Friday, August 20, 2010

LM.NGUYỄN HỮU LỄ * TÔI PHẢI SỐNG III

Tôi Phải Sống: 1c – Bước Ngoặc Cuộc Đời (tiếp theo)

toiphaisong_tua

1- Bước Ngoặc Cuộc Đời

(tiếp theo)

Thế Giới Mới

Con đường từ bắc Mỹ thuận lên Sài Gòn ngang qua ngã ba Trung Lương, qua cầu Long An, cầu Bến Lức… cảnh nào đối với tôi cũng lạ mắt. Sau khi qua ngã ba Trung Lương tôi thấy đoàn xe lửa thật dài chạy cặp theo đường lộ xe hơi, đây là xe lửa đầu tiên tôi được trông thấy. Khi tới cầu Bến Lức, bị kẹt xe khá lâu vì phải chờ xe bên kia qua cầu. Lúc dừng xe có rất nhiều cô gái bán khóm đã gọt sẵn và bổ thành từng miếng, có chén muối ớt bên cạnh. Khi có người mua thì cô gái dùng cái que nhỏ cũng làm bằng cùi khóm để quét muối ớt lên miếng khóm rồi trao cho khách.

Bà khách ngồi kế bên tôi cắn miếng khóm có xát muối ớt làm nước từ miếng khóm chảy ra ướt xuống tới cầm, bên này nước dãi tôi cũng tuôn ra cuồn cuộn.

Tôi quay đi nhìn ra hướng khác vừa nghĩ giá mà thầy Quý mua cho tôi một miếng khóm chắc tôi thích không còn gì bằng, nhưng tôi không hỏi xin thầy! Khi xe chạy vào Chợ Lớn và sau cùng vô Sài Gòn ngừng tại bến xe Petrus Ký, tôi thực sự bị choáng ngộp.

Tôi không thể nào tưởng tượng Sài Gòn lớn lao, tưng bừng náo nhiệt đến như thế. Nào người, nào xe, nào hàng quán. Lúc nhìn thấy thế tôi tự hỏi không biết còn có nơi nào trên mặt đất này to lớn và đẹp như Sài Gòn hay không. Khi chuẩn bị xuống xe, thầy Quý dặn tôi lúc nào cũng phải đi bên thầy vì sợ tôi bị lạc.

Vừa bước xuống, tôi thấy có người tới mang valise của thầy lên xe nhỏ đậu gần đó, tôi tưởng đó là người nhà mang xe đón và đó là xe của thầy, tôi nghĩ:”Thì ra thầy của mình giàu quá mà mình không biết” Trong lúc ngồi xe, thầy chỉ tôi Dinh Độc Lập, Nhà thờ Đức Bà, sở thú Sài Gòn, cầu Thị Nghè, đó là 4 nơi tôi biết đầu tiên khi vừa đặt chân tới thủ đô Sài Gòn mà người ta gọi là Hòn ngọc Viễn Đông này. Chừng qua tới cầu Sơn bên kia Thị Nghè, xe rẽ trái vào chủng viện Xuân Bích, thầy trò xuống xe, thầy móc bóp trả tiền và xe chạy, tôi hỏi, thầy cho biết đó là Taxi. Tôi biết Sài Gòn có xe Taxi từ lúc đó.

Sau khi thầy Quý lo một vài công việc, gần trưa chúng tôi về nhà người chị của thầy ở Xóm Mới, quận Gò Vấp. Vô tới nhà và được nghỉ ngơi, tôi mừng vô hạn vì khi đi được một đoạn đường thì hai bàn chân tôi bị quay giày săn-đan cọ rách da, chảy máu. Hai bên ngón chân út cũng bị mềm nhũn như hai trái chuối chín và chảy máu đau đớn quá chừng. Thật không gì khổ cho bằng mang giày lần đầu. Nếu hồi sáng, lúc cởi được cái quần “vòi voi” ra coi như bỏ được của nợ thì lúc này cởi được đôi săn-đan ra tôi coi như cởi được hai cái gông cùm.

Chiều hôm đó trong nhà làm cơm có món ốc bưu xào với chuối xanh và lá tía tô. Lần đầu tiên tôi mới biết món người Bắc này và ăn rất ngon miệng. Lối sống của người Bắc có những cái rất hay. Năm 1954 khi người Bắc di cư vô Nam có một số khá đông về tạm cư trong họ Bưng Trường và cũng có mấy gia đình ở trọ nhà tôi, nhưng lúc bấy giờ tôi còn nhỏ, chưa biết nhiều về người Bắc, lúc đó nghe giọng nói hơi khác lạ, tôi lại tưởng họ là người nước nào tới không phải là người Việt Nam.

Thầy Quý có người cháu trai tên là Hán, anh lớn hơn tôi 3 tuổi và đang học lớp đệ tứ. Hán sang chơi với tôi và suốt trong thời gian tôi ở Sài Gòn anh đưa tôi đi đây đó. Có điều buồn cười là người Nam chúng tôi đọc chữ “Hán” ra chữ “Háng”, nên tôi không dám gọi tên anh, chỉ gọi là anh Ba, theo cách gọi của người Nam. Lúc đó tôi lại nghĩ thầm:”Sao anh Ba có cái tên kỳ quá! người miền Nam chúng tôi chẳng bao giờ có người tên là Hán cả!”

Đêm đó tôi ngủ ngon vì thức trọn đêm trước và đi đường xa mệt và thêm hai bàn chân bị đau như dần. Sáng ngày thức dậy đã thấy anh Ba ngồi đợi để đưa tôi đi chơi. Thức dậy, tôi nghe hai bàn chân ê ẩm và đau nhức mặc dù mấy chỗ rách da chảy máu hôm qua đã đóng mày đen. Tôi biết không thể nào mang săn-đan được, nên cúi xuống sàn giường định tìm đôi giày gói giấy cất đi, đợi khi nào chân hết đau sẽ mang. Chừng cầm đôi san-đan lên thì hỡi ôi!

Đêm qua con chuột chết tiệt nào đã đánh mùi máu tới cắn đứt hết các chỗ có dính máu trên quay săn-dan. Tôi nhìn đôi giày mới toanh bị đứt hết các quay nằm há mồm dưới đất nhìn lên cách đau khổ khiến tôi vừa tiếc của, vừa buồn cười lại vừa giận con chuột rủa thầm: “Mẹ, con chuột khốn kiếp! Ông mà rớ được mầy, ông bẻ cho mầy gãy không còn cái răng!”Từ đó Hán cho tôi mượn đôi guốc và tôi mang guốc suốt những ngày tôi đi dạo phố ở thủ đô Sài Gòn

Nhờ có Hán dẫn đi chơi, tôi được vào thăm khá nhiều nơi như Sở Thú, chợ Bến Thành, Nhà thờ Đức Bà, Bến Bạch Đằng, trường đua Phú Thọ, hội chợ Thị Nghè… và nhiều nơi khác nữa. Trong dịp đó tôi được trông thấy Tổng thống Ngô Đình Diệm đi duyệt binh trong ngày Quốc khánh 26 tháng 10 và cũng chứng kiến cảnh người ta chen nhau chạy sau khi cây cầu nổi bắt ngang sông Thị Nghè trong dịp hội chợ bị sập trong đêm làm khá nhiều người bị chết đuối.

Tôi cũng ghi nhớ cảnh sở thú Sài Gòn và những giống thú mà từ xưa giờ chỉ được coi trong hình. Điều này làm tôi vô cùng thích thú vì ngoại trừ con voi là tôi đã có dịp thấy qua trong lần những người bán thuốc cao đơn hoàn tán cỡi voi tới chợ Mai Phốp quảng cáo thuốc, ngoài ra tôi chưa bao giờ thấy qua các giống thú lạ và to như sư tử, cọp, gấu, beo, cá sấu…

Tô Phở Đầu Đời

Cũng trong dịp đi Sài Gòn đó, tôi được Hán dẫn đi ăn tô phở lần đầu tiên trong đời. Tôi còn nhớ buổi sáng hôm đó Hán chở tôi trên xe đạp tới nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở đường Kỳ Đồng. Sau khi viếng nhà thờ, chúng tôi ra bên ngoài rào nhà thờ, nơi có một xe bán phở bên lề đường, gần bên có mấy cái bàn nhỏ và thấp với mấy cái ghế gỗ nhỏ xíu cao hơn mặt đất chừng 10 phân mà miền Nam chúng tôi gọi là ghế bán cá, tức là các bà bán cá ngoài chợ thường dùng. Hán gọi hai tô phở tái.

Khi tô phở mang ra cùng với đĩa rau có ít ngò gai, húng quế và chanh, ớt… tôi nghe mùi thơm rất lạ và hấp dẫn mà lần đầu tôi mới được biết. Vừa ngửi mùi là nước miếng tôi bắt đầu ứa ra, trong khi Hán giúp tôi các thủ tục trước khi ăn phở. Anh biểu diễn một cách thành thạo nhưng chậm rãi các động tác như nhặt gò gai, húng quế, vài cọng giá sống phủ lên mặt tô phở đang nghi ngút khói, không quên vắt miếng chanh vào.

Tôi tưởng như thế đã xong vì lúc này nước miếng tôi đã gần đầy trong miệng và tay phải tôi đã cầm sẵn đôi đũa tre như một kiếm sĩ cầm giáo nơi tay sẵn sàng chiến đấu. Đôi mắt tôi mở to đang theo dõi từng động tác nhỏ nhất của đôi tay Hán. Tôi đã mất hết kiên nhẫn của một thằng bé nhà quê lần đầu tiên được ngửi hương thơm của một món ăn đầy hương vị mà cả đời chưa bao giờ được nếm qua, nhưng Hán lại quá vô tình không hiểu được tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đang chờ đợi anh ban hiệu lệnh: ”Rồi đó Lễ, ăn đi em”, thì ngược lại anh ta dừng tay ngước lên bắt gặp đôi mắt của tôi đang mở to gần bằng… tô phở đang nhìn… tô phở, anh hỏi:

- Lễ có ăn được ớt không?

Tôi chẳng để ý nghe câu hỏi của anh vì lúc bấy giờ tất cả tâm trí tôi đang vướng bận về chuyện khác. Tôi vội trả lời một câu mà sau này mỗi lần nhớ lại tôi vẫn còn cảm thấy xấu hổ:

- Xong chưa anh? Em không cần gì đâu, em ăn như vậy được rồi!

Tôi ấp úng câu nói đó trong khi cố giữ không cho nước miếng tràn ra khỏi miệng nhưng Hán vẫn vô tình không hiểu điều đó. Có lẽ vì Hán nghĩ là ai cũng như anh đều có thể “bình thản” trước một tô phở tái mới vừa bưng ra đang bốc mùi tỏa hương thơm ngào ngạt.

Sau câu trả lời lạc đề đó của tôi, tôi tưởng là cuộc tra tấn đã chấm dứt, nào ngờ Hán vừa từ tốn đặt miếng võ chanh lên mặt bàn, vừa cho tay vào túi quần tây lôi ra chiếc khăn tay màu cháo lòng đã nhàu nát và cẩn thận chùi đi chùi lại các ngón tay còn dính mấy tép chanh chỉ to bằng con kiến, vừa rề rà giải thích cho tôi biết là ăn phở phải có tí ớt mới “sướng!”

Trong khi anh đang say sưa với bài giáo khoa nhập đề khá dài về cách ăn một tô phở, nhưng không một tiếng nào lọt được vào tai tôi, tôi liếc nhìn qua chiếc bàn con bên cạnh thấy một cô gái trạc bằng tuổi tôi ngồi một mình đang xì xụp chiến đấu với tô phở bốc khói, mặc dù cô bé gọi phở sau chúng tôi. Thỉnh thoảng cô bé đưa khăn tay lên xì mũi có lẽ vì ăn phải ớt. Cảnh này càng làm tôi thêm sốt ruột!

Lúc này tô phở của tôi vẫn còn bị Hán giam giữ trước mặt anh và nằm sóng đôi với tô phở của anh chưa qua “thủ tục” ngò gai, húng quế… Tôi bực mình nhìn vào mặt của Hán, thấy anh ta thật đáng ghét vì tật nói dai. Lúc bình thường đi chơi với tôi, khi cần giải thích về khung cảnh Sài Gòn cho tôi nghe thì anh lại câm như hến, không hiểu mắc chứng gì mà lúc này anh lại nói, và còn nói dai nữa. Rồi cuối cùng Hán cũng ban cho tôi một ân huệ khi anh đẩy tôi phở qua trước mặt tôi sau khi cẩn thận nhét chiếc khăn tay phải gió của anh vào túi quần.

Tôi đưa cả hai tay ra, run run đón lấy tôi phở có phủ lớp rau bên trên mà tôi biết là sẽ rất ngon mặc dù tôi chưa nếm qua. Lúc này tôi chẳng còn để ý tới những gì chung quanh, thế giới của tôi bây giờ bị thu nhỏ lại chỉ to bằng… tô phở tái. Tôi kéo dịch cái ghế bán cá lại gần chiếc bàn cho đúng tầm và không kịp đưa tay làm dấu thánh giá như thói quen từ nhỏ tôi được dạy là bao giờ cũng phải làm dấu trước khi ăn, tôi cúi xuống kề miệng vào thành tô húp một chút nước súp của tôi phở. Một cảm giác đê mê chạy rần vào thân thể sau khi đầu lưỡi tôi chạm với loại nước súp ngon một cách lạ lùng này. Nếu có ai nhìn sẽ cười tôi về cữ chỉ kề môi húp phở đó.

Thật ra không phải vì tôi quá thèm mà ăn uống cách bất lịch sự như vậy, nhưng vì lúc đó trong miệng tôi đã đầy nước miếng nếu tôi mở miệng sẽ tràn ra ngoài nên lý do tại sao tôi kê môi vào húp thẳng vào tô phở đó chỉ có một mình tôi biết và tự tha thứ cho chính mình. Ngụm nước súp là tôi hừng chí! Vừa định cho đũa vào tô phở chợt tôi lại nghe cái giọng đáng ghét của Hán từ bên kia bàn:

- Ấy! Lễ, anh chưa cho tương, từ từ đã! Đợi anh cho tương vào. Ăn phở mà không có tương mất hết vị.

Tôi bị chặn lại trong giây phút bất ngờ nhất nên vừa bực mình vừa xấu hổ nhưng đành phải rụt tay lại ngồi chờ trong khi Hán đưa tay với lấy cái ống bằng nhựa to bằng cổ tay, đen sì sì và đầy cáu ghét nằm ở góc bàn. Trên miệng ống có cái vòi rỗng ruột như cây đinh ở đầu được cắt bằng, lộ ra một cái lổ nhỏ bằng cây tăm mà tôi biết đó là cái lọ đựng tương. Hán với tay ngang bàn cầm dốc ngược lọ xuống chỉa cái vòi vào tô phở của tôi và bóp phần trên cái lọ nhựa trong sự chờ đợi đã mất hết kiên nhẫn của tôi.

Hán cứ bóp… bóp… và bóp mãi nhưng không có mộ thứ gì chui ra khỏi cái lỗ ở đầu chiếc vòi. Cuối cùng chỉ có tiếng gió xì xì vọt ra, thì ra lọ tương đã rỗng tự bao giờ. Hán có vẽ thất vọng, lộ chút bực mình và có lẽ cũng vì mất mặt với tôi nên trút cơn giận lên bà chủ đang lúi húi ở chiếc xe phở có mấy người khách đang bao vây. Hán cao giọng:

- Bà chủ này! Tương đã hết thì còn để lọ đây làm gì? Dẹp đi! Cho lọ tương khác đi.

Giọng của Hán rõ ràng là mất lịch sự như muốn ra lệnh. Nhưng người đàn bà dường như không nghe hoặc là cố ý không nghe, trong khi đôi tay của bà hết chụp cái này bóc cái khác liên hồi trên chiếc xe bán phở nhỏ nhưng đông khách. Không thấy hồi âm, giọng Hán chuyển sang một cung cao hơn:

- Bà chủ! Còn tương không? Cho một lọ đi chứ, tôi gọi bà không nghe à?

Bà chủ vẫn cúi đầu và bận rộn với số khách đang đứng gần nhìn hau háu vào đôi tay thành thạo của bà đang chuẩn bị các tô phở cho họ. Thấy tình thế có vẽ căng tôi nói với Hán:

- Thôi kệ đi anh, ăn phở không có tương cũng được mà! Mất vị chút có sao đâu.

Vừa nói tôi vừa xỏ đũa vào tô phở đang nằm trước… miệng, trong tư thế mời gọi gọi vô cùng hấp dẫn. Hán vội đưa tay chận tay cầm đũa của tôi lại:

- Không, chờ tí nữa, có ngay ấy mà. Ăn phở mà không có tương còn ra gì!

Một lần nữa tôi bị khựng lại. Lúc này tôi nghĩ không phải vì Hán câu nệ vào tô phở có tương hay không, nhưng có lẽ vì anh muốn ăn thua đủ với bà chủ hàng phở không để ý lời anh gọi xin tương đã hai lần. Có lẽ thấy ngồi tại chỗ không ăn thua, Hán đứng lên bước thẳng lại xe và xẵng giọng nói với bà chủ:

- Bà chủ cho tương đi. Tôi gọi hai lần rồi bà không nghe à!

Người đàn bà trẻ đang bận tay không quay lại nhưng nói nhẹ nhàng:

- Cậu làm ơn coi bàn nào có lấy hộ tôi. Tôi đang bận tay quá, cậu thông cảm.

Mấy người khách đang đứng bên quay lại nhìn Hán. Nghe nói thế Hán nhìn quanh và bước lại bàn có cô bé ngồi một mình lúc nãy. Anh làm hiệu xin mượn lọ tương, cô bé đang ngồi xỉa răng mỉm cười và gật đầu.

Vừa gắp miếng phở đầu tiên vào miệng tôi nghĩ trong lòng: “Lạy Chúa tôi ơi! trên đời này còn có món gì ngon như thế này nữa hay không”? Lúc đó tôi chợt nghĩ chắc là ngày xưa các vua chúa và những người giàu sang quyền quý nhất trên đời lúc nào cũng ăn phở. Ăn phở 365 ngày trong năm! Và lạ lùng thay, tô phở mà tôi ăn khi ngồi bệt xuống trên chiếc ghế bán cá sát mặt đất bên lề đường Kỳ Đồng đó là tô phở ngon nhất mà sau này dù có ăn phở ở đâu tôi cũng không bao giờ có lại được cái cảm giác tuyệt vời như thế.

Những Cuộc “Họp Báo’’

Sau một tuần lễ ở Sài Gòn, tôi trở về quê một mình trong khi Thầy Quý ở nán lại thêm mấy hôm. Trên chuyến xe về tôi vẫn mặc chiếc quần sọt duy nhất đó, chân mang guốc vì đôi săn-đan mới mua và mang chỉ có một lần đã “bỏ xác’ ở Sài Gòn. Tôi cũng tiếc cho đôi giày mới nhưng khi nghĩ là chuyến đi Sài Gòn đó đối với tôi thật quý báu không gì sánh bằng, nên dù có mất đôi giày cũng chẳng có gì là thiệt thòi. Vả lại tôi chỉ cần mang giày cho chuyến đi, còn chuyến về này thì cần gì, mang gì chẳng được, có đi chân đất cũng không sao vì về tới quê là tôi lại bắt đầu đi giày da, nhưng là da của hai bàn chân mình!

Khỏi phải nói, khi nhập học lại sau kỳ nghỉ Quốc Khánh năm đó, tôi tự nhiên trở thành “trung tâm của Mai Phốp!” Đám bạn trong lớp cả trai lẫn gái vây quanh tôi hỏi chuyện. Tôi đã “họp báo” hàng tháng trời nhưng vẫn còn chuyện nói về chuyến đi Sài Gòn và đám bạn cứ há hốc mồm ra ngồi nghe, thái độ của các bạn càng làm tôi hừng chí nói hăng hơn. Những cuộc “họp báo” như vậy tôi đã dợt trước với nhóm bạn chăn trâu với tôi ở Cầu Đá rồi.

Tôi cố gắng kể lại thật chi tiết và trung thực những gì tôi nghe và thấy trong chuyến đi lịch sử. Chỉ có chỗ nói về sở thú Sài Gòn và mấy con thú như sư tử, cọp, gấu thì tôi cố ý nói nó… to hơn một chút cho tụi bạn ngán chơi.

Thí dụ như con sư tử to bằng con bê thì tôi nói bằng con… bò nhỏ! Mặc dù con bò nhỏ và con bê cũng là một nhưng tôi có cảm tưởng khi nói con bò nhỏ nghe như to hơn con bê! Tôi cũng kể với nhóm bạn học là tôi có coi chiếc tàu chiến rất lớn là tàu “Saint Paul” của Mỹ cặp bến Bạch Đằng trong dịp lễ Quốc Khánh, và khi Tổng thống Ngô Đình Diệm xuống thăm thì tàu có bắn 21 phát đại bác chào mừng. Có đứa con gái chen vào hỏi:

- Chiếc tàu chiến lớn như thế nào hả Lễ?

Thật tình tôi cũng chẳng biết nó lớn như thế nào, nhìn qua ngó lại tôi nói:

- Nó lớn như cái nhà thờ kia kìa!

Đứa con gái nghe vậy lè lưỡi tỏ vẻ kinh ngạc, trong khi tôi tự hỏi là tôi so sánh như vậy có thực sự đúng không. Một chiếc tàu chiến của Mỹ thì lớn hay nhỏ hơn cái nhà thờ, tôi cũng không biết nhưng lúc đó chỉ có cái nhà thờ là lớn nhất trong làng nên tôi dùng nó để so sánh. Có vậy thôi!

Hai Vị Linh Mục

Cuối năm 1957, Cha Lê Vĩnh Trình, sau 17 năm ở họ đạo Mai Phốp được đổi đi về coi xứ đạo Cái Bông trong tỉnh Bến Tre và Ccha Nguyễn Văn Tỏ từ Trà Ôn về thay. Sự thay đổi này vô tình cũng đã ảnh hưởng tới cuộc đời tôi rất nhiều, cả về mặt tôn giáo lẫn việc học hành.

Cha Trinh và Cha Tỏ khác nhau về nhiều phương diện. Sự tương phản quá nhiều về con người và lối sống của hai vị Linh Mục mà tôi biết đầu tiên trong đời này đã để lại trong tôi những ấn tượng rất sâu xa. Cha Lê Vĩnh Trình như tôi đã nói là con người oai phong lẫm liệt, thân hình chắc nịch, thích chơi bóng đá, dáng đi đường bệ, lối sống thượng lưu quý phái theo kiểu Tây.

Lúc đó Cha Trinh tóc bạc hoa râm và húi cao, đầu chải rẻ ba và tôi thấy chú Út Thông ở gần nhà thờ tới cắt tóc cho Cha Trinh mỗi tuần một lần đúng vào chiều thứ Bảy. Vì lớp học của tôi nằm ngay sau nhà bếp của Cha Trinh nên tôi thấy và nhớ rất rõ việc đó. Vả lại lúc bấy giờ mỗi lần thấy như vậy tôi còn thầm nghĩ: “Ông này có phước thật, được vò đầu Cha Trinh là người tôi sợ như ông trời!” Những lúc không mặc áo chùng đen thì ngài vận đồ sọt, nhìn vào đã thấy khỏe mạnh và oai vệ.

Ngược lại Cha Nguyễn Văn Tỏ gầy còm, ốm yếu như một người đàn bà không đẹp, có thân hình mỏng, tóc đen và dài chải ngược về sau nhìn từ xa như lúc nào cũng đội bê rê đen! Chẳng những thế, ngài còn bị chứng bệnh thịt dư trong mũi, và cách quãng chừng 5 phút một lần phát ra âm thanh rất lạ 4 tiếng đi liền nhau từng đôi một “khẹt khẹt… khẹt khẹt”, sau đó đưa khăn tay lên xì mũi một thôi một hồi!

Ngay từ lúc đó tôi đã nghe người ta gọi ngài là “Cha Tỏ Khẹt”. Dĩ nhiên là chỉ gọi sau lưng ngài. Cha Tỏ bước đi nhanh nhẹn và nhẹ nhàng thư thái như một dáng đi con mèo. Lúc nào không vận áo chùng thâm thì là chiếc áo khẩu đen và quần lãnh theo kiểu các Mệ người Huế. Cha Trinh ra khỏi giáo xứ bằng một đoàn xe hơi và rất nhiều người đưa tiễn, Cha Tỏ cỡi xe máy dầu tới nhận xứ. Khi tới họ đạo Mai Phốp này, Cha Tỏ mang theo gia đình ông từ Quan với mấy đứa con trai trạc bằng tuổi tôi. Ông từ Quan và những đứa con của ông cũng bệ rạc không kém gì ông chủ của họ.

Nói tóm lại, hai vị Linh Mục này là biểu tượng điển hình của sự oai vệ và sự yếu đuối. Chính vì thế tôi không ngạc nhiên khi thấy sự tương phản về lối sống và tư cách và lối hành sử công việc của hai con người nắm quyền uy tôn giáo trong họ đạo tôi sống lúc bấy giờ. Việc này có ảnh hưởng tai hại tới đầu óc của một chú bé 14 tuổi như tôi.

Điều làm tôi ngạc nhiên tới sửng sốt là ngay trong ngày Chúa nhật đầu tiên sau khi về nhận họ đạo, tôi đã nghe Cha Tỏ lên tòa giảng đả kích Cha Trinh một cách thậm tệ và công khai không cần úp mở! Cha Tỏ nói Cha Trinh ra đi đã vơ vét hết của cải trong họ và cả bàn ghế trong nhà xứ! Giọng CCha Tỏ rất bực tức, càng bực tức thì càng ”khẹt khẹt… khẹt khẹt.”nhiều hơn. Đó là một bài giảng rất hùng hồn của Cha Tỏ để cổ vũ cho sự… lỗi đức bác ái!

Mấy ngày sau tôi thấy xuất hiện những chiếc ghế đai vô cùng quái dị được ghép bằng những tấm ván sù sì của các thùng đựng sữa, đóng đinh vào rồi đưa ra ngồi! Những chiếc ghế “dã chiến” này được thay thế hết những chiếc ghế đẹp trong nhà cha sở và hàng ghế giữa trong nhà thờ dành cho Ban Quới Chức. Có nhiều người khách khi tới thăm Cha Tỏ ra về bị rách quần vì những cây đinh lởm chởm còn sót lại trên mặt “ghế” trong nhà Cha. Lúc đó, tôi chưa biết được các việc của Linh Mục với nhau nhưng cách Cha Tỏ hành động có ý hạ bệ Cha Trinh đó tôi thấy nó tác hại cho chính Cha Tỏ trước tiên, kế đó nó tác hại cho tôi và tôi nghĩ là cho rất nhiều người.

Kế đến là việc có liên quan trực tiếp tới tôi trong lần Cha Tỏ xuống thăm học sinh của trường trung học Minh Đức chúng tôi mấy ngày sau khi về làm cha sở. Vì biết trước Cha Tỏ rất hận Cha Trinh, mà trường trung học này là công sức của Cha Trinh gầy dựng nên thầy Quý đã cẩn thận căn dặn chúng tôi phải tỏ ra lễ phép và kính trọng Cha Tỏ đúng mức để Cha còn thương và lo cho trường học. Thầy cũng nói cho những học sinh nào chưa biết Cha Tỏ là ngài có tật khẹt khẹt vì có thịt dư trong mũi, đừng có lấy làm lạ vì chuyện đó và nhất là đừng có cười!

Quãng 3 giờ chiều, học sinh cả hai lớp đệ thất và đệ lục chừng hơn một trăm, chen chúc đầy trong phòng học lớn và nôn nao đợi thầy Quý và thầy Công hướng dẫn cha sở mới vào. (Lúc này thày Công xuống dạy thay cho thầy Huấn đã về lại Sài Gòn) Nhìn ra, tôi thấy Cha Tỏ mặc áo khẩu đen, quần lãnh, chân mang dép, có hai thầy đi bên cạnh trong cung cách khép nép và cố gắng bày tỏ sự kính nể cha sở mới. Khi Cha Tỏ bước vào lớp, chúng tôi vỗ tay chào mừng.

Thầy Quý mời cha hiệu tưởng bước lên bục, hai thầy đứng bên dưới. Thầy Quý thay mặt học sinh toàn trường chào mừng Cha hiệu trưởng mới và xin Cha thương, lo lắng cho học sinh. Thầy Quý nói ngắn gọn và thành khẩn. Khi Cha Tỏ vừa đáp lời thì tai nạn xảy ra! Khi ngài vừa nói được mấy lời thì ”khẹt khẹt… khẹt khẹt…!” Trong khung cảnh trang nghiêm đó bọn học sinh chúng tôi không đứa nào nhịn cười được! Tôi đưa tay lên bụm miệng cố gắng nín cười, ngó qua thấy nhiều đứa cũng làm như tôi, có đứa còn dùng răng cắn môi dưới thật chặt trong khi đôi vai đang run mạnh vì sự dồn nén của cơn buồn cười.

Lúc đó thầy Quý tái mặt đi và nhìn chúng tôi trừng trừng mặc dù môi thầy cũng đang chúm chím cười nhưng cố nén xuống. Từ thầy tới trò ai cũng biết lúc bấy giờ cười là tự sát nên bằng mọi giá phải… nuốt xuống.

Nhưng khổ nỗi, con vi trùng cười rất thích tấn công vào khung cảnh trang nghiêm. Hình như lúc đó con vi trùng cười đã xâm nhập và làm chủ toàn bộ hệ thống thần kinh của hơn trăm học sinh và 2 thầy giáo của chúng rồi, nên sau đợt “khẹt khẹt… khẹt khẹt” thứ hai, cả đám chúng tôi vụt phá lên cười ầm ĩ. Cả thấy Quý là người đã căn dặn chúng tôi đừng cười, bây giờ cũng cười, thầy Công cũng cười mà có vẻ còn cười dữ dội hơn bọn học sinh chúng tôi. Cha Tỏ phẫn nộ quát: “Thôi! Đủ rồi!” và bước xuống bệ ra khỏi lớp đi thẳng trở lên nhà xứ!

Cha Tỏ vừa ra tới sân, trong này chúng tôi tự nhiên im bặt. Thầy trò tái mặt đứng chết trân nhìn nhau một giây rồi lại… phá lên cười! Lần này thì trận cười càng dữ dội hơn, thoải mái hơn to tiếng hơn và hình như ai cũng nghĩ là đàng nào thì tai nạn cũng đã xảy ra nên cười một trận cho nó đã để tống ra hết những con vi trùng cười tự nãy giờ đang gậm nhấm tâm can và làm chúng tôi tức ruột không chịu được. Thầy Quý mặt mày méo xệch, đưa tay gở kiếng ra lau nước mắt vì cười, thầy Công cũng làm vậy và trong bọn học sinh chúng tôi cũng nhiều đứa đưa tay quệt nước mắt vì hậu quả của trận cười muốn vỡ cả bụng vừa rồi.

Phải mất chừng 15 phút sau, trong lớp mới chấm dứt tiếng cười cuối cùng. Thật là một tai nạn khủng khiếp vừa xảy ra nhưng thầy Quý không trách chúng tôi được vì chính thầy cũng cười. Sau khi được trận cười no nê, thầy Quý kêu chúng tôi ngồi yên để nhận định tình thế và tìm phương cứu chữa. Tôi thấy thương cho thầy Quý lúc bấy giờ bị lâm vào tình trạng quá khó khăn khi thầy chọn ra 5 em trong đám học sinh để cùng với thầy làm thành một “phái đoàn” lên xin lỗi cha sở! Tôi cũng được thầy chọn vào thành phần phái đoàn, có lẽ vì tôi cười hăng nhất.

Khi phái đoàn sứ giả ra đi, tự nhiên tôi liên tưởng tới phái bộ …Phan Thanh Giản được vua Tự Đức cử đi qua Pháp xin chuộc lại 6 tỉnh miền Tây hay miền Đông Nam Phần gì đó trong bài học lịch sử mà lúc đó tôi còn nhớ lõm bõm chỗ đặng chỗ mất. Không hiểu tại sao lúc đó tôi lại nghĩ sứ mệnh của phái bộ Phan Thanh Giản lại dễ dàng hơn công việc của phái bộ… Bùi Sinh Quý!

Khi “phái bộ” chúng tôi lên gần tới nhà xứ, trống ngực tôi đánh liên hồi, vì ngoài nhiệm vụ khó khăn trước mắt, tôi còn rất hồi hộp khi sắp được bước vào một ngôi nhà mà suốt thời Cha Trinh còn ở đây tôi chưa được bước chân vào bao giờ mặc dù chính tay tôi, cùng với các học trò, đã ôm không biết bao nhiêu gạch đá để xây ngôi nhà đó. Ngôi nhà cha sở được xây trên một nền bằng đá xanh khá cao và chúng tôi bước lần theo các bậc tam cấp lên tiền đường.

Sau khi hàng ngũ chỉnh tề, thầy Quý cầm cái chuông nhỏ lắc ba tiếng rồi bỏ chuông xuống đứng chờ. Lúc bấy giờ con muỗi bay ngang cũng nghe được và trong lòng tôi nghĩ lần này thì Cha Tỏ “khẹt khẹt” như lúc nãy hoặc hơn thế nữa chúng tôi cũng không cười, hay đúng hơn là không còn có sức để cười nữa. Một lúc sau Cha Tỏ từ trong nhà bước ra trên mặt vẫn còn phảng phất cơn tức bực. Thầy Quý nói lời xin lỗi, cha nói: “Được rồi, chúng con về đi, cha đang mệt muốn nghỉ một chút. Khẹt khẹt!”. Thế là phái đoàn chúng tôi ra về tay không .

Cảnh Chợ Chiều

Từ sau biến cố đó không bao giờ Cha Tỏ bước chân xuống trường chúng tôi nữa, mặc dù ngài vẫn là hiệu trưởng ký tên trong giấy tờ nhà trường. Mấy tháng sau, Thầy Quý từ giã chúng tôi ra đi và trở về Sài Gòn, mặc dù thầy không nói nhưng tôi hiểu được lý do sự ra đi của thầy. Lòng tôi buồn vô hạn khi phải chia tay với con người có mặt từ đầu và có công rất nhiều với ngôi trường Minh Đức. Ngoài ra thầy Quý còn là bõ đở đầu của tôi, thầy rất thương tôi và để lại trong lòng tôi một kỷ niệm nhớ đời, đó là việc thầy dẫn tôi đi Sài Gòn lần đầu tiên.

Công ơn thầy Quý, tôi ghi nhớ mãi vì chính thầy đã đưa tay dìu tôi bước vào ngưỡng cửa cuộc đời và là người đầu tiên cho tôi cơ hội nhìn ra chân trời rộng hơn cái thế giới nhỏ hẹp của một làng quê mà cho tới năm 14 tuổi tôi vẫn còn vị đóng khung trong đó. Khi Cha Trinh đổi đi, tương lai của ngôi trường Minh Đức trở nên u tối. Sau biến cố “cười”, ngôi trường trở nên buồn thảm.

Khi Thầy Quý ra đi, ngôi trường bắt đầu tê liệt vì vài tháng sau thì số học sinh đã rút lui gần phân nửa, một số bỏ học, về quê làm ruộng, một vài người lên tỉnh tiếp tục học. Riêng trong gia đình tôi, lúc đó người anh kế tôi phải bỏ học, tôi được gởi lên tỉnh Vĩnh Long tiếp tục nửa năm sau của lớp đệ lục tại trường trung học tư thục Nguyễn Trường Tộ do Cha Nguyễn Ngọc Quang, Cha sở Nhà thờ Chánh Tòa Vĩnh Long làm hiệu trưởng.

Về số phận trường Minh Đức, thời gian sau khi thầy Quý ra đi, trường hoạt động vá víu và ảm đạm như cảnh chợ chiều. Cuối cùng chuyện phải tới đã tới, trường đã phải chính thức khai tử sau hai niên khóa 56-57 và 57-58, lúc đó tôi đang học tại Vĩnh Long. Mặc dù ngôi trường Minh Đức yểu mạng, chỉ thọ được 2 tuổi nhưng cũng đã giúp cho một số trẻ con trong làng bước lên ban trung học là ngưỡng cửa của tương lai. Một rường trung học ở tỉnh hay ở thành phố, tự nó đã có giá trị huống gì một trường trung học ở nhà quê lúc đó phải coi đó là một ân huệ. Sau này lớn lên, làm gì và ở đâu tôi cũng nhớ mãi hình ảnh thân yêu của ngôi trường Minh Đức, công ơn của Cha Lê Vĩnh Trình, của thầy Quý và các thầy và các bạn học trong thời trẻ đó.

Hai vị Linh Mục Lê Vĩnh Trình và Nguyễn Văn Tỏ để lại trong tâm trí tuổi trẻ tôi những ấn tượng khó quên. Bên ngoài tất cả những việc làm và cá tính của hai người, điều tôi thấy rõ nhất là cả hai vị đầy uy quyền và khiến dân chúng khiếp sợ. Nhất là với đám trẻ con như tôi lúc đó. Điều đáng nói hơn là cả hai vị hay đánh trẻ con và điều này càng làm tôi khiếp đảm và sợ phải đi nhà thờ nhiều hơn!

Cha Trinh đánh trẻ con khi “có tội” như ăn cắp trái cây, chọi me, trốn học, đánh nhau hoặc có lỗi gì nặng… còn Cha Tỏ đánh trẻ vì tâm tính bất thường mang tính cách bệnh hoạn và điều này ngay từ nhỏ làm tôi sợ nhưng không phục ngài. Thí dụ như đánh trẻ con khi tập giúp lễ, hoặc khi trẻ con quay ngang quay ngửa trong nhà thờ. Cha Tỏ cấm trẻ con vào nhà thờ quay mặt ra sau khi có tiếng động, và có mấy lần khi bọn học trò chúng tôi ngồi đầy nhà thờ thì Cha Tỏ từ phía sau đập bàn đập ghế la hét… Đứa nào quay lại nhìn thì bị tát tai!

Riêng về Cha Lê Vĩnh Trình, phải nói là tôi sợ không có thể nào tưởng tượng được. Với cặp mắt ngô nghê của một đứa trẻ nhà quê như tôi nhìn lên hình ảnh như một vị thần của Cha Trinh đã là một điều kinh hãi. Thấy ngài đi từ xa đã né tránh đừng nói chi tới sự việc như tôi nhớ lại dưới đây.

Lúc bấy giờ tôi 11 tuổi và đang đi học ở Mai Phốp. Những buổi sáng sớm theo đoàn người đi Lễ và sau đó ở lại học tới chiều mới về nhà ở Cầu Đá. Cha Trinh có thói quen ngồi tòa giải tội những buổi sáng sớm trước giờ làm lễ và đợi chờ giáo dân tới. Lúc đó trong nhà thờ yên lặng, yên lặng hoàn toàn.

Một buổi sáng nọ, tôi ngồi chung với mấy học trò bên nam trong lúc Cha Trinh đang ngồi tòa phía bên nữ. Ngồi lâu buồn ngủ và lúc gió chẳng nghĩ ngợi gì, tôi ngáp. Nhưng khổ nỗi không phải là cái ngáp thông thường và lịch sự nhưng là cái ngáp thoải mái và đầy vẻ khoái cảm! Tôi ngửa đầu ra sau, đưa hai tay lên trời ngoác mồm to hết cỡ và phát ra tiếng ngáp kéo thật dài vang dội cả nhà thờ: “Oooààààmmm”!!

Vừa ngáp xong tôi mới giật mình biết là tai họa sắp xảy ra khi tôi nhìn qua thấy Cha Trinh bật đứng dậy như cái lò xo và bước nhanh hết tốc lực đi ngang giữa nhà thờ và hướng về phía ‘‘có tiếng động’’! Tôi nghe người bị điện giật một tiếng “bưng!”mặt nóng rần, các lỗ chân lông hở ra to như tàn ong, một chút nước tiểu rỉ ra quần!

Bình thường tướng đi Cha Trinh tôi đã khiếp vía thì nói gì tới dáng đi của ngài đến xử tội của tôi lúc đó. Vì ở cách khá xa bên kia và học trò ngồi khá đông nên ngài không biết đứa nào nên dừng lại trên tôi 4 dãy ghế và quát to như tiếng sấm gầm:

- Thằng nào?

Tôi thấy mấy đứa chỉ xuống chỗ tôi. Cha Trinh đi lần xuống ghế tôi. Ngồi bên ngoài là chú Út Hữu của tôi, sau đó là tôi và mấy đứa khác. Lúc đó tôi chẳng còn biết mình là ai, mặt tôi không con chút máu, người run bần bật như cầy sấy vì lần đầu tiên trong đời tôi mới được chứng kiến cơn thịnh nộ của Cha Trinh đối với… tôi! Ngài dừng lại ngay đầu hàng điểm mặt chú Út Hữu quát:

- Thằng nào?

Chú Út Hữu quay ngang dùng ngón tay trõ của bàn tay phải chỉ vào tôi nói:

- Thằng này!

Vừa nghe thế tôi vội ngã ngửa người ra nằm dài trên ghế vung cả 4 vó lên trời như con ếch mắc vào lưỡi câu la lên một tiếng to còn hơn tiếng ngáp lúc nãy ầm lên cả nhà thờ:

- Hổng phải con Ông Cố ơi!

Tôi vừa la vừa tống ra quần tất cả chỗ nước tiểu nãy giờ tôi cố giữ lại trong người. Cha Trinh hỏi tiếp theo:

- Vậy thằng nào?

Tôi mếu máo đáp vừa chỉ lên trên:

- Mấy đứa trên con không biết Ông Cố ơi.

Nghe thế, Cha Trinh lại đi về phía trên và điểm mặt cả đám nghiến răng nói:

- Chúng con chết nghe chưa!

Nói xong Cha bỏ đi. Tôi mừng như người vừa chết đi sống lại. Tôi lảo đảo đứng dậy bước ra khỏi nhà thờ như người vừa qua cơn trúng gió nặng. Quần cụt đen của tôi ướt đẫm, nhưng vũng nước tiểu trong nhà thờ chắc không ai thấy vì lúc đó chỉ có một chiếc đèn măn-xong gần trên cung thánh, không đủ soi chỗ chúng tôi ngồi.

Sau này, tôi trách chú Út Hữu:

- Sao lúc đó chú lại chỉ con?

Chú cười hề hề trả lời:

- Thì mầy ngáp tao nói mầy ngáp chớ sao?

Tôi bực mình nói:

- Con oán chú cả đời về cái vụ này!

Chú lại cười và nói:

- Mầy oán rồi làm gì được tao?!

Thiệt tình tôi giận cái ông chú này kinh khủng!

Bước Đầu Lên Tỉnh

Cuộc đời tôi một lần nữa lại biến đổi với môi trường xa lạ ở tỉnh. Thời gian đầu tôi ở trọ chung với mấy bạn từ Mai Phốp lên Vĩnh Long học trước tôi vài tháng. Sau đó tôi ở trọ với anh thứ Ba của tôi đi lính và ở trong trại gia binh của Tỉnh đoàn Bảo An Vĩnh Long, thời Đại úy Phạm Ngọc Thảo làm Tỉnh đoàn trưởng Bảo an đoàn. Tôi còn nhớ khá nhiều chi tiết về hình dạng và lối sống của vị sĩ quan này.

Đại úy Phạm Ngọc Thảo lúc bấy giờ quảng ngoài 30 tuổi, dáng người cao nhưng gọn và đẹp trai. Tướng ông lý tưởng cho một cầu thủ bóng đá hoặc bóng chuyền vì chiều cao của ông. Tóc ông lúc nào cũng húi ngắn đứng phong cách nhà binh. Ông đi đứng chậm rãi và trang nghiêm. Tôi không nhớ được nụ cười của ông vì hình như tôi chưa hề thấy ông cười bao giờ. Điểm đáng chú ý nhất nơi Đại úy Phạm Ngọc Thảo là ông có một mắt lé rất nặng, và đây là điểm phá tướng của ông. Khi nhớ về ông, tôi vẫn thầm tiếc cho ông và nghĩ thầm giá mà ông Thảo không bị lé mắt chắc ông sẽ là người đàn ông đẹp trai lý tưởng.

Nói về uy quyền thì lúc đó Đại úy Phạm Ngọc Thảo là nhân vật số ba trong tỉnh sau Giám Mục Ngô Đình Thục và Tỉnh trưởng Khưu Văn Ba. Lúc bấy giờ tôi có nghe nói ông Phạm Ngọc Thảo là người phía “bên kia” ra đầu hàng với chánh quyền Ngô Đình Diệm, qua trung gian của Linh Mục Nguyễn Ngọc Quang, lúc bấy giờ là Cha sở nhà thờ Chánh Tòa Vĩnh Long để nhờ giới thiệu với Giám Mục Ngô Đình Thục để xin đầu hàng.

Ông Phạm Ngọc Thảo đã dò đúng mạch và tôi tin là đã được nghiên cứu rất kỷ. Giám Mục Ngô Đình Thục tin dùng Thảo và cho ông dạy học một thời gian trong trường trung học Nguyễn Trường Tộ của nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long. Sau đó một thời gian ông được đồng hóa vào cấp bậc Đại úy trong quân đội và làm Tỉnh Đoàn Trưởng Tỉnh Đoàn Bảo An Vĩnh Long.

Tôi không biết gì về vai trò Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An của ông Thảo nhưng đời sống tôn giáo của ông làm tôi chú ý. Đại úy Phạm Ngọc Thảo là người đạo đức hiếm có và tất cả những gia đình quân nhân trong trại gia binh này đều ca tụng và truyền miệng nhau về lòng đạo đức của ông mà người ta gọi cách thân thương là ”Đại úy mình”

Lúc bấy giờ chính tôi cũng ngạc nhiên về vị sĩ quan có lòng đạo quá sốt sắng này. Có nhiều đêm tôi thấy “Đại úy mình“ xuống từng gia đình công giáo hỏi đã lo đọc kinh tối chưa? Nếu gia đình nào chểnh mảng việc này bị ông khiển trách và bắt ngồi đọc kinh trong khi ông cũng ngồi lại trong giây lát rồi ra đi qua nhà khác. Anh quân nhân công giáo nào mà Chúa nhật không đi nhà thờ, chẳng may Đại úy Phạm Ngọc Thảo biết được thì đừng hòng cầu mong bất cứ ân huệ gì nơi ông.

Về phần bà Đại úy cũng vậy. Bà có mặt ở tất cả các hội đoàn công giáo như Đạo Binh Đức Me, hội Các Bà Mẹ Công Giáo… Dĩ nhiên là bà Đại úy được bầu làm trưởng trong các hội đoàn đó và bà hoạt động rất hăng. Nói chung vào thời Đại úy Phạm Ngọc Thảo làm Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An Vĩnh Long, cả trại gia binh tôi ở lúc bấy giờ đạo đức như một… nhà thờ.

Nhưng điều làm tôi không bao giờ quên được là cách thức Đại úy Phạm Ngọc Thảo đi lễ ngày Chúa nhật ở nhà thờ Chánh Tòa Vĩnh Long. Lúc bấy giờ còn là nhà thờ cũ, nằm cặp bờ sông Tiền Giang. Về sau mé sông bị lở nên Nhà thờ phải dời về ngã ba Cần Thơ. Vì mỗi ngày Chúa nhật tôi cũng đi lễ ở đó nên thường xuyên chứng kiến cảnh nhân vật số hai và số ba của tỉnh đi lễ, ý tôi muốn nói tới Tỉnh Trưởng Khưu Văn Ba và Đại úy Phạm Ngọc Thảo.

Đốc Phủ Sứ Khưu Văn Ba lúc bấy giờ đã ngoài 50 là vị tỉnh trưởng dân sự cuối cùng của tỉnh Vĩnh Long. Ông là một người cao to trắng trẻo và oai vệ theo cách thức của một quan chức dân sự. Mỗi sáng Chúa nhật ông bà Tỉnh Trưởng và hai con trai là Khưu Văn Phước và Khưu Văn Lộc lúc đó đã 18, 20 đi lễ trên chiếc xe “Traction 15” màu đen bóng lộn, có tài xế lái. Tôi thường đứng dựa gốc cây me từ đàng xa nhìn gia đình quý phái này đi lễ. Hai ông bà Tỉnh Trưởng đã đẹp mà cặp con tai của ông bà càng đẹp hơn!

Thường thì ông Tỉnh Trưởng mặc com-lê trắng, bà mặc áo dài còn hai cậu ấm mặc đồ tây trắng ủi thẳng tắp. Tài xế đổ xe ngay cửa nhà thờ xong, vội ra sau mở cửa xe. Gia đình Tỉnh Trưởng xuống xe và đi thẳng vào nhà thờ trong sự trang nghiêm và hơi mất tự nhiên vì họ biết là có bao nhiêu cặp mắt đang nhìn họ. Đoàn người quý phái tiến thẳng vào cửa nhà thờ mở rộng và đi hàng một thẳng lên hàng ghế đầu dành riêng cho gia đình Tỉnh Trưởng ngay trước cung thánh. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về khi họ vào nhà thờ.

Trong khi đó Đại úy Phạm Ngọc Thảo là nhân vật số ba trong tỉnh cũng đi lễ tại nhà thờ này, nhưng cung cách hoàn toàn khác với gia đình ông tỉnh trưởng. Thường thì ông tới trước gia đình tỉnh trưởng một chút. “Đại úy mình“ lúc đi nhà thờ chỉ mặc áo dài đen kiểu như cha tôi và mấy bác nông dân ở quê vẫn mặc, chân ông mang giày săn-đan.

Thay vì xe hơi thì Đại úy Phạm Ngọc Thảo đạp chiếc xe đạp cọc cạch. Xe đạp của ông là loại xe cuộc nhưng tai lái vểnh lên chứ không cong xuống như các xe đua và trơn trụi không có vè chắn bùn, chỉ có hai cái thắng ở tay. Khi tới nhà thờ Đại úy Phạm Ngọc Thảo dựng xe đạp nơi gốc cây me và cẩn thận móc túi lấy chìa khóa để khóa xe đạp cho yên tâm trước khi bước vào nhà Chúa.

Lúc đứng nhìn ông lui cui khóa cái xe đạp, tôi đoán chắc là ông biểu diễn cho người ta nhìn chứ có thằng ăn cắp nào lại mạt số đi “chọt” chiếc xe đạp của vị sĩ quan chỉ huy toàn thể quân nhân trong tỉnh này! Sau khi thử lại lần chót là khóa xe không bị bung ra vì vô ý, Đại úy Phạm Ngọc Thảo bước đi nhẹ nhàng như con mèo tiến vào nhà thờ và quỳ lẫn lộn giữa đám đông trong một hàng ghế nào đó trong nhà thờ để cầu nguyện. Nếu không để ý chẳng ai biết sự có mặt của nhân vật số ba của tỉnh đang có mặt trong nhà thờ.

Một hôm tôi vô tình nghe được một câu chuyện do một chú trong ban Quân Nhạc kể lại. Chú ấy nói có nghe Thượng sĩ Trưởng ban Quân Nhạc là Biện Công Tước thuật lại trong lần Tổng Thống về thăm tỉnh Vĩnh Long vừa rồi, có Đức Cha Ngô Đình Thục và phái đoàn của tỉnh, trong đó có Tỉnh Trưởng và Đại úy Tỉnh Đoàn Trưởng Tỉnh Đoàn Bảo An Phạm Ngọc Thảo, lên bắc Mỹ Thuận đón Tổng Thống. Khi Đức Cha và Tổng Thống đi ngang sau lưng, Thượng sĩ Tước có nghe Đức Cha nói với Tổng Thống một câu: “Thằng Thảo nó được lắm”. Thượng sĩ Tước về thuật lại cho anh em nghe và nói thêm: “Chắc là chuyến này Đại úy mình sẽ được lên lon”!

Đúng như vậy! Không bao lâu sau đó Đại úy Phạm Ngọc Thảo được thăng lên Thiếu tá và được bổ nhiệm là Tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre) và Đại úy Trần Văn Năm về thay ông ở Vĩnh Long. Lần cuối cùng tôi còn được thấy Phạm Ngọc Thảo là năm 1962, khi đó tôi đã vào học trong Chủng Viện Vĩnh Long, lần đó Thiếu tá Tỉnh Trưởng Kiến Hòa ghé vào chủng viện thăm Linh Mục Giám Đốc Trung Tâm Nhân Vị Nguyễn Văn Tự. Lúc đó Cha Tự dạy tiếng La tinh, tiếng Pháp trong chủng viện Vĩnh Long. Trong lần đó Thiếu tá Phạm Ngọc Thảo rất oai vệ trong chiếc Mercedes màu đen có tài xế lái. Không ai có thể ngờ vị tỉnh trưởng oai vệ đó chính là “Đại úy mình” người đã từng đạp chiếc xe đạp cọc cạch đi lễ ở Vĩnh Long khi còn làm Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An.

Con đường hoạn lộ của Phạm Ngọc Thảo từ đó lên như diều gặp gió. Không bao lâu sau, ông được thăng lên Trung tá rồi Đại tá. Nhưng khi ông Diệm bị phe đảo chánh sát hại năm 1963, ông Phạm Ngọc Thảo bị thất sủng và đi làm Tùy Viên Quân Sự tòa Đại sứ Việt Nam bên Hoa Thịnh Đốn. Không bao lâu sau, Phạm Ngọc Thảo lộn về và cùng với một vài chính khách dân sự làm cuộc đảo chánh ở Sài Gòn.

Cuộc đảo chánh bất thành, ông trốn chạy và về sau bị bắt và giết chết. Tôi không chú ý lắm các chi tiết này nhưng điều tôi ngỡ ngàng là lúc đó người ta nói Phạm Ngọc Thảo là một tên Việt Cộng gộc, có anh hay em gì đó là Phạm Ngọc Thuần làm đại sứ của Bắc Việt tại một nước Cộng Sản. Thảo đóng vai gián điệp hai mang giả vờ đầu hàng phía Quốc Gia, nấp bóng Đức Cha Thục để len lỏi vào chánh quyền miền Nam.

Sự thật như thế nào về con người của Phạm Ngọc Thảo tôi không rỏ, nhưng về sau này khi nghe biết về các hoạt động “không bình thường” của Phạm Ngọc Thảo tôi đâm ra nghi ngờ thái độ đạo đức quá đáng của ông ta lúc ở Vĩnh Long. Tôi hồ nghi rằng lòng đạo đức đó không chân thật nhưng là loại đạo đức “có hậu ý ”! Thực ra nếu tôi xét đoán sai về lòng đạo đức của ông, tôi sẽ mắc tội. Xin vong linh ông tha tội cho tôi!

Nhưng cái cách ông bày tỏ lòng đạo đức một cách quá lộ liễu trước mặt Đức Cha Ngô Đình Thục lúc đó, cộng với những vụ rửa tội tập thể và tràn lan lúc bấy giờ, và nhất là các vụ bỏ đạo tập thể và tràn lan sau khi ông Diệm bị lật đổ đã cho tôi lý do để hoài nghi nghi về sự chân thật của ông! Riêng việc ông có rong ruổi trên “xa lộ công danh” lúc bấy giờ theo cái kiểu ”con đường nào cũng tới… Vĩnh Long” hay không, tôi không lấy làm lạ. Vì lúc ông Ngô Đình Diệm còn là Tổng Thống đã có biết bao nhiêu người tai to mặt lớn khác cũng chen lấn nhau tên con đường Quốc lộ 4 hay kẹt cầu kẹt bắc đó, từ Sài Gòn đổ dồn về Vĩnh Long để mong được chầu Đức Cha Thục, không riêng gì ông.

Về phần ông Tỉnh Trưởng Khưu Văn Ba, sau đó không lâu xe ông bị Việt Cộng phục kích và ông bị giết chết trên con đường Vĩnh Long-Cần Thơ. Khi ông chết tôi đang học ở trường trung học Nguyễn Trường Tộ, nơi mà ông Phạm Ngọc Thảo có thời gian dạy học khi vừa mới ra “đầu hàng“. Sau khi ông Khưu Văn Ba chết, Thiếu tá Phước về làm tỉnh trưởng Vĩnh Long thay ông, từ đó bắt đầu chế độ Tỉnh trưởng quân nhân. Về sau này có một con đường mới mở trong tỉnh Vĩnh Long mang tên con đường Khưu Văn Ba và tôi tin chắc là khi Cộng Sản chiếm miền Nam họ đã đổi tên con đường này rồi.

Ý Hướng Làm Linh Mục

Sau khi thi đậu trung học đệ nhất cấp năm 1960, tôi qua Mỹ Tho học trường tư thục Rạng Đông vì anh tôi đổi qua đó. Tôi học nhảy lớp đệ tam để thi tú tài một và năm sau tôi xong ban tú tài lúc 19 tuổi. Bắt đầu từ đó tương lai cuộc đời rộng mở trước mắt tôi và tôi là người đậu bằng tú tài đầu tiên trong làng. Tôi làm đơn thi vào đại học y khoa.

Nhưng cũng chính trong thời gian này tôi suy nghĩ rất nhiều về một hướng đi cho tương lai. Tôi nghĩ tới việc muốn làm Linh Mục, vì tôi nghĩ là trong cương vị một Linh Mục, tôi sẽ có dịp phục vụ số người cùng khổ hữu hiệu hơn. Cái nhìn của tôi về hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, trong đó có kiếp sống lầm than của người dân quê thấp cổ bé miệng bị đủ mọi thứ thế lực đè nén, đã ảnh hưởng rất nhiều tới sự lựa chọn của tôi.

Tôi đã nhìn thấy và cảm thương cảnh người dân, nhất là nông dân bị thiệt thòi về nhiều phương diện. Họ bị đè nén bởi nhiều thế lực khác nhau. Từ phía thực dân Pháp tới giới chức cầm quyền và ngay cả một số giới lãnh đạo tôn giáo nữa. Người dân ở thôn quê phải chịu cảnh một cổ hai tròng mà chẳng biết kêu ai, chỉ biết cúi đầu cam chịu để tránh hậu quả tệ hại hơn.

Việc huấn luyện những người lớn tuổi như tôi để trở thành Linh Mục lúc đó là một ngoại lệ vì những người muốn đi tu phải bắt đầu từ nhỏ khi vừa lên ban trung học. Tôi tìm tới Cha giám đốc chủng viện trình bày ý nguyện của tôi và Cha giám đốc chủng viện Vĩnh Long lúc bấy giờ là Cha Trương Thành Thắng thu xếp cho tôi vào học tiếng La Tinh và tìm hiểu thêm về chí hướng làm Linh Mục tại tiểu Chủng viện Vĩnh Long, nằm không xa trường Nguyễn Trường Tộ bao nhiêu.

Khi tôi thưa với cha má về ước muốn làm Linh Mục, cha tôi sửng sốt nhưng rất vui mừng nói với tôi: ”Bây giờ con lớn khôn rồi, hãy tự quyết định về phần con, cha rất mừng khi con có ý định đó, nhưng đã theo tiếng Chúa gọi thì hãy đi cho tới cùng”. Từ đó tôi bắt đầu giai đoạn mới trong cuộc đời, với môi trường xa lạ của Chủng viện Vĩnh Long.

Tháng 8 năm 1963 tôi chính thức được nhận vào tu học theo học một chương trình 7 năm nội trú trong Đại Chủng Viện Sài Gòn, lúc bấy giờ Cha Phạm Văn Thiên làm giám đốc. Năm đó cũng là kỷ niệm giáp 100 năm thành lập Chủng viện Thánh Giuse này. Tôi vào nhập học hơn hai tháng thì xảy ra biến cố đảo chánh 1-11-1963

Cuộc Đảo Chánh

Tôi còn nhớ trưa ngày lễ Các Thánh 1-11, lúc đứng trên lầu 3 của Đại Chủng Viện nhìn xuống, thấy một số khá đông binh sĩ, có người chạy, có người leo rào, có người cởi bỏ quân phục dọc theo căn cứ hải quân ở bến Bạch Đằng. Lúc đó chúng tôi biết có biến động nhưng chưa biết là sự gì. Khi chúng tôi vào nhà nguyện trong giờ kinh chiều, bắt đầu có nhiều tiếng đại bác nổ rất gần. Tiếp theo là tiếng súng đủ loại nổ rân ran làm chúng tôi phải bỏ dở buổi kinh chiều và xuống trú ẩn trong nhà kho kiên cố dưới hầm nhà nguyện. Lúc đó, đài phát thanh lập đi lập lại lời kêu gọi tham gia đảo chánh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng do Trung tướng Dương Văn Minh cầm đầu, xen vào giữa các bản nhạc hùng.

Ông Dương Văn Minh này, tôi không biết có phải là một thứ khắc tinh của dân tộc Việt Nam hay không, mà mỗi lần tên ông được nhắc đi nhắc lại trên đài phát thanh thì y như rằng có chuyện xui xẻo xảy ra cho đất nước. Lần đầu vào ngày 1-11-1963, tên ông được gắn liền với bao nhiêu sự xáo trộn trong nước tiếp theo sau cuộc đảo chánh. Lần thứ hai vào ngày 30-4-1975, tên ông lại được vang trên làn sóng điện một lần nữa và trở thành tiếng kèn đưa ma chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Đêm đó, chúng tôi thức dưới hầm và theo dõi cuộc binh biến qua chiếc máy thu thanh đặt giữa phòng. Các tiếng nổ của đạn pháo binh và tiếng súng nhỏ, khi thưa khi nhặt. Khoảng gần nửa đêm, khi nghe tiếng súng nổ giòn như pháo Tết gần sát ngay bên chủng-viện, chúng tôi biết là phe đảo chánh đang tấn công thành Cộng Hòa chỉ nằm cách chúng tôi bằng con đường Thống Nhất. Đến gần sáng ngày 2-11, tiếng súng thưa dần rồi im bặt, tôi biết là phe đảo chánh đã thành công. Lúc bấy giờ, mặc dù không liên can gì về chuyện chính trị, nhưng tôi vẫn cầu mong cho Tổng Thống được bình yên.

Sáng ngày 2-11, chúng tôi ra khỏi nơi trú ẩn và đi nhặt miểng đạn pháo binh nằm rải rác khắp nơi trong khuôn viên của chủng viện. Con đường Cường Để lúc đó tấp nập những quân nhân súng ống đạn dược đầy người di chuyển tới lui, tạo nên cảnh nặng nề chết chóc. Một số đông thường dân cũng e dè nấp theo các vách tường nhìn ngó ra đường theo dõi sự việc. Nhìn xa hơn, tôi thấy thành Cộng Hòa bị hư hại khá nặng.

Sau khi biết là cuộc đảo chánh đã thành công, tôi càng nóng lòng muốn biết về số phận của Tổng Thống. Tôi không phải đợi chờ lâu, vì ngay tờ báo đầu tiên được dán lên bảng trong phòng đọc báo vào ngày 3 tháng 11 đã có bức hình nhòe nhoẹt và đầy máu me của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Trong hình, ông Diệm mặc áo đen, đầu được kê lên cái chậu hứng máu. Một hàng chữ lớn chạy hết bề ngang trên trang nhất: “Anh em Diệm – Nhu đã tự sát!”

Lúc ấy, mặc dù chưa có một nguồn tin nào khác để kiểm chứng nhưng tôi cũng không tin là Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu đã tự sát như tờ báo đã đăng. Thực ra, hai ông đã bị sát hại vào sáng ngày 2-11-1963 trên chiếc xe thiết giáp chạy từ Nhà thờ Cha Tam trong Chợ Lớn về Bộ Tổng Tham Mưu, như các tài liệu về sau này đã tiết lộ.

Có nhiều sách vở, báo chí viết về cuộc đảo chánh năm 1963, kể cả hồi ký của một vài người trực tiếp nhúng tay trong biến cố đó. Các tác giả ngoại quốc, khi viết về các vấn đề Việt Nam cũng có đề cập tới cuộc đảo chánh này. Tôi có đọc qua một số các sách đó và nhận thấy phần đông các tác giả tường thuật diễn tiến cuộc đảo chánh đều giống như nhau, chỉ khác ở chi tiết. Có một điều không thấy ai nói tới, hoặc cố tình không nói lên, hoặc không nhận thấy được: Tại sao Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị hạ sát?

Các tài liệu liên quan tới cuộc đảo chánh cho thấy kế hoạch đảo chánh được soạn thảo và nghiên cứu rất kỹ, cả về phía những kẻ chủ mưu trong chánh quyền Kennedy tại Hoa Thịnh Đốn, lẫn nhóm tướng tá thừa hành tại Sài Gòn. Tuy nhiên có một điều ai cũng thấy là người Mỹ không hề dự trù sau khi lật đổ xong sẽ giết chết ông Diệm. Điều này không phải vì họ có lòng nhân đạo, nhưng vì sợ tai tiếng và phản ứng bất lợi trong dư luận. Chánh quyền Kennedy lúc bấy giờ cũng thừa biết rằng, cho dù cố gắng ném đá giấu tay nhưng trước sau rồi ai cũng biết chính người Mỹ giật dây cuộc đảo chánh này.

Như vậy nếu ông Diệm bị giết chết, Chính quyền Mỹ sẽ bị kết án và gặp nhiều phản ứng bất lợi. Về nhóm tướng tá âm mưu đảo chánh, họ không thể tự quyết định việc gì ngoài sự chỉ đạo của người Mỹ, mà đại diện thường trực để theo dõi, ra lệnh và thưởng công bằng tiền mặt cho họ là Trung tá mật vụ Lucien Conein. Như vậy, sinh mạng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng không phải do nhóm sĩ quan đảo chánh có quyền quyết định.

Như vậy nếu ông Diệm bị giết chết, Chính quyền Mỹ sẽ bị kết án và gặp nhiều phản ứng bất lợi. Về nhóm tướng tá âm mưu đảo chánh, họ không thể tự quyết định việc gì ngoài sự chỉ đạo của người Mỹ, mà đại diện thường trực để theo dõi, ra lệnh và thưởng công bằng tiền mặt cho họ là Trung tá mật vụ Lucien Conein. Như vậy, sinh mạng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng không phải do nhóm sĩ quan đảo chánh có quyền quyết định.

Vậy tại sao ông Diệm lại bị giết chết? Cho đến nay, chưa có ai lên tiếng công khai nhận mình đã giết ông Diệm. Phần nhiều các tài liệu đều quy tội cho Trung tướng Dương Văn Minh, vì ông này ra lệnh cho Đại úy Nhung bằng cách giơ lên hai ngón tay ở bàn tay phải, dấu hiệu giết cả hai, khi viên sĩ quan cận vệ này theo đoàn xe đi đón ông Diệm tại Nhà thờ Cha Tam. Đoàn xe do Tướng Mai Hữu Xuân dẫn đầu và chính Đại úy Nhung là người đã giết hai anh em ông Diệm – Nhu trên chiếc xe thiết giáp.

Về chi tiết vụ sát hại này, các tài liệu có nhiều điểm khác nhau. Đại úy Nhung, người được nhắc tới nhiều nhất và được coi là người đã cầm súng bắn chết hai ông Diệm – Nhu, sau cuộc đảo chánh được lên cấp thiếu tá, nhưng đã bị thủ tiêu sau đó ít lâu trong lúc ông Nguyễn Khánh đang cầm quyền. Những người còn sống, thì hoặc giữ thinh lặng, hoặc đổ lỗi qua lại theo cái kiểu “cối đổ cho chày, chày đổ cho cối”, tạo cho cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho tới nay vẫn còn nhiều mờ ám.

Ai trong số các tướng đảo chánh ra lệnh giết ông Diệm trong buổi sáng ngày 2-11-1963? Chuyện đó tôi không bàn ở đây, nhưng theo tôi nhận xét, đây là một quyết định thật vội vã. Sau khi ông Diệm gọi điện thoại cho nhóm tướng lãnh đảo chánh ở Bộ Tổng Tham Mưu xin đầu hàng, số phận hai anh em Diệm-Nhu được định đoạt kể từ lúc đó. Cú điện thoại bất ngờ này đã đặt nhóm tướng tá đảo chánh vào một tình thế khó xử và bắt buộc họ phải có một quyết định. Nói cách khác, chính ông Diệm tự tuyên án tử hình cho ông và người em là Ngô Đình Nhu qua cú điện thoại này.

Tình thế lúc bấy giờ thật đặc biệt, không phải nhóm đảo chánh sợ ông Diệm dùng kế hoãn binh để gọi quân trung thành về lật ngược thế cờ như trong cuộc đảo chánh bất thành hồi năm 1960 do Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu. Điều mà họ lo sợ nhất là lúc họ phải đối diện với Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi họ dẫn ông về tới Bộ Tổng Tham Mưu. Khi đó, họ sẽ phải ăn nói xử sự xưng hô làm sao với ông? Họ không thể chịu đựng được cái mặc cảm tội lỗi khi phải trực diện với con người đã ban cho họ tất cả mọi thứ trên đời, kể cả binh quyền mà họ đã dùng để phản bội lại ông.

Trong bọn họ, có người xuất thân hèn mạt, chỉ là lính khố xanh, khố đỏ; nhờ theo hầu ông mà được quân hàm cao để có quyền hành sai khiến binh lính phản bội lại ông. Họ không biết phải xử sự thế nào với một “tù nhân” mà ngày hôm qua họ vẫn còn run sợ khi phải đứng trước mặt ông. Họ không biết xưng hô thế nào với con người mà hôm qua đây họ dùng lối xưng hô kính cẩn nhất trong ngôn ngữ Việt Nam: Gọi ông bằng “Cụ” và xưng mình là “con”.

Hơn nữa, có thể Dương Văn Minh và nhóm tướng tá đảo chánh cũng lo sợ con người uy nghi đó. Khi bị dẫn về và đối mặt với những kẻ phản bội, rất có thể ông sẽ điểm mặt gọi tên từng người trong bọn họ, “Ta không ngờ bọn mi là lũ phản loạn, bọn mi đã dùng chính ân huệ ta ban cho để ám hại ta!” Từ nhận xét trên, tôi kết luận Tổng Thống Ngô Đình Diệm chết vì chính cái uy nghi cao cả của ông.

Có thể về sau này, con người ra lệnh giết ông Diệm cũng bị lương tâm cắn rứt, nhưng rồi đã âm thầm cầu nguyện, “Thưa cụ, xin cụ hiểu và tha thứ cho con. Không phải con muốn giết cụ, nhưng chính cụ đã đặt con vào tình thế lúc bấy giờ không thể nào có quyết định khác hơn”.

Xáo Trộn Chính Trị

Sau cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, miền Nam bị rơi vào một lỗ hổng chính trị thật lớn, nặng nề nhất là tình trạng khủng hoảng uy quyền Quốc Gia. Các chính phủ tiếp theo sau, chẳng qua là những tổ chức cần thiết phải có để giữ giềng mối cho đất nước khỏi rơi vào cảnh hỗn loạn. Các khuôn mặt xuất hiện trên sân khấu chính trị sau ông Diệm đã không đủ sức lôi cuốn và thuyết phục dân chúng tin tưởng và ủng hộ.

Phần đông họ thuộc giới võ biền, nhờ có quân lính trong tay nên cướp thời cơ nhảy ra nắm quyền bằng các cuộc binh biến, được gọi bằng các tên như cách mạng, đảo chánh, chỉnh lý, biểu dương lực lượng v.v… Có người lại quá kém về phẩm chất và đời sống cá nhân, dốt nát về chính trị, nhưng nhờ thời cơ cũng mang râu đội mão, nhảy lên sân khấu chính trị để làm tuồng!

Từ trước tới nay, có nhiều người nhận xét khác nhau về cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Có kẻ bênh, người bỏ. Ông Diệm là người có công hay có tội với đất nước, tôi không nói ở đây, việc này chúng ta hãy dành cho lịch sử có tiếng nói sau cùng. Một điều không ai chối cãi được là cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người có uy tín cá nhân đáng nể phục, trong cương vị lãnh đạo Quốc Gia. Cái uy tín mà những người đứng đầu chính phủ về sau này không thể có được.

Khi các tướng lãnh cầm đầu cuộc đảo chánh chưa uống cạn hết chai rượu mừng và các Bộ trưởng của nội các Nguyễn Ngọc Thơ chưa kê xong bàn ghế trong văn phòng thì tướng Nguyễn Khánh từ miền Trung bay vô Sài Gòn làm cuộc“chỉnh lý” bắt giam 4 tướng Lê Văn Kim, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân và Tôn Thất Đính tại Đà Lạt, trừ Quốc trưởng Dương Văn Minh được cho ở ngoài, từ đó chánh quyền về tay tướng Nguyễn Khánh. Thời gian đó tôi đang học ở Đại Chủng Viện Sài Gòn và hàng ngày thấy xe có còi hụ của Thủ tướng Nguyễn Khánh chạy trên đường Cường Để đi về từ tư dinh của ông ở bến Bạch Đằng tới phủ Thủ Tướng nằm trên đường Thống Nhất, sát vách với Tiểu Chủng viện.

Có một sự kiện xảy ra trong thời Tướng Khánh cầm quyền, lúc đó có mấy ngày vô chính phủ và Sài Gòn rơi vào cảnh hỗn loạn thực sự. Điều tôi ghi nhớ một cách đau đớn là lúc đó có sự va chạm nhau một cách nặng nề giữa hai tôn giáo lớn là Phật giáo và Công giáo. Sài Gòn trong thời gian đó bị lên cơn sốt gây ra bởi tình thế hỗn loạn và dân chúng càng bấn loạn hơn nữa bởi những tin đồn gây hoang mang. Khi thì có tin Phật tử sẽ tấn công Tòa Giám Mục Sài Gòn, hoặc tòa soạn báo Xây Dựng. Lúc khác lại có tin thanh niên công giáo trong các trại di cư sẽ tấn công Viện Hóa Đạo, chùa Xá Lợi…! Những loại tin đồn đó tạo cho tình thế vốn đã hoang mang càng ngày càng căng thẳng nhiều hơn.

Có những đêm chúng tôi đã bị ảnh hưởng bởi những tin đồn đó và đã mang lên lầu 3 của Chủng viện những loại gạch đá gậy gộc vì có tin thanh niên Phật Tử sẽ tấn công Chủng viện Sài Gòn trong đêm! Trong khi đó các cơ sở tôn giáo của cả hai bên đều lo tổ chức những biện pháp phòng vệ riêng tư, tạo cho bầu không khí Sài Gòn trở thành khó thở như sắp có cuộc chiến tranh tôn giáo xảy ra!

Tôi không biết thực tế đã có những những va chạm tôn giáo như thế nào và ở đâu, nhưng mỗi lần nhớ tới tình cảnh lúc đó tôi cảm thấy đau đớn cho số phận dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có tôn giáo. Đại đa số người Việt Nam nếu không thuộc về tôn giáo này cũng thuộc về tôn giáo khác, vì thế lực lượng dân tộc trong các tôn giáo chính là sức mạnh tổng hợp ý chí của toàn dân. Nếu có những va chạm và tình trạng bất hòa xảy ra giữa tín đồ các tôn giáo, nhất là giữa hai tôn giáo lớn thì thật là một đại họa cho dân tộc.

Khủng Hoảng Uy Quyền

Trong hoàn cảnh chiến tranh lúc bấy giờ, miền Nam rất cần một thứ uy quyền lãnh đạo để đương đầu với một Hồ Chí Minh vừa có uy tín ở miền Bắc, lại vừa mưu mô quỷ quyệt. Tiếc thay, thứ uy quyền cần thiết đó thì miền Nam lại không có. Chính phủ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra đời năm 1967 được coi là khá nhất trong số các chính phủ vá víu tiếp theo cuộc đảo chánh 1-11-1963.

Dù vậy cũng chỉ tạo được một sự ổn định tạm bợ về chính trị, nhưng tuyệt nhiên không gây được tác dụng tinh thần nào nơi dân chúng, và nhất là nơi các chiến sĩ đang làm nhiệm vụ chống Cộng. Sức mạnh thực sự của miền Nam lúc bấy giờ không phải là sự quyết tâm tranh đấu của toàn dân, mà là kỹ thuật tân tiến của vũ khí do Mỹ viện trợ, cộng với sự lo sợ về một cuộc sống lầm than nếu để miền Nam rơi vào tay Cộng Sản.

Hai yếu tố đó hợp lại đã tạo được những trang quân sử lẫy lừng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH). Tiếc thay, những chiến sĩ kiêu hùng của QLVNCH lúc bấy giờ lại là thành phần chịu thiệt thòi nhiều nhất. Họ chiến đấu anh dũng nơi chiến trường để giữ yên bờ cõi cho những kẻ vô trách nhiệm ung dung thụ hưởng ở hậu phương! Họ đã đổ xương máu ra ngăn chặn quân thù cho những kẻ quyền thế lo làm giàu, mua quan bán chức! Họ đem thân mình đỡ đạn thay cho những thanh niên con nhà giàu đút lót tiền bạc cho các cấp chỉ huy để làm “lính ma, lính kiểng!”

Tinh thần đâu để chiến đấu khi các chiến sĩ oai hùng ngoài mặt trận nghe tiếng bom đạn của kẻ thù, hòa với tiếng la hét của đồng bào biểu tình tố cáo đích danh tổng tư lệnh của họ là một tên tham nhũng. Chắc là họ cũng biết rằng, một chiếc máy bay lúc nào cũng chực sẵn để khi cần là tổng tư lệnh của họ sẽ đào tẩu cùng với vợ con và của cải vơ vét được! Trong bối cảnh như vậy, việc mất miền Nam chỉ còn là vấn đề thời gian.

Bước Chân Vào Đời

Tôi thụ phong Linh Mục năm 1970, lúc vừa 27 tuổi. Một tháng sau, tôi về làm Cha phó tại xứ đạo Hòa Khánh, ngay trong thị xã Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc tương đối nhỏ với khoảng hai trăm ngàn dân, đa số là tín đồ Phật giáo Hòa Hảo. Thị xã Sa Đéc nằm bên bờ sông Cửu Long, cách bắc Mỹ Thuận gần 30 cây số.

Nhờ sự giao thông thuận tiện, cả đường thủy lẫn đường bộ, nên Sa Đéc là một trong những tỉnh trù phú của miền đồng bằng sông Cửu Long. Đa số dân chúng sống dọc hai bên bờ sông và trồng cây ăn trái trên những khu đất bồi màu mỡ. Một số khác làm ruộng trong các vùng sâu hơn về phía trong, nhưng phát đạt nhất vẫn là về thương mại. Người dân Sa Đéc hiền hòa và hiếu khách, một phần do bản chất của người dân miền quê, phần khác cũng do ảnh hưởng phong thổ cây xanh bóng mát, tạo cho người dân vùng này cảnh sống an nhàn, gần gũi và hòa hợp với thiên nhiên.

Tôi còn nhớ mãi những hình ảnh nhẹ nhàng dễ thương trong những lần đi thuyền máy trên nhánh sông nhỏ vào các buổi trưa hè để vô làm việc trong xứ đạo nhỏ tại xã Tân Phú Trung, cách tỉnh lỵ 12 cây số. Thuyền máy lướt nhẹ trên dòng sông nước trong veo, hai bên bờ rợp bóng mát dưới những tàn cây to đủ loại, nhiều nhất là cây cà-na, loại cây có trái to bằng ngón tay cái, hai đầu nhọn túm lại như hình dáng con thoi.

Hai bên bờ sông là con đường đất khá rộng mà xe hơi loại nhỏ có thể đi được. Nấp sau khoảng sân rộng là những ngôi nhà ngói, phần nhiều là cổ xưa, nằm hướng ra bờ sông. Trước mỗi nhà có cầu bến để lên, xuống ghe thuyền và làm nơi tắm giặt. Cầu bến thường là đúc bằng xi-măng cốt sắt, có khi bằng hai tấm vỉ sắt có lỗ tròn, loại vỉ sắt dùng làm sân bay dã chiến. Có khi cầu bến làm bằng những tấm ván ghép lại, bên trên có đóng mấy “con lươn” to bằng ngón chân cái, cách quãng nằm ngang cho đỡ trơn trợt, một đầu cầu gác lên bờ, đầu kia dốc sâu xuống mí nước.

Vào những trưa hè êm ả, các cô thôn nữ thường ngồi trên cầu bến giặt giũ. Một vài cô khác tươi cười đứng chải tóc dưới tàn cây cà-na rợp bóng mát. Các nàng ăn mặc thật đơn giản, chiếc áo bà ba trắng ôm sát lấy người, làm nổi bật mái tóc đen óng ả được vén qua một bên vai ra trước ngực phủ dài xuống thân. Nàng thôn nữ, một tay nắm trọn lọn tóc ghì vào dưới cằm, tay kia chải nhẹ phần tóc còn lại ở dưới, vừa nghiêng nghiêng đầu, lơ đễnh đưa mắt nhìn chiếc thuyền máy đang chậm chậm lướt qua. Hình ảnh đó tô đậm thêm cho nét đẹp của một vùng quê an bình, mà dân chúng được thừa hưởng của thiên nhiên ở miền nước ngọt cây lành. Hình như tôi đã được nhìn thấy ở đâu một bức tranh thủy mạc vẽ cảnh tương tự như thế.

Khi tôi bắt đầu cuộc đời Linh Mục năm 1970 cũng là lúc chiến cuộc miền Nam tới hồi ác liệt. Hình ảnh và tin tức chiến tranh nhan nhản khắp nơi. Báo chí và đài phát thanh ngày nào cũng đầy dẫy tin chiến sự. Miền Nam lúc bấy giờ bắt đầu co cụm lại trong các thành phố, vì các vùng quê phần nhiều mất an ninh, nhưng thủ đô Sài Gòn và các thành phố lớn vẫn ồn ào náo nhiệt như không có gì xảy ra. Người dân đô thị chỉ nghe nói tới chiến tranh, nhưng phần đông không tận mắt chứng kiến hoặc chưa thấy sự đe dọa trực tiếp tới mạng sống và tài sản, nên mọi người cứ vui sống an nhàn.

Tin tức chiến sự trên báo chí dần đà trở thành quá quen thuộc. Những con số thương vong trong các trận đánh của hai phe lâm chiến dần trở thành những con số thống kê vô nghĩa, không còn gây chú ý đối với những người sống trong các vùng an toàn ở hậu phương. Thỉnh thoảng có xảy ra các vụ Việt Cộng đặt mìn hay pháo kích vào thủ đô Sài Gòn hoặc vào các thành phố, trường học, gây kinh hoàng trong một thời gian rồi đâu lại vào đấy.

Ai có nhiệm vụ phải đánh giặc thì lo đánh giặc, người nào may mắn không phải ra trận và đang sống ở các khu vực an toàn thì cứ vui sống, hưởng thụ và lo làm giàu. Sự hiện diện của nửa triệu lính Mỹ và một số khá đông quân đội các nước đồng minh tại miền Nam lúc bấy giờ đã tạo nên một hình thái xã hội thật đặc biệt, một xã hội sống thác loạn, ồn ào và đầy mánh mung của thời buổi chiến tranh.

Trong khi đó, tình hình an ninh tại những nơi xa thành thị hoặc ở vùng quê càng ngày càng sa sút. Người dân quê phải chịu cảnh một cổ hai tròng, ban ngày lúc còn mặt trời thì thuộc sự kiểm soát của Quốc gia, bóng đêm về nằm trong tay Việt Cộng. Người dân quê đóng thuế cho Quốc gia một, thì đóng thuế cho Việt Cộng mười. Ai trốn thuế Quốc-gia nếu bị bắt có thể đi tù, còn ai trốn thuế “đảm phụ quốc phòng” của Việt Cộng thì bị chặt đầu mổ bụng.

Chính mắt tôi đã chứng kiến cảnh tượng dã man một cách hãi hùng này tại quê nhà tôi. Việt Cộng trà trộn trong dân, ẩn nấp trong nhà dân, ăn cơm của dân, dùng tiền thuế của dân và dùng dân làm bia đỡ đạn trong trong các cuộc biểu tình chống đối chánh quyền Quốc gia. Thậm chí, có trường hợp chánh quyền địa phương bắt giam những người dân đóng thuế cho Việt Cộng, trong khi chánh quyền không thể bảo vệ được cho người dân khỏi bàn tay sắt máu của họ. Người dân ở nông thôn xa xôi khốn khổ không biết kêu ai, chỉ còn biết kêu trời, mà trời thì cao quá làm sao nghe thấy!

Trong bối cảnh miền Nam chiến tranh khói lửa và hỗn tạp như vậy, cộng với một chánh quyền mang nhiều tai tiếng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, đã dẫn đưa xã hội miền Nam vào một cuộc sống mất phương hướng. Uy quyền Quốc gia là yếu tố tinh thần cần thiết nhất cho một nước, nhất là trong thời chiến, nhưng miền Nam lại thiếu hẳn yếu tố đó.

Người ta phanh phui rất nhiều về vụ tham nhũng thối nát của chánh quyền Nguyễn Văn Thiệu, về tệ nạn mua quan bán chức, về những ông bà lớn lợi dụng quyền uy để buôn lậu đủ các loại hàng, kể cả hàng quốc cấm. Có “vị” còn dám bán cả súng đạn cho Việt Cộng lấy tiền bỏ túi! Thiên hạ lúc bấy giờ còn nói chính ông Nguyễn Văn Thiệu là một tay tham nhũng gộc, một thứ “hạm” nuốt trôi tài sản Quốc Gia và tiền viện trợ Mỹ.

Phong trào chống tham nhũng do Cha Trần Hữu Thanh, một Linh Mục Dòng Chúa Cứu Thế phát động, tung ra những bản cáo trạng tố cáo đích danh Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và một số tướng lãnh, đã được nhiều người hưởng ứng. Có người còn tỏ ra hiểu chuyện, nói vanh vách ra cái ghế tỉnh trưởng giá bao nhiêu tiền, muốn làm quận trưởng phải “chạy” bao nhiêu và còn cho biết cái “bót” quận trưởng quận Năm trong Chợ Lớn được đấu giá cao nhất, vì đây là một chức vụ béo bở!

Các ông quận trưởng trong vùng Chợ Lớn, tuy lúc mới về khá gầy ốm hom hem, nhưng được mấy chú Ba Tàu “tốt bụng” vỗ béo cho, chẳng mấy chốc mà trở nên mập béo, phát tài, phát tướng! Sự thật về tệ nạn tham nhũng đúng tới mức nào tôi không rõ, điều tôi biết một cách chắc chắn là ở miền Nam lúc bấy giờ, ai may mắn nắm giữ được chức vụ tốt trong chánh quyền thì làm giàu nhanh, mà chức Tổng Thống dĩ nhiên là tốt nhất!

Tôi còn nhớ có lần ông Trần Văn Hương khi còn làm thủ tướng đã than: “Nếu diệt hết tham nhũng lấy ai làm việc nước!” Vì những người làm việc nước, đồng thời cũng đang bận vơ vét tiền của như vậy nên miền Nam lúc bấy giờ tuy có chánh quyền nhưng không có uy quyền, có Tổng Thống nhưng không có người lãnh đạo quốc gia.

Khi bắt đầu cuộc đời Linh Mục cũng là lúc tôi bắt đầu va chạm với thực tế về sự bất công của xã hội mà trước đây tôi chỉ thấy và nghe. Thực tế cho tôi biết nạn người bóc lột người, người đè nén người trong đất nước tôi nặng nề và ác độc hơn tôi tưởng. Giới chức trong chánh quyền các cấp, ít nhất là ở cấp mà tôi có dịp tiếp xúc, thì họ thực sự là “cha mẹ của dân”. Họ đè nén người dân, bóc lột và vơ vét của công, của tư một cách vô tội vạ.

Trong hai năm đầu phục vụ tại Sa Đéc, tôi đã phải đương đầu và đụng chạm nặng nề với giới chức đứng đầu hành chánh của tỉnh, khi ông cùng với viên chức Ty Xã Hội nuốt trôi hết vật liệu cất nhà mà Bộ Xã Hội cấp cho mấy ngàn Việt Kiều hồi hương từ Cam Bốt chạy về các tỉnh biên giới phía Nam. Lúc đó tôi là thành viên trong Ủy Ban Cứu Trợ Việt Kiều Hồi Hương của tỉnh Sa Đéc. Ngoài ra còn có những vị chức sắc tôn giáo đã làm lu mờ giáo lý cao cả của tôn giáo mà họ là người rao giảng. Sự nhập nhằng giữa tôn giáo và chính quyền lúc bấy giờ đã tạo ra những “lãnh chúa áo đen”. Họ lợi dụng chức vị tôn giáo để mưu cầu danh lợi riêng tư.

Năm 1972, tôi được đổi về làm phó xứ Cái Đôi tại quận Long Toàn, tỉnh Trà Vinh, một giáo xứ xa xôi và lẻ loi nằm tận bờ biển Ba Động. Tại đây tôi mới thực sự chia sẻ nỗi đau của bà con trong vùng như chính nỗi đau của riêng tôi. Nhiều người dân trong vùng chạy đến với tôi khóc lóc kêu van vì ông quận trưởng hà hiếp, bóc lột, tham nhũng, hãm hiếp gái tơ và đè đầu cỡi cổ người dân đen trong quận một cách tàn nhẫn. Người dân, nhất là những người không thuộc về xứ đạo chỉ biết khóc mà không biết kêu ai. Tệ hơn nữa, ngài quận trưởng lại là bạn thân của Cha sở.

Trong hoàn cảnh ấy tôi đã công khai đứng về phía dân chúng và thách thức quyền lực của viên chức chính quyền bất nhân này. Cuối cùng tiếng nói người dân đã thắng. Viên quận trưởng phải rời chức vụ và bị giam vào quân lao Cần Thơ. Phần tôi đã phải trả cái giá khá đắt cho việc làm này là bị thất sủng trong hàng ngũ các Linh Mục thuộc Giáo phận Vĩnh Long, nhưng tôi không coi đó là điều đáng buồn. Ngược lại, tôi thấy vui và hạnh phúc vì đã có dịp sống với lý tưởng mà tôi đã lựa chọn.

Kết Thúc Ván Cờ

Qua những năm đầu trong thập niên 70, chiến tranh càng leo thang ác liệt làm cho tình cảnh người dân Việt Nam càng khốn khổ hơn. Đồng bào miền Bắc phải lo chống chọi với những đợt mưa bom của Mỹ, người dân miền Nam bị đe dọa nặng nề hơn bởi những cuộc pháo kích của Việt Cộng vào thành phố và khủng bố của họ ở miền quê. Cuộc sống lầm than của người dân hai miền nói sao cho siết!

Chiến cuộc càng leo thang thì máu xương dân tộc Việt Nam càng chồng chất. Nếu có ai đem máu của người Việt Nam bị máy bay Mỹ giội bom giết chết ở miền Bắc hòa với máu người dân vô tội bị Việt Cộng pháo kích chết ở miền Nam sẽ ngạc nhiên thấy hai dòng máu đó hòa hợp một cách lạ lùng. Điều này rất dễ hiểu vì cả hai loại máu đó có chung một huyết thống có tên là Dòng Máu Việt Nam.

Nhưng số phận của dân tộc tôi dù sao cũng chỉ là một con tốt trong bàn cờ chính trị quốc tế. Vì thế khi bánh máy bay chở ông ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger chạm mặt đất của phi trường Bắc Kinh năm 1972 thì thế cờ chính trị thế giới thay đổi. Hơi gió mạnh của máy phản lực trên chiếc máy bay đó cũng thổi gập cuốn lịch sử Việt Nam sang qua một trang mới. Những ngày tháng tiếp theo, thế giới có dịp mỉm cười trước cảnh một số những anh điếc ngồi bàn chuyện với nhau về tương lai của Việt Nam tại cuộc hội đàm Paris. Trong lúc đó bom đạn vẫn gào thét trên đất nước Việt nam, và dĩ nhiên Thần Chết phụ trách khu vực Việt Nam lúc nào cũng bận rộn như đã từng bận rộn trong mấy chục năm qua.

Tháng Giêng năm 1973, Hiệp Định Ba-lê được ký kết với những điều khoản trở thành dấu ấn đóng trên số phận u tối của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Cho tới cuối tháng tư năm 1975, miền Nam đi vào cơn hấp hối khi những người Cộng Sản từ miền Bắc ồ ạt ùa vào miền Nam. Lúc bấy giờ chánh quyền và quân đội miền Nam đang rối loạn hàng ngũ. Mỗi ngày qua đi là một bước tới ngỏ đường cùng của chế độ.

Rồi ngày định mệnh dành cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam đã xảy ra vào ngày cuối cùng của tháng Tư năm 1975. Một thời điểm được ghi thật đậm nét trong cuốn lịch sử của Dân Tộc Việt Nam.

Tôi đang phục vụ tại Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long khi Cộng Sản chiếm miền Nam. Hai tháng sau tôi được chỉ định qua làm Cha sở họ đạo La Mã trong tỉnh Bến Tre. Tính đến lúc đang ngồi thẫn thờ trên chuyến xe Minh Chánh buổi chiều tà này, tôi đã làm Linh Mục được sáu năm. Sáu năm qua mau, sáu năm tôi chứng kiến nhiều cuộc đổi thay trong nhân tình thế sự.

Trở Về Thực Tại

Đang thả hồn theo dòng suy tư, chợt tôi nghe tiếng anh tài xế hỏi bên tai:

- Ông anh ngồi có chật lắm không? Nhích qua phía tôi một chút đi. Chịu khó chật một chút, không bao lâu nữa tới nơi rồi!”

Câu hỏi bất ngờ của anh tài xế kéo tôi về thực tại. Có lẽ thấy tôi ngồi yên đã lâu, nên anh tài xế muốn gạ chuyện cho vui. Tôi mỉm cười trả lời:

- Không sao đâu anh! Tôi ngồi thoải mái lắm, anh chạy rất cừ, sắp tới Sài Gòn rồi.

Người tài xế tuổi trung niên vui tính nhe răng cười như đáp lại lời khen của tôi, xong quay sang trả lời câu hỏi gì đó của một bà ngồi phía sau. Lúc xe đang chạy, anh cười nói huyên thuyên với hết người này tới người khác từ phía sau. Lúc nói chuyện, anh có thói quen hay chửi thề hai tiếng ĐM. Mười câu thì có chín tiếng ĐM vì quen miệng. Tôi ngồi yên, nghe tiếng chửi thề của anh lại rất có duyên. Có lúc tôi lẩn thẩn nghĩ rằng, nếu anh tài xế nói chuyện mà không chêm hai tiếng ĐM đệm vào thì câu chuyện xem ra nhạt nhẽo, mất hào hứng.

Ngồi yên một mình khiến tôi suy nghĩ vẩn vơ. Có lúc tôi quay sang nhìn bộ dạng anh tài xế và theo dõi từng động tác của anh. Anh có bộ ria mép rậm dài và đen nhánh, như hai con sâu róm nằm chấu đầu vào nhau. Mỗi khi anh nói cười, bộ ria mép cũng giật giật như hai con sâu róm đang giỡn trửng, đùa cợt nhảy vào tấn công nhau, rồi lại nhảy lùi ra né tránh, trông thật ngộ nghĩnh! Mỗi khi có chiếc xe lô nào ngược đường qua mặt, anh đều chào bạn tài xế xe kia bằng cách nhấc mấy đầu ngón tay của bàn tay trái như cái quạt được xòe ra, trong khi bàn tay phải vẫn để gá nhẹ trên tay lái, miệng cười nói vui vẻ.

Tôi ngồi kế bên, theo dõi một cách thích thú cách hai anh tài xế chào nhau. Khi thấy có xe lô ngược chiều từ xa, tôi lại để ý các ngón tay anh. Khi hai xe giáp nhau, các ngón tay anh tự động dương lên, rồi lại hạ xuống, như cửa các tiệm buôn được điều khiển tự động bằng “mắt thần”. Hình ảnh vui vui này đã giúp tôi quên thực tại trên một đoạn đường dài.

Hành khách ngồi phía sau đa số là những người bình dân. Nghe họ nói chuyện, tôi biết họ đã quen nhau và đi lại thường xuyên để buôn bán trên tuyến đường này. Cách họ đùa cợt với anh tài xế cũng chứng tỏ họ là những hành khách thường xuyên của anh. Tôi ngồi yên lặng suốt từ lúc bước lên xe, một phần vì chẳng quen ai và cũng không có chuyện gì để nói, vả lại lòng tôi đang rối như tơ vò.

Câu hỏi cứ lập đi lập lại trong đầu, tới bến xe Phú Lâm rồi đi đâu nữa? Tự nhiên tôi đâm ra lo lắng và cầu mong cho xe chạy chậm lại, chạy thật chậm lại, càng chậm càng tốt, để nếu có thể thì không bao giờ tới bến. Anh tài xế vui tánh nãy giờ nói năng đùa cợt với các bà ngồi sau, lại quay sang hỏi tôi khi vừa qua khỏi cầu Long An một đỗi.

- Ông anh xuống Xa Cảng hả?

- Vâng, tôi xuống Xa Cảng.

Người ta gọi xa cảng miền Tây ở Phú Lâm bằng cái tên gọn là Xa Cảng. Thấy tôi trả lời không có vẽ hào hứng, anh tài xế yên lặng một chút rồi vẫn nhìn thẳng phía trước nói:

- Buổi chiều vắng xe mình đi lẹ, chút nữa tới rồi. Ông anh ở Sài Gòn à?

Bình thường có lẽ tôi cũng vui vẻ tiếp chuyện anh tài xế, nhưng lúc đó tôi chỉ đối đáp hững hờ cho qua chuyện:

- Không, lên thăm bà con.

Anh ta gạ chuyện tiếp theo:

- Vậy ông anh ở Mỹ Tho à?

- Không! Tôi ở Bến Tre… tôi làm việc ở Bến Tre, nhưng gia đình ở Vĩnh Long.

Nghe hai tiếng Vĩnh Long, anh ta quay sang tôi vui vẻ như gặp được đồng hương:

- Vĩnh Long à? Tôi cũng có thằng bạn ở Vĩnh Long, nó có tiệm bán máy đuôi tôm ở ngã ba Cần Thơ tên là… tên là… tên là gì tôi quên rồi, trong dãy phố của Đức Cha Thục đó. Hồi trước giải phóng nó khá lắm, bây giờ hổng biết nó ra sao, lâu rồi tôi cũng không gặp nó.

Tôi bị dị ứng khá nặng khi nghe ai dùng hai tiếng “giải phóng” để nói về biến cố 30 tháng 4 năm 1975, ngày Cộng Sản chiếm miền Nam, nhưng anh tài xế dùng hai tiếng “giải phóng” cũng vô thức và đầy thói quen như hai tiếng “ĐM” trong câu chuyện. Hiểu như vậy nên tôi không cảm thấy khó chịu nên vui vẻ trả lời.

- Tôi có biết dãy phố của Đức Cha Ngô Đình Thục.

Yên lặng một lúc, nhìn thẳng về phía trước, như để ôn lại kỷ niệm của thời xa xưa, anh nghiêng đầu qua tôi:

- Thành phố Vĩnh Long cũng đẹp, lúc trước giải phóng tôi hay xuống đó chơi, có lần tôi xuống tới quận Chợ Lách nữa. Vô mấy vườn trái cây ở đó mặc sức mà ăn! Còn gái Vĩnh Long thì khỏi phải nói, nhất là gái Nha Mân đẹp có tiếng! Ông anh có đồng ý không?

Vừa hỏi anh ta vừa nheo mắt nhìn tôi một cách hóm hỉnh, tôi đính chánh và tránh né đề tài:

- Nha Mân thuộc về Sa Đéc rồi!

Lúc đó xe đang ngon trớn phóng nhanh và tôi thấy mấy chiếc xe khá xa về phía trước đang chạy chậm lại nhưng anh tài xế đang vui câu chuyện hình như không chú ý, anh vội quay qua tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Ủa! Tôi tưởng là Nha Mân thuộc về Vĩnh Long chớ! Tôi nhớ hồi trước có lần… có lần… ĐM! Lại trạm kiểm soát! Tối rồi mà còn nút chặn!

Anh ta vội ngắt ngang câu chuyện với tôi, ngoái đầu lại phía sau như cái máy, báo động:

- Trạm kiểm soát đó nghe bà con, có giấy tờ gì lo móc sẵn ra, để chạy cho nó lẹ! Tối rồi…

Chiếc xe ngừng lại khá gấp. Vì mãi lo nói chuyện và không để ý mấy xe trước đã dừng, nên anh vội đạp thắng, làm hành khách ngả nghiêng. Tiếng la, tiếng cười nói, tiếng rủa sả lại rộn cả lên từ đám bạn hàng quen thuộc từ phía sau.

Lúc bấy giờ là cuối tháng Tư năm 1976, một năm sau ngày Cộng Sản chiếm miền Nam. Tôi không hiểu chính quyền Cộng Sản thời đó áp dụng chính sách kinh tế kiểu gì, chỉ biết là đi tới đâu, cũng nghe dân chúng rên rỉ, than phiền về tình trạng ngăn sông cấm chợ. Trên các trục giao thông đường bộ cũng như đường thủy, có quá nhiều trạm kiểm soát. Thời kỳ đầu, các trạm kiểm soát đủ loại mọc lên khắp nơi, cách một đoạn chừng mươi cây số lại có một trạm, về sau này có thưa đi một chút nhưng vẫn còn quá nhiều. Lúc đầu kiểm soát giấy đi đường, kiểm soát thẻ đăng bộ xe gắn máy, kiểm soát giấy tờ hóa đơn đồng hồ, cà rá v.v… Ai không có hóa đơn thì tịch thu chờ “cứu xét”.

Về sau này, kiểm soát hàng hóa như đậu lạc, dừa khô, thịt heo, hoa quả vải vóc và các thứ khác. Nhưng ở đời, vỏ quít dày có móng tay nhọn. Chánh quyền càng tăng cường kiểm soát thì các con buôn càng có nhiều mánh khóe tinh vi hơn để qua mặt chánh quyền. Khi có nhiều kẻ qua mặt thì chánh quyền lại tăng cường thêm các trại kiểm soát và cứ thế cả hai đàng cùng leo thang chơi trò “cút bắt kinh tế”.

Tôi có nghe được khá nhiều câu chuyện về mánh lới con buôn dùng để vượt qua các trạm kiểm soát, trong đó có chuyện sau đây làm tôi nhớ mãi. Có một người đàn bà bụng mang dạ chửa, nhưng vì quá nghèo nên phải tảo tần mua bán độ nhật qua ngày. Chị lén “buôn lậu” vài loại hoa quả như chuối, dừa khô v.v…

Có hôm bị nhân viên kiểm soát kinh tế bắt tịch thu mất vốn, cũng có khi chị năn nỉ họ thương tình tha cho vì xét ra dăm ba trái dừa khô, một ít nải chuối cũng chẳng đáng là bao. Nếu gặp phải thịt heo thì không thể tha được, vì món hàng này bị cấm ngặt, do đó nếu ai giấu được vài ký thịt qua trạm kiểm soát sẽ lời bằng mấy lần người khác buôn hoa quả. Chị đàn bà có mang này cứ tiếp tục buôn bán hoa quả thời gian khá lâu.

Một ngày nọ chị cũng đi buôn dừa khô như thường lệ, nhưng hôm đó bất ngờ chị phải đứng chờ trước trạm kiểm soát khá lâu. Một lúc sau, nhân viên kiểm soát ngạc nhiên thấy máu chảy ướt cả hai bàn chân của chị, tưởng là chị đã tới lúc sanh con, nên nhân viên kiểm soát vội vàng gọi y tá tới giúp. Mặc dù chị quyết liệt từ chối, nhưng ai lại để chị sanh con giữa đường giữa sá bao giờ!

Khi tới nơi mới vỡ lẽ ra, chị ta chẳng bầu bì gì cả. Thì ra từ bao lâu nay chị đã buôn lậu hàng tạ thịt heo bằng cách bó thật chặt vào bụng khi qua các trạm kiểm soát, và dĩ nhiên là chị ta chỉ “có bầu” để qua mặt nhân viên kiểm soát. Mặc dù lục soát rất kỹ nhưng có ai sờ nắn bụng đàn bà có mang bao giờ.

Hôm ngày chị “ở cữ” vì kẹt trước trạm quá lâu, và thịt heo gói trong bọc nhựa loại xấu vỡ ra, làm máu chảy dọc theo hai bên chân dài xuống ướt cả bàn chân mới ra cớ sự. Hàng trăm thứ tội chỉ tại vì cái bọc nhựa kém chất lượng! Loại bọc nhựa đen ngòm làm bằng chất nhựa nấu lại, vì thời buổi ấy tìm đâu ra túi loại trắng làm bằng thứ nhựa nguyên chất?

Chiếc xe của tôi bò từ từ, nối đuôi theo sau đoàn xe khá dài đang đi ngang qua trạm kiểm soát. Tôi e ngại mỗi khi xe ngừng lại các trạm, vì kinh nghiệm cho biết bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra tại các nút chặn như thế này. Mỗi lần qua trạm, tôi đều nhớ lại cảnh tượng hãi hùng mà tôi đã chứng kiến, cũng xảy ra trên tuyến đường này một năm về trước. Hôm đó, mới 5 ngày sau khi Cộng Sản chiếm miền Nam, tôi đang ở Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long và có việc phải đi Sài Gòn cùng với một vài người trên chiếc xe Wolksvagen của cơ quan bác ái Caritas.

Trên quốc lộ 4 ngày hôm đó thật hỗn loạn khác thường, nào xe lớn xe nhỏ, nào người dân, nào du kích mang súng ống đạn được… đông nghẹt cả đường lộ như cảnh bán chợ trời. Cách quãng vài trăm thước lại có một nhóm vài ba anh du kích mặc đồ đen, đội nón tai bèo, mang dép râu, khăn rằn quấn cổ mang súng AK hoặc M16, đưa tay chận xe lại và xét! Tôi cũng chẳng biết họ xét cái gì, vũ khí thì chúng tôi không có, giấy tờ thì chúng tôi có nhưng họ lại không biết đọc.

Cuối cùng họ xét… hóa đơn! Bất cứ thứ gì, nhất là đồng hồ đeo tay mà không có hóa đơn đều bị giữ lại để chờ mang hóa đơn tới chuộc về. Tôi nghe rất nhiều khổ chủ của những xe gắn máy, của các chiếc đồng hồ đang cố gắng giải thích cho các anh du kích trong rừng vừa mới ra này hiểu rằng, không bao giờ họ cần phải mang theo hóa đơn khi đi đường. Nhưng giải thích thì cứ giải thích còn việc “cách mạng” làm thì họ cứ làm.

Xe tôi rời nhà từ sáng sớm, cho tới xế chiều thì bò gần tới Cái Bè, tức là gần nửa đoạn đường 130 cây số Vĩnh Long – Sài Gòn. Tính ra chúng tôi đi được 50 cây số trong 7 tiếng đồng hồ. Xe cứ bò đi, lại bị chận kiểm soát rồi lại bò đi, lâu lâu xe dừng lại cho mấy anh du kích quá giang.

Khi tới Cái Bè lại kiểm soát và lần này thì một anh du kích có sáng kiến rất lạ lùng, anh cầm ngửa một cái nón lá của phụ nữ, leo lên xe tôi và ra lệnh tất cả hành khách ai có bất cứ một thứ giấy tờ gì thì ném hết vào. Chúng tôi nhìn nhau e ngại trước cái lệnh quái đản này, vì nếu không còn giấy tờ tùy thân nữa thì chúng tôi sẽ ra sao trong tình thế hỗn độn này? Tôi lên tiếng hỏi:

- Anh à, nếu anh giữ giấy tờ chúng tôi ở đây, các trạm tới hỏi chúng tôi làm sao?

Anh du kích điềm nhiên trả lời:

- Bà con nói là anh Tư Lớn ở Cái Bè đã giữ!

Trời ơi, giấy tờ tùy thân của chúng tôi trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng này mà anh “Tư Lớn” coi như… lá khoai! Nhưng chúng tôi không thể giải thích hoặc cưỡng lệnh anh “Tư Lớn”, nhất là khi nhìn thấy cái nòng súng AK đen ngòm và bóng láng trên vai anh. Tôi biết tốt nhất là ném giấy tờ vào cái nón lá. Đó cũng là lần cuối cùng tôi còn nhìn thấy cái thẻ căn cước của tôi thời Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi trở thành mình trần thân trụi, tôi cảm thấy vô cùng ngao ngán. Đi hay về? Chúng tôi bắt đầu hỏi nhau, cuối cùng chúng tôi quyết định tiếp tục đi Sài Gòn, vì đàng nào thì giấy tờ cũng đã mất.

Cảnh Tượng Hãi Hùng

Chiếc Wolkswagen tiếp tục bò tới ngã ba Trung Lương thì lại gặp nút chặn. Cả một đoàn xe đang dừng lại, và người ta trên quốc lộ 4 đông như trấu. Chúng tôi lại bị hỏi giấy tờ, nhưng chẳng ai còn một thứ gì trong tay và nói là anh “Tư Lớn” ở Cái Bè giữ lại tất cả. Nhưng khổ nỗi, giữa cảnh hỗn quân hỗn quan người đông như như kiến cỏ thế này, có ai biết anh “Tư Lớn” là ai! Thế là chúng tôi bị đuổi quay xe về.

Không còn cách nào hơn, chúng tôi phải quay trở về sau gần một ngày lê lết trên quốc lộ 4. Khi xe trở đầu xong và dừng nối đuôi sau một đoàn xe chờ đường trống để “bò” đi thì một cảnh tượng hãi hùng diễn ra ngay bên cạnh. Nhìn qua cửa kính, tôi thấy một anh du kích trẻ tuổi đội mũ tai bèo, mặc đồ đen có khăn rằn quấn cổ, vai mang súng AK đang lục soát một người chạy chiếc Mobylette xanh từ hướng Sài Gòn chạy xuống. Chiếc xe được dựng chân đứng lên.

Người chủ xe là một thanh niên trạc chừng 30, mặc quần đen và áo sơ-mi màu sậm có sọc dài đang đứng kế bên. Anh du kích cúi người, lục lọi những món đồ trong 2 túi phía sau yên xe ra để xuống mặt đường. Tôi thấy mấy trái khóm (dứa) và một ít đồ lỉnh kỉnh.

Cảnh lục soát này đã quá quen thuộc, nên tôi không mấy gì để ý. Nhưng bất thình lình, không biết xét gặp thứ gì, anh du kích vội bước lùi lại, tay lên cò súng thật vội vã, miệng quát to, tiếng quát như tiếng sĩ quan đang gào thét binh sĩ ngoài mặt trận: “Nằm xuống! Nằm xuống”. Anh du kích vừa la hét vừa nhảy lùi lại mấy bước nữa. Cây AK trong tay anh đang ở thế chiến đấu và mũi súng đen ngòm đang chỉa về phía người đàn ông đáng thương đang vội vàng nằm sấp xuống mặt đường. “Đưa hai tay về phía trước!”

Anh du kích lại hét lên ra lệnh, và người đàn ông luống cuống làm theo. Tôi thấy anh du kích xê dịch khẩu súng khi sửa lại thế đứng, nhưng họng súng không rời khỏi thân hình con người đang nằm sấp trên lộ. Sau khi họng súng đã hướng chính xác về phía nạn nhân, thì “Bằng! Bằng! Bằng! Bằng…”! Một tràng súng nổ vang, những người ở xa vội nằm xuống né đạn theo phản xạ tự nhiên.

Thân hình người đàn ông nằm dưới đất bị giật nẩy lên mấy lần theo từng tiếng súng nổ. Máu anh văng tung tóe và cơ thể anh co giật thật dữ dội rồi nằm yên bất động. Cảnh tượng xảy ra quá gần, nên từ trong xe tôi còn ngửi được mùi thuốc súng! Sự việc diễn ra quá nhanh làm tôi không có giờ để sợ hãi.

Tôi nhắm mắt quay mặt đi, vừa âm thầm đọc một câu kinh cho nạn nhân. Mặc dù trong thời chiến, tôi đã từng thấy những thân thể con người bị Việt Cộng chặt đầu mổ bụng vì ghép vào tội Việt gian hoặc trốn thuế, nhưng cảnh anh du kích bắn người một cách quá dã man như thế này, tôi mới chứng kiến lần đầu sau khi miền Nam được “giải phóng!”

Trở về thực tại, lúc này chiếc xe tôi dừng hẳn lại ngay trước mặt mấy anh công an vai mang súng kè kè. Tôi cố giữ vẻ mặt thật bình thản, trong khi mấy anh công an mặt mày đen đúa áp sát mặt nhìn chằm chằm vào bên trong xe, chẳng nói chẳng rằng. Thực tình tôi cũng chẳng biết họ muốn kiểm soát cái gì, kiểm soát người hay đón bắt mấy bà bạn hàng chở đồ lậu tôi cũng không biết. Xe nào cũng phải dừng lại, nhưng một chốc lại được đi.

Xe tôi cũng vậy, họ chẳng hỏi người nào, nhưng cặp mắt láo liên của họ nhìn chằm chằm vào mặt từng hành khách làm tôi có cảm tưởng họ đang nhận diện một người nào họ đã biết mặt, hoặc đã được coi qua hình. Sau khi thấy chẳng có gì khả nghi, anh công an phía ngoài vẫy tay cho đi. Người tài xế vừa gài số định chạy, thì anh bên phía trong lề chợt giơ tay ra lệnh dừng lại. Tôi hơi lo ngại.

- Ngừng lại đã! Cái túi đỏ này của ai?

Vừa hỏi anh ta vừa chỉ vào cái túi xách của tôi để dưới chân. Tôi hơi chột dạ, nhưng cố làm ra vẻ bình thản, vừa trả lời vừa cầm túi lên mở dây kéo.

- Gì trong đó?

Tôi cho tay vào lôi bộ đồ bà ba đen ra khỏi miệng túi:

- Mấy bộ quần áo thôi, chẳng có gì!

Anh công an có vẻ không chú ý lắm vào việc xét hỏi này, chỉ nhìn qua loa chiếu lệ. Lúc bấy giờ tôi chỉ ngại anh ta bảo đưa túi ra cho anh ta lục soát. Trong túi xách của tôi, ngoài bộ đồ bà ba đen nằm trên mặt, còn có một khăn tắm khá to màu cứt ngựa, một cái võng bằng vải nylon dầu màu đen, ở hai đầu có đoạn dây dù khá dài quấn quanh cái võng cuộn tròn lại như đòn bánh tét, một cái đèn pin, một con dao bấm loại các phi công vẫn dùng và một túi nhỏ của học sinh đựng bút mực được tôi dùng đựng kem đánh răng, bàn chải và một ít thuốc trị sốt rét.

Những thứ này, nếu bị xét thấy cũng có thể gây nghi ngờ và phải trả lời lôi thôi, nhưng cũng không đáng ngại lắm vì nó phù hợp với giấy tờ tùy thân tôi đang có: nhân viên của Công ty khai thác Lâm sản bằng máy ủi của tỉnh Lâm Đồng. Đây là bản photocopy mà một anh bạn đã thay tên tôi vào. Lúc đó chẳng cần biết giấy tờ thực hay giả, miễn có chữ in và con dấu là hữu dụng. Người công an xem xét cho có lệ rồi khoát tay cho đi.

Tôi cảm thấy nhẹ nhõm, nhưng người mừng nhất lúc này không phải là tôi mà là anh tài xế, vì từ lúc bị giữ lại lần sau trông bộ dạng anh tài xế bứt rứt và khó chịu thấy rõ! Chiếc xe cài số sẵn, nhưng không được chạy, nó cứ rướn tới thụt lui, tiếng máy gầm gừ như hai con chó đang chực cắn nhau nhưng có dây cột cổ ghì lại. Lần này, khi anh công an vừa khoát tay, người tài xế thả ngay chân đạp thắng và nhấn ga làm chiếc xe chồm tới như con tuấn mã lấy đà phóng nhanh.

Các chị em bạn hàng phía sau bị mất đà ngả nghiêng, họ lại la ó, lại rủa sả anh tài xế, anh chỉ nhe răng cười đáp lại. Bà con lại tiếp tục nói cười một cách hồn nhiên như trước, vì hình như cảnh lục soát quá này đã quá quen thuộc nên chẳng ai buồn để ý. Tôi lại ngồi yên nhắm mắt, một phần cũng muốn nghỉ ngơi sau một ngày khá mệt, phần khác tôi cũng không muốn tiếp tục câu chuyện với người tài xế vui tính, đầu óc tôi đang rối bời về chuyện khác: Sắp tới nơi rồi!

Chặng Cuối Đoạn Đường

Khi xe ngừng lại ở xa cảng Phú Lâm thì trời đã nhá nhem tối. Tôi bước xuống xe, nói vài câu cám ơn người tài xế, mang túi trên vai và tản bộ ra phía đường cái. Khung cảnh Xa Cảng miền Tây buổi chiều tà lúc bấy giờ thật buồn và lạnh. Tôi dừng lại bên lề đường, mò túi tìm bao thuốc lá. Mùi khói thuốc làm tôi dễ chịu và tự nhiên cảm thấy bình thản hơn.

Những lần trước khi tới Xa Cảng, tôi ra đây để đón xe lam hoặc xích lô máy vô Sài Gòn, nhưng chiều nay tôi bước đi vì thói quen hơn là để tìm xe đi tiếp đoạn đường. Lúc đó, một chiếc xích lô máy ngừng lại trước mặt tôi, người lái xe hỏi:

- Ông đi đâu?

Tôi yên lặng một lúc, khiến người lái xe hơi ngạc nhiên hỏi tiếp:

- Ông vô Sài Gòn hay Chợ Lớn?

Tôi đáp vội:

- Anh cho tôi về Chánh Hưng.

Tôi vừa nói vừa leo lên xe.

Tôi có gia đình người bạn ở Chánh Hưng. Lúc trước, mỗi khi có dịp lên Sài Gòn tôi thường ghé thăm và có khi ở chơi vài ngày, nhưng lần này tôi đến vì bất đắc dĩ. Tôi biết rằng tình cảnh tôi lúc bấy giờ không thuận tiện ghé một nơi nào, những người bạn thân lại càng không nên tới.



Tôi Phải Sống: 2-”Đêm Tân Hôn” Giữa Tây Nguyên

toiphaisong_tua2

2-”Đêm Tân Hôn” Giữa Tây Nguyên

Tôi còn nhớ buổi xế trưa hôm ấy, vào một ngày cuối tháng 5 năm 1976, tôi có mặt trên chiếc xe khách chở nhóm hơn 30 tù nhân từ huyện Đức Lập, nơi tôi bị bắt ngày hôm trước, chạy lên thị xã Ban Mê Thuột. Tôi bị khóa tay dính với một người bạn tù khác bằng chiếc còng số 8. Ngồi nhìn cảnh vật hai bên đường chạy ngược chiều với chiếc xe đang ngon trớn phóng nhanh, lòng tôi ngổn ngang trăm mối và đủ điều lo toan, nhưng chẳng nghĩ được chuyện gì đến nơi đến chốn. Bất giác, tôi quay sang anh bạn chung còng với tôi, như tìm sự an ủi nơi một người đồng cảnh ngộ.

Anh bạn cũng trạc tuổi tôi, vừa ngoài 30. Nước da sạm nắng, gương mặt rắn rỏi và khắc khổ, làm anh trông già đi trước tuổi. Sáng nay, khi tập trung tại đồn công an Đức Lập để làm thủ tục trước lúc lên xe giải giao lên Ban Mê Thuột, tình cờ anh đứng gần tôi thành hàng đôi, và cán bộ cứ thế mà còng tay hai người dính trùm vào nhau. Đây là sự “ráp nối” thật ngẫu nhiên, cũng như sự gặp gỡ với bao nhiêu con người xa lạ khác trong suốt cuộc đời của mỗi người, phần nhiều là do tình cờ đưa đẩy, để rồi trước lạ sau quen.

Lợi dụng lúc đứng chờ lên xe, chúng tôi chào hỏi nhau và trao đổi vài câu ngắn gọn. Qua đó tôi được biết, anh là một cựu sĩ quan trốn trình diện, nhà ở Sài Gòn, có vợ và hai con thơ, một trai, một gái. Anh tham gia tổ chức Dân Quân Phục Quốc và bị bắt cách đây năm ngày. Anh cũng bi bắt trong vùng biên giới âm u giáp ranh Campuchia như tôi. Anh còn cho biết, nhóm của anh có sáu người, bị bắn chết hai, một anh trốn thoát và ba người bị bắt cũng có mặt trong chuyến xe này.

Người bạn đồng hành

Anh bạn ngồi sát thành xe phía trái, yên lặng hướng cặp mắt lờ đờ vô định nhìn ra ngoài. Có lúc trông anh bất động và câm nín như một pho tượng đá được đặt ngay ngắn trên ghế xe hướng về phía trước, nhưng cổ và đầu quay hẳn sang một góc 45 độ nhìn ra đường. Liếc mắt nhìn sang, tôi thấy mái tóc anh phủ dài cuốn úp vào gáy che kín cổ áo, tạo nên nét đẹp hào hùng của những con người dày dạn gió sương. Tay trái anh co lại, gác cùi chỏ lên thành xe, trong khi tay phải của anh để lên đùi vì bị còng dính vào tay trái tôi.

Nhìn tư thế của anh, tôi có thể đoán biết hệ thống thần kinh của anh lúc này đang làm việc bận rộn hơn bao giờ hết. Tự nhiên, tôi đâm ra tò mò và thử cố gắng hội nhập vào dòng suy tư của người bạn đường không hẹn mà gặp này.

Có lẽ tâm trạng anh cũng giống như tôi lúc bấy giờ, đang nghĩ xem làm cách nào vượt thoát ra khỏi cảnh này, và cũng thử đoán coi sự gì đang chờ đợi ở phía trước, và tương lai cuộc đời rồi đây sẽ ra sao? Phần chắc hơn, tôi nghĩ là anh đang bị dày vò bởi tình cảm riêng tư và thiêng liêng của gia đình. Có lẽ giờ này, trong hình hài tượng đá của anh, tất cả tâm trí đang quay về mái ấm gia đình có hình ảnh thân yêu của người vợ hiền, và gương mặt ngây thơ của đứa con nhỏ vừa lên bốn lên năm đang hỏi mẹ: “Sao bố chưa về hả mẹ?”

Chiếc xe đang ngon trớn, bất ngờ bị sụp ổ gà xốc thật mạnh đã kéo tôi quay về với thực tại. Cùng lúc đó, anh bạn ngồi bên cũng quay lại nhìn tôi bằng ánh mắt u buồn; có lẽ hai người chúng tôi cùng tỉnh cơn mơ một lúc. Tôi tự nghĩ: “Hay là anh bạn biết mình đang lẻn vào đời tư của gia đình anh, nên quay sang nhìn tôi!” Tôi tự nhiên đâm ra ngượng và có cảm giác xấu hổ như đang lúc lom khom cúi mình nhòm qua lỗ khóa bị kẻ khác bắt gặp!

Tôi nở một nụ cười gượng gạo và quay đi tránh cái nhìn của anh, trong một thứ mặc cảm tội lỗi được hiểu theo một nghĩa rất nhẹ. Nhưng ngay sau đó tôi tự an ủi: “Biết đâu từ nãy giờ anh bạn có vẻ mặt lầm lì này cũng đã ‘nhảy xổm’ vào đời tư của mình không chừng, vì trước khi lên xe, mình có kể với anh hoàn cảnh gia đình, mẹ già đang ốm nặng và không biết chết lúc nào”. Thực tình tôi mong anh ta đã làm chuyện đó để coi như hòa, vì cả hai đều có lỗi.

Sau khi bị sụp ổ gà, chiếc xe khựng lại và bắt đầu đi chậm vì tới đoạn đường đất đỏ gồ ghề và đầy cát bụi. Chiếc xe đang cố trườn mình trên con đường ngoằn ngoèo giữa khu rừng tối tăm u ám, giống như một con rắn khổng lồ đang bị săn đuổi, cố lủi trốn thoát thân vào khu rừng già của miền Cao Nguyên huyền bí. Đây chính là chuyến xe định mệnh đưa tôi vào một tương lai mờ mịt. Mặc dù chưa biết tương lai đó sẽ ra sao, nhưng hiểu là nó u ám chẳng khác gì cảnh núi rừng Tây Nguyên đang bao trùm lấy nhóm tù nhân chúng tôi, với tâm trạng rối bời.

Đi về đâu?

“Cuộc đời mình rồi sẽ ra sao?”

Câu hỏi khó trả lời ấy và nhiều câu hỏi khác đang thi nhau nhảy múa trong đầu tôi. Chúng giống như những đốm sáng khi ẩn khi hiện của đàn đom đóm trên những lùm cây dại mọc hai bên bờ sông rạch của miền đồng bằng sông Cửu Long, mà thời tuổi trẻ tôi thường trông thấy khi cùng với anh tôi chống xuồng giăng câu, thả lưới về đêm. Tôi cố xua đuổi những câu hỏi ấy ra khỏi đầu óc mình, nhưng rồi chúng cũng trở lại như một bầy muỗi đói đang kêu vo ve tranh nhau rúc đầu vào chiếc mùng lưới, cố chui vào hút máu con người đang nằm bên trong.

Lần đầu tiên trong đời, tôi có cảm giác mất an toàn khi nhìn về tương lai, chả biết rồi sẽ trôi giạt về phương nào! Mặc dù tôi thích phiêu lưu mạo hiểm, nhưng qua những gì tôi biết, những người khi phải bước chân vào con đường tôi đang đi trong lúc này, không mấy khi được nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.

Với 33 tuổi đời và bước qua năm thứ sáu của đời Linh Mục, tôi đang đi vào ngả rẽ mà tôi đoán biết là đầy nghiệt ngã và trắc trở. Nhớ lại tuần trước, lúc từ giã nhà người bạn tại Hưng Phú để ra đi, tôi cần phải ra đi để tránh cho gia đình người bạn khỏi bị rắc rối vì có người khách lạ mặt trong nhà trong thời gian khá lâu. Trong hoàn cảnh lúc đó không ai muốn trở thành mục tiêu chú ý của hàng xóm và của những cặp mắt lúc nào cũng muốn tìm dịp lập công trong cơn sốt thời cuộc đang dâng cao. Trong thời gian một tháng sống lẩn lút ở Sài Gòn đó, tôi đã phải di chuyển hết nơi này tới nơi khác, không dám ở lại nơi nào quá vài ba ngày mặc dù lúc đó trong mình tôi có giấy chứng minh là nhân viên lâm nghiệp tỉnh Lâm Đồng, do người bạn tôi trốn trình diện và đang mai danh ẩn tích ở Sài Gòn làm giúp cho. Tờ giấy photocopy như lá bùa hộ mệnh này đã chứng tỏ có công hiệu trong một lần tôi đi xe gắn máy bị chặn lại để kiểm tra giấy tờ. Khi người bộ đội cầm tờ giấy bằng chữ in, có đóng dấu tôi thấy gương mặt anh ta rất thoải mái và mỉm cười trả lại cho tôi đang đứng bên, trong lòng hồi hộp cầu mong cho anh ta đừng hỏi gì thêm về tờ giấy chứng minh này. Mặc dù biết là trong hoàn cảnh tranh tối tranh sáng đó, chẳng ai có công sức đâu để truy nguyên các loại giấy tờ và bất cứ loại giấy gì bằng chữ in và có con dấu được coi như “cứng” khi bước ra đường. Nhưng khổ nỗi vì không quen dùng giấy tờ giả nên lúc nào tôi cũng lo ngay ngáy, biết đâu sẽ có lúc nào lại gặp phải anh bộ đội hiểu chuyện hơn, dẫn tôi về đồn và đòi coi bản chánh thì sao? Mặc dù lá bùa dỏm này đã giúp tôi sống yên thân tạm gần một tháng ở Sài Gòn nhưng tôi biết không thể kéo dài tình trạng này lâu hơn được.

Lúc bấy giờ tôi đã có lập trường dứt khoát đối với chế độ Cộng Sản, nhất là sau kinh nghiệm cay đắng của thời gian tôi sống tại họ đạo La Mã ở Bến Tre.

Tôi không chấp nhận và không bao giờ sống trong chế độ Cộng Sản. Tôi không chấp nhận chế độ đó không phải vì cái tên “Cộng Sản” của nó, nhưng vì chủ trương vô thần và sự cai trị độc tài, tước đoạt hết các quyền căn bản của người dân. Nếu có điều kiện, tôi sẽ chống lại, nếu yếu thế hơn tôi sẽ trốn chạy nhưng dứt khoát không đầu hàng chế độ này.

Sự hiểu biết cũng như kinh nghiệm mà tôi đã trải qua khi phải sống trong sự kềm chế tàn bạo của chế độ càng giúp tôi xác tín chế độ này không thể mang lại lợi ích và hạnh phúc cho dân tộc.

Lúc đó tôi vô cùng hoang mang, thứ hoang mang của con người bé nhỏ yếu đuối dứng trước ngã ba đường. Tâm trạng tôi là tâm trạng của con người tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa! Một chế độ vừa sụp đổ vì thiếu phương hướng, dựa vào sức mạnh của ngoại bang để tồn tại và mang nhiều tai tiếng vì nạn tham nhũng bất công, vừa được thay thế bằng một chế độ càng tệ hại hơn, gây kinh hoàng cho dân chúng ngay khi họ vừa cướp được quyền bính. Tôi trở thành người bơ vơ! Trong lòng tôi lúc bấy giờ không thương tiếc gì về chế độ vừa sụp đổ, lại kinh hãi chế độ mới!

Tôi quyết tâm dấn thân vào con đường chống lại sự tàn ác của chế độ bất công đang nắm quyền không phải để khôi phục lại chế độ vừa sụp đổ nhưng muốn cùng với toàn thể dân tộc xây dựng thể chế tốt đẹp hơn, có thể mang lại phúc lợi cho dân tộc. Mặc dù trong hoàn cảnh đó thân phận tôi chỉ giống như loài côn trùng bé nhỏ đứng trước vấn đề bao la vĩ đại của dân tộc. Nhưng loài côn trùng bé nhỏ đó vẫn có bộ óc biết suy tư và cảm giác biết rung động của nó.

Trong bầu khí hoang mang và đầy bất mãn đó lại có những tin đồn nào là ông Thiệu đang mộ quân kéo về biên giới, nào là ông Kỳ đang ém quân trong rừng lá. Lúc bấy giờ có nhiều người lại tin vào các chuyện nhảm nhí đó và sự nhẹ dạ của họ làm tôi ngạc nhiên. Tôi tự hỏi sao lại có người ngây thơ tới độ tin tưởng là những con người có thời giữ chức vụ chóp bu trong chánh quyền, nhưng khi hoạn nạn tới thì đào tẩu cách hèn nhát. Họ dẫn vợ con và ôm theo tài sản thoát thân, bỏ mặc cho số phận dân tộc muốn ra sao thì ra.

Bây giờ những con người đó biết “thương dân” và từ bỏ vùng đất yên hàn ở một phương trời nào đó quay trở về cứu dân độ thế! Lúc đầu tôi rất thắc mắc nhưng về sau này hiểu ra. Lý do là dân chúng lúc bấy giờ rơi vào tình trạng tuyệt vọng như hành khách của con tàu chìm, cố bám vào bất cứ vật gì trôi ngang để hy vọng khỏi chết đuối, cho dù vật họ cố bám vào chỉ là cái bọt biển.

Về phần tôi, ngay sau khi lên Sài Gòn, tôi đã gặp lại người bạn thân trốn trình diện và đang sống lẩn lút bằng giấy tờ giả. Sau khi gặp lại nhau, chúng tôi tìm cách liên lạc với mấy người bạn cũng trong tình trạng bất an toàn như chúng tôi để tìm hiểu về các nhóm phản kháng đang hoạt động chung quanh khu vực Sài Gòn mà chúng tôi nghe tin đồn.

Sau thời gian cố bắt liên lạc, tôi biết phần nhiều chỉ toàn là tin đồn truyền miệng, trong thực tế chẳng có gì, hoặc nếu có thì không có gì đáng kể. Trong khi đó tôi được giới thiệu với vị mục sư người Thượng và qua vị mục sư này, tôi tìm hiểu sâu hơn về lực lượng Fulro mà theo lời vị mục sư là đang hoạt động tích cực và hữu hiệu trong vùng núi rừng tây nguyên.

Từ thời chế độ Cộng Hòa, tôi đã biết về phong trào Fulro là phong trào của đồng bào sắc tộc tranh đấu đòi quyền tự trị. Chủ yếu là những đồng bào sắc tộc chống lại người Kinh đòi tự trị. Khi Cộng Sản chiếm miền Nam thì phong trào Fulro càng hoạt động tích cực hơn để chống lại những người Cộng Sản.

Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ nhóm chúng tôi cố gắng bắt liên lạc với những người lãnh đạo Fulro tại Gia Nghĩa thuộc quận Đức Lập tỉnh Ban Mê Thuột để tìm hiểu và nếu có thể cùng phối hợp hoạt động trong khi chúng tôi không thể sống mãi ở Sài Gòn. Chúng tôi đã rời Sài Gòn vào những ngày cuối tháng 5 năm 1976, đi vào khu vực núi rừng vùng biên giới Việt – Campuchia với tư cách nhân viên lâm sản tỉnh Lâm Đồng. Chúng tôi cũng dự trù nếu công việc không thành sẽ tìm đường vượt biên qua biên giới Campuchia để tới Thái Lan.

Một buổi sáng cuối tháng 5 năm 1976, nhóm chúng tôi bị lực lượng công an biên phòng khá đông bao vây trong phần đất Campuchia. Tôi không bao giờ quên cảm giác kinh hoàng khi những người công an tay cầm súng AK, đầu đội mũ cối đang la hét vang dội cả núi rừng Tây nguyên trong buổi sáng có nhiều sương và lạnh buốt của núi rừng. Khi nhìn cảnh 4 người công an chỉa thẳng mũi súng đen ngòm vào, tôi thấy hiện ra trước mặt cái hố to và đen ngòm. Kể từ giây phút đó đời tôi đi vào phần số mà định mệnh đã dành cho tôi trong kiếp sống lao tù.

Lúc đang ngồi trên xe tôi nhớ tới số phần của nhân vật chánh trong cuốn truyện “Giờ thứ hai mươi lăm” của tác giả Virgil Gheorghiu mà tôi đọc từ ngày còn ở trung học. Vì đọc đã lâu, tôi không còn nhớ rõ chi tiết đầu đuôi câu chuyện, nhưng điều tôi nhớ mãi đó là tác giả viết về số phận bi đát của anh chàng Iohann Moritz, người Roumanie bị ngộ nhận là Do Thái trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.

Anh chàng trai trẻ này là người chân chất, đang làm ăn sinh sống yên hàn với vợ con thì một ngày nọ, anh nhận được giấy báo của chính quyền đòi lên cơ quan vì một vấn đề chính trị gì đó. Đây là một sự lầm lẫn, cũng như bao nhiêu thứ lầm lẫn khác trong thời kỳ chiến tranh. Tự cảm thấy mình vô tội nên anh nghĩ một cách đơn giản là chỉ cần ra cơ quan điều chỉnh giấy tờ để xác nhận lý lịch của anh là xong. Nhưng rồi từ lúc anh bước ra khỏi nhà, định mệnh đen tối đã vồ lấy anh. Gặp hết trở ngại này tới trở ngại khác, và nhiều chuyện rắc rối xảy ra đẩy anh vào cuộc đời tù tội một cách oan uổng.

Khi vô tù anh bị giải giao hết trại khổ sai này tới trại tập trung khác. Người Hung Gia Lợi hành hạ anh chán chê lại bán cho người Đức. Anh trải qua sự tra tấn dã man của bọn lính Đức Quốc Xã, cứ thế mà đưa đẩy trong suốt 13 năm trời. Số phần anh chàng Iohann Moritz như một thứ côn trùng bé nhỏ bị vướng mắc vào mạng nhện khổng lồ, càng cố gắng vùng vẫy lại càng bị dính chặt hơn. Rồi không hiểu tại sao, người Đức lại ngộ nhận anh là người trong bọn họ, nên anh được “phục hồi danh dự” và được mặc sắc phục của SS trong lực lượng an ninh của họ.

Khi gần tàn cuộc chiến, Iohann Moritz bị quân đội Mỹ bắt làm tù binh, anh bị đưa ra xét xử trước Tòa án quốc tế Nurumberg và bị kết án là tội phạm chiến tranh. Nhưng sau cùng anh được minh oan và được sum họp với vợ con. Lúc anh sắp ra về, viên sĩ quan Mỹ Lewis muốn chụp một tấm hình cả gia đình Iohann Moritz. Trước khi bấm máy, Lewis luôn miệng bảo Moritz: “Cười lên đi, cười đi, cười đi…!”

Tác giả Virgil Gheorghiu dùng câu đó để chấm đứt câu chuyện, nhưng anh chàng Moritz đáng thương vẫn cứ trơ ra không thể cười được. Thực ra anh ta rất muốn nở một nụ cười, nhưng không làm được vì anh đã quên không còn biết cười ra làm sao nữa!

Tôi không chắc mình có nhớ đúng chi tiết câu chuyện hay không, nhưng về số phận đen tối của nhân vật chánh Iohann Moritz như cánh bèo trôi giữa vùng nước xoáy, lăn lộn trong ngục tù và câu cuối cùng trong cuốn truyện thì tôi nhớ rất rõ.

Ngày đó, ở cái tuổi vừa lớn lên, khi đọc truyện này tôi bị xúc cảm mạnh và thương cho kiếp sống đọa đày của anh chàng Moritz. Quay về thực tại, lúc này tôi đang bị còng tay trên chuyến xe chở tù của Cộng Sản, tôi tự hỏi số phận tôi rồi đây sẽ ra sao, có thể giống như anh chàng Iohann Moritz trong “Giờ Thứ Hai Mươi Lăm” hay không? Đó là một câu hỏi thật ngán ngẩm, nhưng nó cứ lởn vởn trong đầu, mặc dù tôi cố gắng xua đuổi nó ra khỏi dòng suy tư.

Người bạn bất đắc dĩ

Tôi thở dài ngao ngán khi nhìn xuống cổ tay đang bị chiếc còng số 8 ngoạm chặt. Chiếc còng làm bằng inox, tuy mỏng manh nhưng chắc cứng mà lần đầu tiên trong đời tôi phải mang nó vào cổ tay. Tôi đã nhiều lần trông thấy loại còng này. Thấy nhưng chưa sờ đụng nó bao giờ vì tôi nghĩ là có cái gì “xúi quẩy” trong món đồ vật mà người ta thường gọi cách bóng gió là “đồng hồ Omega”. Chiếc còng còn mới nguyên, nước xi bóng láng, có lẽ vừa được lấy trong kho ra và biết đâu tôi được “hân hạnh” là người dùng nó đầu tiên (dĩ nhiên là tôi phải chia sẻ 50% cái vinh dự này với anh bạn ngồi bên!).

Tôi tò mò, lấy tay phải sờ nhẹ chiếc còng và thấy nó thật lạnh. Tôi biết cảm giác lạnh lúc bấy giờ phần lớn là do yếu tố tâm lý tạo nên. Tôi mân mê chiếc còng trên cổ tay, xoay đi xoay lại và thấy có hàng chữ “Made in USA” và tên của hãng sản xuất “Smith & Wesson”. Cái tên này tôi đã thấy qua và hãng này cũng sản xuất súng lục mà có một thời tôi sưu tầm. Công dụng của chiếc còng không có gì là thích thú, nhưng hình dạng của nó trắng trẻo, đường nét tinh xảo, mảnh mai và xinh xắn trông rất dễ thương!

Tôi nghĩ thầm: “Đúng là đồ Mỹ có khác!” Lúc mới tra tay vào, tôi cảm thấy vướng víu và bực dọc khó chịu, nhưng một lúc sau tôi cố làm quen với chiếc còng và không thèm để ý tới cảm giác khó chịu nữa. Tôi chấp nhận thực tại là từ nay chiếc còng trở thành bạn đường của tôi, một thứ bạn đường hoàn toàn bất đắc dĩ.

Từ cái ý nghĩ có chiếc còng làm người bạn đường này, tự nhiên tôi thấy tình cảnh mình giống như thân phận người con gái lỡ bước sang ngang, “gái có chồng như gông đeo cổ!” Tôi chợt nhớ lại mấy câu ca dao mà tôi thuộc nằm lòng từ ngày còn học lớp đệ thất tại trường trung học ở xứ đạo quê tôi. Ngày ấy, khi mới bước vào tuổi mộng mơ, tôi rất thích mấy câu ca dao đồng quê trữ tình, thật nhẹ nhàng duyên dáng nhưng đượm vẻ u buồn man mác:

Lời người con trai:

“Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng, anh tiếc lắm thay!”

Người con gái buồn bã đáp lời:

“Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thủa nào ra?”

Tôi ngồi yên và nhẩm đi nhẩm lại bài ca dao này, nhất là bốn câu cuối cùng vì thấy có một sự trùng hợp nào đó giữa hoàn cảnh của cô thôn nữ ngày xưa (chắc là nàng phải xinh đẹp!) và thân phận của tôi trong lúc này. Tự nhiên tôi thấy gần gũi và thương “nàng” hết sức.

Chiều Cao Nguyên

Chiếc xe chạy vào khu dân cư của thị xã Ban Mê Thuột, nơi phần đông dân chúng là người Thượng. Rất dễ phân biệt họ với người Kinh, vì nước da đen sạm và cách ăn mặc trang sức cũng rất khác biệt. Trời đã bắt đầu về chiều, cảnh vật hai bên đường trông thê lương buồn thảm của một tỉnh nhỏ cao nguyên, cộng với tâm trạng ngổn ngang trăm mối, khiến tôi có cảm tưởng mình đang băng qua một thành phố chết.

Trước mắt tôi, cảnh một số người đội nón cối đi xe đạp. Đó đây mấy người Thượng đóng khố, tay cầm dao rựa, vai mang gùi đầy củi, đang yên lặng cúi đầu đi thành hàng dọc hai bên đường. Đôi lúc tôi có cảm tưởng mình đang bị lạc vào một thế giới khác, một thế giới hoàn toàn xa lạ, mặc dù tôi cố gắng tự thuyết phục mình rằng những con người mang dép râu, đội nón cối và những người Thượng đóng khố, nước da đen sạm kia, chính là những đồng bào của tôi.

Các hành khách tù nhân bắt đầu nhốn nháo khi xe chạy qua phố khiến các anh lính mang súng dài áp tải trên xe quát tháo, bắt ai nấy ngồi yên. Anh bạn bị còng chung với tôi quay sang nhìn tôi với cặp mắt lộ một chút lo âu, và đánh tan bầu không khí yên lặng tự nãy giờ bằng vài câu nói bâng quơ cho có lệ, những câu đối đáp hiếm hoi từ lúc chúng tôi bị cùm dính tay nhau.

- Hình như sắp đến nơi rồi thì phải?

Tôi hướng mắt nhìn ra ngoài đáp lại :

- Vâng, hình như sắp đến rồi.

Đáp xong, tôi ngồi yên, anh bạn lại quay cổ nhìn ra ngoài như trước. Lúc sau, cảm thấy câu đối đáp quá ngắn, tôi bèn gợi chuyện đáp lễ. Phần khác, tôi cũng cảm thấy phải nói một câu gì đó trong lúc này để đánh tan nỗi băn khoăn trong lòng:

-Anh đã tới Ban Mê Thuột bao giờ chưa?

- Chưa, đây là lần đầu tiên tôi tới xứ này.

- Tôi cũng vậy, trông cảnh vật xơ xác quá!

Anh bạn khẽ gật đầu và đáp lại bằng một lời giải thích:

- Trước lúc tụi nó vô Sài Gòn, có trận đánh lớn ở đây mà!

Tôi lại ngồi yên và qua câu nói của anh bạn, tôi hồi tưởng lại hơn một năm trước đây, chiến cuộc vùng cao nguyên thật ác liệt, sau đó quân đội có lệnh “rút lui chiến thuật” khiến đồng bào hoảng sợ chạy tán loạn lánh nạn, tràn ngập xuống các tỉnh phía Nam.

Thời gian đó, tôi đang làm việc tại Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long và đã cùng với cha Phạm Hồng Sơn, Tuyên úy Tiểu Khu, tổ chức cuộc lạc quyên để cứu trợ làn sóng người trốn chạy giặc cộng từ vùng ngoài đổ về. Vừa ra khỏi thị xã một đỗi, chiếc xe chạy giữa con đường mà hai bên là rừng cao su, một số cây lớn gãy đổ vì chiến tranh tàn phá và một số khá nhiều cây nhỏ đang được trồng lại, mới cao chừng quá đầu người.

Qua rừng cao su, tới một khoảng đất trống khá rộng với một số nhà cửa thưa thớt. Nhìn về bên trái ở xa phía trước, tôi thấy mấy dãy nhà dài bằng gỗ lợp tôn nằm san sát bên nhau và đoán là khu trại giam, nơi mà chúng tôi sẽ tới. Sở dĩ tôi đoán như vậy vì hình thù các dãy nhà này trông khác hẳn với số nhà nằm rải rác hai bên đường cái.

Điểm Hẹn

Tôi đoán không lầm, chiếc xe đang ngon trớn từ từ giảm tốc độ, ra hiệu rẽ trái và bò vào con đường đất đỏ đầy cát bụi, nằm giữa hai ao nước to và đục ngầu, cuối cùng dừng lại giữa cái sân khá rộng. Bên một góc sân về phía trong, có vài căn nhà thấp lè tè bằng gỗ lợp tôn mà tôi đoán là khu văn phòng, kế bên là cái chòi canh nằm phía dưới chiếc cổng bằng gỗ được dựng lên một cách sơ sài. Một anh lính Thượng, mặt mày đen đúa, đội mũ tai bèo ôm súng ngồi trong chòi gác đang nhìn chòng chọc vào xe chúng tôi đậu cách đó không xa. Chừng mươi anh công an, cả Thượng lẫn Kinh, đứng lố nhố trước cửa khu nhà, nói năng chỉ trỏ trong một tư thế sẵn sàng bắt tay vào việc.

Tôi cảm thấy tim mình đập nhanh từ lúc xe rẽ vào trại, mặc dù tôi đã từng tập cho mình sự bình tĩnh trước mọi trường hợp. Dù trong hoàn cảnh tệ hại nhất tôi vẫn nói: “Chuyện gì phải tới nó sẽ tới, lo lắng làm gì khi không thể xoay chuyển được tình thế!” Dù vậy, trong lúc này tôi vẫn thấy hồi hộp, lo lắng. Sau khi xe tắt máy, chúng tôi được lệnh ngồi yên trong khi mấy anh công an áp tải bước xuống mang giấy tờ vào văn phòng.

Một lúc sau, họ trở ra với hai người lạ mặt khác, một Kinh và một Thượng. Anh người Kinh khá đứng tuổi, chỉ huy toán công an trong sân. Anh ta mặt xương, dáng gầy và cao, nói rặt giọng Bắc, mặc đồ công an màu cứt ngựa cài cả nút cổ, đầu đội mũ có lưỡi trai nhỏ y như kiểu cách của Mao Trạch Đông mà tôi thấy hình trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Chính anh này ra lệnh chúng tôi xuống xe và ngồi vào một góc sân.

Bầu không khí lúc bấy giờ thật căng thẳng, nhất là khi nhìn thấy những cặp mắt trắng dã và láo liên của những anh lính Thượng mặt mày còn non choẹt, đứng bồng súng AK ngang trên tay trong tư thế chiến đấu, nòng súng chĩa thẳng vào đám người chúng tôi một cách đầy ác cảm và đe dọa. Bộ dạng mấy anh Thượng cộng này toát ra một thứ gì đầy vẻ chết chóc. Khi nhìn họ, tôi chợt nhớ lại mấy cuốn phim cao bồi Mỹ nói về các tay mạo hiểm da trắng đi khai phá vùng viễn tây Hoa Kỳ bị rơi vào tay thổ dân da đỏ. Đám thổ dân này mình quấn lá cây, đầu đội mũ có vắt lông chim, tay cầm cung lắp sẵn những mũi tên tẩm thuốc độc lúc nào cũng chực bay ra khỏi dây cung đang căng. Thật ra, những mũi tên tẩm thuốc độc của dân da đỏ không có vẻ “lạnh người” như những họng súng AK đen ngòm đang chỉa thẳng vào nhóm chúng tôi.

Sau khi tất cả đã xuống xe, họ ra lệnh cho chúng tôi để yên đồ đoàn tại một góc sân và “tay trong tay” bước ra ngồi thành hàng đôi cách đó vài ba thước. Cuộc khám xét bắt đầu, lúc ấy vào quãng năm giờ chiều. Trời cao nguyên đã bắt đầu xám xịt và có gió lạnh.

Tôi hướng mắt nhìn vào trại, không thấy ai nhưng có tiếng hát tập thể thật to vọng ra từ các dãy nhà: “Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng, vùng lên xông pha vượt qua bão bùng, thề cứu lấy nước nhà, thề…” Về sau này tôi biết lúc đó là giờ sinh hoạt ban chiều của các tù nhân trong trại và họ đang hát bài “Giải phóng miền Nam” mà lần đầu tôi được nghe.

Thêm một số cán bộ trong trại kéo ra, đa số là người Thượng, có vài ba cán bộ nữ, tiếp tay với số công an có sẵn trong sân kiểm tra đồ đoàn của chúng tôi. Khi một cán bộ tới bên túi xách của ai, người đó được tháo cùm bước tới đứng kế bên để làm thủ tục khám xét.

Trong lúc ngồi chờ tới lượt mình, tôi nhìn trời nhìn đất chán rồi quay ra quan sát mấy chú Thượng cộng mặt mày búng còn ra sữa đang bồng súng đứng vây quanh. Tên đứng gần tôi nhất coi bộ ngứa ngáy tay chân. Thỉnh thoảng anh ta di động ngón tay trỏ nhỏ xíu và đen mốc như con giun đất, sờ vào cò súng, rà lên rà xuống theo chiều cong phía trong một cách nghịch ngợm quái ác. Tay trái anh nắm chặt cổ cây AK quét qua quét lại hết dãy tù nhân đang ngồi chồm hổm thành hai hàng dài trước mặt.

Có lẽ trong cái đầu xẹp lép như trái dừa điếc của anh ta, giờ này đang ôn lại bài học tác xạ “chiến thuật chống biển người” và đang mong có ai trong chúng tôi tỏ một vẻ gì khác lạ để anh ta có dịp “thực tập” bài học đó. Nhìn thái độ đó, tôi đâm ra ngán và nghĩ thầm: “Cái thằng ôn con này, không biết nó sử dụng súng ống có rành không đây? Không khéo rồi súng bị cướp cò mình lại chết oan lãng xẹt!”

Nghĩ bụng như vậy, nên mỗi lần anh ta rà họng súng đúng tầm, tôi tìm cách nghiêng người né tránh. Mặc dù tôi và mấy người chung vụ đã bị khám xét tả tơi chiều hôm qua, khi vừa mới bị bắt trên phần đất Campuchia và dẫn về quận Đức Lập để khám xét và tạm giam, nhưng cuộc khám xét hôm nay cũng gắt gao không kém, và họ tịch thu thêm một số đồ đạc mà hôm qua còn chừa lại.

Quận Lỵ Biên giới

Đức Lập là một quận nhỏ của tỉnh Ban Mê Thuột, nằm cách biên giới Campuchia khoảng 30 cây số, và cách thị xã này gần một trăm cây. Từ sau ngày Cộng Sản chiếm miền Nam, có nhiều người lên Đức Lập tìm đường vượt biên. Các nhóm nổi lên chống đối chế độ và lực lượng FULRO cũng dùng nơi này ẩn nấp để hoạt động. Nhóm anh em chúng tôi cũng bị bắt trong trường hợp này khi chúng tôi đang ở trên phần đất của Campuchia. Do đó số người bị công an, bộ đội bắt giữ tại đây mang nhiều thứ tội danh khác nhau như vượt biên, phản động, chống phá cách mạng, tàn dư FULRO.

Cũng có một số tù hình sự, lưu manh trộm cắp và vài anh cán bộ hủ hóa cũng đang bị giam giữ nơi này. Đồn công an biên phòng ở quận này biến thành một trại tạm giam và khi đủ một chuyến xe thì giải giao về tỉnh Ban Mê Thuột.

Thủ tục đầu tiên khi mới bị đưa về đồn công an Đức Lập là khai lý lịch và khám xét đồ đạc. Tôi khai đúng lý lịch của mình và cho biết lý do tôi vào rừng là có ý định vượt biên, mặc dù tôi biết với những bằng chứng khi bắt giữ chúng tôi, họ không tin lời khai này.

Sau lần khám xét sơ khởi, chúng tôi chỉ còn được giữ lại áo quần và một ít đồ dùng cần thiết như kem đánh răng, bàn chải, thuốc lá… còn tiền bạc và các thứ có giá trị như vàng, đồng hồ, nữ trang, thuốc men đều phải gửi lưu ký: “Không phải lo, khi nào được tha về, cách mạng sẽ hoàn trả lại cho các anh”, nhóm công an biên phòng phụ trách việc khám xét họ nói như thế.

Khách quan nhìn vào, ở Đức Lập họ làm ăn cũng cẩn thận và minh bạch, các đồ vật gửi lưu ký cũng có biên nhận hẳn hoi và được đọc lại cho đương sự nghe trước khi ký tên, nhưng nội dung của các tờ biên nhận đó mới là điều đáng nói. Trong số tù nhân bị khám xét chiều hôm qua tại Đức Lập, có một số người vượt biên bị bắt lại. Họ có khá nhiều đô-la, kim cương, vàng lá, nữ trang, đồng hồ, tất cả đều bị giữ lại và được ghi vào biên nhận như sau:

- Kim cương, trong giấy biên nhận ghi: “Có nhận (bao nhiêu) viên đá nhỏ màu trắng, chiếu sáng, có nhiều góc cạnh, chất lượng tốt xấu ra sao không rõ”.

- Vàng lá, họ viết: “Có nhận (bao nhiêu) miếng kim loại màu vàng, chất lượng tốt xấu ra sao không rõ.”

- Đồng hồ: “Có nhận một đồng hồ đeo tay hiệu…, màu…, bộ máy bên trong tốt xấu ra sao không rõ.”

- Tiền đô-la: “Có nhận (bao nhiêu) tiền giấy của Mỹ, thật giả không rõ.”

Các thứ khác cũng có đầy đủ biên nhận với lời lẽ như vậy. Riêng tôi cũng nhận được một tờ biên nhận cho cái đồng hồ Citizen với hàng chữ ghi: “Bộ máy bên trong tốt xấu ra sao không rõ!” Tôi giữ giấy đó và coi như một “vật kỷ niệm”, vì từ lúc tháo đồng hồ ra khỏi cổ tay để trao cho anh công an, tôi chẳng hề mong có ngày gặp lại nó.

Lúc lên Ban Mê Thuột chúng tôi cũng bị khám xét, phần tôi đã xong và chỉ còn vài người nữa. Trời thật lạnh. Cái lạnh căm căm của núi rừng cao nguyên buổi chiều tà thấu vào da thịt! Tôi kéo cao cổ chiếc áo ‘treillis’ đang mặc trên người, móc bao thuốc lá ‘President’ nhèo nát trong túi ra mời anh bạn chung còng một điếu và tôi rút ra điếu cuối cùng. Tôi vò bao thuốc rỗng trong tay thành một viên bi tròn, búng về phía bờ ao, đánh diêm hút thuốc trong khi chờ đợi những màn tiếp theo. Hơi thuốc lá làm tôi ấm và dễ chịu. Tôi rít thêm một hơi thuốc thật dài, ngửa mặt nhả khói lên bầu trời bao la và tự nhiên tôi mỉm cười.

Cho tới lúc này tôi cũng không có dịp tìm hiểu xem lúc bấy giờ tại sao tôi lại nở một nụ cười thật tươi. Có lẽ một phần khói thuốc giúp tôi cảm thấy thư thái sau gần một ngày đi đường mệt nhọc và đầu óc căng thẳng, nhưng nguyên nhân chính có lẽ là một nụ cười tự tin, chấp nhận hoàn cảnh hiện tại và quyết tâm lợi dụng tất cả mọi trường hợp thuận tiện để hoán cải số phận của mình.

Hút chưa tàn điếu thuốc, chúng tôi được lệnh xếp hàng đôi đi vào trại. Tôi búng mẫu thuốc còn cháy dở ra xa, cúi xuống nhặt chiếc ba-lô nhẹ hẫng chỉ có một áo len, một bộ quần áo, chút ít đồ dùng cá nhân và vài bao thuốc lá. Mang ba-lô lên vai, tôi bước theo đoàn người và đi ở gần cuối hàng. Nhìn bóng dáng ẩn hiện của số người trước mặt đang mệt nhọc lê bước trong màn đêm vừa chụp xuống, lòng tôi dâng lên một thứ cảm giác thật khó diễn tả bằng lời.

Trong số tù nhân đang lầm lũi tiến bước này có cả đàn bà và trẻ con bị bắt vì tội vượt biên. Họ bị bắt trước tôi và hôm nay cùng tôi di chuyển chung trên chuyến xe. Thấy cảnh trẻ con kêu khóc đang bám vào tay mẹ lần bước vô tù, tôi đau xót nghĩ thầm: “Thế là tai họa giặc cộng vồ lấy dân tộc Việt như chiếc lưới khổng lồ được bổ xuống biển, chụp bắt cá lớn cá bé, không chừa loại nào.”

Chim Rẽ Đàn

Vừa qua khỏi cổng trại được mấy bước, đoàn người bị chặn lại và được lệnh ngồi xuống chờ đợi trong khi một cán bộ nữ cầm quyển vở học trò ghi chép cái gì đó mà tôi đoán là họ phân chia chúng tôi vào các buồng. Trong khi chờ đợi, tôi nhìn vào trại trong bóng đêm chập chờn và một khung cảnh quái lạ hiện ra trước mắt, một khung cảnh chẳng có gì là hấp dẫn để diễn tả lại, nhưng là một hình ảnh tôi không sao quên được.

Trong bóng đêm, các dãy nhà giam đen lù lù nằm chấu đầu vào khoảng sân khá rộng chính giữa, trông như những ngôi mộ tập thể khổng lồ nằm ngay hàng thẳng lối trong một nghĩa trang thật rộng, có hàng rào kẽm gai vây quanh. Xa xa ở các góc nhà, một vài bóng điện tròn leo lét đang tỏa ánh sáng mờ nhạt trong màn sương đêm của núi rừng, trông như những nén hương được ai đó thắp lên để tưởng nhớ những con người xấu số đang nằm trong nhà mồ tập thể trải dài trước mắt tôi.

Một lúc sau, khi cô cán bộ đã ghi chép xong, chúng tôi được lệnh đứng lên và vẫn giữ hàng đôi tiếp tục đi dần vào trại. Thời tiết lạnh lúc bấy giờ làm tôi cảm thấy đói và mệt. Cả ngày nay chúng tôi chỉ được phát cho mỗi người một vắt cơm có rắc muối sẵn. Từ lúc lên xe cho tới giờ trời đã tối và chưa được ăn uống nghỉ ngơi gì, tôi chỉ mong vô trại cho nhanh để ngả lưng một chút và tìm gì ăn cho đỡ đói, và nếu được thì ngủ một giấc cho lại sức rồi mọi chuyện muốn ra sao thì ra.

Chỉ mới có mấy ngày qua mà bao nhiêu biến cố đã xảy ra làm thay đổi dòng đời và đưa dẫn tôi vào một hoàn cảnh thật đặc biệt. Đời tôi đang bắt đầu một khúc quanh quan trọng. Tôi tự nhủ : “Chuyện gì phải đến, nó đã đến”, và tôi chuẩn bị tinh thần để sống quãng đời trước mắt, kiếp sống của một người tù. Tôi quyết tâm và tự hứa với lòng: “Mặc dù dòng đời đang thay đổi, môi trường sống thay đổi, nhưng con người Linh Mục của tôi thì không.”

Sáu năm qua trong chức vụ Linh Mục, năm năm tôi làm bổn phận trong chế độ Cộng Hoà và một năm dưới chế độ Cộng Sản, dù hoàn cảnh hay thể chế nào, tôi cũng hết lòng làm tròn nhiệm vụ. Kể từ hôm nay tôi có dịp sống đời Linh Mục trong ngục tù Cộng Sản. Tôi chuẩn bị tinh thần để nhập cuộc, mặc dù suốt hơn mười năm được huấn luyện trong chủng viện, tôi chưa bao giờ có được loại hành trang cho môi trường lao lý này. Biết rằng những thử thách lớn đang chờ đợi, nhưng tôi không lo lắng nhiều vì vững tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, tin vào sự nâng đỡ và soi sáng của Đấng Thánh Linh. Ngài chính là sức mạnh của tôi.

Trong lúc đang lầm lũi bước vào trại giam, tôi âm thầm cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin nâng đỡ sự yếu hèn của con và dạy cho con biết phải sống như thế nào để xứng đáng là một chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa giữa anh em trong cuộc sống tù đày”. Lúc ấy tôi nhớ lại một câu trong Kinh Thánh: “Ơn Cha đủ cho con!” (2 Cor 12: 9). Tự nhiên tôi cảm thấy vững tin và hăng hái như tâm trạng của một nhà thám hiểm đang dấn thân vào một chân trời xa lạ và đầy bất trắc. Tôi ngẩng đầu lên cao nhìn trời, hít một hơi thật dài và lạ lùng thay, lúc này làn khí mát lạnh lùa vào buồng phổi lại làm tôi khoan khoái dễ chịu.

Màn đêm không còn mang vẻ u ám nặng nề như tôi thấy khi vừa bước qua cổng trại. Tôi lắc đôi vai, xốc lại chiếc ba-lô trên lưng và mạnh dạn bước đi bằng những bước đầy tự tin. Thình lình, tôi nghe một giọng nói khá to từ phía sau:

- Anh mang kính đó đứng lại!

Không biết chắc có phải gọi mình, vì tôi cũng không biết trong nhóm còn có ai mang kính ngoài tôi ra hay không. Dù vậy tôi cũng dừng bước quay lại hỏi:

- Anh muốn gọi tôi?

Anh công an mặc đồ kiểu ‘Mao Trạch Đông’ lúc nãy, tay đang cầm quyển sổ trả lời:

- Phải, anh đứng lại, vào đây.

Vừa nói, anh ta vừa chỉ vào trại mộc ngổn ngang những gỗ lạc nằm bên cánh trái sát ngay trong cổng trại, kế bên chòi gác. Tôi dừng chân, bước ra khỏi hàng và dưới ánh sáng lờ mờ của bóng đèn điện ở góc nhà, tôi còn kịp thấy nét mặt đầy lo lắng của các anh em chung vụ đang ngoái lại nhìn tôi một cách ái ngại. Theo lệnh anh công an, tôi vào trại mộc và ngồi hờ trên một cái ghế bào. Anh ta đến bên bảo tôi:

- Anh ngồi đây đợi, không được ra khỏi nơi này, có cần gì thì báo cáo với cán bộ gác.

Nói xong anh ta bước ra theo đoàn người đi vào trại.

Hạnh Ngộ Bất Ngờ

Tôi ngồi trong lán mộc chờ khá lâu, có khi hàng tiếng đồng hồ rồi cũng nên. Cảm thấy lạnh, tôi mở ba-lô lấy áo len ra mặc vào người, móc bao thuốc lá mới ra, rút một điếu và liếc nhìn sang anh lính gác, thấy anh ta cũng đang theo dõi quan sát từng cử chỉ của tôi. Khi cho tay vào túi tìm bao diêm, tôi chợt nhớ lúc nãy tôi đã dùng que diêm cuối cùng. Ngậm điếu thuốc trên môi, tôi nhìn anh Thượng đang ngồi trong chòi gác, ra hiệu xin mồi lửa, anh ta ra hiệu trở lại là không có. Tôi đành kẹp điếu thuốc trong tay và chờ coi có ai đi qua để xin lửa.

Cũng may, có anh cán bộ người Kinh đi vào, tôi bước ra xin mồi thuốc, sẵn dịp nói là tôi đang đói vì cả ngày nay chưa được ăn gì. Nghe vậy, anh hơi ngạc nhiên và dẫn tôi vào một dãy nhà giam nằm khá sâu về bên trong. Khi anh ta mở cửa buồng giam, một cảnh tượng thật ồn ào hiện ra trước mắt tôi. Một số chừng năm, sáu chục tù nhân, người ngồi, người đứng, kẻ đi lại trong hành lang dài giữa buồng, hai bên là sạp nằm bằng gỗ có hai tầng.

Người cán bộ hỏi buồng trưởng phần ăn của tôi, sau đó anh ta bỏ đi và bảo sau khi tôi ăn xong anh sẽ trở lại. Khi thấy có phần ăn để dành sẵn (một chén cơm và một bát nước canh), tôi hiểu ngay là đáng lẽ tôi vào buồng này, nhưng không hiểu vì lý do gì họ lại giữ tôi riêng, bảo chờ bên ngoài.

Lúc tôi đang ăn, các anh em tù vây quanh hỏi thăm và tôi không biết phải trả lời ai trước ai sau vì mọi người thi nhau hỏi! Sau khi trao đổi câu chuyện, tôi được biết đây là số sĩ quan cấp Úy trong tỉnh Ban Mê Thuột trình diện học tập. Họ hỏi tôi đủ mọi thứ chuyện, nhất là tin tức bên ngoài về các lực lượng chống chế độ, về phong trào vượt biên, về việc đánh tư sản v.v… Sau khi biết tôi là Linh Mục, các anh em càng vui vẻ và ăn nói tự nhiên hơn, một số anh em Công giáo trong buồng tới ôm lấy tôi và xin chúc lành. Lợi dụng lúc cán bộ chưa trở lại, tôi nói mấy lời khích lệ tinh thần anh em và ý thức rằng tôi đang bắt đầu thi hành sứ mạng Linh Mục trong tù. Cuộc gặp gỡ bất ngờ thật ngắn ngủi nhưng cảm động và nhiều ý nghĩa.

Một lúc sau, cán bộ trở lại buồng tìm tôi, nhưng không phải người lúc nãy dẫn tôi vào mà là anh mặc đồ “Mao Trạch Đông”. Anh ta đưa tôi trở lại trại mộc ngồi chờ một lúc nữa, có lẽ còn chờ đợi một người nào khác. Ngồi một mình buồn, tôi huýt sáo miệng theo điệu nhạc của bản thánh ca “Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con…”

Lời cầu nguyện trong bài thánh ca này làm tôi thấy an bình và tin tưởng. Tôi cứ nghiền ngẫm bài hát này một lúc thì thấy anh cán bộ dẫn tôi vào buồng cho ăn lúc nãy trở lại, có hai anh võ trang ôm súng AK theo sau.

Chợt trông thấy họ tôi hơi lo ngại. Anh cán bộ ra hiệu bảo tôi trở ra ngoài cổng trại. Ra tới nơi thấy có chiếc Land Rover chờ sẵn giữa sân, nơi mà chúng tôi bị lục soát ban chiều, trên xe có chị đàn bà ngồi sẵn ở băng sau, tay ôm một sọt rau muống khá to. Tôi được lệnh lên xe ngồi chung băng với chị đàn bà, nhưng về phía trong, hai anh võ trang mang súng AK cũng lên xe, ngồi vào băng đối diện. Khi đã ổn định phía sau, anh “Mao Trạch Đông” đi vòng ra trước, lên ngồi cạnh tài xế và chiếc xe chuyển bánh chạy trở ra đường cái.

Tới đầu đường xe rẽ phải hướng về thị xã, lúc đó tôi nhìn đồng hồ anh lính ngồi đối diện thấy đã mười giờ đêm. Đang lúc xe chạy, tôi sốt ruột nghĩ thầm: “Đêm hôm mà họ đưa mình đi đâu đây? Hay muốn thịt mình chăng?”

Nhưng rồi nghĩ lại, nếu họ mang tôi đi bắn sao lại có chị đàn bà và sọt rau muống trên xe làm gì?!

Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì ?

Khi chiếc Land Rover rẽ vào thị xã, tôi cảm thấy an tâm. Nếu giờ này mà xe rẽ phải và chạy vào rừng cao su, có lẽ tôi phải ăn năn tội thêm một lần nữa! Chạy quanh co trong phố vắng một hồi, xe rẽ vào một con đường nhỏ, hai bên là bờ tường đá cao, cuối cùng quẹo trái và dừng lại trong sân một ngôi nhà gạch. Tôi biết đây là nhà tù của tỉnh Ban Mê Thuột vì phía sau là một bờ tường cao có hàng rào dây kẽm gai bên trên và hai cách cửa sắt đen lù lù chận lối ra vào. Anh “Mao Trạch Đông” xuống xe vào nhà.

Một lúc sau có người khác mặc thường phục, vẻ mặt lầm lì, xách một chùm chìa khóa khổng lồ có tới mấy chục chiếc bước ra. Anh ta gọi tôi xuống xe và ra lệnh theo tới bên cánh cửa sắt. Anh mở cổng bằng chiếc chìa khóa to tướng, đẩy tôi vào trước và bước theo sau. Anh ta khóa cửa lại và dẫn tôi đi vào một sân rộng và dài có hàng cây trồng chính giữa. Hai bên sân là những dãy nhà gạch thật kiên cố, nhà nọ nối đầu với nhà kia.

Sau khi qua hai dãy nhà thì tới một phòng khá sâu vào trong, anh bảo tôi đứng đợi trước một phòng có cửa sắt được khóa bằng dây lòi tói thật to, bên ngoài có hai ống khóa đồng nằm cạnh nhau. Anh ta soi đèn bấm lựa chìa khóa và bắt đầu mở cửa trong lúc tôi đang đứng bên cạnh, hơi dịch về phía sau. Lòng tôi lúc bấy giờ hồi hộp lo âu, không biết cái gì đang chờ đợi tôi đàng sau cánh cửa sắt đen sì ghê rợn này.

Anh cai ngục mở khóa bằng cử chỉ thật mạnh bạo, hung hãn làm tiếng khua rổn rẻn của dây lòi tói chạm vào cánh cửa sắt trong đêm tạo nên một thứ âm thanh ghê rợn, chói tai. Xong khóa thứ nhất, tới cái thứ hai, cuối cùng cánh cửa sắt được mở hé ra. Nhìn nhanh vô trong, dưới ánh sáng đèn điện lờ mơ, tôi thấy một dãy màn mắc chằng chịt ngay trên sàn, kín cả căn buồng. Tôi còn đang do dự chưa biết phải làm gì, bất ngờ anh cai ngục quay lại túm cổ áo tôi, đẩy mạnh một phát chúi nhủi vào ngục! Bị mất đà và không kịp phản ứng, tôi té sấp, làm đứt dây sập cái màn ngay lối vào, tay tôi ôm chầm lấy con người đang nằm bên trong.

Lúc ấy không biết nước ở đâu lại văng lên tung tóe làm ướt cả mặt mày tôi, đồng thời có tiếng cánh cửa sắt dập lại đánh “rầm” ngay sau lưng! Bao nhiêu chuyện xảy ra cùng một lúc, quá nhanh và quá bất ngờ, khiến tôi không thể định thần được mình đang ở trong tư thế nào, làm đổ xô nước gì, của ai? Tiếng cánh cửa sắt bị xô mạnh kêu ầm trong đêm khuya thanh vắng, vang to đến nỗi tôi nghĩ rằng tù nhân ở các buồng bên cũng phải giật mình chớ đừng nói chi các anh đang ở buồng này. Đấy, bước chân đầu tiên của tôi vô nhà tù Cộng Sản tại tỉnh lẻ cao nguyên Ban Mê Thuột nó “vang lừng” như thế đó!

Tôi lồm cồm bò dậy. Mặt mũi và một bên người bị ướt đẫm. Mắt kiếng bị dính nước làm cảnh vật trước mắt trở nên nhòe nhẹt. Tôi vội gỡ mắt kiếng ra và lau vào áo len đang mặc trên người. Cảm giác đầu tiên và rõ rệt nhất là mùi khai của nước tiểu xông lên nồng nặc. Thì ra tôi ngã làm đổ cái xô nước tiểu, ướt đẫm mình mẩy và làm nhầy nhụa mùng mền chiếu gối của anh em nằm gần cửa.

Vì buồng này không có sạp nằm, các tù nhân phải trải chiếu xuống sàn, mắc màn nằm ngủ và tôi đã bị xô té, làm sập cái màn ngay cửa. Nhờ trên trần có một bóng đèn điện tròn leo lét, tôi thấy đây là một buồng rất nhỏ, có hơn chục cái màn đủ màu đang mắc chen chúc nhau một cách vô trật tự, ra đến tận cửa sắt. Chỗ tôi đang đứng là vị trí của cái xô nước tiểu vừa bị tôi chụp đổ tung tóe. Cái xô nhựa màu xanh đầy cáu ghét đang nằm há mồm một cách giễu cợt trên trốc cái màn tôi vừa đè bẹp.

Lạ một điều là tôi không thấy bóng dáng một anh tù nào, cũng chẳng nghe ai nói tiếng gì! Không lẽ họ ngủ mê tới nỗi những “sự cố” như sấm sét vừa xảy ra ngay bên tai mà họ không hay! Cả anh tù mà tôi ngã té sấp đè lên người mà cũng không hay biết gì ư? Rồi còn cái mùi a-mô-nhắc khai nồng nặc của nước tiểu đang chảy lênh láng trên sàn nhà? Không lẽ thần kinh khứu giác của mấy anh tù trong buồng này liệt hết rồi sao?

Một phút trôi qua, nhưng sao chẳng nghe động tĩnh gì! Dường như có cái gì bất thường đáng lo ngại trong cái sự yên lặng giả tạo này, hay đây là thứ yên lặng chết người của vùng trung tâm bão tố? Tôi đã từng nghe nói, và đọc thấy trong sách nữa, về việc mấy anh tù mới, khi vừa bước vô buồng phải “làm lễ ra mắt” với đại ca như thế nào, cảnh ma cũ bắt nạt ma mới trong tù ra sao!

Riêng tôi lúc này chẳng những là “ma mới”, mà còn là một “ma-mới-làm-đổ-xô-nước-tiểu”, như vậy cầm chắc cái “lễ ra mắt” của tôi sẽ diễn ra một cách long trọng hơn! Tôi đang chờ đợi hậu quả tiếp theo, nhưng lạ quá, hơn một phút qua rồi mà mọi sự vẫn yên tĩnh, tự nhiên tôi cảm thấy mình phải làm một cái gì đó trong lúc này.

Tôi nhẹ nhàng cúi xuống, nhặt cái xô đặt vào sát góc phòng và lên tiếng nói to để cả buồng nghe: “Xin chào các bạn trong buồng, tôi mới bị bắt vô, có gì sai sót xin các bạn bỏ qua cho!” Nói xong tôi đứng chờ, vẫn không thấy động tĩnh gì, nhưng khi nhìn xuống, tôi để ý thấy con người nằm trong màn bị tôi đè lúc nãy bắt đầu cử động. Anh ta khẽ vén mí màn nhìn ra ngoài, nhưng không nhìn tôi mà lại nhìn lên phía trên cánh cửa sắt, nơi có hàng chấn song thẳng đứng.

Tôi chợt hiểu ngay là tự nãy giờ anh ta giả vờ nằm yên đợi cán bộ đi rồi mới ra tay! Tôi định bụng lên tiếng xin lỗi vì đã làm sập màn và đổ nước tiểu tung tóe trên người anh ta, nhưng chưa kịp mở miệng thì bất thần anh ta tung màn đứng bật dậy như cái lò xo, đôi cánh tay khuỳnh ra, hai bàn tay nắm chặt, quát to:

- ĐM! Cởi giày ra!

Tôi giật mình khi bất ngờ chạm trán với cái hình hài vạm vỡ, mình trần trùn trục, đầu cạo trọc nhẵn thín, có xâm trổ hình con rồng thật to trước ngực. Khi quát, anh ta nhăn mặt nghiến răng, để lộ hàm răng có một chiếc răng cửa bị gãy, làm cho bộ mặt anh ta trông thật “cô hồn”. Tôi biết mình đang lâm nguy với anh chàng này, nên nhẹ nhàng trả lời:

- Xin lỗi anh, tôi mới vô nên không biết.

Nói xong tôi cúi xuống cởi đôi giày thể thao đang mang, vừa nghĩ thầm: “Cái số mình thật chẳng ra gì! Té không đè ai khác lại đè ngay tên cốt đột này cho nó to chuyện ra!”

Cởi giày xong, tôi ngước lên đã thấy mấy người nữa, phần nhiều trẻ tuổi, vạch màn chui ra đứng vây quanh, tất cả đều cởi trần, mặc quần đùi. Một anh lớn tuổi bò xuống chùi chỗ nước tiểu nhòe nhoẹt dưới sàn. Nhìn các anh em này, tôi không thấy vẻ gì hắc ám như tên trọc đầu, sún răng. Có lẽ họ vây quanh tôi vì hiếu kỳ muốn biết mặt một bạn tù mới hơn là có ý gì khác. Tên trọc đầu có vẽ bực dọc. Hắn sửa lại thế đứng thành chân trước chân sau. Một tay gác sau mông, bàn tay kia nắm lại, giương ngón tay trỏ ra điểm mặt tôi và bắt đầu đầu hạch hỏi bằng một giọng điệu đàn anh:

- Tội gì mà vào đây?

Tôi biết là “lễ ra mắt” đã tới giờ khai mạc!

Vì không biết anh chàng cốt đột này thuộc dạng gì, nếu hắn là một cán bộ hủ hóa bị tù mà tôi nói tội “chống chế độ” sẽ bị no đòn với hắn. Tôi chọn một tội danh vô thưởng vô phạt nhưng rất phổ thông lúc bấy giờ:

- Tôi vượt biên bị bắt.

- Bị bắt bao lâu rồi?

- Mới ngày hôm qua.

- Bị bắt ở đâu?

- Ở quận Đức Lập và mới bị giải lên đây chiều nay.

Một anh khác, khá đứng tuổi hỏi chen vào:

- Anh quê quán ở đâu?

Thấy anh này hỏi thăm cách nhẹ nhàng và có cảm tình, tôi mừng thầm đáp lại:

- Tôi người miền Tây, tỉnh Vĩnh Long anh ạ.

Anh chàng trọc đầu nghe tôi nói thế vội chen vào, hai tay chống nạnh ngang hông:

- Ở miền Tây mà lên tận đây vượt biên! Hay anh lên đây làm việc gì khác, nói thiệt đi? Ở đây không có gì phải sợ! Nói thiệt đi, anh lên đây làm gì?

Cái giọng anh chàng này y như của bọn công an biên phòng Đức Lập làm tôi phát nghi. Tôi tự nhủ hay là anh này gốc cán bộ như tôi có gặp một số ở Đức Lập hôm qua. Tôi liền đáp:

- Tôi lên đây vượt biên, chẳng làm gì khác.

Anh ta hỏi tiếp:

- Anh đi một mình à, còn vợ con anh đâu?

- Tôi không có vợ con.

Nghe câu này anh ta lộ vẽ bất bình và trợn mắt, trề môi nhe hàm răng sún ra, kề sát mặt tôi, gằn giọng:

- Anh nói cái gì? Từng tuổi này mà chưa có vợ con?! Vậy ngoài xã hội anh làm nghề gì?

- Tôi là Linh Mục Công giáo.

Vừa đáp xong câu ấy, tôi chợt thấy anh ta há hốc mồm, trợn tròn mắt đầy vẻ ngạc nhiên. Lùi lại một chút, anh vội chụp lấy hai vai tôi và nói nhanh:

- Vậy, đây… đây… là Cha hả?

- Vâng! Tôi là cha Lễ, thuộc giáo phận Vĩnh Long.

Anh ta vội ôm lấy tôi, kêu lớn:

- Trời ơi, cha, con xin lỗi Cha, con không biết, con là người Công giáo đây, con tên là Long, giáo dân xứ Hà Lan, cha có biết cha xứ Hà Lan không?

- Không, tôi không biết cha xứ Hà Lan, nhưng tôi biết Đức Cha Nguyễn Huy Mai. Ở giáo phận Ban Mê Thuột này tôi chỉ biết mỗi cha Nguyễn Tiến Khẩu, vì ngài học chung với tôi mấy năm ở Đại Chủng Viện Sài Gòn, cha Khẩu học sau tôi ba lớp.

Anh chàng vừa xưng tên là Long vui mừng ra mặt, quay vô phía trong gọi lớn: “Có Cha Lễ ở Vĩnh Long mới vô tụi bây ơi”. Xong quay lại vui vẻ nói:

- Con biết Cha Khẩu lắm, đám vinh qui Cha Khẩu con có đi dự mà!”

Chỉ trong giây lát mà tình thế đã thay đổi 180 độ! Chính tôi cũng không ngờ được sự việc lại xảy ra một cách may mắn như vậy! Các anh em khác bắt đầu xúm lại thăm tôi. Có vài anh nãy giờ nằm im, lúc này cũng vạch màn chui ra.

Long trọc đầu nhe răng sún cười khì khì, đỡ lấy cái ba lô trên vai tôi: “Tối nay Cha ngủ chung với con”. Nói xong anh ta lo thu xếp chỗ cho tôi và lấy nùi giẻ lau chỗ nước tiểu trên chiếu, trên sàn. Tôi còn mấy bao thuốc lá trong ba-lô, lấy ra xé mời các anh em trong buồng. Gặp ngày cuối tháng, cả buồng khô cạn thuốc lá vì ở đây mỗi tháng được thăm nuôi tiếp tế vào ngày đầu tháng, rớ được mấy bao thuốc lúc này chẳng khác chi trời đang hạn hán gặp cơn mưa rào.

Gần chục anh em ngồi nấp sau màn, quây quần bên tôi vừa hút thuốc vừa rù rì nói chuyện, hỏi thăm đủ thứ, vui như một ngày hội. Hỏi ra tôi biết trong buồng có 12 người trong số đó bảy anh là Công giáo. Họ bị giam về đủ mọi thứ tội, chính trị cũng như hình sự. Long trọc đầu tội uống rượu say đánh bộ đội, đã ở tù gần sáu tháng rồi. Nằm sát vách bên trong còn có hai người Thượng chức vụ cao trong lực lượng FULRO: anh Y Tư là Tổng Trưởng Quốc Phòng, lúc ấy đang bị liệt nằm một chỗ và người kia trẻ hơn là Y Toái, Tham Mưu Trưởng Quân Đội của lực lượng FULRO. Hai người không nói rành tiếng Việt.

Anh em kể, phòng này trước kia là thư viện, nên không có sạp nằm và không có nhà cầu. Mỗi ngày hai lần, sáng và chiều có mở cửa cho tù nhân ra bể cạn ở đầu nhà để tắm giặt, rửa chén bát và lo việc vệ sinh tại cầu tiêu tập thể gần nhà tắm. Ban đêm phải giải quyết tất cả mọi chuyện vệ sinh trong cái xô nhựa mà tôi làm đổ tung tóe lúc nãy! Chúng tôi quây quần hút thuốc, ai nấy vui vẻ quên cả sự đời. Có lẽ đây là trường hợp duy nhất mà tôi có thể khẳng định: Hút thuốc lá có lợi cho sức khỏe!

Chúng tôi đang vui câu chuyện, chợt có tiếng cán bộ bên ngoài quát to bắt đi ngủ vì đã quá nửa đêm. Nghe tiếng quát, mọi người nín thinh và khẽ bò về chỗ của mình. Long nhẹ nhàng nằm xuống, tôi cũng nằm kế bên, chung trong một cái màn nhỏ và ướt đẫm nước tiểu đã được Long vắt đi và lau chùi. Chúng tôi nằm yên và chờ lúc cán bộ đi khỏi, tôi khẽ gọi Long ngồi lên đọc bài kinh ngắn trước khi ngủ. Đọc chung với tôi vài câu kinh xong, Long ghé tai tôi nói nhỏ có vẻ bẽn lẽn: “Đêm nay ngủ chung với cha, con đọc kinh, trước giờ con có kinh sách gì đâu!”

Nói xong nhe răng cười và ngã người nằm xuống, nhưng không quên sửa lại cái ba-lô được cuộn tròn làm thành cái gối cho tôi gối đầu và hỏi tôi nằm như vậy có thoải mái không. Một lúc sau tôi đã nghe tiếng thở đều của Long. Phần tôi, cũng muốn dỗ giấc ngủ sau một ngày quá mệt nhọc và nhiều biến cố, nhưng cứ trằn trọc mãi không sao ngủ được. Bên tai tôi tiếng thở của Long càng lúc càng mạnh, và sau cùng là tiếng ngáy đều đều. Tôi trở người, quay sang nhìn Long, tự nhiên tôi thương nó hết sức và nhớ lại lúc nãy trước khi cha con ngồi lên đọc mấy câu kinh, nó cứ luôn miệng xin lỗi tôi về thái độ của nó lúc chưa nhận biết tôi.

Cơn Sốt Thời Cuộc

Trong đêm khuya thanh vắng, tôi trằn trọc không ngủ được và nằm ôn lại những biến động của cuộc đời như đang xem cuốn phim quay chậm. Từ ngày miền Nam rơi vào tay Cộng Sản, mặc dù mới một năm qua thôi, nhưng đời tôi đã trải qua một bước ngoặt quá lớn. Kể từ cái ngày 30 tháng Tư đen tối đó, tôi cảm thấy mình đã sống trong một thứ nhà tù lớn, có tên là “Nhà Tù Việt Nam”, để rồi hôm nay lại rơi vào một nhà tù nhỏ tại một tỉnh lẻ Cao Nguyên.

Giờ này nằm đây, tôi nghĩ ngợi miên man và để mặc cho dòng tư tưởng quay về quá khứ. Bất giác tôi nhớ má tôi hết sức, đôi dòng nước mắt tôi chảy ra khi nhớ lại hơn tháng trước đây tôi rời nhà, ngồi trên xe gắn máy của Thạnh, ra đi trong lúc má tôi đang bệnh nặng, nhưng lúc bấy giờ tôi không đủ can đảm quay lại nói lời từ giã. Bây giờ má tôi ra sao, nếu biết tôi lâm vào cảnh này liệu má tôi có chịu đựng nổi hay không.

Tôi hồi tưởng lại giai đoạn tôi được chỉ định qua làm Cha sở tại Nhà thờ La Mã, đúng hai tháng sau khi Cộng Sản chiếm miền Nam. Mặc dù chỉ ở họ đạo này một năm, nhưng tôi cũng đã là chứng nhân và đồng thời cũng là nạn nhân của bao nhiêu cảnh nhố nhăng gây ra bởi những hạng người mà dân chúng lúc bấy giờ gọi là “sâu bọ hóa kiếp làm người”. Những con “sâu bọ hóa kiếp làm người” này đang ngất ngây vì say men chiến thắng. Sẵn có quyền lực trong tay, họ làm mưa làm gió, hết trò này tới trò khác. Họ đã hành sử quyền lực một cách thái quá, gây bao nhiêu thán oán trong dân chúng.

Tôi còn nhớ lúc đó, mỗi buổi sáng tôi thấy cô trưởng ấp của tôi, người nhỏ thó, ốm tong teo như con nhái mén, tay cầm roi tre đang “lùa” một tốp chừng 10 nghĩa quân chế độ cũ đi tới từng nhà của “cách mạng”, bắt quỳ gối trước cửa lạy từng người trong nhà để xin lỗi. Anh nào ương ngạnh không chịu quỳ là roi tre từ sau bổ tới! Màn kịch này được diễn đi diễn lại khá thường xuyên.

Bản thân tôi cũng hứng chịu bao cảnh uất ức nói không nên lời. Tôi còn nhớ một buổi trưa nọ, có một tốp du kích đi ngang qua nhà thờ xứ đạo của tôi. Vài tên dừng chân trước núi Đức Mẹ trước nhà thờ, chế giễu và nói những lời lộng ngôn phạm thượng. Sau khi tôi ngăn can, bọn chúng tức khí vào nhà thờ lật các ảnh tượng xuống, đặt ghế lên đầu các tượng thờ phượng. Tôi bảo thầy Đảm là thầy giúp xứ của tôi xuống xã trình báo sự việc, nhưng bọn du kích đã rượt đánh và thầy giúp xứ phải trốn chạy thoát thân. Hôm sau tôi làm đơn khiếu nại lên huyện và được trả lời: “Vì các đồng chí ấy say rượu!” Thế là hết chuyện!

Thời điểm đó, cơn sốt cách mạng dâng lên quá cao khiến cho nhiều người tự thấy mình cũng phải “cách mạng”. Cách mạng trong lối ăn nói, bằng cách dùng thật nhiều từ cách mạng như Mỹ- Ngụy, đảng ta, khẩn trương, phản ảnh, tự giác, ý đồ. Cách mạng trong lối ăn mặc, bằng việc mua vội chiếc mũ tai bèo, một đôi dép râu, một bộ quần áo đen bằng vải nylon dầu, một khăn rằn quấn cổ, một cái xà-cột đeo vai.

Cách mạng văn hóa bằng cách hát rỉ rả như dế kêu các bản nhạc thời thượng như bài “Chiếc mũ tai bèo”: “Chiếc mũ tai bèo em gửi đến tay, khuya sớm em lo máy may càng nhanh, mối chỉ đường kim theo anh đi giết thù. Anh bộ đội ơi, em ngồi em may mà lòng miền Nam trong tim lửa cháy, có cả tình quê trong chiếc mũ tai bèo!” Hoặc “cao cấp” hơn một chút thì rên rỉ bài “Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây”: “Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn. Hai đứa ở hai đầu xa thẳm. Đường ra trận mùa này đẹp lắm. Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây. Trường Sơn Tây anh đi, thương em bên ấy mưa nhiều, con đường mà gánh gạo…”

Tình cảnh càng tệ hại hơn do thái độ gièm pha của những kẻ xu nịnh đã lợi dụng thời cơ để nương gió phất cờ. Chúng đã hiện nguyên hình là những quái thai của thời cuộc. Dân chúng gọi bọn này bằng cái tên đầy mỉa mai là “Cách mạng ba mươi”! Chính bọn cách mạng ba mươi này đôi khi còn ác ôn hơn đám Việt Cộng có “môn bài”! Chúng lợi dụng thời cơ gây ra không biết bao nhiêu uất ức trong dân chúng. Để chứng tỏ thái độ cách mạng của mình, chúng đã biểu diễn nhiều trò quá đáng gây bao đau thương, phẫn uất cho người dân vô tội. Từ đó nỗi bực tức của người dân đã phát ra thành câu ca dao đen của thời cuộc:

“Việt Cộng đứa giết đứa chừa,

“Ba mươi” giết sạch cho vừa lòng dân”!

Điều đáng buồn hơn nữa, là ngay trong hàng ngũ các Linh Mục lúc bấy giờ cũng có người nhi nha nhi nhô với cái “tước vị” trong Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo của Việt Cộng dựng lên. Họ đâu có biết rằng, đây là thứ con đẻ của chế độ mới, một chế độ theo chủ thuyết vô thần, muốn lợi dụng chính những người trong hàng ngũ các tôn giáo để gây chia rẽ rồi đi đến khống chế và làm tê liệt hoạt động của các tôn giáo. Các đại diện trong Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo được ban phát cho một vài đặc quyền đặc lợi, và có người đã cảm thấy hãnh diện để khoe khoang về điều này. Tôi còn nhớ câu chuyện đã xảy ra cho chính bản thân tôi và khó quên được.

Lúc đó vào khoảng trước lễ Giáng Sinh 1975, và tôi vừa qua làm việc ở tỉnh Bến Tre được sáu tháng. Ngày kia, một Cha bạn xứ đạo gần bên mời tôi tới dự tiệc cưới của cô cháu gái được tổ chức ngay tại nhà xứ. Mặc dù hai xứ đạo chỉ cách nhau có sáu cây số, nhưng vì khác xã và ở lại qua đêm nên tôi phải làm đơn xin phép đi đường. Đơn phải có trưởng ấp chứng trước rồi xã mới ký sau.

Khổ nỗi, ngày đó cô trưởng ấp của tôi đi bán dừa khô mãi xế chiều mới về, tôi chờ chực mãi rồi cuối cùng cũng xin được chữ ký của cô. Lúc đó đã bốn giờ chiều, tôi vội vàng chạy xuống xã vì sợ trễ giờ công sở đóng cửa. Cũng may là gặp ngay được ông chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Xã kịp lúc nên xin đóng dấu ký tên vào đơn không khó khăn gì lắm.

Cầm được giấy phép đi đường trong tay thì đã gần năm giờ chiều, mà tiệc cưới thì bắt đầu lúc bảy giờ tối hôm đó, như vậy tôi còn được hai tiếng đồng hồ.

Nhưng trong hai tiếng đồng hồ đó, tôi còn hai việc phải làm, là cuốc bộ sáu cây số và khi tới nơi, phải trình giấy đi đường cho chính quyền địa phương sở tại đóng dấu ký tên vào, rồi mới có thể an tâm vô nhà xứ dự tiệc cưới. Tôi phải làm cho đủ mọi thủ tục này vì ngày hôm sau, khi về nhà tôi lại phải trình diện một lần nữa với chánh quyền xã với đầy đủ bằng chứng là đêm qua tôi đã ở đâu, có đúng địa điểm như tôi đã ghi trong đơn xin đi đường hay không.

Sở dĩ tôi phải lội bộ vì trước đó mấy hôm chiếc Honda 70 của tôi hết xăng và không thể tìm mua được xăng. Sẵn có dầu lửa, tôi đổ vào xe chạy thử vì có người nói xe Honda chạy “tạm” bằng dầu lửa cũng được, chỉ tội là ra nhiều khói đen và ‘bu-dzi’ hay bị đóng chấu. Tuy không an tâm, nhưng mua không được xăng thì phải đổ dầu lửa vào chạy chớ biết làm gì hơn? Đổ dầu vào, đạp xe máy nổ ngon lành, có lẽ nhờ chỗ xăng còn sót lại.

Tôi chạy được vài cây số, nhưng xe bắn khói đen mù mịt và cứ cà giựt, cà giựt với tiếng máy rống ò ò như tiếng bò bị cắt tiết! Lúc ấy tôi nghĩ bụng: “Mầy muốn gào muốn thét kiểu gì cũng được, miễn cứ chạy là được rồi!” Một lúc sau, bất thần tôi nghe khịt khịt mấy tiếng và xe yếu dần. Tôi cố vặn tay ga làm chiếc xe nẩy lên nẩy xuống mấy phát như người trúng phong đòn gánh rồi im lìm bất động. Tôi dựng xe lên và cố lôi hết bao nhiêu kiến thức tôi biết về xe Honda như chùi ‘bu-dzi’, đóng mở chắn gió.

Tôi hì hục hàng giờ mà máy vẫn không nổ, chỉ còn nước đẩy xe về nhà dựng vào một xó sau khi đã cẩn thận rút hết dầu lửa ra. Ngày hôm sau, tôi mượn được một xị xăng đổ vào và cùng với một thanh niên đệ tử, hai cha con thay nhau đạp toát cả mồ hôi. Chiếc xe tội nghiệp vẫn cứ trơ ra, nằm yên bất động, tôi bảo: “Thôi cứ tạm thời đi bộ đã con ạ, chờ có dịp mua được xăng hãy sửa xe luôn thể.”

Sau một tiếng rưỡi đồng hồ rảo bước, tôi tới nơi thì trời đã chạng vạng tối. Tôi vội vào nhà ông Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân xã địa phương để trình giấy đi đường, dù biết rằng ông không có con dấu ở nhà nhưng chỉ cần ông ký tên, hoặc biết là tôi có tới trình diện là đủ vì tôi không muốn để một sự rắc rối nào xảy ra sau khi tôi đã gặp quá nhiều khó khăn với địa phương nơi tôi sinh sống. Trước đó bốn tháng có người em từ Vĩnh Long qua thăm tôi, vì quá hạn giấy phép đi đường trễ một ngày mà bị bắt và còn đang bị giam tại huyện Giồng Trôm vì bị tình nghi là CIA. Tôi cũng biết rất rõ là tôi đang bị canh chừng và theo dõi từng bước đi.

Tôi vào tới nhà xứ thì tiệc đã bắt đầu. Có khoảng 50 khách đang ngồi kín căn phòng chánh của nhà xứ. Vị Linh Mục chủ nhà và những người quen mừng rỡ đón tiếp tôi. Sau khi bắt tay chào hỏi, tôi ngồi vào bàn với một số các Linh Mục trẻ cùng trang lứa và vài ba giáo dân mà tôi quen biết. Họ là những tay chịu chơi, uống rượu đế như hũ chìm. Cha sở chủ nhà ngồi chung với vài ba người trong chánh quyền địa phương ở bàn giữa nha, cách bàn tôi khá xa.

Ngồi chung bàn với tôi có Linh Mục NVL, một thời học chung với tôi ở Tiểu chủng-viện Vĩnh Long, lúc đó là Cha sở của một họ đạo nhỏ cách đấy vài ba cây số. Linh Mục NVL là con người thích khoa trương, hay khoác lác về tất cả mọi vấn đề. Tôi chưa hề thấy bất cứ một phạm vi nào khi có ai đề cập tới mà anh chịu đứng thứ nhì hoặc thứ ba bao giờ. Cứ phải là nhất! Bởi đó, tuy dù là bạn học nhưng sau này không mấy khi tôi tiếp xúc, gần gũi, nói rõ hơn là tôi không chịu được tính nết khoa trương của anh ta. Anh về làm việc trong tỉnh Bến Tre từ năm 1973, còn tôi mới đổi về đó sau ngày mất miền Nam, nên vị trí thế đứng và sự quen lớn với người dân trong vùng có khác nhau. Hầu hết những người làm việc trong chánh quyền mới ở địa phương này đều quen biết NVL, trong khi đó tôi mới chân ướt chân ráo tới nhận họ đạo, chưa quen biết nhiều, lại còn bị tình nghi là CIA và bị chính quyền địa phương tìm cách gây khó dễ, cho người rình rập theo dõi ngày đêm.

Lúc bấy giờ trong tỉnh Bến Tre có một số Linh Mục và tu sĩ Công giáo được mời vào Ủy Ban Liên Lạc Tôn Giáo. Linh Mục NVL cũng được mời tham gia, nhưng anh không giữ chức vụ gì quan trọng, chỉ là một thành viên tầm thường. Dù vậy Linh Mục NVL cũng lấy làm hãnh diện và thích khoe khoang về những lần đi họp ở tỉnh được ở khách sạn loại sang, được ăn ngon, thức ăn đặt từ nhà hàng mang tới. Anh ta lộ vẻ hân hoan ra mặt vì có được một chỗ đứng trong chánh quyền mới, trong khi tại một vài nơi khác, Cộng Sản đang lùng bắt, áp chế, làm khó làm dễ đủ điều các Linh Mục “phản động” và những giáo dân ương ngạnh, chống đối hoặc bất hợp tác với chế độ. Tối hôm ấy Linh Mục NVL đang ngồi đối diện với tôi trong bàn tiệc.

Thức ăn ngon và bầu khí vui vẻ làm tôi quên mệt nhọc. Vừa ăn được một chập thì Cha Thạnh, ngồi bên cạnh, hỏi tôi tại sao tới muộn. Tôi gác đũa, vui vẻ kể lại diễn tiến thủ tục xin phép đi đường, vụ chiếc Honda “ngộ độc” đang nằm nhà khiến tôi phải cuốc bộ và khi tới đây còn phải ghé vô nhà ông chủ tịch trình giấy tờ để tránh mọi chuyện phiền hà rắc rối v.v… Tất cả mọi người trong bàn tỏ ra hào hứng vui vẻ lắng nghe và lộ vẻ cảm thông với hoàn cảnh tôi đang bị “đì” trên họ đạo La Mã. Lúc tôi đang nói nửa chừng, NVL vội khoa tay “cướp diễn đàn” bằng một giọng mỉa mai châm chọc: “Trời! Ông La Mã sướng thiệt! Đi đâu cũng có giấy đi đường đóng dấu ký tên đàng hoàng! Còn mình á hả? (quơ tay) Hổng ai chịu cho mình miếng giấy nào. Mỗi lần mình muốn xin giấy đi đường thì mấy anh em trong Ủy Ban nói, (khoác tay) ‘Thôi đi cha ơi, cha đi đâu thì đi, ở đây ai không biết cha mà phải giấy với tờ, giấy tờ là những người khác kìa!’’’ Anh ta có vẻ cao hứng, chỉ mặt tôi nói tiếp:

- “Này, tôi ghen với ông La Mã đấy nhé! Hì… hì…”

Những người cùng bàn nhếch mép cười gượng gạo trước câu nói khoa trương có tính cách châm biếm này. Còn tôi, vốn rất nhạy cảm với tánh khoác lác của anh ta nên lúc đầu nghe nóng ở gáy, sau đó thấy nóng mặt và hình như biết mình muốn phản ứng một cách quyết liệt, nhưng tôi vội kềm hãm, bình tĩnh và nghiêm nét mặt trả lời:

- “Anh L. à! Hoàn cảnh anh khác, tôi khác. Anh nói lên những lời đó ở đây làm gì?”

Cha Thạnh ngồi kế bên tôi, dùng đầu gối thúc nhẹ vào chân tôi, ý bảo đừng thèm để ý, cứ nhịn đi cho xong chuyện. Tôi hiểu ý Thạnh, (và cũng nhớ có mấy người trong chánh quyền đang có mặt!), tôi cầm đũa vừa gắp thức ăn vừa nói một cách vui vẻ: “Thôi xin lỗi quý vị, phỏng vấn để lúc khác, giờ cho ăn cái đã, vừa lội bộ hơn tiếng đồng hồ, đang đói mềm người đây!”

Anh em ngồi chung bàn cười ồ sau câu nói giải thoát của tôi và mọi người cầm ly, cầm đũa lên. Nhưng Linh Mục NVL chưa chịu buông tha. Khi nghe tôi nhắc tới đi bộ, dây thần kinh “khoác lác” của anh ta lại bị chạm lần nữa, bèn vung tay nói lớn: “Còn xăng ấy hả, trong nhà mình không đủ thùng mà chứa! Tiêu chuẩn mì ăn liền, bột ngọt, xà bông bột cũng vậy, mình xài không hết còn cho người khác! Chiếc Honda 90 phân khối của mình chạy không biết tới bao giờ mới hết xăng. Mấy anh trên Ủy ban nói mình chứa xăng làm gì cho nguy hiểm, coi chừng có ngày cháy nhà thờ, lúc nào cần thì lên cơ quan mà đổ. Mình cũng mong cho nó hết xăng, có dịp đi bộ cho nó khỏe người! Hì… hì…”

Đến đây, tôi không còn kềm chế được nữa! Bằng một phản ứng tự nhiên và nhanh như đòng điện, tôi buông vội đũa xuống, trợn mắt và hai tay nắm khăn trải bàn ăn giật mạnh một phát làm đổ vài ly rượu. Tôi nhìn thẳng vào mặt anh ta, nói rít qua hai hàm răng cắn chặt, vì ngại những người ở các bàn bên nghe thấy: “Câm mẹ cái giọng khốn nạn của anh lại đi!”

Thạnh vội vàng ghì lấy tay tôi trong khi thực khách trên bàn lo chụp mấy cái ly ngã nghiêng, có vài ly rượu đổ tung tóe. Tôi cảm thấy choáng váng và mệt lả người sau câu nói đó, vội kéo ghế đứng lên, xin lỗi các người trong bàn ăn và bước ra ngoài. Có người nào bên cạnh cầm tay giữ tôi ở lại, nhưng tôi quyết định ra ngoài.

Vừa xoay người bước đi tôi còn nghe tiếng cha Thạnh ở phía sau trách NVL: “L., mầy không thấy thằng Lễ nó đã quá khổ rồi sao mà còn hành hạ nó nữa?” Tôi cho rằng đây cũng là một hiện tượng quái thai của thời cuộc, và nếu trong tiệc cưới đó không có mặt mấy người trong chánh quyền, có lẽ câu chuyện còn đi xa hơn.

Trò Hề Thế Sự

Tôi không thể nhớ hết được cảnh chướng tai gai mắt của thời buổi nhiễu nhương lúc bấy giờ. Tuy nhiên một vài sự việc gây ấn tượng mạnh thì tôi không thể quên được, như câu chuyện về cuộc bầu cử Quốc Hội khóa 6, là Quốc Hội chung cho cả nước lần đầu tiên vào tháng Tư năm 1976 sau đây.

Trước ngày bầu cử, ai từ 18 tuổi trở lên được cấp phát thẻ cử tri như các cuộc bầu cử thông thường khác. Điều bất thường là các cử tri được chia ra thành từng tổ, mỗi tổ 12 người và có một tổ trưởng đứng đầu để lo việc điều hành và kiểm soát các tổ viên.

Tiếp theo là giai đoạn học tập bầu cử. Các tổ trưởng phải lo điểm danh và bảo đảm đủ số 12 người đến dự các buổi học tập được tổ chức trong trường học nằm ngay trước nhà thờ xứ đạo của tôi. Cán bộ ở tỉnh về lo tổ chức các lớp học tập bầu cử. Nội dung bài học cũng ngắn gọn và dễ hiểu. Sau khi giảng giải về tầm quan trọng của cuộc bầu cử Quốc Hội chung cho cả nước lần đầu tiên, cán bộ viết lên bảng tên của các ứng cử viên trong tỉnh Bến Tre.

Nếu tôi nhớ không lầm thì có cả thảy là 10 ứng cử viên và trước các tên có đánh số thứ tự 1,2,3,4… Cán bộ giảng dạy cho biết sẽ loại bỏ 2 người “đúng theo thể thức bầu cử dân chủ”. Cán bộ giải thích như thế. Sau đó cán bộ bầu cử tay cầm lá phiếu mẫu giơ lên cao cho mọi người thấy và lớn tiếng “dạy” tiếp:

“Trước khi bước vô buồng kín để bầu, bà con ta sẽ được phát lá phiếu y như lá phiếu này (cầm hai tay đưa lên cao và xoay qua xoay lại). Trong buồng kín có sẵn bút bi và thước kẻ, bà con chỉ việc gạch ngang tên hai người cuối cùng như thế này (làm thử), xong gập lá phiếu làm đôi như thế này (làm thử), sau đó bước ra khỏi buồng, đến bên thùng phiếu, giơ cao lá phiếu của mình lên và bỏ vào thùng như thế này (làm thử). Đơn giản chỉ có vậy thôi, bà con nắm cả chưa? Có ai còn muốn hỏi gì không? “

Từ cuối lớp có tiếng người đàn bà:

- Tôi có thắc mắc xin hỏi. Gạch bỏ số nào cũng được hay phải bỏ hai số cuối cùng?

Cán bộ bầu cử trợn mắt đáp vội:

- Tôi đã bảo là bà con gạch bỏ tên hai người cuối cùng như tôi đã biểu diễn, chị không nghe kịp hay là chị có ý đồ gì?

Tuy bị chụp mũ là “có ý đồ” một cách bất ngờ, nhưng chị đàn bà này cũng không phải tay vừa, chắc cũng là hạng “mẹ chiến sĩ”, bà ta phản pháo:

- Ý đồ gì? Không hiểu thì tôi hỏi, tại sao phải gạch bỏ tên hai người cuối cùng mà không thể gạch tên người khác?

Anh cán bộ lộ vẻ bất bình:

- Đó là chỉ thị của “trên”, bà con cứ thế mà thi hành, không phải thắc mắc lôi thôi, hãy tin tưởng vào đường lối lãnh đạo đầy sáng tạo của đảng.

Nghe tới tiếng “đảng”, người đàn bà từ từ ngồi xuống, cả lớp trở nên yên lặng như tờ, con ruồi bay ngang cũng nghe được. Cuối cùng anh cán bộ đánh tan bầu khí nặng nề bằng câu nói dõng dạc: “Bây giờ tới phần thực tập, bà con từng người một lên cầm phấn và thước kẻ đây thực tập bầu phiếu”. Mấy chục cử tri trong lớp lần lượt tiến lên “thực tập” bầu cử. Từng người một cầm thước kẻ và phấn gạch ngang tên hai người cuối cùng đúng như lời “dạy” của anh cán bộ, xong trở về chỗ ngồi.

Tôi ngồi giữa lớp lặng yên theo dõi màn hài kịch này ngay từ đầu, trong lòng đầy ngao ngán và uất hận cho cái trò hề của chế độ. Nhưng đó là một thực tế của thời cuộc, còn biết bao nhiêu thứ trò hề khác mà dù muốn dù không, trong hoàn cảnh đó người dân cũng phải chấp nhận. Tới lượt tôi lên thực tập, khi cầm lấy cây thước và cục phấn vào tay, tôi cảm thấy xấu hổ với chính mình và với những người đang có mặt, cũng như xót xa cho hoàn cảnh của đất nước. Dưới chế độ này, người dân bị tước hết mọi thứ quyền, kể cả quyền được “thắc mắc”.

Chế độ Cộng Sản cố biến toàn dân trở thành một thứ ngựa kéo xe bị che hai bên mắt, cứ phải đường thẳng mà đi theo sự điều khiển của người đánh xe đang cầm roi ngồi phía sau, và tên xà-ích ác ôn này cũng rất nhuần nhuyễn trong việc sửa trị các con ngựa chứng bất kham!

Cuộc bầu cử Quốc Hội khóa 6 diễn ra vào sáng Chủ nhật 25-4-1976. Từ lúc tờ mờ sáng, tiếng loa đã kêu gọi inh ỏi để thúc giục đồng bào lo đi bầu. Các cử tri có mang thẻ trước ngực ghi tên, số thứ tự của mình và tên của tổ, đứng xếp thành hàng một dọc theo con đường đất bên hông nhà thờ cho tổ trưởng điểm danh. Có đội múa lân đứng đầu, theo sau là đội thiếu nhi “Cháu Ngoan Bác Hồ” cầm cờ xanh cờ đỏ, một số khác khua trống gióng chiêng, tạo nên bầu khí tưng bừng của một ngày hội lớn.

Sau khi các tổ điểm danh xong và bảo đảm không còn sót người nào, chúng tôi được lệnh tiến bước, vẫn giữ hàng một theo thứ tự từng tổ. Các tổ trưởng tay cầm một bảng con dẫn đầu. Lúc này mặt trời đã lên khỏi ngọn cây.

Đoàn người chậm rãi tiến bước theo sau đám múa lân, trông như một con rắn khổng lồ, đầu có sừng, đang bò ngoằn ngoèo dọc theo con đê dài hàng mấy cây số để tới địa điểm bầu phiếu. Sau khi đi gần một tiếng đồng hồ, chúng tôi tới nơi và tôi rất đỗi ngạc nhiên khi thấy phòng phiếu được tổ chức ngay bên trong nhà thờ họ lẻ của tôi mà tôi không hề hay biết gì!

Trước khi bước vào “nhà thờ”, các tổ phải chỉnh đốn hàng ngũ lại một lần nữa cho tổ trưởng điểm danh bảo đảm đủ số 12 người. Sau đó tổ trưởng lần lượt gọi tên từng người theo số thứ tự 1,2,3,4,… tiến tới các bàn trình thẻ cử tri, lãnh phiếu bầu và bước vào buồng kín bên cạnh. Tôi bước vào buồng kín như một cái máy, tay cầm lá phiếu bầu có tên của các ứng cử viên được xếp theo thứ tự mà tôi đã được “học tập” phải làm như thế nào.

Vô buồng kín, đặt lá phiếu xuống mặt bàn cạnh bên cái thước kẻ và cây bút bi, tôi bỗng thấy cơn uẩn ức dâng lên ngùn ngụt, và muốn nhân cơ hội này bày tỏ một thái độ phản kháng bằng một hình thức nào đó với lá phiếu đang nằm trước mặt.

Trong lá phiếu, các con số đứng trước những cái tên hoàn toàn xa lạ đối với tôi, duy chỉ có tên của Thiếu tướng Đồng Văn Cống, nằm ở số 5 hay số 6 gì đó là tôi có nghe qua, vì ông xuất thân từ xã Hiệp Hưng này. Có vài người biết chuyện về ông kể lại. Lúc còn nhỏ con nhà nghèo, Cống đi ở đợ chăn trâu cho người trong làng, nhờ to con lớn xác và đá banh giỏi nên đám trẻ chăn trâu nể nang và coi như đại ca.

Lớn lên Đồng Văn Cống theo Việt Minh, tập kết ra Bắc và trở về miền Nam vào năm 1975 với cấp bậc thiếu tướng và được bổ làm Tư Lệnh Quân Khu 7. Từ đó Đồng Văn Cống trở thành niềm vinh dự cho bà con dòng họ còn đang sống tại đây và cả dân chúng xã Hiệp Hưng này nữa.

Ngoài ông Cống, mà tôi nghe biết chút ít, còn các người kia tôi hoàn toàn mù tịt, nhưng tôi biết tất cả đều là người của đảng Cộng Sản đưa ra. Lúc đầu vì quá phẫn uất, tôi định bụng là viết chữ “trò hề” và gạch chéo trên lá phiếu rồi cho vào thùng, nhưng biết là không ổn vì bọn họ sẽ điều tra ra ngay lá phiếu của ai.

Một cách phản kháng khác là gạch một số tên nào đó không phải tên hai người cuối cùng như tên cán bộ đã bảo, hoặc bỏ phiếu trắng vào thùng. Nhưng cuối cùng tôi bỏ ý định, vì biết rằng lúc bấy giờ tôi là cái đích cho họ theo dõi và quan sát, vả lại cho dù tôi có bỏ phiếu cách gì đi nữa thì kết quả cuộc bầu cử này cũng đã được ấn định trước rồi, chống đối trong chuyện nhỏ mọn này chỉ tội thiệt thân.

Nghĩ như vậy, nên tôi cúi xuống gạch ngang hai tên cuối cùng rồi gập đôi lá phiếu bước ra khỏi buồng bỏ vào thùng phiếu bên ngoài, tự nhiên cảm thấy con người mình hèn đi vì cử chỉ này. Khi cho lá phiếu vào thùng, tôi tự an ủi và tha thứ cho mình với ý nghĩ: “Tên nào có đắc cử thì cũng là một lũ Việt Cộng, suy nghĩ làm gì”.

Lần đó ấp 6 trong xã Hiệp Hưng của tôi được tuyên dương là ấp bầu cử gương mẫu với 100% cử tri đi bầu. Các tân Đại Biểu Quốc Hội của tỉnh Bến Tre đắc cử với 99% số phiếu. Thật là một cuộc bầu phiếu “dân chủ” thành công tốt đẹp chưa từng có! Nhưng chuyện bầu cử chưa chấm dứt ở đây. Tuần lễ sau, trong ấp tôi có 13 cử tri bị gọi lên cơ quan làm việc, trong số đó có anh thanh niên đệ tử của tôi.

Lúc trở về anh ta thuật lại, 13 người này bị ông chủ tịch xã hạch hỏi tại sao đã được học tập kỷ lưỡng rồi mà còn bầu cử sai qui cách, không chấp hành chỉ thị của “trên”? Không gạch tên hai người cuối cùng mà lại gạch càn qua các tên khác? Muốn phá hoại cuộc bầu cử hay có ý đồ gì? Sau khi nạt nộ quát tháo một hồi, ông ra hình phạt mỗi người ba ngày công, mang gạo theo đi đào thủy lợi.

Vị đại diện chánh quyền kết luận: “Vì đây là vi phạm lần đầu nên Đảng và Cách Mạng khoan hồng chỉ phạt cảnh cáo chừng ấy. Bà con biết không, trong thời ngụy ấy hả, mỗi lần bầu cử nó bắt bỏ phiếu cho ai là phải bỏ cho người đó. Trong phòng phiếu nó lên trần nhà khoét lỗ dùng kiếng hiển vi (nguyên văn!) nhìn xuống để theo dõi, ai mà bỏ phiếu không đúng ý nó, sẽ bị bắt đi không có ngày về, các anh chị đừng có tưởng…”

Về phần tôi, ít lâu sau một chị giáo dân làm tổ trưởng tổ Phụ Nữ trong ấp tới nhà chơi và cho biết: “Cha biết không, hôm bầu cử, khi cha bước vô buồng kín đã có sẵn ba người được gài phía sau để theo dõi xem cha làm gì trong ấy, và họ khen là cha bỏ phiếu tốt”. Nghe qua câu này tôi chỉ mỉm cười không nói năng gì nhưng nghe có cảm giác ớn lạnh ở lưng, cái cảm giác mà chúng ta thường có khi vừa may mắn thoát được một tai nạn trong đường tơ kẽ tóc!

Cuối tháng Tư 1976, vì không thể sống được trong họ đạo dưới áp lực quá nặng nề đến từ nhiều phía, tôi buộc lòng phải từ giã họ đạo La Mã, trở về quê ít ngày rồi lại ra đi, lần này đi vào một tương lai vô định. Cũng như bao nhiêu anh em cùng chí hướng, tôi không thể ngồi yên nhìn cảnh quê hương và dân tộc đang bị một thứ chất độc tai hại tàn phá. Dù biết là tài hèn sức mọn, có thể không làm nên việc gì, nhưng tôi vẫn nghĩ, thà không làm nên việc gì còn hơn là không làm gì cả. Và từ lúc đó cuộc đời tôi đi vào ngả rẽ, dẫn đưa tôi vào nhà tù ở tỉnh lẻ cao nguyên này.

Quay Về Thực Tại

Giờ này đã quá khuya, buồng giam yên lặng, mờ ảo dưới ánh sáng leo lét của bóng điện nhỏ duy nhất trên trần nhà. Tiếng ngáy của Long càng lúc càng to. Chung quanh tôi, các anh em bạn tù đều đang ngon giấc. Bên ngoài cũng không nghe một tiếng động nào, chỉ lâu lâu có tiếng bước chân thật nhẹ nhàng, dừng lại bên ngoài cửa sắt buồng giam rồi lại bước đi. Tiếng bước chân nhẹ nhàng đến độ tôi phải chú ý lắng nghe mới nhận ra được như tiếng bước chân âm thầm của loài hổ báo đang rình mồi. Tôi biết ngay đó là cán bộ võ trang đang tuần tra về đêm.

Tôi cảm thấy lạnh nên nằm dịch người sát vào Long trọc đầu đang ngủ say. Tôi nhè nhẹ kéo mí tấm chăn Long đang đắp để phủ lên người cho đỡ lạnh. Long giật mình, phát ra mấy tiếng ự ự trong cổ họng, trong khi mắt vẫn đang nhắm nghiền, vặn người mấy cái, chép miệng và nằm yên thở đều. Long nằm ngửa, đôi môi hở ra để lộ hàm răng có chiếc răng cửa bị gãy. Lúc này tôi không còn thấy Long xấu xí và đáng sợ như lúc mới chạm mặt lần đầu.

Trái lại, tôi thấy một tâm tình yêu mến dâng lên đối với Long, một thanh niên xa lạ tự phương trời nào, mà tự nhiên đêm nay lại trở thành kẻ “chung chăn chung gối” trong đêm đầu tiên tôi sống trong tù. Bất giác tôi cười thầm với cái ý nghĩ rằng đây là một “Đêm Tân Hôn”! Một đêm tân hôn thật lạ kỳ, vì “tân giai nhân” nằm cạnh tôi trọc đầu, sún răng, hình hài vạm vỡ như một võ sĩ đô vật và mình trần để lộ hình con rồng xâm trổ to tướng trên ngực, con rồng lại đang nhe răng khè ra lửa! Tôi tiếp tục mỉm cười trong bóng đêm!

Những ý nghĩ miên man vụn vặt ấy từ từ ru tôi vào giấc ngủ lúc nào không hay, một giấc ngủ thật nhiều mộng mị. Sáng ngày, lúc nghe tiếng kẻng báo thức, tôi giật mình tỉnh giấc và bàng hoàng không biết mình đang ở đâu! Tôi nằm yên dụi mắt. Một hồi lâu mới nhận ra được hoàn cảnh thực tại, tôi đang ở tù. Sau khi ngồi lên đọc kinh dâng ngày, tôi cố nhớ lại các giấc mơ đêm qua.

Trong cơn mơ, tôi thấy trở về thăm lại Đại Chủng Viện Sài-Gòn, nơi tôi xa rời đã sáu năm qua, gặp lại một vài cha giáo sư và một số bạn cũ, trông mặt mày ai nấy đều ủ rũ buồn rầu nhưng không hiểu tại sao.

Trong một giấc mơ khác, tôi mơ thấy bóng dáng người con gái trong bài ca dao, “Trèo lên cây bưởi hái hoa…” Tôi thấy nàng mặc chiếc áo bà ba trắng ôm sát thân người, tóc bỏ đuôi gà, gương mặt trái xoan trắng ngần và đẹp thanh tú, nhưng trong vẻ đẹp ấy có ẩn hiện một nỗi u buồn khó diễn tả. Hình như tôi thấy nàng đang đứng giữa ruộng cà để nói chuyện với tôi và vài người khác hay sao đó. Giấc mơ này tôi nhớ không rõ, nhưng giấc mơ trước tôi còn nhớ rõ như in.

« »


Tôi Phải Sống: 3- Tàu Sông Hương

toiphaisong_tua2

3- Tàu Sông Hương

Trong mấy ngày qua, các tù nhân trong trại Gia-Ray tỉnh Xuân Lộc bàn ra tán vào về một đồ vật có hình dạng lạ lùng, đang nằm trong lán mộc gần bên cổng trại. Mạnh ai nấy cố thử đoán xem “nó” là cái gì. Nhưng cuối cùng, xem ra chẳng một ai dám chắc về lý đoán của mình. Cũng có một vài cuộc cãi vã xảy ra vì bất đồng ý kiến về tên gọi của nó. Đó là một đồ vật bằng ván gỗ, nếu dựng đứng lên trông giống như cái kệ sách có bề ngang sáu tấc và cao năm thước.

Tuy nhiên có điểm khác là các miếng ván nằm ngang không bằng mà lại hơi chênh chếch cao, nên chỉ trông giống kệ sách thôi nhưng không thể là kệ sách được. Có ai lại đóng một kệ sách với kích thước chướng đời như thế! Có người bảo nó là cây thang, nhưng nấc lại cách nhau quá ngắn, và hai bên là hai mảnh ván rất to bản. Nếu nó thực sự là cây thang thì đây là một cây thang lạ lùng nhất mà tôi được thấy. Chính tôi cũng thắc mắc về nó.

Khi đi lao động ra vô cổng trại, ngày nào cũng thấy nó nhưng không thể biết được dùng vào việc gì. Một hôm gặp anh đội trưởng đội mộc, tôi hỏi về nó, anh cũng chẳng biết là cái gì, chỉ biết đóng đúng theo kích thước của cán bộ giao cho đội thực hiện.

“Nó” nằm dài trong lán mộc một thời gian. Rồi một hôm, vào thượng tuần tháng Tư năm 1977, chúng tôi đi ngang lán mộc để xuất trại lao động, nhìn vào không còn thấy nó nữa. Như vậy là nó được chở đi ban đêm và không một ai trong chúng tôi được biết. Điều này cũng hơi khác thường vì các sản phẩm do anh em tù đóng như bàn, tủ, ghế, hòm v.v… đều được chở đi ban ngày và các anh tù phải khiêng vác ra xe. Nhưng rồi mấy ngày sau, chúng tôi quên khuấy nó đi, chẳng thấy ai còn thắc mắc gì về nó. Trong khi còn biết bao nhiêu chuyện khác phải bận tâm lo nghĩ trong kiếp sống tù đày ở trại Gia Ray đông nghẹt tù nhân, và thiếu thốn tất cả tiện nghi tối thiểu này.

Trại Gia Ray, còn gọi là Z 30D, trước kia là hậu cứ của trung đoàn 54, nằm trên một đồi cao có cái tên khá thơ mộng là “đồi Phượng Vĩ”. Trại nằm quay cổng ra núi Chứa Chan cao to sừng sững mà anh em tù thích gọi đùa là núi “Chán Chưa”! Sở dĩ tôi biết về lai lịch trại này vì có một số người tù trước kia là quân nhân đã từng đóng quân ở đây. Sau khi đổi đời, họ lại cũng vào đây ở tù tiếp theo.

Vì trước kia là một trại lính và nay biến thành nhà tù, nên nó không có một thứ gì cả, ngoài mấy dãy nhà tôn vách ván, cất trên nền đất đỏ đầy bụi bặm và hang chuột dọc ngang. Trại không có nước máy, cũng không có giếng hoặc suối để lấy nước.

Hàng ngày có xe bồn chở nước tới cung cấp cho cơ quan và hơn một ngàn tù nhân trong trại. Vì số lượng nước cung cấp rất hạn chế nên nước trở thành hiếm và dĩ nhiên cái gì hiếm thì quý. Các tù nhân chỉ được chia tiêu chuẩn nước uống mỗi ngày hai lon Guigoz trong hai bữa ăn trưa và chiều. Vì phần nước quá ít so với nhu cầu nên hầu như không có ngày nào trong buồng là không có cãi nhau về “việc nước”.

Có nhiều trận đánh nhau bưu đầu sứt trán “vì nước”. Có mấy lần, hàng trăm tù nhân hè nhau tấn công nhà bếp để… “cướp nước”! Những lúc đó thôi thì gậy gộc, gạch đá, có khi cả dao mác đều được dùng để ẩu đả nhau. Cả hai phe tù có nhiều kẻ lỗ đầu sứt trán máu me đầm đìa y như cảnh chiến tranh Quốc – Cộng trước kia giành nhau đất “nước”!

Trại Gia Ray

Nhóm chúng tôi từ trại Phan Đăng Lưu trong tỉnh Gia Định chuyển lên đây vài ngày trước Tết Đinh Tỵ năm 1977. Trong nhóm còn một Linh Mục khác là Cha Vũ Đức Khâm, người đã một thời làm việc với Đức Cha Lê Hữu Từ và cha Hoàng Huỳnh thời Công Giáo tự trị chống Việt Minh tại chiến khu Phát Diệm trước năm 1954.

Vào Nam, Cha Khâm được nhiều người biết đến qua các hoạt động xã hội của ngài tại Sài Gòn trong những năm đầu thập niên 70. Phần đông tù nhân trại Gia Ray lúc bấy giờ là nhân viên công chức của chế độ cũ và một số người trong Lực Lượng Dân Quân Phục Quốc, hầu hết là trẻ tuổi. Số khác can tội vượt biên hay phản động, chống chế độ cách này cách khác.

Khi chúng tôi chuyển tới đây thì trong trại đã có sẵn khoảng một ngàn người. Chừng vài tuần lễ sau, có một số anh em quân đội từ trại Cà Tum, Tỉnh Tây Ninh chuyển về nữa, nâng con số tù lên 1200 người. Trong số đó có khá nhiều anh em Công Giáo.

Khi vừa tới, chúng tôi được phân tán vào các đội và ở các buồng khác nhau, mỗi buồng chứa khảng 60 người. Tôi vào chung đội với Cha Vũ Đức Khâm và một số anh em tôi còn nhớ được như các anh Nguyễn Tôn Tính, Nguyễn Tiến Đạt, Trần Nhật Kim, Mai Văn An. Phạm Văn Thông…Hai ngày đầu tiên chúng tôi bị nhốt trong buồng cả ngày lẫn đêm.

Buồng giam trống trơn từ đầu tới cuối, hai bên có hai dãy sàn nằm bằng gỗ, ở giữa là lối đi chạy dài. Trong buồng không có cầu tiêu, và để thay thế vào đó là 3 cái ống sắt vỏ đạn pháo binh 155 ly, mỗi ống đường kính chừng hơn gang tay và cao khoảng một thước, được dựng trong một phòng nhỏ ở góc phía trong cùng. Tất cả mọi nhu cầu vệ sinh của chừng ấy con người trong buồng được giải quyết gọn trong ba cái ống đó. Tới sáng ngày mở cửa mới được mang đi đổ ở cầu tiêu công cộng.

Tuy tôi chỉ ở trại này thời gian ngắn, nhưng có mấy sự việc gây ấn tượng mạnh làm tôi không sao có thể quên được. Trước hết là chuyện về cái cầu tiêu công cộng. Như tôi đã nói, lúc bấy giờ trong trại có hơn một ngàn người, sống chen chúc nhau trong một cái trại lính cũ mèm và trơ trọi.

Nước uống thì mỗi ngày có xe bồn chở tới, củi đuốc thì có sẵn trong rừng, rau cỏ thì các đội rau xanh trồng cho cả trại ăn, về khoảng tắm giặt thì… khắc phục! Nước uống còn không đủ lấy đâu ra nước để tắm giặt? Nhưng còn vấn đề ‘đại tiện’ thì sao, việc này không thể nào “khắc phục” được. Giải quyết khâu này cho hơn một ngàn con người sống tập trung đâu phải là chuyện nhỏ!

“Đại hội” Ruồi Xanh

Sau hai ngày đầu bị nhốt kín trong buồng, qua ngày thứ ba chúng tôi được mở cửa ra ngoài đi lại tự do như những người khác. Tôi còn nhớ mãi buổi sáng đầu tiên được mở cửa, tôi có nhu cầu ra khu cầu tiêu công cộng lần đầu tiên sau khi đã ‘khắc phục’ suốt đêm trong buồng, vì 3 cái ống vỏ đạn pháo binh làm cầu tiêu dã chiến không đáp ứng được nhu cầu của 60 con người. Muốn ra tới cầu tiêu công cộng tôi phải đi qua vài ba dãy nhà, kể cả khu vực nhà bếp.

Sau khi qua nhà bếp một đỗi, có con đường nhỏ đi giữa hai hàng rào kẽm gai dẫn ra phía bờ rào trại bằng nhiều lớp kẽm gai cuộn tròn bao bọc chung quanh trại. Khu vực cầu tiêu công cộng nằm sát bờ rào trại. Khi vừa tới đầu nhà bếp, mặc dù chưa thấy hình dạng nhưng tôi đã “đánh mùi” được vị trí tôi muốn tìm tới. Ngay lúc tôi vừa nghe mùi cũng là lúc tôi nghe một âm thanh lạ kỳ của đám ruồi xanh đang bận rộn với hàng đống cải muối dưa đang được trải phơi trên mái tôn của nhà bếp.

Trời ơi, ruồi xanh ở đau mà lắm thế! Mùi dưa cải muối chua, mùi của nhà bếp, mùi của đường cống lộ thiên rộng gần 2 thước bên hông nhà bếp, cộng với mùi thối từ cầu tiêu công cộng cách đó không xa đã lôi cuốn không biết cơ man nào là ruồi xanh. Chúng bay thành từng đàn, từng mảng trên nền trời đông như giải trấu. Chúng đang giành ăn giữa những đám cải khô trên nóc nhà. Chúng bay vo ve trên miệng đường cống. Chúng đậu vào những nơi nào có thể đậu được trong khu nhà bếp và tạo nên một cảnh náo nhiệt khác thường.

Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được nhìn thấy ruồi xanh nhiều như thế, nhiều không có thể tưởng tượng được. Tôi thầm nghĩ có lẽ toàn thể ruồi xanh trên thế giới hôm nay tập trung về đây để họp bạn, hoặc có đại hội đặc biệt gì đó của ruồi xanh! Về số lượng đông khủng khiếp của muỗi thì tôi đã có dịp thấy tại rừng Năm Căn trong tỉnh Cà Mau. Khi còn làm thầy giúp xứ, tôi đã có dịp xuống làm việc với cha Nguyễn Lạc Hóa, một Linh Mục người Tàu tại biệt khu Hải Yến vào năm 1967. Lúc đó tôi nghĩ chắc là trên đời này không còn nơi nào nhiều muỗi như ở Hải Yến trong tỉnh Cà Mau và lúc này tôi có thể nói không chỗ nào nhiều ruồi xanh như trại tù Gia Ray, tỉnh Xuân Lộc!

Khi tới nhà bếp tôi phải dừng lại vì đã có chừng vài ba chục người đang đứng xếp hàng dọc chờ từ trước, trên tay mỗi người cầm một tờ giấy. Tôi đến nơi ráp vào hàng. Đứng vô hàng xong, tôi ngoái lại sau lưng thì đã thấy độ mươi anh tù khác cũng đang lục đục kéo ra đứng tiếp theo. Một lúc sau, hàng người bất đắc dĩ phải tới đây như tôi, càng lúc càng dài hơn.

Lúc đó chẳng biết làm gì hơn, tôi đành đứng yên quan sát. Vì mới tới trại mấy ngày, và hôm nay được ra đây lần đầu nên cái gì đối với tôi lúc bấy giờ cũng lạ. Những người bạn tù bất đắc dĩ phải đứng xếp hàng trước và sau tôi, đại đa số cũng xa lạ nên tôi cũng chẳng có dịp nói chuyện với ai. Vả lại trông người nào cũng lầm lì câm lặng. Có người mặt mày nhăn nhó trông rất khổ sở, mà tôi đoán là họ đang bi ‘đuổi’ rất gấp, như thế còn tâm trí đâu để mà chuyện với trò?

Nhìn về phía xa trước mặt, tôi thấy cái hố hình chữ nhật rất to, chiều dài phải có tới 15 thước, chiều ngang quãng 10 thước. Trên mặt hố được dựng tạm bợ một dãy nhà cầu chừng 15 hay 20 cái dính liền nhau, cái nọ cách cái kia bằng một tấm phên nứa, cao khoảng 50 phân, phía trước có lá chắn bằng nứa cao chừng một gang tay, trên nóc có tấm cót che mưa che nắng một cách sơ sài vội vã.

Dãy nhà cầu nằm cách bờ đất khá xa và trước mỗi ô có một cầu bằng ván bìa bắt từ mép bờ đất đi ra. Nhìn từ xa, tôi thấy trong mỗi cái ô nho nhỏ đó có một con người đang ngồi. Mới nhìn thoáng qua trông giống như một hàng nhộng nằm trong tổ ong đang ló đầu ra ngoài. Tấm phên phía trước chỉ che được những nơi cần che của con người đang ngồi chồm hổm, đối diện với một hàng người đang đứng dàn hàng ngang trên bờ hố chờ tới phiên mình. Hàng người đứng hàng ngang này thuộc diện ưu tiên, trong khi những người ra muộn như tôi, phải đứng thành hàng dọc trên lối đi và đang kiên nhẫn chờ đợi.

Đợi Chờ Trong Đau Khổ

Một lúc tôi mới chợt để ý là hầu hết mọi người đều cởi trần chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi. Điều này làm tôi ngạc nhiên vì lúc đó là tiết xuân, sáng sớm trời khá lạnh, tại sao họ lại cởi trần, mặc quần đùi, trong khi tôi ‘diện’ khá chỉnh tề. Có nghĩa là tôi mặc cái áo sơ mi và quần dài.

Nhìn lại tôi thấy mình thật chẳng giống ai trong hàng. Tôi quay lại phía sau, thấy có vài anh cũng ăn mặc chững chạc như tôi, coi lại toàn là lính mới trong nhóm tôi mới nhập trại mấy ngày qua. Một số người đang khoanh tay cúi mình hoặc xoa hai bàn tay vào nhau cho đỡ lạnh. Lúc đó tôi nghĩ bụng: “Mấy tướng này đã ở đây lâu nên quen chịu rét, còn mình làm gì dám cởi trần buổi sáng sớm thế này!”

Hàng người nhích tới rất chậm, chẳng khác gì cảnh kẹt xe trên đường Hai Bà Trưng vào giờ tan sở. Có mấy tay đứng cạnh tôi, chắc là trong tình trạng “khẩn trương”, trông mặt mày nhăn nhó, bứt rứt. Cặp mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn cái hàng “nhộng” đang ngồi yên bất động, giương những cặp mắt lờ đờ nhìn ra, trong trạng thái nhẹ nhàng thoải mái.

Có một tay ngay sau lưng tôi coi bộ “rất khẩn trương”, chắc là đang bị Tào Tháo đuổi gấp, nhưng lại gặp đèn đỏ phía trước không thể làm gì hơn nên tức khí quát to, chửi đại, trúng ai thì trúng: “ĐM, ỉa cái đéo gì mà lâu thế mấy cha nội? Bộ muốn ngủ trong đó à? Mau ra cho bà con còn nhờ với chớ!” Cả đám cười ồ sau câu nói của anh chàng lỗ mãng vui tính này. Vài người phụ họa theo pha trò thêm vài câu gì đó cho vui hơn, để quên cảnh khổ lúc bấy giờ đang hành hạ từng con người. Chẳng ai buồn trả lời câu chửi lãng xẹt của anh ta, nhưng một lúc sau có tiếng nói của một trong những “con nhộng” đùa trả lại. Nghe cách nói, tôi biết là chỗ bạn bè thân thiết: “Cái thằng ăn nói vô duyên, chuyện gì chớ chuyện này thì nhanh cái chó gì được? Ngồi đây thối bỏ mẹ, có sướng ích gì đâu mà ở đó la với hét?” Cả bọn chúng tôi lại được một trận cười cho quên sầu trong giây lát.

Có mấy người xong việc, kéo quần đứng lên, bước vội ra như bị ma đuổi. Mỗi lần như vậy chúng tôi nhích thêm được vài bước, y như cái cảnh xếp hàng mua vé trước rạp Rex mỗi khi có chiếu phim hay! Chợt có một anh bạn đi ngược chiều, khi ngang qua chỗ tôi, dừng lại nói:

- Cậu Bảy có mặc quần đùi không? Cởi quần áo dài ra đi, mặc quần đùi thôi.

Tôi ngạc niên hỏi:

- Sao vậy?

- Trời ơi! Vô đó nó thối không thể chịu nổi. Cậu mặc quần áo dài, mùi thối ám vô mấy ngày còn chưa hết mùi. Ở đây làm gì có nước mà giặt. Cậu cởi quần áo dài ra đi, con mang về buồng cho!

Thì ra tôi mới hiểu tại sao gần như tất cả đều cởi trần mặc quần đùi, chỉ có bọn lính mới chúng tôi là ngây thơ trong việc này. Tôi nghe lời anh bạn, cởi đồ dài ra đưa anh cầm về giúp. Sau khi cởi trần tôi bắt đầu rét run, nhưng dù sao tôi phải ở đây, không thể nào rời bỏ vị trí được.

Kẻ ra người vào, rốt cùng tôi cũng trở thành dạng ưu tiên tới bên bờ hố và dàn thành hàng ngang đứng đối diện với một người xa lạ đang ngồi bên trong. Hai người chúng tôi, một đứng một ngồi, cách nhau chừng hai thước, nhưng chúng tôi tránh ánh mắt của nhau, vì đây là một cuộc “hội kiến” hoàn toàn bất đắc dĩ. Lúc đứng chờ, tôi nhìn xuống bên dưới và cảnh tượng thật là kinh khủng. Hố sâu chừng quá đầu người. Bên dưới mỗi ô nhà cầu là một thùng chứa phân có 2 quai bằng dây sắt. Nhưng phân tràn be bét ra ngoài và lấp đầy gần một phần ba cái hố. Các thùng chứa phân là của đội rau xanh. Mỗi ngày có mấy anh vào khiêng ra, bón cho vườn rau cải được trồng rất nhiều bên ngoài cổng trại.

Vườn rau này là nguồn cung cấp thức ăn chính cho tù nhân trong trại. Khi đứng bên miệng hố, mùi hôi thối xông lên làm tôi gần ngạt thở. Đám ruồi nhặng đông như trấu đang quần thảo, cào cấu, nhào lộn trên mặt hố. Tiếng bay của chúng tạo thành âm thanh rào rào như đàn ong vỡ tổ. Mặc dù chúng đã chia ra một tốp khác đang làm chủ tình hình ở khu nhà bếp, số ruồi xanh ở đây còn dầy đặc mấy lần hơn. Trên lớp mặt nhầy nhụa, từng mảng dòi bọ lúc nhúc đang lăn lộn, trườn đạp lên nhau không khoan nhượng.

Tôi không dám nhìn lâu cảnh này và ngước nhìn lên cái chòi gác khá cao nằm ở một góc cách đó không xa. Có một anh công an ngồi gác trên chòi, yên lặng nhìn chòng chọc xuống đám tù nhân đang nối đuôi nhau làm cái công việc thuộc bản năng. Tôi tự nhiên đâm ra thương hại cho anh ta và nghĩ thầm: “Mình mới đứng một chốc đã muốn điên người, còn anh ta ngồi đó hàng giờ làm sao chịu cho thấu!” Nhưng tôi lại nghĩ, cái gì cũng vậy, mãi rồi nó cũng quen đi.

Và tôi đã nghĩ đúng! Cái gì rồi cũng quen đi. Về sau này mỗi sáng tôi lại phải đến đây, dĩ nhiên là cởi trần mặc quần đùi, lại xếp hàng, lại đối diện với hai người bạn tù nào đó, một người tôi đứng chờ và một người khác đứng chờ tôi! Cái hố vẫn là cái hố cũ với tất cả sự nhơ nhớp và thối tha của nó, nhưng tôi không cảm thấy kinh khủng như lần đầu nhìn thấy. Có những ngày mưa gió tơi bời làm cho việc giải quyết nhu cầu tự nhiên của cơ thể này trở nên khổ nhọc hơn. Chúng tôi phải xếp hàng dưới cơn mưa và cái hố kia ngập nước trở nên lỏng bỏng những nước nhầy nhụa. Đám dòi bọ bị ngập lụt trôi lều bều, giãy giụa như người trong cơn chết đuối đang vẫy vùng cầu cứu. Cảnh tượng này trông càng khủng khiếp hơn.

Nhưng trời mưa lại giúp bầu khí đỡ hôi thối và đàn ruồi nhặng cũng hoạt động bớt hăng say, có lẽ chúng sợ bị ướt cánh. Những ngày tháng về sau, tôi vẫn phải tới nơi này nhưng cố gắng coi đó là chuyện tự nhiên. Tôi tự nhủ, đây là một phần trong giai đoạn mới của cuộc đời.

Người Bạn Tù Linh Mục

Lúc đó Cha Vũ Đức Khâm sống chung buồng với tôi và ngài đã để lại trong lòng tôi kỷ niệm sâu xa. Vì lớn tuổi nên ngài được cho làm việc nhẹ trong trại gọi là “trực sinh”, còn tôi phải vào toán lao động bên ngoài trại. Lúc bấy giờ trong trại có nhiều loại công việc khác nhau và mỗi đội làm các việc đó có tên riêng như đội cấp dưỡng (nhà bếp), đội mộc, đội rèn, đội rau xanh. Tôi được sung vào đội khai hoang dọn đất, tức là đốn cây, khai phá lùm bụi, cuốc dọn đất cho các đội khác trồng trọt rau cải cung cấp cho trại. Công việc của đội tôi cũng không vất vả lắm, nhưng phải phơi nắng cả ngày và là một công việc đầy nguy hiểm.

Điều làm chúng tôi lo sợ nhất là khi khai hoang cuốc đất, thỉnh thoảng lại có anh cuốc nhằm mìn, lựu đạn hoặc đầu đạn M79. Đã có người bị nổ banh thây, có người cụt giò hoặc bị thương tật. Ngoài ra còn một điều ngán nữa là đội chúng tôi lao động quần quật cả ngày dưới trời nắng chang chang, mình mẩy đầy cát bụi, mà chiều lại không có một giọt nước để lau người.

Có những hôm chúng tôi năn nỉ quá, cán bộ võ trang dẫn đi “tắm” ở một cái hố nước gần đó. Hố nước chừng bằng căn phòng, nước đục ngầu và chỉ cao vừa tới đầu gối. Khi đội chúng tôi tới nơi, đã có hàng mấy trăm con người ở các đội khác tới trước. Họ đứng tràn chung quanh miệng hố. Cảnh này nhìn từ xa giống như có đám ma của một nhân vật quan trọng, lúc hạ huyệt ai cũng muốn bu lại để cố nhìn thấy quan tài lần cuối cùng. Chừng ấy con người mà lội xuống ao, làm bùn non nổi lên nhào trộn với nước, đặc quánh lại như vữa xây nhà, chúng tôi đành bỏ cuộc.

Làm sao mà tắm cho được? Có những ngày nóng nực quá không thể chịu nổi. Sau giờ lao động ban chiều, cán bộ cho chúng tôi đến “tắm” nhờ bên đội rau xanh. Nơi đó có dòng suối nhỏ mà đội dùng để tưới vườn rau cải. Chúng tôi dùng lon múc một ít nước lau người. Nước này đã tưới các luống rau và chảy xuống suối, mang theo từng tảng phân người trôi lều bều trên mặt nước!

Trong trại lúc đó, có một số đông anh em Công Giáo. Những ngày Chúa Nhật hoặc ngày không đi lao động, anh em hay đến thăm Cha Vũ Đức Khâm và tôi. Để tránh mọi phiền phức trong lối xưng hô, tôi bảo các anh em gọi Cha Khâm là Cậu Hai, còn tôi là Cậu Bảy. Tôi mang cái tên “Cậu Bảy” từ lúc đó.

Các anh em Công Giáo không những chỉ đến thăm viếng chuyện trò mà còn giúp nhau lo dọn mình xưng tội. Các anh em bạn bè cũng mang tới cho chúng tôi ít thức ăn, đồ dùng. Trong số những anh em thường tới chơi và giúp đỡ, tôi đặc biệt nhớ tới anh Phạm Hùng Thọ. Anh là một sĩ quan trước kia vào trại Gia Ray chúng tôi mới biết nhau. Người Thọ cao lớn, nước da ngăm đen, tính nết hiền hòa, nói năng chậm rãi.

Lúc đó anh ở đội rau xanh là đội có cơ hội được tiếp xúc với “nước” nhiều hơn các đội khác. Mỗi buổi đi lao động, Thọ gánh một đôi thùng thiếc lấy nước sạch mang về, chia cho tôi và Cha Khâm một thùng. Một thùng nước trong trại Gia Ray lúc đó thật là quý, nhất là nếu biết công của Thọ đã phải gánh từ xa mấy cây số về thì mới hiểu hết được giá trị của thùng nước đó như câu người ta thường nói: “ Của một đồng công một lạng”. Tôi nhớ mãi về người bạn tốt này vì thường chọc đùa anh.

Biết tên anh là Phạm Hùng Thọ mà lúc đó Phạm Hùng là Bộ Trưởng bộ Nội vụ, còn Nguyễn Hữu Thọ là Chủ tịch nước nên một hôm tôi nói đùa với anh: “Anh Thọ này, giá mà tên anh chỉ lấy mỗi hai chữ đầu là Phạm Hùng, anh em cũng được nhờ, hoặc chỉ lấy một chữ sau cùng là Thọ và cho đứng sau chữ Nguyễn Hữu, có phải anh em mình trúng mánh không? Tiếc là tên hai ông lớn gộp lại mới bằng tên anh mà chúng tôi chẳng được nhờ vả gì!” Thọ nghe tôi nói bật cười thật tươi. Tôi vẫn nhớ nụ cười hồn nhiên đó của anh.

Tết năm đó, phần đông các anh em được gia đình vào thăm nuôi tiếp tế, trong khi chúng tôi vừa mới từ trại Phan Đăng Lưu chuyển tới rất đột ngột nên gia đình và thân nhân không hay biết chúng tôi hiện đang ở đâu. Mặc dù lúc đó chúng tôi được quyền đi lại từ buồng này qua buồng khác và giao tiếp tự do, nhưng phần Cha Khâm và tôi lúc nào cũng phải dè dặt với anh chàng Bùi Định.

Vừa đặt chân lên trại này, chúng tôi đã được các anh em thông báo phải cẩn thận dè chừng với anh này. Vì mới tới, tôi chưa biết ai là ai, chỉ biết là anh Bùi Định được trại chỉ định làm đại diện cho tất cả tù nhân. Anh ta cũng lo việc phát thư, sách báo, gọi và dẫn tù ra nhà khách thăm gặp gia đình.

Khi từ nhà khách trở vô, anh ta cũng phụ giúp cán bộ khám xét hàng họ, quà cáp. Trong buồng tôi cũng có một anh tên là Đặng Báu, nghe nói là giáo dân ở nhà thờ Kỳ Đồng. Anh này chuyên rình mò báo cáo anh em để lập công. Tôi đã phải nhiều phen khốn đốn vì anh chàng Đặng Báu này. Khi lên tới trại này sau hơn 9 tháng bị bắt, lần đầu tiên tôi mới va chạm với hệ thống dùng tù rình mò và tố cáo tù, mà về sau chúng tôi gọi là “ăn-ten”. Lúc còn bị giam ở trại Phan Đăng Lưu cũng đã có hiện tượng này, nhưng chưa được tổ chức quy mô thành “mạng lưới” như khi sống chung đông đúc như ở trại này.

Chuyện Năm Xưa

Chúng tôi sống yên ổn được gần một tháng thì có chuyện buồn xảy tới. Ngày nọ, có một anh Công Giáo kể tôi nghe câu chuyện về Cha Khâm và dặn tôi về nói lại với ngài. Anh ta nói, một hôm có một cán bộ người miền Bắc quen biết với cán bộ quản giáo đội của anh, nên tới đội chơi. Vì biết anh là người Công Giáo nên cán bô miền Bắc này hỏi anh có có biết “tên Vũ Đức Khâm” không. Sau khi anh trả lời là biết, cán bộ này nói: “Chính thằng Vũ Đức Khâm nó giết bố tôi”.

Nghe kể lại chuyện đó, trong lòng tôi bất an. Tôi rất lo sợ cho sự an toàn của Cha Khâm, nhưng tôi không kể lại với cha, sợ ngài lo lắng vì lúc đó tinh thần ngài rất sa sút. Mặc dù không kể lại với Cha Khâm, nhưng tôi hay tìm dịp hỏi riêng ngài về các việc làm lúc còn ở Phát Diệm. Cha Khâm cho tôi biết, có làm việc với Đức Cha Lê Hữu Từ trong chiến khu Phát Diệm tự trị, chống Việt Minh. Ngài cũng cho biết, sau này người ta thêu dệt nhiều điều mà ngài không hề làm.

Có lần tôi hỏi về vết sẹo khá lớn trên mặt ngài, phía dưới cằm, Cha Khâm cho biết là có lần ngài bị ám sát ngay trong nhà thờ vào một buổi sáng sớm khi ngài vào nhà thờ dâng lễ. Ngài bị bắn hụt chỉ bị thương và còn lại vết sẹo đó. Ngài nói sau lần đó, ngài không còn dính líu tới Tự Vệ Quân nữa cho tới khi di cư vô Nam vào năm 1954.

Khi vô Nam, Cha Khâm đi du học ở Mỹ và có bằng tiến sĩ xã hội. Trở về Sài Gòn, ngài hoạt động mạnh trong phong trào Thanh Sinh Công và mở những khóa phụ nữ cắt tóc đầu tiên tại Sài Gòn. Lúc trước tôi không biết gì về Cha Khâm, vì ngài là lớp đàn anh, lớn hơn tôi hơn 20 tuổi. Nhưng tôi nghe tên và biết về việc xã hội ngài làm tại Sài Gòn.

Vào tù chúng tôi mới gặp nhau khi cùng bị giam chung trong dãy xà-lim ở An ninh Nội Chính ((Nha Cảnh sát Đô thành cũ). Có 20 người trong 20 phòng liền nhau. Trong số những người nằm xà-lim lúc bấy giờ tôi còn nhớ các ông Vũ Quốc Thông, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, ông Tống Đình Bắc. Trong thời gian đó, Cha Khâm là người bị gọi đi hỏi cung nhiều nhất, có khi gọi cả ngày lẫn đêm.

Cách mấy ngày sau, tôi nghĩ là nên cho Cha Khâm biết câu chuyện mà tôi đã được nghe để ngài chuẩn bị tinh thần, hơn là có cái gì xảy ra quá đột ngột cho ngài. Trong một đêm tôi kể lại câu chuyện mà tôi được nghe và ngài rất lo lắng, mặc dù ngài khẳng định là không bao giờ có chuyện đó. Ngài cho biết là không bao giờ giết người lúc còn làm việc ở Phát Diệm. Vì cả hai chúng tôi đều có linh tính về chuyện chẳng lành có thể xảy ra, nên chúng tôi dành nhiều thời giờ lo giúp nhau chuẩn bị các việc về phần hồn.

Lúc này Cha Khâm coi tôi là người bạn tinh thần và là chỗ nương tựa trong lúc sầu khổ. Tôi nhận thấy rất rõ là ngài lo lắng và thương tôi hơn. Ngài luôn dặn dò tôi, cho dù bất cứ vì hoàn cảnh gì mà phải xa nhau, cũng hãy luôn sống xứng đáng với chức vụ Linh Mục và giúp đỡ anh em, nhất là về phần tinh thần. Có lần tôi nói với Cha Khâm là ngài dịch cuốn “Một Tâm Hồn” của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu rất hay. Cuốn sách đó có ảnh hưởng tới cuộc đời tôi rất nhiều. Nghe nói thế ngài cảm động lắm.

Tôi còn hỏi tại sao ngài lấy bút hiệu là Kim Thiếu khi dịch sách đó? Cha Khâm cười trả lời: “Tại Cậu Bảy mày không biết chữ Nho đó thôi. Đây là lối chiết tự: chữ Khâm được kết hợp bởi chữ Kim và chữ Khiếm, mà Khiếm tức là thiếu, vậy thay vì Kim Khiếm thì là Kim Thiếu, tức là Khâm!” Có một đêm nằm gần nhau trên sàn ván trong buồng, tôi nắm lấy bàn tay Cha Khâm và hỏi thẳng vào vấn đề:

- Cậu Hai, giả sử như cậu có Cậu mệnh hệ nào, cậu có muốn con làm gì không?

Cha Khâm trầm ngâm một lúc mới trả lời:

- Cậu Bảy mầy hãy nói lại với mọi người là tôi đã dọn mình ra đi bằng yên, và tôi không bao giờ làm điều mà họ gán cho tôi.

Cha Khâm vẫn có thói quen gọi tôi là ‘Cậu Bảy mầy’, nói xong ngài quay mặt đi với vẻ mặt rất buồn. Tôi hứa là tôi sẽ làm như lời ngài dặn.

Vĩnh Biệt Cha Khâm

Và chuyện gì sẽ tới nó phải tới. Một buổi chiều kia, vào khoảng cuối tháng ba năm 1977, sau hồi kẻng điểm danh, anh em buồng tôi đứng xếp thành 4 hàng như thường lệ bên ngoài, chờ cán bộ tới điểm danh vào buồng. Nhìn ra, tôi chợt thấy một chuyện bất thường. Có một nhóm cán bộ lạ mặt từ xa đi tới.

Thay vì các cán bộ có trách nhiệm điểm danh hàng ngày mà chúng tôi biết mặt, lần này là Thiếu úy Xuân, Sĩ quan An ninh của trại, và 2 cán bộ võ trang mang súng dài theo sau đang tiến thẳng về phía chúng tôi. Thiếu úy Xuân từ miền Bắc vào, thuộc diện “cùng hung cực ác”. Da mặt anh nám đen và đầy mụn trứng cá như dề cơm cháy, môi thâm sì, cặp mắt trắng dã, khi nhìn ai, không bao giờ chớp mắt. Tôi còn nhớ mãi hình ảnh ghê gớm đúng vào đêm giao thừa Tết Đinh Tỵ năm đó, ngày 19-2-1977.

Trong lúc anh em tù nhân chúng tôi trong buồng chờ đón giao thừa và nói chuyện ồn ào vui vẻ. Thình lình có nhiều tiếng súng to, súng nhỏ nổ vang bên ngoài. Có mấy anh lạc quan hảo vội nhảy nhót vui mừng tưởng là phen này “tới rồi”! Lúc đó cộng-sản vừa chiếm miền Nam, có nhiều phong trào nổi lên chống trả. Và có tin đồn nào là “phe ta” đang nằm sẵn sàng trong mé rừng Long Khánh, chờ cơ hội thuận tiện đánh úp bất ngờ. Đêm nay khi nghe tiếng súng rền trời, nhiều người phấn khởi vỗ tay. Có anh cố khom người nhìn qua khe vách ván coi bên ngoài động tĩnh ra sao!

Một phần khác, có lẽ vì đa số anh em trong buồng, không nhiều thì ít đều có dính dáng tới súng đạn trong một cuộc chiến ác liệt vừa tàn, rồi hàng năm trời không có dịp nghe tiếng súng, đêm nay nghe lại tiếng súng nổ rền vang, tự nhiên cảm thấy nổi hứng như lân nghe pháo.

Trong khi anh em trong buồng đang nhốn nháo vui mừng, thình lình cánh cửa duy nhất của buồng ngay đầu hồi nhà bật mở tung ra! Cánh cửa mở rất mạnh như có một cơn bão lớn làm bật tung khóa. Tất cả chúng tôi đột nhiên yên lặng nhìn ra phía cửa, miệng há hốc.

Thiếu úy Xuân hiện ra đứng ngay cửa buồng. Anh ta đứng sừng sững như một Thiên Lôi từ trời rơi xuống, đứng chết lặng như trời trồng, không nói một lời. Trên mặt nhiều người trong buồng còn lộ vẻ sững sờ và bẽn lẽn như đứa trẻ ăn vụng, bị mẹ bắt gặp tại trận! Thiếu úy Xuân “hiện ra” đúng giây phút đầu Xuân, nhưng không mang lại cho chúng tôi một chút “Xuân” nào! Mặc bộ đồ công an màu vàng, đầu đội nón cối che gần hết trán.

Cặp mắt trắng dã của anh ta mở to hết cỡ, đang quét qua quét lại đám tù nhân đang đứng ngỡ ngàng, lúng túng. Ai đang ở tư thế nào thì giữ nguyên tư thế đó! Một lúc sau, có vài người khẽ cúi xuống, tránh cặp mắt đằng đằng sát khí của vị đại diện toàn quyền cho Hung Thần! Anh ta giữ cho bầu khí nặng nề thêm một lúc, bằng cách đứng yên, hai tay chống nạnh, hai chận dạng ra như trong tư thế xuống tấn của người đang múa võ.

Cuối cùng anh ta độc thoại: “Các anh hồ hởi cái gì, hả? Anh nào lúc nãy vỗ tay, hả? Bố láo! Các anh đừng có tưởng bở!” Cả buồng vẫn yên lặng, một lúc sau có vài người bắt đầu cử động nhè nhẹ và quay đi có ý như muốn nói “không phải tôi”. Có lẽ thấy màn biểu diễn uy quyền đã tạm đủ, anh ta to giọng: “Cả buồng đi ngủ! Nếu còn tiếp tục làm ồn thì đừng có trách!”. “Phán” lời đó xong, anh ta bước lui ra biến dạng vào bóng đêm cũng nhanh như lúc anh ta “hiện ra”.

Cánh cửa buồng giam tự nhiên đập “ầm” một tiếng, giống y như các cảnh trong phim thần thoại diễn tả lúc Hung Thần vụt biến. Có cái khác là Thiếu úy Xuân “biến” mà không để lại một vầng khói trắng như thường thấy trong phim! Sáng ngày chúng tôi được biết, đêm qua cán bộ bắn súng mừng giao thừa thay cho tiếng pháo Tết!

Chiều nay, lúc đang đứng trong hàng tôi lại thấy “Hung Thần” xuất hiện. Lần này thì xuất hiện giữa ban ngày, có hai cán bộ võ trang xách súng dài theo sau. Thấy Thiếu úy Xuân đang xăm xăm đi tới, linh tính báo cho tôi biết là có chuyện chẳng lành. Khi anh ta tới nơi và dừng lại, đội trưởng của chúng tôi (lúc bấy giờ là ông già Lưu), hô to mệnh lệnh: “Nghiiêêmm!” Cái ông già Lưu này, người thì bé con con mà tiếng hô “nghiêm” của ông ngon lành nhất trại. Hô xong ông đứng cứng đơ người, hai bàn tay úp vào, kẹp sát hai bên đùi, gót chân nhún lên nhún xuống.

Vì cái tật này mà ông ta có biệt danh là “ông già lò xo”! Sau khi hô khẩu hiệu xong, “ông già lò xo” định báo cáo số người như thường lệ, nhưng Xuân khoác tay, vì việc này thuộc nhiệm vụ của cán bộ trực trại chớ không phải của anh ta. Anh ta đến đây vì một việc khác. Thiếu úy Xuân đứng đó, giương cặp mắt lừ đừ trắng dã nhìn thẳng vào chúng tôi, nói thật gọn nhẹ: “Anh Vũ Đức Khâm, vào buồng mang tất cả nội vụ ra ngoài!”

Trước Giờ Chia Tay

Tôi nhìn Cha Khâm thấy ngài giật mình một phát thật mạnh và lảo đảo bước ra khỏi hàng. Những gì tôi lo sợ đã đến. Lúc đó tôi nghe đau nhói trong tim khi nhìn thấy thân hình cao to của Cha Khâm, lúc bấy giờ khoảng 65 tuổi, lưng hơi còng, mình mặc áo đen, quần ngắn đen, mặt tái nhợt và hai bàn tay run nhẹ, đang bước vội vào buồng. Vào tù ngài để râu nên trông càng già hơn.

Tôi có thể đoán biết số phần của ngài sẽ ra sao! Các anh em khác cũng đứng yên nhìn Cha Khâm với vẻ ái ngại, mặc dù họ chưa biết tính cách nghiêm trọng của sự việc như tôi biết. Thiếu úy Xuân vẫn còn đứng đó, trong khi hai cán bộ võ trong xách súng theo sau Cha Khâm tới cửa buồng. Tôi đứng suy nghĩ một giây, và bước ra khỏi hàng tới trước mặt Thiếu úy Xuân:

- Báo cáo anh!

Thiếu úy Xuân ngạc nhiên nhìn tôi hỏi:

- Có việc gì?

- Tôi sinh hoạt chung với anh Khâm và quản lý tất cả đồ đạc. Anh cho tôi vào buồng trả lại cho anh ấy.

Lúc đó tôi sinh hoạt ăn uống chung với Cha Khâm và anh Trần Đình Ngành, một giáo dân xứ Tân Việt. Thật ra đó chỉ là cái cớ. Tôi còn một ý khác mạnh hơn và quan trọng hơn rất nhiều để xin vào buồng trong lúc này. Thiếu úy Xuân suy nghĩ một chốc, gật đầu:

- Được! Khẩn trương lên!

Tôi đi như bay về phía buồng, nhưng hai tên võ trang đứng ngoài cửa chận tôi lại hỏi:

- Còn anh vào đây làm gì?

- Tôi đã báo cáo xin anh bên ngoài cho vào soạn đồ đạc của anh Khâm, vì chúng tôi sinh hoạt chung.

- Khẩn trương lên nhé!

- Vâng, tôi khẩn trương!

Thấy hai anh này không có gì khó khăn lắm tôi cũng mừng, đi vội lại với Cha Khâm lúc đó ở khoảng giữa buồng về bên trái. Lúc đó ngài đang lúng túng vội vàng lục tung đồ đạc ra, vất lộn xộn trên sàn gỗ.

Thấy tôi bước vào, Cha Khâm mừng rỡ ra mặt, hai bàn tay run rẩy của ngài chụp lấy tay tôi, nói bằng giọng đứt quãng:

- Cậu Bảy mày ở lại mạnh giỏi, xin Chúa chúc lành. Gửi lời chào Ngành và các anh em, nhớ cầu nguyện cho nhau. Cậu giữ tất cả thức ăn lại đi, tôi không mang gì đâu.

Lúc đó Cha Khâm đã mất bình tĩnh, lụp chụp và cố nói với tôi thật nhiều trong khi còn có thể nói được. Tôi nhìn Ngài hết sức thương tâm, cố kềm hãm cơn xúc động và nói nhanh:

- Cậu Hai dọn mình ăn năn tội đi, con giải tội cho. Con xin vào đây vì lý do đó.

Nói xong tôi ngước mắt nhìn ra cửa thấy Thiếu úy Xuân đang từ từ đi vào. Lúc này Cha Khâm đang ngồi quay lưng ra cửa, mắt nhắm nghiền, đôi môi mấp máy. Tôi biết là ngài đang dọn mình ăn năn tội. Tôi bắt đầu đọc công thức giải tội bằng tiếng La-tinh, đọc thật nhỏ vừa đủ cho hai người nghe: “Dominus noster Jesus Christus te absolvat….” Tôi vừa đọc xong thì Thiếu úy Xuân cũng vừa tới nơi. Anh ra lệnh bằng một giọng nhỏ nhẹ nhưng dứt khoát: “Anh Khâm khẩn trương! Mang nội vụ ra ngoài!”

Tôi đứng nhìn theo bóng dáng to cao của Cha Vũ Đức Khâm đang vội vã tay xách nách mang trở ra cửa, theo sau là Thiếu úy Xuân, trông như cảnh tội nhân bước ra pháp trường, có tên lý hình theo sau. Có lẽ lúc đó Cha Khâm cũng đã biết một phần nào số phận của ngài nên trông ngài mất bình tĩnh một cách rất đáng thương.

Nỗi Buồn Chia Ly

Tối đêm hôm đó sau khi đã vào buồng đóng cửa, một số anh em, nhất là các anh em Công Giáo, lộ vẽ u buồn trông thấy. Phần tôi, lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy thật lẻ loi và cô đơn. Tôi nằm nhớ Cha Khâm và hai hàng nước mắt tràn ra. Lúc nãy khi thu dọn lại đồ đạc tôi thấy chiếc dây thắt lưng bằng da, có bảng khá to mà tôi thấy ngài vẫn thường mang. Có lẽ trong lúc vội vã ngài đã bỏ quên lại. Nhìn thấy vật này tôi càng nhớ Cha Khâm nhiều hơn. Khi đi ngủ, nhìn sang chỗ trống bên cạnh tôi bồi hồi nhớ lại hơn một tháng qua, hai anh em Linh Mục chúng tôi nằm gần nhau, an ủi nâng đỡ nhau, cùng nhau dâng Thánh Lễ trong mùng cách âm thầm.

Tôi coi Cha Khâm như một người cha hơn là một bạn tù. Ngược lại ngài cũng rất quý mến tôi. Sự có mặt của Cha Khâm và tôi trong trại tù hơn một ngàn người ở đây cũng là một niềm vui và là nguồn an ủi cho một số đông các anh em Công Giáo. Giờ đây Cha Khâm đi rồi, chỉ còn lại một mình, và tôi cảm thấy trách nhiệm mình trở nên nặng nề hơn.

Thời gian này cũng là lúc tôi thấy rõ vai trò một Linh Mục trong nhà tù cộng-sản, là một chỗ dựa tinh thần cho nhiều người. Điều này tôi đã bắt đầu cảm nhận ngay trong thời gian gần hai tháng tù đầu tiên tại Ban Mê Thuột và sau đó là tám tháng ở An Ninh Nội chính và trại Phan Đăng Lưu, tỉnh Gia Định.

Đêm đó tôi nằm trăn trở không ngủ được. Việc Cha Khâm bị đưa đi làm tôi sốc nặng, vì tôi đã hình dung được những gì đang chờ đợi ngài qua câu chuyện mà tôi được nghe. Trong đêm thanh vắng tôi nằm nhớ lại những ngày tháng qua, từ lúc tôi bị bắt trong vùng rừng núi ở Campuchia, giáp ranh tỉnh Ban Mê Thuột.

Nhớ lại những ngày đầu tiên tôi bước vào nhà giam tỉnh Ban Mê Thuột, sau đó chuyển về An Ninh Nội Chính và bị giam chung với Cha Khâm ở dãy xà-lim, Cha Khâm buồng 15, tôi buồng 20. Sau đó cả hai được chuyển qua trại Phan Đang Lưu tỉnh Gia Định, nhưng cũng ở khác buồng. Lúc lên trại Gia Ray này, chúng tôi mới sống chung một đội với nhau.

Những Bước Đầu

Nhớ lại kỷ niệm của những ngày đầu, lúc tôi còn quá ngỡ ngàng với nếp sống trong tù, cái gì cũng lạ, cũng bỡ ngỡ như chuyện buồn cười sau đây. Hai tháng sau ngày bị bắt, tôi được chuyển về trại Phan Đăng Lưu, tỉnh Gia Định. Phòng giam là một căn phòng trống trơn, các tù nhân nằm trên nền xi-măng xây lên cao khoảng ba tấc cập theo vách tường. Ở giữa có khoảng trống trũng xuống, mà chúng tôi gọi là “phi đạo” chạy thẳng ra cửa.

Ngay gần cửa về phía trái có một bể cạn cao chừng thước hai, có thể chứa được hai khối nước, có vòi nước máy chảy vào. Từ thành bể trở vô sát với bờ tường là một khoảng trống làm chỗ tắm giặt và trong cùng là cầu tiêu. Khu vực này được ngăn ra với “phòng ngủ” bằng một bờ tường cao tám mươi phân. Như vậy phải hiểu là vách chỉ che được người đứng bên trong kín được tới trên đầu gối một chút. Thật ra, công dụng của vách ngăn này chỉ để nước khỏi bắn tung tóe ra ngoài, chứ không có ý che kín con người tắm bên trong.

Buồng giam có mái nhà lợp tôn, không cửa sổ và bên trên thay vì trần nhà, là một vỉ sắt ô vuông đề phòng tù trổ nóc nhà vượt ngục. Mỗi buồng như vậy nhốt 60 người, có khi hơn, trong khi sức chứa thực sự chừng 30. Tù nhân trong buồng thật hỗn tạp, đủ mọi thành phần như phản cách mạng, phục quốc, vượt biên, văn nghệ sĩ, công chức chế độ cũ v.v… và có vài anh cán bộ hủ hóa cũng bị nhốt vào đây. Trong buồng tôi lúc đó gần phân nửa là số anh em Công Giáo, nhiều nhất là thanh niên các xứ đạo trong đô thành như Tân Việt, Tân Sa Châu, Bùi Phát. Đa số bị bắt vì tham gia phong trào Dân Quân Phục Quốc.

Vì phòng quá đông nên rất nóng nực, mọi người đều cởi trần và mặc mỗi chiếc quần đùi cả ngày lẫn đêm. Ban ngày chúng tôi thay phiên nhau giội nước tắm trong giờ được cả buồng ấn định. Khi tắm, mỗi người được giội ba “mũ” nước. Người này tắm xong tới người kia, cứ xoay vòng theo chiều kim đồng hồ căn cứ vào vị trí chỗ nằm trong buồng.

Tất cả mọi người, khi tắm đều cởi truồng. Đây mới là cái khó cho tôi! Tôi để ý gần như ai khi tắm cũng làm những động tác giống nhau. Họ tới bên bể nước, bước vào “nhà tắm”, tuột nhanh cái quần đùi, giũ phành phạch hai lần và vắt nằm lên trốc vách ngăn. Hầu hết đều quay mặt vô vách khi làm các động tác này, nhưng cũng có người cứ bình thản quay mặt ra “khán giả”, vì còn mải mê tiếp tục câu chuyện dở dang. Có mấy anh chàng quá mê cờ tướng, chẳng còn biết trời đất là gì, tuột quần xuống quá đầu gối rồi mà còn đứng quay lại, tay trái giữ cạp quần, tay kia khua khoắng chỉ trỏ và gân cổ lên cãi về một nước cờ còn chưa ai chịu ai.

Trong lúc miệng nói, các ngón tay hạ xuống co tròn lại, gãi sồn sột chỗ vòng đai thắt lưng có một đường viền lồi ra vì cạp quần thun quá chật. Nhiều khi đứng lâu quá, làm người kế sau chờ sốt ruột phải lên tiếng giục mới chịu giở chân lấy quần ra. Xong động tác cởi quần là bước vô “nhà tắm”, cúi xuống cầm nón nhựa múc thật đầy nước và giội lên đỉnh đầu. Mỗi người chỉ được ba nón, ai giội quá bị cảnh cáo và khấu trừ lại chuyến sau. Tắm xong, chẳng lau người gì cả, chỉ vuốt mặt vuốt mày cho đỡ ướt.

Sau đó với tay lấy cái quần đùi, lại giũ phành phạch hai cái và cúi rùn người xuống xỏ chân mặc vào. Thế là xong một lần tắm. Chiếc quần đùi bị dính nước ướt lỗ chỗ một vài nơi, nhưng rồi một chốc lại khô ngay và lại chờ cho hết vòng rồi tiếp tục những động tác y như thế cho tới khi hết giờ quy định, thường là trước giờ ăn chiều. Mỗi ngày được chừng 4 hoặc 5 vòng, ai không cần tắm thì nhường cho người tiếp theo và như thế vòng tua lại được rút ngắn đôi chút.

Tôi vô buồng 6 Khu C2 trại Phan Đăng Lưu này vào một ngày cuối tháng 8 năm 1976. Mùa này nắng rất to, trong phòng nóng nực làm mồ hôi lúc nào cũng nhễ nhại trên người. Ngày đầu tôi không tắm vì ngại. Qua ngày sau nóng nực không chịu nổi, nên khi trong buồng bắt đầu xoay vòng đi tắm, tôi cũng vào phiên. Khi nhìn những anh tắm trước, tự nhiên tôi đâm ra e ngại vì tôi không quen tắm cởi truồng trước mặt người khác. Vòng tua càng nhích gần tới phiên mình, tôi càng bối rối, có nên hay không nên tắm, và khi tắm có nên làm cách tự nhiên như những người khác không?

Thật là tấn thối lưỡng nan! Không tắm thì nóng nực không chịu nổi, mà tắm trần truồng trước gần 120 con mắt, thật ngại chết người vì tôi chưa ở trong hoàn cảnh như thế bao giờ. Nhất là đa số các bạn tù trong buồng lúc bấy giờ là các anh em Công Giáo! (không hiểu tại sao tôi lại có cái ý nghĩ là trần truồng trước mặt các anh em Công Giáo mình sẽ ngại ngùng hơn!) Nhưng nếu tôi mặc quần đùi tắm thì làm gì có đủ quần để mặc và chỗ đâu để phơi.

Lúc đó tôi chỉ có hai chiếc quần đùi để thay đổi nhau, mà tắm xoay tua kiểu này, dù có tới hàng chục chiếc cũng không kịp để thay, không lẽ cả ngày phải mặc quần ướt? Nhớ lại hồi còn đi học, khi ở trọ với anh tôi trong trại gia binh ở Vĩnh Long, tôi cũng đã có dịp va chạm với cảnh tắm truồng tập thể. Những người lính đều tắm truồng, tôi vào phòng tắm chung với họ nhưng tôi chỉ đóng vai khán giả mà không bao giờ “nhập cuộc”.

Lúc này, anh bạn trước tôi đã tắm xong và đang vuốt mặt, vuốt mày. Cùng một động tác giống mọi người, anh với lấy cái quần đùi đang nằm chơi vơi trên trốc tường, căng ra, giũ phành phạch 2 cái, xong cúi xuống mặc vội vào và bước ra nhường chỗ cho tôi. Anh ta làm những động tác ấy nhanh như một người máy, có lẽ không muốn để tôi phải chờ lâu.

Anh ta đâu có biết là cho tới giây phút cuối cùng, tôi cũng chưa dứt khoát được tư tưởng. Lúc nãy, trong khi đứng chờ, tôi ngoái đầu lại đảo mắt quan sát thật nhanh các bạn trong buồng. Tôi làm như vô tình, nhưng thật ra là có ý dò xét xem có ai chú ý tới việc tôi sắp sửa tắm hay không. Những gì tôi ghi nhận thật đáng khích lệ!

Trong góc đàng xa, một nhóm khá đông mải mê cờ tướng, đang cúi gầm trên bàn cờ được kẻ vạch ngay trên bệ nằm bằng xi-măng. Nhóm khác ngồi kế bên, đang tranh luận rất gay cấn, khua tay múa chân, mạnh ai người ấy nói như một đám ứng cử viên đang cố gắng trình bày kế sách cùng một lúc với cử tri!

Có vài người đang lúi húi với cái bị cói đựng đồ thăm nuôi đang bị lũ kiến đói tấn công! Có người đang ngồi đọc báo Nhân Dân. Có người trịnh trọng nắn nót que diêm trước khi đánh lửa hút thuốc lào. Các nhóm này mang lại cho tôi thật nhiều sự an ủi và dễ chịu.

Nếu cả 60 con người trong buồng này ai cũng đang bận rộn về một việc như vậy thì việc tắm truồng của tôi đâu còn là một vấn đề. Ngặt một nỗi, có mấy anh chàng ngồi trong các góc đối diện kia đang trầm ngâm như những triết gia. Họ đưa cặp mắt lờ đờ rảo qua hết nơi này tới nơi khác. Tôi không thể đoán được trong đầu óc họ lúc đó đang suy nghĩ gì.

Họ nhìn bốn phương tám hướng, nhưng thực sự họ chỉ nhìn để mà nhìn, hay có ý muốn quan sát một điều gì không, ai biết được? Chính những anh chàng này làm khổ tôi, chính họ tạo cho tôi sự bất ổn vì không thể đoán biết được gì trong cái nhìn vu vơ của họ. Tận trong một góc đàng xa, tôi thấy Bác sĩ Lý Trung Dung đang ngồi một mình, cởi trần mặc quần đùi trắng, vóc người nhỏ thó, đầu tóc bạc phơ. Ông đang dựa lưng vào tường, đôi mắt nhắm nghiền, miệng lâm râm đọc kinh, đây là thói quen thường ngày của ông.

Bác sĩ Lý Trung Dung có lần kể với tôi ông là tác giả công trình Hội Chợ Thị Nghè trong dịp Quốc Khánh năm 1957 thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Lần đó cây cầu phụ bắt qua sông Thị Nghè bị sập trong đêm làm chết khá nhiều người. Tôi cũng có mặt gần bên, trong dịp tôi Sài Gòn lần đầu tiên khi tôi vừa 14 tuổi.

Sau khi đảo mắt một vòng, tôi đi tới một kết luận thật nhanh: “Không đến nỗi nào, không có mấy người chú ý đâu, cứ tự nhiên thôi!”Tôi mạnh dạn bước vào”buồng tắm” và làm những động tác như các bạn tù . Tôi cố gắng làm một cách thật tự nhiên và nhẹ nhàng, trong khi liếc mắt nhìn, chẳng ai thèm để ý tới tôi. Từ đó tôi nhập cuộc vào sinh hoạt thông thường với anh em trong buồng. Việc đi tắm một cách tự nhiên đó không còn là vấn đề đối với tôi, vì đó là thực tế của cuộc đời tôi đang sống. Cuộc đời của một người tù.

Khi Cha Khâm bị đưa đi rồi, nhờ có anh tù mang thức ăn cho khu kỷ luật mà tôi quen, nên tôi biết tin về Cha Khâm và có thể gởi cho ngài ít thứ cần thiết. Cha Khâm bị đưa xuống cùm chân trong hầm kỷ luật. Hầm này trước kia là hầm truyền tin của trung đoàn, nằm giữa sân trại, ngay lối ra vào. Hôm sau tôi nhờ anh mang vào cho ngài nải chuối và dây thắt lưng da to bản mà ngài vẫn dùng. Những ngày sau chúng tôi cũng tiếp tục gửi thức ăn cho ngài, nhưng cũng có lần ngài nhắn lại là không cần thức ăn nữa, chỉ xin anh em Công Giáo giúp lời cầu nguyện cho ngài.

Khi Cha Khâm bị đưa đi rồi, chỉ còn lại anh Trần Đình Ngành và tôi sinh hoạt chung với nhau. Anh Ngành là người rất tốt và nhân hậu. Anh rất thương Cha Khâm và tôi. Trong đêm đầu tiên Cha Khâm bị dẫn đi, anh Ngành vô mùng nằm khóc nức nở và những ngày sau lúc nào cũng tìm cách gửi một thứ gì đó cho “Cậu Hai”. Anh Ngành và tôi gặp nhau trong khu xà-lim trại Phan Đăng Lưu, từ đó chúng tôi quý mến nhau.

Anh vẫn gọi tôi là “3 ngã” và tôi gọi anh là “3 huyền” theo các dấu trong tên của hai người là Trần Đình Nghành và Nguyễn Hữu Lễ. Một tuần sau, trong khi chúng tôi đi lao động về, thấy có một xe nhỏ bít bùng chạy từ trong trại ra. Hôm sau tôi được anh tù lo việc liên lạc cho biết Cậu Hai đã được đưa vào nhà tù Chí Hòa. Kể từ đó không bao giờ tôi gặp lại Cha Vũ Đức Khâm nữa.

Tin ChuyểnTrại

Sau khi Cha Vũ Đức Khâm bị đưa đi một thời gian, có tin đồn là chúng tôi sẽ được di chuyển về Đồng Tháp. Tin này được loan truyền đi rất nhanh trong trại. Có một điểm tâm lý dễ hiểu là trong tù lúc nào chúng tôi cũng mong có sự thay đổi. Ai cũng hy vọng là chỗ mới sẽ khá hơn nơi chúng tôi đang sống.

Vả lại, trại Gia Ray là một nơi rất tạm bợ, thiếu thốn tất cả mọi thứ, ngay cả những nhu cầu tối thiểu của con người, nên chúng tôi càng mong được chuyển đi nơi khác hơn. Lúc đầu không ai biết tại sao có tin đồn đó, nhưng khi tìm hiểu cặn kẽ mới biết là những người bà con vào thăm nuôi đã báo tin. Trước khi vào thăm nuôi, thân nhân của tù thường dừng lại các hàng quán bên ngoài mua hoa quả, bánh trái và đã được một cô bán hàng cho biết tin đó với tính cách “bí mật”.

Số là cô bán hàng có quen một anh công an cai tù trong trại. Ngày kia anh ta ra từ giã cô gái và nói là anh sẽ vắng mặt một thời gian. Cô gái vặn hỏi mãi lý do nhưng anh ta không nói, chỉ trả lời úp mở càng làm cho cô gái sốt ruột và sinh nghi sắp có chuyện gì liên quan tới số phận các tù nhân trong trại.

Cũng nên biết là lúc bấy giờ đồng bào trong Nam rất thương các người tù như chúng tôi, nếu có thể làm gì để giúp cho các tù nhân, họ không bao giờ từ chối. Cô gái bán quán này cũng trong tâm trạng đó. Mặc dù không làm gì được để giúp chúng tôi nhưng cô đã lợi dụng sự quen biết với cán bộ để “moi” tin tức, và tìm cách đưa vào trong trại.

Vì cô nghĩ đó là cách cô giúp cho những người tù mà cô thương mến. Lần này, sau mấy ngày úp mở về sự vắng mặt sắp tới của anh cán bộ, cô gái phải làm hết cách để hỏi cho bằng được. Cuối cùng anh cán bộ đành phải tiết lộ với câu dặn dò rất nghiêm trọng: “Đừng bao giờ nói lại với ai là anh sẽ áp tải một số tù về Đồng Tháp!”

Chưa đầy 24 tiếng đồng hồ sau, không một người tù nào trong trại Gia Ray mà không biết tin “bí mật” là sẽ có một đợt chuyển tù về Đồng Tháp!

Tung Hỏa Mù

Tù nhân trong trại Gia Ray bắt đầu xôn xao, bàn ra tán vào về nguồn tin đó. Các “nhà bình luận thời cuộc” lại có dịp bày tỏ sự hiểu biết của mình về lý do tại sao phải chuyển trại. Tại sao lại đưa về Đồng Tháp mà không thể đưa đi nơi khác? Và ở đó sẽ ra sao? Sau khi bàn đi tán lại đủ điều, họ đưa ra câu kết luận là:“Rất tốt!”

Lúc mới vừa bị dồn lên trong trại này, chúng tôi ai cũng lo ngại sẽ bị đưa ra Bắc. Hai tiếng “ra Bắc” là hai tiếng cấm kỵ. Trong tù ai cũng sợ, cũng kiêng, không ai dám nhắc tới nó. Hai tiếng “ra Bắc” đồng nghĩa với ba tiếng “đến tử địa” nên không ai dám nghĩ là mình sẽ rơi vào trường hợp ra Bắc. Chúng tôi không muốn nhắc tới hai tiếng đó, mặc dù lúc nào nó cũng tiềm ẩn ở một nơi nào đó trong lòng của từng người tù chúng tôi.

Bây giờ có tin đi Đồng Tháp, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Nỗi lo canh cánh bên lòng bây giờ được giải tỏa, như vừa trút bỏ được gánh nặng ngàn cân. Ở Đồng Tháp có điều gì hay thì chưa biết nhưng mọi người đều hân hoan với viễn ảnh là đến đó thì được tha hồ mà dùng nước! Vì Đồng Tháp là vùng sông ngòi, trong khi ở Gia Ray này, một giọt nước quý như một giọt máu. Chúng tôi vui mừng hớn hở và yên tâm chờ đợi ngày được đi Đồng Tháp. Một viễn ảnh tốt đẹp cho kiếp tù đang le lói trong lòng của hơn ngàn tù nhân trong trại lúc bấy giờ.

Vào một buổi trưa Chúa Nhật của tuần lễ đầu tháng Tư, có một anh Công giáo trong đội nhà bếp tới gặp tôi để xưng tội. Sau đó anh kéo tôi ra gần bờ rào trại để nói chuyện riêng. Anh nói với tôi:“Con báo cho Cậu Bảy biết, qua tuần tới, tức là sau lễ Phục Sinh sẽ có một đợt chuyển tù ra Bắc, trong số đó có tên Cậu Bảy. Xin cậu hãy giữ kín chuyện này vì nếu tiết lộ con sẽ bị nguy hiểm. Con xin cậu cũng đừng hỏi tại sao con biết việc này, cậu chỉ biết là không phải con làm việc cho tụi nó đâu.” Anh bạn nói với tôi với tất cả sự xác tín. Tôi biết đây là một hung tin, nhưng tôi vẫn hy vọng biết đâu tin này không chính xác. Trong lúc đó, hàng ngày anh em vẫn bàn tán sôi nổi về việc đi Đồng Tháp. Riêng tôi được biết tin bí mật này, nhưng vì tính cách nghiêm trọng của nó và vì lời hứa, tôi phải giữ kín, không hề hở môi ra cho bất cứ ai. Lúc đó đội tôi vẫn đi làm lao động bên ngoài, khai hoang, dọn đất cho các đội trồng rau xanh.

Những ngày sau đó đầu óc tôi lúc nào cũng hoang mang lo lắng về tin ra Bắc mà tôi được biết. Bắt đầu từ Thứ Hai sau lễ Phục Sinh, ngày nào tôi cũng hồi hộp và chờ đợi coi có động tĩnh gì không. Nỗi khổ tâm của tôi lúc bấy giờ là không thể tiết lộ với ai. Trong khi đó hàng đêm, sau khi vào buồng, anh em ngồi tụm năm tụm ba bàn tán về cuộc chuyển trại về Đồng Tháp sắp tới. Điều này càng làm cho tôi khốn khổ hơn, vì biết được một việc có liên quan tới số phận của quá nhiều người, nhưng vì lời hứa, tôi không thể nào tiết lộ được.

Ngày thứ Hai trôi qua, không có gì xảy ra, rồi ngày thứ Ba…và các ngày tiếp theo trong tuần, ngày nào tôi cũng hồi hộp chờ đợi nhưng vẫn không thấy gì. Tới sáng ngày thứ Bảy vẫn lặng yên như tờ. Tôi rất vui trong lòng vì biết là nguồn tin anh bạn nhà bếp nói không đúng sự thật. Tôi không trách anh ấy, vì trong tù các tin đồn, tù nói tội nghe vẫn là chuyện thường xảy ra. Vả lại tin anh ta báo “ra Bắc” mà không đúng sự thật là một hồng ân đối với tôi rồi. Xế trưa thứ Bảy, chúng tôi cũng xếp hàng, báo số đi lao động buổi chiều như thường lệ. Trong lúc lao động, tôi cảm thấy thật hân hoan vì anh bạn nói chắc chắn là nội trong tuần này sẽ có đợt chuyển tù ra Bắc, mà lại có tên tôi trong danh sách, thế mà bây giờ là chiều thứ Bảy rồi, tôi còn gì phải lo nữa?

Sau giờ lao động, lúc đó quãng 5 giờ chiều, đội chúng tôi xếp thành hàng 4 trở về trại như thường lệ. Trên đường về trại, tôi thở phào nhẹ nhõm. Một nỗi vui xâm chiếm lấy tôi, một nỗi vui rất lớn mà ít khi nào tôi có được tâm trạng đó. Lòng tôi sung sướng hân hoan trong lúc chân đang đều bước trong hàng trên đường về trại. Tôi nhớ tới ngày mai với một viễn ảnh tươi đẹp. Ngày Chủ Nhật sẽ nghỉ ngơi và thăm viếng, tiếp xúc với anh em, bạn bè.

Suốt tuần qua tôi bị tin “ra Bắc” ám ảnh và dày vò. Lúc nào tôi cũng mệt nhọc như đang đeo gánh nặng hàng trăm cân trên người. Cũng may thời gian lo lắng chỉ có một tuần, nếu tình trạng này kéo dài hơn, chắc tôi sẽ ra nghĩa địa trước khi ra Bắc (nếu có!). Chiều nay tôi mới thực sự thoải mái! Tôi ngước đầu lên nhìn bầu trời xanh và hít một hơi thật dài trong tư thế của một người vừa có niềm vui lớn. Niềm vui của người vừa thoát qua một tai nạn, một tai nạn có thể kết liễu đời mình.

Khi cúi đầu xuống, chợt tôi thấy từ đàng xa, trên con đường vào trại từ hướng ngã ba Ông Đồn có một cái gì rất lạ! Sau khi định thần nhìn kỹ, tôi thấy một đoàn xe tải quân đội đang chạy nối đuôi nhau làm tung lên đám bụi mịt mù trên con đường đất đỏ hướng vào trại. Tôi chới với gần như ngộp thở khi thấy cảnh này! Thì ra những gì tôi đã hồi hộp lo lắng cả tuần nay, bây giờ đã tới. Nó tới vào lúc tôi không ngờ nhất. Trong khi đó, thật vô cùng trớ trêu, một số người trong đội tôi vỗ tay vui mừng, vì nghĩ rằng đoàn xe mà họ chờ đợi từ lâu để đưa họ đi Đồng Tháp, bây giờ mới tới!

Khi chúng tôi vừa nhập trại, chưa kịp lấy thức ăn, nước uống thì có tiếng kẻng tập họp bất thường. Toàn thể tù nhân tập trung ra giữa sân trại cho ban giám thị nói chuyện. Chỉ cần thấy đoàn xe tải đang đậu dọc theo sân, ai cũng đoán biết là sắp có cuộc chuyển trại, và phải là đi Đồng Tháp! Sau khi tập trung chỉnh tề, ông trại trưởng cho biết, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc cải tạo và vì trại này quá đông, do đó không thể lo lắng đầy đủ được cho tất cả mọi người, nên một số sẽ được chuyển đến một nơi mà điều kiện nước nôi rất thoải mái. Cuộc chuyển trại chia làm nhiều đợt và đợt đầu sẽ là các anh có tên trong danh sách. Sau đó cán bộ đọc một danh sách 350 người, trong đó có tên tôi.

Lúc giải tán về các buồng, ai cũng nghĩ là sẽ đi Đồng Tháp nên rất vui mừng. Cả trại nhốn nháo và lộn xộn không tả được. Anh em từ giã nhau, các nhóm sinh hoạt chung thì chia chác đồ ăn, thức uống hoặc đồ dùng. Một số người cảm thấy thiệt thòi vì chưa được đi “Đồng Tháp” trong đợt đầu, vì ở đó có nước máy theo lời cán bộ trại trưởng nói.

Lúc bấy giờ sự việc đã tới và không cần giữ bí mật nữa, tôi nói với anh em là số tù này bị chuyển ra Bắc, nhưng không mấy người tin vào lời tôi nói. Có người còn cho là tôi cố ý hù dọa anh em, họ gọi tôi la người nằm mơ giữa ban ngày. Đêm hôm đó, cán bộ võ trang tuần canh bên ngoài nghiêm nhặt bằng mấy lần ngày thường. Sở dĩ tôi biết, vì suốt đêm đó anh bạn thân của tôi là Phạm Thế Khải và tôi thức trắng đêm, chờ một cơ hội thuận tiện.

Con Đường Vô Định

Qua ngày Chủ Nhật hôm sau, những người trong danh sách chuyển trại được cấp phát mỗi người một bao tải loại lớn nhất để chứa đồ đạc, áo quần, chăn màn nhưng không được đựng thức ăn và chai lọ. Sau khi cho đồ vào bao và cột miệng thật chặt, mỗi người được phát hai cái thẻ có mang số giống nhau. Một thẻ cột vào miệng bao và thẻ kia giữ trong người. Lúc đi đường mỗi người được mang theo một túi xách nhỏ đựng những thứ lặt vặt cần dùng. Suốt ngày Chủ Nhật hôm ấy, chúng tôi bận rộn thu dọn đồ đạc. Ai vô bao xong, mang để trên hội trường.

Tới chiều tối chúng tôi được lệnh lên mấy chục xe đang đợi sẵn. Sau khi lên xe, chúng tôi bị còng tay từng đôi một, các tấm bạt che hai bên hông xe được hạ xuống, cài lại cẩn thận và chúng tôi không còn thấy được gì bên ngoài. Khi xe chuyển bánh rời trại thì trời đã tối hẳn, tôi đoán phải là mười giờ đêm, bên ngoài tối đen như mực.

Mặc dù bị nhốt trong xe bít bùng, nhưng theo hướng xe chạy chúng tôi cũng biết là đang đi về hướng Sài Gòn. Một số người trên xe vui mừng hí hửng, luôn mồm phát biểu:“Rõ ràng là xe đang hướng về Đồng Tháp, mình nói có sai đâu!” Xe chạy một thời gian khá lâu thì dừng lại. Chúng tôi vẫn được lệnh ngồi yên trên xe và các tấm bạt vẫn che kín hai bên nên chúng tôi không biết xe đang dừng lại ở địa điểm nào. Một hồi lâu sau, chúng tôi được lệnh xuống xe và lúc bấy giờ mới biết là chúng tôi được chở tới bến Tân Cảng, ngay đầu cầu xa lộ Sài Gòn.

Trên bến tàu rất đông công an, cảnh-sát mặc sắc phục và trang bị súng ống đạn dược đầy người. Nhìn xuống sông, một chiếc tàu biển loại lớn có tên SÔNG HƯƠNG đang đậu cập cầu tàu. Dưới ánh đèn điện chập chờn, tôi thấy thân hình nó to lù lù trong đêm như một con quái vật dưới lòng sông vừa trồi lên mặt nước. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên một cách thích thú khi thấy lại cái “vật lạ” bằng gỗ trong lán mộc trước kia mà chúng tôi thắc mắc không biết là cái gì, bây giờ được dựng đứng bên thành tàu. Thì ra nó là cây thang bắc lên tàu Sông Hương!

Chúng tôi được lệnh xuống xe, vẫn còn bị cùm dính nhau từng đôi một, xếp thành hàng ngay ngắn trên bến cảng, chờ cán bộ làm thủ tục bàn giao. Một điều rất buồn cười là đến lúc đó, vẫn còn có người khẳng định là tàu Sông Hương sẽ đưa chúng tôi đi Đồng Tháp!

Có lẽ tôi cũng nên dừng lại ở đây để giải thích tại sao “hiện tượng Đồng Tháp” ám ảnh quá mãnh liệt một số trong nhóm tù chúng tôi như thế. Một lần nữa, chúng tôi phải ngả mũ trước thủ đoạn dùng mẹo vặt của người cộng-sản. Người cộng-sản biết rằng các tù nhân rất sợ bị đưa ra Bắc. Nếu để chúng tôi biết có dấu hiệu ra Bắc, chắc chắn sẽ có hậu quả không hay. Ít nhất là sẽ có một số người tìm cách vượt ngục ngay từ trong miền Nam. Yếu tố tâm lý thứ hai là lúc ở trại Gia Ray quá đông người và thiếu thốn đủ các thứ, nhất là nước uống, ai cũng mong được tới một trại nào có đủ nước để dùng thì Đồng Tháp có nhiều sông ngòi là địa điểm lý tưởng để lường gạt. Nhưng cái mẹo vặt của họ là cho một anh cán bộ hạng bét ra tỉ tê với cô gái bán hàng có cảm tình với tù nhân trong trại. Anh ta cho biết là sẽ vắng mặt một thời gian để áp tải một số tù về Đồng Tháp, và cẩn thận dặn cô gái: “đừng tiết lộ với ai tin này”! Chính nhờ lời căn dặn này mà tin đó loan vào trại nhanh hơn và rộng rãi hơn.

Thật đúng như họ mong muốn, chỉ một ngày sau cả trại đều biết và tin là sẽ có một đợt chuyển tù về Đồng Tháp. Tin được đưa về Đồng Tháp làm nhiều người vô cùng phấn khởi và hy vọng. Ngay cả lúc bị đưa tới bến Tân Cảng và sắp sửa bước lên chiếc tàu biển thật to đang chờ sẵn, họ vẫn nghĩ là “phải” đi Đồng Tháp, không thể là một nơi nào khác hơn được! Sự nhẹ dạ và khờ khạo của con người đôi lúc làm chúng ta phải kinh ngạc.

Giã Biệt Miền Nam

Chúng tôi phải đứng chờ khá lâu trong tâm trạng hoang mang lo lắng. Phần tôi, vì đã biết rõ số phận mình, nên khi đứng trên bến tàu tôi cố gắng mở to đôi mắt như muốn ghi nhận tất cả những hình ảnh của miền Nam thân yêu, mà tôi biết là sẽ rất lâu hoặc chẳng bao giờ tôi còn nhìn thấy lại được. Sau khi chờ đợi chán chê, chúng tôi được lệnh bước lên tàu. Từng đôi một lần theo những nấc của chiếc thang kỳ dị do tù nhân trại Gia Ray đóng và đã có một thời chúng tôi thắc mắc về nó. Sau khi lên tới boong tàu, chúng tôi băng qua một đoạn đường ngắn dẫn tới một ô cửa. Bên trong có cầu thang bằng sắt dẫn xuống phía dưới. Tại đây, chúng tôi được tháo còng, sau đó từng người một lần bước theo cầu thang hình trôn ốc, chỉ vừa đủ cho một người, lần mò đi xuống. Sau khi được mở còng, tôi quay lại nhìn toàn bộ khung cảnh bến Tân Cảng. Mặc dù trong đêm tôi không thấy được nhiều, nhưng tôi cố gắng ghi nhận khung cảnh cuối cùng của miền Nam thân yêu, nơi tôi được sinh ra và lớn lên.

Tôi biết mình sẽ bị đưa ra Bắc, mở màn cho kiếp sống của người tù biệt xứ và tương lai không biết rồi sẽ ra sao? Tôi tự hỏi, không biết mình còn có dịp trở lại miền Nam thân yêu này nữa hay không? Tự nhiên một cơn cảm xúc mạnh vồ lấy tôi, nước mắt tôi dâng tràn khi tôi sắp sửa phải từ giã một giá trị tinh thần vô cùng quý yêu. Cho tới phút đó tôi mới nhận ra hết ý nghĩa thiêng liêng của những chữ “nơi chôn nhau cắt rốn”. Nước mắt vẫn lưng tròng, tôi quay lại với thực tế, lần bước theo cầu thang bằng sắt có hình trôn ốc lần mò đi xuống bên dưới. Cuối cầu thang là một hầm tàu rộng và đen ngòm, được soi sáng bằng một vài bóng điện nhỏ từ trên cao chiếu xuống. Vách thành tàu bám toàn là bụi than đá và trên sàn cũng vương vãi than vụn.

Thì ra đây là hầm chở than của tàu Sông Hương. Trong góc phía xa có một số thùng làm bằng các tấm ván ghép lại, có quai bằng dây sắt, dùng để các tù nhân tiêu tiểu vào đó. Lúc mới bước xuống, tôi có cảm tưởng là hầm tàu rất lớn, nhưng khi số tù nhân xuống hết, khoang tàu lại trở nên chật chội. Sau khi chúng tôi xuống hết dưới hầm, cánh cửa sắt ngay cuối cầu thang sát với hầm tàu được đóng lại và có dây lòi tói quấn chung quanh, hai đầu được khóa lại bằng ống khóa đồng to tướng.

Cảnh tượng trong hầm tàu thật hỗn độn. Ai nấy lo di chuyển tìm chiếm một góc nào đó làm cơ ngơi riêng. Những nhóm anh em từng sinh hoạt chung trong trại thì tìm nhau để kéo về một góc. Mọi người lúc đó đều bận rộn, kẻ lo lau chùi sàn tàu, người quét tước, dọn dẹp chỗ nằm, tạo ra cảnh rộn ràng như một tổ ong. Lúc này chúng tôi trở thành đám đông hỗn tạp, vô tổ chức. Không còn những “sĩ quan” do ban giám thị trại chỉ định, không còn đội trưởng đội phó, và mọi người trở nên bình đẳng trong thân phận một người tù trong hầm tàu u ám và dơ bẩn này.

Tàu rời bến vào khoảng sau nửa đêm. Sở dĩ chúng tôi biết tàu chạy là nhờ khi nhìn lên bầu trời thấy các vì sao đang di chuyển ngược chiều. Lúc mới vừa xuống hầm, chúng tôi cứ ngỡ là chỉ có nhóm chúng tôi, nhưng khi gõ vào thành tàu làm hiệu, chúng tôi nhận được tín hiệu đáp lại của “phe ta” từ các khoang khác. Như thế, tàu Sông Hương vào Nam “bốc hàng” của nhiều trại tù khác nhau cung cấp. Tổng số tù trên tàu bao nhiêu chúng tôi không thể biết được, nhưng căn cứ vào tầm vóc con tàu, chúng tôi nghĩ là phải hơn 1000 tù nhân trong chuyến đi này.

Hy Vọng và Hy Vọng

Trong khung cảnh một đám tù nhân láo nháo hỗn độn dưới hầm tàu tối đen như đàn vịt vừa mới bị lùa vào chuồng như vậy, không hiểu từ đâu lại có nguồn tin nói là chúng tôi nằm trong diện trao đổi tù binh và con tàu này đưa tới địa điểm trao trả!

Có mấy anh em có vẻ đạo mạo và tỏ ra am hiểu thời cuộc, đang lôi kéo sự chú ý của rất nhiều người khi họ “xì” ra tin này. Họ cho biết, theo nguồn tin đáng tin cậy, thì hiện nay bên ngoài đang diễn ra cuộc thương lượng giữa Mỹ và chánh phủ Việt Nam về vấn đề Mỹ bồi thường chiến tranh 3 tỷ đô-la cho Việt Nam. Ngược lại phía Việt Nam phải trao cho Mỹ tất cả số tù nhân hiện đang có mặt trong các “trại cải tạo”! Như thế không có nghĩa là quân nhân mà thôi, mà tất cả những ai đang nằm trong các nhà tù cộng sản đều sẽ được trao cho Mỹ. Và địa điểm trao trả sẽ được hai bên thỏa thuận .

Những nhà bình luận thời cuộc trong tù cũng nghiêm túc cho biết, số tù nhân sau khi được trao trả sẽ được đưa thẳng sang Hoa Kỳ. Nghe thế có nhiều anh vỗ tay và reo lên:“ Thế thì nhất! Không ngờ mình đi tù lại hóa ra may, bên ngoài xã hội bao nhiêu người mong đi Mỹ mà không đi được”. Tôi thấy có nhiều người phụ họa để bàn thêm tin này cho tới nơi tới chốn.

Trong khi tôi ngồi ủ rũ nhìn cảnh này, tôi nhớ lại câu nói của người bạn tù làm nhà bếp đã nói với tôi tuần trước:“ Tuần tới sẽ có một đợt chuyển tù ra Bắc, và trong đó có tên Cậu Bảy”. Tôi không biết gì về xuất xứ của nguồn tin “ trao trả tù binh” này, nhưng tôi hồ nghi là nó cũng bắt nguồn từ hãng thông tấn “ Đồng Tháp” mà hiện thời có rất nhiều người đang có mặt trên chuyến tàu định mệnh này bám vào đó như một nguồn hy vọng để sống.

Theo tôi nghĩ, tâm trạng của hầu hết anh em tù nhân trong khoang tàu tối om và dơ bẩn lúc này ai cũng nghĩ mình sẽ đi Đồng Tháp, hoặc đi đến dị điểm trao trả tù binh, hoặc đến nơi nào tốt đẹp hơn theo ý họ muốn. Nhất định không thể nào có chuyện ra Bắc được, mặc dù đã có những dấu hiệu quá rỏ về sự chuẩn bị cho cuộc Bắc du như những chiếc bao tải đựng“nội vụ”, chiếc tàu biển đen sì như con thủy quái khổng lồ và những cán bộ nhận bàn giao lúc nãy trên bến Tân Cảng nói rặt giọng miền Bắc.

Xét cho cùng, tôi không chê trách các anh em, vì hoàn cảnh chúng tôi lúc bấy giờ còn gì khác hơn là niềm hy vọng để mà sống. Hơn nữa hy vọng lại không mất tiền mua, thì tội gì mà không nuôi hy vọng?

Biển Vẫn Đợi Chờ

Đêm đó, vì quá mệt nhọc nên đa số lăn ra sàn tàu ngủ say như chết. Tôi cũng cuộn tròn lại như con chó con, nằm trong một góc sàn tàu bằng sắt lạnh buốt và cố dỗ giấc ngủ. Thật lạ lùng, đêm đó tôi ngủ được một giấc rất ngon với một ý định đã được thành hình trong đầu. Ý định này phát sinh ngay từ lúc tôi bước lên nấc chiếc thang gỗ, để leo dần lên tàu Sông Hương.

Sáng ngày, khi tôi giật mình thức giấc thì mặt trời đã lên cao. Ánh nắng chói chang ban mai giữa biển, dọi vào bên phải thành tàu đang ngon trớn trực chỉ về hướng Bắc. Điều buồn cười và đáng nhắc lại ở đây là, mặc dù từ dưới hầm tàu, chúng tôi không được nhìn thấy mặt trời và cảnh vật chung quanh, nhưng căn cứ vào bóng nắng dọi vào thành tàu, thì cho dù một đứa trẻ con vừa có ý niệm phương hướng cũng biết tàu đang đi về hướng Bắc. Thế mà có một số người tù vẫn nhất quyết là tàu đang đi về hướng Nam của vùng “Đồng Tháp”! Thì ra cái mẹo vặt của cán bộ cộng-sản đánh lừa các tù nhân, cộng với sự hy vọng hão huyền về một xứ Đồng Tháp có nhiều sông rạch, cùng với nỗi lo sợ phải bị đưa ra Bắc đã có tác dụng làm lú lẫn tâm trí của một số người, mà tôi nghĩ là trước kia họ cũng có trí khôn rất bình thường! Nhưng số người lú lẫn này khá ít, so với đa số người khác đã biết được thực trạng thân phận của mình.

Từ dưới hầm nhìn lên, tôi thấy cán bộ đứng trên boong tàu, tựa vào hàng rào sắt ngó xuống. Tôi chợt nhớ lại ngày trước, những lần vào thăm sở thú Sài Gòn, khi tới chuồng gấu chó, những khách thăm sở thú đứng tựa vào hàng rào sắt bên trên nhìn xuống đàn gấu đang đi lại bên dưới như thế. Tới giờ rửa chuồng và cho thú ăn, có người cầm vòi xịt nước xuống và ném thức ăn xuống cho bầy thú đang đứng dưới hầm chồm lên chờ đợi đón lấy thức ăn.

Bây giờ chúng tôi cũng vậy, tới giờ dọn vệ sinh, cán bộ đứng bên thòng dây có móc sắt xuống và bảo chúng tôi móc vào quai các thùng phân, thùng nước tiểu, để họ kéo lên. Tới giờ cho ăn, người từ bên trên ném thức ăn xuống, phần nhiều là mì gói, đám tù chúng tôi chụp lấy và chia nhau ăn. Cán bộ tuần tra bên trên cúi đầu nhìn xuống để ra lệnh và quát tháo khi thấy chúng tôi quá ồn ào mất trật tự. Có lúc họ còn dọa nạt và lên cò súng đòi bắn xuống vì có chuyện lôi thôi bên dưới. Nhưng tôi biết họ chỉ dọa thôi, vì số lượng “hàng” đã được bàn giao và ký nhận, nếu anh cán bộ nào lỡ dại bắn chết một “đơn vị hàng”, chắc là anh ta sẽ phải vào thay thế cho đủ số.

Sau giờ quét “chuồng” và giờ cho ăn của buổi sáng đầu tiên xong, các tù nhân chúng tôi ngồi thành từng nhóm nhỏ rải rác trong hầm tàu. Trên gương mặt mỗi người hiện lên nét mệt nhọc chán chường và ngồi yên lặng nhìn nhau. Thấy bầu khí trong tàu có vẻ căng thẳng, tôi đi tới lui thăm một vài nhóm để tìm hiểu, nhờ đó tôi đoán biết có chuyện sắp xảy ra.

Một vài nhóm đang kéo bè kéo cánh và bàn tính chuyện hỏi tội các tay làm ăng-ten đang có mặt trên tàu. Lúc này đúng là cơ hội lý tưởng để làm chuyện đó, vì trong đám đông hỗn tạp và vô tổ chức này, ai có anh em đông, người đó có sức mạnh. Lúc đó tôi là Linh mục duy nhất trong một hầm tàu đầy người mà quá phân nửa là người Công giáo, nên tiếng nói của tôi được nhiều người lắng nghe cũng không có gì là khó hiểu. Những tay làm ăng-ten trong trại trước kia bây giờ trở nên hoàn toàn thất thế. Họ biết rõ số phận của họ hơn ai hết, nhất là sau khi “đánh hơi” được bầu khí hận thù đang dâng cao, họ lại càng lo sợ hơn.

Tôi thấy mấy anh có tên trong sổ đen đang ngồi co ro một góc, mặt mày tái mét. Mỗi khi có nhóm người hung hăng đi gần tới, mấy anh chàng trước kia từng gây tai họa cho anh em trong trại lại phải cúi đầu né tránh. Hình ảnh này càng làm cho hạng người trước kia, khi có uy quyền đã thẳng tay làm khổ anh em, bây giờ trông càng đáng kinh tởm hơn. Lúc bấy giờ tự nhiên có mấy người tự động di chuyển tới nằm gần bên chỗ tôi. Có vài người bắt đầu bày tỏ thái độ lễ phép và thân ái với tôi với một dụng ý thấy rõ, làm tôi ngượng.

Trù Tính Kế Hoạch

Trong hoàn cảnh đó, tôi đã lên tiếng thuyết phục các nhóm bỏ ý định trả thù các tay ăng-ten. Tuy nhiên, công việc không dễ dàng, vì không phải nhóm nào tôi cũng có ảnh hưởng đối với ho. Dù vậy, sau khi tôi nói còn một việc quan trọng chúng ta phải làm trong lúc này, anh em mới chịu từ bỏ ý định. Liền ngay sau đó, tôi âm thầm quy tụ một số đông, hầu hết là người trẻ, để trình bày một kế hoạch mà tôi đã ấp ủ trong đầu. Việc này tôi cũng đã bàn kỹ với Kỹ sư Dương Văn Lợi. Lúc ở trại Gia Ray, anh Lợi là đội trưởng đội nhà bếp, một người lanh lợi và khẳng khái. Đặc biệt anh có nhiều bạn bè và đàn em hiện đang có mặt trên tàu. Tôi mời anh Lợi cùng ngồi bàn việc.

Ngồi giữa số đông anh em, tôi nói rõ ý mình và xin anh em mỗi người cho biết ý kiến. Tôi vẫn quan niệm rằng, một khi đã bước chân vào tù cộng-sản, thì sẽ không còn biết tương lai vận mệnh đời mình sẽ ra sao. Nhất là với kiểu tù mang danh tập trung cải tạo như thế này, làm gì có thời điểm để hy vọng! Tốt nhất là mình phải tự cứu lấy chính mình.

Tôi đã từng biết dưới chế độ cộng-sản ở Nga ở Tàu và các nước cộng sản khác, những người không đồng ý với chế độ sẽ bị thanh trừng, hoặc đưa lên các trại tập trung và rất nhiều người không bao giờ trở lại. Ở Việt Nam cũng thế. Vì vậy, từ lúc bị bắt vào tù, tôi coi việc vượt ngục là con đường sống. Việc giải thoát những tù nhân khác khỏi sự giam giữ bất công là một bổn phận. Không lúc nào ý định vượt ngục rời khỏi tâm trí tôi, và tôi luôn để ý tìm cơ hội thực hiện ý định này, mặc dù tôi biết đó là việc làm nguy hiểm và phải trả giá cao, có khi là giá của mạng sống mình.

Trong đêm cuối cùng ở trại Gia Ray, trước khi bị đưa xuống tàu ra Bắc là lúc tôi quyết tâm nhất. Nhưng đêm đó cán bộ bên ngoài tuần canh nghiêm ngặt hơn bất cứ lúc nào trước đó, làm tôi và người bạn thân là anh Phạm Thế Khải đành phải bỏ ý định, sau khi đã thức gần suốt đêm rình chờ cơ hội [1]. Khi bước chân lên tàu Sông Hương và biết là sẽ bị đưa ra miền Bắc, tôi càng quyết tâm phải tự giải cứu mình và các bạn tù. Sau khi trình bày lý do và nguyện vọng, tôi đề nghị với anh em kế hoạch đánh cướp chiếc tàu này. Tôi cũng cho anh em biết là kế hoạch này tôi đã bàn thật kỹ với với anh Dương Văn Lợi và một số anh em tín cẩn khác rồi.

Khi tôi trình bày xong, cả nhóm ngồi thinh lặng suy nghĩ trong một lúc. Sau đó tất cả mọi người đều tán thành, và sự nhiệt tình hưởng ứng của họ làm tôi phải ngạc nhiên. Kế hoạch được trù tính như sau: lợi dụng sự sơ hở của cán bộ trên tàu và áp dụng yếu tố bất ngờ, chúng tôi sẽ uy hiếp và cướp quyền điều khiển con tàu. Tôi chủ trương tuyệt đối không giết người, nhưng tất cả cán bộ và hành khách trên tàu sẽ bị giữ làm con tin. Sau đó lái tàu tới một nước tự do gần nhất để thương thuyết, dưới sự giám sát của một cơ quan quốc tế, để trao đổi tất cả số tù nhân trên tàu với những con tin bị bắt giữ.

Chúng tôi biết đây là một ý định táo bạo đầy nguy hiểm. Nhưng lúc bấy giờ hình ảnh của sự chết dần chết mòn trong một nhà tù nào đó ở miền Bắc khiến chúng tôi nghĩ là nếu phải chết do việc cướp tàu giải cứu tù nhân, vẫn còn nhẹ nhàng và có ý nghĩa hơn cái chết rũ tù ở miền Bắc.

Đi Vào Chi Tiết

Trên nguyên tắc, kế hoạch đã được chấp thuận. Còn lại là phần nghiên cứu các chi tiết, nhưng phải làm cho thật nhanh vì thời gian rất giới hạn. Những chi tiết dự trù, phần lớn tôi và anh Dương Văn Lợi cũng đã bàn và có cách giải quyết. Có những việc phải giải quyết như cưa dây lòi tói khóa cửa cầu thang, vấn đề thang dây, vũ khí cầm tay v.v. Ngay sau đó, tôi cho mời những sĩ quan Hải quân và những người hiểu biết về tàu biển tới để hỏi han cặn kẽ các chi tiết liên quan tới việc cấu trúc chiếc tàu biển, vị trí các nơi quan trọng, cách thức điều khiển, truyền tin và tốc độ.

Sau khi có được ý niệm căn bản và những yếu tố khả thi, tôi chọn ngay một ban tham mưu và phân công nghiên cứu từng vấn đề. Tôi mời anh Dương Văn Lợi làm phụ tá và lo về mặt nhân sự. Anh Lợi có người đàn em là Hồ Hoàng Khánh, trước là người nhái,rất khỏe mạnh và tháo vát lo phụ giúp cho anh.

Kế hoạch sẽ thực hiện như sau: khoảng 6 tiếng đồng hồ trước giờ G của ngày N (sẽ do tôi ấn định), sẽ cưa đứt dây lòi tói khóa cửa cầu thang. Đúng giờ G, nhóm cảm tử 25 người, trong đó có mấy anh võ sĩ, sẽ bò lên trước theo ngả cầu thang. Khi lên trên sẽ ẩn nấp vào các hốc hẻm trên boong tàu, chờ cơ hội vô hiệu hóa thật nhẹ nhàng lính canh, trói tay chân nhét giẻ vào mồm, băng miệng lại. Sau đó tức tốc thả những thang dây xuống. Liền đó, nhóm tham gia, quãng 100 người, bám thang leo lên, lợi dụng yếu tố bất ngờ ban đêm, chia nhau uy hiếp và chiếm giữ những nơi trọng yếu.

Chủ trương: tuyệt đối không giết người, nếu giết người chúng tôi sẽ thất thế về sau. Nhưng phải uy hiếp cho được quyền làm chủ con tàu và bắt giữ con tin càng đông càng tốt. Sau khi cướp được tàu, các sĩ quan Hải quân sẽ lái qua Phi Luật Tân là quốc gia tự do gần nhất. Chấp nhận chuyện bại lộ. Nhưng tàu sẽ không bị bắn chìm vì có một số rất đông cán bộ, hành khách và cả viên chức cao cấp của bộ Nội Vụ từ Bắc vào Nam lãnh tù. Khi tới Phi, chúng tôi sẽ đặt vấn đề trao đổi người, dưới sự giám sát của một cơ quan quốc tế có thẩm quyền.

Các vật liệu cần thiết đã có: một nửa lưỡi cưa sắt của một bạn tù dấu được trong đôi dép râu. Một số quần dài của nhiều người để nối lại làm thang dây. Một số khá nhiều những đoạn mía thả xuống cho tù ăn, chúng tôi còn để lại dùng làm vũ khí cầm tay. Trong khung cảnh lúc bấy giờ, việc chuẩn bị và bàn tán không thể nào lọt qua cặp mắt và lỗ tai vốn rất thính của mấy tên ăng-ten đang ngồi co ro, im thin thít, mặt mày tái nhợt, quây quần chỗ tôi nằm. Lúc này bọn chúng hoàn toàn thất thế, đành phải ngồi im, và dù có muốn báo cáo lập công, chúng cũng không dám và cũng không có cách nào liên lạc với cán bộ bên trên. Mọi cử động, sự đi lại của đám này đều được chúng tôi canh chừng theo dõi cẩn thận. Tôi biết họ cũng đang theo dõi chúng tôi từng chi tiết một.

Qua hôm sau, ngày 19 tháng Tư, có 2 việc quan trọng phải làm. Trước nhất là thực tập việc cưa dây lòi tói khóa cửa cầu thang, thứ nhì là làm sao cho cán bộ khinh thường và đánh giá thấp đám tù nhân trong khoang tàu chúng tôi. Với chủ trương đánh lạc hướng cán bộ canh gác và tạo tiếng động trong khoang tàu, tôi tổ chức cho anh em hát thật to những bài hát “Giải phóng miền Nam”, “Trường Sơn đông Trường Sơn tây.” Vừa hát, anh em vừa vỗ tay vang rền. Trong lúc đó, người lo việc cưa dây lòi tói khóa cửa tha hồ mà thực tập, không sợ ai nghe được tiếng cưa sắt.

Ngoài ra, để cán bộ khinh thường và đánh giá bọn tù chúng tôi không ra gì, mỗi khi thức ăn được ném xuống, tôi tổ chức cho anh em trong nhóm giành giật, đánh lộn rượt nhau tưng bừng. Trong khi đó người của chúng tôi lên tiếng bẩm báo xin cán bộ giải quyết. Dĩ nhiên là chẳng anh cán bộ nào dại dột mò xuống đây, nhưng họ đứng trên miệng hầm, thò đầu ra chửi bới và dọa nạt. Có lần tôi nghe họ nói vọng xuống:“Bọn các người chỉ có biết giành ăn! Đúng là một lũ vô tích sự, cho chúng mày giết nhau!” Tôi cười thầm:“Những con mồi của tôi đã vào bẫy!” Càng lúc càng có nhiều vụ đánh nhau, giành ăn và rượt chạy tưng bừng trong khoang tàu. Lại có tiếng gọi vọng lên báo cáo, nhưng mãi rồi cán bộ cũng chán, không thèm can thiệp chỉ để “cho bọn mày giết nhau!”

Loại chiến tranh tâm lý này tỏ ra rất công hiệu. Suốt ngày hôm ấy, nhóm chúng tôi hết hát rồi lại vỗ tay tưng bừng, rồi lại đến các vụ giành ăn đánh nhau và báo cáo cán bộ inh ỏi. Có lúc tôi thấy cán bộ bên trên nhìn xuống lắc đầu, và tôi đoán được trong thâm tâm là họ coi nhóm tù trong hầm tàu này chỉ là loại người vô tích sự, chỉ biết giành ăn. Lúc đó tôi mới thấy yên tâm về yếu tố bất ngờ. Chính yếu tố này sẽ quyết định cho sự thành bại của kế hoạch sắp tới.

Tế Sống Dũng Sĩ

Trong đêm 18, trước lúc đi ngủ, tôi mời tất cả anh em sẽ tham gia kế hoạch ngồi lại với nhau. Sau khi bày tỏ tâm tình và nói lên tính chất nghiêm trọng của việc làm có thể dẫn tới cái chết. Tôi xin anh em, mỗi người tùy theo tín ngưỡng mình, cầu nguyện cho việc sắp thực hành. Xin Đấng Bề Trên phù hộ cho việc làm. Nhưng nếu thấy việc này không thể thi hành được thì xin Đấng Bề Trên can thiệp một cách nào đó để tránh sự nguy hiểm và chết chóc cho nhiều người. Nghe tôi nói, anh em ngồi thinh lặng nhìn nhau trong bầu khí trang nghiêm, nặng nề. Sau khi cho biết việc chuẩn bị tiến hành thuận lợi và kế hoạch có thể tiến hành được. Tôi ấn định ngày N là ngày khởi hành +2, tức là ngày 20, và giờ G là đúng 1 giờ sáng, như thế còn 27 tiếng đồng hồ nữa để chuẩn bị thêm.

Sau khi công bố ngày giờ hành động, tôi thay mặt cả nhóm cử hành nghi thức tế sống 25 dũng sĩ, là những người sẽ xung phong lên trước tiên. Trong bầu khí trang nghiêm, tôi nói:“Chúng ta sắp làm một việc sẽ ảnh hưởng tới mạng sống mình và nhiều người khác. Nhưng chúng ta phải làm vì đó là cách để tự giải thoát mình và nhiều người khỏi sự tiêu diệt thật phi lý của chế độ cộng-sản. Trong số 25 anh em sẽ đương đầu với sự nguy hiểm đầu tiên, có thể các anh sẽ là những người hy sinh trước hết. Vậy, thay mặt cho tất cả anh em cùng quyết tâm tham gia, tôi xin anh em nhận một lạy của tôi như một nghi thức tế sống anh em. Nếu nhờ trời, chúng ta hoàn toàn thành công, các anh sẽ là những người lập công đầu. Nếu thành công nhưng các anh đã hy sinh rồi, chúng tôi sẽ vận động dựng tượng các anh. Nhưng nếu rủi ro thất bại, chúng ta sẽ cùng chết với nhau trong một cái chết có ý nghĩa, chết vì lý tưởng tự do. Cái giá của tự do rất cao, và lúc này chúng ta phải trả cái giá đó bằng chính mạng sống mình.” Nói xong, tôi quỳ xuống chắp tay và lạy một lạy để tế sống 25 dũng sĩ đang có mặt. Tất cả mọi người đều cảm động, ngồi yên cúi đầu, có người rơi nước mắt. Một lúc sau cả nhóm giải tán trong sự căng thẳng để về chỗ nghỉ ngơi lấy sức. Riêng tôi và ban tham mưu còn ngồi lại bàn tính những chi tiết. Mặc dù đã trù tính hết mọi thứ, nhưng tôi vẫn thấy những điều phải bàn dường như nằm trong danh sách dài vô tận.

Trong ngày đầu tiên trên biển, thời tiết thật tuyệt vời. Gió nhẹ, bầu trời trong xanh. Lâu lâu mới thấy có một áng mây trắng nhẹ nhàng lướt qua cửa hầm tàu. Gió hiu hiu thổi. Con tàu đi rất êm, êm đến nỗi nếu không thấy mây bay ngược chiều từ hầm tàu nhìn lên, chúng tôi sẽ không biết là tàu đang di chuyển. Thật đúng như câu nói:“Tháng ba, bà già đi biển”. Đêm 18, sau nghi thức tế sống 25 dũng sĩ, chúng tôi bảo nhau cố gắng ngủ thật ngon để lấy sức cho những việc làm quan trọng sắp tới. Qua sáng ngày 19, thời tiết vẫn đẹp, chỉ hơi khác một điều là ánh nắng ban mai có vẻ gay gắt hơn và trên bầu trời có khá nhiều mây. Nhưng biển vẫn yên và tàu đi êm ái nhẹ nhàng.

Chúng tôi vẫn sinh hoạt dưới hầm tàu theo kiểu bầy gấu chó trong sở thú Sài Gòn. Tới giờ “dọn chuồng”, cán bộ bên trên thòng dây có móc xuống, chúng tôi móc vào quai các thùng phân, thùng nước tiểu cho họ kéo lên. Sau đó các thùng không lại được thả dây xuống để chúng tôi lấy đặt vào chỗ của nó. Tới giờ cho ăn, cán bộ từ trên ném những gói mì ăn liền xuống, chúng tôi chụp lấy và chia nhau ăn. Thức ăn lúc đó chỉ có mì gói, không còn gì khác. Trưa ngày đầu tiên được ném cho một ít mía và dưa hấu. Nước uống thì rất hạn chế, đựng trong thùng sắt và được thòng dây xuống.

Sau gần 2 ngày đi đường, hầm tàu dơ bẩn, nước nôi be bét. Tại góc dùng làm cầu tiêu dã chiến, mùi hôi thối từ các thùng phân, thùng nước tiểu không có nắp đậy, xông lên nồng nặc. Hơn ba trăm người tù chen chúc nhau trong cái hầm tàu đen ngòm và dơ bẩn, tự nó đã là cảnh ghê rợn. Cộng với những vụ dàn cảnh đánh nhau, giành ăn và la hét có chủ ý của chúng tôi, khoang tàu lúc đó càng trở nên quái đản và dị dạng hơn.

Càng gần tới lúc thực hiện, tôi càng cảm thấy ruột gan cồn cào và có cảm tưởng thời giờ qua đi quá nhanh. Mới đó mà đã tới trưa ngày 19, chỉ còn hơn 10 tiếng đồng hồ nữa là tới giờ phút quyết liệt. Thần kinh tôi trở nên càng lúc càng căng thẳng mỗi khi nhìn thấy thấy bóng nắng trên thành tàu càng lúc càng nhích dần lên cao, theo nhịp độ của mặt trời ngã dần về phía Tây. Mặc dù lúc bấy giờ chúng tôi mỏi mệt và thần kinh căng thẳng, nhưng thỉnh thoảng lại hát thật to, có tiếng vỗ tay kèm theo làm náo động cả khoang tàu. Chúng tôi phải giữ thói quen này, vì theo kế hoạch, đêm hôm đó phải cưa dây lòi tói khóa hầm tàu trong tiếng ca hát vỗ tay để lấn át tiếng cưa sắt.

Tôi đi một vòng để tiếp xúc và khích lệ tinh thần các anh em, đồng thời kiểm điểm các thứ cần thiết. Những chiếc thang dây bằng những quần dài nối lại đã được chuẩn bị. Những đoạn mía ngắn chừng 50 phân đã được cẩn thận thu xếp và sẽ được cột vào người trong lúc hành động. Một chi tiết mà tôi không bao giờ quên được, đó là trong giờ phút quyết liệt đó, tôi hay đưa tay lên sờ trán và mạch máu ở thái dương bên phải tôi lúc đó căn phồng lên to như một chiếc đũa. Chứng tỏ là tôi đang trong tình trạng căng thẳng đến tột độ.

Ý Trời

Khoảng 3 giờ chiều, tự nhiên thời tiết có dấu hiệu thay đổi. Khi nhìn lên, tôi không còn thấy bóng nắng trên thành tàu. Bầu trời có nhiều mây, những đám mây đen nghịt. Một dấu hiệu thay đổi thời tiết thật bất ngờ và thật nhanh. Có cơn gió nhè nhẹ nổi lên và thời tiết bắt đầu lạnh khi vài hạt mưa lất phất rơi. Lúc đầu, khi nhìn thấy cảnh này tôi mừng thầm vì có thể là yếu tố thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch đêm nay. Nếu trời đêm nay có mưa nhẹ, sẽ làm chúng tôi dễ ẩn nấp. Cơn mưa sẽ che giấu tiếng động và các lính canh tuần sẽ chểnh mảng hơn.

Tới khoảng 4, 5 giờ chiều, gió càng lúc càng mạnh, mưa nặng hạt hơn và tàu bắt đầu lắc nhẹ. Mặc dù độ tàu lắc rất chậm nhưng cũng làm cho một số người khó chịu, xây xẩm và tìm chỗ nằm. Khi mưa bắt đầu nặng hạt, thì một sự việc làm tôi ngạc nhiên đến độ kinh hãi khi thấy một cái nắp bằng sắt khổng lo, được điều khiển bằng điện, từ từ bò ra trở thành cái mái che bên trên hầm tàu. Chỉ chừa một khoảng độ chừng vài thước cho chúng tôi có khí để thở. Từ lúc lên tàu và khi có ý định cướp tàu, tôi chưa biết yếu tố này. Lúc bấy giờ tôi nghĩ, nếu có biến động, bên trên họ sẽ bấm nút đóng kín hầm tàu, chúng tôi sẽ ra sao? Điều này khiến anh em chúng tôi thực sự lo lắng. Một lúc sau, cơn mưa tạnh dần và tôi thấy cái nắp hầm bên trên lại được thụt vào để lộ một bầu trời xám xịt có nhiều mây đen. Những người biết về thời tiết trên biển nói đây là triệu chứng của một cơn bão nhiệt đới. Một loại bão trái mùa thường xảy ra trên vùng biển Đông.

Một lúc về sau, gió bỗng trở mạnh, gào thét, xô đi quật lại vào thành tàu làm con tàu lắc lư chao đảo nhiều hơn. Đám tù chúng tôi trở nên uể oải, mệt nhọc và quá phân nửa số người đã phải nằm dài xuống sàn. Một số người đã bị say sóng và nôn thốc nôn tháo ra sàn tàu. Điều tệ hại xảy ra là lúc “rửa chuồng” chiều hôm đó, khi cán bộ trên thành tàu kéo thùng phân từ hầm tàu lên trong cơn gió mạnh làm tàu tròng trành. Khi kéo thùng phân lên gần tới nơi, bất ngờ anh bị ngã làm thùng phân rơi xuống, bắn tung tóe vào trong hầm tàu! Thật là một thứ tai nạn mà tôi không biết diễn tả làm sao. Chỉ xin dành cho độc giả dùng trí tưởng tượng của mình để cảm thông cho tình cảnh chúng tôi lúc bấy giờ. Nhất là dưới hầm tàu lại không có nước để rửa và không có gì để lau chùi.

Trong giờ cho ăn chiều hôm đó, chỉ có một số ít ngồi lên nổi để lấy phần ăn, còn đa số nằm sóng sượt như những xác chết chưa chôn. Càng về đêm, gió càng gào thét dữ dội hơn, tàu tròng trành nghiêng ngả và mưa bắt đầu rơi. Nắp hầm tàu lại được trồi ra để che mưa như lúc ban chiều. Nhìn thấy cảnh này, tôi mất hết hy vọng! Tàu đang đi vào cơn bão bất ngờ và cơn bão đã đánh gục gần hết số người trong hầm tàu chúng tôi.

Quãng chừng 10 giờ đêm, khoang tàu trở nên vắng lặng, những người say sóng nằm lăn lộn ói mửa, có người đang ngủ say. Chỉ còn 3 tiếng đồng hồ nữa là tới giờ hành động, nhưng những người cố gắng đi lại như tôi và anh Dương Văn Lợi cùng vài anh em trong ban tham mưu cũng bị chao đảo, đứng không vững vì tàu lắc quá mạnh. Tôi nghĩ thầm “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, người muốn không bằng trời muốn! Sau khi hội ý với một vài người còn lại, tôi tuyên bố bãi bỏ kế hoạch.

Phần tôi, mặc dù rất mệt nhọc và căng thẳng trong 2 ngày qua, nhưng không tài nào chợp mắt được. Tôi thức trắng đêm hôm ấy, nằm nghe gió thét mưa gào, trong lúc con tàu đáng thương chao đảo như một quả trứng nằm trong chậu nước đang có người cầm hai bên bờ thành chậu đong đưa.

Một điều làm tôi vô cùng kinh ngạc và suy nghĩ mãi cho tới ngày hôm nay: gần sáng hôm sau gió bắt đầu giảm. Càng về sáng gió càng nhẹ và tàu bớt lắc lư. Tới rạng ngày thì gió ngừng hẳn, mặt biển lại trở nên yên lặng như tờ. Cái nắp che trên miệng hầm lại được thụt vào để lộ nền trời cao xanh biếc. Mặt trời lại chiếu ánh sáng êm dịu của ban mai vào thành tàu như trong hai ngày đầu.

Không ai có thể giải thích hiện tượng bão táp ngắn ngủi đêm qua. Nhưng tôi hiểu ý nghĩa của nó. Từ biến cố đó tôi càng tin mãnh liệt vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa. Vì trong những ngày đó tôi đã cầu nguyện thật tha thiết. Tôi cầu xin Thiên Chúa, nếu điều chúng tôi dự tính không thể thực hiện được thì xin Ngài can thiệp, đừng để hậu quả tai hại xảy ra. Tôi cho rằng cơn bão trái mùa hôm đó là một phép lạ riêng tư cho cá nhân tôi. Phép lạ này đã xảy ra do lòng tin và lời cầu khẩn của tôi, để chặn đứng một việc nguy hiểm có thể làm cho máu đổ ngập khoang tàu.

Ân Oán Giang Hồ

Sáng ngày, những người bị say sóng nằm lăn lóc đêm qua bây giờ tỉnh lại. Sinh hoạt trong hầm tàu trở lại bình thường. Chỉ có một thay đổi lớn là chúng tôi đã bãi bỏ kế hoạch cướp tàu, điều này khiến những người quyết tâm tham gia kế hoạch, nhất là những anh em trẻ tuổi cảm thấy tiếc rẻ. Từ tâm trạng tiếc rẻ, họ trở nên bứt rứt, ngứa ngáy tay chân và biến thành những con người hung hãn. Họ như những võ sĩ tập luyện rất công phu và sẵn sàng thi đấu, nhưng cuộc tỉ thí vì một lý do bất khả kháng phải bị bãi bỏ vào phút chót. Họ chẳng còn biết làm gì nên đã quay sang mục tiêu khác để xả cơn bực tức và sức lực của họ. Mục tiêu đó chính là bọn ăng- ten đang có mặt trong khoang tàu lúc bấy giờ!

Tôi muốn nói rõ hơn về việc này. Ngay từ lúc cả nhóm bước xuống hầm tàu hai ngày trước, đã có làn sóng phẫn nộ dâng cao định hỏi tội bọn ăn-ten trong trại Gia Ray. Lúc đó, những người đã hãm hại anh em trước kia, không còn đường nào thoát thân, chỉ còn cách đến với tôi tìm sự che chở như tôi đã nói ở trên. Trong tình thế đó, tôi đã can thiệp và ngăn cản anh em. Vì nếu không, sẽ có tình trạng đi thái quá và báo thù nhau vì các việc không đâu. Làn sóng phẫn nộ đã tạm thời lắng dịu từ lúc chúng tôi dồn hết tâm trí vào một vấn đề khác. Tôi dùng chữ tạm thời lắng dịu để nói lên rằng, việc ân oán giang hồ đối với hạng người làm mật báo hãm hại anh em trong tù là vấn đề làm nhức nhối nhiều người và không dễ gì có thể bỏ qua được.

Tôi còn nhớ, ngay trong lúc chúng tôi họp bàn về kế hoạch cướp tàu giải thoát tù nhân, cũng có người đến bên tôi xin, khi thành công sẽ cho thiết lập tòa án ngay trên tàu để xử bọn ăng-ten. Người này còn đưa ra một danh sách thành phần “ác ôn” trong trại Gia Ray mà theo anh, những tên này phải đền tội. Tôi đã gạt ngang ngay ý nghĩ đó và cho biết rằng đó không phải là mục đích của chúng ta, và nó lại càng không phải là việc của tôi.

Tôi nói lên điều này để những độc giả nào chưa bao giờ phải bước chân vào nhà tù cộng-sản, cảm thông được sự đau khổ và phẫn nộ của những người bị bọn ăng-ten hãm hại như thế nào. Trong một bài khác, tôi có nói đến hành động phản bội và làm tay sai cho cán bộ, để hãm hại anh em của một số tù chính trị miền Nam. Đó là điều làm tôi cảm thấy nhục nhã và đau đớn nhất trong 13 năm tôi sống trong tù cộng-sản.

Buổi sáng hôm đó, không ai có việc gì để làm, không còn vấn đề gì phải bận tâm nên làn sóng “diệt” ăn-ten tự nhiên lại nổi là điều cũng dễ hiểu. Lúc đó không còn cách gì có thể kềm hãm được cơn phẫn nộ của một sống đông đang dâng lên quá cao. Mặc dù tôi đã ngăn cản được một số người, nhất là những anh em Công giáo, nhưng tôi không thể nào ngăn chặn được tất cả. Bắt đầu vào khoảng 9 giờ sáng có vài cuộc cãi vã, sau đó rượt đánh nhau gây rối loạn tại nhiều nơi.

Phong trào diệt ăng-ten như một cơn dịch, càng lúc càng lan rộng ra và cường độ càng lúc càng dữ dội hơn. Những người bị rượt đánh chỉ còn nước chạy vòng quanh lẩn trốn. Nhưng chạy đâu cho thoát được ra khỏi cái khoang tàu đông nghẹt những người này? Có mấy người bị đánh tơi bời, máu me lênh láng. Họ bị đánh bằng đủ các kiểu, bằng tay chân, bằng ống điếu thuốc lào và bất cứ vật gì có thể dùng làm vũ khí. Tôi còn nhớ lúc đó trong khoang tàu có 2 anh đau chân phải đi chống gậy là anh Tô Tứ Hướng và anh Hùng “Si-cà-que”. Vô tình mấy cây gậy của 2 anh đã trở thành vũ khí đắc dụng cho những người chủ trương diệt ăn-ten.

Tôi không biết hết những ân oán giang hồ giữa họ với nhau trong trại Gia Ray, vì tôi mới chuyển lên đó một thời gian ngắn. Thường là những người bị rượt đánh đều chạy tới tôi để xin che chở. Trong hoàn cảnh ‘chẳng ai bảo ai’ được đó, tôi đã đứng ra công khai giải thích và xin tất cả các anh em dừng tay lại. Sau khi tôi lên tiếng, làn sóng phẫn nộ lắng dịu dần, dĩ nhiên là máu đã chảy ra khá nhiều. Nhưng cũng chính vì sự lên tiếng đó mà về sau này, khi ra tới miền Bắc, tôi đã bị chính những người tôi che chở tố cáo là tôi chủ trương đánh đập họ trên tàu. Tôi đã trả một giá rất đắt về việc này.

Cảng Hải Phòng

Khoảng 5 giờ chiều ngày 20 tháng Tư năm 1977, tàu Sông Hương dừng lại. Chúng tôi biết là mình đã tới một nơi nào đó ở miền Bắc, nhưng vì đang ở dưới hầm tàu nên không định thần được là mình đang ở đâu. Tàu đã bỏ neo khá lâu, nhưng chúng tôi vẫn chưa được lên bờ. Một lúc sau thấy có đoàn người ở các khoang khác bắt đầu lên bến. Từ lòng hầm tàu nhìn lên, tôi nhận ra một số người tôi quen vì cùng ở chung với tôi trong trại Phan Đăng Lưu, nhưng khi tôi chuyển lên Gia Ray, họ còn ở lại và bây giờ cũng có mặt trên chuyến tàu này. Mãi tới chạng vạng tối tù nhân ở khoang tàu chúng tôi mới được lên bờ, và khi lên tới nơi mới biết đó là bến cảng Hải Phòng.

Khi vừa lớn lên và bước vào tuổi mộng mơ, tôi luôn ôm ấp giấc mộng hải hồ. Tôi mong ước khi lớn lên sẽ trở thành một sĩ quan hàng hải hoặc một thủy thủ của một chiếc tàu biển để có dịp băng mình trên sóng nước đại dương. Nhưng điều tôi mong muốn nhiều hơn là được dừng chân nơi những bến bờ xa lạ. Mặc dù khi lớn lên tôi không thực hiện được giấc mộng hải hồ, nhưng không vì thế mà tôi mất đi tình yêu biển cả, yêu những con tàu vượt sóng nước đại dương và ham thích khi được tới những bến bờ xa lạ.

Hôm nay, vô tình mong ước của cuộc đời tôi trở thành hiện thực, nhưng được thành tựu một cách thật trớ trêu. Trong lần đi tàu biển đầu tiên này, tôi không phải như một thủy thủ mà bị nhốt dưới hầm như thân phận của loài gấu chó trong Sở Thú Sài Gòn. Giờ đây tôi đang được đặt chân lên một bến cảng xa lạ, nhưng không phải để thỏa chí tang bồng mà là để bắt đầu kiếp sống vô vọng trong thân phận người tù biệt xứ.


No comments: