(Hai chuyện
tình thời bình
và thời xã hội
chủ nghĩa)
Nước MắtTình Yêu
Từ Vàm Cây Trôm, xã Thanh Hà, quận Bến Lức, tỉnh Chợ Lớn đến xóm Rạch Rít quê mùa hẻo lánh của tôi, trăm năm cũng vẫn một vẻ rã rượi buồn tênh, hắt hiu nghèo khó. Hai bên mé con rạch duy nhứt, nước trong vắt, uốn éo bất tận, lúc nào dừa nước cũng dầy mịt, chằng chịt níu kéo, nối đuôi nhau giao ngọn tối trời tối đất.
Những dãy dừa nước sung mãn, quanh
năm xanh mướt này quả thật không làm nên phong quang cảnh trí đặc thù của vùng
đất mới nơi đây. Vì một lý do rất giản dị, chẳng mới mẻ gì. Ở Miền Nam sông nước
bạt ngàn, kinh đào đan quyện như mặt nia, đâu đâu cũng có bóng dáng của nó.
Đối với người dân ở nông thôn ruộng
vườn, hình ảnh ấy quá thân quen với tầm mắt ngắm nhìn của họ ngay từ thuở tấm mẳn.
Nhưng đối với tôi, nó có nhiều ý nghĩa thuộc lãnh vực tâm linh, tình cảm do gói
ghém bao nhiêu sinh hoạt và kỷ niệm đầu đời khó thể nhạt nhòa trong tâm trí
tôi. Nó vẫn ngăn ngắt đậm đà qua tháng rộng năm dài dâu bể trên quê hương cố thổ,
triền miên khói lửa và tang tóc.
Và bây giờ, trên đất tạm dung cách
ngăn diệu viễn, nó càng cuốn lôi khắng khít, gợi nhớ gợi thương hơn bao giờ hết.
Vì tôi đã thương trước khi biết thương nó.
Suốt chiều dài của con rạch nho nhỏ
thơ mộng, con rạch duy nhứt chỉ rộng chừng vài chục sải tay, đêm ngày trườn
mình uể oải thầm lặng trên xóm tôi, những dãy dừa nước thân thương đó được ngắt
khoảng đó đây bởi mấy đám biền ngút mắt, đánh dấu ranh giới với lòng rạch bằng
những cây bần nước. Con rạch do đó có những đoạn ngăn ngắn dường như thu hẹp,
co hẳn lại do tàng lá và cành nhánh bần hai bên mé quá xum xuê rậm rạp.
Người ta có cảm tưởng như chúng muốn
thân tình giao tiếp, kết đoàn xúm xít lại gần nhau để nương tựa, để tìm một
chút hơi ấm giữa cảnh trời nước mênh mông tĩnh lặng đến độ lạnh lùng khó tả. Và
có lẽ cũng để có sức mạnh hầu cưỡng chống lại phong ba bão táp những khi ông trời
hầm hừ thịnh nộ, buồn vui thất thường.
Đây cũng là một loại cây rất mực
bình dân tuy ít được thông dụng. Nơi thôn quê, ở cuối vườn sát mé rạch, hầu như
nhà nào cũng có trồng một vài dãy chen chúc cao nghều nghệu so với những bụi rậm
bìm bìm, dây mây dây choại, ô rô ắc ó hay các loại cây xanh lùn tịt khác. Nó
thích nước, mọc dễ dàng để giữ đất không chuồi lở. Người ta trồng để chống chỏi
rất hiệu quả những đợt sóng tai hại cứ tăm tắp vỗ nhịp nhàng vào bờ, mỗi khi có
ghe thuyền lớn nhỏ lướt qua, nhứt là các loại ghe tam bản, ghe lườn có gắn động
cơ "đuôi tôm".
Cùng với dừa nước, bần là loại cây
quanh năm tươi mướt, quá thân quen với đám trẻ chọc làng phá xóm chúng tôi thuở
nhỏ trần truồng như nhộng, khét nắng hôi trâu. Ngày ngày, chúng tôi rong chơi
ta bà bất kể giờ giấc ăn ngủ, mặc kệ nắng mưa sương gió để sau này gắn bó mãi
mãi với cảnh thổ quê hương đó của ông bà, cha mẹ.
Riêng ở miệt ruộng tân lập vừa được
khai phá tròng trành đôi ba trăm năm trở lại, ven theo các tuyến nước mới khơi
dòng còn ráo hổi đó, bần thường mọc đơn độc, chơi vơi trơ trọi một mình. Nước mặn
phèn chua, cho dù nước có lờ lợ đi nữa đều không thuận lợi cho sự sinh sống và
phát triển điều hòa của nó. Rất ít cây được sống sót trong hoàn cảnh môi sinh
khó khăn khắc nghiệt ấy.
Sự lẻ loi cô đơn cô độc đáng thương này không
giúp nó đủ sức cưỡng chống lại những đợt gió mùa thường xuyên bức bách tác hại,
khiến nó phải cong mình đứng nghiêng hẳn về một phía. Nhìn tư thế bất bình câm
lặng ấy của nó, người ta cảm thông, tựa hồ như nó quá nhỏ nhoi yếu đuối, đành
phải chấp nhận và khuất phục trước sức mạnh vô biên của thiên nhiên huyền bí.
Có lẽ cũng vì vậy mà những cây bần tốt số sống sót ở đây, đa số ít khi to lớn
sum xuê như những loại cây thích nước khác như gừa, dẹt, tràm, bình bát...
Đã vậy, nhiều cây còn bị phạt ngọn trơ
trẽn buồn xo. Hoặc bị nông dân do ý thức nông cạn tỉa nhánh tỉa cành trọi lỏi
không tiếc thương, chỉ còn lại thân cây nhô thẳng lên không trung, xa trông bất
động như người chết đứng tức tưởi giữa đồng không mông quạnh.
Lá bần nhỏ và thưa. Đôi khi tôi bắt
gặp một cây bần còi cọc đứng im lặng giữa dãy biền bát ngát mút mắt. Nơi đây,
thường là chỗ nghỉ chân lý tưởng và ưa thích của đám cò, diệc, chim bói cá...
những lúc trời trong gió mát.
Vào mỗi buổi chiều, theo một chu kỳ
bất tận từ ngàn xưa, vẫn mặt trời quen thuộc chuẩn bị phụp xuống chầm chậm nơi
chân trời xa tít tắp. Lúc ấy, người ta có cảm tưởng mặt trời như nuối tiếc, như
muốn níu kéo một ngày dài không giờ giấc, quần quật của bà con nông dân lao động
cần cù.
Suốt một đời người của họ dài đằng
đẵng, quanh năm lúc nào cũng đầu trần chân đất, họ chấp nhận dãi nắng dầm
mưa... lấy mồ hôi, công lao sức lực trời ban làm lẽ sống và để sinh tồn. Và chỉ
trong giờ phút ngắn ngủi còn le lói chút ánh sáng yếu ớt này, từng chập những
cơn gió thoang thoảng, thơm tho trong lành, hiu hiu mát rượi, giúp họ hưởng được
đôi phút giây thơi thới dễ chịu của ngày dài.
Trong cảnh hoang vắng tĩnh mịch của
đồng ruộng bạt ngàn, nông dân thường chia cắt thành từng khoảnh bởi những kinh
đào bất tận để dễ dàng cho công việc canh tác cấy trồng. Nơi những tuyến nước
ngoằn ngoèo đan quyện nhau này, dòng nước lớn, ròng cứ nối tiếp nhau chảy lững
lờ. Ngày ngày, không mỏi mệt như cái nghiệp ngàn đời, nó cuốn theo những dề lục
bình uể oải vào mùa trổ hoa màu tím u trầm khiến cho lòng người thưởng ngoạn bất
giác dấy lên một nỗi buồn dai dẳng, bâng quơ vô cớ.
Rồi thỉnh thoảng dăm ba chiếc xuồng
ba lá chở khẩm sát mí be, nào là thóc lúa, nào là rơm rạ cồng kềnh... lướt qua
êm đềm thơ mộng. Những lúc ấy, người ta chỉ nghe tiếng mái dầm cọ sát vào thành
ghe khe khẽ trầm đều cùng với tiếng chim săn mồi ríu ra ríu rít không thôi.
Một đám biền lúa xanh um đang độ trổ
đòng đòng ngát hương ngào ngạt. Rải rác đó đây, đám cò trắng màu bông bưởi, mỏ
vàng tươi, đứng im phăng phắt trên chót vót ngọn bần. Chúng chỉ đứng một chân
nhưng rất thăng bằng dù lắm lúc gió đồng làm rung động tàn nhánh nhún lên nhún
xuống. Chúng đứng bất động hằng giờ vững như trồng. Còn chân kia, chúng rút hẳn
lên tựa hồ như muốn dấu kỹ ở bụng, thảnh thơi vô tư vô lự, nhìn trời nhìn nước,
nhìn phong quang cảnh trí hữu tình chung quanh trong lúc hoàng hôn đang hấp hối.
Tất cả tạo thành một bức tranh thiên
nhiên muôn thuở tuyệt mỹ, đầy đủ sắc màu sặc sỡ hài hòa. Và những bức tranh thủy
mạc vang danh một thời ấy, đề tài sáng tác của các họa sĩ tên tuổi lừng lẫy
Trung Hoa cổ thời, lúc nào cũng bắt gặp nhan nhản đó đây nơi quê tôi. Người thưởng
ngoạn không cần phải đi đâu xa, không phải phí công để tìm tòi và hẳn nhiên
không phải tốn tiền mua mới có.
Búp bần ú nú, no tròn, màu xanh dịu
mắt. Có cây sai búp néo cành, trông chẳng thấy lá mà chỉ toàn những búp lớn nhỏ,
có cái nở sớm đong đưa theo gió. Nhiều nhánh bần đầy búp chen chúc xan xát như
quấn quít âu yếm bám vào nhau, gie ra xa khỏi mé rạch. Người đi trên ghe xuồng
có thể chĩa mũi ghe sát vào mé vói tay oằn hái rất dễ dàng.
Bà con tôi bản tánh vốn cũng khá dí
dỏm trào lộng. Họ biết thăng hoa tiếng cười vui làm vơi phần nào cuộc sống vất
vả lầm than của chính bản thân mình. Vì đối với họ, cười là đặc tính bẩm sinh của
con người, không thể thiếu sót được trong đời sống hằng ngày.
Họ xem đó như một nhu cầu tối cần
thiết nhằm tạo không khí vui vẻ, phấn chấn yêu đời những lúc nghỉ ngơi dưỡng sức
hoặc những khi giải trí thoải mái vô tư... Họ biết mua vui qua các mẫu chuyện
tiếu lâm châm biếm dân gian, vừa tinh tế ngắn gọn để cợt đùa, vừa mang đến gia
đình và nhứt là sinh hoạt cộng đồng một thứ hạnh phúc vô thưởng vô phạt, chẳng
mếch lòng một ai.
Do vậy, trong thôn xóm tôi còn lưu
truyền mãi đến nay câu ca dao không biết xuất phát từ đâu và vào thời điểm nào:
Chèo ghe đi bẻ búp bần
Chèo lại cho gần bóp vú chị sui.
Bông bần tuy có cánh, có nhụy màu sắc
thắm tươi khi nở nhưng không hề có chút hương thơm khả dĩ quyến rủ và mê hoặc
thính giác con người. Bông lại to lớn thô kệch cho nên có người thất vọng thốt
ra những lời man mác tiếc rẻ:
Cây bần ơi, hỡi cây bần
Lá xanh bông thắm lại gần không thơm.
Nhà thơ danh vang một thời ở Miền
Nam thuở ban đầu trong bang giao Pháp Việt, cụ Bùi Hữu Nghĩa đã cảm hứng sinh
tình, mô tả cây bần trong một bài đường thi súc tích ý lời:
Cao lớn làm chi bần hỡi bần?
Uổng sanh trong thế đứng tần ngần
Lá xanh tợ liễu nhành
thưa thớt
Bông bạc dường mai nhụy
sượng sần
Quyến luyến bầy cò bay sập
sận
Chiều quy đoàn khỉ tới dần
lân
Rường xoi cột trổ chưa
nên mặt
Cao lớn làm chi bần hỡi
bần?
Nhân
nói đến bản tánh trào lộng dí dỡm của bà con tôi, tôi lại chợt nhớ một giai thoại
khá lý thú về cây bần nước quê hương này. Chung quanh gốc bần thường có cả một
rừng chồi non chĩa thẳng lên không trung, cao khỏi mặt nước chừng năm ba tất
tây tùy nước lớn nước ròng. Phía dưới gốc thì to lớn đẫy đà, đôi khi thô kệch.
Phía trên, càng lên cao bao nhiêu càng thon thon nhỏ dần bấy nhiêu. Trông chúng
nó nhọn lểu như vũ khí thời xa xưa.
Tiếng
dân gian gọi một cách nôm na chơn quê, tức không được thanh lịch cho lắm là
"cặt bần". Chúng ăn luồn dưới bùn non, níu kéo nhau chằng chịt khắng
khít, gây lắm phiền hà cho nông dân những ngày mùa.
Thân
"cặt bần" xốp. Phơi khô có thể dùng làm nút chai. Đối với đám trẻ phá
làng phá xóm, chúng tôi thường dùng để làm phao nổi mỗi khi đi câu cá vì ở nơi
thôn quê hẻo lánh cách ngăn, người dân thiếu thốn mọi phương tiện cần thiết. Những
lúc nước rặc, chảy như cắt, "cặt bần" cứ đong đưa ngã tới ngã lui
liên tục nhịp nhàng.
Một
người có tâm hồn thơ văn thi phú, trông cảnh "cặt bần" đong đưa theo
nước rặc đó bỗng động lòng sinh hứng, nghĩ ra ngay một vế và thách thức bà con
đối sao cho chỉnh.
Vế ấy
như sau:
Nước chảy, "cặt bần" run bây bẩy.
Lâu lắm
về sau, có người chẳng chịu thua, vò đầu bức tóc đối lại cũng không kém phần
trào lộng và hiện thực:
Gió đưa, "dái mít" dải tê tê.
Cây bần
nước tượng trưng hình ảnh chơn quê mộc mạc, tượng trưng một cái gì rất mực tầm
thường, gặp nhan nhản hằng ngày nhàm con mắt. Nó được xếp vào hàng những thứ
không có một giá trị kinh tế hay tinh thần gì, dù cỏn con ở quê tôi.
Búp bần,
bông bần không hương sắc quyến rủ đã đành. Trái bần vỏ xanh no tròn lại thừa mứa
chán chê... không ai màng để ý tới, xem như loại hoa trái dại bên đường. Trừ mấy
tay ăn không ngồi rồi vô tích sự, phung phí thì giờ qua ngày để xa gần thá ví,
lợi dụng đi "bẻ búp bần" để bóng gió trêu chọc đàn bà góa hay độc
thân cô đơn.
"Cặt
bần" đã ít công dụng còn gây nhiều chướng ngại không nhỏ ngày mùa, giữa lúc
nhân công khan hiếm, người người đơn chiếc đầu tắt mặt tối, tất bật chạy đua với
thời tiết. Trong hoàn cảnh tiện tặn, chắt chiu mót mái giờ giấc làm việc quý
báu đó, nông dân còn phải đào bứng "cặt bần", đánh tận gốc, vỡ đất, dầm
đất để cấy lúa.
Trái
bần chát ngấm chát ngầm, rụng trôi lêu bêu trên mặt nước sông rạch kinh đào.
Chim chóc dù đói cách mấy cũng chê. Chúng không hề thọc mỏ tới bao giờ.
Bà
con khinh rẽ chẳng chút đoái hoài:
Cảm
thương Ô Thước bời bời
Cha sao mẹ sến dựa nơi gốc
bần!
Ở xóm
tôi có một thanh niên tên Bần, cái tên do cha mẹ đặt để đàng hoàng và có khai
sanh vào sổ bộ đời đầy đủ theo thủ tục của viên chức Nhà Hội. Sự chọn lựa tên tộc
này của cha mẹ anh chắc cũng do tự ti mặc cảm mà ra. Hoặc do cái ám ảnh trăm
năm ngàn năm của dòng họ, qua bao nhiêu đời nối tiếp, vốn nghèo khổ túng quẩn
triền miên, đúng với ý nghĩa của danh từ buồn tẽ u ám này.
Cảnh
nghèo khó mạt từ đường của anh không khác chi hoàn cảnh bế tắt kham khổ, không
lối thoát của đôi vợ chồng nông dân bất hạnh, bữa đói bữa no, đến độ trong bữa
ăn chỉ có võn vẹn "ruột bầu" nấu với "râu tôm" đỡ lòng:
Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu
khen ngon.
Đã
nghèo, anh lại mang thêm cái tên Bần với nhiều mặc cảm. Lớn lên, anh rất buồn tủi
và đau khổ không ít về cái tên cúng cơm định mệnh ấy như báo trước một tương
lai hẩm hiu đen tối, lắm đoạn trường. Một cái tên căn đày kiếp đọa, thoang thoảng
âm hưởng nằng nặng, vừa u trầm, vừa đồng nghĩa với sự cơ cực nghèo khó, ngay từ
khi anh hãy còn vô tư nằm chèo quoeo, co rúm im re trong lòng mẹ.
Cha mẹ
anh đã qua đời khá sớm cũng như viên chánh lục bộ làng anh, người đã trịnh trọng,
tưng tiu o bế từng nét chữ một để ghi cái tên Bần của anh vào sổ bộ hộ tịch.
Duy chỉ có cái tên Bần mộc mạc nghèo khổ của anh ngày nay vẫn còn đó và sẽ đeo
đuổi theo anh mãn đời suốt kiếp.
Giờ
đây, thỉnh thoảng anh giựt mình hồi nhớ đoạn đường chông gai tròn trèm hai thập
niên qua. Anh giựt mình để kiểm điểm cuộc sống hằng ngày từ ấy với nhiều công sức
liên tục và cố gắng tiện tặng mót máy, tận dụng từng khoảnh khắc ngắn ngủi của
những ngày làm việc. Anh đã âm thầm, kiên nhẫn phác họa trong trí mình những bức
tranh hy vọng. Toàn là nhũng bức tranh tươi đẹp với đầy đủ sắc màu hoang dại thắm
tươi nơi cố thổ. Nhưng thực tế anh chưa hề hoàn tất được một bức tranh nào bao
giờ khả dĩ để có thể nhìn ngắm và tự tay sờ mó nó cho thỏa chí ước ao.
Vì
anh nhận thấy rằng cuộc sống hiện tại của anh vốn chẳng được cải thiện bao
nhiêu so với thuở xa xưa hun hút, lúc cha mẹ anh dầm mưa dãi nắng, quanh năm
phơi lưng trần trên đồng không mông quạnh. Hai ông bà lúi húi cặm cụi với nghề
nghiệp tự mình chọn lấy như vậy nhưng đến năm tàn tháng tận vẫn không hề đủ cơm
ăn, đủ áo mặc và tệ hại hơn nữa còn mang nợ nần chồng chất đôn đít gối đầu nhau
mãi. Không bao giờ cả hai có giây phút mơ ước được đứt đuôi nợ năm nợ mùa.
Có lẽ
cũng vì vậy, anh không hề oán trách hờn giận cha mẹ anh khi hai ông bà đã đặt
cho anh cái tên cúng cơm phảng phất nhiều nước mắt tủi hổ, thua buồn. Anh vẫn tỏ
ra yêu đời, yêu cuộc sống, yêu quê, yêu người. Anh chấp nhận xem như một an bài
của một oái oăm ngang trái.
Và sự chấp nhận này không có
tính cách thụ động qua những lời than thở mủi lòng của những người nghèo khó
trong chốn thường tình, bắt gặp nhan nhản khắp nơi. Anh không yếu đuối. Anh
không chấp nhận sự bó tay đầu hàng, buông xuôi dễ dàng. Anh có niềm tin ở những
ngày dài khó khăn trước mặt. Anh thường xuyên cố gắng để vương lên.
Lực
lưỡng, vai u thịt bắp, sức lực dồi dào trời ban cho như trâu cui trâu cổ, nhứt
là do tự ái của tuổi thanh xuân, anh rất mực tận tình quyết tâm làm việc đêm
ngày. Sự quyết tâm tận tình này theo sự suy nghĩ giản đơn và thực tế của anh nhằm
hóa giải phần nào kiếp nghèo hiện tại mà cũng để hóa giải một chuỗi tiền căn của
dòng tộc, trước đây đã có nếp sống kém đạo đức hoặc giả đã vụng đường tu. Dù có
núp dưới thuyết căn đày nghiệp chướng của nhà Phật nhưng anh chưa hề đặt chân đến
ngưỡng cửa nhà chùa, dù đôi bữa một ngày để trường chay và nghe kinh hầu cầu
tài cầu phước bao giờ.
Có lẽ
anh quan niệm rằng họa phước chính ở nơi mình và mình có quan tâm trịnh trọng cầu
xin đến đâu chắc cũng khó mà được toại nguyện. Qua sự cố gắng làm việc hằng
ngày, anh chỉ mơ ước có mỗi một điều là có ngày sẽ thành công xoay trở số phần
mình để được sống cuộc đời thầm lặng cần cù nhưng đạo đức lương thiện.
Một cuộc đời bình thường như
những mẫu đời bình thường khác trong thôn xóm, theo đúng phương châm thụ đắc những
năm ngắn ngủi anh may mắn được mài đủng quần trên ghế trường làng:
Nghèo cho sạch, rách cho thơm...
Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng hãy
còn trơ trơ...
Hơn nữa,
noi theo gương của cha mẹ anh, anh rất cởi mở, chẳng nề hà dang tay phụ giúp những
gia đình đơn chiếc hữu sự trong thôn ấp. Vì anh ý thức có bổn phận đối với xóm
làng để trả nợ đất đai, trả nợ làng mạc bản thổ đã chắt chiu nuôi dưỡng anh đến
khôn lớn trưởng thành.
Đầu
làng cuối xóm rất mực thương yêu trìu mến và tích cực nâng đỡ anh. Một con người
vừa trông qua đã biết ngay có đức hạnh, có tình có nghĩa, thủy chung như nhứt
và nhứt là có trách nhiệm cao. Mỗi lần có dịp gặp anh, chỉ thấy bóng dáng anh
thấp thoáng đàng xa là đã bắt được ngay nụ cười thiện cảm hiếu khách, hồn nhiên
mê hoặc của anh lan tỏa nơi khoé môi, nơi đuôi mắt rồi. Giọng nói trầm ấm của
anh lúc nào cũng có ma lực cuốn hút người nghe, giúp cho câu chuyện dù chân quê
không đâu cũng không đến đổi nhạt nhẽo vô duyên.
Anh
khác hẳn một trời một vực với số ít thanh niên trạc tuổi thường bị các bậc trưởng
thượng luôn miệng trách móc rầy la hay nặng lời quở mắng. Các vị cho rằng bọn
này đã tồng ngồng già đầu, lớn gộc to xác rồi mà vẫn sống bun thùa, tình cảm
trơ trơ chai đá. Chúng chẳng biết buồn biết vui, chưa hề nói được một câu duyên
dáng lịch sự, chưa thốt được một lời thanh tao êm ái, ngọt ngào bùi tai.
Anh rất
xứng đáng tiếp nhận những vòng tay ân nghĩa và vị tha của bà con nơi chéo đất
quê nghèo, năm tháng nép mình trong chốn hoang vu sơn cùng thủy tận. Đó cũng là
một lẽ đương nhiên, một điều dễ hiểu.
Anh Bần
có quen biết cô Tư Xinh, cô gái cùng xóm tôi, một cái xóm chưa hề bị tai tiếng,
đè bĩu chê bai. Nơi đây chỉ có những sinh hoạt thấm đượm hương đồng vị đất và cứ
như thế tiếp diễn lặng lẽ từ đời cha ông, tằng cố tổ. Nay, cô vừa bước vào tuổi
trưởng thành đẹp người đẹp nết với những ước mơ và rạo rực gìn giữ kín trong
lòng. Sự mơ ước và rạo rực đó không ngoài cái nhìn về hướng tương lai không xa,
cô sẽ có một mái ấm gia đình đằm ấm và hạnh phúc như bao cô gái khác.
Hai
gia đình nhà ở cách nhau trên dưới một vài thửa ruộng và một gò hoang mênh
mông, mồ mả ngổn ngang, cây cối lùm bụi um tùm rậm rạp. Sự gần gũi đó được nối
kết nhau chỉ bằng một bờ ruộng uốn éo ngoằn ngoèo.
Hai bên lề bờ đất duy nhứt này
không ngớt lởm chởm cỏ may ngày mùa. Và thỉnh thoảng đó đây vài loại hoa dại một
màu tím thủy chung, chất chứa nghĩa nặng ân sâu, lan tỏa hương vị đậm đà của
sương nắng, của mưa gió ruộng đồng. Ấy vậy, trong thực tế, con đường ngắn ngủn ấy
nhiều khi lại xa hun hút, khi tình cảm con người chưa được khơi dòng thống
khoái.
Chẳng
bao lâu, hai người lân la thân thiện, quyến luyến rồi phải lòng nhau. Cái tuổi
trai hơ hớ mới lớn lên gặp phải gái cặp kê trổ mã chẳng có gì lạ trên thế gian
thường tình lắm chuyện từ thuở huyền bí khai sanh lập địa. Một sự đương nhiên
chạy đàng trời cũng không tránh khỏi khi "lửa gần rơm" thế nào cũng
"bắt bén".
Tình
cảm họ đã được khơi dòng từ đây. Con đường đất gồ ghề nhỏ hếu, quanh năm lởm chởm
những cỏ may cỏ chỉ ấy, giờ đây dường như cũng rút ngắn hẳn lại, chỉ còn trong
gang tấc. Và họ tiêng tiếc phải chi không có cái gò hoang um tùm rậm rạp và
mênh mông kia để chiều chiều, lúc mặt trời đang hấp hối chầm chậm, lúc công việc
đồng áng đã thu xếp chu đáo, họ có dịp nhìn nhau trong cảnh mờ ảo của hoàng hôn
để tưng tiu ấp ủ mộng lành... Những giấc mộng trân quý đang rạo rực dấy lên
trong lòng mỗi người.
Người
đời có những nhận xét rất chí lý và thực tế. Do họ thừa hưởng những kinh nghiệm
trường đời được tích lủy qua không biết bao nhiêu thế hệ vật lộn thường xuyên với
cuộc sống thăng trầm nghiệt ngã: "cha mẹ cú thường đẻ con tiên, cha mẹ hiền
sanh con thảo".
Cô Tư
Xinh quả thuộc vào hàng gái đẹp hiếm hoi khó tìm trong xóm, cái đẹp mặn mà mộc
mạc, thùy mị duyên dáng thiên phú. Không kiểu cọ, không làm điệu bộ chướng tai
gai mắt quá đà. Nước da trắng trẻo trời cho, không như nước da sạm nắng đen đủi
xấu xí của những cô gái quê mùa bất hạnh khác. Mặc dầu cô vẫn làm việc không ngừng
tay nơi ruộng nước đồng khô. Những lúc ấy, gương mặt cô ửng đỏ, hồng lên như những
thiếu nữ đài các ở thành thị trang điểm phấn son. Hơn nữa, từ đầu trên cuối
xóm, bà con lớn nhỏ không hết lời khen ngợi cô ăn nói nhỏ nhẹ, dịu dàng quyến rủ,
dễ mến dễ thương.
Cả
hai, anh Bần và cô Tư Xinh thường làm việc chung nhau ngoài đồng áng, mỗi ngày
từ tinh mơ đến chập choạng đỏ đèn. Trên là trời bao la huyền bí với mây trắng
trăm năm nghìn năm vẫn cứ lững lờ nối đuôi nhau trôi về nơi vô tận. Dưới là mặt
nước loang loáng bạt ngàn, không biết đâu là vị trí của bến bờ. Trong cảnh trí
thiên nhiên bát ngát hãi hùng đó chỉ có con người nhỏ nhoi, yếu đuối, cô đơn
đang xít lại gần nhau hơn như để tìm một hơi ấm tình người trong sự giúp đỡ tựa
nương nhằm thăng hoa cuộc sống và để sinh tồn.
Một
môi trường thuận tiện giúp cho tình yêu trang lứa được nẩy nở tiệm tiến và tự
nhiên. Kẻ cày, người cấy. Kẻ nhổ mạ, người dầm bưng. Kẻ gặt, người đập lúa bồ...
Họ sống và làm việc bên nhau như vậy liên tiếp từ nhiều năm qua.
Chung
đụng hằng ngày, họ để ý nhau qua từng cử chỉ lo lắng chăm sóc nhau, qua từng lời
ăn tiếng nói bóng gió xa gần. Họ quan tâm qua một đôi ý tứ gói ghém bao nhiêu ẩn
tình khó có thể mạnh dạng thố lộ khi trực diện nhau hay giữa ban ngày ban mặt
đông người.
Chàng
thầm kín cảm mến và ngây ngất thương yêu nàng qua giọng cười khúc khích như cơn
gió thoảng lúc trời chiều êm ả. Chàng quý trọng nàng qua đôi má lúm đồng tiền
quặn xoáy vào tim kẻ đang si tình.
Nàng
nhớ dáng đi vạm vỡ chắc nịt đầy tự tin của chàng. Nàng để ý đến đôi tay cứng rắn,
đôi tay bảo bọc, cái đuôi mắt nhìn trộm long lanh trong sáng như sao trời lấp
lánh những đêm trăng tròn vằn vặt hữu tình.
Họ
tương tư.
Họ mộng
mơ thương nhớ.
Họ
không sao quên được những cử chỉ vụng về ấp úng lúc săn đón nhau, mỗi khi bị
con mắt bàn dân thiên hạ bắt gặp tình cờ...
Những tình cảm âu yếm họ giành
cho nhau, những cảm xúc dịu dàng, những lời lẽ ngọt bùi của tình yêu đầu đời
nóng bỏng được trân quý ấp ủ trong lòng của mỗi người. Họ không sao nói được
rành rọt để trao gởi cho nhau quả tim chân thật của mình.
Vì
khi gặp nhau, họ như mất hồn, đâm ra ú a ú ớ, lặp cặp đến buồn cười. Họ không
biết phải ăn nói làm sao để mong làm đẹp lòng đẹp dạ người đối thoại? Họ không
biết phải bắt đầu từ đâu cho hợp ý tình? Họ không biết phải khởi sự từ câu chuyện
nào, từ hoàn cảnh trạng huống nào để từ đó giúp họ có một sức mạnh lấy đà bắt
trớn.
Nhưng
thường ngày, hình ảnh người này dường như không hề thoát khỏi nhãn quang của
người kia. Họ đến chăm sóc giúp đỡ nhau mỗi khi có dịp thuận tiện. Dù rụt rè bẽn
lẽn đến đâu, anh Bần không ngần ngại tiến nhanh đến bắt mấy con đĩa bám chặt
vào chân cô Tư Xinh, mỗi khi cô giựt mình thét lên the thé. Đôi chân cô trắng
buốt đến rờn rợn người mỗi khi cô nhè nhẹ xăn ống quần đến quá gối lúc nhổ mạ
hay cấy lúa, đập lúa.
Anh Bần
vụng về hay cố tình kéo dài thời gian gần gũi tràn ngập sung sướng ấy càng lâu
càng tốt mặc cho các bà đồng nghiệp tha hồ ví von, sang sảng trêu chọc. Anh cố
tình như vậy để đưa sự tưởng tượng và tò mò của mình đi xa hơn đôi chân thon
thon trắng trẻo trước mặt mình.
Mãi đến khi anh tuần tự bắt bỏ
gọn hơ những con đĩa mén đen thủi đen thui, ngo ngoe nhớt lầy vào cái hình vôi
cũ bể miệng đựng nước vôi đặc quánh xong mà gương mặt cô Tư Xinh vẫn còn đỏ ưng
ửng thẹn thùng. Còn nói gì gặp việc nặng nhọc, anh Bần lúc nào cũng đưa lưng trần
ra gánh vác, tự nguyện làm thay cho người đẹp không một chút đắn đo do dự.
Cuộc
đời cô Tư Xinh cũng lắm trái ngang, đầm đìa nước mắt. Cô buồn tủi cho số phần
mình quá cay đắng hẩm hiu. Vì từ khi biết nhận xét và nghĩ suy, cô chưa bao giờ
rõ được gốc rễ cội nguồn phía bên gia đình của mẹ cô. Mặc dù bấy nay, cô đã để
công dò la tìm hiểu.
Mồ
côi mẹ khá sớm lúc cô vừa tròn tuổi nhóm giò để cắp sách đến trường làng, cô chỉ
nhớ mơ hồ mẹ cô thuở sanh tiền thỉnh thoảng trong những câu chuyện chắp nối, có
kể cho cô nghe gốc gác của người. Nhưng cũng sơ sài năm ba câu ngắn gọn trầm buồn
khi mẹ cô trong phút chốc hồi hướng về dĩ vãng xa xôi của mình.
Lúc
đó, cô nào để ý chi. Ngày ngày, sau những buổi đi học về, lội bộ đường xa muốn
rụm cả hai chân, cô chỉ hụ hợ gia đình trong vài khoảng khắc ngắn ngủi chiếu lệ.
Kỳ dư, cô đi rong chơi với bạn bè trang lứa cùng xóm. Cô chỉ biết quê hương chôn
nhao cắt rún của mẹ cô ở tận miền biển mặn Gò Công xa xôi. Vốn sống nơi đồng bằng
bưng biền, chỉ nghe đến miền biển, cô hình dung một nơi nghìn trùng diệu vợi với
những giai thoại và truyện kể vượt quá mức tưởng tượng của cô.
Sau
này lớn lên, một đôi khi cô được cha cô kể cho nghe vài chi tiết quá ư đơn giản
về cuộc đời vắng số đáng thương đó của mẹ cô. Mẹ cô quả thật là người vùng biển
Vàm Láng hay Tân Thành chi đó, thuộc tỉnh Gò Công, xứ sở của những vị đại công
thần, hoàng hậu tên tuổi lừng lẫy trong lịch sử dựng nước của nhà Nguyễn cùng
những bậc vĩ nhân khí khái hiên ngang, yêu nước kiên trung như Trương Công Định,
Quản Hớn... những người đã từng làm nên một thời ở vùng đất phương Nam thuở
quân Pháp sang xâm lấn đất Nam Kỳ Lục Tỉnh.
Cha
cô cũng chẳng rõ gì cho lắm. Vì suốt những năm tháng dài đằng đẵng chung sống đầm
ấm hạnh phúc bên nhau, mẹ cô không hề hở môi nhằm thố lộ mảy may chi cả. Bà ấp ủ
thầm kín trong lòng một nỗi buồn riêng. Sự câm nín, khổ đau rây rứt đó làm cho
gương mặt khắc khổ của bà lúc nào cũng dàu dàu, buồn buồn khó tả.
Vì thật
sự, chính bà cũng chẳng biết đích xác căn cư cội rễ, bản quán thôn làng cắt rốn
chôn nhao của mình nơi nào? Và cũng vì một lý do quá tế nhị, cha cô tránh né
không bao giờ hỏi mẹ cô cuộc sống thuở ấu thời hay gia cảnh của người ra sao.
Cha cô sợ mình vô tình khơi dậy một niềm đau chôn kín trong lòng của mẹ cô.
Giờ
đây đã lớn khôn, bao nhiêu câu hỏi thường xuyên đến với cô. Và mỗi lần càng làm
cho cô thêm đau xót, khi những vấn nạn của cô vẫn còn nguyên vẹn, không một lời
giải đáp thích nghi. Cuộc sống của cha mẹ và đại gia đình bên nội, bên ngoại của
mẹ cô ra sao? Người còn người mất như thế nào? Hay đã lưu lạc, phiêu bạt nơi
chân trời góc biển đâu đó. Một bức màn âm u bí mật cứ ám ảnh, dằn dặt đeo đuổi
mẹ cô lúc sanh tiền, dù mẹ cô có muốn quên cũng không sao quên được.
Cô chỉ
biết một điều và cũng là một sự thực lịch sử. Mà lịch sử là những sự việc có thật
chớ không phải chuyện hoang đường để người ta có thể thêm thắt cải sữa dễ dàng.
Thỉnh thoảng, những khi ruộng nương được nhàn nhã, đêm đêm ngồi đối bóng uống
trà khuya, cha cô hay cao hứng thầm thì mấy câu ca dao ngắn gọn.
Những lúc ấy dường như cha cô
muốn khuây khỏa nỗi lòng thương thương nhớ nhớ người bạn đời rất xứng đáng, rất
mẫu mực nhưng tiếc thay lại vắng số. Thêm một cơ may là lâu lắm về sau, cha cô
tình cờ được biết khá đầy đủ chi tiết về gia đình bên nhà vợ nên sự thương nhớ
của cha cô đối với mẹ cô càng chất ngất vút cao.
Nhưng
kết quả của những lần ôn cố nhớ nhung đó của cha cô đã có tác dụng lạ kỳ. Nó đã
lưu lại đậm nét mãi mãi trong trí nhớ và tâm hồn trong trắng của cô từ lúc ấy.
Đến nay âm hưởng bổng trầm ai oán của những câu ca dao kia vẫn còn kéo dài ngân
nga bên tai cô:
Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc
Gió nào độc bằng gió Gò Công
Một trận Đông phong lạc vợ xa chồng
Đêm nằm nghĩ lại nước mắt ròng tuôn
rơi.
Những
năm sau này, cô được biết thêm rằng "ngọn gió độc Gò Công" với
"trận Đông phong lạc vợ xa chồng" là trận bão lụt năm 1904 được lớp
người hậu sanh quen miệng gọi là "bão năm Thìn", tức bão năm Giáp
Thìn. Một trận bão thuộc vào hàng lớn nhứt ở Miền Nam nước Việt từ trước đến
năm tai hại khó quên đó. Trận bão, thiên tai ấy tàn phá khủng khiếp hầu hết mùa
màng, nhà cửa lớn nhỏ của vùng ven biển Gò Công cùng những thôn làng phụ cận nằm
sâu hóm trong đất liền.
Ngoài
những thiệt hại vật chất lớn lao làm xao xuyến lòng người cả nước, người ta
không biết có bao nhiêu ngàn người chết được chôn cất đường hoàng hoặc bị nước
tràn phũ phàng cuốn trôi đi mất tích. Chỉ biết người đời sau cảm thông và xúc động
về tai trời ách nước đó vẫn không quên truyền khẩu nhắc nhớ số "người chết
như rạ" thời bấy giờ. Một so sánh gợi ảnh gợi hình, dựa hẳn vào sự thật chớ
chắc họ không quá run cảm đến đổi phải cường điệu, thổi phồng quá đáng!
Thảm
cảnh thật hãi hùng, vượt xa tầm mức tưởng tượng phong phú nhứt của con người trần
tục. Sống sót là một điều may mắn hiếm hoi, một phép lạ thiêng liêng nhiệm mầu
đối với những người bất hạnh ở ngay trung tâm trận bão.
Cho
nên sau này, cô càng thêm bùi ngùi thổn thức khi nghe đâu đó văng vẳng những
câu ca dao quyện xoáy con tim:
- Gặp em đây mới biết em còn
Hồi năm bão lụt anh khóc mòn con ngươi.
- Hồi nào bão lụt năm
Thìn
Đến nay trôi nổi mới nhìn được em.
- Phải chi hồi bão em thả
trôi
Sống làm chi chịu chữ mồ côi một mình!
Mẹ cô
thuở cuồng phong giông bão thập tử nhứt sanh ấy còn nhỏ hếu, ăn chưa no lo chưa
tới. Người được ông bà ngoại cô trong lúc lạc thần và hấp tấp, trong lúc mạng sống
con người như chỉ mành treo chuông, nhưng dù hoảng vía hoảng hồn vẫn còn chút
ít trầm tỉnh. Hai ông bà chuẩn bị ràng buộc kỹ lưỡng, đặt con gọn gàng trong một
cái thúng chai, loại thúng chai đi biển của dân chài lưới.
Ông
bà hy vọng đến lúc đường cùng tuyệt vọng, khi hai ông bà không còn mảy may khả
năng để bảo vệ cái núm ruột thương yêu trân quý của mình nữa, cái thúng chai
mong manh chuyên chở mẹ cô nhứt định sẽ đủ sức chống chọi lại nước lũ thịnh nộ.
Ông bà trong phút giây cuối cùng của sự buông xuôi bỏ lửng vẫn còn tin tưởng ở
một sự cứu rổi nhiệm mầu, dù mỗi lúc nước biển cứ ùa tới, quặn xoáy cuồn cuộn,
tràn dâng nhanh chóng và cao lên mãi mãi. Cái thúng chai sẽ bềnh bồng vô định
như một cái phao cứu người chết đuối để may mắn tắp vào một nơi đâu đó an toàn.
Mãi đến
lúc đuối sức, cả hai ông bà mới đành đoạn nhắm mắt xuôi tay buông rời cái thúng
chai đựng mẹ cô để trôi nổi theo may rủi của dòng nước bạc vô hồn... Nước mắt
và lời khẩn nguyện, kêu la thống thiết của ông bà ngoại cô chưa kịp dứt thì hai
ông bà cũng đành bất lực, the thé nhắn gọi nhau qua hai tiếng giã biệt đau nhói
để chìm lĩm theo đợt sóng biển khổng lồ phũ phàng.
Sau mấy
ngày trôi giạt, bềnh bồng đói khát, khóc la hoài công, mẹ cô được bà con trong
đất liền ưu ái dang tay cứu vớt, trông nom bảo bọc. Rồi một ân nhân nông dân
nghèo nhưng giàu lòng nhân ái nhận về làm con nuôi. Một may mắn trong đời đối với
mẹ cô nhưng cũng là một niềm đau thê thảm, mãi mãi gậm nhấm người luôn.
Lớn
lên, mẹ cô được cha mẹ nuôi hết mực thương yêu như con ruột. Do sự cảm thông
hoàn cảnh mẹ cô còn quá trẻ, tuổi đời chẳng được là bao nhưng đã có một quá khứ
ngang trái, hẩm hiu đau buồn. Mẹ cô quả thực đã trải qua tuổi ấu thời quá đổi
gian truân hi hữu. Mẹ cô quả thực đã may mắn sống sót trong tai ương bi sử của
tỉnh nhà.
Hai
ông bà tận tình dìu dắt hướng dẫn, không quản ngại tốn công tốn của, đưa mẹ cô
lên thị xã Gò Công cho học nghề may vá thêu thùa. Ông bà mong rằng mẹ cô sau
này sẽ có cơ duyên mới, giã từ hẳn cảnh vất vả cực nhọc của nghề nông chân lấm
tay bùn, tất bật quanh năm. Mẹ cô sẽ có môi trường nhàn nhã ấm cúng hơn để nuôi
thân, nuôi gia đình khi hai ông bà dưỡng phụ dưỡng mẫu qua đời theo luật tất
nhiên của đất trời, có sinh có tử.
Mẹ cô
ở trọ đeo đuổi học nghề may sát bên một trại mộc chuyên đóng tủ thờ có nạm xa xừ
rất nổi tiếng. Nghề đóng tủ thờ ở Gò Công là một nghề cha truyền con nối vang
danh toàn cõi đất Nam Kỳ Lục Tỉnh chí đến bây giờ. Những bí quyết và lắc léo của
nghề nghiệp hiếm hoi này không phải dễ dàng truyền đạt cho một ai khác hơn
ngoài các thành viên tín nhiệm của gia đình.
Nơi
này, một xóm nhỏ ở ngoại ô thị xã Gò Công, phía bên kia Ao Trường Đua, lưa thưa
không bao nhiêu nốc gia. Hằng ngày, người người túi bụi chí thú làm lụng lo miếng
cơm manh áo. Chính nơi ấy, mẹ cô đã gặp cha cô và hai người phải lòng nhau, nắm
tay quyết tâm xây dựng một mái ấm gia đình hạnh phúc vĩnh viễn bền lâu.
Nhưng
ở đời, quyết tâm và hy vọng là một chuyện, còn thực tế là một chuyện khác. Đôi
khi lại oái oăm éo le, chua xót chán chường. Rõ ra trong thế gian hư hư thực thực,
nơi con người dù muốn dù không lặn hụp hằng ngày, có những việc tréo cẳng ngỏng
không lường trước được.
Lúc
đó, trong một phút hứng chí bốc đồng của tuổi trẻ, cha cô đã có quyết định làm
ngạc nhiên hầu hết bà con thân cận. Ông dứt khoát từ bỏ cuộc đời phá rừng khẩn
ruộng, lên vườn lên liếp với trăm đắng ngàn cay, vất vả quần quật do tháng năm
cứ mãi bì bõm nơi quê hương Rạch Rít khổ hạnh buồn tênh của mình. Cha cô mạnh dạng
khăn gói, đơn thương độc mã lặn lội xuống tận Gò Công xin theo học thí công nghề
đóng tủ thờ.
Dù đã
tự nguyện và kiên trì học thí công, chấp nhận làm đủ mọi việc lớn nhỏ, nặng nhẹ,
trong ngoài, ngày lẫn cả đêm nhưng việc chỉ dẫn truyền nghề chậm như rùa bò,
không thua chi ba ba lội biễn. Do đó, việc thụ huấn xem như dậm chân tại chỗ,
không tiến triển tới đâu, sau một thời gian khá dài cha cô xả thân hoài công học
hỏi.
Quá
thua buồn và thất vọng, cha cô đưa mẹ cô khăn gói, âm thầm trở về xóm Rạch Rít
cố thổ, tiếp tục cuộc đời cầm lưỡi hái chuôi cày, năm này sang năm nọ lầm lủi
đi theo sau đít trâu. Tương lai hẩm hiu mù mịt đoán trước không lầm.
Nhưng
dù sao, ngày ngày gia đình vẫn no bụng ấm lòng với cháo rau dưa muối. Không khí
thật sự hạnh phúc êm đềm. Vợ chồng trong hoàn cảnh thương yêu chân thật ấy tưởng
sẽ kéo dài mãi mãi đến răng long đầu bạc.
Nào
ngờ!
Chẳng
bao lâu sau, mẹ cô tình cờ mất sớm. Người mất đi trong khi tuổi đời còn nhiều hứa
hẹn, tương lai đầy triển vọng, có thể cùng chồng vực dậy một cuộc sống triền
miên trái ngang khốn khó. Nhưng cha cô với giọng u buồn tiếc nuối thường tự an ủi
mình, cho rằng mẹ cô đã thực sự được giải thoát. Vì mẹ cô đã trả dứt nợ trần bi
lụy, đã đi trọn một kiếp người bất hạnh khổ đau...
Cuộc
tình đầu của cô Tư Xinh cùng anh Bần giờ phút nầy thật hồn nhiên, lâng lâng thơ
mộng. Cuộc tình chớm nở ấy đã trở thành đề tài hấp dẫn bất tận trong nhóm các
bà đứng tuổi. Họ sành sõi việc đời, lắm kinh nghiệm bản thân nơi chốn tình trường,
lại thuộc vào hàng bà con cô bác, chú thím mợ dì... Hằng ngày, họ cùng nhau
sanh hoạt chung trên chéo mạ xinh xắn hay trên những thửa ruộng ủng nước đục ngầu
phù sa màu mỡ.
Chí
tình, họ rất tán đồng và khấp khởi vui mừng ra mặt về mối tình đầu thăng bằng,
thật thà chơn chất đó. Và dĩ nhiên, họ lợi dụng mọi hoàn cảnh thuận tiện đưa đến,
tìm tòi, nặn đầu nặn óc những lời lẽ thích nghi để trong âm thầm tích cực yểm
trợ, thôi thúc đôi trẻ sớm tiến tới một kết cuộc trong thành tựu viên mãn.
Vì họ
dư biết rằng tuổi trẻ nơi chốn hẻo lánh quê mùa khi mới biết yêu, khi đối diện
với người mình ngắm nghía để ý, lúc nào cũng bỡ ngỡ, rụt rè nhút nhát. Vì họ thừa
hiểu và suy ngẫm ra một chân lý bất thành văn là những ấn tượng, những tình cảm
thuở ban đầu thường là tốt đẹp và trong sáng, đa phần có ý nghĩa hướng thượng.
Do đó, những câu hò câu hát đối
đáp của các bà để hổ trợ đôi trai gái xít lại thêm gần nhau. Những câu hò câu
hát ngọt lịm tình tự ấy cứ vang vang cả cánh đồng náo nhiệt ngày mùa.
Các
bà tuần tự chia nhau thủ diễn những vai trò đôi lứa chớm biết yêu, nhằm tạo
không khí thân tình và tự tin, vô hình trung giúp anh Bần và cô Tư Xinh thêm thân
mật, thêm mạnh dạng nói lên tiếng nói của con tim. Những câu hò tình tự ngày xa
xưa được chắt mót rút ra từ trong kho tàng văn học dân gian, được họ tập trung
mò mẵm kiếm tìm từ trong sâu thẳm của ký ức tập thể xóm làng, cứ chốc chốc vang
dội lanh lảnh
. Nó vừa giúp họ quên nỗi nhọc nhằn mệt mỏi đã đành nhưng cũng vừa để nung lòng người trong cuộc rất có kết quả:
. Nó vừa giúp họ quên nỗi nhọc nhằn mệt mỏi đã đành nhưng cũng vừa để nung lòng người trong cuộc rất có kết quả:
- Bầu gie đốm đậu sáng ngời
Lỡ duyên tại bậu trách trời sao nên!...
- Thấy em nhỏ thó lại có duyên ngầm
Anh phải lòng thầm hơn mấy năm nay...
- Thấy em nhỏ thó lại có hường nhan
Chơn mày lân con mắt lộ
Nội xứ này không ai ngộ bằng em...
- Bướm đeo dưới dạ cây bần
Làm sao kết nghĩa Châu Trần với anh?...
- Bướm đeo dưới dạ cây bần
Muốn phân nhân nghĩa lại gần sẽ phân...
- Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tắp vào đâu?...
- Có thương thì thương cho chắc
Bằng trục trặc thì trục trặc cho luôn
Đừng làm như con thỏ nọ đứng đầu
truông
Khi vui giỡn bóng, khi buồn giỡn trăng...
Dự
tính tương lai của anh Bần và cô Tư Xinh chỉ chờ thời gian đưa đẩy hay một cơ hội
thuận tiện nào đó để trở thành sự thật. Cùng một hoàn cảnh éo le ngang trái như
nhau, cùng một số phần long đong lận đận như nhau, cả hai đều xuất thân từ gia
đình túng thiếu bẩn chật nhưng giống nhau ở một điểm là quanh năm chí thú với đất
đai ruộng vườn. Chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đủ cho hai bên gia đình rất
"môn đăng hộ đối".
Những
lúc rổi rảnh, dịp nghỉ trưa ngay giữa đồng vắng, nắng cháy như thiêu như đốt,
hai người thường lân la trao đổi với nhau những lời tình tứ kín đáo. Họ thong
dong sung sướng rong dọc theo bờ bưng xanh mướt cỏ non, rải rác nơi này chỗ nọ
vài bông hoa dại thắm tươi màu sắc quyến rủ gọi mời. Trong những giây phút thần
tiên ngắn ngủi ấy, họ cảm thấy xóm làng và cả vũ trụ chung quanh mình dường như
thu hẹp lại. Và chỉ có sự hiện diện của hai người trong hoang vắng đó mà thôi với
những ngọn lửa tình luôn phừng phựt bừng cháy không ngưng trong con tim mỗi người.
Mải
mê trao đổi trò chuyện với nhau, có hôm họ dẫn dắt lạc dần vào những con đường
mòn ngoằn ngoèo ngun ngút, rợp bóng cây xanh, lốm đốm hoa nắng nhảy múa không
ngừng. Trong khi tiếng chim rừng ríu ra ríu rít ca hót, tung tăng không thôi
như chia xẻ đón mừng khách quen bấy nay, giờ đây đã nên đôi nên lứa.
Nhiều
bữa, cả hai kéo nhau ngồi nghỉ tạm ở những gốc bần đã được bà con dùng làm nơi
bỏ cỏ mục ngày mùa. Ở mỗi gốc bần ấy thường có một mô đất khá to, khô ráo.
Có
khi, hai người ngồi im lặng, mặt đối mặt nhìn nhau, đôi mắt long lanh tình tứ.
Họ không trao đổi được một câu nào. Thời gian trong những lúc ấy đối với họ như
ngừng hẳn lại. Và biết đâu trong thâm tâm mỗi người, họ cũng mong muốn được như
vậy để họ không phải xa rời nhau.
Hay họ
đang cần có sự im lặng tuyệt vời đó để được chính mình lắng nghe trong thích
thú tiếng lòng mình thổn thức và để được tận hưởng những giây phút sung sướng hạnh
phúc tràn ngập trong tâm hồn? Hay họ đang thả hồn mình phiêu du trong một thế
giới huyền ảo viễn mơ đầy hạnh phúc thú vị. Nơi đây, trong thần giao cách cảm,
họ đang tưởng tượng và đồng thuận cùng nhau hướng về một cuộc sống lứa đôi ấm
cúng sau này?
Anh Bần
đưa tay ngắt mấy đọt lúa non do những hạt lúa rơi rớt mùa gặt năm trước còn sót
lại đâu đó, giờ này nức mầm mọc nhô lên cũng mạnh mẽ cũng xanh tươi rồi vò nắn
trong tay một cách máy móc. Anh bỗng vói tay hái một trái bần to bằng nắm tay,
dẹp dẹp xanh mộng, đang chờn vờn trước tầm mắt mình. Anh nâng niu một đổi rồi rụt
rè trao tặng người yêu.
Cô Tư
Xinh tiếp lấy, nhoẻn miệng cười thẹn thùng, đôi má ửng hồng e lệ. Ngập ngừng,
cô đưa lên miệng cắn trái bần dôn dốt ấy. Một cử chỉ rất tự nhiên, không hề có
chút gì suy nghĩ. Rồi cô âu yếm nguýt yêu:
- Ối!
bần gì mà chát quá trời! Ăn dở ẹc!
Anh Bần
bẽn lẽn, gương mặt hồng lên, nhẹ giọng vừa đủ nghe:
-
Chát! Thì có chát thật đó! Nhưng lúc
túng quẩn thiếu thốn đói meo, ăn nó với mắm quết, mắm đồng hay mắm biển mặn mòi
đậm đà cũng bắt cơm ghê lắm! Đừng có khinh thường nó nghen! Ở đời chẳng có gì
thừa thãi vô ích cả. Tùy hoàn cảnh mà nó có giá của nó.
Cô Tư
Xinh nhăn mặt cười duyên như để chia xẻ những lời nói hữu lý của anh Bần. Bất
giác, cô liệng trái bần đang cầm trên tay xuống giòng nước cuốn cuồn làm dấy
lên một tiếng "chủm" lạnh lùng để từ đó bắn lên không trung một tia
nước trong vắt. Trái bần bềnh bồng chạm nhẹ vào mấy cây "cặt bần",
lúc nước rặc trơ thân hình xần xùi thon thon đang "rung rẩy" liên hồi.
Anh Bần
thẫn thờ lặng im nhìn những trái bần chín rụng đang trôi lờ đờ đó đây trên mặt
nước, buông xuôi đẩy đưa đưa đẩy về một hướng trời vô định. Có lẽ lúc ấy, anh
buồn buồn thầm nghĩ, anh suy gẫm về thân phận nổi trôi, bồng bềnh của kiếp
nghèo, tựa hồ như một thừa thãi, có mất mát cũng chẳng ai quan tâm để ý tới.
Hôm
nay, thật lạ lùng...
Không
hiểu sao anh lại chăm chú ngắm nhìn mãi dòng sông thân quen trong thinh lặng.
Thái độ này ít khi bắt gặp ở con người tràn đầy sự sống yêu đời của anh. Dường
như anh đang suy tư về tương lai mình, về diễn tiến của cuộc đời qua từng lớp
sóng lăng tăng lướt dưới mắt anh. Những lớp sóng vô hồn cứ tiếp nối để tan biến
tận nơi nào anh không hề biết được...
Trong
cảnh thầm lặng đó, anh bùi ngùi vọng nhớ đến đàn "Ô Thước bời bời"
trong câu ca dao quen thuộc, rồi dựa lưng vào gốc bần, đăm chiêu hồi hướng và
tưởng tiếc giờ phút gặp gỡ hạnh phúc ngắn ngủi của Ngưu Lang Chức Nữ ngày xưa.
Rồi anh bâng quơ hình dung một cuộc chia ly não nùng thống thiết khi cuộc tình bị
cách ngăn cản trở. Một cuộc tình ngang trái bất thành.
Trời
vẫn còn ưng ửng nắng nhưng là cái nắng yếu ớt không đủ sức nóng sưởi ấm lòng
người. Gió lại bắt đầu lành lạnh.
Anh
chợt nhìn thấy mấy con chim nhạn đua nhau bay lượn la đà trước mắt anh. Anh vụt
nhớ đến câu đồng dao của bà con thường dùng để tiên tri đoán thời tiết:
Ruồi vo vo, muỗi vo vo
Chim nhạn bay thấp, mưa
to đến gần.
Nhưng
đã muộn rồi!
Sét
chớp xé ngang chẽ dọc bầu trời từng chập. Ông Trời nổi cơn hầm hừ đe dọa. Mây
đen kịt thôi thúc đuổi bắt nhau làm sẫm đục không gian nhanh chóng. Ở vùng đất
hoang vu này dường như thời tiết đổi thay lúc nào cũng bất ngờ khiến con người
dù có lo xa cũng khó trở tay cho kịp.
Mưa bắt
đầu đổ hột rất nhanh. Càng lúc càng to dần.
Mưa bất
chợt.
Mưa đến
thình lình.
Anh Bần
vội bung áo tơi chầm bằng lá dừa nước. Cái áo tơi này lúc nào cũng được anh cẩn
thận mang theo sát một bên vào mùa mưa. Những cơn mưa cứu tinh mà nhiều lúc bà
con nông dân ngóng cổ trông chờ còn hơn được ai cho mình vàng ròng không bằng.
Dù mùa mưa giờ này cũng đã sắp dứt nhưng anh không bao giờ rời bỏ chiếc áo tơi
trân quý vô vàn ích lợi ấy. Vì anh vẫn ghi nhớ trong đầu óc mình, có những năm
mưa muộn đến rất thình lình và thường lắm.
Anh lật
đật choàng cả hai tạm đục mưa chống lại gió đồng thổi vù vù không ngưng và cũng
để đỡ lạnh. Có tiếng cười khúc khích thơ ngây dồn dập cứ từng chập từng chập
thoát ra từ nơi trú ẩn chật chội thơ mộng ấy. Mặc tình bên ngoài, trời vẫn mưa
dai dẳng nặng hột, cắt khoảng bởi những tiếng sấm chớp liên hồi bưng tai điếc
óc.
**
Hai chiếc
ghe chài lở nối đuôi nhau, màu chai quanh hai bên ghe còn mới toanh, vừa được
neo ghịt chắc chắn ở dạ cầu với cảnh đón rước náo nhiệt tưng bừng của bà con
chòm xóm. Cả năm bảy năm nay hay còn lâu hơn nữa, họ mới được dịp trông thấy
mãn nhãn cảnh lễ hội đông đảo, vui chơi linh đình như thế này nơi xóm Rạch Rít
nhiêu khê cách trở, buồn tênh của tôi.
Quả
thật là một quang cảnh hiếm hoi lạ mắt nơi bến sông với chiếc cầu ván lớn bản,
dầy cui, nặng ì ì bắt từ mũi ghe chồm lên bờ, nhún nhẩy nhịp nhàng theo bước
chân người lên kẻ xuống nườm nượp từ xế chiều. Người xem ngẩn ngơ chóa mắt với
áo quần tân thời, đủ màu đủ kiểu của khách phương xa vừa mới tới, so với bộ đồ
bà ba mốc cời và cái quần cụt tưa lai quen thuộc của họ. Cờ xí với sắc màu rực
rỡ cắm thành hàng dài ngay ngắn trên mui thuyền cứ thi đua nhau tung bay phất
phới theo từng cơn gió đồng. Trên bến, người người lớn nhỏ đứng chùm nhum từng
toán năm bảy người nhưng trăm người như một, đều khấp khởi, nôn nóng hiếu kỳ.
Riêng
đám trẻ liếng thoáng, chằn ăn trăn quấn mới tấn lên mấy năm gần đây, đôi chân
bé bõng trần trụi, tranh chạy cắm đầu cắm cổ, thoan thoát như bay trên các bờ
đê bờ ruộng để sau đó chen lấn nhau đông nghẹt. Có đứa chắc vừa có dịp chứng kiến
tận mắt cảnh người tập hợp đông đảo như vậy lần đầu tiên trong đời của chúng.
Còn
nói gì cái quán lá nhỏ nhắn của Bà Tư ở dưới dốc cầu. Thường ngày, trông nó lạnh
lùng vắng hoe, nhứt là ở những giờ bà con làm việc không hở tay. Nó khoác vẻ nhộn
nhịp, người ra kẻ vào không ngớt chỉ những khi chạng vạng tối, lúc bà con ghé
mua chút ít dầu hôi nước mắm và thức ăn khô mắm cho bữa cơm chiều muộn màng. Giờ
đây, cái quán nhỏ nhắn thân quen và duy nhứt ấy không còn một chỗ trống để chen
chưn.
Ngay
cái khạp nước mưa bà Tư để thường xuyên ở phía ngoài, nơi cửa ngõ dẫn vào quán
cũng cạn queo. Nhiều lần, bà phải ứng tiếng ong óng thúc hối, nhờ người nhà
nhanh chân xách nước mưa châm thêm. Bà thuộc vào thế hệ lớp người trước còn giữ
tục lệ hiếu khách, thảo ăn thảo uống theo truyền thống ông bà xưa lưu lại.
Bà để
cái khạp nước mưa này trước nhà cho khách thập phương lở đoạn đường có nước ngọt
và mát để giải khát. Họ không phải tốn tiền bạc chi cả. Thiên hạ gọi cái khạp
nước đó là khạp nước tích đức. Dù miễn phí nhưng bà rất quan tâm trông nom sạch
sẽ, nắp khạp đậy kín kỹ càng tươm tất.
Đoàn
hát đã đến rùm beng với tiếng trống thình thình... thình thình, thúc giục liên
hồi, văng vẳng xa xa từ mấy giờ trước. Từng chập, tiếng trống báo tin gọi mời ấy
theo gió đồng phất bên tai nghe càng thêm
phấn chấn nôn ruột.
Người
người nóng hơ trông chờ. Họ đứng ngồi không yên. Thỉnh thoảng, họ lấp ló ngoài
hiên nhà hay ở phía sau chòi củi. Họ đăm đăm hướng mắt về phía con rạch duy nhứt,
lạnh lùng cắt ngang xóm tôi làm thành hai ấp thạnh mậu trù phú, rất đồng cân về
diện tích đất đai ruộng vườn cũng như về huê lợi lúa thóc hoa màu. Họ đợi chờ
trong niềm vui hân hoan sung sướng. Và đoàn hát kể từ khi có tiếng trống báo
trước sự có mặt của đoàn, trong chốc lát ngắn ngủi đã bắt đầu trở thành đề tài
thời sự sôi bỏng nhứt ở cửa miệng mọi người.
Không
ai không “cà kê dê ngỏng”, dông dài luôn miệng nhắc tới nó. Ngay cả những người
không hề biết một chi tiết dù ngô ngơ khờ khệch nào hay chỉ võ vẽ nghe phớt qua
đâu đó vài mẫu chuyện về đoàn hát cũng tham gia có ý kiến nọ kia. Người nào
cũng tỏ ra am tường, sành sõi biết chuyện, tranh nhau ăn nói dần lân tưới hột
sen. Một dịp hiếm quý để họ mở miệng ăn nói với xóm làng.
Nhờ vậy,
câu chuyện giữa họ lúc nào cũng thao thao bất tận. Còn việc đúng hay sai, phải
quấy thế nào chẳng ai để ý đến làm gì. Mà công đâu họ để ý đến cho mệt trí.
Trái lại, đa số còn tỏ ra thích thú được tận hưởng những giờ phút hiếm hoi
thanh thản, giúp họ quên đi phần nào cuộc đời lao nhọc, sớm hôm trần thân khổ ải.
Chẳng
mấy chốc, bà con ngừng tay, tạm thời gát hẳn qua một bên mọi việc, nhứt là mấy
đứa nhỏ tinh ranh rậm đám, đổ xô kéo nhau chạy ra coi từng tốp ven theo mé rạch,
cười nói trửng giỡn, kêu réo la ó rùm trời rùm đất. Họ mừng vui như ở những lần
hội hè đình đám, những ngày cúng Kỳ Yên hoặc cúng Miễu Bà trong năm.
Những
người trọng tuổi tỏ ra mình rất sành về chuyện cầm ca múa hát. Họ có dịp lên lớp
đám nhỏ bít bôi, tầm nhìn giới hạn trong phạm vi chật hẹp của thôn ấp. Họ am tường
cả sự nghiệp xướng ca cùng cuộc đời riêng tư thầm kín của từng đào kép rường cột
mà họ đã mê mệt ái mộ tên tuổi từ những tháng năm trước đây. Họ không mệt mỏi,
thao thao làm mê hoặc đám trẻ bù trơ bù trớt nghệ thuật cải lương hay hát bội cổ
truyền. Chúng đứng ngồi chen chúc chung quanh, chăm chú lắng tai nghe, đôi mắt
tròn xoe ngạc nhiên thích thú.
Màn
trướng, tranh cảnh được cuốn tròn cột ghịt ngay ngắn thẳng hàng trên mui hay cặp
theo hai bên thành ghe, không thua gì những ghe thương hồ chở khẩm hàng hóa những
ngày cuối năm rắp Tết. Tiếng thúc hối kêu gọi nhau ơi ới tạo thành bầu không
khí náo nhiệt, sôi động chưa hề thấy ở xóm tôi, vốn dĩ thầm lặng thanh tịnh,
dân tình ổn cư an phận, chí thú làm ăn lập nghiệp.
Mặt
trời sắp phụp hẳn xuống xa xa vào giờ phút này. Từng đàn cò trắng tiếp nối nhau
uể oải bay về tổ để mất hút nơi chân trời. Ráng chiều lấp lánh lung linh trên
dòng nước hiền hòa trong vắt đang chảy chầm chậm với những dề lục bình mướt
xanh bắt đầu tranh đua nhau bám vào lường ghe như để tạm nghỉ một thời gian sau
chuyến hải trình phiêu lưu bất tận.
Ở sau
lái ghe, một bà đứng tuổi, miệng nhai trầu không ngớt, đang loay hoay nơi sàn
cây chật chội vừa đủ diện tích một chiếc chiếu cổ là cùng. Bà chổng mông thổi lửa
rồi liền tay quạt xành xạch xành xạch... để nấu một nồi cơm chiều to tổ chảng.
Thỉnh thoảng bà gie đầu ra khỏi be ghe, phẹt nước bả trầu đỏ lườm lườm xuống
dòng nước rồi đưa ngón tay trỏ và ngón cái vuốt một vòng môi tròn vo từ phía
trên xuống dưới nhanh gọn.
Cái nồi
đen xì, bụng ỏng phồng to còn lớn hơn nồi cơm nấu công cấy ăn ngày mùa nơi nhà
ông tôi. Nó được ghịt chặt chắc chắn bằng nhiều nuộc kẽm để giữ thăng bằng trên
lò cà ràng mỗi khi có giông to gió lớn, ghe lắc lư chồng chành. Màu đen mượt của
nó đã chứng minh một cách hùng hồn nó đã được tận dụng khá nhiều năm trong kiếp
sống sông nước, giang hồ lang bạt của đoàn hát.
Hoạt
cảnh ấy được tăng thêm nhờ sự hiện diện của hai ba con chó cỏ, vàng có vá có, bụng
thon thon mạnh khỏe với cái đuôi cong vòng hướng ngược ra phía trước. Tuyệt
nhiên không có con nào lỏ đuôi cả vì chủ nhân cũng dư biết rằng chó lỏ đuôi là
loại chó phản chủ.
Dường
như chúng nó cũng đói bụng lắm hay sao nên không dứt chạy tới chạy lui, lăng
xăng lích xít từ đầu mũi đến cuối lái. Chúng nó rất tài tình vì quá quen thuộc
đường đi nước bước lắt léo trong cái khoảng chu vi quá tồi túng chật hẹp của
sàn ghe. Chúng hí hửng tỏ ra khéo léo tránh né mấy cái khạp bể miệng được bầu
gánh dùng trồng rau thơm đủ loại nhằm gia tăng hương vị những buổi cơm tập thể,
đạm bạc nhưng thân tình. Thỉnh thoảng chúng ngóng cổ chăm chú nhìn khán giả
đang lóng nga lóng ngóng trên bờ sông và sủa mấy tiếng bâng quơ chiếu lệ như để
làm vừa lòng chủ.
Lũ trẻ
rậm đám, mình trần trùn trục, giương to đôi mắt tò mò ngạc nhiên, mải mê theo
dõi bất động sanh hoạt lạ lẫm và lý thú ấy. Cả những bực trưởng thượng, gần đất
xa trời trong tuổi chiều hôm ướm rụng vẫn bệ vệ chống gậy thập thò đứng xem dọc
theo hai bên bờ rạch, ở những đoạn lưa thưa nhà cửa hoặc ngay trên thành cầu.
Đoàn
hát đến xóm là một tin chấn động còn hơn những ngày ông Hội đồng vào tận nơi
đây thăm ruộng, thăm trâu, kiểm tra điền đất, ghé mắt xem gia cảnh của tá điền
để an tâm về việc đong lúa mướn cuối mùa gặt... Hay những lần Thầy Cai Tổng bất
thần đến viếng Nhà Việc. Vì theo họ, cả năm bảy năm hay mười năm tới chưa hẳn
đã có một đoàn hát đến trình diễn lần nữa.
Ông
Hương Thân Xéo, con người lịch lãm, từng ngao du đi đây đi đó, biết nhiều chuyện
bên ngoài lũy tre quê hương, còn đoan quyết các gánh hát đình hát miễu bây giờ
làm ăn khó khăn lỗ lã, xuống dốc thảm thương. Thời buổi nhiêu khê khắc nghiệt,
làm ăn trậm trầy trật vuột, khán giả càng ngày càng hiếm hoi. Họ đắn đo cân nhắc
khi bỏ tiền mua vé xem hát nên các gánh nghèo rã dần dần gần hết. Còn lại lưa
thưa không bao gánh, dở sống dở chết, sống cầm hơi qua ngày không biết đến năm
nào. Những đại ban làm thế nào đến vùng khỉ ho cò gáy này được. Do vậy, đối với
ông, hôm nay cái quý là ở chỗ hiếm hoi đó. Và nỗi sung sướng của bà con là sự
trông chờ ngóng đợi của mình đã đạt thành.
Trưóc
đó, khi bà con nghe đồn phong thanh sắp có đoàn hát về làng, hầu như mọi người
đều đợi chờ từng ngày một. Hình như tất cả đều thống nhứt ở cái ý đó trong âm
thầm. Họ mong sao cho mau đến ngày ghe hát bỏ neo để được dịp nghỉ ngơi và
chưng diện. Họ sẽ cùng nhau khoe khoan ăn mặc đồ ngộ ngộ như trong những ngày
tư ngày Tết.
Hơn nữa,
đối với họ, đây là một cơ hội ngàn vàng, trong đời người chẳng được mấy khi, để
họ thoải mái, gặp gỡ vui chơi và tha hồ xem hát đã đời cho sướng con mắt. Họ được
dịp gát qua một bên những ưu tư lo lắng cũng như bao nhiêu lao nhọc của nghề
nông mà định mệnh đã gắn liền với họ ngay từ thuở mới biết bập bẹ và tập tành đứng
chựng. Vì có người đã ngủ gà ngủ gật được mẹ đèo sau lưng mỗi khi đi cày lúa
ngoài sân phơi.
Nhứt
là đám trai gái trẻ vào tuổi cặp kê mộng mơ, háo hức rậm rật hơn ai hết để mặc
tình đánh đôi đánh đọ, bẹo hình bẹo dạng, cặp đôi cặp ba làm duyên làm dáng. Thật
tình mà nói, chỉ có đoàn hát mới có sức mạnh quyến rủ được họ như thế chớ trong
thực tế, họ có bao giờ huỡn đâu mà đi rong chơi lãng phí thì giờ hữu ích.
Có
người ở tận những thôn ấp xa xôi, gia đình chả dư giả gì vì tài sản đáng kể nhứt
của họ chẳng có là bao. Chỉ một ngôi nhà lá ọp ẹp với phênh vách bằng tre đan,
níu kéo ép vào nhau như nương tựa để chống chọi mưa gió. Chỉ một xẻo vài sào ruộng
xấu ơi là xấu, nơi vạt đất mà bà con đa số đều chê rậm rề, không hề có can đảm
thọc chưn thọc cẳng tới.
Nơi này, hằng năm lúa thóc mọc
lưa thưa như tóc còi cộc của các ông các bà gần đất xa trời. Chỉ duy nhứt một
chiếc xuồng ba lá rĩ nước ro re, khi qua sông qua rạch, chủ nhân một tay phải
bơi cật lực còn tay kia không ngớt tát nước xột xạt xột xạt... liên hồi. Ấy vậy,
họ vẫn để tâm chuẩn bị chu đáo. Họ lo xa kéo chiếc ghe lên bờ trét chai kỹ lưỡng
từ bao nhiêu ngày trước. Họ chuẩn bị như vậy để không bỏ lỡ dịp hợp mặt ý nghĩa
này.
Cái rạp
hát cũng khá hi hữu. Nó là câu chuyện đầu môi của nhiều người từ trong tháng
nay. Trông nó có vẻ kinh dinh đồ sộ và dĩ nhiên cũng hấp dẫn lắm. Một công
trình mỹ thuật nhà vườn qua bàn tay khéo léo của những nghệ nhân dân gian không
tên không tuổi nhưng làm được việc nhờ thừa hưởng kinh nghiệm của những người
đi trước.
Các vị
này chỉ thi thố trổ nghề không công trong những dịp họp mặt hiếm hoi cần đến họ.
Nhiều người đoan chắc cho rằng lớp các vị có "tay nghề" hiếm hoi này
nếu chẳng may theo ông theo bà, thảnh thơi đâu đó nơi vùng miên viễn huyền bí,
sau này dù bà con trong làng trong tổng có gia công trì chí đến đâu, có đi mỏi
gối lùn sụt tìm kiếm đỏ con mắt cũng không thể có một người nào khả dĩ có thể tàm
tạm thay thế họ được.
Rạp
hát nằm gọn trên sân phơi lúa khang trang thênh thang của ông Ban Biện Buôi. Nó
được hoàn tất rất nhanh chóng, chỉ sau ba buổi chiều nhờ bà con chòm xóm phụ
nhau, tận lực góp công góp sức. Ngày nào họ cũng hò hẹn cùng đến làm việc bất kể
nắng mưa gió mái cho mãi đến khuya lơ khuya lắc mới ưng chịu chia tay.
Rạp
hát tạm bợ đôi ba ngày vài ba đêm này tuy không được trang trí hoa hoè, sặc sỡ
đắc tiền nhưng cũng chắc chắn vững vàng với cái sạp bằng ván bổ kho dày một hai
phân tây, vừa rộng rãi, vừa cao ngang tầm rún. Rạp trông cũng quyến rủ đẹp mắt
lắm với sóng lá dừa tươi và những nhánh đùng đình đủng đỉnh mượt mà tua tủa, bỏ
thỏng cong oằn xuống lưng chừng rạp.
Thêm
vào đó còn có mấy chậu men Biên Hòa của ông Ban Biện và ông Hương Sư, nhại theo
na ná kiểu của Tàu, đầy hoa văn với bông hoa tươi tắn đủ màu sắc. Những chậu
này được sắp xếp đúng vị trí phía trước và hai bên rạp. Vừa đẹp vừa hài hòa giữa
những đường nét và dáng thể của cây cảnh và kiểu chậu đắc tiền, tạo thành một bối
cảnh thiên nhiên thơ mộng, rất gần gủi với cảm quan và đôi mắt ngắm nhìn của bà
con chơn quê trong xóm. Đây cũng là dịp để các ông khoe giàn kiểng kim quít mà
các ông đã bỏ không biết bao nhiêu thì giờ và công sức để uốn nắn chăm sóc hằng
ngày.
Trước
rạp là cả diện tích cái sân phơi lúa mênh mông của ông Ban Biện đã được ông cho
gia nhân giúp việc tráng bằng phẳng từ cả tháng nay với phân trâu pha loãng trải
mỏng trên mặt sân. Một phương cách truyền thống nhưng hiệu quả của nông dân
vùng khỉ ho cò gáy. Mấy con nắng đổ lửa toé hào quang nối đuôi nhau làm cho nước
phân trâu mau khô, quyện trên mặt sân thành một dề cưng cứng, lắp bít những lỗ
hang lớn nhỏ. Cát bụi không bị gió đồng cuốn bay mịt mù trời đất nữa.
Bây
giờ cái sân phơi lúa rộng thênh thang đó được dùng làm rạp hát lộ thiên. Tiện
nghi tối thiểu so với phương tiện hạn hẹp ở thôn quê hẻo lánh. Nơi đây nhiều
lúc con người buồn đến thắt gan thúi ruột. Vì một lẽ rất dễ hiểu là bà con
không có phương tiện giải trí thích nghi. Rạp lộ thiên coi vậy mà mát mẻ, khoảng
khoát. Có gió hiu hiu làm cho con người thêm phấn chấn, sản khoái dễ chịu.
Dừa
cau ngất nghểu bao quanh, chen lẫn có những dãy chuối già lùn lớn nhỏ, tàu lá
xanh tươi mơn mởn, dù mọc không thành hàng lối chi cả. Tận gốc vườn, mấy cây
trâm sai trái và vài cây me ngọt sum xuê, quanh năm quến chim chóc ríu ra ríu
rít, trong ngày ca hát không bao giờ ngưng.
Ông
Ban Biện ra vào, tới lui ngắm nghía. Ông tỏ vẻ bằng lòng ưng ý lắm. Ông hãnh diện
là khác. Khi ông so sánh với những rạp hát ở các tổng lân cận hay ngay cả ớ quận
lỵ.
Thường
thường những rạp này là nhà lồng chợ, đêm đêm được bầu gánh cho bao bọc kín mít
bằng những tấm vải bố tạp nhạp sẫm màu với đầy đủ kích thước. Chúng được dùng
lâu năm mà chủ nhân chẳng có phương tiện tài chánh để thay thế kịp thời. Nhiều
chỗ chấp vá lung tung. Đôi khi còn chằng khíu vào giờ chót cho kịp giờ mở màn.
Do vậy, về khuya, lúc các nhân viên trật tự uể oải mỏi mệt, đâm ra chểnh mảng,
đám trẻ tinh ma lém lỉnh của chốn chợ búa thị thành hùa nhau khoét những lỗ chó
vừa đủ để chui vào xem hát cọp.
Khách
xem chật nức như nêm. Họ chen lấn, tranh giành nhau đứng nhón gót ngóng cổ tận
cửa ra vào, đẩy cả hai anh chàng xét vé ốm tong teo như tre miễu lọt tuốt ra
phía ngoài. Đêm đêm, khí trời lại oi bức do nóc nhà lồng chợ đa số đều lợp
"tôn". Hơi người xông lên khó chịu thiếu điều nghẹt thở.
Khán
giả ở những hàng ghế danh dự phía trước sát sân khấu hay ở những dãy hạng nhứt
hạng nhì, dù chỗ ngồi có đánh số hẳn hòi vẫn phải cụ bị quạt giấy, quạt mo. Họ
cứ quạt phành phạch... phành phạch liền tay. Ấy vậy, mồ hôi mồ kê vẫn tươm da
rít chịt rất khó chịu.
Khi
so sánh như thế, ông Ban Biện Buôi rất vui về cái rạp tự chế của mình. Ông thuộc
lớp người tiên phuông bồng chống đi khẩn hoang lâu đời nhứt ở vùng đất ráo hổi
này. Bây giờ cơ ngơi của ông đã đạt quá xa cái mức vững vàng thịnh mậu. Tài sản,
nhà cửa, đất đai, ruộng vườn, của chìm của nổi của ông rải rác khắp nơi. Mỗi chỗ
một ít. Đó là chưa kể những gì ông đã cho con cái đứng tên làm của riêng để mỗi
đứa có điều kiện phát triển lập nghiệp.
Dư tiền
thừa của, giàu sang phú quí chưa hẳn đủ đối với quan niệm sống của ông. Ông cần
phải có tiếng tăm, chức tước phẩm hàm để tiếng nói của mình thêm phần hiệu quả,
nặng cân nặng kí. Theo cách suy nghĩ đó của ông, nếu được vậy, bà con mới trọng
kính, nễ vì ông hơn.
Ông
chạy chọt mua được chức Ban Biện từ non thập niên nay và tỏ ra thỏa mản với cái
danh vị đó. Những khi trà dư tửu hậu, ôn cố ngoái nhìn lại dĩ vãng, ông tự gẫm
về thân phận mình. Ông rất chân thành với chính bản thân ông. Ông nhìn nhận sức
học lỏm bỏm không tới đâu của mình do lúc nhỏ sớm lao vào chốn rừng hoang tiếp
tay cùng với mẹ cha khai phá quần quật.
Giờ
đây, giá nếu may mắn được nhà nước tín nhiệm giao cho một chức vụ nào khá quan
trọng hơn, ông liệu chắc cũng không kham. Dù ham muốn danh vọng nhưng ông biết
dừng lại ở nơi đáng phải dừng. Lý do là ông sợ mình ôm đồm quá mức đối với khả
năng, ông sẽ chỉ làm trò hề cho thiên hạ, bia miệng thế gian mà thôi.
Ban
Biện là một chức như phó Cai Tổng, chịu trách nhiệm giám sát một số làng không
mấy quan trọng về huê lợi, thuế má nhưng liên ranh nhau. Những làng dưới quyền
điều khiển trông coi của ông thuộc những làng mới thành lập, còn nhiều đất đai
hoang vu, nhà cửa le hoe cụm năm cụm bảy, người thưa ít chuyện. Dân tình lại chất
phác, chí thú bám ruộng bám vườn làm ăn sinh sống, không hề có vấn đề tai tiếng
phiền hà.
Ông rất
thảnh thơi, nhàn nhã. Người ta thường thấy ông mang bên vai kè kè cây súng hai
nòng đi săn chim nơi các rừng chồi hay bàu cá. Đôi lúc trong thâm tâm, ông nghĩ
sự hiện diện của mình trong chức vụ chăn dân ấy cũng bằng thừa.
Nhưng
có một điều là lúc về già như "chuối chín cây", ông không còn
"ăn mắm húp giòi", "vắt chày ra nước", co ro bòn xẻn, cò ke
từ đồng xu cắc bạc như khi bươn chải tạo sự nghiệp cách đây mấy thập niên. Trái
lại, ông trở nên phóng túng, rộng rãi hơn trong quan hệ với chòm xóm.
Ông
biết cảm thông nỗi buồn và sự vất vả khó nghèo của bà con bất hạnh. Ông hay
giúp đỡ người nầy người nọ nên trong thôn ấp rất có cảm tình. Đám nhỏ mới nhỏm
giò không được bao nhiêu năm, chưa từng biết một tý gì về quá khứ của ông, đều
đồng thanh gọi ông là ông già hào sản chịu chơi, sáng rực tình người.
Hôm nay, ông làm lễ vu qui
cho đứa con gái út. Ông quyết tâm mời cho bằng được đoàn hát cải lương đến
trình diễn liên tiếp ba đêm liền để bà con trong xóm thưởng thức thả giàn. Tức
nhiên, họ không phải tốn một đồng xu cắt bạc mồ hôi nước mắt để mua vé vào xem.
Bảy tám năm trước đây, khi cưới vợ
cho đứa con trai trưởng của ông, Hai Phú, ông không thực hiện được ý định và giấc
mơ này của mình. Ông thất vọng lắm vì ông cũng thuộc hàng yêu mê yêu mệt, yêu
chết yêu sống bộ môn nghệ thuật lâu đời là hát bội. Ông cũng thích ra tỉnh quận
xem cải lương những khi nghe tin có những đại ban đáo đến đây.
Ông bầu gánh Sáu Ruộng thối thân vốn
là một tay lang bạt phóng túng, tứ chiến giang hồ nhưng sau một thời gian chộc
trời khuấy nước, ông hồi tỉnh ăn năn, dừng bước xuống tóc đi tu. Nhưng khốn
thay, ông không có căn tu để khổ hạnh trường chay, thanh lọc tâm hồn trong gian
khổ. Ông phá giới không lâu sau đó rồi tiếp tục vướng mắc nợ đàn bà. Hết người
này đến người nọ không biết bao nhiêu lần làm cho ông chán ngán tận xương tủy.
Cuối cùng, ông đứng ra lập gánh hát đi lưu diễn ở các làng mạc xa xôi cách trở.
Cứ như vậy, ông bềnh bồng trên sông nước, không nơi ổn cư như cuộc đời giang hồ
rày đây mai đó không ngày mai trước đây của ông.
Khán giả thường gọi là ông là ông
Vua Ruộng. Lý do là lúc này ông có tuổi, kém sức khỏe, thêm giọng lại khàn khàn
nên ông chuyên đóng vai hoàng đế ở những tuồng Tàu mà bây giờ người trong nghề
văn vẻ gọi là tuồng cổ như Trảm Trịnh Ân, Phụng Nghi Đình, Xử Án Bàng Quý Phi,
Lữ Bố Hý Điêu Thuyền, Mổ Tim Tỷ Can...
Lúc ấy, ông Bầu bị kẹt ngày. Ông đã
có người bao mua giàn cả một hai tháng trường đi lưu diễn các nơi xa. Ông đành
phải chối từ lời thỉnh cầu của ông Ban Biện. Ông lúng túng sợ mếch lòng ông Ban
nhưng thúc thủ không biết làm sao khác hơn. Trường hợp này cũng thường xảy ra lắm.
Và những lần đó, ông khổ tâm vô cùng vì đã thất bại trong việc làm đẹp dạ đẹp
lòng tất cả mọi người đã quan tâm thương nghĩ, tưởng nhớ đến ông.
Nay ông Ban Biện mới thực sự toại
nguyện. Giấc mơ trân quý của ông đã thành sự thật. Nhơn dịp này, ông cũng muốn
phô trương thinh thế, khoe khoan sự giàu sang sung mản của ông, kết quả của cuộc
đời phiêu lưu lập nghiệp nơi hoang vu cùng cốc sầm uất, đèo heo hút gió này. Thứ
nữa, ông có ý muốn khuyến khích đám trẻ hậu sinh. Nhứt là đứa con trai trưởng của
ông, Hai Phú, sẽ noi theo gương ông mà phát tâm làm việc, cần kiệm khắc phục vất
vả khổ cực, năm dài chày tháng cũng sẽ có ngày nở mày nở mặt rỡ ràng như ông vậy.
**
Buổi hát đầu tiên được khai
mạc trọng thể nhưng vẫn không rườm rà quá trớn. Ít lời mộc mạc ngắn gọn của ông
Ban Biện với bà con cô bác. Và đây cũng là dịp để ông cám ơn ông Bầu Sáu Ruộng
cùng toàn thể nhân viên lớn nhỏ trong đoàn hát, đã chịu khó lặn lội đến phô diễn
tài nghề, cống hiến nghệ thuật cầm ca hát xướng tận nơi xứ muỗi mồng đĩa vắt buồn
tênh của ông.
Sau mấy tràn pháo tay bôm bốp ầm
vang như để biểu đồng tình của bà con khán giả thôn nhà, ông không quên nhân đó
ví von nhắn khéo với một vài bà con tuổi sồn sồn và nhứt là đám trai gái trẻ rậm
đám thuộc thế hệ hậu sanh mới nhổ giò tấn lên. Ông nhắc nhớ họ không nên lân la
cà rà, chọc đào phá kép mà mang tai mang tiếng. Làm như vậy sẽ nêu gương xấu
cho cả một xóm, vốn có dây mơ rễ má liên hệ chằng chịt với nhau.
Qua giọng đanh thép, ông nhấn mạnh với
mọi người, một tiếng thơm cả làng xóm được thơm lây. Trái lại là điều bất hạnh
nhứt, không thể chấp nhận và tha thứ được.
Ông nói một cách chân thật chí tình:
- Mình quê mùa ở xóm khỉ ho cò gáy,
chó ăn đá gà ăn đất mà có thể thống mới quý.
Rồi ông nhoẻn miệng nói tiếp:
- Qua ba đêm hát vui chơi thả giàn
này, đoàn hát sẽ nhổ neo đi nơi khác vì ở đời có đến phải có đi, có sum hợp ắt
sẽ có lúc chia ly theo lẽ đương nhiên của trời đất. Chẳng có gì mới mẽ cả.
Nhưng tôi mong rằng, khi đoàn hát nhổ sào tách bến nhà, bà con kiểm điểm nhân mạng
xóm mình, sẽ đầy đủ, không thiếu một mống nào cả. Nghĩa là sẽ không có người
nào cuốn gói lặng êm rời bỏ xóm mình trốn theo vua quan, quân hầu võ sĩ hay bà
hoàng bà chúa, cung phi mỹ nữ nghe bà con!...
Cả rạp cười rùm trong tiếng vỗ tay
rơm rớp kéo dài khá lâu.
Rồi ông hóm hỉnh:
- Làm hoàng hậu, thứ phi hay phò mã,
tể tướng... không phải dễ gì đâu nhá. Đừng có dại dột mà mơ ước xa vời để thất
vọng não nề đến đổi ông trời cứu cũng không nổi. Còn làm vợ quân hầu võ sĩ hay
làm phu quân của cung phi, tỳ nữ thì đêm đêm liệu có chịu đói dài dài, bụng dạ
xếp ve... hay không? Xứ mình mưa gió bất thường lắm, rạp sẽ có đêm vắng hoe như
chùa bà đanh! Ông Bầu giúp cho nồi cháo trắng với củ cải muối là quý rồi đó!
Lại có tiếng vỗ tay vang dậy cả góc
vườn đêm thanh trăng sáng vằng vặc. Vài tiếng lẹt đẹt trễ tràn gây một trận cười
vô tư thoáng qua. Kế đó, màn từ từ... từ từ kéo lên, tiếp ngay sau mấy tiếng cộp
cộp... cộp cộp... cộc lốc do ông Bầu Sáu Ruộng trịnh trọng lấy cây song hồng ở
nhà trên ông Ban Biện dện mạnh xuống sàn cây.
Bà con vẫn tiếp tục nói cười kêu gọi
ong óng từng chập. Nhứt là ở hướng phía sau sân phơi lúa, đám trẻ rửng mởn, thừa
cơ hội đông người, ẩn núp đâu đó bên liếp mía vòng khoai trêu ghẹo chọc phá
nhau không ngớt.
Có người biết chuyện lớn tiếng bảo mọi
người hãy im lặng vì lúc ấy chẳng ai nghe được một lời nào của anh kép cà nhom
teo nhách, gió thổi muốn bay, ốm yếu sát ve như con mực phơi khô trúng nắng.
Anh ta đang ráng gân cổ, lấy hơi lên... giáo đầu tuồng. Người khác than phiền,
rang rảng trách cứ ra mặt. Dù họ đã đến rất sớm, từ hồi xế chiều, tìm được một
chỗ ngồi tốt, sát sân khấu không hơn năm bảy hàng ghế, cũng chẳng hiểu một chữ
để biết anh kép nói những gì.
Xuất hát đêm đầu tiên diễn vở
"Chiêu Quân Cống Hồ", một tuồng tích quá quen thuộc của hai bộ môn
hát bội và cải lương lưu diễn. Tuy bà con tôi lam lũ ít học thực sự, chữ nghĩa
chẳng bằng lá me lá mít, nhưng họ cũng biết nội dung các vở ấy nằm lòng. Nhờ vậy
mà sự cảm thông với các diễn viên và sự cảm thức tình huống éo le trắc trở trên
sân khấu càng thêm đậm đà thấm thiết hơn.
Mấy tay thầy tuồng cùng mấy ông chủ
gánh bầu tèo rất sành tâm lý và cảm quan của bà con khán giả nông thôn, nhứt là
hạng khán giả ở những bản làng thôn ấp hẻo lánh cách trở. Họ cứ nhai đi nhai lại
mãi những tuồng tích cũ mèm. Giá nếu năm bảy năm hay mươi năm sau, họ có đáo lại
xóm Rạch Rít hắt hiu này của tôi, chưa chắc họ sẽ giới thiệu, cống hiến tuồng
tích mới.
Đã đành như vậy. Nhưng nhiều khi
trong những dịp được địa phương trọng vọng, đãi đằn thù tạc trong tinh thần cảm
thông và hiếu khách, bầu gánh hay than thở, phân trần về những bế tắc khó khăn
của nghiệp xướng ca mà một đời họ đã gắn chặt, không bao giờ có thể rứt ra được.
Gánh hát không được Tổ đãi, thường ế giàn, nhứt là vào mùa mưa kéo dài dây dưa
bất tận.
Cả đoàn phải xúm xít, chia xẻ với
nhau miếng ăn thúc uống, sống cầm hơi được đêm nào hay đêm nấy. Vì vậy, đoàn
hát có tiền đâu dư dả để mua thêm tuồng tích mới? Đã lỡ mang nghiệp vào thân
thì đành nhắm mắt cắn răng đeo đuổi theo nghiệp chớ biết sao đây. Thôi thì cũng
đành cam chịu sướng khổ buồn vui với nghệ thuật vậy.
Ông Bầu Sáu Ruộng chẳng đã từng thở
vắn than dài:
- Già rồi, sắp theo ông theo bà, đôi
mắt kém lem nhem, lại tắt tiếng cụt hơi. Tôi đâu còn sắc vóc và hơi hướm như
ngày xưa nữa. Nhưng ở nhà ngồi chèo quoeo co rúm, ngày ngày cứ ngã lưng trần
trên ván ngựa mát lạnh, nằm nướng dây dưa buồn chán không gì bằng. Tôi nhớ
đình, nhớ miễu, nhớ Nhà Hội, nhớ nhà lồng chợ quê, nhớ tiếng đờn tiếng trống,
nhớ lời ca giọng hát, nhớ bạn bè con cháu quấn quýt nương tựa trong gánh, nhớ
khán giả quý yêu, một mực trung thành ủng hộ...
Giọng nói ông thêm u ẩn trầm buồn:
- Cho nên dù có đóng vai vua, mỗi tuồng
ngồi trên bệ ngọc sơn son thếp vàng óng ánh, nhìn hai hàng bá quan văn võ, áo
mũ xuê xang, cung nghinh bẩm báo để chớp lòe năm bảy phút ở mỗi vở tuồng, được
như vậy cho đến cuối đời là quá vui lắm rồi. Sung sướng, hạnh phúc là khác. Có
chết cũng chết trong mãn nguyện. Nhứt là khi được chết trên sân khấu, dưới ánh
đèn hay dưới bàn thờ Tổ nghiệp. Còn ước mơ nào bằng!
Do đó, ông cứ vẫn dùng những đề tài
cũ rít ấy, vẫn "bổn cũ soạn lại", chẳng cần thêm thắc chi cả. Có
chăng là thay thế những đào kép luống tuổi, bị thời gian phũ phàng đào thải bằng
lớp trẻ tươi mướt, có vóc dáng quyến rủ khêu gợi với làn hơi phong phú, ngọt lịm
gây mê.
Vả lại, bà con khán giả quê mùa tuy
không sành điệu nhưng cũng thường xác nhận xem như một "chân lý" bất
di bất dịch. Dĩ nhiên cái "chân lý" ấy có chứng minh hẳn hoi qua sự
thành công trong thu nhập ở từng xuất hát hằng đêm. Một đoàn hát xem như được thành
công rực rỡ phần lớn là ở nghệ thuật trình diễn, ở tài năng sắc vóc và ở kỹ thuật
hóa trang của từng diễn viên trên sân khấu, chớ tuồng tích chưa hẳn là yếu tố
quyết định.
Mà quả vậy.
Tuồng tích dù xưa cũ, dù đã được diễn
đi diễn lại nhiều lần nhưng một khi hội đủ những điều kiện tiên quyết trên đây
vẫn ăn khách, vẫn chiếm được cảm tình nồng hậu, vẫn chinh phục được sự mến mộ của
khán giả như thường.
Buổi trình diễn đầu tiên hôm ấy bỗng
nhiên có một trở ngại rất bất ngờ nhưng khá lý thú. Mọi người đang chăm chú im
phăng phắt hướng về sân khấu sáng rực nhờ bốn cây đèn "măng sông"
treo lủng lẳng ở bốn góc rạp mà thỉnh thoảng trùm Hưng nhảy phốc lên sân khấu lấy
xuống từng cái, hấp tấp bơm cốc cốc... cốc cốc... liên hồi.
Thình lình, chú Tư Râu cũng nhảy lên
sân khấu, te te đi thẳng một mạch đến cái ghế đẩu chỗ Mao Diên Thọ đang ngồi bệ
vệ, ăn nói trái tai, nghênh ngang tự đắc. Chú mạnh tay phóng cho anh ta một tác
tai nhoáng lửa đổ hào quang trước sự ngạc nhiên dửng dưng của bà con khán giả.
Sự việc xảy ra trong chớp nhoáng trong khi khán giả chưa có một phản ứng thích
nghi nào.
Bình thường chú Tư Râu rất dịu dàng,
dễ thương dễ mến. Chú ăn nói nhỏ nhẹ lễ phép với dáng đi lom khom bẩm sinh, rục
rè cố hữu. Giờ đây, cái dáng thể đặc thù ấy của chú như biến hẳn đi đâu mất hút
rồi. Chú tỏ ra nhanh lẹ hơn, dỏng dạt và dứt khoát hơn. Chú làm cho bà con ai
ai cũng lạ về thái độ trái ngược ít khi bắt gặp nơi chú.
Ông Ban Biện trang trọng trong bộ áo
dài đen mượt mà và đôi giày hàm ếch bóng láng đang ngồi ở hàng ghế danh dự sát
sân khấu. Ông nhanh chân phóng lên kéo lôi chú Tư Râu trở xuống vừa cự nự vừa
phân giải:
- Bây làm gì bậy bạ vậy? Hành động bốc
đồng tắc trách của bây khó coi lắm. Người ta sẽ nói mình kém văn minh dù mình
thực sự ở nơi quê mùa. Bây không nễ mặt tao chút nào cả. Vuốt mặt phải nễ mũi
chớ!
Tiếng ông nghe trong ấm rõ ràng
trong cảnh xầm xì lao xao đông người:
- Bây làm tao rối tinh rối mù lên.
Chỗ bà con đủ mặt, lại có cô bác lớn tuổi nữa, thật đáng chê đáng trách vô
cùng. Mất vui hết!
Ông tiếp lời như thể can gián:
- Bây sao nóng tánh và hời hợt quá!
Sân khấu hát tuồng hát tích chớ sự thực đâu mà bây nổi nóng lên như vậy?
Ông lập lại một lần nữa những lời
ông vừa phát biểu như để nhấn mạnh về hậu quả tai hại của việc làm thiếu suy
nghĩ của chú Tư Râu:
- Rõ ràng tao coi không được chút
nào cả. Không khéo mình mang tiếng vũ phu đối với giới cầm ca xướng hát, yếu đuối
còn hơn bún thiêu! Bây không sợ tiếng người khinh miệt, làm mang tai mang tiếng
cả xóm làng mình sao?
Chú Tư Râu vẫn dùng dằng, trì kéo, dẩy
nẩy mãi như chưa tán đồng những ý kiến xây dựng và ôn hòa của ông Ban Biện. Một
đổi sau, trùm Hưng lại nhảy lên sân khấu tiếp tay xóc nách chú dìu ra sau hậu
trường.
Đào kéo bắt đầu diễn tiếp trong khi
chú Tư Râu vẫn còn oang oang không dứt:
- Tôi bực mình lắm! Bực mình ngay từ
lúc nó vẽ tiều vẽ quảng, không có trách nhiệm gì ráo trọi. Người ta đẹp như
Tiên Nga dáng trần, như Hằng Nga xuống thế. Tôi từng đọc nhiều pho truyện Tàu
chương hồi còn bắt mê mệt, hết hồn hết vía mà nó vẽ còn hơn Chung Vô Diệm lúc
chưa lột xác. Xấu ơi là xấu. Bây giờ, nó lại giở thói ăn đút ăn lót trắng trợn
giữa thanh thiên bạch nhựt, giữa đông đủ mặt bà con mình nữa. Nó thật quá quắt
lắm. Có gan trời mới dám làm như nó. Thật trái tai chướng mắt. Để vậy chẳng được.
Tôi chịu không nổi.
Tiếng chú tiếp tục cự nự, phân trần
không dứt nơi cánh gà:
- Nó khinh rẽ bà con mình quá trớn
mà! Dù nghèo nhưng mình cũng đường đường như ai, cũng biết phải quấy, tốt xấu
chớ. Phải cho nó một bài học làm người đích đáng để nó nhớ đời.
Im lặng không được bao lâu. Bà con lại
nghe tiếng chú:
-
Mình quê mùa ít học thật nhưng đó là chuyện riêng tư của mình. Còn đạo đức lúc
nào cũng phải được coi trọng. Làm gì thì làm. Con người ta sống phải có nhân
cách, có đạo đức, phải có nhân có nghĩa, có trước có sau, có thủy có chung. Phải
có cái tâm lành, biết tôn trọng lẽ phải và sự thật. Không có gì quý giá so sánh
bằng. Dù là vàng ròng, bạc rương cũng không thể bì được. Người mà không có đạo
đức, cho dù ở địa vị nào cũng kể như vất bỏ đi. Không xứng đáng làm người.
Qua
đêm thứ hai diễn vở "Quan Âm Thị Kính", vở tuồng ruột của đoàn hát, vở
tuồng đã từng đưa tên tuổi đoàn lên tận đỉnh cao của nghệ thuật cầm ca ở khắp
vùng lưu diễn. Bà con trong xóm kêu réo, hú rủ nhau lần lượt kéo đến xem đông
hơn. Nhứt là bà con trọng tuổi đến chật cả sân phơi lúa thênh thang của ông Ban
Biện. Họ hy vọng đào kép chọn lọc sẽ diễn cụp lạc xuất thần hơn đêm rồi.
Nhiều
người chen nhau đứng lóng nhóng ở tận mấy liếp mía huyết mới nhú trổ cờ đó đây
hay mấy vồng khoai mỡ sung tươi kế bên. Đề tài tuồng tích này đã ăn sâu bám rễ
vào tận trong cốt tủy của bà con từ xưa. Ai mà không xem qua, ít ra cũng một lần
trong đời mình?
Buổi
trình diễn được bà con trang trọng theo dõi. Lúc ông Vua Ruộng chưa kịp dứt mấy
tiếng cốc cốc... cốc cốc... khô khan trên sân khấu, báo hiệu sắp mở màn thì mọi
người không ai bảo ai bỗng nhiên lại im re phăng phắt. Họ tập trung, dáng đôi mắt
sáng ngời chờ đợi, hướng thẳng về phía ánh đèn sân khấu sáng choang.
Đàn
muỗi vo ve dưới chân, họ cũng chẳng màng để ý tới. Họ chăm chú lắng nghe ngay từ
lúc anh kép hạng bét ra giáo đầu tuồng với giọng thiếu nhựa, khàn khàn quen thuộc.
Sự thực, bình thường ít có ai quan tâm để ý đến vai trò của những người giáo đầu
tuồng. Hạng kép bét này chỉ chớp loè xuất hiện năm bảy phút trong khi chờ khán
giả ổn định chỗ ngồi. Sau đó, họ dứt vai biến mất vào hậu trường để phụ kéo màn
trướng hay khuân bàn ghế tranh cảnh lúc dọn lớp mới.
Người
đứng xa nơi mấy liếp mấy vồng tận cuối sân vẫn nghe rõ ràng từng lời đối đáp, bắt
trả điêu luyện, ăn ý nhau. Dù những lời đối đáp đôi lúc trào lộng hóm hỉnh ấy,
đào kép cương ngay trên sân khấu lúc bất cập quên tuồng tích. Họ thích thú từng
câu hò giọng hát muồi mẫn ngọt lịm của những diễn viên sành sõi yêu nghề.
Đây
quả là những khuôn mặt nhà nghề, suốt đời vương vấn với nghiệp Tổ. Họ là những
thành phần cột trụ, rất sáng giá của những gánh hát đình hát miễu, từng lưu lại
nhiều cảm tình trong lòng khách mộ điệu khắp nơi. Họ đã được bà con quen tên biết
tiếng từ lâu.
Vì họ
chẳng phải những người chân ướt chân ráo mới vào nghề, chẳng may không được Tổ
đãi, chỉ chớp chớp một hai vai trò khá quan trọng nào đó để rồi tắt ngũm mất
hút. Họ không còn tiếp tục hiện diện dưới ánh đèn. Hoặc giả họ xuống dốc thê thảm
để tên tuổi mai một, chìm hẳn trong lãng quên.
Đèn
đuốc đêm nay thêm sáng hừng hực. Được vậy, nhờ ông Ban Biện rút kinh nghiệm đêm
trước, cho tăng cường thêm một hai cây đèn "măng sông" mượn được ở
làng bên, nước mạ kền bóng nhoáng xem như còn mới toanh. Bà con trầm trồ rất đỗi
tán đồng sáng kiến hợp thời và đúng lúc đó.
Đến
lúc Thị Mầu mang cái bụng giả tạo lum lúp qua hình ảnh cái rổ nhỏ được ngụy
trang khéo léo. Cái bụng chỉ lum lúp như
vậy mà nhiều người ác ý ở cánh "bình dân" lắm chuyện, không ngượng miệng
bảo còn to hơn cái lu vú bên hiên nhà ông Ban Biện. Khổ nổi miệng đời! Thế gian
thường hay phóng đại những chuyện không đâu.
Nói
như vậy có quá lời không? Nhưng người dân chân quê mộc mạc hay để tình cảm mình
vượt xa quá đà trong nhận xét, một khi họ bất mãn hay bực mình trước cảnh trái
tai gai mắt, trái ngược với đạo lý luân thường mà họ đã tiếp nhận từ cuộc sống
thầm lặng gương mẫu của ông cha.
Sự
khuếch đại của họ đôi lúc xét ra cũng có cơ sở nào đó. Đã vậy, nhân vật Thị Mầu
còn cố tình ăn mặc không được kín đáo mấy, hở hang mập mờ làm cho cái bụng bình
rĩnh vô chủ của nàng càng thêm lộ liễu dễ ghét dưới con mắt chủ quan bất bình,
trách cứ của bà con.
Nàng
đang thập thò xuất hiện ở phía cánh gà rồi chầm chậm ỏng ẹo bước vào Nhà Việc để
tố cáo "chú tiểu" Thị Kính thông gian nhân một phiên lễ lúc xế chiều.
Đường sá xa xôi hiểm trở, đêm tối sắp đến, nàng buộc lòng phải ngủ lại ở trạm
khách sau chùa. Nữ diễn viên đóng vai Thị Mầu ăn nói chanh chua đanh đá. Cung
cách cử chỉ sàm sỡ chướng mắt. Nàng vu oan giá họa người ngay thẳng, đức độ.
Nàng diễn xuất thần sầu vai đào lẳng.
Bà Tư
Quán, với gương mặt khắc khổ của những người đàn bà lam lũ qua những nét nhăn
sâu hóm trên vầng trán, bổng dưng kéo ô trầu để ở sàn đất, ngay dưới chân mình
nghe cái rột khô khan lạnh lùng. Bà vội vàng mở ra lấy cái ống ngoái bằng đồng
vàng sậm, nặng ì ì rồi tống mạnh lên sân khấu. Bà cố tình nhắm thẳng vào khuôn
mặt Thị Mầu, lúc ấy nàng đang mơn trớn lẳng lơ, bẹo hình bẹo dạng trước mặt
viên chức làng:
- Đồ
con gái hư! Con gái mất nết! Làm nhục
gia phong, tổ tiên, dòng họ!
Bà tỏ
vẻ bất bình lắm, lẩm nhẩm không ra lời sau cái "hứ" ngắn ngủi. Tiếp
đó, bà ngoe ngoải bồi tiếp mấy tiếng gọn hơ:
- Đồ
con gái thúi!
Bà tiếp
tục "hứ" thêm một cái nữa rồi chỉ thẳng mặt Thị Mầu như chưa hả dạ.
Bà còn ấm ức nên tiếp tục xù xì khe khẽ với mấy bà đồng tuổi ngồi kế bên:
- Con
gái gì mà ăn mặc hớ hênh như vậy kìa. Coi làm sao được. Bộ hay ho gì lắm sao mà
đương nhiên khoe da khoe thịt lộ liễu trước chỗ đông người. Làm dơ con mắt người
xem. Con thú còn biết mắc cỡ kia mà. Huống hồ là con người!
Đôi mắt
bà vẫn nhìn đăm đăm hướng thẳng lên sân khấu nhưng miệng bà không thôi lẩm bẩm
bên tai hai bà hàng xóm cạnh bên:
- Con
thú dù là trâu bò, chó mèo... chúng nó còn có cái đuôi dài thậm thượt, lòng
thòng để che bớt những chỗ kín đáo của chúng. Người ta ai ai cũng phải biết xấu
biết tốt chớ. Phải có sĩ diện. Phải có thể thống. Tôi đã quen con mắt với bà
con mình từ hồi lẩm đẩm mới biết đi mãi cho đến hôm nay ở vào tuổi cổ lai hi, thuộc
hàng trượng triều trượng quốc. Tôi chỉ thấy có mỗi một điều khiến cho tôi càng
thêm kính trọng. Cho dù họ có lom khom chổng mông gặt hái, cấy lúa, mót lúa đi
nữa, họ vẫn có hai cái vạt áo dài che chắn kia mà.
Bà vẫn
bực tức thao thao bất tận, không đầu không đuôi chi cả. Nhưng ý kiến và nhận
xét của bà rất cụ thể và thực tế. Cũng may, sức bà giờ đây đã yếu hẳn. Cái ống
ngoái có chìa nhỏ nhắn với hai ngạnh nhọn lểu cột dính vào nhau nhờ sợi chỉ đỏ
lên nước sẫm màu, vừa chạm phớt nhẹ vào mông Thị Mầu, rớt cộp khô khan trên sàn
cây.
Bà
không còn ở tuổi mười bảy đôi mươi tràn đầy sức sống, từng thách thức gió mưa
thời tiết. Do vậy, bà hối tiếc ra mặt:
- Tao
mà còn trẻ thì cái mặt của con Thị Mầu chanh chua đanh ác này sẽ không còn
nguyên vẹn được đâu!
Cả rạp
đều chưng hửng trước sự việc bất thình lình ấy. Có tiếng cười đâu đó trong số
khán giả con nít, rậm đám nhứt.
Trùm
Hưng đang bơm hơi đèn "măng sông", giựt mình ngoái lại trông thấy
không mấy khó khăn. Anh nhanh tay vói lượm cái ống ngoái rồi lận gọn lỏn vào
lưng quần, tiếp tục bơm cốc cốc... cốc cốc... đều tay. Anh làm như chẳng có
chuyện gì xảy ra trên sân khấu nhưng không che dấu được đôi mắt giản nở của
khác giả. Sức nóng bỏng da tỏa ra từ mấy cây đèn hừng hực làm cho mồ hôi anh chảy
nhỏ giọt, đôi má ửng hồng.
Qua lớp
kế tiếp, cảnh công đường làng quê với một bàn cây để ngay chính giữa sân khấu.
Cái bàn làm việc này có vẻ không được chắc chắn lắm như để phù hợp với cảnh khó
nghèo mà bà con đã quen mắt. Vài ba cái ghế đẩu cũ kỹ móc cời được sắp xếp rời
rạc chung quanh.
Hôm
nay, "Chú tiểu" Thị Kính được trát Nhà Hội mời đến đối diện với nạn
nhơn Thị Mầu. Cả hai đang rục rè lúng túng đứng trước mặt chức sắc có trách nhiệm
phân xử vụ kiện thưa làm rùm beng bổn đạo và xóm làng.
Viên
chức này vừa bước ra sân khấu đã làm cho bà con khán giả đồng loạt bật cười ầm
lên, vang dội một góc trời. Đầu anh ta chít một chiếc khăn trắng đã ngã màu xám
đen. Cái áo bà ba vải ú rộng thình, xốc xếch. Quần lãnh đen, xa trông như còn xếp
nếp lắm nhưng ống cao ống thấp. Con mắt anh ta láo liên trông dị họm. Anh không
ngớt liếc chéo hai bên khoé mắt. Chân lại đi cà thọt, cà thọt... cố tình vịn
vào cây gậy tre dài quá khỏi đầu.
Chú
Tư Râu vụt thốt lên:
- Lại
thằng Mao Diên Thọ tối hôm qua nữa đây chớ gì? Chắc mẻm ba bó một giạ. Dù nó có
hóa trang cách mấy qua lớp son phấn che đậy với đôi mày đen xếch ngược để mà mắt
bà con mình nhưng nó đừng hòng qua mặt tôi được.
Chú
nhíu mày:
- Sao
lạ quá vậy kìa? Thoạt nhìn cái bản mặt nghênh ngang hắc ám, hảm tài khó ưa của
nó với mặt mày trắng bạch và mấy sợi râu còi le hoe, móc hầu móc họng, giựt giựt
như kinh phong mắc gió, tôi ưa không nổi. Bộ trong tuồng hết vai nào để đóng rồi
sao mà nó cứ lựa chọn những vai quỉ khóc thần sầu mà đóng vậy cà?
Chú
tiếp:
- Cái
tướng đi hai hàng hay hàng hai gì đó của nó chém cha thế nào nó cũng là thằng
phản bội. Tôi nói không sợ sai, nó thuộc vào hạng người "qua cầu rút ván,
qua sông đụt đò". Phường đãng hậu vô tâm, chỉ biết có mình mà thôi.
Hai
Phú, con trưởng nam của ông Ban Biện Buôi, chồng Cô Tư Xinh, ngồi sát bên, cất
tiếng giải thích:
- Chú
Tư ơi! Người ta là kép độc mà chú! Đâu có phải kép muồi dễ chinh phục lòng người.
Thầy tuồng và bầu gánh giao phó vai nào, anh ta phải thủ diễn vai nấy mà. Trong
tuồng phải có đủ vai đủ vế mới ra tuồng. Có nịnh có trung. Có tiểu nhân, có
quân tử. Có trắng có đen, thiện ác phân biệt con người. Có buồn vui sướng khổ
giằng xé nội tâm. Đầy đủ cả hỉ nộ ái ố...
Giọng
Hai Phú nhỏ nhẹ:
- Từ
chối đâu có được chú. Bộ chú giỡn chơi sao? Diễn viên cũng là một cái nghề để
sinh sống đó chú Tư à. Từ chối làm sao có lương hàng đêm hàng tuần? Mà không
lương sẽ đói dài dài đó chú. Chú ghét mà nói vậy. Chú nên rộng rãi, thông cảm
anh ta để anh ta sống nuôi vợ nuôi con với!
Đến
lúc viên chức phải ra tay tra khảo "chú tiểu" Thị Kính, người ta thấy
nào gậy gộc, thẻ tre, kềm búa bày biện đăng đăng đê đê la liệt trên bàn cây.
Nhưng anh kép cứ xớ rớ, lúng túng như gà mắc đẻ. Mắt anh láo liên. Anh cứ liếc
chéo từng chập ở khoé mắt về hướng chú Tư Râu đang ngồi ở dãy ghế thượng hạng
và đang bặp bặp điếu thuốc rê Gò Vấp sắp tàn.
Gương
mặt chú vẫn còn nét hầm hừ phật ý. Chú mãi loay hoay, không ngồi yên được một
giây. Anh kép không an tâm chút nào cả.
Nơi
cánh gà, ông Bầu Sáu Ruộng, hôm nay không có ngai, đang đóng vai nhưn nhắc tuồng.
Ông giằn lòng đợi chờ lâu không được. Quá bực mình, ông thét lên nho nhỏ trách
móc:
- Thằng
ôn dịch! Mầy làm gì vậy như mất hồn mất vía. Sao chưa ra tay? Mầy không khảo
tra làm sao người ta khai trình? Mầy đóng sượng sùng kiểu này rã gánh sớm. Ăn
cháo trắng với củ cải muối đều đều đó nghe con!
Anh
kép hiểu ý ông bầu, vội vàng đứng phốc dậy. Anh xăng tay áo lên đến cùi chõ,
vói tay lấy cây gậy tre mạnh tay nhịp nhịp cốp cốp trên bàn cây. Nhưng đôi mắt
anh ta vẫn thom lom nhìn về hướng chú Tư Râu đang quan tâm theo dõi từng cử chỉ
của anh.
Bỗng
dưng anh cương ngang:
- Chú
tiểu! Thôi chú khai trình đại đi kẻo bề trên cằn nhằn mà bản chức lại bị vạ lây
nữa... Chú khai đại đi. Khai sao cũng được mà! Tôi có vui sướng gì đâu! Tôi
đang nóng hơ đây.
Qua
đêm thứ ba, cũng là đêm chót nên bà con đi xem còn đông hơn, chưa từng thấy
trong xóm tôi có một sự hợp mặt nào đầy đủ như thế. Có thể nói, đêm đó trong
thôn xóm, nhà cửa đều vắng tanh, không còn thấy một bóng nhân mạng. Chủ nhà phó
mặc cơ ngơi sự sản cho mấy con chó thiến ú na ú nú tạm thời trông giữ.
Đêm
hát cuối cùng mà!
Biết
đời thuở nào gánh hát mới đáo lại xóm muỗi mồng đĩa vắt nầy thêm một lần nữa.
Có thể năm bảy năm sau? Cũng có thể mười năm? Hay hơn nữa... Đôi khi, cả một đời
người ở đây chỉ có một dịp coi hát một lần là điều may mắn lắm để sau đó vấn
vương, âm vang cứ đọng mãi trong lòng, không thể nào quên được.
Hôm
nay, đoàn hát thủ diễn vở tình cảm xã hội có cái tên chân quê là "Tham Phú
Phụ Bần". Vở tuồng do ông Bầu Sáu Ruộng tự viết lấy và đảm nhiệm luôn cả
vai thầy tuồng. Với vở tuồng này, ông rất rổi rảnh vì không có vai "hoàng
đế" để đóng như trong các tuồng Tàu nồng cốt của đoàn.
Ông
quả là một nghệ sĩ dân gian có tâm hồn nhạy cảm và đôi mắt tinh đời. Những yếu
tố đó giúp ông quan sát tỉ mỉ, cảm nhận dễ dàng những thói đời, trắng đen tệ bạc
chung quanh mình để dàn dựng một nội dung có ý nghĩa.
Ý hướng
của ông trong vở là nhằm thăng hoa, vực dậy trong lòng người sự tôn trọng tình
ngay lẽ phải, sự hài hòa trong nếp sống tình cảm mà thực tế trong xã hội, uy
quyền và bạo ngược thường hay lấn át bức bách. Ông đã để tâm viết từ hơn năm
nay mới hoàn tất được.
Đây
là vở tuồng vừa ráo mực. Hôm nay ông cho diễn lần đầu tiên xem như phúc khảo để
nhận ý kiến và phản ứng của bà con hầu sửa chữa bổ sung làm vở tuồng nồng cốt
cho chuyến lưu diễn tận những vùng sông nước cuối mũi quê hương.
Ông dựa theo một sự kiện thực tế mà chính ông
đã từng chứng kiến tận mắt. Nó khác hẳn với tình tiết éo le gay cấn của một vở
tuồng trùng tên rất nổi tiếng thời huy hoàng của cô Năm Phỉ tài danh và do nghệ
sĩ lừng lẫy vắng số Hai Giỏi đóng tuyệt vời vai thầy thông ngôn có cái tên rất
mực đạo đức, Trần Trung Nghĩa.
Dù biết
khả năng của mình có giới hạn nhưng ông vẫn cam đoan trong lời giới thiệu ở tờ
chương trình phát không cho bà con từ hai đêm hát trước. Vở hát nhứt định sẽ
làm cho bà con già trẻ bé lớn thương khóc nức nở.
Trong
những lần trò chuyện riêng tư với ông Ban Biện, ông còn hóm hỉnh bảo nước mắt của
bà con khán giả thân thương ở xóm Rạch Rít này sẽ tràn cả việm rửa chén hay hũ
rộng cá tát đìa lúc cuối năm cho mà coi. Ông đoan chắc như đinh đóng vào cột
danh mộc của các nhà giàu có như gỏ, trắc, câm xe, bằng lăng, cẩm lai...
Người
đẹp Lệ Hoa bất đắc dĩ vì chữ hiếu, vâng lệnh song thân lên xuồng hoa về làm dâu
nhà chồng giàu sang tăm tiếng để cứu vớt gia đình cha mẹ trong cảnh suy sụp trầm
trọng. Cô đành âm thầm gạt nước mắt khổ đau, bỏ lại quê nhà mối tình đầu thơ mộng
với Hoàng An, một trai làng xứng lứa vừa đôi nhưng nghèo khó thanh bần.
Đến lớp
cô đào thương lộng lẫy Hai Trăm, nhan sắc mặn mòi, xiêm y quyến rủ, lời ca giọng
nói trong ấm ngọt ngào, truyền cảm như ru như mộng vừa được tin người tình xưa
qua đời vì thất tình. Anh mất đi sau một thời gian tương tư thương nhớ người
yêu ngăn cách.
Mọi
người đều xúc cảm mũi lòng, cay cay đôi tròng mắt. Cô đang sầu não ngâm thơ, ai
oán kể lể nỗi lòng trắc ẩn dằn dặt của mình. Cô đang chuẩn bị chuyển qua sáu
câu vọng cổ muồi mẫn. Cơn buồn ngủ cứ chờn vờn đã bị bà con lùa xa ngay từ giờ
phút cụp lạc này.
Cô Tư
Xinh kín đáo rút nhẹ khăn tay rồi rón rén đưa lên mắt, trước sự kinh ngạc lý
thú của Hai Phú:
- Sân
khấu mà mình! Mấy tay thầy tuồng vẽ vời câu chuyện, thêm thắc tình tiết thương
đau gay cấn để khán giã mũi lòng. Chớ nào phải sự thật ngoài đời đâu mà mình cảm
thông đến đỗi phải khóc ray rứt ấm ức như vầy?!
Hai
Phú choàng qua nắm chặt tay vợ, siết mạnh như tỏ ra thông cảm những cảm xúc sâu
đậm của người vợ đoan trang thuần hậu. Người vợ hiền gương mẫu anh rất mực
thương yêu quý mến và nuông chiều. Vì đối với anh, một người còn biết cảm xúc
được nỗi buồn trước mặt, còn biết thao thức ray rứt nỗi buồn của tha nhân, chắc
hẳn người đó phải có một tâm hồn cao đẹp. Trong long hẳn nhiên còn tiềm ẩn tình
người sáng trưng.
Anh cố
tìm những lời lẽ dịu dàng, tranh thủ vỗ về an ủi vợ:
-
Thói đời đen bạc, oan trái trắc trở trên sân khấu mà mình! Thôi hãy lau nước mắt
đi kẻo bà con và đám con nít chàng ràng đông như kiến phía sau, chúng nó nhìn
thấy. Chúng nó sẽ cười mình nhẹ dạ non lòng cho mà coi!
Nhưng
khi cô Hai Trăm vừa dứt mấy câu vọng cổ ai oán, ngân nga xoáy tim, cô Tư Xinh cầm
lòng không đậu. Cô lấy khăn tay, che mặt bật khóc thút thít giống như ngày xưa
cô còn ấu thơ bị mẹ mắng rầy oan ức.
Đến
lúc vảng hát, cô lật đật tránh mặt mọi người, lầm lũi đi vội vàng về nhà. Trên
đường, cô vẫn còn thút thít không thôi.
**
Cái đồng hồ
trứng dái đang nhịp nhàng đều đều buông những tiếng tíc tắc... tíc tắc... lạnh
lùng trầm buồn, bỗng gõ ba tiếng khô khan nặng nề, cách khoảng đều đặn giữa cảnh
tịch mịch của đêm khuya thanh vắng.
Cây
đèn chong trứng vịt, bầu tròn bình rỉnh, với dáng thể cái ống khói ngắn gọn, le
lói rồi phựt sáng từng hồi. Có lẽ là triệu chứng báo trước sắp hết dầu.
Đã ba
giờ khuya...
Cô Tư
Xinh vẫn trằn trọc chưa ngủ được. Thỉnh thoảng cô se sẽ thúc thít. Tâm sự cô ngổn
ngang như trăm mối tơ vò.
Cô
đang trong cơn xúc động mãnh liệt. Tâm hồn cô đang bị một chấn thương trầm trọng
do một hối tiếc phản bội và tội lỗi. Một sự phản bội và tội lỗi từ hơn mười năm
qua mà cô tự gán cho chính mình có trách nhiệm, dù ít dù nhiều.
Tình
tiết trắc trở của vở tuồng với sáu câu vọng cổ ngăn ngắt, chán chường não nề vẫn
còn hằn sâu trong tiềm thức cô. Nó cứ chờn vờn không thôi dù cô có muốn quên
cũng không sao quên được. Cái khổ tâm của cô là ở chỗ đó.
Sự ca
diễn xuất thần của cô đào thương Hai Trăm đã dẫn dắt khán giả như sống thực với
nhân vật được ông Bầu Sáu Ruộng khéo léo xây dựng: một người con gái đẹp trong
hoàn cảnh ngang trái đáng thương... vô tình đã đưa cô trở về quá khứ với mối
tình đầu chớm nở, hạnh phúc hứa hẹn trăm năm tràn đầy...
Cô
đang quên hiện tại.
Giờ
đây, một mình trằn trọc trăn trở trong đêm khuya tĩnh mịch, cô thực sự trở về
khoảng đời thanh xuân mơ mộng của cô nơi thôn xóm quê nhà ngày xưa. Nơi ấy, cô
đã gạt nước mắt vẫy tay giã biệt những người thân ra đi, đến nay chưa một lần
trở lại viếng thăm. Giờ đây, cô thực sự sống với quá khứ mình, dù đã bao nhiêu
lần trong đời làm vợ anh Hai Phú và làm dâu nhà ông Ban Biện, cô muốn quên và
muốn chôn chặt quá khứ ấy trong sâu thẳm lòng mình.
Nước
mắt cô tưởng chừng đã khô cạn từ lâu lắm rồi. Từ những ngày cô xa cách hẳn người
yêu xưa, người yêu đầu đời thuở cô rục rè để ý tới người bạn khác giống mình.
Hôm nay, cô chới với, không sao ngờ được. Cô không ngờ vì nó lại đến hừng hực
tràn mi và nóng rang phũ phàng như lửa đốt kim châm trong lòng.
Thật
tình lúc này, cô không rõ và cũng không phân biệt được đành rành nước mắt ấy cô
khóc cho ai? Cô khóc cho chính bản thân đắng cay bất hạnh của mình?
Hay
cô khóc cho người yêu yểu mệnh vì yêu cô, một mực thủy chung trọn đời với lời
thề trăm năm vàng đá? Cô khóc cho hoàn cảnh hẩm hiu ngang trái đáng thương của
người vắng số? Hoặc cô khóc cho cả hai cùng chung hòa nhập giao thoa nhau trong
giờ phút trầm thống này?
Hai
Phú để ý vợ hãy còn trằn trọc bên mình dù đã vảng hát từ lâu. Bên ngoài đã vắng
tanh lạnh lùng. Rạp hát không còn một bóng người.
Trong
nhà, mọi người đều uể oải mệt nhoài sau ba đêm hát dai dẳng, mỗi đêm kéo dài đến
quá nửa khuya. Tất cả đã nồng nàn an giấc. Giá nếu có kẻ bất lương đào ngạch
vào nhà, chúng có thể tha hồ khuân vác chẳng một ai hay biết. Chỉ nghe xa xa vọng
lại vài tiếng chó sủa ma vu vơ đâu đó. Hay đôi ba con chim ăn đêm lạc bầy buông
những tiếng kêu não nuột để mất hút nhanh chóng trong thinh lặng.
Sau lời
vặn hỏi của chồng, cô Tư Xinh với bản tính chất phác thật thà, bụng dạ thẳng
ngay, trong một cơn xúc động tột cùng, không quanh co giấu giếm. Trong nỗi đau
nhói nức nở cô khe khẽ thú thật cùng chồng.
Trước
khi về ở với Hai Phú, cô đã để tâm yêu anh Bần, người cùng xóm, một thanh niên
vào thời xuân mộng, nhỏ nhẹ dễ thương. Anh vốn xuất thân từ một gia đình nghèo
khó như cô. Mối tình đầu đó rất nên thơ và trong trắng.
Quen
biết nhau cả mấy mùa đăng đẳng, xuyên suốt từ lúc ruộng nương mới vừa nổi nước
cày cấy chí đến lúc gặt hái đạp lúa... cả hai chưa một lần công khai nắm lấy
tay nhau chớ đừng nói chi đến nụ hôn nồng cháy đầu đời. Chỉ trừ một lần duy nhứt
chạm da chạm thịt nhau trong chiếc áo tơi tồi túng nơi gốc cây bần cô độc với sự
đồng lỏa bất đắc dĩ của Ông Trời cắc cớ. Lúc ấy, ông gầm thét thịnh nộ rồi dán
một trận mưa to, dai dẳng nhớ đời.
Cả
hai đã thề non hẹn biển. Họ chỉ chờ sự kết hợp của hai gia đình trong vòng lễ
giáo truyền thống ông bà xưa để lại.
Nào
ngờ...
Nào
ngờ, mối tình thơ mộng đó sớm dang dở cách chia.
Vì chữ
hiếu đối với mẹ cha trong hoàn cảnh sinh sống quá mức bẩn chật, bế tắc là khác,
cô phải vâng lệnh song đường khép nép lên xuồng hoa cùng Hai Phú, về làm dâu
nhà ông Ban Biện. Cuộc đời ngang trái trái ngang đó tưởng chừng sẽ phôi pha
nhanh chóng trong lãng quên với thời gian. Vì cô cũng thừa biết rằng thời gian
lúc nào cũng là một dược liệu cứu rổi nhiệm mầu trong trường hợp oái oăm của
cô. Thêm vào đó, sự ngăn cách người yêu "cách mặt cách lòng" theo như
thói đời thường tình có thể sẽ giúp cô khuây khỏa phần nào.
Ngoài
ra, cô không quên, cô còn có cuộc sống vợ chồng chánh thức, cưới hỏi đúng nghi
lễ cổ truyền. Cô còn bổn phận và trách nhiệm làm vợ làm mẹ đảm đang trong một
gia đình mẫu mực. Dẫu rằng niềm vui và hạnh phúc duyên tình mới của cô chưa bao
giờ được trọn vẹn tròn đầy. Cô âm thầm trong ước mơ tạm bợ, hy vọng công việc
liền tay hằng ngày sẽ giúp cô có thêm sức mạnh tinh thần để vượt qua những trầm
thống nội tâm.
Nhưng
một nỗi ray rứt nào đó cứ phơn phớt vấn vương, mãi thôi thúc cô luôn. Đôi lúc lại
trào vọt ra ngoài không cách nào kềm hãm được qua những động tác và cử chỉ vụng
về lơ đãng của cô.
Những
hình ảnh cũ êm đềm, những lời tình tự bóng gió ngày nào giữa hai trẻ vừa mới biết
yêu nhau, từng chập cứ đến với cô bất chợt vào lúc hoàng hôn thoi thóp, khi cô
nhìn những con cò trắng màu bông bưởi đậu trên mấy ngọn bần nước thấp thoáng xa
xa. Rồi những cơn gió nhẹ thổi hiu hiu từ đồng không mông quạnh kéo tới, se sẽ
lùa mấy trái bần chát ngấm chát ngầm chín rụng, lững lờ trôi ven theo kinh rạch
khiến cô hồi nhớ hình ảnh xưa mà lòng thêm đớn đau tan nát.
Cảnh
vật quanh cô càng uể oải u sầu. Thời gian đối với cô như ngưng đọng hẳn vào những
trưa hè vắng vẻ buồn tênh những khi cô cô đơn cô độc một mình ngoài tiếng ve
kêu sầu bất tận bên tai. Những lúc ấy, cô thêm thương nhớ nhớ thương nơi cố thổ
chôn nhao cắt rún của cô và của người yêu đã khuất. Và những đêm thanh tịnh mưa
rơi tỉ tách trên tàu lá chuối xột xạt bên thềm nhà hòa lẫn với tiếng ếch nhái uềnh
oang từng chập, tiếng vạt sành văng vẳng não nuột đâu đó... bên bờ ao, nơi bờ
ruộng, càng đay nghiến dằn xé tâm can cô.
Bấy
nay, cô cố gắng dồn nén chịu đựng một mình. Cô chưa bao giờ dám hở môi lên tiếng
thố lộ cùng ai. Mà có ai trong đại gia đình nhà chồng hiểu được nỗi lòng của cô
để cô thố lộ làm vơi nhẹ đi chút ít nỗi niềm trắc ẩn của mình!
Cuộc
đời cô tưởng như đã an thân thủ phận mãi mãi nơi cái xóm buồn tênh quê chồng,
ngăn sông cách trở này cho tới tuổi già răng long đầu bạc. Cô sẽ kéo lê lết cuộc
sống của mình giữa sự lãng quên của bà con cô bác, bè bạn ngày xưa của cô nơi
cuối ấp. Tuy cùng ở chung một làng một xã nhưng xem như xa diệu vợi do diện
tích đất đai hoang vu bất tận, đường đi không phải thênh thanh phon phon dễ
dàng, muốn đi lúc nào cũng được.
Nào
ngờ...
Hôm
nay, quá xúc động vì sự diễn xuất độc đáo thần tình cùng tình tiết ngang trái của
người con gái bất hạnh trong tuồng tích, cô hồi tưởng hoàn cảnh ngày xa xưa của
cô, khoảng cô vừa mười chín hai mươi, mới biết yêu, biết thương, biết nhớ. Xúc
động trong một phút hồi sinh ôn cố, cô không sao dằn được nước mắt. Dù cô có cố
tình kềm hãm đi nữa, nước mắt cô sao cứ tuôn tràn.
Tình
cảnh ngang trái của cô hao hao trùng hợp với tâm sự thất vọng chán chường của
nhân vật chánh trên sân khấu, lúc được tin người yêu thuở còn son trẻ đã vĩnh
viễn ra đi về phía bên kia thế giới. Thuở ấy họ yêu vội yêu vàng, yêu say mê đắm
đuối. Yêu không hề nghĩ suy.
Họ đến
với nhau qua mối tình mộc mạc, giản dị và chân thành. Mối tình đó đến rất tự
nhiên, như hết ngày đến đêm, hết đêm đến sáng, như xuân hạ thu đông dẫu có biến
thiên cách nào đi nữa rồi cũng theo chu kỳ định sẵn để cuối cùng sẽ trở lại mùa
xuân ấm áp, hừng hực thơm ngát hương hoa. Cái thuở yêu đương thi vị, không hề
biết so đo tính toán thiệt hơn lỗ lời, không hề màng đến tiền tài vật chất, sản
nghiệp cơ ngơi hay gì gì khác nữa trong chốn thường tình.
Người
tình xưa ấy vì tình phụ nên nhuốm bệnh tâm thần dai dẳng, đục khoét soi mòn cơ
thể anh để sau cùng âm thầm đi vào giấc ngủ thiên thu trong cô đơn cô độc. Anh
ôm trọn mụn tình dang dở xuống tận tuyền đài.
Cô
xem tới lớp đó bỗng dưng nước mắt cô cứ trào vọt ra ngoài, dù cô cố đè nén tới
đâu cũng không sao cầm được. Cô nhớ đến anh Bần mà một vài bà con tá điền đến
đong lúa mướn hằng năm cho ông Ban Biện đã tìm gặp cô để thầm thì to nhỏ. Họ thỏ
thẻ cho cô biết nhiều chi tiết thủy chung thương tâm của một người trọn tình trọn
nghĩa, trước sau như nhứt. Anh Bần sống trong câm lặng với mối tình đầu nồng
nàn trong sáng không may chẳng thành. Anh giữ lời hẹn biển thề non với người
yêu. Nhứt là anh rất cảm thông chia xẻ hoàn cảnh xuôi tay bất khả khán của cô
Tư Xinh.
Anh
trở thành một người mất trí từ khi xa vắng người yêu. Anh không còn là một
thanh niên tráng kiện yêu đời. Bây giờ, anh chỉ là một thân tàn ma dại, vất vưởng
không hồn. Thực sự một xác chết chưa chôn.
Cứ mỗi
khi trời mưa, dù giông to gió lớn, dù đêm hôm vắng vẻ hay giữa ban ngày thanh
thiên, cứ mỗi khi trời ui ui rồi buông những giọt vắng dài se lạnh làm mờ mịt cảnh
vật ruộng vườn thôn ấp, anh mang chiếc áo tơi lá dừa nước ngày nào, đến ngồi
nơi gốc bần ngày xưa một mình. Âm thầm trong bối cảnh tình tứ đã mất hút.
Anh
nhìn trời nhìn nước, nhìn những hạt mưa xiêng xéo đan quyện nhau trước mắt
mình. Anh nhìn những giọt nước trong ngần tuần tự xuất phát từ chiếc áo tơi mà
anh cố tình gìn giữ kỹ lưỡng từ ngày anh quen biết cô Tư Xinh đến nay, từ buổi
cả hai cùng nhau chui vào đụt mưa như những giọt lệ chia ly đoạn trường.
Anh
đưa mắt say mê ngắm mấy cây "cặt bần rung bây bẩy" muôn đời muôn thuở
theo con nước đẩy đưa... để trong phút chốc bâng quơ thả hồn mình về một chốn
thâm u huyền bí nào đó. Rồi anh xiết mạnh chiếc áo tơi áp sát vào mình như để
tưởng nhớ hơi hướm người yêu vắng bóng đã lâu.
Cũng
nơi đây, cũng bối cảnh thân quen này, cũng dưới cơn mưa này thuở nào, anh đã đắm
đuối tê dại trong tiếng cười khe khẽ, quyến rủ thôi miên của người yêu, với hơi
thở thơm tho, với búi tóc phất mùi dầu dừa mới thắn, ngạt ngào dễ chịu, với ánh
mắt đen huyền lấp lánh như hai vì sao sáng mà anh không thể nào quên. Và anh
không thể nào sống được khi thiếu vắng nó.
Nghĩ
đến đó, cô lại khóc nức nở như đứa trẻ ngây thơ khờ dại. Cô không một chút dè dặt
ngượng ngùng.
Hai
Phú lặng thinh. Anh cảm thấy khó chịu trong lòng. Sự khó chịu đó quá bất ngờ đối
với anh vì vào tuổi trung niên của anh, anh chưa bao giờ tưởng tượng và cảm nhận.
Một nỗi
hờn ghen câm nín bắt đầu len lén đục phá tâm tư tình cảm anh. Anh vốn dĩ là một
người chồng bấy nay vẫn được vợ mình hết mực trọng kính, quý mến nuông chìu.
Anh lại là một người xuất thân từ gia đình quyền thế, giàu có đường đường một
cõi nơi vùng đất mới đầy triển vọng, qua cái nhìn hướng về tương lai. Gia đình
anh ngoài cơ ngơi kinh dinh còn có con cái đông đúc ngoan hiền..
Sự hờn
ghen đang trổi dậy nơi anh phảng phất một chút tự ái của người đàn ông thành
công viên mãn trên trường đời. Anh cố đè nén nó tận trong sâu thẳm đáy lòng.
Anh rất
thương yêu vợ anh. Anh rất quý trọng những đức tính của người vợ ngoan hiền thuần
lương. Nên trong giây phút ghen tương hờn dổi đó, anh kịp dằn lòng, bấm bụng chịu
đựng. Anh đã suy nghĩ chín chắn và rất cảm thông cảnh ngộ éo le và tình cảm chân
thành của vợ.
Bất
giác, anh siết chặt cô Tư Xinh vào lòng trong khi cô vẫn còn sục sùi ấm ức. Anh
tìm lời an ủi khuyên lơn, tỏ ra mình là một người chồng rộng lượng. Một người
chồng không hẹp hòi chấp nhứt dù rằng anh là người chồng mà cô ăn ở bấy nay vì
bổn phận và trách nhiệm hơn là vì tình yêu thật sự.
**
Ngọn đèn dầu
trứng vịt bầu dục sắp lụn mà cả hai vợ chồng Hai Phú, cô Tư Xinh vẫn không buồn
châm thêm dầu nên cứ phựt phựt nuối tiếc trước khi tắt hẳn. Thỉnh thoảng, những
con gà cồ trong thôn ấp tiếp nối nhau cất tiếng gáy sang canh như thi đua nhau
báo đúng giờ giấc.
Sau
đó chỉ còn lại tiếng tíc tắc... tíc tắc... trầm buồn của chiếc đồng hồ trứng
dái treo ở vách buồng mà mỗi lần nó chết phải lên giây thiều. Những lần đó, Hai
Phú bắt thang, leo lên lên giây. Xong, anh lấy ngón trỏ lắc quả trứng để nó lại
tiếp tục tíc tắc... tíc tắc... đêm ngày không ngưng.
Đêm
nay, Hai Phú cũng không ngủ được. Anh trằn trọc mãi. Anh không ngớt suy tư,
nghĩ ngợi. Anh tìm hiểu...
Không
vì ghen tuôn.
Không
vì hờn giận.
Mà
chính vì anh vừa khám phá trong muộn màng những u ẩn đáng thương của vợ mình.
Qua ánh trăng vàng vọt yếu ớt chiếu xuyên khe vách, anh trông thấy rõ ràng
khuôn mặt thểu não tiều tụy, đớn đau vô bờ của vợ anh. Nàng đang bắt đầu lịm dần
trong giấc ngủ mỏi mệt. Anh cúi xuống nhìn mặt vợ mình và càng thêm thương hơn
bao giờ hết.
Tuy
tâm trí anh có lúc bị dày vò dằn co giữa tình yêu chân thành và hờn ghen ganh
ghét, anh cố tưởng tượng hình ảnh vợ anh ngày xưa. Thuở thanh xuân mơ mộng,
nàng vừa trẻ vừa đẹp như một hoa khôi ở tỉnh ở thành, vừa duyên dáng yêu đời.
Nàng đã yêu và thực sự yêu người con trai cùng lứa tuổi đôi mươi, nay bất hạnh
đã thành người thiên cổ. Anh còn tưởng tưởng nhiều hơn thế nữa...
Anh
nhìn vợ anh đang thở nhè nhẹ trong giấc ngủ chập chờn tức tưởi. Gương mặt sầu
khổ của nàng hãy còn đòng đọng nhưng giọt nước mắt ân tình thương cảm.
Anh tội
nghiệp vợ anh đã dang dở trong tình yêu dầu đời và những giọt nước mắt kia mới
thực sự chính là những giọt nước mắt tinh tuyền của tình yêu trong trắng đích
thực. Và anh cũng hiểu thêm rằng khi tình yêu đó vì một hoàn cảnh trái ngang
nào đã phũ phàng cất cánh bay vút khỏi tầm tay người trong cuộc thì những giọt
nước mắt ấy càng thêm não nùng thấm thía vô biên.
Vợ
anh hiện sống mẫu mực bên anh. Anh và đại gia đình anh chưa hề có một lời phiền
hà, phẩm bình chê trách. Nhưng nàng đã chết hẳn trong lòng từ ngày lên xuồng
hoa theo anh về làm dâu nhà ông Ban Biện.
Riêng
anh, từ giờ phút này, từ sau buổi diễn thành công vở tuồng xã hội thời đại
"Tham Phú Phụ Bần" do ông Bầu Sáu Ruộng cắc cớ xây dựng với sự trùng
hợp ngẩu nhiên về tên anh và tên anh Bần, người yêu xưa của vợ anh, anh vẫn tiếp
tục sống hằng ngày trong khung cảnh vợ chồng đầm ấm nuông chìu. Anh vẫn tiếp tục
nếp sống thầm lặng mẫu mực nơi chéo đất cùng cốc buồn tênh, không tai tiếng,
không lắm chuyện như trong những năm chung sống với nhau trước đây. Những năm đối
với anh, anh xem như tràn đầy hạnh phúc.
Nhưng
có một điều chắc chắn là lắm lúc anh không khỏi buồn buồn nhìn nhận. Anh hẳn
nào được sống trọn vẹn, tròn đầy trong tình yêu xứng đôi vừa lứa, trong hạnh
phúc đích thực như ao ước của bất cứ một người trai trẻ nào trong xã hội.
Bất
giác anh buông tiếng thở dài nặng nề chưa bao giờ có trong đời.
Anh
chợt hiểu rằng, trong hôn nhơn, nên cưới một người thành thật yêu mình hơn là
người mình đeo đuổi để yêu một chiều, dù có phải hy sinh một đôi điều kiện nào
đó.
Anh
cũng hiểu thêm rằng giữa vợ chồng với nhau, sự thương yêu phải được cân bằng,
không hơn không kém. Ít ra mỗi bên, cả vợ lẫn chồng cùng được phân nửa của cái
trọng lượng tình yêu chung ấy để cuộc sống trăm năm mỗi ngày thêm lý thú vững bền.
Và nhứt định sẽ không bao giờ có sự ép uổng bức bách trong hôn nhân.
Cho
nên sau khi hiểu rõ nguồn cơn, nhận xét cuối cùng của anh là trên thế gian nhiều
khổ lụy, lắm buồn phiền này, quả thực có những người chết nhưng lại sống mãi
mãi trong lòng mọi người.
Trong
khi đó, có những người hiện sống nhởn nhơ đó đây cứ tưởng rằng mình đã thành
công và tràn đầy hạnh phúc như anh nhưng thực tế khốn thay chính họ đã chết từ
lâu trong nội tâm thầm kín, câm nín hằng ngày.
Tiếng
gà gáy sáng không làm anh thôi nghĩ bâng quơ...
Võ Phước Hiếu
No comments:
Post a Comment