VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi
Tác giả: Hoành Linh Đỗ Mậu
Chương 10: NHỮNG THẤT BẠI-TIÊU BIỂU CỦA CHẾ ĐỘ
Sự
kiện đạo luật Gia Đình được thông qua đã mang lại một sự tái phối trí
quan trọng trong cơ cấu lãnh đạo tối cao của gia tộc Ngô Đình, nghĩa là
cũng của chế độ. Hơn ai hết, bà Nhu đã nắm được ý nghĩa và giá trị của
thắng lợi then chốt này, không phải thắng lợi vì đã áp lực cho người anh
rể phải bỏ nước ra đi để cho chị ruột mình là bà Trần Thị Lệ Chi từ nay
có thể ung dung sống cuộc đời vương giả với người tình mắt xanh mũi lõ,
mà thắng lợi đó có tầm vóc chính trị sâu sắc tại quốc hội với các bạn
đồng viện, và quan trọng hơn cả là, từ nay, bà có đầy đủ uy quyền để
tham dự vào những quyết định quan trọng của bộ não chế độ.
Cho
nên sau Đạo Luật Gia Đình, bà Nhu bèn xúc tiến việc thành lập Phong
Trào Phụ Nữ Liên Đới. Ngày 20 tháng 5 năm 1958, tại nghị trường Quốc
hội, bà Nhu chính thức kêu gọi đoàn viên của Liên Đoàn Công Chức (một tổ
chức do ông Nhu thành lập) hãy cho vợ của họ tham gia Phong Trào Phụ Nữ
Liên Đới.
Tuy những văn kiện chính thức của phong trào – trên
mặt lý thuyết – có một nội dung tương đối tiến bộ, nhưng chính sự tiến
bộ đó cũng không phản ảnh được thực trạng Việt Nam lúc bấy giờ, đó là
chưa nói đến chương trình hành động của Phong Trào thì lại càng không
phù hợp với những nhu cầu cấp thiết của xứ sở trong giai đoạn đó. Nhưng
điểm thất bại lớn nhất của Phong Trào không phải chỉ vì tính chất lý
thuyết thiếu thực tế đó mà đặc biệt vì người khai sinh ra nó, tuy là một
người có quyền lực lớn lao nhưng lại không có đủ đức độ và khả năng
lãnh đạo để thúc đẩy cho Phong trào hoạt động.
Cho nên Phong
Trào Phụ Nữ Liên Đới ở cấp trung ương chỉ gồm phu nhân của các vị Bộ
trưởng, Dân biểu và Tổng giám đốc mà không thấy sự tham dự của vợ các vị
giáo sư Trung Đại học hoặc các nhà làm văn hóa. Về phía quân đội cũng
chỉ thấy vợ của tướng Nguyễn Văn Là, vợ của Đại tá Cao Văn Viên và vợ
của Đại tá Tạ Xuân Thuận mà thôi. Trong khi phát triển phong trào ra
miền Trung, bà Nhu đã bị ông Cẩn cản trở mạnh mẽ đến nỗi cuối cùng đích
thân ông Diệm phải can thiệp và còn cam kết sẽ sa thải bác sĩ Trần Kim
Tuyến khỏi chức vụ Giám đốc sở Nghiên cứu Chính Trị như một điều kiện
thương thảo, “Chú Cẩn” mới chịu để cho Phong trào thành lập cơ sở tại
một số tỉnh miền Trung như Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang… mà chủ tịch
tỉnh bộ, dĩ nhiên, lại là các bà Tỉnh trưởng với ủy ban trung ương gồm
các bà Trưởng ty, các bà Tiểu khu trưởng và vợ một vài vị thương gia
giàu có.
Trên mặt quần chúng, rõ ràng phong trào này không
được hưởng ứng của nhân dân vì hình bóng bà Nhu, người sáng lập và lãnh
đạo phong trào, đã không gây được niềm tin và sự thương kính của đồng
bào. Đó là chưa nói đến bản chất “chính quyền” của phong trào này trên
mặt nhân sự, từ thượng tầng trung ương đến hạ tầng cơ sở. Trong số những
bà tham dự vào phong trào này, ít bà ý thức được đúng đắn nhiệm vụ xã
hội và chính trị của đoàn thể mình, mà đa số hoặc vì nghe theo lời chồng
để bảo đảm sự an toàn điạ vị của chồng, và số còn lại thì bám theo oai
lực của bà Nhu để có chút danh gì với thiên hạ.
Trong nhiệm kỳ
thứ nhì của quốc hội vào tháng 8 năm 1959, trong lúc hai ông Phan Khắc
Sửu và Phan Quang Đán dù đã đắc cử hàng đầu tại Sài Gòn mà vẫn trắng
trợn bị xóa tên, thì Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới lại có tới 9 bà đắc cử
Dân biểu: Các bà Ngô Đình Nhu, Hồ Thị Chi, Nguyễn Thị Minh, Nguyễn Kim
Anh, Nguyễn Thị Xuân Lan, Phan Thị Nguyệt Minh, Nguyễn Thị Vinh, Huỳnh
Ngọc Nữ và Ngô Thị Hoa (chín nữ Dân biểu trong tổng số 123 Dân biểu của
một quốc gia 15 triệu dân quả thật là quá nhiều và đã nói lên cái áp lực
nặng nề của bà Nhu khi ta so sánh với chỉ 20 nữ đại biểu trên gần 500
vị dân cử của lưỡng viện quốc hội trong một quốc gia dân chủ 270 triệu
dân mà phái nữ đã được giải phóng tối đa như tại Hoa Kỳ). Trong một phúc
trình tôi nhận được từ miền Trung, cán bộ của nha An Ninh Quân Đội đã
báo cáo về một luận điệu tuyên truyền mới của Việt Cộng gồm 4 chữ “âm
thịnh dương suy” để đánh mạnh vào niềm tin thần bí của quần chúng thôn
quê về sự sụp đổ tất yếu của chế độ khi quá nhiều đàn bà thứ “gà mái
gáy” trong chính quyền và quốc hội.
Người ta không thấy Phong
Trào Phụ Nữ Liên Đới có những hoạt động thiết thực và lâu dài nào để
đóng góp cho công cuộc cứu nước và dựng nước mà chỉ thấy những hoạt động
tượng trưng, nặng phần trình diễn, để được quay phim tuyên truyền một
cách rất phản tác dụng. Thỉnh thoảng ta lại thấy các bà đi phát gạo phát
tiền sau các vụ hỏa hoạn, khi mà các anh em trong các đoàn Hướng Đạo,
trong Gia Đình Phật Tử hoặc các bộ phận y tế đã khai quang an toàn và
sạch sẽ các đổ vỡ khổ đau. Vào dịp Tết, các bà lại đến Quân Y Viện phát
quà cho thương bệnh binh, nhưng mỉa mai và đau đớn thay, trong khi đi
làm “công tác xã hội” thì các bà vẫn ăn diện sang trọng, điểm trang lộng
lẫy bên cạnh các thân thể què quặt và những thảm trạng nghiệt ngã của
các nạn nhân. Tình cảnh mỉa mai và đau đớn của những quân nhân thương
phế này đã biến thành tình cảm uất hận và họ đã gọi những công tác “từ
thiện” này của Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới là công tác “xoa dầu cù là”.
Ngoài
những công tác phô trương phải có này thì nhiệm vụ tối quan trọng của
các bà là phải có mặt đông đủ tại phòng Đại Sảnh của phủ Tổng thống,
trong cái không khí mát rượi từ những máy điều hòa không khí lớn, để
nghe bà chủ tịch Ngô Đình Nhu đọc diễn văn hay ban huấn từ về những
“thành quả cách mạng” của chế độ như chủ trương nam nữ bình quyền để
giải phóng phụ nữ, chủ trương cộng đồng đồng tiến để cải tiến dân sinh,
và nhất là để cải chính dư luận đã chỉ trích cá nhân bà nói riêng và chế
độ Ngô Đình Diệm nói chung. Những buổi hội họp này lên đến cao điểm vào
ngày lễ Hai Bà Trưng, khi mà ít nhất trên mặt hình thức, các bà chiêm
ngưỡng bà Nhu phát huy tối đa uy quyền danh vọng của mình trong chiếc
ghế bành vàng với lọng xanh lọng đỏ, cờ vàng cờ tím trên khán đài danh
dự.
Thành quả thực sự của Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới do bà Nhu
tạo dựng là một tập thể vào khoảng 100 bà trong gần 8 triệu phụ nữ Việt
Nam tính khắp cả nước, mà quyền cũng như quý đều thuộc giai tầng thượng
lưu xã hội, cách biệt hẳn với thành phần phụ nữ hạ lưu và chị em sinh
viên học sinh vốn chiếm tuyệt đại đa số trong quần chúng miền Nam. Lại
càng cách biệt hẳn và đối nghịch với giai cấp phụ nữ ở thôn quê, vốn
trọng lễ nghĩa và có tâm tình mộc mạc, nên phong trào này chỉ đào sâu
thêm hố chia rẽ giữa chính quyền và quần chúng, giữa thành thị và thôn
quê, giữa người giàu và kẻ nghèo… tạo điều kiện thuận tiện cho cán bộ
Cộng Sản tuyên truyền xúi giục chồng, cha, anh, em đào ngũ theo Mặt Trận
hay ở lại làm nội tuyến trong quân đội hoặc trong bộ máy công quyền.
Cũng
phải nhận rằng có một số rất hiếm các bà gia nhập phong trào này hoặc
vì bị bắt buộc hoặc vì quả thật muốn đóng góp cho xã hội. Nhưng cơ cấu
tổ chức của phong trào, vị trí chính trị xã hội của phong trào và hiện
thực xã hội miền Nam lúc bấy giờ không cho phép phong trào này hiện
diện, lại càng không dung thứ cho phong trào này phát triển. Nhưng đứng
trên những yếu tố đó, nếu bà Nhu biết giữ phong cách dung và hòa của
người phụ nữ Việt Nam, biết giữ lối hành xử tiết và nghĩa của người phụ
nữ Việt Nam, và nhất là biết thông cảm, chia sẻ với tâm tình và nhiệm vụ
đích thực của một phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ, thì đã làm gì có một cái
quái thai như phong trào đó, vô tình tạo thêm một nhược điểm lớn cho
một chế độ đang bại hoại đi sâu vào những đợt khủng hoảng sắp tới.
Sau
Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới mà chức năng và hoạt động của nó luôn luôn
đã là một đề tài đàm tiếu của quần chúng, bà Nhu thừa thắng xông lên để
khai sinh hai tổ chức mới: đoàn thể Thanh Nữ Cộng Hòa và lực lượng Phụ
Nữ Bán Quân Sự.
Theo lời tuyên bố của bà Nhu thì mục đích của
lực lượng này là “để sát cánh chia sẻ hiểm nguy gian lao với các chiến
sĩ trên chiến trường”, và chỉ tiêu nhân sự phải đạt là 1.500 phụ nữ có
võ trang như đạo Nữ Quân Nhân của vợ Năm Lửa trước kia. Những lời tuyên
bố đó, nếu không phải là những bộc phát chính trị nông nổi lúc đầu thì
cũng là một lời ngụy ngôn để mị dân và ve vãn giới quân nhân vì quả thật
từ ngày thành lập tổ chức này, chúng ta chưa bao giờ thấy những đoàn
viên Thanh Nữ Cộng Hòa ra tiền tuyến chia bùi sẻ ngọt với anh em binh
sĩ. Cũng may là họ không được gởi ra nơi chiến địa vì nếu họ đến thì đơn
vị nào được chiếu cố lại phải mất công chia quân bảo vệ cho họ. Đó là
chưa nói đến việc làm công phẫn lực lượng Nữ Quân nhân, bộ phận âm thầm
nhưng hiệu dụng của quân đội Việt Nam Cọng Hòa.
Trong suốt mấy
năm hiện diện, hai tổ chức này chỉ làm hai loại công tác: mặc đồng phục
diễn hành vào những ngày lễ lớn, và tập cơ bản thao diễn hoặc tác xạ
tại vận động trường Hoa Lư hoặc vườn chơi Thị Nghè. Chỉ có vậy thôi
nhưng lúc nào cũng được bà Nhu đề cao như là một thành quả của cuộc Cách
mạng Nhân vị nhằm giải phóng phụ nữ. Chi phí cho “đoàn quân” này chắc
chắn là do ngân quỹ quốc gia đài thọ, và sự vô dụng trơ trẽn của nó, lẽ
tất nhiên, chế độ phải gánh chịu.
Điều đặc biệt là trong các
buổi thực tập tác xạ mà có ái nữ của ông bà Nhu là Ngô Đình Lệ Thủy tham
dự thì thế nào cô ta cũng là đệ nhất thiện xạ, và thế nào chỉ nội tuần
sau, Bộ Thông Tin của chế độ lại cho trình chiếu dung nhan của cô Lệ
Thủy trên khắp các màn ảnh chiếu bóng của Đô Thành. Tôi không tin rằng
chỉ tham dự những buổi huấn luyện bữa có bữa không mà Lệ Thủy lại có thể
trở thành thiện xạ, nhưng điều đó nếu có cũng không đáng buồn cười.
Điều buồn cười và lố lăng là từ những sinh hoạt vô ích và hài hước như
thế, Bộ thông tin của chế độ (hẳn vì phải làm hài lòng ông bà Cố và ông
Bác Tổng thống) đã cho trình chiếu khắp nơi hình ảnh đó khi mà cả nước
đều biết chắc chắn và rõ ràng rằng sau những buổi trình diễn như thế, cô
Lệ Thủy lại đi học trường đầm bằng xe Mercedes có cận vệ hộ tống, và
thỉnh thoảng lại ngao du nước ngoài chứ chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện
“sát cánh chia sẻ nguy hiểm gian lao với chiến sĩ trên chiến trường”.
Cũng
từ ngày bà Nhu chủ trương chuyện biểu dương con gái của mình thì những
tin đồn về thái độ kênh kiệu của Lệ Thủy trong lớp học, tin Lệ Thủy thi
hỏng vào trường Y Khoa đến nỗi ông bà Cố vấn phải làm áp lực với ông
Khoa trưởng để cô ta được thu nhận, tin Lệ Thủy khinh thường con trai
Việt Nam… được lan truyền trong quần chúng thủ đô và dân làm báo. Những
tin này không biết xác thực đến đâu, nhưng sự loan truyền của loại tin
này đã nói lên rất nhiều cái tình cảm quần chúng đối với gia đình họ
Ngô: tình cảm công phẫn và khinh bỉ một gia đình đứng đầu quốc gia mà
đức hạnh thì thua người dân dã bình thường.
Vì quan niệm sai
lầm về việc xây dựng uy tín và quyền lực, vì xem thường óc phê phán và
truyền thống đạo đức Đông Phương cho nên những việc làm của bà Nhu càng
ngày càng làm cho bà bị quần chúng và chính giới căm thù. Không phải nhờ
cái áo hở ngực, cái ghế bọc lụa vàng có lọng che, cuốn phim trình chiếu
trên màn ảnh hay các bài diễn văn đầy những huyễn từ hoa mỹ mà người ta
có thể xây dựng được sự kính trọng và cảm phục, để từ đó đi đến sự hợp
tác và thương mến. Cũng không phải nhờ cái thế em dâu Tổng thống, Đệ
nhất phu nhân, Dân biểu quốc hội, hay thủ lãnh Thanh Nữ Cộng Hòa mà
người ta có thể xây dựng được uy tín và niềm tin, để từ đó phát động
những chủ trương của mình. Chính vì không biết như thế, chính vì trước
hết tự bản chất ngạo mạn và ham danh vọng, rồi sau đó vì được nâng niu
bởi những lời tâng bốc nịnh bợ, nên bà Nhu đã trở thành một loại ác phụ
trước mặt nhân dân Việt Nam, trở thành một thứ “Rồng cái” (Dragon Lady)
trước mặt công luận thế giới.
Cai trị cốt lấy nhân tâm làm
đầu. Nhất là cai trị để chống Cộng Sản thì phải lấy sự thu phục nhân tâm
làm quốc sách, bà Nhu và cả gia đình họ Ngô xem thường quy luật gia bảo
này của lịch sử cách mạng Việt nên bị dân tộc khước từ là chuyện sẽ
phải xảy ra.
Ngoài ba tổ chức chính trị ồn ào trống rỗng nói
trên, bà Nhu còn thành lập các ký nhi viện để giúp phụ nữ gởi con nhỏ
trong giờ làm việc. Cũng như những chương trình khác, chương tình ký nhi
viện cũng đi vào thất bại và tạo thêm mâu thuẫn với quần chúng vì tính
cách thiếu căn bản của nó và vì cái cung cách hành xử của bà Nhu.
Trước
hết, Việt Nam của cuối thập niên 50 chưa phải là một nước phát triển
kinh tế sung mãn để vận dụng một khối nhân lực khổng lồ đến nỗi phải
động viên phụ nữ vào làm ở các cơ sở kỹ nghệ hay dịch vụ thương mãi tại
các đô thị. Truyền thống gia đình Việt Nam và hoàn cảnh xã hội Việt Nam
cũng khuyến khích và cho phép một người mẹ bận việc đi xa, dù là đi rất
xa và lâu, gởi con cho người thân của mình hoặc bên nội hoặc bên ngoại
(trong cái hệ thống khắng khít của đại gia đình Việt Nam), chứ không bao
giờ gởi con cho người lạ. Túng lắm thì gởi con cho hàng xóm quen thân
chứ có bao giờ tình mẫu tử của một phụ nữ Đông phương lại bị đứt đoạn để
vì việc gởi con mà ray rứt suốt cả ngày xa cách. Tình thì không đúng mà
lý lại càng sai, cho nên các ký nhi viện của bà Nhu bảo trợ xây cất,
sau những buổi khánh thành quay phim ồn ào, trở thành vườn hoang nhà
trống, hay kho hàng kho gạo của thành phố nếu cơ sở chưa đến nỗi suy sụp
vì thời gian và sự vô dụng.
Vì không lấy mục tiêu phục vụ
quần chúng là chính mà chỉ chuộng hình thức làm những việc để mình nổi
danh, cho nên cả chương trình ký nhi viện được hâm nóng lên mấy tháng
cho thời sự nhắc nhở rồi sau đó đi vào quên lãng. Kiểu áo hở cổ do bà
Nhu đề xướng cũng là một ví dụ điển hình của quan niệm này. Nghĩa là
cũng bắt nguồn từ sự háo danh mà không đếm xỉa gì đến quan niệm thẩm mỹ
có tính đạo đức của truyền thống Việt Nam, vốn lấy sự kín đáo làm nét
đẹp, lấy sự dịu dàng làm sức mạnh quyến rũ mà xác tín rõ ràng nhất là
trong nước, dù chiếc áo đã kinh qua nhiều biến đổi vẫn giữ lại cổ áo để
che vai che ngực, và ngoài nước, đã đoạt được nhiều giải thưởng trong
các cuộc thi trình diễn thời trang quốc tế tại Nhật Bản, Tân Gia Ba,
Vọng Các… Cho nên “kiểu áo bà Nhu”, trừ một vài bà trong Trung ương của
Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới, một số các cô gái bán Bar, còn thì không
thấy ai mặc. Chị em phụ nữ tẩy chay không mặc không phải chỉ vì mặc nó
thì bị bạn bè xem là chạy theo “mode bà Nhu” vốn chẳng phải là một lời
khen thưởng, mà còn vì tính cách trơ trẽn thiếu thẩm mỹ của nó.
Từ
việc biến lễ Hai Bà Trưng thành ra một lễ Quốc Khánh thứ nhì, đến việc
xây tượng Hai Bà Trưng ở công trường Mê Linh Sài Gòn có khuôn mặt giống
mẹ con mình, đến đạo luật Gia Đình, đến việc tổ chức Phụ Nữ Liên Đới,
Thanh Nữ Cộng Hòa, Phụ Nữ Bán Quân Sự, đến việc thành lập ký nhi viện,
đến việc đề xướng kiểu áo dài hở vai… bà Nhu đã phản ảnh đầy đủ một tâm
hồn Tây phương nổi loạn mà bà tưởng là cách mạng tiến bộ, hoàn toàn mất
bản chất dân tộc và sống cách biệt với hiện thực của quê hương.
Về
tượng Hai Bà Trưng, ta thấy chẳng những nhà Ngô xúc phạm đến hai vị anh
thư liệt nữ Dân Tộc mà còn cao ngạo một cách vô văn hóa nên đã gây phẫn
nộ cho toàn dân.
Do đó, sau này, ngày 2–11–1963 không phải
chỉ sinh viên và thanh niên chặt cổ và hạ bệ bức tượng giả mạo đó kéo đi
khắp Sài Gòn để hạ nhục mẹ con Ngô Đình Nhu như tôi sẽ nói rõ ở một
chương sau, mà thi sĩ Đông Hồ và học giả Nguyễn Hiến Lê cũng phải lên
tiếng việc làm phạm thượng của người đàn bà mà Đại tá Thi và Trung tá
Đông gọi là “đĩ thõa trong dinh Độc Lập”.
Trong Hồi ký “Đời Viết Văn Của Tôi” (tr. 200, 201). Học giả Nguyễn Hiến Lê trong đoạn phê bình thơ thi sĩ Đông Hồ đã viết:
… Nhưng tôi thích nhất hai bài thơ luật “Tượng Ai Đâu Phải Tượng Bà Trưng” (trên báo Bút Hoa, ngày 1- 4 -1964):
I
Tượng ai đâu phải tượng bà Trưng
Tóc uốn lưng eo kiểu lố lăng
Đón gió lại qua người ưỡn ẹo
Chờ chim Nam Bắc dáng tung tăng
Khuynh thành mặt đó y con ả,
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Chót vót đứng cao càng ngã nặng
Có ngày gãy cổ đứt ngang lưng.
II
Đây một hình xưa nhục nước non
Thay hai hình mới đứng thon von
Mình ni lông xát lưng eo thắt
Ngực xú chiêng nâng vú nở tròn.
Tưởng đứng hiên ngang em với chị
Hóa ra dìu dắt mẹ cùng con
Dòng sông Bến Nghé, dòng sông Hát
Lưu xú lưu phương tiếng để còn.
Cả
hai bài đều cực tả vẻ điếm đàng của hai mẹ con nhà Ngô. Hai cặp luận đề
hay: mạt sát nhà Ngô và kẻ điêu khắc: mặt đó y con ả, tay ai khéo cái
thằng (bài I). Hai tiếng dắt díu với cảnh mẹ con Ngô Đình Nhu lúc đó bơ
vơ ở Mỹ hay ở Âu (bài II). Hai câu kết cảm xúc triền miên.
Phong
cách và hành xử, ngôn ngữ và tâm trạng, hoạt động và chủ trương của bà
Nhu đã là một tháp ngà ồn ào và cao ngạo giữa một đất nước đang bị Cộng
Sản đe dọa và giữa một dân tộc chưa lành vết đau quá khứ thì lại bị vết
thương của hiện tại. Phê phán về bà, ông Nguyễn Thái, cựu Giám đốc Việt
Tấn Xã, đã phải than là thiếu gì công tác cấp bách phải làm để cứu chữa
một ngôi nhà đang sụp đổ mà bà Nhu lại bày ra những trò hề cho quyền lợi
riêng tư và cho thỏa mãn tham vọng dương danh lãnh tụ của mình !
Trong
trường hợp của bà Nhu, quan niệm xã hội học “hoàn cảnh tạo ra con
người” đã chứng tỏ hoàn toàn đúng. Bà Nhu sinh trưởng trong một gia đình
trưởng giả mà người trong gia đình chỉ nói tiếng Pháp với nhau, mà bà
mẹ thì giao du thân mật với hạng thượng lưu Việt, Pháp, Nhật, mà một bà
chị có chồng danh giá thì vẫn công khai ngoại tình với một người đàn ông
ngoại quốc, mà một người em trai (Trần Văn Khiêm) thì đàng điếm chơi
bời, và sau 1975 qua Mỹ, đã nổi điên giết cả cha mẹ, nghĩa là một gia
đình Tây hơn cả Tây. Bà Nhu lại là một nữ sinh tồi tệ của một trường đầm
ở Hà Nội, đang theo học giữa Trung học thì bỏ ngang (tài liệu của ký
giả Stanley Karnow) khi lấy chồng thì lấy một cậu Ấm xuất thân từ một
gia đình phong kiến quan liêu, làm công chức ngạch Pháp. Bà lại càng
kiêu căng lộng hành vì chồng bà lớn hơn bà những 14 tuổi, mang mặc cảm
quá nửa chừng xuân nên phải hết sức nâng niu chiều chuộng bà để khỏi mất
hạnh phúc gia đình. Đã thế, gia đình chồng nhờ “thời thế tạo anh hùng”,
đã nắm được quyền lãnh đạo quốc gia, nâng vợ chồng bà lên thành quốc sư
và quý phi (lời của ông Đoàn Thêm), để bà có cơ hội khuynh loát đất
nước. Được nặn đúc từ một gia đình như thế, lại có quyền hành tuyệt đối
trong tay vào lúc thời thế loạn ly, cho nên tâm hồn của bà là tâm hồn
của một kẻ đắc thế và muốn tận dụng uy quyền, thế lực, danh vọng của
mình để thỏa mãn những bản năng và ẩn ức tâm lý luôn luôn sắp tung nổ.
Thật vậy, cứ nhìn buổi sinh hoạt ngày 13 tháng Chạp năm 1957 của Quốc
hội thì thấy rõ. Khi thảo luận về luật Gia Đình, Dân biểu Bùi Quang Út
lễ độ yêu cầu bà làm sáng tỏ một vài điều nhưng bà không thèm tôn trọng
các nguyên tắc thảo luận nghị trường, và mặc dù bà cũng chỉ là một Dân
biểu nhưng lại lên giọng áp đảo ông Út ngay: “Tôi không đến đây để trả
lời ông Bùi Quang Út. Những điều luật trong dự luật sẽ có quốc hội trả
lời”. Trong một buổi sinh hoạt khác, ngày 27–5–1958, khi Quốc hội đã bị
áp lực của anh bà và chồng bà biểu quyết và thông qua đạo luật xong, với
cung cách và ngôn ngữ của một lãnh tụ, bà Nhu tuyên bố:
Tôi
muốn nhắc nhở cho các ông Dân biểu biết rằng cuộc cách mạng chính trị,
xã hội, kinh tế của chúng ta đã hoàn thành chỉ trong thời gian 3 năm
(sic). Đó là một kỷ lục mà chúng ta phải tự hào. Vì thế tôi yêu cầu các
ông hãy tha thứ các lời công kích vô liêm sỉ của những kẻ dốt nát đã nói
những lời bẩn thỉu. [1]
Hành động ngạo mạn, cử chỉ khiêu
khích, ngôn ngữ trịch thượng như thế mà không những chỉ chồng bà ca ngợi
và khuyến khích mà chính ông Diệm cũng bênh vực cho bà, tiếp tay gây
thêm phẫn uất trong quần chúng. Theo ông Đoàn Thêm thì Tổng thống Diệm
thường nói: “Bà Nhu có làm gì đâu mà thiên hạ cứ hay dèm pha nói xấu
bà”.
Ngoài những thành tích lẫy lừng nhưng tác hại trên đây,
bà Nhu còn đưa ra những đạo luật mà cựu Đổng lý Văn phòng Bộ phủ Tổng
thống và các ký giả ngoại quốc gọi là những đạo luật “khét tiếng” để bảo
vệ luân lý, bảo vệ thuần phong mỹ tục. Bà đã thúc giục, ép buộc Quốc
hội phải biểu quyết gấp rút đạo luật chỉ trong vòng hai tuần lễ. Đó là
một đạo luật nhằm tiêu diệt các tệ đoan xã hội từ lâu đã bám gốc vào xã
hội ta. Nội dung của đạo luật này không phải là hoàn toàn sai tuy có
những điều quái đản như cấm trai gái cầm tay nhau đi ngoài đường, cấm
ngừa thai bằng những biện pháp không tự nhiên (ảnh hưởng của giáo luật
Vatican), cấm thi sắc đẹp, cấm đấu võ nơi công cộng, cấm đá gà vào những
dịp Tết v.v… mà bất cứ ai vi phạm sẽ bị trừng phạt rất nặng nề. Điều
đáng nói là tính cách quyết liệt và thúc bách của nó để thay đổi ngay
liền hầu hết những sinh hoạt thông thường của người dân từ cả hàng ngàn
năm nay mà không có một kế hoạch chuẩn bị chu đáo và tiệm tiến trước.
Nhất là đạo luật không đặt nặng vấn đề giáo hóa như một cách thế cải sửa
mà lại đặt trừng phạt như là phương pháp chữa trị. Nghĩa là dùng bạo
lực để pháp trị chứ không phải dùng giáo dục để nhân trị. Nhất là bạo
lực đó và hệ thống pháp trị đó lại được giao cho một bộ máy công quyền
mà tập đoàn Cần Lao đang thao túng thì chỉ gây ra lạm dụng quyền thế để
hà hiếp người dân mà thôi.
Những đạo luật vô hiệu và vô dụng
lại thất nhân tâm như thế mà người anh chồng làm Tổng thống và người
chồng làm Cố vấn chính trị cho Tổng thống không dám lên tiếng ngăn cản
[2] cho nên giới trí thức và quần chúng Sài Gòn đã cho rằng chính những
đạo luật chống tệ đoan xã hội này của bà Nhu “chỉ làm nổi bật thêm lên
cái tư cách đạo đức giả của bà ta mà thôi” [3].
Vì cái tư cách
đạo đức giả đó của bà Nhu mà Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Trung tá Vương
Văn Đông (hai lãnh tụ của cuộc đảo chánh ngày 11–11–1960) mới gọi bà ta
là “phản dân hại nước”, là “đĩ điếm trong dinh Độc Lập”, những lời tuyên
bố được Võ Văn Hải, Chánh văn phòng Tổng thống Diệm, xác nhận khi ra
thương thảo với phe đảo chánh. Tôi tiếc rằng Võ Văn Hải đã chết nên
thiếu mất một nhân chứng biết rõ nhiều chuyện thâm cung bí sử của bà
Nhu. Tôi biết rằng Võ Văn Hải đã kể cho nhiều người trong dinh Độc Lập
như bác sĩ Bùi Kiện Tín chẳng hạn, biết việc bà Nhu giao du thân mật với
viên Đại sứ Ấn Độ trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến ngay dưới
văn phòng của ông Nhu. Hải cũng có cả xấp ảnh của bà Nhu tại biệt điện
và tại bờ biển Nha Trang và bờ biển Hòn Chồng chụp vợ chồng người Mỹ
Gregory và một người Mỹ bạn thân của bà do dân chúng Nha Trang lén chụp
được và gửi cho Hải (mong bác sĩ Bùi Kiện Tín đừng vì những ngại ngùng
chính trị hoặc vì tình cảm mà không nói lên sự thật, vì chính bác sĩ đã
từng lo buồn cho Tổng thống Diệm mỗi khi nhìn thấy những tấm ảnh đồi
trụy này. Nếu bác sĩ Tín vì một lý do nào đó mà không muốn làm sáng tỏ
những sự kiện lịch sử trên thì xin cứ hỏi Cựu Hoàng Bảo Đại hay ông Trần
Văn Đôn thì biết rõ cái đạo đức của bà Nhu như thế nào). Đại sứ Ba Lan,
ông Maneli, trong tác phẩm War of The Vanquished cũng ghi nhận dư luận
Sài Gòn cho rằng bà Nhu là một thứ Lucretia Borgia Đông Nam Á, có liên
hệ thân mật với Đại sứ Ấn Độ.
Và trong lúc bà Nhu áp lực Quốc
hội để thông qua đạo luật trong sạch hóa xã hội này thì mỉa mai thay cho
chế độ và đau đớn thay cho dân tộc, em trai của bà là ông Trần Văn
Khiêm vẫn chơi bời trác táng và làm tiền các thương gia, em chồng là ông
Ngô Đình Luyện mỗi lần từ Luân Đôn về Sài Gòn vẫn đêm đêm rượu chè như
các tuỳ viên trong dinh Độc Lập đều biết (xem hồi ký Đỗ Thọ); thì chính
chồng mình là ông Ngô Đình Nhu vẫn không những hút thuốc phiện hàng ngày
mà sau này còn làm giàu nhờ buôn bán thuốc phiện nữa!
Như
những hoạt động nặng phần trình diễn chính trị mà thiếu hẳn nội dung xã
hội và không được nghiên cứu một cách nghiêm túc, đạo luật Bảo Vệ Thuần
Phong Mỹ Tục của bà Nhu chỉ làm cho xã hội tạm mất đi cái bề ngoài xấu
xa nhưng bên trong thì các tệ đoan đó lại phát triển mạnh mẽ hơn và tinh
vi hơn. Các hình thức cờ bạc, hút sách, dâm ô đan kết lại thành những
hệ thống chặt chẽ và chìm mà nhiều địa phương còn có nhân viên chính
quyền tham dự, các hình thức mua dâm và bán dâm không còn công khai nữa
và bắt đầu phát triển một cách có tổ chức và “thượng lưu” hơn, đặc biệt
nạn du đãng gia tăng một cách đáng sợ đến nỗi ông Diệm cũng phải lo âu
để tâm đến.
Thật thế, dù Tổng thống hô hào trong sạch hóa xã
hội, dù bà Nhu đưa ra luật Bảo Vệ Luân Lý, cấm nhảy đầm… mà nạn mua dâm
bán dâm vẫn tràn ngập, chứng cớ là đêm 18–1–1959, hai ngàn nam nữ thanh
niên bị bắt trong Đô Thành vì tội mãi dâm (xem “Hai Mươi Năm Qua” của
Đoàn Thêm trang 246).
Cuối năm 1960, trước sự bành trướng đáng
ngại của nạn du đãng cướp bóc, Tổng thống Diệm đã cho thành lập một Hội
đồng Liên bộ để giải quyết tệ trạng này. Hội đồng Liên bộ gồm có các
ông Nguyễn Quang Trình (Giáo dục), Huỳnh Hữu Nghĩa (Lao động), Trần
Chánh Thành (Thông tin), Nguyễn Sĩ (Tư pháp), Trần Trung Dung (Quốc
phòng) và ba cơ quan an ninh là tướng Nguyễn Văn Là (Công an), Lê Nguyên
Phu (Hiến binh) và tôi (An ninh quân đội) dưới sự điều hợp của Bộ
trưởng Nội vụ là ông Lâm Lễ Trinh (hầu hết các vị trên đây đều có mặt
tại hải ngoại hiện nay, trừ ba ông Trần Trung Dung, Nguyễn Sĩ, Trần
Chánh Thành). Nhiều ý kiến được đưa ra thảo luận và cuối cùng đi đến kết
quả sử dụng những biện pháp mạnh: lùng bắt và nhốt (nhưng không truy
tố) thanh niên du đãng vào các lao xá. Tôi còn nhớ trong buổi họp liên
bộ đó, ông Trần Chánh Thành đã có một lời phát biểu lạ lùng. Trong phần
phân tích các nguyên nhân, ông cho rằng sở dĩ có nạn thanh niên du đãng
là lỗi tại chánh quyền, lỗi tại người lớn, nếu người lớn gương mẫu thì
thanh thiếu niên sẽ noi theo. Lúc đó, tôi quên hỏi ông ta để biết có
phải ông muốn ám chỉ bà Nhu và các thành viên trong gia tộc Ngô Đình
không ?
Nhưng dù luật Bảo Vệ Luân Lý của bà Nhu được thi hành
với các biện pháp và các phương tiện chế tài do Hội đồng Liên bộ hỗ trợ,
và dù với sự quan tâm của Tổng thống Diệm, nạn du đãng và tệ trạng xã
hội mỗi ngày một gia tăng (đến nỗi ngay sau ngày cách mạng 1–11–63 thành
công, tướng Mai Hữu Xuân, với tư cách Đô trưởng Sài Gòn Chợ Lớn, đã
phải đề nghị đem mấy ngàn thanh niên du đãng xuống trại cải tạo Thủ Đức,
một số khác chuyển vào trung tâm huấn luyện Quang Trung. Còn một số ít
độ hơn 100 tên du đãng hạng nặng thuộc loại bất khả trị thì bị đày ra
Côn Đảo). Cũng từ mùa hè năm 1963, lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục
nước nhà, các đề thi Trung học và Tú tài được một tổ chức đem bán cho
các thí sinh mở đầu cho tệ nạn tiết lộ và buôn bán đề thi kéo dài cho
đến dưới thời Thiệu.
Nạn mãi dâm lén lút, nạn du đãng lộng
hành, phong trào buôn bán đề thi là những tệ đoan phát xuất từ tầng lớp
thanh thiếu niên mà nguyên do chủ yếu là vì đạo luật Bảo Vệ Thuần Phong
Mỹ Tục của bà Nhu đã không điều nghiên kỹ càng, và phần áp dụng đã không
phù hợp với thực tế Việt Nam lúc bấy giờ. Nhưng một lý do khác không
kém phần quan trọng nữa là làm sao thanh thiếu niên có thể chịu đựng
không phản kháng, khi mà người mẹ đẻ ra đạo luật đó, và những ông Cố,
ông Cậu, những đoàn viên của đảng Cần Lao lại là những người đầu tiên
dẫm nát lên đạo luật đó.
Thượng bất minh, Hạ tắc loạn, có lẽ
đó là điều mà ông Trần Chánh Thành muốn nói trong buổi họp liên bộ đầu
tiên, buổi họp để giải quyết những hệ quả tác hại của một người đàn bà
cũng tác hại không kém.
Ông Trần Văn Lý, người đã từng là bạn
thân và đồng chí của nhà Ngô, đã cho tôi biết rằng năm 1943, khi ông Ngô
Đình Khôi và ông Ngô Đình Thục đi Hà Nội cưới cô Trần Thị Lệ Xuân cho
ông Nhu thì vì đoạn đường Huế–Hà Nội quá xa nên họ đã phải ngừng xe và
nghỉ lại đêm tại Hà Tĩnh, trong dinh Tuần Vũ của ông Lý. Trong dịp này,
vì sợ ông Lý chê cười nên hai ông Khôi và Thục phải tâm sự phân trần với
ông Lý như sau: “Gia đình chúng tôi nào có muốn rước “ngựa cái” về nhà
để phá hoại gia phong, huống chi Cụ tôi ngày xưa với các ông Trần Văn
Thông, Thân Trọng Huề vốn chống đối nhau thì làm sao có thể kết làm
thông gia được. Nhưng vì chú Nhu quá mê con gái ông Trần Văn Chương nên
chúng tôi đành phải chịu khổ tâm mà chiều lòng chú ấy” (ghi chú: ông
Trần Văn Thông là một vị Tổng đốc, ông nội của bà Nhu, còn ông Thân
Trọng Huề ông ngoại của bà Nhu, là một Thượng thư Nam triều cùng thời
với cụ Ngô Đình Khả). Có lẽ lúc mới cưới bà Nhu, gia đình không ưa nên
ông Diệm đã có lúc ném cái gạt tàn vào người bà ta như nhiều người đã
biết.
Viết về bà Nhu, ông Đoàn Thêm có một đoạn phân tách sâu sắc như sau:
“…
Không những bà ấy cứ tin rằng bà phải làm nếu không thì chẳng ai làm
một số việc mà bà coi là tối cần: như huy động phụ nữ vào công việc
chung. Nhưng họ phàn nàn: thái độ của bà làm hại chánh sách; giả thử bà
dễ dãi, nhún nhường mềm dẻo thì may ra cũng được tin theo phần nào, ít
ra không bị ghen ghét lắm. Nhưng bà nói quá mạnh, có vẻ coi thường hết
mọi người nên dù hành động có ưu điểm gì chăng nữa cũng không thể đổi
ngược chiều công luận.
Nguyên do sâu xa nhất và đích thực nhất
của nỗi ác cảm chung của sự mâu thuẫn giữa lối sinh hoạt của bà và ý
niệm thắm thiết về sắc đẹp của nhiều người đàn ông nước Việt: người đẹp
mà muốn khỏe và hách nữa thì quá lắm không chịu nổi. Nên dù phải hay
trái, người đàn bà Việt Nam muốn sống theo gương đàn bà tiền phong
(avant-garde) Âu-Mỹ, tất chưa thể được yên thân trên một đất nước mà
nhiều người còn ghê sợ những Võ Hậu và những Từ Hi”[4].
Là một
nhà luật học, là một nhà làm văn hóa, lại vừa là một chứng nhân của
thời đại, ông Đoàn Thêm chẳng những đã chê ông Diệm là quan liêu phong
kiến, bất tài bệnh hoạn, chỉ đáng làm quan Nam triều, chỉ đáng làm Tổng
thanh tra, ông còn lên án bà Nhu là một thứ Từ Hi, Võ Hậu, thế mà giọng
văn của ông vẫn rất linh hoạt nhẹ nhàng. Phần tôi vốn là quân nhân, nên
xin nói thẳng rằng nếu gia đình họ Ngô không rước “ngựa cái” hay “rồng
cái” về nhà, hoặc nếu bà Nhu khiêm cung đức hạnh và không tham quyền háo
danh trong thời gian ông Diệm cầm quyền thì may ra ông Diệm còn sống
sót vào năm 1963 để họ Ngô khỏi bị ô danh muôn đời. Và tôi cũng tin rằng
nếu không có bà Nhu khuynh loát trong dinh Độc Lập, không làm Đệ Nhất
phu nhân thì có lẽ miền Nam Việt Nam đã không đến nỗi rối loạn đưa đến
thắng lợi dễ dàng cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Khốn nỗi bà Nhu lại
là “mẫu nghi thiên hạ” nên thảm họa mới xảy đến cho nhân dân miền Nam
như bác sĩ Dương Tấn Tươi đã mượn tiếng cười chua chát để trách oán bà
Nhu:
Dưới triều đại Ngô Đình Diệm, người ta cố tận dụng lối
tuyên truyền để trình bày một gia đình như là đáng tiêu biểu cho cả một
dân tộc. Tuy có sự đảm bảo của bài đường luật, chữ phết vàng trên bảng
sơn đen bóng loáng nhưng nào ai dấu được sự hạ giá quá chán chường. Cũng
như đem một người đàn bà thiếu đức hạnh sơ đẳng của phụ nữ Việt Nam lên
chức mẫu nghi thiên hạ thì có gì mỉa mai hơn [5].
Ngoài ra
nhiều người ngoại quốc còn lên án vợ chồng Ngô Đình Nhu một cách quyết
liệt hơn. Đồng một quan điểm với những ký giả danh tiếng như Malcolm
Brown và Sergliano, giáo sư Buttinger, người bạn của ông Diệm viết rằng:
Đối
với quần chúng Việt Nam nói chung và giới trí thức nói riêng thì những
cố gắng để kiểm soát nền đạo lý công cộng và cá nhân của dân chúng làm
tăng thêm một cách gay gắt điều ám thị về bà Nhu vốn đã được coi như là
người thiếu đức hạnh. Tại miền Nam Việt Nam, vợ chồng Nhu là hai nhân
vật bị dân chúng oán ghét nhất. Không có điều gì mà vợ chồng Nhu không
dám làm: rình rập cộng sự viên, bắt bớ một cách độc đoán những người
tình nghi là đối lập, vu khống và xuyên tạc họ trắng trợn. Tất nhiên khó
mà thu lượm được những bằng chứng tham nhũng của vợ chồng Nhu nhưng ai
ai cũng biết họ đã bóc lột những số tiền vô cùng to lớn của thương gia
Hoa Kiều và Việt Nam, những kẻ xin môn bài xuất nhập cảng, xin đấu thầu
cho chính phủ. Lạm dụng quyền hành, hối mại quyền thế, dĩ công vi tư,
tham nhũng, khinh miệt thuộc cấp và bất chấp nhu cầu của nhân dân, nhà
Ngô đã làm gương cho Bộ trưởng, Dân biểu, Tướng lãnh, Tỉnh trưởng, Xã
trưởng những kẻ mà nhà Ngô sử dụng như công cụ. Đồng ý với những việc
làm xấu xa đó, những tay sai của nhà Ngô cũng mua lấy sự khinh bỉ vừa
của cả quan thầy vừa của cả nhân dân [6].
Đã mang bản chất con
người hư đốn, đã bẩm sinh là thứ đàn bà Lucretia Borgia, đã sớm hư thân
mất nết từ thời còn là học sinh trường trung học Albert Sarraut như ký
giả Karnow đã mô tả mà sinh viên Hà Thành thời bấy giờ nhiều người biết
rõ, thì Trần Thị Lệ Xuân tức Đệ Nhất Phu Nhân thời Đệ Nhất Cộng Hòa làm
sao có thể trở thành người đàn bà đức hạnh được.
Thật thế, sau
khi Ngô triều bị lật đổ, bà Ngô Đình Nhu sống đời một sương phụ âm thầm
và cô đơn tại ngoại ô thành phố La Mã nhưng vẫn bị rất nhiều nhà văn,
nhà báo tên tuổi không buông tha cho bà cái tội dâm loạn và tham quyền
đưa đến việc sụp đổ miền Nam và cái chết của ba anh em Ngô Đình. Những
nhà văn nhà báo đó cũng không quên nhắc đến những thủ đoạn của bà Nhu mê
hoặc người anh Tổng thống độc thân mà vì “mở miệng mắc quai”, ông Tổng
thống đành để cho người em dâu tội lỗi tha hồ lộng quyền, thao túng
chánh tình và xã hội miền Nam.
Dưới đây là những tài liệu mới ra đời tại hải ngoại viết bởi những nhân chứng và nhà văn tên tuổi:
- Cuốn “Đệ nhất phu nhân” của học giả Hoàng Trọng Miên, tác giả cuốn “Văn học toàn thư”.
- Cuốn “Những bí ẩn lịch sử dưới chế độ Ngô Đình Diệm” của ông Lê Trọng Văn vốn là đặc vụ của ông Ngô Đình Nhu.
-
Bài báo “Đây ngôi biệt thự mùa hè của bà Nhu tại Đà Lạt” có lời phê
phán chế độ Diệm và bà Nhu của hai nhà văn học lớn là học giả Nguyễn
Hiến Lê và thi sĩ Đông Hồ (tạp chí Tia Sáng, Houston, số 26 tháng 8 năm
1988).
- Bài báo “Trương Đình Cát và Hà Như Chi” của Trung
tướng Nguyễn Chánh Thi (tạp chí “Ánh Sáng Dân Tộc” Fresno số 1 tháng 5
năm 1989).
(Xin xem thêm hai bài báo ở phần Phụ Lục)
-o0o-
Hoạt
động của bà Nhu còn nhiều loại thất nhân tâm làm hại cho chế độ và làm
lợi cho Cộng Sản đó vẫn cứ tiếp tục và lên đến cao điểm trong chuyến
công du giải độc nhân biến cố Phật giáo mà tôi sẽ đề cập sau này. Bây
giờ xin nói về ông Ngô Đình Nhu, người được xem như là bộ óc của chế độ,
và nếu không có ngày 1–11–63 thì sẽ là kẻ thừa kế đương nhiên chức vụ
Tổng thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa.
Quả thật từ khi quen biết
ông vào những ngày đầu của thập niên 40, cho đến thời kỳ ông oai danh
tột đỉnh những năm đầu thập niên 60, tôi chưa bao giờ có được sự cảm mến
và tín phục con người của ông Nhu. Dù đã có lúc ông đến tận ngôi nhà
nghèo nàn của tôi tại cửa Đông Ba (Huế) để khen tặng, dù trong quá trình
hơn 20 năm hoạt động với ông Diệm đã có nhiều dịp cho ông và tôi chia
sẻ những thành công và thất bại chung… nhưng chưa bao giờ, và không bao
giờ, ông Nhu tạo được nơi tôi một ấn tượng tốt của một cấp lãnh đạo hữu
tài hữu đức. Báo chí dưới chế độ Diệm và sau này một vài tờ báo hải
ngoại thuộc phần tử hoài Ngô trong phong trào gọi là Phục hưng tinh thần
Ngô Đình Diệm chủ xướng, đã huyền thoại hóa con người ông Nhu và tô vẽ
cho ông những kích thước không bao giờ có thật. Có lẽ vì biết ông quá
rõ, và biết từ thời ông còn là một công chức của Pháp, nên tôi đã không
bị chức vụ và bằng cấp của ông mê hoặc từ đầu như một số người khác. Do
đó tôi đã thấy nơi ông một loại “chính khách xa lông” rất tiêu biểu: khi
chưa có quyền thì ve vãn vận động đấu tranh chắp vá, khi nương theo sự
thành công địa vị của người anh mà bước vào nắm quyền hành thì cũng lại
tiếp tục cái kỹ thuật mượn sức người khác để củng cố sức mình mà đánh
phá mọi lực lượng đối lập. Đó là loại chính trị vận dụng thiếu cơ bản và
thiếu chiều sâu để tính chuyện lâu dài, chứ tự ông Nhu, tôi không thấy
ông thành công trong việc xây dựng một chủ lực cho chính mình để làm
rường cột cho chế độ, và để tiến hành cuộc cách mạng xã hội cần thiết
cho miền Nam lúc bấy giờ. Tôi thấy rõ rằng triết lý đấu tranh của ông là
tìm cách hủy diệt địch mà không đặt trọng tâm vào việc xây dựng sức
mạnh của ta trong khi đáng lẽ phải tiến hành cả hai nhiệm vụ đó một cách
song hành.
Cho nên ông đã nhờ Mỹ bảo vệ để chống Pháp mà nắm
chính quyền, rồi lại phản Mỹ để hợp tác với Pháp, và cuối cùng vào năm
1963, nhờ Pháp để thương thảo với Cộng Sản Hà Nội. Trong nước thì ông
thẳng tay đàn áp thủ tiêu đối lập, còn cái gọi là chủ lực đảng Cần Lao
Công Giáo thì chỉ khai sinh cho có rồi hoặc vì bất tài, hoặc vì không có
chủ ý nên đã để cho nó trở thành một thứ quái vật xổng chuồng cắn phá
cả nhân dân lẫn chế độ.
Chủ nghĩa Nhân Vị, đảng Cần Lao và
Hiến Pháp VNCH được xem như là những tác phẩm chính yếu của ông thì như
tôi đã đề cập trong những chương trước, chỉ là những sản phẩm trí thức
bệnh hoạn, chắp vá từ nhiều lý thuyết Tây phương khác nhau và từ nhiều
tiền lệ lịch sử khác nhau. Sở dĩ có sự chắp vá chính trị ấu trĩ đó là vì
ông Nhu quan niệm cần có một thể chế độc tài, một chủ trương cai trị
độc tài, và tập trung quyền lực vào một giai cấp lãnh đạo độc tôn để
trước là chống Cộng và sau là cho tên tuổi của dòng họ Ngô Đình vào bảng
vàng bia đá của lịch sử.
Nhưng từ cơ bản, chủ trương chống
Cộng và xây dựng đất nước bằng độc tài (nhất là độc tài kiểu Thiên Chúa
giáo Trung Cổ) và độc tôn (loại độc tôn quân chủ phong kiến) đã là những
quan niệm chiến lược sai lầm lớn để đối đầu với chiến tranh nhân dân
của Cộng Sản và để đi tìm sự yểm trợ có điều kiện của những nước Tây
phương lấy dân chủ tự do làm nguyên lý chỉ đạo quốc gia. Quan trọng hơn
cả, độc tôn và độc tài là đi ngược với xu thế thời đại và ước vọng của
dân ta sau cả trăm năm dài ngoại thuộc. Dân tộc xả thân vì đất nước hơn
một thế kỷ không phải để cuối cùng lại chui vào chu kỳ nô lệ đen tối cũ.
Vì
vậy, ba tác phẩm đó của ông Nhu vừa không nhất quán giữa nội dung và
hình thức, vừa không hiệu dụng trong thực tế, và vừa gây tác hại cho
sinh lực quốc gia. Cho nên dân tộc đã dõng dạc khước từ và cuối cùng đã
quyết liệt trừng phạt. Tên tuổi của dòng họ Ngô Đình có đi vào lịch sử
thật nhưng đi bằng ngả sau và được ghi tiếp theo vào danh sách của những
phản thần, bạo chúa Lê Long Đỉnh, Trần Ích Tắc, Khải Định, v.v…
Có
chính quyền trong tay, có đảng Công Giáo Cần Lao làm chủ lực, có Hiến
pháp và Quốc Hội làm một thứ chiêu bài bảo đảm, có Mỹ và Vatican yểm
trợ… lại có Cộng Sản Hà Nội để biện minh cho hành động, có hoàn cảnh
chậm tiến của quốc gia để bào chữa cho lỗi lầm, thế mà ông Nhu đã làm
được gì cho quê hương đất nước trong suốt 9 năm cầm quyền, hay ngược
lại, đã tiêu diệt sức mạnh của dân tộc và chính nghĩa của quốc gia để
đẩy miền Nam đến nhanh hơn và gần hơn bờ vực thẳm của ngày 30 tháng 4
năm 1975? Tôi xin lấy một số công tác độc đáo và được nhóm sử gia hoài
Ngô tự hào để phân tách về giá trị đích thực của ông Nhu.
Chỉ
một thời gian ngắn sau khi ông Diệm làm Tổng thống, ông Nhu bắt đầu tổ
chức những lực lượng ngoại vi có tính quần chúng để yểm trợ cho chính
quyền. Đây là một công thức cổ điển về đấu tranh đã được các đảng Cộng
Sản Nga và đảng Quốc Xã Đức thiết kế để điều động và lãnh đạo quần
chúng. Để bảo đảm sự hiệu dụng của công thức này, điều kiện tiên quyết
là các tổ chức này phải do một bộ phận của đảng chủ lực (hay là đảng cầm
quyền) bí mật phát động và kiểm soát mới có khả năng tạo được sức hút
rộng rãi trên mọi tầng lớp quần chúng, và đến khi cần thiết có thể phát
khởi những cao trào nhân dân.
Hai tổ chức Liên Đoàn Công Chức
Cách Mạng Quốc Gia và Thanh Niên Cộng Hòa do ông Nhu mang nặng đẻ đau,
tuy đã cố gắng bắt chước mô thức này, nhưng vì quá thô kệch và vụng về
nên trở thành trò hề chính trị cho quần chúng và gánh nặng tài chánh cho
quốc gia. Thật vậy, trước hết là về mặt căn cước chính trị của các tổ
chức này, ai cũng biết là của chính quyền chứ không do nhân dân tự phát,
vì đảng Cần Lao của ông Nhu chỉ được giao cho nhiệm vụ khủng bố tranh
đoạt quyền lợi thay vì tiến hành những tổ chức căn bản trong nhân dân.
Vì đã là của chính quyền chứ không phải của đảng thì cái yếu tố thứ hai
là bí mật điều động và kiểm soát cũng không còn nữa. Lộ liễu đến cả
trong cái danh xưng của tổ chức là “Công Chức Cách Mạng” nên trọng điểm
thứ hai của tổ chức là nội dung chính trị của nó cũng trở thành rỗng
tuếch. Ta hãy nghe ông Võ Phiến, một nhà văn dân tộc phê phán như sau:
Thật
là lạ lùng: Công chức và cách mạng là hai thái cực mâu thuẫn, một bên
thì chấp nhận cúi mình theo kỷ luật, một bên thì muốn phá tung những câu
thúc, những cái cũ kỹ. Như thế thì làm sao công chức với cách mạng có
thể đi đôi với nhau được mà lại thành lập “Liên Đoàn Công Chức Cách Mạng
Quốc Gia” [7].
Cũng vậy lực lượng Thanh Niên Cộng Hòa mà cấp
lãnh đạo từ trung ương đến tận các cơ sở tỉnh quận toàn là người của
chính quyền, hoặc lố lăng thân chính, đã không thu hút được thành phần
thanh niên trẻ có nhiệt tâm và có tinh thần cộng hòa với những ước vọng
hiến thân cho tự do và dân chủ thật sự. Cho nên, bên trong những bộ đồng
phục xanh của những công chức “sớm vác ô đi tối vác về”, ta không tìm
được những ngọn lửa bừng bừng lòng yêu nước của tuổi trẻ Việt Nam từ
ruộng đồng đến giảng đường đại học, từ công trường xưởng thợ đến núi đỏ
rừng xanh. Ngược lại ta chỉ tìm thấy rất nhiều vẻ già nua thư lại, nét
cam chịu phục tòng của những người mang thân phận làm cho hết chuyện qua
ngày.
Điều thê thảm là bộ óc của chế độ lại đặt rất nhiều kỳ
vọng và tin tưởng vào những bộ phận đấu tranh như thế để bảo vệ chế độ
Cộng Hòa và xây dựng Cách Mạng Nhân Vị:
… Nhưng ông Nhu đã tin
và tin thật vào những bộ đồng phục màu xanh. Bộ đồ đó lại không có phép
lạ biến ông chủ sự hay người thư ký thành một phần tử đấu tranh. Bắt
mặc thì mặc, xếp hàng thì xếp hàng, giơ tay thì giơ tay. Người tùy phái
của tôi vừa cười rũ vừa thay đồ vừa tủm tỉm xin phép “đi thanh niên”,
rồi một lúc sau về lại trút vỏ thanh niên, lại đưa giấy và mở cửa cho
khách, hút thuốc và đọc báo: anh ta cũng chẳng biết mình cách mạng ở chỗ
nào. Nhưng cố vấn Ngô Đình Nhu, học giả kiêm chính trị gia, đã tỏ vẻ
hài lòng về sự thành công của mình khi đứng nhìn diễn hành hàng ngàn bộ
đồ xanh. Tổ chức của ông có giúp được chút nào cho chế độ được đứng vững
hay không? [8].
Xuất phát từ chính quyền, mục tiêu chính trị
là bảo vệ chế độ, đối tượng kết nạp là thành phần ngoan ngoãn phục tùng,
cho nên hoạt động của các tổ chức ngoại vi này không còn gì khác hơn là
đi diễn hành, đi hoan hô đả đảo, mà không có một xác tín chính trị nào
về nền Cộng Hòa và về cuộc cách mạng. Mà không có cũng là phải vì nền
Cộng Hòa mà họ đang uể oải xây dựng có phải là nền Cộng Hòa chân thực
đâu; cuộc cách mạng mà lãnh tụ của họ đang chủ xướng có phải là một cuộc
cách mạng vì họ và cho họ đâu.
Cũng vì vậy mà ngày 15 tháng 8
năm 1963, khi vị Tổng thủ lãnh Ngô Đình Nhu kêu gọi đoàn viên Thanh
Niên Cộng Hòa “làm rạng tỏ chính sách” bằng cách phản ứng quyết liệt với
lực lượng sinh viên và Phật tử trong biến cố đàn áp Phật giáo thì đại
đa số đoàn viên chẳng những đã không có phản ứng gì hết mà còn rã ngũ để
đứng về phía lực lượng bị đàn áp đang đấu tranh. Phải đợi cho đến ngày
1–11–1963, khi tiếng súng cách mạng đáp tiếng gọi của nhân dân nổ lớn,
nổ mạnh vào dinh Gia Long thì người thanh niên gọi là “Thanh Niên Cộng
Hòa” mới hành xử thực sự một cách Cộng Hòa khi họ dõng dạc khước từ lời
kêu cứu khẩn cấp của ông Tổng giám đốc Thanh niên Cao Xuân Vỹ và Trung
tá Trần Văn Phước, thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa Đô Thành, đang nuôi ảo
vọng tổ chức một lực lượng phản đảo chánh. Thật vậy, yếu tính của một
nền Cộng Hòa là gì nếu không phải là dân chủ, là quyền làm chủ đất nước
của người dân qua các định chế dân cử. Trong bộ đồng phục màu xanh từ
mấy năm qua, họ chỉ là một bộ phận tôi tớ chứ có ngày nào được tự do
chọn lựa, tự do nói lên ước nguyện của mình đâu! Và ngày 1–11–63 đã cho
họ cơ hội dõng dạc nói lên tiếng nói phản ánh ước nguyện của họ đó. Cho
nên chính trong ngày lịch sử đó họ mới thật sự cùng với thanh niên cả
nước trở thành những thanh niên cộng hòa trên cả hai mặt tâm thức lẫn
hành động.
Sự thất bại trong việc tổ chức Liên Đoàn Công Chức
Cách Mạng Quốc Gia và lực lượng Thanh Niên Cộng Hòa, hai cánh tay nối
dài của chế độ, để đi vào quần chúng do vị cố vấn Tổng thống tổ chức và
điều hành, đã nói lên rất đủ kiến thức và khả năng của ông Nhu về mặt
đấu tranh chính trị. Đó là cái kiến thức và khả năng làm những công tác
biểu dương bên ngoài mà không có một thực chất sâu sắc ở bên trong. Mà
ngay cả nhiệm vụ biểu dương đó cũng mang tính chất hài hước chứ không có
tác dụng nào đối với nhân dân Việt Nam, đối với đồng minh Hoa Kỳ, và
nhất là đối với kẻ thù Cộng Sản Hà Nội nếu không muốn nói là đã có phản
tác dụng nguy hại cho chính chế độ vậy.
Đó là nói về sự thất
bại của hai tổ chức cơ hữu của chế độ. Còn để thực sự đối kháng với kẻ
thù trên mặt trận quân sự chính trị, ông Ngô Đình Nhu đã đích thân điều
khiển việc thực hiện chương trình Ấp Chiến Lược, một chương trình được
nâng lên hàng quốc sách.
Nói cho đúng, quan niệm chiến lược
nhằm thiết kế những đơn vị hành chánh có võ trang tại thôn quê để tự bảo
vệ và được huấn luyện chính trị để từ đó đan vào nhau thành một hàng
rào vừa phòng ngự vừa tấn công là sáng kiến của ông Robert Thompson, một
chuyên viên chống du kích người Anh. Sáng kiến này đã được thực hiện
hữu hiệu tại Mã Lai và chận đứng cũng như tiêu diệt quân phiến loạn
Mã–Cộng, cho nên chính quyền Kennedy đã xem đó như một sách lược quan
trọng khả dĩ có thể công phá được loại chiến tranh du kích của Cộng Sản
tại chiến trường Việt Nam.
Và cũng nói cho thật đúng thì “Ấp
Chiến Lược” không phải là một phát minh mới mẻ lạ lùng gì đối với nhân
dân Việt Nam. Trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhân
dân và triều đình của nước ta đã biết rào làng, lập đoàn tuần canh, cổ
súy ý thức làng xã để đối phó với giặc cướp, với quân xâm lăng và với cả
sự hà khắc của thiên nhiên nữa. Lũy tre gai góc và rậm rạp đã là những
chiến lũy thiên tạo vững chắc, đoàn tuần canh siêng năng đã là những cán
bộ quân sự minh mẫn và nhiệt tình; hội làng, lễ đình, tế thần đã là
những sinh hoạt văn hóa chính trị nuôi dưỡng ý thức và khả năng đề kháng
của xóm làng Việt Nam. Trong cuộc chiến Pháp–Việt (1945–1954), Việt
Minh đã thiết lập tại Bắc Việt những làng chiến đấu để chận đứng những
chiến dịch càn quét của quân đội cơ giới Pháp và nhiều khi gây tổn thất
nặng nề cho đoàn quân thực dân viễn chinh. Dưới chế độ vua Bảo Đại, các
Thủ hiến Phan Văn Giáo và Trần Văn Lý cũng đã xây dựng một hệ thống
phòng thủ tại miền Trung bằng các làng Hương Vệ để bảo đảm an ninh cho
vùng nông thôn Trung Việt.
Cho nên nói rằng ông Nhu là “cha
đẻ” của chính sách Ấp Chiến Lược như bộ máy tuyên truyền của chế độ vẫn
thường rêu rao, là một sự bịp bợm ấu trĩ và đầy trào phúng. Ngay cả
chính sách này, lúc được Hoa Kỳ đề nghị, cũng đã từng bị ông Nhu đả kích
kịch liệt [9]. Mãi cho đến khi tình hình an ninh tại nông thôn trở nên
tồi tệ hơn và nhất là khi Hoa Kỳ chịu tháo khoán một ngân quỹ lớn lao,
ông Nhu mới chấp thuận thực hiện chính sách này và thêm vào đó một mớ ý
niệm “tam túc, tam giác” cho quốc sách Ấp Chiến Lược có vẻ có một triết
lý chính trị riêng, để tỏ ra mình cũng có một lý thuyết chống lại chiến
tranh nhân dân của Cộng Sản.
Với một chủ thuyết chỉ đạo lai
căng nửa Mỹ nửa Việt như thế, cho nên khi biến thành hành động cụ thể để
đi vào thực tế Việt Nam, “quốc sách” ấp chiến lược đã trở thành một mối
họa cho nhân dân, và trở thành (một lần nữa) nhược điểm lớn của chế độ
cho kẻ thù khai thác đánh phá.
Hai yếu tố lớn làm thui chột
quốc sách này, như thường lệ, vẫn là thứ nhất, óc chủ quan nặng lý
thuyết của ông Ngô Đình Nhu, và thứ hai là bộ máy nhân sự để thực hiện
quốc sách này lại chuộng hình thức, tham lợi lộc và ưa nịnh hót vốn là
đặc tính cố hữu của Cần Lao Công Giáo.
Trước hết, trên mặt địa
lý nhân văn, ruộng đồng miền Nam rộng mênh mông, cò bay thẳng cánh nên
gia cư không quần tụ lại thành thôn xóm khắng khít như nông thôn miền
Bắc, do đó đi từ nhà này đến nhà nọ nhiều khi cách xa bốn năm cây số,
hai ba con kênh. Đất đai miền Nam lại phì nhiêu màu mỡ nên người dân làm
ăn thư thả, tâm hồn phóng khoáng và tính tình bộc trực; họ ghét sự câu
thúc trên cả hai mặt tâm lý lẫn vật lý, họ thích sống phóng khoáng trong
cảnh trời cao đất rộng để đập vỡ một xị đế theo giọng vọng cổ lên bổng
xuống trầm… Vì vậy tập trung họ trong một ấp xa xôi có rào, có hào, có
cắm chông, có vọng gác đã là một điều phản tâm lý, lại kiểm soát gắt gao
giấy tờ, kiểm soát thời giờ và hoạt động nông tác của họ thì quả thật
là thất nhân tâm. Huống gì bắt họ rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn, mồ mả cha
ông, khung cảnh quen thuộc mà họ đã lớn lên thì không khác gì tước đoạt
mất cái phần hồn quý giá của họ.
Đã thế, mặc dù “chương
trình Ấp Chiến Lược” có một ngân quỹ dồi dào do ngân sách viện trợ Mỹ
đài thọ, chính quyền địa phương vẫn buộc dân chúng phải góp nạp vật liệu
như tranh tre, mây nứa, phải đóng góp mấy ngày công một tháng để đắp
đất cắm chông mà không được trả một chút tiền nhỏ nào cả. Ông Ngô Đình
Nhu lại hạ lệnh cho thuộc cấp phải huy động tối đa tài lực của quần
chúng nông thôn để đạt cho được chỉ tiêu lý thuyết và làm đẹp những con
số thống kê của thành tích chính phủ, nên các Tỉnh trưởng, Quận trưởng
lại được cơ hội chính thức và hợp pháp để làm giàu trên nỗi uất hận của
đồng bào.
Họ tổ chức các dịch vụ buôn bán, các cơ sở làm ăn,
các đường dây kiểm soát để vơ vét tiền bạc của những nông dân bị xung
công vào công tác “ấp chiến lược”. Điển hình là Quận Thá
© TuSach.mobi - Đọc truyện online trên mobile
VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi
Tác giả: Hoành Linh Đỗ Mậu
Chương 11: Năm 1960, bắt đầu của sự sụp đổ
Vào khoảng đầu xuân năm 1958, như đã nói trong một chương trước, tôi
được chỉ định đi thanh tra các đơn vị Công binh trong khi chờ đợi một
nhiệm vụ thường trực hơn sau thời gian một năm ở Pháp. Tuy công tác có
tính cách tạm thời và tuy không có một kiến thức nào về ngành chuyên môn
này nhưng nhờ dịp đó, và bằng những thẩm định thuần túy an ninh quốc
phòng xuyên qua ngành Công binh, tôi đã được đi khắp miền Nam và nghiên
cứu một cách khá chính xác về tình hình đất nước.
Tôi còn nhớ
vào tháng Ba năm đó, tôi cầm đầu phái đoàn thanh tra xuống Sa Đéc định
thăm Trung tá Nguyễn Bảo Trị đang chỉ huy một sư đoàn tại đây nhưng Trị
đi vắng, Thiếu tá Trần Thanh Chiêu, Tham mưu trưởng Sư đoàn, tiếp tôi.
Chiêu còn trẻ tuổi, chưa bao giờ chỉ huy đơn vị tác chiến, nhưng nhờ gia
đình Công giáo có liên hệ nhiều với ông Ngô Đình Khôi nên được anh em
ông Diệm hết sức thương yêu, tín nhiệm, nâng đỡ. Chiêu ham đọc sách,
thích lý luận về chính trị và quân sự đúng với phong cách tính tình của
người dân vùng quê hương Nam Ngãi.
Chiêu cho tôi biết chỉ mới
đầu năm 1958, nghĩa là chưa đầy 4 năm sau hiệp định Genève mà Việt cộng
đã thực hiện xong giai đoạn giáo dục quần chúng và tổ chức hạ tầng cơ sở
cho nên tình hình nông thôn tuy bề ngoài có vẻ an bình nhưng bề sâu
thật sự đã có những đợt sóng ngầm chuyển động. Theo Chiêu thì dân chúng
vùng Hậu Giang, trừ những làng Hòa Hảo, đều đã theo Việt cộng hết nhưng
chính quyền địa phương thì vẫn chủ quan và vẫn báo cáo láo với Tổng
thống là tình hình an ninh tốt đẹp. Chiêu thành khẩn nói với tôi: “Em
biết Đại tá rất trung thành với Tổng thống, Đại tá nên nói rõ cho ông
biết sự thật kẻo ông Cụ bị các Tỉnh trưởng lừa bịp hoài”.
Tôi
tin Chiêu không phóng đại tình hình bởi vì ngay giữa Sài Gòn vào tháng
10 năm ngoái (1957), trong một ngày mà Việt cộng dám đặt hai quả mìn,
một tại đường Trần Hưng Đạo, một tại chợ An Đông làm nổ tung một chiếc
xe chở Mỹ kiều và làm sập đổ một góc Khách sạn có sĩ quan Mỹ trú ngụ. Và
vào tháng 11 năm 1957, trong cuộc hành quân ở Ô Môn (Cần Thơ), bên ta
đã bắt được đến 12 lính Việt cộng và tịch thu được nhiều võ khí khá hiện
đại. Về Sài Gòn, tôi trình bày tình hình an ninh chung, kể lại những
lời Trần Thanh Chiêu đã nói cho Tổng thống Diệm nghe nhưng tôi bị ông
“tạt ngay một gáo nước lạnh lên đầu” như ông đã thường la rầy Trung tá
Nguyễn văn Châu, Giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lý là hay bi quan: “Anh
chớ nghe thằng Chiêu nói tầm bậy”.
Thật vậy, trong lúc anh em
ông Diệm tự hào tự mãn vì những lời ca ngợi của một số chính khách tướng
lãnh Mỹ, và lạc quan vì những buổi đón tiếp đông đảo của dân chúng mỗi
lần ông đi kinh lý, thì tình hình an ninh của miền Nam đã thật sự đến
hồi đáng lo ngại.
Kể từ năm 1956, sau khi ông Diệm được Hoa Kỳ
khuyến khích từ chối tổ chức Tổng tuyển cử hai miền theo quy định của
hiệp ước Genève, thì giới lãnh đạo Bắc Việt một mặt cho đài phát thanh
Hà Nội suốt ngày tố cáo sự vị phạm trắng trợn này và kêu gọi nhân dân
miền Nam nổi dậy, mặt khác tiến hành việc khai thông và chỉnh trang lại
con đường giao liên và vận chuyển từ Bắc vào Nam, gọi là “Đường giây ông
Cụ” (để sau này biến thành Đường mòn Hồ Chí Minh). Số cán bộ bí mật
không tập kết ra Bắc cũng vận dụng và tổ chức lại những thành phần kháng
chiến chống Pháp cũ nên đã gây được nhiều thành quả đáng kể.
Trong
ba năm từ 1957 đến 1959, Việt cộng vừa tổ chức hạ tầng cơ sở tại nông
thôn, vừa bắt đầu mở rộng phạm vi ảnh hưởng bằng các hoạt động bắt cóc
và ám sát cán bộ ấp xã của chính quyền, mà chỉ nói riêng năm 1957 mà
thôi, số cán bộ chính quyền bị thủ tiêu đã lên đến 472 người. Con số này
tăng gấp đôi vào năm 1958 và đến năm 1960 thì trung bình cứ mỗi tuần lễ
có đến 15 cán bộ nông thôn, viên chức xã ấp bị Việt cộng giết. [1]
Nhìn
lại toàn bộ mọi khía cạnh của cuộc chiến Việt Nam, không ai có thể
tưởng tượng được rằng sau Hiệp định Genève 1954, trong khi Cộng sản Bắc
Việt bị kiệt quệ về mọi mặt và trong lúc miền Nam Việt Nam được đệ nhất
cường quốc Hoa Kỳ yểm trợ tận tình và dồi dào mà chỉ năm năm sau (1960)
tình trạng an ninh ở miền Nam đã bị thui chột ở hạ tầng vì bị sức mạnh
công phá của kẻ thù ở nông thôn cũng như ở các vùng ven biên đô thị.
Ngày 26 tháng giêng năm 1960, một trung đoàn thuộc sư đoàn 13 đóng ở
Trảng Sập, cách tỉnh lỵ Tây Ninh khoảng 12 cây số, bị Việt cộng tấn công
gây thiệt hại nặng nề cả về nhân mạng lẫn vũ khí.
Ngoài tác
dụng quân sự dĩ nhiên của nó, thảm bại của sư đoàn 13 còn chứng tỏ thêm
hai điểm rất rõ ràng trong chính sách cai trị của ông Diệm: đó là chính
sách sử dụng nhân sự qua việc lựa chọn Trung tá Trần Thanh Chiêu, một
tay chân “Cần Lao Công giáo” thân tín, giữ chức Tư lệnh Sư đoàn Dù.
Chiêu không có kinh nghiệm chiến trường (chỉ trong năm năm Chiêu được
thăng cấp từ Trung úy lên Trung tá vào giai đoạn mà tình trạng đặc cách
và tình hình chiến sự chưa đến nỗi sôi bỏng như vào những năm 1970 sau
này) và dù quân đội lúc bấy giờ không thiếu sĩ quan cấp tá đã từng lăn
lộn trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.
Thứ hai là
thảm bại này cũng chứng tỏ rất rõ cái hệ quả tất yếu của chính sách kỳ
thị và đàn áp tôn giáo Cao Đài của chính phủ Diệm. Cao Đài là một tổ
chức yêu nước chống Pháp từng là hậu thuẫn của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để.
Giáo chủ Phạm Công Tắc từng bị thực dân Pháp lưu đày ở Comères mấy năm
trường.
Giáo hội Cao Đài vốn coi Việt cộng là kẻ thù không đội
trời chung vì sau khi vừa cướp được chính quyền năm 1945, Việt Minh đã
tiêu diệt tập thể nhiều làng Cao Đài ở Quảng Ngãi, đã khủng bố sát hại
tín đồ Cao Đài ở khắp nơi, và đặc biệt đã bắt giam và sát hại nhiều lãnh
tụ Cao Đài như ông Trần Quang Vinh hoặc ông Nguyễn văn Sâm, Khâm sai
của chính phủ Trần Trọng Kim chẳng hạn. Dưới chế độ của Quốc trưởng Bảo
Đại, lực lượng võ trang Cao Đài chiến đấu sinh tử chống Việt Minh và giữ
vững an ninh cho những làng mạc (nhất là ở miền Đông Nam phần), nơi có
tín đồ Cao Đài sinh sống. Nhưng kể từ ngày 5 tháng 10 năm 1955, khi anh
em ông Diệm mua chuộc được tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương, rồi một
mặt cho tấn công vào Thánh thất Tây Ninh, tước khí giới 300 hộ vệ quân
của Giáo chủ Phạm Công Tắc, một mặt cho báo chí và đài phát thanh Sài
Gòn đưa ra chiến dịch bôi nhọ Giáo chủ Cao Đài nào là dâm ô, tham nhũng,
Việt gian, thì Giáo chủ Phạm Công Tắc, tướng Lê văn Tất và một số tín
đồ trốn qua Cao Miên. Từ đó Cao Đài bỏ chủ trương chống Cộng quay qua
chống chính quyền Ngô Đình Diệm. Theo giáo sư Douglas Pike thì sau khi
Giáo chủ Phạm Công Tắc lưu vong qua Cao Miên, trong số 11 hệ phái Cao
Đài đã có 10 hệ phái theo Việt cộng, chỉ còn một hệ phái ủng hộ chế độ
Diệm mà mục đích chỉ là để bảo vệ lấy Thánh thất Cao Đài cho đến khi chế
độ Diệm bị lật đổ, toàn thể lực lượng Cao Đài lại trở về hợp tác với
những chế độ sau Diệm. [2]
Tuy nhiên, dù có một hệ phái Cao
Đài ủng hộ chế độ Diệm nhưng chỉ là sự ủng hộ bên ngoài mà thôi bởi vì
họ đã không hợp tác với sư đoàn 13, không thông báo những hoạt động của
Việt cộng trong vùng họ sinh sống cho Sư đoàn, do đó Sư đoàn mới bị tấn
công bất ngờ, bị thiệt hại hết sức nặng nề, mất toàn bộ vũ khí của cả
một Trung đoàn. Chính Trung tá Trần Thanh Chiêu, Tư lệnh Sư đoàn 13 đã
công nhận thái độ thiếu thân thiện của Cao Đài khi tôi đến Tây Ninh đích
thân điều tra vụ thất bại quân sự này.
Ngoài trận tấn công
vào Sư đoàn 13 làm cho mọi giới Việt Mỹ bàng hoàng, trong năm 1960,
những hoạt động của Việt cộng cũng đã xảy ra rất nhiều nơi đã cho ta
thấy lực lượng quân sự cũng như chính trị của Việt cộng quả thật đã
trưởng thành và gia tăng mau chóng. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã chạm
trán với Việt cộng ở vùng U Minh Hạ (Cà Mau), ở Thái Lai (Phong Dinh), ở
Bầu Răm (Long An), ở Phong Phú (Kiến Tường), ở Đức Huệ (Long An), ở Giá
Rai (Bạc Liêu), ở Cai Lậy (Định Tường), ở Phướng Tân và Bầu Sen (Tây
Ninh), ở Cao Lãnh (Kiến Phong),... và rất nhiều nơi khác. Việt cộng còn
dám tấn công vào quận Đức Hòa gần thủ đô Sài Gòn vào ngày 28 tháng 5 năm
1960. Có nhiều nơi Việt cộng đã hành quân với cấp tiểu đoàn như trận
đánh ngày 22 tháng 6 năm 1960 ở Cóc Rinh (Đức Huệ, Long An), Biệt động
quân đã phải kịch liệt chống cự với Tiểu đoàn 506 của Việt cộng. Ngày 21
tháng 10 năm 1960, các đồn Dakpek, Daksout, Dakse ở Kontum bị Việt cộng
tấn công ồ ạt và bị tràn ngập, chính phủ phải gởi mấy tiểu đoàn Nhảy dù
đến cứu viện. Thế mà ngày 28 tháng 10, nghĩa là 6 ngày sau, Việt cộng
đã lại tấn công vào công trường làm đường Kontum-Quảng Ngãi, làm cho đại
đội Công binh, đại đội Bảo an bảo vệ công trường này và một số đồn Bảo
an lân cận bị đánh tan rã, xe cộ, dụng cụ công binh bị phá hủy, và công
trường bị bãi bỏ (tôi có nói đến công trường này vào chương trước), Việt
cộng còn táo bạo hơn nữa khi dám tấn công căn cứ quân sự Hiệp Đức ở
Quảng Nam đóng trên một ngọn đồi vào ngày 20 tháng 8 năm 1960. Việt cộng
đã đánh tan đội quân bố phòng, thu đoạt toàn bộ vũ khí, chiếm đóng căn
cứ mấy tiếng đồng hồ và chờ quân tiếp viện đến để tấn công theo chiến
thuật “Công đồn đả viện”. [3]
Rõ ràng mới năm 1960, nghĩa là
sáu năm sau khi ông Diệm lên cầm quyền, bốn năm sau khi Hà Nội quyết
định phát động cuộc đấu tranh giải phóng, mà bức tranh miền Nam đã ảm
đạm và lực lượng du kích của Việt cộng đã dám công khai thách thức đối
đầu với lực lượng chính quy của Việt Nam. [4]
Vấn đề đặt ra là
tại sao quân đội Việt Nam Cộng Hòa và lực lượng võ trang Bảo an gồm
phần đông những tướng tá binh sĩ có tinh thần chống Cộng rất cao, có
kinh nghiệm chiến đấu suốt sáu, bảy năm trời dưới chế độ Quốc trưởng Bảo
Đại (vốn được gọi là quân đội quốc gia), một quân đội đã trưởng thành
trong khói lửa mà ngày nay dưới ngọn cờ độc lập hoàn toàn, thêm được sự
hỗ trợ của một đồng minh mạnh nhất thế giới, lại không thắng được lực
lượng du kích của Việt cộng tại miền Nam dù sao cũng mới bắt đầu thử
lửa.
Gác ngoài những sai lầm chưa trầm trọng về cách tổ chức
và huấn luyện theo kiểu Mỹ vốn không phù hợp cho một cuộc chiến tranh
nhân dân, chiến tranh cách mạng, vì những sai lầm đó chưa ảnh hưởng đến
khả năng tác chiến của quân đội Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ, nếu ta
xét thuần về sức mạnh quân sự thì lực lượng chính phủ đã nắm rất nhiều
ưu thế: ưu thế về huấn luyện, về võ khí trang bị, về quân y quân nhu
quân cụ, về tính di động bằng cơ giới, về yểm trợ của pháo binh và không
quân, về hệ thống truyền tin và liên lạc, và nhất là về một hậu phương
dồi dào nhân, vật, tài lực,... vậy mà vẫn không khai dụng được những ưu
điểm đó đến nỗi mới năm 1960 mà đã bắt đầu bị lui vào thế phòng ngự bị
động. Như vậy, rõ ràng sự trì trệ và yếu kém của quân đội chỉ có thể
giải thích bằng chính sách lãnh đạo sai lầm của gia đình ông Diệm, chỉ
muốn tập trung quyền hành điều động quân lực vào một thiểu số, và khống
chế quân lực bằng một hệ thống bổ nhiệm bất công làm cho quân nhân các
cấp mất hẳn tinh thần chiến đấu và quân đội trở thành một kẻ khổng lồ
không tim không óc, quờ quạng trong chiếc bẫy sập tinh vi của kẻ thù,
một kẻ thù vừa sở trường về du kích chiến vừa được thôn dân nhiệt tình
ủng hộ.
Thật vậy, quân đội Việt Nam Cộng Hòa yếu kém trước hết
vì tính chủ quan khinh địch của anh em ông Diệm, những người chịu trách
nhiệm trước tiên về việc lãnh đạo chiến tranh, về việc chỉ đạo đường
lối chiến lược. Vì chủ quan khinh địch nên anh em ông Diệm đã không nắm
vững tình hình lại còn muốn che giấu sự thật, ngụy trang thành những
thành quả để say sưa với các lời tôn vinh.
Hãy nghe lời ca
ngợi của những người bạn ngoại quốc của ông Diệm thì thấy rõ cái chủ
quan vô lý của ông ta. Chẳng hạn như giáo sư Wesley Fishel, người Mỹ đầu
tiên có công tạo uy thế cho ông Diệm trên chính trường Hoa Kỳ, vào
tháng 8 năm 1958 đã viết : “Miền Nam Việt Nam được liệt vào hàng quốc
gia hòa bình, vững chãi nhất Á Đông”. Cố vấn cải cách điền địa của ông
Diệm, ông Wolf Ladejinsky cũng viết : “Cuộc nổi dậy tại miền Nam Việt
Nam chỉ là hoạt động rời rạc của cán bộ Việt cộng ở những vùng xa xôi
hẻo lánh mà thôi” [5]. Ngay cả một nhân vật khả kính người Anh, giáo sư
Honey, mà cũng tuyên bố rằng: “Vào năm 1959, Tổng thống Diệm đã củng cố
vững chắc địa vị của ông ta và vô hiệu hóa hết những lực lượng chống
đối” [6]. Hậu quả của tính chủ quan khinh địch là sự mù quáng, đã mù
quáng thì không biết địch tình, không biết phương thức đối phó với địch
thủ như cổ nhân đã dạy từ ngàn xưa mà vẫn luôn luôn đúng. Biết người
biết ta, trăm trận trăm thắng. Ông Diệm và người Mỹ đã không biết đầy đủ
về “ta”, lại càng không biết gì hết về “người” thì thất bại là lẽ đương
nhiên. Nhưng trên hết và quan trọng nhất là vấn đề lòng dân, yếu tố
quyết định sự thắng bại, thì dân đã lại càng ngày càng hướng về Việt
cộng trong khi ông Diệm và người Mỹ lại cứ cho rằng nhân dân miền Nam
vẫn ủng hộ ông Diệm và chế độ của ông ta.
Đối với quân đội thì
quyết tâm hy sinh của binh sĩ là yếu tố căn bản cho một cuộc chiến đấu
lâu dài thì người Mỹ lúc đầu lại cho rằng sức mạnh tinh thần không bằng
sức mạnh của võ khí. Còn ông Diệm thì lại không lãnh đạo quân đội theo
tinh thần hy sinh cho Tổ quốc như truyền thống và binh thuyết dựng nước
của lịch sử nước ta, mà lại xây dựng quân đội theo chánh sách bảo vệ
ngôi vị cho ông và phục vụ quyền lợi bất chính của gia đình và phe nhóm
của ông.
Sau khi đánh tan các nhóm võ trang của giáo phái,
nhiều người cho rằng từ nay quân đội sẽ được thống nhất, nhưng bất hạnh
thay, anh em ông Diệm lại xây dựng một thứ “quân đội giáo phái” mới:
giáo phái “Công giáo Cần Lao”. Từ đó, nội bộ hàng ngũ sĩ quan trong quân
đội chia ra hai phe: một phe Cần Lao và một phe không Cần Lao. Phe
không Cần Lao gồm rất đông sĩ quan người của các đảng phái như Duy Dân,
Đại Việt, Việt Quốc, Việt Cách và các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, hay
người của Nguyễn Phước tộc. Số sĩ quan đông đảo này coi chế độ Diệm là
kẻ thù vì đảng phái của họ đã bị đàn áp hoặc bị tiêu diệt.
Quân
đội có chín sư đoàn bộ binh thì đã có đến bảy sư đoàn do sĩ quan Công
giáo nắm chức Tư lệnh, mặc dù số sĩ quan không Công giáo vẫn chiếm đa
số. Những sĩ quan Công giáo đó là Bùi Dinh, Ngô Du, Nguyễn văn Thiệu,
Lâm văn Phát, Bùi Đình Đạm, Lê Quang Trọng, Nguyễn Bảo Trị (đó là chưa
kể Trần Thanh Chiêu, Huỳnh văn Cao và Nguyễn Thế Như cũng đều đã từng là
Tư lệnh Sư đoàn).
Quân đội thiếu gì sĩ quan chuyên môn hoặc
được đào tạo từ các ngành chuyên môn trong nước hoặc xuất thân từ các
trường ngoại quốc về, có kinh nghiệm lâu năm trong ngành, thế mà anh em
ông Diệm lại đặt ông Lê văn Sâm giữ chức Giám đốc Nha Quân cụ. Quyết
định này thật sự chỉ vì ông Sâm lấy em gái Bác sĩ Lê Khắc Quyến làm vợ,
mà bác sĩ Quyến lại là thầy thuốc riêng của thân mẫu ông Diệm. Ông Sâm
nguyên chỉ là một thợ máy tàu đò chạy trên sông ngòi miền Lục tỉnh. Sau
đó được ông Nguyễn Ngọc Lễ, lúc đó đang chỉ huy Việt binh đoàn, đem về
Huế cho điều khiển ba bốn chiếc thuyền máy, cho đến khi ông Diệm về
nước, ông Sâm gia nhập đảng Cần Lao và phục vụ đắc lực cho quyền lợi của
ông Ngô Đình Cẩn ở miền Trung nên được Cẩn vận động với ông Diệm cho
vào Sài Gòn chỉ huy ngành Quân Cụ để làm kinh tài cho nhà Ngô.
Quốc
gia thiếu gì nhân tài, thiếu gì những nhân vật xuất thân từ các đại học
về môn kinh tế, tài chính, thương mại, luật pháp để giữ chức Tổng giám
đốc Nha Hành ngân kế thuộc Bộ Quốc phòng, một chức vụ vô cùng quan trọng
có trách nhiệm quản trị điều hành một ngân sách lớn nhất của quốc gia
để nuôi dưỡng tiếp liệu cho một quân đội đang trong thời kỳ chiến tranh.
Thế mà anh em ông Diệm lại giao chức vụ khó khăn và quan trong đó cho
ông Nguyễn Đình Cẩn, nguyên chỉ là một thư ký tòa sứ thời Pháp thuộc,
trình độ văn hóa chỉ có bằng Thành chung, nghĩa là bằng Trung học đệ
nhất cấp. Sở dĩ ông Cẩn được giữ chức vụ đó vì ông là người Công giáo
Quảng Trị, “Bí thư đảng Cần Lao tại Sài Gòn”, để làm kinh tài cho nhà
Ngô.
Tôi chỉ đưa ra vài dẫn chứng cụ thể và nổi tiếng để cho
thấy anh em ông Diệm chủ trương “Cần Lao hóa” quân đội song song với
việc “Công giáo hóa” các cấp công an, Tỉnh trưởng mà tôi đã nói trong
mục trước.
Vì chủ trương “Cần Lao hóa” của chế độ Diệm cho nên
hầu hết các sĩ quan không còn tinh thần phục vụ nữa, không thấy binh
nghiệp như một phương thế đóng góp tích cực và có ý nghĩa cho đất nước
nữa. Họ tự hỏi đánh giặc cho toàn dân hay cho một gia đình, hy sinh tánh
mạng cho quốc gia hay cho một phe nhóm?
Không những tinh thần
quân đội bị suy nhược mà các lực lượng bán quân sự cũng mất đi cái khí
thế chống Công và hiệu năng tác chiến để chống lại lực lượng võ trang
của Cộng sản:
... Sau đó ông Diệm cho tổ chức các đội Nhân dân
Tự vệ ở nông thôn do Bộ Quốc phòng bảo trợ với sự cộng tác của người
Mỹ. Dân làng được huấn luyện quân sự và được cấp phát võ khí để bảo vệ
thôn ấp dưới sự điều khiển của sĩ quan quân đội chính quy của mỗi vùng.
Lúc đầu, những đội Hương Vệ thật sự đã tiêu biểu xứng đáng cho một đoàn
quân áo đen mà ông Diệm dự trù xây dựng thành “lực lượng nhân dân chống
Cộng”, và tinh thần của họ thật đáng ca ngợi. Nhưng khi ảnh hưởng của
Cần Lao xen lấn vào, khi khuynh hướng chính trị “toàn bộ” của chế độ đã
bị thay đổi thì tinh thần của quân đội cũng như của nhân dân tan biến
hết, do đó hiệu năng của các đội Nhân dân Tự vệ sụp đổ luôn. [7]
Thưởng
phạt nghiêm minh là yếu tố bảo toàn tinh thần và kỷ luật của quân đội
nhưng anh em ông Diệm lại đối xử với quân nhân như tôi tớ, dùng việc
thăng thưởng để ban phát ân huệ cho những gia nô trung thành với mình và
đảng Cần Lao Công giáo.
Nhìn về hình thức thì việc đề nghị
thăng thưởng hàng năm có vẻ công bằng cẩn trọng lắm, nhưng kết quả mỗi
kỳ thăng thưởng đã làm mất hết ý nghĩa của cấp bậc và làm nổi bật sự bất
công, nổi bật sự khinh thường hệ thống quân giai. Mỗi lần danh sách
thăng thưởng được công bố là mỗi lần tăng thêm sự bất mãn và chống đối
của sĩ quan và hạ sĩ quan.
Mỗi năm, Nha Nhân viên Bộ quốc
phòng thành lập một Hội đồng Thăng thưởng do một vị tướng làm Chủ tịch
và bốn sĩ quan cấp tá làm hội viên để lo việc thăng thưởng cho cấp Đại
tá trở xuống (còn cấp Tướng thì chính Tổng thống Diệm và ông Nhu quyết
định lấy). Bốn sĩ quan cấp tá gồm có một là Giám đốc Nha Nhân viên có
nhiệm vụ trình bầy hồ sơ cá nhân của mỗi sĩ quan có đủ tiêu chuẩn để
được đề nghị thăng thưởng: từ trình độ văn hóa, xuất thân từ trường Võ
Bị nào, đã tu nghiệp những lớp huấn luyện nào, thâm niên quân vụ, thâm
niên cấp bậc, khả năng chỉ huy, chiến công, huy chương, bằng tưởng lục,
số ngày bị phạt, lời phê điểm của cấp chỉ huy trực tiếp; hai là Giám đốc
Nha An ninh Quân đội có nhiệm vụ trình bầy về lý lịch an ninh, tư tưởng
chính trị và tinh thần phục vụ của mỗi trường hợp; ba là Tư lệnh quân
binh chủng hay đơn vị trực tiếp chỉ huy của đương sự, hội viên này có
nhiệm vụ soi sáng Hội đồng vì ông ta biết rõ thuộc cấp của mình, sự hiện
diện cuả hội viên này cũng như hội viên thứ tư, một sĩ quan độc lập còn
là để chặn đứng sự thiếu vô tư, nếu có, của vị Giám đốc Nha Nhân viên
và của Nha An ninh Quân đội. Sau mỗi trường hợp được trình bày, cân
nhắc, thẩm định, Hội đồng bỏ phiếu kín để lấy kết quả. Danh sách lập
xong được kèm theo biên bản của Hội đồng để đệ trình lên Tổng thống (sao
cho Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu).
Hình thức đề nghị
thăng thưởng tương đối hợp lý và vô tư, nhưng khi nghị định thăng thưởng
đươc ban ra có chữ ký của Tổng thống thì thường lại không ăn khớp với
bản đề nghị của Hội đồng, bị thêm bớt rất nhiều. Lý do là vì ngoài bản
đề nghị thăng thưởng chính thức của Bộ Quốc phòng còn có những danh sách
của Giám mục Ngô Đình Thục, của ông Nhu, ông Cẩn; còn một số thư từ gởi
gấm của rất nhiều linh mục khắp nơi. Vì thế người ta mới thấy hằng năm
tùy phái của ông Nhu, người nuôi heo cho ông Cậu, người gác nhà cho Đức
Cha,... đều thăng cấp vù vù, đều lên lon Trung úy, Đại úy dù họ chưa có
một thành tích binh nghiệp, chưa đổ một giọt mồ hôi nào trên thao trường
cũng như một giọt máu nào ở chiến trường. Như nhiều người đã biết rõ,
dưới chế độ Diệm, số sĩ quan và quân nhân được biệt phái phục vụ cho anh
em ông Diệm, cho những tổ chức chính trị kinh doanh riêng tư rất nhiều,
cho nên ân huệ phải được trang trải ra nhiều người, mà số sĩ quan được
thăng cấp hằng năm thì lại có hạn theo bảng cấp số đã qui định. Do đó,
số sĩ quan đủ tiêu chuẩn ở các đơn vị đáng được thăng cấp đã bị giảm
thiểu xuống để nhường chỗ cho các sĩ quan gia nô. Cứ lấy việc ông Nhu
phải thi ân cho các sĩ quan thuộc hệ thống buôn lậu thuốc phiện của ông
ta, việc ông Cẩn lấy binh sĩ xây lăng cho ông ta cũng đã đủ thấy sự
thăng thưởng bất công rồi.
Trong suốt thời gian của nền Đệ
nhất Cộng hòa, các quân nhân được đề cử giữ chức vụ quan trọng như Tư
lệnh vùng, Tư lệnh Sư đoàn, Tỉnh trưởng, Quận trưởng, v.v... đều do Nha
Nhân viên Bộ Quốc phòng trình lên Tổng thống, và tiếp theo Tổng thống
chỉ thị cho Nha An ninh Quân đội điều tra và phát biểu ý kiến.
Thời
gian này, tiện giả có nhiệm vụ lập phiếu trình lên Tổng thống xuyên qua
kết quả điều tra thâu thập được. Theo chỉ thị của Tổng thống thì phiếu
đệ trình của Nha An ninh Quân đội phải ghi rõ và gạch đít bằng bút đỏ
hai mục. Đó là tôn giáo và địa phương rõ rệt. Nhưng có nhiều sự kiện xác
thực nhất như việc đề cử Thiếu tướng Huỳnh văn Cao, Tư lệnh vùng IV
chiến thuật, Đại tá Bùi Dinh, Tư lệnh Sư đoàn 9 Bộ binh, Đại tá Bùi Đình
Đạm, Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh, và một số sĩ quan khác, mặc dù Nha An
ninh Quân đội phát biểu ý kiến các sĩ quan còn thiếu kinh nghiệm chỉ huy
các Đại đơn vị, nhưng trên phiếu trình Phủ tổng thống trả về, tiện giả
còn nhớ bút phê của Tổng thống Diệm như: “Mấy anh này rất ngoan đạo.
Thuận theo đề nghị của Nha Nhân viên Bộ Quốc phòng. (“Thượng tọa Thích
Trí Quang, Quốc gia hay Cộng sản”, tài liệu của cựu Thiếu tá Cục An ninh
Quân đội Trần Ngọc Giang - Phụ Nữ Diễn Đàn, số 112, tháng 5/1993).
Vì
chế độ thăng thưởng như thế cho nên Đại tá Linh Quang Viên, khi ông
Diệm mới về nước thì đã là Đại tá rồi, đã từng giữ chức Tư lệnh một quân
khu rồi mà sau mười năm Đại tá vẫn cứ là Đại tá, trong lúc Thiếu tá
Trần Ngọc Tám, tay chân thân tín của Ngô Đình Thục và nguyên Tỉnh trưởng
Vĩnh Long, thì từ năm 1954 đến đầu năm 1958, đã được thăng ba cấp lên
đến Thiếu tướng. Còn như các ông Vĩnh Lộc, Huỳnh văn Tồn và hàng trăm sĩ
quan khác, khi ông Diệm mới về nước đã mang cấp Thiếu tá mà sau gần
mười năm quân vụ chỉ lên được một cấp mà thôi, lại không cho giữ chức
chỉ huy đơn vị chiến đấu. Ngay như tại Nha An ninh Quân đội do chính tôi
trách nhiệm, năm 1958 khi tôi về chỉ huy thì Thiếu tá Trần văn Kính đã
khá thâm niên mà đến đầu năm 1963 mới được thăng Trung tá. Đại úy Thăng
mà trong ngành tình báo phản gián, An ninh Quân đội không mấy ai không
biết là một người có khả năng xuất sắc về phản gián, giữ chức chánh sở
một quân khu, có công khám phá và tiêu hủy rất nhiều cơ sở binh vận của
Việt cộng, là một Đại úy thâm niên từ thời quân đội quốc gia, thế mà
mười năm dưới chế độ Diệm, Đại úy Thăng chỉ được thăng lên có một cấp.
Trong lúc đó thì sĩ quan Cần Lao khắp nơi thăng quan tiến chức lên như
diều, mà điển hình là ba ông Huỳnh văn Cao, Nguyễn văn Châu và Lê Quang
Tung. Khi ông Diệm mới về nước vào tháng 7 năm 1954, Tung mới ra trường
khóa 14 Trừ Bị, thế mà đầu năm 1963 đã lên đến Đại tá: tám năm lên sáu
cấp, mặc dù Tung chưa bao giờ tham gia trận mạc mà luôn luôn ở Huế và
Sài Gòn.
Vì anh em ông Diệm đã xem việc thưởng phạt sĩ quan
như đặc quyền cá nhân nhằm ban phát ân huệ cho gia nô nên binh thống,
danh dự và quân kỷ của quân đội không còn nữa, chỉ tạo ra tình trạng bất
công và ganh ghét trong quân đội, cho nên ngay tướng Dương văn Minh, kể
từ năm 1960 đã tỏ ra bất mãn. Tôi còn nhớ năm 1960 hay 1961, khi làm
Chủ tịch Hội đồng Thăng thưởng, ông đã không sợ tai vách mạch rừng khi
tuyên bố thẳng lúc mới bắt tay vào việc : “Cấp trên chỉ định tôi làm Chủ
tịch thì tôi phải làm, nhưng tôi biết rõ Hội đồng này chỉ là một trò
hề. Dù sao tôi cũng yêu cầu anh em trong Hội đồng phải làm theo lương
tâm, phải hết sức vô tư vì việc làm của chúng ta, chữ ký của chúng ta
vẫn mãi mãi nằm trong hồ sơ lưu chiếu của quân đội”.
Phê phán
về quân đội Việt Nam Cộng Hòa, giáo sư sử gia Buttinger, người đã từng
yểm trợ tối đa cho ông Diệm, cũng đành phải viết:
“Không cần
phải là một chuyên viên quân sự cũng thấy được rằng Quân đội Việt Nam
Cộng Hòa đã được huấn luyện sai binh pháp của cuộc chiến tranh đương
thời. Được tổ chức theo phương pháp Mỹ, Quân đội Việt Nam Cộng Hòa không
đáp ứng được nhu cầu kỹ thuật cho một cuộc chiến nổi dậy. Sau năm 1960,
một số cấp lãnh đạo (Mỹ) mới hiểu rằng chiến tranh du kích phải được
đối phó theo phương thức riêng của nó, rồi đột nhiên nhiều người bàn đến
sự cần thiết phải tổ chức những đơn vị phản du kích. Nhưng người ta
chẳng làm được gì nhiều trước cung cách lãnh đạo chiến tranh thiếu khả
năng và vô giá trị.
Lý do chính của sự thất bại trong việc
đương đầu với Việt cộng là những điều kiện chính trị đã cản trở sự cải
tiến của quân đội cho có hiệu năng. Có rất nhiều chứng cớ cho thấy rằng
sĩ quan cũng như binh lính không ai muốn chết cho cuộc chiến. Đó là hậu
quả của việc ông Diệm đòi hỏi quân đội phải trung thành với ông ta một
cách mù quáng... Hầu hết những bổ nhiệm sĩ quan là vì lý do chính trị mà
không đếm xỉa gì đến tính tình hay óc thông minh của các đương sự. Ngay
cả những sĩ quan cao cấp từng tỏ ra trung thành lâu năm với ông Tổng
thống cũng có thể chuốc vào mình sự thất sủng. Nếu họ đã tỏ ra ngay
thẳng và được lòng binh sĩ thì chẳng những họ sẽ chuốc vào mình sự nguy
hiểm mà còn sẽ không được yên thân nếu họ hăng say đánh giặc và chấp
nhận những thiệt hại khi đánh đuổi quân địch đã bỏ chạy. Dưới những điều
kiện đó thì dù những đội quân thiện chiến nhất cũng không còn lòng dũng
cảm, không muốn lập chiến công nữa. Số đào ngũ vô cùng đông đảo mà
không được để ý, tinh thần binh sĩ xuống thấp không thể tưởng tượng được
vì sĩ quan thì thiếu khả năng và tham nhũng, binh sĩ thì không được
chăm sóc nên thường hay ăn cắp thực phẩm.
Một khía cạch khác
của cuộc chiến là sự tra tấn tàn bạo đối với Việt cộng hay những kẻ chỉ
bị tình nghi là Việt cộng. Sự tra tấn tù nhân hay là những người thường
dân chỉ mới bị nghi ngờ đã từng cho Việt cộng trú ẩn, và sự hạ sát tù
nhân là chuyện xảy ra hàng ngày; nhưng dù tra tấn hay giết chóc cũng
không đánh bại được Việt cộng. Ngay cả khi chế độ cho thiết lập Khu Trù
Mật hay Ấp Chiến Lược cũng không giải thoát được nông thôn khỏi tay Việt
cộng. Việc xây dựng Khu Trù Mật, những thứ trại tập trung to lớn, phải
sớm bị bãi bỏ vì không thực hiện nổi, nhưng trước khi bãi bỏ thì chủ
trương thất nhân tâm đẩy dân chúng khỏi nơi chôn nhau cắt rốn đó đã làm
cho dân chúng căm thù chế độ nhà Ngô rồi. [8]
Nhận định của
giáo sư Buttinger tuy đã mô tả khá đầy đủ thực trạng tiêu cực của quân
đội nhưng vẫn chưa đi sâu vào chính những nguyên nhân đã tác hại thê
thảm lên sức mạnh của quân lực, những nguyên nhân phát xuất từ đầu óc
hẹp hòi, tính tình ngạo mạn và chính sách xem quân và dân miền Nam như
dụng cụ mà Trời và Chúa đã trao vào tay mình của anh em nhà Ngô. Cho nên
mở đầu là thảm bại của Sự đoàn 13, và trước đó trong suốt năm 1960,
quân đội Việt Nam Cộng Hòa liên tục nhận chịu những thất bại khác trên
chiến trường, lui về thế phòng ngự ở các đô thị và quận lỵ để mặc nông
thôn cho lực lượng quân sự chính trị của Việt cộng thao túng.
Những
thất bại quân sự đó rõ ràng đã là một trong những yếu tố lớn đẩy miền
Nam Việt Nam bước qua một khúc quanh mới, kéo theo những biến loạn mở
đầu cho sự suy tàn của chế độ mà không những chỉ phản ứng của nhân dân
đã bộc hiện rõ ràng mà còn là điềm Trời - dù tin hay không - cũng đã báo
hiệu vào năm 1960.
Đêm Giao thừa Tết Canh Tý trời đất bỗng
nổi cơn u ám, một trận mưa lớn đổ xuống Thủ đô Sài Gòn và kéo dài cho
đến gần suốt sáng mồng Một. Đó là một hiện tượng thiên nhiên lạ lùng mà
theo các bô lão thì đã mấy chục năm qua không bao giờ có. Thế rồi trong
khi anh em ông Diệm hân hoan đón nhận những lời chúc tụng của văn võ
đình thần trong dinh Độc Lập thì nơi những xóm nhà lá nghèo nàn, dân
chúng bàn tán đến cái điềm Trời. Họ bảo năm nay “Trời khóc vào ngày mồng
Một Tết” là điềm không lành sẽ đến với miền Nam.
Tin hay
không tin là một chuyện nhưng đối với người dân Việt Nam thì những “giọt
lệ” của Trời rơi xuống đúng vào ngày Nguyên Nhật hình như là điềm chẳng
lành báo hiệu những biến cố trọng đại sẽ xảy đến sau này, làm bật gốc
nền móng chế độ của ông Diệm trong năm Canh Tý (1960), năm tuổi của vị
nguyên thủ quốc gia. Biến cố chính trị đầu tiên là bản tuyên ngôn của
nhóm Caravelle ngày 26 tháng 4 năm 1960, biến cố thứ hai là cuộc đảo
chánh của Nhảy dù vào ngày 11-11-1960, biến cố thứ ba là sự ra đời của
Mặt trận Giải phóng miền Nam ngày 20 tháng 12 năm 1960. Nhưng mở đầu tất
cả chuỗi biến cố đó là cuộc tấn công của Việt cộng vào Sư đoàn 13, ngày
26 tháng 1 năm 1960.
Thật vậy, vì miền Nam tự do còn đó, vì
kẻ thù phương Bắc còn đó và trước tình trạng sinh tử của quê hương mà
chế độ Diệm thì lại bất tài bất lực, bất công bất minh nên những phần tử
ưu tú của quốc gia, dân sự cũng như quân sự đã ý thức bổn phận lên
tiếng, phải có hành động phản đối.
Phía các lãnh tụ dân sự, vì
thực lực đã bị tan rã, cán bộ đảng viên của họ đã bị ông Diệm vô hiệu
hóa hết nên chỉ còn khả năng phản ứng tiêu cực là gióng lên tiếng chuông
cảnh cáo và báo động. Họ hội họp tại khách sạn Caravelle ngày 26 tháng 4
năm 1960 ra tuyên ngôn cảnh cáo ông Diệm và đòi ông Diệm phải thực hiện
tự do dân chủ, chấm dứt chế độ gia đình trị. Tuy những đòi hỏi của họ
có vẻ khiêm tốn nhưng lời lẽ bản tuyên ngôn không thiếu phần dũng mãnh.
Bản Tuyên ngôn bắt đầu bằng những lời chỉ trích ông Diệm đã không đem
lại cho dân chúng một cuộc sống tốt đẹp, tự do. Họ mỉa mai bản Hiến pháp
chỉ là một tờ giấy lộn, Quốc hội chỉ là công cụ của chính phủ, bầu cử
chỉ là trò bịp bợm, và tất cả là một sự bắt chước khuôn rập theo nền độc
tài của Cộng sản [9]. Tất cả gồm 18 nhân vật tên tuổi tiêu biểu cho mọi
khuynh hướng chính trị miền Nam như các ông Lê Ngọc Chấn, Trần văn Văn,
Trần văn Đỗ, Trần văn Tuyên, Trần văn Lý, Trần văn Hương, Nguyễn Lưu
Viên, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Nguyễn Tăng Nguyên, Nguyễn Tiến Hỷ,
Lê Quang Luật, Phạm Hữu Chương, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất, Lương
Trọng Tường và linh mục Hồ văn Vui. Điều có ý nghĩa quan trọng là trong
số 18 nhân vật kể trên đã có đến 10 người là cựu ân nhân, đồng chí, bạn
thân và những Bộ trưởng đã từng hợp tác với ông Diệm thời ông chưa có
quyền hành hay thời ông đang còn gặp những khó khăn với tướng Hinh và
Bình Xuyên. Vì họ nhóm họp tại khách sạn Caravelle để thảo luận và tuyên
đọc bản tuyên ngôn cho báo chí quốc tế nên bị ông Nhu mỉa mai là “Nhóm
Caravelle”. Sở dĩ họ nhóm họp tại Caravelle là để an ninh họ được bảo
đảm khỏi bị công an mật vụ khủng bố trước khi bản tuyên ngôn được hình
thành và phổ biến rộng rãi.
Tất nhiên, với chế độ như chế độ
của ông Diệm, lời vàng ngọc của thánh nhân cũng không làm đầu óc ngoan
cố của anh em họ Ngô xúc động thì bản tuyên ngôn của một số chính khách
thất thế (mà Ngô Đình Nhu chê bai là chính khách sa lông) làm sao có thể
lay chuyển nổi những con người độc đoán đó. Cho nên từ sau khi bản
tuyên ngôn ra đời, những thành viên can đảm của nhóm Caravelle lần lượt
bị bắt bớ, giam cầm, tra tấn.
Cổ nhân dạy rằng Quốc gia hưng
vong thất phu hữu trách cho nên dù những nhân vật trong nhóm Caravelle
không làm được gì thì việc đưa ra bản tuyên ngôn để phản đối một chế độ
độc tài cũng đã là một hành động của kẻ sĩ hữu trách đối với quê hương
dân tộc rồi.
Mặc dù tôi quen biết khá nhiều người trong số 18
nhân vật Caravelle nhưng việc ba ông Trần văn Lý, Tạ Chương Phùng và Lê
Quang Luật bị khủng bố thật sự đã làm cho tâm hồn tôi xao xuyến. Trong
ba nhân vật đó, ông Trần văn Lý là bậc thầy của tôi, ông Tạ Chương Phùng
là một đồng chí đàn anh, ông Lê Quang Luật là một người bạn rất thân,
và ba nhân vật đó lại là những ân nhân đã từng giúp đỡ cho ông Diệm rất
nhiều trên bước đường sự nghiệp của ông ta, đặc biệt là ông Lý và ông
Phùng đã giúp đỡ tận tình cho anh em ông Diệm thời ông Diệm còn túng
nghèo lận đận.
Về phần lãnh đạo chiến tranh và xây dựng quân
đội, bản tuyên ngôn của nhóm Caravelle đã có những nhận định xác đáng và
sáng suốt:
... Quân đội là cột trụ để bảo vệ quốc gia có
nhiệm vụ chống xâm lăng và trừ nội loạn. Quân đội là để phục vụ cho xứ
sở chứ không thể để phục vụ cho quyền lợi của bất kỳ một phe nhóm nào.
Quân đội cần phải được loại trừ óc bè phái và tăng cường sức mạnh tinh
thần. Sự thăng thưởng phải được căn cứ vào thành tích chiến đấu, vào
lòng dũng cảm và tinh thần phục vụ. Phải huấn luyện binh sĩ biết kính
trọng sĩ quan và sĩ quan phải biết thương yêu binh sĩ...
Vì
báo chí dưới chế độ Diệm hoặc bị mua chuộc hoặc bị kềm kẹp gắt gao nên
bản tuyên ngôn của nhóm Caravelle không được phổ biến cho dân chúng
biết, nhưng tất cả những Tòa đại sứ ngoại quốc tại Sài Gòn cũng như ký
giả quốc tế đều nhận được bản tuyên ngôn đó và bắt đầu được bí mật phổ
biến trong quần chúng Việt Nam. Dù ai ngoan cố muốn bênh vực chế độ Diệm
thì thực tế đã cho thấy bản tuyên ngôn Caravelle như những lời tiên tri
báo trước sự sụp đổ của chế độ Diệm.
Và mặc dù anh em ông
Diệm bắt bớ giam cầm nhóm Caravelle, vu khống cho họ là xuyên tạc chế độ
nhưng ba cuộc binh biến liên tiếp xảy ra từ cuối năm 1960 đến cuối năm
1963 đã cho thấy nhóm Caravelle và nhân dân xác nhận trước lịch sử sự
bất mãn toàn diện của Quân dân miền Nam đối với chế độ Diệm rồi.
Về
phần tôi, với tư cách một cán bộ trung kiên của ông Diệm, với tư cách
chỉ huy một cơ quan có nhiệm vụ theo dõi và bảo vệ tinh thần Quân đội,
thì tình hình chế độ Diệm năm 1960 đã làm cho tôi vô cùng lo âu. Ngoài
nông thôn thì tình hình an ninh ung thối, trong Quân đội thì tràn ngập
bầu không khí chia rẽ hận thù với số đào ngũ mỗi ngày một gia tăng, số
cán bộ binh vận của Việt cộng mỗi ngày một lộng hành táo bạo hơn. Trong
lúc đó thì anh em ông Diệm mỗi ngày một tham nhũng, cán bộ Cần Lao càng
hành động thất nhân tâm hơn, còn ông Diệm thì vẫn tiếp tục bênh vực anh
em bà con, vẫn cứ nghe lời một số linh mục thối nát và hẹp hòi. Năm 1960
quả thật đất nước đang trên đà suy vong, chế độ đang trên đà sụp đổ.
Cho nên sau khi bản tuyên ngôn của nhóm Caravelle ra đời, tôi cảm thấy
như được thúc đẩy phải có một hành động quyết liệt để đánh thức cơn mê
muội của ông Ngô Đình Diệm, vị Tổng thống mà tôi vẫn kính mến, trung
thành.
Tôi nhớ lại hai năm về trước, năm 1958, trong một
chuyến ông Ngô Đình Luyện từ Pháp về thăm nhà, ông đã mời một số anh em
mà ông cho là tâm huyết trung thành nhất với ông Diệm như Trung tướng
Nguyễn Ngọc Lễ, Thiếu tướng Lê văn Nghiêm, các ông Uông Hải Thọ, Võ văn
Hải, Bùi Kiện Tín v.v.... và tôi vào Chợ Lớn ăn cơm trong một căn phòng
kín đáo để ông tâm sự. Tôi còn nhớ mãi lời nói tha thiết, chân tình tuy
thô lỗ của ông: “Nếu quả anh em còn có lòng thương yêu “ông Cụ” thì tôi
thành khẩn yêu cầu anh em hãy nằm xuống “liếm chân” ông Cụ như thằng
Cao. Thằng Cao nó “liếm chân” là để nó kiếm danh lợi, còn anh em “liếm
chân” ông Cụ là để nói thật tình hình đen tối của chế độ cho ông nghe
may chi ông mở mắt ra”. Nhớ lời nói thô lỗ nhưng chân thành của ông
Luyện, tôi bèn quyết định mời một số anh em tâm huyết cùng chí hướng như
Linh mục Nguyễn văn Thính, các ông Nguyễn Ngọc Lễ, Tôn Thất Trạch, Bùi
Kiện Tín, Võ văn Hải, Nguyễn Vinh, Uông Hải Thọ... tất cả 10 người đến
ăn cơm và họp tại nhà tôi ở đường Tân Hưng, Chợ Lớn. Tôi trình bày một
cách chi tiết và đầy đủ về tình hình bi thảm của đất nước, tình hình
xuống dốc của chế độ, và kêu gọi lòng trung nghĩa của những cán bộ đối
với lãnh tụ, rồi đề nghị với Cha Thính và các anh em làm một bản điều
trần ghi những sai lầm khuyết điểm của chế độ, mọi người sẽ ký tên rồi
cùng vào dinh Độc Lập đích thân đệ bản điều trần đến tận tay ông Diệm.
Bản điều trần cũng sẽ ghi rằng nếu sau một thời gian nhất định nào đó mà
Tổng thống không chịu sửa sai thì anh em sẽ bắt chước thái độ của ông
ta ngày xưa là “cởi áo từ quan” và khước từ, xa lánh không coi ông là
lãnh tụ nữa. Mọi người đều hoan nghênh ý kiến của tôi và hẹn trong lần
gặp lại sắp tới, mỗi người mang theo một dự thảo ghi lại những đề nghị
của mình để tổng hợp làm bản điều trần chính thức.
Nhưng độ
hai tuần sau, Cha Thính đến tận nhà cho tôi biết rằng công việc đã bại
lộ, ông Nhu đã biết hết và Cha Thính đã bị ông Nhu gọi vào văn phòng để
cảnh cáo. Theo Cha Thính thì ông Nhu tỏ ra rất thù ghét tôi, người mà
ông cho là hay sinh sự, người mà ông muốn trừng phạt nặng nề nhưng chưa
thi hành được độc kế chỉ vì tôi được ông Diệm hết lòng bênh vực. Sau đó,
tôi mở một cuộc điều tra riêng thì tìm ra rằng sở dĩ dự định làm bản
điều trần bị bại lộ vì một số anh em quá hăng say đem bàn chuyện bản
điều trần với một số bạn bè trong mục đích lấy thêm chữ ký. Do đó,
chuyện đến tai ông Ngô Đình Nhu. Thế rồi một Chủ nhật nọ, vào khoảng
mười giờ sáng, sau giờ làm lễ của gia đình ông Diệm, tôi được sĩ quan
tùy viên mời vào dinh để gặp Tổng thống. Vào đến nơi, tôi thấy hai anh
em ông Diệm, Nhu đang ngồi nói chuyện trong phòng riêng. Thấy tôi, ông
Diệm ngẩng đầu lên hỏi liền: “Nghe nói anh sinh vi tướng, tử vi thần
phải không?” Tôi tự nghĩ xưa nay ông Diệm với tôi nhiều đêm rảnh rang
thầy trò thường đàm đạo chuyện đời không quên đề cập đến chuyện lý số mà
ông rất thích thú và tin tưởng. Nho học ông cao thâm hơn tôi nhiều, ông
đã đọc Kinh Dịch cho nên mỗi lần hai thầy trò bàn đến Đông y, phong
thổ, dịch lý là rất tương đắc. Những lúc đó, ông thường gọi già Ẩn,
người đầy tớ trung thành, đem rượu lễ hay cà phê để hai thầy trò cùng
uống và bàn bạc chuyện thế sự nhân tình. Khi tướng Hồ văn Tố chết, ông
giải thích rất nhiều về bệnh Thượng mã phong như có ý tỏ cho tôi biết
rằng ông cũng thành thạo chuyện phòng the, nhưng rồi ông kết luận dù sao
thì chuyện chết sống cũng đều do số mệnh. Thế mà hôm nay, ông lại có ý
mỉa mai tôi về chuyện Tử vi. Tuy nhiên thấy ông vừa nói vừa mỉm cười,
tôi đoán thầm rằng ông không có ý trách móc mà thật ra chỉ vì ông Nhu
xúi dục. Tôi bèn tương kế tựu kế cho Ngô Đình Nhu một bài học về lý số
cho vui nên trả lời với ông Diệm: “Thưa cụ, có lẽ vì anh em (tôi muốn
nói đến nhóm Cần Lao) nghe mấy thầy tử vi nói số của tôi là số “sinh vi
tướng tử vi thần” rồi họ về báo cáo cho cụ và ông Cố vấn biết chứ tôi
đâu dám nghĩ tới chuyện Tướng với Thần”. Tôi liếc nhìn ông Ngô Đình Nhu
và nói thêm: “Thưa cụ, Tướng với Thần là phải như Tiết Nhơn Quý đời
Đường. Mặc dù xuất thân là kẻ bần hàn hạ lưu nhưng Tiết Nhơn Quý gặp
được và hết lòng khuôn phò minh quân chân chúa, sống ông làm nguyên
soái, chết ông trở thành vị Thần thiêng liêng. Còn tôi xuất thân chỉ làm
một anh đội khố xanh theo Cụ làm cách mạng chống Tây, rồi đánh nhau với
Cộng sản mười mấy năm trời, nay làm đến Đại tá tôi tự cho là lớn lắm
rồi, còn đâu nghĩ đến chuyện Thần với Tướng”. Ông Nhu bây giờ mới bảo
tôi : “Nhưng anh không nên đi đến nhà thầy bói để bị mê hoặc”.
Tôi
ra về vừa suy nghĩ vừa thương ông Diệm chỉ vì nể người em Tây học mà tự
dối lòng mình. Lại cười thầm cho nhà trí thức Ngô Đình Nhu, bụng đầy
chữ nghĩa nhưng đầu óc kiến thức thì đã bị giam hãm vào tín điều Thiên
Chúa giáo Tây phương thì làm sao hiểu được căn nguyên của những nền đạo
học Đông phương. Ngô Đình Nhu làm gì hiểu được thuyết phúc đức của đạo
Nho, thuyết nhân quả của đạo Phật, chi phối toàn bộ họa phước con người.
Đã không hiểu, ông Nhu lại còn khinh thường các hệ thống tư tưởng của
những đại triết gia Đông phương cao siêu thâm diệu từ 25 thế kỷ trước mà
so với khoa học ngày nay vẫn là ngọn đuốc rực rỡ cắm lên đỉnh chân lý
trong khi khoa học hãy còn mò mẫm trên đường dẫn tới chân lý ấy. Ngô
Đình Nhu chê mình dốt nát, mê tín, dị đoan, bói toán, có biết đâu rằng
mình rất ghét bói toán mà chỉ thích nghiên cứu Tử vi, môn khoa học kỳ
diệu của học giả Trần Đoàn đời Tống mà đến nay chứng giải thì được,
nhưng truy tầm căn nguyên thì chưa có ai thông hiểu nổi. Ngô Đình Nhu có
biết đâu nghiên cứu Tử vi là một thú chơi tao nhã và sâu sắc để biết ta
biết người, biết nhân tình thế thái. Trong lúc Ngô Đình Nhu cho Tử vi
là mê tín, dị đoan thì tại Việt Nam biết bao nhiêu chính khách, lãnh tụ,
trí thức thuộc mọi tôn giáo, mọi khuynh hướng vẫn đến nhà các thầy Tử
vi để tìm hiểu tương lai, sự nghiệp. Xuất thân từ trường Chartres, lại
học về ngành văn khoa Tây vốn nặng nề về lý luận học nên chỉ biết khai
thác những phương pháp như quan sát, phân tích, thí nghiệm, quy nạp,
diễn dịch, thống kê, tường trình theo kiểu văn minh Tây phương, làm sao
Ngô Đình Nhu hiểu được quan niệm “thời vận” của lý số: “Cái thời đi
khỏi, cái giỏi cũng vứt đi”. Ngô Đình Nhu quên rằng ông anh ruột của
mình có tài cán gì đâu mà khi thời vận tới vẫn được làm Tổng thống, ông
em mình dốt nát quê mùa mà khi thời vận tới vẫn làm lãnh chúa miền Trung
và miền Cao Nguyên...
Số mạng, thời vận của những nhà lãnh
đạo quốc gia, của những vị tướng quốc liên hệ hai chiều với giòng sinh
mệnh của đất nước. Ông Nhu có biết đâu anh em ông ta đã đến lúc hết
thời, đang trên đà mạt vận...
Năm Canh Tý (1960), nhiều biến
cố trọng đại dồn dập xảy ra như bức tranh chuột của nhật báo Tự do chế
diễu sáu anh em ông Diệm tham nhũng, đục khoét; như bản tuyên ngôn
Caravelle của nhóm nhân sĩ, chính khách đối lập lên án nền độc tài của
anh em ông Diệm; như cuộc thảm bại của Sư đoàn 13 tại Tây Ninh và việc
ra đời của Mặt trận Giải phóng miền Nam là những thất bại hạ thấp uy tín
của Ngô triều trước quốc dân và quốc tế. Cho nên khi bản tuyên ngôn
Caravelle xuất hiện, nó chỉ như là bản cáo trạng tất yếu xác định thêm
những cơ động của lịch sử đang vận chuyển để bắt đầu nghiền nát những
chướng ngại xấu xa của dòng tiến hóa.
Những đàn áp và khủng bố
sau biến cố Caravelle cũng như những biện pháp chính trị và công an độc
đoán hơn được áp dụng sau đó, chỉ làm cho sinh hoạt chính trị của Việt
Nam thêm ngột ngạt, sinh lực của quốc gia thêm suy yếu. Chế độ Diệm trên
mặt nổi tuy có vẻ vững chắc, nhưng từ trong gốc rễ, mầm mống bất mãn đã
biến thành hành động chống đối, kể cả chống đối bằng bạo lực.
Ba
giờ sáng ngày 11 tháng 11 năm 1960, tôi đang ở nhà riêng tại Chợ Lớn
thì chuông điện thoại reo vang. Đầu kia điện thoại, Đại úy Bằng, người
sĩ quan cận vệ trung tín nhất của Tổng thống Diệm, hốt hoảng nói : “Cụ
hỏi Đại tá đơn vị nào đảo chánh?” Tôi trả lời: “Tôi chưa rõ, để tôi điều
tra, rồi sẽ trình Cụ sau”.
Khi biết được lực lượng Nhảy dù
tạo cuộc binh biến, tôi bèn gọi vào Dinh thì đầu kia dây chính Tổng
thống Diệm cầm ống nghe. Tôi nói : “Thưa Cụ, tôi chưa biết đầy đủ chi
tiết nhưng biết chắc Nhảy dù là lực lượng chủ lực của cuộc đảo chánh. Dù
sao thì xin Cụ cứ ra lệnh cho đội Phòng vệ Phủ tổng thống liều chết giữ
vững dinh Độc Lập rồi tôi sẽ có kế hoạch cứu viện”. Ông Diệm hỏi: “Anh
có kế hoạch gì?” Tôi trả lời: “Xin Cụ cho gọi ngay Lực lượng đặc biệt
của Lê Quang Tung về, phần tôi sẽ gọi người em là Đại úy Đỗ Như Luận đem
Tiểu đoàn 1 Truyền tin cùng về tăng cường cho quân phòng thủ dinh Độc
Lập. Tôi cũng sẽ gọi Trung đoàn Thiết giáp ở Gò Vấp về tăng viện thì
quân đảo chánh khó mà xâm nhập được vào Dinh. Giai đoạn 2 thì xin Cụ cho
gọi Huỳnh văn Cao và sư đoàn 7 ở Biên Hòa về để giải vây đô thành, còn
tôi sẽ gọi Tiểu đoàn 1 Thủy quân Lục chiến do cháu tôi là Nguyễn Bá Liên
đang chỉ huy cuộc hành quân ở Kiến Hòa về phụ lực thêm”. Tôi còn nói
thêm: “Thưa Cụ, cứu binh như cứu hỏa, Tạm thời như vậy đã rồi sẽ tính
sau”. Ông Diệm im lặng một chút rồi dục tôi: “Được rồi, anh vào ngay
đây”.
Độ hơn 6 giờ sáng thì em tôi Đỗ Như Luận và cháu rể tôi
là Đại úy Chu văn Trung kéo Tiểu đoàn 1 Truyền tin và một phần của Lực
lượng đặc biệt về bố trí suốt dọc cánh trái dinh Độc Lập song song với
đường Hồng Thập Tự. (Sở dĩ Luận có thêm Lực lượng đặc biệt là vì Tiểu
đoàn 1 truyền tin và Lực lượng đặc biệt cùng ở chung một vị trí sau lưng
Bộ Tổng tham mưu, chỉ cách nhau một hàng rào kẽm gai; Luận rất thân với
Tung mà Tung thì vắng mặt). Còn Trung đoàn Thiết giáp ở Gò Vấp do Thiếu
tá Thẩm Nghĩa Bôi chỉ huy, khi nghe lệnh tôi, liền tức tốc đưa đơn vị
lên đường. Khốn nỗi Bôi bị Trung tá Vương văn Đông, lãnh tụ cuộc đảo
chánh cùng với tướng Lê văn Tỵ đích thân đến căn cứ của Trung đoàn
khuyến dụ Bôi theo phe đảo chánh, hai bên dằng co, cãi vã làm cho Bôi
mất rất nhiều thì giờ. Đã thế khi đoàn xe của Bôi đi ngang nhà Trung
tướng Thái Quang Hoàng trên đường Ngô Đình Khôi còn bị đơn vị Nhảy dù
đóng ở đây (để bắt tướng Hoàng) cản trở, làm cho Trung đoàn thiết giáp
mãi tới 9 giờ sáng mới vào tới khuôn viên dinh Độc Lập. Dù sao thì binh
sĩ phòng vệ Phủ tổng thống cũng chặn đứng được đợt tấn công đầu tiên của
một tiểu đoàn Nhảy dù rồi, và giờ phút này có thêm lực lượng hùng hậu
của Thiết giáp, ông Diệm đã thấy vững tâm hơn rất nhiều.
Tôi
phải nói rõ ở đây rằng về phương diện quân sự, việc bảo vệ thủ đô do
Trung tướng Thái Quang Hoàng (hiện ở Mỹ) Tư lệnh Biệt khu Thủ đô phụ
trách. Dưới quyền điều động của ông chỉ có một Trung đoàn Bộ binh là
Trung đoàn 135. Nhưng Trung đoàn này còn phải lo canh gác nhiều nơi và
ông cũng không có một lực lượng trừ bị nào cả. Thủy quân Lục chiến và
Nhảy dù, những lực lượng mà trung tướng Hoàng có thể điều động được khi
thủ đô có biến, thì Thủy quân Lục chiến đã bận hành quân xa, còn Nhảy dù
thì lại đang là lực lượng “phản loạn”!
Trên kia đã nói về
tinh thần quân đội thì quân nhân hầu hết đều bất mãn với chế độ Diệm và
sẵn sàng phát động hoặc tham dự đảo chánh bất cứ lúc nào, cho nên ngay
từ đầu năm 1960, tôi đã xin với Tổng thống Diệm phải đặt Nguyễn Xuân
Vinh và Đỗ Khắc Mai (hiện ở hải ngoại) chỉ huy Không quân và Thẩm Nghĩa
Bôi chỉ huy Trung đoàn Thiết giáp để nắm giữ lấy lực lượng “can thiệp”
(force de frappe) đề phòng khi có đảo chánh hoặc biến loạn do Việt cộng
gây ra. Nguyễn Xuân Vinh, Đỗ Khắc Mai và Thẩm Nghĩa Bôi là những cộng sự
viên, những đồng chí thân thiết của tôi từ thời còn ở Nha Trang. Nhưng
sáng ngày 11-11-1960, Bôi thì đã điều động được Trung đoàn về cứu viện,
còn Vinh, Tư lệnh Không Quân, thì bị nhóm lãnh tụ đảo chánh bắt về phe
đảo chánh. Sáng ngày 12 tháng 11 năm 1960 Vinh mới trốn được xuống căn
cứ Không quân Biên Hòa để điều động phi cơ phóng pháo yểm trợ cho những
đơn vị Bộ binh giải cứu Sài Gòn.
Có lẽ nhờ tình hình đã tạm
thời lắng dịu và biết rõ được chính tôi đã đưa ra kế hoạch chống đảo
chánh nên ông Ngô Đình Nhu gọi điện thoại cho tôi hỏi thêm tin tức rồi
bảo tôi vào Dinh ngay. Tôi nghĩ thầm đã gần 5 năm rồi, nay Nhu mới có
những lời êm dịu với mình. Phải chăng trước cơn nguy biến con người mới
thấy được là mình yếu đuối không phải là thánh thần gì, như cọp dữ có
mắc lưới mới thấy được tư cách ân nhân của con chuột đang cắn đứt mạng
lưới cho mình. Tôi trả lời ông Nhu để tôi cho gọi cháu tôi là Nguyễn Bá
Liên và liên lạc với tướng Lê văn Nghiêm, chỉ huy trưởng trường Võ bị
Thủ Đức, rồi sẽ vào Dinh ngay.
Sau khi liên lạc và dặn dò kỹ
kế hoạch với mọi nơi, tôi bèn lên xe vào Dinh. Nhưng trên đường vào
dinh, vì muốn quan sát tình hình Nha Công an, tôi bị lọt vào một nút
chặn của Nhảy dù ở đường Thành Thái, gần trường Pétrus Ký, và bị bắt
giam tại điểm gác trước cổng tư dinh tướng Nguyễn văn Là, Tổng giám đốc
Công an Cảnh sát. Tôi bị giữ từ 9 giờ sáng ngày 11 cho đến trưa hôm sau
mới được một toán quân cảm tử của Nha An ninh Quân đội dựa theo đà tiến
quân của Bộ binh đến giải thoát.
Độ 3 giờ chiều ngày 12 tháng
11 năm 1960, tôi vào dinh Độc Lập để vấn an Tổng thống Diệm. Tôi thấy
chung quanh ông có ông Nhu, Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, tướng Dương
văn Minh, và một số Bộ trưởng như Trần Lê Quang, Nguyễn Đình Thuần,
Huỳnh Hữu Nghĩa, Ngô Trọng Hiếu,... ngoài ra còn có bác sĩ Trần văn Thọ
mặc áo treillis ngồi ở một góc phòng. Khói thuốc lá và những tiếng nói
cười ồn ào tràn ngập cả căn phòng có máy điều hòa không khí. Tổng thống
Diệm bảo tôi kể lại câu chuyện bị Nhảy dù bắt cho ông nghe rồi ông Nhu
giới thiệu cho tôi bác sĩ Thọ, khoe rằng bác sĩ Thọ không nề nguy hiểm
đã làm liên lạc viên giữa dinh Độc Lập với Đại tá Trần Thiện Khiêm ở Phú
Lâm. (Công lao bác sĩ Thọ chỉ là như thế mà mới ba ngày sau,
14-11-1960, ông được cử giữ chức Tổng giám đốc Nha Thông tin Tuyên
truyền). Trong lúc những nhà lãnh đạo Quốc gia vui cười trước cơn đắc
thắng thì nhóm lãnh tụ đảo chánh đã lên phi cơ Dakota do Đại úy Phan
Phụng Tiên lái, trực chỉ Phnom Penh xin tị nạn chính trị, bắt theo cả
tướng Thái Quang Hoàng làm con tin.
Thăm Tổng thống Diệm xong,
tôi xuống tầng dưới thì thấy tướng Nguyễn Khánh đang lo việc điều động
bố trí các đơn vị để bảo vệ Thủ đô đề phòng Việt cộng thừa “nước đục
buông câu” đột kích Sài Gòn.
Cũng vào tối ngày 12 tháng 11 năm
1960 đó, Quốc hội họp phiên họp bất thường để “thảo kế hoạch an ninh
dâng lên Tổng thống”, và sáng hôm sau, một Ủy ban Nhân dân Chống Đảo
Chánh ra đời tập họp một số công chức và dân biểu kéo đến dinh Độc Lập
hoan hô chào mừng Tổng thống Diệm đã nhờ “Thượng đế ban phước lành mà
nạn khỏi tai qua” [10]. Điều quái đản là mặc dù ông Nhu ra lệnh cho ông
Lê văn Thái, phụ tá của bác sĩ Trần Kim Tuyến (hiện ở San Diego), mời
tôi tham dự vào ủy ban chống đảo chánh đã bị tôi quyết liệt từ chối, thế
mà vẫn có tên tôi trong danh sách của ủy ban.
Cuộc đảo chánh
của Nhảy dù, theo lời tuyên bố của Đại tá Nguyễn Chánh Thi, là để quật
ngã một chế độ thối nát của gia đình họ Ngô mà từ lâu quân đội vẫn xem
là thù nghịch mà không dám hở môi. Cuộc đảo chánh cũng l
Xem tiếp: Chương 12 - 1961-1962 hai năm khốn cùng
© TuSach.mobi - Đọc truyện online trên mobile
VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi
Tác giả: Hoành Linh Đỗ Mậu
Chương 12: 1961-1962 hai năm khốn cùng
Sau sáu năm cai trị (1954-1960), gia đình ông Diệm và chế độ Cần Lao
Công giáo đã đưa miền Nam đến khúc quanh nghiệt ngã mà chỉ cần vài nét
chấm phá, ký giả Bernard C. Nalty cũng đã phác họa được bức tranh đen
tối đó:
... Ngô Đình Diệm không thiếu gì kẻ thù. Chủ trương
chống Cộng của ông ta là tiêu diệt các đảng phái và bắt bớ giam cầm tất
cả những ai là đối lập với ông ta, kể cả những người chống Cộng. Ông ta
cai trị với cung cách cứng nhắc của một người mà lại không có cái phong
độ của Hồ Chí Minh. “Bác Hồ” biết hòa mình với dân chúng và luôn luôn
làm như muốn thỏa mãn nguyện vọng của nhân dân. Trong lúc ông Diệm lại
xa rời quần chúng, bao vây bởi những người anh em trong gia đình vốn
tham lam và ích kỷ, và ông ta chuyên cai trị bằng sắc luật. Ngay cả y
phục của ông ta cũng đã tố cáo ông ta rồi: trong lúc Hồ Chí Minh mặc áo
quần theo kiểu dân quê thì Ngô Đình Diệm lại mặc âu phục trắng theo kiểu
các quan cai trị thực dân cũ.
Diệm không thể tin tưởng vào
quân đội của ông ta. Tháng 11 năm 1960, lực lượng Nhảy dù đã bao vây
dinh Độc Lập buộc ông ta hứa phải cải tổ chính phủ, thứ chính phủ gồm
hầu hết là Cần Lao và bà con của ông ta. Trong lúc đưa ra lời hứa thì
Diệm lại bí mật kêu gọi đám quân trung thành về Sài Gòn bao vây lại đám
quân đảo chánh. Diệm đã không giữ lời hứa cải thiện chế độ.
Sau
sáu năm trời làm một thứ Quốc trưởng không ai lay chuyển nổi, Diệm vẫn
bất an. Sự ủng hộ của nhân dân phai lạt, quân đội không thể chiến đấu
theo lối chiến tranh cách mạng của Việt cộng, còn kinh tế quốc gia hầu
hết hoàn toàn phụ thuộc vào viện trợ Mỹ [1].
Về điểm ông Diệm
xa rời quần chúng mà Bernard C. Nalty đề cập trên đây thì không thiếu
những sự kiện để chứng minh. Ở đây tôi muốn đưa ra hai hình ảnh điển
hình có tính cách hài hước lố lăng làm chướng tai gai mắt dân chúng để
làm dẫn chứng.
Việc thứ nhất được chương trình Vietnam: A
Television History của ký giả Karnow trình chiếu trên đài truyền hình
PBS Hoa Kỳ năm 1984 cho thấy ông Hồ Chí Minh di chuyển thì lội bộ giữa
bùn lầy, hay đi bộ trong rừng rậm, còn ông Diệm thì chễm chệ ngồi trên
ghế bành một mình trên chiếc thuyền có sĩ quan cấp tá của quân đội lội
nước hì hục đẩy, trong lúc một toán lính ngâm mình dưới nước bồng súng
dàn chào theo kiểu vua chúa phong kiến thời xưa.
Việc thứ hai
là lúc ông Diệm đi kinh lý Đà Lạt, khi trở về Sài Gòn phải đến phi
trường Liên Khương để lên phi cơ, chẳng may phi cơ đến trễ nên quốc lộ
20 bị chặn lại, xe cộ kẹt cứng đến cả cây số làm cho dân chúng phải đậu
xe hai bên lề đường chờ đợi lâu cả mấy tiếng đồng hồ. Không ngờ trong
đám dân chúng đó lại có văn hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, gia đình ông
và một số thân hữu. Ông Nguyễn Tường Tam bèn nói đùa với con cháu ông
ta: “Nếu trong số đây mai sau có ai lên làm Tổng thống, thì hãy nhớ đến
cái ngày hôm nay, phải chờ đợi bực mình như thế này nhé” [2].
Chính
sách cai trị thất đức và bất tài của anh em ông Diệm đã mạnh mẽ và trực
tiếp gây thanh thế và thực lực cho Cộng sản để họ có thể mau chóng
thành lập được “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam” vào ngày 20 tháng
12 năm 1960, nghĩa là chỉ sáu năm sau khi ông Diệm nắm chính quyền. Từ
nay, trước đồng bào miền Nam và trước quốc tế, quốc gia gọi là Việt Nam
Cộng Hòa đã bị coi ngang vị thế với “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam” mặc dù Mặt trận chỉ là sản phẩm chính trị của Hà Nội mà thôi. Sự ra
đời của Mặt trận là một đòn chính trị vô cùng xuất sắc của Bộ Chính trị
Bắc Việt. Sự ra đời đó mang một ý nghĩa tuyên truyền cách mạng rằng
chính lực lượng nhân dân miền Nam vì căm thù chế độ tay sai của Mỹ nên
đã nổi dậy để chống lại đám tay sai và ông chủ của chúng là đế quốc thực
dân mới. Sự ra đời của Mặt trận không những mê hoặc và lôi cuốn được
một số trí thức, sinh viên, thanh niên miền Nam mà, quan trọng hơn cả,
là đã động viên được tầng lớp nông dân và lao động của miền Nam, vốn bất
mãn với chế độ Diệm mà họ cho là chế độ của người Bắc xâm lược miền Nam
bằng chính sách nâng đỡ đặc biệt cho người Công giáo miền Bắc di cư và
bằng chính sách kỳ thị tôn giáo qua chế độ “Công giáo trị”. Với sự ra
đời của “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam”, Hà Nội còn được ưu thế
đứng ngoài vòng tranh chấp của những người sống ở phía Nam vĩ tuyến 17,
không xen vào nội bộ miền Nam, do đó tạo được chính nghĩa kháng chiến
cho Mặt trận mà Hà Nội khỏi mang tiếng là “kẻ xâm lăng”. Trên mặt quốc
tế, Hà Nội tạo được uy tín và cảm tình với mọi quốc gia, đặc biệc là với
những quốc gia trong khối đệ tam vốn chưa ý thức được chiến lược và chủ
trương của Cộng sản. Khẩu hiệu “Mỹ Diệm” mà Hà Nội tung ra để mê hoặc
người Miền Nam và quốc tế quả thực là một thủ đoạn tuyên truyền vô cùng
lợi hại. Cho nên nhìn lại toàn bộ cuộc chiến thì kể từ khi “Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam” ra đời vào cuối năm 1960, sự thất bại chính
trị của Việt Nam Cộng Hòa coi như đã bắt đầu.
Trước thủ đoạn
chính trị chia rẽ người miền Nam với chế độ Diệm căn cứ trên những thực
tế chính trị và xã hội rất rõ ràng, và trước cơn lâm nguy của đất nước,
đáng lẽ sau sáu năm thất bại, anh em ông Diệm phải thay đổi chính sách,
phải thực hiện một cuộc cách mạng xã hội, thực hiện đại đoàn kết dân tộc
để mỗi thành phần quốc gia, mỗi tôn giáo, đảng phái cùng có cơ hội
chung lo việc chống Cộng cứu nước, thì bất hạnh thay, anh em ông Diệm
lại càng ngoan cố hơn, độc tài hơn trong việc củng cố địa vị, trong độc
quyền chống Cộng. Họ đã lợi dụng vụ “Tuyên ngôn Caravelle”, vụ đảo chánh
của Nhẩy Dù để tiến hành một chính sách đàn áp khủng bố mới bằng những
cuộc lùng bắt bố ráp những người quốc gia đối lập. Chủ trương bắt bớ
giam cầm của anh em ông Diệm đã làm cho hàng ngũ quốc gia, nhất là những
phần tử có uy tín với quốc dân phải tan rã: kẻ thì bị vào tù, kẻ thì
phải tìm phương ẩn tránh, kẻ thì trốn ra ngoại quốc, kẻ thì giữ thái độ
trùm chăn tìm sự bình yên. Hậu quả của sự tan rã này là chính nghĩa và
sức mạnh chống Cộng bị kiệt quệ, Cộng sản bèn lợi dụng tuyên truyền khối
quần chúng bất mãn đã thiếu mất lớp người quốc gia đối lập đáng lẽ có
thể hướng dẫn cho họ vừa chống Diệm vừa chống cả Cộng sản.
Không
cần phải dài dòng mà chỉ cần đọc lại đoạn hồi ký và bài thơ trong tù
của ông Trần văn Hương (thuộc nhóm Caravelle) cũng đã đủ thấy chiến dịch
bắt bớ, giam cầm của nhà Ngô sau biến cố 11-11-60 như thế nào rồi [3]:
Ngày
thứ bảy 12-11-60, lối 11 giờ (nghĩa là ngay cả trước khi các lãnh tụ
đảo chánh chưa ra đi, tình hình Sài Gòn chưa trở lại yên ổn) tôi bị Nha
Cảnh sát và Công an Quốc gia đòi đến rồi câu lưu luôn để cứu xét vì tôi
bị tình nghi có liên quan trong vụ biến cố 11-11-60. Qua ngày sau và
những ngày kế tiếp, một số anh em trong nhóm 18 người của khối Tự do
Tiến bộ mà người ta thường gọi là nhóm Caravelle lần lượt bị đòi và bị
câu lưu. Nhìn anh em, tôi chợt nhớ bài thơ Ngồi Trăng của ông Học Lạc
nên mượn vân thơ (chú, lũ, tụ, phủ, vụ) làm bài sau đây:
Ngồi tù một lũ
Này anh, này cụ, này là chú,
Lóc cóc vào đây ngồi một lũ,
Những tưởng buồn như chó mất nhà,
Nào ngờ vui quá bàn xôm tụ,
Thân này dẫu vướng chốn lao lung,
Nỗi ấy vẫn ghi trong phế phủ,
Xuống chó lên voi lắm chuyện đời,
Xưa nay diễn biết bao nhiệm vụ.
Ông
Trần văn Hương là một nhà giáo mô phạm, là thầy học của rất đông thành
phần trí thức của miền Nam đương thời. Ông là một nhân sĩ tiêu biểu cho
lớp sĩ phu tiền bối như Đồ Chiểu, Thủ Khoa Nghĩa, Thủ Khoa Huân, Phan
văn Trị của miền Nam luôn luôn được nhân dân miền Nam hết sức trọng
vọng. Ông từng là Đô trưởng Sài Gòn - Chợ Lớn thời ông Diệm mới chấp
chánh, nổi tiếng nhờ tính tình cương trực liên chánh. Ông thường đi làm
bằng xe đạp và không xử dụng công xa. Khi thấy rõ anh em ông Diệm độc
tài, kỳ thị địa phương và kỳ thị tôn giáo, ông xin từ chức ngay rồi về
nhà sống cuộc đời nghèo nàn thanh bạch. Nhưng tâm hồn kẻ sĩ nơi ông
không cho phép ông im hơi lặng tiếng trước một chế độ càng ngày càng gây
thêm nhiều tội lỗi, ông bèn tham gia nhóm “Tự Do Tiến Bộ” họp báo tại
Caravelle ra tuyên ngôn phản đối chế độ Diệm.
Việc nhà Ngô bắt
giam ông không những là một tội ác đối với dân tộc mà còn là một hành
động chà đạp tự hào và tự ái của dân miền Nam, vì toàn dân miền Nam, bất
kỳ những ai có chút học hành có chút hiểu biết thời thế, đều coi ông
Hương như một tấm gương sáng trong cách xử thế, một bậc thầy trong
trường đời. Giam cầm ông Trần văn Hương (cũng như ông Phan Khắc Sửu và
Kỹ sư Trần văn Bạch) nhà Ngô, một lần nữa, đẩy trí thức nhân sĩ miền Nam
vào vòng chống đổi, đẩy lao động nông dân miền Nam chạy theo Việt cộng.
* * * * *
Trong
lúc Công an, Cảnh sát và Mật vụ của Lê Quang Tung và Dương văn Hiếu mở
chiến dịch lùng bắt và điều tra thành phần dân sự đối lập thì Nha An
ninh Quân đội phụ trách việc điều tra thành phần quân nhân.
Ngày
14 tháng 11 năm 1960, tôi được Tổng thống Diệm gọi vào dinh Độc Lập để
ông cho những chỉ thị cần thiết. Mới thấy tôi, ông hỏi ngay: “Anh có
biết mấy lâu nay những thằng CIA Mỹ nào thường gặp gỡ thằng Thi?”. Khi
tôi trả lời không biết thì ông nói tiếp đại ý cho rằng chính người Mỹ đã
xúi dục Nguyễn Chánh Thi tổ chức đảo chánh để lật đổ chính phủ của ông.
Sau đó ông ra lệnh phải tìm cho ra tên tuổi những nhân viên Tòa đại sứ
Mỹ thường tiếp xúc liên lạc với Đại tá Thi, những người Mỹ nào hay lui
tới với các sĩ quan Nhảy dù.
Thấy ông Diệm lầm Đại tá Thi là
người chủ xướng cuộc đảo chánh do sự xúi dục của Mỹ, tôi bèn nói: “Thưa
cụ, Nguyễn Chánh Thi là một sĩ quan đã có thành tích ủng hộ cụ ngay từ
đầu, khi cụ còn gặp những khó khăn vào những năm 1954, 1955, do đó được
cụ tín nhiệm giao cho chỉ huy Lữ đoàn Nhảy dù thay Đỗ Cao Trí. Thi là
một người cương trực, được binh sĩ Nhảy dù kính mến và tuy bấy lâu nay
Thi có tỏ thái độ bất mãn với ông bà Cố vấn, với ông Cậu, nhưng đối với
cụ, Thi không hề đả động đến”. Để củng cố thêm lập luận đó, tôi trình
bày thêm: “Thưa cụ, vào khoảng 4 giờ sáng ngày 11-11-1960, sau khi tiếng
súng “phản loạn” nổ và được anh Bằng cho biết là quân Nhảy dù đang tấn
công dinh Độc Lập, tôi gọi điện thoại ngay về nhà Thi thì được một trung
sĩ Nhảy dù trả lời rằng vào khoảng nửa đêm, Đại tá Thi đang ngủ ở nhà
thì bị Trung tá Vương văn Đông và 4, 5 sĩ quan Nhảy dù đến mời đi, mời
với thái độ nài ép, bắt buộc. Theo tôi thì nhóm Vương văn Đông mới là kẻ
xướng xuất cuộc đảo chánh, nhưng họ thấy Đại tá Thi thường tỏ thái độ
bất mãn với chính phủ nên họ lợi dụng uy tín và địa vị Tư lệnh của Đại
tá Thi để toàn thể binh sĩ Nhảy dù tuân phục nhóm đảo chánh và hăng hái
tham dự”. Ông Diệm vẫn không tin, nói lại: “Nhưng mà ông Cố vấn đã có
những tin tức cho biết chính CIA Mỹ chủ động cuộc đảo chánh này”. Khi
ông Diệm đã đưa danh nghĩa ông Nhu ra thì tôi biết không còn gì để tranh
luận nữa, nhưng cũng cố gắng nói thêm: “Thưa cụ, không biết ông Cố vấn
dựa vào đâu mà nói vậy, nhưng theo tôi, trong vụ đảo chánh vừa rồi, nếu
có bàn tay của người ngoại quốc thì chỉ có thể là bàn tay của Pháp chứ
không thể là của Mỹ, và trái lại chính Mỹ đã cứu cụ”. Ông Diệm mở to mắt
nhìn tôi, tôi nói tiếp: “Thưa cụ tôi luận như thế vì có mấy yếu tố cần
được phân tách, thứ nhất là từ khi cụ cầm quyền, người Pháp có thái độ
chống đối cả cụ lẫn người Mỹ; thứ hai Vương văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng
và Bộ trưởng Trần Lê Quang đều là rể của cựu Trung tá Huấn (quản lý
khách sạn Caravelle của Ngô Đình Thục) là một người thân Pháp, thân với
tướng Nguyễn văn Hinh; yếu tố thứ ba là đa số sĩ quan thuộc thế hệ
trước, thế hệ “quân đội quốc gia”, trong đó có nhóm Vương văn Đông đều
có tinh thần bài Mỹ, điển hình như Lê văn Kim, Đỗ Cao Trí, Lam Sơn...
vốn có tư tưởng và hành động chống Mỹ mà Cụ đã biết rõ và vẫn thường la
rầy (trường hợp Đỗ Cao Trí và Lam Sơn). Còn yếu tố thứ tư là chính ông
Miller thuộc Tòa đại sứ Mỹ, đã đến trước dinh Độc Lập để khuyên Vương
văn Đông tạm đình cuộc tấn công trước sự hiện diện của tướng Khánh”. Tuy
tôi đã đưa ra những phân tách như thế nhưng ông Diệm, vốn bị ảnh hưởng
nặng nề của ông Nhu, nên vẫn cố nói thêm: “Nhưng trong vụ đảo chánh này
có thằng Phan Quang Đán và thằng Hoàng Cơ Thụy là tay sai của CIA”. (Sau
này, tôi được biết sau khi thất bại, ông Hoàng Cơ Thụy nhờ CIA Mỹ lái
xe cho ông lên phi trường để xuất ngoại nhưng ông Thụy không phải là
người của CIA).
Trước định kiến chắc nịch như thế của ông Diệm
tôi còn biết nói gì thêm, chỉ thắc mắc tự hỏi vì sao ông Nhu lại cứ đổ
cho ông Phan Quang Đán trong khi biết chắc hai ông Thi và Đán không phải
là người tổ chức cuộc đảo chánh. Ông Thi chỉ được nhóm đảo chánh Vương
văn Đông mời tham dự, còn ông Đán thì lại do ông Thi mời hợp tác với
quân đảo chánh vào buổi trưa ngày 11-11-1960. Là một thuộc cấp, tôi chỉ
biết tuân lệnh nhưng lòng riêng vẫn thắc mắc tại sao ông Nhu, “đại trùm
mật vụ” của chế độ, lại có những nhận định phản khoa học, phản tình báo
như thế. Ba năm sau tôi mới biết rõ thủ đoạn của ông ta.
Tôi
bắt đầu mở cuộc điều tra vụ đảo chánh thì bỗng nhận được văn thư của Phụ
tá Bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn Đình Thuần (hiện ở hải ngoại) chỉ thị
rằng theo lệnh ông Cố vấn thì Thiếu tá Nguyễn Hữu Kính (Công giáo di
cư), Phụ tá của Lê Quang Tung, và ba Đại úy thuộc lực lượng Đặc biệt
được biệt phái đến Nha An ninh Quân đội, đặt dưới quyền tôi để đặc trách
cuộc điều tra vụ đảo chánh của Thi và Đông.
Theo tinh thần
của bức văn thư thì tôi vẫn chịu trách nhiệm cuộc điều tra và phải ký
giấy tờ liên hệ đến cuộc điều tra, nhưng người trực tiếp điều hành công
tác lại là nhóm sĩ quan Lực lượng Đặc biệt. Bằng phương thức này, ông
Nhu chẳng những đã công khai tỏ ra không tin tưởng tôi mà còn cố tình
làm mất uy tín của tôi đối với nhân viên thuộc quyền. Tôi cứ thắc mắc tự
hỏi tại sao ông Nhu không giao hẳn việc điều tra vụ “phản loạn” cho cơ
quan của Lê Quang Tung thụ lý để tôi tránh được một công tác tế nhị. Tế
nhị vì sự dằng xé của lương tâm, vì một mặt tôi phải làm bổn phận trung
thành với chế độ mà chính tôi cũng bất mãn, và mặt khác tôi phải trừng
trị nhóm người “phản loạn” mà trong thâm tâm tôi rất cảm phục. Đã thế,
thiếu tá Kính và nhóm sĩ quan của Lê Quang Tung lại thường qua mặt tôi
trong việc bắt bớ giam cầm những sĩ quan và binh sĩ ở các đơn vị khác
chỉ vì các đơn vị trưởng muốn lập công và do nhóm Cần Lao làm điểm chỉ.
Có ngày họ bắt về hàng trăm binh sĩ, hàng trăm đàn bà con nít thuộc gia
đình những quân nhân “phản loạn”, tạo nên tình trạng hỗn loạn cho Nha
tôi, và nhất là tạo sự hiểu lầm nơi một số quân nhân đối với riêng cá
nhân tôi. Nhóm sĩ quan biệt phái cũng lợi dụng danh nghĩa của An ninh
Quân đội để khủng bố làm tiền giới Hoa Kiều Chợ Lớn, làm cho tôi mang
tiếng, cũng như trước kia nhóm Cần Lao Mật vụ của ông Cẩn ở Huế lấy danh
nghĩa của An ninh Quân đội khủng bố ông Hà Thúc Ký và nhiều Đảng viên
đảng Đại Việt để làm tiền sau vụ Ba Lòng. Tôi muốn nhắc lại những chuyện
này để trình bày một lần cho xong với các bạn quân nhân hiện ở hải
ngoại vốn từng làm việc dưới quyền tôi thời Ngô Đình Diệm, để anh em
thấy rõ nỗi lòng cay đắng của tôi lúc bấy giờ đã không thể công khai nói
lên được.
Sáu, bảy năm trời anh em đã cộng tác với tôi, đã
thấy rõ tinh thần công minh liêm chính của tôi, đã thấy chủ trương “đoàn
kết dân tộc” của tôi, đã thấy đường lối “huynh đệ chi binh” mà tôi chủ
xướng từ ngày còn ở Phân Khu Duyên Hải, đã thấy chính sách “nặng giáo
hóa, nhẹ trừng trị” của tôi... nhưng vì vận nước truân chuyên và, nói
như ký giả Robert Shaplen, “ở đâu có ảnh hưởng Cần Lao xen vào là ở đó
sinh ra rối loạn”, cho nên dù đã cố gắng hết sức, Nha của chúng ta đã có
những lúc bị hiểu lầm, hoặc bị cố tình bôi bẩn mang tai tiếng. Bây giờ,
giai đoạn lịch sử đó đã qua rồi và trong trạng huống của một người sống
tha hương, hồi tưởng lại những năm điều khiển Nha, tôi vẫn thấy hãnh
diện và tự hào về cả phẩm lẫn chất của Nha, nên tôi thấy cần phải nói
lên để cho Sự thật không bị che mờ. Có lẽ anh em còn nhớ vụ Dương văn
Hiếu (hiện ở Mỹ) đã bắt Chuẩn úy Lê Hữu Thúy giấu biệt tích không thông
báo cho tôi, rồi đưa ra miền Trung cho ông Ngô Đình Cẩn xử dụng mặc dù
Thúy là người Công giáo nhưng lại là một đảng viên cao cấp của Cộng sản
nằm vùng. Có lẽ anh em vẫn còn nhớ vụ em ruột bà Nhu là Trần văn Khiêm,
lúc sắp nhận chức Giám đốc Nha Nghiên cứu Chính trị, đã bắt giữ và đòi
làm tiền hai nhân viên Ty An ninh Quân đội An Giang. Vụ này chẳng những
ông Nhu đã không la rầy người em vợ lại còn nặng lời chỉ trích khi tôi
đến trình bày nội vụ với ông ta. Có lẽ anh em còn nhớ vụ Trung tá Nguyễn
Huỳnh được ông Nhu và nhóm Cần Lao đặt làm phụ tá cho tôi mà không thèm
hỏi ý kiến tôi. Mới về Nha chưa được bao nhiêu ngày, Huỳnh đã làm tiền
Hoa Kiều một triệu bạc trong vụ đấu thầu đồ phế thải quân đội mặc dù hơn
năm năm trời, Nha An ninh Quân đội tuy mang tiếng là Mật vụ, là tay sai
của chế độ Cần Lao mà vẫn được tiếng liêm khiết. Nguyễn Huỳnh, người
Công giáo bà con với Tỉnh trưởng Nguyễn Trân quê ở Quảng Nam, lúc làm
Tỉnh trưởng Long Khánh, Huỳnh đã tham nhũng cả mấy chục triệu bạc để che
giấu mấy trăm triệu thuế của Tây đồn điền thời ông Bùi văn Lương làm Bộ
trưởng Bộ Nội vụ. Huỳnh chia chác cho ai, Tây đồn điền biết hết thế mà
ông Nhu lại đem y về đảm nhiệm chức vụ số hai của cơ quan có nhiệm vụ
“bảo vệ tinh thần quân đội”! v.v...
Tôi muốn kể lại những vụ
nhỏ nhặt nhưng tiêu biểu trên vì lúc bấy giờ đã có nhiều sĩ quan của tôi
đến than phiền và bày tỏ sự công phẫn trước tư cách hống hách, lộng
hành của nhóm Cần Lao mà tôi chỉ khuyên họ nên ẩn nhẫn.
Tuy
nhiên, sau vài tháng, không chịu nổi sự lạm quyền của Thiếu tá Kính nữa,
tôi gọi Kính lên văn phòng và cho biết rằng từ nay anh ta phải hoàn
toàn chịu mệnh lệnh của tôi, tôi sẽ trực tiếp nắm lấy cuộc điều tra.
Bắt
tay vào việc, tôi liền trả tự do cho nhóm phụ nữ và trẻ em và nhóm quân
nhân không liên hệ trực tiếp đến vụ đảo chánh nhưng chỉ bị tố cáo là có
cảm tình với nhóm phản loạn, chẳng hạn như đã “nói xấu Tổng thống, đã
mạt sát ông Cẩn, bà Nhu, đã có những lời lẽ chỉ trích chế độ, nói xấu
người Công giáo, đã tỏ ra vui mừng khi nghe tiếng súng đảo chánh nổ, đã
ca ngợi Phan Quang Đán và Nguyễn Chánh Thi...”
Tôi nghĩ rằng
những sĩ quan tham dự đảo chánh, những sĩ quan bất mãn với chế độ cũng
cùng mang một tâm sự như mình. Nếu tôi không ấp ủ tình cảm chung thủy
với ông Diệm, cái tình cảm keo sơn thắm thiết đã gần 20 năm trời, biết
đâu giờ này tôi cũng đã đứng vào hàng ngũ “phản loạn”. Tôi lại nghĩ rằng
tạo cuộc binh biến là dễ dàng mua lấy cái chết mà họ dám hy sinh chỉ vì
lòng yêu nước của họ, chỉ vì họ sợ quốc gia rơi vào tay Cộng sản, như
vậy thì họ đâu có phản Tổ quốc Đồng bào mà trái lại họ chỉ muốn đạp đổ
một chế độ bất lực thối tha đang làm cho đất nước suy vong. Huống chi
đời tôi cũng ít nhiều vào tù ra tội vì chống Thực, Phong, Cộng, há vì
cái chế độ “Cần Lao Công giáo” này mà làm tan rã quân đội, mà đi ngược
lại lòng dân sao? Cho nên mặc dù có hàng ngàn sĩ quan và binh sĩ trực
tiếp hay gián tiếp liên hệ đến cuộc đảo chánh, tôi chỉ đề nghị đem ra
tòa có 19 người và phạt quân kỷ độ 30 người. Tôi còn cẩn thận đem danh
sách những can phạm ra trước một Hội đồng cấp Tướng họp tại Bộ Tổng Tham
mưu để Hội đồng định đoạt lấy số phận những người mà tôi đề nghị phạt
quân kỷ, ngõ hầu mai hậu tôi khỏi mang tiếng dựa thế Tổng thống Diệm gây
oan khiên đau khổ cho nhiều người, nhiều gia đình. Ngay cả những tướng
tá như Lê văn Kim, Phạm Xuân Chiểu, Nguyễn Cao Kỳ, Hoàng Cao Tiêu... đã
có chứng cớ rõ ràng liên hệ đến nhóm đảo chánh, tôi cũng cố che giấu cho
họ để hàn gắn vết thương quân đội trước một kẻ thù Cộng sản ngày càng
hiếu chiến, và cho một tập thể binh sĩ đã chịu quá nhiều thương vong.
Tôi vẫn khắc ghi trong lòng lời dặn dò của người anh cả quân đội, Đại
tướng Lê văn Tỵ, khi trả lời Trung tá Vương văn Đông: “Tôi già rồi, các
anh muốn làm gì thì làm nếu thấy là phải, miễn đừng để quân đội phải tan
rã”. Tôi tự nghĩ tướng Tỵ, một lính già xuất thân từ một gia đình cai
đội, xuất thân từ một Thiếu sinh quân thời Pháp thuộc, trải bao chế độ
chính trị, chứng kiến bao nỗi thăng trầm của quê hương đất nước, nên ông
đã có cái nhìn sâu sắc và nhân bản hơn về vai trò của những chế độ, về
quân đội, về tương lai xứ sở. Vì thế ông nhắc lại với tôi lời ông đã nói
với ông Vương văn Đông như thầm nhắn nhủ tôi đừng làm cho quân đội tan
nát. Có phải thế không thi sĩ Cao Tiêu? (Lúc bấy giờ ông Hoàng Cao Tiêu
là Đại úy Chánh Văn phòng cho Đại tướng Lê văn Tỵ).
Trong nhóm
lãnh tụ đảo chánh thì Đại tá Nguyễn Chánh Thi là người bạn tri kỷ của
tôi, vị sĩ quan gan dạ, ngay thẳng, đã cùng học lớp Trung đoàn trưởng
với tôi tại Hà Nội và đã được tôi tuyên truyền ủng hộ cho ông Diệm khi
ông Diệm mới về nước. Tôi làm sao có thể thù hận người chiến sĩ mũ đỏ đã
bao phen xông pha trận mạc, tôi làm sao quên được tình bạn thắm thiết
khi cùng đi hành quân với một Liên đoàn Lưu động bên bờ sông Bạch Đằng
để hai anh em có dịp vào dâng hương trước bàn thờ Đức Trần Hưng Đạo. Tôi
làm sao quên được cử chỉ thiết tha của Thi khi suốt mấy ngày tôi bị đau
sốt rét, Thi mang hộ ba lô hay nhảy xuống ao bắt cá nấu cháo cho tôi ăn
trong cuộc hành quân giữa cánh đồng lầy lội giữa miền quê tỉnh Hải
Dương Bắc Việt. Tôi làm sao quên được thái độ hào hiệp của Thi khi đưa
tay cản mũi súng của Trần Đình Lan, một thứ Tây con, đang nhắm vào đầu
tôi trong nhà Trần văn Đôn, khi tôi phản đối lời bộ hạ của ông Hinh hô
hào đảo chánh ông Diệm.
Thi là một người chân thành yêu nước,
dày công chiến đấu chống Cộng, từng hết lòng ủng hộ ông Diệm, nay vì đại
nghĩa mà phải lưu vong nơi quê người cho nên trước khi trả tự do cho
nhóm phụ nữ và trẻ con, tôi cho mời vợ Thi lên văn phòng để có mấy lời
an ủi. Tôi khuyên vợ Thi về nhà lo làm ăn, nuôi con chờ chồng, đợi ngày
Thi “áo gấm về làng”, đợi ngày gia đình đoàn tụ. Tôi đưa vợ Thi 2.000
đồng bạc và hẹn cứ mỗi tháng đến gặp tôi, tôi xuất mật phí đưa cho 1.000
đồng. Nhưng vợ Thi không bao giờ trở lại cho đến cuối năm 1963, sau khi
chúng tôi lật đổ chế độ Diệm, Thi từ Nam Vang trở về (như tất cả sĩ
quan, chính khách tự ý lưu vong, hay bị tù đày ngoài Côn Đảo) như những
chiến sĩ hùng anh đã có công chống đối chế độ Diệm. Nhưng khi Thi trở về
quê cũ thì hỡi ơi, cảnh nhà Thi đã trâm gẫy bình rơi, lạnh phím tơ
đồng!
Thời thế đảo điên, quê hương nghiêng ngửa, chế độ Cần
Lao tàn bạo và số phận nghiệt ngã đã làm Thi tan nát cả cõi lòng. Nhưng
rồi Thi đặt nặng “việc diệt thù cứu nước”, gác mối sầu riêng, nhận lệnh
lên đường chỉ huy Sư đoàn I Bộ binh nơi tuyến đầu Quảng Trị.
Ngoài
Thi ra, trong nhóm lãnh tụ đảo chánh, từ lâu tôi vẫn chú ý và cảm mến
những sĩ quan trẻ tuổi như Phạm văn Liễu, Phan Trọng Chinh và Phan Lạc
Tuyên, mặc dù tôi chưa hề tiếp xúc với họ. Liễu là đảng viên Đại Việt đã
từng học trường Võ Bị Yên Bái do Nhật Bản tổ chức năm 1945, đã từng
hoạt động cách mạng và trốn sang Tàu. Chinh là con một nhà cách mạng
thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng, từng chiến đấu chống cả Pháp lẫn Việt
Minh. Còn Phan Lạc Tuyên, viên sĩ quan trẻ tuổi này đã làm cho tôi khâm
phục vì những bài tham luận hoặc quan điểm của anh trên các tờ báo của
Nha Chiến tranh Tâm lý, những bài báo với nội dung sâu sắc và văn từ đầy
hào khí của một quân nhân nặng tình tự với quê hương dân tộc, lồng
trong ý chí sắt đá chống Cộng cứu nước. Cả ba là những sĩ quan cương
trực, liêm chính, nhưng Phan Lạc Tuyên thì đã trốn lên vùng Cao Đài theo
Việt cộng. Quyết định theo Việt cộng của Tuyên tuy nông nổi nhưng tôi
không ngạc nhiên, vì với một chế độ phản dân tộc và phản cách mạng như
chế độ Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ thì con người đầy ắp tinh thần dân tộc
và tâm chất cách mạng như Tuyên làm sao không theo “giải phóng” được!
Tôi cũng đã đích thân mang ít quà bánh đến trại giam Lê văn Duyệt để
tặng những sĩ quan đang bị chính tôi giam giữ tại đó, tôi đã gặp mặt và
có mấy lời thăm hỏi Phan Trọng Chinh nhưng tôi không dám chuyện trò lâu
dài với Chinh vì chính tôi cũng sợ tai mắt Cần Lao, tuy là Giám đốc Nha
An ninh Quân đội (Thiếu tướng Phan Trọng Chinh hiện ở Mỹ).
Trong
cuộc binh biến ngày 11-11-1960, nhóm “phản loạn” và tôi tuy ở hai phe
đối nghịch nhưng khi nghe tin Thiếu tá Nguyễn Triệu Hồng chết, tôi không
khỏi xúc động ngậm ngùi bởi vì Hồng đã để lại cho tôi một kỷ niệm khó
quên khi tôi gặp cảnh lao lung trên bước đường binh nghiệp. Năm 1953,
khi tôi bị tướng Cogny và Trung tá Dương Quý Phan phạt 60 ngày trọng cấm
và bị thuyên chuyển về Liên đoàn Lưu động số 3 của Thiếu tá Phạm văn
Đổng đang hành quân tại Ninh Bình, ngày tôi từ giã Hưng Yên ra đi với vợ
và bốn con nhỏ dưới sáu tuổi, Trung tá Phan chỉ cho tôi một chiếc xe
Doge-4 với một Hạ sĩ lái xe cho tôi lên Hà Nội. Con đường tỉnh lộ từ
Hưng Yên đến Bần Yên Nhân, cạnh quốc lộ số 5, dài 38 cây số là một con
đường tử thần luôn bị phá hoại vì phục kích mà mỗi tuần chỉ được Khu
chiến thông lộ một lần để tiếp tế liên lạc. Chính tôi đã có lần chỉ huy
những cuộc mở đường đó mà mỗi lần là phải sử dụng cả Tiểu đoàn 4 của Đại
úy Đặng văn Sơn với một đại đội Thiết giáp, một đại đội Bảo an của tỉnh
và phải có pháo binh sẵn sàng yểm trợ. Thế mà Dương Quý Phan bắt tôi
phải rời Hưng Yên ngay không được đợi đến ngày mở đường. Tuy đoán rằng
Dương Quý Phan muốn mượn tay Việt Minh để giết mình nhưng tôi vẫn ra đi,
vì không lẽ tôi đã công khai bày tỏ lập trường chống Pháp, đã khinh bỉ
Phan ra mặt mà bây giờ phải xin xỏ một chút ân huệ, dù là hợp lý, của y.
Tôi ra đi trước sự ngậm ngùi của Trung úy Nguyễn văn Thiệu và Cao văn
Viên, hai người bạn đã cùng tôi chia vui sẻ buồn mấy tháng tại cái Khu
chiến hoàn toàn bị bao vây bởi Việt Minh gần cả hai năm trời này.
Chiếc
xe chở gia đình tôi đi độ mười cây số thì gặp một đồn lính (mà nếu tôi
nhớ không lầm thì danh hiệu của đồn là Lệ Thanh) với quân số độ hơn một
trăm binh sĩ do Trung úy Nguyễn Triệu Hồng chỉ huy. Tôi vào đồn để vợ
con nghỉ ngơi chốc lát và hỏi thăm tình hình an nguy của đoạn đường dài
còn lại. Thấy tôi “đơn thương độc mã” trên lộ trình đầy nguy hiểm, Hồng
lộ hẳn vẻ băn khoăn:
- Đường sá hết sức bất an, hai bên dân làng đều là Việt Minh mà Đại úy dám liều như thế sao?
- Tôi đâu dám liều, nhưng Bộ chỉ huy ra lệnh phải đi ngay nên tôi phải đi anh Hồng ạ.
- Thôi Đại úy và gia đình hãy ở lại đây với em, đợi hai ngày nữa có mở đường rồi hãy đi.
- Cám ơn anh nhưng đàn bà con nít bất tiện lắm, vả lại đợi ngày mở đường thì ông Cogny, Ông Phan lại hành hạ tôi thêm.
- Hay là em cho Đại úy một trung đội theo hộ tống cho đến Bộ chỉ huy tiểu đoàn hai gần quốc lộ số 5.
Tôi
nghĩ bụng, một trung đội thì ăn nhằm gì khi gặp Việt Minh. Vả lại nếu
chẳng may có đụng độ thế nào trung đội cũng bị thiệt hại và Hồng sẽ bị
phạt nặng, nên tôi cảm tạ lòng hào hiệp của Hồng rồi từ chối sự giúp đỡ
của anh ta. Hồng cố nài nỉ nhưng tôi vẫn lên đường trước vẻ mặt ái ngại
của người bạn trẻ, phó mặc thân thế gia đình mình cho số phận rủi may.
Lạ thật! Có lẽ nhờ phúc đức vẫn còn dày vẫn lớn, nên cả gia đình tôi
được “thuận buồm xuôi gió” trên con đường đã hai năm qua nổi tiếng là
kinh hoàng.
Thời gian trôi qua với biết bao vật đổi sao dời,
không ngờ bảy năm sau Nguyễn Triệu Hồng, một chàng trai tuấn kiệt của
đất Việt trời Nam không chết về tay kẻ thù Cộng sản mà lại chết oan
khiên vì viên đạn của người quốc gia! Cái thảm trạng vô lý đó của cuộc
đời, sự oái oăm chính trị đầy oan khiên đó đã bắt đầu và được nuôi dưỡng
từ dưới chế độ Ngô Đình Diệm, để rồi còn kéo dài cho đến khi thân thể
của lực lượng quốc gia kiệt lực vì những nhát chém sau lưng cho đến ngày
miền Nam sụp đổ.
Đầu năm 1961, trong lúc tại Sài Gòn tôi đang
tiến hành cuộc điều tra về vụ “phản loạn” thì tại Nam Vang, nhóm lãnh
tụ ngày 11-11-1960 vì chính kiến bất đồng nên mâu thuẫn với nhau rồi
chia ra hai nhóm: nhóm Vương văn Đông và nhóm Nguyễn Chánh Thi. Nhóm của
Thi chỉ có Phạm văn Liễu và sau này thêm phi công Nguyễn văn Cử. Tôi
được tin ông Nguyễn Chánh Thi vẫn giữ mối tình cố cựu đối với tôi trong
lúc Vương văn Đông thì thù ghét tôi. Sở dĩ tôi biết được Đông ghét tôi
vì nhờ phòng phản gián đã trình cho tôi tờ báo “Realités Cambodgiennes”
có bài của Vương văn Đông đả kích nặng nề chế độ Ngô Đình Diệm, nhận
đình rằng chế độ đó không thể chiến thắng nổi Cộng sản mà rồi sớm muộn
cũng bị lật đổ. Riêng tôi, Đông đã đặt cho một hỗn danh là “Le Tigre
Noir” (cọp đen) của chế độ.
Nhưng tôi không vì thế mà buồn
phiền thái độ thiếu hiểu biết của Đông, bởi vì dù gì đi nữa thì tôi đang
ở trong tư thế của một thứ trùm mật vụ của chế độ Diệm nên làm sao tôi
có thể công khai trang trải nỗi lòng của mình cho thiên hạ biết mình
ngay gian. Huống gì tâm lý quần chúng thường không ưa Công an Cảnh sát,
và tâm lý binh sĩ thường không ưa An ninh Quân đội và Quân cảnh.
Qua
các phúc trình điều tra tổng hợp, tôi được biết trước khi tổ chức đảo
chánh, Trung tá Vương văn Đông đã có dịp gặp ông Nhu tại dinh Độc Lập để
trình bày tình hình nguy ngập của đất nước và tình trạng sa sút của
quân đội cả về tinh thần lẫn hiệu năng. Vương văn Đông là một sĩ quan
trẻ tuổi, thông minh, cương nghị, có ý thức chính trị cao, và cũng như
Phạm văn Liễu, tiềm tàng giòng máu cách mạng, tràn đầy nhiệt huyết,
chống Cộng có ý thức và dám sống chết cho lý tưởng của mình. Cả hai đều
có chí lớn, có tham vọng làm lãnh tụ nhưng hình như số mạng của họ đã
được an bài, họ hì hục “mua vé cho người ta xem hát”, hì hục “chỉ đường
cho nai đi”, còn riêng họ thì chí hướng, ước nguyện có lẽ không bao giờ
thành.
Quân đội Việt Nam Cộng Hòa cho đến năm 1962, trừ những
vị tướng già thuộc thế hệ đàn anh, trừ những sĩ quan trẻ đã mang sao
rồi, chẳng hạn như Nguyễn Khánh, Dương văn Đức, thì những Nguyễn Đức
Thắng, Phan Trọng Chinh, Phạm văn Liễu, Vương văn Đông, Nguyễn Bá Liên,
Trần văn Nhật, Nguyễn Huy Lợi, v.v... (và còn nhiều người khác nữa mà
tôi không nhớ tên) quả thật là những sĩ quan ưu tú nhất của quân đội,
xứng đáng mọi mặt về văn hóa và chính trị cũng như khả năng quân sự và
tác phong. Những sĩ quan này chưa trở thành danh tướng nhưng chắc chắn
khả năng quân sự của họ không thua kém những sĩ quan của các quốc gia
tiên tiến. Nhưng tất cả đã bị mai một vì cơ duyên đoạn trường của vận
nước một phần, và phần khác vì quốc gia không có kẻ lãnh đạo sáng suốt
biết trọng dụng hiền tài. Họ đúng là những kẻ muốn làm chuyện đội đá vá
trời nhưng lại sinh bất phùng thời.
Về phần tôi, trong khoảng
thời gian đó tôi gặp nhiều nghịch cảnh vui buồn lẫn lộn. Một kỷ niệm êm
đềm làm cho tôi nhớ mãi là trong lúc tôi bị Vương văn Đông kết tội là
“Cọp đen” của chế độ Diệm thì một việc bất ngờ nhưng rất phấn khởi xảy
đến cho tôi. Độ hơn một tuần lễ sau khi trả tự do cho nhóm đàn bà con
nít vợ con các sĩ quan “phản loạn” thì một hôm, hai mẹ con bà Đại úy
Phan Phụng Tiên (người đã nhận lệnh Nguyễn Cao Kỳ lái máy bay cho nhóm
lãnh tụ “phản loạn” qua Nam Vang) đến thăm tôi tại nhà riêng. Bà Cụ thân
mẫu (hay nhạc mẫu) của bà Tiên nói: “Thưa Đại tá, ở ngoài thiên hạ đồn
Đại tá là tay chân thân tín của Cụ Tổng thống, Đại tá có quyền sinh sát
ghê gớm lắm thế mà vợ con các sĩ quan bị giam cầm về đều ca ngợi Đại tá
đạo đức hiền lành. Chẳng những Đại tá lo lắng ăn ở cho họ chu đáo, đối
xử tử tế với họ mà Đại tá còn giữ kỷ luật nghiêm minh để cho đàn bà con
gái giữ được thanh danh trong cơn sa cơ thất thế. Vì thế, tôi xin đến
đây để tỏ lời cám ơn Đại tá”. Tôi nghe bà Cụ nói và tự xét mình chẳng
làm gì gọi là ân nghĩa ngoài cái bổn phận tất nhiên của một sĩ quan và
cách cư xử tự nhiên của một người bình thường, thế mà sao hai người đàn
bà này lại có cử chỉ tuy thân kính nhưng lại đường đột như thế. Tôi nhìn
bà Đại úy Tiên thì thấy bà ta là một phụ nữ thùy mị đoan trang và chợt
tìm ra rằng những bà mẹ hiền Việt Nam thường ưu tư cho con gái, nhất là
con gái xa chồng mà lại phải sa vào nơi mà họ tưởng là “hang hùm ổ rắn”,
nhưng rồi thấy con mình được danh tiết bảo toàn sau cơn hoạn nạn nên bà
vui mừng đến thăm và ngỏ lời tạ ơn. Câu chuyện quả thật không có gì
đáng nói nhưng chính vì lòng yêu thương lo lắng cho con gái của một bà
mẹ Việt Nam hiền hòa chất phác, chính vì những lời nói chân thành của bà
Cụ, một bà già không phe đảng, không “chính chị chính em” mà tôi cảm
nhận được rõ ràng nhân dân và quân sĩ đang coi chế độ Diệm là một địa
ngục trần gian, coi những tay sai của chế độ, trong đó có tôi, là những
hung thần ác quỷ. Lời bà Cụ như có mãnh lực khuyến khích tôi, nhắn nhủ
tôi luôn luôn phải giữ mình, không những luôn luôn phải nhìn về việc
phải, hướng về điều lành, mà còn phải hành xử trong đạo đức và chính
trực (gia đình tướng Phan Phụng Tiên hiện ở Mỹ).
* * * * *
Năm
1960, như đã trình bày, nếu đã là năm mở đầu cho sự băng hoại tận gốc
rễ của chế độ Diệm với năm biến cố là sự thảm bại của Sư đoàn 13, bức
tranh chuột đục khoét quả dưa hấu miền Nam của báo Tự Do, bản tuyên cáo
của nhóm Caravelle, cuộc binh biến 11-11 do binh chủng Nhảy dù khởi
xướng, và sự ra đời đầy thách đố của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam, thì năm 1961, Việt cộng phát động những trận đánh lớn, nâng mức độ
hủy diệt của chiến tranh lên một tầng cao hơn để phát triển mạng lưới
chính trị ở nông thôn, xây dựng hạ tầng cơ sở, tuyên truyền tố cáo những
tội ác của chế độ để phát huy chính nghĩa và thanh thế thêm cho Mặt
trận.
Tình trạng mất an ninh của miền Nam cũng như viễn tượng
hủy diệt của chính chế độ rõ ràng và khẩn cấp đến nỗi thành phần rường
cột trung kiên nhất của chế độ lúc bấy giờ cũng phải hốt hoảng lo lắng.
Nguyễn văn Châu, Giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lý, Chủ tịch Quân ủy đảng
Cần Lao, Lê văn Thái (hiện ở San Diego), Phụ tá Giám đốc Nha Nghiên cứu
Chính trị của Trần Kim Tuyến và bác sĩ Lý Trung Dung, Ủy viên Trung ương
Đảng Cần Lao, bèn vận động với ông Ngô Đình Nhu và một số chính khách
nhân sĩ đối lập ôn hòa để thành lập Hội nghị Đại đoàn kết Toàn dân chống
Cộng trong mục đích cải thiện chế độ và làm giảm bớt nỗi căm thù của
quần chúng đối với chế độ ông Diệm. Cuộc vận động bắt đầu từ 18 tháng
Giêng mà mãi đến mồng hai tháng Bảy năm 1961 mới thành hình, và mới
triệu tập được một buổi họp chính thức tại tư gia của bác sĩ Phan Huy
Quát với sự tham dự của một số chính khách có cả bác sĩ Đặng văn Sung
(hiện ở Mỹ) và dưới sự chủ tọa của ông Ngô Đình Nhu. Người bạn trẻ của
tôi, anh Tạ Chí Diệp (cháu ruột của cụ Tạ Chương Phùng, một cựu đồng chí
của ông Diệm) vừa mãn tù ra và được Đại hội cử làm thuyết trình viên.
Sau khi trình bày thực trạng nguy ngập của đất nước, những hiểm họa rõ
ràng của Cộng sản, Đại hội đưa ra quyết nghị gồm các điểm: “công khai
hóa hoạt động của các chính đảng, lập một diễn đàn chính trị, xét lại
vấn đề chính trị phạm (vì người quốc gia chống Cộng bị bắt bớ giam cầm
quá nhiều, nhất là ở thôn quê), lập một hội đồng chính trị có nhiệm vụ
phê bình và chất vấn chính quyền, và cử một Ủy ban vận động Đại Đoàn kết
gồm 11 người để thực hiện nghị quyết”.
Rõ ràng nghị quyết đó
là một giải pháp chính trị ôn hòa và thực tế để cứu nước, một phương
thức dân chủ gây lại tinh thần đoàn kết, xóa bỏ hận thù. Nhưng ông Nhu
không những bác bỏ ngay hết mọi đề nghị của Đại hội mà còn nặng lời chỉ
trích các chính khách, đảng phái, và lên án họ đã phá hoại chế độ, không
để cho chính quyền của ông ta rảnh tay lo đối phó với Cộng sản. Sau lần
gặp gỡ đó, ông Nhu không bao giờ đi họp nữa và Đại hội cũng tan luôn.
Tội nghiệp cho mấy vị chính khách nhiệt thành và mấy ông Cần Lao sốt
sắng; họ không biết kinh nghiệm đã cho thấy rằng đối với anh em nhà Ngô
thì cả nước chỉ biết cúi đầu tuân phục. Những thiện chí, những sáng
kiến, dù có giá trị và xuất xướng từ người thân tín, mà hễ đả động đến
tự ái của anh em nhà Ngô thì chỉ là những giấc mơ không bao giờ thành sự
thật. Nhiều khi kẻ đưa ra thiện chí, đưa ra sáng kiến còn mua lấy tai
họa như trường hợp Tạ Chí Diệp vì quá hăng say trong việc cứu nước mà
mua lấy cái chết sau này.
Sau Đại hội Đoàn kết bất thành, Diệp
bị bắt và bị thủ tiêu luôn. Được tin Diệp bị Công an sát hại, Bác sĩ
Tuyến và tôi vô cùng bàng hoàng. Chúng tôi gặp nhau than thở không ngờ
nhóm Nguyễn văn Y, Dương văn Hiếu tàn ác đến thế, không ngờ chế độ mà
mình đang phục vụ lại bất nhân đến thế.
Không ai có thể chối
cãi được thái độ chính trị của Tạ Chí Diệp cũng như những đề nghị của
anh ta trong Hội nghị Đoàn Kết là những đề nghị xây dựng để mong cứu lấy
miền Nam, thế mà Diệp đã chết vì cái chủ trương đối lập xây dựng đó.
Huống chi Diệp lại là cháu ruột của cụ Cử Tạ Chương Phùng, một đồng chí
son sắt của ông Diệm trong phong trào Cường Để, từng hy sinh thân thế,
sự nghiệp, tiền của cho ông Diệm, từng bị mật thám Pháp tra tấn đến nỗi
gẫy cả răng và điếc cả tai.
Diệp chết đi để lại một ông Bác
gần 70 tuổi nghèo nàn và cô đơn, với một bà mẹ già trên 90 tuổi già nua
bệnh tật. Trước cảnh thương tâm đó, chỉ còn Cụ Huỳnh Minh Ý và Bác sĩ
Bùi Kiện Tín giúp đỡ cụ Tạ một phần nào mà thôi. (Xem thêm thư của Cụ
Huỳnh Minh Ý trong phần phụ lục).
Cái chết của Tạ Chí Diệp
cũng như cái chết của Nguyễn Tấn Quê, Vũ Tam Anh, Nguyễn Bảo Toàn v.v...
và hàng trăm ngàn người dân vô tội ở thôn quê nằm trong chính sách tiêu
diệt người quốc gia đối lập của chế độ Diệm. Ai cũng biết rằng cái chết
oan khiên của hàng trăm ngàn dân quê nhiều khi là do hành động lạm
quyền của các cán bộ Cần Lao Công giáo, nhưng còn việc sát hại những
nhân vật chính trị tên tuổi tại Sài Gòn là phải có lệnh của các ông
Diệm, Nhu, Cẩn. Thế mà sau khi chế độ Diệm bị lật đổ, trước Tòa án Cách
mạng, Đại tá Nguyễn văn Y khai rằng ông ta đã ra lệnh giết những nhân
vật quốc gia kia chỉ vì “nghe không rõ lệnh của Tổng thống”. Đó là một
lời khai gian dối tuy có ý bênh vực Tổng thống Diệm nhưng đồng thời cũng
tố cáo Tổng thống Diệm đã liên hệ vào các vụ giết người. Dù sao thì một
chế độ chủ trương sát hại, thủ tiêu những người quốc gia đối lập đã là
một chế độ tàn bạo kiểu Cộng sản và Nazi Đức Quốc xã. Còn một chế độ mà
ông Tổng giám đốc cầm đầu ngành Công an, Cảnh sát vì “nghe không rõ lệnh
của ông Tổng thống” mà đem những nhân vật quốc gia chân chính đi trấn
nước cho chết (xem lời tố cáo của bà Đức Thụ trong phần phụ lục) như
trấn nước một con chó dại thì chế độ đó là chế độ gì? Đừng trách những
nhà văn Hiếu Chân, Chu Tử, Từ Chung buộc tội chế độ Diệm là thứ “Chế độ
phi cầm, phi thú” (xem lời tuyên bố của ba nhà văn này trong phần phụ
lục).
Trường hợp yểu tử của Đại hội Đoàn kết nếu đã để lại
những xót xa và phản tỉnh trong lòng một số người thì nó cũng đã xác
nhận thêm cái chân tướng chính trị của Ngô Đình Nhu, một chân tướng được
đúc nặn bằng tâm địa thâm độc chủ quan và óc tham quyền cố vị. Năm
1953, khi cần tạo uy thể cho anh mình để nắm chính quyền, Ngô Đình Nhu
đã chủ trương chính sách đại đoàn kết với các đảng phái đến nỗi Ngô Đình
Nhu không ngại ngồi chung và cộng tác với những kẻ mà Nhu cho là “ăn
cướp” như Năm Lửa, Bảy Viễn; thế mà khi nắm giữ được quyền hành rồi, Nhu
lại bác bỏ phương thức đại đoàn kết để cứu nước, chỉ điều hành sinh
hoạt quốc gia bằng những luật lệ độc tài phản dân chủ, khinh thị quốc
dân, chỉ trích mạt sát các đảng phái mặc dù đất nước đang rách nát đau
thương do chính tay gia đình ông ta gây ra.
Đã không chịu thực
hiện công cuộc đại đoàn kết, liều thuốc cuối cùng và hợp lý nhất để
cùng nhau đương đầu với kẻ thù chung là Cộng sản, nhà Ngô còn ngoan cố
bác bỏ mọi đề nghị dân chủ hóa chế độ của người Mỹ, mọi đề nghị đoàn kết
của quốc dân, còn khinh thường thái độ của quân đội và nhân dân đã
nhiều phen tha thiết biểu lộ nguyện vọng xin chính quyền nới rộng bàn
tay kềm kẹp. Thủ đoạn thành lập chính phủ mới dưới đây càng tỏ rõ thái
độ ngoan cố và khinh thường ý kiến của người Mỹ và ý nguyện của nhân dân
Việt Nam.
Sau khi làm lễ tuyên thệ chức Tổng thống nhiệm kỳ
II trước Quốc hội vào ngày 28-5-1961, anh em ông Diệm thành lập một
chính phủ mới, và tuy tuyên bố có cải tổ trong thành phần nhân sự nhưng
thật sự cũng chỉ là những người thân tín cũ. Nếu có vài người mới thì
cũng chỉ là thứ người chỉ biết uốn mình theo chế độ. Cũng như mới nhìn
thì có vẻ có một sự tái phối trí về nhiệm vụ nhờ một số danh từ mới,
nhưng những danh từ này thật ra chỉ cốt để đánh lận con đen, không lừa
dối được ai mà lại càng bảy tỏ rõ ràng thêm những thủ đoạn chánh trị ấu
trĩ. Chánh phủ mới có ba bộ đặc nhiệm gồm có Phó tổng thống Nguyễn Ngọc
Thơ kiêm Bộ trưởng Đặc nhiệm Phối hợp Phát triển Kinh tế, ông Nguyễn
Đình Thuần, làm Bộ trưởng tại Phủ tổng thống kiêm Bộ trưởng Phụ tá Quốc
phòng và Bộ trưởng Đặc nhiệm phối hợp An ninh, và ông Trương Công Cừu,
vốn là Dân biểu và Chủ tịch “Ủy ban Chống Phiến Cộng”, giữ chức Bộ
trưởng Đặc nhiệm Văn hóa Xã hội. Lúc đặt ra ba bộ đặc nhiệm, anh em ông
Diệm muốn chứng tỏ đang thực hiện chính sách tản quyền nhưng thiên hạ
còn lạ gì thủ đoạn của họ Ngô, vì trong lúc đưa ra ba bộ Đặc nhiệm do
chính cộng sự viên thân tín nắm giữ thì đồng thời nhà Ngô cũng lại ban
hành nhiều sắc luật đặc biệt để nắm lấy quyền hành, những sắc luật mà
tôi sẽ đề cập vào đoạn sau của chương này.
Ngoài ba vị Bộ
trưởng Đặc nhiệm trên đây còn có các ông: Vũ văn Mẫu, Bộ Ngoại giao; Bùi
văn Lương, Bộ Nội vụ; Nguyễn văn Lượng, Bộ Tư pháp; Nguyễn Quang Trình,
Bộ Giáo dục; Ngô Trọng Hiếu, Bộ Công dân vụ; Hoàng Khắc Thành, Bộ Kinh
tế; Nguyễn Lương, Bộ Tài chánh; Trần Lệ Quang, Bộ Cải tiến Nông thôn;
Trần Đình Đệ, Bộ Y tế; Huỳnh Hữu Nghĩa, Bộ Lao động; Nguyễn văn Dinh, Bộ
Giao thông Công chánh; (đa số các vị trên đây đều có mặt tại hải
ngoại). Ngoài một số Bộ trưởng được dư luận coi như nhân tài hay liêm
chính như các ông Trần Lệ Quang, Vũ văn Mẫu, Trần Đình Đệ, Nguyễn văn
Lượng... một số khác có những “huyền thoại” riêng, tuy nhiên có hai nhân
vật đặc biệt được dư luận bàn tán rất nhiều là các ông Huỳnh Hữu Nghĩa
và Ngô Trọng Hiếu.
Ông Huỳnh Hữu Nghĩa (hiện ở Pháp) tuy rất
trẻ tuổi và không có một bằng cấp văn hóa nào nhưng ông ta là “chiến
hữu” của tướng Trình Minh Thế đã được Đại tá CIA Lansdale thuyết phục
kéo quân từ chiến khu Bà Đen về hợp tác với anh em ông Diệm từ thời
54-55. Thân phụ của ông Nghĩa là một nhà nho có tinh thần cách mạng. Nếu
chỉ có thế thì có lẽ đã không có dư luận bàn tán, nhưng từ khi cởi áo
cách mạng mang áo công hầu thì ông Nghĩa có nhiều thành tích mà hàng
công thần của nhà Ngô nhiều người không có được. Giới báo chí và dân
chúng thủ đô cho rằng ông lo việc bàn đèn cho ông Nhu tại Sài Gòn cũng
như một ông Thị trưởng lo bàn đèn cho ông Nhu tại Đà Lạt mỗi khi ông Nhu
đi săn bắn. Dư luận đó không biết có đúng không, nhưng theo ông Nguyễn
Đình Thuần kể lại cho nhiều người Mỹ biết thì ông Nhu là người nghiện
thuốc phiện [4]. Ông Nhu có cặp môi xám đen như thường thấy nơi những
người hút sách nghiện ngập, thường đến chơi và thường ăn cơm tại nhà ông
Nghĩa. Vì tôi cũng là một bạn quen của ông Bộ trưởng họ Huỳnh nên thỉnh
thoảng được mời đến ăn cơm với ông Nhu, ông Thuần ở đấy. Nhưng chuyện
mà các chính khách và các văn nghệ sĩ ở Sài Gòn bàn tán nhiều là vào năm
1956, ông Nghĩa đã cho ra đời một thi phẩm tựa đề là “Việt Nam Ngày
Nay” để ca tụng Tổng thống Diệm như một “vĩ nhân giữa đời, kết tinh ý
trời và hồn sông núi” để trong phần kết luận tác giả đã chiêm ngưỡng
thần tượng do mình tạo nên bằng cách “Cúi đầu lạy trước Cao dày, cùng
nhau kể lể những ngày sau xưa”. Thi phẩm quái đản này và việc lo bàn đèn
cho ông Nhu chắc chắn đã đóng góp vào chức vụ Bộ trưởng Bộ Lao động mà
ông Nghĩa đã nắm cho đến ngày tàn của chế độ Ngô triều. Ông Nghĩa với
tôi cũng có chút giao tình nên tôi biết ông là người hiền hậu, xuề xòa
không làm hại ai, không gây ân oán với ai, nhưng tập thơ “Việt Nam Ngày
Nay” của ông và việc ông lo bàn đèn cho ông Nhu đã làm cho dư luận bàn
tán nhiều về bản chất ưa nịnh bợ của anh em ông Diệm.
Người ta
chú ý đến ông Ngô Trọng Hiếu (hiện ở Mỹ) vì ông Hiếu làm Bộ trưởng cho
chính phủ “Cách mạng Nhân Vị” Việt Nam Cộng Hòa mà gốc gác lại không
phải là người Việt Nam. Mẹ ông là người Việt nhưng cụ thân phụ của ông
lại là người Phi Luật Tân có quốc tịch Pháp, và tuy ông sinh đẻ ở Thủ
Dầu Một nhưng lại theo quốc tịch cha. Ông đã từng học luật ở Pháp và vì
là người Pháp, nên ông được chính phủ Bảo Hộ cử giữ chức Trưởng ty Ngân
khố (dưới thời Pháp thuộc chỉ có người Pháp mới được giữ chức này). Thời
Pháp thuộc, chức Trưởng ty Ngân khố được gọi là “Percepteur”. Ông Hiếu
từng là “Percepteur” ở Lao Kay, Hưng Yên trước 1945. Ngày Nhật Bản đảo
chánh 9-3-45, ông Hiếu bị Nhật bắt chung với mọi Pháp kiều thời bấy giờ.
Tây trở lại Việt Nam, ông Hiếu lại được giữ chức Trưởng ty Ngân khố
tỉnh An Giang dưới quyền Tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Thơ, nguyên là Bí thư
của toàn quyền Decoux. Từ chỗ tri giao đó cho nên khi ông Thơ làm Phó
tổng thống cho người bạn thân là ông Ngô Đình Diệm thì ông Hiếu được ông
Thơ đề cử với ông Diệm giữ chức Phó tổng giám đốc rồi lên Tổng giám đốc
Nha Ngân khố Trung ương. Con đường công danh của ông Hiếu từ đó mở rộng
thênh thang để từ lãnh vực chuyên môn ông bước qua lãnh vực chính trị.
Ông được ông Thơ giới thiệu với anh em ông Diệm cho đi làm Đại sứ Việt
Nam ở Phnom Penh là nơi mà hệ thống gián điệp quốc tế (nhất là gián điệp
Pháp và Cộng sản Hà Nội) dăng dày như lưới. Nhưng những thất bại ngoại
giao của ông ở Cao Miên đã đưa đến việc ông Sihanouk thiên hẳn về Cộng
sản Hà Nội và Trung Cộng, đưa đến việc Quốc trưởng Cao Miên quyết liệt
hơn trong việc chống đối Việt Nam Cộng Hòa và dung túng cho Cộng sản
đóng quân tại biên giới Miên-Việt để làm xuất phát điểm tấn công miền
Nam. Buồn cười thay, những thất bại trong nhiệm vụ Đại sứ lại làm cho
ông trở thành Bộ trưởng Công dân vụ cho đến ngày chế độ Diệm sụp đổ. Tôi
còn nhớ ngày ông Hiếu sắp được cử làm Đại sứ tại Phnom Penh, tôi đã gặp
ông ngồi chờ ở ngoài phòng đợi tại văn phòng chính trị của bác sĩ
Tuyến. Khi ông Tuyến tiễn tôi ra khỏi văn phòng, tôi không khỏi nhịn
cười khi thấy cảnh ông Ngô Trọng Hiếu, một người to lớn phốp pháp đã
phải khom lưng cúi mình trước một ông Tuyến nhỏ thó hiền lành. Nhưng rồi
thời gian trôi đi, ông Tuyến, một trung thần của nhà Ngô, một bạn thân
đã từng giúp ông Nhu trốn thoát Cộng sản tại Thanh Hóa thời 1945, dần
dần bị thất sủng để cuối cùng phải chịu cái mệnh hệ “được làm vua thua
làm Tổng lãnh sự” ở Ai Cập, thì ông Hiếu lại như diều gặp gió, được nhà
Ngô hết sức tín nhiệm và cử nhiệm chức Bộ trưởng Công dân vụ. Trên danh
nghĩa thì Bộ này còn thua kém quyền hành của nhiều bộ khác như các Bộ
Ngoại giao, Nội vụ, Quốc phòng chẳng hạn, nhưng trên thực tế, nhất là
vào cái thời buổi nhiễu nhương loạn ly lúc bấy giờ thì Bộ Công dân vụ
chịu trách nhiệm về vấn đề điều động nhân lực và tham gia vào việc xây
dựng các sách lược quốc gia.
Thật vậy, sự kiện ông Hiếu chỉ
huy các ngành thông tin, tuyên truyền, Công dân vụ, sự kiện ông Hiếu phụ
trách về quốc sách ấp chiến lược, rồi lại đăc trách giao thiệp với các
tôn giáo nhất là với Phật giáo trong biến cố 1963, đã nói lên cái địa
vị, quyền hành to lớn của ông ta, cũng đã nói lên sự tín nhiệm gần như
tuyệt đối của anh em ông Diệm đối với ông ta.
Một tài liệu (mà
tôi quên tên) tại Sài Gòn cho biết ông Hiếu là em ruột của ông Phạm văn
Tươi, cũng là một người có Pháp tịch, chủ một nhà sách lớn tại Sài Gòn
(thời chiến tranh Pháp - Việt 1945-1954). Thời Hồ Chí Minh mới cướp
chính quyền, ông Ngô Trọng Hiếu cải tên họ từ Paul Hiếu ra Hồ Trọng
Hiếu, nhưng khi Pháp trở lại, ông vội trở về với tên Paul Hiếu, lúc ông
Ngô Đình Diệm bắt những người có quốc tịch Pháp phải đổi thành quốc tịch
Việt Nam, ông Paul Hiếu đổi tên lần nữa thành Ngô Trọng Hiếu. Khi tiếng
súng cách mạng nổ giữa Sài Gòn năm 1963, ông Hiếu trốn vào Tòa đại sứ
Phi Luật Tân và sau này, dưới chế độ Nguyễn văn Thiệu, một chế độ Diệm
không Diệm, ông Hiếu đắc cử Dân biểu đơn vị có nhiều giáo dân di cư tại
Hố Nai nhờ lòng trung thành của ông đối với chế độ cũ, đối với anh em
ông Diệm ngày xưa. Ông Lê Quang Luật cũng ra ứng cử tại cùng đơn vị Hố
Nai nhưng đã bị thất cử mặc dù ông Luật có công rất lớn trong việc tổ
chức những người Công giáo di cư vào Nam năm 1954-1955. Theo ông Luật,
ông đã thất cử là vì không có tiền để thỏa mãn các vị cha cố tại Hố Nai
và nhất là vì ông đã từng chống đối quyết liệt anh em ông Diệm. Từ ngày
bị thất cử, dù là một tín đồ Công giáo, ông Luật thường thống trách các
vị linh mục, cho rằng họ chỉ biết quyền lợi mà không hề biết đến ân
tình.
Ông Hiếu thường ca tụng ông Ngô Đình Nhu là Trương Lương
đời nay. Trương Lương có tài nhưng lại biết sau khi “công thành thì
thân thoái”, tránh được nạn “vắt chanh bỏ vỏ” của Lữ Hậu, trong lúc ông
Ngô Đình Nhu chẳng những đã vô tài mà còn tham quyền cố vị để cuối cùng
phải chết bất đắc kỳ tử.
Dư luận đã cho rằng việc nhà Ngô
trọng dụng ông Ngô Trọng Hiếu là một thái độ khinh thị quần chúng, coi
quốc gia đã hết nhân tài nên mới dùng “con Tây” làm Bộ trưởng. Hai nhân
vật Ngô Trọng Hiếu và Huỳnh Hữu Nghĩa trong tân nội các của ông Diệm vào
nhiệm kỳ Tổng thống thứ nhì đã biểu lộ một cách chính xác nhất bản chất
chế độ Diệm chỉ là chế độ trung ương tập quyền và phong kiến quan lại,
chỉ tin dùng những bề tôi nịnh thần. Còn việc đặt ra ba Bộ “đặc nhiệm”
cho có hình thức tản quyền chỉ là thủ đoạn ấu trĩ không lừa dối được ai,
chỉ mua thêm sự chán nản của đồng bào, của đồng minh Hoa Kỳ và dư luận
quốc tế mà thôi.
* * * * *
Vì Miền Nam đã thực sự
suy yếu, chế độ Diệm đã thực sự lung lay ngay từ năm 1960 khi những biến
cố chính trị và quân sự dồn dập x
Xem tiếp: Chương 13
VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi
Tác giả: Hoành Linh Đỗ Mậu
Chương 13
TỆ TRẠNG THAM NHŨNG
Dưới
chế độ bảo hộ Pháp, nhà họ Ngô Đình có ba người làm quan cao cấp cho
triều đình An Nam. Ngoại trừ Tổng đốc Ngô Đình Khôi là mang tiếng tham
nhũng, còn cụ Ngô Đình Khả và ông Ngô Đình Diệm thì vẫn giữ được đức
tính “Cần, Kiệm, Liêm, Chính”. Trong buổi hoàng hôn của triều đại nhà
Nguyễn mà áo gấm bài ngà, dù có khi chỉ là kết quả của những dịch vụ mua
quan bán chức, vẫn tiêu biểu cho đại gia vọng tộc thì những ông Thông,
ông Phán tay sai cho Pháp, vẫn được gọi là trí thức thượng lưu, và hệ
thống quan lại của Nam triều cũng như hệ thống công chức của bộ máy Bảo
hộ hầu hết đều xây dựng sự vinh thân phì gia bằng những hoạt động tham
nhũng, thế mà ông Diệm vẫn giữ được liêm chính quả là điều hiếm hoi.
Hành động từ chức Thượng thư của ông Diệm, dù vì bất cứ một lý do nào,
cũng là một thái độ đáng ca ngợi.
Dưới chế độ Quốc Trưởng Bảo
Đại và kể từ khi cuộc chiến Pháp-Việt bùng nổ, tất cả anh em ông Diệm
đều giữ thái độ trùm chăn hay đối lập. Họ thường công khai chỉ trích và
lên án những chính phủ thời ấy là tham nhũng. Họ tuyên bố nếu có chính
quyền trong tay thì việc đầu tiên là phải tẩy uế bộ máy công quyền và
trong sạch hóa thành phần nhân sự để thỏa mãn ước vọng của nhân dân.
Nhờ
quá trình được gọi là “thanh bạch” và một chủ trương cứng rắn như thế
nên khi ông Diệm từ quan rồi hoạt động cho phong trào Cường Để, một số
công chức, quân nhân ở miền Trung mới hăng hái sống chết theo ông ta.
Cũng nhờ vậy mà ngày lên cầm quyền năm 1954, ông đã được quân dân ủng hộ
và từ những khó khăn tưởng không vượt qua nổi, ông đã đắc thắng vẻ vang
để trở thành Tổng thống nước Việt Nam Cộng Hòa.
Tuy nhiên khi
đã nắm được chính quyền, anh em ông Diệm phải đứng trước một thực trạng
khó khăn về vấn đề nhân sự, làm thế nào để thay người cũ bằng người mới
hầu trong sạch hóa chính quyền.
Khi mới lên cầm quyền, ông
Ngô Đình Diệm cũng như các Thủ tướng trước, đã đặt ngay vấn đề nhân sự:
bỏ ai, dùng ai, và tìm đâu ra người khác.
Ông Diệm và một số
thân tín của ông yên trí là tất cả bộ máy cũ với những con người cũ đã
bị mục nát hết và cần thẳng tay quét sạch. Tháng 7 năm 1954, câu hỏi đầu
tiên nêu cho Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí là ông Diệm làm thế nào để loại
trừ tham nhũng và những phần tử xấu?
Nhưng sau khi nhận xét
thực trạng lớp người của chế độ cũ (Chế độ Quốc trưởng Bảo Đại) ông Ngô
Đình Nhu chịu rằng chỉ có thế, không dùng thì chẳng biết bói đâu ra hiền
tài: “Chúng ta chỉ có những con người mà lịch sử cho ta”. Rồi ông đành
kết luận: “Thôi thì chẳng có thép tốt mình nhặt sắt vụn mà xài. Chính
sách mình theo là récupération de ferrailles. Đứa nào có tội thì đưa nó
ra tòa. Còn thì coi là có thể sửa, tốt hay xấu còn tùy mình. Mình tốt
thì họ phải tốt. Việt Minh nó lên nó lôi cổ ra mần cho nó, cứ bắt mần
còn hơn là để bất mãn ngồi dưng nói bậy. Được việc thì thôi. Mình chưa
chi đã muốn thay đổi, nhưng mình làm cóc gì có người cho đủ. Mớ người bỏ
nhà bỏ cửa vô đây theo mình, mình phải nuôi chớ gạt ra sao? Ai đánh kẻ
chạy lại dù nó ăn tiền ăn bạc...”
Triết lý bi quan của Cố được
nghe theo. Không có công chức nào bị mất việc ngay. Bảo Chính Đoàn,
Việt Binh Đoàn, và Địa phương Quân thành ra Bảo An Đoàn. Sau nhiều lần
bác bỏ, ông Thủ tướng cho lập ban đặc biệt tại trường Hành chính để thâu
dụng và huấn luyện các cựu Quận trưởng Bắc Việt mà ông đã dự tính loại
bỏ khỏi chính quyền. Và mỗi lần có hội thương khánh tiết, biểu tình,...
lại thấy gần đủ mặt các nhân viên của các cựu Toàn Quyền Thống sứ, Thống
đốc Brévié, Catroux, Decoux, Helewyn, Hoeffel, Gauthier... của Hồ Chí
Minh, Giáp, Giám, Giàu, Liệu 1945-1946, của các cựu Thủ tướng và Thủ
hiến Kim, Thinh, Hoạch, Xuân, Long, Hữu, Tâm, Lộc, Giáo, Trí, Vinh,
Thành, Hoài... thật là vui như chợ Tết [1].
Nhờ những vận động
chính trị mà nắm được chính quyền nên chẳng những đã không chuẩn bị
được một đội ngũ cán bộ hành chính để vận hành bộ máy công quyền, mà khi
gặp khó khăn, ông Nhu cũng theo cái nền nếp chính trị cũ là thỏa hiệp
với khó khăn đó. Nghĩa là cứ dùng “sắt vụn mà xài” dù có đi ngược lại
với những chủ trương lành mạnh hóa xã hội và trong sạch hóa chính quyền
mà ông đã từng công khai hô hào và xem đó như một lợi khí để vận dụng
quần chúng theo mình đấu tranh.
Tuy nhiên, trước rất nhiều vấn
đề khó khăn của tân chính quyền, quần chúng miền Nam vẫn thông cảm được
với những biện pháp phản tiến bộ như thế trong sự bao dung nhẫn nhục để
hy vọng khi tình hình ổn định thì chính quyền Ngô Đình Diệm sẽ thực thi
những lời hứa mà họ đã long trọng tuyên bố trước kia, thời còn làm kẻ
đối lập chưa nắm chính quyền.
Những biện pháp lành mạnh hóa xã
hội đầu tiên thật ngoạn mục và đã đem sự phấn khởi lại cho toàn dân.
Tháng Giêng năm 1955, chính phủ đóng cửa sòng bạc Đại Thế giới; tháng
Chạp năm 1955, đóng cửa nhà mãi dâm Bình Khang, những tổ chức tội ác của
Bình Xuyên. Tháng tư năm 1956, Chính phủ bắt giam Tổng giám đốc Kinh Tế
Ưng Bảo Toàn vì tội bán chợ đen hàng ngàn tấn gạo; tháng 8 năm 1956,
bắt Vũ Đình Đa, một công chức cao cấp tại Ngân hàng Quốc gia vì tội biển
thủ hàng triệu bạc... Cũng từ đầu năm 1956, ông Diệm ban hành nhiều sắc
luật để trừng phạt nặng nề tội tham nhũng, buôn lậu, cờ bạc, hối mại
quyền thế, dĩ công vi tư, đặc biệt là luật cấm hút và mua bán thuốc
phiện, đóng cửa tất cả tiệm buôn thuốc phiện và bàn đèn. Thuốc phiện là
tệ trạng nguy hại nhất cho xã hội, làm băng hoại sức mạnh của dân tộc,
làm bạc nhược năng lực của con người nên chánh phủ Diệm muốn bài trừ
triệt để. Chính quyền đã mở một chiến dịch rầm rộ bằng sách báo, kịch
thơ, đài phát thanh để giáo dục dân chúng về tác hại của món “thuốc độc”
do thực dân và Ba Tàu để lại. Chính phủ đã cho tổ chức những buổi đốt
bàn đèn tập thể tại Sài Gòn và các đô thị để vừa đe dọa vừa khuyên răn
những kẻ nghiện ngập...
Những sinh hoạt lành mạnh hóa xã hội
trên đây được in thành một tập sách nhan đề Ngô Đình Diệm of Việt Nam
vào năm 1957 và được gởi đi khắp các quốc gia tự do trên thế giới để
quảng bá “thành tích cách mạng” của Tổng thống Diệm. Nhiều chính trị
gia, tướng lãnh Mỹ đã không tiếc lời ca ngợi vị Tổng thống Việt Nam Cộng
Hòa trước những việc làm tốt đẹp của ông ta. Từ đó, các giới chính trị
Mỹ lại tin tưởng nhiều hơn vào lãnh tụ Ngô Đình Diệm của miền Nam là
người xứng đáng đương đầu với lãnh tụ Hồ Chí Minh của miền Bắc.
Nhưng
trong khi chính sách bài trừ tham nhũng, bài trừ tệ đoan xã hội đang
như một luồng sinh phong thổi khắp trời Nam thì một tiếng sét dữ dội nổ
ra từ Cố Đô Huế năm 1956 làm chấn động niềm tin mà mọi người đang đặt
nơi chế độ của chí sĩ Ngô Đình Diệm: đó là vụ buôn lậu hàng ngàn tấn gạo
ra Bắc Việt do chính hai người em của Tổng thống là bả Cả Lễ và ông Ngô
Đình Cẩn chủ trương. Vụ tiếp tế gạo cho Bắc Việt ngụy trang dưới hình
thức buôn lậu này bị Tòa đại sứ Mỹ phát giác và thông báo cho ông Diệm
nên ông không thể dấu nhẹm được, và đành phải đưa nội vụ ra tòa. Nhưng
thay vì hai người em của ông Diệm phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước
pháp luật thì họ đã khôn khéo bắt một thuộc hạ thân tín của họ là ông
Bùi Quang Sơn, Phó Tỉnh trưởng Quảng Nam, ra làm vật tế thần. Vì Mỹ đã
biết rõ nội vụ và vì ông Diệm mới cầm quyền cho nên ông Diệm ra lệnh
phải thẳng tay trong việc xét xử, Tòa kết án ông Bùi Quang Sơn 12 năm
khổ sai. Tại Huế, ông Ngô Đình Cẩn không ngờ ông Sơn bị án quá nặng làm
mất luôn cả sự nghiệp, lại sợ vì vậy mà ông Sơn có thể uất ức khai ra
chính phạm nên ông Cẩn vội vã năn nỉ ông anh Tổng thống. Trước áp lực
của người em và dù án lệnh đã chính thức thành văn, ông Diệm cũng bắt
Tòa phải xử lại. Nhờ đó, từ cái án khổ sai 12 năm, ông Bùi Quang Sơn chỉ
còn bị sáu tháng tù treo. Chỉ tội nghiệp cho ông Trần Văn Mẹo bị mất
chức Bộ trưởng Kinh tế và ông Ưng Bảo Toàn bị đày ra Côn Đảo cho đến
cách mạng 1-11-1963 thành công mới được trả tự do.
Và đây lại
còn là điều tàn ác của anh em ông Diệm. Số là sau khi ông Bùi Quang Sơn
bị Tòa án phạt mười 12 năm khổ sai, để cứu vớt thuộc hạ mình, ông Ngô
Đình Cẩn bèn nói với ông Diệm là chính ông Ưng Bảo Toàn, Tổng giám đốc
Nha Kinh tế, mới là thủ phạm. Ô ng Cẩn tráo trở bằng cách dùng những bao
gạo trống của Bộ Kinh tế mang nhãn hiệu E.N. (Economie Nationale) để
chứng minh rằng chính ông Toàn bán gạo cho Việt Cộng trong lúc ông Toàn
là người miền Nam vốn xa lạ với miền Trung, vốn không có liên hệ nhân sự
nào tại miền Trung để có thể âm mưu làm những việc phi pháp. Thử hỏi
làm sao ông Toàn có thể bán gạo cho Việt Cộng tại miền Trung được trong
lúc ông Ngô Đình Cẩn nắm toàn quyền sinh sát có nhân viên thuộc hạ, có
đảng viên Cần Lao tai mắt khắp nơi từ thành thị đến thôn quê. Vụ hạm gạo
này không chỉ dân chúng, đảng phái miền Trung biết rõ ràng mà còn có
hai nhân vật là ông Trần Ngọc Liễn (hiện ở Pháp) Trưởng ty Kinh tế miền
Trung có văn phòng đặt tại Đà Nẵng lúc bấy giờ, và ông Lâm Lễ Trinh
(hiện ở Mỹ) là đại diện Bộ Tư Pháp đến Huế để xin Ngô Đình Cẩn chỉ thị.
Tuy là những nhân chứng trong cuộc, biết rõ việc gian manh của nội vụ
nhưng ông Liễn và ông Trinh làm sao có thể làm trái ý lãnh chúa Ngô Đình
Cẩn nên đành phải im lặng để cho Ưng Bảo Toàn và ông Trần Văn Mẹo phải
chịu oan khiên, mang thân tù tội. Tuy nhiên, dù anh em ông Diệm đã dùng
quyền lực làm điều thất đức nhưng việc tham nhũng và tàn bạo đầu tiên
này đã đem đến hậu quả tai hại cho họ Ngô. Đối với dân chúng miền Trung
thì cái huyền thoại “Thế gia Vọng tộc” của họ Ngô bắt đầu sụp đổ ngay từ
đó. Còn đối với trí thức miền Nam kỳ cũ, cảm thông nỗi oan khiên và
thống khổ của ông Trần Văn Mẹo và ông Ưng Bảo Toàn, hai nhân vật đồng
hương với họ, họ thấy rõ bộ mặt tráo trở và kỳ thị của nhà Ngô nên từ đó
dần dần xa lánh chế độ Diệm và có cảm tình với những người kháng chiến.
Vụ
buôn lậu gạo cho Cộng Sản làm rúng động nhân tâm miền Nam và làm sụp đổ
uy tín của ông Diệm ngay từ năm 1956, khốn nỗi những người Mỹ thân với
ông Diệm, những ký giả hoài Ngô như kiểu Marguerite Higgins, như kiểu
Phạm Kim Vinh, có bao giờ đề cập đến những tội ác của anh em nhà Ngô
đâu.
Vì mấy triệu bạc mà đã sẵn sàng giao thương với địch, lại
chà đạp ngành Tư Pháp để đổi trắng thay đen án lệnh làm quần chúng, đặc
biệt là tại miền Trung, nơi các thủ phạm vẫn ung dung hể hả, cảm thấy
niềm tin vào chế độ bắt đầu lung lay. Việc ông Diệm khống chế và xử dụng
luật pháp quốc gia như một dụng cụ riêng để bênh vực gia đình, lúc ông
chỉ mới lên cầm quyền, đã làm cho niềm hy vọng của quần chúng về một
miền Nam dân chủ, tự do, công bằng bắt đầu tan thành mây khói.
Dân
miền Trung bàn tán ghi nhớ mãi biến cố tham nhũng đầu tiên này đến nỗi
một thiếu phụ - mà thời bấy giờ hãy còn là một nữ sinh nhỏ tuổi của
trường Đồng Khánh Huế - sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản, chạy ra
nước ngoài, vẫn không quên nhắc lại nền công lý quái đản của chế độ Ngô
Đình Diệm chỉ biết bênh vực quyền lợi gia đình bất chấp quyền lợi quốc
gia:
Ngày xưa, dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, đường Công Lý thì
đi một chiều, đường Tự Do thì cấm xe xích lô, xe đạp, còn cổng chính Tòa
án thì đóng kín, thường dân phải đi cổng bên, nên thời đó có câu truyền
tụng rằng:
Công Lý một chiều
Tự Do hạn chế
Tòa án đi cổng hậu
để chỉ cái độc tài, bất công, và suy tàn của thời đó [2].
Không
độc tài, bất công, suy tàn sao được khi mà một mặt ông Diệm ký Dụ số 61
ngày 1 tháng 10 năm 1955 để “phạt tử hình những kẻ đầu cơ” hầu kiểm
soát nhân dân, nhưng mặt khác ông lại bênh vực, bao bọc anh em ông đầu
cơ, tích trữ, giao thương với Cộng Sản mà điển hình như vụ ông Ngô Đình
Cẩn, bà Cả Lễ buôn bán gạo với miền Bắc, như vụ ông Ngô Đình Thục nạp
thuế cho Việt Cộng để làm gỗ.
Câu truyền tụng có tính dân gian
đó chỉ thành hình thực sự và được phổ biến trong quần chúng kể từ khi
vụ án buôn lậu gạo tại miền Trung xảy ra với tất cả cái nhơ nhớp và bất
công của nó. Và chính vào cái dịp bản chất của chế độ bắt đầu hiện
nguyên hình qua vụ án đó, tinh thần trào phúng bất diệt của dân tộc đã
mô tả chỉ trong ba câu ngắn ngủi mà thành lời kết án chế độ đến muôn
đời.
Trong lúc vụ buôn lậu gạo với Việt Cộng đang làm cho dân
miền Trung, nơi “mùa Đông thiếu áo, Hè thời thiếu ăn” công phẫn thì tại
Sài Gòn, dư luận lại xôn xao về những hoạt động tham nhũng của vợ chồng
Ngô Đình Nhu. Xôn xao đến nỗi vợ chồng Nhu phải đăng báo cải chánh ngày
22-8-1957: “Không hề chuyển ngân ra ngoại quốc, không tham gia vào
thương mãi, kỹ nghệ, tài chánh ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài, không
bao giờ nhận đồ lễ để can thiệp cho ai, chưa có đề nghị làm những việc
bất hợp pháp...” [3].
Khốn nỗi, lời cải chính của vợ chồng Ngô
Đình Nhu chỉ là “cái thúng không che nổi miệng voi”, vì sự thật như
chiếc kim trong túi áo mỗi ngày mỗi lòi ra ngoài. Trước hết là viện trợ
Mỹ tại Việt Nam bị đục khoét, bị thâm thủng, bị sử dụng trái với nhu
cầu, đồng thời với sự xuất hiện của những hiện tượng tham nhũng cho tới
ngày 3 tháng 8 năm 1959, ký giả Colegrove của hãng thông tấn Scripts
Howard phản đối tính bất hiệu dụng của viện trợ, và tố cáo những lạm
dụng quỹ viện trợ của Việt Nam Cộng Hòa làm cho Quốc hội Hoa Kỳ phải sôi
nổi. Ngày 14 tháng 8 năm 1959, Hạ Nghị viện Mỹ sau khi gọi nhân chứng
thuộc các giới khác nhau ra điều trần về việc sử dụng viện trợ Mỹ tại
Việt Nam, bèn biểu quyết ủy cho Nghị sĩ Mansfield cùng một phái đoàn qua
Việt Nam để điều tra. Đại sứ Mỹ Durbrow và Giám đốc USOM Gardiner phải
về Mỹ để phúc trình [4].
Nhiều ký giả, học giả Mỹ như nữ Tiến
sĩ Frances Fitzgerald cho biết rằng chế độ Diệm đã lợi dụng chính sách
ngoại thương (nhất là chương trình nhập cảng) và chương trình viện trợ
Mỹ để bỏ túi và chuyển ngân ra nước ngoài:
“Qua chương trình
nhập cảng hàng hóa Mỹ, những nhà nhập cảng Việt Nam nhận hàng từ Hoa Kỳ
mà hàng đó Hoa Kỳ phải trả bằng đô la để đổi lấy tiền Việt Nam cho chính
phủ Sài Gòn xử dụng, nhưng chính phủ và những nhà nhập cảng Việt Nam
lại tuôn tiền bạc đó vào thành thị và vào túi của những nhân vật chính
quyền và thương gia Việt Nam mà thôi. Vì thế, đáng lẽ viện trợ Mỹ chu
toàn đầy đủ cho ngân sách quốc gia Việt Nam và thanh toán được số thiếu
hụt 178 triệu đồng nợ của ngoại thương trong năm năm, thì số nợ cứ mỗi
ngày mỗi tăng lên, ngược hẳn với niềm hy vọng của người Hoa Kỳ”[5].
Vì
nạn tham nhũng qua chương trình viện trợ Mỹ tàn phá ngân quỹ quá độ nên
ông Vũ Văn Thái (hiện ở Mỹ) phải chán nản, từ chức Tổng giám đốc Ngân
sách và Ngoại viện rồi bỏ nước ra đi. Ông Thái là một chuyên gia kinh tế
và tài chánh lỗi lạc đã từng được Tổng thống Diệm quý mến và thường
được đưa ra khoe với người Mỹ như một nhân tài, một chuyên gia xuất sắc
của Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng vì không chịu nổi nền tham nhũng và sự chà
đạp luật lệ của chính những nhân vật lãnh đạo chế độ, những nhân vật bề
ngoài có vẻ lương thiện nhưng bên trong thì đang lũng đoạn bộ máy Kinh
tế - Tài chánh của quốc gia, ông Thái bèn từ chức và đến Hoa Kỳ trú ngụ.
Ngày 24-11-1961, trả lời cuộc phỏng vấn của nhật báo Washington Post,
ông Thái cho biết sở dĩ ông từ chức vì:
Càng ngày tôi càng bị
người ta xử dụng để tạo ra cái ảo tưởng rằng chính phủ Việt Nam đang có
một đường lối thông suốt (như vậy thì) tôi không còn có thể làm việc hữu
hiệu được. (More and more, I was used to give the illusion that the
Viet-Nam government has articulated thinking (while) I could be of no
more effective service).
Chính phủ Diệm im lặng trước sự ra đi
của ông Thái cho đến hai tuần sau bài phỏng vấn của tờ Washington Post,
thì phản ứng bằng những bài bình luận kết án ông Thái là phản trắc và
biển thủ, trên hai tờ báo do Chính phủ kiểm soát: Sài Gòn và Dân Nguyện
[6].
Tính từ vụ tham nhũng đầu tiên bị phanh phui là vụ bán
gạo cho Việt Cộng vào năm 1956 cho đến lúc ông Vũ Văn Thái bất mãn chế
độ vào năm 1961 là 6 năm trời. Trong 6 năm đó, chính anh em ông Diệm chứ
không ai khác đã biến tham nhũng từ hình thức tục lệ của thời phong
kiến để lại thành một tệ trạng hiện đại có hệ thống. Tham nhũng, tự nó
đã là một tệ trạng xã hội xấu xa mà miền Nam tự do đáng lẽ phải diệt trừ
cho sạch thì ngược lại, chế độ Ngô Đình Diệm lại vun trồng nó thêm màu
mỡ để nở ra những gai nhọn độc hại làm hủy diệt mọi tiềm lực của một xã
hội mới hồi sinh sau giấc ngủ bị trị đen tối. Chánh quyền Nguyễn Văn
Thiệu thừa hưởng trọn vẹn những độc tố đó, lại bị thời đại nhiễu nhương
đổ thêm phân bón, viện trợ Mỹ tưới thêm nước nên cây tham nhũng nở rộ và
trở thành một trong những nguyên nhân chính làm mất miền Nam.
Cho
đến những năm đầu thập niên 60, có thể nói nền tham nhũng dưới chế độ
Diệm thuộc loại kinh khủng nhất trong lịch sử nước ta mà chính những
người anh em ruột thịt và bà con ông Diệm là những người tạo ra tệ hại
xã hội đó. Hơn nữa, vì có sự tranh chấp giữa những người anh em ruột
thịt của ông Diệm (những người có quyền hành nhất nước) trong việc vơ
vét tài nguyên quốc gia, bóc lột đồng bào cho nên tệ hại kia lại càng
phát triển hơn, táo bạo hơn và quy mô hơn. Tôi xin lần lượt trình bày
thành tích tham nhũng của các ông Ngô Đình Thục, vợ chồng Ngô Đình Nhu,
và ông Ngô Đình Cẩn để thấy họ đã phản bội lại những mỹ từ, những lời
tuyên bố cách mạng xã hội của họ đến mức độ nào.
-o0o-
Ông
Diệm vừa tuyên bố khai sanh nền Cộng Hòa thì vào cuối năm 1956, ông Ngô
Đình Thục cho xây cất tại thị xã Vĩnh Long (gần tòa Giám mục của ông
ta) một Trung tâm Huấn luyện Nhân Vị. Khi lớp huấn luyện đầu tiên bắt
đầu khai giảng, ông Ngô Đình Thục bèn cho xây cất thêm những quán ăn,
quán giải khát gần trường để khóa sinh ăn uống, giải lao, hầu thu lợi.
Rồi
từ đó, ông Thục bắt Tỉnh trưởng lấy đất, lấy vật liệu, lấy công quỹ của
Tỉnh này để xây 50 căn nhà, mỗi căn cho thuê 2.000 đồng một tháng hay
là bán đứt với giá 50.000 đồng. Vì đã có chủ mưu từ trước nên ông Ngô
Đình Thục sắp xếp cho những nhà cửa của Trung tâm Nhân Vị, các quán ăn
và 50 căn nhà mới xây thành một trung tâm thương mại mới tại Vĩnh Long
để thu hút thương gia các nơi đổ về mua hết các căn phố mới xây. Nhờ
vậy, ông Ngô Đình Thục kiếm hơn hai triệu rưỡi đồng bạc một cách dễ dàng
mà hầu như không bỏ ra bao nhiêu trong vốn đầu tư.
Đó là áp
phe làm tiền công khai đầu tiên của Tổng giám mục Ngô Đình Thục mà kết
quả cho thấy là khả năng buôn bán và đầu óc lý tài e rằng còn xuất sắc
hơn cả khả năng và đầu óc lo cho giáo phận. Sự thành công ban đầu đó như
những khích lệ kim tiền khác, sau này sẽ được khuếch đại ra ở tầm mức
quốc gia và ở nhiều lãnh vực rộng lớn hơn.
Ông Ngô Đình Thục
đã ngụy trang con người chính trị của ông ta bằng một con người nặng
lòng với nền giáo dục Thiên Chúa giáo để ông dễ dàng nhân danh tôn giáo
và văn hóa xông xáo vào việc làm tiền, vào những hành động tham nhũng.
Ông Nguyễn Thái, một trí thức Công giáo, cho biết rằng theo nguyên tắc
thì tất cả hàng giám mục Việt Nam đều có quyền tham dự vào việc quản trị
trường Đại học Đà Lạt, nhưng trên thực tế, ông Thục đã giữ lấy độc
quyền điều khiển nhà trường về mặt giáo dục lẫn tài chánh [7]. Không
riêng trường đại học Đà Lạt mà ngay cả khách sạn Caravelle, khách sạn
lớn nhất giữa Trung tâm Sài Gòn, thời đó cũng do ông Thục một mình nắm
giữ lấy việc quản trị tài chánh cho đến sau ngày lật đổ chế độ Diệm mới
được giao lại cho Giáo Hội do Đức cha Bình làm chủ tịch Hội đồng Quản
trị.
Tại Sài Gòn, Tổng giám mục Ngô Đình Thục có thương xá Tax
đường Nguyễn Huệ, một trung tâm thương mại nổi tiếng nhất thời Ngô Đình
Diệm, nhà sách Xuân Thu đồ sộ ở đường Tự Do, một cư xá cho thuê ở đường
Trần Hưng Đạo, và một ngôi biệt thự sang trọng ở bên kia bờ sông Thị
Nghè đối diện với Sở Thú. Biệt thự này có vườn rộng, hồ tắm sang trọng,
bến đậu cho thuyền trượt nước, và cây cảnh trong vườn thì được tổ chức
trồng trọt như một công viên. Dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu, ngôi nhà này
cho các Tòa Đại sứ ngoại quốc thuê, vì thế, một hôm ông bà Trần Văn Đỗ,
ông bà Huỳnh Ngọc Anh (hiện ở Hải ngoại), một số nhân vật ngoại giao
đoàn và tôi được Đệ Nhất Tham Vụ Tòa Đại sứ Đức mời ăn cơm tại ngôi biệt
thự này của ông Ngô Đình Thục, nên tôi mới biết tính cách xa xỉ và
hoang phí của ngôi biệt thự nguyên là của một nhà tu hành.
Trong
việc làm tiền của Tổng giám mục Ngô Đình Thục, có lẽ việc độc quyền
khai thác gỗ ở Long Khánh và những khu rừng dọc đường Sài Gòn-Đà Lạt là
dịch vụ lớn lao nhất. Người Việt Nam ta có câu nói “rừng vàng bể bạc” để
chỉ cái nguồn lợi to lớn về lâm sản và hải sản của đất nước, cho nên
Tổng giám mục Thục và vợ chồng Nhu đã nắm lấy quyền khai thác cây gỗ tại
địa phương nổi tiếng nhất về gỗ quý đó. Công tác bảo vệ an ninh cho thợ
rừng do quân đội và chính quyền địa phương phụ trách mãi cho đến năm
1961, vì Việt Cộng gia tăng hoạt động và tấn chiếm những khu rừng này
nên chính quyền địa phương không bảo đảm nổi an ninh, vì thế nên anh em
ông Diệm bèn cho phép nhóm khai thác cây gỗ cứ đóng thuế cho Việt Cộng
để việc làm ăn được trôi chảy. Việc làm giàu phi pháp này của anh em ông
Diệm đã được Đại úy Đỗ Thọ, sĩ quan tùy viên của Tổng thống Diệm trình
bày:
... Từ đó, công việc khai thác làm gỗ ở Long Khánh, Định
Quán, Đức Cha không nhờ vả quân đội giữ an ninh nữa. Trong giai đoạn này
tình hình chiến tranh sôi sục lắm rồi.
Bọn người được Đức Cha
giao việc khai thác gỗ trở lên giàu có. Chúng nó nói rằng chúng gặp
Việt Cộng hàng ngày, vui vẻ lắm không việc gì đáng lo vì đóng thuế rất
sòng phẳng. Tuy nhiên, tôi không hiểu đóng thuế như thế nào, bao nhiêu.
Số gỗ chở về nhiều lắm, xe xúc không ngày nào dừng bánh nghỉ ngơi.
Trong
thời gian đó, những người chuyên sống về nghề gỗ rất đỗi ngạc nhiên. Họ
được Chính phủ cho khai thác những vùng rừng không lấy gì đẹp, gỗ tốt
lại ít, bị Việt Cộng quấy nhiễu nên có người phải giải nghệ vì phải đóng
thuế nặng.
Thế mà Đức Cha Thục và bộ hạ vẫn đốn gỗ hàng ngày,
lập trại ngay trong rừng, cơ sở càng ngày càng lớn, khi vỡ lẽ ra thì
bọn đàng dưới của Đức Cha tiếp xúc với Việt Cộng rất thân và đóng thuế
với một số tiền vượt mức cho hàng ngàn mét gỗ.
Đến cuối năm
1962, Tổng thống Diệm bắt đầu bực mình về công việc khai thác gỗ của Đức
Cha. Tổng thống Diệm đã có lần xin Đức Cha dừng lại cho dân chúng làm.
Đức Cha giận Tổng thống, không nói năng gì cả bỏ về Vĩnh Long rồi ra
thẳng Huế. Đức Cha giận chuyện này lắm nên nói lại với cậu Cẩn, vì thế
cậu Cẩn lo lắng đêm ngày sợ Tổng thống bất thần không cho cậu Cẩn độc
quyền khai thác quế ở Quảng Ngãi thì bực mình lắm [8].
Việc
ông Ngô Đình Thục và vợ chồng Ngô Đình Nhu độc quyền khai thác gỗ trong
Nam đã làm cho Bộ trưởng Canh Nông Lê Văn Đồng (hiện ở Pháp) bị ông Ngô
Đình Cẩn thù ghét ra mặt mặc dù ông Đồng là ủy viên Trung ương Đảng Cần
Lao. Ông Cẩn cho rằng ông Đồng chỉ lo phục vụ quyền lợi “nông lâm súc”
cho ông Thục và ông Nhu mà không đếm xỉa đến ông Cẩn nên ông phải biểu
lộ thái độ bất mãn của mình cho Đồng biết. Một hôm, ông Đồng được Tổng
thống Diệm phái ra Quảng Trị để quan sát và nghiên cứu tình hình “nông
lâm súc” của tỉnh này. Được tin, ông Ngô Đình Cẩn ra lệnh cho Tỉnh
trưởng Nguyễn Văn Đông (Công giáo Phú Cam) phải hạ nhục Bộ trưởng Đồng
bằng cách không thèm tiếp đón ông ta. Không có Tỉnh trưởng tiếp đón để
trình bày và thảo luận công việc, Trưởng sở Nông Lâm Súc lại không dám
chuyên quyền, nên Bộ Trưởng Đồng lủi thủi lên máy bay trở về Sài Gòn
mang theo mối hận nhục. Tôi vốn không quen biết ông Đồng nhưng vì lý do
công vụ nên có gặp ông vài lần tại văn phòng Bộ trưởng để từ đó dần dần
trở nên quen biết. Nhiều lần Bộ trưởng Đồng đã tâm sự với tôi về nỗi bất
mãn chán chường của ông trước sự thối nát của anh em ông Diệm, và trước
sự lộng hành của nhóm “Công giáo Cần Lao”.
Vụ anh em ông Diệm
dùng xương máu binh sĩ và đóng thuế cho Việt Cộng để làm giàu vừa kể
trên đây đã không được ông Cao Thế Dung, nhà trí thức Công giáo đề cập
đến trong tác phẩm Làm thế nào để giết một Tổng thống. Trái lại, toàn bộ
cuốn sách chỉ có mục đích đề cao đạo đức của toàn thể anh em nhà Ngô và
chỉ trích Phật giáo, đảng phái và mạt sát các tướng lãnh đã lật đổ chế
độ Diệm. Phải mãi đến năm 1984, tại hải ngoại, dưới đề mục Những bài học
xương máu và họa chia rẽ phân hóa, Cao Thế Dung mới chịu nêu lên tội ác
của anh em nhà họ Ngô:
Theo đúng sách lược của Lê nin từ
1955, Cộng Sản đã chuẩn bị gây chiến tại miền Nam. Việc đầu tiên là
chúng xâm nhập vào hàng ngũ quốc gia. Thứ nhất là qua ngả quyền lực và
tham nhũng của chính quyền. Tháng 11 năm 1959, Lữ đoàn Nhảy Dù do Đại tá
Nguyễn Chánh Thi là tư lệnh hành quân vào chiến khu D nơi mà Trung đoàn
10 của Sư đoàn 7 trước đó bị Cộng quân gây tổn thất nặng. Trên đường
hành quân vào nơi cấm địa như chiến khu D, Lữ đoàn Dù ngạc nhiên thấy xe
chở gỗ và thợ đốn củi vẫn làm ăn tự nhiên như ở nơi thanh bình. An ninh
Lữ đoàn lấy làm lạ, bắt bọn xe be và thợ rừng để điều tra, sau đó được
biết đây là hệ thống đốn cây làm ăn bất chánh do Sáu Tợ đứng đầu nhưng
lại hùn hạp với người anh em của Tổng thống, hệ thống làm ăn có 2 Trung
đội Biệt kích giữ an ninh. Đây là thời Bộ Canh Nông Việt Nam Cộng Hòa
dưới quyền Lê Văn Đồng nổi tiếng về các vụ đốn rừng làm cây. Ít lâu sau
An ninh Tình báo bắt Tô Kim Điền, Trưởng ty Công chánh Bình Tuy (1959).
Điền nằm trong hệ thống kinh tài tình báo của Cộng Sản tại tỉnh Thái
Bình từ năm 1945, di cư về Thành được anh vợ là Tỉnh trưởng Nam Định cất
nhắc từ một anh “đặc đồ” được thăng cán sự công chánh. Năm 1954 di cư
vào Nam, Điền gia nhập đảng Cần Lao qua ngả ông Cẩn, Điền được bổ nhiệm
Trưởng ty Công chánh Bình Tuy là tỉnh Tân Lập, một tỉnh chiến lược lại
được thăng lên hàng Kỹ sư đồng hóa. Việc đầu tiên của Điền là loại ngay
những nhân viên có tư tưởng chống Cộng và đặc biệt dân Bắc di cư. Anh vợ
của Điền đang làm Giám đốc Xổ số Kiến thiết, tức ông N.V.Ph (cựu Tỉnh
trưởng Nam Định).
Đây chỉ là một thí dụ rất nhỏ trong hàng
ngàn thí dụ về việc Việt Cộng cài người vào chính quyền. Chế độ Đệ Nhất
Cộng Hòa không ưa đảng phái cách mạng như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại
Việt Quốc Dân Đảng cũng một phần lớn do Cộng Sản giật dây, thời Đệ Nhị
Cộng Hòa còn thê thảm hơn...[9].
Đúng như ông Cao Thế Dung đã
nói, đó chỉ là một thí dụ rất nhỏ trong hàng ngàn thí dụ về việc Cộng
Sản cài người vào tham nhũng và chính quyền mà tướng lãnh biết rất rõ,
và cũng nhờ họ biết chế độ quá nhiều, họ ưu tư cho quốc gia quá nhiều họ
mới phải đứng lên lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Chỉ tiếc cho ông Cao
Thế Dung biết vụ anh em ông Diệm lợi dụng xương máu binh sĩ để làm
giàu, đóng thuế và bắt tay với Việt Cộng để làm giàu quá muộn, nếu không
thì có lẽ ông Cao Thế Dung đã không bao giờ viết cuốn “Làm thế nào để
giết một Tổng thống” hầu bênh vực Ngô triều và không ngoan cố một cách
tội nghiệp cho tái bản tập sách này nhiều lần tại hải ngoại.
Dù
sao thì chậm còn hơn không vì sự thật đau thương của dân tộc dưới chế
độ ông Diệm cũng đã được ông Cao Thế Dung nói ra. Chỉ tiếc rằng ông nói
ra chưa hết lời và chưa hết sự thật. Tôi muốn nói rằng không phải Sáu Tợ
là người cầm đầu việc đốn cây làm rừng, y chỉ là người đại diện cho ông
Ngô Đình Thục và vợ chồng Ngô Đình Nhu. Bởi vì chỉ có Tổng Giám Mục Ngô
Đình Thục cầm đầu hệ thống đốn cây làm rừng thì Bộ trưởng Canh Nông mới
phải hết lòng phục vụ, thì quân đội mới biệt phái binh sĩ giữ gìn an
ninh cho thợ rừng, còn Sáu Tợ cầm đầu thì sức mấy mà chính quyền và quân
đội phải yểm trợ. Lại còn phải nói thêm là cách hành văn của ông Cao
Thế Dung làm cho người đọc có cảm tưởng chính Sáu Tợ và Bộ trưởng Lê Văn
Đồng là những kẻ có tội nhưng sự thật thì hai nhân vật này chỉ là nạn
nhân của chế độ; cũng như các đảng phái cách mạng được ông Dung nêu ra
là nạn nhân trong chủ trương phân hóa và chia rã của chế độ chứ không
phải do “Cộng Sản giật dây” như ông Cao Thế Dung đang tìm cách biện hộ.
Tổng
Giám Mục Ngô Đình Thục không từ bỏ một hành động bần tiện nào trong
việc làm tiền. Ông ta đã nhờ Tổng thống Diệm ra lệnh cho Đại tá Phùng
Ngọc Trưng (hiện ở Pháp), đang chỉ huy ngành Quân Nhu ở Quân khu I, phải
mua nước mắm thối của các bà “sơ” ở Phan Thiết, thứ nước mắm lâu ngày
không bán được, bị hư thối để bán lại cho gia đình binh sĩ. Tất nhiên
Đại tá Trưng phải thi hành lệnh trên để rồi chịu lấy sự nguyền rủa của
vợ con binh sĩ. Ngô Đình Thục còn bắt thân phụ Tướng Trần Văn Đôn, là
Đại sứ Việt Nam tại Ý Đại Lợi, phải đứng tên cho các chương mục tại các
ngân hàng ngoại quốc dùm Thục, nhưng ông Đại sứ nhất định từ chối, không
chịu làm tay sai cho một nhà tu hành bất lương. Ông Diệm không những
biết được sự từ chối này mà còn biết cả thái độ khinh bỉ của ông Đại sứ
nên năm ngày sau, ra lệnh cất chức Đại sứ mặc dù hai gia đình đã từng
quen nhau lâu ngày [10]. Nhưng nếu ông Đại sứ họ Trần không chịu làm tay
sai cho ông Ngô Đình Thục trong việc chuyển tiền vào Ngân hàng ngoại
quốc thì đã có nhiều người khác sẵn sàng lo, trong đó có cả các linh mục
người Ý Đại Lợi. Năm 1965, báo chí ở Ý và ở Pháp đã làm ồn ào lên về vụ
một linh mục người Ý cướp của ông Ngô Đình Thục 98 ngàn đô la trong
chương mục do linh mục Ý này đứng tên đã là một bằng chứng rõ rệt về
chuyện ông Thục chuyển tiền ra nước ngoài. Tất nhiên ông Ngô Đình Thục
phải có nhiều chương mục khác nhau tại nhiều quốc gia khác nhau, và do
nhiều người khác nhau đứng tên như trường hợp vợ chồng Ngô Đình Nhu mà
tôi sẽ đề cập đến sau này.
Vụ tu bổ nhà thờ La Vang tuy là một
công tác cho tôn giáo cũng đã trở thành một cơ hội cho Tổng giám mục
Ngô Đình Thục làm tiền. Tập san Đức Mẹ La Vang số phát hành năm 1962
trình bày một danh sách dài tên tuổi những “ân nhân” đã cúng tiền cho
việc kiến thiết nhà thờ. Từ Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ trở xuống, dù
Công giáo hay không (nghĩa là có hay không có liên hệ đến nhà thờ La
Vang) đều có tên trong bảng danh sách đó. Ông Ngô Đình Thục lại còn tổ
chức xổ số Tombola rồi giao cho cảnh sát để lợi dụng các vụ xe cộ phạm
luật đi đường, ép tài xế phải mua vé Tombola của ông Thục tổ chức thay
vì nạp tiền phạt cho Chính phủ. Trong việc nhà thờ La Vang này, chẳng
những ngân sách quốc gia đã mất đi số tiền phạt xe lại còn mất cả số
tiền vé xe hỏa vì nhân ngày lễ khánh thành “Trung tâm Đức Mẹ La Vang”,
Tổng giám mục Ngô Đình Thục đã can thiệp để nha Hỏa Xa hạ giá một nửa vé
xe để khuyến khích dân chúng đi dự lễ tại La Vang cho đông [11]. Rõ
ràng chẳng những ông Thục luôn luôn dựa vào uy quyền của người em làm
Tổng thống để hối mại quyền thế, mà còn lợi dụng danh nghĩa tôn giáo của
ông ta, lợi dụng cả Đức Mẹ để làm tiền, không khác gì ông Huỳnh Văn Cao
lợi dụng Đức Mẹ để được ông Diệm cho thăng quan tiến chức. Đối với
những tên giáo gian đó thì Đức Mẹ chỉ là một chiêu bài cho chúng buôn
bán.
Năm 1963, khi trú nhiệm tại giáo phận Huế, Tổng giám mục
Ngô Đình Thục dự định lấy khu Cồn Hến và khu Ngự Viên tại Gia Hội để xây
cất cơ sở tôn giáo và nhà riêng, nhưng việc đang tiến hành thì biến cố
1-11 xảy ra làm vỡ tan cái tham vọng muốn biến Cố Đô Huế thành căn cứ
địa của ông Thục. Thật vậy, dân Huế đã biểu lộ sự tức giận mỗi lần Thục
vi hành đến hai vùng này để quan sát, đo đạc và cho vẽ họa đồ. Nhất là
mỗi lần ông Thục di chuyển thì không khác gì cung cách của một vị nguyên
thủ Quốc gia, cũng tiền hô hậu ủng, cũng có đoàn xe mô tô hộ tống, xe
cảnh sát trước sau hụ còi dẹp đường, trong khi đó thì dân chúng phải dạt
ra hai bên đứng yên để khỏi làm mất cái uy nghi của nhà tu hành nổi
tiếng bóc lột, tham nhũng và kỳ thị tôn giáo này.
Bất chấp nỗi
cơ cực và phẫn uất của nhân dân, bất chấp sinh mệnh của đất nước đang
bị Cộng Sản đe dọa, lòng tham vô đáy của Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục cứ
dựa vào chế độ mà trở thành to lớn hơn và vô liêm sỉ hơn. Ông Thục chỉ
biết tiền, tiền và tiền. Tuy nhiên, những vụ kể trên vẫn chưa đáng kể
khi so sánh với vụ Ngân Khánh xảy ra vào những ngày dao động cuối cùng
của chế độ.
Ngày 29 tháng 6 năm 1963, ông Ngô Đình Thục tổ
chức lễ Ngân Khánh kỷ niệm 25 năm thụ phong Giám mục của ông ta. Thay vì
tổ chức trong phạm vi tôn giáo và gia đình, Tổng Giám Mục Ngô Đình
Thục, trong mục đích làm tiền một vố thật lớn, đã biến lễ Ngân Khánh của
mình thành một quốc lễ. Tại Thủ đô Sài Gòn, Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục
giao cho ông Trương Vĩnh Lễ, Chủ tịch Quốc hội, thành lập “Ủy Ban Trung
Ương Mừng lễ Ngân Khánh” mà Lễ là chủ tịch và tất cả mọi ủy ban, mọi cơ
cấu của định chế gọi là Quốc Hội đều tham dự vào việc đóng góp tiền bạc
như tại Bộ Giáo dục, Bộ trưởng Nguyễn Quang Trình (hiện ở Mỹ) làm
trưởng tiểu ban cho Bộ và cho các trường Đại học. Tại các Tỉnh hay thị
xã thì Tỉnh trưởng hay thị trưởng làm trưởng ủy ban. Các Tiểu ban, Ủy
ban... phải nhận một số phiếu dự tiệc mừng trị giá 5.000 đồng cho những
người khá giả, cao cấp, và 2.500 đồng cho công chức như Chủ sự, Trưởng
phòng hay sĩ quan cấp úy. Tất nhiên hạng người công chức, sĩ quan vốn
không dư dả, và có ai muốn mất tiền cho một hành động tham nhũng đâu,
nhưng rồi áp lực trực tiếp hay gián tiếp từ trên đè xuống quá nặng nề,
nên cũng đành phải bóp bụng bỏ ra 2.500 đồng như cúng cô hồn để được yên
thân.
Tuy không ai biết cái “áp phe Ngân Khánh” Tổng Giám mục
Ngô Đình Thục thu hoạch được bao nhiêu nhưng cứ lấy con số các Bộ
trưởng, Tổng giám đốc, Giám đốc, sĩ quan cấp Tướng, Tá, Dân biểu, Tỉnh
trưởng, Phó tỉnh trưởng, giáo sư các trường đại học Huế, Sài Gòn, Đà
Lạt, các Chánh sự vụ, Chủ sự, Trưởng ty... của Đô thành Sài Gòn và 43
tỉnh, thị của miền Nam thì ta cũng đã có thể hình dung được số tiền to
lớn như thế nào. Đó là chưa nói đến Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục còn bán
vé bữa tiệc này cho thương gia, kỹ nghệ gia, chủ ngân hàng, chủ xí
nghiệp Sài Gòn, Chợ Lớn và 43 tỉnh, thị tại miền Nam nữa, mà lớp người
này không những chỉ mua vé bữa tiệc mà thôi, họ còn cúng thêm rất nhiều
để được lòng Đức Cha. Tôi không nhớ ai đó đã cho tôi biết trong một bữa
tiệc tại Chợ Lớn gồm toàn những Bang trưởng và đại phú gia Hoa Kiều, ông
Thục không ngại ngùng tuyên bố: “Hôm nay tôi muốn “bóc lột” quý vị...
để tôi có đủ số tiền lo việc văn hóa, xã hội...”. Câu tuyên bố nửa đùa
nửa thật của vị Tổng giám mục Niên trưởng giáo hội Công giáo Việt Nam,
lại là anh ruột của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, phải được các phú gia
Hoa Kiều nghĩ là ngài muốn mình dốc hầu bao đóng góp từ bạc triệu trở
lên. Biết biến lễ Ngân Khánh của mình thành một lễ chung cho cả nước để
tiến hành kế hoạch làm tiền đại quy mô như thế, hẳn Tổng Giám mục Ngô
Đình Thục đã thu được bạc tỷ và chắc chắn ông Thục xứng đáng được gọi là
thứ người kinh doanh có đầu óc lý tài số một không những trong Giáo Hội
mà còn cả trong toàn miền Nam nữa.
Tuy vậy điều quan trọng
nhất của Lễ Ngân Khánh chưa phải là số bạc tỷ mà ông Thục đã thu lượm
được, điều quan trọng trong liên hệ đến sinh mạng của chế độ là Tổng
Giám mục Thục đã tổ chức lễ Ngân Khánh của ông ta như một quốc lễ ngay
trong lúc cuộc đấu tranh của Phật giáo đến hồi sôi động, tạo cho cuộc
đấu tranh của Phật giáo thêm chính nghĩa, thêm hào hùng, thêm được đa số
nhân dân ủng hộ.
Vậy Tổng Giám mục Ngô Đình Thục, người đã đóng góp một tay đẩy chế độ xuống vực sâu của lịch sử, là ai?
Sau
cái chết của người anh trưởng là ông Ngô Đình Khôi vào năm 1945, ông
Ngô Đình Thục trở thành người anh lớn nhất của dòng họ Ngô Đình, vì thế
ảnh hưởng “quyền huynh thế phụ” của ông ta trên các người em thật to
lớn. Vào thời ông Diệm làm Tổng thống, ông Thục giữ chức Tổng Giám mục,
nghĩa là đứng đầu hàng giáo phẩm Việt Nam. Năm 1933, sau khi ông Diệm từ
chức Thượng thư Bộ Lại, chính nhờ ông Thục bảo đảm và che chở mà ông
Diệm được yên thân với người Pháp cho đến khi có đủ bằng chứng ông Diệm
hoạt động cho quân đội Nhật, người Pháp và Phạm Quỳnh mới bắt ông ta.
Năm 1949-1950, khi làm Giám mục ở Vĩnh Long, ông Thục đã vận động để ông
Diệm được xuất ngoại đi dự lễ Năm Thánh tại Vatican nhưng thật sự là để
đi Hoa Kỳ gặp Hồng Y Spellman, người bạn đồng khóa với Thục thời còn
học tại Vatican. Nhờ sự tiến cử và gởi gấm đó mà Spellman mới giới thiệu
ông Diệm với chính giới Hoa Kỳ. Như một số sách sử Mỹ, Pháp đã nêu ra,
ông Ngô Đình Thục nắm vững được kỹ thuật vận động và khuynh loát chính
trị mà không cần phải nắm chính quyền, như người bạn Spellman của ông ta
vốn rất có ảnh hưởng với chính trường Hoa Kỳ nhưng bề ngoài thì vẫn tỏ
ra chỉ quan tâm đến tôn giáo mà thôi. Trên thực tế thì dưới chế độ Ngô
triều, Tổng Giám mục Ngô Đình Thục là người có ảnh hưởng nhất tại miền
Nam. Quyết định của ông ta là tiếng nói cuối cùng của gia đình vì không
những cá nhân ông Diệm phải nghe lời ông Thục mà ông Thục lại biết lôi
kéo vợ chồng Ngô Đình Nhu để ông Thục thêm vây thêm cánh. Và tuy không
tham dự trực tiếp vào chính quyền, tại giáo phận Vĩnh Long trước kia
cũng như tại Huế năm 1963, tư dinh của Tổng Giám mục Ngô Đình Thục vẫn
là trung tâm quyền lực to lớn để hàng ngày ông Thục tiếp những nhân vật
quan trọng không khác gì ông Diệm tiếp quốc khách tại dinh Độc Lập hay
dinh Gia Long.
Ông Ngô Đình Thục được Tổng thống Diệm kính nể
và vâng lời nhưng khốn nỗi chính lòng tham lam tiền bạc của ông ta, tham
vọng làm Hồng Y của ông ta và tinh thần kỳ thị Tôn giáo quá nặng nề của
ông ta đã là những yếu tố đưa đẩy chế độ Ngô triều đến sụp đổ, và đưa
đến tình trạng vong mạng của những người em đúng như nhận xét của người
sĩ quan tùy viên thân tín nhất của ông Diệm:
Đức Cha Thục, một
trong những người trong dòng họ quyền quý Ngô Đình, đã làm cho cán cân
thiên lệch tôn giáo, làm cho những người ủng hộ xa lần chế độ. Nếu nói
một cách phũ phàng thì Tổng thống Diệm là người nể Đức Cha Thục quá mức,
Đức Cha Thục đã góp phần vào việc đưa Tổng thống Diệm đến nơi an nghỉ
cuối cùng...[12].
Xét về trường hợp của ông Ngô Đình Thục, ta
thấy rõ ràng ông tiêu biểu một cách trọn vẹn nhất cho sự tổng hợp của
những tệ đoan mà Thực dân và Phong kiến đã để lại trên phong hóa nước
ta: Tệ đoan hối mại quyền thế qua hệ thống đẳng cấp phong kiến của triều
đình nhà Nguyễn lúc mạt vận, và tệ đoan dĩ công vi tư qua chính sách
bòn rút tài nguyên của thực dân Bảo hộ lúc xua quân xâm chiếm nước ta.
Vì thừa hưởng gia tài đó vào tận trong tim óc cho nên khi em lên làm
Tổng thống là anh phải tận dụng quyền thế để biến của chung đất nước
thành của riêng mình. Điều đáng buồn là chiếc áo tu sĩ và những năm dài
học giáo lý Thiên Chúa giáo đã không đủ sức mạnh để đánh bật được những
gốc rễ của các tệ đoan đã bám sâu vào tâm thức của Ngô Đình Thục, con
chiên của Giáo Hội Việt Nam và Giáo hội La Mã.
Ông Ngô Đình
Thục không phải chỉ tham tiền mà còn tham quyền hành và địa vị. Đầu năm
1956, sau khi ông Diệm truất phế Bảo Đại bước lên ngôi vị Tổng thống
rồi, Giáo Hoàng Pie XII bèn thăng Đức Cha Nguyễn Văn Hiền lên chức Tổng
Giám mục Sài Gòn. Quyết nghị của Đức Thánh cha làm cho anh em ông Diệm
hết sức phẫn uất vì Giáo Hoàng đã không chấp thuận ứng viên mà ông Diệm
đòi hỏi là người anh Ngô Đình Thục đang là Giám mục Giáo phận Vĩnh Long.
Mối căm giận đối với Giáo Hoàng đã đưa ông Diệm lấy những biện pháp quyết liệt:
-
Thông báo cho Tòa Thánh La Mã là từ nay tất cả các giáo sĩ ngoại quốc
đến hành đạo tại Việt Nam phải tuyên thệ trung thành với ông Diệm bằng
không sẽ được coi như là thành phần thân Cộng.
- Bắt giữ Giám mục Sieltz của Hội Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp, định bỏ tù ông ta nhưng Vatican can thiệp kịp thời.
-
Ra lệnh cho sở kiểm duyệt phải kiểm soát những thư từ đến Vatican, mở
những văn kiện của Tòa Thánh thông báo việc Đức Cha Hiền được thăng
chức, làm phó bản những văn kiện ấy, giữ lại một thời gian trong khi
Giám mục Ngô Đình Thục bay sang Rome để xin Giáo Hoàng phải thay đổi
quyết định.
Dù vậy nhiều Giám mục, nhiều linh mục Việt Nam
cũng đã biết được việc Giáo Hoàng thăng chức cho Đức Cha Hiền nên đã rao
giảng cho các họ đạo, còn Đức Cha Hiền thì lên tiếng buộc tội ông Diệm
đáng phải bị dứt phép thông công [13].
Tuy nhiên, như nhiều
người vào thời đó đều biết rằng Đức Cha Hiền chỉ giữ chức vụ Tổng Giám
mục Sài Gòn được vài tháng rồi bị thuyên chuyển lên Đà Lạt sống âm thầm
để gậm nhấm mối tình đời bạc đen cho đến khi Ngài tạ thế. Còn Linh mục
thân cận với Đức Cha như Cha Oánh, Cha Thiêng, Cha Của đều bị anh em ông
Diệm vu khống đủ thứ tội, có vị bị đưa ra Tòa án (cha Của hiện nay là
một Giám mục sống tại Hoa Kỳ).
Trình bày về gia đình họ Ngô, Hilaire du Berrier viết theo George Menant (trong tuần báo Paris Match ngày 23-11-1963) như sau:
Nền
Gia đình trị của nhà Ngô như hậu quả đã cho thấy là chính quyền thì Ngô
Đình Diệm, cảnh sát công an thì Ngô Đình Nhu còn vợ ông ta thì tham
nhũng áp phe, ngoại giao thì Ngô Đình Luyện, buôn lậu lúa gạo thì Ngô
Đình Cẩn. Lãnh vực tôn giáo thuộc về Ngô Đình Thục, một nhà tu hành mà
làm chủ vô số đất đai, và tư dinh ông ta thì có trí súng phòng không.
Nhưng cái mũ Hồng Y chưa phải là tham vọng cuối cùng của ông ta mà phải
là ngôi vị Giáo Hoàng - phải là một Giáo Hoàng không thể kém hơn.
Theo
truyền thống của Vatican, muốn chọn một Giáo Hoàng cầm đầu Giáo Hội La
Mã thì vị Hồng Y được bầu lên phải xuất thân từ các quốc gia mà người
Công Giáo phải là đại đa số. Cũng vì vậy mà chính quyền ông Diệm đã cho
phát hành những bảng thống kê nói rằng tại Việt Nam có 70% dân số theo
Thiên Chúa giáo, 20% theo đạo Phật và 10% thuộc các đạo linh tinh khác.
Đáng lẽ những bảng thống kê thư thế vẫn được tiếp tục công bố nều không
có một phái đoàn đại diện Tòa Thánh đến Việt Nam nhận thấy rằng cờ Phật
giáo tung bay khắp nơi, con số 70% là Phật tử chứ không phải là giáo
dân. Ông Diệm giận lắm nên mới có lệnh cấm treo cờ Phật giáo với bộ máy
đàn áp không lay chuyển nổi, đưa đến việc tự thiêu công khai và đầy xúc
động của các nhà sư...[14].
Những sự kiện trên đây không chỉ
làm nổi bật lòng dạ Tham - Sân - Si vô độ của anh em nhà Ngô mà còn cho
thấy họ luôn luôn là hàng người phản phúc. Mỗi lần quyền lợi cá nhân của
họ không được thỏa mãn là họ phản bội ngay dù kẻ bị phản bội là một vị
Giáo Hoàng. Họ đã phản bội nhà Nguyễn, Cựu Hoàng Bảo Đại, người Pháp,
sau này họ phản bội người Mỹ, phản bội quân dân miền Nam, và cả ân nhân,
bằng hữu, đồng chí, thuộc cấp đã từng ủng hộ hoặc phục vụ cho họ. Thời
kỳ hành đạo ở Y Pha Nho, ông Ngô Đình Thục đã hai lần “phản loạn” để
tranh chức Giáo Hoàng, bị Tòa Thánh trừng phạt nặng nề càng cho thấy bản
chất phản bội vốn đã nằm sâu thẳm trong tâm can của anh em nhà Ngô
[15]. Một con người, một Tổng Giám mục như thế mà trong cuốn sách “Làm
thế nào để giết một Tổng Thống” ông Cao Thế Dung đã ca ngợi là đạo đức,
là không dính vào chính trị!
-o0o-
Tuy Tổng Giám Mục
Ngô Đình Thục là một thứ sâu mọt đục khoét quốc gia như thế nhưng chủ
trương tham nhũng của ông Ngô Đình Nhu lại còn ghê gớm hơn, và làm hại
cho đất nước khủng khiếp hơn.
Ông Ngô Đình Nhu là một nhà khoa
bảng, một nhà chính trị trông bề ngoài có vẻ khắc khổ. Trong những năm
dưới thời chiến tranh Pháp-Việt (1945-1954), vợ chồng ông ta đã phải
sống một cuộc sống cần kiệm, không vương giả lắm. Dưới chế độ Diệm,
lương Dân biểu của hai vợ chồng mỗi tháng khoảng 5, 6 chục ngàn, ông
Diệm lại xuất tiền mật phí cho mỗi tháng một triệu đồng. Các viên chức
trong phủ Tổng thống, cũng như tác phẩm “Những Ngày Chưa Quên” của Đoàn
Thêm, cho biết vào những năm đầu của chế độ, ông Nhu sống thanh bạch,
không có cả một văn phòng riêng để làm việc. Với những sự kiện ban đầu
đó, lúc bấy giờ ai có ngờ được ông Ngô Đình Nhu sau này lại trở thành
tay đại tham nhũng và sau 8, 9 năm cầm quyền, đã trở thành tỷ phú, của
chìm của nổi đầy dẫy từ trong nước ra đến ngoài nước. Thì ra nhà khoa
bảng Ngô Đình Nhu chỉ là kẻ đạo đức giả.
Tại Sài Gòn, vợ chồng
Ngô Đình Nhu có hai biệt thự lớn, một ở góc đường Pasteur và Hiền Vương
và một ở đường Phùng Khắc Khoan. Ngôi biệt thự lầu ở góc Hiền Vương
Pasteur lúc đầu được ông Ngô Đình Nhu dùng để làm trụ sở trung ương đảng
Cần Lao, nhưng mấy năm sau, vì đảng không họp hành gì nữa nên ông cho
sửa sang lại rất đẹp và giao cho người nhà trông coi mà thôi. Ngôi biệt
thự lầu tại đường Phùng Khắc Khoan có cái mái hiên lớn lợp bằng ngói ống
rất mỹ thuật, trông bề ngoài thì thấy không lớn lắm nhưng lại là ngôi
biệt thự vô cùng đồ sộ và rất sang trọng vì nó gồm hai dãy nhà lầu cách
nhau ở giữa bằng một sân rất rộng, trồng nhiều hoa quý. Sau khi chế độ
Diệm bị lật đổ, những nhà của ông Nhu đều trở thành công sản, do đó dưới
thời Nguyễn Văn Thiệu, ngôi biệt thự tại đường Phùng Khắc Khoan được
cấp cho tướng Đỗ Trí Cao, Tư lệnh quân đoàn III, làm tư dinh.
Tuy
hai biệt thự lầu tại Sài Gòn đã là những ngôi nhà đẹp nhất nhì Thủ đô,
nhưng so sánh với ngôi biệt thự mùa hè của vợ chồng Nhu tại Đà Lạt thì
chẳng thấm vào đâu về cả mặt đồ sộ lẫn lộng lẫy. Biệt thự mùa Hè tại Đà
Lạt phải được so sánh với những lâu đài của các bậc công hầu, bá tước
của các xứ Âu Châu vì nó được bao bọc bằng hai lớp tường thành: nội
thành bọc lấy biệt thự chính và sân cỏ, còn ngoại thành thì bọc lấy một
vườn hoa rộng lớn kiến thiết công phu. Hồi ký Our Endless War của Trần
Văn Đôn cho biết rằng:
“Bà Nhu xây một biệt thự lộng lẫy gồm
tòa ngang lầu dọc tại Đà Lạt làm biệt thự mùa Hè. Biệt thự là một lâu
đài tổng hợp với sân tennis, hồ bơi và nhiều kiến trúc lộng lẫy xây cất
mấy năm trường mà khi chế độ Diệm bị lật đổ vào cuối năm 1963 vẫn chưa
hoàn thành, dù đã có cả một đội kiến trúc sư, họa sư, nhà thầu xây cất
làm việc mấy tháng trước sự dòm ngó của cả thế giới. Sự biểu lộ khoe
khoang đó đã không giúp ích cho vợ chồng Ngô Đình Nhu mà chỉ mua lấy lời
chê bai của dân cả nước” [16].
Tướng Đôn và bà Nhu là đôi bạn
chí thân từ năm 1948, tướng Đôn biết rõ sự nghiệp và cuộc đời bà Nhu
nhưng ngôi lâu đài của bà ta tại Đà Lạt, tướng Đôn quên kể cái vườn hoa
rộng lớn có thể được gọi là vườn hoa bát ngát trong sân trước lâu đài,
quên cả rừng thông trên ngọn đồi trong sân sau của lâu đài, được sắp đặt
và vun xới một cách công phu, quên kể cái hồ sen hình địa đồ Việt Nam
mà bà Nhu đã mời kỹ sư Nhật Bản đến Việt Nam hai lần để thiết kế và xây
cất cái hồ đặc biệt đó. Ngôi lâu đài của vợ chồng Nhu nổi tiếng đến độ
sau khi chế độ Diệm bị lật đổ, du khách đổ xô về Đà Lạt để tìm xem (Xin
đọc bài viết của ký giả Howard Sochurek trong tạp chí National
Geographic số tháng 9/1964 được đăng lại trong phần Phụ Lục).
Tài
sản trong nước của vợ chồng Ngô Đình Nhu còn có rừng cây hai trăm mẫu
tại Định Quán, trồng toàn thứ gỗ tốt dùng chế tạo báng súng để xuất
cảng; và như đã nói ở trên, hai vợ chồng Nhu cũng đã cùng với ông Ngô
Đình Thục khai thác cây gỗ tại Long Khánh và dọc theo đường Sài Gòn-Đà
Lạt như hồi ký Đỗ Thọ đã ghi chép rõ ràng. Ngoài ra vợ chồng Nhu còn có
phần hùn trong các cơ sở khai thác nước suối Vĩnh Hảo, lông vịt Chợ Lớn,
phân chim đảo Hoàng Sa, than Quả Bàng và than Cà Mâu, cơ sở nhập cảng
và chế tạo thuốc Tây O.P.V. do Dân biểu Nguyễn Cao Thăng chỉ huy, muối
Cà Ná, than Nông Sơn, cát trắng Cam Ranh, v.v ...
Mặc dù vợ
chồng Nhu cố tạo dựng tài sản trong nước, nhưng ý định lâu dài và thầm
kín thì vẫn là chuyển tiền ra nước ngoài, tạo dựng vốn liếng tại Pháp,
Ý, và Thụy Sĩ (có lẽ để đề phòng khi đồng bạc Việt Nam bị mất giá, và
chuẩn bị khi hữu sự phải trốn ra ngoại quốc).
Một vài thí dụ
cụ thể về tài sản do vợ chồng Nhu tạo dựng tại Âu Châu từ năm 1957: ngôi
nhà ở quận 16, vùng có nhiều nhà cửa đẹp đẽ và đắt giá nhất thủ đô
Paris, rạp chiếu bóng Eden ở Đại lộ Champs Elysées, ngôi biệt thự tại
ngoại ô La Mã, thủ đô của Ý v.v... Việc vợ chồng Ngô Đình Nhu chuyển
ngân và mua tài sản tại ngoại quốc đã được Frances Fitzgerald tiết lộ
rằng:
“Bà Nhu đã biết lo xa khi tích lũy tài sản và mau chóng
làm cho chúng có giá trên thị trường Âu Châu. Trong số nhiều bất động
sản đó, bà Nhu đã làm chủ một nhà hát lớn tại Đại Lộ Champs Elysées ở
Paris” [17].
Trong lúc đó, William J.Lederer cho biết “theo
các mật báo viên người Thụy Sĩ và Trung Hoa của tôi báo cáo, khoảng 18
tỷ Mỹ kim được một số tư nhân người Việt gửi vào các ngân hàng ngoại
quốc kể từ năm 1956. Mới gần đây, qua một hợp tác viên “kín” (silent
partner), bà Nhu đã mua đứt ngân hàng tư lớn thứ nhì tại Paris. Mua trả
hết bằng tiền mặt” [18]. Tuy Lederer không nói trắng ra nhưng về số 18
tỷ Mỹ kim nói trên, ta có thể suy diễn mà không sợ nhầm lẫn rằng anh em
ông Diệm đã là chủ nhân của đa phần số tiền kếch sù đó, vì họ đã cai trị
miền Nam đến gần 10 năm trời và đã ngụy tạo được vô số “cơ hội” thuận
tiện để thu góp của cải công, tư, hiện kim, hiện vật, khuếch trương và
khai thác kỹ nghệ, thương mãi (trực tiếp và ngụy ẩn qua trung gian) để
gom góp được một gia tài khổng lồ.
Ngoài số tiền bất hợp pháp
kếch sù mà vợ chồng Ngô Đình Nhu gởi ra ngoại quốc đó, và ngoài những
nguồn kinh tài khác nhau, ta còn phải kể đến số tiền lời bán vé số kiến
thiết do những cuộc xổ số mỗi tuần một kỳ. Nhiều người Việt ở Pháp cho
biết rằng sau ngày chế độ Diệm bị lật đổ, giữa bà Nhu và nguyên Bộ
trưởng Phủ Tổng thống Nguyễn Đình Thuần, một cộng sự viên thân tín của
vợ chồng Nhu, đã có những cuộc tranh cãi dữ dội vì số tiền lời xổ số
kiến thiết để ở ngoại quốc. Bà Nhu đã ngậm đắng nuốt cay để cho Thuần
lấy hết số tiền to lớn kia vì chương mục chuyển ngân lại không đứng tên
của bà ta, mà lại đứng tên người ủy nhiệm của ông Nguyễn Đình Thuần.
Ngoài
ra, trong năm 1965, sau khi báo chí Âu Châu phát giác vụ Tổng Giám mục
Ngô Đình Thục bị một linh mục người Ý lừa lất mất 98 ngàn đô la, báo chí
Pháp lại còn đăng tải thêm vụ bà Nhu bị mất trộm gần 300 ngàn đô la, số
tiền mặt không gởi tại ngân hàng. Những sự việc đó càng chứng minh thêm
chuyện anh em ông Diệm đã chuyển tiền ra nước ngoài. Nhưng nếu
Xem tiếp: Chương 14
© TuSach.mobi - Đọc truyện online trên mobile
No comments:
Post a Comment