Friday, August 20, 2010

LM.NGUYỄN HỮU LỄ * TÔI PHẢI SỐNG V

Tôi Phải Sống: 7- Cái Giá của Tự Do

toiphaisong_tua2

7- Cái Giá của Tự Do

Lúc này số người trong buồng 1 khu kiên giam đã thay đổi, không còn là số người hai tháng về trước. Việc xáo trộn người qua lại giữa các buồng tại khu kiên giam, cũng như ở khu kỷ luật là biện pháp của trại, đề phòng các tù nhân cấu kết nhau để tổ chức vượt ngục. Các anh em dưới “làng” lâu lâu cũng bị đổi buồng như vậy. Việc phân tán này không theo một quy luật thời gian nhất định nào, nhưng thường là cứ vài ba tháng đổi buồng một lần, nhưng nếu buồng nào có dấu hiệu gì khả nghi, sẽ bị đổi nhanh hơn. Sống chung trong buồng 1 với tôi lúc bấy giờ có những người sau đây:

- Anh Nguyễn Sỹ Thuyên, ngoài 50 tuổi, người lớn tuổi nhất trong buồng, nguyên là giáo sư dạy toán tại nhiều trường trung học ở Sài-Gòn. Anh là người có tinh thần quật khởi, lại có tài làm thơ và có nhiều bài thơ Đường rất hay. Anh cũng là người bạn tù lâu nhất của tôi trong buồng này. Chúng tôi bị giam chung với nhau ngay từ trại Gia-Ray ở trong Nam, đi chung chuyến tàu Sông Hương ra Bắc, ở chung tại trại Nam Hà, cùng bị đày lên Cổng Trời và cùng trong Nhóm 48 Quyết Tiến chuyển về trại này.

- Anh Trịnh Tiếu, 51 tuổi, Đại tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH). Anh đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Trưởng Phòng 2 của Quân Đoàn II, Tỉnh trưởng cuối cùng của tỉnh Ban Mê Thuột. Tôi gặp anh Tiếu tại trại Cổng Trời. Anh từ một trại ở miền Trung bị đưa lên đó sau tôi ít lâu và cùng chuyển về trại Thanh Cẩm trong nhóm 48 Quyết Tiến.

- Anh Đặng Văn Tiếp, 46 tuổi, Thiếu tá Không quân QLVNCH, sau đó làm Dân Biểu Quốc Hội. Anh là người anh kết nghĩa với tôi từ trên trại Cổng Trời. Anh Tiếp hiểu biết rộng và có nhiều kinh nghiệm chính trường. Vào tù, anh vẫn giữ thái độ hiên ngang bất khuất. Anh đã lãnh đạo cuộc chống đối trong trại Hà Tây và là một trong những tù chính trị miền Nam bị đày lên Cổng Trời sớm nhất.

-Anh Lâm Thành Văn, 40 tuổi, chủ xe đò chạy đường Sài Gòn – Đà Lạt, bị bắt vì tham gia tổ chức Phục Quốc. Anh Văn đã ở trại Thanh Cẩm khá lâu và bị lên kiên giam trước khi chúng tôi từ Cổng Trời chuyển tới đây.

- Linh Mục Nguyễn Công Định, 45 tuổi, Tuyên úy Quân Đội tại Cần Thơ. Tôi cũng gặp Cha Định tại Cổng Trời. Ngài từ trại Quân đội Yên Hạ chuyển lên đó cùng với một số Linh Mục Tuyên Úy khác sau tôi ít lâu. Cha Định cùng về trại này một lượt với tôi.

Tôi là người trẻ tuổi nhất trong buồng với 36 tuổi đời. Trong tù, anh em thường gọi tôi cách thân mật của người miền Nam là “cậu Bảy” theo thứ tự anh chị em trong gia đình. Một phần cũng tránh lối xưng hô theo tước vị tôn giáo không phù hợp trong hoàn cảnh này.

Tối hôm ngày chạm mặt bất ngờ với Đại tá Hoàng Thanh, tôi cảm thấy bất an trong lòng về một viễn ảnh đen tối đang chờ đợi tôi. Vụ âm mưu đánh cướp tàu Sông Hương chở tù nhân ra miền Bắc là một bản án treo của tôi. Mặc dù đã hai năm qua rồi, nhưng tôi biết cán bộ còn đang điều tra ráo riết về vụ này. Vụ tàu Sông Hương là một điểm “chạm nọc” trong tâm trí tôi. Mỗi lần nghe cán bộ nhắc tới, tôi cảm thấy lo âu cho tương lai của mình.

Từ lâu nay, tôi cũng đã chuẩn bị sẵn những câu trả lời trong trường hợp bị thẩm vấn về vụ này. Nếu không chối được thì tôi sẽ nhận lãnh hết mọi trách nhiệm trong âm mưu này để những anh em khác khỏi bị liên lụy vào. Tôi cũng biết là hình phạt dành cho tôi cũng sẽ tương xứng với tính cách nghiêm trọng của những việc tôi đã làm trong chuyến tàu đó. Tôi bàn riêng với anh Đặng Văn Tiếp, người anh kết nghĩa với tôi, về thái độ của Đại tá Hoàng Thanh và chia sẻ với anh một tương lai đen tối đang chờ tôi.

Anh Tiếp hiểu được tâm trạng của tôi vì ở trại Cổng Trời chúng tôi thường xuyên bàn định về con đường phải đi trong tương lai. Anh cũng biết số phận mà chế độ này sẽ dành cho anh, sau những hành động chống đối có tính cách bạo động của anh tại trại Hà Tây, nhất là sau vụ anh tổ chức lễ tang và đọc điếu văn tưởng niệm Luật sư Trần Văn Tuyên qua đời trong trại tù Hà Tây, vì anh Tiếp là một luật sư và ông Trần Văn Tuyên là thủ lĩnh luật sư đoàn trước kia. Đây là hành động mang màu sắc chính trị, một điều tối kỵ trong nhà tù cộng-sản.

Cả hai anh em tôi bàn đi tính lại nhiều lần trong những ngày tiếp theo và cảm thấy đã đến lúc phải tìm mọi cách thoát ra khỏi nơi này, điều mà chúng tôi ấp ủ từ lâu. Nếu thoát được, cuộc đời chúng tôi sẽ có nhiều thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Nếu chẳng may thất bại, chúng tôi sẽ phải trả một giá đắt. Điều này chúng tôi biết rất rõ và chấp nhận.

Anh Đặng Văn Tiếp là một luật sư, nguyên là Thiếu tá Không Quân QLVNCH. Sau khi giải ngũ, anh đã ứng cử Dân Biểu Quốc Hội đơn vị Tân Bình, tỉnh Gia Định và là Dân Biểu thuộc phe đối lập trong Quốc Hội cho tới ngày 30.4.1975. Trước kia tôi có gặp anh vài lần khi hoạt động trong Phong Trào Chống Tham Nhũng của Linh Mục Trần Hữu Thanh. Vào tù, chúng tôi gặp lại nhau ở trại Cổng Trời. Anh lên trại này trước tôi vài tháng. Lúc bấy giờ anh là một trong những người mà tôi mến phục vì anh là người có tư cách, hiểu biết rộng, từng trải việc đời và có khí phách hiên ngang. Tôi mến anh vì đức, kính trọng anh vì tài, và chúng tôi gặp nhau nơi ý chí kiên cường bất khuất ngay trong ngục tù cộng-sản.

Từ những điểm tương đồng và thái độ tương kính đó, chúng tôi dần dần thân thiết nhau và kết nghĩa anh em. Tôi nhận Tiếp là anh vì anh lớn hơn tôi đúng 10 tuổi. Con người nghĩa khí đó lại cũng vừa là người con chí hiếu, một người bạn tình chung thủy. Anh thường nói chuyện với tôi về người mẹ mà anh rất yêu quý và những kỷ niệm thật đẹp giữa anh và chị Huyền Thanh, người mà anh đã chuẩn bị để cưới làm vợ. Từ ngày gặp nhau trên trại Cổng Trời, anh Tiếp và tôi đều nghĩ rằng, chỉ có một cách duy nhất để sống còn là vượt ngục, vì chúng tôi biết nhà cầm quyền cộng-sản đã quyết định cho chúng tôi chết dần chết mòn trong trại tù. Câu nói ngắn gọn của Đại tá Hoàng Thanh càng tô đậm thêm cái tương lai vốn đã đen tối của tôi và khơi dậy một cách mãnh liệt ý định vượt ngục luôn luôn lảng vảng trong đầu óc tôi.

Khi còn ở Cổng Trời chúng tôi cũng đã một lần có ý định vượt ngục qua Trung Quốc, nhưng không thực hiện được vì bất ngờ bị đổi buồng ngay trong buổi trưa, trước đêm chúng tôi dự định hành động.[1] Biết rằng đây là việc vô cùng nguy hiểm, và tôi đã từng chứng kiến cái giá mà những người vượt ngục thất bại đã phải trả như thế nào, nhưng chúng tôi thấy không còn cách nào khác hơn là phải chấp nhận trả cái giá đó.

Vượt ngục và vượt ngục!

Lúc đang ở khu kiên giam tại trại Thanh Cẩm, tôi vẫn luôn có ý định vượt ngục. Tuy nhiên, vượt ngục từ khu kiên giam trại Thanh Cẩm quả thực là chuyện quá khó khăn vì có nhiều yếu tố bất lợi. Ngoài yếu tố nội tại với thân thể gầy còm, ốm yếu do thiếu dinh dưỡng sanh ra bệnh tật, cộng thêm buồng giam xây dựng kiên cố và chẳng có một thứ gì bằng kim loại trong buồng. Yếu tố ngoại tại cũng không kém phần khắc nghiệt.

Bên ngoài là 2 lớp hàng rào kẽm gai của khu kiên giam và cuối là bức tường cao bằng đá xanh, cao quãng 5 thước chung quanh trại, trên mặt tường là một hàng rào kẽm gai cao khoảng 1 thước. Có quá nhiều vấn đề phải giải quyết trước khi bắt tay vào việc. Trước tiên là phải thuyết phục để sáu người trong buồng đều đồng ý, nếu ai yếu quá không thể tham gia được, phải làm sao bảo đảm cho họ ở lại mà không bị hành hạ và ngược đãi.

Anh Tiếp và tôi bắt đầu bằng việc thăm dò tư tưởng của từng người, phải rào trước đón sau rồi mới dám gợi ý, vì nhỡ có ai không đồng ý và báo cáo ý định vượt ngục với cán bộ, lúc đó tai họa sẽ không lường được. Vì sống với nhau đã lâu, chúng tôi cũng đã một phần nào đoán biết được tâm trạng của nhau nên bắt đầu với những người có nhiều hy vọng nhất.

Khi nghe chúng tôi bày tỏ ý định, hai anh Nguyễn Sỹ Thuyên và Trịnh Tiếu đồng ý ngay, nhất là anh Thuyên rất mừng rỡ. Anh nói với chúng tôi:“Trời! Tôi đã mong ước chuyện này từ lâu! Tôi cám ơn hai ông rất nhiều”. Riêng anh Lâm Thành Văn còn lưỡng lự vì anh đang đau dạ dày khá nặng, nhưng cuối cùng rồi cũng đồng ý sau khi anh em hứa nâng đỡ nhau trên đường trốn thoát. Chúng tôi gặp trở ngại với Cha Nguyễn Công Định, ngài nhất định không tham gia. Sau khi nghe tôi đề cập tới vấn đề này một cách bóng gió, nửa đùa nửa thật, Cha Định trả lời tôi dứt khoát:

- Chừng nào được gọi tên là về, tôi không đi đâu cả, dù cửa mở cũng không đi đừng nói trốn!

Tôi hỏi lại:

- Nhưng nếu năm người chúng tôi đi cả thì bác tính sao?

Tưởng là tôi nói đùa, ngài trả lời:

- Các người đi thì cứ đi, tôi ở lại một mình chứ sao!

- Rồi bác trả lời sao với cán bộ?

- Trả lời sao kệ tôi!

Thấy câu chuyện đã đi vào ngõ cụt, tôi cười giả lả:

-Không đơn giản như bác nói đâu, nhưng mà này, nói chơi đấy nhá!

Chúng tôi gặp trở ngại khá lớn đầu tiên khi Cha Định quyết tâm ở lại. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn lén lút chuẩn bị những gì có thể làm được. Lúc bấy giờ còn phải đề phòng cán bộ và trật tự bên ngoài, và trong buồng phải làm sao cho Cha Định thấy như không có chuyện gì sắp xẩy ra. Chúng tôi nghĩ rằng Cha Định không hại chúng tôi, nhưng thái độ có vẻ lo lắng hay một lời nói vô tình nào đó của ngài có thể làm cho cán bộ và trật tự nghi ngờ có âm mưu trốn trại, lúc đó thì mọi chuyện sẽ hỏng khi chưa bắt đầu và hậu quả không lường được.

Không có cách nào khác hơn, nên năm người trong buồng quyết định vượt ngục, còn Cha Định ở lại. Vấn đề là bàn tính với nhau xem cách nào hay nhất để giúp Cha Định không bị tra tấn đánh đập sau khi chúng tôi trốn đi. Về thời điểm vượt ngục, chúng tôi đồng ý chọn ngày N là mồng 1 tháng 5 năm 1979. Ngày đó là ngày lễ Quốc Tế Lao Động, cả trại được nghỉ. Hơn nữa, theo kinh nghiệm chúng tôi biết thì hôm đó cán bộ được một bữa “bồi dưỡng”. Họ sẽ đánh chén say sưa và chểnh mảng trong việc canh gác ban đêm.

Dụng Cụ Đào Tường

Về dụng cụ đào tường, chúng tôi chỉ có một miếng sắt giẹp thật cứng, dài độ 20 phân được mài nhọn như cái đục. Đây là dụng cụ chủ yếu và duy nhất mà chúng tôi có trong tay để thực hiện cuộc vượt ngục. Dĩ nhiên là không có dụng cụ này thì đã không có kế hoạch tiếp theo. Miếng sắt này hình thù giống như ngọn giáo, gắn ở cánh cửa vào cầu tiêu. Một đầu có lỗ tròn nhỏ để xỏ vào khoen sắt có đầu nhọn như cây đinh đóng vào cánh cửa gỗ nhà cầu. Cây đinh dài ló đầu nhọn ra phía sau cánh cửa rồi bẻ gập lại, đầu kia của miếng sắt có xẻ rãnh rộng 1 phân dài 3 phân ở giữa để khi đóng cửa sẽ ập vào một thanh sắt hình chữ U gắn trên bờ tường, lúc đó thanh sắt hình chữ U sẽ nhô ra chui ngang khe rảnh của miếng sắt và có ống khóa bóp lại ở phần bụng của chữ U bên ngoài và cánh cửa không còn mở ra được.

Khi chúng tôi mới tới, cửa nhà cầu bị khóa lại và tù nhân phải đại tiểu tiện trong các ống bẩu bằng tre dựng bên ngoài cửa nhà cầu như tôi đã nói ở trên. Một thời gian sau cửa vào cầu tiêu được mở và chúng tôi sử dụng cầu tiêu qua một lỗ tròn có cái mẹt chứa phân bên dưới. Mỗi ngày có một anh tù mở cửa gỗ phía sau nhà, vào hầm gánh phân ra cung cấp cho đội trồng rau xanh.

Từ khi cửa được mở ra thì miếng sắt được treo lơ lửng vô dụng trên cánh cửa vào nhà cầu. Miếng sắt màu đen vô tội được đóng vào cánh cửa nhà cầu này vô tình trở thành cơn cám dỗ và cũng dự phần rất lớn vào việc thúc đẩy tôi thực hiện ý định vượt ngục. Ngay trong ngày đầu khi cửa vào cầu tiêu không còn khóa lại và thấy miếng sắt treo lơ lửng trên cánh cửa gỗ tôi đã nghĩ:“Tại sao mình không dùng miếng sắt trời cho này để đào tường vượt ngục?”

Khi quyết tâm thực hiện kế hoạch vượt ngục thì việc đầu tiên là chúng tôi lén lút tháo miếng sắt ấy ra, mài cho bén và gắn hờ trở lại chỗ cu, để khi hành động thì tháo ra dễ dàng. Nhưng cái khoen sắt có đầ nhọn như cây đinh, đóng vào cánh cửa để treo miếng sắt giẹp này lại to như chiếc đũa, và phía đầu nhọn ló ra sau cánh cửa được đóng gập lại rất chắc. Muốn lấy được miếng sắt giẹp này thì việc đầu tiên là phải làm sao kéo thẳng đầu nhọn của cây đinh, đóng gập sau cánh cửa ra mới cầm miếng sắt giẹp xoay tròn và rút ra được.

Trong hoàn cảnh khu kiên giam, chúng tôi không được giữ bất cứ một thứ gì là kim loại trong buồng, thì việc kéo thẳng đầu một cây sắt to bằng chiếc đũa đóng gập vào phía sau cánh cửa gỗ không phải là chuyện đơn giản. Nhìn qua ngó lại, tôi thấy chỉ còn sót lại hai thứ bằng kim loại là chiếc muỗng nhôm tôi cố gắng giấu được qua bao nhiêu lần khám xét và một vật bằng kim loại hợp pháp khác là cái quai xách của lon Guigoz đựng nước uống của anh Lâm Thành Văn, làm bằng ruột dây kẽm gai.

Anh Lâm Thành Văn ở khu kiên giam này trước chúng tôi và không hiểu vì lý do gì anh còn giữ được cái quai xách bằng dây kẽm này trong khi mấy anh em chúng tôi lên sau đã bị tháo vất đi hết và chúng tôi phải xé dây bao cát ra để làm quai xách cột trên miệng lon Guigoz khi lấy nước sôi.

Cái quai xách lon nước uống của Văn vô tình trở nên của quý! Chúng tôi tháo đoạn dây thép ấy ra, mài cho thật nhọn và nhủi một đường trên cánh cửa gỗ chui lòn bên dưới đầu nhọn gập lại của cây sắt. Sau khi xỏ lòn được đoạn dây kẽm bọc ra phía sau cây sắt, chúng tôi nối đoạn dây kẽm lại thành một khoen tròn và dùng thế đòn bẩy nại cây đinh thẳng ra! Vấn đề khó khăn coi như được giải quyết.

Sau đó chúng tôi tháo miếng sắt giẹp ra, mài đầu kia thật bén như dao và hơ khói cho đen lại, rồi gắn trở lại cánh cửa coi như không có chuyện gì xảy ra. Dĩ nhiên là việc này chúng tôi phải giấu Cha Định. Thời gian tiếp theo, miếng sắt vẫn treo lơ lửng trên cửa và từ cán bộ tới trật tự chẳng ai để ý gì tới cái miếng sắt nhỏ vô tội này. Nhưng nhóm chúng tôi, đặc biệt là cá nhân tôi thì không hiểu tại sao, cứ thỉnh thoảng tôi lại đưa mắt liếc nhìn miếng sắt đó, dù không muốn nhìn nhưng vẫn cứ phải nhìn!

Lúc bấy giờ chúng tôi cũng đã bảo nhau, nếu bất ngờ bị đổi buồng thì coi như không có gì xảy ra, còn trong trường hợp cán bộ hay trật tự phát giác ra miếng sắt bị tháo ra và mài nhọn, chúng tôi chỉ việc bày tỏ thái độ “vô cùng ngạc nhiên” là xong. Vì buồng này đâu có phải chúng tôi là những người chiếm ngự đầu tiên! Vả lại khi đưa chúng tôi vào buồng này có ai để ý gì hoặc là chụp hình vị thế của miếng sắt vô tội vạ ấy đâu.

Với miếng sắt nhọn và bén như lưỡi dao này, chúng tôi đã tạm yên tâm về dụng cụ đào tường, vì trong hoàn cảnh đó không thể tìm được thứ gì tốt hơn! Ngoài ra, còn có một cái muỗng bằng nhôm cũng có thể có chút giá trị nào đó, mặc dù chúng tôi biết là dụng cụ bằng nhôm rất mềm, nhưng đó là dụng cụ bằng kim loại duy nhất, sau miếng sắt “báu vật” mà chúng tôi đang có.

Về địa điểm để đào tường, sau khi đã nghiên cứu từng nơi từng chỗ và quan sát trong ngoài cẩn thận, chúng tôi thấy không còn chỗ nào tốt hơn là vách tường sau của cầu tiêu thông ra cái hầm chứa phân. Hầm này nằm bên dưới cầu tiêu của 4 buồng kiên giam và ăn thông ra phía sau của khu nhà bằng, bởi một con đường, chỉ rộng chừng một thước rưỡi như một cái rãnh nằm giữa hai buồng phía sau, vừa đủ cho người tù vào hầm gánh phân ra. Hầm chứa phân có một cánh cửa bằng gỗ chắc chắn, ban ngày mở ra nhưng chiều tối khi điểm danh được khóa lại.

Khu Nhà Bằng được xây dựng như chiếc bánh chưng được cắt làm tư nhưng hai buồng sau hẹp hơn hai buồng trước một chút vì bị xén đi mỗi bên một ít để làm cái rãnh thông vào buồng chứa phân này. Theo dự trù, sau khi chúng tôi đào xong bức tường sau của vách cầu tiêu, sẽ chui ra và lọt được vào hầm chứa phân. Xong lại phải đào bật tung bản lề cánh cửa gỗ của hầm chứa phân rồi mới có thể bò theo con hẻm giữa hai buồng phía sau, lần tới chân bức tường rào của khu, sau khi vượt qua bức tường này mới ra tới chân của bức tường xây bằng đá xanh cao 5 thước, có hàng rào kẽm gai cao quãng 1 thước ở bên trên. Bức tường trại này chỉ có một lối ra vào duy nhất là cổng trại nơi có lính canh gác ngày đêm . Cổng trại cũng là nơi ở và làm việc của cán bộ trực trại.

Nói tóm lại, nếu muốn thoát được ra bên ngoài, chúng tôi phải làm sao vượt qua được 4 trở ngại sau đây: bức tường bằng gạch phía sau cầu tiêu, cách cửa gỗ chặn lối ra vào của hầm chứa phân, bức tường thấp của khu kiên giam, và cuối cùng là bức tường bằng đá xanh của trại, cao 5 thước.

Từ khi có ý định đào tường vượt ngục, chúng tôi để tâm quan sát khu vực này và thăm dò tìm hiểu nơi các anh tù hình sự trong đội xây dựng đang xây cất khu nhà kỷ luật gần bên. Chúng tôi cũng dò hỏi mấy anh tù gánh phân thật cẩn thận về hình dạng, cách cấu trúc và giờ giấc đóng mở cửa của hầm chứa phân. Nói tóm lại chúng tôi điều nghiên vấn đề này, ngay tới cả những chi tiết nhỏ nhất theo cách thức và hoàn cảnh lúc bấy giờ cho phép.

Sau khi tìm hiểu những dữ kiện cần thiết, chúng tôi vẽ ra một bản đồ chi tiết bằng cách lấy than vạch lên bệ nằm để anh em cùng nghiên cứu, nhưng việc nghiên cứu bản đồ này cũng phải giả vờ như anh em ngồi xúm lại chơi cờ tướng trong lúc Cha Định ngủ trưa để tránh sự nghi ngờ của Cha Định.

Từ khi bắt đầu thai nghén kế hoạch cho tới ngày N (1-5-1979) chúng tôi có 2 tháng để điều nghiên và chuẩn bị. Có hai việc phải làm cùng một lúc là vừa âm thầm chuẩn bị dụng cụ, thăm dò tìm hiểu tất cả những chi tiết liên quan tới cuộc vượt ngục lại vừa phải canh chừng, đề phòng và khéo léo làm sao để Cha Định không nghi ngờ và đoán biết ý định của 5 người chúng tôi. Công việc sau này là việc khó nhất vì trong một căn buồng giam nhỏ chỉ vừa đủ chỗ cho 6 người nằm trở đầu ngược nhau mà chúng tôi phải giấu Cha Định mọi chuyện, từ lời nói tới các việc làm và cả ánh mắt cái nhìn nữa.

Hàng ngày tôi vẫn có thói quen ngồi bên cửa sổ nhìn lên trốc bức tường đá xanh, bao chung quanh trại và điều nghiên việc làm thế nào để có thể vượt qua bức tường đó một cách an toàn cho cả 5 người chúng tôi. Nếu chỉ riêng cá nhân tôi và anh Tiếp với anh Tiếu thì không đến nỗi nào, nhưng có anh Thuyên khá lớn tuổi và nhất là Lâm Thành Văn lại yếu vì chứng đau dạ dày, cần sự nâng đỡ của anh em trong nhóm nhiều hơn. Hàng ngày tôi vẫn ngồi ngước mắt nhìn bờ tường nhưng khi thấy Cha Định tới gần là tôi phải quay đi giả vờ đứng bên cửa sổ hít thở không khí và làm như không có chuyện gì xảy ra.

Phải nói là trong 2 tháng trời đó, anh Tiếp và tôi là người anh em giao cho công việc điều nghiên và chuẩn bị, chúng tôi đã phải vận dụng hết khả năng, tìm tòi, óc sáng kiến, óc tưởng tượng cho kế hoạch đầy nguy hiểm này. Sự có mặt của Cha Định đã làm cho công việc trở nên khó khăn gấp bội. Trong buồng chúng tôi vẫn phải giữ nhịp độ sinh hoạt bình thường như chơi cờ tướng, cờ domino. Vì không thể tìm đâu ra quân cờ thật nên chúng tôi dùng giấy vẽ chữ các quân cờ tướng và các điểm tròn của cờ domino để chơi giải trí và cho qua thời giờ. Khi cần trao đổi câu chuyện liên quan tới kế hoạch chúng tôi đợi lúc xuống sông Mã tắm giặt mới đứng gần nhau mà nói chuyện rù rì. Có những lần lợi dụng trong lúc phát thức ăn chúng tôi được vài phút ra sân làm vệ sinh mới có thể lén lút trao đổi vài câu chuyện.

Cũng may buồng giam có cánh cửa ngăn cách với khu vực có cầu tiêu và bể chứa nước bên trong nên có cần bàn việc gì chúng tôi đợi lúc Cha Định ngủ mới lén vô cầu tiêu mà bàn chuyện. Suốt trong hai tháng trời đó, chúng tôi cố gắng tìm hiểu và dự trù những chuyện có thể xảy ra, kể cả những chi tiết nhỏ nhất cũng được đặt ra, lại phải phân công nhau ra dòm chừng Cha Định. Vì tính cách quan trọng của cuộc vượt ngục nên chúng tôi dồn hết tâm trí và sức lực để chuẩn bị các thứ cần thiết. Chúng tôi đang sắp sửa chơi một canh bạc lớn, và trong canh bạc này, chính mạng sống của chúng tôi được đặt xuống chiếu bạc trước mặt.

Dốc Tâm Chuẩn Bị

Có quá nhiều chi tiết phải làm trong thời gian chuẩn bị cho chuyến đi định mệnh này. Chúng tôi phân công mỗi người lo một việc, nhưng luôn hội ý với nhau xem công việc tiến triển ra sao và có gì khó khăn phải giải quyết. Có hai kế hoạch được đặt ra. Kế hoạch một là nếu thoát ra được bên ngoài trước nửa đêm, chúng tôi sẽ đi vào rừng về hướng Tây qua biên giới Lào, để rồi từ đó tìm đường qua Thái lan. Kế hoạch hai, nếu bị trở ngại và ra bên ngoài muộn, chúng tôi sẽ xuôi dòng sông Mã để ẩn nấp, chờ dịp tốt sẽ đi vào rừng.

Chúng tôi quyết định nếu ra ngoài được chỉ có hướng đi duy nhất là đi băng qua rừng để tới đất Lào, rồi từ Lào tìm qua Thái Lan. Theo kế hoạch đó, yếu tố thời gian thật vô cùng quan trọng, phải cố gắng vượt qua được biên giới Việt-Lào cách trại 30 cây số càng sớm càng tốt, vì chúng tôi không thể nán ở lại sống trà trộn trong dân chúng tại miền Bắc được.

Khi còn ở trại Cổng Trời, chúng tôi đã học được kinh nghiệm của mấy anh em tù Biệt Kích là những người được huấn luyện kỹ lưỡng để thả ra Bắc, nhưng cuối cùng cũng bị dân chúng phát giác. Điều trở ngại đầu tiên là giọng nói giữa hai miền Nam-Bắc khác nhau quá xa, vừa mở miệng ra là người khác sẽ biết ngay người đó ở vùng nào trên đất nước! Hơn nữa, dân chúng trong vùng Thanh Hóa này, nhất là những người Mường ở chung quanh trại Thanh Cẩm này rất nghèo và mỗi lần bắt được tù vượt ngục, họ được thưởng công rất hậu hĩnh. Họ được thưởng gạo, rượu và bằng khen.

Gạo và rượu dĩ nhiên rất quý báu đối với người dân thiếu ăn gần như quanh năm trong vùng núi đá và thiên nhiên rất khắc nghiệt này, nhưng thức ăn chỉ có giá trị tạm thời. Riêng bằng khen mới là điều người dân trong vùng mơ ước vì có giá trị về lâu về dài. Trước tiên là được miễn góp ngày công lao động cho hợp tác xã, sau đó còn được ưu tiên trong những đợt cấp phiếu mua nhu yếu phẩm trong các dịp Tết hoặc trong những đợt mua hàng tiêu chuẩn bất thường khác trong năm. Nói tóm lại, công việc bắt tù vượt ngục là một nghề tay trái kiếm ăn rất khá của dân chúng trong vùng rừng núi chung quanh trại.

Vì thế khi vừa nghe 3 tiếng súng báo động cho biết có tù vượt ngục, là mạnh ai người ấy chạy đi săn lùng. Có người còn mang bao tải theo sẵn để bắt được tù là có ngay 30 ký gạo của trại tù thưởng công, mang về cho gia đình ăn bữa cơm tiếp theo. Tôi còn nghe nói ở những trại chỉ có tù hình sự mà thôi thì phần thưởng không đáng gì, nhưng các trại giam tù chính trị miền Nam như trại Thanh Cẩm thì việc bắt được tù vượt ngục quả là niềm mơ ước thường xuyên của dân chúng. Biết như vậy nên chúng tôi quyết định nếu thoát ra ngoài được là phải trốn biệt trong rừng, tránh tiếp xúc với bất cứ một con người nào khi còn trên phần đất quê hương.

Điều an ủi là vùng rừng núi hiểm trở này dân cư rất thưa thớt và đa số là người dân tộc thiểu số, những người có truyền thống chịu đựng sự khắc nghiệt của con người và của thiên nhiên. Người dân trong vùng phần đông sống bằng nghề trồng trọt và đốn củi rừng. Những anh tù hình sự cho biết, chung quanh trại và cả đi sâu vào rừng cũng có những nương sắn nương khoai của dân chúng.

Có khi họ chỉ trồng xuống rồi phó mặc cho thiên nhiên, tới ngày thu hoạch thì vác mai, vác cuốc vô rừng đào khoai giở sắn mang về. Có khi thu hoạch được khá nhưng phần đông đã bị tàn phá bởi thiên nhiên, bởi thú rừng và nhất là bởi đám tù tự giác hình sự. Dĩ nhiên là khi trù tính kế hoạch vượt ngục và việc mưu sinh thoát hiểm, chúng tôi cũng nghĩ tới các ruộng trồng khoai sắn này.

Nếu trường hợp phải trốn xuống sông Mã, chúng tôi phải đề phòng dân đánh cá trên sông. Trại Thanh Cẩm nằm trên vùng thượng nguồn sông Mã nên cá chẳng có bao nhiêu. Về mùa nắng, nước sông rất cạn và chảy lờ đờ có chỗ còn lòi cả đá ở đáy sông lên. Lúc bấy giờ chỉ có loại cá nhỏ như cá mương. Dù vậy khi có mưa, nước sông sẽ dâng lên rất nhanh vì bao nhiêu nước trên rừng đổ xuống. Nếu hôm nào mưa to thì nước sẽ dâng thật cao, cao gần tới bờ sông và nước đổ xuôi dòng mạnh như thác, mang theo cây cối, gỗ lạc, gia súc, có khi cuốn băng cả ghe xuồng nhà cửa của dân chúng ở hai bên bờ sông.

Sau những lần mưa to, sông có nhiều nước và cá mương cũng nhiều, đó là lúc người dân đánh cá hoạt động khá nhiều trên sông. Cá mương là loại cá nhỏ, chỉ to bằng ngón tay, đi từng đàn và tìm thức ăn trên mặt nước. Người dân đánh cá mương phải phối hợp đi trên hai chiếc thuyền, một lớn, một nhỏ. Thuyền lớn một người chèo và một người điều khiển cái vó trước mũi (Vó là tấm lưới có hai càng căng ra), còn thuyền nhỏ có người chèo và một đứa trẻ con ngồi cầm chiếc mõ bằng ống tre.

Khi người bên thuyền lớn hạ vó xuống nước thì thuyền nhỏ chèo ra xa trước mũi thuyền nhỏ, trong khi đứa bé cầm mõ ghe gõ lóc cóc, lóc cóc liên hồi để đuổi đàn cá mương chạy vào vó và người bên thuyền lớn cất vó lên. Có những lúc trúng, cũng được khá nhiều cá trong mỗi lần cất vó, nhưng thường thì chỉ được dăm ba con, có khi chẳng có con nào!

Vì trại Thanh Cẩm nằm không xa bờ sông Mã bao nhiêu, nên những tiếng mõ lóc cóc của người dân đánh cá mương trở thành âm thanh quen thuộc đối với chúng tôi. Nhất là về đêm, tiếng mõ càng vang xa nghe rõ mồn một, như một điệu nhạc buồn trên sông Mã, lúc nào cũng chỉ có hai nốt: lóc cóc, lóc cóc, lóc cóc!

Có những đêm về sáng, tôi nằm trong kiên giam nghe văng vẳng tiếng mõ của người đánh cá mương trên sông, hòa lẫn với tiếng kêu gọi sáng của loài chim rừng lúc nào cũng 4 tiếng đi liền mà anh em tù chúng tôi nghe là chim “bắt cô trói cột, bắt cô trói cột!”. Rồi tới giờ, lại có thêm tiếng cồng trại tập trung phát ra từ thanh sắt gõ vào cái vỏ bom sắt treo bên ngoài cổng trại, đánh thức tù dậy đi lao động. Ba thứ âm thanh đó hòa lại với nhau vọng tới tai người tù biệt xứ, như một bản hợp tấu thật não nề, giữa núi rừng Thanh Cẩm!

Song song với chi tiết vượt ngục, chúng tôi cần phải có một thang dây để leo qua bờ tường đá cao 5 thước bao quanh trại. Sở dĩ chúng tôi cần thang dây vì anh Lâm Thành Văn lúc bấy giờ khá yếu, không thể bám dây cột gút để leo lên tường cao như các anh em khác. Một vấn đề được đặt ra là làm thế nào móc được thang dây trên trốc bức tường, trong khi chúng tôi ở khu kiên giam này không “một tấc sắt trong tay”!

Lúc đó tôi để ý và thèm đến rỏ dãi, mấy cái móc sắt trong hai quang gánh của Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát dùng để gánh cơm nước lên khu kiên giam và kỷ luật. Đây là một dụng cụ thật lý tưởng để móc đầu thang dây lên trốc bờ rào, nhưng chúng tôi rình mãi mà không thể nào lấy được các móc sắt đó. Sau cùng, chúng tôi phải tìm cách làm một móc sắt theo cách thức của mình.

Tôi cho là một sự may mắn khác khi tôi chợt để ý tới đoạn dây phơi quần áo của tù trong sân khu kiên giam ngay trước cửa buồng 1 của tôi. Vì chỉ có khoảng sân này là rộng nhất trong 4 buồng của khu kiên giam Nhà Bằng, nên có chôn hai cái giá gỗ cách chừng 4 thước để căng mấy dây phơi, cho tù nhân phơi áo quần, mỗi lần được đi tắm giặt dưới sông Mã lên. Các dây phơi này thật bệ rạc. Có đoạn bằng dây ny lon, có sợi làm bằng dây điện nhưng có một đoạn làm bằng dây thép gai đã được gỡ bỏ hết gai nhọn. Tôi chú ý đoạn dây thép này.

Tôi quyết tâm phải đánh cắp đoạn dây thép này để làm cái móc sắt cho đầu thang dây. Nhưng đánh cắp được đoạn dây thép này cũng không phải là chuyện dễ, vì mỗi lần đi tắm về, chúng tôi phơi quần áo chưa xong là trật tự đã giục vào buồng, có giờ đâu mà ra tay? Khổ nỗi, chỉ có lúc sau khi tắm đó chúng tôi mới có lý do để “đụng” tới dây phơi giữa sân. Sau cùng, tôi cũng tìm ra được giải pháp.

Dựa vào yếu tố tâm lý, tôi biết là chẳng bao giờ có ai để ý tới đoạn dây phơi quần áo của tù trong khu kiên giam làm bằng chất liệu gì. Làm bằng gì đâu có là vấn đề, điều quan trọng là đoạn dây phơi còn đó để mỗi khi tắm giặt có chỗ phơi áo quần là được rồi. Chỉ trừ trường hợp đoạn dây đó mất đi thiếu hụt chỗ phơi mới có người để ý. Nhưng nếu có ai thắc mắc, thì chỉ là những người tu, vì không có chỗ cho họ phơi áo quần, họ phải xin cán bộ cho dây khác. Riêng cán bộ và hai anh trật tự thì để ý làm gì về sợi dây phơi của tù.

Nghĩ như vậy nên chúng tôi âm thầm chuẩn bị một sợi dây bện bằng sợi tháo ra từ bao cát, có màu sắc và độ to bằng dây thép gai dùng để phơi áo quần bên ngoài. Sau đó mỗi lần đi tắm về, trong lúc giả vờ phơi áo quần, chúng tôi chia phiên tháo dần hai đầu dây thép và cột hờ lại đừng để cho rơi xuống. Làm thế nào để trong lần cuối cùng, dây thép này sẽ tháo ra thật dễ dàng, và cột dây bằng sợi bao cát thế vào, mà không ai chú ý. Điều quan trọng là trong lần cuối cùng, việc này phải làm cho thật nhanh và tránh sự chú ý của tất cả mọi người khác.

Tôi được anh em giao phó công tác chết người này, vì nó là sáng kiến của chính tôi! Một kế hoạch chi tiết “tiền vượt ngục” này đã được 5 người thảo luận kỹ càng, chờ tới ngày đi tắm sắp tới là thực hiện. Tôi đợi chờ trong lo âu!

Thử Thách Đầu Tiên

Sáng hôm đó là ngày quyết định. Theo đúng kế hoạch cả 5 người chúng tôi, hôm buổi sáng được xuống sông Mã tắm đó, ai cũng mang một ít quần áo đi giặt. Riêng hai người cao nhất trong nhóm là Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn còn giặt cả màn nữa!

Sau khi đi tắm về, chúng tôi tới bên dây phơi giữa sân trước cửa buồng phơi áo quần như thường lệ. Hôm đó cán bộ võ trang dẫn chúng tôi đi tắm không theo vào sân khu kiên giam, chỉ có hai anh trật tự, đang đi lại lảng vảng, chờ chúng tôi phơi quần áo xong thì lùa vào buồng khóa cửa lại.

Vì đã phân công trước, nên trong lúc 4 người bạn giũ áo quần và chăn ra “phơi” để che mắt Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát, tôi lẹ làng cột dây giả vào, và tháo đoạn dây thép, cuộn tròn lại nhét vào người. Tôi hành động nhanh như máy. May mắn làm sao! Không ai thấy, và sau này cũng chẳng ai biết gì về sợi dây phơi “dỏm” mà tôi đã cột thay vào giá phơi áo quần này.

Mang đoạn dây thép “báu vật”về buồng, chúng tôi quấn nhập lại nhiều lần rồi uốn thành cái móc sắt thật lý tưởng cho thang dây. Trong lúc chờ đợi, chúng tôi dấu móc sắt này trong bể nước gần bên cầu tiêu. Sau miếng sắt giẹp, cái móc sắt này là báu vật thứ hai mà chúng tôi có lúc bấy giờ. Điều đáng nói là cho tới lúc đó Cha Định vẫn chưa biết gì về hai món “báu vật” này. Chúng tôi đã có móc sắt cho chiếc thang dây, nhưng chính chiếc thang dây lúc đầu tưởng là dễ dàng, nay lại hóa ra vô cùng rắc rối, mặc dù trong kế hoạch vượt ngục, chúng tôi đã dự trù tất cả mọi trường hợp có thể xảy ra.

Trong buồng kiên giam lúc đó trống trơn, chỉ có một chỗ duy nhất chúng tôi có thể cất giấu “món đồ phi pháp” trước lúc vượt ngục là cái bể nước tối om, nằm kế bên cầu tiêu. Bể này hứng nước mưa từ mái “Nhà Bằng” chảy xuống qua cái lỗ hổng ngay trên miệng bể. Trong mùa khô hoặc lúc trời không mưa, có mấy anh tù trong đội gánh nước cung cấp nước, gánh lên và đổ vào bể từ một cánh cửa bên hông buồng. Thành bể cũng được xây đụng nóc nhà chỉ chừa một lỗ hổng chừng 50 phân vuông có song sắt và cao trên đầu người.

Mỗi chiều khi điểm danh và trước khi khóa cửa buồng giam, lần nào cán bộ hoặc trật tự cũng bước vào khu vực cầu tiêu kiểm soát, nhưng chỉ coi có nơi nào bị đào khoét gì không và chẳng bao giờ để ý trong bể nước có gì. Một phần trên miệng bể chỉ có một lỗ vuông nhỏ chắn song sắt, phần khác khu vực này luôn luôn là tối om, muốn nhìn vào bên trong bể nước phải đứng trên một thứ gì kê lên cao và phải dùng đèn bấm mới thấy được. Trong khi đó khi cần giấu thứ gì, chúng tôi thả ngầm dưới đáy hồ, có những đoạn dây cột tua tủa, khi cần thì dùng móc sắt rà kéo lên.

Đề phòng trường hợp bị xét buồng hay đổi buồng bất ngờ, chúng tôi đã có thủ sẵn một cái bao cát, bên trong có những hòn đá mà khi đi tắm chúng tôi nhặt về. Nếu thình lình có “động” là chúng tôi sẽ cho tất cả “đồ nghề” vào cái bao cát có dằn đá sẵn để dìm xuống dưới đáy bể nước. Nếu chỉ là khám xét rồi lại vào buồng cũ, thì sẽ vớt bao lên tiếp tục kế hoạch, nhưng trong trường hợp đổi buồng thì coi như là “ý trời”. Về sau này vô tình cán bộ phát hiện ra chiếc bao cát đó, cũng chẳng biết là của ai vì đã có biết bao nhiêu lớp tù, đến rồi đi, trong 4 buồng của khu kiên giam Nhà Bằng như một thứ nhà trọ của khách vãng lai này.

Cho tới một vài ngày trước lễ Lao Động năm đó chúng tôi cũng chưa chắc là kế hoạch có thể thực hiện được, vì trước những dịp lễ lớn bao giờ cũng có cuộc khám xét “nội vụ” và có thể bị xáo trộn tù nhân giữa các buồng trong khu kiên giam. Đây là biện pháp an ninh thông thường. Những dịp khám xét đồ đạc, chúng tôi biết trước, nhưng việc đổi buồng thì không theo một định kỳ nhất định nào. Thông thường thì đổi trước các dịp lễ, nhưng cũng có lúc tự nhiên một người hoặc vài người bị gọi ra chuyển qua buồng khác.

Có điều rất lạ, mặc dù tôi đã biết trước những dịp khám xét buồng theo định kỳ nhất định trong năm rồi, nhưng mỗi lần khám xét, mà chúng tôi gọi là “bán chợ trời” đó tôi vẫn cảm thấy lo lắng, chán nản mệt nhọc và gần như muốn bệnh! Sở dĩ gọi là “bán chợ trời” vì tất cả “nội vụ” của chúng tôi được mang hết ra khỏi buồng, bày từng cụm từng cụm giữa sân và ngồi gần bên đó chờ cán bộ và trật tự tới lục tung hết lên. Nhìn cảnh này, thật không có gì ngán cho bằng. Ai cũng biết là trong tù chật chội và chúng tôi đã phải thu xếp áo quần chăn chiếu và đồ dùng thật gọn gàng mới có đủ chỗ để nằm và sinh hoạt trong buồng. Sau mỗi lần khám xét là lục tung tóe như vậy, có khi hàng tuần lễ sau cũng chưa có thể xếp gọn lại được.

Sau khi đã khám xét xong và của ai người ấy ôm trở vào buồng, lúc đó nhìn càng ngán ngẩm hơn! Lúc đó đồ đạc, áo quần chăn chiếu mùng mền, chén bát…vương vãi khắp nơi. Trong lúc đó bao giờ tôi cũng nằm ngửa lên trên đống đồ đạc nhắm mắt một lúc cho lại sức, sau đó mò dậy hút điếu thuốc lào trước khi bắt đầu việc thu xếp lại “nội vụ”! Tôi nhìn các anh em khác và thấy hình như ai cũng có tâm trạng và hành động như tôi lúc bấy giờ. Những cuộc khám trại thông thường là như vậy, nhưng nếu những lần khám trại sau cơn mưa hoặc đang lúc khám mà bị mưa thì càng khốn nạn hơn!

Một điều ngán ngẩm khác nữa trong lúc khám trại là chúng tôi sẽ bị tịch thu hoặc là bị vất đi một số đồ dùng mà chúng tôi đã ra công góp nhặt được. Trong tù thì cái gì cũng quý, cái gì cũng cần dùng và cái gì cũng sẽ có công dụng của nó, từ một mảnh giấy báo, một đoạn dây ni-lông, một cái lon rỉ sét, một mảnh vải rách, một cái hộp nhựa, một bao ni-lông…tất cả đều là của quý . Chúng tôi nhặt những thứ này trong những lần đi tắm, và phải mắt trước mắt sau, mới dám tạt ngang qua đống rác bên ngoài cổng trại để thu hoạch được những thứ đó, nhưng mỗi lần khám trại, cán bộ và trật tự lấy vất đi, không thương tiếc.

Trong lần khám trại trước lễ Lao Động năm 1979 đó, chúng tôi càng ngán hơn vì có thể hỏng kế hoạch vượt ngục đã tới hồi kết thúc. Mặc dù chúng tôi chưa có thứ gì có thể bị hồ nghi là chuẩn bị vượt ngục, nhưng có 3 thứ chúng tôi vẫn lo sợ bị phát giác. Trước hết là miếng sắt đã được mài thật bén hơ khói cho đen, và gắn lại trên cánh cửa vào cầu tiêu, thứ nhì là cái móc sắt và cái bao cát dằn đá thả chìm trong đáy hồ nước và thứ ba là số muối khá nhiều của Lâm Thành Văn, mặc dù đã cẩn thận phân tán cho 5 người, mỗi người giữ một ít trong lúc mang đồ đạc ra trong khi khám trại.

Vì biết là phải đi một thời gian lâu trong rừng, chúng tôi cố gắng để dành một ít muối ăn đọc đường. Số muối này được bòn mót từ phần muối ít oi của anh Lâm Thành Văn được cấp phát mỗi bữa ăn, vì anh đau dạ dầy không ăn được khoai sắn, nên trại cho ăn cháo trắng và muối. Và dĩ nhiên điều lo sợ cuối cùng là nếu chúng tôi bị đổi buồng thì coi như xong chuyện.

Rồi cuộc khám trại trong dịp Lễ Lao Động năm đó cũng qua đi, không có xáo trộn người giữa các buồng. Các tù nhân ở buồng nào về lại buồng đó, để chuẩn bị “mừng” lễ Lao Động. Riêng 5 người trong nhóm âm mưu vượt ngục chúng tôi cũng về lại buồng 1 cùng với Cha Định. Thời gian quyết liệt đã tới!

Cho tới lúc gần ngày lễ Lao Động rồi mà Cha Định chưa biết gì, và chúng tôi đợi sau khi khám trại xong mới bắt đầu làm chiếc thang dây. Khi anh Tiếp và tôi đập các ống bẩu ra lấy thanh tre làm nấc ngang cho thang dây, nghe tiếng động bên trong nhà cầu phát ra, Cha Định bên ngoài hỏi vọng vô:

- Các người làm gì thế?

Cha Định rất là “bất hòa hợp” với chúng tôi. Ngài luôn luôn gọi chúng tôi là “các người” thay vì tiếng “các anh”. Tôi lên tiếng trả lời:

- Bọn này đập ống bẩu ra làm đóm thuốc lào bác ạ!

Từ bên ngoài, Cha Định nói vọng vào, bằng giọng nói nghe sắc bén như lưỡi dao của người thái thịt:

-Này, các người cẩn thận đấy nhé!

Chúng tôi ngừng tay và yên lặng nhìn nhau sau câu nói đó. Thật tình tôi không hiểu hai chữ “cẩn thận” mà Cha Định vừa nói có ý nghĩa gì? Nó mang ý nghĩa sự khuyên lơn, sự che chở hay sự đe dọa. Tôi cầu mong cho hai nghĩa trước đúng, nhưng trong lòng tôi bắt đầu áy náy sợ câu nói này rơi vào nghĩa thứ ba! Nhưng dù trong ý nghĩa nào đi nữa, từ đó trở đi chúng tôi rất cẩn thận, tránh gây sự chú ý của Cha Định. Như tôi đã nói vì Lâm Thành Văn bị đau dạ dày và yếu nên phải cần thang dây cho anh. Tuy nhiên không làm sao có thể tìm ra dây được. Chúng tôi nghĩ tới áo quần, nhưng áo quần cũng không đủ. Cuối cùng phải dùng chăn xé ra kết lại thành giây.

Chúng tôi xé một chăn mỏng xếp lại mấy lớp và may thành những đoạn dây dài. Trong thời gian chuẩn bị vượt ngục tôi đã làm một cây kim khá to bằng cây đinh 6 phân nhặt được lúc đi tắm. Phải mất khá lâu mới mài cây đinh nhỏ lại thành cây kim, tôi dùng đá đập dẹp một đầu và dùng mảnh thủy tinh cứa đi cứa lại cho tới khi thủng lỗ có thể xỏ chỉ qua. Chúng tôi dùng chỉ tháo ra từ bao cát là loại chỉ rất chắc chắn để may các lớp chăn lại với nhau. Sau khi có dây, chúng tôi dùng các thanh tre đập ra từ các ống bẩu cũ làm các thanh ngang của chiếc thang.

Ngoài sự chuẩn bị các dụng cụ cần thiết ra, hàng ngày chúng tôi ngồi lại điều nghiên về cách thức đào tường và ước tính thời gian dự trù cho mỗi giai đoạn. Phải nói là không một chi tiết nào mà chúng tôi không dự trù, không bàn tính và không tìm cách giải quyết. Sau khi có thang dây, chúng tôi đã lén Cha Định, mang vào cầu tiêu móc thang lên song sắt bể nước và đứng lên nhún, thử độ bền chắc của chiếc thang.

Trù tính thì giờ là việc chúng tôi suy nghĩ bàn tính nhiều nhất, phải mất bao nhiêu thời gian cho việc đào tường, bao nhiêu thời gian đào cửa vào hầm chứa phân, ra khỏi hầm chứa phân rồi phải canh chừng cán bộ tuần tra ban đêm như thế nào trước khi leo qua tường rào giữa các khu. Bao nhiêu thời gian để cả 5 người vượt qua được bức tường bao quanh trại và bao nhiêu nhiêu thời gian để vào rừng. Nói chung những gì chúng tôi có thể nghĩ ra và tiên liệu, chúng tôi đã làm tới mức tối đa. Trong đó việc vượt qua bức tường trại cao 5 thước bên trên có hàng rào kẽm gai được chúng tôi nghiên cứu và phân công thật cẩn thận. Vì 5 người chúng tôi khác nhau về tình trạng sức khỏe, về tuổi tác và sự tháo vát nên kế hoạch chi tiết về việc này được phân chia như sau:

Khi ra đi, Đặng Văn Tiếp sẽ thủ chiếc thang dây có thanh tre ngang để leo lên và một đoạn dây thòng ra bên ngoài để tuột xuống, và anh sẽ là người ra ngoài đầu tiên. Kế đó là Nguyễn Sỹ Thuyên, người thứ ba và ở giữa là Lâm Thành Văn, người thứ bốn là Trịnh Tiếu và cuối cùng là tôi. Phân chia như thế vì anh Đặng Văn Tiếp tháo vát và xông xáo nhất, Lâm Thành Văn vì yếu nên cần có hai người bên ngoài và hai người bên trong nâng đỡ. Tôi là người trẻ nhất, ra sau cùng, có nhiệm vụ gỡ thang dây và đoạn dây bên ngoài để phi tang và nếu có gì trục trặc thì tôi còn có thể xoay xở được.

Chi tiết thực hiện sẽ như sau: Ra tới chân tường, Đặng Văn Tiếp sẽ đứng trên vai tôi và anh Trịnh Tiếu, tay cầm thanh tre đã cột sẵn móc sắt trên đầu thang dây, móc vào trụ sắt của hàng rào kẽm gai trên trốc bức tường, và lần theo thang dây leo lên. Tới đầu tường sẽ cột đoạn dây khác thòng ra bên ngoài tường và bám vào dây đó tuột xuống. Những anh em khác sẽ theo thứ tự như vậy, cũng leo lên vai Tiếu và tôi rồi bám thang dây leo ra. Anh Tiếu là người áp chót sẽ đứng lên vai tôi, còn tôi một mình sẽ leo ra sau cùng một cách dễ dàng. Thứ tự đó được nghiên cứu cẩn thận vào những buổi trưa, lúc Cha Định không để ý, chúng tôi vào buồng cầu tiêu thực tập công việc leo qua tường này.

Đợi Chờ Trong Âu Lo

Tôi cảm thấy lúc bấy giờ thời gian đi quá mau. Chưa chi đã tới ngày 1.5.1979, ngày lễ Quốc Tế Lao Động, một ngày rất quan trọng đối với chúng tôi. Lễ Quốc Tế Lao Động là một ngày lễ được mừng khá lớn trong chế độ cộng sản. Trưa hôm ấy, các tù nhân chúng tôi được ăn một bát cơm trắng, một bát canh và vài ba miếng thịt heo to bằng đầu ngón tay cái. Đó là một trong năm hoặc sáu lần tù nhân chúng tôi được “ăn tươi” trong một năm.

Trong bữa ăn, năm người chúng tôi cùng ngồi lại bên nhau để nói lên lời thề hứa sẽ nâng đỡ nhau trên bước đường gian nan thử thách sắp đến, sẽ coi nhau như anh em ruột thịt và giúp nhau trong cuộc sống tương lai. Sau đó, chúng tôi nghỉ ngơi và chuẩn bị tinh thần cho công việc quan trọng tối nay.

Nói là nghỉ ngơi nhưng thực ra tôi có nghỉ gì được đâu. Nhớ lại trước đây hai tháng, khi ý định vượt ngục từ khu kiên giam này mới được manh nha thành hình, chúng tôi hội ý nhau để chọn ngày lý tưởng là đêm 1 tháng 5. Khi quyết định chọn ngày đó, tôi thấy không có gì phải suy nghĩ. Vì ngoài tất cả yếu tố thuận lợi khác, thì ngày 1 tháng 5 lúc đó hãy còn khá xa, còn đủ thời gian để chuẩn bị. Vả lại từ đó tới ngày thực hiện kế hoạch có thể còn xảy ra nhiều chuyện bất ngờ trong môi trường tù tội vốn có quá nhiều chuyện bất ngờ này.

Nếu xảy ra việc đổi buồng, hoặc có một người lạ được đưa vào đây, hay một anh em nòng cốt nào trong số 5 người chúng tôi bị chuyển qua buồng khác hoặc một người bị bệnh bất ngờ hay…Có biết bao nhiêu chuyện bất ngờ có thể xảy ra và cho dù một chuyện nhỏ nhất cũng bắt buộc chúng tôi phải bãi bỏ kế hoạch. Nhưng rồi mọi việc qua đi một cách trơn tru nhẹ nhàng trong thời gian hai tháng qua. Không có ai bị đổi đi buồng khác, cũng chẳng có ai khác vào buồng này. Như vậy việc chuẩn bị đang được tiến hành từng bước với mỗi ngày qua đi gần tới ngày định mệnh của đêm nay.

Trước đó chúng tôi vẫn luôn cầu mong, nếu may mắn Cha Định được chuyển đi buồng khác thì không còn gì lý tưởng hơn. Nhưng cầu mong chỉ để cầu mong thôi, làm gì có chuyện quá may mắn như vậy. Thực tình mà nói, tôi thấy tỷ lệ phần thắng trong cuộc vượt ngục này khá thấp so với những vấn đề khó khăn mà chúng tôi đang gặp phải. Việc khó khăn hàng đầu là sự có mặt của Cha Định. Chúng tôi đang dồn hết sức lực và tâm trí vào một việc làm cực kỳ nguy hiểm như vậy, một sai sót nhỏ cũng có thể mất mạng như chơi, thế mà chúng tôi không dám bàn tán chia sẻ ý kiến với nhau chỉ vì sự có mặt của Cha Định. Thậm chí chúng tôi ít khi dám ngồi gần nhau lâu vì sợ Cha Định nghi ngờ là có âm mưu gì đây.

Nếu gặp phải một người tù nào khác có lẽ sẽ đỡ hơn, đàng này Cha Định với tánh tình khinh khỉnh và không hòa hợp được với bất cứ người nào trong 5 anh em chúng tôi thì càng có lý do để chúng tôi đề phòng. Nếu không khéo, Cha Định chỉ cần viết một mảnh giấy con, cuốn lại bằng cây tăm búng ra ngoài cho cán bộ tố cáo âm mưu của chúng tôi thì sao? Chính vì lý do đó, tuy thời gian dài hai tháng trôi qua mà thực sự chúng tôi chưa có thể chuẩn bị sẵn sàng tất cả những gì đáng lẽ phải chuẩn bị và bàn bạc nhau kỹ lưỡng và chi tiết hơn.

Vấn đề vô cùng quan trọng là chiếc thang dây, chúng tôi đã làm rồi nhưng chưa được đưa ra thử độ chắc độ bền của các dây vải một cách cẩn thận, chỉ vì Cha Định luôn có mặt trong buồng. Ngay cả việc tháo miếng sắt trên cánh cửa mài cho bén, tới việc thực tập tư thế đứng trên vai nhau khi bắt đầu leo qua bờ tường cao 5 thước chung quanh trại, chúng tôi cũng chưa thực hiện được. Còn bao nhiêu thứ khác, chúng tôi cũng làm, cũng thực tập nhưng chưa được hoàn hảo theo ý muốn.

Bây giờ, trưa ngày 1 tháng 5 đã tới. Chỉ còn quãng 5 tiếng đồng hồ nữa là chúng tôi sẽ bắt đầu một việc, mà cho dù là thành công hay thất bại cũng không có thể nào dừng lại được .

Sau bữa ăn trưa hôm đó, buồng chúng tôi trở nên yên lặng và nặng nề một cách khác thường, mang tính cách u sầu, có vẻ chết chóc nữa. Tâm trạng của nhóm 5 người chúng tôi thì khỏi phải nói. Căn cứ vào những gì đang bồn chồn và lo lắng một cách thật dữ dội trong lòng tôi lúc bấy giờ, tôi có thể suy ra được tâm trạng 4 người kia cũng thế.

Riêng về Cha Định, kể từ đêm qua khi tôi chính thức thông báo sự việc, tôi thấy Cha Định sống trong tình trạng như người bị động kinh. Mặt ngài tái bệch, đôi môi lúc nào cũng run rẩy, mắt nhắm nghiền ngồi yên bất động dựa lưng vào tường trông như hình người bằng sáp. Cái trán của Cha Định hói và bóng láng mọi ngày, bây giờ càng căng thẳng ra và trông ngài càng hói nhiều hơn. Kể từ đêm qua tới giờ, Cha Định không hề nói với ai trong buồng một lời nào. Ngài ngồi yên dựa lưng vào bức tường sát vách cầu tiêu hướng mặt ra phía cửa cái, suốt từ đêm qua tới nay như một xác ướp. Có lúc tôi có cảm tưởng là Cha Định không hề có mặt trong buồng này.

Phần ăn của Cha Định trong ngày lễ Lao Động vẫn còn để nguyên một chỗ trong góc phòng, ngài cũng chẳng buồn lấy thứ gì đậy cái bát đựng mấy miếng thịt heo kho với nước muối. Những miếng thịt được thái ra bằng con dao cùn, đang nằm chơi vơi trong cái bát nhựa và có váng mỡ đóng ở trên phần có nước. Nhìn những miếng thịt lợn, phần nhiều là bầy nhầy những mở, trên da còn rất nhiều lông cạo không kỹ trông nó xấu xa, dị hợm. Tự nhiên tôi so sánh mấy miếng thịt heo đó với kiếp sống người không ra người của chúng tôi lúc bấy giờ.

Có lẽ vì tâm trạng quá bồn chồn lo lắng làm ảnh hưởng tới bộ máy tiêu hóa và tôi cảm thấy như ruột gan đang quặn lên. Phần khác vì bầu không khí trong buồng lúc đó nặng nề, đầy vẻ sầu thảm cộng với gương mặt của từng người trong buồng. Lúc đó tất cả 6 người đều cởi trần mặc quần đùi, trông thật xấu xa, kỳ dị. Ai nấy đầu tóc cũng rối bù vô trật tự, thân thể không còn thịt, để lộ ra những chiếc xương sườn nằm cong queo trên những lồng ngực xẹp lép. Nhìn cảnh tượng đó, rồi lại nhìn miếng thịt heo, trên da còn đầy lông, đang nằm chơi vơi trong cái bát nhựa bạc màu của Cha Định, tự nhiên tôi đâm ra buồn nôn. Tôi đứng lên bước vào nhà cầu gục đầu trên cái lỗ to bằng bề tròn chiếc bình thủy đựng nước sôi. Sâu bên dưới có cái sọt đan bằng tre, bên trên có có lót lá chuối tươi.

Từ trong nhà cầu bước ra, tôi thầm mong cho thời gian qua nhanh, rồi ra sao thì ra. Sống trong bầu khí quái đản và căng thẳng này, tôi cảm thấy như muốn kiệt sức, mặc dầu tôi biết là chúng tôi phải dùng tới sức lực cuối cùng của cơ thể để đào tường vượt ngục đêm nay.

Chung quanh tôi, các anh em mỗi người một tư thế. Anh Đặng Văn Tiếp đang ngồi xếp bằng tròn ngay giữa cửa sổ trong tư thế tập yoga, mắt hướng ra phía ngoài sân. Anh Lâm Thành Văn đang lên cơn đau dạ dầy có lẽ do tâm trạng quá lo lắng gây ra và đang ngồi lấy tay xoa bụng. Anh Trịnh Tiếu đang bận lúi húi với mấy bộ áo quần, có lẽ anh chuẩn bị mặc vào để ra đi, trong lúc anh Nguyễn Sỹ Thuyên đang cẩn thận gạt cái bấc của chiếc đèn nhỏ xíu để sát vào góc buồng, ngay trước cửa bước vào khu vực cầu tiêu và bể nước. Gương mặt người nào người ấy có vẻ rất nặng nề như đeo một tảng đá hàng chục ký lô!

Tâm trạng tôi lúc bấy giờ như một thí sinh đang ngồi chờ chủ khảo phát đề tài thi. Bầu không khí trong buồng lúc này trở nên yên tịnh cách khác thường, ai nấy đều lầm lì ít nói. Thật tình là chúng tôi chẳng có chuyện gì để nói trong lúc này, ngoại trừ thỉnh thoảng ghé miệng nhắc nhau một vài chi tiết trong các phần hành đã được phân công sẵn. Tôi cảm thấy mệt nên bước tới ghé vào tai nói với từng người hãy lo cầu nguyện.

Lúc này, mỗi người tùy theo tín ngưỡng của mình, âm thầm cầu nguyện cho công việc đầy nguy hiểm và có tính cách sống chết tối nay. Tôi leo lên bệ, ngồi dựa lưng vào bức tường đối diện với Cha Định. Nhìn cảnh Cha Định đang ngồi như pho tượng, tay khoanh trước ngực, mắt nhắm nghiền trong một thái độ khổ sở lạ thường làm tôi nhớ lại câu chuyện tối hôm qua.

Vì cùng là linh mục với nhau, tôi được anh em giao cho nhiệm vụ thông báo cho Cha Định một ngày trước khi chúng tôi hành động. Mặc dù đây là một công tác tôi thấy thật khổ tâm, nhưng cũng hiểu là các anh khác không ai có tư thế như tôi để làm việc này. Vào khoảng 9 giờ tối hôm qua, ngày 30.4.1979, tôi lấy hết cam đảm bước xuống chỗ Cha Định đang nằm dưới lối đi trước mặt để xin xưng tội. Tôi muốn xưng tội để dọn mình sẵn sàng trước khi bắt tay vào làm một công việc rất nguy hiểm và có thể dẫn tới cái chết bất cứ lúc nào.

Sau khi xưng tội, tôi báo cho Cha Định biết dự tính của chúng tôi sẽ được thực hiện vào tối ngày mai. Tôi biết rằng, dù Cha Định không đồng ý, ngài cũng không thể nói ra với bất cứ ai về những gì mà ngài đã được nghe biết trong tòa giải tội, vì đây là một bí mật tuyệt đối thuộc về ấn tín tòa giải tội mà các linh mục phải giữ, cho dù vì phải giữ bí mật đó mà phải thiệt hại cho bản thân mình, ngay cả trường hợp phải chết để bảo vệ bí mật đó thì vị linh mục cũng phải chấp nhận. Đây là luật buộc nặng nhất đối với chức vụ linh mục, không những phải giữ bí mật tuyệt đối về những gì đã nghe biết trong tòa giải tội mà cũng không được nói những lời gì để người khác có thể đoán được những điều đó. Chính vì thế phải hiểu rằng những gì một hối nhân nói với linh mục trong tòa giải tội là người đó nói với một xác chết!

Sau khi được tôi thông báo tin động trời mà có lẽ từ lâu nay ngài cũng có ý nghi ngờ, Cha Định bỗng chốc trở nên bị kích động một cách dữ dội và bắt đầu khóc lớn tiếng. Trong một thái độ hốt hoảng và bấn loạn tâm trí, ngài đi tới đi lui, dọc theo lối đi mà trước đây hai tháng, Đại Tá Hoàng Thanh đã đi trước mặt chúng tôi. Tay chân ngài múa máy liên hồi trên không, rồi lại chống nạnh ngang hông và thỉnh thoảng lại nói bâng quơ:“Các người ác lắm! Các người giết tôi đi! Các người hãy giết tôi đi!” Vừa nói ngài vừa gật gật cái đầu trong tư thế tuyệt vọng hết cách cứu chữa. Lúc đó năm người chúng tôi yên lặng ngồi nhìn nhau và cảm thông với tâm trạng lo âu sợ hãi của Cha Định. Đồng thời cũng rất lo ngại, nếu lúc bấy giờ bên ngoài có cán bộ đi qua, có thể nghe tiếng Cha Định đang nói khá to và biết được câu chuyện. May là không có ai bên ngoài lúc đó.

Đợi cho cơn xúc động của Cha Định lắng dịu xuống, lúc ấy anh Nguyễn Sỹ Thuyên, với tư cách là người lớn tuổi nhất trong số các anh em, lên tiếng xin lỗi Cha Định và phân trần với ngài về quyết định chẳng đặng đừng của chúng tôi và mời Cha Định cùng tham gia. Tuy nhiên Cha Định bày tỏ thái độ từ chối dứt khoát.

Chờ khi Cha Định đã trở lại bình tĩnh, chúng tôi mời ngài ngồi lại và cùng nhau thảo luận tìm cách thức nào an toàn cho Cha Định, tránh cho ngài tội bao che vụ trốn trại. Bàn đi tính lại một lúc lâu, cuối cùng chúng tôi chọn một giải pháp này: Trước khi ra khỏi phòng, chúng tôi giả vờ trói tay nhét giẻ vào mồm Cha Định làm như ngài bị chúng tôi uy hiếp, không thể chống cự và cũng không thể kêu la được. Mặc dù đây không phải là một giải pháp hay, nhưng chúng tôi thấy không còn cách nào khác hơn. Sau đó giải tán ai về chỗ nấy để ngủ vì đã muộn, nhưng tôi biết đêm qua chẳng có ai có thể ngủ ngon giấc. Nhất là Cha Định chắc là khốn khổ trăn trở suốt đêm qua nên hôm nay, ngày 1 tháng 5, trông Cha Định thất sắc, đôi mắt thâm quầng và cái trán hói đã láng hôm nay lại bóng hơn rất nhiều.

Trời càng về chiều, tôi càng cảm thấy nôn nao, ruột gan cồn cào dữ dội. Kể từ lúc bị bắt vào tù trong 4 năm qua, tôi đã quyết tâm vượt ngục 3 lần và đây là lần thứ tư. Lần đầu tiên trong đêm cuối cùng ở trại Gia Ray trước khi xuống tàu ra Bắc. Lần đó tôi và người bạn là Phạm Thế Khải thức suốt đêm trong buồng chờ cơ hội nhưng bên ngoài lính canh nghiêm ngặt khác thường. Lần thứ hai, trên chuyến tàu Sông Hương chở tù ra Bắc, kế hoạch cướp tàu giải thoát tù nhân của chúng tôi phải bãi bỏ vào giờ chót vì cơn bão trái mùa. Lần thứ ba, ở trại Cổng Trời, tôi cùng với anh Tiếp và ba người khác định đào tường vượt ngục qua Trung Quốc nhưng bất ngờ bị đổi buồng chỉ trước đó 10 tiếng đồng hồ nên phải bỏ kế hoạch. Giờ đây, tôi đang ngồi yên chờ đợi giây phút quyết liệt trong lần đi vào cõi chết để tìm cái sống một lần nữa.

Mặc dù suốt hai tháng qua chúng tôi đã dồn hết tâm trí vào việc nghiên cứu và chuẩn bị cho đêm nay, nhưng lúc này, chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa là tới giờ hành động, tôi có cảm tưởng là mọi việc còn quá lỏng lẻo. Dù vậy, cũng không biết phải làm gì hơn trong lúc này ngoài việc dựa lưng vào tường và khoanh tay đợi chờ giây phút hành động. Giây phút đó là lằn ranh giữa sự sống và cái chết. Đó là giây phút của định mệnh và sẽ bắt đầu ngay sau khi cán bộ và trật tự điểm danh xong và ra khỏi khu kiên giam.

Trong lúc thần kinh căng thẳng quá, tôi mong cho có tiếng kẻng điểm danh rồi mọi việc sẽ ra sao thì ra. Nhưng đồng thời tôi cũng mong cho thời gian mấy tiếng đồng hồ cuối cùng trong ngày này kéo dài bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Nếu có thể thì kéo dài đến vô tận và không bao giờ có tiếng kẻng điểm danh chiều tối hôm nay! Thì ra, khi con người sắp bước vào lằn ranh của sự sống và cái chết bị giao động cách dữ dội do bản năng sinh tồn gây ra. Đây chính là giây phút mà tôi quyết định phải đi tới, và đi bằng bất cứ giá nào để tìm TỰ DO, dĩ nhiên là chúng tôi đã chấp nhận trả tới cái giá cao nhất cho hai chữ TỰ DO, là cái giá của chính mạng sống mình.

Cuối cùng, tiếng kẻng điểm danh ở cổng trại rồi cũng vang lên.

Canh Bạc Cuộc Đời

Thường ngày tôi không để ý gì tới tiếng kẻng điểm danh buổi chiều, nhưng tiếng kẻng hôm nay đã làm tôi rợn người. Tự nhiên tôi bị nổi da gà và tim tôi bắt đầu đập sai nhịp, trong lúc máu dồn nhanh lên mặt khiến tôi choáng váng và mặt mày nóng hừng hực, như củ khoai lang lùi trong đống than hồng vừa được khều ra. Cảm giác này trong đời tôi chỉ mới gặp thấy lần đầu.

Kể từ lúc khám trại chiều hôm qua và tất cả 6 người trong buồng 1 của tôi trở lại buồng cũ, chúng tôi mới chắc chắn có thể tiếp tục kế hoạch vượt ngục. Những thứ bất hợp pháp cần thiết cho cuộc vượt ngục như móc sắt…chúng tôi cho chìm xuống đáy bể nước khi mang đồ đoàn ra sân khám xét đã được vớt lên. Chiếc thang dây được ráp nối cho thành hình và không sợ còn bị khám buồng bất ngờ nữa. Những thứ ‘‘quốc cấm’’ đó giờ này đang được cuộn tròn và giấu trong các túi, dùng làm gối đầu của tôi. Riêng miếng sắt giẹp treo lủng lẳng trên cánh cửa vào khu nhà cầu vẫn nằm yên tại vị trí cũ. Nếu có ai nhìn thoáng qua một cách vô tình sẽ không thể nào nhận ra được sự khác biệt nơi miếng sắt hiền lành vô tội đó. Thực sự nó đã khác đi rất nhiều.

Kể từ hôm anh em tôi hì hục tháo được miếng sắt ra và mài nhọn rồi gắn lại chỗ cũ, không hiểu tại sao lúc nào cặp mắt của tôi và của các “thủ phạm” khác cũng dán vào miếng sắt, nhất là trong các giờ điểm danh ban chiều. Có những lần mấy anh trật tự hoặc cán bộ vào điểm danh mà vô tình dừng lại nhìn vào cánh cửa có miếng sắt đang treo lơ lửng là tim tôi gần như ngừng đập, và nghe lùng bùng trong lỗ tai. Ngay cả lúc ban ngày không có ai lên kiểm soát nhưng chúng tôi cũng hay liếc nhìn miếng sắt, làm như thể nếu không nhìn sẽ bị người ta ăn trộm mất báu vật đó.

Chiều nay, cũng như thường lệ, sau khi nghe tiếng kẻng, chúng tôi ngồi thành hàng ngay ngắn trên bệ nằm, chờ cán bộ và trật tự vào điểm danh. Lúc đó tôi nghe trong bụng ruột gan bị cồn cào dữ dội, cảm thấy mệt gần như mất thở. Tôi liếc nhìn qua Cha Định lúc đó cũng đang ngồi yên trong hàng ngang, như tư thế thông thường hàng ngày ngồi chờ điểm đanh. Điều làm tôi lo lắng là mặt mày Cha Định lúc đó trắng bệch ra như người bị thương hàn vừa mới bình phục. Vì đêm qua tôi đã báo cho Cha Định tất cả thời giờ và cách thức vượt ngục, nên lúc này tôi lo sợ rủi ro Cha Định vì quá khiếp đảm và đợi lúc cán bộ vào điểm danh chiều nay sẽ tố cáo thì sao!

Có tiếng các xâu chìa khóa khua rổn rẻng bên ngoài, rồi cửa vào khu kiên giam mở ra. Mọi việc diễn ra một cách bình thường như mọi ngày, không có dấu gì khác la. Mặc dù ngày mai là ngày lễ nghỉ, có thể trại sẽ tăng cường biện pháp an ninh kỹ lưỡng hơn, nhưng tôi rất mừng khi thấy mọi việc diển ra bình thường.

Tôi ngồi thầm thì cầu xin ơn trên phù hộ cho đừng có chuyện gì xảy ra trong giây phút quyết định cuối cùng này. Tôi biết rằng chỉ cần một trục trặc nhỏ cũng sẽ có hậu quả khốc liệt không thể lường được. Mấy anh em trong nhóm tôi chắc lúc đó cũng có tâm trạng như tôi nên nhìn ai nấy cũng ngồi trang nghiêm chỉnh tề như những vị thánh sống, ai nhìn vào thấy cũng thương.

Chỉ có điều khác là khi tôi liếc nhìn qua hai bên, tôi cũng bắt gặp những con mắt của các vị “thánh sống” đó, ngồi yên như các pho tượng, cũng cuốn tròn tròng mắt sát vào đuôi mắt nhìn tôi! Cái cảnh những bức tượng gỗ đang liếc nhìn ngang như vậy, nếu có ai đem vẽ thành tranh chắc trông sẽ rất buồn cười.

Hai anh trật tự Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát chạy vụt vào sân, mắt láo liên, tay cầm cái búa bằng gỗ có cán dài gõ nghe côm cốp vào tường xem coi có chỗ nào bị đào, và gõ vào các song sắt cửa sổ coi có nơi nào bị cưa hay bị phá hoại gì không. Vì ngày nào cũng phải đối diện với hai anh trật tự ác ôn này, nên tôi nhớ hình ảnh, cách ăn mặc, cách đi đứng của hai anh này rõ ràng như hình xâm trổ trên thân thể.

Một điểm đặc biệt mà tôi ghi nhận là hai anh trật tự này không bao giờ nhìn thẳng vào mắt của ai trong đám tù khu kiên giam. Nhưng khi hai anh này đã nhìn thẳng vào mắt ai, là người đó gặp chuyện lôi thôi. Nhẹ nhất cũng vài lời mắng chửi và nặng hơn là vài cú đấm, hoặc hơn thế nữa.

Cán bộ đi điểm danh hôm đó tên là Hạ. Anh là người ít nói, nước da ngăm đen, có nhiều vết lang ben trên mặt và cổ. Cán bộ Hạ đứng ngoài cửa buồng nhìn vào, Trương Văn Phát đã chạy trước qua buồng bên để gõ búa dọn đường, chỉ có Bùi Đình Thi đi vào kiểm soát trong nhà cầu của buồng chúng tôi. Tôi nín thở hồi hộp và cầu trời cho Thi đừng để ý tới miếng sắt đeo tòn teng trên cánh cửa nhà cầu, vì nếu để ý quan sát sẽ thấy miếng sắt giẹp này có cái gì không bình thường. Nếu Bùi Đình Thi phát giác ra miếng sắt này, chẳng những kế hoạch vượt ngục đổ vỡ trước lúc bắt đầu, mà chúng tôi chắc chắn sẽ bị rắc rối to. Mặc dù lúc bấy giờ nếu bị phát giác miếng sắt đã mài bén, chúng tôi đã có câu trả lời là không biết và sẽ nói là ai đó đã mài từ trước khi chúng tôi vào buồng này.

Cũng may là Bùi Đình Thi chỉ làm các công việc như thường ngày và không để ý tới cái đầu miếng sắt trên cánh cửa vào nhà cầu đã mỏng và nhọn hơn nhiều! Lúc này trong buồng, không phải chỉ có miếng sắt mài bén, mà còn chiếc thang dây đã hoàn thành có móc sắt hẳn hoi được bó lại như cái gối đang nằm sau lưng tôi. Nếu vì lý do gì mà chiếc thang dây này bị phát hiện ra thì cho dù…trời cũng không cứu được chúng tôi đừng nói chi tới người phàm! Điểm danh xong, cán bộ Hạ và hai trật tự Thi – Phát ra khỏi vòng rào của khu kiên giam. Giờ hành động đã tới!

Điềm Chẳng Lành: Tắt Đèn

Theo đúng kế hoạch, sau khi cán bộ và hai anh trật tự vừa khuất dạng, tôi lẹ làng bước xuống để tháo miếng sắt đã được cài lại một cách hờ hững trên cách cửa vào nhà cầu. Khi tôi vừa với tay kéo cánh cửa để tháo miếng sắt thì một việc bất ngờ xẩy ra: Hơi gió tạo ra bởi việc kéo cánh cửa làm tắt ngọn đèn! Chuyện này chưa bao giờ xẩy ra trong buồng từ trước tới nay!

Đây là cái đèn dầu nhỏ làm bằng lọ thuốc Penicilin mà lúc nào cũng được chúng tôi chăm sóc cẩn thận và để sâu vô góc tường, ngay lối vào nhà cầu. Trong suốt thời gian ở buồng này, có lúc ngọn đèn này cũng bị tắt nhưng không phải vì lý do đóng hoặc mở cửa nhà cầu mà vì thiếu dầu. Buồng tôi được cấp phát một lượng dầu tối thiểu dùng thắp ngọn đèn, để ban đêm cán bộ làm nhiệm vụ canh gác có thể thấy được các tù nhân trong buồng sau khi đèn điện trên trần tắt lúc 10 giờ đêm. Phần chúng tôi cũng hết sức bảo vệ nó để có lửa hút thuốc lào. Để cho chắc ăn, chúng tôi giao cho anh Nguyễn Sỹ Thuyên là tay nghiện thuốc lào nặng, cần có lửa trong buồng nhất, lo việc trông nom ngọn đèn, và từ trước tới giờ tôi để ý anh Thuyên chăm sóc ngọc đèn như chăm sóc con ngươi trong mắt anh.

Theo quan niệm thông thường của người đời, đèn bị tắt là một điềm gở, nên lúc đó cả năm người ngồi lặng yên nhìn nhau, lòng đầy lo ngại. Riêng tôi, mặc dù trong lòng bất an, nhưng tự an ủi mình rằng, có thể vì vội vàng, tôi đã kéo cửa nhà cầu mạnh tay và tạo ra hơi gió làm tắt đèn, có thế thôi, chẳng có gì phải lo ngại. Khi đó tôi để ý thấy sự lo ngại và sợ sệt hiện rõ trên mặt vài anh em, nhất là Lâm Thành Văn. Từ chiều tới giờ thỉnh thoảng Văn kêu đau vì chứng bệnh dạ dầy tái phát mạnh do ảnh hưởng sự lo lắng quá độ. Thấy tắt đèn, Văn bước xuống ngồi gần bên tôi lo lắng hỏi:

- Anh Lễ ơi! Đèn tắt, đêm nay không thấy đường làm sao đào tường?

Mặc dù nói thế nhưng tôi biết trong lòng Văn lo chuyện khác. Vấn đề mang tính cách duy tâm là việc hên xui, may rủi trước hiện tượng tắt đèn, nên tôi đáp.

- Không sao đâu anh, mình sẽ kéo lửa và đốt đèn lại. Có thể chậm một chút nhưng sẽ làm được. Còn việc tắt đèn chẳng qua tôi vô ý kéo cánh cửa mạnh quá tạo ra hơi gió thôi, chẳng có gì đáng quan tâm đâu.

Anh Thuyên chen vào:

- Bằng mọi giá mình phải tiếp tục thôi các ông ạ! Mọi thứ đã chuẩn bị hết cả rồi, nếu không đi thì giấu vào đâu? Tình thế này không thể dừng được nữa.

Trong khi đó Đặng Văn Tiếp vội vàng lục tung túi đồ nghề dùng để kéo lửa ra, và chúng tôi không chậm mất một giây, lo việc hì hục kéo lửa, theo cách thức tay không lấy lửa mà tôi học được trong tù. Đó là dùng một bánh xe bằng dáy của hộp sữa, đục 2 lỗ nhỏ ở giữa để xỏ dây qua và kéo cho xoay tròn. Khi bánh xe xoay hết vòng tròn sẽ theo đà dây kéo mà xoay ngược lại, cứ thế lúc nào bánh xe cũng quay tít rất nhanh. Khi đó cho cạnh bánh xe chạm nhẹ vào một vật bằng sứ, là cái khu bát. Khi bánh xe kim loại quay tít chạm vào khu bát sẽ bắn ra những tia lửa, có một miếng “bổi” sẳn để hứng những tia lửa đó. Miếng” bổi” là phần than tro của một miếng vải đã đốt cháy và đè cho tắt ngay, phần than tro còn dính trên đầu miếng vải sẽ bắt dính các tia lửa rất nhạy. Chúng tôi chuẩn bị sẵn vài ba miếng bổi này, được gói cẩn thận trong bao ny-lon cho khỏi bị ẩm ướt . Trong tù tôi đã học được những kỹ thật loại mưu sinh thoát hiểm mà người sống bình thường ngoài xã hội không bao giờ biết được. Trong đó, có kỹ thuật tay không lấy lửa.

Mặc dù tôi đã chuẩn bị những đoạn dây se lại từ những sợi dây dù chắc chắn tháo ra từ ruột áo giáp, nhưng vì hối hả tôi làm đứt gần hết các đoạn dây xỏ ngang qua lỗ đục giữa cái bánh xe kim loại là đáy của hộp sữa đặc có đường.

Tình cảnh chúng tôi lúc bấy giờ như cây tên đã lắp vào dây cung kéo thẳng, chỉ còn có cách buông ra mà thôi! Các việc khác phải hoãn lại để lo kéo lửa. Bình thường tôi kéo lửa không khó lắm , chỉ cần vài phút là xong. Nhưng lúc này vì quá lo âu và cố gắng làm cho nhanh nên tôi lại càng trở nên vụng về và kéo lửa mãi không được. Càng không kết quả tôi càng luống cuống, càng luống cuống tôi càng không kết quả! Tôi biết là lúc bấy giờ một phút qua đi có nghĩa là mạng sống chúng tôi bị thu ngắn lại. Trong khi hì hục kéo lửa, đầu óc tôi nóng ran như muốn bốc khói. Hai tai nghe lùng bùng, da mặt nghe rát và gần như không còn cảm giác bén nhạy như lúc bình thường

Những đoạn dây đầu đã tơi tả và đứt quãng nhưng vẫn chưa lấy được lửa làm tôi chết điếng cả người. Cuộc vượt ngục thành công hay thất bại một phần lớn cũng tùy thuộc vào việc tôi có lấy được lửa hay không và lấy được sớm hay muộn! Khi xỏ luồn sợi dây cuối cùng vào lỗ miếng sắt, tự nhiên tay tôi run nhè nhẹ vì nếu đoạn dây cuối cùng này bị đứt nữa thì coi như cuộc vượt ngục bắt buộc phải hủy bỏ và hậu quả sẽ không lường được. Tôi âm thầm cầu nguyện.

Trong lúc đó Cha Định vẫn đang ngồi dưới lối đi, chỗ ngài nằm ngủ hàng đêm, vì ở đó rộng rãi thoải mái hơn trên bệ nằm chật chội khó xoay trở. Cha Định ngồi dựa lưng vào cánh cửa buồng bằng sắt trong tư thế yên lặng chẳng nói một lời trong khi nhóm mấy người chúng tôi cũng đang ngồi dưới đường đi nhưng sát ở cửa vào cầu tiêu và chấu đầu vào nhau trong việc kéo lửa. Riêng Nguyễn Sỹ Thuyên đã được phân công ngồi ngay cửa sổ nhìn ra sân để nếu có cán bộ bước vào sân khu kiên giam thì lên tiếng:“Chào cán bộ” thật to để báo động cho anh em chúng tôi biết kịp thời.

May làm sao, tôi lấy được lửa trong lần cố gắng với đoạn dây cuối cùng này. Tất cả chúng tôi thở phào nhẹ nhõm khi nghe mùi khói bốc ra từ miếng bổi và sau đó tôi đã thổi lên thành ra lửa ngọn để thắp đèn. Chúng tôi vượt qua được trở ngại đầu tiên khi thắp đèn lại được nhưng phải trả giá bằng một lượng thời gian vô cùng quý báu trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Trong lúc cẩn thận nâng niu cái đóm để thắp đèn khi đó tôi nhớ tới câu nói:“Thời giờ là tiền bạc”. Lúc này thời giờ đối với tôi còn quý gấp trăm triệu lần hơn tiền bạc. Tôi nói lẩm bẩm :“Thời giờ là mạng sống” .

Mũi Dao Định Mệnh

Chúng tôi giao cái đèn cho anh Thuyên và dặn anh bằng mọi giá phải bảo vệ ngọn lửa vì một khi đã bắt tay vào việc rồi thì ngọn đèn là vấn đề sống còn. Chúng tôi kéo vào bên trong để bắt đầu công việc trong tình trạng thần kinh căng thẳng tột cùng vì biết là một khi đã bắt đầu đào tường rồi, sẽ không thể nào dừng lại được. Lúc bấy giờ Cha Định ngồi lặng thinh, dựa tường, nhắm nghiền mắt lại. Trong lúc chúng tôi vào phía bên trong thì may mắn thay, trời bắt đầu đổ mưa, và cơn mưa càng lúc càng to như thể trời đang đứng về phía chúng tôi.

Trời mưa sẽ giúp chúng tôi ba điều kiện thuận lợi. Trước hết là có nước để tưới vào gạch làm cho vôi vữa mềm ra lúc đào tường. Thứ nhì, tiếng mưa sẽ át tiếng động lúc đào tường và cho dù có cán bộ đứng bên ngoài buồng cũng không thể nghe được vì có tiếng nước mưa đang chảy ầm ầm vào bể từ cái lỗ trên nóc nhà bằng. Nhưng yếu tố cuối cùng quan trọng nhất vì mưa to, cán bộ sẽ lười biếng và ít đi tuần trên khu nhà Bằng chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu việc đào tường.

Vai trò của từng người được phân chia rõ ràng. Anh Tiếp và tôi sẽ thay nhau đào tường và lấy gạch ra, vì chỗ ngồi để đào là một cái hốc khá hẹp nên chỉ đủ cho một người ngồi ở đó để đào tường. Anh Tiếu và anh Văn lo việc thòng dây múc nước trong bể chuyền cho tôi giội lên chững chỗ đang đào. Anh Thuyên đang ngồi bên cửa sổ nhìn ra sân buồng, canh chừng cán bộ, và giả vờ hát nghêu ngao để lấn át tiếng đào tường sột soạt bên trong.

Miếng sắt dụng cụ đã được tôi tháo ra khỏi cửa, được quấn vải thật dầy phía cuối để làm cái cán. Mặc dù đã được quấn vải khá nhiều lớp nhưng khi cầm vào cũng không có thế như cầm con dao hoặc cái đục có cán bằng gỗ hẳn hoi, nhưng trong tình thế đó, như vậy đã quá tốt rồi. Anh Đặng Văn Tiếp là người đào nhát đầu tiên. Trước khi ấn mũi sắt nhọn vào bức tường, anh Tiếp quay lại nói với tôi, đang ngồi cầm lon nước kế bên bằng một giọng thật căng thẳng và đầy lo âu:

- Đây là mũi dao định mệnh, cậu Bảy nhé!

Tôi nhìn anh gật đầu và nói:

- Cầu xin Đấng Thiêng Liêng phù hộ cho anh em mình!

Nghe nói xong câu đó, anh Tiếp ấn mạnh mũi dao định mệnh khoét sâu dần vào bức tường nhơ bẩn của trại tù Thanh Cẩm. Bức tường của trại tù giam hãm sự tự do của chúng tôi một cách phi lý và dã man. Trong lúc đó tôi biết mũi dao định mệnh này một khi đã thọc sâu vào tường sẽ không bao giờ có thể dừng lại được và cuộc đời chúng tôi, tương lai chúng tôi và cả mạng sống chúng tôi nữa cũng đang đi theo với mũi dao định mệnh này.

Bất giác tôi nhớ tới giờ này bên ngoài xã hội cũng đang có biết bao nhiêu đồng bào tôi cũng đang thọc mũi dao định mệnh vào bức tường vô hình giam hãm cả một dân tộc bằng hành động vượt biên trốn khỏi một nhà tù lớn hơn! Những đồng bào vượt biên đó và 5 anh em tôi ở trong đây đều hành động vì một mục đích giống nhau, chúng tôi muốn tìm TỰ DO, dù có phải trả giá TỰ DO bằng cái chết chúng tôi cũng sẵn sàng để trả tới giá.

Chỉ có một điều khác là các đồng bào vượt biên tìm tự do bên ngoài có thể đừng chân lại khi thấy không an toàn, còn tình cảnh chúng tôi ở trong tù vào lúc này không thể nào dừng lại được nữa. Đã phóng lao chúng tôi phải theo lao.

Anh Đặng Văn Tiếp đang dồn hết sinh lực và sự khéo léo của con người anh vào việc đào tường. Đôi tay anh hoạt động lanh lẹ như con chuột đang đào hang. Mãnh sắt nhọn trong tay anh làm việc cật lực như một lưỡi cưa máy, khi thì đưa lên khi thì kéo xuống , khi thì rạch vào các khe xi măng giữa hai hòn gạch, khi thì cố lòn sâu vào giữa khe để moi những hòn gạch ra. Nhờ có tiếng nước mưa đang chảy ầm ầm vào bể, chúng tôi càng yên tâm hơn để đào.

Bầu khí lúc đó yên lặng khác thường, không có âm thanh nào khác ngoài tiếng nước chảy từ mái nhà xuống bể và tiếng thở hồng hộc của anh Tiếp. Anh Tiếp cắm cúi đào điên đào dại, đào sống đào chết, đào với tất cả sức lực và ý chí của con người anh. Anh Tiếu và anh Văn đứng cạnh bể nước thòng dây kéo từng lon nước lên chuyền cho tôi để tưới nước vào các chỗ Tiếp đặt mũi sắt nhọn vào. Bốn người chúng tôi hợp lại thành một“bộ máy đào tường” đang hoạt động hết tốc lực. Lúc này còn ánh điện của cái bóng điện tròn trên trần phòng giam và ánh sáng lọt vào cầu tiêu qua cánh cửa mở. Nhờ có ánh sáng, chúng tôi đào tường khá thuận tiện, nhưng phải làm cho nhanh, đào được càng nhiều càng tốt vì đèn điện sẽ tắt sau 10 giờ đêm, chừng đó mọi việc sẽ khó khăn hơn với chiếc đèn dầu leo lét chỉ to bằng ngón chân cái.

Vì chỗ ngồi để đào là một cái hốc hẹp, chỉ đủ chỗ cho một người, và anh Tiếp đang ngồi đó, tôi đứng ngay sau lưng anh, khom người giúp rút từng hòn gạch ra . Được một lúc, tôi để ý thấy trên viên gạch toàn là máu tươi đỏ thẫm. Tôi nhìn xuống tay anh Tiếp, thì ra các mảnh vải quấn vào cán miếng sắt giẹp đã rách nát ra và cạnh của thanh sắt cứa đứt tay anh Tiếp chảy máu ròng ròng mà anh không hề hay biết. Tôi vỗ vai Tiếp nói:

- Anh! tay anh đổ máu rồi! Dừng lại! Dừng lại !Em vào thay cho!

Anh Tiếp vẫn cắm cúi đào và hỏi lại:

- Cậu bảo cái gì?

-Tay anh bật máu ra kìa anh không thấy à? Nhìn tay anh kìa.

Nghe tôi nói, anh Tiếp nhìn chỗ tay cầm miếng sắt. Anh dừng tay, đặt miếng sắt xuống và xòe bàn tay phải ra. Bàn tay anh đã rách nát và đầy máu me tự lúc nào. Anh ngoái đầu ra phía sau bảo tôi

- Cậu Bảy! Đưa cho anh thêm vải để bó cán dao, vải này rách nát ra cả rồi.

Tôi đáp:

-Anh ngừng tay nghỉ chút đi.

Anh Tiếp gắt tôi:

- Thì cậu lấy thêm vải mang lại đây, nhanh lên, nghỉ sao được mà nghỉ?

Nói xong, anh quấn sơ lại mảnh vải đã rách tả tơi ở cán miếng sắt giẹp và tiếp tục đào.

Tôi rời chỗ anh và trở ra ngoài vớ được chiếc áo hay chiếc quần gì của ai tôi cũng không để ý, vội vàng xé những mảnh vải dài, bề ngang chững 5 phân như những cuốn băng của các y tá và mang ngay vào trong cầu tiêu, lúc đó Tiếp vẫn đang hì hục đào. Tôi buộc lòng phải nắm áo anh kéo đứng dậy để anh nghỉ, trong khi tôi bó vải vào cán miếng sắt và sau đó vào thay anh.

Anh Tiếp đứng lên sau một lúc đào khá lâu. Lúc này trông anh phờ phạc, mệt nhọc và nhất là bàn tay phải của anh máu chảy đầm đìa lẫn vào với đất cát và vôi vữa trông rất thương tâm và thảm hại. Tôi bảo Văn lấy lon nước giội rửa tay cho Tiếp trong lúc tôi quấn thêm vải vào cán miếng sắt. Lần này thì tôi quấn nhiều hơn. Sau đó, anh Tiếp và tôi thay đổi vị trí cho nhau và công việc đào sống đào chết lại tiếp tục.

Việc đào bức tường khó khăn hơn chúng tôi tưởng. Tường được xây bằng xi-măng già, rất cứng. Chỗ ngồi lại là một góc hẹp, khó xoay trở và chỉ vừa đủ chỗ cho một người, vì thế một người đào thì ba người phải đứng phía sau lo các việc khác chứ không thể cùng ngồi xuống để tiếp tay được. Nhưng cho dù có đủ chỗ cho hai người cũng không làm gì hơn trong khi chúng tôi chỉ có một dụng cụ duy nhất là miếng sắt giẹp có đầu nhọn. Thực ra, chúng tôi cũng có 1 cái muỗng bằng nhôm nhưng không thể dùng được với loại tường cứng như thế này.

Trong hoàn cảnh đó, bốn người thi nhau hì hục đào và đào với tất cả sức lực của con người. Miếng sắt dùng để đào tường mặc dù đã quấn vải vào để cầm nhưng chẳng bao lâu vải lại bị rách, lòi cạnh mảnh sắt ra và cứa rách da thịt tay chúng tôi làm máu đổ ra lai láng. Mặc dù vậy, chúng tôi cũng cắm đầu cắm cổ mà đào, người này mệt thì người kia vào thay không ngơi nghỉ một giây phút nào vì thì giờ lúc đó chính là mạng sống. Kẻ đào tường, người ngồi bên giội nước cho mềm xi-măng, người khác thòng dây lấy nước từ bể nước. Chúng tôi hoạt động đều đặn và hết tốc lực như một nhà máy sản xuất xe hơi theo hệ thống dây chuyền, sản phẩm được chuyền từ khâu này sang khâu khác và thành quả cuối cùng là những viên gạch ương ngạnh được chúng tôi móc ra khỏi bờ tường và vất ngổn ngang trong căn buồng chật chội.

Dù sao chúng tôi cũng gặp một điều may mắn là trong khi đang đào tường thì bên ngoài trời đổ mưa xối xa. Vì mưa to nên cán bộ canh gác càng lười biếng lên tuần tra trên khu kiên giam, nhất là ban ngày các anh đã chè chén say sưa. Thật vậy, suốt trong đêm, không có bóng dáng một cán bộ nào bước vào khu kiên giam và anh Thuyên cứ ngồi hát nghêu ngao bên trong cửa sổ mà chưa phải sử dụng tới cái khẩu hiệu “chào cán bộ” lần nào.

Trong khi chúng tôi đào tường, có tiếng đấm vào tường của các anh em bên các buồng khác, như thế là việc đào tường ở buồng này, các buồng bên đều biết. Các tiếng đập tường có ý nhắc nhở chúng tôi làm khẻ thôi vì ở các buồng bên đều nghe biết. Chúng tôi thỉnh thoảng nghe các tiếng ám hiệu đó nhưng không quan tâm vì lúc bấy giờ chúng tôi chẳng còn tâm trí đâu mà để ý các tín hiệu đó. Việc quan trọng vào bậc nhất là đào tường, đào càng nhanh càng tốt, đào nhanh thì sống, đào chậm thì chết. Có thế thôi.

Thỉnh thoảng tôi bước ra và thấy đồ đạc trong buồng bị vất ngổn ngang và bề bộn như một đống rác thành phố. Vì chúng tôi đã chấp nhận ra đi nên chẳng còn bận tâm đến khung cảnh trong buồng nữa, mặc nó muốn ra sao thì ra. Cha Định lúc đó ngồi dựa lưng vào tường, ngước mặt lên trần nhà, mắt nhắm nghiền, đôi môi luôn mấp máy. Tôi đoán là ngài đang đọc kinh cầu nguyện và có lẽ cầu cho chính ngài nhiều hơn là cho chúng tôi.

Về phần tôi, lúc bấy giờ chẳng còn tâm trí đâu để mà cầu nguyện nữa! Thực ra, những gì tôi cầu xin ơn trên phù giúp thì tôi đã cầu nguyện từ mấy tháng nay. Lần cuối cùng tôi cầu nguyện cách khẩn khoản là lúc tôi dùng đoạn dây dù cuối cùng để kéo lửa cách đây mấy tiếng đồng hồ. Và lần đó thì lời cầu xin của tôi được ơn trên phù giúp, cuối cùng tôi đã lấy được lửa .

Đào Sống Đào Chết!

Theo kế hoạch dự trù, chúng tôi phải ra khỏi buồng trước nửa đêm, vì sau khi ra khỏi buồng còn phải gỡ bản lề cánh cửa gỗ vào hầm cầu tiêu và sau đó, phải vượt qua hai bức tường nữa mới chính thức bước vào khu vực tự do. Mặc dù chúng tôi dùng tới sức lực cuối cùng nhưng kết quả không được mấy vì xi măng xây tường này quá cứng. Tệ hơn nữa là những viên gạch trong góc, miếng nọ nằm đè lên miếng kia rất khó kéo ra, mặc dù vôi vữa chung quanh đã được róc sạch. Cứ thế, chúng tôi mải mê đào bới cật lực tới gà gáy lần thứ nhất (quãng một giờ sáng) mà vẫn chưa xong bức tường. Nghe tiếng gà gáy, tôi điếng cả người và càng tăng tốc độ đào.

Khi nghe tiếng gà gáy, tôi nghĩ là cuộc vượt ngục đã thất bại. Cái cảm giác khi phải đương đầu với thực tại lúc cán bộ lên kiểm tra và bắt gặp chúng tôi đang ở trong tình cảnh này khiến tôi kinh hoàng và da thịt tôi tự nhiên trở nên tê dại. Đáng lẽ giờ này chúng tôi đã ra bên ngoài và đang tìm đường lẩn tránh vào rừng phía biên giới Lào -Việt, nhưng ngược lại vẫn còn loay hoay như con thú bị bẫy sập đang tìm dường thoát thân trong chiếc lồng có lưới sắt.

Một câu hỏi gớm ghê chợt hiện ra trong đầu tôi:“Nếu tới sáng ngày khi cán bộ và trật tự lên kiểm tra buồng mà chúng tôi vẫn chưa ra ngoài được thì sao?”. Tôi chết điếng người và không dám suy nghĩ tiếp theo. Điều tôi biết chắc là chúng tôi đã thất bại, nhưng còn nước thì còn tát như có lần tôi đọc câu tiếng Anh:“Where there is life, there is hope.” Vì chúng tôi còn sống nên chúng tôi còn hy vọng. Nghĩ như thế nên càng hè nhau tăng cường tốc độ đào tường lên tối đa vì mỗi phút qua đi là tôi cảm thấy mạng sống mình bị thu ngắn lại.

Chúng tôi không dừng tay lấy một giây mặc dù tay đã rách nát, máu dính đỏ thẫm những viên gạch vừa được lấy ra, nhưng đặc biệt tôi không hề cảm thấy một chút đau đớn nào. Anh Văn và anh Tiếu cũng vào thay cho anh Tiếp và tôi rất nhiều lần, nhưng thấy cách hai anh làm không nhanh nhẹn nên anh Tiếp và tôi nói hai anh chỉ lo cung cấp nước càng nhiều càng tốt để giội vào tường cho hai chúng tôi đào. Bất ngờ lúc đó, Văn lại lên cơn đau dạ dày, một phần vì lo lắng , phần khác Văn đã làm việc quá sức. Chúng tôi bảo Văn ra ngoài nằm nghỉ để có sức lúc ra đi, còn lại ba người cố sức chống chọi với Tử Thần mà trí tưởng tượng của tôi đang phác họa ra.

Tôi thấy một hình hài cao lêu khêu, bên trên là chiếc đầu lâu nhẵn thín với hai hốc mắt sâu hoắm, mình khoác chiếc áo choàng đen rộng phùng phình đôi tay dang rộng, hai bàn tay lòi ra khỏi áo choàng chỉ có xương và không có da thịt. Một tay cầm chiếc liềm hái dài ngoằn, lưỡi liềm hái sáng choang …Cái hình hài quái đản đó đang trườn người bước tới bằng một tốc độ rất nhanh và tưởng là không có gì có thể cản lại được!

Sau khi gà gáy lần thứ nhất một lúc, chúng tôi mới đào xong một lỗ hổng chỉ vừa đủ thân người lọt qua. Ngay lúc đó, cả ba người vội chui lọt qua lỗ này để vào hầm chứa phân vì còn phải phá một cánh cửa bằng gỗ khác nữa mới ra bên ngoài được. Chúng tôi rơi vào cái hầm chỉ cao vừa quá đầu người, là nơi để các sọt chứa phân, chung cho bốn buồng của khu kiên giam, bên dưới các lỗ cầu tiêu.

Lúc mới lọt xuống đây, chúng tôi cũng thử gỡ bản lề cánh cửa chặn lối ra phía sau. Nhưng xi măng ở đây cũng rất cứng và lúc đó đã muộn, nên thay vì đào cái bản lề cửa như đã dự tính, chúng tôi hè nhau kéo mạnh đánh “ầm” một phát làm bật tung tất cả đinh của cánh cửa ra. Mặc dù có tiếng động mạnh nhưng không vang xa, vì khi ấy trời đang mưa to, nhưng các anh em tù nhân ở ba buồng bên trên sẽ nghe rất rõ. Bằng chứng là tiếng đấm vào tường của các anh em ở 3 buồng kia càng to và nhiều hơn. Tình thế này thúc bách quá, đã quá muộn rồi, buộc chúng tôi phải đánh ván bài liều, vì không còn cách nào hơn. Cho dù tiếng cánh cửa bị kéo bật tung đinh ra đánh “ầm” vang dội đó làm cán bộ nghe được chúng tôi cũng đành chấp nhận. Còn nước thì còn tát!

Cái Giá Của Tự Do

Sau khi phá bật cánh cửa hầm chứa phân để có thể ra đi, chúng tôi vội vàng chui trở lại vô buồng để lấy thang dây và các vật dụng cần thiết. Cả ba chúng tôi leo trèo nhanh như khỉ. Có lúc tôi nghĩ có lẽ khỉ cũng không thể nào lanh lẹ hơn tôi lúc bấy giờ. Vì đứng bên dưới chồm lên không cách gì thót lên tới cái lỗ hổng vừa đào nên chúng tôi phải cõng nhau lên cho vừa tầm mới có thể chui trở lại vào buồng và người cuối cùng là tôi đưa hai tay cho người bên trong nắm lấy kéo lên. Dĩ nhiên, khi kéo như thế, tôi sẽ bị rách da bụng nhưng cho dù là rách một mảnh da bụng, hay một chục mảnh da bụng đi nữa, cũng có là gì, so với cái viễn tượng về một trận đòn hội chợ nếu chúng tôi bị bắt lại.

Khi trở lại vào buồng, chúng tôi thấy anh Thuyên và Văn đã sẵn sàng và đang ngồi đợi. Tôi vội chụp lấy những thứ gì đã sắp đặt sẵn cho vào túi. Để việc đi đường gọn nhẹ, chúng tôi bảo nhau không ai mang theo thứ gì, nhưng mỗi người mặc vào người vài ba lớp quần áo để có mà dùng trên đường đi. Phải làm thế nào để hai tay được rảnh rang vì còn phải leo qua tường và nhất là phải thật gọn nhẹ trong lúc trốn chạy trong rừng, hoặc nếu phải lội xuống dòng sông Mã. Buồng giam chúng tôi mọi ngày vẫn ngăn nắp, gọn gàng nhưng lúc này trở bề bộn như một đống rác, ướt đẫm những nước nôi, đất cát và dơ bẩn như cái chuồng heo, nhìn vào thấy mà khủng khiếp.

Trước lúc rời buồng ra đi, chúng tôi tới chào từ giã Cha Định, lúc bấy giờ đang ngồi dưới đất và khóc nức nở. Lòng tôi đau xót khi nhìn thấy cảnh này. Tôi đến bên và quỳ xuống lạy Cha Định một lạy để từ giã. Tôi cũng có ý muốn lạy để xin lỗi ngài và xin phép được trói tay và nhét giẻ vào miệng ngài theo như kế hoạch đã bàn tính. Đây là cách giúp Cha Định có lý do để trả lời cho cán bộ là bị chúng tôi uy hiếp, còn cán bộ có tin hay không là việc khác.

Tôi làm các việc này trong sự nhanh nhẹn lạ thường trong lúc các anh khác đã lần lượt chui qua lỗ tường vừa đào được để ra hầm chứa phân và bò ra ngoài trước. Xong việc, tôi phóng nhanh như một vận động viên chạy nước rút, vội chui qua lỗ tường vừa đào rơi vào buồng chứa phân và theo các anh em kia. Lúc bấy giờ đã muộn, tôi nghe văng vẳng tiếng gà gáy lần thứ hai! Tôi bắt đầu cầu nguyện cho sự an toàn của 5 người chúng tôi và của Cha Định nữa.

Chúng tôi xếp hàng dọc chạy lần theo con đường hẹp từ cánh cửa vừa bị phá thông ra phái sau khu kiên giam. Con đường này chỉ rộng chừng 1.50m để người tù gánh phân ra vào lấy phân mỗi ngày trên khu kiên giam. Để chuẩn bị cho cuộc vượt ngục này, mọi chi tiết đều được chúng tôi nghiên cứu cẩn thận. Ngay cả việc thứ tự của mỗi người khi đi đứng và làm những phần hành khác nhau. Đặng Văn Tiếp là người khỏe và tháo vát nhất trong nhóm, lúc nào cũng đi đầu. Lâm Thành Văn là người có bệnh và yếu nhất trong nhóm nên đi giữa và tôi là người trẻ nhất đi ở cuối cùng để nếu có gì trục trặc bất ngờ tôi còn thể ứng đối được.

Anh Đặng Văn Tiếp dẫn đầu, nằm sát mặt đất bò ra ngài quan sát, thấy không có ai, anh khoát tay ra hiệu cho chúng tôi bò ra tới bức tường khu kiên giam ngay bên góc nhà. Bức tường ngăn cách các buồng này chỉ cao chừng hai thước và chúng tôi leo qua một cách dễ dàng để tới bên chân tường cao của trại. Khu vực này, chúng tôi mới đặt chân tới lần đầu tiên sau 9 tháng sống trong trại này. Đó là một hành lang rộng quãng 5 thước và chạy dài theo bờ tường rất cao, xây bằng đá xanh, bao quanh trại. Trên mỗi góc của tường trại có chòi gác. Ban ngày lúc nào cũng có một cán bộ võ trang ngồi canh gác, nhưng chiều lại, sau khi điểm danh vào buồng khóa cửa, không còn cán bộ ngồi gác trên đó nữa, thay vào đó họ sẽ luân phiên đi tuần hành ban đêm trong khắp khu trại. Lúc này, chúng tôi đang tới giai đoạn chót cũng là giai đoạn khó khăn là vượt qua bức tường cao để thoát ra ngoài. Giai đoạn chót này đã được chúng tôi điều nghiên thật kỹ lưỡng và phân công rất chi tiết và cũng đã thực tập qua.

Vì đã được phân công và tập dượt trước nên khi vừa tới chân tường bao bọc chung quanh trại, anh Trịnh Tiếu và tôi ngồi xuống cho anh Tiếp leo lên đứng trên vai. Anh Tiếp tay cầm một thanh tre cột móc sắt ở đầu thang dây, giơ lên cao và móc vào cọc sắt của hàng rào dây thép gai trên trốc bờ tường, rồi thả thang dây xuống. Bờ tường cao ước chừng 5 thước nên chúng tôi đã phải dùng chiếc thang “người” để anh Tiếp có thể quàng được cái móc sắt vào trên trốc bức tường. Sau khi thang dây được thả xuống, theo đúng kế hoạch, anh Tiếp leo lên trước tiên. Khi lên trốc tường cao anh cột một đoạn dây nhỏ vào cọc sắt nơi móc thang dây, thòng ra phía ngoài tường và bám theo dây này tuột xuống.

Anh Tiếp ra tới bên ngoài không bị trở ngại gì, mọi chi tiết dự trù được thực hiện đầy đủ và nhanh nhẹn. Tới phiên Nguyễn Sỹ Thuyên cũng leo lên tới trên đỉnh bức tường cao rồi đu dây bên ngoài xuống đất không có gì trở ngại. Nhưng tới phiên Lâm Thành Văn, xẩy ra một rắc rối chết người!

Vì biết Lâm Thành Văn yếu nên anh Tiếu và tôi nâng anh lên cao một đỗi. Khi Lâm Thành Văn bám thang dây leo được giữa chừng thì thang dây bị đứt làm Văn té lộn nhào xuống. May mà có Tiếu và tôi đưa tay hứng lấy anh và anh không bị ngã xuống đất. Thật là một đại họa ngoài sự dự trù của chúng tôi.

Lúc đó, tôi đứng bên dưới nhìn lên, hình ảnh một đoạn thang dây còn lại treo lơ lửng trên tường cao trông ghê rợn như giây thòng lọng của cái giá treo cổ. Tôi thẫn thờ cúi xuống nhìn đoạn thang dây bị đứt nằm dưới đất rồi lại ngước nhìn phần còn lại treo quá cao bên trên, tôi điếng người chẳng biết tính làm sao. Nhìn cái móc sắt “báu vật” làm bằng dây phơi bằng thép gai bện lại mà chúng tôi đã bỏ ra bao nhiêu công sức và kế hoạch mới đánh cắp được, giờ này đã trở thành vô dụng và đang móc vào chân cọc sắt trên trốc bờ tường cao.

Tình thế trở nên vô cùng bi đát, vì ba người còn kẹt lại bên trong không làm sao với tới đoạn thang dây ngắn còn lại ở lưng chừng bờ tường. Tệ hại hơn nữa, chúng tôi cũng không có cách gì để báo tin cho hai người bên ngoài về tai nạn vừa xẩy ra. Bụng dạ tôi lúc bấy giờ nóng như lửa đốt và tôi cũng nghĩ là anh Tiếp và anh Thuyên đang nấp bên ngoài cũng hết sức sốt ruột và lo lắng vì không biết chuyện gì đã xẩy ra bên trong. Tôi cố gắng đủ mọi cách để với lên thang dây bị đứt đang treo lơ lửng bên trên, nhưng vô hiệu quả. Tình thế trở nên tuyệt vọng, và khi nhìn về cuối chân trời, tôi thấy chân trời phía đông đã hơi ửng đỏ, lần đầu tiên tôi thấy cái chết đã gần kề và chắc chắn.

Vì không dự trù trường hợp chết người này nên trong tay chúng tôi lúc đó không còn có thứ gì để giúp với lên được trốc bờ tường đá xanh cao 5 thước này. Trong cảnh tuyệt vọng đó, tôi ngồi xuống cho anh Tiếu đứng lên vai tôi và Văn đứng chồng lên vai Tiếu với hy vọng sẽ nối lại được chiếc thang dây, nhưng không kết quả vì tôi không thể nào chịu nổi sức nặng của hai người. Vả lại, Lâm Thành Văn yếu quá, cũng không thể đứng lên cao trong tư thế mà những người làm xiếc còn phải cẩn thận! Chúng tôi làm đi làm lại, và lần nào leo lên rồi cũng té nhào xuống như những quả mít chín rụng phình phịch xuống mặt đất có nhiều cỏ sát chân bờ tường.

Sau khi cố gắng bằng đủ mọi cách nhưng không kết quả, tôi đành phải bảo hai người bạn ngồi xuống đợi và tôi chạy trở vào buồng.

Lúc bấy giờ biết là đã muộn và cuộc vượt ngục coi như đã thất bại, nên tôi không còn e dè như lúc mới vừa bò ra khỏi buồng. Lần này, tôi cố gắng chạy thật nhanh trở lại buồng, tiết kiệm được phút nào hay phút nấy. Tôi hành động vì sự thúc đẩy của bản năng sinh tồn và không còn biết lo sợ là gì. Lúc nãy, khi chúng tôi đi ra, ai nấy cẩn thận bò trườn sát mặt đất như những con sư tử rình mồi theo sự hướng dẫn và quan sát của anh Tiếp, lần nầy trở lại buồng, tôi cứ thế mà cắm đầu cắm cổ chạy. Cũng may lúc đó không có cán bộ nào đi tuần, nếu có, chắc tôi đã lãnh nguyên một băng đạn vào thân thể và sự việc đã hoàn toàn đổi khác. Tôi vượt qua bức tường thấp của khu vực kiên giam một cách nhanh nhẹn và dễ dàng như một con sóc và chạy vào hầm chứa phân mà tôi vừa từ bỏ lúc nãy.

Muốn trở vào buồng, tôi phải chui trở lại qua cái lỗ tường vừa đào nằm cao bên trên. Vì cao quá, tôi không thể với tới để chui trở vô buồng cho được. Lúc nãy có mấy người nên chúng tôi cõng nhau lên để chui vào, bây giờ chỉ có một mình tôi, sống hay chết gì cũng chỉ có một mình, và tôi phải tự xoay xở lấy. Trong lúc tuyệt vọng, tôi nhớ cánh cửa gỗ mà chúng tôi vừa kéo bật đinh lúc nãy, đang nằm gần lối ra vào hầm chứa phân.

Tôi mò lại tìm mấy tấm ván đang nằm rải rác gần đó mang lại và bắt dựng lên gần cái lỗ của bức tường. Khổ nỗi, những tấm ván này trơn trợt nên không dễ gì để tôi có thể bám mà leo lên được. Mấy lần tôi cố leo lên lại bị tuột xuống và rơi tõm vào cái sọt chứa phân, làm phân văng tung tóe trong cái hầm tối om! Sau mỗi lần thất bại, tôi cứ phải mò mẫm nhiều chỗ mới có thể tìm lại được những tấm ván để bắt đầu lại. Thật là khổ thân tôi, việc ra khỏi buồng đã khó mà trở lại vào buồng cũng không dễ gì hơn. Tôi loay hoay hết cách này qua cách khác, cuối cùng rồi cũng leo lên được và trườn người chui vào lỗ để trở vào buồng.

Căn buồng lúc này như một bãi chiến trường. Chỗ nào cũng bê bết những gạch, vôi vữa, áo quần, chăn, màn, chiếu…Trong một góc buồng sát cạnh lối đi vào cầu tiêu, chiếc đèn dầu bé nhỏ vẫn đang leo lét cháy. Cha Định đang nằm dưới đất, thấy tôi bước vào vô cùng ngạc nhiên và lồm cồm mò ngồi dậy. Tôi chẳng nói với Cha Định một lời nào, chỉ vội vàng lục tung các thứ đồ đạc của tôi. Hai tay tôi bươi móc nhanh như một con chuột đào hang để mò tìm cái màn. Đây là loại màng lưới bằng ny-lon của quân đội rất bền chắc. Tôi cuộn cái màn vào bên trong áo, vội vàng quay trở lại chui qua lỗ tường vào hầm chứa phân và theo đường cũ chạy ra chân bờ tường, nơi hai người bạn còn đang ngồi chờ ngay bên dưới đoạn thang dây treo lơ lửng bên trên. Lúc này trời đã hừng sáng!

Tôi xoắn tròn cái màn lại, nối với đoạn thang bị đứt và cố gắng ném lên cho máng vào dây thép gai trên trốc bờ tường. Vì tường cao quá nên tôi ném lên rồi lại rơi xuống, cứ thế tôi cố hết sức ném cái màn lên. Sau một lúc cố gắng, chiếc màn mắc dính được vào bờ rào dây thép gai trên trốc bức tường. Sau khi ghì thử thấy chắc chắn, tôi bảo anh Văn bám vào leo lên trong khi Tiếu và tôi cố nâng Văn lên, nhưng Văn chỉ leo được một đoạn lại té xuống. Một lần, hai lần… Văn leo lên rồi lại té xuống vì anh đã quá yếu. Chỉ có thang dây với những thanh gỗ nằm ngang mới có hy vọng giúp được anh. Biết mình không thể leo ra được, Văn đau xót bảo:

-Tôi không đi được, hai anh lo tìm cách leo ra đi!

Tôi bảo Văn:

- Không thể được, chúng ta đã thề hứa cùng sống cùng chết với nhau, làm sao chúng tôi có thể bỏ anh cho đành?

Văn mệt nhọc, ngồi bệt xuống đất, xua tay từ chối. Khi thấy anh Tiếu định kéo anh trỗi dậy, anh nói với anh Tiếu:

- Anh Tiếu với anh Lễ lo đi đi, tôi đành bỏ cuộc! Hai anh đi ngay đi, ở đây chết cả đám, ích lợi gì!

Nói xong, Văn đứng lên, nắm lấy bàn tay tôi và tay anh Tiếu, bóp mạnh để từ giã, xong quay lưng đi dọc theo chân tường!

Tới phiên Trịnh Tiếu cố gắng bám cái màn leo lên, nhưng cũng không nổi mặc dù tôi hết sức cố gắng nâng người anh lên. Khi thấy không thể nào leo lên được, anh bèn quay sang bảo tôi lo trèo lên, còn anh đi thẳng thật nhanh về phía Văn, bỏ tôi đứng bơ vơ với chiếc màn treo lơ lửng trên bờ tường.

Lòng tôi buồn vô hạn khi nhìn theo bóng hai người anh em nắm tay nhau đi thật nhanh dọc theo chân tường về phía tay trái mất dạng. Đây là sự mất mát đầu tiên trong vụ vượt ngục. Không biết lúc đó trong thâm tâm hai anh nghĩ gì nhưng riêng tôi thật tan nát cõi lòng khi nhìn bóng hai anh đi xa dần, xa dần… Tôi cũng đoán biết những gì đang chờ đợi hai anh khi người cán bộ đầu tiên trông thấy. Tôi hiểu rằng, hai anh có ý đi thẳng để tôi khỏi bận tâm mà lo thoát ra ngoài cho nhanh.

Còn lại một mình, tôi lấy hết sức lực bám vào chiếc màn cố leo lên. Chiếc màng lưới nhùng nhằng bám vào các gai nhọn của hàng rào bên trên không có thể coi là một loại thang được. Nhưng trong hoàn cảnh đó không hiểu sức lực ở đâu lại dồn về đôi cánh tay khẳng khiu của tôi và tôi đã bám lấy chiếc màn như một con thạch sùng đang bám vào tàu lá để leo lên. Tôi cố gắng nương tay làm sao cho cơ thể mình trở nên “vô trọng lượng” để chiếc màng lưới có thể chịu đựng.

Khi tôi leo lên gần tới đầu bờ tường, chiếc màn tự nhiên bị rách toạc một phát. Tôi vội vàng đưa một một tay vớ được hàng rào dây thép gai trên trốc bờ tường, còn tay kia chới với giữa khoảng không trong khi tôi cách mặt đất bên dưới bằng cả chiều cao của bức tường! Trong cơn hoảng sợ đó, tôi còn cảm thấy được các gai thép nhọn đâm xuyên qua lòng bàn tay và nghe dòng máu nóng chảy ngược xuống nách, vì lúc đó chỉ có một tay đang ghì lại sức nặng của toàn bộ cơ thể. Mặc dù vậy, lúc ấy trong đầu óc tôi hiện ra hình ảnh tên cán bộ cầm khẩu AK chực nhả đạn vào thân thể đang treo lơ lửng của tôi đã làm tôi quên đau đớn. Bằng một sự cố gắng đến tột cùng, tôi nhoài người nắm thật chặt vào dây thép gai đánh đu được lên trên đầu bờ tường.

Từ trên trốc bức tường cao nhìn ra ngoài, tôi thấy sợi dây nhỏ mà anh Tiếp cột vào chân cọc sắt dùng để tuột xuống vẫn còn đó nên vội bám vào dây đó và tuột xuống đất. Tôi chẳng còn nghĩ tới việc cuốn lấy cái màn bên trong, mà có muốn cũng không thể làm được vì cái màn bị móc chằng chịt vào dây thép gai, hơn nữa lúc bấy giờ đã quá muộn. Xuống tới chân tường, tôi bị choáng ngợp và thấy nhẹ nhàng trong cảm giác đang hít thở không khí tự do! Mặc dù đây chỉ là một thứ tự do chết người! Cái cảm giác “người tự do” lúc bấy giờ thật khó mà diễn tả cho được. Tôi nghĩ Tiếp và Thuyên ẩn nấp trong chuồng trâu đã sốt ruột chờ tôi chí ít là hai tiếng đồng hồ! Một giờ lúc đó dài hơn một thế kỷ.

Vừa tuột xuống đất, tôi vội vàng chạy vào chuồng trâu để gặp Tiếp và Thuyên đang ẩn nấp và lo âu chờ tôi ở đó. Tôi không bao giờ quên được khuôn mặt vui mừng rạng rỡ của các anh khi gặp tôi. Tôi vội sơ lược cho hai anh biết sự việc xẩy ra bên trong đã khiến anh Tiếu và anh Văn phải bỏ cuộc. Không chậm trễ một giây phút nào, ba người chúng tôi liền phóng chạy ngay về hướng bờ sông Mã cách đó chừng hai trăm thước. Tôi vừa chạy về hướng bờ sông Mã vừa nghĩ thầm là cuộc vượt ngục đã hoàn toàn thất bại, nhưng vẫn còn tin tưởng vào sự may mắn nào đó như một thứ phép lạ có thể xẩy ra để cứu chúng tôi.

Sau khi chạy hết đoạn đường cập theo bờ tường trại, chúng tôi băng qua đoạn đường đất gần bên láng mộc cặp theo một con con suối nhỏ. Con đường sũng ướt và đây đó có những vũng nước mưa còn động lại sau trận mưa to đêm qua. Sau khi qua khỏi láng mộc đã thấy bờ sông Mã lấp ló sau một đồi sắn mới được trồng cách đó không lâu, với những cây sắn vừa cao quá mắt cá chân một đỗi. Chúng tôi hướng thẳng xuống một lùm bụi um tùm bên bờ sông, lúc đó nước dâng cao, chảy thật xiết rồi trầm mình xuống đó.

Dưới Dòng Sông Mã

Buổi sáng ngày 2 tháng 5 năm 1979 hôm đó, nước sông Mã dâng cao vì trận mưa to suốt đêm qua. Đây là vùng thượng nguồn, nước sông chảy một chiều và các cơn mưa đêm qua làm mực nước dâng lên rất cao và chảy mạnh như thác. Chúng tôi trầm mình xuống sông, bơi theo dòng nước chảy mạnh, mò mẫm cập theo các bụi rậm bên bờ sông. Được một quãng khá xa, chúng tôi gặp cái hốc đá thật kín đáo, bên trên có một cây to, rễ cây tua tủa bao trùm kín cả miệng hang, tạo thành nơi ẩn nấp thật lý tưởng. Cả ba người lặn xuống nước chui vào ẩn nấp trong hang đó và chờ đợi.

Tôi ở trong cùng, sau tôi là Tiếp, còn Thuyên nấp bên ngoài, gần miệng hang. Chúng tôi yên lặng và nín thở đợi chờ. Thời gian lúc bấy giờ như ngừng lại để đủ cho tôi nhận định tình thế và cảm nhận hết cảm giác kinh hoàng của một con thú bị săn đuổi và đang bị dồn đến bước đường cùng. Lúc đó, tôi biết là mình sắp chết, tôi sắp phải từ giã cuộc đời ở tuổi 36 và tôi chẳng chút hối hận gì khi phải ra đi. Lúc đó, tôi nhớ tới cái giá của hai chữ TỰ DO sao mà cao quá. Tôi sắp sửa trả bằng cái giá mạng sống của tôi nhưng vẫn chưa mua được. Tôi nhớ lại trên quê hương tôi, có bao nhiêu người đã phải trả cái giá như tôi nhưng họ vẫn chưa mua được hai chữ TỰ DO!

Ôi! Huyền nhiệm thay hai chữ TỰ DO, hai chữ đó là giá trị tuyệt đối của đời tôi và cũng là của dân tộc tôi. Tôi không hối hận gì nếu phải chết ở tuổi 36 vì hai chữ TỰ DO, tôi chỉ tiếc là tôi phải kết liễu cuộc đời quá sớm khi tôi chưa có điều kiện để tranh đấu mang lại TỰ DO cho dân tộc tôi như lòng tôi mong ước. Đó là lý tưởng mà tôi hằng ấp ủ từ khi có trí khôn để nhận biết dân tộc Việt Nam của tôi là một dân tộc bất hạnh vì thiếu TỰ DO. Tôi khẳng định tôi được sinh ra đời làm người vì sứ mệnh đó. Tôi làm linh mục cũng vì sứ mệnh đó.

Nằm trong hang một lúc, chúng tôi nghe ba tiếng súng báo động có tù vượt ngục. Giây phút kinh hoàng nhất của chúng tôi đã tới. Tôi biết là mình đang ở trong tình trạng rất nguy hiểm, nhưng vẫn nuôi hy vọng là họ sẽ không tìm thấy chúng tôi đang ẩn nấp trong cái hang có lớp cỏ bao phủ bên trên và phải lặn xuống sâu mới vào được trong hang này. Biết đó là một hy vọng rất mong manh nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng. Chúng tôi đứng yên lặng cho đến nỗi tiếng nước chảy róc rách bên ngoài cũng trở thành một tiếng động rất rõ ràng vọng tới tai tôi và làm tôi kinh hãi.

Vì chỗ chúng tôi nấp không xa trại bao nhiêu nên không bao lâu sau ba tiếng súng, tôi lặng người khi nghe rõ tiếng chân người chạy rần rật ngay bên trên, chen vào với tiếng la hét, tiếng chó sủa và tiếng súng đạn va chạm nhau lách cách. Chúng tôi biết là cán bộ đang dắt chó săn truy lùng chúng tôi ráo riết. Mặc dù tôi đã biết trước và sẵn sàng đón nhận tình huống này, nhưng thật tình lúc đó tôi sợ đến điếng cả người và tôi nghĩ đây là phản ứng tự nhiên của bất cứ một sinh vật nào khi thấy mạng sống sẽ bị mất đi trong giây lát. Tôi yên lặng, nhắm mắt cầu nguyện và phó thác đời tôi trong tay Chúa.

Lúc sau, tiếng chân người xa dần khiến tôi mừng thầm nghĩ rằng họ đi qua luôn. Nhưng không bao lâu, lại nghe tiếng ồn ào trở lại, rồi tiếng la hét và tiếng chó sủa càng lúc càng gần hơn. Biết chắc là không thể thoát được, tôi lại dọn mình ăn năn tội một lần nữa để sẵn sàng đón nhận cái chết.

Lúc bấy giờ Nguyễn Sỹ Thuyên ở gần ngoài miệng hang, lội vào trong, đến nép sát vào với Đặng Văn Tiếp và tôi. Tự nãy giờ ba anh em tôi chẳng ai nói một lời nào. Lúc đó bất ngờ anh Tiếp quay sang ôm lấy tôi xin tôi làm phép Rửa tội cho anh. Tôi đã khoát nước sông Mã làm phép Rửa tội cho anh Tiếp. Trong thời gian sống chung với tôi, anh Tiếp có ngỏ ý muốn được Rửa tội, và tôi đã giúp anh về phần giáo lý.

Khi vừa Rửa tội xong, anh Tiếp ôm hôn tôi một cách vô cùng tha thiết như bày tỏ sự vui mừng và biết ơn. Tôi cảm thấy có một cái gì khác lạ trong cử chỉ này của anh Tiếp, nhưng tôi đâu có ngờ đó là cái hôn vĩnh biệt của người anh gởi lại cho người em trước khi anh Tiếp từ giã cuộc đời! Trong giây phút đó tôi cố quên đi tất cả những việc của đời người để hướng tâm hồn về cõi sống trường sinh. Tôi tự nhiên cảm thấy rất vui vì vào những giây phút cuối đời, tôi đã nhân danh Thiên Chúa mà ban Bí tích Rửa Tội cho anh Tiếp, là người anh kết nghĩa mà tôi vô cùng thương mến.

Lúc này thì tiếng la hét, tiếng người, tiếng chó sủa càng lúc càng gần hơn. Tôi không đoán được các loại âm thanh đó ở đâu nhưng tôi đoán có lẽ là ngay trên đầu chúng tôi vì bên bờ sông có một cây to mọc trồi ra mé nước và chung quanh có lùm bụi um tùm rất dễ cho người ta nghi tù vượt ngục rúc vào trốn trong đó.

Tôi đoán không sai, từ trong hang tối om khẻ vạch cỏ nhìn ra, tôi thấy tên Thượng sĩ Hoàn mặc áo thun và quần đùi trắng với khẩu súng lục có dây đeo quàng ngang vai. Hắn đứng trên chiếc xuồng nhỏ, tay cầm cây tầm vông dài chừng ba thước, trên đầu có cây sắt nhọn mà tiếng miền Nam chúng tôi gọi là cây “xà-no” dùng đâm chuột hoặc đâm rắn trong các lùm bụi, nhất là trong mùa nước lên.

Tên Thượng sĩ Hoàn chỉ huy số cán bộ võ trang canh gác đêm vừa rồi, và việc chúng tôi vượt ngục đã làm cho hắn tức giận điên cuồng. Người hắn khá mập, hơi lùn và rất rắn chắc. Đặc biệt hắn có nước da đen, đen hơn những người có nước da ngăm đen bình thường. Nước da hắn đen nên càng làm cho đôi mắt hắn trắng dã dưới đôi chân mày thật rậm và gần đụng nhau trên sống mũi. Toàn diện khuôn mặt hắn lộ ra cái vẻ của hạng người “mặt đụt”, thuộc loại ngu đần và hung ác. Hắn vừa chống xuồng vừa chọc cây sắt nhọn một cách hung bạo vào các bụi rậm bên bờ sông mà hắn nghi ngờ. Thấy chiếc xuồng đang trôi từ từ xuống chỗ chúng tôi đang nấp, tôi mất hết hy vọng! Đã vậy tôi còn nghe tiếng người đàn bà trên thuyền đánh cá bên sông gọi vọng sang, giọng lanh lảnh:

-Chúng nó vừa ở ngay đấy thôi!

Tên Hoàn quay mặt sang hỏi:

- Ở mô?

-Đâu trong bụi rậm trước mặt ấy, tôi vừa nom thấy chúng ngay bụi ấy!

Theo sự chỉ dẫn của người đàn bà, tên Thượng sĩ Hoàn vạch từng bụi cỏ, rọi đèn pin xuống và cuối cùng hắn đã tìm thấy chúng tôi. Thế là hết!

Giây Phút Kinh Hoàng

Thật khó mà diễn tả được tâm tư của tôi trong lúc bấy giờ. Tôi nghĩ là cuộc đời của ba anh em tôi chấm dứt kể từ giây phút đó. Cuộc vượt ngục đã hoàn toàn thất bại và chúng tôi phải sẽ trả cái giá cho việc làm này. Lúc đó tôi có thể hình dung ra được chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo, bởi tôi đã được chứng kiến cảnh tù nhân bị hành hạ khi vượt ngục thất bại. Họ bị đánh đập và hành hạ như một con thú. Có người đã bị đánh chết một cách thê thảm. Lúc đó, tôi ôm ghì lấy anh Tiếp và nói:“Anh em mình nhất định không ra, cho nó bắn chết ở đây!” Khi nghe tôi nói, anh Tiếp càng ôm lấy tôi chặt hơn, trong khi tiếng la hét đầy thú tính của bọn người đang đứng trên bờ sông như một tốp thợ săn đã bao vây được con mồi, chỉ còn chờ giương cung hạ thủ. Tên Thượng sĩ Hoàn như một hung thần đang lồng lộn la hét giục chúng tôi ra. Tiếng la hét của hắn đầy vẻ man dại và điên cuồng như muốn xé tan màn sương mai của vùng rừng núi âm u Thanh Cẩm.

Nguyễn Sỹ Thuyên nấp ở bên ngoài lội ra trước, trong khi anh Tiếp và tôi ôm nhau ghì cứng trong hang, nhất định không ra. Sau khi la hét một hồi thấy không lay chuyển, tên Hoàn vạch cỏ che trên rễ cây, dí mũi súng lục lạnh toát vào thái dương của tôi, miệng hắn la hét một cách man dại:“Lễ! Mày có bơi ra không? Hay đợi tao bắn nát đầu mầy ra, hả?” Thực tình mà nói, lúc bấy giờ tôi chỉ mong cho hắn siết cò. Tôi nghĩ đó là cách giải quyết tốt nhất. Nhưng tên Hoàn không bóp cò súng vào thái dương tôi mà quay súng ngược lên bắn chỉ thiên mấy phát. Đó là dấu hiệu báo cho các nhóm đang tuy lùng khác biết là đã bắt được tù vượt ngục.

Thấy la hét không kết quả gì, hắn bèn điên cuồng chụp lấy cây “xà no” mà hắn để trên thuyền, chọc một cách điên cuồng vào hang. Mũi sắt nhọn trúng vai anh Tiếp. Qua ánh đèn pin của hắn, tôi thấy máu anh Tiếp tuôn ra đỏ thẫm một vùng nước. Trước tình thế này, chúng tôi thấy không còn cách nào khác hơn là phải lội ra. Anh Tiếp bắt đầu lội ra khỏi hang trước, tôi lội theo sau. Từ mí nước lên tới bờ còn khá cao.

Tôi hành động như một cái máy. Hai tay nắm lấy từng bụi cỏ, tôi bò dần lên bờ sông trong lúc đám đông chừng vài chục người, cả công an, cai ngục lẫn dân chúng đang đứng lố nhố trên bờ sông nhìn xuống theo dõi cảnh tôi đang lóp ngóp bò lên bờ. Lúc ấy, tôi có tâm trạng của một tử tội, trên đường đi tới pháp trường.

Cái Giá Phải Trả

Vừa bò lên tới bờ sông, tôi gặp ngay tên Chuẩn úy Lăng, Sĩ quan An ninh của trại, đang cầm trở ngược đầu cây súng AK đứng chực sẵn. Khi tôi đứng vừa đúng tầm, hắn chấp hai tay quơ một cú cực mạnh, tống trọn cái báng súng vào giữa ngực tôi, đẩy tôi ngã lộn xuống nước. Cú đòn này được coi như tiếng trống mở màn cho một thảm kịch sắp được trình diễn trong giây lát. Khi tôi té xuống sông, tên Thượng sĩ Hoàn đứng trên thuyền dùng xà-no thọc vào lưng tôi, bắt leo lên bờ. Tôi lại lần từng bụi cỏ bò lên, tên Chuẩn úy Lăng vẫn đứng chờ tôi, nhưng lần này hắn không đánh nữa mà túm tóc tôi kéo mạnh lên bờ. Một tên cán bộ bước tới, tháo lấy cái khăn tôi cột ngang thắt lưng, trong đó tôi có cất cái kính đeo mắt. Kính của tôi bị mất từ lúc đó.

Cách đó không xa, tôi thấy một tốp chừng mươi tên cán bộ đang vây quanh anh Tiếp, hò hét và đánh đấm túi bụi. Trông thấy cảnh đó, tự nhiên tôi nhớ lại một câu thành ngữ La-tinh mà tôi đã học hồi còn ở Chủng viện:“Người đối với người còn hơn chó sói!”. Hình ảnh anh Tiếp đứng cao lêu khêu trên đồi sắn, lúc này sắn non mới lên cao độ một gang tay, mình mẩy anh ướt đẫm, tả tơi, chung quanh là một lũ cán bộ cộng-sản đang điên cuồng gào thét, đánh đập, khiến tôi liên tưởng tới một cảnh trong cuốn phim “Cuộc Đời Chúa Cứu Thế”, lúc Chúa Giêsu vác Thánh giá lên đỉnh đồi Golgôtha, một đám đông quân dữ đang vây quanh hò hét, đánh đập. Tôi chẳng biết so sánh như vậy có phạm thượng hay không, nhưng đó là cảm nghĩ mà tôi thấy thật rõ rệt lúc bấy giờ. Vừa trông thấy tôi, một bọn khác xông vào và tôi chịu số phận y như anh Tiếp. Lúc đó anh Thuyên ở đâu và số phận anh ra sao tôi không biết.

Những cú đấm đá đầu tiên khiến tôi đau điếng cả người, nhưng sau một chập, tôi không còn nghe đau đớn nữa vì toàn thân tôi đã tê dại. Những cú đòn về sau, tôi chỉ còn cảm giác qua chấn động, như âm thanh của một quả bóng được đá dội vào tường. Lúc đó, tôi không còn biết đến cảnh vật chung quanh, nhắm mắt cắn răng chịu đòn không hề kêu la một tiếng. Trong cảnh hỗn loạn của những tiếng la hét man dại đó lại có giọng quát khá to của một người nào đó mà tôi không còn đủ tâm trí để nhận ra, tôi chỉ đoán là của ông trại trưởng:“Thôi! Tôi bảo các đồng chí thôi! Tôi bảo các đồng chí thôi!”.

Sau tiếng quát đó, chẳng những chúng không dừng tay mà lại càng đấm đá dữ đội hơn. Tôi đã từng chứng kiến nhiều cảnh cán bộ đánh tù trong ngục tù cộng-sản. Tôi hiểu rằng những lời ngăn can kia là một thứ ám hiệu cho cán bộ càng hành hạ tù tàn nhẫn hơn, trong khi đó người ngoài nhìn vào vẫn tưởng rằng đảng rất nhân từ, vì người thay mặt cho đảng đã lên tiếng ngăn can!

Đánh đập chán chê, chúng đẩy tôi đi về phía trại. Lúc mở mắt ra tôi không còn thấy anh Tiếp ở đâu nữa. Tôi loạng choạng lê bước đi trước, một số đông cán bộ ồn ào theo sau. Gần tới cầu ván bắc qua con suối cạn trước trại mộc, có Thượng sĩ Khải là võ sĩ huấn luyện viên vũ thuật cho cán bộ, đang đứng thủ thế ở phía trước và chờ tôi đi tới. Người hắn cao gần thước tám, và thật rắn chắc. Hắn mặc áo thun, quần đùi trắng, chân mang giày vải, đang trong tư thế sẵn sàng. Khi tôi vừa đến đúng tầm, hắn nhún người nhảy vọt lên cao tống nguyên gót chân vào mặt tôi khiến người tôi bị bắn tung và lộn nhào xuống suối cạn ở gần đó, máu mũi và máu miệng tôi chảy ra lênh láng.

Tôi phải công nhận, đây là một cú đá rất đẹp, đúng bài bản và có tính cách biểu diễn nghiệp vụ! Có bị đòn như thế tôi vẫn thấy “hãnh diện” hơn là lúc nãy bị một đám cán bộ bu vào như những con ngựa non háu đá. Chúng đánh đấm tôi túi bụi nhưng chất lượng lại kém so với cú đá của tên Khải mà tôi vừa lãnh nhận!

Lúc nằm dưới suối cạn, tôi vẫn còn tỉnh nhưng chợt nghĩ là phải giả vờ chết, bằng không tôi sẽ chết thật. Nghĩ vậy nên tôi nằm yên bất động. Cán bộ trên bờ gọi giục, tôi cũng nằm yên. Có mấy anh nhào xuống đánh tiếp, tôi cứ mặc kệ và nằm ngửa ra như một xác chết. Có lẽ họ tưởng là tôi đã chết nên gọi hai trật tự Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát xuống suối cạn kéo xác tôi lên và mang về trại.


Tôi Phải Sống: 9- “Tôi Phải Sống”

toiphaisong_tua2

9- “Tôi Phải Sống”

Người chết đã yên phận, mặc dù chết thật đau đớn và đầy oan nghiệt nhưng hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn cũng đã thoát khỏi địa ngục trần gian Thanh Cẩm. Riêng phần chúng tôi, ba anh em còn sót lại trong vụ vượt ngục đó, vẫn phải tiếp tục đền tội sống trong nhà kỷ luật suốt mấy năm trời. Nhà kỷ luật ở đây tự nó đã là địa ngục, có thêm trật tự Bùi Đình Thi vào, nó xuống sâu hơn mọi tầng của địa ngục và trở thành đáy địa ngục! Nhưng ngay trong “Đáy Địa Ngục”, con người cũng có phần có số. Anh Trịnh Tiếu và anh Nguyễn Sỹ Thuyên may mắn hơn một chút vì không bị chiếu cố nhiều. Còn số phần của tôi kém may mắn hơn.

Phần Cha Nguyễn Công Định, vì không tham gia cuộc vượt ngục nên không bị đánh đập, nhưng cũng bị cùm trong nhà kỷ luật. Vì lý do đó, Cha Định rất oán hận chúng tôi, và sau này khi bốn người bị nhốt chung một buồng, đã có nhiều chuyện đau lòng xẩy ra giữa Cha Định và ba anh em chúng tôi.

Trong tuần đầu sau khi bị đánh tả tơi, anh Thuyên và tôi bị cùm chân cả ngày lẫn đêm trong nhà kỷ luật mới. Cả hai chưa ai trở người được nên phải đại tiểu tiện và ói mửa ngay trên bệ nằm, xong dùng tay gạt phân xuống sàn và xé quần áo ra lau chùi. Tuy lúc ấy trong buồng có các ống bẩu, dùng cho việc đại tiểu tiện, nhưng làm sao chúng tôi xử dụng được khi trở người còn chưa nổi?

Càng ngày đống phân trong buồng càng cao và bộ quần áo duy nhất của chúng tôi càng nhỏ lại. Tuy vậy, tôi không hề cảm thấy mùi hôi thối gì cả, nhưng mỗi lần cán bộ đứng ngoài cửa sổ nhìn vào, tôi thấy họ phải đứng lùi ra xa và lấy tay bịt mũi lại. Lúc đó tôi mới biết là buồng mình kém vệ sinh! Tôi đang lo ngại, không biết xoay xở ra sao để che thân, khi áo quần đã xé gần hết, mà kêu xin nhiều lần cán bộ nhất định không cho, thì không ngờ anh Thuyên có giải pháp hay.

Sau khi đã ngồi lên được, anh Thuyên ngồi tẩn mẩn xé mảnh vải dài chừng ba gang tay, rộng một gang và tại bốn góc, cột dây vải khoảng hai gang. Nhìn thoáng qua trông như bộ Bikini của các bà các cô mặc khi tắm biển. Nhưng bộ “Bikini” này lại là hình chữ nhật, trông giống như loại diều giấy trẻ con hay thả chơi khi trời lộng gió. Với bộ “Bikini” này, khi mặc vào rất đơn giản, chúng tôi chỉ việc cột hai dây vải phía trước ra phía sau lưng, và hai dây sau lưng ra trước rún!

Tuy ăn mặc như vậy trông hơi có vẻ sexy nhưng gọn nhẹ, tiện dụng và đa năng. Khi cần, chỉ tháo hai gút dây ra là chúng tôi có ngay một khăn mặt để dùng. Thật tôi không ngờ, anh Thuyên là một giáo sư toán mà lại có khả năng bén nhạy của một nhà vẽ kiểu thời trang! Lúc bấy giờ không còn loại y phục nào phù hợp hơn cái “mốt” anh Thuyên đã sáng chế cho anh và tôi. Nhưng rất tiếc là mỗi người chỉ có một cái duy nhất, vì không còn vải để làm cái thứ hai.

Một buổi sáng trong tuần lễ thứ ba sau ngày vượt ngục, chúng tôi được tháo cùm lần đầu tiên và cho xuống sông Mã tắm giặt. Tất cả khoảng hơn 20 tù nhân trong khu kỷ luật, trong số đó có vài ba linh mục. Ai nấy trông thật bệ rạc, đứng xếp hàng đôi trước sân, tay ôm áo quần và các loại đồ chứa nước, chờ trật tự đếm số trước khi ra lệnh cho đi. Dĩ nhiên là có cán bộ vác súng dài theo sau.

Lúc anh Thuyên và tôi mặc “Bikini” từ trong buồng 4 lê lết bước ra, tôi thấy mọi người trố mắt nhìn. Không biết anh em nhìn chúng tôi vì lối ăn mặc lạ đời, hay vì hai cái bộ xương biết đi, bị trét đầy cứt đái? Có lẽ cả hai! Hôm đó anh Thuyên và tôi không có gì để giặt, nhưng trước khi ra khỏi buồng, chúng tôi đã lẹ làng quơ hết số giẻ rách đã dùng trong việc đại tiện, vất rải rác dưới sàn, mang xuống sông giặt để dùng lại, vì chẳng còn đâu áo quần để xé nữa.

Vừa ra khỏi buồng, tôi bị quáng mắt và xiêu đảo, phải dừng lại hồi lâu mới bước đi, nhưng tôi lại không thể nhấc chân lên được vì quá kiệt sức. Người tôi bầm giập và tôi đã nằm một chỗ trong thời gian mấy tuần liền, nên gần như bị bại liệt. Cán bộ phải cho hai anh tù khác giúp kè tôi gượng bước đi. Anh Thuyên đỡ hơn tôi, có thể tự bước đi một mình nhưng trông dáng anh đi thật thê thảm. Hai chân dạng ra lết đi từng bước, lưng cong vòng như cái cạp nong, khi di chuyển, tưởng chừng đầu anh gần chạm đất!

Quãng đường tới bờ sông chỉ chừng hơn trăm thước, thế mà lúc đó tôi thấy sao đi mãi không đến nơi. Khi đi ngang qua hội trường giữa sân trại, tôi rùng mình nhớ lại cảnh tượng ở đây ba tuần trước với hình ảnh kinh hoàng của Bùi Đình Thi. Lúc này anh ta đi ngay sau lưng tôi vì tôi đang được dìu lê từng bước, một cách mệt nhọc ở cuối hàng.

Khi tới nơi, cả bọn ùa xuống sông khua khoắng tắm giặt. Nước thượng nguồn sông Mã hôm ấy thật trong và cạn chỉ ngang tới cổ vì các ngày trước không mưa. Trầm mình trong dòng sông nước lạnh, tôi thấy rất dễ chịu. Nhất là vì đã tẩy rửa được bao nhiêu thứ dơ bẩn, cứt đái đang bám nặng trên người trong ba tuần lễ kinh hoàng vừa qua. Vừa kỳ cọ thân thể, tôi vừa nhìn các anh em, nhất là các anh em linh mục. Tôi thấy họ cũng đang nhìn tôi cách ái ngại nhưng không ai dám nói năng gì, chỉ có bốn mắt nhìn nhau thông cảm, vì tôi bị cấm tiếp xúc với tất cả mọi người. Hơn nữa, tôi biết là từ trên bờ sông lúc nào mắt của cán bộ và trật tự cũng dán vào tôi.

Tắm một chốc tôi đã thấy mệt thở dốc nên đứng yên đưa mắt hướng về phía xuôi dòng nước, bồi hồi nhớ lại cái hốc đá dưới gốc cây to bên bờ sông, nơi mà ba người đã ẩn nấp cách nay mấy tuần. Giờ này chỉ còn lại hai! Tôi không dám suy nghĩ tiếp, và cứ đứng yên ngâm mình trong nước nhìn đàn cá mương đang lao nhao ngụp lặn chung quanh mấy anh tù để kiếm ăn. Bọn cá mương này cũng già kinh nghiệm, biết rằng chỉ có tù đi tắm chúng mới được một bữa ăn thoải mái. Theo dõi đàn cá đang tranh ăn, tôi chợt suy nghĩ vớ vẩn:“Mấy con cá ngu này, chúng mày rớ được ghét của tao, nuốt vào không hóa dại cũng ói mửa!” Tôi nghĩ quẩn thế thôi, chứ cá mương ăn phân người, thì làm gì có chuyện ói mửa!

Một lúc sau có tiếng trật tự giục lên. Cả bọn chúng tôi lóp ngóp lội vô bãi cát lài ngay lối lên xuống. Lợi dụng lúc mọi người đang chen lấn không ai để ý, Cha Trần Văn Nghị, có lẽ vì thấy tôi “ăn mặc” quá thảm thương, đã lẹ làng dúi vào tay tôi cái khăn mặt đã giặt sạch vo tròn to chừng bằng cổ tay. Tôi vội vàng nắm lấy vì lúc bấy giờ đó là món quà rất quý.

Trên đường trở về buồng, tôi cảm xúc về tình nghĩa anh em và sự cảm thông Cha Nghị dành cho tôi. Tôi cảm thấy vui vì sự nâng đỡ tinh thần của các bạn tù, nhất là các anh em linh mục. Từ nay gia tài của tôi ngoài nửa manh chiếu rách, nửa cái chăn, một cái “Bikini” do anh Thuyên làm, còn có thêm cái khăn Cha Nghị vừa cho. Tôi mỉm cười tự nhủ:“Đời mình chưa đến nỗi nào!” Nhưng ở đời có mấy ai học được chữ ngờ!

Họa Vô Đơn Chí

Về tới buồng, mọi người lo giũ quần áo ra phơi trên các cánh cửa sổ. Tôi gần kiệt sức vì vừa leo lên hàng chục bậc xi-măng vào khu kỷ luật, nhưng cũng cố gắng giũ mớ giẻ rách và cái khăn Cha Nghị vừa cho ra phơi. Đó là loại khăn mặt khá lớn, màu trắng và có những ô vuông nổi lên như mặt trong của bao tử bò. Vừa với tay định máng cái khăn lên cánh cửa sổ, tôi bỗng giật mình vì câu hỏi quá bất ngờ từ phía sau:

-Lễ! Cái khăn này ở đâu mày có?

Quay lại tôi thấy trật tự Bùi Đình Thi đang đứng ngay sau lưng tôi, một tay anh ta chỉ thẳng mặt tôi, tay kia chỉ cái khăn. Tôi thất kinh vì biết là tai họa tới nơi, nên vội nói dối:

- Tôi nhặt được dưới sông lúc đi tắm. Không biết của ai đánh rơi để tôi trả lại cho họ.

- Vô lý mà nhặt được! Nói thật đi, thằng nào cho mầy?

Tôi vẫn giữ lập trường nhưng lần này bằng giọng khẩn thiết:

- Tôi nhặt dưới sông thật mà… anh Thi, có ai cho tôi đâu!

Bùi Đình Thi ngần ngừ trong giây lát rồi bỏ đi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Thoát nạn! Tôi cũng không biết nhờ nói dối hay ơn trên phù hộ mà tôi được thoát nạn. Khi anh trật tự đi rồi, tôi vội đi vào buồng, leo lên bệ xi-măng tưởng như đó là nơi an toàn . Nhưng tôi đã lầm!

Chừng vài phút sau, Thi trở lại với người cán bộ võ trang có đôi mắt xước mà tôi không biết tên. Linh tính báo cho tôi biết chuyện chẳng lành, khi tôi thấy cả hai đi thẳng vô buồng tôi. Chẳng nói chẳng rằng Thi xồng xộc tiến tới nắm lấy cổ tôi lôi xuống, tên cán bộ mắt xước thuận tay tống ngay một quả đấm như trời giáng vào đúng cạnh sườn làm tôi gập đôi người lại. Vì đã quá suy nhược không thể chịu đựng được cú đòn đó, tôi kêu to lên một tiếng “Trời ơi!” rồi ngã vật xuống sàn. Có lẽ thấy tôi đã quá tệ, hay vì thấy tội của tôi không đáng trừng trị thêm nên anh ta đã dừng tay và đứng nhìn tôi, đang sùi bọt mép nằm oằn oại dưới đất, như con cá đang bị đập đầu.

Một lúc sau cán bộ ra lệnh:“Cùm cổ nó lại!” Bùi Đình Thi túm tóc kéo tôi lên và cùm chân lại. Vừa khóa cùm, Thi vừa mắng:“Đánh cho mầy chừa! Nói dối quen mồm!” Trước khi ra đi, cán bộ mắt xước còn nhổ đánh phẹt một bãi nước bọt xuống sàn, không hiểu để tỏ thái độ khinh bỉ hay vì mùi hôi thối trong buồng đang xông lên. Mặc dù lúc chúng tôi đang tắm dưới sông, anh trực sinh, lúc bấy giờ là anh Nguyễn Tiến Đạt, đã rửa buồng và quét hết các đống phân ra ngoài cửa.

Sau này tôi mới biết là Bùi Đình Thi đã đi hỏi các buồng ai cho tôi cái khăn và đã khám phá ra chính Cha Nghị đã cho tôi. Tội nghiệp cho Cha Nghị, ngài vì thương anh em mà bị nạn. Sau khi đánh tôi xong, anh cán bộ mắt xước và trật tự đi vòng ra phía trước, nện cho Cha Nghị một trận nhừ tử, dập môi chảy máu và cùm chân ngài bảy ngày đêm. Bình thường thì chỉ bị cùm ban đêm! Về sau, tôi có dịp gọi qua xin lỗi ngài, nhưng Cha Nghị cười hề hề nói:“Lỗi quái gì? Được chia sẻ với anh một chút đau khổ là mình vui rồi!” Ngài còn nói thêm:“Tại hôm đó chúng nó đánh, mình đỡ trúng tay, chúng nó đau mới tức khí lên nện mình nhiều như vậy!” Nói xong câu đó, Cha Nghị lại nhe răng cười hề hề!

Tôi nằm liệt mấy ngày vì cú đòn hôm ấy. Ba tuần trước tôi bị đánh đập tàn nhẫn hơn nhiều, tuy nhiên lúc ấy cơ thể tôi còn khỏe mạnh nên có thể chịu đựng được. Vả lại lúc đó, khi bị đánh đập quá nhiều, cơ thể trở nên tê dại và tôi không còn cảm giác đau đớn. Tôi gồng sức chịu đòn và không kêu la. Nhưng lần này lại khác, cơ thể tôi đã bị tổn thương trầm trọng đến nỗi một cơn ho hoặc cái hắt hơi cũng tưởng như xương cốt long ra từng mảnh.

Như thế, có thể hiểu được cú đấm như trời giáng vào cạnh sườn tôi hôm đó của anh cán bộ mắt xước, làm tôi đau đớn chừng nào! Tiếng kêu “Trời ơi!” lúc đó là một phản ứng tự nhiên, tôi không thể nào kềm chế được. Nhưng đó là tiếng kêu la duy nhất trong những lần tôi bị đánh đập trong nhà tù. Ngay cả trong trận đòn thập tử nhất sinh, như tôi sẽ kể về sau này, tôi cũng không kêu la như thế.

Nợ Đời Chưa Dứt

Sau vụ cái khăn mặt độ vài ba tuần thì Nhà Đen bị phá bỏ và số tù bị kỷ luật bên đó được chuyển sang khu nhà mới. Cha Nguyễn Công Định và anh Trịnh Tiếu vào ở chung buồng 4 với tôi và anh Thuyên. Buồng này nằm phía mặt sau của nhà kỷ luật. Lúc bấy giờ là mùa hè, trời nóng nực và oi bức, nhất là về đêm khi hơi nóng đã nung nấu nóc Nhà Bằng suốt ngày tỏa xuống. Buồng giam đã kín lại chật chội nên hơi nóng không có lối thoát ra đã biến căn buồng thành một thứ lò hấp bánh mì!

Mỗi ngày, chúng tôi chỉ mong tới giờ cho ăn để được hít thở chút khí trời khi cửa mở ra. Có lúc tôi nghĩ, nếu lúc bấy giờ Chúa ban cho tôi được ơn làm phép lạ, thì phép lạ đầu tiên tôi sẽ làm là có một lỗ hổng to bằng miệng cái lon sữa bò trổ ra trên nóc nhà bằng, để hơi nóng dồn nén trong buồng có chỗ thoát ra và tôi có không khí để thở.

Vào những buổi tối của mùa hè oi bức, tôi có cảm tưởng không khí trong buồng đặc quánh lại như sữa hộp hoặc như kẹo mạch nha, và chúng tôi đã phải hít thở cái loại không khí “dẻo” ấy. Mặc dù đang vướng một chân trong cùm, nhưng ban đêm thỉnh thoảng tôi phải trườn người, cúi mặt sát sàn nhà, để tìm hít thở chút không khí còn sót lại bên dưới.

Lúc bấy giờ, tôi gần như chẳng còn quần áo gì. Khi ra ngoài đi tắm thì mặc “Bikini”, ở trong buồng thì ba anh em tôi đều trần truồng như người thời tiền sử. Riêng Cha Định không trốn trại nên còn giữ được một ít quần áo. Tôi có kêu xin mãi, nhưng cán bộ cũng chẳng cho áo quần để mặc. Một ngày nọ thấy một cán bộ lạ mặt khá lớn tuổi đi ngang qua bên ngoài cửa sổ, tôi gân cổ gọi to:

-Báo cáo cán bộ!

Cán bộ dừng lại, đứng cách xa song sắt cửa sổ một quãng, hỏi vọng vô:

-Anh nào gọi! Có việc gì?

Tôi trả lời thật lớn tiếng:

- Báo cáo cán bộ, tôi xin cán bộ một trong hai điều này: Hoặc là cho tôi áo quần để mặc, nếu không thì cho tôi một viên đạn. Tôi là con người chứ không phải là thú vật mà sống trần truồng!

Vì đã có dự tính trước nên tôi nói luôn:

-Nếu tôi chết trong nhà tù này thì thôi, nhưng nếu tôi còn sống, tôi phải tìm dịp nói cho thế giới biết cách đối xử vô nhân đạo đối với tù chính trị của chế độ Cộng sản Việt Nam! Tôi nghĩ rằng, trên thế giới này không một nước nào lại đối xử với tù chính trị cách dã man như vậy!

Có lẽ vì quá bất ngờ, ông ta đứng đó một lúc lâu không nói gì. Sau cùng hỏi:

-Anh tên là gì?

-Báo cáo cán bộ, tôi tên là Nguyễn Hữu Lễ!

- Anh thuộc diện gì?

- Tôi là linh mục Công Giáo.

Nghe nói thế ông ta cười nhạt và hỏi lại:

-Thế ra anh là dạng ‘cha cố’ hả?

Tôi trả lời cách nghiêm chỉnh:

-Báo cáo cán bộ, tôi đã nói, tôi là linh mục Công Giáo.

Ông ta hỏi tiếp theo:

- Anh làm gì bị kỷ luật?

-Báo cáo cán bộ, chúng tôi trốn trại.

Ông ta chậm rãi nói:

- Trốn trại à? To gan nhỉ!

……………………………..

Không nghe tôi trả lời, cán bộ ngần ngừ một lúc rồi bỏ đi.

Tôi và các anh em trong buồng đang chờ đợi hậu quả của cuộc đối thoại này thì ngay chiều hôm đó, cán bộ sai trật tự Thi vất vào cho tôi một bộ quần áo, gồm một quần đen và một áo sơ-mi vải Oxford màu vàng còn khá mới, có đóng dấu “Cải Tạo” to tướng sau lưng. Mấy ngày sau tôi phải xé một đoạn ống quần ra dùng khi đại tiện và nếu trong những lần đi tắm tiếp theo mà tôi không nhặt được giấy báo hay giẻ rách nơi đống rác thì số phận các tay áo rồi cũng sẽ như thế, vì không còn cách nào hơn.

Trực sinh khu kỷ luật bấy giờ là anh bạn trẻ tên Nguyễn Văn Hà, thay thế cho anh Nguyễn Tiến Đạt. Cả hai anh cũng là người trong nhóm 48 Quyết Tiến với tôi. Khi Hà vào buồng giúp đổ các ống bẩu phân và nước tiểu, anh thấy tôi xé ống quần dùng đi cầu bèn hỏi xin cái áo vàng để đổi thuốc lào. Tôi nói không có gì dùng khi đi cầu. Hà nói sẽ tìm cho một số giẻ rách dùng vào việc đó, vì cái áo vàng của tôi còn mới, xé các tay áo đi uổng lắm. Không nghĩ ngợi gì, tôi trao cho Hà cái áo. Ngay lúc ấy, tôi đâu ngờ rằng mình sẽ phải trả một giá quá đắt về việc này.

Mấy ngày sau tôi quên hẳn cái áo, và Hà cũng chẳng hề đưa tôi giẻ rách để dùng khi đại tiện như đã hứa. Thật ra, tôi thấy chưa cần thiết lắm, vì tôi còn một ống quần đủ dùng tới ngày được đi tắm, khi đó tôi sẽ tạt qua đống rác của trại nhặt giẻ rách đem giặt sạch để dùng. Mỗi lần đi tắm là dịp vui, vừa được tắm giặt sạch sẽ, có khi lén trò chuyện vài câu với anh em các buồng khác hay anh em dưới “làng”. Khi cán bộ và trật tự lơ là, chúng tôi có thể tạt qua đống rác trước trại, nhặt nhạnh một ít “chiến lợi phẩm”. Có lần tôi may mắn nhặt được của quý, đó là cái bàn chải đánh răng đã mòn quá phân nửa, có lẽ của một anh tù nào dưới “làng” vất đi. Tôi mang xuống sông chùi rửa cẩn thận cho hết vi trùng và dùng luôn trong gần hai năm, cho tới khi đã mòn hết răng.

Vào một buổi sáng, chúng tôi được đi xuống sông Mã tắm như thường lệ. Sau khi trật tự mở khóa các buồng và đếm số xong, mọi người xếp hàng đôi đi xuống bờ sông. Lần này cũng chính anh cán bộ mắt xước vác súng dài theo sau canh giữ. Nhưng hôm nay chỉ có cán bộ mà không có trật tự đi theo. Vắng mặt Bùi Đình Thi, tôi cảm thấy thật dễ chịu. Các anh em khác cũng có vẻ thoải mái vì chúng tôi có thể trao đổi hay quan hệ linh tinh dễ dàng hơn, và dĩ nhiên là đống rác bên ngoài cổng trại cũng được chúng tôi chiếu cố kỹ hơn.

Sáng hôm đó trời nắng ấm nhưng ánh nắng không gay gắt. Sau khi tắm rửa xong và trên đường trở về buồng, tôi thấy trong người sảng khoái lạ thường. Tôi ngửa mặt lên nhìn bầu trời trong xanh quang đãng và hít một hơi thật dài. Không khí trong lành chạy vào buồng phổi làm tôi dễ chịu. Tôi nở một nụ cười thật tươi và cảm thấy yêu đời, khi nhớ lại bao nhiêu tai nạn dồn dập trong mấy tháng trước bây giờ rồi cũng qua đi. Tôi đã bị đòn nhừ tử hơn hai tháng rồi, và cơ thể tôi lúc này có phần phục hồi khá hơn. Tôi có thể tự bước đi, nhưng đi thật chậm vì còn quá yếu.

Vừa bước đi, tôi thầm nhớ lại câu người đời thường nói: “Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai”, và nghĩ rằng tôi đã trả xong “nợ đời”. Trong chốc lát, tôi quên hết nỗi nhọc nhằn của cuộc sống hiện tại và cảm thấy yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu thiên nhiên, yêu con người, ngay cả những người đã hành hạ, đánh đập và ngược đãi tôi. Tôi âm thầm cầu nguyện cho ho, và lập lại câu nói của Chúa Giêsu khi Ngài bị đóng đinh trên thập giá:“Lạy Cha! Xin Cha tha cho chúng, vì chúng chẳng biết việc chúng làm.” Nói xong câu đó tôi cảm thấy trong lòng phơi phới hân hoan.

Tôi lê lết bước đi cuối hàng, tay ôm một mớ “chiến lợi phẩm” lúc nãy thu nhặt được ở đống rác, lầm lũi bước theo các bạn về buồng. Khi vừa tới nơi, tôi chợt thấy Bùi Đình Thi đứng trước cửa buồng và nhìn tôi bằng một cặp mắt hơi khác thường. Có anh cán bộ mắt xước cũng đang đứng bên cạnh. Tôi vội làm một cuộc xét mình chớp nhoáng, coi mình có phạm tội gì không và tôi yên tâm vì chẳng thấy mình có tội gì cả. Tôi nghĩ thầm:“Có lẽ tại mình sợ anh ta quá nên thấy anh ta nhìn, đâm ra hoảng thế thôi, chẳng có việc gì đâu!”

Tôi còn đang suy nghĩ lan man thì chợt thất kinh khi thấy trật tự Bùi Đình Thi, với vẻ mặt hầm hầm bước thẳng tới tôi. Tay trái anh ta cầm xâu chìa khóa to tướng, tay kia chỉ thẳng vào mặt gần đụng trán tôi, đôi môi run run hỏi:

-Lễ! Cái áo vàng của mầy đâu?

Tôi điếng cả người khi nghe câu hỏi đó! Người tôi tự nhiên chao đảo. Có cái gì như một dòng điện cực mạnh chạy rần rần dọc theo thân thể, khiến mặt tôi nóng bừng và các lỗ chân lông trong người tôi hở to ra. Một ít nước tiểu tự nhiên vọt ra quần, và tôi buồn đi đại tiểu tiện cùng một lúc!

Tôi chợt nhớ lại cái áo vàng mà tôi đã trao cho thằng Hà mấy tuần nay và biết là lúc chúng tôi đi tắm, Thi ở nhà đã lục soát khu kỷ luật và việc đã bại lộ. Đó là lý do tại sao hôm nay chỉ có anh cán bộ mắt xước theo xuống sông Mã canh giữ chúng tôi mà không có trật tự cùng đi như các lần trước. Đọc tới đây nếu có ai cho là tôi nhát đảm tôi xin chịu. Thành thật mà nói rằng lúc đó tôi sợ Bùi Đình Thi tới điếng cả người. Biết tai họa tới nơi, tôi vội nói dối:

- Tôi phơi áo trên cánh cửa sổ này, ai lấy lộn mấy hôm nay tôi tìm mãi không thấy, anh có thấy ở đâu cho tôi xin lại đi anh Thi.

- Sao thằng Hà nó nói mầy đổi cho nó?

Tôi cảm thấy ù tai khi nghe tiếng “đổi”, vì luật lệ trong tù cấm mua bán đổi chác. Những người khác trong trường hợp này cũng gặp rắc rối huống gì tôi. Tuy đã tuyệt vọng nhưng tôi gắng gượng chống chế. Như người sắp chết đuối với lấy chiếc lá trôi bên cạnh, miệng lắp bắp tôi trả lời:

- Đâu có anh Thi! Tôi đâu có đổi! Chắc thằng Hà nó lấy lộn áo tôi rồi nói thế! Tôi đâu có đổi!

Trong lòng tôi lúc đó đang cầu mong sự thương hại của Thi. Tôi mong rằng anh ta sẽ tha thứ cho tôi vì thấy tôi quá sợ hãi và nhất là vì cái thân tàn ma dại của tôi. Tôi nhìn sang anh cán bộ mắt xước, nãy giờ đang theo dõi cuộc phán xét. Bộ dạng anh ta đã mất kiên nhẫn. Anh ta đứng yên không nói tiếng nào, nhưng hai bàn tay nắm lại chống lên cạnh sườn, các ngón tay đang co bóp liên hồi có vẻ ngứa ngáy khó chịu. Chợt Bùi Đình Thi chộp tay tôi dằn mạnh:

- Đi lại phía trước, mầy nghe thằng Hà nói!

Anh cán bộ mắt xước vội đi trước dẫn đường với dáng đi lanh lẹ khác thường. Bùi Đình Thi đẩy tôi đi giữa còn anh ta theo sau. Chúng tôi đi dọc theo con đường hẹp độ ba thước bề ngang, nằm giữa đầu hồi nhà kỷ luật và bờ tường dẫn ra các buồng phía trước. Tôi biết mình đang lâm nguy vì thằng Hà đã khai tất cả. Dù vậy, tôi vẫn còn hy vọng mỏng manh cuối cùng là mong thằng Hà sẽ làm cử chỉ anh hùng kiểu như “Lê Lai cứu Chúa”. Vì nếu nó có nhận ăn cắp áo thì cũng bị vài cái tát là cùng. Còn tôi, cho dù chỉ cần đổi cho nó cái áo thôi, cũng có lý do bị hành tội. Nghĩ như vậy nên khi còn cách buồng 1 của Hà khá xa, tôi gọi to lên cố ý làm ám hiệu cho nó:

- Hà ơi Hà! Sao mầy lấy nhằm áo vàng tao phơi trên cửa sổ mà không trả làm tao kiếm mấy ngày nay. Anh Thi nói mầy đang giữ áo tao. Trả áo lại tao đi Hà!

Tôi có ý bảo thằng Hà rằng tôi đã nói như thế, cứ nói vậy đi để cứu tôi. Nhưng có lẽ vì không hiểu ý tôi hay vì sợ bị đòn, nó nói vọng ra:

- Em đâu có lấy áo của anh! Anh đổi cho em ấy mà!

Chúa rất thánh ơi! Đó là câu trả lời tôi sợ nhất, nhưng ngược lại hai con người đi trước và sau tôi lúc này, chỉ mong có chừng ấy.

Bước Đường Cùng

Câu nói của Hà chưa kịp dứt thì bất ngờ một cú đấm như trời giáng của Bùi Đình Thi từ phía sau, tống vào lưng làm tôi bay tới trước. Anh cán bộ mắt xước vội quay lại chụp lấy tôi và đấm vào bụng khiến tôi ngã ngửa ra phía sau. Trật tự Thi đón lấy đấm vào lưng tôi khiến tôi nhào tới phía trước. Cán bộ đấm vào bụng tôi té ngửa ra sau. Trật tự lại đấm tới. Cán bộ đấm lui… Cứ thế, kẻ đấm tới, người đấm lui làm bộ xương tôi bay đi bay về như hai cầu thủ đang chuyền nhau quả bóng trong một hành lang hẹp. Lúc bấy giờ tôi biết mình sẽ chết. Tôi muốn chạy nhưng chạy không thoát vì hành lang quá hẹp và đang bị chận cả hai đầu. Hơn nữa tôi đã gần chết rồi, còn sức đâu nữa mà chạy! Lúc đó tôi không còn biết mình là ai nữa. Tôi như một con thú bị dính chân vào bẫy, có vùng vẫy cũng không thoát ra được.

Cuộc hành tội kéo dài khá lâu. Trật tự và cán bộ thay nhau, mỗi người đã đấm tôi, đúng hơn là đấm vào bộ xương tôi chừng mươi, mười lăm quả ở lưng và bụng. Đôi chân tôi yếu dần không còn chống đỡ được bộ xương, tôi bắt đầu ngã quỵ xuống đất trong khi miệng tôi lẩm bẩm:“Lạy Chúa! Xin nhận lấy linh hồn con!” Tôi nhắm mắt lại!

Hình ảnh cái chết lờ mờ hiện ra trong trí tôi. Cuộc đời tôi như thế là hết! Nhưng bổng chốc tôi lại nghĩ :“Mình không thể chết như thế này được!Không thể được! Mình không có thể chết một cách phi lý như thế này được” Lúc đó tôi bèn dồn hết tàn lực của con người lên cổ họng và vận dụng tất cả ý chí, sức mạnh, sự quyết tâm và tất cả nhu cầu bảo toàn mạng sống của một sinh vật trước khi bị tiêu diệt để tôi hét to lên một cách khủng khiếp. Tiếng hét to nhất trong kiếp làm người của tôi. Tiếng hét to tới mức tối đa, mà cổ họng tôi có thể chịu được mà không bị vỡ tung bật máu ra. Tiếng hét to đến độ mà thân thể chỉ còn là bộ xương của tôi có thể chịu được, không bị bung rời bắn tung tóe ra từng mảnh. Tôi hét lên ba tiếng càng lúc càng to:

“TÔI PHẢI SỐNG!

TÔI PHẢI SỐNG!

TÔI PHẢI SỐNG!”

Tiếng hét vang dội núi rừng đó đã đốt cháy tất cả sức lực, khí huyết và ý chí còn lại của con người tôi như một thứ nhiên liệu bị đốt cháy rụi ra tro. Tôi không còn là tôi nữa! Không còn một thứ gì để sự sống của tôi nương vào đó mà tồn tại nữa. Tôi nằm chờ chết!

Bỗng dưng bản năng sinh tồn trong tôi trỗi dậy một cách vô cùng mãnh liệt!

Tự nhiên tôi cảm thấy một sức lực phi thường ùa vào thân thể mà cả cuộc đời tôi cho dù là lúc sung sức nhất của tuổi đôi mươi cũng không thể có. Con người tôi như một quả bóng xì hết hơi bất ngờ được bơm căng cứng lên. Thân hình chỉ còn là bộ xương của tôi lúc đó tự nhiên biến thành thép! Lúc đó tôi nghĩ là tôi có thể quật chết và bẻ cổ một con bò mộng một cách dễ dàng như người ta bóp một con nhái. Đôi cánh tay khẳng khiu như hai que củi khô của tôi tự nhiên có sức lao tới như viên đạn đồng bay vọt ra khỏi nòng súng. Đôi chân của tôi trở nên vững vàng như hai trụ cầu. Ý chí cao ngất trời lúc bấy giờ bảo tôi:“Chạy! Chạy! Chạy! Phải chạy thoát bằng mọi giá, nếu không chạy thì chết!”

Bất thần, như có một sức thiêng vô hình trợ giúp. Tôi bật vùng lên, và nhào lộn như con sư tử bị thương. Tôi vụt quay lại, lấy hết sức lực húc mạnh vào Bùi Đình Thi. Vì quá bất ngờ không kịp đề phòng, và nếu có đề phòng cũng không thể nào chịu được sức mạnh của tôi lúc bấy giờ. Anh ta ngã bắn về một bên, té ngửa dưới đất. Tôi vụt phóng chạy như bay về buồng.

Bùi Đình Thi lồm cồm bò dậy rượt theo tôi bén gót. Tôi biết nếu anh ta tóm được, chắc chắn hắn sẽ giết chết tôi. Tôi nói điều này với tất cả sự xác tín, không phải suy luận để kết án con người.

Tôi hành động lanh lẹ như một con khỉ, phóng vô buồng, nhảy phóc lên bệ nằm, hai tay vồ lấy cái móng cùm bằng sắt nặng chừng ký rưỡi giơ lên và đứng trên bệ xi-măng cao thủ thế. Điều rầt may mắn là lúc bấy giờ anh Thuyên đã rút song sắt xỏ luồn 2 cái móng cùm ra, và để sẳn cái móng cùm của tôi ngay trên bệ nằm. Lúc đó tôi đã gần đứt hơi, há miệng thở hồng hộc vì trong cổ họng tôi hình như đang có cục than hồng và phải mở to miệng cho lửa phà ra! Bùi Đình Thi vừa trờ tới cửa buồng. Chợt thấy tôi đang đứng trên cao, tay cầm cái móng cùm quyết tâm thí mạng, anh ta còn đủ khôn nên khựng lại ngay cửa, cách chỗ tôi đứng độ 2 thước tây . Tôi trợn mắt hét thật to qua hơi thở gần muốn tắt nghẹn:

- Bùi Đình Thi! Tao đổi mạng với mầy! Mầy đã dồn tao tới bước đường cùng. Bữa nay tao đổi mạng với mầy! Mầy vô đây! Vô đây! Vô đây!!!

Mặc dù đang điên tiết vì vồ hụt con mồi đã bị thương, nhưng Bùi Đình Thi không dám bước tới. Anh ta đứng tại cửa nhìn vào, cặp mắt tóe lửa, và cũng đang thở hồng hộc như tôi. Hai bên khóe mép anh ta đọng lại hai bệt nước bọt trắng to và nhễ nhãi. Anh ta nghiến răng nghe ken két, làm cái mồm bị kéo xuống méo mó dị dạng trông thật tởm! Bùi Đình Thi điên cuồng giơ thẳng tay chỉ vào mặt tôi nói:“ĐM mầy Lễ! Tao giế-ế-ế-ế-ế-t mầy!”

Đây là lần thứ hai, Bùi Đình Thi đã dùng cách nói “ĐM mầy Lễ” đối với tôi! Nghe cách anh ta nghiến chữ “giết” qua kẽ răng, tôi hiểu ngay chính cái móng cùm đã cứu mạng tôi.

Cán bộ mắt xước cũng vừa đi tới cửa buồng, có vẻ rất hài lòng trông thấy hai tên tù đang gầm gừ chực giết nhau. Nếu anh ta biết hai tên tù đó là một giáo dân và một linh mục, chắc là anh ta càng vui sướng hơn! Anh ta ra lệnh cho Bùi Đình Thi:

- Cùm cổ nó lại!

Thấy Bùi Đình Thi bước vào tôi nói:

-Báo cáo cán bộ, tôi không vào cùm. Nếu bị cùm anh Thi sẽ đánh tôi chết.

- Tôi bảo anh vào cùm!

- Nhưng cán bộ có bảo đảm là anh Thi không đánh tôi?

-Anh cứ vào cùm, tôi bảo đảm!

Có sự bảo đảm của cán bộ, tôi ngồi xuống để chân vào móng cùm cho Bùi Đình Thi xỏ luồn thanh sắt qua khóa lại. Lúc anh ta cúi xuống, tôi nghe hơi thở hồng hộc và hôi tanh từ miệng anh ta thoát ra tràn cả vào mặt tôi làm tôi buồn nôn không thể chịu được. Tất cả cảnh tượng này diễn ra trước mắt các anh Trịnh Tiếu, Nguyễn Sỹ Thuyên và Cha Nguyễn Công Định. Cả ba người đang khép nép ngồi nhìn.

Lần đó tôi mới hiểu và cảm nhận được một loại sức mạnh của ý chí mà người ta thường gọi là bản năng sinh tồn. Bản năng sinh tồn là một bí mật của sinh vật, chỉ được khơi dậy khi sinh vật đó không còn phương cách gì để bảo vệ sự sống, lúc đó bản năng sinh tồn sẽ hoạt động. Trong đời tôi đã một lần phải dùng tới bản năng sinh tồn kỳ diệu này. Và nhờ có bản năng sinh tồn đó mà tôi còn hiện diện trên cõi đời này để chia sẻ kinh nghiệm đau thương nhưng vô cùng quý báu đó với các bạn.

Cơn Điên Loạn

Khi cán bộ và trật tự khóa cửa buồng và đi rồi, tôi nằm vật xuống bất động, kiệt lực, ngạt thở vì phổi tôi bị thương quá nặng không hô hấp được. Nằm yên một lúc tự nhiên cơn đau đớn của thể xác, sự suy nhược tinh thần và cơn uất ức làm tôi phát điên lên.

Với bản năng tự nhiên, tôi không còn cầm mình được nữa, tôi không còn nhớ mình là ai và cũng chẳng cần biết chung quanh đang có ai. Nằm ngửa trên bệ xi-măng với một chân dính vào cùm sắt, cổ tôi tắt nghẹn và nước mắt chảy ra giàn giụa, máu ở mũi tôi trào ra lênh láng. Tôi đã điên cuồng, lăn lộn, giật chân bị cùm phát ra tiếng rầm rầm… rầm rầm… và tôi đã thốt lên những lời nguyền rủa, tôi gào thét:“Bùi Đình Thi ơi! Tao thề với mầy! Tao thề với mầy Bùi Đình Thi ơi! Sau này tao mà còn sống, tao sẽ tìm hết mọi cách bắt cho được mầy và cả vợ con dòng dõi rắn độc nhà mầy để tự tay tao mổ bụng móc gan mầy, đặt trên bàn thờ hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn. Như vậy tao mới hả dạ, Bùi Đình Thi ơi! Bùi Đình Thi ơi! Bùi Đình Thi ơi!”

Trong cơn điên loạn và đau đớn tột cùng này, anh Trịnh Tiếu và anh Nguyễn Sỹ Thuyên đã vỗ về và an ủi tôi. Anh Thuyên xé vải lau máu mũi cho tôi. Trong khi đó Cha Nguyễn Công Định ngồi bên kia dựa tường hát bản nhạc “Hè Về”:“Trời hồng hồng, sáng trong trong…” Thái độ này của Cha Định làm anh Trịnh Tiếu nổi giận, và anh đã cho nổ bùng một cơn thịnh nộ thật khủng khiếp. Buồng giam của tôi lúc đó trở thành một đáy địa ngục, một đáy địa ngục được hiểu theo nghĩa đen.

Phải một thời gian lâu tôi mới hồi tỉnh lại. Khi đã trở lại bình thường tôi cảm thấy thật hối hận vì câu nguyền rủa gớm ghê độc ác đó của mình. Tôi cảm thấy mình thật sự là một kẻ yếu đuối, chưa làm chủ được chính mình như đôi khi tôi đã tưởng. Nhân tiện đây, tôi công khai xin lỗi các anh Trịnh Tiếu, Nguyễn Sỹ Thuyên và Cha Nguyễn Công Định, những người đã chứng kiến sự việc và đã nghe những lời nói độc ác đó của tôi. Tôi cũng xin lỗi anh Nguyễn Tiến Đạt, một tín đồ Công Giáo trẻ cùng ở khu kỷ luật với tôi lúc đó. Ngay sau khi biết tôi bị trận đòn chí tử, anh Đạt đang bị cùm ở buồng bên gọi sang an ủi tôi và có hỏi:

- Cậu Bảy nghĩ thế nào? Nếu sau này Bùi Đình Thi hối cải và xưng tội, liệu Chúa có tha cho anh ta không?

Lúc bấy giờ vì cơn tức giận đang sôi lên sùng sục, tôi đã trả lời Đạt bằng câu nói nghịch đạo lý và phạm thượng:

- Thằng đó hả? Nếu Chúa không vướng chân bị đóng đinh vào Thánh giá, Chúa cũng sẽ cho nó một đạp rồi! Ở đó mà tha cho nó!

Chắc Đạt đâu có biết rằng, đã từ lâu tôi rất hối hận và xấu hổ, vì trong cơn tức giận tôi đã thốt lên lời bất xứng như vậy, từ cửa miệng của một linh mục, và do đó tạo gương mù gương xấu cho những người chung quanh, trong đó có Đạt. Đáng lẽ ra lúc đó tôi phải trả lời với Đạt rằng: “Nếu sau này anh ta thực sự sám hối, chắc chắn Chúa sẽ tha thứ. Vì lòng nhân từ của Chúa bao giờ cũng lớn hơn tội lỗi của con người.”

Vài lời về Trương Văn Phát

Tôi cũng muốn có vài lời về trật tự Trương Văn Phát. Tôi không nhớ có bị Trương Văn Phát đánh trong vụ vượt ngục và thời gian kỷ luật tiếp theo hay không. Tôi không nhớ nhiều về vai trò của Phát trong thời gian ở nhà kỷ luật, mặc dù lúc đó Phát vẫn còn làm trật tự phó cùng với Thi và vẫn lên xuống khu kỷ luật. Chỉ có một việc sau đây có liên quan tới Phát là tôi nhớ và nhớ rất rõ.

Vào khoảng tháng 7-1979, sau vụ vượt ngục 2 tháng, tôi đang bị cùm trong buồng 5 khu kỷ luật cùng với anh Nguyễn Sỹ Thuyên. Một buổi chiều nọ trong giờ điểm danh bên kiên giam, chỉ cách chúng tôi một bức tường, tôi nghe có tiếng la lối, tiếng chân người chạy, tiếng chửi bới, tiếng đánh đập một cách bất thường. Lúc đó chúng tôi ngồi trong cùm, đoán già đoán non, nhưng chẳng biết chuyện gì đã xảy ra bên khu kiên giam. Một lúc sau nghe có tiếng người lên khu kỷ luật, tiếng đấm thùi thụi, tiếng chửi bới, tiếng mở cửa buồng kế bên và chúng tôi biết là có người mới vừa bị đưa lên cùm.

Đợi sau khi trật tự và cán bộ đóng cửa buồng đi xuống, chúng tôi gọi vọng qua hỏi sự tình. Lúc đó mới biết người vừa bị đưa lên cùm kế bên là Cha Phạm Quý Hòa, một linh mục quãng 45 tuổi, người miền Trung. Tôi hỏi lý do và còn nhớ mãi câu trả lời đầy hài hước của Cha Hòa. Bằng một giọng miền Trung rất nặng, Cha Hòa nói:“Mình bóp ‘dại ngựa, bị ngựa đã!’” Mặc dù tình cảnh lúc đó thật đau đớn nhưng chúng tôi cười vang khi nghe câu trả lời đó của Cha Hòa. Sau đó ngài kể lại, khi bắt đầu giờ điểm danh buồng 3 khu kiên giam, sáu người trong buồng ngồi xếp bằng ngay ngắn trên bệ nằm, trật tự Trương Văn Phát đi vào điểm danh, tay cầm cái búa bằng gỗ dùng để gõ vào tường coi có chỗ nào bị đào bị khoét không.

Khi đi ngang trước mặt Cha Hòa, không hiểu lý vì do gì, hay chỉ vì ngứa tay, Phát nện cái búa một cú như trời giáng vào đầu gối Cha Hòa. Cha Hòa vụt nhảy xuống đánh trả lại Phát, làm anh trật tự bố láo này thất kinh vội chạy trở ra cửa thoát thân. Cha Hòa rượt theo, Phát quay lại ném chùm chìa khóa hàng mấy chục chiếc vào Cha Hòa, ngài né tránh kịp, chùm chìa khóa bay vào trúng cửa nhà cầu đánh “rầm” một tiếng và rơi xuống đất. Phát định chạy vào nhặt lại nhưng không dám vì Cha Hòa đang hờm bên trong.

Phát ta hồn vía lên mây! Vì mất chùm chìa khóa cửa các buồng giam, coi như anh ta đã mất mạng, nên vội chạy như bay xuống nhà cầu cứu với Thi và cán bộ. Ngay sau đó, cả hai tên trật tự và mấy cán bộ chạy vội lên khu kiên giam. Tới nơi, Thi vô buồng nhặt chùm chìa khóa và lôi cổ Cha Hòa ra sân, khóa tay lại, và hai anh trật tự thi nhau đập cho một trận mềm người. Sau đó đẩy Cha Hòa sang khu kỷ luật, vừa đi vừa đánh cho tới trước cửa buồng. Tôi dùng chữ “mềm người” theo nghĩa đen, vì sau đó mấy ngày khi được tháo cùm đi tắm chung, Cha Hòa bước đi vặn vẹo như người vừa ốm dậy. Sau trận đòn đó, Cha Hòa còn bị cùm hơn một năm trời trong nhà kỷ luật chỉ vì tội “bóp dái ngựa”!

Lon Nước Ân Tình

Tôi nghĩ là một thiếu sót lớn nếu tôi không nói lên cách công khai để cám ơn một cán bộ có lòng nhân đã để lại một nét son trong đời tôi, ngay lúc tôi trong hoàn cảnh đau thương và tệ hại nhất ở nhà kỷ luật trại tù Thanh Cẩm.

Các cán bộ, nhất là những cán bộ trực trại, là những người trực tiếp ảnh hưởng tới sinh hoạt hàng ngày của chúng tôi. Nếu gặp cán bộ hiền hòa, chúng tôi đỡ khổ; nếu gặp phải cán bộ khó khăn hoặc hung ác, chúng tôi bị khổ đủ điều. Nên biết rằng, đa số cán bộ làm nhiệm vụ cai tù, nhất là cai tù chính trị là những người được huấn luyện để thi hành chính sách chuyên chính của đảng. Họ coi tù nhân chúng tôi là kẻ thù, và rất nhiều người đã biết họ phải làm gì với kẻ thù đang nằm trong quyền lực của họ.

Đại đa số cán bộ mà tôi đã gặp trong suốt 13 năm tù đã cho tôi một cái nhìn chung, phần đông họ chỉ làm việc như một nghề để sinh sống. Thỉnh thoảng có những người hành sử với tù nhân khắt khe và tàn nhẫn. Ngược lại cũng có những người hiền từ, dễ thương từ trong lời nói tới cách cư xử với tù nhân. Những cán bộ này đã để lại trong lòng tôi sự biết ơn và quý mến. Như một đoạn trên tôi đã nói, đồng tiền có mặt phải và mặt trái của nó. Nếu thời gian sống trong nhà kỷ luật Thanh Cẩm có những cán bộ mà vừa nghe tới tên, hoặc vừa thoáng trông thấy từ xa đã làm tôi nổi da gà như Thượng sĩ Hoàn, Chuẩn úy Lăng, Trung úy Bộ, Thượng sĩ Khải v.v thì ngược lại cũng có người như Thượng sĩ Hạ, người cán bộ mà tôi muốn dành riêng một đoạn trong tập bút ký này để bày tỏ lòng quý mến và biết ơn.

Thượng sĩ Hạ là cán bộ trực trại trong ngày chúng tôi đào tường vượt ngục, có nghĩa là người chịu trách nhiệm về biến cố này. Bởi vậy, người mà tôi sợ nhất sau khi bị bắt lại không phải là ai khác ngoài Thượng sĩ Hạ. Hạ có thân hình cao lớn và rắc chắc, nước da ngăm đen, mái tóc bồng bềnh, mới nhìn qua thấy anh ta giống người Dân tộc thiểu số hơn là người Kinh. Điểm đặc biệt là anh có nhiều vết lang ben trên cổ và một ít trên mặt. Vì da anh khá đen nên các vết lang ben càng dễ nhận thấy. Tánh anh lầm lì, rất ít nói, mỗi lần lên khu kỷ luật hoặc kiên giam trong giờ cho ăn, anh thường đứng dựa vai vào tường, một chân đứng thẳng còn chân kia co lại gác chéo qua bàn chân kia. Cứ thế anh yên lặng nhìn trật tự chia thức ăn và nhìn chúng tôi đi lại nhưng chẳng bao giờ nói một lời nào. Sở dĩ tôi nhớ các chi tiết này vì trông anh lúc nào cũng có vẻ sầu đời hoặc như người đang thất tình, lúc bấy giờ anh khoảng chừng 27 tuổi.

Nhìn tướng người cao lớn, da đen ngăm và thái độ lầm lì, tôi rất ngại anh và dĩ nhiên là né tránh khi nào có thể tránh được. Tôi còn nhớ buổi chiều ngày 1 tháng 5-1979, chính cán bộ Hạ và hai trật tự Thi- Phát vào điểm danh buồng 1 kiên giam chúng tôi, và đêm đó chúng tôi đào tường vượt ngục. Sau khi vượt ngục thất bại, chúng tôi bị bắt lại và hành hạ dã man như tôi đã nói ở trên, nhưng điều đáng nói ở đây là tôi không hề thấy bóng dáng cán bộ Hạ trong số những người đánh đập chúng tôi lúc đó. Thay vào đó là thượng sĩ Hoàn, chỉ huy nhóm võ trang canh gác ban đêm trong ngày tôi vượt ngục, là người đánh đập và chửi mắng tôi nhiều nhất. Ngay từ lúc anh ta bắt chúng tôi từ dưới dòng sông Mã và cả lúc sau này khi tôi bị cùm trong nhà kỷ luật rồi, mỗi chiều lên điểm danh, Thượng sĩ Hoàn cũng đứng bên ngoài cửa buồng xỉ vả chửi bới tôi rất thậm tệ. Mỗi khi thấy thượng sĩ Hoàn và Bùi Đình Thi lên điểm danh, tôi ngán vô cùng! Cũng may là không phải chiều nào anh ta cũng lên điểm danh.

Sau gần một tháng kể từ ngày trốn trại và bị cùm trong nhà kỷ luật, tôi không thấy bóng dáng Thượng sĩ Hạ đâu. Tự dưng tôi cảm thấy mừng vì nghĩ rằng nếu gặp lại chắc là tôi sẽ no đòn với anh. Tôi thầm cầu mong cho cán bộ Hạ đổi đi nơi khác, vô tăm biệt tích, và đừng bao giờ quay lại trại này nữa. Vào một buổi xế trưa, chúng tôi được lệnh mang hết đồ đạc ra để khám xét. Việc này cũng thường xảy ra và không có định kỳ nhất định. Từ lúc có vụ vượt ngục của nhóm tôi, việc xáo trộn tù giữa các buồng có vẻ thường xuyên hơn.

Vừa khệ nệ ôm đồ đạc bước ra, tôi giật thót người khi thấy cán bộ Hạ và mấy cán bộ khác đang đứng dưới bóng cây ở đầu nhà cạnh bờ tường. Thấy cán bộ Hạ nhìn tôi chằm chằm, tôi lại càng lo sợ hơn. Điều mà tôi lo sợ cả tháng nay bây giờ đã tới! Tôi cúi đầu né tránh cái nhìn của cán bộ Hạ, và ôm mớ đồ đạc để vào một góc khá xa nơi anh đứng. Lúc quay lại tôi vẫn thấy anh đang nhìn tôi, và tôi nghĩ giờ đền tội của tôi đã tới.

Thượng sĩ Hạ bước chậm chậm lại phía tôi. Tim tôi đập mạnh, người tôi nóng bừng trong khi đang chờ đợi để đón nhận điều tệ hại nhất sẽ xảy ra. Khi anh tới gần, tôi lên tiếng “chào cán bộ” theo luật trong tù. Anh chỉ khẽ gật đầu nhưng chẳng nói gì. Anh bước lại gần hơn, nhìn thẳng vào mặt tôi và nói nhỏ vừa đủ nghe:“Anh Lễ, anh làm tôi mất tất cả!” Tôi rất ngạc nhiên và vui mừng trước thái độ hòa dịu một cách không ngờ của cán bộ Hạ. Tôi đáp lại một cách chân tình:“Tôi thành thật xin lỗi cán bộ, nhưng xin cán bộ hiểu cho hoàn cảnh của tôi.” Đó là câu đối thoại duy nhất với một cán bộ mà tôi phập phồng lo sợ cả tháng trời qua. Tôi thật không ngờ cán bộ Hạ là người có lòng nhân như thế.

Sau lần đó, thỉnh thoảng anh có lên điểm danh trên khu kỷ luật cùng với trật tự Bùi Đình Thi. Cán bộ Hạ vẫn lầm lì như xưa, trên mặt và cổ vẫn còn các vết lang ben. Từ khi gặp lại trong lần kiểm tra đồ đạc dưới bóng cây, anh ta cũng chẳng nói thêm với tôi một lời nào. Cho tới một hôm vào quãng giữa tháng 7, gần hai tháng sau ngày chúng tôi bị cùm, trong buồng tôi có chuyện xảy ra.

Trời Thanh Hóa lúc này nóng như thiêu như đốt, nhà kỷ luật nóc bằng trở thành lò hấp người. Lúc bấy giờ anh Thuyên và tôi bị cùm trong buồng 5, mỗi ngày tiêu chuẩn nước được phát chung cho hai người là hai lon Guigoz (mỗi lon độ 3/4 lít), sáng một lon chiều một lon. Với lượng nước này, chúng tôi phải làm sao gói ghém vừa uống, vừa rửa ráy, vừa tắm, vừa giặt, vừa lau mồ hôi ban đêm trong cái lò hấp người này. Chúng tôi đã quyết định, bằng mọi giá phải để dành một lon nước qua đêm, vì ban đêm hơi nóng từ nóc Nhà Bằng đúc bằng xi-măng tỏa xuống, nóng không tưởng tượng được, cần có nước nhắm vào miệng cho đỡ khát.

Thời gian này trại thường cho tù ăn khoai lang với mắm chược, là loại mắm cá thối được nấu ra thành nước. Mắm chược tanh khủng khiếp, nhưng lúc bấy giờ chúng tôi lại thèm chất tanh nên mắm chược vô tình lại trở thành món ăn ngon. Giờ cho ăn trên kỷ luật sớm hơn dưới “làng”. Ban trưa quãng 11 giờ và ban chiều quãng 4 giờ. Tiêu chuẩn hai người chúng tôi mỗi bữa ăn là ba củ khoai lang, to hơn đầu ngón chân cái một chút. Nếu chia ra mỗi người một củ rưỡi thì ít quá, nên tôi có sáng kiến, thay vì bẻ ngang thì chẻ dọc củ khoai, như thế mỗi người “giống như” được ba củ! Làm như vậy để đánh lừa cặp mắt, nhưng hình như cũng đánh lừa được dạ dầy vì tôi thấy chia như vậy ăn vào “no” hơn và anh Thuyên rất phục tôi ở sáng kiến này.

Mỗi bữa ăn chúng tôi bẻ khoai lang ra, dĩ nhiên là cả vỏ, cho vào tô nước mắm chược, chế thêm một ít nước lạnh vào, quậy cho đều và “húp”! Sau khi xong bữa “húp”, màn tiếp theo là uống nước. Ngồi trong lò hấp mà ăn khoai với mắm thối sẽ khát nước vô chừng. Cơn khát này không phải lúc đó mà thôi, nhưng sẽ kéo dài suốt đêm, nên việc để dành một lon nước qua đêm là yếu tố sống còn cho hai người. Những bữa “húp” của hai anh em tôi không có vấn đề gì xảy ra cho tới một ngày nọ. Hôm đó vì thèm thuốc lào quá nên anh Thuyên, một tay nghiện thuốc lào nặng, nói với anh trực sinh Nguyễn Tiến Đạt làm sao tìm cho một bi thuốc lào.

Buổi chiều cùng ngày, trong giờ đổ ống bẩu và chia thức ăn, Đạt dúi vào tay anh Thuyên một bi thuốc lào to bằng hột đậu, một que diêm và tí giấy bìa bao diêm. Tôi phải nói là Đạt đã cho anh Thuyên một kho tàng vô giá, vì từ ngày bị cùm trong kỷ luật đã gần 2 tháng, ngày nào anh Thuyên cũng nhắc thuốc lào, bây giờ anh mới được toại nguyện. Khi làm việc này dĩ nhiên Đạt cũng phải gồng mình, vì nếu bại lộ thì Đạt cũng sẽ no đòn.

Chiều hôm đó, sau bữa “húp”, Bùi Đình Thi và cán bộ đã cùm chân chúng tôi lại và đi xuống, anh Thuyên nhờ tôi tiếp tay thu dọn các thứ trên bệ nằm cho gọn vì anh biết là sau khi hút thuốc lào, anh sẽ say nghiêng say ngửa. Ai đã hút thuốc lào thì biết, chỉ một đêm không hút, sáng hôm sau điếu đầu tiên là say quắc khước, đừng nói chi gần hai tháng không có hơi thuốc nào như anh Thuyên. Vì trong buồng không có điếu, nên anh phải dùng giấy quấn một cái “loa kèn”, nhét bi thuốc lào vào đầu to của “loa kèn”, rồi ngậm nước trong miệng, châm lửa và…hít! Trước khi hút anh còn dặn tôi, nếu anh có say quá thì lấy tay nhấn nhấn vào ngực giúp anh thở, vì đã có người say thuốc lào nghẹt tim không thở được mà chết.

Anh Thuyên chuẩn bị tinh thần để hít điếu thuốc lào “lịch sử” này, cẩn thận và trịnh trọng như một nghi lễ tôn giáo. Sau khi giúp anh bật được ngọn lửa, mồi vào cái đóm bằng vải và kê vào đầu loa kèn, anh đã “hít…hít…hít” với tất cả sức lực của anh. Có lẽ trong đời anh Thuyên chưa bao giờ anh sung sướng như lúc anh đang ngửa mặt lên trời nhả khói ra trong lúc này! Bất thần anh ngã vật xuống! Ngụm nước trong miệng sặc ra ướt đẫm, mắt anh đờ đẫn và sùi bọt mép!

Sau khi ngã xuống, cả hai tay anh quơ quơ trên không, cái chân không bị cùm của anh đá tứ tung. Miệng anh ú ớ gọi tên tôi, giọng đứt quãng:“Ông Lễ ơi!, ông Lễ ơi!…ông Lễ ơi!…” Tôi thất kinh sợ anh chết, vội nằm xuống vuốt ngực anh, nhưng anh ta quay ngang, gạt tay tôi ra và cào cấu lung tung như người đang bị ong đốt. Trong lúc say quá độ, anh Thuyên quơ tay đánh đổ lon nước “cứu mạng” duy nhất mà tôi đã cẩn thận nhét sát vào góc. Sở dĩ lon nước không thể để ở xa hơn được vì sau khi phát thức ăn chiều, chúng tôi đã bị cùm chân lại và mọi thứ phải được đặt vào tầm tay với để khi cần có thể lấy được.

Một hồi lâu anh Thuyên mới tỉnh lại và thất kinh trước việc anh đánh đổ lon nước. Lúc đó quãng 4 giờ chiều và chúng tôi phải đợi tới trưa hôm sau, tức là 19 tiếng đồng hồ nữa mới được phát nước! Khổ nỗi, ngay lúc bấy giờ tôi đã bắt đầu khát sau khi húp tô mắm chược trộn khoai lang. Anh Thuyên cũng khát nước không kém gì tôi, nhưng lúc đó chúng tôi không làm gì khác hơn là chờ đợi cho tới giờ điểm danh, chừng đó có cán bộ lên để xin nước, mặc dù chúng tôi biết là rất ít hy vọng.

Riêng đối với Bùi Đình Thi chúng tôi chẳng có chút hy vọng nào. Điều quan trọng là cán bộ nào sẽ lên điểm danh khu kỷ luật chiều nay. Nếu gặp phải cán bộ Hoàn chắc chúng tôi chết mất vì không lần nào anh ta thấy mặt tôi mà không chửi bới. Có lần còn nhào vô buồng đạp tôi mấy phát khi chân tôi đã xỏ vào cùm. Nếu Hoàn mà lên với Bùi Đình Thi nữa thì vô phương.

Tới giờ điểm danh, chúng tôi đã khát gần cháy cổ. Nghe tiếng chìa khóa khua, chúng tôi mừng thầm, nhưng khi tới nơi nhìn ra chỉ thấy một mình Bùi Đình Thi. Có cán bộ nào đi sau hay không, chúng tôi không thấy. Khi trật tự mở khóa vào buồng kiểm tra cùm, tôi đánh bạo xin Thi cho nước uống vì đã lỡ làm đổ hết, không còn nước uống qua đêm. Thi trả lời:“Tiêu chuẩn nước của trại, chúng mày dùng đổ vào tường để đục tường đủ rồi, còn đòi nước gì nữa!” Thế là anh ta bỏ đi ra ngoài và khóa cửa buồng giam lại.

Lúc đó bên ngoài thấy có cán bộ bước tới, nhìn ra là cán bộ Hạ. Tôi mừng thầm trong bụng và tôi lớn tiếng xin cán bộ cho nước uống vì chúng tôi vô ý làm đổ hết và đang khát cháy cổ. Cán bộ Hạ chưa kịp trả lời thì Bùi Đình Thi đứng ngoài nói vọng vào câu anh ta nói với chúng tôi lúc nãy. Nghe câu đó, cán bộ Hạ ngần ngừ như muốn từ chối. Cảm thấy như tới lúc lâm nguy, tôi xin tha thiết hơn:

-Xin cán bộ hãy lấy tình người mà thương chúng tôi, chúng tôi khát nước quá rồi. Đêm nay mà không có nước uống chắc chúng tôi chết mất!

Vừa nói tôi vừa bóp méo cái lon Guigoz cho lọt qua khe cửa sắt đưa ra bên ngoài. Cán bộ Hạ ngần ngừ một chút, xong ra lệnh cho trật tự:

- Anh Thi, đến bể lấy cho mấy anh ấy một lon nước!

Không còn cách nào khác, Thi đành phải vâng lời cán bộ, đến bên bể cạn và múc cho chúng tôi một lon nước. Nhưng khi trở lại thành cửa sổ, anh ta dằn mạnh lon xuống làm nước đổ tung tóe và vơi đi gần phân nữa. Đây là nước lấy trong bể cạn ở góc khu nhà kỷ luật. Bể này chứa chừng một thước khối nước dành cho tù giặt quần áo, và sau khi đổ ống bẩu tay dính cứt thì rửa trực tiếp vào đó. Tới chiều bùn sình và những gì nhơ bẩn đã lắng xuống và nước lại trong.

Phải nói anh Thuyên và tôi sống được qua đêm đó là nhờ lon nước ấy. Mặc dù đó là nước dơ nhưng có lẽ không còn vi trùng, vì theo tôi nghĩ tất cả vi trùng trong bể nước đó đã bị trúng độc chết hết rồi, còn đâu nữa để làm chúng tôi bệnh! Tôi không bao giờ quên ơn cán bộ Hạ và lon nước ân tình này.

Sau đó cán bộ Hạ rời trại một thời gian rất lâu. Cho tới một buổi trưa nọ vào năm 1986, tức là 7 năm sau, lúc đó tôi đã qua sống khu kiên giam mới cùng với các anh em linh mục khác, có lần cán bộ Hạ lên khu kiên giam thăm chúng tôi. Tình thế giữa tù nhân và cán bộ lúc này đã có sự gần gũi nhau hơn. Trong lần gặp lại đó, tôi có nhắc lại với anh về lon nước vào năm 1979 với lời cám ơn chân tình, nhưng anh nói:“Tôi không còn nhớ!” Tôi trả lời:“Nhưng tôi còn nhớ và tôi sẽ nhớ mãi lon nước ân tình này”. Nghe nói thế cán bộ Hạ nhìn tôi mỉm cười, nụ cười rất hiếm hoi trên khuôn mặt lầm lì cố hữu của anh. Đó cũng là lần cuối tôi gặp lại người cán bộ đã để lại trong tôi kỷ niệm thật đẹp về tình người trong nhà tù cộng-sản.

Gió Thoảng Trưa Hè

Không lâu sau đó, Bùi Đình Thi mất chức trật tự. Sự kiện này đối với tôi rất quan trọng, vì kể từ ngày đó cuộc sống tôi được nâng cấp: Từ đáy địa ngục, tôi được chuyển lên tầng trên của địa ngục! Ngày anh ta mất chức trật tự trong trại tù Thanh Cẩm cũng là một trong hai ngày vui mừng và hạnh phúc nhất trong 13 năm tù của tôi! Ngày đầu tiên là ngày 2 tháng 8 năm 1978, ngày tôi được chuyển ra khỏi trại trừng giới Cổng Trời!

Tôi Phải Sống: 10a- Tầng Đầu Địa Ngục

toiphaisong_tua2

10- Tầng Đầu Địa Ngục

Người ta thường nói: “Sống lâu lên lão làng!” Tôi cũng đã có lần thuộc dạng “lão làng” vào năm 1982, sau khi nằm liên tiếp ba năm trong nhà kỷ luật trại tù Thanh Cẩm. Với cái vốn thời gian đó, tự nhiên tôi trở thành “đại ca” trong khu kỷ luật lúc bấy giờ.

Kể từ khi tôi bị đưa lên cùm chân sau vụ vượt ngục bất thành ngày 2 tháng 5, 1979 cho tới lúc này, tôi cứ quanh đi quẩn lại trong sáu buồng của khu nhà kỷ luật. Tôi giữ vai trò người quản gia, trong khi các người tù khác chỉ là những khách vãng lai. Có người trụ lại một thời gian khá lâu đến hàng năm trời, nhưng cũng có những người ngắn hơn, lên đây một thời gian chừng vài tháng hay tuần hoặc vài ngày rồi trở xuống dưới “làng”. Cũng có người xuống “làng” ít lâu rồi lại lên khu kỷ luật như dân Âu Châu đi nghỉ hè ở vùng bờ biển hàng năm! Riêng tôi đã ba năm rồi, nhưng chưa được đi “nghỉ hè” lần nào. Cũng chính vì được tiếp xúc với nhiều đợt tù kỷ luật, chính trị cũng như hình sự, nên yếu tố “lão làng” của tôi được nhiều người biết tới.

Nếu yếu tố “lão làng” không mang ý nghĩa gì đặc biệt đối với nhóm tù chính trị thì ngược lại nó là vấn đề quan trọng, đôi lúc là nguyên tắc sống còn đối với những người tù hình sự. Nên biết điều này, giữa những người tù hình sự với nhau, sự kiêng nể các “đại ca” đã trở thành một thứ luật bất thành văn trong tù. Có những anh vì coi thường hoặc chểnh mảng việc tuân giữ quy luật này nên đã phải trả giá rất đắt. Suốt bốn năm qua tôi đã phải sống lăn lộn với tù hình sự từ trại Cổng Trời về đây, nên đã có dịp chứng kiến nhiều trường hợp trả giá đó. Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà các tù nhân vi phạm bị “đại ca” ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù.

Nếu chỉ để cảnh cáo hoặc áp đảo tinh thần những “lính mới” để bắt phải đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử dụng “chưởng”, hoặc “bẻ ngà”. Trường hợp nặng hơn thì bị “lấy cặp pha”, hoặc “xin cặp nạng”. Trường hợp nghiêm trọng và phải bảo vệ chỗ đứng thì đối phương sẽ được “cất”. Những người tù hình sự có loại ngôn ngữ riêng bằng tiếng lóng. Gần như tất cả mọi người đều có một tên đệm kèm theo tên riêng. Và có một điều dường như ai cũng có thể biết được là họ chửi thề luôn miệng!

Hiện tượng “ma cũ ăn hiếp ma mới” trong giới tù hình sự là điều rất phổ biến và tự nhiên trong tù. Chắc hẳn nhiều người đã được nghe kể, và hơn nữa đã đọc những sách viết về đời sống ngục tù đề cập tới hình thức “tìm chỗ đứng” của các tù nhân cũ. Những anh tù mới vừa bước vào buồng sẽ bị những người cũ áp đảo bằng một trận đòn mềm người và bị bắt buộc phải khuất phục dưới trướng. Nếu người tù mới là tay hảo hán thì sau này sẽ “ngoi lên tìm chỗ đứng” bằng cách nào đó để nắm vai trò lãnh đạo.

Việc ngoi lên tìm chỗ đứng này được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng điểm giống nhau duy nhất trong các cuộc tranh hùng đó là tính cách không khoan nhượng, nói rõ hơn là một mất một còn. Vì thế, ngoài trường hợp những “đại ca” có tầm cỡ cao, nghĩa là những tù nhân khét tiếng mà ai nghe tới cũng phải cúi đầu chịu phục và dù ở đâu cũng có đàn em các cấp thì không nói, còn những tay mới vừa ngoi lên tìm chỗ đứng trong tù, khi đi ngủ chỉ nhắm một mắt. Ý muốn nói lúc nào cũng phải đề phòng kẻo bị thanh toán!

Dĩ nhiên các việc đó chỉ diễn ra trong giới tù hình sự. Dù vậy hoàn cảnh đã đẩy đưa tôi, một tù nhân chính trị, vào vị thế được kiêng nể trong giới tù hình sự tại khu kỷ luật này. Một sự việc xảy ra ngoài sức tưởng tượng mà trước đó tôi chưa từng nghĩ tới. Nó đột biến xảy ra vào một buổi sáng nọ khi cán bộ mở cửa và đẩy vào buồng tôi một anh tù hình sự còn trẻ măng, chừng ngoài 20 tuổi. Buồng tôi lúc đó có bốn chỗ cùm nhưng chỉ có ba người, tôi và hai anh tù Trung Quốc, còn một chỗ cùm trống dành cho anh tù mới này.

Chợt nghe tiếng mở khóa buồng, tôi vội lấy tấm chăn che ngang người, vì lúc đó cả ba chúng tôi đều trần truồng. Anh tù mới vừa bị đẩy vào đứng chết trân giữa buồng, vì từ ngoài sáng vào buồng tối làm anh quáng mắt. Anh ta cố gắng định thần trong một buồng giam nóng như hỏa lò và chắc chắn là rất thối tha này. Còn tôi ở đây đã lâu và nằm trong buồng đã quen với bóng tối nên tôi nhìn ra và thấy anh ta hầu như rõ mồn một!

Người anh trông nhỏ thó với mái tóc húi cao. Anh ôm trên tay chiếc chiếu cuộn tròn mà tôi biết bên trong là chăn và quần áo. Tay kia anh bưng một cái bát sắt có hoa màu đỏ, có đĩa sắt đậy lại bên trên, nên tôi không biết trong bát có gì. Dưới nách anh cặp một ống điếu cày có máng cái lon Guigoz lòng thòng. Trong lúc anh tù mới đang chớp mắt nhìn quanh nhưng chưa thấy gì và nghe ba người chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Phổ Thông làm anh tưởng buồng này tất cả đều là tù Trung Quốc. Tôi nhận thấy trên mặt anh lộ ra vẻ sợ hãi. Có lẽ chưa kịp định thần thì cán bộ đã rút thanh sắt, xỏ chân anh ta vào cùm, khóa cùm bên ngoài buồng và đóng cửa bước ra. Cán bộ hành động nhanh như một cái máy, vì tôi biết anh ta không chịu nổi mùi hôi thối và bầu khí nóng như lò hấp của buồng giam.

Ban ngày trong căn phòng kín như cái hộp sắt có mở lò sưởi này, chúng tôi gần chết ngộp. Mỗi lần mở cửa là mỗi hồng ân trời ban, vì có không khí ùa vào buồng. Lúc đó chúng tôi thi nhau hít thở, càng mạnh càng tốt, càng nhiều càng tốt và cố rút vào buồng phổi không khí trong lành hiếm có để còn được tồn tại. Đợi cho anh tù mới định thần xong, tôi lên tiếng:

- Mầy thấy rõ trong buồng chưa? Mệt thì nghỉ đi.

Nghe tiếng tôi, anh ta rất mừng vì biết tôi là người Việt nên lễ phép nói:

- Em xin chào anh! Thưa anh có phải là anh ‘Nể’ (Lễ) không ạ!

Anh tù này nói thiệt là ngọng. Qua cách anh phát âm tên tôi, tôi hỏi:

- Sao mày biết tên tao?

-Ối giời! Anh ạ, đám bọn em có mấy thằng đi kỷ ‘nuật’ về, bọn chúng ca tụng anh ‘nắm’. Chúng bảo anh rất tốt!

Tôi phì cười:

- Xạo mầy! Mày tên là gì, làm sao mà bị đi cùm?

Có lẽ anh ta sợ, khi nghe giọng nói tôi cố tình tạo ra vẻ “đại ca”. Càng sợ hơn nữa sau khi đã chớp mắt làm quen với bóng tối trong buồng và nhìn thấy hình dạng tôi đang cởi trần, râu ria tua tủa rối ren vô trật tự, tóc tai bờm xờm đang ngồi cùng với hai anh Tàu to con và trần truồng như nhộng. Cảnh này mới bước vô, ai mà chẳng sợ. Anh ta trả lời cách khúm núm:

- Thưa anh, tên em là Huống. Em nhón một ít ‘nạc’ (lạc) của cán bộ, bị bể và đi cùm. À, em xin mời anh dùng bát cơm anh ạ!

Vừa nói Huống vừa với tay cầm cái bát sắt, mở đĩa đậy ra và nhẹ nhàng đặt bát cơm cạnh tôi.

Nhìn bát cơm, hai anh Trung Quốc lộ vẻ thèm thuồng tột độ. Bát cơm trắng quả là một bữa đại yến trong buồng kỷ luật đói triền miên này. Ngồi nhìn cả ba anh tù, tôi cảm thấy thương họ. Cuộc sống tù đày đã biến đổi họ thành những con người không còn là chính con người thật của họ. Một người tù vừa bước vào cố nhịn phần ăn sống còn của mình đổi lấy sự an toàn, còn hai người bạn Trung Quốc chỉ cần được ăn và không cần biết gì khác! Tôi hỏi Huống.

- Cơm này ở đâu mày có?

- Em còn ống gạo mới thổi trưa ‘lay’.

- Gạo mày lấy đâu ra?

-Em ‘nàm’ điếu đổi gạo anh ạ. Bọn chúng vẫn gọi em ‘nà’ Huống “điếu cày” mà!

-Nếu đưa cơm cho tao thì mày lấy gì ăn?

-Em không đói đâu anh ạ!

Tôi đau lòng khi nghe câu đó, vì trong tù này ai mà không đói! Tôi bảo:

- Huống! Tao giả vờ hù dọa mày cho vui, mày đừng nghĩ tao như một tay đầu gấu hình sự. Ăn đi mày, ở đây thằng chó nào mà chẳng đói.

Huống ngạc nhiên khi nghe tôi nói như thế, nhưng nó cũng chưa dám ăn. Tôi giục mấy lần nó mới dám bưng bát cơm lên, miệng lí nhí nói:“Em xin anh!”

Tôi ngồi nhìn Huống “táp” vội bát cơm mấy cái đã hết sạch. Trông nó cũng đói không kém gì ba người chúng tôi trên khu kỷ luật này.

Kỹ Thuật Kiến Trúc

Nhà kỷ luật Thanh Cẩm là một nơi được nghiên cứu và thiết kế cẩn thận để tăng hiệu quả tối đa của tính chất độc ác trong việc trừng trị con người. Ở lâu trong đó tôi mới có dịp quan sát kỹ và đi tới kết luận: Không thể có một đồ án xây dựng nào tốt hơn khu nhà, mới vừa ba tuổi mà tôi là một trong số rất ít người được vinh dự là những thân chủ đầu tiên này.

Khu kỷ luật là một nhà nóc bằng hình chữ nhật có sáu buồng. Ba buồng phía trước trông ra một khoảng sân khá rộng và ba buồng phía sau mở cửa thông ra một lối đi hẹp chừng 3 thước, dẫn tới chân một bức tường đá xanh. Tường nhà dày 40 phân, mái nhà được đúc bằng xi măng cốt sắt. Mỗi buồng vuông vức với 3 thước mỗi chiều. Cửa sắt thật kiên cố và chỉ có một cửa sổ nhỏ 50 phân vuông chắn song sắt to bằng cổ tay em bé. Điểm đặc biệt mà tôi khâm phục sáng kiến là các buồng không phải cách nhau bằng một bức tường theo như các kiểu thông thường, nhưng buồng này cách buồng khác bằng một cái buồng xép bề ngang chừng một mét rưỡi, có cánh cửa chặn kiên cố bên ngoài.

Như vậy khi muốn bước vào buồng kỷ luật phải qua hai lần cửa, qua lần cửa gỗ vào buồng xép rồi mở cửa sắt vào buồng giam. Hai buồng giam có cửa sắt đối diện nhau. Tuy nhiên, vì nhu cầu có khoảng trống tráng xi măng trước cửa buồng nên buồng 1 và buồng 6 nằm ở hai góc phía trước và phía sau chỉ cần qua một cửa sắt là vào buồng, trong khi tất cả các buồng khác phải qua hai lần cửa. Cái buồng xép nằm giữa hai buồng giam này là một sáng kiến thật độc đáo vì nó có ba công dụng thật rõ rệt. Thứ nhất là an ninh, người tù muốn vượt ngục phải qua hai lần cửa mới ra được. Thứ nhì là chặn không khí lại. Không khí muốn vào buồng giam phải qua hai lần cửa. Và ý thứ ba quan trọng nhất, cái thanh sắt to từ trong buồng giam xỏ qua các móng cùm ngoạm vào cổ chân những người tù được luồn qua một cái lỗ trong tường ló đầu ra buồng xép này và có ống khóa to khóa lại ở đây.

Như thế người tù ngồi bên trong buồng không bao giờ có thể đụng chạm tới cái ống khóa bên ngoài được. Chung quanh khu kỷ luật có tường cao ngăn cách với các khu vực khác trong trại, trên bờ tường có hàng rào kẽm gai. Đây chỉ là tường khu vực, chưa phải là bờ tường trại bằng đá xanh cao 5 thước bao bọc toàn thể trại tù Thanh Cẩm. Chỉ có một lối ra vào duy nhất là cổng trại được xây theo kiểu mẫu Khải Hoàn Môn (Arc de Triumple) của thành phố Paris bên Pháp. Cổng trại là phòng ở của cán bộ trực trại và lúc nào cũng có lính canh.

Trong buồng có hai thớt nằm bằng xi măng hai bên một “phi đạo” ở giữa, mỗi thớt cao 80 phân và rộng cũng 80 phân dành cho hai người bị cùm. Thật sự tôi không nhớ rõ chi tiết về kích thước của cái thớt này, chỉ biết lúc bấy giờ chúng tôi gọi nó bằng cái tên khá dài:“Hai người thì thiếu, một người thì dư!” Như vậy sáu buồng khu kỷ luật chỉ được trang bị đầy đủ cho hai mươi bốn thân chủ. Có thời gian số người bị kỷ luật đông hơn 24 thì mỗi buồng có thể nhận thêm một tù nhân nằm dưới “phi đạo”, dĩ nhiên là không phải mang cùm. Ở kỷ luật mà không phải mang cùm cũng là một hồng ân. Thỉnh thoảng cán bộ chiếu cố cho vài người được hưởng đặc ân này. Riêng tôi không được hưởng quyền lợi này một đêm nào trong 1020 đêm ở nhà kỷ luật.

Thông thường những người đã ở lâu thì chỉ bị cùm một chân (cám ơn sự nhân đạo của đảng!). Thời gian ba tháng đầu bị cùm cả ngày lẫn đêm. Về sau chỉ cùm ban đêm, từ lúc cho ăn chiều cho tới quãng 7 giờ sáng hôm sau. Ngược lại, “những khách vãng lai”, tức là những người tù ở dưới “làng” bị phạt lên kỷ luật một thời gian ngắn, họ bị cùm một chân cả ngày lẫn đêm. Tuy nhiên, thời gian “tham quan” khu kỷ luật của họ chỉ kéo dài trong vòng một vài tuần lễ.

Buồng giam kín như bưng và tối đen. Chỉ phía ngoài gần cửa sổ có chút ánh sáng lọt qua song sắt, còn phía trong lúc nào cũng tối om om. Dù vậy, chúng tôi cũng không bị trở ngại vì đã quen với bóng tối. Từ bên trong buồng nhìn ra thấy bên ngoài rất rõ, nhưng từ ngoài nhìn vào qua song sắt cửa sổ thì không thấy gì bên trong. Nhất là những hôm nắng to người bên ngoài phải nhìn vào một lúc lâu mới biết có bao nhiêu người trong buồng. Trần nhà rất thấp. Đứng trên bệ nằm, có thể với tay gần đụng trần nhà, trên đó có bắt một bóng điện, ánh sáng leo lét và tắt từ 10 giờ đêm về sau.

Nhà Cầu “Nổi”

Buồng trống trơn không có thứ gì ngoài mấy cái ống bẩu bằng luồng, một loại tre to và rỗng ruột. Đây là phương tiện toa-lét để tù nhân trong buồng đại, tiểu tiện vào đó. Trước mỗi lúc phát thức ăn trưa và chiều, một anh tù trực sinh vào từng buồng bưng các ống bẩu phân và nước tiểu này ra đổ vào hố phân ở góc tường ngay trước cửa buồng 3 nằm sát góc sân cập bờ tường phía trước. Hố phân này không có nắp đậy và đó là vương quốc của ruồi xanh.

Việc sử dụng nhà cầu nổi này không đơn giản, phải được chỉ dẫn và dĩ nhiên là cũng phải có kinh nghiệm. Lúc đó tôi đã là “con ma ” trong khu kỷ luật rồi nên thích nghi hết mọi hoàn cảnh để sống còn. Việc sử dụng cái cầu tiêu lạ đời này không còn là vấn đề đối với tôi. Trái lại những “lính mới” thường gặp trở ngại trong những lần đầu. Lúc bấy giờ yếu tố “lão làng” của tôi lại có giá trị vì tôi phải mở một khóa cấp tốc hướng dẫn cách sử dụng loại nhà cầu “nổi” này như thế nào. Ban ngày lúc không phải cùm thì dễ hơn, nhưng lúc chân trong cùm mà buồn đi cầu thì không phải là chuyện đơn giản và trường hợp này “không thầy đố mày làm nên!”

Khi đi đại tiện, người tù phải dùng tới hai cái ống bẩu, mỗi tay cầm một cái. Ống nước tiểu hứng phía trước và ống phân dĩ nhiên là phía sau. Trong khi thi hành bản năng sinh học tự nhiên của cơ thể con người, tù nhân phải ở thế đứng, hơi rùn người xuống một chút như thế “xuống tấn” của võ sĩ thái cực đạo mới đúng thế. Ống phía trước có thể là ống nhỏ, nhưng ống phía sau bắt buộc phải là ống có đường kính to và nhẹ. Yếu tố này rất quan trọng, vì trong lúc “thi hành nghĩa vụ” của bản năng, nói nôm na là “đi cầu”, người tù phải quàng tay ra sau để giữ cái ống bẩu. Nếu ống này nặng quá thì kẹt đủ điều!

Có mấy lần ống này quá nặng, trong khi “đi cầu” ống đó càng lúc càng nặng vì phải chứa thêm, chứa thêm và cuối cùng người tù không thể giữ ống bẩu sát vào mông đã vuột tay làm đổ phân tung tóe trong buồng. Nếu lúc đó có người đang ngồi ăn thì quả thật là bất tiện! Chúng tôi cố đi cầu vào buổi tối sau khi một chân đã dính vào cùm, một phần để tránh hai bữa ăn của anh em và phần khác cũng kín đáo hơn. Tuy nhiên, vào trường hợp bất khả kháng thì bất kể là ngày hay đêm, dù có phải đại tiện ngay trước mặt những người lúc họ đang ngồi ăn cũng không ai lấy thế làm phiền.

Vả lại, vì đã quen với cuộc sống tù quá ư là chật chội, bẩn thỉu và thiếu mọi tiện nghi tối thiểu của con người, nên chúng tôi chẳng ai cảm thấy mùi thối tha hôi hám gì trong cái buồng giam kín như cái thùng sắt này. Việc ai người ấy làm, chẳng ai để ý tới ai. Trong khi một người đang đại tiện thì có thể một anh khác đang ngồi ăn hoặc có người đang tập thể dục, ra cửa sổ hít thở, đang ngồi cầu kinh, chơi cờ hay may vá. Có mấy lần một vài “lính mới” vì chưa rành sử dụng ống bẩu nên làm vương vẩy đầy trên sàn nhà. Nhưng không hề gì, chốc nữa tới lúc cho ăn, chúng tôi sẽ nhờ anh trực sinh quét và hốt đi!

Ban ngày không bị cùm, “đi cầu” đã khó, ban đêm khi đã xỏ chân vào cùm mà muốn “đi cầu” thì quả là một cực hình! Lúc đó cần phải có một kỹ thuật cao hơn và những “lính mới” thường không làm được. Phần vì vướng một chân vào cùm, phần khác cổ chân họ còn nhiều thịt nên rất trở ngại trong cái móng cùm bằng sắt nhỏ hẹp. Trong khi đối với tôi và những “thường trú nhân” của khu kỷ luật lúc bấy giờ, cổ chân chúng tôi không to hơn cái ống bơm xe đạp bao nhiêu, nên việc xoay xở nhẹ nhàng khéo léo và lành nghề như một nhà ảo thuật.

Vào mùa hè, trời Thanh Hóa nóng như thiêu như đốt. Nhất là những ngày có gió Lào cộng vào, buồng kỷ luật biến thành cái hộp bằng sắt có mở lò sưởi ở số cao. Gió Lào là ngọn gió từ bên Ai-Lao thổi qua dãy Trường Sơn miền Trung Việt Nam, đưa hơi nóng từ dãy núi đá này qua các tỉnh miền Trung Việt. Hôm nào gió càng to thì càng nóng. Buồng giam chỉ có một cửa sổ duy nhất và rất hẹp, gió không thể lùa vào buồng được. Sức nóng hừng hực của mặt trời nung nóng nóc nhà bằng, ban đêm tỏa hơi nóng xuống buồng giam đã vắt cạn tới giọt nước cuối cùng trong thân thể gầy còm của chúng tôi.

Những đêm kinh hoàng như vậy, mỗi người trong buồng phải thủ sẵn một tô nước trích ra từ tiêu chuẩn nước trong ngày và một mảnh vải ngâm vào đó. Thỉnh thoảng lấy vải lau trên người cho da thịt tiếp xúc với sự mát lạnh của nước, sau đó vắt nước trở lại vào tô. Làm đi làm lại nhiều lần suốt đêm như thế, khi nào kiệt sức thì ngả xuống nằm một chốc rồi ngồi lên lau người tiếp. Sáng hôm sau nước trong bát đen như nước cống. Trong cơn chết ngạt đó, tôi thấy thứ quý báu nhất trên đời này không gì khác hơn là làn khí trong lành để con người có thể hô hấp và tồn tại. Một điều mà dường như không mấy ai để ý tới. Đó là hồng ân đầu tiên mà Thiên Chúa ban cho tạo vật. Lúc đó tôi cầu xin: “Lạy Chúa, nếu Chúa cho con có thể làm phép lạ thì phép lạ đầu tiên con làm là cho có một cái lỗ bằng hộp sữa trổ ra trên nóc buồng, để không khí có thể lưu thông và con có thể hô hấp hầu bảo vệ mạng sống!” Tôi quyết tâm là nếu sau này còn sống, tôi phải nói lên cho mọi người, biết ơn và cảm tạ Chúa vì hồng ân cao cả của Ngài đã ban cho con người được có đủ không khí trong lành để hít thở.

Trong hoàn cảnh nghẹt thở đó, nỗi niềm hối hận trào dâng . Tôi hối hận vì có những lần trước kia tôi than thở oán trách vì bữa ăn không ngon, chai bia chưa đủ lạnh, đĩa rau không đủ tươi, chiếc áo không đẹp, chiếc xe không đúng kiểu, nhà cửa thiếu tiện nghi…. Và đặc biệt tôi muốn chia sẻ với những người may mắn, nhất là dân các nước tư bản, sinh ra trong nhung lụa, lớn lên trong tiện nghi, cuộc đời được bao quanh bởi thú vui và tiền của. Tôi muốn nói với những người may mắn đó rằng: “Các người đang ở trên thiên đàng mà các người không biết. Vì thế xin đừng bao giờ than trách về một vài bất tiện trong cuộc sống đã quá đầy đủ tiện nghi của mình, nhưng hãy biết mở tay ra bố thí và thương đến những kẻ khốn cùng!”

Những lúc nóng nực quá sức chịu dựng, chúng tôi đều trần truồng ngày đêm. Một phần vì mặc quần áo sẽ ướt đẫm và dán sát vào người không thể nào chịu được, đàng khác, những người ở kỷ luật lâu như tôi không còn quần áo gì để mặc. Dường như ai cũng giống nhau trong buồng giam kỷ luật, chúng tôi chỉ chừa đủ một quần xé ống tới đầu gối và một cái áo xé tay tới sát nách, để khi cần phải ra ngoài hoặc lên cơ quan làm việc, còn bao nhiêu đều phải xé ra lau chùi khi đại tiện.

Trong thời gian kỷ luật, chúng tôi được xuống sông tắm mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên, nhiều khi cán bộ bận việc hay có gì bất thường thì phải chờ lâu tới ba tuần, nhưng ít khi nào quá một tháng mà chưa được tắm. Vì quá ba tuần mà chưa được tắm là bọn tù chúng tôi kêu la tru tréo điếc cả tai. Trong trường hợp đó buộc lòng phải cho đi tắm, nếu không phải vì lòng nhân thì ít ra để khỏi phải bị quấy rầy.

Thật ra đối với tôi lúc đó, việc được đi tắm sớm hay muộn hơn một tuần lễ không có gì đáng quan tâm. Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi như lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì ít giấy bao xi-măng làm vở viết học chữ Tàu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố công học.

Cơn Mưa Trái Mùa

Đêm đó Huống nằm chung thớt với tôi. Tôi nằm sát vách và Huống nằm bên ngoài. Hai người nằm song song và đôi chân bị xỏ xâu cùm chung một song sắt. Tôi cùm chân phải, Huống chân trái. Một lúc khá lâu, gần tới giờ tắt đèn đi ngủ, Huống kêu đau bụng và buồn đi cầu. Tôi cảm thấy như sắp gặp rắc rối.

Tôi vội ngồi lên chỉ cách cho Huống xoay người, bước một chân không bị cùm xuống sàn. Huống loay hoay cố gắng làm theo cách thức tôi bày, nhưng không được. Nó không biết xoay ngược người bước xuống sàn và quay lưng ra cửa sổ như thế nào. Tệ hơn nữa, trước đó 2 người đã đi đại tiện và các ống bẩu đã nặng hơn. Trong lúc đang bối rối như vậy thì Huống đứng thẳng trên thớt và kêu lên:

-Anh ạ! Cố giúp em! Khẩn trương “nên” anh, em đau bụng ‘nắm’ rồi!

Tôi đáp lời nhanh:

-Mầy cố khắc phục, để tao bảo thằng Tàu nằm phía ngoài bên kia biểu diễn cho mày coi. Bước xuống! Mày đứng thẳng người trên bệ nằm như thế thì ỉa đái cái chó gì được! Sao không tuột quần xuống đi, còn xấu hổ à?

Tôi quay sang bảo anh Trung Quốc nằm bên ngoài ở thớt bên kia đứng xuống và biểu diễn màn đi cầu trong cùm. Anh Tàu bước một chân xuống và chụp lấy cái ống bẩu biểu diễn cách đi cầu với chân trong cùm một cách nhẹ nhàng và đẹp mắt. Bên này Huống ta cố gắng tối đa để làm theo, nhưng mặt mày nhăn nhó kêu đau vì móng cùm cày vào cổ chân trong lúc anh cố gắng xoay người. Cổ chân anh gần chảy máu mà vẫn không xoay người bước một chân xuống sàn được, vì cổ chân anh ta to mà móng cùm lại nhỏ. Những móng cùm to hơn một chút thì bọn tù kỷ luật chúng tôi đã thủ mỗi người một chiếc như vật gia bảo của mình rồi, khách vãng lai phải chịu thiệt thòi hơn. Thấy không cách gì Huống có thể bước xuống sàn khi chân bị cùm, tôi hỏi:

-Mầy có thể khắc phục tới sáng ngày không Huống?

- Chết mất anh ơi! Em chột dạ ‘nắm’ rồi, sắp sửa ra quần rồi anh ạ!

-Vậy mày đứng trên thớt làm được không?

-Em phải cố thôi! Em chột dạ ‘nắm’ rồi. Xin anh giúp chuyền ống bẩu cho em với!

-Ban sáng mày ăn gì mà chột dạ?

-Em ăn “nạc” sống và uống nước “nạnh” vào! Khổ thân em!

Tôi bực mình nhưng buồn cười quá nói to nhưng thật vui:

- Khổ gì mày? Khổ tao thì có!

Nghe tôi to tiếng, Huống tưởng tôi nạt nên sợ cuống cuồng vội vàng nói:

- Em xin anh! Em van anh!

Thái độ của Huống “điếu cày” lúc này càng làm tôi tức cười không chịu được. Mặt mày nó nhăn nhó, tay chân cuống cuồng. Thấy thế, tôi bước xuống cầm hai ống bẩu lên và bảo nó:

- Vậy thì mày đứng trên bệ, tuột quần xuống, đứng dạng hai chân và rùn người xuống như cái thế con chó đang đứng ỉa! Mầy có trông thấy con chó ỉa bao giờ chưa?

Huống đáp vội vàng:

- Có, có! Em còn ‘nạ’ gì chó ỉa cơ chứ!

- Được rồi! Một tay cầm ống bẩu nhỏ hứng phía trước, tay kia cầm ống bẩu to này áp sát vào sau mông. Phải nhớ áp thật sát vào mông nghe mậy, nhưng mầy thuận tay nào?

-Em thuận tay phải!

-Vậy mầy dùng tay phải cầm ống bẩu phía sau, vì nó nặng và khó điều khiển hơn cái hứng nước tiểu phía trước. Nhớ phải cầm thật chặt nghe chưa?

Tội nghiệp Huống! Anh ta vô cùng vất vả mới cầm được hai ống bẩu cho đúng tư thế. Trong khi đó sự đòi hỏi càng lúc càng khẩn trương!

Chỉ dẫn cho Huống xong, tôi nằm dài thẳng người xuống và nhìn lên. Cái ống bẩu “hậu vệ” của Huống đang chỉa thẳng vào mặt khiến tôi lo ngại. Tội nghiệp anh tù hình sự đang đứng trong một tư thế khom người rất kỳ dị. Đôi chân dang rộng, hai đầu gối co lại, người rùn xuống thấp và khom lưng cong người về phía trước. Tôi chưa trông thấy con người đứng trong thư thế đó bao giờ nên không biết diễn tả đó là cái thế gì! Nếu gọi thế “xuống tấn” trong thái cực đạo thì đôi chân phải dang rộng hơn, thân người phải thẳng và phải rùn người xuống thấp hơn mới đúng thế. Xem ra nó hơi giống cái thế của các vận động viên bơi lội trước khi lấy đà phóng xuống hồ bơi, nhưng chỉ giống ở cái lưng cong còn đầu gối các vận động viên phải thẳng, không thể như hai đầu gối của Huống trong lúc đang đứng ngay trước mắt tôi đây được.

Vì đã sống lâu năm ở đây, chứng kiến quá nhiều cảnh tù kỷ luật đứng đi cầu “nổi” bằng hai ống bẩu, nên tôi mường tượng tới cảnh con chó đứng ỉa. Cũng may là Huống khá thông minh! Tôi vừa nói cái thế chó ỉa là anh ta hiểu ngay, nhưng lúc này anh ta biểu diễn không đúng lắm vì một cổ chân còn vướng vào cùm. Nhưng phải nói anh ta biểu diễn không đến nỗi tệ. Tay trái Huống cầm ống bẩu nhỏ và dài phía trước coi bộ đã ổn, nhưng tay phải choàng ra phía sau dường như chưa làm chủ được cái ống bẩu có đường kính khá to và nặng, vì bên trong đã có phân. Nằm dưới nhìn lên, tôi thấy tình thế quá đe dọa, tôi lo sợ lên tiếng:

- Huống! Huống! Đừng cầm trên miệng ống, không được đâu! Cầm ở lưng chừng một phần ba ống bẩu mới được. Mầy cầm như vậy làm sao thúc sát vào mông được!

Tôi càng lên tiếng anh ta càng lụp chụp. Tôi nghĩ rất nhanh, phải ngồi lên cầm giúp nó mới được, bằng không sẽ phải lãnh đủ. Tôi ngồi bật dậy, một tay vừa đụng tới ống bẩu, chưa kịp nắm lấy thì bất thần tôi nghe một âm thanh lạ lùng và sắc nhọn như tiếng gió gào qua khe cửa: “Phụụụụụụt!” Đồng thời với cảm giác ấm và nặng như trận mưa tưới thẳng vào mặt tôi, cùng lúc với cái vị vừa chua vừa đắng ở đầu lưỡi! Tiếp theo là bản hòa âm ngay bên tai tôi, nhưng chẳng giọng nào ăn khớp với giọng nào. Có tiếng thì quá trầm như ếch kêu “Uỳụụp! Uỳụụp! Uỳụup!” hòa với tiếng rít cao vút từng mây “Rooét! Rooét! Rooét!”

Bằng hành động phản xạ, tôi đưa hai bàn tay che mặt và nhắm mắt lại nên không bị nước bắn vào mắt. Nhưng từ tóc, đầu, mặt, hai mu bàn tay và dài xuống tới ngực lãnh trọn những gì tự nãy giờ bị nhốt trong bụng và đã hành tội Huống. Tôi chợt nhận ra phản xạ kỳ diệu của mi mắt. Nếu cái gì có thể làm nguy hại cho tròng mắt là nó tự động khép lại. Nhưng đôi môi con người lại không có được sự phản xạ đó. Nếu mi mắt chờ tới khi nhận lệnh của hệ thần kinh mới làm việc thì hôm đó không biết đôi mắt tôi sẽ ra sao.

Biết là tai họa xảy ra, Huống vội vàng quay người lại hốt hoảng la lên:“Ối giời ơi! Ối giời ơi!” Trong lúc đó, một chân anh bị vướng trong cùm, tay kia cầm ống bẩu phía trước, bàn tay phía sau bị ướt đẫm trơn trợt làm ống bẩu nặng tuột rơi xuống đổ tháo, cứt đái vương vãi nằm lăn lóc bét nhè trên chăn chiếu của hai người! Tôi buột miệng kêu: “Trời ơi là trời! Biết nói làm sao đây?”

Sự việc xảy ra quá nhanh và bất ngờ khiến không ai kịp phản ứng gì. Hai người tù Trung Quốc bị cùm thớt bên kia nhìn thấy sự thể vụt ngồi lên chỉ trỏ và dùng tiếng tục tĩu nhất trong ngôn ngữ Trung Hoa để chửi Huống. Mặc dù Huống không hiểu tiếng, nhưng qua cách biểu lộ thái độ giận dữ anh ta cũng hiểu được hai anh tù ngoại quốc này muốn nói gì. Huống đứng chết trân run rẩy vì sợ hãi, luôn miệng kêu: “Anh ạ, em ‘nạy’ anh! Em ‘nạy’ anh xin tha cho em!”

Có lẽ trong thâm tâm lúc đó người tù hình sự đáng thương này nghĩ là anh ta đã phạm một lỗi lầm quá lớn trong tù là dám ỉa vào mặt “đại ca”, và tội này đáng chết! Huống ngồi bệt ngay xuống, không kịp lau chùi gì cả. Anh vội vàng cởi các nút áo ra mà tôi biết là để lau chùi cho tôi và chờ cuộc phán xét. Tôi cũng vội vàng ngồi lên và cởi cái áo đang mặc ướt đẫm ra lau mặt và lau tóc tai. Thấy tôi ngồi dậy, Huống quay lại chắp hai tay trước ngực lạy tôi như tế sao, đôi tay run rẩy, miệng lẩm bẩm:

- Em van ‘nạy’ anh, xin tha cho em! xin tha cho em!

Tôi chợt cảm thương Huống! Anh ta có tội gì đâu! Để bù lại cho nỗi lo sợ và thái độ van xin của anh, nên tôi buột miệng nói một câu hài hước làm Huống vô cùng ngạc nhiên. Cả hai anh Trung Quốc cũng lấy làm lạ sau khi nghe tôi nói dịch ra tiếng Phổ Thông:

-Tao cám ơn mầy Huống! Trong kỷ luật tháng tắm hai lần, bữa nay mầy cho tao tắm thêm một lần nữa là ba!

Nói xong tôi cười xòa, tay vỗ lên vai Huống và tiếp:

-Đừng sợ! Mày chẳng có lỗi gì cả. Đâu ai muốn như thế này. Chẳng qua vì hoàn cảnh mà anh em mình đành phải chịu!

Huống cảm động nói như muốn khóc:

- Em cám ơn anh! Em cám ơn anh thương em!

Vừa nói, nó vừa lấy áo mình lau người cho tôi. Tôi để yên cho nó làm việc đó, vì muốn chứng tỏ là tôi không buồn giận gì Huống cả. Chỉ có nụ cười của sự rộng lượng mới cứu vãn được tình thế lúc bấy giờ.

Lạ một điều là mặc dù lúc đó tôi bị phân người bê bết trên mặt mày đầu tóc, trên áo quần và chăn mền, nhưng khi lau khô rồi, tôi lại chẳng nghe mùi thối tha gì cả. Điều này làm tôi ngạc nhiên về sự kỳ diệu của sự bão hòa khứu giác. Vì nếu trong hoàn cảnh đó mà khứu giác chúng tôi hoạt động một cách nhạy bén bình thường thì làm sao chịu được?

Đó là một tai nạn lớn, nhưng trong cái rủi cũng có cái may! May là việc này xảy ra chỉ còn cách năm ngày nữa là tới lượt chúng tôi được xuống sông Mã tắm giặt. Nếu tai nạn này xảy ra sau khi mới được đi tắm và phải chờ tới 15 ngày sau thì cũng hơi căng! Hôm ngày đi tắm, nước sông Mã thượng nguồn rất trong và mát đã giúp tôi tẩy sạch mọi thứ nhơ bẩn trên người, và quần áo chăn chiếu cũng được giặt giũ cẩn thận. Hôm đó tôi lại cảm thấy mình trở nên thơm tho và tươi mát. Tuy nhiên, nhiều người khác lại không cảm thấy như tôi. Và câu chuyện sau đây chứng minh cho điều đó.

Một buổi sáng kia, nhóm tù trong khu kỷ luật chúng tôi cũng được ra tập họp chung với tất cả những người khác dưới sân trại để cán bộ kiểm tra lại hồ sơ của từng người. Lâu ngày mới được ra sân và rất mừng khi gặp lại anh em. Tôi liền chạy tới ngồi bên Cha Cao Đức Thuận mà tôi gọi là “Bố Thuận”, lúc bấy giờ ở khu kiên giam. Cha Thuận rất thương tôi và chúng tôi đã từng sống và ăn uống sinh hoạt chung ở trại Cổng Trời. Lâu lắm không được gặp nhau, nên khi thấy Cha Thuận, tôi mừng quá. Vả lại hôm đó lại được tiếp xúc tự do, nên tôi chạy ùa ngay tới bên Cha Thuận đang ngồi chung với các linh mục khác.

Điều làm tôi vô cùng ngạc nhiên là thái độ của Cha Thuận sao tỏ ra quá lạnh nhạt với tôi lúc đó. Tôi thực sự không hiểu sao con người nhân hậu đó lại mau thay tâm đổi tính như vậy. Hay cuộc sống khổ đau trong ngục tù đã biến “Bố Thuận” thành con người khác rồi chăng? Lúc đầu tôi ngỡ là Cha sợ cán bộ vì tiếp xúc với tù kỷ luật, nhưng khi nhìn lại, tôi thấy cán bộ cho tiếp xúc tự do. Thái độ Cha Thuận làm tôi buồn nhưng không hiểu lý do.

Mãi về sau này, sau khi được tha ra khỏi nhà kỷ luật về sống chung với anh em linh mục khác, tôi mới biết lý do. Vừa gặp lại tôi, ngài nói ngay:“Chú còn nhớ hôm ra sân kiểm tra hồ sơ không? Thấy chú tôi mừng và thương quá sức. Không ngờ con người chú quá tàn tạ và ra nông nỗi đó. Nhưng khi chú tới ngồi cạnh bên làm tôi buồn nôn quá. Tôi suýt ói tại chỗ. Tôi không thể chịu nổi nên phải quay mặt đi, nhưng càng quay đi chú lại càng sấn tới. Lúc đó tôi không tiện nói, sợ chú buồn. Trời ơi! Người chú lúc đó thối tha và tanh tưởi như một đống phân, không tưởng tượng được!”

Ăn Để Sống

Người ngoài nhận xét về tôi như vậy, nhưng cuộc sống trong buồng kỷ luật hằng ngày, thực tình chúng tôi không cảm thấy gì là khó chịu, là dơ bẩn cả. Việc ăn uống và tiêu tiểu cùng một chỗ trong nhiều năm liên tiếp khiến tôi không còn coi đó là vấn đề. Trong buồng không có mấy hôm là không bị be bét phân người. Nhiều hôm, các ống bẩu không chứa hết và giờ mở cửa cho ăn khá muộn nên làm phân trong ống bẩu sình lên và tràn cả ra ngoài lối đi. Thậm chí có nhiều lúc, sau khi bưng các ống bẩu trong buồng đem đổ vào hố phân xong, anh trực sinh trở lại chia thức ăn cho buồng. Chia xong anh bưng tô canh vào để trên trành cửa sổ. Nhìn tô canh thấy phân người nổi lều bều trên mặt, chúng tôi chỉ việc dùng muỗng hớt ra vất đi và chia nhau húp! Thức ăn trong nhà kỷ luật chỉ có thế, chúng tôi phải ăn để sống còn.

Tù nhân trong kỷ luật bị phạt đủ mọi mặt, nhưng nặng nhất vẫn là phạt cái dạ dày. Khi đói người ta thèm nhất là chất ngọt và chất béo. Chất béo còn đỡ, nhưng thèm đường thì thèm một cách kinh khủng, thèm điên dại, thèm ngày thèm đêm, thèm cả trong giấc mơ, thèm cả trong trí nhớ và tự trách mình sao lúc thừa thãi đường thì lại không ăn. Có lúc tôi tự trách mình, tại sao lúc các cửa hàng, các chợ bán đầy đường, đường trắng, đường vàng, đường đỏ, đường cục, đường tán và đủ loại đường mà mình quá dại dột, không mua vài ba ký lô, hoặc 5 ký, 10 ký, 20 ký để ăn một lần cho đã!!!

Nhắc tới “đường” tôi nhớ lại một chuyện rất đau lòng. Sau khi bị đánh bầm giập vì vượt ngục trước đó vài tháng, tôi bị cùm chung với một số bạn tù trong buồng kỷ luật. Một ngày kia, một anh bạn tù được người nhà từ Sài Gòn ra thăm nuôi. Dĩ nhiên là người nhà đâu có hay anh đang bị cùm kỷ luật. Lần đó vì đang bị cùm nên anh bạn không được ra nhà khách gặp thân nhân, nhưng được nhận hơn chục ký thức ăn. Khi đưa thức ăn vào, cán bộ trực trại chỉ cho mang một ít thức ăn vào buồng, còn lại phải để trong phòng xép bên ngoài. Cán bộ cho anh mang vào một ít thức ăn tươi và một gói chừng hơn ký lô đường móng trâu. Lúc đó tất cả đều đang đói và thèm thuồng đủ thứ.

Trong hoàn cảnh “lá rách đùm lá nát”, anh đã chia sẻ cho anh em trong buồng mỗi người một ít thức ăn tươi và một thỏi đường khá lớn. Không gì hạnh phúc hơn trong lúc này. Trống ngực tôi đánh như “trống chầu” khi đưa tay nhận phần chia sẻ của người anh em bạn tù. Lòng tôi lâng lâng niềm xúc động. Miệng lắp bắp lời cám ơn như em bé nhận được món quà quí mà em hằng ao ước. Tôi trịnh trọng đặt miếng đường xuống như nâng niu viên ngọc quí! Cứ sợ rơi, hoặc giả tự dưng nó biến mất thì chắc là tôi cũng “biến” theo.

Nhìn miếng đường mà tôi cứ mãi thầm cám ơn anh bạn vì lòng tốt bao la đã chia sẻ cho tôi. Tôi nâng niu và mân mê nó cứ như là chưa bao giờ thấy hoặc sờ tới miếng đường. Tạ ơn Trời và cám ơn lòng tốt của người anh em bạn tù, tôi từ từ đưa thỏi đường lên miệng, cắn từng miếng một như đưa dần cả hồn sống và sức sống vào người tôi. Cứ thế, tôi thưởng thức thỏi đường cho đến khi nó bao trùm thân thể tôi trong đê mê và hạnh phúc! Tôi mút mấy ngón tay đã từng nâng niu thỏi đường như không muốn một chút hương vị ngọt nào bị lãng phí bay vào không gian vô tận. Sau giây phút đê mê, tôi thấy nhớ da diết thỏi đường mà tôi đã đánh mất vào thân thể tôi. Tôi nhớ và thèm nó như điên dại!

Thật vô cùng quý cho mỗi người chúng tôi khi nhận được được những gì anh bạn chia sẻ. Nhưng như tôi đã nói, trong cơn đói tột cùng đó tôi nghĩ có thể ăn một lúc chừng 5 ký lô đường mới đã cơn thèm! Nghĩ thương cho anh bạn, chắc chắn anh cũng thèm đường như tôi. Dĩ nhiên anh phải giữ lại cho riêng mình một phần quà mà gia đình mang ra. Vì tế nhị nên anh không ngồi ăn trước mặt mấy bạn tù còn lại. Đợi đến đêm anh mới âm thầm mở gói và nhẹ nhàng thưởng thức sự hạnh phúc như thiên đàng mà chất ngọt của đường mang lại.

Khổ nỗi, tôi nằm bên cạnh anh, mỗi lần nghe anh cắn miếng đường là ruột gan tôi lại quặn đau vì thèm khát. Tôi muốn phát điên vì thèm! Khi nghe tiếng anh nhai, tự nhiên cơ thể tôi run bần bật như người lên cơn sốt rét vì thèm đường. Tôi run mà không cách gì kềm lại được. Tôi cố nằm dịch ra, không chạm vào người sợ anh biết là tôi đang run. Bản năng sinh tồn thúc giục tôi mãnh liệt là phải mở miệng xin anh một chút đường để ăn cho đã cơn thèm, nhưng đồng thời lý trí tôi cũng còn đủ nghị lực phản kháng bản năng sinh tồn. Trong khi cơ thể đang run bần bật đó, tôi đã dùng hai ngón tay đút thật sâu vào hai lỗ tai để cố không nghe tiếng nhai sát bên tai.

Lúc đó tôi để tâm trí về dĩ vãng và nhớ lại thời trước lúc tôi còn làm việc ở Vĩnh Long. Một lần có dịp về Quận Chợ Lách chơi và ghé vào thăm gia đình Cha Oai là bạn tôi. Cha Oai có người anh làm chủ lò đường mía, lúc ra về anh biếu tôi 10 ký đường hột xoài làm quà. Mang 10 ký đường về tôi cũng chẳng biết làm gì với nó, mà để trong buồng thì đàn kiến lại tấn công. Tôi bèn gọi người quen nhận giùm và khi cô cháu mang bao đường ra khỏi phòng tôi cám ơn rối rít. Lúc nằm nhớ lại tôi tự nghĩ: “Việc cho đi bao đường đó là hành động dại dột nhất mình đã làm trong đời!”

Mấy ngày sau anh bạn tù tốt bụng vẫn chia sẻ thức ăn cho chúng tôi, nhưng rồi lại có chuyện xảy ra. Một hôm, sau khi chia thức ăn ban chiều xong và cùm chúng tôi lại, hai anh trật tự Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát mở cửa buồng xép và ăn cắp thức ăn của anh bạn tù, cho vào xoong đậy nắp lại và mang ra ngay trước những con mắt chết đói của chúng tôi. Có lần anh bạn tù tức quá chịu không nổi, đứng trong buồng nhìn hai tên trật tự ăn cắp thức ăn của mình mang ra, anh định la lên “Quân ăn cắp!”, nhưng tôi ngăn lại vì biết hậu quả sẽ không lường được với hai tên hung thần này (hiểu theo nghĩa thật chính xác) trong nhà tù Thanh Cẩm lúc đó.

Trong khi tù đang chết đói thì thức ăn của anh bạn tù tốt bụng của chúng tôi lại bị để trong buồng xép! Mỗi ngày khi cho ăn, anh bạn tù đã phải van xin năn nỉ cán bộ mới cho nhỏ giọt một ít mang vào buồng. Mấy ngày sau đánh mùi được thức ăn, bầy chuột đói trong trại tù chui vào tấn công ăn gần hết những gì hai tay trật tự Thi – Phát còn để sót lại và đái ỉa be bét vào. Những ngày tiếp theo, lần nào gặp cán bộ anh bạn tù cũng năn nỉ “xin quà” như một điệu nhạc buồn kéo dài.

Cho tới một hôm Bùi Đình Thi thi chấm dứt bi kịch này bằng câu nói ngắn gọn:“Quà anh chuột ăn hết rồi!” Tôi nhớ mãi vẻ mặt đau thương của anh bạn tù khi nghe câu nói đó. Mà ai lại không cảm thấy đau khổ và xót xa khi bị kẻ khác ăn cướp một phần sự sống của mình? Trật tự Bùi Đình Thi nói đúng, quà của anh bạn đã bị chuột ăn hết rồi, cả chuột bốn chân lẫn “chuột hai chân”. Loại “chuột hai chân” ăn mạnh hơn nhưng nhân đạo hơn vì ăn mà không đái vào chỗ còn lại, còn loại bốn chân thì “mất dạy” hơn, vừa ăn lại vừa đái vào!

Anh bạn tù là người đầu tiên được gia đình thăm nuôi trong nhà kỷ luật mới này, và sáng kiến giữ quà lại trong buồng xép của cán bộ sĩ quan công-an người Mường là trung úy Bộ, vô tình trở thành một tiền lệ. Một tiền lệ rất tai hại! Về sau này tất cả những ai có gia đình thăm nuôi hoặc nhận quà gửi theo đường bưu điện cũng phải chịu hệ thống này. Đám chuột đủ loại hoạt động mạnh hơn, trở nên mập béo hơn! Đám tù kỷ luật chúng tôi lại chịu thêm một cực hình mới của cái cảnh “Cám treo để heo nhịn đói!”

Người nhà chúng tôi từ miền Nam cách xa hàng ngàn cây số lặn lội ra tới đây thăm nuôi và quà cáp gởi ra tới trại cho chúng tôi thì bị chặn lại để xó cho “lũ chuột” hoành hành, trong lúc chúng tôi đang chết đói. Từ đó, những cái gật đầu của cán bộ sau khi anh tù khổ chủ khép nép xin được ăn một tí quà của chính mình được coi là một ân huệ!

Vì đói triền miên nên tất cả những người ở kỷ luật lâu ngày như tôi chỉ còn lại có da bọc xương. Tôi vẫn còn nhớ được vài chi tiết về hình hài của mình lúc đó và có thể dùng than vẽ lại con người có đầu gối to bằng rưỡi bắp đùi, bao nhiêu xương sườn lòi ra hết và bụng lép như bụng nhái.

Lúc xỏ chân vào cùm xong, tôi thường ngồi nắm cổ chân nằm gọn giữa vòng tròn ngón tay cái và ngón tay giữa, xoay đi xoay lại như đang nắm cái ống bơm xe đạp. Khi nằm ngửa trên chiếu, tôi phải dùng hai mu bàn tay lót dưới mông vì hai mảnh xương dẹp sau mông lòi ra, bén như một lưỡi dao mài sát thẳng xuống chiếu đau không chịu được. Tìm đâu ra cái gì để lót bên dưới, trong khi áo quần còn không có để mặc!

Cái Lưỡi Mèo

Thức ăn thì mùa nào thức ấy. Thông thường nhất là ngô, khoai và sắn, cơm trắng rất hiếm. Có khi còn cho ăn cả bã đậu nữa. Những hôm như vậy, chúng tôi đành phải nhịn đói vì không làm cách gì có thể tống món đó vào dạ dày cho được, mặc dù đang đói mềm người. Có một dạo trại cho kỷ luật ăn bột luộc mà chúng tôi gọi là “lưỡi mèo”, vì những miếng bột luộc này trông thật giống cái lưỡi mèo. Trong kỷ luật tuy khổ nhưng thỉnh thoảng có cái vui của nó như chuyện lần đầu chúng tôi được cho ăn bột luộc.

Chiều hôm đó tới giờ cho ăn, anh trực sinh mang vào buồng tôi, lúc đó là 5 người, đặt lên thành cửa sổ cái nồi nhôm khá to hằng ngày vẫn dùng để đựng sắn, khoai. Khi nhìn vào, chúng tôi chỉ thấy miếng bột luộc màu xám, to đúng bằng bao thuốc lá! Chúng tôi nhìn nhau lắc đầu hỏi:“Thế này là thế nào?” Và chúng tôi nghĩ là nhà bếp chia lộn phần ăn của một người cho buồng 5 người chúng tôi. Nghĩ thế chúng tôi không chia ra và ngồi chờ lúc điểm danh sẽ khiếu nại với cán bộ. Mấy tiếng đồng hồ sau đánh kẻng và cán bộ lên. Khi vừa tới buồng, tôi ngồi trong cùm nói vọng ra thật to:

- Báo cáo cán bộ, tôi có thắc mắc!

Anh cán bộ ngạc nhiên, tới bên ngoài cửa sổ hỏi vọng vào, giọng sắc như dao cạo:

-Gì thế?

- Báo cáo cán bộ, buồng này bị chia nhầm thức ăn.

Anh cán bộ tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Sao lại có thế. Nhầm thế nào?

Tôi nói giọng quyết liệt hơn:

-Báo cáo cán bộ, buồng này năm người mà chỉ cho một phần ăn. Chúng tôi còn để đây chờ cán bộ giải quyết!

- Đâu, đưa tôi xem nào!

Tôi lẹ làng bước chân phải xuống sàn, chồm gần tới cửa sổ trong khi chân trái đang dính trong cùm giơ thẳng về phía sau như tư thế của người đang tập “Tai-Chi”. Tay tôi bưng cái bát sắt thủng đáy mà tôi đã vá lại bằng vỏ nhôm của cây kem đánh răng và cái “bao thuốc lá” nằm gọn giữa lòng bát. Khi vừa nhìn thấy miếng bột luộc, anh cán bộ nói ngay:

- Các anh này buồn cười! Đây là tiêu chuẩn cho 5 người! Nhầm thế ‘lào’ được?

Tôi ấp úng, trong lúc đưa một tay lên gãi đầu:

- Báo cáo cán bộ, nhưng…

-Nhưng cái gì? Cũng bằng ấy tiêu chuẩn bột, nhưng khi ‘‘lướng’’ thì to ra, còn khi ‘‘nuộc’’ thì bé. Anh hiểu chưa?

Thấy tôi đứng lặng yên có vẻ chưa hiểu ra vấn đề, anh cán bộ vội kết thúc ngay cuộc đối thoại bằng câu nói tạo hiệu quả rất nhanh. Vừa nói anh vừa với tay cầm cái bát có “bao thuốc lá” nằm gọn lỏn bên trong và phán:

-Thế các anh có ăn không thì bảo?

Tôi sợ anh ta bực mình lấy “bao thuốc lá” đi thì khốn. Thà có ít còn hơn không, nên đáp vội, vừa nói vừa rụt bát vào:

-Báo cáo cán bộ có, có, có! Chúng tôi ăn!

Người cán bộ mỉm cười bỏ đi. Tôi đoán không phải anh cười vì chúng tôi hiểu lầm phần ăn của một hay năm người, nhưng có lẽ cười vì thái độ của tôi trong câu nói sau cùng.

Những Thường Trú Nhân

Khu kỷ luật trại tù Thanh Cẩm có thể coi như một cơ sở cư trú. Ngoài tôi ra như một quản gia, còn lại ba hạng người khác làm thành nét sinh hoạt độc đáo của cơ sở này. Ba hạng người đó là những thường trú nhân, những khách kiều cư là những người tù Trung Quốc và cuối cùng là khách vãng lai. Thường trú nhân là những người ở đây dài hạn. Có những người đến đây ngay từ ngày đầu với tôi, có người mới dọn tới sau nhưng còn lưu lại sau khi một số có mặt ngay từ lúc đầu đã dọn ra.

Có mặt ngay từ buổi đầu với tôi gồm có những người dính líu trong vụ vượt ngục ngày 2 tháng 5 năm 1979 như các anh Nguyễn Sỹ Thuyên, Trịnh Tiếu và Linh Mục Nguyễn Công Định. Trong ba người này thì anh Trịnh Tiếu ở lâu nhất, có lẽ trên dưới hai năm. Ngoài ra có Linh Mục Phạm Quý Hòa dọn tới sau nhưng cũng ở đây thời gian rất lâu, vì tội “bóp dái ngựa”. Ngoài những người tù Trung Quốc mà tôi sẽ đề cập tới, thì có lẽ bốn người này sống trên kỷ luật lâu nhất, từ một tới hai năm.

Về phía các linh mục, ngoài Cha Hòa và Cha Định, tôi còn nhớ năm linh mục khác thuộc diện khách vãng lai là các Cha Trần Văn Nghị, Nguyễn Công Thành, Phạm Hữu Nam, Đinh Cao Thuấn và Mai Quang Bao. Riêng trường hợp Linh Mục Phạm Chí Hùng vì bị cưa chân nên gởi tạm và ở một mình trong phòng 6 khu kỷ luật một thời gian khá lâu. Có chuyện lạ, Linh Mục Phạm Hữu Nam lại được xách gói ra về trong thời gian đang bị kỷ luật. Điều này làm tôi nhớ mãi, và sự kiện này càng củng cố thêm câu nói:“Không ai hiểu được chuyện cách mạng làm”. Một linh mục đang bị ở khu kỷ luật mà lại được xách gói ra về! Đúng là chuyện lạ khó tin nhưng có thật!

Trước đó không lâu có trường hợp bất ngờ của anh Nguyễn Đức Cảnh, trước kia là một phó Quận trưởng, dọn lên kỷ luật trong một đêm tối vào buồng tôi. Những ngày tiếp theo anh buồn rầu và tỏ ra thất vọng một cách rõ rệt, khác với thái độ chịu dựng của đa số người bị đi cùm. Tôi hỏi lý do, anh cho biết là dưới “làng”, anh thuộc diện cải tạo rất tốt, không hề bỏ một ngày lao động, không hề phát biểu linh tinh, chưa bao giờ vi phạm nội quy và các điều khoản “nếp sống văn hóa mới!” Vì thành tích lẫy lừng như vậy nên anh tự nghĩ rằng trong đội anh nếu người được tha về phải là Nguyễn Đức Cảnh, không thể rơi vào ai khác.

Vào thời đó, ngoài những dịp thông thường có đợt tha như Tết Tây, Tết Ta, lễ Quốc Khánh, lễ Lao Động v.v… còn có những trường hợp “đột xuất” được gọi tên ra về, và điều này càng kích thích nhiều người nuôi hy vọng.

Chiều tối hôm đó, trật tự Bùi Đình Thi vào buồng gọi:“Anh Nguyễn Đức Cảnh, mang tất cả nội vụ ra!” Cảnh ta nghe gọi tên mình, tưởng là được gọi ra về sướng như lên mây xanh, mặt mày tái mét. Các anh em trong buồng bu quanh bắt tay chúc mừng. Cảnh tay chân run rẩy vì niềm vui bất ngờ quá lớn, vội vàng phân phát tất cả thức ăn và đồ đạc cho các bạn trong buồng. Anh còn thức ăn khá nhiều vì cô chị vợ mới ra thăm nuôi mấy ngày qua, vợ anh đã vượt biên và đang ở Mỹ gửi tiền về khá rộng rãi cho cô chị giúp thăm nuôi Cảnh.

Anh vẫy tay chào anh em và bước ra khỏi buồng, chỉ có mấy bộ quần áo trong cái túi xách nhẹ tưng. Khi ra tới ngoài, trật tự Bùi Đình Thi đưa Cảnh thẳng lên kỷ luật, mở cửa tống vào buồng 3 của tôi. Cảnh vào buồng kỷ luật mang tâm trạng của con người vừa trên mây rớt xống. Vừa thất vọng, vừa bị cùm chân, vừa sử dụng cầu tiêu ống bẩu, lại vừa không thể nào nuốt được mấy củ sắn luộc chấm nước muối trong khu kỷ luật, trong khi tất cả thức ăn bổ béo từ Miền Nam đưa ra, Cảnh đã phân phát hết rồi. Cái lon Guigoz là báu vật để đựng nước uống trong nhà kỷ luật anh cũng không có, anh còn nói là vừa cho đi gần hai chục cái lon Guigoz.

Mấy ngày sau Cảnh như người mất hồn. Tới giờ cán bộ lên cho ăn, anh hỏi cán bộ anh bị tội gì mà lên đây, cán bộ trả lời:“ Anh này buồn cười! Tội của anh mà anh không biết thì làm sao người khác biết? Anh đừng có giả vờ!” Cảnh ta điên đầu vì câu trả lời kiểu huề tiền đó! Một hôm anh hỏi trật tự Bùi Đình Thi. Anh hỏi mãi mới được Bùi Đình Thi chiếu cố và trả lời như sau: “Anh thì cải tạo tốt nhưng anh lại quan hệ với người cải tạo không tốt”!

Lúc bấy giờ Cảnh mới vỡ lẽ ra. Mấy ngày trước trong buồng có một người tù nằm kế bên anh, ăn nói linh tinh đụng chạm tới chính sách. Cảnh ngồi dựa lưng vào tường nghe mà không chịu đi báo cáo. Có người khác lại báo cáo việc này với trật tự. Thế là Cảnh bị vác chiếu đi cùm. Nếu tôi nhớ không lầm thì phải hơn một tháng Cảnh mới được xuống làng để bắt đầu chu kỳ “cải tạo tốt” khác. Tôi còn nhớ mãi lúc Cảnh buồn quá, luôn miệng hát đi hát lại bản nhạc có mấy câu sau đây: ‘‘Ngày một ngày hai tiễn biệt nhau. Chẳng được cùng nhau chung lối sầu. Nhớ chuyện thế gian cười ngặt nghẽo. Cùng buồn những chuyện thế gian đau!’’

Anh Cảnh là một tín đồ Công Giáo ngoan đạo, và tôi rất quý mến anh trong thời gian sống chung trong khu kỷ luật.

Những Khách Kiều Cư

Sự có mặt của 15 người tù Trung Quốc trong khu kỷ luật suốt thời gian tôi ở đó cũng tạo cho cuộc sống có vẻ riêng biệt. Khi tôi ở kỷ luật được 3 tháng thì toán tù Trung Quốc từ khu K2 chuyển vào đây. Trông họ rất bệ rạc, rách rưới, lang thang lếch thếch, tay xách nách mang. Nhìn vào biết ngay là “ba tàu”! Trong nhóm có vài anh rất cao và to. Có nhiều người gầy còm và vài anh nhỏ thó, tạo thành một nhóm người đầu thừa đuôi thẹo. Tới nơi, họ được phân chia ra các buồng kỷ luật và sống lẫn lộn với những người tù Việt Nam, cả chính trị lẫn hình sự. Hỏi ra tôi mới biết những anh tù Trung Quốc này có người đã bị giam hàng chục năm rồi và đã trải qua nhiều trại khác trước khi được chuyển về đây. Tất cả đều mang chung tội danh là “Gián điệp Trung Quốc”.

Sống chung một thời gian, tôi biết có mấy anh qua biên giới để buôn bán thuốc men, đồng hồ, vải vóc mà bị bắt. Cũng có vài anh vì hoàn cảnh chính trị phải chạy thoát thân qua biên giới tìm cách trà trộn vào với đồng bào thiểu số, thay danh đổi họ để tìm cách sinh sống. Có người tìm đường vượt biên qua Miến Điện. Có anh là Vệ Binh Đỏ của Mao Trạch Đông trước kia, nay bị trả thù phải chạy trốn.

Đa số họ nói tiếng Phổ Thông. Một vài anh nói cả tiếng Quảng. Có mấy người biết chút ít tiếng Việt học được trong các trại tù ở Việt Nam. Nói chung, họ rất tạp nham về nhiều mặt. Vài anh thật hiền hậu dễ thương, nhưng cũng có mấy người gốc là tướng cướp đã từng cướp của giết người và sống ngoài vòng pháp luật trước khi bị bắt. Họ mang theo bản chất lưu manh, bạo tàn hung ác vào đây để đóng góp thêm cho cái đáy địa ngục trần gian này. Sự đói khổ triền miên và bị cùm trong những lò hấp người có tường rào bao bọc này đã làm vài người trong bọn họ phát triển tột cùng bản chất dã man mà trước kia chưa có dịp mang ra thực hành. Nhất là khi vào tù, có dịp sống chung một buồng và có thể cấu kết nhau để tạo sức mạnh, họ trở thành những con người thật đáng sợ.

Những người tù xa tổ quốc này chỉ có một ý định duy nhất trong đầu là làm thế nào để được sống còn. Họ làm hết cách để khỏi chết đói trong những nhà tù Việt Nam có quá nhiều tù nhân chết vì đói này. Để có được miếng ăn, họ sẵn sàng trở thành những tên nô lệ, nịnh bợ, đầy tớ cho những người tù có thể bố thí cho họ một chút gì để ăn hoặc vật gì để dùng làm phương tiện kiếm ăn. Ngược lại, họ cũng sẵn sàng dùng sức lực để áp đảo, đánh cướp, giết người hoặc bất cứ một hành động bạo tàn nào khác để được có miếng ăn. Lúc bơ vơ và thất thế, họ tự biến thành những con chó con, nhưng khi có vây cánh, họ sẽ biến ngay thành một bầy hổ đói.

Trong bọn họ có những tay thật dữ dội, nhưng có những anh rất hiền từ, ốm yếu mà mấy anh đầu gấu kia gọi là “kho dự trữ”. Ý muốn nói nếu họ không còn kiếm chác được thức ăn nơi nào khác thì quay về với “kho dự trữ “ trong buồng này, bằng cách trấn lột phần ăn trại phát cho đám tù ốm yếu. Khi nào bọn đàn anh còn cào cấu được nơi khác thì tạm thời nhóm tù Trung Quốc trong “kho dự trữ” này còn được ăn trọn phần ăn chết đói của trại phát mỗi ngày.

Trong khi đó, về phía những người tù Việt Nam nói chung và những tù chính trị miền Nam chúng tôi nói riêng, mặc dù cũng đói khổ nhưng nếu sánh với những người tù Trung Quốc này, chúng tôi còn may mắn hơn nhiều. Tù hình sự miền Bắc được gia đình thăm nuôi tiếp tế. Họ chẳng có quà cáp gì nhiều. Hầu hết là một ít gạo, ít ruốc, vài cái bánh chưng, một ít hoa quả , chè Tàu và vài bánh thuốc lào. Quanh đi quẩn lại chỉ có chừng ấy, vì đồng bào miền Bắc rất nghèo. Của ăn ở nhà còn không có lấy đâu tiếp tế nhiều cho chồng con trong tù.

Chúng tôi, những người tù miền Nam thì xa xôi hơn, nhưng về điều kiện kinh tế thì khá hơn bà con miền Bắc. Những năm đầu, mặc dù chúng tôi chưa được gặp gia đình nhưng thỉnh thoảng có nhận được quà gởi ra theo đường bưu điện, trong đó có thực phẩm và thuốc men. Tuy số lần nhận quà rất hạn chế, mỗi 3 tháng được nhận gói quà không quá 5 ký lô, nhưng chừng ấy cũng giúp rất nhiều cho những người tù duy trì được sự sống. Nếu có những người gia đình khá giả thì nhận quà đều đặn và có chất lượng. Ngược lại, có nhiều người không có thân nhân hoặc gia đình khánh kiệt nên chẳng có quà cáp gì. Thỉnh thoảng lâu ngày được một gói nhỏ có ít thức ăn.

Hoàn cảnh bắt đầu khá hơn khi có chính sách cho người nhà miền Nam được phép ra Bắc thăm nuôi tù trại Thanh Cẩm. Chính sách này bắt đầu từ năm 1979, tức là 4 năm sau khi đợt tù miền Nam bị đưa ra Bắc. Đối với các trại khác tôi không biết rõ. Có thể chính sách thăm nuôi xảy ra sớm hơn. Điều này cũng được coi như là chính sách nhân đạo của đảng và nhà nước, nhưng cũng có thể được xem như một chính sách lợi dụng, vì lúc đó cả nước đói khổ, chính phủ không còn đủ sức nuôi tù và đã có quá nhiều tù nhân miền Nam chết đói trong các trại tù miền Bắc.

Khi có những đợt thăm nuôi thì đồng tiền và của cải bắt đầu vào trại. Do đó, vị thế giai tầng xã hội trong tù lại được phân định rõ ràng. Những người có của sống cao hơn, những người không có gì phải chịu lép vế. Nếu những năm trước tất cả những người tù miền Nam bình đẳng nhau trong cảnh chết đói, thì nay của cải đã nâng nhiều người lên bậc ông chủ. Đồng thời nó cũng giáng cấp nhiều người xuống thành “lái xe”. Lái xe là tiếng dùng để chỉ những anh tù nghèo không có thăm nuôi tiếp tế phải phục vụ cho những anh tù có của khác trong nhóm sinh hoạt chung. Trong tình thế đó, nhóm “lái xe” rành nghề nhất là các anh tù Trung Quốc.

Học Tiếng Phổ Thông

Đầu năm 1980, tôi sống chung buồng kỷ luật với hai anh Trung Quốc và một người bạn tù miền Nam là anh Lê Thiên Bảo. Nhờ có Bảo nên trong buồng tôi có thế quân bình và tôi không bị hai anh tù Trung Quốc áp đảo. Bảo là một Hoa kiều ở Chợ lớn, bằng tuổi với tôi. Trước kia anh là võ sư huấn luyện viên Thái Cực Đạo của Tổng Nha Cảnh Sát Quốc gia. Anh đã cùng đi với tôi trên tàu Sông Hương ra Bắc, ở chung trong trại Nam Hà, cùng bị đày đi Cổng Trời rồi cùng về trại Thanh Cẩm này với tôi trong nhóm “48 Quyết Tiến”.

Lúc vào tù anh có dịp được sống gần với các linh mục và nhận thấy đời sống bác ái tốt đẹp của những con người tù đặc biệt này nên anh muốn tìm hiểu về Đạo Chúa. Lúc anh em sống chung trong kỷ luật, tôi đã giúp anh về giáo lý Công Giáo và sau này anh đã xin chịu phép Rửa Tội. Với bản chất nhân hậu và tính nết hiền hòa của một võ sư, anh rất được nhiều người quý mến và nể phục.

Anh Lê Thiên Bảo đồng thời cũng là người giỏi về ngôn ngữ. Anh nói cả tiếng Việt, biết chữ Nho lẫn tiếng Phổ Thông và Quảng Đông. Ngày ngày, trong buồng Bảo nói tiếng Việt với tôi và tiếng Phổ Thông với 2 anh Trung Quốc. Ba người họ nói tiếng Phổ Thông với nhau nhanh như gió. Giọng líu lo như tiếng chim hót và nghe tiếng nào tiếng nấy đều giống y như nhau. Lúc đó, tôi chưa biết một tiếng Tàu nào cả. Khi nằm nghe họ nói chuyện, tôi thầm nghĩ trong lòng:“Trời! Bộ óc của con người là cái gì mà người ta có thể hiểu được thứ ngôn ngữ quái đản này”.

Một trong hai người Trung Quốc là anh Lý Đức Nghĩa, gốc người Hồ Nam, nguyên là một Vệ Binh Đỏ của Mao Trạch Đông. Sau khi Vệ Binh Đỏ thất thế và bị ruồng bắt, anh ta phải bỏ nước chạy trốn qua Việt Nam sống bằng nghề lục lâm thảo khấu.

Cũng nên biết là khi Mao Trạch Đông nắm quyền ở Trung Quốc, ông ta muốn thanh trừng các đồng chí cũ có thể tranh giành quyền lực với ông nên đã dùng sinh viên học sinh là Vệ Binh Đỏ và phát động phong trào cách mạng văn hóa để có lý do thanh trừng các cán bộ cao cấp trong hàng ngũ lãnh đạo. Nhiều đồng chí cũ của Mao đã phải chết vì tay Vệ Binh Đỏ. Sau này khi phong trào Vệ Binh Đỏ lên cao và lộng hành, Mao lại dùng quân đội tiêu diệt Vệ Binh Đỏ. Vì thế Lý Đức Nghĩa phải trốn chạy thoát thân qua Việt Nam.

Anh ta sùng bái Mao Trạch Đông một cách điên cuồng và tỏ thái độ khinh bỉ Cộng sản Việt Nam ra mặt. Anh ta nói Cộng sản Việt Nam là tớ phản thầy. Trước kia đội Trung Quốc lên đầu, sau này chửi lại Trung Quốc. Nghĩa bị bắt vào tù hàng chục năm nay với tội danh “gián điệp Trung Quốc”. Mặc dù sống trong tù Việt Nam lâu năm nhưng anh ta không nói được một câu tiếng Việt nào. Tuy nhiên nghe thì anh hiểu.

Anh chàng Lý Đức Nghĩa này người to cao và tính chất lưu manh hiện rõ ra tới ngoài da! Nhất là cặp mắt của anh ta. Anh có cặp mắt thật trong và hẹp như mắt sư tử. Mắt có đuôi dài và lúc nào cũng láo liên. Thỉnh thoảng liếc nhìn trộm. Có lúc tôi nghĩ, họa sĩ nào muốn tìm người mẫu để vẽ đôi mắt lưu manh nhất thì phải tìm tới anh chàng này. Lý Đức Nghĩa là một hiện tượng để lại trong tôi nhiều điều khó quên, vì anh ta có nhiều cái “nhất” trong nhóm tù Trung Quốc. Nói tiếng Phổ Thông đúng giọng nhất, vì quê hương anh rất gần Bắc kinh. Khéo tay nhất, chỉ cần vất cho anh một mảnh vải, chừng tiếng đồng hồ sau anh đưa lại một cuộn chỉ được xe bằng hai đầu ngón tay, đẹp không thua chỉ làm trong nhà máy. Ở dơ nhất, anh ta chưa bao giờ cầm cái bàn chải đánh răng, nên khi anh cười để lộ hàm răng trông giống như mảnh gỗ mục ngâm dưới nước lâu năm bị rong rêu và sò ốc bám tua tủa! Có lần tôi hỏi:

- Nghĩa à, tao lấy làm lạ, tại sao mầy không đánh răng?

Nó trả lời tôi:

- Mao chù xí (Mao chủ tịch) có bao giờ đánh răng đâu mà cũng làm chủ tịch Trung Quốc vĩ đại, cai trị hàng tỷ dân!

Thì ra anh chàng “Lỳ Tợ Dí” (Lý Đức Nghĩa) này sùng bái Mao Trạch Đông một cách điên cuồng, ngay cả sùng bái cái việc Mao suốt đời không bao giờ đánh răng! Và dĩ nhiên Lý Đức Nghĩa lưu manh nhất đám.

Lợi dụng hoàn cảnh sống chung với mấy anh Trung Quốc đó, và qua sự khuyến khích của Lê Thiên Bảo, tôi quyết tâm học cho bằng được một ngôn ngữ mới, đó là tiếng Phổ Thông. Tôi bắt đầu học nói trước và học viết sau, vì lúc đó trong buồng không có bút giấy.

Tôi chọn thời điểm dễ nhớ là vào sáng ngày 1 tháng Giêng năm 1980 và câu nói tiếng Quan Thoại đầu tiên là:“Chị tôi từ Sài Gòn ra thăm tôi”. Lý Đức Nghĩa giúp tôi luyện giọng và Lê Thiên Bảo giúp tôi dịch nghĩa tiếng Việt và chữ Nho. Bước đầu thật vất vả. Mỗi đêm, chân trong cùm, Lý Đức Nghĩa nằm kể chuyện về phong trào Vệ Binh Đỏ bên Trung Quốc, Lê Thiên Bảo dịch lại, còn tôi chú ý lắng nghe từng tiếng phát âm của Nghĩa. Thỉnh thoảng tôi kêu dừng lại để tôi tập phát âm cho đúng những tiếng tôi muốn học.

Tôi muốn nhắc lại để nhớ ơn của Lý Đức Nghĩa và Lê Thiên Bảo. Nhờ hai người đó tôi học được một ngôn ngữ mới mà có hàng tỷ người trên thế giới sử dụng. Tôi quyết tâm học cho bằng được và cố gắng ngày đêm. Khi đã nói được chút ít, hàng đêm tôi dùng ngôn ngữ này kể các câu chuyện trong Kinh Thánh cho các anh tù Trung Quốc nghe và dặn chỗ nào tôi nói sai thì chặn lại để tôi sữa.

Sau hai năm miệt mài và lúc nào cũng có dịp sống chung buồng với một anh Trung Quốc nào đó, nên ngay trong lúc còn ở khu kỷ luật tôi đã nói tiếng Quan Thoại lưu loát, cả tiếng lóng, thành ngữ và chửi thề nữa! Nhớ lại đoạn đường đã trải qua trong việc học ngôn ngữ này, tôi tưởng chừng như mình hạ một cây rừng xuống để đẽo gọt thành cây cột nhà. Tôi đã phải làm việc trong hai năm trời. Đầu tiên chặt các cành, lột vỏ cây, dùng rìu chém những chỗ nhô ra, dùng dao gọt lại, dùng bào làm cho láng và cuối cùng là đánh bóng cây cột thật tròn và thẳng.

Lúc đầu tôi chỉ học nói, về sau học đọc và viết. Lúc chưa có phương tiện, tôi phải dùng than vẽ chữ xuống nền nhà để học. Về sau này tới đời trật tự dễ dãi hơn, tôi có thể xin được bút chì và khi đi tắm nhặt những bao xi măng ở đống rác trước cửa trại về vuốt ra cho thẳng làm vở. Những người Trung Quốc sống chung giúp tôi viết và đọc chữ Tàu. Có điều hơi thiệt thòi cho tôi là các anh Trung Quốc chỉ biết “chữ đơn giản”, tức là loại chữ cải cách mà chế độ Cộng sản Trung Quốc dùng. Trong khi “chữ cổ” thì khó và nhiều nét hơn, nhưng đa số sách báo trên thế giới đều dùng chữ cổ. Học nói được tiếng Phổ Thông tôi coi là một trong những sự đền bù xứng đáng cho những năm gian khổ mà tôi bị mất đi trong nhà kỷ luật trại tù Thanh Cẩm.

Số tù Trung Quốc lúc đầu khá đông nhưng về sau có nhiều người vượt ngục bị bắn chết, có một số chết bệnh hoặc chết đói. Năm 1980, chỉ còn lại khoảng 15 người sống vất vưởng trong kỷ luật và lệ thuộc vào sự giúp đỡ của anh em tù chính trị miền Nam. Khi sống chung buồng với chúng tôi, họ tỏ ra ngoan ngoãn, nhưng khi sống riêng họ với nhau, hoặc trong buồng nào họ có số đông để trở thành sức mạnh áp đảo, họ trở thành thú dữ. Lúc đó, sự dã man của họ ngoài sự tưởng tượng của mọi người.

Bầy Ác Thú Trong Cơn Đói

Thời gian đó là vào cuối năm 1981. Anh trật tự lúc bấy giờ là Nguyễn Văn Bảy, mà chúng tôi gọi là Bảy Chà vì nước da của anh ngăm đen. Một con người hiền hậu và nhân từ. Anh được chọn làm trật tự không phải vì thành tích bất hảo, hoặc vì cán bộ muốn anh trở thành quả đấm để trừng trị tù, nhưng có lẽ anh được chọn vì cái bộ dạng rất “ngầu” của anh. Người anh to cao, da ngăm đen, ai chưa biết anh, mới nhìn vào đã thấy nhợn. Anh cũng từ trại quân đội chuyển về đây. Trước khi làm trật tự, anh có nhiệm vụ gánh phân trong trại nên còn được mệnh danh là “Bảy Cứt!” Nếu mấy năm trước trật tự Bùi Đình Thi là một hung thần của khu kỷ luật thì lúc này trật tự Bảy Chà là cứu tinh của chúng tôi. Tôi phải nói lên điều này để bày tỏ lòng quý mến và biết ơn anh.

Lúc đó, tôi đang ở buồng bốn phía sau của khu kỷ luật cùng với vài người Việt Nam khác, thì trong buồng 5 cách vách buồng tôi có ba anh Trung Quốc đó là Chu Vạn Hồi, Lý Đức Nghĩa và Lưu Tùng. Chu Vạn Hồi trước kia là tên cướp. Nghĩa gốc Vệ Binh Đỏ và sau này qua Việt Nam sống nghề lục lâm thảo khấu. Tùng lớn tuổi là người hiền từ, ốm yếu như cây sậy, anh đi buôn vùng biên giới bị bắt. Sống trong buồng, Tùng bị Hồi và Nghĩa trấn lột gần hết phần ăn nên càng ngày càng gầy yếu, đi đứng không vững nhưng không dám lên tiếng.

Mặc dù tôi không sống trong buồng đó nhưng tôi còn lạ gì hai tên cướp Nghĩa và Hồi mà trong hai năm qua tôi đã sống chung buồng khá nhiều lần. Có một lần đi tắm chung dưới sông Mã, lợi dụng lúc vắng tôi hỏi Lưu Tùng có phải bị hai tên kia cướp cơm không? Tùng không dám trả lời nhưng, mắt trước mắt sau và xòe bàn tay phải ra cứa qua cứa lại dưới cổ. Tôi hiểu Lưu Tùng muốn nói gì qua dấu hiệu đó. Sau đó tôi nói lại chuyện này với anh trật tự Bảy Chà và anh hứa là sẽ báo cáo với cán bộ.

Mấy ngày sau, cán bộ đưa vào buồng 5 của mấy anh Trung Quốc này một anh tù hình sự bị phạt lên kỷ luật. Những anh tù kỷ luật thuộc loại “vãng lai” này, khi bị đưa lên kỷ luật họ bị cùm cả ngày lẫn đêm, nhưng chỉ một thời gian ngắn là được xuống. Số khách vãng lai này cứ có lai rai, khi thì một anh, có lúc vài ba anh. Vì thế việc anh tù hình sự vác chiếu vào buồng 5 lúc chiều cũng chẳng có gì đáng chú ý. Quãng sau 10 giờ đêm hôm đó, khi đèn điện vừa tắt được một lúc và ai nấy bắt đầu ngủ, bất thần tôi nghe một tiếng “Bùm” rất to từ buồng 5 vọng ra, tiếp theo là tiếng la thất thanh và vang dội trong đêm vắng của anh tù hình sự: “Báo cáo cán bộ, báo cáo cán bộ! Chúng nó giết tôi, chúng nó giết tôi! Cứu tôi! Báo cáo cán bộ!”

Tiếng la hét nghe thật rùng rợn trong cảnh hãi hùng của con người sắp bị giết chết làm tất cả tù nhân trong khu kỷ luật giật mình và nhốn nháo gọi chuyền qua các buồng hỏi nhau coi chuyện gì xảy ra. Anh ta cứ gân cổ lên mà la như vậy cho tới lúc sau có mấy cán bộ xách đèn bấm chạy lên. Tôi nghe tiếng quát tháo, tiếng mở cửa buồng, tiếng cán bộ đe dọa mấy anh Trung Quốc và sau đó cán bộ đưa anh tù hình sự ra khỏi buồng và khóa cửa lại, đi xuống.

Đối với tù trên khu kỷ luật, việc đánh nhau, la lối và báo cáo cán bộ là chuyện thường xảy ra. Chính bản thân tôi trước đó không lâu cũng đã cùng với ông Lê Văn Khương, nguyên Quản Đốc trại tù Côn Sơn, đã phải ra tay trừng trị Lý Đức Nghĩa vì anh ta cấu kết với một anh Hoa kiều khác trong buồng để cướp giật thức ăn của một người tù già là ông Hoàng A Giú. Nhưng cách anh tù hình sự kêu la thất thanh trong đêm đó làm tôi sinh nghi có chuyện gì rất nghiêm trọng, chứ không phải cuộc đánh nhau thông thường. Nhưng rồi câu chuyện đó cũng chìm vào quên lãng trong khu kỷ luật không mấy ngày là không có chuyện xảy ra này. Lúc đó tôi đâu có ngờ là trong buồng 5 đêm đó xảy ra một sự việc thật khiếp đảm, ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Sự việc này lại có liên quan tới tính mệnh của tôi, mà mãi về sau này tôi mới biết được.

Tuần sau, lại có cuộc đổi buồng trên khu kỷ luật. Lần này cán bộ trực trại tên Thanh bảo tôi vào buồng 5 với ba anh Trung Quốc đó. Tôi nói với cán bộ Thanh là tôi và Lý Đức Nghĩa mới đánh nhau hôm Tết như cán bộ đã biết. Nếu tôi vào buồng đó chắc chắn sẽ có chuyện đáng tiếc xảy ra, và tôi xin cho tôi vào bất cứ buồng nào trong khu kỷ luật, trừ ra buồng với Lý Đức Nghĩa. Nghe tôi trình bày, cán bộ Thanh suy nghĩ một lúc rồi đưa tôi vào buồng 2 phía trước.

Những Khách Vãng Lai

Trong ba năm giữ vai trò quản gia trong khu kỷ luật trại Thanh Cẩm, tôi đã tiếp đón và tiễn chân rất nhiều người, tù chính trị cũng như hình sự và cả những người tù Trung Quốc như tôi đã nói.

Chúng tôi thường xuyên bị xáo trộn quanh đi quẩn lại trong sáu buồng nên tôi có dịp sống chung với nhiều người. Và nhờ đó tôi cũng theo dõi được tin tức sinh hoạt dưới làng. Tôi cũng nhắn qua các anh em vãng lai khi xuống làng hỏi thăm anh em bạn bè. Thỉnh thoảng những khách vãng lai cũng có mang lên cho các người trên kỷ luật ít thức ăn, vài quả ớt hoặc ít thuốc lào, nhưng điều chúng tôi cần nhất là áo quần và chăn chiếu.

Trong thời gian Bùi Đình Thi còn làm trật tự thì việc cho quần áo bị cấm hẳn. Mặc dù cán bộ không bao giờ để ý chuyện này, nhưng nếu Bùi Đình Thi xét thấy là sẽ no đòn với anh ta. Vì thế, mặc dù lúc đó tôi sống trần truồng, nhưng các khách vãng lai khi xuống làng cũng không hề dám để lại thứ gì cho tôi. Khi Bùi Đình Thi mất chức trật tự rồi, cuộc sống tôi khá hơn, nhất là được áo quần chăn chiếu các anh em để lại. Từ khi anh Nguyễn Văn Bảy làm trật tự, tôi thấy cuộc sống trên kỷ luật có được hai chữ “thoải mái”. Rất tiếc là anh được làm quá muộn. Sau khi Bùi Đình Thi mất chức, tới anh Nguyễn Tấn Đạt. Khi Đạt về, tới anh Danh. Anh Danh lên chưa kịp làm việc đã được về, rồi mới tới Bảy Chà thay thế.

Lúc anh Bảy Chà làm trật tự, tôi đã ở kỷ luật hơn hai năm rồi. Khách vãng lai có người phải ở khá lâu, nhưng cũng có người chỉ vài hôm là được xuống đội. Khu kỷ luật như tôi đã nói có “đủ chỗ” cho 24 người bị cùm, nhưng có lúc đắt khách sẽ có những người không phải cùm, nhưng nằm giữa phi đạo. Trái lại, có khi rất vắng, chỉ có những người thường trú và khách kiều cư. Vẻ tiêu điều hiện rõ với một số phòng trống không.

Hoa Lạc Giữa Rừng Gươm

Có một lần rất đặc biệt, tôi được hân hạnh tiếp một người tù thuộc phái đẹp! Chiều tối hôm đó, cán bộ đưa một người đàn bà vào buồng trống ở cạnh buồng tôi để “gửi” nhờ qua đêm. Khi cán bộ đi xuống rồi, tôi gọi qua hỏi thăm và biết đó là em dâu của anh Dương Văn Lợi. Sau khi anh Lợi cướp chiếc máy bay trực thăng của Bộ Chính Trị ngay tại phi trường Nội Bài ở Hà Nội và bay thành công qua Trung Quốc vào năm 1981, cả nhà anh ở Hà Nội bị vạ lây.

Người em dâu của anh Lợi bị bắt và trên đường bị đưa tới một trại giam nào đó, phải dừng chân qua đêm tại Thanh Cẩm. Khi biết tôi là bạn anh Lợi, chị mừng và vui vẻ trả lời các câu hỏi của tôi liên quan tới anh Lợi. Khi gần đi ngủ, chị gọi sang hỏi tôi với vẻ e lệ ngượng ngùng, làm ơn bảo chị cách thức đi cầu! Tôi cảm thông vô cùng với tâm trạng người đàn bà khi phải hỏi một người đàn ông xa lạ về chuyện này. Tôi đoán là một mình trong buồng bên, chị cũng đã xoay xở hết cách nhưng không thành công với loại nhà cầu đặc biệt với hai cái ống bẩu trong buồng!

Tôi gọi sang tận tình hướng dẫn, nhưng không biết kết quả ra sao. Vì vấn đề quá tế nhị nên tôi không tiện hỏi lại. Thực ra loại nhà cầu bằng hai ống bẩu này được “vẽ kiểu” chỉ phù hợp cho giới mày râu mà thôi. Sáng hôm sau, vị khách quý thuộc phái đẹp này được đưa đi rất sớm. Kể từ đó, khu kỷ luật Thanh Cẩm chúng tôi không còn được hân hạnh đón tiếp khách vãng lai thuộc phái đẹp nữa.

No comments: