên Đoàn
Lưu Động số 3, đang hành quân tại vùng Ninh Bình do Thiếu tá Phạm Văn
Đổng (hiện ở Mỹ) chỉ huy. Lý do bị phạt ghi trong hồ sơ quân vụ còn có
thêm tội “vô lễ với cấp chỉ huy” vì đã hai lần tôi công khai chỉ trích
Phan trước mặt đông người về tác phong “bồi Tây” của y khi mỗi buổi
sáng, nếu gặp các hạ sĩ quan Pháp thì Phan ân cần chào hỏi “Bonjour mon
caporal” còn nếu gặp sĩ quan Việt Nam thì Phan chỉ chào lấy lệ và còn có
ý khinh bỉ.
Trong bữa ăn cuối cùng tại câu lạc bộ sĩ quan để
tiễn tôi lên đường về nhiệm sở mới, Trung úy Nguyễn Văn Thiệu mở một
chai champagne mời tôi và nói mấy lời tiễn biệt rất cảm động. Dương Quý
Phan nổi giận, nạt ông Thiệu tại sao lại dám ca ngợi một sĩ quan đang
mang trọng tội trước mặt y. Cử chỉ vừa ưu ái, vừa khí phách của ông
Thiệu càng làm cho tôi quý mến ông ta hơn. Trớ trêu thay, trong cuộc đời
binh nghiệp và chính trị của ông Thiệu và tôi, và qua những biến cố
quan trọng của quốc gia, chúng tôi còn nhiều duyên nợ cho đến năm 1965,
1966, khi hai ông Thiệu và Kỳ lãnh đạo quốc gia, bắt tôi giam lỏng hai
lần ở Pleiku và Nha Trang gần cả năm trời.
Cũng mang cái tâm
trạng bất hợp tác như ở Hưng Yên, tôi về Nam Định và làm việc tại Bộ Chỉ
huy Liên đoàn 3 Lưu Động. Nhiều khi ngay cả trong giờ công vụ tôi vẫn
viết bài hay sáng tác thơ gởi về Sài gòn cho ông Nhu hoặc ông Đỗ La Lam
(hiện ở Mỹ) đăng vào báo Xã Hội. Đặc biệt trong hai bài thơ Nhớ con và
Nhớ Huế và trong tùy bút Tâm sự dòng sông Hương, tôi đã ký thác nỗi lòng
của mình về nỗi hoài vọng ngày ông Diệm và tổ chức thành công đem lại
độc lập và tự do cho đất nước để cho những người Việt Nam bình thường
như tôi khỏi còn phải đấu tranh trong cái thế hiểm nghèo giữa Pháp và
Việt Minh. Tâm sự này, sau ngày chia cắt đất nước, tại miền Nam, tôi tìm
lại được một cách rất khoái cảm trong kịch phẩm Thành Cát Tư Hãn của
nhà văn Vũ Khắc Khoan (thuộc nhóm Quan Điểm, gồm những văn nghệ sĩ miền
Bắc đã từng theo kháng chiến rồi về Tề, hoặc đã ở lại Hà Nội nhưng bất
hợp tác với Pháp) khi ông cho nhân vật Sơn Ca của ông vừa không cộng tác
với chính quyền Thành Cát Tư Hãn vừa không vào bưng theo “kháng chiến”
Cổ Giã Trường, mà lại chọc mù đôi mắt đi về hướng mặt trời mọc để kết
thúc kịch phẩm này.
Một phần có lẽ vì những bài thơ đó, và
phần khác có lẽ vì ông Nhu đang muốn tập hợp lại cán bộ đề tụ lực chuẩn
bị ngày ông Diệm về nước, nên ông đã vận động với hai người bạn của ông
là Đại tá Trần Văn Đôn (vừa thăng chức và vẫn còn chỉ huy An Ninh Quân
Đội) và Đại tá Trần Văn Minh (Tham Mưu trưởng của tướng Hinh để tôi được
thuyên chuyển về Nha Trang, là địa phương chiến lược nằm gần giữa Huế
(căn cứ địa của tổ chức) và Sài Gòn (chiến trường của tổ chức).
Rời
miền Bắc căng thẳng của một Hà Nội đang bắt đầu lên cơn sốt, tôi bay về
Nha Trang với tư cách Đại diện Đặc biệt của Bộ Tư Lệnh Quân khu Hai với
nhiệm vụ cấp thiết thành lập 9 tiểu đoàn khinh quân theo kế hoạch tổ
chức mới của Bộ Tham mưu Hỗn hợp Pháp-Việt và của Tướng O’Daniel, trưởng
phải bộ quân sự Mỹ ở Sài Gòn. Sau khi đã huy động thanh niên của ba
tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận trong bốn tháng, tất cả 9 tiểu
đoàn đều được thành lập và đều đang trong vòng huấn luyện ở quân trường
thì tôi được thuyên chuyển về chỉ huy khu chiến Phan Rang vừa được Pháp
trao lại cho Việt Nam.
Khu chiến Phan Rang gồm lãnh thổ Ninh
Thuận và quận Hòa Đa của tỉnh Bình Thuận, quân số gồm hai tiểu đoàn bộ
binh và độ 20 đại đội phụ lực binh (supplétif) và một đơn vị thiết giáp.
Về đây tôi gặp lại người bạn tri kỷ làm Tỉnh trưởng Ninh Thuận là ông
Thái Văn Kiểm. Ông là một nhà văn hóa và cũng là một nhà viết sử tiếng
tăm tại miền Trung, từng làm việc lâu năm ở quê hương Quảng Bình của
tôi, biết nhiều về xuất xứ dòng họ của các ông Ngô Đình Diệm và Võ
Nguyên Giáp. Tôi được hân hạnh quen biết ông Thái văn Kiểm từ ngày ông
làm giám đốc Nha Thông tin Trung Việt vào khoảng năm 1948-1949. Thế rồi
khi ông làm Tỉnh trưởng Khánh Hòa, tôi được thuyên chuyển về đó, nay ông
về trấn nhậm Phan Rang, không ngờ tôi lại gặp ông để hai anh em, kẻ bên
văn người bên võ, cùng chung lo dân sinh, dân kế cho đồng bào Ninh
Thuận. Khác với những Tỉnh trưởng thời Pháp hay thời Việt Nam Cọng Hòa
sau này, dùng luật lệ, hình phạt để trị dân, nhà học giả họ Thái chỉ lo
“văn dĩ tải đạo”, lấy nhân trị làm nguyên tắc trị dân. Ông ít khi ngồi ở
văn phòng dinh Tỉnh trưởng mà thường lê gót khắp các ngõ xóm làng để
thăm dân cho biết sự tình. Đi đến đâu ông cũng đem theo những lời giảng
dạy của thánh hiền, những chuyện xưa tích cũ để giáo hóa, dìu dắt dân
quê về mọi mặt: tôn giáo, chính trị, xã hội, kinh tế…Sau này, tôi còn
nhớ vào khoảng tháng 4 năm 1954, ông Ngô Đình Cẩn vận động với các tỉnh,
thị trưởng miền Trung lập kiến nghị gởi lên Quốc trưởng Bảo Đại ở Pháp
yêu cầu Bảo Đại chấp thuận cho ông Diệm làm Thủ tướng, ông Kiểm (cũng
như ông Lê Tá, thị trưởng Đà Nẵng, hiện ở Mỹ) đã vui lòng ký tên vào
thỉnh nguyện thư dù ông Kiểm không thuộc phe đảng chính trị nào. Nhưng
sau khi ông Diệm về nước cầm quyền thì ông Kiểm bị mất chức ngay. Ông
được dân chúng Ninh Thuận vô cùng ngưỡng mộ, nghe nói ngày ông từ giã
Phan Rang ra đi, đã có nhiều người không cầm được nước mắt trong buổi
tiễn đưa.
Ninh Thuận và Hòa Đa là nơi dân chúng hiền hòa, bình
dị, lực lượng của Việt Minh tại đây không lấy gì làm mạnh. Chiến khu Ba
Râu của họ (mà khi còn là tiểu đoàn trưởng của Việt Minh, tôi đã từng
đóng quân tại đây như đã đề cập trong chương III) bị tôi phá hủy các cơ
sở dưỡng binh và các kho tồn trữ nên trong thời gian tôi làm việc tại
Phan Rang, tình hình an ninh tương đối khả quan, nhân dân làm ăn đi lại
như thuở thái bình.
Tháng 7 năm 1953, quốc hội Pháp làm áp lực
yêu cầu chính phủ Pháp phải bắt đầu tìm biện pháp thương thảo để giải
quyết chiến tranh Đông Dương. Ngày 9 tháng 11, Hoàng thân Norodom
Sihanouk nắm lấy quyền chỉ huy quân đội Hoàng gia và tuyên bố Cao Miên
độc lập. Giáng sinh năm đó, ông Hồ Chí Minh tiết lộ với một ký giả Thụy
Điển rằng Việt Nam sẵn sàng thảo luận về những đề nghị hòa bình của
chính quyền Pháp và chỉ một tháng sau, ngày 25 tháng Giêng năm 1954, các
Ngoại trưởng của Hoa Kỳ, Nga, Anh và Pháp họp tại Tây Bá Linh quyết
định sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế về Triều Tiên và Đông Dương vào
tháng Tư cùng năm.
Trong khi đó thì cũng vào đầu năm 1954,
tướng Navarre, Tổng Tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương, phát động
chiến dịch Atlante để tiến chiếm Bình Định và Phú Yên, và tạo áp lực
nhằm xé nhỏ quân của Võ Nguyên Giáp vốn đang nỗ lực dồn hết chủ lực quân
về mặt trận Điện Biên Phủ. Dự đoán rằng ông Giáp cũng sẽ áp dụng cùng
sách lược, nghĩa là mở nhiều trận đánh lớn khác tại Trung Việt để cầm
chân và làm tê liệt khả năng di động của các đơn vị địch, tôi bèn thảo
một bản nhận định tình hình và một tờ trình về cho Bộ Tư lệnh Pháp-Việt
của Phân khu Duyên Hải tại Nha Trang để yêu cầu có kế hoạch đối phó và
đồng thời xin tăng cường phương tiện phòng thủ cho khu chiến Phan Rang
vốn rất thiếu thốn và yếu kém. Tôi còn dự đoán kế hoạch phản công của
Việt Minh trong địa phương trách nhiệm của tôi với những chi tiết về
từng đồn một, và sự thất bại gần như đương nhiên của các đơn vị dưới
quyền nếu không được thỏa mãn nhu cầu tăng viện.
Nhưng Bộ Tư
lệnh Nha Trang, mà về phía Việt Nam do Đại tá Nguyễn Văn Vỹ chỉ huy, lại
cho là tôi hốt hoảng, báo cáo láo, bèn gửi văn thư khiển trách, kèm
theo lệnh thuyên chuyển tôi ra Hà Nội học lớp Trung Đoàn trưởng, một
quyết định mà tôi cho là phát xuất từ những mâu thuẫn chính trị hơn là
từ nhu cầu quân sự lúc bấy giờ. Nhưng cũng nhờ theo học lớp Trung Đoàn
trưởng này mà tôi có thêm hai người bạn mới đồng khóa: Thiếu tá Lam Sơn
và Đại úy Nguyễn Chánh Thi. Người thay thế tôi tại Phan Rang là Thiếu tá
Nguyễn Văn Thiệu, vừa ở Bắc về, với lý do Thiệu là người Ninh Thuận sẽ
am hiểu và nắm vững tình hình hơn tôi.
Sau đó, quả nhiên đúng
như bản nhận định mà tôi đã chi tiết rõ ràng, trong lúc tôi ở Hà Nội thì
Việt Minh tổng phản công khắp các tỉnh miền Trung, đặc biệt tại các
tỉnh duyên hải. Tại Phú Yên và Bình Định, nhiều tiểu đoàn bị tiêu diệt
hoàn toàn, phải rút về lập vòng đai an toàn để chỉ còn bảo vệ các tỉnh
lỵ mà thôi. Tại Quảng Nam, Việt Minh tấn công Hội An và chiếm giữ một
đêm, khi rút đi, họ phá hủy một số công sự và bắt mang theo một số sĩ
quan và những dụng cụ truyền tin. Riêng tại Ninh Thuận của ông Thiệu,
Việt Minh tiến chiếm và tiêu hủy các căn cứ ngoại vi mà tôi đã xây dựng
để che chở mặt Tây Nam của Bộ Chỉ huy Phan Rang. Trong một trận đánh ác
liệt gần Tháp Chàm, ông Thiệu đích thân dẫn một đơn vị đi tiếp cứu bị
Việt Minh phục kích và theo lời một số người kể lại thì ông Thiệu đã
phải “ôm quần mà chạy”.
Sau những thất baị liên tiếp, ông
Thiệu bị mất chức chỉ huy, đổi về Huế làm việc tại Bộ Tham mưu Quân khu
Hai, dưới quyền Đại tá Trương Văn Xương, một cộng sự viên thân tín của
tướng Hinh, giao quyền chỉ huy khu chiến Ninh Thuận lại cho ông Thái
Quang Hoàng vừa được thăng Thiếu tá. Thật ra không phải ông Thiệu kém
khả năng chỉ huy hay thiếu kinh nghiệm chiến trường. Ông Thiệu là người
khôn ngoan, tính toán rất kỹ lưỡng, và hành động rất cẩn mật, nhưng vì
binh sĩ tại khu chiến Ninh Thuận đại đa số là dân địa phương hiền lành,
không có tinh thần chiến đấu cao, gặp địch phản công mạnh là sợ hãi thối
lui. Họ là những nông dân của xứ Chàm cỏ khô lá úa, sau giờ đồng áng
thì thích rươu chè, chọi gà và nhất là cải lương, nên thiếu sự gan dạ và
tinh thần kỷ luật phải có của quân nhân tác chiến giỏi. Lúc tôi còn là
Chỉ huy trưởng tại Phan Rang, cứ mỗi lần có một đoàn cải lương từ Sài
Gòn ra lưu diễn tại tỉnh lỵ là một lần tôi phải ban hành tình trạng báo
động với nhiều lo lắng, vì binh sĩ tại các căn cứ ngoại vi thành phố đều
muốn bỏ đồn về xem hát, bất chấp những biện pháp kỷ luật mà ngày mai họ
phải chịu, bất cần Việt Minh có thể tấn công chiếm đồn đêm đó. Nếu dùng
biện pháp mạnh, họ có thể đào ngũ hoặc theo Việt Minh làm du kích.
Đã
từng chỉ huy và đã từng tìm hiểu phong thổ, dân tình của tỉnh này vốn
nằm giữa hai tỉnh nổi tiếng “Cọp Khánh Hòa, Ma Bình Thuận” và có một
quận người Chàm tuy thủ phận làm ăn nhưng lại rất ngoan cố, cứng đầu khi
có mâu thuẫn với người Việt, nên trong những năm sau, dưới thời Đệ Nhất
Cộng Hòa, khi hai ông Ngô Đình Nhu và Ngô Trọng Hiếu tuyên dương tỉnh
Ninh Thuận đứng đầu trong công cuộc thực hiện ấp chiến lược, tôi nghĩ
thầm Ngô Đình Nhu đúng là chỉ biết những con số báo cáo của Trung tá
Khánh, tỉnh trưởng Phan Rang (Công giáo Phú Cam), và nhìn sự việc bằng
cái bề ngoài hời hợt mà không có một chút kinh nghiệm thực tế nào. Thấy
dân Ninh Thuận hăng hái cắm chông, rào ấp, đào hào rồi lại nhiệt tâm
thực tập báo động khua trống, gõ mõ, ông Nhu vội đánh giá cao tinh thần
chống Cộng của dân ở đây mà không biết rằng dân Chàm làm như vậy là để
bố phòng sợ người Việt phá phách, còn người Việt làm như vậy là để ngăn
ngừa cọp về phá vườn bắt trâu. Còn giữa Việt Cộng và Quốc gia, thì chọn
lựa của người dân rất rõ ràng: bên nào mạnh họ theo!
- o0o-
Trở
lại năm 1950, khi tôi về Quảng Bình để bắt đầu một giai đoạn nổi trôi
lăn lóc trong những năm tàn khốc của cuộc chiến Pháp-Việt từ Trung ra
Bắc, thì tháng Tám năm đó, sau một thời gian vận động ngầm của giám mục
Ngô Đình Thục, ông Diệm và người anh có ảnh hưởng lớn lao trên giáo hội
Công giáo La Mã Việt Nam này, lên đường đi La Mã dự lễ Năm Thánh để che
đậy âm mưu đi Mỹ vận động chính trị.
Lộ trình không đi thẳng
đến La Mã mà còn ghé qua Nhật Bản để thăm Kỳ Ngoại Hầu Cường Để (một
“giải pháp” hầu như không còn giá trị gì nữa kể từ năm 1945) và nhất là
để ông Diệm có cơ hội gặp giáo sư Wesley Fishel, một cựu sĩ quan tình
báo Hải quân thuộc Đệ Thất Hạm đội Hoa Kỳ thời đệ nhị thế chiến và nghe
nói đang là một nhân viên cao cấp của CIA. Buổi họp mặt với viên chức
quan trọng này của cơ quan tình báo Mỹ đưa đến kết quả là trường đại học
Michigan sẽ bảo trợ cho chuyến đi Mỹ của ông Diệm [1].
Sau
đó, ông Diệm lên đường đi La Mã dự lễ Năm Thánh và yết kiến Đức Giáo
Hoàng, rồi từ đó bay đi Mỹ. Qua trung gian của giám mục Ngô Đình Thục,
ông được Hồng Y Spellman, thuộc dòng Franciscain, tiếp kiến.
Từ
Mỹ, ông Diệm lại quay về La Mã mấy ngày rồi mới đi Thụy Sĩ, Bỉ, Pháp để
thảo luận với một số chính khách Việt Nam phần đông là người Công giáo
đang cư ngụ tại các nước này. Năm 1951, ông Diệm trở lại Hoa Kỳ hai năm,
sống trong tu viện Maryknoll tại Lakewood (New Jersey) và Ossining (New
York). Nhờ sự giúp đỡ của Hồng y Spellman, thỉnh thoảng ông lại được
mời đi thuyết trình tại các đại học miền Đông và miền Trung-Tây Hoa Kỳ.
Ông cũng diễn thuyết tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn và với lý luận rằng “chỉ
cần chấm dứt chính sách thực dân Pháp và chỉ cần Việt Nam có một chính
phủ do người quốc gia lãnh đạo là có thể đánh bại được Cộng Sản” mà ông
đã chiếm được cảm tình và lời hứa sẽ yểm trợ của các chính trị gia Mỹ
như Nghĩ sĩ Mike Mansfield, John Kennedy, Dân biểu Walter Judd, Chánh án
Williams Douglas, và nhiều chính khách Công giáo Mỹ khác. Phê bình câu
nói của ông Diệm, giáo sư Buttinger cho rằng luận cứ này phối hợp được
sự đơn giản rất hấp dẫn và sự hợp lý khó cãi được [2].
Chính
vì sự “hấp dẫn không cãi được” đó và quyết tâm của Hồng Y Spellman muốn
có một chính phủ Việt Nam do người Công giáo La Mã lãnh đạo [3], mà ông
Diệm đã trở thành một “giải pháp” khả dụng và khả thi cho chính sách của
Mỹ tại Đông Dương trong tương lai rất gần. Nhưng cái luận cứ "đơn giản
và hợp lý” này đã chứng tỏ tính thiếu khoa học và không thực tế của nó
khi ông Diệm, với một chính phủ quốc gia và 9 năm cai trị, ông Thiệu với
một chính phủ quốc gia và 11 năm cai trị khác, vẫn không đánh bại được
Cộng Sản. Nếu không muốn nói rằng chính phủ quốc gia của ông Diệm đã
chính nghĩa hóa sự hiện diện của Cộng Sản tại miền Nam, và chính phủ
quốc gia của ông Thiệu đã kiện toàn hóa chiến thắng của Cộng Sản tại
miền Nam. Như vậy, rõ ràng hai chế độ “quốc gia" đã quản trị đất nước
trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1975 quả thật đã không xứng đáng trên
cả hai mặt nội dung cũng như thực tế để mang nhận danh từ này.
Theo
dõi hành trình vận động quốc tế của ông Diệm, ta thấy gồm 6 chặng
đường: Đi Đông Kinh gặp một nhân viên tình báo Mỹ, đến Vatican gặp Đức
Giáo Hoàng, đi Mỹ gặp một vị Hồng Y, trở lại Vatican không biết để làm
gì trong một thời gian ngắn rồi lại qua Mỹ gặp tiếp vị Hồng Y cũ, sau đó
là các chính khách Hoa Kỳ. Sáu chặng đường đó thật ra chỉ gồm trong hai
danh từ riêng lẫy lừng: Vatican và Mỹ.
Tháng 5 năm 1953, theo
lời mời của một số chính khách Việt Nam lưu vong mà đa số là người Công
giáo, ông Diệm từ giã Hoa Kỳ về Pháp rồi đi Bỉ và trú ngụ tại tu viện
Bénédictine de St André les Purges. Đúng một năm sau, năm 1954, khi số
phận Việt Nam bắt đầu bị cột chặt bởi chiến bại của Pháp tại Điện Biên
Phủ vào ngày mồng 7 tháng 5 và những mặc cả tại hội nghị Genève, thì ông
Diệm trở lại Paris và sống tại ngôi nhà của ông Tôn Thất Cẩn. Tại đây,
với sự yểm trợ đắc lực của người em là ông Ngô Đình Luyện, ông bắt đầu
mở các cuộc thăm dò và vận động trong giới chính khách Việt Nam cũng như
với các thế lực quốc tế.
Theo giáo sư Buttinger thì tại Sài
Gòn, ông Nhu biết rằng anh mình không đủ khả năng trong việc đối phó với
những vận động chính trị quốc tế khó khăn và phức tạp, bèn vội vàng
phái cộng sự viên thân tín là hai ông Trần Chánh Thành và Lê Quang Luật
qua Paris để tăng cường thêm cho ông Diệm. Ông Trần Chánh Thành nguyên
là tri huyện thời Pháp thuộc, sau theo Việt Minh làm chánh án Liên khu
Tư, rồi bỏ kháng chiến về Tề vào năm 1952. Còn ông Lê Quang Luật là một
trí thức Công giáo Bắc Việt, người thân tín của giám mục Lê Hữu Từ.
Ba
mục tiêu vận động quan trọng và quyết định nhất của ông Diệm là được sự
yểm trợ của chính quyền Mỹ, tranh thủ được sự thỏa thuận của chính phủ
Pháp, và cuối cùng là thuyết phục được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm
Thủ tướng. Ba vận động liên hệ chặt chẽ đến vận mệnh của hàng triệu
người Việt Nam mà sức mạnh vô định của chính hàng triệu người Việt Nam
đó không hề được vận dụng tới. Thật ra ba bước vận động này tròng vào
nhau như ba mắt xích, mà trong bối cảnh chính trị quốc tế lúc bấy giờ,
mở được mắt xích thứ nhất là hai mắt xích còn lại sẽ bị tháo tung. Mắt
xích thứ nhất, Hồng y Spellman đã giúp ông Diệm mở ra từ năm 1953 rồi
cho nên tuy Bảo Đại và chính phủ Pháp lúc bấy giờ không đồng ý “con
người Ngô Đình Diệm”, nhưng dưới áp lực của ngoại trưởng Mỹ Foster
Dulles và sự can thiệp mạnh mẽ của Hồng Y Spellman vào chính sách của
Phong trào Cọng hòa Bình dân Thiên Chúa Giáo Pháp (MRP), cuối cùng chính
phủ Pháp và Bảo Đại đành phải chấp thuận bổ nhiệm ông Diệm làm Thủ
tướng.
Trong hồi ký Le Dragon d’Annam, trang 328, ông Bảo Đại
đã cố tình không nói rõ những áp lực nầy dù những vận động chính trị của
các nước liên hệ đến chính tình Việt Nam lúc đó, cũng như dù mối bất
hoà Bảo Đại-Ngô Đình Diệm trong quá khứ đã rõ ràng (xem thêm Bên Giòng
Lịch Sử 1940-1975, ấn bản Hoa Kỳ, của Cao Văn Luận). Một cách thật tinh
tế, để nói lên áp lực của người Mỹ, ông Bảo Đại đã cho biết rằng "sau
khi gặp ông Foster Dulles để cho ông ta biết dự án của tôi, tôi đã gọi
ông Diệm đến và nói rằng" (Après m'être entretenu avec Foster Dulles,
pour lui faire part de mon projet...). Sự kiện trước lúc lấy một quyết
định nội bộ quan trọng (chỉ định một Thủ tướng) mà vị nguyên thủ quốc
gia phải hội ý với Ngoại trưởng của Mỹ (không như trước đó ông Bảo Đại
đã chỉ định 5 Thủ tướng mà không cần phải qua "thủ tục này") đã chứng tỏ
áp lực của Mỹ quả thật có tác dụng lên quyết định của ông Bảo Đại. Hơn
nữa, ngay ở trang 239 sau đó, ông Bảo Đại còn viết thêm:
Thật
vậy từ, nhiều năm nay, ông ta được nhiều người Mỹ biết và thích nhờ tính
cứng rắn. Dưới mắt họ, ông Diệm là người phù hợp một cách đặc biệt cho
hoàn cảnh hiện tại, vì vậy mà Hoa Thịnh Đốn không ngần ngại gì mà không
ủng hộ ông ta. (En effet, depuis de nombreuses années, il était connu
des Américains qui appréciaient son intransigeance. A leurs yeux, il
était l’homme fort convenant particulièrement à la conjoncture, aussi
Washington ne lui ménagerait pas son appui).
Nêu lên nhận định
nầy, ông Bảo Đại ngầm cho ta biết sự can thiệp của người Mỹ trong quá
trình chọn lựa ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng là một sự can thiệp có
thật. (Những người không hiểu rõ cá tính của hai ông Bảo Đại và Ngô Đình
Diệm, lại không nắm vững những hoạt động quốc tế cũng như nội bộ Việt
Nam lúc bấy giờ, đã nhầm lẫn và không hiểu rõ được sự can thiệp nầy nên
đã hiểu sai luôn những biến cố lịch sử sau đó là lẽ dĩ nhiên).
Sự
kiện ông Diệm được Vatican và Mỹ ủng hộ là một yếu tố quan trọng xoay
chuyển lịch sử Việt Nam trong chiến tranh Quốc-Cộng nên tôi cần trích
dẫn ra dưới đây những đoạn sách khả tín của các ký giả, nhà văn, nổi
tiếng Anh, Mỹ để thêm tài liệu cho các nhà nghiên cứu sử sau nầy.
Theo
John Cooney thì Giáo Hoàng Pius 12 muốn Hồng Y Spellman vận động với
Hoa Kỳ tham dự vào chánh tình Việt Nam và ủng hộ cho ông Ngô Đình Diệm
cầm quyền tại nước này:
Theo Malachi Martin, một giáo sĩ Dòng
Tên đã từng làm việc tại Vatican trong những năm Mỹ gia tăng sự tham dự
vào Việt Nam, thì lập trường của Hồng Y Spellman hợp với ý muốn của Giáo
Hoàng (in accordance with the wishes of the Pope...) Giáo Hoàng muốn
Hoa Kỳ ủng hộ Diệm vì ngài bị ảnh hưởng của Giám mục Thục là anh của
Diệm. Ông Martin xác nhận rằng "Giáo Hoàng lo ngại Cộng Sản sẽ bành
trướng thêm làm suy hại đến Giáo hội. Giáo Hoàng đã nhờ Spellman khuyến
khích người Mỹ can dự vàoViệt Nam' ("The pope was concerned about
Communism making more gains at the expense of the Church. He turned to
Spellman to encourage American commitment to Vietnam", The American
Pope, JohnCooney, tr.241, 242).
Vì vậy Spellman đã bắt tay vào
việc điều động kỹ càng một chiến dịch xây dựng chế độ Diệm (carefully
orchestrated campaign to prop up the Diem regime)... Spellman và Kennedy
cũng thành lập một tổ chức ở Hoa Thịnh Đốn để vận động cho Diệm. Chiêu
bài vận động là chống Cộng và Công giáo (the rallying cries were
anti-Communism and Catholicism). Sách đã dẫn, trang 242.
Tháng
10 năm 1950, hai anh em Thục Diệm gặp các viên chức Bộ Ngoại Giao tại
khách sạn Mayflower ở Hoa Thịnh Đốn, có cả sự tham dự của Dean Rusk.
Diệm và Thục được linh mục McGuire và ba giáo sĩ chính trị gia
(political churchmen) đặc trách chính sách chống Cộng tháp tùng, đó là
Cha Emmanual Jacques, Giám mục Howard Carroll và Edmund Walsh của Đại
học Georgetown. Mục đích của cuộc gặp gỡ là để tìm hiểu tình hình Việt
Nam và để xác định lập trường chính trị của hai anh em Diệm-Thục. Hai
anh em tin rằng Diệm đã được an bài để cai trị đất nước (both Diệm and
Thục believed that Diệm was destined to rule his nation). Sự kiện giáo
dân Việt Nam chỉ chiếm mười phần trăm chẳng làm cho hai người bận tâm.
(The fact that Vietnam,s population was only ten percent Catholic
mattered little as far as the brothers were concerned...) như Diệm đã
nói trong bữa ăn tối rằng hai lập trường không lay chuyển của ông đã quá
rõ ràng. Ông tin tưởng vào quyền lực của Toà thánh và ông chống Cộng
kịch liệt (He believed in the Power of the Catholic Church and He was
virulently anti-Communist). Sách đã dẫn, 241.
Thật vậy, ngoài
cuốn "The American Pope - The life and Time of Francis Cardinal
Spellman" của John Cooney do Time Book phát hành, trong quyển "VietNam -
Why did we go" của Avro Mahattan (trang 58), chuỗi sự kiện này cũng đã
được trình bày lại rõ ràng:
"Spellman introduced Diem to
William O. Douglas of the Supreme Court. The latter introduced Diem to
Mike Mansfield and to John F. Kennedy, both Catholics and senators.
Allen Dulles, director of the CIA adopted him.
Following the
decision of his brother, John Foster Dulles, and of Cardinal Spellman,
who was acting for Pope Pius XII, Diem become their choice; he was going
to be the head of the government in South Vietnam.
The
decision has been taken, Dulles adviced France to tell Bao Dai to
appoint Diem as Prime Minister. France, having by now decided to abandon
Vietnam, agreed. Diem became Prime Minister in June, 1954. The 19th of
the same month, Bao Dai invested Diem with dictatorial power. This
entailed not only civilian but also military control. Diem arrived in
Saigon June 26, 1954 and on June 7, set up his own government."
Tạm
dịch: HồngY Spellman đã giới thiệu ông Diệm với ông Wiliam O.Douglas,
Thẩm phán Tối Cao Pháp Viện. Ông nầy lại giới thiệu ông Diệm với ông
Mike Mansfield và ông John F. Kennedy, cả hai đều là Thượng Nghị sĩ theo
Công giáo. Ông Giám đốc CIA Allen Dulles cũng đã đỡ đầu cho ông Diệm.
Theo
quyết định của anh ông ta là (Ngoại trưởng) John Foster Dulles và của
Hồng Y Spellman, người đại diện cho Giáo Hoàng Phero XII, ông Diệm đã
được họ tuyển chọn, ông sẽ là người cầm đầu chính phủ Nam Việt Nam.
Sau
khi lấy quyết định xong, ông Dulles khuyến cáo chính quyền Pháp hãy nói
với Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm làm Thủ tướng. Vì lúc bấy giờ đã có quyết
định bỏ Việt Nam nên Pháp đồng ý. Ông Diệm trở thành Thủ Tướng vào
tháng 6 năm 1954. Ngày 19 cùng tháng đó, Bảo Đại phong cho Ông Diệm toàn
quyền. Không những quyền kiểm soát dân sự mà còn cả quân sự nữa trên
toàn quốc. Ông Diệm về tới Sài Gòn ngày 26 tháng 6 và thành lập chính
phủ vào ngày 7 thàng 7 năm 1954.
Những bí ẩn lịch sử trên đây
cho ta thấy ngay từ trước năm 1950, ông Diệm vì không thể cộng tác được
với Pháp và cựu Hoàng Bảo Đại nữa nên hướng về Hoa Kỳ, mà cuộc vận động
nhịp nhàng của Vatican và cơ quan CIA đã đưa ông thành công với chức vụ
Thủ tướng khi Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ. Bây giờ thì ta đã thấy rõ
ràng tại sao trên đường xuất ngoại năm 1950 hai ông Diệm và Thục lại
gặp giáo sư Wesley Fishel tại Nhật Bản, nhân viên cao cấp của cơ quan
Tình báo Trung Ương Mỹ, tại sao trong "Bên Giòng Lịch Sử" linh mục Cao
Văn Luận khoe khoang; "Có thể nói rằng nếu không có cha Houssa thì số
phận Việt Nam không chừng đã khác", tại sao khi đến thăm Sài Gòn thăm
lính Mỹ, Hồng Y Spellman tuyên bố: "các anh chiến đấu cho văn minh Thiên
Chúa Giáo". Từ nay, ông Diệm trở thành người lính tiền đồn ngăn chận
Cộng Sản cho Vatican và Hoa Kỳ.
Đàng sau vở tuồng chính trị
này, ta còn thấy thấp thoáng bóng dáng một người đàn bà mà tuy vai trò
khiêm nhường nhưng không kém phần quan trọng là bà Nam Phương Hoàng Hậu,
một nữ tín đồ Công giáo ngoan đạo và có uy tín. Ông Tôn Thất Cẩn, con
trai của cụ Thân thần Phụ chánh Tôn Thất Hân và là bạn thân của ông
Diệm, đã thuyết phục bà Nam Phương để bà góp ý với chồng với điều kiện
sau khi ông Diệm cầm quyền phải nâng đỡ Hoàng tử Bảo Long, người con
trai đầu lòng của bà và của vua Bảo Đại. Bernard Fall cho biết ông Diệm
đã quỳ xuống trước bà Nam Phương để nhận lời uỷ thác đó [4].
Ngày
16 tháng 6 năm 1954, sau một buổi tiếp kiến với Ngoại trưởng Foster
Dulles, Quốc trưởng Bảo Đại ký sắc lệnh 38/QT bổ nhiệm ông Ngô Đình Diệm
làm Thủ tướng. Sau khi ông Diệm tuyên bố chấp nhận, vua Bảo Đại bèn kéo
ông vào một gian phòng kế cận trong lâu dài Thorence, nơi vua Bảo Đại
trú ngụ tại Cannes, trước bức thánh giá rồi bắt ông thề:
-"Chúa
của ông đó, ông hãy thề sẽ bảo toàn lãnh thổ quốc gia mà người ta sẽ
giao phó cho ông. Ông sẽ bảo vệ quốc gia chống lại Cộng Sản và nếu cần
chống cả người Pháp".
Ông Diệm suy nghĩ giây lát, nhìn Bảo Đại, rồi quay lại phía thánh giá, ông nói thầm:
-"Tôi xin thề" [5].
Kể
lại những sự kiện trên đây, ký giả Karnow viết rằng: "Sau khi bổ nhiệm
ông Diệm làm Thủ tướng, Bảo Đại đã tự đào lỗ huyệt chính trị của mình mà
không biết".
Những sự kiện về ông Ngô Đình Diệm đến bái yết
Quốc trưởng Bảo Đại khi nhận chức Thủ tướng còn được Hillaire du Berrier
kể tường tận hơn, đúng như cựu "Tổng trưởng trực tiếp với Phủ Thủ
Tướng" (trong chính phủ Bửu Lộc) Phan Huy Quát và ông Tôn Thất Cẩn đã kể
cho tôi nghe:
Ngô Đình Diệm sau khi từ giã Hoa Kỳ năm 1953,
về Bỉ rồi đến Pháp và không thể tránh được con đường dẫn tới ngôi lâu
đài 12 phòng tại Cannes. Lúc ấy, vào tháng 6 năm 1954, một người thấp
nhỏ, kỳ dị, lạnh lùng, thiếu nét vui tươi đứng trước mặt một vị Cựu
Hoàng mà vẫn tâu là "Bẩm tâu Hoàng Thượng", mặc dù vị cựu Hoàng đó lúc
bấy giờ chính thức mang danh hiệu là Quốc trưởng.
Bảo Đại biết
rõ con người đó tính tình bất thường hay thay đổi, khi thì bẽn lẽn rụt
rè nhưng đôi khi lại nóng nảy cộc cằn, thứ người lì lợm khắc khổ vì
những năm tháng cô đơn thiếu tình người. Bảo Đại biết con người đó cao
ngạo và ngoan cố. Nếu để chọn lựa một vị Thủ tướng trong giờ phút Tổ
quốc lâm nguy để phục vụ hữu hiệu cho quốc gia thì Ngô Đình Diệm mà Bảo
Đại phải chỉ định làm Thủ tướng chỉ là con người được lựa chọn sau chót,
nhưng Bảo Đại không có lựa chọn nào khác hơn.
Quì xuống trước
Bảo Đại, Ngô Đình Diệm thề trung thành với vị Hoàng Đế của ông ta. Đã
trải qua biết bao thăng trầm cay đắng, Bảo Đại chấp nhận mọi việc chỉ là
thường tình. Bảo Đại cố quên những buổi hội họp đầy sóng gió tại Hồng
Kông năm năm về trước. Bảo Đại biết rằng con người trước mặt ông ta
không bao giờ quên thù hận nhưng Bảo Đại vẫn làm phần vụ của ông ta là
chỉ định Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng với toàn quyền thành lập chính phủ.
Lời nói cuối cùng của Bảo Đại là: "Ông hãy hợp nhất các giáo phái vào
cộng đồng quốc gia, thống nhất phần đất nước còn lại của chúng ta".
Bà
Nam Phương Hoàng Hậu, cũng là một tín đồ Công Thiên Chúa giáo như ông
Diệm, đã khẩn khoản yêu cầu ông Diệm hãy cứu vãn và tạo thế lực cho nhà
Nguyễn để giúp đỡ cho Bảo Long, con trai của bà.
Bảo Đại ký
cho ông Diệm cái ngân phiếu một triệu đồng bạc để tổ chức những cuộc
biểu tình "tự phát" (spontaneous demonstration) hầu làm xúc động người
Mỹ và tạo hào hứng cho dân chúng Việt Nam. Diệm bỏ ngân phiếu vào túi
rồi cảm ơn và tâu: "Bẩm Hoàng thượng, nếu khi nào Ngài thấy tôi có lỗi,
Ngài chỉ nói một lời là tôi xin từ chức ngay".
Ngày 26 tháng 6 năm 1954, Diệm vào tuổi 54, trở về Việt Nam để chấp chánh và từ đây thì trách nhiệm về phần người Mỹ [6].
Nhận
định về những nỗ lực và thành quả vận động quốc tế của ông Diệm, ta
thấy yếu tố chính quyết định những nỗ lực và thành quả này là tôn giáo
của ông Diệm. Uy tín trong nước của ông, vị thế chính trị trong nước của
ông, cơ sở quần chúng trong nước của ông... quả thật chỉ là những hậu
thuẫn nhỏ nhoi không đủ để giúp ông mở được cánh cửa của Mỹ và Pháp.
Trong cái thế chính trị toàn cầu lúc bấy giờ, khi mà nội bộ nền đệ tứ
Cộng Hoà Pháp đang dần dần băng rã vì "trận chiến tranh bẩn thỉu", khi
mà Cộng Sản đang hiện diện một cách áp đảo tại Đông Nam Á, thì nhu cầu
của cường quốc Mỹ là can thiệp vào Việt Nam với một "người hùng bản xứ"
chống Cộng. Mà dưới nhãn quan chính trị và nhân văn của Mỹ vào thập niên
50, 60 "người hùng" chống Cộng đó phải là và chỉ có thể là một tín đồ
Công giáo khả tín (như có anh ruột là chức sắc cao cấp chẳng hạn). Ông
Diệm thoả mãn đầy đủ những điều kiện đó của nhu cầu này. Và vì ông là
ứng cử viên "hợp lệ" duy nhất nên ông đã được chọn. Tôn giáo của ông đã
đưa ông lên đài danh vọng, thì cũng chính vì tôn giáo của ông, mà sau
này thân thế sự nghiệp của ông phải tan tành.
Mấy ngày trước
đó, Thủ tướng Pháp Pierre Mendès-France được tín nhiệm để thành lập một
nội các với lời hứa sẽ thực hiện cuộc ngưng bắn tại Đông Dương trong
vòng một tháng. Ngay sau khi nhận chức, thủ tướng Mendès-France liền
điều đình với ông Chu Ân Lai, Ngoại trưởng Trung Cộng.
Cho
những độc giả cần nghiên cứu kỹ càng hơn về giai đoạn khai sinh ra nền
Đệ Nhất Cộng Hoà nầy qua việc ông Ngô Đình Diệm được Vatican, Hồng Y
Spellman chọn lựa và được cơ quan CIA và bộ ngoại giao Hoa Kỳ bảo trợ để
được Bảo Đại cử làm Thủ tướng Việt Nam vào năm 1954, tôi đề nghị xin
đọc kỹ hai tác phẩm: "The American Pope - The Life and Times of Francis
Cadinal Spellman" của ký giả Cooney từ trang 236 đến trang 245, và
"Vietnam - Why did we go?" của Avro Mahattan, từ trang 51 đến trang 75.
Qua chi tiết của hai cuốn sách vừa kể, ta thấy quả thật ông Diệm được
Vatican và Hoa Kỳ cùng sử dụng để làm con cờ chống Cộng ở Đông Nam Á.
Nói thế không phải là chê trách ông Diệm, khen hay chê ông ta là tuỳ vào
hành động lãnh đạo quốc gia sau này. Nói thế chỉ vì sự thật của lịch sử
như thế.
Một sự kiện lịch sử khác cũng cần phải được phân
tách cho ra lẽ, đó là việc ông Diệm khi nhận chức Thủ tướng không biết
có quỳ trước Bảo Đại như Hilaire du Berrier đã viết trong "Background to
Betrayal" hay không, mà trong "Le Dragon d'Annam", Bảo Đại nói chỉ bắt
ông Diệm thề trước Chúa mà thôi.
Ngoài Hilaire du Berrier, nhà
văn Hoàng Trọng Miên trong cuốn "Đệ Nhất Phu Nhân" (trang 389), học giả
Nguyễn Hiến Lê trong cuốn "Con Đường Thiên Lý" (trang 202), ký giả
Bernard Fall trong cuốn "The Two Vietnam" (tr.244) cũng nêu lên việc ông
Diệm có quỳ trước Nam Phương Hoàng Hậu trong lễ nhận chức Thủ tướng tại
lâu đài Thorence:
"... After three days of hesitasion, Bao
Dai yielded. Diem received absolute dictatorial power on June 19. Fully
realizing that he was throwing his throne away, Bao Dai allegedly made
Diem swear a solemn oath of alllegiance to him, and several
authoritative witnesses affirm that Diem also swore on his knees to
Empress Nam Phuong that he would “do everything in his power” to
preserve the throne of Vietnam for Prince Bao Long, son of Bao Dai."
Có
thể ông Ngô Đình Diệm đã không quỳ cho nên vua Bảo Đại không đề cập đến
chuyện này, cũng có thể ông Ngô Đình Diệm có quỳ mà Bảo Đại vì tế nhị
không muốn nói đến.
Nhưng nghĩ cho cùng thì có lẽ ông Ngô Đình
Diệm đã quỳ như hành động cuối cùng của chuỗi nỗ lực vận động nắm chức
Thủ tướng, trong đó kể cả việc ông Ngô Đình Luyện dâng Bảo Đại một chiếc
ô tô lộng lẫy mà ông Hồ Sĩ Khuê đã nêu ra trong tác phẩm "Hồ Chí Minh,
Ngô Đình Diệm, và Mặt Trận Giải Phóng" (tr. 276) hoặc như ông Ngô Đình
Luyện đến Cannes đề nghị biếu Bảo Đại 300 triệu Francs (30 triệu bạc
Việt Nam) nếu Bảo Đại cho ông Diệm toàn quyền củng cố uy quyền bằng vũ
lực ("Việt Nam Niên biểu Nhân vật Chí" của Chính Đạo, tr.290).
Như
vậy, rõ ràng việc ông Diệm được Giáo hoàng La Mã, Hồng y Spellman và
chính giới Mỹ "bồng" về Việt Nam cầm chính quyền, và việc vua Bảo Đại
bất đắc dĩ cử ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng, là những sự thật lịch sử
đã được ghi lại minh bạch và đầy đủ, thế mà “trí thức” Công giáo Nguyễn
Văn Chức trong cuốn sách gọi là "Việt Nam Chính Sử" lại nguỵ biện cho
rằng tác giả VNMLQHT viết sai và gian trá.
Ông Diệm từ Paris
trở về nước ngày 26 tháng 6 năm 1954, sau 5 năm trời sống tại các thủ đô
quốc tế ở hải ngoại. (Năm năm này, sau đó, đã được đưa vào phần mở đầu
của bài ca "Suy tôn Ngô Tổng thống"..."Ai bao năm từng lê gót nơi quê
người..." bắt buộc hát sau bài quốc ca để cân bằng với 40 năm biệt xứ
đấu tranh của ông Hồ Chí Minh).
Sự trở về của ông Diệm không
gây được hào hứng nào trong khối quần chúng Việt Nam. Ông Diệm không
được đón tiếp như một anh hùng từng đấu tranh cho đất nước. Rõ ràng tên
tuổi ông ta không làm bốc lửa trong lòng nhân dân. Chỉ độ 500 người gồm
những quan lại già nua, chức sắc Công giáo và nhân viên cao cấp của
chính phủ đón chào ông ta tại phi trường. Những người đến đón nhà lãnh
đạo quốc gia mới không ngờ rằng khi ông Diệm bước ra khỏi phi cơ là sẽ
đi trên con đường vinh quang mau chóng, tuyệt vọng và sớm mua lấy cái
chết.[7]
Sau này, khi biết được cuộc đón tiếp ông Diệm thiếu
sự tham dự của nhân dân, tôi đã trách móc ông Nhu và ông Võ Văn Hải
không huy động nổi đồng bào đi biểu tình đông đảo để đón tiếp sự hồi
hương của lãnh tụ.
Buổi đón tiếp tuy đầy đủ phần nghi lễ
nhưng thiếu hẳn quần chúng đón chào tỏ ra rằng ông Diệm không có thực
lực quần chúng ủng hộ. Vả lại, 500 người có mặt tại Tân Sơn Nhất hôm đó
quả thật đã không đại diện một chút nào cho 25 triệu người Việt Nam trên
mặt pháp lý cũng như chính trị, trên mặt liên đới tình cảm cũng như
liên đới tinh thần.
Một người đã từng chống Bảo Đại và chống
Pháp thì không thể trở về với dân tộc để lãnh đạo quốc gia bằng một sắc
lệnh của Quốc trưởng và trên một chiếc máy bay có cờ tam tài. Trường hợp
đó và khung cảnh đó phù hợp với những thoả hiệp của một cuộc vận động
chính trị hậu trường, hơn là kết quả của một quyết tâm xả thân đấu tranh
cho đất nước, cho nên nhân dân Việt Nam nói chung, và quần chúng Sài
Gòn nói riêng vẫn không tìm được sự hào hứng để chào mừng ông Diệm trong
ngày trở về của ông.
Nhưng lúc đó, đối với tôi, từ miền Bắc
xa xăm, và sau 5 năm trông đợi ngày về của người lãnh đạo tổ chức, ngày
ông Diệm về nước là một ngày hội lớn, là sự thành tựu của 12 năm đấu
tranh cho lý tưởng của mình xuyên qua hình bóng của ông Ngô Đình Diệm,
là ngày mà những tra tấn trong ngục tù, những ly biệt với vợ con, những
hiểm nghèo trong lửa đạn bắt đầu đơm bông kết trái thành đài vinh quang.
Tôi đã không cần dấu diếm nữa mà bộc bạch hẳn với hai người bạn cùng
khoá là Thiếu tá Lam Sơn và Đại uý Nguyễn Chánh Thi về tương lai chắc
nịch của đất nước, về cơ hội lịch sử đã cho phép ông Diệm sẽ được quản
trị quốc gia một cách dân chủ, sẽ được thi thố tài năng trong cuộc thư
hùng với Cộng Sản.
Tuy nhiên, sau những phút vui mừng bồng bột
đầu tiên đó, tôi bắt đầu lo âu cho ông Diệm. Đã từng sống giữa lòng quê
hương từ trước cuộc kháng Pháp, đã từng làm việc chung với người Pháp
trong chế độ Bảo Đại, đã là chứng nhân của bao nhiêu biến cố chính trị,
bao nhiêu lừa lọc phản trắc, tôi biết ông Diệm sẽ phải đi qua một bãi
mìn nổ chậm với bao nhiêu khó khăn phức tạp cạm bẫy đang chờ đợi ông. Cụ
thể hơn, là một sĩ quan cấp tá thâm niên, tôi biết rõ tham vọng và tính
tình của tướng Nguyễn Văn Hinh và tinh thần quân đội dưới quyền ông ta.
Những thực tế này sẽ là trở lực khó khăn nguy hiểm đầu tiên mà ông Diệm
không thể tránh được. Đành rằng trong giai đoạn đó, quân đội không phải
là yếu tố quyết định những thay đổi quan trọng của tình hình chính trị
Việt Nam, nhưng ở một mặt nào đó, quân đội dưới quyền tướng Hinh, một
người Pháp mang tên Việt, lại đủ sức để cản trở những kế hoạch của ông
Diệm. Hay đi xa hơn, có thể tiêu diệt ngay sức mạnh pháp lý và chính trị
còn mong manh của vị tân Thủ tướng.
Biết như thế mà lại biết
rất rõ nữa là khác, cho nên dù điều kiện khó khăn và phương tiện bị hạn
chế, tôi cũng phải làm mọi cách để giúp được ông Diệm phần nào hay phần
đó. Tuyên truyền, giác ngộ vẫn là thứ khí giới hữu hiệu nhất cho nên tôi
bèn viết rất nhiều thư cho các bạn bè từ chí thân đến sơ giao, cho các
sĩ quan thân tín ở nhiều quân khu, nhiều đơn vị, nói cho họ biết muốn
cứu nước, muốn quốc gia khỏi rơi vào tay Cộng sản, muốn còn có đất chôn
chân thì phải ủng hộ cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm vượt thắng mọi thế lực
chống đối ông ta. Với các sĩ quan miền Trung như Nguyễn Ngọc Lễ, Lê Văn
Nghiêm, Thái Quang Hoàng, Tôn Thất Đính,... tôi không ngần ngại nói
thẳng cho họ biết rằng tướng Hinh và những tay sai của Pháp sẽ tìm cách
triệt hạ ông Diệm. Tôi yêu cầu họ nỗ lực hoạt động lôi kéo bạn bè, cộng
sự viên của họ theo con đường chính nghĩa. Mục tiêu của tôi là xây dựng
cho ông Diệm một chủ lực, nếu không được thì ít nhất là một hậu thuẫn
trong quân đội, để đối phó với cuồng vọng của tướng Nguyễn Văn Hinh sau
này.
Tại Hà nội, nơi tôi học, có bốn lớp quân sự: lớp Trung
đoàn trưởng, lớp Tham mưu trưởng, lớp Tiểu đoàn trưởng, và lớp Đại đội
trưởng, tổng số khoá sinh gồm độ 150 người, mà khi tốt nghiệp những sĩ
quan này sẽ được bổ nhiệm vào các chức vụ chỉ huy. Tôi dùng luận điệu
"ông Diệm có còn, Việt Nam mới còn" để tác động tinh thần họ. Thiếu tá
Lam Sơn, Đại uý Nguyễn Chánh Thi cũng đồng quan điểm với tôi và sau này
họ đã có công trong việc giúp ông Diệm chống lại lực lượng của tướng
Hinh. Sau này, biến cố đất nước bị chia đôi ngày 20 tháng 7 bởi hiệp ước
Genève do sự bất lực của Pháp và các chính phủ của chế độ Bảo Đại, càng
cho tôi thêm yếu tố để tuyên truyền hầu tăng cường uy tín và lập trường
quốc gia chống Pháp của ông Diệm.
Ngày 30 tháng 6, khi ông
Diệm ra Hà Nội để quan sát tình hình miền Bắc và để thăm dò nhân sự hầu
thành lập nội các, thì tình hình chiến sự tại Bắc Việt đã đến hồi kết
thúc trong hỗn loạn, Đại tá Vanuxem mở cuộc hành quân Auvergne để di tản
khỏi miền Nam của Bắc Việt (Thái bình, Ninh Bình, Nam Định... các tỉnh
có nhiều giáo phận và đồn bót của Pháp) trong cố gắng tránh những tổn
thất do cuộc rút quân gây ra. Thành phố Hà Nội tràn ngập dân di tản ở
các vùng này, họ sống lê lết ở các vỉa hè và xô xát với nhân viên công
lực. Và đúng như Bảo Đại mô tả trong "Le Dragon d`AnNam", họ là những
người Công giáo, lực lượng mà ông Diệm tin cậy sẽ là hậu thuẫn ở miền
Bắc nhưng họ chỉ lo tìm đường chạy trốn vào Nam.
Quyết định
rút lui của quân đội Pháp đã như cơn gió mạnh thổi tan lực lượng này,
vốn hiện diện và tồn tại phần lớn nhờ nương dựa vào sức mạnh của chính
quân đội ngoại bang đó. Khi cây đã ngã thì những bìm bịp bám dựa vào đó
cũng ngã theo luôn.
Khi nhận chức Thủ tướng với Bảo Đại, ông
Diệm không ngờ chiến sự tại Bắc Việt lại suy sụp nhanh đến thế, khi thề
trước thánh giá sẽ "bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ", ông Diệm đã hoàn toàn
không nắm vững được tình hình sẽ biến chuyển theo chiều hướng nào. Như
suốt cả cuộc đời ông Diệm (và cả anh em ông nữa) đã chứng minh, họ luôn
luôn chủ quan, không thực tế, và nhất là chỉ cho mình là đúng, là nhất.
Khi
quân Pháp rút lui, tâm trạng bị bỏ rơi của các giáo phận đó đã được
chính Đại tá Vanuxem kể lại trong hồi ký của ông qua thái độ tuyệt vọng
một cách nhục nhã của Giám mục Phạm Ngọc Chi thuộc giáo phận Bùi Chu,
một thái độ bị bỏ rơi nên trở lại coi người bạn Pháp năm xưa như kẻ thù
[8]:
Một ngày kia, tại Nam Định, nơi có bộ chỉ huy của tôi,
người ta báo cho tôi biết có một số các vị giáo phẩm Công giáo Việt Nam
của địa phận tới xin vào thăm, tôi tiếp họ ở một căn hàng tạp hoá. Cả
thảy có bốn người, cầm đầu bởi giám mục Phạm Ngọc Chi thuộc giáo phận
Bùi Chu, và sau này thuộc giáo phận Đà Nẵng và luôn luôn là bạn thân của
tôi.
Đến trước mặt tôi, ông bèn quỳ xuống trong lúc tôi cố đỡ
ông dậy, ông nói: "Không, tôi xin lỗi Đại tá. Chúng tôi xin lỗi Đại tá.
Chúng tôi cứ tưởng rằng quốc gia chúng tôi xứng đáng được độc lập mà
chúng ta có bổn phận giúp đỡ; nhưng chúng tôi đã nhận ra quá muộn rằng
những người mà chúng tôi trông cậy (người Pháp) lại là những kẻ thù của
chúng tôi, những kẻ thù muốn chúng tôi mất linh hồn".
Vanuxem kết luận rằng:
Thật
là một thảm hoạ to lớn khi những nhân vật lãnh đạo tinh thần đã buộc
phải hạ mình nhục nhã trước một quân nhân. Tương lai đã cho thấy tất cả
thảm hoạ đó.
Giáo phận Bùi Chu đã hợp tác và phục vụ quân đội
Pháp ngay từ ngày đầu tiên Pháp trở lại Bắc Việt. Giáo phận này đã biến
một số giáo đường thờ Chúa thành pháo đài quân sự, khuyến khích thanh
niên Công giáo gia nhập Phụ Lực Binh cho quân đội Pháp. Tình trạng của
giáo dân trước viễn ảnh Tây đi Cộng về rõ ràng rất nguy hiểm và rất đáng
tội nghiệp, nhưng không phải vì thế mà một vị tu sĩ cao cấp lãnh đạo
tinh thần của một tôn giáo có truyền thống hy sinh tử vì đạo lại có thể
quỳ xuống trước một quân nhân ngoại quốc để cầu khẩn họ ở lại bằng những
luận cứ trách móc, giận hờn. Cách thế hành sử đó và nội dung lời cầu
khẩn đó không những làm đau lòng những tín đồ Công giáo chân chính mà
còn làm cho những đồng bào Việt Nam của ông hổ thẹn nữa. (Sau này, khi
di cư vào Đà Nẵng, Giám mục Phạm Ngọc Chi trở thành một lãnh tụ của đảng
Cần Lao tại miền Trung bên cạnh lãnh chúa Ngô Đình Cẩn. Không trách gì
quần chúng và Phật giáo đồ tại miền Trung bị khốn khổ và cũng không
trách gì vì những người như vậy, mà chế độ Ngô Đình Diệm bị toàn dân căm
thù lật đổ vào năm 1963).
Được tin ông Diệm đến Hà Nội, tôi
bèn tới dinh Thủ Hiến để gặp chào mừng ông. Một đám đông chưa tới một
ngàn người, do nhóm các ông Lê Quang Luật và Hoàng Bá Vinh (hai nhân sĩ
Công giáo ở Bắc) tổ chức, đang cầm quốc kỳ và trương biểu ngữ diễn hành
trước dinh Thủ Hiến để chào mừng vị tân Thủ tướng. Tôi vừa buồn vừa giận
vì số người tham dự quá ít ỏi so với dân số Hà Nội lúc bấy giờ, nhất là
dân số đó lại vừa được tăng cường nhờ số dân Công giáo tị nạn từ các
tỉnh mới đến. Tôi nghĩ thầm như thế và đâm ra ngượng với các cán bộ của
Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí (thuộc đảng Đại Việt), vốn không ưa gì ông Diệm.
Khi
ông Diệm đến bậc thềm để vào dinh Thủ Hiến thì thấy tôi, tôi vội chào
lớn "thưa Cụ". ông Diệm nhìn tôi vừa lộ vẻ ngạc nhiên một cách vui mừng
và nói lớn: "À! có cả anh Mậu đây nữa à'. Tôi chưa kịp nói thêm lời nào
thì những lễ nghi quân cách đã vang lên kéo ông vào đại sảnh. Tuy hơn
tôi những 16 tuổi và xa cách gần sáu năm trời, tôi vẫn không thấy ông
già thêm bao nhiêu. Bước đi của ông vẫn ngắn và thoăn thoắt, chỉ có dáng
người trông có vẻ bệ vệ hơn trong bộ âu phục trắng. Biết ông còn bận
rộn với những nghi lễ, tôi vội rời đám đông trở về quân trường. Nhớ lại
ngày nhận được tin ông Diệm được ông Hồ Chí Minh trả tự do tôi mừng bao
nhiêu thì hôm nay, gặp lại ông trong cảnh huy hoàng của sự đạt thành ý
nguỵện, tôi mừng bấy nhiêu. Đối với tôi, một cá nhân tầm thường, một cán
bộ đấu tranh chỉ có tấm lòng son trang trải cho quê hương, thì sự kiện
ông Diệm nắm được chính quyền là một thắng lợi vĩ đại vừa của tổ quốc,
vừa của tổ chức, và vừa của chính mình. Mười hai năm gian truân vào tù
ra khám, mười hai năm không biết được mái ấm gia đình, mười hai năm cầm
cự cho tổ chức sống còn... như cuốn phim dài chợt tuần tự trình chiếu
lại như một thoáng vó câu. Tôi mừng mừng tủi tủi đến rơi nước mắt và
trong một thoáng ngắn ngủi, chợt thấy trời đất Bắc mùa Hạ mà ngọt ngào
hương nắng mùa Xuân.
Hai ngày sau, ông Diệm c
Xem tiếp: Hình ảnh 1
© TuSach.mobi - Đọc truyện online trên mobile
VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi
Tác giả: Hoành Linh Đỗ Mậu
Chương 5: GÓP CÔNG XÂY DỰNG-NỀN MÓNG CHẾ ĐỘ
Trong giai đoạn 1954-1955, tuy ông Diệm có nhiều kẻ thù nhưng tướng
Nguyễn Văn Hinh vẫn là đối thủ nguy hiểm nhất trên cả hai mặt chính trị
lẫn quân sự. Trước hết, trên mặt chính trị, tướng Hinh có tư cách hợp
pháp của một vị Tổng Tham mưu trưởng của quân đội quốc gia, khác hẳn với
những giáo phái võ trang không được chính thức thừa nhận; ông lại có
Quốc trưởng Bảo Đại nâng đỡ và người Pháp yểm trợ. Trên mặt quân sự, ông
có một số thuộc cấp từ cấp tá đến cấp úy nắm giữ những nhiệm sở có quân
nhân tác chiến, ông lại điều động được các cơ quan tình báo và an ninh
với sự hợp tác hữu hiệu của cơ quan tình báo Pháp, và cuối cùng ông lại
vận dụng được một số những bộ phận võ trang của một vài giáo phái.
Cho nên, nếu không kể những yếu tố khác thì về mặt tương quan lực
lượng, rõ ràng việc lật đổ Thủ tướng Diệm không lấy gì làm khó. Tuy
nhiên, như đã trình bày ở chương IV, đã có những yếu tố khác chi phối
tình hình miền Nam lúc bấy giờ làm cho Tướng Hinh phải từ bỏ ý định dùng
bạo lực lật đổ ông Diệm mà tôi có thể tóm tắt trong một ngoại lực duy
nhất là sự yểm trợ tối đa và vô điều kiện của Hoa Kỳ trên cả hai mặt
chính trị lẫn quân sự. Những công hàm Washington-Paris, những Lansdale,
Foster Dulles, những 300 triệu Mỹ kim quân viện..., chính những hoạt
động và những nhân sự đó chứ không phải cái nội các nhiều nhiệt tâm
nhưng còn tê liệt, cái chiến khu Đông của chúng tôi, hay cái công điện
của ông Ngô Đình Cẩn từ miền Trung đánh vào, đã giúp cho ông Diệm loại
trừ được kẻ thù nguy hiểm nhất này.
Tướng Hinh ra đi, cả thế
cờ của Pháp và Bảo Đại sụp đổ. Vì tướng Hinh, bằng xương bằng thịt, là
đại diện cho sức mạnh chính trị của Pháp và Bảo Đại tại Việt Nam lúc bấy
giờ. Sự sụp đổ đó được biểu hiện rõ ràng nhất trong sự tan hàng tâm lý
của lực lượng quân đội thuộc xu hướng của Tướng Hinh. Tướng Vận ở Nha
Trang trốn vào Sài Gòn rồi biệt tích luôn. Đại tá Trương Văn Xương, Tư
lệnh Quân khu Hai, người đã từng gây khốn khổ cho ông Ngô Đình Cẩn và
ông Đại biểu Chính phủ miền Trung cũng trốn vào Nam. Tại Đà Lạt, đội Ngự
Lâm Quân do tướng Nguyễn Văn Vỹ điều động bị ông Phan Xứng và Thiếu tá
Nguyễn Chánh Thi phần nào tê liệt hóa. Đại tá Linh Quang Viên, Tư lệnh
Quân khu Ba ở Ban Mê Thuột, tuy là một phần tữ quốc gia đối lập với ông
Diệm nhưng lại không theo Pháp và không phục Tướng Hinh, cuối cùng cũng
hợp tác với Chính phủ. Đại tá Vòng-A-Sang người Nùng, thuộc hạ của tướng
Vanuxem, di cư vào Nam và đang là Sư đoàn trưởng Sư đoàn Nùng ở Phan
Rí, thấy tình hình bất lợi cũng tuyên thệ thi hành kỷ luật của quân đội.
Thế là sau khi Tướng Hinh ra đi, không kể tại miền Trung Trung Việt mà
tướng Hinh không có một cơ sở vững mạnh nào, toàn bộ vùng Duyên Hải và
Cao Nguyên Trung phần trở thành hậu thuẫn vững chắc cho ông Diệm để tiến
hành những vận động cuối cùng quét sạch tàn dư của chế độ Pháp thuộc.
Trung tá Nguyễn Quang Hoành từ Phan Thiết được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh
Quân khu Hai, Thiếu tá Thái Quang Hoàng được lệnh giải tán chiến khu
Đông về làm Tỉnh tướng Bình Thuận, ông Hồ Trần Chánh, một đảng viên Đại
Việt từng ủng hộ chiến khu Đông, được chúng tôi đề nghị làm Tỉnh trưởng
Ninh Thuận. Trung tá Phạm Văn Đổng, tuy chưa bao giờ ủng hộ ông Diệm
nhưng cũng khôn ngoan chưa bao giờ tỏ ra chống đối Chính phủ, được cử
làm Tư lệnh Phân khu Duyên Hải. Chúng tôi mỗi người được thăng một cấp
vì đã bảo vệ được miền Trung: Hoành và Đổng lên Đại tá, Hoàng và tôi lên
Trung tá. Và tuy còn ở trong dinh Thủ tướng, tôi đã được bổ nhiệm làm
Tư lệnh phó Phân khu Duyên Hải, còn Đại tá Lễ thì sẵn sàng để nhận chức
Tổng giám đốc Cảnh Sát Công An một khi đuổi được Bình Xuyên ra khỏi định
chế này.
Song song với và chính vì việc tướng Hinh ra đi,
Lansdale đã vừa dùng tiền bạc vừa sử dụng lý luận để lôi kéo thêm được
tướng Nguyễn Giác Ngộ của Hòa Hảo và tướng Nguyễn Thành Phương của Cao
Đài đem lực lượng của họ về hợp tác với Chính phủ. Lansdale còn sử dụng
kỹ thuật địch vận để dẫn dụ được Đại tá Thái Hoàng Minh, Tham mưu trưởng
của lực lượng Bình Xuyên, đứng lên chống Bảy Viễn. Tuy việc phản bội
của Thái Hoàng Minh bị lộ và cuối cùng bị Bảy Viễn thủ tiêu, nhưng cái
chết của ông ta đã gây một chấn động tâm lý sâu đậm trong hàng ngũ của
lực lượng Bình Xuyên.
Tuy nhiên, dù ngần đó biến cố thuận lợi
đã làm cho “Mặt trận Thống Nhất” của các giáo phái bị phân hóa và suy
giảm sức mạnh rất nhiều, nhưng trong mùa Xuân năm 1955, ông Diệm vẫn còn
gặp rất nhiều khó khăn vì Thủ tướng Pháp Edgar Faure vẫn còn muốn xây
dựng lại uy thế cho Quốc trưởng Bảo Đại để mong lật ngược thế cờ. Pháp
vẫn còn muốn lợi dụng những lực lượng thù nghịch với ông Diệm còn sót
lại như toàn bộ Bình Xuyên, như Hòa Hảo của Trần Văn Soái, Lâm Thành
Nguyên, Lê Quang Vinh, như Cao Đài của Hộ pháp Phạm Công Tắc, như tướng
Vỹ và một thiểu số Ngự Lâm Quân còn trung thành với Bảo Đại.
Đặc biệt trong quân đội, mặc dù Thiếu tướng Lê Văn Tỵ đã được ông Diệm
bổ nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng nhưng vẫn còn nhiều sĩ quan cấp tá cao
cấp chưa muốn hợp tác với ông Diệm như các Đại tá Trần Văn Đôn, Trần
Văn Minh, Lê Văn Kim, các Trung tá Nguyễn Khánh, Đỗ Cao Trí, Nguyễn Văn
Là, Trần Tử Oai... Như vậy thì riêng tại miền Nam, đặc biệt tại Sài
Gòn-Chợ Lớn và vùng phụ cận, đứng trên mặt thuần túy vũ lực (vốn là yếu
tố quyết định trong sự hỗn loạn của tình thế lúc bấy giờ) thì phe Chính
phủ và phe đối lập quả thật ngang ngửa.
Từ đầu Xuân 1955, lực
lượng Bình Xuyên tiếp tục gây hấn, khiêu khích đô thành, tấn công những
đơn vị của quân đội quốc gia đi lẻ tẻ và bắn súng cối vào dinh Độc Lập
để chuẩn bị cho âm mưu đảo chánh Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ngày
30/4/1955, sau khi thuyết phục được tướng Lê Văn Tỵ và một nhóm sĩ quan
thuộc cấp cũ của tướng Hinh, tướng Nguyễn Văn Vỹ bèn vào dinh Độc Lập
buộc ông Diệm phải đi Pháp ngay tức khắc theo lệnh của Quốc trưởng Bảo
Đại, đồng thời tướng Vỹ ra lệnh cho đội Ngự Lâm Quân từ Đà Lạt di chuyển
về Sài Gòn và thông báo cho Trung tá Đỗ Cao Trí, một bạn thân của Vỹ,
biết. Trung tá Trí là Tư lệnh lực lượng Nhảy Dù, đang hành quân tiểu trừ
Bình Xuyên, nhưng thâm tâm vẫn muốn lật đổ ông Diệm.
Cũng
trong ngày 30/4 đó, “Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng” ra đời tại Tòa Đô
Chánh Sài Gòn. Đây là một lực lượng chính trị quần chúng được chuẩn bị
từ trước để làm hậu thuận đấu tranh cho ông Diệm. Hội đồng này do ông
Nguyễn Bảo Toàn, một lãnh tụ Hòa Hảo làm chủ tịch, ông Hồ Hán Sơn, một
viên chức của Cao Đài, làm phó chủ tịch và ông Nhị Lang (hiện ở Mỹ),
thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng và cũng là một phụ tá của tướng Trình Minh
Thế làm Tổng thư ký. Thành viên của Hội Đồng gồm nhiều thành phần đại
diện cho mọi tầng lớp quần chúng mà đa số là thân hữu của ông Diệm,
ngoài ra còn có một số do tôi tổ chức từ Phân khu Duyên Hải vào để đại
diện cho miền Trung mà người cầm đầu là giáo sư Hà Huy Liêm (trường
trung học Võ Tánh), đang làm Ủy viên Tuyên Nghiên Huấn của Phong Trào
Cách Mạng Quốc Gia tỉnh Khánh Hòa.
Chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn
là nhân vật uy tín nhất của Phật Giáo Hòa Hảo lúc bấy giờ. Ông là một
nhà cách mạng lão thành từng bôn ba qua Pháp, Tàu, Nhật để đấu tranh cho
nền độc lập quê hương. Ngay từ năm 1947, khi Pháp định thương thuyết
với cựu hoàng Bảo Đại, ông Toàn đã cùng với cụ Nguyễn Hải Thần và ông
Nguyễn Tường Tam thành lập “Mặt Trận Thống Nhất Quốc Gia” đòi hỏi Pháp
chỉ thương thuyết với các lực lượng dân tộc mà thôi chứ không phải với
Bảo Đại hay với Hồ Chí Minh. Từ ngày dấn thân hoạt động cách mạng, ông
Nguyễn Bảo Toàn luôn luôn chủ trương một nước Việt Nam độc lập theo chế
độ Cộng Hòa với một hình thức sinh hoạt hoàn toàn dân chủ. Ông quan niệm
sinh họat chính trị của quốc gia phải hoàn toàn dân chủ mới đáp ứng
được nguyện vọng của nhân dân và mới có thể chiến thắng được Cộng Sản,
do đó ông quyết tâm ủng hộ ông Diệm và truất phế Bảo Đại, mặc dù lúc bấy
giờ tính mạng của ông có thể vì thế mà bị nguy hiểm.
Ngày
30, trong lúc tướng Vỹ và nhóm sĩ quan thân Pháp vào dinh Độc Lập ép
buộc Thủ tướng Diệm phải đi Pháp (nghĩa là đi không trở về), thì tại tòa
Đô Chánh Sài Gòn, “Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng” cũng thảo luận sôi nổi
và Hội nghị ra tuyên ngôn truất phế Bảo Đại, ủy cho chí sĩ Ngô Đình Diệm
tạm thời lãnh đạo quốc gia trong lúc chờ đợi Hiến Pháp và Quốc hội định
đoạt quy chế tương lai cho đất nước. Họp xong, Hội đồng đi bộ qua dinh
Độc Lập để trao tuyên ngôn cho Thủ tướng Diệm. Không ngờ khi đến nơi thì
lại chạm trán với tướng Vỹ và các “sĩ quan phản loạn” đang làm áp lực
ông Diệm. (Có thể cuộc đụng độ này là do dinh Độc Lập kịp thời thông báo
cho Hội đồng để đến tăng cường). Thấy tướng Vỹ, tướng Trình Minh Thế
(và hình như có cả tướng Nguyễn Thành Phương) bèn bắt giữ tướng Vỹ trong
lúc ông Nhị Lang đưa súng lục ra hăm dọa tướng Vỹ. Thủ tướng Diệm sợ
tái mặt, vội vã kéo tướng Vỹ vào phòng riêng để bảo vệ sinh mạng cho
tướng Vỹ, đồng thời yêu cầu Hội đồng đừng bắt hoặc giết tướng Vỹ. Không
phải ông Diệm thương xót gì tướng Vỹ nhưng nếu tướng Vỹ bị giết thì ắt
hẵn những lực lượng yểm trợ tướng Vỹ, vì tình chiến hữu, sẽ không tha
thứ cho ông. Huống hồ gì Trung tá Đỗ Cao Trí lại gọi điện thoại cho ông
Diệm đòi thả tự do cho tướng Vỹ ngay nếu không thì Trí sẽ tấn công dinh
Độc Lập. Cuối cùng, Hội đồng đạt được một thỏa hiệp chung là bắt tướng
Vỹ phải ký giấy xin quy hàng Hội Đồng và hòa mình với nhân dân để đấu
tranh cho đất nước, đổi lại Hội Đồng sẽ trả tự do cho ông ta.
Tướng Vỹ đồng ý ra về và trong thâm tâm định phản bội lại lời cam kết
đó, nhưng phần vì Ngự Lâm Quân, chủ lực của ông ta đã bắt tay với quân
đội, phần vì phản ứng quyết liệt của lực lượng của tướng Trình Minh Thế
nên tướng Vỹ đành chịu thất bại. Trong lúc tướng Vỹ hoạt động ở Sài Gòn
để lật đổ ông Diệm thì tướng Nguyễn Văn Hinh ở Pháp cũng trên đường trở
về Việt Nam để dự định giúp tướng Vỹ lật ngược thế cờ. Nhưng vì tướng Vỹ
đã thất bại, lại vì tình hình mỗi ngày một thuận lợi cho ông Diệm cho
nên tướng Hinh bay đến Nam Vang thì dừng lại và bay ngược về Pháp.
Về hành động rút súng và lột lon tướng Vỹ của Nhị Lang, tướng Trần Văn
Đôn trong hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng” (tr. 125, 126) ghi nhận rằng “vì
hành động quá khích của Nhị Lang và Hồ Hán Sơn mà tình thế trở nên rối
rắm”.
Còn nhà văn Lê Nhật Thăng trên tạp chí “Ánh Sáng Dân
Tộc” (số 2, ngày 15/11/1989) trong loạt bài “Thái Lân và Trần Minh Thế”,
khi phê bình cuốn “Phong Trào Kháng Chiến Trần Minh Thế” đến đoạn ông
Nhị Lang khoe khoang: “tôi nhanh nhẹn rút súng colt 45 trong chiếc cặp
ra chĩa thẳng vào người tướng Vỹ và ra lệnh giơ tay lên không tôi bắn”
đã mỉa mai ông Nhị Lang rằng:
“Ông Thái Lân ơi, mỗi khi nhìn
thấy ảnh mình đang rút súng đe doạ một sĩ quan có thấy bẽ bàng vô duyên
không? Tôi xin nói để Nhị Lang biết nếu ông nổ súng là đám sĩ quan ở
phòng bên cạnh sẽ xé xác ông ngay lập tức, may cho ông lắm đó. Chúng ta
thấy Diệm che chở cho Vỹ, trách mắng Nhị Lang và xác định quyền uy của
mình. Không biết Nhị Lang có biết vậy không? Tôi thiết nghĩ Diệm Nhu đã
có kế sách nào đó để đối phó tình hình rối beng mà hành động trật búa,
tài khôn của Nhị Lang chỉ làm Diệm thêm nhức đầu”.
Như vậy
hành động ngang tàng nhưng vô chính trị của ông Nhị Lang chỉ phản ảnh
thái độ “luồng gió bẻ măng”, dựa thế các tướng Trình Minh Thế và Nguyễn
Thành Phương đang có mặt mới dám rút súng làm oai mà không biết rằng
hành động đó có thể đưa đến tai họa cho cả hai ông Diệm Nhu.
-o0o-
Trong những ngày sôi động tại Sài Gòn mà bạo lực có thể bùng nổ bất cứ
lúc nào, ông Diệm không những đã lo sợ cho tương lai chính trị của ông
mà con lo cho chính bản thân ông nữa. Chỉ quen đấu tranh theo kiểu quan
trường, ông rất e ngại về súng đạn. Chỉ quen dựa vào những thế lực ngoại
bang (như Pháp, Nhật, Mỹ, Vatican), vận dụng chính trị và cũng cố địa
vị, ông thiếu tự tin khi phải đối phó với những quân nhân như Nguyễn Văn
Vỹ, Trần Đình Lan, Đỗ Cao Trí …mà vũ lực là lý luận. Nhưng điều làm cho
ông lo sợ nhất là bức tường đồng để ông nương dựa là Hoa Kỳ sẽ có thể
bỏ rơi ông, vì không những ông chấp chánh được là nhờ sự ủng hộ của Hoa
Kỳ mà còn nhờ chính cả những hoạt động tình báo và quân sự của Lansdale.
Cho đến khi cả Đại tá Lansdale lẫn Đặc sứ Collins liên tục tái bảo đảm
với ông là chính sách Mỹ đã quyết định yểm trợ miền Nam do ông lãnh đạo,
ông mới thật sự an lòng để đối phó với tình thế.
Thật vậy,
một ngày trước buổi chạm trán với tướng Vỹ ở dinh Độc Lập, Ngoại trưởng
Mỹ Foster Dulles đã thông báo cho Đại sứ Pháp Couve de Murville ở Hoa
Thịnh Đốn, cũng như Đại sứ Mỹ Dillon đã thông báo cho Thủ tướng Pháp
Edgar Faure ở Paris về quyết tâm của Mỹ nhất định ủng hộ ông Diệm vô
điều kiện [1]. Kết quả cụ thể làm ông Diệm yên tâm nhất là cuối cùng,
dưới áp lực của Mỹ, chính Pháp đã tiếp tế đạn dược cho quân đội để dẹp
phiến loạn Bình Xuyên trong khi chờ đợi một chương trình quân viện dồi
dào hơn sau này.
Sau thất bại của tướng Nguyễn Văn Vỹ, quân
đội mặc nhiên trở thành một lực lượng trọng yếu nhất trí ủng hộ ông
Diệm. Thật ra, từ trước tại Sài Gòn, chỉ có hai sĩ quan cao cấp và có vị
trí then chốt thật sự ủng hộ ông Diệm mà thôi, đó là Đại tá Dương Văn
Minh và Trung tá Phạm Xuân Chiểu. Đại tá Dương Văn Minh giữ chức Quân
Trấn trưởng Sài Gòn-Chợ Lớn, còn Trung tá Phạm Xuân Chiểu giữ chức Tham
mưu trưởng Quân khu I dưới quyền Đại tá Trần Văn Minh. Ông Dương Văn
Minh tuy xuất thân từ trường võ bị của Pháp ở Tông (Bắc Việt), tuy phục
vụ trong quân đội Pháp nhưng ông vẫn giữ bản chất và phong độ của một
người Việt Nam thuần túy, vẫn nặng tình tự với dân tộc quê hương. Người
Pháp và tướng Hinh vốn không ưa ông Dương Văn Minh nên không giao cho
ông chức vụ chỉ huy có quân sĩ, có đơn vị, để ngăn ngừa hậu họa. Còn ông
Phạm Xuân Chiểu là một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, sau khi bỏ học
trường thuốc ở Hà Nội vì biến cố Nhật đảo chánh Pháp 9-3-1945, bèn vào
học trường Võ bị Yên Bái do người Nhật tổ chức, rồi qua Trung Hoa học
trường Võ bị Hoàng Phố. Ở đây, ông gặp một nữ đảng viên của “Cách Mạng
Đồng Minh Hội” của cụ Nguyễn Hải Thần, hai người trở thành vợ chồng và
đều là nhân vật tham gia cách mạng, có tinh thần chống Cộng rất cao. Mấy
năm sau ông về Phát Diệm và được mời giữ chức chỉ huy tiểu đoàn 2 trong
lực lượng Tự Vệ của giáo phận này rồi trở thành sĩ quan quân đội quốc
gia. Với thành tích đó nên ông Phạm Xuân Chiểu đã hết lòng ủng hộ ông
Diệm. Hai sĩ quan này, nhất là ông Dương Văn Minh, đã ủng hộ và hoạt
động đắc lực cho ông Diệm ngay từ phút đầu, ngay từ khi tướng Hinh chống
đối ông Diệm. Ngoài ra, cũng phải nói một trong những lý do ông Minh
ủng hộ ông Diệm là vì người bạn thân của ông là ông Nguyễn Ngọc Thơ cũng
là người bạn quý của ông Diệm. Hai ông Dương Văn Minh và Phạm Xuân
Chiểu đều ở Sài Gòn, đều biết rõ vị trí, âm mưu hoạt động và những kế
hoạch chuyển quân của Bình Xuyên và Pháp nên đã giúp đỡ rất hữu hiệu ông
Diệm trong vấn đề đối phó với quân của Lê Văn Viễn.
Ngoài
ra, ông Diệm còn có Đại tá Mai Hữu Xuân, một sĩ quan nhiều thủ đoạn và
giỏi về tình báo ủng hộ. Ông Mai Hữu Xuân trước kia là một phần tử thân
Pháp, từng là Tổng Giám đốc Công An và lúc bấy giờ là Giám đốc An ninh
Quân đội, nhưng quan trọng hơn cả, ông Xuân vốn là kẻ thù của Bình
Xuyên. Ký giả Lucien Bodart trong cuốn “La Guerre d’Indochine” mô tả hai
ông Bảy Viễn và Mai Hữu Xuân là hai lãnh chúa tại Chợ Lớn và Sài Gòn,
hai kẻ thù không đội trời chung, nay gặp cơ hội ông Diệm đánh Bình
Xuyên, Mai Hữu Xuân trở nên đồng minh của ông Diệm. Sự ủng hộ của ông
Mai Hữu Xuân và Nha An Ninh Quân Đội lúc bấy giờ quả là một đóng góp
tình báo hết sức lớn lao cho việc tấn công và tiêu diệt Bình Xuyên để
củng cố địa vị ông Diệm.
Nói rõ ra, hai ông Dương Văn Minh và
Phạm Xuân Chiểu ủng hộ ông Diệm là vì quốc gia dân tộc, vì tin tưởng
ông Diệm là nhà lãnh đạo chống Pháp, chống Cộng, có thể cứu được miền
Nam, trong lúc ông Mai Hữu Xuân về với ông Diệm chỉ vì hoàn cảnh, và
nhất là vì lý do cá nhân muốn trả mối thù cũ với Bình Xuyên. Dù sao thì
điều đó cũng là một may mắn rất lớn cho ông Diệm.
Trong những
ngày đầu của tháng Năm năm 1955, quân đội quốc gia phối hợp với quân
của tướng Trình Minh Thế đánh bật được quân Bình Xuyên qua bên kia cầu
chữ Y. Tướng Thế trong khi đứng trên cầu Tân Thuận để quan sát địa hình
đã bị một viên đạn bắn lén từ sau lưng trúng thái dương và không cứu
sống được. Ngày 9 tháng 5, Bình Xuyên bị đánh bật ra khỏi Sài Gòn và Chợ
Lớn nên rút về vùng bùn lầy Rừng Sát sau khi đã đốt cháy nhiều phố xá,
nhà cửa ở khu Nancy. Đại tá Dương Văn Minh được Thủ tướng Diệm cử giữ
chức Tư lệnh chiến dịch Rừng Sát, và chẳng bao lâu, ông tiêu diệt toàn
bộ quân Bình Xuyên. Bảy Viễn và bộ hạ thân tín là Lai Văn Sang và Lai
Hữu Tài phải trốn qua Pháp. Cùng lúc đó, Đại tá Nguyễn Ngọc Lễ cũng đã
nắm vững được Nha Tổng Giám đốc Công an Cảnh sát Việt Nam, và củng cố
được lực lượng Công an Cảnh sát Đô thành mà trước đó vốn nằm dưới sự
điều động của Lai Văn Sang.
Đánh tan quân Bình Xuyên, Đại tá
Dương Văn Minh dẫn đầu đoàn quân đắc thắng tiến về thủ đô trên con đường
Catinat để vào dinh Độc Lập giữa tiếng hoan hô vang dội của dân chúng.
Thủ tướng Ngô Đình Diệm đứng tại thềm dinh Độc Lập đón chào người anh
hùng chiến thắng Rừng Sát. Ông ôm hôn Đại tá Dương Văn Minh rồi một nữ
sinh choàng vòng hoa cho Đại tá. Mấy ngày sau, Thủ tướng Diệm vinh thăng
Đại tá Minh lên Thiếu tướng, báo chí Sài Gòn đề cao Dương Văn Minh là
“Anh hùng Rừng Sát”. Riêng ông Ngô Đình Nhu, tuy vui mừng sung sướng
thấy kẻ thù bị tiêu diệt, vẫn tỏ ra bất mãn với báo chí và dư luận khi
Dương Văn Minh được đề cao là “anh hùng”. Ông Nhu nói với nhiều người,
nhất là những người thân tín ở trong dinh, rằng: “cả nước Việt Nam chỉ
có một anh hùng mà thôi, đó là anh hùng Ngô Đình Diệm”.
Phải
nói rõ rằng từ sau vụ thất bại của tướng Vỹ tại dinh Độc Lập, toàn thể
quân đội đã đứng hẳn về phe ông Diệm và từ đó ông Diệm mới thật sự vững
vàng trên ngôi vị. Robert Shaplen cũng như học giả Douglas Pike đã nói:
“Cho đến khi quân đội ủng hộ ông Diệm, (trước đó) ông ta không có cách
gì để thực thi được uy quyền của chính phủ” (until the Army opted for
him, Diem had no means of enforcing a governmental order).[2]
Tiêu diệt được Bình Xuyên là Thủ tướng Diệm thu đạt thêm được một thắng
lợi to lớn, một thắng lợi quyết định tương lai sắp tới huy hoàng của
ông. Thắng lợi của ông Diệm đối với Bình Xuyên cũng như đối với tướng
Hinh, tướng Vỹ là biểu hiện thắng lợi của ảnh hưởng Mỹ đối với ảnh hưởng
Pháp trong ván bài Đông Dương.
Trong khi Sài Gòn và Rừng Sát
đang mịt mù khói lửa thì hội đàm giữa Pháp và Mỹ diễn ra tại Paris từ
ngày 7 đến 12/5/1955. Ngoại trưởng Mỹ, ông Foster Dulles, đòi hỏi Pháp
phải trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam, phải rút toàn bộ quân viễn
chinh Pháp (90.000) về nước. Chương trình Pháp rút quân về nước gồm 3
giai đoạn: Một: Ngày 20/5/1955, quân đội Pháp phải bắt đầu rút ra khỏi
Sài Gòn-Chợ Lớn, tập trung về Vũng Tàu. Hai: ngày 2/7/1955, quân đội
Việt Nam hoàn toàn chấm dứt sự phụ thuộc vào Bộ Tư lệnh Pháp tại Đông
Dương. Ba: ngày 28/4/1956 người lính cuối cùng của quân đội viễn chinh
Pháp vĩnh viễn rời khỏi Việt Nam [3]. Thế là nhờ quân đội, nhờ người Mỹ,
từ nay ông Diệm bước lên đài danh vọng quyền quý tột đỉnh trong cuộc
đời chính trị của ông.
Sau chiến thắng Rừng Sát, một buổi lễ
long trọng, hào hùng và cảm động đã được tổ chức tại Bộ Tổng tham mưu.
Đại tá Trần Văn Đôn, Tham mưu trưởng quân đội, đại diện cho toàn thể
quân đội Việt Nam đốt phù hiệu và cấp hiệu cũ để chấm dứt mối liên hệ
với dĩ vãng, một dĩ vãng chua xót và đau thương. Quân đội Việt Nam từ
nay là quân đội của một quốc gia độc lập để làm tròn sứ mạng của nó là
bảo vệ giang sơn và cùng với toàn dân làm chủ đất nước.
Trong
suốt gần 100 năm Pháp thuộc, chúng ta đã có 2 lần được nghe những lời
tuyên bố về một nước Việt Nam độc lập: Vua Bảo Đại tuyên bố ngày
9/3/1945 và ông Hồ Chí Minh tuyên bố ngày 2/9/1945. Nhưng 2 lần đó chỉ
có giá trị của một lời tuyên bố vì trên thực tế quân đội Nhật và Pháp
vẫn còn đó. Nhưng ngày 28/4/1956, nghĩa là gần 2 năm sau Hiệp ước
Genève, chữ Độc Lập mới thực sự có ý nghĩa và cuộc đấu tranh giành độc
lập mới thực sự chấm dứt. Vì vào ngày đó, người lính Pháp cuối cùng,
biểu tượng cụ thể cho chính sách và kỷ nguyên thực dân của Pháp, vĩnh
viễn rời khỏi đất nước thân yêu.
Ném một cái nhìn toàn diện
và chân thực để soát xét lại quá trình đấu tranh chống thực dân Pháp của
dân tộc, ta phải, một lần nữa, xác định cho rõ ràng rằng lực lượng đã
lãnh đạo, đã tổ chức và đã tiến hành cuộc đấu tranh này cho đến ngày
thắng lợi, chính là toàn bộ dân tộc ta. Những đứa con yêu xuất sắc của
đất nước như Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Trần Cao Vân, Trương Công
Định, Phan Đình Phùng, Phan Thanh Giản, Phan Bội Châu của những ngày
đầu; những Phạm Hồng Thái, Phạm Thái Học, Huỳnh Phú Sổ, Lý Đông A,
Trương Tử Anh, Nguyễn Hải Thần... đã cùng với toàn dân hy sinh xương máu
trong giai đoạn trực đối sống mái với kẻ thù để dồn chúng vào đường
tuyệt lộ. Cuối đoạn đường và về phía những người không Cộng Sản là một
Bảo Đại nhọc nhằn xây viên đá cho một Ngô Đình Diệm đàng hoàng bước lên
khóa lại cánh cửa tủi nhục của giai đoạn Pháp thuộc, và mở toang cánh
cửa Độc Lập cho đất nước quê hương.
Hang vạn anh hùng và liệt
nữ vô danh đã âm thầm nằm xuống. Ánh sáng vinh quang của họ cũng phải
rực rỡ như ánh sáng vinh quang của những lãnh tụ khác, tấm lòng son sắt
của họ cũng phải được tôn vinh như tấm lòng son sắt của những anh hùng
khác.
Tuy nhiên, nếu ngày 28/4/1956 đã chấm dứt phong trào
giải thực trên đất nước Việt Nam thì ngày đó cũng sẽ là ngày mở đầu cho
phong trào Tân Đế Quốc, nếu những nhà lãnh đạo của đất nước ta không
khôn khéo và quyết tâm bảo vệ được hai chữ Độc Lập và Chủ Quyền. Vì ở
một mặt nào đó, nếu chúng ta đã ghi nhận với ít nhiều thiện cảm những
Eisenhower, Foster Dulles, Buttinger, Fishel, Lansdale, v.v... đã giúp
chúng ta bằng cách áp lực người Pháp phải rời khỏi Việt Nam, thì ở một
mặt khác chúng ta không thể không đau lòng vì họ đã thô bạo và vụng về
can thiệp vào Việt Nam qua một cá nhân Ngô Đình Diệm thay vì bằng sức
mạnh thực sự của toàn khối dân tộc ta. Vì rõ ràng trong một cuộc chiến
tranh dành độc lập và sau đó sẽ kéo theo một cuộc đấu tranh chống Cộng
Sản thì chính nghĩa và sức mạnh nằm trong lòng quần chúng chứ không nằm ở
giai tầng lãnh đạo, lại càng không nằm ở một cá nhân, một gia đình, một
phe nhóm.
Lá bài Ngô Đình Diệm đúng là giải quyết được tình
hình lúc đó. Nhưng là một giải quyết giai đoạn và tức thời chứ không
trường kỳ và toàn diện. Mà hệ quả rõ ràng nhất là cuối cùng, chúng ta
đành để Cộng Sản chiếm hết nửa phần của đất nước. Sức mạnh và chính
nghĩa của dân tộc đã không được vận dụng đúng đắn thì lấy gì mà đương
đầu với Cộng Sản.
-o0o-
Sau chiến thắng Bình Xuyên, những đối thủ còn lại của Thủ tướng Diệm tại miền Nam chỉ là lực lượng yếu kém và phân hóa.
Về phía Cao Đài có Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc với một đơn vị Hộ vệ quân
khoảng 300 tay súng. Theo một kế hoạch của ông Ngô Đình Nhu, tướng Cao
Đài bị mua chuộc Nguyễn Thành Phương dẫn đơn vị cũ đến Tây Ninh tước khí
giới đám Hộ Vệ quân này, bắt giữ hai người con gái của Giáo chủ Cao Đài
với tội “tham nhũng và bóc lột đồng bào”. Giáo chủ Phạm Công Tắc và một
số bộ hạ thân tín trốn được qua Cao Miên và kéo dài cuộc đời lưu vong
cho đến lúc ông tạ thế.
Về phía Hòa Hảo võ trang thì còn ba
nhóm: Trần Văn Soái (tức Năm Lửa), Lâm Thành Nguyên và Lê Quang Vinh
(thường được gọi là Ba Cụt). Cả ba nhóm này có căn cứ và có địa bàn hoạt
động tại miền Hậu Giang. Vào giữa năm 1956, tướng Dương Văn Minh hành
quân mở chiến dịch càn quét những căn cứ này. Trần Văn Soái và Lâm Thành
Nguyên chống cự không nổi nên phải xin về quy hàng với Chính phủ. Riêng
lực lượng Lê Quang Vinh với kỹ thuật du kích chiến để tránh hỏa lực
hùng hậu của quân đội, đã cầm cự được khá lâu nhưng cuối cùng cũng bị
bắt và xử tử.
Theo thông cáo chính thức của Chính phủ Diệm
thì tướng Hòa Hảo Lê Quang Vinh bị một tiểu đội Bảo An bắt được tại Chắc
Cà Đao (Long Xuyên) cùng với năm tên hộ vệ. Trong một buổi lễ trao lệnh
kỳ và huy chương, đại biểu Chính phủ đưa tặng một triệu đồng cho Liên
Đội Bảo An Trần Quốc Tuấn, Liên Đội đã có binh sĩ bắt được Lê Quang
Vinh.
Nhưng lúc bấy giờ nhiều người, đặc biệt là tướng Dương
Văn Minh và Bộ Tham mưu của ông ta biết rằng, bắt được Lê Quang Vinh là
nhờ ông Nguyễn Ngọc Thơ lừa Ba Cụt đến điều đình trong lúc lính Bảo An
đã bố trí 1 cuộc phục kích tinh vi nên mới bắt được người chiến sĩ nổi
tiếng gan dạ và có tài đánh du kích đất miền Tây. Nếu không bị lừa thì
làm sao một tiểu đội Bảo An có thể bắt được tướng Hòa Hảo đa mưu túc trí
cùng với 5 hộ vệ quân của ông ta. Sự thật thì ông Thơ chỉ muốn lừa ông
Lê Quang Vinh về để đầu hàng Chính phủ cho yên miền Tây, nơi quê hương
của ông, không ngờ ông Diệm phản lại những lời đã hứa, ra lệnh cho Tòa
án xử tử ông Lê Quang Vinh.
Sau cách mạng ngày 1/11/1963 ông
Thơ cho tôi biết sở dĩ ông Lê Quang Vinh bị bắt ngày 13/4/1956 mà Tòa án
Quân sự và Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn cứ xét đi phúc lại (đến 4 lần) cho
đến ngày 6/7/1956, Tòa án Quân sự Cần Thơ mới xét xử một lần chót là vì
ông Diệm đã nhiều lần dụ ông Lê Quang Vinh theo đạo Công giáo mà ông
nằng nặc không theo. Nếu theo đạo Công giáo thì ông Lê Quang Vinh sẽ
được rửa tội trong một buổi lễ long trọng tại nhà thờ Đức Bà Sài Gòn và
sẽ được trọng thưởng và tất nhiên sẽ được tha mạng. Nhưng vị tướng “Mạnh
Hoạch” vùng linh địa Thất Sơn nhất định giữ lấy nền đạo của Đức Thầy,
vị Giáo chủ mà ông vô cùng ngưỡng mộ và kính phục. Do đó ông ta đã bị
ông Diệm ra lệnh cho Tòa án Quân sự Cần Thơ phải: “Tuyên án tử hình,
tước đoạt binh quyền và tịch thu tài sản”. Tướng Lê Quang Vinh bị hành
quyết ngày 13/7/1956 tại nghĩa địa Cần Thơ. Lúc chết ông mới 32 tuổi,
trối trăn dặn vợ nuôi con cái nên người và xin được chôn tại núi Sam,
Châu Đốc.
Phải chăng vì cái chết của ông Lê Quang Vinh mà từ
sau khi rời bỏ chính quyền, (vào thời mà Tôn giáo Hòa Hảo được phục
hồi), cựu Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ ở luôn Sài Gòn cho đến khi qua
đời, không giám trở về Long Xuyên nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ông có một
ngôi biệt thư vô cùng huy hoàng và 100 mẫu ruộng.
Dẹp yên
được hai ông Năm Lửa và Lâm Thành Nguyên, diệt được tướng Ba Cụt Lê
Quang Vinh là chấm dứt hoàn toàn mọi hoạt động đối lập võ trang nguy
hiểm tại miền Nam trừ những toán võ trang lẻ tẻ không đáng kể. Toàn bộ
chiến dịch này được gọi là “đánh dẹp Giáo phái”. Sau này, ông Nguyễn
Long Thành Nam, một nhân vật Hòa Hảo có thẩm quyền về các vấn đề Giáo
phái đã đánh giá như sau (Phật giáo Hòa Hảo trong Giòng Lịch sử Dân tộc,
tr 593-594):
Ông Ngô Đình Diệm đã tự hào dẹp được các “lãnh
chúa giáo phái”, nhưng sau đó, chính thể của ông cũng là một kiểu lãnh
chúa giáo phái. Các “lãnh chúa giáo phái” trước kia chỉ có quyền hành
giới hạn tại từng địa phương, trái lại chế độ lãnh chúa giáo phái mới
này oai quyền bao trùm trên toàn cả nước trong mọi địa hạt, chứ không
chỉ riêng về quân sự như các lực lượng võ trang giáo phái trước kia.
Có người nói rằng ông Ngô Đình Diệm tuy có độc tài độc tôn, nhưng đó là
lòng yêu nước, muốn cứu nước, muốn làm tròn sứ mạng lịch sử của người
chiến sĩ yêu nước trong một tình trạng rối ren, cho nên phải cứng tay
lái để lãnh đạo quốc gia. Lập luận này không được chứng minh bằng thực
tế và thành quả. Sự ủng hộ của một thành phần thiểu số trong dân chúng
không thể gọi là thành quả của chế độ, khi đem đối chiếu với sự bất mãn
và đau khổ của thành phần đại đa số. Các thành quả nhất thời và ngắn hạn
không thể xem là thành công của chế độ, khi đem đối chiếu với những hậu
quả lớn lao và lâu dài mà chế độ ấy đã gây ra cho quốc gia và dân
chúng.
Người ta cũng hay nói đến “độc tài sáng suốt”. Từ ngữ
này không có nghĩa trong thời đại dân chủ. Không thể có một nhà độc tài
sáng suốt trong thế giới phức tạp ngày nay. Lý thuyết tự do dân chủ
không chấp nhận chế độ độc tài, và không cho rằng nhà độc tài có thể
sáng suốt được.
Ông Ngô Đình Diệm đã dẹp các giáo phái và như
thế có hẳn là ông không có tinh thần giáo phái không ? nếu định nghĩa
giáo phái thoát ra từ từ ngữ Sectarism, thì rõ ràng là ông Diệm cũng rất
nặng tinh thần giáo phái. Trong một xã hội đa tôn giáo như Việt Nam
không thể có quốc giáo, cũng không thể chấp nhận ưu thế chính trị của
bất cứ tôn giáo nào. Do đó, chánh quyền không thể nằm trong tay một tôn
giáo, hoặc điều khiển, lãnh đạo bởi một tôn giáo. Thực tế chánh trị dưới
chế độ Đệ Nhứt Cộng Hòa đã biểu lộ rõ ràng ưu thế của Công giáo. Tổng
thống Ngô Đình Diệm là một tín đồ Công giáo, chánh sách cai trị của ông
tạo ưu thế cho tôn giáo của ông, đưa các tôn giáo khác vào vị trí thất
thế. Và như thế, là một tình trạng Sectarism, hoặc gọi là bè phái, hoặc
gọi là giáo phái.
Ông Diệm đã nêu cao khẩu hiểu “Dẹp lãnh
chúa, dẹp giáo phái”, nhưng khi ông nắm quyền cai trị, chế độ của ông
lại trở thành một chế độ mang đầy đủ tính chất của lãnh chúa và giáo
phái trên một bình diện cao hơn, là bình diện toàn quốc, thay vì bình
diện địa phương như trước ông.
Tuy nhiên, tại miền Trung, vấn
đề trở thành phức tạp và khó khăn hơn nhiều vì những lực lượng chống
đối ông Diệm không phải là tay sai của Pháp mà là những đảng Cách mạng
đã từng xả thân đấu tranh vừa chống Cộng vừa chống Pháp, và đã có lúc
ủng hộ ông Diệm trong và sau những nỗ lực vận động nắm chính quyền của
ông. Tuy nhiên, cuối cùng, chiến khu Ba Lòng ở Quảng Trị của Đảng Đại
Việt bị đánh tan. Chiến khu Nam Ngãi của Việt Nam Quốc Dân Đảng bị ông
Diệm ra lệnh cho sư đoàn Nùng càn quét dã man trong những năm 1955-1956 ở
các quận Quế Sơn, Tiên Phước, Duy Xuyên nhưng vẫn không tiêu diệt được
lực lượng có quá nhiều kinh nghiệm chiến trường và lòng yêu nước sắt đá
này. Ông Ngô Đình Cẩn phải dùng thủ đoạn “Đoàn kết thỏa hợp” mới lôi kéo
được đơn vị võ trang gần 2.000 tay súng về hợp tác để rồi sau đó cấp
lãnh đạo chính trị, quân sự của họ đều bị tù đày.
Ngoài ra
phải kể đến vua Bảo Đại, người đã bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng, người
đã từng một thời được ông Diệm tung hô vạn tuế khi ông còn làm quan Nam
triều. Với Bảo Đại, ông Diệm đã phải dùng đến những hình thức đấu tranh
có vẻ dân chủ hơn qua một cuộc trưng cầu dân ý (23/10/1955) để biểu
diễn cho Chính phủ và Quốc hội Hoa Kỳ lúc bấy giờ đang thẩm định khả
năng chính trị của ông. Ý nghĩa của cuộc truất phế này đã được ông Đoàn
Thêm phân tích rõ ràng trong cuốn Những Ngày Chưa Quên nhưng tôi cũng
xin sẽ bổ túc và triển khai trong chương VI vì những oái oăm lịch sử của
biến cố này.
Như vậy, từ năm 1956, ông Diệm là một Tổng
thống hợp hiến và hợp pháp của một quốc gia Việt Nam theo chế độ Cộng
Hòa (dù ngày 26/10/1955 mới chỉ ban hành Hiến ước tạm thời), có cường
quốc số một thế giới là Hoa Kỳ ủng hộ và có đại đa số dân chúng miền Nam
Việt Nam sẵn lòng sống chết với ông. Thực dân Pháp đã biến mất, chính
quyền Cộng sản miền Bắc là mối đe dọa minh nhiên và tức thời, cho nên
toàn dân đoàn kết nhất trí sau lưng ông để đương đầu với mối họa mới.
Công việc đầu tiên là cải tổ hai định chế lớn chi phối sinh hoạt quốc
gia: bộ máy công quyền và bộ máy quân đội. Với sự yểm trợ về ngân quỹ và
kế hoạch của Mỹ, ông biến quân đội Việt Nam Cộng Hòa thành một thứ quân
đội Hoa Kỳ bản xứ, ít nhất là trên mặt hình thức và điều hành. Hệ thống
tổ chức, quân phong, quân kỷ, quân nhu, quân dụng cho đến những chi
tiết nhỏ nhặt như cách chào, đôi giày, khẩu phần ăn,... đều đến từ và
rập theo khuôn mẫu Hoa Kỳ.
Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa ra
đời, hiến pháp có 1 điều bất hủ rất phản dân chủ là “Tổng thống lãnh đạo
quốc gia” cũng đã quy định tính cách phân quyền và xác định những định
chế ở thượng tầng để quản trị đất nước. Viện trợ Hoa Kỳ và sự yểm trợ
của các nước trong thế giới tự do đã nâng uy tín của ông lên cao, kết
quả cuộc trưng cầu dân ý với tỷ số phiếu thắng 98.16% (kết quả chính
thức của Bộ Nội vụ: 5.721.735 phiếu cho ông Diệm trên 5.828.907 tổng số
phiếu) đã, dù sao, xác định sự kiện toàn dân sẵn sàng hợp tác với ông.
Quả thật, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã nắm được đầy đủ yếu tố Thiên Thời,
Địa Lợi, Nhân Hòa, tức là cả thời, cả thế và cả lực, đã nắm được cơ hội
ngàn vàng để đưa quê hương xứ sở đến phú cường và hùng mạnh. Lịch sử và
dân tộc chỉ cần ông quyết liệt khước từ mọi liên hệ xấu xa với quá khứ,
chỉ cần ông thành thật đặt quyền lợi tổ quốc trên quyền lợi gia đình,
chỉ cần ông thực hiện dân chủ và đoàn kết thực sự, thì chỉ với ba điều
kiện đó mà thôi, ông Diệm đã trở thành anh hùng dân tộc, cứu tinh dân
tộc rồi.
Đau xót thay, ông đã không những không tôn trọng ba
điều kiện đó mà chính ông và thành phần lãnh đạo cao cấp nhất của đất
nước là các anh em ông, cũng không ý thức được điều này. Cho nên bánh xe
lịch sử đã quay lại nghiền nát ông, cho nên dân tộc đã đứng lên khước
từ chế độ ông. Hệ quả đó không phải chỉ chấm dứt khi chế độ ông bị tiêu
diệt mà còn kéo dài cho đến mùa Xuân năm 1975, điều mà tôi sẽ nói ở các
chương sau.
-o0o-
Trở lại ngày 19/11/1954, sau khi
tướng Nguyễn Văn Hinh từ giã Việt Nam về Pháp, tướng Vận trốn khỏi Nha
Trang, và miền Trung đã hoàn toàn tự chủ, tự quản, tôi rời Sài Gòn về
Nha Trang giữ chức Tư lệnh phó Phân khu Duyên Hải dưới quyền của Đại tá
Phạm Văn Đổng. Trước khi rời phòng của ông Võ Văn Hải trong dinh Độc
Lập, nơi mà Đại tá Lễ và tôi đã tạm trú gần hai tháng trời, bác sĩ Bùi
Kiện Tín, lúc bấy giờ đã là Bộ trưởng Bộ Thông tin, trao cho tôi một xấp
tài liệu nói về điều lệ, mục đích và hệ thống tổ chức của Phong Trào
Cách Mạng Quốc Gia để nhờ tôi về tổ chức Phong trào này tại các tỉnh
thuộc quyền tôi trách nhiệm. Bác sĩ Tín trình bày cho tôi biết việc tổ
chức Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia là do sáng kiến của các ông Trần
Chánh Thành, Trần Trung Dung, Trần Quốc Bửu, Bùi Kiện Tín... muốn đưa ra
một phong trào nhân dân làm hậu thuẫn chính trị cho ông Diệm. Theo bác
sĩ Tín thì phong trào này ủng hộ chế độ ở mặt nổi và đảng Cần Lao Nhân
Vị thì điều động phong trào ở mặt chìm, cũng như Việt Minh là đoàn thể
mặt nổi mà đằng sau thì có đảng Cộng Sản Đông Dương chỉ đạo trong 10 năm
kháng Pháp.
Lúc bấy giờ, vẫn còn một số người Pháp ở Việt
Nam mà đa số có liên hệ đến mạng lưới tình báo Pháp để yểm trợ cho các
tổ chức chống đối Thủ tướng Diệm. Ở Nha Trang vẫn còn Tòa Đại diện Pháp,
vẫn còn sĩ quan cố vấn ở các trường hải quân và không quân, vẫn còn một
tiểu đoàn Sénégalais đóng ở Colona gần phi trường. Tại Cam Ranh, cách
Nha Trang 50 cây số, vẫn còn hải quân Pháp và cơ quan y tế thuộc quân
đội Pháp. Vì người Pháp còn hiện diện và còn ngấm ngầm phá hoại Thủ
tướng Diệm nên các Tỉnh trưởng, Trưởng ty, Công chức Việt Nam vẫn còn e
sợ người Pháp. (Như Tỉnh trưởng Nguyễn Trân ở Khánh Hòa, mỗi lần tôi tổ
chức biểu tình chống Pháp thì ông lại tìm cớ đi Phan Rang hoặc đi Sài
Gòn để lẩn tránh; hoặc như Phó tỉnh trưởng Lưu Văn Châm, khi nghe Trung
tá Thái Quang Hoàng, Tỉnh trưởng Bình Thuận, đọc diễn văn đả kích người
Pháp thì lắc đầu tỏ vẻ sợ sệt).
Vì kẻ thù trực tiếp và thực
sự của ông Diệm lúc bấy giờ là người Pháp, mà các giới chức dân sự địa
phương lại vẫn còn e dè nên tôi phải lấy quân đội làm chủ lực nòng cốt
và phát động để đi tiên phong trong việc xây dựng Phong Trào Cách Mạng
Quốc Gia, với hy vọng có thể gây được sự phấn khởi và tin tưởng cho phía
dân sự cũng như quần chúng. Đại tá Phạm Văn Đổng, vị chỉ huy trực tiếp
của tôi vốn là một sĩ quan thân Pháp nhưng ông là một người khôn ngoan
thâm trầm cho nên vẫn để tôi hoạt động chính trị, hoạt động tổ chức
Phong trào mà không can thiệp ngăn cấm, ông Đổng chọn thái độ đứng ngoài
chính trị và chỉ lo hoạt động quân sự thuần túy.
Chẳng bao
lâu, tôi đã tạo dựng được một phong trào chính trị rầm rộ trong hàng ngũ
quân nhân tại Nha Trang với những cơ cấu nhịp nhàng. Thấy anh em quân
nhân gồm có hàng vạn người hăng say hoạt động cho Phong trào với những
buổi học tập, xuống đường, những buổi công tác xã hội, lại thấy anh em
quân nhân rất dứt khoát thái độ khi đi tháo gỡ những bảng hiểu, tên phố,
tên đường, tên cơ quan bằng tiếng Pháp, còn các cổng trại đơn vị quân
đội thì treo đầy những biểu ngữ “Bài Phong”, “Đả Thực”, “Diệt Cộng”,
những biểu ngữ hoan nghênh Thủ tướng Diệm cùng với cờ quốc gia và cờ
Phong trào hiên ngang tung bay trước gió, các “ông dân sự” và quần chúng
bấy giờ mới bớt sợ người Pháp. Có hậu thuẫn quân đội rồi và thấy quần
chúng bắt đầu giác ngộ rồi, tôi bèn bắt đầu phát động Phong trào Cách
Mạng Quốc Gia về phía dân sự. Lúc bấy giờ, trong giới trí thức và công
chức tại Nha Trang đã có một số người tin tưởng vào Thủ tướng Diệm và
Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia như các bác sĩ Nguyễn Đình Kình, Đỗ Cao
Minh (hiện ở Pháp), giáo sư Hà Huy Liêm,... tôi bèn mời ông Võ Văn
Trưng, Trưởng ty học chánh, làm Chủ tịch Tỉnh bộ Phong trào ở Khánh Hòa
và Nha Trang. Phong trào phát triển nhanh chóng làm cho ngân quỹ trở nên
dồi dào, do đó mà chẳng mấy chốc trụ sở Tỉnh bộ Phong trào được dựng
lên và mang lại niềm tin cụ thể cho đồng bào, công chức và cán bộ. Đã
thế, giáo sư Hà Huy Liêm (trường trung học Võ Tánh, Nha Trang) và kỹ sư
Nguyễn Mạnh Hoàn (hiện ở California), những ủy viên tuyên nghiên huấn
của phong trào lại là những nhân vật có kinh nghiệm đấu tranh, có tài
hùng biện động viên và kích thích được quần chúng trong các buổi thuyết
trình hoặc biểu tình, nên khí thế của Phong trào mỗi ngày càng một tăng,
tổ chức của Phong trào một ngày càng trưởng thành trên cả hai mặt lượng
lẫn phẩm. Tôi có thể nói mà không ngại ngùng rằng ngoại trừ thời Việt
Minh mới cướp chính quyền năm 1945, chưa khi nào tỉnh Khánh Hòa và thị
xã Nha Trang có một phong trào chính trị bừng bừng lửa cách mạng như
thời 1955, 1956, dưới ngọn cờ của Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia do tôi
lãnh đạo tại miền thùy dương cát trắng, dù nơi đó dân chúng vốn hiền hòa
và không hiếu động. Một vài kỷ niệm mà tôi nhắc lại sau đây tuy chỉ có
tính cách địa phương, không gây được những chấn động to lớn, nhưng quả
thật đã là những chứng tích cách mạng của một phong trào nhân dân mà
động cơ thúc đẩy lớn lao và duy nhất là tình cảm giải phóng sau những
năm dài áp bức. Những kỷ niệm đó bây giờ chỉ là những vang bóng của một
thời xa xưa nhưng chắc chắn vẫn còn là những âm vang rộn ràng trong lòng
những chiến hữu của tôi hiện còn sống nơi hải ngoại hay kẹt lại trong
nước, mà tôi vẫn luôn ghi nhớ rằng không có họ thì không thể có được cao
trào cách mạng đó.
Nào là lúc vận động quần chúng tấn công
đơn vị Tây Đen Sénégalais ở Colona, khiến Pháp đặt toàn căn cứ trong
tình trạng báo động tác chiến và dùng xe cứu hỏa và quân khuyển để phản
công lại khiến một số học sinh bị thương. Nào là lúc bao vây Trụ sở Ủy
Hội Quốc Tế để cuối cùng huy động dân chúng xông vào trụ sở ném đá gây
thương tích trầm trọng cho hai đại tá Việt Cộng (đi điều tra về việc cán
bộ ở Phú Yên bị dân chúng nổi lên giết chết), khiến họ phải nhờ máy bay
Pháp trốn về Sài Gòn tức khắc.
Tôi cũng muốn nhắc lại vụ
Phong trào cầm đầu đoàn biểu tình kéo đến khách sạn Beau Rivage để áp
lực sĩ quan Pháp phải giữ thái độ khách quan, và buộc các thành viên Ấn
Độ và Ba Lan phải gửi một cái chổi và cục đá và một bản án ra Hà Nội cho
ông Hồ Chí Minh. Và chắc chắn các chiến hữu cũ của tôi cùng đồng bào ở
Nha Trang không thể nào quên được lễ tưởng niệm tướng Trình Minh Thế tại
công viên trước ga xe lửa của thành phố Nha Trang, một buổi lễ vừa cảm
động vừa hào hùng để tôn vinh người chiến sĩ cách mạng thực sự hy sinh
cho tổ quốc tại cầu Tân Thuận Sài Gòn. Sau buổi tưởng niệm, toàn thể
quân dân đã đồng thanh yêu cầu ông tỉnh trưởng Nguyễn Trân đổi tên công
viên thành ra công trường Trình Minh Thế và nhờ vậy mà tên tuổi cũng như
hình bóng của vị lãnh tụ Cao Đài Liên Minh, xuất thân từ núi Bà Đen
(Tây Ninh), đã sống với người dân Nha Trang tại miền đất thùy dương cho
đến tháng 4/1975. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không quên được dòng nước mắt
của vị đại diện Cao Đài khi đọc diễn văn ca ngợi người anh hùng áo vải,
5 năm trời thân cô thế yếu mà dám đương đầu với hai kẻ thù của dân tộc:
Cộng Sản và Thực Dân, người anh hùng đã chết tức tưởi trong một trường
hợp mà cho đến ngày nay vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn của lịch sử.
Sở dĩ cái chết của tướng Thế cho đến ngày nay vẫn còn nằm trong vòng bí
ẩn của lịch sử vì chưa có một chứng nhân nào hay một nhà viết sử nào
chứng minh được một cách xác quyết kẻ nào, hay tổ chức nào, đã chủ
trương giết tướng Thế. Ký giả Brown (trong The New Face of War) cho rằng
cái chết của tướng Thế ở vào một trường hợp có thể đưa đến nhiều nghi
vấn về một vụ ám sát. Ông Nhị Lang (trong hồi ký: Phong Trào Kháng Chiến
Trình Minh Thế) thì gán cho tướng Mai Hữu Xuân đã giết tướng Thế. Còn
tướng CIA Lansdale, người bạn chí thiết của tướng Thế, người đã lôi kéo
ông về với ông Diệm, thì không nói ai là kẻ chủ mưu giết tướng Thế.
Trong hồi ký In The Midst of War, Lansdale kể lại rằng ngày 3/5/1955,
ông đang ngồi trong dinh Độc Lập, trong lúc ông ta đang tỏ lời giận dữ
Tổng thống Diệm vì ông Diệm có những lời lẽ khinh mạn và vong ân đối với
tướng Thế thì bỗng ông Nhu đi vào cho biết tướng Thế đã từ trần trên
tàu Tân Thuận trong lúc đang chỉ huy trận tấn công Bình Xuyên. Nghe được
tin này, ông Diệm khóc và xin lỗi Lansdale. Lansdale nắm vai ông Diệm
và ngỏ lời an ủi. Lansdale là bạn chí thân của tướng Thế, lại là một
nhân vật CIA tài ba vậy mà không điều tra nổi ai đã ám hại vị tướng Cao
Đài Liên Minh. Trong lúc đó thì dư luận Sài Gòn lại cho rằng ông Ngô
Đình Nhu là kẻ chủ mưu giết tướng Thế. Sở dĩ có dư luận ấy vì Nhu nổi
tiếng là người thủ đoạn “ăn cháo đá bát” và đã phản bội lại bạn bè từ
sau khi cầm được chính quyền, huống gì ông Nhu lại không muốn bất kỳ ai
có thể trở thành anh hùng để có thể qua mặt được anh em ông Diệm.
Về phần tôi thì đoán rằng cái chết của tướng Thế chỉ có thể là do người
Pháp chủ mưu. Tôi đoán vậy vì lúc bấy giờ chỉ có một đơn vị quân đội
Pháp đang đóng rất gần nơi tướng Thế chỉ huy, ngoài đơn vị đó ra không
còn một lực lượng quân sự nào khác nữa (tướng Thế bị một viên đạn xuyên
từ tai này sang tai kia). Người Pháp hết sức căm thù tướng Thế vì trải 5
năm kháng chiến, tướng Thế đã nhiều phen làm đảo điên người Pháp, đặc
biệt vụ bỏ bom tại Nhà hát lớn Sài Gòn ngày 9/2/1952 sát hại hơn 50
người cả Pháp lẫn Việt.
Cũng vì cảm phục tấm lòng yêu nước, ý
chí cao cả và hành động gan dạ của người chiến sĩ Cao Đài Liên Minh nên
tôi đã tổ chức một buổi lễ kỷ niệm hết sức long trọng để tôn vinh vị
anh hùng núi Bà Đen 5 năm nằm gai nếm mật. Cũng từ đó trước mặt tôi,
trên bàn giấy tại văn phòng Tư lệnh Phân Khu Duyên Hải (Nha Trang), chân
dung tướng Trình Minh Thế đã thay chổ chân dung thủ tướng Ngô Đình
Diệm.
Cuối cùng, tôi muốn kể lại chuyện trực diện ngăn cấm
viên Tổng Tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương lúc đó là Đại tướng
Jacquot, không được di chuyển trong lãnh thổ Phân khu Duyên Hải, dù lúc
bấy giờ quân đội Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào Bộ Tư lệnh Pháp. Nguyên
vị tướng Tổng Tư lệnh này muốn đi kinh lý thăm các đơn vị khác đóng ở
Nha Trang và Cam Ranh. Từ Đà Lạt xuống, tướng Jacquot đi xe mang cờ tam
tài và cờ hiệu 4 sao, có một trung đội nhảy dù Pháp và một Đại úy chỉ
huy hộ tống. Nhưng đến Tháp Chàm thì đoàn xe bị Trung úy Trần Văn Đại bố
trí một đại đội chặn lại và bắt ông ta phải quay lui (Trung úy Đại nay
là Đại tá, hiện ở Mỹ). Quả là một việc hết sức bất ngờ và mất thể diện
cho quân đội Pháp, vì vậy tướng Jacquot giận lắm nhưng không giám ra
lệnh nổ súng nên cuối cùng, tuy ông ta đã đổi từ thái độ trịch thượng
hùng hổ đến ôn hòa năn nỉ, nhưng ông vẫn bị khước từ không thể tiếp tục
lộ trình. Trung úy Đại cho ông ta biết Trung úy đang làm theo lệnh của
tôi, nghĩa là thể hiện ý chí của cao trào cách mạng của quân dân vùng
duyên hải, rằng tất cả người Pháp, dù ở bất cứ tư thế nào cũng phải chịu
luật “nội bất xuất ngoại bất nhập”. Ngày hôm sau, tôi nhận được công
điện của Tổng Tham mưu Việt Nam (do Đại tá Trần Văn Đôn ký) khiển trách
tôi tại sao lại vô lễ với vị Đại tướng “Tổng Tư lênh quân đội Liên Hiệp
Pháp”. Tôi liền đánh công điện trả lời không ngại ngùng: “Tôi chỉ biết
có một vị Tổng Tư lệnh là Thiếu tướng Lê văn Tỵ mà thôi”. Sau này, khi
Thủ tướng Diệm đến Nha Trang có hỏi lại tôi về vấn đề đó, vấn đề mà
tướng Jacquot khi về Sài Gòn đã đến dinh Độc Lập trách móc thủ tướng,
tôi bèn trình bày: “Thưa Cụ, chúng tôi coi người Pháp là kẻ thù vì họ
phá rối Cụ, họ muốn lật đổ Cụ tức là chống lại dân tộc Việt Nam, thì
chúng tôi đương đầu với họ là lẽ tất nhiên. Tôi làm cho tướng Jacquot
suy nghĩ và hy vọng nhờ đó mà ảnh hưởng phần nào đến đường lối chính trị
của người Pháp”. Ông Diệm gật gù nở nụ cười thỏa mãn.
Tôi
nhắc lại vài hoạt động “Bài Phong, Đả Thực, Diệt Cộng” tại vùng Phân khu
Duyên Hải đó là vì muốn nhắc lại sự đóng góp của dân và quân vùng này
cho sự thành công của ông Diệm khi ông phải đương đầu với ba kẻ thù của
ông ta mà cũng là kẻ thù của dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ. Đã đành rằng
“Chiến khu Đông” đặt tại Phan Rang và những hoạt động của Phong Trào
Cách Mạng Quốc Gia vùng Duyên Hải không có tầm vóc đủ lớn để có ảnh
hưởng chính trị sâu đậm bằng những biến cố xảy ra ngay tại thủ đô Sài
Gòn, nhưng âm vang của nó như là một biểu hiện ý chí của quần chúng có
làm cho quân dân toàn quốc lên tinh thần, có làm họ quyết liệt hơn trong
việc ủng hộ thủ tướng Ngô Đình Diệm hay không; thái độ của ba anh em
ông Diệm sau đó mấy tháng đối với Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia tại Nha
Trang sẽ chứng minh điều này.
Những hoạt động đó, dù bây giờ
chỉ còn là kỷ niệm trong tận đáy cùng của ký ức, và dù ký ức đó đang
phai nhạt dần vì năm tháng và vì đời sống ly hương nơi đất người, tôi
vẫn muốn trang trải lên trang sách này để một lần trong đời được tạ ơn
và tạ tội với các đồng chí bạn bè ngày xưa trong Phong Trào Cách Mạng
Quốc Gia miền duyên hải. Nếu cuộc biểu tình do bà Ngô Đình Nhu tổ chức
vào năm 1956 đã được nhóm bồi bút của ông Diệm sau đó (và đến tận bây
giờ) tâng bốc lên đến tột đỉnh những gì mà ngôn ngữ ma quái có thể diễn
tả được, thì tại sao tôi lại không chân thành viết ra đây như viết về
những anh hùng lặng lẽ nhưng sừng sững, những nỗ lực không đo lường được
bằng ngôn ngữ của các bạn bè đồng chí của tôi. Tại Sài Gòn, bà Nhu có
ông anh chồng làm tổng thống với một bộ máy công quyền, có cả bóng lẫn
hình đồ sộ của Mỹ đè nặng trên tình hình chính trị Việt Nam lúc bấy giờ,
có sẵn cả một khối lượng của người Công giáo di cư để làm hậu thuẫn.
Còn tại Khánh Hòa, nơi mà cái tên Ngô Đình Diệm nghe không kêu bằng và
không được biết bằng tên của ông Hồ Chí Minh, nơi mà phong trào phải tự
lực cánh sinh không có được một hậu thuẫn hay yểm trợ nào, nơi mà đảng
Con Ó của tướng Hinh và quyền lực của đại tá Trương Văn Xương đang tê
liệt hóa ông Ngô Đình Cẩn và các thuộc hạ người Công giáo tại miền
Trung, và nơi mà người dân chỉ biết dùng lòng yêu nước chân thành để
phân định thời cuộc và đo lường lòng người... thì những hoạt động của
chúng tôi, ở một kích thước nào đó, quả thật là không thể đo lường được
bằng ngôn ngữ mà chỉ có thể kể lại như những hoài niệm mà thôi.
Tôi cần viết ra đây những hoài niệm đó là cũng để tạ tội với những anh
em Đại Việt tỉnh bộ Phan Rang do ông Hồ Trần Chính cầm đầu, và những
Phật tử bốn tỉnh đã vì thấy chuyện tôi làm, nghe lời tôi hô hào khích
động mà dấn thân hoạt động hăng say để rồi sau đó mấy năm lại thành nạn
nhân của đảng Cần Lao phóng tay phát động chính sách chia rẽ kỳ thị.
Viết ra đây để tạ tội với nhóm các bác sĩ trong Quân y viện Nguyễn Huệ,
những giáo sư Võ Tánh như các ông Lê Tá, Nguyễn Mậu, Võ Hồng... những
giáo sư Bồ Đề như các ông Lê Bá Chẩn, Ưng Thi, Quách Tấn chỉ vì mấy năm
sau chống đối ông Diệm (có người còn giám tổ chức buổi kịch “Tần Thủy
Hoàng” để lên án ông Diệm) mà, lúc bấy giờ, đang quá say mê lãnh tụ Ngô
Đình Diệm, tôi đã nghĩ rằng những vị ấy là Việt gian. Nhưng rõ ràng là
họ đã sáng suốt hơn tôi, đã nhìn xa thấy rộng hơn tôi. (Giáo sư Lê Tá,
hiệu trưởng trường Võ Tánh Nha Trang, bị đổi vào Phan Thiết khác với ông
Lê Tá tỉnh trưởng Phú Yên. Hai cụ Lê Tá hiện sống ở Mỹ và đều là những
nhân chứng của thời đại. Còn gia đình Cụ Lê Bá Chẩn, ngoài việc dạy học ở
trường Bồ Đề, còn là Phó Tỉnh trưởng Nha Trang, bị ông Tỉnh trưởng
Nguyễn Trân gán cho cái tội “Cộng Sản” mặc dù ai cũng biết Cụ Chẩn đã
từng là kẻ thù của Cộng Sản).
Xây dựng xong cả thượng tầng
lẫn hạ tầng cơ sở của Phong Trào Cách Mạng Quốc gia tại Khánh Hòa để làm
thí điểm gương mẫu, tôi bèn đi khắp bốn tỉnh thuộc phân khu Duyên Hải,
từ Phú Yên đến Bình Thuận, để thành lập các tỉnh bộ khác của Phong trào
cho những tỉnh đó. Dân chúng bốn tỉnh miền cực Nam Trung Việt cũng như
dân chúng trên toàn quốc sau gần 10 năm chiến chinh khói lửa dưới chế độ
cũ đã chán nản chiến tranh, đã mất niềm tin vào những lời hứa hẹn, bỗng
bừng dậy nhìn về chân trời mới, một chân trời vinh quang và rất nhiều
hy vọng nhờ khí thế cách mạng đang dâng tràn từ thành thị đến thôn quê.
Khí thế đó có được nội dung cách mạng là nhờ ý thức và tâm chất của
những người như ông Lê Tá, nguyên Tỉnh trưởng Phú Yên, ông Hồ Trần
Chánh, bác sĩ Nguyễn Trọng Thiện, bác sĩ Đỗ Cao Minh... những bằng hữu
và chiến hữu đã cùng tôi hoạt động cho Phong Trào Cách Mạng Quốc gia, và
đã trở nên hội viên Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng hay Dân biểu Quốc Hội
sau này. (Ba nhân vật trên hiện sống ở hải ngoại).
Sau khi hoàn thành việc xây dựng bộ
Xem tiếp: Chương 6
VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi
Tác giả: Hoành Linh Đỗ Mậu
Chương 6
BẢO ĐẠI
VÀ NGÔ ĐÌNH DIỆM
Sau
khi lực lượng Bình Xuyên bị đánh tan vào đầu tháng 5 năm 1955, nhìn vào
tình hình chính trị miền Nam lúc bấy giờ ta thấy không còn một cá nhân
hay một tổ chức nào đủ uy tín quần chúng và thực lực chính trị hoặc quân
sự để hồi phục lại được tình trạng cũ, nghĩa là tình trạng của những
chính phủ thân Pháp. Hướng đi của thời đại và vận động lịch sử đã chuyển
hóa nước ta vào một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của người dân đích thực
làm chủ nước mình.
Trên mặt lý thuyết, lúc bấy giờ Việt Nam có
thể trở thành một nước theo chế độ quân chủ lập hiến (như Anh, Nhật,
Hòa Lan, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Thái Lan…) nghĩa là giữ lại thực thể
hoàng gia như một biểu tượng quốc gia vô quyền và vô hại để tránh một
biến đổi quá độ trong xã hội đóng kín và bảo thủ như xã hội ta, hoặc có
thể trở thành một nước theo chế độ Cộng Hòa Đại Nghị (như Mỹ, Pháp…) để
dứt khoát hẳn với nền quân chủ quá khứ và trao quyền làm chủ cho người
dân. Đó là trên mặt lý thuyết. Trên thực tế, quần chúng đã chọn lựa rồi
vào ngày 30 tháng 4 năm 1955 tại Tòa Đô Chánh Sài Gòn qua nghị quyết của
Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng, nghị quyết đòi truất phế Bảo Đại và tạm
thời trao quyền lãnh đạo đất nước cho ông Diệm trong lúc chờ đợi Hiến
Pháp và Quốc Hội định đoạt chế độ tương lai của đất nước. Đó là một nghị
quyết lịch sử, phát xuất trung thực từ ước vọng của quần chúng.
Tuy
nhiên vì cái nghị quyết hợp lòng dân và hợp thời đại nhưng lại không
hợp ý anh em ông Diệm nên anh em ông Diệm và mưu sĩ Trần Chánh Thành
phải dùng đến thủ đoạn phân hóa, bẻ gẫy và hạ uy tín Hội Đồng hầu cướp
lấy chính quyền mà không cần chờ đợi những quy định của Hiến Pháp và
Quốc Hội. Ngày 10 tháng 5, anh em ông Diệm đơn phương thành lập chính
phủ chính thức, gồm toàn người thân tín và những kẻ đầu hàng, không cần
hỏi ý kiến của Hội Đồng, cũng không có một nhân vật nào của Hội Đồng
được mời tham dự chính phủ đó.
Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng do
ông Nguyễn Bảo Toàn làm chủ tịch, ông Hồ Hán Sơn làm Phó, và ông Nhị
Lang giữ chức Tổng thư ký, nhưng Hội Đồng còn có một ban Thường Vụ cũng
do ông Toàn kiêm chức Chủ tịch với các ủy viên là: Văn Ngọc, Hà Huy
Liêm, Nguyễn Phổ, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Hữu Khai, Huỳnh Minh Ý, Đoàn
Trung Còn, Nguyễn Văn Quyền. (Bốn nhân vật Nhị Lang, Hoàng Cơ Thụy,
Huỳnh Minh Ý, Nguyễn Hữu Khai hiện đang có mặt tại Mỹ và Pháp ).
Để
đạt mục đích nắm chặt chính quyền, anh em ông Diệm bèn ra lệnh cho nhóm
ủy viên thân tín là các ông Hà Huy Liêm, Huỳnh Minh Ý, Nguyễn Hữu Khai,
… cầm đầu thành phần thân ông Diệm trong Hội Đồng gây mâu thuẫn, chống
đối nội bộ. Đồng thời anh em ông Diệm kết tội Hội Đồng qua Tổng thư ký
Nhị Lang là đã thâm lạm biển thủ số tiền trên một triệu đồng, số tiền mà
ông Diệm (qua Bộ Thông Tin) đã cấp cho Hội Đồng hoạt động.
Kẻ
viết không dám nói rằng ông Nhị Lang và Hội Đồng đã thâm lạm biển thủ
tiền bạc, nhưng trong bối cảnh loạn lạc lúc bấy giờ thì sự chi tiêu của
Hội Đồng thật khó mà chứng minh bằng giấy trắng mực đen. Huống chi số
tiền dù có bị thất thoát thì cũng đã chủ yếu sử dụng cho việc cứu vãn
địa vị ông Diệm qua cơn sóng gió ngặt nghèo.
Trước hành động
phản bội của anh em ông Diệm, ông Nguyễn Bảo Toàn bèn từ chức Chủ tịch
Hội Đồng để phản đối ông Diệm. Bị hăm dọa, ông lui vào bóng tối trong
lúc Phó chủ tịch Hồ Hán Sơn trốn về Tây Ninh và bị giết một cách bí mật.
Dư luận lúc bấy giờ cho rằng ông Nhu đã mua chuộc được tướng Cao Đài
Nguyễn Thành Phương để ông này cho thuộc hạ hạ sát ông Hồ Hán Sơn. (Sau
này tướng Nguyễn Thành Phương cũng bị ông Ngô Đình Diệm mua chuộc để
phản lại giáo chủ Phạm Công Tắc mà rồi cuối cùng ông Nguyễn Thành Phương
cũng bị Ngô Đình Nhu phản bội). Còn Tổng thư ký Nhị Lang, người đã từng
cầm súng dọa bắn tướng Nguyễn Văn Vỹ để cứu ông Diệm, bị công an của
tướng Nguyễn Ngọc Lễ và Bộ Thông Tin của ông Trần Chánh Thành đòi bắt bớ
và làm khó dễ. Tuy các mưu sĩ Ngô Đình Nhu, Trần Chánh Thành có hạ nhục
ông Nhị Lang (nghĩa là gián tiếp hạ nhục Hội Đồng) nhưng rồi cũng nương
tay vì sợ mang tiếng phản bội quá trắng trợn. Tuy nhiên ông Nhị Lang
vốn là người có kinh nghiệm đấu tranh và có lẽ vẫn còn bị ám ảnh vì cái
chết khả nghi của tướng Trình Minh Thế, lại sợ ông Ngô Đình Nhu lắm thủ
đoạn nên vội vã trốn lên Cao Miên, làm kẻ lưu vong để cùng với những
người lưu vong khác hoạt động chống nhà Ngô. Ngoài ra, luật sư Hoàng Cơ
Thụy vốn hết lòng ủng hộ ông Diệm từ khi ông Diệm mới về nước, nhưng
trước thủ đoạn của ông Ngô Đình Nhu, cũng trở thành người đối lập quyết
liệt với chế độ Diệm.
Phê bình những biến cố trên đây, nhà
viết sử Buttinger, vốn có mặt tại Sài Gòn lúc bấy giờ và thường gặp gỡ
các ông Diệm, Nhu, đã cho ta một bức tranh đầy hình ảnh rối rắm, xảo
quyệt, giành giật, biến ảo ly kỳ mà tôi muốn ghi chép lại nguyên văn
bằng tiếng Anh để cho những sự kiện lịch sử được trình bày trung thực:
In
other tenebrous phases of these power struggles in South Vietnam, the
truth can be glimpsed through the tightly woven screen of intrigues.
This is not the case in the chain of events that began in the afternoon
of April 30, 1955, when a gathering of some 200 persons at the Saigon
town hall constituted itself as a General Assembly of Democratic and
Revolutionary Forces of the Nation. Although the outcome of these events
is known, what actually happened at various critical stages is not. The
picture that emerges from the available conflicting reports is that of a
weird kaleidoscope made up of hate, lust for power, greed, cowardice,
and treachery.[1]
(Tạm dịch: Trong những giai đoạn tối tăm
khác của những màn tranh giành quyền lực tại miền Nam Việt Nam thì sự
thật vẫn có thể thoáng thấy được qua những màn mưu mô đan dệt chặt chẽ
vào nhau. Nhưng rất khó để biết rõ sự thật của những chuỗi biến cố đã
bắt đầu vào chiều ngày 30 tháng 4 năm 1955, khi một nhóm khoảng 200
người họp nhau tại tòa Đô Sảnh Sài Gòn tự gọi là “Hội Đồng Nhân Dân Cách
Mạng”. Mặc dầu ta đã biết rõ kết quả của chuỗi biến cố này, nhưng
chuyện gì đã thật sự xảy ra trong những giai đoạn quan trọng đó thì
không ai biết được. Những tường trình mâu thuẫn về những biến cố này cho
thấy một hình ảnh loạn xạ như nhìn qua kính vạn hoa, đầy màu sắc thù
ghét, tranh quyền, tham lam, hèn hạ, và gian lận).
Còn ký giả Francis J. Corley cho ta biết như sau:
“Vì
thành phần lãnh đạo của Hội Đồng gồm một số nhân vật thoát thai từ nhân
dân mà ra với đầy ắp tâm chất cách mạng như Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán
Sơn, Nhị Lang, Trình Minh Thế… và vì nội dung của nghị quyết chỉ cho ông
Diệm cái quyền tạm thời chứ chung kết vẫn dành cho Quốc Hội, tức là
nhân dân, định đoạt, cho nên đã làm cho những người có truyền thống
chính trị phong kiến và có tham vọng lãnh tụ như anh em ông Diệm phải
bất mãn, nổi giận và cảm thấy bị đe dọa” [2].
Hội Đồng Nhân
Dân Cách Mạng với tên tuổi của lãnh tụ Hòa Hảo Nguyễn Bảo Toàn và trong
hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ quả thật là một tổ chức đầy uy tín, một
tổ chức “làm lịch sử”. Hội Đồng đưa ra một quyết nghị vừa tạo chính
nghĩa cho quốc gia, vừa cứu ông Diệm qua cơn khó khăn nguy hiểm, nhưng
vì sự phản bội của anh em ông Diệm mà Hội Đồng tan rã, chết yểu. Còn
những người muốn làm cách mạng để cải đổi xã hội thì thân thế gặp phải
cảnh lao lung đầy bất trắc, với một tương lai mịt mờ. Hội Đồng giải tán
rồi, anh em ông Diệm bèn lật lá bài chính trị cuối cùng để qui thiên hạ
về một mối, tức là lá bài truất phế Bảo Đại, vị Quốc trưởng hợp pháp, sự
kiện mà tôi sẽ đi vào chi tiết trong phần sau của chương này.
Tuy
nhiên trước khi tiếp tục nói về cuộc cờ oan trái giữa hai ông Bảo Đại
và Ngô Đình Diệm, tôi muốn mở một dấu ngoặc ở đây để có mấy lời nói về
ông Nhị Lang và tác phẩm Phong Trào Kháng Chiến Trình Minh Thế (PTKCTMT)
của ông.
PTKCTMT ngoài phần chính yếu nói về cuộc đời và sự
nghiệp của tướng Thế, tại chiến khu cũng như lúc về Thành, ngoài phần
nói về hoạt động đấu tranh của ông Nhị Lang, tác giả còn muốn làm nổi
bật một số biến cố mà tôi cần phải có những lời chất chính:
-
Nguyên nhân nào buộc ông Nhị Lang phải lấy quyết định bỏ nước ra đi sang
Cao Miên lưu vong để sống cuộc đời cơ cực và tủi nhục.
- Những phân trần dài dòng về điểm ông bị nghi ngờ đã hoạt động cho Việt Cộng tại Cao Miên.
- Thái độ chống Cộng hung hãn quá khích của tác giả.
- Cái chết của tướng Trình Minh Thế và của tướng Ba Cụt Lê Quang Vinh.
- Lòng ngưỡng mộ vô biên của tác giả đối với hai ông Diệm – Nhu.
Rất
tiếc là trong tác phẩm PTKCTMT tác giả đã không ghi lại một số biến cố
vốn đã được nêu ra trong bài hồi ký Nguồn gốc nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt
Nam được đăng trên tuyển tập Quê Hương số Xuân năm 1977 xuất bản tại
Costa Mesa, Hoa Kỳ, những biến cố có thể làm sáng tỏ thêm thái độ chính
trị của tác giả dưới thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam.
…
Năm 1956, ông (Nhị Lang) phải lưu vong qua Cam Bốt. Đến năm 1960, ông
bí mật trở về nước, nửa đường bị quân Giải phóng bắt tại Đồng Tháp Mười,
sau đó được thả ra rồi lại bị chính phủ Diệm bắt lại trong cuộc đảo
chánh Nhảy Dù ngày 11-11-1960. Ông ngưng hoạt động một thời gian cho đến
năm 1970, ông lại được bầu làm Tổng thư ký Ủy Ban Phối Hợp Hành Động
các Chính Đảng…
Với sự hiểu biết của cá nhân tôi về Hội Đồng
Nhân Dân Cách Mạng, về chế độ Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ, nay phối hợp
với những lời phân trần của ông Nhị Lang trong tác phẩm PTKCTMT cùng với
lời giới thiệu trên tuyển tập Quê Hương tôi muốn nêu lên những ý kiến
sau đây:
- Ông Nhị Lang bảo rằng sở dĩ ông phải lưu vong sang
Cam Bốt là để tránh sự tranh chấp giữa hai ông Văn Thành Cao và Nguyễn
Thành Phương, và vì chán nản bởi thái độ bất thân thiện của một số người
của chế độ Diệm, đặc biệt là Bộ trưởng Trần Chánh Thành và tướng Nguyễn
Ngọc Lễ, còn đối với anh em Tổng thống Diệm thì ông Nhị Lang trước sau
vẫn một lòng kính phục. Trái lại, theo tôi thì ông Nhị Lang ra đi vì
khiếp sợ và thâm thù anh em ông Diệm, ra đi với mưu đồ hợp tác với kẻ
thù của Việt Nam Cộng Hòa để lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Còn hai ông
Nguyễn Ngọc Lễ và Trần Chánh Thành chẳng qua chỉ là kẻ thừa hành, kẻ
nhận mệnh lệnh của anh em ông Diệm để hạ nhục ông Nhị Lang trong lúc hai
ông Diệm–Nhu bề ngoài vẫn tỏ ra còn ưu ái ông ta.
Sau khi Hội
Đồng Nhân Dân Cách Mạng bị giải tán, chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn phải lui
vào hoạt động bí mật để chống nhà Ngô, hai ông Trình Minh Thế và Hồ Hán
Sơn bị chết một cách bí ẩn thì ông Nhị Lang đâm ra lo sợ cho tương lai,
số phận của mình. Đã thế, ông Nhị Lang còn bị điều tra về thâm lạm tiền
bạc, bị hai ông Thành và Lễ làm nhục, ông Nhị Lang đâm ra uất hận và căm
thù tự cho là đã bị phản bội. Ngoài ra, ông Nhị Lang còn bất mãn việc
anh em ông Diệm nâng tướng Văn Thành Cao, một kẻ đối thủ của Nhị Lang,
lên thay thế tướng Trình Minh Thế làm cho ông ta càng ganh ghét và thù
hận anh em ông Diệm hơn.
Ngoài ra, sự việc mà ông Nhị Lang từ
Cam Bốt trở về Việt Nam một cách bí mật trước khi biến cố Nhảy Dù xảy ra
để rồi sau biến cố đó, lại bị chế độ Diệm bắt bớ và suốt thời gian còn
lại của chế độ Diệm, ông Nhị Lang phải sống âm thầm không có một hoạt
động nào, càng cho thấy mối căm thù to lớn của ông ta đối với anh em ông
Diệm.
Tôi lại còn nghi ngờ trong những ngày sống lưu vong tại
Cam Bốt, có thể ông Nhị Lang đã có liên hệ với Việt Cộng (qua một cán
bộ Cộng Sản tên là Ngô Điền) và đã cộng tác với chính quyền Sihanouk
trong mưu đồ lật đổ chế độ Diệm. Những lời phân trần dài dòng của ông về
cuộc sống tại Cam Bốt, sự lưu tâm của Quốc trưởng Sihanouk đối với ông,
sự trở về nước của ông trước khi biến cố Nhảy Dù xảy ra (biến cố mà tôi
nghĩ rằng gián điệp Pháp đã cho Sihanouk biết trước), rồi lại vụ Việt
Cộng bắt ông tại Đồng Tháp Mười để rồi lại thả ra, cho phép tôi nghi ngờ
ông Nhị Lang đã có liên hệ với Cộng Sản và đã cộng tác với Sihanouk.
Một
người già dặn đấu tranh như ông Nhị Lang há lẽ bỏ nước ra đi lưu vong
chỉ vì bất mãn với hai ông Nguyễn Ngọc Lễ và Trần Chánh Thành? Một người
có thành tích đấu tranh chống Cộng như ông há lẽ Việt Cộng bắt được rồi
thả ra một cách dễ dàng? Ngoài ra ông liên hệ với chính quyền Sihanouk
làm gì khi mà Sihanouk đang coi Việt Nam Cọng Hòa là kẻ thù?
Vấn
đề còn lại là tại sao ông Nhị Lang căm thù chế độ Diệm đến như thế mà
trong tác phẩm PTKCTMT và trong bài Hồi ký đăng trên tuyển tập Quê Hương
ông lại hết lời ca ngợi anh em Tổng thống Diệm và tuyên dương “Phong
trào phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm”. Tiếc thương hai ông Diệm Nhu tại
sao mãi đến năm 1970 Nhị Lang mới vào nghĩa trang thăm mộ hai ông?
Số
là từ sau khi chế độ Diệm bị lật đổ, cũng như giới báo chí, giới chính
trị đảng phái đã tố cáo lẫn nhau. Dư luận đã lên án ông Nhị Lang chạy
theo nhà Ngô năm 1955 phản bội lại các đảng phái, phản bội Việt Nam Quốc
Dân Đảng mà ông Nhị Lang từng là một đảng viên kỳ cựu, giúp cho nhà Ngô
củng cố được địa vị và làm cho các đảng phái bị tiêu diệt. Từ đó, Nhị
Lang thay đổi lập trường, trở lại đề cao và bênh vực nhà Ngô để chính
nghĩa hóa việc làm của mình vào thời 1955. Ngoài ra, Nhị Lang còn bị dư
luận tố cáo là đã hoạt động cho Sihanouk và Việt Cộng như Bộ trưởng Trần
Chánh Thành đã từng lên án, vì thế ông Nhị Lang lại càng phải tỏ ra
mình vẫn là người chống Cộng quyết liệt. Muốn thế, ông Nhị Lang phải dựa
vào uy thế nhóm Công giáo Cần Lao đang là hậu thuẫn chính trị chính yếu
của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và đang tổ chức phong trào “Phục Hồi
Tinh Thần Ngô Đình Diệm” mà cao điểm là vào năm 1970, năm mà ông Nhị
Lang tái xuất giang hồ.
Trong mưu đồ xóa tội cho ông Diệm và
để tỏ ra mình tiếc thương Tổng thống Diệm và ông Nhu một cách ngoạn mục
hơn, ông Nhị Lang đã hư cấu ra việc ông Nguyễn Ngọc Thơ vì có bà con
hoạt động cho Việt Cộng nên đã làm áp lực Tổng thống Diệm sát hại tướng
Lê Quang Vinh. Nếu quả ông Thơ thân với Việt Cọng như ông Nhị Lang tố
cáo thì tại sao suốt 9, 10 năm trời, ông Diệm lại giao cho ông Thơ những
chức vụ quan trọng trong chính quyền, đặc biệt là chức Phó Tổng thống
kiêm nhiệm Kinh Tế và Tài Chánh. Ông Thơ quê ở Long Xuyên, vùng sinh
sống và ảnh hưởng của Hòa Hảo, ông Thơ lại có nhà cửa đồ sộ, có hàng
trăm mẫu đất, có bà con mồ mả cha ông, ông Thơ dại gì mà gây thù oán với
một lực lượng giáo phái đông đảo, can trường và quyết liệt sẵn sàng trả
thù cho Đức Thầy, cho các đồng chí đồng đạo. Huống gì tướng Lê Quang
Vinh lại là bà con gần của ông Thơ, việc này cựu Bộ Trưởng Nội Vụ Lâm Lễ
Trinh (hiện ở Mỹ) biết rõ. Chẳng qua ông Thơ cũng như đại đa số nhân
dân miền Nam lúc bấy giờ tin tưởng vào tương lai thanh bình hạnh phúc
của đất nước do ông Diệm lãnh đạo, nên ông đã nhận lời chiêu dụ tướng Ba
Cụt về đầu hàng cũng như đã chiêu dụ tướng Nguyễn Giác Ngộ và rất nhiều
phần tử Hòa Hảo khác để giúp ông Diệm ổn định miền Tây. Ông Thơ có ngờ
đâu ông Diệm lại ra lệnh cho tòa án xử tử người anh hùng Hòa Hảo của quê
hương ông. Bảo rằng ông Thơ làm áp lực với ông Diệm giết Lê Quang Vinh,
vậy thì ai đã áp lực ông Diệm để ông Nguyễn Bảo Toàn, một lãnh tụ Hòa
Hảo, bị ông Diệm ra lệnh sát hại? Không cần phải dài dòng mà chỉ cần đọc
“PTKCTMT” cũng thấy rằng ông Nhị Lang không đưa ra những chứng cớ cụ
thể nào, chỉ có những suy luận một chiều mà lại dám xác quyết việc ông
Thơ làm áp lực ông Diệm để sát hại tướng Lê Quang Vinh cũng như việc Mai
Hữu Xuân giết tướng Trình Minh Thế.
Cũng trong mục đích muốn
đánh tan dư luận nghi ngờ mình có liên hệ với Việt Cộng, ông Nhị Lang tỏ
ra hung hãn hơn khi đưa ra nhiều nhận xét, nhiều kế hoạch chống Cộng vô
lý như trường hợp ông đã chê trách Tổng thống Truman hay trường hợp
dùng du kích đánh chiếm hai tỉnh địa đầu của Bắc Việt.
Hết
lòng đề cao Tổng thống Diệm ưu ái thủy chung với tướng Trình Minh Thế,
ông Nhị Lang bỏ lơ việc ông Diệm đã có lời lẽ khinh thị tướng Thế trước
mặt Lansdale làm cho Lansdale nổi giận bảo ông Diệm đừng có những lời lẽ
khinh chê tướng Thế như vậy nữa [3].
Hai anh em ông Diệm–Nhu
trong bước đường nguy khốn đã phải đích thân lên tận núi Bà Đen thỉnh
cầu tướng Thế đem quân về thành cứu giúp, hành động đó có khác gì ba anh
em Lưu Quan Trương đến Ngọa Long Cương thỉnh cầu Khổng Minh về phò tá,
thế mà ông Diệm nỡ khinh thị tướng Thế khi quân đội Bình Xuyên đã bị
đánh bật qua bên kia cầu chữ Y. Như vậy ông Diệm có phải là người vong
ân bội nghĩa không hở ông Nhị Lang?
Phê bình tác phẩm PTKCTMT,
bà Linh Bảo trong tạp chí Việt Nam Hải Ngoại (San Diego) của luật sư
Đinh Thạch Bích đã viết như sau nơi mục Giữa Chúng Mình:
...
Theo LB biết thì Hùng vào chiến khu ra mắt tướng Thế với một cuốn sách
tên là “Con đường tranh đấu của chúng ta”. Tướng Thế đã cho in cuốn ấy
để làm tài liệu lý luận căn bản của phong trào kháng chiến quốc gia.
Nghe đâu anh (Nhị Lang) lúc vào khu với tướng Thế đã ra mắt với một bài
thơ ca tụng lãnh tụ, có câu đầu là: “Trình Minh Thế, đấng anh hùng cứu
quốc!” Hai cách ra mắt tương phản nhau như thế không thấy anh nói đến.
Điều LB ngạc nhiên là: anh Hùng chẳng những là một chiến sĩ hữu danh,
không những có tên mà lại có đến ít nhất là ba tên; trong cuốn sách anh
viết anh Hùng thành ra một… chiến sĩ vô danh! Các anh em khác ở đây cũng
đã chuyền tay đọc cuốn sách của anh. Đọc xong, những ai từng ở chiến
khu Trình Minh Thế cũng như những ai tuy không vào khu nhưng đã sống
trong thời kỳ ấy, đều có những ý kiến khá… ly kỳ. Hình như có một vài
người bỗng đâm… ngứa ngáy định viết thêm, hay viết những “lịch sử ký sự”
cùng một giai đoạn để bổ túc hay bổ khuyết, hay điều chỉnh, hay.. và… ,
hầu giúp người đời sau có thêm tài liệu mà so sánh… “lịch sử” và “ký
sự”. LB hỏi anh ĐTB về 10 điều luật tử hình trong chiến khu Trình Minh
Thế. Anh ấy chỉ nhớ có 5 điều. Anh có nhớ đủ không? [4]
Những
lời phê phán trên đây chẳng những cho thấy tác phẩm lịch sử ký sự của
ông Nhị Lang có rất nhiều sai lầm khiếm khuyết mà quan trọng hơn, còn
lên án ông Nhị Lang thiếu tác phong cách mạng và đã có những hành động
đáng phải xử tử.
Ngoài nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại ra,
nguyệt san Thanh Niên Hành Động số ra mắt ngày 1-10-1985 phát hành tại
San Jose, trong mục Điểm Sách đã có những phân tách tỉ mỉ hơn về tác
phẩm PTKCTMT. Thanh Niên Hành Động còn so sánh sách ông Nhị Lang với
sách của một ký giả Mỹ và của Lansdale, và đã cho thấy nhiều sự kiện
trái nghịch. Để kết luận, Thanh Niên Hành Động viết như sau:
…
Vì vậy, chúng ta không ngạc nhiên khi đối chiếu giữa cuốn hồi ký của
Nhị Lang và của Lansdale có những sự kiện được viết ra rất trái nghịch…
Chúng
ta đọc để có một cái nhìn chín chắn cho hành động và sự hy vọng. Cái
nhìn chín chắn đó là biết rõ hơn nữa, ai là những thành phần bán đứng
dân tộc… Một cuộc cách mạng có chính nghĩa phải phát xuất từ nguyện vọng
của đại đa số nhân dân. Phải đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết. Một
lực lượng cách mạng thể hiện được con đường chính nghĩa này không thể
“hợp tác” với những bọn người thối nát nhưng luôn mang danh nghĩa “quốc
gia”, một chế độ phi dân tộc như Ngô Đình Diệm. Đó là bài học cần được
rút tỉa…[5]
Còn ông Lê Nhật Thăng (trên tạp chí Ánh Sáng Dân Tộc) thì viết thẳng rằng:
Tác
phẩm “Phong Trào Kháng Chiến Trình Minh Thế” chỉ đem lại một thông điệp
đáng chú ý là tích cực chống Cộng Sản, còn lại chỉ là sự tập họp những
khen ngợi bốn người. Đó là Trình Minh Thế, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu
và “Le Moi” (cái Ta) còn ai ai cũng bị tác giả chê trách, sỉ vả hết
thảy.
Riêng đối với tôi, sau khi tác phẩm PTKCTMT ra đời, ông
Nhị Lang và ông Phan Xứng đã có nhã ý gởi tặng tôi một cuốn với lời đề
tặng đầy thân tình gọi tôi là cố tri. Sau khi đọc xong sách, tôi bèn gởi
thư để cám ơn tác giả đồng thời nêu lên một số sự kiện mà tôi không
đồng ý với ông Nhị Lang. Nói rõ ra như thế để thấy rằng viết lại đoạn
hồi ký trên này tôi không có ác ý với người bạn cũ mà tôi chỉ muốn làm
sáng tỏ lịch sử để hậu thế khỏi hiểu lầm cha ông.
Rất tiếc,
tấm lòng chân thành của tôi đã bị ông Nhị Lang phản ứng hết sức hạ cấp
và thô bạo. Ông viết báo để nhục mạ tôi, gán cho tôi là Cộng Sản và kích
thích những thành phần Công giáo cuồng tín ở hải ngoại chống phá tôi.
Nhưng sự thật vẫn là sự thật, nhiều độc giả đã viết bài đăng báo, viết
sách để vạch trần tâm địa xấu xa và hành xử không lương thiện của ông
Nhị Lang: như bà Yến Vân và cụ Vũ Trọng Kỳ trên báo Viet Press, như cụ
Nguyễn Duy Hiệp trên báo Chấn Hưng, như ông Trương Thiện trên báo Tia
Sáng, như nhà văn Lê Nhật Thăng trên báo Saigon Bolsa và Ánh Sáng Dân
Tộc, như nhóm ông Vũ Đăng Quý và nhà văn Xuân Tước trên tờ Văn Hóa
Colorado và đặc biệt là cuốn “Lột Mặt Nạ Những Con Thò Lò Chính Trị” của
ông Lê Trọng Văn. Tất cả đã lột trần thủ đoạn gian trá và thiếu đạo đức
của ông Nhị Lang và cuốn “Phong Trào Kháng Chiến Trình Minh Thế” của
ông ta.
-o0o-
Trở lại biến cố truất phế Bảo Đại, một
biến cố lớn đã lột cả xác lẫn hồn của đất nước để biến thiên từ kỷ
nguyên quân chủ qua kỷ nguyên dân chủ, tôi xin có vài hàng về thân thế
và sự nghiệp của hai nhân vật tiêu biểu cho hai kỷ nguyên đó: ông Bảo
Đại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn; và ông Ngô Đình Diệm, vị Tổng
thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa.
Triều đại nhà Nguyễn bắt
đầu kể từ khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802 cho đến khi chấm dứt dưới
triều Bảo Đại năm 1945, đã trải qua 10 đời vua, mà gác qua một bên tội
ác đã “rước voi về giày mả tổ” thì nhà Nguyễn vẫn có nhiều vị vua đã có
công tô điểm vàng son cho lịch sử nước nhà.
Trước hết tôi xin sơ lược về vua Gia Long, vị vua sáng lập ra triều Nguyễn, qua cái nhìn của nhà viết sử Phạm Văn Sơn:
Ở
vua Gia Long, từ con người quân nhân đến con người chính trị có nhiều
điểm đặc biệt khiến ta phải coi vua Gia Long cũng là một nhân vật kỳ
liệt của lịch sử trên nhiều phương diện. Nhân vật này có nhiều điều hay
mà cũng có nhiều điều dở.
Chiếu theo cội rễ thì Gia Long thuộc
về một dòng họ có nhiều danh tướng, giàu mưu cơ, đảm lược, nhẫn nại,
cần cù, thông minh, trác lạc, nhờ vậy mà trong thời trung suy, Nguyễn
Ánh mới 17 tuổi đã cầm đầu được binh tướng, nắm vững được lòng dân, bốn
phen vinh nhục ở đất Gia Định, nhiều lần xiêu bạt ngoài khơi, trôi giạt
cả vào đất Xiêm, nương nhờ triều đình Vọng Các, có lúc phải hy sinh cả
tính mạng (diệt trừ giặc Miên và Mã Lai cho Xiêm La) để mua chuộc thiện
cảm của người hòng có chỗ nương thân. Trên 20 năm ròng, vua Gia Long
xông xáo khắp các chiến trường, từ vùng Đồng Nai ra Thuận Hóa, vượt biển
trèo non trong vùng khói lửa mịt mùng mà vẫn không bao giờ lui bước,
con người ấy thật đáng là một chiến sĩ. Trước điểm này ta không thể
không vỗ tay khen ngợi Thế Tổ nhà Nguyễn.
Về chính trị, khi
sức cùng lực tận, Gia Long đã cho giám mục Bá Đa Lộc đem con mình là
Hoàng tử Cảnh đi cầu cứu với nước Pháp và luôn luôn giao thiệp khéo léo
với các lân bang để lấy ngoại viện, nhờ đó mà chẳng những người Âu Châu
mà cả các quân Xiêm, Miên, Lào thường qua lại đánh Tây Sơn giúp mình.
Ngoại giao đến thế là khéo léo tuy rằng mang người ngoài về đánh anh em
trong nhà là làm một hành động không đẹp so với việc 12 Sứ quân trên tám
thế kỷ về trước. Nhưng đến khi sự nghiệp đã thành, ngôi quốc chủ đã
vững, Gia Long thay đổi luôn thái độ, lên tiếng kẻ cả với Xiêm, đặt
Miên, Lào vào vòng lệ thuộc. Tiến thoái kinh quyền đến thế quả thật là
mau lẹ, quỉ quyệt… Tuy vậy, vua Gia Long cũng có một ít sở đoản như bạc
bẽo và tàn nhẫn với các trung thần, như hành động trả thù dã man với đối
thủ cũ là anh hùng Nguyễn Huệ, như đã biết dã tâm của cường quốc Tây
phương mà không có kế sách để giữ cho nước khỏi bị “Bạch Họa”.[6]
Sau
vua Gia Long, tuy các đế quốc Tây phương (đặc biệt là Pháp) bắt đầu
phát động âm mưu thôn tính nước ta mà các vũ khí ban đầu là các dịch vụ
buôn bán và sự phối hợp chặt chẽ với sinh hoạt truyền bá đạo Công giáo
La Mã, nhưng dưới thời ba vị vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, quốc gia
vẫn còn hoàn toàn độc lập và nắm giữ chủ quyền.
Ba vị vua này,
nếu không phải là anh quân thời loạn thì cũng đã chứng tỏ là minh vương
thời bình, một lòng vì nước thương dân, phát huy được những thành quả
của cha ông để lại dựa trên nền luân lý nhân nghĩa của nền Tam giáo. Chỉ
tiếc rằng trên mặt phát triển kinh tế và vận dụng nhân tài vật lực của
đất nước, họ vẫn còn nặng tinh thần bảo thủ, chủ trương bế môn tỏa cảng
không chịu tiếp nhận những trào lưu văn hóa và kỹ thuật của nước ngoài
để hòa hóa trong một chính sách cải cách duy tân cho nước nhà thêm hùng
mạnh. Đặc biệt dưới triều vua Tự Đức, ảnh hưởng Tống Nho của “Thiên
Triều Trung Hoa” lại được dịp phát triển mạnh mẽ trong một xã hội tương
đối ổn định, mà những ước lệ từ chương trở thành những mẫu mực đo lường
sức mạnh văn hóa của quốc gia.
Cũng dưới triều đại của ba vị
vua này, tuy có gửi một số phái đoàn (Bùi Viện đi Mỹ là một) để nghiên
cứu nước ngoài, nhưng tinh thần bài ngoại triệt để biểu hiện qua chính
sách cấm đạo, giết đạo đã vừa mắc mưu các cố đạo vừa tạo ra cái cớ cho
đế quốc Pháp nắm được chính nghĩa (tại Pháp) để xua quân xâm lấn giang
sơn. Đã có nhiều người của đời sau, hoặc vì những xúc động chủ quan hoặc
vì những thiên kiến bè phái, đã nhìn chính sách này một cách phiến diện
và đơn giản để lên án nặng nề ba vị vua trên mà không chịu đặt mình vào
khung cảnh của thời đại đó để suy nghiệm và phê phán cho khách quan
hơn.
Theo ý kiến riêng của tôi thì trên mặt chính trị, và đặc
thù hơn trên bình diện phát triển quốc gia và giao hệ quốc tế, quả thật
các ông vua này đáng bị phê phán khắt khe. Nhưng ngược lại, trên mặt
nhân văn, thì các vị vua đó chỉ phản ánh ý nguyện của tuyệt đại đa số
quần chúng mà thôi. Bốn chữ “Bình Tây, Sát Tả”trong những bài hịch của
các phong trào Văn Thân và Cần Vương do các sĩ phu chủ xướng là một
trong những chủ điểm đấu tranh của các bản cương lĩnh chính trị này, để
thể hiện cái ước vọng lớn lao và đại chúng của nhân dân là “giết Đạo
trước rồi đánh Tây sau”.
Nếu trên mặt chính trị, các vị vua đó
có một chính sách khôn khéo hơn thì Công giáo La Mã đã được du nhập vào
Việt Nam và may ra được hòa hóa thành một thứ Công giáo Việt Nam như
trường hợp đạo Phật cách đây hai ngàn năm. Lỗi lầm chính trị của các vị
vua này, sự cấu kết giữa chính quyền Pháp và Giáo hội La Mã Vatican lúc
bấy giờ, những tham vọng mở mang nước Chúa của hội truyền giáo, và
truyền thống chống ngoại xâm thể hiện chính đáng nhưng không đúng mức
của dân ta. Đó là bốn yếu tố chính chi phối trạng huống lịch sử lúc bấy
giờ và làm cho Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp quên đi chức năng rao
truyền đức tin của Chúa trong nhân ái, để chỉ còn tiến hành nhiệm vụ cao
cả của mình như một trận chiến xâm thực văn hóa. Sự cố tình phê phán hệ
quả của chính sách cấm đạo chỉ dựa trên mặt chính trị mà không đặt nó
trong bối cảnh nhân văn của thời đại lúc bấy giờ, là một thái độ thiếu
trách nhiệm và thiếu lương thiện của một số nhà viết sử muốn trốn tránh
sự thật mà thôi!
Bây giờ thì lịch sử đã chứng minh một cách
quá rõ ràng và quá đầy đủ rằng chính cái tham vọng xâm thực văn hóa của
Hội Truyền Giáo Pháp đã là nguyên nhân chủ yếu và lợi khí hữu hiệu của
chính sách xâm lăng quân sự chính trị của đế quốc Pháp lúc bấy giờ.
Trong tiến trình cấu kết này, những khuôn mặt của Alexandre de Rhodes,
Pigneau de Béhaine, Puginier, Pellerin, Taberd… đã là những chính trị
gia lão luyện khoác áo tu sĩ để tiến hành một thủ đoạn chính trị cổ điển
nhất nhưng cũng hữu hiệu nhất: chia để trị. Họ chia dân ta thành hai
khối lương giáo bất khả hòa và bất khả dung.
Lịch sử của Hội
Truyền Giáo Hải Ngoại gắn liền một cách chặt chẽ với lịch sử bành trướng
ảnh hưởng của Pháp tại Đông Dương. Một trong những sáng lập viên của
Hội, ông Pallu, đã đóng vai trò liên lạc giữa hai triều đình Pháp và
Huế. Vị giáo sĩ nổi tiếng nhất của Hội, Giám mục Adran Pigneau de
Béhaine, đã chính thức gia tăng mối quan hệ này: Sự can thiệp của các
hội viên của Hội Truyền Giáo vào chính tình Việt Nam đã dẫn đến hành
động xâm lược võ lực đầu tiên (của Pháp) [7].
Một số trí thức
Thiên Chúa giáo Việt Nam như các ông Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung…
hơn một trăm năm sau, trong khi suy nghiệm về sự bế tắc nhân văn của nền
văn minh Tây phương và trong nỗi niềm khổ hận của một người Việt Nam
lận đận, cũng đã nhìn thấy và nêu lên rõ sự thật này:
Tuy
nhiên lịch sử đã cho thấy rằng từ khi Giáo Hội (La Mã) trở thành “Quốc
Giáo” thì cây gươm tinh thần của thánh Phao Lồ đã luôn luôn bị cám dỗ để
biến thành cây gươm thép thật sự. Kể từ dạo ấy, mỗi khi hoàn cảnh cho
phép, Giáo Hội đã không ngần ngại để dùng thế lực tiêu diệt các tôn giáo
khác, đập phá các đền thờ “Tà thần”, đốt sách vở ngoại đạo, và đốt luôn
bọn người bị xem là “Lạc Đạo” nếu không chịu sửa sai [8].
Cái
hoàn cảnh không may đó đã đến với dân ta từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 20, để
dân Việt trở thành đối tượng, nạn nhân của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại
Pháp và đoàn quân xâm lăng Pháp. Cho nên ông Lý Chánh Trung mới hạ bút
viết mấy lời tâm huyết như là lời thú tội:
Ngày nay, mọi người
đều đồng ý rằng việc cấm đạo dưới các nhà vua triều Nguyễn là một hành
động bất nhân và sai lầm. Nhưng nếu chúng ta tự đặt mình vào địa vị các
nhà vua ấy, vào cái khung cảnh tâm lý thời đó, thì có lẽ chúng ta khó có
thể làm khác hơn [9].
“Khó có thể làm khác hơn” đó chỉ là
thái độ “tìm về dân tộc” của những người Công giáo Việt Nam kiểu Nguyễn
Văn Trung, Lý Chánh Trung. Còn đối với anh em ông Diệm, đối với nhóm
Công giáo Cần Lao thì lời than trách của Lý Chánh Trung chỉ làm cho anh
thêm mang tội: cái tội “lạc đạo”, cái tội “thân Cộng”, cái tội “bênh vực
hành động những kẻ ngoại đạo”. May thay, Lý Chánh Trung vô tình được
nhà trí thức Công giáo Etienne Vũ Đức Hạnh gián tiếp trưng bày bằng cớ
về cái tội thực dân của các giáo sĩ ngoại quốc và cái tội làm tay sai
cho kẻ xâm lăng của giáo dân Việt Nam dưới thế kỷ 19. Trong tác phẩm La
place du Catholicisme dans les relations entre la France et le Viet-Nam
de 1851 à 1870, dựa vào những tài liệu của một số tác giả Pháp và một số
giáo sĩ ngoại quốc, Etienne Vũ Đức Hạnh đã viết như sau:
Sous
Tự Đức, un grand nombre de catholiques Vietnamiens sont d’intelligence
avec les Francais, certes, mais cette collaboration est plus materielle
que formelle. Comment expliquer cet état de fait sans ajouter aux
raisons précédentes les circonstances politiques à la fois troublées et
troublantes de l’époque?
Les ambitions des Chúa Trịnh dans le
Đàng Ngoài, des Chúa Nguyễn dans le Đàng Trong et celles momentanées des
frères Tây Sơn ne connaissent plus de limites. Le peuple qui en
souffre, surtout celui du Bắc Kỳ a la nostalgie des rois Lê dont it
garde un souvenir ineffaceable. Bien que Chúa Nguyễn Phúc Ánh ait unifié
l’Empire, la dynastie des Nguyễn n’est pas aimée; elle est à jamais
considérée comme l’engeance d’insurpateurs. La fidèlité des populations
appelle la résurrection des Lê et à la recherche d’un rejeton royal. Ce
qui explique le succès du prétendant catholique Lê Duy Phụng.
Au
jour de Tự Đức, chrétiens et non chrétiens à l’instigation des
missionnaires, résistent ici sourdement, là ouvertement au roi régnant
mieux à la dynastie des Nguyễn pour plusieurs motifs. Les Nguyễn ont
volé le trône des rois Lê. Leurs descendants actuels ont manqué le
mandat du ciel pour avoir traité avec les envahisseurs et cédé à
l’ennemi une portion du territoire national. Une seule différence: les
chrétiens font cause commune avec les francais, les non chrétiens, les
combattent”[10].
Tạm dịch:
Dưới triều Tự Đức, một số
đông người Thiên Chúa giáo Việt Nam quả đã làm tình báo cho Pháp, nhưng
sự cộng tác ấy chỉ có tính cách thực tiễn hơn là quy thức. Làm sao có
thể giải thích được tình trạng ấy nếu không thêm cho những nguyên do ấy,
những hoàn cảnh chính trị rối rắm đáng phải lo âu?
Tham vọng
của chúa Trịnh Đàng Ngoài, chúa Nguyễn Đàng Trong và cả anh em Tây Sơn
đều vô giới hạn. Tình trạng ấy làm cho nhân dân đau khổ, nhất là nhân
dân Bắc Kỳ vẫn hoài vọng nhà Lê mà họ đã có những kỷ niệm khó xóa mờ. Dù
chúa Nguyễn Phúc Ánh đã thống nhất giang sơn, nhưng nhà Nguyễn không
được thương mến và mãi mãi bị coi là những kẻ cướp quyền. Lòng trung
thành của dân chúng đòi hỏi sự phục hồi nhà Lê và tìm kiếm một hậu duệ.
Lý do đó giải thích cho sự thành công của Lê Duy Phụng, kẻ tự nhận là
người hậu duệ Thiên Chúa giáo của nhà Lê.
Dưới triều đại Tự
Đức, theo sự xúi dục của các giáo sĩ ngoại quốc, người Thiên Chúa giáo
và người không Thiên Chúa giáo kẻ thì chiến đấu âm thầm, kẻ thì công
khai để chống lại những nhà vua đang tại vị hơn là chống lại nhà Nguyễn
vì nhiều nguyên nhân. Nhà Nguyễn đã cướp ngôi vua nhà Lê. Những vua nối
quyền hiện tại thì không còn thiên mệnh để ký kết với quân xâm lăng và
nhượng một phần lãnh thổ cho kẻ thù. Chỉ khác nhau là: người Thiên Chúa
giáo thì hợp tác với Pháp trong một mục tiêu chung, còn người không
Thiên Chúa giáo thì chiến đấu chống lại.
Gác một bên việc
Etienne Vũ Đức Hạnh cố tình xuyên tạc lịch sử dân tộc, chúng ta thấy rõ
ràng ông ta đã hân hoan vinh danh hành động làm tay sai cho thực dân của
người Công giáo Việt Nam dưới thế kỷ 19.
Với cái tội phản
quốc đó của giáo sĩ ngoại quốc và giáo dân Việt Nam thì làm sao vua chúa
nhà Nguyễn lại không “cấm đạo, giết đạo”.
Nói cho rõ ra thì
từ ngày đạo Chúa du nhập vào Việt Nam từ giữa thế kỷ 16 cho đến đời Tự
Đức gần 300 năm trời, vua chúa nước ta với truyền thống hiếu hòa và bản
chất hiếu khách đã biết bao phen mở rộng vòng tay để cho giáo sĩ và giáo
dân tự do hành đạo. Khốn nỗi, các cố đạo “cứ được đằng chân lại lân
đằng đầu” trong mưu đồ thôn tính Việt Nam cho nên mới có tình trạng cây
muốn lặng mà gió chẳng ngừng, các vua chúa nhà Nguyễn phải cấm đạo, giết
đạo, sĩ phu Việt Nam phải phất cờ “Bình Tây Sát Tả”. Những hành động đó
tuy tàn ác nhưng lại là những biện pháp bắt buộc để cứu nước cứu dân
trong tình thế quê hương lúc bấy giờ, một quê hương loạn ly tang tóc do
chính các giáo sĩ và giáo dân gây ra mà nhà trí thức Công giáo Etienne
Võ Đức Hạnh lại cố tình để cao và bênh vực họ.
Vào cuối đời
vua Tự Đức, đất nước từ từ mất dần về tay người Pháp. Rồi đến năm 1884,
với hiệp ước ký kết giữa đại diện Pháp là Patenôtre và đại diện triều
đình An Nam là Nguyễn Văn Tường và Phạm Trọng Duật, thì nước Việt Nam bị
chia thành ba kỳ: Nam kỳ thuộc địa có quy chế như một tỉnh hạt của Pháp
quốc do một Thống đốc Pháp cai trị, Bắc kỳ Bảo hộ do một thống sứ Pháp
cai trị, và Trung kỳ Bảo hộ do một khâm sứ Pháp đứng đầu. Đối với xứ Bảo
hộ Trung kỳ từ Thanh Hóa đến Phan Thiết, Pháp vẫn giữ lại nền quân chủ
có vua và triều đình với chút hư quyền, hư danh. (Vì vậy, từ đây, kẻ
viết xin gọi nhà Nguyễn từ thời nước nhà bị đô hộ là nhà Mạt Nguyễn).
Thời
Mạt Nguyễn, trừ vua Đồng Khánh là một ông vua hiền hậu nhưng chỉ ngồi
trên ngai vàng được có ba năm rồi chết, còn những vị vua khác, có ông
thì là vua cách mạng, có ông thì thuộc loại vua bù nhìn.
Về cách mạng thì có:
Vua
Hàm Nghi (1884) bỏ kinh thành ra Tuyên Hóa (Quảng Bình) lập chiến khu,
phất cao ngọn cờ Cần Vương chống Pháp. Rồi vì thân cô thế yếu, lại bị
một tên Mường (Trương Quang Ngọc) phản bội bắt Ngài giao cho Pháp nên bị
Pháp đem đày ở Algérie.
Vua Thành Thái (1888-1920), lên ngôi
khi mới 10 tuổi, là vị vua thông minh uyên bác, thấm nhuần tư tưởng cách
mạng Trung Hoa và Nhật Bản, muốn thực hiện công cuộc cải cách quốc gia,
đưa dân tộc đến con đường tân tiến. Nhưng tất cả việc làm của ông đều
bị người Pháp ngăn trở, Vua tức giận giả cách điên rồ, ngấm ngầm xướng
xuất đưa thanh niên ra nước ngoài cầu học để dùng vào đại cuộc sau này.
Chính nhà vua cũng âm mưu xuất ngoại nhưng sự không thành nên năm 1907,
khi Pháp dò biết được vua liên lạc với Phong Trào Đông Du để cầu viện
Nhật Bản, bèn bắt ép vua thoái vị và đày qua đảo Réunion ở Ấn Độ Dương.
Vua
Duy Tân (trị vì từ 1907-1916) là con vua Thành Thái, còn nhỏ tuổi mà đã
nhiều phen bộc lộ nỗi căm thù thực dân Pháp. Nhân một buổi bơi thuyền
câu cá ở cửa Tùng (Quảng Trị), nhà vua ra một câu đối cho thượng thư
Nguyễn Hữu Bài, người của Pháp, để dò xem lòng dạ ông này như thế nào:
Ngồi trên nước khôn ngăn được nước,
Trót buông câu đã lỡ phải lần.
Đáp lại, thượng thư Nguyễn Hữu Bài khuyên nhà vua nên nhắm mắt chịu thua thời cuộc:
Ngẫm việc đời mà ngán cho đời,
Liều nhắm mắt tới đâu hay đó.
Vua
Duy Tân liền phán: “Thầy thì hay liều thôi chứ không bao giờ nghĩ cách
đương đầu với nghịch cảnh”. Tất nhiên, làm sao ông Nguyễn Hữu Bài, con
đẻ của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại, có thể đương đầu với thực dân Pháp
được.
Tuy nhiên, vua Duy Tân vốn ý chí bất khuất nên quyết tâm
đợi thời cơ để làm cách mạng phục hồi nền độc lập cho đất nước. Thế
chiến thứ nhất xảy ra đã là một cơ hội tốt đẹp, rồi lại gặp được các
đồng chí yêu nước như hai ông Trần Cao Vân và Thái Phiên hết lòng hỗ
trợ, nên Ngài bèn quyết định phất cờ khởi nghĩa. Chẳng may quốc vận còn
gặp lúc truân chuyên, việc đại nghĩa của vua Duy Tân thất bại, Ngài bị
bắt và bị đày qua đảo Réunion lúc mới 17 tuổi.
Trong thế chiến
thứ Hai, hoàng tử Vĩnh San (tức là vua Duy Tân) có một thời gian mang
cấp bậc Thiếu tá của Pháp. Ngày 10 tháng 6 năm 1945, Ngài đã lên tiếng
trên đài phát thanh Brazzaville thuộc Pháp, đại ý hô hào toàn dân Việt
Nam nên nghe theo tiếng gọi của tổ quốc mà đứng lên xây dựng nước nhà,
nêu cao danh dự cho giống nòi.
Ngày 26 tháng 12 năm 1945, Ngài
bị chết trong một tai nạn máy bay ở xứ Bangui thuộc Trung Phi. Theo dư
luận hồi đó thì cái chết thê thảm này có nhiều chi tiết bí ẩn, có giả
thiết cho rằng chính thực dân gây nên để chặn đường về nước của một nhà
ái quốc được toàn dân tín nhiệm [11].
Thế là nhà Mạt Nguyễn có
ba vị vua yêu nước và có tinh thần cách mạng bị Pháp bắt đi đày ở Châu
Phi. Sự kiện đó đã phần nào trực tiếp đóng góp cho quyết tâm đấu tranh
chống Pháp của sĩ phu trong nước và trở thành đề tài gây xúc động cho
nhiều văn nghệ sĩ yêu nước lúc bấy giờ. Nhà Nho Phan Quốc Quang, hiệu là
Thượng Tân Thị, quê ở Thừa Thiên, cảm xúc cảnh cha con vua Thành Thái
vì nước vì dân mà bị đọa đày, ông bèn thác lời vợ vua làm ra mười bài
thơ nhan đề là Khuê Phụ Thán được truyền tụng trong nhân gian mà vào
thời Pháp đô hộ, ai đọc lên cũng không cầm được nước mắt. Bài thơ nói
lên nỗi lòng cô đơn lẻ bóng của một người khuê phụ nơi quê nhà ngày đêm
mỏi mòn đợi chồng trông con:
Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự,
Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương.
Nỗi
đau xót của một người đàn bà trước thảm cảnh quê hương dâu bể, tử biệt
sinh ly, đã làm cho sông núi cỏ cây, vốn là vật vô tình mà cũng phải
“giọt lệ đầy vơi, can trường khô héo”.
Sau những vùng vẫy
tuyệt vọng của vua Duy Tân, các vị vua còn lại của nhà Mạt Nguyễn chỉ là
những đóm lửa le lói của một triều đại đang đến hồi suy tàn, nhất là
lúc đó chính quyền thực dân đã đủ thời gian và lực lượng để củng cố bộ
máy bảo hộ của họ, cũng như lúc đó quần chúng đã ý thức được nhiệm vụ
năng động đích thực của mình để đứng lên thay vua mà cứu nước.
Cho
nên hai vị vua còn lại là Khải Định và Bảo Đại chỉ hành xử như những vị
vua bù nhìn, hoặc cúi đầu tuân phục lệnh người Pháp như vua Khải Định,
hoặc cô đơn buông xuôi theo số mệnh như vua Bảo Đại mà thôi.
Thật
vậy, vua Khải Định (trị vì từ 1916–1925) bị sĩ phu lên án là Việt gian,
bù nhìn, khoán trắng việc nước vào tay thực dân Pháp. Cụ Phan Chu Trinh
đã từng gọi vua Khải Định là “Dân Tặc”, và năm 1922, khi vua Khải Định
sang Pháp dự cuộc triển lãm quốc tế, cụ Phan đã gởi một lá thư trách nhà
vua bảy điều: Tôn bậy quân quyền, Lạm hành thưởng phạt, Thích chuộng hư
văn, Xa xỉ quá mức, Phục sức lố lăng, Chơi bời vô độ, và Hành động ám
muội trong việc bang giao với Pháp.
Còn cụ Nghè Ngô Đức Kế,
hiệu là Tập Xuyên, chủ bút báo Hữu Thanh, năm 1924 thì lại châm biếm
bằng bài thơ lên án Khải Định như sau: [12]
HỎI GIA LONG
Ai về địa phủ hỏi Gia Long,
Khải Định thằng này phải cháu ông?
Một lễ tứ tuần vui lũ trẻ,
Trăm gia ba chục khổ nhà nông.
Mới rồi ngoài Bắc tai liền đến,
Năm ngoái sang Tây ỉa vãi cùng.
Bảo hộ trau dồi nên tượng gỗ,
Vua thời còn đó, nước thời không.
Vua
Bảo Đại (1925–1945), vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, là con trai độc
nhất của vua Khải Định, nhưng đặc biệt diện mạo cùng phong độ lại khác
hẳn vua cha. Ông có nét mặt chữ điền, đi đứng nghiêm trang, ăn nói đàng
hoàng, dáng điệu đường bệ chững chạc. Rất nhiều tài liệu cho thấy ông
Bảo Đại không phải là con ruột của vua Khải Định, vì vua Khải Định mang
bịnh bất lực không thể gần gũi đàn bà.
Vua Bảo Đại húy là Vĩnh
Thụy, sinh năm 1913 (Quý Sửu) tại kinh thành Huế. Ngày 28 tháng 4 năm
1922, ông được vua cha tấn phong làm Đông Cung Hoàng Thái Tử, nghĩa là
tước vị của một thái tử sẽ được quyền nối ngôi vua. Ngày 15 tháng 5 năm
1922, khi ông mới lên chín tuổi, thì được vua cha và chính phủ Bảo Hộ
cho đi Pháp du học. Trong thời gian ở Pháp, ông được vua Khải Định gởi
gấm cho ông Charles (một vị cựu khâm sứ Trung kỳ) để giám hộ như một
người cha nuôi săn sóc trông coi. Năm 1925, khi vua Khải Định băng hà,
Bảo Đại về nước để chịu tang và để làm lễ đăng quang lên ngôi Hoàng Đế.
Sau đó, ông trở lại Pháp để tiếp tục việc học cho đến năm 1932 thì về
nước vĩnh viễn, và chính thức tức vị để điều khiển triều đình An Nam.
Nhân
dân ta từ ngày bị Pháp đô hộ vẫn liên tục kiên cường chiến đấu chống
lại kẻ thù xâm lăng. Ngay cả dưới triều Khải Định mà việc nước hầu như
đã khoán trắng cho thực dân Pháp và cho Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp
qua ông Võ Hiển Nguyễn Hữu Bài (nhất là trong khoảng thời gian
1925–1932, từ khi vua Khải Định băng hà cho đến ngày ông Bảo Đại về nước
chấp chánh), lửa cách mạng vẫn hừng hực cháy trong lòng dân tộc Việt.
Ngọn lửa đó đã được đốt bừng lên và được nuôi dưỡng mạnh nhờ ảnh hưởng
của bản án tử hình chí sĩ Phan Bội Châu. Lửa cách mạng mãnh liệt đến nỗi
trước cao trào đấu tranh của toàn dân phản kháng bản án này, thực dân
đành phải hủy bản án và đem Cụ về quản thúc tại kinh thành Huế (1925).
Trong khoảng thời gian đó, những phong trào cách mạng và những biến động
quan trọng đã liên tiếp xảy ra: đảng Tân Việt Cách Mạng gồm đa số là
những trí thức trẻ ra đời tại Huế, phong trào Sô Viết nổi lên ở Nghệ
Tĩnh và cuộc nổi loạn đẫm máu của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Bắc Việt do
anh hùng Nguyễn Thái Học cầm đầu. Lại còn ảnh hưởng của phong trào Cường
Để tại hải ngoại, của Phong Trào Đông Kinh Nghĩa Thục, của cuộc tranh
đấu đòi dân quyền của chí sĩ Phan Chu Trinh… tất cả đã là những hỏa sơn
ầm ĩ cháy trong lòng dân tộc. Vì vậy, trước ý chí đối kháng của nhân dân
để bày tỏ sự bất mãn đối với chế độ bảo hộ và nhất là đối với triều
đình mục nát già nua, người Pháp bèn lợi dụng việc vua trẻ Bảo Đại hồi
loan để trẻ trung hóa triều đình, và hứa sẽ để cho nhà vua thực hiện một
số cải cách mong xoa dịu lòng dân, mà việc đầu tiên là sa thải lớp quan
lại già cả về hưu trí để thay thế bằng một lớp người trẻ trung hơn.
Những
quan lại lớn tuổi này chẳng những là lớp người lạc hậu không hợp thời
để theo kịp với dân trí mỗi ngày một tiến bộ, mà đa số những vị quan này
là những nịnh thần tham nhũng, làm tay sai cho Pháp. Bài thơ của Cụ
Nghè Ngô Đức Kế dưới đây đủ nói lên cái tư cách của lớp quan lại áo mão
xênh xang mà thật ra chỉ là những con bung xung làm gai mắt mọi người:
Cu li đành phận chớ ra oai,
Chuyên chế ăn quen thói cũ hoài.
Quân chủ cờ bay vui trước mắt,
Dân quyền trống đánh chán bên tai.
Bài, Liêm giảo hiểm khoe tài trí
Huề, Thụ thông minh gọi bất tài.
Cấm hết công môn tiền hối lộ,
Ngoài ra Tiềm Để mặc lòng ai. [13]
(Bài,
Liêm, Huề, Thụ là tên bốn vị Thượng thư mà Bài tức là ông Nguyễn Hữu
Bài người đỡ đầu cho ông Diệm, và Huề tức là ông Thân Trọng Huề, ông
ngoại của bà Ngô Đình Nhu).
Trong lớp quan lại già nua đó,
người nổi tiếng nhất là ông Nguyễn Hữu Bài. Nổi tiếng vì ông đã là tay
sai đắc lực nhất của hai thế lực Thực Dân lúc bấy giờ. Một là hệ thống
cai trị của Pháp, và một là hội Truyền giáo Hải ngoại Pháp. Ông cũng nổi
tiếng vì với tư cách đó, ông lại là vị tể tướng cầm đầu triều chính
trong thời gian vua Bảo Đại du học tại Pháp, quả thật ông Nguyễn Hữu Bài
là một thứ vua không ngai. Thời bấy giờ, số phận quan lại từ trên xuống
dưới đều nằm trong tay ông, đời sống nhân dân cũng nằm trong tay ông
qua những chính sách ông đề nghị với chính phủ Bảo Hộ.
Theo
giáo sư Nguyễn Văn Xuân thì ông Nguyễn Hữu Bài có đến 5 đồn điền chung
quanh Huế, có đồn điền rộng đến cả 1.000 mẫu ruộng. Phê bình ông Nguyễn
Hữu Bài, vị giáo sư đại học Huế đã viết:
Đối với chúng ta,
ngày nay có thể công kích Nguyễn Hữu Bài, ông gia của Ngô Đình Khôi và
ông gia hụt của Ngô Đình Diệm, cho rằng chỉ là một thứ “bồi Tây” dù ông
được liệt vào hạng “Đày vua không Khả, đào mả không Bài”, và những nhàn
điền (đồn điền) của ông chỉ theo phương thức bóc lột tư bản Tây phương
tàn nhẫn và trong sự thật cũng đáng gọi là tên chủ đồn điền quỷ quyệt
[14].
Ngoài ra trong tác phẩm “Hoàng Tử Vĩnh Sang” của sử gia
Vũ Ngự Chiêu (tr. 113–114) có trích đăng một lá thư của vua Thành Thái
từ Saint Denis gởi về cho vợ, tố cáo Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài – trong
cuộc nổi dậy của vua Duy Tân – đã lập kế xúi dục vua Duy Tân bỏ Đại nội
ra ngoài Hoàng thành để Tây bắt.
Với một thành tích tay sai
đắc lực của hai thứ thực dân như thế, và với sự tích lũy tài sản lớn lao
như thế mà lại tự xưng là người có lòng yêu nước yêu vua, dám “đày vua
không Khả, đào mả không Bài” thì quả thật là một sự lạ đối với người có
hiểu biết về tâm lý tình báo và lý luận chính trị. Còn ông Ngô Đình Khả
thì lại là người đã theo đại Việt gian Nguyễn Thân cầm quân đánh phá
chiến khu Phan Đình Phùng, đào mả Cụ lên rồi lấy thuốc súng trộn với thi
hài Cụ bắn đi cho mất tích (tài liệu của tạp chí Lên Đường số ra mắt,
Houston, trong phần phụ lục E). Ngoài ra, qua bức thư gởi cho Toàn quyền
Decoux, giám mục Ngô Đình Thục (xem phần phụ lục) xác nhận Cụ Ngô Đình
Khả và hai con Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm đều là tay sai đắc lực của
thực dân Pháp.
Còn trường hợp ông Nguyễn Hữu Bài không ký giấy
đào mả vua cần được phân tách kỹ càng hơn. Theo tác phẩm “Hồ sơ Vua Duy
Tân” mà cụ Hoàng Trọng Thược, một nhân sĩ người Huế và cũng là một nhà
viết sử, thì Nguyễn Hữu Bài là người mà vua Duy Tân không ưa mấy, nhất
là lúc ông Nguyễn Hữu Bài cho đào đất tìm vàng trong Đại nội. Vua hỏi:
- Đại nội nầy thuộc về ai rứa thầy?
- Tâu: của Vua.
- Vậy tôi có bảo đào đâu?
- Tâu: vì kho ta thiếu tiền và người Pháp đang đánh nhau với Đức.
- Nước Pháp bị xâm lăng chứ nước ta không bị xâm lăng đó sao?
Nguyễn Hữu Bài vâng đầu bái phục. Song vì tình thế, Ấu Chúa cũng không làm sao ngăn được việc làm của người Pháp.
Đất
cấm địa nơi vua đang ở và vua còn sống, mà ông Nguyễn Hữu Bài dám cho
đào lên để tìm vàng dâng cho Tây, thì câu “Đày vua không Khả, đào mả
không Bài” có còn ý nghĩa là câu truyền tụng để “vinh danh” cho ông
Nguyễn Hữu Bài nữa hay không?!
Để những nhà Sử học có thêm tài
liệu nghiên cứu về tội làm tay sai cho thực dân Pháp và cho Hội Truyền
Giáo Hải Ngoại Pháp của ông Nguyễn Hữu Bài và cha con ông Ngô Đình Khả,
tôi xin đề nghị quý vị đọc thêm các tác phẩm khác như “Hồ Chí Minh Con
Người và Huyền Thoại” của Chính Đạo, như “Hoàng Tử Vĩnh Sang” của Vũ Ngự
Chiêu, như “Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí” của Chính Đạo do nhà xuất
bản Văn Hóa (Houston, Texas, Hoa Kỳ) phát hành.
Trong kế hoạch
trẻ trung hóa triều đình này, vua Bảo Đại đã đồng ý trọng dụng hai nhân
vật nổi tiếng là hai ông Ngô Đình Diệm và Phạm Quỳnh. Ông Ngô Đình Diệm
là một vị Tuần Vũ 32 tuổi của một tỉnh nhỏ (Bình Thuận), được Võ Hiển
Nguyễn Hữu Bài tiến cử giữ chức Thượng thư Bộ Lại đầu triều. Và ông Phạm
Quỳnh là một học giả chủ nhiệm báo Nam Phong, nhưng đồng thời cũng là
bạn thân của Marty (Giám đốc sở Chính trị của Phủ Toàn quyền), được cử
giữ chức Thượng thư Bộ Giáo dục kiêm Ngự tiền văn phòng của Hoàng Đế.
Khi chấp nhận hai vị Thượng thư này, rõ ràng trong sự chọn lựa chính trị
của vua Bảo Đại, yếu tố “trẻ” không phải là yếu tố quyết định nhất mà
chính vì với một Ngô Đình Diệm trung quân, rường mối nhà Nguyễn sẽ vững
vàng không lo hậu họa, và với một Phạm Quỳnh thân Pháp, tương quan Pháp
Việt sẽ dễ dàng hơn để có thể thực hiện những cải tổ cần thiết. Hai vị
đại thần đó sẽ bổ túc cho nhau để giúp cho vua Bảo Đại vận hành triều
đình An Nam để có thể thực hiện những cải cách xã hội mà người Pháp đã
hứa hẹn với ông.
Nhưng bao nhiêu lời hứa hẹn của thực dân đều
như nước chảy qua cầu, dân bị trị vẫn là dân bị trị, vua bù nhìn vẫn là
vua bù nhìn. Vua Bảo Đại bất lực bó tay để đi từ bất mãn đến chán nản,
Thượng thư Ngô Đình Diệm xin từ quan, việc triều chính nằm trong tay ông
Phạm Quỳnh và người Pháp. Do đó, trong thời gian làm vua, ông Bảo Đại
chỉ còn biết săn bắn và thể thao, thường sống ở đồn điền Quảng Trị, ở
Bạch Mã, Đà Lạt hơn là giam mình trong bốn bức tường thành nội cung với
cỏ mọc rêu phong. Từ khi chấp chánh cho đến ngày 9 tháng 3 năm 1945
(ngày Nhật Bản đảo chánh), ông cố giảm thiểu càng ít càng tốt mối ràng
buộc với Pháp trong những chính sách thất nhân tâm. Công việc của ông
chỉ là công việc tế lễ, như lễ ở Nam Giao, cúng kỵ các tiên vương, ban
phát sắc bằng huy chương cho hàng quan lại, còn mọi việc cai trị ông giữ
thế mắt đui tai điếc. Thần dân chỉ biết ông Bảo Đại là một vị vua bù
nhìn mà có ai hiểu nỗi tâm sự thầm kín của ông đâu.
Ông Bảo
Đại làm vua bù nhìn nhưng nếu những ai đã từng sống đồng thời với ông,
chịu khó quan sát cảnh ngộ của ông ta đều phải nhận rằng nếu ta ở vào
địa vị của ông thì cũng khó thể làm gì được khác hơn. Vua Bảo Đại hoàn
toàn bị bao vây kềm kẹp, nhất cử nhất động của ông ta đều bị thực dân
theo dõi kiểm soát gắt gao. Họ đặt quan hầu người Pháp bên cạnh, họ lập
cho ông một đội lính khố vàng (Ngự Lâm Quân) d
Xem tiếp: Chương 7 - Chế độ gia đình trị
© TuSach.mobi - Đọc truyện online trên mobile
No comments:
Post a Comment