Lạm bàn về chuyến đi Việt Nam của cựu Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ
Hơn 50 năm nội chiến, 30 năm chia rẽ hận thù, đất nước Viện Nam đang ở trong tình trạng chậm tiến nhất thế giới, tuyệt đại đa số dân Việt Nam đang sống trong cảnh nghèo đói. Vậy những ai còn chút lương tri, có lòng yêu nước cũng phải động tâm nghĩ đến tương lai Việt Nam. Nguyễn Cao Kỳ cũng như bao nhiêu người khác có quyền tự do hành động theo sự suy nghĩ của mình. Nhưng bao nhiêu đó chưa đủ.
Ðã là cấp lãnh đạo một thời của miền Nam Việt Nam có lẻ ông Kỳ nên hành động dè dặt hơn. Dù muốn dù không, chung quanh ông cũng còn một tập thể không ít những người đã từng cùng ông chung lưng đấu cật chiến đấu cho lý tưởng tự do, dân chủ. Trước một đại sự quốc gia ông cần tỏ ra có tư cách của một nhà lãnh đạo biết tôn trọng tập thể quần chúng đã từng đứng dưới bóng cờ của mình. Thông thường ông phải giải thích ít nhiều về chuyến đi nầy. Cho dù ông không thể nói rỏ được thì cũng phải úp mở đủ để cho người ta hiểu được. Ðành rằng nhân danh cá nhân, ông có quyền tự do hành động. Ðành rằng một mình cá nhân ông sẽ gánh hưởng hậu quả. Nhưng đây là chuyện quốc gia hai chữ “Cá Nhân” trong hoàn cảnh nầy không còn giá trị và ý nghĩa như thông thường nữa.
Ðược mời hay cho phép về?
Theo lời tuyên bố của ông Kỳ với ký giả Ðổ Hiếu, đài Á Châu Tự Do, thì “Vào Tháng Bảy ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Ðình Bin có nói rằng nhân danh tất cả các anh em trong nhà, ông muốn trân trọng mời tôi về thăm quê hương” rõ ràng là có mời. Theo nguồn tin thân cận với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ thì hình như ông Kỳ muốn đưa ra một thông cáo viết sẵn trước khi về, có sự đồng ý thông qua do Tổng Lãnh Sự Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trình về. Nhưng không biết lý do gì người ta không thấy thông cáo đó. Sự tráo trở lật lọng của cộng sản quốc tế, nhứt là cộng sản Việt Nam là điều thông thường, không ai lấy làm lạ. Năm 1992 trong một phiên họp tại Paris giữa các chủ nhân công ty và xí nghiệp Pháp, tôi được hân hạnh tham dự với tư cách là ký giả đài phát thanh quốc tế Pháp (RFI), ông cựu Ðại Sứ Pháp De La Louette nói rằng: “Nếu có một vị nào đó may mắn ký được hợp đồng, kể cả với Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, ngày hôm nay và nếu ngày mai ông ta tuyên bố ủy bỏ hợp đồng thì các ông cũng đừng lấy làm lạ” Cho nên sự việc báo công an Hà Nội viết rằng chính phủ cho phép tòa Tổng Lãnh Sự cấp chiếu khán cho ông Kỳ là đúng bởi vì bất cứ ai nhập cảnh cũng phải có chiếu khán, đó là sự thường.
Sự bất thường ở đây là thái độ trịch thượng, thiếu ngoại giao, tráo trở vô ý thức của một cơ quan ngôn luận đại diện cho quyền lực của nhà cầm quyền Cộng Sản, đã biến chuyện mời thành chuyện xin xỏ. Tờ báo nầy còn viết “người Việt Nam vẫn chưa quên rằng ông Kỳ là người chống cộng sản” ngay đoạn sau lại viết “đã đến lúc không nên nhìn về dĩ vãng.” Rõ ràng là mâu thuẫn có gian ý. Thật ra ông Kỳ không phải là người đầu tiên và duy nhứt trong giới lãnh đạo hay viên chức cao cấp của chế độ Việt Nam Cộng Hòa cũ được cộng sản mời về nước thăm nhà. Năm 1996 việt cộng đã mời Ðại Tướng Dương Văn Minh về nước. Họ còn bịa ra rằng cái nhà cũ của ông gọi là “Dinh Hoa Lan” đang được sửa chữa để đón ông về và hơn nữa nhà đó thuộc quyền sở hữu của ông Minh bởi vì chính phủ Ngô Ðình Diệm đả bán nó cho ông Dương văn Minh với giá tượng trưng là 1 đồng bạc. Ðại Tướng Dương Văn Minh tươi cười (cười ruồi) xác nhận với kẻ viết bài nầy không hề có chuyện đó. Sự thật những vị công chức cao cấp cũ đều biết nhà chính phủ không thể đem ra bán cho một cá nhân nào, ngoại trừ trong những cuộc đấu giá công khai nếu có. Và tôi còn biết có lần bà Luật Sư Nguyễn Phước Ðại nhân danh Ðỗ Mười, Võ Văn Kiệt mời nhân vật khác nữa!
Tại sao Cộng Sản phải mời?
Từ sau ngày xé bỏ hiệp định Paris xâm lược miền Nam, cộng sản Hà Nội bị thế giới lên án và cô lập. Nhân dân miền Nam căm thù chán ghét vì vậy mới có hàng triệu người liều chết vượt biên. Ðể chống đỡ phần nào tai tiếng gian ác, cộng sản tìm mọi cách dụ dỗ những người có chút danh ngày xưa, nay quen thói háo danh, còn muốn “theo voi hít bã mía”, để làm bông hoa cho chế độ ( dù là các loại hoa xấu xí của miền Nam như hoa “mắc cỡ”, hoa “thúi địch”, hay hoa “chó đẻ” cũng được).
Sau một thời gian làm băng hoại đất nước, bần cùng hóa nhân dân, việt cộng nhận thấy đàn anh đàn thầy như Trung Quốc, Liên Xô bị phá sản nên họ đành muối mặt tuyên bố đổi mới. Kêu gọi hòa giải, đầu tư. Những người có thân nhân ở nước ngoài bị coi là một thứ tội nhân, những người đã vượt biên bị gán nhãn hiệu là phản quốc, nay họ trở thành những đứa con quý mến gởi tiền và đồ vật về nuôi quê hương, phát triển đất nước. Những “bọn ngụy quân ngụy quyền” nay được mời gọi về thăm quê hương để cho thế giới thấy rằng cộng sản có đổi mới.
Ngày nay tình hình thế giới hoàn toàn thay đổi. Kinh tế tư bản chủ nghĩa có tính toàn cầu do Hoa Kỳ lãnh đạo là không thể đảo ngược được. Ðàn anh Trung Quốc đang ra sức đổi mới, thực tế là đang từng bước chối bỏ quá khứ cộng sản sai lầm của mình-mới đây nhất là công nhận quyền tư hữu về đất đai của người dân-để sống còn, thì Cộng Sản Việt Nam có con đường nào khác ngoài con đường đổi mới để khỏi tự đào mồ chôn tập thể với nhau? Mặt khác cộng sản đang gấp rút chuẩn bị để xin vô tổ chức World Trade Organisation (WTO). Muốn vào thì phải tương đối đủ mạnh về kinh tế để không bị chèn ép quá đáng. Muốn mạnh về kinh tế thì phải nhờ viện trợ, từ tiền bạc, kỹ thuật cho đến kinh nghiệm, kiến thức của các nước tiên tiến. Muốn được viện trợ thì phải ít nhiều đáp ứng được những yêu cầu chính đáng của họ trong việc thực hiện các giá trị văn minh của nhân loại về tự do, dân chủ, nhân quyền, chứ không thể treo tấm bảng chủ quyền quốc gia trước cửa rồi tự tung tự tác trong nhà như thời còn mồ ma “Hệ Thống Xã Hội Chủ Nghĩa Thế Giới”. Khổ hơn nửa là phải chấp nhận bài trừ tham nhũng bởi vì thế giới biết rõ 36% tiền viện trợ đi vào túi cán bộ nhà nước, vì vậy năm nay lại có chương trình viện trợ để điều tra tham nhũng.
Và, biết đâu còn có lời nhắn nhủ phía sau. Nếu anh muốn chơi với chúng tôi vì nhu cầu kinh tế hay vì sợ đàn anh Trung Quốc xỏ lá kề bên thì phải nghĩ cách “cư xử như thế nào” với hàng triệu người vừa là đồng minh cũ của chúng tôi vừa là công dân Mỹ góc Việt đang nắm lá phiếu trong tay có thể ảnh hưởng xa gần đến sinh hoạt chính trị của nước tôi.
Về để làm gì?
Ở vị thế của Nguyễn Cao Kỳ không thể nào về chơi thăm nhà mà thôi được. Ông đã tuyên bố trên đài Á Châu Tự Do “Tôi cũng nói rằng nếu các anh em đang có trách nhiệm với đất nước mà biết nghĩ đến chuyện đó, bỏ qua hận thù và dĩ vãng, rồi sửa sai những chuyện mình làm không đúng trong dĩ vãng để mà tạo ra một đại đoàn kết của dân tộc để mà chấn hưng lại đất nước.” Và trả lời phỏng vấn trên đài BBC, đại ý ông cũng kêu gọi đôi bên nên gác quá khứ để nhìn về tương lai đất nước. Ðiều đó đúng. Nhưng có điều ông nói sai là theo ông những người cộng sản thấy được chủ nghĩa của họ đã lỗi thời và chúng ta phải để cho họ thời gian sửa sai. Thời gian bao lâu nữa? Họ dùng chủ nghĩa cộng sản để mê hoặc dân chúng không được nữa thì bịa ra tư tưởng Hồ Chí Minh. Và kinh tế thị trường theo đinh hường Xã Hội Chủ Nghĩa là cái quái quỷ gì? Họ cần có thời gian để lột xác, hay họ đang quanh co để “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”? (Kiều).
Xét cho cùng ông Kỳ có can đảm rêu rao một sự thật là hận thù không thể kéo dài truyền kiếp được, dân tộc và đất nước là trên hết. Tôi cũng đã từng viết chế độ là nhất thời, dân tộc là vạn đại. Nhưng ký giả đài BBC hỏi câu rất xác đáng: liệu có thể nào thay đổi, nếu chế độ nầy cứ khăng khăng giữ lấy độc quyền. Những câu trả lời và phát biểu của Nguyễn Cao Kỳ đầy nhiệt huyết và lòng yêu nước. Ông sẵn sàng góp phần xây dựng vô điều kiện, cũng như lúc tuổi 20 ông hiến thân cho đất nước không có điều kiện. Xét trên bình diện cá nhân người ta có thể cho là tinh thần yêu nước đáng quý. Nhưng xét về mặt chính trị, nhứt là đối với một người đã từng lãnh đạo thì có thể nói đó là một thứ lý tưởng không tưởng (Pháp gọi là idéalisme irréaliste). Bởi vì ông Kỳ đang nói chuyện với tập đoàn xảo quyệt, một thứ Vua Bịp Bãi Thượng Hải, mà ông đem sự thành tâm thiện ý để trao đổi thì ông thua là cái chắc. Dù sao chuyến đi về của ông cũng có chút giá trị hay công dụng, nó đo lường được phần nào thâm ý của cộng sản, lật tẩy được lá bài gian lận nếu có, nó có thể hé lộ một chút ánh sáng nào đó ở cuối đường hầm nếu ông Kỳ có khả năng đột phá bức tường độc tôn.
Thông thường người ta nghĩ rằng ông kỳ rêu rao hòa giải cũng giống như đại văn hào Pháp Jean Jacques Rousseau đòi công bằng xã hội, bình đẳng công dân với bản văn “Contrat Social” của ông, dưới chế đo độc tài phong kiến của Pháp quốc. Trừ khi có một áp lực quốc tế nào đó quá mạnh buộc việt cộng đi vào thế chẳng đặng đừng thì may ra ông Kỳ mới hy vọng thành công.
Cho dù như thế đi nữa thì ông Kỳ phải thấy rằng bên kia cộng sản muốn hòa giải với ai? Nếu chỉ muốn hòa giải với ông Kỳ không mà thôi thì chuyện đã xong rồi nói làm gì nữa. Còn việc hòa giải với những người Việt Nam thuộc chế độ miền Nam đang sống trong nước cũng như ở hải ngoại thì lại là một việc khác. Sự kiện ông Kỳ Tuyên bố không mấy quan tâm đến ưu tư của người khác mà chỉ hành động theo lương tâm và cá nhân ông thôi, ông muốn kêu gọi đoàn kết mà ông không chịu tìm cách đoàn kết với những người đã từng là bạn đồng hành đồng chí với ông trước khi kêu gọi người gian ác bên ngoài, thì e rằng ông đang làm việc “Dã tràng xe cát biển Ðông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”.
Còn một vấn đề phức tạp khác người ta cần phải nghĩ đến là Việt cộng và một thế lực nào đó manh tâm dùng ông Kỳ để gây bàn tán sôi nổi, chống đối ủng hộ, đấu tranh chia rẽ trong cộng đồng người Việt hải ngoại nhầm đốt cháy hết những bộ mặt xưa cũ để rồi sử dụng những người mà họ, đã an bài sẵn.
Ván bài mà vì quá tự tin, quá sốt ruột hay do ảo giác “Con Cầu Tự” mà ông Kỳ đem hết chút ít vốn liếng còn lại đặt vào, thật là oan uổng.
Nói theo ngôn ngữ của sồng bài thì nhà cái cộng sản chắc chắn sẽ thắng. Từ vừa đến lớn. Nhưng tôi thành tâm không mong ông Kỳ sạch túi, vì rằng ông ấy có tâm tư, tình cảm, và ước mơ như tất cả chúng ta về một đất nước Việt Nam sớm có tự do, dân chủ và thịnh vượng.
Thiết nghĩ những người bất đồng chính kiến với Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ cũng nên kềm chế đừng để cho cộng sản quá vui mừng vì chúng ta đấu đá nhau quá tồi tệ.
Vấn đề chính yếu là chúng ta phải đoàn kết với chúng ta trước khi nói đến chuyện bắt tay hay đoàn kết với người ngoài.
15
NHỮNG GÌ TÔI BIẾT VỀ VIỆC NGUYỄN CAO KỲ VỀ NƯỚC
Phần II
Những gì tôi biết, hình như có hai Nguyễn Cao Kỳ, một Nguyễn Cao Kỳ phản bội đồng đội, phản bội chính mình, khi chấp nhận làm con cờ cho cộng sản trong giai đoạn mà chế độ vô nhân nầy đang bị đảo điên, đang cần sự tiếp tay hỗ trợ về mọi phía. Và một Nguyễn Cao Kỳ Từ 1966 đến 1975, có lòng với đất nước, muốn đội đá vá trời nhưng không thành, vì thiếu hiểu biết việc quốc gia đại sự, biến chuyển quốc tế, thế chiến lược toàn cầu, vai trò của Việt Nam trong hoàn cảnh đó và nhứt là vì những đàn em dựa hơi phá bĩnh hay nhóm “Lương Sơn Bạc” cùng ăn thề uống máu với ông ỷ thế làm hư việc.
Ðể giữ sự công bằng đối với ông, để giữ sự trung thực theo lương tâm của nhà báo và sự đứng đắn ngay tình của một cộng sự viên đã một thời được ông kính trọng và tin tưởng, những gì tôi tường thuật về cựu Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, hiện còn những nhân chứng sống có thể xác nhận. Người đầu tiên trong đó chính là ông Nguyễn Cao Kỳ. Và đây là câu chuyện:
Chuông điện thoại reo, tiếng nói ồ ề từ đường dây bên kia:
- Triều đó hả? Nguyễn Cao Kỳ đây, nầy cậu có muốn về Việt Nam không?
- Về làm gì? Moa đã nói nhiều lần: “một ra đi không hẹn ngày về” rồi mà. Khi nào đất nước hết bóng công an cộng sản, có tự do dân chủ và nhân quyền thì có moa ở Saigon.
- Ði về với moa, tớ được tụi nó mời đường hoàng.
- Nói chơi hay nói thật vậy? Thằng ma nào cao hứng mời toa vậy? Cái trò nầy moa đã thấy qua rồi. Bỏ đi tám.
- Thật mà, Thằng Nguyễn Ðình Bin, Thứ Trưởng Ngoại Giao của tụi nó đích thân tỏ lời mời trong một bữa cơm ở San Francisco, sau khi gặp gỡ ở sân golf. Nó nói: “Anh em bên nhà muốn tỏ ý mời Thiếu Tướng về thăm quê hương, và nếu có dịp xin Thiếu Tướng cho ý kiến về tinh thần và cung cách liên hệ với Hoa Kỳ, ông là người thông suốt nhứt.” Và cũng nhân cơ hội để cho mọi người biết người Việt chúng ta đã sẵn lòng quên quá khứ và đang nghĩ việc xây dựng tương lai.
- Còn khuya, bá láp, toa vừa bước chân lên máy bay thì bên nầy anh em sẽ chửi toa như chửi “Ch...” để rồi toa xem.
- Sợ “Ðếch” gì? Cậu biết thừa, xưa nay tớ có sợ ai đâu, vả lại tớ luôn luôn nghĩ rằng sẽ có ngày vết thương cũ phải được hàng gắn bằng cách nầy hay cách khác. Tốt nhất là trong giai đoạn mình còn sống để về thăm quê cha đất tổ.
- Thằng nào lại không mong mỏi điều đó? Nhưng vết thương của đất nước sẽ được hàn gắn bằng cách nào? Bằng cách đầu hàng “Bẩm ông xin tha thứ, ban luật đại xá cho chúng con” như thằng Phó Bá Long van xin năm 1992 chăng? Chuyện đó không có moa!
- Làm gì có chuyện đó. Ðây là chuyện “sérieux” (nghiêm chỉnh), Khi nào về đến Việt Nam, gặp nhau mình có thể cùng với anh em bên kia bàn thảo.
- Moa không tin có chuyện đó. Moa có kinh nghiệm với ông Ðại Tường Dương Văn Minh ở bên Pháp rồi, toa thử biểu tụi nó viết thư chính thức mời toa đi.
- Dĩ nhiên rồi sẽ có.
- Nếu thật sự là như vậy thì ít ra toa phải phổ biến một bản thông cáo xác định lập trường và mục đích của toa trước khi bước lên cầu thang máy bay. Như vậy thì rõ ràng minh bạch.
- OK, hay lắm, cậu làm ơn thảo giùm cho tớ một lời tuyên bố đi, nhưng mà lần nầy phải làm gấp, không được hứa rồi kéo dài như lần trước bắt tớ chờ đôi ba tháng rồi cút luôn đấy.
- Ðược rồi, để moa thảo giùm cho, sẽ có ngay.
Sở dĩ ông nguyễn Cao Kỳ giao điều kiện như vậy là vì thời gian trước đó khá lâu, ông tuyên bố lăng nhăng gì đó, báo chí và truyền thông truyền hình chỉ trích phê bình ông rất gắt gao, làm ông mất mặt. Khi đó tình cờ tôi đang đi vào Restaurant Song Long ở đường Bolsa thấy một xe chạy ngang, qua khỏi tôi lại ngừng, người bước xuống đó là Thiếu Tướng Kỳ, có cựu Thiếu Tá Liệu nguyên là tùy viên của ông ngày trước cùng đi. Ông Kỳ chận tôi lại. Sau khi nói chuyện qua loa tôi hỏi liền:
- Tại sao toa tuyên bố lăng nhăng làm báo chí sỉ vả tùm lum vậy?
Ông Kỳ đính chánh:
- Tụi nó xuyên tạc ý kiến moa.
- Phát biểu bố láo bố lếu là nghề của toa, gây hiểu lầm và bị phê bình lên án là phải, khi nào thấy cần đưa ra một ý kiến gì đó thì nên viết thành một bản văn, phổ biến rộng rãi, không ai có thể hiểu lầm xuyên tạc được.
- Ðồng ý, vậy cậu có thể thảo giùm một bản văn cho tớ không?
- Ðược rồi để moa thảo cho, nhưng với một điều kiện là từ nay không nên bốc đồng nói bậy nữa thì moa mới thảo.
Ông Kỳ nhanh chống biểu đồng tình. Tôi lỡ miệng hứa cho qua đường, đến khi về nhà tôi có than với bà xã là “bản tính của ông Kỳ là hay bốc đồng nói không suy nghĩ. Bây giờ mình có giữ lời hứa, bỏ công thảo bất cứ thứ gì, rồi nay may ổng lại bốc đồng ham ăn ham nói thì ai bịt miệng ông ta được? Ðời anh chưa thất hứa với ai bao giờ nhưng lần nầy chắc phải đành lỗi hẹn làm thinh.
Sau đó lại gặp ông Kỳ ở Santa Ana một lần nữa, ông trách:
- Ð.M... chỉ gặp toa ở ngoài đường không thôi, tại sao không ghé qua nhà chơi? Và lời tuyên bố của moa toa hứa viết đâu?
Tôi giả vờ lấy cớ:
- Moa không có tài liệu báo chí sỉ vả toa như thế nào làm sao viết được.
- Thôi được rồi, để moa biểu thằng Liệu nó gởi cho toa.
Tuần lễ sau tôi nhận được nhiều bài báo và một video cassette do cựu Thiếu Tá Liệu gởi đến nhưng tôi vẫn làm ngơ. Còn về việc lần nầy tôi xét thấy vấn đề hơi nghiêm chỉnh hơn trước, nên trong lúc điện đàm tôi hứa sẽ có ngay. Vài giờ sau tôi gọi điện thoại lại và đọc cho ông Kỳ nghe lời tuyên bố nguyên văn như sau.
LỜI TUYÊN BỐ CỦA THIẾU TƯỚNG NGUYỄN CAO KỲ CỰU PHÓ TỔNG THỐNG VNCH
Ý thức rằng công việc góp phần xây dựng đất nước được phú cường, mưu tìm đời sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho dân tộc và tạo thế đứng xứng đáng cho Việt Nam trong cộng đồng quốc tế ở thế kỷ 21 là trách nhiệm của mọi công dân.
Ý thức rằng do bối cảnh quốc tế. Việt Nam đã bị lôi cuốn vào cuộc nội chiến cốt nhục tương tàn, nhưng thời gian nữa thế kỷ qua đủ để làm cho lòng người phản tỉnh và nhận thức là đã đến lúc phải hàn gắn và xây dựng lại quê hương.
Quan niệm rằng lòng yêu nước không thuộc độc quyền của một phe nhóm. Ðất nước là gia sản của ông cha để lại. Người quốc gia hay cộng sản vẫn là con người Việt Nam, mang cùng một giồng máu, gánh chịu cùng một trách nhiệm đối với dân tộc.
Quan niệm rằng lịch sử thế giới từ xưa đến nay đã chứng minh: Chế độ là nhất thời, dân tộc là vạn đại.
Quan niệm rằng gần đây chủ nghĩa cộng sản tại nhiều quốc gia đã tự biến thể hoặc bị xóa bỏ vào cuối thế kỷ 20 nầy.
Vì vậy sau 21 năm đất nước bị chia cắt và 49 năm dân tộc bị ly tán, tôi nghĩ rằng đã đến lúc mọi người bên nầy và bên kia, đều có bổn phận trong phạm vi trách nhiệm và khả năng của mình, làm mọi cách để hàn gắn, tái tạo sự ổn định cho Việt Nam.
Với tinh thần đó chúng tôi, Nguyễn Cao Kỳ, với tư cách cá nhân, đã nhận lời mời của chính phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt NAM, về thăm quê nhà, tiếp xúc với chính quyền, để nhận xét tình hình, trong tinh thần xây dựng và khách quan nhầm mục đích, nếu có thể được, góp phần nhỏ mọn của mình trong công cuộc tái lập sự hài hòa và uy thế cho đất nước, đem lại tự do hạnh phúc cho dân tộc.
Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ
Los Angeles ngày... tháng... năm
Sau khi nghe xong ông Kỳ nói: “Perfect”. Ông yêu cầu tôi gởi ngay bản văn nầy cho ông. Tôi còn dặn dò thêm: “Toa nên đưa lời tuyên bố nầy cho Tổng Lãnh Sự Hà Nội ở San Francisco, yêu cầu nó chuyển về cho thượng cấp của nó, hỏi có vui lòng thấy bản văn nầy được phổ biến trước khi toa về Việt Nam không? Ngoài ra hai đoạn nói về “chế độ là nhất thời” và “cộng sản biến thể hay bị xóa bỏ” nếu họ không vừa ý thì toa có thể bỏ đi cũng được.
Ðiều quan trọng là khi về đến Saigon toa phải đòi cho bằng được vào đại học, đọc một bài diễn văn trước mặt sinh viên. Trong đó toa có thể ca ngợi chế độ về đổi mới, về những chuyện đâu đâu vô tích sự... Nhưng quan trọng nhứt là phải có bốn chữ: “Tự do dân chủ”. Bên nầy tụi moa khai thác bốn chữ nầy như thế nào toa khỏi lo”.
Ông Kỳ đồng ý.
Bản thảo lời Tuyên bố nầy tôi có đọc cho rất nhiều người bạn nghe, trong đó có một tướng lãnh biết ông Kỳ nhiều, vài anh em ký giả chủ báo ở California và một vài bạn bè bên Pháp. Mục đích là để yêu cầu họ suy nghĩ giùm xem tôi có viết điều gì hớ hênh không? Tất cả tán thành ý kiến diễn đạt trong bản văn. Nhưng đa số ngạc nhiên và nghi ngờ cộng sản sẽ tráo trở.
Trước khi đi San Franciaco ông kỳ có điện thoại cho tôi biết là ông sẽ gặp Tổng Lãnh sự Hà Nội và được ông nầy mời dùng cơm trưa. Ông hứa trên đường về Los Angeles sẽ ghé qua Fresno thăm tôi và bàn việc. Hai ngày sau, lúc 9 giờ đêm tôi nhận điện thoại của ông Kỳ nói ông đang rời San Francisco mà nếu ghé qua Fresno gặp tôi nữa thì về đến Los sẽ trễ đến sáng, nên xin hẹn ngày khác gặp nhau. Bây giờ chỉ nói chuyện sơ qua bằng điện thoại thôi. Tôi hỏi:
- Hà Nội có tán thành lời tuyên bố của toa đưa ra trước khi về không? Nguyễn Ðình Bin sẽ gởi giấy mời chính thức không?
- Tụi nó đồng ý 100% về bản văn và sẽ có thơ mời chính thức. Ðồng thời Hà Nội sẽ gởi hai nhân vật qua để thảo luận chương trình đi đứng ăn ở với moa.
- Mọi chuyện hình như tốt đẹp. Nhưng tại sao quá suông sẽ như vậy làm tôi thấy hơi lạ. Rồi ông Kỳ im hơi luôn cho đến một ngày trước khi lên máy bay ông mới điện thoại báo tin cho tôi biết. Tôi hỏi:
- Toa có được giấy mời chính thức không?
- Không.
- Toa có phổ biến lời tuyên bố mà toa đã nhờ moa viết và được tụi Hà Nội thuận ý 100% như toa nói không?
- Không có phổ biến.
- Tại sao toa không chịu phổ biến? Toa có biết rằng ngang nhiên đi về làm bông hoa cho tụi nó là toa chôn vùi tên tuổi và chịu nhục nhã cả đời không?
- Sợ gì, đợi về bên đó gặp tụi nó rồi sẽ thảo luận sau.
- Toa tưởng toa là ai? Ngay những lời hứa sẽ có thơ mời, ngay quyết định đua ra lời tuyên bố cũng không có thì một là toa tự dối gạt mình, hai là toa bị hai thằng sứ giả Hà Nội dối gạt toa, ba là toa dối gạt moa. Một trong ba, hay là cả ba đều đúng, toa làm ơn nói rõ cho moa biết được không?
- Toa yên trí, toa biết moa là thằng liều, để moa về đột phá bức tường cộng sản nầy cho tụi toa thụ hưởng về sau.
- Toa đừng có giở cái vọng nói đó với moa. Thứ nhứt toa không có khả năng đột phá, thứ hai moa không phải là thằng ngồi chờ sung rụng để hưởng, thứ ba tuổi moa đã già đủ cơm ăn áo mặc rồi không cần thụ hưởng bất cứ thứ gì khác ngoại trừ thấy dân tộc mình được giải thoát. Thôi nói nhiều mích lòng vô ích, chúc toa gặp được nhiều may mắn. Nhưng có điều moa cho toa biết trước là trong tương lai, nếu moa có lập trường khác biệt, nếu moa có lời phê phán nặng nề không nể mặt anh em thì toa phải hiểu rằng mỗi thằng chúng mình bênh vực lập trường và theo lý tưởng của cá nhân mình.
- Ðược rồi. Ðể tớ về có gì hay ho tớ sẽ điện thoại cho cậu.
Từ đó và vĩnh viễn Nguyễn Cao Kỳ, theo tôi nghĩ, không còn mặt mũi nào liên lạc với tôi nữa và tôi cũng quyết định sẽ không bao giờ gặp gỡ, tiếp nhận điện thoại bởi lẽ tôi không còn gì để nói với ông ta.
Chuyện Nguyễn Cao Kỳ về nước làm giấy lên dư luận xôn xao phê phán nặng nề. Những lời tuyên bố nịnh bợ Hà Nội, phản bội đồng đội, làm cò mồi dẫn mối kinh tế của ông làm dư luận phẫn nộ phỉ nhổ.
Tôi có hỏi qua một vài người bạn quen biết ông khá nhiều như Cựu Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị thì ông ta nói:
“Thằng Kỳ có điện thoại cho moa, nó nói khá nhiều nhưng moa trả lời về trong điều kiện không rõ ràng, bất lợi đó không có moa”.
Tôi cũng có dịp hỏi qua anh Ðại Sứ Bùi Diễm, anh nói: “Ông Kỳ có điện thoại cho tôi nhưng tôi nói với ông ta về trong điều kiện hạ mình nhịn thua kiểu Hàn Tín ngày xưa thì không có tôi”.
Có những bạn bè thân hữu hỏi tôi, báo chí phỏng vấn, tôi chỉ suy đón rằng ông Kỳ một là vì háo danh tưởng mình là con cầu tự. Ông nhiều lần thố lộ với tôi có một ông thầy tướng số Thái Lan nào đó, bói rằng đời ông còn vang vẽ tiếng tăm (tốt hay xấu ông thầy nầy quên nói). Bà vợ chắp nối sau nầy là người thường lợi dụng tên tuổi của ông để làm ăn với thương gia Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam. Chính bản thân Nguyễn Cao Kỳ cũng nhiều lần khoe với tôi là ông quen biết nhiều phú ông, vua dầu hỏa, người Á Rập cùng đánh golf với ông và hứa sẽ hỗ trợ ông đầu tư xây dựng lại Việt Nam khi ông cần đến. Những ông bạn nầy lâu lâu tặng ông món quà một hai trăm đô la dễ dàng, coi như không có. Từ đó tôi phải suy diễn rằng Nguyễn Cao Kỳ yêu nước ngày xưa, nay bị mù lòa vì tiền hoa hồng dẫn mối cho các thương gia Á Rập hay vì quyền lợi vật chất do cộng sản hứa hẹn như trường hợp của Dương Văn Ðức con của Dương Văn Minh, và đáng buồn hơn nữa vì đàn bà thúc giục mà Nguyễn Cao Kỳ phải nghe theo! Sự suy diễn nầy đúng hay sai, bất công hay đó là sự thật chỉ có Nguyễn Cao Kỳ và bà vợ ông mới biết thôi.
Phần tôi đã viết ba bài đăng trên nhiều báo: “Lạm Bàn Về Việc Nguyễn Cao Kỳ Về Nước”. “Hai Hình Ảnh Một Âm Mưu”. và “Chuyện Nhuyễn Cao Kỳ Chấm Xuống Hàng Lật Sang Trang”.
Tại sao Cựu Ðại Tướng Dương Văn Minh không về nước ?
Tôi đang viết bài trên máy vi tính bỗng nhiên có tiếng chuông kêu cửa. Mở cửa ra tôi thấy có một ông khách lạ, còn đứng ngay trước cửa, ông liền tự giới thiệu:
- Tôi là Ðại Tá Nguyễn Hồng Ðài, “ba tôi muốn xin yết kiến với anh, xin anh vui lòng cho tôi một cái hẹn tôi sẽ đưa ba tôi đến gặp anh”.
- Xin lỗi đại tá, ba của đại tá là ai?
- Tôi là con rể của Ðại Tướng Dương Văn Minh...
- Ô! xin lỗi, tôi thành thật xin lỗi Ð.T. vì chúng mình không thường gặp nhau nên tôi không nhận được Ð.T. là con rể của Ðại Tướng Minh, bạn của thân phụ tôi ngày xưa mà, khi Ðại Tướng còn là Trung Tá commandant secteur Long An (Chỉ Huy Trưởng vùng Long An gồm ba tỉnh Long An, Mỹ Tho, Bến Tre) còn ba tôi là Thiếu Tá Phó tỉnh trưởng nội an sous secteur Bến Tre (vùng phụ). Anh dùng hai chữ yết kiến sẽ làm tôi giảm thọ chết không được đâu. Xin anh cho tôi biết khi nào Ông Ðại Tướng rảnh tôi sẽ đến hầu chuyện với Ðại Tướng.
- Tùy ngày giờ rỗi rảnh của anh, tôi sẽ đến chở anh đi thăm ba tôi.
Buổi sáng ngày tháng nào của năm 1993, tôi không còn nhớ, anh Nguyễn Hồng Ðài đến chở tôi đi gặp Ð.T. Dương Văn Minh ở ngoại ô thành phố Paris. Buổi tiếp xúc đầu tiên rất thân mật, sau khi trò chuyện xã giao, nhận định tình hình chung quốc nội và quốc tế lúc đó, ông Minh không ngần ngại nói thẳng cho tôi biết rằng theo cái nhìn và quan sát của ông thì các nhân vật chính trị định cư ở hải ngoại không có ai ngoài tôi hiểu biết cộng sản nhờ qua bao nhiêu năm tù đầy và ở lại sống với tụi nó. Cũng theo ông, tôi hội đủ điều kiện và khả năng đấu đá với cộng sản, đặc biệt tôi có thể giúp ông thực hiện mưu đồ đòi lại tự do dân chủ cho dân tộc. Dĩ nhiên tôi đối đáp lại và giải thích rất nhiều về những lời khen tặng quá đáng của ông Ðại Tướng, có lẽ vì tình bạn đối với ông già tôi hay vì muốn tâng bốc để thuyết phục tôi giúp ông thực hiện toan tính của ông.
- Anh biết không anh Triều, thằng Ngô Công Ðức có qua thăm tôi và cho biết Thủ Tướng Võ văn Kiệt mời tôi về nước để chứng tỏ cho đồng bào và thế giới thấy tôi và họ đang thực hiện chủ trương hòa giải dân tộc. Ðó cũng là chính sách mà tôi chủ trương ngày trước. Gần đây bà Nguyễn Phước Ðại cũng có nhắn nhủ lời mời của ông Võ văn Kiệt. Theo ý anh thì thấy như thế nào?
- Thưa Ðại Tướng tôi muốn nói một điều mà chắc sẽ làm mích lòng Ðại Tướng nhiều lắm nên tôi không dám thốt ra.
Ông Minh cứ hỏi và nhấn mạnh rằng ông sẽ không cố chấp dù tôi có nói gì đi nữa. Tôi bèn nói thật: Ðại Tướng là bạn của ba tôi thì tôi cũng ví ông như cha mẹ, nếu tôi nói ra mà ông có giận, có chửi thì tôi cũng coi như nước đổ đầu vịt, cha chửi con là sự bình thường. Vậy tôi xin thưa: “Ông là tượng trưng cho sự thất bại”, cờ đã tới tay bao nhiêu lần mà ông không biết phất. Ðời người không có hai ba cơ hội. Ðại Tướng nghĩ lại xem, đời ông có bao nhiêu lần Trời cho cơ hội? Tôi không muốn nói đoạn chót tháng tư năm 1975. Theo tôi, ông sẽ không làm gì được do tự bản thân ông. Nhưng hiện tại ông có một cái thế . Nếu ông biết cách khai thác cái thế đó thì cộng sản Hà Nội sẽ mệt lắm. Chắc chắn sẽ không phải ông làm cho tụi nó ngã mà ông có thể làm cho tụi nó gặp rất nhiều khó khăn rắc rối. Ðó là tương kế tựu kế ông cứ về nước đi. Về để làm gì thì anh em sẽ cố vấn cho ông nếu ông chịu nghe và dám hành động.
- Anh Triều à, người ta nói “Trâu già không sợ dao phay” tôi năm nay trên tám mươi tuổi rồi còn mong ước gì? Còn sợ gì nữa anh thử nghĩ xem?
Khi bắt tay ra về ông Minh cầm tay tôi thật lâu, có vẻ trầm tư suy nghĩ và nói:
- Anh có thể tạo một équipe để giúp tôi việc đó không?
- Xin Ðại Tướng cho tôi thời gian suy nghĩ.
Trên đường về nhà, tôi gạn hỏi anh Ðài về sự toan tính của ba vợ anh. Về sự suy nghĩ của ông, về sự quyết tâm của ông đến mức độ nào. Anh Ðài không cho tôi thêm được một chút thông tin nào ngoài những gì Ðại Tướng Minh đã thố lộ tâm tình với tôi. Về đến nhà, tâm trạng tôi có chút bàng hoàng, tôi tự hỏi tại sao ông Minh không tìm những người thân cận ông ở nước ngoài như anh Nguyễn Hữu Chung, nếu ông về trong nước thì có Lý Quí Chung cũng là cựu Tổng Trưởng trong chính phủ một ngày rưỡi của ông, Hồ Văn Minh, Ngô Công Ðức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung...( Tôi sẽ đề cập đến những tên tuổi nầy khi tôi bàn về quyển “Hồi Ký Không Tên của Lý Quý Chung). Tại sao ông lại tìm đến tôi. Tôi đem những bàng hoàng suy nghĩ nầy tâm sự với một số bạn bè thân thiết như Bác Sĩ Trần Công Phát, Phó Chủ Tịch hội y sĩ Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Anh Tuấn đồng nghiệp của tôi ở radio RFI, Giáo Sư Lê Ðình Thông v.v... Ý kiến của tôi là: Nếu ông Minh về nước, danh nghĩa là sống những ngày tàn của cuộc đới nơi quê cha đất tổ, Cộng sản Hà Nội sẽ lợi dụng rêu rao là chế độ của họ đã cởi mở tối đa. Bằng cớ là một cựu Tổng Thống VNCH cũ mà còn chấp nhận trở về yên sống với chế độ. Nhưng trong khi đó ông Minh cũng có thể tuyên bố những điều mắt thấy tay nghe, một đúng mười sai, một hay mười dở để cho bên ngoài dựa vào đó mà khuếch đại tuyên truyền bất lợi cho cộng sản. Ðiều chắc chắn là bọn chúng không dám bắt bớ giam cầm ông bởi vì chính chúng nó mời về. Cùng lắm là cô lập ông như Tăng Thống Huyền Quang thì lại càng hay hơn nữa, chừng đó có thêm một nạn nhân có tầm cỡ quốc tế. Ðó là chưa kể vài tháng ông xin đi thăm Tăng Thống Huyền Quang, vài tháng ông xin thả Bác Sĩ Nguyễn Ðan Quế, Giáo Sư Ðoàn Viết Hoạt v.v... Những cái gai châm chích trường kỳ vào chế độ. Thiết nghĩ nếu ông Minh làm được thì cũng là một sự góp phần trong việc tranh đấu nhằm thay đổi chế độ độc tài cộng sản Hà Nội.
Về Paris tôi đem chuyện gặp gỡ Ð.T. Dương Văn Minh thuật lại cho một vài anh em nghe. Các anh đưa ý kiến: nên khuyên ông Minh “Tương kế tựu kế”, khai thác cái thế của ông ấy trong giai đoạn hiện tại. Bởi vì bọn cộng sản đang cần “bôi son trét phấn” cho cái bộ mặt tàn bạo, gian ác, độc tài, dốt nát của họ trong giai đoạn mà cộng sản Hà Nội hô hào “Ðổi Mới để sống còn” họ cần chứng minh cho thế giới thấy Việt Nam đang đổi mới chẳng những về kinh tế, khi họ tuyên bố: “mượn kinh tế thị trường để phát triển xã hội chủ nghĩa!...”, về chính trị, họ tìm mọi cách chiêu dụ nhân vật chế độ cũ trở về Việt Nam, hoặc hợp tác, hoặc hồi cư để chứng minh sự đổi mới của Hà Nội là thật, là tốt đến nỗi người của chế độ cũ cũng đồng ý tán thành!...
Nếu ÐT Dương Văn Minh biết lợi dụng hoàn cảnh, khai thác được cái thế chính trị của ông trong giai đoạn nầy, thì sẽ có lợi cho đại cuộc và đồng thời ông cũng hóa giải được phần nào sự phê phán của dư luận về lệnh buông súng đầu hàng của ông ngày 30 Tháng Tư năm 1975.
Sau khi thảo luận với anh em, tôi gặp lại Ð.T. Minh nhiều lần, mỗi lần đều có mặt Ð.Tá Nguyễn Hồng Ðài để xác nhận rằng tôi và một số anh em bằng lòng giúp ông thực hiện kế hoạch đã bàn định. Về Paris tôi lo nghĩ phải mời những ai? Bạn bè thì đông, “tài tử chính trị” có nhiều! Nhưng, người còn nhiệt tình với đất nước, chịu khó suy nghĩ một cách khách quan thì tôi biết ít (mặc dù số người đó có thể đông ở Paris). Cuối cùng tôi quyết định mời các anh chị: B.S. Trần Công Phát, T.S. Lê Ðình Thông. Anh Chị K.S. Lê Như Quốc Khánh, K.S. Lê Văn Song, D.S. Nguyễn Anh Tuấn và Ð.Tá Nguyễn Hồng Ðài (rể D.V. Minh), K.S. Dương Văn Ðức (con D.V. Minh). (Tất cả những anh chị em nầy là nhân chứng sống của cuộc mưu toan lót cầu đưa Việt Nam đến dân chủ nhân quyền của Ð.T. Minh; âm mưu quỉ quyệt của phía cộng sản; sự tham lợi háo danh của người con Dương Văn Ðức đã làm hư việc, đưa đến quyết định hủy bỏ chương trình về nước của Ð.T. Minh).
Rất nhiều phiên họp giữa các anh em và Ð.T. Dương Văn Minh được tổ chức tại nhà tôi, kéo dài cả năm trời, mỗi lần đều có thu băng video và cassette để giữ làm tài liệu khi cần tham khảo những gì đã bàn tính với nhau. Ð.T. Minh xác định sẽ về với con trai là Dương Văn Dức để có người thân bên cạnh trong lúc già yếu bệnh hoạn.
Những cuộc bàn thảo xoay quanh nhiều vấn đề có thể tóm tắt như sau:
Ð.T. Dương văn Minh sẽ lợi dụng tình thế và cơ hội khi ông trở về nước, để gây sự chú ý của dư luận thế giới bên ngoài. Ông là nhân chúng sống để liên lạc, tìm hiểu những vấn đề quan trọng của Việt Nam.
Phương pháp thực hiện là Ð.T. về nước mở một trận “giặc mồm”, nghĩa là bằng những lời tuyên bố của ông, lúc khen lúc chê, lúc yêu cầu, lúc đề nghị, lúc góp ý, lúc khuyên can, nhằm gây khó khăn thậm chí trong một chừng mực nào đó có thể tạo sức ép đối với chế độ. Anh em tiên đoán rằng Việt cộng không dám bắt ông Minh. Tối đa là cô lập hoặc làm cho ông bất mãn đến độ phải tự ý quay trở về Pháp.
Ðiều kiện trở về là nhứt định phải có thơ mời chính thức của nhà nước cộng sản. (mặc dù Ngô Công Ðức và bà Nguyễn Phước Ðại có chuyển lới mời của Võ văn Kiệt rồi). Anh Dương văn Ðức được chỉ định về Việt Nam lấy thơ mời chính thức. Như vậy Việt cộng sẽ “há miệng mắc quai” về sau vì họ đã chính thức mời. Ðây cũng là một sự bảo đảm an toàn cho Ð.T. Minh và anh Ðức trong tương lai. Nếu có thơ mời thì mình phải có thơ phúc đáp chính thức rồi mới về. Nếu phía cộng sản dụ dự chưa chịu mời hay không mời thì mình chờ xem diễn biến như thế nào.
Nếu chưa có điều kiện thuận lợi để trở về thì ngay bây giờ ở tại Pháp ông Ð.T. nên đưa ra những lời Tuyên bố có lợi cho đất nước, đúng với tâm tư đa số người Việt, hợp với chủ trương của các nước Tây phương. Với sự kiện đó, thời gian sẽ biến dần hình ảnh của ông thành con người của thời cuộc.
Ðặt cơ sở liên lạc thật chặt chẽ giữa những người thân ở Pháp - Việt Nam - Mỹ.
Tìm một hoặc nhiều người, ngoài anh D.V. Ðức, có khả năng đi đi về về Việt Nam khi cần liên lạc bên trong với bên ngoài. Thành lập nhiều nhóm trong nước, do người tin cậy đứng đầu. Những người nầy phải thuộc hạng gan lì. Nếu đổ bể phải một mình chịu đựng và gánh trách nhiệm.
Tìm những sĩ quan đàn em, thân cận của Ð.T. Minh ngày xưa còn lưu lại trong nước hoặc đang ở nước ngoài, sẵn sàng tiếp tay với ông trong cuộc vận động nầy.
Ðặc biệt chú trọng đến giới sinh viên học sinh và giáo sư trẻ. Chỉ có thanh niên mới có đầy đủ nhiệt quyết và can đảm “đội đá vá trời”
Khi nào chưa tìm được người đồng tình dấn thân thì ngồi yên chờ cơ hội. Nên nhớ rằng “tình báo nhân dân” của cộng sản hơn ta gắp bội phần. Có khi chính tụi nó gài , cho người tự nguyện hoạt động hăng sai với mình để biết rõ kế hoạch mình đang làm gì? Với ai? Và khi cần sẽ hốt trọn ổ. Khi mới chiếm miền Nam bọn chúng áp dụng phương pháp nầy để bắt hàng ngàn người chống cộng.
Giặc mồm: Ð.T. Minh phải tuyên bố hòa hợp là chính sách của nhà nước nhưng muốn có được sự hòa hợp thì trước tiên phải có sự hòa giải. Chính sách hòa hợp của nhà nước còn thiếu nhiều điều kiện để cho dân chúng Việt Nam trong và ngoài nước hưởng ứng. Chúng ta không thể hợp tác xây dựng lại quê hương khi mà trong lòng người còn giữ sự nghi kỵ, căm thù, tức hận lẫn nhau.
Hòa giải là kẻ nào đã phạm sai lầm phải công khai nhìn nhận với quần chúng. Sau đó mới đề nghị xóa bỏ quá khứ để hướng về tương lai.
Hòa giải hòa hợp không thể thực hiện một chiều. Nghĩa là thuận theo ý kiến và điều kiện của phe nhóm bên nầy hay bên kia. Muốn hòa giải nhà nước đương quyền phải thả hết những người tù thuộc chế độ cũ và những người vì bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền mà bị bắt bớ giam cầm. Phải có một đạo luật về hỏa giải hòa hợp dân tộc qui định rõ ràng nguyên tắc... hình phạt... cấm đoán trả thù... phân biệt đối xử.. v.v.. Tối thiểu phải mở rộng dân chủ để cho mọi công dân tự thấy có quyền và bổn phận tham gia việc nước.
Ý nghĩa của hai chữ “Dân Chủ” phải hiểu theo nghĩa khoa học được toàn thế giới chấp nhận chớ không thể hiểu một trìu theo nghĩa méo mó có dụng ý của cộng sản. Nói tóm gọn: quốc gia không thể phát triển nếu không có sự cởi mở tối thiểu về chính trị. Quốc gia không thể phát triển theo độc quyền chỉ đạo của đảng cộng sản.
Về Tôn giáo: Tôn giáo là dân tộc. Người Việt Nam vốn là hữu thần. Ð.T. phải khéo léo hỗ trợ các tôn giáo trong hành động và qua lời tuyên bố mỗi khi có cơ hội. Mình phải vận động để các tôn giáo mời Ð.T. tham dự những ngày lễ lớn của họ. Luôn luôn tuyên bố trong những cơ hội đó “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc hữu thần”. Chùa chiền, nhà thờ, thánh that, đình miếu ở khấp nơi trong xứ đủ chứng minh điều đó. Làm sao cho quần chúng thấy ngay sự đối kháng giữa dân tộc hữu thần và cộng sản vô thần. Ð.T. phải lợi dụng mọi cơ hội để thăm viếng những vị lãnh đạo tôn giáo.
Về Kinh Tế: Sẽ thành lập một nhóm anh em chuyên viên kinh tế nghiên cứu những sai lầm của Hà Nội và đường hướng đứng đắn để phát triển đất nước. Ð.T. có thể thường xuyên tuyên bố về luật đầu tư, về điều kiện dễ giải nhầm thu hút vốn đầu tư quốc tế, về chất xám và nguồn tài chánh của cộng đồng người Việt hải ngoai v.v...
Ðặc biệt lưu ý đến điều kiện sinh sống của thương phế binh và các chiến hữu vô phúc còn kẹt lại trong nước. Mục đích chính là không khiêu khích, không đối đầu mà uốn theo tình thế, để tạo một cái gai không thể nhổ ra được, một cụm tế bào ung thư không bao giờ lành, bằng cách thường xuyên xin viếng thăm Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Ðộ... Xin chính quyền trả tự do cho BS Nguyễn Ðan Quế, GS Ðoàn Viết Hoạt hiện còn bị cầm tù... Với những lời tuyên bố, viếng thăm, can thiệp, yêu cầu, khuyên giải, thường xuyên sẽ kết lại thành một bản cáo trạng nhẹ nhàng êm ấm nhưng có tầm ảnh hưởng tai hại cho Hà nội.
Trước khi anh D.V. Ðức về lần thứ nhứt, đại diện cho Ð.T. Dương Văn Minh, sẽ gặp Thủ Tướng Võ Văn Kiệt có hẹn trước, chúng tôi họp bàn về chuyến đi nầy. Mục đích là anh Ðức phải đích thân gặp Thủ Tướng Võ Văn Kiệt để lấy thư mời. Hỏi những câu thông thường về điều kiện sinh sống tự do tại Saigon, nếu ông Ð.T. bằng lòng về nước. Ð.T. có tự do nhập cảnh và xuất ngoại dễ dàng không? Có quyền đi lại tiếp xúc với bạn bè thân hữu không? v.v... Tóm lại anh Ðức phải nghe nhiều hơn nói và nhiệm vụ của anh là phải ghi nhớ thật chính xác những gì ông Kiệt phát biểu và trở về Paris tường thuật lại nguyên văn, chi tiết, cho anh em nghe để anh em đoán hiểu ý đồ của chính quyền Hà Nội như thế nào?
Gợi ý cho Dương Văn Ðức phòng khi bị Võ Văn Kiệt hỏi vặn
Ngoài ra anh em cũng có dự trù những câu hỏi mà Thủ Tướng Võ Văn Kiệt có thể hỏi lại anh Ðức nên đã đặt giả thuyết những câu hỏi phòng bị và trả lời viết rõ ra như sau:
H- Về đến Việt Nam nếu chính phủ mời ông Ð.T. tham gia Mặt trận tổ quốc thì Ð.T. có vui lòng chấp nhận không?
TL- Tôi không biết được ý kiến của ba tôi như thế nào? Nhưng theo tôi nghĩ thì MTTQ là cơ quan của đảng và nhà nước, ở vị thế của ba chắc ba nên đứng độc lập ngoài các cơ quan của đảng và nhà nước, như vậy ba có thể giúp ích cho xứ sở nhiều hơn chăng? Bằng những lời tuyên bố hướng về phía người ngoại quốc hay đồng bào Việt nam.
H: Ð.T. có còn ý định gián tiếp hay trực tiếp tham gia sinh hoạt chính trị không?
T.L: Con người Dương văn Minh là con người chính trị, do hai lần đứng đầu lãnh đạo Miền Nam trong những trường hợp rất đặc biệt, nhứt là lần thứ hai ngày 30-4-75. Vì vậy bất cứ một hành động, một cữ chỉ, một lời nói nào của Dương Văn Minh người ta cũng có thể gán cho nó một ý nghĩa chính trị. Ðó là điều không thể tránh được. Thí vụ như việc trở về Việt Nam của Dương Văn Minh sẽ có người xem đó là điều có lợi cho chế độ Hà Nội.
H: Ð.T. có còn giữ những mối liên hệ với các chính phủ nước ngoài không?
T.L: Tôi không có hỏi ba tôi về vấn đề nầy, nhưng theo tôi nghĩ thì sau ngày 30-4-1975 mọi sự liên hệ trở thành vô ích và vô nghĩa. Tuy nhiên nếu muốn liên hệ lại, chắc là điều không khó.
H: Nếu nhà nước muốn nhờ ba liên lạc với một chính phủ nước nào đó để đặt một vấn đề gì đó có lợi cho quốc gia thì ba có sẵn lòng không?
T.L: Tôi nghĩ rằng trên nguyên tắc chắc ba sẽ không từ chối, nhưng cái đó phải tùy xem vấn đề gì và với mục đích nào?
H: Ông Ð. T. ở Pháp thường hay liên lạc với những ai?
T.L: Hiện ba đang ở với người em của tôi ở ngoại ô thành phố Paris, nên chắc ít có người tới lui thường vả lại ba cũng không muốn tiếp xúc với nhiều người nữa. Tuy nhiên với một quá khứ như của ba thì sự quen biết và bạn bè tương đối khá đông và rất rộng rãi, vì vậy cũng có một số người, kể cả ở Mỹ hay Canada có qua Pháp thăm ba (như Nguyễn Hữu Chung, Tôn Thất Thiện... ở Paris như Lâm ngọc Diệp, Trần công Phát... Nếu họ có hỏi thêm thì giả vờ suy nghĩ rồi nói là không để ý đến khách của ba và vì không có ở chung một nhà nên không biết... Câu nầy không khi nào họ dám hỏi trực tiếp ông Ð.T. vì vậy chắc họ sẽ tìm hiểu thông qua anh Ðức...)
H: Ở Pháp Ð.T. sống bằng cách nào? (câu nầy chắc họ cũng không dám trực tiếp hỏi ông Ð.T., nhưng chắc chắn họ phải tìm hiểu bởi vì nó có tác dụng đối với họ về sau... (cung phụng vật chất để lấy lòng v.v...)
T.L: Ba tôi sống bằng tiền trợ cấp xã hội của Pháp như mọi người già hưu trí. Ngoài ra anh chị em chúng tôi cũng đống góp đủ cho ba sống dư giả trong tuổi già.
H: Nếu có về Việt Nam thì Ð.T. dự tính chừng nào về?
T.L: Khi nào ba thấy thuận tiện thì về, tôi chưa nghe ba nói khi nào?
H: Ð.T. có thường liên lạc với những thân hữu ngày xưa mà hiện nay còn ở lại Việt Nam không?
T.L: Anh Ðức nên nói tất cả sự thật nếu Ð.T. có liên hệ với bất cứ ai? Bởi vỉ họ đã biết rõ và biết lâu rồi. Anh nói ra sự thật có lợi điểm là ngăn chận và lật tẩy được những người lợi dụng danh nghĩa của ông Ð.T. để buôn thần bán thánh.
H: Về Sài gòn Ð.T. có dự tính đi đâu không?
T.L: Tôi không nghe ba nói sẽ đi đâu, nhưng chắc cũng đi du ngoạn một vài nơi trong nước và đi thăm bà con thân hữu chỗ nầy chỗ khác.
H: Theo anh ông Ð.T. có thể làm gì trong hiện tại để góp phần xây dựng quê hương?
T.L: Câu nầy xin quí vị trực tiếp hỏi ba tôi, bởi lẽ chỉ có ba mới có tư cách và thẩm quyền trả lời mà thôi.
Anh Dương Văn Ðức về Việt nam lần thứ nhứt có gặp Thủ Tướng Võ Văn Kiệt. Không có thơ mời chính thức. Nhưng theo anh Ðức nói lại thì chờ lần sau, khi Ð.T. xác nhận ý định sẽ về Việt Nam. Anh Ðức thực sự có tường trình tương đối đầy đủ những gì hai bên trao đổi. (V.L.T)
Theo sự tường trình của anh Ðức thì Võ Văn Kiệt chỉ hỏi về sức khỏe của Ð.T? Thường liên lạc với ai? Chừng nào về? Có liên lạc với những thân hữu trong nước không? Vấn đề quan trọng được xoay quanh là chừng nào về để nhà nước chuẩn bị chỗ ở. Ð. T. về sẽ ở lại “Dinh Hoa Lan”.
Anh em có đặc biệt lưu ý anh Ðức là về lần thứ hai nầy phải dứt khoát đặt vấn đề thơ mời và nói rỏ ông Ðại Tướng không thể đương nhiên trở về nước được nếu không có một thơ mời chính thức. Và cũng như lần trước anh em có đặt một số câu hỏi mà anh Ðức có nhiệm vụ phải tìm hiểu ý đồ của phía công sản, Những câu hỏi đó là:
- Thủ Tướng khuyên ba tôi về ở yên dưỡng già chờ chết hay nên có những cử chỉ hành động gì có thể đóng góp cho đại cuộc?
- Trong điều kiện nào sự trở về của ba tôi có thể góp phần cho công cuộc đổi mới, hòa giải hòa hợp dân tộc để phát triển đất nước?
- Các vị lãnh đạo của đảng và nhà nước có biểu đồng tình với thủ tướng về việc mời ba tôi về không?
- Thủ Tướng thấy tôi có nên nhân danh ba tôi để đi viếng thăm xã giao các vị Tổng bí Thư và Chủ Tịch Nhà Nước không?
- Tình hình đất nước có thể nào đi đến cởi mở hơn, dân chủ hơn không?
- Ba tôi có thể làm gì để giúp cho qua trình tự do dân chủ thiến nhanh và thành công không?
- Báo chí ở hải ngoại loan tin Thủ tướng đang gặp nhiều khó khăn nội bộ có đúng không?
- Chừng nào Thủ Tướng mới có thư chính thức mời ba về? Ba tôi không thể tự nhiên trở về vô điều kiện như vậy. Ðiều nầy Thủ Tướng cũng thừa biết vậy rồi?
Anh Dương Văn Ðức trở lại Paris sau lần về Việt Nam thứ hai. Anh em hợp đông đủ cùng với ông Ð.T. và con là Ðức và Rể là Ð.Tá Ðài. Anh Ðức báo cáo là không có gặp Võ Văn Kiệt chỉ gặp được chánh văn phòng của ông Kiệt mà thôi. Những điều ông chánh văn phòng nầy nhắn lại đáng được ghi nhớ là:
- Sẽ có thơ mời Ð.T. sau.
- Ðang sửa chữa “Dinh Hoa Lan” để tiếp đón Ð. T. trở về.
- Ðiều kiện sinh sống và đi lại sẽ dễ dãi.
- ”Dinh Hoa Lan” hoàn toàn thuộc về sở hữu riêng của Ð.T. bởi vì chính phủ Ngô Ðình Diệm đã bán cho ông Minh với giá một đồng bạc danh dự rồi.
- Sẽ mời anh Dương Văn Ðức giữ một chức vụ Giám Ðốc gì đó trong bộ ngoại giao.
Anh em nhận định: nếu Cộng Sản Hà Nội chịu để cho Ð.T. tự do sinh hoạt, đi lại bình thường thì có thể xoay trở để thực hiện mục tiêu như đã định.
Vấn đề chính phủ đã bán Dinh Hoa Lan cho ông Minh làm ông Ð.T. cười ngất. Ai cũng thấy ngạc nhiên vì mọi người hiểu rằng một “nhà chức vụ” (maison de fonction) là của nhà nước không thể bán cho tư nhân dễ dàng như vậy. Nếu muốn bán thì phải qua một cuộc đấu giá công khai, ai cũng có quyền mua được. Loại nhà nầy dành riêng cho người có chức quyền tương xứng. Khi rời nhiệm sở phải trả nhà lại cho người kế vị. Trường hợp Dương Văn Minh, chức Tướng là mang suốt đời, nhưng nhà nầy được cấp cho ông là khi ông giữ chức Cố Vấn Quân Sự cho Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Sau ngày đảo chánh ông Diệm, Tướng Minh là chủ Tịch Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng. Và về sau vì nể nang và kính trọng quá khứ của Ð.T. Minh nên không một chính phủ nào đòi nhà lại để cấp cho người khác.
Dù vậy nếu một khi ông Minh qua đời thì gia đình ông phải dọn ra, trả nhà lại cho chính phủ. Cộng Sản Hà Nội không biết gì về thể lệ hành chánh của chế độ Việt Nam Cộng Hòa nên bày ra trò gian dối nầy để dụ dỗ lòng tham của ông Ð.T. Bởi vì cái Dinh Hoa Lan rộng lớn mênh mông ở giữa thủ Ðô Sài Gòn giá bán hiện tại cũng phải hàng chục triệu đô la. Còn việc mời Dương Văn Ðức làm Giám Ðốc lại càng rõ ràng là một sự dụ dỗ và lợi dụng tiếng tăm.
Ðiều đáng tiếc là anh Dương Văn Ðức không nói hết sự thật. Trước mặt anh em và cha của anh là Ð.T. Minh, anh dấu việc đã gặp riêng Thủ Tướng Kiệt. Và ông nầy đã hứa giúp anh Ðức làm ăn bằng cách để cho anh độc quyền mua bán và cung cấp máy vi tính cho các cơ quan nhà nước cộng sản. Một mối lợi hàng triệu đô la. Và còn những gì bí ẩn khác mà anh Ðức không nói ra, kể cả với người cha của anh. Bắt đầu từ đó anh Ðức mở những cuộc hợp riêng với một vài anh em trẻ trong nhóm như k.s. Lê Như Quốc Khánh, k.s. Lê Văn Song và bạn bè khác. Anh Ðức thố lộ với những người bạn nầy là sự thật anh có gặp Võ Văn Kiệt. Các anh ấy bàn với nhau việc làm ăn mua bám máy vi tính cho chính quyền Hà Nội. Một hôm anh Song thố lộ với tôi là thấy chuyện bất ổn, vì anh Ðức không thành thật, không thể tin cậy được.
Sau khi biết được sự thật nguy hại như vậy tôi liền gặp riêng Ð.T. Minh đặt vấn đề. Không thể tin cậy và để anh Ðức tiêu lòn như vậy được. Ông Minh tức giận tột cùng, thốt ra những lời nặng nhẹ đối với người con mà ông nghĩ rằng sẽ trông cậy vào tuổi già yếu một khi trở về Việt Nam. Ông than thở nhiều. Trong buổi gặp mặt khá lâu nầy có thu băng đầy đủ. (Mỗi lần gặp chung ở nhà tôi thì thu video cassette còn gặp riêng thì ghi âm máy cassette của nhà báo). Hai câu nói của ông Minh làm tôi phải ghi nhớ mãi là: “ il devient dangeureux celui là” (tạm dịch: Thằng nầy trở thành nguy hiểm)
- Mà anh Triều, anh có biết dangeureux (nguy hiểm) là cái gì không?
- Trời ơi! Tội nghiệp quá Ð.T! Ông quên rằng tôi đã học ở Pháp 10 năm và đã tốt nghiệp đại học ở đây sao? Vì cơn giận còn tiếp, nên tôi trả lời như vậy ông cũng chưa nhận ra là mình nói hớ. Ông không cười, không để ý, cứ tiếp tục.
- Hèn gì chị hai của nó nói với tôi: “Ba coi chừng thằng Ðức nó bán ba nó ăn à”!
Ðại Tướng Minh và tôi đặt lại toàn bộ vấn đề. Tôi hơi bối rối, ông Minh buồn và chán nản. Vấn đề đặt ra là ai sẽ đi về Việt Nam với ông? Nếu Dương Văn Ðức cứ tiếp tục đi đêm vì lợi ích cá nhân thì một lần nữa tên tuổi của Dương Văn Minh sẽ vùi trong bùn và lần nầy ông thật sự đắc tội với lịch sử vì đã tiếp tay đánh bóng cho chế độ cộng sản độc tài gian ác.
Ðột nhiên ông Minh nói:
- Anh Triều nếu anh chịu về với tôi thì ngày mai tôi về liền. Anh cùng sống cùng ở với tôi. Tôi sống anh sống tôi chết anh chết”.
- Ð.T. à, không phải tôi sợ chết mà không dám về với ông. Thử nghĩ tôi về Việt Nam với ông, ai ở ngoài tiếp tay làm ống loa cho ông? Năm 1991 khi Cộng Sản bị buộc phải cấp chiếu khán cho tôi xuất xứ thì anh thiếu tá công an tên Thắng nói với tôi là cấp trên của anh ta nói rằng thả Võ Long Triều ra nước ngoài là thả cọp về rừng. Câu nói đó sai 100%, nhưng tôi trở về trong điều kiện nầy thì không bị “xe cán” cũng phải ăn trúng độc phẩm mà chết oan uổng. Ð.T. nghĩ xem có đúng không?
Ông Minh lặng thinh buồn bã. Trong biết bao nhiêu lần gặp gỡ tôi chưa khi nào thấy ông buồn chán như vậy. Mọi chuyện đang tiến hành như anh em sắp xếp, đột nhiên bây giờ phải ngừng lại, giậm chân tại chỗ vì ông Minh và tôi chưa biết ai phải cùng về với ông và làm sao ngăn cản được sự háo danh ham lợi của đứa con bất hiếu toan tính bán cha cầu lợi.
Mãi cho đến khi tôi phải sang Mỹ thăm gia đình ở San Jose, bất ngờ tôi nhận được fax từ Paris và thấy báo chí loan tin bài phỏng vấn của ông Minh đăng trên Nguyệt San Nhân Bản của Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam ở Pháp đại ý như sau:
- Tại sao phải về?
- Tôi muốn sống những ngày cuối cùng trên đất nước với dân tộc của mình.
- Về để làm gì?
- Với tuổi nầy tôi chẳng còn tham vọng gì cả, tôi muốn thấy tự do và hòa bình dân tộc trên đất nước Việt Nam, điều nầy ai cũng đề cập liên miên, người thì thấy theo kiểu nầy, người thì thấy theo kiểu khác, bây giờ tôi muốn tự tôi thấy.
- Sau ngày 30 Tháng Tư ông có thấy làm việc với cộng sản được không?
- Tôi không thấy chỗ nào để hợp tác được, có lẽ đầu óc họ có muốn thân thiện với tôi, cái đó tôi không xét đón được. Tôi từ chối mọi thuyết phục thân thiện vì tôi không còn tinh thần nữa.
- Vậy thì bây giờ có những thay đổi gì để ông nhận xét phải về?
- Bây giờ, tôi làm được cái gì để giúp cho dân có thêm được dân chủ và tự do thì làm. Tôi không hợp tác, nhưng tôi sẽ đem tiếng nói của tôi để thuyết phục bên kia tại quê nhà. Vì thế tôi mới về. Tôi biết người dân trong nước cũng quan tâm đến tụ do dân chủ.
(trích nguyệt san Nhân Bản số đặc biệt 30-4-1997, trên đây là nguyên văn một số những đoạn hỏi và trả lời)
Sau lần gặp gỡ đầu tiên với Dương Văn Ðức Hà Nội bắt đầu chiến dịch bôi lọ nhằm tách rời hoàn toàn Ðương Văn Minh và Cộng đồng quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Báo Tuổi Trẻ phát hành tại Sài Gòn ngày chủ nhật 1 tháng 9 năm 1996 viết rằng sau khi vượt Trường Sơn Thiếu Tá Việt Công Dương Văn Nhựt, tức mười Ty, được lệnh của ban binh vận Trung Ương Cục phải quan hệ và tranh thủ người anh là Dương Văn Minh, đã bị thất sủng thời chính phủ Ngô Ðình Diệm. Theo báo Tuổi Trẻ thì Dương Văn Nhựt có tiếp xúc với Dương Văn Minh và ở trong nhà ông Minh một tuần lễ, có đi ra nước ngoài để tiếp xúc với anh mình. Theo lời tâm tình của Ð.T. Minh nói với tôi “Nó có về thăm bà già một lần mà nó có dám gặp tôi đâu! Thời kỳ thương thuyết hiệp định Paris nó có qua Paris gặp thằng Ðức một lần, chỉ có vậy thôi”.
Hãng thông tấn AFP loan tin ngày 4 tháng Mười Hai năm 1996 rằng: phát ngôn viên bộ ngoại giao thông báo: “Le gouvernement a accepté la requête de Duong Van Minh de rentrer au Viet Nam” (tam dịch: chính phủ đã chấp nhận lời thỉnh cầu của Dương Văn Minh xin trở về Việt Nam).
Trước những sự kiện nêu trên tôi hiểu rằng Dương Văn Ðức muốn lợi dụng thế chính trị của cha mình, đi đêm với Việt cộng nhằm mục đích trục lợi cho cá nhân. Nói nôm na như chị của anh ta lưu ý ông Minh là thằng Ðức nó bán ba nó ăn!
Về tới Paris tôi nói chuyện nhiều lần với ông Minh bằng điện thoại và gởi cho ông một văn thơ nguyên văn như sau:
Paris ngày 10 Tháng Năm năm 1997
Kính thưa Ðại Tướng,
Hôm tôi còn ở bên Mỹ, bận sắp xếp một số công việc về truyền thông báo chí và những hoạt động thông thường, tôi nhận được fax từ Paris gởi bài phỏng vấn của Ðại Tướng đăng trên báo Nhân Bản. Tôi có một vài nhận xét về vấn đề nầy xin viết ra đây. Ðồng thời tôi cũng mới viết một bài phân tích về việc hồi hương của Ðại Tướng sẽ đăng trên các báo Người Việt, Ðông Phương (ở Orange County), Thời Luận (Los Angeles), Quê Hương, Thị Trường Tự Do, Việt Nam Nhật Báo (San Jose) Ði Tới, Kinh tế Thị Trường (Canada) Thông Luận (Paris). Tôi gởi tất cả những bài báo nói về vấn đề nầy cho Ð.T. xem trước để thứ năm mình gặp nói chuyện đỡ mất thì giờ hơn. Hẹn sẻ gặp Ð.T. thứ năm 15-5-97 khoản 10 giờ như đã hẹn.
Sau đây là một vài nhận xét của tôi:
Lời Tuyên bố chỉ phổ biến trên Nguyệt San Nhân Bản không mà thôi, tỏ vẻ mình hoạt động theo kiểu “cò con”, không huy động được giới truyền thông báo chí trước một vần đề trọng đại như vậy. Ðáng lẽ phải là một cuộc hợp báo long trọng, minh định lập trường chính trị một cách rõ ràng. Tiếc rằng trong bài phỏng vấn không nêu rõ những điều đó.
Cộng Sản Hà Nội có thể coi thường và tưởng mình cô đơn không nắm chính nghĩa.
Quá khứ cũng như hiện tại, dư luận quần chúng trong và ngoài nước đã và đang lên án gắt gao sự hòa giải với Việt cộng vì lý do bản chất của cộng sản là lừa đảo. Ngoài mặt Cộng Sản hòa giải, bên trong ộng Sản muốn mình đầu hàng, qui phục và tìm mọi cách để gài mình vào cái thế đó. Ðối với đa số người Việt hiện nay, Hòa Giải là tiếp tay, là đầu hàng cộng sản. Vì vậy Ð.T. cần phải minh định rõ ràng lập trường về hòa giải bằng một bản văn. Chỉ có trong điều kiện đó Ð.T. mới hy vọng có sự ủng hộ của đồng bào trong và ngoài nước để thực hiên tự do và dân chủ. Tất cả vấn đề nầy chúng ta chủ trương ngay từ lúc ban đầu. Tiếc rằng không được áp dụng đúng như đã định. Trên nguyên tắc như chúng ta đã định, Ð.T. lên máy bay rồi thì bên nây mới tung ra lời tuyên bố đó hoặc hợp báo trước khi lên máy bay. Việt cộng sẽ không còn ngăn chận, sửa đổi gì được nữa.
Dù sao thì cũng chưa phải muộn lắm. Nếu Ð.T. còn giữ những ý định lúc ban đầu, như Ð.T. đã xác nhận khi gặp tôi, trước khi tôi đi Mỹ, là Ð.T. không hề thay đổi lập trường, nếu là như vậy, mình còn có cách sắp xếp lại gián bài nầy theo kiểu cách khác.
Trước khi đi Mỹ tôi có hứa sẽ thảo giùm cho Ð.T. lời tuyên bố về chủ trương hòa giải hòa hợp dân tộc. Nay chắc không còn cần nữa. Nhưng dù sao tôi cũng tóm tắt lại đây những ý chính mà chúng mình đã thảo luận nhiều lần và đã đồng ý với nhau. Nó có thể giúp cho Ð.T. trong những lần khác nếu thật sự Ð.T. chưa thay đổi lập trường.
Một vài ý kiến về hòa giải:
Tại sao phải hòa giải? Tại vì không những chỉ có đối lập về ý thức hệ mà thôi, còn bao nhiêu hận thù chồng chất, vì nhà tan cửa nát, gia đình phân ly.
Trong tình cảnh đó Hà Nội không thể nào kêu gọi suông: hòa hợp để xây dựng được. Phải nhìn nhận có những sai lầm và tỏ một vài thiện chí sửa sai có ý nghĩa.
Cộng sản Hà Nội chỉ có một mục tiêu: Xây dựng đảng cộng sản và nắm độc quyền cai trị đất nước Việt Nam. Họ xem quyền lợi của đảng Cộng Sản là trên hết. Quyền lợi quốc gia dân tộc là vô nghĩa hoặc thứ yếu.
Hòa Giải Hòa Hợp không có nghĩa là qui hàng, chấp thuận phục vụ chính quyền Cộng Sản theo sự lãnh đạo độc tài của đảng. Hòa hợp nghĩa là hợp tác trong sư hài hòa, hợp tác để xây dựng lại tổ quốc chớ không phải xây dựng đảng Cộng Sản phục vụ cho Liên Sô, Trung Quốc và quốc tế cộng sản.
Trân trọng kính chào Ð.T.
Sau khi gặp Ð.T.Dương Văn Minh, thảo luận khá nhiều về những sai sót lầm lẫn của DV Ðức gây ra. Ông Minh có yêu cầu tôi gặp riêng DV Ðức để đặt vấn đề cho hợp lý chiếu theo những sự bàn thảo và quyết định của ông Ð.T. và số anh em đã từng hợp bàn với ông. Tôi gởi cho anh Ðức một văn thư như sau:
Paris ngày 15 tháng 5 năm 1997
Anh Ðức thân,
Sau chuyến đi Hoa Kỳ trở về, sáng ngày hôm nay tôi có tới thăm ông Ð.T. và ăn cơm trưa chơi với ông. Tôi có thuật cho ông nghe phản ứng của giới truyền thông bên đó, Ðài phát thanh phanh phui những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa với những nhân chứng đã từng gặp ông Ð.T. trong giai đoạn chót. Tương đối bất lợi. Ð.T. và tôi Trao đổi nhiều ý kiến liên quan đến vấn đề chính trị và việc hồi hương của ông.
Ð.T. xác nhận với tôi một lần nữa là ông không hề thay đổi lập trường, ông cùng với tôi ôn lại những ý kiến, những dự định mình đã từng toan tính và thảo luận với nhau từ mấy năm qua cho tới ngày nay vì đại cuộc và vì cảm tình với Ð.T. tôi có hứa viết giùm cho ông bản thông cáo minh định lập trường chính trị để ông nghiên cứu và phổ biến khi cần.
Trong thâm tình, xem nhau như người cùng một gia đình, Ð.T. có yêu cầu tôi gặp anh để bàn thảo về một số vấn đề có liên hệ trực tiếp về việc hồi hương của ông trong tương lai.
Tôi có điện thoại cho anh hồi chiều nầy khi về tới nhà lúc 3 giờ 45 mà không gặp, vậy hân hạnh mời anh đến nhà tôi chơi, chúng mình cùng ăn bữa cơm đạm bạc như thường lệ để thảo luận về những vấn đề quan trọng mà Ð.T. yêu cầu mình nghiên cứu. Xin anh vui lòng thông báo cho tôi biết ngày giờ nào thuận tiện cho anh.
Thân mến chào và chúc anh nhiều may mắn.
Bản sao kính gởi:
Ðại Tướng Dương Văn Minh để tường.
Dương Văn Ðức không hề hồi âm và tôi quyết đoán là anh ta đã ăn phải bả của Việt Cộng rồi, sẵn sàng bán cha cầu vinh. Tôi quyết định chấm dứt mọi hoạt động và liên hệ trong vụ này. Vì vậy tôi viết bức thư cuối cùng cho Dương Văn Minh với sự tiếc rẻ và lòng buồn bã thương tâm đối với một nhân vật có tiếng tâm, có tư thế, còn muốn cống hiến một cái gì đó cho đất nước.
Paris ngày 23 Tháng Mười Hai năm 1997
Kính thưa Ðại Tướng,
Cách đây 3 năm khi Ðại Tướng nhờ Ð.Tá Nguyễn Hồng Ðài đến gặp tôi để dàn xếp cuộc tiếp xúc giữa Ðại Tướng và tôi ngõ hầu chúng ta có thể trao đổi ý kiến về tình hình chính trị ở Việt Nam tôi sẵn lòng đáp ứng. Ðại Tướng và tôi đã bàn thảo, xác định lập trường là hòa giải hòa họp dân tộc có điều kiện, hợp tình hợp lý đối với cả đôi bên, hợp với quyền lợi của dân tộc để xây dựng đất nước trong sự hài hòa. Chúng ta không chấp nhận hòa giải trong gian dối, lừa đảo như cộng sản đã tuyên truyền và hành động.
Mục đích của chúng ta là tiến tới một chế độ dân chủ trong đó nhân quyền phải được tôn trọng.
Phương thức hành động là qua sự hiện diện của Ðại Tướng ở trong nước, qua những lời phát biểu, và nhận định, sự góp ý một cách xây dựng của Ðại Tướng về tình hình kinh tế chính trị và xã hội của Việt Nam. Chiếu hoàn cảnh và giai đoạn hiện tại, vị thế chính trị của một nhân vật như Ðại Tướng có đủ sức nặng để ảnh hưởng đến tình hình đất nước nếu Ðại Tướng biết vận dụng mọi khả năng và cơ hội.
Nói tóm lại bằng mọi cách, ôn hòa và bất bạo động, nhưng Ðại Tướng phải kiên trì và can đảm đương đầu với chính quyền cộng sản để tạo ảnh hưởng mình muốn có, mở đường cho Việt Nam đi đến tự do dân chủ và tôn trọng nhân quyền.
Ngoài ra, Ðại Tướng có tỏ ý muốn nhờ một số anh em góp phần bàn thảo về những vấn đề nói trên. Trong tinh thần đó, một số anh em đã tiếp xúc nhiều lần với Ðại Tướng tại nhà tôi và đã nhiệt tình đóng góp ý kiến, đặt giả thuyết, đề ra kế hoạch hành động và sẵn sàng giúp Ðại Tướng thành công trong ý nguyện tốt đẹp này.
Gần đây sau hai lần anh Dương Văn Ðức- người con sẽ cùng về với Ðại Tướng và có nhiệm vụ giúp Ðại Tướng thực hiện ý định nêu trên- đã về Việt Nam xem xét tình hình với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho Ðại Tướng về nước. Sau khi trở lại Paris lần thứ hai, qua nhũng sự trình bày của anh Ðức, với những dự định và mưu tính riêng tư của anh ấy, chúng tôi nhận thấy mục tiêu chính trị đã được bàn thảo xưa nay, với sự đồng ý hoàn toàn của Ðại Tướng đã biến mất. Nhường chỗ cho ý định kinh tài và hợp tác nhờ sự trở về của Ðại Tướng và sự hứa hẹn giúp đỡ của chính quyền cộng sản. Thực tế chắc sẽ không dễ dàng như vậy, nhưng chúng tôi không muốn lạm bàn về việc nầy vì nó hoàn toàn trái ngược với những điều Ðại Tướng và chúng tôi chủ trương.
Ngoài ra những lời nói, cử chỉ và hành động của anh Ðức có thể cho phép chính quyền cộng sản hiểu khác nên mới có những bài báo, lời tuyên bố của bộ ngoại giao Việt Nam, gây hiểu lầm phương hại đến thanh danh của Ðại Tướng, đến mục đích và chương trình đã định.
Những sự kiện đó cho thấy sự trở về nước của Ðại Tướng rất bất lợi cho danh dự của cá nhân Ðại Tướng và một phần nào đó, trong một chừng mực nào đó, bất lợi cho danh dự chung của những thành phần thuộc chế độ VNCH cũ đang đối kháng với cộng sản. Ðồng thời cũng ảnh hưởng xấu cho công cuộc vận động xóa bỏ chế độ độc tài độc đảng mà toàn dân đang nỗ lực.
Trong tinh thần và với ý nghĩ đó tôi thành khẩn khuyên Ðại Tướng nên hủy bỏ ý định trở về Việt Nam trong điều kiện hiện tại, hay ít ra đình hoãn sự trở về cho đến khi nào mình tạo được tình thế thuận lợi theo chiều hướng mà Ðại Tướng đã cùng bàn thảo trước đây với anh em.
Nếu Ðại Tướng vẫn giữ nguyên ý định trở về ngay, trong những điều kiện hiện tại, chúng tôi xét thấy sự đóng góp của chúng tôi không còn cần thiết nữa. Vậy trân trọng xin Ðại Tướng ghi nhận sự khác biệt lập trường giữa chúng ta qua văn thư này.
Tự hậu nếu trong hoàn cảnh chính trị nào đó buộc chúng tôi phải xác định hay công khai hóa một lập trường đối lập, hay những ý kiến trái ngược với những gì Ðại Tướng chủ trương và hành động thì xin Ðại Tướng thông cảm trước rằng chúng tôi làm điều đó là nhân danh quyền lợi tối thượng của đất nước. Bởi lẽ giữa Ðại Tướng và chúng tôi chỉ có thể đồng thuận trên căn bản tranh đấu cho tự do dân chủ và nhân quyền chớ không thể đồng thuận trong sự tiếp tay củng cố một chế độ độc tài cộng sản hay quân phiệt.
Trân trọng kính chào Ðại Tướng.
Bản sao kính gởi:
B.S. Trần Công Phát
T.S. Lê Ðình Thông
Anh Chị K.S. Lê Như Quốc Khánh
K.S. Lê Văn Song
D.S. Nguyễn Anh Tuấn
Ðại Tá Nguyễn Hồng Ðài
để kính tường.
Văn thư này là sự liên lạc cuối cùng giữa Ðại Tướng Dương Văn Minh và tôi! Tiếc cho một đời người gặp được nhiều cơ hội để thực hiện lý tưởng của mình mà không được toại nguyện. Về sau có lẽ vì lý do gia cảnh nên Ðại Tướng Minh sang Mỹ ở với người con gái và qua đời tại California. Dự tang lễ của ông tôi vô cùng bồi hồi cảm xúc, nhớ lại nhiều kỷ niệm giữa ông và tôi. Ngày xưa khi ông ra ứng cử tổng thống ông mời tôi đứng phó, ông nói rằng: “Tôi không đứng với anh thì tôi không đứng với ai hết.”
Tôi từ chối và giới thiệu anh Hồ Văn Minh cho ông, cũng là cộng sự viên của tôi, làm việc trong chương trình phát triển quận 8 Sài Gòn, đương kiêm phó chủ tịch quốc hội thời đó. Còn bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, tâm sự về đời tư, về thời cuộc, lúc tôi còn ở Pháp. Ngâm ngùi nhớ lại bài thơ đăng trong sách “Tam Quốc Chí” tôi không cầm được nước mắt!
(nguyên văn):
......................................................................
Lãng hoa đào tận anh hùng
Thị phi, thành bại: chuyển đầu không!
Thanh sơn y cựu tại.
......................................................................
(bản dịch):
Sóng xô các dập anh hùng.
Tàn mơ: thành bại... cũng là không!
Non xanh trơ vẫn đó
Lần lữa bóng chiều hong...
Hồi ức về chương trình Phát Triển Quận 8
Trở lại sự liên hệ giữa Tướng Nguyễn Cao Kỳ và tôi, như đã nói trên, ông hay gọi tôi lên phủ Thủ Tướng để kể cho tôi nghe thành tích hay tham khảo ý kiến, và cũng nhiều lần ông than cô đơn bất lực trước sự trì trệ của guồng máy hành chánh hay tinh thần vô trách nhiệm của quan chức nhà nước. Thật ra có thể đó là sự ù lì và ngấm ngầm thách thức bởi vì những người công chức già dặn không tin rằng mấy ông Tướng trẻ có khả năng cai trị lâu dài.
Có lần Thủ Tướng gọi mà tôi không có mặt ở sở, ông gọi về bộ cũng không gặp tôi, ông Kỳ nổi giận mắng nhân viên bộ: một ông chánh sở đi đâu mà bộ cũng không biết, vậy bộ quản trị nhân viên như thế nào? Cả bộ nhao nhao sợ hãi, chạy đôn chạy đáo kiếm tôi cho bằng được, bởi vì thông thường một lời khiển trách của ông Thủ Tướng thật là ghê gớm đối với một cơ quan của chính phủ. Nhứt là đối với một công chức cấp nhỏ ở bộ như tôi, cho nên ai cũng lo sợ giùm. Riêng tôi thì biết đó chẳng qua là ông thủ tướng cảm thấy cô đơn hay bực tức điều gì muốn tìm người chia sẻ, nên tôi tỉnh bơ coi thường, làm mọi người tưởng tôi phách lối. Hôm đó, tôi lên phủ Thủ Tướng không nhớ chúng tôi đã nói về những vấn đề và sự đối đáp qua lại như thế nào. Duy tôi chỉ nhớ có một điều là ông Kỳ đã mỉa mai, thách thức tôi:
-Anh giỏi tài nói phét, xúi bẩy, nhưng chết nhát không dám dấn thân làm bất cứ việc gì, miệng thì nói đất nước, lòng thì cầu an. Hạng người như anh tôi đã thấy rất nhiều.
Sự kiện tôi gặp được ông Kỳ và ông vẫn tiếp tục mời gọi tôi nhiều lần tôi cho đó là một cơ duyên, mặc dù tôi đã từng tỏ thái độ chống đối ông và đôi khi còn dùng lời lẽ khiếm nhã mà ông không cố chấp, trái lại còn tỏ ý tin cậy, mời gọi hợp tác, thật lòng ông làm cho tôi kính nể ông.
- Thiếu Tướng nói khích tôi đấy à? Vô ích thôi.
- Vậy tôi nói sai chỗ nào nào?
- Thì cứ xem như ông nói đúng đi. Nhưng tôi muốn hỏi: ông tin tôi mà ông dám tin những người tôi tin không?
- Tại sao không?
- Ông tin những người thanh niên trẻ tuổi, nhưng đầy nhiệt huyết và lòng hy sinh không?
- Tôi càng tin họ hơn tin anh nữa. Rồi ông lại cười.
Hỏi như vậy là vì tôi thoáng có một ý nghĩ: tôi sẽ giới thiệu người cho ông ta, hoặc đích thân tôi lấy một tỉnh làm thí nghiệm những gì tôi đã suy nghĩ từ lâu. Tôi tiếp tục hỏi:
- Ông dám giao cho tôi một Bộ nhưng ông có dám giao cho tôi một tỉnh không?
- Dám chứ sao không? Mà anh có dám nhận không nào? Ðó là vấn đề.
Rồi ông bật cười ha hả... đắc chí. Tôi cũng cười theo. Nhưng mỗi người cười theo chiều suy nghĩ của mình. Có lẽ ông Kỳ đắc ý vì tưởng “đánh trúng tim đen” làm tôi xấu hổ. Còn tôi thì nghĩ rằng ông này muốn có sự hợp tác của mình nên cứ mời tới mời lui hoài. Rồi tôi có một thoáng hồ nghi, biết đâu ông chưa gặp được người hợp tác chân thành. Tôi nín cười trước, đăm chiêu suy nghĩ, trong khi ông ta chấp tay trước ngực dựa lưng vào ghế, bật tới bật lui, lộ vẽ đắc ý nhìn tôi tiếp tục cười! Không biết do những lời ông nói khích làm tôi lọt vào tròng mà không biết hay là tại đầu óc tôi lúc nào cũng nghĩ làm thế nào để trở thành người hữu ích. Thật vậy, khi quyết định hồi hương trong lứa tuổi sẽ bị động viên, dù cả gia đình ngăn cản, tôi vẫn về vì tôi không muốn trốn trách nhiệm trong thời chiến, tôi có thể ở lại Pháp an cư lạc nghiệp nơi xứ người. Ý định tham gia hợp tác với Tướng Kỳ hình như đã rõ nhưng chưa biết với tư cách gì, trong phạm vi nào? Tôi từ giã ông:
- Tuần sau, giờ này, tôi có thể xin gặp lại Thiếu Tướng để bàn chuyện nghiêm chỉnh hơn được không?
- Ðồng ý, nhớ đúng hẹn nhé.
Lại thêm một lời nói khích:
- Ðừng cáo lỗi nữa chừng rồi trốn luôn nhé !
Ý nghĩ làm một việc gì có ích cho đất nước dân tộc đã có trong đầu, lúc tôi còn chà lết trên ghế nhà trường. Những năm theo đại học, tôi thường suy tư và bàn thảo với bạn bè về những phương cách nào có thể đem lại sự hữu ích cho xã hội miền Nam Việt Nam. Ðứng trước hiện tình đất nước, chung qui chỉ có hai vấn đề kinh tế và chính trị, công bằng xã hội là một phụ đề lệ thuộc hai vế trên. Tôi sinh ra và lớn lên trong thời loạn nên ảnh hưởng của chiến tranh đã in sâu trong đầu. Mười tuổi, tôi đã nghe những lời đe dọa. Ông Bộ Ngởi, thợ hớt tóc nói với tôi: “Nay mai cộng sản về lấy hết điền đất của ông nội mày đem chia đều cho tá điền và dân trong làng, mày cũng có phần như mọi người, đừng lo”. Câu nói đùa nhưng cũng có dụng ý của ông Bộ Ngởi làm tôi lo sợ. Càng lo sợ hơn nữa là trong thời gian đó tin đồn “cộng sản dậy” hết chỗ này đến chỗ khác.
Có một đêm nghe tin “cộng sản dậy” bên làng Châu Hưng lân cận, cả nhà tôi phải chạy trốn bên rừng chồi nhỏ gọi là “mỏ neo” đến gần sáng mới về. Ít lâu sau lại nhìn thấy hình ảnh những “thây ma, thằng chổng” trôi trên sông Cửu Long do cộng sản giết (gọi là “cho đi mò tôm”) mỗi khi tôi đi ghe máy từ Phú Thuận lên Mỹ Tho học. Những ký ức đó in sâu trong đầu khó quên. Rồi sau này lại có thêm vụ “cải cách ruộng đất” của cộng sản Bắc Việt, khiến tôi càng muốn tìm hiểu về cái thuyết cộng sản vô thần. Càng lớn khôn tôi càng nhận ra chủ thuyết đó đi ngược với nhân tính.
Khi còn học ở trường, Giáo Sư kinh tế học, Chambard de Lawe, phân tích quyển sách Tư Bản Luận của Karl Marx, ông có dẫn giải một thử nghiệm của Trung Cộng tại một xã, theo đúng tiêu chuẩn và lý thuyết trong giai đoạn “cộng sản chủ nghĩa” toàn hảo, nghĩa là ở giai đoạn đó, của cải vật chất có dư thừa, do lao động con người sản xuất ra mà không bị bóc lột. Trong cái xã hội chủ nghĩa toàn hảo đó con người chỉ cần làm việc theo khả năng mà được hưởng theo nhu cầu. Nhưng kết quả đảng cộng sản Trung Quốc phải nhìn nhận cuộc thử nghiệm không thể thành công. Như vậy cái lý thuyết mà cộng sản tuyên xưng là “hoàn chỉnh” để rao bán cho dân nghèo, cho những xứ chậm tiến bị đô hộ, đi ngược với bản chất con người, khiến tôi suy nghiệm mình có thể tìm một phương cách nào khác không? Ðể tạo sự công bằng, đồng thời giữ được sự hài hòa trong xã hội, khác với cộng sản, thuận theo bản chất và tình cảm con người.
Rời phủ Thủ Tướng về nhà, mấy ngày liền, ý nghĩ tham gia hay không tham gia nội các, dằn vật bộ óc non nớt, thiếu kinh nghiệm nhưng giàu tưởng tượng và ý cương quyết của tôi. Tôi xác định trong đầu và cũng nhiều lần thố lộ với bạn bè khác:
Cộng sản chủ trương thực hiện một cuộc “cách mạng xã hội” bằng hận thù và sắt máu. Hận người giàu, thù điền chủ, đấu tố, giết hại. Một sai lầm đầy tội ác. Thế giới lên án. Ðồng bào nguyền rủa!
Vậy thì chúng ta đề nghị cái gì với đồng bào dân tộc mình? Xã hội chúng ta đang sống phải được tổ chức như thế nào? Chúng ta có thể vận động và kết hợp được những người có khả năng và thiện chí để thực hiện một cuộc “cách mạng”khác hơn cộng sản không?
Bằng tình thương đối kháng với hận thù, bằng cảm thông và đồng thuận không cần sắt máu. Giàu nghèo đồng tâm hợp tác để phát triển, không cần phải đấu tranh giai cấp. Tôi đã từng phân tích và thảo luận với bạn bè người Pháp khi tôi còn trong đại học, người Việt Nam khi tôi về xứ, với đàn anh đàn thầy như linh mục Nguyện Bình An. Nhưng tôi chưa gặp cơ hội, tôi chưa có điều kiện. Phải chăng sự mời gọi và lời thách thức của ông Kỳ là một cơ may mà vận số đẩy tôi vào con đường phục vụ đất nước theo lý tưởng và ước mơ của mình?
Tôi khai thác cái cơ may đó bằng cách mời rủ một số bạn trẻ đến nhà, bàn kế hoạch phát triển xã hội. Nhóm người này có một mẫu số chung là “tuổi trẻ” và động cơ thúc đẩy là muốn phục vụ đất nước. Ngoài ra số đông gần như xa lạ đối với tôi và giữa họ với nhau. Chúng tôi định lấy tỉnh Mỹ Tho, gần Sài Gòn, nếu thành công thì như một “vết dầu loang” sẽ tràn qua các tỉnh khác. Tôi quen với Chuẩn Tướng Nguyễn Bảo Trị, đương kim Tư Lệnh Sư Ðoàn 7. Tôi xin gặp ông vào một buổi trưa, dùng cơm với nhau tại nhà ông ở Mỹ Tho, tôi nói rõ ý định của tôi, ông ủng hộ hết tình. Trên đường về Sài Gòn tôi sực nghĩ, nếu ngày nào chương trình thành công, chắc chắn Việt cộng sẽ tìm mọi cách để phá hoại, và nếu lúc đó Chuẩn Tướng Nguyễn Bảo Trị không còn chỉ huy sư đoàn 7 nữa thì ai bảo vệ an ninh cho chương trình của mình. Hoặc nếu vị tân Tư Lệnh Sư Ðoàn không thuận ý với bọn mình thì ta sẽ gặp sự thất bại là cái chắc. Tôi liền đổi ý, phải lấy một quận nghèo nhất đô thành, an ninh sẽ được bảo đảm. Anh Âu Trường Thanh giới thiệu với tôi người bà con của anh ấy, đã từng là quận trưởng quận 8 tên là Nguyễn Thanh Thời, đã hưu trí, biết nhiều về tình trạng của quận nghèo khó này ở khu Phạm Thế Hiển gần ranh giới Phú lâm, nơi mà đồng bào nghèo khó từ miền Tây bị bắt buộc phải lên Sài Gòn tìm việc hay lánh nạn, tạm ở đó dung thân.
Anh Thời đưa tôi đi xem nhiều nơi lầy lội, nghèo khổ. Có chỗ phải cất sàn cây thô sơ trên những vũng lầy thối tha hôi hám. Trẻ sơ sinh, đa số chết vì bệnh tật, cha mẹ nào may mắn có bà con nơi khác thì đem gởi nuôi. Tôi tập hợp mấy anh sinh viên học trò của tôi và bạn bè của họ đang hoạt động trong “chương trình công tác hè”, khởi điểm một sự dấn thân hoạt động của tuổi trẻ, có người thuộc các hội đoàn khác. Họ tập hợp tại nhà tôi bàn việc làm công tác xã hội thông qua một chương trình phát triển lấy quận 8 làm thí điểm. Dĩ nhiên, tôi phải khai thật với họ là tôi có liên hệ mật thiết với Tướng Kỳ và bảo đảm việc này là nghiêm chỉnh. Ðể chứng minh tôi đề nghị những anh em nào muốn gặp Tướng Kỳ sẽ cùng đi với tôi vào ngày giờ tôi sẽ hẹn trước. Có bảy tám anh hay nhiều hơn nữa tôi không nhớ cùng đi với tôi đến dinh Thủ Tướng, ông Kỳ tiếp chuyện vui vẻ thoải mái, mặc dù có vài anh nói năng gay gắt hoặc nói “móc họng” đặc biệt là anh Nguyễn Hữu Doãn sinh viên luật khoa. Hình như ông Kỳ tự đồng hóa mình với thanh niên trẻ tuổi, cùng thế hệ với ông trong lứa tuổi trên dưới 30 một cách dễ dàng, không lộ vẻ mình có chức quyền cao sang.
Những ngày đầu tiên thảo luận về một chương trình lấy tên là “Phát Triển Quận 8” có tất cả ba mươi hai anh bạn họp tại nhà tôi, trong một căn phòng không có đủ ghế, đa số ngồi trên sàn nhà, thảo luận tương đối hăng say, nhiệt tình, đề ra những kế hoạch cấp bách là chỉnh trang các khu nhà ổ chuột, đổ đất lấp sình lầy cải thiện những đường hẻm, giáo dục thiếu nhi, lập trạm y tế chẩn mạch phát thuốc. Sau những cuộc bàn thảo, khảo sát tại chỗ, điều chỉnh những quyết định hợp với thực tế, ước tính phí tổn, viết thành kế hoạch nghiêm chỉnh. Ðúng lý chúng tôi phải nghiên cứu một cách có hệ thống, dựa trên căn bản những số thống kê về diện tích, dân số, doanh thương, tiểu công nghệ, lợi tức đầu người của quận 8 so với tổng lợi tức đô thành Sài Gòn và so với lợi tức trung bình đầu người trên toàn quốc... Nhưng đã nói cách mạng thì cần gì phải theo một khuôn khổ. Vấn đề chính yếu là tạo được sự ủng hộ của quần chúng, lôi cuốn được sự tham gia của họ trong mọi công tác đem lợi ích cho xã hội. Tôi lạm dụng quyền chánh sở, nhờ nhân viên của tôi đánh máy bản văn, họa viên của sở tôi vẽ đồ biểu, dùng máy ronéo và giấy mực của sở in thành bản văn đệ trình Thủ Tướng phê duyệt. Sau đó tôi xin yết kiến Thủ Tướng, đưa bản văn, bìa in giấy màu tím có chữ to “Chương Trình Phát Triển Quận 8 Sài Gòn”, đồng thời tôi cũng trình sự ước tính ngân khoản là 22 triệu đồng. Ông Kỳ chìa tay lấy bản văn, lật trang đầu, không xem một chữ, phê ngay mấy dòng và ký tên quăng vào rổ kẽm có đề “công văn đi”. Quay sang tôi ông nói:
- Xong rồi, chúc anh thành công, nhưng anh phải gặp ông Ðô Trưởng để sắp xếp việc bàn giao và bổ nhiệm người.
Công việc gay go kế tiếp là thảo luận việc chỉ định ai làm Quận Trưởng? Tôi thầm nghĩ muốn đạt tới sự thành công thì những người phụ trách chương trình phải: Thứ nhứt tạo được niềm tin trong quần chúng bằng một vài hành động cụ thể, đem lại kết quả vật chất hay tinh thần cho người dân thấy được. Thứ hai dùng tình cảm để thuyết phục quần chúng tham gia công tác chỉnh trang hay phát triển. Thứ ba chứng minh cho dân chúng thấy sự hy sinh của mình bằng cách trực tiếp tham gia làm công việc của họ, với họ và cho họ trong mục đích giúp họ và gia đình tạo một đời sống tốt đẹp hơn. Ða số những người bạn ngồi thảo ra chương trình này tại nhà, tôi không hề quen biết với ai trước, ngoại trừ 7 anh em sinh viên hay kỹ sư Nông Lâm Súc mới ra trường, học trò của tôi, muốn theo ủng hộ thầy. Vài anh trong số đó lộ vẻ hân hoan tin rằng thầy sẽ chỉ định mình làm Quận Trưởng.
Anh em đề cử anh Mai Như Mạnh, tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh, người đương nhiên có đủ khả năng và điều kiện để giữ chức vụ then chốt này. Tôi nhìn nhận là đề nghị hợp lý, nhưng tôi không tán đồng, vì đây không phải là một công tác thuần túy hành chánh. Qua nhiều ngày gặp gỡ và thảo luận tôi nhận ra một anh mà tôi chưa hề biết về lý lịch của anh ta, nhưng lời lẽ, thái độ, ý kiến của anh phảng phất một chút gì mà tôi đoán anh có am hiểu ít nhiều về ba điểm tôi thầm nghĩ trên đây. Người đó là Hồ Ngọc Nhuận. Tôi đề nghị anh Nhuận làm quận trưởng. Gần như toàn thể anh em hiện diện phản đối, kể cả anh Nhuận. Tôi giải thích những nhận xét của tôi, nhưng không thuyết phục được ai cả. Một số anh không quyết liệt phản đối nữa vì họ không muốn mích lòng tôi vô ích. Còn tôi thì bào chữa rằng đây không phải là một công tác quản trị hành chánh mà là một sự thuyết phục quần chúng và tạo diều kiện để hợp tác với dân nhằm mục đích rõ rệt là chỉnh trang và phát triển quận nghèo khó nhứt Sài Gòn lúc bấy giờ. Vài anh nêu ý kiến rất thiết thực là chính quyền đô thành sẽ cười chê chúng ta không có người xứng đáng, đủ tư cách, mà đòi quản trị một quận phức tạp nhứt Sài Gòn. Các anh ấy đề cử Bác Sĩ Hồ Văn Minh, người có khoa bảng, có tư cách làm cho đồng nghiệp ở đô thành phải nể nang, nếu cũng không đồng ý, thì cử một anh Kỹ Sư Nông Lâm Súc nào đó. Còn anh Hồ Ngọc Nhuận không có đến bằng tú tài đôi! Thú thật đề nghị của tôi là nghịch lý rõ ràng, là một sự quyết đoán, nhưng đôi khi trong một vài trường hợp nào đó, sự quyết đoán rất cần thiết.
Cảm giác của tôi càng rõ hơn là người khác không thể chu toàn được công tác này. Vậy thì thà dẹp nó đi còn hơn là mang tiếng thất bại. Cuối cùng tôi vẫn nhìn nhận đề nghị của tôi là phi lý, nhưng tôi khẳng định nếu anh em không chấp nhận đề nghị của tôi thì tôi đành hủy bỏ chương trình này vì người chịu trách nhiệm trực tiếp với Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương là tôi. Cuối cùng anh em đành phải thuận theo vì họ muốn duy trì một cuộc thí nghiệm của tuổi trẻ xem sao. Nhiều anh em sững sờ bất mãn nhưng không nói ra. Những phiên họp sau chỉ còn lại khoản 15-20 anh. Các anh khác bỏ cuộc vì bất đồng trong việc đề cử quận trưởng một cách phi lý. Trong số người bỏ cuộc có 7 vị học trò thân thương của tôi.
Công tác gay go thứ hai là họp bàn với Ðại Tá Ðô Trưởng Văn Văn Của và toàn bộ các ty sở hành chánh và chuyên môn đô thành. Theo tôi nghĩ thì vấn đề thay đổi một ông quận trưởng thuộc quyền bổ nhiệm hay cất chức do Ðô Trưởng quyết định, nhứt là ông này chỉ thi hành theo lệnh của Thủ Tướng mà thôi. Còn những vấn đề khác có tính cách chuyên môn thì do quận trưởng trực tiếp trình Ðô Trưởng hay liên lạc với các ty sở về sau, việc gì phải họp đông đủ, vặn hỏi, buộc phải thuyết trình, giải thích cặn kẽ với dụng ý thấy rõ là họ muốn bác bỏ kế hoạch. Dù ngạc nhiên, khó chịu, anh em vẫn nhẫn nại trình bày chi tiết, phần tôi rất bực bội muốn “xù” hết, rút lại những gì chúng tôi chủ trương làm, hoặc tôi sẽ trực tiếp yêu cầu Thủ Tướng ra lệnh cho Ðại Tá Của phải thi hành nguyên văn không sửa đổi một ly, nếu ông Kỳ thật lòng muốn làm cách mạng như ông đã rêu rao nhiều lần với tôi. Nhưng tôi lại nhủ thầm phải nhẫn nại và tỏ thiện chí tối đa. Cái gai mà Văn Văn Của nắm được là Hồ Ngọc Nhuận không chuyên việc hành chánh, dù có phó đốc sự Mai Như Mạnh phụ tá bên cạnh. Cuối cùng Ðại Tá Của quyết định đặt cựu quận trưởng Cao Minh Chung làm cố vấn cho anh Nhuận. Dĩ nhiên ông Chung lấy hết tâm sức ra mà phá để chương trình phải thất bại, ông sẽ trở lại chức vụ cũ.
Vừa ra khỏi phòng họp, bác sĩ Ðỗ Cao Huệ, Trưởng Ty Mục Súc Ðô Thành vừa là Chánh Sự Vụ Sở Mục Súc của bộ, người bạn đồng nghiệp chí thân của tôi trong Bộ Canh Nông, kéo tôi sang một bên, sỉ vả nặng lời:
-Toa làm moa mắc cỡ quá, toa cũng là đường đường một Chánh Sự Vụ của bộ mà đi nài nỉ xin chức quận trưởng như thằng thất nghiệp, ăn mày chức vụ. Thật hết ý kiến!
-Toa biết cái con khỉ khô gì mà nói, dẹp toa đi.
Ðỗ Cao Huệ vừa còn cảm giác bị mắc cỡ lây vừa chán cái bản mặt đi xin chức vụ của tôi, anh bỏ đi một nước không thèm nói thêm một lời. Anh em về nhà tôi, hợp chuẩn bị việc nhận bàn giao. Kiểm điểm lại còn hiện diện lối hơn chục người. Tất cả đều quyết tâm: chúng ta phải thắng cuộc thách thức này. Mai Như Mạnh lo việc hành chánh, Hồ Văn Minh quản lý chương trình, Hồ Ngọc Nhuận quận trưởng, sau đó anh lôi được một vài đệ tử trẻ lo việc ăn ở cấp bách, Ðoàn thanh Liêm xông xáo, bao sân, chỗ nào cũng có anh, các bạn khác tiếp tay tùy theo sự rỗi rảnh giờ giấc của mình. Những ngày đầu không có một xu kinh phí, Liêm đi vận động xin tiền, xin vật liệu, cũng chẳng đủ nuôi số thanh niên thiện nguyện. Sự chận đứng kinh phí làm ngã lòng những anh em khác, họ lần lượt bỏ rơi chương trình, chỉ còn lại “Tứ Ðại Gan Lì” kể trên. Những bạn trẻ mới tự nguyện gia nhập, rộng lòng hy sinh, hăng say sẵn có, ham vui mà tụ tập ngày càng đông. Cái khó là làm sao kích động được lòng hăng say, sự hy sinh tình nguyện của tuổi trẻ. Làm sao nhóm được ngọn lửa để hâm nóng lòng yêu nước, yêu dân, thương những người kém may mắn trong xã hội đang ở gần mình nhứt. Làm sao nung nấu được ý chí trách nhiệm, làm sao gợi được niềm tự hào và sự rộng lòng bác ái của tuổi trẻ. Chỉ có một cách là hội nhập với họ, đưa sáng kiến và tạo điều kiện cho họ thực hiện lý tưởng, dù mình chủ xướng, nhưng phải làm cho họ hiểu là của chính họ vạch ra. Vì vậy mà tôi đã dài công tụ hợp bạn bè và sinh hoạt với họ đã từ lâu. Cũng như sau này khi ngồi vào chức vị Tổng Trưởng tôi tiếp xúc hằng tuần với những vị lãnh đạo hội đoàn để khuyến dụ họ nhập cuộc trong những công việc, dù đơn giản, nhưng rất có lợi ích.
Việc đầu tiên là giải quyết tình trạng lầy lội của những ngõ hẻm bằng cách đi xin “xà bần” (một thứ gạch vụn gạch nát người ta sửa chữa nhà còn dư không biết đổ đâu, không biết làm gì) chúng tôi mướn “xe ba bánh” chở về lấp những đường hẻm lầy lội. Chúng tôi phụ với chủ sửa vách, lợp nhà. Quận Trưởng Nhuận có khi ngồi trên mái nhà ký công văn khẩn cấp do người đem tới. Quận trưởng không dùng xe ô-tô của mình để cho anh em lấy xe công đó mà chuyên chở hay chạy việc khác quan trọng hơn, còn ông ta khi thì mượn xe vespa, khi thì nhờ người “đèo” đi chỗ này chỗ khác. Thật là buồn cười nhưng cũng, thật đáng khen, ông quận đi lợp nhà dân, nhanh chóng “Nhóm Quận 8” khởi sự chiếm được cảm tình của đồng bào tại đây vì họ thấy bọn trẻ này xông xáo, hy sinh thật, sẵn lòng giúp bất cứ việc gì. Bác Sĩ Minh khám bệnh miễn phí còn đi xin thuốc đầu này đầu kia phát không cho đồng bào. Trong khi đó anh Mai Như Mạnh lo hành chánh, cứ gởi tờ trình đều đều, liên tục, xin giải ngân, nhưng chương trình phát triển không có một xu của chính phủ bỏ vào. Tôi phải rút tiền nhà cung cấp cho anh em, mua cây cất trường, mua lá lợp nhà, mua thức ăn nuôi các bạn trẻ, may mắn cho tôi là thời đó tôi có trường anh văn London School, mỗi chiều ngồi chờ ông quản lý thu tiền lấy về đưa cho quận trưởng Nhuận mua gạo nuôi những em tình nguyện làm công tác không công. Có ngày không tiền mua cá hay tép để kho ăn, mấy em leo lên trần nhà của ông quận trưởng bắt dơi đem xuống, nấu cháo ăn, hay kho khô cho có món mặn. Khó khăn thật, nhưng vui thú thật, an ủi thật, hãnh diện thật.
Cứ như thế kéo dài đôi ba tháng trời, cho đến khi chúng tôi hoàn thành một ngôi trường lá ba lớp, có sinh viên tình nguyện thay nhau dạy trẻ em, có một trạm y tế nhỏ do bác sĩ Minh khám bệnh phát thuốc ít nhiều. Chúng tôi mời Ðại Tá Ðô Trưởng khánh thành, Nghị viên La Thành Nghệ đến đọc diễn Văn, Ðô Trưởng ban huấn thị. Quan khách ngồi chễm chệ trên vài hàng ghế. Tôi đứng giữa đám đông dân chúng lòng mừng rỡ thấy tuổi trẻ hăng say, dân chúng hưởng ứng, nhưng bực tức vì quan chức vô ý thức, ganh tị, nhỏ nhen, buồn phiền vì không có kinh phí để thực thi một chương trình thấy rõ sự thành công. Bực tức, khinh khi lẫn lộn.
Tức giận tràn hông, tôi quyết định thông báo cho Tướng Kỳ là chúng tôi sẽ trao trả chương trình này cho Ðô Trưởng Sài Gòn sau lễ khánh thành chấm dứt. Bởi vì tôi tin chắc đô thành sẽ không giải ngân, họ chờ cho bọn trẻ hết hơi, thất bại thì mọi việc đâu sẽ vào đấy. Tôi cố nhẫn nại chờ cho cuộc lễ kết thúc. Tất cả vui vẻ ra về, bốn vị “Tứ Ðại Gan Lì” còn lại của chương trình là Hồ Văn Minh, Ðoàn Thanh Liêm, Hồ Ngọc Nhuận và Mai Như Mạnh. Hình như họ vẫn hy vọng kết quả này sẽ khiến cho đô thành Sài Gòn giải ngân và chúng tôi sẽ có đủ tài chánh hoạt động tiếp. Tôi vào quận mượn diện thoại xin gặp Thiếu Tướng Kỳ. Dĩ nhiên tôi được tiếp kiến ngay. Sau khi chào hỏi tôi ngồi trước mặt ông Kỳ và cố gắng lấy giọng hết sức bình tĩnh thưa rằng:
- Thiếu Tướng có lòng tốt mời tôi hợp tác, đề nghị hết chức vụ này đến chức vụ khác, tôi từ chối vì biết rõ đa số quân nhân các ông, chỉ biết ra lệnh một cách độc đoán, hoặc thi hành lệnh một cách mù quáng. Ðã vậy khi nắm được quyền hành thì ganh tị không muốn phân chia. Mấy ông lợi dụng quyền để thỏa mãn sự tự hào cá nhân và nhu cầu bản thân. Các ông không dùng quyền để phục vụ quần chúng...
Tôi chưa nói hết ý nghĩ và trút hết sự bực tức của tôi thì Tướng Kỳ vừa ngạc nhiên, vừa tức giận:
- Ê, anh muốn nói gì thì làm ơn nói cho rõ ràng chút. Ðây không phải chỗ để anh thóa mạ quân đội nhé.
- Tôi không thóa mạ, nhưng tôi muốn trình bày một sự thật mà chính ông sẽ gặp phải và ông không thể nào có điều kiện thực hiện cái ảo tưởng làm cách mạng của ông được.
- Tôi thấy hình như anh có gì bất mãn, anh cứ nói thẳng có được không? Ðừng ú a ú ớ tôi bắt đầu mất kiên nhẫn rồi đây này.
- Thiếu Tướng còn nhớ cách đây mấy tháng gặp tôi, ông chê tôi chỉ có tài “nói phét” mà không dám dấn thân làm. Tôi chấp nhận lời mỉa mai và giải tỏa thách thức đó bằng cách đệ trình một chương trình phát triển quận nghèo nhứt của đô thành. Các ông tự gán cho mình cái mỹ danh là “Chính Phủ Của Người Nghèo”. Ấy vậy mà cái chương trình của tôi giúp đỡ người nghèo ở quận 8 có dự trù một ngân khoản tí hon là 22 triệu đồng, ông đã phê chuẩn, nhưng cho đến ngày nay biết bao nhiêu tờ trình của ông quận trưởng xin giải ngân, ông Ðại Tá Ðô Trưởng không cho giải ngân một cắc. Tôi đã chứng minh tôi nói được là tôi làm được, nước lã tôi đã khuấy nên hồ. Tay trắng chúng tôi dựng được một ngôi trường ba lớp, một trạm y tế khám bệnh phát thuốc không tiền. Ðại Tá Ðô Trưởng của ông và quan chức của ông đến khánh thành, ban huấn thị mà không có chút gì hổ thẹn, trái lại còn hãnh diện được tôn vinh nữa là khác.
Nguyễn Cao Kỳ nổi trận lôi đình, con mắt trợn tròng, lộ ra to hơn trước, tay trái vuốt nhẹ hàm râu mép, tay phải cầm điện thoại quay bằng ngón út:
- Của hả? Lên biểu tức khắc.
Mặt ông hơi sầm, ấm ức tức giận, không nói không rằng. Tôi bồi thêm:
- Hôm nay tôi đến đây để báo cho Thiếu Tướng biết, anh em chúng tôi xin giao trả quận 8 lại cho vị Ðại Tá Ðô Trưởng của ông. Và xin ông ghi nhận thiện chí của tuổi trẻ có thừa. Ông Kỳ chẳng thèm trả lời, chẳng đếm xỉa đến tôi. Tôi lại tiếp:
- Bây giờ thì trễ rồi, cho dù chúng tôi có tiếp tục cũng đã có một sự ngỡ ngàng giữa ông Ðại Tá Ðô Trưởng và chúng tôi, cũng có sự ngã lòng thối chí, mất tin tưởng của nhóm trẻ tình nguyện, vậy xin Thiếu Tướng ra lệnh cho Ðô Trưởng thu hồi quân 8, trả chức lại cho cựu quân trưởng Cao Minh Chung, ông này vì mất quyền lợi, rao bán tiếng xấu, phá phách bằng cách khuyến dụ nhân viên, làm thất lạc hay chậm trễ giấy tờ vân vân. Tốt nhứt là chúng tôi chấm dứt sự thử nghiệm tại đây.
Ông Kỳ lại nín thinh mắt đăm đăm nhìn cửa ra vào, hình như ông cố ý chờ Văn Văn Của. Khoảng vài phút qua, Thiếu Tá Liệu, tùy viên mở cửa, Văn Văn Của xuất hiện đứng nghiêm chào, tay chưa kịp bỏ xuống.
- Ð. M... anh, không làm việc, ngồi chơi không mà người ta làm anh phá.
- Dạ...
Ông Của chưa kịp nói gì thì bị Tướng Kỳ làm cho một hơi:
- Ð.M... anh, tại sao anh không giải ngân cho người ta làm việc?
- Dạ...
- Ð. M... anh có biết đọc tờ trình của quận trưởng quận 8 không? Tại sao không chịu giải ngân cho người ta?
- Dạ...
- Ð. M... anh, đã cử quận trưởng mới rồi mà anh còn cử thằng quận trưởng cũ làm cố vấn là cái nghĩa lý gì?
- Dạ...
- Ð. M... các quận khác anh có cử cố vấn không? Như vậy không phá hoại là cái gì? Ð. M... đi về, nếu không tôi “nhúc” anh bây giờ.
Sau này tôi mới biết đối với Thiếu Tướng Kỳ chữ nhúc có nghĩa là bắt giam. Ông Của chưa kịp bỏ tay chào xuống, còn đứng chết trân nghe mắng cho đến khi bị đuổi về, ông bỏ chân theo kiểu nhà binh, quay đằng sau, đi mất. Dĩ nhiên Ðại Tá Của về đến văn phòng là ra lệnh giải ngân trong ngày. Từ đó trở đi ông Của hết tình ủng hộ và thỏa mãn mọi yêu cầu của quận 8.
Quay sang tôi ông Kỳ khởi sự phân trần:
- Ðấy anh thấy không tôi ngay tình. Một mình tôi, làm sao kiểm soát hết tất cả những sự bê bối trong guồng máy hành chánh nặng nề này. Vừa nói ông Kỳ lại một tay cầm điện thoại quay bằng ngón út, gọi ông Tổng Trưởng Thanh Niên: Hồng, lên biểu.
Khoảng hơn 15 phút sau, Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng đến, dù mặc thường phục nhưng ông Hồng cũng chào theo kiểu nhà binh, vì ông là Trung Tá quân y, thuộc binh chủng không quân của Thiếu Tướng Kỳ. Ông Kỳ mời ngồi xong, đối diện với tôi. Giới thiệu tôi với Bác Sĩ Hồng một cách hằn học, gọn lỏn. Ông gằn vọng:
- Ð. M... tối ngày chỉ biết đánh tennis thôi. Chẳng làm con mẹ gì hết mà anh Triều làm việc anh còn phá.
- Trời ơi, Thiếu Tướng, tôi chưa hề gặp anh Triều bao giờ, tôi không hề biết anh Triều làm việc gì thì tôi làm sao phá anh ấy? Mà phá cái gì mới được chứ?
Nhìn sang tôi, ông Hồng nói:
- Anh Triều, anh nói giùm tôi một tiếng, tôi không hề phá anh về bất cứ chuyện gì phải không?
- Tôi vẫn giữ im lặng không can dự vào. Thì ra ông Kỳ chỉ giận cá chém thớt bậy bạ thôi, còn ông Bác Sĩ Hồng thì bị vạ lây. Ðây là một tai nạn, ông Hồng bị lạc đạn.
Ông Kỳ lấy lại bình tĩnh dịu giọng nói:
- Thôi mời anh về.
Quay sang tôi, ông nói:
- Ðấy anh chứng kiến, chung quanh tôi là những người như thế nào. Bây giờ anh có thấy anh từ chối không hợp tác với tôi là một sự sai lầm lớn lao không? Nếu anh có lòng với đất nước, với dân tộc, thì một lần nữa tôi yêu cầu anh nhập cuộc. Chúng ta hiệp sức hoàn thành một cuộc cách mạng và chiến thắng cộng sản. Trước mắt chúng ta có tới hai nhiệm vụ. Một là xây dựng đất nước, hai là chiến thắng cộng sản.
Ông nói một cách hăng say, thao thao bất tuyệt. Còn tôi thừ người ra, bối rối suy nghĩ về những gì tôi mới chứng kiến, đến nỗi tôi không chú ý những gì ông Kỳ đang và tiếp tục nói, mà ông tin rằng tôi đang nghe. Hình như tôi bắt đầu có cảm tình với vị Tướng trẻ tuổi nầy, người mà trước đây tôi xem thường. Tôi đang nghĩ về trách nhiệm của mình đối với số đồng bào ở Quận 8, những người dân cũng mới bắt đầu tin tưởng và hy vọng chúng tôi tiếp tay với họ để cải thiện xã hội. Tôi cũng nghĩ trách nhiệm của tôi đối với bốn ông bạn, “Tứ Ðại Gan Lì” của tôi đã kiên trì chấp nhận sự thử thách vì muốn cuộc thử nghiệm nầy phải thành công. Những suy nghĩ của tôi về tổ chức xã hội, về công tác lôi cuốn thanh niên và đồng bào vào một phong trào to lớn để xây dựng quê hương và chống xăm lăng Bắc Việt thôi thúc tôi phải nhập cuộc. Hình như không nói ra mà tôi có cảm giác mình đã chấp nhận tham gia rồi, mình đã muốn hợp tác với ông Tướng nầy rồi. Một cảm giác lạ lùng, gần như thân thiện bất ngờ. Tôi hoàn hồn, không biết ông Kỳ đã nói gì thêm, tôi phát biểu ngắn gọn:
- Tôi sẽ về suy nghĩ về những đề nghị của Thiếu Tướng để xem tôi có nên tham gia hợp tác với ông không?
- Tôi chờ anh. Chương trình quận 8 cho đến bây giờ đã có sức hấp dẫn đối với quần chúng. Nếu anh bỏ dở thì sẽ hoài công anh em, và uổng lắm. Nếu anh tham gia nội các thì sẽ có người bao che thúc đẩy, đưa chương trình nầy đến chỗ thành công dễ dàng hơn. Tôi sẽ cải tổ nội các nếu cần. Anh dạy kinh tế nông nghiệp phải không? Tôi đề nghị anh giữ bộ kinh tế, tôi đang cần một ông Tổng Trưởng Kinh Tế tài ba để ổn định thị trường đang xáo trộn làm dân chúng hoang mang.
- Một mình tôi vào nội các thì cũng không giúp được ông nhiều.
- Tôi sẵn sàng chấp nhận tất cả những người anh giới thiệu, miễn là cùng chí hướng với chúng ta, và không phải là thứ ăn hại đái nát.
Ra khỏi dinh Thủ Tướng, hình như tôi đã quyết định tham gia nội các rồi. Ðiều mà trước nay tôi từ chối vì nghĩ không thể hợp tác được với nhóm quân phiệt và vì, theo suy nghĩ của tôi, một số không ít quân nhân hiện đang lãnh đạo đất nước không biết nhiều về tổ chức quốc gia, xã hội, kinh tế, chính trị. Họ chỉ là những thanh niên gan lì cầm súng dẹp giặc và may mắn còn giữ được mạng sống để lên Tướng rồi đảo chánh, chỉnh lý, cầm quyền trong thời loạn ly, quốc gia mất kỷ cương. Vả lại lịch sử thế giới chứng minh đa số các quốc gia do quân nhân cai trị đều mất dân chủ, vi phạm nhân quyền.
Nhưng đứng trước thiện chí và sự thành tâm của ông Kỳ, người có lòng yêu nước, hăng say muốn làm một cái gì tốt cho quê hương dân tộc, rất dễ bị ông Tướng trẻ nầy cảm hóa và lôi cuốn. Có lẽ vì trong thời điểm đó ông và tôi nuôi cùng một lý tưởng và có cùng một mục đích. Tuy lòng đã siêu nhưng tôi muốn để cho mọi việc lắng dịu, suy nghĩ thật chín mùi, nên chưa trả lời dứt khoát.
Trong khi chờ đợi, nhân dịp Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humphrey viếng thăm Việt Nam, Thiếu Tướng Kỳ cho biết ông Humphrey muốn viếng một nơi nào có thể chứng minh viện trợ của Hoa Kỳ đem lại kết quả tốt cho Việt Nam. Nhưng chính phủ Việt Nam không có chỗ nào khác hơn là quận 8 để trình diễn cho vị khách quí nầy ghi nhận thành quả, ngõ hầu về Mỹ phô trương với báo chí. Vì vậy trước đó một ngày, tôi đang dạy học tại trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc, bỗng nhiên cô thư ký vào thông báo: “có Thủ Tướng điện thoại yêu cầu giáo sư ra văn phòng trả lời”. Tôi nhờ cô thơ ký nhắn với Thủ Tướng là tôi sẽ gọi lại ông một giờ sau khi lớp học chấm dứt. Vài phút sau anh Lê Văn Ký Giám, Khoa Trưởng hớt hải chạy vào lớp vừa nắm tay tôi kéo vừa nói: “Anh làm ơn ra trả lời téléphone giùm tôi, Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương nói nếu tôi không để cho anh trả lời thì ông ấy sẽ đóng cửa trường ngay hôm nay bởi vì chuyện nầy gắp lắm. Anh Ký phân trần với tôi: “Có ai dám cấm cản anh đâu mà ông ta hiểu lầm như vậy khổ chúng tôi lắm”. Tôi cười xòa trấn an anh Ký: “Không có gì đâu, để tôi đính chính rõ ràng cho anh”.
Sự kiện nhỏ nhặt nầy chứng minh cái tính bốc đồng và cái tật phát ngôn bừa bãi của Tướng Kỳ nên báo chí tặng cho ông biệt danh là “Tướng cao bồi”. Tôi theo anh Giám đốc Lê Văn Ký đến văn phòng của anh để trả lời điện thoại. Bên kia đầu dây:
- Triều đó hả?
- Triều đây, Thiếu Tướng cần gì tôi?
- Mời anh lên phủ gặp tôi ngay, có chuyện gấp.
- Tôi sẽ lên ngay.
Vài phút sau tôi đã vào văn phòng Thủ Tướng vì trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc ở góc đường Cường Ðể cạnh số 2 đường Thống Nhứt là dinh Thủ Tướng. Vừa thấy tôi Tướng Kỳ niềm nở:
- Phó Tổng Thống Hubert Humphrey muốn đi thăm một nơi nào chứng minh được viện trợ Mỹ có kết quả tốt. Moa nghĩ không còn đâu hơn quận 8 của tụi toa. Ðó là kết quả của sự tham gia quần chúng xây dựng lại quê hương. Toa phải mau mau gọi anh em của toa tổ chức tiếp rước đàng hoàng.
- Chừng nào ông Phó Tổng Thống Mỹ xuống viếng quận?
- Ngày mai.
- Tại sao ông không cho tôi biết trước? Bây giờ làm sao chuẩn bị cho kịp?
- Có gì đâu, thì mình cứ hướng dẫn ông ta đi viếng một vòng, xem một vài nơi, có người giải thích và cho ông ta gặp một hai người dân là xong.
- Không thể như vậy được. Ðể tôi tính.
- Về phần Thiếu Tướng, tôi yêu cầu ông ra lệnh cho quân đội dựng một căn lều lớn nhứt. Sáng sớm ngày mai phải có. Ðịa điểm do quận trưởng chỉ định.
- Bảo đảm sẽ có ngay.
- Vậy xin chào Thiếu Tướng, tôi về để chuẩn bị. Ngày mai anh em của chương trình sẽ tiếp phái đoàn lúc 10 giờ sáng tại khu đông dân cư, nghèo khổ. Vấn đề an ninh thì cảnh sát công an của Thiếu Tướng chịu trách nhiệm. Nói xong tôi từ giã Tướng Kỳ, về sở ngay. Một mặt tôi thông báo cho Nhuận và Mạnh gom góp tài liệu cùng với Minh và Liêm đến sở Thống Kê Kinh Tế Nông Nghiệp của tôi hội bàn. Mặt khác tôi gọi ông Như, họa sĩ của sở vào văn phòng. Tôi ra lệnh:
- Ông Như, tôi cho phép ông về nhà bây giơ, nghỉ cho đến 4 giờ chiều sẽ trở lại sở, chiều hôm nay ông sẽ về nhà rất trễ, có thể đến khuya, Vậy ông nên thông báo cho người nhà biết. Ngày mai tôi sẽ cho ông nghĩ phép một ngày để bù trừ.
Sau khi bàn thảo, chúng tôi quyết định phải chọn những vụ việc nào để trình bày, phải tóm gọn những ý kiến gì, và nhứt là phải chứng minh bằng những số thống kê, có đồ biểu phân minh, do họa viên Như của sở phải thức khuya vẽ cho xong, theo đúng cung cách của một cuộc thuyết trình khoa học. Anh Ðoàn Thanh Liêm, người nói được lưu loát Anh ngữ lãnh trách nhiệm thuyết trình. Tôi đề nghị chỉ đặt có hai ghế ngồi, một cho Phó Tổng Thống Humphrey và một cho Thủ Tướng Việt Nam mà thôi. Ngoài ra Ðại Sứ Mỹ cũng như toàn thể khách quí đều đứng hết. Một bàn duy nhứt đặt những trái dừa xiêm vạt đít sẵn nhưng chưa khui, có người đứng tiếp để khui liền nếu vị khách nào muốn giải lao. Sáng hôm sau, Phó tổng thống Humphrey đến thăm dưới sự hướng dẫn của ông Kỳ và phái đoàn chính phủ.
Sau khi anh Liêm giới thiệu người trong ban quản lý, mặt mũi anh nào anh nấy còn non choẹt, ông Humphrey đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác, kể cả việc cầm nguyên trái dừa dùng ống hút nút nước giải lao, miệng cười niềm nở. Cuộc viếng thăm kết thúc sau khi đi xem một vài đường hẻm và nhà tôn mới lợp. Trước khi rời Việt Nam, tại sân bay Tân Sơn Nhứt, Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humphrey tuyên bố với báo chí là những gì ông chứng kiến và hiểu được ở quận 8 Saigon là “Cốt lõi của một cuộc cách mạng” (nguyên văn: “C'est l'essence même d'une révolution” (Journal d' Extrême Orient Saigon). Báo chí trong và ngoài nước khởi sự loan tin và nói tốt về một chương tình phát triển cộng đồng do giới trẻ Việt Nam thực hiện.
Quay sang tôi, ông nói:
- Ðấy anh chứng kiến, chung quanh tôi là những người như thế nào. Bây giờ anh có thấy anh từ chối không hợp tác với tôi là một sự sai lầm lớn lao không? Nếu anh có lòng với đất nước, với dân tộc, thì một lần nữa tôi yêu cầu anh nhập cuộc. Chúng ta hiệp sức hoàn thành một cuộc cách mạng và chiến thắng cộng sản. Trước mắt chúng ta có tới hai nhiệm vụ. Một là xây dựng đất nước, hai là chiến thắng cộng sản.
Ông nói một cách hăng say, thao thao bất tuyệt. Còn tôi thừ người ra, bối rối suy nghĩ về những gì tôi mới chứng kiến, đến nỗi tôi không chú ý những gì ông Kỳ đang và tiếp tục nói, mà ông tin rằng tôi đang nghe. Hình như tôi bắt đầu có cảm tình với vị Tướng trẻ tuổi nầy, người mà trước đây tôi xem thường. Tôi đang nghĩ về trách nhiệm của mình đối với số đồng bào ở Quận 8, những người dân cũng mới bắt đầu tin tưởng và hy vọng chúng tôi tiếp tay với họ để cải thiện xã hội. Tôi cũng nghĩ trách nhiệm của tôi đối với bốn ông bạn, “Tứ Ðại Gan Lì” của tôi đã kiên trì chấp nhận sự thử thách vì muốn cuộc thử nghiệm nầy phải thành công. Những suy nghĩ của tôi về tổ chức xã hội, về công tác lôi cuốn thanh niên và đồng bào vào một phong trào to lớn để xây dựng quê hương và chống xăm lăng Bắc Việt thôi thúc tôi phải nhập cuộc. Hình như không nói ra mà tôi có cảm giác mình đã chấp nhận tham gia rồi, mình đã muốn hợp tác với ông Tướng nầy rồi. Một cảm giác lạ lùng, gần như thân thiện bất ngờ. Tôi hoàn hồn, không biết ông Kỳ đã nói gì thêm, tôi phát biểu ngắn gọn:
- Tôi sẽ về suy nghĩ về những đề nghị của Thiếu Tướng để xem tôi có nên tham gia hợp tác với ông không?
- Tôi chờ anh. Chương trình quận 8 cho đến bây giờ đã có sức hấp dẫn đối với quần chúng. Nếu anh bỏ dở thì sẽ hoài công anh em, và uổng lắm. Nếu anh tham gia nội các thì sẽ có người bao che thúc đẩy, đưa chương trình nầy đến chỗ thành công dễ dàng hơn. Tôi sẽ cải tổ nội các nếu cần. Anh dạy kinh tế nông nghiệp phải không? Tôi đề nghị anh giữ bộ kinh tế, tôi đang cần một ông Tổng Trưởng Kinh Tế tài ba để ổn định thị trường đang xáo trộn làm dân chúng hoang mang.
- Một mình tôi vào nội các thì cũng không giúp được ông nhiều.
- Tôi sẵn sàng chấp nhận tất cả những người anh giới thiệu, miễn là cùng chí hướng với chúng ta, và không phải là thứ ăn hại đái nát.
Ra khỏi dinh Thủ Tướng, hình như tôi đã quyết định tham gia nội các rồi. Ðiều mà trước nay tôi từ chối vì nghĩ không thể hợp tác được với nhóm quân phiệt và vì, theo suy nghĩ của tôi, một số không ít quân nhân hiện đang lãnh đạo đất nước không biết nhiều về tổ chức quốc gia, xã hội, kinh tế, chính trị. Họ chỉ là những thanh niên gan lì cầm súng dẹp giặc và may mắn còn giữ được mạng sống để lên Tướng rồi đảo chánh, chỉnh lý, cầm quyền trong thời loạn ly, quốc gia mất kỷ cương. Vả lại lịch sử thế giới chứng minh đa số các quốc gia do quân nhân cai trị đều mất dân chủ, vi phạm nhân quyền.
Nhưng đứng trước thiện chí và sự thành tâm của ông Kỳ, người có lòng yêu nước, hăng say muốn làm một cái gì tốt cho quê hương dân tộc, rất dễ bị ông Tướng trẻ nầy cảm hóa và lôi cuốn. Có lẽ vì trong thời điểm đó ông và tôi nuôi cùng một lý tưởng và có cùng một mục đích. Tuy lòng đã siêu nhưng tôi muốn để cho mọi việc lắng dịu, suy nghĩ thật chín mùi, nên chưa trả lời dứt khoát.
Trong khi chờ đợi, nhân dịp Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humphrey viếng thăm Việt Nam, Thiếu Tướng Kỳ cho biết ông Humphrey muốn viếng một nơi nào có thể chứng minh viện trợ của Hoa Kỳ đem lại kết quả tốt cho Việt Nam. Nhưng chính phủ Việt Nam không có chỗ nào khác hơn là quận 8 để trình diễn cho vị khách quí nầy ghi nhận thành quả, ngõ hầu về Mỹ phô trương với báo chí. Vì vậy trước đó một ngày, tôi đang dạy học tại trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc, bỗng nhiên cô thư ký vào thông báo: “có Thủ Tướng điện thoại yêu cầu giáo sư ra văn phòng trả lời”. Tôi nhờ cô thơ ký nhắn với Thủ Tướng là tôi sẽ gọi lại ông một giờ sau khi lớp học chấm dứt. Vài phút sau anh Lê Văn Ký Giám, Khoa Trưởng hớt hải chạy vào lớp vừa nắm tay tôi kéo vừa nói: “Anh làm ơn ra trả lời téléphone giùm tôi, Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương nói nếu tôi không để cho anh trả lời thì ông ấy sẽ đóng cửa trường ngay hôm nay bởi vì chuyện nầy gắp lắm. Anh Ký phân trần với tôi: “Có ai dám cấm cản anh đâu mà ông ta hiểu lầm như vậy khổ chúng tôi lắm”. Tôi cười xòa trấn an anh Ký: “Không có gì đâu, để tôi đính chính rõ ràng cho anh”.
Sự kiện nhỏ nhặt nầy chứng minh cái tính bốc đồng và cái tật phát ngôn bừa bãi của Tướng Kỳ nên báo chí tặng cho ông biệt danh là “Tướng cao bồi”. Tôi theo anh Giám đốc Lê Văn Ký đến văn phòng của anh để trả lời điện thoại. Bên kia đầu dây:
- Triều đó hả?
- Triều đây, Thiếu Tướng cần gì tôi?
- Mời anh lên phủ gặp tôi ngay, có chuyện gấp.
- Tôi sẽ lên ngay.
Vài phút sau tôi đã vào văn phòng Thủ Tướng vì trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc ở góc đường Cường Ðể cạnh số 2 đường Thống Nhứt là dinh Thủ Tướng. Vừa thấy tôi Tướng Kỳ niềm nở:
- Phó Tổng Thống Hubert Humphrey muốn đi thăm một nơi nào chứng minh được viện trợ Mỹ có kết quả tốt. Moa nghĩ không còn đâu hơn quận 8 của tụi toa. Ðó là kết quả của sự tham gia quần chúng xây dựng lại quê hương. Toa phải mau mau gọi anh em của toa tổ chức tiếp rước đàng hoàng.
- Chừng nào ông Phó Tổng Thống Mỹ xuống viếng quận?
- Ngày mai.
- Tại sao ông không cho tôi biết trước? Bây giờ làm sao chuẩn bị cho kịp?
- Có gì đâu, thì mình cứ hướng dẫn ông ta đi viếng một vòng, xem một vài nơi, có người giải thích và cho ông ta gặp một hai người dân là xong.
- Không thể như vậy được. Ðể tôi tính.
- Về phần Thiếu Tướng, tôi yêu cầu ông ra lệnh cho quân đội dựng một căn lều lớn nhứt. Sáng sớm ngày mai phải có. Ðịa điểm do quận trưởng chỉ định.
- Bảo đảm sẽ có ngay.
- Vậy xin chào Thiếu Tướng, tôi về để chuẩn bị. Ngày mai anh em của chương trình sẽ tiếp phái đoàn lúc 10 giờ sáng tại khu đông dân cư, nghèo khổ. Vấn đề an ninh thì cảnh sát công an của Thiếu Tướng chịu trách nhiệm. Nói xong tôi từ giã Tướng Kỳ, về sở ngay. Một mặt tôi thông báo cho Nhuận và Mạnh gom góp tài liệu cùng với Minh và Liêm đến sở Thống Kê Kinh Tế Nông Nghiệp của tôi hội bàn. Mặt khác tôi gọi ông Như, họa sĩ của sở vào văn phòng. Tôi ra lệnh:
- Ông Như, tôi cho phép ông về nhà bây giơ, nghỉ cho đến 4 giờ chiều sẽ trở lại sở, chiều hôm nay ông sẽ về nhà rất trễ, có thể đến khuya, Vậy ông nên thông báo cho người nhà biết. Ngày mai tôi sẽ cho ông nghĩ phép một ngày để bù trừ.
Sau khi bàn thảo, chúng tôi quyết định phải chọn những vụ việc nào để trình bày, phải tóm gọn những ý kiến gì, và nhứt là phải chứng minh bằng những số thống kê, có đồ biểu phân minh, do họa viên Như của sở phải thức khuya vẽ cho xong, theo đúng cung cách của một cuộc thuyết trình khoa học. Anh Ðoàn Thanh Liêm, người nói được lưu loát Anh ngữ lãnh trách nhiệm thuyết trình. Tôi đề nghị chỉ đặt có hai ghế ngồi, một cho Phó Tổng Thống Humphrey và một cho Thủ Tướng Việt Nam mà thôi. Ngoài ra Ðại Sứ Mỹ cũng như toàn thể khách quí đều đứng hết. Một bàn duy nhứt đặt những trái dừa xiêm vạt đít sẵn nhưng chưa khui, có người đứng tiếp để khui liền nếu vị khách nào muốn giải lao. Sáng hôm sau, Phó tổng thống Humphrey đến thăm dưới sự hướng dẫn của ông Kỳ và phái đoàn chính phủ.
Sau khi anh Liêm giới thiệu người trong ban quản lý, mặt mũi anh nào anh nấy còn non choẹt, ông Humphrey đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác, kể cả việc cầm nguyên trái dừa dùng ống hút nút nước giải lao, miệng cười niềm nở. Cuộc viếng thăm kết thúc sau khi đi xem một vài đường hẻm và nhà tôn mới lợp. Trước khi rời Việt Nam, tại sân bay Tân Sơn Nhứt, Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humphrey tuyên bố với báo chí là những gì ông chứng kiến và hiểu được ở quận 8 Saigon là “Cốt lõi của một cuộc cách mạng” (nguyên văn: “C'est l'essence même d'une révolution” (Journal d' Extrême Orient Saigon). Báo chí trong và ngoài nước khởi sự loan tin và nói tốt về một chương tình phát triển cộng đồng do giới trẻ Việt Nam thực hiện.
Chương trình bắt đầu ghi nhận sự thành công trong nhiều lãnh vực thì bỗng nhiên có truyền đơn của việt cộng rải trong quận kêu gọi đồng bào cảnh giác đối với bọn “con buôn” của “chương trình phát triển quận 8” đang gạt đồng bào lấy đất cất nhà cho Mỹ mướn. Bằng cớ là người Mỹ tới lui thường xuyên để xem nhà xem đất. Sự thật là ký giả ngoại quốc có tới lui thăm viếng quận rất thường sau lời tuyên bố của Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humprey. Những truyền đơn của việt cộng làm chúng tôi đau đầu không ít. Bởi vì cảnh sát tuần tiễu không thuộc quyền chúng tôi điều khiển. Vả lại hành động lén lúc lẻ tẻ này khó kiểm soát nhưng dễ loan truyền. Túng thế tôi đành mời ông Philippe Habib, cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ, đến văn phòng tôi và yêu cầu ông ra lệnh cấm ký giả Mỹ tới quận 8 thường xuyên. Ông Habib phản đối kịch liệt. Thứ nhứt, tự do báo chí là điều ông bị bắt buộc phải tôn trọng. Thứ hai tiền của Quốc Hội Hoa Kỳ chi ra thì phải có báo cáo hoặc phải chứng minh bằng kết quả cụ thể. Kết quả nhỏ nhoi là quận 8 của ông mà nếu ông không cho phép Ký giả của chúng tôi đến quay phim chụp ảnh thì chúng tôi lấy gì chứng minh đây? Tôi phản bác là quí vị muốn thấy tôi thành công hay thất bại? Tôi cho ông Habib biết là dân chúng khởi sự tự hỏi chúng tôi chỉnh trang nhà cửa để cho họ ở hay cho Mỹ mướn đây? Cuối cùng ông Habib hứa sẽ tìm mọi cách để ngăn ngừa Ký giả đến quận 8 nhưng ông không thể bảo đảm ông sẽ thành công. Thực tế ông cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Mỹ hiểu được vấn đề, và kể từ đó không một người Mỹ nào đến thăm chương trình quận 8 của chúng tôi. Công tác phản tuyên truyền bắt đầu, chúng tôi giải thích với đồng bào rằng truyền đơn của việt cộng là láo khoét, chúng tôi đã cấm không cho người Mỹ léo hánh đến đây. Sự thật này đồng bào thấy rõ, đã vậy họ còn tưởng chúng tôi có uy quyền đến độ cấm được người Mỹ đến quận này, nên họ càng tin tưởng, càng hợp tác xây đựng.
Việc của tôi với tư cách Tổng Trưởng là yểm trợ, can thiệp để bao che, cung cấp đầy đủ phương tiện để anh em hoạt động. Can thiệp giữ người, xin biệt phái người từ Bộ Quốc Phòng, mượn phương tiện của Bộ Công Chánh, của USOM. Tôi ước mơ thành lập được những “Kiboutz” theo kiểu của Do Thái, từ đô thành lan rộng về các tỉnh, “tay súng tay cày” để giữ nước và dựng nước. Thú thật tôi bị ảnh hưởng rất nặng khi đọc quyển sách “Tour d'Erza” tả điều kiện Do Thái lập quốc trong bối cảnh hãi hùng bị các quốc gia Á Rập bao vây muốn tiêu diệt. Vì Vậy tôi đã chủ trương muốn gởi một số anh em của quận 8 đi Do Thái và Yougoslavie để học hỏi kinh nghiệm.
Bác sĩ Minh là sĩ quan quân y, Hồ Ngọc Nhuận là sĩ quan bộ binh và một số anh em khác đang cộng tác với chương trình, tôi phải “lộn nài bẻ ống” để xin biệt phái cho bằng được, riêng bộ thanh niên cung cấp người theo yêu cầu của chương trình. Can thiệp với bộ giáo dục để xin giáo sư, do anh em trong chương trình chọn những người quen biết có thiện chí, có lý tưởng và tinh thần, phù hợp với chúng tôi. Can thiệp với bộ giao thông công chánh và USOM để mượn xáng thổi đất lấp vũng lầy làm nền nhà. Tóm lại công tác tại chỗ là do “Tứ Ðại Gan Lì” chỉ huy điều hành, tuyển mộ thêm đồng bạn, mời rủ thêm người thiện nguyện, tổ chức phát triển rộng hơn làm cho vết dầu lan sang quận 6 rồi quận 7.
Kết quả chương trình thành công mỹ mãn. Những khu nhà ổ chuột nay trở thành nhà phố khang trang. Ðồng bào hài lòng, cộng sản “hổng chân”. Nhưng giữa thời gian đó xảy ra một sự kiện vô cùng nguy hiểm, rất may mắn và cũng rất có ý nghĩa. Chương trình có một máy kéo do cháu Phương phụ trách hằng ngày. Buổi sáng đó như thường lệ, cháu Phương ngồi vào ghế tài xế, đút chìa khóa mở máy, tay vừa cầm cây cần sang số bỗng nhiên anh ta thấy có một sợi dây kẽm cột từ cây cần sang số dẫn vô trong máy xe. Cháu Phương bước xuống dở nấp đậy máy xe xem tại sao có sợi dây kỳ lạ này. Thì ra dây kẽm cột vào nút chốt của một trái lựu đạn do cộng sản gài trong đêm. Mọi người tá hỏa, lo lắng có, sợ hãi có, mừng rỡ có. Riêng tôi biết được tin này thấy hài lòng vì đây là dấu hiệu thành công mỹ mãn nên Việt Cộng mới dùng đến phương tiện khủng bố. Dĩ nhiên từ đó chúng tôi cảnh giác cao độ và loan truyền cho đồng bào để họ hợp tác với chúng tôi canh chừng vì chương trình chính là quyền lợi của đồng bào.
Mặt khác tôi điện thoại cho ông Philippe Habib, cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ báo rằng từ nay trở đi ông có thể thông báo cho ký giả Mỹ tha hồ đến kiểm chứng sự thành công của chương trình. Tôi không thể nhớ những con số để chứng minh sự thành công về mặt chỉnh trang khu phố, về số gia đình của dân chúng được hưởng. Tôi cũng không nhớ bao nhiêu con đường lầy lội đã được sửa sang và biết bao nhiêu công trình lớn nhỏ khác do cộng đồng dân chúng trong các quận thực hiện. Nhưng điều quan trọng là đã có một cái gì đó, khác với cộng sản, đã bắt đầu và thành công một phần, tuy nhỏ, nhưng tinh thần, phương cách và khuôn mẫu hãy còn đó để chờ triển khai một cách hoàn chỉnh và tốt đẹp hơn..
Người Mỹ có quay một cuốn phim tài liệu về chương trình phát triển quận 8. Báo chí trong và ngoài nước đặc biệt báo Mỹ và Pháp ca ngợi. Ký giả Vanuxem, cựu thiếu tướng người Pháp đã viếng thăm quận 8, có tiếp xúc với tôi và viết một quyển sách tựa đề “L'espoir à Saigon” nhà xuất bản La Table Ronde 40, Rue Du Bac, Paris, 7e, 1967, trong đó ông nói về tuổi trẻ Việt Nam và chương trình phát triển quận 8 từ trang 127 đến trang 133. ( xin xem phụ bản do Giáo Sư Nguyễn Thanh Liêm phiên dịch. Thành thật cám ơn Giáo sư Liêm đã nhiệt tình giúp đỡ).
“L'espoir à Saigon”
“Thực ra vấn đề chính của xứ này là vấn đề thanh thiếu niên. Ở nông thôn hình như những “Ấp Tân Sinh” có thể đem lại giải pháp tốt. Nhưng ở thành thị, đặc biệt nói về sinh viên học sinh, họ là thành phần hăng say nhưng bất kham, phấn chấn dũng cảm nhưng không kiên định, tích cực ủng hộ chế độ cộng hòa, theo chủ nghĩa Quốc Gia nhưng sẵn sàng chống quân phiệt. Họ đặt đủ mọi thứ vấn đề và chủ trương phải hành động để thực hiện ý kiến của mình.
Vị Tổng Trưởng trẻ nhứt là Tổng Trưởng Thanh Niên, 32 tuổi. Trẻ đối với thế hệ già, già so với thế hệ trẻ. Ở cái tuổi mà con người có thể tự cho mình là già hay trẻ tùy ý. Thanh lịch, phong nhã, ông ta nói tiếng Pháp với một vọng rõ ràng, không đứt đoạn vọng lên xuống lấy hơi lổ mũi như nhiều người Việt Nam khác. Ông thấm nhuần văn hóa và nếp sống của người Pháp. Ông là một kỹ sư canh nông không được chuẩn bị cho một sự nghiệp chính trị, điều mà ông không hề nghĩ đến. Trong một cuộc tiếp xúc, ông chống đối lý luận và chủ trương của Thủ Tướng bằng những lời phê phán gay gắt. Thủ Tướng ngạc nhiên bèn yêu cầu ông trình bày quan điểm, ông ta chấp nhận. Nhưng khi Thủ Tướng mời ông tham gia nội các thì ông từ chối dứt khoát.
Chỉ về sau, nhân dịp cải tổ nội các thì ông mới nhận tham gia mà thôi. Bộ của ông có tất cả những quyền hạn liên quan đến thanh niên, kể cả thể thao, điều mà ông mê say. Nhưng ông chỉ chú trọng có một điểm đặc biệt, tuy không quan trọng, nhưng nếu công tác này thành công thì sẽ cho phép ông áp dụng một cách tổng quát và phổ biến những phương pháp mà ông tin sẽ đem lại hiệu năng và hợp với tình thế.
Thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ, cũng giống như thanh niên của nhiều xứ khác, phản ứng một cách hung hăng, có tính khiêu khích đối với thế hệ đàn anh đang lãnh đạo họ. Vì vậy sự va chạm càng nặng khi hai thế hệ không có được sự cảm thông. Thế hệ đàn anh kiên định trong phong cách suy nghĩ theo hệ thống lô-gíc với thói quen đã từng bị người Pháp ảnh hưởng. Cuộc “cách mạng cộng sản” buộc người Pháp phải ra đi và sau đó lại có một nhu cầu là cần phải tìm ra một cung cách suy nghĩ khác lạ hơn với hiện tại, làm cho cả thế hệ thanh niên bị mất thăng bằng. Và ngày nay giới trẻ đó đang tìm một hướng đi.
Sau khi chế độ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, sinh viên học sinh tin rằng mình cũng có góp phần trong đó, họ ủng hộ bên này hay bên kia với một sức sống mãnh liệt. Nhưng họ hành động trong sự rối loạn chưa từng thấy. Mỗi người muốn phục vụ đất nước theo kiểu cách của mình, họ chỉ trích tất cả những gì đã được hình thành và họ muốn sáng tạo một thứ gì độc đáo khác. Do đó kết quả cho thấy một sự không thích nghi với thời thế và sự vô hiệu năng về mọi mặt rất đáng ngại. Sự phân hóa xã hội Việt Nam trong mọi lãnh vực, kinh tế, chính trị, xã hội, ngày càng nhanh chống đến mức đáng sợ. Thanh niên lạc lòi, người đứng tuổi dè dặt, tự chế. Nhiều phe nhóm được thành lập phục vụ cho nhiều mục đích linh tinh nhưng lần hồi họ tự ý đi vào con đường chính trị. Một số không ít vì ngây ngô bị đảng phái hay chính trị gia mua chuộc.
Người ta nghĩ có thể hướng dẫn sự bồng bột của tuổi trẻ vào con đường phục vụ xã hội, nhưng rồi người Mỹ xen vào với những đồng đô-la của họ. Ðiều đáng lẽ phải tránh. Kết quả người ta thấy sự hư nát ngày càng lan rộng. Và trong lúc đó có một nhóm thử đề ra một ý nghĩ mới, hy sinh quên mình, chấp nhận gian khổ, tận tụy, kiên trì với ý đồ xây dựng lại quê hương ngay trong bối cảnh hỗn độn đó. Khởi đầu là một công trình nhỏ bé, không bề thế, không phương tiện. Ðó là một khởi điểm.
Vị Tổng Trưởng thanh niên trẻ tuổi này ý thức được là ông không thể dùng quyền để chế ngự hay hướng dẫn thế hệ thanh niên trong xứ được. Ông ta nghĩ chỉ còn cách đứng bên cạnh họ, tự hòa mình chung sống với họ, thúc đẩy họ, biến họ thành những phần tử “cách mạng” tự tin rằng mình là hữu ích trong công cuộc xây dựng lại quốc gia. Và ông thực hiện điều đó. Ông tiếp xúc với thanh niên, ông gặp gỡ và bàn thảo với hơn 30 hội đoàn thanh niên và nhiều nhóm khác có mục đích riêng rẽ của họ. Ông sống với họ, hòa mình tự coi mình là người của họ. Ông mất rất nhiều ngày giờ. Nhưng cho tới nay ông tin rằng sự hiện diện và sự tham gia tích cực của ông đã đánh tan được sự nghi ngờ và thái độ lững lờ của họ. Ông còn tin vững chắc là đã được giới trẻ chấp nhận ông, không phải như người thầy, người quản trị, mà là người đàn anh có lời chỉ dẫn và quyền điều khiển của ông được tiếp nhận không mảy may ngờ vực. Ông muốn tạo cho nhóm trẻ này một môi trường thử nghiệm to lớn bằng sự ước mơ của ông. Muốn thực hiện điều đó ông phải đụng chạm với các đồng nghiệp của ông trong nội các, những vị đồng nghiệp đó bảo vệ quyền hạn chính đáng của họ, và còn nhiều cơ quan công quyền khác không chịu nhún nhường để cho giới trẻ rộng đường thi thố tài năng. Ông Tổng Trưởng đẩy họ phải tránh đường và buộc họ phục tùng. Ông ta cử một giáo sư trẻ tuổi làm quận trưởng của một quận Saigon. Và tất cả nhóm trẻ tham gia.
Quận này là một quận nghèo nàn nhơ nhớp nhứt, gần thành phố Chợ Lớn nơi người Hoa Kiều buôn bán tấp nập, nhưng đa số người Việt Nam ở đó đều là bần khốn. Sau nhiều sự do dự và ngỡ ngàng, dân chúng thấy được những sáng kiến táo bạo của nhóm người thiện nguyện trẻ tuổi này, họ hoạt động không khác gì những “giáo sĩ truyền giáo” nên lần hồi chiếm được cảm tình và sự chấp thuận tham gia của quần chúng. Họ thực hiện đủ mọi thứ công tác, giúp đỡ tất cà những người cần có sự giúp đỡ. Họ giúp sửa sang nhà cửa, đặt để những cơ quan từ thiện, khám bệnh và phát thuốc miễn phí, tổ chức hội họp, khuyến dụ quần chúng tham gia. Ða số chấp nhận vì cảm tình hoặc vì tò mò muốn tìm hiểu. Người ta thảo luận về mọi vấn đề liên quan đến đời sống cộng đồng trong quận, đến tổ chức hành chánh và quản trị, người ta cũng tìm hiểu về chính trị, gây ý thức về nhiệm vụ của người công dân và cổ võ sự đoàn kết trong cộng đồng.
Trong cái thế giới bị đồng tiền làm hư đốn vì con người chỉ biết chạy theo tiền mà thôi, nhóm người trẻ thiện nguyện đó hành động bất vụ lợi, trong sự nghèo khó, với lòng hy sinh tận tụy phục vụ cho lợi ích công cộng làm cho quần chúng tin tưởng nghe theo và họ đã thành công rực rỡ. Dĩ nhiên, thông thường những hoạt động như vậy phải được phô trương quảng cáo, nhưng ở đây mọi sự tuyên truyền phổ biến đều bị cấm chỉ, và mọi sự trợ giúp tiền bạc đều bị từ chối. Ðiều khó khăn nhứt là làm sao ngăn cấm báo chí Mỹ luôn luôn tìm kiếm mọi điều kiện khả dĩ có thể đem lại một giải pháp nào tốt đẹp cho Việt Nam mà họ đang chia xẻ trách nhiệm bảo vệ và phát triển. Cho nên vấn đề là làm sao thuyết phục họ chấp nhận không để cho những máy ảnh và máy quay phim của họ gây nghi ngờ hoang mang có tính phản tác dụng đối với quần chúng. Cuộc thử thách của họ vô cùng khó khăn nhọc nhằn, nó đòi hỏi sự vô tư cao độ, sự chấp nhận một nếp sống đạm bạc gần như khổ hạnh. Nhưng cuối cùng họ đã thành công.
Thêm một quận khác của Sài Gòn được giao cho nhóm trẻ này mở rộng, họ hoạt động theo những căn bản đã được ấn định. Và có cả một chương trình để áp dụng cho toàn quốc.
Sau khi thu thập đầy đủ kinh nghiệm và xác nhận sự thành công của hệ thống tổ chức và hoạt động, phải chăng đã đến lúc phải đặt cho hệ thống tổ chức này một định chế, bởi vì nếu không những sáng kiến là nguồn gốc của hành động sẽ bị đứng sững đó không phát triển thêm được.
Dứt khoát phải có một lý thuyết gia.
Phải chăng ông là người lý thuyết gia đó? Tôi hỏi vị Tổng Trưởng.
Mỉm cười. Hệ thống công tác tự nó có phải là một sự giải đáp đầy tính người, đầy nhân ái và nhạy cảm, thực tế hơn nhiều so với những gì mà việt cộng khoe khoang và đề nghị cống hiến cho đồng bào tôi không?
Chắc chắn rồi. Như vậy những thứ đạo đức mà việt cộng tự trang hoàng cho họ, một cách giả dối, nào là sự tận tụy với dân, lòng tin mãnh liệt đối với một lý thuyết cộng sản hoàn chỉnh, kỷ luật sắt thép của người cán bộ phục vụ nhân dân và xây dựng đất nước, sẽ là những luận cứ chứng minh cho việc làm của ông và của giới trẻ của ông là đúng phải không?
Dĩ nhiên, Nhưng mà chúng tôi chỉ mới bắt đầu. Chỉ có một hột giống mới nảy mầm. Ông chờ xem.
Tôi nhìn vị Tổng Trưởng này, không có vẽ Tổng Trưởng chút nào, ăn vận một cách lịch sự, nói năng như một vị “Tông Ðồ” truyền giáo, làm sao không tin lời nói của ông? Làm sao không tin cậy hành động của ông? Tuổi trẻ luôn luôn suy nghĩ hợp lý. Dù những gì có thể xẩy ra trong tương lai, tôi thấy tuổi trẻ Việt Nam đang tìm đường di động”
Kết quả của chương trình cho phép chúng tôi lan sang quận 6 Ðô thành, hoạt động thành công, và khởi sự tràn sang quận 7. Nhưng điều đáng tiếc là sau khi tôi từ chức Tổng Trưởng Thanh Niên, sự bất hòa và kình chống giữa hai vị Tổng Thống Thiệu và Phó Tổng Thống Kỳ gây khó khăn cho việc quản lý và hoạt động của nhóm chủ trương quận 8. Tổng Thống Thiệu ra lệnh phải đặt chương trình phát triển quận 8 trực thuộc phủ Tổng Thống, thay vì trước kia thuộc quyền quản trị của phủ Thủ Tướng Nguyễn cao Kỳ. Vị Thủ Tướng này dành mọi sự dễ dàng và thông cảm với nhóm trẻ, nên phong cách sinh hoạt thoải mái đạt được nhiều hiệu năng. Mọi danh dự và tiếng tốt đối với Mỹ và báo chí về sự vận động quần chúng tham gia hợp tác thành công đều hướng về Nguyễn Cao Kỳ, vì vậy nên ông Thiệu muốn lợi dụng cái danh dự đó và cũng có nhiều người của ông muốn gánh vác một việc mà họ tưởng có thể dùng quyền để điều khiển chỉ huy dễ dàng. Thực ra nếu ông Thiệu nghĩ đến quyền lợi của dân chúng thì ông phải ra lệnh cho chính quyền của ông hỗ trợ triệt để vì ông đã từng thấy và xác nhận, khi ông cùng với tôi đến viếng một nơi ven biên của quận 8 với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, ông đã từng chứng kiến nhóm trẻ này có tinh thần và lý tưởng, có chủ trương sâu sắc, sinh hoạt nhịp nhàng với nhau thì cho dù trực thuộc cơ quan nào của chính phủ thì cũng do ông lãnh đạo mà thôi. Tinh thần nhỏ nhen đó thể hiện trong rất nhiều sự việc sau này trong hai nhiệm kỳ Tổng Thống của ông làm cho ông bỏ lỡ cơ hội trở thành người hùng của đất nước. Bác Sĩ Hồ Văn Minh được Phủ Tổng Thống thông báo tự hậu phải trực tiếp chịu sự điều khiển của người do Phủ Tổng Thống chỉ định.
Tôi vô cùng đắn đo, một phần tiếc rẻ cho sự thành công trước mắt, một phần lo ngại người trực tiếp điều hành do phủ Tổng Thống chỉ định không am hiểu sự việc lại cũng không có tinh thần hòa mình với quần chúng, coi đám dân là nhóm người đề mình sai khiến, theo cung cách quan liêu, thì chắc chắn sẽ hư việc. Chi bằng giao trả lại cho Hành Chánh đô thành do Ðại Tá Ðổ Kiến Nhiễu, người của Tổng Thống Thiệu, điều hành là hơn. Tôi đề nghị anh em tổ chức một lễ bàn giao cho đô thành nhưng mời Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ chủ tọa. Trong buổi lễ bàn giao đó Hồ Ngọc Nhuận thay mặt anh em, kể công ơn của cựu Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ và xác nhận sự thành công của giới trẻ một khi người ta biết vận dụng và giao phó trách nhiệm cho họ bởi vì “thanh niên là người tổ quốc mong cho mai sau”.
Lễ bàn giao kết thúc, tôi đặt sẵn một bữa tiệc tại nhà hàng “Trường Can” đường Mạc Ðỉnh Chi, tôi mời Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ dùng bữa cơm thân mật cùng với những anh em đã từng chia xẻ gian lao, cùng nhau phục vụ một lý tưởng, thực hiện một chủ trương để cám ơn ông đã dành cho giới trẻ chúng tôi sự thông cảm và ủng hộ nhiệt tình. Cho đến ngày nay, mỗi năm những người anh em đã từng tham gia chương trình này, trong cũng như ngoài nước, còn liên lạc, còn họp mặt, còn gởi điện thư nhắc nhở kỷ niệm đáng hãnh diện không thể quên.
Những bạn đồng hành
Nhớ lại thời gian trước, tôi chủ quan tưởng mình năng động, hăng say làm việc, hy vọng góp phần nhỏ mọn nào đó của một công dân trong công cuộc xây đựng đất nước, nhưng tiếc thay chí nguyện không thành! Nhưng tôi vẫn tin rằng mình khơi động được lòng yêu nước, chí hy sinh của tuổi trẻ để cùng nhau làm một cái gì đó có lợi ích cho dân tộc.
Chương trình phát triển Quận 8 do tôi đề xướng có thành công đó, tôi đã tụ tập được những tấm lòng đáng mến, những khả năng đáng kể, những tính tình đáng phục. Và trong bối cảnh bấy giờ, với những phương tiện ít oi, với môi trường quá khắc nghiệt, sình lầy, bệnh tật, chúng tôi đã biến những ao hồ, vũng lầy thành sân chơi, nơi xây cất, trường học, chẩn y viện. Chúng tôi tổ chức hành chánh, giáo dục, xã hội, y tế công cộng đi đến tận người dân. Ở Quận 8, trong thời gian ngắn ngủi ấy, chánh quyền - Ban Quản Lý Quận 8 - thật sự là vì dân, chia sớt những khó khăn của dân.
Tôi rất hãnh diện về những người bạn trẻ của tôi lúc bấy giờ. Chúng tôi có cãi vã với nhau, nhưng rồi ai ai cũng nhìn cái “đại cuộc”, để dị đồng chỉ là thử thách, suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo, biến nó thành một cơ may cho sự lớn mạnh của mọi thành viên. Nhờ vậy mà Chương Trình đạt được những thành quả “vĩ đại”. Vĩ đại so với vốn đầu tư, vĩ đại vì những tâm hồn trẻ, mỗi người một vẻ, đã chung lưng đâu cật, cùng với người dân địa phương cải tạo môi trường sống của họ, và đã đem lại cho Quận 8, một bộ mặt mới. Vĩ đại cũng vì nó có khả năng là sơ đồ cho một mô hình cải tạo cộng đồng, một cách thiết thực và hữu hiệu. Thật sự chúng tôi đã thành công vượt trên cái mức mà chúng tôi chờ đợi. Thành quả không thuộc của bất cứ ai. Chương trình là một bài học điển hình, phải nghiên cứu, học hỏi, và nhân ra ít nhất là cho những quận ven đô.
Tuy nhiên, đến thời Tổng Thống Thiệu, khi ông và thuộc cấp của ông có ý đồ lợi dụng muốn nhận công, hưởng được sự ca ngợi của báo chí nên sát nhập chương trình Quận 8 trực thuộc phủ Tổng Thống, tôi đắn đo e ngại. Tôi không chấp nhận . Nhưng biết đâu sự sát nhập đó giúp chương trình sẽ được mở rộng qui mô hơn. Ðúng lý ra tôi phải kiên trì tháo gỡ mọi sự thử thách cho đến cùng để phục vụ số đông dân chúng đả tin tưởng chúng tôi và đang cần sự giúp đỡ của ban quản lý chương trình. Tôi đã một lần không đặt quyền lợi những đồng bào nghèo khó của tôi lên trên sự hẹp hòi cố chấp.
Mặt khác chúng tôi, một nhóm bạn bè tập họp với nhau chủ trương thực hiện dân chủ và công bằng xã hội mà sinh hoạt rời rạc, vô tổ chức, vô kỷ luật, chỉ dựa vào tình cảm hay hứng thú. Không đồng loạt kiên trì theo đuổi mục tiêu cho đến cùng.
Kết cuộc, tôi phải trả mười một năm tù cộng sản, xét cho cùng tôi không ân hận! Bởi vì tôi cũng đã từng chia sẻ quyền điều khiển con tàu quốc gia thì khi nước mất tàu chìm, tôi cùng với một số đồng đội đồng hành gánh chịu gian nan là phải. Ðiều tôi tự an ủi mình là ít ra tôi đã hết lòng hết sức làm những gì lương tri và trí tuệ mình chỉ dẫn. Ðã sống một cuộc sống theo luân lý và giáo dục gia đình nung đúc, ít ra tôi không phải là hạng người khoác lác, nhưng ù lì hưởng thụ, không cần biết chuyện quốc gia, chết sống mặc bay, hay một vài tay sống bằng mặc cảm, tự ti hoặc tự tôn, chuyên môn chỉ trích bất cứ ai, bất cứ thứ gì, bởi chính họ không bằng người khác hay không thể làm được những gì họ muốn cho người khác làm hay hơn. Tôi muốn hiệp lòng với số đông người an phận, chấp nhận sự an bài của tạo hóa, không trách người, không trách mình, bởi vì chuyện đã qua rồi, có ai đi ngược được thời gian? Có ai sửa đổi được cơ trời vận nước hay lịch sử đã qua?
Trang đầu tập hồi ký có đoạn tôi viết: “Ngày nay viết lại chuyện dài của cuộc đời như kể chuyện vui cho bạn bè, nghe qua rồi bỏ, đừng cho đó là quan trọng, càng không nên xem là tài liệu lịch sử bởi vì đó chẳng qua đây chỉ là diễn biến bình thường của xã hội con người mà thôi”.
Nói về những bạn đồng hành, lòng tôi day dứt. Rất nhiều tên tuổi tôi thương nhớ, kính phục, nhưng cũng có vài bạn làm tôi bất mãn, buồn phiền, thất vọng.
Anh bạn Luật Sư Bùi Chánh Thời, vừa là cố vấn luật pháp vừa là cố vấn chính trị, luôn cả cố vấn tình cảm. Anh và tôi sát cánh với nhau cho đến sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975, và mãi cho đến ngày tôi trở lại tù lần thứ hai. Chúng tôi buồn vì tình hình đất nước, chán tình đời, Thời và tôi cùng với cựu Nghị Viên Dương Văn Long uống rượu gần như mỗi ngày, nửa say nửa tỉnh. Tôi còn nhớ giữa anh và tôi xẩy ra một chuyện khôi hài là có lần tôi yêu cầu anh lập hồ sơ, tôi đứng tên kiện chính phủ về một vụ bất hợp lý gì đó. Anh trả lời luật lệ không có điều khoản đó, Thời cho tôi là thằng “nông dân có bằng cấp” nhưng chắc chắc không biết luật bằng anh ta. Tôi khẳng định điều tôi yêu cầu là hợp lý, bổn phận anh là tìm phương cách, tìm cho ra luật để mà thực hiện. Cãi nhau chí chóe, Anh Thời giận bỏ đi còn nói vói thêm một câu “ông cả vú lấp miệng em”. Về nhà anh ta tức giận bỏ ăn bỏ ngủ ra công soát lại từng điều khoản của bộ sách luật với mục đích sẽ trở lại xỉ vả tôi một trận nên thân, cho tôi bỏ cái tính cãi chầy cãi cối. Không ngờ khoản 4 giờ sáng chuông điện thoại nhà tôi reo, bắt ống, tôi nghe tiếng của Bùi Chánh Thời bên kia đầu dây cười ha hả nói:
- Tôi kiếm được rồi.
- Cái gì?
- Tôi đọc ông nghe nầy.
Anh Thời đọc cho tôi nghe nguyên văn bằng tiếng Pháp một điều khoản luật có thể dựa vào đó mà lập hồ sơ đưa ra tòa. Anh nói tiếp: Tôi tha tội cho ông đó. Nếu không có điều luật nầy ông sẽ biết tay tôi.
Anh Thời hiện định cư ở Úc Châu, nếu có đọc truyện nầy chắc anh cũng mỉm cười nhớ bạn ngày xưa. Có lẽ nhớ nhiều nhứt là mấy câu thề chính tay anh thảo. Tôi đốt hồ sơ không hết nên còn sót lại, cũng như một bài viết khác nặng ký hơn, do Lý Chánh Trung thảo. Việt cộng xét nhà bắt gặp, hạch hỏi tôi nhiều ngày, tôi chối quanh co vì không muốn lôi đầu mấy thằng bạn đã đầu hàng chạy theo địch vào tù. Nghĩ rằng điều đó cũng vô ít thôi. Trời sập rồi, ân hoán làm chi nữa.
Nhớ anh Giáo Sư Nguyễn Văn Trường, hiện định cư tại Houston, Texas, nhà mô phạm đáng kính, nhưng khi anh cùng với tôi từ chức Tổng Trưởng, Tướng Kỳ thuyết phục anh nên rút đơn lại không được, anh Trường không giãi bày, lý luận, chỉ cười nói gọn cảm nghĩ của anh là phải từ chức, thế thôi. Tướng Kỳ cười to hơn và nói:
- Anh là nhà mô phạm nổi tiếng, thế mà câu trả lời của anh không mô phạm tí nào cả.
Tính anh Trường ôn hòa với mọi người, hết tình với anh em, suy nghĩ chín chắn, ý kiến sáng suốt, tuy ít phát biểu nhưng tôi thường xuyên hỏi ý anh về rất nhiều việc. Tôi nói:
- Anh là lương tri của tôi. Anh là cố vấn tối cao.
Những câu nói đó làm anh Trường kịch liệt phản đối, nhưng tôi lấy làm thích thú, nửa đùa giỡn, nữa hiểu thật như vậy. Khi nội các chiến tranh cãi tổ lần thứ hai, tôi tuân theo chỉ thị của Tướng Kỳ mời anh Trường tham gia với tư cách là Tổng Trưởng Giáo Dục, anh bác bỏ đề nghị của tôi liền, tôi phải nài nỉ anh, mời lên xe cùng đi với tôi ra bến Bạch Ðằng Saigon hứng gió để bàn thảo tiếp. Chúng tôi trao đổi qua lại mãi đến gần hai giờ khuya anh mới chấp nhận, sau khi tôi làm trận làm thượng, hờn giận nhiều lần.
Cố Dân Biểu, Kỹ Sư Nguyễn Hữu Chung, con người khôn ngoan nhanh trí, trực tính kiểu miền Nam, hơi ngang bướng, thường dùng lời mai mỉa để pha trò, nhưng trung thành với bạn và cách hành sử đầy tình cảm. Tôi không quên thời tôi còn mang lon Thiếu Úy bị đầy lên Ban Mê Thuột, anh Chung đến nhà nói:
- Anh đi xa, ở nhà Trường London School của anh cần người, mỗi ngày tôi sẽ ghé qua phụ giúp. Tuy tôi trả lời mọi việc đều được thu xếp gọn gàng rồi, nhưng ơn anh và mối cảm tình nồng hậu đó tôi vẫn ghi nhớ cho đến bây giờ. Khi tôi định cư bên Pháp anh có qua thăm và chúng tôi gập nhau lần cuối khi dự đám tang Ðại Tướng Dương Văn Minh.
Giáo Sư Dương Văn Long, cựu Nghị Viên Hội Ðồng Ðô Thành, người đứng trung gian liên lạc giữa tôi và nhóm nghị viên hội đồng tỉnh hoạt động trong chiều hướng phản đối mọi sự lạm quyền, giới hạn dân chủ, hiếp đáp lương dân. Khi tôi làm báo Ðại Dân Tộc anh Long đứng tên quản lý. Có lần Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu kiện tờ báo vì tội mạ lị cá nhân, khi tôi cùng với các báo Sóng Thần, Ðiện Tín... đăng cáo trạng chỉ trích Tổng Thống. Luật sư Bùi Chánh Thời và Nguyễn Thị Tám bênh vực cho các bị can đặt câu hỏi: Nếu nhận tội, tòa án có thể xử phạt sáu tháng tù ở, nếu không nhận tội thì luật sư có thể nại lý do “hà tì thủ tục” (vice de forme) rồi xin đình hoãn dài dài. Anh Long yêu cầu Luật Sư biện hộ cho bị can nhận tôi.
Ðêm hôm trước ngày tòa xử, Dương Văn Long và tôi tâm sự nhau rất nhiều, đại ý anh sẵn lòng chấp nhận mọi gian nan, tù dày, để góp phần bảo vệ cho tự do báo chí. Phần tôi sắp xếp mọi việc cần thiết, vật chất, tài chánh cho gia đình anh để anh yên trí góp phần thực hiện điều mà anh và cả nhóm bạn bè chủ trương. Những lời tâm sự giữa tôi và anh còn ghi khắc sâu trong lòng. Một cộng sự viên tôi luôn luôn kính trọng dù ông nhỏ tuổi hơn, chức vị khiêm tốn hơn.
Nói tới Dương Văn Long tôi không quên nghĩ về Giáo Sư Phan Công Minh, cựu Hiệu Trưởng trường sư phạm Vĩnh Long, con người khiêm tốn nhứt trong nhóm anh em. Tôi nhớ anh cần cù thực hiện những công tác in ấn với cái máy in “Ronéo” cũ kỹ. Anh rị mọ xếp từng bao thơ, công việc mà các bạn đồng nghiệp của anh, Giáo Sư cùng trang lứa với anh thường trốn tránh. Và còn bao nhiêu người bạn trẻ khác đã từng chung vai chung sức với mục đích góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp cho miền Nam mà tôi không thể nào kể hết trong những trang hồi ký nầy.
Ðó là một số bạn bè cang cường, cùng với tôi không rời bỏ chiến tuyến, bảo vệ lý tưởng tự do dân chủ nhân quyền. Dù có khi tham gia chính quyền hay đối lập nhưng một mực chống ý thức hệ cộng sản. Không vì tham sống, ham lợi mà phản bội lý tưởng, phản bạn đồng hành, hay phải lừa dối chính mình chạy theo cộng sản.
Trong số ít đó có một vài người mà chính tôi - có thể nói được - là kẻ đã tạo dựng nên tên tuổi và sự nghiệp cho họ, tôi cảm thấy ray rức, buồn bực, khó nghĩ bởi vì nếu nói lên hết sự thật e rằng người đời tưởng mình cố chấp, thiếu khoan dung, thậm chí hằn học với đàn em thuộc cấp, một khi họ đã chối bỏ sự dẫn dắt của mình đi trên đường chính đạo để chạy theo tà gian cộng sản. Nhưng nếu không nói rõ sự thật thì tôi lỗi hẹn với độc giả, vi phạm lời hứa qua những dòng chữ ngay trang đầu của quyển hồi ký nầy là “trình bày sự thật, ngay tình, không tô son, không che dấu, bởi vì, thị phi thành bại chuyển đầu không”. Và nếu không nói rõ sự thật có thể gây hiểu lầm về nhiều vấn đề chính trị mà đa số người ngoài cuộc muốn biết cho rõ. Thôi thì dù sao những vấn đề liên quan tới đời sống cá nhân tôi đều có thể đưa vào những trang hồi ký của Võ Long Triều, độc giả sẽ tùy nghi phê phán.
Thời gian Lý Quí Chung làm việc tại Bộ Thanh Niên rất ngắn không có gì đáng nói. Anh ấy nhờ có được chứng chỉ hợp lệ tình trạng quân dịch nên có quyền nộp đơn ứng cử dân biểu quốc hội lập hiến. Dĩ nhiên anh là một thanh niên nghèo, gia đình không khá giả. Nếu tự anh muốn ứng cử thì chắc cũng không có tiền để đóng tiền ký quỹ đừng nói chi đến phí tổn vận động. Như đã nói trên, tôi quyết định ủng hộ một số bạn trẻ trong cuộc bầu cử Quốc Hội lập hiến sắp đến trong đó có Lý Quí Chung. Tôi cho phép anh Chung được hưởng thành quả của công tác phát triển quận 8 mà đồng bào nhiệt liệt hoan nghênh, họ sẽ dồn phiếu cho ứng cử viên nào mà cán bộ chương trình vận động. Ðáng lý cái quyền được hưởng đó phải thuộc về một trong “Tứ Ðại Gan Lì” là Mai Như Mạnh, Ðoàn Thanh Liêm, Hồ Ngọc Nhuận và Hồ Văn Minh.
Tham gia nội các
Hai ngày sau cuộc viếng thăm của Phó Tổng Thống Mỹ, Tướng Kỳ điện thoại mời tôi đến gặp ông. Vừa thấy mặt là ông nói ngay:
- Thế nào, toa đã suy nghĩ chín chắn chưa. Còn suy nghĩ cái mẹ gì nữa? Những ông trí thức của tụi toa thường hay nói: “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách” kia mà, chẳng lẽ toa vô trách nhiệm sao? Chẳng lẽ toa không muốn bảo vệ cho sự thành công của chương trình phát triển cộng đồng của toa sao?
- Cái đó còn tùy, nhận trách nhiệm để làm cái gì và với những ai? Chắc toa cũng đoán được moa đã nghĩ gì rồi. Thôi thì moa nhận tham gia nhập cuộc.
Sở dĩ tôi bắt đầu gọi ông Thủ Tướng bằng toa là vì ngạc nhiên thấy ông tự nhiên xưng “toa moa” với tôi. Thông thường đối với người Pháp “tutoyer” (gọi nhau toa moa) là tỏ ý muốn thân thiện. Ðối với phái nữ mình khởi sự “tutoyer” là một cách xin phép làm thân, nếu người ta không vừa ý thì trả lời ngay bằng cách gọi “ông, bà hay cô” trở lại, mình phải hiểu ngay rằng cửa đó đã đóng, hay ít ra là chưa mở liền. Bắt đầu từ đó ông Kỳ và tôi “à toi à moi” (xưng toa toa, moa moa) với nhau một cách thân thiện. Lần đầu tiên tôi bàn chuyện quốc gia với ông, tôi hỏi:
- Vấn đề gì làm toa đau đầu nhứt trong mấy tháng qua?
- Kinh tế. Tôn giáo, nói thẳng ra là Phật Giáo. Mấy ông thầy không chịu ngồi yên tu mà cứ yêu sách mãi. Toàn những yêu sách độc không hè.
- Vậy toa giải quyết như thế nào?
- Thì dang đầu dang cổ ra mà năn nỉ. Tìm cách kéo dài thời gian. Chả còn phải biết tính sao, chả còn làm ăn cái gì được hết. Bên ngoài người ta đồn đãi chính phủ sẽ đổ trong vài tháng nữa. Toa có dám nhào vô không?
- Ðối với tôi, nhào vô hay không, đâu phải đổ hay còn. Người lính đi đánh giặc đâu có nói trận nầy có thể thua, vậy mình đánh hay không đánh? Sự thật Phật Giáo đòi hỏi gì? Anh có biết rõ và đoán chắc được không?
- Mấy ổng muốn ban hành qui chế tôn giáo theo ý mấy ổng, và áp lực đòi chia ghế trong nội các nhiều hơn, thanh trừng cần lao và chế độ cũ.
- Moa nghĩ vấn đề tôn giáo chỉ là cái cớ bề ngoài thôi, sự thật là vấn đề chính trị, đó là chưa kể moa còn nghĩ có thế lực bên ngoài đốc xúi nữa là khác. Toa nói kinh tế làm toa đau đầu mà chính xác là vấn đề gì làm cho toa đau đầu chứ?
- Thú thật, tớ đâu có biết gì về kinh tế. Thị trường giá cả lên xuống, hàng hóa khan hiếm bất thường, giải quyết như thế nào? Moa có biết đâu. Mọi chuyện moa giao cho ông Tổng Ủy Viên Kinh Tế lo. Mà hình như ông ta lo không xong. Ngày nào báo chí cũng kêu ầm lên: Ðầu cơ tích trữ, vật giá leo thang. Moa đề nghị toa lãnh bộ kinh tế cho moa đi.
- Nhìn tổng quát mà nói, moa thấy có hai cách: trong thời buổi chiến tranh, một là áp đặt chế độ phân phối và tiếp tế, hai là chính phủ phải trực tiếp can thiệp vào thị trường, bằng nhiều cách, chớ không thể để cho tự do mua bán như thời bình được. Chỉ cần gian thương tích trữ để nâng giá, hay kẻ thù gieo một tin đồn thất thiệt, là đủ để làm xáo trộn thị trường. Nhưng moa sẽ không bao giờ nhận ghế Tổng Ủy Viên Kinh Tế. Bởi vì moa mới bước chân vào chính trường mà ngồi trên cái ghế có vàng, dù moa không lấy, người ta cũng đồn là đít của moa có dính vàng.
- Vậy toa muốn nhận bộ nào?
- Thì bộ Thanh Niên như ngày đầu toa đề nghị với moa. Toa muốn thay người ở Bộ Kinh Tế thôi hay còn bộ nào toa muốn thay nữa?
- Thay tất, nếu cần, trừ Bộ Quốc Phòng. Moa đã nói với toa rồi, mình phải tìm một “équipe” (đội ngũ) đồng ý chí, dám hy sinh.
- Toa cho moa vài ngày để thăm hỏi bạn bè.
Trong thời gian đó Tướng kỳ và tôi liên lạc thường xuyên qua điện thoại. Tôi tìm bạn tâm giao, rủ rê tham gia nội các, đa số từ chối, K.S. Lâm Ngọc Diệp, Phó Tổng Giám Ðốc Air Việt Nam, không muốn làm chính trị vì bà vợ không đồng ý. K.S. Nguyễn Văn Ðạt, Giám Ðốc Nha Thủy Vận, nói thẳng là không dám. K.S. Lưu Văn Lê, Giám Ðốc Nha Hợp Tác Xã không biết làm chính trị, không biết chỉ huy. B.S. Ðỗ Cao Huệ, Chánh Sở Mục Súc không dám. K.S. Nguyễn Văn An Phó Giám Ðốc Nông Vụ cũng chê. Những người nói không dám, tình thật hình như họ không tin là nội các có thể tồn tại hơn vài tháng chiếu theo những gì đã xẩy ra. Trần Ngọc Oành cựu Tổng Trưởng Công Chánh có ý muốn nhập cuộc một lần nữa, nhưng tôi quen biết Oành từ lâu, ngày từ khi ở Paris, nên tôi hiểu anh thích chức vụ hơn là tận tụy hy sinh nên tôi không giới thiệu, T.S. Nguyễn Văn Hảo, Tổng Giám Ðốc Nông Tín Cuộc và Hợp Tác Xã, là người chỉ ưa thích trình diễn. Cuối cùng tôi đề nghị với Tướng Kỳ hai người. Ðó là Trương Văn Thuấn giữ bộ Giao Thông, một sai lầm của tôi như đã nói qua ở đoạn trên. Âu Trường Thanh giữ bộ Kinh Tế, còn tôi giữ bộ Thanh Niên. Ðồng thời tôi cũng góp ý: nên thành lập một Tổng Cục Tiếp Tế để nếu cần mình sẽ can thiệp vào thị trường bằng cách nhập cảng, dự trữ, tung hàng ra, hoặc thu mua để can thiệp trực tiếp vào thị trường. Trung Tá không quân Trần Ðỗ Cung, người của ông Kỳ, phụ trách Tổng Cục nầy. Sáng hôm sau ông Kỳ mời tôi lên phủ Thủ Tướng có chuyện gấp. Tôi phân vân tự hỏi chuyện gì đây? Chắc là có trở ngại chăng. Ðúng như tôi dự đoán. Vừa bắt tay ngồi vào ghế, Tướng Kỳ đẩy về phía tôi một chồng hồ sơ dầy cộm bọc trong bìa cứng màu xanh lợt, bề dầy độ hơn một tấc tây và nói:
- Âu Trường Thanh là cộng sản mà toa giới thiệu nó vào nội các chiến tranh của mình? Hồ sơ đây, xem đi rồi nói chuyện tiếp.
- Moa chơi với Âu Trường Thanh khá lâu, sinh hoạt với nhau thường, moa có thể biết được tư tưởng của anh ta. Dĩ nhiên moa không thể đoan chắc 100% bởi vì “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”. Ðành rằng khi du học bên Tây anh Thanh có vẻ học đòi thiên tả theo “mốt” của sinh viên Pháp thời đó, tham dự trại hè hòa bình kiểu như bà L.S. Nguyễn Thị Vui, thích nói chuyện về học thuyết bất bạo động của Mahatma Gandhi, nhưng moa không nghĩ anh ta là cộng sản. Moa không cần đọc tập hồ sơ nầy. Xin toa nghe moa nói hết ý kiến của moa rồi toa tự ý quyết định. Moa không ép và cũng không đặt điều kiện bởi vì Âu Trường Thanh cũng không phải phe nhóm gì với moa cả. Hiện tại mình cần một người có khả năng điều khiển bộ kinh tế và ổn định cho bằng được thị trường đang xáo trộn làm dân chúng hoan mang phải không? Nếu như vậy thì cho dù Âu Trường thanh là một đảng viên cộng sản, bây giờ mình giả sử như nó là Hồ Chí Minh đích danh đi để cho dễ nói chuyện. Trong giai đoạn nầy, trong điều kiện hiện tại mà Hồ Chí Minh giúp mình ổn định được tình hình kinh tế cho dân mình nhờ, cho nội các đứng vững thì cám ơn. Nếu nó ló cái đuôi cộng sản thì mình còng đầu tức khắc. Mình nắm cán mà sợ gì? Tùy toa quyết định. Nếu đứng chỗ của toa thì moa sẽ mời nó hợp tác. Nhưng xin lập lại một lần nữa, hoàn toàn do chính toa quyết định nhé. Moa không thuyết phục toa nhận hay không nhận nó đấy.
Ông Kỳ lộ vẽ suy nghĩ, ngồi im, chấp mấy ngón tay trước ngực, dựa lưng vào ghế, bật tới bật lui độ hơn 30 giây ông nói:
- Mời Âu Trường Thanh lên đây đi.
Tôi bước tới cạnh bàn của ông lấy điện thoại gọi Âu Trường Thanh:
- Thanh đấy hả? Thiếu Tướng Chủ Tịch mời toa lên dinh ở số 2 đường Thống Nhứt ngay bây giờ.
Bên kia đầu dây tiếng anh Thanh nói:
- Toa đừng có cà rỡn. Ai thèm mời moa mà gọi. Moa không tin chuyện “phong thần” của toa đâu, chừng nào có xe của ông Thiếu Tướng xuống rước thì moa mới tin.
Tôi hơi bực mình, nhưng suy đi nghĩ lại, muốn cho được việc thì chuyện nầy là chuyện nhỏ.
Bỏ điện thoại xuống tôi nói với Tướng Kỳ:
- Thanh nó không tin, nó nói phải có xe của toa xuống Sicovina rước, nó mới tin.
Tướng kỳ nổi nóng ngay:
- Ð.M..., bộ hắn là bố của moa sao mà đòi phải có xe của Thủ Tướng rước?
- Toa nề hà chi chuyện đó mà nổi giận. Ðồng ý là phi lý và vô lễ, Nhưng toa có nhớ ngày xưa Lưu Bị mời Khổng Minh như thế nào không? Thằng Thanh chưa phải là Khổng Minh nhưng mình chỉ cần nó ngồi đó dẹp yên trận giặc kinh tế cho mình có thì giờ và cơ hội làm việc lớn được.
- Không biết tướng Kỳ nghe thuận tai hay vì nể mặt tôi mà ông nhận chuông. Thiếu Tá Liệu chạy vào.
- Liệu, anh xuống Sicovina rước ông Âu Trường Thanh lên đây tức khắc.
Chưa đầy 20 phút sau có tiếng gõ cửa, Thiếu tá Liệu đưa Âu Trường Thanh vào. Anh ta vừa khúm núm, vừa ngỡ ngàng, vừa mắc cỡ, tay mặt nắm cổ áo, tay trái chỉ đôi dép cao su, miệng xin lỗi tía lia.
-Xin lỗi Thiếu Tướng tôi có xin ông Thiếu tá cho phép tôi về nhà thay đồ nhưng ông không cho vì lệnh buộc phải đi tức khắc nên tôi không có cà vạt, không mang giày cho đủ lễ. Tôi bật cười, Tướng Kỳ tỉnh queo mời Âu Trường Thanh qua phòng khách ngồi nói chuyện cho thoải mái. Trà nước vừa đặt xuống bàn xong, Tướng Kỳ vào đề ngay:
- Anh Triều có giới thiệu với tôi anh đã từng làm Tổng Trưởng Kinh Tế trong nội các Nguyễn Ngọc Thơ rồi phải không?
- Dạ đúng.
- Anh nghĩ lần nầy anh có khả năng ổn định thị trường kinh tế đang làm dân chúng hoang mang không?
- Dạ có thể được với điều kiện.
- Ðiều kiện gì?
- Thứ nhứt Thiếu Tướng phải tin tôi và không nghe bất cứ ai cố vấn, nửa chừng buộc tôi phải sửa đổi biện pháp.
- Ðồng ý.
- Thứ hai, có thể có những sắc lệnh tôi trình ký liên quan đến việc ổn định thị trường xin Thiếu Tướng đừng nghe người khác mà từ chối.
- Ðược.
- Thứ ba... Thứ tư... thứ năm... vân vân... và vân vân... Âu Trường Thanh tiếp tục đặt một hơi đúng 13 điều kiện. Mỗi lần có điều kiện gì thuộc lãnh vực chuyên môn ông Kỳ lộ mắt nhìn tôi có vẻ muốn hỏi ý kiến, tôi khẽ gật đầu, ông Kỳ trả lời chấp nhận. Âu Trường Thanh tới Phủ Thủ Tướng lúc 11 giờ 20, anh đặt điều kiện và giải thích rành mạch xong xuôi, tôi nhìn đồng hồ đúng 1 giờ trưa. Thiếu Tướng Kỳ hỏi:
- Hết điều kiện chưa?
- Dạ hết.
- Bây giờ đến lượt tôi đặt điều kiện: Anh phải giải quyết vấn đề kinh tế một cách ổn thỏa, đem lại sự hài lòng và niềm tin cho dân chúng. Tôi đã chấp nhận tất cả những yêu cầu của anh mà nếu anh không thành công, trái lại gây thêm tai tiếng cho chính phủ thì chừng đó tôi sẽ hỏi tội anh, có chấp nhận không?
- Dạ chấp nhận.
Xong cuộc tiếp xúc, Tướng Kỳ mời tôi ở lại dùng cơm để bàn việc tiếp. Tướng Kỳ là người Bắc mà thích ăn mắm thái Châu Ðốc. Tôi thường dùng những bữa cơm rất giản dị với ông tại phủ Thủ Tướng, gần như bữa nào cũng có mắm thái Châu Ðốc, hợp khẩu vị với tôi.
Nội các chiến tranh của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, cải tổ lần thứ nhứt và trình diện ngày 21 tháng 2 năm 1966. Cái khó đầu tiên của tôi là tìm một ông Tổng Giám Ðốc Thanh Niên có uy tín đối với các bạn trẻ, có lý tưởng và năng nổ hăng say. Ðỗ Ngọc Yến và Hồ Ngọc Nhuận giới thiệu với tôi anh Ðỗ Quí Toàn. Tôi hết lời nài nỉ, thuyết phục nhưng anh Toàn không nhận. Tôi đành phải ép buộc Hồ Ngọc Nhuận giao chức quận trưởng lại cho anh Mai Như Mạnh và anh về lãnh vai trò Tổng Giám Ðốc Thanh Niên. Văn phòng Tổng Trưởng của tôi có hai anh bạn trẻ là Ðỗ Ngọc Yến và Trần Văn Ngô đóng vai Công Cán Ủy Viên. Ngồi vào ghế Ủy Viên tôi liền ra lệnh giải ngân tiếp cho hết 22 triệu dành cho chương trình phát triển quận 8. Từ đó anh em có điều kiện tối thiểu để kết nạp thêm nhiều bạn trẻ tình nguyện tham gia.
Một vài em đang bỏ học chơi bời lêu lổng, nay vì ham vui nhập cuộc mà thay đổi tính tình và nếp sống. Cha mẹ các em đến cám ơn những người phụ trách chương trình. Anh em chúng tôi tạo cho các bạn trẻ một nếp sống có kỷ luật, hòa nhã tử tế với bà con trong quận. Tiếng tốt đồn xa, nhiều bạn trẻ khác lần hồi gia nhập. Một hành động mà anh em xem như bình thường là mỗi sáng chào quốc kỳ rồi mới tản hàng làm việc, đối với tôi nó có ý nghĩa đặc biệt, đó là sự trung thành với quốc gia, sự bày tỏ lập trường, sự xác định chính nghĩa. Thói quen này không phải tôi bày ra mà không biết vị nào trong “Tứ Ðại Gan Lì” Minh, Nhuận, Liêm, Mạnh đề ra thật đáng khen đáng kính. Ðầu óc tôi lúc nào cũng chủ tâm lôi cuốn giới trẻ, gây cho họ có ý thức trách nhiệm, tham gia xây dựng xã hội tốt đẹp hơn làm mất đi cái môi trường thuận lợi để cộng sản có thể tuyên truyền mị dân là họ sẽ san bằng cái hố nghèo giàu, chống bất công xã hội. Các ông bạn của tôi thường tổ chức những buổi họp với đồng bào trong khu phố, vào buổi chiều khi họ rỗi việc để bàn thảo với nhau mọi vấn đề liên quan đến cộng đồng dân cư trong khu phố. Có những buổi tối mà tôi không bị ràng buộc bởi hội hè hay tiếp tân thì tôi cũng tham dự rất nhiều lần để góp ý. Vì vậy mà mọi việc đều có thể giải quyết một cách ổn thỏa với sự đồng ý và tham gia của tất cả. Những người vắng mặt thì nhờ sự giải thích của bà con láng giềng hiện diện trong những phiên hợp đó.
Vấn đề quan trọng nhứt là làm sao thuyết phục được quần chúng chấp nhận hợp tác tham gia, làm sao lôi cuốn được họ vào những công tác, dù nhỏ dù lớn, trong phường khóm, mà chúng tôi thường gọi là “phát triển cộng đồng”. Chỉ có cách hòa mình với họ để lấy cảm tình rồi tạo niềm tin. Một khi dân chúng chấp nhận mình là người của họ thì việc gì họ cũng có thể giúp mình thực hiện đến nơi đến chốn, và khó khăn gì họ cũng có thể hy sinh chấp nhận. Hai công tác khó khăn nhứt, mới nhìn vào hình như không có phương cách giải quyết nổi là chỉnh trang nhà cửa, dù là ổ chuột, nhưng không ai muốn rời khỏi chỗ ở của mình, biết đâu sẽ còn trở lại được không? Diện tích lớn nhỏ như thế nào làm sao thuyết phục để cho mọi người chấp nhận, rời bỏ nhà mình ra che chòi tạm trú chờ xây lại phố xá dù nhỏ nhưng khang trang, đường đi không còn lầy lội.
Công tác gay go thứ hai là làm sao cổ động mọi người tham gia kẻ xe, người gánh, tay bưng, tay xách đất do xáng thổi từ sông lên để san bằng những ao vũng làm thành nền nhà. Tất cả mọi thứ công tác, mọi sự suy bì ngờ vực đều được giải quyết bằng sự cảm thông, bằng sự đồng thuận trong các phiên họp, bằng sự hy sinh quyền lợi nhỏ nhoi, suy bì phi lý, tóm lại tình thương và sự tin tưởng lẫn nhau có thể san bằng mọi thứ quyền lợi.
Chúng tôi khởi sự bằng những công tác đơn giản, nho nhỏ, là đẩy xe 3 bánh hốt “xà bần”, đất cát, đem về lấp những đường hẻm lầy lội. Vấn đề tiên quyết để thành công là phải tạo cho bằng được cảm tình của đồng bào. Rồi sau đó mới có thể lôi cuốn họ tham gia cải biến cuộc sống cá nhân. Về sau khi chúng tôi đặt được cơ bản khá vững chắc rồi thì đề nghị lập trường trung học cộng đồng quận 8. Việc thành lập và và bổ nhiệm giáo sư, nếu người không phải là trong cuộc thì tưởng chừng như rất khó, nhưng sự thật rất dễ dàng bởi lẽ vị Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục là bạn thân, anh Nguyễn Văn Trường do chính tôi nài nỉ và giới thiệu cùng tham gia nội các với tôi. Ngoài ra việc can thiệp với Bộ Quốc Phòng cho những quân nhân được biệt phái cũng là việc khó, nhưng tôi phải thú nhận là lúc nào tôi cũng nhờ có sự thông cảm và giúp đỡ tận tình của Tướng Kỳ nên tôi vượt được mọi khó khăn. Chương trình quận 8 thành công, lan rộng sang quận 6 và quận 7 chưa được hoàn tất. Dù sao tinh thần và phương cách đã được khởi xướng, biết đâu nó là một sự gợi ý cho thế hệ đàn em đàn cháu sau nầy sẽ thực hiện tốt đẹp hơn.
Một kỷ niệm khôi hài, xảy ra rất bất ngờ đối với tôi là có một ngày tôi tham gia công tác đẩy xe hốt xà bần, lấp sình lầy trong hẻm, có xảy ra chuyện gì làm tôi bất bình văng tục, đã vậy còn cười đùa rộn rã. Cũng trong chuyến công tác đó có một đoàn hướng đạo Phật Tử do Thượng Tọa Thích Pháp Siêu lãnh đạo. Lời văng tục và sự đùa giỡn của tôi làm chướng tai vị tu sĩ này nên ngài bèn hỏi anh Châu, trưởng toán hướng đạo Phật Tử: “Thằng nào mà lớn lối dữ vậy?” Anh Châu trả lời: “Ông Tổng Trưởng Thanh Niên đấy”. Thượng Tọa Pháp Siêu rất ngạc nhiên tìm tôi nói:
- Xin lỗi ngài tôi không biết ngài là ai nên mới hỏi “thằng nào lớn lối vậy”? Tôi không ngờ một ông Tổng Trưởng như ngài mà đi hốt xà bần với anh em.
- Chính tôi phải xin lỗi Thượng Tọa mới phải vì những lời lẽ bất nhã vừa qua. Xin Thượng Tọa đừng chấp vì tuổi trẻ với nhau chúng tôi ăn nói hơi bừa bãi. Tôi thật tình rất xấu hổ, xin Thượng Tọa tha thứ.
- Nếu ngài Tổng Trưởng không chê thì tôi kính mời ngài ghé qua chùa của tôi dùng chén trà để tôi hân hạnh được tiếp kiến.
Dĩ nhiên tôi bằng lòng chấp nhận nhưng vẫn còn xấu hổ ngại ngùng. Thì ra vị tu sĩ này là trụ trì một chùa tọa lạc bên đường Trần Quốc Toản chạy ra xa cảng, hình như tên chùa là “An Lạc” tại khu An Dưỡng Ðịa. Về tới chùa thượng tọa và tôi bàn bạc về bác ái và từ bi, về tuổi trẻ về hiện tình đất nước, sau nhiều tuần trà vị Thượng Tọa có tặng cho tôi một quyển kinh Phật do ngài phiên dịch hay tự tay ngài biên soạn gì đó để làm kỷ niệm cho cuộc gặp gỡ.
Vài kỷ niệm khác trong những lần công tác ở quận quận 8 làm tôi khó quên. Dĩ nhiên ban ngày tôi phải ngồi ở văn phòng Tổng Trưởng. Chỉ có đêm tôi mới tham gia sinh hoạt, với mục đích khuyến khích bạn bè và dân chúng. Anh em công nhân ở lò heo Chánh Hưng nghe nói ông “quan trẻ” này chịu chơi lắm nên nhắn hỏi tôi có dám xuống uống rượu với họ một lần không? Hay là chê họ là thấp hèn. Ðêm đó họ đãi tôi óc heo chưng, nhậu toàn rượu đế. Chiều lòng anh em và cũng muốn chứng tỏ mình “chịu chơi” thật, nên tôi phải cạn ly với từng người để tỏ tình thân hữu, dù là ly nhỏ nhưng nhiều người cũng đủ làm cho tôi say hết biết mình là ai! Tài xế vệ sĩ đưa về, tôi chỉ nhớ mang máng hai ông kè tôi tới phòng ngủ, bà xã nói lải nhải những gì tôi cũng chẳng biết. Một đêm khác, tôi cho xáng vét sông thổi đất lấp hố làm nền nhà để chỉnh trang khu phố. Tôi cùng với anh em và đồng bào, kẻ gánh, người bưng, người khác khuân vác, còn tôi thì dùng xe “bù-ệt” (cút-kít) cộ đất. Bỗng nhiên có một thanh niên lực lưỡng đi ngang chận tôi lại vừa cười vừa nói giả bộ trách móc:
- ÐM... cảnh sát dí súng lục vào sườn biểu tôi làm, chưa chắc tôi chịu làm, còn ông biểu tôi khiêng đất chết mẹ tôi mà ngày mai tôi còn phải thức dậy 4 giờ sáng đi đạp xích lô nữa nè ông ơi.
Tôi bèn trả lời:
- Ê nhìn kỹ mặt tôi đi ông nội, đáng lẽ giờ này tôi ôm vợ ngủ ngon trong phòng lạnh, tội gì phải đi xe đất chết mẹ để làm nền xây nhà, xây phố cho ai ở đây? Cho cha tôi hay cho cái thằng khỉ đột đứng trước mặt tôi đó?
- Nói chơi mà ông thầy, đừng giận nghe, ngày mai tụi mình xe nữa nhé.
- Còn khuya. “Bỏ đi tám”.
Nói xong cả hai chúng tôi cười ha hả và tiếp tục làm cho đến 12 giờ đêm xáng ngừng thổi theo giờ của ban quản lý ấn định. Một vài sự kiện xảy ra đối với tôi còn biết bao nhiêu việc khác mà nhiều anh em trong chương trình gặp phải. Những sự kiện đó chứng tỏ lòng dân rất dễ thu phục, chỉ cần làm cho họ thấy mình thật lòng lo cho họ thì họ sẽ chết sống nghe theo mình.
Hoạt Ðộng Trong Nội Các
Hai ngày sau khi ký bàn giao nhậm chức là tôi phải cãi nhau với đồng nghiệp Giáo Dục đến nỗi cần đến sự can thiệp của Thủ Tướng mới giải quyết được. Nguyên nhân vấn đề là việc tổ chức giải thể thao liên viện do B.S. Trần Ngọc Ninh, Tổng Trưởng Giáo Dục chủ xướng, qui tụ thanh niên các viện Ðại Học Saigon, Ðà Lạt, Huế và Vạn Hạnh. Bộ đã tổ chức không chu đáo mà viên chức cao cấp của bộ còn ra thông cáo phổ biến trên đài phát thanh, thóa mạ sinh viên, nên giáo sư và sinh viên làm reo, không chịu diễn hành trước Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Hành Pháp Trung Ương, và cũng không chịu thi đấu. Dĩ nhiên là phần thể thao thuộc nhiệm vụ của bộ thanh niên. Hai vị Giám Ðốc thanh niên và thể thao là Nguyễn Văn An và Nguyễn Thành Nhơn tiếp xúc với giáo sư và sinh viên tại sân vận động Cộng Hòa, hai anh khuyên tôi không nên xen vào bởi lẽ câu chuyện trở thành gay cấn đến mức độ mà bộ Thanh Niên của mình không thể giải quyết được.
Mặt khác, mình mới nhận chức nên cứ để cho bộ giáo dục tiếp tục hoàn thành công tác của họ, chúng ta chỉ cung cấp trọng tài để chủ trì những cuộc thi đấu mà thôi. Tôi muốn đến hiện trường tiếp xúc với giáo sư và sinh viên nhưng hai vị giám đốc của tôi hết lời ngăn cản. Ý tôi đã quyết. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Il faut saisir le teaureau par les cornes” (tạm dịch: Muốn vật bò mộng phải trực diện nắm hai sừng) . Tôi điện thoại yêu cầu ông Tổng Trưởng Giáo dục cùng đi với tôi đến tiếp xúc với sinh viên để dàn xếp sự việc. Ông Ninh cương quyết từ chối. Tôi đành về nhà thay quần jean mặc sơ mi ngắn tay, mang dép lẹp xẹp, với ý nghĩ ngây thơ, ngớ ngẩn, hay là hợp lý cũng chẳng biết, tôi muốn cho có vẻ bình dân hòa mình với anh em. Tôi cho triệu tập giáo sư và sinh viên tại phòng họp để tôi tìm hiểu sự việc và giải quyết vấn đề nếu thật sự có sơ sót hay rắc rối. Hơn 100 sinh viên và giáo sư ngồi trước mặt, tôi dịu giọng hỏi anh em: Việc gì đã xẩy ra? Vì tôi mới nhận chức có hai ngày nên không biết rõ. Một số sinh viên hằn học chỉ trích chính quyền vô trách nhiệm, một số khác chỉ trích cá nhân tôi, tại sao làm Tổng Trưởng mà không có nhân viên phúc trình cho dù mới nhận chức. Họ cho là tôi coi thường sinh viên và giáo sư nên không cần biết việc quan trọng đã xẩy ra. Tôi đích danh yêu cầu một vị giáo sư đại học Huế là anh Nguyễn Hữu Trí xin vui lòng cho tôi biết tự sự như thế nào. Thì ra tôi biết được là bộ mời họ về đây, cho ở tại sân Cộng Hòa, không đủ nước tắm, không có mùng ngủ, muỗi cắn sần mình, thái độ ”đem con bỏ chợ” như thế nầy là khinh thường giáo sư và sinh viên. Vì vậy họ phản đối làm reo, không chịu diễn hành, không thi đấu. Ðổng Lý Văn Phòng bộ giáo dục ra thông cáo đọc trên đài truyền thanh đổ lỗi cho sinh viên, chê là thái độ trẻ con, tố cáo trong số người của họ có phần tử phá rối. Anh Trí nói: “Nếu bộ giáo dục không ra thông cáo xin lỗi, chúng tôi sẽ biểu tình phản đối”.
Sau khi tôi có lời vuốt ve và tỏ ý thông cảm, tôi tuyên bố một cách khẳng định:
- Thứ nhứt cho tôi xem lại chỗ ăn chỗ ở của quí vị và cho tôi thì giờ để xem nội dung bản thông cáo của ông Ðổng Lý văn phòng bộ Giáo Quốc Gia Dục nói gì.
- Thứ hai tôi sẽ điều chỉnh mọi sự việc một cách hợp tình hợp lý nếu quả thật có sai trái như quí vị đã trình bày.
- Thứ ba ông Ðổng Lý phải ra thông cáo xin lỗi, nếu thông cáo trước có ý mạ lị.
- Thứ tư nếu quí vị có lý mà tôi không bênh vực được lẻ phải thì tôi sẽ từ chức ngay trong ngày hôm sau.
- Thứ năm, sau khi giải quyết xong, quí vị phải chấp nhận đi diễn hành và thi đấu.
- Thứ sáu nếu quí vị tiếp tục có hành vi phản đối, hay xuống đường biểu tình thì đích thân tôi sẽ chỉ huy cảnh sát dẹp loạn. Những gì tôi mới phát biểu nếu quí vị đồng ý thì xem như lời hứa hẹn đôi bên, tôi xin tạm thời ngưng cuộc họp hôm nay tại đây.
Ðại đa số vỗ tay đồng ý, một số anh khác còn ấm ức bất bình, đá ghế bỏ ra.
Tôi xem qua chỗ ăn chỗ ngủ đúng như lời của giáo sư Trí tường thuật. Ra về tôi đi thẳng đến Bộ Giáo Dục, gặp đồng nghiệp Trần Ngọc Ninh. Ông Ðổng Lý một mực ngoan cố tố cáo có sinh viên muốn phá rối. Tổng Trưởng Trần Ngọc Ninh bênh vực ông Ðổng lý của mình. Ông Ninh và tôi cãi nhau rất lịch sự nhưng rất quyết liệt. Không ai chịu thay đổi lập trường. Cuối cùng tôi mượn đường dây trực tiếp giữa thành viên nội các và Thủ Tướng, trình bày trước mặt ông Ninh về những sự việc đã xẩy ra mà tôi được chứng kiến tận mắt và đề nghị Thủ Tướng ra lệnh cho ông đổng lý phải ra thông cáo xin lỗi sinh viên, đồng thời tôi cũng yêu cầu Thủ Tướng ra lệnh cho Tổng Cục Tiếp Vận của quân đội kéo vào sân cộng hòa mấy bồn nước cho sinh viên và giáo sư dùng, đồng thời cho họ mượn ghế bố, mùng mền đầy đủ. Nếu lời tôi yêu cầu không được thỏa mãn, tôi sẽ đệ đơn từ chức sáng hôm sau. Tướng Kỳ tức giận nạt dội: “Ðưa moa nói chuyện với anh Ninh”. Tôi không biết hai người nói gì với nhau, đến khi ông Ninh đưa ống nghe lại cho tôi thì Tướng Kỳ cho biết: “Moa đã ra lệnh cho anh Ninh ra thông cáo xin lỗi sinh viên và cất chức đổng lý đó rồi. Chiều nay sau 6 giờ toa lên đây chúng mình đi thăm bọn sinh viên vuốt ve họ một chút”. Câu chuyện kết thúc tốt đẹp, nếu không, tôi đã từ chức và làm tổng trưởng được ba ngày.
Lãnh vực thanh niên cũng như chính trị bao gồm rất nhiều tổ chức và hội đoàn. Mỗi trưa thứ hai đầu tuần, tôi mời tất cả thanh viên ban lãnh đạo của một hội đoàn dùng cơm với tôi để thúc đẩy họ tham gia công tác phát triển cộng đồng quận 8. Hoặc yêu cầu họ tự đề ra bất cứ một công tác nào có ích cho quốc gia, xã hội, tôi đều ủng hộ và giúp đỡ phương tiện, tạo điều kiện cho họ thực hiện.
Mặt khác, tôi biết được ngân sách của Tổng Nha Kiến Thiết năm vừa qua còn dư 192 triệu đồng. Tôi lập tức trình Thủ Tướng xin chuyển khoản tiền nầy cho Bộ thanh niên để tôi dùng xây những “Nhà Thanh Niên” làm trung tâm sinh hoạt cho tuổi trẻ tại Saigon và một số tỉnh lớn. Ðề nghị của tôi được chấp thuận dễ dàng. Trong hoạt động hằng ngày, tôi thường gặp biết bao nhiêu sự bất ngờ, vui có, bực mình có, khó khăn có, an ủi có, hãnh diện có, ngã lòng có.
Cái khó đầu tiên là tôi phải tạo cho bằng được sự nhiệt tình ủng hộ và hăng say làm việc của nhân viên thuộc quyền. Chỉ có điều kiện đó tôi mới hy vọng đạt kết quả trong mọi hoạt động. Tôi chỉ thị cho văn phòng đạt lời mời của tôi đối với toàn thể anh chị em thuộc cấp dự buổi tiếp tân do tôi khoản đãi trước khi tan sở hai tiếng đồng hồ, không ai được phép vắng mặt. Trong buổi tiếp tân, các vị Chủ Sự, Chánh Sở, Giám Ðốc, Thanh Tra, ai cũng muốn tìm cách chuyện trò với tôi để tìm hiểu và gây cảm tình, nhưng sau khi bắt tay nói qua loa xã giao vài tiếng, tôi tìm mấy anh tài xế, lao công và nội dịch, cập cổ từng người ra vẻ như thân mật từ lâu, hỏi chuyện vui buồn của họ trong bộ.
Bộ có đông nhân viên do Tổng Nha Thanh Niên và Bộ Công Dân Vụ của Ðệ Nhứt Cộng Hòa để lại. Có anh thì rụt rè e ngại không dám nói gì, có anh thì vui mừng hãnh diện nói chuyện huyên thiên, có anh thì dè dặt ú a ú ớ không chịu trả lời thẳng. Những viên chức này chắc chắn có vấn đề nhưng không dám tiết lộ. Tôi cố tình gạn hỏi cho bằng được với lời cam kết không tiết lộ với bất cứ ai và bảo đảm an toàn cho những đương sự nào chịu thố lộ tâm tình với tôi, cuối cùng biết được một vấn đề mà tôi cho là khá quan trọng đối với đời sống của một công chức cấp nhỏ. Ðôi khi họ gặp cảnh túng thiếu phải vay mượn. Vấn đề là ông phát ngân viên của bộ lấy tiền ở đâu không biết, cho nhân viên vay lấy lời “cắt cổ”, mỗi tháng ông tự động trừ lương, nhưng cái khổ của con nợ là tháng nào vợ đau con yếu xin khất lại để tháng sau trừ tiền cũng không được.
Buổi tiếp tân chấm dứt. Sáng hôm sau vừa đến bộ tôi gọi bí thư vào văn phòng, tự tôi đọc lệnh cất chức một loạt sáu người, khởi sự từ phát ngân viên và một số chủ sự, chánh sở có liên hệ, đồng thời cử sáu nhân viên khác thay thế, buộc phải bàn giao trong ngày. Mặt khác tôi ký liền quyết định thành lập một ngân quỹ tương trợ ba trăm ngàn đồng, đặc biệt dành để cho nhân viên vay mượn khi cần thiết. Tôi cũng đọc cho bí thư viết luôn điều kiện vay trả. Trong đó nói rõ chỉ cho vay trong thời hạn tối đa ba tháng phải trả, người nào không trả đúng hạn sẽ vĩnh viễn không được phép vay nữa.
Ủy ban duyệt xét và kiểm soát hồ sơ gồm chánh văn phòng, các giám đốc hành chánh, thanh niên, thể thao và một đại diện nhân viên. Tôi còn chỉ thị cho Chánh Văn Phòng không được phép đưa lệnh cất chức nầy và quyết định lập quĩ cho Nha Hành Chánh và Tài Chánh để phổ biến mà chính văn phòng Tổng Trưởng đánh máy và phổ biến luôn. Sở dĩ tôi làm cho ra vẻ bí mật và quan trọng như vậy là vì muốn tạo sự ngạc nhiên sửng sốt để cho có tiếng vang là ông tân Tổng Trưởng chiếu cố đến nhân viên và làm việc ngang ngược bất chấp thể lệ hành chánh. Tôi hy vọng điều đó gây được sự thương kính của nhân viên trong bộ, bù lại những thắc mắc và ngạc nhiên của họ về tuổi tác và dáng dấp còn non trẻ của ông “xếp” mới. Vài tuần lễ sau tôi được biết có “câu lạc bộ” phục vụ nước uống và cơm trưa cho nhân viên, được hưởng trợ cấp ít nhiều của nhà nước. Một buổi trưa, bất chợt tôi buộc toàn bộ nhân viên văn phòng từ bí thư, chánh văn phòng, tham chánh văn phòng, thư ký đánh máy cùng với tôi đến câu lạc bộ dùng cơm trưa. Vừa bước vào tất cả ngạc nhiên, nhiều người đứng dậy chào, chủ câu lạc bộ săn đón, người dọn bàn lao chùi, đổi ly đổi chén, ông chủ gọi bếp phải chiên thêm trứng có tôm khô và cà tô-mát. Tôi vội vã yêu cầu dọn những phần ăn giống y hệt như tôi đang nhìn thấy trên những bàn lân cận. Ngày hôm sau tôi lại tái diễn cái màn kịch hôm trước. Người của câu lạc bộ thắc mắc, nhân viên bàn tán xôn xao, vừa ngạc nhiên vừa đánh nhiều dấu hỏi.
Trưa ngày thứ ba liên tiếp, tôi lại tái diễn cảnh của mấy hôm trước. Sau đó tôi lấy ý kiến của nhân viên văn phòng, ý kiến của hai ông Tổng Giám Ðốc Thanh Niên và Giám Ðốc Hành Chánh. Tất cả đều xác nhận bữa cơm tồi tệ so với giá tiền nhân viên phải trả và trợ cấp của chính phủ. Tôi quyết định hủy bỏ hợp đồng và gọi một nhà thầu khác thay thế, không cần phải đấu thầu lại, chờ lâu lắc rồi cũng đút lót, gian dối nữa thôi. Trong hợp đồng với nhà thầu mới phải ghi “phục vụ tương xứng với số tiền trong điều kiện có thể chấp nhận được”. Lại một việc làm ngang ngược trái phép nhà nước của tôi nữa. Ðiều nầy khiến nhà thầu cũ gởi đơn kiện thưa lên đến Thủ Tướng. Ông Kỳ điện thoại trách hỏi tại sao tôi phá luật lệ? Sau khi tôi trình bày cặn kẽ sự việc xẩy ra ông thông cảm cười nói “Ðáng kiếp tụi nó”. Ðương nhiên, tôi ra lệnh cho bí thư giả vờ úp mở, tung tin cho nhân viên biết rằng Tổng Trưởng bị Thủ Tướng khiển trách về vụ bênh vực quyền lợi của nhân viên nên hủy bỏ hợp đồng câu lạc bộ trái phép. Mặc khác tôi đã gởi danh sách của gần 20 nam huấn luyện viên thanh niên thể dục thể thao sang bộ Quốc Phòng để xin biệt phái họ về nhiệm sở cũ với lý do chuyên môn tối cần thiết, cũng giống như các giáo sư của bộ Quốc Gia Giáo Dục, bởi vì các huấn luyện viên của tôi cũng dạy thể dục thể thao cho các trường trung học cùng một danh hiệu với các giáo sư khác.
Tôi vừa nài nỉ Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Tổng Trưởng Quốc Phòng, vừa phân trần khiếu nại với Thủ Tướng, cuối cùng tất cả nhân viên của tôi xin biệt phái đều được trở về nhiệm sở.
Chiến dịch “tâm lý chiến” để lấy cảm tình không còn cơ hội nào khác để lợi dụng thực hiện được nữa, tôi bèn nghĩ ra chuyện “hốt hồn” thuộc cấp. Có một ngày, khoản 10 giờ sáng tự nhiên tôi bước ra gọi bí thư và chánh văn phòng cùng đi, tôi vào phòng của một cô thư ký và hỏi:
- Cô đang làm việc gì đó?
- Dạ em, em... , em tính, vừa nói cô vừa soạn sắp hồ sơ...
- Chủ sự của cô là ai?
- Dạ ông...
Cô có nói tên một ông chủ sự nào đó mà cho đến nay tôi không nhớ rõ. Tôi gọi ông chủ sự đó ra và hỏi:
- Ông giao nhiệm vụ gì cho cô thư ký của ông?
Ông ta ấp úng. Tôi hỏi tiếp:
- Vậy chánh sự vụ của ông là ai?
Tôi lập lại những câu hỏi tương tự với ông chánh sở mà tới nay, thời gian đã lâu quá rồi, tôi cũng không còn nhớ tên. Và cuối cùng lên đến Giám Ðốc Thể Dục Thể Thao là ông Nguyễn Thành Nhơn, sau nầy lấy biệt hiệu “con kiếng càng”, hiện đang cư ngụ tại Houston, Texas.
Tôi gọi anh Nguyễn Thành Nhơn vào văn phòng, cho anh ta một bài nên thân, và kết luận bằng câu tôi thường hay mỉa mai để khiển trách các cộng sự viên của tôi là: “Tôi giao trách nhiệm cho anh, rồi anh giao cho chánh sở, chánh sở giao cho chủ sự, chủ sự giao cho thư ký, rồi thư ký hoặc để ỳ đó, hoặc kêu anh xích lô giao cho họ là xong việc! Có phải thế không? Trả lời đi?”
Kể từ đó chẳng những tôi chiếm được cảm tình của nhân viên mà còn tạo được sự kính nể vì họ lo có thể bị thanh tra bất thần, nên không dám bê trễ công việc. Tiếng đồn, còn có dậm thêm mắm muối, từ bộ loan về các ty thanh niên ở tỉnh, nhứt là số Trưởng Ty mới được biệt phái về bộ do sự tích cực can thiệp của tôi đối với bộ Quốc Phòng. Guồng máy nhân sự của tôi bắt đầu chạy hăng say với ít nhiều hứng thú.
|
|
Tham gia nội các
Hai ngày sau cuộc viếng thăm của Phó Tổng Thống Mỹ, Tướng Kỳ điện thoại mời tôi đến gặp ông. Vừa thấy mặt là ông nói ngay:
- Thế nào, toa đã suy nghĩ chín chắn chưa. Còn suy nghĩ cái mẹ gì nữa? Những ông trí thức của tụi toa thường hay nói: “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách” kia mà, chẳng lẽ toa vô trách nhiệm sao? Chẳng lẽ toa không muốn bảo vệ cho sự thành công của chương trình phát triển cộng đồng của toa sao?
- Cái đó còn tùy, nhận trách nhiệm để làm cái gì và với những ai? Chắc toa cũng đoán được moa đã nghĩ gì rồi. Thôi thì moa nhận tham gia nhập cuộc.
Sở dĩ tôi bắt đầu gọi ông Thủ Tướng bằng toa là vì ngạc nhiên thấy ông tự nhiên xưng “toa moa” với tôi. Thông thường đối với người Pháp “tutoyer” (gọi nhau toa moa) là tỏ ý muốn thân thiện. Ðối với phái nữ mình khởi sự “tutoyer” là một cách xin phép làm thân, nếu người ta không vừa ý thì trả lời ngay bằng cách gọi “ông, bà hay cô” trở lại, mình phải hiểu ngay rằng cửa đó đã đóng, hay ít ra là chưa mở liền. Bắt đầu từ đó ông Kỳ và tôi “à toi à moi” (xưng toa toa, moa moa) với nhau một cách thân thiện. Lần đầu tiên tôi bàn chuyện quốc gia với ông, tôi hỏi:
- Vấn đề gì làm toa đau đầu nhứt trong mấy tháng qua?
- Kinh tế. Tôn giáo, nói thẳng ra là Phật Giáo. Mấy ông thầy không chịu ngồi yên tu mà cứ yêu sách mãi. Toàn những yêu sách độc không hè.
- Vậy toa giải quyết như thế nào?
- Thì dang đầu dang cổ ra mà năn nỉ. Tìm cách kéo dài thời gian. Chả còn phải biết tính sao, chả còn làm ăn cái gì được hết. Bên ngoài người ta đồn đãi chính phủ sẽ đổ trong vài tháng nữa. Toa có dám nhào vô không?
- Ðối với tôi, nhào vô hay không, đâu phải đổ hay còn. Người lính đi đánh giặc đâu có nói trận nầy có thể thua, vậy mình đánh hay không đánh? Sự thật Phật Giáo đòi hỏi gì? Anh có biết rõ và đoán chắc được không?
- Mấy ổng muốn ban hành qui chế tôn giáo theo ý mấy ổng, và áp lực đòi chia ghế trong nội các nhiều hơn, thanh trừng cần lao và chế độ cũ.
- Moa nghĩ vấn đề tôn giáo chỉ là cái cớ bề ngoài thôi, sự thật là vấn đề chính trị, đó là chưa kể moa còn nghĩ có thế lực bên ngoài đốc xúi nữa là khác. Toa nói kinh tế làm toa đau đầu mà chính xác là vấn đề gì làm cho toa đau đầu chứ?
- Thú thật, tớ đâu có biết gì về kinh tế. Thị trường giá cả lên xuống, hàng hóa khan hiếm bất thường, giải quyết như thế nào? Moa có biết đâu. Mọi chuyện moa giao cho ông Tổng Ủy Viên Kinh Tế lo. Mà hình như ông ta lo không xong. Ngày nào báo chí cũng kêu ầm lên: Ðầu cơ tích trữ, vật giá leo thang. Moa đề nghị toa lãnh bộ kinh tế cho moa đi.
- Nhìn tổng quát mà nói, moa thấy có hai cách: trong thời buổi chiến tranh, một là áp đặt chế độ phân phối và tiếp tế, hai là chính phủ phải trực tiếp can thiệp vào thị trường, bằng nhiều cách, chớ không thể để cho tự do mua bán như thời bình được. Chỉ cần gian thương tích trữ để nâng giá, hay kẻ thù gieo một tin đồn thất thiệt, là đủ để làm xáo trộn thị trường. Nhưng moa sẽ không bao giờ nhận ghế Tổng Ủy Viên Kinh Tế. Bởi vì moa mới bước chân vào chính trường mà ngồi trên cái ghế có vàng, dù moa không lấy, người ta cũng đồn là đít của moa có dính vàng.
- Vậy toa muốn nhận bộ nào?
- Thì bộ Thanh Niên như ngày đầu toa đề nghị với moa. Toa muốn thay người ở Bộ Kinh Tế thôi hay còn bộ nào toa muốn thay nữa?
- Thay tất, nếu cần, trừ Bộ Quốc Phòng. Moa đã nói với toa rồi, mình phải tìm một “équipe” (đội ngũ) đồng ý chí, dám hy sinh.
- Toa cho moa vài ngày để thăm hỏi bạn bè.
Trong thời gian đó Tướng kỳ và tôi liên lạc thường xuyên qua điện thoại. Tôi tìm bạn tâm giao, rủ rê tham gia nội các, đa số từ chối, K.S. Lâm Ngọc Diệp, Phó Tổng Giám Ðốc Air Việt Nam, không muốn làm chính trị vì bà vợ không đồng ý. K.S. Nguyễn Văn Ðạt, Giám Ðốc Nha Thủy Vận, nói thẳng là không dám. K.S. Lưu Văn Lê, Giám Ðốc Nha Hợp Tác Xã không biết làm chính trị, không biết chỉ huy. B.S. Ðỗ Cao Huệ, Chánh Sở Mục Súc không dám. K.S. Nguyễn Văn An Phó Giám Ðốc Nông Vụ cũng chê. Những người nói không dám, tình thật hình như họ không tin là nội các có thể tồn tại hơn vài tháng chiếu theo những gì đã xẩy ra. Trần Ngọc Oành cựu Tổng Trưởng Công Chánh có ý muốn nhập cuộc một lần nữa, nhưng tôi quen biết Oành từ lâu, ngày từ khi ở Paris, nên tôi hiểu anh thích chức vụ hơn là tận tụy hy sinh nên tôi không giới thiệu, T.S. Nguyễn Văn Hảo, Tổng Giám Ðốc Nông Tín Cuộc và Hợp Tác Xã, là người chỉ ưa thích trình diễn. Cuối cùng tôi đề nghị với Tướng Kỳ hai người. Ðó là Trương Văn Thuấn giữ bộ Giao Thông, một sai lầm của tôi như đã nói qua ở đoạn trên. Âu Trường Thanh giữ bộ Kinh Tế, còn tôi giữ bộ Thanh Niên. Ðồng thời tôi cũng góp ý: nên thành lập một Tổng Cục Tiếp Tế để nếu cần mình sẽ can thiệp vào thị trường bằng cách nhập cảng, dự trữ, tung hàng ra, hoặc thu mua để can thiệp trực tiếp vào thị trường. Trung Tá không quân Trần Ðỗ Cung, người của ông Kỳ, phụ trách Tổng Cục nầy. Sáng hôm sau ông Kỳ mời tôi lên phủ Thủ Tướng có chuyện gấp. Tôi phân vân tự hỏi chuyện gì đây? Chắc là có trở ngại chăng. Ðúng như tôi dự đoán. Vừa bắt tay ngồi vào ghế, Tướng Kỳ đẩy về phía tôi một chồng hồ sơ dầy cộm bọc trong bìa cứng màu xanh lợt, bề dầy độ hơn một tấc tây và nói:
- Âu Trường Thanh là cộng sản mà toa giới thiệu nó vào nội các chiến tranh của mình? Hồ sơ đây, xem đi rồi nói chuyện tiếp.
- Moa chơi với Âu Trường Thanh khá lâu, sinh hoạt với nhau thường, moa có thể biết được tư tưởng của anh ta. Dĩ nhiên moa không thể đoan chắc 100% bởi vì “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”. Ðành rằng khi du học bên Tây anh Thanh có vẻ học đòi thiên tả theo “mốt” của sinh viên Pháp thời đó, tham dự trại hè hòa bình kiểu như bà L.S. Nguyễn Thị Vui, thích nói chuyện về học thuyết bất bạo động của Mahatma Gandhi, nhưng moa không nghĩ anh ta là cộng sản. Moa không cần đọc tập hồ sơ nầy. Xin toa nghe moa nói hết ý kiến của moa rồi toa tự ý quyết định. Moa không ép và cũng không đặt điều kiện bởi vì Âu Trường Thanh cũng không phải phe nhóm gì với moa cả. Hiện tại mình cần một người có khả năng điều khiển bộ kinh tế và ổn định cho bằng được thị trường đang xáo trộn làm dân chúng hoan mang phải không? Nếu như vậy thì cho dù Âu Trường thanh là một đảng viên cộng sản, bây giờ mình giả sử như nó là Hồ Chí Minh đích danh đi để cho dễ nói chuyện. Trong giai đoạn nầy, trong điều kiện hiện tại mà Hồ Chí Minh giúp mình ổn định được tình hình kinh tế cho dân mình nhờ, cho nội các đứng vững thì cám ơn. Nếu nó ló cái đuôi cộng sản thì mình còng đầu tức khắc. Mình nắm cán mà sợ gì? Tùy toa quyết định. Nếu đứng chỗ của toa thì moa sẽ mời nó hợp tác. Nhưng xin lập lại một lần nữa, hoàn toàn do chính toa quyết định nhé. Moa không thuyết phục toa nhận hay không nhận nó đấy.
Ông Kỳ lộ vẽ suy nghĩ, ngồi im, chấp mấy ngón tay trước ngực, dựa lưng vào ghế, bật tới bật lui độ hơn 30 giây ông nói:
- Mời Âu Trường Thanh lên đây đi.
Tôi bước tới cạnh bàn của ông lấy điện thoại gọi Âu Trường Thanh:
- Thanh đấy hả? Thiếu Tướng Chủ Tịch mời toa lên dinh ở số 2 đường Thống Nhứt ngay bây giờ.
Bên kia đầu dây tiếng anh Thanh nói:
- Toa đừng có cà rỡn. Ai thèm mời moa mà gọi. Moa không tin chuyện “phong thần” của toa đâu, chừng nào có xe của ông Thiếu Tướng xuống rước thì moa mới tin.
Tôi hơi bực mình, nhưng suy đi nghĩ lại, muốn cho được việc thì chuyện nầy là chuyện nhỏ.
Bỏ điện thoại xuống tôi nói với Tướng Kỳ:
- Thanh nó không tin, nó nói phải có xe của toa xuống Sicovina rước, nó mới tin.
Tướng kỳ nổi nóng ngay:
- Ð.M..., bộ hắn là bố của moa sao mà đòi phải có xe của Thủ Tướng rước?
- Toa nề hà chi chuyện đó mà nổi giận. Ðồng ý là phi lý và vô lễ, Nhưng toa có nhớ ngày xưa Lưu Bị mời Khổng Minh như thế nào không? Thằng Thanh chưa phải là Khổng Minh nhưng mình chỉ cần nó ngồi đó dẹp yên trận giặc kinh tế cho mình có thì giờ và cơ hội làm việc lớn được.
- Không biết tướng Kỳ nghe thuận tai hay vì nể mặt tôi mà ông nhận chuông. Thiếu Tá Liệu chạy vào.
- Liệu, anh xuống Sicovina rước ông Âu Trường Thanh lên đây tức khắc.
Chương trình bắt đầu ghi nhận sự thành công trong nhiều lãnh vực thì bỗng nhiên có truyền đơn của việt cộng rải trong quận kêu gọi đồng bào cảnh giác đối với bọn “con buôn” của “chương trình phát triển quận 8” đang gạt đồng bào lấy đất cất nhà cho Mỹ mướn. Bằng cớ là người Mỹ tới lui thường xuyên để xem nhà xem đất. Sự thật là ký giả ngoại quốc có tới lui thăm viếng quận rất thường sau lời tuyên bố của Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humprey. Những truyền đơn của việt cộng làm chúng tôi đau đầu không ít. Bởi vì cảnh sát tuần tiễu không thuộc quyền chúng tôi điều khiển. Vả lại hành động lén lúc lẻ tẻ này khó kiểm soát nhưng dễ loan truyền. Túng thế tôi đành mời ông Philippe Habib, cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ, đến văn phòng tôi và yêu cầu ông ra lệnh cấm ký giả Mỹ tới quận 8 thường xuyên. Ông Habib phản đối kịch liệt. Thứ nhứt, tự do báo chí là điều ông bị bắt buộc phải tôn trọng. Thứ hai tiền của Quốc Hội Hoa Kỳ chi ra thì phải có báo cáo hoặc phải chứng minh bằng kết quả cụ thể. Kết quả nhỏ nhoi là quận 8 của ông mà nếu ông không cho phép Ký giả của chúng tôi đến quay phim chụp ảnh thì chúng tôi lấy gì chứng minh đây? Tôi phản bác là quí vị muốn thấy tôi thành công hay thất bại? Tôi cho ông Habib biết là dân chúng khởi sự tự hỏi chúng tôi chỉnh trang nhà cửa để cho họ ở hay cho Mỹ mướn đây? Cuối cùng ông Habib hứa sẽ tìm mọi cách để ngăn ngừa Ký giả đến quận 8 nhưng ông không thể bảo đảm ông sẽ thành công. Thực tế ông cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Mỹ hiểu được vấn đề, và kể từ đó không một người Mỹ nào đến thăm chương trình quận 8 của chúng tôi. Công tác phản tuyên truyền bắt đầu, chúng tôi giải thích với đồng bào rằng truyền đơn của việt cộng là láo khoét, chúng tôi đã cấm không cho người Mỹ léo hánh đến đây. Sự thật này đồng bào thấy rõ, đã vậy họ còn tưởng chúng tôi có uy quyền đến độ cấm được người Mỹ đến quận này, nên họ càng tin tưởng, càng hợp tác xây đựng.
Việc của tôi với tư cách Tổng Trưởng là yểm trợ, can thiệp để bao che, cung cấp đầy đủ phương tiện để anh em hoạt động. Can thiệp giữ người, xin biệt phái người từ Bộ Quốc Phòng, mượn phương tiện của Bộ Công Chánh, của USOM. Tôi ước mơ thành lập được những “Kiboutz” theo kiểu của Do Thái, từ đô thành lan rộng về các tỉnh, “tay súng tay cày” để giữ nước và dựng nước. Thú thật tôi bị ảnh hưởng rất nặng khi đọc quyển sách “Tour d'Erza” tả điều kiện Do Thái lập quốc trong bối cảnh hãi hùng bị các quốc gia Á Rập bao vây muốn tiêu diệt. Vì Vậy tôi đã chủ trương muốn gởi một số anh em của quận 8 đi Do Thái và Yougoslavie để học hỏi kinh nghiệm.
Bác sĩ Minh là sĩ quan quân y, Hồ Ngọc Nhuận là sĩ quan bộ binh và một số anh em khác đang cộng tác với chương trình, tôi phải “lộn nài bẻ ống” để xin biệt phái cho bằng được, riêng bộ thanh niên cung cấp người theo yêu cầu của chương trình. Can thiệp với bộ giáo dục để xin giáo sư, do anh em trong chương trình chọn những người quen biết có thiện chí, có lý tưởng và tinh thần, phù hợp với chúng tôi. Can thiệp với bộ giao thông công chánh và USOM để mượn xáng thổi đất lấp vũng lầy làm nền nhà. Tóm lại công tác tại chỗ là do “Tứ Ðại Gan Lì” chỉ huy điều hành, tuyển mộ thêm đồng bạn, mời rủ thêm người thiện nguyện, tổ chức phát triển rộng hơn làm cho vết dầu lan sang quận 6 rồi quận 7.
Kết quả chương trình thành công mỹ mãn. Những khu nhà ổ chuột nay trở thành nhà phố khang trang. Ðồng bào hài lòng, cộng sản “hổng chân”. Nhưng giữa thời gian đó xảy ra một sự kiện vô cùng nguy hiểm, rất may mắn và cũng rất có ý nghĩa. Chương trình có một máy kéo do cháu Phương phụ trách hằng ngày. Buổi sáng đó như thường lệ, cháu Phương ngồi vào ghế tài xế, đút chìa khóa mở máy, tay vừa cầm cây cần sang số bỗng nhiên anh ta thấy có một sợi dây kẽm cột từ cây cần sang số dẫn vô trong máy xe. Cháu Phương bước xuống dở nấp đậy máy xe xem tại sao có sợi dây kỳ lạ này. Thì ra dây kẽm cột vào nút chốt của một trái lựu đạn do cộng sản gài trong đêm. Mọi người tá hỏa, lo lắng có, sợ hãi có, mừng rỡ có. Riêng tôi biết được tin này thấy hài lòng vì đây là dấu hiệu thành công mỹ mãn nên Việt Cộng mới dùng đến phương tiện khủng bố. Dĩ nhiên từ đó chúng tôi cảnh giác cao độ và loan truyền cho đồng bào để họ hợp tác với chúng tôi canh chừng vì chương trình chính là quyền lợi của đồng bào.
Mặt khác tôi điện thoại cho ông Philippe Habib, cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ báo rằng từ nay trở đi ông có thể thông báo cho ký giả Mỹ tha hồ đến kiểm chứng sự thành công của chương trình. Tôi không thể nhớ những con số để chứng minh sự thành công về mặt chỉnh trang khu phố, về số gia đình của dân chúng được hưởng. Tôi cũng không nhớ bao nhiêu con đường lầy lội đã được sửa sang và biết bao nhiêu công trình lớn nhỏ khác do cộng đồng dân chúng trong các quận thực hiện. Nhưng điều quan trọng là đã có một cái gì đó, khác với cộng sản, đã bắt đầu và thành công một phần, tuy nhỏ, nhưng tinh thần, phương cách và khuôn mẫu hãy còn đó để chờ triển khai một cách hoàn chỉnh và tốt đẹp hơn..
Người Mỹ có quay một cuốn phim tài liệu về chương trình phát triển quận 8. Báo chí trong và ngoài nước đặc biệt báo Mỹ và Pháp ca ngợi. Ký giả Vanuxem, cựu thiếu tướng người Pháp đã viếng thăm quận 8, có tiếp xúc với tôi và viết một quyển sách tựa đề “L'espoir à Saigon” nhà xuất bản La Table Ronde 40, Rue Du Bac, Paris, 7e, 1967, trong đó ông nói về tuổi trẻ Việt Nam và chương trình phát triển quận 8 từ trang 127 đến trang 133. ( xin xem phụ bản do Giáo Sư Nguyễn Thanh Liêm phiên dịch. Thành thật cám ơn Giáo sư Liêm đã nhiệt tình giúp đỡ).
“L'espoir à Saigon”
“Thực ra vấn đề chính của xứ này là vấn đề thanh thiếu niên. Ở nông thôn hình như những “Ấp Tân Sinh” có thể đem lại giải pháp tốt. Nhưng ở thành thị, đặc biệt nói về sinh viên học sinh, họ là thành phần hăng say nhưng bất kham, phấn chấn dũng cảm nhưng không kiên định, tích cực ủng hộ chế độ cộng hòa, theo chủ nghĩa Quốc Gia nhưng sẵn sàng chống quân phiệt. Họ đặt đủ mọi thứ vấn đề và chủ trương phải hành động để thực hiện ý kiến của mình.
Vị Tổng Trưởng trẻ nhứt là Tổng Trưởng Thanh Niên, 32 tuổi. Trẻ đối với thế hệ già, già so với thế hệ trẻ. Ở cái tuổi mà con người có thể tự cho mình là già hay trẻ tùy ý. Thanh lịch, phong nhã, ông ta nói tiếng Pháp với một vọng rõ ràng, không đứt đoạn vọng lên xuống lấy hơi lổ mũi như nhiều người Việt Nam khác. Ông thấm nhuần văn hóa và nếp sống của người Pháp. Ông là một kỹ sư canh nông không được chuẩn bị cho một sự nghiệp chính trị, điều mà ông không hề nghĩ đến. Trong một cuộc tiếp xúc, ông chống đối lý luận và chủ trương của Thủ Tướng bằng những lời phê phán gay gắt. Thủ Tướng ngạc nhiên bèn yêu cầu ông trình bày quan điểm, ông ta chấp nhận. Nhưng khi Thủ Tướng mời ông tham gia nội các thì ông từ chối dứt khoát.
Chỉ về sau, nhân dịp cải tổ nội các thì ông mới nhận tham gia mà thôi. Bộ của ông có tất cả những quyền hạn liên quan đến thanh niên, kể cả thể thao, điều mà ông mê say. Nhưng ông chỉ chú trọng có một điểm đặc biệt, tuy không quan trọng, nhưng nếu công tác này thành công thì sẽ cho phép ông áp dụng một cách tổng quát và phổ biến những phương pháp mà ông tin sẽ đem lại hiệu năng và hợp với tình thế.
Thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ, cũng giống như thanh niên của nhiều xứ khác, phản ứng một cách hung hăng, có tính khiêu khích đối với thế hệ đàn anh đang lãnh đạo họ. Vì vậy sự va chạm càng nặng khi hai thế hệ không có được sự cảm thông. Thế hệ đàn anh kiên định trong phong cách suy nghĩ theo hệ thống lô-gíc với thói quen đã từng bị người Pháp ảnh hưởng. Cuộc “cách mạng cộng sản” buộc người Pháp phải ra đi và sau đó lại có một nhu cầu là cần phải tìm ra một cung cách suy nghĩ khác lạ hơn với hiện tại, làm cho cả thế hệ thanh niên bị mất thăng bằng. Và ngày nay giới trẻ đó đang tìm một hướng đi.
Sau khi chế độ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, sinh viên học sinh tin rằng mình cũng có góp phần trong đó, họ ủng hộ bên này hay bên kia với một sức sống mãnh liệt. Nhưng họ hành động trong sự rối loạn chưa từng thấy. Mỗi người muốn phục vụ đất nước theo kiểu cách của mình, họ chỉ trích tất cả những gì đã được hình thành và họ muốn sáng tạo một thứ gì độc đáo khác. Do đó kết quả cho thấy một sự không thích nghi với thời thế và sự vô hiệu năng về mọi mặt rất đáng ngại. Sự phân hóa xã hội Việt Nam trong mọi lãnh vực, kinh tế, chính trị, xã hội, ngày càng nhanh chống đến mức đáng sợ. Thanh niên lạc lòi, người đứng tuổi dè dặt, tự chế. Nhiều phe nhóm được thành lập phục vụ cho nhiều mục đích linh tinh nhưng lần hồi họ tự ý đi vào con đường chính trị. Một số không ít vì ngây ngô bị đảng phái hay chính trị gia mua chuộc.
Người ta nghĩ có thể hướng dẫn sự bồng bột của tuổi trẻ vào con đường phục vụ xã hội, nhưng rồi người Mỹ xen vào với những đồng đô-la của họ. Ðiều đáng lẽ phải tránh. Kết quả người ta thấy sự hư nát ngày càng lan rộng. Và trong lúc đó có một nhóm thử đề ra một ý nghĩ mới, hy sinh quên mình, chấp nhận gian khổ, tận tụy, kiên trì với ý đồ xây dựng lại quê hương ngay trong bối cảnh hỗn độn đó. Khởi đầu là một công trình nhỏ bé, không bề thế, không phương tiện. Ðó là một khởi điểm.
Vị Tổng Trưởng thanh niên trẻ tuổi này ý thức được là ông không thể dùng quyền để chế ngự hay hướng dẫn thế hệ thanh niên trong xứ được. Ông ta nghĩ chỉ còn cách đứng bên cạnh họ, tự hòa mình chung sống với họ, thúc đẩy họ, biến họ thành những phần tử “cách mạng” tự tin rằng mình là hữu ích trong công cuộc xây dựng lại quốc gia. Và ông thực hiện điều đó. Ông tiếp xúc với thanh niên, ông gặp gỡ và bàn thảo với hơn 30 hội đoàn thanh niên và nhiều nhóm khác có mục đích riêng rẽ của họ. Ông sống với họ, hòa mình tự coi mình là người của họ. Ông mất rất nhiều ngày giờ. Nhưng cho tới nay ông tin rằng sự hiện diện và sự tham gia tích cực của ông đã đánh tan được sự nghi ngờ và thái độ lững lờ của họ. Ông còn tin vững chắc là đã được giới trẻ chấp nhận ông, không phải như người thầy, người quản trị, mà là người đàn anh có lời chỉ dẫn và quyền điều khiển của ông được tiếp nhận không mảy may ngờ vực. Ông muốn tạo cho nhóm trẻ này một môi trường thử nghiệm to lớn bằng sự ước mơ của ông. Muốn thực hiện điều đó ông phải đụng chạm với các đồng nghiệp của ông trong nội các, những vị đồng nghiệp đó bảo vệ quyền hạn chính đáng của họ, và còn nhiều cơ quan công quyền khác không chịu nhún nhường để cho giới trẻ rộng đường thi thố tài năng. Ông Tổng Trưởng đẩy họ phải tránh đường và buộc họ phục tùng. Ông ta cử một giáo sư trẻ tuổi làm quận trưởng của một quận Saigon. Và tất cả nhóm trẻ tham gia.
Quận này là một quận nghèo nàn nhơ nhớp nhứt, gần thành phố Chợ Lớn nơi người Hoa Kiều buôn bán tấp nập, nhưng đa số người Việt Nam ở đó đều là bần khốn. Sau nhiều sự do dự và ngỡ ngàng, dân chúng thấy được những sáng kiến táo bạo của nhóm người thiện nguyện trẻ tuổi này, họ hoạt động không khác gì những “giáo sĩ truyền giáo” nên lần hồi chiếm được cảm tình và sự chấp thuận tham gia của quần chúng. Họ thực hiện đủ mọi thứ công tác, giúp đỡ tất cà những người cần có sự giúp đỡ. Họ giúp sửa sang nhà cửa, đặt để những cơ quan từ thiện, khám bệnh và phát thuốc miễn phí, tổ chức hội họp, khuyến dụ quần chúng tham gia. Ða số chấp nhận vì cảm tình hoặc vì tò mò muốn tìm hiểu. Người ta thảo luận về mọi vấn đề liên quan đến đời sống cộng đồng trong quận, đến tổ chức hành chánh và quản trị, người ta cũng tìm hiểu về chính trị, gây ý thức về nhiệm vụ của người công dân và cổ võ sự đoàn kết trong cộng đồng.
Trong cái thế giới bị đồng tiền làm hư đốn vì con người chỉ biết chạy theo tiền mà thôi, nhóm người trẻ thiện nguyện đó hành động bất vụ lợi, trong sự nghèo khó, với lòng hy sinh tận tụy phục vụ cho lợi ích công cộng làm cho quần chúng tin tưởng nghe theo và họ đã thành công rực rỡ. Dĩ nhiên, thông thường những hoạt động như vậy phải được phô trương quảng cáo, nhưng ở đây mọi sự tuyên truyền phổ biến đều bị cấm chỉ, và mọi sự trợ giúp tiền bạc đều bị từ chối. Ðiều khó khăn nhứt là làm sao ngăn cấm báo chí Mỹ luôn luôn tìm kiếm mọi điều kiện khả dĩ có thể đem lại một giải pháp nào tốt đẹp cho Việt Nam mà họ đang chia xẻ trách nhiệm bảo vệ và phát triển. Cho nên vấn đề là làm sao thuyết phục họ chấp nhận không để cho những máy ảnh và máy quay phim của họ gây nghi ngờ hoang mang có tính phản tác dụng đối với quần chúng. Cuộc thử thách của họ vô cùng khó khăn nhọc nhằn, nó đòi hỏi sự vô tư cao độ, sự chấp nhận một nếp sống đạm bạc gần như khổ hạnh. Nhưng cuối cùng họ đã thành công.
Thêm một quận khác của Sài Gòn được giao cho nhóm trẻ này mở rộng, họ hoạt động theo những căn bản đã được ấn định. Và có cả một chương trình để áp dụng cho toàn quốc.
Sau khi thu thập đầy đủ kinh nghiệm và xác nhận sự thành công của hệ thống tổ chức và hoạt động, phải chăng đã đến lúc phải đặt cho hệ thống tổ chức này một định chế, bởi vì nếu không những sáng kiến là nguồn gốc của hành động sẽ bị đứng sững đó không phát triển thêm được.
Dứt khoát phải có một lý thuyết gia.
Phải chăng ông là người lý thuyết gia đó? Tôi hỏi vị Tổng Trưởng.
Mỉm cười. Hệ thống công tác tự nó có phải là một sự giải đáp đầy tính người, đầy nhân ái và nhạy cảm, thực tế hơn nhiều so với những gì mà việt cộng khoe khoang và đề nghị cống hiến cho đồng bào tôi không?
Chắc chắn rồi. Như vậy những thứ đạo đức mà việt cộng tự trang hoàng cho họ, một cách giả dối, nào là sự tận tụy với dân, lòng tin mãnh liệt đối với một lý thuyết cộng sản hoàn chỉnh, kỷ luật sắt thép của người cán bộ phục vụ nhân dân và xây dựng đất nước, sẽ là những luận cứ chứng minh cho việc làm của ông và của giới trẻ của ông là đúng phải không?
Dĩ nhiên, Nhưng mà chúng tôi chỉ mới bắt đầu. Chỉ có một hột giống mới nảy mầm. Ông chờ xem.
Tôi nhìn vị Tổng Trưởng này, không có vẽ Tổng Trưởng chút nào, ăn vận một cách lịch sự, nói năng như một vị “Tông Ðồ” truyền giáo, làm sao không tin lời nói của ông? Làm sao không tin cậy hành động của ông? Tuổi trẻ luôn luôn suy nghĩ hợp lý. Dù những gì có thể xẩy ra trong tương lai, tôi thấy tuổi trẻ Việt Nam đang tìm đường di động”
Kết quả của chương trình cho phép chúng tôi lan sang quận 6 Ðô thành, hoạt động thành công, và khởi sự tràn sang quận 7. Nhưng điều đáng tiếc là sau khi tôi từ chức Tổng Trưởng Thanh Niên, sự bất hòa và kình chống giữa hai vị Tổng Thống Thiệu và Phó Tổng Thống Kỳ gây khó khăn cho việc quản lý và hoạt động của nhóm chủ trương quận 8. Tổng Thống Thiệu ra lệnh phải đặt chương trình phát triển quận 8 trực thuộc phủ Tổng Thống, thay vì trước kia thuộc quyền quản trị của phủ Thủ Tướng Nguyễn cao Kỳ. Vị Thủ Tướng này dành mọi sự dễ dàng và thông cảm với nhóm trẻ, nên phong cách sinh hoạt thoải mái đạt được nhiều hiệu năng. Mọi danh dự và tiếng tốt đối với Mỹ và báo chí về sự vận động quần chúng tham gia hợp tác thành công đều hướng về Nguyễn Cao Kỳ, vì vậy nên ông Thiệu muốn lợi dụng cái danh dự đó và cũng có nhiều người của ông muốn gánh vác một việc mà họ tưởng có thể dùng quyền để điều khiển chỉ huy dễ dàng. Thực ra nếu ông Thiệu nghĩ đến quyền lợi của dân chúng thì ông phải ra lệnh cho chính quyền của ông hỗ trợ triệt để vì ông đã từng thấy và xác nhận, khi ông cùng với tôi đến viếng một nơi ven biên của quận 8 với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, ông đã từng chứng kiến nhóm trẻ này có tinh thần và lý tưởng, có chủ trương sâu sắc, sinh hoạt nhịp nhàng với nhau thì cho dù trực thuộc cơ quan nào của chính phủ thì cũng do ông lãnh đạo mà thôi. Tinh thần nhỏ nhen đó thể hiện trong rất nhiều sự việc sau này trong hai nhiệm kỳ Tổng Thống của ông làm cho ông bỏ lỡ cơ hội trở thành người hùng của đất nước. Bác Sĩ Hồ Văn Minh được Phủ Tổng Thống thông báo tự hậu phải trực tiếp chịu sự điều khiển của người do Phủ Tổng Thống chỉ định.
Tôi vô cùng đắn đo, một phần tiếc rẻ cho sự thành công trước mắt, một phần lo ngại người trực tiếp điều hành do phủ Tổng Thống chỉ định không am hiểu sự việc lại cũng không có tinh thần hòa mình với quần chúng, coi đám dân là nhóm người đề mình sai khiến, theo cung cách quan liêu, thì chắc chắn sẽ hư việc. Chi bằng giao trả lại cho Hành Chánh đô thành do Ðại Tá Ðổ Kiến Nhiễu, người của Tổng Thống Thiệu, điều hành là hơn. Tôi đề nghị anh em tổ chức một lễ bàn giao cho đô thành nhưng mời Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ chủ tọa. Trong buổi lễ bàn giao đó Hồ Ngọc Nhuận thay mặt anh em, kể công ơn của cựu Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ và xác nhận sự thành công của giới trẻ một khi người ta biết vận dụng và giao phó trách nhiệm cho họ bởi vì “thanh niên là người tổ quốc mong cho mai sau”.
Lễ bàn giao kết thúc, tôi đặt sẵn một bữa tiệc tại nhà hàng “Trường Can” đường Mạc Ðỉnh Chi, tôi mời Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ dùng bữa cơm thân mật cùng với những anh em đã từng chia xẻ gian lao, cùng nhau phục vụ một lý tưởng, thực hiện một chủ trương để cám ơn ông đã dành cho giới trẻ chúng tôi sự thông cảm và ủng hộ nhiệt tình. Cho đến ngày nay, mỗi năm những người anh em đã từng tham gia chương trình này, trong cũng như ngoài nước, còn liên lạc, còn họp mặt, còn gởi điện thư nhắc nhở kỷ niệm đáng hãnh diện không thể quên.
Tôi may mắn có được lợi tức của trường anh văn London School đủ để giúp cho 5 ông bạn: Chung quận 8, Trần Văn Tuất Mỹ Tho, Bành Ngọc Quí Gò Công, Lâm Phi Ðiểu, hiệu Trưởng trường sư phạm Vĩnh Long, Nguyễn Văn Lễ, giáo sư, con nhà khá giả ở Rạch giá, Nguyễn Hữu Chung, kỹ sư lâm vụ, em chú bác của ông bí thư tôi, ứng cử tại một đơn vị khác ở Saigon. Ðối với Lễ và Nguyễn Hữu Chung, tôi không giúp đỡ tài chánh mà chỉ ủng hộ tinh thần và nhờ bạn bè của tôi yểm trợ họ mà thôi. Kỳ dư đối với những bạn khác, tôi trợ giúp cho kẻ ít người nhiều tùy theo hoàn cảnh và nhu cầu hoạt động của họ.
Tất cả là giáo sư trung học nên may mắn nhờ cha mẹ học trò và học sinh của họ giúp nên cuộc vận động không tốn kém nhiều. Ngoại trừ ông Tuất, người nông dân đứng tuổi có uy tín, có thêm một giáo sư trẻ của trường trung học Nguyễn Ðình Chiểu là Trần Bá Phẩm đứng sau danh sách để nâng sự may mắn thành công của ông Tuất lên cao. Ðiều làm tôi phiền lòng bất mãn về Lý Quí Chung ngay từ những ngày đầu anh tập tễnh bước chân vào chính trường là sau khi anh đắc cử Dân Biểu tại quận 8, do toàn thể cán bộ chương tình hết lòng vận động cho anh, vậy mà sau khi trở thành dân biểu anh không có một lời cám ơn với bất cứ ai trong quận. Bác Sĩ Minh, quản lý chương trình, cảm thấy bất bình, trách nhẹ Lý Quí Chung tại sao không có một lời cám ơn những cán bộ quận đã hết tình giúp đỡ anh. Câu trả lời của Lý Quí Chung làm mọi người sửng sốt: “Tụi toa vận động cho moa là do lệnh của ông Triều chớ đâu có ăn thua gì tới moa đâu”! Câu nói đó làm bác sĩ Minh càng bất bình hơn nữa, anh xin gặp tôi để phân trần. Tôi nổi cơn giận dữ, gọi Lý Quí Chung vào văn phòng trách mắng tơi bời dù anh đã là dân biểu nhưng chưa dám có một lời biện hộ.
Thời gian đó Dương văn Ba, giáo sư trường Trung Học Nguyễn Ðình Chiểu, người Việt gốc Triều Châu mà tôi chỉ biết được khi ở tù chung năm 1983 với một người Triều Châu có bà con họ hàng với anh ta. Do lời giới thiệu của anh Lý Chánh Trung tôi cử Dương Văn Ba làm Ðặc Ủy Viên thanh niên vùng IV Chiến Thuật, thay thế cho anh Lâm Phi Ðiểu, ứng cử Dân Biểu ở Vĩnh Long. Với tư cách là Ðặc Ủy Viên, tôi yêu cầu anh Ba ghé qua các tỉnh miền Tây, nơi có những ứng cử viên do tôi ủng hộ. Có một lần tôi gởi thêm cho mỗi người ba chục ngàn đồng dùng làm vận động phí. Dương Văn Ba đam mê cờ bạc mà tôi không biết, anh ta đã thua hết số tiền tôi gởi cho anh em. Mãi đến khi Bành Ngọc Quí và Lâm Phi Ðiểu kêu vang là đã “cạn dầu”, tôi hỏi ra mới biết là Dương Văn Ba đã giở trò ma giáo. Anh ta liền viết cho tôi một thơ từ chức và nói rằng: “Em là thằng đốn mạt nhứt đời, không còn mặt mũi nào gặp anh nữa, từ nay em sẽ trở về vị trí của một ông giáo làng”...
Tôi gọi Chánh Văn Phòng của tôi, bảo ông ta đi tìm Dương Văn Ba nói với anh ấy rằng: “Bạn bè chỉ cần nhau trong lúc gian nan, cô đơn, nhục nhằn, chớ nếu như mọi chuyện suôn sẻ tốt đẹp hết thì có ai cần ai đâu. Ông hãy bảo Dương Văn Ba lập tức đến gặp tôi. Ngay chiều hôm đó Ba đến tư gia của tôi. Dĩ nhiên, tôi giảng cho anh một bài luân lý nên thân và vạch trần tai hại to lớn nếu tại vì anh phạm sai lầm mà các anh em khác thất cử thì nguy hại vô cùng. Trách mắng xong tôi đưa cho anh chín chục ngàn để giao lại cho Bành Ngọc Quí, Gò Công; Trần văn Tuất Mỹ Tho; Lâm Phi Ðiểu, Vĩnh Long. Tôi còn dạy anh ta phải nói dối để gở danh dự cho mình là phải nói rằng: “Tao bận việc ở Saigon nên xuống văn phòng miền Tây trễ, tụi bây làm gì phải mét với ảnh để cho ảnh lo âu rồi lại giũa tao một trận thê thảm, tiền của ảnh gởi đây, tao có cắt xén đồng nào đâu mà tụi bây vội vàng la hoảng như vậy”.
Lý Quí Chung vào được Quốc Hội, anh hoạt động khá lanh lợi, ăn nói hoạt bát, làm được nhiều việc, cùng với nhóm dân biểu trẻ cảnh cáo hoặc ngăn chận được vài sự lạm quyền quá đáng của cảnh sát hay quân nhân, qua lời phát biểu tại Quốc Hội hay tuyên bố với báo chí. Chung là một con người năng nổ, học ít nhưng tài năng trên mức trung bình, lúc nào anh cũng nghĩ phải kết bè lập đảng. Anh thường đốc thúc tôi phải buộc anh em “ăn thề uống máu với nhau”. Phụ thân tôi có lần nghe được, hết lời can gián. Ông sợ lỡ thề vào giờ linh có thể mất mạng. Tôi chẳng tin thề thốt có ý nghĩa gì cả, vấn đề quan trọng là lòng thành và sự trung tín với nhau do bản chất của con người, xảo trá hay ngay thật mà thôi. Thề thốt xong rồi cũng có biết bao nhiêu người phản bội hay bán đứng anh em.
Hai người mạnh miệng nài nỉ kết thân là Lý Quí Chung và Dương Văn Ba lại là hai người phản bội trước tiên. Kết quả cũng có 9 vị mà tôi không muốn kể tên, hai vị đã qua đời, ăn thề uống máu với nhau mà chẳng làm nên trò trống gì. Thời gian anh Chung còn chưa “đủ lông đủ cánh” thì lúc nào anh cũng tôn trọng tinh thần đồng đội và giữ kỷ luật của tập thể nhỏ bé mà chúng tôi mới tạo dựng. Nhưng đối với con người thiếu đạo đức như anh mà tôi đã có cơ hội nhận xét được qua câu trả lời vô ơn bạc nghĩa của anh với bác sĩ Minh, nên dù anh có thực hiện nhiều công tác đáng khen nhờ sự hăng say, liều lĩnh và sáng kiến, tôi cũng không chỉ định anh đứng đầu khối dân biểu trẻ như anh đã từng khoe khoang trong “hồi ký không tên” của anh, trái lại tôi giao trọng trách nầy cho Dân Biểu Lâm Phi Ðiểu, con người chín chắn, hiền từ, biết hy sinh vì bạn bè nhứt là vì đại cuộc. Anh Ðiểu lại có tài khéo léo, giải tỏa mọi bất đồng, hàn gắn mọi rạn nứt giữa anh em và bao che mọi sai lầm của người khác.
Tôi còn nhớ có một lần các anh phải thảo luận và biểu quyết một điền khoản nào đó của Hiến Pháp mà Lý Quí Chung và Bành Ngọc Quí vì quá nông nổi phát biểu sai lầm tôi bất bình. Sau đó một mình Lâm Phi Ðiểu tới nhà giải thích và chịu mọi sự trách móc. Cuối cùng tôi nói thôi bỏ qua đi, anh về bảo với anh em tôi đã quên việc đó rồi. Anh Ðiểu liền nói: “Tụi nó ngồi trong xe chờ ngoài cửa không dám vô, nhờ tôi đỡ đòn thế, khi nào thuận tiện thì mới vào gặp anh, bằng không thì chuồn luôn chờ khi khác”. Lý Quí Chung là người mà tiếng đời thường gọi là “theo voi hít bã mía”. Chỗ nào có lợi lộc là anh hết lòng phò tá. Cho nên mới đọc sơ vài trang “hồi ký không tên” của anh là tôi đã ngửi thấy mùi nịnh hót cộng sản, bóp méo sự thật để chứng minh cái lý tưởng ba xu, có lẽ của Trần Bạch Ðằng mớm cho anh cũng như cộng sản bóp méo hay sửa đổi lịch sử để biện minh cho cái gọi là “cách mạng” và chế độ cộng sản.
Sự thật anh chưa bao giờ thấy được phòng họp của nội các chiến tranh ra sao mà dám khẳng định rằng “Trung tá Nguyễn Ngọc Loan tự coi mình là nhân vật thứ hai trong chính quyền của Kỳ. Các phiên họp nội các có sự hiện diện của Trung Tá Loan với khẩu súng “Ru-Lô” mang kè kè bên hông”! Sự bịa đặt khôi hài như vậy mà Lý Quí Chung dám viết, tôi không hiểu nổi. (Hồi Ký Lý Quí Chung trang 96). Những sự bịa đặt có tính bôi bác thiếu tư cách của anh không làm tôi ngạc nhiên. Lý tưởng của Lý Quí Chung là tiền bạc, địa vị và...” cái gì khác”. Trong cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Pháp cuối cùng năm 1970, Lý Quí Chung công khai tuyên bố: “Nếu Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng Thống, anh ta sẽ từ chức Dân Biểu nếu anh cũng đắc cử. Sau đó Thiệu và Chung đều được dân bầu. Báo chí theo hối thúc Lý Quí Chung không ngừng: “Chừng nào ông từ chức”? Anh ta bí lối không biết phải trả lời ra sao cứ hẹn như hẹn nợ. Gặp tôi trong Quốc Hội anh hỏi:
- Ðại ca, bây giờ phải làm sao?
- Có gì khó đâu. Thì cậu trả lời: Chức vụ này của dân bầu, tôi không biết những ai bầu cho tôi, thì bây giờ trả chức này cho ai đây? Vậy tôi không tham gia sinh hoạt quốc hội, không ăn lương của Quốc Hội để phản đối lề lối cai trị của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Anh liền cho phổ biến ngay những lời tuyên bố trên đây. Ấy vậy mà anh ta vẫn lãnh lương đều đều của Quốc hội, đã vậy có nhiều tháng còn mượn lương trước nữa, nhiều Dân Biểu đồng viện của anh hãy còn nhớ điều đó. Vào những tháng Miền Nam đang trên bờ vực thắm, có một ngày Lý Quí Chung xin gặp tôi. Anh yêu cầu tôi chơi một phần hụi ba trăm ngàn đồng, một số tiền khá lớn thời đó. Tôi trả lời: “Từ nhỏ đến lớn tôi chưa từng biết hụi nghĩa là gì và chưa từng chơi hụi với ai, bây giờ cũng không muốn dính vào những gì mình không biết. Anh nài nỉ mãi không được mới thú thật là anh muốn mượn tên tôi để rủ những người bạn của tôi như Trương Thái Tôn, Nguyễn Chánh Lý, là Tổng Giám Ðốc Công ty Mékong và Kỹ Thương Ngân Hàng, các người tên tuổi khác như La Thành Nghệ vân... vân... có tên tôi thì người ta mới manh dạn tham gia. Anh khẳng định muốn mượn vốn làm ăn. Tôi chấp thuận và vươn cổ ra đống tiền, cho đến gần cuối mới hay rằng Lý Quí Chung đã “giựt Hụi”! Tôi điện thoại cho Chung không biết bao nhiêu lần, anh không trả lời, nhắn bao nhiêu người cũng vẫn biệt vô âm tín. Vừa xấu hổ với bạn bè vì họ đã tin rằng Chung là đàn em của tôi nên mới nể tình dính vô vụ hụi nầy, vừa bực mình vì chắc chắn anh đã dùng tên tôi để thuyết phục người khác. Tôi ra lệnh cho văn phòng đưa Lý Quí Chung ra tòa về tội lường gạt. Khi anh thấy nguy hiểm vì có thể bị kết án “lường gạt” anh mới cậy nhờ Hồ Ngọc Nhuận đến văn phòng tôi.
Hồ Ngọc Nhuận là phụ tá đắc lực, là người cộng sự gần gũi tôi nhứt, được tôi tin cậy và thương giúp nhiều. Tôi còn nhớ hồi tôi còn là Chánh sở Thống Kê và Kinh Tế Nông Nghiệp, anh mua đất cất nhà mà còn thiếu hai trăm ngàn đồng. Anh mượn tôi, nhưng tháng đó ngân khoản trong băng của bà xã chỉ còn có một trăm chín mươi hai ngàn. Tôi phải đi vay của bạn bè hai chục ngàn bỏ vào cho đủ số. Khi yêu cầu bà xã ký ngân phiếu cho Nhuận, bà cự nự bảo rằng nếu rủi ro con bị bệnh hoạn đau yếu thì sao? Tôi phải uốn ba tấc lưỡi thuyết phục bả mới chịu ký. Số tiền đó cũng không bao giờ được hoàn lại. Dù Nhuận đã từng là cộng sự viên đắc lực và thân tình, nhưng tôi đã cấm cửa anh ta không cho phép tới lui tiếp xúc với tôi từ năm 1972 vì hai lý do: Nghe lời dụ dỗ của cộng sản tại Paris và đưa một bài báo của cộng sản viết, vào nhựt báo Ðại Dân Tộc do tôi làm chủ nhiệm. Tôi sẽ viết về những sự kiện nầy trên các trang kế tiếp về anh ta. Nhuận xông vào văn phòng tôi mà không hẹn trước vì anh biết chắc tôi không tiếp. Thấy anh tôi vội hỏi:
- Mầy còn đến đây làm gì nữa?
- Tôi đến lạy ông.
- Việc gì phải lạy? Về đi, tao không rỗi rảnh và cũng không còn gì để nói với mầy nữa.
- Tôi lạy ông xin đừng bỏ tù thằng Chung, vì ai cũng biết thằng Chung đã một thời là “em út” của ông, cả xứ đều biết, ông bỏ tù nó cũng bằng bỏ tù chính ông, người ta sẽ cười ông chết.
- Tao bảo mầy đi về. Cô Nga, gọi chú bảy vệ sĩ mời ông Dân Biểu đi ra, tôi không có thì giờ tiếp những người không có hẹn trước.
Nhuận đứng vậy ra về.
Hôm đó là lần đầu tiên tôi gọi Nhuận bằng “mầy”, từ xưa đến nay tôi không hề gọi Hồ Ngọc Nhuận là “mầy tao”, cũng không xưng hô với nhau là “toa moa”, không gọi là “em” mặc dù lúc nào anh ta cũng tự xem mình như em út ruột thịt, nhưng tôi vẫn một mực gọi là “ông” dù là cộng sự viên thuộc cấp. Ngược lại Nhuận cũng không khi nào gọi tôi gì khác ngoài tiếng “Ông”.
Sau khi Hồ Ngọc nhuận ra khỏi văn phòng, suy đi nghĩ lại tôi thấy lời nói của anh không phải là vô lý, nên tôi bèn gọi ông Ðặng Ðình Hải, Chánh Văn Phòng, trước khi ông nầy trở thành ký giả nhựt báo Ðại Dân Tộc và sau là Nghị Viên Hội Ðồng Tỉnh Bến Tre, chỉ thị ông đến văn phòng luật sư yêu cầu bãi nại.
Lý Quí Chung cũng hăng say đứng vào hàng ngũ ban lãnh đạo của Phong Trào Phục Hưng Miền Nam, Phục hưng miền Nam. Miền Nam có nghĩa là cả miền Nam không cộng sản từ sông Bến Hải, chớ không phải tiếng đồn hay dư luận cố tình bóp méo là miền của dân miền tây lục tỉnh. Tôi đỡ đầu phong trào, xin cho họ có giấy phép hoạt động, nhưng tôi không hề có tên trong danh sách đảng viên mà chỉ đứng bên ngoài góp ý, cố vấn, tiếp tay với ban lãnh đạo khi cần. Cũng may cho tôi là khi vào tù cộng sản bị tra hỏi về đảng Phục Hưng ở hải ngoại mà bọn cộng sản cho rằng thoái thân của Phục Hưng Miền Nam, đang tiếp tục chống phá “cách mạng”, tôi thách thức họ tìm trong hồ sơ bộ nội vụ và cảnh sát mà họ khoe khoang là còn đầy đủ, xem có tên tôi trong đảng phái nào không? Trong phong trào Phực Hưng Miền Nam, Lý Quí Chung hoạt động khá hăng hái, góp phần thảo bản tuyên ngôn, lập trường mà chính anh luôn nhấn mạnh là phải minh định lập trường chống cộng sản. Khác với những gì anh gian dối đánh bóng cho tinh thần thiên tả, yêu nước, ủng hộ cái gọi là “cách mạng” của anh. Tôi nhớ có lần anh thố lộ với tôi rằng: “Thằng Hồ Ngọc Nhuận được cộng sản móc nối, nó sẽ là cây dù che cho anh em sau nầy”. Có lẽ vì Hồ Ngọc Nhuận thú nhận với anh ta theo đề nghị của Trần Bạch Ðằng, nên Chung mới biết được cái “tẩy” của Nhuận là có móc nối với tên cộng sản cao cấp nầy. Sự thật cộng sản thừa biết giá trị tinh thần và khả năng trí tuệ của Lý Quí Chung nên họ có cho anh ta một chút xơ múi gì đâu, ngoài cái quán ăn ở câu lạc bộ đường Duy Tân cũ.
Phần tôi, dù được biết biết các anh ấy bắt liên lạc lại với địch, nhưng tôi đã một lần hứa “thằng người của tao không khi nào ra tay giết em út” (xem những trang kế tiếp nói về Hồ Ngọc Nhuận), nên tôi lặng thinh khi nghe Chung khoe như vậy. Vả lại chắc chắn Tổng nha cảnh sát đã biết việc nầy rồi vì văn phòng của Hồ Ngọc Nhuận ở đường Lê Lai có đầy cảnh sát chìm, nổi trong khu vực.
Nói về Dương Văn Ba thì cũng đáng buồn cỡ đó. Sau khi tôi từ chức Tổng Trưởng Thanh niên, chấp nhận đi lính thay vì đi làm Ðại Sứ ở Luân Ðôn như Tướng kỳ đề nghị để lấy lòng và xoa dịu những bạn bè của tôi trong chính trường, có thể bất mãn vì sự từ chức của tôi kéo theo 6 vị Tổng Trưởng khác. Dương Văn Ba cũng trở về dạy học. Ðến khi bầu cử Quốc Hội Lập Pháp tôi thúc đẩy anh ta ra ứng cử ở Bạc Liêu, anh đồng ý mà sự thật anh không dám nạp đơn ứng cử, còn hai ngày trước thời hạn cuối cùng phải nộp đơn, tôi hỏi:
- Ba, cậu có nộp đơn ứng cử không?
- Dạ không.
- Tại sao cậu đã nói bằng lòng trước mặt tôi mà không nộp đơn?
- Em sợ không đủ uy tín ở đó để đắc cử.
- Cậu có còn nghe lời tôi nữa không? Hay là tôi hết chức, cậu coi thường và lời hứa của cậu không có giá trị và danh dự trong đó?
- Dạ em còn nghe lời anh.
- Vậy thì về Bạc Liêu liền, nộp ứng cử Dân Biểu.
Trong kỳ bầu Quốc Hội nầy tôi đề nghị thêm Ngô Công Ðức ứng cử ở Vĩnh Bình quê của anh. Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh ra ở quận 8. Sau khi có kết quả bầu cử, tôi đã vào trường Võ Bị Thủ Ðức. Lúc nửa đêm Trung Tá Huệ trưởng khối huấn luyện trường Bộ Binh Thủ Ðức là anh rể của Dương Văn Ba đến tìm tôi ở đại đội 3, chở về nhà ông cho Dương Văn Ba và Ngô Công Ðức gặp. Lời nói đầu tiên của Ba là: “Sau khi nghe kết quả đắc cử hình ảnh người đầu tiên hiện trong đầu tôi là anh, từ nay trở đi Võ Long Triều biểu gì tôi cũng nghe theo không suy nghĩ”. Sự viếng thăm đột ngột trong hoàn cảnh khó khăn đặc biệt nầy chứng tỏ lòng thành trong chốc lát của Dương Văn Ba.
Còn sau nầy nhiều chuyện khác tùy theo lợi lộc. Sau khi vào Quốc Hội, ông Nguyễn Cao Thăng Phụ Tá Tổng Thống Ðặc Trách Liên Lạc Quốc Hội, bỏ tiền mua chuộc Dân Biểu để lập một khối “gia nô” và một số Dân Biểu vòng ngoài tùy cơ hội, trong số đó có Dương Văn Ba. Hồ Ngọc Nhuận là người bản chất tốt, ôn hòa, khôn khéo, nên tôi đề nghị anh đóng vai trò phối hợp anh em, nói trắng ra là lãnh đạo nhóm dân biểu thân hữu của mình. Nhuận cho biết là Dương Văn Ba lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng bỏ phiếu những điều khoản nghịch lý, phi dân chủ, hại cho đại cuộc, lợi cho địa vị hay cá nhân Tổng Thống. Anh em đề nghị khai trừ Dương Văn Ba. Tôi gọi Ba đến nhà và hỏi: sự thật anh có lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng không? Anh chối quanh co, cuối cùng phải thú nhận là có. Tôi suy nghĩ, không nên loại bỏ một tay chân hữu ích khi cần, nên tôi đề nghị:
Nếu cậu hứa với tôi sẽ tuyệt đối tuân theo chỉ thị của tôi khi cần thiết thì tôi cho phép cậu lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng, nhưng trước khi lấy cậu phải hỏi và được tôi cho phép, tùy theo tầm quan trọng của sự biểu quyết lần đó. Nếu tôi không cho phép cậu phải bỏ phiếu theo khối của anh em, bằng không thì tôi sẽ để cho anh em khai trừ cậu vì lý do lén lút nhận tiền của hành pháp. Nhục nhã đó sẽ làm hư cả đời cậu. Dương Văn Ba đồng ý và tiếp tục sinh hoạt trong điều kiện anh đã hứa với tôi cho đến ngày anh thất cử. Có một lần tôi đang ngồi làm việc, nghe điện thoại reo, đầu dây bên kia tiếng của Dương Văn Ba hổn hển:
- Anh ơi, tôi lỡ nói mấy thằng dân biểu “gia nô” ăn tiền của Nguyễn Cao Thăng, bây giờ tụi nó ào ào, kể cả ông Chủ Tịch, đòi tôi phải vạch mặt chỉ tên người nào chớ tôi không có quyền vơ đũa cả nắm. Báo chí cũng đang vây quanh tôi, phiên họp đang tạm ngưng. Làm sao bây giờ?
- Tại sao cậu ăn nói bừa bãi, kém suy nghĩ như vậy. Bây giờ đã lỡ nói rồi, nhưng có điều chắc chắn là tụi nó ăn tiền thật, vậy thì khi trở vào họp cậu lựa thằng “gia nô” nào yếu ớt nhứt không dám đánh cậu vì bị hạ nhục, thì cứ chỉ đại một tên. Kết quả Dương Văn Ba chỉ đích danh ông Phạm Duy Tuệ, Tổng Thư Ký Quốc Hội, người ốm yếu và là gia nô thật.
Sau khi thất cử Dân Biểu, Ba không có việc làm tôi buộc Ngô công Ðức phải nhận anh vào làm việc trong tờ báo Tin Sáng. Mặt khác tôi nài xin với Anh Trung Tướng Nguyễn Văn Vĩ, Tổng Trưởng Quốc Phòng, cho anh Ba được hoãn dịch hai lần. Anh tiếp tục làm báo kiếm tiền nuôi gia đình. Rồi nghề dạy nghề, Dương Văn Ba trở thành ký giả sáng giá trong tờ báo. Cho đến ngày tôi xuất bản nhựt báo Ðại Dân Tộc, gọi Dương Văn Ba về cùng làm việc với nhóm anh em, Ba yêu cầu tôi phải trả lương cho anh mỗi tháng năm trăm ngàn đồng thì mới về, bằng không anh vẫn làm việc cho Báo Ðiện Tín, thoái thân của tờ Tin Sáng. Số tiền Dương Văn Ba đòi phải trả lớn gấp năm lần hơn lương của một Tổng Thơ Ký giỏi trong làng báo thời đó. Hồ Ngọc Nhuận tức giận tột cùng, nói với Ba rằng: “Mầy dám bỏ lời thề, phản bội anh em, nhưng anh em sẽ không bao giờ phản bội mầy, bây giờ tao hỏi mầy có bằng lòng về làm việc với anh em không? Hay là mầy chỉ biết đồng tiền mà bất kể tình bạn kết nghĩa”?
Câu trả lời của Ba là Không! Về sau năm 1975 tôi nghe nói Dương Văn Ba cấu kết với cán bộ cộng sản Cà Mau khai thác gỗ lậu, bị kết án tử hình, đồng bọn của anh lo lót được giảm án xuống chung thân, rồi cuối cùng được trả tự do. Nghe nói ra tù Dương Van Ba vẫn làm ăn gian dối, nợ chồng chất mướn nhà làm văn phòng, không có tiền trả.
Nói về Ngô Công Ðức, anh cũng thuộc nhóm người trẻ có liên hệ với tôi. Nhiều lần tôi bàn thảo với anh em, làm chính trị phải có vũ khí chính trị. đó là báo chí. Ngô công Ðức nghe nói, khoe rằng anh đã một thời từng làm ký giả cho nhựt báo Trắng Ðen. Dù biết rằng văn hóa của Ngô Công Ðức rất kém, không có được văn bằng tú Tài. Nhưng làm báo chỉ cần biết viết văn nghiêm chỉnh là đủ. Còn kiến thức chính trị văn hóa thì đã có tập thể anh em cùng chung góp sức, nên tôi giao cho anh một triệu năm trăm ngàn đồng, nói là để hùn với anh xuất bản tờ Tin Sáng nhưng thực tế tôi biết anh không có một triệu rưỡi để hùn. Vấn đề đối với tôi không phải là thương mại mà là chính trị, nên tôi nhắm mắt để cho anh toàn quyền chi tiêu. Tôi chỉ đặt Hồ Ngọc Nhuận đứng tên Giám Ðốc Chính trị của tờ báo mà thôi. Tờ báo lời nhiều, nhiều lắm nhưng Ngô Công Ðức không hề chia một cắc lời, thậm chí không trả vốn. Tôi có nhắc một lần nhưng Ðức làm ngơ. Tôi cũng giả vờ không quan tâm vì mục đích xuất bản báo của tôi là để tạo một vũ khí chính trị phục vụ cho lập trường, lý tưởng chứ không phải để kiếm lời. Vả lại lợi tức của trại chăn nuôi, trường anh văn London School, trường mẫu giáo Claire Joie cũng đủ cho việc chi tiêu trong gia đình.
Một điều đáng nói về Ngô Công Ðức là tính anh quá khích và xảo quyệt. Khi Hồ Ngọc nhuận ra ứng cử, thiếu tiền vận động, đến xin tôi. Tôi biểu anh nói với Ngô Công Ðức là tôi yêu cầu đưa cho anh một trăm ngàn đồng. Ðức không chịu đưa. Tôi gọi cả hai anh tới nhà giáp mặt, tôi trách nhẹ là Ðức không trả vốn chia lời cho tôi trong khi tờ báo lời to, tại sao biểu đưa cho Nhuận có một trăm ngàn mà anh từ chối. Ðức hứa trước mặt tôi về sẽ đưa ngay cho Nhuận. Kết cuộc không đưa mà chỉ đưa cho Nhuận chiếc xe La Dalat cũ kỹ để làm phương tiện đi vận động mà thôi.
Một bài báo anh Ngô Công Ðức viết trong mục Thiên Hạ Ðồn Rằng của báo Tin Sáng về “cộng rau muống” ký tên Tư Trời Biển có nội dung diễu cợt người Bắc. Một số Dân Biểu đồng viện của anh phản ứng mạnh, ký giả báo khác cũng chỉ trích nặng nề. Tôi gọi Hồ Ngọc Nhuận về nhà điều tra xem tại sao Nhuận là Giám Ðốc Chính Trị mà để cho sự việc xẩy ra một cách ngu xuẩn như vậy. Nhuận tự bào chữa là vì tin cậy nhau, dù sao Ðức cũng lầm lỡ rồi xin tôi bỏ qua. Ngày hôm sau Ngô Công Ðức viết một bài khác không dám nói trắng trợn tác giả bài báo đó là tôi nhưng ngụ ý quanh co là mục Thiên Hạ Ðồn Rằng và bút hiệu Tư Trời Biển là do tôi đặt ra. Lập tức dư luận cho rằng tôi là kẻ ném đá giấu tay, tôi là người kỳ thị Nam Bắc, mà sự thật là tôi thường ca ngợi tính năng nổ, sinh động của người Bắc và đa số bạn bè của tôi từ Paris về tới Việt Nam là Bắc Kỳ. Bởi tính tôi cũng năng nổ sinh động như vậy, nên kết bạn nhau là thường. Tôi không muốn đính chánh bài viết nầy không phải là của tôi, đồng thời chỉ đích thật tên tác giả của nó, bởi vì tôi không muốn đổ tội cho một thằng đàn em đã làm sai mà không dám nhận để xin lỗi. Hơn nữa tính tôi ngang ngược, bất chấp dư luận đã quen, cộng thêm tinh thần do giáo dục gia đình ảnh hưởng, nên tôi đành làm thinh để mặc cho dư luận muốn hiểu sao thì hiểu. Thực tế tôi không hề có viết một bài nào trong mục thiên hạ đồn rằng và bút hiệu Tư Trời Biển là bút hiệu chung của Ngô Công Ðức, Hồ Ngọc Nhuận hay bất cứ ai viết trong mục đó - Trừ tôi, bởi vì thời đó tôi chưa biết viết báo - Nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận búa rìu của dư luận cho tới ngày nay. Ðiều đó cũng chẳng hại gì đến danh dự và đời sống cá nhân, xã hội hay chính trị của tôi. Nhân sinh quan, lập trường chính trị của tôi rõ ràng cần chi phải đính chánh.
Cái tính xảo quyệt của Ngô Công Ðức có sẵn thời anh còn nhỏ, học ở Trường Saint Joseph Mỹ Tho. Có một buổi “ra chơi” , thầy giám thị (frère surveillant) để quên cái tu-huýt trên ghế, Ðức cầm thổi quét một tiếng lớn, mọi người tưởng tới giờ ngưng chơi đi xếp hàng, thầy giám thị tức giận điên người hỏi:
- Thằng nào thổi?
- Thưa thầy thằng nầy. Ngô Công Ðức vừa nói vừa chỉ anh bạn đứng kế bên. Thầy giám thị liền xáng thằng nhỏ vô tội một bạt tai như trời giáng. Mặc cho sự đôi chối, cũng vô ích, chỉ tội cho thằng nhỏ nầy bị đòn thế cho Ngô công Ðức rồi. Câu chuyện nầy chính Hồ Ngọc Nhuận bạn đồng lứa, học cùng trường với Ðức tại Saint Joseph thuật cho tôi khi tôi trách mắng Hồ Ngọc Nhuận về vụ Ðức viết bài ngu xuẩn mà không dám nhận.
Nhận định về bản chất của Ngô công Ðức tôi xa dần lẩn tránh anh ta một cách nhẹ nhàng, mọi việc giao dịch ít khi tôi trực tiếp mà chỉ qua trung gian của Hồ Ngọc Nhuận thôi. Cho đến ngày 30 Tháng Tư tôi hoàn toàn cấm cửa Ngô Công Ðức, nhưng có một lần khi tôi ra tù anh biết tôi cấm cửa anh nên tháp tùng với người anh rể là Trung Tá cựu Dân Biểu, một đồng viện tôi còn giữ cảm tình, đến nhà thăm tôi với chai rượu chát và hợp fó-mát (fromage) sản phẩm của Pháp quốc. Anh nhắc rằng: Biết tôi thích fó-mát hiệu Camembert nên cố tình đem đến uống với tôi một ly rượu mừng. Tôi từ chối thẳng thừng viện cớ là đau gan bác sĩ cấm rượu, cấm mỡ, cấm kem.
Hồ Ngọc Nhuận là người thuộc đàn em, tôi quí mến vì có tài, có tình, khá lanh lợi, năng nổ nhưng tiếc thay thiếu sự hiểu biết sâu xa về chính trị. Ngày nay viết về anh ta, tôi hối tiếc vì đã mất một người cộng sự đắc lực có khả năng. Tôi buồn gần như mất một người em, một người bạn đồng hành. Tôi bực tức và tự trách chính mình tại sao không cứng rắn đủ với anh ta, không áp dụng một kỷ luật thép đối với những người đồng hành đồng chí đứng trong hàng ngũ của mình. Tại sao tôi không thẳng thừng vạch mặt chỉ tên khi thừa biết họ để cho Trần Bạch Ðằng móc nối trở lại. Thật ra điều nầy Tổng Nha Cảnh Sát và Tình Báo cũng biết. Tôi kể chuyện về Hồ Ngọc Nhuận sau đây với ít nhiều ray rứt trong lòng.
Trong lúc anh giữ chức Tổng Giám Ðốc Thanh Niên của tôi, có lần Tướng Kỳ muốn cải tổ nội các sâu rộng tôi có nhiệm vụ tìm một người thay thế Lâm Văn Trí, Tổng Trưởng Canh Nông mà không một đồng nghiệp nào của tôi chịu nhận. Tôi quyết định chính mình sẽ về nhận Bộ Canh Nông và giao Bộ Thanh Niên cho Hồ Ngọc Nhuận. Tôi bèn gọi anh vào văn phòng thông báo quyết định của tôi. Anh từ chối nói rằng chức vụ đó vượt khả năng của anh ta. Nội chuyện tiếp khách trong và ngoài nước thôi anh cũng không thể chu toàn, huống chi là họp hành nội các, bàn chuyện quốc sự. Tôi cố thuyết phục và gần như chỉ thị ngày mai anh cùng với tôi đi trình diện nội các mới. Anh khẳng định sẽ đào ngũ, ngày mai chắc chắn tôi sẽ tìm anh không ra đâu. Tôi đành phải chịu thua và nhận lãnh sự trách mắng của Tướng Kỳ vì ông bị bắt buộc phải nói lại với Lâm Văn Trí cho ông ta lưu chức. Và cũng vì thế mà Lâm Văn Trí tỏ ý mỉa mai tôi “anh đuổi em không được mà anh”! Sự kiện nầy chứng minh Hồ Ngọc Nhuận không tham quyền, háo danh, chuộng lợi. Nhuận luôn luôn là tay mặt tay trái của tôi trong gần như mọi vấn đề, từ những hoạt động lớn nhỏ quan trọng cũng như không quan trọng. Có một lần phụ thân tôi lưu ý rằng: “Tao coi thằng Nhuận nầy không được à mầy, Thằng nầy có tướng con sâu rộm, là người phản phúc” Tôi không nghe mà còn phản bác lại ông, nói rằng Nhuận là người đã giúp tôi rất nhiều trong mọi hoạt động.
Năm 1973 cuộc đàm phán ở Paris còn đang tiếp tục, Quốc Hội Việt Nam tạm nghỉ, Dân Biểu công du nước ngoài, trong số đó có ba đồng viện, đồng hành, đồng chí với nhau là Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Ðức và Dương Văn Ba, cùng đi một chuyến sang Mỹ, Pháp, Ðức v.v... Tại Paris Ðinh Bá Thi tìm gặp họ. Theo Lời Hồ Ngọc Nhuận tường thuật lại với tôi là Thi hết lời khen ngợi nhóm của anh ta tiến bộ nhứt miền Nam, là những người yêu nước, là những người sáng suốt nhìn thấy tương lai của dân tộc, là những người ôn hòa không muốn thấy chiến tranh tiếp diễn, muốn tiết kiệm xương máu của đồng bào vân vân và vân vân. Sau những lời bợ đỡ đó Ðinh Bá Thi đề nghị ba vị dân biểu nầy họp báo tại Khách sạn Lutétia, Ðại Lộ Raspail quận VI Paris, và sau đó sẽ mở một cuộc họp báo khác tại Bỉ, trung tâm sinh hoạt của cộng đồng Âu Châu., và một trong ba vị sẽ đọc một bài diễn văn tại Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ để tuyên bố lập trường của nhóm trí thức và chính trị gia miền Nam. Ba anh bạn trẻ của tôi đồng ý, nhưng phải chờ một người là Hồ Ngộc Nhuận về Saigon thông báo sự việc và hỏi ý kiến tôi là người lãnh đạo nhóm. Thực tế Dương Văn Ba cùng về với Nhuận còn Ngô Công Ðức ở lại Paris chờ.
Một buổi tối vào 9 giờ đêm, có tiếng chuông kêu cửa nhà tôi ở số 28ter đường Mạc Ðĩnh chi, tôi ngạc nhiên thấy Hồ Ngọc Nhuận lù lù bước vào phòng khách. Tôi vội vàng hỏi:
- Ủa mấy ông đi quan sát nước ngoài mà sao về sớm vậy?
- Ðâu có, tụi tôi về để hỏi ý kiến ông.
- Về vấn đề gì?
Mấy ông đang đi du hí du thực mà có vấn đề à. Sắc mặt Hồ Ngọc Nhuận nghiêm chỉnh trả lời:
- Có
Vấn đề gì quan trọng đến nỗi phải hỏi ý kiến tôi. Tôi thành thật xác nhận rằng sinh hoạt nghị trường Quốc Hội thời đó còn rất mới mẻ đối với nhiều vị Dân biểu đàn em, đặc biệt là Dương Văn Ba và Ngô Công Ðức, Hồ Nhọc Nhuận, các anh ấy thường ghé qua nhà tôi ăn sáng khoản 8 giờ mà không cần báo trước. Câu nói đầu môi chót lưỡi là: “Sáng nay vô Quốc Hội nói gì hả ông?”. Những sự bàn bạc đó trở thành thói quen, trở thành lời cố vấn hay chỉ dẫn cho các bạn Dân Biểu của nhóm trong hội trường. Mỗi khi có chuyện gì quan trọng là các anh ấy đều hỏi ý kiến tôi.
Trong lúc Hồ Ngọc Nhuận trình bày chi tiết câu chuyện Paris giữa ba anh và Ðinh Bá Thi thì lại có tiếng chuông ngoài cửa, vài phút sau Dương Văn Ba xuất hiện lúc 10 giờ 20, dáng điệu lo ngại, sợ hãi. Tôi nhớ rõ từng chi tiết bởi vì sự kiện ngày hôm đó in sâu vào đầu tôi và nó theo đuổi tôi mãi mỗi khi có cơ hội nghĩ đến. Tôi hỏi anh Ba:
- Tại sao toa đến khuya vậy? Gặp moa để làm gì?
- Vì tôi hẹn với anh Nhuận tới đây, nhưng thấy cảnh sát chìm theo dõi nên tôi đậu xe ở xa, đường Phan Ðình Phùng rồi mới vòng vo đi mãi tới đây nè.
Sau khi Nhuận trình bày cặn kẽ những gì ba anh em họ nghĩ và kết luận:
- Tôi có hẹn phải gọi điện thoại cho thằng Ðức ngày mai đúng 9 giời bên nầy, báo tin cho nó chuẩn bị rồi chúng tôi sẽ trở qua Paris. Bây giờ ông nghĩ sao?
- Mấy ông không biết gì về cộng sản hết. Tôi cũng không biết! Nhưng ít ra tôi biết tụi nó qua sách vở, còn các ông thì không. Ðiều đó thấy rõ. Thứ nhứt các ông phải biết rằng vô sản không khi nào chấp nhận hợp tác, sống chung với tư sản như chúng mình. Có chăng là giả dối lợi dụng. Thứ hai đối với cộng sản, dòng họ chúng ta là cường hào ác bá. Cha của ông là Cai Tổng Hồ Văn Ðắc, ông già thằng Ðức là Cai Tổng, ông già tôi là cựu Thiếu Tá phó tỉnh trưởng nội an của tỉnh Bến tre. Việt cộng đã nhiều lần treo giá cái đầu của ông già tôi là 5 triệu đồng. Ba tôi chết hụt bốn năm lần do tụi nó giết hụt. Các ông có thấy chuyện tâng bốc chúng mình là tiến bộ là vô lý và giả dối và có ý đồ lợi dụng không? Tôi không đồng ý. Vả lại, chuyện họp báo ở Paris tưởng dễ sao? Tôi sống và học tại đó 10 năm, nói tiếng tây như gió, báo chí Paris cũng từng đề cập đến tên tôi, mà bây giờ biểu tôi tổ chức họp báo chưa chắc tôi làm được. Còn các ông phát ngôn bằng Pháp ngữ như “chà và chóp nói tiếng lèo mà đòi họp báo là cái gì? Tôi không đồng ý. Kêu thằng Ðức về.
Nhuận bảo đảm:
- Mọi việc từ họp báo đến đọc diễn văn trước Quốc Hội Hoa Kỳ đều do Ðinh Bá Thi sắp xếp chi tiết, tụi nầy khỏi lo. Ðấy, thấy không? Như vậy là các ông sẽ họp báo mướn đổi lấy tiếng tăm danh vọng phải không? Dẹp đi tôi không đồng ý. Một sự lợi dụng trắng trợn như vậy mà các ông không thấy thì làm chính trị chính em cái gì? Nếu phải công khai và lớn tiếng tuyên bố lập trường của mình, bộ chúng ta không thể họp báo chí ngoại quốc tại Việt Nam hay sao? Thôi dẹp đi đừng nói chuyện hoang đường với tôi nữa.
Hồ Ngọc Nhuận cố hết sức thuyết phục tôi và luôn luôn nhắc rằng ba anh ấy đã hứa với Ðinh Bá Thi rằng sẽ thuyết phục được tôi dễ dàng. Nhuận và tôi bàn cãi qua lại nhiều, nhiều lắm. Dương Văn Ba thì ngồi im lặng từ đầu đến cuối. Nhuận khăng khăng biện hộ cho cơ hôi họp báo vá phát biểu tại quốc hội Hoa Kỳ. Tôi thì chỉ còn lập đi lập lại một câu: Dẹp đi, tôi không đồng ý. Mãi đến 3 giờ thiếu 12 phút tôi nhìn đồng hồ và kết luận:
- Tụi bây ngày nay có đủ lông đủ cánh hết rồi, muốn tự mình bay thì cứ bay, nhưng tuyệt đối kể từ nay không đứa nào được phép bước chân vào nhà tao nữa. Tao cũng cho tụi bây biết rằng thằng người của tao không khi nào ra tay giết em út. Câu chuyện hôm nay tao giữ kín sẽ không hở môi. Về hết đi”!
Những câu nói nầy của tôi vĩnh viễn không khi nào quên được. Ba và Nhuận ra về, tôi ngồi thừ ra rất lâu. Ðêm trằn trọc không sao ngủ được. Buồn bã đến vã người vì thấy công trình xây dựng gần như đang sụp đổ, bạn bè, em út đứa nào cũng muốn rẽ đường sang ngang. Bực tức vì mình tự trói tay không thể làm cho ra lẽ, gây thành lớn chuyện, thì người cuối cùng gánh chịu nhục nhã sẽ là chính mình. Thất bại về mọi mặt hiện ra trước mắt.
Sáng thật sớm từ trên lầu tôi xuống phòng khách ăn điểm tâm, chợt thấy Hồ Ngọc Nhuận ngồi sù sụ một đống ở đó không biết tự bao giờ.
- Ông còn tới nhà tôi làm chi nữa? Hôm qua tôi đã nói rõ lắm rồi. Về đi.
- Ông đuổi tôi phải không? Tôi biết lỗi rồi mới tới đây, bây giờ ông đuổi tôi là ông chịu trách nhiệm à.
- Tưởng ông nói sao chớ ông nói như vậy thì 9 giờ gọi điện thoại kêu thằng Ðức về. Không có họp báo gì cả.
Ngồi vào bàn ăn, Nhuận mới cho tôi biết tối hôm qua Tổng Thống Thiệu đã tuyên bố tố cáo thằng Ðức là cộng sản.
- Vậy là nó càng phải về ngay. Và trước khi về nó phải tuyên bố với báo chí bên đó là: vì nó không phải là cộng sản nên nó mới về Việt Nam.
Vài ngày sau Ngô Công Ðức về đến Tân Sơn Nhứt, cảnh sát công an của Tổng Thống Thiệu, ăn mặc thường phục, dàn chào, phản đối, chọi nước sơn đỏ vào người Ngô Công Ðức, rồi mọi chuyện cũng tạm lắng. Tôi khuyên Ngô Công Ðức phải về tại đơn vị Vĩnh Bình của anh mở một cuộc họp báo và mời đông đảo ký giả ngoại quốc tham dự. Tại đó chắc không có người giả mạo thường dân để phá phách anh. Sau khi thất cử Dân Biểu, Ngô Công Ðức trốn ra nước ngoài qua ngả Campuchia và bị cộng sản móc nối lại. Ðến sau ngày 30 Tháng Tư, 1975 anh trở về. Thực tế cộng sản cũng biết chân giá trị của anh nên không dành cho anh một chức vị gì ngoại trừ cho chút ân huệ làm báo kiếm tiền trong giai đoạn đầu và buôn bán sơn mài làm giàu vậy thôi.
Hồ Ngọc Nhuận nghe lời tôi ở lại Saigon, hủy bỏ việc họp báo ở Paris, tiếp tục hoạt động trong hàng ngũ anh em cho đến khi tôi xuất bản nhựt báo Ðại Dân Tộc anh chính thức đứng tên là Tổng Thư Ký nhưng thực tế là người tín cẩn như phụ tá chủ nhiệm. Trong thời gian qua tôi yên trí là việc móc nối ở Paris đã coi như thực sự chấm đứt. Không ngờ tại Saigon Trần Bạch Ðằng đã tìm cách liên lạc trở lại mà tôi không hay. Cái lỗi lầm thật đáng trách của Hồ Ngọc Nhuận là đã giấu diếm tôi điều đó. Tại sao lần trước khi Ðinh Bá Thi liên lạc, anh quyết định từ Paris trở về Việt Nam hỏi ý kiến tôi? Tại sao lần nầy anh âm thầm lén lút móc nối Ngô Công Ðức, Lý Quí Chung và Dương Văn Ba. Bởi vì anh biết chắc là tôi lại ngăn cản nữa. Phải chăng khi con người ta có chút quyền hành, danh vọng, tiền tài rồi, thì người ta sẽ dễ hư hỏng, dễ bị cộng sản xúi giục: Phải lộn nài bẻ ống để vươn lên cho bằng, hoặc hơn, người đã từng dẫn dắt mình. Phải vượt ra khỏi tầm kiểm soát của tập thể không tiến bộ theo nghĩa của cộng sản. Lỗi lầm đó của Hồ Ngọc Nhuận, chẳng những đối với tôi không mà thôi, lại còn đối với cả nhóm bạn bè, hay rộng hơn nữa là đối với quốc gia, cho nên tôi khó quên được. Khi tôi còn ở Paris có lần anh Hồ Ngọc Nhuận sang Pháp thăm gia đình anh ấy, sẵn dịp đến thăm tôi. Gặp được cơ hội, tôi xỉ vả anh rất nặng lời, đến nỗi lúc anh sang Mỹ gặp Ðỗ Quí Toàn, anh than rằng: Gặp mấy ông bên nầy, mấy ông còn hỏi thăm gia đình sức khỏe, còn gặp ổng (Triều) ở Paris, ổng chửi tôi từ đầu hôm đến sáng sớm, suốt cả đêm. Ðó là sự thật mà Ðỗ Quí Toàn thuật lại khi gặp tôi. Bây giờ nghĩ lại tôi cũng thấy mình hơi quá đáng, bởi lẽ tôi tin chắc khi Nhuận gặp lại tôi trong lòng ông ta đã thấy hối hận rồi, cần gì tôi phải nặng lời với anh.
Ngày phi cơ Mỹ giội bom lầm tòa Ðại Sứ Pháp gây thiệt mạng cho ông Ðại Sứ Sussini, Hồ Ngọc Nhuận xin tôi để cho anh viết bài xã luận “Viết Cho Bà Sussini”. Dĩ nhiên không những tôi đồng ý mà còn mừng vì mình rảnh tay được một việc. Trước khi đưa báo lên khuôn tôi kiểm lại những bài có tính cách chính trị thì đi từ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, tôi đọc bài xã luận ký tên Hồ Ngọc Nhuận thấy có rất nhiều từ ngữ mà ký giả miền Nam mình thời đó không có dùng. Lời văn hoàn toàn khác lạ không phải của Hồ Ngọc Nhuận, ý nghĩa không phải vì bất bình mà là tố cáo. Tóm lại tôi hồ nghi bản văn nầy do người ngoài gài vô cho Nhuận. Tôi bèn nhớ lại chuyện Paris. Bực bội trong lòng nhưng cũng lấy hết kiên nhẫn ngồi sửa lại từng câu từng chữ. Cố tình “lách” tránh để cho bản văn không bị liệt vào “làm nguy hại an ninh quốc gia” hay mạ lỵ các đấng chỉ huy cao cấp. Nói sửa nhưng gần như viết lại toàn bộ bài xã luận. Hai giờ trưa tôi mới ăn cơm xong, định nằm nghỉ, thì điện thoại của anh quản lý cho biết báo bị tịch thu. Tôi hỏi:
- Tịch thu vì lý do gì?
- Bài Xã luận của Hồ Ngọc Nhuận.
- Tôi đã sửa chữa lại hết rồi? Tịch thu vì câu nào? Chữ nào?
- Tịch thu vì toàn bộ bài xã luận.
Tôi đâm nghi nên yêu cầu đưa về cho tôi xem liền một bản. Rõ ràng là nguyên văn bài xã luận của người khác viết, y như bài đầu tiên của Nhuận đưa ra. Người đó là ai, ngoài tay nào nội tuyến của cộng sản? Tôi lập tức ra lệnh cho Lê Xuyên triệu tập phiên họp toàn bộ nhân viên tòa soạn lúc 3 giờ, kể cả “xếp ti-pô” (trưởng ban sắp chữ), đặc biệt ông phụ tá Nhuận phải có mặt.
Ðúng 3 giờ tôi đến tòa soạn có đông đủ mặt nhân viên. Kể cả Hồ Ngọc Nhuận ngồi đó với 3 chai la-ve hiệu 33 để trước mặt. Tôi hỏi Lê Xuyên tại sao có sự tráo bài của chính tay tôi sửa. Anh bảo rằng bài của tôi sửa xong đưa liền xuống cho thằng Út, xếp ti-pô sắp chữ. Tôi hỏi Út thì anh ta khai rõ ràng minh bạch: Tụi em đang sắp được một phần ba bài, ông phụ tá Nhuận đột nhiên xuống bảo đưa cho ông ta coi lại bản văn em mới đưa theo lệnh. Ông bảo em chờ một chút rồi ông lại đưa một bản văn khác biểu em phải bỏ đoạn trước sắp lại hết. Em đâu có dám tráo đổi gì đâu. Công việc quá rõ ràng, không ai hiểu ất giáp gì cà chỉ riêng có một mình Nhuận và tôi hiểu được mà thôi. Nhuận ngồi lặng thinh không có một lời biện hộ hay phát biểu. Tôi tuyên bố ngắn gọn, giọng cứng như thép: Kể từ nay không ai có quyền gì trong tờ báo nầy nữa. Không ai có quyền sửa lại một dấu chấm hay phết của chính tay tôi viết ra.
- Mọi người nghe rõ rồi chứ? Nếu nghe rõ thì cuộc họp đến đây chấm dứt.
Ngày hôm sau tôi vào văn phòng thấy thơ từ chức của Hồ Ngọc Nhuận để sẵn trên đó. Tôi cầm bút phê thuận không ngần ngại, không bực tức và từ đó đường ai nấy đi.
Ngày nay viết lại sự thật về một số những bạn đồng hành thời trước, có đôi khi tôi dùng lời lẽ hằng học, nhưng nó diễn tả tâm tư thật của tôi trong thời điểm đó. Bây giờ ở thời điểm tuổi 73, quĩ thời gian đã vơi quá nhiều, tôi điểm lại những bài học của thời son trẻ, thấy rất thấm thía, nhưng tiếc thay không ai có thể đi ngược lại được thời gian.
Với chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ |
Tôi quí trọng Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, vì chẳng những ông đã cố tình mời tôi tham gia nội các của ông, trong khi tôi là người chống đối ông nhiều nhứt trong lần tiếp xúc đầu tiên như đã viết ở đoạn trên, mà ông còn tin cậy tôi hoàn toàn như một người bạn đồng hành, theo đuổi cùng một chí hướng. Ông đối xử với tôi có phần đặc biệt hơn những vị Tổng Trưởng khác, theo nhận xét của Ðại Tá Phan Văn Minh, Chánh Văn Phòng Ðặc Biệt và sau là Ðổng lý của Tướng Kỳ. Nhiều vị Tổng Trưởng khác xin yết kiến đôi khi ông không tiếp, còn tôi thì muốn gặp ông bất cứ lúc nào cũng được.
Khi Tướng Kỳ gặp việc rắc rối, hay quan trọng ông thường gọi tôi lên Phủ Thủ Tướng để chia sẻ sự bực bội của ông hay để hỏi ý tôi về một việc gì mới xảy ra. Ân tình đó tôi luôn ghi nhớ. Ngày nay ông và tôi đã rẽ ngã, mỗi người một hướng đi, dù cả hai đều nhìn về tương lai đất nước với một hoài bão: Làm sao cho dân giàu nước mạnh. Tôi vẫn giữ mối cảm tình đặc biệt đối với Tướng Kỳ, nhưng không còn liên lạc với ông như trước kia nữa. Bởi vì ông và tôi không còn gì để nói với nhau trong bối cảnh và tình thế này. Ðêm hôm trước ngày ông bước chân lên máy bay về Việt Nam, ông có trao đổi ý kiến với tôi qua điện thoại, ông nói: “Moa về bên đó, có gì hay ho sẽ điện thoại cho toa”. Nhưng sau khi ông tuyên bố những điều bất lợi cho danh dự ông, cho đồng đội, đồng hành và cả cho đất nước, tôi nói với người trong gia đình và bạn bè: “Chắc ông Kỳ sẽ không điện thoại cho tôi đâu, mà nếu có, chắc tôi cũng sẽ không trả lời”.
Tình cảm của Tướng Kỳ dành cho tôi thể hiện qua nhiều sự việc, đặc biệt là qua nhiều bữa cơm trưa tại phủ Thủ Tướng với mắm thái Châu Ðốc, chỉ có hai người tâm sự với nhau về những khó khăn của ông trong việc đương đầu với thời cuộc, về những toan tính của ông trong tương lai ngắn, dài. Tình cảm đó còn thể hiện qua một buổi chiều khoản 6 giờ tan sở, đường dây điện thoại trắng đặc biệt trực tiếp với Thủ Tướng reo, tôi cầm ống nghe:
- Triều đó hả?
- Dạ, tôi nghe đây Thiếu Tướng.
- Lên đây có chuyện này hay lắm này.
Tôi vội vã đi, vừa thấy tôi bước vào phòng, Tướng kỳ vui vẻ nói:
- Này, mời cậu về nhà tớ khai trương hồ tắm và sân quần vợt. Chơi xong, ăn cơm rồi về.
Tôi nhìn thấy còn rất nhiều chồng hồ sơ dồn đống trên bàn nên ngay tình nói:
- Hồ sơ của anh cả chồng, xem cho hết đi rồi mình về.
- Ê, làm việc thì cũng phải nghỉ xả hơi chứ.
- Ngài Chủ Tịch của tôi ơi, tôi nghe nói ông Diệm làm việc 13 giờ một ngày, không biết có đúng không? Tụi mình làm việc theo giờ hành chánh thì làm sao ngài đạt mục đích “đội đá vá trời” của ngài được?
Tôi từ chối không tham gia cuộc vui chiều hôm đó. Khi chúng tôi bước xuống nấc thang cuối cùng của bao lơn phủ Thủ Tướng, ông Kỳ còn quay sang tôi nói:
- Cho phép toa nói lại một lần nữa, đi hay không? Lên trực thăng về với moa.
Tôi lại từ chối, không phải vì không muốn tham gia cuộc vui này mà vì muốn chứng minh tôi thuận lý với tôi khi nói không làm việc theo giờ hành chánh. Thời đó Tướng Kỳ di chuyển bằng trực thăng, từ trại Phi Long đến phủ Thủ Tướng. Những chuyện nhỏ nhặt chứng tỏ tình bạn giữa Tướng Kỳ và tôi thời đó có nhiều. Bây giờ nghĩ lại thấy buồn vì bất đồng chính kiến mà bạn bè phân chia.
Hình như mỗi con người khi trời giao phó cho họ một nhiệm vụ, nói nôm na là định mệnh đặt họ vào một chức vị nào đó thì Thượng Ðế cũng ban cho họ một khả năng để chu toàn trách nhiệm trong giai đoạn. Tôi tin Tướng Kỳ là một con người như vậy. Tôi nhớ trước khi Tướng Kỳ viếng thăm nước Mỹ năm 1966, ông Philippe Habib, cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ đến văn phòng tôi yêu cầu một việc, ông nói:
- Ông Thủ Tướng của ông sắp viếng thăm nước Mỹ, dĩ nhiên là ông ta sẽ tiếp xúc với các nhà báo ở câu lạc bộ báo chí. Ông thừa biết rằng báo chí Mỹ thường moi móc những chuyện ly kỳ, giựt gân về chiến tranh Việt Nam. Chúng tôi biết ông là bạn của Tướng Kỳ, chúng tôi cũng biết ông Kỳ coi trọng ý kiến của ông. Việc này ngoài ông ra chắc không ai dám khuyên ông ấy đâu, nên chúng tôi muốn nhờ ông một việc.
Tưởng cũng nên nhắc rằng những người bạn Mỹ của chúng ta luôn theo sát hoạt động của giới chính trị miền Nam, nên ai bạn ai, ai chống ai họ biết rõ.
- Việc gì mà ông cố vấn phải rào đón nhiều vậy?
- Xin ông vui lòng nói với Thủ Tướng của ông, đừng dùng Anh ngữ để đối đáp với báo chí Mỹ, nếu lỡ lời hay nói sai đường lối, sai việc gì mình có thể đính chánh rằng người thông dịch nói sai hoặc hiểu sai. Báo chí Mỹ họ xoi bói, thêu dệt, đặt điều dữ lắm. Mình phải dè dặt.
- Tôi hiểu rõ điều đó. Ða số chính trị gia hay lãnh tụ các nước đều dùng tiếng bản xứ để diễn tả ý kiến của mình. Ðó là chuyện thường. Ông cố vấn đừng ngại. Tôi tin ông Thủ Tướng của chúng tôi hiểu việc này. Dù sao thì tôi cũng sẽ gặp ông ấy để trình bày và góp ý.
Một ngày sau cuộc viếng thăm nước Mỹ của Tướng Kỳ, ông Philippe Habib trở lại văn phòng tôi mà không xin hẹn trước. Ông phải ngồi chờ gần 15 phút. Thấy ông bước vào, tôi chưa kịp xin lỗi vì để ông phải chờ lâu. Ông ta đưa tay ngửa mặt lên trời nói:
- Nhờ trời ông ta vượt qua cuộc thi mà còn được chấm hạng ưu. Tôi hơi nghi ngờ nhưng vẫn sửng sốt hỏi?
- Cuộc thi nào? Ai thi?
Ông ác quá, tôi đã nhờ ông khuyên bạn của ông là đừng dùng anh ngữ khi tiếp xúc với báo chí mà ông ta sử dụng tiếng Anh suốt thời gian họp báo. May mắn cho chúng tôi, và cho ông ta nữa, là báo chí khen ông ấy đáo để. Nếu ông biết trong lúc ông ấy tiếp xúc với báo chí chúng tôi lo lắng như thế nào thì ông mới thông cảm. Một sự lỡ lời của ông ta, chúng tôi phải giải thích như thế nào với dân chúng Hoa Kỳ? Với quốc tế?
Tôi thú thật với ông là tôi đã có bàn việc này hai lần với Thiếu Tướng Kỳ và còn nhắc lại trước khi ông ấy lên đường đi Mỹ. Nhưng ông thừa biết, Tướng Kỳ có thường hành động theo ý riêng của ông ấy, khó có ai khuyên giải được. Dù sao điều đó chứng tỏ ông Thủ Tướng của chúng tôi cũng có tài phải không? Ông cố vấn Habib và tôi chia tay nhau trong sự vui mừng của đôi bên. Khi tôi báo lại việc này cho Tướng Kỳ nghe, ông nói đùa một câu: “Mấy anh có phục tôi không”?
Nhân vụ Tướng Kỳ “cương” trong khi tiếp xúc với ký giả Mỹ, tôi nghĩ đến những chuyện quốc gia đại sự. Ðối với những người khiêm tốn thì cho rằng vấn đề chính trị là ngoài tầm tay và ngoài sự hiểu biết của họ. Ðối với những người tự phụ kiêu căng thì nghĩ rằng họ có thừa khả năng cán đáng việc đó. Ðối với những người mang đầy mặc cảm, tự ti cũng như tự tôn, thì cho rằng đó là trò múa rối của bọn chính trị gia, thấp kém hơn họ nhiều, không đáng tin cậy, nhưng sự thực chính họ là những con rối của xã hội mà họ không biết. Thực tế ngồi vào ghế lãnh đạo quốc gia phải có một chút tài, chút đức, chút sáng suốt hiểu biết về chính trị, kinh tế, xã hội, chút lòng yêu nước thương dân, một ý chí hy sinh cao thượng nào đó. Nếu có đủ hay thừa thì là nhà lãnh đạo tốt. Nếu không có hay thiếu nhiều thì là nhà lãnh đạo hại dân hại nước. Hoặc do trời ban cho một sự sáng suốt nào đó để chu toàn trọng trách khi phải theo con đường định mệnh, như Nguyễn Cao Kỳ trong thời điểm 1965-1968.
Một ý nghĩ sai, một sự đắn đo nhút nhát, một mưu đồ xấu, sẽ tai hại vô cùng. Cũng có khi đất nước đến thời suy hay mạt vận, cơ trời xui khiến có người lãnh đạo bất tài. Ðời tôi có được may mắn quen biết khá nhiều với ba vị lãnh đạo quốc gia Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương. Sự kiện tôi chấp nhận phục vụ dưới trướng Nguyễn Cao Kỳ và từ chối tham gia hợp tác với Nguyễn Văn Thiệu, qua sứ giả và bào huynh của ông là Nguyễn Văn Kiểu, chứng tỏ tôi thương ông Kỳ, và bất phục ông Thiệu. Nói rõ tâm tư của tôi không cần che dấu là vì hoàn cảnh chính trị ngày nay buộc tôi phải phê phán và chỉ trích ông Kỳ, cũng vì hoàn cảnh chính trị ngày xưa mà tôi chống đối ông Thiệu, hay không còn sát cánh với ông Hương, là người mà tôi tháo gỡ tình trạng giam lỏng của ông ở Vũng Tàu trong biệt thự của cố Tổng Giám Mục Ngô Ðình Thục và đã tổ chức vận động cho ông ra ứng cử Tổng Thống năm 1967.
Khi tôi nhận lời tham gia nội các, tháng 2 năm 1966, Tướng Kỳ có nói với tôi:
- Dư luận bên ngoài đồn rằng nội các này chỉ tồn tại 2 tháng, anh có dám vào không?
Tôi cười nói:
- Một hoặc hai ngày, nếu cần làm việc gì mà lương tri chỉ mình phải làm, thì cứ làm, huống chi là hai tháng. Nói mà chơi chớ thời buổi này nội các chỉ đổ bằng một cuộc đảo chánh thôi, mà anh là Tư Lệnh Không Quân, khó có ai cưỡng được bom đạn của anh trên trời rơi xuống thì anh còn ngại gì. Vả lại người Tây phương thường nói: “Người nào nắm giữ thủ đô là người đó nắm giữ cả xứ”. Vậy anh chỉ cần đặt một người thân tín nhứt của anh làm tư lệnh vùng III chiến thuật là an toàn.
- Người thân tín nhứt cùng học trường Bưởi với tôi ngày xưa là Chuẩn Tướng Nguyễn Bảo Trị, Tư lệnh sư đoàn 7 đóng ở Mỹ Tho.
- Thì móc lon cho ông ấy lên Thiếu Tướng.
- Nhưng toa không biết trong quân đội hơn nhau chẳng những trên cấp bực mà còn qua thâm niên quân vụ nữa. Làm sao Tướng Trị chỉ huy được các ông Thiếu Tướng hay Trung Tướng khác?
Vậy tôi xin hỏi cấp bực anh là gì? Tại sao anh đứng đầu cả xứ trong đó có quân đội. Vấn đề là chỉ huy bằng chức vụ, không bằng cấp bực. Tổng Thống De Gaulle chỉ là Thiếu Tướng, Tổng Thống Nasser chỉ là Ðại Tá thôi.
It lâu sau Tướng Nguyễn Bảo Trị được vinh thăng Thiếu Tướng và được bổ nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn III, sau đó ông là Tổng Trưởng Thông Tin trong nội các chiến tranh. Với tư cách là Tư Lệnh, Tướng Trị có quyền sinh sát trên tòa án quân sự vùng III. Một hôm ông Kỳ gọi tôi lên phủ Thủ Tướng gấp.
- Ông Tư Lênh vùng III cho biết bắt được một tàu buôn thuốc bắc lậu rất lớn, việc này có trực tiếp dính đến ông Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó Thủ Tướng của mình. Toa nghĩ sao? Xử hay không xử?
Tôi thấy việc này quan trọng quá, nếu xử thì khủng hoảng nội các, mang tiếng với quốc dân, xáo trộn trong quân đội bởi lẽ Tướng Có còn nhiều tay em nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội. Nếu không xử thì mình giẫm chân lên lập trường và lý tưởng của mình. Theo tôi thì tạm thời giả dại qua ải rồi tùy thế, tùy thời anh liệu mà xử lý về sau. Anh hỏi thì tôi phải nói ý tôi, chứ sự thật chỉ có một mình anh lượng định tình hình và lấy quyết định mà thôi, không ai có thể xía vào chuyện này được. Dù thế nào tôi vẫn ủng hộ quyết định của anh.
Chuyện buôn lậu được bỏ qua, về sau có một vụ buôn vãi lậu ở Biên Hòa dính dán Tướng Có, cũng bỏ qua. Nhưng kết cuộc Tướng Có bị buộc phải lưu vong ở lại Hong Kong sau một chuyến đi ngoại quốc.
|
Nội các chiến tranh và miền Trung rối loạn
|
- Tại anh không đủ khéo léo hoặc không chịu giãi bày cặn kẽ những khó khăn.
- Thì cậu giỏi thử nói chuyện với mấy ông ấy xem nào?
- Nếu anh đồng ý thì anh phải thông báo cho mấy ổng rằng anh cho phép tôi đại diện.
- Tôi sẽ báo với họ.
Tôi yêu cầu anh Trần Văn Lộc, Công Cán Ủy Viên của tôi, tự xưng là đệ tử của Thượng Tọa Thích Thiện Hoa, tổ chức cho tôi gặp quý vị thượng tọa tại tư gia của anh. Trong hai lần tiếp xúc với các vị đó, cho dù tôi có nhẹ giọng, giải thích tận cùng nhu cầu ổn định, khó khăn đang phải đương đầu với cộng sản, sự nguy hại vì kẻ địch đang lợi dụng tình hình để trà trộn và xách động vân.... vân, tôi chỉ nghe đi nghe lại một câu: Nếu chính phủ không bằng lòng như vậy, không làm như vầy, thì sớm muộn chính phủ cũng phải đổ. Tôi đành ghi nhận sự thất bại của mình có lẻ còn thê thảm hơn Tướng Kỳ đã gặp phải, cho nên khi tôi báo cáo lại với Tướng Kỳ, ông cười chế nhạo, mỉa mai:
- Ủa vậy sao? Toa vẫn khoe mình tài ba, khôn khéo mà?
- Tôi thú nhận mình vừa ngây ngô vừa chủ quan, xin Thiếu Tướng thông cảm và bỏ qua cho.
Tình thế mỗi ngày một xấu đi, Tín đồ Phật Giáo biểu tình liên tục. Từ Saigon lan ra Ðà Nẵng, Huế. Cường độ chống chính phủ ngày càng tăng. Tình hình chính trị ở miền Trung trở nên nguy hiểm. Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh vùng I chiến thuật hình như làm ngơ, không bày tỏ một thái độ nào để giải quyết tình hình. Thái độ và hành động của Tướng Thi, Tư Lệnh Quân Ðoàn I buộc chính phủ phải thay thế ông, nhưng nếu bứt sợi dây Nguyễn Chánh Thi, sợ động khu rừng miền Trung đang sắp cháy lớn. Vì vậy, Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương phải đánh lừa Tướng Thi bằng cách mời ông về Saigon họp Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia. Khi về tới sân bay Tân Sơn Nhứt, Ðại Tá Loan chờ sẵn và thông báo quyết định của chính phủ đưa ông đi Mỹ tị nạn với lý do là để chữa bệnh. Giấy thông hành và chiếu khán nhập cảnh có sẵn. Ông phải lựa chọn hoặc đi Mỹ hoặc vào quân lao. Dĩ nhiên ông chọn biệt xứ còn hơn đi tù. Trong khi chờ đợi và thương lượng tại phòng khách danh dự, báo chí hỏi ông đi Mỹ chửa căn bệnh gì? Ông trả lời một cách mỉa mai là “bệnh thúi mũi”! Sau đó hội đồng Tướng Lãnh và Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia mới nhóm họp quyết định với 32 phiếu thuận và 4 phiếu trắng cho Tướng Nguyễn Chánh Thi nghỉ việc. Tướng Kỳ cử Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân Thay thế. Hơn một tháng sau Tướng Tôn Thất Ðính thay thế Tướng Chuân.
Có lẻ cũng nên đi ngược dòng thời gian một chút mới lý giải được tại sao miền Trung đang ngầm cháy qua những cuộc biểu tình, tuyệt thực, đình công, bãi thị, thì lại thêm lon dầu đổ ụp vào, nên phát cháy ngày càng dữ dội như vậy. Lon dầu đó là lời tuyên bố thiếu kiểm soát của Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương trong một cuộc họp báo tại Tổng Tham Mưu về hiện tình đất nước. Cuộc họp báo có sự hiện diện của toàn thể thành viên Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Cuộc họp báo kết thúc tốt đẹp, các tướng lãnh có trách nhiệm điểm qua tình hình, trình bày biện pháp ổn định và trả lời những câu hỏi của đông đảo ký giả trong và ngoài nước. Thành viên dân sự không có ai phát biểu. Mọi người đứng dậy ra về, đột nhiên có một nhà báo hỏi câu bằng tiếng Việt, không biết người đó là thông dịch viên của báo ngoại quốc hay ký giả báo Việt Nam:
- Thiếu Tướng nghĩ gì về bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn, Thị Trưởng Ðà Nẵng?
- Thằng đó là cộng sản!
Tức thì đèn flash của máy ảnh chớp lia lịa, đèn pha của ống kính truyền hình phựt sáng, ký giả nhôn nhao hỏi tiếp. Chung quy hỏi về thái độ của trung ương và biện pháp đối phó. Xong cuộc họp báo tôi bảo tài xế đưa về trại Phi Long, đến tư dinh của Thiếu Tướng Kỳ. Vừa bước vào nhà, tôi thấy ông mặt hơi buồn, lộ vẽ lo âu. Tôi cũng không muốn nhồi cho nặng thêm về câu nói sơ ý, lỡ lời của ông. Tôi chỉ hỏi sơ qua ông nghĩ gì và ý định trong tương lai? Ông cũng chẳng thèm giải thích vắn dài chỉ buông trỏng một câu: “Ðằng nào thì cũng phải đối phó với tình hình”. Sau khi bàn sang chuyện khác cho có lệ tôi kiếu ông ra về. Những ngày kế tiếp, nghĩ đến phản ứng dấy lên từ nhiều nơi, tôi rất lo nhưng mọi biện pháp đối phó ở ngoài tầm tay của tôi trong lúc đó.
Nhân cơ hội này, thiết tưởng cũng nên nói về Bác Sĩ Nguyễn Văn Mẫn, để mọi người hiểu rõ về một nhân vật không giống như báo chí hay người ngoài tô vẽ về ông. Tôi quen biết BS Mẫn Giám Ðốc bệnh viện Huế trong một cuộc hội thảo tại Huế do ông và một số giáo sư, trí thức Huế và Saigon tổ chức. Ðề tài thảo luận về chiến tranh Việt Nam. Câu hỏi đặt ra: cuộc chiến nầy là chiến tranh ý thứ hệ hay chiến tranh huynh đệ tương tàn? Kết luận là chiến tranh ý thức hệ. Mẫn là con người ham vui, người bạn tốt, không thích chính trị, chỉ thích cờ bạc vui chơi với bạn bè thôi. Mẫn và tôi trở thành đôi bạn chí thân, xưng với nhau mầy tao như thuở còn đi học ở trường, mặc dù anh và tôi không phải là đồng song. Sau biến cố miền Trung, anh rất sợ hãi. Anh thuật lại đầu đuôi chi tiết rõ ràng anh không phải là chính trị gia, càng không phải là cộng sản. Trong một buổi tiếp tân, Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi nói chuyện với anh và bày tỏ:
- Tôi đang cần một ông Thị Trưởng Ðà Nẵng. Tôi cử anh về đó nhé.
- Không được Trung Tướng. Tôi không biết chính trị mà cũng không thích chuyện đó. Ðối với tôi giám đốc bệnh viện là an nhàn, sung sướng lắm rồi.
- Tôi cho anh hai con đường phải lựa chọn: một là Thị Trưởng Ðà Nẵng, hai là Bác Sĩ Quân y.
- Trung Tướng nói chơi hay nói thật?
- Nói thật.
- Tôi là chuyên viên đâu cần phải đi lính.
- Ði lính rồi biệt phái hay không còn tùy bộ y tế và bộ quốc phòng.
- Vậy thì tôi chọn Thị Trưởng Ðà Nẵng.
Ông Thị Trưởng tay mơ, điều khiển một thị trấn phức tạp biết nghe ai cố vấn bây giờ?
Mẫn nói với tôi:
- Tao mặc kệ để cho mấy thằng đàn em làm sao thì làm. Phần tao vui chơi qua ngày, về Huế gặp anh em hoài tao thấy cũng vui. Cho đến ngày ông Kỳ tố tao là cộng sản. Thì rõ ràng tao hết đường chạy rồi. Tao liều mạng chỉ thị cho đài phát thanh Ðà Nẵng quay về hướng chính phủ Saigon chửi xả láng, mấy anh tranh đấu lợi dụng ăn có thả giàn. Kết cuộc đêm đó tao biết tin Saigon sẽ ra đánh chiếm, tao ra ngoài bờ ruộng trốn tránh, không ngờ súng nổ tứ phía, tao đầu hàng và bị bắt. Cầm lấy cái chết trong tay tao thấy nó lãng nhách. Nhưng biết làm sao? Thôi thì lỡ rồi thí mạng cùi luôn. Ngày hôm sau họ giải tao về Saigon, có hai toán lính khác nhau canh chừng. Một là cảnh sát hai là quân cảnh. Ði trên máy bay quân sự tao tin chắc, nửa đường họ sẽ đạp tao xuống, thủ tiêu không dấu vết. Vì vậy tao van xin mấy anh lính: Tôi van xin các anh, trước khi đạp tôi rơi xuống đất xin các anh làm phước bắn vào đầu tôi một viên, nhiều viên càng tốt, để tránh tình trạng lỡ rơi xóc vào ngọn cây bị thương lơ lửng giữa trời đau khổ lắm.
- Chúng tôi không đạp Bác Sĩ xuống đâu. Chúng tôi có nhiệm vụ giải giao và bảo vệ bác sĩ đến nơi đến chốn.
Về Saigon tòa xử Nguyễn Văn Mẫn tử hình. Bạn thân của Mẫn là anh Nguyễn Văn Trường, đương kim Tổng Trưởng Giáo Dục thời đó, xin được phép thăm Mẫn lần cuối. Trước khi đi anh Trường còn cho tôi biết và dặn dò nếu có gì bất trắc xẩy ra cho anh thì tôi phải can thiệp với Tướng Kỳ ngay, bởi vì ai cũng biết Tướng Nguyễn Ngọc Loan hành động ẩu tả theo hứng, bất cần luật pháp. Mẫn bị nhốt trong xà-lim không biết ngày, biết tháng, biết giờ, nằm chờ chết. Gặp Nguyễn văn Trường, Mẫn vô cùng mừng rỡ và cảm động. Mẫn hỏi xin Trường chiếc đồng hồ đang đeo trên tay để biết được ngày giờ. Trường lột cho.
Tuy nhiên, án thì án vậy thôi chứ Mẫn không bị hành quyết cho đến ngày được Thủ Tướng Trần Văn Hương ân xá. Sau khi được thả, Nguyễn Văn Mẫn tiếp tục vui chơi không cần biết chính trị chính em gì cả. Lời tố cáo của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ hại Bác Sĩ Mẫn bị kết án tử hình vì tội cộng sản. Do đó bọn cộng sản lợi dụng, tưởng Bác Sĩ Mẫn là “phe ta” thật, nên cứ rình mò đến nhà Mẫn ở đường Tự Ðức, rủ rê ra “bưng” gia nhập kháng chiến! Mẩn sợ hết hồn, ỡm ờ viện dẫn đủ mọi lý do để từ chối, lại còn khuyên bọn người nầy không nên trở lại vì anh đang bị chính quyền theo dõi.
Sự thật chuyện của Mẫn đã qua rồi, hành động vui sống và xa lánh chánh trị của anh rõ ràng, nên không còn ai để ý tới anh nữa. Còn phía Việt cộng thì không chịu buông tha anh, cứ tới lui khuyến dụ. Về sau này gặp Mẫn khi anh sang sống tại Paris, Mẫn khai thật với tôi:
- Hôm nào tao đánh phé ăn thì tao cho họ vài ba chục ngàn nói là để ủng hộ kháng chiến, hôm nào tao không có tiền thì than thở, nài nỉ họ biểu đừng tới nữa, nếu cảnh sát khám phá ra thì chắc tao sẽ bị tử hình thật. Ðến tháng 4 năm 1975, Vũ Văn Mẫu cũng tưởng Mẫn là cộng sản hay ít ra cũng có liên hệ với họ nên đã mời anh ta giữ chức Phó Thủ Tướng được một hai ngày.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhờ sự giao dịch và ủng hộ tiền mà Mẫn được “báo công” và cộng sản Hà Nội cho anh ta tiếp tục làm việc tại bệnh viện Sùng Chính dưới quyền của một Bác Sĩ “i-tờ-rít”, luôn mồm nói: Mọi việc đều nhờ BS Mẫn giải quyết. Cùng lúc đó Mẫn được cử làm đại diện công đoàn của công nhân bệnh viện. Do đó Mẫn nhận được mọi sự dễ dãi, nên anh ta mới lợi dụng cơ hội để vượt biên. Mẫn vượt biên trên dưới gần chục lần. Có khi bị bắt chịu tù đày, bệnh hoạn, ghẻ chốc còn để nhiều thẹo bầm đen trên mình, có khi thoát thân được trốn chui trốn nhủi. Năm 1992 Mẫn và tôi gặp lại nhau bên Pháp, nhờ nghe tên tuổi tôi trên đài phát thanh RFI (Radio France Internationale), Mẫn cười nói với tôi rằng Hai lần anh ta trốn ở Saigon là đến nhà tôi ở, ngủ trong phòng ngủ của tôi bởi vì anh nghĩ: “Tao ngủ trong phòng ngủ của mầy là an toàn nhứt, bởi vì tụi nó đã bắt mầy đi tù rồi thì còn ai dám vào nhà mầy nữa? Vì nghĩ như vậy tao ăn ở đó thoải mái và tìm đường được đường vượt biển nữa”. Tôi nói với Mẫn:
- Hèn chi khi tao được trả tự do về nhà thấy hai quyển sách hồi ký của Thủ Tướng Anh quốc Wilston Churchil mất. Tao hỏi mấy đứa con tại sao mất? Tụi nó nói không biết bác Mẫn có lấy không, bởi vì bác có ở trong phòng của ba hai lần, chứ tụi con không có cho ai mượn cả.
Bác sĩ Mẫn tốt nghiệp Ðại Học Y Khoa Toulouse, Pháp, nội trú bệnh viện (interne des hopitaux) thời đó là thuộc hạng bác sĩ giỏi. Nhưng lần nầy, khi trở lại Pháp ông nổi tiếng nhờ hành nghề châm cứu và ông cấm bệnh nhân của ông dùng thuốc tây. Tiếng tăm lừng lẫy, thân chủ đông nghẹt, nên Mẫn có biệt danh là bác sĩ làm phép lạ “Docteur Miracle”.
Cái chết của Mẫn tại Pháp cũng lạ thường. Anh đau tim trầm trọng, không ăn uống hơn một tháng, chỉ sống dai dẳng bằng nước thuốc chuyền vào máu, cho đến khi các giáo sư thượng thặng bó tay, khuyên gia đình đem ông về nhà lo việc mai táng. Tôi vào nhà thương thăm, anh tỏ vẻ cảm động nói: “Ít ra trước khi chết tao cũng gặp được mặt mầy”. Gia đình đưa Mẫn về nhà, tôi phụ giúp lo việc hậu sự cho anh. Mẫn bảo với vợ rằng anh thèm phở quá, trước khi chết muốn ăn một tô phở thật ngon. Gia đình thỏa mãn yêu cầu. Ăn vào thấy khỏe, dù bác sĩ cấm và anh cũng biết là ăn vào có thể chết ngay. Ngày hôm sau anh lại đòi một tô phở nữa, gia đình cũng chìu ý. Mẫn thấy người khỏe lại hẳn, nhưng vì là Bác Sĩ, nên anh biết rõ đó là việc không nên, do đó Mẫn ngưng ăn phở ngay và tự giới hạn chuyện ăn uống tối đa cho đến khi bình phục khá nhiều, anh trở lại bệnh viện tái khám. Bác Sĩ và Giáo Sư y khoa đã từng chữa bệnh cho anh ngạc nhiên không biết vì sao? Không thể tìm hiểu lý do nào đã làm cho anh lành bệnh?
Trong khi đó thì phòng mạch của anh đã “sang bán” cho người ta vì gia đình tin tưởng anh sẽ qua đời. Bây giờ phải mướn lại một nơi khác để hành nghề được hơn ba năm nữa. Mẫn và tôi thường gặp nhau những chiều thứ bảy, nhưng hôm đó tôi thấy sức khỏe anh suy yếu nhiều, hai đứa tâm sự đến khuya, tôi bắt tay từ giã, Mẫn kéo tôi ngồi xuống nói: “Mầy không ở chơi với tao được vài giờ nữa sao? Tao buồn quá”! Lời nói cuối cùng. Mấy hôm sau khi tôi đang ở Bruxelle, Bỉ quốc, Nguyễn Văn Phát con trai của Mẫn, gọi điện thoại báo tin: “Ba vào nhà thương khẩn cấp, sắp lâm chung”. Tôi vội vã về Paris, tới bệnh viện, Mẫn nhìn tôi nước mắt trào. Chiều hôm đó Mẫn về với chúa. Tôi mất đi một người bạn tốt, người bạn đã từng mang tiếng oan là chính trị gia thân cộng sản
| |
Trong những cuộc biểu tình hung hăng ở miền Trung, nhiều nơi xuất hiện “Ủy Ban Nhân Dân Cứu Quốc”. Lực lượng an ninh của ta bắt được một số sĩ quan VNCH nội gián. Nhiều lần phi cơ của không quân có gắn bom đầy cánh bay sà trên đầu người biểu tình như một cách khuyến cáo. Tướng Walt của TQLC Mỹ dọa sẽ bắn hạ những phi cơ VNCH nào can thiệp vào tình hình miền Trung và tướng Walt đòi gặp tướng Kỳ.
Tướng Nguyễn Cao Kỳ gọi tôi vào dinh và cho tôi biết tin này trong sự bực tức và bối rối. Tôi nghe qua góp ý liền:
- Mình cứ thách thức thử xem Tướng Walt dám thực hiện lời hăm dọa của ông ta không. Ðồng thời, báo cho ông ấy biết ông chỉ nói chuyện với Tổng Thống Johson mà thôi. Tướng Walt không đủ tư cách để hầu chuyện với ông. Mặt khác tôi đề nghị Thiếu Tướng gọi cho ông Bác sĩ Trần Văn Ðỗ, Tổng Trưởng Ngoại Giao của mình triệu kiến Ðại sứ Cabod Lodge đúng cung cách ngoại giao chứ không mời mọc gì cả. Ông phải “mắng vốn” với ông Lodge về vụ này bằng lời lẽ càng nặng càng tốt.
Tôi ngồi thảo luận về tình hình với Tướng Kỳ độ 20 phút, Thiếu Tá Liệu vào thông báo: Ðại Sứ Lodge xin được gặp. Tôi chào ông Ðại Sứ và bước ra phòng tùy viên ngồi chờ. Ðộ nửa giờ sau Ðại Sứ Lodge ra về, tôi vào hỏi Tướng Kỳ:
- Thế nào?
- Ông ta xin lỗi trối chết.
Tuần lễ sau Tướng Walt bị thuyên chuyển về Mỹ không khi nào trở lại.
Trên đây tôi chỉ trích dẫn một vài điểm chính trong quyển sách của Ðoàn Thêm để chứng minh tình hình chính trị của thời điểm đó vô cùng hỗn độn, và nếu đọc hết quyển “Việc Từng Ngày” của Ðoàn Thêm năm 1966 sẽ thấy những chuỗi ngày xáo trộn đó rất nguy hại chẳng những cho sự tồn tại của nội các mà còn có nguy cơ bị Cộng Sản lợi dụng xâm nhập tràn lan hoặc cướp chính quyền ở nhiều nơi. Bằng cớ là thông qua ngôn ngữ họ dùng như “Tranh Thủ Cách Mạng, Nhân Dân Cứu Quốc” rất xa lạ với lời lẽ thông thường của người miền Nam sử dụng trong những cuộc biểu tình chống đối. Rõ ràng tình trạng vô cùng nguy ngập. Nguy ngập đến độ một đại diện Quốc Dân Ðảng từ Quảng Ngãi vào xin gặp tướng Kỳ, yêu cầu chính phủ cung cấp súng đạn cho đảng viên ở miền Trung để chiến đấu với Cộng Sản đến cùng nếu bọn chúng cướp chính quyền. Nguy ngập đến độ Tướng Kỳ xiêu lòng nói: “Chính phủ không có quyền cung cấp súng cho đảng phái này mà không cho đảng phái khác. Nhưng trong kho của quân đội có một số súng carbine mà bây giờ không còn sử dụng nữa, chúng tôi có thể giả vờ làm ngơ, hẹn với các ông một địa điểm nào đó rồi trực thăng bỏ rơi súng đạn xuống, các ông tự động lượm về mà dùng”. Vị đảng viên này tỏ vẻ hài lòng sung sướng cám ơn ra về. Tôi đưa ý kiến:
- Nếu đông đảo đảng viên Quốc Dân Ðảng có trang bị vũ khí thì sau cơn hỗn loạn được bình định rồi, mình có thể tước vũ khí của họ được không? Thiếu Tướng suy nghĩ kỹ xem.
- Ừ nhỉ, cũng không phải vô lý.
Tôi chỉ biết câu chuyện tới đây, còn về sau Tướng Kỳ quyết định như thế nào, có cung cấp vũ khí cho Quốc Dân Ðảng hay không? Bí mật đó tôi không được biết.
Phải chăng là Việt Cộng toan tính dựa vào hỗn độn để cướp chính quyền thời gian đó không thành nên họ phải chờ đến Tết Mậu Thân mới tổng tấn công. Trong tình thế khẩn cấp, chính phủ không còn đường lựa chọn. Vả lại Tướng Kỳ cũng đã từng tuyên bố một hai lần sẽ dùng biện pháp mạnh nếu cần.
Việc đầu tiên là phải cử tân Tư Lệnh Vùng I sau khi đẩy tướng Nguyễn Chánh Thi ra khỏi quyền lực. Tướng Kỳ nghĩ rằng chọn một ông Tướng theo đạo Công Giáo thì có thể tin cậy được. Do đó ông gọi Tướng Huỳnh Văn Cao đến phủ thủ tướng. Hôm đó cũng có sự hiện diện của tôi, sau khi Tướng Kỳ thông báo ý định giao chức Tư Lệnh Quân Ðoàn I cho ông, Tướng Huỳnh Văn Cao đứng phắt dậy chào nói: “Tôi xin tuân lệnh chính phủ”. Việc đó được thực hiện đúng theo quyết định của Tướng Kỳ. Nhưng không ngờ sự kiện xảy ra vô cùng bi đát. Thực tế diễn biến ra sao tại Bộ tư lệnh quân khu I, tôi không biết chi tiết, chỉ biết rằng Tướng Huỳnh Văn Cao không dám thi hành được lệnh tướng Kỳ giao cho mà lại đi lánh mặt trong văn phòng của cố vấn quân sự Mỹ. Hậu quả là sau khi tình hình được ổn định, Huỳnh Văn Cao bị đưa ra tòa quân sự mặt trận để lãnh án.
Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, khẳng định ông là đàn anh của Ðại Tá Ðàm Quang Yêu, đề nghị để cho ông ta bay ra Ðà Nẵng giải quyết mọi việc. Tướng Kỳ đồng ý, hy vọng ông Có sẽ dùng tình cảm và uy tín để thuyết phục nhóm quân nhân gây loạn ở miền Trung. Không ngờ Tướng Có vừa tới Ðà Nẵng bị Ðàm Quang Yêu bắt quản thúc tại Văn Phòng. Chính phủ Trung ương bị bó tay.
Mọi biện pháp đối phó, mọi phương cách giải quyết vấn đề trong cơn hỗn loạn này không hề được bàn thảo trong nội các. Ðiều đó chứng tỏ nội các không phải là một nhóm người đồng tâm chia sẻ cùng một lập trường, một chí hướng. Sống trong hoàn cảnh đó mới thông cảm được sự cô đơn của Tướng Kỳ và thán phục lòng can đảm ý quyết đoán của ông trong tình thế nguy ngập. Khoảng thời gian này, Tướng Kỳ thường gọi tôi lên phủ thủ tướng, hoặc để chia sẻ lo âu, hoặc để hỏi ý, bàn chuyện. Có một ngày ông lộ bí mật, căn dặn phải giữ kín, dù căn dặn thừa nhưng ông vẫn lập đi lập lại. Sau đó mới nói:
- Moa quyết định đưa quân ra tái chiếm Ðà Nẵng
|
Một nhân vật khác có liên hệ với tôi, đó là Giáo Sư Lý Chánh Trung. Tôi không thể không nhắc tới nhân vật này, vì thiết nghĩ khi đã viết hồi ký, phải viết đúng sự thật, dù sự thật ấy có thể không làm hài lòng anh Lý Chánh Trung, nhưng tôi đã hứa viết sự thật, chỉ sự thật mà thôi, không thêm bớt che giấu, vì tôi biết đa số các chứng nhân còn sống kể cả anh Trung.
Lý Chánh Trung và tôi quen biết nhau từ khi còn du học bên Pháp, Lý Chánh Trung học ở Louvain, Bỉ quốc gần Paris, chỉ cách xa có hơn hai trăm cây số. Trung và tôi nhiều lần ăn cơm chung tại quán ăn rẻ tiền của Liên Ðoàn Công Giáo Việt Nam. Về Sài Gòn cùng nhau hoạt động trong hội trí thức Công Giáo, thân nhau như ruột thịt, xưng hô mày tao, tôi là bố đỡ đầu (god father) của con gái Trung là Thúy Lan. Từ làng đại học Thủ Ðức, Trung thường xuyên lên xuống Sài Gòn, hoặc đi dạy ở đại học, hoặc thường đến nhà tôi, tiền xăng nhớt làm thâm hụt ngân sách gia đình của Trung nên tôi rất thường cho con gái đỡ đầu của tôi, bốn tuổi, mỗi lần vài chục ngàn đồng, tiếng là cho con gái nhưng sự thật là tôi muốn giúp cho gia đình Trung dễ thở hơn. Thời gian sau khi tôi giao tiền cho Ngô Công Ðức làm báo Tin Sáng tôi có nhờ anh Lý Chánh Trung viết bài, mỗi bài tôi sẽ trả cho anh hai chục ngàn đồng nhuận bút. Tiền nhuận bút một bài báo thời đó cao lắm là một hoặc hai ngàn đồng là tối đa. Trung nói:
- Tao không từng viết bài để đăng báo. Từ hồi nào đến giờ có khi nào tao viết cho báo đâu?
- Thì mày cứ suy nghĩ về những vấn đề quan trọng của đất nước và lý giải một cách thuận lý thôi. Ai cũng khen mày viết lách hay mà. Mày viết độc giả có lẽ sẽ thích.
- Ừ, cứ nghe mày xúi cái đã, để tao thử xem.
Thực tế bài viết của Lý Chánh Trung thời đó được sự chấp nhận và ưa thích của độc giả. Nhưng chính tôi phải xuất tiền túi trả cho Lý chánh Trung gần cả chục bài đầu tiên. Sau đó tôi bảo Ngô Công Ðức trả tiền cho Lý Chánh Trung, Ðức phản đối nói bài báo gì mà hai chục ngàn? Ngô Công Ðức nhất định không trả. Tôi ngưng không đưa bài của Trung viết cho Ðức nữa dù sự thật là tôi đã trả tiền nhuận bút rồi nhưng còn giữ bài lại trên bàn giấy. Mấy hôm sau Ðức tới nhà hối thúc tôi xin bài của Lý Chánh Trung vì những bài đó “ăn khách”. Ðức hứa với tôi sẽ trực tiếp trả đúng số tiền cho Lý Chánh Trung.
Báo Tin Sáng đóng cửa vì Ngô Công Ðức thất cử Dân Biểu và vượt biên. Tin Sáng biến thành Ðiện Tín, Lý Chánh Trung vẫn tiếp tục viết cho đến khi tôi xuất bản báo Ðại Dân Tộc, tôi tâm sự với Trung :
- Mới ra báo tao không thể trả cho mày hai chục ngàn đồng một bài mà chỉ trả phân nữa tiền là mười ngàn thôi. Số tiền đó cũng đã nhiều quá rồi. Vả lại ngày xưa tao buộc thằng Ðức phải trả tiền như vậy là để giúp mày chứ bài báo gì mà trị giá hai chục ngàn?
Rồi có một ngày Lý Chánh Trung viết bài cho báo Ðiện Tín mà anh không viết cho Ðại Dân Tộc. Tôi có yêu cầu anh quản lý Nguyễn Văn Tịnh của Ðại Dân Tộc đi Thủ Ðức hỏi Lý Chánh Trung cho biết lý do tại sao? Anh quản lý trả lời với tôi: “Ông Trung bận việc quá không viết được và nói dù sao hai chục ngàn đồng một bài cũng dễ viết hơn là mười ngàn một bài”.
Tôi ngỡ ngàng, kinh ngạc. Ðáng lý ra dù Ðại Dân Tộc không trả tiền đi nữa thì Lý Chánh Trung cũng nên ưu tiên viết cho tôi vì tình bạn. Với bạn, sao Lý Chánh Trung lại quá lý tài như vậy? Tôi quyết định cắt đứt liên hệ với Trung, không một lời oán trách, không cần giải thích lý do, bởi vì một người bạn xem trọng quyền lợi hơn tình nghĩa thâm giao thì còn gì phải nói nữa?
Có lần, Lý Chánh Trung ghé qua nhà và tòa soạn đưa bài nhưng tôi không tiếp, và cũng không hề đăng bài nào của anh kể từ ngày đó. Anh có nhờ Nguyễn Văn Trường, là bạn thân của hai đứa, điện thoại xin lỗi tôi và xin gặp tôi để giải thích, tôi không chấp nhận. Nói đến chuyện tiền bạc rõ ràng nó không đáng nói ra, nhưng không may điều đó có thể giải thích tại sao Lý Chánh Trung ngã theo cộng sản sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975 cũng, liệu có phải vì quyền lợi chăng? Tôi cho rằng, đó là bản chất của Trung chớ không phải lỗi lầm. Bởi vì trước ngày 30 Tháng Tư, Lý Chánh Trung có viết một văn bản văn viết tay, xác định ý kiến của nhiều anh em bàn thảo nói về, “chủ trương một xã hội công bằng, tả khuynh không cộng sản” mà chúng tôi chưa phổ biến. Tài liệu này khi xét nhà tôi công an thu được, đã tra hỏi tôi rằng chữ viết nầy không phải của tôi vậy là của ai? Tôi suy nghĩ dù có chỉ mặt chỉ tên, lôi người khác vào tù cộng sản thì cũng chẳng ích lợi gì. Sau vụ tiền nhuận bút, nhiều lần Trung gặp tôi trong những cuộc tiếp tân tại tư dinh của Ðại Tướng Dương Văn Minh, Trung bắt tay tôi, xin lỗi và hỏi:
- Bộ mày giận tao sao?
- Tao có gì mà phải giận mày?
- Thôi mọi chuyện đều do tao lầm lỗi hết, bây giờ tao xin lỗi mày.
- Chả có ai lỗi lầm gì với ai cả. Thôi bỏ chuyện đó, ta đi kiếm rượu uống đi.
Ngày bàn giao chức vụ Tổng Thống giữa Trần Văn Hương và Dương Văn Minh tại dinh Ðộc lập, sau buổi lễ tôi rủ Nguyễn Văn Binh đi ăn cơm, Trung chạy theo xin cho đi cùng, tôi từ chối khéo, bảo có chuyện riêng phải nói với Binh, kỳ thật chẳng có việc riêng gì cả. Sau 30 tháng 4 năm 1975, Lý Chánh Trung được cử làm Ðại Biểu Nhân Dân Sài Gòn. Tháng 3 năm 1976, sau khi đi tù hơn 5 tháng, tôi được thả ra như một miếng mồi để họ gạ tôi hợp tác với “cách mạng”. Tôi “được” gọi theo học khóa huấn luyện Mác-Lênin tại trụ sở Nhà Văn Hóa Ðức hồi trước 1975.
Có một buổi học sáng do giáo sư Cương, trưởng ban triết học Mác-Lênin Hà Nội giảng, có sự hiện diện của Ðại Biểu Nhân Dân Lý Chánh Trung tham dự và anh được Giáo Sư Cương đề cao khen ngợi. Ðến giờ giải lao tôi biến mất đứng ở nhà sau, rồi qua câu lạc bộ giải lao, Trung nhờ nhiều bạn cũ đi tìm tôi không được. Cuối cùng Lâm Ngọc Diệp nắm tay tôi lôi ra sân trước nói:
- Thằng Trung nó nhờ anh em đi kiếm mày quá trời mà mày đi đâu vậy?
- Tao biết nó sẽ kiếm tao, nên mới chuồn, gặp nó chi cho thêm bực.
Diệp cười xòa. Nhưng rồi Trung cũng kiếm được tôi.
Tôi còn nhớ khi đó có mặt cả giáo sư Vũ Quốc Thúc, cựu Quốc Vụ Khanh, Nguyễn Kiến Thiện Ân cựu Tổng Trưởng Kinh Tế, cựu Phó Thủ Tướng Dương Kích Nhưỡng, Luật Sư Bùi Chánh Thời, Tiến Sĩ Lâm Văn Sĩ, Trung nói:
- Tao kiếm mày quá mà mày đi đâu mất tiêu?
- Mày kiếm tao làm gì?
Tao có chuyện muốn nói với mày.
- Tao với mày bây giờ còn gì để nói với nhau? Một thằng là Ðại Biểu Nhân Dân, Một thằng là tù cải tạo mới được trả tự do tạm thời, có điều gì để nói với nhau chứ?
- Mày sao lúc nào cũng vậy hè?
- Tao chưa đổi tên đổi họ nên lúc nào cũng là tao thôi.
Trung hơi sượng nhưng vẫn làm ra vẻ bình tĩnh trước mặt anh em. Sau mười một năm tù, tôi được thả năm 1988. Về nhà con trai tôi nói bác Lý Chánh Trung có ghé nhà nói bác có can thiệp cho ba. Tôi cười trả lời với con rằng, “Chẳng có thằng nào can thiệp được cho ba cả”, nhưng dù sao người ta có lòng mình phải đi cám ơn. Tôi bèn nhờ anh Nguyễn Văn Trường chở tôi đến văn phòng Lý Chánh Trung ở đường Thống Nhứt cạnh Tòa Ðại Sứ Mỹ ngày xưa. Trước khi đi tôi căn dặn Nguyễn Văn Trường: “Toa phải can moa liền và chở moa về tức khắc, nếu moa có nặng lời hay lớn tiếng với thằng Trung, bởi vì lớn tiếng vô ích và có khi bất lợi cho moa”. Trường hứa chắc.
Nhưng thực tế, do Lý Chánh Trung phát biểu những điều trái tai nên tôi có nặng lời lớn tiếng, buổi nói chuyện gần hai tiếng đồng hồ vô bổ mà còn bực mình. Tôi trách Nguyễn Văn Trường tại sao không giữ lời hứa. Trường trả lời: “Moa không can bởi vì đối với thằng Trung toa có thể nói như vậy được”. Về nhà tôi thấy buồn vì đã làm một việc vô bổ ngay từ khi mới ra tù.
Trong thời gian còn ở lại Việt Nam có một ngày bà giáo sư Tô Thị Ánh, chị vợ tôi, mời tham dự đám giỗ nhạc gia của tôi, có sự tham dự của Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trường, Giáo Sư Trần Văn Tấn, cựu Viện Trưởng Viện Ðại Học Sài Gòn, Kỹ Sư Hồ Xích Tú, Giáo Sư Nguyễn Khắc Dương. Chị Ánh lưu ý tôi rằng:
- Bữa nay đám giỗ ba, đừng có chửi anh Trung trước mặt bạn bè đấy nhé.
- Tôi mắc mớ gì mà phải chửi nó.
Nhưng cây muốn lặng mà gió đừng, giữa bữa ăn, trong câu chuyện tôi không nhớ chúng tôi nói về điều gì đó mà đột nhiên Lý Chánh Trung nói:
- Tôi là đồng hành với cộng sản chớ tôi không phải đồng chí của họ.
Làm sao tôi im lặng được trước câu nói ngớ ngẩn với mục đích biện hộ của anh ta như vậy? Tôi bèn xổ ra từng tràn:
- Mày đồng hành hả? Có giống như các đảng phái quốc gia đồng hành với bọn cộng sản trong tổ chức “Việt Minh Cách Mạng Ðồng Minh Hội không”? Họ bị thủ tiêu hết, tại sao mày không bị thủ tiêu? Mày Ðồng hành sao mày muối mặt viết bài “Xin cho được gọi bằng Bác” sau khi cộng sản chiếm Sài Gòn? Mày đồng hành sao mày cho con Thúy Lan vô đảng? Sao mày hãnh diện cho Thằng Dưỡng đi bộ đội và tạo cơ hội cho nó lấy con gái một anh đại tá Việt Cộng. Ðối với cộng sản không có chuyện đồng hành, chỉ có qui hàng trở thành nô bộc, hay đồng đội luôn luôn phục tùng.
Thấy gay cấn, cả bàn ăn can gián, làm bữa tiệc mất vui. Sau cơn nóng giận,tôi cũng ân hận vì không giữ được sự hòa khí trong ngày giỗ của nhạc gia mình.
Bây giờ viết lại mấy dòng này tôi thấy lòng vẫn buồn nhiều hơn oán trách. Tiếc nuối cho tuổi thanh xuân của mình, của bạn bè, không biết kết hợp lại với nhau, đem khả năng để phục vụ đất nước và thay vào đó đã phân tán, kẻ đầu hàng Cộng Sản, người phản bội lại chính mình, người thất bại bị tù đày chết chóc.
Cụ Trần Văn Hương
Từ Pháp tôi về Việt Nam trễ hơn một số bạn bè, nhiều anh em ca ngợi cụ Trần Văn Hương đủ điều, nào là một người trong sạch, nào là một chính nhân quân tử, nào là người miền Nam có khí khái có bản lãnh. Thời điểm đó, cụ đang bị Tướng Nguyễn Khánh giam lỏng trong một biệt thự ở Vũng Tàu tịch thu của giám mục Ngô Ðình Thục. Tôi cũng tò mò tìm hiểu về nhiều chính trị gia khác như các ông Trần Văn Tuyên, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Văn, nhóm Caravelle, Phan Khoan, Cổ Văn Hai, vân vân, những người chống đối sự lạm quyền sai trái của chế độ gia đình trị.
Tóm lại, sau khi tìm hiểu, tôi nhận thấy chính trị ở thời điểm đó dựa vào uy tín cá nhân nhiều hơn lập trường và lý tưởng. Ðảng phái thì có quá nhiều, con số gần tới bốn mươi. Cương lĩnh đảng nào cũng phải kèm theo những câu như “chống cộng sản” hay “không cộng sản”. Rất nhiều đảng chỉ còn danh xưng mà không có thành viên, thậm chí có đảng không còn ban chấp hành hợp lệ. Dĩ nhiên mạnh nhứt vẫn là Ðại Việt và Việt Nam Quốc Dân Ðảng. Còn về lập trường thì ngoài ý chí chống cộng sản, không ai tuyên bố được rõ ràng đường lối và chủ trương xây dựng, phát triển quốc gia như thế nào? Trong bối cảnh đó tôi thú thật bị ảnh hưởng nhiều của những bạn người miền Nam biết ít nhiều về cụ Trần Văn Hương. Tôi có gặp Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Uy tín chống thực dân Pháp và sự hy sinh ngày xưa của cụ còn đó, nhưng câu giải thích “Tà không thể thắng chính được”, in sâu vào đầu tôi, khiến cho tôi có cái cảm giác cảm rằng cụ Sửu quan niệm chính trị là một cái gì thiêng liêng, dị doan, tín ngưỡng chớ không phải lý trí, khoa học. Một số giáo sư trẻ thúc giục tôi nên gặp cụ Trần Văn Hương. Tôi quí trọng cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ nên tôi thường tham khảo ý ông về cụ Hương. Ông Thơ hiểu biết nhiều về tình hình chính trị Việt Nam, kể cả dưới thời Pháp Thuộc. Thêm vào đó, cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cũng có cảm tình với Trần Văn Hương.
Tôi hỏi thẳng cựu PTT Nguyễn Ngọc Thơ xem có phải tại vì cụ là người miền Nam nên có cảm tình với ông Hương không? Cụ Thơ trả lời có thể là như vậy. Tóm lại sở dĩ tôi nhọc công muốn tìm một nhân vật khả kính, khả tín, bởi vì tôi nghĩ một ngày nào đó sau khi Hiến Pháp được ban hành thì đất nước cần một chính phủ dân sự hơn là quân sự, bởi lẽ quân nhân cầm quyền dễ đưa đến độc tài quân phiệt. Do đó mà ngay từ nhưng ngày đầu tôi cùng với phái đoàn Công Giáo gặp Tướng Kỳ với mục đích phản đối chính sách quân phiệt mà ông đang chủ trương. Biết bao nhiêu trường hợp trên thế giới chứng minh chính phủ quân nhân đưa đến độc tài quân phiệt. Vì vậy tôi quyết tìm cơ hội trực tiếp gặp Trần Văn Hương. Nhưng bằng cách nào đây? Tôi là một Tổng Trưởng đương thời, nếu ngang nhiên tiếp xúc với một cựu Thủ Tướng bị lật đổ và bị giam lỏng dưới sự canh chừng của một đại đội quân nhân thì dư luận báo chí sẽ thêu dệt những gì? Thủ Tướng và nội các sẽ nghĩ sao đây? Không hiểu sao Lý Quí Chung, giám đốc của tôi nghe được, anh nói với tôi là anh có quen với cháu của ông Hương tên nầy (?)hiện ở trong nhà đó lo cho ông ấy. Nếu đến đó xưng là cháu của ông Hương thì lính sẽ cho vào. Sau khi đắn đo và với tính mạo hiểm của tuổi trẻ thôi thúc, tôi quyết định đi thăm cụ Trần Văn Hương ở Vũng Tàu.
Sáng sớm hôm đó tôi điện thoại cho Trung tá Trần Kim Hoa, phó Võ Phòng Phủ Thủ Tướng yêu cầu tìm một trực thăng đưa tôi đi nghỉ ở Vũng Tàu chiều lúc 6 giờ chiều sau khi tan sở. Tôi nói thấy quá mệt mỏi trong người vì công việc nhiều nên phải đi nghỉ, với mục đích đánh lạc hướng sự chú ý của an ninh. Trong khi đó tôi nói Lý Quí Chung báo với người nhà anh rằng tôi mời anh tới nhà tôi chơi. Khoảng 5 giờ chiều tôi ra lệnh phòng công xa đem cho tôi một xe tải nhỏ hiệu Citroen 2 ngựa xăng nhớt đầy đủ mang số ẩn tế không cần tài xế. Tự tôi lái xe đi Vũng Tàu, căn dặn anh vệ sĩ không mang theo vũ khí gì cả và dăn thêm Lý Quí Chung rằng: “Nếu không may chúng ta bị Việt Cộng ra chặn đường thì phải khai rằng mình đi Vũng Tàu mua cá về Sài Gòn bán”.
Trên đường đi Vũng tàu giờ đó không còn một bóng xe nào vì an ninh không bảo đảm. Thú thật sự liều mạng của tôi không đáng chút nào, nhưng may mắn không có chuyện gì xảy ra. Ðáng lẽ tôi có thể đi bằng trực thăng buổi sáng và ra lệnh cho Lý Quí Chung gặp tôi giờ nào ở Vũng Tàu, hay tại đâu đó là xong. Tội gì phải mạo hiểm vô ích như vậy?
Lần đầu tiên gặp cụ Trần Văn Hương, ông đang nằm trên võng đưa tòn ten, mình trần, vận xà-rông, người Nam gọi là vận chăn. Bên hông lận một cây súng lục lòng ngắn. Sau khi tôi chào hỏi, tự giới thiệu và xác định mục đích cuộc viếng thăm của tôi, cụ Hương cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái, chừng đó cụ mới móc cây súng lục của ông ra khoe và nói:
- Qua nói thật với em à, nếu tụi nó vô thì qua cho nó một viên rồi qua một viên. Miệng ông nói răng cắn khít rịt.
- Cụ nói tụi nó là ai?
Ông Hương không trả lời, lảng sang chuyện khác.
Bữa cơm đạm bạc do người cháu của ông nấu, sau này mới biết là con trai của ông Nhứt, một cảnh sát viên trung thành và hình như có họ hàng với ông Hương. Tôi hỏi ông Hương rất nhiều việc và nói với ông cũng nhiều, cụ Hương cũng tâm sự nhiều với tôi và còn giới thiệu hai người thân tín của ông ở Sài Gòn là Luật Sư Nguyễn Văn Huyền và Lê Văn Thu. Về Sài Gòn tôi có mời hai vị nầy đến nhà dùng cơm thảo luận về cụ Trần Văn Hương. Ðêm đó cụ Hương và tôi nói chuyện quanh vấn đề chính trị miền Nam và việc ứng cử Tổng Thống mãi đến 4 giờ sáng. Tôi ngủ được một tiếng, khoảng 5 giờ, cụ Hương đánh thức tôi dậy, ba người lên xe tôi lái ra tới quán hủ tiếu dựng bên đường ở Bà Rịa, người trong quán mới thắp đèn nấu sôi thùng nước lèo! Chúng tôi vội vã ăn một tô hủ tiếu cho đỡ lòng rồi tôi lái một mạch về tới nhà lúc 7 giờ 35. Tôi thú thật với bà xã rằng mình đã đi gặp ông Hương đêm hôm qua và căn dặn bả phải kín miệng. Tôi thay đồ ngay, tài xế chở vào sở, 8 giờ 5 phút đường dây trắng Thủ Tướng gọi hỏi với vọng bực tức:
- Hôm qua toa đi đâu mà trực thăng chờ ở phòng VIP không thấy, moa tưởng toa bị Việt Cộng bắt cốc nên bảo thằng Loan đi tầm, ai cũng lo lắng. Toa đi đâu vậy?
Tôi đành phải nói dối là đi chơi qua đêm với bồ, mà quên mất việc mình đã dặn máy bay chờ đi Vũng Tàu. Dĩ nhiên, tôi lãnh một trận xỉ vả của ông râu kẽm. Nào là trực thăng không có đủ để đi đánh giặc, chỉ có toa mới được đặc ân sử dụng đi chơi, thế mà còn bê bối đến độ này. Ối thôi, mọi thứ trách móc tôi đều nhận tội và xin lỗi trối chết. Một lần đủ để cho tôi biết cách vào biệt thự tiếp xúc với Trần Văn Hương. Từ đó về sau tôi gặp cụ thường để toan tính việc đưa ông ra ứng cử.
Chiều hôm trước ngày Rằm Trung Thu năm 1966, Bộ Thanh Niên có tổ chức một buổi lễ phát quà cho thiếu nhi thuộc các hội đoàn thanh niên. Trong số những quan khách được mời có sự hiện diện của Giáo Sư Nguyễn Văn Trường, Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục và nhiều vị lãnh đạo các hội đoàn thanh niên. Bầu không khí rất vui tươi, nhộn nhịp, các em thiếu nhi gương mặt sáng ngời, tay cầm lồng đèn, tay ôm quà, miệng hát vang. Ða số những món quà là: xoong chảo để đi cắm trại, bút, tập, sách vở để đi học và dụng cụ thể thao v.v...
Buổi lễ còn đang tiếp diễn bỗng nhiên anh Nguyễn Văn Trường hỏi tôi:
- Toa có hay tin tức gì lạ không?
- Tin gì lạ mà tại sao moa không biết?
- Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắt ông BS Nguyễn Tấn Lộc, Ðổng Lý Văn Phòng Bộ Y Tế về tội “chia rẽ Nam Bắc.” Ðổng Lý Văn Phòng là nhân vật số 2 trong bộ mà ông Loan bắt giữ với tội danh kỳ lạ như vậy mà không hề thông báo cho chính phủ.
- Có thật vậy không đó bạn? Ông phao tin đồn bậy bạ Thiếu Tướng Kỳ nghe được là lại có chuyện đấy, không biết đường mà trả lời. Làm gì có tội danh chia rẽ Nam Bắc trong bộ hình luật mà ông Loan dám tham chiếu để bắt người. Khó tin quá!
- Khó tin nhưng có thật, nếu toa không tin moa thì thôi nhưng moa bảo đảm với toa đó là chuyện thật. Chính miệng của anh Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên nói với moa. Anh ấy đang tạm thời xử lý Bộ Y Tế trong khi Tổng Trưởng Nguyễn Bá Khả đi công tác nước ngoài. Moa còn nhớ khi toa thuyết phục moa tham nội các, toa khẳng định với moa là các Tướng Lãnh không áp đặt chế độ quân phiệt. Bây giờ hình như họ lộ hình dần dần sau khi tình hình kinh tế và chính trị tạm thời ổn định. Moa hơi lo, biết đâu mình đã lấy một quyết định sai lầm.
Lời nói của anh Trường gây bất bình và phẫn nộ trong tôi, khi nghĩ đến Tướng Loan đã nhiều lần bất chấp luật lệ. Ông tự cho mình cái quyền sinh sát tất cả, bởi vì ông kiêm nhiệm hai chức vụ quan trọng, vừa là Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Quốc Gia vừa là Tổng Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Ðội. Phải nói thẳng rằng Tướng Loan chỉ nể mặt Tướng Kỳ mà thôi vì ông Kỳ là thượng cấp của Loan cả hai mặt quân đội, và chính trị. Tướng Kỳ luôn luôn bao che cho Nguyễn Ngọc Loan vì ông cho rằng Tướng Loan có công ổn định dược tình hình miền Trung. Nhưng thực tế chỉ vì hai ông là bạn đồng đội rất mực thân thiết với nhau thôi. Do đó Tướng Loan mới dám hành động với cung cách quân phiệt và vô chính phủ như vậy (militariste anarchiste).
- Moa thấy chuyện này là quá đáng, moa phải liên lạc với Thiếu Tướng Kỳ để hỏi cho ra lẽ mới được. Toa làm ơn chủ tọa cuộc lễ này cho đến cuối giùm moa.
- Toa muốn về thì cứ đi, để moa tiếp tục cũng được.
Tôi ra hiệu cho nhân viên điều khiển chương trình đưa máy phóng âm. Tôi nói một vài lời chia sẻ niềm vui với các em thiếu nhi và tất cả quan khách hiện diện, đồng thời cáo lỗi vì tình trạng sức khỏe đột nhiên có vấn đề nên tôi xin phép cáo từ sớm, và nhờ vị Tổng Trưởng Giáo Dục hiện diện tiếp tục chủ tọa buổi lễ.
Về đến nhà tôi cầm máy gọi ngay Thiếu Tướng Kỳ. Thiếu Tá Lãnh, tùy viên của Tướng Kỳ trả lời:
- Thưa ông Ủy Viên, Thiếu Tướng của tôi được hội Lion Club mời diễn thuyết tại nhà hàng Caravelle.
- Cám ơn anh, nhờ anh thưa lại với Thiếu Tướng có tôi điện thoại và xin Thiếu Tướng gọi lại tôi khi nào ông về nhà, tôi có chuyện cần bàn với thiếu Tướng.
Khoảng 12 giờ 15, điện thoại reo. Tôi cầm ống nghe, bên kia đầu dây, giọng ồ ề quen thuộc:
- Có việc gì đấy?
- Tôi nghe nói Tướng Loan bắt giam BS Lộc, Ðổng Lý Văn Phòng Bộ Y Tế về tội chia rẽ Nam Bắc, có phải do lệnh của anh không?
Dù tôi biết chắc không phải do lệnh của Tướng Kỳ nhưng vì ông luôn bao che những hành động lạm quyền, bất chấp luật lệ của Tướng Loan nên tôi muốn cột buộc ông vào việc này.
- Làm gì có chuyện đó. Toa lúc nào cũng vấn đề... vấn đề... Moa bảo đảm không có việc đó đâu. Ðể moa gọi thằng Loan xem, năm phút sau moa sẽ gọi lại toa.
Chưa đầy năm phút ông Kỳ gọi lại.
- Có bắt, nhưng moa đã bảo nó thả ngay ông Lộc rồi.
- Dù đã thả ngay nhưng Tướng Loan lộng quyền quá đáng, muốn bắt ai thì bắt, muốn gán tội danh gì cho họ thì cứ tự ý bịa ra để mà bắt, rõ ràng Tướng Loan đang áp đặt một chế độ cảnh sát trị. Hôm nay anh ta bắt giam nhân vật số 2 của bộ mà Thủ Tướng không biết, với tội danh không hề có trong bộ hình luật, ngày mai ông ấy cũng có thể bắt nhân vật số 1 là Tổng Trưởng cũng không cần tham khảo ý kiến Thủ Tướng, như vậy là tình trạng vô chính phủ, hay là chúng ta đang sử dụng luật rừng? Anh thử nghĩ lại xem, Tướng Loan đã làm mất uy tín của chính phủ đối với dư luận trong và ngoài nước bao nhiêu lần rồi. Những chuyện nhỏ nhặt chúng ta bỏ qua được. Việc này quá trắng trợn, có thể gây chia rẽ và nghi kỵ trầm trọng giữa những công dân cùng xứ khác miền. Vấn đề Nam Bắc chưa bao giờ được đặt ra một cách công khai như vậy. Có thể một vài cá nhân vì bất mãn phát biểu bừa bãi, nhưng không ai nghĩ rằng nó là một vấn đề quan trọng đến nỗi phải kết thành một tội danh. Ông Loan là người đầu tiên và là người duy nhất phạm sai lầm này. Hành động của Tướng Loan sẽ đặt thành một vấn đề làm mất sự ổn định tinh thần trong quần chúng, phương hại đến sự đoàn kết quốc gia, sự ổn định chính trị mà bất cứ chính phủ nào ở thời điểm nào cũng phải triệt để bảo vệ. Anh phải xử lý việc này mới được.
- Ðược rồi, để moa sẽ gõ đầu nó.
Hai chữ “gõ đầu” mà Tướng Kỳ thường dùng có nghĩa là chỉnh ý, hay rầy la nhẹ nhàng. Tôi giật mình nghĩ lại: Phải chăng mình đang tiếp tay cho một vài cá nhân lộng hành, dựa hơi, ỷ thế, làm mất lòng dân, mất sự tin tưởng của các đồng minh đang tiếp tay chống sự bành trướng của Cộng Sản. Tôi nghĩ đến lời cam kết của tôi khi thuyết phục anh Nguyễn Văn Trường là sẽ không có chế độ quân phiệt, sẽ có bầu cử dân chủ. Những lời tôi vừa lưu ý Tướng Kỳ, hình như ông không cho là quan trọng. Ông trả lời cho xuôi việc rồi thôi. Ông đã quên khi ông mới ngồi vào ghế Thủ Tướng ông để cho Luật sư Ðinh Trịnh Chính, Tổng Trưởng Thông Tin, đóng cửa nhiều tờ nhật báo do người miền Nam đứng tên chủ nhiệm. Người nào đó có đầu óc kỳ thị đã làm việc này. Mặc dù lúc đó tôi chưa tham gia nội các nhưng Thiếu Tướng Kỳ nhiều lần gặp tôi để tham khảo ý kiến, tôi có khuyên và giải thích việc đó sẽ bất lợi cho ông nhiều trong lúc ông mới ngồi vào ghế lãnh đạo quốc gia, cần sự ủng hộ của báo giới. Tướng Kỳ đổi ý cho tái bản tất cả những tờ báo đó. Hôm nay Tổng Giám Ðốc cảnh sát của ông lại công khai đặt vấn đề Nam Bắc một cách vụng về. Tôi tin rằng Tướng Kỳ không có đầu óc kỳ thị một cách dại dột như vậy bởi vì đứng ở vị thế lãnh đạo Quốc Gia ông cần hơn ai hết sự đoàn kết của toàn dân để chống Cộng, không phân biệt Nam, Trung, Bắc.
Trong sự bối rối đó tôi điện thoại cho Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, yêu cầu ông can thiệp và nếu được ông nên đề nghị cất chức Nguyễn Ngọc Loan. Tướng Nguyễn Hữu Có ù ơ... ví dầu, đẩy đưa cho có lệ khi nói rằng:
- Anh đừng lo, để đó tôi tính cho.
- Tính cách nào? Nếu Thiếu Tướng Kỳ buông trôi không giải quyết việc này tôi sẽ từ chức. Bởi lẽ tôi không thể tiếp tay cho một chế độ độc tài cảnh sát trị, bất kể luật pháp.
- Anh đừng nóng giận, chuyện đâu còn có đó, để tôi lo cho.
Tôi lại điện thoại cho Trương Văn Thuấn, Tổng Trưởng Giao Thông Vận Tải, nói rõ sự tình và báo cho anh ta biết có thể tôi từ chức nếu Thiếu Tướng Kỳ không giải quyết việc này thỏa đáng. Tôi hỏi ý kiến của Trương Văn Thuấn nghĩ sao. Thuấn trả lời:
- Chức Tổng Trưởng này của toa, moa sẽ trả lại cho toa. Có nghĩa là nếu toa từ chức thì moa sẽ từ chức theo.
- Toa đừng nói vậy, vấn đề là mỗi người hành động theo lương tri của mình. Dù moa có giới thiệu toa vào nội các đi nữa nhưng chức vụ là của ông Thủ Tướng trao cho toa và là trách nhiệm của toa đối với đất nước. Sở dĩ moa cho toa biết ý định của moa như vậy là vì moa đã xem toa là người đồng hành, nên moa có bổn phận thông báo cho toa biết vậy thôi.
Tôi lại điện thoại cho anh Âu Trường Thanh, anh Thanh sẵn sàng từ chức nếu Tướng Kỳ vẫn dung túng cho Nguyễn Ngọc Loan áp đặt chế độ cảnh sát trị.
Những ngày kế tiếp chủ ý của Tướng kỳ là muốn xoa dịu sự bất mãn của tôi nên ông thường gọi tôi lên dinh ăn trưa, bàn chuyện nhà, chuyện nước. Hoặc mời một vài anh em trong nhóm xin từ chức đến tư dinh dùng cơm thông cảm trong tình bè bạn. Phần tôi cũng không muốn xé to quá trớn, một phần vì tình bạn khá thân thiết với Tướng Kỳ tôi không muốn gây nhiều phiền phức thêm cho ông, một người vốn đã có thừa kinh nghiệm trong công việc trị nước, mặt khác vì tôi ý thức được vấn đề này có thể là mầm mống của sự chia rẽ, dù ngấm ngầm, nhưng chắc chắn nó sẽ ảnh hưởng đến sự đoàn kết và tiềm năng chống Cộng Sản. Trong khi đó hai anh Nguyễn Văn Trường và Nguyễn Lưu Viên đốc thúc tôi phải đặt vấn đề. Tôi yêu cầu các anh ấy chờ đợi xem Tướng Kỳ giải quyết ra sao đã, chừng đó nếu không phân minh thì tôi sẽ từ chức. Nghe hai chữ từ chức các anh lại càng đốc thúc tôi vội vã hơn. Dù tôi đã đặt vấn đề này với Thiếu Tướng Kỳ một cách nghiêm chỉnh nhưng thâm tâm tôi biết rõ là ông sẽ bỏ qua.
Thực tế Tướng kỳ vẫn buông xuôi như thường lệ, không một lời công khai khiển trách Tướng Loan, không một câu trả lời đối với những điều thắc mắc của tôi. Mãi đến ngày 30 Tháng Chín năm 1966, đa số thành viên Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương đi dự lễ khai mạc Viện Ðại Học Cần Thơ, trên chuyến bay từ Saigon đi Cần Thơ, Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viện tìm cách ngồi gần tôi để than thở rằng ông bị làm mất mặt tại bộ Y Tế và thuật những lời đe doa của Tướng Loan khi ông này giả vờ nói trổng một mình. Những lời đe dọa đó tôi có cơ hội trực tiếp nghe qua khi đối diện với Tướng Loan tại Cục An Ninh Quân Ðội.
Lễ khai mạc Viện Ðại Học Cần Thơ diễn ra long trọng, nhưng đầu óc tôi không thưởng thức trọn vẹn sự vui mừng vì biết những con em miền “lục tỉnh” có cơ hội tiến thân dễ dàng hơn. Ðáng lý ra tôi phải vui mừng và hãnh diện vì đã góp phần nhỏ mọn trong việc thành lập viện Ðại Học này, nhưng tôi bị chia trí bởi những lời than phiền của Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên về vấn đề Nam Bắc. Tâm trí tôi có phần bối rối. Nếu xé to vấn đề có thể phương hại đến tinh thần đoàn kết quốc gia, có thể làm sứt mẻ tình bạn giữa Tướng Kỳ và tôi. Tự nhiên tôi nghĩ đến những bạn bè của tôi ở Paris, và ngay cả bay giờ, đa số là người Bắc, chúng tôi thân thiện nhau không có một ý nghĩ gì phân biệt. Tôi càng nghĩ về Thiếu Tướng Kỳ, thái độ cử chỉ hành động của ông không có chút nào là kỳ thị. Tai sao bây giờ ông làm lơ đối với hành động phi pháp của Tướng Loan? Tôi cũng đã nhiều lần tâm sự với Tướng Kỳ, phân tích, trích dẫn chuyện Tàu ngày xưa rằng: Các vị công thần khai quốc ỷ thế cậy quyền, tác động loạn trong triều, chế độ phong kiến đó không tồn tại được lâu dài. Trên đường bay về Saigon tôi lợi dụng thời gian nói thẳng với Tướng Kỳ tất cả sự bất bình, chẳng những của riêng tôi mà của một vài anh em khác và đề nghị với ông nên cắt cử Tướng Loan vào một địa vị khác hoặc cho ông ta trở về không quân. Tướng Kỳ bảo việc đó đã yên xuôi rồi ông có quở trách Tướng Loan rồi, ông quyết định xếp việc này không để thành lớn chuyện nữa. Tôi cũng đồng ý với ông là không nên gây chuyện, nhưng cũng không thể để cho Tướng Loan chà đạp luật pháp và cũng không thể để cho anh em quân nhân công chức miền Nam hồi hộp lo sợ vì cái tội danh đó có thể chụp lên đầu bất cứ ai và bất cứ lúc nào. Tôi nghĩ đã đến lúc phải công khai tỏ thái độ bởi vì “im lặng là chấp thuận”, là tạo điều kiện cho sự lạm quyền đi đến độc tài quân phiệt.
Từ chức tập thể
Tôi mời các anh Nguyễn Văn Trường, Trương Văn Thuấn Nguyễn Hữu Hùng về nhà anh Nguyễn Lưu Viên bàn việc. Ngày hôm đó, anh Âu Trường Thanh bận đi công tác nước ngoài nên vắng mặt, anh Trần Ngọc Liễng bận công tác cứu trợ nạn lụt miền Tây. Chúng tôi phân tích sự việc, bàn qua cãi lại chung quanh hai ý nghĩ: Từ chức là có thể gây khủng hoảng nội các, điều không hay trong hiện tình đất nước, còn im lặng là mặc nhiên chấp nhận độc tài quân phiệt. Cuối cùng tất cả anh em hiện diện đồng ý ký tên vào đơn xin từ chức tập thể. Nhưng vấn đề là ai thảo đơn cho nghiêm chỉnh. Anh Trường đề nghị gọi Ðổng Lý Văn Phòng của tôi là giáo sư Lý Chánh Trung đến đây để thảo đơn. Tôi cho xe đi mời Lý Chánh Trung ngay. Ðơn thảo xong những người hiện diện đồng tình ký tên liền tại chỗ, riêng anh Trần Ngọc Liễng ký sau khi về đến Sài Gòn. Tôi có nhiệm vụ đưa đơn này cho Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ khi thuận tiện.
Cầm đơn từ chức của 6 thành viên nội các trong tay nhưng tôi chưa quyết định nộp đơn liền. Tôi khơi chuyện này với Thiếu Tướng Kỳ một vài lần nữa, cũng có khi tôi thổ lộ rằng một số anh em sẽ từ chức trong đó có tôi để phản đối chế độ cảnh sát trị mà chính ông đang dung túng. Nhưng Tướng Kỳ vẫn khăng khăng không thay đổi ý định quyết giữ Tướng Loan tại chức. Chẳng những vậy mà ông còn đổ tội nếu tôi từ chức thì chính tôi mới là người công khai đặt vấn đề Nam Bắc. Ông công nhận rằng Tướng Loan có phạm sai lầm nhưng người ngoài chưa ai biết. Tôi phản biện hỏi lại ông: “Chúng ta phải chờ bao nhiêu sự lạm quyền, chà đạp công lý nữa thì mới xử lý đây?”
Cuối cùng Tướng Kỳ dịu giọng, ông yêu cầu tôi đi gặp Tướng Loan để tìm hiểu để cảm về một chuyện hiểu lầm nhỏ nhặt, ông còn nói thêm rằng giữa bạn bè nên tránh làm mất lòng nhau. Mặc dù tôi không tin có thể tìm được sự thông cảm với một anh chàng ngang ngược, “giả mù sa mưa”, khi tỉnh khi say, tùy lúc, tùy cơ hội theo ý anh ta muốn. Nhưng tôi cũng chiều ý ông Thủ Tướng, điện thoại cho Tướng Loan để hẹn gặp. Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan và tôi luôn xưng hô với nhau là “mày tao” hoặc “cụ và con”, cách xưng hô nữa thân mật nửa đùa cợt. Tôi gọi đường dây trực tiếp của Cục An Ninh Quân Ðội:
- Loan đấy hả, Triều đây. Ông Kỳ bảo tao đến gặp mày để giải tỏa những thắc mắc, coi như đó là một lỗi lầm nên bỏ qua. Mày có rảnh không? Mình phải gặp nhau để đã thông tư tưởng và tránh mọi tai hại về sau.
- Rảnh, “mais chez moi” (nghĩa là tại văn phòng tôi).
Câu trả lời xấc xược làm tôi bất bình, nhưng cũng nén giận trả lời:
- Mày đừng có giở giọng đó. Nếu là bạn bè gặp nhau thì chỗ nào cũng được. Còn nếu thẳng thừng mà nói thì tao có quyền yêu cầu nội các triệu kiến mày đến trình bày trước nội các, về hành động phi pháp lạm quyền của mày đề chính phủ xét đoán.
- Dạ bẩm cụ con biết mà cụ, cụ là quan lớn con làm sao dám bì với cụ.
- Thôi đừng dở hơi nữa. Ngày mai lúc 11giờ trưa tao sẽ đến gặp mày ở đâu?
- Bẩm cụ tại Cục An Ninh Quân Ðội của con ạ..
- Hẹn mai gặp.
Buông ống nghe xuống tôi cảm thấy bực mình và cũng hồi hộp lo âu. Tôi không tin là cuộc gặp gỡ ngày mai sẽ có kết quả tốt. Lòng không muốn đi nhưng đã hứa với Tướng Kỳ thì phải giữ lời. Mặc khác tôi cũng lo sợ Tướng Loan bốc đồng làm bậy. Cho nên tôi đến văn phòng của Tổng Trưởng Giáo Dục Nguyễn Văn Trường trước 11 giờ. Nói cho anh ấy biết việc tôi sắp đi gặp Tướng Loan và căn dặn thật kỹ: “Nếu 12 giờ mà toa không thấy moa trở về đây gặp toa thì thông báo ngay cho ông Thủ Tướng biết rằng thằng Loan đã bắt moa nhốt tại cục an ninh quân đội rồi”.
Sau đó tôi vào Cục An Ninh Quân Ðội gặp Tướng Loan.
- Dạ bẩm cụ, mời cụ ngồi.
Ngồi vào ghế đối diện với Tướng Loan tôi thấy trên bàn có một chai bia lớn hiệu “33 Larue” đang uống dở. Ông cố tình giở vọng lè nhè hỏi tôi.
- Mày tới đây để chửi tớ đấy à? Thì mày cứ chửi đi. Thằng này là thằng mọi, bán thân chết sống để cho các ông ngồi mát ăn bát vàng, bây giờ lại chửi bới ông là thằng lộng quyền hả?
- Loan à, tao đến gặp mày là do ông Kỳ khuyên nên trực tiếp bàn thảo để giải tỏa mọi sự bất đồng và tránh gây mọi sự đổ vỡ giữa anh em.
- Bố Kỳ biết con mẹ gì mà khuyên tao hay khuyên mày? Ổng ngồi cao quá mà. Chỉ có tao là thằng trâu phải cày tối ngày để phục vụ cho các ông thôi.
Cuộc tiếp xúc kéo dài gần đúng một tiếng đồng hồ như tôi đã giao hẹn với anh Nguyễn Văn Trường. Chúng tôi lời qua tiếng lại gay gắt, tôi không còn nhớ toàn bộ chi tiết chỉ nhớ những câu và những ý đập sâu vào đầu tôi lúc đó thôi. Chung qui và lập đi lập lại là Tướng loan kể công lao nhờ anh ta mà nội các mới đứng vững. Và anh khẳng định không cho phép bất cứ ai phá hoại sự ổn định tình hình này. Thỉnh thoảng anh ta cầm chay la-ve tu một ngụm. Phần tôi thì phản bác rằng ông ta là quân nhân can trường nhưng ỉ thế, hành động ngang tàng làm hư đại sự. Hai người chúng tôi có lúc to tiếng với nhau. Cuối cùng Tướng Loan vì bực tức xổ hết tâm sự qua lời nói trắng trợn không cần che giấu:
- Mày cho là tao kỳ thị Nam Bắc phải không? Ð.M. tao bắn chết mẹ một vài thằng xem còn thằng nào dám đặt vấn đề Nam Bắc nữa không.
Nghe câu nói đó tôi nổi khùng liền, trả lời:
- Mày đã bắn bao nhiêu thằng Việt Cộng rồi? Chúng ta giết bao nhiêu thằng của chúng nó rồi, tại sao vẫn còn Việt Cộng ngày càng nhiều hơn để cho mày tìm kiếm hằng ngày? Vấn đề tâm đồng, ý phục. Không phải mọi chuyện đều có thể giải quyết bằng súng đạn đâu.
- Dạ bẩm cụ con nghe lời của cụ phán dạy. Nhưng cụ cũng nên nghĩ lại những gì con bẩm với cụ ngày nay.
- Tao thấy mày nổi khùng rồi, có nói gì thêm cũng vô ích. Tao về đây. Nhưng tao cần cho mày biết nếu tao có bị kiết lỵ mà chết thì người ta cũng đổ tội cho mày giết tao chứ không ai trồng khoai đất này đâu.
Tôi tự động đứng dậy bước ra, mở cửa phòng, lòng ngờ vực, hồi hộp, lo sợ không biết tên lỗ mãng này có buôn tha cho mình trở về an toàn không, nhưng tôi cố trấn an mình, làm ra vẽ ngang tàn bướng bỉnh nói vói:
- Mày khùng rồi thôi nhậu cho say rồi ngủ đi.
Vừa mở cửa tôi thấy Trung Tá Thăng, Cục Phó an ninh quân đội và một anh lính bưng mâm đồ ăn có chả lụa, có bánh mì, có cơm canh và hai chay la-ve lớn. Tôi giả vời bốc một miếng chả lụa bỏ vào miệng, bước đi và nói, đem rượu vô cho nó nhậu đi nó hết rượu rồi. Thì ra hai anh này đang lén nghe cuộc cãi vã ồn ào tự bao giờ bị tôi bắt gập hơi sượng sùng chào hỏi lấy lệ. Ngồi trên xe vừa ra khỏi cổng an ninh quân đội tôi thở phào nhẹ nhõm. Nhìn đồng hồ gần 12 giờ 5, đến văn phòng anh Nguyễn Văn Trường đang chờ tôi sốt ruột, anh nói.
Moa chuẩn bị gọi thiếu Tướng Kỳ như toa căn dặn nhưng mai là moa cố chờ thêm vài phút.
Thuật lại đầu đuôi cho anh Trường nghe chúng tôi nghĩ rằng không còn cách nào hàng gắn được nên chắc phải đưa đơn từ chức. Một ngày qua tôi vẫn chưa quyết. Những đồng nghiệp cùng ký tên trong đơn điện thoại hỏi tôi câu chuyện đã đến đâu rồi? Tôi trả lời sẽ trình đơn từ chức ngày may. Trước đó mấy ngày tôi có đề cập đến vấn đề từ chức với anh Trần Minh Tiết, Tổng Trưởng Tư Pháp Tổng Trưởng Tư Pháp, chính anh ấy cũng có phản ứng tức thì là không có điều khoản nào trong luật pháp quốc gia hiện tại nói về tội chia rẻ Nam Bắc. Và anh cũng tán đồng, khuyến khích từ chức là phải. Tôi có hỏi nếu tướng Kỳ không giải quyết ổn thỏa thì anh sẽ tù chức cùng với chúng tôi không? Trần Minh Tiết khẳng định với nhiệt tình, tôi sẽ cùng ký tên với các anh. Nhưng khi tôi quyết định sẽ nộp đơn, tôi điện thoại cho anh Tiết thì anh lại thoái thác rằng anh chơi quần dợt bị trật gân chân nên không đến nhà tôi xem đơn ký tên được. Tôi cảm thấy khôi hài, nên cố tình dồn anh phải trả lời dứt khoát minh bạch nói rằng tôi sẽ nhờ ông Chánh Văn Phòng của tôi đem đơn này tận nhà để anh ký. Trần Minh Tiết lại ú ớ bảo để cho anh xem lại, chờ một ít thời gian xem sao đã. Tôi hiểu ngay thái độ của những người hay tính toán, coi trọng chức quyền. Cũng như khi cải tổ nội các lần thứ hai, Tướng Kỳ định bãi chức Tổng Trưởng Nội Vụ của anh, tôi đến chơi nhà anh và thông báo cho anh biết trước, anh nhờ tôi can thiệp xin cho anh một chức Ðại Sứ ở đâu đó cũng được. Tôi trình bày với Tướng Kỳ rằng Trần Minh Tiết là Thẩm Phán Công Giáo, thiết nghĩ cũng nên giữ anh lại để lấy lòng Công Giáo cân bằng ảnh hưởng chính trị hiện tại, vì vậy Tướng Kỳ mới hoán chuyển anh sang Bộ Tư Pháp. Ấy vậy mà trong phiên họp nội các bàn về việc từ chức của nhiều vị Tổng Trưởng Trần Minh Tiết phát biểu một câu tôi còn nhớ đời: “Thưa Thiếu Tướng tôi không hay biết về những chi tiết của vụ này cho đến khi anh Triều đề nghị tôi ký tên xin từ chức để phản đối hành vi cảnh sát trị của Tướng Nguyễn Ngọc Loan thì tôi có nói với ảnh để tôi suy nghĩ lại”. Thật buồn cười cho nhân tình thế thái!
Trước khi đến dinh Thủ Tướng trình đơn từ chức của sáu vị thành viên nội các tôi chuẩn bị tư tưởng và những câu trả lời mà Tướng Kỳ có thể dồn dập hỏi tôi. Tôi có thể tiên đoán ông soái vào trách nhiệm của tôi đối với thời cuộc, tình cảm bạn bè cùng phục vụ một chí hướng, bổn phận của tất cả là phải tránh những vấn đề có thể gây chia rè trong hàng ngũ quốc gia.
Ngồi đối diện với Tướng Kỳ trong văn phòng Thủ Tướng tôi vừa nói vừa đặt trên bàn giấy của ông đơn từ chức với sáu chữ ký của Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu viên, Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn Văn Trường, Tổng Trưởng Giao Thông Vận Tải Trương Văn Thuấn, Tổng Trưởng Xã Hội Trần Ngọc Liễn, Tổng Trưởng Lao Ðộng Nguyễn Hữu Hùng và Tổng Trưởng Thanh Niên Thể Thao Võ Long Triều. Tướng Kỳ cười mỉa mai, vẻ khó chịu hỏi:
- Việc gì mà đến nỗi phải xé to chuyện như vậy?
- Tôi đã trình bày với anh rất nhiều lần về vấn đề này mà anh em thấy anh không cần lưu ý đến nên phải dùng đến hạ sách này, là điều mà không ai muốn làm.
- Cậu lại mâu thuẫn với chính mình rồi. Ðã nói không muốn làm mà sao lại ký tên xin từ chức. Cậu có lường được việc này là quan trọng không?
- Chúng tôi đã nghĩ đến mọi khía cạnh của vấn đề một cách có trách nhiệm. Sự việc đến đây rồi thì xin để anh tùy nghi giải quyết.
Bầu không khí trở nên nặng nề, Tướng Kỳ bực tức ra mặt nhưng ông tự kiềm chế và nhẹ nhàng bảo:
- Thôi được rồi, để tớ xem rồi sẽ nói chuyện với anh em sau.
Tôi không muốn kéo dài tình trạng khó xử của đôi bên nên tôi xin cáo từ chờ quyết định của Thủ Tướng
BỮA TIỆC THÔNG CẢM
Tôi không muốn kéo dài tình trạng khó xử của đôi bên nên tôi xin cáo từ chờ quyết định của Thủ Tướng. Tướng Kỳ lộ vẻ bối rối khi ông nhận đơn từ chức tập thể của 6 vị tổng trưởng để phản đối hành động của Tướng Loan, một trong những người thân cận và tin cẩn nhứt của ông, vì điều nầy chắc chắn sẽ tạo một cơn khủng hoảng chính trị mà ông không hề muốn và ông cũng chưa biết phải giải quyết ra sao. Mấy ngày sau khi gặp lại tôi ông không che dấu sự buồn phiền, thậm chí bực tức cả với tôi, người mà ông đã từng có ít nhiều cảm tình và tin cậy. Nay chính tôi lại gây cho ông điều vô cùng khó xử. Dù vậy Tướng Kỳ cũng đè nén sự bực tức, chỉ trách móc tôi nhẹ nhàng với tư cách người bạn lấy tình cảm thuyết phục tôi, lấy việc thực hiện lý tưởng về một xã hội công bằng thịnh vượng mà ông và tôi đã cùng nhau chia xẻ, lấy cái tham vọng “đội đá vá trời' khuyến dụ tôi bỏ qua và yêu cầu tôi giải thích với 5 vị Tổng Trưởng khác. Ông tin rằng tôi có thể làm cho họ đổi ý. Tóm lại ông đưa trái banh khó xử đó về chân tôi.
Chúng tôi gặp lại nhau rất nhiều lần để suy luận, bàn thảo với nhau về sự từ chức này. Trong khi đó thì Tướng Kỳ mở những cuộc tiếp xúc riêng biệt với từng vị Tổng Trưởng có tên trong đơn từ chức. Chỉ có anh Nguyễn Văn Trường thì mỗi lần được Thiếu Tướng Kỳ mời gặp riêng, anh đều rủ tôi cùng đi. Tôi nhớ có lần đối diện với Tướng Kỳ trong văn phòng Thủ Tướng, ông Kỳ đem hết lý lẽ để thuyết phục anh rút lại đơn từ chức, anh Trường đấu lý không lại Tướng Kỳ bèn phát biểu nguyên văn tôi còn nhớ rõ: “Tôi không biết phải giải thích như thế nào đề cho Thiếu Tướng hiểu, nhưng tôi chỉ biết có một điều là tôi phải từ chức, điều đó là đúng”. Tướng Kỳ phản biện; “Xin lỗi, anh là nhà mô phạm danh tiếng mà sao anh phát biểu không mô phạm tí nào cả vậy”? Ba người cùng cười vui vẻ.
Tướng Kỳ tỏ thái độ hết sức mềm dẻo để thuyết phục chúng tôi. Thậm chí mời tất cả chúng tôi đến tư gia của ông ở trại Phi Long để dùng cơm thân mật. Tướng Kỳ có biệt tài là khi ông muốn nhỏ nhẹ dễ thương thì ông đạt mục đích rất dễ dàng. Vì vậy mà sau bữa cơm đó, Luật Sư Trần Ngọc Liễng cảm thấy mềm lòng nói: “Moa thấy ông Kỳ dễ thương quá, thôi tụi mình bỏ qua đi, gây nhiều khó khăn cho giả (tiếng Nam chỉ ông ấy một cách thân mật) moa thấy tội nghiệp quá”. Sau khi từ Mỹ trở về, Âu Trường Thanh liền nộp đơn xin từ chức cũng với lý do phản đối Tướng Loan vừa áp dụng một chế độ cảnh sát trị vừa công khai đặt vấn đề Nam Bắc một cách vụng về. Sự thật là anh Thanh đã biết tin về sự khủng hoảng này ngay khi anh còn đang công tác ở ngoài. Vì vậy khi về đến Sài Gòn, anh tìm gặp tôi ngay và chúng tôi có trao đổi ý kiến trước khi anh thảo đơn từ chức. Nhận đơn của Âu Trường Thanh, Tướng Kỳ liền gọi tôi nói với giọng vô cùng bực tức: “Âu Trường Thanh không biết ất giáp gì cả, mới về đến đã hùa theo từ chức làm khó dễ moa, ông ấy muốn cái gì đây? Tớ đã tha cho một lần đâm sau lưng anh em rồi, bây giờ nó muốn giở trò gì nữa đây?”. Tôi trả lời đẩy đưa cho qua việc và cố tình xoa dịu sự bực tức của Thủ Tướng Kỳ bằng cách lái sang trung tâm của vấn đề là sự lộng quyền của Tướng Loan. Tôi nói với ông Kỳ: “Anh em mình phải suy nghĩ tìm cách dàn xếp, để tránh cuộc khủng hoảng chính trị, sau khi đã ổn định được tình hình xáo trộn của miền Trung”.
Nghĩ rằng vấn đề này rất là quan trọng nên trước khi đệ đơn từ chức tôi có tiếp xúc với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, trình bày rõ ràng sự việc. Trung Tướng Thiệu thẳng thắn cho biết rằng đó là lẻ phải, là việc cần làm. Ông còn nhận xét về trường hợp cá nhân người này và người khác mà tôi không tiện nêu tên, ông khuyên tôi phải nhìn vấn đề như thế nầy, như thế kia, và ông kết luận nên đặt vấn đề một cách rộng rãi hơn, buộc Tướng Kỳ phải giải quyết. Ông còn nhấn mạnh: “Ðằng sau lưng toa có moa, Triều, moa ủng hộ toa hoàn toàn”.
Vấn đề từ chức còn đang bỏ lửng, Tướng Kỳ đang tìm mọi cách hàn gắn, tôi cũng mua thời gian, khất hẹn với anh em chờ xem, bởi vì tôi được ủy thác đại diện cho nhóm từ chức để thương thảo với Thủ Tướng Kỳ. Ðột nhiên 7 người trong chúng tôi nhận được thiệp của Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, chính thức trịnh trọng mời dùng “Tiệc Thông Cảm” tại tư dinh Thủ Tướng, số 2 Bến Bạch Ðằng, dinh thự này thường để trống vì Thủ Tướng không ở đấy, trong thiệp mời có ghi rõ “Y Phục Ðại Lễ”. Ðến dự tiệc tôi thấy toàn bộ các Tướng Lãnh vận y lễ phục chỉnh tề, các vị Tổng Bộ Trưởng khăn áo chỉnh tề. Thực đơn bửa tiệc chỉ có một món, tương đối sang trọng và mắc tiền thời đó, trừu nướng ăn với hột tấm có mùi đặc biệt theo kiểu Á Rập (Metchoui couscous) do tiệm ăn duy nhứt Sài Gòn Pabrica cung cấp... Bốn con trừu được xỏ dọc theo xương sống từ cổ xuống đuôi quay tròn trên bếp lửa đỏ. Văn võ bá quan đủ mặt, đúng giờ. Khởi sự là tim gan trừu xỏ lụi ướp nướng mỗi người cầm một xâu, đang lai rai uống rượi khai vị, kẻ ngồi trên ghế dựa người đứng chung quanh các bàn đầy rượu, trái cây và món ăn. Ðột nhiên Tướng Nguyễn Ngọc Loan từ ngoài cổng đi vào, dù không được mời, ông mặc “áo chim cò” tay ngắn bỏ lòng thòng ngoài quần jean, chân mang dép trần lẹp xẹp. Chào hỏi mọi người bằng câu nói trỏng: “Bẩm các cụ ạ”, rồi ông tự động rót rượu, tay bóc lia lịa những món ăn trên bàn đi quanh quẩn, ôm cổ người này nói đùa vài câu, người khác than thân phận thấp hèn đang dang cổ ra mà cày vì đại cuộc, v. v.. Ông ta còn buông những lời hăm dọa bóng gió, nói trỏng một mình: “Ð. M. moa bắn chết mẹ vài thằng coi còn có thằng nào dám đòi hất cẳng ông nữa không”? Câu nói này tôi đã nghe Tướng Loan thốt ra một lần với tôi gần giống như vậy tại cục An Ninh Quân Ðội như tôi đã viết ở đoạn trên. Rồi ông lại giả vờ quay sang Luật Sư Trần Ngọc Liểng đang đứng gần Giáo Sư Nguyễn Văn Trường rồi nói: “Thì ra các cụ họp nhau để giải quyết vấn đề Nam Bắc đấy à”? Không một ai lên tiếng trả lời, không một ai bình phẩm. Mọi người làm ngơ kể cả Tướng Kỳ. Tôi đang ngồi trên ghế gần đó tiếp chuyện với Trung Tướng Thiệu, Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu cùng vài vị tướng lãnh khác. Những câu nói trái tai của Tướng Loan làm tôi phừng phừng sôi giận, nhưng cố hết sức nén lòng chờ xong bữa tiệc ngoài trời, vào phòng họp xem họ bàn việc “thông cảm” như thế nào. Ðiều khiến tôi ngạc nhiên là thấy Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, người đóng vai chủ mời khách mà tại sao ông lại để cho một thuộc cấp có thái độ trịch thượng với lời lẽ vô lễ đối với khách quí của ông trong bữa tiệc long trọng như vậy? Tôi càng ngạc nhiên thấy ông không có một lời can thiệp? Cho dù có nể nang đối với Tướng Kỳ, Tướng Loan, nhưng nếu ông muốn tạo bầu không khí “thông cảm” thật sự, thì ông cũng phải vuốt ve Tướng Loan, nói giả lả vài câu, yêu cầu ông ta không nên sinh sự, để cho vị Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia tiếp khách một cách nghiêm túc và đúng lễ nghi. Lại nữa, theo phép lịch sự tối thiểu thì chủ nhà cũng phải có một vài lời cáo lỗi về cử chỉ suồng sã của thuộc cấp mình. Nhưng không! Hình như Tướng Thiệu giả vờ không nghe, không thấy.
Nếu Tướng Thiệu thực lòng muốn tạo sự thông cảm, và hóa giải sự bất bình của các tổng trưởng ký đơn từ chức thì ông phải ngăn cản ngay hành động gây bất mãn thêm nữa của Tướng Loan đang diễn ra trước mắt ông và mọi người. Tướng Loan nói xong vài câu, biểu diễn xong cái màn “mục hạ vô nhân”, ông ta ra về không chào hỏi ai cả. Vô ra như chỗ không người. Ðó là thói quen song tàn vì ỉ lại mình có công và nhứt là có quyền sinh sát thông qua sự bao che của Thủ Tướng, bạn ông.
Sau này, nghi nghe tướng Thiệu giải thích, tôi mới vỡ lẽ:
- Triều à, moa biết moa ra ứng cử chống lại liên danh của Nguyễn Cao Kỳ thì moa chỉ được có 2 lá phiếu, một của vợ moa và một của moa thôi, nhưng moa không lấy được thì moa sẽ khuấy cho hôi!”
Tôi vô cùng xót xa nghe qua lời ông nói, thì ra tôi không hiểu được đối với ông quốc gia là cái gì? Và cũng trong lần tiếp xúc đó, ông hỏi đi hỏi lại:
- Triều, toa biết Mỹ nó muốn cái gì không”?
Tôi trả lời:
- Thưa Trung Tướng, vấn đề quan trọng là mình biết mình muốn cái gì chứ cứ uốn theo ý muốn của người Mỹ thì “bỏ mẹ rồi”!
Lần tiếp xúc đó tôi cùng đi với cựu Tổng Trưởng Nguyễn Văn Trường để khuyến dụ ông Thiệu ra ứng cử Tổng Thống với mục đích chia phiếu của liên danh Nguyễn Cao Kỳ. Ðó là những câu nói tỏ rõ hết ý ông, trước khi bắt tay từ giã tại nhà của ông ở trong bộ Tổng Tham Mưu. Những lời nói và cử chỉ của Trung Tướng Thiệu khiến tôi từ chối hợp tác với ông khi bào Huynh của ông là Ðại Sứ Nguyễn Văn Kiểu, đại diện ông đến nhà mời tôi tham gia, và sau nầy khi Tổng Trưởng Phủ Thủ Tướng, Huỳnh Văn Ðạo, thay mặt Trần Văn Hương mời tôi tham gia nội các, giữ chức Tổng Trưởng Giáo Dục thay ông Nguyễn Văn Thơ, trước mặt Nguyễn Văn Trường, người đã hai lần điều khiển bộ nầy, tôi vẫn từ chối vì không thể hợp tác với một vị lãnh đạo mà lời nói và thái độ không làm tôi tin tưởng và kính phục. Chi tiết về những gì tôi biết trong những cuộc ứng cử và bầu cử của những vị Trần Văn Hương, Nguyện Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu và Dương Văn Minh sẽ trình bày sau.
Ðối với tôi cũng như các anh em khác, có tên trong đơn từ chức, bữa cơm chẳng những không ngon mà còn mong cho phiện hợp “thông cảm” sắp tới càng kết thúc sớm càng tốt. Trong lúc dùng tiệc, Tướng Nguyễn Hữu Có ra sức đùa cợt tưởng rằng giúp vui và đánh tan được bầu không khí bất bình khó chịu của mọi người, nhưng ông bỏ công vô ích mà lại còn gây ảnh hưởng ngược làm cho người ta thấy khó chịu hơn.
Tiệc xong vào họp, dĩ nhiên là không có mặt của Tướng Loan, tôi chỉ ngồi nghe Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Thắng và một vài Tướng lãnh khác khuyên giải, nại lý do là cuộc khủng hoảng chính trị trong giai đoạn hiện tại sẽ có hại cho quốc gia. Trung Tướng Thiệu không đá động một lời về hành động của Tướng Loan, không bày tỏ một câu về những ý kiến mà ông đã trực tiếp khuyên bảo tôi tuần trước tại văn phòng ông ở dinh Gia Long. Âu Trường Thanh, Nguyễn Lưu Viên và anh em khác phản biện rằng chế độ cảnh sát trị hay quân phiệt càng tác hại đối với quốc gia hơn. Tướng Kỳ thì giải thích và ra sức thuyết phục mọi người nên bỏ qua chuyện nhỏ nhặt nầy, không nên cố chấp và ông bảo đảm sẽ không khi nào cho phép tái diễn những điều tương tự. Nhưng tôi thừa biết đó là những lời hứa suông để cho xong việc.
Tuy nhiên có một câu nói của ông, tôi không để ý vì mãi bực tức về hành động và những lời của Tướng Loan, nhưng lời nói đó của Tướng Kỳ làm các vị vị tổng trưởng hiện diện vô cùng cảm động, khi ra về anh ta nhắc lại với tôi rằng ông Kỳ nói: “Triều, Toa có thấy một vị Tổng Trưởng nào xưng hô với moa “À toi à moi” “Mầy mầy tao tao” như hai đứa mình không? Thâm tình giữa chúng ta toa quên hết chỉ vì cố chấp”? Sự thật tình cảm nầy vẫn gây nhiều đắn đo thắc mắc cho tôi ngay từ khi tôi đặt vấn đề từ chức. Nhưng tình cảm và chuyện quốc gia là hai điều không thể lầm lẫn để mình bị trói buộc. Gần cuối phiên họp Tướng Kỳ quay sang tôi, ông hỏi tại sao tôi không có ý kiến? Với sự ấm ức còn đè nặng trong lòng, tôi trả lời gọn lỏn:
- Tôi giữ nguyên quyết định từ chức, không thề thay đổi ý định bởi vì tôi không thể ngồi chung bàn với những người hèn”. Một sự lỡ lời quá đáng! Thốt ra trong cơn bất bình nóng giận! Tướng Kỳ nắm được cơ hội phản ứng liền:
- Xin lỗi, anh không có quyền vơ đũa cả nắm như vậy được, ai là người hèn nhờ anh chỉ tên giùm cho tôi tí.
Vô cùng lúng túng tôi chỉ đại một tên, đó là Tổng Trưởng Canh Nông Lâm Văn Trí. Vì tôi sực nhớ có lần tôi vào văn phòng anh bạn này, thấy anh ta đang đọc sách chưởng của Kim Dung thay vì bới đầu, bới óc để ra chỉ thị cho các ngành các bộ môn nên đặt trọng tâm phát triển sản xuất lúa gạo hay gia súc, gia cầm. Sự thật Lâm Văn Trí và tôi cũng là bạn đồng nghiệp quen biết nhau khá thân. Tuy tôi không ngưỡng mộ cách điều khiển bộ chuyên môn của anh, nhưng anh không phải là hèn. Anh là người bạn tốt. Tôi nghĩ rằng lời phát biểu hồ đồ vô ý thức của tôi hôm đó không tới tai Lâm Văn Trí, bởi vì sau này chúng tôi thường gặp nhau vui vẻ, cùng với Trương Thái Tôn, Lưu Văn Lê và Nguyễn Văn An là những người bạn đồng nghiệp thân thiện. Nhưng thiết nghĩ cho dù Lâm Văn Trí có nghe, có biết, thì chắc anh ta sẽ chửi đổng vài câu , tôi xin lỗi nói rỏ sự thật hôm đó, rồi cũng bắt tay xí xóa thôi.
Thành thật phải nói là tôi đang giận con cá khác mà chém cái thớt Lâm Văn Trí một cách dại dột! Buổi họp không có kết quả, bữa cơm không vui, không ngon. Vừa ra khỏi phòng họp anh Nguyện Văn Trường trách tôi nhẹ nhàng như thằng anh chỉ dại sai lầm của đứa em nóng tính phát ngôn bừa bãi. Còn Âu Trường Thanh không tiếc lời mắng mỏ đủ đều, với từ ngữ nặng nhẹ có không thiếu, nhưng anh biết chắc tôi không buồn vì sự thâm tình giũa anh và tôi. Về nhà tôi buồn tức, ân hận về lời nói của mình suốt đêm khuya.
Trong bối cảnh đó tôi nhận được thơ của Cụ Trần Văn Hương viết ngắn gọn bằng bút chì trên giấy tập học trò: “Nếu em nghe lời qua thì không nên từ chức, phải có gắng giữ sự hiện diện của mình trong chính quyền”. Lại thêm một điều gây phiền não cho tôi không ít! Trần Văn Hương là người mà tôi muốn đề nghị ra ứng cử Tổng Thống sau khi Hiến Pháp được ban hành. Một người có tham vọng lãnh đạo quốc gia mà khuyên tôi phải chấp nhận sự lộng quyền, sự áp đặt một chế độ cảnh sát trị, sự manh nha thực hành chế độ quân phiệt thì ai là người chia xẻ lý tưởng công bằng xã hội, dân chủ tự do với tôi đây? Trong cùng một thời điểm mà có tới ba nan đề buộc tôi phải tự giải đáp:
- Một là tình thân hữu với Tướng Kỳ, sự tin cậy của ông đối với tôi, khuyến cáo tôi không nên gây khó cho ông ấy.
- Hai là tại sao ông Hương khuyên tôi chấp nhận tình trạng sai trái lộ liễu nầy? Phải chăng vì ông muốn có người trong chính quyền để tiếp tay cho cá nhân ông mà bất chấp sự bất công, độc đoán, độc tài, đang áp đặt trên đầu trên cổ của dân chúng?
- Ba là sự bất mãng của tôi đối Với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu sau bữa “tiệc thông cảm” tại Bến Bạch Ðằng còn nặng trĩu trong lòng.
Tôi bỏ mặc, không cần nghĩ mình phải làm gì, cứ thản nhiên đi câu cá, chở vợ con ra Vũng Tàu nghỉ ngơi, để cho thời gian kéo dài, bởi vì ngạn ngữ Pháp có câu: “La nuit porte conseil” nghĩa là đêm sẽ đem lại lời khuyên giải. Thôi thì mặc kệ cứ để cho nhiều đêm khuyên giải, biết đâu đầu ốc sẽ gạn lộc bớt đi những phần chủ quan, kiêu căng, háo thắng của gã thanh niên mới tròn 32 tuổi đầu như tôi. Phần Tướng Kỳ thì không ngớt mời rủ dùng cơm, trà nước, rượu chè khai thác triệt để mối thâm giao và cảm tình bè bạn. Mặt khác ông cứ ngâm đơn từ chức không màng giải quyết. Rồi lại đến ngày Hội Nghị Thượng Ðỉnh Việt Mỹ ở Manila ngày 24 tháng 10 năm 1966. Những vấn đề then chốt của hội nghị là quân sự và kinh tế tài chánh. Ðương nhiên phải có mặt Tổng Trưởng Âu Trường Thanh là một trong những vị tổng Trưởng đã từ chức. Thoạt tiên Tướng Kỳ đề nghị tôi tham gia phái đoàn Việt Nam. Tôi một mực từ chối. Cuối cùng ông đành phải khai thật là sự có mặt của Âu Trường Thanh rất quan trọng nên ông yêu cầu tôi vì quyền lợi quốc gia thuyết phục Âu Trường Thanh chấp nhận tham dự phái đoàn. Dĩ nhiên Tướng Kỳ cũng đoán trước được tôi sẽ không từ chối lời yêu cầu của ông và ông tin rằng Âu Trường Thanh sẽ nghe tôi. Tôi sẵn lòng thỏa mãn đề nghi của Thủ Tướng vì quyền lợi quốc gia thật sự có ăn thua trong cuộc Hội Nghị Thượng Ðỉnh nầy. Tôi yêu cầu Âu Trường Thanh nên tham gia phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa đi phó hội, dĩ nhiên anh Thanh bằng lòng.
Bàn tay nào gây đổ vỡ?
Sau cuộc hội nghị thượng đỉnh ở Manila trở về, Tướng Nguyễn Cao Kỳ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tiếp tục gặp riêng từng vị bộ trưởng từ chức. Tôi không được biết nội dung và chi tiết về những cuộc gặp gỡ đó. Riêng phần tôi rất nhiều lần được Tướng Kỳ, thuyết phục, khuyên giải, và cả trách móc. Ðiều làm tôi khó nghĩ nhứt là ông nhân danh tình cảm sâu đậm mà ông và tôi dành cho nhau trong những ngày tháng qua, bây giờ tại sao tôi không thể vì mối cảm tình đó và sự nể nang nhau, bỏ qua những sai lầm nhỏ nhặt của người khác mà chính ông đã công nhận là sai. Nhưng rồi ông lại nói: “Xét cho cùng, không ai có thể thay thế được Tướng Loan trong giai đoạn hiện tại”. Còn tôi thì phản biện rằng Tướng Loan có công dẹp dược sự hỗn loạn ở miền Trung. Nhưng ông Loan tự cho mình là một công thần, nên hống hách, tự tiện hành động sai trái, gây bất ổn cho quốc gia. Vậy thì công của chúng ta cố gắng xây dựng một xã hội công bằng, một nhà nước pháp trị sẽ bị Tướng Loan dần dần phá tan. Bất cứ một chính quyền nào trên thế giới, có chế độ tự do dân chủ cũng phải cai trị bằng luật pháp phân minh. Không thể tự tiện áp dụng luật pháp theo ý riêng của mình.
Co một lúc tôi hỏi thẳng Tướng Nguyễn Cao Kỳ:
- Thủ tướng đang bao che cho bạn bè hay ông đang “cầm cân nẩy mực”, điều hành một một quốc gia vốn không thiếu những con người vô trách nhiệm, vô kỷ luật và kiêu binh?
Cứ thế, mỗi lần gặp Tướng Kỳ là chúng tôi khởi sự chuyện trò với những lời trao đổi rất tâm tình và luôn kết thúc bằng sự tranh cãi dựa trên lý trí, tạo ra những bất đồng ngày càng lớn hơn.
Trong thời gian đó, hai lần ông cố vấn chính trị Tòa Ðại Sứ Mỹ, Philipp Habib, mời tôi dùng cơm để thuyết phục tôi rút đơn từ chức và ngồi lại nội các, bởi vì ông nói:
- Ông phải tiếp tục tham gia nội các, vì ông là lương tri của chính phủ này, chúng tôi hứa nếu ông ở lại thì trong vòng 6 tháng nữa những vấn đề ông đặt ra sẽ được giải quyết thuận theo tâm nguyện của ông.
Habib còn nói thêm:
- Chúng tôi chỉ ủng hộ có bốn người trong nội các chiến tranh của ông.
- Bốn người đó là ai?
- Tôi không thể nêu tên được.
- Lịch sự của Tây Phương là không khi nào nói úp nói mở, có vẻ giấu diếm, nếu mình thấy không nói được thì không nên nói. Còn nói lưng chừng làm cho đối tác của mình thắc mắc nghĩ ngợi là bất lịch sự.
Habib đành buông lời than thở:
-Ông buộc tôi như vậy thì tôi đành phải nói, bốn vị đó là Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ðức Thắng, Âu Trường Thanh và Võ Long Triều.
- Cám ơn ông đã có lời nói tốt cho tôi nhưng dù sao tôi nghĩ vấn đề của Việt Nam phải được giải quyết theo cung cách của người Việt Nam, chứ không theo ý muốn của người Mỹ.
Tướng Kỳ cố tình kéo dài thời gian, “ngâm đơn” không giải quyết vì ông biết cách dùng tình cảm để làm tôi siêu lòng. Nhiều lần tôi có than với ông rằng giả sử như tôi có chấp nhận ngồi lại nội các thì chưa chắc những vị bộ trưởng khác sẽ bằng lòng nghe theo lời tôi khuyên. Tướng Kỳ biết rằng những vị tổng bộ trưởng đó kể cả Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên là do tôi giới thiệu vào nội các, ngoại trừ Luật Sư Trần Ngọc Liểng Bộ Trưởng Xã Hội, nên ông cứ đổ hết trách nhiệm vào đầu tôi. Ông dùng hết tình cảm để thuyết phục, ông đặt quyền lợi quốc gia lên đầu tôi để ép buộc. Cuối cùng tôi siêu lòng, vì nghĩ đến tình hình đất nước mới được ổn định, cần phải duy trì và vì nghĩ đến thái độ và tình cảm của Tướng Kỳ đối với tôi ngay từ những ngày đầu mới tiếp xúc với nhau cho đến bây giờ. Cả hai lý do đó thúc đẩy tôi nên ở lại. Nhưng chắc chắn tôi sẽ gặp khó khăn khi giải thích với những người đồng viện, khi phải yêu cầu họ chấp nhận tạm thời ở lại chức vụ của mình.
Ðối với ông Nguyễn Lưu Viên thì dễ nói vì tôi biết cụ Hương đã có viết thơ yêu cầu ông Viên không nên từ chức, cũng như cụ đã từng viết thơ yêu cầu tôi như vậy, Trương Văn Thuấn sợ phải thi hành quân dịch nên đã “đi cửa hậu” xin Tướng Kỳ cho ở lại bằng cách xin thủ tướng phê trên đơn từ chức riêng rẽ của anh là “không chấp nhận” thì anh ta sẽ ở lại. Việc này do người trong văn phòng thủ tướng báo cho tôi biết. Vì vậy mà tôi không cần phải giải thích nhiều, Thuấn mừng rỡ ở lại ngay. Ðối với Luật Sư Trần Ngọc Liểng và Tổng Trưởng Âu Trường Thanh cũng dễ thuyết phục, duy chỉ có Nguyễn Văn Trường là khăng khăng muốn ra đi cho khỏi mang tiếng là tham quyền cố vị, và tiếp tục hợp tác với một chính phủ xem thường luật pháp. Có lẽ anh nhạy cảm, bị chạm tự ái vì là người miền Nam và đã nghe những lời đe dọa phi lý của Tướng Loan nên anh bảo tôi cứ tự tiện ở lại xem tình hình ra sao còn anh thì dứt khoát ra đi. Bây giờ lại đến phiên tôi dùng tình bạn và lý lẽ chính trị để yêu cầu anh cùng với tôi ở lại. Khó khăn lắm tôi mới tạm thời dàn xếp ổn thỏa, nghĩa là đơn từ chức của chúng tôi Tướng Kỳ cứ “ngâm giấm” để đó, các vị tổng bộ trưởng tiếp tục tham gia nội các như thường.
Ðiều trớ trêu mà tôi được biết sau nầy là khi Tướng Nguyễn Cao Kỳ đắc cử Phó Tổng Thống, Trương Văn Thuấn sợ bị đi quân dịch nên nhiều lần xin được làm “công cán ủy viên” cho phó tổng thống nhưng Tướng Kỳ không chịu tiếp kiến anh và cũng không trả lời khước từ. Có lẽ Tướng Kỳ không giấu giếm ý nghĩ của ông là không thích Trương Văn Thuấn nên nhiều người khác cũng biết được điều đó.
Chúng tôi chấp nhận ở lại tiếp tục tham gia nội các nhưng tinh thần chưa được ổn định, tâm trí còn hoang mang tự hỏi việc gì còn có thể xảy ra nữa? Và tương lai Tướng Loan sẽ còn gây điều gì bất lợi cho chúng tôi hay không? Mặc dù Tướng Kỳ nhiều lần bảo đảm với tôi không cho phép Nguyễn Ngọc Loan hành động bừa bãi nữa, 3 ngày sau vào một buổi chiều, tôi cảm thấy lòng buồn bực nên sang văn phòng Tổng Trưởng Giáo Dục Nguyễn Văn Trường, mục đích là để xoa dịu cảm giác khó chịu của anh vì phải tạm thời ở lại nội các do sự yêu cầu của tôi, và cũng để tìm sự lắng dịu tâm lý của bản thân mình. Dĩ nhiên câu chuyện từ chức và ở lại nội các là đề tài bàn thảo vu vơ, chúng tôi chuyện trò chưa được bao lâu thì ông chánh văn phòng của Trường xin vào, tay cầm tập hồ sơ, ông trình cho Nguyễn Văn Trường, miệng xì xào to nhỏ, thỉnh thoảng lại liếc sang tôi. Thái độ giấu diếm ra vẻ bí mật không đúng lúc. Nếu là bí mật thì nên đợi tôi ra về, nếu là việc bình thường thì cứ đưa hồ sơ trình rồi lui ra. Tại sao có thái độ kỳ lạ như vậy? Tôi lộ vẻ bực tức ra mặt, lớn tiếng hỏi:
- Việc gì mà bí mật dữ vậy? Các anh có muốn tôi ra về ngay để tiện việc trình báo không?
Anh Trường nhanh miệng nói:
- Có gì đâu, bài điểm báo ấy mà.
- Ðưa moa xem.
Anh Trường đưa ngay bài báo cho tôi và khoát tay ra hiệu cho nhân viên mình lui ra. Nội dung bài báo phê bình các tổng trưởng đã từ chức với lời lẽ nặng nề không thể chấp nhận được. Tôi còn nhớ rõ câu nói đó của ký giả lấy bút hiệu là Thanh Nghị viết : “Bọn trí thức miền Nam là một bọn hèn hạ, tham quyền cố vị, đã giả vờ từ chức để áp lực thiếu tướng chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương rồi lại nài nỉ xin ở lại. Bọn đó chỉ đáng làm tôi tớ đi đổ ống nhổ cho nhà ông mà thôi chứ có xứng đáng gì mà ngồi ở ghế tổng, bộ trưởng!” Bài viết đăng trên một tờ báo do Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia tài trợ. Tôi nóng bừng mặt, cơn giận sôi lên, tôi chụp ống điện thoại đường dây trắng trên bàn của Nguyễn Văn Trường, bên kia vọng nói ồ ề của Tướng Kỳ:
- Anh Trường đấy à?
- Không phải, tôi Triều đây?
- Việc gì mà phải hội họp nhau bên đấy?
- Không việc gì cả, nhưng tôi mới vừa đọc một bài báo tại văn phòng của anh Trường đây, thiếu tướng có xem bài báo đó chưa?
- Tôi đâu có thời giờ rỗi rảnh đâu mà xem những bài báo lăng nhăng trên những trang lá cải đó.
- Tờ lá cải này là của cảnh sát tài trợ, anh biết rõ hơn ai hết. Người ta chửi chúng tôi là bọn trí thức miền Nam hèn hạ, tôi đọc cho anh nghe đây.
Tôi dọc hết bài báo cho Tướng Kỳ nghe. Ông giận dữ phản ứng liền:
- Ð. M. thằng khốn kiếp, nó thọc gậy vào bánh xe của rồi. Toa yên trí, moa ra lệnh ngày mai đóng của ngay tờ báo và “nhúp” (bắt giam theo tiếng lóng) thằng ký giả này liền. Tụi toa không nên bực tức, hãy bỏ qua những chuyện lặt vặt đó do các thằng “ngất ngơ” phá hoại. Tụi mình làm việc với nhau chớ đâu có liên hệ gì với mấy thằng “ngất ngơ” đó? Moa còn ngồi đây là không thằng nào làm gì được các anh đâu.
- Tôi ghi nhận thiện chí và sự hiểu biết của anh. Nhưng đồng thời tôi cũng ghi nhận sự cố tình gây chia rẽ của bọn đàn em của anh. Những người vô ý thức đó có quyền hành hay ít nhứt cũng là dựa quyền ỷ thế vào anh. Vì vậy tốt hơn hết là anh coi như đơn từ chức của chúng tôi vẫn giữ nguyên giá trị, không có một sự nhún nhường thỏa thuận nào đã xảy ra cả. Chúng tôi cũng đoán trước được sẽ có chuyện bất ổn xảy ra trong tương lai nhưng tôi lại không ngờ nó đến mau như vậy.
- Toa lên phủ gặp moa liền đi.
- Vô ích thôi, tôi nghĩ chắc anh cũng hiểu rằng chúng ta không còn gì để bàn thảo với nhau nữa và cũng không còn gì để dàn xếp bởi vì cái nền tảng anh tạo dựng để nâng đỡ nội các chiến tranh của anh nó đã hư hỏng từ trong ruột, trong cốt rồi. Vậy chúng tôi chờ quyết định của anh để bàn giao chức vụ càng sớm càng tốt cho người kế nhiệm.
Liền sau đó anh Nguyễn Văn Trường cười nhẹ nhõm còn tôi thì thông báo cho năm anh em khác biết quyết định phải từ chức. Nguyễn Lưu Viên và Trương Văn Thuấn không phản đối tôi, và cũng không có y kiến vì họ đã có thỏa thuận trước với Tướng Kỳ là sẽ ở lại rồi. Tổng Trưởng Lao Ðộng Nguyễn Hữu Hùng thuận theo Nguyễn Lưu Viên ở lại vì hai người đã từng tham gia nội các của Trần Văn Hương. Việc từ chức này tôi thuật lại sự thật với lý do và chi tiết đầy đủ. Ða số những vị đồng ký tên trong đơn từ chức hiện còn sống và định cư tại Mỹ ngoại trừ ông Âu Trường Thanh đang sống ở Pháp.
Ngày hôm sau tôi vào Bộ Thanh Niên thông báo cho nhân viên văn phòng chuẩn bị bàn giao. Những anh chị em nào trong văn phòng muốn xin tái bổ nhiệm vào cơ quan nào của chính phủ, tôi sẵn lòng can thiệp cho được thỏa mãn.
Trưa hôm đó thủ tướng gọi tôi lên văn phòng của ông. Lại một cuộc đối thoại dài vô bổ và không có kết quả. Cuối cùng Tướng Kỳ đề nghị:
- Nếu toa cứ khăng khăng quyết định như vậy, thôi thì moa đề nghị toa nhận chức Ðại Sứ ở Luân Ðôn kiêm luôn Bruxelle, xứ Belgique nhỏ bé lân cận.
- Tôi không ngờ anh lại xem thường tôi đến thế. Tôi không phải là hạng người “được làm vua thua làm đại sứ” như tiếng đời mỉa mai và người ta thường thấy đã xẩy ra ở đất nước này. Anh sợ tôi còn ở lại Việt Nam là còn tạo sự bất mãn, khuyến khích sự chống đối anh chớ gì?
Tướng Kỳ lộ vẽ tức giận ra mặt nhưng ông cố giữ bình tĩnh cười mỉa mai, chấp tay ngồi dựa vào ghế bành, lắc lư đưa tới đưa lui, chậm rãi nói:
- Ðược rồi, chính phủ sẽ giao cho cậu một chức vụ vô cùng quan trọng, cách Saigon 15 cây số”.
Rồi ông phá lên cười.
Câu nói đó của Tướng Kỳ công khai ám chỉ ông sẽ cho tôi vào trường Võ Bị Thủ Ðức. Ðến lượt tôi nổi khùng, lớn tiếng thách thức ông đủ điều, khẳng định tôi biết trước sẽ phải thi hành quân dịch, điều mà tôi không sợ, không tránh, nên mới cãi lời cha anh, hồi hương từ Pháp trở về Việt Nam trong tuổi quân dịch. Ðáng lẽ ra tôi đã đi lính từ lâu rồi. Tôi không chủ trương trốn lính nên tôi mới từ chức. Tự ái bị chạm, cộng với tính nóng nải của tuổi thanh niên, tôi văng tục với thủ tướng, nhưng tình thân thiện và sự nể nang giữa hai chúng tôi không biến những lời lẽ hồ đồ của tôi thành sự mích lòng để vĩnh viễn đố kỵ nhau.
Cuối cùng tôi chia tay Tướng Kỳ bằng câu nói:
- Tình bạn giữa chúng ta tôi biết phân biệt và giữ trọn. Việc quốc gia anh và tôi có bất đồng trầm trọng do những vụ việc đã xảy ra. Dù sao tôi cũng cám ơn và kính phục anh đã dám mời tôi hợp tác dù tôi đã ra mặt chống đối anh từ khi gặp gỡ lần đầu.
Thiếu Tướng Kỳ không nói không rằng, cúi mặt dòm xuống đưa tay ra bắt tay tôi một cách buồn bã.Tôi tiếp tục giải quyết công việc thường xuyên của bộ nhưng không lấy một sáng kiến hay quyết định nào mới. Các vị đồng nghiệp khác chắc cũng làm như tôi. Trong khi đó thì Tướng Kỳ cứ kéo dài để tìm người thay thế, hoặc ông đã có sẵn giải pháp rồi mà còn hy vọng làm tiêu hao ý chí, cố tình chờ biết đâu sẽ có một vài người suy nghĩ lại. Tình trạng lưng chừng không thể làm việc một cách nghiêm chỉnh được, nên tôi quyết định viết một văn thư thông báo với thủ tướng là kể từ ngày mai tôi không vào bộ, không giải quyết công việc thường xuyên và cũng không chịu trách nhiệm về những việc của Bộ Thanh Niên nữa. Vài ngày sau thủ tướng bổ nhiệm Ðại Tá Hồ Văn Di Hinh vào chức vụ tổng trưởng thanh niên, Nguyễn Kiển Thiện Ân Tổng Trưởng Thương Mại, Bác Sĩ Nguyễn Văn Thơ Tổng Trưởng Giáo Dục, ông Nguyễn Xuân Phong Tổng Trưởng Xã Hội.
HẾT TẬP I |
No comments:
Post a Comment