Hồi ký Võ Long Triều
Giới Thiệu Võ Long Triều Dân Biểu Võ Long Triều (ảnh cuả viendongdaily.com ) Vài hàng về tác giả: Ông Võ Long Triều sinh năm 1934 tại Bến Tre, nhưng lớn lên, học hành và sinh sống tại Saigon. Từ năm 1951 đến 1961, ông du học tại Pháp. Trở về nước, ông Võ Long Triều phục vụ tại Bộ Canh Nông VNCH và giảng dạy tại trường Đại Học Nông Lâm Súc. Dưới thời Nội Các Chiến Tranh của tướng Nguyễn Cao Kỳ, ông được tham khảo và mời giữ chức vụ Bộ Trưởng Thanh Niên. Sau thời kỳ Nội Các Chiến Tranh, ông Võ Long Triều cho ra tờ Đại Dân Tộc và tranh cử vào ghế dân biểu Hạ Nghị Viện VNCH khóa sau cùng trước 30-4-1975. Sau biến cố này, ông Võ Long Triều cũng đã phải trả cái giá 11 năm tù trong các nhà tù Cộng Sản. Võ Long Triều năm 2011 (ảnh cuả viettribune ) |
Mục Lục
1- Cái Mốc Lịch Sử
2- Lễ bàn giao tại Dinh Độc Lập
3- Vui buốn những ngày cải tạo ở Long Thành
4- Nghĩ lại phận mình
5- Vụ Ông Kỳ mưu toan lật Ông Thiệu
6- Du học tại Pháp
7- Hoạt động cuả Việt Cộng ở Paris thập niên 1950-1960
8- Những mối tình dưới thời sinh viên
9- Bước chân vào đời
10- Những niềm vui và nỗi buốn
11- Tranh chấp nội bộ
12- Xáo trộn chính trị sau cuộc đảo chánh 1963
15- Lạm bàn về chuyến đi Việt Nam cuà cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Ký
16- Những gì tôi biết về Nguyễn Cao Kỳ về nước
17- Tại sao cựu Đại Tưiớng Dương Văn Minh không về nước ?
18- Hồi Ức về chương trình phát triển quận 8
...
2- Lễ bàn giao tại Dinh Độc Lập
3- Vui buốn những ngày cải tạo ở Long Thành
4- Nghĩ lại phận mình
5- Vụ Ông Kỳ mưu toan lật Ông Thiệu
6- Du học tại Pháp
7- Hoạt động cuả Việt Cộng ở Paris thập niên 1950-1960
8- Những mối tình dưới thời sinh viên
9- Bước chân vào đời
10- Những niềm vui và nỗi buốn
11- Tranh chấp nội bộ
12- Xáo trộn chính trị sau cuộc đảo chánh 1963
15- Lạm bàn về chuyến đi Việt Nam cuà cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Ký
16- Những gì tôi biết về Nguyễn Cao Kỳ về nước
17- Tại sao cựu Đại Tưiớng Dương Văn Minh không về nước ?
18- Hồi Ức về chương trình phát triển quận 8
...
39- Ban Tay nào gây đỗ vỡ ?
ÐÔI LỜI VỚI MỘT SỐ ÐỘC GIẢ
Thưa quý độc giả,
Tôi chân thành cám ơn quý vị độc giả đã góp ý về những đoạn hồi ký của tôi đang được đăng tải trên báo Người Việt. Trước hết, xin trích một vài hàng tôi đã viết trong “Ðôi Lời Tâm Sự” ngay tại trang đầu: “Mặc dù nhiều bạn bè và thân hữu thúc giục tôi phải viết hồi ký, nhưng tôi không viết, bởi vì Pascal hay đại văn hào nào đó, tôi không nhớ rõ, viết rằng: “Cái tôi là đáng ghét” (Le moi est haissable). Và cũng tại vì đã có rất nhiều người viết về cái tôi đáng ghét đó một cách quá đáng, làm tôi mang mặc cảm.”à
“Ngày nay viết lại chuyện dài của cuộc đời như kể chuyện vui cho bạn bè, nghe qua rồi bỏ, đừng cho đó là quan trọng, càng không nên xem là tài liệu lịch sử bởi vì đó chẳng qua là diễn biến bình thường của xã hội con người mà thôi.”à
“Nếu nội dung có đề cập đến cái tôi và nếu có những lời thật mất lòng thì xin cho tôi cáo lỗi. Tác giả hứa sẽ trình bày chân thật, ngay tình, không tô son, không che dấu, bởi vì tôi quan niệm: “Thị phi thành bại chuyển đầu không.”
Một độc giả mỉa mai rằng nếu ông ấy là Việt Cộng thì sẽ mừng và sao chép hồi ký của tôi gởi cho giới trẻ để chứng minh rằng phe quốc gia cũng xấu như cộng sản, xin đừng ai chê ai. Xin thưa cùng vị độc giả: Tôi viết không phải để cho phe này hay nhóm kia đọc, người của Việt Nam Cộng Hòa hay người thuộc đảng Cộng Sản, mà tôi viết để cho mọi người đọc, bây giờ và sau này, thấy và hiểu được một số sự việc đã xảy ra trong khoảng thời gian của một đời người. Những suy nghĩ hay phê phán của tôi về con người hay sự việc sẽ được trình bày theo cách riêng, để phân biệt đâu là sự kiện, đâu là ý kiến. Tôi nghĩ, đây chính là quyền tự do ngôn luận của mỗi cá nhân.
Tôi đả hứa luôn luôn tôn trọng sự thật, nhưng cũng có thể nhiều lời nói hay sự việc kiểm chứng được, và cũng có nhiều sự việc không kiểm được, bởi vì mất liên lạc với nhân chứng. Và cũng có thể một nhân chứng nào đó được trích dẫn đã nói ra nhưng lại không lưu tâm đến lời mình nói trong bối cảnh đó nên có thể đã quên đi, như anh bạn Nguyễn Văn Trường. Anh cùng đi với tôi đến nhà Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu tại Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng không nhớ nguyên văn câu ông Thiệu hỏi tôi: “Triều, toa biết Mỹ muốn gì không?” Phần tôi vì câu nói đó làm tôi bất bình, và cũng vì nhiều lời khác của Trung Tướng Thiệu trực tiếp nói với tôi đã ảnh hưởng sâu đậm đến nỗi về sau bào huynh của ông Thiệu đến tận nhà mời tôi tham gia hợp tác tôi đã từ chối. Hay là khi tôi hỏi một vài anh kỹ sư, cựu sinh viên khóa 2 và 3 nhập một tại Trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn xem tên anh trưởng lớp Năm đó có phải là Thuận không? Không ai trả lời cho tôi chính xác. Cũng do sự việc vừa nêu trên, tôi thấy có những vụ việc người này biết toàn bộ, người khác chỉ biết một phần, cho nên cái nhìn của mỗi người có một góc độ khác nhau. Vì vậy tác giả dành quyền tái kiểm và sửa chữa khi xét thấy cần. Ngoài ra bá nhân bá tánh, kẻ ưa người ghét, kẻ thích người chê. Chuyện thế gian là vậy. Ai thích thì đọc, ai chê thì tránh. Tôi khó có thể làm vừa lòng tất cả mọi người, trong đó có người biết đúng sự thật, có người biết một phần, có người chỉ nghe lõm bõm qua lời đồn đãi. Ai muốn hiểu sao thì xin cứ theo ý kiến và suy nghĩ của chính mình.
Một độc giả cho rằng không phải Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắt ông Hoàng Kim Lân quì tại sàn nhảy của nhà Hàng Văn Cảnh. Sự việc này do Linh Mục Nguyễn Quang Lãm, Chủ Nhiệm Nhựt Báo Xây Dựng, tận mặt thuật cho tôi nghe và yêu cầu tôi với tư cách là Tổng Trưởng trong nội các phải ngăn cản những vụ bất công như vậy. Một độc giả khác cho tôi biết đích xác không phải Tướng Loan mà là một sĩ quan cấp tá tên là Lịch đã làm việc đó. Thành thật cám ơn độc giả đã có nhã ý tốt, giúp tôi điều chỉnh một sự việc có thật. Tôi hỏi trong khi xảy ra chuyện đó có sự hiện diện của Tướng Loan hay không? Ðộc giả này không chịu trả lời. Cho dù ông A, ông B hay một sĩ quan nào khác ỷ thế, lộng quyền hiếp đáp người một cách vô tội vạ như vậy, điều đó không thể chấp nhận được và cũng đáng được nói đến.
Một độc giả khác cho rằng đi học tập cải tạo không ai đem cà-vạt, vét-ton theo mà tôi nói có ông thẩm phát ăn mặc đồ lớn, đi cầu làm rớt bóp. Vị độc giả cho rằng đây là điều phi lý. Nhưng đó lại là sự thật phũ phàng nên mới tức cười. Tôi cũng xin thêm rằng anh La Thành Nghệ ở chung trong tổ với tôi cũng có áo vét-ton và thường mặc khi trời lạnh hay buổi chiều đi dạo quanh rào của trại tù. Anh Lê Văn Thu, Bùi xuân Bào thường ăn vận vét-ton khi trời lạnh. Ða số tin rằng đi học tập thật, có bài giảng, có hội họp thảo luận, nên các ông lớn mới đem theo đồ lớn, nào ngờ đâu là bị tù đày mà ít ai lường trước được. Mùa Ðông năm đó trời lạnh hơn bình thường, ai có ở Long Thành tất sẽ rõ tình hình này.
Có vị độc giả cho rằng tôi cường điệu, vì tôi là một sĩ quan được biệt phái về bộ canh nông và chỉ là dân biểu thì làm gì đủ tư cách để xưng hô “toa moa” với ông Phó Tổng Thống Kỳ, đừng tự đề cao, hãy xét lại mình đi. Xin thưa, với chừng này tuổi đời, thăng trầm vinh nhục, nghèo khó, giàu sang đều có nếm đủ, tôi như thế nào người ta biết rồi. Muốn đề cao cũng không được cao, muốn hạ thấp cũng sẽ không trở thành thấp. Cuộc đời và số mạng của tôi đã an bài rõ rệt. Có điều tôi phải xin lỗi độc giả là thói quen của những người cùng thế hệ tôi, thời Việt Nam mình còn bị Pháp đô hộ, và tôi lại được du học bên Tây đến 10 năm trời nên học lối xưng hô của người Pháp, “Toi” ... “Moi.” Ðó là cách xưng hô thân mật của người Tây, “Mày,” “Tao” giữa bạn bè. Vì vậy gọi “toa” xưng “moa” với Thiếu Tướng Kỳ vì tôi có nhiều liên hệ thân thiện, và cũng là cộng sự viên thân tín của ông trong thời gian tôi ngồi trong nội các chiến tranh. Tóm lại mỗi sự thật có một số người nhìn và hiểu theo chiều hướng suy nghĩ và hiểu biết của cá nhân mình. Phần tôi không có lý do để tự đề cao mình hay bêu xấu kẻ khác, mà chỉ sử dụng quyền phê phán, khi cần, theo lương tri và sự suy nghĩ của mình, bởi vì người xưa viết: “Thị phi chi tâm, trí chi đoan giả” ý muốn nói cái tâm coi thường sự thị phi, chỉ cần cái trí ngay thẳng.
Trân trọng
Võ Long Triều
Nguồn: Nguời Việt On line |
CÁI MỐC LỊCH SỬ: NGÀY 30 – 04 –1975
Đêm 21 tháng 4-1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu xuất hiện trên đài truyền hình, tuyên bố từ chức giao quyền cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Ông Thiệu còn hứa sẽ trở về với quân đội, nhưng tôi hiểu ngay lúc đó là ông ta sắp bỏ chạy. Sự thật tôi được biết: sau khi bàn cãi với các cận thần như Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Trung Tướng Đặng văn Quang, Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, vào buổi sáng 21 tháng 4, kết thúc vào lúc 11giờ, ông Thiệu quyết định từ chức và bàn giao ngay cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lúc 3 giờ chiều, có sự hiện diện của Đại Tướng Cao Văn Viên, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình. Ông Thiệu còn yêu cầu Đại Tướng Cao Văn Viên và Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình tuyên bố trên đài phát thanh quốc gia là sẽ cực lực hỗ trợ chính quyền chuyển tiếp.
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức vì khắp nơi ai cũng đòi ông phải ra đi, mà nhứt là cộng sản Hà Nôi ra điều kiện chỉ thương thuyết với một chính phủ không có Thiệu mà thôi. Theo tôi, Mỹ dù đã quyết định bỏ Việt Nam nhưng cũng còn hy vọng một giải pháp chính trị nào đó có thể làm cho “sự sụp đổ nhẹ nhàng hơn”. Đặc biệt nước Pháp đã từng ủng hộ giải pháp chính trị 3 thành phần, bây giờ thấy có cơ hội đứng làm trung gian giải quyết nên Đại Sứ Mérillon không ngần ngại trực tiếp liên lạc với cả đôi bên. Sau đó, ngày 23 cả hai ông Thiệu và Khiêm rời khỏi Saigon. Trái với thông lệ và nguyên tắc thường khi tàu chìm, thuyền trưởng phải là người cuối cùng rời vị trí. Có người cho rằng ông Thiệu đi sớm là vì muốn để cho ông Hương một mình rộng đường hành động, và để cho Pháp, Mỹ rảnh tay sắp xếp một giải pháp nào đó có thể giảm hại cho miền Nam. Tôi cho rằng, điều đó cũng không đúng lắm bởi vì một khi đã từ chức, bàn giao rồi thì Phó Tổng Thống Trần Văn Hương có toàn quyền hành xử mọi việc. Cho nên có người nói rằng ông Thiệu nhát gan, không xứng đáng, vì đã tìm đường an hưởng giàu sang phú quí thời gian cuối đời với gia đình, kỳ dư sống chết mặc bay.
Sau khi bàn giao, Tổng Thống Trần Văn Hương ký liền một số sắc lệnh cắt cử một số viên chức để điều hành công lực và hành chánh. Ngày 26-4-1975, ông cử Đại Tá Lâm Văn Nghĩa làm Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành, thay ông Trang Sĩ Tấn. Trong khi đó Việt Cộng lại thay đổi chiến lược, tuyên bố chỉ thương thuyết với chính phủ của ông Dương Văn Minh mà thôi. Trước đó, ngày 25-4 tôi nhận thơ mời họp lưỡng viện Quốc Hội. Các nhà lập pháp thảo luận vấn đề chuyển quyền Tổng Thống cho Đại Tướng Dương Văn Minh. Có lẽ chúng ta nên đề cập đến một vài sự việc khác liên quan, có thể giải thích rõ hơn việc chuyển quyền nầy.
Một tháng trước khi vội vã thoát thân, Tổng Thống Thiệu còn hy vọng mỏng manh vào viện trợ Hoa Kỳ. Vì vậy ông đã ra lệnh cho Đại Sứ Bùi Diễm vận động với quốc hội Mỹ xin viện trợ 700 triệu US đô-la, đồng thời ông cũng toan tính bán vàng sở hữu của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam để mua đạn dược cho lính tiếp tục chiến đấu. Khi Đại Sứ Bùi Diễm từ Mỹ trở về báo cáo thì ông Thiệu không chịu tiếp. Đại Tá Võ Văn Cầm, Chánh Văn Phòng Phủ Tổng Thống cho biết ông Thiệu bận về vụ mất thành phố Phan Rang là quê nhà của ông nên không tiếp ông Đại Sứ được và nhờ tân Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn tiếp giùm. Đại Sứ Bùi Diễm cảm thấy bất bình vì chuyện quốc gia đại sự mà Tổng Thống bỏ để lo mồ mả ông cha ở Phang Rang, nên ông Đại Sứ không chịu gặp Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn.
Về phần Đại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin, ông ta đã hối thúc Đại Sứ Bùi Diễm phải gặp Tổng Thống Thiệu để báo cáo rõ về khoản tiền viện trợ và ông Diễm trả lời rằng Tổng Thống Thiệu không chịu tiếp ông. Đại sứ Martin đành phải đích thân thông báo tin nầy cho TT Thiệu biết. Ông Thiệu không nói không rằng, nôm na là không thèm trả lời. Phải chăng vì bất bình khi đã lỡ tin lời hứa hẹn bằng giấy trắng mực đen của vị tổng thống Mỹ rồi mà nay thấy Hoa Kỳ ngoảnh mặt làm ngơ, tính thay ngựa giữa đường nên ông Thiệu mới có thái độ ấy? Trong khi đó, Trung Tướng Trần Văn Đôn lúc đó đang là Phó Thủ Tướng, phải đến nhà ông Bùi Diễm nài nỉ yêu cầu ông đi gặp ông Nguyễn Bá Cẩn. Dĩ nhiên ba nhân vật nầy không còn gì để nói với nhau ngoài việc thông báo Mỹ dứt khoát quyết định bỏ rơi Việt Nam.
Thế rồi, việc bán vàng mua đạn cũng không thành như lời ông Nguyễn Tiến Hưng tiết lộ trong hồi ký của ông. Bên ngoài, có tin đồn Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ chuẩn bị đảo chánh. Sự thật về vụ nầy chính ông Kỳ cho tôi biết thời gian sau nầy là ông có yêu cầu ông Trần Văn Hương ủy quyền cho ông điều khiển quân đội, vì ông tướng này nghĩ cụ Hương không hiểu biết về quân sự và cũng không đủ uy tín để điều khiển quân nhân các cấp. Ông Nguyễn Cao Kỳ chủ trương di chuyển quân, cán, chính về vùng IV ( đồng bằng sông Cửu Long) để tiếp tục chiến đấu. Ông Kỳ than với tôi rằng “ông già Hương cố chấp”, trong tình thế dầu sôi lữa bổng mà không biết “túng thế tùy thời” cứ khăng khăng nói chuyện pháp lý và sự thật có lẽ ông ấy sợ “moa” đảo Chánh nắm quyền. Theo tôi, tin ông Kỳ muốn đảo chánh có lẽ do Phủ Phó Tổng Thống phao ra. Cũng trong thời gian đó ông Nguyễn Cao Kỳ nhờ Dân Biểu Nguyễn Văn Cử, cựu thiếu tá không quân, người đã từng dội bom Dinh Độc Lập thời đệ nhứt Cộng Hòa với đồng đội là Phạm Phú Quốc, mời tôi gặp ông để bàn thảo. Tôi đoán biết trước ông sẽ nói gì nên tôi nhờ Dân Biểu Cử trả lời: “Mọi chuyện hết rồi!”. Ông Kỳ lại hối thúc Cử làm sao cho ông gặp được tôi. Dĩ nhiên tôi lại từ chối. Sở dĩ Thiếu Tướng Kỳ muốn gặp tôi lúc đó là vì trước kia vào năm 1967, khi tôi còn là Tổng Trưởng Thanh Niên của nội các chiến tranh do ông lãnh đạo, có lần ông Kỳ và tôi bàn về chuyện quân Mỹ tham chiến. Tôi có gợi ý với ông có lẽ ta phải phòng ngừa có ngày Mỹ sẽ rút bỏ như đạo quân viễn chinh Pháp rút về năm 1954. Tôi và ông Kỳ có nêu ra trường hợp Tưởng Giới Thạch rút quân về Đài Loan và sau đó tôi co nói “chúng mình còn Đảo Phú Quốc và các quần đảo lân cận. Hải quân của mình rất mạnh một trong nhiều nước đứng vào hàng đầu của thế giới, dĩ nhiên là toàn bộ do Hoa Kỳ viện trợ. Tàu bè và quân lính mình vẫn còn y đó”. Chúng tôi cũng nhắc đến trường hợp của lực lương vũ trang Hòa Hảo do Bẩy Đởm chỉ huy. Họ rút vào núi Thất Sơn không chịu đầu hàng chính phủ Đệ Nhứt Cộng Hòa. Trong rừng gặp Việt Cộng thì đánh Việt Cộng, gặp quốc gia thì đánh quốc gia, thế mà Bẩy Đởm chỉ có vài trăm quân lính! Chúng ta thừa sức lập chiến khu ở đó. Việt cộng đã từng lập chiến khu trong rừng đánh Pháp bằng tầm vong vạt nhọn và một ít súng trường của Nhựt Bổn huống chi là mình bây giờ. Cho tới mãi về sau Bảy Đởm mới bằng lòng qui thuận chính phủ đệ nhị Cộng Hòa với điều kiện là ông phải được giữ nguyên quân số Hòa Hảo của ông còn lại và phải được vinh thăng Trung Tá. Lực lượng Bảy Đởm sẽ hành quân tiễu trừ cộng sản theo lệnh của Trung Tá Tỉnh Trưởng Châu Đốc, nếu tôi nhớ không lầm là thời của Trung tá Nguyễn Văn Huệ. Chuyện lo xa, phòng ngừa viển vông nầy tôi có đem ra nói với Thiếu Tướng Nguyễn Bảo Trị đương kim Tư Lệnh Quân Đòan III thời đó. Tôi còn nhớ Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị còn đưa ra ý kiến là vùng Hố Bò cũng hiểm trở có thể lập chiến khu được. Nhiều lần Tướng Nguyễn Cao Kỳ và tôi tưởng tượng đến những giải pháp không tưởng nầy. Nhưng với tình thế hiện tại muốn tổ chức kháng chiến, điều kiện tiên quyết là mình phải nắm vững chính quyền và phải có thời gian chuẩn bị. Thực tế bây giờ tất cả đang là hỗn loạn nên tôi từ chối không muốn gặp ông Kỳ, vì tôi nghĩ giải pháp này là vô ích.
Nay tôi đã có thể kể lại một chuyện có thật kể lại câu chuyện về một sĩ quan anh dũng của quân lực Việt Nam Công Hòa, Thiếu Úy Phước nếu tôi còn nhớ đúng tên anh, sĩ quan trường tốt nghiệp khóa 26 trường Bộ Binh Thủ Đức, cùng khóa với tôi. Anh là con của ông Trưởng Ty Học Vụ Châu Đốc, chỉ huy trưởng một Đại Đội Địa Phương Quân thuộc tỉnh Châu Đốc cho đến ngày 30-4-75. Anh không đầu hàng, dẫn quân vào Thất Sơn. Từ đó anh còn liên lạc và gom góp được cả ngàn quân sĩ tan hàng trong vùng. Tôi gặp anh trong nhà tù Chí Hoà năm 1977, khu BC phòng 14. Anh kể lại cuộc đời của anh và hành động hào hùng cuối cùng trong những ngày đó. Để nuôi quân sĩ trong núi rừng, anh chỉ thị cho thuộc cấp ban đêm lén ra ven rừng, gặt lúa của đồng bào, nhiều chỗ đồng bào còn gặt sẵn để đó cho, anh còn khuyên đồng đội lén về gia đình xin tiền bạc, thức ăn. Anh sung suớng thuật cho tôi nghe cuộc sống đầy kiêu trong rừng. Nhưng anh không biết phải làm điều gì kế tiếp? Lập chính phủ chăng? Anh tự xét không có khả năng và uy tín. Vì vậy anh cho người liên lạc với cựu Dân Biểu Huỳnh Công Minh, nhờ Dân Biểu Minh liên lạc với học giả, cựu Dân Biểu Hồ Hữu Tường và đề nghị ông nầy đứng ra thành lập nội các. Trong khi đó để chứng tỏ khả năng quân sự của những người Quốc Gia chưa chịu đầu hàng và để gây tiếng vang đối với quốc tế, anh chủ trương đánh lấy tỉnh Châu Đốc, chiếm vài giờ rồi rút vào Thất Sơn trở lại. Thực tế anh đã làm và đã thành công . Anh còn cười nói với tôi: “Xác chết của tụi nó còn nằm rải rác trên đường tụi em rút về núi. Sau đó do không đủ dè dặt kỹ lưỡng, Huỳnh Công Minh bị bắt rồi đến Hồ Hữu Tường, sau cùng là tất cả nhóm đầu não của anh Phước. Phước bị kết án tử hình, Bảo và một người nữa trong nhóm đầu não, tôi quên tên, bị án chung thân khổ sai, họ không được phép về phòng lấy đồ đạc cá nhân và từ giã anh em. Cùng ngày xử án đó có ông Khánh, đầu đàn của một tổ chức phản động Công Giáo ở Hố Nai, cũng bị tử hình. Dĩ nhiên những người anh em nầy đã bị hành quyết! Cùng ở trong phòng 14 với tôi có Trung úy biệt kích Nguyễn Văn Quí, một ngưới hùng khác, từng kể những chuyện ly kỳ cho tôi nghe khi anh công tác trong rừng Trường Sơn. Anh cũng có chứng kiến những chuyện tôi vừa kể trên và cũng biết hai người anh hùng Phước và Khánh vắn số nầy.
Nói đến dân biểu Huỳnh Công Minh, thiết tưởng cũng nên nhắc lại một bi hài kịch do chính anh Minh gây ra. Có một lần, Quốc Hội đang họp, anh Huỳnh công Minh từ ngoài cửa bước vào, tay cầm một trái lựu đạn đã rút chốt, la lớn: “Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cảnh sát bắt con tôi, ngồi trong xe, đậu trong vòng thành Quốc Hội. Nếu cảnh sát không thả con tôi ra ngay, tôi sẽ quăng liền trái lựu đạn nầy tại đây”. Chủ Tịch Nguyễn Bá Cẩn và toàn ban chủ tọa vụt chạy biến mất liền. Tuyệt đại đa số dân biểu cũng biến luôn. Tôi ngồi ở những hàng ghế cuối cùng ngay lúc anh Minh đi ngang qua, tôi nói:
-Anh Minh, chuyện đâu còn có đó, đừng làm bậy, đút chốt lựu đạn vô.
-Ông Tổng Trưởng, ông phải ủng hộ tôi.
-Tôi ủng hộ anh. Tôi hứa chắc, nhưng anh không được làm bậy.
Sự thật bụng tôi đang đánh lô tô, nhưng cố dằn sợ hãi, bước theo anh Minh đi dần đến bục diễn đàn của Quốc Hội, miệng tôi vẫn tự động láp nháp:
-Anh Minh, không nên làm bậy…
Tất cả Quốc Hội chỉ còn lại một ít người mà cho đến ngày nay tôi còn giữ sự kính nể. Đó là DB Trần Văn Tuyên, trưởng khối Dân Tộc Xã Hội, DB Út, trưởng khối Dân Biểu thân chính, DB Nhan Minh Trang, trưởng khối Cấp Tiến, DB Nguyễn Văn Binh và người bạn thân của tôi là DB Đặng Văn Tiếp, nguời bị cộng sản giết hại trong tù. DBTiếp la lớn:
-Nguyễn Bá Cẩn không được chạy trốn. Phải ra mặt bảo vệ quyền bất khả xâm phạm của tòa nhà Quốc Hội, nếu không chúng tôi sẽ phóng hỏa đốt cái nhà vô chủ nầy. Trong khi đó thì hai anh DB Út và Trang đeo theo anh Minh nói liên hồi:
-Minh đưa cái đó cho anh…
-Minh đưa cái đó cho anh…
Còn Dân Biểu Trần Văn Tuyên thì dùng máy vi âm, bị ông Cẩn cúp điện, nên anh không ngớt la lớn yêu cầu Chủ Tịch Quốc Hội phải lập tức can thiệp với chính quyền. Cuối cùng Huỳnh Công Minh bằng lòng đút chốt vào trái lựu đạn và bỏ vào túi. Không đầy nửa giờ sau cảnh sát thả con anh Minh ra và Quốc Hội lại tiếp tục họp.
Trong sự nguy hiểm bất ngờ như vậy mới thấy đởm lượng của con người, những ai còn giữ được bình tĩnh và danh dự. Thú thật tôi không thuộc vào hạng can đảm phi thường nhưng chưa đến nổi nhát gan bỏ chạy. Suy cho cùng mới thấy Huỳnh Công Minh chỉ hù dọa thôi chớ nếu anh muốn cho nổ thật sự thì cứ quăng thẳng trái lựu đạn vào ban chủ tọa hay quăng vào một góc trống nào đó của Quốc Hội để thị uy. Cũng giống như đã có lần Dân Biểu Nhử Văn Úy móc súng “rouleau” bắn rầm rầm vào hình nộm trước cửa Quốc Hội bên dưới có viết mấy chữ “kẻ nào muốn sửa đổi Hiến Pháp sẽ chịu số phận như thế nầy”. Khi anh Úy bước vào khỏi cửa bị Dân Biểu Đặng Văn Tiếp túm cổ áo mắng:
-Thằng gia nô, mầy vào xó ngồi của chúng bây đi.
-Anh làm gì kỳ vậy? Đây là Quốc Hội, tôi có quyền đi, ngồi bất cứ chỗ nào.
Không nói không rằng, Đặng Văn Tiếp móc túi lấy ra một khẩu súng lục nhỏ Browning 6.35 chỉa vào Dân Biểu Úy hét: “Đ.M. nếu mầy không về chỗ của gia nô liền thì ông ‘feu’ (tiếng Pháp là bắn) mầy nát đầu.
Nhữ Văn Úy riu ríu đi về phía trái của Quốc Hội !
***
Trở về với các biến chuyển dồn dập những ngày cuối 30 tháng 4-1975, Đại Sứ Pháp Mérillon cũng tìm cách môi giới giữa Hà Nội và chính quyền Saigon để tìm giải pháp 3 thành phần. Trong khi đó việt cộng đưa điều kiện là phải trao quyền cho Dương Văn Minh. Saigon còn dằng co, Mérillon cho biết bên kia hăm sẽ pháo kích nát thành phố, nếu ông Hương không chịu trao quyền. Để thị uy và cảnh cáo, quân cộng sản thông báo sẽ bắn 3 hỏa tiễn vào dinh Độc Lập. Thật sự, họ có bắn 3 quả nhưng không trúng Phủ Tổng Thống mà rớt một trái trên đường Công Lý gần đó, một trái trúng khách sạn Majestic và một trái rơi vào vườn Tao Đàn, phía sau Dinh Độc Lập.
Trong phiên họp lưỡng viện Quốc hội, các nhà lập pháp thân chính, viện dẫn lý do chính đáng là Tổng Thống từ chức thì Phó Tổng Thống thay quyền, nếu phó Tổng Thống từ chức hoặc mất đi thì Chủ Tịch Thượng Nghị Viện thay thế. Không có lý do để trao quyền. Những vị nầy cho đó là âm mưu gian trá. Phía Dân Biểu và Nghị sĩ thân Dương Văn Minh yêu cầu tạm ngưng để các Trưởng Khối thảo luận trước khi đưa đề nghị ra biểu quyết. Yêu cầu nầy được chấp thuận. Các Trưởng khối được thông báo về sự hăm dọa của Cộng Sản do Mérillon chuyển lời. Sau phiên họp, khi được thông báo lời dọa nạt của Việt cộng sẽ pháo nát Saigon, vài vị dân biểu, nghị sĩ thân chính nhát gan, trơ trẻn trách rằng sao không nói trước! Kết quả đề nghị trao quyền được 2/3 dân biểu, nghị sĩ chấp thuận. Tôi không bỏ phiếu bởi vì tôi không muốn có tên mình lưu lại trong một cuộc sắp xếp phiêu lưu, bất hợp hiến.
Cộng sản Hà Nội lại biểu lộ bộ mặt gian trá của họ Khi Đại Tướng Dương văn Minh gởi một phái đoàn đi gặp phái đoàn Việt Cộng ở Tân Sơn Nhứt, Võ Đông Giang trả lời đã quá muộn. Hà Nội đổi chiến lược. Trước kia họ đòi thương thuyết với một chính phủ không có Thiệu. Kế đó họ tuyên bố chỉ nói chuyện với Dương Văn Minh, bây giờ lại trở cờ khi ông Minh đưa người đến tiếp xúc.
Phiên họp lưỡng viện Quốc Hội có tính lịch sử chấm dứt. Tôi ra về, tại hành lang Thượng Nghị Viện tôi thấy Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia đang đứng đó, tôi hỏi bằng giọng gay gắt:
-Tại sao Thiếu Tướng còn ở đây? Không chạy mau lát nữa chạy không kịp à!
-Ông Dân Biểu đừng nói vậy, tôi rất kính nể ông Dân Biểu.
-Phải rồi, nhờ Thiếu Tướng kính nể chớ không thì tôi đã tan xương rồi.
Ông Bình lặng thinh không trả lời. Ai cũng biết con người ông nhỏ nhẹ khéo léo trong cung cách của bàn tay sắt bọc nhung.
Cũng tại hành lang Thượng Viện có mặt Nguyễn Xuân Phong, thương thuyết gia từ Paris về đứng cùng với Phó Thủ Tướng Nguyễn Văn Hảo. Ông Phong là đồng sự của tôi trong nội các chiến tranh với tư cách Tổng Trưởng Xã Hội. Tôi hỏi:
- Tại sao toa không ở Paris mà về làm gì, coi chừng chạy không kịp đấy.
Phong trả lời :
-“Toa biết con khỉ gì. C’est une affaire politique, ce n’est pas une affire militaire”. (Đây là vấn đề chính trị chớ không phải vấn đề quân sự).
Tôi cười bỏ đi. Khi vào trại cải tạo ở Long Thành, tôi gặp Nguyễn Xuân Phong khiêng phân người tưới cải, tôi lại đùa:
“Ê Phong, c’est une affaire politique”? (Đây là vấn đề chính trị)?
Anh trả lời:
-“Il faut payer comme tout le monde”! (Phải trả giá như mọi người)
Lễ bàn giao tại Dinh Ðộc Lập
Chiều ngày 28 Tháng Tư tôi được mời đến dinh Ðộc Lập dự buổi lễ bàn giao chức vụ tổng thống vào lúc 4 giờ. Tôi đến đúng giờ, nhìn thấy quan khách lưa thưa, những hàng ghế trống còn nhiều. Tôi ngồi gần Trung Tướng Tư lệnh Không Quân Nguyễn Văn Minh, phía bên trái ông là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức, Tổng Cục Trưởng Cục Công Binh. Dân Biểu Nguyễn Văn Binh ngồi cạnh tôi. Trước mặt tôi cách vài hàng ghế là cựu Tổng Trưởng Kinh Tế Nguyễn Duy Xuân, ông sẽ là Tổng Trưởng Giáo Dục của nội các Vũ Văn Mẫu. Sau lưng tôi cách hai hàng ghế là cựu Thứ Trưởng Giáo Dục Nguyễn Thanh Liêm còn bao nhiêu là người trong bộ tham mưu của ông Dương Văn Minh, số người cũng không nhiều. Ấn tượng tôi còn giữ được, ngày bàn giao đó là lạnh nhạt, buồn tẻ, gượng ép.
Trong lúc ngồi chờ buổi lễ khởi sự, trong phòng kiếng nhìn ra bên ngoài bỗng nhiên tôi thấy trời nổi cơn giông, mưa ít mà gió nhiều, gió thổi mạnh, cành cây quằn quại, đột nhiên một nhánh to của cây thông gãy đổ, rồi một nhánh nhỏ gãy theo. Tôi chợt nghĩ đến chuyện viết trong Tam Quốc Chí, trước khi xuất quân cờ soái lệnh bị gãy là điềm không may! Mặc dù tôi là người công giáo, không chấp nhận mê tín dị đoan, nhưng điều trông thấy trước mắt cũng làm tôi suy nghĩ khá nhiều. Càng thắc mắc hơn nữa là vài chục phút sau, lễ bàn giao chấm dứt, chúng tôi ra ngoài vẫn thấy trời quang mây tạnh, gần như không có mưa. Sự kiện này in sâu trong đầu, làm tôi nhớ mãi. Giờ hành lễ đã đến, Tổng Thống Trần Văn Hương xuất hiện nói ngắn gọn: Ông nói chỉ trao quyền cho Ðại Tướng Dương Văn Minh mà thôi và vào giờ phút nghiêm trọng này ông chỉ tin tưởng một người duy nhứt là Ðại Tướng. Ông mỉa mai hay là nói thật? Chỉ có ông và Trời biết. Ông Dương Văn Minh dù không có học một ngày nào với cụ Hương nhưng vẫn gọi cụ là “thầy.” Ông hứa hẹn sẽ tận lực cứu vãn tình thế đưa quốc gia đến bến hòa bình. Hai bài diễn văn ngắn gọn, buổi lễ chấm dứt vào khoảng 5 giờ 20.
Bước xuống bậc tam cấp dinh Ðộc Lập, Dân Biểu Nguyễn Văn Binh và tôi tâm sự nhiều về thời cuộc, tiên đoán lung tung, không có gì trúng cả, trước tình hình rối loạn như tơ vò của phía quốc gia. Chúng tôi rủ nhau đi ăn cơm chiều. Lý Chánh Trung, người sẽ là Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng, chạy theo xin cho đi cùng, tôi từ chối. Binh và tôi đến quán ăn. Quán vắng tanh. Ngồi vào bàn, anh chiêu đãi viên chạy đến, vừa ghi xong những món ăn bỏ đi chưa đầy 10 phút chúng tôi nghe hai tiếng nổ ầm ầm. Chuyện không lành. Gọi ông chủ nhà hàng đến xin lỗi chúng tôi phải về gấp. Về đến nhà tôi, Nguyễn Văn Binh gọi điện thoại vô dinh Ðộc Lập, được trả lời là có máy bay địch giội bom vào dinh, không có thiệt hại gì cả ngoài sự lo sợ. Chúng tôi nghe bom nổ ì ầm ở xa, bèn lên sân thượng nhà tôi đứng xem về hướng Biên Hòa thấy khói mù mịt. Tôi đoán là sân bay Biên Hòa bị đánh bom, mà sao chờ mãi không thấy máy bay của mình lên nghênh chiến? Về sau, tôi mới biết rằng lần giội bom đó là do Trung Úy Nguyễn Thành Trung, một phi công trong không lực VNCH vốn là một đảng viên Cộng Sản nằm vùng được lệnh trở mặt. Còn quân ta thì vào giờ thứ 25 rồi, chắc không còn ai muốn thí mạng mình một cách oan uổng, nên không cần phải cất cánh đánh nhau làm gì nữa!
Dân Biểu Binh từ giã tôi, anh nói sẽ vào dinh Ðộc Lập theo dõi tình hình, có gì anh cho tôi biết sau. Ðêm đó, Cộng quân pháo kích ầm ầm, đều đều, tôi miên man suy nghĩ thì ít, lo sợ thì nhiều. Bốn đứa con nheo nhóc, phải chi tôi để cho chúng nó theo mẹ di tản sang Mỹ thì bây giờ đỡ lo. Tôi không tài nào ngủ được mà chắc cả Sài Gòn cũng không ai ngủ trọn giấc.
Khoảng 11 giờ đêm, điện thoại reo, Nguyễn Văn Binh ở đầu dây bên kia cho biết Việt Cộng tuyên bố với phái đoàn Vũ Văn Mẫu: Không thương thuyết gì nữa cả mà buộc VNCH phải đầu hàng. Chiến thuật gian trá, thay đổi kể từ ngày 27 Tháng Tư. Sự lừa đảo của cộng sản lộ hình, sau khi họ đạt được hết nhượng bộ này đến nhượng bộ khác. Ðiều đó chứng tỏ Sài Gòn bối rối sợ hãi, vô tổ chức, không còn lực đối kháng. Hà Nội mặc tình khai thác và ra lệnh quân lính đánh thẳng, chiếm lấy miền Nam. Trước tình thế đó, tân Tổng Tham Mưu Trưởng, Tướng Vĩnh Lộc cũng thừa cơ bỏ chạy. Hai giờ đêm, Nguyễn Văn Binh, bây giờ là Thứ Trưởng Quốc Phòng điện thoại cho tôi biết anh kiểm điểm lại, mọi ngõ ngách tiến vào Sài Gòn đều bỏ trống, quân binh của ta mất gần hết.
Sáng hôm sau ngày 29, tân Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu thông cáo: Tất cả người Mỹ phải rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ. Trực thăng lên xuống không ngừng trên nóc nhà tòa Ðại Sứ Mỹ để chuyên chở những người di tản, may mắn lọt được vào trong đó. Trực thăng cũng đáp nơi này, nơi khác trên sân thượng, nóc nhà tư nhân, đó là những phi công Việt Nam đón người nhà, bà con hay bạn bè. Ðứng trên sân thượng của nhà tôi, có thể nhìn thấy 2 chiếc trực thăng bị hư hại nằm tại chỗ trên 2 nóc nhà khá xa. Cả ngày nay hỗn loạn không thể tả. Tôi muốn thử chạy một vòng Sài Gòn để xem tình thế ra sao. Vừa ra khỏi cửa một anh cán bộ nhân dân tự vệ của mình cầm M16 chửi thề “ÐM mấy thằng Mỹ nó bỏ mình rồi ông ơi!” Vài chiếc trực thăng bay vòng trên trời anh ta chĩa súng đòi bắn, tôi can anh: “Ðừng hành động nông nổi, cái đó không giải quyết được vấn đề của mình trong hiện tại đâu. Anh nên lo cho an ninh phường mình là tốt hơn cả.”
Tôi đánh một vòng quanh đường phố Sài Gòn, một xe bus của Mỹ chạy trên đường, bỗng nhiên tôi thấy một chiếc xe ở phía trước gài số lui, rồi đến gần ngang xe bus, một người Mỹ mở cửa nhảy ra đeo xe bus đang chạy. Chiếc xe của anh này lui ngay về phía xe của tôi. Tôi bèn leo lề vọt tránh, thế mà xe tôi cũng bị đụng rầm, làm xẹp cánh cửa sau bên trái. Tôi tiếp tục xuống bến tàu Sài Gòn, người ta đông nghẹt, xe cộ ngổn ngang, có nhiều chiếc máy còn chạy mà không có người. Muốn biết sự tình, thì hình như tôi đã thấy đủ rồi mà lòng hiếu kỳ còn muốn đi vòng Chợ Lớn xem sao? Nhưng bụng bảo dạ, hỗn loạn quá có thể không an toàn. Tôi đành trở về lòng càng bất an.
Tôi quyết định đưa hết gia đình sang nhà ở đường Mạc Ðĩnh Chi, nơi này an toàn vì là khu hành chánh, ít dân cư hơn khu chợ Trương Minh Giảng. Xe Fiat 125 của tôi vừa ra khỏi cửa có người chạy theo bấm nút mở cóp sau để giựt va-li. Anh vệ sĩ của tôi mở cửa xe nhảy ra giựt lại. Thật là khôi hài đến chảy nước mắt. Lại một đêm thức sáng chờ biến cố. Biến cố gì đây? Thật khó hình dung. Ðiều đó làm cho mình vừa lo sợ, vừa hồi hộp, vừa tính toán, rồi đến kết luận là liều mạng chấp nhận tất cả. Sáng ngày 30 Tháng Tư 1975, súng nổ ran tứ phía. Ðiện thoại reo, lại Nguyễn Văn Binh: “Thôi hết rồi anh Triều ơi! Ông Minh tuyên bố đầu hàng. Nhưng ông nói với tôi sẽ còn thương lượng với họ để cho những ai muốn rời khỏi Việt Nam thi đi, còn ai muốn ở lại thì ở. Mà anh Triều ơi, tôi không hiểu tại sao trước lúc ông Minh sắp tuyên bố lệnh buông súng, có Thiếu Tướng Vanuxem, người Pháp, đứng bên cạnh, ông này thúc giục Ðại Tướng Minh: Faites un appel à la Chine (Hãy kêu cứu với Trung Quốc). Tại sao kỳ vậy?”
Thiết tưởng cũng nên mở dấu ngoặc để nói vài câu về Tướng Vanuxem. Ông thuộc quân đội viễn chinh Pháp, đã dạy qua các trường quân sự Nam Ðịnh, Thủ Ðức, là thầy của nhiều tướng lãnh Việt Nam trong đó có Nguyễn Văn Thiệu, Cao Văn Viên. Trước năm 1975, ông có trở lại viếng thăm Việt Nam nhiều lần và đều có tiếp xúc với tôi. Năm 1967 ông viết quyển sách tựa đề “L'espoir à Sài Gòn” (Sài Gòn Còn Hy Vọng) trong đó ông ca ngợi Chương Trình Phát Triển Quận 8 do tôi chủ trương như một sự kêu gọi tuổi trẻ dấn thân hành động đem lại công bằng và no ấm thật sự cho dân nghèo. Tôi trả lời Nguyễn Văn Binh: “Tôi cũng không hiểu tại sao?” Phải chăng là Vanuxem đã có tin tức gì, đã đánh hơi được sự rạn nứt giữa Trung Quốc và Việt Nam 3 năm sau này chăng? Hay là Vanuxem nghĩ rằng ông thầy Trung Quốc có thể ảnh hưởng được nước đồng chí nhỏ bé của mình là Bắc Việt Nam. Vanuxem chết trước năm 1991, năm tôi trở lại Pháp, nên tôi không gặp lại ông được để hỏi tại sao? Thật tiếc.
Lệnh buông súng được ông Dương Văn Minh đưa ra khoảng hơn 10 giờ sáng. Sau đó, tôi nghe tiếng xe tăng vang rền trên đường Thống Nhứt, đứng từ bao lơn nhà ở đường Mạc Ðĩnh Chi, tôi nhìn từng chiếc chạy ngang.Không có tiếng súng nào kháng cự. Mọi chuyện đã thật sự chấm dứt.
Cảm giác lúc đó thật lạ lùng, khó tả quá. Bực tức nhục nhã? Có! Tiếc nuối như người thân yêu nhứt đời đang rời bỏ mình sang thế giới khác? Ðúng! Lo sợ cho tương lai? Phải! Toan tính thái độ của mình cho ngày mai? Bàn thảo với ai? Tất cả mọi thứ cảm giác này ngập đầy trí óc, ngay trong khoảnh khắc đó. Thật là khó mô tả cho rõ ràng. Ðiều rõ nhứt là chua xót tiếc thương, tủi nhục! Thơi gian sau này, khi qua Pháp có dịp tâm sự nhiều với Tướng Dương Văn Minh, tôi có hỏi ông về quyết định đầu hàng, một quyết định làm ông mang tiếng suốt đời, thì ông nói rằng “Tôi là Phật tử, tôi không muốn quyết định của tôi làm tổn hại nhiều sinh mạng con người quá, thà tôi chịu mang tai tiếng cả đời.”
Tôi bí cửa không dám ra đường, chờ xem việc gì sẽ xảy ra cho mình. Ðứng trên bao lơn nhìn xuống, xe ba gác chở đủ thứ đồ đạc, nào bàn ghế, tủ giường, khăn áo, vật dụng giấy tờ, sách vở, đủ loại, của hôi... của cướp... của lượm từ các nơi khác chở ngang qua đường Mạc Ðĩnh Chi. Ðứng ngoài bao lơn nhà nhìn Tòa Ðại Sứ Mỹ ở xa, tôi thấy người ta khuân vác ra quá nhiều đồ đạc, bàn ghế tủ giường, vật dụng giấy tờ, sách vở... Vụ hôi của đó có lẽ vĩ đại nhứt Sài Gòn kéo dài đôi ba ngày liên tiếp mà thấy của vẫn còn. Tôi lo sợ không biết ở khu chợ Trương Minh Giảng có người tràn vào nhà mình không? Tôi điện thoại về đó, người giúp việc nói nhà vẫn bình yên. Lính Việt cộng, mặc quân phục xanh, đội nón tai bèo, vai mang AK, từng nhóm đi ngoài đường.
Xế chiều, tôi đánh liều, lái xe chạy vòng quanh thấy cảnh hôi của, chở đồ còn nhiều hơn nữa, có cả xe ba gác chở hàng chục bao gạo. Quần áo, giày vớ, nón sắt, súng đạn M16 của lính Việt Nam Cộng Hòa rải rác khắp nơi, thật là ngậm ngùi, buồn tủi. Tôi thầm nghĩ những bộ quân phục đó, tôi cũng đã từng mặc nó trong nhiều năm, những vũ khí đó tôi cũng đã từng sử dụng nó, lòng tôi quặn thắt, nước mắt lưng tròng, vì cái nhục thất trận!
Vòng qua ngã Thị Nghè ra xa lộ, chạy ngang một xác chết nằm trên vũng máu khô với bộ quần áo biệt động quân hay cảnh sát dã chiến? Nhìn không rõ, vì tôi cố tình cho xe chạy nhanh. Thêm một chiến sĩ vô danh tử trận vào giờ chót. Lạy Chúa xin cho linh hồn người anh em đó được nghỉ an trên nước thiên đàng! Vòng sang chợ Bà Chiểu cảnh tượng ở đâu cũng giống nhau vậy thôi. Có lẽ phía Thị Nghè và tỉnh Gia Ðịnh, quân phục, súng ống của phe ta rải dài la liệt nhiều hơn ở Sài Gòn. Trở về nhà, bơ phờ, chẳng nói chẳng rằng, không ai buồn nói gì với ai. Ðến giờ cơm thì ăn, đến tối thì ngủ. Ðứa con lớn 16 tuổi, lân la gần tôi hỏi:
- Ba, người ta sẽ làm gì ba không?
- Chưa biết.
Cả ngày 1 Tháng Năm 1975 xem truyền hình, thấy Hà Nội diễn binh mừng lễ lao động và mừng hơn tất cả là ngày chiến thắng. Trưa hôm sau chuông điện thoại reo, điện thoại đầu tiên sau 30 Tháng Tư 1975. Tôi bắt ống nghe, chờ đợi tiếng người lạ, nhưng không ngờ đó vẫn là tiếng của cựu Dân Biểu Nguyễn Văn Binh, bây giờ là phải thêm chữ cựu rồi vì chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã chết!
Binh đã về nhà an toàn, anh thuật cho tôi nghe những gì đã xảy ra trong hai ngày qua tại dinh Ðộc Lập: Lính cộng sản tràn vào, Nguyễn Văn Hảo nhạy miệng nói:
- Các em từ từ chuyện đâu còn có đó, cho gặp cấp chỉ huy của em đi.
Tên lính tay cầm cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nạt nộ: “Ai là em anh?” Tên lính chĩa súng AK vào tất cả mọi người, bắt ngồi xuống hết, hàng dọc, tay gác lên đầu. Một số lính tiếp tục chĩa súng canh chừng. Tên cầm cờ hét, Nguyễn Văn Hảo phải dẫn đường lên sân thượng để hạ cờ quốc gia màu vàng ba sọc đỏ thay vào đó cờ nửa xanh nửa đỏ có điểm ngôi sao vàng.
Lính thiết giáp cộng sản chiếm Dinh Ðộc Lập sớm quá, cấp chỉ huy của họ chưa có mặt để tiếp thu, báo chí truyền hình đến không kịp để quay phim. Những tên lính này lùa hết từ Tổng Thống Dương Văn Minh đến Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu và tất cả tùy tùng xuống hầm nhốt trong một căn phòng chật hẹp trong đó có Nguyễn Văn Binh. Họ nằm, ngồi chờ chết hay sẽ bị tù đày, tra tấn gì đây? Tất cả hồi hộp lo âu. Theo lời Binh kể lại thì Ðại Tướng Minh có lúc trầm ngâm than thở: “Ðến từng tuổi này có chết cũng vừa!” Chiều tối, nhóm người thuộc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng, đói lả, một tên lính vào hỏi có ai biết lương thực cất giấu chỗ nào không. Một trong các tùy viên của ông Minh xin ra để tìm kiếm. Anh nầy lục ra được ít gạo của lính phòng vệ phủ Tổng Thống, nhưng lại không có nồi to, đành dùng cái lớn nhứt nấu cơm đem vào chia nhau ăn, dĩ nhiên là không đủ no. Ðợi đến ngày hôm sau, chỉ huy cao cấp cộng sản mới đến, thả những người này ra, đối xử lịch sự, nhã nhặn yêu cầu diễn lại tuồng đầu hàng, bàn giao để cho báo chí chụp hình quay phim phổ biến khắp xứ và ngoại quốc.
Ði cải tạo
Trung tuần Tháng Năm, công an thành phố thông cáo: Tất cả nhân viên chính quyền cũ, từ cấp Chánh Sở, Trưởng Ty trở lên và quân nhân thuộc Việt Nam Cộng Hòa từ cấp Thiếu Úy trở lên phải trình diện đăng ký tại nơi làm việc hay công an phường. Bắt đầu từ đó danh từ miệt thị “ngụy quân ngụy quyền” được sử dụng phổ biến. Dân miền Nam bắt đầu nếm mùi trả thù, lường gạt, gian trá của cộng sản Bắc Việt. Trước tiên là “lao động xã hội chủ nghĩa.” Toàn dân, tuổi thành niên trở lên đều phải lao động theo sự cắt cử của phường khóm. Ðào mương, đắp đê, làm công tác thủy lợi theo sức tưởng tượng ngớ ngẩn của cán bộ Cộng Sản và sự bình phẩm về kỹ thuật của nhân dân, chưa từng biết thủy lợi là gì. Một thí dụ điển hình là ruộng đất ở cầu Kinh, Khu cư xá Thanh Ða, diện tích không có bao nhiêu, mỗi năm đến mùa nước ròng, nước mặn tràn vào. Huyện Bình Thạnh ra lệnh “đắp đê ngăn mặn,” bao quanh bờ sông Sài Gòn, bọc cả cù lao Thanh Ða để trồng lúa. Xe hàng và trai tráng bị trưng dụng đi đốn cây tràm chở về, đóng cừ rồi dân cư tại chỗ cùng với đàn bà con gái từ Sài Gòn xuống đông nghẹt, quần áo nhổm nha, lội bùn đắp đê, ròng rã cả tháng trời. Kết quả những “lỗ mọi” nhỏ, do cua còng làm hang, nước chảy xoi mòn biến thành lớn, nước mặn vẫn ngập như không có đắp đê. Về sau chính quyền cộng sản ép buộc đông đảo người phải đi lao động ở những vùng đất đai cằn cỗi gọi là “kinh tế mới.” Rồi đến việc chiếm nhà cửa đất đai ruộng vườn, di tản vô số người dân từ Bắc vào Nam “làm ăn,” hống hách, ngang ngược.
Thông cáo, Ủy Ban Quân Quản thành phố Sài Gòn ra lệnh 15 đến 17 Tháng Sáu năm 1975 “ngụy quân ngụy quyền” phải đi trình diện học tập. Thông cáo dặn đem theo quần áo lạnh và lương dùng trong một tháng. Sáng ngày 16 Tháng Sáu, tôi đến địa điểm chỉ định là trường Trưng Vương, gặp người bạn đồng viện thân thiện của tôi là cựu Dân Biểu Ðặng Văn Tiếp, hai đứa xếp hàng đột nhiên thấy cựu Dân Biểu Trần Ngọc Châu, cựu Tỉnh Trưởng Kiến Hòa, tôi lấy làm lạ hỏi:
- Toa thuộc khóa Quốc Hội trước, không nằm trong diện phải đi học tập cải tạo mà sao tới đây làm gì?
Châu trả lời:
- Moa nghĩ phải đi học tập rồi mới trở về làm việc được.
Vào đến cửa trường Trưng Vương, công an chận xét, giấy tờ của Trần Ngọc Châu không hợp lệ bị đuổi về. Anh ta lớn tiếng phản đối:
- Chế độ gì mà xin đi học tập để về làm việc cũng không cho.
Chúng tôi vào, ghi tên lập danh sách rồi chia thành tổ 10 người, tổ chúng tôi gồm Ðặng Văn Tiếp, Ðàm Sĩ Hiến, cựu Tổng Trưởng Lao Ðộng, La Thành Nghệ, cựu Nghị Sĩ, Thứ Trưởng Công Kỹ Nghệ, Thẩm Phán Nguyễn Văn Vui, Phó Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện, cựu Tổng Trưởng Kinh tế Nguyễn Văn Diệp, Cựu Dân Biểu Nguyễn Ngọc Tân, ký giả bút hiệu là Bảy Bớp, cựu Nghị Viên hội đồng tỉnh Gia Ðịnh Trần Ngọc Lâm, Trung tá Giám Ðốc Nha Xã Hội, Nguyễn Văn Tân và một anh nghị viên đồng viện với anh Lâm tôi không nhớ tên, trước kia anh là thơ ký phục vụ tại trung tâm cải huấn Thủ Ðức, miếng mồi ngon cho cộng sản mà anh không biết. Cai tù là kẻ thù của cộng sản. Hai anh nghị viên này không thuộc diện phải đi cải tạo lâu dài nhưng chắc cũng có ý nghĩ như Trần Ngọc Châu nên phải trả giá đắt.
Vui buồn những ngày cải tạo ở Long Thành
Sau khi nhập trại tại trường Trưng Vương, tổ 3 của tôi được phân bố ngủ nghỉ trong một lớp học trên tầng lầu thứ nhứt. Ða số chúng tôi quen nhau nên vào đây ngày đầu tiên xúm nhau bàn tán xôn xao. Bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu thắc mắc và phỏng đoán đều có đề cập đến, bao nhiêu lời than thở đều có nói ra. Chúng tôi được thông báo rằng những bữa cơm trưa và tối đều do nhà hàng cung cấp. Mọi người tin tưởng sẽ ở đây học tập thật. Sáng sớm hôm sau có phân phối nước trà nóng. Một anh lính cầm lon phát nước, miệng la ó xỉ vả: “Các anh là người lớn, có ăn học mà tư cách sao giống như ăn mày vậy, xếp hàng ngay thẳng lại đi,” không ai thèm nghe, anh lính tức mình giụt lon bỏ đi bởi vì một số bạn đồng cảnh của mình bu quanh chen lấn, giành giựt nhau một cách hỗn độn vô trật tư, thật là nhục nhã!
Ðặng Văn Tiếp và tôi mới tới nơi, nhìn cảnh tượng đau lòng đó, quyết định trở về phòng nghỉ không lấy nước. Ði nửa đường gặp cựu Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện, Trần Minh Tiết cũng là đồng nghiệp của tôi trong nội các chiến tranh với tư cách Tổng Trưởng Nội Vụ, rồi Tư Pháp. Tôi liền khuyên anh đi trở lên, tránh nhìn cảnh chen lấn, giành giựt hèn hạ nhục nhã quá. Anh Tiết do dự, anh nói muốn có chút nước nóng uống cho ấm lòng buổi sáng. Tiếp và tôi lại bảo thôi. Cuối cùng Trần Minh Tiết theo chúng tôi trở về phòng than thở về hoàn cảnh và tư cách con người. Bây giờ tôi mới hiểu rõ tại sao có sự chạy chọt đút lót, tranh giành chức vụ, cạnh tranh quyền hành để hưởng thụ rồi cuối cùng dẫn đến tình trạng hôm nay.
Chiều tối ngày hôm sau, lúc anh em đang ngủ, khoảng chín mười giờ đêm, bất ngờ đèn điện bật sáng, lính cộng sản đứng đầy, cửa sổ, cầu thang, nhà tiêu đều có. Một trong chúng lớn tiếng ra lệnh thu xếp đồ đạc rồi xuống sân trường xếp hàng ngay thẳng. Thôi rồi! Chắc chuyện không lành. Việc xảy ra đột ngột không giống như mình dự tính. Cụ Vũ trong tổ của tôi sợ hãi tay run rẩy không làm gì được nên Ðặng Văn Tiếp và tôi phải xếp mùng mền thu dọn hành trang giùm ông ta. Sau đó chúng tôi phải cập tay dìu cụ xuống sân. Cựu Dân Biểu, Luật Sư Trần Văn Tuyên ngồi gần tôi, kề tai nói nhỏ: “Chúng nó đưa mình đi bắn.” Tôi có linh tính điều anh Tuyên lo sợ là không đúng nên trả lời: “Không phải đâu.” Anh Tuyên lại gắt: “Cậu mà biết gì, ngoài Bắc chúng tôi đã biết bọn nó hành động như thế nào rồi.” Lời chắc nịch của anh làm tôi đâm ra sợ lây, nhưng cũng không bằng anh Tuyên, dáng điệu bề ngoài còn tĩnh nhưng mặt mày tái chợt mắt buồn xo lộ vẻ hãi hùng. Ðiều đó làm tôi càng sợ hơn. Quay sang Tiếp tôi hỏi: “Mày thấy việc này dữ hay lành? Tiếp nói: “Ð... M... không xong rồi mày ơi.” Tôi lại càng sợ hơn nữa. Ngồi chờ giây lát tôi thấy có nhiều xe “bus” lần lượt vào sân trường. Tất cả chúng tôi được dồn lên xe, Tiếp lôi tôi đứng cuối bệ sau, gần cửa. Hai cửa lên xuống xe có hai tên lính đứng chận. Xe lăn bánh chạy tương đối chậm, vòng quanh nhiều đường phố Sài Gòn, dường như cố tình làm cho chúng tôi lạc hướng. Thật là ngây ngô. Cứ mỗi đường phố ngang qua là có nhiều tiếng nói nhận định của anh em mình: Ðây đường... X... đường Y..., v.v... Ðặng Văn Tiếp tay cầm gói mì khô “hai con cua” bẻ phân nửa đưa tôi bảo ăn. Tôi nói ăn gì được, còn sống mà. Tiếp, giọng dứt khoát: “Tao bảo mày ăn đi, không chết đâu, ăn xong để chạy, hễ xe đậu mở cửa, tao kéo tay là hai đứa chạy đấy.” Tôi bàng hoàng, bán tín bán nghi... nhưng lòng cũng quyết định chạy theo Tiếp. Xe chạy qua khỏi cầu xa lộ Biên Hòa tạm ngừng để kiểm số người trên xe. Cửa trước mở, một tên lính bước lên xe đếm số người, Tiếp cầm tay tôi, ngón trỏ của anh cứ khều mãi vào lòng bàn tay tôi, nhưng tiếc thay, hay may mắn thay, cửa sau xe không mở. Mặt Tiếp xụ lại buông tay tôi ra không nói một lời.
Ðường đi ra Vũng Tàu quen thuộc, xe vẫn chạy khá chậm, ai cũng nhận ra cảnh vật, đến ngã ba Long Thành xe quẹo vào, vài phút sau ngừng hẵn ở “làng cô nhi” lúc đó vào khoảng bốn giờ sáng. Xuống xe nhìn thấy ngoài hai tên lính chận cửa xe, trên mui còn có hai tên khác ngồi chĩa AK sẵn sàng nhả đạn. May mắn cho chúng tôi, nếu có cơ hội thoát chạy thì những viên đạn AK không tha mạng rồi. Còn người anh em vắn số Ðặng Văn Tiếp, bị ám ảnh về cái chết của ông cậu ở trại tù Lý Bá Sơ ngoài Bắc nên sau này anh cũng trốn trại, bị bắt lại đánh đến chết! Thương nhớ anh và cầu Chúa cho anh được nghỉ an nơi lạc cảnh.
Trại Long Thành nhốt công chức, chính trị gia, cảnh sát và tình báo.
Chúng tôi được chỉ định vào nhà số 13 đầu tiên từ cổng chính vào. Nhà dài ngăn thành 3 căn trống trơn, có kê 3 hàng sạp gỗ cách mặt đất độ một gang tay, chừa hai hàng trống để đi lại. Nhiều nhà khác sàn nhà được lót gạch. Tổ 1, 2, 3, vào cuối nhà. Giăng mùng chiếu xong nằm nghỉ, nhưng làm sao ngủ được? Ða số anh em cứ rù rì mãi đến sáng. Thức dậy ra ngoài thấy đồng trống mênh mông, lòng mình cũng trống trải hoang mang vô cùng. Rồi lại tiếp diễn cái cảnh buổi sáng ngày hôm trước. Một thùng cháo để ngoài sân giữa hai nhà 12 và 13. Một tên lính quân phục xanh nón tai bèo, thông báo có cháo buổi sáng. Nhiều người bu quanh giành nhau chén cháo. Tên lính phát không kịp, đổ tháo tùm lum bèn hét to “các anh người lớn mà sao nói không biết nghe, ngụy quyền cao cấp sao mà kỳ vậy.” Trời ơi xấu hổ quá! Tôi kéo Tiếp đi thật xa ra đồng trống ngồi than thở, buồn rầu, thú thật chúng tôi có chửi đổng, không chửi ai... hay là chửi tất cả. Hồi lâu trở vào thấy hai thùng cháo để gần đường đi. Cháo còn dính ít nhiều quanh viền. Tiếp vào nhà lấy ca đựng nước đem ra, tay vét sạch hết các ven thùng được gần nửa ca. Anh đưa tôi và nói “Ðây nầy, mày ăn phân nửa tao ăn phân nửa.” Tôi nói: “Thôi mày ơi, ăn gì kỳ vậy.” Tôi vẫn còn suy nghĩ theo thói quen trưởng giả phong lưu ngày trước là không ăn “cơm thừa cá cặn” nên từ chối. Tiếp thuyết phục tôi: “Trong tù cái gì ăn được là phải ăn để mà sống, mày hiểu chưa?” Tôi lại từ chối. Tiếp bèn nổi nóng: “Thằng ngu, mày không ăn tao quăng đây này” vừa nói anh vừa vang tay định giục ca cháo tôi cản lại: “Thôi tao ăn, nhưng tao cảm thấy nhục quá.” Tiếp văng tục “Nhục cái con c... tao đây này, sao mày ngu quá vậy.” Tiếp ơi, hồn mày linh thiêng phù hộ cho đồng đội đồng hành của mày tranh đấu lấy lại “công đạo” cho mày và cho cả dân tộc mình đi Tiếp!
Những ngày đầu ban quản lý cấm không được dùng chữ tù mà phải gọi là “học tập.” Mỗi tối có một tên lính dạy chúng tôi hát những bài cổ võ kháng chiến như Trường Sơn Ðông, Trường Sơn Tây, Vàm Cỏ Ðông... và những bài tuyên truyền như một bài hát trong đó có câu “biến nhà tù thành trường học” lấy ý nghĩa của “Trại Học Tập Cải Tạo!” Tuyên truyền bịp bợm chưa từng thấy, bởi vì từ ngày cộng sản chiếm miền Nam nhà tù được dựng lên càng nhiều, trường học thiếu lớp, thầy giáo thiếu khả năng, bằng cấp giả lan tràn, giáo dục xuống cấp. Dần dần kỷ luật trại giam siết chặt thêm, bọn cán bộ quản lý trại giam bắt đầu tổ chức hệ thống ăng-ten trong hàng ngũ anh em mình bằng cách đưa ra cái mồi nhử “học tập tốt để sớm được đoàn tụ với gia đình” hoặc “về sớm hay muộn là do các anh thôi.”
Cộng sản trả thù những người quốc gia chúng tôi rất có kế hoạch. Bắt đầu là học tập lao động: Giẫy cỏ, lên bờ trồng khoai, trồng cải... khiêng phân người đem bón cây... Làm lao động nhưng ăn cơm gạo hẩm mà không đủ no. Những ngày đầu còn có câu lạc bộ bán ít hàng để ăn dậm thêm. Sau một tháng chờ đợi “học tập” chúng tôi được học bài đầu tiên của “cách mạng” là bài báo giải thích thắc mắc bên ngoài do các gia đình công chức quân nhân chế độ cũ hỏi tại sao hơn một tháng rồi mà không thấy người nhà được thả về? Bài báo viết: “Thông cáo của cách mạng kêu gọi đi học tập không hề nói một tháng sẽ trở về mà chỉ nói đem tiền bạc xài trong một tháng và đem quần áo ấm theo dùng mà thôi.” Bài học này khởi sự “cải tạo” lối suy nghĩ của công chức quân nhân và cả nhân dân miền Nam. Khuôn viên chúng tôi đang ở được rào dây kẽm gai, một vòng, rồi hai vòng... rồi bắt đầu xây tường cao hơn hai thước, cửa ra vào có lính gác cẩn thận. Mỗi khi ra ngoài lao động phải kiểm số người, lúc trở về cũng phải đếm lại đủ số.Những ngày ở trại Long Thành chúng tôi chưa nếm đủ cái khổ và cái ác của sự trả thù cho nên tôi chỉ kể một vài chuyện vui buồn để độc giả hiểu thêm. Thoạt tiên chúng tôi phải đào rất nhiều hố vuông vức bề sâu đứng bằng đầu người, lót hai tấm ván ngang qua, bao quanh và ngăn vách bằng tôn, đó là những chỗ tiêu tiện. Mỗi khi có mưa, nước ngập cao, rất bẩn thỉu. Gặp lại Trần Ngọc Châu tại Long Thành tôi tò mỏ hỏi tại sao anh ta lại vào đây được. Anh dài dòng kể rằng hai lần trình diện đăng ký ở quốc hội người ta không nhận vì anh không thuộc diện phải đi cải tạo. Sau khi bị từ chối không cho vào trường Trưng Vương, Châu trở lại quốc hội, kiếm một người cán bộ mà anh chưa từng thấy mặt, tự xưng mình là dân biểu nhưng vì bận việc ở tận Huế nên mới trình diện trễ, anh cán bộ này tin liền vì mọi việc thật sự đã trễ rồi nên cho Trần Ngọc Châu đăng ký và được cấp giấy liền. Châu về nhà nghỉ đợi sáng hôm sau đi trình diện, nhưng không ngờ danh tánh chức vụ của những người đã trình diện được chuyển đến phường khóm và đêm đó công an phường biết rõ Trần Ngọc Châu đang ở nhà nên đến xét bắt đưa vô nhốt tại Chí Hòa. Anh ta phản đối kêu oan nói rằng chính anh đã nhiều lần xin đi học tập mà không cho, chớ anh không hề có ý định trốn học tập. Sau đó, Châu được chuyển ngay vào trại Long Thành.
Bị bắt như vậy mà anh cũng còn chưa hiểu được âm mưu khắc hiểm của cộng sản. Cho nên anh cố tình nói lung tung là đi học để được xứng danh mình là con người mới và anh còn thêm rằng “sau khi cải tạo về, moa sẽ đi một vòng hết đất Bắc rồi mới làm việc được.” Thường người ta hay nói “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” thật đúng là trường hợp của Trần Ngọc Châu trong bối cảnh nầy. Một anh bạn thân khác là Phạm Minh Dưỡng, Nguyên Thứ Trưởng Công Kỹ Nghệ, Tổng Giám Ðốc công ty giấy Cogido. Anh Dưỡng học Ecole Centrale, trường lớn đứng vào hàng thứ nhì thứ ba trong các trường lớn (Grandes Ecoles) của Pháp. Một người bạn đồng khóa của anh, theo cộng sản về Hà Nội công tác. Sau 30 Tháng Tư anh này tiếp thu hãng giấy, gặp lại nhau, mày mày tao tao thân mật. Anh ta nói rằng Dưỡng không cần đi học tập cải tạo gì cả, ở nhà mà làm việc. Cho đến khi Phạm Minh Dưỡng bàn giao chỉ vẽ hết mọi bí quyết trong nghề rồi thì người bạn đồng khóa nầy mời vào văn phòng nói: “Thôi toa cũng nên đi học tập cải tạo đi.” Dưỡng than với tôi: “Thật là đểu giả khốn nạn, cái thằng chó chết.”
Mỗi ngày sau bữa cơm chiều đông đảo chúng tôi tản bộ dọc theo con đường mòn bao quanh khu nhà dành cho công chức. Tức cười là cựu Nghị Sĩ La Thành Nghệ chiều nào cũng cầm ba-ton, đội nón Fléchet, đi lúc khoan thai lúc mau như chạy. Chắc anh đang suy nghĩ như Trần Ngọc Châu, phải dưỡng sức để về làm việc lại, hay như ông chánh án mà tôi sắp kể chuyện, lúc nào cũng phải ăn mặc chỉnh tề để giữ thể diện. Có một buổi trưa, Ðặng Văn Tiếp và tôi đi trên đường mòn ngang qua dẫy cầu tiêu thấy một ông đầu đội nón Fléchet màu hột gà, cổ thắt cà vạt, mặc áo veston đàng hoàng tay cầm một cây dài khều mãi trong hầm phân, chúng tôi đứng nhìn lâu thắc mắc, Tiếp lại gần hỏi: “Cụ làm gì thế?” Cụ đáp: “Tôi làm rớt cái ví có giấy tờ tiền bạc trong ấy mà không biết làm sao lấy lên.” “Thế à! Xin phép hỏi trước đây cụ giữ chức vụ gì trong chính phủ?” “Tôi là Chánh án.” “Cụ vào đây thấy có khổ lắm không?” “Ối ráng chịu khó một tháng rồi về ấy mà.” “Dạ, xin chúc cụ mau thu lại được cái ví nhé.” Tiếp vừa nói vừa lôi tôi đi mau, cách đó khá xa chúng tôi mới dám bật cười, thắc mắc và tự hỏi ông ấy đang tưởng mình là ai? Ðang ở đâu? Với tư cách gì mà sao đi cầu phải ăn vận như đi hội vậy!
Vấn đề nước xài, mỗi ngày xe chở vào, tù cải tạo xếp hàng dài lấy để uống và tắm giặt. Ôi thôi biết bao nhiêu là cảnh giành nhau buồn vui cãi cọ. Vào đây mới thấy ai gian dối, lợi dụng, ai chém vè, lường công bạn bè một cách bất xứng. Bỉ ổi nhứt là mỗi nhà đã có một “cần ăng ten,” mình nghi ngờ nhưng không thể xác định. Hậu quả đầu tiên là anh Luật Sư cựu Dân Biểu Trần Văn Tuyên bị báo cáo láo rằng vào đây rồi mà còn liên lạc với các thành viên Quốc Dân Ðảng để bàn chuyện chống phá cách mạng. Chúng tôi được gọi tập họp vào hội trường để Hai Ứng, Phó Trưởng Trại, kêu đích danh Trần Văn Tuyên xỉ vả nặng nề giữa hội trường một cách oan ức. Anh Tuyên đứng dậy đưa tay lên định xin nói, Hai Ứng tay phải vịn vào hông định móc súng lục nạt lớn: “Anh ngồi xuống, im ngay.” Trần Văn Tuyên đành phải ngồi xuống. Chúng tôi bồi hồi bất mãn nếm cái nhục của kẻ thất trận, chưa biết số phận mình sẽ ra sao. Cũng trong hội trường đó, Nguyễn Xuân Phong, không bị nêu tên, nhưng qua lời xỏ xiên nói về việc đàm phán ở Paris ai cũng biết Hai Ứng gián tiếp cảnh cáo anh Phong. Trong những ngày buồn tủi đó Ðặng Văn Tiếp và tôi luôn luôn cặp bồ đánh domino trong đội để giết thời gian. Hoặc bàn với nhau về một tương lai mờ mịt. Anh Tiếp tỏ vẻ lo âu là chúng tôi đi không có ngày về. Và cho dù có về được như ông chú của anh ngoài Bắc, từ trại Tù Lý Bá Sơ trở về thì cũng chỉ để chờ chết mà thôi. Rồi chúng tôi sớm chia tay, anh bị di chuyển đi nơi khác tôi ở lại với sự cô đơn lẻ bạn. Ðó là một vài chuyện buồn đáng tiếc, nhưng cũng có chuyện vui cười ra nước mắt.
Như đã nói trên là nước dùng trong trại vô cùng quí, mỗi tổ phải chia phiên nhau lấy nước để cùng xài. Ðội 3 chúng tôi có một anh vốn trưởng ty trẻ tuổi, tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh mà tôi không nhớ tên. Anh đi cầu ban đêm, tay cầm hũ chao nhỏ, đựng nước để rửa. Chiều hôm đó trời mưa rỉ rả, đất trơn, anh trợt té hũ chao bể cấn vào tay cắt đứt một lằn dài trong lòng bàn tay. Lúc đó đèn điện đã tắt, anh em chuẩn bị ngủ, bỗng nhiên nghe một tiếng la lớn trong phòng “chảy máu nhiều quá.” Tất cả sửng sốt, tung mùng đứng dậy, nhiều ánh đèn pin rọi vào chổ có người la, quả thật có một anh bạn dơ cao cánh tay máu chảy dài xuống nách. Tôi vội vã hối người tới đội 1 ở đầu nhà 13 gọi anh cựu Dân Biểu Trần Văn Ðể vì anh Ðể là một bác sĩ. Tôi yêu cầu anh ấy đến ngay vì có người bị thương. Không đầy 5 phút sau anh Ðể tới xem vết thương và hỏi:
- Có lon Guigoz không?
- Có.
- Có kim chỉ may quần áo không?
- Có.
- Lấy kim chỉ bỏ vào lon nấu thật sôi. Nắm chặt cổ tay nó lại - Ðể ra lệnh.
Sau khi kim chỉ được nấu xong để sát trùng anh Ðể chuẩn bị may vết thương vừa sâu vừa dài. Anh Ðể yêu cầu hai người có sức đè chặt bệnh nhân, thân trước và hai chân sau, đồng thời phải có hai người đè thẳng hai cánh tay của anh này không cho động đậy. Sau đó anh Ðể giả vờ hỏi bệnh nhân chuyện vớ vẩn, đâu đâu, để làm anh ta không chú ý đến cái đau mà anh sắp phải chịu. Một loại thuốc mê tâm thần không mấy hiệu quả, nhưng thật khôi hài.
- Có vợ con chưa?
- Dạ có rồi.
- Vợ đẹp không? Sống có hạnh phúc không?
Úi da, trời ơi đau quá bác sĩ ơi. Úi da, thôi đi bác sĩ ơi, làm ơn băng lại đi bác sĩ ơi. Thì ra trong lúc hỏi về gia đình anh Ðể xỏ một mũi kim xuyên thịt làm anh trưởng ty nhà mình đau xốn xang, la hét ồn ào.
- Ừ tôi băng lại liền.
- Ê mà vợ anh đẹp, hai vợ chồng ngủ với nhau có sướng không? Anh có đi mèo mở ở chỗ nào khác hôn cha nội? Hay là “cỏ nhà ăn mãi còn ngon.”
- Hỏi gì kỳ vậy?...
- Úi da, đau quá bác sĩ ơi, chết tôi bác sĩ ơi. Thôi băng lại liền giùm tôi đi bác sĩ ơi. Ðừng may vá gì nữa hết bác sĩ ơi.
- Thôi đủ rồi không may nữa. Hết đau rồi phải không? Này hồi nãy tôi hỏi anh chơi có... không sao anh không trả lời?...
- Ui da, Ð... M... mày bác sĩ, sướng cái con c... tao đây này.
Cả phòng cười ồ trước sự đau khổ của bênh nhân mà trong lòng cảm thấy tội nghiệp.
- Ð... M... bác sĩ buông tôi ra, tôi không cần bác sĩ nữa đâu. Buông tôi ra. Anh Triều ơi, anh không có quyền để cho thằng Ðể nó hành hạ đội viên của anh như vầy. (Tôi là đội trưởng đội 3). Anh Triều ơi cứu tôi với.
Sau đó, bác sĩ Ðể còn phải may hai mũi kim nữa và còn nghe anh hỏi những câu có vẻ khôi hài cũng như còn nghe bệnh nhân chửi rủa thậm tệ hơn. May xong tổng cộng 5 mũi, cột chỉ đàng hoàng, xé khăn băng lại, anh Ðể ra về rồi mà ông bạn khốn khổ này còn chửi thề lung tung với tiếng rên hì hì hòa với tiếng cười khúc khích, khi nhỏ khi lớn vì sự đối đáp giữa bác sĩ và bệnh nhân quá ư là khôi hài và những lời chửi rủa về hai mũi kim chót cũng quá là thô bạo. Năm tháng sau, tôi được gọi đi làm việc, tôi ngồi trước mặt một người tự xưng đã từng là ký giả của tôi, từng viết cho nhật báo Ðại Dân Tộc. Tôi không hề biết anh ta, bởi nếu đã viết cho tờ Ðại Dân Tộc thì tôi phải biết. Cuối cùng, tôi hiểu ra đây chỉ là một việc mạo danh đề cho dễ nói chuyện, chứ thật ra anh ta không phải là ký giả, cũng không hề viết một bài nào cho nhật báo Ðại Dân Tộc. Anh đối xử với tôi hết sức niềm nở và lịch sự. Cũng trong dịp này anh ta, úp úp mở mở, thông báo là tôi sẽ được trả tự do trong nay mai. Nửa tháng sau tôi được phó trưởng trại đích thân chở về nhà và từ đó có chiến dịch dụ dỗ tôi hợp tác làm việc lại với “cách mạng.” Dụ dỗ không được nên cộng sản mới thẳng tay trả thù tôi thê thảm. Cái trò vừa hù vừa dụ đó sẽ được trình bày ở những phần sau.
Nghĩ lại phận mình
Hạ tuần Tháng Sáu 1975, sống tại làng cô nhi Long Thành, ngày không vui đêm khó ngủ, cứ triền miên đặt giả thuyết mà không tìm được sự trả lời thỏa đáng cho bản thân hay cho bạn bè thắc mắc. Nghĩ lại cuộc đời mình, cho tới lúc đó, 41 tuổi đầu, đau khổ nhiều hơn sung sướng, vui ít buồn nhiều. Thăng trầm giàu nghèo đã hưởng một vài lượt. Cao sang quyền quí có nếm đủ mùi. Mộng tưởng phục vụ đất nước dân tộc không thành. Công tác phát triển quận 8 Sài Gòn là một thách thức đối với cộng sản cũng dở dang. Một số bạn trẻ hợp tác với tôi đưa ra thách thức bằng hành động: “Cộng sản đang thực hiện một cuộc cách mạng sắt máu, mình không chấp nhận, chúng ta phải đề nghị với quần chúng nhân dân một cái gì khác hơn, dựa vào tình thương và thể hiện công bằng xã hội thật sự.”
Chúng tôi thực hiện được nửa chừng, (vấn đề nầy sẽ trình bày sau) báo chí trong và ngoài nước ca ngợi. Ký Giả Pháp Vanuxem (cựu tướng lãnh) có viết một quyển sách tựa đề “L'espoir à Sài Gòn” ca ngợi chương trình như một sự thành công. Người Mỹ có quay một cuộn phim để làm tài liệu. Càng suy nghĩ về quá khứ càng nhớ những chuyện vu vơ. Nhớ những lần được mời tham gia đại cuộc mà tôi từ chối vì nhận xét không hội đủ điều kiện để thành công, hai lần Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ muốn lật đổ Tổng Thống Thiệu sau Tết Mậu Thân và sau khi từ hội đàm Paris trở về. Kỳ đề nghị giao cho tôi thành lập nội các để thực hiện đường lối chính trị khác hơn bởi vì theo ông nhận xét nếu cứ để cho Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục ù lì hưởng thụ và nghe theo người Mỹ thì sẽ mất nước. Ðêm Tết Mậu Thân Tổng Thống Thiệu vắng mặt ở Sài Gòn, Phó Tổng Thống Kỳ một mình điều khiển trận phản công cứu nguy đô thành và các tỉnh. Nhưng sau đó ông Thiệu lại ganh tỵ sợ Tướng Kỳ lấn quyền nên ông Kỳ bực tức mới sinh ra ý định lật đổ. Lần thứ hai tại hội đàm Paris vì thái độ cứng rắn của ông làm người Mỹ khó chịu nên mới tổ chức đụng xe ông ở Rond Point Des Champs Elysées, ông bỏ hội nghị trở về họp một vài tướng lãnh đề nghị đảo chánh vì ông Thiệu bị Mỹ dụ dỗ và ép buộc có thể đưa chúng ta đến chỗ thất bại. Tôi sẽ lần lượt kể những chuyện đó hiện có nhiều nhân chứng còn sống tại Mỹ và các nơi khác, độc giả sẽ có cơ hội thỏa mãn tính tò mò chuyện quá khứ. Thời gian đó Tướng Nguyễn Cao Kỳ còn là người chống cộng với thành ý, còn là người nuôi hy vọng xây dựng một Việt Nam tự do thịnh vượng, chớ không phải như ngày nay, Tướng Kỳ bị mang tiếng phản bội mình và phản bội đồng đội đồng hành vì những lý do gì thì chỉ có một mình ông biết. Ôi biết bao nhiêu là vấn đề chính trị ngang trái, tình đời xảo quyệt vui buồn lẫn lộn... ngổn ngang trong đầu khi bị nhốt vào trại tù không biết số phận ngày mai.
Chúng tôi thực hiện được nửa chừng, (vấn đề nầy sẽ trình bày sau) báo chí trong và ngoài nước ca ngợi. Ký Giả Pháp Vanuxem (cựu tướng lãnh) có viết một quyển sách tựa đề “L'espoir à Sài Gòn” ca ngợi chương trình như một sự thành công. Người Mỹ có quay một cuộn phim để làm tài liệu. Càng suy nghĩ về quá khứ càng nhớ những chuyện vu vơ. Nhớ những lần được mời tham gia đại cuộc mà tôi từ chối vì nhận xét không hội đủ điều kiện để thành công, hai lần Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ muốn lật đổ Tổng Thống Thiệu sau Tết Mậu Thân và sau khi từ hội đàm Paris trở về. Kỳ đề nghị giao cho tôi thành lập nội các để thực hiện đường lối chính trị khác hơn bởi vì theo ông nhận xét nếu cứ để cho Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục ù lì hưởng thụ và nghe theo người Mỹ thì sẽ mất nước. Ðêm Tết Mậu Thân Tổng Thống Thiệu vắng mặt ở Sài Gòn, Phó Tổng Thống Kỳ một mình điều khiển trận phản công cứu nguy đô thành và các tỉnh. Nhưng sau đó ông Thiệu lại ganh tỵ sợ Tướng Kỳ lấn quyền nên ông Kỳ bực tức mới sinh ra ý định lật đổ. Lần thứ hai tại hội đàm Paris vì thái độ cứng rắn của ông làm người Mỹ khó chịu nên mới tổ chức đụng xe ông ở Rond Point Des Champs Elysées, ông bỏ hội nghị trở về họp một vài tướng lãnh đề nghị đảo chánh vì ông Thiệu bị Mỹ dụ dỗ và ép buộc có thể đưa chúng ta đến chỗ thất bại. Tôi sẽ lần lượt kể những chuyện đó hiện có nhiều nhân chứng còn sống tại Mỹ và các nơi khác, độc giả sẽ có cơ hội thỏa mãn tính tò mò chuyện quá khứ. Thời gian đó Tướng Nguyễn Cao Kỳ còn là người chống cộng với thành ý, còn là người nuôi hy vọng xây dựng một Việt Nam tự do thịnh vượng, chớ không phải như ngày nay, Tướng Kỳ bị mang tiếng phản bội mình và phản bội đồng đội đồng hành vì những lý do gì thì chỉ có một mình ông biết. Ôi biết bao nhiêu là vấn đề chính trị ngang trái, tình đời xảo quyệt vui buồn lẫn lộn... ngổn ngang trong đầu khi bị nhốt vào trại tù không biết số phận ngày mai.
Trở lại đời sống ở Long Thành, mỗi chiều Ðặng Văn Tiếp và tôi ngồi chờ hoàng hôn, thả hồn về dĩ vãng... tôi nhớ lại những ngày thơ ấu... những mối tình đầu... những bước đường công danh... phù du. Ðôi khi ngồi với anh bạn đồng viện Nguyễn Văn Cử bình luận chuyện quá khứ, lo ngại chuyện tương lai. Tôi tự hỏi tại sao ông trời không để cho tôi yên thân như một anh nông dân ở xã Phú Thuận tỉnh Bến Tre như ông cố, ông nội tôi ở đó, mà lại cho tôi có ăn học có hiểu biết rồi lại trao cho tôi nhiều cay đắng mùi đời. Nhưng nghĩ cho cùng, tôi không hối tiếc và nếu Thượng Ðế cho phép làm lại cuộc đời, tôi sẽ đi lại con đường tôi đã đi nhưng chỉ xin Trời Phật cho tôi tránh được cảnh mẹ ghẻ con chồng quá ư là đau khổ! Nước có vận người có số. Mồ côi mẹ cũng là một sự bất hạnh trời dành cho anh em chúng tôi. Câu nói được truyền khẩu trong dân gian là: “Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ lót lá mà nằm,” áp dụng cho chúng tôi thật đúng vô cùng. Tuổi thơ ấu của tôi chịu quá nhiều dấu ấn bất công, quá nhiều nếp gấp đau buồn, quá nhiều thiếu thốn so với những đứa trẻ của gia đình bình thường khác, mặc dù ông bà cha mẹ tôi nói được là hạng giàu có trong tỉnh. Mẹ tôi chết lúc tôi mới lên năm. Thiếu tình yêu của mẹ và bị hất hủi tàn tệ trong gia đình điều đó làm cho tôi mất thăng bằng về mọi mặt, tâm lý bất thường.
Cái cảm giác bơ vơ không cho mình có được sự tự tin, mẹ ghẻ hà hiếp, cha mắng phạt oan ức làm cho mình vừa sợ hãi vừa mang phản ứng tự vệ trường kỳ. Tôi mãi tìm kiếm một chỗ dựa ấm áp, một sự an ủi bao che nhưng không có. Tôi ở với cô, em ruột của cha, tình thương của cô là một thứ tội nghiệp và thương xót, cách đối xử của cô gần giống như bà chủ với người làm công. Tôi ở với bà, em ruột ông nội, tối ngày chúng tôi phải phụ giúp việc nhà, thậm chí chạng vạng tối, em tôi sợ ma nhưng phải đi tìm mấy con dê ở ngoài đồng đem về vắt sửa. Tất cả chỉ là tình thương giả tạo và lợi dụng mà thôi. Người ta cũng thường nói “giàu cha giàu mẹ thì ham giàu cô giàu bác ai làm nấy ăn.” Tôi còn nhớ ngày mẹ tôi hấp hối tôi đang cùng với bọn anh em cô cậu vò đạn bắn chim bằng ná thung. Bất ngờ có người báo tin phải về nhà gấp. Vừa vào cửa tôi nghe tiếng mẹ tôi kêu lớn “Chúa ơi chết tôi.” Tất cả anh em tôi hòa lên khóc, khóc không ngừng, lúc lớn tiếng, lúc âm thầm rên rỉ, khi anh em đối mặt nhìn nhau lại khóc hòa ầm ĩ. Chúng tôi đã mất một người mà suốt đời không tìm ra ai có thể thay thế được. Tôi không nhớ khóc cho đến bao giờ mới thôi, nhưng lâu, lâu lắm. Có phải là vì cạn nước mắt không? Tôi còn nhỏ quá không biết được điều đó. Rồi đến ngày chôn cất mẹ tôi, lại một lần anh em ôm nhau mà rên la khóc nức nở! Tôi hối tiếc khi lớn lên biết được rằng mẹ tôi sanh con tại nhà dù gia đình khá giả, ở xã mà có nhà lầu, có biệt thự nền đúc kiểu tây phương, thêm một dẫy nhà dài với sân rộng, nhưng tiếc thay lại theo thói quê mùa cổ lỗ của làng xã, sanh con không vào nhà thương ở tỉnh mà rước mụ vườn, dốt nát về y tế về nhà đỡ đẻ. Ðến khi bà mụ bó tay mới chịu lên tỉnh rước một lượt ba vị bác sĩ về nhà là mẹ tôi hấp hối, ba vị y sĩ đành chia buồn vì không có dụng cụ và điều kiện giải phẫu. Âu cũng là phần số của mẹ và cũng là của chúng tôi phải chịu khổ về sau với cảnh “mẹ gà con vịt chắt chiu, mấy đời mẹ ghẻ thương yêu con chồng?” Hai anh lớn của tôi đứa 10 tuổi, đứa 7 tuổi, em kế tôi mới lên ba, còn đứa em gái út một tuổi còn ẵm trên tay. Từ đó, thôi biết bao nhiêu là buồn phiền uất ức, oán hận, khóc thầm. Dù không muốn nhớ tới nhưng cảnh đau lòng nó lù lù hiện trong trí óc không thể xua đuổi được. Bẩy tháng sau cha tôi cưới mẹ ghẻ, tiếng là để lo cho các con thơ, nhưng thực tế chúng tôi khởi sự nếm mùi cay đắng. Cơm ngày hai bữa chúng tôi ăn riêng, ăn trước với cá kho hay cá nướng dằm nước mắm có khi không đủ chan cơm. Còn cha và mẹ ghẻ ăn sau phủ phê gà cá, chúng tôi đứng xa nhìn, thèm rỏ dãi mà không dám lộ mặt bởi vì gia luật không cho phép dòm miệng khi thấy người khác ăn món ngon. Nhiều lần cha vắng mặt gì ghẻ cầm nguyên trái tim heo hấp tỏi hành, không cần sắc thành miếng nhỏ, ngồi ăn ngon lành, trước mắt thèm thuồng của chúng tôi. Con riêng của bà thì uống xá xị “Phương Toàn” còn chúng tôi thì nước lạnh chớ không có được nước trà mà uống. Cảnh thèm đường thốt nốt của thằng Giác và tôi thật khôi hài và chua xót. Số là trong thời kỳ gia đình chúng tôi bị Việt Minh lấy nhà đuổi ra, chúng tôi đi ở đậu nhà bà cô ruột của cha. Dì ghẻ tôi mua một phong đường thốt nốt 5 tán gói trong lá thốt nốt bộc dài. Chúng tôi xin một cục nhỏ cho hai đứa bà không cho. Thèm quá mỗi lần thấy vắng người anh em chúng tôi chạy lại lấy ngón tay quẹt ngang liếm một cái. Hai đứa liếm đi liếm lại nhiều lần làm hủng sâu một lỗ. Bà dì ghẻ mét cha tôi. Hai đứa lại bị đòn. Bà bắt chúng tôi giặt quần áo, em tôi và tôi đùa giỡn làm văng nước trúng bà. Ðêm vào mùng bà nỉ non mét cha rằng chúng tôi cố tình lấy nước quần dơ rải lên đầu bà cho bà mang nhục, sáng ra chúng tôi bị đòn. Còn biết bao nhiêu trận đòn oan ức vì những câu nỉ non trong đêm mỗi khi vào mùng mà chúng tôi nghe được và biết trước sáng mai sẽ ăn đòn nên cả đêm lo sợ ngủ không yên.
Trong bối cảnh mồ côi bị hà hiếp như vậy, anh em chúng tôi ôm trùm, thương nhau và lo lắng cho nhau. Ngoài tình huynh đệ hình như còn có tình mẫu tử lạ thường, tình bầu bạn thâm giao, không rời nhau đêm ngày, trừ những khi đi học xa, lên tận Mỹ Tho ở nội trú, học trường Dòng Thánh La San. Có những đêm trăng tròn thức giấc ra tựa cửa sổ nhìn trời, nhớ em, xót thương cho cảnh côi cút nhọc nhằn, bực tức trong lòng, ngực căng phòng thở không được, nước mắt tuôn rơi mà không dám hít hơi lớn tiếng. Nhớ những ngày chúng tôi còn trẻ ham chơi nhưng bị cấm đoán không cho giao dịch với con dân nghèo, mà chính những đứa trẻ đó mới tử tế dễ thương hơn cái lũ bà con hay những bọn thuộc nhà môn đăng hộ đối.
Mùa mưa em tôi và tôi đi hớt cá lia thia ngoài ruộng với mấy thằng chăn trâu sành nghề, nhưng rủi thay mỗi lần gì ghẻ bắt gặp mét cha, phụ họa thêm rằng “mấy đứa con ông nó biến thành chăn trâu hết rồi,” thế là một trận đòn nhưng chúng tôi vẫn trốn tránh lén ngồi trên lưng trâu, về nhà hôi mùi khét nắng, mùi hôi trâu hôi bùn thì lại bị đòn nữa. Chỉ trừ những lúc bẻ ổ kiếng vàng lấy kiến con và trứng, móc mồi câu cá rô non thì bà dì ghẻ hoan hỉ bởi vì bà được ăn cá chiên giòn cuốn bánh tráng. Hay là đi bắt cá cạn mùa sắp gặt lúa, trời nắng ruộng khô, hoặc đi soi ếch nhái sau những trận mưa dông đầu mùa. Tóm lại cái vui của chúng tôi chỉ được chấp nhận khi nào bà cảm thấy cái vui đó có lợi cho bà. Ðầu mùa mưa, ruộng mới vừa nổi nước, ếch nhái dưới hang sâu, trong bụi rậm nhảy ra hứng sương uống nước. Cứ mỗi chạng vạng tối chúng kêu rộ lên, mỗi loại một giọng đặc biệt, quệt quệt giọng ồ ề của ếch, ngắc nghen thanh tao thánh thót của nhái, nghiến răng trọt trẹt của cóc, quền quan rền vang kéo dài của ễnh ương, tất cả rộ lên thứ nầy kêu ít, thứ kia kêu nhiều, kết thành một điệu nhạc hòa tấu thú vị, riêng biệt đặc thù của vùng đồng bằng sông Cửu Long thời tôi còn thơ ấu.
Có những buổi trưa nắng gay gắt anh em chúng tôi rủ nhau đi bắn chim trao trảo, dòng dộc, se sẻ, chim sâu, không có loại chim nào lớn nhỏ ở đồng quê mà tôi không biết tên nó. Ðó là chưa kể đi trên những thửa ruộng mà các bầy vịt đẻ lội ngang qua thế nào cũng lượm được một hai trứng rơi rớt đem về chiên cơm ăn vui sướng vô cùng, hay là bắn được một con chim nhỏ, se sẻ chim sâu gì đó, nhổ lông, mổ rửa, bỏ vào chảo chiên mỡ thật nhiều thêm ít nước màu nước mắm trộn cơm chia nhau ăn còn ngon lành vui thú hơn bữa cơm của dì ghẻ dọn. Nhớ có lần tôi đau liệt giường ăn uống không được, mà thuốc men không có, cha tôi đi làm về hỏi: Thằng Triều ra sao rồi? Dì ghẻ trả lời: Tôi đưa cháo nó không thèm ăn, chắc nó không ưa tôi, thôi ông đi đút cháo cho con ông ăn đi. Cha tôi nạt dội: “Không ăn thì để cho nó chết.” Trời ơi, tôi nghe những lời vô tình tận nghĩa của cha mà nước mắt tự nhiên trào, chảy tới khi mòn mỏi tôi ngủ thiếp lúc nào không hay. Lớn lên tôi và hai anh đi học ở tỉnh mà lòng cứ lo nhớ hai em ở nhà bị hành hạ mắng chửi lòng cảm thấy nặng như chì. Bãi trường về nhà, em tôi chạy ra mừng rỡ tôi thấy nó mình trần trùi trụi mặc quần vải trắng biến thành màu hột gà với hai ba lổ rách còn hai đứa em khác mẹ mặc quần vải bông áo trắng phau. Tại sao cha tôi có thể chấp nhận sự phân biệt đối xử như vậy cà? Phải chăng tại bà dì ghẻ còn trẻ nên cha tôi nể nang bà quá đáng? Tự nhiên nước mắt tôi trào, bà mẹ ghẻ đanh thép hỏi sao mày nghỉ Hè về chơi mà khóc, bộ mày nhớ trường muốn đi học luôn không về nữa sao? Em tôi thấy vậy cũng khóc theo mà chắc nó không biết tại sao nó khóc. Chúng tôi kéo nhau đi chỗ khác, khuất mặt mọi người tôi hỏi: Mày với con Xuyến ở nhà có bị bả ăn hiếp nhiều không? Thằng Giác lắc đầu nhưng miệng nó mếu máo nước mắt lưng tròng. Năm tôi vừa mới thi đậu bằng sơ học yếu lược, thời đó có thể xin làm thầy giáo làng kiếm cơm được rồi. Tôi có ý định bỏ nhà ra đi xin nhà nước tuyển dụng làm giáo viên kiếm tiền nuôi em. Với ý định đó tôi viết một lá thơ cho người bạn học cùng lớp, có ông chú nó làm thơ ký bưu điện chắc sẽ biết cách giúp đỡ tôi xin việc. Tình cờ cha tôi thấy bức thơ của tôi bèn xé ra coi. Ông nổi trận lôi đình lấy một mớ quần áo của tôi quăng ra sân đuổi đi, miệng chửi mắng vang dậy, tay cầm roi mây đánh tôi xối xả, người anh kế tôi nóng lòng can thiệp hỏi: “Cha không thấy má đối xử với tụi con như thế nào sao? Vì vậy em con mới đòi ra đi, chớ đâu có phải vui sướng gì mà nó muốn bỏ nhà, bỏ tụi con?” Roi mây của cha tôi lại xối xả lên đầu anh ấy đến độ ông nội tôi tức giận tột cùng hét lớn, mắng chửi cha tôi thậm tệ và biểu cha tôi đánh ông thay vì đánh anh em chúng tôi. Sự can thiệp của ông nôi như một gáo nước lạnh tạt vào đầu cha, tất cả mọi người im phăng phắc, chỉ còn một mình ông nội tiếp tục chửi mắng cha và má ghẻ liên hồi. Những sự buồn phiền uất ức tột cùng khiến tôi có ý nghĩ phải học cho thành tài để trả thù khi lớn khôn. Ðó là động lực giúp tôi có ý chí sắt thép và sự trì chí học lấy cho bằng được cấp bằng đại học, dù có lúc tôi phải đi làm bồi nhà hàng hay rửa chén ở Paris.
Khi tôi đang học, có một ngày đó nhận được thơ của đứa em viết như sau: “Anh Sáu ơi, em và con Xuyến bị con mẹ đó hà hiếp quá chừng, cha đối xử quá tàn tệ, tụi em chịu khổ sở oan ức quá nhiều nên em quyết định lấy cây súng cạc-bin bắn cho con khốn nạn đó chết, thà em đi tù mà con Xuyến nó sẽ hết khổ. Nhưng anh Sáu ơi, khi em rờ cây cạc-bin tự nhiên em thấy sợ quá nên em không dám làm.” Tim tôi se thắt, người tôi thẩn thơ lờ đờ, nhớ thương hai em, học không vô, ăn ngủ không yên gần cả tuần lễ. Tôi phải trả thù, nhứt định tôi phải trả thù. Nhưng trớ trêu thay học xong trở về xứ tôi lại dang tay nuôi tất cả đàn em khác mẹ, kể cả bà mẹ ghẻ ác độc đó. Một phần vì tôi muốn giữ chữ hiếu với cha tôi, đó là gia giáo chăng? Một phần vì truyền thống của dân tộc Á Ðông mình? Hay là do sự tri thức về đạo lý con người? Hay do chính lời dạy của Chúa Giêsu “thương người như mình vậy,” “nếu có ai tát tai mình bên phải thì hãy đưa bên trái cho người ta tát” không báo thù oán hận. Có lẽ do tất cả những thứ đó họp lại mà tôi bỏ ý định trả thù bà mẹ ghẻ.
Nhưng tại sao tôi lại được đi Pháp du học? Năm 1950 cha tôi mang lon thiếu tá lực lượng bổ túc công giáo (Forces Supletives, Union Militaire de Defence Chrétienté gọi tắc là UMDC) giữ chức vụ Phó Tỉnh Trưởng Nội An tỉnh Bến Tre. Có một đêm khoản 9 giờ tối xe jeep của ông về làng, cả nhà thức dậy, bà mẹ ghẻ dọn cơm cho cha ăn, vui miệng ông nói:
- Con thầy cai Tổng Dung đi Tây học, tụi bây có đứa nào muốn đi Tây không bây?
Im phăng phắc. Bầu không khí vừa nghiêm chỉnh vừa nặng nề. Cha tôi lấy giọng ngọt ngào hỏi người anh cả:
- Tần đi Tây học không con?
- Thưa không cha.
- Hớn đi không con?
- Dạ không cha.
- Triều đi không con?
- Dạ đi!
- Giác đi không con.
- Dạ không.
Thế là số phận an bài. Cái gì xui khiến tôi trả lời đi? Bởi vì câu nói vừa dứt tôi thấy lòng sợ hãi, lo âu, hối tiếc, gần như tôi bị lên án khổ sai biệt xứ. Nhưng vì cha tôi quá nghiêm khắc nên tôi không dám nói đi nói lại, hay là có cái gì đó xui khiến tôi ngậm miệng dù lòng tôi rã rời, thật sự hối hận. Cha tôi nói tiếp với giọng hài lòng và khẳng định. Ngày mai về Bến Tre, cha biểu thằng Thôi làm giấy tờ cho con đi. Rồi mọi sự ngổn ngang trong lòng, lo lắng cho bản thân mình bơ vơ nơi xứ lạ quê người, xót thương anh em ở lại trong cảnh đau buồn tủi hận. Nghĩ tới thời gian chín mười năm phải chịu biệt xứ thật là hãi hùng. Thủ tục giấy tờ để cho thanh niên xuất ngoại vô cùng khó khăn gần như không thể được trong thời gian chiến tranh vì luật tổng động viên đã ban hành, nhưng cha tôi là bạn quen biết với cụ Nguyễn Văn Tâm khi ông còn làm quận trưởng Cai Lậy thuộc tỉnh Mỹ Tho, bây giờ ông là đương kim Tổng Trưởng Nội Vụ. Ðến ngày tôi phải lên Sài Gòn khám sức khỏe, tôi khờ dại nghe người ta nói hút thuốc nhiều sẽ bị nám phổi nên tôi mua hai gói thuốc Craven'A dù không biết hút nhưng phải ráng phì phà cho hết đến nổi đắng miệng, tôi hy vọng phổi sẽ bị nám, giấy tờ sẽ không xong, tôi sẽ được ở lại. Nào ngờ đâu vài hôm sau có giấy Bộ Trưởng Nội Vụ gọi tôi đích thân trình diện. Một vị sĩ quan của văn phòng cha tôi đưa tôi lên gặp ông Tổng Trưởng. Vừa thấy chúng tôi bước vào ông liền hỏi:
- Mày đi Tây chơi bời hay đi học mậy?
- Dạ thưa bác con đi học.
- Ừ đi học nghe con, thôi đi mạnh giỏi, ráng mà học cho thành tài. Vừa nói ông vớ lấy sổ thông hành nhỏ ký tên đưa cho tôi.
- Con xin cám ơn bác.
Chúng tôi ra về. Mọi người trong gia đình đều mừng rỡ, nhứt là ông nội tôi, người đã từng hy vọng thấy tôi nên người, người đã từng thương yêu tôi bằng cách cho nhiều tiền mua bánh, nhưng hoàn toàn bất lực trước sự đau khổ triền miên của tôi mà ông thừa biết, người mà tôi vĩnh viễn không khi nào gặp lại. Rồi đến ngày tôi phải ra đi nước mắt ràn rụa, ôm anh, ôm em từng người lòng xốn đau như dao cắt.
5 Cái cảm giác bơ vơ không cho mình có được sự tự tin, mẹ ghẻ hà hiếp, cha mắng phạt oan ức làm cho mình vừa sợ hãi vừa mang phản ứng tự vệ trường kỳ. Tôi mãi tìm kiếm một chỗ dựa ấm áp, một sự an ủi bao che nhưng không có. Tôi ở với cô, em ruột của cha, tình thương của cô là một thứ tội nghiệp và thương xót, cách đối xử của cô gần giống như bà chủ với người làm công. Tôi ở với bà, em ruột ông nội, tối ngày chúng tôi phải phụ giúp việc nhà, thậm chí chạng vạng tối, em tôi sợ ma nhưng phải đi tìm mấy con dê ở ngoài đồng đem về vắt sửa. Tất cả chỉ là tình thương giả tạo và lợi dụng mà thôi. Người ta cũng thường nói “giàu cha giàu mẹ thì ham giàu cô giàu bác ai làm nấy ăn.” Tôi còn nhớ ngày mẹ tôi hấp hối tôi đang cùng với bọn anh em cô cậu vò đạn bắn chim bằng ná thung. Bất ngờ có người báo tin phải về nhà gấp. Vừa vào cửa tôi nghe tiếng mẹ tôi kêu lớn “Chúa ơi chết tôi.” Tất cả anh em tôi hòa lên khóc, khóc không ngừng, lúc lớn tiếng, lúc âm thầm rên rỉ, khi anh em đối mặt nhìn nhau lại khóc hòa ầm ĩ. Chúng tôi đã mất một người mà suốt đời không tìm ra ai có thể thay thế được. Tôi không nhớ khóc cho đến bao giờ mới thôi, nhưng lâu, lâu lắm. Có phải là vì cạn nước mắt không? Tôi còn nhỏ quá không biết được điều đó. Rồi đến ngày chôn cất mẹ tôi, lại một lần anh em ôm nhau mà rên la khóc nức nở! Tôi hối tiếc khi lớn lên biết được rằng mẹ tôi sanh con tại nhà dù gia đình khá giả, ở xã mà có nhà lầu, có biệt thự nền đúc kiểu tây phương, thêm một dẫy nhà dài với sân rộng, nhưng tiếc thay lại theo thói quê mùa cổ lỗ của làng xã, sanh con không vào nhà thương ở tỉnh mà rước mụ vườn, dốt nát về y tế về nhà đỡ đẻ. Ðến khi bà mụ bó tay mới chịu lên tỉnh rước một lượt ba vị bác sĩ về nhà là mẹ tôi hấp hối, ba vị y sĩ đành chia buồn vì không có dụng cụ và điều kiện giải phẫu. Âu cũng là phần số của mẹ và cũng là của chúng tôi phải chịu khổ về sau với cảnh “mẹ gà con vịt chắt chiu, mấy đời mẹ ghẻ thương yêu con chồng?” Hai anh lớn của tôi đứa 10 tuổi, đứa 7 tuổi, em kế tôi mới lên ba, còn đứa em gái út một tuổi còn ẵm trên tay. Từ đó, thôi biết bao nhiêu là buồn phiền uất ức, oán hận, khóc thầm. Dù không muốn nhớ tới nhưng cảnh đau lòng nó lù lù hiện trong trí óc không thể xua đuổi được. Bẩy tháng sau cha tôi cưới mẹ ghẻ, tiếng là để lo cho các con thơ, nhưng thực tế chúng tôi khởi sự nếm mùi cay đắng. Cơm ngày hai bữa chúng tôi ăn riêng, ăn trước với cá kho hay cá nướng dằm nước mắm có khi không đủ chan cơm. Còn cha và mẹ ghẻ ăn sau phủ phê gà cá, chúng tôi đứng xa nhìn, thèm rỏ dãi mà không dám lộ mặt bởi vì gia luật không cho phép dòm miệng khi thấy người khác ăn món ngon. Nhiều lần cha vắng mặt gì ghẻ cầm nguyên trái tim heo hấp tỏi hành, không cần sắc thành miếng nhỏ, ngồi ăn ngon lành, trước mắt thèm thuồng của chúng tôi. Con riêng của bà thì uống xá xị “Phương Toàn” còn chúng tôi thì nước lạnh chớ không có được nước trà mà uống. Cảnh thèm đường thốt nốt của thằng Giác và tôi thật khôi hài và chua xót. Số là trong thời kỳ gia đình chúng tôi bị Việt Minh lấy nhà đuổi ra, chúng tôi đi ở đậu nhà bà cô ruột của cha. Dì ghẻ tôi mua một phong đường thốt nốt 5 tán gói trong lá thốt nốt bộc dài. Chúng tôi xin một cục nhỏ cho hai đứa bà không cho. Thèm quá mỗi lần thấy vắng người anh em chúng tôi chạy lại lấy ngón tay quẹt ngang liếm một cái. Hai đứa liếm đi liếm lại nhiều lần làm hủng sâu một lỗ. Bà dì ghẻ mét cha tôi. Hai đứa lại bị đòn. Bà bắt chúng tôi giặt quần áo, em tôi và tôi đùa giỡn làm văng nước trúng bà. Ðêm vào mùng bà nỉ non mét cha rằng chúng tôi cố tình lấy nước quần dơ rải lên đầu bà cho bà mang nhục, sáng ra chúng tôi bị đòn. Còn biết bao nhiêu trận đòn oan ức vì những câu nỉ non trong đêm mỗi khi vào mùng mà chúng tôi nghe được và biết trước sáng mai sẽ ăn đòn nên cả đêm lo sợ ngủ không yên.
Trong bối cảnh mồ côi bị hà hiếp như vậy, anh em chúng tôi ôm trùm, thương nhau và lo lắng cho nhau. Ngoài tình huynh đệ hình như còn có tình mẫu tử lạ thường, tình bầu bạn thâm giao, không rời nhau đêm ngày, trừ những khi đi học xa, lên tận Mỹ Tho ở nội trú, học trường Dòng Thánh La San. Có những đêm trăng tròn thức giấc ra tựa cửa sổ nhìn trời, nhớ em, xót thương cho cảnh côi cút nhọc nhằn, bực tức trong lòng, ngực căng phòng thở không được, nước mắt tuôn rơi mà không dám hít hơi lớn tiếng. Nhớ những ngày chúng tôi còn trẻ ham chơi nhưng bị cấm đoán không cho giao dịch với con dân nghèo, mà chính những đứa trẻ đó mới tử tế dễ thương hơn cái lũ bà con hay những bọn thuộc nhà môn đăng hộ đối.
Mùa mưa em tôi và tôi đi hớt cá lia thia ngoài ruộng với mấy thằng chăn trâu sành nghề, nhưng rủi thay mỗi lần gì ghẻ bắt gặp mét cha, phụ họa thêm rằng “mấy đứa con ông nó biến thành chăn trâu hết rồi,” thế là một trận đòn nhưng chúng tôi vẫn trốn tránh lén ngồi trên lưng trâu, về nhà hôi mùi khét nắng, mùi hôi trâu hôi bùn thì lại bị đòn nữa. Chỉ trừ những lúc bẻ ổ kiếng vàng lấy kiến con và trứng, móc mồi câu cá rô non thì bà dì ghẻ hoan hỉ bởi vì bà được ăn cá chiên giòn cuốn bánh tráng. Hay là đi bắt cá cạn mùa sắp gặt lúa, trời nắng ruộng khô, hoặc đi soi ếch nhái sau những trận mưa dông đầu mùa. Tóm lại cái vui của chúng tôi chỉ được chấp nhận khi nào bà cảm thấy cái vui đó có lợi cho bà. Ðầu mùa mưa, ruộng mới vừa nổi nước, ếch nhái dưới hang sâu, trong bụi rậm nhảy ra hứng sương uống nước. Cứ mỗi chạng vạng tối chúng kêu rộ lên, mỗi loại một giọng đặc biệt, quệt quệt giọng ồ ề của ếch, ngắc nghen thanh tao thánh thót của nhái, nghiến răng trọt trẹt của cóc, quền quan rền vang kéo dài của ễnh ương, tất cả rộ lên thứ nầy kêu ít, thứ kia kêu nhiều, kết thành một điệu nhạc hòa tấu thú vị, riêng biệt đặc thù của vùng đồng bằng sông Cửu Long thời tôi còn thơ ấu.
Có những buổi trưa nắng gay gắt anh em chúng tôi rủ nhau đi bắn chim trao trảo, dòng dộc, se sẻ, chim sâu, không có loại chim nào lớn nhỏ ở đồng quê mà tôi không biết tên nó. Ðó là chưa kể đi trên những thửa ruộng mà các bầy vịt đẻ lội ngang qua thế nào cũng lượm được một hai trứng rơi rớt đem về chiên cơm ăn vui sướng vô cùng, hay là bắn được một con chim nhỏ, se sẻ chim sâu gì đó, nhổ lông, mổ rửa, bỏ vào chảo chiên mỡ thật nhiều thêm ít nước màu nước mắm trộn cơm chia nhau ăn còn ngon lành vui thú hơn bữa cơm của dì ghẻ dọn. Nhớ có lần tôi đau liệt giường ăn uống không được, mà thuốc men không có, cha tôi đi làm về hỏi: Thằng Triều ra sao rồi? Dì ghẻ trả lời: Tôi đưa cháo nó không thèm ăn, chắc nó không ưa tôi, thôi ông đi đút cháo cho con ông ăn đi. Cha tôi nạt dội: “Không ăn thì để cho nó chết.” Trời ơi, tôi nghe những lời vô tình tận nghĩa của cha mà nước mắt tự nhiên trào, chảy tới khi mòn mỏi tôi ngủ thiếp lúc nào không hay. Lớn lên tôi và hai anh đi học ở tỉnh mà lòng cứ lo nhớ hai em ở nhà bị hành hạ mắng chửi lòng cảm thấy nặng như chì. Bãi trường về nhà, em tôi chạy ra mừng rỡ tôi thấy nó mình trần trùi trụi mặc quần vải trắng biến thành màu hột gà với hai ba lổ rách còn hai đứa em khác mẹ mặc quần vải bông áo trắng phau. Tại sao cha tôi có thể chấp nhận sự phân biệt đối xử như vậy cà? Phải chăng tại bà dì ghẻ còn trẻ nên cha tôi nể nang bà quá đáng? Tự nhiên nước mắt tôi trào, bà mẹ ghẻ đanh thép hỏi sao mày nghỉ Hè về chơi mà khóc, bộ mày nhớ trường muốn đi học luôn không về nữa sao? Em tôi thấy vậy cũng khóc theo mà chắc nó không biết tại sao nó khóc. Chúng tôi kéo nhau đi chỗ khác, khuất mặt mọi người tôi hỏi: Mày với con Xuyến ở nhà có bị bả ăn hiếp nhiều không? Thằng Giác lắc đầu nhưng miệng nó mếu máo nước mắt lưng tròng. Năm tôi vừa mới thi đậu bằng sơ học yếu lược, thời đó có thể xin làm thầy giáo làng kiếm cơm được rồi. Tôi có ý định bỏ nhà ra đi xin nhà nước tuyển dụng làm giáo viên kiếm tiền nuôi em. Với ý định đó tôi viết một lá thơ cho người bạn học cùng lớp, có ông chú nó làm thơ ký bưu điện chắc sẽ biết cách giúp đỡ tôi xin việc. Tình cờ cha tôi thấy bức thơ của tôi bèn xé ra coi. Ông nổi trận lôi đình lấy một mớ quần áo của tôi quăng ra sân đuổi đi, miệng chửi mắng vang dậy, tay cầm roi mây đánh tôi xối xả, người anh kế tôi nóng lòng can thiệp hỏi: “Cha không thấy má đối xử với tụi con như thế nào sao? Vì vậy em con mới đòi ra đi, chớ đâu có phải vui sướng gì mà nó muốn bỏ nhà, bỏ tụi con?” Roi mây của cha tôi lại xối xả lên đầu anh ấy đến độ ông nội tôi tức giận tột cùng hét lớn, mắng chửi cha tôi thậm tệ và biểu cha tôi đánh ông thay vì đánh anh em chúng tôi. Sự can thiệp của ông nôi như một gáo nước lạnh tạt vào đầu cha, tất cả mọi người im phăng phắc, chỉ còn một mình ông nội tiếp tục chửi mắng cha và má ghẻ liên hồi. Những sự buồn phiền uất ức tột cùng khiến tôi có ý nghĩ phải học cho thành tài để trả thù khi lớn khôn. Ðó là động lực giúp tôi có ý chí sắt thép và sự trì chí học lấy cho bằng được cấp bằng đại học, dù có lúc tôi phải đi làm bồi nhà hàng hay rửa chén ở Paris.
Khi tôi đang học, có một ngày đó nhận được thơ của đứa em viết như sau: “Anh Sáu ơi, em và con Xuyến bị con mẹ đó hà hiếp quá chừng, cha đối xử quá tàn tệ, tụi em chịu khổ sở oan ức quá nhiều nên em quyết định lấy cây súng cạc-bin bắn cho con khốn nạn đó chết, thà em đi tù mà con Xuyến nó sẽ hết khổ. Nhưng anh Sáu ơi, khi em rờ cây cạc-bin tự nhiên em thấy sợ quá nên em không dám làm.” Tim tôi se thắt, người tôi thẩn thơ lờ đờ, nhớ thương hai em, học không vô, ăn ngủ không yên gần cả tuần lễ. Tôi phải trả thù, nhứt định tôi phải trả thù. Nhưng trớ trêu thay học xong trở về xứ tôi lại dang tay nuôi tất cả đàn em khác mẹ, kể cả bà mẹ ghẻ ác độc đó. Một phần vì tôi muốn giữ chữ hiếu với cha tôi, đó là gia giáo chăng? Một phần vì truyền thống của dân tộc Á Ðông mình? Hay là do sự tri thức về đạo lý con người? Hay do chính lời dạy của Chúa Giêsu “thương người như mình vậy,” “nếu có ai tát tai mình bên phải thì hãy đưa bên trái cho người ta tát” không báo thù oán hận. Có lẽ do tất cả những thứ đó họp lại mà tôi bỏ ý định trả thù bà mẹ ghẻ.
Nhưng tại sao tôi lại được đi Pháp du học? Năm 1950 cha tôi mang lon thiếu tá lực lượng bổ túc công giáo (Forces Supletives, Union Militaire de Defence Chrétienté gọi tắc là UMDC) giữ chức vụ Phó Tỉnh Trưởng Nội An tỉnh Bến Tre. Có một đêm khoản 9 giờ tối xe jeep của ông về làng, cả nhà thức dậy, bà mẹ ghẻ dọn cơm cho cha ăn, vui miệng ông nói:
- Con thầy cai Tổng Dung đi Tây học, tụi bây có đứa nào muốn đi Tây không bây?
Im phăng phắc. Bầu không khí vừa nghiêm chỉnh vừa nặng nề. Cha tôi lấy giọng ngọt ngào hỏi người anh cả:
- Tần đi Tây học không con?
- Thưa không cha.
- Hớn đi không con?
- Dạ không cha.
- Triều đi không con?
- Dạ đi!
- Giác đi không con.
- Dạ không.
Thế là số phận an bài. Cái gì xui khiến tôi trả lời đi? Bởi vì câu nói vừa dứt tôi thấy lòng sợ hãi, lo âu, hối tiếc, gần như tôi bị lên án khổ sai biệt xứ. Nhưng vì cha tôi quá nghiêm khắc nên tôi không dám nói đi nói lại, hay là có cái gì đó xui khiến tôi ngậm miệng dù lòng tôi rã rời, thật sự hối hận. Cha tôi nói tiếp với giọng hài lòng và khẳng định. Ngày mai về Bến Tre, cha biểu thằng Thôi làm giấy tờ cho con đi. Rồi mọi sự ngổn ngang trong lòng, lo lắng cho bản thân mình bơ vơ nơi xứ lạ quê người, xót thương anh em ở lại trong cảnh đau buồn tủi hận. Nghĩ tới thời gian chín mười năm phải chịu biệt xứ thật là hãi hùng. Thủ tục giấy tờ để cho thanh niên xuất ngoại vô cùng khó khăn gần như không thể được trong thời gian chiến tranh vì luật tổng động viên đã ban hành, nhưng cha tôi là bạn quen biết với cụ Nguyễn Văn Tâm khi ông còn làm quận trưởng Cai Lậy thuộc tỉnh Mỹ Tho, bây giờ ông là đương kim Tổng Trưởng Nội Vụ. Ðến ngày tôi phải lên Sài Gòn khám sức khỏe, tôi khờ dại nghe người ta nói hút thuốc nhiều sẽ bị nám phổi nên tôi mua hai gói thuốc Craven'A dù không biết hút nhưng phải ráng phì phà cho hết đến nổi đắng miệng, tôi hy vọng phổi sẽ bị nám, giấy tờ sẽ không xong, tôi sẽ được ở lại. Nào ngờ đâu vài hôm sau có giấy Bộ Trưởng Nội Vụ gọi tôi đích thân trình diện. Một vị sĩ quan của văn phòng cha tôi đưa tôi lên gặp ông Tổng Trưởng. Vừa thấy chúng tôi bước vào ông liền hỏi:
- Mày đi Tây chơi bời hay đi học mậy?
- Dạ thưa bác con đi học.
- Ừ đi học nghe con, thôi đi mạnh giỏi, ráng mà học cho thành tài. Vừa nói ông vớ lấy sổ thông hành nhỏ ký tên đưa cho tôi.
- Con xin cám ơn bác.
Chúng tôi ra về. Mọi người trong gia đình đều mừng rỡ, nhứt là ông nội tôi, người đã từng hy vọng thấy tôi nên người, người đã từng thương yêu tôi bằng cách cho nhiều tiền mua bánh, nhưng hoàn toàn bất lực trước sự đau khổ triền miên của tôi mà ông thừa biết, người mà tôi vĩnh viễn không khi nào gặp lại. Rồi đến ngày tôi phải ra đi nước mắt ràn rụa, ôm anh, ôm em từng người lòng xốn đau như dao cắt.
Vụ ông Kỳ mưu toan lật đổ ông Thiệu
Như đã nói qua ở đoạn trước, cuộc phản công trong đêm Tết Mậu Thân tại Sài Gòn cũng như ở các tỉnh do chính Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy điều khiển trong khi Tổng Thống Thiệu vui Xuân tại quê vợ ở Mỹ Tho. Sau khi đẩy lui hai đợt tấn công vào Sài Gòn và diệt trừ số đông quân cộng sản, Phó Tổng Thống Kỳ hô hào cảnh giác đề phòng Việt Cộng có thể bất ngờ tấn công lại một lần nữa. Ông phát động phong trào thanh niên phòng thủ Sài Gòn bằng cách kêu gọi thanh niên tự nguyện cầm súng lên sân thượng các tòa nhà cao ốc để canh giữ thủ đô. Vì an ninh công cộng và cũng vì an ninh của chính gia đình mình hay vì sợ cộng sản tái diễn cuộc tàn sát ở Huế. Vì lòng yêu nước hay vì tính hăng say của tuổi trẻ, mỗi người có lý do riêng của mình, nhưng đông đảo thanh niên hăng hái tham gia, tư cách lãnh đạo và uy tín của Tướng Nguyễn Cao Kỳ tăng cao trong thời gian đó làm cho Tổng Thống Thiệu cảm thấy khó chịu vì hình ảnh của ông bị lu mờ bởi sự chú ý của dư luận trong và ngoài nước đối với cái tên của Nguyễn Cao Kỳ.
Tính đa nghi và sự ganh tỵ muốn nắm chặt quyền bính mới nhận được từ sự may mắn và thời cuộc đẩy đưa, nên ông Thiệu bắt đầu phản ứng. Tôi sẽ tường thuật chi tiết tại sao Tướng Nguyễn Văn Thiêu chịu ra ứng cử tổng thống và tại sao Tướng Nguyễn Cao Kỳ nhường ghế ứng cử viên chính cho ông Thiệu. Ông bà mình thường nói “tài bất thắng thời.” Tài lãnh đạo đất nước của Tướng Nguyễn Văn Thiệu yếu kém so với nhiều nhân vật khác cùng thời. Phản ứng đầu tiên của ông là chận đứng phong trào thanh niên gìn giữ thủ đô, viện cớ rằng số người này chưa được huấn luyện quân sự và Việt Cộng có thể trà trộn vào hàng ngũ vô tổ chức đó. Tình thật và thâm ý của Tổng Thống Thiệu là sợ Phó Tổng Thống Kỳ lấn quyền và xa hơn nữa là có thể đảo chánh, bởi vì hiện tại guồng máy chính quyền, đặc biệt cảnh sát và quân đội, còn trong tay những người thân do ông Kỳ bổ nhiệm. Suốt thời gian nắm chính quyền, Tướng Nguyễn Văn Thiệu chỉ lo nghĩ củng cố địa vị của mình thay vì đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết và xem việc chống Cộng Sản xâm lăng là quan trọng, lo tìm kế hoạch giữ nước, bàn chiến lược củng cố và phát triển quốc gia. Ông chỉ biết nghe theo sự cố vấn của Hoa Kỳ vì sợ bị giết như ông Ngô Ðình Diệm, tâm trí ông chỉ nghĩ lèo lái để giữ quyền, phản ứng của ông là chận đứng hoạt động của Phó Tổng Thống Kỳ thay vì hợp tác bàn bạc theo lệ thường giữa chánh phó trong việc điều hành quốc vụ.
Guồng máy lãnh đạo quốc gia thời đó chưa tan rã bên ngoài mà thật sự đã rời rạc bên trong. Báo chí Sài Gòn công khai bình luận khá nhiều về sự rạn nứt của chính quyền Thiệu-Kỳ. Tổng Thống và Phó Tổng Thống ra mặt kình chống nhau. Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc là tay em của Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Ông Lộc nhận lời đứng phó trong liên danh Nguyễn Cao Kỳ. Tướng Kỳ nhường ghế ứng cử viên chính cho Nguyễn Văn Thiệu với điều kiện ông Thiệu phải chấp nhận Lộc làm thủ tướng. Chức vụ thủ tướng thông thường phải là người thân cận và chấp nhận toàn diện đường lối của tổng thống, đàng nầy ông Nguyễn Văn Lộc là người của Tướng Kỳ mà bị bắt buộc phải thi hành đường lối và chỉ thị của Tổng Thống Thiệu. Hơn nữa ông Lộc là một nhân vật không có tiếng tăm uy tín gì trong chính trường nên không được ai nể trọng, ngoài ra ông không có bản lãnh và khả năng thi hành chức vụ thủ tướng chiếu theo hiến pháp và quyền lợi quốc gia dù những sự việc ông làm có khác với ý Tổng Thống hay Phó Tổng Thống. Ông Lộc không làm thỏa mãn được hai cấp trên cho nên cái ghế thủ tướng của ông không thể tồn tại lâu hơn vài tháng. Phản ứng của ông Thiệu nhỏ mọn đến nỗi chỉ thị cho vệ sĩ của ông chen lấn không cho Phó Tổng Thống Kỳ đi gần ông khi cùng lên xuống thang lầu dinh Ðộc Lập. Những sự việc tương tự ngày càng xảy ra hết chuyện này đến chuyện khác làm cho ông Kỳ tức giận phải bỏ việc công, ra Nha Trang nằm nghỉ tại Bạch Dinh của cựu Hoàng Ðế Bảo Ðại hơn nửa tháng trời để suy nghĩ về chuyện quốc gia và tình đời.
Thời gian đó tôi mới rời trường sĩ quan bộ binh Thủ Ðức, được biệt phái về bộ Canh Nông. Một buổi sáng đẹp trời qua đường dây điện thoại Ðại Tá Phan Văn Minh, Ðổng Lý Văn Phòng Phủ Phó Tổng, xin gặp tôi và thông báo rằng Thiếu Tướng Kỳ mời tôi ra Nha Trang bàn việc. Ðại Tá Minh còn cho biết 10 giờ sáng hôm sau ông đến rước tôi tại bộ Canh Nông và máy bay riêng của Thiếu Tướng Kỳ sẽ đưa chúng tôi ra Nha Trang. Tôi đồng ý. Sáng hôm sau đến Nha Trang tôi gặp ông Kỳ tại bãi biển. Sự có mặt của tôi đã được báo trước, nên tôi thấy có một ghế dựa kề bên ông Kỳ để trống. Kỳ mời tôi ngồi, tùy viên của ông đem nước giải khác và ông hỏi thăm qua loa từ ngày từ chức Tổng Trưởng Thanh Niên đến nay làm gì vân vân... và vân vân. Tôi hỏi lại:
- Tại sao toa là Phó Tổng Thống mà vì bực tức ông Tổng Thống bỏ việc công, đi nghỉ mát trong khi chuyện đất nước như dầu sôi lửa bỏng?
- Thì chính vì chuyện như dầu sôi lửa bỏng moa mới ra đây.
Tôi lại hỏi:
- Tại sao toa ra lệnh cho cô lập gần nửa bãi biển như thế này không sợ người ta chỉ trích mình ỷ quyền sao? Tại sao từ Bạch Dinh đi thẳng xuống có một bãi biển nhỏ dành cho mình mà không sử dụng?
Nhưng thôi, chuyện đó là chuyện nhỏ. Toa nghĩ gì về việc cai trị của Trung Tướng Thiệu nào?
Ông Kỳ trả lời:
- Toa hỏi moa mà như đã biết câu trả lời rồi thì hỏi làm gì.
Sau đó, ông Kỳ cũng chậm rãi thuật cho tôi nghe rất nhiều chuyện xích mích, sai trái của Tổng Thống Thiệu và ông không kết luận mà hỏi tôi:
- Toa nghĩ như thế nào? Toa khuyên moa phải làm sao?
- Nói khuyên thì moa không dám, nếu hỏi ý kiến riêng thì moa nói việc trước tiên toa phải về Sài Gòn ngay. Toa không nên để cho dư luận phê phán toa là bất xứng với chức vụ. Trên chính trường mọi sự bất đồng phải giải quyết bằng tranh luận hay thậm chí bằng tranh đấu. Không có chuyện giận dỗi bỏ đi nghỉ mát. Còn nội các, còn hiến pháp, còn dư luận quần chúng. Toa nên về Sài Gòn họp báo công khai đưa ra đường lối và phương hướng hành động như thế nào đối với tình thế mới và nguy hiểm hiện nay.
- Không cần họp báo trình bày gì cả. Ngày mai tớ về Sài Gòn, từ cánh trái Dinh Ðộc Lập, tớ sẽ sang cánh phải vào phòng Thiệu móc súng dí vào đầu bảo nó de, nếu nó không de thì tớ “feu” (bắn) nát đầu. Tớ biết tên Thiệu này nhát gan lắm. Thế nào nó cũng de, mà nếu không de, tớ feu thật. Mọi chuyện xong xuôi tớ giao cho cậu thành lập nội các và thi hành chính sách thu phục lòng dân như cậu dự trù và đã thực hiện ở quận 8.
- Tôi sẽ đồng ý với một điều kiện.
- Ðiều kiện gì?
Nếu anh chấp nhận cho tôi dẹp hết đám “Lương Sơn Bạc” của anh kiểu Tướng Nguyễn Ngọc Loan thì mới làm việc được.
Tưởng cũng nên nhắc lại năm 1967 tôi từ chức Tổng Trưởng Thanh Niên trong nội các chiến tranh là vì phản đối những hành vi lạm quyền và thi hành chế độ cảnh sát trị của Tướng Nguyễn Ngọc Loan. Vấn đề tôi tham gia nội các và từ chức sẽ trình bày ở những chương sau.
Kỳ ngại ngùng nói:
- Cậu cố chấp quá, chuyện đã qua rồi. Trong tương lai mình phải cần những thằng liều và dám hy sinh như nó.
- Moa hoàn toàn đồng ý nhưng moa không thể chấp nhận sự lạm quyền, vô kỷ luật, hành động bất xứng, gây tiếng tăm như Ðô Trưởng Văn Văn Của nhậu đã rồi móc súng bắn lên trần nhà chơi. Hay là xông vào Bộ Kinh Tế gây gỗ rồi bạt tai ông Tổng Giám Ðốc Thương Vụ Nguyễn Hoàng Cương. Còn Tướng Loan thì bắt giam Giám Ðốc hãng BGI vô cớ, rồi cũng phải thả người ta ra theo sự can thiệp của Mỹ, bắt Ðổng Lý Văn Phòng Bộ Y Tế với tội danh “kỳ thị Nam Bắc” không có trong luật pháp, bắt con của triệu phú Hoàng Kim Quy là Hoàng Kim Lân quì gối giữa sàn nhảy của nhà hàng Văn Cảnh vì tội ngày xưa giành gái với nhau... Những sự lạm quyền như vậy, gây bất mãn trong quần chúng làm sao mình tạo điều kiện tất thắng cho chính nghĩa được? Nếu toa không chịu hiểu rằng chính trị bây giờ không phải là phe nhóm anh hùng dùng sức mạnh để xưng bá như đám Lương Sơn Bạc ngày xưa mà là tranh thủ lòng dân, giác ngộ quần chúng chấp nhận chính nghĩa quốc gia của mình chống lại tà thuyết cộng sản thì toa nghĩ xem mình nắm chính quyền để làm gì? Moa cám ơn toa tin tưởng lòng yêu nước và đánh giá được khả năng hành động của moa nhưng moa không thể chấp nhận đề nghị của toa trong điều kiện này.
Ông Kỳ tiếp tục thuyết phục tôi bỏ qua sự cố chấp mà hãy nhìn rõ hoàn cảnh khó khăn của đất nước. Tôi cũng tiếp tục giải thích với ông là trong chuyện Tàu đời xưa có những vị công thần khai quốc, ỷ thế lộng quyền, về triều hống hách không coi ai ra gì, kể cả hoàng thượng, thì triều đại đó sớm muộn cũng phải cáo chung.
Cuối cùng, tôi phải nói với Tướng Kỳ:
- Bây giờ nói chuyện của chúng mình thì anh em trong đám Lương Sơn Bạc của toa ỷ quyền làm loạn, chuyên xả rác rồi moa sẽ phải thu dọn hoài thì đó chẳng phải là công dã tràng xe cát biển đông sao? Cho nên một lần nữa moa nói thẳng thừng toa đừng giận, moa không chấp nhận đề nghị này.
Hai người chúng tôi không tìm được một sự đồng thuận. Ông Kỳ thì nghĩ rằng phải tạo vi cánh và kết thành phe nhóm, như vậy mới nắm giữ được quyền hành lâu dài trong tay. Còn việc nắm quyền hành đó để làm gì thì ông không có kế hoạch. Dĩ nhiên trong thâm tâm ai cũng muốn và ngoài miệng ai cũng nói luôn mồm là để bảo vệ đất nước và để xây dựng quốc gia. Nhưng người ta không hiểu rằng lòng dân là quan trọng, hiểu biết tình hình quốc tế, quốc nội là cần thiết, chiến lược lãnh đạo dựa vào quần chúng là khôn ngoan, phương thức hành động phải thật rõ ràng thì mới hy vọng thành công. Tôi không dám tự hào biết nhuần nhuyễn những điều đó vì tuổi tôi lúc đó còn quá nhỏ, nhưng đại khái tôi có một khái niệm rộng rãi về việc quốc gia đại sự nên thời gian ông Kỳ còn làm thủ tướng thường hỏi ý kiến tôi về nhiều việc ông cảm thấy khó giải trong lúc tôi còn sát cánh với ông trong nội các chiến tranh. Hiện tại hai cách nhìn của chúng tôi quá khác biệt nên dù đôi bên có tận sức thuyết phục nhau, những lý lẽ đưa ra không xóa được khác biệt giữa hai chúng tôi. Cuối cùng, để đánh tan sự khó chịu của Phó Tổng Thống Kỳ và cũng là của tôi, nên tôi cười đùa nói:
- Moa đói bụng quá rồi, thôi về nhà ăn cơm đi.
- Ừ nhỉ, moa sẽ cho toa ăn thịt nai, hôm qua tụi này đi săn bằng trực thăng ở đám rừng tranh được nhiều thịt lắm.
Thời điểm đó nếu ông Kỳ muốn lật đổ Tổng Thống Thiệu thì dễ như trở bàn tay bởi vì các lực lượng không quân, thủy quân lục chiến, cảnh sát, an ninh quân đội nằm gọn trong tay ông, đó là chưa kể những đơn vị quân đội bên ngoài còn trong phạm vi ảnh hưởng của Tướng Kỳ. Về phía đồng minh Mỹ, tài liệu giải mật cũng chứng minh chính phủ Hoa Kỳ lúc đó ủng hộ triệt để Thiếu Tướng Kỳ và rất thất vọng khi biết tin ông nhường chức ứng cử viên tổng thống cho Tướng Thiệu. Phần tôi dù chủ trương thu phục lòng dân đã thành công ở quận 8 lan sang quận 6 và sắp tràn qua quận 7 như một vết dầu loang, nhưng tôi hoàn toàn không có vi cánh trong quân đội. Nếu một mai nhóm tướng tá Lương Sơn Bạc vì lộng quyền không được, muốn phế bỏ tôi thì cũng dễ như trở bàn tay. Suy đi nghĩ lại, tôi không nhận lời đề nghị của Phó Tổng Thống Kỳ là phải.
Sau này, khi nằm trong tù cộng sản, tôi ở chung buồng giam với một Thiếu Tá Phó Trưởng Ty công an tỉnh Bến Tre. Anh ta bị án tù vì thả tội nhân đổi lấy vàng. Anh ta thuật lại với tôi: Sau Tết Mậu Thân các “cơ sở” của Việt Cộng ở Bến Tre tiêu tan hết đến nỗi viên Bí Thư Tỉnh Ủy phải hội anh em lại khuyến khích ra hồi chánh. Nhưng anh Phó Trưởng Ty Công An Bến Tre này sợ phía quốc gia không tin, có thể bắt và đánh đập tra tấn nên không dám ra hồi chánh thà ở trong rừng dừa trốn chui trốn nhủi dù suốt đời có khi cũng không chết. Một nhân chứng khác là Ðại Tá Lâm Văn Nghĩa, Phó Giám Ðốc Cảnh Sát Ðô thành cũng có tâm sự với tôi là sau Tết Mậu Thân, lúc đó ông còn là trung tá làm việc ở Phòng Nhì tại Tổng Tham Mưu, bọn đầu sỏ cộng sản ở Miền Nam tan rã di tản sang Campuchia hết. Nếu trong thời điểm đó. tôi nhận hợp tác với Phó Tổng Thống Kỳ thành lập nội các, thực thi kế hoạch thu phục nhân tâm, tập trung toàn lực quốc gia đương đầu với cộng sản thì chưa biết việc gì sẽ xảy ra vì thời gian đó Mỹ còn triệt để ủng hộ miền Nam Việt Nam như một “Tiền Ðồn Chống Cộng” thật sự? Vận nước có thể đổi thay chăng? Hay là mọi việc rồi cũng sẽ được an bài y như ngày 30 Tháng Tư năm 1975?
6
Cố vấn chính trị Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ, Philip Habib thuyết phục tôi đừng từ chức tổng trưởng và cam kết nào là Mỹ chỉ ủng hộ có bốn người đương thời là Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ðức Thắng, Âu Trường Thanh và tôi, nào là vì lương tri của nội các chiến tranh nên ông xin tôi bỏ quyết định từ chức. Nghĩ lại, thật sự tôi cũng có phần hối tiếc.
Năm 1970 khi ông Kỳ được Tổng Thống Thiệu giao trách nhiệm toàn quyền đi Paris thương thuyết tìm giải pháp hòa bình cho Việt Nam ông lại một lần nữa mời tôi gặp ông để bàn thảo. Kỳ nói:
- Tổng Thống yêu cầu moa gánh trách niệm lãnh đạo phái đoàn Việt Nam đi thương thuyết ở Paris, toa nghĩ sao?
- Moa nghĩ chắc không phải Tổng Thống Thiệu mà là Mỹ khuyên ông ấy giao cho toa thì đúng hơn. Bởi vì toa nổi tiếng là “Diều Hâu” là Bắc Kỳ di cư chống Cộng tới cùng. Nếu kết quả có bất lợi gì thì dân chúng phải nghĩ rằng không ai đại diện mình xứng đáng hơn ông Tư Lệnh không quân đã từng là người đầu tiên mang bom đi dội trên đầu Việt Cộng ngoài Bắc. Ðây là sự khôn ngoan của Mỹ hay của Tổng Thống Thiệu cũng vậy thôi. Nhưng toa phải cầm chắc là trận nầy chỉ có thua chớ không có ăn. Thua đậm hay gỡ gạc được chút nào là do tài của toa thôi.
- Bởi vậy tôi mới gọi cậu đến, mời cậu cùng đi với tớ và cậu thử nghĩ xem còn ai có khả năng cùng đi với chúng ta không?
- Tìm người lanh lợi, biết ăn nói, có lập trường vững chắc. Tôi không biết ai. Nhưng có điều là bọn cộng sản nó đem bà Bình ra biểu diễn để tuyên truyền khắp thế giới, tôi nghĩ mình cũng nên mời bà Nguyễn Thị Vui, người mà tôi đã có lần giới thiệu để anh mời làm Bộ Trưởng Xã Hội trong nội các chiến tranh của mình nhưng bà ta không nhận, anh thử mời xem lần nầy bà có dám đi không?
- Tôi đồng ý sẽ mời bà Vui, nhưng phần cậu thì hãy trả lời cho tôi cái đã.
- Anh muốn tôi đi với tư cách gì? Người trong ban nghiên cứu của văn phòng Phó Tổng Thống hay một trong những thương thuyết gia?
- Moa muốn toa đứng đầu một nhóm trong văn phòng nghiên cứu của moa thì sẽ có ích lợi cho công việc hơn.
- Ðiều nầy có thể đúng nhưng tụi mình đã tỏ ra bất đồng chính kiến hồi moa còn ngồi trong nội các chiến tranh, bởi vậy cho nên moa mới từ chức, bây giờ lại ở trong văn phòng của toa thì hơi khó coi, dư luận sẽ bàn tán không tốt.
- Vậy thì toa đi với tư cách thương thuyết gia.
- Xin để cho moa suy nghĩ, ngày mai trả lời.
- Còn suy nghĩ gì nữa, về đi ngày mai lên đây trả lời để moa biểu Ðại Tá Minh (Phan Văn Minh) lo giấy tờ.
Chào tạm biệt với Phó Tổng Thống Kỳ, tôi ra về suy nghĩ miên man, lo lắng vô cùng. Suy nghĩ về việc đi hay không đi? Mình có thể giúp ích lợi gì trong giai đoạn cực kỳ khó khăn này? Tôi biết rất rõ và dư luận thế giới bàn luận, giải thích càng rõ hơn: Chính người Mỹ ép buộc Việt Nam phải ngồi vào bàn hội nghị, như vậy những gì Mỹ và Việt Cộng đã thỏa thuận với nhau, tới đâu rồi, phía Việt Nam Cộng Hòa vẫn mù tịt. Hội đàm này sẽ kết thúc như thế nào? Và sau đó việc gì sẽ xảy ra cho đất nước cho dân tộc và cho chính mình? Nếu con người có linh tính thì thật sự cái giác quan thứ sáu của tôi lúc đó báo trước rằng chuyện này không lành. Trái lại tôi thấy hình như Tướng Kỳ chưa ý thức được điều đó mà ông còn chủ quan là ông đang nắm vận mạng đất nước trong tay, tối sáng như thế nào do sự khôn khéo của ông và phái đoàn. Theo chỗ tôi biết thì ông Kỳ ít theo dõi báo chí và suy nghĩ về tình hình chính trị quốc tế quốc nội. Dĩ nhiên ông luôn luôn được trình báo hằng ngày do ban báo chí của văn phòng ông đệ lên, nhưng có xem kỹ càng và suy nghĩ cặn kẽ hay không đó là chuyện khác. Sáng sớm hôm sau tôi gặp lại Phó Tổng Thống Kỳ không phải ở tư dinh mà là ở tư gia.
- Tôi đã suy nghĩ khá nhiều về đề nghị của Thiếu Tướng hôm qua. xin nói trước ý nghĩ của tôi để Thiếu Tướng xem có hợp với quan điểm của Thiếu Tướng không rồi mình mới bàn tiếp chuyện tôi đi hay không? Tôi thật sự nghĩ rằng mình đang ở thế hạ phong. Lần nầy đi thì cầm chắc 7 phần thua 3 phần thắng. Vấn đề là cố gắng và phải lì lợm để gỡ gạc tối đa. Bất kể Mỹ ép buộc như thế nào mình phải lì ra giả đò liều chết đánh đến cùng, rồi mới tùy cơ ứng biến. Trên bàn hội nghị này thằng Mỹ gấp rút muốn đạt kết quả còn thằng cộng sản thì cố lì, như ở hiệp định Genève vậy. Việt cộng sẽ thắng nhờ dư luận quần chúng và bất ổn chính trị Mỹ cũng như nó đã thắng Pháp nhờ phong trào “Hòa Bình Ðông Dương” và sự lật đổ chính phủ cứ vài tháng một lần, thậm chí chính phủ Flimlin chỉ tồn tại hơn một tháng và Mendès France phải hứa đem lại hòa bình tại việt Nam với bất cứ giá nào thì mới đắc cử Thủ Tướng, ông khôn khéo kiêm nhiệm luôn chức tổng trưởng ngoại giao để khỏi gập “kỳ đà cản mũi” trong nội các. Thế trận chung chung tôi nghĩ như vậy đó, Thiếu Tướng nghĩ như thế nào xin cho tôi biết ý kiến.
- Thì chắc như vậy rồi, bởi vậy tôi mới cần sự trợ giúp của anh.
- Nếu Thiếu Tướng nói vậy thì tôi chấp nhận đề nghị của Thiếu Tướng với điều kiện là tôi đi với tư cách là thương thuyết gia chứ không phải là người trong “équipe” của Thiếu Tướng.
- Ðồng ý. Tôi sẻ bảo Phan Văn Minh làm giấy tờ cho anh.
Ra về tôi thấy lòng càng lo lắng nhiều hơn nữa. Lần đi phó hội này danh nghĩa là Việt Nam Cộng Hòa tham gia thương thảo để đem lại hòa bình cho đất nước, nhưng thực tế là Mỹ ép buộc Miền Nam phải ngồi vào bàn hội nghị ký một bản hòa ước càng sớm càng tốt để cho Mỹ phủi tay hết trách nhiệm. Cũng có thể vì đó mà có những văn thư mật của Tổng Thống Nixon hứa hẹn đủ điều với Tổng Thống Thiệu để trấn an, bảo đảm, khuyến khích ông từ bỏ chính sách “Bốn Không” và thúc giục ông ký hòa ước cho sớm. Việt Nam Cộng Hòa đi phó hội mà không chuẩn bị hồ sơ đầy đủ, không có bàn thảo với nhau về điều kiện tiến thối như thế nào, không có sự thuận ý của ta và đồng minh về mức độ nhượng bộ tối thiểu và sự bảo đảm an toàn cho sự sống còn của miền Nam. Còn Phó Tổng Thống và phái đoàn đi phó hội như thực hiện một cuộc du ngoạn lâu dài ở Paris bằng chuyến bay riêng biệt của Air Việt Nam thẳng cánh từ Sài Gòn đến Pháp với cả Phu nhân phó Tổng Thống và đoàn tùy tùng hùng hậu, gây tổn hao phi lý cho ngân sách quốc gia.
Chiều hôm trước ngày phái đoàn lên đường phó hội, một người bạn trong hội Trí Thức Công Giáo “Pax Romana,” anh Lâm Võ Hoàng, biết tôi sẽ tham gia phái đoàn Việt Nam dự hội nghị Paris, khoảng 8 giờ tối anh đến nhà xin gặp tôi. Anh Hoàng khuyên tôi không nên tham gia phái đoàn này vì tên tuổi của tôi từ trước đến nay chưa hề dính vào bất cứ việc gì mang tai mang tiếng, bây giờ chấp nhận tham gia, biết đâu sẽ gánh tội nhường đất thậm chí làm mất nước thì sẽ ô danh suốt đời. Tôi phản bác và giải thích rằng biết bao nhiêu chiến sĩ của mình liều chết bảo vệ đất nước mà họ đâu có biết trước được, thành công hay thất bại, nhưng họ vẫn chấp nhận hy sinh, còn mình thì so đo tiếng tăm danh dự. Tôi đã quyết, xin đừng hoài công thuyết phục tôi vô ích. Dù sao thì tôi cũng hết lòng cám ơn anh vì nghĩ đến danh dự của người bạn đồng hội với nhau nên mới đến khuyên tôi. Chúng tôi bàn thảo qua lại rất lâu, tranh luận rất nhiều, có khi gần như cãi cọ to tiếng. Mãi gần đến giờ giới nghiêm anh Hoàng đọc một tràng dài thơ sấm Hòa Hảo... về trách nhiệm và tu hành, về công danh phù du làm tôi hơi chao đảo. Càng chao đảo hơn khi tôi suy nghĩ về tính cách giả tạo thiếu căn bản, hoàn toàn phi lý của phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa mà tôi đã nhận lời tham gia. Anh Hoàng từ giả ra về lúc 11giờ 45. Tôi bình tĩnh ngồi thảo một tâm thơ gởi Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ xin lỗi và giải thích tại sao tôi không thể đi được. Dán xong phong bì tôi nhìn đồng hồ chỉ đúng 3 giờ sáng. Sáng hôm sau tôi đến gặp Ðại Tá Minh nhờ anh giữ phong thơ này và chỉ đưa cho Tướng Kỳ đúng vào lúc ông ngồi trên máy bay và mọi người đang chờ tôi là người cuối cùng phải đến. Xin anh nói rằng “Ông Võ Long Triều căn dặn tôi chỉ đưa thơ này cho Phó Tổng Thống khi ông lên máy bay mà thôi, không được đưa trước.”
Theo lời Ðại Tá Phan Văn Minh thuật lại về sau, khi đọc thư ông Kỳ có nói “Về tôi sẽ cho thằng này ăn lựu đạn.”
Từ Paris về, Tướng Kỳ quyết lật đổ Tổng Thống Thiệu
Ngay từ ngày đầu, thông qua báo chí trong và ngoài nước có thể thấy nhiều bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa về nhiều mặt. Thứ nhứt là chuyện bà Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ công khai phung phí tiền bạc trong việc mua sắm quần áo, nữ trang và đồ dùng làm cho dư luận quốc tế chê cười đồng thời gây bất mãn trong nước cũng không ít. Thứ hai ngay những ngày đầu quan điểm của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa không hoàn toàn đồng nhứt trước kẻ thù chung, điều này khiến báo chí nước ngoài khai thác triệt để nhằm tạo dựng tin tức hấp dẫn cần thiết trong nghề nghiệp truyền thông. Thực tế cho thấy cộng sản Bắc Việt và con cờ của họ tạo dựng ra, gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, bên ngoài được xem như hai thành phần nhưng thực tế là một. Còn Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, tiếng là đồng minh khắng khít “Mỹ-Thiệu” nhưng mang hình ảnh là Mỹ đóng vai trò cố vấn, xúi giục, ép buộc... và có thể nói thẳng thừng gần như thương thuyết giùm cho cộng sản. Như đã nói ở trên, Mỹ có nhu cầu cấp thiết phải ký kết Hiệp Ước Hòa Bình bằng mọi giá để trấn an dư luận quần chúng Mỹ và để giới hạn tổn thất quân sự, tài chánh mà Quốc Hội Mỹ không còn chấp nhận nữa. Thứ ba là vì Việt Nam Cộng Hòa không chủ trương thương thuyết với cộng sản do chính sách “4 Không” của ông Thiệu nên hoàn toàn không có chuẩn bị mà chỉ vì bị Mỹ ép ngồi vào bàn hội nghi nên phải đi mà thôi. Trong khi đó cộng sản Bắc Việt mua một căn nhà riêng ở Paris dành cho hai phái đoàn của họ, Bắc Việt và Mặt Trận, cư trú lâu dài.
Ngay từ đầu Mỹ đã bị cộng sản “tháu cáy” bằng cách cho thấy họ không gấp rút mà trái lại sẵn sàng kéo dài cuộc thương thuyết vô tận. Sau một thời gian bàn thảo không lâu, lập trường cứng rắn của Phó Tổng Thống Kỳ làm phái đoàn Mỹ khó chịu. Ðiều nầy chắc chắn Mỹ có lưu ý Tướng Kỳ. Ngoài ra một vị cố vấn Mỹ của ông khi còn làm Thủ Tướng, nay bắt liên lạc được với Ðại Tá Phan Văn Minh, Ðổng Lý Văn Phòng của Tướng Kỳ, xin hẹn gặp nhau ở dưới hầm một trạm Métro, “Porte des Lilas” chớ không dám gặp nhau công khai ở tiệm cà phê như mọi sự gặp gỡ thường tình ở Paris. Vị cố vấn Mỹ này yêu cầu Ðại Tá Minh nên khuyên ông Kỳ mềm dẻo hơn trong việc thương thuyết, và nên chấp nhận những điều kiện nào có thể chấp nhận được. Sau đó một thời gian, theo lời Ðại Tá Minh thuật lại với tôi, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ bị CIA tổ chức đụng xe ở Rond Point Des Champs Elysées. Vì vậy mà ông Kỳ tức giận bỏ hội nghị về Sài Gòn luôn. Những diễn biến về sau khiến mọi người đều biết là ông Kỳ chấm dứt việc lãnh đạo phái đoàn thương thuyết VNCH ở Paris.
Hiệp định Paris được ký kết sau cuộc hội kiến “ồn ào” giữa Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ, Tướng Alexander Haig. Báo chí Sài Gòn bình luận về một vài tin tức được tiết lộ, và phỏng đoán rằng Việt Nam Cộng Hòa đã chấp nhận “điều kiện hòa bình của Mỹ,” hay nôm na là Mỹ chấp nhận điều kiện chấm dứt chiến tranh do cộng sản Hà Nội đưa ra. Riêng tôi khi đọc kỷ bản hiệp định Paris, tôi đã công khai phân tích và bình luận từng điều khoản một trên mặt báo Ðại Dân Tộc. Gần như tất cả những điều khoản nếu không cho thấy sự bất lợi thì cũng ẩn chứa tiềm tàng những điều nguy hiểm cho miền Nam Việt Nam. Tưởng cũng nên nhắc lại tài liệu giải mật gần đây của Mỹ cho biết Kissinger đã từng khẳng định với Chu Ân Lai, Thủ Tướng Trung Cộng, là Mỹ sẵn sàng chấp nhận để cho cộng sản Bắc Việt chiếm lấy miền Nam!
Phó Tổng Thống Kỳ về Sài Gòn mấy hôm sau, ông triệu tập một số tướng lãnh thân cận gồm Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Tư lệnh Thủy quân Lục Chiến, Trung Tướng Nguyễn Ðức Thắng, Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị tại văn phòng cựu Tư Lệnh Không Quân của ông ở trại Phi Long. Tướng Kỳ có điện thoại kiếm tôi nhiều lần nhưng không gặp vì tôi bận việc ngoài. Trong khi chờ đợi ông gọi cựu Dân Biểu Hồ Ngọc Nhuận, một cộng sự viên của tôi khi tôi còn là Tổng Trưởng Thanh Niên, mà ông kỳ đã quen biết. Tôi sẽ trình bày sau hoàn cảnh nào đưa đẩy một nhóm trí thức và chính trị gia miền Nam lọt vào tròng cộng sản trong đó có Hồ Ngọc Nhuận. Khoảng xế chiều tôi vừa về đến nhà bí thư của tôi báo liền: “Thiếu Tướng Kỳ yêu cầu ông phải gọi ngay văn phòng của Thiếu Tướng tại trại Phi Long.”
Tôi rất ngạc nhiên tại sao ông Kỳ lại trở về Việt Nam sớm vậy? Có biến chuyển gì quan trọng ở hội đàm Paris chăng? Ông về Sài Gòn để hội ý với Tổng Thống Thiệu? Trong lòng tôi chưa hết phân vân ngạc nhiên, nhưng tay tôi quay liền số của trại Phi Long, điện thoại reo, tiếng ông Kỳ khàn khàn chậm rãi: “Cậu có rảnh lên đây bàn chuyện chơi.” Tôi càng phân vân thầm nghĩ: Chắc có chuyện nữa rồi. Trên đường đi từ đường Mạc Ðỉnh Chi lên Tân Sơn Nhứt tôi tự hỏi không lẽ ông Kỳ trở về thuyết phục tôi cùng đi dự hội nghị với ông, hay là ông xỉ vả tôi về tội thất hứa không cùng đi một lúc với phái đoàn. Thiếu Tá Liệu, sĩ quan tùy viên của Tướng Kỳ vừa mở cửa phòng họp mời tôi bước vào. Tôi dội ra vì khói thuốc ngột ngạt khó thở mặc dù tôi cũng là người từng ngậm ống điếu suốt ngày cộng vài chục điếu thuốc Bastos. Nhìn mấy cái dĩa gạt tàn đầy ấp tro và tàn thuốc tôi đoán biết cuộc hội họp này đã kéo dài khá lâu rồi. Ngồi vào bàn sau khi chào hỏi và xã giao vài câu ông Kỳ nôn nóng nhập đề ngay. Ông hất hàm nói với Hồ Ngọc Nhuận:
- Ông dân biểu trình bày lại cho ông Triều nghe những gì mình đã bàn thảo và đồng ý với nhau rồi đi.
- Phó Tổng Thống thuật cho ông ấy nghe chớ tôi biết gì đâu mà nói.
- Thôi, không cần nói xa gần, từ Paris về tớ nhận định tình hình, nếu tiếp tục để ông Thiệu ngồi đó thì ổng sẽ bán miền Nam mình cho Mỹ. Mất nước là điều chắc chắn. Vì vậy anh em chúng tôi những người ngồi đây muốn dẹp ông Thiệu để thi hành một đường lối chiến tranh khác. Vấn đề an ninh quốc phòng, chiến đấu chống cộng sản chúng tôi lo. Còn phần hành chánh, kinh tế, xã hội, chính trị thì giao cho bọn các cậu phụ trách. Ðồng ý như vậy đi.
Mới vừa nghe qua tôi lo ngại vô cùng. Dĩ nhiên ông Kỳ là người đang rộng quyền điều khiển phái đoàn miền Nam để thương thuyết những điều kiện ngưng chiến và hòa bình. Tại sao ông lại về và lấy quyết định lật đổ ông Thiệu, lần này không phải vì bực tức ganh tị, dành quyền mà vì sự mất còn của Miền Nam.
Du học tại Pháp
Trong bối cảnh hiện tại, lòng tôi hơi rối. Nhưng có một câu nói của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu lúc nào cũng dễ xuất hiện trong đầu tôi. Ðó là khi cựu Tổng Trưởng Giáo Dục Nguyễn Văn Trường và tôi đến nhà riêng của ông Thiệu trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu để đốc thúc ông ta ra ứng cử tổng thống, lúc chúng tôi ra về ông Thiệu cặp tay tôi hỏi:
- Triều, toa biết người Mỹ muốn gì không?
Tôi trả lời:
- Mình muốn gì mới quan trọng trung tướng.
Ông Thiệu lập lại và còn nhấn mạnh câu hỏi của ông:
- Mà moa hỏi thật toa, toa biết người Mỹ muốn gì không?
Tôi hơi bực mình nên gay gắt trả lời:
- Trung tướng, nếu tối ngày mình cứ tự hỏi Mỹ muốn gì thì chết rồi, mình phải tự vấn mình muốn gì và làm sao cho người Mỹ hiểu những điều đó để họ giúp mình thì mới hy vọng sống, bằng không thì mình sẽ chết có ngày.
Hai câu hỏi này - anh Nguyễn Văn Trường cùng đi với tôi và Trung Tá Quách Huỳnh Hà lúc đó còn là Chánh Văn Phòng của Trung Tướng Thiệu đang đứng ở cuối cầu thang, sau lưng chúng tôi - chắc chắn hãy còn nhớ. Tôi sẽ trình bày sau về việc ứng cử của Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Vì thái độ đó của ông và cũng vì một chuyện khác làm tôi mất hết sự kính nể và tin tưởng đối với ông Thiệu. Nên sau khi đắc cử tổng thống, ông có phái Nguyễn Văn Kiểu, bào huynh của ông đến nhà mời tôi hợp tác, tôi từ chối. Bây giờ nghe ông Nguyễn Cao Kỳ bày tỏ ý kiến và nhận định của ông tôi càng tin là ông Thiệu bị ám ảnh bởi cái gương của cố Tổng Thống Diệm nên ông luôn luôn buông xuôi theo Mỹ.
Tôi có đọc bài viết của cựu Tổng Trưởng Nội Vụ Lâm Lễ Trinh dưới tựa đề “Mạn Ðàm Với Ðại Tướng Cao Văn Viên” đăng trong nguyệt san Carolina Việt Báo số 16 trong đó Ðại Tướng Viên lập lại câu nói của Thiệu với ông là “Je suis responsable mais pas coupable.” Tôi nghĩ ông Thiệu nên nói “Je suis non seulement responsable mais aussi parfaitement coupable” thì mới đúng với những hành động của ông trong suốt 7 năm cầm quyền. Dù sao thì chuyện cũng đã qua rồi. Trách móc buộc tội đều là vô ích. Bào chữa chạy tội cũng bằng thừa. Trả lại sự thật cho cá nhân và lịch sử để cho thế hệ mai sau tránh vết xe đổ của những thế hệ trước có lẽ có ích hơn.
Sau khi suy đi nghĩ lại, tôi giãi bày với Thiếu Tướng Kỳ rằng lần trước, sau Tết Mậu Thân, tôi đã từ chối đề nghị của ông về việc đứng ra thành lập nội các. Bây giờ nếu ông không thay đổi quan điểm và chủ trương kết bè, kết đảng bao che cho nhóm “Lương Sơn Bạc” của ông, để họ lộng quyền thì tôi sẽ không tham gia hoạt động nào của ông nữa cả.
Tướng Kỳ hỏi lại tôi:
- Toa vẫn một mực cố chấp mà không chịu hiểu tình thế nguy ngập sao?
- Tôi hiểu rõ, bằng cớ là trước khi ông đi Paris tôi đã tiên đoán là mình sẽ thua. Tôi bằng lòng nhận lãnh trách nhiệm nếu ông hứa không áp dụng đường lối “Lương Sơn Bạc” như trước đây.
Trung Tướng Lê Nguyên Khang, ngồi im lặng, bây giờ tỏ vẻ bực tức nói:
- Tớ không hiểu các cậu nói với nhau cái gì, úp úp mở mở, cái gì là Lương Sơn Bạc? Cái gì là quét nhà hốt rác? Tớ không biết “chín chị chín em” gì cả. Bây giờ tớ đi về. Nếu khi nào các cậu có quyết định làm thì gọi điện thoại cho tớ nói một chữ thôi “OUI,” nửa giờ sau tớ giao. Bằng không có quyết định gì thì thôi, đừng gọi. Chào, tớ đi về đây.
Trung Tướng Nguyễn Ðức Thắng, đồng sự của tôi trong nội các chiến tranh, người mà tôi kính nể vì người anh ruột tôi lúc còn là đại úy thuộc sư đoàn 5 do Ðại Tá Thắng chỉ huy. Anh tôi thuật rất nhiều về tài năng cũng như tính lập dị của ông Thắng. Tôi và ông Thắng xưng hô thân thiện là mày tao, nhưng hình như chúng tôi khắc khẩu, nói ra là cãi nhau. Ông có vẻ nóng lòng nên nói ngay:
- Mày trộn lộn con gà với con vịt. Người ta đặt vấn đề thương thuyết trong thế hạ phong, dẫn đến thua trận mất nước. Vì thế phải lật đổ Tổng Thống Thiệu, còn mày thì nói chuyện đâu đâu, “chín chị chín em,” quét nhà quét rác. Thôi thì vô đề quyết định ngay đi. “Ou c'est oui, ou c'est merde, dis le.”
- Je te dis merde, mày biết cái gì mà nói. Thôi mày làm ơn ngồi im mà nghe có được không?
- Tao cũng như thằng Khang, chẳng thèm nghe mày làm gì. Tao về đây. Khi nào tụi bây quyết tâm làm thì có tao.
Nói xong ông Thắng cũng ra về.
Còn lại Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, Phó Tổng Thống Kỳ, Hồ Ngọc Nhuận và tôi. Trung Tướng Trị thì khéo léo mềm dẻo hơn, ông cố thuyết phục chúng tôi bỏ qua những chuyện quá khứ nhìn nhận sự nguy hiểm ngày nay, nắm tay nhau tìm cách chạy chữa. Nhà sắp cháy mà còn ngồi đây cãi cọ làm gì? Tôi lại phải một lần giải thích không phải là tôi cố chấp mà là sự khác biệt về căn bản cai trị và quản lý đất nước. Quan điểm sử dụng quyền bính bất đồng thì cho dù có nắm quyền cũng không cứu vãn được tình thế. Câu chuyện kết thúc trong sự tiếc nuối của mọi người theo lối suy nghĩ riêng tư của từng cá nhân.
Phần tôi thẳng thừng từ chối hợp tác vì Tướng Kỳ không chấp nhận bỏ tinh thần võ biền. Riêng Trung Tướng Lê Nguyên Khang về nhà chờ đợi câu trả lời thì chắc thế nào các ông Kỳ, Trị cũng thông báo kết quả cuộc họp bất thành. Lại một lần nữa chắc người đọc sẽ nghĩ rằng cho dù có đảo chánh ông Thiệu đi nữa thì cũng chẳng làm nên trò trống gì, bởi lẽ Mỹ đã quyết định bỏ Việt Nam rồi. Về nhà đêm đó và cả ngày hôm sau tôi buồn bã, lo lắng, suy nghĩ miên man. Phải chăng đất nước tôi gặp phải khúc quanh đi vào ngõ cụt? Xét cho cùng tôi có thể làm gì được đây? Chấp nhận tham gia lật đổ Tổng Thống Thiệu, điều đó Tướng Lê Nguyên Khang và đồng bạn của nhóm Nguyễn Cao Kỳ có thể làm được, nhưng liệu có thể ngăn chận được những quân nhân xu nịnh lợi dụng sự nể nang của ông Kỳ để tiếp tục lộng hành không? Trong tình trạng chiến tranh, với chế độ gần như quân phiệt và cảnh sát trị này, tôi tự xét không đủ điều kiện thực hiện những gì tôi mơ ước cho đất nước tôi. Ngoài ra, phải cầm chắc sẽ không có viện trợ Mỹ nữa khi mình lấy quyết định chiến đấu tới cùng. Liệu tài lãnh đạo của chúng tôi có sách động nổi cả nước tiếp tục kháng chiến không? Sau bao nhiêu năm nhóm tướng lãnh đã làm hao mòn lòng tin của quần chúng, cộng thêm lối tuyên truyền xảo quyệt của cộng sản, tôi thấy đây là việc đội đá vá trời. Tuy nhiên tôi tin nếu Việt Nam Cộng Hòa còn dính chân ở Phú Quốc hay vùng núi Thất Sơn thì chắc chắn cuộc diện có thể khác. Ngược lại cứ để Tổng Thống Thiệu ngồi yên, thuận theo yêu cầu của Mỹ là phải giải quyết chiến tranh Việt Nam theo sự thỏa thuận đổi chác của Mỹ và Trung Quốc giữa Nixon và Mao Trạch Ðông năm 1972, có lợi cho Việt Cộng thì hy vọng tồn tại của Việt Nam Cộng Hòa thật quá mỏng manh. Cả thế giới nhìn thấy sự bất lợi của Việt Nam Cộng Hòa trong thời điểm đó, kể cả Tổng Thống Thiệu. Lòng tôi ngổn ngang bất định, thôi “cũng đành nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay dần đến đâu?”
Tôi phải thú nhận là vào năm 1969, anh bạn chí thân của tôi là cố Trung Tướng Ðổ Cao Trí có than nhiều lần với tôi rằng “nếu cứ để cho thằng Thiệu cai tri kiểu này là thua.” Ðỗ Cao Trí và tôi âm mưu đảo chính nhưng không thành. Tại sao? Và ai giết Ðỗ Cao Trí? Tôi sẽ nói về chuyện này trong những chương sau. Trở lại cuộc hòa đàm ở Paris, tôi nghĩ tới trụ sở Trocadéro dành cho những cuộc hội họp quốc tế và chuyện đụng xe Tướng Kỳ ở Rond Point des Champs Elysées tự nhiên hình ảnh của Paris làm tôi hồi tưởng những kỷ niệm 10 năm trước khi còn du học sống tại nơi này. Biết bao nhiêu chuyện vui buồn và cũng biết bao nhiêu sự kình chống giữa sinh viên quốc gia và sinh viên thân Cộng sản trong hội “Ái Hữu” của chúng tại Pháp. Tôi bồi hồi nhớ lại thời đầy triển vọng, tràn nhựa sống của tuổi thanh niên ở nơi xứ người. Từ lúc tôi bắt nắm tay cuối cùng với anh tôi, nước mắt ràn rụa, chân bước lên cầu thang máy bay, thân xác nặng nề, ngoảnh mặt lại không còn thấy ai nữa! Phi cơ cất cánh, tôi hồi hộp, lo sợ hình như tôi đã đánh mất tất cả những gì trong cuộc sống, còn lại một mình cô đơn, sự cô đơn hãi hùng, viễn ảnh gặp lại người thân thật quá xa vời mù mịt. Nước mắt cứ tuôn trào cho đến khi nào tôi cũng không nhớ. Phi cơ nhỏ, DC3, lại phải bay đường dài nên mất hơn hai ngày mới đến Pháp. Ngủ hai đêm ở Téhéran và Alger. Tới Paris không đáp xuống được vì sương mù dầy đặc do thời tiết xấu của đầu Tháng Giêng, trên nguyên tắc phải bay về Nice, nhưng trước khi đổi hướng viên phi công được lệnh đảo vòng trên trời chờ xem, gần một giờ sau máy bay mới được lệnh hạ cánh. Tôi vô cùng mệt mỏi, chuyến bay này làm tôi kinh hoàng và sợ hãi đến độ bị dị ứng không muốn bước chân lên máy bay nữa trừ những trường hợp bất khả kháng.
Ra khỏi sân bay tôi may mắn gặp được Trung Úy Chanson, người Pháp lai Việt, đã từng phục vụ trong văn phòng của ba tôi khi ông còn ở Bến Tre. Ông mời tôi về nhà ở tạm, chỉ vẽ việc sinh sống và tìm trường giùm tôi ở ngoại ô thành phố Paris. Học hành lôi thôi vì ngôn ngữ bất đồng, hay đúng hơn là vì sức học của tôi quá tồi tệ, thêm vào đó kỷ luật nhà trường lại khắt khe, tôi bèn sử dụng cái tự do ngông cuồng vì mới được sổ lồng, tự do, tôi bỏ trường thôi học. Sự thật tôi đi Pháp gần cuối năm học Ðệ Ngũ ở trường Tabert, tôi học dở đến độ thầy Maximin bỏ xó không thèm nói đến tôi, không sửa bài, không chấm điểm, không sắp hạng cuối tuần. Cứ mỗi lần thầy “bề trên” Giám Ðốc trường vào “kêu note” để khen thưởng hay phê phán khuyên răn thì ông chỉ kêu tên tôi vào phút chót ra đứng sắp hàng sau đuôi. Ðiều này gieo cho tôi một mặc cảm nặng nề: mình là thằng vô dụng, sự xấu hổ đó tạo một dấu ấn trong đầu tôi khó gột rửa cho đến năm tôi vào lớp Ðệ Tam ở trường Fénelon mới hết. Thành tích học dốt nát khởi sự từ lớp Ðệ Lục tại Collège Le Myre De Vilers ở Mỹ Tho, cái dốt của tôi giúp cho một người bạn tên là Lâm Văn Bé, Hiệu Trưởng trường trung học Nguyễn Ðình Chiểu, bị tôi chê trách nhiều lần nên anh tức giận về trường lục học bạ của tôi vào năm 1949-1950, sao gởi cho một số bạn bè thân hữu và cũng là “đàn em” cộng sự với tôi nói rằng “thằng chả học dỡ như c... mà bây giờ làm trời!”
Biết được điều này tôi và nhóm bạn bè cùng cười thích thú. Khi gặp anh Bé tôi nói thêm với ảnh rằng: “Toa còn chưa biết moa học dỡ hơn vậy nữa nên bị thầy Maximin ở trường Taberd bỏ xó không thèm nói tới tên moa trong lớp quatrième.” Bé cười như nắc nẻ. Có lẽ cái nền giáo dục của Việt Nam thời đó nó vừa khắt khe vừa quan liêu, thầy giáo là kẻ bề trên ban phát, sửa phạt nhiều hơn là giúp đỡ dạy dỗ học trò. Thầy giáo sử dụng quyền hành, khoe khoang sự hiểu biết nhiều hơn là thực thi thiên chức giáo huấn và đào tạo trẻ em. Vì vậy mà có rất nhiều người vì học trễ hay học dở bị chê cười phải bỏ học luôn. Sang Pháp tôi đếm lớp xin vào học Ðệ Tứ ở trường Vaujours và học riêng toán, Pháp văn, với thầy của lớp tôi. Bỏ trường gần cả năm lang thang với bạn bè hư hỏng, may thay tôi gặp lại người bạn chí thân cùng lớp ở trường Saint Joseph Mỹ tho, Nguyễn Văn Lễ con của thầy Nguyễn Văn Kính cựu Hiệu Trưởng trường Pétrus Ký và cũng là Cựu Nghị Sĩ Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi gặp nhau trong một quán ăn rẻ tiền, nhỏ hẹp nghèo nàn của người Trung Hoa gần ga xe lửa Lyon chỉ bán có một món duy nhứt là mì thường gọi là “mì Lyon,” gồm một vắt mì to, chan nước thịt heo kho hơi lạt với rau bắp cải xắt nhỏ. Lễ mừng rỡ hỏi tôi học ở trường nào? Tôi trả lời đang bỏ trường, tự học một mình với sách vở hiện có và cũng đang tìm trường.
Anh bạn tôi vô cùng ngạc nhiên, lo lắng và rủ tôi xin thi nhập học cùng trường với anh do các linh mục công giáo quản trị. Thật là ngẫu nhiên và cũng có thể là số mạng, Lễ lo cho tôi hết mọi việc và tôi được vào Trường Fénelon, 23 rue du Général Foy, quận 8 Paris học cho tới khi thi đậu tú tài mới sang Jean Baptiste Say, dọn thi vào trường Ðại Học Canh Nông Paris-Grignon. Vào lớp Ðệ Tam trường Fénelon, tôi chỉ giỏi có môn toán nhờ học riêng khi còn ở trường Vaujours. Sự kiện giỏi toán nhứt lớp làm tôi vô cùng phấn khởi và xóa dần được mặc cảm học dốt. Từ sự giỏi toán dẫn đến lý hóa và sử ký địa dư, thì ra tôi là người giỏi, thật bất ngờ và cũng thật khôi hài. Sự kiện đứng nhứt lớp về một môn toán mà thôi đủ làm cho tôi hãnh diện, làm thay đổi tư duy của tôi về việc học hành. Cái bất ngờ, ngẫu nhiên khôi hài này tái diễn một lần nữa khi tôi dự thi tuyển vào Ðại Học Canh Nông.
Số là vào tuần lễ trước tôi cùng với một người bạn dạo chơi trong vườn lê đơm bông trắng xóa, tôi tinh nghịch bẻ một cành hoa đem về nhà trưng chơi. Ðêm ngồi vào bàn học tôi bứt một bông, mổ xẻ tường tận, nhận định từng bộ phận mình đã học qua. Sáng ngày dự thi môn vạn vật, hai cảnh binh tay cầm phong bì trong đó có đề thi, chính thức và trịnh trọng giao cho chủ khảo. Ông mở bì thư ra miệng đọc tay viết chữ to “La Fleur” nghĩa là bông hoa. Dĩ nhiên, tôi được chấm đậu vào học trường Paris- Grignon và vài năm sau tốt nghiệp kỹ sư canh nông.
Thời gian học ở Paris, Lễ và tôi thường xuyên lui tới Liên Ðoàn Công Giáo hội họp với học sinh Việt Nam. Lần hồi tôi được bầu làm chủ tịch học sinh, rồi chủ tịch sinh viên, rồi chủ tịch Liên Ðoàn Công Giáo, được các Linh Mục Tuyên Úy Nguyễn Quang Lãm, Nguyễn Bình An và Ngô Duy Linh thương mến. Sinh hoạt của Liên Ðoàn Công Giáo ngoài việc trao dồi đạo đức theo phúc âm và kinh thánh, mỗi năm chúng tôi đều tổ chức Tết tha hương có văn nghệ kịch bản vui nhộn. Thời gian đó có ba tổ chức kình chống nhau ngấm ngầm, đó là Hội Ái Hữu của Cộng Sản, ban văn hóa của Tòa Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa và Liên Ðoàn Công Giáo. Ðối tượng cần thu phục là sinh viên Việt Nam tại Pháp.
8
Hoạt động của Việt Cộng ở Paris thập niên 1950-1960
Thời gian học ở Paris, Nguyễn Văn Lễ và tôi thường xuyên lui tới Liên Ðoàn Công Giáo hội họp với học sinh Việt Nam, lần hồi tôi được bầu làm chủ tịch hội học sinh, rồi chủ tịch sinh viên và chủ tịch liên đoàn Công Giáo. Tôi liên hệ mật thiết với các Linh Mục Tuyên Úy Nguyễn Quang Lãm, con người vui tính hoạt bát dễ kết thân, về sau ông là Chủ Nhiệm Nhật Báo Xây Dựng, Linh Mục Nguyễn Bình An sau là Bề Trên dòng Phanxicô. Tôi học hỏi rất nhiều với ngài, từ tinh thần đạo đức, sự khiêm tốn nhẫn nại đến cái nhìn xa về xã hội và con người, nhưng tiếc thay tôi không áp dụng được bao nhiêu khi vào đời, Linh Mục Ngô Duy Linh sau là Giám Ðốc trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế. Những năm hoạt động trong Liên Ðoàn Công Giáo là thời gian học hỏi sống đạo, sống đời, thời gian trau dồi sự hiểu biết về người và về chính mình, hiểu tình người, tình bạn, học phương pháp làm việc, nếm mùi thất bại, thành công.
Tóm lại tôi đang dọn con đường cho tương lai, tôi đang học để thành nhân mà bản thân mình hoàn toàn không để ý chỉ xem như sinh hoạt bình thường. Anh chị em ở Liên Ðoàn Công Giáo ngoài việc trau dồi đạo đức theo tinh thần phúc âm và kinh thánh, mỗi năm chúng tôi có tổ chức Tết tha hương có văn nghệ vui nhộn. Thời gian đó tại Paris có ba tổ chức kình chống nhau ngấm ngầm, đó là Hội Ái Hữu của Cộng Sản Việt Nam do Nguyễn Khắc Viện đại diện chính thức của Bắc Việt tổ chức và gián tiếp điều khiển, Ban Văn Hóa của Tòa Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa và Liên Ðoàn Công Giáo Việt Nam. Ðối tượng mà ba cơ quan nói trên đều muốn thu phục là sinh viên Việt Nam tại Pháp. “Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau,” vì vậy mà hai tổ chức chính trị đại diện cho hai miền Nam Bắc tích cực vận động mỗi bên theo cung cách của mình, cố tranh giành ảnh hưởng đối với sinh viên du học tại Pháp, đặc biệt ở Paris. Viết về hai cơ quan mang trách nhiệm quảng bá và bảo vệ chính nghĩa của phe mình, tôi rất ngại ngùng. Viết ra sự thật, phê bình đúng sai những hoạt động của hai bên, có thể bị hiểu lầm hoặc bị xuyên tạc là thiên Cộng, chống quốc gia. Vô tình “vạch áo cho người xem lưng,” cho bọn cộng sản có cơ hội chê cười người quốc gia mình là công chức quan liêu, không có lý tưởng, ham quyền lợi vật. Hoặc có người muốn hiểu khác, thêm bớt một vài chi tiết nào đó để tỏ vẻ không hài lòng vì tinh thần chống Cộng quá khích. Riêng tôi, cố giữ tính khách quan và trình bày sự kiện một cách trung thực như đã hứa trong “Ðôi Lời Tâm Sự” ở trang đầu. Tôi thành thật tin đa số những người ở Paris trong khoảng thời gian đó phải xác nhận là tôi nói đúng. Vả lại tôi viết không phải để cho phe này hay nhóm kia đọc mà tôi viết để cho mọi người bây giờ và sau này thấy và hiểu được một số sự việc đã xảy ra trong khoảng thời gian của một đời người, sinh ra và lớn lên trong sự mâu thuẫn và đấu tranh ý thức hệ bằng chiến tranh và bạo động.
Tưởng cũng nên nhắc sơ về thuở tôi còn non trẻ chưa đầy mười tuổi, đã phải “chạy giặc” vì tin đồn “cộng sản nổi dậy” nơi này nơi khác, trong quận Bình Ðại hay trong tỉnh Bến Tre. Lúc mười một, mười hai tuổi, rất nhiều đêm anh em tôi phải theo cha trốn ra gò mả, bờ bụi, mương dừa, lùm cây để ngủ qua đêm vì lời hăm dọa của cộng sản sẽ thủ tiêu điền chủ và “hương chức hội tề.” Ông nội tôi là Tri Huyện, chức hàm, ba tôi là Chánh Hương Quản thời đó. Những năm 1946-47-48 mỗi khi tôi lên tỉnh học đi trên đò máy chở khách chạy dọc theo sông lúc nào cũng có xác người chết trôi lình bình gọi là “thằng chổng.” Những “thây ma” này do cộng sản giết thả sông gọi là “cho đi mò tôm.” Ðó là chính sách khủng bố để buộc người dân theo họ hoặc trả thù cá nhân khi gặp được cơ hội. Có một thời tôm chài lưới được trên sông Cửu Long từ khúc Mỹ Tho chảy dài ra Cửa Ðại, bờ biển, hay sông Ba Lai vùng Bến Tre bán rẻ như cho vì rất nhiều người yếu bóng vía không dám ăn bởi lẽ chúng thường đeo chùm rỉa thịt “thằng chổng” do cộng sản “cho đi mò tôm.”
Trở lại chuyện Paris vào thập niên 1950-60 phía cộng sản hoạt động rất mạnh. Bọn cán bộ cộng sản ở Paris thời đó hiểu rõ hoàn cảnh xa nhà, thương cha nhớ mẹ của du học sinh, đa số cô đơn trong cảnh đèn sách. Gần như tất cả phải miệt mài cho đến ngày đổ đạt thành tài, không thể về nước thăm nhà rồi trở qua tiếp tục học bởi vì thời gian chiến tranh, luật tổng động viên đã ban hành ở miền Nam, thoát được ra ngoài du học đã là một may mắn đặc biệt, nhờ học bổng hay do tư thế của gia đình mới có được ân huệ đó chớ không phải thừa tiền muốn đi du học là đi. Còn sinh viên đến Pháp từ miền Bắc Việt Nam gần như không có một người nào. Cán bộ cộng sản khôn ngoan khai thác tâm tư tình cảm của kẻ tha hương một cách có nghiên cứu và có hệ thống.
Việc đầu tiên là họ dò hỏi mỗi chuyến bay, mỗi lượt tàu thủy từ miền Nam Việt Nam đến Pháp rồi họ cắt cử người đi đón sinh viên mới sang, họ sẵn sàng chờ máy bay hạ cánh dù có trễ đến hai ba giờ khuya hay tàu thủy cập bến Marseille vào những ngày nghĩ cũng có người chờ đợi để chứng tỏ tình đồng hương và thiện chí muốn giúp đỡ bạn bè mới sang xứ lạ quê người chớ không có bất cứ mục đích gì khác. Tuy nhiên bọn cán bộ cộng sản lúc nào cũng không quên bỏ nhỏ rằng Tòa Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa “của mình” không cần đếm xỉa đến sinh viên, để chết sống mặc bây dù họ có bổn phận phải lo cho sinh viên. Thiện chí và tình đồng hương là mặt trái của vấn đề còn bên trong là cộng sản Hà Nội thừa cơ hội tìm cách kết nạp đảng viên hay cảm tình viên. Với tinh thần hăng say và mục đích thầm kín đó đồng thời cũng do kỷ luật đảng, họ rất chịu khó và kiên trì. Nếu người mới đến có thân nhân đón rước thì thành viên hội Ái Hữu sẽ làm quen hướng dẫn, kết thân luôn với cả gia đình, khuyên bảo lựa chọn trường học, đón đi chơi ngày nghỉ, rồi dần dà rỉ tai giải thích sự thiện nguyện của họ vì tình ái hữu đồng hương, sau đó mới nói chính trị, mới lên án chỉ trích “bọn thân Tây” hay “tay sai của Mỹ,” họ khơi dậy lòng yêu nước sẵn có của bất cứ người thanh niên nào, kích thích sự tự hào dân tộc, ý chí độc lập tự do, chống chế độ nô lệ, hoặc khơi dậy tính tự hào, thói đua đòi giả tạo của đương sự, học làm dáng vẻ trí thức, hiểu biết việc đời của người mới đến.
Họ kết thân với nhau bằng mọi cách, đưa dần người bạn mới vào đảng cộng sản hoặc cảm tình viên hoạt động cho hội Ái Hữu. Ban Văn Hóa Tòa Ðại Sứ VNCH vì không muốn nhường sân trống cho bọn Ái Hữu độc quyền hoạt động nên cũng có cử người đi rước bạn mới sang, nhưng khi thì cử công chức của cơ quan khi thì mướn người ngoài cho có lệ, không ai chịu chờ đợi ngoài giờ làm việc hoặc có rước được người thì chỉ đưa về chỗ ở của họ là xong, một cách thi ân không cần thiết. Về sau khi người anh em này biết rõ cung cách hành động của đôi bên thì Ban Văn Hóa của mình bị mất cảm tình và gặt lấy ảnh hưởng ngược.
Giữa thập niên 1950-1960 tại Pháp hai chữ “trí thức” gần nghĩa với “thiên tả,” ai đi ngoài đường tay cầm nhật báo “Le Monde” hay tuần báo L'Expresse dù không đọc được chữ Pháp trôi chảy hay đọc mà không chắc hiểu được ý nghĩa thật sự của bài báo, nhưng sự kiện cầm nó trong tay là đủ ra vẻ người của thời đại rồi. Thanh niên Pháp đang sùng bái thuyết “hiện sinh” sống vui sống vội của Jean Paul Sartre, văn hào nổi tiếng và là đảng viên cộng sản. Về sau ông ta lại từ bỏ đảng cộng sản nói rằng vì lý tưởng nên thay đổi lập trường. Giới sinh viên tranh nhau đọc tiểu thuyết của nữ văn sĩ trẻ tuổi Francoise Sagan, cô ta còn là sinh viên văn khoa tại Ðại Học Sorbonne mà đã viết quyển đầu tay “Bonjour Tristesse” (Buồn ơi ta chào mi) bán chạy như tôm tươi. Trong những cuộc hội hè đàm thoại, những lời phát biểu có tính khuynh tả hay nói theo luận điệu của đảng xã hội, đảng cộng sản là hợp thời trang. Trong bối cảnh đó sinh viên Việt Nam du học được cấp một sổ chuyển ngân, gia đình dùng nó để gởi tiền mỗi tháng 25,000 quan vừa đủ để đóng tiền học và sinh sống trong tháng. Số tiền này được nâng lên 35,000 quan theo sự gia tăng của vật giá. Những sinh viên nào không học, không có chứng chỉ học trình thì bị “cúp sổ chuyển ngân” sẽ không có tiền sinh sống, phải bỏ học hoặc đi làm công nhân vất vả trong các hãng xưởng hay chạy bàn ở các quán cà phê. Ban Văn Hóa Tòa Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa lợi dụng cái quyền ban phát đó như một bửu bối để dụ dỗ, áp lực hay trừng phạt những ai thân thuộc với hội Ái Hữu của Cộng Sản Việt Nam.
Sinh viên Việt Nam tại Paris thời ấy có khoảng 3,000 người, con số dựa theo tài liệu của Ban Văn Hóa năm 1959, trong số đó không có đến 10% vào được đại học. Rải rác các tỉnh xứ Pháp thì còn ít hơn nhiều, trên dưới không tới 1,000. Xa nhà, họ không bị sự kềm chế của cha mẹ, sống trong cảnh xa hoa tráng lệ của Paris, nên số đông bị quyến rũ bởi sự ăn chơi, bỏ bê việc học dẫn đến mất sổ chuyển ngân. Hội viên Ái Hữu cộng sản lợi dụng thời cơ tiếp xúc, an ủi, chỉ trích và tố khổ Tòa Ðại Sứ Việt Nam Công Hòa bất nhân, vô tình, không khuyến khích giúp đỡ mà còn lợi dụng quyền cấp phát sổ chuyển ngân để làm khó dễ, hăm dọa thay vì thông cảm, dễ dãi khuyên lơn. Họ mời những người bạn thiếu may mắn này về quán cơm rẻ tiền của hội Ái Hữu ăn miễn phí, tạm thời cho qua cơn khó. Rồi ai muốn đi làm họ sẽ tìm việc cho, thậm chí có thể giúp việc tại quán ăn dọn bàn, rửa chén kiếm tiền, coi đó là nhà, là nơi sinh hoạt. Thế là trong tương lai gần cộng sản sẽ kết nạp được đảng viên. Người anh bà con đầu ông cố ngoại của tôi, Ðoàn Văn Trung bị vướng tròng, khởi sự chạy bàn cho quán ăn Ái Hữu rồi trở thành đảng viên cộng sản, người em chú bác ruột của anh Trung là Ðoàn Thế Phong vì mặc cảm con nhà “tư sản,” và cũng vì tinh thần độc lập tự do mà ngả theo đảng cộng sản.
Buồn cười là năm 1961 tôi chuẩn bị về xứ, Phong đang học vật lý nguyên tử (Physique nucléaire), đến nhà tôi ở khu Barbès Rochechouard thuyết phục tôi về Bắc giúp nước. Anh ấy và tôi cãi lý một ngày hai đêm, to tiếng mất lòng nhau cũng nhiều. Nhưng sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975, hai ông cộng sản xu thời, nửa mùa, vô tri này có về Việt Nam mà không ông nào chịu nổi cái mùi độc tài dốt nát của chế độ Hà Nội đang “tiến nhanh tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa” nên không dám “hy sinh giúp nước” mặc dù Việt Nam đang rất cần chuyên viên nguyên tử hay giáo sư vật lý như Ðoàn Thế Phong và người công nhân “tiên tiến” biết “lao động là vinh quang” như Ðoàn văn Trung! Cho nên hai ông vội vã trở về Pháp sinh sống cảnh tha hương suốt đời. Năm 1991 sau 11 năm tù cộng sản, sang Pháp tôi có liên lạc với Ðoàn Thế Phong hỏi: Cậu và mợ Bảy có mạnh khỏe không? Lúc này là lúc an toàn và vinh quang nhứt tại sao anh không ở lại Việt Nam mà giúp nước và lo cho đời sống của cậu mợ đang cần sự giúp đỡ của anh? Anh trả lời giọng hằn học bực tức: “Mày mỉa mai tao làm gì?”
Nói về sinh hoạt chính tri tại Paris, đối đầu với hội Ái Hữu là Ban Văn Hóa của Tòa Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa. Ông Trưởng Ban Văn Hóa và một vài nhân viên có quyền tại đây chỉ biết dùng cái vũ khí trơ trẽn thất nhân tâm là “cúp sổ chuyển ngân.” Nhiều người học dở hay trụy lạc tạm thời bị làm khó dễ hay bị thẳng tay cúp sổ gởi tiền, điêu đứng chật vật, có thể thất bại trong việc học hành, hư hại cuộc đời một cách oan uổng. Ban Văn Hóa không có một ai biết tạo điều kiện cho sinh viên học thành tài, không có chủ trương thu phục lòng người, không có chữ “tâm” trong hành động, người công chức Việt Nam Cộng Hòa của Tòa Ðại Sứ Paris không có hình ảnh quốc gia trong lòng họ mà chỉ có hình ảnh của Paris tráng lệ và một chỗ làm lương cao khó kiếm so với biết bao nhiêu công chức ở nước nhà. Cho nên họ không có chữ “trí” trong hành xử, không cần biết sinh viên nghĩ gì về Tòa Ðại Sứ và phê phán như thế nào về chính nghĩa quốc gia mà họ là những người đại diện có bổn phận phải truyền bá và bảo vệ. Ngay cả ông Tùy Viên Trưởng Ban hình như là mục sư Tin Lành cũng không có lý tưởng của người quốc gia mà chỉ có thái độ quan liêu của người công chức được đặc ân làm việc ở nước ngoài lương cao bổng lộc hậu. Những ai kết thân làm bạn với người của hội Ái Hữu cho dù có biện hộ là sử dụng quyền tự do ở một nước dân chủ cũng bị cúp sổ chuyển ngân vĩnh viễn liền. Việc học sẽ bê trễ hoặc thất bại. Ban Văn Hóa không hề biết thông cảm cho những trường hợp bạn học cùng trường hay thân nhân xa gần đã lạc đường mất hướng, càng không biết thuyết phục để chiêu dụ, thái độ gần như không cần ai, trái lại việc “cúp sổ chuyển ngân” là một bằng cớ để báo cáo với chính quyền là họ có hoạt động, có theo dõi sinh viên! Cơ quan nầy ít khi tổ chức sinh hoạt hội hè, không làm gì để giúp sinh viên Việt Nam giữ vững lập trường quốc gia.
Liên Ðoàn Công Giáo Việt Nam ở Paris không hoạt động chính trị với danh nghĩa chính thức nhưng lập trường của thành viên đương nhiên là đối ngược với cộng sản. Tâm trí của họ luôn hướng về quê hương, tuyệt đại đa số tập trung tinh thần vào việc học bởi vì “chơi bời” là tội lỗi, lêu lổng cũng khó, do những bài giảng của linh mục ngày Chúa Nhật nhắc nhở phải học “để về giúp nước.” Tôi còn nhớ lời than thở, chê trách, như oán như than, của một Linh Mục già Nguyễn Văn Tường trên tòa giảng, giọng nói chậm rãi kéo dài: “Có những người lấy đêm làm ngày... lấy ngày làm đêm... cha mẹ có tiền cho đi ăn học mà chẳng chịu học... chơi bời lêu lổng... làm tổn hao công lao tiền bạc của cha mẹ ...” Chúng tôi thường lập đi lập lại câu này để ngạo nghễ diễu cợt đồng thời cũng là một cách gián tiếp nhắc nhở lẫn nhau.
9
Những mối tình dưới thời sinh viên
Những mối tình dưới thời sinh viên
Ðại Sứ Phạm Khắc Hy yêu cầu tôi tổ chức cho phái đoàn Quốc Hội tiếp xúc với sinh viên. Tôi và số đông bạn bè bàn trước thế nào bên Ái Hữu cũng phá đám, cho nên chúng mình phải vận động cho có thật đông sinh viên đứng đắn tham gia, đó là điều khó lại còn phải đến sớm chiếm những hàng ghế trên đừng để nhóm Ái Hữu (CSVN) ngồi những hàng ghế đầu hỏi han lạc đề, cố tình gây rối và phá đám. Kết quả phiên họp, sinh viên đến chật Câu Lạc Bộ, một hai tên thuộc nhóm Ái Hữu nhút nhát đặt những câu hỏi lạc đề, sinh viên quốc gia xì xào, huýt gió cười ồ, cựu Dân Biểu Lê Trọng Quát dõng dạc trả lời nghiêm túc. Buổi tiếp xúc được kể là thành công ngoài sự mong muốn. Ðại Sứ Phạm Khắc Hy hiện diện trong buổi tiếp xúc hài lòng. Xong phiên họp các vị khách mời đưa tôi ra quán cà phê bên kia đường ngồi tán dóc, rủ rê về nước, tuyên công Ngô Tổng Thống, quảng cáo chế độ chống cộng thông minh, nào ấp chiến lược, nào khu trù mật, vân vân.
Ðỗ Cao Minh còn nói nghề của tôi về nước sẽ được trọng dụng, vân vân. Sau này thân nhau vì chúng tôi là (anh Minh là anh ruột của Cố Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí và Bác Sĩ Ðỗ Cao Huệ) bạn đồng song và cũng là nghiệp, tôi nhắc lại lời nói của anh ngày đó, anh cười bảo “moa đâu có ngờ toa thành quỉ mà moa cứ tưởng là thằng nhỏ này ngây thơ dễ thương.”
Tuổi sinh viên là thời gian tràn đầy nhựa sống, lạc quan yêu đời, chưa biết lo xa, chưa nếm mùi đời cay đắng, tuy du học xa nhà, buồn nhớ cha mẹ, xóm làng. Mùa Hè ở đây 5 giờ sáng mặt trời đã lên cao, đôi khi nằm trằn trọc không ngủ được, đột nhiên nhớ nhà đến chua xót tâm can, nghĩ ngợi miên man muốn bỏ hết trở về quê sống với đàn em côi cút mất mẹ thiếu tình thương. Nhưng rồi thực tế của sáng ngày mai lôi tôi về với hiện tại. Phải vào lớp, phải nghe giảng bài, rồi bạn bè vui đùa, buồn chán tan biến một cách tự nhiên lúc nào mình không hay. Cái may của tôi là còn trẻ sống năng động, không bao giờ có khoảng trống thời gian để bị trầm ngâm trong cô đơn. Ngày thường thì học hành bài vở dồn dập, ngày nghỉ thì bạn bè, sinh hoạt, vui chơi giải trí, thời gian lúc nào cũng quá ngắn ngủi. Ðầu tuần là đã tính chương trình cho ngày nghỉ sắp đến. Sau lễ Phục Sinh là đặt sẵn kế hoạch cho mấy tháng nghỉ Hè. Mùa Thu, nhập học là mơ những trận khiêu vũ của các trường đại học tổ chức, hay lo nghĩ phải dành dụm tiền để chuẩn bị đi trượt tuyết mùa Ðông trong dịp lễ Giáng Sinh, hoặc hẹn hò với bạn Pháp về gia đình chúng nó nghỉ lễ, để tập nói tiếng Pháp cho lưu loát, hiểu biết văn hóa tập tục của dân Tây nhiều hơn.
Tóm lại, ngoài việc chú tâm học cho thành tài nghĩa là giá nào cũng phải nắm lấy một văn bằng đại học trong tay, thời gian nhàn rỗi còn lại chỉ vui chơi với bạn bè. Ðó là chưa kể đôi khi vì quá ham vui mà tạm thời bỏ phế việc học để rồi hối hả thức suốt ngày đêm bắt lại cho kịp, dọn bài thi kiểm cho tốt. Danh từ “cúp cua” nghĩa là vắng mặt bỏ lớp được thường xuyên sử dụng trong giới sinh viên. Tôi cũng như mọi thanh niên khác, cũng ham vui, cũng phạm nhiều lỗi lầm của tuổi trẻ, cũng đào hoa, cũng khổ lụy và cũng có hưởng được cái tinh túy của tình yêu xuân trẻ. Con người tôi bình thường chẳng đạo đức, chẳng siêu nhân thần thánh gì. Sau khi vượt qua được bức tường tú tài “Barrage du Bac” trở thành sinh viên thì đương nhiên được hưởng nhiều quyền lợi và sự ưu đãi của nhà nước.
Trước tiên được cấp thẻ vào các quán ăn rẻ tiền đặc biệt dành cho sinh viên. Mỗi bữa ăn giá 75 quan thay vì trung bình phải trả khoảng 300 quan. Ðược xin ở trọ ký túc xá, nhiều cửa hàng cho giảm giá 10% nếu là sinh viên. Khi di chuyển đường xa bằng cách đón xe xin quá giang, người ta dễ ngừng nếu họ đoán dáng dấp mình là sinh viên. Tóm lại thời gian đó xã hội Pháp trân trọng sinh viên, xem họ là những nhà trí thức, kỹ thuật gia tương lai, là rường cột nước nhà, là những bàn tay xây đắp sự phồn vinh của đất nước, bởi vì Pháp quốc mới vượt qua sự tàn phá của Ðệ Nhị Thế Chiến. Riêng tôi rất hãnh diện được bước qua cửa rào thứ nhứt dẫn vào thế giới của chuyên viên.
Sau bằng “tú tài đôi” tôi dọn thi vào đại học Canh Nông tại trường Jean Baptiste Say. Tôi có cảm giác hình như bây giờ mình mới thật sự trưởng thành. Lúc đó tôi mới dám nghĩ đến chí tang bồng hay sự thành công. Thật là hãnh diện có được thẻ sinh viên UNEF trong tay (Union Nationale des Etudiants de France). Hết rồi những ngày cạn tiền phải mượn thẻ sinh viên của bạn vào “ăn lậu” ở các quán ăn có khi bị phát giác đuổi ra. Ðại học canh nông là một trong các “Trường Lớn” (Grandes Ecolles), đủ mọi ngành nghề mà quốc gia cần dùng, từ bách khoa đến hầm mỏ, cầu cống, điện lực, hành chánh, sư phạm, vân vân... được thành lập thời Hoàng Ðế Nã Phá Luân với mục đích đào tạo nhân viên phục vụ cho chính phủ. Muốn vào “Trường Lớn” phải qua một kỳ thi tuyển đôi ba ngàn người mà chỉ tuyển chọn một hai trăm, ít nhiều tùy theo ngành học. Chương trình học 3 năm lấy bằng kỹ sư, không được quá 4 năm nghĩa là chỉ có quyền lưu lớp một lần mà thôi, lưu lớp lần thứ hai sẽ bị đuổi khỏi trường, trắng tay không có chứng chỉ bằng cấp gì cả.
Khác biệt với các môn học như y khoa, văn khoa, khoa học, lưu lớp bao nhiêu lần cũng được, chỉ cần thi đủ điểm trung bình, chứng minh sự hiểu biết của mình là đỗ đạt lấy bằng cử nhân, tiến sĩ, bác sĩ. Một khi thi đậu vào các “Trường Lớn” thì được nhà nước trang trải mọi học phí, ưu đãi về vật chất cũng như tinh thần bởi vì đa số sẽ là công chức trong tương lai hay đứng đầu các cơ quan tư nhân chính yếu của quốc gia. Năm 1959 có một cuộc điều tra thăm dò của tuần báo Paris Match về tương lai của những người tốt nghiệp “Trường Lớn,” đặc biệt trường Bách Khoa (Polytechniques) là trường có thang giá trị cao nhất trong các trường. Lớp người này đứng trong thượng từng 10% cao nhứt của xã hội Pháp, trong đó có rất nhiều thủ tướng và tổng trưởng. Ngày nay, tình thế đổi thay, sinh viên tốt nghiệp các “Trường Lớn” của Pháp cũng thất nghiệp dài dài. Khác với thời chúng tôi, khi có văn bằng rồi, chúng tôi tìm việc rất dễ dàng, có khi chưa tốt nghiệp mà công ty tư nhân đã tuyển dụng trước, lại còn cho đi tu nghiệp có trả lương. Nhớ lại ngày thi đậu vào trường Quốc Gia Canh Nông Paris-Grignon, tôi có cảm giác như chân đi hổng trên mặt đất, lòng ngây ngất như say, trí mở rộng thấy toàn là mộng đẹp tương lai... Thật là sảng khoái, tôi âm thầm hưởng mùi vị của sự thành công lần đầu tiên trong đời. Bởi vì một khi thi đậu vào trường là nắm chắc bằng kỹ sư trong tay. Cái say mê đắc ý này báo hại tôi, cũng là may chứ không chút nữa là tay trắng về quê, nhưng đồng thời cũng cho tôi hiểu được khả năng trí tuệ con người rất lớn, mà mình không khai thác nó cho tận cùng thôi. Cũng như sức chịu đựng của thể xác con người ngoài mức tưởng tượng bình thường mà tôi chỉ khám phá được khi bị biệt giam trong nhà tù cộng sản.
Nói về cái hư hỏng vì chủ quan sau khi thi đậu vào trường, bài vở rất nhiều, môn nào cũng có, từ luật điền địa, khí tượng, xây cất kho trại đến khái niệm tổng quát về nguyên tử học để dùng trong việc thí nghiệm trồng cây, tổng cộng 21 môn, một vài môn rất khó như hóa học đất đai, địa chất học, v.v... thế mà tôi cứ nghĩ mình sẽ học và thi dễ dàng như đã từng thi cử bao nhiêu lần. Cho nên hết đi bơi lội với bạn trai thì cỡi ngựa du ngoạn với bạn gái trong khu rừng của nhà trường rộng gần 500 mẫu tây. Hết khiêu vũ, tiệc tùng thì đi xem chiếu bóng (xem phim). Kết quả bài học chép rồi để đó, có khi vắng mặt cúp cua và nhờ thằng Sapis phòng bên cạnh mỗi khi chép bài lót giấy “carbone” cho tôi xin một bản sao. Tôi nhớ có lần bỏ học luôn hai ngày, ngồi lì trong câu lạc bộ đọc báo suốt, tất cả những tờ báo mô tả từng giờ, từng sự kiện xảy ra trong cuộc âm mưu đảo chánh Tổng Thống De Gaulle. Nghe radio hết đài này tới đài khác, xem truyền hình không sót một thông tin nào trong ngày. Nguyên nhân cuộc đảo chánh là vì De Gaulle tuyên bố trao trả độc lập cho Algérie, thuộc địa đã từng sát nhập là phần đất của Pháp Quốc. Ðại Tướng Chales và ba Trung Tướng dưới quyền là Salan, người đã từng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Ðông Dương, Jouhaut và Zeller. Nhóm tướng lãnh này cáo buộc tổng thống phản bội quốc gia, nhường một phần đất cho quân phiến loạn. Thủ Tướng Michel Debré kêu gọi quần chúng nổi dậy chống đoàn quân viễn chinh sắp đổ bộ về Paris. Không khí bất an căn thẳng đến tột cùng. De Gaulle vẫn giữ im lặng làm cho sự căn thẳng càng ngột ngạt. Tôi tiên đoán với bạn bè rằng, “De Gaulle, người đã hai lần cứu nguy nước Pháp, với uy tín và sự khôn ngoan, ông sẽ đọc một bài diễn văn, cũng lâm ly chứa đầy tình và lý như lời kêu gọi kháng chiến chống Ðức ngày 18 Tháng Sáu năm 1942 của ông (L'appel du 18 Juin), và sau đó mọi việc sẽ giải quyết không cần có tiếng súng.” Mấy thằng bạn học trong trường chê cười tôi là dốt chính trị, nằm mơ, có thằng còn nói tôi điên... Thực tế xảy ra, sau bài diễn văn của Tổng Thống De Gaulle, Ðại Tướng Chales tuyên bố đầu hàng, tự nộp mình là tù nhân, yêu cầu Paris chỉ định người dẫn giải. Nhưng ông ra lệnh cho ba ông tướng khác phải trốn để tiếp tục tranh đấu (về sau ba vị này tổ chức quân đội bí mật OAS, organisation de l'armée secrète, bị bắt và chịu án chung thân, nhưng chỉ ngồi tù một thời gian ngắn thì được Tổng Thống De Gaulle ký lệnh ân xá). Chales cũng ra lệnh cho Thiếu tá Trung Ðoàn Trưởng nhảy dù, De Saint Marc, người chịu trách nhiệm bắt giam toàn bộ đại diện chính quyền Paris tại chỗ, phải trốn đi. Thiếu Tá De Saint Marc trả lời: “Xin đại tướng cho phép tôi giữ danh dự của một sĩ quan, xin ngài cho tôi trả cái giá của một hành động có suy nghĩ cũng như đại tướng đang làm.” Cử chỉ chánh trực của De Saint Marc dạy cho lớp thanh niên chúng tôi một bài học về sĩ khí, ảnh hưởng sâu sắc và đeo đuổi chúng tôi suốt đời.
Có những đêm khuya, mệt mỏi sau giờ học bài, bạn bè thường đến phòng tôi bàn đủ mọi khía cạnh chính trị của xứ Pháp thời đó, thật vui nhộn và bổ ích. Thằng Rodinson, đảng viên cộng sản chỉ thuộc có một bài, chỉ lý luận có một chiều đại loại như “tư bản bốc lột, thực dân vô nhân đạo, chính phủ nào, chế độ nào thì cũng như nhau... đả đảo tư bản.” Vì vậy mỗi khi gặp anh chàng này ở đâu hoặc bất cứ khi nào nó vác mặt vô phòng nào là chúng tôi hô to “đả đảo tư bản, ủa mà đả đảo cộng sản,” để trêu ghẹo anh ta. Sau khi được Cộng Sản tạm tha ra khỏi trại cải tạo vào năm 1988, Rodinson lúc đó đang làm việc tại Grenoble có nhắn lời thăm tôi qua một người bạn của Rodinson nhân chuyến thăm Việt Nam. Bây giờ nhớ lại, tôi mới nghĩ Giáo Sư Récamier, người đỡ đầu cho luận án ra trường của tôi, nói với tôi trước khi chia tay “mày chọn lầm nghề rồi, đáng lý mày phải học luật hay chính trị.” Năm 1991 trở lại Paris, trong bữa cơm hội ngộ bạn đồng khóa và thầy cũ, tôi có gặp lại thầy Récamier. Buổi gặp gỡ rất cảm động. Thầy nói đùa Triều nó tham chính và ở tù CS, đứa nào trải qua cả hai thứ mới nên người.”
Gần cuối năm nhà trường thông báo thi kiểm toàn bộ trong thời gian 15 ngày. Chỉ thi vấn đáp mà thôi. Tôi hốt hoảng vì cứ tưởng rằng thi hết môn này đến môn khác, hết tuần này đến tuần khác nào ngờ nhiều vị giáo sư ngủ ngay tại trường để thi đêm thi ngày. Trời ơi! Làm sao tôi học cho kịp để thi lên lớp! Nhưng “nước tới trôn thì phải nhảy,” tôi ôn bài không ngừng nghĩ, uống cà phê để thức, uống trà chống ngủ, trà thật đậm thức đêm tỉnh táo, tốt hơn cà phê nhiều. Vừa ôn bài vừa hốt hoảng lo âu, sự hốt hoảng đó làm cho trí tuệ dễ mở mang, dễ ghi nhớ rõ ràng những gì mình chú ý. Có khi không đủ giờ tôi quýnh quáng lật từng trang sách hay bài chép, chỉ xem hình, chỉ nhìn công thức, cố hết sức mà nhớ rồi đi thi chớ không đọc được bài ít ra một lần, ấy thế mà cũng dư điểm. Kết quả kỳ thi lên lớp, nhà trường dán giấy thông báo tôi đứng hạng 22 trên 56 với 14 điểm một phần tư. Thật không ngờ! Sau kỳ thi đó tôi nói đùa với các bạn đồng song: Bất cứ môn học nào, bất cứ thứ văn bằng gì, chúng ta chỉ cần cầm sách đọc qua một lần là có khả năng thi đỗ ngay. Ða số bọn chúng cười đồng tình bởi vì không thiếu những đứa bị thời gian dồn ép như tôi.
Bị dồn ép đôi khi nẩy sinh năng lực phi thường như chuyện kể sau đây: Có một anh bạn người Pháp, bơi lội rất dở, năm đó anh nghỉ Hè đi xuồng ra khơi câu cá. Vô phúc xuồng cao-su bị rách, chìm giữa biển cách bờ gần 5 cây số, tàu bè không qua lại, dù biết mình không bơi nổi tới bờ nhưng sự sợ hãi làm tăng năng lực, anh bơi vô bờ được mà cũng không ngờ mình sống sót được. Vào dịp bãi trường năm đó tôi rủ Félix cùng đi cắm trại tại một đảo Miền Bắc xứ Pháp, Ile de Bréhat, nơi đó có nhiều cá theo bài viết đang trên báo của nhiều tay câu đã ghé qua đảo này. Chúng tôi mướn lều nhỏ dành cho hai người và túi ngủ ấm cá nhân. Vai mang “ba lô” hai đứa lên đường quá giang xe đi hơn 400 cây số nhắm về hướng bến phà Pimpol. Trên đường đi có vui vẻ hào hứng, có ngã lòng bực bội chờ đợi người cho mình quá giang, có vui mừng gặp chủ xe hòa nhã, cuối cùng chúng tôi đến bến phà Pimpol, phà nhỏ đưa qua Ile de Bréhat, biển Ðại Tây Dương có sóng nhồi, có lo sợ. Hòn đảo nhỏ rất đẹp, dân số độ vài ngàn, chúng tôi khởi sự mướn một xe đạp chở nhau đi tìm chỗ cắm lều. Ðứng trên một đồi con nhìn xuống thung lũng sát bờ biển, nào đồi cát lô nhô, nào lùm cây bụi rậm, tôi quyết định cắm trại nơi này vì thấy có năm ba lều căng sẵn.
Nghỉ Hè ở đây một tháng, vui sống như cảnh thiên đàng, hàng ngày câu cá ăn không hết, biếu tặng cho những người ở căn lều gần bên, họ cho lại nào phó-mát (fromage) nào trứng gà, bánh trái ê hề... Chúng tôi rủ rê tập hợp đông đảo bạn trẻ nam nữ nghỉ hè tại đó, kết thành đàn, tắm lội chung, chia đội bóng chuyền, đội vũ cầu đấu với nhau thật vui. Có những cuộc du ngoạn thám hiểm bờ biển quanh hòn đảo, có cơ hội tán tỉnh các cô gái đẹp trong nhóm bạn này, do đó tôi cuỗm được người yêu chia xẻ nhau mối tình thú vị kéo dài. Ðồng thời tôi lại có một mối tình khôi hài khó quên. Xin kể lại để cười chơi. Số là mỗi tối, cái làng nhỏ bé đó có tổ chức khiêu vũ trong một căn nhà trống trải, dùng để nhóm chợ ban ngày. Ðêm đến có màn vải bao quanh, chừa cửa vô để bán vé tới 9 giờ đêm là xả giàn, vô ra tự do. Félix và tôi, sinh viên ít tiền, tối nào cũng đợi đến 9 giờ 30 mới lấy xe đạp đi khiêu vũ khỏi phải trả tiền. Ðêm đó tôi gặp một cô gái rất xinh đẹp ngồi uống rượi với người em, uống rượu chát trắng thay vì champagne theo đúng cung cách của những tiểu thơ. Tôi bảo Félix:
- Ðể tao làm quen rủ cô em này về Paris đi nhảy đầm tiếp cho mày coi.
Félix cười nói:
- Cô ta sẽ ăn thịt mày nhậu với rượu chát cho mày xem, con gái mà uống rượu như hũ chìm là không ổn rồi.
Tôi không trả lời Félix, nhạc vừa trổi, tôi đi tới bàn của người đẹp, dang tay nghiêng đầu mời, cô em đứng dậy choàng tay lên vai, chúng tôi bắt đầu bước theo điệu nhạc... Ðể mở đầu câu chuyện, tôi khởi sự bằng câu xã giao:
- Cô là một trong những người đẹp nhứt buổi chiều nay.
- Hay quá ha! Rồi sao nữa nói đi...
Rồi cô ta xổ một tràng những câu làm tôi muốn điếc con ráy (điếc lỗ tai)... mắc cỡ đến cứng người!
Cô ta tiếp tục:
- Anh nói đi: Này nhé chẳng những cô đẹp mà còn có duyên nữa... cô có tầm nhìn xa, cô hiểu biết rộng... tôi muốn làm quen với cô... rồi cuối cùng ông sẽ tiếp tục nói điều mà ông chủ mưu và chờ đợi cơ hội để nói ra... tôi thương cô... tôi muốn ngủ với cô... nói đi, tôi thuộc bài này rồi. Anh có biết tôi là ai không? Anh là người Việt Nam chớ gì? Vậy thì chắc anh phải biết Ðại Tá Besson Giám Ðốc bệnh viện Biên Hòa, tôi ở Biên Hòa một thời gian khá lâu, có lẽ tôi ăn bưởi Biên Hòa nhiều hơn anh nữa là khác, nên xin anh đừng tưởng tôi là chim non mà ba hoa chích chòe.
Thật là một gáo nước lạnh tạt vào mặt, tôi chới với, mất bình tĩnh. Một phút sau, hoàn hồn lại tôi mới tìm ra được câu đối đáp:
- Cô lầm rồi, có lẽ cô chưa bao giờ gặp được người cảm nhận tình yêu một cách đứng đắn nghiêm chỉnh, có tâm hồn lãng mạn. Những người Á Ðông chúng tôi không nhìn đời bằng đôi mắt quá bình thường như người phương Tây của cô, hiểu tình yêu đồng nghĩa với tình dục, thực tế một cách hạ lưu (terre à terre), người Á Ðông chúng tôi khác, biết trân trọng tình yêu thuần khiết một cách cao thượng (l'amour Platonique).
Tình thế này tôi đành phải lên giọng nói dối nhưng cũng có một ít phần thật.
- A, chuyện lạ đấy. Nếu thật như vậy thì tôi cũng muốn biết cái nhân sinh quan, cái văn hóa Á Ðông của các người như thế nào?
Không ngờ sự kiện tôi bị lật tẩy rồi nẩy sinh ra ý và lời để bào chữa cho qua cơn xấu hổ, nhưng đó lại là đề tài bàn cãi sôi nổi giữa đôi trai gái mới quen nhau mà đã tâm đồng ý hợp, dắt nhau ra bờ biển nói chuyện mãi đến gần hai giờ sáng! Thằng Félix phải chờ cả giờ, nên trên đường về nó xỉ vả tôi thậm tệ về tật mê gái bỏ bạn. Anne Marie Besson và tôi kết bạn từ đó. Cho đến khi sắp lấy chồng, cô gặp tôi yêu cầu tổ chức một buổi dạ tiệc có khiêu vũ (surprise partie) để từ giã nhau. Sau tiệc vui cô ôm tôi nói: “Tôi hiến dâng thân xác tôi cho anh đêm nay, lần đầu và lần cuối để ghi nhớ thời gian chúng mình làm bạn, thương nhau hết tình mà giữ được trong trắng cao thượng cho đến ngày nay.” Tôi âu yếm trả lời: “Chúng mình giữ được tình yêu thuần khiết, nếu đêm nay hai chúng ta nếm thú vị tuyệt vời của tình dục, hay là mùi vô vị của nó thì mình sẽ hối tiếc vô cùng, chi bằng hai ta dựa nhau trên ghế để chờ sáng chia tay, giữ lại một kỷ niệm êm đẹp suốt đời.”
Thực sự thì mối tình này giúp cho tôi thấy rõ hai bộ mặt của tình yêu, thể xác và tinh thần. Tùy hoàn cảnh và trường hợp mà ta xem nặng bên nào, hoặc là trân trọng cả hai cùng một lúc. Tuổi trẻ có nhiều đam mê, tự hào, rạo rực, cho nên tôi lại thêm một lần nữa sa vào lưới tình...
Francoise Étiévant, con gái của Kế Toán Trưởng cư ngụ tại trường, rất đẹp, sinh viên cả ba khóa đua nhau ve vãn mong được lọt vào mắt xanh của nàng, trong số đó có tôi. Tôi để ý thấy mỗi chiều cô hay đứng tựa cửa sổ nhìn cảnh vật sắp bị hoàng hôn bao phủ. Thẳng tầm nhìn từ cửa sổ của cô cách chừng 200 thước là chuồng ngựa dành cho sinh viên ưa thích môn kỵ mã. Chiều nào tôi cũng lên yên đi thẳng tới cửa sổ của nàng, giở nón chào. Những ngày đầu cô ngoảnh mặt đóng cửa một cách bực tức. Lần hồi cô chẳng thèm đóng cửa, mặt tỉnh bơ lộ vẻ chế diễu. Lâu ngày dài tháng, cô bắt đầu mỉm cười vì thấy lạ, rồi đến lượt vẫy tay chào với nụ cười... Từ đó bắt đầu hẹn hò, tình yêu nẩy nở. Cho đến khi ba cô biết được ra lệnh cấm đoán vì cô hãy còn vị thành niên. Tình yêu mãnh liệt nung nấu lòng can đảm, tôi nói sẽ đến nhà cô xin gặp Kế Toán Trưởng để công khai thú nhận và xin phép, mặc dù Francoise hết lời cản ngăn biết rằng ba cô sẽ mãnh liệt cự tuyệt.
Tôi vẫn đến nhà ông Etiévant và trước thái độ gay gắt của người cha bất bình, tôi giãi bày và thuyết phục, cuối cùng ông đồng ý cho phép chúng tôi tiếp tục giao du. Cuộc tình đẹp nhứt của một thời son trẻ... nhưng do hoàn cảnh tế nhị của gia đình và xã hội Việt Nam thời đó, tôi không thể kết hôn với một người nước ngoài. Ngày chia tay về xứ nước mắt ròng rã... Từ ngày đó kéo dài ba năm trời, gần như mỗi ngày tôi nhận một lá thư từ Paris-Grignon gởi về, nhận quà cáp ngày sinh nhựt hay lễ bổn mạng Thánh Thomas. Mỗi khi Francoise gặp chuyện khó cô luôn nghĩ nếu có tôi ở bên cạnh thì sẽ khuyên cô như thế nào? Và cô tìm cách giải thuận theo ý tôi. Sau đó biên thư hỏi: “Trong khi vắng mặt anh, em giải quyết việc đó như vậy có vừa lòng anh không?” Tôi yêu quí Francoise là ở điểm đó. Trong bài hát “Complaintes des Infidèles” có câu rằng “l'amour n'est pas éternel.”à không cuộc tình nào trường tồn vĩnh viễn. Nhưng, kỷ niệm êm đềm có thể đeo đuổi suốt một đời người. Bây giờ nhớ lại tôi tự hỏi nếu kết hôn với Francoise chúng tôi sẽ hạnh phúc suốt đời hay lại dở dang vì những khác biệt về văn hóa và xã hội? Ðiều đó chỉ có trời biết.
Những năm đại học vô cùng bổ ích cho đời tôi, không phải vì sự hiểu biết chuyên môn mà là sự rèn luyện ý chí, tính tình và sự tự tin. Thời gian mà trí óc tôi mở rộng, tâm hồn tôi sảng khoái. Thời gian đó cung cấp cho tôi khá nhiều hành trang để vào đời. Việc quản lý câu lạc bộ sinh viên quốc gia tại Paris gây nhiều trở ngại cho việc học thêm, nên cuối năm 1961 tôi quyết định xin về nước phục vụ cho Bộ Cải Tiến Nông Thôn do Tổng Trưởng Trần Lê Quang điều khiển. Trước khi về, Ðại Sứ Phạm Khắc Hy tỏ ý tiếc, và ông lo ngại không biết giao việc Ban Văn Hóa cho ai. Ông có hỏi ý tôi nhưng tôi không dám giới thiệu người. Ðể giúp tôi, Ðại sứ Phạm Khắc Hy có ý muốn tiến cử tôi với những bạn bè của ông ở trong nước. Nhưng tôi từ chối. Sau đó, ông nhờ tôi đem về nước hai lá thư cho các bạn của ông là Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, và Tổng Trưởng Công Dân Vụ Ngô Trọng Hiếu. Về đến Sài Gòn, sáng hôm sau thay vì xin yết kiến hai nhân vật quan trọng đó để trao thơ, tôi ra bưu điện mua tem dán vào và gởi theo địa chỉ ghi trên phong bì. Không đầy một tuần lễ sau, tôi nhận được thơ của hai vị nói trên mời tôi đến hỏi thăm chuyện về Paris.
10
Bước chân vào đời
Sau khi nhận được thư của Ðại Sứ Phạm Khắc Hy, người thứ nhứt sai nhân viên đến tận nhà trao thư mời tôi và dặn dò thật kỹ cách thức vào cửa dinh Ðộc Lập và lối đi dẫn đến văn phòng của Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, Giám Ðốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị phủ Tổng Thống, người mang biệt danh là “Trùm Mật Vụ.” Ông vui vẻ mời tôi ngồi, hỏi chuyện sinh hoạt chính trị ở Paris, hỏi sức khỏe của Bác Sĩ Hy và gia đình. Cuối cùng ông hỏi tôi về Việt Nam làm việc tại cơ quan nào, có cần ông giúp đỡ gì không? Tôi lễ phép trả lời hiện làm việc tại Bộ Cải Tiến Nông Thôn, không thấy cần điều gì cả và thành thật cám ơn ông có nhã ý muốn giúp đỡ.
Buổi tiếp xúc ngắn ngủi, và trước khi tôi kiếu từ ra về ông căn dặn thêm: “Nếu sau này có giữ chức vụ lớn, nhân viên thuộc cấp trình giấy tờ xếp sẵn năm bảy bản, chỉ chừa khoảng trống đề trình xin chữ ký mà thôi, phải nhớ lật xem từ tờ, đôi khi người gian kèm theo một bản nằm giữa có nội dung hoàn toàn khác biệt có thể làm nguy hại thanh danh hay chính bản thân mình. Tôi không có cảm giác là đang đứng trước mặt một hung thần. Dù là trước khi đi gặp BS Trần Kim Tuyến, nhạc mẫu của tôi dặn dò đôi ba lượt: Con phải cẩn thận, ông này quyền thế cao trọng, đừng nói năng vô lễ làm mất lòng người ta con sẽ gặp nhiều phiền phức đấy. Một ngày sau tôi nhận thơ mời của ông Ngô Trọng Hiếu, Bộ Công Dân Vụ. Sáng sớm lúc 8 giờ tôi phải có mặt, hình như tôi là người đầu tiên được ông Tổng Trưởng tiếp kiến. Ông Hiếu rời ghế ngồi, bước ra cửa bắt tay hơi nghiêng mình đúng cung cách của người Tây Phương. Lại một sự ngạc nhiên thứ hai của tôi đối với những nhân vật cao cấp. Ông Tổng Trưởng này cao lớn, người mập mạp, nói năng lưu loát.
- Anh về được bao lâu rồi?
- Thưa ngài tôi mới về cuối tuần qua.
- Anh Hy giới thiệu anh là người có khả năng chiêu dụ giới trẻ, tôi đang cần một người cộng sự trẻ tuổi tài năng như anh vậy.
- Ông Tổng Trưởng khen quá lời. Có lẽ ông Ðại sứ không có giới thiệu như vậy đâu.
- Ðây này anh muốn xem thư của anh Hy không? Vừa nói ông vừa đẩy lá thư trước mặt tôi.
- Thưa ông Tổng Trưởng tôi không dám.
- Thôi bây giờ như vầy đi, tôi đề nghị anh tới đây nhận chức Tổng Giám Ðốc Thanh Niên giùm tôi.
- Thưa ông Tổng Trưởng tôi đã xin về phục vụ cho Bộ Cải Tiến Nông Thôn, vì đó là khả năng chuyên môn của tôi.
- Anh Hy khẳng định hoạt động thanh niên của anh còn chuyên biệt hơn nữa. Xin anh đừng làm tôi phải tin là ông bạn già của tôi ở Paris nói không đúng sự thật.
- Có lẽ vì ông Ðại Sứ thương tôi nên mới viết quá lời. Dù sao tôi cũng xin ông Tổng Trưởng cho phép tôi về tham khảo Bộ Cải Tiến Nông Thôn trước khi suy nghĩ về việc này.
Ông Ngô Trọng Hiếu liền cầm điện thoại lên gọi Ông Trần Lê Quang, Tổng Trưởng Bộ Cải Tiến Nông Thôn, hiện còn sống, định cư ở Palo Alto California.
- Anh Quang, có một ông bạn từ Paris về do anh Ðại Sứ Hy của mình giới thiệu với tôi, anh này hiện làm việc tại Bộ của anh, xin anh cho ảnh qua bên này với tôi đi. Tôi định cử anh ta vào chức Tổng Giám Ðốc Thanh Niên.
- Vậy là ảnh khỏi cần gặp anh để xin phép nữa nhé.
- Chỉ thông báo cho chánh sở của anh ấy là đủ rồi phải không?
- Cám ơn anh... Ngày mai chúng ta gặp nhau trên Dinh có phải vậy không anh?... Merci.
Bên kia đầu dây nói gì tôi không biết nhưng cũng đoán được là ông Trần Lê Quang bằng lòng cho tôi sang Bộ Công Dân Vụ. Quay sang tôi, ông Hiếu bảo: Anh về Bộ của anh chào đồng nghiệp rồi sang đây gặp tôi.
- Xin ông Tổng Trưởng cho phép tôi hội ý với ông Tổng Trưởng của tôi trước đã. Nếu ở đó người ta không cần tôi thì tôi sẽ xin qua đầu quân với ngài.
- Chắc chắn là người ta sẽ để cho anh qua đây. Anh Quang đã hứa với tôi rồi.
Ông Ngô Trọng Hiếu đưa tôi ra tận cửa, bắt tay nói: “Mes hommages à madame” (xin gởi lời chào cung kính với phu nhân). Thông thường giữa thượng cấp và thuộc cấp không ai dùng lời lẽ quá nể trọng như vậy. Tôi vừa ngạc nhiên vừa hãnh diện. Ðiều này gây một ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi, một thanh niên vô danh tiểu tốt mà được một nhân vật cao cấp đối xử nể nang như người ngang hàng, tôi vô cùng cảm kích và biết ơn. Về nhà tôi chuyển lời ông Tổng Trưởng cho vợ nghe, bà xã cũng ngạc nhiên nói: “Người ta đồn ông Paul Hiếu này là dân Tây, lịch lãm trong việc giao tế, đã từng là Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Campuchia, chắc chắn biết rõ lễ phép của Tây vậy thì nói như vậy là ông ta cố tình tâng bốc anh cốt ý để chiêu dụ anh thôi, em không tin là sự hiểu biết của ông ta có chỗ thiếu sót như vậy.” Chiều hôm đó tôi vào Bộ Cải Tiến Nông Thôn tôi xin gặp ông Tổng Trưởng. Bí Thư của ông cho tôi cái hẹn, hai ngày sau lúc 10 giờ, tôi vào gặp ông Trần Lê Quang. Vừa thấy mặt tôi ông nói liền:
- Anh Hiếu muốn xin anh về Bộ Công Dân Vụ, tôi đồng ý rồi. Thôi cũng mừng cho anh, mới về mà tìm được chỗ làm tốt.
- Thưa ông Tổng Trưởng tôi không có xin qua đó. Tôi đã xin bộ tuyển dụng tôi về đây thì tôi ở đây để giữ đúng lời hứa danh dự theo đơn xin.
- Có sao đâu. Tôi đã đồng ý cho anh đi qua đó rồi mà. Tôi có nói với anh Hiếu, bộ ảnh chưa cho anh biết sao?
- Thưa ông Tổng Trưởng tôi có biết vì khi hai vị trao đổi ý kiến bằng điện thoại tôi đang ngồi đó.
- Vậy anh xuống báo cho ông Nguyễn Văn Chỉ, chánh sở của anh biết rồi tự ông ấy sẽ làm giấy tờ cho anh.
- Thưa ông Tổng Trưởng tôi chỉ sang Bộ Công Dân Vụ nếu ông Tổng Trưởng thấy không cần tôi ở đây mà thôi.
Ông Quang cười vui vẻ nói:
“Anh và tôi cùng một “formation des grandes écoles” mà anh lại chuyên về canh nông còn tôi là công chánh thì làm sao tôi dám nói không cần anh ở đây. Nhưng tôi thành thật khuyên anh nên qua Bộ Công Dân Vụ, bên đó anh có chức vụ để tiến thân. Ở đây tôi chưa có một chức vụ nhỏ lớn nào để bổ nhiệm anh cả.
- Thưa ông Tổng Trưởng tôi về đây không có mục đích săn tìm chức vụ cao.
- Nói là như vậy chớ bất cứ một chuyên viên nào mới hồi hương cũng cần có nơi ăn chốn ở, việc làm tương xứng. Anh có nhà cửa riêng ở Sài Gòn không?
- Thưa không, chúng tôi đang ở phố mướn.
- Vậy tôi khuyên anh nên qua Bộ Công Dân Vụ. Với chức vụ Tổng Giám Ðốc anh có nhà, xe riêng và tài xế. Ðã vậy mỗi tháng tiền điện nước anh khỏi phải trả. Tôi thật lòng khuyên anh nên nhận chức vụ đó đi.
- Thưa ông Tổng Trưởng tôi xin phép ở lại đây thứ nhứt là để giữ đúng lời hứa với bộ, thứ hai là hợp với khả năng chuyên môn của tôi.
- Vậy thì tùy anh.
Có lẽ ông Trần Lê Quang ngạc nhiên và thấy tội nghiệp cho anh chàng ngây ngô không biết tính toán hay là thằng con nít làm ra vẻ quân tử Tàu, sống trong ảo tưởng không thực tế. Vì thế ông gọi Giám Ðốc Nha Lâm Vụ đem bản đồ căn biệt thự ở số 28 ter đường Mạc Ðĩnh Chi, nhà của ông Giám Ðốc còn để trống, chờ cấp cho đại diện cơ quan Lương Nông Quốc Tế (FAO) làm văn phòng. Chính tay ông Trần Lê Quang cầm viết gạch, ngăn, cắt nất thang và lầu trên cấp cho tôi làm nhà ở, coi như cư xá nhà nước và một phần nhỏ của sân rộng cộng thêm nhà bếp về phần tôi. Ông nói thêm: Ðể đền bù tôi tạm thời cấp cho anh chỗ ở này. Và căn lầu tạm thời đó trở thành mãi mãi là cư xá của tôi cho đến năm 1975.
Toàn thể nhân viên trong bộ ai cũng trầm trồ ngạc nhiên tại sao tôi chưa có chức vụ mà đã có nhà ở tốt như vậy. Ba tháng sau tôi được bổ nhiệm làm Chánh Sự Vụ Sở Thống Kê và Kinh Tế Nông Nghiệp. Ðồng thời tôi cũng được ông Giám Ðốc Nha Học Vụ Nông Lâm Súc mời dạy môn kinh tế nông nghiệp và quản lý nông trại tại trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn. Phải chăng là số mạng? Bởi vì nếu tôi nhận làm Tổng Giám Ðốc Thanh Niên thay thế ông Cao Xuân Vỹ thì cuộc binh biến năm 1963, lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, đương nhiên tôi sẽ trở thành người của chế độ cũ, chắc chắn tương lai chính trị của tôi không thể nào vươn lên được và kể cả về mặt hành chánh tôi cũng phải bị dìm ém vì tội theo đảng “Cần Lao” hay là Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa. Chưa chắc đã được bộ canh nông thu nhận lại, chừng đó không có nhà ở không có việc làm. Số mạng an bài còn trớ trêu kỳ lạ hơn nữa cũng vì câu nói “Mes hommages à madame” của Ngô Trọng Hiếu.
Với chức vụ Tổng Trưởng Thanh Niên trong Nội Các Chiến Tranh của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, có một lần họp nội các, Tổng Trưởng Nội Vụ Trần Minh Tiết trình bày hồ sơ của những người thuộc chế độ cũ mà chính phủ dự tính đày đi Côn Ðảo trong số đó có tên cựu Tổng Trưởng Công Dân Vụ Ngô Trọng Hiếu. Tôi giật mình, bàng hoàng suy nghĩ. Trong khi đó thì đa số đồng nghiệp hiện diện hoặc biểu đồng tình hoặc không phát biểu ý kiến, coi như thông qua. Tôi gạn hỏi xem ông Ngô Trọng Hiếu bị tòa kết án vì tội gì và bị xử bao nhiêu năm tù mà bị đày đi Côn Ðảo? Anh Trần Minh Tiết trả lời chỉ vì là nhân vật cao cấp của chế độ cũ thôi chớ không hề bị tòa kết án. Tôi lập tức phản đối:
“Nội các của mình tự xưng là nội các chiến tranh, đứng về phía thế giới tự do, thực thi chế độ pháp trị, chống bọn độc tài gian ác cộng sản Hà Nội xâm lăng, vậy mà bây giờ mình lại đày những người không bị tòa án kết tội đi khổ sai biệt xứ ở Côn Ðảo chỉ vì họ phục vụ cho một chế độ tiền nhiệm với mình thật là vô lý. Quí vị có nghĩ rằng một ngày nào đó, trong điều kiện nào đó, hoàn cảnh chính trị thay đổi, chúng ta lại phải bị đày đi côn đảo dù chúng ta không làm điều gì sai trái vi phạm pháp luật, chừng đó quí vị có kêu ca là bất công phi pháp không? Tôi yêu cầu nội các xét lại quyết định này.”
Tổng Trưởng Công Chánh, Ngô Trọng Anh can thiệp nói rằng đó là lý do chính trị. Nguyễn Bá Khả Tổng Trưởng Y Tế, cũng đồng ý với ông Anh. Tôi tiếp tục phản đối đến cùng. Thiếu Tướng Kỳ thấy hơi gay gắt cắt ngang, ông yêu cầu Tổng Trưởng Tư Pháp Lữ Văn Vi nghiên cứu hồ sơ của chế độ cũ và trình bày rõ ràng trong phiên họp nội các ngày Thứ Tư tuần sau. Phiên họp nội các Thứ Tư sau bàn nhiều vấn đề quốc gia đại sự nhưng cụ Lữ Văn Vi có trình bày cặn kẽ về nhóm người của chế độ cũ. Tôi còn nhớ có ông đã lãnh án tội đến năm, bảy chục năm. Riêng nhiều vị cao cấp của chế độ cũ trong đó có Ngô Trọng Hiếu, Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, Bác Sĩ Lý Trung Dung, phụ tá của ông Tuyến và những người khác tôi quên tên, không bị tòa kết án. Do đó tôi đề nghị phải trả tự do ngay cho những người không bị tòa kết án, kỳ dư đưa đi Côn Ðảo hay thọ hình nơi nào tùy bộ nội vụ và tư pháp xử lý, tôi không có ý kiến về việc này. Ý kiến đối nghịch giữa các vị Ngô Trọng Anh, Trần Ngọc Ninh, Nguyễn Bá Khả, và tôi qua lại khá nhiều. Ba vị đồng nghiệp nói trên bênh vực lập trường là phải đày những người cao cấp thuộc Ðệ Nhứt Cộng Hòa đi biệt xứ nơi Côn Ðảo vì sợ họ tiếp tục phá rối trị an. Phần tôi vẫn một mực đòi áp dụng công lý, và nói thêm ngồi trong nội các này cũng có nhiều người cao cấp thuộc chế độ cũ ngày xưa vậy. Tôi không nêu tên ai, nhưng ý muốn ám chỉ tướng tá và thẩm phán ngồi đây bây giờ, kể cả Thủ Tướng và Tổng Trưởng Nội Vụ. Tướng Kỳ cắt ngang, yêu cầu biểu quyết. Kết quả tuyệt đại đa số quyết định thả ngay những người không bị kết án. Thú thật nếu không phải vì chút cảm tình mà ông Hiếu lưu lại trong lòng tôi, chắc tôi cũng phản đối, vì công bằng, vì công lý, vì một chính phủ dân chủ của thế giới tự do không thể tự cho phép mình áp dụng luật rừng đối với công dân của bản xứ. Nhưng không quyết liệt và hăng sai đến độ ông Kỳ phải đổi ý và can thiệp. Khi biểu quyết bắt đầu từ cụ Lữ Văn Vi ngồi bên mặt Tướng Kỳ rồi đến ông Kỳ đưa tay thuận ý thì những vị cầu an, xu thời lúc nào cũng thuận ý với Thủ Tướng đâu dám biểu quyết ngược. Ngoại trừ ông Ngô Trọng Anh, đã lở đâm lao thì phải theo đến cùng là tôi đưa tay biểu quyết chống.
11
Những niềm vui và nỗi buồn
Thiết nghĩ dù tôi có cãi hăng say hay không thì kết quả chắc cũng phải thả người. Vấn đề là vì công lý, tôi phải nêu ra, phản đối và trình bày những lý do xác đáng. Vụ việc nầy tôi có tâm sự với người bạn thân là Linh Mục Nguyễn Quang Lãm, chủ nhiệm nhựt báo Xây Dựng. Ông thuật lại cho các bị can mới được phóng thích nghe. Tôi không hề liên lạc với nhóm người nầy sau khi họ được trả tự do, nhưng có một thời tôi muốn biết nhiều việc chính trị bí ẩn về các vấn đề liên quan đến Bắc Việt. Ðem chuyện bàn với Cha Lãm thì ngài nói:
- Tại sao toa không gặp Trần Kim Tuyến hỏi ý kiến, ông ta có thể giúp mầy hiểu nhiều việc. Cha nầy dứt khoát phải biết nhiều chuyện lắm.
Tôi nghe lời LM Lãm và cùng ông đến nhà thờ Công Giáo của trường Ðồng Tiến quận 10, gặp Bác Sĩ Tuyến và Bác Sĩ Lý Trung Dung trốn tại đó vì mặc dù đã được trả tự do, nhưng hai ông còn sợ bị trả thù vì ân oán. Bác Sĩ Tuyến có viết nhiều tài liệu giải thích cho tôi hiểu một vài bí ẩn của quốc gia. Có lần bà xã tôi đọc được một bài viết của ông, bà cằn nhằn:
“Tại sao anh giữ tài liệu của cộng sản trong nhà? Hết chuyện anh làm rồi sao?”
Tôi hỏi lại:
“Em biết ai viết bản văn này không? Bác Sĩ Trần Kim Tuyến đó, trùm mật vụ của cụ Diệm ngày xưa, em nghĩ tay này có phải là cộng sản không?
Bà xã tôi thấu hiểu vừa cười, vừa kêu trời. Mười bảy năm sau, tôi sang Pháp sau 11 năm tù cộng sản, làm việc cho đài phát thanh quốc tế của Pháp, (Radio France Internationale) có lẽ Bác Sĩ Tuyến nghe được tên tôi qua đài này, nên có điện thoại từ Luân Ðôn, thăm hỏi sức khỏe tôi và ông còn nhắc lại chuyện cũ và chúc mừng tôi được thoát nạn. Vài ngày sau tôi cũng nhận được điện thoại của Bác sĩ Lý Trung Dung lúc đó đang ở Pháp. Riêng cụ Ngô Trọng Hiếu năm 1970 ra ứng cử bân biểu, đắc cử vào Quốc Hội cùng nhiệm kỳ với tôi. Ngày khai mạc Quốc Hội ông đến sớm, đứng ngoài hành lang trước cửa Quốc Hội chờ tôi. Tôi là dân biểu sau cùng đến trước Tổng Thống vài giây, gặp cụ Ngô Trọng Hiếu. Chúng tôi dắt nhau vào ngồi cùng một hàng ghế, và cứ giữ chỗ ngồi ấy trong những kỳ họp quốc hội cho đến khi gãy gánh tan hàng. Suy nghĩ về số kiếp con người, phải chăng có một bàn tay vô hình nào đó xếp đặt trước.
Việc đầu tiên là tôi không ngờ ông Hy viết thơ giới thiệu tôi với ông Ngô Trọng Hiếu mà tôi cứ nghĩ đó là phúc trình liên quan đến việc làm của sứ quán, bởi vì tôi thấy hai phong bì nhỏ đống dấu khằn chính thức của Tòa Ðại Sứ bằng nhựa màu nâu nằm trong một bao thơ lớn bọc bên ngoài cũng đóng dấu khằn hẳn hoi. Và tại sao tôi không nhận lời ông Ngô Trọng Hiếu làm Tổng Giám Ðốc thay cho ông Cao Xuân Vỹ? Và nếu ông Ngô Trọng Hiếu chỉ bắt tay từ giã tôi một cách bình thường thì liệu tôi có nhiệt tình bênh vực ông không? Và cuối cùng điều làm tôi ngạc nhiên là tôi lại gặp ông Ngô Trọng Hiếu tại Quốc Hội với tư cách đồng viện của tôi. Riêng Tổng Trưởng Trần Lê Quang, tôi gặp lại ở Pháp thường hội hè tại nhà tôi bàn việc đất nước với cựu Quốc Vụ Khanh Vũ Quốc Thúc, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Vương Văn Bắc và nhiều bạn bè khác. Ông Quang quí tôi cho đến bây giờ. Khi sang định cư sống với con tại Palo Alto cựu Tổng Trưởng Trần Lê Quang vẫn còn tìm ra được địa chỉ số phone của tôi để thăm hỏi.
Về Việt Nam năm 1961 tôi làm việc tại sở Kỹ Thuật bộ Cải Tiến Nông Thôn. Ba tháng sau tôi được bổ nhiệm làm Chánh Sự Vụ sở Thống Kê và Kinh Tế Nông Nghiệp. Cũng trong thời gian đó tôi được nha Học Vụ Nông Lâm Súc thuộc Bộ Quốc Gia Giáo Dục mời dạy môn Kinh Tế Nông Nghiệp và Quản Lý Nông Trại tại trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc, trình độ kỹ sư mới được thành lập. Khác với trường Cán Sự ở Blao. Một vài môn học còn do giáo sư người Pháp đảm nhiệm. Giáo sư có quyền dùng hai thứ ngôn ngữ Pháp và Việt. Tôi mới hồi hương nên được phép giảng bài bằng Pháp văn. Ða số sinh viên tốt nghiệp bằng tú tài Pháp nên sử dụng ngôn ngữ này khá lưu loát. Tôi dạy hai lớp nhập một, khóa 2 và khóa 3. Nha học vụ phải mượn tạm thời giảng đường của đại học dược khoa để có đủ chỗ chứa sinh viên của 2 lớp.
Ngày đầu tiên vào lớp tôi gặp gian nan khó xử nhưng cũng may mắn tránh được sự thất bại buổi ban đầu do nhóm sinh viên tinh nghịch thử phổi thầy. Tôi chủ trương xem học trò của tôi như bạn đồng lứa, bởi vì tuổi đời của họ không nhỏ hơn tôi bao nhiêu. Hình như có một hai người bằng tuổi. Tôi tôn trọng nhân phẩm của họ qua lời nói và cử chỉ, tôi đối xử như một người anh, tưởng rằng điều đó giúp tôi lấy lòng họ được và chúng tôi sẽ dễ dàng trao đổi với nhau những hiểu biết về môn học nầy. Tôi nói với họ là: “Các anh chị học cho chính bản thân mình chớ không học cho thầy khen hay cho bạn nể. Vì vậy tôi sẽ không điểm danh như thông lệ. Anh chị nào không thích bài giảng của tôi thì không cần vô lớp, có thể mua sách, hay mượn bài của bạn học riêng ở nhà, tôi hứa sẽ chấm điểm công bình khi thi lên lớp, nếu anh chị chứng minh được sự hiểu biết của mình về môn học nầy. Phần tôi hứa sẽ tận tình giúp đỡ cho các anh chị có được một sự phản ứng đúng đắn về những vấn đề lợi hại trong nghề nghiệp. Tôi cũng yêu cầu anh chị em tôn trọng các bạn đồng song của mình và người giảng bài bằng cách giữ im lặng trong lớp. Cuối mỗi giờ học tôi sẽ dành 10 phút để cho mọi người hỏi những gì liên quan đến bài giảng. Ngoài ra trong giờ giải lao, ai cũng có thể hỏi bất cứ thứ gì tôi sẽ trả lời và bàn thảo với tư cách người bạn chớ không phải thầy.” Những lời nói của tôi không lọt tai ai cả, như nước đổ lá môn. Người ta thường nói: “Nhứt quỉ nhì ma thứ ba học trò,” các bạn sinh viên của tôi sẽ chứng minh câu nói đó không sai trong vài phút tới. Tôi mới vừa chấm dứt những câu mở đầu rất chân tình, xoay mặt vào bản viết tựa đề của bài học thì sau lưng tôi rộ lên tiếng cười đùa, nói năng ồn ào như chỗ không người. Thôi chết! Ðám “người lớn” nầy muốn giở trò con nít. Làm sao đây? Thú thật tôi hơi bối rối nhưng lấy lại bình tĩnh ngay. Xoay mặt ra nghiêm chỉnh nói:
- Anh chị nào nói lớn tiếng hoặc cười giỡn trong lớp học xin đứng lên.
Im phăng phắc.
- Một lần nữa tôi yêu cầu anh chị nào cười nói lớn tiếng đứng lên.
Vẫn im phăng phắc.
- Các anh chị thiếu can đảm, dám làm mà không dám chịu.
Nói xong tôi vừa xoay mặt vào bàn viết thì sau lưng tôi xù xì, cười hi hí rồi lại ồn ào còn hơn lần trước. Tôi quay ra cười vui vẻ hỏi:
- Anh chị nào vừa mới làm ồn xin đứng lên.
Im phăng phắc.
- Tôi sẽ chứng minh cho các anh chị thấy rằng tôi biết đích danh ai đã làm ồn. Gần như đại đa số nhếch mép cười ngạo nghễ nhưng không thành tiếng. Tôi lại xoay mặt vào bảng cầm cục phấn quăn ra sau lưng, phấn trúng ngay một anh.
- Mời anh đứng lên và cho biết anh tên gì?
- Thưa thầy em tên Nguyễn Văn Thùy.
- Yêu cầu anh ra khỏi lớp, tôi không dạy những người hèn, có can đảm làm mà không có gan nhận. Bài học đầu tiên tôi cần dạy các anh chị là sự can đảm và danh dự của người chuyên viên mà các anh đang chuẩn bị đó.
Nguyễn Văn Thùy cố đôi chối vài lời. Tôi không nói không rằng xếp giấy tờ vào cặp và tuyên bố nếu anh không ra khỏi lớp, tôi sẽ ra về không dạy. Các anh chị cần học, tôi không cần dạy, (về sau khi thầy trò thân thiện có anh khai với tôi là họ dán cho tôi cái nhãn hiệu “mặt vắt ra sữa mà làm trời.” Tình thế trở nên căng thẳng. Anh trưởng lớp tên Nhuận, sinh viên súc khoa, nếu tôi nhớ không lầm, đến khuyên anh Thùy ra khỏi lớp. Tôi tiếp tục dạy nhưng vẫn duy trì kỷ luật với Thùy cả tuần lễ sau tôi mới cho vào. Bắt đầu từ đó lớp học của tôi nổi tiếng “con ruồi bay cũng nghe.”
Rất tiếc là đến khóa 7 năm 1966, vì quá bận nhiều việc khác nên tôi xin nghỉ dạy. Thái độ cứng rắn, nét mặt nghiêm nghị của tôi trong giờ học, đối ngược với cử chỉ thân mật, pha trò vui vẻ hòa mình với sinh viên là chất keo hàn gắn tình thầy trò duy trì mãi cho tới ngày nay tại Mỹ, kể cả những anh chị không có học giờ của tôi. Vài bạn trong ban phụ trách nhóm ái hữu sinh viên miền Bắc Cali còn nói đùa “thầy là linh hồn của những lần tụi em hội họp.”
Làm việc tại bộ canh nông tôi không có cảm giác mình là người hữu dụng. Công việc hằng ngày không chiếm hết thời gian và cũng không tận dụng hết khả năng chuyên môn của tôi. Bởi vì guồng máy hành chánh nặng nề từ thời Pháp thuộc để lại, còn vướng mắc tính quan liêu phong kiến, làm việc theo chỉ thị cấp trên. Tiếc thay, cấp lãnh đạo thường có nhiều sáng kiến viển vông không thực tế. Sở Thống Kê và Kinh Tế Nông nghiệp có trên 30 nam nữ nhân viên, tôi không hề khiển trách riêng biệt một cá nhân nào. Nếu có sai trái lỗi lầm tôi triệu tập một phiên họp, không nêu tên họ ai, chỉ nêu sự sai trái, phân tích sự việc, nhắc nhở qui định và nguyên tắc làm việc của sở mà thôi. Tuy nhiên những người có lỗi đều biết rõ kẻ phạm sai trái đó là chính mình. Tôi hoàn toàn thông cảm cho những nhu cầu cá nhân cần phải nghĩ phép. Quyền hạn của Chánh Sự Vụ chỉ được cho phép nhân viên nghỉ hai ngày, nhưng trong trường hợp đặc biệt, có lý do chánh đáng, họ có quyền làm hai đơn, ba đơn ghi ngày khác nhau tôi sẽ tiếp tục ký, để cho hợp thể lệ hành chánh, anh chị em cứ nghỉ lo cho xong việc mình. Mặc dù biết trước có sự thông cảm đó của tôi, hình như không có một ai lợi dụng sự dễ dãi nầy.
Các cấp thừa hành của bộ, hoạt động tại địa phương có nhận xét chính xác, biết rõ nhu cầu và điều kiện phát triển, họ có kinh nghiệm của người hiểu biết hiện trường, nhưng không hề dám bàn ngược với cấp chỉ huy, trái lại chỉ báo cáo thổi phòng, thuận chiều với trung ương để mong hưởng được sự khen thưởng. Ông Tổng Thơ Ký Tôn Thất Trình là người có nhiều sáng kiến và chỉ thị ồn ào nhứt. Ông tự hào là được trực tiếp với “ông cụ” (Tổng Thống Ngô Ðình Diệm) khi nào ông muốn. Ông là đồng hương với Tổng Thống và mang họ Tôn Thất, còn cụ Diệm là con một quan Thượng Thơ của triều đình Huế. Nhân viên trong bộ gọi Trình là “con cưng của Tổng Thống.”
Tuy còn trẻ nhưng Trình chỉ thích làm việc với một số ít người thân tín của mình mà thôi, lối suy nghĩ của ông không cởi mở, không chấp nhận sự đối thoại. Tổng Trưởng Trần Lê Quang nhìn sự việc rất thực tế, suy nghĩ có phương pháp, giải quyết công việc thuận tình hợp lý mặc dù lãnh vực canh nông không phải là ngành chuyên môn của ông. Hình như hoạt động của ông có phần bị giới hạn do một Tổng Thơ Ký là “con cưng” của Tổng Thống và một Ðổng Lý văn phòng là người của Sở Nghiên Cứu Chính Trị thuộc Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, cả hai đều là người đồng hương với Tổng Thống Diệm. Một vài kỷ niệm đáng ghi nhớ là sự thao túng thị trường lúa gạo của thương buôn người Trung Hoa. Tôi đã từng nghe anh Trần Hữu Phương, cựu Tổng Trưởng Tài Chánh, sau nầy là Thượng Nghị Sĩ, kể lại về sự thao thúng nầy, trầm trọng đến nỗi Tổng Thống Ngô Ðình Diệm phải ký sắc lệnh cấm người Hoa kiều không được phép thực hành một số nghề nghiệp trọng yếu đối với quốc gia, trong đó có nghề buôn bán lúa gạo. Nhưng vỏ quýt dầy thì cũng có móng tay nhọn. Các thương buôn Hoa kiều bỏ tiền mướn người Việt Nam, đứng tên môn bài. Mọi việc rồi đâu cũng vào đó, họ tiếp tục mua bán và thao túng thị trường lúa gạo như trước kia. Khoản Tháng Năm năm 1962, giá gạo ngang nhiên tăng vọt bất thường, dân chúng hoang mang. Lý do là cả chục gian thương đống cửa “chành” (kho dự trữ lúa) không bán ra làm cho cả nước phải điên đảo. Mục đích của họ rất đơn giản: “làm giá” kiếm lời. Nghĩa là thị trường gạo khan hiếm, mức cung do họ nắm giữ, không bán ra, không thỏa mãn nhu cầu của quần chúng, giá gạo phải tăng. Bộ Kinh Tế yêu cầu triệu tập một phiên họp liên bộ do Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ chủ tọa có Tổng Trưởng Kinh Tế Hoàng Khắc Thành, và Tổng Trưởng Cải Tiến Nông Thôn Trần Lê Quan tham dự. Tôi là chuyên gia của bộ, ngồi sau lưng ông Tổng Trưởng với đầy đủ hồ sơ sản xuất lúa gạo miền tây. Cuộc hợp rất gay cấn. Bàn thảo sôi nổi chỉ vì sự ù lì của người Hoa kiều, chính phủ bí lối, nhưng không thể áp dụng luật rừng là sung công. Cho nên ông Hoàng Khắc Thành nổi nóng đến độ sổ một tràng tiếng Pháp “Je les mettrai en prison tous ces salauds là” (tôi sẽ bỏ tù tất cả những thằng khốn nạn đó). Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cười thách thức:
- Toa giỏi thì bỏ tù tụi nó đi, toa tưởng tụi nó vô tù rồi dân mình sẽ có gạo ăn sao? Moa đã từng ngồi chỗ của toa rồi, moa đã từng hăm dọa đủ điều, rốt cuộc cũng phải thương lượng thôi.
Ðến lượt tôi phải trình bày tổng số lượng gạo sản xuất của miền đồng bằng sông Cữu Long, và kết luận không thể thiếu gạo ăn trong Tháng Năm nầy được. Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ mỉa mai:
- Thôi đi ông kỹ sư ơi, những con số của ông do máy tính trong phòng lạnh đưa ra, chắc gì chính xác và đúng với thực tế.
Tôi rống gân cổ cãi. Nào là chúng tôi tính theo mẫu lúa gặt tại chổ ở nhiều nơi, nào là tổng sản lượng lúa của miền Tây thừa thãi, nào là mức tiêu thụ mỗi đầu người là bao nhiêu, và tất cả đều dựa theo phép tính khoa học của toán xác suất vân vân và vân vân. Kết quả phiên họp không ai hài lòng vì phía chính phủ không có một lợi thế nào để áp lực thương gia. Bộ Kinh Tế đành phải chấp nhận thương lượng để cho giá cả nâng cao một chút. Sau phiên họp về tới bộ Cải Tiến Nông Thôn, ông Tổng Trưởng liền gọi tôi lên văn phòng. Ông trách mắng nhẹ nhàng bằng cách giải thích:
- Anh phải biết tôn ti trật tự ở xứ nầy không giống như ở Pháp, mọi sự phải trái không phải ai cũng có quyền phát biểu ý kiến của mình một cách tự nhiên như vậy. Ở Việt Nam mình, trong những phiên họp cấp cao như thế nầy anh không phải là tham dự viên mà là chuyên gia của bộ, vì vậy anh không có quyền trực tiếp phát biểu, mọi việc phải do chính tôi, hoặc tôi yêu cầu anh đại diện để trình bày. May là ông Phó Tổng Thống không bắt lỗi, buộc anh phải ngồi xuống thì mất mặt anh lắm đấy.
Tôi nhận lỗi và nghiền ngẫm về cung cách sinh hoạt và sự tôn ti trật tự ở Việt Nam. Tôi nhìn nhận tôn ti trật tự là một điều cần thiết, nhưng khi nó biến thành một lực trì trệ cản trở sự tiến bộ và phát triển thì đó là một sai lầm. Tuy nhiên cái lỗi tôi phạm trong phiên họp ngày ấy cũng là cái may mắn cho tôi, về sau nầy Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cho gọi “cái thằng kỹ sư trẻ ngang ngược đó” đến nhà gặp ông nhiều lần và bàn thảo nhiều thứ, từ chuyên môn kỹ thuật đến xã hội, chính trị, v.và và lâu ngày dài tháng, sự thâm tình giữa ông và tôi thể hiện bằng cách ông gọi mầy xưng tao với tôi rất tự nhiên. Tuổi già nghỉ hưu, mỗi khi có ký giả ngoại quốc nào xin tiếp kiến ông đều từ chối gởi họ đến tìm tôi hỏi ý như Georges Saffard ký giả tuần báo Pháp L'Expresse, Kimura Trưởng văn phòng đại diện Ðài Truyền Hình NHK của Nhựt Bổn. Phần tôi học hỏi được với ông rất nhiều về kinh nghiệm đời và sự hiểu biết chính trị của miền Nam.
Cũng trong tinh thần tôn ti trật tự cũ kỹ đó, có lần đích thân ông Tổng Trưởng Trần Lê Quang yêu cầu tôi phải đem cho ông xem ngay một tờ trình tôi mới viết xong, không qua hệ thống giai hành chánh, nghĩa là phải qua ông Giám Ðốc rồi Tổng Thơ Ký, đến Ðổng Lý mới vào được tay ông Tổng Trưởng. Sự việc nầy làm cho ông Tôn Thất Trình bực tức vì tờ trình không thông qua ông là Tổng Thơ ký mà đã có bút phê và chỉ thị của ông Tổng Trưởng rồi. Phần tôi thì không thể cãi lệnh ông Tổng Trưởng được. Tình trạng “trên đe dưới búa” của tôi không được ông Trình thông cảm vì ông đã tiêm nhiễm cái thói quen cửa quyền. Cho nên thời gian sau đó mỗi lần sở của tôi có tờ trình lên bộ là ông hay bắt bẻ dù đúng dù sai. Tôi cũng thường phê ngược lại nêu rõ những điều sai trái trong nhận xét của ông Tổng Thơ Ký. Sự việc nầy trở thành khôi hài và là một thú vui của nhân viên trong bộ được chứng kiến màn “trứng dám chọi đá.” Khôi hài hơn nữa là ngay đến viên thư ký riêng của ông Tôn Thất Trình tên là Thùy, cũng “ăn có” xen vào phê phán trên bản phúc trình càng bậy hơn. Sau ngày đảo chánh ông Diệm, anh Thùy chạy sang làm Chánh Sự Vụ Sở Ngân Sách Ngoại Viện Bộ Thanh Niên, tình cờ duyên số khiến anh gặp lại tôi đảm nhiệm chức vụ Tổng Trưởng. Liền sau khi Bác Sĩ Nguyễn Tấn Hồng ký tên bàn giao và từ giã bước ra khỏi phòng, tôi mới ngồi vào bàn giấy thì anh Thùy xin yết kiến liền, mặt mày lộ vẻ sợ hãi vì anh nghĩ tôi sẽ ghi nhớ chuyện cũ mà “đì” anh một cách thê thảm. Anh trình tôi đơn xin từ chức.
Xem đơn xong tôi cười vui vẻ nói:
- Tụi mình chỉ có hai đứa từ Bộ Canh Nông sang mà anh đành bỏ tôi sao anh Thùy?”
Anh trố mắt ngạc nhiên trả lời:
- Nếu ông Tổng Trưởng còn chấp nhận dùng tôi ở đây thì tôi xin nguyện hết lòng phục vụ ông Tổng Trưởng.
- Anh yên chí, cứ thi hành nhiệm vụ của mình cho tốt là được rồi, tôi cộng tác với nhân viên không vì tình cảm hay bà con quen biết mà là do sự siêng năng tận tình và hiểu biết công việc.
Thực tế ông Thùy giữ lời hứa một cách nghiêm chỉnh.
12
Tranh chấp nội bộ bắt đầu
Khi ông Trần Văn Hương thay thế Nguyễn Văn Lộc thành lập nội các có yêu cầu ông Tôn Thất Trình tiếp tục giữ chức Tổng Trưởng Canh Nông, anh Nguyễn Văn Hảo điện thoại cho tôi với vẻ bực tức nói:
- Triều toa biết tay nào làm Tổng Trưởng Canh Nông không?
- Moa không để ý vì không muốn can dự vào việc đó.
- Tôn Thất Trình! Bộ hết người rồi sao mà ông già Hương tiếp tục để cho Tôn Thất Trình ngồi đó?
- Moa không biết.
Tôi trả lời với Nguyễn Văn Hảo như vậy, nhưng thâm tâm cũng thấy anh Hảo nói đúng bởi vì Hảo biết Tôn Thất Trình quá nhiều, vì khi ông ta làm Tổng Thơ Ký Bộ Cải Tiến Nông Thôn thì Nguyễn Văn Hảo giữ chức Tổng Giám Ðốc Nông Tín Cuộc và Hợp Tác Xã trực thuộc bộ. Sau này, Nguyễn Văn Hảo trở thành Tổng Ðốc Quỹ Phát Triển rồi những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa anh là Phó Thủ Tướng Ðặc Trách Kinh Tế kim nhiệm hai Bộ Canh Nông và Bộ Kinh Tế.
Tôi biểu đồng tình với Nguyễn Văn Hảo và nghĩ rằng sự hiểu biết về chuyên môn không mà thôi chưa đủ để lãnh đạo một bộ trong nội các. Tôi liền đến tư gia anh Huỳnh Văn Ðạo, nơi mà cụ Trần Văn Hương đang thành lập nội các. Tại đó tôi thấy cụ Hương đang thuyết phục anh Nguyễn Văn Bông, Viện Trưởng Viện Quốc Gia Hành Chánh, nhận chức Tổng Trưởng Giáo Dục, có sự hiện diện của Huỳnh Văn Ðạo là Tỏng Trưởng Phủ Thủ Tướng tương lai của Trần Văn Hương. Nguyễn Văn Bông từ chối.
Hai bên, cụ Hương và anh Bông nói gì với nhau trước đó tôi không rõ, hiện tại chỉ nghe hai người lập đi lập lại một câu giống nhau, ông Hương nói: “Em tin qua đi”, còn anh Bông cũng lập lại: “Bác tin tôi đi”. Tôi cắt ngắn, xen vào hỏi cụ Hương. Sở dĩ tôi được phép xía vào việc đại sự của cụ Trần Văn Hương là vì chính tôi và một số anh em chủ trương đưa cụ trở lại chính trường trong lúc cụ bị Ðại Tướng Nguyễn Khánh giam lỏng tại nhà mát của Ðức Tổng Giám Mục Ngô Ðình Thục ở vũng Tàu. Vấn đề này sẽ được trình bày cặn kẽ sau này.
- Bác đã cử ai làm Tổng Trưởng Canh Nông?
- Em Tôn Thất Trình.
- Tôi nghĩ Tôn Thất Trình không phải là người thích hợp trong chức vụ này mặc dù anh ta là một kỹ sư biết nghề.
- Vậy chớ em giới thiệu ai?
- Tôi không muốn giới thiệu ai cả.
- Vậy thì Trương Thái Tôn và Phan Bá cầm em muốn cử ai?
- Ông Phan Bá cầm làm sao biết gì về canh nông mà bác muốn cử? Nói xong tôi xin cáo từ, để cho cụ Hương tiếp tục làm nhiệm vụ.
Tại sao tôi phản đối việc cử Tôn Thất Trình làm Tổng Trưởng là vì tôi nghĩ một cách ngay tình rằng cung cách lãnh đạo của ông không thể thực hiện được việc canh tân và phát triển ngành nông nghiệp của đất nước. Còn về lý do mà Nguyễn Văn Hảo tỏ sự bất đồng với ông Trình thì quả thực anh không có chia sẻ ý kiến đó với tôi, nên tôi không rõ.
Một kỷ niệm khác, cuối năm 1962 quân Bắc Việt xâm nhập miền Trung và Cao Nguyên ngày càng nhiều hơn. Lượng gạo tiếp tế cho miền Trung ngày càng tăng, vượt quá mức tiêu thụ tính theo đầu người. Tổng Thống Ngô Ðình Diệm ra lệnh thành lập phái đoàn liên bộ đi điều tra và thi hành việc “Phong Tỏa Kinh Tế Ðịch”. Ðại diện Bộ Kinh Tế là Trần Ngọc Liễng, Trưởng Phái đoàn và Lê Phước Trọng, Chánh Sự Vụ sở Nội Thương, Ðại Úy Trần Kim Hoa sau là Ðại Tá Chánh Võ Phòng phủ Thủ Tướng, hiện định cư tại Houston và một Trung Úy khác tôi không nhớ tên, đại diện Bộ Quốc Phòng, ông Nguyễn Văn Kha đại diện Bộ Nội Vụ, một Y Tá Trưởng tôi cũng quên tên, đại diện Bộ Y Tế, và tôi đại diện bộ Cải Tiến Nông Thôn. Chúng tôi đi khắp miền trung, năm đó có bão, máy bay quân sự của Mỹ phải đáp khẩn cấp xuống sân banh của một xã thuộc Tỉnh Quảng Tín, xe Jeep có thiết giáp hộ tống đưa chúng tôi về tỉnh. Sau bao nhiêu phiên họp với toàn bộ nhân viên và cấp chỉ huy của tất cả các tỉnh miền Trung, kết quả: gạo có thất thoát, một số tỉnh không kiểm soát nỗi để Việt cộng tịch thu lúa của nông dân, một số tỉnh khác được tiếp tế gần như toàn bộ nhu cầu gạo của dân chúng, làm mất đi gần hết sản lượng lúa của tỉnh mình. Thực tế lúa gạo đi ngả nào lọt vào tay việt cộng thì không ai biết. Về đến Nha Trang chúng tôi dừng lại hai ngày để viết tờ trình, Trưởng phái đoàn Trần Ngọc Liểng là Giám Ðốc Kinh Tế Miền Trung nên ông viết tờ trình khác với thực tế, khác với ý kiến của anh em. Tôi không bằng lòng ký tên. Ông Liễng nài nỉ, bảo rằng “cậu” Cẩn rất oai quyền và có thể sinh sát dễ dàng ở Miền Trung, kể cả ở Sài Gòn, nên mình phải uyển chuyển. Tôi vẫn không đồng ý ký tên. Cuối cùng ông Liễng đề nghị tất cả ký, ngoại trừ tôi, và nếu tôi muốn làm tờ trình riêng thì cứ tự nhiên làm.
Tôi đồng ý, về tới Sài Gòn tôi viết tờ trình lên bộ kể rõ sự việc. Kết quả Tổng Thống ra lệnh phải đi điều tra lại. Vẫn phái đoàn này, vẫn số thành viên cũ không thay đổi. Vì sợ bị khiển trách có thể đưa đến mất chức hay nguy hiểm hơn nữa nên ông Liễng trách móc tôi nặng nề trong đó có câu làm tôi tức cười nên nhớ mãi: “Tao nói thách, tưởng mầy không dám làm tờ trình riêng cho Tổng Thống, ai ngờ mầy làm thiệt”. Sự thật tôi có làm tờ trình cho Tổng Thống đâu. Chỉ trình cho bộ để chứng tỏ tôi chu toàn trách nhiệm của mình thôi. Nhưng chính Tôn Thất Trình lấy công với Tổng Thống bằng cách dâng tờ trình này cho “ông cụ”. Ra tới Nha Trang chúng tôi tạm ngừng đó, tất cả mọi người đề nghị tôi viết tờ trình theo ý mình rồi họ đồng ký tên, bởi vì nếu chúng tôi có đi trở lại một vòng nữa khắp các tỉnh thì cũng dự những phiên hợp như lần trước, nghiên cứu những tài liệu cũ, đúc kết phần kết luận như tôi đã đề nghị. Một ngày sau tôi viết xong tờ phút trình, nhưng chúng tôi không dám trở về Sài Gòn ngay, sợ bộ quở trách, bởi vì trong hai ngày làm sao đi kiểm tra khắp các tỉnh được? Vì vậy chúng tôi đếm bằng số ngày đã đi lần trước và lợi dụng ở lại nghỉ mát tại Nha Trang, tắm biển, ăn cua ghẹ uống rượu đế.
Kết quả Bộ Kinh Tế sẽ căn cứ theo những con số do phái đoàn kiểm tra và đề nghi lượng gạo để tiếp tế cho miền Trung. Các vị Tỉnh Trưởng sẽ tùy nghi kiểm soát lượng gạo thất thoát chuyển vào mật khu cộng sản nêu có. Hai chuyến đi miền Trung này có vất vả, có buồn vui nhau, nhưng cuối cùng tôi trở thành bạn thân với gần như tất cả những người trong phái đoàn kể cả ông Liểng và nhứt là ông Ðại Úy Trần Kim Hoa đại diện Bộ Quốc Phòng.
13
Xáo trộn chính trị sau cuộc đảo chính 1963
Những người bạn đã từng hoạt động trong Liên Ðoàn Công Giáo Paris, ở Pháp về Việt Nam kẻ trước người sau khá đông. Anh em tập hợp nhau thành lập Phong Trào Trí Thức Công Giáo, thuộc phong trào quốc tế “Pax Romana”. Bác Sĩ Nguyễn Văn Ái, Viện Trưởng viện Pasteur, đứng đầu phong trào. Ông cũng là cựu Chủ Tịch Liên Ðoàn công Giáo Paris thời ông còn là du học sinh. Tôi mới về nước gia nhập ngay vào phong trào, về sau tôi được giao trách nhiệm Tổng Thơ Ký hội trí thức Công Giáo. Cũng trong khoản thời gian đó, dù tôi là một giáo dân không sống đạo một cách “sốt sắng”, nhưng linh mục Nguyễn Viết Cư, Tuyên úy phong trào “Công Giáo Tiến Hành” toàn quốc, yêu cầu tôi đảm trách công việc của Tổng Thơ Ký, làm việc chung với ông Chủ Tịch là luật sư Nguyễn Văn Huyền, người đạo đức gương mẫu, sau là Thượng Nghị Sĩ, Chủ Tịch Thượng Nghị Viện Việt Nam Cộng Hòa. Ðồng thời tôi lại phải làm công việc của thư Ký “Văn Phòng Liên Lạc Cạnh Tòa Tổng Giám Mục Saigon”. Rồi linh mục Hồ Văn Vui được Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình cử làm đại diện cho Công Giáo trong Hội Ðồng Tôn Giáo, ngài lại yêu cầu tôi cùng với ngài tham dự Hội Ðồng nầy. Với những vị trí nói trên tôi bị cuốn vào trung tâm trận bão chính trị kéo dài gần ba năm trong cuộc đời và biết được khá nhiều chuyện.Tại sao lại có một cơ quan lấy cái tên lạ lùng là “Văn Phòng Liên Lạc Cạnh Tòa Tổng Giám Mục” mà không ai thấy có trong tại bất cứ một địa phận Công Giáo nào ở Việt Nam? Xin thưa, tại vì sau ngày quân đội lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, nhóm người Phật tử cáo buộc ông Diệm thực thi chế độ gia đình trị và bách hại Phật Giáo nên liên tục biểu tình bạo động, tự thiêu, đưa đến cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963. Mặt khác một nhóm giáo dân Công giáo, đa số chối bỏ cộng sản Bắc Việt di cư vào Nam, được Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đặc biệt chiếu cố vì họ bị trắng tay chạy nạn cộng sản. Nhóm Công giáo di cư nầy thương tiếc cụ Ngô, và chế độ Ðệ Nhứt Cộng Hòa, họ cho rằng những xáo trộn chính trị gây sụp đổ chế độ làm lợi cho cộng sản. Theo quan điểm của chính quyền thời đó thì Phật Giáo dựa vào sự góp phần của họ trong việc lật đổ chế độ Ngô Ðình Diệm nên muốn khuynh loát chính quyền, đòi phải diệt trừ người của đảng “Cần Lao” của chế độ cũ đang còn ẩn núp trong chính quyền và mưu toan phục hồi chế độ đệ nhứt Cộng Hòa. Phía Công Giáo tố cáo có cộng sản trá hình, núp dưới chiêu bài Phật tử, mượn danh cách mạng phá hoại quốc gia, chia rẽ tôn giáo.
Về phía chính quyền, các nhân vật lãnh đạo quốc gia lúc thì nhượng bộ bên nầy, lúc nghe theo bên kia, do đó tạo sự xáo trộn không ngừng kéo dài trong một thời gian khá lâu. Hai bên, Phật Giáo và Công Giáo biến quan điểm chính trị dị biệt thành sự kình chống tôn giáo, thậm chí thành thù hận gay gắt giữa hai khối người công dân của miền nam chống cộng. Một vài vị lãnh đạo tinh thần của đôi bên đứng phía sau cố vấn. Thêm vào đó chắc chắn có sự sách động gây rối của bọn Việt cộng nằm vùng làm kẻ “ngư ông hưởng lợi”. Trong hoàn cảnh đó Tòa Tổng Giám Mục cần có một nhóm người theo dõi tình hình để trình Ðức Tổng Giám Mục có đủ dữ kiện xét đoán. Những lý do viện dẫn để xuống đường và bạo động thường không chính đáng, nhưng mỗi lần là một cơ hội để biểu hiện sự thù hằn, tranh chấp và bạo động. Phía giáo dân có linh mục Hoàng Quỳnh cố vấn, bên Phật tử có Thượng Tọa Thích Thiện Minh, nhưng nhân vật thật sự quan trọng thời đó là Thượng Tọa Thích Trí Quang.
Tôi hân hạnh được tiếp xúc với vị Thượng Tọa nầy hai lần tại bệnh viện của Bác Sĩ Nguyễn Duy Tài. Ngài ngồi xếp bằng trên giường, tay cầm tuần báo Time mới nhứt từ từ để xuống bên hông, ngài không lộ vẻ đau yếu bệnh hoạn gì, nói năng chậm rãi, rất thông minh và bén nhạy, thông suốt tình hình chính trị quốc tế và quốc nội, nhận định và lý luận chính xác rõ ràng. Nếu ngài không cạo đầu mặc áo tu hành thì ai cũng phải lầm tưởng ngài là một chính trị gia lỗi lạc thay vì là tu sĩ. Về sau khi tôi ngồi trong nội các chiến tranh, có cơ hội đọc qua hồ sơ, tài liệu của cảnh sát mới biết rằng ngài là một tu sĩ Phật Giáo ở bên kia vĩ tuyến 17, vượt sông Bến Hải, tu tại một chùa thuộc tỉnh Quảng Trị và nhanh chống trở thành vị lãnh đạo tinh thần có uy tín nhứt của Phật Giáo Ấn Quang, dù ngài không phải là Viện Trưởng và không hề giữ một chức vị nào của Viện Hóa Ðạo.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tại trại cải tạo Long Thành, hai vị Dân Biểu Phật Giáo Phan Xuân Huy và Nguyễn Khoa Phước bị công an gạn hỏi nhiều lần biết những gì về Thượng Tọa Thích Trí Quang phải khai. Và tại khám Chí Hòa, một người tôi không hề quen biết, khi đi tắm với cả phòng tập thể tại hồ nước trước phòng 13 khu ED, thấy tôi, ông ta vừa xối nước tắm vừa nói: “Tụi nó bắt tôi phải khai biết gì về Võ Long Triều, Trần Văn Tuyên và Thích Trí Quang. Tôi chẳng biết gì mà khai, nhưng dù tôi có biết cũng chẳng dại gì mà khai”. Tôi thắc mắc rất nhiều về Thượng Tọa Thích Trí Quang, về việc cộng sản kiểm điểm hoạt động của ngài sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975 mà không tìm ra sự giải đáp. Tôi tự hỏi, sau ngày cộng sản chiếm được miền Nam, tại sao Thượng Tọa Trí Quang giữ im lặng hoàn toàn? Tại sao ông không bị câu lưu như đa số các vị lãnh đạo Phật Giáo? Tại sao ông không hề tuyên bố điều gì chống lại chính phủ cộng sản hay bênh vực cho tự do tín ngưỡng khi Phật Giáo bị cộng sản bách hại?
Chính trường ngày càng rối mù tại vì cơ quan đầu não lãnh đạo quốc gia chưa thống nhứt, không thỏa thuận được với nhau một chương trình hành động, chưa nghĩ ra sách lược cai trị nước. Sự xung đột tôn giáo ngày càng dữ dội hơn. Sinh viên xuống đường công khai tỏ thái độ về những vấn đề chính trị nóng bỏng. Chính quyền thay đổi lập trường thường xuyên, thỏa mãn sự phản đối ồn ào của bên nầy hay bên kia, hoặc vuốt ve, mị dân, mua lòng thành phần nào tỏ ra có chút thế lực.
Sau khi đảo chánh thành công Hội đồng Quân nhân cách mạng ra quyết nghị ngày 3 tháng 11 năm 1963, giải tán Quốc Hội và tạm ngưng thi hành Hiến Pháp. Ngày 4 tháng 11 chiếu Hiến Ước tạm thời cử cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ đảm nhiệm chức vụ Thủ Tướng và thành lập nội các, trong đó có ba tướng lãnh, Trung Tướng Trần Văn Ðôn giữ bộ Quốc Phòng và Trung Tướng Tôn Thất Ðính giữ bộ Nội Vụ. Thiếu Tướng Trần Tử Oai giữ bộ Thông Tin.
Tân chính phủ không ổn định được tình hình kinh tế và chính trị. Dư luận quần chúng thông qua báo chí gán cho nội các Nguyễn Ngọc Thơ danh hiệu là “con rùa hành chánh”. Trong khi đó Hội Ðồng Quân Nhân Cách mạng và Chính Phủ muốn tạo một khuôn khổ pháp lý tạm thời cho chế độ bằng cách thành lập “Hội Ðồng Nhân Sĩ” gồm khoản 60 nhân vật có uy tín và đảng viên có thế lực do Chủ Tịch Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng mời tham gia với nhiệm vụ cố vấn cho Hội Ðồng. Về phía Phật Giáo các nhà lãnh đạo vừa ngấm ngầm vừa công khai buộc nhà nước phải thi hành đường lối chính trị theo ý của các ngài. Riêng Hội Ðồng nhân sĩ bầu một Ủy Ban Hiến Pháp và ra thông cáo yêu cầu đồng bào các giới đóng góp ý kiến. Mục đích chỉ để xoa dịu dư luận quần chúng đồng thời cũng muốn đánh tan sự hiểu lầm và đồn đãi là“quân đội làm độc tài, thi hành chính sách quân phiệt”. Sự thật nhóm quân nhân đảo chánh rất e dè vì bị áp lực trực tiếp của Mỹ luôn nhắc nhở họ phải tái lập một chính phủ dân cử.
Không đầy hai tháng sau lại xẩy ra một cuộc “Chỉnh Lý” do Trung Tướng Nguyễn Khánh, đương kiêm Tư Lệnh Quân khu II cầm đầu, lật đổ Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ. Hai tháng qua Hội Ðồng Nhân Sĩ chưa kịp tiếp thu ý dân, chưa có thời gian và điều kiện hoạt động. Nội Các Nguyễn Ngọc Thơ mới thành lập, chưa biết phải làm gì, loay quay trong việc giải quyết những vấn đề thông thường. Không có một sáng kiến mới, không có một chương trình ngoạn mục nào đáp ứng với sự mong đợi của quần chúng, tương xứng với danh từ “Cách Mạng” được rao truyền sau ngày đảo chánh. Tướng Khánh giải thích: Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng chỉ thanh trừng nội bộ mà thôi. Mọi chủ trương đường lối lãnh đạo quốc gia không thay đổi. Nói nôm na là Trung Tướng Dương Văn Minh lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, bây giờ đến lượt Nguyện Khánh lật đổ Dương Văn Minh, viện cớ là trong chính phủ có những Tướng Lãnh thân Pháp, chủ trương trung lập. Các Tướng đó là Trần Văn Ðôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Ðính và Mai Hữu Xuân, bị bắt cùng với một số tùy tùng và bị giam lỏng trong một biệt thự ở Ðà lạt. Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng bầu Tướng Nguyễn Khánh làm Chủ Tịch, kiêm luôn Chức vụ Thủ Tướng và Tổng Tư Lệnh quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Nguyễn Khánh giải tán Hội Ðồng Nhân Sĩ, thành lập chánh phủ.
Người ta khéo léo dùng danh từ “Chỉnh Lý” vì bốn Tướng Lãnh Ðôn, Kim, Xuân, Ðính chủ trương Trung lập. Tôi thiết nghĩ đó chỉ là mượn cớ mà thôi. Những điều tôi ghi nhớ và tài liệu trong sách của tác giả Ðoàn Thêm ghi lại hàng ngày có thể giải thích một cách khác.
Tranh chấp quyền hành
Sau khi Trung Tướng Nguyễn Khánh nhân danh Hội Ðồng Quân Lực tuyển nhiệm ông Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng, cắt cử ông Phan Huy Quát làm Thủ Tướng và quyết định thành lập Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp ngày 17 Tháng Hai, tình hình chính trị cũng không ổn định hơn được, bởi vì hai gày sau đó có một cuộc đảo chánh hụt. Bên trong khởi sự có những cuộc tranh chấp quyền lực mới với những lý do mới. Bên ngoài, ngày 3 Tháng Ba năm 1965, Tổng Thống Johnson tuyên bố mở rộng chiến tranh tại Việt Nam đồng thời khen binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa là thiện chiến nhứt thế giới. Thủ Tướng Phan Huy Quát ra thông cáo yêu cầu Hoa Kỳ gởi thêm quân tham chiến. Việt Nam tăng thêm 160.000 quân. Tàu Liên Sô chuyên chở vũ khí và hỏa tiễn cho Bắc Việt. Ðại Hàn và Phi luật Tân đưa quân vào chiến đấu tại Việt Nam. Ngày 28 Tháng Tư, Tướng Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố nên lập mặt trận giải phóng Bắc Việt. Ngày 5 Tháng Năm, Hội Ðồng Quân Lực tuyên bố giải tán để các Tướng lãnh trở về nhiệm vụ quân sự thuần túy.
Việc tăng quân số lộ ra một vấn đề thật đáng chú ý là người Việt gốc Hoa trốn tránh bằng mọi cách. Sống an toàn để khai thác thương mại, hưởng lợi kinh tế thì có họ, bảo vệ quốc gia, chống xâm lăng cộng sản thì họ lẩn trốn. Thanh niên tuổi lính vượt biên sang Miên hoặc lẩn trốn theo các kiện hàng hay hầm tàu buôn về Hồng Kông, Ðài Loan, Trung Quốc. Ðến mức độ bộ Quốc Phòng phải ra thông cáo ngày 19 Tháng Năm năm 1965 kêu gọi tinh thần hiểu biết và trách nhiệm công dân của thanh niên người Việt gốc Hoa vì số người nhập ngũ quá ít so với số công dân chính thức.
Trong bối cảnh đó tin đồn đảo chánh loan truyền liên tục, dân Sài Gòn thường thấy phi cơ man bom đầy hai cánh lượn trên thành phố mà không biết chuyện gì đã hay sẽ xẩy ra. Ngày 21 Tháng Năm, Thủ Tướng tuyên cáo có âm mưu đảo chánh hụt, ngày 24 Tháng Năm văn phòng Quốc Trưởng thông báo những ngày 19 và 20 Tháng Năm Quốc Trưởng đi kinh lý nên không hề biết có âm mưu đảo chánh. Hai bản thông cáo gieo nghi ngờ, thắc mắc trong lòng dân chúng, thì ngày hôm sau 25 Tháng Năm, Thủ Tướng Phan Huy Quát trình diện nội các cải tổ. Giữa buổi trình diện Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu cho biết không hề ký bổ nhiệm hai ông Trần Văn Thoàn tân Tổng Trưởng Nội Vụ và Nguyễn Trung Trinh tân Tổng Trưởng Kinh Tế bởi lẽ hai ông Nguyễn Hòa Hiệp và Nguyễn Văn Vịnh không từ chức. Mâu thuẫn nội bộ trở thành công khai. Ông Quát dựa theo hiến chương ngày 20 Tháng Mười năm 1964 lấy quyền Thủ Tướng cách chức Tổng Trưởng, Ông Sửu nhân danh Quốc Trưởng không ký bổ nhiệm. Bên ngoài đồn đãi có sự tranh chấp Bắc Nam, lại thêm một vấn đề quan hệ đến sự ổn định tình thế. Vấn đề đã rối lại càng rối thêm.
Sự tranh chấp quyền hành một cách công khai làm hoan mang ngao ngán dư luận, gây bất mãn càng nhiều, cho nên ngày 27 Tháng Năm linh mục Hoàng Quỳnh và Lực Lượng Ðại Ðoàn Kết yết kiến Quốc Trưởng đua kiến nghị bất tính nhiệm Thủ Tướng Phan Huy Quát. Ngày 1 Tháng Sáu linh mục Hồ Văn Vui và Mặt Trận giáo dân Công Giáo cũng gặp Quốc Trưởng đưa kiến nghị bất tính nhiệm chính phủ Quát. Ngày 2 Tháng Sáu một kiến nghị khác do khối công dân Tổng Giáo Hội Phật Giáo, Thích Chân Bổn ký; khối công dân Hòa Hảo do cụ Lương Trọng Tường ký; khối công dân Cao Ðào do ông Lê Văn Trung ký; khối công dân Công Giáo do linh mục Hoàng Quỳnh ký gởi Quốc Trưởng bất tính nhiệm Phan Huy Quát. Cùng ngày Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo ra thông cáo phản đối chính phủ Quát hạn chế quyền tự do tôn giáo bằng một dự thảo quy chế tôn giáo.
Lực lượng Quốc Gia Thống nhứt, gồm một số đảng phái chính trị, Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Xã Hội, Tân Ðại Việt v.v.. ra thông cáo yêu cầu chính phủ tránh mọi hành động gây chia rẽ. Phái đoàn Việt-Hoa chống cộng, phái đoàn Phật Giáo Hòa Hảo Nguyễn Long Châu yêu cầu Quốc Trưởng ổn định tình thế. Hai trăm cụ già đến dinh Quốc Trưởng yêu cầu giải quyết cuộc khủng hoảng. Hơn 100 sinh viên cũng kéo tới dinh Quốc Trưởng yêu cầu giải quyết. Phái đoàn nam nữ thanh niên Phật Tử tới dinh Gia Long yêu cầu ổn định tình thế. Ngày 9 Tháng Sáu năm 1965 Thủ Tướng Phan Huy Quát họp báo giao trả quyền hành cho các tướng lãnh đảm trách việc cai trị đất nước cho đến khi có chính phủ dân cử. Ngày 14 Tháng Sáu các Tướng Lãnh thành lập Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia do Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ Tịch và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương do Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ Chủ Tịch. Nội các Phan Huy quát tồn tại được 3 tháng 26 ngày. Một giai đoạn mới bắt đầu.
Trong một phiên họp thường xuyên của Văn Phòng Liên Lạc Cạnh Tòa Tổng Giám Mục hai vị linh mục Hoàng Quỳnh và Hồ Văn Vui đặt vấn đề quân đội thi hành chính sách quân phiệt. Bàn thảo sôi nổi giữa hai ý kiến chờ xem và lập tức ra thông cáo phản đối. Phiên họp chấm dứt không có quyết định hẹn nhau chiều ngày hôm sau sẽ tiếp tục bàn. Cuối cùng Văn Phòng quyết định xin yết kiến Trung Tướng Chủ Tịch Hội Ðồng Lãnh Ðạo Quốc gia để bài tỏ sự lo ngại của phía giáo dân công giáo. Linh mục Hồ Văn Vui gọi điện thoại cho văn phòng Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu thì được yêu cầu tiếp xúc với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Nói chuyện với linh mục Hồ Văn Vui, Thiếu Tướng Kỳ hẹn với ông 10 giờ sáng ngày hôm sau. Sáng hôm đó nhựt báo Xây Dựng của linh mục Lãm đăng bản nhận định của Văn Phòng Liên Lạc Cạnh Tòa Tổng Giám mục phản đối chế độ độc tài quân phiệt nếu quân đội có chủ trương thi hành chính sách đó. Các vị tu sĩ không muốn để tên mình chính thức và công khai can thiệp vào việc đời nên tôi và Lý Chánh Trung ký tên phổ biến bản nhận định nầy.
Phái đoàn của Văn Phòng gồm linh mục Hồ Văn Vui, Hoàng Quỳnh, Nguyễn Quang Lãm, LS Nguyễn Văn Huyền, ông Nguyễn Gia Hiến, Lý Chánh Trung và tôi. Ðúng 9 giờ 55 sáng chúng tôi có mặt tại văn phòng Tư Lệnh không quân trại Phi Long. Chờ đến 10 giờ 5 phút tôi lưu ý Thiếu Tá Phan Văn Minh, Chánh Văn Phòng đặc biệt của Thiếu Tướng Kỳ, sau này là Ðại Tá Ðổng Lý Văn Phòng Phủ Phó Tổng Thống, rằng chúng tôi có hẹn 10 giờ mà bây giờ là 10 giờ quá 5 phút rồi. Vị Chánh Văn Phòng trả lời Thiếu Tướng đang tiếp khách. Tôi bất bình thưa lại với các vị linh mục là phép xã giao không cho phép người có chức quan trọng sai hẹn quá 5 phút. Các vị linh mục trách tôi là quá nóng nảy.
Ðến 10 giờ 15 là sai hẹn một cách không thể chấp nhận được, tôi đề nghị phái đoàn ra về và ghi nhận Ông Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương coi thường và không muốn tiếp phái đoàn. Không ai đồng ý ngoại trừ linh mục Hoàng Quỳnh, tôi đứng dậy ra đi và nói quí vị cứ ở lại không có tôi, tất cả đành bỏ về theo linh mục Quỳnh và tôi. Ra đi khỏi văn phòng độ 10 thước Thiếu Tá minh chạy theo xin lỗi bảo rằng Thiếu Tướng mời quí vị vào. Phái đoàn trở lại gặp ngài Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Vừa bắt tay chào hỏi xong, Tướng Kỳ mời chúng tôi ngồi. Xong xáo vào đề ngay: “Chúng tôi chủ trương làm cách mạng. Các chính phủ dân sự không chu toàn nổi nhiệm vụ cho nên quân đội phải đứng ra lãnh trách nhiệm.” Tôi đang sùng trong bụng vì cách đối xử không đúng lễ nghi của ông, đồng thời cũng vì vậy mà các linh mục trách cứ phiền hà tôi về tội nóng nải quá đáng, nên tôi hỏi vặn ông ta một cách sỗ sàng gần như vô lễ.
Thiếu Tướng nói làm cách mạng mà thiếu tướng có hiểu và định nghĩa được hai chữ cách mạng cho chúng tôi nghe không?
Tướng Kỳ lại thao thao bất tuyệt, nói nhiều về sự hy sinh của quân đội, về tuổi trẻ, về đất nước, về kỷ luật quốc gia ông diễn tả gần như cả một ước mơ của ông không dính dấp gì với câu hỏi của tôi đưa ra cả. Tôi lại dặn hỏi: “Thiếu Tướng muốn làm người hùng như kiểu Ðại Tá Nasser của Ai Cập mà không biết Thiếu Tướng có đọc quyển sách “Triết Lý của Một Cuộc Cách Mạng” (Philosophie d'une révolution) do Ðại Tá Nasser viết chưa?”
Chưa.
Vậy thì Thiếu Tướng rêu rao làm một cuộc cách mạng mà không định nghĩa được cách mạng là gì, muốn làm người hùng kiểu Nasser mà không biết Nasser là ai, không dọc ông ấy đã viết những gì thì làm sao khẳng định và thuyết phục được chúng tôi là quân đội chủ trương và có khả năng làm cách mạng?
Ông Kỳ lại hăng say xác định tập thể quân đội là một tập thể hùng mạnh, thành viên của quân đội là do thanh niên, là trí thức từ trong dân chúng mà ra. Vậy còn ai xứng đáng và có khả năng hơn nữa?
Tôi trả lời: Thiếu Tướng lại xác định một cách trống rỗng. Cách mạng phải có chủ trương đường lối, phải có lãnh đạo. Cách mạng không phải lời nói suông, không phải một sự tưởng tượng, càng không phải là một sự ước mơ.
Hai vị Linh Mục Hồ Văn Vui và Nguyễn Quang Lãm can thiệp vào yêu cầu Thiếu Tướng Kỳ ghi nhận là Phái đoàn đại diện cho giáo dân công giáo cảnh báo và yêu cầu quân đội không nên áp đặt chế độ độc tài quân phiệt cho miền Nam.
Cuộc tiếp xúc tương đối ngắn chỉ có một mình tôi hằn học bắt bẻ, cho nên các vị linh mục và anh Nguyễn Văn Huyền lo lắng cho sự an ninh của tôi, e rằng tôi có thể bị bắt giam bất cứ lúc nào. Phần tôi thì có hơi sợ nhưng thấy hả dạ nhẹ lòng vì đã nói cho vị đại diện quân đội hiểu được rằng họ chủ trương làm việc lớn mà không được chuẩn bị, không hiểu biết phải làm sao? Bây giờ nghĩ ra đó chỉ là sự ngan bướng của tuổi trẻ, có nhiệt quyết nhưng chưa được tôi luyện bằng kinh nghiệm đời. Ngày hôm sau vào khoản 7 giờ tối, hai linh mục Nguyễn Quang Lãm, Hồ Văn Vui, anh Ly Chánh Trung và tôi đang ngồi ăn chả cá ở tiệm Như Ý đường Calmet gần chợ Tân Ðịnh, bỗng nhiên anh chiêu đãi viên đến hỏi vị nào là Chủ Nhiệm báo Xây Dựng có người điện thoại chờ ở đầu dây. Linh mục Lãm xin phép đứng dậy đi. Vài phút sau ngài trở lại xin lỗi vì có việc gắp phải đi. Ngài còn vui vẻ bảo “Tớ đã trả tiền rồi nhé”. Ăn xong tôi về nhà đánh máy bản Nhận Ðịnh thứ hai của Văn Phòng Liên Lạc Cạnh Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn nội dung viết rằng: Nếu chính quyền áp đặt một chế độ độc tài quân phiệt thì chẳng khác gì cộng sản và chẳng những sẽ không được sự ủng hộ của quần chúng mà còn gây xáo trộn cho miền Nam nhiều hơn. Ðiện thoại nhà tôi reo, bên kia đầu dây tiếng nói của cha Lãm:
Xe tớ bị pane ở đường Công Ly,ù trước cửa nhà số 168, “toa” làm ơn đến đây rước giùm “moa” được không?
Ðương nhiên là được, ở đó chờ “moa” đến ngay.
Thuở đó đường Công Lý còn chạy hai chiều, tôi từ ngã tư đường Trần Cao Dân chạy lên Công Lý, ngừng phía bên kia đường, ngoắc cha Lãm qua, ngài không qua, tôi kêu lớn: Không qua, “moa” chạy luôn về nhà đấy. Cha Lãm cứ một mực nài nỉ, tay ngoắc tôi lia lịa, bảo tôi quẹo sang bên kia đường. Ngừng xe tôi mời ông lên để chở về. Ông lại yêu cầu tôi khóa xe, xuống để nghe ông nói một việc quan trọng. Nguyên văn như sau:
“Thằng Kỳ gọi “tao” lên trại Phi Long, nó hỏi “tao”: “Cái thằng ngồi trước mặt chống đối tôi hung hăng trong buổi tôi tiếp kiến quí vị là tên gì? Ở đâu? Xin linh mục làm ơn cho tôi biết địa chỉ và số điện thoại nhà nó”. (mối thăm tình giữa cha Lãm và tôi có từ thời sinh viên ở Paris, cách xưng hô với nhau lúc thì “tao, mầy” vỉ ông là cha và tôi là con, lúc thì “ông tớ” lúc thì “toa moa” thân thiện tùy hứng, theo kiểu văn hóa Pháp). “Tao” đinh ninh 100% là nó sẽ ra lệnh bắt “mầy” nên “tao” khẳng định nếu Thiếu Tướng bắt anh nầy thì công giáo sẽ biểu tình ngay. Bởi vì thứ nhứt, Ðức Tổng Giám Mục và cha Hoàng Quỳnh rất thương nó, thứ hai, buổi tiếp xúc đó là chúng tôi đại diện cho giáo dân công giáo. Ông Kỳ trả lời:
“Tôi bắt nó làm gì? Nếu muốn bắt chẳng lẽ cảnh sát không tìm ra được địa chỉ của nó sao? Tôi có ý định mời nó tham gia nội các”.
“Tao” nhẹ nhõm nhưng lại nhủ thầm: Thôi bỏ mẹ rồi, chắc chắn là “mầy” không chịu, nên cho địa chỉ thì “mầy” sẽ kêu ầm lên, rồi lại gây gổ với “tao” nữa, còn không cho thì phải ăn nói với người ta làm sao đây? “Tao” một mực khẳng định là “mầy” không chịu đâu, bởi vì chính “mầy” lo ngại quân đội áp đặt chế độ độc tài mà. Ông Kỳ một mực yêu cầu “tao” dàn xếp cho ông ta gặp được “mầy”, rồi nhận tham gia hay không sẽ hay. Vậy “tao” chỉ còn có một đường là nói gạt cho “mầy” lên đây. Nói xong ông cười ha hả rất khả ố. Tôi trả lời:
Không gặp quân phiệt.
Cha Lãm nài nỉ: “mầy” đừng làm mất mặt “tao” tội nghiệp, “tao” đã lỡ hứa với ông ta rồi, thì “mầy” cứ vô đó gặp ông ta rồi sẽ trả lời không nhận tham gia có thiệt hại gì đâu?
Nể mặt ông tôi bằng lòng gặp Tướng Kỳ với điều kiện có mặt ông. Nghĩa là để giúp ông giữ lời hứa với người ta.
Tướng Kỳ mặc bộ hắc y, mang súng lục kè kè, vui vẻ nói:
Thế nào? Tôi mời anh tham gia nội các với chức Tổng Trưởng Thanh Niên, thay thế tôi, chúng ta sẽ cùng nhau làm một cuộc cách mạng thật sự.
Trong gần 15 phút thuyết phục tôi, lời nói cử chỉ của ông hiện rõ lòng thành, ý chí phấn đấu, mục đích muốn xây dụng một điều gì tốt đẹp, nhưng diễn tả bằng những đại ngôn trống rỗng, nào là hy sinh mạng sống, sẵn sàng lấy cái chế để đền nợ nước vân vân và vân vân, ngôn ngữ khôi hài với sự tự tin quá đáng, ông Kỳ cho tôi một cảm giác ngờ vực. Một ông Tư Lệnh không quân, từ nhỏ đến nay chỉ biết bay và giội bom. Tổ chức quốc Gia, xã hội phải như thế nào? Kinh tế, chính trị là gì chắc chắn ông không biết. Nếu có đọc, có học, có biết thì đã phơi bầy với tôi mấy ngày qua rồi và trong 19 tháng 17 ngày ròng rã, tình hình chính trị sôi sục tại sao ông không có một lời bình phầm? Bây giờ ông lại nắm quyền cai trị tôi không yên lòng hợp tác với tư cách một người lính tòng quân. Tôi chưa dám đứt khoát từ chối vì sợ thành tích chống đối của tôi có thể biến thành bất lợi, nên tìm cách hoãn binh để về nhà suy nghĩ.
Xin Thiếu Tướng cho tôi suy nghĩ vài ngày sau tôi sẽ trả lời.
Không còn kịp đâu, anh ngồi đây suy nghĩ, nửa giờ sau trả lời. Ngày mai chúng tôi phải trình diện nội các rồi.
Xin thưa với thiếu Tướng, lập nội các là một việc trọng đại, không thể trong vài giờ mà ông chọn được những cộng sự viên mà ông chưa hề quen biết, có tâm đồng ý hợp, cùng chung quan điểm chính trị với ông và giữa họ với nhau. Mỗi người làm cách mạng theo kiểu của mình à? Ông là Thủ Tướng, họ là Tổng Trưởng chớ đâu phải ông là Tư lệnh họ là lính? Nếu suy nghĩ trong nửa giờ mà tôi trả lời không, hay nhận chức vụ nầy thì ông cũng không nên dùng tôi, bởi vì chuyện trọng đại như vậy mà quyết đoán không có tính toán, không biết đồng viện của mình là ai? Không rõ lập trường của họ có đồng thuận với mình hay không thì làm sao tôi nhận lời mời của Thiếu Tướng được?
Thôi anh về suy nghĩ đi, 12 giờ khuya trở lại đây trả lời cho tôi rõ.
Thiếu Tướng Kỳ lễ phép đưa chúng tôi ra cửa, trên đường đi ông nói: Sợ gì, anh và tôi chúng ta mua sẵn hai cái hòm, thành công thì dân tộc nhờ, chết cũng vì tổ quốc. Tôi giựt mình, vừa buồn cười vừa cảm kích, phải chăng lời nói đó có nghĩa là ông đã kết tôi là bạn tâm tình, là đồng chí đồng hành rồi? Hay là dùng đại ngôn để dụ dỗ những kẻ ngây ngô?
Ra khỏi nhà, về sau tôi mới biết nhà nầy là tư thất của Tổng Trưởng Thông Tin, linh mục Lãm và tôi chỉ bàn việc từ chối có thể xem như chống đối và thách thức, có thể bị tù. Túng thế quá tôi đề nghị đến nhà anh Luật Sư Huyền hỏi ý kiến. Anh Huyền cũng loay quay chung quanh ý nghĩ không nên tham gia và có thể sẽ bị bắt. Tôi bèn nghĩ đến người bạn chí thân, người cha linh hồn, người cố vấn sáng suốt, có thể nói là người thầy đáng kính của tôi là linh mục Nguyễn bình An, bề trên dòng Phanxicô đêm nghĩ ở tu viện Thủ Ðức, chúng tôi lao xe đến nhà dòng, vị tu sĩ mở cửa, sửng sốt, linh mục An ngạc nhiên, chúng tôi kéo qua nhà của Lý Chánh Trung ở bên cạnh đó, làng đại học Thủ Ðức, để nói chuyện vì không tiện bàn viêỳc tại nhà dòng, Bàn thảo đủ mọi khía cạnh để đi đến quyết định cuối cùng là lựa một bộ chuyên môn như Canh Nông chẳng hạn, không nên lãnh một bộ khác có tính cách chính trị. Trở lại gặp Thiếu Tướng Kỳ, tôi thông báo quyết định chỉ nhận Bộ Canh Nông mà thôi viện cớ là tuổi thanh niên tôi đi du học, bây giờ trở về tôi không hề giao dịch tiếp xúc với thanh niên làm sao lãnh đạo được anh em, sự thật tôi nói dối. Vì trong khoản thời gian đó tôi tiếp cận với nhiều nhóm sinh viên, thanh niên thông qua các bạn sinh viên trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc mà tôi đang dạy kinh tế nông nghiệp và quản lý nông trại. Chúng tôi luôn luôn đặc câu hỏi: Tình hình nầy, đất nước nguy ngập như vậy, “Phải làm một cái gì”. Nhưng làm cái gì đây? không ai có ý kiến cho rõ ràng. Tôi còn nhớ câu nói nầy anh Trần Văn Ngô, sau là Giám Ðốc Tác Ðộng Tâm Lý của tôi ở Bộ Thanh Niên và là Tổng Giám Ðốc Việt Tấn Xã, hay diễu cợt anh em mỗi khi gặp nhau, anh vừa nói vừa cười, nữa chơi nữa thiệt, “phải làm một cái gì”. Lý lẽ tôi đưa ra không đứng vững và cũng không đúng. Tướng Kỳ lại đổi ý, đề nghị với tôi.
Bộ Canh Nông đã có người rồi, thôi tôi đề nghị anh giữ bộ Phủ Thủ Tướng.
Lại càng không thể nhận, bởi vì cái ghế đó phải dành cho người thân tính nhứt của Thiếu Tướng, còn tôi và ông chưa hề quen biết, chưa tiếp xúc với nhau được hai lần.
Thôi tôi đã hết lời mời anh nhập cuộc phục vụ cho đất nước mà anh vẫn một mực từ chối tôi đành ghi nhận vậy.
Bắt tay chào nhau, tôi thấy nhẹ nhõm, nhưng lòng cứ tự hỏi tại sao anh Tướng trẻ tuổi nầy, không có chút oán hờn đối với mình, người đã từng chống đối ông ta, thậm chí coi thường ông ta, mà nay ông lại ân cần mời mình giữ chức vụ quan trọng bên cạnh ông ta? Thú thật tôi chưa từng thấy ai có được thái độ bao dung nhẫn nhục, nhận xét người đối tượng với mình như vậy. Ðức tính nầy thật hiếm có ở một nhà lãnh đạo cao cấp. Ðiều nầy làm tôi phải kính phục ông. Thông thường đa số ưa thích người nịnh hót mình, trái lại bất bình, thậm chí oán giận những kẻ phê bình chỉ trích mình, bất cần biết lời chỉ trích đó đúng hay sai. Rồi Nội Các trình diện ngày hôm sau, bài diễn văn của Thiếu Tướng Kỳ đầy hứa hẹn chân tình, nhưng lòng tin của dân chúng được bao nhiêu thật khó biết được. Sau đó cứ vài ngày là có điện thoại của Phủ Thủ Tướng, Ông Kỳ hỏi ý tôi về nhiều chuyên liên quan đến tôn giáo, gút mắc chính trị, nhiều khi hình như ông cảm thấy cô đơn nên gọi tôi đến phủ nói chuyện bâng quơ, hay là có dụng ý khuyến dụ tôi nhập cuộc cũng không chừng. Tôi còn nhớ rõ có hai lần chính tôi điện thoại xin gặp ông. Lần Thứ nhứt, khi ông đóng cửa nhiều tờ báo, không biết ai khuyên mà đa số lại là báo của những chủ nhiệm người miền Nam. Dư luận nhao nhao lên là Thủ Tướng người Bắc chèn ép người miền Nam. Linh Mục Nguyễn Quang Lãm, người Bắc tìm gặp tôi ông nói: Coi bộ ông Thủ Tướng thích nghe “mầy” nói chuyện, thử gặp khuyên ông ta nên rút quyết định đó lại. Làng báo nhao nhao “tao” là thằng Bắc Kỳ thấy ngại quá. Tôi bèn điện thoại xin gặp Thủ Tướng, bên kia đầu dây, giọng nói ồ ề:
Gặp “moa” có chuyện gì?
Tôi xin gặp có chuyện trình bày, biết đâu có lợi cho Thiếu Tướng.
Lên ngay bây giờ đi.
Mười phút sau, chúng tôi chào hỏi nhau, rồi tôi vô đề ngay.
Thiếu Tướng nghĩ như thế nào mà quyết định đóng cửa một lược nhiều tờ báo như vậy?
Báo chí gì? Ðó là những tờ lá cải, đóng cửa là phải.
Tôi không biết tự Thiếu Tướng quyết định hay có người phúc trình mà tôi cho rằng quyết định như vậy là sai, là thất chính trị. Bời vì thứ nhứt, nếu thật sự muốn đóng cửa những tờ báo đó thì phải chờ họ có một lỗi lầm nhỏ lớn nào đó rồi mình bắt bẻ xé to ra lấy cớ đong cửa, như vậy dù tâm không phục lý phải phục. Thứ hai đóng cửa một loạt vô cớ đó là độc đoán, độc tài, là điều mà chúng tôi lo ngại quân nhân thi hành chính sách quân phiệt. Nghĩa là cầm súng đe dọa rồi muốn làm gì thì làm. Thứ ba, báo chí là một thứ “đệ tứ quyền” có khả năng hướng dẫn, xoay chiều, bóp mép dư luận có lợi hay bất lợi cho ông tùy họ muốn. Vậy thì mới vừa ngồi vào ghế Thủ Tướng, ông lại gây chiến với báo chí là một sai lầm chính trị to lớn. Hình như Thiếu tướng Kỳ nghe lọt tay, ông bèn chuyển sang chuyện khác, hỏi han tôi đang làm việc gì có ích nước lợi dân? Tôi trả lời đi dạy học và làm thống kê kiểm tra năng suất lúa và tổng sản lượng gạo của miền nam. Chiều hôm đó đài phát thanh phổ biến bài phỏng vấn Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, tiếng ông Kỳ nhỏ nhẹ kể rằng “bà xã tôi đi chợ nghe dân chúng than phiền việc đóng cửa báo, thiếu tin tức bình luận khác chiều, rồi khi đi về bằng Taxi lại nghe anh tài xế nói tờ báo Tiếng Dội mà anh ta thường độc bị vô cớ đóng cửa. Vậy chiều theo ý dân tôi sẽ xét và có thể cho tái bản lại. Vài ngày sau lại có quyết định cho tái bản toàn bộ những tờ báo bị đình bản. Còn chuyện thứ hai tôi ghi nhớ là có một ngày tôi được Hội Chuyên Viên Kỹ Thuật Gia do anh Lương Thế Siêu làm chủ Tịch, mời tôi hợp tại trụ sở của mỏ than Nông Sơn mà anh Siêu là Tổng Giám Ðốc. Chuyên viên kỹ thuật gia bàn về luật tổng động viên trong đó đương nhiên có chuyên viên. Hiện diện trong buổi hợp có khoản hơn 50 người. Nhiều ý kiến lên án chính phủ không sáng suốt, sẽ làm tê liệt kinh tế kỹ nghệ quốc gia, vì chuyên viên đi lính, nhà máy, hãng xưởng đóng cửa. Có ý kiến đề nghỉ miễn dịch, có ý kiến chính phủ nên đồng hóa cấp bực theo chức vụ và văn bằng, có ý kiến xin cho đi lính vài tuần cho biết đời sống quân ngũ và cũng là một hình thức tôn trọng sự công bằng và luật pháp quốc gia, rồi biệt phái họ về ngay nhiệm sở cũ. Nhưng vấn đề là làm sao đạo đạt thỉnh nguyện của chúng ta đến tay ông nhà nước? Tóm lại đa số rất sợ bị động viên! Tôi ngồi yên đấu láo với anh Nguyễn Bá Nhẫn, Giám Ðốc Thương Mại nhà máy Xi Măng Hà Tiên và Nguyễn Khắc Thành Giám Ðốc nhà máy Tân May, không phát biểu ý kiến, vì tôi đã chuẩn bị tư tưởng trước khi hồi hương từ Pháp về, là không trốn lính trong thời chiến. Tôi đưa tay xin phát biểu:
Anh em ở đây muốn đạo đạt thỉnh nguyện của mình tại sao không xin gặp tổng Trưởng Quốc Phòng hay Thủ Tướng? Nhiều tiếng phát biểu nhau nhau, lộn xộn.
Bộ dễ gặp lắm sao?
Ai chịu tiếp mình mà gặp.
Ra tuyên cáo phản đối rồi muốn ra sao thì ra.
Làm reo nghĩ việc cái đã, mấy ổng thấy nguy cơ thì sẽ xét lại.
Tôi đề nghị anh em làm đơn xin yết kiến Thủ Tướng để trình bày sự việc. Lương Thế Siêu mỉa mai “toa” giỏi thì đưa đơn xin cho anh em gặp đi.
Nhiều người thuận theo ý kiến xin gặp, mấy ổng có cho gặp hay không rồi sẽ tính sau. Anh Nguyễn Bá Nhẫn đồng ý nói:
Chúng ta là công chức cao cấp không thể làm ngan được. Tôi bỏ ra ngoài gọi điện thoại cho ông Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, trình bày lý do va xin cho một phái đoàn anh em chuyên viên yết kiến. Ông chấp nhận ngay. Tôi còn gạn hỏi:
Ông cho phép chúng tôi đi bao nhiêu người?
Bao nhiêu cũng được. Ông còn nói đùa, càng nhiều càng tốt.
Trở vào phòng họp tôi thông báo quyết định của Thủ Tướng chấp nhận tiếp kiến anh em. Ða số tưởng tôi nói đùa, tôi phải nhiều lần khẳng định là thật và anh em đề nghị cử người đại diện, tôi bảo không cần, ai muốn đi thi cứ đi. Tôi lại ra ngoài diện thoại lại xin hẹn ngày giờ lên dinh Thủ Tướng trình bày sự việc. Sáng hôm đó Thủ Tướng tiếp kiến 21 anh em chuyên viên tại phòng họp của nội các, không có đủ ghế ngồi, một vài anh phải đứng. Cuộc tiếp kiến vắn tắt, kết quả chuyên viên được biệt phái về nhiệm sở cũ, sau những tuần lễ được huấn luyện quân sự. Trong phiên họp tại Mỏ Than Nông Sơn có một kỹ sư trẻ xong xáo nói năng mạch lạc tên Trương Văn Thuấn, tôi nhận xét lầm tên nầy nên mới giới thiệu anh vô nội các làm Ủy Viên Giao Thông Vận Tải, sự thực anh là một người không Lý Tưởng, chủ trương trốn lính, sẵn sàn đi cửa sau hạ mình đổi lấy danh lợi. Chuyện đời thường có hạng người như vậy.
Nói về Nguyễn Cao Kỳ, tôi phải ngay tình nhìn nhận, tôi có duyên mai biết được Hai Nguyễn Cao Kỳ. Một Nguyễn Cao Kỳ, có lòng với đất nước, có chí cao “đội đá vá trời”, trung thành với bạn. Và một Nguyễn Cao Kỳ chủ quan, mơ việc lớn nhưng không lượng được sức mình, có khí phách anh hùng nhưng vì thiếu sáng suốt nên ẩu tả, gan lì, bạt mạn theo kiểu cao bồi của phim truyện. Ðến đây tôi xin độc giả cho phép tôi trích đăng lại những bài tôi viết gần đây, phổ biến trên nhiều báo tiếng Việt tại Mỹ, về một Nguyễn Cao Kỳ vì chủ quan, tưởng mình là “con Phật”, vì lợi danh hay vì một lý do gì khác phản bội lý tưởng của chính mình, phản bội đồng đội, đồng hành, để rồi trong những bài kế tiếp nếu tôi có lời khen ngợi Nguyễn Cao Kỳ thì cũng là một sư công bằng, một hành động theo lương tri của người trí thức. Những bài ghi lại sự việc xẩy ra giữa Tướng Kỳ và tôi, hay những suy nghĩ của tôi về Tướng Kỳ cũng là một nét chấm phá trong những trang hồi ký về cuộc đời tôi.
14
No comments:
Post a Comment