VÕ PHƯỚC HIẾU -HIẾU ĐỆ * NƯƠC MẮT TÌNH YÊU II
MƯA NGÂU
Tương
truyền rằng:
Sao
Chức Nữ là Thiên Tôn Nữ, cháu gái của Thượng Đế, chuyên trông nom dệt vải. Nàng
được gả cho sao Khiêm Ngưu, tức là Ngưu Lang. Sau khi lấy Ngưu Lang, Chức Nữ
đâm ra chểnh mảng công việc, liền bị đổi về phía Đông sông Ngân Hà, mỗi năm chỉ
được gặp Ngưu Lang một lần.
Đó là
đêm thất tịch, mùng bảy tháng bảy. Tất cả quạ đều kết làm cầu cho đôi vợ chồng ấy
gặp nhau. Cho nên vào tiết thất tịch, quạ đều sói đầu vì bắt cầu cho đôi vợ chồng
tương tư. Họ được gặp nhau và đã khóc thành mưa ngâu rỉ rả, tỉ tê không ngớt ấy!
Càng
thấm thía nỗi sanh ly hơn nữa với những người sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa. Họ đã
lầm tin vào chánh sách khoan hồng của Việt Cộng, tưởng chỉ đi học tập độ nửa
tháng, hai ba tuần, nào ngờ những tháng, năm mất tự do cứ kéo dài mãi, không biết
đến bao giờ mới được thả về!
Hôm ấy,
căn trại rớt vào ngày thăm nuôi trong năm. Tuy bên ngoài vẫn mưa - trời đất
khóc giùm cho ai đấy! - song không khí trong trại tưng bừng náo nhiệt như ngày
Tết.
Vĩnh,
cựu Thiếu tá Trần Xuân Vĩnh của Binh chủng Biệt Động Quân cọp ba đầu rằn, trưởng
nhóm công tác trong toán sĩ quan trẻ, đã thức dậy sớm để quét dọn nhà khách.
Anh cúi lượm mấy ngọn rác còn sót, chợt trông thấy cựu Đại úy Thuận hớt hải chạy
đến:
- Bồ
Tèo! Còn bộ quần áo lành thứ nhì nào cho tớ mượn bận, kẻo bà xã mình lên thăm
nuôi trông thấy mình tiều tụy quá mà khóc ré lên thì hết chuyện trò tâm sự gì cả!
- Ờ,
tớ còn một bộ cũng tươm tất, lát nữa sẽ đưa cho.
Khi ấy,
cựu Trung úy Hùng, Phi công trực thăng, chạy tìm Thuận, gọi ơi ới:
-
Hùng ơi! Có cái kéo hớt giùm tớ cái đầu một tí! Đầu tóc lù xù, quản giáo cúp bỏ
giấy phép, bảo mình phản tuyên truyền, không cho gặp vợ thà chết còn sướng hơn!
Các
sĩ quan trẻ chuẩn bị thân thể tươm tất để mong gặp được người thân. Không ai
trong bọn biết rõ buổi thăm nuôi một năm một lần ấy có vợ con hay thân nhân nào
đi thăm nuôi chăng?
Đường xa khó đi, lại bị mưa dầm trơn trợt, xe đò chở
khách đi thăm nuôi có lên dốc núi nổi? Có ai phụ giúp các bà vợ già, các phụ nữ
ốm yếu gồng gánh quà đến nơi tới chốn mà không bị mất cắp?
Vĩnh
nhìn ra mưa bụi rét lạnh lất phất bên ngoài trại, thở dài:
- Cứ
mưa như thế, biết mấy bà đến kịp ngày? Mưa cả đêm rồi, bọn mình nôn nóng mà đâu
yên giấc được!
Mấy
trại viên cũng đang sốt ruột chờ mưa tạnh, nói một vài câu an ủi vu vơ:
- Mưa
Ngâu mà lỵ! Lệ của những ngày tương tư được hội ngộ có ngắn dòng đâu! Cũng như
chúng mình một năm học tập theo kiểu khổ sai mới được gặp người thân một lần,
có anh khóc mùi mẫn đến cả ngày! Những dòng lệ ly biệt là lệ lòng khôn ngớt, chứ
còn nước mắt chỉ chảy có chừng, thét rồi cũng vơi! Mưa Ngâu cũng thế, mưa mãi
nước trời được sao?
Vĩnh
khẽ thở dài! Nếu tin truyền thuyết mưa Ngâu là lệ sầu đau khổ thì từ ngày ba
mươi tháng tư 1975, mưa Ngâu khắp nước Việt, từ Nam Trung Bắc.
Số người đau khổ oằn oại dưới sự cai trị của chính quyền Việt Cộng đâu đâu cũng có.
Số người đau khổ oằn oại dưới sự cai trị của chính quyền Việt Cộng đâu đâu cũng có.
Riêng
về những quân, dân, cán, chính Miền Nam, bị loại vào thành phần có nợ máu với
nhân dân một cách phi lý, đã lầm vào chính phủ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mà
phải chịu cảnh ở tù khổ sai không bản án này đã mấy năm qua!
Bao năm rồi bọn anh đã bị dời ra tỉnh này tỉnh nọ, phá
rừng cất trại, ăn uống đói khát, bịnh không thuốc chữa, lao động quá sức chịu đựng
của con người! Biết bao người đã phải nằm xuống để rồi rừng hoang bỗng trở
thành bãi tha ma ngút mắt của trại viên. Đến bao giờ trò chơi trả thù vô nhơn đạo
của bọn thắng thế kia mới chấm dứt?
Cựu
Trung úy Dũng của Biệt Động Quân đang ngồi chống tay bên càm, vùng đứng lên,
reo khẽ:
- Có
thế chứ! Ông Trời ngó lại rồi!
Ông
Trời đây là vầng mặt trời đang từ từ hiện rõ ánh sáng qua làn mây mù của rừng
núi. Thì ra trận mưa Ngâu đã dứt. Ánh mặt trời hiện ra như báo hiệu đến lúc bĩ
cực thái lai!
Chẳng
những anh em trại viên nhốn nháo chờ gặp thân nhân mà cả đến bọn cán bộ, quản
giáo khẩn trương ra mặt. Bọn này mang quần áo mới ra mặc, gắn quân hàm sáng
chói, gương mặt tươi tỉnh, khác hẳn với bộ mặt hãm tài, khó khăn ngày thường.
Ngày
thăm nuôi của trại viên là ngày bọn này được hưởng một lúc hai món lợi của đời
cán binh cùn mằn. Núi rừng khô khan có gì đẹp, nếu không nhờ những bóng dáng
thướt tha, những tà áo xanh đỏ của người đẹp thành phố lên thăm nuôi thân nhân!
Với nếp sống kham khổ, lương bổng tí xíu có cầm như không, bọn chúng làm thế
nào có quà bánh, kẹo cốm, thuốc lá cán ngoại để hưởng thụ bao giờ, nếu không nhờ
những người mà chúng ra tay đày đọa biếu xén cho?
Miền
Nam sản xuất biết cơ man nào phụ nữ xinh đẹp nõn nà khác với phụ nữ xã hội chủ
nghĩa Miền Bắc vốn ăn thiếu, lao động thay đàn ông đi đánh giặc, mấy mươi năm
khổ cực chui rút dưới hầm núp bom... Họ còn đâu được đôi mắt sầu mộng, da trắng
tuyết, má đào ửng hồng, cốt cách phong lưu đài các như hồi tiền chiến.
Được
ngắm người đẹp cho đỡ nhớ thành thị, được hớp hít quà bánh, thuốc lá ngoại mấy
khi được hưởng, tên nào trong bọn chúng chả thích. Chúng ra mặt quan trọng, cao
giọng chỉ huy này nọ trước mắt người đi thăm nuôi. Song bận rộn nhứt là các trại
viên trực có bổn phận chạy ra chạy vào để liên lạc.
Đã bắt
đầu có tiếng gọi:
-
Nguyễn Văn Dũng! Có thân nhân chờ ở nhà khách dãy B!
Cựu
Trung úy nhảy cởn lên:
- Tao
hả? Phải tao hông? Mầy thấy vợ tao hay má tao?
Trại
viên liên lạc giang rộng hai tay ôm:
- Yên
chí! Vợ mày!... Có cả hai giỏ thực phẩm bự!
Liền
đó có mấy tiếng hỏi nhao nháo:
- Mày
có cần tao theo khuân giúp không, Dũng?
Lệ
thăm nuôi cho phép trại viên được cử theo một người khuân giúp quà cáp. Trái với
những kỳ đầu, trại chỉ cho trại viên nhận 5, 10 kí lô, lại cấm gạo, cơm sấy, nếp
v.v... vì chúng bảo cho trại viên ăn nhiều kém sức lao động!
Đến
sau, số trại viên thiếu dinh dưỡng vì ăn kém phải chết nhiều. Bọn cầm quyền mới
cho nhận gạo và những thứ có thể để ăn lâu. Thân nhân trại viên mới được phép
cho nhiều.
Có trại viên không mang xách nổi, trại cho phép được gọi
thêm một người giúp sức. Nhiều trại viên xung phong theo Dũng là có ý ra đến
nơi xem có người nhà mình thăm nuôi không?
Dũng
chỉ tay về phía một người bạn đứng gần. Hai người đi ra cổng trại. Từ đây đến
dãy nhà khách phải chạy trên con đường băng qua cánh rừng thưa khoảng năm trăm
thước. Chạy xa mà lòng hồ hởi biết bao!
Lần
thăm nuôi ấy, trại chỉ cho gặp thân nhân khoảng hai tiếng đồng hồ. Mỗi gia đình
được vào thăm cỡ năm sáu người thân nhất như là vợ con, cha mẹ.
Tình
thân thuộc bấy lâu xa cách mới gặp nhau, mừng mừng, tủi tủi lăng xăng. Có người
ôm nhau khóc lóc cũng đến hết giờ, mà tâm sự ngổn ngang biết nói đến bao giờ mới
dứt!
Hết lớp
trại viên này đến lớp trại viên khác được thăm nuôi trở về. Anh nào anh nấy mặt
mày tươi rói, ngồi soạn lại
giỏ đồ, kiểm tra thực phẩm, hoặc bóc vỏ bao thuốc lá ngoại ra đốt hút phì phà
và ân cần mời các bạn. Có anh giở thư nhà ra xem, cười nói oang oang, nước mắt
đoanh tròng.
Một cựu
Trung tá già, tay cầm xị đế, tay đút chiếc bánh bao vào mồm, vừa cắn ăn ngồm
ngoàm vừa thốt ra những lời tâm sự:
- Bà
xã còn có hai trăm bạc, thì trăm rưỡi phải chi tiền xe, còn lại năm mươi đồng đủ
mua xị rượu và cái bánh bao! Mẹ kiếp! Gia sản đã bị mất tất cả, vợ con bị đuổi
nhà không nơi nương tựa. Còn mình thì ở tù không án mà chả biết có ngày ra...
Thế là khoan hồng à?
Một
trại viên vừa xem thư nhà xong tỏ ra mầng rỡ:
- Thằng
cu của tớ mới biết bò!
- Cái
gì? Cậu nói cái gì? Cậu học tập cải tạo mấy năm không... không ngủ với vợ mà vợ
lại có con mới biết bò!
Anh
trại viên nọ cười hì, nheo một mắt:
- Thì
cái ruộng mì trước trại đó! Là nơi chứng kiến buổi trăng mật thứ nhì của tớ và
vợ tớ...
- Suỵt!
Đừng nói lớn, cán bộ nghe thì anh em hết nhờ cậy!... Mà cậu có quả quyết... do
cậu sản xuất? Có chắc không nào!
Cánh
ruộng khoai mì, có thể bảo một vùng mì, là nơi anh em trại viên lén lút đưa người
yêu vào đấy tình tự. Vào đợt
thăm nuôi mỗi năm, cây mì đã cao khỏi đầu, lá rợp kín bên trên như tàng lọng,
thành tổ ấm thiên nhiên của những cuộc tình duyên chánh đáng mà đâm ra vụng trộm!
Anh
trại viên nọ nghe bạn bảo đùa, trợn mắt lên, bảo:
- Sao
hổng phải! Bữa đó tuy hấp tấp, tớ cũng trả bài đủ cách, lại còn tái... nạm vài
chập!
- Đó
anh em nghe hắn nói không? Chẳng ai khảo mà hắn khai! Hèn gì cả tuần lễ cứ than
nhức lưng mãi... Nhưng bồ ơi, tụi mình ở trong này, biết mấy bả ở bên ngoài thế
nào? Tốt nhứt là phải kiểm chứng...
- Kiểm
chứng cách nào?
- Bảo
gởi ảnh thằng nhỏ cho xem. Nếu nó bình thường thì công nhận của bồ, còn như hàm
răng của nó... vẩu ra thì...
- ...
Thì là của thằng công an khu vực chứ gì, hẻo? Ờ, tớ phải kiểm tra lại. Bọn Việt
Cộng ác ôn mở chiến dịch "hoa nở về đêm" có nghĩa là hoa về đêm mới
thơm nhứt để chúng giở trò dụ dỗ, ép uổng, hăm dọa vợ con sĩ quan học tập cải tạo
bỏ chồng để sống chung với chúng... Thằng Tí nhà tớ mà có hàm răng vẩu thì thật
là trời sầu, đất thảm!
Cả bọn
trong phòng cười phá lên...
Cuộc
sống đày ải buồn thảm, họ tìm khuây khỏa trong những cái cười vô hại. Có một
vài trại viên trở về phòng, mặt buồn tiu nguỷu.
Bạn
bè xúm lại hỏi:
-
Sao? Tang gia bối rối ư? Vợ bỏ mồ côi, thành "con dì phước" à?
"Con
dì phước" là cụm từ ám chỉ những trại viên bị vợ bỏ. Anh trại viên nghe bạn
hỏi, rưng rưng nước mắt:
- Má
tớ bảo vợ tớ giao ba đứa con lại mà đi mất! Nghe nói vợ tớ theo một thằng cán bộ...
Người đàn bà như vậy tớ không tiếc, chỉ thương mấy đứa nhỏ...
Được
người thăm nuôi là chứng tỏ có người còn nghĩ đến mình, có quà bánh, có chất
dinh dưỡng để được sống qua ngày! Buồn nhứt là trường hơp nhiều trại viên trông
chờ gọi tên... đến hết giờ thăm nuôi mà vẫn hy vọng vợ mình vì lý do này, lý do
nọ phải trễ chuyến xe.
Bọn
cán bộ cứ tỉnh bơ, tha hồ ké mồm ăn chực. Chúng hút hết điếu thuốc cán ngơại
này đến điếu khác Thỉnh thoảng, chúng giở giọng nịnh suông một hai câu:
- Bà
cụ thân mẫu anh A đẹp lão nhỉ! Bảy mươi sáu rồi đấy à? Thế mà lội núi khỏe thế!
Bà cụ tử tế quá!...
- Vợ
anh B trẻ đẹp, duyên dáng, đảm đang không thua gái Bắc!...
Vĩnh
đợi đến đợt nhì mới nghe gọi tên. Anh hối hả đi đến dãy B. Trong gian nhà lá
dài có kê nhiều bàn ghế do bọn anh đóng, nhiều cặp vợ chồng ngồi ôm nhau, ve vuốt,
hôn hít. Chung quang đấy, bọn cán bộ đứng canh chừng.
Vĩnh
đưa mắt nhìn không thấy vợ anh. Lạ nhỉ! Sao thế? Hay người trùng tên người?
Vĩnh nào khác chớ không phải anh!
Vĩnh
còn ngơ ngác, nhìn ngược ngó xuôi, chợt nghe nơi góc phòng có tiếng hỏi của anh
trại viên liên lạc Cảnh, cựu Trung úy Địa phương quân:
- Chị
đi thăm nuôi mà sao không biết mặt thân nhân của mình? Hay lâu ngày xa cách,
tìm không ra?
Người
bị hỏi là một cô gái trẻ, có mái tóc kiểu nữ sinh, mặt phính tròn có vẻ chất
phác, thơ ngây, thỏ thẻ đáp lời:
- Tui
đi thăm... dùm người ta mà!
-
Thăm nuôi dùm à? Sao có chuyện lạ vậy? À kìa, có anh trưởng nhóm tới, chị hỏi
anh ấy.
Anh
liên lạc viên nói xong, vội chạy tìm người anh đang gọi tên. Vĩnh từ từ tiến đến
bên thiếu nữ nọ, thong thả hỏi:
- Cô
muốn tìm ai?
Cô
gái rụt rè đứng lên:
- Tôi
muốn gặp ông Vĩnh, Thiếu tá Trần Xuân Vĩnh.
Kinh
ngạc, Vĩnh bảo nhỏ:
- Suỵt!
Đây không được gọi trại viên bằng chức tước cũ. Mà cô tìm... ông Thiếu tá đó để
chi.
Cô
gái thong thả chỉ tay xuống hai giỏ thực phẩm để bên chân:
- Vợ
của ông... ơ mà của anh ấy nhờ tui thăm nuôi và trao lại cho anh Vĩnh hai giỏ đồ...
Sửng
sốt, Vĩnh kêu lên:
- Vợ tôi nhờ cô à? Sao vợ
tôi không đi? Thằng Cu Bi đau nên vợ tôi không đi được à?
- Ủa, ông là... mà hỏng phải... anh
là... Vĩnh à? Trần Xuân Vĩnh là anh à?
- Phải! Tôi là Trần Xuân Vĩnh. Nhưng
sao vợ tôi không thăm nuôi? Thằng con tôi bị bịnh ra sao mà vợ tôi không đi được?
Cô gái đưa tay ra vẻ trấn an Vĩnh về
đứa con trai độc nhứt của anh, thủ thỉ bảo:
- Cu Bi hỏng sao hết! Vẫn vui
chơi, cười giỡn tối ngày... Nhưng mà, anh ngồi xuống đây rồi thong thả nói chuyện,
đứng như vậy người ta dòm...
Cô
gái có vẻ nhút nhát. Chắc là chuyến thăm nuôi đầu tiên. Vĩnh từ từ ngồi xuống
bên cạnh cô ta, nén lòng hồi hộp và hỏi:
- Cô
là bà con thế nào với nhà tôi mà tôi chưa biết? Sao lại thay nhà tôi đi thăm
nuôi? Nhà tôi vì sao không đi, lại nhờ đến cô?
Cô
gái ngước mắt nhìn Vĩnh, đôi mắt lai láng nước hồ thu:
- Tui
nói ra, anh đừng buồn rầu... Chị
ấy... chị không đi là... là vì...
Thấy cô gái ấp úng mãi, Vĩnh biết
ngay có điều bất thường xảy ra. Anh càng sốt ruột hơn:
- Việc gì mà cô sợ tôi buồn rầu? Cô
cứ nói ra đi! Tại sao? Tại sao vợ tôi không đi thăm nuôi?
Cô gái thở dài, lắc đầu bảo:
- Chị ấy... vượt biên rồi!
Vĩnh như chết lặng người đi. Cái tin
ấy quá bất ngờ với anh, tưởng chừng không thể nào có. Qua mỗi kỳ thăm nuôi, anh
hằng nghe nói bạn này, bạn nọ bị vợ bỏ, anh vẫn âm thầm tự hào rằng vợ mình phải
khác, không thể giống những người đàn bà chưa chi đã bạc tình khi chồng vừa sa
sút!
Người đàn bà từng thắt chặt mối dây
tơ hồng với anh, đã nguyền ước trăm năm đầu bạc trên đường đời, sao nửa chừng lại
đổi gánh? Nay anh lại thành một "con dì phước" trong trại giam này nữa
ư?
Cô gái liếc mắt nhìn anh ngồi thẫn
thờ, khẽ bảo:
- Phải chi hồi nãy tui hỏng nói ra
chi cho anh buồn...
- Cô không nói thì cắt nghĩa thế nào
về việc cô thăm nuôi đây?
- Tôi cứ nói chị bịnh, nhờ tui...
Nhưng dấu anh như thế thiệt tàn nhẫn. Tui lại hỏng quen nói láo. Chị vượt biên
tháng rồi...
- Còn thằng Bi của tôi?
- Chị giao cho tôi nuôi. Cũng
như chị biểu tui nuôi anh vậy!... Anh đừng buồn rầu phiền trách chị. Hoàn cảnh
của chị không làm khác được...
Vĩnh
đưa tay chận lời cô gái:
- Tôi
không cần biết nguyên do, hoàn cảnh gì cả. Người đàn bà như thế là hỏng rồi,
không cần nhắc đến... Nhưng cô là thế nào với vợ tôi mà lại chịu nuôi Cu Bi?
Cô
gái ấp úng:
- Tui
là người... ban đầu ở mướn cho chị để giữ Cu Bi. Cu Bi mến tui lắm, đêm nào
cũng ôm tui ngủ. Chị bảo Cu Bi gọi tui bằng dì Ba và chị đòi kết bạn với tui.
Ngừng
một đổi, cô tiếp:
- Tui
gốc người ở Vãng (Vĩnh Long), trước kia cũng khá giả. Về sau, tui vì hoàn cảnh
phải bỏ xứ đi, lên Sài Gòn mới gặp chị. Chị đối đãi với tui tử tế, tui phải tử
tế lại với chị...
Nghe
cô gái kể lể cà kê, Vĩnh đâm ra bực mình:
- Cô
trả lại cái tử tế của vợ tôi bằng cách nhận lời nuôi Cu Bi và thăm nuôi tôi à?
Tốt hơn, cô đừng thăm nuôi. Đừng cho tôi hay biết gì cả!... Tại sao cô nhận lời
một cách kỳ quái như thế? Cô có biết như vậy là... tự nhiên buộc cuộc đời trẻ
trung của cô vào một đứa trẻ mà mẹ bỏ đi và cha thì ngồi tù! Cô có biết như thế
là vô lý, là bị lợi dụng, là không công bằng? Tại sao cô lại nhận lời để vợ tôi
thản nhiên ra đi!
Bị
Vĩnh trách móc, cô gái thụng mặt xuống như sắp khóc:
- Tui
không nhận lời thì chị ấy cũng đi thôi! Khi ấy, có ai trông nom Cu Bi? Và cả anh nữa, ai thăm
nuôi đây?
Nghe cô gái nói, Vĩnh mới biết mình
rất vô lý. Tại sao phải trút cơn sầu hận người vợ bạc tình vào cô gái vô tội
này! Huống chi cô ta cực nhọc đi thăm nuôi anh?
Cô ta dù có lời hứa với vợ anh, vẫn có thể bỏ
luống anh với số phận hẩm hiu của người tù không ngày về, mà đối với người
ngoài đời là chết chưa chôn này, thì cũng chả sao cả. Ai biết được mà trách móc
cô ta! Nhứt là anh không biết gì cả!
Với thời buổi đổi đời lộn tùng phèo
đạo đức, nghĩa nhân của Cộng sản, phải là một con người trọng tín nghĩa mới dám
giữ lời hứa như thế. Cô ta còn trẻ tuổi quá. Có hiểu thấu thâm ý của vợ anh là
tấn cô ta vào thế chỗ cho mình để ra đi không ân hận?
Vĩnh cầm bàn tay cô gái, nghẹn ngào
bảo:
- Xin lỗi cô. Vừa rồi không hiểu sao
tôi lại nóng giận. Bao nhiêu năm tù đày, tôi tưởng đã bỏ sự nóng nảy... Cô là
người ơn của tôi. Tại sao tôi lại trách móc cô chứ? Không phải vì hai giỏ đồ ăn
mà tôi có thiện cảm với cô, mà là vì cô đã nuôi Cu Bi, lại không bỏ bê đến cha
nó!
Cô gái ngước mắt lên nhìn Vĩnh. Ánh
mắt của anh từ tốn, thiết tha. Bàn tay anh nắm bàn tay cô, nghe chừng có một
rung động tế nhị truyền cảm. Cô gái e thẹn cúi mặt, đôi mắt ửng hồng.
Vĩnh nhẹ nhàng hỏi:
- Cô tên chi?
- Em tên Hương.
- Hương à...
- Dạ!
- Hương có lẽ nhỏ tuổi hơn vợ tôi.
Như thế tôi kêu Hương bằng em, Hương có chịu không? Tôi rất cảm ơn Hương đã
nuôi Cu Bi. Đời tôi không còn gì nữa, kể bỏ rồ! Tôi chỉ có Cu Bi là tình
thương, là nguồn an ủi. Ai thương yêu Cu Bi thì tôi cũng... thương yêu lại! Đó
là lời nói thật tình. Hương có hiểu? Tôi không đòi hỏi gì ở Hương hơn việc nuôi
nấng và dạy dỗ Cu Bi... đến nó khôn lớn thêm một chút. Ngoài ra, Hương vẫn tự
do. Chừng nào Hương hết thấy thích thú việc chăn thằng con nít không mang máu
huyết của Hương, cứ nói trước cho tôi biết ít lâu để tôi tìm người vú nuôi
nó... Tôi xin lỗi đã nói trắng ra như thế, để tránh những hiểu lầm về sau.
Hương liếc mắt nhìn Vĩnh giây lâu.
Cô hiểu anh nói chân thật.
Anh không muốn lợi dụng tuổi trẻ và sắc đẹp của Hương.
Con người anh đàng hoàng, chân chánh, nghĩ về người khác hơn về mình. Dám nhận
sự thua thiệt về mình để nhường tiện nghi cho người khác.
Và giọng
nói thành khẩn của anh làm cho cô vừa cảm động vừa kính phục. Cô cúi mặt xuống,
tay vân vê nếp áo lụa màu hồng bó lấy nửa thân hình mỹ miều kiều diễm bên trên:
- Em đã hứa với chị trông nom dùm Cu
Bi, em phải giữ lời. Và anh nữa, em cũng sẽ thăm nuôi anh khi được phép chứ! Bộ
anh hỏng muống em đi thăm nuôi anh sao?
Vĩnh cười khẽ:
- Muốn lắm! Muốn lắm chứ! Anh cám ơn
thịnh tình của em, không biết nói sao nữa... Nhưng chúng ta nên có một giao ước
với nhau: em vẫn hoàn toàn có sự tự do, và nếu không gì thay đổi thì em cứ như
thế này cho đến ngày anh được trả
tự do, nghĩa là đến cái ngày anh có thể tổ chức cuộc sống và trông nom Cu Bi.
Như thế cũng là thiệt hại cho em nhiều lắm đó, vì ngày về của anh chắc còn xa!
Em chịu vậy không, Hương!
- Chịu! Ngoéo tay nha!
- Ờ, mình ngoéo tay như con nít, cam
kết với nhau. Những gì con nít đã cam kết thường không sai chạy!
Hương móc ngón tay vào ngón tay trỏ
của Vĩnh, xiết chặt lại và lắc mạnh mấy lần rồi buông ra cười ngất. Vĩnh cũng
cười. Anh chợt nhận ra cái tin đau đớn của Hương cho biết khi nãy nhờ vào cử chỉ
vui vẻ và trẻ con của cô con gái này bày ra làm cho anh được đôi chút khuây khỏa.
Thì ra Hương ngoài vẻ hồn nhiên chân
chất bên ngoài còn tiềm tàn bên trong những ý thức rất tế nhị. Cô khéo léo
tránh đụng chạm tự ái và những mặc cảm của Vĩnh. Tránh cho anh tình cảm ủy mị,
bi quan.
Hương ngồi xít lại bên Vĩnh, vói tay
lấy một chiếc giỏ để nơi lòng. Cô từ từ giở ra các gói để trong giỏ:
- Đây là kí lô lạp xưởng chánh hiệu
Xão Ích. Đây là mắm ruốc bà giáo Thảo ở Vũng Tàu được xào với thịt nạc heo bầm.
Đây là ký lô tôm khô Bặc Liêu lớn con mà mặn vừa ăn... Mấy món này anh để dành
ăn lâu ngày cho đủ sức dinh dưỡng. À, còn đây là hũ tương hột, tương y mua ở bến
Mạc Cửu đó! Với lại gói muối mè,
gói muối sả ớt phòng hờ khi không có thức ăn...
Cô gái vừa soạn giỏ, vừa nhìn lên,
toan khoe với Vĩnh bịt kẹo dừa Bến Tre. Cô bất chợt ánh mắt chăm chú của Vĩnh
đăm đăm nhìn cô.
Cô khẽ đưa tay vén mấy sợi tóc mịn như tơ phủ xuống
trán, mỉm cười hỏi lại anh:
- Em còn thiếu món nào anh thích?
- Không thiếu món nào cả! Nhưng tại
sao Hương chiều anh quá vậy?
- Vì chị có dặn...
- Đừng nhắc đến người đó nữa! Anh chỉ
muốn biết tiền đâu mà Hương mua cho anh đủ thứ thế này? Và tiền đâu Hương nuôi
Cu Bi? Hương làm gì có lắm tiền đến thế!
- Chị ấy để sạp bán thuốc Tây ở chợ
Huỳnh Thúc Kháng cho em mà!
- Cái sạp bán thuốc Tây lậu ấy khá lắm
sao mà Hương nuôi nổi ba miệng ăn, nhứt là cái miệng của anh tốn kém quá mức...
Anh nghe nói bên ngoài thiên hạ than dữ lắm! Đồng tiền kiếm khó khăn thêm thuế
má còn cao khủng khiếp! Nhiều gia đình không có cơm ăn...
- Có vậy. Em tằn tiện chắt mót. Cố gắng
sao Cu Bi có cơm gạo, có thịt cá và anh được thăm nuôi đầy đủ...
- Hương à, sự có mặt của em đối với
anh là quan trọng. Lần sau, em khỏi đem cho gì nữa, hay là chỉ một số ít đủ tượng
trưng mà thôi. Chứ đường xa mà em quảy giỏ xách cồng kềnh nặng nề như thế này,
anh ăn cũng không được vui đâu. Anh nói thật tình đó. Trên này, một nhúm gạo, một
tán đường là quý lắm, nhưng anh nghĩ đến những vất vả, nhọc nhằn của em mà...
Hương đưa tay bịt miệng Vĩnh:
- Anh đừng nói nữa. Cứ mặc kệ để em
lo.
Bàn tay cô gái ẩn náu màu trắng hồng,
phảng phất mùi hương mát nhẹ.
Vĩnh chợt cầm lấy tay cô, hỏi:
- Sao có những vết rướm máu thế này?
- À, hồi nãy lên đến nơi, em mừng
quá nên bước hụt chân mà... chụp ếch!
Vĩnh lật cả hai bàn tay cô gái lên
xem. Anh trông thấy những vết cọ xát, thâm tím. Anh nghĩ đến những cái té ngã
mà cô nói như không có gì đâu chắc là nặng và đau lắm.
Anh xúc động ôm hai bàn tay cô để
trên ngực anh:
- Hương, anh biết nói sao cho hết
lòng cám ơn em đã vì anh nên nổi...
- Em làm những gì em có thể làm được.
Vĩnh úp mặt vào đôi bàn tay dịu nhĩu
của cô gái đã lờ mờ có những vết chai vì con anh, vì anh. Cô gái khẽ rùn mình,
cảm giác như những cái hôn ấy chu du khắp thân thể. Cô ngồi rướn mình lên, lim
dim đôi mắt để tận hưởng giây phút huyền diệu của hai xác thịt, hai phái đụng
nhau như hai làn điện đang giao hòa.
Cô nghe những nụ hôn nồng nàn ấy rời
khỏi đôi bàn tay đi dần lên cánh tay, lên vai, lên cổ và... phút chốc đến bên
môi cô. Ngực cô hồi hộp, nhịp tim mơ ước từ lâu. Không ngờ sự thể trong chốc
lát, cô biết ứng biến hay đối phó cách nào!
Như cành hoa trôi man mác trên dòng
nước, mong gặp được một bến đò để tắp vào. Môi cô mở rộng. Lòng cũng mở rộng.
Tâm hồn phơi phới, dật dờ như say...
Nụ hôn của Vĩnh gắn bó vào môi cô
gái. Thoảng phút hơi thở trộn lẫn vào nhau, như say mùi men... Như bầu sữa mật
chỉ mới uống lưng chừng...
Vĩnh buông tay ra nhìn cô gái, hối hận
anh đã sỗ sàng. Anh đã gặp ánh mắt thiết tha của người đẹp nhìn anh, nói năng rất
nhiều. Ý cô không trách móc lại có phần khích lệ!
Tròng mắt sáng của cô mở to, đen nháy và sâu thẳm như
suối nước trong nhìn tận đáy. Do dự mà hiến dâng, mà giục giã dữ dội, cuốn hút
theo tốc độ cuồn phong!
Vĩnh và Hương qua cuộc tiếp xúc vừa
rồi nhận thấy tuy mới quen mà như gần nhau lắm, đã thân nhau từ đời kiếp nào rồi.
Khoảng cách giữa hai người bỗng dưng không còn.
Anh từ từ kề môi vào môi người đẹp. Cô nàng cũng
nghiêng mình hưởng ứng, vành môi tươi thắm như hoa hồng nở đón ngọn gió Đông.
Hai vòng tay tự động xiết chặt vào nhau. Nụ hôn của hai người vừa tìm được tâm
hồn bạn ấy gắn bó khít khao tưởng không bao giờ dứt.
Có người khẽ đập tay lên vai Vĩnh:
- Gớm, sao mà nhịn thở lâu đến thế!
Vĩnh buông cô gái ra, nhìn lên. Tên
cán bộ vừa gọi anh, nheo mắt ra ý. Hắn ngầm kể ơn đã để anh tình tự với người
yêu như thế là quá lắm rồi. Anh vội xé bao thuốc lá ngoại lấy trao cho gã hai
điếu.
Gã nhận lấy, bỏ vào túi và nói:
- Còn mấy phút trở về trại, nhanh
lên nhé!
Vĩnh nhìn sang Hương. Cô gái thu mấy
gói thức ăn xếp nhanh vào giỏ và nói:
- Thời giờ qua nhanh quá nhỉ! Em trở
về để lo cho Cu Bi, anh ở lại cố gắng giữ gìn sức khỏe. Đừng nghĩ ngợi gì nhiều.
Cũng đừng nhớ nhung, trách móc chị ấy. Đó là ý kiến của chị nhờ em nói lại cho
anh. Chị sợ anh trong cảnh tù tội, anh lo rầu thì dễ mất tinh thần chịu đựng.
Yên chí về Cu Bi không bị mồ côi. Em chăm nom nó như con em vậy!
Vĩnh cầm tay cô từ giã:
- Hương, em tốt quá! Tốt với cha con
anh quá! Cám ơn em vô cùng...
Cô gái dặn dò lại:
- Vĩnh! Nhớ lời em nói. Đừng buồn rầu.
Phải giữ gìn sức khỏe...
Cô choàng tay qua cổ Vĩnh, kề mũi đụng
vào mũi anh. Đôi mắt dò la tình tứ. Cùng rực lửa yêu đương.
Chung quanh hai người bỗng như vắng
lặng. Bỗng như cách ly với thế giới bên ngoài. Là thiên đường vạn cổ của tình
yêu? Là đào nguyên tiên cảnh của người lạc cảnh tiên hòa hiệp! Là tim lồng vào
tim, tâm hồn pha trộn, mình này là phân nửa của
mình kia!
Cô gái gắn đôi môi rực lửa vào môi
thu hút cuồng bạo của Vĩnh. Cái hôn giã biệt bao giờ cũng đắm đuối mê lịm hồn!
Dù ngắn vội nhưng thiên thu ghi nhớ!
Vĩnh đưa cô gái ra cửa, âu yếm bảo:
- Nhớ viết thơ cho anh, nhé Hương!
Hương gật đầu, cam đoan:
- Ít nhứt mỗi tháng em viết một
cái...
- Nhớ gởi theo ảnh.
- Ảnh Cu Bi để trong gói thuốc.
- Không, ảnh của em cơ! Nhớ chụp thật
đẹp gởi cho anh.
- Chi gấp vậy?
Vĩnh đặt tay lên ngực:
- Để anh để nơi tim anh. Anh sống
với nó trong kiếp tù đày khốn khổ này!
Hương
mỉm cười, khoát tay từ biệt. Cô đi lùi ra cửa mà vẫn ngoái nhìn lại.
Vĩnh
vẫy tay, trông theo cho đến khi cô gái khuất bóng sau trạm gác. Anh xách hai giỏ
thực phẩm trở về căn trại.
Các bạn
đã xúm lại hỏi:
- Kỳ
này ai thăm nuôi mày mà sao thấy lạ ghê đa?
- Cô
bạn của vợ tao...
- Bạn
của vợ?
-
Đúng vậy.
- Sao
trông mùi mẫn quá chừng! Hạnh phúc ghê! Mừng mày tốt số đào hoa, có cô bạn gái
chí tình cũng không kém. Ơ kìa, nơi môi mày còn vết son của người đẹp lưu niệm,
để tao chùi hộ cho...
Vĩnh
giữ tay người nọ lại:
- Đừng
chùi! Đêm nay tao ngủ với cái hôn ấy mà!
Đêm ấy,
Vĩnh thao thức mãi. Lòng ngổn ngang đoạn trường mà cũng nẩy mầm vui hớn hở. Bao
mâu thuẩn ray rứt, cười ra nước mắt! Trong căm hận có mầm vui. Trong nỗi sầu tê
tái có nguồn an ủi mới. Vết thương lòng vừa nứt rạn đã có thuốc chỉ thống đắp
vào!
Thỉnh
thoảng, Vĩnh đưa lưỡi liếm môi. Mùi thơm vết son ai kia còn lưu chút hương thừa.
Vẫn ướp chất mê ly say đắm ban trưa.
Anh vừa
ăn viên thuốc đắng bọc đường sao nhỉ? Bảo rằng bị vợ bỏ mà không đau khổ là
không đúng. Người đàn ông nào gặp cảnh tình phụ này, nhứt là tình chăn gối bao
năm nồng ấm, ai chả mang hận sầu khôn khuây, trừ kẻ ích kỷ muốn tự do của thời
trai trẻ độc thân.
Anh
cùng người đàn bà kia chia xẻ nửa cuộc đời tấm mẳn, nhục vinh. Anh đã vì nàng
mà thành một chiến sĩ oai hùng. Một cấp tá trẻ tuổi nhất thuở ấy của Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa. Anh được thăng cấp và tuyên dương công trạng nhiều lần. Dĩ
nhiên, anh phụng sự lý tưởng tự do, chiến đấu cho quốc gia, dân tộc. Nhưng anh
cũng vì tương lai, sự nghiệp của chính anh và cũng của chính người bạn tri kỷ
má hồng của anh.
Và
anh cùng nàng nhiều lần bước qua vòng nguyệt quế! Âu yếm dìu nhau trên đường
danh vọng. Gừng cay muối mặn chia xẻ nhau trong buổi mới yêu, mới kết hợp thì
khi công thành, danh toại ai tiếc chi ai mật đường.
Thế
mà anh vừa đi học tập cải tạo mấy năm, nàng hối hả lỗi nguyền là sao? Lại bỏ đứa
con ba tuổi mà đi! Anh nghe tin tưởng chừng khí uất dồn lên, tức chết đi được!
Nhưng người đem tin lại là một cô gái tình nguyện nuôi con cho anh, thay thế chỗ
vợ anh vắng mặt.
Chuyện thật là kỳ lạ khó tin!
Ban đầu
khi nghe nói, anh ngỡ rằng Hương quá ngu ngốc, toan nhào vào chỗ thế vợ anh để
ăn cái giải gì? Anh đã mất ráo trọi. Tài sản, danh vọng tiêu ma! Con người anh
mất tự do, là tên tù không lịch gỡ, không biết sẽ là mấy cuốn, mấy mươi cuốn,
hay gỡ chưa hết lịch đã chết rũ trong tù, còn giá trị gì nữa mà đèo bồng!
Tội
nghiệp cho cô gái tuổi xuân thì kia sao chấp nhận cưu mang một người đàn ông thất
vận, lỡ thời, đầu hai thứ tóc muối tiêu lẫn lộn? Qua cuộc trò chuyện, anh mới
biết cô gái không ngu ngơ, khờ khạo như anh đã tưởng lầm. Trái lại, cô tinh tế
và ý nhị, có trình độ, có sự hiểu biết trên mức trung bình... Chắc chắn cô ta
đã một lần đau khổ, và sự đau khổ thường làm cho con người mau được trưởng
thành...
Vĩnh
lẩm bẩm nói:
- Em
tên Hương. Cái tên đẹp như tình thương của em...
Đêm ấy,
có nhiều trại viên không ngủ được. Đa số là những anh bị vợ bỏ. Những người này
trông thấy đóm lửa thuốc lá của Vĩnh đang hút lập lòe đỏ rực mãi, liền xúm lại
hỏi anh:
-
Chưa ngủ sao Vĩnh? Tâm sự buồn đến thế sao?
Phát,
cựu lái phi cơ chiến đấu khi xưa, cười vung vít:
- Tụi
mình không khổ vì vợ bỏ thì thôi, chứ ảnh làm gì mà khổ? Bà này đi, lại có bà
khác thế vào liền xì. Tình biết bao!
Cựu
Trung úy trực thăng nói với giọng trêu ghẹo:
- Đừng
phá ảnh, tụi bây. Anh tốt số, ở tù vẫn bắt được bò lạc. Ảnh thành "con dì
phước" hạng "de luxe", không bơ vơ côi cút như chúng mình. Ban
trưa, tao thấy ảnh ân cần tiễn đưa cô ả ra về mà tao tức ấm ách ông trời ở bất
công...
Cả bọn
nhôn nhao tranh đua hỏi hết người này đến người kia:
- Bất
công thế nào?
- ...
Hì hì! Vợ lên thăm nuôi như bổn cũ soạn lại, canh chua, cá kho tộ rầm, sao bằng
cô bạn vợ mới toanh. Mùi mẫn ôi mùi mẫn!
-
Vĩnh ơi! Mày có chê nó thì gả nó cho tao vậy nghén, đừng bỏ uổng...
Vĩnh
ngồi dậy cự nự:
- Đi!
Cút về chỗ mà ngủ! Người ta lo rầu thấy mẹ, tụi bây cứ cái mửng cười giỡn,
không thông cảm gì ráo...
Hùng
kéo tay các bạn đi về chỗ và bảo:
- Đừng
giận lũ quỷ phá nhà chay này nhé anh Vĩnh! Tụi nó cười để che giấu đau khổ, làm
sao thông cảm nổi anh? Anh cũng mồ côi, gặp được món bở như thế, bỏ không đành
mà vươn thì tội!... Thế nên cụ Nguyễn Du bảo: "Cho hay là giống hữu tình,
Đố ai gỡ mối tơ mành cho ra!" Gỡ làm mẹ gì, ôm lấy cho rồi để an ủi kiếp
tù cải tạo!
Vĩnh
lắc đầu cười khan. Lời nói chọc ghẹo cười giỡn trong trại cốt để xua đuổi những
tâm tư sầu muộn, mà đôi lúc giải tỏa được nhiều vấn đề băn khoăn chưa giải quyết...
Làm
sao tránh khỏi mối đa mang này!
Là phước hay họa đây?
**
Một năm trôi
qua...
Lại một
mùa thu...
Lại mưa Ngâu ở trại tù Bù Gia Mập vào buổi thăm nuôi
tù cải tạo...
Vĩnh
bồi hồi trông đợi hơn bao giờ hết. Chắc chắn Hương sẽ đến thăm nuôi! Cả mấy đêm
rồi, anh không chợp mắt được. Anh nằm yên, hai tay cầm xấp thư của Hương để
trên ngực, mơ màng nghĩ đến những việc đã qua...
Hương
y theo lời hẹn trong buổi thăm đầu, đã gởi hết thảy cho anh mười hai lá thư. Lá
thư nào đến tay anh, anh giở xem đi xem lại hằng mấy mươi lần, gần như thuộc
làu.
Hương
có khiếu viết thư, chữ viết chỉnh tề, công phu nắn nót. Đọc thư mà Vĩnh tưởng
chừng như có nàng đang ngồi bên vai thủ thỉ bảo:
-
Vĩnh ơi! Hôm nay là ngày sinh nhật bốn tuổi của Cu Bi. Con lóng này nói chuyện
khôn ngoan, dễ... ghét ghê! "Dì chừng nào đi thăm Ba? Nhớ biểu Ba chụp
hình gởi về cho con nghe! Ba đi lâu quá hà! Con nhớ Ba ghê! Mấy thằng bạn con
nói còn lâu Ba mới về!"... Em nghe nó nói mà muốn khóc. Nó còn nhỏ mà biết
hết trơn. Hôm qua, em đi đón nó ở trường mẫu giáo, nghe nó hát: "Đời tôi
cô đơn, nên yêu ai cũng cô đơn. Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng không
thành!...". Cô Yến, cô giáo của nó, ôm nó vào lòng, bảo nó đừng hát bậy bạ.
Không biết ai dạy nó bài hát đau khổ như vậy, chứ đã yêu nhau thành thật thì
sao lại không thành, anh nhỉ?
Nơi một
thư khác, Hương bảo:
"Hôm
nay Cu Bi chạy chơi ngoài đường về hát liếng thoáng: "Ở trong tù, anh đói
lắm em ơi! Không thăm nuôi thì anh chết mất!" Em vội bịt miệng nó, biểu đừng
nói vậy, công an bắt chết. Nó hỏi bộ Ba hỏng ở tù sao? Ba hiền như vậy, sao lại
ở tù? Mấy chú công an đánh đập người ta, dọn dẹp lề đường, lấy thuốc lá thím Ba
Xinh, xe nước mía bà Bảy Xít Xụi, bàn ghế quán cà phê chú Xồi, sao lại không ở
tù? Em phải cắt nghĩa với nó công an là bạn dân vì phận sự mà làm như vậy. Cũng
như sạp thuốc của mình cũng bị vồ, vốn liếng tiêu tùng nhà ma, em đành chịu vì
biết lỗi ở mình sai với chánh sách nhà nước...".
Vĩnh
xem đi xem lại đoạn thư ấy, anh hiểu rằng cô gái tinh khôn ấy qua mặt cán bộ kiểm
duyệt thư từ của trại bằng cách nói khéo cho anh hiểu khó khăn sinh hoạt của
dân chúng Sài Gòn. - Sài Gòn mà còn như thế, thì cả nước phải thê thảm hơn gấp
bội!
Trong
đoạn sau, cô càng tế nhị nói thật thực trạng của cô và Cu Bi:
"Vĩnh
ơi! Lắm phen em sầu khổ, tuyệt vọng hết sức khi trông thấy tiền bạc, vốn liếng
sạch sành sanh... Em lo cái đói đang gần kề. Em thất thểu đi về nhà. Cu Bi ôm cổ
em, hôn vào mặt mũi rồi nói: "Dì Ba có mua gạo, thịt nấu cơm cho Cu Bi
hông? Bi đói quá, chờ dì Ba hoài!". Lời nói của thằng bé nhắc em nhớ lại lời
đã hứa với anh. Em có thể chịu đói nhưng nhứt quyết không để Cu Bi đói. Thế là
em nghĩ đến anh mà thêm động lực để cố gắng. Em đem cầm đồ đạt trong nhà, quơ
quào khắp nơi bạn bè quen biết, vay được chút thuốc, chút tiền để buôn bán lại,
để có cơm cho Cu Bi.
...
"Lần này buôn bán cò con với sự thông cảm của "người bạn dân" hướng
dẫn đúng "nề nuật" nhà nước"...
Dưới
chữ "nề nuật" Hương đã gạch đít hai cái, như có vẻ tôn trọng. Có thế
cái thư ấy mới đến được tay
Vĩnh. Anh cười bọn cán bộ kiểm duyệt không thông minh bằng cô gái.
Cả
các trại viên trong nhóm, được đọc qua vai Vĩnh, cũng cười khúc khích, bảo là
Hương viết thư hay. Cô ta ám chỉ bọn cán bộ công an của Hà Nội chỉ biết dùng luật
rừng, nên không đáng được gọi đúng danh từ "lề luật".
Trong
một thư khác, Hương viết:
"Em
chưa tìm một đức tin nơi tôn giáo nào, nhưng nơi Cu Bi thoát ra một tin tưởng
cho em thấy phải can đảm, dấn bước lên vì nó, vì anh... Nó là an ủi và tha thứ.
Nó hồn nhiên quá, trong sạch quá trong tuổi thơ. Em cố gắng sao cho tâm hồn nó
không bị vẩn đục. Nhìn nó, nhớ anh, em cố bám vào sự sống và hy vọng! Anh có
trông thấy sự cứu rỗi trong ánh mắt thơ ngây của con anh? Anh cứ nhắm mắt tưởng
tượng đi. Em bế Cu Bi đến với anh, nó sẽ nhận biết cha nó ngay và ôm anh thỏ thẻ
bên tai những lời thánh thiện: "Sống cho người khác là sống hoan hỉ và đầy
đủ nhất".
Các bạn
trại viên xem đến đó cũng kêu ồ lên:
- Con
bé viết thư hay quá, dễ thương quá! Mình mê nó rồi.... Vĩnh ơi, gả nó cho mình
đi.
Một
trại viên trong bọn cười nhạo:
-
Thôi đi Tám! Sức mấy mà mày chen chân giành phần. Ảnh được phước trời, tưởng đã
thành "con dì phước" rồi mà bây giờ lại sướng hơn... cưới vợ bé... Mầy
hổng nghe người ta nói: "Gả em vợ nghèo ba năm", còn ở đây gả bạn gái
của vợ mà được xem như cô tình nhân nhỏ thì... cả đời ăn cám sú, tụi bây hiểu
không?
- Buồn
thì chọc giỡn để cười chơi chứ ai dám chen phần. Nhớ lại kỳ thăm nuôi năm
ngoái, cô ả chạy hỏi lung tung: "Ai là ông Thiếu tá Trần Xuân Vĩnh?"
làm ai cũng buồn cười vì đi thăm nuôi mà không biết mặt người mình thăm nuôi!
Nhưng kỳ này cô ta khỏi cần hỏi ai, nhận thấy ngay anh tù già trong đám trẻ
chúng mình, có thèm ngó đến ai khác dù bằng nửa con mắt...
Kỳ
thăm nuôi năm ấy, trại ra tiêu chuẩn trước vào đầu năm là 24 tiếng đồng hồ. Trại
viên nào lao động cật lực được thăm nuôi 24 tiếng đồng hồ, được tự do hú hí, trả
bài với vợ, nếu người thăm nuôi là vợ. Tiêu chuẩn đề ra thế, cả năm qua trại
viên nào lại không cố gắng đạt tiêu chuẩn.
Nhà
khách được giở ra, cất lại dài thênh thang để dùng làm nơi tạm trú cho thân
nhân trại viên trong thời gian thăm nuôi. Trước cổng ra vào, toán lao động của
Vĩnh được cắt cho việc làm một vườn hoa và công việc trang trí. Trong toán có
vài họa sĩ phụ trách.
Anh
em góp ý vào:
- Bồ
ơi! Ráng cho đẹp như vườn Tao Ngộ ở trại nhập ngũ Quang Trung nghe!
- Mèn
ơi! Đòi hỏi gì cao vậy. Nơi rừng núi thâm u nào phải ở thành phố, cái gì cũng
thiếu. Vả lại, một năm tao ngộ một lần, người ta thích ngắm hoa người hơn là
hoa trồng. Họ để thời giờ vào việc yêu đương, tình tự hoặc ôm nhau khóc muồi
như Ngưu Lang, Chức Nữ, sụt sùi mưa Ngâu tối trời đất, có sung sướng gì nghĩ đến
ngoại cảnh.
- Kỳ
thăm 24 tiếng này, mưa Ngâu rồi sẽ ngập cả tháng 7...
-
Vĩnh có vợ lên thăm đâu mà muồi mẫn nhỉ?
- Ê!
Lầm rồi bồ ơi! Vợ đi thăm không bằng bồ nhí viết thư tình quá mạng. Nó sung sướng
hơn được vợ đi thăm nhiều...
Hùng
và Long cũng đạt tiêu chuẩn 24 giờ thăm nuôi, khoát tay nói:
-
Đúng tin vào lối chơi chữ mà bọn mình bị mắc mớp một lần rồi! Bọn tao mới nghe
tụi quản giáo xầm xì nhau sẽ đưa ra nội qui là 9 giờ tối điểm danh trong láng
trại rồi thì giới nghiêm luôn khu nhà khách. Tụi mình đứa nào vi lịnh, mò ra ngủ
với bà xã thì a lê hấp tống vào connex ngay...
- Đểu
thế à!
-
Thương hại cho Vĩnh đã cố gắng cả năm mới đạt được tiêu chuẩn 24 giờ, tưởng một
đêm tưng bừng hội Đào nguyên, hoa vũ tơi bời thỏa thích, thế mà bị mất gần 10
tiếng đồng hồ, từ 7 giờ 30 tối đến 6 giờ sáng hôm sau là giờ điểm danh, là những
giờ khắc quý báu nhất của đôi vợ chồng son. Có phải tức muốn vỡ ngực ra không?
Đến
lúc thăm nuôi, Vĩnh vừa bước chân vào nhà khách, Hương đã chạy đến đón anh, nắm
tay anh mà run rẩy cả người:
-
Vĩnh, em đây nè.
-
Hương, em có chờ lâu không?
- Nhớ
anh quá! Cả đêm em không ngủ được cho đến giờ ra xe sớm.
- Còn
anh, hễ nhắm mắt là trông thấy hình bóng em. Anh mãi trằn trọc cả đêm với hình ảnh
của em thường xuất hiện qua những giấc mơ của anh trong năm. Anh nhớ Cu Bi bao
nhiêu là nhớ em bấy nhiêu.
- Kỳ
này, em không dắt nó theo, vì nó mới từ lớp mầm non lên lớp trường mẫu giáo nó
đang học... Em nhờ chị bạn gái đi đón nó về mỗi buổi chiều và đưa nó tới trường
vào mỗi buổi sáng. Em có đóng tiền cơm trưa cho nó ở trường.
Vĩnh
choàng tay ôm lấy bờ vai gầy của Hương, cảm động:
- Anh
có đọc mấy dòng chữ của Cu Bi viết cuối thư em gởi. Em đã dạy cho nó biết đọc
biết viết thư như vậy là hay và giỏi hết sức. Em bỏ bao nhiêu thì giờ nghỉ ngơi
sau khi buôn bán cả ngày mệt nhọc ngoài chợ trời và lo việc nhà... Anh nghĩ mãi
em là gái mới lớn lên sao đảm đang tài nội trợ đến thế hả Hương?
Câu
khen ngợi của Vĩnh có ngờ đâu đã làm cho Hương chạnh lòng. Nàng nhích người ra
vòng tay siết chặt của Vĩnh, đôi mắt u sầu nhìn về rừng núi còn phủ sương mờ ở
xa.
Vĩnh
ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao
thế em? Em có tâm sự buồn?
Hương
đổi nét mặt đâm chiêu, tươi cười:
-
Không. Không có gì cả... Em nhớ đến... đến lời hứa đã qua... Người đã đi lâu,
không một tin tức gì gởi về...
- Chắc
không cần cho em hay tin. Em hay là anh hay. Người ta chỉ gởi tin về thân nhân
bên ấy mà thôi. Mình đừng nhắc đến chuyện không dính dáng đến chúng mình. Thời
giờ gặp gỡ của đôi ta rất ít... Anh đưa em ra vườn hoa trò chuyện tự do hơn...
Đến
trưa, Vĩnh về trại lấy phần cơm đem trở ra nhà khách, bạn bè xúm lại hỏi thăm:
-
Vĩnh ơi! Mày mới quen cô nàng, sao có thể đeo một bên trò chuyện cả ngày? Tâm sự
sao mãi không ngớt?
Báu,
cựu Trung úy Hải quân Tuần giang ngâm Kiều trêu chọc:
- Yêu
như mối tình đầu cho nên chàng và nàng "Nỉ non đêm vắn tình dài, Ngoài
hiên thỏ đã non đoài ngậm sương". Nhưng tiếc gì đêm nay không được múa phụng
cưỡi rồng, phỉ duyên cầm sắc giao hòa, tha hồ gió táp mưa sa loạn cuồng...
Cựu
Trung úy Địa phương quân Tòng, chưa vợ, băn khoăn hỏi:
- Anh
làm sao mà hôn được cô nàng? Hổng lẽ đánh sáp lá cà như với bọn họ khi xưa, mặc
sức xung phong tìm mục tiêu?
Vĩnh
cười xòa:
- Làm
sao tao kể cho mày nghe tao đã nói gì? Tao tán đào dở lắm! Thường vụng về trước
người đẹp, nhất là chưa quen lắm... Tao không nhớ vì sao tao ôm chầm cô ta mà
hôn, và cô ta cũng đáp ứng lại nồng nhiệt không kém... Ăn thua ở cái hôn đầu ấy,
như vượt qua đoạn đường chiến binh rồi, mặc sức thao tác chiến trường.
Hùng
có vợ đi thăm, tiếc hùi hụi:
- Ước
gì tụi nó bỏ vụ giới nghiêm khu nhà khách, chúng mình mới "Nỉ non đêm vắn
tình dài... Chơi cho liễu chán hoa chê. Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời".
Kỳ
thăm nuôi ấy, nhờ vào thành quả lao động của trại viên, cả trại khỏi phải ăn độn.
Trái lại còn được nấu thêm phần cơm tiếp đón thân nhân một ngày. Vĩnh vừa lấy
hai phần ăn, chợt thấy Thuận xách gà mèn đến lấy cơm cho vợ và con.
Thuận
cười hô hố:
- Hai
người muồi mẫn quá chừng! Đưa nhau ra vườn hoa, đeo dính như sam, hôn hít như
thế chết ngộp luôn. Cô ả mới yêu lần đầu mà dạn quá hén! Nhưng xào khô sao đã
thèm! Có muốn tao làm ông mai không thì đi theo tao...
Thuận
đưa Vĩnh ra sau vườn chuối là nơi vắng vẻ, không sợ tai vách mạch rừng. Thuận
nói nhỏ:
- Anh
em thấy tình cảnh của mày ai cũng thương, đều đồng lòng làm đám cưới cho mày kỳ
thăm nuôi này đó. Mày chịu không?
- Dĩ
nhiên chịu quá đi! Nhưng làm cách nào?
Mà sao làm được chứ?
- Tụi
này tổ chức cho mày và cô gái đó một tuần trăng mật!
Vĩnh
mừng rỡ kêu lên:
- Làm
sao được cả tuần khi mà cuộc thăm nuôi chỉ 24 tiếng đồng hồ? Tức là sáng mai phải
chia tay, kẻ ở người về trong mối hận lòng không nói được!...
Thuận
tươi cười:
- Một tuần lễ thì cố gắng cũng được, nhưng phải
tổ chức công phu. Còn trong vòng năm ba bữa chắc chắn giữ kín được! Năm bữa mày
chịu không?
- Ờ...
Ờ... cũng phỉ nguyền... Nhưng tổ chức cách nào?
- Phải
giữ bí mật tuyệt đối, vì bọn "ăng ten" nhiều lắm, rủi đổ bể là vào
connex cả đám. Anh em giúp mày, đừng để anh em phải khổ. Mày phải thật khéo. Và
cô ấy cũng phải y kế hoạch, không một cử động một lời nói sơ hở nào...
Vĩnh
quả quyết:
- Tao
thì khỏi nói, còn cô nàng cũng là người tinh tế. Không để anh em mang lụy...
Thuận
thì thầm bàn đến kế hoạch như sau:
- Tuần
trăng mật tổ chức trong rừng mì... Như vậy, sáng ngày mai, sau khi điểm danh 6
giờ sáng, mày giả bộ như những người có vợ thăm nuôi, tiễn đưa người đẹp đến ngả
tư Đồng Bang để đợi chuyến xe chở cô ấy về Sài Gòn. Hai người bịn rịn chia tay,
cho mọi người trông thấy...
- Cái
đó là chắc! Nhưng rồi sao nữa?
- Thằng
Hòa sẽ ra rước cô nàng vào mật khu, ám hiệu nhận nhau là đưa bàn tay lên...
- Đưa
bàn tay lên khơi khơi vậy sao?
- ...
Ây, thì đưa bàn tay xòe ra rồi làm một động tác nào đó, chẳng hạn như gãi đầu,
như lau mồ hôi mặt... Cô nàng cũng làm như vậy, vì thằng Hòa cần trông thấy ám
hiệu để biết cô nàng bằng lòng theo nó...
-
Theo nó vô rừng mì?... Chà... chà cô nàng mới lạ, không dám tin cậy ai, biểu cô
ta theo vào chỗ âm u vắng vẻ như thế...
Thuận
cười khăng khắc trong cổ họng:
- Chưa chi đã ghen à? Thằng
Hòa nó sẽ đưa cô nàng đến gặp mày. Mày đứng đón tại địa điểm bí mật để chính
mày đưa cô nàng vào rừng mì. Như vậy, mày thấy tổ chức chu đáo không?
- Ờ, kể ra chu đáo đấy. Nhưng làm
sao kéo dài thời gian?
- Mày nhớ ngày mai là ngày chủ nhật,
cả trại không đi lao động. Anh em trại viên tụ tập tiễn đưa thân nhân về rất
đông. Có nhiều gia đình kéo xuống mụ Sáu Mập uống cà phê, ăn hủ tiếu... Mày phải
cẩn thận. Nhớ hành động cho thật khéo, đừng tỏ vẻ nào khả nghi cả. Bọn
"ăng ten" nhiều lắm đấy. Tao nhắc mày một lần nữa để mày nói rõ cho
cô nàng nghe và đồng ý. Nhớ đưa bàn tay làm ám hiệu. Lẳng lặng theo thằng Hòa,
đừng nói chuyện, đừng hỏi tới hỏi lui lôi thôi. Điểm hẹn với mày nơi rừng khoai
mì, nơi cây khô có nhánh gãy ở về hướng Bắc. Cứ đứng ở chỗ mấy cây cao su lẻ bạn
nhìn về hướng mặt trời lặn. Nhớ kỹ nhé!
- Nhớ! Rồi sao nữa?
- Rừng mì mênh mông bát ngát, dầy mịt
cả hai ba chục mẫu tây, dễ lạc lắm đó. Phải nhắm phía cây khô nọ làm chuẩn mà
đi tới. Đến chiều, mày nhắm hướng Tây mà đi ra, khoảng chừng mười phút là trông
thấy ngay dãy nhà vệ sinh của trại. Mày đi bọc ngả sau vào trại để điểm danh
vào lúc 7 giờ rưỡi. Xong rồi mày loay hoay ở trong trại một lúc rồi vào chỗ ngủ
giăng mùng lên, ngụy trang như có người nằm. Sau đó, mầy trở lại chỗ cô nàng chờ
cho sớm kẻo người đẹp trong rừng mì sợ ma. Mà không biết cô nàng có sợ ma đến nổi
khóc thét lên hay bỏ chạy ra ngoài làm bể mánh hết trọi!
- Chắc không đến nổi như vậy đâu!
- Vào buổi sáng, mày nhớ trở về trại
lúc 6 giờ để chuẩn bị đi lao động. Toán lao động của bọn mình là khẩn hoang ở
bên suối. Bọn này đồng ý cho mày lặn luôn để trở lại rừng mì tù tí với em...
- Rủi mấy thằng cán bộ hỏi tao ở đâu?
- Mấy thuở mà tụi nó hỏi. Tụi nó trốn
trong bóng mát mà chuyện gẫu, mà ngủ. Nhưng nếu có thằng nào hỏi tới mày, tao sẽ
nói mầy đi vẽ khẩu hiệu cho trung đoàn. Nếu nó muốn gặp mày, tao vô rừng mì dẫn
mày ra. Ô kê?
- Ô kê!
- Tao cho mày mượn cái mùng rách
không xài để giăng mùng cho em ngủ. Vào giờ nghỉ trưa hay chiều, tao lén lút
đưa thực phẩm và nước tắm cho cô nàng. À, khi mày qua ngang suối, thuận tay
xách cho cô nàng một can 20 lít nước, đỡ mắc công tao lo việc giữ an ninh bên
ngoài. Phải nhớ kỹ là đừng đốt đèn, đốt lửa gì cả mà lộ mục tiêu.
Kế hoạch bàn xong, Vĩnh từ giã Thuận
và đi trở ra nhà khách. Anh dọn cơm ra cho Hương. Cô gái đỏ mặt cười:
- Làm Vĩnh mắc công quá! Em chưa thấy
đói bụng. Hổng ăn cũng hổng sao.
- Anh cũng vậy! Vì vui mà no. Được
yêu hơn ăn cỗ tiệc linh đình. Yêu ngày nào nhịn đói được ngày đó!
Hương cười khúc khích bên vai Vĩnh:
- Có thể nói hạnh phúc là thực phẩm
của tâm hồn, đôi khi bổ sung cho xác thịt, nhưng chỉ thời gian ngắn... Còn thực
phẩm là món ăn cần thiết cho thể xác để bảo vệ hạnh phúc lâu dài... Ở trong tù,
anh cần ăn nhiều. Ngày mai, chúng mình chia tay, anh đừng tương tư mà kém ăn mất
ngủ. Anh ráng giữ sức khỏe cho Cu Bi, cho em. Đến ngày về mà anh... yếu xìu, em
hổng chịu đâu à...
- Bộ em muốn ngày mai chúng ta sẽ phải
chia tay ư?
- Em muốn được ở bên anh mãi mãi. Cứ
nắm tay, nhắm mắt nhìn, hơi thở chuyền cho nhau...
Vĩnh hôn tới tấp vào mặt mũi người
yêu, rù rì bảo:
- Em có muốn được sống chung với anh
vài ngày không?
Hương rướn mình lên, ghì chặt Vĩnh:
- Sao được hạnh phúc đó?
Vĩnh thong thả nói cho cô
gái nghe kế hoạch của Thuận. Hương lắng nghe một lúc, im lặng đưa mắt nhìn về
phía chân trời bảng lảng ánh tà huy của vùng rừng núi, thường về đêm hơi sớm.
Vĩnh kề miệng bên tai, âu yếm hỏi:
- Sao, em? Có hoan hỉ không?
- Kỳ cục quá anh à!
- Sao lại kỳ cục?
- Ban ngày ban mặt... lại có nhiều
người hay biết! Làm chuyện lén lút như vậy, em sợ lắm...
- Dưới luống mì, cành lá phủ lợp bên
trên, như dưới mái tranh tối tranh sáng, đâu phải ban ngày ban mặt gì. Dịp may
hiếm có để anh và em gần nhau theo mơ ước từ lâu...
Đôi má cô gái đỏ rần, nóng bừng bừng,
vì thẹn thùng hay vì thèm ước vọng? Cô cúi đầu vân vê mãi mép áo của mình. Dùng
dằng nửa muốn nửa không. Lòng kích thích chao đảo ngất ngây, chân ngại ngùng sẩy
bước...
- Thương anh một chút đi, Hương!
- Không thương anh, em không đến
đây.
- Vậy "ừ" cho anh một tiếng
đi!
- Em không tiếc gì với anh cả. Nhưng
yêu mà như ăn trộm vậy...
- Hoàn cảnh bắt buộc mà em. Em cũng
hiểu cho anh không phải là kẻ thích chơi qua đường, huống chi em là người ân mà
anh đem tất cả tấm thân tình ra đền đáp. Chịu nghen, cưng! Để anh trả lời với
các bạn. Bạn anh có lòng thương anh, quý em, chúng mình chớ phụ lòng tốt của họ
là bất chấp nguy hiểm mà tổ chức tuần trăng mật ấy.
Cô gái vẫn cúi đầu, đắn đo nghĩ ngợi.
Mặt đỏ phù dung. Đôi môi khát vọng, ước thèm. Vầng ngực căng thẳng, no tròn
trong cánh áo lụa màu xanh lơ như bồn chồn, thổn thức qua những đòi hỏi của con
tim... Làm sao dập tắt được ngọn hỏa diệm sơn của lòng?
- Gật đầu đi em! Chịu một cái cho
anh đi em! Em không nói là không phản đối chứ? Anh báo tin cho các bạn...
- Em sợ... không xứng đáng...
- Sao lại không xứng đáng? Em không
xứng đáng với mối tình của anh, còn ai xứng đáng hơn? Còn ai xứng đáng để anh
yêu và nhất định, khi ra tù, sẽ chánh thức lấy em làm vợ. Anh thề như vậy, em
có tin lời không?
- Em tin anh lắm. Anh là người đàn
ông em kính yêu và tin cậy. Em đặt cuộc đời em vào đôi tay anh.
Vĩnh thuyết phục mãi Hương mới bằng
lòng. Anh từ giã cô gái trở về trại. Khu nhà khách được giới nghiêm cẩn mật.
Các trại viên về trại tập họp để điểm danh. Cán bộ đọc những huấn lệnh cũ rít rồi
mới thông báo nội quy về giờ cấm xuất trại ban đêm. Các trại viên nhao nhao hỏi:
- Thế tiêu chuẩn 24 tiếng đồng hồ để
ở đâu?
- Tiêu chuẩn 24 giờ là cho thân nhân
trại viên được ở ban đêm bên trại vốn cấm thường dân không được bén mảng đến. Trại phải canh gác an
ninh cho họ, giúp đỡ cho họ có chỗ ngủ đêm, có cơm ăn, có được thăm nuôi đàng
hoàng là tốt lắm rồi đấy. Chánh phủ khoan hồng như thế, các anh phải biết ơn để
học tập tốt mà được về nhà.
Các trại viên chỉ ứ hự lắc đầu chán
ngán. Cộng sản là thế. Chúng nói xuôi nói ngược đủ điều. Ai tin là dại!
Kỷ luật trại khắc khe. Lính tuần
canh ban đêm rọi đèn bấm, qua lại rầm rập. Thế mà vẫn có trại viên nhớ vợ, lén
ra nhà khách. Những cuộc bắt bớ, xét hỏi náo loạn! Đến sáng, điểm danh trước
sân cỏ, những trại viên đi ăn sương bị lôi ra sỉ vả đủ điều rồi giam nhốt vào
connex. Tội nghiệp cho những kẻ cố đấm ăn xôi.
Một cấp úy thuộc binh chủng Thủy
quân Lục chiến thở than:
- Tao cưới vợ chưa được tuần lễ thì
phải ra tuyến lửa ở Quân Khu I cho đến ngày đi học tập cải tạo. Thế nên tao cố
gắng đạt tiêu chuẩn 24 trên 24 này. Thế mà lại cấm tao ngủ với vợ thà chết còn
sướng hơn! Tao liều ra với em và bảo bương bương lên, nhưng em hổng chịu bương
cho... Thế là mấy thằng mắt toi rọi đèn bấm vào mùng, hối mặc quần áo vào, mất
hết hứng thú!
Điểm danh xong, Vĩnh ra nhà khách,
tiễn Hương ra đến ngả tư Đồng Bang. Hôm ấy chủ nhật nắng ráo. Trên cao, mặt trời
tươi cười trên nền hy vọng xanh lơ. Ngọn gió núi mát lạnh hiền hòa đong đưa nơi
mái tóc mai của Hương. Cô gái càng trông càng đẹp. Đôi má đỏ hồng, mắt long
lanh tình ý thiết tha.
Cô nàng cắp tay Vĩnh, đàng hoàng bước
đi giữa dòng người tấp nập. Vĩnh thỉnh thoảng nhìn âu yếm người yêu. Anh tự
hào. Anh không hề mất hạnh phúc khi bị vợ bỏ. Anh hãnh diện có người yêu trẻ đẹp
và ngoan hiền.
Chủ nhật hôm ấy là ngày chấm dứt
ngày thăm nuôi của Tiểu Đoàn 4T3, tiểu đoàn cải tạo của anh, và mở đầu ngày
thăm nuôi của Tiểu Đoàn 3 bên khu Đồng Bang. Trên con đường nhỏ mà dân địa
phương gọi là Quốc lộ 3 đi thẳng lên Buôn Mê Thuột và ngả ba Tam Biên, xe chạy
lên xuống nườm nượp, người đi như kiến. Sinh hoạt vui vẻ ấy kéo dài đến hai
mươi hôm mới dứt.
Nơi ngả tư Đồng Bang, gần quán mụ
Sáu Mập, biến thành một bến xe trong những ngày thăm nuôi. Mụ Sáu Mập, chẳng những
bán cà phê hủ tiếu còn bán các thứ linh tinh cần dùng cho các trại viên với giá
mắc kinh khủng, thường gấp ba bốn lần mua tại chợ Phước Long. Anh em ai cũng
oán ghét mụ, nhưng phải đến quán mụ vì nếu không thì không có gì cả để tiêu
xài.
Mụ cắt cổ lột da thiên hạ không tiếc
thương. Người trong vùng là nạn nhân không kêu ca được. Đến đồng bào Thượng
cũng ghét ra mặt... Vào quán mụ trả giá lôi thôi, mụ mắng như tát nước. Mụ đuổi
như đuổi tà đuổi ma.
Hôm tháng trước, đám Fulro mà Việt Cộng
gọi là phỉ cỡi voi đã về phá xóm, đốt cháy rụi cái quán của mụ. Fulro là thứ
tàn dư của những đơn vị võ trang người Thượng ở vùng này, xưa kia vẫn ở dưới quyền
cai trị của Pháp, sau Pháp trả lại cho vua Bảo Đại, gọi là Hoàng Triều Cương Thổ.
Đồng bào Thượng thích Bảo Đại, song cũng bị cán bộ Việt Cộng nằm vùng tuyên
truyền nên có ý ngã về Việt Cộng.
Vùng Tây Nguyên bao gồm các tỉnh:
Darlac, Kontum, Pleiku, Lâm Viên và Đồng Nai Thượng. Đến khi Quân đội Việt Nam
Cộng Hòa thành lập, các sĩ quan người Thượng của các lực lượng võ trang này được
gia nhập với nhiều ưu đãi. Chính phủ Việt Nam khi ấy muốn tác thành cho họ vào
dân Việt Nam bằng cách cưới vợ người Việt. Nhưng người Thượng có tinh thần gia
tộc hẹp hòi. Họ chỉ thích ở buôn của họ. Họ cưới vợ người Thượng. Chỉ huy người
Thượng là bà con của họ. Họ đi làm ăn ở xa, dầu giàu có đến đâu, khi trở về là
cởi bỏ quần áo tốt ra và mặc chiếc khố vào buôn.
Khi chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa thực
hiện chương trình khai hóa Tây Nguyên, những nơi đất đai mầu mỡ của người Thượng
bị dân Kinh chiếm cứ để canh tác. Những xe ủi đất, máy cày, máy xới mở rộng
dinh điền, trồng cà phê, cao su, mía v.v... khiến người Thượng phản đối. Quân
lính Thượng bênh vực dân của họ, đánh lại chánh phủ. Súng nổ và máu chảy giữa
hai người anh em Kinh Thượng ngày càng nhiều. Do đó mà có Fulro.
Khi đó chánh phủ Cam-pu-chia của ông
Hoàng Sihanouk muốn làm khó Việt Nam, cho Fulro một vùng đất biên giới Việt
Miên làm chiến khu. Fulro kết hợp với Việt Công gây nhiều khó khăn cho Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa ở Tây Nguyên. Đến khi Việt Cộng cưỡng chiếm Miền Nam, bạc đãi
Fulro vì thế mà có một số kháng chiến chống lại. Việt Cộng tức lắm gọi Fulro là
phỉ cỡi voi.
Hôm Fulro về phá xóm, đốt quán mụ
Sáu Mập, súng bắn như pháo Tết, tù và rúc inh ỏi. Dân chúng quanh vùng đều kinh
ngạc tưởng có biến cố gì xảy ra nơi các trại học tập cải tạo. Đến sáng, mọi người
vỡ lẽ ra đó là việc làm của Fulro.
Mụ Sáu Mập vỗ bành bạch, khóc kể giữa
những cột nhà cháy đen:
- Tui buôn bán chơn chất thật thà.
Tui có làm gì đâu mà bọn phỉ cỡi voi về đốt nhà tui. Bộ đội ở kế bên, có xe
tăng, có súng to mà chả can thiệp cho chút nào... Giời ơi là giời!... Tui chịu
tiền cho trại có ít ỏi gì đâu!
Tuần lễ sau, mụ Sáu Mập đã cất quán
mới, buôn bán phồn thịnh như xưa. Giá vẫn là giá đập đỗ như thường.
- Vào đi! Vào ăn uống hay mua món gì
cũng có! Tui vẫn bán rẻ cho anh em cải tạo như trước thôi... Anh em khổ như thế
kia, ai nỡ đành bán mắc cho anh em!
Vĩnh đưa Hương đến quán mụ Sáu, mua
cho cô ta một chai dầu xanh để mọi người trông thấy anh o bế người đẹp trong chuyến xe trở về,
lo phòng cô bạn bị gió máy dọc đường. Anh ôm hôn cô, bịn rịn chia tay, đi trở về
trại.
Hương thẫn thờ nơi đó cho đến khi
chuyến xe chót sắp rời bến, thì trông thấy Hòa giả làm người đưa tiễn người
thân ra xe, đưa tay ra mật hiệu. Hương đưa tay lên để sửa lại mớ tóc mai phất
phơ bên trán. Thừa dịp mọi người lu bu việc riêng, không ai để ý ai, Hòa hướng
dẫn Hương đến ngay chỗ hẹn.
Trông thấy vắng vẻ, Hương hoảng hốt
hỏi:
- Anh Vĩnh đâu?
Vĩnh ỡ trong rừng bước ra:
- Có anh đây! Chờ sốt ruột, một phút
dài cả năm.
- Anh.
Cô gái chỉ kêu được một tiếng reo mừng,
ngã người vào mình Vĩnh. Anh ôm chặt cô, gắn vào đôi môi run rẩy của nàng.
Hương ghì chặt lấy anh, cái bọc quần áo rơi xuống đất lúc nào không hay. Cô gái
quên cả Hòa đang trố mắt nhìn hai người đang say đắm mê ly.
Mãi một lúc sau, Hương giật mình, bảo:
- Chết thật! Quên cám ơn ông dẫn đường...
Cô quay nhìn lại. Hòa không còn ở đấy
nữa. Hương đỏ mặt bảo với Vĩnh:
- Ông ấy bỏ đi mất rồi! Không để em
kịp cám ơn một lời.
- Anh ấy nhận là thừa ở đây. Nơi đây
đặc biệt dành cho hai đứa mình thôi.
Vĩnh cúi xuống lượm bọc quần áo của
Hương, dìu bước cô nàng luồn qua các luống mì. Đến một nơi rộng độ hai người nằm,
có trải tấm bạt bằng ni lông, Vĩnh đã giăng chiếc mùng của Thuận cho mượn.
Anh nhanh nhẹn bế xốc Hương nằm trên đôi tay rắn chắt. Cô gái vừa thẹn vừa hoảng, kêu lên:
Anh nhanh nhẹn bế xốc Hương nằm trên đôi tay rắn chắt. Cô gái vừa thẹn vừa hoảng, kêu lên:
- Anh làm gì thế?
- Theo Âu Châu, người chồng bế vợ
vào giường tân hôn. Hôm nay là đầu tuần trăng mật đắm say của đôi ta, anh bắt
chước lối nịnh đầm của người văn minh, bế em vào cõi tình đẹp như giấc mộng thần
tiên...
Hương thở dồn dập qua cơn xúc cảm chạy
rần rần khắp châu thân:
- Anh Vĩnh ơi! Em là người của anh.
Nhưng thông thả... chờ đến tối...
- Nhắm mắt lại thì tối. Ngày xuân ngắn
lắm, nhất là tình cảnh chúng mình, anh sắp trở về trại. Cho anh yêu! Anh nhắm mắt
đây nè... Có trông thấy gì đâu?
Hương cười khúc khích, đưa tay đẩy
Vĩnh ra:
- Đôi mắt thao láo như đôi mắt dã
thú thèm thịt, trừng trừng dòm người ta nhột nhạt thấy mồ.
- Anh không thèm thịt sống mà thèm
mùi hương thoát ra từ thân thể đẹp như tượng thần vệ nữ! Hương ơi! Hai năm rồi
anh nằm mơ bóng dáng em. Đêm đêm anh cùng em hội ngộ, cùng uống tận ly rượu men
tình hoan lạc. Hai năm mộng tưởng giây phút hoan lạc này! Hiểu cho anh đi, Hương!
Anh đói khát tình yêu. Cái đói
khát không chịu nổi ngàn đời của người đang lạc sa mạc. Hai năm sống với ảo
giác, giờ đây cho anh chứng nhận em là ảo giác hay là xương thịt...
Giữa cảnh im tịnh của rừng núi, dưới
luống mì nồng ấm xanh rờn, hai thể xác quyện vào nhau, đôi môi làm một, luồng
hơi thở dồn dập giao nhau, hai quả tim thổn thức cùng một cung đàn tình ái.
Không có gì ngăn cách giữa đôi nam nữ đã hiến trọn cho nhau tấm chân tình. Mỗi
một chu du là mỗi một khám phá tuyệt dịu. Mỗi cuốn hút phiêu lưu là khai mở kỳ
quan tuyệt thế!...
Trước khi trở về trại điểm danh,
Vĩnh nựng nịu người yêu:
- Anh có làm điều chi khiến cho em
không vừa lòng?
- Em cám ơn anh ban cho hạnh phúc
chưa bao giờ có!
- Đêm nay còn dài mà tình yêu đôi ta
thì vô tận. Hơn nữa, tình yêu của em tiếp sức cho anh trong đời tù tội. Nó là
nguồn sống để anh bám vào...
Vĩnh trở về trại, y theo lời dặn của
Thuận. Anh giữ nét mặt trầm buồn như thể vừa đưa người yêu trở về thành phố. Cả
trại, ngoài người tổ chức, không ai ngờ anh vừa đi ăn mảnh tình yêu. Suốt đêm,
anh băng rừng lội suối vượt nguy hiểm, vẫy vùng ngụp lặn trong nguồn ân bể ái,
mệt bở hơi tai mà tinh thần vẫn ở cao độ. Anh về trại nhưng thực sự hồn anh vẫn
còn ở bên Hương.
Vẫn như say đắm mật hoa, anh nhớ những
lúc nằm bên cánh tay trần phảng phất mùi hương mỹ nữ của Hương. Anh lắng nghe sự
êm vắng của rừng mì, thỉnh thoảng có giọt nắng lay động rì rào, văng vẳng từ xa
tiếng suối chảy róc rách qua khe đá. Có những con bươm bướm, gọi là bướm lá
vàng (feuille morte), giống y như chiếc lá mùa thu từng đàn, bay chấp chới
quanh chiếc áo trận của Vĩnh mặc đi lao động như thể bị quyến rủ vì mồ hôi của
anh.
Vĩnh bắt một con để lên ngực Hương,
nhốt giữa hòn đảo:
- Tặng em cánh bướm trong "Hồn
Bướm Mơ Tiên" của nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn. Loại bướm này, trong bộ
sưu tập của người Tây phương rất đắc tiền...
- Phải chăng chúng ta là hồn bướm!
- ... Cũng nhờ các bạn tốt của anh.
Mấy anh thương nhau, nâng đỡ nhau, thân mật như người một nhà. Em có nghe nói
tình huynh đệ chi binh của chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa khi xưa đáng ca ngợi
không gì bằng.
Vĩnh ngụy trang chỗ nằm thật khéo
léo cho cán bộ rọi đèn bấm vào thấy dáng người nằm co ro. Anh lừa khi không ai
để ý, giả bộ đi ra dãy nhà vệ sinh. Anh tuồn mình vào bụi rậm, phăng phăng đi về
phía người yêu đang chờ đợi. Anh theo ám hiệu đã mật ước với Hương, khẽ cất tiếng
chim kêu cúc cu... cúc cu... ba tiếng.
Mãi lâu, anh nghe gió lá đưa thoảng:
- Cúc cu... Em ở đây mình à...
- Giọng nói rất nhỏ, hồi hộp lo sợ.
Vĩnh vội vàng tiến lên. Hương quờ quạng nắm tay anh trong bóng tối để lên vầng
ngực no tròn hổn hển:
- Suỵt! Có người đang rình, đang bao
vây. Tổ uyên ương của chúng mình bị lộ rồi chăng?
- Ai vậy? Em nghe thế nào?
-
Không biết ai! Dường như nhiều người... Đó! Anh nghe tiếng động khả nghi? Bộ đội
tuần canh kiếm chúng ta?
-
Không sợ. Rừng mì bát ngát, một hai trung đội không ví bắt được chúng ta đâu. Để
anh lén đến bên xem.
Hương
ôm cứng lấy Vĩnh:
-
Nguy hiểm lắm, mình ơi! Em sợ và không dám ở một mình.
Vĩnh
dìu bước Hương, rón rén đi về nơi có tiếng động. Trong âm u, có tiếng xì xào:
- Thế
đủ chưa?
- Đủ
một nồi cho tụi nhỏ!
Vĩnh
rỉ tai Hương:
- Họ
đào mì cho con trẻ. Ở thành phố sao con trẻ thích ăn khoai mì đến thế! Nơi đây,
mì là tiêu chuẩn, ăn thét muốn... lòi con trê.
Vĩnh
đưa Hương trở về chỗ nằm. Tình yêu lén lút, vụng trộm là tình yêu lý thú khác
thường. Hương bám vào tình lang như người sắp chết đắm bám được nhánh cây trôi,
như thể vớt vát tận hưởng lạc thú bao nhiêu cũng chẳng vừa. Hai người là lửa
thêm lửa, điện cao thế chập nhau, núi lỡ, biển động, ngàn băng, chẳng khác nào
mươi đôi trâu mộng kéo cày ngất ngư, vạn cấy gieo mạ ruộng sâu, hoa màu gặt hái
gánh vác mệt nghỉ!
- Vợ
chồng mình trong cảnh màn trời chiếu đất, mà thần tiên vui thú còn hơn ở khách
sạn Palace trên Đà Lạt, khi xưa dùng làm nơi nghỉ mát của giới quý tộc. Hương
ơi! Khi anh ra tù, thế nào anh cũng đưa em lên Đà Lạt, cái nôi của tình yêu
trăng mật muôn đời...
-
Ngày vui của chúng mình quá ngắn ngủi!
- Đây
là tình yêu của Roméo và Juliette. Em đẹp như Juliette trong cái tình yêu chờ đợi
hai năm và sẽ còn chờ đợi không biết bao nhiêu năm và mỗi năm là một thế kỷ.
Khi xưa, Juliette hờn dỗi tiếng chim hót ban mai, than thở ánh chiều dương đến
phá tan màn đêm huyền dịu của nàng. Chúng mình hôm nay cũng thế, muốn đêm dài bất
tận, yêu đương không chút dứt cuộc, ái ân triền miên... chết bỏ! Sướng chơi chết
bỏ, cả đời vẫn chơi, kéo dài ích chi kiếp tù đơn côi!
Vĩnh
vạch lá mì, thò đầu vào, gọi khẽ:
- Anh
đây nè em!
Hương
bên trong cuống quýt bảo:
-
Khoan! Khoan! Chờ em một chút. Đừng vô nghe!
- Em
làm gì đó?
- Em
tắm mờ! Chịu khó đứng ngoài một chút nghe mình!
Vĩnh
mỉm cười, dừng bước lại, không tiến thêm vào bên trong. Bên trên rừng mì, ánh
tà chênh chếch về tây, màn đen phủ lờ mờ như sương vờn qua luống mì. Có sóng nước
vỗ bì bạch, hay tiếng suối róc rách qua khe cá giếc...
Vĩnh
lên tiếng thúc giục:
-
Xong chưa? Anh vô được chứ?
Cô
gái đã ăn nằm với Vĩnh cả ngày qua. Yêu đương lăn lóc, say sưa cực độ, nhưng vẫn
nặng nết con gái, không bày lộ tòa thiên nhiên trong ngọc trắng ngà.
Vĩnh
vén mùng chui vào. Hương nằm xoài trên chiếu, tóc ướt xõa vai, nửa mình quấn
chiếc khăn lông trắng, hở lộ nửa vầng ngực vung cao, đôi cánh tay trần tuyệt đẹp,
cặp đùi trường túc tình tứ. Vĩnh nén thở hồi hộp, trố mắt nhìn. Cho đến bây giờ
anh vẫn tưởng là mộng. Hạnh phúc bất ngờ tràn đến với anh. Anh cứ sợ rằng không
thực. Lòng hoang mang, bỡ ngỡ với thực trạng sao đẹp như mộng mơ.
Cô
gái khỏa thân đang nằm thoải mái trước mắt anh là bằng xương thịt. Hay là ảo
giác huyền hoặc? Nàng thoát ra từ bức tranh tố nữ phường Bích Câu hay cô tiên
ngủ lạc trong rừng, đánh mất đôi cánh đâu đó.
Vĩnh
bẻ một nhánh lá mì. Khuôn trăng hạ tuần hé mở không gian, bàng bạc ánh sáng huyền
dịu bao la, có sao trời vây kín chung quanh. Chả nhẽ đêm ấy Thượng Đế mở hội quần
tiên, ban thưởng cho chàng một đêm trăng sao hoa mật. Thoảng trong gió ngàn mùi
hương ngát dịu của một thứ hoa rừng nào đang ướp lạnh qua sương khuya.
Vĩnh
cúi mình xuống hôn lên mái tóc suối huyền của người đẹp. Anh hôn cả trên đôi mắt
mở rộng tình tứ đắm say của nàng:
- Là
mộng hay là thực thì hình ảnh của em trong đêm nay vĩnh viễn sống nơi lòng
anh...
-
Vĩnh ơi! Đêm nay là đêm thần tiên nhất đời em... Chúng mình đã qua những ngày hạnh
phúc tuyệt trần... Mấy ngày rồi anh nhỉ?
- Ba
ngày rồi!
- Chết
thật! Ba hôm rồi à? Bé Bi chỉ được em gởi cho cô bạn có một ngày!
-
Chúng mình ham vui để bé Bi ở nhà bơ vơ. Không được anh ơi, ngày mai em phải trở
về sớm.
Nghe
nhắc đến con, Vĩnh cũng giật mình:
- Tội
nghiệp con! Mình ham vui quên nó! Ở nhà chắc nó khóc mù trời...
- Bạn
em chờ mãi không thấy em về, chắc đưa nó đến nhà cô ấy ở. Nhưng Cu Bi nhớ em mà
cô bạn cũng lo sợ không hiểu em bị tai nạn, hay rủi ro thế nào mà không trở về
đúng hẹn. Vậy sáng mai chúng ta phải chia tay.
Vĩnh
đồng ý song tiếc rẻ thở dài:
- Em
về với Cu Bi là phải, nhưng uổng mất mấy ngày hạnh phúc còn được hưởng.
- Ba
hôm như thế tạm đủ rồi anh! Qua sang năm, mùa thăm nuôi tới, em thu xếp trước để
ở với anh cả tuần lễ bù lại, anh chịu không nè!
-
Đành phải chịu vậy. Một năm chờ đợi dài như thế kỷ!
-
Tình yêu của chúng mình suốt đời, chừng anh được trở về em bồi thường gấp bội.
Chúng ta cùng sống hạnh phúc trăm vạn lần hơn. Một năm chờ đợi có nghĩa gì?
Cái
đêm từ giã ấy buồn hơn vui. Tình yêu của Vĩnh và Hương càng bịn rịn càng chua
xót thiết tha! Càng quyến luyến dữ dội. Dính như sam. Quấn như bạch tuộc.
Mãi đến
khi Vĩnh trở về trại, bình minh bắt đầu ló dạng nơi chân trời. Thuận đưa hai
tay lên kêu trời:
- Ngủ
quên hả? Tao lo sốt vó, tưởng mày trễ giờ điểm danh thì bỏ mẹ cả đám!
Vừa
đúng lúc tiếng kẻng gọi tập họp ra sân cờ. Vĩnh bảo nhỏ cho bạn bè nghe lời từ
giã và cám ơn của Hương.
Thuận
kêu lên:
- Còn
tổ chức thêm được mấy hôm kia mà. Uổng thật!
- Năm
sau nhờ tụi bây tổ chức cho bảy ngày đêm.
Nhưng
ngày xuân của con người ít khi trở lại. Mưa Ngâu trại Bù Gia Mập đột nhiên chuyển
hướng. Trại học tập cải tạo ở Bù Gia Mập chuyển về căn cứ của quận lỵ Hàm Tân,
gần rừng bên quốc lộ 1. Trại không còn do quân đội nhân dân quản lý mà thuộc dưới
quyền kiểm soát của công an.
Đến đấy,
người ta nói trắng trợn cho các trại viên không phải học tập cải tạo mà là ở tù
thật sự. Trại là trại tù. Không phải nông trường gì cả. Cuộc sống đã mất tự do
rồi nay càng bị bó chặt hơn! Lao động cực nhọc hơn. Kỷ luật nhà tù gắt gao, phải
tuân hành răm rắp.
Mỗi tối,
khi lao động trở về, điểm danh, đếm số rồi thì vào khám khóa trái cửa lại. Kẻ
nào vi phạm kỷ luật sẽ bị ngược đãi và kết án tăng thêm ngày giam. Thân phận trại
viên, không làm tội gì mà ngồi tù, ngày càng bi đát.
Sau
khi chuyển trại độ chừng năm tháng, tù nhân được phát phiếu thăm nuôi. Buổi
thăm nuôi chỉ có nửa tiếng đồng hồ cho mỗi tù nhân. Không được nói đến chuyện
gì liên quan đến tình hình chính trị bên ngoài. Không được nói đến những gì
khác hơn chuyện nhà. Và luôn luôn có công an đứng bên cạnh nghe.
Nhưng
thỉnh thoảng trại viên vẫn nghe được tin ngoài đời. Dân chúng lầm than. Xã hội
rối rắm, khó khăn. Bộ đội Việt Nam đã đánh sang Cam-pu-chia. Thanh niên Miền
Nam bị bắt đi nghĩa vụ quốc tế, sang đánh giặc bên xứ Chùa Tháp. Số tử vong mỗi
ngày mỗi cao khiến ai cũng lo sợ, lẫn trốn, giấu giếm con em trình diện. Cảnh
ruồng bắt lính khủng khiếp, tàn bạo ở thôn quê xảy ra hằng đêm.
Kế đó
ít lâu, nơi biên giới Việt Hoa, quân đội Cộng sản Trung Quốc rần rộ kéo sang
đánh chiếm sáu tỉnh miền Bắc, bảo là dạy cho Cộng sản Việt Nam bài học hữu nghị!
Bọn quản lý trại sợ quýnh đít lên, làm như bọn bành trướng Bắc Kinh lấn chiếm đến
Sài Gòn. Sao "nại nạ" nhỉ, anh em một "nò" mác xít sao lại
choảng nhau tưng bừng?
Bên
Trung Quốc vừa đánh cướp vừa la làng:
- Hoa
nạn! Hoa nạn!
Bên
Việt Nam hô toáng lên:
-
Trung Hoa bành trướng, muốn xâm lược Việt Nam.
Bên
nào cũng cho mình là nạn nhân bị thiệt thòi. Bắc Kinh xúi giục các tù trưởng
dân tộc thiểu số ở vùng Thượng du Bắc Việt nổi loạn, đòi tách riêng khỏi ảnh hưởng
của Việt Nam. Việt Nam vừa đánh trả vừa thủ tiêu Hoa Kiều, hạ độc thủ đầu độc
các cán bộ người Việt gốc Hoa, triệt hạ đảng viên thân Trung Quốc, hoặc xưa kia
có sang học bên Tàu, những ai có liên hệ đến người Hoa... Nhiều cán bộ bỗng
nhiên bị trúng thuốc chuột mà chết!
Chỉ
khổ cho tù nhân trong trại bị đày đọa hơn, lao động cực nhọc hơn, ăn uống thiếu
thốn hơn, tối vào trại giam phải xỏ chân vào cùm. Hôm Hương đi thăm nuôi, trông
thấy Vĩnh ốm o, rạc hẳn người đi, râu tóc lén phén sương pha tuyết...
Nàng
ôm anh, khóc nức nở:
- Nào
ai ngờ được ngày nay anh như thế này!
Vĩnh
vuốt tóc Hương, an ủi:
- Em
đừng khóc, Hương à! Anh có thể chịu đựng tất cả đau khổ, nhưng không cầm lòng nổi
khi trông thấy giòng lệ lả chả của em:
-
Chúng mình thiệt vô phước quá, anh nhỉ... Nhớ lại mưa Ngâu rừng mì... Nhớ lại
đêm trăng mật tuyệt thú năm xưa! Đến đời thuở nào nữa mới có lại những giờ phút
hoan lạc ấy.
-
Hương! Em nên mừng cho anh, chứ đừng buồn rầu thối chí.
- Tại
sao lại mừng?
- Vì
nay anh đã là một tên tù! Ở tù là có án, sẽ được về nhà...
-
Nhưng liệu có... sống đến mãn án?
Vĩnh
quả quyết:
- Anh
phải sống! Sống vì em, vì Cu Bi. Chúng ta phải sống để được yêu không hồi hộp
và lo sợ xa nhau. Chúng ta sẽ chung hưởng hạnh phúc như chưa từng có.
Kỳ
thăm nuôi ấy, nhờ đường gần và dễ đi, Hương có dắt Cu Bi theo để thăm cha. Thằng
bé mặc đồng phục của trường mẫu giáo nó đang học, quần sọt xanh, áo sơ mi tay cụt
có gắn bảng hiệu nhà trường nơi ngực, chân mang giày vớ trắng. Nó rụt rè đứng
nép sau lưng Hương, mắt đen nháy mở to nhìn Vĩnh tha thiết.
Hương
quay lại bảo:
-
Đâu, con lại thưa ba đi!
Thằng
bé bước tới khoanh tay cúi đầu:
-
Thưa Ba, con... thăm...
Nó chỉ
nói mấy tiếng rồi ôm cổ Vĩnh, hôn lia lịa. Vĩnh sung sướng ghì chặt lấy con
trong vòng tay nghẹn ngào:
- Ba
đi hồi con còn ẵm ngửa. Bây giờ, con Ba đã thành đứa bé xinh trai ngoan ngoản lễ
phép. Con không biết mặt Ba mà nhận ra được liền.
- Má
Hương đêm nào cũng nói chuyện của Ba cho con nghe chớ bộ! Má Hương ơi! Sao Ba ở
trong cái chuồng như thế này?
Hương
vội đưa tay bịt miệng thằng bé:
- Đừng
nói bậy. Ông lính bắt con bây giờ!
Cu Bi
rùng vai, nép vào mình của Hương như gà con sợ bóng diều hâu. Nó liếc chừng gã
công an đứng gần, thì thào hỏi:
- Ông
có như chú công an khu vực mình?
- Hơn
nữa!... Thôi con khoe học giỏi cho Ba biết đi!
Cu Bi
lấy quyển học bạ trong ngực áo ra trình cho Vĩnh xem. Nhà trường có ghi rõ
trình độ chăm học mỗi tuần vào một ô, trang giấy là một tháng có bốn ô. Trong học
bạ của Cu Bi trang nào cũng có bốn hoa hồng, tức là tuần lễ nào Cu Bi cũng học
giỏi và ngoan.
Vĩnh
ôm con vào lòng hôn hai bên má:
- Thưởng
cho con học giỏi. Con lớn khôn quá, Ba không ngờ. Đêm nào Ba cũng tưởng nhớ con
trước khi ngủ, tưởng con còn bé thơ khờ dại lắm. Con được như vầy cũng do công
của má Hương.
Vĩnh
quay sang, một tay ôm Cu Bi, một tay choàng vai Hương, vui vẻ:
- Rồi
đây khi anh trở về, chúng ta sống mãi bên nhau thế này, nhé Hương!
- Em
cũng muốn thế. Đó là điều mong ước của em và Cu Bi. Những đêm nhớ anh trằn trọc
ngủ không được, em giở xác "bướm lá vàng" ép trong sách ra hồi tưởng
đến những lúc sung sướng cùng anh trong rừng mì! Đây là thời gian sống mãi
trong em, không thể nào quên được. Em nghĩ rủi ra sau này mà... chúng ta không
kết hợp được thì kỷ niệm ấy đủ an ủi trọn đời.
- Đừng,
em ơi! Đừng nói đến phân ly. Đừng nhắc đến dòng mưa Ngâu không ngớt hột! Ngày về
của anh nhất định phải có, là mùa xuân vĩnh viễn, là mùa xuân của đôi ta.
Hương
nhìn vào mắt Vĩnh, như muốn dìm ánh mắt biếc vào tận đáy lòng, cảm động bảo:
- Anh
yêu em đến không cách nào chia rẽ được?
- Không
cách nào, trừ cái chết phải không? Nhưng có chết thì cũng bốn năm chục năm sống
hạnh phúc. Nghĩa là tình yêu chúng ta đến răng long tóc bạc...
Tên
công an đứng bên vội lớn tiếng giảng bài như vẹt:
- Cái
anh này, học tập cải tạo đến sáu năm rồi mà chả có tiến bộ tí nào cả. Cứ lãi
nhãi tình yêu tiểu tư sản, tình yêu hạ cấp. Có muốn tôi bắt làm kiểm điểm
không? Tình yêu của ngày hôm nay, của người xã hội chủ nghĩa là vì mọi người và
mọi người vì mình, như tôi vì các anh mà làm việc. Đấy là lời dạy của Hồ Chủ tịch,
hiểu chưa?
Bực
mình vì cái lối mất dạy hay thối mồm vào việc riêng tư của người khác, Vĩnh giả
vờ như muốn học lối sống mới xã hội chủ nghĩa:
- Báo
cáo cán bộ, Hồ Chủ "tịt" dạy đúng lắm. Tình yêu ban bố rộng cho mọi
người, đơn côi cô quả như những quả phụ, tử sĩ đã hy sinh vì nước, vì đảng...
Gã
cán bộ không biết bị đưa vào tròng, cười tít mắt:
-
Đúng thế! Yêu thương đồng bào, yêu thương tất cả...
- Thế
thì vợ tôi là một thành phần của cái số đồng bào ấy, của cái số tất cả ấy. Hồ
Chủ "tịt" đâu có cấm yêu? Và cán bộ nhìn khắp nhà khách xem. Tất cả đều
làm theo lời dạy của Hồ Chủ "tịt" yêu người như yêu mình vậy!
Chừng
đó, gã công an biết bị hố, giả vờ lên mặt nhân nghĩa:
- Ờ,
yêu đồng bào là đúng.
- Khi
đồng bào là vợ mình, mình được yêu chứ? Cách mạng có cấm yêu vợ đâu! Cán bộ có
yêu vợ cán bộ không?
- Ờ,
yêu tí tí.
- Có
được hôn không?
- Hôn
tí tí!
Vĩnh
kéo Hương vào lòng:
-
Chúng mình yêu tí tí nhé! Hôn tí tí nhé!
Cái
hôn của ái tình bị kềm chế dài triền miên. Dài hơi không kém thợ lặn mò ngọc
trai.
Gã
công an gọi rối rít:
- Ô
hay! Cái anh này lại tiểu tư sản nữa rồi!
Vĩnh
vẫn ghì chặt Hương. Cả phòng cũng bắt chước, ôm nhau hôn bất kể cái vỗ tay, la
dứt của cán bộ. Yêu cũng bị hạn chế, bị nhỏ giọt trong nửa tiếng đồng hồ qua sự
kiểm duyệt khiến ai cũng bực mà có phản ứng đối kháng. Thà có bị tăng thêm ngày
giam mười hay hai mươi ngày cũng mặc.
Qua một
năm sau, Vĩnh có lệnh tha. Tin báo cho Hương và nàng cùng bé Bi lên căn cứ 5
Hàm Tân đón rước Vĩnh. Trên đường ra bến xe, Vĩnh ngước nhìn bầu trời xanh ngát
thênh thang, bầy chim thẳng cánh tung bay, hai tay giang rộng:
- Tự
do khỏi lồng. Như vừa qua cơn ác mộng kinh hoàng. Hương ơi! Mình phải ăn khao
ngày sung sướng bắt đầu vào đời sống chung hạnh phúc của chúng mình.
- Em
sắp đặt sẵn chương trình cho anh khi về đến Sài Gòn.
Trên
xe, Vĩnh trông thấy cảnh vật thay đổi cả. Rừng biến thành rẫy. Làng xóm nhiều
và gần. Nhà lá xơ xác. Con người già cỗi hơn tuổi. Quần áo vá víu khi xưa không
ai thèm!
Cả xe
trông thấy nét mặt hân hoan hớn hở của ba người, biết ngay Vĩnh mới học tập cải
tạo về và được vợ con đi rước. Ai cũng sung sướng tươi cười chia vui. Chủ xe đò
tỏ ra thông cảm, không lấy tiền. Đồng bào đi xe mua cả quà cáp cho anh, ân cần
hỏi han đến sức khỏe.
Hương
trông thấy mọi người đều có cảm tình với Vĩnh, lòng được an ủi phần nào trong mấy
năm thăm nuôi. Và yêu đương người đàn ông của kẻ khác ký thác.
Về đến
Sài Gòn, việc đầu tiên là Hương đưa Vĩnh đến ngay đường Pasteur cũ để ăn phở
Hòa. Vĩnh lâu lắm mới được dịp ngồi trên ghế. Anh cứ sợ ghế ngã, té.
Anh
khẽ bảo:
- Bên
ngoài đã trông thấy chậm tiến, thua xa lúc trước. Anh ra tù, càng chậm tiến mấy
chục năm như người "nhà quê" ra tỉnh! Chà! Mùi phở hấp dẫn quá. Bao
nhiêu năm mới ngửi lại được!
Anh
so đũa ngồi đợi. Mùi phở thơm nứt lòng dạ, đói cồn cào bụng. Chưa ăn mà nước miếng
tươm đầy miệng. Khi người bồi bàn bưng tô phở khói bóc nghi ngút hương vị ngon
béo, Vĩnh khẽ nghiêng đầu cúi mình xuống, hít vài hơi để thưởng thức mùi ngon bằng
khứu giác.
Hương
lặt lá quế, ngò gai bỏ vào tô phở, mời mọc:
- Anh
ăn đi, kẻo nguội mất ngon.
Vĩnh
kề miệng húp nước phở một cái sụp rồi ngậm miệng lắng nghe hương vị. Anh trịnh
trọng như đang thi hành đại lễ.
Hương
cười khẽ:
- Thế
nào? Còn ngon được như trước kia?
- Có
lẽ tương đương. Nhưng phải ăn rồi mới phán đoán đúng.
Vĩnh
như tỉnh hẳn người, vắt chanh thêm tương và ớt chỉ thiên. Hương vừa đút phở cho
Cu Bi ăn vừa đưa mắt âu yếm nhìn người yêu. Vĩnh ăn bát phở ngon lành, thỉnh
thoảng nhìn người đẹp, như nhờ có nàng ngồi kế bên mà tô phở tăng hương vị lạ
lùng. Anh vét tô húp cạn nước, chép miệng tận hưởng dư vị của tô phở đang tiêu
hóa trong cơ thể.
Hương
đề nghị:
-
Thêm một tô nữa, anh nhé!
- Để
sáng mai. Hôm nay thế đủ rồi, nhiều hơn mất ngon. Trước kia, anh có đọc bài ca
tụng phở của Nguyễn Tuân được mệnh danh kỹ sư của từ ngữ, cũng không tài nào viết
ra mùi vị tuyệt vời của tô phở anh vừa thưởng thức. Nguyễn Tuân chỉ viết cho
người sành ăn của Hà Nội băm sáu phố phường, làm sao biết được ước vọng của người
đói phở bảy năm! Làm sao anh ta hiểu ăn tô phở của tình yêu, không có tô phở thế
gian nào bằng!
Đứng
bên anh, năm sáu đứa bé ăn xin, mặt bủn chì, bụng ỏng, trên lưng quần vá đụp,
chờ xin húp nước phở thừa. Chúng trông thấy Vĩnh vét sạch tô, lẳng lặng bỏ đi,
thất vọng. Vĩnh vội gọi chúng lại cho ngồi vào bàn ăn, bảo hàng phở nấu cho mỗi
đứa một tô phở.
Anh gọi
cho anh một ly cà phê sữa và một điếu thuốc lá ba số 5. Anh vừa nhấp nháp cà
phê thong thả vừa đưa mắt nhìn Hương xinh đẹp ngồi dưới bóng lá cây bả đậu rung
rinh trong ánh nắng hồng.
Anh bảo
Hương:
-
Chúng mình dư thì giờ phải không em?
- Hôm
nay em nghỉ bán hàng, dành nguyên ngày cho anh. Chút nữa mình thả ra chợ Bến
Thành chọn mua cho anh hai cái quần tây và hai áo sơ mi, một đôi "xăn
đan"...
- Chi
cho tốn tiền! Quần áo của anh trong ba lô còn mặc được.
- Bỏ
cái ba lô xui xẻo đó đi! Luôn bộ áo rằn ri như tù!
- Úy,
úy! Có thư của em trong đó. Anh đánh số thứ tự, giữ gìn cẩn thận, quý còn hơn
những lá thư tình đầu tiên. Và lạ lắm, em ơi! Anh có cảm tưởng đây là mối tình
đầu của anh.
Hương
cúi đầu khẽ nói một mình:
- Mối
tình đầu! Mối tình đầu ít bao giờ được toại nguyện.
Lời
than thở của nàng phải chăng xuất phát tự đống tro tàn dĩ vãng, ấp ủ dưới đáy
lòng? Và cùng lúc ngẫu nhiên trùng hợp với ý nghĩ vừa thoáng qua đầu Vĩnh.
Anh vội
vàng bảo:
- Bậy
nà! Đã toại nguyện rồi đây. Sao cưng nói kỳ vậy? Ngồi yên. Để anh ngắm tư dung
của em. Đêm nay, chúng ta lại sống đêm trăng mật say đắm hơn trăm ngàn lần ở rừng
mì. Chịu hông nè!
Hương
nguýt yêu Vĩnh. Nàng gọi tính tiền xong, nắm tay Vĩnh và Bé Bi đi dài đến bến
xe buýt. Qua ngang một tủ kiếng tiệm bán xe đạp, nàng kéo Vĩnh lại xem chiếc xe
đạp ráp xong sườn:
- Đầu
tháng, em hốt hụi mua cho anh một chiếc để làm chân.
- Tốn
tiền của em ghê. Anh đi bộ...
- Tiền
bán thuốc lời là tiền của anh đó chớ của ai? Anh phải có chiếc xe đạp để hằng
ngày đưa rước Cu Bi đến trường và ngày ngày đèo em đi đây đi đó. Ở đâu có em là
có anh. Ở đâu có anh là có em. Chúng ta như chim liền cánh cây liền cành!
Đến
chiều, Hương đưa Vĩnh trở về nhà. Nhà là nhà của anh, nhưng cơ hồ khác lạ hẳn.
Anh cố nhận mãi nhưng không ra. Nhà ở cư xá ngói đỏ nơi đường Trương Minh Ký.
Cư xá trước khi Vĩnh đi thì khang trang, đẹp đẽ. Nay anh trở về thì thấy tệ lậu,
xấu xí, bẩn thỉu.
Bên
trong nhà, Hương có trang hoàng chút đỉnh, trông chưa đến đỗi xơ xác lắm. Gian
phòng ngủ có thay đổi đồ đạc song vẫn giữ được vẻ ấm cúng thân mật. Giường chiếu
mới, mùng mới trắng tinh. Hương gối đầu lên cặp gối uyên ương, tóc mây xõa rộng
bên hình thêu chỉ màu hồng của con gái, đẹp ơi là đẹp như Vĩnh chưa từng trông
thấy.
Vĩnh
lảo đảo đến bên giường như vừa qua một hành tinh đuối sức. Lại một lần nữa anh
mê man nhìn người đẹp yêu kiều. Anh háo hức đói khát. Anh bỗng chốc sống lại
cơn mộng du của rừng mì năm xưa, của cái cảnh hai thể xác gắn bó quấn quýt nhau
dưới trận mưa Ngâu sụt sùi, hoặc chơi vơi hồn mộng bên trời hoan lạc của ngàn
"bướm lá vàng" thi nhau tung bay hút nhụy hoa...
Bên
Hương, Vĩnh say ngây ngất trong những mới lạ tuyệt dịu. Nàng là một kỳ quan. Càng nghiên cứu,
càng phân tích càng mắc phải bả, càng tò mò khám phá!
Bên ngoài trời êm mây tạnh mà sao
mây mưa sấm sét ầm ầm không dứt. Thế mới hay tình yêu nam nữ là cảnh giới thần
tiên riêng. Người ngoài không dự, không thông cảm, không hiểu hết vì sao hai
con người xác thịt mà pha trộn vào nhau từ tâm hồn đến từng tế bào, từng sớ thịt,
dính khắc keo sơn, cắt tưởng chừng không đứt, rứt có hồi chẳng rời ra.
Hương âu yếm rờ rẫm trên ngực Vĩnh:
- Qua một đêm trắng anh có khỏe?
Vĩnh cầm tay nàng để trên bắp tay rắn
chắc của anh:
- Anh còn sức! Bảy năm tù đày không
làm suy giảm nổi sức chiến đấu dẻo dai.
- Vậy chúng mình cùng đưa con đến
trường cho anh biết luôn đường rồi em đưa anh đi tới một tiệm hủ tiếu Mỹ Tho
ngon lắm ở gần đây.
Vĩnh nhanh nhẹn đỡ Hương ra khỏi giường
và bảo:
- Bữa nay em mặc bộ quần áo khác hôm
qua. Bộ nào mới nhất.
- Còn anh muốn mặc cái quần màu cà
phê sữa hay quần màu xanh nước biển.
- Tùy em thích bộ nào, lựa cho anh
cũng được!
Vĩnh và Hương đưa Cu Bi đến trường.
Mấy đứa bạn cùng lớp vỗ tay mừng cho Cu Bi:
- Ba mầy được về rồi đó hả? Vậy thì
bây giờ mày đã có ba có má, mà ba má mày cưng mày quá hén!
Mấy cô giáo trường bấm nhau nhìn
Vĩnh, thầm khen cha mẹ của trò Bi xứng đôi, dù Vĩnh trọng tuổi hơn. Hương giới
thiệu Vĩnh với cô hiệu trưởng để Vĩnh có thể được giao Cu Bi mỗi buổi chiều khi
anh đến rước nó.
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi thất
bại về chủ trương ba thành phần kinh tế đã thay đổi hình thức bóp cổ nhân dân
và để cho cá thể tổ chức những dịch vụ buôn bán nhỏ, chánh phủ chỉ kiểm soát để
ăn hốt thôi. Vì thế, ở thành phố, công ty ăn uống và khách sạn trả lại quyền quản
lý các dịch vụ ăn uống cho các quán phở, mì hủ tiếu, cháo lòng, cơm bình dân
v.v... của tư nhân. Họ chỉnh đốn lại phẩm lượng như xưa. Còn công ty chỉ có việc
cho nhân viên đến canh chừng, đếm tô chén dĩa mà thu thuế lợi tức.
Dân có tiền là nhờ ở bà con Việt Kiều
hải ngoại gởi quà về, mới ăn lại được những món ăn vắng mặt từ khi bọn người ngợm
về thành. Dân buôn bán nhỏ khỏi phải sợ cảnh đói!
Hôm ấy, Hương đưa Vĩnh đến quán hủ
tiếu bình dân cạnh nhà. Hủ tiếu nấu theo kiểu tỉnh Mỹ Tho, nước lèo ngọt thịt,
hủ tiếu dai, có nhiều hành tỏi, có tôm khô chiên dòn, có thịt và lòng đủ thứ, lại
còn một khúc xương giò xí quách đầy thịt và mỡ ăn thôi đã đời!
Hương hỏi Vĩnh:
-
Hôm nay đổi món, anh ăn có ngon miệng?
- Ngon như tô phở hôm qua. Nhưng chắc
giá mắc?
- Cũng thế thôi, hai ngàn năm trăm đồng
một tô.
- Sinh hoạt ở thành phố đắc đỏ như
thế. Sợ còn hơn nữa vì nghe nói sắp phát hành giấy bạc 5, 10, 20 ngàn... Nhà nước
sợ nhân dân đi chợ phải gánh bạc cực khổ, trên thị trường người dân buôn bán với
nhau đều tính giá cả bằng vàng... À nhắc đến vàng, em mới nhớ phải đổi một số
vàng lấy một số thuốc. Anh trở về nhà trước đi nha, em phải đi lấy vàng, trưa
em qua chợ mua thêm chút đỉnh cá thịt nấu cơm cho anh ăn...
Vĩnh chia tay Hương bảo:
- Nhà còn thức ăn hôm qua, mua chi tốn tiền, em
về sớm anh chờ.
Vĩnh
về đến nhà, dọn dẹp lại nhà cửa tươm tất. Anh sắp xếp tập vỡ, đồ chơi của Cu Bi
và soạn qua các kệ tủ. Anh lôi từ trong góc kẹt ra một túi xách giống như những
túi xách Hương đi thăm nuôi anh. Anh tò mò giở ra xem, thấy cũng y chang những
bánh kẹo cốm mức đường gạo...
Anh mỉm
cười lẩm bẩm:
- Đây
là những thứ Hương chuẩn bị sẵn để đi thăm mình, không ngờ mình có lệnh tha...
Ơ kìa! Sao lại có mấy gói thuốc lá Hồng Hà, Thăng Long?
Lúc ấy,
Vĩnh nghe có tiếng gọi cửa ở bên ngoài. Anh để cái xách lại chỗ cũ bước ra mở cửa.
Người gọi cửa là một người đàn bà búi tóc, trạc năm mươi, mặt mày phúc hậu, ăn
vận theo kiểu dân có tiền ở tỉnh. Tay xách một giỏ trái cây cành lá um tùm như
vừa hái ở vườn nhà.
Vĩnh
nhã nhặn hỏi:
- Bà
kiếm ai?
- Tôi
kiếm con Hương. Còn ông... ông là...
- Tôi
là Vĩnh, chồng của Hương.
- À,
chồng... sĩ quan học tập cải tạo đấy hả?
Bà nọ
vừa thốt ra mấy tiếng hỏi vừa đưa mắt nhìn Vĩnh từ đầu đến chân. Vĩnh dè chừng
bà là bà con thế nào với Hương nên vui vẻ hỏi lại:
- Xin lỗi bà là...
- Tôi là cô của Hương!
- À, thì ra là... cô đấy hả? Cô ở Vĩnh
Long mới lên? Mời cô vào nhà. Hương bán hàng ở chợ Huỳnh Thúc Kháng chắc chút nữa
cũng về...
Bà nọ
xách giỏ trái cây bước vô nhà. Vĩnh mời bà ngồi nơi ghế sa lông, rót trà cho bà
giải khát. Anh khởi đầu câu chuyện xã giao để tìm hiểu người đối thoại:
- Cô
đi xe có mệt?
- Tui
thường lên thành phố nên đi xe không mấy mệt. Tôi nghe Hương nói về cậu. Tôi mừng
cho nó bỏ xứ lên thành phố, có nơi tá túc, có công ăn việc làm sanh sống và được
biết cậu. Vậy cũng là cái may cho thân... gái của nó.
Bà
nói vừa nhìn chòng chọc vào mặt Vĩnh, anh có cảm giác bà dò thăm anh, chưa nói
hết những ý nghĩ chân thật. Bà
dường như không thể tán thành lắm việc Hương chung sống với anh. Bà chê Vĩnh
già? Hương còn quá trẻ sao lại buộc mình với một lời hứa với mẹ Cu Bi?
Anh
dè dặt đối đáp:
-
Cũng do nhân nghĩa mà nên nhân duyên; nên nợ...
Bà nọ
gật gù nói:
- Ờ,
phải! Do nhân duyên do tình nghĩa.... Nhiều người nói ông trời khéo sắp đặt thiệt.
Con Hương thiệt có phước.
Vĩnh
gượng gạo gật đầu như chấp nhận lời nói ấy. Bà cô này dường thể ganh tỵ với hạnh
phúc Hương được hưởng. Do tình thương hẹp hòi, lạ thường ở những bà già cô độc ở
tỉnh lẻ, không muốn tình yêu của con cháu mình bị chia xẻ? Anh đang lúng túng
không biết tiếp chuyện như thế nào cho không khí đừng tẻ nhạt. May sao, vừa lúc
ấy Hương về nhà đúng lúc.
Nàng
giật mình buộc miệng:
-
Má... má mới lên?
Bà nọ
ngọt ngào bảo:
- Má
lên thăm con. Hương à, ngày mai này là ngày thăm...
Bà
nói đến đây liền ngừng lời và liếc nhìn Vĩnh. Hương đon đã nói:
- Má
muốn thăm chị Huệ thì chiều con dắt má ra chợ Huỳnh Thúc Kháng chớ má ra chợ một
mình sợ lạc. Anh Vĩnh à, má gặp chị Huệ, người bán thuốc Tây quen với em đó,
cũng là người đồng hương nên má thương như em.
-
Hương à! Anh có một điều không hiểu được. Khi nảy bà đây bảo là cô của em, sao
bây giờ thành là... mẹ?
Hương
quay sang nhìn bà nọ. Bà gật đầu nhìn nhận đúng như lời Vĩnh nói.
Hương
mỉm cười nói với Vĩnh:
-
Đúng vậy. Đây là cô của em, tức là em ruột của cha mẹ. Em ở với cô từ mười tám
tuổi. Cô thương em như con nên em gọi bằng má. Phải vậy không má?
Bà cô
kéo Hương vào lòng thân thiết nói:
- Còn
gì mà không phải! Má thương con lắm. Má mong cho con bao giờ cũng được hạnh
phúc. Cùng ăn ở có trước có sau. Lập gia đình rồi phải biết bổn phận mình.
Hương
vói lấy giỏ trái cây, sắp ra một dĩa vú sữa và mận Hồng Đào mời mọc Vĩnh:
- Anh
ăn mấy trái vú sữa của cái cây em trồng hồi đó, thơm ngọt nổi tiếng tới cầu bắc
Mỹ Thuận. Mận Hồng Đào cũng vậy, do tay em vun bón, dòn như lê táo. Em xuống bếp
làm cơm anh nhé...
Hương
kéo tay người cô mà nàng gọi bằng mẹ xuống bếp. Vĩnh hiểu hai người có chuyện gì
không tiện nói trước mặt anh. Anh không hay tò mò tìm hiểu chuyện riêng tư của
người khác, song lòng anh nhận thấy se lại khi thấy Hương có điều gì muốn giấu
giếm anh.
Đến
trưa, sau khi dùng cơm xong, Hương sửa soạn đi và bảo:
- Em
đưa má gặp chị Huệ anh nhé. Chiều bốn giờ anh nhớ rước Cu Bi.
Vĩnh
nắm tay Hương hỏi:
- Có
chuyện gì đó em?
-
Không có chuyện gì hết.
- Có
thiệt không?
Hương
gật đầu cố tình tránh nhìn thẳng vào mặt Vĩnh:
- Thiệt
mà!
- Má
hay nói đến bổn phận và trách nhiệm. Bổn phận nào? Trách nhiệm nào đòi hỏi ở
em?
Hương
tát yêu bên má Vĩnh:
- Với
anh chớ với ai nữa mà anh hỏi vớ vẩn!
Đến
chiều, khi Vĩnh đi rước Cu Bi ở trường về nhà, anh trông thấy Hương đang ngồi
chống tay bên nồi cơm sôi mà dường như nàng không chú ý đến. Từ khi biết nàng đến
giờ, Vĩnh chưa hề biết nàng có nết kim chỉ lại thẫn thờ lơ đểnh đến thế. Dường
như nàng đang có vấn đề rắc rối xáo trộn tâm tư.
Vĩnh
hỏi, nàng cứ lắc đầu:
-
Không có gì. Em hơi nhức đầu chóng mặt vì đêm thiếu ngủ vậy thôi!
- Má
em đâu rồi?
Hương
đứng lên chắt nước cơm, đáp:
- Má
trở về dưới, có nhắn lời chào anh.
Vĩnh
mở tủ thấy túi xách thăm nuôi không còn, vội hỏi Hương. Nàng tươi cười hỏi lại:
- Bộ
còn thèm ăn kẹo cốm nữa sao? Đó là những món em mua giùm chị Huệ có người em đi
học tập cải tạo.
- Ai
vậy? Không chừng anh biết?
-
Không, người này ở trong quân lao Gò Vấp. Anh không biết đâu.
- Vậy
là lính Việt Cộng? Em thành chuyên viên thăm nuôi tù! Hết thăm lính quốc gia giờ
xoay qua thăm nuôi lính Cộng sản!
Hương
phụng phịu:
- Chế
nhạo em vậy hả? Thì bạn bè thấy mới nhờ vả.
Đêm
hôm ấy Hương ăn cơm lơ là một chút rồi đi nằm. Vĩnh hiểu người yêu có tâm sự
đau buồn. Anh từng hỏi nàng và lần nào cũng được lắc đầu bảo:
-
Trong khi hạnh phúc đừng nhắc chuyện buồn đã qua. Bây giờ em muốn tận hưởng cái
hạnh phúc không gì bằng này... Để cho em yêu và yêu nồng nhiệt trong đôi tay
anh... Sau này có dịp, em sẽ kể cho anh nghe những việc không đáng bận tâm ấy...
Vĩnh
đọc xong tờ tuần báo mới bước chân vào phòng. Anh trông thấy Hương nằm giữa giường
lót hai tay dưới đầu, mắt nhìn lên nóc mùng, xa vắng. Anh cúi xuống bên nàng đặt
môi hôn nơi trán:
- Em
chưa ngủ à?
Nàng
biếu cổ anh tươi cười:
- Em
chờ anh!
Đêm ấy
bên ngoài có mưa. Hương bên Vĩnh như nhành lau sậy dật dờ trong cơn bão biển cuồng nhiệt, miên man. Gió biển càng dữ dội,
thổi lộng tơi bời. Lau sậy càng uốn éo, quằn quại, rạp ngã, ngất bật, rung chuyển,
cầm cự nhưng không khuất phục, tua gãy.
Vĩnh
thì thầm bên tai nàng:
-
Hương! Em có yêu anh? Anh có vừa ý em không?
Hương
rên rĩ:
- Em
yêu anh nhứt đời! Em thỏa mãn tình yêu anh ban cho...
- Sao
chưa chi mà em bảo là thỏa mãn? Thỏa mãn có nghĩa là vừa đúng theo ý mình. Là
đã thỏa mãn lắm. Đã được đầy đủ rồi. Nhưng tình yêu của anh đối với em là không
cùng tận, hoài hoài đến răng long tóc bạc...
-
Vĩnh ơi! Anh có biết đã cho em sung sướng đến bậc nào! Em ghi khắc nơi tâm khảm.
Cái đêm không có đến lần thứ hai này.
- Sao
em cứ nói đến đứt đoạn khi mà đời chăn gối của chúng ta còn dài...
Sáng
lại Hương bỏ buổi chợ để ở nhà với Vĩnh. Nàng như cô gái mới yêu, đắm đuối
trong tình yêu đầu đời. Đến chiều, nàng hối Vĩnh đi sớm đến trường rước Cu Bi về
để đi chơi hồ Kỳ Hòa.
Khi
Vĩnh đưa con về nhà, chưa đến cửa anh đã gọi ngay:
-
Hương ơi! Xong chưa ra đi.
Không
có tiếng trả lời. Vẫn thế. Không có tiếng Hương nhanh nhẹ đáp lại như mọi khi.
Vĩnh vội vã bước chân vào nhà. Nhà
như thể trống hoang. Không khí vui vẻ ấm cúng mấy hôm nay đột nhiên như mất hẳn.
Trên
bàn, mâm cơm đã dọn sẵn và kế bên một phong bì bên ngoài đề tên Vĩnh. Anh cảm
thấy có sự bất thường và tâm hồn như thể phủ tang. Anh rung tay cầm lấy phong
thư, giở ra xem những dòng chữ của Hương nhạt nhòe lệ nhảy múa trước mắt anh:
"Anh Vĩnh yêu mến của em,
“Khi anh đọc lá thư này, em đã đi xa
rồi! Đừng bao giờ tìm em nữa, anh ơi! Em trở về với chồng cũ, trở về với bổn phận
và trách nhiệm đang gào thét lương tri em. Vĩnh ơi, em lạy xin lỗi anh, em đã
giấu anh sự thật. Em đã là gái có chồng. Vợ chồng em một dạo bất đồng ý kiến đã
ly thân bốn năm rồi. Đã dứt khoát thôi bỏ nhau, mạnh ai đường nấy, bởi thế em mới
dám yêu anh, muốn làm vợ anh, hầu hạ anh suốt đời...
"Nhưng anh ơi, em muốn đoạn tuyệt
với dĩ vãng, nhưng con tạo trớ trêu cho má hồng bạc phận khiến nên dĩ vãng đội
mồ sống lại bắt em trở về cuộc đời thiếu vắng tình yêu. Người mà em gọi là bà
cô dưới Vĩnh Long đó chính là mẹ chồng em quý mến. Bà lên tìm em, cho hay người
chồng cũ vừa ra khỏi quân lao Gò Vấp vỡ tan mộng thiên đường Cộng sản, thân bại
danh liệt chỉ còn có một nước chết nếu không có em.
"Em phải làm sao đây, Vĩnh? Nếu
mê luyến tình duyên mới thì phải ruồng rẫy ân nghĩa xưa?
Huống hồ
thái độ quyết định có liên quan đến mạng sống của con người! Em phải trở về cuộc
đời tẽ nhạt không tình yêu. Anh quên em đi. Đời anh còn nhiều tương lai, còn có
thể làm lại cuộc đời với một người đàn bà xứng đáng hơn. Hôn vĩnh biệt anh, người
yêu nhứt đời em. Nhờ anh hôn Bé Bi cái hôn từ biệt của má Hương...".
Vĩnh
xem thư mà thổn thức khóc không ra lời. Như một cây cổ thụ vừa bị sét đánh bật
rễ, anh ngã quỵ xuống ghế sa lông nấc nở bảo với con:
- Bi
ơi! Má Hương đi mất rồi! Cha
con mình thành cha góa con côi!
Thằng bé nảy lăn ra thềm nhà:
- Con không chịu mất má Hương đâu!
Ba đi kiếm má Hương về cho con!
**
Vĩnh đến chợ Huỳnh Thúc
Kháng tìm nơi bày bán thuốc Tây lậu thuế và hỏi:
- Chị nào là chị Huệ bạn của Hương?
Một thiếu nữ chạng tuổi của Hương,
đôi mắt thật sắt sảo nhưng không đẹp bằng, lên tiếng trả lời ngay:
- Tôi là Huệ, thường giữ Cu Bi giùm
Hương. Anh là Vĩnh phải không? Sao hai hôm Hương nghỉ bán hàng?
- Hương bỏ đi rồi!
Vĩnh vừa nói vừa trao bức thư của
Hương cho Huệ xem và bảo tiếp:
- Hương chơi thân với các chị, chắc
thế nào cũng hay tâm sự. Chị có thể nói cho tôi hiểu rõ hơn về dĩ vãng của
Hương?
Huệ đọc xong lá thư, lắc đầu thở
dài. Nàng khẽ nói:
- Tôi sợ cho Hương cái ngày này. Rốt
cuộc nó không tránh khỏi. Phải! Hương thường tâm sự với tôi nên tôi biết nông nổi
của nó. Tội nghiệp cho nó. Nó yêu anh thật tình. Nó tuy là gái có chồng nhưng cặp
vợ chồng lấy nhau vì hoàn cảnh, không có tình yêu.... Đúng hơn thì Hương bị vỡ
mộng trong mối tình đầu sau hôn lễ hơn một tháng... Nó không còn thương yêu chồng
được như nó mơ ước trước kia...
- Sao vậy? Hắn là một tên vũ phu,
thô lỗ, cộc cằn?
- Không. Chồng Hương theo Hương nói,
là một thanh niên đẹp trai, thông minh, tề chĩnh mà lại rất giỏi võ thuật, có
thể đánh ngã ba bốn người có võ khí trong tay.
- Ồ... như vậy sao không gây hạnh
phúc cho vợ?
- Duyên. Khương Hữu Duyên, là cán bộ
trung cấp Cộng sản. Trước kia anh ta có ơn với gia đình Hương, và vì thế anh ta
hỏi cưới Hương. Cuộc hôn nhân với anh ta vì lý hơn vì tình. Anh ta cốt tạo một
tổ hậu cần để làm bình phong che giấu những hoạt động của quân Giải phóng miền
Nam...
Vĩnh bóp trán, hồi tưởng chuyện đã
qua:
- Khương Hữu Duyên. Dòng họ Khương Hữu
giàu có ở Vĩnh Long. Thế thì Khương Hữu Duyên là đại úy quân báo của quân khu 4
Việt Cộng. Tên này, mấy phen chạy thoát khỏi tiểu đoàn mình ruồng đánh vào mật
khu khi xưa...
Vĩnh đã nhớ đúng.
Khương Hữu Duyên, con hùm xám ở mật
khu Việt Cộng khi xưa chính là người chồng cũ của Hương. Mười hai năm trước,
Duyên là một thanh niên yêu đời, hăng say hoạt động và có nhiều tham vọng. Anh
cũng như một số học sinh sinh viên ở Cần Thơ bùi tai nghe lời quyến rủ của bọn
công tác thành mà bỏ trường, bỏ nhà vào chiến khu để "kíu cuốt". Mấy
năm sau, Duyên trở thành một cán bộ mẩn cán của đảng Cộng sản và là một sĩ quan
xuất sắc của cái gọi là quân giải phóng miền Nam.
Duyên tổ chức đám cưới với Hương
cũng do đảng. Anh được đảng giao cho công tác ở thành. Anh sống trà trộn trong
nhân dân để bí mật chỉ huy một tiểu đoàn chuyên về tình báo và đặc công. Cưới
Hương làm vợ, chưa hết tuần trăng mật là anh phải vắng nhà hai tuần lễ.
Hương lạ lùng hỏi:
- Anh đi đâu mất tiêu mấy bữa vậy?
Làm em ở nhà lo sợ không ngủ được.
- Anh chạy hàng lậu, em à! Bây giờ
muốn làm giàu mau phải buôn bán hàng lậu. Chúng ta sẽ hưởng cuộc sống giàu
sang...
- Em không ham cái giàu đó! Cần gì
phải làm bất hợp pháp mới giàu?
- Anh không bỏ công việc của anh. Nếu
sau này được thành công, anh chẳng những được giàu sang mà còn phú quý vinh
quang nữa, em có bằng lòng không?
- Không. Em chỉ muốn một người chồng
bình thường, lương thiện như mọi người. Nếu có giàu là do công sức của mình cần
cù tạo lập. Đồng chồng đồng vợ, tát biển đông cũng cạn, cần chi một mình anh đi
tắt về ngang...
Duyên dùng dằng bảo:
- Em dại lắm! Không hiểu biết gì hết.
Bởi vậy, anh có nhiều việc cậy đến em nhưng không dám nói ra, sợ bị bể. Sao em
muốn chi phối sự tự do của anh? Y chang những người đàn bà tầm thường đeo dính
ông chồng, làm trở ngại con đường tiến thân của người đàn ông...
Hương buồn rầu chán nản. Nàng nhận
ra chồng nàng thương yêu công việc hơn thương yêu vợ mình! Trong những lúc gần
nhau, Duyên làm đủ bổn phận người đàn ông, nhanh chóng, gọn gàng. Cũng dịu dàng
âu yếm nhưng thiếu phần yêu thương tình tứ. Lắm lúc như nhà quân sự, du kích chớp
nhoáng, chém vè lặn tăm!
Duyên chỉ vui với nàng khi xảy ra những
biến cố quan trọng có ảnh hưởng đến tình hình đất nước như ngày tỉnh Phước Long
bị Việt Cộng đánh chiếm, rồi đến Ban Mê Thuột bị thất thủ... Những ngày ấy, Duyên uống rượu say mèm, về đến nhà mữa
ra thốc tháo.
Hương cằn nhằn:
- Lúc này anh hư quá vậy?
- Anh mừng, em ơi! Mừng thấy báo chí
đăng tin chiến sự...
- Người ta rầu buồn, anh lại mừng! Dạo
này anh hay vắng nhà, cảnh sát có hỏi, em phải giấu quanh... Mà khi có ở nhà,
anh lại đi đâu tới gần sáng, lòn ngõ sau vào nhà như kẻ gian.
Hương tỏ ra cau có:
- Quần áo anh bỏ ra biểu em giặt cho
nhanh. Bộ nào cũng dính bùn sình, có khi phảng phất mùi máu, mùi thuốc pháo...
Duyên! Anh làm gì, phải nói thiệt ra đi. Đừng viện cớ buôn lậu nữa... Anh không
nói thiệt em bỏ nhà đi, không sống mãi trong chờ đợi, lo sợ...
Chừng ấy Duyên mới thú thật là hoạt động
cho cái gọi là Mặt trận Giải phóng miền Nam.Hương kinh ngạt trố mắt nhìn Duyên
như một quái vật:
- Anh không biết Cộng sản là như thế
nào sao mà còn theo?
- Gia đình anh giàu có dĩ nhiên
không tán thành Cộng sản. Nhưng vấn đề không thuộc về chủ nghĩa mà thuộc về
hành động sau khi Miền Nam được giải phóng. Một chính phủ giải phóng Miền Nam cầm
quyền, có uy tính, có tiếng nói quốc tế, tuy thân Cộng nhưng không áp dụng chế
độ Cộng sản như Hà Nội...
Hương vừa ngao ngán vừa bảo bằng giọng
thương hại:
- Anh mơ mộng quá! Em sống ở thôn quê, hiểu mặt
thật của họ hơn anh... Rồi sẽ không được như anh nói...
- Anh là người đánh bạc, lỡ ăn lỡ
thua phải đi đến cùng... Mai này, anh vào chiến khu và sẽ trở về trong chiến thắng
vinh quang.
Sáu tháng sau, Duyên lén về nhà,
trao Hương một lá cờ Giải phóng Miền Nam và bảo:
- Ngày thành công sắp đến. Em mua vải
may thật nhiều cờ này, anh sẽ treo khắp thành phố khi đại quân cách mạng tiến
vào.
Lúc ấy, tình hình cực kỳ khẩn
trương. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa bỏ Tây Nguyên. Ngày 18 tháng 3 năm 1975, Việt
Cộng mở mặt trận Nam Trung, đánh chiếm các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa
v.v... khiến cho dân chúng các nơi đều hoang mang và lo sợ.
- Sài Gòn, một Ủy ban Hành động Cứu
nước gồm nhiều thành phần quân sự, các tôn giáo... bầu linh mực Trần Hữu Thanh
làm chủ tịch. Ủy ban ra tuyên cáo kêu gọi toàn quân, toàn dân đứng lên hợp quần,
tạo thành một sức mạnh, đòi hỏi phải có một chính phủ mới trong sạch, hữu hiệu,
quyết tâm bảo vệ lãnh thổ và phục vụ dân tộc, ổn định tình thế với một chương
trình thực tế, mang lại hòa bình nhanh chóng, chấm dứt chết chóc, đói khổ của
toàn dân. Ủy ban cũng kêu gọi các quốc gia có trách nhiệm ký kết Hiệp định Ba
Lê tiếp tục hoạt động để các phe lâm chiến ngưng bắn. Việt Nam Cộng Hòa đang bịnh
hoạn, cần thuốc gấp nhưng các lãnh tụ lại sợ loại thuốc đắng!
Duyên cười mũi bảo Hương:
- Quốc gia hết thuốc cứu! Ngay
đến thằng tướng cao bồi lái máy bay muốn bỏ Sài Gòn về Hậu Giang cố thủ cũng chỉ
là nói phét để chạy khỏi mất mặt thôi... Nhứt định bọn anh đại chiến thắng, đại
thành công và về thành trong vòng nguyệt quế đầy hào quang. Lúc đó, em cũng là
người dự công, là vợ của một anh hùng dân tộc...
-
Công hay oán? Cộng sản có bao giờ nói thật đâu anh!
Duyên
thỉnh thoảng trở về nhà, đem giấu trong phòng những súng đạn đựng trong những
thùng nặng. Anh bảo riêng với Hương:
- Thiệu
sẽ xuống, tất nhiên Minh lên. Càng thêm dễ cho bọn anh.
Hương
thầm lo sợ lời nói của chồng là đúng! Nhưng thật thế! Ván cờ đã sắp xếp, chốt
xe pháo mã cứ thế mà đi...
Ngày
24/04/1975, Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Ngày 28/04/1975, Dương Văn Minh được cụ
Trần Văn Hương bàn giao chức vụ tổng thống. Qua đến ngày 30/04/1975, chỉ hai
ngày sau, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Đến 12 giờ trưa hôm ấy,
chiến xa Việt Cộng tiến vào dinh Độc Lập nhận sự đầu hàng và giải giới vô điều
kiện và nhục nhã!
Chánh
quyền Việt Nam Cộng Hòa cáo chung! Có người trách móc Dương Văn Minh khiếp nhược
đã ra lệnh đầu hàng trong khi các binh chủng trong quân đội vẫn còn đủ sức đánh
trả hoặc tử thủ. Lại có người hiểu nội tình cho rằng tội lỗi ở Thiệu tham quyền
cố vị, khi biết phải xuống thì bỏ mặc đất nước còn hay mất mà chỉ lo xong việc
chạy trốn ra nước ngoài với toàn bộ gia đình, tài sản... Sau đó mới từ chức,
nên đến khi quyền bính vào tay Minh thì đã muộn quá rồi.
Việt
Cộng thừa thắng xông lên bao vây Sài Gòn với mười lăm sư đoàn với khoảng một
trăm ngàn quân. Chúng chia Đô thành làm 30 ô và sẽ pháo kích mỗi ô một trăm hỏa
tiễn và ba ngàn đạn đại bác 130 ly. Chúng sẽ san bằng thủ đô Việt Nam Cộng Hòa
thành bình địa. Sau đó, chúng mới ồ ạt tiến quân vào, tẩm máu Sài Gòn lần nữa!
Tuy
nhiên, lệnh buông súng ban hành rồi nhưng nhiều đơn vị lẻ tẻ của Quân lực Việt
Nam Cộng Hòa vẫn cố thủ đến viên đạn cuối cùng, giọt máu cuối cùng. Nhiều binh
sĩ, sĩ quan uất hận đến tự tử. Một số tướng lãnh như Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa
Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ v.v... và nhiều đại tá sĩ quan...
đã anh dũng tuẫn quốc bằng lối tự sát.
Duyên
khi nghe tin này bảo với Hương:
- Đấy
là những anh hùng, nhưng rất tiếc họ đã đi lầm đường.
Hương
hỏi lại ngay:
- Còn
anh... có chắc đã đi đúng đường? Bọn anh tuyên bố mười điều khoan hồng, có làm
được đúng điều nào chưa? Anh Duyên, anh thay đổi nhiều lắm rồi, không còn là
người chồng em giao phó cuộc đời trước kia. Càng ngày anh càng Cộng sản, lột
xác hẳn ra, mất hết tính người. Những vụ trả thù lén lút, ám hại những người
không theo, xảy ra tuần lễ nay có phải do đảng chủ trương?
Hương
quá bực mình:
- Em
không muốn có người chồng có bàn tay dính máu, nhứt là máu những người dân vô tội.
Mỗi ngày, em thấy anh với em quá đổi xa cách nhau. Vợ chồng như hai người dưng,
khó thể sống chung. Anh tỉnh ngộ lại đi. Anh nên bỏ hết chức vị trở về Vĩnh
Long sống với mảnh vườn, thửa ruộng, sống bên em, cùng làm cùng ăn, sống thế chẳng
thảnh thơi, sung sướng sao?
- Trời!
Em kêu anh bỏ công lao sự nghiệp khổng lồ với một tương lai rực rỡ huy hoàng ư?
Không! Không! Anh không điên dại như thế!
- Vậy
là anh sẽ... bị mất em. Duyên ơi! Nghe em đi, đừng để chúng mình phải xa nhau.
Em thương anh, em lo sợ anh cứ ham mê danh vọng mà rồi hụt lút cẳng lúc nào
không hay...
Duyên
quả quyết:
- Đảng
không bỏ đảng viên trung thành. Anh có thể bỏ vợ, không thể bỏ đảng!
Mấy
hôm sau, vì thất bại không thuyết phục nổi Duyên, Hương đành ôm bọc quần áo đi
thẳng lên thành Hồ. Nàng tìm đến nhà người bà con, nhưng
người này đã về quê. Trong khi nàng bơ vơ giữa chợ thì gặp vợ Vĩnh đang cần vú
em để giữ Cu Bi. Hương nhận lời ngay.
Nàng ở
với vợ Vĩnh ít lâu. Vợ Vĩnh thấy nàng được người được nết, làm việc cần mẫn
siêng năng có thể giao phó tiền bạc và công việc ngoài phận sự chăn nuôi Cu Bi.
Vợ Vĩnh thường vắng nhà, mọi việc do Hương quyết định.
Trong
khi đó, Việt Nam đã hoàn toàn thống nhứt, Nam Trung Bắc một nhà và thành lập nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam do một chính phủ duy nhứt ở Hà Nội toàn quyền
lãnh đạo. Dĩ nhiên cái chánh phủ ma, chánh phủ bù nhìn lâm thời của Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam bị vứt sọt rác không kèn không trống. Bọn cán bộ dày công trận với
mặt trận mà cũng bị cho ra rìa. Trong khi đó, Duyên nhờ có tài xuất chúng còn
xài được nên được lãnh đạo gọi đến bảo:
- Đảng lưu tâm đặc biệt đến đồng chí, thăng chức
cho đồng chí và sẽ giao cho một trọng trách ở K4. Đồng chí thành công sẽ có tưởng
thưởng xứng đáng.
Cái
trọng trách của đảng giao cho Duyên là tổ chức và hoạt động tình báo đặc công
sâu vào nội địa Kampuchia bên xứ Chùa Tháp. Lúc đó, chính phủ Pon Pốt nghe lời
Bắc Kinh thi hành chính sách Cộng sản mới, không giống bất cứ nước Cộng sản nào
trên thế giới.
Dân
chúng bị lùa ra khỏi thành phố, sống tập thể, không tư hữu, đàn ông đàn bà lẫn
lộn, lao động khổ sai để kiến thiết xứ sở, phá bỏ cũ để làm mới. Số người bị
lao dịch, bệnh tật, thiếu ăn, hành hạ độc ác chết đến hàng triệu.
Bọn
Pôn Pốt hy sinh những lớp người già nua, yếu đuối, những người trí thức chúng bảo
là vô ích cho xã hội, để gạn lọc lấy gốc cội vững chắc cho một nước Khờ Me Cộng
sản cường thịnh sau này. Một nước Khờ Me rộng lớn gồm luôn một số tỉnh ở Hậu
Giang của Miền Nam nước Việt.
Bộ đội
Miên đóng gần biên giới Miên Việt thường xâm nhập sang đất Việt cướp bóc đốt
nhà giết hại dân lành. Chúng làm thì ít vì khiếp sợ tuần biên Việt Cộng nhưng bọn
Duyên quậy to thêm cốt để làm bằng chứng.
Việt
Cộng rần rộ hợp báo ở thành Hồ. Chúng hô toáng lên là Kampuchia có mưu đồ muốn
tấn công xâm lăng Việt Nam. Thế nào Việt Nam cũng không để chúng yên. Và trong
cuộc hợp báo có đưa ra nhiều nhân chứng đã thoát chết trong những vụ tàn sát ở
biên giới.
Có một
nhân chứng là nhà văn Nguyễn Ngọc Mẫn đã về quê lập nghiệp năm 75 bảo nhỏ với
anh em trong làng báo:
- Bọn
Miên tàn ác giết hết cả nhà, đến chó mèo cũng không tha. Chúng nói rất sõi tiếng
Việt bằng giọng Bắc mới lạ. Chúng rược bắn tôi và chửi thề, xin lỗi các bạn:
"Địt mẹ bố mày chạy giời không
thoát"... Tôi nhờ nhào xuống đìa, ngậm cọng sen để thở, mới khỏi bị
giết!
Việt
Cộng gây được dư luận, mới hoạch định đánh chiếm Cam-pu-chia. Kế hoạch được
phân làm ba giai đoạn:
Giai đoạn nào cũng có bọn Duyên dự phần trước
tiên. Duyên và toán đặc công bất thình lình đánh vào trại tập trung để giải cứu
cho bọn Hun Sen, Hor Namhong, Son Sann và đồng bọn để đưa về mật khu huấn luyện
nhằm thành lập Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Khờ Me Tự Do. Duyên và bọn này trò
chuyện rất tâm đắc. Hun Sen kính trọng Duyên như người thầy, người anh, ân nhân
cứu mạng cho mình, khúm núm dạ thưa.
Giai
đoạn hai, Duyên phải làm là yểm trợ tình báo và phá hoại cho đại quân Việt Cộng
lấy danh nghĩa thi hành nghĩa vụ quốc tế, ồ ạt tràn sang Cam-pu-chia, tiến vào
Nam Vang, đuổi bọn Pôn Pốt Cam-pu-chia!
Bên
phe nào cũng nhơn danh Cộng sản làm chánh nghĩa. Cũng vì chánh nghĩa Cộng sản
cao siêu chủ trương hòa bình thế giới trong một thiên đường nhân loại tiến bộ,
mà làm nghĩa vụ quốc tế, dạy bảo nhau, đánh nhau chí chóe, mạnh lấn yếu, lớn hiếp
nhỏ, xâu xé nhau như dã thú dành thịt!
Xưa
nay, trâu bò húc nhau, ruồi muỗi ở giữa chết chẹt! Ruồi muỗi đây là bọn người lỡ
mang dòng họ khác, như dòng họ Khương Hữu lai Trung Hoa, có dính chút huyết thống
xa mấy đời.
Cộng
sản Việt Nam thâm độc, làm cỏ nhổ tận rễ. Chẳng những các Hoa kiều ở Chợ Lớn
hay bất cứ ở tỉnh nào bị tình nghi có phương hại đến nội an là chết mất xác. Đến
những cán bộ dù nhiệt huyết bao nhiêu với đảng, dù có lập nhiều thành tích mà
trước kia có sang Tàu tu nghiệp, hoặc có thân thích liên hệ với người Tàu, liền
bị chuyển chức về vườn, hoặc bịt mặt đem ra vườn bắn bỏ, hay nhét bao bố dìm
sông. Nhiều cấp ủy ở vùng sông Tiền sông
Hậu không hiểu lẩm cẩm thế nào ăn nhằm thuốc chuột, chết nhăn răng!
Khương
Hữu Duyên đang ngất ngưởng ở Cam-pu-chia bị tước lột quân hàm, áp giải như tù về
Việt Nam và tống giam vào quân lao. Ngày đêm đều phải làm việc với P.6 tức công
an chính trị.
Vẫn với
những câu hỏi:
- Dòng
họ Khương Hữu có liên hệ với bành trướng Bắc Kinh?
- Ở
Chợ Lớn, phe Hoa kiều quá khích có móc ngoặc với Duyên không?
-
Duyên có bất mãn, mưu toan chống đối chánh phủ?
- Bắc
Kinh tuy đã rút quân xâm lăng sáu tỉnh miền Bắc về, song còn hăm cho một bài học
thứ hai, thế Duyên có yểm trợ Bắc Kinh đánh Việt Nam lần nữa không?
Duyên
viết hàng ngàn trang giấy kiểm điểm nộp cho lãnh đạo. Trên xem xong, vất xuống
bảo vẫn khai gian, chưa thành thật!
Nhiều
đêm nằm cùm trong khám tối rét lạnh, Duyên ôm mặt khóc nức nở:
- Đứng
lại!
Một
tràng AK nổ chát chúa. Gã du kích trúng đạn lăn ra chết tuốt. Duyên kinh ngạc
nhìn tên công an vừa bắn và hỏi:
- Sao
phải giết? Hắn có tội gì phải chết như thế?
Gã
công an gỡ băng đạn và lên cò súng bặt văng viên đạn nằm trong lòng súng rồi
ném khẩu súng AK vào mình Duyên, hô to lên:
- Tên
Việt gian làm tay sai quân bành trướng Bắc Kinh vừa giết người đấy, các đồng
chí có trông thấy không?
Bọn
công an đuổi sau vừa chạy đến, gật đầu nói:
-
Trói nó lại, nó hủ hóa ngoan cố lắm!
Duyên
bị bắt về giam nơi trụ sở, lại vẫn cái màn điều tra với tính cách buộc tội. Anh
bị đánh đập tàn nhẫn. Bỏ đói ép cung. Công an không cần can phạm biện minh. Chỉ
có nưóc gật đầu nhận tội mới thoát khỏi tay độc ác của chúng.
Duyên
chịu đựng cả tuần lễ, sau cùng không nhận chịu, không xong. Chính sách "giết
oan mười hơn tha lầm một" anh đã biết, không khuất phục chỉ có chết vỡ mật
thôi! Đời anh kể như chết rồi khi ở quân lao. Anh ký tên vào bảng nhận tội đã
viết sẵn. Thế là anh nằm tù, chờ ngày tòa xử.
Mẹ
anh đi thăm nuôi, ôm anh khóc:
- Biết
thăm nuôi con kỳ này, còn kỳ khác nữa không? Giá xưa kia con nghe lời con Hương
thì không có nên nổi.
- Má
ơi! Bây giờ, chỉ có Hương mới cứu con được thôi. Hương biết chỗ để vận động kêu
oan này cho con.
- Con
Hương bây giờ nghe nói yêu người khác, dường như đâu là sĩ quan chế độ cũ.
- Con
tệ bạc với Hương, nên bây giờ không dám đòi hỏi gì... Chỉ xin Hương chịu khó đến
những nơi có thể kêu nài cứu xét lại cáo trạng mà tỉnh ủy buộc cho con.
- À!
Nếu Hương nó chịu giúp con, má cũng sẽ bán hết nữ trang, vật quý của ông bà để
lại mà lo cho con.
Mẹ của
Duyên lên thành tìm Hương. Khi ấy là lúc Hương đã nhận lời Vĩnh nuôi Cu Bi và
thăm nuôi Vĩnh. Bà mẹ chồng trước kia đối xử với Hương rất tốt như con ruột. Bà
khóc lóc, van xin Hương cứu gỡ cho Duyên.
Hương
không sao từ chối được. Nàng đi gõ cửa công lý. Hình Bác Hồ in trên giấy bạc với
4, 5 con số có thể sửa hồ sơ thay đổi bản án. Duyên được giải lên Sài Gòn, tống
vào quân lao.
Khi ấy,
tình hình chính trị ở Việt Nam đã chuyển sang hướng mới, như các bông vụ quay
tít thò lò, nay vầy mai khác. Trung Cộng trước kia hăm he cho Việt Nam bài học
thứ hai thì đã chiếm đảo Hoàng Sa, cốt để kiểm soát và quản lý thềm lục địa rất
nhiều mỏ dầu lửa của Việt Nam mà nhà nước Xã hội Chủ nghĩa không dám phản đối,
lại còn mơn trớn vuốt ve bành trướng Trung Quốc mong được ban ơn viện trợ.
Mặt
khác, Hà Nội đi đêm với Hoa Kỳ, kẻ thù trước kia, hầu được bỏ cấm vận. Qua đó,
chúng hy vọng có thể tránh cho đảng một cuộc nổi dậy của nhân dân, sẽ vùng lên
và có sức mạnh vạn năng ngang với đô la Mỹ.
Xuyên
tạc cả bản án tòa án xã hội chủ nghĩa. Duyên nhờ của gia bảo lót đường để có tự
do. Anh được thả ra khỏi quân lao với lời xin lỗi sửa sai qua quýt. Không
phương sanh kế với đôi bàn tay trắng, Duyên nghĩ đến những người anh em kết
nghĩa ở Cam-pu-chia có thể giúp anh trong lúc khốn cùng. Hơn nữa, sức anh đã yếu,
những thương tích trong người anh trước 75 cũng như khi giải thoát bọn Hun Sen
thỉnh thoảng có đau nhức và khó chịu.
Song
lúc ấy anh còn khỏe mạnh, có thể lướt qua. Anh ham mê công tác, nghĩ rằng khi
thành tựu sẽ vào bệnh viện giải phẩu là xong. Anh chưa kịp vào nằm viện thì xảy
ra việc vào tù. Nay anh kém sút vật chất lẫn tinh thần, mới biết nguy nếu không
kịp cứu chữa.
Anh
đánh liều sang Cam-pu-chia, mong cầu bọn đàn em giúp đỡ. Anh chờ đợi cả tuần lễ
xin tiếp kiến ngài thủ tướng Hun Sen. Ngài thủ tướng bận việc để anh chờ mỏi
mòn mới ban ân huệ cho vào gặp mặt. Hun Sen hất hàm hỏi anh:
- Anh
theo bành trướng Bắc Kinh làm gì mà phải khổ thân đến thế!
Duyên
trình bày nào có biết gì là bành trướng. Anh nào có liên hệ gì với Bắc Kinh. Cả
năm trời nay, anh ở Cam-pu-chia hoạt động với mục tiêu duy nhứt đưa bọn Hun Sen
lên ngôi vị. Đến việc liên lạc với mẹ già cũng không có.
- Thế
là anh mang họ Khương Hữu chớ gì! Một dòng họ có gốc Tàu? Sao không đổi họ thay
tên để sống?
Duyên
chán nản và thất vọng vô cùng. Người đối thoại với anh kia, ngày xưa từng cung
cúc tận tụy phục vụ anh, nay được nắm quyền độc tôn lại trở mặt kiểu Cộng sản,
phân biệt quan hệ: không là đồng chí tức là kẻ thù!
Duyên
nói vài lời thăm hỏi rồi đứng dậy ra về. Hun Sen lạnh lùng gọi sĩ quan cận vệ
tiễn Duyên ra cổng. Duyên lang thang nơi kinh đô xứ Chùa Tháp mà năm trước anh
nghênh ngang xe cộ như nhà quyền quý nhất nước.
Anh
đi hết nổi, ngã khụy và bất tỉnh nơi chợ cũ. Kiều bào ở đây vội chở anh vào bệnh
viện. Anh được giải phẩu để cứu sống.
Một
tháng sau, Duyên ra viện với đôi nạng gỗ và một chân tê bại. Anh trở về Việt
Nam gặp lại bà mẹ ở Vĩnh Long. Khi ấy, mẹ anh được nhà nước Xã hội Chủ nghĩa trả
lại mảnh vườn, nhưng vẫn đói khổ vì không đủ sức canh tác. Hai mẹ con ôm nhau
khóc mùi.
Kết
quả một đời của một cán bộ trung niên năng nổ, hy sinh hết mình cho đảng là thế
đó. Duyên đã có hai lần tự vận nhưng lần nào bà mẹ cũng hay kịp để cứu cho. Anh
không còn sức sống với tấm thân ma dại.
Mẹ của
Duyên trở lên Sài Gòn lần nữa cầu cứu với Hương. Chính lúc ấy, Vĩnh được tha,
trở về với Cu Bi và Hương. Vĩnh cùng Hương đang bàn tính chuyện tương lai.
Bà mẹ
chồng đã khóc lóc với Hương. Bà quỳ xuống van lơn nàng chăm nom, nâng đỡ, cứu
chữa cho Duyên lên tinh thần để không còn tìm cách quyên sinh nữa. Trên đời, có
ai chu đáo bằng vợ đối với chồng?
Sau
hai đêm nát óc suy nghĩ, Hương thấy phải đành hy sinh tình duyên mới, trở về với
bổn phận. Nàng viết bức thư vĩnh biệt đầm đìa nước mắt để lại cho Vĩnh rồi ra
đi với mẹ chồng...
Vĩnh
kéo Cu Bi nép mình sau buội trúc, mắt hướng về cây cầu lắc lẻo bắc ngang con rạch
nhỏ đưa đến một ngôi nhà lá một gian hai chái bên kia bờ rạch. Trước nhà có sân
phơi lúa, vài con gà mẹ túc bầy con bươi thóc. Bên hè có trồng vài buội rau cải,
có mấy luống mì cao khỏi đầu.
Từ cửa
hông nhà bếp, một người đàn bà trong bộ độ bà ba đen, đầu khoác khăn rằn, tay cầm
cây cuốc bước ra. Bà hô đuổi bầy gà bươi lúa rồi đến luống mì cuốc mấy gốc, lặt
lấy củ.
Cu Bi
kéo tay Vĩnh ríu rít:
- Má Hương kìa Ba ơi! Con chạy qua kéo má
Hương đi với cha con mình.
-
Khoan đã Bi! Để Ba dòm má Hương một chút. Tội nghiệp má Hương sao phải cực khổ đến
thế chứ?
Vĩnh
đưa tay rờ bên ngực áo, trong túi áo sơ mi gấp gọn tờ giấy in sẵn của phái đoàn
phỏng vấn những người đi diện H.O sang Mỹ. Anh đã đề tên gia đình gồm ba người:
anh, Hương và Cu Bi. Anh về đây tìm Hương với mục đích đưa nàng lên Sài Gòn tiếp
tục làm thủ tục giấy tờ chờ ngày lên phi cơ rời khỏi Việt Nam.
Anh
không thể để Hương cam chịu một sự hy sinh vô lý. Việc gì nàng phải trở lại với
người đàn ông nàng không yêu? Sao nàng tự giết tuổi xuân mà tự tay nàng dìm gộp
mất tình yêu hạnh phúc nàng từng mơ ước?
Vĩnh
không chấp nhận cái lý do ly biệt của nàng. Anh phải đưa nàng ra khỏi cảnh tối
tăm nghèo hèn mất tự do này...
Bên
kia bờ rạch, Hương vừa vỡ ra khỏi luống một bụi mì lủng lẳng những củ to, vừa
đưa tay áp chậm mồ hôi trán. Bầy bướm vàng nhởn nhơ bay quanh nàng. Nàng thẫn
thờ nhìn những cánh bướm vàng bay chấp chới trước mặt mình, tuy không đẹp bằng
loại "bướm lá vàng" của rừng mì năm nào nơi trại cải tạo. Song cũng
đã gợi nơi lòng nàng những kỷ niệm khó khuây.
Ôi một
giấc mộng đẹp đã qua...
Bên bờ
rạch, một chiếc xuồng ba lá ghé vào bến. Bà mẹ của Duyên ngoắc tay gọi:
- Hai
ơi! Ra xách giỏ bạc giùm má! Con heo của con nuôi đúng tạ bán được 278 ngàn đồng,
đủ trả tiền nợ cho nó nằm viện tháng rồi.
Hương
vội bước ra cổng đỡ tay xách giỏ cho mẹ chồng:
- Vậy
là heo xuống giá đó má! Nhưng phải bán để trả nợ chị Sáu. Chị ấy lâu lâu cứ nhắc
hoài. Để trưa nay con đem tiền trả cho chỉ để chỉ khỏi phải hối nữa...
Bà mẹ
chồng hỏi Hương:
- Nó
có uống thuốc chưa?
- Ảnh
mới uống hồi nảy. Lúc này ảnh siêng uống thuốc vì thấy có hiệu quả. Bác sĩ Tâm
nói ảnh nên bổ dưỡng và thuốc men cho thường thì hy vọng khỏi... Mùa lúa tới chắc
sẽ có đủ tiền chữa cho ảnh lành bệnh...
Mẹ của
Duyên đưa tay âu yếm vuốt ve bên lưng Hương:
- Nhờ
một tay con chịu khó, chịu cực mà nhà mình mới được ngày nay. Bệnh của nó cũng
thuyên giảm nhiều.
Hương
cúi đầu, giấu nỗi buồn thoáng qua đôi mắt. Bên cửa nhà lịch kịch có tiếng nạng
gỗ. Bà mẹ Duyên nhìn lên vội la lớn:
-
Khéo... Khéo coi chừng trợt...
Quả
thật Duyên từ trong nhà chống nạng bước ra sân, suýt ngã vì cây nạng chống trượt
một chiếc lá vàng. Anh cố gắng
gượng lấy lại thăng bằng mãi mà không được.
Hương
vội vàng trao túi xách cho bà mẹ chồng. Nàng nhanh nhẹn chạy đến xốc nách Duyên
dìu lại ngồi nơi chiếc ghế mây để dưới rặng cây su dương đang trổ bông đỏ rực
như pháo tết và lòng thòng những trái xanh.
Hương
đưa một ngón tay trước mặt, căn dặn Duyên như một y tá dặn bệnh nhân:
- Bác
sĩ bảo anh chống nạng đi cho cẩn thận, sao anh cứ hấp tấp?
Duyên
ngoan ngoản nhận lỗi:
- Anh
muốn ra ngồi ngoài nắng.
-
Chút nữa nắng rọi đến đây. Để em vào lột vỏ hấp khoai mì cho anh ăn.
Duyên
nắm tay Hương để lên ngực thì thầm bảo:
-
Khoan đã em! Đừng đi vội. Ở lại thêm với anh đôi phút. Anh muốn được ngắm nhìn
em. Em đẹp lắm Hương à! Em đẹp nhứt là ở nết na tánh tình... Anh có một viên ngọc
quý trong nhà mà không khéo giữ gìn...
Bên
kia bờ rạch, Vĩnh đứng im thở dài, buông nhành trúc che ở trước mắt. Anh kéo
tay Cu Bi và bảo:
- Về
thôi con!... Má Hương sẽ không theo cha con mình đâu!... Vả lại, Ba cũng không
muốn cướp phần an ủi cuối cùng của một kẻ tàn tật bị xã hội người lành mạnh bỏ
quên...
Đồng
trống mở rộng chân trời lảng vảng ráng mây hồng...
Một
đàn bướm nhởn nhơ bay lượn, gặp cơn gió chiều thổi lộng bay tản mát ra xa....
Trên
đường đất, hai bóng người, một cao một thấp lầm lũi đi khuất nẻo xa như bóng dĩ
vãng mờ xóa theo thời gian...
Trời
không mưa Ngâu mà lòng người ướt át.
Hiếu Đệ
No comments:
Post a Comment