VÕ PHƯỚC HIẾU- HIẾU ĐỆ * NIỀM ĐAU BẠC TÓC
-**-
Bác Thầy Hù
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, dân chúng thủ đô Sài Gòn không sao quên được
chánh sách giản dân và kinh tế mới do Cộng sản chủ trương nhằm trả thù và cướp
của của đồng bào. Chánh sách này đi kèm ngay sau những biện pháp kiểm tra sơ yếu
lý lịch, phân phối nhu yếu phẩm định kỳ hằng tháng theo hộ khẩu, kiểm kê tài sản,
đánh tư sản mại bản, đổi tiền, xóa bỏ văn hóa phẩm đồi trụy và tập trung cải tạo
v.v....
Chủ
trương đưa người dân thành phố đi sản xuất nơi những vùng kinh tế mới được triển
khai như một quốc sách của nhà nước lúc bấy giờ, xuống tận các quận huyện, phường
khóm và các tổ dân phố đã được thành hình nhanh chóng sau ngày Miền Nam hoàn
toàn bị cưỡng chiếm. Học tập chánh sách liên tục hằng đêm, phân loại tổ viên, lên danh
sách đối tượng để động viên, rúng ép, đe dọa rút hộ khẩu, một biện pháp giết
người thầm lặng bất nhân ác đức trong sự đau đớn dày vò triền miên cơ thể do sự
đói khát xác xơ dằn xé con người.
Cộng
sản thâm độc do bản chất cuồng tín cố hữu, không tình người. Chúng thành lập những
ban kinh tế mới ở khắp các phường trong thành phố, đề bạt và giao trách nhiệm
điều hành cho đám cán bộ ba mươi, bọn đón gió trở cờ vào giờ phút chót.
Đó là những trưởng ban kinh tế mới của phường. Chúng lấy
gậy ông đập lưng ông, dùng bàn tay bọn chầu rìa ngây ngô khờ khạo, nhẹ dạ non
lòng dễ bị gạt gẫm này để giết hại người mình.
Đám
tay sai khuyển mã ấy tha hồ dựa hơi hùm, lộng hành hống hách, lên mặt lên mày,
kênh kênh tự đắc phát ghét. Chúng làm biết bao nhiêu chuyện động trời động đất,
kể cả những việc mờ ám tống tiền những nạn nhân bất hạnh.
Chúng
bị bà con đàm tiếu, chế rểu qua những câu chuyện tếu rỉ tai hay những câu ca
dao thời đại cười ứa nước mắt. Nhưng bọn Phường ủy và Ủy ban Nhân dân phường vẫn
làm ngơ im re như câm như điếc. Chúng tỏ ra hờ hững lạnh lùng, xem chẳng có gì
quan trọng xảy ra cả.
Vì thực
sự, chúng có một thâm ý duy nhứt. Miễn là đám lốc chốc cặn cáo, thừa nước đục để
a dua nịnh bợ một cách vô liêm sĩ đó hồ hởi, tích cực công tác đạt kết quả ở mỗi
lượt phát động, đúng theo chỉ tiêu
qui định đưa người ra khỏi thành phố. Như vậy là đạt trọng tâm, trọng điểm của
chúng rồi.
Đám
này càng thất nhân tâm bao nhiêu, bọn Phường ủy và Ủy ban Nhân dân phường càng
bằng lòng phấn khởi, thắng lợi bấy nhiêu. Biết bao đứa nhờ đó hằng năm, nhân những
ngày lễ lớn của Cộng sản, được bình bầu tiên tiến và còn được hứa hẹn hão huyền
đề bạt đối tượng này nọ.
Những
người không có công ăn việc làm vững chắc sẽ là mục tiêu chuyển đi kinh tế mới
trước tiên. Đó là nói theo ngôn từ tuyên truyền đường mật của Cộng sản, chớ thực
sự lúc bấy giờ việc sản xuất quá đổi èo uột do người dân, tất cả đều không còn
tinh thần gì để sản xuất. Và nguyên liệu của Mỹ Ngụy để lại chẳng còn bao nhiêu
sau những chiến dịch cướp của tịch thu ùn ùn chuyển thẳng về Bắc.
Dù vậy,
người ta thấy ở thành phố lúc ấy mọc rộ lên như nấm không biết bao nhiêu là tổ
hợp tạp pín lù, hợp tác xã thập vật xà bần để bà con có nơi chui vào đó ẩn
thân, mong được qua cơn giông to gió lớn. Nào là tổ hợp hớt tóc, tổ hợp may mặc,
tổ hợp sản xuất xì dầu nước tương, tổ hợp làm tranh sơn mài, hội họa, hợp tác
xã đan tre, đệm chiếu, hợp tác xã sản xuất dụng cụ canh tác như rèn búa, lưỡi
liềm, dao rựa, cuốc xuổng...
Đó là
chưa kể những cơ sở quốc doanh và hợp doanh do nhà nước trực tiếp quản lý òi ẹp,
dở sống dở chết do cái tài điều khiển của những "đỉnh cao trí tuệ của loài
người". Đám cán bộ "Cục Rờ" vô sản năm ba đời bần cố này, "trên răng dưới..."
quần xà lỏn, ngu ngơ xớ rớ như gà mở cửa mả.
Dĩ
nhiên, tất cả những cơ sở sản xuất ở lãnh vực này nhứt thiết được chỉ đạo theo
"đường hướng sản xuất qui mô xã hội chủ nghĩa", trên cơ sở tập thể
công nhân đói rách xác xơ, bỏ nhà cửa, bỏ gia đình liên tục thi đua làm việc
thí mạng không giờ giấc để được chế độ "đãi ngộ xứng đáng" làm giàu
giai cấp lãnh đạo mới.
Cứ một
hai tuần, ban kinh tế mới phường tập họp các tổ dân phố tại một nơi nào đó như
chùa chiền, chợ búa hay những biệt thự có vườn tượt rộng rãi để nghe "lên
lớp" và điểm danh những đối tượng phải rời thành phố. Mọi người đều thắc
thỏm lo âu cho số phận hẩm hiu bất hạnh của mình.
Nhưng
đối tượng chánh yếu được Cộng sản tập trung chiếu cố vẫn là những thành phần
chúng nghi kỵ và đánh giá là phần tử nguy hiểm, có ý đồ đang âm thầm chống chế
lại chế độ mà chúng thường gán cho mấy chữ như để kết án trước, không cần phải
truy tố ra trước tòa án nhân dân: "Tay sai của Mỹ Ngụy và CIA được bố trí
trường kỳ mai phục chờ ngày ngốc đầu dậy". Hay gia đình những sĩ quan quân
lực Việt Nam Cộng Hòa hoặc các nhà lãnh đạo trọng yếu trong chánh quyền Miền
Nam cùng những vị lãnh tụ cao cấp các đảng phái chánh trị, đoàn thể, tôn
giáo... đang được cộng sản "khoan hồng" tập trung cho đi học tập cải
tạo dài hạng nơi vùng rừng thiêng nước độc giết người.
Lúc
này, tôi cũng phải giành phần lớn thì giờ chạy đôn chạy đáo, xuôi ngược khắp
hang cùng ngõ hẹp, dò dẫm bạn bè chí cốt mong tìm kiếm một chỗ làm tương đối
"vững chắc", khả dĩ được đám cán bộ địa phương nhìn nhận có tánh cách
ổn định tức có nhiều triển vọng "sản xuất làm ra của cải". Như vậy để
được yên thân. Tôi không phải thường xuyên bị khuấy rầy về chánh sách đuổi xô
khắc nghiệt đó, một chánh sách có một không hai trong lịch sử mở nước ở phương
Nam.
Mà
tìm được một chân trong các ngành nghề không bấp bênh ở giai đoạn này chẳng phải
dễ dàng gì. Thật trăm bề khó khăn nhiêu khê.
Tổ hợp,
hợp tác xã, hợp doanh, công tư hợp doanh... bao nhiêu mỹ từ, bao nhiêu cơ sở mới
toanh với những bảng hiệu hực hỡ qua hai màu vàng và đỏ chói chang đập mạnh vào
tầm mắt mọi người. Cả một bối cảnh vô cùng phức tạp, hỗn độn xô bồ chưa từng thấy
ở thành phố Sài Gòn, dù trong thời kỳ chiến tranh gay go khổ ải nhất của đất nước.
Nơi này, sự dụ dỗ lường gạt, mánh khoé cướp đoạt, chen lấn tranh nhau sống còn
trong cuộc đổi đời nghiệt ngã là chuyện xảy ra hằng ngày hằng bữa, nhởn nhơ trước
mặt, nghe đầy cả hai lổ tai.
Muốn
vào hợp tác xã hay tổ hợp, đương nhiên nạn nhân phải bán bàn ghế tủ giường, vật
dụng lớn nhỏ còn sót lại trong nhà... để có đủ một số tiền góp vốn tối thiểu.
Đó là điều kiện tiên quyết nhứt thiết cần phải có, ngoài việc hứa hẹn và cam kết
sẽ tích cực góp công góp sức, góp khả năng và tri thức của mình.
Nhưng
nhiều tổ hợp, hợp tác xã, hợp doanh... ma, chưa hình thành xong trên mặt giấy tờ
hành chánh phức tạp do sự ngu dốt mà ra, đã nhanh chóng rã đám. Hậu quả là của
mất tật mang, vợ con thêm đói dài dài, ngày ngày vẫn cứ phải bấm bụng ăn độn bo
bo và khoai mì thối.
Còn
nói gì xin được một chân trong các xí nghiệp quốc doanh và cả công tư hợp doanh
kể như việc đi mò kim đáy biển. Ở lãnh vực nhà nước này, thực tế kể như không
bao giờ và chẳng bao giờ chui vào được đối với người dân Miền Nam có quan hệ,
dính líu xa gần với chế độ cũ.
Chẳng
qua cũng do bản sơ yếu lý lịch truy nguyên xuyên suốt năm thế hệ của mình, kể cả
bên vợ bên chồng mà chung cuộc cộng sản chẳng ngần ngại mạnh dạng phê là không
trong sạch, ít nhiều đều có tội với nhân dân vì có thân nhân thuộc thành phần
"ngụy quân nguỵ quyền". Cho dù nạn nhân khốn khổ có cố công moi móc
trí nhớ tìm về nguồn cội gốc rễ, đào đi xới lại quá khứ trước đây để có thể hạ
quyết tâm, xuống bút ghi trên giấy trắng mực đen rạch ròi gốc gác bần cố nông
nghèo mạt từ đường của mình hay may mắn hơn, xuất thân từ lớp nghèo chí tử nơi
thành thị.
Bản
sơ yếu lý lịch là bức tường rào kiên cố chơm chởm gai nhọn khó thể vượt qua. Bọn
cán bộ Cộng sản khai thác tỉ mỉ nó để gạn lọc, cản ngăn mọi dự tính của người
dân lương thiện.
Quả thật trần thân khổ ải vô cùng.
Một
hôm, anh Hai Hoàng, ông bạn hàng xóm xấp xỉ tuổi tôi, cùng ngụ chung dãy phố từ
mười lăm năm nay có dư, qua nhà tôi đấu chuyện tào lao tầm phào với giọng dè dặt
nho nhỏ thường ngày vừa đủ cho nhau nghe. Chúng tôi hay qua lại trao đổi tâm
tình, nghe ngóng tin tức thời sự và những đường dây vượt biên để thần kinh đỡ bớt
căn thẳng.
Anh
đã bị bọn cải tạo công thương nghiệp thành phố dập vùi không thương tiếc trong
đợt đánh tư sản mại bản đầu tiên. Chúng gán cho anh cụm từ "tài phiệt ác
ôn lộng hành có nợ máu với nhân dân". Anh cũng đã từng bị chúng giàn dựng
lôi lên truyền hình hạch xách để anh phản tỉnh nhận tội lỗi trước đây làm
gương. Nhưng chủ yếu của chúng là bức bách anh khai báo tài sản cất giấu để được
hưởng chánh sách khoan hồng.
Giá nếu
ghi lại ở đây tâm trạng cùng những đòn phép hành hạ rúng ép tinh thần và vật chất mà anh đã chịu đựng trong thời gian nghẹt thở
này thì chẳng bút mực nào đủ để anh trang trải nỗi lòng đớn đau đến mức tuyệt vọng
lúc ấy của anh.
Nó có muôn hình vạn trạng...
Cũng
may, hồi xưa, cơ sở buôn bán vật liệu xây cất đồ sộ của anh không do anh trực
tiếp đứng tên làm chủ. Nếu không, anh sẽ là đối tượng ưu tiên bị chánh quyền
đưa đi kinh tế mới từ lâu rồi. Anh chỉ là người quản lý còn chủ nhân là ông anh
vợ đã nhanh chân dẫn dắt vợ con thành công ra đi vào giờ phút chót trên chiếc
tàu sắt Trường Sơn. Chiếc tàu này đã một thời gây chấn động lương tâm thế giới
và mở mắt nhân loại. Tất cả cơ sở ấy đều bị kiểm kê và tịch thâu ngay giờ đầu của
chiến dịch.
Lại
cũng may, nhờ anh có tờ khai gia đình chánh thức ở địa chỉ này nên đội kiểm kê
chưa trục xuất anh như bao nhiêu trường hợp tương tự khác. Chúng cho anh cùng vợ
con tạm thời ở một căn nhà sát bên cơ sở.
Nhưng anh nào được yên thân đâu. Cứ vài ngày, anh bị
chúng lôi lên làm việc một lần gọi là để điều tra bổ túc, nhưng để hăm dọa là
việc thường xuyên phát xuất từ cửa miệng của mấy tên cán bộ hung thần ác ôn.
Nhưng
dù sao, nơi căn nhà ấy bây giờ anh vẫn thu xếp gọn gàng vén khéo, biến thành chỗ
cư trú qua tháng đoạn ngày của gia đình anh. Nó cũng đắm chìm, không sao thoát
khỏi bị cuốn lôi trong khí thế hồ hởi đổi đời của "cách mạng vô sản".
Bộ mặt
hực hỡ lộng lẫy, bày biện ngăn nắp, dễ ngắm dễ nhìn, ngày xưa từng lôi cuốn
khách hàng giờ đây không còn nữa. Giờ đây trông quá xơ xác hắt hiu, trống hoát
trống huơ. Từ trước nhà thông suốt đến sau bếp. Dã sử có người mù hay bị bịt
đôi mắt tối đen, họ vẫn cứ phon phon đi tới, không hề sợ bị đụng chạm vật dụng
và vấp ngã.
Anh
thấy tôi đang cắt tóc cho các con tôi. Vì từ ngày Miền Nam thân yêu của chúng
ta bị Cộng sản cưỡng chiếm và đày đọa, thì giờ tương đối dư dả thừa mứa do ăn
không ngồi rồi. Ngày ngày, tôi loanh quanh lẩn quẩn tới lui trong xó nhà xó bếp
tồi túng.
Tôi
chỉ có mỗi một việc duy nhứt là để tâm suy nghĩ, nghiên cứu phương cách tìm đường
trốn lánh thiên đường nghiệt ngã xã hội chủ nghĩa thôi. Cho nên việc gì trong
nhà trong cửa, dù lớn nhỏ khó khăn gì, tôi cũng cố gắng nhúng tay vào, trước hết
để choáng thì giờ và sau nữa để lãng quên thực tại nghẹt thở ngoài xã hội. Những
việc này, ngày xưa, tôi đâu có rổi rảnh để quan tâm ghé mắt tới bao giờ.
Hơn nữa,
gia đình tôi cũng bắt đầu thấm đòn đau điếng do hằng ngày có nhiều việc tiêu
xài bắt buộc mà thu nhập dù ít oi cũng không hề có, ngoài việc thỉnh thoảng phải
đem ra chợ trời chợ chạy bán đi đủ thứ tạp vật trong nhà có thể bán được. Gia
đình tôi phải hạn chế đến mức tối đa những việc chi tiêu không cần thiết.
Tôi lại
càng cố gắng thêm nữa, tự mình nai lưng, xăng tay áo làm được việc gì hay việc
nấy. Vì tôi nhận thấy con đường u u tăm tăm mờ mịt, con đường tối đen hun hút
trước mặt mình là làm sao chuẩn bị tinh thần vững vàng để đối phó một cuộc sống
trường kỳ trong kham khổ. Tôi nghĩ bà con trong thành phố lúc ấy cũng có một
thái độ và quyết tâm như tôi, không cần phải làm thầy bùa thầy bói hay tử vi tướng
số mới đoán được.
Anh
Hai Hoàng thấy vậy chớp lấy thời cơ đề nghị tôi cùng anh đứng ra thành lập một
tổ hợp hớt tóc để có lý do chánh đáng và hợp pháp được tạm trú yên thân. Chúng
tôi sẽ không bị nhức đầu nhức óc lo lắng, không bị những tay "cán bộ ba
mươi" làm phiền hay những người vì nặng gánh đời cơm áo trong thời điểm
nghiệt ngã đổi đời, đã đánh mất lương tâm, lường gạt bạn bè quen biết qua những
tổ hợp ma, tổ hợp dởm.
Anh
cũng đề nghị tôi cứ lấy phần phía trước căn nhà anh đang ở làm cửa tiệm. Anh
còn nhấn mạnh là rất tiện lợi và phải chỗ lắm vì thuộc mặt tiền đường chánh, lại
hợp với phong trào nữa.
Tôi xửng
vửng ngạc nhiên. Trong lòng, tôi cứ ngờ ngợ tưởng anh nói chơi cho vui miệng
trong lúc bất chợt, tình cờ cao hứng. Vì xét ra cả hai anh em chúng tôi chưa một
ai biết cầm cái kéo, cái lượt, "tông đơ" và dao cạo bao giờ đâu.
Nhưng không dè anh nghiêm sắc mặt bảo rằng anh không nói đùa mà anh nói thật
lòng đấy.
Như
lúc hạn hán lâu ngày gặp được mưa rào, tôi đồng ý ngay trong sự khấp khởi vui mừng
chung của hai anh em chúng tôi. Tôi không biết vì sao tôi lại đồng ý nhanh lẹ đến
thế. Có lẽ cái tổ hợp tương lai đang manh nha trong trí chúng tôi là cái phao cứu
rổi để chúng tôi bám vào thành phố?
Thế
là tổ hợp hớt tóc Thanh Phú ra đời với sự cho phép miệng của Uỷ ban Nhân dân
phường. Đám cán bộ cộng sản ngu ngơ dốt đặc thường làm việc bằng miệng, không
có văn bản hay giấy tờ chi cả. Tuy vậy, tổ hợp chúng tôi cũng có bản hiệu hai
màu đỏ vàng mới sơn nhưng với những tay nghề vừa tập tểnh, thường xuyên lúng túng hồi hộp khi
bắt buộc phải tiếp khách do xử dụng dụng cụ còn chưa vững để khỏi nói là vụng về.
Nhiều
lúc hớt trậm trầy trậm trật vừa xong cái đầu của đám con nít, lòng mừng vui khấp
khởi, thở ra nhẹ nhỏm nhưng khi nhìn thấy những sọc dưa tiếp nối nhau với những
chỗ đậm xen kẽ những nơi nhạt, lòng chúng tôi thêm thèn thẹn và đâm ra thương
chúng nó biết dường nào. Có lúc "tông đơ" ăn tóc chúng nó đau điếng
nhưng chúng vẫn không hề có phản ứng phiền hà, cự nự. Chúng chỉ mở đôi mắt tròn
xoe, chầm chầm ngạc nhiên nhìn chúng tôi qua tấm kiếng to lớn treo vững chắc
trước mặt, lặng im không nói một lời.
Hôm
nào hớt được đôi ba đứa trong đám trẻ nầy, chúng tôi mừng húm, xem như là những
cơ hội hiếm hoi ngàn vàng để trao dồi cái nghề mới vạn bất đắc dĩ này, cái nghề
không phải để kiếm cơm hằng ngày hằng bữa mà thực sự để được ổn định một chỗ ở
trong thành phố.
Vì đối với chúng tôi, làm gì thì làm, bằng mọi giá, nhứt
định phải bám ở thành phố mà sống. Ra khỏi nơi nầy là tự mình ký nhận bản án tử
hình của mình vậy.
Còn
hôm nào gặp phải vài ba ông khách người lớn, dù lúc bấy giờ các ông không hề tỉ
mỉ khó tánh, nhưng kể như một đại nạn đối với chúng tôi. Chúng tôi vừa hớt vừa
phập phồng không yên trong lòng. Tình trạng nầy không thể để kéo dài được.
Chúng tôi quả có lý khi nghĩ đến việc nầy.
Do
đó, chúng tôi có tranh thủ thời giờ, lục lọi trong khu phố, mời thêm một hai
tay nghề bản lỉnh, có nhiều kinh nghiệm hầu phục vụ những khách hàng người lớn
trong khi chúng tôi rất mực hài lòng chuyên gọt đầu bọn con nít con nôi. Đám nầy
chẳng đòi hỏi gì vì đa số đều là bạn bè trang lứa với các con cháu chúng tôi.
Trong
số thợ, chúng tôi xem như có tay nghề đảm bảo vững vàng, điêu luyện là khác để
làm đầu tàu đứng mũi chịu sào cho tổ hợp có bác Hai Nhím. Bác được bà con trong
phường gọi đùa là bác Hai Việt Câu Tiển.
Bác lớn
tuổi rồi, ngót nghét sáu mươi hoặc trên dưới vài tuổi là cùng, nếu tôi đoán
không lầm. Mặc dầu bác có một quá khứ lang bạt, dầy dạng phong trần nhưng tóc
râu bác còn đen huyền, điểm rải rác đó đây một ít tóc sương. Da dẻ bác sẫm hồng
chắt nịt, thể hiện sức sống của lứa tuổi thanh xuân "bẻ gãy sừng trâu"
không khó.
Con
người bác trông quắc thướt yêu đời, lanh lợi lịch duyệt lắm. Nhưng nhiều lúc
bác rất hưỡn đãi, trầm lắng, suy nghĩ chính chắn. Mọi người một khi tiếp xúc với
bác đều nhìn nhận như vậy.
Gặp bác lần đầu tiên, tôi có nhận xét bác rất trẻ
trung trong tinh thần hơn ngoài thể xác. Lời ăn tiếng nói thanh bay, lịch sự dễ
mến.
Tôi
không biết rõ mức độ học vấn của bác ra sao, cỡ nào. Nhưng có điều chắc chắn
không thể sai lầm trong nhận xét của tôi, bác tỏ ra là một con người hiếm hoi
ít khi gặp được ở lứa tuổi của bác. Bác có trình độ văn hóa trên xa mức trung
bình. Và sự hiểu biết cùng suy nghĩ của bác quả khá sâu sắc, quả có chiều cao.
Lúc ấy,
bác đang hớt tóc ở cuối phố, nơi bác chỉ xuất đầu lộ diện từ sau ngày thành phố
Sài Gòn bị bức tử. Bà con ở đây chẳng biết bác từ đâu đến khóm phường tôi vì
trông bác lạ hoắc lạ huơ. Trước đây, họ chưa từng thấy mặt bác một lần.
Nhưng cuộc sống xô bồ phức tạp những tháng gần đây xô
đẩy con người đổ ra đường phố tìm kế sinh nhai và cảnh tấp nập chung đụng thường
xuyên làm cho con người càng gần gủi thêm, càng dễ dàng xích lại bên nhau hơn
trong nương tựa, chia xẻ âm thầm. Bác trở thành một khuôn mặt thân quen như người
căn cư lâu đời trong khu phố.
Dù vậy,
bác vẫn có hộ khẩu tạm trú đàng hoàng và hợp lệ nhờ giấy tờ trồng tréo qua sự
chạy chọt, ép bụng đút lót tên công an khu vực phường lúc tranh tối tranh sáng
khi làm thủ tục đổi tiền đợt I. Tên công an răng đen mã tấu miền Bắc, nghèo xơ
nghèo xác, được dịp hiếm hoi "ngàn năm một thuở" trong đời để vương
lên làm giàu, không thể từ chối được. Ở xã hội xã hội chủ nghĩa, đồng tiền là
huyết mạch, mua tiên cũng được, nhứt là đối với mấy ông vua con công an không
ngai ngự trị một phường, mặt mũi lộng hành hống hách.
Hằng
ngày, bác mang cái túi đồ nghề bằng vải tám bồng bột, lớn không quá giỏ xách đi
chợ của đàn bà, cùng tấm kiếng soi
mặt to vừa vặn một trang giấy đôi học trò. Sáng sáng, bác treo tấm kiếng nhẹ
hêu đó ở gốc bàng cổ thụ, nơi đây bác đóng một cây đinh nhỏ, đầu đinh có bọc một
mảnh vải lên nước đen ngòm do được dùng nhiều ngày.
Đó chính là tiệm hớt tóc của
bác. Nói tiệm hớt tóc nghe qua cũng khá oai thật đấy nhưng thực tình, nó chỉ là
cái tiệm lộ thiên, không hơn không kém, e ấp núp gọn lỏn dưới tàng cây bàng suốt
ngày râm ran bóng mát.
Mỗi ngày, bác chỉ treo tấm kiếng lên
vào buổi sáng, lúc bắt đầu làm việc. Buổi chiều, khi ánh sáng thiên nhiên khởi
sự nhòa nhạt chuẩn bị chào đón hoàng hôn, bác ngừng tay nghỉ sớm do đôi mắt
kém. Việc bác không hề quên là cẩn thận tháo tấm kiếng ấy xuống rồi cặp nách
cùng mang tứi đồ nghề lầm lũi thả bộ theo phố về nhà.
Còn cái ghế ngồi, loại ghế đẩu cũng
sắp sửa như răng cỏ những bậc trưởng thượng ở tuổi ướm rụng. Nền đất thì có lúc
khô hẳn, cũng có lúc vừa mới ráo sau cơn mưa nên cái ghế này để đâu bác không
an tâm chút nào, sợ lún làm té người, nhứt là đám con nít con nôi nghịch ngợm.
Mỗi lần, bác cẩn thận lấy hai tay đằng xuống dưới đất
thật mạnh cho ghế được vững vàng chắc chắc. Mỗi chiều, bác cột ghịch ở gốc cây
bàng nhờ sợi lòi tói nhỏ nhắn có gắn một ổ khóa to không bằng đầu ngón tay cái.
Bác khóa cho có hình thức, phòng ngừa mấy đứa nhỏ rống mắt tay chưn thái mái lấy
chơi.
Thật sự, nếu ai muốn lấy mà chẳng được.
Họ chỉ cần giựt mạnh một chút là ổ khóa bức néo ngay. Mà thực tế từ khi bác trụ
bộ hớt tóc ở đây, chẳng ai đan tâm nỡ đành lấy cái ghế ấy của bác cả. Cái ghế
chính là nồi cơm của bác hằng ngày. Nó là dụng cụ sinh sống của bác đã đành
nhưng có lẽ vì nó không còn một chút giá trị gì dù ở thời kỳ thạnh hành, cao điểm
của chợ trời chợ chạy.
Dụng cụ hành nghề khác của bác đa số
đều thuộc loại xài rồi lâu ngày, mua lại với giá rẻ mạt nơi những tiệm hớt tóc
chuyên nghiệp lộng lẫy đồ sộ ở thành phố. Chủ nhân trong lúc hoảng hốt vội vã
bán đổ bán tháo trước khi đóng cửa tiệm, đổi vùng, lao lách tránh né đòn thù của
các chiến dịch cải tạo công thương nghiệp.
Nhưng bác rất hãnh diện với khách
qua chai Eau de Cologne với cái vỏ màu mè bên ngoài chớ thực tế chỉ chứa nước
"phông tên" thuần chất bên trong, không hơn không kém. Thêm lủ khủ mấy
chai nước hoa đủ kiểu, hình dáng lạ mắt và màu sắc sặc sở nhưng không còn hiệu
nghiệm. Bác chỉ để đó làm cảnh cho vui mắt ngắm nhìn, nhắc nhớ một thuở huy
hoàng xa xưa.
Nơi hớt tóc ấy của bác quả thật vén
khéo gọn gàng nhờ vào tàng cây bàng cổ thụ xum xuê cho bóng mát quanh năm và tiếng
chim không ngớt líu lo êm tai. Chắc cũng nhờ vậy nên quến khách chăng? Và khách
hớt tóc thường xuyên của bác, tuy không rộn rịp phải ngồi đợi chờ lâu lắc nhưng
cũng giúp bác lây lất đủ sống qua ngày. Đa phần đều là những khách tới lui nhiều
lần, trở nên quen mặt quen tên thân tình, có thể tâm sự với nhau không phải rào
trước đón sau, dè dặt chi cả. Và có lẽ nhờ những lần gặp gỡ tâm tình dong dài ấy
mà tinh thần họ bớt căn thẳng chăng?
Gặp những hôm mưa gió trái mùa, bác
nghỉ ở nhà buồn hiu, ngồi nhìn trời mây, nhìn những hạt mưa đan chéo nhởn nhơ
trước mặt mình, trầm ngâm đếm thời gian trôi qua để suy gẫm cuộc đời và cũng để
bùi ngùi hồi nhớ quá khứ không xa mấy của bác. Cái quá khứ đã từng giúp bác sống
hạnh phúc, ấm no và mãn nguyện so với thời buổi "cách mạng đại thành
công", "thống nhứt đất nước", hồ hởi "đổi đời",
"làm chủ tập thể" bây giờ.
Nhưng gặp những khi mưa giông đến bất
thình lình lúc bác đang hành nghề, bác nhanh tay thu xếp dụng cụ đồ nghề gói
trong túi xách rồi khép nép đụt mưa, trú thân ở mái hiên những nhà bên cạnh, mặc
gió lạnh tới tắp bên ngoài. Làm ăn đắp đổi qua ngày như vậy, bác những tưởng là
tạm ổn cho đoạn tháng qua ngày chờ giờ phút xuôi tay nhắm mắt theo ông theo bà,
chấm dứt một kiếp người bất hạnh, tuổi cao sức yếu vẫn chưa yên thân, vẫn còn bị
hành xác trong vòng khổ lụy.
Các ban an ninh và xã hội phường
khóm đâu để bác an phận tuổi già, sinh sống nuôi miệng với sức lực mồ hôi của
bác, đúng theo chính sách của đảng và nhà nước cách mạng ngày ngày rầm rộ rêu
rao qua mấy ống loa treo ở khắp khu
phố. Mấy cái loa này thỉnh thoảng cứ vang lên chát chúa, bưng tai điếc óc:
"có làm mới có ăn", "sản xuất vì đảng và vì nhân dân",
"lao động là vinh quang"... Dù rằng bác chỉ nuôi có mỗi bản thân gầy
gò xơ xác của bác. Vì theo nhiều người biết chuyện kể cho nghe thì bác vốn sống
độc thân từ nhỏ tới nay, do cuộc đời lang bạt kỳ hồ, rày đây mai đó của bác.
Nhà nước cách mạng đã nhiều lần ra lệnh
cấm người dân trong khắp các quận huyện nội ngoại thành hành nghề dưới hình thức
"cá thể" của chế độ "Mỹ Ngụy" cũ. Tất cả đều phải gia nhập
vào các tổ hợp hay hợp tác xã theo đúng phương chăm phương hướng làm ăn "tập
thể, sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa", có tổ chức hẳn hoi, có ban điều hành
mọi việc, nhứt là có sự lãnh đạo sáng suốt và duy nhứt của đảng.
Tuy vậy, bác nghe chỉ để bụng. Bác vẫn
dằn co, tiếp tục tránh né, do thừa hưởng tinh thần tự do phóng túng, không chấp
nhận dễ dàng những ràng buộc rúng ép không hợp tình hợp lý bất kỳ từ đâu đến.
Cái thói cố hữu của dân tình Miền Nam mà! Bác lau lách dùn thẳng, viện dẫn hoàn
cảnh nầy nọ, nêu đủ thứ lý do để tiếp tục sinh sống với cái nghề cắt ca cắt củm
gọt đầu thiên hạ.
Nhưng lý do nào của bác dù có chánh
đáng đến đâu cũng không được ban lãnh đạo phường khóm chấp nhận cả. Họ có lý của
họ, cái lý của kẻ chiến thắng hống hách coi trời bằng vung. Họ có trọng tâm trọng
điểm của họ, cái trọng tâm dựa trên hận thù nhỏ nhoi và cái trọng điểm nhằm quơ
quào cướp của càng nhiều càng tốt.
Họ núp dưới những danh từ đường mật mỹ miều rổng tuếch
về chánh sách và chủ trương, đường lối. Mà đã là chủ trương, chánh sách, đường
lối thì phải nhứt trí triển khai để thi hành thẳng thừng.
Rồi sau cùng đến lượt tên công an
khu vực, một tên dao tu mã tấu lạ hoắc lạ huơ gốc gác tận Hoàng Liên Sơn hay Hà
Tây, Bắc Kạn gì đó, mỗi lần mở miệng ra tay là hăm dọa, đuổi xô càn quét. Hắn
ta không ngớt bô bô:
- Ơ ơ, thế này "nà" thế
nào đây? "Nàm" sao vậy? "Nại" vẫn ở đây tiếp tục
"nàm" ăn theo "nối" sống cũ của Mỹ Ngụy?
- Chống "nại" chủ trương của
Đảng và nhà nước cách mạng à?...
Liệu thế không kham, bác dẹp cái tiệm
hớt tóc dạo nhỏ hếu, lâu nay là niềm vui duy nhứt của bác. Bác giã từ gốc cây
bàng râm ran bóng mát. Bác giã từ tiếng chim chóc cứ hò hẹn thay phiên tiếp nối
líu lo ca hát suốt ngày. Dù sao, từ ngày cuộc sống bỗng nhiên trở nên quá khắc
nghiệt khó khăn ở thành phố Sài Gòn, nó cũng giúp bác kiếm chút cháo nuôi thân
cầm hơi.
Bác bèn đổi phương hướng làm ăn. Bác
ôm đồ nghề đi lang thang các khu phố và ngõ hẻm để hớt tóc dạo. Nhưng tai mắt của
ban an ninh phường khóm cùng khắp. Chúng theo dõi, phát hiện chẳng khó khăn gì.
Vả lại, ở thời buổi hổn độn xô bồ
đó, cuộc sống bị xáo trộn từ trong gốc rễ. Vào nhà người hớt tóc không phải là
việc dễ dàng và thuận tiện đâu. Người người e dè nghi kỵ người người. Không ai
dám tin cậy ai cả.
Lý do rất dễ hiểu. Nơi cái xã hội "ưu việt đầy chất
tình người", sự đấu tố, báo cáo, kiểm tra, kiểm điểm được khuyến khích tối
đa, xem như một nghĩa vụ hàng đầu của "con người mới" giác ngộ tinh
thần đấu tranh giai cấp.
Người
ta tránh sự dòm ngó soi bói của người lạ, nhứt là đối với những gia đình có
nuôi ý đồ và một chút hy vọng mong manh nào đó để vượt thoát khỏi thiên đường cộng
sản. Của cải của họ vơi dần. Bàn ghế, tủ giường bán sạch sành sanh. Nhà cửa trống
trước trống sau lưu ý kẻ tò mò manh tâm tố cáo, lập công lấy điểm. Do hoàn cảnh
bất thuận lợi như vậy, ngày ngày lội bộ rã chân rã cẳng, bác không hớt được mấy
cái đầu. Viễn ảnh chết đói và bị đuổi đi kinh tế mới lờn vờn trước mặt bác.
Tôi gặp
bác Hai Nhím trong một đêm họp khoáng đại liên tổ nơi một cảnh chùa xơ xác đìu
hiu trong khóm để nghe ban kinh tế mới phường lên danh sách, công bố những đối
tượng ưu tiên phải đi sản xuất ở các khu kinh tế mới. Các khu này mang những
cái tên rừng rú hoang dã nhưng bỗng nhiên rất quen tai lúc ấy, đã được khoanh
vòng dành cho phường tôi.
Da số
đều nằm thụt lõm sâu hút trong rừng khô cằn sỏi đá thuộc tỉnh Bình Long, một
Bình Long anh dũng ngày nào với
trận tử chiến thắng lợi vang danh một thuở dưới sự chỉ huy can cường và kiên
quyết của cố Thiếu tướng anh hùng tuẩn quốc Lê Văn Hưng. Cả hai chúng tôi đều nằm
gọn trong danh sách dài sọc bị gọi tên đêm hôm ấy.
Không
khí buổi họp thật lâm ly áo não và ngôi chùa cổ được cán bộ xử dụng làm nơi họp,
đèn đuốc lờ mờ với những hàng liễn đối chữ Hán đen thẵm và tượng Phật lớn nhỏ
nhạt nhòa ngổn ngang càng làm cho quang cảnh thêm u trầm buồn thãm.
Cái thời lễ lộc Phật sự tưng bừng và uy nghiêm thuở
nào đã thuộc về dĩ vãng xa xôi hẳn rồi. Các vị sư sãi, các chú tiểu đã bị kết tội
là những kẻ ăn không ngồi rồi, những kẻ từng bốc lột ăn bám xã hội, nay phải đi
sản xuất tạo ra của cải, lúa thóc, rau khoai... mà nuôi lấy tấm thân như mọi
người. Còn chùa chiền do nhà nước trực tiếp quản lý.
Như
đã nói, trong các buổi học tập chính trị đêm đêm ở tổ dân phố, bài học đầu tiên
về chánh sách của đảng và nhà nước là đề cao câu kinh nhật tụng "có làm mới
có ăn". Và ăn ở đây là ăn theo hộ khẩu, theo tiêu chuẩn phân phối nhu yếu
phẩm định kỳ hằng tháng, đúng với chủ trương lấy cái miệng (hộ khẩu) khống chế
cuộc sống. Nhiều bạn bè tôi mỉa mai là Phật, Chúa dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
đã ngủ hoặc chết mất hết rồi!
Bác
Hai Nhím rất mừng khi nghe tôi đề nghị bác cùng vào tổ hợp hớt tóc với mấy anh
em chúng tôi. Dù sao, bác cũng đã có tay nghề. Bác có khả năng giúp tổ hợp đứng
vững tới đâu hay tới đó. Bác đồng ý ngay, không chút do dự ngần ngại.
Và tổ
hợp hớt tóc của chúng tôi tới giờ phút này mới chánh thức thành hình. Chúng tôi
trình xin giấy phép hành nghề. Một thời tổ hợp hoạt động không đến đổi nhộn nhịp
nhưng những khách lối xóm thân quen thương tình nhứt loạt đều đến giúp chúng
tôi qua tháng qua ngày. Từ đó, chúng tôi an tâm tạm thời không bị làm khó dễ nữa.
Lần hồi, quốc sách của đảng
và nhà nước đưa mọi tầng lớp nhân dân thành phố thẳng hướng vào ngõ cụt của
nghèo khổ đói rách do những biện pháp hận thù siết hầu siết họng người dân, gở
tay cướp của và mở rộng cửa nhà tù. Trong mỗi gia đình, người người từ lớn chí
nhỏ đều băn khoăn đổ xô ra đường, nhanh chân nhanh cẳng lo chạy gạo tối mày tối
mặt. Đâu ai còn tinh thần hay niềm vui để săn sóc sắc đẹp, hớt tóc đều đặn định
kỳ nhằm trang điểm làm đẹp cuộc đời?
Đó là phần người lớn. Họ phải bươn
chải lo gánh nặng gia đình đã đành. Còn nói gì mấy đứa nhỏ nhóc con, tóc tai
chúng cứ để mọc tự do bùm xùm, dài thậm thượt. Tiền để mua thức ăn không có, có
đâu dư thừa đi hớt tóc!
Có dạo, một ngày chín mười tiếng đồng
hồ chờ đợi khách, bốn năm anh em tổ viên chúng tôi ngồi nhìn nhau trong thầm lặng.
Tất cả không nói gì với nhau nhưng trong lòng mỗi người đều thắc thỏm lo đói.
Chúng tôi giải khuây quên hiện tại, quên đời bằng cách bày biện đánh cờ tướng,
cờ chó. Cả ngày chỉ hớt được đôi ba móng là cùng.
Thối chí chán nản, nhưng dù thế nào
chúng tôi vẫn phải bằng lòng với tình trạng ế ẩm đó. Chúng tôi nhứt thiết phải
duy trì bằng mọi cách cái tổ hợp hớt tóc bất đắc dĩ ấy, không cho nó chết tức tửi.
Vì dù sao, nó chẳng phải là bức bình phong che chắn gió mái phong ba? Vì dù
sao, nó cũng giúp chúng tôi hợp thức hóa tình trạng hộ khẩu qua ngành nghề của
mình, đã được nhìn nhận như một cơ sở sản xuất tập thể danh chánh ngôn thuận.
Nhưng rồi một bất ngờ đến với chúng
tôi. Cái bất ngờ của người đi giữa sa mạc nóng cháy thiêu đốt vừa được thấm giọng
một vài giọt nước mát không hề dám trông chờ. Chúng tôi tưởng chừng đang trên
đà sắp chết đói đến nơi, không dè bỗng dưng lại có một số khách mới.
Đó là những tên cán bộ phường ủy và ủy
ban nhân dân phường, lúc này đã rời đôi giép râu, vứt bỏ đâu đó cái nón tai bèo
cùng với cái khăn rằn lên nước đen thâm để thay thế vào đó bộ mã hào nhoáng xa
xí của Mỹ Ngụy để lại.
Chúng láng nhuốt. Chúng dư của dư tiền do quơ quào
rúng ép đó đây trong lãnh địa bất khả xâm phạm của chúng nên ăn tiêu chưng diện
theo thời. Đầu tóc chải chuốt mướt mượt, râu ria cắt tỉa phẳng phiu.
Ngay cả cái tên công an khu vực quê
mùa cục mịch ở Hoàng Liên Sơn, Hà Nam Ninh hay Sơn Tây, Bắc Giang, Bắc Kạn gì
đó... hồi mới vào Nam với bộ đồng phục màu vàng xúng xính xùng xình, xanh xao
vàng vọt như tàu lá chuối non, ốm yếu trơ bẹ xường như cá lẹp tăm nhang, mặt
mày hống hác nhăn nheo như những người già háp. Bây giờ, chỉ không được bao
nhiêu ngày hồ hởi phấn khởi "ba mươi năm mới có ngày này", đã thấy hắn
ta phì ra tròn vo, căng da trắng mởn.
Hắn ta cũng đến với chúng tôi đôi ba
tuần một lần và mỗi lần miệng mồm tía lia, không ngớt bô bô ca tụng "Miền
Bắc thiên đường xã hội chủ nghĩa", thành quả của sự "chỉ đạo sáng suốt
của Bác Hồ vĩ đại kính yêu" làm cho anh em tổ viên chúng tôi lắm lúc phải
cố gắng ém nhẹm nụ cười khinh bỉ của mình. Vì chúng tôi đã biết quá rõ về cái
thiên đường ca tụng không hết lời ấy.
Nhưng khách sộp nhứt của chúng tôi vẫn
là những tay cán bộ cải tạo Hà Nội được gấp rút đưa hằng loạt vào Nam từ thời của
tên đồ tể dốt đặc cán mai Đỗ Mười nhằm đánh gục nhân dân "vùng mới được giải
phóng" để mạnh dạng dùng bạo quyền bạo lực khống chế đưa họ vào khuôn khổ
mẫu mực của Miền Bắc triền miên xơ xác đói nghèo. Những tên này chôm chĩa no nức
trứng, cấu kết thành một hệ thống chuyển vận ngày tiếp nối ngày đủ thứ vật dụng
tiêu dùng và thiết bị máy móc đem về "hậu phương vững mạnh" miền Bắc.
Thực tế, những của nổi này nhằm nhò
gì đối với chúng. Của chìm mới đáng kể hơn. Tên nào đút lót thành công bè phái
cấp trên được "biên chế" vào Nam kể như là một đại phú mới trên đất
nước vô sản "Việt Nam xã hội chủ nghĩa anh hùng", nơi mà đại đa số
người dân ba miền đều trắng tay, suốt đời bị kềm kẹp còng lưng làm thân trâu ngựa.
Thừa tiền dư của, chúng phải chi
tiêu ăn xài chút đỉnh để thụ hưởng những lạc thú rơi rớt còn sót lại, những thú
phong lưu tư bản đồi trụy mà suốt một đời xả thân nhắm mắt theo "tiếng gọi
thiêng liêng" của đảng trong thiếu thốn khổ cực, chúng thèm khát và âm thầm
mơ ước. Nay trong lúc nhập nhầy, chúng thừa cơ hội này để lén lút thực hiện ước
mơ của mình với tiền của có được không một giọt mồ hôi, xem như tự thinh không
rớt xuống.
Chúng khỏi phải sợ đồng bọn theo
dõi, an tâm với những vụ kiểm tra xử lý cụi ở Miền Bắc. Vì hình như lúc cặn cáo
lẫn lộn này, tên nào cũng giống nhau như khuôn đúc, mạnh ai nấy tìm tòi sáng kiến
làm giàu và hưởng thụ.
Buổi trưa, các bạn tôi trong tổ hợp
đều bách bộ ra về dùng cơm trưa ở nhà cho đỡ tốn kém, tiết kiệm được phần nào
hay phần nấy. Riêng bác Hai Nhím và tôi ở lại ngay tổ hợp nghỉ trưa, ăn qua loa
củ mì củ lang đỡ lòng.
Tôi lại có thói quen, từ ngày
"cách mạng thành công", ít khi chịu đi bộ ngoài đường phố trừ những
khi tối cần thiết. Lý do dễ hiểu là tôi không thích nhìn ngắm những cảnh trái
tai gai mắt đổi đời nhan nhản đó đây lúc bắt buộc phải chạm mặt.
Tôi thích được yên tịnh. Tôi thích sự cô đơn. Lắm lúc
sự yên tịnh đến mức độ lạnh lùng này làm cho tôi sợ những chỗ đông người. Và
tôi sợ cả những tiếng động chung quanh mình nữa.
Có một bữa trưa, bác Hai Nhím kể cho
tôi nghe một mẫu chuyện thâm trầm ý nghĩa làm cho tôi nhớ mãi, không thể nào
quên được con người từng trải và sâu sắc của bác, một con người có tấm lòng và
nhân cách đáng kính.
Giọng trầm trầm bác kể:
- Chú còn nhớ thằng cán bộ cao lều
nghều có hàm răng hô như bàn nạo dừa khô ở vùng Mỹ Tho Bến Tre của mình không?
Vì mỗi lần có khách, tôi phải tập
trung tối đa với ám ảnh thường xuyên tay nghề mình non kém quá, chểnh mãn lỡ hớt
hư khách buồn mà mình cũng chẳng vui gì. Đôi khi còn thêm phiền hà lắm chuyện
nên tôi trả lời ngắn gọn đúng với sự thật:
- Không bác à!
Bác tiếp lời:
- Thằng cán bộ lều nghều này đặc biệt
quá mà cháu không để ý à? Hớt với bác nhiều lần đâm ra quen quen rồi nó bắt đầu
chuyện trò dông dài khoe với bác đã được Đảng điều vào Nam công tác khẩn trương
trong ban Cải tạo Công thương nghiệp ở thành phố Sài Gòn mình. Mỗi lần nó đến hớt
tóc, bác để ý thấy nó thay đổi hẳn, trông ngày càng thêm sạch sẽ hơn nhiều. Hồi
trước nó nghiêm nghị, mặt vênh vênh hống hách, hiu hiu tự đắc như ếch ngồi đáy
giếng trông trời bằng vung. Mỗi lần đó, bác nhìn vào khung kiếng phía trước,
trông thấy bản mặt khắc khổ hắc ám, hãm tài hãm của của nó mà phát ghét. Bác
nhòm tỏm nó, trong lòng nhói lên một niềm đau ứa gan ứa mật. Nó là bọn mang họa
đến cho cá nhân bác và cho bà con Miền Nam mình.
Ngừng một đổi, bác hớp một hơi trọn
ly nước "phong tên" trong vắt rồi lấy giọng qua nụ cười cay đắng:
- Được một cái là nó trả tiền hớt
tóc sòng phẳng để bác cháu mình sống lây lất cầm hơi. Nếu không, xin lỗi cháu,
cục c... bác còn ngó xem nó lớn nhỏ, dài ngắn và màu sắc ra sao chớ với bản mặt
hãm tài ấy của nó, bác thề có hai vai chứng giám, chẳng thèm nhìn đến bao giờ.
Rồi bác hạ giọng:
- Ngặt một nỗi, mỗi lần hớt tóc, bác
cơ hồ như bị bắt buộc phải nhìn mặt nó mãi qua tấm kiếng treo nơi vách tường
trước mặt mình. Bác không tài nào tránh được. Không biết bao nhiêu lần như vậy
rồi! Và cứ mỗi lần hớt tóc cho nó, thật khổ tâm cho bác biết dường nào.
Bỗng dưng, bác tỏ ra bí hiểm, khác hẳn
với sự hóm hỉnh dễ thương thường gặp ở bác:
- Hớt hoài, nó đâm ra làm quen với
bác. Nó chào hỏi và gọi bác là Bác Hai ngọt xớt như đường phèn hay mía lùi
không bằng. Rồi mấy lần sau, nó bắt đầu mở miệng dò la, hỏi thăm huyên thuyên lắm
chuyện ở Miền Nam mình ngày trước. Dường như nó muốn thăm dò tìm hiểu chi đó
nhưng còn ngại ngùng chưa muốn nói ra huỵch tẹt. Nó muốn biết mình thực sự sinh
sống và làm ăn ra sao thời Mỹ Ngụy. Vì bác áng chừng nó cũng đã bắt đầu có những
suy nghĩ và nhận xét khác hẳn với nội dung những bản báo cáo dài thậm thượt nó
từng đọc không biết bao nhiêu lần, nhừ như cháo trước khi vào Nam công tác.
Nhưng cháu biết bác quá mà! Trước sau gì cũng vẫn vậy. Nó lầm chết đi thôi. Đừng
hồng. Cạy miệng cạy mồm bác, bác cũng chẳng bao giờ hở môi, chẳng bao giờ nói một
chữ một lời. Mình đã mắc mưu chúng nó bao nhiêu lần mới ra cớ sự như bây giờ.
Rồi bác như muốn trấn an tôi:
- Bác
có nói chăng là lập lại tràn giang đại hải những bài học ở phường khóm, ở tổ
dân phố, chung quanh "chủ trương chánh sách ưu việt của đảng và nhà nước"
thôi. Nó không sao thấu hiểu được nỗi lòng trắc ẩn của bác. Mà thật vậy cháu à!
Ông già bà cả mình chẳng thường hay nói: "Dò sông dò biển dễ dò, mấy ai lấy
thước mà đo lòng người" bao giờ đâu. Và cũng như bác đây, trong bối cảnh
nhập nha nhập nhầy bây giờ, làm sao bác biết được lòng nó. Cho nên bác để ý thấy
nó có vẻ không bằng lòng, còn bực mình là khác. Chắc nó cũng đã hiểu và thừa biết
rằng bác nói chuyện với nó y như con két trong lồng cây lồng sắt, không thua gì
nó đã từng gắn bó với đảng, đã từng nằm trong lòng chế độ. Nó muốn quanh co tìm
hiểu và muốn biết những chuyện khác cơ.
Bác lại
cười tủm tỉm, ngồi ngay lưng trên ghế hớt tóc, thư thái duổi thẳng cẳng ra phía
trước. Lâu lâu, bác xích cái ghế của
bác đến sát bên cái ghế của tôi đang ngồi, chừng như bác muốn chỉ để cho mỗi
mình tôi được độc quyền nghe câu chuyện
của bác kể mà thôi:
- Có
hôm nó khe khẽ hỏi bác, miệng nở nụ cười kín đáo bí hiểm. Nó hỏi bác biết có cô
em gái nào ở quanh đây "chịu chơi" không? Vì nó muốn... Nói tới đây,
nó ngập ngừng bỏ lững. Chắc nó đoán bác đã đứng tuổi và từng trải, đã làm cái
nghề hớt tóc này khá lâu lắm. Và nó cũng nghĩ thêm rằng đa số các tiệm hớt tóc
đều là nơi lắm chuyện nhiều điều do hằng ngày tiếp xúc với đủ mọi người mọi giới
trong xóm. Việc gì xảy ra lại không qua lổ tai rất thính của các anh thợ hớt
tóc? Hồi xưa, vào thời kỳ Việt Nam Cộng Hòa quyết liệt chống cộng sản miền Bắc
xăm lăng, biết bao cán bộ cộng sản nằm vùng ở giữa trung tâm thành phố Sài Gòn
mình được bố trí núp dưới lốt thợ hớt tóc để lấy tin tức địch tình. Thằng này tỏ
ra rất rành rọt do kinh nghiệm mấy mươi năm nằm trong hàng ngũ đảng.
Bác
khịt mũi cười khinh:
-
Nhưng nó lầm và lầm to về cái nghề bất đắc dĩ này của bác. Trong một thoáng suy
nghĩ ngắn ngủi, bác chợt nhớ ngay đến chủ trương "hoa nở về đêm" của
cộng sản nhằm phá hoại gia can, làm tan nát đổ vỡ gia đình của những sĩ quan và
công chức cao cấp Miền Nam đang bị chúng lường gạt tập trung học tập cải tạo
nơi vùng rừng núi hoang vu xa xôi, trùng trùng điệp điệp ở miền Bắc, không biết
ngày về. Bác bèn vả lả với nó như
rất quan tâm đến những lời nó hỏi. Dù vậy, bác giả đò hỏi lại nó cốt ý để nó
không nghi kỵ gì bác cả.
Bác
Hai Nhím bụm miệng cười kín đáo che mấy cái răng sún phía trước. Cái cử chỉ này
rất quen thuộc đối với bác. Vì bác thường thố lộ nhiều lần với tôi là bác thuộc
vào hàng đệ tử ruột của thuyết tự nhiên, trời sanh thế nào cứ vui vẻ thảnh thơi
mà xài, đến lúc răng rụng thì cứ để vậy, không cần phải tốn kém trồng răng vàng
giả.
Bác kể
tiếp:
-
Theo tôi hiểu, cán bộ đây muốn tham quan... một vài nơi... làm ăn kín đáo về
đêm!...
Nó
như mở cờ trong bụng, mặt mày phừng lên hớn hở:
- Đấy!
Đấy! Thế đấy! Em út trong Nam này chắc đẹp và mướt lắm?
Tai
tôi vẫn nghe giọng nói trầm trầm đều đặn của bác:
- Bác
ra vẻ ngập ngừng ấp úm rồi lặng thinh một đỗi tỏ ra có một cái gì kỳ cục không ổn
trong lòng. Bác cố ý muốn cho nó tin mình chớ thật ra bác rất chặt lòng chặt dạ
lắm cháu ơi. Thật khó cho nó lay chuyển được, dù nó có tài ba mưu thần chước quỷ
đến đâu.
Bác
đưa tay vuốt mấy sợi tóc bạc lẻ loi lạc đường rẽ đang phơ phất liên hồi trước mặt
rồi dụi mắt, rờ rờ cái càm xương xương nhọn lểu hướng thẳng về phía trước:
- Liếc
nhanh vào kiếng, bác thấy nó nhìn mình tròng trọc, nôn nóng chờ đón những câu
trả lời mở đường mở lối của bác. Bác biết vậy nhưng không vội phát biểu. Bác tiếp
tục lấy con dao cạo bén ngót, liếc qua liếc lại ở lồng bàn tay nhiều lần rồi bảo
nó ngã ngữa lên ghế, mắt nhìn lên trần nhà để bác cạo râu cạo mặt nó. Sự thật
lúc này, bác đang hình dung bao nhiêu gương mặt đáng thương của những nạn nhân
bất hạnh vì hoàn cảnh kinh tế nghiệt ngã khó khăn, đành chấp nhận nhắm mắt xuôi
tay làm liều, không kể hậu quả về sau ra sao. Lúc ấy, bác không muốn nhìn vào bản
mặt sàm sỡ ghê tởm của nó. Nhưng bác sực nhớ đến câu hỏi của nó lúc nảy và chắc
giờ phút đó, nó đang chờ sự trả lời của bác. Bác càng làm ra vẻ ngạc nhiên nói
chỏi lại cho thỏa thích một chút riêng tư thầm kín:
- Ý
chết! Tôi đâu dám cán bộ!
- Tại
sao lạ vậy? Ai làm gì mà bác không dám? Đất nước đã thống nhứt rồi. Miền Nam vẫn
là một phần ruột thịt của cả nước. Mọi người đều tự do, bình quyền, bình đẳng.
Người dân giờ đây phải tham gia mạnh dạng đứng lên làm chủ đất nước và làm chủ
định mệnh của mình! Không còn cái cảnh bốc lột hà hiếp như dưới thời thằng Thiệu
thằng Kỳ đâu mà bác lo sợ.
- Biết
vậy rồi cán bộ. Nhưng thực tình tôi chẳng dám đâu. Mới tối tuần qua, học tập ở
phường khóm, "đồng chí" Tám Rồi bí thư phường ủy có long trọng triển
khai một số tiêu chuẩn về "đạo đức cách mạng" kia mà. Học tập vừa dứt bài
chót đêm qua, tôi còn nhớ rõ mồn một nên tôi không dám nhúng tay giúp cán bộ được.
Không khéo câu chuyện này đổ bể tùm lum, tôi sẽ bị đưa đi học tập cải tạo, gia
đình tan nát hết.
Tên
cán bộ vội cướp lời bác ngay:
- Bác
dễ tin quá! Sao bác hời hợt nhẹ dạ đến thế?! Bác chỉ nghe rồi tin bằng lời hay
sao? "Đạo đức cách mạng" là gì? Các cán bộ giải phóng ở Miền Nam trước
đây chỉ lo đánh giặc chớ thực ra họ chẳng biết gì cả. Họ lý tưởng lắm. Thật tội
nghiệp. Họ triển khai bài bản học tập từ cấp trên đưa xuống chứ trong thực tế
chẳng phải như vậy đâu.
Tên
cán bộ cười ưng ý:
- Tôi
thương bác nên nói thực cho bác nghe. Mà bác nghe để biết rồi giữ kín nhé. Hở
ra là chết đấy! Làm gì có cái "đạo đức cách mạng" mà họ bô bô lên lớp
bác đó. Bác yên chí đi. Bác cứ an tâm đừng ngần ngại chi cả. Tôi sẽ giúp bác và
đền ơn bác nếu bác hứa giúp tôi. Mà tôi sẽ đền ơn xứng đáng so với số tiền công
bác hớt tóc cả ngày cả tuần nữa cơ. Bác suy nghĩ lại đi.
- Cán
bộ nói như vậy nhưng tôi vẫn lo, vẫn sợ. Phường ủy còn nhấn mạnh đề cao nhiều lần
trong suốt khóa học về "đạo đức cách mạng của Bác Hồ vĩ đại" và có kể
nhiều câu chuyện về Bác Hồ làm gương để chúng tôi noi theo. Như Bác Hồ suốt một
đời mấy mươi năm bôn ba cứu nước vẫn sống độc thân, không hề bị vướng bận gia
đình con cái chi phối, níu kéo phiền phức. Bác để tâm trọn vẹn vào công cuộc đấu
tranh dân tộc, giải phóng đất nước, thống nhứt Nam Bắc một nhà.
Tên
cán bộ vụt nhổm đít tới, "ồ" lên một tiếng rồi tiếp tục cười:
- Bác tin như thế à? Thì ra
ở Miền Nam này non dại thơ ngây quá đổi!
Tiếp theo, anh ta nói rất nhỏ nhẹ
nhưng khá rõ ràng như để lấy lòng tin của bác sau khi để mắt nhìn quanh quẩn
trước sau:
- Bác biết không? Con người ta ở đời
mà không lập gia đình là một chuyện không được tự nhiên. Bác Hồ của chúng ta
cũng là con người thường tình, cũng thịt cũng xương, cũng ham muốn, cũng sân si
nhỏ nhoi như chúng ta vậy. Bác đâu phải là thần thánh gì. Bác cũng phải có nhu
cầu này nọ nhưng đảng ta không công bố ra đó thôi. Lý do Bác là một thần tượng,
một chỗ tựa để đảng bám vào đó tạo sự thống nhứt nội bộ. Thật ra, những nữ cán
bộ hậu cần được tuyển đến phục dịch Bác phần lớn đều mang quân hàm thiếu tá,
thượng tá hay mang danh hiệu nữ anh hùng nầy nọ... đều là vợ của Bác hết, vợ
tháng vợ năm, vợ từng giai đoạn đó...
Bác Hai Nhím giả vờ trợn mắt ra vẻ
ngạc nhiên không tin lời hắn:
- Ý chết! Cán bộ nói thật đấy chớ? Lần
đầu tiên tôi mới nghe những chuyện bên trong phòng the của Bác. Nhưng đây là lời
của cán bộ chứ không phải của tôi nhé. Nhở sao này lọt qua tai người khác
là chết cả đám đấy! Chết không
kịp từ giã vợ con và gia đình đó cán bộ.
- Thôi bác ơi, bác bỏ cái "đạo
đức cách mạng" bác vừa học đó đi. Bác mà tin và ôm ấp nó trong lòng, sau
này bác sẽ ân hận và sẽ tiếc mình đã phun phí một phần hạnh phúc quý báu còn lại
của đời bác. Thôi bỏ đi bác. Bác tin nơi tôi đi. Bác hứa giới thiệu cho tôi
nhé...
Tên cán bộ nghiêm nghị. Bác những tưởng
anh ta phật ý sẽ có chuyện lôi thôi. Nhưng không. Anh ta nhìn bác qua tấm kiếng
trước mặt:
- Tôi nói thêm để bác không còn thắc
mắc nữa. Ngay như Tổng bí thư của mình, đồng chí Lê Duẫn cũng có bà này bà nọ
như ai. Trong gia đình của "anh Ba" cũng xào xáo, tiếng nặng tiếng nhẹ
không thua gì những gia đình cán bộ cấp thấp hay của quần chúng nhân dân. Đảng
ta vì danh dự và sự sống còn nên cố gắng giàn xếp êm thắm nhiều trận đánh ghen
rùm trời rùm đất làm ầm cả phố. Đảng âm thầm nghiên cứu chia xẻ sòng phẳng quyền
lợi của các bà. Mà chẳng riêng gì đồng chí Tổng Bí thư của mình mà đa số các
cán bộ cao cấp trong Bộ Chính trị hay Trung ương Đảng hoặc trong chánh phủ đều
như vậy cả bác à. Mình khéo thì ổn, "trong ấm ngoài êm". Chớ thực tình,
tài gì bác!
Anh ta đằn hắn:
- Bác giới thiệu, ngoài tôi và bác
ra đâu có ai vào đây mà biết để tố cáo làm rùm lên để bác sợ. Mà dù có chăng nữa,
tôi có đủ quyền hành và đủ tư cách để dập
tắt ngay trong trứng nước. Bác an tâm. Chẳng lẽ tôi cho bác biết chức vụ hiện
nay của tôi trong Ban Cải tạo Công thương nghiệp Thành phố! Bác tin ở tôi chưa?
Đây này, bác xem coi giấy gì đây?
Tôi liếc đọc:
- Thẻ đảng viên kết nạp từ năm 1946.
Bác Hai Nhím chấm phết câu chuyện với
lời nhận định chắc cú không sao tôi quên được:
- Tôi làm sao tin được ở giọng lưỡi
trở tráo, sớm đầu tối đánh của chúng. Con cá một lần sẫy lưỡi câu thấy cái gì
đáng nghi ngờ cũng tránh xa. Con người phỏng nước sôi sợ nước lạnh là vậy. Mình
đã mắc lừa Cộng sản nhiều lần thì làm sao tin chúng nó được nữa? Nhưng thú thật
với cháu, suy cho cùng, lần này bác tin ở thằng cán bộ Cải tạo Công thương nghiệp
đó. Không phải nói thực tình gì đối với bác mà chính vì nó muốn được việc riêng
của nó nên vạch áo phơi lưng cho mình xem thẹo chơi khơi khơi thôi, khỏi phải
trả tiền.
Rồi bác ngậm ngùi kết luận:
- Rõ ràng thật nhờm tởm giọng lưỡi bọn
chúng. Nhưng lại cũng thấy thêm thương bà con Miền Nam mình nhẹ dạ quá đỗi!
Tôi với bác Hai Nhím làm ăn chung với
nhau trong tổ hợp cũng khá lâu. Trưa trưa, tổ hợp đóng cửa. Chúng tôi ngồi trên
ghế hớt tóc ngã lưng lim dim ít phút chờ giờ mở cửa lại. Nói lim dim thì cũng
có nhưng ít khi lắm. Thực ra, có trưa nào lim dim được với bác Hai Nhím đâu?
Bác có nhiều chuyện nói lắm. Bác thường
hay thuật chuyện này chuyện nọ, suy ngẫm những mẫu tình đời xưa và đời nay rất
thâm trầm ý nhị. Bác khơi động quá khứ xa xôi, khi nhắc tới vẫn ngăn ngắt tiếc
nuối trong lòng. Bác làm như bác không còn bao nhiêu ngày trước mặt cùng sống với
tôi nên có hôm, bác kể đến đôi ba chuyện chấp nối cùng một lúc nhưng chung qui
nội dung không ngoài ý hướng trong sáng thăng hoa tình nghĩa và đề cao phong
cách hành xử ở đời.
Vì có lẽ bác sợ không còn kịp thời
gian để kể hết với tôi những chuyện chất chứa trong lòng bác? Bác đã đứng tuổi
và giàu kinh nghiệm nên hầu hết sau mỗi câu chuyện bao giờ bác cũng dông dài
thêm thắc ý kiến và nhận xét của mình, những nhận xét phẩm bình mà bác thường nửa
đùa nửa thiệt cho là đúng theo các tiêu chuẩn mẫu mực đạo đức và tình nghĩa
bình dân chân quê mộc mạc.
Tôi vốn dĩ học hành cà ạch cà đụi đứt
khoản nhiều lần tức không đến nơi đến chốn do hoàn cảnh gia đình đã đành, lại sống
trong giai đoạn đất nước bị chiến tranh nồi da xáo thịt dai dẳng, huynh đệ
tương tàn triền miên. Cả mấy thập niên xuyên suốt.
Tôi học ở nhà trường qua các cấp tiểu
học, trung học và ở chốn văn chương chữ nghĩa nơi sách vỡ giáo khoa thì ít
nhưng làm ăn nhoi lên khấm khá sau này chẳng qua là nhờ học ở trường đời nhiều
hơn. Học ở những thành công toại nguyện trong hãnh diện sung sướng cũng như học
ở những lần thất bại chua chát, đôi
lúc tưởng chừng đã ngã quỵ không cất đầu lên được.
Sau ngày "cách mạng đại thành
công", tôi học rất nhiều điều nhiều việc ở thực tế lắm cay đắng phũ phàng,
làm kim chỉ nam xử sự ở cái thiên đàng nghi kỵ tranh giành, chen lấn ganh đua, ở
cái địa ngục trần gian xã hội chủ nghĩa, đen tối bần cùng. Phần lớn những điều
học hỏi của tôi đều nhờ ở kinh nghiệm của bác Hai Nhím cả.
Lần hồi, tôi mới khám phá ra con người
bác. Bác Hai Nhím không phải là thợ hớt tóc chuyên nghiệp như tôi hằng tưởng
trước đây khi tôi nhờ bác đứng mũi chịu sào cho tổ hợp hớt tóc Thanh Phú của
anh em chúng tôi.
Bác có tâm sự với tôi về gốc gác của
bác khiến tôi bàng hoàng ngỡ ngàng không ít. Nhiều khi len lén nhìn trộm bác,
tôi không sao dấu nổi sự nghèn nghẹn trong lòng. Bác rất khổ tâm. Nhiều lúc bác
rất trầm ngâm, nhớ ray rứt đến ứa nước mắt.
Bác nhớ ơi là nhớ.
Bác nhớ những năm tháng đăng đẳng, suốt cả cuộc đời mấy
mươi năm qua của bác, khiến tôi ái ngại không dám nhìn thẳng gương mặt đớn đau
nhăn nheo của bác, mỗi khi bác nhíu mày tập trung lục lạo tìm kiếm trong vũng lầy
trí nhớ mình.
Bác Hai Nhím là một nghệ sĩ trình diễn,
một nghệ nhân có tuổi nghề cao của ngành hát bội Miền Nam vừa chuyển sang nghề
hớt tóc dạo để sinh sống. Đây là chuyện chẳng đặng đừng đối với bác sau
ngày Miền Nam hoàn toàn bị Cộng sản
miền Bắc cưỡng bức. Nói khác đi, bác chỉ hành nghề hớt tóc mới đây thôi. Tôi
nghĩ chắc trước anh em chúng tôi chẳng được bao lâu ngày.
Bác có lần thố lộ với tôi, trước đây
bác là kép hát bội. Bác chuyên thủ diễn những vai kép võ, vai sở trường ưng ý
nhứt của bác. Trong giới gọi là cái vai một thời đã làm nên tên tuổi một người.
Bác theo các gánh xuôi ngược trên những chiếc ghe chài bềnh bồng rày đây mai
đó, phần lớn hát bán giàn ở đình thần, ở miễu bà, nơi nhà lồng chợ quê chợ làng
hay cả nơi chái hiên Nhà Việc nằm thụt hỏm sâu hút trong những vùng cùng cốc khỉ
ho cò gáy.
Gánh hát của bác thuộc những gánh
nghèo chí tử, quanh năm lang bạt sống cầm hơi ở những vùng xa xôi ngăn cách, ruộng
vườn mênh mông bát ngát, sông nước bạt ngàn. Chẳng bao giờ bác dám gồng mình lần
mò lộ diện kéo về những thị trấn, quận lỵ, dân cư tương đối đông đúc, đừng nói
chi đến tỉnh, đến thành.
Do bác biết người biết ta. Bác tự
xét mình không đủ khả năng và tiêu chuẩn tối thiểu để tranh thủ cảm tình của
khách mộ điệu sành sõi nơi phồn hoa thị tứ.
Họ vốn đòi hỏi kỹ thuật trình diễn
cao, tuồng tích hay, trang trí bối cảnh đẹp. Bác không thể phụ lòng họ để họ phải
ngày càng chán chường thất vọng rồi xa rời bộ môn hát bội mà có tội với ông Tổ
ngành nghề. Bác rất đắn đo thận trọng, suy tính cân nhắc mặc dù cái hồn nghệ sĩ
nơi bác vẫn đậm đà sáng trưng và một tấm lòng yêu mến đam mê nghệ thuật luôn
luôn mở rộng.
Tuy là kép võ, một trong số kép
chánh trong gánh, bác không sao so sánh với những diễn viên thượng thặng từng
thủ diễn vai trò này ở các đại ban nơi thủ đô như cô Năm Đồ, bầu Thắng, nghệ sĩ
Thành Tôn... tiếng tâm lừng lẫy vút cao một thời, đến nay vẫn chiếm trọn vẹn cảm
tình trong lòng người ngưỡng mộ. Tuy vậy, bác cũng đã cố gắng không ngừng nghỉ
để xốc nổi một tập thể đam mê hát bội nghèo nàn xơ xác nhưng hằng đêm sống vui
vẻ hạnh phúc dưới ánh sáng đèn "măn song" sáng hừng hực nóng bức.
Chẳng qua nhờ tính tình dễ cảm cởi mở
và lòng thương yêu khắng khít thật sự của bác, lúc nào và trong hoàn cảnh nào
cũng hòa cùng một nhịp tim với tất cả các thành viên lớn nhỏ trong đoàn. Mặc dầu
có những đêm mưa gió lũ lụt bất ngờ, gánh ế giàn tưởng chừng như mọi người phải
húp cháo trắng đỡ lòng nhưng bác cười hớn hở:
- Cháu tưởng như vậy mà lầm chết đi!
Bà con mình nơi thôn quê tốt bụng và hiếu khách lắm. Họ háo ăn và có tình có
nghĩa, thương yêu giúp đỡ kẻ bất hạnh. Thiếu gì người giàu có trong làng, ngay
cả các viên chức Hội Tề cũng ra tay nghĩa hiệp. Kẻ chở gạo lại cho cả một hai
bao chỉ xanh. Người mang biếu rau quả. Có những trường hợp làm bác động lòng
không cầm được nước mắt khi thấy những người đàn bà chơn quê khó nghèo thập thò ngoài cửa rạp,
mang tặng ăn lấy thảo, một con cá cấm câu tươi rói hay một con lốc nhảy hầm mập
ú... mà họ nhịn miệng để làm quà biếu xén những người nghệ sĩ nghèo họ mến mộ
trong lúc khó khăn.
Tôi nhìn thấy đôi mắt bác vẫn cứ
long lanh đỏ hoe. Rồi bác buồn buồn kể tiếp:
- Dù ế giàn như vậy mà vui biết mấy!
Mọi người đều nương tựa đùm bọc, quấn quít bên nhau, hứa hẹn sẽ cố gắng những
đêm sau thi thố hết tài nghệ mình, biểu diễn xuất thần phục vụ nghệ thuật và đồng
bào hẻo lánh, vốn không có những điều kiện giải
trí tinh thần. Đây cũng gọi là ơn đền nghĩa trả cho phải đạo giang hồ.
Rồi bác đâm chiêu:
- Nhớ lại những lúc ấy, bác vừa lo
ngoại giao khắp nơi, lo chạy nuôi ăn cả một đoàn mệt cầm canh. Tuy nhiên, bác bảo
ít khi có thất nghiệp lắm. Nhưng dù có thất nghiệp đi nữa, cả đoàn quây quần tập
tuồng mới, bảo trì đề co phong cảnh, vá vếu áo mão cân đai. Chớ nào có ăn không
ngồi rồi. Bác nào có rảnh tay bao giờ đâu.
Bác lâng lâng sung sướng:
- Nội cái việc lợi dụng những lúc
nghỉ ngơi bất đắc dĩ này, bác gọt một loạt hết mấy cái đầu của những ông hoàng,
công tử, những quân hầu tả hữu, nhân viên dựng đề co, kéo màn cùng mấy đứa lục
lăn lục lửa đêm đêm chạy hiệu không ăn lương làm rậm đám trên sàn gỗ... bấy
nhiêu cũng đủ ngất ngư. Nhờ vậy,
tay nghề của bác ngày càng khá. Thật tình, bác chẳng có ăn học gì đâu. Cứ nhắm
mắt làm càng, đè đầu sởn tóc riết rồi cũng quen tay, trở nên thành thạo lúc nào
không hay. "Cái khó nó ló cái khôn". Ông già bà cả mình nói thật
đúng. Mà cả đoàn mạt rệp từ đường này nếu kéo đến tiệm hớt tóc thì kể như rụm nụ,
sạt nghiệp luôn.
Bác buồn buồn đưa đôi mắt nhìn qua cửa
kiếng hướng về phía con đường nhựa huyết mạch chạy ngang trước hợp tác xã, đăm
đắm về xa xăm... Tôi lặng thinh để tôn trọng tâm sự của bác lúc ấy.
Giọng bác lại thổn thức nghẹn ngào:
- Bác nhớ đoàn, nhớ gánh quá đi. Bác
nhớ mấy em, mấy cháu vừa mới nhổ giò nhổ cẳng, nheo nhóc đói rách nhưng một mực
gắn bó với gánh ngày nào. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng nó càng nheo nhóc
khổ sở hơn gấp bội. Giờ này, chúng đã tản lạc trôi giạt tứ tán khắp bốn phương
trời. Biết tìm nơi đâu? Hết rồi! Nhiều lúc bác tự hỏi, bác còn có dịp may mắn
duy nhứt nào để gặp lại chúng nó sau này không?
Bác lại thở ra nặng nề:
- Buồn thật là buồn cháu ơi! Gánh
hát rã tức tưởi lắm vì mình không đủ tiêu chuẩn và tư cách để tiếp tục hành nghề,
một cái nghề bác đam mê đeo đuổi từ lúc mới ngấp nghé tuổi thanh xuân, trốn mẹ
trốn cha, bỏ nhà bỏ cửa, bỏ anh chị em cật ruột, bỏ quê hương xứ sở... không một
chút ngần ngại. Ngồi tưởng tượng và nhớ chúng nó bơ vơ như chim lạc đàn lúc
hoàng hôn bóng xế, bác mến tay mến cẳng chúng nó nên thấy rầu quá
Bác càng nghẹn ngào hơn trong căm tức:
- Nhà nước ra lệnh cấm trình diễn,
làm ăn theo lối cũ. Sau này, bác mới biết thêm một sự thật khó có thể tin được ở
Miền Nam tự do của mình là ở chế độ Xã hội Chủ nghĩa, làm văn hóa nghệ thuật,
dù là nghệ thuật trình diễn hát bội cổ truyền như trường hợp của bác cũng phải
đặt dưới sự lãnh đạo duy nhứt của đảng. Tất cả các diễn viên, soạn giả, thầy tuồng,
nhạc sĩ tân cổ nhạc, quản lý v.v... phải xuất thân từ các trường đào tạo của đảng,
của Liên Xô hay của các xứ cộng sản trong khối Đông Âu về mới được cấp thẻ hành
nghề. Người dân Sài Gòn mình dí dởm nói là phải có "ba tăng" hành nghề.
Họ hoạt động theo đường hướng chủ trương của đảng. Bao nhiêu tuồng tích của
gánh bác trước đây, có những tuồng xưa rất hay, bác đều buộc lòng vứt đi, đốt bỏ
cả. Giờ đây, nhắc tới, bác thấy tiếc hùi hụi. Sau này, nếu có cơ may lật lại cộng
sản, phục hoạt ngành nghề này không phải dễ.
Mắt bác đỏ hoe như rưng rưng:
- Cháu biết con người nghệ sĩ dù
nghèo và dù không tên tuổi nhưng họ vẫn một mực sống với cái hồn thanh cao hướng
thượng của nghề. Họ sống tự do thoải mái như cuộc đời phóng túng gạo chợ nước
sông của họ. Nói chí tình với cháu, bác có quyết định đau lòng là cho rã gánh sớm,
chớ nếu có đeo đuổi hoi hóp hành nghề dưới sự lãnh đạo của đảng, chắc chắn bác không
chấp nhận được. Không khéo lại còn mang họa thêm. Vì bản tánh của bác quá ngay
thẳng thật thà, không chịu chiều lòn nịnh bợ và qui phục một sự chèn ép, bức
bách nào cả. Và nhứt là khi bác phải trình diễn những vỡ tuồng có nội dung đi
ngược lại cảm quan và lương tâm của bác, của quảng đại khán giả có tình có
nghĩa, có thủy có chung.
Giọng bác nhỏ nhẹ cảm động:
- Nhớ hôm chia tay giã từ nhau để
sau đó mọi người về quê tìm phương kế sinh sống, bác khổ tâm quá chừng. Cái đám
bún thiêu trơ xương sườn xương ức, ốm o cà nhong teo nhách ấy làm gì mà sống được
đây? Chúng nó suốt một đời chỉ biết có mỗi một việc đem lời ca tiếng hát cống
hiến làm đẹp cuộc đời, làm vui thiên hạ mà thôi. Thật tội nghiệp quá! Riêng phần
bác, may mà bác biết hớt tóc nên lây lất bữa đói bữa no cũng không đến đổi nào.
Nhiều đêm, nằm gát tay lên trán nghĩ vẩn vơ, hình ảnh của chúng nó chờn vờn trước
mắt làm cho bác càng thêm xốn xang, không sao yên giấc được.
Bác lắt đầu chầm chậm nhiều lần như
ngao ngán chán chường:
- Cách đây mấy tháng, bác có nghe
tin cô Hai Trăm, đào thương trong gánh giờ đây ở quê nhà vùng Gò Đen Bến Lức đi
cấy thuê cấy mướn. Ông chồng cô, hồi gánh hát đang thời kỳ hưng thịnh chuyên
soát vé và kiểm soát an ninh, nay đi làm công làm mướn bữa đực bữa cái, ngày
ngày tất bật nhưng vẫn đói dài dài. Còn nói gì mấy đứa lâu la đêm đêm thập thò
lấp ló ở cánh gà để ấp ủ giấc mơ sau này làm vương làm tướng, làm phò mã võng lộng
nghênh ngang, kẻ hầu người hạ, không biết lưu lạc nơi nào và tương lai ra sao?
Hay chúng đã bị rúng ép đi nghĩa vụ ở Cam Bốt và đã bỏ thây nơi một xó nào đó
nơi xứ người? Dù vậy, bác vẫn cầu nguyện cho chúng nó may mắn tìm được một đường
dây vượt biên miễn phí, dù có nguy hiểm bao nhiêu nhưng còn hơn chết lần chết
mòn trong đói khát đớn đau.
Ngừng một lát bác tiếp:
- Ban ngày đi làm, ban đêm bác khó
ngủ lắm cháu Ba ơi. Thú thiệt với cháu, hễ chớp mắt lim dim thì hình như bên
tai bác văng vẳng tiếng trống chiến hùng hồn tùm tum tùm tum thúc hối, tiếng trống
cơm não nuột buồn thúi ruột thúi gan, rồi tiếng trống lịnh giục giả thúc bách,
rồi nào thanh la đờn kìm, đờn cò... đồng thanh dấy lên rộn rả lòng người. Bác lại
nhớ những điệu nói lối, nào lối xuân lối ai... nhưng sao bác lại cứ nhớ mãi điệu
lối chiến phấn khích làm như bác đang dậm chân, thúc ngựa, huơi đao chỉ thẳng về
phía trước để trừ gian diệt bạo, cứu nguy sơn hà xã tắc. Riết rồi bác rất quen
với cái tánh khó ngủ ấy của bác. Một mình cứ thao láo giữa đêm vắng. Nhưng đối
với bác, đó là thời điểm tốt nhứt để trầm tư ôn cố, nhớ bạn bè đồng hội đồng
thuyền, nhớ đồng nghiệp, nhớ khán giả nơi thôn quê ngủ gà ngủ gật trước lúc vảng
hát, nhớ ruộng đồng sông nước ngày xưa.
Bác trầm ngâm hoen tròng làm cho tôi
càng thêm xúc động:
- Bác nói cháu thương, nhiều đêm nước
mắt bác cứ chảy hoài. Bác nhớ những tiếng trống chầu, chầu phạt thì ít nhưng tiếng
trống chầu ra mắt khai khẩu và chầu thưởng thì nhiều vì mình đã thực sự nhập
vai nên mới được khen thưởng. Một kiếp đam mê mà cháu. Bỏ không được. Quên
không được. Nó bắt bác cứ phải nhớ. Ngày nhớ. Đêm vẫn nhớ. Thức nhớ đã đành. Ngủ
vẫn chập chờn. Bác nhớ ngay cả những lúc đang hớt tóc cho người ta nữa. Giờ bác
mới thấy và thấm thía mình đã thực sự mất tự do, mất lẽ sống, mất tất cả rồi.
Tôi thông cảm và thương Bác Hai Nhím
vô cùng. Mỗi trưa bác kể bao nhiều chuyện vui buồn éo le trắc trở về cuộc đời
lang bạt kỳ hồ, gạo chợ nước sông trước đây của bác khiến tôi càng bùi ngùi se
thắt về cái quá khứ của chính mình, dù trong những hoàn cảnh chẳng giống nhau
nhưng rốt ráo lại gặp nhau ở cái tổ hợp hớt tóc này.
Có hôm bác ốm bệnh, nằm co ro thúc
thủ ở nhà. Tôi thấy nhớ bác. Tôi thấy thiếu hẳn một chỗ dựa quen thuộc hằng
ngày. Tôi thấy trong lòng mình thiếu một chút gì đó bàng bạc khó nói thành lời
để sưởi ấm tâm hồn đang bị thương tích trầm trọng.
Nhưng rồi những lời phẫn nộ hờn căm của bác lại đến
bên tai tôi như có bác vẫn đang hiện diện trước mặt mình vậy:
- Cháu Ba có biết không? Cái nghề hớt
tóc của mình bây giờ chỉ phục vụ cho đám cán bộ đảng viên từng gieo rắc bao đau
thương tang tóc cho bà con phường phố mình. Tiếp chúng nó, bác đau lòng lắm.
Bác cố gắng gượng nuốt hờn căm mà hớt một cách máy móc, miễn cưỡng đó cháu.
Tôi nhận thấy khi nói tới đây, bác
rơi nước mắt, những giọt nước mắt đớn đau của bất lực bó tay trước một việc đã
rồi. Bác khóc thật. Bác khóc vì nuối tiếc và để vơi nỗi lòng.
Có một bữa trưa, bác tâm tình như
phơi gan phơi ruột với tôi:
- Cháu tưởng bác có vui sướng gì khi
bày đặt ra những động tác bẻ cổ bên này bên nọ nghe rơm rớp, rồi vặn ót vỗ trán
gây mê chúng nó? Trong lòng bác lúc ấy nổi lên một nỗi oán giận hờn căm vô tả.
Bác tưởng tượng như mình đang đứng trên sân khấu, đang oai dũng giữa tiếng trống
chiến dồn dập và tiếng phèn la inh ỏi, bẻ cổ nó hay đưa cây thanh đao ra chặt đứt
tiện đầu nó để tế cờ khởi nghĩa, rồi bêu thủ cấp ngoài thành trước khi xuất
quân chinh Bắc bình Nam đem lại an bình cho xứ sở.
Đến đây, tôi thấy bác rất hãnh diện,
tự hào về tính khí khái bất phục tùng và lòng kiên trung chung thủy của một người
nghệ sĩ chân chính, đã hóa thân qua những nhân vật bác đã thủ diễn một thời.
Bác thực sự đã trút được đôi phần ẩn ức, ray rứt dồn nén trong sâu kín của lòng
mình.
Bác thở dài đau khổ:
- Tiếc rằng mình không làm được việc
đó nên cứ ấm ức ray rứt mãi. Lòng cứ bị dày vò nên đêm đêm khó ngủ, bắt phải
suy nghĩ hoài nhưng chẳng bao giờ giải tỏa được niềm riêng. May mà từ ngày gặp
cháu ở tổ hợp này, bác được an ủi phần nào vì ít ra cũng còn có người hiểu được
bác trong hoàn cảnh trái ngang đầy nghi kỵ và dè dặt này. Nhưng có biết mình
còn chung sống như vầy được lâu dài không? Đám này thâm độc và nhẫn tâm lắm
cháu à! Hay là mình sẽ có ngày phải chia tay trong vội vàng tức tưởi. Cuộc đời
chẳng có gì tồn tại lâu bền bao giờ đâu?! Nó đã như vậy rồi! Có đó mất đó! Vui
sum hợp rồi buồn chia ly chẳng mấy hồi.
Vẫn với giọng trầm buồn, bác nói tiếp:
- Mấy thằng cán bộ, khách hớt tóc của
tổ hợp mình, chúng nó rất thích được bác hớt, dù có phải ngồi chờ đợi lâu lắt mất
thì giờ. Cháu có biết vì sao không? Ở mấy cháu còn trẻ đâu có chịu khó như bác.
Cháu thấy mỗi lần bác nặn nót rút tóc chúng nó, chúng nó thích lắm phải không?
Chúng thích cái cảm giác đê mê sản khoái của giới tư sản trong Nam mình vì
ngoài Bắc suốt mấy mươi năm sống dưới chế độ bác đảng làm gì chúng có hưởng được.
Toàn là các ông chủ của đất nước anh hùng cả mà! Mọi lạc thú của giai từng bên
trên đều bị kết án, mặc dù trong thâm tâm, mỗi đứa đều mở cờ ao ước. Trong lúc
tranh tối tranh sáng này, chúng nó muốn thụ hưởng hết những cái "thói hư tật
xấu" của Miền Nam. Nhưng chúng nó đâu có biết. Mỗi lần bác chụm hai bàn
tay lại để vỗ lốp bốp lốp bốp... liên tục trên trán trên đầu chúng nó, bác đang
đau lòng biết bao nhiêu. Bác đang căm hận. Thật tình mà nói, bác đang dần đầu chúng
nó đó cháu à. Bác tức quá mà! Tức chẳng biết phải làm sao? Thôi thì đè đầu
chúng nó mà dần tới dần lui, dần xuôi dần ngược cho đã cơn giận hờn, căm uất
trong lòng.
Gương mặt bác Hai Nhím lúc đó trông
khẳng quyết. Quả là con người dứt khoát trong tư tưởng và hành động.
Nhưng hai tuần nay, bỗng dưng bác vắng
mặt không đến tổ hợp nữa. Tôi nóng hơ trong lòng. Bác có ốm đau chăng? Thân
hình bác ốm o gầy còm, hằng ngày thiếu ăn nên dễ nhuốm bệnh lắm. Tôi áng chừng
như vậy. Hay bác buồn tình bỏ về quê sản xuất tránh những cảnh trái tai gai mắt
ở thành phố, đang hứng chịu những đòn thù của kẻ chiến thắng thô bạo vô hồn?
Nhưng tôi lại nghĩ thêm, dù sao bác
cũng không đến đổi tệ như vậy, chẳng báo trước với tôi một lời. Chiều hôm đó,
tôi về sớm, không về thẳng nhà mà tạt qua con hẻm nhỏ vừa đủ cho chiếc xe hơi
du lịch ra vào xích xao. Vô ý, xe sẽ cạ vào vách tường trầy trụa móp méo.
Tôi phăng mò hỏi thăm lối xóm chẳng
dễ dàng gì. Thời buổi nghi kỵ nhiểu nhương này, cái gì cũng khó cả. Cũng may,
tình cờ tôi gặp được người tốt bụng. Trường hợp này rất hiếm hoi. Tôi áng chừng
dường như người này cũng mới đến tạm trú ở đây.
Anh nhanh nhẹn đáp:
- Ông thợ hớt tóc già nào đâu kìa?
Sao tôi chẳng biết! Khu này không được mấy người! À, mà tôi chỉ biết có một ông già độc thân ở góc nhà
xe kia kìa. Người ta ở đây gọi ổng với cái tên ngồ ngộ là Việt Câu Tiển. Cái
tên nghe giống trong những truyện chương hồi tràng giang đại hải của Tàu quá trời!
Người ta cũng nói với tôi ổng hay kể chuyện đào kép hát xướng cho bà con nghe
chơi đỡ buồn. Đâu anh thử thả đến đó hỏi xem coi có phăng ra được gì không. Vì
tôi nghĩ ông ấy là thổ công, chắc ổng biết nhiều chuyện, nhiều người lắm.
Thì ra hôm đó tôi mới phát giác nơi
bác tạm trú từ sau tháng tư đen. Tôi quá đổi mừng. Lòng tôi khấp khởi hy vọng
thế nào cũng sẽ gặp bác, dù trong hoàn cảnh oái oăm ngang trái nào.
Nơi bác ở là một nhà xe mà chủ nhà
đã hấp tấp bán đổ bán tháo rẻ mạt chiếc xe còn mới toanh cho một tên môi giới.
Tên này mua lót đường một cán bộ Hà Nội phụ trách tổ chức vượt biên bán chánh
thức thuộc địa bàn Đồng Nai, Vũng Tàu gì đó. Chủ xe bán vội vàng để chạy kiểm
kê tài sản đợt II và nhứt là để xóa đi cái vỏ "tư sản ác ôn" hay
"thương gia lộng hành" của mình.
Nay chủ nhà cho bác tạm ở để trong
nhà có tiếng có tăm, hôm sớm đỡ quạnh hiu. Trong cảnh khổ, con người dường như
tìm cách xích lại gần nhau, tập tành thương yêu nhường nhịn và chia xẻ để khỏi
phải bơ vơ, cô đơn cô độc.
Bác là người trọng tuổi mà đối với
người già, bọn cán bộ khu phố có phần lơi lỏng việc dòm ngó, để ý tới. Vả lại,
bác cũng thuộc lớp người cùng khổ, "giai cấp nghèo thành thị" nói
theo ngôn từ mới của chánh quyền kia mà.
Sự nghiệp, tài sản của bác vỏn vẹn
chỉ có một cái bàn nhỏ hếu thờ Ông Tổ Hát Bội, vài cái ghế đẩu để dựa sát vách
tường và một chiếc chiếu cuốn tròn ban ngày dùng gói ghém những vật dụng cần
thiết. Về đêm, bác dùng cái hộp đồ nghề làm gối lót đầu và chiếc mền mỏng te.
Tôi hỏi thăm những người chung quanh
mới biết bác sống rất thanh bần và khắc khổ. Ăn uống cũng dễ dãi. Đêm đêm, bác
trải chiếc chiếu cũ bề ngang khoảng 8 tất hay một thước là cùng dưới bàn thờ Tổ,
rồi nằm ngay lưng thẳng cẳng trên sàn đất trong tư thế khó nghèo khổ hạnh đó để
suy nghĩ thêm về cuộc đời, vỗ về giấc ngủ.
Dù bác có tánh khó ngủ nhưng đêm nào bác cũng ráng dỗ
giấc. Vì bác cho rằng nằm xuống ngủ ngay được và ngủ rất ngon là hạnh phúc nhứt
trên cõi đời lắm chuyện này. Đối với bác, giấc ngủ là liều thuốc tinh thần rất
quý để giúp quên hiện tại, quên hẳn những buồn lo xáo trộn ngoài xã hội.
Chủ nhà cho biết bác về quê thăm bà
con được cả tuần nay nhưng chưa thấy trở lại. Có lẽ kẹt đường xa hay xe cộ gì
đó.
Nghe vậy, tôi rất an tâm,
thanh thản ra về. Tôi nghĩ bụng rằng bác sẽ còn có ngày tiếp tục đóng góp công
sức và khả năng mình để giúp duy trì dài lâu tổ hợp của chúng tôi. Nhứt là đối
với tôi còn có một chút riêng tư. Mỗi lần nhìn thấy bác dần đầu mấy tên cán bộ
răng đen mã tấu hoặc bẻ đầu bẻ cổ chúng nó nghe rơm rớp, tôi thương bác nhiều.
Tôi thương bác nhiều vì bác sẽ phải thất vọng không bẻ
lọi đầu lọi cổ chúng nó được để ra lệnh cho quân hầu tả hữu lấy thủ cấp tế cờ rồi
bêu ngoài thành trước khi giục trống xuất quân chinh Bắc bình Nam cứu nguy sơn
hà xã tắc. Nghĩ đến đó, tôi có cảm tưởng như bác đang hồi nhớ để sống lại với
những vai trò của mình từng thủ diễn tròn trịa trước đây mà chắc bác cũng đang
mơ ước ấp ủ trong âm thầm.
Rồi một
hôm...
Vào
lúc rựng sáng, bác lại lù đù đến tổ hợp. Bác đến sớm hơn mọi ngày. Trái với
thói quen của bác từ mấy năm nay. Chưa kịp tay bắt mặt mừng hỏi han thăm lom sức
khoẻ, bác te te đến bên tôi thì thầm trong tai:
- Mới
về. Vượt biên hụt...
Rồi
bác nói:
-
Cũng may nhờ ông Tổ Hát Bội thương tình che chở cho nên mới thoát nạn, không bị
công an biên phòng truy bắt.
Trưa
hôm ấy, bác mới kể tiếp:
- Tôi
già rồi. Sống bao nhiêu năm nữa. Lại nghèo xơ xác. Sống dưới chế độ này thà chết
còn sướng hơn. Tinh thần lúc nào cũng bị rúng ép khống chế. Mà chết vì đói, vì
khát còn gì đau đớn cho bằng. Thể xác bị dày vò gò thúc. Nhơn có thằng cháu bà
con cũng chẳng xa mấy đề nghị cho tôi tháp tùng vượt biên theo nó không phải tốn
một đồng xu cắc bạc. Nó chỉ ra một điều kiện duy nhứt là tôi phải phụ nó trông
nom dẫn dắt mấy đứa con còn nhỏ dại của nó. Thôi, mình cũng đành nhắm mắt đưa
chân dù chẳng biết tương lai ra sao cả. Gắp qua, tôi đành có lỗi không báo với
chú.
Giọng
bác phảng phất nhiều u ẩn:
-
Không dè mình bị bọn cò mồi lường gạt. Ghe ra khỏi bến vài cây số bỗng nghe tiếng
súng nổ ầm lên điếng người. Tài công vội vàng cho ghe đâm mũi thẳng vào bờ. Mọi
người tranh giành chen lấn nhau đổ lên mé sông thoát thân. Một cảnh hỗn độn
chưa từng thấy. Mạnh ai nấy chạy tán loạn như ong vỡ tổ trong khi bọn công an
biên phòng và đám an ninh ba mươi kêu la inh ỏi, bao vây rượt đuổi, chận bắt
không biết bao nhiêu người. Nhờ tỉnh trí, tôi hộ tống con vợ thằng cháu tôi và
mấy đứa con vượt khỏi vòng vây an toàn như lúc Quan Vân Trường phò nhị tẩu hay
Triệu Tử Long giải nguy ấu chúa vậy. Ngặc một nỗi là thằng cháu bất hạnh của
tôi loay hoay vụng về thế nào lại bị chúng bắt. Hiện nó bị giam ở khu chấp pháp
tỉnh Tiền Giang, chắc chắn không thoát khỏi những cảnh cực hình ở trại cải tạo
đâu. Nhưng bác cam đoan với cháu, một khi ra khỏi nhà tù cộng sản, nhứt định nó
sẽ tìm đường vượt thoát. Vợ chồng nó đã say vượt biên rồi, cũng giống như người
nghiện á phiện vậy. Mà nếu bác có tháp tùng bất thình lình thì cháu đừng có ngạc
nhiên lắm.
Mấy
tháng sau, tôi lại bàng hoàng thấy bác vắng mặt như lần trước. Trong tôi nửa buồn
nửa vui. Buồn vì thiếu vắng bác. Buồn vì tôi không còn người tâm sự
giữa bối cảnh nghi kỵ e dè.
Vui vì đinh ninh rằng bác đã chọn lựa đúng con đường
sinh tử, con đường duy nhứt lúc này để được sống đúng với lý tưởng tự do của
mình.
Rồi một
buổi chiều trời khô nắng ráo, khi vừa đặt chân đến ngưỡng cửa nhà, tôi được tiện
nội trao cho một điện tín đánh đi từ Djakarta thủ đô Nam Dương quần đảo. Điện
tín vỏn vẹn có một câu duy nhứt với bốn chữ ngắn ngủi:
- Đến
nơi an toàn - Ký tên: Hai Nhím.
Tôi
quá đổi mừng.
Còn nỗi
vui nào bằng?
Tôi mừng
bác đã đến bến bờ tự do. Rồi tôi thầm cám ơn bác. Vì nhờ có bức điện tín bất
thình lình và đúng lúc này đã giúp cho tôi vững niềm tin, kiên nhẫn tiếp tục
suy nghĩ tìm kiếm con đường ra biển để có được ngày hôm nay.
Bác
Hai Nhím!
Bây
giờ bác ở đâu?
Bây
giờ bác lưu lạc chốn nào trên vùng trời tự do thênh thang, mênh mông vô tận
này.
Dù
bác có gởi thân tạm cư đâu đó ở một nơi nào, ở Mỹ châu, Âu châu hay Úc châu vạn
dặm xa xôi... tôi biết bác sống quá đầy đủ nơi xứ người nhờ tính cần cù và tháo
vác chịu cực chịu khổ cố hữu của bác. Bác chấp nhận gian lao để vương lên.
Nhưng trong thâm tâm, tôi chắc bác chẳng hạnh phúc bao nhiêu. Trái lại là khác.
Có phải
vậy không bác Hai Nhím?
Cái
sân khấu hát bội đơn sơ chơn quê ở những chùa chiền, đình miếu, ở nhà lồng chợ
làng chợ quận hay ở chái hiên Nhà Việc ngày nào đã vĩnh viễn mất hút trong sâu
thẳm của quá khứ rồi. Cộng sản độc tài độc trị, độc quyền lãnh đạo văn hóa tư
tưởng, đã cấm ngăn không cho bác thực hiện tròn đầy nỗi đam mê sôi sụt trong
con người bác ngay từ lúc thiếu thời. Chúng đã bức bách không cho bác hành nghề
dưới ánh đèn màu để mang lời ca tiếng hát và nghệ thuật diễn xuất để trang điểm
làm đẹp cuộc đời và làm vui người khác như bác hằng nói và tôi xin lập lại nơi
đây gọi là ôn cố nhớ bác.
Tôi lại
thương bác với những vai kép võ đã từng tung hoành dọc ngang trừ gian diệt bạo,
những vai tuồng bất hủ đó chắc chắn sẽ đeo đuổi bác để đay nghiến, dằn co, thôi
thúc suốt cuộc đời còn lại trong kiếp sống lưu vong của bác.
Nhưng
giờ đây, oái oăm thay, nơi đất tạm dung, bác không sao có đất dụng võ. Bác
không còn thấy những khán giả sành điệu mến mộ bác, những con người bình dị, mộc
mạc chơn chất khắp vùng đồng ruộng mênh mông sông nước bạt ngàn ngày trước, đã
từng một thời đam mê say đắm một ngành nghệ thuật dân gian đặc thù lâu đời nhứt
vùng đất phương Nam.
Cuộc
sống quả thực có nhiều cam go cay đắng bất ngờ, không sao lường trước được. Nhiều
nhà văn, nhà thơ ở khắp nơi trên thế giới văn vẻ cho rằng đời là một bi kịch
nhưng tiếc thay là một thứ bi kịch cứ tuần tự tiếp diễn không bao giờ dứt.
Bác Hai
Nhím đang vui vẻ hạnh phúc đêm đêm dưới ánh đèn màu thoang thoảng vút bay tiếng
đàn giọng hát, bỗng nhiên trong sớm chốc bị bức bách giã từ sàn gỗ sân khấu,
chia tay bạn bè đồng nghiệp để rồi thấm thía, ngậm ngùi bỏ lại sau lưng mình kẻ
mất người còn một đời dang dở.
Tôi
đã sống một thời với người nghệ sĩ thực sự vì đam mê, thực sự vì nghệ thuật để
gần cuối cuộc đời thấy mọi ước mơ đều vút bay phũ phàng vào hư ảo, để thấy mọi
thành tựu chợt tan biến trong chớp mắt mong manh. Nay tuổi quá cao, luốn cuốn
nơi đất lạ quê người, bác không còn một chút hy vọng gì cả. Nhứt là cái hy vọng
một ngày nào đó được trở lại dưới ánh đèn sân khấu sặc sở sắc màu. Mà ở đời, một
khi trong lòng người hy vọng đã tắt ngủm thì quả như bác thường nói với tôi, họ
không còn lẽ sống nào có ý nghĩa nữa cả.
Nghĩ
đến đây tôi thương bác Hai Nhím biết ngần nào!
Thì
ra cái đau của người nghệ sĩ chân chính là ở chỗ đó.
Võ Phước Hiếu
-**-
Họa Sĩ Văn Đen
(1919 -
1988)
Tôi quen thân với anh Văn
Đen đã lâu rồi, từ hồi mới cầm cọ vẽ sơn dầu. Chúng tôi thường triển lãm chung
với nhau. Có điều dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, bọn tôi triển lãm tranh tập thể,
có tranh của Văn Đen. Nếu chúng tôi mời được sự bảo trợ và cắt băng khai mạc của
những vị trong Chánh Phủ thì phải để Phòng An ninh Chính trị xuống rà mìn trước
cái đã.
Tôi có hỏi vì sao vậy? Thì họ nói
xưa kia anh Văn Đen là bộ đội Việt Minh. Tiểu đoàn Dương Văn Đen đã từng đánh
Tây khiếp vía. Ở Cần Thơ, Châu Đốc và Đồng Tháp nói đến bộ đội anh Năm Đen, ma
nào lại không biết.
Tôi lại hỏi mấy anh họa sĩ cùng một
lứa tuổi với anh Đen:
- Vậy sao anh Năm không được tập kết
ra Bắc?
Anh Phạm Đại Binh nói:
- Tập kết cái khỉ mốc gì. Anh Năm là
dân Tây, gốc điền chủ. Cộng sản không thủ tiêu anh ta là may mắn rồi. Chú mầy
không thấy Phạm Đại Binh này, trước kia cũng là tiểu đoàn trưởng bộ đội đánh
Tây, bây giờ làm chủ quán phở tại ngã tư đường Chi Lăng, Phú Nhuận đây sao?
Đến năm 1949-1950, trong chiến khu,
Cộng sản đã bắt đầu đấu tranh giai cấp. Thành phần không phải bần nông vô sản đều
bị loại ra khỏi hàng ngũ. Bảy Viễn, Ba Cụt, Trịnh Minh Thế còn phải bỏ về
thành.
Ngày tôi đi cải tạo về, anh Đen còn
kể chuyện về anh Đại Binh:
- Tội nghiệp họa sĩ Phạm Đại Binh.
Anh có thằng con ba mươi tuổi vượt biên chết trên biển. Mấy thằng bạn viết thơ
về cho bố nó nói là có ăn thịt thằng nhỏ hai cái tay và hai cái đùi. Chú mầy đừng
có nhắc tới làm Phạm Đại Binh nó buồn đó nghe.
Năm trở về thành, Văn Đen sợ Tây bắt
bớ nên tìm cách trốn qua Pháp, vào học trường Đại học Mỹ Thuật Paris. Anh làm học
trò ruột của họa sĩ Edmond Heuze. Ông ta là giáo sư chính thức của trường và
cũng là danh họa nổi tiếng ở Paris. Trong lần đầu tiên triển lãm tại Pháp năm
1952 ở Galerie Continental, Edmond Heuze tán thưởng bằng một bài giới thiệu trước
công chúng:
"Họa sĩ Văn Đen là một người tuổi
trẻ rất có tài. Trong nghệ thuật của Văn Đen có cái gì huyền ảo, quyến rủ qua
những màu sắc đậm đà, sống động, đầy tình cảm...".
Văn Đen rất đam mê nghệ thuật. Anh
làm việc liên tục và khám phá không ngừng.
1953. Văn Đen trở về Sài Gòn bị Tây
bắt giam ở khám Catinat. Cuộc chiến tranh giải thực dân Pháp cũng gần muốn kết
thúc. Người Pháp ở Việt Nam lo chuyển tiền về nước.
Tên cò Bazin ở Catinat mở ra một xưởng sơn mài ở phố
Đa Kao giao cho Văn Đen trông nom về phần mỹ thuật. Bọn sinh viên chúng tôi có
về vẽ giúp cho xưởng phần trang trí.
Đến khi tên Bazin về nước, giao lại
cho Văn Đen xưởng sơn mài. Anh ta bàn với anh em nên bán phéng đi để lấy tiền
xài, chớ bọn mình là nghệ sĩ có hơi đâu lại đi làm thủ công mỹ nghệ để xuất khẩu
chuyển tiền làm gì. Lúc này, anh về bộ Giáo Dục làm giáo sư thể dục thể thao
cho trường Cao Thắng và trường Hồ Ngọc Cẩn ở Gia Định.
Có người lại hỏi Văn Đen là họa sĩ
sao lại phụ trách thể dục thể thao? Sau mới biết anh ta ở Pháp chỉ có ba năm
thôi. Vẽ được thành tranh rồi là anh ta bỏ về nước, chứ đâu có đợi lấy bằng tốt
nghiệp trường Đại học Mỹ Thuật Ba Lê. Xem lại Văn Đen chỉ có mỗi văn bằng của
trường Thanh Niên Thể Thao hồi thời
Đại tá Ducouroi mở trường đại học này ở Phan Thiết trên đỉnh núi, gọi là
trường ECPIC.
Sau khi người Pháp thất bại trong Thế
Chiến thứ II, thống chế Pétain đầu hàng quân Đức. Pháp có xu hướng phát triển
phong trào thể dục thể thao để trấn an tuổi trẻ nổi dậy. Ở Việt Nam, họ dựng
lên một từng lớp thanh niên để phục vụ cho thực dân Pháp với khẩu hiệu:
"Jeunesse Franco-Annam! Servir Toujours".
Chính văn bằng Thể Dục Thể Thao đưa
Văn Đen lên nắm Phong trào Thanh Niên Tiền Phong và cũng lực lượng Thanh Niên này
đưa anh ta lên nắm tiểu đoàn Dương Văn Đen để đánh Pháp. Nhưng Văn Đen không phải
giai cấp của con người Cộng sản.
Thanh niên ở trường Cao Thắng rất mê
Văn Đen kéo vĩ cầm. Ngày xưa, khi sống lang thang ở phố Montmartre, anh ta đi
kéo đàn trong mấy ban nhạc ở hộp đêm để kiếm tiền đi học. Văn Đen còn đi học
thêm một ít nhạc cụ bên Nhạc Viện Ba Lê.
Ngoài cái tài kéo vĩ cầm, anh ta còn
xử dụng kéo lưỡi cưa âm nhạc. Tiếng nhạc từ lưỡi cưa như ở cõi âm vọng về. Nhạc
cụ này trong mấy ban nhạc Jazz của người da đen được họ dùng để kể lể thở than.
Mệ Vĩnh Lộc nói tiếng đàn tranh của mệ hòa với cây cưa của Văn Đen đang đêm người
gái Huế nghe được, họ sẽ thao thức đến mất ngủ.
Vợ chồng anh Văn Đen có mảnh vườn
khá rộng ở đường Bà Hạt, gần ngả tư Nguyễn Tri Phương. Phía ngoài mặt đường,
anh có dựng một quán cơm lao động. Anh Đen đi dạy học, chị thì phụ trách buôn
bán. Anh ta thường vẽ cảnh quán cơm có phu xích lô, xe ba bánh, đứa đứng đứa ngồi
ăn uống vội vã bên mấy chú ăn xin và mấy ông già mù.
Chiều tối, quán cơm biến thành quán
cháo, quán rượu. Anh vẽ mấy tay bợm nhậu ngồi bên ghế thấp, tên nào tên nấy mềm
hơn sợi bún, đứng lên chỉ có nước té ngã lăn quay xuống thềm, khiến cho người
xem cười vỡ bụng.
Anh ta còn nói trong đám này có cả Văn Đen và Hiếu Đệ
nữa đó. Tôi cũng mê mấy tranh uống rượu của anh nhưng loay hoay khi trở lại thì
bị khách thưởng ngoạn bê đi mất tiêu.
Tên của họa sĩ Văn Đen rất quen thuộc
với đại chúng ở Sài Gòn sau cuộc Triển Lãm Quốc Tế Mỹ Thuật ở vườn Tao Đàn năm
1960. Anh được Huy chương Vàng trong cuộc triển lãm Mùa Xuân do Văn Hóa Vụ của
thời Đệ Nhất Cộng Hòa tổ chức năm 1961. Cũng bắt đầu từ năm đó, anh là thành
viên trong Ban Giám Khảo suốt mười năm liền.
Ngoài ra, anh còn phụ trách Trưởng
phòng Mỹ Thuật thuộc Nha Mỹ Thuật Học Vụ của bộ Quốc Gia Giáo Dục. Năm tôi được
giải ngũ trở về dân sự, anh có đề nghị bàn giao chức Trưởng phòng Mỹ Thuật lại
cho tôi để anh xin về làm giáo sư trường Mỹ Thuật. Nhưng tôi lại trốn tránh,
anh phải giao cho họa sĩ Huỳnh Văn Phụng.
Trưởng phòng Mỹ Thuật mà vẽ bậy, vẽ
dở thì bị người ta chửi. Nhất là Hiếu Đệ vẽ tranh vui cười, vẽ con người thành
con chó còn bị người ta xúm chửi dữ nữa. Thà đi chơi còn hơn. Tội nghiệp nhứt
là anh họa sĩ Huỳnh Văn Phụng, kẹt cứng bởi cái ghế Trưởng phòng Mỹ Thuật của Bộ.
Anh phụ trách đối nội, đối ngoại các
Đại Hội Mỹ Thuật Lưỡng Niên Thế Giới ở Ba Lê, Sao Paulô, Asian, Nhật Bản và
Chương trình Giáo Dục Mỹ Thuật các trường Mỹ Thuật cũng đủ nghẹt thở. Anh không
còn thì giờ để vẽ tranh.
Chị vợ là Thúy Liễu, học trò của anh
ta ở Trung học Mỹ Tho, có năm mặt con, phải thay chồng vẽ đầy nhóc cả đường Tự
Do và bày khắp các kiosques ở đường Nguyễn Huệ. Sư Đoàn I Không Vận Hoa Kỳ đổi
đơn vị hay kéo về Mỹ gì đó, họ đem mấy chiếc xe dodge chạy vòng quanh đường Tự
Do và đường Nguyễn Huệ hốt hết đống tranh vẽ cảnh Con Trâu Kéo Cày, cảnh Nhà Lá
Cây Mít, Hàng Dừa, Hàng Cau để đem về nước.
Do vậy, chị Thúy Liễu vẽ đến khuya
cũng không kịp. Càng vẽ càng làm giàu to, đến đỗi chị phải gọi cả đám sinh viên
trường Mỹ Thuật về thức khuya dậy sớm để vẽ. Trong khi đó, anh chồng là họa sĩ
Huỳnh Văn Phụng chẳng mó tay vào việc vẽ được.
Thật là oái oăm.
Đám lính Mỹ cũng chẳng cần đến Mỹ
Thuật, có chút quà kỷ niệm từ Việt Nam mang về là được rồi. Bà Tùng Quang, họa
sĩ đi học bên Nhật về nghề làm búp bê, khuôn mặt ép bằng khung lụa, thế mà chẳng
ăn khách bằng con búp bê của ba Tàu Chợ Lớn. Những búp bê này trông như những
hình nộm người ta đốt
cho người chết. Thế mà sản xuất không kịp bán.
Chị Thúy Liễu giàu to, sắm sang nhà
cửa, cho con đi học trường Tây, còn mua giấy tờ cho chồng khỏi bị bắt lính. Năm
1968, chị ta đi coi hát ở rạp Kim Chung bị Việt cộng pháo kích chết thật là oan
uổng. Chị mần ăn lớn, nợ nần dăng dỏi khiến cho anh Phụng phải bỏ cái chức Trưởng
phòng Mỹ Thuật để trở về nhà vẽ nhăng vẽ cuội để nuôi con mới nổi.
Tôi là thành phần biệt phái về Trường
Vẽ sau rốt nên bị ép ra ngoài lề. Cũng như anh Văn Đen là người không đủ bằng cấp
nên tụi tôi phải đi dạy Trường Mỹ Thuật ở Huế. Cứ mỗi lục cá nguyệt phải ra Huế
vài tháng.
Tình hình của vùng hỏa tuyến mỗi lúc
một căng thẳng. Năm 1972, Mùa Hè Đỏ Lửa, Huế và Quảng Trị phải chạy loạn. Xe
tăng Cộng sản đã tràn qua vĩ tuyến. Thành phố Quảng Trị bình địa.
Sau đó thì Hội Nghị Ba Lê kết thúc,
hai bên vẫn giành dân lấn đất. Người dân ngơ ngác không nơi nương tựa phải di
chuyển về Đà Nẵng. Từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi trên đèo Hải Vân. Bộ
Giáo Dục lại cắt cử chúng tôi ra Huế để thiết lập cuộc thi tốt nghiệp cho Trường
Cao Đảng Mỹ Thuật, không thể bỏ cuộc được.
Anh Văn Đen đọc sự vụ lệnh xong ngồi
bật cười:
- Chú Hiếu Đệ đừng có lo. Thật ra
nhà nước chỉ cử đám mình đi rong chơi và uống rượu mà thôi. Có việc gì đâu mà làm. Còn chết chóc thì
chẳng có gì sợ. Tụi mình đứa nào cũng từng trải qua một thời cầm súng rồi mà.
Quảng Trị tan nát. Dân chúng ở Huế đã tản cư cả rồi. Sinh viên còn đâu nữa mà tổ
chức cuộc thi tốt nghiệp cho các ngành đại học. Nhà nước cắt cử thì ta cứ đi.
Việc đâu còn có đó.
Họa sĩ Nguyễn Vạn Lộc lại chêm vào:
- Mấy huynh dại lắm! Chỗ người ta
đánh nhau, ai dại gì ra đó lãnh đạn. Nói thật nghe, chỉ có đứa nào khùng mới
đưa lưng ra nhận công tác này.
Tôi biết Lộc. Anh chàng Tây con này
là Đoàn viên Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Pháp (Jeune Communiste Français). Anh ta
hoạt động cho phong trào phản chiến, có thể do nhận lệnh của Hà Nội về Trường Mỹ
Thuật để điều khiển phong trào thanh niên. Lộc là con trai cả của bác sĩ Nguyễn
Vạn Kim, Giám đốc Bệnh viện Chờ Rẫy. Ông cụ là bạn của Dược sĩ Trần Kim Quang,
có hiệu thuốc Tây Kim Quang trước mặt ga xe lửa chợ Bến Thành. Song song với
bên kia là tiệm thuốc Tây Nguyễn Văn Cao.
Năm 1971, cụ Mai Thọ Truyền, Quốc Vụ
Khanh Đặc Trách Văn Hóa dẫn đoàn văn nghệ đi diễn ở Ba Lê. Lộc xin cụ Mai về dạy
Trường Mỹ Thuật Sài Gòn. Hắn dựa hơi ông cụ là bạn của bác sĩ Nguyễn Vạn Kim.
Đám học trò của Lộc có đứa báo cáo
anh ta đã từng nhiều lần theo mấy sinh viên thân cộng lén lút đi họp với bọn
Thành ủy ở Củ Chi. Bộ Giáo Dục có điểm yếu là thường coi trọng những chứng chỉ
tốt nghiệp ở nước ngoài nên chẳng
đụng chạm gì đến Lộc.
Anh ta phụ trách ban Sơn Dầu. Tôi thấy
đề tài Lộc đề nghị cho sinh viên thi tốt nghiệp: "Sài Gòn hôm nay và ngày
mai". Như vậy là ló đuôi Cộng sản chứ còn gì nữa. Nhất là giai đoạn này, Mỹ
rút quân. Thành phố hỗn loạn, tham nhũng, buôn lậu, đĩ diếm, xì ke ma túy lan
tràn.
Cộng sản chủ trương đánh thức phong trào phản chiến
trong sinh viên học sinh để trói tay Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tội nghiệp nhất
là những người lính ở vùng hỏa tuyến trong giai đoạn giành dân lấn đất, họ phải
giữ gìn từng lũy tre, từng bờ ao, từng ngôi nhà.
Chúng tôi ra đến Huế. Lúc này thành
phố vắng hoe. Dân chúng đều tản cư vô Đà Nẵng. Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật nằm
trong Đại Nội, nơi cửa Nhà Đồ. Phía sau nhà trường chỉ còn lại gia đình anh gác
dan và gia đình của họa sĩ Đinh Cường mà thôi. Họ có xây một cái hầm to tướng,
bảo là để tránh hỏa tiển pháo kích.
Chúng tôi căng ghế bố ngủ ngay trên
văn phòng nhà trường. Anh Văn Đen vừa bật ngọn đèn lên. Có bầy chó hoang kéo đến
trước cổng trường, vừa kêu vừa hú.
Anh bật cười nói:
- Chú Hiếu Đệ thấy chưa? Dân chúng tản
cư cả rồi, đến đỗi chó nó thấy mình trở về, nó cũng kinh ngạc kia mà. Thế mà
còn thi với cử cái cóc khô gì. Đem rượu ra uống đi là vừa.
Đến nửa khuya, anh Đen ngồi bật dậy
đóng mấy cánh cửa sổ và lay tôi thức dậy:
- Chú Hiếu Đệ ơi! Anh thấy lũ ma đói
nó đến cào cửa xin ăn.
Tôi càu nhàu:
- Làm gì có chuyện này. Chẳng qua là
anh Năm nằm mơ chăng?
Tôi bàn với anh Năm Đen là phải tổ
chức một bữa nhậu ra mắt phái đoàn của Bộ Giáo Dục ở Sài Gòn ra với những ai
còn lại ở Huế để bọn tôi tính chuyện ăn nhậu rong chơi dài dài. Vấn đề mời mọc
đám giang hồ ở địa phương được giao cho họa sĩ Đinh Cường đảm trách.
Tôi nhớ hôm đó có Nguyễn Văn Dũng,
con tướng Nguyễn Văn Chuân, Quận trưởng Phú Vang, kỹ sư Hồ Đăng Lễ, phụ trách cầu
đường ở tỉnh, Trịnh Công Sơn, Đại úy Hoàng Cơ Trường, bác sĩ Quân Y viện Quảng
Trị, Đại úy Nguyễn Minh Nghiệp, dược sĩ phụ tá cho bác sĩ Trường, họa sĩ Phạm
Đăng Trí, họa sĩ Phan Xuân Sanh, Hồ Hoàng Đài, họa sĩ Tôn Thất Văn trong Ban
Giáo sư Trường Mỹ Thuật. Anh em thảo kế hoạch đi chơi khắp nơi, từ chiến trường
Quảng Trị đến Đà Nẵng để sau này không bao giờ mình được đi nữa!
Thật quả đúng như vậy.
Chúng tôi đi Phong Điền, Chợ Trắng,
Cầu Thanh Toàn và những khu định cư mới thiết lập dọc theo đèo Hải Vân, Làng
Truồi, Cầu Hai v.v... Chiều lại là chương trình ngủ đò. Đò không còn nữa thì ngủ
nhà, rủ mấy cụ già về hò mái nhì, mái đẩy, hát bài Tương Tư Khúc, kiểu mấy nàng
kỹ nữ trong thơ Xuân Diệu.
Tôi còn nhớ cụ Thứ hát:
Duyên trăm năm chẳng đặng
Tình một thuở còn đây...
...
Sống mà không yêu không
thương
Khác nào như làm cây cỏ
bên đường...
Anh em còn rủ được những tay đờn rất
xịn, bậc thầy bên trường Âm Nhạc Huế. Ngày hôm sau, bác sĩ Hoàng Cơ Trường còn
bày cái màn đi coi vũ sexy trên chiến trường Quảng Trị.
Nhiều đứa đùa cười lăn ra bảo chuyện
này làm gì có, họa chăng mấy ông bạn này nói phét. Nhưng khổ một điều là vũ
sexy có thật.
Thế mới vui. Với điều kiện khán giả, bạn nào đi xem phải
đem theo một chai rượu mới được. Vũ sexy lúc này được biểu diễn thường trực,
xin chớ bỏ qua rất uổng.
Thật ra đầu đuôi câu chuyện chỉ có
thế này. Thành phố Quảng Trị không còn bức tường nào cao quá một mét. Muốn ra đến
Hải Lăng hay bờ sông Ái Tử phải cuốc bộ, lội trên những đống gạch vụn. Cứ mỗi
buổi sáng, lối chín mười giờ, có một chiếc C.130 đáp xuống phi trường dã chiến
Hải Lăng, mang một số tù binh Việt Cộng ở Côn Đảo, Phú Quốc ra để làm thủ tục
trao trả tù binh.
Sau khi được chuẩn bị xong, đám này
được dẫn độ ra bờ sông Ái Tử. Ven sông có một cái nhà bát giác cấm cờ Ủy Hội Quốc
Tế HCR. Bên kia sông là doanh trại của Cộng sản miền Bắc, cờ quạt biểu ngữ tưng
bừng, dàn loa phóng thanh hát inh ỏi. Bên này sông là phía Việt Nam Cộng Hòa, cờ
quạt tưng bừng chẳng kém, dàn loa phóng thanh trổi khúc Cờ Bay Cờ Bay và Việt
Nam Quê Hương Ngạo Nghễ, cũng hoan hô đả đảo vang trời.
Đúng 12 giờ, tức là giờ hành lễ trao
đổi tù binh, còi hụ inh ỏi, nhạc trổi tưng bừng. Đám tù binh Cộng sản được xếp
hàng tư ngay ngắn để nghe đọc danh sách điểm danh. Lần sau cùng, những tù nhân
nào tình nguyện ở lại phía Việt Nam Cộng Hòa phải bước nhanh ra khỏi hàng ngũ để
toán Quân Cảnh đưa lên bờ. Nghe đâu trước đây cũng có những anh tù vì chậm lụt
bị đồng đảng đâm chết tại chỗ bằng que đũa.
Điểm danh xong, họ bước lên những
chiếc xà lang bằng nhựa để đưa qua sông. Đến giữa sông, có toán bộ đội và y tá
ra nghênh đón. Họ hoan nghênh các chiến sĩ anh dũng được trở về.
Theo tiêu chuẩn của Hiệp Ước Tù Binh
Quốc Tế, bọn Việt cộng bị nhốt ở Côn Đảo, Phú Quốc có chính sách đối xử cao
hơn, đau yếu được chữa trị. Áo quần được đàng hoàng hơn. Bộ đồ nâu họ đang mặc
bằng vải tốt còn mới toanh.
Vì tự ái trước đám tù Quốc Gia bị nhốt
ở Bắc Việt, đang bệnh hoạn rách rưới, dở sống dở chết, khi đã hô khẩu hiệu: Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa muôn năm để về với Cộng sản, họ cởi bộ đồ đang mặc vất bỏ xuống sông - vất luôn cả cặp nạng nhôm
của người bị đau chân.
Đến mấy nữ tù nhân, sau khi họ vất bỏ
bộ đồ tù nhân màu nâu thì lòi ra món đồ lót lại còn mắc giá hơn nữa, nhất là loại
quần lót màu đỏ màu hồng. Có nàng cũng vì ý thức hệ nhạy bén quá khiến họ mạnh
tay lột bỏ tất cả, xảy ra một màn hấp dẫn khiến trên bờ cười ầm lên.
Như thế là vũ sexy chớ còn gì nữa?
Ở nơi tuyến lửa Hải Lăng Quảng Trị,
những anh lính Thủy quân Lục chiến của ông tướng Bùi Thế Lân râu tóc coi dữ tợn
như người rừng. Họ chỉ sửa soạn tươm tất trở lại khi nào được về thăm vợ con
thôi.
Con đường dẫn tới Quảng Trị, họ kêu
là "Xa lộ Kinh hoàng" vì Việt cộng thường chơi cái trò chận đánh bất
tử. Còn ở bìa rừng, nơi đền thánh La Vang là vùng tự do pháo kích và đánh bom mỗi
khi họ phát hiện có bóng người qua lại. Hai bên đường và dưới bờ sông, xương
người và đầu lâu còn nằm ngổn ngang chớ có ai dọn dẹp gì đâu.
Nghĩ thân phận con người ở Quảng Trị
sao mà bi đát đến thế? Tại sao Thượng Đế lại đày đọa dân tộc Việt Nam đến cùng
cực như vậy?
Có thể bắt đầu từ mùa hè này, Trường
Mỹ Thuật và Viện Đại Học Huế cũng khởi sự dẹp tiệm. Đám thanh niên Huế còn lại
bu chung quanh Thượng tọa Đôn Hậu để thành lập Trung tâm Liễu Quáng phát triển
văn hóa văn nghệ tưng bừng làm lại bộ mặt của thành phố Huế, thành phố Phật
giáo.
Suốt nửa tháng trời, tôi với Văn Đen
chỉ rong chơi. Chớ chúng tôi có tổ chức cuộc thi tốt nghiệp cho ai đâu.
Cháy nhà ra mặt chuột. Đến ngày 30
tháng tư, tự nhiên mọi người trong trường lại thấy giáo sư Nguyễn Vạn Lộc bố
trí thanh niên đứng lên treo cờ và tiếp thu nhà trường. Hắn mang bang sa đỏ, ngồi
giữa phòng Giám đốc để chỉ huy mọi việc.
Nhưng vài hôm sau, có mấy anh chàng
họa sĩ mặc quân phục Giải phóng Miền Nam, là cựu học sinh của trường nhưng lại ở
chiến khu mới về như Cổ Tấn Long, Huỳnh Phương Đông, Lê Minh Chánh, Lê Điền phụ
trách văn phòng và các lớp. Còn Giám đốc trường, người được cử từ ngoài Bắc vào
là Phó Tiến sĩ Lê Phước Sanh, nghe đâu mới đi học ở Liên Sô về.
Ngành mỹ thuật được nâng lên hàng tiếng nói của đảng.
Đám sĩ quan biệt phái như tôi thì phải lãnh giấy giới thiệu đi trình diện học tập
cải tạo. Văn Đen được họ cho ở lại để tiếp tục dạy học ở phân khoa sơn dầu.
Năm tôi từ trại cải tạo trở về,
thành phố Sài Gòn như một con bịnh chưa bình phục vì đã trải qua nhiều đợt cải
tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp và đổi tiền. Phố xá tiêu điều, vắng vẻ.
Người dân còn ăn độn và lo lắng sợ sệt.
Tôi mang thân phận một người thất
nghiệp, đã thế lại còn bị cái án mất quyền công dân và bị quản lý tại địa
phương. Ngày ngày, có tên công an khu vực đến hỏi tội. Nếu cứ nằm nhà là phải
giáp mặt nó mãi. Tôi theo lũ bạn vào Chợ Lớn thuê chiếc xe xích
lô đạp rong chơi suốt ngày, có thể còn tự do hơn. Người ta kêu là "làm dân
biểu", dân chúng bảo đạp đi đâu là mình chạy đến đó. Còn lúc không có
khách thì được nằm chỏng cẳng ở giữa phố ngủ.
Góc phố tôi thường mang những kỷ niệm
như Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Thánh Tôn... bây giờ giá nếu được nằm ngủ ở đó thì thật
sướng vô cùng. Có bữa, tôi nằm ngủ trước Phòng Thương Mại Đô Thành, góc đường Tự
Do và Mạc Thị Bưởi. Trong ấy nhà nước đang khai mạc một cuộc triển lãm hàng sơn
mài, có mặt mấy phái đoàn của phía xã hội chủ nghĩa và Trung Đông. Những sản phẩm
sơn mài mà Cộng sản đã tịch thu ở các cửa hàng thủ công mỹ nghệ trong những đợt
đánh tư sản, bây giờ được trưng ra cho khách nước ngoài.
Tôi đợi đến lúc vắng khách mới chạy
vô xem thì gặp Ba Nên. Anh ta là Trần Văn Nên, trước kia có học các lớp Mỹ Thuật
do tôi dạy ở Hội Việt Mỹ. Anh làm ở Sở Canh Nông, Phòng Nghiên Cứu về Sơn Mài,
phụ tá cho ông kỹ sư Nhựt Bổn Watanabé. Hồi đó, anh có hỏi Watanabé làm thế nào
để anh nghiên cứu nghệ thuật sơn mài đến một mức độ cao hơn thì ông kỹ sư Nhật
Bổn lại dẫn anh vào học lớp Mỹ Thuật Tạo Hình của Hiếu Đệ. Vì thế, anh ta đi
theo tôi rất nhiều năm.
Bây giờ, Ba Nên làm chuyên viên sơn
mài của Sở Ngoại Thương kiêm Giám đốc Sở Nghiên cứu Hàng mẫu. Anh ta là con bò
sữa của Mười Phi, Giám đốc Sở Ngoại Thương mà tôi không biết. Anh là người đứng
ra tổ chức buổi triển lãm này.
Mặc dầu thấy tôi rách rưới, Ba Nên vẫn
kêu tôi bằng ông thầy. Tôi có hỏi Ba Nên cái nguồn sơn ta bây giờ như thế nào?
Sơn Nam Vang, sơn Lâm Đồng và sơn Phú Thọ? Tôi có nói đã trải qua mười năm rồi,
tôi trở lại làm sơn mài mà mọi thứ đều mới hết và nhất là tôi và một số anh em
đã tìm thấy sơn mài chỉ là sự sinh hoạt của một loại vi khuẩn. Thứ vi khuẩn đó
bây giờ mình tạm gọi là vi khuẩn lacquaze. Nó có thể chui vào máu, vào không
khí tạo thành dị ứng, khó chữa trị.
Các cụ phó sơn nhà ta thường cúng
vái như một thứ thần linh. Có người còn nói "Sơn bắt coi mặt người
ta". Nếu mình trị được vi khuẩn hay nuôi dưỡng được vi khuẩn, mình sẽ biến
con thú rừng thành con thú nuôi, thì lợi ích của nó sẽ lớn lao vô cùng. Và nghệ
thuật sơn mài sẽ huy hoàng, cộng với kỹ thuật sơn son thếp vàng của tiền nhân
trong nghệ thuật cung đình thì sơn mài của mình còn tiến xa lắm.
Không ngờ lúc hai thầy trò đứng nói
chuyện, Mười Phi và Sáu Dân đứng kế bên đó nghe (Sáu Dân là bí danh của Võ Văn
Kiệt). Do đó, tuần sau Ba Nên lại mời tôi đến gặp bọn lãnh đạo Sở Ngoại Thương
Thành phố. Họ bàn tính với tôi về kế hoạch lót ổ cho gà mái đẻ. Có nghĩa là họ
trang bị xưởng để bọn tôi sản xuất và họ mua sản phẩm để trừ nợ.
Tôi phải kiếm cho họ vài chục người
họa sĩ như tôi. Sau cùng tôi chỉ rủ được bốn năm người là nhiều nhất vì anh em họa sĩ bây giờ không
tin nhau nữa. Hơn nữa, ngành sơn mài cũng rất xa lạ đối với anh em hội họa. Anh
Văn Đen, họa sĩ Nguyễn Siêu, Nghiêu Đề, Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Lâm... chúng tôi kết
thành một nhóm ký hợp đồng với Sở Ngoại Thương là Bảy Thân và Ngô Văn Hòa.
Ở đây, người ta không nói chuyện đến
tác phẩm nghệ thuật. Họ chỉ gọi là sản phẩm thôi nên tranh được tính bằng mét
vuông. Mỗi mét vuông lúc đó được trả một lạng vàng. Họ quy ra tiền Hồ là hai chục
ngàn đồng.
Chúng tôi chỉ vẽ dông dài hoa xuân và thiếu nữ như nhạc
tiền chiến là lấy ăn. Không ít thì nhiều, mỗi tháng anh em chúng tôi cũng phải
giao hàng để trừ số nợ do nhà nước cung cấp vật tư và dựng xưởng cho mình. Còn
bao nhiêu thì kéo nhau đi nhậu nhẹt.
Anh Văn Đen lúc ban đầu có hơi ngại.
Anh ta nói:
- Tôi xưa nay chuyên về sơn dầu. Bây
giờ chú Hiếu Đệ rủ tôi mài như vậy, chú phải xuống giúp anh đó nghe. Chuyện sơn
son phết vàng, anh chẳng bao giờ làm.
Cũng vì vậy nên chiều nào tôi cũng
ngồi uống rượu với anh Năm nơi mấy quán cốc trước trường Minh Hiển ở ngả tư
Nguyễn Tri Phương, chung bàn với mấy ông già xe ba bánh, xích lô và tài xế xe
đò ở xóm Vườn Lài, đến quen thân như bà con ruột thịt cũng không bằng. May sao
đến năm 1983, Hiếu - con trai của anh Năm đi học tập cải tạo được thả về.
Nghe đâu trước đây Hiếu làm Đại úy
coi tù Việt cộng ở đảo Phú Quốc nên bị cải tạo gần chục năm. Đến khi về thì bị
vợ bỏ đi lấy chồng khác nên nó phải ở với cha. Tôi huấn luyện cho Hiếu làm thợ sơn
để giúp anh Năm những khâu hom, bó, lót, mài, đánh sơn then, sơn phủ, cẩn, chạm
và đánh bóng nên anh làm tranh rất khoẻ.
Chúng tôi bàn tính với nhau. Đất nước
Việt Nam còn lâu mới bước lên Kỹ Nghệ Hóa được. Nó còn phải sống bằng nông nghiệp
và ngành thủ công nghiệp cả vài chục năm nữa cũng chưa cất cánh nổi. Anh Năm đắc
ý, lên Bộ Giáo Dục vất cái đơn xin nghỉ dạy học nhằm lúc nhà nước phát động
phong trào khuyến khích công nhân viên
chức tự nguyện làm đơn xin giảm biên chế để cứu đảng. Vì chánh phủ hết tiền trả
lương cho cán bộ.
Nghĩ cũng vui cười! Làm việc cho nhà
trường cả hai chục năm, đến khi xin nghỉ lại được hoan nghinh tinh thần tự nguyện
rút khỏi biên chế.
Rõ thật khôi hài!
Cả đám chỉ mình tôi giao hàng mạnh
nhất, có tháng hằng chục mét vuông. Những bức tranh nào được khách hàng nước
ngoài đắc ý, được Ngoại Thương đặt hàng nhân lên đến năm ba chục bức. Sản phẩm
nhân cũng được y giá như tranh sáng tác. Khi xưởng thiếu tranh, tôi đưa khách lại
Ngoại Thương để mua một số tác phẩm có chữ ký Hiếu Đệ thì họ bắt khách hàng
nhân giá thành lên gấp năm lần. Trong khi đó, hợp đồng ký năm 1982 giá sản phẩm
trả cho mỗi mét vuông là hai mươi ngàn đồng vẫn giữ nguyên như cũ.
Đã trải qua đến bảy năm sau, giá trị
đồng tiền ngân hàng bị tuột xuống mỗi năm tối thiểu mất 30%. Anh em họa sĩ phản đối ra mặt. Hơn nữa,
số nợ về vật tư, anh em đã trả dứt từ năm 1983. Sau cùng, đến năm 1985, đôi bên
dứt điểm, đường ai nấy đi, không còn buôn bán làm ăn với nhau nữa. Lúc này,
khách mua tranh cũng biết anh em nghệ sĩ chúng tôi đã có xưởng vẽ riêng đàng
hoàng nên chúng tôi không sợ đói.
Ngày xưa, nhà văn Vũ Trọng Phụng thường
nói ở đời chẳng có ai ghét nhau bằng bọn cùng nghề. Ở xóm Khâm Thiên, đám đĩ
già còn đánh lộn với nhau hằng ngày đừng nói chi đến đĩ trẻ. Đám họa sĩ đảng
viên ở Hội Mỹ Thuật kiện tôi, bảo rằng nhà nước bất công, Hiếu Đệ chưa có quyền
công dân sao lại mỗi tháng được nhà nước phát cho đến năm ba lượng vàng.
Đám Mười Phi trả lời là chúng tôi
buôn bán làm ăn chớ không phải phục vụ đảng, không có vinh dự được làm nghệ thuật
đích thực như anh em hội viên Nghệ Thuật Tạo Hình của đảng và nhà nước. Những
năm đó, tôi vẫn vẽ Nhà lá cây mít, Thiếu nữ và hoa xuân... thế mà tranh tôi vẫn
bán ì xèo, làm Năm Chánh, Phòng Học Vụ của trường Đại học Mỹ Thuật đến xưởng vẽ
của tôi hỏi thăm.
Chánh mang theo ba bức tranh nói là
mua rẻ được ở chợ trời để đem về lấy bố. Giá ba bức chỉ có trăm bạc, quá rẻ. Tôi buột miệng vỗ đùi
khen tấm tắc.
Tôi bảo rằng:
- Ba bức này đẹp quá. Mày đừng có vẽ
đè lên mà uổng. Về bố cục, màu sắc và tạo dáng thế này là hay vô cùng.
Tôi chỉ cho nó coi từng phần. Cuối
cùng, tôi nói:
- Người nghệ sĩ ngồi trước giá vẽ phải
thật tình với chính mình, tức là dân tộc và nghệ thuật. Chúng ta không được làm
dáng, không dược a dua chạy theo bè phái, kể cả thị hiếu của đám đông. Chẳng cần
đi tìm ở đâu xa vời. Nghệ thuật chân chính đang nằm trong trái tim của mình
đây.
Sau hết tôi nói thêm:
- Tớ sẽ mua lại ba bức này, mỗi bức
ba trăm dồng, chú mầy chịu hông?
Năm Chánh cười lăn ra:
- Tao phục tài mầy quá. Ba bức
tranh này chính do tao vẽ. Tao muốn mầy bình phẩm và cho ý kiến. Thì ra mầy đã
cho tao bài học rất hay.
Năm
Chánh tức họa sĩ Lê Minh Chánh làm bạn với tôi từ hồi đánh đáo ở sân trường tiểu
học. Nó tập kết ra Bắc và học Mỹ Thuật Liên Sô về. Thế mà bây giờ nó cũng chẳng
biết làm hội họa là phải như thế nào.
Nó
làm phụ tá cho Lê Phước Sanh, Quản lý chương trình học vụ của trường Mỹ Thuật.
Chánh mới lấy cô vợ gốc tư sản có bằng Fashion Design ở Pháp.
Đám cưới xong, cha mẹ vợ được bảo lãnh đi Mỹ. Vợ chồng
Chánh được hưởng cái villa to tướng trên Đà Lạt. Vợ nó làm ra tiền hơn nó rất
nhiều vì vào buổi kinh tế thị trường, phụ nữ có xu hướng đua nhau ăn diện.
Mùa
hè năm 1986, tôi gặp Nguyễn Vạn Lộc ở phòng trưng bày tranh của Building Rex.
Tôi vừa bán được rất nhiều tranh và được phòng kế toán đưa cho một số tiền khá
lớn, tôi kéo Lộc xuống nhà hàng Majestic nhậu một bữa linh đình theo kiểu Tây
thuộc địa. Nhậu say rồi, Lộc móc bốp ra khoe hình vợ đầm của nó và mấy đứa con
lai đã đổ bác sĩ, có đứa thì lấy chồng giàu.
Tôi hỏi:
- Sao
mầy không về Pháp sống với vợ con, ngu gì lại ở Việt Nam bị đày đọa khổ như con
chó!
Nó cự
nự:
- Muốn
đội quần sao mà đòi về? Hồi đó, tao đứng ra thành lâp Hội Trí Thức Yêu Nước.
Tao đã đứng trên diễn đàn đốt phéng nó cái giấy thông hành và căn cước quốc tịch
Pháp. Hết cả rồi! Có thế mới hô hào mọi người quyết tâm xây dựng Xã hội Chủ
nghĩa chứ.
Tôi hỏi
nó về vụ "Thổ huyết chất xám", vụ anh em trí thức vượt biên mà Lộc bị
lôi ra tòa kêu án bảy năm. Việc đó như thế nào?
Nó
khóc:
- Tụi
mình chỉ còn một lối thoát duy nhứt là ra đi, nhưng việc tổ chức ra đi lại do
chính bàn tay của bọn họ. Do đó
nên kẹt hết cả đám! Cũng đành vậy thôi!
Bẵng
đi một thời gian, một hôm tôi đi ngang qua Hội Mỹ Thuật ở đường Nguyễn Thị Minh
Khai thấy có cái đám ma. Tôi vội ghé vào xem thì thấy họ đề hàng chữ to tướng
"Họa sĩ Nguyễn Vạn Lộc (1930-1986)". Tôi hỏi thăm nó qua họa sĩ Quách
Phong và anh Diệp Minh Châu. Nghe nói Lộc cùng năm bảy anh em đi vẽ tranh trên
cao nguyên Lang Biang. Anh ta tắm suối và bị tai biến mạch máu não.
Tôi
thấy người con gái mặc áo tang khoảng hai mươi tuổi là em gái của Đoàn Thi, Giám
đốc Phòng Quản lý Mỹ Thuật, một thứ công an của nghệ thuật. Hai anh em nó đều
là học trò của Lộc ở Trường Vẽ. Có điều tài sản của bác sĩ Nguyễn Vạn Kim để lại
cho Lộc rất lớn, gồm nhiều dãy phố buôn bán chung quanh chợ Bến Thành và trước
mặt lầu Chú Quả (Hui Bon Hoa) ở đường Phó Đức Chính. Tất cả đã lọt vào tay bọn
này.
Năm
xưa, Pol Pot và Iêng Sary có kêu gọi những nhà trí thức Cam-pu-chia thành công ở
nước ngoài về xây dựng đất nước. Nghe đâu họ về có hơn bảy trăm người, nhưng tất
cả đều bị giết trong một hầm tập thể. Iêng Sary nói là để trừ hậu họa, sau này
không còn ai trả thù hắn được.
Cuộc
đời Văn Đen cũng u buồn như màu sắc tác giả vẽ lên tranh. Vợ anh mất giữa năm
1965 để lại cho anh căn nhà trống trải với hai đứa con và một mảnh vườn. Cuộc đời
nghệ sĩ gà trống nuôi con thật thảm
thương. Niềm an ủi to lớn của Văn Đen là vẽ tranh và bạn bè. Bạn cả bốn vùng
chiến thuật, từ anh lính đến em bé mồ côi, đến ông già mù gãy đờn độc huyền rất
gần gủi trong tranh Văn Đen.
Cũng
như họa sĩ Van Gogh đã có lần viết thư cho Theo:
- Tôi
muốn vẽ em bé bán quẹt bên đường, mặc dù nét mặt của em nghèo khổ tối tăm nhưng
đôi mắt của em có cái gì huyền bí như hình ảnh của Chúa trong ngôi thánh đường.
Từ
ngày vợ anh mất, quán cơm lao động không còn nữa. Phố xá khu vực Nguyễn Tri
Phương cũng đã thay đổi, nhất là sau cuộc tấn kích năm Mậu Thân. Mảnh vườn của
anh Văn Đen đổi thành một dãy phố lầu.
Anh
cho biết là mấy người Hoa ở Chợ Lớn đề nghị với anh để họ xây thành một dãy phố
lầu và để cho anh được chọn hai căn phố ở bìa đường. Nếu chỉ vẽ tranh thì làm
cóc gì có nhà lầu to tướng như vậy. Hơn nữa, sau này mình để lại cho con cái vẫn
còn hơn mảnh vườn với vài chục cây mít. Dù sao, cuộc sống ở Nguyễn Tri Phương
cũng đã bị đô thị hóa rồi, mình cũng không nên luyến tiếc mảnh vườn xưa làm gì
nữa tuy nó đã mang nhiều kỷ niệm.
Năm
1983, tôi có dẫn mấy bạn Việt ở Canada ghé xưởng vẽ mua tranh của anh Văn Đen.
Hình như đêm qua, anh ta đi uống rượu về trễ nên sáng dậy không nổi. Chúng tôi
đánh thức anh dậy thấy giọng nói của anh có vẻ khàn khàn.
Văn
Đen bảo là hình như anh uống rượu nhiều quá nên khan cả tiếng, làm như có con
nhện đang bò trong cổ. Trong đám bạn, có vài người làm bác sĩ. Họ góp ý, đó là
những dấu hiệu có triệu chứng ung thư thanh quản. Họ đề nghị anh đi khám nghiệm
và giải phẩu. Có thể mình chận đứng kịp thời, còn chắc ăn được 70%.
Đến
lúc lũ bạn ra về, anh bảo bọn họ nói sai. Họ khéo "bói ra ma quét nhà ra
rác". Mình mạnh khoẻ vật trâu cũng ngã thế này mà ung thư cóc khô gì. Mấy
đứa học trò của anh và đám bạn bè như họa sĩ Nguyễn Văn Bảy, Huỳnh Văn Phụng dạy
ở Đại học Mỹ Thuật nói với tôi họ nghi ngờ Văn Đen bị ung thư thanh quản chắc
chắn, nhưng anh ta vẫn uống rượu và đi vẽ tranh tỉnh bơ.
Anh nói với tôi:
-
Cuộc đời như là bức tranh. Tất cả những bức tranh trong lịch sử mỹ thuật
đều vẽ như dở dang, chẳng có bức nào hoàn chỉnh hết. Bức tranh nào hoàn chỉnh
không còn chỗ nào để sửa chữa hoặc phê phán là những bức tranh dở, vẽ cứng ngắc.
Cuộc đời cũng vậy, dù sao nó cũng bị dở dang như một nhạc khúc, như một bức
tranh thôi.
Có hôm, tôi với Văn Đen rủ nhau đi vẽ
cảnh ở Lăng Ông. Lăng Lê Văn Duyệt ở kế Trường Vẽ chừng vài bước nhưng chúng
tôi ít khi vào đó vì từ ngày Việt cộng trưng dụng là tụ điểm Văn Hóa Quận Bình
Thạnh và Cung Thiếu Nhi, không cho đồng bào đốt hương cúng kiếng, cảnh Lăng Ông
trở nên vắng vẻ hoang phế. Tôi thấy
nó càng hoang phế, nó càng huyền ảo và đẹp.
Tôi nói với anh Văn Đen:
- Tụi mình cứ vẽ bằng tinh thần
"Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo" thì tự nhiên nó đẹp lên thôi. Vẽ tức
là phịa và cũng là vẽ vời đó mà. Cảnh một đàng còn vẽ một nẻo, vẽ lúc cảnh Lăng
Ông còn hưng thời, cờ quạt tưng bừng, khói hương nghi ngút, người đi dâng hương
rất vui vẻ.
Chúng tôi ngồi vẽ gần góc đường Lê
Văn Duyệt nhìn vô chánh điện. Phía sau chánh điện được biến thành rạp chiếu
bóng thường trực để tăng gia kinh tế cho địa phương. Bữa đó, họ chiếu phim chưởng
"Thần Điêu Đại Hiệp" phân ra nhiều tập. Phim bộ được nhập cảng lậu từ
Hồng Kông nên khán giả có vẻ đông đảo.
Dàn loa phóng thanh ra ngoài để làm
trật tự. Tôi nghe họ nói:
- Alô! Yêu cầu khán giả mua vé xuất
9 giờ coi phim xong xin hãy ra về để nhường chỗ ngồi cho khán giả mua vé xem
chiếu bóng xuất 11 giờ. Nếu quý vị không tự động tự giác thì toán công an chúng
tôi sẽ làm nhiệm vụ soát vé.
Tôi nói với Văn Đen:
-
Khán giả cũng tệ thật. Xem hát xong thì ra về chứ ngồi làm gì để cho người
ta đuổi. Yếu quá! Cho dầu có xem phim lại lần nữa cũng chẳng mấy hấp dẫn bằng
lúc đầu, vì mình đã thuộc cả rồi thì còn sướng ích gì. Tụi mình sống chiến đấu,
chà lết đã đời rồi thì có ngủm củ tỏi cũng chẳng sao, để cho con cháu nó tiếp nối.
Bịnh hoạn chỉ là cái cớ để cho mình ra đi thôi, anh đừng lo.
Tôi nói tiếp:
- Trong thiền học, có chuyện ông sư
cõng nàng thiếu nữ qua cái ao sen. Cõng qua rồi, ông để lại bờ ao chứ có cõng cả
đời đâu mà sanh chuyện. Có chết mình cũng sướng thôi, mình không còn mang theo
khổ đau qua bên kia thế giới nữa. Nợ đời cũng được rũ sạch! Có phải vui không?
Anh Đen cười, nụ cười có vẻ còn nhăn
nhó như con hổ trong nhãn chai rượu bia BGI mà bọn này thường uống mỗi buổi chiều.
Mấy lúc sau này, anh thường ghé nhà tôi. Có hôm, tôi đi vắng. Anh ngồi kể
chuyên với tiện nội tôi:
-
Thiếm Hiếu Đệ này, tụi trẻ nó bảo tôi có đến nhà ông thầy Hiếu Đệ thì phải
ngó chừng chiếc xe đò mang số 40B5035 không còn đậu ở trước nhà thì thầy hãy
vào. Vì vợ thẩy dữ lắm, chằn ăn trăn quấn lận. Bà không cho gặp ổng đâu. Vậy mà
sao tôi thấy thiếm rất hiền lành, đâu có như tụi nó nói. Khổ nỗi, mấy đứa học
trò nói bậy hết.
Vợ tôi hỏi:
- Anh Năm nghe ai nói vậy?
Thì anh trả lời:
- Thằng Nguyễn Văn Y và Mạc Chánh
Hòa.
Vợ tôi kể chuyện:
- Anh Năm nghĩ coi, bữa nào cũng vậy,
4 giờ sáng là em lái xe ra Xa cảng Miền Tây lấy tài lấy bến và cho khách lên xe, cơm hàng cháo chợ
đến năm sáu giờ chiều mới về tới nhà, thấy họ xoay trần ra uống rượu, nghĩ thấy
có tức chưa? Bảo em không đuổi họ ra làm sao được? Ai lại nỡ bất công như vậy.
Trong giờ hành chánh phải để cho ông Đệ ổng làm việc nuôi vợ nuôi con chứ. Anh
Năm đi dạy học đã đành. Hơn nữa, trong giờ làm việc, anh đâu được quyền uống rượu.
Còn ông xã của em, ổng đi cải tạo mút mùa còn dạy với ai được đây mà lũ học trò
cũ còn bu theo ổng làm gì. Nói thật với anh Năm, du đãng trong bến xe Lục Tỉnh
em còn đuổi chạy hết. Mấy đứa học trò của
ông Đệ đâu nhằm nhò gì. Chúng nó có lỗi, do đó chúng nó sợ em. Còn anh là đàn
anh trong nhà, anh không nên nghe lời tụi nó. Anh phải coi tụi em là em của anh
mới phải.
Anh Văn Đen vỗ vai tôi:
- Chú Hiếu Đệ ơi! Anh Năm mừng cho hạnh
phúc của chú. Chú phải có cô vợ như vậy mới được. Anh thấy chú được sống rất
nhiều ngày cưới. Ngày chú được về từ trại cải tạo. Ngày chú được về từ rừng U
Minh bởi sắc luật chỉ định cư trú và ngày chú ra tù vì tội vượt biên trái phép.
Anh Năm mừng cho chú thiếm.
Buổi sáng mùa đông năm 1985, họa sĩ
Nguyễn Văn Bảy đạp xe đến tôi cho biết là đã đưa Văn Đen đi cứu cấp ở Viện Ung
Thư Gia Định. Chỗ cancer nơi thanh quản bị vỡ ra làm nghẹt thở. Bác sĩ phải đặt
ống cho thở và để chờ giải phẩu. Nhờ Bảy quen lớn với số anh em bác sĩ ở bệnh
viện nên họ cố sức kéo anh ra khỏi
bàn tay tử thần.
Tôi đến Viện Ung Thư thăm anh. Lần đầu tiên, tôi đến
trại cứu cấp được thấy như mình đang đứng trước cửa địa ngục.
Sau vài tháng nằm trị ở bịnh viện,
anh được ra về. Tôi có ghé lại nhà thăm, thấy anh đã bắt đầu cầm cọ vẽ tranh trở
lại. Đầu cổ quấn đầy băng. Lúc này anh không còn nói được nữa, chỉ lấy giấy viết
bút đàm.
Anh viết:
- Nhất là trong những giờ phút này,
anh em nghệ sĩ không được bỏ tôi. Riêng Hiếu Đệ phải nhậu với anh mỗi buổi chiều.
Anh không còn uống rượu được nữa thì chú uống anh coi. Chú không có tiền uống
rượu thì anh trả, miễn sao thấy anh em đông đủ và say xỉn nữa là anh đủ vui rồi.
Mỗi lần xuống thăm anh Văn Đen và rủ
đi uống rượu, anh nháy mắt ra hiệu cho bọn tôi kéo nhau đến quán trước. Chừng
mười lăm phút sau, anh ta mới xỏ dép lẹp bẹp tới.
Có bữa ngồi chờ anh khá lâu, họa sĩ
Nguyễn Lâm hỏi tôi:
- Anh biết Hoàng Phúc Kế hông, anh Đệ?
- Biết chứ! Hồi anh học trường sĩ
quan Thủ Đức, đại úy Kế là sĩ quan tác xạ. Anh ta dạy tụi này ở sân bắn.
- Hắn là đệ tử của anh Đen, đi vẽ
chơi mỗi buổi sáng chúa nhựt đấy. Nghe đâu hồi xưa hắn có đi Pháp học nghề làm
đàn, cũng như anh Mỹ Tín ở đường Nguyễn Huệ. Đại úy Kế cũng có trưng bày tranh đôi lần ở Hội Việt Mỹ. Nhưng
hắn ta là họa sĩ ngày chúa nhựt (painter du dimanche) tài tử chơi thôi chứ vẽ
chẳng ra gì.
Nguyễn Lâm cho biết thêm:
-
Vậy là anh chỉ biết đại úy Kế hồi xưa thôi. Sau này, anh ta đi cải tạo về
cũng vẫn tiếp tục rủ nhau đi vẽ cảnh ở xóm Bà Hôm với anh Đen. Anh Kế sinh sống
bằng nghề cũ, nghề làm đàn violon. Anh Mỹ Tín dẹp tiệm rồi thì Hoàng Phúc Kế một
mình một chợ. Việt kiều các nơi về đặt hàng lu bù nhờ anh làm rẻ và đẹp hơn các
nơi. Hôm anh Kế được bảo lãnh đi Huê Kỳ, anh ta có bàn tính với anh Văn Đen là
anh ấy có cây đàn cổ của Ý, cây đàn của Toscanini từ hồi 1705. Nhạc sĩ
Toscanini nổi tiếng nhờ cây đàn nầy, gỗ xưa và mỏng, có âm thanh rất kỳ diệu.
Hoàng Phúc Kế bảo là Phòng Quản Lý Nghệ Thuật của nhà nuớc cũng từng nghe tiếng
cây đàn này nên họ nhứt định không cho đem ra khỏi Việt Nam. Đại úy Kế bàn đổi
hai mươi bức tranh của Văn Đen và trao cây đàn cổ để anh chơi. Anh Văn Đen nghe
nói mừng vô cùng vì anh ta đàn rất hay và mê cây đàn của Toscanini, cũng như hiệp
sĩ xưa họ mê kiếm báu. Nhưng cuối cùng thì gặp đồ dởm. Chỉ có hai mươi bức
tranh của Văn Đen là đồ thật. Còn cây đàn, anh Đen có đem đến Viện Khảo Cổ và
Trường Đại Học Tổng Hợp nhờ họ nghiên cứu và rọi C Carbone hay tia sáng DNA gì
đó. Họ cho hay là cây đàn này được làm từ trại cải tạo cũng như cây trăm, cây
lược anh làm tặng cho chị Đệ vậy thôi. Ở trại tù, họ làm cây đàn này, chạm trổ
rất kỹ coi như không cần thời gian. Con người từ ở trại cải tạo về, có người bị
vong thân phóng thể, hư hỏng một cách không thể nào đoán trước được. Tôi hỏi
anh chớ Hoàng Phúc Kế từ trại cải tạo về làm gì sưu tập đến hai mươi tác phẩm của
Văn Đen. Môn đệ hay nghĩa đệ thời nay chơi ông thầy là chuyện thường. Nói cho
anh Đệ nghe thôi, anh đừng có cự nự anh Đen làm ảnh buồn. Tụi nó nói cũng tại
cái vụ tên Kế này mà anh Năm buồn, anh ngã đau luôn đấy. Trước kia, anh Đen có
nâng đỡ Nguyễn Phát Minh cho nó đổ đầu ở Trường Mỹ Thuật, gả con gái cưng cho
nó, tổ chức trưng bày tranh cho Nguyễn Phát Minh. Sau này, cô con gái không còn
làm ở sở Mỹ nữa nên bị chồng ly dị, đem bầy cháu ngoại về cho anh Đen nuôi. Cuộc
đời là như vậy đó. Anh Đen đi tìm sự thật trên nghệ thuật nhưng toàn bị sự đểu
nó vây chặt lấy mình.
Mới đây, ngày 31 tháng 5 năm 1998,
nhà biên khảo Hoàng Phúc Kế với tư cách nghĩa đệ của cố họa sĩ Văn Đen có trình
bày tác phẩm và thân thế sự nghiệp của tác giả tại Phòng Sinh Hoạt Hội VAALA
(Vietnamese American Arts and Letters Assocation, Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ
của nhóm người Việt Đỗ Ngọc Yến, Lê Đình Điểu, Phạm Phú Minh...) ở 11022 Acacia
Parkway, Garden Grove, California. Đây là những tác phẩm có giá trị chính ông
sưu tầm và ấn loát.
Quái lạ lúc này Văn Đen vẽ hăng say,
khởi sắc hơn. Hiếu, con anh ra sức lót bố căng khung để anh lên tranh đến không kịp. Hơn nữa, màu
sắc trên tranh lại tươi thắm lạ lùng.
Hay là ngọn đèn sắp tắt, nó cháy bùng lên rất đẹp chăng?
Hôm đó, chị Đỗ Mai Lan ở Texas về Việt
Nam thăm nhà, tôi có đề nghị chị Lan nên giữ của Văn Đen một số tác phẩm. Tôi đến
nhà anh chọn cho chị ba mươi bức sơn dầu rất đẹp. Chị rất ưng ý. Tôi còn nói
sau này anh Văn Đen chết rồi, mấy bức tranh đó sẽ là quốc bão. Chị muốn mua một
bức cũng khó khăn.
Hơn nữa Sở Quan Thuế và Phòng Quản
Lý Mỹ Thuật sẽ không bao giờ ký giấy cho chị mang ra khỏi Việt Nam. Chị mà
không giữ số tranh ngay bây giờ thì vài năm sau, Sở Văn Hóa sẽ đến đây đánh số
là kho tàng nghệ thuật của quốc gia thì không ai còn được nói chuyện mua tranh
của Văn Đen nữa.
Nhờ thế, chị Lan đã mang được một số
tác phẩm của anh Văn Đen đi Mỹ. Mà cũng là một dịp rất may mắn, anh có được một
số tiền khá lớn trong những ngày cuối đời.
Mấy buổi chiều đến thăm anh, anh
nháy mắt làm ám hiệu bảo tôi ra ngồi quán trước, nơi góc bàn quen thuộc. Khoảng
chưng 15 phút sau, anh mới mặc áo bước ra.
Anh viết bút đàm bảo rằng:
- Mình đau gần chết, con cháu chúng
nó thương quá, xúm lại lo cho mình. Trong khi đó? mình lại còn uống rượu nữa, bảo
chúng nó không buồn sao được?
Thật ra thì anh cũng không còn uống
rượu được nữa nhưng anh vẫn nhớ cái không gian của quán nhậu (nostalgie de
l'ambiance), nhớ bạn bè hơn cả vợ con. Cũng trong dịp tết năm đó, nhà anh cũng
sắm sửa đầy đủ hoa xuân và câu đối đỏ. Anh còn ngâm đầy hai hũ rượu thuốc để chờ
anh em đến say sưa đón giao thừa và chúc nhau mừng năm mới.
Năm đó cũng là năm sau cùng của anh.
Anh Văn Đen mất ngày 20 tháng 12 năm 1988. Tôi có đến dự đám tiễn đưa anh đến
nơi an nghỉ cuối cùng. Tôi nhìn lên bức chân dung sau cùng mà tôi thích nhất, vẽ
anh đang cầm bảng pha sơn và bút cọ, nét mặt tươi cười, đầu cổ đang quấn đầy
băng trắng.
Bức tranh như muốn nói với người
xem:
"Chừng nào chết chẳng cần biết.
Bây giờ, tớ cứ vẽ cho đã tay rồi hãy tính".
Chỉ có nghệ thuật mới sống hơn con
người và vĩnh hằng hơn con người.
Tác phẩm nghệ thuật muôn đời như
dòng sông rì rào, như ngàn sao lấp lánh.
Hiếu Đệ
-**-
Con Sao Chiếu Mạng
Tiếng súng nổ ngày càng gần
nơi xóm tôi ở, thuộc vùng ngoại ô thủ đô Sài Gòn, về hướng miền sông nước bạt
ngàn Hậu Giang. Chiều ngày 29 tháng Tư 1975 đau thương tức tưởi đã thấy thập
thò lấp ló đó đây vài tên cán bộ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam với dép râu,
nón tai bèo, khăn rằn mốc thếch quàng ở cổ...
Với vẻ mặt hốc hác ngớ ngẩn, tóc tai
bù xù, trông mệt nhoài nhưng tay vẫn cứ lo le khẩu A.K trong tư thế chiến đấu,
chúng vừa bách bộ vừa chạy lúp xúp từng tốp nhỏ năm ba đứa đổ về trung tâm thị trấn Phú Lâm, quận Sáu. Trông chúng như đang
hấp tấp dò la tìm đường tiến về phía thành phố Sài Gòn thì phải.
Lúc bấy giờ, trên khắp các con đường
lớn nhỏ, kể cả những ngõ hẻm ngoằn ngoèo uốn éo bất tận trong các xóm nghèo nàn
xác xơ, những con hẻm ngày xưa khách lạ một khi bất hạnh lạc bước vào đây chẳng
thế nào định hướng được đâu là đường ra lối vào, người người tất tả ngược xuôi,
xuôi ngược. Một cảnh hoảng hốt hỗn loạn, tới lui như mắc cửi chưa từng thấy với
đủ loại xe cộ và phương tiện di chuyển cá nhân xô bồ.
Họ kêu réo ồn ào, ới gọi nhau không
thôi. Kẻ đi tới. Người thối lui. Họ không biết phải đi về đâu? Rõ là không khí
hãi hùng hồn phi phách tán của cảnh chạy giặc!
Nhà tôi ở thuộc mặt tiền, trổ cửa
ngõ ra đường Phú Định. Con đường này có lúc đổi tên là Phan Văn Trị, một nhà
yêu nước tên tuổi lẫy lừng qua những bài Đường thi cổ vũ tinh thần chống Pháp
xâm lăng dưới triều đình vua Tự Đức.
Cuộc đất nhà tôi nằm sát bên cái cống tháo nước, trước
đây do Tây thực dân xây bằng xi măng cốt sắt chắc chắn. Thuở nhỏ, đây là nơi hẹn
hò tụ năm tụ bảy rong chơi khét nắng của lũ chúng tôi, thuở lục lăn lục lửa,
phá đình phá xóm vào những ngày nghỉ học.
Do vậy, người dân quanh vùng gọi địa
phận này là Xóm Cống. Nó rất dễ nhận diện nhờ cái cống khá to bằng xi măng cốt
sắt ấy, sững sững gây sự chú ý của những người có dịp đi ngang qua.
Xóm có một quá trình hình thành không lâu lắm. Người
ta ước đoán ngót nghét năm ba thập niên để sau này trở nên đông đúc sầm uất. Nhứt
là từ sau thế chiến thứ hai chấm dứt với sự xâm lăng của đoàn quân viễn chinh
Pháp lâm le tái chiếm Việt Nam.
Phía sau nhà tôi có mấy dãy nhà lá,
nhà tôn hắt hiu thầm lặng. Những dãy nhà này cũng lâu đời lắm, cất xan xác, níu
kéo nương tựa nhau qua những tấm vách chung ranh kết bằng tre đan hay sóng lá dừa
nước thưa rểu.
Người nhà bên này nếu cắc cớ hay tò mò có thể nhìn
thông suốt tận nhà bên kia rất dễ dàng. Có nhà cất chồm hẳn lên khít vách bức
tường ranh của gia đình tôi.
Hôm nay, bỗng dưng mọi người trong
xóm xôn xao ứng lên nói cười náo nhiệt. Chỉ nghe tiếng ồn ào rùm trời rùm đất
không dứt của họ đủ hiểu họ đang sung sướng phấn khởi lắm.
Chốc chốc, họ la ó ầm lên:
- Quân Giải phóng sắp về tới nơi rồi
bà con ơi. Mau ra mà coi. Thiên hạ đông vô số kể, đầy đường đầy sá.
- Sài Gòn sắp đổi chủ. Lính tráng, cảnh
sát chẳng còn ai giữ an ninh trật tự cả.
- Độc Lập, Tự Do rồi cô bác ơi. Mình
sẽ hết nghèo khổ!
- Mình sẽ được chia của của người
giàu...
- Sung sướng tới nơi...
- Suốt cả đời mới trông thấy ngày
này...
Họ rủ nhau, thúc hối ùa ra đường
theo dõi tình hình do tánh hiếu kỳ cố hữu của họ mà nhân thể cũng để chào đón,
trông tận mặt những người chủ mới. Họ tập trung từng nhóm lóng nga lóng ngóng
hai bên lề đường, tha hồ mạnh ai nấy nói. Tha hồ bàn ngang tán dọc, thêm thắt
tình tiết, tranh nhau phô trương sự hiểu biết rộng rãi của mình.
Có lắm người trọng tuổi tỏ ra biết
nhiều chuyện xưa quá đổi xưa. Họ cố gắng moi móc tận trong trí nhớ năm ba cái
tên trong xóm như thằng Hai Nghé, thằng Sáu Tửng, thằng Bảy Xinh... con Ba Lụa,
con Tư Xiếu, con Tám Mắm... họ đã quên lửng từ hai ba mươi năm qua, nay bỗng
nhiên họ muốn tìm gặp lại trong số những người "đi kháng chiến" hay
"làm cách mạng" sống sót trở về. Dĩ nhiên thân nhân và nhóm bạn bè nối
khố của những tên này càng nôn ruột phập phồng hơn ai hết.
Thằng Hai Ngọng ong óng với giọng ngọng
nghệu bẩm sinh, nức cục từng tiếng một. Nó dõng dạt khoe lớn tiếng với mọi người,
nó vừa chở về trên chiếc xe xích lô đạp bóng nhoáng của nó hai bao gạo chỉ xanh
nặng ì ì.
Nó rất hãnh diện về kỳ công ấy của
nó vì cũng phải chen lấn khổ nhọc lắm nó mới lôi được mang về đến tận nhà. Nó
không ngớt huynh hoang kể lại thành tích hiếm hoi này trong đời vì từ lúc cha
sanh mẹ đẻ đến giờ phút sung sướng tột cùng này, có bao giờ nó trông được thấy
đến hai bao chỉ xanh gạo trong nhà nó đâu.
Người ta xúm xít bu chung quanh nó.
Họ không ngớt hỏi han nó đủ mọi chuyện chấp nối, không đầu đuôi. Có lúc có quá
nhiều người tranh nhau gạn hỏi nó tới tắp nên chẳng ai nghe được gì cả. Thêm
đám con nít chộn rộn nói cười không dứt. Bên ngoài hẻm chỉ nghe tiếng nó trội hẳn
lên như một người hùng vừa đạt thành tích lẫy lừng được bà con ngưỡng mộ, hoan
hô tán thưởng.
Thì ra nó vừa cùng với đám thanh
niên và thanh nữ bụi đời sống lang thang ở khu thương mại Chợ Lớn Mới chen lấn
xông vào các kho, các chành lúa gạo để hôi của. Nó quát tháo, vò đầu bức tóc tiếc
hùi hụi do không thể lấy nhiều hơn được, mặc dù lúc ấy nó muốn lấy bao nhiêu
bao cứ tha hồ mà lấy tự do thoải mái.
Chủ tiệm, chủ kho, kể cả các nhân
viên người Chàm, người Ấn canh gát gìn giữ an ninh các chành các dựa đều đã rời
nhiệm sở, trốn lánh hoặc bỏ chạy từ lâu. Không một ai đứng ra ngăn cản bọn
chúng nó cả. Mà cản ngăn sao được trước một nhóm người đông như kiến đang khao
khát và đầy quyết tâm.
Vả lại, chiếc xe xích lô đạp của nó có trọng tải giới
hạn. Nó chở nặng quá mức nên còng lưng cong xương sống đẩy muốn hụt hơi.
Miệng nó vẫn cứ oang oang cổ võ,
thúc hối khan cả cổ họng. Nó lýnh quýnh ậm ự, đôn đốc bà con già trẻ lớn nhỏ
trong hẻm hãy chuẩn bị sẵn sàng để nhanh chân theo nó đi chôm chĩa hôi của, lấy
đồ đạt vô chủ.
Ôi thôi đủ thứ vật dụng. Đủ loại đủ
cỡ.
Cả thức ăn thức uống hằng hà sa số, vung vẩy bừa bãi.
Cứ tha hồ khuân vác. Chỉ sợ sức mình không kham nổi mà thôi.
Nó đoan quyết như vậy và lập đi lập
lại mãi không biết bao nhiêu lần. Dương như nó muốn cho mọi người chung quanh
tin nơi lời nói thành thật chắc cú của nó:
- Các kho hàng, cửa tiệm kinh dinh lộng
lẫy, ngày nào cửa nẻo và song sắt vòng trong vòng ngoài mấy lớp với những ổ
khóa nhập cảng tổ bố chánh hiệu Pháp Quốc hay Hoa Kỳ, bây giờ hầu hết đều mở
tung toát hoát. Các ông chủ bà chủ người Tàu hay người Việt đều hoảng sợ nên đã
trốn chui đâu mất hết cả rồi. Phú lích chẳng còn một bóng. Mau lên. Tôi chuẩn bị
đi đây.
Cảnh rầm rộ, kêu réo nhộn nhịp. Người
ta chạy tới chạy lui thình thịch không dứt. Từng chập phát ra đâu đó một vài tiếng
súng lẻ tẻ nhưng chẳng làm cho một ai chú ý đến cả.
Chạng vạng tối, đèn đường vừa mới phựt
lên vàng nhạt yếu ớt, lại có tiếng rổn rảng, nức cục nặng nề ngắt khoản của thằng
Hai Ngọng. Mỗi lần có mặt nó ở cái hẻm nhỏ vốn quanh năm thầm lặng đến độ lạnh
lùng trước đây, nay chỉ không quá hai mươi bốn tiếng đồng hồ mà đã bừng hẳn lên
để có tiếng có tâm của nó.
Nó vừa chở về hẻm thêm mấy thùng cạt
tông to tướng đủ thứ vật dụng lỉnh kỉnh gồm vải sồ, đường sữa, radio, tivi, cả cái quạt máy cồng kềnh
lớn đại, loại quạt treo ở trần nhà. Mấy cánh quạt to tướng dài sọc được nó ghịch
trên mui xe xích lô, che chắn tầm nhìn nên nó chỉ còn nước đẩy xe chớ không có
cách nào khác hơn được.
Mệt mỏi, mồ hôi dầm dề ướt đẫm hai vạt
áo trước sau đã sẫm màu và vá vếu nhiều nơi, nó gần như đuối sức do cố gắng
liên tục suốt buổi chiều hôm đó. Dù vậy, nó vẫn nhanh tay khệ nệ khiên các chiến
lợi phẩm bỗng dưng tự trên thinh không rơi xuống mà có đó vào nhà, rồi quày quả
tiếp tục đi thêm một chuyến đêm nữa.
Tiếng nó lại reo lớn lên nơi đầu ngõ
trong sự vui mừng tột đỉnh khi thấy thằng em út của nó, thằng Cu Chút Chít, da
dẻ đen đúa, mình trần như nhộng, đang khổ nhọc tập trung lăn một lượt hai cái
bánh xe hơi. Một nạn nhân khốn khó nào đó, trong lúc hoảng hốt tháo chạy cứu
thân, đã không ngần ngại bỏ chiếc xe mua sắm bằng mồ hôi và nước mắt của mình
bên lề đường.
Chẳng mấy chốc, chiếc xe đáng giá mấy
chục cây vàng vào thời buổi tranh tối tranh sáng khó khăn nhập nhầy ấy bị đám
đông, lớn có nhỏ có, tranh giành nhau xẻ thịt nhanh chóng gọn hơ. Chiếc xe chỉ
còn sót lại vỏn vẹn có cái sườn, nước sơn vẫn láng coón mướt mượt.
Hai Ngọng thêm hừng chí khi chợt thấy
thằng Ba Búa, cùng dãy nhà với nó đang kéo lê kéo lết một cái tủ lạnh kiểu Mỹ
to tướng trắng tinh màu bông bưởi mà chắc chắn nó chỉ nhìn thấy và sờ mó lần đầu
tiên trong đời. Ba Búa khoe với nó vừa chôm được ở nhà một công chức cao cấp đã
bế cửa bỏ chạy trước đó vài tiếng đồng hồ.
Cái tủ lạnh quá nặng. Nó phải giải quyết trậm trầy trậm
trật trong đơn độc một mình cả buổi trời.
Ở giờ phút khẩn trương hoảng loạn
này, mạnh ai nấy lo phần riêng tư cá nhân mình. Chẳng ai để công hoặc dư dả thời
giờ tiếp tay ai được.
Ba Búa gồng đôi tay gân guốt lực điền đẩy nhít tới chỉ
được non non một thước tây là phải nghỉ một đổi. Cứ như vậy, nó đã trì chí lôi
trên cả ngàn thước đường. Giờ thì thằng Ba Búa rất hả dạ.
Rồi con Tư Lém, em gái út của thằng
Hai Ngọng lại kéo về xóm, cũng trong khó khăn nặng nhọc không kém, hai tấm nệm
Mỹ dầy cui được nó cột ghịch vào nhau. Nó cứ nhít tới... nhít tới từng tất đường...
Cả xóm phấn khởi trong niềm vui nhận
được của cải quý giá và cần thiết từ trên trời cao rơi xuống bất thình lình.
Nhiều người còn thốt ra nhẹ nhõm khi nghĩ rằng suốt cuộc đời lam lủ khó nghèo,
chưa một lần họ dám ước mơ tới.
Những ngày kế tiếp, chiếc xe xích lô
đạp làm chưn làm cẳng của thằng Hai Ngọng vẫn giúp nó có những chuyến tới lui
đi về đầy nhóc phẩm vật. Thứ nào đối với nó cũng có giá trị, những thứ cả một đời
cha mẹ nó chưa hề mó tay đụng đến bao giờ.
Nó sung sướng, toại nguyện biết bao.
Hồi trước nó ăn nói nhỏ nhẹ ngoan hiền,
khép nép rúm mình giữa chỗ đông người, đi đứng lom khom chậm rãi bao nhiêu thì
giờ đây nó mạnh dạng, ong óng to tiếng, dáng vẻ không đến đổi nghinh ngang coi
trời bằng vung, nhưng xem ra như một mình một chợ, chẳng thấy có ai chung quanh
nó cả. Và cái giọng cà lăm lập cập, ậm ự đứt khoản của nó càng rền hơn nữa.
Hai Ngọng nhìn tới nhìn lui ngắm
nghía, tỏ ra bằng lòng thỏa chí khi trong ngôi nhà lá sàn đất hãy còn lởm chởm,
phênh vách chằng khíu vá vếu khắp nơi, nay có bàn có tủ, có giường, có nệm, có
quạt máy, radio, có cả tủ lạnh, truyền hình... dù nó chỉ để làm cảnh cho sang
nhà sang cửa. Chớ thực tình, với những dụng cụ, máy móc và tiện nghi tân tiến ấy,
nó làm gì biết sử dụng bao giờ.
Lúc hứng chí, nó cười ngắc nga ngắc
ngoải rồi thốt lên những lời bốc đồng xuất phát từ cảm nghĩ bộc trực và thực tế
trước mắt nó:
- Cám ơn "cách mạng". Cám
ơn Mặt trận Giải phóng Miền Nam.
Nó còn nói chắt nịt:
- Không có "cách mạng" làm
gì tôi có được đầy đủ những thứ này.
Thỉnh thoảng, nó kêu gọi mời mọc mấy
bà con chung quanh vào nhà nó để nó khoe những thứ không mua mà có, không ước
mà đến, không mơ mà được. Nó nói nó vừa trúng số độc đắc Kiến thiết Quốc gia
không bằng. Dù bao nhiêu ngày qua rồi mà nó vẫn chưa hoàn hồn, tỉnh táo. Đầu óc
nó đang lửng lửng ở đâu đâu.
Nơi cái Xóm Cống nghèo nàn quanh năm
u buồn trầm lắng này, nhứt là nơi con hẻm không tên, không biết bắt đầu từ đâu
và chấm dứt nơi nào với nhà cửa không số, giờ đây gia đình nào kể như cũng có
được chút ít này nọ, vừa đủ để trang trí cửa nhà và cũng vừa để tiêu dùng thoải
mái. Họ xài thả cửa thả ga là khác. Vì là của làm ra không vốn, không tốn một
nhểu mồ hôi tạo dựng nên mấy ai biết xót xa đau lòng bao giờ.
Trong cảnh tình đó, chỉ riêng thằng
Hai Ngọng là may mắn và trội hơn ai hết. Nó phất lên nhờ vào phương tiện di
chuyển và chuyên chở là chiếc xe xích lô đạp nó mướn chạy đưa khách từ lúc ngấp
nghé vào đời.
Giờ đây, chẳng những nhà nó có quá đầy
đủ tiện nghi như vậy nhưng hơn thế nữa, nó còn làm chủ chiếc xe mướn ấy. Chủ
hãng xe đã bỏ đi biệt tâm biệt tích hay đã ra khơi khi "cách mạng" ồ ạt
đến cưỡng chiếm thành phố bằng A.K và mã tấu. Chiếc xe xích lô đạp này có từ đời
cha nó đến đời nó, hai thế hệ đạp xe mướn tiếp nối nhau.
Cả hai từng cong lưng đạp ngày hai
buổi, đạp cả ban đêm đón đưa khách. Và họ ôm ấp ước mơ thầm kín một ngày nào đó
sẽ được diễm phúc làm chủ vĩnh viễn chiếc xe. Nhưng ước ao đó vẫn xa lạ mãi với
hai cha con nó từ suốt mấy thập niên ròng đến nay mới thực hiện được.
Bây giờ, cứ mỗi chiều chiều, người
ta thấy chiếc xe xích lô nằm gọn trong sân nhà nó. Và nó nghĩ từ giờ phút hân
hoan hạnh phúc khó tả nên lời này, nó đã làm chủ và thực sự làm chủ chiếc xe,
chớ không còn chờn vờn trong ao ước mông lung mơ hồ như thuở trước nữa.
Nó hãnh diện đã thực hiện được giấc
mơ duy nhứt mà ngày xưa cha nó đã từng âu yếm ấp ủ để cuối cùng mang theo xuống
tuyền đài trong nỗi thất vọng não nề. Tội nghiệp, trong niềm vui ấy, nó không
quên thắp lên một nén hương trên bàn thờ như để báo cho hương hồn cha nó biết,
giấc mơ xưa của cha nó đã là sự thật.
Thằng Hai Ngọng con của anh chị Tám
Thơm, một gia đình kỳ cựu khó nghèo ở Xóm Cống. Chị Tám là người gốc gác ở đây
trong khi anh Tám mới đến sau ngày đám cưới.
Gia đình đông con cũng như bao nhiêu gia đình nghèo
khó khác. Trời sanh voi sanh cỏ, có bỏ ai bao giờ. Con cái vợ chồng anh sinh ra
sơn sởn. Chúng cứ sòng sõng lớn lên như thổi nhờ vào hai bữa cơm chánh hằng
ngày với cháo rau mắm muối làm gốc.
Chẳng có một đứa nào từng phơi bụng
phơi lưng, đưa ngực đưa tay chân cho bác sĩ khám bao giờ. Bất quá chúng chỉ uống
cao đơn huờn tán, thuốc tiêu... mua cà giựt cà giựt ở mấy tiệm thuốc Bắc nằm rải
rác chung quanh nhà lồng chợ Phú Lâm mà thôi. Cùng lắm là "Sưu độc bá ứng
hoàn" của Nhà thuốc Ông Tiên, nằm trên đường đi chợ hằng ngày của chị
Tám.
Dù vậy cũng ít khi lắm. Tốn tiền. Hơn nữa, chị Tám trổ
tài cạo gió, bắt gió, đánh lưng hay nấu một nồi xông lớn với đủ thứ lá cây
chung quanh nhà là quá đủ rồi.
Anh Tám làm nghề đạp xích lô mướn
nhưng có lẽ vì làm việc quá lao nhọc nên vướn phải bệnh lao phổi ngặc nghèo. Một
chứng bệnh của lớp người nghèo khổ túng quẩn, làm việc nặng nhọc, ăn uống thiếu
thốn, lâu ngày chày tháng mất dinh dưỡng, suy yếu.
Nhứt là khi đã biết bịnh, anh lại lơ là chểnh mản
trong việc chữa trị. Hôm nào đau, anh uống thuốc cũng qua loa. Lúc nào thấy khoẻ,
anh đạp xe thí mạng cùi.
Anh sanh thằng Hai đầu lòng trong nỗi
khấp khởi vui mừng, dòng tộc đã có người nối dõi. Ở Việt Nam, mọi người đều có
chung một quan niệm ấy. Nhưng khổ nỗi, nó có tật ngọng nghệu bẩm sinh. Hai vợ
chồng quả không được may mắn.
Hồi nhỏ, nó chậm lớn chậm nói. Ba bốn tuổi chưa phát
được hai âm chánh trong đời nó là hai tiếng ba má, mẹ cha. Anh chị Tám rất buồn
rầu âu lo nhưng đành cam tâm khoanh tay bất lực, phó mặc cho định mệnh.
Nhưng khi phát hiện nó ngọng nghệu,
cả hai không dấu được sự nhẹ nhõm, thơi thới trong lòng vì dù sao, nó không phải
là thằng căm, suốt đời ú a ú ơ làm dấu chỉ chỏ. Nhà nghèo lại có tật nên nó chẳng
ăn học gì, chỉ vừa biết đọc biết viết qua loa. Dù có tật và ăn học trật vuột
như thế nhưng nó tỏ ra tháo vát ngay từ ngày còn nhỏ hếu.
Thường ngày, nó lăn lóc đầu thôn cuối
xóm bắt cua bắt cá giúp gia đình có thêm chút ít để cải thiện những bữa cơm hẩm
hiu. Ai mướn làm gì nó cũng làm. Ai mượn chi nó cũng chẳng bao giờ từ chối. Đôi
lúc nó còn tự nguyện nữa.
Dĩ nhiên nó thường được bà con nhờ
vã và sau đó họ nhét vào túi áo nó chút ít tiền còm mua kẹo bánh hoặc giúp nó
góp nhóp tích tiểu thành đa đem về phụ cha mẹ. Mẹ nó cũng làm những việc chẳng
nhẹ nhàng gì. Chị Tám Thơm làm nghề gánh nước mướn, một nghề tuy không vốn,
nhưng cần đầu tư sức lực và thời giờ.
Gia đình thằng Hai Ngọng quả thật là
một gia đình nghèo nhứt xóm. Và cái xóm này cũng là cái xóm rách mồng tơi.
Người ta gọi là Xóm Cống vì có cái cống thoát nước từ
vùng Tam Giác Mũi Tàu đổ ra sông Ông Buông, cách trung tâm Phú Lâm khoảng mười
trụ đèn đường. Trụ đèn cuối cùng nằm ở đầu xóm, cạnh bên cống nước.
Đêm đêm, nhìn từ trụ đèn leo lét
vàng vọt này hướng ra phía đồng ruộng mênh mông bát ngát, cảnh vật tối om om.
Chỉ rải rác đó đây từ những thum nhà lá chơi vơi, đèn đuốc mập mờ hoi hóp ma
trơi. Cảnh thổ quả vắng vẻ đìu hiu như những vùng quê xa xôi ngăn cách.
Hồi trước, nói đến Xóm Cống, người
dân ở chung quanh chợ Phú Lâm đều lắt đầu ngao ngán do những ổ trộm cấp bám trụ
vào đây làm sào huyệt. Đến thời kỳ dằn co đấu tranh ý thức hệ, Miền Nam cương quyết chống Cộng sản Miền Bắc
xâm lăng, bọn đặc khu ủy Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định và sau này là thành ủy Sài
Gòn cùng quận ủy Quận Sáu thường đưa những đội cảm tử đặc công về ngang đây
đánh phá, gây rối Đô thành.
Xóm Cống càng bất ổn hơn. Bất ổn vì
nó là trạm dừng chân của đám cán bộ Cộng sản. Và cây cột đèn cuối cùng thường
xuyên bị chúng đập bể bóng đèn để dễ bề di chuyển ban đêm.
Xóm bỗng dưng trở thành cửa ngõ đưa
chúng vào thủ đô sau khi xuất phát từ chiến khu Đức Hòa, Đức Huệ hay Củ Chi về
qua ngã Bà Hôm, Bình Trị hoặc từ hướng Phú Định, Cây Cui đổ lên. Rồi những gia
đình ở nông thôn bất ổn tuần tự kéo về đây cất nhà tạm trú loạn cào cào châu chấu,
chằng chịt không sao kiểm soát nổi. Nhà chức trách địa phương hay các cơ quan
an ninh quận, thành lâu lâu cũng có phối hợp hành quân kiểm tra căn cước, nhưng
đôi lúc đành bó tay, nhứt là về đêm.
Lúc ấy, Xóm Cống hãy còn nhiều nơi
hoang vu, đầy những đầm vũng, ao tù. Chiều chiều, lúc vừa chạng vạng tối đỏ
đèn, rái cá, chồn cáo... tha hồ chạy giỡn nhảy múa ở những lùm buội hay ven
theo những dãy dừa nước từng đoạn giao ngọn nhau dầy mịt và môn sậy rậm rạp.
Nhân lúc đất đai khan hiếm do người
lánh nạn thời cuộc đổ về đây ngày càng đông và cũng do nghèo đói túng quẩn, anh
Tám Thơm thừa cơ hội thuận tiện hiếm có đó bán dần dần đất đai ngày xưa anh
đã từng một thời gia công cắt
ca cắt cũm lấp đầm lấp vũng mà có.
Dù lúc ấy anh rất đau lòng.
Sau đó, anh lại cật lực trong nhẫn nại
kiên trì, lấy tháng năm làm chuẩn, tiếp tục cứ lấn dần ra con lạch nước đã cạn,
nằm sát bên hông nhà. Nhưng khốn thay, vừa mới thành khoảnh, anh lại bán đi để
chạy gạo nuôi con và chữa trị tùy hứng căn bịnh trầm kha của mình.
Cuối cùng, trước khi nhắm mắt xuôi
tay trở về với cát bụi, bao nhiêu lần, anh tỏ ra rất toại nguyện vì vừa cất
xong một thum lá, kiểu nhà sàn của người dân thiểu số miền Thượng du cho đám
con nheo nhóc có nơi yên tâm tạm trú nắng mưa. Nó choáng một phần mé rạch và bắt
liếm lên dãy đất liền một đôi thước tây là cùng. Dù thế, gia đình anh sinh sống
quây quần đùm bọc, tuy nghèo túng nhưng trông cũng hạnh phúc ấm cúng lắm.
Thằng Hai Ngọng sinh trưởng và lớn
lên trên cuộc đất thấm đẫm mồ hôi của cha mẹ nó, thể hiện một quá trình hiện hữu
và sinh tồn không mấy sáng lạng của dòng tộc. Tương lai cuộc đời nó dường như
đã định sẵn như vậy rồi. Hang cùng ngõ hẻm nào nó cũng am tường, biết rất cặn kẽ
rạch ròi do thời thơ ấu lang bạt không định hướng.
Đến khi nó chưa kịp đến tuổi trưởng
thành, anh Tám Thơm cũng đã mệt mỏi đuối sức nên khuyến khích nó đạp xích lô
kèm với ảnh. Trông nó tội nghiệp làm sao khi thấy con người nhỏ thó, ốm yếu như
tre miễu của nó, cứ mỗi sáng sáng cà thọt cà thọt đẩy chiếc xe xích lô ra lộ
cái để nhảy thót lên đạp trật vuột khó khăn.
Ban đầu, nó đạp xe một đôi giờ trong
ngày. Về sau kéo dài một buổi. Thét rồi nó cũng quen dần, làm chủ chiếc xe chẳng
mấy chốc. Anh Tám Thơm quá đổi an tâm khi nhìn ngắm đứa con bất hạnh ngọng nghệu
của mình giờ đây đã thực sự trưởng thành trước tuổi và sẽ là trụ cột vững chắc
trong gia đình để một mai thay thế anh.
Về sau, anh giao hẳn cho nó chiếc xe
để nó chánh thức hành nghề đạp xích lô mướn, tiếp nối cái nghề kham khổ lao nhọc
và cũng để tiếp nối cuộc đời bươn chải bấp bênh của anh nữa. Quả đúng theo lời
ông già bà cả Miền Nam thường hay nói với nhau, nghề cha truyền con nối là vậy.
Đó cũng nhằm đúng lúc bịnh tình anh Tám Thơm có mòi trầm
trọng hơn. Tiền của lại eo hẹp, thuốc thang bữa có bữa không, anh không còn đủ
sức để đạp xe phon phon vun vút như ngày xưa.
Giờ đây, thằng Hai Ngọng đương nhiên
trở thành một nhân vật quan trọng nhứt trong gia đình. Mà không quan trọng sao
được? Nó phải tiếp tay mẹ nó chẳng những nuôi bao nhiêu miệng ăn, còn lo việc
chữa trị cho cha nó nữa.
Sáng sớm tung bửng, người ta thấy nó
đẩy chiếc xe đạp mà nó đánh bóng câm niềng, tay lái... bóng nhoáng sáng trưng,
tà tà chạy đi đón khách vô tư lự và yêu đời. Đến chiều chập choạng tối, người
ta thấy nó đạp xe về hẻm, bóp chuông tính tinh tính tinh liên hồi. Miệng nó
không ngớt hò hét ậm ự với mấy đứa trẻ nít ngay từ lúc mới vào đầu hẻm.
Vắng nó thì thôi. Hễ có nó là có tiếng
tâm.
Cả xóm thường chọc quê nó nên cũng vui.
Căn nhà nó ở hiện nay xem như căn
nhà hương hỏa do cha mẹ nó tạo dựng, nằm sát mé lạch. Con lạch nước làm nên một
thời oanh liệt của xóm, ngày càng co mình thu lại nhỏ hếu.
Ghe xuồng ba lá hay tam bản lỡ không còn lưu thông
thông thống được nữa, đừng nói chi là ghe thương hồ lớn đại, trước đây từng làm
vui nhộn rộn rịp mặt cống nước này. Thuở ấy, có những ghe thương hồ đến từ Cái
Bè, Cái Mơn, Vĩnh Long, Cái Tàu Hạ... nhứt là vào dịp Tết đông đảo tấp nập lắm.
Nay trong khí thế "cách mạng
thành công", "đổi đời", bỗng dưng căn nhà tum húm ọp ẹp với một
mái lá thấp lè tè đó được nó trang trí tùy hứng nhưng đối với nó cũng đẹp mắt
đáo để. Dù nó không có chút gì ý thức về mỹ thuật và kiến thức thẩm mỹ cả.
Đụng thứ gì nó sắp xếp để đầy khắp nơi do con mắt nó
đã quen với những vật dụng thô sơ rẻ tiền dùng hằng ngày. Mà thực tình cũng do
căn nhà nhỏ hếu hẹp té của nó nữa.
Nó luốn cuốn đỏ mặt tía tai, đứng ngồi
không yên, loay hoay nghĩ mãi không biết phải giải quyết ra sao cho hợp tình hợp
cảnh khi đứng trước những tiện nghi thời đại, thực sự nó vừa mới có chớ không
phải có trong mơ. Cho dù nó có muốn làm sang, làm đẹp nhưng nó cũng không thể
trong đầu hôm sớm mai thay đổi nếp sống và phong cách bình dân chân quê nhanh
chóng được.
Lúc này, nó vẫn tiếp tục đạp xe xích
lô kiếm cơm hằng bữa. Dù sao những chiến lợi phẩm trời cho không thể giúp nó
nuôi gia đình dài lâu được. Nhưng ngặc một nỗi là hành khách rất hiếm hoi. Cái
nghề nó trân quý khắng khít ế dài dài...
Người người, không ai bảo ai nhưng lại
ngần ngại khi phải ngồi trên xe để nó còng lưng đạp phía sau. Vì người ta ái
nái khó chịu về cái hình thức "người bốc lột người" giữa thời buổi
"cách mạng đại thành công, bình quyền bình đẳng, nhân dân đứng lên làm chủ
tập thể đất nước".
Hơn nữa, lúc ban sơ, khi Cộng sản mới
cưỡng chiếm Miền Nam, mấy tay cán bộ đảng viên địa phương và đám cách mạng ba
mươi đón gió trở cờ nhan nhản ở tổ dân phố, trong khí thế hồ hởi phấn khởi đã
nhiều lần sanh hoạt với nó. Chúng tuyên truyền việc hành nghề xích lô đạp làm hạ
phẩm giá con người, làm tổn thương ý nghĩa đấu tranh của đảng và nhà nước mới
là giải thoát dân nghèo và giai cấp cùng khổ thoát khỏi sự đàn áp bốc lột của
các tầng lớp bên trên. Nhà nước trong lúc rối ren chưa có biện pháp chánh thức
dứt khoát nhưng nếu nó tiếp tục hành nghề như vậy là đi ngược với chủ trương đường
hướng lãnh đạo của "cách mạng".
Hai Ngọng buồn hiu. Mặt mày nó bí xị.
Nó bắt đầu ít nói. Giọng ngọng nghệu ậm ừ của nó cũng
nhỏ dần nơi con hẻm đã phảng phất vẻ u trầm tang khó.
Trong đầu óc nó lờn vờn biết bao
nhiêu câu hỏi tới tấp mà nó không sao giải đáp ổn thỏa được. Nó phải sinh sống
bằng cách nào đây? Nếu một may chiếc xe đạp gạo tiền của nó không được chánh
quyền cấp phát giấy phép cho lăn bánh!
Và tương lai gia đình nó sẽ đi về đâu? Nhứt là mấy đứa
con ngây thơ khờ dại của nó! Nó không thể nhìn chúng đói khát thét gào!
Thực sự, lúc này nó có tiếp thu được
gì ở những buổi tối lên lớp của đám cán bộ cách mạng phường khóm mà có lúc nó từng
dõng dạc nói lên hai chữ "cám ơn" rất mực chân thành. "Bốc lột",
"làm chủ", "giải phóng giai cấp nghèo".... nó đâu có màn về
những mỹ từ đó.
Nó đâu để ý chi về những lời giải thích dong dài lạ hoắc
lạ huơ trong sinh hoạt tổ. Những cụm từ lý thuyết chán ngấy ấy càng làm cho nó
thêm sắt se trong lòng.
Bởi một lý do rất dễ hiểu.
Nó rất thực tế.
"Bốc lột" nhưng trước đây
hằng ngày, không sót ngày nào, nó đều có tiền mua đầy đủ gạo mắm, rau cải...
nuôi gia đình đông người. Còn bây giờ, nó có thêm một gánh nặng nuôi nhiều miệng
ăn vì đã có gia đình và có hai mặt con trong khi anh chị Tám Thơm bất ngờ qua đời,
kẻ trước người sau không đầy nửa năm. Sự việc này xảy ra chỉ ít lâu sau ngày Cộng
sản hoàn toàn cưỡng chiếm Miền Nam.
"Làm chủ"? Ôi hai chữ
"làm chủ" càng làm cho nó thêm đau đớn xót xa. "Làm chủ" mà
nay nó đói nhăn răng, vợ con ốm o gầy
mòn, ngày ngày bữa đực bữa cái lưng lửng bụng thì thà nó bị "bốc lột"
còn sướng hơn.
Nó bắt đầu càu nhàu cau có. Nhưng nó
được ưu điểm là thuộc giai cấp nghèo thành thị, thứ nghèo chí tử, nghèo rớt mồng
tơi nên dù nó có phát biểu quá lời, đám cán bộ cũng nhẹ tay với nó. Ít ra cũng
công khai trước mặt bàng quan thiên hạ. Trong lúc tranh tối tranh sáng, tình
hình chưa sáng sủa hẳn, chúng nó làm ra vẻ sợ đụng vào chánh sách trong lý thuyết
của đảng.
Chẳng bao lâu sau, Hai Ngọng thất vọng
não nề. Chiếc xe xích lô đạp làm phương tiện sinh sống của gia đình nó từ thời
cha nó là anh Tám Thơm, đã được chánh quyền địa phương ra lệnh bắt buộc nó phải
tức khắc đem nộp ngay cho nhà nước, chờ chỉ thị mới để xử lý.
Nguyên do là cơ sở cho thuê xích lô
đạp hiệu Đồng Tâm rất có tiếng ở đường Phú Định đã bị nhà nước kiểm kê trong thời
kỳ quân quản. Nay do kiểm tra sổ sách một phần, phần khác do đám cán bộ ba mươi
điềm chỉ, lời ra tiếng vào phanh phui theo thói đời thường tình, "trâu cột
ghét trâu ăn" nên mới lòi ra chiếc xe xích lô đạp của nó. Chiếc xe này thuộc
quyền sở hữu duy nhứt của cơ sở đang được Ban Cải tạo Công thương nghiệp Thành
phố quản lý tức thuộc tài sản của nhà nước.
Thằng Hai Ngọng bỗng dưng vỡ mộng.
Nó những tưởng nhờ "cách mạng" nó sẽ làm chủ vĩnh viễn chiếc xe xích lô đạp mà nó tưng tiu bảo
trì với tất cả con tim và tấm lòng gắn bó khắng khít.
Phản ứng của nó rất tự nhiên. Và ai
trong hoàn cảnh nó chắc cũng vậy thôi. Không làm sao khác được.
Nó chửi thề ổm tỏi trong nhà, nhưng người ngoài nhiều
lúc nghe mồn một. Thỉnh thoảng, nó ậm ự hai tiếng to lớn như để trút bớt những
nỗi bực bội chất chứa trong lòng:
- U... ụ ... ụ.... mẹ...!
Kể từ dạo đó, con hẻm nhỏ ngoằn
nghoèo đưa dẫn vào tận nhà nó thiếu vắng bóng dáng chiếc xe xích lô đạp cha
truyền con nối, mướn tháng mướn năm liên tục không biết từ bao nhiêu năm dài mà
cha con thằng Hai Ngọng xem như tài sản riêng của mình. Chiếc xe được săn sóc hằng
ngày bóng nhoáng mỗi khi cha con nó không đi xe, nghỉ dưỡng sức ở nhà. Bây giờ,
chiều chiều, con hẻm vắng tiếng chuông tính tinh tính tinh... quen thuộc và tiếng
mấy đứa con nó vui mừng cắm đầu cắm cổ chạy ra tuốt ngoài đầu hẻm đón ba chúng nó
về.
Chiếc xe tốt đẹp, láng mướt sáng
trưng của nó giờ đây tạm thời thuộc quyền điều hành của một tổ hợp vừa mới hình
thành trong cấp bách để đáp ứng chủ trương "làm ăn tập thể sản xuất lớn".
Vì nó được xem là công cụ sản xuất làm ra của cải. Mà đã là công cụ làm ra của
cải thì nhứt thiết phải thuộc về quyền sở hữu của nhân dân và nhà nước.
Nhà nước làm chủ nhân ông độc nhứt
và nắm quyền quản lý phân phối lợi nhuận. Hai Ngọng vô hình trung trở thành một tổ viên đơn
thuần không hơn không kém những tổ viên tập tểnh vào nghề. Nó được ban điều
hành phân công mỗi ngày xử dụng chiếc xe một buổi và buổi còn lại giành cho người
khác khai thác.
Hồi xưa, nó săn sóc lau chùi chiếc
xe mỗi lần chờ rước khách hay những lúc nghỉ ở nhà, vô dầu mỡ nên xe chạy ngọt
xớt. Chỉ sau một thời gian ngắn làm chủ và làm ăn tập thể theo sự chỉ đạo của đảng,
nó rất đau lòng mỗi khi nhìn thấy chiếc xe thân yêu đẹp mắt ngày xưa trở thành
bẩn thỉu, mui xe vành bánh đóng bụi đất bụi cát dầy cui, nệm xe lên nước đen
ngòm rít chịt.
Nó bực tức khó chịu. Nhưng khốn nỗi,
nó chẳng biết phải làm sao? Các thành viên trong tổ hợp đều là chủ nhân ông cả
mà!
Chẳng lẽ nó cứ nai lưng trần, phí
công phí sức lau chùi sạch sẽ, săn sóc mãi trong khi thời giờ làm ra của cải để
sinh sống đối với nó quý hiếm vô cùng. Hơn thế nữa, chẳng một ai trong tổ hợp
có chút ít ý thức trách nhiệm hầu tiếp tay bảo quán chiếc xe cùng với nó.
Nó chỉ biết than thở. Nó chỉ
biết phân trần cùng bà con và bạn bè lối xóm.
Nó phân bua: "cha chung chết, không ai khóc"
là vậy. Chiếc xe do nhiều người làm chủ, tình trạng xuống dốc của nó chẳng có
gì là lạ.
Có
chăng là thằng Hai Ngọng lấy làm lạ cho sự "làm chủ tập thể" vô trách
nhiệm ấy. Nó thêm chán chường ngao
ngán khi hồi nhớ một số kỷ niệm tốt đẹp về chiếc xe thừa kế của cha nó từ hơn mấy
thập niên nay. Lúc ấy, chiếc xe luôn luôn được tu bổ săn sóc đúng mức. Và lúc ấy,
nó hãnh diện như có được một chiếc xe mới cáu cạnh.
Đã ế
khách hàng, thêm chạy một buổi trong ngày, phần thu nhập của nó sa sút thảm thương.
Nó không đủ tiền để mua thức ăn thức uống và vật dụng tiêu dùng tối thiểu vì gạo
muối, thịt cá, đường sữa, rau khoai.... theo tiêu chuẩn phân phối nhu yếu phẩm
hằng tháng theo hộ gia đình không đủ để nó dùng suốt trong ba mươi ngày dài mà
bụng dạ cơ thể con người không thể nhịn được. Nó bắt đầu tháo bán lần lần những
"chiến lợi phẩm" từ thinh không trên trời rớt xuống khi nó đi hôi của
ở những ngày nhập nhầy đen tối trước 30 tháng Tư.
Nhưng
cái đau đớn nhứt của nó lúc bây giờ là mỗi buổi trong ngày, nó phải xử dụng tận
lực sức khoẻ của nó để cố tạo ra tiền của nuôi vợ nuôi con. Chiếc xe xem như
lăn bánh trọn vẹn đủ bốn tiếng đồng hồ liên tiếp thuộc thời khoảng tổ hợp giành
cho nó. Nó không còn giờ giấc nghỉ ngơi lấy sức dù mươi phút một khắc đồng hồ.
Nó tiếc
nuối cái thuở vàng son ngày nào nó thường hay đậu xe ở gốc cây râm ran bóng mát
nơi các công viên, nằm nghe chim chóc líu lo những nhạc bản chẳng thành lời để
cuối cùng ngủ ngon lành, sải giò sải cẳng bất cần đời.
Ôi! Cái thuở hạnh phúc êm đềm ấy bây giờ còn đâu!
Bây
giờ về đến nhà mệt lã, nó đâu có thời giờ rổi rảnh thảnh thơi như ngày xưa để
thỉnh thoảng chở vợ con chạy tà tà rong chơi hứng gió hay dạo quanh các khu phố
thương mại náo nhiệt ở Chợ Lớn Mới, Chợ Lớn Cũ nữa. Một chút hạnh phúc, nhàn rỗi
thư thái tối thiểu của một gia đình ấm cúng nay đã tan biến mất hẳn rồi!
Bữa
nay, nó mang ra chợ trời bán cái máy truyền hình mà từ ngày nó mang về nhà chỉ
để chưng làm cảnh. Ngày mai, nó bán cái radio hiệu National mấy băng tầng cho một
tên cán bộ Miền Bắc đang săn lùng tìm kiếm như một báu vật chưa từng thấy xuyên
suốt mấy mươi năm đăng đẳng ở thiên đường Miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Rồi
chẳng bao lâu, nó tháo cái quạt treo ở trần nhà ràng rịt chở trên chiếc xe xích
lô đạp trực chỉ hướng chợ trời chợ chạy. Rồi bao nhiêu vật dụng khác nữa... Vì
quá túng thiếu, nó không thể làm khác hơn được.
Dù vậy,
trông nó chẳng có gì luyến tiếc cả. Vì từ dạo được dịp thực sự làm chủ những vật
dụng ấy, nó có cơ hội nào đâu để xử dụng, dù một lần cho thỏa tánh hiếu kỳ.
Ngày
xưa, vào thời "Mỹ Ngụy ác ôn", "gây nợ máu với nhân dân",
nhà nó ở trong con hẻm nhỏ nhưng bà Sáu Dậu ở căn nhà mặt tiền đường Phú Định
có cho nó kéo điện xài. Đêm đêm, căn nhà ọp ẹp của nó cũng có điện chiếu sáng
trưng. Nhờ vậy, cha con chồng vợ nó quây quần ấm cún ở những bữa cơm muộn màng trong ngày để trông rõ mặt mày nhau,
càng thêm thương yêu, khắng khít trong kiếp đời quá ư nghèo khó.
Bà
Sáu Dậu đã di tản vào những ngày chót lúc Sài Gòn lên cơn sốt ác tính, đang hấp
hối. Mừng cho bã đã mau chân mau cẳng. Mừng cho bã kịp thời, đúng lúc.
Hú hồn!
Hú
vía!
Nếu
không, chắc chắn thế nào bà ấy sẽ không bao giờ được yên thân với đám răng đen
mã tấu Miền Bắc, bản tánh tham lam, khát khao của tiền. Trái lại bầm dập là
khác.
Nhưng
giờ đây, đối với thằng Hai Ngọng là một điều bất hạnh. Căn nhà kinh dinh đồ sộ
của bà Sáu Dậu ở mặt tiền đường ngon lành đó đã bị kiểm kê đóng chốt. Rồi họ
niêm phong trước sau kín mít. Cửa nẻo khóa chặt nhiều vòng, hắt hiu buồn tẽ như
tòa nhà ma. Bà con chung quanh đồn đãi căn nhà thênh thang ấy sẽ được biến
thành một nơi sinh hoạt của phường khóm.
Nào
ngờ!
Chữ ngờ tai hại và đáng sợ này luôn luôn xảy ra dưới
chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì chỉ mấy tháng ngắn ngủi tiếp theo sau đó, một tên
cán bộ lạ hoắc lạ huơ đến chiếm ở. Nghiểm nhiên nhiên như một chủ nhân ông
không bằng!
Nó kiểm
soát từng nơi từng chỗ. Rồi đương nhiên cắt đường dây điện mà bà Sáu cho thằng
Hai Ngọng câu, chỉ lấy chi phí tượng trưng hằng tháng như để giúp đỡ gia đình
nó. Việc này đã có từ ngày cha mẹ nó còn sinh tiền, ngày ngày còng lưng đưa rước
khách và xệ bả vai gánh nước cho thiên hạ trong xóm xài.
Nay hằng
đêm, nó sống trong cảnh tối om với ngọn đèn dầu bong bóng lờ mờ leo lét như ma
trơi. Có lẽ vì vậy mà bà con thấy nó chẳng bận bịu gì khi bắt buộc phải buông
tay mấy thứ dụng cụ điện không thể xử dụng được.
Mỗi lần
nó lưu đồ đạt đi bán, nó ậm ự từng tiếng một rồi cười ngất:
- Của...
của... của Tàu đem đổ âm... âm... ty cũng phải.
Nghèo
đói quá mức, thiếu thốn tận cùng, nó bán nốt ngôi nhà nó đang ở do chính bàn
tay kham khổ của nó dựng lên thành khoảnh khi nó tiếp nối cuộc đời lận đận của
cha mẹ nó. Nhờ có chiếc xe xích lô đạp gạo tiền nên trước đây, cứ chiều chiều
trước khi về nhà nghỉ ngơi, nó chở một chuyến đất hay đá bể, sỏi, gạch bể lấp
nên. Nó tha cắt ca cắt cũm như vậy từ suốt cả một thập niên. Đằng đẵng như vậy
mới có ngày này.
Thằng
Hai Ngọng chẳng phải là trường hợp điển hình duy nhứt ở cái xóm nghèo mạt rệp từ
đường đó. Đa số nhà cửa lớn nhỏ lút nhút ở đây đều thay đổi chủ cả. Những người
ở mặt tiền đường chịu đựng không nổi hoàn cảnh đổi đời nghiệt ngã, trái ngang
đành phải gạt nước mắt bán ngôi nhà mình cho kẻ lạ không biết từ đâu đến.
Có những
ngôi nhà cổ, vườn tược mông mênh, từng chứng kiến cả đôi ba thế hệ tiếp nối
nhau quây quần sinh sống. Nay chủ nhà phủi tay cái rột trong nuối tiếc để mua lại
một nơi trú ngụ sơ sài trong con hẻm này với ước mơ mong manh cầm cự được đến
đâu hay đến đó.
Còn
đám chủ cũ trong con hẻm thì sao?
Một khi đã buộc lòng, ngậm ngùi buông tay bán đứt căn
nhà lụp xụp tồi tàng nơi họ lánh cư và an phận từ vài mươi năm nay, họ dọn đi một
nơi nào đó xa gần không ai biết, biệt tâm biệt tích. Không còn ai nhắc tới nữa!
Họ hồi
hương?
Hay đi kinh tế mới?
Hoặc tạm nương náu lánh thân ở một xó xỉnh đèo heo bùn
lầy nước đọng ở thành phố đang thực sự trở mình trực chỉ địa ngục trần gian,
đúng theo qui luật của sức mạnh đồng tiền. Không của tiền dư dả để chịu đựng những
mất mát của cuộc đổi đời tai hại thì phải thối về "hốc bà tó" để ở vậy!
Riêng
thằng Hai Ngọng còn được chút ít may mắn hơn. Sát bên hông căn nhà của nó vừa mới
bán còn có một lạch nước. Con lạch không rộng, không sâu. Dòng nước bẩn thỉu sẫm
đen quanh năm chảy lờ đờ chầm chậm, uốn éo ngoằn ngoèo mang chở đủ loại rác rưới
ô tạp.
Nó cất lên một sàn cây tạp nhạp nhỏ hếu rồi dựng một
mái lá lụp xụp tạm bợ đủ để che nắng che mưa. Nói che nắng còn hợp lý. Chớ che
mưa thì tội cho nó biết dường nào.
Mái
nhà nó dột tứ phía. Thói thường người đời hay nói, đã nghèo lại mắc cái eo là vậy.
Có hôm, gia đình nó xúm xích ngồi
ăn cơm rồi cơn mưa trái mùa đến bất chợt làm cho cha con vợ chồng nó phải tự động
hối hả di chuyển, dời đến chỗ này chỗ nọ nhiều lần mà không tránh khỏi nước mưa
nhểu từng giọt từng giọt lạnh lùng trong nồi canh lểnh lảng của gia đình nó.
Thế
mà mấy đứa con nó vẫn chùm nhum bám theo, vui vẻ cười thả ga. Trông chúng nó
vui vẻ ưng ý như thường.
Đứa thì và cơm tỉnh queo như bên ngoài chẳng có mưa
gió gì cả. Đứa ngỗi lạnh lùng, chậm rãi gấp rau luộc chấm nước cá kèo kho, mặc
kệ những xáo trộn bề bộn bất chợt vừa xảy đến trong bữa ăn. Chúng nó quả thật hồn
nhiên vô tư, bất cần. Chúng chẳng thấy có gì lạ cả vì lâu nay đã quen với lối sống
"du canh du mục" như vậy.
Nhưng
tội nghiệp vợ chồng thằng Hai. Nó thì có thừa can đảm do vốn là thằng lục lăn lục
lửa ngày xưa nên dễ dàng che dấu nỗi khổ niềm đau của nó tận thăm thẳm bên
trong. Còn con vợ nó, bản tánh đàn bà yếu đuối, có quá nhiều tình cảm nên đôi mắt
cứ đỏ hoe hoài.
Nhà
quá chật hẹp, tồi túng, đi ra đi vô chạm phải mặt nhau cho nên ít khi thấy nó ở
nhà. Nó để giành cái khoảng trống không dưỡng khí hạn chế ấy cho những người
thân của nó, cho vợ con nó. Riết rồi, nó sống ngoài đường phố nhiều hơn vì ở
nhà thấy buồn chân buồn cẳng. Cuộc đời nó giống như đa số lúc bấy giờ, chen
nhau đổ xô ra đường phố tìm sống nhưng đối với nó lại có một lý do riêng.
Bà
con xa gần nhận thấy nó sộp hẳn người đi thấy rõ, dào dào rã rượi. Nó buồn hết
biết được. Con người hệt hạc hề hà, luôn mồm ậm ự làm vui chòm xóm đã chết hẳn
trong nó rồi!
Ấy vậy,
đám cán bộ phường khóm cứ tới lui sinh hoạt với nó luôn. Mỗi lần như vậy, nó lặng
thinh không nói. Nó phản đối thụ động. Thái độ của những người bị áp bức.
Nhưng sắc mặt nó đã nói lên sự bất đồng ý của nó rồi.
Nó xụ mặt buồn hiu xu xị trong khi khoé mắt nó vươn vươn bao nỗi lo lắng đang dấy
lên trong lòng.
Đôi
lúc sự trao đổi nhàm chán làm cho nó cau có, bực mình run lên. Nó giận cành
hông. Mặt mày nó bỗng dưng trở nên xanh lè tái mét như tàu lá chuối non, cắt
dám không ra một chút máu. Vợ nó biết ý, cứ theo đứng cạnh bên, lén lút thúc
cùi chỏ vào hông sợ nó có phản ứng bốc đồng, nói ẩu mang họa. "Tránh voi
chẳng xấu mặt" mà!
Bọn
cán bộ ăn nói như vẹt. Chúng bảo nhà cửa và nếp sống của nó không phù hợp và
không xứng đáng với những tiêu chuẩn của con người mới xã hội chủ nghĩa, chủ
nhân ông của đất nước độc lập tự do, thống nhứt phú cường. Giờ thì chúng đã
hoàn toàn kiểm soát được thành phố, đã thành công áp đặt chế độ vô sản chuyên
chính sắt máu trên toàn cõi lãnh thổ từ Nam chí Bắc.
Chúng
tranh thủ nó bằng những lời lẽ đầu môi chót lưỡi ngọt lịm đường phèn. Nhưng thực
sự chúng úp úp mở mở để lộ dụng ý rúng ép hăm he nó chấp thuận đi sản xuất ở những
vùng kinh tế mới. Nơi này bọn chúng mô tả như một thiên đàng ở thế gian, nơi ai
ai cũng có cơ hội làm giàu, phất lên như gió chẳng mấy hồi.
Tuy
thất học, tầm suy nghĩ chậm lụt và có giới hạn nhưng bản chất mộc mạc chất phát
trong hoàn cảnh trầm thống tuyệt vọng đó giúp thằng Hai Ngọng tỉnh trí và sáng
suốt lạ lùng. Quả thật lạ lùng vô cùng, đến đỗi con vợ nó cũng ngạc nhiên.
Hơn nữa,
nó không phải là hạng người ham mê bạc tiền quá đáng. Nó không có những ảo tưởng
mơ hồ xa vời. Nó thuộc hạng người rất mực thực tế với đôi chân rắn rỏi đứng vững
vàng trên mặt đất. Thực sự trong thâm tâm, lúc bấy giờ, nó chỉ cầu mong có dôi
bữa cơm ấm lòng ấm dạ hằng ngày với một túp lều ấm cúng là nó thấy đời nó lên
hương, hạnh phúc hơn lúc nào hết.
Nó
cương quyết không chấp nhận xa rời cái Xóm Cống nghèo nàn đã từng trông thấy nó
sinh ra đời và lớn lên quanh quẩn những đầm vũng lầy lội mà nó từng bập bũm suốt
một thời thơ ấu dại khờ. Cuốn rún của nó còn ở đây.
Dòng tộc của nó ở đây. Nó không sao an tâm rời bỏ cho
đành.
Nó
cương quyết sẽ chết ở đây cũng như cha mẹ nó ngày trước vậy. Nó không thể rời
cuộc đất nó đã đổ mồ hôi góp nhóp làm thành khoảnh dù bây giờ nó đã bán tất cả
để nuôi thân, nuôi gia đình.
Nhưng
dù có bán đi, mỗi ngày thằng Hai Ngọng vẫn nhìn thấy nó, nhìn thấy bàng bạt đó
đây những "đường xưa lối
cũ" của "những ngày xưa thân ái", những hình ảnh thân thương
trân quý, những gương mặt khắc khổ đầy nghị lực ngày nào của cha mẹ nó, khung cảnh
nheo nhóc khó nghèo nhưng đầm ấm thuận hòa của anh chị em nó khi tất cả đều
chung lưng đâu cật cố gắng ngoi lên bằng mồ hôi sức lực của riêng mình.
Cho dù định mệnh oái oăm và khắc khe không cho nó đạt
thành ước vọng, cái ước vọng duy nhứt gìn giữ để lưu lại cho các con nó. Nó
không thể rời căn nhà xiêu vẹo trống toát và dột từng nơi từng chỗ, rung rinh
rùng mình theo từng cơn giông to bão lớn.
Nhìn
quanh quất, nó chính là người cố cựu còn sót lại ở con hẻm này, nơi gốc rễ cội
nguồn mà nó thường thố lộ cùng những người lối xóm. Tất cả hình như là những
người chủ mới đến định cư. Nó hãnh diện sẽ được chết trên con lạch bùn đọng,
rác rưởi thối om, vào mùa nắng nước ao tù lềnh lềnh đen ngòm với muổi mồng vo
ve không đêm nào nó ngủ yên giấc được.
Vì một
lý do tình cảm. Nó muốn được như cha mẹ nó đã xuôi tay ấm cúng cũng trên vạt đất
hiền hòa nghèo khổ này.
Đôi
lúc, đám cán bộ giở giọng hống hách quá đà, đe dọa rúng ép nó. Nó đang ở vào tận
đường cùng, con đường chết trước sau không thể tránh được. Nó tự ví như
"người cùi không biết sợ lở". Nó quyết định làm liều. Nó không nhân
nhượng.
Nó chẳng còn sợ chi cả. Nó chẳng ngán một ai.
Nó
đương đầu ăn miếng trả miếng dứt khoát với đám cán bộ vô tâm vô hồn này. Nó khẳng
định sẽ không bao giờ và chẳng bao giờ chấp nhận dời nhà đi đâu cả. Chết thì chết,
nó vẫn chết ở đây. Ai mà không một lần chết bao giờ.
Nó
còn cho biết, nếu phường khóm áp chế bức bách quá, nó sẽ tẩm xăng tất cả gia
đình rồi nó chích cho một diêm quẹt là xong một kiếp người. Nó thách thức mấy
tên cán bộ phụ trách kinh tế mới cứ xem ở Xóm Cống này có ai còn ham mê thích sống
nữa không?
Như vậy, toàn thể gia đình nó lớn nhỏ sẽ cháy tan
thành tro bụi cùng với cái sàn lá thân yêu của nó cho vừa lòng đảng và nhà nước.
Thế là nó được tạm thời để yên lây lất trong cảnh khó nghèo nghiệt ngã chưa từng
thấy trong đời.
Hôm
nào, hiếm hoi lắm, có được chút ít tiền còm do trúng mối rước du khách ngoại quốc
Đại Hàn, Nhựt Bổn, Đài Loan, Chiêu Nam... qua dọ dẫm thị trường, thương tình
"buộc boa", nó mượn hơi men ru ngủ, vỗ về và xoa dịu cuộc đời rách
bươn tơi tả, vô phương cứu chữa. Những lúc đó, người ta nghe nó lại ậm ự mãi
hai chữ quá quen tai:
-
U... ụ... ụ... mẹ!
Rồi
im lặng. Một sự im lặng đến độ lạnh lùng kỳ lạ. Nhưng cũng rất dễ hiểu. Nhưng
cũng rất dễ được cảm thông
Người
ta không nghe nó nói tiếp thêm nữa. Có lẽ nó muốn dồn nén những uất nghẹn và bất
bình vào trong sâu thẳm lòng nó chăng? Hay nó tưởng tiếc hồi nhớ khoảng thời
gian "huy hoàng" trước đây, khi nó tiếp tục nối bước theo cái nghề đạp
xe xích lô kham khổ của cha nó?
Nó
đâm ra tiếc hùi hụi, tắc lưỡi thở vắng than dài. Thuở đó, dù thực sự có kham khổ
nhưng không đến đổi trầm thống xác xơ như ngày hôm nay. Nhứt là về mặt tinh thần
và tình cảm, bao giờ nó cũng hưởng được trọn vẹn những giây phút bình thản, những
ngày tháng yên ổn.
Ngày ấy,
mỗi khi trời rựng sáng, anh Tám Thơm, cha nó tà tà kiếm vài cuốc xe bỏ túi làm
vốn sơ khởi. Rồi anh quày quả đạp xe trở về nhà đưa tiền và chở má nó đi chợ
Phú Lâm, cách nhà ước chừng vài trăm thước.
Xong
xuôi đâu đó, cha nó thong dong vào quán nước chị Năm Hứng hay anh Hai Quẩy, ăn
một tô hủ tiếu thịt bò kho hay một tô mì khô mì nước hương vị rặc Tàu lưu vong
năm bảy đời, uống một ly xây chừng bỏ bụng mới chịu tiếp tục đi rước khách. Đến
quá trưa, cha nó mới về nhà ăn cơm quây quần với đám anh chị em nó trong không
khí gia đình nghèo túng nhưng thực sự ấm cún.
Ngủ
xong một giấc trưa ngắn ngủi, anh Tám Thơm lại tà tà đẩy xe ra khỏi ngõ hẻm, cà
rịch cà tang đi kiếm khách đợt chiều. Tiền thu buổi này đến khoảng chạng vạng
là đủ trả tiền mướn xe trong ngày. Cứ theo thông lệ từ nhiều năm nay, trước khi
về nhà, cha nó ghé cơ sở Đồng Tâm đóng tiền mướn xe đúng với giao kèo thuê mướn.
Ngày nào cũng như ngày nấy. Không hề nghe cha nó bị chủ cơ sở Đồng Tâm trách
móc lôi thôi.
Nhiều
buổi chiều, anh Tám Thơm nhớ đến vợ con nheo nhóc, thường ngày ăn uống thiếu thốn,
thèm thuồng nên ghé vào quán chú chệt già gầy ốm tong teo, giọng khàn khàn, có
gian hàng di động ở chéo chéo ngả tư Cây Gỏ. Anh mua một gói xá xíu hay thịt
heo quay hoặc gà luộc Xiêu Xiêu, hoặc lòng heo, thịt đầu heo phá lấu... rồi
treo lủng lẳng tòn ten ở hông xe làm cho buổi cơm chiều hôm ấy thêm thịnh soạn
và đậm đà.
Thằng
Hai Ngọng hồi nhớ nó thường hay chạy ra lóng ngóng ở đầu con hẻm đón cha nó về.
Đôi ba ngày, nó nhận được một vài món quà lặt vặt, tuy không đáng giá bao nhiêu
nhưng vẫn là niềm hạnh phúc vút cao của nó lúc ấy.
Trước
ngày Miền Nam bị Cộng sản xâm lăng Miền Bắc cưỡng chiếm, thằng Hai Ngọng tiếp tục
cuộc đời đưa rước khách của cha nó, cũng với chiếc xe xích lô đạp đã nuôi nó từ
nhỏ đến tuổi trưởng thành. Cuộc sống của nó vẫn không hơn kiếp đời bất hạnh của
cha nó bao nhiêu nhưng chẳng kém chút nào. Nó tỏ ra rất bằng lòng và sung sướng
giữa thời buổi chiến tranh nhiểu nhương dai dẳn, sinh tử mất còn không biết lúc
nào.
Mỗi
chiều nó về nhà, mấy đứa con nó cũng ra đầu ngõ, lóng ngóng trông trước trông
sau như nó ngày xưa. Chúng cũng có thói quen như nó hồi nhỏ từng đưa mắt tìm
bóng dáng chiếc xe xích lô đạp quen
thuộc và hình ảnh thân
quen nhứt đời, rồi la ó ầm vang lên:
- Ba
về! Ba về!
Dĩ
nhiên, chúng nó rất hân hoan mừng gặp lại ba nó sau mấy giờ vắng mặt. Chúng nó
cũng toại nguyện khi được thằng Hai Ngọng chở trên xe để cười ngắc nga ngắc ngoải
hãnh diện với đám trẻ nhỏ trang lứa trong xóm.
Cuộc
đời thằng Hai Ngọng cứ tiếp tục như thế, ngày tiếp nối ngày để thỉnh thoảng cuối
tuần, những khi trúng mối, nó tạt qua khu bình dân Minh Phụng, Cây Gỏ nốc một
vài lon bia hộp Mỹ, nhâm nhi giò heo nấu vã cầy nóng hổi thơm phức, cục nào cục
nấy to bằng cườm tay người lớn.
Nó rất thích cảnh chen chúc thân tình bình dị khi ngồi chùm nhum trên mấy
cái ghế cây đủ cỡ, thấp lè tè bên lề đường. Nó rất thích cùng với vài bạn bè đồng
nghiệp tâm đắc, tha hồ đấu chuyện trời trăng mây gió, vô thưởng vô phạt, những
mẫu chuyện chẳng hề làm phiền hà hoặc mếch lòng một ai cả.
Lúc về
đến nhà, nó chao đảo ngả nghiêng, đã đời quá rồi. Nó vội vàng đẩy ngay chiếc ghế
bố ra sân trước nhà, nằm sải tay sải chân hứng mát. Rồi nó kéo vạt áo lá lên,
phơi cái bụng thon thon gân guốt đầy thẹo. Đây là hậu quả của những trò chơi bạt
mạng lúc nhỏ nó hay tụ năm tụ ba, không ngớt phá chùa phá miễu..
Ấy thế,
nó không đánh mất thói quen cười hề hà cởi mở, khoe cái bụng thẹo của nó với bạn
bè lối xóm. Đám nầy, chiều chiều
cũng đã gật gù vì hơi men bia hộp của Mỹ.
Nó vỗ
bụng bành bạch bành bạch:
- Ấy...
ấy (lấy) bụng ở... ở... đời mà!
Không
biết nó có hiểu chút ít gì về triết lý cái bụng của tiền nhân hay không? Việc
này chỉ có mỗi mình nó trả lời đích xác mà thôi.
Dù sao, bà con vẫn khen nó vì thường nghe nó nhắc nhớ
đến cái bụng trong sinh hoạt hằng ngày. Đại thể như: thằng này hay thằng kia
"tốt bụng" giúp đỡ nó, "suy bụng ta ra bụng người", "bụng
làm dạ chịu" v.v...
Có
người thắc mắc, tiếp tục hỏi, nó trả lời gọn hơ. Cha mẹ nó hay nói với nó như vậy.
Nó nghe hoài quen tai và hiểu như vậy nên tiếp tục nói theo chớ có gì lạ mà
theo hỏi mãi.
Nhiều
khi nằm phơi bụng sung sướng thoải mái, nó bùi ngùi tưởng nhớ đến anh chị Tám
Thơm, cha mẹ nó lúc sanh tiền kham khổ lút đầu, cực nhọc trần thân khoai củ
nhưng chẳng hề được hưởng một phút thực sự thảnh thơi nhàn nhã, chẳng hề được
biết một giây thực sự hạnh phúc trọn vẹn. Nó nhớ quá nhiều, nhiều thật là nhiều
những kỷ niệm về cha mẹ nó với những món nợ trời cao biển rộng, những món nợ
tình thương láng lai mà dù có trả trọn đời mãn kiếp, nó vẫn chưa trả xong.
Nhớ đến
đây và chỉ bao nhiêu đó thôi cũng đủ dằn dặt thân xác nó rồi. Nó nhìn đâm chiêu
lên thinh không hồi hướng cha mẹ mà nó tin tưởng hãy còn lãng vãng đâu đó,
quanh quẩn bên nó. Nó thấy dáng vóc
của cha mẹ đang hiện về để phù hộ gia đình con cái nó. Rồi nó thầm nghĩ
phải chi lúc này, ở giờ phút hạnh phúc tột cùng này của nó, anh chị Tám Thơm
còn sống, dù đã quá xa cái tuổi cổ lai hi đi nữa, nó đoan quyết với mọi người:
-
Ui... ui... (Tui) chắc chắn thấy cảnh này, hai... hai... ông bà sẽ vui sướng lắm.
Hai... hai... ông bà không khỏi cảm động, khóc... óc... thật tình cho mà... mà
coi.
Bà
con thân quen kế cạnh nhìn cảnh thảnh thơi thư thái của nó mà thèm thuồng. Dù
nghèo khổ thiếu trước hụt sau nhưng nó vẫn có những phút giây bản thân hạnh
phúc thoải mái, gia đình ấm áp thuận hòa. Người ta khen nó biết sống vì theo họ,
có những người sự nghiệp kinh dinh, tiền của dư dả như núi như non chưa chắc đã
có những lúc hạnh phúc tuyệt vời, không mảy may vướng bận như nó.
Vì những người này chỉ mải mê chuyên lo tính toán bạc
tiến bạc cả đầu. Cho nên ở đời biết sống mới khó mà đời thiếu sự thoải mái
thanh thản, thiếu sự tự nhiên thì hẳn không còn ý nghĩa để lôi cuốn hấp dẫn nữa.
Nó nằm
tréo cẳng, nhịp nhịp bàn chân chai sần cười ngất. Nó trả lời gọn hơ một cách bộc
trực chân quê nhưng không kém phần đùa vui hóm hỉnh. Nó nằm ở đây cốt để nhìn
thẳng lên không trung đếm thời gian, chờ đợi đêm về đầy sao trời hầu xem cho rõ
con sao chiếu mạng của nó nằm ở đâu?
Nó có
biết Ất Giáp gì về những con sao Mai, sao Hôm, về Thiên hà Thiên tào hay Bắc đẩu
Đại Hùng Tinh... giữa muôn vạn
tinh tú trên trời, ngoài câu ca dao nó học lóm đâu đó mà thỉnh thoảng nó ngâm
nga nhịp nhàng to tiếng:
Sao vua chín cái nằm kề...
Chỉ vỏn
vẹn có mỗi một câu duy nhứt ngắn ngủi đó rồi nó cụt hứng luôn. Nó chưa tìm thấy
con sao chiếu mạng của nó nằm ở nơi nào trên bầu trời bao la vô tận. Đối với
nó, vũ trụ thật huyền bí dù nó có cố công tìm hiểu nhưng chẳng bao giờ nó đạt
được ý nguyện mình.
Nhưng
có một điều là nó luôn luôn tỏ vẻ bằng lòng lắm. Vì theo sự hiểu biết nong cạn
và sự tin tưởng tuyệt đối của nó là trên thiên hà, nhìn kỹ con sao nào, dù lớn
dù nhỏ, vẫn long lanh lấp lánh sáng trưng. Cho dù có những con sao lờ mờ, đúng
với bài học thuộc lòng nó học rất khổ công ngày xưa, đã từng bị thầy cô hét la
quở phạt:
Đêm
qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ...
Dù những
vì sao xa diệu vợi ngút ngàn ấy có mờ nhạt đậm lợt thế nào, nó vẫn trông thấy
rõ ràng dưới con mắt thường tình trần tục của nó. Nó khẳng định như thế.
Có lẽ
do đó, nó càng tin tưởng để gởi gấm niềm tin vào con sao chiếu mạng đâu đó của
nó. Và một ngày quang đảng tốt trời, nó hy vọng nhứt định sẽ phất lên để đền bù
những ngày tháng hẩm hiu khổ ải như ông già bà cả thuộc thế hệ cha mẹ, ông bà
nó thường hay nói: "chẳng ai giàu ba họ, chẳng ai khó ba đời". Hay
văn vẻ hơn: "bỉ cực thới lai". Để rồi nó ngủ quên trong giấc mơ đằm
thắm êm đềm ấy lúc nào không hay.
Giờ
đây, nơi căn nhà sàn chật chội hẹp té, rung rinh xập xình những khi mấy dứa con
nhỏ của nó chạy giỡn, nó nhớ lại những ngày đã qua khi đối diện với thực tế phũ
phàng đang ụp vào gia đình nó. Ít học, thiển cận nhưng không hiểu sao lúc này
nó sáng dạ lắm.
Nó biết so sánh những mảnh đời đã từng đi qua nhanh chóng
trong cuộc sống của nó. Lâu lâu lại nghe nó to tiếng:
-
U... ụ.... ụ.... mẹ!
Nó
nói với con vợ nó:
- Giải
phóng "phỏng d...". U... ụ... ụ... mẹ! Đồ nói dóc, xạo hết chỗ nói
(xã hội chủ nghĩa). Miệng nói là đấu tranh bênh vực quyền lợi của giai cấp
nghèo nhưng dân nghèo ngất ngư tận bùn đen, dở chết dở sống, còn giai cấp lãnh
đạo trước đây nghèo sặt máu, kéo về thành phố với quần xà lỏn khăn rằn, ngày
càng giàu nức trứng.
Con vợ
nó cản ngăn không cho nó phát ngôn bừa bãi, có ngày thấu tai phường khóm mà
nguy khốn. Cộng sản chẳng có nương tay. Công an khu vực có mạn lưới tai mắt
cùng khắp, kiểm soát gắt gao, theo dõi từng đường đi nước bước, từng cử chỉ
hành động và lời nói của mọi người.
Dồn nén
những bất bình và bất công dày vò không thôi nơi nội tâm, nó tìm một lối thoát
vượt khỏi niềm đau ray rứt triền miên. Bao nhiêu thôi thúc dằn xé nội tâm đó từng
chập làm cho nó cứ liên tưởng những giây phút êm đềm thoải mái dưới chế độ Mỹ
Ngụy "người bốc lột người", khi chiều chiều nó nằm sải chân sải cẳng
trên cái ghế bố để trước sân nhà cũ của nó.
Trong
giờ phút trầm thống, bế tắt đen tối này, nó tắt lưỡi luyến tiếc khi nhìn thấy
cái ghế bố ngày xưa vẫn còn y nguyên đó, dù được chầm khíu thêm bằng mấy tấm
bao bố chỉ xanh nó hôi gạo ngày trước. Cái ghế bố cũ đầy ấp kỷ niệm ấy bây giờ
không giúp nó nằm thoải mái ở trước sân nhà để thẳng nhìn lên không trung đếm
sao trời, giúp nó tìm xem cho rõ con sao chiếu mạng của nó lúc này ra sao? Vì
cái nhà sàn của nó chỉ vừa đủ để làm nơi tạm ngủ ban đêm cho cả gia đình nó.
Con vợ
nó từ dưới bếp te te đến gần bên nó, hóm hỉnh chọc quê:
-
Thôi đi cha nội ơi! Đừng có mơ mộng viễn vong để mà lại thất vọng, hoài công.
Con sao chiếu mạng của cha đành rành đây rồi mà cha không thấy! Tìm đâu cho xa
thêm mỏi mắt, mệt thân mệt xác, khổ trí lao tâm.
Con vợ
nó kết thúc gọn hơ:
- Đó
là con sao "chàn hảng" mà cha không thấy đó thôi.
Trời
bên ngoài tối om om như thường ngày vì thiếu ánh đèn điện năm xưa.
Ngọn đèn dầu leo lét lung linh lờ mờ trong nhà nó càng
tăng thêm vẻ đen tối, hắt hiu u buồn.
Thằng
Hai Ngọng nóng mặt, cố ráng gân cổ cãi lại con vợ nó:
- Mầy
ăn nói tầm bậy tầm bạ! Bà con nghe họ cười thúi đầu cho mà coi. Mầy không có
phong cách và lối sống gương mẫu trong sạch của một chủ nhân ông "đất nước
thống nhứt phú cường". Mầy không xứng đáng với tiêu chuẩn "đạo đức
cách mạng". Tao thay mặt Đảng và Nhà nước cảnh cáo mầy đây. Liệu hồn đó
nghe cưng!
Thằng
Hai Ngọng bây giờ nói năn khá lưu loát nhờ được học tập chính trị thường xuyên ở
tổ dân phố mỗi cuối tuần. Nó bắt đầu bập bẹ những ngôn từ cách mạng, những cụm
từ rổng tuếch rập khuôn mà nó thừa dịp cố tình lập đi lập lại với một giọng chế
riểu pha trò.
Nằm
gát tay lên trán trên sàn cây, nó nhìn xuyên suốt mái lá ở những nơi nó chầm
khíu lung tung, nó thấy lấp lánh một hai vì sao lạc vẫn sáng trưng. Nó vụt nhớ
đến con sao chiếu mạng của nó. Nó vội vàng đánh tiếng gọi ngay con vợ nó đến
xem cho mản nhản.
Con vợ
nó đánh yêu một cái phệt:
- É!
Con sao chiếu mạng của cha mà sáng được như vậy cho tôi cùi hủi luôn. Thời buổi
đói rách tuyệt vọng này mà cha còn sống đâu đâu ở trên trời. Nếu được như cha
nói, đời sống gia đình mình đâu đến đổi như vầy?! Cha có lầm không đây? Thôi
cho con xin đi cha nội ơi!
Con vợ
nó còn tiếp lời chắc cú:
- Cha
đừng có mơ. Đừng có viễn vong. Thôi ngủ sớm đi cha nội. Ngày mai còn lo đạp cử
xích lô sáng đi kiếm tiền nuôi vợ con. Đó mới là thực tế. Đó mới là thượng
sách. Lo chết đói trước đi rồi hãy bỏ thì giờ đếm sao, đếm cái gì đó cũng được.
Đừng có lo xa. Chỉ lo cho ngày mai có ăn lưng lửng bụng, nhứt là mấy đứa nhỏ
không thét gào kêu đói lên đói xuống là vui rồi cha ơi!
Thằng
Hai dõng dạt:
- Mầy
lầm to rồi.
Nó
thuyết phục con vợ:
- Mầy
đến đây xem! Bộ mầy không tin tao sao? Con sao chiếu mạng của tao, tao thấy rất
rõ ràng tường tận. Tao đâu có viễn vong. Tao đâu có mơ mộng xa vời như mầy tưởng
đâu. Nó hiển hiện trước mắt tao đây.
Rồi
nó nhứt quyết:
- Nó
đâu phải là con sao sáng trưng mầy vừa mới thấy đó!
Vợ nó
chẳng lúc nào chịu thua, ráng gân cổ cãi lại:
- Vậy
chớ con sao nào đây ông chồng yêu quý sắp hết xí quách của tôi?
- Mầy
xem kỹ kia kìa. Mầy thấy không?
Nó
đưa ngón tay trỏ chỉ thẳng lên trần nhà chiếu lệ:
-
Đó... đó... Nó là con sao... vàng... vàng... khe... è... è... mà mầy không thấy.
Đồ ngu! Mặt bư! Đến giờ phút này mà mầy còn chưa mở mắt!!!
Thằng
Hai Ngọng vói tay tắt đèn.
Tiêm đèn còn ưng ửng một hồi lâu rồi tắt ngủm.
Cái
nhà sàn nghe răn rắt khi nó trở mình trên chiếc ghế bố để trở nên tối om đen
ngòm như cuộc đời và tương lai trước mặt của nó, của con vợ nó, và của hai đứa
con nó ở tuổi ngây thơ dại khờ đang ngáy nhịp nhàng vô tư.
Võ Phước Hiếu
-**-
Người Ăn Mày...
Trong Trại Học Tập Sĩ Quan
Trong trại cải
tạo Bù Gia Lập, nơi đày đọa sĩ quan cấp úy Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, có một
người ăn mày cụt một giò!
Anh ta tên Lê Văn Núi.
Nhưng tại sao anh Núi, một người ăn
xin đầu đường xó chợ, lại lọt chi vào trại tù mà Việt cộng giả nhân giả nghĩa gọi
là nơi học tập cải tạo của bọn sĩ quan cấp úy chúng tôi?
Số là anh Núi, trong một buổi chiều
nọ, đói quá mới lẻn vào điểm tập hợp trình diện của sĩ quan, được lệnh kêu gọi
đi học tập cải tạo ở trường Lê Văn Duyệt, để vét phần cơm thừa rồi kẹt luôn số
phận chim lồng cá chậu!...
Và về sau, anh chết oan uổng ở ven rừng, bên ngoài trại
Bù Gia Mập, sau mấy năm mang án... có nợ máu với nhân dân!
Lê Văn Núi, trước kia thường lê lết
tấm thân một giò ăn xin khắp các chợ lớn, nhỏ ở Sài Gòn. Sau ngày 30 tháng Tư
năm 1975, Việt cộng về thành khai diễn một cuộc đổi đời cuồng bạo và băng hoại,
thiên hạ đang lo âu xuôi ngược nên anh Núi không xin ăn tạm sống qua ngày như
trước.
Một hôm, anh thất thểu qua ngang trường
Lê Văn Duyệt, trông thấy tụ điểm có đông người ăn cơm. Những chàng trai trẻ, mặt
mày sáng láng và dễ mến, ngồi xúm xít thành nhiều nhóm chật cả sân. Cơm họ ăn
dư, bỏ thừa thải.
Anh hỏi ra mới biết là những sĩ quan
chế độ trước, tuân theo lệnh gọi khoan hồng, tụ đến đây và mang theo một tháng
tiền ăn đường. Việt cộng lấy tiền, gọi nhà thầu đem cơm nước đến cung cấp. Ôi!
Vô số thức an dư thừa!
Những tên Việt cộng nón cối dép râu,
trẻ tuổi mặt bấm ra sữa, xem chừng cũng dễ dãi.
Xe nhà thầu đến, các bồi bàn khuân xuống những thùng sắt
to chứa đầy những thức ăn, từ lâu rồi anh không được nếm. Kinh nghiệm ăn xin
cho anh biết chỉ những lúc người ta vui cười ăn uống, tâm tánh cởi mở là ăn xin
thuận tiện.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa mấy
ngày qua, anh biết không còn xin ăn ai được. Nhơn dịp này, anh lẻn vào vơ ít cơm canh cho vợ anh yếu đuối,
bịnh hoạn nằm nơi vỉa hè và đứa con gái mười tuổi cũng bị tàn tật như anh...
Anh đến gần cổng, thừa lúc tên lính
canh ngó lơ, đến bên xe, vờ phụ bưng xách với bồi bàn. Bồi bàn nhà hàng thầu
cơm đang khiêng nặng, được anh phụ, tưởng anh là người trong trường. Cán bộ Việt
cộng lầm tưởng anh là người của nhà thầu.
Thế là anh vào lọt bên trong. Đang đứng xớ rớ thì những
sĩ quan trẻ ngỡ đồng bọn, kéo tay anh bảo:
- Cứ ăn no! Biết rồi đây còn cơm ăn!
Anh khoái quá, ngồi chung với họ,
ních một hơi cành bụng. Anh còn lén bỏ vào giỏ xách một bọc cơm với thức ăn, rồi
toan trốn ra ngoài.
Anh sắp ra đến cổng trường, mừng run đến chảy nước mắt.
Thật là một vố bở, cả nhà khỏi đói mấy ngày!
Tiếng kẻng gọi xếp hàng vang lên.
Một tên cán bộ quát bảo:
- Anh kia, đứng nại!... Cái xách gì
thế này? Cơm à!... Ăn tham thế! Cách mạng cho ăn cơm, nại nấy cơm đi giấu nà ăn cắp
của cải nhà nước. Hiểu không? Để đây! Đến sắp hàng với chúng nó...
Anh
Núi sợ quá:
-
Thưa ông, tôi không phải...
-
Không phải cái gì?... Bướng à?... Đi, đi... Chúng mầy toàn nà có nợ máu với
nhân dân... À, không chịu đi hử? Nạy nục xin ra về à...
Tên nọ
lôi anh vào văn phòng.
Anh Núi vang nài, khóc lóc mãi với tên thủ trưởng, viện
dẫn lý do vì sao anh vào xin ăn trong tụ điểm.
Tên này nghe xong, cười lạt:
- Đừng
giả vờ! Giả ăn xin để vào dọ thám. Muốn chống phá cách mạng, giải thoát bọn tù
phải không?... Ngày mai, chúng tôi sẽ sưu tra lý lịch, cứu xét hồ sơ xong sẽ
quyết định. Hôm nay trễ giờ, không cứu xét!
Anh
Núi bị đẩy vào phòng ngủ chúng tôi. Anh hối hận vì đã tính sai.
Anh
ngồi bó gối, trông mong trời mau sáng. Mong sao mấy tên cán bộ đủ thông minh nhận
thấy sự nghịch lý, biết anh không thể nào là sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng
Hòa để thả anh trở về với vợ và con.
Anh
khóc lóc kể cho chúng tôi nghe sự việc và hỏi:
- Các
ông ơi, các ông làm chứng giùm. Tôi không như các ông. Để họ biết tôi bị hàm
oan mà thả tôi ra!
Chúng
tôi ái ngại, buồn lây cho anh. Việt cộng chúng nó bắt dễ, tha khó. Thà oan mười
hơn để sót một!
Anh Núi lọt vào đây, rồi e anh cùng chung chịu số phận
với chúng tôi. Ai cũng muốn giúp anh thoát tay Việt cộng.
Nhưng xem mòi khó khăn lắm.
Đêm đó,
vào khoảng hai giờ khuya, chúng tôi bị giựt dậy, lùa ra sân, sắp hàng trèo lên
những chiếc xe cam nhông có vải bố phủ bít bùng. Bọn cán bộ ghí súng vào lưng,
quát tháo nhanh lên...
Anh
Núi hoảng kinh:
- Trời
ơi! Đi đâu thế này?... Làm sao tôi bỏ vợ con tôi bên vỉa hè, đói rách, bệnh hoạn,
khốn khổ... Tôi đâu phải...
Bọn
cán bộ đẩy anh nhào lên xe:
- Muốn
kêu ca gì, đến trại sẽ hay... Nhanh lên!... Nhanh lên!...
Những
tấm vải bạt bỏ xuống sau vòm xe như tấm khăn sô phủ lịm những căm hờn, uất hận
của đoàn người. Chúng tôi bắt đầu thấy mình bị lừa gạt.
Đoàn xe lăn
bánh rời bỏ thành phố hoa lệ thân thương chìm đắm triền miên trong cơn ác mộng
hải hùng không dứt...
Đoàn
xe chạy mãi... chạy mãi... qua đêm, cả ngày để đưa chúng tôi đến số phận đầu
tiên bi đát: trại Bù Gia Mập. Trại tù này thuộc về Phước Bình, tỉnh Sông Bé, cận
biên giới Việt Miên, khi xưa được gọi là Bà Rá nước độc địa...
Những
ngày đầu, Lê Văn Núi cứ kêu oan mãi. Gặp cán bộ nào cũng kể lể, cũng phân trần.
Anh trông mong ở chúng một chút đỉnh thông minh để hiểu rõ hoàn cảnh ngang trái
của anh.
Nhưng
bọn cán bộ, quản giáo ở trại là bọn nguyên tắc, giáo điều xuẩn ngốc. Chúng chỉ
biết tiếp nhận số người để quản trị, đày đọa, oan ưng nào cần biết!
Chúng
tôi tin anh Núi chỉ là người ăn mày... lỡ sa chân vào cạm bẫy của chúng! Thế
nào mà bọn quân quản Sài Gòn lại để cho một kẻ ăn xin như anh lọt vào tụ điểm tập
trung của sĩ quan ngụy? Lý luận biện chứng không cho phép chúng tin lời khai của
anh Núi.
Chúng
vỗ bàn quát tháo, ném trả tờ khai lý lịch của anh:
- Phải
khai sự thật. Đừng ngoan cố. Không qua mặt cách mạng nổi đâu... Khai nhiều vào
đi. Thiếu giấy, trại cấp thêm cho... Cứ khai hết sự thật!
- Bẩm
cán bộ, đây là sự thật!...
-
Ngoan cố! Sự thật thế nào như thế này?... Ngày nào đi ăn xin ở chợ Bến Thành,
chợ Cầu Muối, Xóm Chiếu, Thị Nghè v.v... Xin được mấy đồng, mấy cắc!... Rõ là
láo!... CIA bảo anh giả vờ ăn xin khắp nơi để rình bắt công tác thành của chúng
tôi phải không?... Khai việc đó đi... Trung ương Tình báo ngụy tổ chức như thế
nào?... Ở các chợ, gày vào mấy tên?... Phải khai cho đúng sự thật!
Chúng
quần anh Núi hơn nửa tháng trời. Anh nói gì, chúng chẳng nghe.
Chúng liệt anh là thành phần ác ôn, ngoan cố. Anh phải
cung khai theo ý chúng. Không được nhận là ăn mày. Không phỉ báng quân quản Sài
Gòn làm việc tắc trách. Chúng là anh hùng. Chúng là đỉnh cao trí tuệ nhất, có
bao giờ lại sai lầm?
Anh
Núi ốm sút người và già đi trông thấy.
Anh than thở với chúng tôi:
- Cứ
bị tra cung như thế này, chắc chết mất đi thôi!... Các anh thương tình, giúp đỡ
cho em... Dạy em khai thế nào cho vừa lòng cúng nó... Đừng bảo làm CIA, mà làm
gì cũng được... Chúng nó còn tra hỏi có
chặt đầu, ăn gan ai? Đốt bao nhiêu nhà cửa dân. Chúng lấy việc làm của
chúng hồi Tết Mậu Thân 68 mà gán cho các anh cũng ác như chúng!...
Anh
Núi ỉ ôi nan nĩ mãi.
Chúng tôi mới hỏi về anh...
Mới biết anh ở Bà Điểm, quận Hóc Môn. Trước Mậu Thân
68, anh là lương dân trong làng, có chút ít ruộng đất tạm sống qua ngày. Đến Tết
Mậu Thân, Việt cộng vi phạm lệnh hưu chiến, phát động Tổng tấn công, Tổng khởi
nghĩa của chúng khiến dân chúng chết mười lăm ngàn người, bảy trăm ngàn gia
đình mất nhà cửa và số nạn nhân chiến cuộc đến hai triệu người...
Anh
Núi bị một quả pháo lọt vào nhà làm cho anh cụt một chân, đứa con gái nhỏ gãy một
tay... Sau khi được chữa lành tật, gia đình anh Núi nhập làng Cái bang ở Sài
Gòn, màn trời chiếu đất, sanh sống bằng ngữa tay xin bố thí...
Nhưng
bọn cán bộ, quản giáo không chấp nhận sự thật ấy.
Sự thật của chúng muốn gán cho anh Núi phải là... ngụy,
có nợ máu với nhân dân!
Chúng
tôi bịa cho anh nên khai là nhân dân tự vệ, canh gát ở xã. Anh bị pháo kích
thành ra thương tật...
Cuối
cùng, bọn chấp cung phải nhận lời khai ngoài sự thật của anh:
- Có
thế chứ! Phải có nợ máu với nhân dân mới được vào trại, hưởng sự khoan hồng của
chánh phủ... Cố gắng học tập cải tạo tốt mà chóng trở về với vợ con!...
Đấy
là câu nói đầu lưỡi của bọn quản giáo, cán bộ. Chúng đôn đốc phải học tập tốt.
Chúng tôi đặt câu hỏi:
- Thế
nào là tốt? Khi đã học tập tốt thì chừng nào được ra tù?
Bọn
chúng chỉ trả lời mập mờ, lại vặn ngược chúng tôi:
- Liệu
các anh đã tốt chưa? Các anh đã có chút ít tiến bộ, song còn xa lắm với tiêu
chuẩn. Phải nổ lực thêm. Phải cố gắng thêm. Đừng vi phạm nội qui trong trại.
Nội
qui của trại thì cấm đủ thứ. Làm gì cũng phạm cấm, cũng bị bắt bẻ.
Chúng cứ bảo thế là học tập chưa tốt!...
Chúng tôi biết đã mắc mưu bọn giả dối, cáo già. Chúng
lừa gạt mọi người. Chúng lừa gạt cả thế giới. Chúng nói láo luôn với bọn chúng!
Ngay bọn quản giáo, cán bộ cũng chả tin nhau...
Chúng
hay tuyên bố, hay báo cáo những điều sai trái sự thật. Toàn những văn kiện có
nhiều nghĩa, hiểu thế nào cũng đuợc.
Chúng long trọng ban bố lệnh khoan hồng, kêu gọi các
sĩ quan, công chức tập trung học tập cải tạo chỉ mang theo một tháng tiền cơm
khiến ai cũng nghĩ, dầu có lâu cũng vài ba tháng sẽ vui vẻ ra về... Nào ai ngờ
bao năm, tháng kéo dài vô tận giữa chốn núi rừng hoang vu, độc địa mà bao nhiêu
người phải ngã gục, phải chết tức tưởi thảm thiết, oán hận ngút trời!...
Trại
Bù gia Mập ở tận Biên giới Việt Miên, là vùng lam sơn chướng khí nặng nề. Đường
đi khó khăn, hiểm nghèo.
Chung quanh, núi rừng âm u, khí trời khó ở, ngày bực bội,
đêm lạnh rét run, không thích hạp với đoàn người chúng tôi. Chúng tôi ăn uống
thiếu thốn mà thường xuyên làm việc cực lực, khổ sai...
Tít
ngút ngàn nơi có người ở, thường là đồng bào Thượng, với rẫy bắp rẫy khoai. Dân
ở vùng ấy đã bị Việt cộng nhồi sọ từ lâu... nhìn chúng tôi bằng nửa mắt khinh
thị, thù ghét!
Hằng
ngày, trong hừng đông sương mù, tiếng kẻng trong trại đổ beng beng... Anh em trại
viên kêu gọi ơi ới:
- Dậy!...
Dậy đi học tập!
Học tập
bằng cây cuốc, dao, rựa.
Học
phát hoang làm rẫy.
Học đốn
cây, đẵn gỗ.
Học
chặt lồ ồ, phá các cụm dây mây gai dầy mịt.
Những
tháng đầu, mỗi khi đi học tập trở về trại, đa số các trại viên bị sướt mặt, thủng
tay, toạt chân v.v...
Anh em trại viên bảo đùa nhau:
- Học
tập tốt là ngày nào không dính máu là còn chưa tốt!
Tôi
được liệt vào loại người cầm bút, sức khoẻ kém, chân yếu tay mềm mà vẫn phải chỉ
tiêu hai mươi cây lồ ồ mỗi ngày. Thì có khác gì các anh em trại viên khác! Đốn
lồ ồ trong rừng xa, vát về trại, nạp vào kho.
Tôi rầu rĩ quá, biết sức không kham.
May
có mấy bạn khuyên bảo:
- Có
khiếu nại cũng vô ích... Anh chớ lo. Có anh em tôi tiếp cho. Anh cứ đốn được
bao nhiêu thì đốn. Phần thiếu lại để chúng tôi bao.
-
Nhưng các anh vát số hai mươi lồ ồ về trại cũng ngất ngư rồi...
- Phải
kiên cường chịu đựng. Đừng để bọn chúng khinh thường chúng mình... Vả lại, khi
nào kẹt lắm, thằng trung úy Thiệu, coi kho, cũng ghi đủ số cho mình.
Anh
Núi vì cụt chân, không đi lao động xa, chỉ lúc thúc ở trại công tác vệ sinh và
dọn dẹp sạch sẽ quanh trại. Anh trông thấy chúng tôi "lao động vinh quang"
đến mệt bở hơi tai, mặt mày hóc hác, chép miệng bảo:
- Bọn
chúng bất nhơn, ác đức mà cứ nói nhân nghĩa. Tâm địa sâu độc, giết người không
cần dao! Khoan hồng gì chúng. Học tập cải tạo gì như tù khổ sai. Chúng dạy gì
được các anh? Chúng là học trò, xách dép cho các anh mà còn chưa đáng!
- Bây
giờ nói gì nữa, anh Núi. Thời buổi giòi bọ làm người, ma quỷ thoát địa ngục lên
quấy phá trần gian mà!
- Rồi
ác giả áo báo, mấy anh à. Tôi tin Trời, Phật, Ông Bà sẽ trừng trị lũ ác... cho
chúng mình đở khổ.
Nhưng
điều mong ước của anh Núi không đến với anh.
Chúng tôi dần dần được quen với phong thổ độc địa. Nhờ
vào ý chí quyết sống, chúng tôi khuyến khích, nâng đở tinh thần cho nhau. Xem đấy
là một cuộc chiến đấu gian khổ,
kinh hoàng với kẻ thù mà chúng tôi quyết vượt qua.
Khí
trời ở đây, vào mùa mưa hay nắng, ngày như đêm, âm nhiễm sự độc địa, sự giết hại
khác nhau. Ghê sợ nhứt là vào mùa viêm nhiệt. Nhứt là mùa viêm nhiệt của năm dịch
tả rùn rợn, kinh hồn đã giết chết hơn bảy ngàn trại viên.
Trại
giam mười hai ngàn trại viên với điều kiện tối thiểu về vệ sinh. Trại viên làm
lụn quá sức con người, phần ăn, nước uống quá hạn chế lại không tinh khiết, sức
dinh dưỡng trong người quá kém sút. Vì thế, khi bịnh phát, dễ bị lan truyền
thành bịnh truyền nhiễm.
Ban đầu,
vài trại viên bị đi tả, trại không có thuốc trị. Thành ra dịch tả mặc sức hoành
hành. Lỗi ở tụi cán bộ.
Chúng bắt đội gia tăng làm vườn dùng phân bắc bón rau
cải, cho mau có kết quả nặng cân, tươi tốt. Chúng lấy rau cải ấy bán vào trại,
lấy tiền bỏ túi.
Trại
viên bị dịch tả chết, chúng viện cớ này, cớ nọ khỏa lấp việc tham ô của chúng.
Trong số trại viên có nhiều bác sĩ quân y ngoài đời trước kia nhưng chúng không
dùng đến.
Chúng không biết lập hàng rào y tế. Không biết cách ly
người bịnh. Chúng là "đỉnh cao trí tuệ" không lẽ phải hỏi ý, phải học
hỏi ở những kẻ đã thua trận!
Ban đầu,
mỗi ngày vài chục trại viên bỏ mạng. Sau lên đến số trăm. Một số trại viên sợ dịch,
bỏ trại trốn. Thà trở về nhà, có chết thì chết trong vòng tay thân yêu của gia
đình còn hơn phải nằm cô đơn hoang lạnh giữa nơi rừng núi ác ôn!...
Họ bị lính tuần bắn chết rồi lôi xác về trại, bỏ ở sân
để cảnh cáo chúng tôi.
Dịch
tả tăng thêm.
Cả trại hôi hám, nực mùi tử khí. Bọn quản giáo, cán bộ
dồn trại viên lại từng khu, sợ tù xổng. Vì sự dốt nát ấy, số người chết ngày
càng gia tăng...
Nhà vệ sinh cách xa doanh trại đến hơn ba trăm thước.
Nhiều trại viên lả người, đi không nổi, đành đấp chiếu ngủ gần nhà cầu, đến khi
chết, chết cạnh đống phân...
Có
tin cho biết ở Sài Gòn hay có dịch tả liền đánh điện hỏi có phải dời trại về
nơi khác. Tên thủ trưởng ngu dốt đã cày cục phe đảng mới được chức cai quản trại
này. Nếu dời trại tức là hắn không giữ quyền hành nữa.
Hắn
báo cáo là việc dời trại rất khó khăn và tốn kém. Hắn đang cố gắng khắc phục bịnh
tả và đã có kết quả khả quan...
Thật ra, phòng y tế của trại không có thuốc chữa trị.
Bọn cán bộ y tế đều khoanh tay bất lực. Anh em trại viên tự động tìm phương kế
cứu sống nhau.
Có
anh lấy cả thuốc trị sốt rét chloroquine để giành, đem ra uống liều. May sao
phước chủ may thầy, uống tiều uống quảng như thế mà hết bịnh.
Nhưng phần nhiều dùng cỏ hôi, cỏ mực đâm với muối mà uống.
Những anh em nào còn lê lết tấm thân gầy còm mà còn đi được, cố đi tìm cỏ hôi,
cỏ mực về cứu bạn.
Có một
anh dược sĩ quân y, để giành thủ thân được mười mấy viên thuốc trị kiết lỵ. Anh
trông thấy anh em ngã chết nhiều quá, không đành lòng, mới lấy hết số thuốc
trao ra cho bạn.
Anh
em hỏi:
- Anh
không chừa lại vài viên để phòng thân nếu chẳng may...?
- Thấy
bạn chết, không cứu sao đành. Lương tâm tôi không yên. Hơn nữa, tôi là một người
thầy thuốc... Tôi cố giữ không bị truyền nhiễm. Mà nếu rủi bị thì sẽ tính sau,
sẽ uống cỏ mực, cỏ hôi như mọi người...
Hỡi
ôi!
Đến khi anh ấy bịnh, không thuốc chữa. Anh nằm liệt
giường. Gương mặt xanh xao, ốm thỏn của anh phảng phất nụ cười buồn. Anh không
thở than, ân hận gì về hành động vì bạn quên mình trước kia.
Tôi
ái ngại, thương xót cho anh:
- Anh
ráng uống nước cỏ mực thử xem!
Anh vội
đáp:
- Vô
ích. Bây giờ tôi chỉ nằm đây chờ chết. Thú vị ở chỗ mình thanh thản nghe và xem
cái chết từ từ đến với mình... Chắc không trông thấy tử thần cầm lưỡi hái...
Giờ hấp
hối, anh rất bình thản. Bình thản như người du hành một chuyến xa.
Thái độ chung của những người chấp nhận nghịch cảnh,
chấp nhận sự hy sinh trong chiến đấu chống lại bọn bạo tàn Cộng sản.
Anh
không than van, không khuất phục trước quân thù. Khi biết mình không thoát chết
được, anh cố thắng những cơn đau đớn, quằn quại. Anh không tỏ vẽ yếu đuối, thấp
hèn trước mặt bọn cán bộ và quản giáo.
Vào
những giây phút cuối cùng của anh, anh bảo tôi lấy trong bọc ra thư từ và hình ảnh
của vợ, con anh. Vợ anh, một thiếu phụ trẻ đẹp, đài các với đôi mắt buồn trông
chờ về phương trời xa. Con anh, một trai, một gái, kháu khỉnh dễ thương, ép
mình dưới vòng tay ôm ấp của mẹ.
Trong
một lá thư, người thiếu phụ như thỏ thẻ tâm sự với chồng qua dòng chữ nghiêng
nghiêng, mềm mại:
-
Mình ơi! Em biết mình có tánh hay thương người. Nhưng số thuốc mình đem theo, mình
phải giữ lại để phòng thân. Mình cố gắng giữ mình để có ngày trở về với vợ yếu,
con thơ đang cần mình là cột trụ gia đình...
Anh
xem ảnh vợ con xong, anh ra ý gọi tôi đến cạnh bên:
-
Anh... cầu nguyện... cho tôi... Làm phép lành cho tôi...
-
Tôi... tôi như anh... có quyền phép gì như các Cha, các Thầy...
- Cứ
cầu Chúa Trời hay Phật Tổ.
Anh
là người Thiên Chúa giáo.
Tôi có nghiên cứu về thần học. Tôi nắm lấy hai tay
anh, xin sáng danh Ba Ngôi rồi đưa tay lên trán anh làm dấu Thánh Giá. Anh nở nụ
cười hài lòng, buông tay, đi rất êm. Mặt anh như tươi hồng lại, ánh ra một vẻ
thánh thiện.
(Các
bạn cựu tù nhân chánh trị của Cộng sản có mặt ở trại Bù Gia Mập trong thời điểm
ấy, có ai nhớ tên họ anh dược sĩ này, xin vui lòng thông báo cho tôi biết. Xin
cám ơn).
Mấy
anh bạn nằm chờ chết kế bên trông thấy tôi làm như thế, gật đầu tán thành. Ý của
anh em cũng muốn được như thế, để hồn đi cho xuôi.
Tôi thể theo ý muốn cuối cùng của họ, lần lược làm
theologic cho từng người. Cho anh em vui vẻ nhắm mắt, khi xong một kiếp người!...
Khi đến
bên anh nào, tôi trịnh trọng vuốt đầu, sửa áo lại chỉnh tề, hỏi xem anh ấy ở đạo
nào? Nếu là người đạo Thiên Chúa, tôi sáng danh Ba Ngôi. Nếu là người theo đạo
Phật tôi niệm Hồng danh Phật A Di Đà.
Tôi
nhận thấy con người cần phải có Đức Tin. Tin vào sự thiêng liêng, tin theo một
đạo giáo. Không mê tín, dị đoan. Tin vào Cõi Phúc, nơi mà ta dọn mình đi đến.
Do Đức
Tin ấy, nhiều người ra đi lần cuối rất lành, bỏ lại phần thân thể tanh hôi! Phải
chăng như thế mà cái chết của con người khác với cái chết của thú vật?
Dù người đạo nào cũng cầu nguyện cho được chết lành.
Tôi chứng kiến, trong thời điểm phát sanh bịnh dịch tả ấy, rất nhiều cái chất
lành. Giây phút phút hấp hối của người chết, họ trông thấy gì?
Thiên
Đàng hay Địa Ngục?...
Niết
Bàn hay A Tỳ Ngục?...
Ai
cũng xuôi hai tay trắng mà đi.
Giàu sang, danh vọng, không ai đem theo được. Thế sao
lắm người mê muội trong vòng tranh đua danh lợi, gây thù oán, giết hại nhau,
làm nên những điều trái lương tâm, đạo lý!
Số tử
vong vì dịch tả trong trại lên đến số ngàn. Tôi được cắt phần lao động nhẹ.
Xung vào đội chung sự. Đội này chuyên về tẩn liệm, gói ghém và chôn người.
Ngoài
đời, tôi có bao giờ biết và làm công việc vừa thương tâm, vừa ghê sợ ấy. Nên
ban đầu, tôi rất lọng cọng vì thiếu kinh nghiệm. Không biết khiêng người chết
phải để đầu đi trước hay chân đi trước? Khi xuống huyệt thì đầu để về hướng nào,
chân ở hướng nào?
Nhưng
trong đội chung sự, không ai sợ hôi hám, sợ dơ bẩn khi phải lo hậu sự cho người
bạn đồng cảnh ngộ. Chúng tôi lau chùi cho anh em rất kỹ.
Khi đào lỗ chôn, chúng tôi bảo nhau:
-
Ráng thêm chút nữa. Cho huyệt sâu hơn, anh em nằm ấm!
Chúng
tôi quan niệm cuộc chiến đấu chưa chấm dứt. Hàng ngũ chưa hẳn hoàn toàn tan rã.
Đây mới là giai đoạn cam go, cùng khổ nhứt mà người chiến sĩ quốc gia phải chịu
đựng.
Hàng
ngàn... hàng ngàn anh em đồng đội đã ra đi, đã nằm xuống đây là đã hy sinh vì
mình, cho mình!... Cái chết của
họ là động lực thúc đẩy những người còn lại chớ quên cái nhục ngày 30 tháng Tư
năm 1975 để nung chí quật khởi, quật cường mà phục hận. Công ơn của những người
nằm xuống phải ghi khắc vào sổ vàng.
Tổ quốc
không bỏ họ.
Đồng
bào không bỏ họ.
Lịch
sử không bỏ họ.
Ở trại,
anh Núi, người ăn mày một chân, hết lòng chăm nom, phục vụ cho anh em. Khi dịch
tả phát sanh, anh càng tất bật lo việc vệ sinh, thăm bịnh từng giường, đổ thuốc
cho anh em uống. Anh dìu anh em đi cầu, thức canh người hấp hối. Anh không ngại
tanh hôi, khổ nhọc.
Anh
thường than thở:
- Phải
chi tôi được chết thế mạng cho mấy anh... Mấy anh còn trẻ quá, còn làm được nhiều
sự ích lợi sau nầy...
- Anh
chăm lo tận tụy như thế, chúng tôi cũng phục anh.
- Tôi
nhờ sống bên các anh mà hiểu biết nhiều... Tôi nghĩ rằng giá các anh không đi
lính, không làm tròn bổn phận người trai thời chiến thì với học thức và tài giỏi
của các anh, làm gì không an nhàn sung sướng, vợ con vui vầy, chớ có đâu nằm
hiu quạnh nơi rừng thiêng nước độc, vợ con không hay biết! Thương các anh bao
nhiêu, tôi oán hận bọn Cộng sản nhẫn tâm chôn vùi bao nhiêu người tài của đất
nước... Mà cũng tại mấy ông lớn bỏ chạy...
Tôi mến
thương anh thật tình:
- Người
ta ở đời, dầu có giàu sang phú quý đến đâu, mà kém đạo đức, mất nhơn phẩm thì
cũng chả ra gì cả. Anh không cùng hàng ngũ với chúng tôi, nhưng anh làm những
việc cao, đẹp hơn bọn người anh vừa nói...
Ít
lâu, bỗng có một việc xảy ra không hay cho anh Núi và cho cả anh em chúng tôi.
Đó là cái chết của một trại viên cùng phòng.
Anh nầy bị đi tả liên miên... Anh em trong phòng xúm lại
chạy chữa cho anh. Có anh mót được mấy viên chloroqine trị sốt rét bảo:
- Phước
chủ may thầy, cứ uống liều xem...
Thuốc
uống vào ban sáng, đến chiều anh nọ vẫn ôm bụng lăn lộn, rên rĩ. Ai trông thấy
cũng đau lòng, xót dạ.
Anh
Núi đâm cỏ mực, cỏ hôi trao cho anh ấy uống:
- Còn
nước, còn tát!... Anh ráng thêm bát thuốc...
- Uống
trên, ra dưới... Uống nữa làm gì?
- Anh
đau oằn oại như vầy, không uống thuốc chịu sao thấu... Ráng thêm bát thuốc, họa
may cầm lại được...
Anh
Núi đổ thuốc vào miệng anh ấy. Đến khuya, anh nọ mê sảng, tay bắt chim chim.
Qua cơn hấp hối, anh kêu:
- Núi
ơi, mầy giết anh... Uống quá nhiều thuốc!...
Khi ấy,
có tên cán bộ đúng bên. Tên này vội báo cáo lên trưởng trại.
Trưởng trại gọi chúng tôi lên hỏi. Chúng tôi trình bày
tự sự, bảo vì muốn cứu sống anh nọ nên anh Núi mới đổ thuốc cho...
Tên
trưởng trại họp cán bộ lại. Số trại viên chết vì dịch tả đã hơn bảy nghìn. Lỗi ở
trưởng trại cứ muốn duy trì trại ở lại, vì quyền lợi của hắn. Hắn đã cam đoan
trước đó với cấp lớn là có thể khắc phục dịch tả. Nay khắc phục không xong, dịch
tả lại lan tràn...
Lỗi ở
ai?
À thì ra lỗi ở tên ăn mày Lê Văn Núi nầy đã đổ thuốc
giết hại trại viên!
Tên
trưởng trại bảo với bọn tay sai:
-
Chúng ta suýt mắc mưu của bọn CIA. Bọn CIA bí mật gởi người của chúng vào trại
để phá vỡ quốc sách khoan hồng của chánh phủ đối với ngụy quân ngụy quyền. Tên
Lê Văn Núi có phải là tên ăn mày như hắn bảo đâu. Hắn là bọn CIA phản động, chống
phá cách mạng. Hắn giả vờ què chân để lẻn vào trại ta với mục đích ám hại cán bộ
và đầu độc trại viên. Hắn gây nên bịnh dịch tả, làm cho nhà nước tốn hao thuốc
men chữa trị mà tinh thần trại viên cũng hoang mang lo sợ. Họ mất lòng tin vào
lịnh khoan hồng của chính phủ chỉ muốn ngụy quân ngụy quyền học tập tốt rồi trở
về với gia đình. Chính tên Lê Văn Núi đã gây nên bịnh dịch tả giết hại mất bảy
nghìn trại viên. Hắn toan giết cả trại, cả đến các cấp lãnh đạo, nhưng nhờ ơn
Bác và đảng, nhờ chủ nghĩa bách chiến bách thắng Mác Lê-nin soi sáng, chúng ta
kịp thời phát giác âm mưu thâm độc của tên CIA Lê Văn Núi. Có phải thế không, hở
các đồng chí?
Bọn
cán bộ giơ tay, hò reo:
-
Đúng!... Lũ CIA lợi hại và thâm độc. Nhưng sao qua mắt nổi chúng ta!
- Thế
phải xử lý tên Lê Văn Núi thế nào? Có nên gửi nó về Sài Gòn kêu án?
- Tử
hình!
- Tử
hình tại chỗ, gởi đi đâu cho mất công!
Thế
là bản án Lê Văn Núi là người của CIA được tuyên bố. Lê Văn Núi bị trói thúc ké
dẫn ra cổng trại.
Anh không than van hay biện hô. Dáng đi khấp khểnh của
anh có vẻ hiên ngang của kẻ không sợ chết.
Chúng
tôi lẳng lặng cúi đầu, ngầm ngùi tiễn đưa anh...
Sau vụ
án Lê Văn Núi được ít lâu, trại viên chúng tôi cũng được chuyển về Long Thành,
Mộc Hóa v.v... Số trại viên khi lên trại Bù Gia Mập là mười hai ngàn người, nhưng
khi về chỉ còn không hơn bốn ngàn!...
Hiếu Đệ
-**-
Tôi Vẽ Tranh Vui Cười
Ngày còn ngồi
ở trường Trung học, nhà ở Chợ Lớn, tôi thường đạp xe chạy đường Gia Long, phía
sau chợ Bến Thanh, đi ngang qua tòa soạn báo Tiếng Chuông. Trước tòa báo là nhà
in, nơi đó có mấy quán cốc. Anh em ký giả thường ngồi tán gẫu với nhau ở quán
đó. Đám anh em này rất trẻ, phần đông mới vào nghề.
Ngày
đó, tôi hay viết truyện ngắn gửi nhà báo chạy ở trang trong. Buổi sáng, tòa soạn
có vẻ bận rộn hơn vì họ lo phần tin tức chạy trang ngoài.
Lúc này, báo tiêu thụ rất mạnh vì thời buổi chiến
tranh. Các báo ăn thua nhau phần tin 8 cột chạy ở trang ngoài, nhất là phần tin
chiến sự rồi mới đến phần tin tức Đô Thành.
Buổi
chiều, đám anh em trang trong mới tụ hợp với nhau nói chuyện dông dài văn
chương thi phú và bàn với nhau những kinh nghiệm cầm bút. Trong số này có các
anh Lê Tràng Kiều, Tam Ích, Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà, Vũ Anh
Khanh...
Riêng
tôi, tôi rất quen biết Vũ Anh Khanh vì nó là đứa bạn đánh đáo với tôi ở sân trường
tiểu học. Sau mấy năm loạn lạc, tới khi gặp lại ở Sài Gòn, anh ta đang phụ
trách trang trong của nhựt báo Tiếng Chuông và lại là nhà văn nữa. Anh cùng với
một nhóm anh em nhà văn như Lý Văn Sâm, Thẩm Thệ Hà... trông coi nhà xuất bản
Tân Việt Nam của ông Nguyễn Văn Chà, Giám đốc Cơ sở Phát hành Báo chí Nam Cường
nằm ở đường Kitchener, phía sau ga xe lửa Sài Gòn.
Thật
ra hồi đi học, anh tên là Võ Văn Khánh. Gia đình anh có một hãng sản xuất nước
mắm ở Mũi Né, Phan Thiết.
Khánh bảo tôi:
- Hồi đi học, thầy giáo Trạch hay lấy mấy bài
luận văn của anh làm bài mẫu, đọc cho cả lớp cùng nghe. Anh có tài viết lách đấy.
Anh có thể viết nhiều quyển truyện để tôi bán giùm. Cứ viết đầy cuốn tập vở một
trăm trang sẽ được trả cho năm trăm đồng.
Nhà
sách đã mua và in cho tôi năm quyển loại thiếu nhi kháng chiến chống Pháp trong
Tủ sách Thần Đồng của Nhà xuất bản Tân Việt Nam. Tôi thường viết nắn nót tập bản
thảo và vẽ bông hoa. Đôi khi, tôi lại vẽ cả phong cảnh nữa nên lũ bạn gọi tôi
là họa sĩ.
Có lần
tôi sáp vô tán gẫu với anh em ký giả nơi tòa soạn báo Tiếng Chuông. Tôi gặp anh
Chủ nhiệm Đinh Văn Khai.
Anh hỏi:
- Họa
sĩ đâu? Nhờ Hiếu Đệ vẽ cho anh cái tranh vui cười ba cột ở trang nhất mỗi ngày
để anh làm cái thai đề 36 con.
Tôi
chẳng biết cái thai đề để dùng vào công việc gì thì anh giải thích:
- Hiện
nay, Đại Thế Giới ở Chợ Lớn và Kim Chung ở Cầu Ông Lãnh là hai trung tâm cờ bạc
và xổ đề. Bạn hàng các chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Bến Thành và Bà Chiễu trở thành những
con bạc đam mê vụ đánh đề. Họ cứ nhặt
mấy tranh cartoon vui cười của báo Mỹ, báo Pháp... lật xuôi lật ngược, tìm ra
con vật trong 36 con đề để đánh. Có khi đêm nằm mơ, sáng dậy ra chợ, họ ngồi
bàn với bạn bè. Người bàn ra tán vào về nội dung của giấc mơ. Người dân đam mê
cờ bạc. Tại sao mình không bày ra cắt thai đề để họ bàn như những lá xâm ở Chùa
Ông Quan Thánh của người Tàu? Hiếu Đệ vẽ mỗi ngày một cái thai đề lớn cỡ ba cột
báo trên trang nhất để cho độc giả bàn đề đã đời. Như vậy, ấn bản của báo mình
sẽ lên vù vù...
Anh
Tú tài Khai còn nói:
- Hiếu
Đệ làm được cái chuyện này, anh hứa trả cho mỗi ngày năm chục đồng, bằng lương
một ký giả.
Năm
mươi đồng lúc đó cũng khá lớn.
Tô phở đặc biệt ở đường Gia Long chỉ có hai đồng rưỡi.
Tôi cũng được ưu đãi lắm. Nhưng tôi
không biết làm sao mà vẽ.
Anh
Nguyễn Kiên Giang, anh Nguyễn Văn Hiếu, anh Từ Thành xáp lại góp ý.
Các
anh nói:
- Chú
mầy cứ đọc ba cái tin xe cán chó, tin tòa án, thấy cái nào tức cười thì cứ vẽ
thôi. Thí dụ: Thông cáo của Sở Cảnh Sát Đô Thành công bố về phạt xe không đèn
thì chú mầy vẽ thầy cảnh sát chận cô nữ sinh biên phạt. Cô ta chỉ vô bộ ngực
nói: "Bộ thầy đui không thấy bộ ngực của em đang nẩy lửa sao mà còn bảo là
chạy xe không đèn?
Thông
cáo của Nhà thương Từ Dũ về hiện đại hóa ngành y tế, vừa mua sắm được ba cái
bàn sanh để phục vụ cho các sản phụ. Tôi vẽ hàng trăm bà bầu đánh nhau u đầu xức
trán giành nhau để được leo lên bàn sanh.
Một
bà nọ vì ghen tương, cắt phéng cái của nợ của ông chồng. Báo hại giới đàn ông
nghe được, họ ngủ nằm sấp hết trơn.
Về vụ
Việt Cộng đêm đêm pháo kích vô Sài Gòn, nhất là các vùng ven đô, tôi vẽ cô vợ nằm
bên anh chồng hỏi:
- Tối
nay, anh có pháo kích nữa không?
Anh
em còn chỉ cho tôi mỗi ngày đọc thêm bản tin AFP, bản tin Việt Tấn Xã và bộ sưu
tập các báo. Công việc thoáng nhìn thì thấy khó nhưng bắt tay vào rồi thì thấy
dễ ợt như chuyện đùa. Mình thấy cười trước rồi vẽ ra sau, do đó con người của
mình đỡ thấy buồn.
Có
nhiều bạn hay hỏi:
- Anh
lấy ý ở đâu để vẽ tranh vui cười?
Chuyện
này về sau nó trở thành thói quen. Buổi sáng cứ ngồi vào bàn, giấy bút có sẵn,
ý tưởng về chuyện vui cười sẽ đến với mình ngay.
Chiến
tranh càng lên cao, báo chí càng phát triển nhanh. Người dân khắp nơi trở nên bất
ổn, mỗi lúc lại đổ dồn về thành phố.
Ngày
mới đến phố Sài Gòn, tôi có làm anh em với đám bụi đời đánh giày trên hè phố.
Muốn có thùng dụng cụ để đi đánh giày phải chịu nhiều điều kiện. Trường hợp
mình làm ăn khá thì phải nuôi lại những đứa chân ướt chân ráo mới vào đời.
Do đó, tôi có thói quen giúp đỡ anh em. Nhứt là các
anh em làm văn làm báo ở miền Trung miền Bắc bị Phan Văn Giáo đuổi cổ vào Sài
Gòn mang thân phận "Hành Phương Nam" kiểu nhà thơ Nguyễn Bính.
Lúc
này tôi thi lọt vào trường vẻ Gia Định, học đến năm thứ hai rồi vẫn bị mấy ông
giáo sư họp hội đồng kỷ luật phàn nàn.
Các ông cắt mấy tranh vui cười hằng ngày trên báo đưa
ra nói:
- Cho
Hiếu Đệ học đến hôm nay là phí hết một chỗ ngồi trong trường vẻ. Nó học năm thứ
hai năm thứ ba rồi mà vẽ con
người như con chó, vẽ con người cái chân cong vòng chẳng bao giờ vẽ cái bàn
chân. Cơ bản hội họa từ đời Phục Hưng Tây phương đến giờ là vẽ người. Cân đối về
con người là khuôn vàng thước ngọc. Như vậy là nó bôi bá căn bản của hội họa rồi
còn gì.
Nhà
trường mời mấy ông già đứng đơn xin cho tôi thi vào trường lên cảnh cáo. Mấy
ông cụ này là bạn của cha tôi hồi ông còn học ở Sài Gòn.
Mấy
ông thầy tôi không nghĩ rằng trong ngành mỹ thuật lại có vụ vẽ biếm họa và
tranh vui cười. Trong lịch sử nghệ thuật lại có cả Walt Disney và phim hoạt
hình.
Không lẽ chỉ có mỹ thuật thuần túy thôi sao?
Hôm nọ,
ngồi uống cà phê ở đường Đề Thám nơi nhà sách Nam Cường, anh em trong nhà xuất
bản Tân Việt Nam, các anh Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà có giao cho tôi trang trí
quyển Người Yêu Nước của Thẩm Thệ Hà, mô phỏng theo tiểu thuyết Bà Mẹ của Maxime
Gorky. Bổn phận tôi vẽ bìa và minh họa trang trong.
Tôi vẽ
cả tuần vẫn không xong, bèn chạy lại thọ giáo anh Hưng Hội. Họa sĩ vẽ minh họa
sách báo ở thời này rất hiếm.
Ngoài Bắc nổi tiếng có anh Mạnh Quỳnh. Trong Nam chỉ
có anh Hưng Hội.
Gia
đình anh Hưng Hội ở xóm chợ Cầu Ông Lãnh, trên lầu hiệu nước mắm Mậu Hương, nơi
anh Trần Lê Nguyễn ở sau này.
Tôi chạy đến nhờ anh Hưng Hội chỉ dạy.
Anh hỏi:
- Nhà
xuất bản đưa cho chú mầy bao nhiêu tiền?
Tôi
tình thật nói:
- Họ
trả cho tôi 500, nay đưa trước cho tôi về làm việc là 300.
Anh
Hưng Hội bảo đưa hết cho anh rồi anh ấy kêu xích lô đi đến đường Gia Long, nơi
mấy tiệm hút gần hiệu sơn mài anh Trương Văn Thanh.
Tôi tiếc của, phóng xe đạp theo.
Tôi
thấy anh kéo xong mấy cặp, hãm cối nước trà rồi nằm lim dim...
Tôi
đánh thức anh dậy hỏi:
- Hồi
sớm anh hứa bày cho tôi vẽ bìa sách. Như vậy mình sẽ vẽ thế nào đây anh?
Anh
ta cười hề hề vỗ đầu tôi nói:
- Đâu
phải như trong trường dạy cái gì chú mày cũng vẽ hết coi đâu được. Vẽ bìa sách
là mỹ thuật đồ họa hay thiết ấn đó (Art Graphic), vẽ để mà in. Cho nên người ta
phải vẽ bằng cây dao hay kéo mới được. Chữ nghĩa, phong nền... tất cả người ta
đều có bán sẵn. Mình chỉ dán lên thôi (layout). Mai sau kỹ thuật in ấn dẫm chết
mỹ thuật thuần túy. Người ta chỉ vẽ một bức tranh rồi in ra cả trăm bức bán giá
rẻ rề như cái bàn cái ghế là tụi mình chỉ có đói thôi. Chú mày chạy xuống chợ
cũ mua giấy nền màu, mua chữ décalque, lên hình ảnh vẽ đơn sơ để còn cắt dán
lên. Thế là xong.
Anh
còn nói thêm:
- Này
anh nói cho mà biết, nét vẽ của chú mày sau này có tương lai hơn cả đời anh bây
giờ. Chú mày rán lên nghe không.
Anh
Hưng Hội chỉ nói sơ qua như vậy làm tôi nhớ đến bây giờ. Hỏi ra thì anh Hưng Hội
hồi đó chỉ học trường vẽ đến năm thứ ba.
Dưới thời cô Lê Thị Lựu, ảnh phản đối cô giáo độc tài,
khó tính, bóp chẹt học trò. Anh kêu cả lớp đứng lên làm reo bỏ học, bị mật thám
Pháp bắt đánh cho một trận rồi đuổi học cả lớp luôn.
Cô Lê Thị Lựu bỏ về Pháp không dạy nữa. Anh Duy Liêm,
anh Hồ Tấn Thuận học sau một năm nên tránh được tai họa này.
Người
Việt chúng ta thường không thích châm biếm, không thích vui cười. Bị châm chọc,
người ta hay nổi giận. Bạn bè tôi thường bị mang họa vì ba cái tranh vui cười của
tôi.
Anh Hồng
Sơn, làm việc ở Phòng Kiểm Duyệt của Sở Thông Tin trên đường Phan Đình Phùng.
Anh có ra tờ báo Sinh Hoạt. Trang bìa đăng cái tranh của Hiếu Đệ vẽ nông dân Việt
Nam thấy cái thùng đồ Mỹ viện trợ có in hình hai bàn tay bắt lại với nhau, mừng
vô cùng mới nói lúc này nước mình giàu to. Thì ra khi chiếc máy bay Mỹ thả
thùng đồ xuống đè phải nông dân xệp ruột. Thùng bị vỡ ra toàn là súng ống và
bom đạn.
Thôi
thì đành chết một cửa tứ.
Bức
tranh này làm anh Hồng Sơn bị mất sở. Tờ Sinh Hoạt bị đóng cửa. Anh Hồng Sơn bị
đổi đi làm Trưởng phòng Thông Tin tỉnh Cà Mau.
Nhà
văn An Khê Nguyễn Bính Thinh về miền Tây làm Giám Đốc Đài Phát Thanh và xuất bản
tờ báo Miền Tây. Trong lần bầu cử Quốc Hội, có ông bác sĩ nọ ở địa phương ra ứng
cử dân biểu.
Tờ
báo có đăng cái tranh của Hiếu Đệ vẽ bà nọ bế đứa con đi khám bịnh, cái đít đứa
bé đang chảy re. Còn ông bác sĩ thì đưa cái toa đòi năm chục, không có thì ông
không chịu chữa bịnh.
Báo hại anh An Khê bị ra tòa mất chân Giám Đốc Đài
Phát Thanh, tờ báo Miền Tây bị đóng cửa, còn anh bị án treo sáu tháng.
Có lần
tôi giữ trang đặc biệt về bầu cử Quốc Hội, đơn vị Sài Gòn Chợ Lớn sau khi Thủ
tướng Ngô Đình Diệm truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại và tổ chức bầu cử thành lập
quốc hội. Tôi vẽ ứng cử viên toàn là mấy chàng mặt dày mày dạn, cọ xuống đường
nhựa xẹt lửa.
Thầy
thuốc Quách Tân Xuân chuyên moi bịnh trỉ của mấy bà già nhà quê. Nhà đầu cơ gạo
thóc Phạm Văn Út đang ngồi trên bao gạo bóp cổ dân nghèo.
Họ
cho công an đi hỏi tội, làm tôi cả tháng không dám xuống tòa soạn nhà báo. Tôi
cũng chẳng chui ra khỏi ký túc xá của nhà trường.
Sau
nhất là mới đây năm 1996, bức tranh tên Việt cộng nói chuyện với con vịt. Vịt
đây là tượng trưng cho ngành báo chí.
Tên cán bộ dạy đời lũ vịt rằng: Làm báo ở Việt Nam thì
phải có đảng tính. Làm báo ở Mỹ, ở nước tự do thì phải có đĩ tính, phải biết vẫy
mực vào mặt cộng đồng để xin quảng cáo.
Như thế mới làm ăn khá được.
Báo hại,
chuyện thinh không lại xảy ra rắc rối một thời gian. Một số mấy bà chủ báo đòi
giải thợ vẽ ra tòa. Thật ra, bức tranh tôi vẽ từ lâu. Người ta lên báo trong
lúc họ gay cấn với nhau chớ tôi không hề đụng chạm đến một cá nhân nào.
Hơn nữa, tôi cũng chẳng biết mặt mũi mấy bà chủ báo
này là ai cả. Thật oan ơi ông Địa!
Người
ta nói: "Viết là phải lách". Như vậy thì vẽ cũng phải đòi hỏi một
thái độ như viết. Không khéo sẽ bị đụng chạm tơi bời.
Trong
thời buổi loạn ly, anh Đinh Văn Khai bảo vẽ mấy cái thai đề cũng chỉ là cách
tránh né để mình chơi trò cút bắt với Bộ Thông Tin. Tức là mình không có làm
chính trị chính em gì trong này cả.
Có
hôm, tôi đưa nhà văn Ngọc Sơn Trần Văn Tròn đến giới thiệu với anh Khai để bán
tác phẩm đầu tay của anh ta là quyển Hồng Và Cúc. Anh Khai bảo là để cho anh đọc.
Chừng mười ngày sẽ trả lời. Thì ra sau khi Ngọc Sơn
quay lưng ra về, anh Khai lại đưa bản thảo này cho chị Tư xếp giấy đọc và cho
biết ý kiến.
Tôi hỏi
anh:
- Làm
như vậy liệu Ngọc Sơn biết được, nó có buồn chăng?
Anh
Khai bật cười nói:
- Thật
ra thì ba cái tiểu thuyết trang trong chỉ để cho giới bình dân đọc. Do đó, tác
phẩm có tiêu thụ được hay không đều
do ở đám này, chớ đám trí thức bọn mình hơi sức đâu mà đọc và phê phán mấy tác
phẩm ba xu. Muốn biết thị hiếu của mấy bà phụ nữ bạn hàng ở chợ Cầu Ông Lãnh
thích nhà văn nào thì mình phải hỏi ngay ở họ là chắc ăn nhất. Như vậy, nhà văn
phải biết mình đang viết cho ai đọc để mình phục vụ cho họ. Họ là những người
mua báo mà mình chỉ có làm báo thôi.
Có
hôm anh Khai đứng giữa tòa soạn báo tin mừng:
- Tờ
báo Tiếng Chuông đang phát hành hai mươi ngàn số phải nâng lên hai trăm ngàn.
Anh
em mừng quá, tưởng đâu là do công lao và tài nghệ của mình.
Thì ra anh Khai lại nói:
- Hiện
nay, chánh phủ đang thiếu ngoại tệ. Họ phải xin viện trợ của Mỹ. Số tiền nhập cảng
giấy báo để làm bao bì cho các chợ bị cắt xén. Khổ nỗi, bạn hàng ở các chợ có
thói quen không chịu gói hàng bằng giấy trắng nên mình phải in thêm số phát
hành để đáp ứng nhu cầu cho các chợ. Nói toạt ra có nghĩa là để cân ve chai.
Anh Khai còn nói thêm:
- Một năm mình được làm báo Xuân một
lần, không phải thuần túy để các văn nhân ký giả trổ tài đâu. Việc đó chỉ có một
phần thôi. Thật ra để mình đăng bài của mấy ông Đốc Phủ Sứ, của mấy ông Dân Biểu
và mấy ông Bá Hộ để họ phát biểu vung vít quảng cáo cho tên tuổi của mình. Đăng
bài của họ thì được trả một món tiền rất hậu, còn chạy bài của các nhà văn thì
nhà báo phải trả khoản nhuận bút rộng rãi hơn báo thường. Trong khi ấy, các ông
tai to mặt lớn ở địa phương còn mua hằng trăm số báo Xuân có đăng bài của mình
để phát tặng cho các cơ quan đoàn thể và họ hàng. Nhờ đó mà báo Xuân được tiêu
thụ rất lớn. Mình phải in sao cho thật đẹp để mấy ông lớn còn dùng làm quà cuối
năm của họ.
Làm báo cũng vui nhưng không được
yên ổn.
Chánh phủ Ngô Đình Diệm lên cầm quyền phủ định hiệp định
Genève. Đại diện phái đoàn Cộng sản bị đuổi cổ về Hà Nội. Dẹp bỏ vụ Hiệp thương
hai miền và tổng tuyển cử trên toàn quốc. Các lực lượng võ trang Cao Đài, Hòa Hảo
và Bình Xuyên bị đánh dẹp. Nhiều thành phần đảng phái bị truy quét. Một số đông
anh em ký giả làm báo bị vồ vô ấp vì bị nghi ngờ phát động bản cương lĩnh của Mặt
trận Giải phóng Miền Nam.
Tôi cũng bị nằm ở sở Công an đường
Ngô Quyền Chợ Lớn hai tuần lễ. May nhờ có vụ Tỉnh trưởng Nguyễn Trân ở Mỹ Tho đối
chất với 21 ký giả nên tất cả được trả tự do.
Nhưng sau đó, một số bỏ đi vào chiến khu.
Tôi về thấy nhà cửa bê bối. Công an
còn ngồi tán dóc ở trong nhà để chờ bạn bè đến thăm hỏi tôi thì bắt. Vợ tôi mới
sanh cháu nhỏ bế về, lo lắng sợ sệt.
Hoàn cảnh rất khổ sở.
Thật ra tôi đã tốt nghiệp trường Mỹ
Thuật và Sư Phạm cũng đã được cả năm rồi. Bộ Quốc Gia Giáo Dục làm sự vụ lệnh bổ
nhiệm tôi đi Cần Thơ dạy học để thay thế cho họa sĩ Nguyễn Đình Cường. Anh ta về
làm Giám đốc trường Kỹ Thuật Bình Dương.
Nhưng lúc ấy tôi không chịu đi nhận
việc. Bây giờ kẹt quá phải đành thôi.
Bạn bè tha hồ chửi rủa:
- Hiếu Đệ là con người nghệ sĩ. Nó
phải ở Sài Gòn bán máu bán mực và đấu tranh như tụi mình. Nó đi dạy dưới
collège Phan Thanh Giản là tên đào ngũ. Phải đi kéo nó về hỏi tội.
Cũng nhờ nghề làm báo và vẽ tranh
vui cười nổi tiếng chọc cười thiên hạ, khi vào lính tôi được đưa về phòng Chiến
Tranh Chánh Trị ngồi với anh Nguyễn Đạt Thịnh, Thanh Nam, Mặc Thu trông coi tờ
Chiến Sĩ Cộng Hòa và tờ Chỉ Đạo. Trôi dạt khắp nơi rồi cũng về lại Sài Gòn
thôi.
Có lần nghỉ hè về quê. Tôi nhờ Đặng
Văn Nhâm vẽ thay cho mình một lúc. Đến khi trở về bị anh chủ bút than phiền:
- Đặng Nhâm nó làm anh bị độc giả cự
nự quá. Nó vẽ con cá mập tham nhũng ở Cai Lậy có vảy. Thuở nay ở trên đời này
làm gì có loại cá mập lại có vảy bao giờ?
Chế độ giáo dục ở Việt Nam lúc đó
thiếu trường nên họ lập ra những cuộc thi rất khắc khe ở cấp trung học đệ nhất
cấp và đệ nhị cấp. Đặng Nhâm vẽ học trò lội qua sông bị cá sấu táp.
Lũ cá sấu lại có đuôi như đuôi của nàng Tiên Cá. Không
lẽ lũ cá sấu của Nhâm tụi nó bị lại cái hết sao?
Anh Nguyễn Kiên Giang cười quá cỡ.
Tôi bào chữa:
- Có lẽ Nhâm cố vẽ như thế mới tức
cười. Anh cười như vậy là Đặng Nhâm thành công rồi. Thế là Nhâm nó thắng.
Anh Nguyễn Kiên Giang phản đối:
- Không lẽ tụi mầy vẽ tranh khôi hài
chọc người ta cười, nhưng thiên hạ không cười, tụi mầy xúm nhau thọc cù lét người
ta sao?
Trong phim Ánh Đèn Sân Khấu của hề
Charlot diễn tả anh hề Calvêrô lúc về già hết thời diễn dở. Người ta không cười,
anh ta giận quá đâm diễn tục. Khán giả bất mãn, đánh cho một trận què giò.
Những ngày đi cải tạo, tôi bị đổi trại
đến năm lần. Tôi vác chiếu đi đến đâu cũng đều bị bọn Việt cộng xỉ vả:
- Cả miền Bắc đều lên án, biết mầy
là tên Hiếu Đệ. Mầy đã từng vẽ chục thằng Việt cộng ốm nhách còn tệ hơn con khỉ,
cả chục thằng đeo không rụng cọng đu đủ. Mầy khi dễ tụi tao vừa thôi nhé! Nay đảng
ta phải bắt mầy trả nợ máu, đi cải tạo mút mùa lệ thỉ cho chết luôn.
Tôi muốn tức cười vỡ bụng nhưng vẫn
cố làm thinh.
Ở đời, nếu mình coi tất cả chỉ là một trận cười thì đúng
nó là một trận cười. Nếu mình cứ coi nó là khổ đau thì coi chừng có bữa sự khổ
đau đè mình chết. Đức Phật cũng có nói vạn pháp đều do Tâm, Tâm dẫn đầu, Tâm tạo
tác nên tất cả. Nếu Tâm ô nhiễm, khổ ải sẽ theo ta như bánh xe lăn theo bước
chân con vật. (Kinh Pháp Cú).
Được trả về thành phố, phòng chính
trị cũng kêu lên bảo là tôi không được làm báo và vẽ tranh vui cười nữa đó
nghe. Từ đây phải làm ăn lương thiện để xây dựng Xã hội Chủ nghĩa. Thế mà tôi vẫn
vẽ đầy nhóc trên các báo nước ngoài.
Dân Do Thái đã lập quốc từ lâu rồi.
Thế mà sau Thế Chiến thứ II, năm nào họ cũng nhắc nhở rùm beng về tội ác của Đức
quốc xã.
Mặc dầu bây giờ nước Đức cũng đã đổi khác rồi, đã vào
khối Âu Châu nhưng tội ác diệt chũng tiêu diệt hằng triệu người Do Thái vẫn còn
trong lịch sử nhân loại. Họ nhắc nhở dài dài để cho con cháu đời sau ghi nhớ.
Huống chi Cộng sản Việt Nam vẫn còn
đó. Mỗi ngày, họ lại càng độc tài và tàn ác hơn xưa. Trong nội bộ của đảng, người
ta cũng đã lên tiếng chống lại bọn lãnh đạo độc tài tham nhũng, từ những người
lão thành trong đảng như các ông Hoàng Minh Chính, Phạm Quế Dương, Trần Khuê,
tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, nhà văn Dương Thu Hương, đến những người trẻ tuổi
như luật sư Lê Chí Quang, Nguyễn Vũ Bình, bác sĩ Phạm Hồng Sơn. Cuộc tranh đấu
cho tự do dân chủ và nhân quyền của nhân dân trong nước ngày một lớn mạnh hơn
bao giờ hết.
Nhiều anh em cho biết họ đã sưu tập
một số lớn tranh vui cười của Hiếu Đệ. Nhiều bạn đã "can" vào
ordinateur để lưu trữ.
Dù sao những tranh này cũng thuộc vào loại tài liệu lịch
sữ của thảm trạng đất nước. Những sự kiện này nếu để mất mát đi thì phí uổng lắm.
Học giả lão thành Võ Thu Tịnh có đề
nghị anh em sắp xếp in thành sách, chia ra từng sự việc, từng đề tài. Xem ra việc
làm cũng rất công phu và tỷ mỷ. Anh Tịnh sẽ tình nguyện tiếp tay viết bài giới
thiệu cho độc giả cười bể bụng chơi. Nhưng bước đầu phải cho hết vào ordinateur
trước đã.
Buổi đầu, vẽ tranh vui cười tôi chỉ
là chú bé nhà quê lên thành phố đi học như chú Ba Ếch mới lên Sài Gòn hay nhân
vật Lý Toét Xã Xệ ở báo Phong Hóa, Ngày Nay, chứ chẳng phải đứng trên lập trường
giai cấp cóc khô gì. Nhưng con nít ở thời này rất thích chủ nghĩa Mác Xít. Đám
bạn bè tôi ở trường Taberd và Chasseloup phần lớn cũng ngã theo kháng chiến chống
thực dân Pháp.
Cuộc biểu tình năm 1952 phản đối tàu
Mỹ đến Sài Gòn, học sinh xuống đường đốt chợ đốt xe. Sau đám tang học sinh Trần
Văn Ơn bị bắn chết trước dinh Gia Long, các trường học bãi khóa, một số học
sinh rủ nhau vào chiến khu. Tôi làm trẻ chăn trâu ở chiến khu bị cha tôi đuổi về
Sài Gòn đi học, kẻo vào đó không khéo còn bị đòn. Vũ Anh Khanh sau khi xuất bản
quyển Nửa Bồ Xương Khô cũng bỏ đi vào chiến khu từ lúc này.
Ngồi vẽ minh họ cho báo Đời Mới của
cụ Trần Văn Ân, tôi thấy các anh từ chiến khu ở miền Trung miền Bắc về làm việc
cho tờ báo như Hoàng Trọng Miên, Nguyễn Đức Quỳnh, Hồ Hán Sơn, họa sĩ Duy Liêm
v.v... Họ cũng là người Mác Xít hết. Nhất là anh Nguyễn Đức Quỳnh trong nhóm
Hàn Thuyên mà Tương Tửu là người
đầu tiên dịch quyển Tư Bản Luận của Các Mác.
Tôi mới hay rằng bắt đầu từ năm
1950, trong kháng chiến, Cộng sản bắt đầu thanh lọc hàng ngũ. Những người không
cùng giai cấp với họ sợ bị thanh trừng đều bỏ về thành.
Đọc hai cuốn tiểu thuyết Thu Hương và Chị Tập của anh
Hồ Hữu Tường mới thấy rõ lý do hai nhân vật này bỏ về thành.
Bạn bè trong kháng chiến thấy tranh
vui cười của tôi phê phán chánh phủ Sài Gòn, họ nghĩ tôi cũng cùng lập trường với
họ. Nhưng sự thật họ đều lầm cả.
Năm 1975, tôi gặp lại mấy đứa bạn ở
sân trường tiểu học. Bọn này tập kết ra Bắc trở về. Có đứa sưu tập được mấy
tranh này.
Trong số ấy có Mười Út, con của
Hương Kiểm Phải nói:
- Nhớ Hiếu Đệ quá, tôi góp nhặt mấy
tranh này dán vô tập để cười chơi.
Tôi hỏi:
- Làm sao chú mầy có được?
Anh đáp:
- Báo chí miền Nam được họ mua từ
Nam Vang và Hồng Kông. Thứ nhất là mấy cái tranh như mấy bà bầu ở nhà bảo sanh
Từ Dũ thì được báo Nhân Dân đăng lại. Họ bảo là miền Nam khổ quá, chỉ mới sắm
được có ba cái bàn sanh thôi!
Thậm chí nó còn cho tôi xem cuốn Hội
Nghị Ba Lê Diễn Nghĩa do tôi vẽ để vui cười về những điều khoản mà Cộng sản có thể vi phạm dễ
như chơi.
Ví dụ như vầy:
Sau khi ký xong, quân số hai bên phải
được cắt giảm. Chữ "demobilization" phía bên ta bảo là giải ngũ. Trả
quân trang, quân cụ đi về nhà. Có ông sĩ quan không trả được tiền điện, tiền
nhà tự tử trước mặt vợ con.
Phía bên kia bảo là phục viên. Họ mang súng về cướp ruộng
của dân. Chỉ có dân chết thôi còn đảng sống nhăng.
Mười Út kể chuyện nhà văn Vũ Anh
Khanh. Sau khi xuất bản quyển Nửa Bồ Xương Khô có đăng nguyên văn bản Cương
lĩnh của Đảng Lao Động Việt Nam rồi anh bỏ trốn ra chiến khu chống lại chánh phủ
Sài Gòn. Anh ta được tập kết ra Bắc.
Một thời gian, Khánh thấy rõ sự kỳ thị giữa Nam Bắc
quá lộ liễu, nhất là chánh sách đối đãi con em miền Nam. Khánh cùng một đám bạn
lội qua sông Bến Hải trở về. Qua đến nửa sông bị bộ đội biên phòng bắn chết. Mộ
của Khánh được chôn ở bờ sông, không được lập bia viết tên họ.
Trong cuộc chiến vừa qua, những người
có lòng với dân tộc, những người yêu nước đều không có chỗ đứng.
Albert Camus trong tiểu thuyết L'Homme Révolté, con
người vùng lên để làm tương lai mình bằng bạo lực nhưng sau cùng, họ cũng dở sống
dở chết bởi chánh quyền bạo lực của họ.
Thì ra đúng con người cũng chỉ là một
sinh vật phi lý. Trong năm 1957, quyển La Chute báo trước sự sụp đổ của Cộng sản.
Staline không có chỗ đứng.
Coi lại ngày còn trẻ Albert Camus cũng có chân trong đảng
Cộng sản Pháp. Lúc đó, chủ nghĩa hiện sinh đã thành hình đâu.
Có lúc tôi vẽ tranh vui cười cho báo
Tự Do của anh Phạm Việt Tuyền. Tôi gặp nhà văn Mặc Thu, Mặc Đỗ, Hiếu Chân, mấy
anh trong nhóm nạn nhân Cộng sản.
Anh Mặc Thu nói:
- Xưa nay anh rất thích nét vẽ của anh Phạm
Tăng. Anh Phạm Tăng tố Cộng rất thâm thúy vì anh ta có sống ở chiến khu về.
Nhưng đến 1958, anh Phạm Tăng đi Pháp thì có Hiếu Đệ vẽ thế cho mục tranh vui
cười. Hiếu Đệ cũng rất là hôm nay vì nó ở trong cuộc chiến có khốc liệt hơn.
Có nhà báo Mỹ hỏi tôi:
- Anh vẽ thế nào về người Mỹ đến
giúp Việt Nam Cộng Hòa.
Tôi có cho họ xem bức tranh vẽ thùng
Viện trợ Mỹ từ trên trời rớt xuống vỡ ra toàn bom đạn và đè mấy người nông dân
xẹp ruột.
Họ hỏi:
- Anh vẽ thế nào về người lính Việt
Nam Cộng Hòa.
Tôi cũng cho họ xem bức tranh mô phỏng
theo chuyện ngụ ngôn của La Fontaine. Con gấu ngồi đuổi ruồi cho anh nài. Anh
nài là người lính Việt Nam Cộng Hòa. Con ruồi tượng trưng cho bọn Việt cộng.
Con gấu dội khối đá vào mặt anh nài để đuổi ruồi khiến cho anh ta bị vỡ dầu chết
tốt. Thật ra con gấu vẫn thương anh nài. Nhưng nó thương bằng thứ tình thương
không hiểu biết.
Bọn phong kiến Bắc phương đô hộ Việt
Nam gần nghìn năm. Thực dân Pháp chiếm cứ nước ta gần một trăm năm.
Trong lịch sử, chưa lần nào nhân dân Việt Nam lại bỏ
nước ra đi hằng triệu người như bây giờ. Trong khi đó, Cộng sản Việt Nam cứ nói
câu lảng nhách là độc lập, tự do và hạnh phúc. Họ còn lải nhải câu khẩu hiệu của
Hồ Chí Minh: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
Như vậy, nếu đã thực sự độc lập và tự
do rồi thì tại sao hằng triệu người lại ùn ùn tìm đường bỏ nước ra đi? Họ không
ngại hiểm nguy lấy cái chết để đi tìm sự sống. Chế độ nô lệ của bọn Cộng sản
hôm nay chứng tỏ họ dã man tàn bạo hơn cả Tàu một ngàn lần.
Người ta còn hỏi tôi:
- Bây giờ anh vẽ tụi Cộng sản Việt
Nam như thế nào?
Tôi trở lại vẽ thường trực trên các
báo Việt ngữ ở nước ngoài, nhất là tờ Ngày Nay của anh Nguyễn Ngọc Linh và tờ
Việt Nam ở Vancouver. Tranh vui cười của tôi dẫy đầy trên làn sóng internet.
Thằng Mười Út, bạn tôi ở sân trường
tiểu học, bây giờ 73 tuổi rồi. Ngồi bên nhà, nó kêu con cháu "print"
lại mấy cái tranh vui cười của Hiếu Đệ dán vào cuốn tập vỡ, lâu lâu giở xem cười
chơi đã đời.
Tôi vẽ bọn Cộng sản lải nhải câu:
"Chúng ta phải đấu tranh giai cấp và giữ vững tinh thần giai cấp". Công nhân và nông dân là
những người đang đánh đu cọng đu đủ không rụng... Trong khi đó, bọn Võ Văn Kiệt,
Đỗ Mười... đem bạc triệu gởi ra nước ngoài.
Tôi có đi một vòng hỏi thăm mấy anh
bạn nhà giàu đã từng đem tài sản về Việt Nam làm ăn. Trong mười năm đổi mới, họ
nói chẳng có người nào đem về được một đồng xu ten nào.
Vốn của họ nay biến thành đồng tiền của Võ Văn Kiệt và
Đỗ Mười. Tiền cũng được đem về Mỹ vậy nhưng nằm trong trương mục của bọn Cộng sản
hết rồi.
Người ta hỏi tôi:
- Anh lấy ý ở đâu mà vẽ tranh vui cười
hoài vậy?
Shakespeare nói: "Cuộc đời là vỡ
bi hài kịch", như vậy sinh hoạt hằng ngày là những nụ cười.
Trại cải tạo là địa ngục, một nơi khốn
đốn nhất. Với bọn Cộng sản, họ quan trọng nhất là mấy giờ lên lớp và học tập
chánh trị.
Thế mà lũ bạn cứ bu lại chỗ tôi ngồi để được vui cười.
Họ nói chẳng thấy Hiếu Đệ khóc bao
giờ. Có đứa lên tiếng rằng có người thi sĩ nào đó nói: "Nụ cười là tiếng
khóc khô không lệ".
Mới hôm nào, tôi đến Chicago, gặp
anh chàng Bùi Phú. Hắn mới qua Mỹ theo diện H.O. Bữa đó, cộng đồng người Việt
đang hội Tết Nguyên Đán. Ngồi nơi bàn tiệc, Phú kể chuyện Hiếu Đệ ở trong trại
cải tạo cho mọi người nghe.
Anh ta nói:
-
Buổi chiều hôm đó, anh em đi lao động về kéo nhau xuống suối tắm. Có anh
nọ được vợ cho một cục sà bông Dove thơm phức. Anh ta ra điều kiện chỉ cho mỗi
đứa chà sà bông lên đầu một phát thôi. Trong lúc anh Đệ với tay tìm cục sà bông
thì mắt nó bị cay xè. Nó nhìn không rõ, bèn chụp lấy tay anh Hiếu Đệ chửi thề:
- Con C... nè! Tao thấy chú mầy đã
chà lên đầu đến phát thứ hai rồi...
Bùi Phú nói:
- Tôi thấy anh Đệ bị oan. Tôi tưởng
đâu anh ta sẽ giận. Nhè đâu anh Đệ vẫn cười khà khà nói khôi hài:
- Tao cám ơn mầy hết sức đã nhắc tao
về tên tuổi cái con C... nầy. Thật ra ba bốn năm nay tao cũng có tắm rửa kỳ cọ săn sóc cho nó. Nhưng tao vẫn quên nó mất.
Tao chẳng biết tên tuổi nó là cái gì. Hay có lẽ nó là đồ vô tích sự. Đến nay,
tao được mầy kêu tên nó một cách rất là quan trọng. May quá! Không thì tao bỏ
quên nó mất rồi!
Cả bọn ở dưới suối cùng phá lên cười.
Có thằng nói ở trại cải tạo khổ như
thế mà cũng còn vui, anh em còn tụm năm tụm ba nói chuyện tiếu lâm và tán gẫu.
Về đến nhà có đứa nhìn thấy vợ mình đi lấy chồng khác,
con cái đi ở đợ. Có đứa giận đời, xách can đi mua hai lít xăng đem về trùm mền
tự thiêu chết tốt. Như vậy, tự do không phải là tờ giấy ra trại hay lệnh thả tù
mà chính là ở trong lòng mình, ở trong lòng của đám anh em bạn hữu.
Mùa xuân năm rồi, anh Đinh Văn Khai
còn sống. Cứ mỗi sáng chúa nhật là anh phone qua tôi thật sớm.
Một hôm, anh gọi tôi:
- Hiếu Đệ ơi! Thức dậy. Già rồi sao
còn ngủ nhiều vậy? Dậy! Thức dậy nói chuyện chơi! Vừa rồi ở bên Montréal, anh bị
mấy trận "tempêtes de neige" thật lớn. Anh muốn nói bão tuyết bằng tiếng
Pháp. Tháng rồi anh phải đi cứu cấp.
Tôi hỏi:
- Anh Hai đau gì vậy?
Anh vừa cười vừa nói:
- 86 tuổi rồi mà em! Thôi bây giờ
mình nói chuyện Clinton tính đánh bom Sadam Hussein. Ông Tổng thống này phải
đương đầu trước hai mặt giáp công, giữa Monica và Irak. Bên Việt Nam, tướng Trần
Độ kiến nghị với đám lãnh đạo đòi dân chủ tự do. Ông ta còn bảo là giữa ấm no hạnh
phúc và Xã hội Chủ nghĩa, ông chọn ấm no hạnh phúc cho toàn dân. Còn có Xã hội
Chủ nghĩa hay không, chuyện đó không cần thiết.
Anh Khai nói thêm:
- Anh muốn xem mấy cái tranh vui cười
của em trong giai đoạn mới.
Bẵng đi một lúc, tôi chưa kịp gởi
báo mới cho anh thì đã thấy nhà văn Phạm Thăng đăng mục chia buồn trên báo là
anh Đinh Văn Khai, trước kia là Chủ nhiệm báo Tiếng Chuông ở Sài Gòn đã qua đời
hôm tháng Tư năm 1998.
Anh Khai là người đầu tiên kêu tôi vẽ mấy cái tranh khôi hài
trên các báo hằng ngày năm 1952 và cũng là một trong số những bậc đàn anh đã
đưa tôi vào làng báo Sài Gòn.
Bây giờ tôi đã nghĩ hưu nhưng vẫn chống
gậy đi đây đi đó.
Nhưng tôi cũng mang cái tật hay ngồi buổi sáng vẽ những
bức tranh vui cười.
Ngồi cười một mình buổi sáng với bình trà là một thói
quen rất thú vị của tôi.
Hiếu Đệ
-**-
Mấy suy nghĩ về
Niềm Đau Bạc Tóc
&
Bên Đục Bên Trong
của Hiếu Đệ và Võ
Phước Hiếu
Bài
của Đặng
Phùng Quân
Trong một bài viết "Văn Chương và Lưu Đày" in lại trong quyển
sách "Tẩu Khúc" xuất bản năm 2004, tôi đã viết:
"Những
kinh nghiệm sinh động, kinh hoàng về sự khủng bố con người, về ý nghĩa tự do và
đời sống về bạo động và lịch sử, về những trại tập trung vĩ đại và kỹ thuật làm
nhơ bẩn con người. Những tiếng nói ấy cất lên từ văn chương lưu vong, từ những
người chứng thoát ra ngoài một thế giới đóng kín" (sđd, trang 78).
Thế
giới đóng kín ấy là thế giới của chuyên chính toàn diện phát xít và chuyên
chính toàn diện cộng sản.
Những
tiếng nói ấy cất lên từ nơi một nhà họa sĩ danh tiếng và một vị giám đốc xuất bản
uy tín, những người phục vụ văn hóa nhưng chưa bao giờ nghĩ đến cần phải Viết.
Thời thế bắt buộc họ phải viết, theo tôi nghĩ, viết để trút gánh nặng ngàn cân
của những Chứng Nhân Lịch Sử trước những biến đổi của xã hội "làm cho tôi
(VPH) đau đớn nghẹn ngào bằng sự ấm ức bất bình về cơn lốc lịch sử vừa mới phũ
phàng thổi tạt lên quê hương tôi" (Võ Phước Hiếu, Bên Đục Bên Trong, trang
116).
"Cuộc
đời chỉ là cuộc tranh sống với nhau thôi. Nhà nước dành đất của dân. Chẳng có
vô sản cóc khô gì hết! Chỉ có giai cấp thống trị dành sự sống của giai cấp bị
trị" (Hiếu Đệ, Niềm Đau Bạc Tóc, trang 19).
"Bên
Đục Bên Trong" và "Niềm Đau Bạc Tóc" là những tập truyện của hai
tác giả Võ Phước Hiếu và Hiếu Đệ in chung do Hương Cau xuất bản lần lượt vào những
năm 2004 và 2005. Sự đồng bộ của hai tác phẩm là văn chương bình dị trong lối tự
sự hồn nhiên của những người kể chuyện, những câu chuyện không chút hư cấu, mà
là cảnh đời diễn ra trong một xã hội nhiễu nhương dưới ách thống trị của một chế
độ "độc tài đảng trị" "chủ trương chính sách ngu dân, dùng biện
pháp siết hầu siết họng, thắt buộc bao tử người dân trong cảnh triền miên đói
khổ cơ cực để dễ dàng kềm kẹp khống chế, phỉnh lừa dối gạt" (Bên Đục Bên
Trong, trang 161).
Với
Võ Phước Hiếu, những kỷ niệm gắn bó nơi quê hương Voi Lá - Long Phú của quận Bến
Lức thân yêu là cả một quá khứ chập chờn huyền ảo, lại hiện lên hình ảnh một
tên Bảy Cò, bạn cũ ngày xưa giờ đây là đại biểu của đám "cán bộ nồng cốt
trụ cột của đảng" "kết cấu ăn chia nhau từ trên xuống dưới" bóc
lột nhân dân đến tận xương tủy trong truyện ngắn "Cơn Lốc Xoáy Tim",
đến những Tư Ca trong truyện ngắn "Bức Chân Dung" ngày ngày say sưa
trong men rượu để quên những cay đắng của một kiếp người sa lầy trong sợ hãi vì
đã theo Đảng, ở truyện ngắn "Bác Thầy Hù" là hình ảnh một người nghệ
sĩ vì đất nước đổi thay phải từ bỏ sàn gỗ sân khấu để trở thành một người hớt
tóc dạo, sống cũng không được yên thân "tinh thần lúc nào cũng bị rúng ép
khống chế", đến thằng Hai Ngọng trong truyện "Con Sao Chiếu Mạng"
kỳ cựu nghèo khó, có chiếc xe xích lô đạp làm phương tiện sinh sống cũng bị
"cách mạng" bắt đem nộp xe cho nhà nước, cái nhà nước "miệng nói
đấu tranh bênh vực quyền lợi của giai cấp nghèo nhưng dân nghèo ngất ngư tận
bùn đen, dở chết dở sống, còn giai cấp lãnh đạo trước đây nghèo sặc máu, kéo về
thành phố với quần xà lỏn khăn rằn, ngày càng giàu nứt trứng".
Với
Hiếu Đệ, những kỷ niệm phần lớn là về những người họa sĩ, từ Trần Quang Hiếu,
Văn Đen đến Nguyễn Thanh Thu bị đọa đày trong một đất nước con người phải lo
"tranh sống", cai trị bởi "bọn lãnh tụ làm cho nước nghèo dân khổ",
đến những cảnh đời như "Người Ăn Mày Trong Trại Học Tập Cải Tạo" chết
tức tưởi vì sự ngu xuẩn của đám cán bộ quản giáo, hay như trong "Hai Mối
Tình Của Người Tù Biệt Giam" ở hoàn cảnh cực kỳ khổ sở vì bị nhốt trong
Connex mà vẫn thơ thới vì kiên trì bất khuất trong cuộc chiến "ai thắng
ai? Cộng sản cải tạo tôi hay tôi cải tạo lại chúng...".
Người
đọc hai tập truyện "Bên Đục Bên Trong" và "Niềm Đau Bạc
Tóc" có thể dễ dãi đi đến một nhận xét những truyện ngắn này "chống Cộng".
Từ "chống Cộng" ở đây hiểu theo nghĩa xấu (péjoratif) là không hùa
theo thời thượng với đám "văn nghệ" mang cái mặc cảm huyễn tưởng
"giao lưu văn hóa" như tôi đã chỉ ra trong một bài viết vào năm 1989
là muốn "đồng hành với thế lực chính trị, chờ đợi sự cởi mở của chính sách
văn hóa, văn nghệ" để luồn lọt sao cho sách được in trong nước "dưới sự
kiểm duyệt của nhà nước Cộng sản" và bọn lãnh đạo "văn hóa tư tưởng".
Sự
khác biệt ấy ở chỗ nào?
Một đằng,
cái minh trí sáng suốt của những người cầm bút trên mặt trận chống lại chính
sách văn hóa văn nghệ chỉ đạo, ngu dốt, hủ lậu và cuồng tín xuất phát từ một chủ
nghĩa đã cáo chung. Một đằng là cái xuẩn động của những người cầm bút khởi sự
là đào thoát ra bên ngoài, đi tìm tự do nay chỉ vì một huyễn tưởng viển vông về
một chỗ đứng mà hàng phục trong tinh thần vô sỉ.
Dưới
mắt tôi, hai tác phẩm nói trên đáng trân trọng về mặt minh trí sáng suốt cần
thiết đó.
Những
ngày ở Lille, tháng Chín 2005.
Đặng Phùng Quân
1 comment:
Borgata Hotel Casino and Spa - Dr.MD
Borgata Hotel Casino and 정읍 출장마사지 Spa is a 이천 출장마사지 massive hotel and casino in Atlantic City, New Jersey. Built on a 제주도 출장샵 400-acre site, the 파주 출장샵 structure is 상주 출장안마 2.7
Post a Comment