Friday, August 20, 2010

LM.NGUYỄN HỮU LỄ * TÔI PHẢI SỐNG IV

Tôi Phải Sống: 4- Lần Ra Đất Bắc

toiphaisong_tua2

4- Lần Ra Đất Bắc

Chúng tôi, những tù nhân miền Nam bị đày ra Bắc trên chiếc tàu Sông Hương vào tháng 4 năm 1977. Nhóm chúng tôi thuộc đủ mọi thành phần và mọi lứa tuổi, nhưng đa số là những người trẻ. Số tù tập thể này được gọi tên chung là “tù phản động”, nghĩa là những người bị bắt sau năm 1975 vì các hoạt động liên quan tới việc chống chế độ Cộng Sản dưới hình thức này hoặc hình thức khác. Trong đó cũng có những người bị bắt vì trốn trình diện.

Tàu Sông Hương, mà chúng tôi gọi là chuyến tàu vét, là chuyến tàu cuối cùng chở tù ra Bắc. Tàu khởi hành từ bến Tân Cảng gần cầu xa lộ Sài Gòn vào sáng sớm ngày 18 tháng 4 năm 1977, chở theo khoảng 1200 tù nhân chính trị được chọn ra từ nhiều trại ở miền Nam, trong đó nhóm chúng tôi 350 người từ trại Gia-Ray, tỉnh Xuân Lộc, còn gọi là Z30 D. Trại này trước kia là hậu cứ của Trung đoàn 54. Khu trại nằm trên đồi cao có tên rất thơ mộng là “đồi Phượng Vĩ”, vì nghe nói trên đồi này trước đây có trồng nhiều hoa phượng. Thực ra ai đã ở đó rồi thì mới biết đồi Phượng Vĩ chẳng thơ mộng tí nào!

Trước mặt trại là núi Chứa Chan, nằm sừng sững trong tư thế lười biếng và thách thức. Có mấy anh sầu đời vì tù lâu quá, bực mình nổi cáu gọi nó là núi Chán Chưa! Những anh tù trẻ còn hăng máu phản bác lại, gọi nó là núi Chưa Chán! Người có chút máu nghệ sĩ gọi là núi Chan Chứa…tình yêu! Tội nghiệp cho quả núi đất vô tri, nằm một đống ở đó làm gì để bọn người bất mãn vì thời cuộc này đem ra hành tội, cho thay danh đổi họ liên hồi như các cô ca sĩ thay áo khi trình diễn trên sân khấu.

Khi rời trại Z30 D, chúng tôi bị còng tay dính nhau từng đôi một, đi xe ca xuống bến Tân Cảng và leo lên tàu vào nửa đêm, khi xuống tới hầm tàu mới được mở còng ra. Lúc mới lên tàu, tưởng là chỉ có nhóm chúng tôi, nhưng khi gõ vào thành tàu làm hiệu, chúng tôi liền nhận được tín hiệu của “phe ta” ở các khoang khác đáp lại, nhưng lúc đó có bao nhiêu người trên tàu thì không rõ. Tàu Sông Hương chạy khá nhanh, chỉ sau 2 ngày 3 đêm đã tới bến Hải Phòng. Trong mấy ngày lênh đênh trên biển, có nhiều chuyện xảy ra trong hầm tàu chở nhóm chúng tôi.

Bến cảng Hải Phòng

Tàu Sông Hương thả chúng tôi lên bến cảng Hải Phòng vào một buổi chiều ảm đạm. Từ dưới hầm tàu nhìn tốp lên trước, tôi thấy có một vài người ở trại Phan Đăng Lưu với tôi trước kia, trong số đó có cha Phạm Hữu Nam, còn được gọi là Cha Bosco Thiện, một Linh Mục dòng Chúa Cứu Thế. Sau khi lên bờ, nhóm lên trước được phân phối đi đâu tôi không rõ. Khi nhóm trong khoang tàu chúng tôi lên bờ thì trời đã nhá nhem tối.

Cảm giác đầu tiên của tôi khi đặt chân lên bến cảng Hải Phòng là tưởng chừng mình đang ở một đất nước nào khác, với cảnh vật tiêu sơ, buồn thảm và đầy đe dọa. Cả những con người ở đây cũng không tạo cho tôi một chút ấn tượng nào cho biết là tôi đang đứng trên phần đất của quê hương, và họ là những đồng bào với tôi. Từ cảnh vật tới con người đều mang vẻ nặng nề ảm đạm và chết chóc. Tôi đảo mắt nhìn quanh khung cảnh của bến cảng Hải Phòng mà tôi đã được nghe nói tới rất nhiều, có cả một bản nhạc để ca tụng mang tên “Hải Phòng thành phố quê tôi”! Đó đây nhà cửa cũ kỹ đen đủi nằm rải rác một cách vô tổ chức; có nhà còn nguyên, có cái đã thủng lỗ hoặc sụp một góc. Những thùng chứa hàng, đường sắt cũ, xe hư nằm rải rác chỗ này một chiếc, chỗ kia một cái.

Người dân ở đây sao hơi khác với những hình ảnh quen thuộc mà tôi đã từng thấy nơi người miền Nam. Nhưng sự khác biệt đó là gì tôi không thể nói được. Hình như đồng bào của tôi ở đây hơi nhỏ con và nước da đen hơn. Tôi nghĩ có lẽ là do lối ăn mặc, vì đa số mang dép râu và đội nón cối. Có thể vì thế làm cho người ta trông luộm thuộm và lùn ra chăng? Ngoài màu áo vàng của một số khá đông công an có mang súng, đa số những người có mặt trên bến cảng lúc đó mặc đồ bộ-đội màu cứt ngựa, đầu đội nón cối, chân mang dép râu. Lúc mới nhìn qua, tôi tưởng họ là bộ-đội nhưng sau này tôi mới biết ai cũng có thể mặc đồ bộ-đội, đội nón cối và mang dép râu.

Lúc bấy giờ có một hình ảnh đập mạnh vào mắt tôi và không biết tại sao nó cứ ám ảnh tôi mãi, cho dù cố quên cũng không thể nào quên được. Đó là hình ảnh của một nữ công an mặc đồng phục màu vàng, đầu đội nón cối, chân đi dép gì tôi không để ý, có lẽ cũng là dép râu. Điểm đặc biệt là người nữ công an đó tóc thật dài và bện thành cái đuôi sam thả thõng xuống gần đụng gót chân. Hình ảnh này tôi mới thấy lần đầu tiên và cảm thấy rờn rợn khi nhìn cái đuôi sam đó. Khi nhìn cái đuôi sam, tôi liên tưởng tới những tấm hình trong cuốn sách nói về loạn Quyền Phỉ (Boxers) vào thời Mãn Thanh ở Trung Hoa, diễn tả thời kỳ hỗn loạn chém giết nhau như ngóe.

Tôi đọc quyển sách này không bao lâu trước khi bị bắt. Trong sách có các tấm hình những người đàn ông bị chặt đầu đều có đuôi sam! Có bức hình người ta cột hai ba cái đầu người lại với nhau bằng đuôi sam kiểu như nhà quê người ta cột dừa khô, dùng các cọng râu của trái dừa cột lại để có thể xách được nhiều quả cùng một lúc. Cái đuôi sam quá dài của cô cán bộ trên bến cảng Hải Phòng chiều hôm đó làm tôi nhớ lại các tấm hình gớm ghê này. Tôi nghĩ, giá mà cô ta không đội nón cối có lẽ tôi ít sợ hơn. Nếu có ai hỏi tại sao, tôi cũng không trả lời được, chỉ biết rằng một người phụ nữ đầu trần thắt đuôi sam thì tôi không sợ, nhưng thắt đuôi sam mà đội nón cối làm tôi sợ, nhất là cái đuôi sam đó lại quá dài.

Bến cảng Hải Phòng chiều hôm đó trở nên nhộn nhịp khác thường, vì tàu Sông Hương vừa cất lên bến rất nhiều “hàng hóa biết đi.” Một đám đông người lớn và trẻ con hiếu kỳ đứng hai bên đường nhìn ngó, chỉ trỏ và nói năng loạn xạ bằng một giọng nói hơi lạ tai đối với tôi lúc bấy giờ. Tôi cũng chẳng biết họ nói với nhau những gì, nhưng nhìn gương mặt và điệu bộ của họ, tôi nghĩ có lẽ tôi không nghe và không hiểu thì tốt hơn.

Mọi việc đã được chuẩn bị từ trước, nên khi chúng tôi vừa lên bờ, liền bị còng tay lại từng đôi một và leo lên những chiếc xe ca nằm chờ sẵn. Sau khi ổn định vị trí trên xe, mỗi người được phát một chiếc bánh mì nướng làm thức ăn đi đường. Cán bộ áp tải phổ biến nội quy đi đường xong thì đoàn xe chuyển bánh. Trời bắt đầu tối.

Thình lình, đá sỏi từ hai bên đường bay lên xe như mưa! Tôi vội vàng dùng tay tự do còn lại che mặt trước cơn “mưa đá” trái mùa này. Bằng mọi giá tôi phải bảo vệ đôi mắt vì nhỡ có hòn sỏi vô tình nào bay đúng vào kính đeo mắt tôi thì khốn nạn, có thể mù mắt như chơi. Anh em tù nhân trên xe cũng vội vàng lo chống đỡ theo phản ứng tự nhiên. Trong cơn hỗn loạn bất ngờ đó, tôi nghe loáng thoáng tiếng trẻ con la hét từ bên vệ đường: “ĐM chúng mày, lũ ngụy, lũ uống máu ăn gan người!” Tiếng chửi bới này càng lúc càng nhiều và to hơn. Một giọng nói khác, tiếng của cán bộ, vang lên trong xe:“Các anh thấy chưa? Nếu đảng không đưa các anh vào đây để bảo vệ các anh thì nhân dân đã giết chết các anh!” Lúc xe chạy ra khỏi vùng bão tố, tôi mới biết có vài anh tù trên xe bị thương nhẹ. Riêng tôi bị hòn đá ném đúng vào đầu u lên một cục khá to. Tôi cảm thấy đau, nhưng đau cho thân thể tôi thì ít mà đau cho số phận dân tộc tôi thì nhiều.

Đoàn xe chạy trong đêm trên đoạn đường khá dài từ Hải Phòng qua Hải Dương, Hà Nội, Phủ Lý… Sở dĩ tôi biết được các địa danh ấy nhờ trên xe có anh Đào Anh Tuấn, mà anh em gọi là Tuấn Phở, vì anh có tiệm phở ở Sài Gòn, nguyên quán ở Hải Dương ngoài Bắc, di cư vào Nam năm 1954. Khi xe qua nơi nào, anh giới thiệu nơi đó một cách rành mạch, như vai trò của các hướng dẫn viên du lịch!

Lúc ngồi trên xe, tôi cảm thấy mệt nhọc và ngao ngán, chẳng biết và cũng không thắc mắc họ sẽ đưa chúng tôi về đâu. Những cảm giác lúc ban đầu khi vừa đặt chân lên đất Bắc trong kiếp người tù biệt xứ đã để lại trong tôi ấn tượng khó quên được. Tôi muốn dành cho người đọc tưởng tượng ra cảnh thân phận một tù nhân trên đường đi đày, vừa bước chân lên vùng đất xa lạ là gặp ngay những con người chất chứa đầy hận thù. Nói cho đúng hơn là được huấn luyện để bày tỏ sự hận thù, như đám trẻ con “chào đón” chúng tôi tại bến cảng Hải Phòng. Tôi nhớ mà thương cho số trẻ con đã chửi bới và ném đá vào chúng tôi đó. Người tù biệt xứ này cũng chẳng biết mình sẽ bị đưa về đâu, những gì chờ đợi trước mắt và còn có ngày trở về hay không? Nếu còn có hy vọng đó thì bao lâu nữa sẽ được về, vì đây là loại tù… “mù”, tức là đi tù nhưng không có kêu án, được gọi cái tên thật đẹp nhưng đầy gian trá là “Tập Trung Cải Tạo”.

Lúc đó tôi biết những gì xảy ra trên bến cảng Hải Phòng chỉ là màn mở đầu, màn đầu của sự hận thù đang trói buộc thân thể dân tộc tôi, và người ta đang tận tình khai thác lòng hận thù đó đối với những người bại trận miền Nam.

Quãng nửa đêm đoàn xe qua phà Phủ Lý, sau đó chạy vào con đường ngoằn ngoèo chật hẹp, hai bên là vách núi, như đang đi vào một hang động. Đến gần sáng, chúng tôi tiến vào một khu vực có hàng rào kẽm gai bao bọc chung quanh. Dưới ánh sáng của những bóng điện lờ mờ, tôi thấy có nhiều dãy nhà thấp nằm ngay hàng thẳng lối chấu đầu vào nhau. Đoàn xe dừng lại giữa cái sân khá rộng. Đó là trại Nam Hà, còn được gọi là trại Ba Sao thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. Chúng tôi được lệnh xuống xe trong một đêm khuya lạnh buốt và có sương mù dày đặc.

Giai Đoạn Mới

Tôi chẳng ghi nhận được nhiều khung cảnh trại Nam Hà trong đêm vừa mới tới, nhưng cảm giác đầu tiên của tôi lúc bấy giờ là đang bước vào một trại tù lâu đời, gọn sạch và được tổ chức hẳn hoi; hoàn toàn khác với sự bề bộn của trại giam Gia Ray, tỉnh Long Khánh trong Nam mà chúng tôi vừa từ bỏ ra đi. Dưới ánh đèn điện lờ mờ trong đêm, tôi thấy những dãy nhà lợp ngói thấp lè tè, có tường gạch bao quanh và trên tường có hàng rào kẽm gai. Các dãy nhà này được xếp đều hai bên một sân trại khá rộng nằm ngay chính giữa, chia trại ra làm hai khu riêng biệt.

Khi vừa bước vào cổng trại, nhìn về phía tay phải, tôi thấy có một cái giếng cạn tròn thật to, có lẽ đường kính tới 10 thước, trên miệng giếng có bờ tường cao chừng 80 phân bao bọc chung quanh, bên cạnh có dãy nhà tắm thấp, tôi biết đây là khu vực tắm giặt của trại.

Vì tới muộn, nên chúng tôi được chia tạm thời ra từng nhóm và vào một số buồng nghỉ qua đêm. Khung cảnh trại mới này đối với tôi thật xa lạ và làm tôi ngỡ ngàng. Hình dạng trại cũng lạ, nhà cửa lạ, thời tiết lạ, giọng nói của các cán bộ cũng lạ tai. Đêm đó, mặc dù rất lạnh và không có chăn mền, nhưng vì đi đường quá mệt và đã muộn, nên tôi ngủ một giấc ngon nhưng nhiều mộng mị.

Sáng hôm sau, chúng tôi thức đậy trong một thời tiết lạnh cóng và có sương mù. Vì vừa ở miền Nam ra, chúng tôi chưa quen với cái lạnh giá buốt của miền Bắc nên nhiều người co ro trông rất thảm hại. Lúc trời đã sáng, ngồi trong buồng nhìn qua song sắt cửa sổ và đám sương mù, tôi vô cùng ngạc nhiên về khung cảnh trước mắt. Chung quanh trại Ba Sao là một vùng nước mênh mông bao bọc. Điểm đặc biệt là trên mặt nước có rất nhiều trái núi nhỏ và tròn, mọc nhô lên như những cây nấm khổng lồ, nằm rải rác trong cánh đồng.

Chúng tôi ngạc nhiên một cách thích thú trước hình ảnh này và tưởng chừng như các trái núi nhỏ, tròn và đồng dạng đó là những quân cờ trong một bàn cờ của người khổng lồ đã chơi và bỏ lại sau khi họ về trời! Cũng có thể so sánh hình dạng các núi nhỏ đó như những quả trứng của loài chim khổng lồ đã tuyệt chủng. Các quả trứng này chôn nửa phần dưới nước và nửa phần trên nhô lên trên không. Nhìn xa hơn nữa, tận chân trời là dãy núi thật dài, trùng trùng điệp điệp, bao bọc lấy khu trại nằm trên vùng núi đá vôi mà chúng tôi vừa dọn tới đêm qua.

Vào lúc nhập trại Nam Hà ngày 21 tháng Tư năm 1977, trong trại đã có hơn 600 tù nhân miền Nam. Những người này đã tới đây từ cuối năm 1975 hoặc đầu năm 1976 và ở các buồng phía trái từ cổng trại nhìn vào. Phía này được gọi là khu A để phân biệt với nhóm chúng tôi 350 người mới, ở phía tay phải và được gọi là khu B.

Cảm giác đầu tiên của tôi khi thấy các người tù khu A là họ rất trầm lặng, có dáng vẻ xa xôi. Phần đông đã lớn tuổi hoặc trung niên. Nhiều người trắng trẻo, sạch sẽ và tươm tất trong bộ đồng phục màu xanh của nhà tù, áo cổ cao, giống kiểu áo của người Tàu. Họ tỏ ra an phận, tự giác, dễ bảo và chấp nhận hoàn cảnh, cho dù là chấp nhận một cách miễn cưỡng. Thật vậy, khi nhìn tướng mạo và nghe qua tên tuổi, kèm với chức vụ trước kia, tôi biết đây là những người đã có một thời vàng son và đầy uy quyền.

Sau này tôi biết, họ thuộc thành phần viên chức chính phủ, các chức vụ dân cử như nghị sĩ, dân biểu, sĩ quan cảnh sát, đảng phái quốc gia. Có người đã từng nắm giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền miền Nam mà tên tuổi nhiều người nghe biết như Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc, cụ Vũ Hồng Khanh, Thượng nghị sĩ Huỳnh Văn Cao, Bộ trưởng Đàm Sỹ Hiến, Bộ trưởng Trần Ngọc Oành và nhiều người có tên tuổi khác.

Tôi không bao giờ quên được tâm trạng đau buồn mỗi lần nhìn thấy các đội khu A xếp hàng dài giữa sân trại trước giờ báo số lượng tù để xuất trại ra ngoài lao động, nhất là trong những buổi trưa nắng gắt của vùng núi đá vôi Nam Hà. Đa số tù nhân ăn mặc giống nhau, áo quần đồng phục màu xanh của tù, đầu đội nón lá, chân mang dép râu, vai mang một bị nhỏ may bằng vải bao cát, trong đó đựng cái lon Guigoz nước uống, trên miệng bị có treo lủng lẳng cái ống điếu thuốc lào.

Khi nhìn những con người đã một thời quyền uy trong xã hội miền Nam trước kia đang ngồi cúi đầu thành hàng dài trong sân trại, trong đó người giữ chức vụ cao cấp nhất một thời là cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc, tôi xót xa nhớ tới thân phận con người,và luật tuần hoàn của vũ trụ. Những người này trình diện học tập cải tạo theo thông cáo của Ban Quân Quản sau khi Cộng Sản vừa chiếm được miền Nam. Lúc này họ có vẻ mệt nhọc, câm lặng, chán chường và cam tâm chịu đựng cuộc đổi đời. Có lẽ trong thâm tâm nhiều người muốn chứng tỏ mình cải tạo thật tốt, tránh vi phạm nội quy để sớm được hưởng sự khoan hồng của đảng và nhà nước, như lời cán bộ vẫn thường nói:“Cải tạo tốt, lao động tốt là con đường ngắn nhất để được về sum họp với gia đình!”

Trình diện học tập

Cũng cần nói thêm, sau khi chiếm được miền Nam, người Cộng Sản biết dân miền Nam và nhất là những sĩ quan, binh sĩ và viên chức của chế độ Cộng Hòa vừa sụp đổ đều bàng hoàng lo sợ, nhưng có thể phản ứng chống lại, mặc dù tình thế lúc đó không thể nào lật ngược thế cờ. Tuy nhiên, nếu có sự chống đối trong lúc người Cộng Sản chưa có đủ thì giờ củng cố guồng máy cai trị tại vùng đất màu mỡ vừa mới cướp được thì cũng là điều bất lợi cho họ. Bởi thế, điều quan trọng là phải làm sao bắt giam cho hết những sĩ quan, viên chức chính phủ nào còn ở lại trong nước, sau khi một số lớn những người đã từng nắm giữ chức vụ chóp bu tại miền Nam đã nhanh chân bỏ chạy từ trước như cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, cựu Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, đương kiêm Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, Đại tướng Cao Văn Viên v.v…

Người Cộng Sản đủ tinh khôn để hiểu rằng không thể nào lùng bắt hết những người họ muốn nhốt vào tù, chỉ có cách hay nhất là giăng lưới để tóm hàng loạt. Đây là điều tôi thực sự khen ngợi đầu óc giảo hoạt của người Cộng Sản. Kế hoạch của họ như sau. Vừa chiếm được miền Nam xong, Ban Quân Quản thông báo trên đài phát thanh ra lệnh cho tất cả hạ sĩ quan và binh sĩ “ngụy” (thắng làm vua thua làm ngụy!) trình diện tại địa điểm gần nhất để học tập đường lối chính sách của đảng và nhà nước cách mạng. Khi đi, nhớ mang theo thức ăn, đồ dùng đủ trong 3 ngày.

Mặc dù các anh em binh sĩ chế độ miền Nam rất lo sợ, nhưng lúc đó đã nằm trong tay họ rồi, nếu không tuân lệnh sẽ rất tai hại, hơn nữa thông cáo có nói đem đồ dùng trong 3 ngày, nên cũng còn chỗ để hy vọng. Đại đa số những người trong diện này đã trình diện học tập. Và sau ba ngày, họ được cấp giấy chứng nhận ra về. Điều này làm sự sợ hãi và nghi kỵ của dân miền Nam đối với chế độ mới đã bắt đầu giảm đi. Người ta bắt đầu tin vào các lời tuyên truyền về “chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước”, hoặc “đánh kẻ chạy đi chớ không ai đánh kẻ chạy lại!” v.v…

Không bao lâu sau, một thông cáo khác của Ban Quân Quản được đọc trên đài phát thanh. Lần này tới phiên các sĩ quan và công nhân viên chức cao cấp trình diện tại các địa điểm được ấn định. Khi đi nhớ mang theo lương thực, tiền bạc, áo quần và đồ cá nhân đủ dùng trong trong một tháng. Dĩ nhiên thông cáo nào cũng kết thúc bằng câu đe dọa “ai bất tuân sẽ bị trừng trị theo luật pháp hiện hành.”

Nhớ lại vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi đoàn quân Cộng Sản ào ạt tiến vô Sài Gòn, dân chúng miền Nam thật hoang mang lo sợ, những người chức vụ cao và các sĩ quan của miền Nam càng khiếp đảm hơn.

Họ có lý do để sợ, vì hình ảnh Tết Mậu Thân năm 1968, với hàng chục ngàn người thường dân vô tội bị Việt cộng đập đầu, mổ bụng. Có nhiều người bị trói tay dính chùm bằng dây điện và chôn sống tại Huế chưa phai mờ trong ký ức của nhiều người. Bây giờ những kẻ chôn sống người đó đã chiến thắng, làm sao những sĩ quan và công nhân viên chức cao cấp của chế độ miền Nam vừa sụp đổ lại không lo sợ cho được. Vì thế, khi nghe được thông cáo “đủ dùng trong một tháng” họ mừng như nắng hạn gặp mưa rào. Trước đây, số hạ sĩ quan và binh sĩ mang đồ đủ dùng trong 3 ngày theo như thông cáo, và họ chẳng được ra về sau 3 ngày là gì?

Tâm trạng chung lúc bấy giờ là ai cũng mong học tập cho xong để trở về làm ăn sinh sống bình thường và hợp pháp trong chế độ mới. Thế là hàng hàng lớp lớp người đi trình diện học tập, người ta vội vã trình diện, người ta chen nhau đi trình diện, người ta vui vẻ giã từ vợ con để đi trình diện và hẹn tháng sau sẽ gặp lại. Có người sau khi vào trại còn hãnh diện khoe với mọi người, nhờ sự quen biết và khéo léo nên đã “chen” được vào trung tâm trình diện khi nơi này đã đầy người. Ai cũng mong đi học tập trong đợt đầu để sẽ được về sớm.

Lúc bấy giờ, những cái gọi là “Trại Cải Tạo” được mọc lên như nấm để nhốt những người tự nguyện đi học tập. Thành phần chánh trị và hành chánh do “công an Nhân dân” quản lý, thành phần quân đội do “Quân-đội Nhân dân” quản lý. Số người đi trình diện hí hửng nghĩ rằng một tháng sẽ được về, nhưng….

Ôi! Chữ “nhưng” sao quái ác!

Khi tôi vô tù một thời gian, được nghe các anh em trình diện kể lại câu chuyện đau lòng, câu chuyện cười ra máu mắt như sau: Số là khi nghe thông cáo của Ban Quân Quản, khi đi trình diện nhớ mang theo tiền bạc, thức ăn và đồ dùng đủ cho một tháng. Những người trình diện đi tù bắt đầu đếm từng ngày. Khi “học tập” tới đầu tuần lễ thứ tư, cả nhóm vui mừng hí hửng! Có người còn mơ màng về khung cảnh của ngày lễ mãn khóa thật linh đình vào cuối tuần tới, chắc là phải vui và cảm động lắm. Sẽ có đại diện các “cải tạo viên” đứng lên đọc diễn văn cám ơn công lao giáo dục của đảng. Rồi có các bà vợ, những người con và thân nhân sẽ có mặt trong lễ mãn khóa để đón người thân yêu đã được đảng cải tạo thành người công dân tốt trở về đoàn tụ với gia đình.

Trong đêm cuối cùng của tháng “học tập”, nhiều người không thể ngủ được, họ đi bắt tay từ giã anh em cùng khóa, buồn buồn, tủi tủi, nói lời chia tay tạm biệt với những anh em đã một thời chung vai sát cánh trong cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân miền Nam chống bọn Cộng Sản tham tàn. Nhưng giờ đây lịch sử đã qua trang, kẻ tham tàn đã chiến thắng và đang ngự trị! Đã qua rồi một cuộc chiến, anh em quân nhân viên chức chế độ miền Nam vừa sụp đổ chỉ mong từ nay được sống yên hàn với vợ con trong chuỗi ngày còn lại của cuộc đời.

Sáng hôm sau là đủ 1 tháng kể từ ngày đi trình diện, nhiều người thức dậy sớm đánh răng rửa mặt và chuẩn bị đồ đạc ngồi chờ “lễ mãn khóa.” Nhưng lễ mãn khóa chờ đâu chẳng thấy! Lúc tới giờ, tiếng kẻng tập họp đi lao động vang lên lanh lảnh ở cổng trại như mọi ngày. Nghe tiếng kẻng, nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên nhìn nhau thắc mắc nhưng không ai nói gì, chỉ biết cúi đầu xếp hàng báo số đi lao động như thường lệ. Sự thắc mắc bao trùm suốt ngày hôm đó và mỗi người cố tìm một lý do có lợi để giải thích cho sự chậm trễ này. Anh em tụm năm, tụm ba bàn giải thắc mắc, và lý do được nhiều người coi là hợp lý nhất: tháng này có…31 ngày! Vậy lễ mãn khóa phải diễn ra ngày mai, ngày thứ 31! Mọi người yên tâm đi ngủ chờ tới ngày mai.

Ngày mai đã đến rồi lại đi, rồi ngày kia và những ngày kế tiếp cũng đến và đã đi qua nhưng chẳng thấy có gì khác lạ. Thái độ bất mãn hiện rõ trên mặt nhiều người. Anh em cứ lập đi lập lại câu hỏi “thế này là thế nào?”, nhưng không ai có thể tìm được lời giải đáp cho câu hỏi đơn sơ ngắn gọn đó. Cho đến một hôm không còn đủ kiên nhẫn, một anh đánh bạo chất vấn cán bộ trong một buổi sinh hoạt trên hội trường:

-Báo cáo anh, tôi có thắc mắc.

- Gì thế? Anh có thắc mắc gì nói xem nào?

- Báo cáo anh, theo thông cáo của Ban Quân Quản kêu gọi chúng tôi trình diện học tập một tháng. Nay đã quá ngày rồi tại sao chúng tôi chưa được về?

Anh cán bộ ngồi gật gù, nhếch mép cười, nụ cười đầy vẻ tinh quái, hất hàm hỏi:

- Ai bảo cho anh biết học tập một tháng được về?

Anh bạn đáng thương lúc này mất bình tĩnh, gằn giọng từng tiếng:

- Báo cáo anh, thì trong thông cáo của Ban Quân Quản, tôi còn nhớ từng lời, từng chữ là ‘khi đi nhớ mang theo tiền bạc thức ăn và đồ dùng, đủ trong vòng 1 tháng’, tôi nghĩ rằng tất cả mọi người ở đây ai cũng nghe như thế.

Anh bạn chưa dứt lời đã nghe tiếng cả hội trường lào xào rầm rì phu họa: “Đúng rồi, đúng rồi, trong vòng một tháng”. Chừng đó anh cán bộ buộc lòng phải nói, anh nói thậm chậm rãi và rõ ràng:

- Các anh ngu quá! Tôi thật không ngờ là các anh ngu quá! Thông cáo bảo các anh mang tiền bạc, đồ dùng, đủ trong vòng một tháng, còn thời gian tiếp theo là đảng sẽ lo cho các anh, hiểu chưa? Chỗ nào trong thông cáo nói học tập một tháng được về đâu, anh chỉ tôi xem? Đảng đâu có dối gạt các anh, tại các anh ngu không hiểu ra đấy thôi!

Mặc dù câu nói của cán bộ nhỏ nhẹ và ôn tồn, nhưng sau khi nghe, mọi người thấy lùng bùng trong lỗ tai như vừa nghe tiếng sấm gầm giữa lúc trời đang nắng chói chang.

Khu A và Khu B

Lối sống và thái độ “cải tạo” của 2 nhóm, khu A và khu B trong trại Nam Hà lúc bấy giờ hoàn toàn trái ngược nhau. Các bậc đàn anh khu A rất trầm lặng, mực thước trong việc tuân hành nội quy của trại và lễ phép với cán bộ. Trong khi đó nhóm khu B, nhất là các anh em trẻ, sống hiên ngang bộc trực và bày tỏ thái độ khinh mạn cán bộ một cách công khai thấy rõ. Họ cứ gọi lén cán bộ là “chèo”! Cán bộ cấp nhỏ thì gọi là “chèo nhí”. Tôi cũng không biết chữ “chèo” này bắt nguồn từ đâu. Một hôm xảy ra câu chuyện nhỏ, nhưng gây ấn tượng mạnh và làm tôi nhớ mãi.

Hôm đó trong giờ lao động khu vực chung quanh buồng 12 của tôi ở, cán bộ quản giáo gọi anh Đặng Hữu Nam, một anh bạn trẻ chừng ngoài 20 tuổi trong nhóm Phục Quốc, bảo nhắc cái ghế lại cho cán bộ. Anh Nam giả vờ đáp:

-Báo cáo cán bộ, tôi không ngồi ghế!

Anh cán bộ quen thói hách dịch quắc mắt hỏi:

- Anh bảo gì? Tôi bảo anh nhắc cái ghế lại đây cho tôi. Ai cho phép anh ngồi ghế ở đây? Anh này hay nhỉ?

Anh Nam bình thản trả lời:

- Báo cáo cán bộ, nếu cán bộ ngồi ghế thì nhắc lấy mà ngồi, sao lại sai tôi? Tôi vào đây để học tập cải tạo, đâu có vào đây để nhắc ghế cho cán bộ ngồi.

Cả nhóm chúng tôi lúc đó yên lặng theo dõi câu chuyện làm anh cán bộ xấu hổ buông ra một câu chửi thật vô duyên:

- Ăn nói bố láo!

Anh Nam đốp chát ngay:

-Cán bộ không được quyền nói tôi như vậy, tôi sẽ báo cáo việc này lên ban giám thị!

Anh Nam nói chưa hết câu thì cán bộ quản giáo đã bỏ đi, vừa đi vừa nhổ toẹt một bãi nước bọt.

Kể từ lúc chúng tôi nhập bọn, các bậc đàn anh đáng kính bên khu A mới bắt đầu nghe nói tới những tiếng cấm kỵ trong tù như, vượt ngục, chống đối lao động, biểu tình, tuyệt thực. Có lần các vị này phải nổi da gà, xanh máu mặt khi nghe các buồng khu B chúng tôi hô to trong giờ ăn trưa: “Đả đảo Cộng Sản!”, tất cả mọi người gân cổ lên la thật to: “Đả đảo! Đả đảo!” Dĩ nhiên, những điều này không bao giờ ban giám thị của trại bỏ qua, họ sẽ trả đòn bằng kiểu gì lúc ấy chưa ai biết được.

Những người chưa sống trong tù Cộng Sản cũng nên biết qua một chút về chiến thuật “mềm nắn rắn buông” của người Cộng Sản. Tôi nghe kể lại, hôm anh em trong buồng 9 khu B hô “đả đảo Cộng Sản” trước mặt cán bộ giáo dục tên Huy, mặc dù anh ta giận tím gan tím mật, nhưng vẫn vui cười nói nhỏ nhẹ như nói với người yêu: “Các anh à! Bây giờ đảng ta quản lý cả nước rồi, nếu không sống với đảng thì các anh sống với ai? Tôi biết các anh còn trẻ, dễ nóng giận, nếu có điều gì không vừa ý các anh cứ phản ảnh để ban giám thị giải quyết cho các anh.” Đúng là giọng của mẹ mìn, ngọt như mía lùi của những kẻ có bàn tay sắt bọc nhung.

Bọn Ăng-ten

Vào những tháng trước lễ Giáng Sinh năm đó đã có nhiều vụ tuyệt thực phản đối lao động, gõ thùng gõ thau nhà bếp, đập đánh mấy tên làm ăng-ten mà anh em gọi là bọn “chó săn”. Cuộc sống trong trại lúc bấy giờ, hay nói rõ hơn là bên khu B rất căng thẳng, giống như một quả bóng căng tròn nhưng người ta vẫn còn muốn bơm mãi, bơm mãi! Đa số tù nhân trong trại lúc bấy giờ là người Công Giáo và chỉ có một mình tôi là Linh Mục. Không cần phải nói, ai cũng biết là tôi đương nhiên trở thành mục tiêu cho sự theo dõi, dò xét và qui trách nhiệm các vụ chống đối xảy ra.

Người Cộng Sản dùng tù theo dõi tù, dùng tù báo cáo và hãm hại tù. Những tên tù làm tay sai này thường được gọi chung là bọn “ăng-ten”, kiểu như cây ăng-ten của cái Radio kéo lên để bắt được các làn sóng phát thanh. Đôi khi chúng còn được gọi bằng cái tên sát nghĩa hơn, nhưng nghe nặng tai là bọn “chó săn”, và tại sao bọn này có tên đó chắc ai cũng hiểu.

Kinh nghiệm đời tôi trong 13 năm tù dưới chế độ Cộng Sản cho tôi thấy bọn “chó săn” trại nào cũng có, thành phần nào cũng có, tuổi tác nào cũng có, cấp bậc địa vị nào ngoài xã hội trước kia cũng có. Tôi coi đây là điều sỉ nhục lớn nhất cho tập thể tù chính trị miền Nam. Tù hình sự thì tôi không nói làm gì, nhưng đối với tập thể những con người cùng chung số phận trong hàng ngũ bại trận, khi vô tù lại làm tay sai cho kẻ thù để hãm hại anh em mình là điều làm tôi nhục nhã và đau đớn. Nhất là từ khi biết con đường cải tạo còn dài thăm thẳm, và chỉ có những người lập công mới có hy vọng được về như lời cán bộ hứa, thì đội ngũ bọn ăng-ten càng đông đảo hơn. Dĩ nhiên làm “ăng-ten” cũng được coi là một nghiệp vụ, nên cũng được chiêu mộ và được huấn luyện.

Nhân đây tôi nhớ lại chính tôi cũng có lần được chiêu mộ làm việc này. Năm 1976 lúc tôi còn ở trại Phan Đăng Lưu, Gia Định. Thời gian này mới bị bắt không lâu, các tù nhân còn đang bị thẩm vấn khai thác (trong tù Cộng Sản gọi là làm việc), chưa phải đi lao động. Chúng tôi bị nhốt trong các buồng trống trơn như những lớp học, trong góc buồng có một bể nước có vòi chảy vào, nằm kế bên một cầu tiêu lộ thiên, mỗi buồng chừng 60 người. Vì không phải đi lao động nên cả ngày chúng tôi ngồi nói chuyện, chơi cờ, đọc báo Nhân Dân, chờ tới giờ được mở cửa cho ăn.

Một hôm tôi được cán bộ gọi lên cơ quan “làm việc”. Người cán bộ gặp tôi là một người miền Nam chất phác, có đôi gò má cao và chải đầu rẽ ngôi giữa đỉnh. Giọng anh nói rất ôn tồn nhẹ nhàng. Sau khi thuyết một hồi về việc mở đường cải tạo cho tôi, để tôi sớm được về với gia đình và làm lại cuộc đời. Lúc đó tôi biết anh ta đã muốn gì nơi tôi.

Tôi đoán không sai, sau khi thuyết một hồi, anh ta kết luận là nếu tôi muốn được khoan hồng về sớm thì nên lập công bằng cách phát hiện và báo cáo những hiện tượng tiêu cực trong buồng. Tôi ngồi nhìn anh ta mà thấy thương hại! Thương hại cho anh đã chọn lầm người để tâm sự và kéo về phe mình. Với dụng ý sẽ chơi khăm, tôi nhận lời! Anh ta vui vẻ ra mặt. Có lẽ anh ta không ngờ hôm đó anh quá may trong công tác của một công an cai ngục. Chắc là cấp trên anh ta sẽ rất hài lòng khi biết có một Linh Mục vui vẻ nhận làm “ăng-ten”.

Anh ta tiễn tôi ra về với nụ cười thật tươi, hai bờ mép kéo dài gần tới mang tai và hứa một lúc nào đó sẽ gọi tôi lên gặp lại anh. Một thời gian sau tôi lại được gọi lên cơ quan “làm việc”. Trong lúc đi đường tôi nghĩ thầm, chắc là anh cán bộ hôm nọ đang ngồi nhịp chân trên văn phòng và đang cười thầm với ý nghĩ:“Ngay bọn cha cố mà mình cũng chiêu mộ được!”

Tôi bước vào phòng và anh ta đón tôi rất niềm nở. Trà tàu và thuốc lá được mời một cách rộng lượng. Trà nước xong đâu đó, anh ta vào đề, một lối vào đề mà nãy giờ tôi biết anh ta rất nôn nóng:

- Anh Lễ, tôi vui mừng được biết anh có tiến bộ trong cải tạo. Vậy anh cho biết anh có phát hiện được hiện tượng gì xấu trong buồng anh không?

Tôi buồn cười với câu “anh có tiến bộ trong cải tạo”, nhưng vẫn cố trả lời một cách nghiêm trọng:

-Báo cáo anh, có, có nhiều lắm!

-Có gì nói hết đi anh Lễ, nói hết đi, tôi hứa giữ kín, anh không phải lo.

Tôi nghiêm trang nói:

- Báo cáo anh, trong buồng tôi nhiều người ăn nói bậy bạ quá!

Mắt anh ta sáng lên như gặp của quý, vội hỏi:

-Ăn nói như thế nào?

- Họ chửi thề nói tục không thể tưởng tượng được. Nhất là mấy anh trẻ, mở miệng ra là ‘ĐM’ với ‘đéo bà’!

Nụ cười vụt tắt trên môi, anh cán bộ tỏ vẻ thất vọng, cố hỏi thêm:

-Họ có nói gì phản động như chống chế độ, tuyên truyền nói xấu đảng không? Còn chửi thề thì không quan trọng.

- Báo cáo anh, tôi chỉ để ý nghe họ chửi ‘ĐM’ nhiều quá thôi, các thứ anh hỏi tôi không nghe!

Đó là lần “báo cáo” đầu tiên và cũng là cuối cùng, vì sau đó không bao giờ tôi bị gọi lên để giao công tác nữa. Cho tới nay có lẽ anh cán bộ nọ cũng không hề nghĩ là tôi có ý chơi khăm anh ta, nhưng cứ nghĩ là tôi quá dốt trong loại công tác này. Biết đâu anh ta cũng tiếc mấy điếu thuốc thơm và ấm trà ngon đã mời tôi.

Công tác nào cũng có người giỏi người dở, người đắc lực, người kém hiệu quả, và tùy theo kết quả công tác mà chúng được “chủ” thưởng công. Cũng có nhiều loại phần thưởng khác nhau, phần thưởng lớn nhất dĩ nhiên là một lời hứa hẹn được “đảng và nhà nước khoan hồng cho về sớm”. Nếu ai chưa biết, tôi xin nói lúc đó chúng tôi đi tù… mù, tức là bị nhốt vào tù mà không có kêu án nên không ai biết được lúc nào mình sẽ được tha và lúc nào cũng nuôi niềm hy vọng được thả về. Vì thế chiêu bài “sự khoan hồng của đảng và nhà nước” là miếng mồi thật thơm để nhử bọn “chó săn”, làm cho chúng rỏ nước dãi và săn lùng hăng hơn, phản bội anh em nhiều hơn, hại anh em nặng nề hơn. Có người còn nhẫn tâm giết chết anh em để lập công.

Phần thưởng nhỏ có nhiều loại, như khỏi phải đi lao động nắng gió và nặng nề, chỉ ở nhà để “rình” và báo cáo những anh em khác. Có khi phần thưởng là được thăm gặp vợ qua đêm “48 tiếng” tại phòng hạnh phúc nằm ngay trong nhà thăm nuôi! Loại phần thưởng này nói ra nghe hơi ngượng, nhưng thực sự nó là mục tiêu phấn đấu cho nhiều người. Những anh cải tạo không tốt thì cho dù có xa vợ hàng chục năm đi nữa, khi bà xã ra thăm cũng chỉ được ngồi đối diện trên chiếc bàn dài để nói vài câu chuyện trời trăng mây nước, và ngay ở đầu bàn có người công an áo vàng ngồi một đống sừng sững như để “chia xẻ niềm vui vợ chồng lâu ngày sum họp”! Anh tù thuộc dạng này cho dù có thương nhớ vợ đến chết người đi chăng nữa cũng không được sờ tay bà xã, đừng có mơ màng tới phần thưởng xa hoa “48 tiếng” trong căn phòng hạnh phúc.

Cũng cần biết thêm là những bà vợ được “48 tiếng” với chồng, khi ra về được trại cấp cho một giấy chứng nhận có “qua đêm” với chồng. Nếu về nhà có bầu thì đưa giấy tờ ra để tránh tiếng thị phi của làng nước và khỏi gặp rắc rối với dòng họ nhà chồng! Dĩ nhiên nếu không có bầu thì thôi, khoe giấy tờ loại đó ra mà làm gì, ngượng chết! Lối giải quyết bằng giấy chứng nhận như vậy cũng hay để khỏi rắc rối về sau, nhất là trong hồ sơ HO. Một loại phần thưởng khác có thể là được chỉ định làm đội trưởng hay tổ trưởng, hoặc được làm nhà bếp có nhiều cơ hội ăn no (giàu nhà kho no nhà bếp!).

Phần thưởng lớn hơn có thể được cất nhắc lên chức vụ cao cấp trong tù như Trật tự, Văn Hóa, Y tá. Đây là những “sĩ quan” thực sự trong tù, mặc dù không phải tất cả những sĩ quan này đều là ăng-ten.

Mỗi khi nhắc tới hạng người làm ăng-ten trong tù, ai cũng bày tỏ sự khinh bỉ và bực tức. Tuy nhiên có một trường hợp làm tôi phải phục con người làm công việc này. Lúc đó tôi đang bị giam trong một buồng tập thể tại trại Phan Đăng Lưu, tỉnh Gia Định. Một hôm cán bộ đưa vào buồng tôi một anh tù mới. Anh này tướng tá nhỏ con, gầy ốm và xanh xao, có đôi mắt to và lồi, tròng trắng nhiều hơn tròng đen, má hóp làm hai gò má nhô cao. Điểm đặc biệt, anh ta có mái tóc quăn bồng bềnh thật dầy làm cho hình dạng anh ta mất cân đối, phần đầu to hơn phần thân.

Vì trong buồng nóng nực nên anh cởi trần, mặc quần đùi để lộ thân hình con người chỉ có xương với gân, không có thịt. Mới nhìn qua, tôi thấy bộ dạng anh không giống với ai trong buồng. Khi anh buồng trưởng lo thu xếp chỗ nằm cho anh và anh thư ký buồng ghi tên tuổi, anh ta tỏ ra lầm lỳ, hỏi đâu nói đó, chẳng tỏ ra một chút cố gắng nào để hòa mình với những người khác trong buồng. Anh ta khai tên là Hòa, họ gì tôi không còn nhớ. Sau đó Hòa ngồi một góc, dựa lưng vào tường, ngó trước nhìn sau, cặp mắt ốc nhồi trắng dã của anh quét qua quét lại liên hồi.

Anh ngồi yên khá lâu, chẳng nói chuyện với ai và cũng chẳng ai nói chuyện với anh. Gần tới giờ lấy thức ăn trưa, trong khi trong buồng đang ồn ào như thường lệ, đột nhiên anh Hòa đứng lên và nói thật to làm cả buồng giật mình thinh lặng. Anh tự giới thiệu là một cán bộ cấp huyện, bị bắt vì nhận hối lộ. Anh cũng cho biết chính anh là người đã bấm hai quả mìn giết chết khá nhiều người trong vụ nổ nhà hàng Mỹ Cảnh ở bến Bạch Đằng trước đây.

Sau khi tự giới thiệu, anh nói tiếp bằng một giọng rất trang nghiêm:“Mặc dù bị tù nhưng tôi vẫn là một cán bộ của đảng. Tôi yêu cầu tất cả mọi người trong buồng đừng có ai tuyên truyền phản động và nói xấu đảng. Tôi sẽ báo cáo tất cả!” Nói xong anh ta ngồi xuống và trở lại với thái độ lầm lỳ như trước. Dĩ nhiên là từ đó cả buồng chúng tôi sợ anh ta. Có người ghét anh, nhất là sau khi biết anh ta đã nổ mìn giết thường dân vô tội. Nhưng tôi phục anh ta trong cách thức bày tỏ lập trường của anh với đảng.

Phần tôi, tôi biết rõ về tôi hơn ai hết, khi đã sa chân lỡ bước vào con đường này, tôi đã chấp nhận tất cả, kể cả cái chết. Điều tôi luôn quyết tâm và cầu nguyện xin Chúa giúp cho tôi được sống xứng đáng vai trò của một Linh Mục làm chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa giữa những anh em tù nhân, và là chỗ dựa tinh thần cho anh em trong cơn thử thách. Tôi biết rất rõ người Cộng Sản coi các tôn giáo là kẻ thù, mà Công Giáo là kẻ thù số một. Là một Linh Mục, đến nay đã 34 tuổi đời và 6 năm trong chức vụ, tội danh tôi khá rõ: Linh Mục phản động, chống đối cải tạo, khuyến khích những cuộc nổi loạn trong trại. Một chuỗi “tội” như vậy làm sao tôi không đoán được số phận của mình.

Ngoài ra còn có những sự việc cụ thể sau đây càng cho tôi hiểu về số phận của mình hơn. Khi vừa nhập trại Nam Hà không bao lâu, tôi bị cán bộ gọi lên thẩm vấn nhiều lần về vụ tàu Sông Hương. Có những lần phải làm việc với sĩ quan an ninh của trại, gặp cán bộ cao cấp ở Bộ Nội Vụ xuống, và cũng có lần gặp chính Trung tá Hoàng Thanh là người có trách nhiệm vào Nam đón chúng tôi. Họ hạch hỏi tôi về dự mưu đánh cướp tàu. Khi thì bằng giọng nói ngọt ngào như đường phèn, khi thì đe dọa quát tháo sủi bọt mép. Lần nào tôi cũng trả lời một câu duy nhất: “Tôi không biết vụ này, và nếu ai báo cáo với cán bộ, cho tôi gặp người đó”.

Thường là buổi làm việc chấm dứt sau câu nói này của tôi. Làm sao họ có thể cho tôi giáp mặt với những người này. Mặc dù tôi không biết hết những tay ăng-ten đã bẩm báo rành mạch “vụ tàu Sông Hương”, nhưng tôi biết chắc chắn một vài người trong số này. Những tháng về sau này, tôi không còn bị gọi lên hỏi về vụ tàu Sông Hương nữa, nhưng không phải như thế mà vụ đó đã xong. Khi anh em khu B bắt đầu phong trào diệt ăng-ten cao độ, những tay “chó săn” bị anh em trùm chăn đánh đập què chân, sứt mõm thường được cán bộ đưa vào buồng tôi và được chỉ định nằm kế bên tôi. Tôi hiểu rất nhanh về việc này. Nhưng chính việc tôi sắp kể ra sau đây mới đóng dấu vào quyết định cho số phận tôi.

Học tập khai báo

Vào tháng 10 năm 1977, sau khi tôi tới trại Nam Hà được 6 tháng, trại có tổ chức đợt học tập khai báo lý lịch cho một số 400 tù nhân khu A, cộng với 19 người trong buồng 12 của tôi, mặc dù tôi thuộc về khu B. Lúc này trong trại đã có thêm một số khá đông anh em tù quân đội từ trại Hoàng Liên Sơn chuyển về, đang ở khu nhà mới xây gần nhà bếp, nâng tổng số tù toàn trại lên hơn 1000 người. Tù khu B chiếm từ buồng 7 tới buồng 12, mỗi buồng chừng trên dưới 60 người. Riêng buồng 12, nơi tôi ở chỉ có 20 người thuộc đủ mọi thành phần được lựa ra ở riêng và tôi cũng chẳng biết theo tiêu chuẩn nào. Số người trong buồng rất là thập cẩm, có Linh Mục, có đảng phái, có thương gia, có Mục Sư người Thượng, lại có cả một ông Tàu già tên Nùng Bá Lâm, nghe nói là cựu tướng lãnh đã từng chỉ huy một sư đoàn của Tưởng Giới Thạch.

Nghe nói năm 1949 khi Tưởng Giới Thạch bị Mao Trạch Đông đuổi chạy ra đảo Đài Loan, Thiếu tướng Nùng Bá Lâm không theo ra Đài Loan mà lại dẫn tàn quân qua biên giới Miến Điện, sống bằng nghề lục lâm thảo khấu. Thực sự có đúng như vậy không và tại sao ông lại bị bắt vào đây thì tôi không biết. Ông ta người cao lớn dềnh dàng. Tuy già nua và ốm yếu, có lẽ đã 80 tuổi, nhưng đôi mắt ông ta đầy thần sắc và lúc nào cũng đỏ ngầu như mắt loài hổ báo, nấp dưới đôi chân mày rậm và dài như chổi xuể trông càng dữ tướng hơn. Ông là điển hình của một con sư tử về già.

Có lúc tôi nghĩ, mấy chục năm trước đây, ai rủi ro sa vào tay ông chắc không khá được! Ông không biết nói tiếng Việt, hay giả vờ không nói được tôi cũng chẳng biết, mặc dù nghe nói ông ta sống ở Việt Nam khá lâu. Đặc điểm nơi ông ta là ở dơ. Trong tù đã là ở dơ bẩn rồi nhưng ông Tàu già này ở dơ hơn hết mọi người ở dơ trong tù! Ông chẳng bao giờ tắm, chẳng bao giờ giặt, chẳng bao giờ rửa.

Ông nằm trong góc buồng lủi thủi một mình, chẳng nói năng, tiếp xúc với ai bao giờ. Chỗ ông nằm cũng quá bẩn và hôi hám không ai dám tới gần, cả cán bộ cũng chịu thua và không nhắc ông ta làm “nội vụ” bao giờ. Ở trong buồng tôi được 5 tháng thì ông Nùng Bá Lâm chết, đó là người chết đầu tiên trong nhóm tù khu B chúng tôi tại trại Nam Hà vào năm 1977. Lúc bấy giờ tôi nghĩ, cái chết đã giải thoát cho ông, mặc dù tôi vẫn bùi ngùi mỗi khi nhìn qua góc phòng trống vắng nơi mà người bạn tù ngoại quốc già nua ốm yếu đã từng nằm ở đó. Ông đã đi hết đoạn đường đời của ông, trong khi tôi vẫn tiếp tục con đường còn lại mà không biết những gì đang chờ đợi tôi phía trước. Ông chết đi buồng tôi còn lại 19 người.

Mới nghe qua việc khai báo lý lịch cũng chẳng thấy có gì là nặng nề và đáng ngại, nhưng sự thực không phải đơn giản như cái tên gọi của nó. Đây là một trong những điều tôi sợ nhất trong tù. Mỗi lần khai báo như vậy, các tù nhân phải “đào mả 3 đời” nhà mình lên và đem giao nạp cho đảng! Việc đào gia phả này được lập đi lập lại nhiều lần, không có định kỳ nhất định.

Tôi không hiểu được hết mục đích của việc làm này, nhưng chắc trong đó phải có ý đo lường sự thành thật của tù nhân. Vì thế, nguyên tắc sống còn là phải nhớ cho bằng được lần đầu mình đã khai báo thế nào, để lần sau và những lần sau nữa cũng phải viết y như vậy, không thêm không bớt. Có người không để ý nguyên tắc sống còn này, tưởng là càng thành thật khai báo thì càng mau được về sớm, nên đã thêm vào nhiều chi tiết trong lần khai báo tiếp theo. Họ đã phải trả cái giá thật đắt cho hành động dại khờ này.

Tôi không còn nhớ phải viết bao nhiêu lần trong suốt 13 năm tù, có lẽ trên dưới chục lần. Khóa học tập khai báo thông thường được diễn ra như sau: Có một số cán bộ trung ương tới trại để thuyết về tầm quan trọng của việc khai báo và chỉ cách “đào mả” thế nào cho nó “tốt”! Cũng nên biết, vì thời gian khai báo sẽ “động não” rất nhiều nên cần bồi dưỡng. Thí dụ như trường hợp của tôi, vì không ra ngoài lao động nên mức ăn chỉ có 9 ký một tháng, trong khi người đi lao động ăn 12 ký. Trong thời gian khai báo tôi cũng được ăn 12 ký. Ký ở đây không phải là ký gạo, làm gì có đủ gạo cho tù ăn, người ta thay vào bằng ngô, khoai, sắn, bo bo, có lúc còn ăn bã đậu nữa.

Sáng ngày khai mạc, chúng tôi được tập trung lên hội trường để nghe cán bộ trung ương thuyết trình. Các bài thuyết trình lần nào cũng như lần nào về chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước, thành khẩn khai báo là con đường ngắn nhất để về v.v… Điều làm tôi ngạc nhiên là cả người nói lẫn người nghe đều biết đó là láo khoét! Thế mà không hiểu tại sao các “thợ nói” này không thấy ngượng mồm ngượng miệng! Trong các bài thuyết trình, lần nào cũng có một bài chỉ dẫn phải khai báo như thế nào cho “đạt”!

Cuộc học tập tại hội trường kéo dài 2 ngày và chiều ngày thứ hai là thảo luận. Đề tài thảo luận do cán bộ chọn và chỉ định một anh tù lên phát biểu ý kiến, để những người khác dựa vào đó mà thảo luận. Trong lần học tập khai báo này, tôi được chỉ định nói đề tài: “Anh có yên tâm cải tạo không và cho biết lý do tại sao?” Câu hỏi này như là một gợi ý để làm mạnh thêm cách nói “yên tâm cải tạo”, và nó đã mặc nhiên trở thành câu “kinh thánh” trong tù. Có những câu khác dài hơn như: “tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của đảng” hoặc câu “tuyệt đối tin tưởng vào chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước.” Đó là những câu thần chú phải được đọc lên đúng thời, đúng chỗ cho những ai muốn được yên thân và còn muốn có ngày sum họp với vợ con. Cán bộ dặn tôi về suy nghĩ đề tài và ngày mai lên phát biểu cho nó “tốt”!

Lựa Chọn Thái Độ

Suốt đêm đó tôi trằn trọc không ngủ được vì phải làm một sự lựa chọn lớn, sự lựa chọn có thể ảnh hưởng tới mạng sống mình. Đêm đó tôi cầu nguyện thật nhiều, tôi có thói quen cầu nguyện khi gặp sự khó, xin Chúa soi sáng cho tôi biết phải làm như thế nào. Tôi biết đây là cái bẫy họ giương ra cho tôi. Nếu chiều ngày mai khi lên đứng trước mặt cán bộ và hơn 400 anh em tù nhân, đại đa số là người Công Giáo, mà tôi nói theo giáo điều là “Tôi yên tâm cải tạo”, thì mọi người, kể cả cán bộ Cộng Sản, sẽ khinh bỉ vì họ thấy tôi hèn nhát và nói láo. Các anh em Công Giáo có mặt hôm đó sẽ cảm thấy xấu hổ và thất vọng, vì tôi vẫn là chỗ nương tựa tinh thần cho họ. Trong trường hợp này cuộc đời tôi coi như đã hết, mặc dù thân xác tôi còn sống.

Ngược lại, nếu tôi nói lên sự thật của lòng mình, có thể tôi phải trả cái giá bằng chính mạng sống mình, nhưng tôi sẽ được sống và sống mãi trong lòng mọi người. Mặc dù là một Linh Mục, nhưng tôi vẫn là con người, vẫn có sự sợ hãi trước cái chết, đó là bản chất tự nhiên của con người. Tôi nằm trằn trọc cân nhắc, suy đi tính lại gần suốt đêm. Có lúc, tôi ngồi lên suy nghĩ, cầu nguyện. Có lúc tôi bước vô cầu tiêu hút thuốc lào. Cuối cùng tôi quyết định là phải nói lên sự thật của lòng mình.

Sáng hôm sau lại tập họp lên hội trường để nghe cán bộ hướng dẫn về hình thức và nội dung phải khai báo như thế nào. Về hình thức, các tù nhân được chia thành từng tổ nhỏ, mỗi tổ có một cán bộ phụ trách, thường là cán bộ quản giáo của đội mình. Khi viết, ngồi riêng ra và không ai được quan hệ với người bên cạnh. Giấy và bút mực do trại phát. Giấy nháp màu nâu không hàng kẻ. Bản chính thức là giấy trắng và có hàng kẻ. Bút là loại bút có cán và chấm mực. Mỗi người được phát một cây bút, một lọ mực và 2 tập giấy, một nâu một trắng. Nếu ngòi bút hỏng thì báo cáo cán bộ.

Địa điểm viết là tại buồng mình ở hay do cán bộ phụ trách chỉ định. Bắt đầu viết vào giấy nháp trước. Viết xong tờ nào phải đưa cho cán bộ duyệt, nếu cán bộ thấy “đạt” sẽ ký tên vào và cho phép viết vào bản chính. Nếu cán bộ chưa vừa ý, phải xé đi và viết lại cho tới khi “đạt”! Khổ nỗi có người viết đi viết lại mấy lần vẫn chưa đạt, dĩ nhiên là chưa đúng ý của cán bộ. Ai mệt thì báo cáo cán bộ ra ngồi nghỉ, hoặc hút thuốc nhưng không được “quan hệ” linh tinh. Hết mệt vào viết tiếp. Chiều lại phải nạp tất cả cho cán bộ bản chính thức và bản nháp. Một lần “đào mả” như vậy có khi kéo dài đôi ba ngày, có người kéo dài hàng tuần. Tôi nghe nói có người viết hàng tháng trời vẫn chưa xong và nghe đâu tập “luận án” này cuối cùng dày đến cả ngàn trang.

Nhưng quan trọng và đáng nói hơn vẫn là phần nội dung. Nội dung có 2 phần: Lý lịch và quá trình hoạt động bản thân. Về lý lịch, ngoài những mục thông thường như tên họ, ngày và nơi sanh, trú quán, tôn giáo, vợ con, học lực, cấp bằng, huy chương v.v… còn có mục phải khai tên tuổi của ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì, cậu mợ của đương sự và của vợ (hoặc chồng nếu là tù nữ), phải khai rõ họ đang ở đâu và làm gì. Còn có mục phải khai báo các loại bạn bè và địa chỉ của họ, cho dù họ đang ở trong nước hay đã đi nước ngoài, kể cả những bạn bè đang ở trong tù.

Phần chính là quá trình hoạt động bản thân. Phần này mỗi người phải viết lại tất cả cuộc đời mình từ ngày có trí khôn cho tới giờ này! Cán bộ cho biết phải viết lại tất cả, nhớ được cái gì phải khai báo hết, không được bỏ qua một chi tiết nào. Nhớ có lần, tôi khai báo hồi còn nhỏ tôi có tật hay đái dầm, cán bộ coi bản nháp nhíu mày suy nghĩ một hồi rồi nói: “Đái dầm không phải là phản động, nên anh không cần viết vào đây!” Từ đó tôi mới biết, đối với đảng, đái dầm không phải khai báo, nhưng dù sao thì đảng cũng thấy được sự thành thật khai báo của tôi!

Trong lần khai báo nào cán bộ cũng bắt tôi nhận “có tội với nhân dân”. Tôi cãi lại, tôi chỉ nhận có tội với đảng Cộng Sản vì tôi không theo đảng, chứ tôi không bao giờ có tội với nhân dân, nếu không muốn nói là có công với nhân dân. Vì lý tưởng đời tôi là phục vụ và lo lắng cho người khác. Tôi giữ lập trường này cho tới cùng, mặc dù tôi bị mắng chửi và đe dọa đủ kiểu.

Chiều hôm bế mạc lớp học tập khai báo là một buổi chiều nắng gay gắt. Cái xứ Nam Hà quê hương của núi đá vôi này, nắng một mà nóng hai, vì sức nóng trong đá vôi tỏa ra khi mặt trời đã lặn. Như thường lệ, chúng tôi xếp thành hàng đôi tiến lên hội trường. Hội trường là một nhà gạch lợp ngói thấp lè tè, nằm khá xa bên ngoài trại, gần khu nhà cán bộ. Bên trong hội trường có các ghế dài bằng gỗ cho tù nhân ngồi.

Khi vô tới bên trong hội trường, tim tôi đập mạnh và người tôi nôn nao khác thường vì chiều nay tôi phải làm một việc quan trọng. Sau phần khai mạc như thường lệ, cán bộ phụ trách chương trình giới thiệu các đề tài thảo luận. Anh ta đọc tên những người được chỉ định trình bày các đề tài và dặn các tù nhân khác phải nghiêm chỉnh thảo luận cho đạt yêu cầu. Bỗng dưng tai tôi ù lại, không còn nghe rõ những gì cán bộ nói. Sự sợ hãi như vồ lấy tôi. Tay tôi bắt đầu run nhè nhẹ và mồ hôi vã ra. Tim tôi đập mạnh hơn và mặt nóng ran như người lên cơn sốt. Tự nhiên tôi cảm thấy khó thở như đang bị hụt hơi sắp chết ngạt. Lúc ấy tôi lại mắc đi đại tiện!

Có tất cả 3 đề tài do 3 anh tù được chỉ định lên nói. Giọng anh cán bộ dõng dạc: “Người thứ nhất là anh Nguyễn Hữu Lễ buồng 12, đội 20 sẽ lên đây trình bày đề tài ‘Anh có yên tâm cải tạo không và cho biết lý do tại sao?’” Giây phút tôi vừa lo sợ lại vừa mong đợi suốt hơn một ngày qua, bây giờ đã tới!

Tôi bật đứng lên khi nghe tên mình và hiên ngang bước ra lối đi ở giữa hội trường, tiến lên cái bục gỗ nằm chéo góc bên tay phải. Trong vị trí đó, người nói chuyện có thể thấy được cả lớp tù ngồi bên dưới và bàn chủ tọa của cán bộ ngồi trên quay xuống. Tôi cố lấy bình tĩnh bằng những bước đi chậm, thật vững và hiên ngang, tay cầm tờ giấy đã soạn sẵn. Từ chỗ tôi đến bục gỗ không xa, nhưng sao tôi cảm thấy đi thật lâu và bầu không khí lúc đó sao quá nặng nề!

Lên gần tới bục gỗ, tự nhiên tôi thấy bình tĩnh trở lại. Bước lên bục, tôi đứng yên lặng hồi lâu, hai tay dang rộng nắm lấy thành bục về phía trước. Tôi lấy thế, đứng thẳng người và nhìn xuống đám đông. Tự nhiên nỗi sợ hãi chợt tan biến. Tôi thấy bình thản và thích thú một cách lạ thường. Cảnh này đã quá quen thuộc với tôi mặc dù lâu rồi tôi không nhìn thấy lại. Tôi có cảm tưởng mình đang đứng trên bục giảng Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long, nơi tôi phục vụ cho đến ngày Cộng Sản chiếm miền Nam.

Nhìn xuống hơn 400 anh em bạn tù và cả hàng ghế cán bộ, tôi có cảm tưởng đây là một buổi lễ và tôi đang bắt đầu thuyết giảng. Lúc này mọi người đang chờ đợi để lắng nghe tôi giảng lời Chân Lý. Đã 3 năm rồi tôi không có dịp rao giảng công khai, giờ đây cảnh tượng này trả tôi về với thiên chức Linh Mục. Giờ phút này không còn phải là tôi nói nữa, nhưng là Thiên Chúa sẽ nói qua miệng tôi. Nếu cách đây vài phút tôi hoàn toàn bị động và lo sợ một cách tự nhiên theo bản năng con người, thì bây giờ tôi cám ơn cơ hội đã đưa tôi lên đứng đây.

Tôi đứng yên, đảo mắt một vòng, nhìn các anh em bạn tù bằng cái nhìn đầy yêu thương và xúc động mãnh liệt. Tôi nhìn nhóm cán bộ và mong cho họ nhận ra con đường yêu thương mà dân tộc mình phải đi. Các cán bộ ngồi nhìn tôi bằng những con mắt ngạc nhiên, có lẽ họ cũng đoán được một cái gì bất thường sẽ xảy ra không đúng ý họ, nhưng lúc này đã quá muộn để chận đứng điều đó.

Sau lúc thinh lặng, để tạo thế làm chủ tình hình, tôi bắt đầu nói theo ý tôi đã soạn trong tờ giấy cầm tay. Tôi nói với tất cả sức mạnh của âm thanh trong cổ họng, với tất cả sự quyết tâm thách đố bạo quyền, với tất cả sức mạnh tinh thần, quyết tạo niềm tin vững vàng cho các anh em bạn tù, nhất là các anh em Công Giáo:

“Kính thưa các cán bộ, các anh em đồng cảnh thân mến.

Tôi vô cùng sung sướng có cơ hội đứng đây để nói lên điều trong lòng tôi xác tín: Tôi không yên tâm cải tạo. Tôi cũng nói điều này thay cho anh em, vì tôi biết nhiều người trong anh em nói yên tâm cải tạo là nói dối cho vừa lòng đảng và nhà nước.”

Cả hội trường như bị điện giật ngồi chết trân. Nhìn sang phía hàng ghế cán bộ tôi nói:

“Thưa quý ông, yên tâm thế nào được khi các ông vào chiếm miền Nam. Nhà cửa chúng tôi bị tịch thu, con cái chúng tôi phải bỏ học đi bán báo, bán bánh mì. Gia đình chúng tôi tan nát và tôi nói điều này với lời xin lỗi trước các anh em tôi, tôi biết giờ này có những bà vợ ở nhà đã phải làm đĩ nuôi chồng đang ở tù! Yên tâm thế nào được khi các ông vô miền Nam đã tịch thu tài sản nhà thờ, chủng viện trường học, tòa giám mục v.v… Tôi nói điều này cách công khai và tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn về những gì tôi đã nói. Xin quý ông cứ đánh điện vào miền Nam xác nhận điều tôi nói có đúng hay không? Tôi đứng đây chờ các ông.”

Nói xong câu này, tôi đứng yên lặng nhìn hàng ghế cán bộ trong lúc họ nhìn tôi bằng những cặp mắt không có lời để diễn. Tôi tiếp tục:

“Khi chúng tôi còn ở trại Gia Ray trong miền Nam, các ông bắt chúng tôi đi khai hoang, cuốc các bãi mìn, nhiều anh em tôi đã bị mìn nổ banh thây hoặc tật nguyền. Tôi có cảm tưởng mỗi nhát cuốc là tự đào huyệt chôn mình, thì làm sao yên tâm cải tạo được? Như vậy tôi xin các ông hãy làm cho chúng tôi yên tâm, đừng bắt chúng tôi phải nói yên tâm cải tạo.”

Tôi đột ngột kết thúc ở đây và đứng yên tại chỗ. Lúc đó cả hội trường bất động, không ai biết phải làm cái gì và bắt đầu như thế nào. Cán bộ thì như bị sét đánh ngang tai, mặt mày tái xám, anh em tù thì ngơ ngác, sung sướng nhưng lo sợ. Tôi vẫn đứng yên tại chỗ.

Chừng 30 giây sau, tự nhiên có một tiếng vỗ tay nghe “bốp” của một anh tù nào đó từ ở cuối hội trường. Thế là một tràng pháo tay vang dội của bạn tù, tưởng chừng vỡ cả nóc hội trường thấp lè tè. Tôi biết anh em sung sướng vì có người đã nói thay những gì ẩn ức trong lòng mà họ không thể nói ra được. Nhưng nghe tiếng vỗ tay, tôi nghĩ thầm: “Đây là tiếng pháo hạ huyệt của chính mình.”

Bàn Tay Sắt Bọc Nhung

Dĩ nhiên là trong lần khai báo đó, bài vở của tôi được chiếu cố kỹ lưỡng hơn. Sau đó tôi chờ đợi bị gọi đi “làm việc”. Một tuần sau cũng chưa thấy gì, rồi những ngày tiếp theo cũng bình thường như không có chuyện gì xảy ra, mặc dù tôi biết đây là sự yên lặng bất thường trước những cơn bão lớn. Đòn cân não này làm tôi cảm thấy mệt và ngày nào tôi cũng mong được gọi đi “làm việc”. Tôi hình dung ra cuộc chạm trán tay đôi sắp tới với cán bộ sẽ rất căng thẳng và đã chuẩn bị lời lẽ phải đối phó. Nhưng tôi đã lầm! Mọi việc không xảy ra như tôi dự đoán.

Mãi gần một tháng sau tôi mới bị gọi lên cơ quan “làm việc”. Anh em trong buồng ai cũng ái ngại cho tôi khi thấy tôi theo cán bộ ra đi. Khi đi qua dãy hành lang các cơ quan, nhìn vào thấy rất nhiều cán bộ áo vàng, áo trắng đang ngồi bên trong, tự nhiên tôi thấy sao con người mình bé nhỏ quá so với bộ máy công an kềm kẹp trong trại này. Lúc đó tôi lại nghĩ tới một bộ máy công an lớn hơn đang kềm kẹp cả một dân tộc, và tư tưởng này làm tôi lắc đầu ngao ngán.

Tôi được đưa vô căn phòng nhỏ có cán bộ giáo dục ngồi chờ sẵn đàng sau chiếc bàn nhỏ, trên bàn có cái bình thủy, một khay trà cũ kỹ và vài ba cái chén nhỏ úp xuống. Trong phòng này cái gì cũng nhỏ, cả người cán bộ cũng thuộc loại nhỏ con. Trên mặt bàn có vài cái bìa đựng giấy tờ mà tôi đoán là trong đó có hồ sơ cá nhân của tôi. “Chào cán bộ!” Tôi lên tiếng khi vừa bước vào. Anh cán bộ tay chỉ cái ghế trống bên kia bàn: “Anh Lễ đấy à, anh ngồi đi.”

Sau khi tôi ngồi xuống, anh ta bắt đầu câu chuyện một cách vui vẻ như đôi bạn thân lâu ngày mới gặp lại nhau. Điều này làm tôi ngạc nhiên. Anh ta hỏi thăm tôi về hết mọi chuyện từ sức khỏe tới nơi ăn chốn ở trong trại, đến việc gia đình, cha mẹ tôi có khỏe không, gia đình sinh sống ra sao. Thái độ lịch thiệp có dụng ý này của anh ta làm tôi thấy ngượng. Tôi biết đây hoàn toàn là một màn kịch, cảnh mèo vờn chuột của những kẻ có bàn tay sắt bọc nhung.

Trong lúc anh ta lúi húi pha chè (nước trà) trong bộ ấm chuyên bằng sứ loại rẻ tiền, tôi có giờ quan sát anh ta kỹ hơn. Người anh ta ngăm ngăm đen, mặt dài không có gì để gây ấn tượng, trán thấp, tóc chải lướt về phía sau rẽ ngôi giữa đỉnh đầu, mắt nhỏ linh lợi và sắc bén. Khi anh ngưng nói để với lấy lon chè, lúc đó gương mặt anh ta có vẽ dữ tợn, nhưng khi nói chuyện gương mặt anh vừa vui vừa tếu! Miệng anh lúc nào cũng mỉm cười, hay đúng hơn là cố gắng làm ra vẻ mỉm cười. Sau khi mời tôi uống chè và hút thuốc lá, anh ta độc thoại một thôi một hồi về các chuyện không đâu rồi anh ta đột nhiên nghiêm nghị hỏi:

-Anh Lễ, anh có biết chúng tôi gọi anh lên đây có việc gì không?

Tôi để ý cách anh ta dùng chữ “chúng tôi” thay vì chữ tôi, cách nói này có vẻ nghiêm trọng. Tôi trả lời đơn giản :

-Báo cáo cán bộ, tôi không biết.

Anh ta nghiêm nét mặt nhìn tôi.

-Thế anh không biết thật à?

Tôi bình thản trả lời.

- Báo cáo cán bộ, làm sao tôi biết được việc của cán bộ làm.

Anh ta yên lặng một lúc, cầm cây bút Bic xoay xoay trong mấy ngón tay tương đối nhỏ nhắn và sạch. Như để tạo thêm sự quan trọng của câu chuyện, anh ta cầm đầu cây bút, chỉ cán bút vào mặt tôi hỏi:

-Anh còn nhớ những gì anh phát biểu vừa rồi tại hội trường không?

Vì đã chuẩn bị trước nên tôi đáp ngắn gọn:

-Báo cáo cán bộ, có chứ, làm sao tôi quên được chuyện đó.

Anh ta làm ra vẻ rất tự nhiên

- Anh Lễ này! Tôi biết anh là người có tài nhưng chẳng qua vì bất mãn cá nhân nên anh nói thế thôi. Chúng tôi không coi chuyện đó quan trọng đâu, chỉ mong anh học tập cải tạo cho nó tốt.

Tôi định nói thêm nhưng anh ta vội quay trở lại dáng vẻ rất thân thiện, mời tôi uống thêm nước chè, nói mấy câu bâng quơ rồi đưa tôi ra cửa. Khi đi ra về tôi đã thầm nghĩ, đâu phải họ chỉ đơn giản gọi tôi lên, cho uống trà hút thuốc lá, mà còn có một cái gì đó rất nghiêm trọng bên trong mà họ chưa muốn nói ra. Tôi lầm bầm trong miệng:“Đúng là thứ cáo già có bàn tay sắt bọc nhung!”

Những ngày cuối năm

Lúc này đã gần tới lễ Giáng Sinh và ai cũng biết người Cộng Sản coi các tôn giáo là kẻ thù, nên lễ Giáng Sinh trong một trại hơn 1000 tù nhân, mà đại đa số là Công Giáo là dịp mà ban giám thị phải cảnh giác đề phòng là chuyện đương nhiên. Đó là chưa kể mấy ngày trước lễ, cán bộ đã phải vất vả đi lùng các buồng khu B để triệt hạ các thứ trang hoàng Noel, như lồng đèn, ngôi sao, hang đá, máng cỏ. Có buồng anh em còn bớt phần ăn sắn (khoai mì) để lấy sắn luộc nhào thành bột dẻo nặn tượng Chúa Hài Đồng đặt nằm trong máng cỏ!

Mấy đêm trước lễ, các buồng khu B lại hát vang lừng những bản thánh ca rất phổ thông như “Hang Bê-Lem” của nhạc sĩ Hải Linh và bài “Cao Cung Lên” của nhạc sĩ Hoài Đức v.v… Những hành động này của anh em Khu B như thách thức, trêu ngươi cán bộ trong trại. Lúc bấy giờ tôi là Linh Mục duy nhất trong trại nên cũng dễ hiểu tại sao tôi trở thành mục tiêu cho họ theo dõi và những tên ăng-ten trong trại bám sát tôi như hình với bóng.

Vào khoảng 2 tuần trước, có lần đội chúng tôi đi phơi lạc trong trại, gần khu gia cư của cán bộ. Lúc ấy là mùa đông và thời tiết rất lạnh. Đi phơi đậu cả ngày đầy bụi bặm nên chiều tối chúng tôi bắt buộc phải tắm, vì không tắm ngứa ngáy không chịu được, mặc dù là nước trong bể lạnh như nước đá. Không ngờ tắm xong đêm đó tôi bị sưng cuống phổi và sốt nằm mê man bất tỉnh. Qua ngày hôm sau tôi té xỉu giữa buồng trước lúc điểm danh ban chiều và anh đội trưởng Nguyễn Trọng Ngạn đã phải cõng tôi trên vai đưa đi bệnh xá của trại. Tôi vẫn nhớ ơn anh Ngạn mãi về việc này. Khá lâu sau tôi mới hồi phục và có thể đi lại, nhưng quá suy nhược và đi lại phải chống gậy nên chưa có thể theo đội đi lao động, mặc dù đội chúng tôi chỉ lao động bên trong trại.

Đau đớn hơn nữa, lúc đó tôi được thư chị tôi cho hay Má tôi vừa mất hôm tháng Tám. Trong thư chị nói từ khi hay tin tôi bị vào tù má ngày nào cũng nhắc ghế ra ngồi dưới bóng cây dừa trước ngõ để đợi tôi về. Ngày má không còn sức ra ngồi đó nữa là ngày cuối trong đời. Má tôi mất đêm đó. Trong lúc má lìa đời, người anh lớn của tôi cũng đang ở tù tại trại Bến Giá trong Nam.

Đọc thư chị xong, tôi ngồi chết lặng như một pho tượng. Lạ một điều, lúc đó tôi muốn khóc nhưng không chảy được một giọt nước mắt nào! Sau này tôi mới biết, sự đau đớn đã vượt quá những cảm xúc của cơ thể, biến tôi trơ ra như đá!

Có nhiều anh em, trong đó có mấy người Công Giáo thấy hoàn cảnh tôi yếu nhược đến thăm hỏi an ủi, có người còn cho tôi ít thức ăn, có một anh cho tôi hộp sữa. Tôi muốn nói chi tiết như vậy, vì lúc bấy giờ không một sự việc nhỏ nhặt nào có liên quan tới tôi mà lọt qua được cặp mắt cú vọ (nghĩa đen) của Đặng Báo, một anh chàng người Công Giáo chuyên theo dõi tôi để báo cáo.

Vì những lời báo cáo của anh ta, nên vào lúc xế trưa ngày 24 tháng 12, cán bộ an ninh gọi tôi lên làm việc. Khi tôi vừa ngồi xuống, cán bộ hỏi tôi quan hệ với các anh tù khác trong trại như thế nào trong mấy ngày qua, những ai tới lui với tôi, họ tới với mục đích gì, họ cho tôi những gì, ai cho hộp sữa v.v… Cuối cùng anh ta cười nhếch mép hỏi tôi:

- Anh Lễ, anh cho tôi biết chủ trương phá trại đêm nay của anh ra sao?

Qua câu hỏi này, tôi biết họ nghĩ gì về tôi, nhưng câu hỏi đó cũng hàm chứa một sự giễu cợt, mỉa mai, dựa trên lời báo cáo láo lếu. Tôi nổi nóng trả lời:

-Báo cáo cán bộ, nếu cán bộ đã biết thì đêm nay sẽ không có gì xảy ra vì đó là do những người báo cáo láo. Còn nếu tôi đã có ý định gì, không bao giờ cán bộ có thể biết được. Xin lỗi cán bộ cho tôi nói điều này, tôi chỉ thua cán bộ ở cái vị thế, chứ tôi không thua trí cán bộ đâu. Cán bộ đừng dùng câu hỏi đó để sỉ nhục tôi!

Bị phản ứng quá bất ngờ, anh cán bộ tỏ ra bối rối và quay qua nói chuyện khác. Qua cuộc tra vấn này tôi biết là tình thế đã tới lúc rất căng thẳng. Suốt buổi chiều áp lễ Giáng Sinh tôi suy nghĩ mãi, thử suy đoán xem những gì có thể xảy ra và cảm thấy dường như có dấu hiệu bất thường.

Lúc 6 giờ chiều, sau khi phát thức ăn, khu B được lệnh đổi buồng. Có một số anh tù mới, được chuyển vào buồng 6 của tôi, thay cho một số được chuyển đi buồng khác. Nói tóm lại cả ngày 24 tháng 12 năm đó, bầu khí trong trại Nam Hà rất căng thẳng. Tôi có linh tính là sẽ có một biện pháp mạnh xảy ra, trước tình trạng gần như nổi loạn của nhóm tù khu B trong những ngày qua.

Đêm Thánh Vô Cùng

Lúc ấy vào khoảng 10 giờ đêm, sau tiếng kẻng báo giờ đi ngủ, tôi ngồi trong màn âm thầm dâng Thánh lễ Chúa Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh, cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, cũng là một ngày đặc biệt đối với những tín đồ Thiên Chúa Giáo. Đối với tôi, là một Linh Mục Công Giáo, thì ngày lễ đó lại mang một tầm vóc và ý nghĩa quan trọng hơn. Những ngày trước, trong lúc có dịp trà trộn với anh em trong trại, tôi đã nhắc nhở và giúp cho anh em Công Giáo, cả khu A lẫn khu B, xưng tội và chuẩn bị tâm hồn trong dịp này.

Chúng tôi thông báo cho nhau biết đúng vào đêm 24 tháng 12, sau khi trại đánh kẻng đi ngủ, giờ đó tôi sẽ dâng Thánh lễ và xin anh em cùng hướng về buồng 6, là buồng của tôi để hiệp ý dâng lễ. Mặc dù trong buồng cũng có một số anh em Công Giáo, nhưng không ai dám tới chỗ tôi để dự lễ vì những ngày này các tay làm ăng-ten theo dõi tôi rất gắt. Một điều thật trớ trêu, chính người được cán bộ giao công tác theo dõi từng bước đi, từng lời nói của tôi lúc bấy giờ lại là một anh chàng Công Giáo.

Vừa dâng lễ xong, trong lúc tôi đang lúi húi thu dọn các thứ cho vào túi vải thì bất thần nghe có tiếng chìa khóa lách cách bên ngoài. Tôi giật mình lắng tai nghe. Rõ ràng cán bộ đang mở cửa buồng tôi! Tiếng chìa khóa khua nghe rất mạnh bạo và hối hả. Có điều gì rất đặc biệt khác với tiếng mở cửa thông thường của cán bộ điểm danh hàng ngày.

Kinh nghiệm cho tôi biết, mỗi lần cửa buồng giam được mở đột ngột vào ban đêm như thế này là luôn luôn có việc chẳng lành. Lần này lại có vẻ rất khác thường, nhất là sau những biến động căng thẳng trong trại vừa rồi. Tự nhiên tôi có linh tính như có chuyện liên quan tới tôi. Tôi có lý do để suy đoán như vậy vì từ khi nhập trại Nam Hà hơn 8 tháng qua, có quá nhiều sự việc dính líu tới tôi. Chỉ nói riêng những gì vừa mới xảy ra trong ngày 24 tháng 12 này từ sáng tới giờ, nhất là họ hạch hỏi tôi về âm mưu phá trại cũng đủ cho tôi có lý do để suy đoán như vậy.

Nhận biết có chuyện bất thường, tôi lẹ tay thu gọn đồ đạc, chồm người nhìn xuống lối đi giữa buồng. Qua ánh sáng lờ mờ của bóng điện giữa buồng, tôi thấy một số cán bộ đang đứng lố nhố ở lối đi. Có việc gì rất nghiêm trọng sắp diễn ra. Bỗng một giọng cán bộ dõng dạc vang lên giữa buồng:

- Tất cả các anh vắt màn lên và ngồi yên tại chỗ. Khi nghe cán bộ gọi tên anh nào, hãy lấy hết “nội vụ” và khẩn trương bước ra khỏi buồng!

Cả buồng tự nhiên chộn rộn. Có tiếng xào xạc từ đầu tới cuối dãy của hơn 60 tù nhân trong buồng, tất cả thi hành như cái máy. Trong chốc lát, các màn được vắt lên và chúng tôi ngồi ngay hàng thẳng lối tại chỗ nằm của mình chờ đợi. Do phản ứng tự nhiên, trống ngực tôi đập càng lúc càng mạnh hơn, cho dù tôi cố muốn bình tĩnh cũng không được.“Anh Nguyễn Hữu Lễ!” Tên tôi được gọi nghe sang sảng trong đêm.

Mặc dù đã có linh tính và sẵn sàng chờ đợi, nhưng khi nghe gọi đến tên, tôi cũng giật thót người và bật dậy như chiếc lò xo. Tôi vội tháo màn, cuốn chăn chiếu, áo quần và tất cả đồ đạc cho vào bao bị. Nói là đồ đạc nhưng thực sự lúc đó tôi chẳng có gì ngoài cái lon Guigoz, ống điếu thuốc lào và một vài món linh tinh.

Lúc ấy nghe có tiếng lạo xạo của rất nhiều người bên ngoài. Tôi nhìn vội qua song cửa sổ, thấy trong sân có nhiều ánh đèn pin quét qua quét lại, có cả tiếng lách cách của súng ống chạm nhau, tiếng chân người chạy tới chạy lui nhộn nhịp một cách bất thường.“Anh Nguyễn Sỹ Thuyên!” Giọng cán bộ lúc nãy lại vang lên một cách dõng dạc. Khi nghe gọi tên anh Thuyên, tự nhiên tôi cảm thấy được “an ủi” vì ít ra cũng có người đồng cảnh. Tư tưởng này có hơi ích kỷ, nhưng thực sự là như vậy. Khi con người mình phải lâm vào cảnh khốn khổ nào mà có người khác cùng chung số phận sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Bạn hãy tưởng tượng một lớp có 50 học sinh đi thi mà một mình bạn bị rớt, bạn sẽ thấy buồn hơn là có vài người khác cũng rớt như bạn.“Khẩn trương lên! Mang tất cả nội vụ và bước ra ngoài. Khẩn trương!” Giọng quát tháo càng lúc càng mạnh.

Tôi quay nhìn anh Thuyên, trông anh đến tội nghiệp. Lúc ấy anh đã 50 tuổi, dáng người nhỏ thó thấp lùn, đầu tóc bạc phơ làm anh có vẻ già trước tuổi. Bộ râu màu cháo lòng vì ám khói thuốc lào càng làm anh trông tàn tạ hơn. Tay chân anh quờ quạng trong trạng thái mất bình tĩnh khi quơ các “nội vụ” nhét vào túi xách không ra cái túi xách, nhét vào lại rơi ra. Buồng giam có tầng gỗ bên trên và cả hai chúng tôi cùng nằm ở tầng trên đó. Tôi bám cây cột gỗ có đóng mấy cục gu, leo xuống đất, trong khi các anh em bên cạnh giúp chuyển đồ đạc cho.

Khi bước xuống tới sàn nhà, tôi chạm trán với một số cán bộ lạ mặt đang đứng đợi sẵn, mặt lạnh như tiền. Họ nhìn vào mặt tôi chăm chăm và không nói không rằng. Trông cái cách họ nhìn, tôi có thể đọc được ý nghĩ trong đầu của ho:“À! Thì ra mầy là thằng cha cố nguyễn hữu lễ (viết chữ thường) đây à?!”

“Khẩn trương lên nào!” Tiếng quát to lại giục giã trong khi tôi cố vẫy tay chào các anh em trong buồng, lúc ấy đang ngồi nhìn hai anh em tôi một cách ái ngại.

Cảnh chia tay nào cũng buồn, nhất là chia tay trong tù càng xúc động hơn, vì ngầm nói lên là có thể không bao giờ sẽ có dịp gặp lại. Tôi theo sau anh Thuyên lẫn vào giữa đám cán bộ, khệ nệ ôm đồ đạc bước ra khỏi buồng đi vào trong bóng đêm bên ngoài. Lúc ấy tôi rất hoang mang lo lắng, chưa biết những gì đang chờ đợi tôi trong màn đêm âm u đó, nơi mà tôi vừa nghe những thứ âm thanh đầy đe dọa và chết chóc.

Tôi vẫn thường nghe nói có nhiều nơi, một vài tù nhân bị dựng dậy vào ban đêm, dẫn ra khỏi buồng và không bao giờ trở lại. Khi đứng chơi vơi trong bóng đêm dầy đặc và giá buốt bên ngoài, tôi cố giương mắt nhìn khắp các buồng trong trại như là cử chỉ giã từ. Giã từ hơn 1000 anh em đồng cảnh cả khu A lẫn khu B của trại Nam Hà mà tôi đã có dịp sống chung và chia sẻ buồn vui trong hơn 8 tháng qua. Lòng tôi dâng lên nỗi chua xót!

Khi bước ra khỏi buồng, tôi mới thực sự chạm mặt với bàn tay sắt của những người Cộng Sản. Bàn tay sắt trần trụi của sự đe dọa và mang tính chất tiêu diệt. Màn đêm u tối bên ngoài làm tôi rợn người. Qua ánh đèn bấm chớp tắt khắp nơi trong sân, tôi càng kinh ngạc hơn khi thấy đám đông cán bộ súng ống đầy người đứng đầy trong sân trước buồng. Tiếng người nói lộn xộn, tiếng chỉ thị, tiếng chân người chạy tới chạy lui một cách vội vã, tiếng súng ống chạm nhau, tiếng còng sắt rổn rảng trong đêm tạo thành một thứ âm thanh ghê rợn.

Tôi chưa kịp phản ứng thì bị một ánh đèn bấm chói chang chiếu thẳng vào mặt, kèm theo một tiếng quát thật to bảo tôi bỏ các các đồ đạc trên tay xuống. Một anh cán bộ bước tới còng 2 tay tôi với chiếc còng số 8. Trong mấy năm qua tôi không còn xa lạ gì với chiếc còng loại này, nhưng đêm nay tôi thấy rợn người khi bị còng 2 tay ra sau. Bỗng dưng tôi thấy choáng váng khó chịu và buồn nôn.

Lúc mới ra sân, tôi ngỡ là chỉ có buồng 6 của tôi có biến động, không ngờ nhìn qua các buồng, thấy lúc đó cũng lộn xộn và đầy nghẹt cả người. Tôi đoán là trong khu B cũng có người bị dẫn ra sân như tôi và anh Thuyên. Tôi nhắm mắt cúi đầu lặng yên vì sắp phải từ giã anh em để ra đi và chưa biết là sẽ đi về đâu. Tôi nghĩ lúc này anh em trong buồng của tôi đang hoang mang, ngơ ngác và lo ngại cho số phận của hai người bạn vừa bị tách ra khỏi đàn.

Bài Thánh Ca Giáng Sinh

Một lúc sau, tôi bị dẫn đi về phía sân trại, có anh cán bộ mang súng dài đi sau. Khoảng sân lớn giữa trại lúc này rất đông người đang đứng láo nháo, hỗn độn như một chợ trời. Tôi thoáng thấy bóng dáng một số anh tù cũng bị còng tay đang tiến lại phía tôi. Tập trung thành nhóm giữa sân trại xong chúng tôi được tháo còng. Lúc gặp nhau tôi không ngạc nhiên vì vài người có mặt trong lúc này đã dính líu trực tiếp trong vụ Tàu Sông Hương với tôi, một số khác là những gương mặt nổi trong những vụ chống đối trong trại, một số khác đã đánh đập bọn ăng-ten trong mấy tháng nay.

Tới lúc có lệnh xếp hàng tôi mới biết có tất cả 20 người. Chúng tôi được lệnh leo lên chiếc xe ca đậu chờ gần cổng vào trại và khi đã lên xe xong, bị còng tay từng đôi một. Sau khi cán bộ kiểm tra lại lần chót và dặn dò luật lệ đi đường, xe bắt đầu chuyển bánh, lúc bấy giờ quảng 11 giờ đêm.

Khi xe bắt đầu chạy, chúng tôi không ai bảo ai cùng nhau hát thật to bài Thánh Ca Giáng Sinh, “Hang Bê Lem”. Bài Thánh ca Giáng Sinh rất phổ biến này của nhạc sĩ Hải Linh tôi đã hát rất nhiều lần, nhưng có lẽ đây là lần tôi hát một cách sốt sắng và cảm động nhất. Tiếng hát rền vang của 20 người tù phá tan màn đêm u tối của trại tù Nam Hà trong đêm Giáng Sinh 1977, một lễ Giáng Sinh đặc biệt đáng ghi nhớ trong đời tôi. Trong khi đó, chiếc xe chở chúng tôi đang nặng nề bò theo con đường có nhiều ổ gà như một con rắn khổng lồ bị thương, đang cố lết đi ẩn mình thoát nạn.

Sau khi bài thánh ca chấm dứt, chúng tôi đã rời trại một đỗi và ngồi yên lặng nhìn nhau như để trấn an và tìm sự nương tựa cho những ngày tháng tới. Chiếc xe này sẽ đưa chúng tôi tới đâu, lúc đó chưa ai biết, nhưng căn cứ vào cách chúng tôi bị tống lên xe và nhìn qua 20 khuôn mặt này, tôi có thể kết luận: nơi sắp tới phải là một nơi đáng sợ hơn trại Nam Hà mà chúng tôi vừa bỏ lại sau lưng.



Tôi Phải Sống: 5 – Đường Lên Cổng Trời

toiphaisong_tua2

5- Đường Lên Cổng Trời

Chiếc xe khách cũ kỹ và ì ạch như một con trâu già dừng lại trong sân một trại tù xa lạ, lúc ấy có lẽ đã qua nửa đêm, hoặc đã 1, 2 giờ sáng. Giờ này đêm qua, đêm Giáng Sinh 1977, xe chúng tôi đang chạy ngang cầu Long Biên ở thủ đô Hà Nội.

Đêm tối phủ mờ những cảnh tượng chung quanh làm tôi chẳng thấy được gì nhiều. Lúc nãy, khi xe chạy qua khu nhà cán bộ và dừng lại một chập, sau đó chạy vào qua cổng trại thì tôi biết đã tới nơi. Từ trong xe nhìn ra, tôi thấy có quãng 5, 6 cán bộ đứng gần bên xe. Họ mặc áo bông dầy cộm, đầu đội mũ có che tai và cột lại dưới cằm giống như lính Liên Xô. Nhìn cách những người cán bộ ăn mặc, tôi biết là bên ngoài trời đang lạnh khủng khiếp. Họ mang bao tay và cầm đèn bấm, có người cầm quyển sổ. Một lúc sau nhóm tù nhân 20 người chúng tôi từ trại Nam Hà vừa chuyển lên được lệnh xuống xe, tay vẫn còn bị cùm dính nhau từng đôi một.

Cái Lạnh Khủng Khiếp

Vừa bước ra khỏi xe, bất ngờ tôi chạm ngay với cái lạnh kinh hồn! Lúc còn trên xe nhìn ra thấy cách ăn mặc của các cán bộ và nhất là khi thấy hơi khói ở miệng thoát ra ngùn ngụt mỗi khi họ nói, tôi biết là bên ngoài trời rất lạnh nên đã cẩn thận cài khuy áo, quấn thêm lên cổ chiếc khăn lông. Nhưng đầu và chân vẫn để trần vì lúc đó tôi không có mũ và giày, chỉ mang đôi dép râu do trại Nam Hà phát.

Khi vừa bước ra khỏi xe, tôi nghe choáng váng và bật ngược về phía sau như có một cú đấm vô hình cực mạnh tống vào mặt một cách quá bất ngờ. Thì ra đó là làn khí lạnh mà tôi va chạm lần đầu tiên ở bên ngoài. Tôi chưa kịp hoàn hồn để nhận biết hết tính cách kinh khủng của cái lạnh, bỗng nhiên tôi cảm thấy mình như đang trần truồng! Sao lạ kỳ thế này? Tôi nhớ là mình có mặc áo quần cẩn thận, có mặc thêm cái áo vệ sinh bên ngoài bộ đồ xanh của trại, có khăn lông quấn cổ nữa, nhưng tự nhiên các thứ vải vóc trên thân thể tôi biến đi đâu hết để tôi đứng trần truồng giữa cái lạnh khủng khiếp này?

Nhìn lại, tôi vẫn thấy còn quần áo dính trên người, nhưng lạ một điều là trong khoảnh khắc toàn thân tôi trở nên tê dại, không còn cảm giác nữa. Áo quần có đụng chạm vào cơ thể, nhưng dường như tôi không biết, chỉ nhìn thấy nó còn trtên thân thể tôi.

Trong lúc đứng đó tôi cố mở miệng ra định nói vài câu với người bạn đang bị còng chung, nhưng hàm tôi cứng lại như bị khóa nên không nói ra lời! Lúc đó hai đầu gối tôi tự nhiên biến đi đâu, để đôi chân tôi cứng lại như hai khúc gỗ thẳng tắp. Thì ra cái lạnh không được đề phòng trước đã đánh tôi ngã gục, đã làm tê dại hết các tế bào xúc giác và làm hệ thần kinh tôi hoạt động bấn loạn.

Ngày xưa khi đọc sách báo, tôi có thấy nói đến cái lạnh “chết người”, nhưng lúc đó tôi không hiểu, chỉ nghĩ đó là cách nói trong văn chương chữ nghĩa. Nhưng chỉ trong mấy phút vừa qua, tôi đã hiểu và có lẽ tôi còn hiểu rõ ràng hơn những tác giả đã viết lên câu“cái lạnh chết người”!Tôi đang thực sự đụng chạm tới cái lạnh chết người, khi đang đứng chơi vơi trong sân một trại tù xa lạ giữa đêm khuya này.

Lúc rời trại Nam Hà ra đi trong đêm Giáng Sinh hôm qua, thời tiết ở đó cũng đã khá lạnh nên tôi lấy cái áo vệ sinh do trại phát mặc thêm bên ngoài bộ đồ xanh của trại. Mặc như thế cũng đủ với cái lạnh vào quãng 8 độ C của vùng núi đá vôi Nam Hà. Thực ra, có muốn mặc thêm áo ấm cũng chẳng có đâu mà mặc. Trong suốt 24 giờ qua, chúng tôi vật vã lăn lộn trên chiếc xe già nua lúc nào cũng ì ạch bò lết leo lên những dốc núi cao.

Có lúc xe chạy giữa vách đá cheo leo, một bên là núi, bên kia là thung lũng sâu, nhìn xuống phát chóng mặt. Trên đường đi, vì bị dằn vật nhiều quá nên tôi cảm thấy nóng và có lần đã phải cởi áo vệ sinh ra cho dễ chịu, nhưng khi xe lên tới độ cao và nhất là càng về chiều càng lạnh, nên tôi mặc áo ngoài cẩn thận. Lúc trời về khuya, cơn lạnh dữ dội ập đến, tôi chỉ còn biết co ro ngồi dựa vào những gì có thể, để tìm chút hơi ấm. Dĩ nhiên lúc đó tất cả cửa gió trên xe đều đóng lại. Hơn nữa, nhờ có đông người, 20 người tù và 5 cán bộ áp tải, nên hơi người cũng làm tôi cảm thấy ấm hơn đôi chút. Lúc ở trên xe, ai có muốn mặc thêm quần áo cũng không có, vì đi đường mỗi người chỉ có một túi xách nhỏ, còn tất cả “nội vụ” đều cho vào bao bị chất đống trong xe, khi tới nơi mới lấy ra được.

Thì ra cái lạnh của trại Nam Hà không thấm vào đâu so với cái lạnh khủng khiếp nơi tôi vừa đặt chân tới, mà tôi đoán là dưới 0 độ khá xa. Lúc đó tôi chẳng biết mình đang ở đâu và trại mà chúng tôi vừa tới tên là gì. Chỉ có một điều tôi biết được là trại này nằm về hướng Bắc, cách trại Nam Hà một ngày đi xe (24 tiếng) và ở trong một vùng núi rất cao, vì xe chở chúng tôi lúc nào cũng ì ạch leo dốc; tiếng máy gầm inh ỏi nhả khói đen um tùm và thỉnh thoảng phải ngừng nghỉ để đổ thêm nước vì máy xe quá nóng.

Đêm Giá Băng

Lúc này trời đã quá muộn về sáng, vả lại thời tiết lạnh khủng khiếp nên vừa xuống xe là chúng tôi được tháo còng ngay và nhận lại “nội vụ”, sau đó được đưa vào một buồng kế bên nghỉ qua đêm. Mặc dù mới đứng trong sân chừng 15 phút nhưng mặt tôi lạnh và cứng như tảng nước đá, đầu nhức như muốn vỡ đôi ra, hai tai đang dính vào đầu cứng như hai miếng bánh đa mỏng giòn, nếu dùng tay búng mạnh sẽ bị vỡ tan và rơi xuống đất. Đôi chân cứng đờ và thẳng tắp không còn bước đi được nên một anh bạn trẻ phải giúp dìu tôi vào buồng.

Đó là một buồng giam nhỏ, có lối đi ở giữa và hai bên có sàn ván để nằm, có tầng bên trên. Vào buồng xong việc đầu tiên là chúng tôi xổ hết bao bị ra tìm thứ gì có thể mặc được thì mặc hết vào người. Đêm đó tôi không tài nào ngủ được vì quá lạnh, mặc dù sau một ngày đường lăn lộn mệt nhọc. Tôi cố thu người lại càng nhỏ càng tốt, nhưng nằm co thế nào đi nữa vẫn thấy da thịt mình còn quá nhiều chỗ phải đụng chạm với khí lạnh bên ngoài.

Lúc nằm yên tôi hình dung ra “con rét” là một loài côn trùng bé tí ti nhưng có răng thật sắc, đang bò trong cơ thể tôi, chui vào các lỗ chân lông, đi vào hơi thở, chui vào các mạch máu và đang gặm nhắm từng tế bào bên trong cơ thể tê dại của tôi đang cuộn tròn như con sâu. Lúc đó tôi mới nhớ lại là các cán bộ ở đây ai cũng mặc áo bông dày cộm, đầu đội mũ có rèm che tai gần kín mặt, tay mang găng len hoặc da. Với cái lạnh khủng khiếp này, các loại quần áo bằng vải hoặc bằng len, cho dù có mặc bao nhiêu lớp trên người cũng không hề thấm vào đâu. Phải mặc đồ bông mới chống lạnh được.

Nằm một chập, hình như ai nấy đều không chịu thấu cái lạnh bất ngờ này, nên cả đám chúng tôi tự động ôm nhau, người này rúc đầu vào người kia như lứa chó con. Tất cả 20 con nằm trong ổ. Chúng tôi đâu ngờ phải chịu cái cảnh lạnh “chết người” này. Nếu biết trước, ít ra chúng tôi cũng đã chuẩn bị thứ gì đó để chống lạnh trong hoàn cảnh có thể chuẩn bị được. Đêm đó ai cũng thắc mắc ở đây là đâu mà lạnh thế và trại này là trại gì?

Sáng hôm sau, cả đám chúng tôi trỗi dậy trong cơn mệt rã rời. Một phần vì bao nhiêu nhiệt lượng trong người đã được đưa ra dùng để chống lại cái lạnh khủng khiếp bên ngoài, phần nữa lại vừa mất ngủ sau một ngày bị dằn xốc suốt 24 tiếng đồng hồ trên xe. Sáng ngày tôi mới để ý căn buồng này rất bẩn thỉu. Sàn ván cũ kỹ và sứt mẻ nhiều nơi, có hai cửa sổ nhỏ chắn song sắt. Tầng dưới cách mặt đất quãng 50 phân và tầng trên cách tầng dưới chừng hơn một thước, như vậy người nằm tầng dưới không thể đứng thẳng người, chỉ ngồi hoặc bò lết, nếu không sẽ bị va đầu vào sàn trên.

Lúc sáng ngày, bên ngoài sương mù đã phủ dày đặc, nên chúng tôi không nhìn thấy gì, chỉ loáng thoáng thấy có bức tường bao bọc trước sân buồng, có cánh cửa mở vào sân và một nóc nhà làm nhà ăn, lợp lá thật bệ rạc nằm phía sau. Nhà cửa ở đây xấu xí và dơ bẩn, không như trại Nam Hà mà chúng tôi vừa bỏ ra đi. Sáng ngày tôi cảm thấy bớt lạnh, có lẽ nhờ số chăn màn và hơi ấm thân thể của 20 con người trong phòng đóng kín đêm qua. Bên ngoài trời vẫn còn âm u vì sương mù vây kín, mặc dù chúng tôi đoán là bình thường giờ này mặt trời đã lên cao. Mãi một lúc rất lâu mới nghe có tiếng động bên ngoài làm chúng tôi giật mình nhìn ra, nhưng chưa thấy ai.

Thình lình có dáng người bước rất nhanh vào sân buồng. Người mới xuất hiện này vóc dáng to cao, mặc áo bông che kín cả cổ, đội mũ có vải che tai, mang găng tay và cầm một chùm chìa khóa khá to có đến mấy chục chiếc. Người này tới bên cửa sổ nhìn vào, hai tay đang xoa vào nhau làm chùm chìa khóa kêu rổn rảng. Con người lạ mặt này có thân hình đã to, lại mặc áo quần dày cộm trên người, càng làm cho con người ấy to hơn.

Trại Quyết Tiến “Cổng Trời!”

Khi người đó đứng bên ngoài nhìn vào, chúng tôi bên trong cửa sổ lên tiếng:

-Chào cán bộ.

Người bên ngoài lên tiếng đáp lại:

-Tôi không phải là cán bộ, tôi là ‘Trật Tự’!

Khi nói, miệng anh nhả khói um tùm như người đang hút thuốc lá. Đó là lần đầu tiên tôi nghe hai tiếng “trật tự”, vì ở trại Nam Hà không có anh tù làm ‘trật tự’ như ở đây. Khi biết anh cũng là tù, chúng tôi dạn dĩ hơn nên bắt đầu tìm hiểu những điều chúng tôi thắc mắc suốt đêm qua. Chúng tôi thay nhau hỏi, nhưng câu hỏi đầu tiên mà hình như ai cũng nói ra cùng lúc là

-Trại này là trại gì, ở tỉnh nào?.

Anh tù trật tự này mặc dù không phải là con người vui vẻ, nhưng tỏ ra là một người dễ chịu, anh đáp nhanh:

-Các anh đang ở trại ‘Quyết Tiến Cổng Trời’ trong tỉnh Hà Tuyên.

Vì chúng tôi là người miền Nam chưa biết vị trí các tỉnh miền Bắc nên có anh hỏi:

- Vậy tỉnh Hà Tuyên nằm ở đâu hả anh?

- Nằm giáp ranh Trung Quốc, và trại này cách biên giới Trung Quốc 10 cây số!

Lúc đó 20 người chúng tôi thi nhau hỏi làm anh tù trật tự bên ngoài không biết trả lời ai. Tôi hỏi to:

- Thế trại này có tù chính trị miền Nam không anh?

Anh chưa kịp trả lời thì có một số cán bộ bước vào sân và anh trật tự làm thinh. Tôi nhận ra trong số cán bộ vừa bước vào có Thiếu úy Lạc ở Nam Hà, người có trách nhiệm áp tải chúng tôi lên trại này. Sau khi đứng ngoài sân nói gì với nhau một lúc, anh trật tự tới mở cửa buồng của chúng tôi. Một cán bộ cấp thiếu úy, người khá nhỏ bước vào buồng ra lệnh cho chúng tôi mang hết “nội vụ” ra sân để khám xét.

Việc kiểm tra này là thủ tục thông thường khi tù nhân chuyển tới một trại mới. Chúng tôi khệ nệ tay xách nách mang tất cả những gì mình có ra và theo một hành lang hẹp dẫn ra sân trại, nơi chúng tôi xuống xe đêm qua. Thời tiết bên ngoài lạnh hơn tôi tưởng. Tôi bước đi vừa rét vừa run, mặc dù tôi đã mặc vào người thêm mấy lớp quần áo, nhưng với cái lạnh ở đây, quần áo vải chẳng thấm vào đâu.

Ra tới nơi đã thấy bày sẵn một bàn nhỏ và có một số khá đông cán bộ đang chờ sẵn. Tất cả đều mặc áo bông và đội mũ “Liên Xô”. Cuộc khám xét bắt đầu. Theo quy luật trại, tiền bạc và các đồ quý giá đều phải gửi lưu ký. Riêng áo quần có thể gửi lưu ký hoặc giữ lại dùng trong trại tùy ý, nhưng nếu giữ lại đưa vào trại phải bị đóng dấu “Cải Tạo” bằng hắc ín thật to sau lưng áo và trên ống quần. Đóng dấu như vậy coi như bộ đồ ấy đã bỏ đi, nên nhiều người tiếc rẻ và muốn gửi lưu ký để khi ra về có đồ mới mà mặc.

Động Lòng Trắc Ẩn

Trong lúc đang kiểm tra và có mấy anh định gửi lưu ký quần áo, nhưng cán bộ Lạc bước tới gần nói nhỏ, giọng khá xúc động:“Ở đây rét lắm, các anh giữ lại quần áo mà dùng, đừng gửi lưu ký làm gì!” Một lúc sau, khi đã khám xét và bàn giao xong, anh tiến lại nhóm chúng tôi nói nhỏ, không để cho cán bộ trại Quyết Tiến nghe thấy:“Ở trại Nam Hà sướng như thế mà các anh không chịu, bây giờ phải lên đây, tôi chẳng biết nói sao!? Thôi các anh ở lại, cố gắng cải tạo và nhớ giữ gìn sức khỏe”. Nói xong anh quay đi thật nhanh. Tôi rất cảm động khi nghe cán bộ Lạc nói những lời đó.

Sau 2 năm bị bắt, đó là lần đầu tiên tôi nhận thấy được lòng nhân nơi một người cán bộ. Anh cảm thấy ái ngại cho số phận chúng tôi, những con người mà anh biết là đang đi vào cõi chết. Qua câu nói bảo đừng gửi lưu ký áo quần, người cán bộ có ý nhắn là không bao giờ có dịp nhận lại nữa, và câu nói sau cùng trước lúc chia tay đã cho chúng tôi biết phần nào về số phận của mình. Ngay hôm đó nhóm 20 người chúng tôi được chia ra làm hai, 14 người nhập vào đội lao động và 6 người lên khu kiên giam, trong đó có tôi.

Khu kiên giam là một nhà dài bằng đá tối om, có hành lang nhỏ ở giữa, chia ra mỗi bên 5 buồng hẹp, mỗi buồng quãng 3 thước bề ngang và có sạp nằm bằng ván hai bên cho 2 người. Trên tường phía ngoài có cửa sổ nhỏ và cầu tiêu kế bên. Hằng ngày có anh tù đến gánh phân nơi hầm nhà cầu thông ra phía ngoài. Lúc tôi tới đó đã có sẵn mấy người trong khu kiên giam.

Tôi vào chung buồng với anh Trần Phụng Tiên, các buồng bên có các anh Nguyễn Sỹ Thuyên, Ngô Đình Thiện, Mai Ngọc Y và Vũ Văn Vang. Mấy ngày sau nhờ liên lạc hỏi thăm anh em các buồng bên cạnh và hỏi chuyện anh tù gánh phân, chúng tôi được biết thêm về trại này.

Trại Quyết Tiến này nằm sát ngay biên giới Trung Quốc, thuộc huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Tuyên, tức là hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang gọi nhập lại. Trại này có biệt danh là trại “Cổng Trời” vì 2 lý do. Thứ nhất theo nghĩa đen, đây là trại tù nằm ở cao độ 2,500 thước trên mặt biển, cao gần đụng trời. Lý do thứ hai, vì đây là trại trừng giới dành cho các tù chính trị thuộc diện bất trị, lên đây một thời gian rồi về… trời! Do đó, trại này được coi như một phòng chờ đợi trước khi “về trời”.

Trong trại cũng có một số tù hình sự có án nặng như tử hình giảm xuống chung thân, hoặc nhẹ hơn thì 20 năm, 18 năm, 15 năm v.v… Những người bị kêu án dưới 10 năm không phải lên đây. Số tù hình sự còn có hy vọng được tha sau khi mãn án, nhưng không mấy người sống sót vì sự khắc nghiệt của thiên nhiên và của con người trong trại này. Cuối cùng rồi phần đông họ cũng đã bỏ xác ở đây trước khi mãn án.

Khi chúng tôi tới, trong trại đang có khoảng 350 tù hình sự với gần 40 tù Biệt Kích và 5 người tù miền Nam từ các trại khác mới đưa lên. Đó là các anh Đặng Văn Tiếp, một cựu Dân biểu từ trại Hà Tây đưa lên trước chúng tôi 1 tháng cùng với các anh Nguyễn Thái Quân và Hoàng Trọng Hanh. Hai anh Nguyễn Văn Phước và Nguyễn Văn Trình là Sĩ quan cấp Tá từ đảo Guam trở về trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín cũng từ một trại nào khác vừa bị đưa lên đây.

Các anh em tù Biệt Kích là những người nhảy toán ra Bắc từ những năm 1962-1963, họ bị bắt từ đó và bị giam nhiều nơi trước khi tập trung về trại này. Khi chúng tôi tới đây, các anh em Biệt Kích mà trong tù chúng tôi gọi tắt là BK đã bị giam 15 năm rồi! Tập thể tù Biệt Kích là một tập thể rất tốt, cuộc sống của anh em rất đáng kính phục. Họ biết đoàn kết và nâng đỡ nhau trong cảnh lao tù. Trong nhóm có anh Nguyễn Hữu Luyện là người rất có tư cách. Lúc bị bắt anh Luyện mang cấp bậc Đại úy, cấp bậc cao nhất giữa anh em nên được anh em kính nể và vâng phục, mặc dù anh không là đội trưởng. Lúc đó các anh Biệt Kích ở chung một đội trong khu O và chuyên làm nghề mộc, có những anh tay nghề rất cao.

Anh tù làm trật tự mà chúng tôi gặp trong ngày đầu tên là Tuấn, nguyên là bộ đội. Anh là một người hiền từ, ít nói. Sau khi nhóm Nam Hà chúng tôi lên một thời gian, có một số từ các trại khác lần lượt bị đưa lên đây. Trong đó có 7 linh mục, làm thành tổng số là 48 người, mà về sau này chúng tôi gọi là “Nhóm 48 Quyết Tiến”. Theo cách hiểu lúc bấy giờ, đây là những người bị liệt vào đội trừng giới và bị kết án tử hình, được lựa ra từ nhiều trại khác nhau ở miền Bắc. Trong thực tế số người này có xứng đáng chịu số phận đó hay không, và sự lựa chọn có đúng “tiêu chuẩn” hoặc chính xác tới mức nào còn là vấn đề khác.

Cơn Đói Trong Cảnh Rét

Lúc ở kiên giam, chúng tôi bị nhốt trong buồng cả ngày lẫn đêm nhưng không bị cùm như ở khu kỷ luật. Có hai yếu tố hành hạ chúng tôi lúc bấy giờ là Đói và Rét. Thời điểm lúc chúng tôi bị đưa lên “Cổng Trời” là mùa Đông. Cái lạnh Mùa Đông ở đất Bắc tự nó đã là cái gì đáng sợ, nhưng trại này lại ở trên độ cao chót vót thì cái lạnh lại càng khủng khiếp hơn bội phần.

Nhà giam có tường bằng đá. Về đêm hơi lạnh của đá tỏa ra biến buồng giam thành một tủ lạnh và chúng tôi phải nằm co ro trong cái tủ lạnh đó. Tệ hại hơn nữa, cái lạnh hành hạ chưa đủ, lại còn thêm cái đói. Ở đây không có gì để ăn cho tạm gọi là no. Đói và Rét như cặp bài trùng của yếu tố tiêu diệt. Khi cả hai gặp nhau và hỗ trợ cho nhau thì sức tàn phá được nhân lên gấp bội. Thân thể con người càng đói thì càng rét; và hễ càng rét lại càng đói. Hai thứ hung thần đó cứ mải mê tranh tài “ai thắng ai” ngay trên da thịt xanh xao như tàu lá chuối và trong dạ dày xẹp lép của đám tù khốn khổ chúng tôi!

Mỗi ngày, tù ở khu kiên giam được cho ăn 2 lần, trưa và chiều. Mỗi lần một chiếc bánh mì nướng to bằng cổ tay và dài chừng một gang. Trong khi các đội bên ngoài có thêm bữa ăn sáng vì phải đi lao động. Với hai chiếc bánh mì nướng khiêm tốn đó mà tôi nghiệm được câu nói trong tù:“Không ăn thì đói; ăn vào đói hơn!” Mà thật đúng như vậy, sau khi “nuốt” cái bánh mì từ 5 giờ chiều hôm trước xong, tôi nằm đắp chăn chịu trận cái rét dưới độ âm và chờ tới 10 giờ sáng hôm sau, tức là 17 tiếng đồng hồ nữa mới có cái gì tống vào cho dạ dày làm việc. Suốt thời gian dài đằng đẵng đó, tôi thường lịm đi hoặc nằm yên bất động như con sóc trong mùa đông.

Cữ ăn 10 giờ sáng hôm sau làm quấy động dạ dày thức giấc. Nó cồn cào và đòi hỏi thức ăn dữ dội! Nó đòi ăn thêm để khỏa lấp một chút chỗ trống còn rộng thênh thang, nhưng nào có được! Sau khi ăn xong, tôi chỉ còn biết nằm im lìm chờ đợi, lắng tai nghe và mong tiếng động then gài cổng bên ngoài báo hiệu lúc anh trật tự lên cho ăn chiều.

Lúc bấy giờ vì quá đói nên tôi tưởng tượng là mỗi bữa tôi phải ăn 20 cái bánh mì như thế mới no được! Nhưng đói quá tôi nghĩ thế thôi, làm gì ăn nhiều thế, chục hoặc 15 chiếc cũng tạm đủ rồi! Bây giờ ngồi nhớ lại chuyện ăn uống này tôi thấy xấu hổ! Nhưng đó là thực tế của giai đoạn tôi trải qua trong khu kiên giam trại Quyết Tiến.

Nhân Vật Lạ Xuất Hiện

Một buổi sáng kia, trong khi anh Tiên và tôi còn đang nằm trùm chăn thì nghe tiếng gõ vào thành cửa sổ. Giật mình tung chăn ngồi lên, tôi chạm mặt với một con người đang đứng giữa cửa sổ nhìn vào trong buồng. Người này thấp bé, mặc áo bành tô rộng thùng thình, tôi không đoán được già hay trẻ vì cái mũ dạ “Liên Xô” che mất gần hết khuôn mặt của anh ta, chỉ chừa ra đôi mắt nhỏ, quá nhỏ như hai hạt nhãn lép. Chúng tôi lên tiếng: “Chào cán bộ!” Người ấy gật đầu nhưng không nói gì. Một lúc sau lên tiếng hỏi :

-Anh Nguyễn Hữu Lễ đâu?

Giọng nói nhẹ nhàng nhưng rất sắc. Tôi đưa tay làm hiệu “Tôi đây”. Người ấy không nói gì, đứng nhìn một lúc rồi hỏi:

-Mấy anh ấy có lên dọn vệ sinh cẩn thận không?

Chúng tôi trả lời có. Xong người lạ mặt ấy bước đi. Anh Tiên và tôi thắc mắc, không biết con người nhỏ thó đó là ai. Hôm sau tôi hỏi anh tù gánh phân và tả hình dạng người chúng tôi gặp ngoài cửa sổ hôm qua. Anh tù hình sự gánh phân hằng ngày này là “tờ nhật báo sống” của chúng tôi. Tất cả tin lớn tin bé trong trại chúng tôi biết được lúc này là nhờ anh, ngược lại mỗi ngày chúng tôi cũng cho anh mấy bi thuốc lào, được coi như là “thần dược” trong nhà tù lạnh lẽo này. Anh ta người nhỏ thó và không biết là người tỉnh nào mà nói ngọng hết sức! Chữ “N” nói thành chữ “L” và ngược lại. Sau khi nghe tôi tả sơ qua, anh ta nói ngay:

- Đó là Ban Nản (Lãng), trại trưởng của trại “lày” đấy anh ạ!

Tôi nghe không rõ nên hỏi:

- Sao anh gọi là Bác Lãng?

Anh tù cười trả lời:

-Không, em bảo là Ban Nản chứ không phải Bác!

-Ủa sao gọi là Ban?

- Thế anh chưa biết à? Các cán bộ cấp sĩ quan thì gọi “nà” Ban, tức ban giám thị ý mà! Cấp bé thì bọn em gọi “nà” ông, nhưng bọn anh gọi “nà” cán bộ được rồi.

Thì ra tôi mới biết các tù hình sự có thói quen xưng hô với cán bộ như thế. Các trại tôi ở trước đây không có vụ này. Tôi hỏi lại:

- Nếu tôi gọi trại trưởng là cán bộ được không? Các trại khác tôi toàn gọi thế.

Anh tù gánh phân nhanh nhẩu đáp:

- Ấy, ấy, gọi thế “kỳ nắm” (lắm)! Ở đây không ai gọi thế cả!

Hôm sau tôi được gọi lên cơ quan làm việc. Một cán bộ vào dẫn tôi theo trong lúc trời đang hồi lạnh tột độ. Tôi đi qua vũng nước nhỏ đã đóng băng trên mặt đường và óng ánh trên ngọn cỏ những giọt sương đã đông thành đá. Trên đường đi có băng qua mấy luống su hào mà lần đầu tiên tôi thấy được, mặc dù củ su hào thì tôi đã biết từ còn ở trong Nam. Thì ra loại rau này rất hợp với thời tiết lạnh, củ to như cái bát ăn cơm. Đường ra tới cơ quan khá xa và tôi đã lạnh cóng tay chân, tê cả mặt. Đây là lần đầu tiên tôi bước chân ra khỏi phòng kiên giam sau hơn nửa tháng trời.

Chân Dung Ông Trại Trưởng

Tôi được đưa vào phòng gặp ông trại trưởng, người đã “hiện ra” bên ngoài cửa sổ buồng tôi hai ngày qua. Lần này nhìn kỹ, tôi biết ông ta đã lớn tuổi, có lẽ ngoài 50. Điểm đặc biệt là ông rất nhỏ người, trong Nam gọi là ‘đẹt’ và ngoài Bắc gọi là ‘choắt’! Ông chỉ cao khoảng hơn thước rưỡi một chút. Mặt thỏn, da nhăn, đôi mắt ông ta nhỏ, quá nhỏ, trông như hai hạt đậu đen bóng láng. Ông mang cấp bậc Đại úy, nhưng tôi nhìn ông không ra dáng một sĩ quan tí nào.

Ông ta đón tôi bằng nụ cười có nhiều vết nhăn ở hai bên khóe mép, bảo tôi ngồi xuống ghế trước mặt và tự tay rót chè (nước trà) mời tôi uống. Lúc này thì tay chân tôi đã hoàn toàn tê cóng, không còn theo sự điều khiển của tôi nữa. Tôi muốn đưa tay bưng chén trà nóng uống cho đỡ lạnh, nhưng không bê chén được vì đôi tay đang run rẩy quá mạnh. Lúc đó hai hàm răng run lập cập. Tôi kềm hãm hết sức nhưng sao hai cái hàm cứ chạm nhau lốp cốp. Tôi không tài nào nói chuyện được. Ông hỏi gì, tôi không trả lời được. Tôi đưa hai tay ôm lấy dưới cằm nhưng run vẫn cứ run! Thấy vậy ông để tôi ngồi yên một chập.

Lúc đó tôi cố gắng lắm mới nói được vài tiếng để hỏi xin một điếu thuốc lá hút cho đỡ lạnh. Tôi ấp úng, bập bẹ tiếng mất tiếng còn mãi và đưa tay làm hiệu thêm ông mới hiểu tôi muốn gì. Ông trả lời là ông không hút thuốc nên không có sẵn, nhưng nói để qua phòng ông Tố xin thuốc cho tôi. Sau này tôi biết Thiếu úy Tố là sĩ quan giáo dục của trại. Ông đứng dậy bước ra khỏi phòng, nhưng khi trở lại nói là ông Tố đi vắng và bảo tôi cứ ngồi đây một chập nữa. Tôi gật đầu cám ơn ông và ngồi yên. Lúc này tôi không thèm cố gắng kềm hãm hai hàm răng đang đánh bò cạp nữa, cứ để cho nó khua lốp cốp tự do và đều đặn, như tay chơi trống trong ban nhạc đang gõ dùi vào thành trống! Một lúc khá lâu, có lẽ quãng gần nửa giờ, tôi bắt đầu quen và nói chuyện được, mặc dù chưa hoàn toàn bình thường. Lúc đó ông hỏi tôi:

- Anh Lễ, ở trại Nam Hà anh làm gì mà bị đưa lên đây?

-Báo cáo cán bộ, tôi không biết. Nhưng cán bộ đọc hồ sơ tôi rồi mà!

-Dĩ nhiên là tôi đã xem qua hồ sơ của anh. Tôi thấy anh là người thông minh và bạo dạn nên tôi muốn giúp anh. Anh là một Cha đạo. Tôi nghĩ là tình thế này anh không làm gì được cả, tôn giáo đã lỗi thời rồi. Chi bằng anh hứa với tôi từ bỏ con đường tôn giáo, cưới vợ lập gia đình như những người khác. Tôi hứa nâng đỡ và cất nhắc anh.

Ông ta nói chưa hết câu tôi đã lên tiếng:

- Tôi xin cám ơn lòng tốt của cán bộ, nhưng cán bộ không có thể hiểu được việc tôn giáo đâu. Nếu cán bộ có vấn đề gì khác tôi sẽ trả lời. Còn vấn đề tôn giáo là con đường tôi đã chọn, tôi xin miễn bàn ở đây.

Từ hôm đó về sau tôi không còn bị gọi đi “làm việc” nữa.

Trong Hầm Ướp Lạnh

Mỗi ngày chúng tôi tập thể dục trong buồng cho máu chạy đều và chống lạnh, sau đó lên sạp nằm đắp chăn chống rét chờ hai bữa ăn. Cả ngày, chỉ trừ hai lần cho ăn là tôi tung chăn ngồi dậy, ngoài ra lúc nào cũng quấn chăn vào người. Lúc đó tấm chăn tôi đắp là tấm poncho bằng vải dù. Loại vải này rất kín, giử được hơi ấm bên trong, nhưng bên ngoài thì lạnh như nước đá. Mỗi lần tung chăn ngồi lên, nhất là ban đêm, là cả một cực hình, vì sau đó phải đắp lại một lúc thật lâu mới tạo được hơi ấm bên trong.

Trong buồng chỉ có hai người, lâu ngày cũng chẳng còn gì để nói với nhau. Thỉnh thoảng gọi vọng sang các buồng kế bên nói chuyện vài câu, hoặc khi có tù mới vào khu kiên giam thì gọi hỏi vài tin tức. Trong cuộc sống “ếch ngồi đáy giếng” đó chúng tôi rất “đói” tin tức, nên sẵn sàng lắng tai nghe bất cứ loại tin gì, nhưng thực sự chẳng có gì giá trị vì toàn là tin “tù nói tội nghe”. Những buổi sáng sớm nằm nghe tiếng kẻng hợp tác xã từ xa vọng lại nghe thật não nề. Đó là những âm thanh hiếm hoi chúng tôi nghe được trong khung cảnh lạnh lẽo và vắng lặng này. Có một âm thanh khác tôi nghe từ buồng phía cuối vọng lại cách đều đặn, đó là tiếng một anh tù chửi Trung tá Lê Mai. Ban ngày cứ cách khoảng chừng một tiếng đồng hồ anh ta chửi một lần. Trước lúc chửi, anh gõ vài tiếng làm hiệu như người ta thường nhịp mấy tiếng trước khi đánh trống, hoặc tiếng gõ sàn trước khi kéo màn sân khấu trong lúc diễn kịch. Sau đó anh bắt đầu “bài” chửi. Lần nào anh cũng đọc đi đọc lại mấy câu đó như một tín đồ đọc kinh lần chuỗi:“Đạp đổ Trung Tá Lê Mai, Trưởng ty Công an tỉnh Quảng Ninh!” Những lần đầu nghe văng vẳng tôi chẳng biết là tiếng gì ở đâu vọng lại. Về sau hỏi ra mới biết đó là anh tù BK tên là Công Thành. Anh bị yếu thần kinh và luôn miệng chửi Trung tá Lê Mai bằng một bài dài, gọi tên và chức vụ ông trước, rồi kể tội ông sau.

Nằm mãi rồi cũng buồn, có một hôm tôi tò mò rờ tay bên dưới mấy tấm ván tôi nằm, nghe cộm tay vì có dấu khắc, tôi bò xuống coi thì ra những người tù ở đây trước đã khắc tên và thời gian vào tấm ván. Tôi vô tình đọc được tên Linh Mục Nguyễn Văn Vinh, Cha sở Nhà Thờ Chánh tòa Hà Nội. Sau này hỏi lại mới biết tất cả những người đó đều chết ở trại này, xác họ được chôn ngoài “Đồi Bà Then”. Từ đó tôi biết thêm trại này có cách nói:“Ra Đồi Bà Then”, tức là chết. Sau khi cố gắng đọc những tên người khắc nguệch ngoạc bên dưới tấm ván, tôi đọc kinh cầu hồn cho họ và dùng đầu kim băng khắc mấy hàng tiếp theo:“Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ, Vĩnh Long, 1977”. Lúc đó tôi nghĩ là sẽ có một con người bất hạnh nào đó sẽ vô tình đọc được tên tôi, và tôi cũng thầm mong họ sẽ cầu cho linh hồn tôi một vài câu kinh.

Gặp Lại Nhóm Bạn

Sau một tháng ở kiên giam, chúng tôi được cho xuống đội trong dịp gần Tết âm lịch năm 1978. Được gặp lại số anh em Nam Hà trong Khu O, tôi rất mừng. Chúng tôi sống trà trộn với một số anh Biệt Kích và tù hình sự trong đội mộc do một anh tù hình sự tên Toản, khoảng 30 tuổi, làm đội trưởng.

Toản nguyên là bộ đội, phạm tội hiếp dâm và bị kêu án 20 năm, lúc này đã được giảm án khá nhiều rồi, nghe nói chỉ còn không tới 10 năm. Trong trại Quyết Tiến này, tất cả đội trưởng đều là tù hình sự và quyền hạn rất to. Ngoài việc hành hạ đánh đập đội viên cách tự do, mỗi đội trưởng còn có cái còng số 8, khi cần có thể còng tay bất cứ anh nào trong đội. Việc Ban giám thị trại Quyết Tiến đặt tù chính trị và tôn giáo chúng tôi dưới sự điều khiển của những anh tù hình sự, phần nhiều là tội giết người, cướp của, hiếp dâm, tham nhũng là một hành động trái quấy một cách có dụng ý. May mắn là anh đội trưởng Toản đối xử với chúng tôi cũng có sự kiêng nể, không như đối với các anh tù hình sự khác.

Tôi còn nhớ ngày đầu tiên xuống đội, mấy anh em được một bữa “cải thiện”. Hôm đó vì cận Tết nên có mấy anh trong đội xuống phụ việc nhà bếp để chuẩn bị thức ăn trong dịp Tết sắp đến, nên nhà bếp cho những mẫu sắn (khoai mì) đầu thừa đuôi thẹo mang về cho đội cải thiện. Anh em mang về lột vỏ, luộc lên và bóc hết xơ, chỉ lấy bột. Sau đó cho vào cối đá quết ra thật nhuyễn, xong bó vào các ống nứa đem nướng lên. Mùi sắn nướng bốc thơm ngào ngạt và màu sắc hấp dẫn như chả quế!

Chiều hôm đó cả đội chia nhau ăn ‘chả quế’ rất ngon miệng. Những người ở kiên giam mới xuống như tôi được chia phần nhiều hơn. Lần đó tôi được một bữa ăn no sau một tháng đói meo. Ăn xong cả buồng đi ngủ sớm vì trời quá lạnh. Sau khi được một bữa cải thiện làm ấm dạ dày, tôi hy vọng sẽ được giấc ngủ ngon, trong phòng khá ấm vì có nhiều người.

Trận Say Sắn Nhớ Đời

Quãng gần nửa đêm, tự nhiên tôi thấy đau bụng, càng lúc càng đau nhiều hơn. Có cái gì rất khác thường trong người làm tôi khó chịu, nhưng không lên tiếng, sợ phá giấc ngủ anh em. Tôi cắn răng nằm ôm bụng nhưng càng lúc càng khó chịu, mặt mày xây xẩm, tay chân bủn rủn và nghe buồn nôn, đồng thời lại vừa buồn đi đại tiện. Lúc đó tôi nghĩ thầm: “Chết rồi, mình bị trúng gió nặng quá, bây giờ làm sao?”

Tôi chịu không nỗi nên tung chăn đứng lên định bước vô cầu tiêu, nhưng khi vừa đứng dậy, tôi liền ngã quỵ, đè sập dãy màn mắc chằng chịt chung quanh. Lúc đó tôi nghe ù tai, hoa mắt nhưng cố gượng đứng lên, nhưng không đứng được và tôi phải bò về phía cầu tiêu. Nhìn chung quanh, tôi ngạc nhiên khi thấy có mấy anh cũng đang ngã nghiêng, bò lê dưới đất như tôi. Tôi chưa hiểu câu chuyện ra sao thì nghe nhiều chỗ có tiếng rên, tiếng người đang ói mửa, mỗi lúc một nhiều hơn. Lúc đó có tiếng một anh nói thật to, có lẽ là anh đội trưởng:“Các anh dậy mắc màn lên, cả buồng bị say sắn rồi!”

Sau tiếng kêu đó, tất cả đều tung màn ngồi lên. Thình lình tôi nghe tiếng động thật to của một anh từ sàn trên té lộn nhào xuống sàn! Cả buồng diễn ra cảnh hỗn độn khác thường, những người say ít thì giúp đỡ người bị nặng. Trong buồng giam chỉ có một cầu tiêu mà mấy chục con người đang cần cùng lúc, nên không còn cách gì hơn, những người bị say sắn đành ói mửa và đại tiện tại chỗ. Phần tôi, sau khi nôn ra sàn và đại tiện ra quần, cảm thấy dễ chịu hơn đôi chút nhưng người lã đi và không đứng lên nổi.

Tôi cố bò nằm vật ra trên sàn ván, chẳng cần biết đó là chỗ của ai. Mấy người khác vội vàng thu chăn chiếu áo quần cho gọn. Đêm đó quá hai phần ba số người trong buồng bị say sắn. Vài anh bị nặng nằm sóng sượt như một thây ma bất động. Buồng giam trở nên tanh tưởi và hôi thối không thể tưởng. Có mấy người bị anh em vô tình nôn thốc lên cả chăn chiếu.

Tôi không ngờ say sắn kinh khủng đến như thế. Lúc còn trong Nam, chưa bao giờ tôi nghe ai ăn khoai mì say bao giờ, chừng ra trại Nam Hà tôi mới nghe nói tới hai tiếng “say sắn”, nhưng đây là lần đầu tiên tôi bị. Sáng hôm sau, cán bộ cho mấy người bị say sắn nặng được nghỉ lao động. Tôi cũng được nghỉ. Hôm đó tôi cố mò ra giếng sau nhà kéo nước lên giặt quần áo và lau người. Đây cũng là lần đầu tôi có dịp lau người sau khi lên trại này được một tháng.

Đóng Quan Tài

Đội tôi chia làm 2 tổ, tổ mộc và tổ cưa xẻ. Tôi được phân công vào tổ mộc do anh Nguyễn Huy Khoan, người tù BK làm tổ trưởng. Khoan là người hiền từ, nói năng nhỏ nhẹ và sống rất hòa nhã với anh em. Vào đội mấy hôm, anh Khoan thấy tôi chẳng biết một tí gì về nghề mộc, nên cho tôi vào khâu tương đối dễ là đóng quan tài, vì công việc này không cần có tay nghề.

Tôi không biết những trại hòm ngoài xã hội họ đóng quan tài ra sao, nhưng ở trại Quyết Tiến chúng tôi đóng rất đơn giản. Vật liệu là những tấm ván bìa của tổ cưa xẻ thải ra. Các tấm ván bìa này sau khi được cắt ra theo kích thước thông thường, chỉ việc đóng đinh ráp vào nhau như cái hộp hình chữ nhật, không cần bào gọt gì cả. Một vài tấm ván bìa có mắt bị nứt hoặc bị vỡ một chút cũng không sao, vì xác anh tù nằm trong đó đâu có rơi ra ngoài được. Dù vậy chỗ nào hở to quá chúng tôi cũng phải đóng thêm tấm ván nhỏ bên ngoài cho kín, nếu không xác anh tù bên trong có thể ló tay ra ngoài, có thể làm những tay yếu bóng vía sợ. Vả lại đàng nào thì cũng chôn xuống đất nên bận tâm làm gì những chi tiết không quan trọng đó.

Khi được cho vào khâu này tôi rất mừng vì không cần kỹ thuật cao và hơn nữa được dự phần vào việc chôn cất các anh em đồng cảnh. Lúc đầu tôi tưởng sẽ rất nhàn hạ với công việc này nhưng tôi đã lầm, vì có những lúc tù chết nhiều quá, toán chúng tôi làm bở hơi tai nhưng vẫn không kịp cung ứng cho nhu cầu của trại. Một phần cũng vì tổ mộc không cung cấp kịp ván bìa, nên toán chúng tôi phải chờ đợi và làm việc bất cứ lúc nào khi có vật liệu.

Lúc đó trong trại có nhiều người tù hình sự chỉ còn là những bộ xương biết đi, dù vậy hàng ngày vẫn phải lê lết đi lao động bên ngoài trại. Có những “bộ xương” mới hôm qua tôi còn thấy lảng vảng trong sân, hôm nay đã thành thân chủ nhận hàng của toán tôi. Trong việc hậu sự, khâu của tôi chưa phải là cuối cùng. Để kết thúc một kiếp người tù, còn có một toán hình sự chuyên đào và lấp huyệt. Nhóm này chỉ có 4 người, và hình như thuộc diện được chiếu cố nên họ giữ độc quyền công tác, ít ra là trong thời gian tôi biết. Đây là mấy anh khá to cao và khỏe mạnh, khác với đám tù nhân xanh xao gầy còm như những bóng ma khác.

Tù Chết Nuôi Tù Sống

Một thời gian sau tôi mới biết là mỗi lần đào và lấp huyệt, mỗi anh được bồi dưỡng một suất cơm cháy mà bình thường dùng để nuôi lợn của trại. Ngoài ra, sau khi hạ huyệt một người tù, toán này còn được “hưởng” bát cơm trắng và quả trứng luộc đặt trên quan tài người tù xấu số theo phong tục trong tù. Tôi nghĩ mãi không ra tại sao lại có tập tục này. Có lẽ ban giám thị làm như thế để không bị lương tâm dày vò chăng? Vì khi sống không cho ăn, khi chết “cúng” cho một bát cơm trắng và quả trứng luộc như ngầm nói:“Đấy nhá, anh đừng có giận hờn gì, chúng tôi vẫn chiếu cố anh đấy!”

Cũng vì mỗi lần chôn tù được bồi dưỡng như vậy nên toán này thường đi rảo trong các buồng, nhất là bệnh xá, thấy anh tù nào ngoi ngóp mà chưa chịu “đi” thì đá cho một phát:“ĐM mầy, đi nhanh cho các bố mày nhờ, còn nằm đây rên rỉ làm gì?” Cũng vì những chuyện đau lòng này mà một anh bạn trong nhóm Nam Hà chúng tôi là anh Nguyễn Đức Khuân có sáng tác một bản nhạc mang tên“Một người nằm xuống bốn người được no!” để ghi lại sự kiện này.

Người Anh Kết Nghĩa

Trong thời gian ở toán mộc này, tôi gặp và làm thân với anh Đặng Văn Tiếp và sau đó chúng tôi đã kết nghĩa trong tình huynh đệ lâu dài. Thật ra trước kia chúng tôi đã có gặp nhau đôi lần tại Vĩnh Long và Sài Gòn khi anh Tiếp và một số Dân Biểu trong Khối Quốc Gia như Nguyễn Văn Binh, Nguyễn Văn Cữ, Hồ Ngọc Nhuận…ủng hộ phong trào chống tham nhũng do Linh Mục Trần Hữu Thanh phát động năm 1974.

Lúc ở trại Cổng Trời, anh Tiếp làm trong toán mộc. Anh khéo tay và đóng nhiều bàn ghế và hòm (rương) thật đẹp. Để có một nơi dễ dàng làm việc, anh chiếm cái bàn bào sát góc nhà trong láng mộc, rất riêng biệt và yên tĩnh. Thỉnh thoảng tôi ngừng tay, bước tới chỗ anh, nói vài câu chuyện và cùng hút thuốc lào. Anh có cái điếu bằng nhựa rất nhỏ và gọn, chúng tôi cùng hút thuốc với nhau. Ngoài những lúc tâm tình và an ủi nâng đỡ nhau, chúng tôi thường nói đùa cho vui. Có lần tôi khen:

- Không ngờ một ông Luật sư,Thiếu tá Không Quân, Dân Biểu Đặng Văn Tiếp mà cũng biết cầm cưa, bào, đục và đóng được bàn, ghế, em phục anh sát đất!

Nghe tôi nói anh Tiếp cười, để lộ chiếc răng khểnh trả lời:

- Thì anh cũng tập để sau này về đóng chuồng gà cho vợ, may ra vợ còn thương tình cho ngày hai bữa cơm!

Tôi đùa lại

-Thế em chẳng biết nghề ngỗng gì hết thì sau này về chết đói à?

Anh giơ tay chỉ mấy cái quan tài tôi đang đóng dở dang :

- Thì cậu có nghề đóng áo quan đó, còn muốn gì nữa?

-Nhưng tay nghề của em thì ma nó mướn!

Anh nhìn tôi cười:

- Thất nghiệp thì vào làm thợ vịn trong xưởng đóng chuồng gà của anh!

Những câu đùa cợt vui vẻ đó giúp anh em tôi quên đi phần nào cảnh khổ trong tù nhất là trong những lúc vừa đói lại vừa rét như ở Cổng Trời này.

Chính tại góc nhà trong láng mộc này mà anh em tôi tâm sự với nhau về nhiều vấn đe, nhất là về cách thức làm sao thoát ra khỏi nhà tù. Tôi không bao giờ quên được dáng cao và gầy của anh Tiếp trong bộ đồng phục màu xanh của tù, áo trấn thủ bên ngoài, đầu đội mũ len, cặp kính gọng đồi mồi xệ xuống sống mũi. Anh Tiếp là người vui vẻ, có óc hài hước, thích tiếp xúc với mọi người nhưng chỉ nói chuyện chơi cho vui, còn những chuyện riêng tư thầm kín chỉ hai anh em chúng tôi biết. Trong hoàn cảnh đó, lúc nào chúng tôi cũng phải đề phòng những con mắt và lỗ tai không thân thiện chung quanh mình.

Ở đây, yếu tố thiên nhiên với cái rét khủng khiếp của vùng chóp đỉnh địa đầu đất nước mang tính cách tiêu diệt nặng nề nhất. Khi lên trại Quyết Tiến, chúng tôi được phát mỗi người một áo trấn thủ, tức là áo bông sát nách, che ấm trước ngực và sau lưng. Nhưng trước khi mặc áo trấn thủ vào, tôi đã mặc tất cả những áo gì tôi có thể mặc được vào bên trong, sau đó dùng dây vải bó thân thể thật chặt như bó giò và mặc như thế suốt cả ngày lẫn đêm trong mùa Đông.

Hình như không ai tắm vào mùa Đông, mặc dù phía sau buồng có giếng nước rất trong. Những lúc quá cần thiết như hôm cả buồng say sắn, hoặc những ngày quá bẩn sau lúc lao động, chúng tôi cũng chỉ dám lau qua người. Cách ăn mặc “bó giò” để chống rét này đã đưa tới tình trạng dở khóc dở cười của một anh trong nhóm Nam Hà của tôi, đó là anh Ngô Đình Thiện, quãng ngoài 20. Lúc ở Nam Hà, anh Thiện cắt cái chăn Trung Quốc trại phát ra để may thành chiếc áo ấm dài tay mà lúc nào tôi cũng thấy anh mặc trên người.

Lúc lên trại này anh cũng mặc áo đó trong cùng, sau đó “bó giò” và mặc thêm áo trấn thủ bên ngoài. Thiện cũng bị ở kiên giam một tháng như tôi. Lúc ở buồng gần bên, anh hay gọi tôi và nói là người anh có phong, lúc nào cũng ngứa cả ngày lẫn đêm, ngứa không ngủ được. Anh muốn đi khám bệnh, nhưng vì ở kiên giam nên đành chịu, chỉ trừ trường hợp bệnh ngặt nghèo mới được xuống bệnh xá, còn các chứng bệnh thông thường như anh thì phải khắc phục!

Đại Hội “ Rận”!

Sau khi ra khỏi kiên giam và được xuống đội mộc, anh đi bệnh xá khám bệnh và xin thuốc phong. Lúc bấy giờ trại thường cho ăn ngô bung với bắp cải nấu có chút mắm tôm. Thiện khai ăn nhạt, tức là bắp cải luộc không có mắm tôm, vì nghĩ rằng ăn mắm tôm làm anh bị ngứa. Lúc đó gần Tết, thời tiết lúc nào cũng ở độ âm và thân thể bị “bó giò”. Tôi để ý thấy trên tay của Thiện lúc nào cũng có cây que nứa nhỏ để thọc vào sau cổ áo, lòn vào bên trong những lần vải để gãi ngứa. Không hiểu bệnh tình ra sao mà tôi thấy anh xanh xao, gầy mòn nhanh hơn nhiều người khác, và lúc nào anh cũng kêu người có phong, ngứa ngáy không chịu được.

Ngày 30 Tết năm đó, tự nhiên trời nắng ấm khác thường. Tôi có cảm tưởng như đây là món quà trời cho để đám tù nhân khốn khổ chúng tôi có dịp tắm rửa, giặt giũ để đón mừng một năm mới. Hôm đó đội mộc chúng tôi không phải lao động, chỉ lo quét tước, dọn dẹp gỗ lạc trong láng mộc cho sạch sẽ trước khi được nghỉ mấy ngày ăn Tết. Sau khi dọn dẹp xong, chúng tôi đun lên một chảo nước sôi thật to để anh em tắm giặt và tẩy uế, vì có người mấy tháng nay chưa biết tắm là gì. Trong ánh nắng ban mai, mọi người ra sân tháo bỏ áo quần đã “bó giò” trên thân thể, nhìn anh nào cũng gầy đét và xanh xao như tàu lá chuối.

Tới phiên anh Ngô Đình Thiện cởi bỏ cái áo may bằng chăn, mà anh mặc sát trong người từ mấy tháng nay, thì một chuyện quái đản bất ngờ xảy ra! Mặt bên trong của chiếc áo ấy hiện ra một lớp rận dày, lúc nhúc như dòi, nhiều vô số kể. Những con rận no tròn như hạt vừng màu sữa đục, con nào cũng có cục máu đen trong bụng. Khi Thiện ném cái áo xuống sân, đàn rận văng ra tung tóe và bò lểnh nghển khắp nơi. Mọi người túm đến coi. Có người quay đi khạc nhổ, có người ụa mửa vì lợm giọng. Mặc dù trong tù tôi đã chứng kiến bao nhiêu cảnh dơ bẩn, nhưng cảnh này là lần đầu. Lúc đó Thiện dùng que nứa gạt rận trong áo xuống tờ giấy, gộp lại chắc đầy một muỗng ăn canh! Thì ra mấy tháng nay đàn rận sanh sôi nẩy nở trong cái áo may bằng chăn có nhiều lỗ hang và thức ăn lúc nào cũng có sẵn cho chúng. Đàn rận nhiều như trấu đó thay nhau hút máu ngày đêm làm thân thể “bó giò” của anh bị ngứa ngáy mà anh kêu là bị dị ứng mắm tôm! Sau đó anh Thiện ném cái áo vào chảo nước sôi luộc làm số rận còn lại chết trôi lều bều trên mặt nước như những cánh bèo hoa dâu, trong ao sâu cá mè!

Người Tù Lạ Mặt

Cái rét cũng là yếu tố hành hạ tù nhân bị kỷ luật cách nặng nề nhất. Trong buồng chúng tôi lúc đó có anh tù hình sự tên Cẩn, còn gọi là Phó Cẩn, lúc đó Cẩn độ chừng 30 tuổi. Cẩn lấy trộm cái khóa của anh khác, bị bắt quả tang và bị đi kỷ luật, còn gọi là nằm nhà đá, vì nhà kỷ luật xây bằng đá. Người tù kỷ luật “nằm nhà đá”, chỉ được mang theo một bộ quần áo, một chăn và một chiếu. Vì nhà đá không xa khu O mấy, nên ban đêm chúng tôi nghe những người bị kỷ luật kêu la, tru trếu như những con chó sói. Họ tru lên suốt đêm cho đến khi nào kiệt lực thì gục xuống chịu trận.

Trong cái lạnh dưới không độ, mặt nước hồ còn đóng váng lại mà người tù chỉ có trên người một bộ quần áo và một cái chăn mỏng thì làm sao chịu cho nổi?! Quãng nửa tháng sau, một hôm sau giờ lao động, tôi về buồng thấy có người tù lạ mặt mới nhập đội. Người tù mới này đã lớn tuổi, có lẽ đã ngoài 50, đang lúi húi giặt quần áo gần bên miệng giếng. Tôi để ý thấy ông ta chào vài người trong đội, nên nghĩ là tù hình sự các buồng thường quen biết nhau. Mãi hồi lâu, khi tới gần tôi mới nhận ra “ông lão” đó chính là Phó Cẩn vừa mới ở kỷ luật xuống. Cẩn ở trong buồng tôi đi kỷ luật mới có 2 tuần mà bây giờ đã trở thành một ông lão khiến tôi không còn nhận ra anh.

Ý Trời!

Trong thời gian ở Khu O này, tôi và một vài người đã chuẩn bị một cuộc vượt ngục, trù tính sẽ đi sang Trung Quốc. Trại này trước đây có mấy người vượt ngục thành công qua Trung Quốc và có lên tiếng trên đài phát thanh. Nghe tin này chúng tôi càng quyết tâm hơn. Nhóm chúng tôi có 5 người gồm các anh Tiếp, Trình, Thông và tôi cùng với một anh người Tàu là Tráng Giàng Thào. Kế hoạch đã được sắp xếp. Trưa ngày Chủ Nhật hôm đó, chúng tôi nấu một nồi chè ngọt ăn lấy sức để đêm nay hành động. Khi nồi chè vừa chín thì bất thần nghe tiếng kẻng tập họp, có lệnh đổi buồng! Thế là chúng tôi phải bỏ kế hoạch. Đây là lần thứ hai có sự trùng hợp hết sức ngẫu nhiên. Điều này làm tôi nhớ lại một trường hợp ngẫu nhiên khác đã xảy ra trong chuyến tàu Sông Hương chở tù ra Bắc một năm trước. Sau khi đổi buồng, tôi và một số anh em được chuyển ra ngoài sung vào đội trồng bắp cải.

Khi chuyển ra ngoài, tôi vào ở trong buồng và nằm đúng vào chỗ của một anh tù hình sự tên là Hán Còi, mà anh em kể lại trước đó không lâu đã bị Nhân Điên chặt đứt đầu trong giờ ngủ trưa vì hai người tranh chấp nhau trong vụ chia thịt heo trong ngày lễ Tổng Kết Lao Động của Trại. Nhìn lên tường tôi còn thấy những vết máu của Hán Còi thấm vào một vài chỗ, nhưng đã mờ. Sau vụ đó Nhân Điên bị kêu án tử hình, nhưng khi chúng tôi tới trại Cổng Trời thì Nhân Điên đã được giảm án xuống chung thân. Sau đó anh ta tự sát hụt một lần bằng cách quấn vải vào cổ, tẩm dầu và châm lửa.

Sau vụ đó Nhân Điên bị một vết sẹo thật to ở cổ, đi đâu anh cũng quấn khăn. Từ đó anh cứ đi lang thang trong trại, không nói năng gì với ai. Thỉnh thoảng Nhân Điên vào chỗ tôi chơi. Thấy anh ta tôi cũng ngán, nhưng thật ra anh rất hiền, hỏi thì nhe răng cười, ít khi trả lời. Sau này tôi biết thêm câu chuyện thương tâm như sau. Lúc còn nhỏ chừng 15 tuổi, Nhân phá quá, nên mẹ của Nhân là một cán bộ khá cao cấp, bèn “gởi” Nhân vào Trường Bộ, tức là nhà tù Thiếu Niên phạm pháp để nhờ “giáo dục” giùm! Kết quả là như vậy. Khi tôi gặp Nhân Điên ở trại Cổng Trời, lúc bấy giờ anh đã ngoài 20 tuổi, đặc biệt là Nhân Điên nhìn rất đẹp trai, và mặc dù anh ta bị điên, nhưng chẳng bao giờ làm hại ai, từ sau vụ chặt đầu Hán Còi!

Vùng chung quanh trại Quyết Tiến này lạnh quanh năm nên rất thích hợp để trồng bắp cải. Do đó, trại có một ruộng trồng bắp cải thật mênh mông, cung cấp cho cả tỉnh Hà Tuyên. Công việc nặng nhọc nhất trong đội là gánh nước tiểu hòa với phân người, còn gọi là phân bắc để tưới rau. Thật thảm thương cho những linh mục lớn tuổi và ốm yếu lúc bấy giờ như Cha Đinh Cao Thuấn và Cha Cao Đức Thuận, nguyên là Giám đốc Nha Tuyên Úy Công giáo của QLVNCH. Dù ốm yếu và lớn tuổi, các Cha hàng ngày vẫn phải gánh nước tiểu và bị mấy anh tổ trưởng hình sự đày đến nơi đến chốn.

Linh Mục Phạm Ngọc Lan, vì lớn tuổi và quá yếu, hơn nữa lại bị bệnh phổi và không thể gánh nổi nước tiểu nên được cho làm việc nhẹ hơn là dẫn trâu cho một người tù khác cày. Những con trâu mới vực nhiều lúc chưa quen mang ách cứ dùng dằng chạy tới chạy lui làm anh tù hình sự cầm cày phía sau vừa quất trâu vừa chửi người dắt trâu:“ĐM thằng già vô tích sự!” Riêng Cha Cao Đức Thuận, vì có cây Thánh giá bằng vàng đeo trên cổ, anh tổ trưởng Phùng xin, ngài không cho nên bị anh ta hành tội. Khi Cha Thuận gánh nước tiểu, tổ trưởng Phùng đứng kiểm soát, đợi khi ngài gánh gần tới nơi, anh ta đạp thùng cho đổ và nói là gánh lưng, bắt gánh lại!

Hết Thiên Nhiên Tới Người

Trại Quyết Tiến lại có hình thức xuất quân lao động theo kiểu “hàng đội”, tức là đội trưởng sau khi báo số, sẽ bắt đầu đếm một hai, một hai… như trong một đội quân thì đội viên trong hàng phải bước đều theo nhịp đếm. Tội nghiệp cho hai linh mục già Đinh CaoThuấn và Phạm Ngọc Lan không bước đều chân được nên bị phạt. Buổi trưa khi đội vào trại nghỉ thì hai linh mục già này bị tổ trưởng bắt ra đứng giữa sân cạnh nhà ăn để tập bước. Tổ trưởng ngồi trong nhà ăn đếm, hai linh mục già đứng ngoài nắng chang chang giậm chân tại chỗ tập bước suốt buổi trưa! Bước sai thì tổ trưởng chửi ra: “ĐM, mang lon Đại tá ngụy mà không biết bước đều!” Càng chửi Cha Thuấn càng luống cuống bước sai nhịp đếm. Tôi ngồi nhìn cảnh đó mà như xót xa đoạn trường! Tôi cảm thấy đau. Đau cho một kiếp người mang thân phận tù. Đau vì tình người bạc bẽo, vì cảnh người hành hạ người. Thiện và ác gặp nhau nơi ‘bể khổ’, để rồi dường như có kẻ đã mất tính người!

Đội tôi do anh Cường cũng là tù hình sự làm đội trưởng. Anh Cường này là người biểu thị quyền uy đội trưởng tới mức tối đa. Lúc đó Cường chừng 35 tuổi, to lớn, mập mạp và trắng trẻo. Lúc nào anh cũng mặc bộ đồ 4 túi may bằng vải của màu áo Thủy Quân Lục Chiến miền Nam. Anh ta bước đi thật oai vệ, mặt mày lúc nào cũng nghiêm trang không mấy khi cười, có hai anh tù tà lọt đi hai bên. Các anh tù hình sự trong đội gọi anh là “Ông Tướng”.

Trước kia Cường là bộ đội ngành vận tải, sau đó âm mưu cướp đoạt mấy xe hàng của quân đội nên bị kết án tù 20 năm, lúc chúng tôi ở đó thì anh chỉ còn 10 năm vì được giảm án khá nhiều lần. Anh này cai trị tù hình sự dưới tay, không biết khoan nhượng, anh nào trong đội bị anh hành hạ thì không còn đường nào mà kêu.

Tôi nhớ có lần khi đội đang chia thức ăn chiều thì Cường gọi Xuyên “Già” tới. Xuyên lúc đó đã ngoài 50 tuổi, người thấp bé, vì lớn tuổi nên có biệt hiệu là Xuyên Già. Tôi nghe kể có lần Xuyên phát biểu: “Vì anh Cường không có tiền nên anh ấy không nhiệt tình nhờ cán bộ mua hàng cho đội.” Vạ miệng hại thân, câu đó vô tình tới tai “Ông Tướng” và chiều hôm đó Xuyên Già phải trả giá. Cường nổi giận gọi Xuyên tới và dùng hết sức lực đánh, đá, đạp người tù già như một quả bóng trong chân. Xuyên Già quỳ gối xuống giữa sân lạy xin tha, nhưng Cường thuận chân đá một phát, Xuyên bay vào bể cạn. Cường điên tiết ra lệnh cho Xuyên bò ra và tiếp tục đánh cho tới lúc nạn nhân nằm bất động mới cho hai tên tà lọt khiêng lên bệnh xá.

Hôm đó một phần Cường nổi giận với Xuyên Già, nhưng tôi đoán phần khác cũng để dằn mặt mấy anh tù chính trị vừa nhập vào đội của anh. Tuy nhiên, suốt thời gian đó chưa lần nào Cường xúc phạm gì tới nhóm tù chính trị chúng tôi. Ngược lại anh tổ trưởng Phùng, có tên là “Phùng điên” thì thật là quá đáng! Anh này tội giết người và bị kêu án tử hình, sau đó giảm xuống chung thân và sau xuống còn 18 năm.

Dưới Trướng Của Lưu Manh

Một đêm trong lúc họp buồng, Phùng ngồi văng tục chửi ‘ĐM’ mấy người đạp dép anh ta vất lăn lóc giữa lối đi. Thật sự là Cha Cao Đức Thuận đạp dép anh ta, vì lúc đó ngài rất già yếu và mắt kém. Nghe chửi quá, Cha Thuận ngồi bên này lên tiếng:

-Buồng thì chật và đông người và anh vất dép ở lối đi nên đôi lúc anh em vô tình giẫm lên.

Nghe Cha Thuận trả lời anh ta nổi điên. Anh ta muốn dùng dịp này để đay nghiến Cha Thuận, vì xin cây Thánh giá nhưng bị từ chối. Thế là anh quát:

-ĐM ! Có mắt để làm gì hở?

Và sau câu đó anh ta tiếp tục chửi một thôi một hồi, toàn là những tiếng chửi thề tục tĩu nhất. Trong khi anh chửi, Cha Thuận ngồi chịu trận và khoanh tay ngồi gục đầu xuống gối. Bên kia anh ta chỉ tay vào Cha Thuận quát:

-ĐM! Thằng già đó! Ngồi ngẩn đầu lên! Đang họp mà ngồi thế hả?

Cha Thuận bướng bỉnh đáp lại:

-Anh quyền gì mà không cho tôi cúi đầu?

Nghe Cha Thuận trả lời, anh ta nổi điên thực sự, nhảy phóc sang nhanh như một con khỉ, định hành hung Cha Thuận. Nhưng anh khựng lại khi thấy tôi bất ngờ đứng lên, hai bàn tay tôi nắm lại. Thấy tôi đứng dậy, một vài anh em nhóm Nam Hà ngồi bên Cha Thuận cũng đứng dậy theo. Anh ta hiểu ngay tình thế nên không dám động tới Cha Thuận, nhưng sau đó chửi bới cho đã cơn giận. Để mặc cho anh ta điên cuồng chửi bới, Cha Thuận và chúng tôi ngồi yên không ai lên tiếng.

Tôi theo đội trồng bắp cải được mấy hôm thì được lệnh ở nhà để viết tường thuật, tức là khai báo lý lịch. Có 3 người khác cũng ở nhà cùng viết là các anh Nguyễn Vạng Thọ, nguyên Tổng thư ký Bộ Tư pháp, anh Lê Văn Khương, nguyên Quản đốc trại tù Côn Sơn và Phạm Dương Đạt, một Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến. Vì chỉ có 4 người viết nên không có thủ tục rườm rà như lần khai báo ở trại Nam Hà năm trước. Từ đó hàng ngày khi đội đi lao động, chúng tôi ở nhà viết “luận án” dưới sự hướng dẫn và kiểm soát của một cán bộ giáo dục người Tày là Chuẩn úy Siển. Anh là một người ít nói và hiền hậu hiếm có trong số cán bộ trong tù.

Lúc bấy giờ tôi ăn uống và sinh hoạt chung với Cha Thuận. Mỗi buổi trưa và chiều nhìn cảnh các linh mục già nua lang thang lếch thếch theo đội đi lao động về tôi thấy thảm sầu làm sao! Chúng tôi mới lên Cổng Trời chưa đầy một năm nhưng cái đói và cái rét đã “ăn” hết thịt mấy người tù, nhất là các linh mục già, chỉ còn chừa lại xương với da. Người nào cũng má hóp trơ xương mặt ra rất thảm hại.

Lúc nhìn những hình hài này, tôi chợt nhớ lại ngày xưa, có lần một người ở quê tôi rộng một hầm cá lóc, vì tát đìa có nhiều quá nên rộng đó để ăn dần. Chừng mấy tháng sau tát hầm bắt cá lên, tôi tới coi và thấy tất cả mọi con cá gần như chỉ có cái đầu, còn thân và đuôi cá thì dẹp lại nhỏ xíu trông rất thảm hại và lạ lùng. Vì tôi chưa bao giờ được thấy cá lóc bị teo như vậy nên hình ảnh đó làm tôi nhớ hoài. Lúc ở trại Cổng Trời, khi nhìn thân hình những người tù, nhất là các linh mục già tự nhiên tôi nhớ mấy con cá bị rộng trong hầm năm xưa!

Có lần tôi thấy mặt mày Cha già Phạm Ngọc Lan bị trầy trụa, tôi hỏi tại sao, Cha cho biết bị trâu đạp vì hôm đi dẫn con trâu nghé mới vực cày, thằng tù hình sự cầm cày đánh trâu mạnh quá nó giật mình phóng tới làm Cha Lan ngã xuống bị trâu giẫm lên! Tôi nghe mà xót xa trong lòng.

Cũng trong thời gian viết tường thuật này, có một buổi chiều chúng tôi nghe tiếng quát tháo và tiếng đấm đá tưng bừng phía bên kia hàng rào bằng ván. Khi ghé mắt nhìn qua, tôi bị tối mắt khi thấy một nhóm rất đông cán bộ quây đánh anh Nguyễn Huy Khoan cách tàn nhẫn vì anh Khoan trốn trại trong lúc đi lao động tự giác. Anh đã đi sâu qua khu rừng, chẳng may một cán bộ đi bắn chim phát giác bắt lại, dẫn về trại và cho ăn đòn hội chợ. Anh Khoan là người tù Biệt Kích, anh là người rất tốt, hiền từ, ăn nói thật nhỏ nhẹ, trước kia là tổ trưởng tổ mộc khi tôi còn trong khu O.

Sau khi lên ‘Cổng Trời’ vài tháng, chúng tôi nghe nói nhiều tới chiến tranh với Trung Quốc. Trong trại có một loa phóng thanh đặt ở hội trường và hàng đêm chúng tôi được nghe tin tức thời sự. Trong các bài bình luận, càng ngày thái độ của Chính phủ Việt Nam chống và chửi Trung Quốc càng nặng giọng và trong những lần học tập chính trị, cán bộ nói nhiều về mộng xâm lăng bành trướng của bá quyền bắc phương. Tình hình càng lúc càng căng thẳng và trong trại rầm rì tin đồn về chiến tranh sẽ xảy ra.

Nếu thực sự có chiến tranh biên giới xảy ra thì chúng tôi là những người chịu ảnh hưởng trước nhất, vì trại Quyết Tiến nằm ở vùng địa đầu giới tuyến, chỉ nằm cách biên giới Trung Quốc quãng 10 cây số tính theo đường chim bay. Những hôm trời quang mây tạnh chúng tôi nhìn thấy được dãy núi bên trung Quốc. Tâm trạng chúng tôi lúc bấy giờ vừa lo âu, vừa sợ lại vừa mừng, nhưng cũng chỉ biết phó thác số phận cho Trời. Trong thời gian này đội vẫn đi lao động bên ngoài và bốn người chúng tôi vẫn ngồi nhà viết tường thuật.

Ngày Phục Sinh

Tới tháng 7 năm 1978, tình hình biên giới Việt-Hoa trở nên rất căng thẳng. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe tiếng đại bác từ xa phía biên giới Trung Quốc vọng về. Mấy anh tù hình sự đi lao động tự giác bên ngoài về cho biết đó là quân đội Trung Quốc tập trận, vì trại này nằm cách biên giới không xa nên tiếng súng lớn nghe rất rõ. Ban ngày thỉnh thoảng chúng tôi cũng thấy máy bay chiến đấu bay lượn trên vùng trời khu vực trại tù. Những hiện tượng này cho phép chúng tôi phỏng đoán sắp có chiến tranh xảy ra.

Suốt trong tháng 7 đó, tất cả tù nhân chúng tôi, ngày Chủ Nhật được lệnh đi đào giao thông hào cách ngoài trại một đỗi. Chúng tôi đào chiến hào khá dài, bề ngang 2 thước, sâu cỡ đầu người. Khi công tác này bắt đầu, chúng tôi có cảm giác như đã ngửi thấy mùi thuốc súng đâu đây. Nhiều người bàn ra tán vào về cái giao thông hào rộng và sâu này. Có lần chúng tôi được nghe cán bộ giải thích, đào như thế để ngăn trâu bò của dân vào phá hoa mầu của trại. Có kẻ nói, để lực lượng võ trang của “ta” chống cự khi quân đội Trung Quốc tràn qua biên giới, nhưng trong thâm tâm tôi vẫn nghĩ, biết đâu những người chủ trương đào hầm này lại có một ý khác nữa. Ý nghĩ này tôi không tiện nói ra nhưng nó ám ảnh tôi không lúc nào nguôi!

Ngày 2 tháng 8 năm 1978 là một thời điểm đáng ghi nhớ trong đời tôi. Chiều hôm đó trước giờ xuất quân đi lao động, có tiếng kẻng tập họp lên hội trường. Khi nghe tiếng kẻng, tôi có linh tính rất mạnh là có một biến cố gì quan trọng. Sau khi tập họp xong, ông trại trưởng, lúc bấy giờ vẫn còn là Đại úy Lãng, thông báo, để tạo điều kiện cho việc cải tạo thuận tiện hơn, Bộ Nội vụ quyết định đưa số tù nhân của trại về miền xuôi.

Vừa nghe tới đó cả hội tường vỗ tay la lối vang dậy. Một nỗi mừng quá lớn bộc phát tự nhiên làm không ai kiềm hãm được nỗi vui trong lòng, cứ phải la hét, cứ phải nói, cứ phải nhảy nhót, cứ phải vỗ tay, cứ phải quay sang bắt tay người này vỗ vai người khác. Tôi ngồi thừ người trong trạng thái vui mừng tột độ chỉ biết âm thầm nói câu “Tạ ơn Chúa!” Tôi không ngừng cầu xin Chúa che chở trong cơn khó khăn. Tôi biết rằng, có thể đó là một trong những ngày vui nhất của cuộc đời tôi cho tới lúc này.

Phải mất một hồi lâu cán bộ mới vãn hồi được trật tự để ông trại trưởng tiếp tục nói, nhưng hình như không ai trong chúng tôi còn muốn nghe gì thêm. Đối với chúng tôi, chỉ cần biết được rời khỏi ‘Cổng Trời’ là đủ rồi. Không cần biết sẽ đi về đâu, ở trại nào, chuyện đó tính sau, vì ra khỏi ‘Cổng Trời’ là còn hy vọng được sống.

Sau đó ông trại trưởng phổ biến thêm thời giờ và chi tiết cuộc chuyển trại. Tôi nghe nhưng không chú ý lắm vì trong 3 năm qua tôi đã chuyển trại 6 lần và biết tất cả những gì phải làm. Chiều hôm đó cán bộ Siển vào thu bài viết, tôi bảo đang viết dở dang, anh ta bảo như thế không cần thu, và tôi chấm dứt việc khai báo tại trại Quyết Tiến từ đó.

Trong đêm cuối cùng ở trại Cổng Trời, tôi thấy quên hết mọi ưu phiền, và lạ lùng hơn nữa là thấy như không phải là đang ở tù. Nếu từ trước nay, trại Cổng Trời đồng nghĩa với một thứ “tử địa” thì bây giờ tôi thấy nó chỉ còn là một nơi ghi lại một phần kỷ niệm đời tôi như bao nhiêu nơi khác. Từ nay Cổng Trời không còn hiện diện trong tôi như một nhân tố tiêu diệt mà chỉ là một nơi giúp cho tôi đụng chạm tới sự khắc nghiệt của thiên nhiên, cảnh khổ của tù hành hạ tù và nhất là bóng dáng của Thần Chết mình mặc áo choàng đen, người không có thịt chỉ có xương, tay cầm liềm hái đang từng bước đi tới.

Hôm sau là một ngày rất đẹp trời lại nắng ấm, một ngày thời tiết đẹp hiếm có của vùng này. Tôi có cảm tưởng vui vì tôi cho rằng vị thần coi thời tiết thấy hối hận, vì đã đối xử quá tệ bạc với chúng tôi trong suốt 8 tháng qua, và hôm nay làm một cữ chỉ đẹp, coi như là món quà tạ lỗi trước lúc chia tay!

Mọi người tù được điều lên xe. Tôi bị còng dính với một anh bạn và chúng tôi ngồi chen chúc trong xe. Dù chật chội, nhưng tôi không lấy thế làm phiền. Khi xe ra khỏi trại một đỗi và từ trên đỉnh núi cao chầm chậm đổ dốc, tôi nhìn xuống thấy những vầng mây trắng vướng chân vào lưng chừng núi. Những đám mây trắng lững lờ bên dưới rất xa, có lẽ phải dưới xe tôi đến hàng nghìn thước.

Cảnh này đẹp lạ lùng, vẻ đẹp thần tiên cứ như mơ, làm tôi mải mê ngắm nhìn. Lúc ngồi trên cao nhìn xuống những đám mây lững lờ trôi tít mù bên dưới, tôi chợt hiểu hết ý nghĩa hai tiếng “Cổng Trời” mà một người giàu óc tưởng tượng nào đó đã dùng để gọi trại Quyết Tiến mà chúng tôi vừa từ giã ra đi.

« »

Tôi Phải Sống: 6- Trở Lại Trần Gian

toiphaisong_tua2

6- Trở Lại Trần Gian

Đầu tháng 8 năm 1978, khi chiến tranh biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc sắp sửa bùng nổ, nhóm tù 48 người chúng tôi được di tản khỏi trại trừng giới “Cổng Trời” để về trại Thanh Cẩm thuộc tỉnh Thanh Hóa . Chúng tôi biết là người ta sợ nếu xảy ra chiến tranh thì Trung Quốc tràn qua biên giới sẽ giải thoát các tù nhân. Cùng đi với chúng tôi trong chuyến đó còn có 38 anh em Biệt Kích, nhưng họ về trại Lam Sơn, trước kia còn gọi là trại Lý Bá Sơ cũng trong tỉnh Thanh Hóa. Các anh em Biệt Kích này đã nhảy dù ra Bắc trong những năm 1962 và 1963. Họ bị bắt cầm tù đã lâu ở nhiều trại khác nhau tại miền Bắc trước khi bị đưa lên “Cổng Trời”. Khi chúng tôi gặp các anh em Biệt Kích ở trại Quyết Tiến vào năm 1977, có người đã ở tù 14 hoặc 15 năm rồi! “Nhóm 48 Quyết Tiến” chúng tôi gồm có 15 linh mục và một số anh em thuộc đủ mọi thành phần bị coi là nguy hiểm trong số tù chính trị miền Nam được tuyển chọn từ nhiều trại khác nhau đưa lên.

Cõi Tiên và Địa Ngục

Ở Cổng Trời, các tù nhân cảm thấy từ con người tới thiên nhiên đều đứng về phe đối nghịch với họ. Từ các cán bộ cai ngục với cách thức đối xử tàn nhẫn với tù nhân tới sự hành hạ dã man của các đội trưởng tù hình sự đối với đội viên, từ sự chém giết lẫn nhau trong đám tù hình sự tới cái đói triền miên trong lúc phải đi làm lao động khổ sai, tất cả đều nói lên nỗi khắc nghiệt, cay đắng, tủi nhục và uất hận của đời người. Còn nữa, yếu tố thiên nhiên với cái lạnh chết người ở đây lại càng thu hẹp thêm khoảng cách giữa sống và chết của người tù. Cái lạnh miền sơn cước “Cổng Trời” thật đáng sợ. Về mùa đông không mấy ngày nhiệt độ nhích lên quá con số không. Biết bao thành phần phản kháng chống chế độ cộng-sản đã chết ở đây.

Chúng tôi bị đưa lên Cổng Trời cũng là để chuẩn bị bước sang bên kia thế giới. Chỉ sau một vài tháng bị đày lên đó, tôi đã thấy bóng dáng Thần Chết tay cầm liềm hái đang dò từng bước đi tới. Có lẽ các linh mục già yếu và các anh em lớn tuổi trong nhóm càng thấy rõ hơn. Vì lý do đó, trong suốt ngần ấy năm tù, chỉ có hai ngày làm tôi vui mừng và sung sướng nhất. Lần thứ nhất là ngày được di chuyển ra khỏi trại Cổng Trời vào đầu tháng Tám năm 1978 để về trại Thanh Cẩm trong tỉnh Thanh Hóa, và lần thứ hai tôi sẽ nói sau.

Trong hoàn cảnh đó việc Trung Quốc chuẩn bị tấn công vào vùng biên giới Việt Bắc được coi là cơ hội may mắn đối với các tù nhân bị lưu đày ở trại này. Năm đó Hoa Quốc Phong đang là Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Trung Quốc. Chính nhờ cơ hội đó, chúng tôi mới được chuyển về xuôi và một số anh em chúng tôi còn được sống sót tới ngày hôm nay.

Thật khó có thể diễn tả được tâm trạng vui mừng và cảm giác hạnh phúc của tôi cùng các bạn tù trong đêm cuối cùng ở trại Cổng Trời. Khi đọc các dòng này xin mời bạn dùng một chút trí tưởng tượng để cảm nghiệm được nỗi hạnh phúc tột cùng của tôi lúc đó. Hãy tưởng tượng là bạn bị kết án tử hình và sẽ bị hành quyết. Trong nỗi buồn tuyệt vọng và đau khổ chờ chết, bất ngờ có lệnh khoan hồng ban ra. Cũng chính vì niềm vui quá lớn đó mà tôi còn nhớ trên chuyến xe chở chúng tôi rời trại Cổng Trời, có một anh “phát biểu” câu nói sặc mùi phản động mặc dù rất chí lý:“Anh em à! Tôi đề nghị sau này chúng mình được tha về rồi, sẽ góp tiền lại đúc tượng của Hoa Quốc Phong đặt trên bàn thờ nhé.” Có nhiều tiếng reo vui phụ họa:“ Nhất trí! Mỗi người một ý”!Hôm đó ngồi trên chiếc xe chật ních và bị còng tay dính chùm từng đôi một nhưng có lúc tôi lại tưởng chừng như mình đang đi cắm trại ở một vùng thắng cảnh miền núi đẹp mê hồn ở vùng địa đầu quê hương. Nhất là khi nhìn xuống từng đám mây đang bay là đà hàng ngàn thước bên dưới chân núi trong một buổi sáng trời trong nắng ấm. Nhìn cảnh đó tôi nghĩ thầm:“Nếu mình không đi tù làm sao thấy được cảnh đẹp mê hồn này.”

Trở Lại Trần Gian

Trên đường xuôi về trại Thanh Cẩm, chúng tôi dừng chân một đêm tại trại Văn Hòa ở ngoại ô Hà Nội. Trại này xây dựng chưa xong, còn ngổn ngang vật liệu xây cất, gặp đêm đó mưa to nên trong trại lầy lội bùn sình dơ bẩn. Chúng tôi ghé vào trại này lúc quá nửa đêm, mệt nhọc, đói khát và bẩn thỉu. Có nhiều người buồn đi đại tiện đến mức không còn chịu đựng nổi phải la lối trên xe và yêu cầu dừng lại để giải quyết nhu cầu tự nhiên này, nhưng vì lý do an ninh, cán bộ áp tải tù không cho xe dừng lại ban đêm. Vì trại chưa có cầu tiêu nên cả nhóm chúng tôi buộc lòng phải giải quyết vệ sinh ngay trong sàn nhà lầy lội bùn sình nơi chúng tôi tạm nghỉ qua đêm.

Chiều tối ngày 4 tháng 8 năm 1978, nhóm “48 Quyết Tiến” chúng tôi lang thang lếch thếch, tay xách, nách mang, bước vào cổng trại Thanh Cẩm dưới cơn mưa tầm tã để bắt đầu một giai đoạn mới trong kiếp sống tù đày. Chưa ai biết những gì đang chờ đợi trước mắt, nhưng anh em chúng tôi vui vẻ bảo nhau:“Bất cứ kiểu gì cũng còn tốt hơn Cổng Trời”.

Vừa bước vô tới hội trường giữa sân trại, một cảnh tượng lạ lùng đập vào mắt khiến tôi ngạc nhiên và vẫn còn nhớ mãi, đó là hình ảnh của cán bộ trực trại. Lão này độ ngoài 50 tuổi, người ngợm trông bẩn thỉu và bèo nhèo như một cái nùi giẻ, loại nùi giẻ của thợ máy xe. “Cái nùi giẻ” đó đang say rượu, chân nam đá chân chiêu, tay cầm gậy trúc cao quá đầu, múa may theo từng nhịp và la hét quát tháo ầm ĩ. Rõ ràng là ông ta muốn dằn mặt bọn “lính mới” chúng tôi. Cái hình thù dị hợm này xem chẳng giống ai. Chân mang ủng cao gần tới đầu gối, hai ống quần ka-ki vàng của công-an xắn một cách vô trật tự lên tới bẹn để lộ một khúc chân đen đen mốc mốc trông đến khiếp! Nhìn lão cán bộ Thượng úy trực trại dị hợm này, tôi lại liên tưởng tới bức tranh biếm họa vẽ hình Táo Quân. Một Táo Quân đang say rượu!

Trước mặt và chạy quanh ông ta, là hai anh tù mặc đồng phục màu xanh, chân mang dép râu, lăng xăng khua khoắng như những con rối để dẫn chúng tôi vào chỗ phải vào. Tôi biết ngay đây là hai anh trật tự, vì trên trại Cổng Trời cũng có một anh tù hình sự làm trật tự. Nhiệm vụ của anh là giúp cán bộ khám xét khi nhóm 20 anh em chúng tôi trong đội trừng giới từ trại Nam Hà mới chuyển lên đúng vào ngày lễ Giáng Sinh năm 1977. Anh ta làm việc một cách từ tốn và chậm rãi, chứ không quá lăng xăng như hai anh trật tự này.

Tổ Chức Trong Trại

Các trại tù thuộc Bộ Nội Vụ, do công-an quản lý được tổ chức như sau: Đứng đầu trại là một Ban Giám Thị gồm trại trưởng, trại phó và các ban, ngành lo về các phần vụ chuyên môn như Ban Giáo Dục, Ban An Ninh, Ban Hồ Sơ, Ban Tài Chánh, Ban Cấp Dưỡng v.v… Các tù nhân trong trại được phân làm từng đội, mỗi đội do một tù nhân làm đội trưởng và một cán bộ quản giáo trông coi. Đội trưởng do Ban Giám Thị trại chỉ định theo đề nghị của Ban An Ninh.

Mỗi khi các tù nhân được di chuyển ra khỏi trại, như đi lao động chẳng hạn, phải có một hoặc hai cán bộ võ trang vác súng dài đi theo canh giữ. Ban đêm, các cán bộ võ trang này thay phiên nhau tuần tra trong và ngoài vòng rào của trại để ngăn ngừa tù nhân trốn trại. Ban ngày các tù nhân thuộc trách nhiệm của ban quản giáo, và ban đêm, sau khi điểm danh vào buồng, họ thuộc trách nhiệm của cán bộ võ trang.

Trực tiếp lo về sinh hoạt và đời sống của tù nhân có Ban Trực Trại, đứng đầu là một cán bộ Trực Trại. Để điều hành công việc trong trại, cán bộ trực trại thường chọn một số tù nhân được trại tín nhiệm để phụ trách các công tác như trật tự, y tế và văn hóa. Nhóm này còn được gọi là Ban Thi Đua. Các chức vụ trong Ban Thi Đua này do Ban Giám Thị chỉ định theo đề nghị của Ban An Ninh. Trong các công tác kể trên, công tác trật tự được coi là quan trọng nhất, do một anh trật tự điều hành.

Anh này có quyền hành nhất trong trại, chỉ sau cán bộ mà thôi. Muốn được làm trật tự thường phải có nhiều công trạng với trại, được trại tín nhiệm. Thêm vào đó cũng còn phải có sức mạnh nữa. Ngoài nhiệm vụ trông coi trật tự trong trại, anh trật tự còn phụ giúp cán bộ trực trại coi khu kiên giam và khu kỷ luật, như khóa cùm các tù nhân bị phạt kỷ luật vào buổi tối và tháo ra vào buổi sáng. trật tự cũng có nhiệm vụ gánh khẩu phần ăn lên phát cho các tù nhân bị kiên giam và kỷ luật mỗi ngày hai lần, trưa và chiều. Đồng thời, trật tự cũng đi điểm danh với cán bộ trực trại vào buổi tối, sau đó khóa các buồng và sáng ra mở cửa buồng. Mỗi lần trật tự làm công tác trên khu kiên giam hay khu kỷ luật thường có cán bộ đi theo, nhưng cũng rất nhiều khi trật tự chỉ đi một mình, lúc đó vai trò của anh không khác gì của một cán bộ.

Ở một vài trại, các anh trong Ban Thi Đua có phòng riêng, ban đêm không ngủ chung với các tù nhân khác. Cũng có những người tuy không có “công trạng” nhiều với trại, nhưng nhờ đút lót tiền của cho cán bộ trực trại và cán bộ an ninh nên được cho làm trật tự. Chức trật tự thuộc diện “sĩ quan” so với đám tù. Họ không phải đi lao động vất vả như các anh em khác. Họ có quyền hành và dĩ nhiên là được tự do hơn. Cũng có trường hợp được chọn nhờ to con lớn xác và có tướng mạo trông “ngầu”! Đây cũng là một yếu tố quan trọng để được chọn vì làm trật tự ngầm hiểu là giữ vai trò quả đấm của trại.

Hai Anh Trật Tự

Hai anh trật tự trại này, một anh độ ngoài 40 trông bộ dạng lầm lì và ít nói. Anh kia trẻ khoảng chừng 30 tuổi, lăng xăng hơn. Anh này mập tròn và béo tốt nhưng hơi bị tật. Da mặt anh bóng láng, khác hẳn với các thân hình xanh xao gầy còm của nhóm anh em chúng tôi vừa mới nhập trại. Anh trẻ này đang cố gắng làm mặt “ngầu” để thị uy với các lính mới trong một cung cách cố gắng thấy rõ. Miệng anh lúc nào cũng la hét, tay anh chỉ hết bên nọ đến bên kia, nhưng không bao giờ nhìn thẳng vào mặt ai trong bọn chúng tôi.

Nhóm chúng tôi di chuyển rời rạc. Những người còn khỏe đi nhanh tới chỗ tập trung ngay trong hội trường nằm giữa sân trại, còn những người ốm yếu bệnh tật lò mò theo sau. Tôi nhớ lúc đó anh Nguyễn Sỹ Thuyên gần kiệt lực, vừa tới nơi tập trung đã vất phịch cái bao áo quần và chăn màn bẩn thỉu xuống nền hội trường, rồi nằm ngửa người trên đó. Tôi cũng quá mệt nên tới ngồi cạnh bên anh. Sau một lúc, anh Thuyên lấy lại được bình tĩnh và dùng cùi chỏ thúc nhẹ tôi, hất mắt hướng về cán bộ trực trại và ghé bên tai tôi nói nhỏ:“Mẹ! Cái thằng này trông như ở lỗ cống mới móc lên!” Tôi chưa kịp ra dấu phát biểu đồng tình thì giật mình vì một giọng quát từ sau lưng:“Còn hai anh này! Không lo thu xếp ‘nội vụ’ còn ngồi nói chuyện chi đây? Bộ muốn chống đối hả?” Tôi quay lại và chạm ngay cặp mắt trắng dã của tên trật tự trẻ mà từ lúc đầu tôi đã gườm hắn. Tôi đứng dậy bỏ đi vì biết rằng đây không phải là chỗ tốt để bày tỏ một thái độ nào khác hơn, vừa đi tôi vừa nghĩ bụng là mình phải cẩn thận với tên này.

Trong giờ điểm danh chiều hôm sau, tôi và một số anh em trong nhóm 48 Quyết Tiến bị đưa lên nhốt trên khu kiên giam, số còn lại ở dưới “làng” làm thành một đội mới là Đội 16 và anh Nguyễn Văn Phước được chỉ định làm đội trưởng. Anh Phước là một Thiếu tá Hải quân, từ đảo Guam trở về trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín. Khi về tới Việt Nam, anh bị đưa thẳng vào tù, bị đày ra Bắc và lên “Cổng Trời” với chúng tôi.

Kiên giam trại Thanh Cẩm là một khu nhà hình vuông xây cất rất kiên cố, được chia thành bốn buồng nằm bốn góc như hình chiếc bánh chưng được cắt đều làm tư. Chúng tôi gọi khu này là Nhà Bằng vì có mái bằng đúc bằng xi-măng. Mỗi buồng có hai cửa sổ khá rộng được chấn bằng những song sắt to gần bằng cổ tay. Trong buồng có bệ nằm bằng xi-măng cao khoảng 80 phân và một lối đi từ cánh cửa sắt tới vách ngăn khu vực cầu tiêu. Mỗi buồng chứa được từ năm tới bảy người nằm theo kiểu xếp cá hộp. Ban đêm thường là có một người xuống nằm ngủ dưới lối đi vì bệ nằm quá chật.

Khu kiên giam được dùng để giam riêng các tù nhân bị coi là nguy hiểm. Họ phải sống cách ly với các tù nhân khác. Tù nhân ở khu này tuy không bị cùm chân nhưng suốt ngày đêm bị khóa trong buồng, trừ hai bữa ăn, trưa và chiều thì được mở cửa để ra ngoài lấy thức ăn, nước uống và làm vệ sinh, mỗi lần khoảng mười lăm phút.

Thông thường, mỗi tuần một lần, tù nhân ở Nhà Bằng được đi tắm giặt dưới sông Mã trước cửa trại. Các tù nhân ở kiên giam và kỷ luật thường là đi tắm chung và bị canh gác rất cẩn thận. Khi nào cán bộ võ trang bận, hoặc vì lý do gì khác thì ba tuần hoặc một tháng mới được đi tắm một lần.

Trại Tù Thanh Cẩm

Tôi bị đưa ngay vào kiên giam vì bị xếp vào loại tù nguy hiểm. Nhờ một số tù nhân đang bị giam ở đây, vài ngày sau chúng tôi nắm vững vị trí và tình hình của trại này. Trại Thanh Cẩm lúc đó chia làm hai K (Khu). Chúng tôi ở K1 gồm toàn chính trị miền Nam khoảng 400 người, đa số là cựu viên chức hành chánh của chế độ miền Nam cũ và một số anh em thuộc tổ chức Phục Quốc hay vượt biên bị bắt. Không có thành phần cựu quân nhân trong lúc này. K2 nằm cách K1 khoảng 3 cây số và được dùng để giam tù hình sự.

Một số anh em tù chính trị từ Long Thành đến đây vào tháng 12 năm 1976 kể lại cho chúng tôi biết là trại này có đến ba K. K1 là phân trại mà chúng tôi đang ở, gồm một nửa là tù chính trị miền Nam và một nửa là tù hình sự. Phân trại này trước đây là nhà tranh, có hàng rào tre nhiều lớp bao bọc chung quanh, dùng để giam tù hình sự. Sau khi chiếm được miền Nam, Bộ Nội Vụ ra lệnh xây cất gấp những dãy nhà gạch và một vòng tường kiên cố để đón tù chính trị miền Nam, vì tù nhân miền Nam được coi là thành phần nguy hiểm, phải được canh giữ rất cẩn thận.

Khi các anh em từ trại Long Thành trong Nam chuyển ra đây thì phía bên phải của trại đã có bốn dãy nhà ngói, còn bên trái là ba căn nhà tranh và một khu nhà kỷ luật xây bằng đá tối om, có lỗ thông hơi rất nhỏ, được dùng để giam những người bị kỷ luật và những người Trung Quốc bị bắt ở vùng biên giới và bị kết tội làm gián điệp. Chúng tôi thường gọi khu này là Nhà Đen vì nó tối đen u ám, lại lợp bằng thứ vải nhựa màu đen. Khu kiên giam mà chúng tôi đang ở là khu nhà mới xây cất để đón chúng tôi.

Khu trại K2 nằm về phía Nam khoảng hơn hai cây số và được dùng để giam các tù chính trị miền Bắc, khoảng 160 người, đa số là giáo dân và tu sĩ Công Giáo thuộc các tỉnh Thanh Hóa, Thái Bình và Nam Định. Họ bị bắt từ năm 1970 khi Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đổ bộ qua Campuchia. Hà Nội sợ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bất thần đổ bộ ra Bắc, nên cô lập các thành phần mà họ nghi có thể làm nội ứng, tiếp tay cho “giặc”.

Thành phần tù chính trị này gồm những chức sắc trong các giáo xứ như chánh trương, trùm, trưởng và những người lãnh đạo các đoàn thể như thiếu nhi Thánh Thể, Liên Minh Thánh Tâm hoặc những người phụ trách các công việc phụng vụ trong nhà thờ như ban Khánh Tiết, ban Thánh Ca, ban Giúp Lễ v.v… Có một số nhỏ thuộc loại “tu chui”, vì đi tu mà không được công-an cho phép. Anh em kể lại rằng nhóm này có tinh thần quật cường. Họ sống với nhau rất đoàn kết, đùm bọc và thương yêu nhau. Hầu hết tù chính trị miền Bắc không được thân nhân tiếp tế, chỉ sống nhờ khoai sắn của trại và rau cỏ trong rừng. Gia đình họ quá nghèo, không đủ ăn nên không thể tiếp tế được.

Đến năm 1978 nhóm này được chuyển đi xây cất trại Thanh Phong thuộc một vùng khác cách đây không xa, cũng ở trong tỉnh Thanh Hóa. Khi họ rời trại Thanh Cẩm, thì K2 được phá hủy để trồng hoa mầu. Khu trại K3 nằm về phía Bắc, cách K1 ba cây số, giam toàn tù hình sự. Một số anh em Biệt Kích miền Nam nhảy dù ra Bắc trong các năm 1962 và 1963 cũng bị giam ở đây, nhưng anh em sống tập trung ở một nhà riêng. Họ được giao cho phụ trách nhà máy đèn, nhà nấu rượu và một số công việc linh tinh chung cho cả trại. Khi K2 bị phá hủy thì K3 trở thành K2.

Trại Thanh Cẩm nằm trên bờ sông Mã, thuộc vùng thượng du của tỉnh Thanh Hóa, cách biên giới Việt-Lào khoảng 30 cây số, ở độ cao hơn mặt biển khoảng 400 thước. Trại này nằm ở vị thế hiểm trở, phía trước là sông rộng, chung quanh núi non bao bọc, chỉ có con đường độc đạo ra vào trại. Có mấy làng mạc của người Mường nằm rải rác cách xa trại vài cây số. Vị trí địa lý và nhân tình ở đây không thuận lợi cho việc trốn trại. Vượt qua núi cao để ra khỏi vùng này rất khó vì đó đây quanh trại là nhà dân. Nếu gặp tù trốn trại, họ sẽ báo cho công-an để được thưởng lương thực hay rượu. Từ thị xã Thanh Hóa vào đây chỉ khoảng 80 cây số, nhưng đường núi hiểm trở và lưu thông khó khăn. Số tù nhân trốn được ra khỏi trại mà đi thoát rất hiếm, nhưng không phải là không có.

Đầu năm 1978, có một nhóm tù nhân chính trị được chuyển từ trại Quảng Ninh tới, đa số là các bạn trẻ trong tổ chức Phục Quốc và những người vượt biên. Họ được gọi chung là “nhóm phản động”. Khi tôi đến đây thì trại đang xây thêm phòng giam để nhận thêm một số tù nhân chính trị nữa. Nhiều nơi đá gạch còn ngổn ngang. Nói chung, trại Thanh Cẩm này đang trên đà “làm ăn phát đạt”, cứ mỗi năm lại xây thêm nhà mới!

Trật Tự “Giả Cầy”

Cán bộ trực trại mà tôi gặp khi mới bước chân vào đây là Thượng Úy Phú. Anh em chúng tôi gọi ông là “Phú Già”, và kính cẩn hơn nữa gọi bằng “lão”. Lão này nghiện rượu nặng và rất khoái nhậu thịt chó. Lão đúng thuộc loại cán bộ bầy nhầy, sáng say chiều xỉn. Giọng nói thì lè nhè và mặt mày lúc nào cũng đỏ gay như gấc!

Chúng tôi cũng được biết anh trật tự “lớn” tên Phạm Đình Thăng, người Quảng Ngãi. Nghe nói lúc trước anh là Nghị viên Hội Đồng Tỉnh Lâm Đồng. Mắt anh hay nhìn lấm lét, nhưng thuộc loại có nhiều kinh nghiệm nên hành động có chừng mực để tránh tai tiếng. Anh biết một số anh em chúng tôi là linh mục, nên cũng tỏ vẻ kính trọng, tuy anh không phải là người Công Giáo. Trước mặt cán bộ anh cũng làm ra vẻ xum xoe, đôi khi cũng to tiếng với chúng tôi, nhưng anh không độc ác, mà đôi khi còn giúp đỡ vài chuyện lặt vặt như cho mồi lửa hút thuốc lào hoặc chuyển giúp vài món đồ giữa anh em chúng tôi ở các buồng kiên giam khác nhau v.v… Anh Thăng cũng là người khá vui tánh và tôi còn nhớ vài câu chuyện nhỏ về anh.

Một ngày nọ, bất ngờ trại cho tù ăn một bữa thịt bò. Đây là một niềm vui, vì những dịp nào trại cho ăn thịt mà trong tù gọi là “ăn tươi” chúng tôi đều thuộc nằm lòng, và số những lần “ăn tươi” này không nhiều hơn số đếm trên đầu các ngón tay. Trưa hôm đó, khi gánh thức ăn lên khu kiên giam, Phạm Đình Thăng đi tới từng buồng, đứng bên ngoài cửa sổ, mặt mày hớn hở, miệng anh ta be be báo tin vui:“Bữa nay ăn một trăm phần trăm ‘bớp!’” Anh ta lập đi lập lại “tin vui trong ngày” đó rất nhiều lần. Sau này hỏi ra mới biết là con bò kéo cày của trại bị sụp hố què chân nên phải làm thịt, và mỗi người trên khu kiên giam chúng tôi được hai hoặc ba miếng thịt bò to cỡ bằng đầu ngón tay út của một em bé lên 10! Dù vậy anh em chúng tôi cười đùa bảo nhau:“Giá mà trại này có nhiều cái hố như vậy thì hay biết mấy!”

Cũng chính anh Thăng đã báo cho chúng tôi hay tin Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã qua đời. Khoảng hơn tháng sau, anh lại lên báo tin Giáo Hoàng chết. Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

- Mới chết rồi sao lại chết gì nữa hả anh?

Phạm Đình Thăng trả lời:

-Cái ông mới lên cũng chết luôn rồi!

Đó là một vài điều tôi còn nhớ về anh Thăng là trật tự chính trong trại lúc đó. Anh trẻ kia tên Trương Văn Phát, người Tàu lai ở Chợ Lớn, làm thợ đóng giày, bị bắt vì tội vượt biên, làm phụ tá trật tự và đúng là một tên hắc ám. Không biết ở dưới “làng” anh ta xử sự ra sao, nhưng mỗi khi có việc gì liên quan tới chúng tôi trên khu kiên giam là anh ta quát tháo, nạt nộ và luôn dùng cách nói đe dọa:“Các anh hãy liệu hồn!” Đây là lý do tại sao Phát được chọn làm phụ tá trật tự.

Trong tất cả các trại mà tôi được biết, trại nào cũng chỉ có một trật tự mà thôi. Tuy nhiên trại Thanh Cẩm này là trường hợp ngoại lệ, có tới hai người, một chánh và một phó! Tôi nghe nói, sở dĩ Trương Văn Phát được cho làm trật tự vì anh ta đã hối lộ cho “Phú Già”, cán bộ trực trại. Một số anh em cùng di chuyển từ trại Quảng Ninh lên trại Thanh Cẩm với Trương Văn Phát có kể lại rằng, khi còn ở trong Nam, Phát ăn uống sinh hoạt chung với một anh bạn có nhiều tiền. Khi bị chuyển ra Bắc, sợ giữ nhiều tiền trong người sẽ bị công-an khám phá lấy mất, nên anh bạn giao cho Trương Văn Phát giữ phân nửa, nhỡ ra người này bị mất thì còn người kia. Không ngờ khi ra tới đất Bắc mỗi người được đưa về một trại khác nhau, nên Phát đương nhiên trở thành sở hữu chủ số tiền của anh bạn kia.

Khi đến trại Thanh Cẩm, gặp ngay “Phú Già” nghiện rượu, thèm thịt chó, tiền lương không đủ nhậu, Phát đã từ từ bỏ tiền ra mua rượu thịt cho “Phú Già” nhậu, nên “Phú Già” đã đưa Phát lên làm trật tự “phó”. Tôi không biết câu chuyện được kể lại này có hoàn toàn đúng như vậy không, nhưng điều tôi biết rõ là chức trật tự phó của Trương Văn Phát tại trại tù Thanh Cẩm là một biệt lệ của các trại tù cộng-sản.

Để bày tỏ sự khinh bỉ tư cách và con người của Trương Văn Phát, anh em tù nhân có người gọi anh ta là trật tự “giả cầy”. Dĩ nhiên là họ gọi lén lút sau lưng, nếu để Phát nghe được và mách với “Phú Già” thì chắc chắn là anh nào gọi như thế sẽ phải trả một giá đắt cho cái vạ miệng của mình.

Nhân đây tôi cũng muốn nói thêm về “Phú Già” đôi chút cho mặn mà câu chuyện. Khoảng hai năm sau khi chúng tôi tới trại, tức là năm 1980, “Phú Già” giải ngũ, cởi lớp áo công-an, về móc củ cỏ chung quanh khu vực trại. Tôi nghe mấy anh bạn ra ngoài lao động về kể chuyện, lúc này người ngợm ông ta rất tàn tạ và dơ bẩn.

Thỉnh thoảng “Phú Già” đi mò cua bắt ốc có tạt qua chỗ các đội đang lao động ngồi nói chuyện dăm ba câu với các cán bộ và các tù nhân, vì dù sao cũng là chỗ tình cũ nghĩa xưa. Ông ta vừa nói chuyện vừa vớ ống điếu cày của các anh tù, kéo một hơi liền mấy bi thuốc lào, xong đứng lên mang giỏ, đội nón rơm lên đầu và xách gậy bỏ đi. Không có mấy người biết lão già gầy đét, xấu xí và đen thui thủi như một con dế than đó đã một thời hét ra lửa khi làm cán bộ trực trại và cũng là người đã ban cho Trương Văn Phát chức trật tự phó ở trại này.

Nhóm Tù Quân Đội

Chúng tôi đến trại Thanh Cẩm được vài tháng thì Phạm Đình Thăng được tha về. Trước đó không bao lâu, trại Thanh Cẩm đã tiếp nhận thêm 300 tù nhân mới, đó là các anh em quân nhân từ trại Yên Bái chuyển về, trong số này có một vài người tôi quen biết. Một đôi lần trong lúc được xuống bờ sông tắm giặt, thấy lại các anh em, tôi rất mừng, nhưng chúng tôi không dám nói với nhau một lời, chỉ lấy mắt chào nhau, vì tôi đang ở kiên giam và được xếp vào thành phần “nguy hiểm” nên bị cấm tiếp xúc với các tù nhân ở dưới “làng”.

Các anh em Quân đội bị đưa ra Bắc, lúc đầu được phân phối rải rác trong các trại do bộ đội quản lý ở vùng thượng du Bắc Việt. Về sau, vì tình hình biến động ở biên giới như tôi đã nói ở trên, các trại này được giải tán và chuyển về các trại ở miền đồng bằng hay thượng du miền Trung, do công-an quản lý, trong đó có trại Thanh Cẩm.

Khi Phạm Đình Thăng đi rồi, Trương Văn Phát tạm thời làm trật tự “chánh”. Phát có vẻ lúng túng, một phần vì còn quá trẻ chưa có kinh nghiệm, một phần bị anh em trong trại coi không ra gì. Mặc dù Phát đang giữ chức trật tự, nhưng nhóm tù trẻ Phục Quốc cùng đi với Phát từ trại Quảng Ninh đến trại Thanh Cẩm, chẳng những không ngán Phát mà còn hay trêu chọc. Nhóm này coi Phát như một phu gánh thức ăn lên khu kiên giam và khu kỷ luật, và là một tên đầy tớ để cán bộ sai vặt mà thôi.

Vì tự biết là mình đang bị coi thường, Phát đã cố gắng tỏ ra uy quyền, nhưng càng tỏ ra uy quyền lại càng lố bịch và càng bị các anh em dưới “làng” trêu chọc. Dưới “làng”, Phát phải chịu thua, anh ta chỉ còn có thể tỏ ra uy quyền với các anh em chúng tôi ở khu kiên giam mà thôi. Mỗi lần có công việc liên quan tới chúng tôi, Phát thường ra lệnh và quát tháo ầm ĩ. Anh em bực mình lắm, nhưng cố nhịn vì sợ Phát “đì ” bằng nhiều cách, như không chịu mở cửa sớm khi cho ăn hoặc tự ý giảm bớt khẩu phần khoai sắn ít ỏi của chúng tôi. Tiêu chuẩn phần ăn của những tù kiên giam chỉ có 9 ký lô mỗi tháng, nếu bị Phát bớt nữa thì nguy to. Biết được chỗ yếu này nên Phát càng làm già hơn.

Như tôi đã nói, ở khu kiên giam tuy chúng tôi không bị cùm nhưng bị nhốt trong buồng cả ngày lẫn đêm. Trừ buổi trưa và buổi chiều được mở cửa cho ra lấy thức ăn và làm công tác vệ sinh, đó là thời gian hạnh phúc trong ngày. Mặc dù mỗi buồng trong khu kiên giam đều có bể nước và nhà cầu, nhưng trong thời gian đầu, cửa vào cầu tiêu bị khóa lại không cho sử dụng nên chúng tôi đành phải giải quyết việc đại tiểu tiện vào trong các ống bẩu, là các ống tre có ruột khá to được dựng đứng ở góc buồng. Tới giờ trật tự mở cửa phát thức ăn, chúng tôi chia phiên nhau đi đổ các ống phân và ống nước tiểu vào hố phân nằm ngay sau hè Nhà Đen. Đây là những giây phút thoải mái nhất trong ngày đối với chúng tôi.

Lúc đó có người lợi dụng “thời cơ”, liếc trước nhìn sau, nếu thấy cán bộ hay anh trật tự không để ý là ra hiệu chào các bạn buồng bên hoặc nhanh tay lẹ chân truyền cho nhau vài bi thuốc lào hay tí quà cáp linh tinh. Ai không có nhiệm vụ thì đứng vươn tay vươn chân hít thở không khí trong lành. Nhưng rất tiếc là Phát không cho chúng tôi được hưởng một vài phút thoải mái này. Anh ta thúc giục chúng tôi phải làm công tác vệ sinh một cách nhanh chóng để trở vào buồng giam. Có khi chúng tôi làm công việc vệ sinh chưa xong thì đã nghe Phát quát:“Khẩn trương lên nào! Vào buồng! Hết giờ rồi!”

Tôi nhớ một buổi trưa nọ tới phiên tôi đổ ống bẩu, vì phân đầy quá nên tràn ra ngoài bết cả vào tay. Trong khi tôi đang lúi húi tìm nước rửa thì có tiếng Phát giục tôi vào buồng. Tôi giả vờ không nghe, anh ta tiến lại phía tôi quắc mắt nạt:

-Tôi bảo vào buồng! Bộ tai anh điếc hả?

Biết tên này muốn gây chuyện lôi thôi, tôi nghe nóng gáy nhưng cố bình thản:

- Tay đầy cứt, tôi phải kiếm nước rửa đã chứ?

- Thì vào buồng mà rửa.

Tôi trả lời tỉnh bơ:

- Trong buồng lấy nước đâu rửa?

Anh ta bực tức:

-Lấy nước uống mà rửa!

- Rồi lấy gì uống?

Trương Văn Phát đành câm miệng đứng nhìn. Tôi vừa nói vừa đi lại bể nước cạnh Nhà Đen để tìm lon múc nước rửa tay, bực tức Phát chỉ mặt tôi nói:

- Này! Anh hãy liệu hồn! Đừng có mà tưởng ‘cha cố’ là không ai dám làm gì nhá!

Cách gọi “bọn cha cố” là một cách gọi xách mé mà cán bộ dùng để gọi các linh mục chúng tôi. Trương Văn Phát cũng “ăn có” và gọi theo cách đó. Tôi yên lặng bỏ đi vô buồng, mặc dù không nhìn lại, nhưng tôi cũng hình dung được đôi mắt Phát đang đổ lửa nhìn theo các bước chân không có gì là “khẩn trương” của tôi.

Lúc bấy giờ chúng tôi gọi các anh tù kiên giam như chúng tôi là “heo nhốt chuồng”. Gọi như vậy nghe hơi kỳ nhưng chắc không còn hình ảnh nào đúng hơn để so sánh. Cả ngày chúng tôi chỉ lẩn quẩn trong căn buồng chật chội, nói chuyện mãi rồi cũng hết chuyện để nói. Chúng tôi bày ra đủ thứ trò để giải trí như lấy giấy vẽ thành cờ tướng, cờ domino, bài xì phé v.v… Chơi đi chơi lại hàng giờ trong khi đợi chờ hai bữa ăn.

Lúc bấy giờ là thời điểm “cả nước đang gặp khó khăn, dân ta đang phải khắc phục những hậu quả còn tồn tại do Mỹ ngụy gây ra!” Cán bộ giáo dục nói như thế, nên cả trại lúc đó phải tạm khắc phục ăn ngô, ăn khoai lang, ăn sắn mà trong Nam gọi là khoai mì. Mùa nào thức đó. Có lúc ăn sắn cả tháng liên tiếp, nên mặc dù bụng đói cồn cào nhưng mỗi lần ngửi mùi “ngà voi chưng cách thủy”, có người đã buồn nôn. Nhưng rồi cũng phải ăn vì không ăn “ngà voi ” thì biết ăn cái gì để sống?

Nhân Vật Lạ Xuất Hiện

Một buổi chiều nọ, trời bỗng đổ mưa tầm tã làm nước đọng vũng chung quanh khu kiên giam. Vùng rừng núi Thanh Cẩm này thường có mưa to và giông bão, có lần mưa đá, những hòn bằng nắm tay rơi đầy trong sân. Thời tiết ở đây thật khắc nghiệt. Dân chúng quả là đủ kiên nhẫn để chống chọi với các thiên tai mà người cán bộ vô thần cộng-sản gọi là “giặc trời”. Sau cơn mưa trời quang trở lại. Trong lúc anh em chúng tôi đang ngồi bó gối nhìn ra cửa sổ nói chuyện trên trời dưới đất như thường lệ cho qua thời giờ, bỗng nghe tiếng chìa khóa lách cách bên ngoài. Chúng tôi ở buồng 1, ngay lối ra vào nên khi nghe tiếng động ở cửa là biết ngay có người vào. Việc cửa khu kiên giam được mở vào giờ bất thường như thế này bắt buộc chúng tôi phải theo dõi xem chuyện gì xảy ra.

Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy một anh tù lạ mặt vác cuốc bước vào sân, trong buồng chúng tôi đoán với nhau rằng anh này là anh trật tự mới. Sở dĩ chúng tôi đoán như vậy vì không một anh tù nào được vào khu vực này, trừ các anh có chức vụ như trật tự, văn hóa và y tế. Vả lại, một mình Trương Văn Phát không thể nào cáng đáng nổi vai trò trật tự. Việc thay đổi một anh trật tự có ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của anh em chúng tôi, nên tất cả năm người trong phòng đều dán mắt vào khe song cửa sắt để quan sát. Anh tù lạ mặt này, nước da ngăm đen, thân hình cao ráo, gân guốc và mạnh mẽ, khác với vẻ mập bệu và đi đứng lệt bệt của Trương Văn Phát.

Người tù lạ mặt bước vào sân, bộ mặt lầm lì, chẳng để ý gì tới nhóm chúng tôi đang cố dí mặt vào song sắt cửa sổ nhìn ra. Anh ta bắt đầu cuốc đất, đào rãnh khai thông những vũng nước mưa đọng ngay bên ngoài cửa sổ buồng chúng tôi. Anh vung những nhát cuốc trông thật “chất lượng” và thành thạo. Lúc anh quay mặt vào, tôi được dịp quan sát kỹ lưỡng hơn.

Anh ta khoảng 40 tuổi, trông rất rắn chắc, tay chân dài lều khều, cái tướng mà người Nam chúng tôi thường gọi là “chân chòi cổ loi”. Mặt anh ta dài và xương xẩu, tóc thưa và hơi hói trán, cặp mắt sâu, tròng trắng nhiều hơn tròng đen. Điểm đáng lưu ý nhất nơi anh là cái miệng. Tôi không biết coi tướng, nên chẳng biết phải diễn tả như thế nào, chỉ biết là có một cái gì không ổn nơi cái miệng đó, vì đôi môi của anh ta hình như chưa được cấu tạo đầy đủ làm môi trên và môi dưới không giáp mí nhau. Đúng ra không phải là cái môi theo nghĩa thông thường, mà là hai mảng thịt mỏng màu đen tái và lúc nào cũng nhơm nhớp nước bọt. Lâu lâu tôi thấy anh ta lè lưỡi liếm nước bọt bám ở hai bên khóe mép.

Anh mặc đồng phục màu xanh của tù, chân mang dép râu, cạp quần hai bên hông được lận lên thành một búi như đang giấu hai quả trứng bên trong. Cảm nghĩ đầu tiên của tôi sau vài giây quan sát là anh này không phải là một tay vừa. Tôi nghĩ, nếu quả thật anh ta được cử làm trật tự thì không dễ thở đâu. Trông anh ta có một cái gì khác cả Phạm Đình Thăng lẫn Trương Văn Phát, và “cái gì khác” đó không hứa hẹn một tương lai sáng sủa nào cho anh em tù kiên giam chúng tôi.

Anh ta cắm cúi cuốc đất, ít khi ngước mặt nhìn lên và cũng chẳng buồn để ý tới chúng tôi đang chen nhau bên trong cửa sổ, đang dí mặt vào các song sắt để theo dõi quan sát anh. Có lúc tôi thấy anh ta dừng tay nghỉ mệt, dựng cái cuốc dưới chân, đứng thẳng người lên, khạc nhổ một bãi nước bọt vào lòng bàn tay và áp lòng bàn tay kia vào xoa đi xoa lại thật mạnh, tay nọ nắn bóp tay kia, xong lại khom người xuống tiếp tục cuốc đất. Ngay cả những lúc ngừng tay như vậy, anh ta cũng chẳng hề nhìn thẳng vào chúng tôi bên kia song sắt, chỉ cách anh ta chừng một thước tây.

Từ bên trong cửa sổ, chúng tôi cố gợi chuyện với anh. Rõ ràng là anh không muốn trả lời, nhưng nhiều người hỏi quá buộc lòng phải đối đáp nhát gừng. Sau một cuộc phỏng vấn với tất cả nhiệt tình của người hỏi và được trả lời một cách miễn cưỡng, chúng tôi được biết anh ta từ trại quân đội ở Yên Bái mới được chuyển về đây ít lâu và vừa được trại cử làm trật tự thay cho Phạm Đình Thăng đã ra về. Anh ta cho biết là người Công Giáo ở xứ Gia Cốc, Hố Nai, người Bắc di cư, gốc Địa phận Hải Phòng. Nghe tới hai tiếng Hải Phòng, Cha Chu Văn Oanh, một linh mục lớn tuổi trong buồng tôi mừng rỡ:

- Anh gốc Địa phận Hải Phòng hả? Tôi cũng Hải Phòng nè! Thế anh có biết Cha nào gốc Hải Phòng không?

-Cha Bình!

Cha Oanh vội rước lời:

- Cha Bình làm quản lý của địa phận Hải Phòng, bây giờ Cha đang phục vụ tại Giáo phận Long Xuyên chứ gì?

- Đúng rồi!

Cha Oanh hớn hở:

- Cha Bình là bạn thân của tôi, hai người thân nhau lắm!

Thinh lặng một lúc khá lâu như để lựa lời, một lúc sau anh nói ngắn gọn:

- Cha Bình là chú tôi.

Cha Oanh vui mừng ra mặt:

-Thế thì may quá, không ngờ được gặp cháu Cha Bình ở đây. Nếu anh có viết thư, nói tôi là Cha Oanh, không, phải nói Cha Oánh ngài mới biết, vì lúc bấy giờ tôi tên là Oánh, gửi lời hỏi thăm ngài nhé! Thế anh tên là gì nhỉ?

- Thi!

-Cái gì Thi?

Anh ta ngập ngừng tỏ vẻ hơi khó chịu trước cái cách “thấy sang bắt quàng làm họ” một cách quá lộ liễu của ông linh mục già này. Nhưng cuối cùng cũng đáp gọn:

-Bùi Đình Thi!

Tôi cũng có chút hơi ngượng trước thái độ cầu thân thái quá của Cha Oanh, nhưng trong lòng tôi lúc đó cũng mừng thầm, vì từ nay có một người Công Giáo làm trật tự. Anh ta lại có chú làm linh mục, bạn của Cha Oanh, chắc từ nay cảnh sống kiên giam sẽ đỡ hơn, không như tên Phát “vô đạo” hỗn láo, đối xử với chúng tôi thật chẳng ra gì! Ngon đà, Cha Oanh còn hỏi thêm mấy câu nữa, nhưng anh ta vác cuốc bỏ đi nơi khác làm Cha Oanh cụt hứng.

Chọn Thế Đứng

Cảnh sống thiếu thốn về vật chất, cộng thêm những khổ ải tinh thần đã làm một số người gục ngã. Cái đói nó hành hạ thân xác chúng tôi một cách triền miên. Gần như tối nào cũng vậy, cứ vào khoảng 9 giờ, lúc nghe chương trình phát thanh Quân Đội Nhân Dân qua cái loa trong trại, là tôi cảm thấy cơn đói lên đến cực độ.

Hiện tượng này ngày nào cũng giống nhau. Bắt đầu tôi cảm thấy mệt lả, không còn ngồi được nữa và phải nằm dài xuống, kế đến là ù tai, hoa mắt và mồ hôi toát ra ướt cả lưng, rồi bất tỉnh không còn biết gì. Cũng may, tình trạng này chỉ kéo dài chừng vài ba phút, sau đó tự nhiên tôi cảm thấy trong người khỏe khoắn trở lại, ngồi dậy lau mồ hôi và cơn đói cũng biến mất! Cứ thế, chúng tôi chờ đợi 13 tiếng đồng hồ sau mới được lãnh khẩu phần, mỗi người vài chiếc “ngà voi”! Anh em tù chúng tôi lúc đó hầu như ai cũng biết câu này: “Không ăn thì đói, ăn vào đói hơn!”, vì khi ăn vào dạ dầy bắt đầu bị đánh thức và hoạt động, nhưng không có chất liệu gì cho nó làm việc.

Cái đói triền miên, cộng với thái độ hận thù của những người công-an áo vàng và hai anh tù trật tự áo xanh hắc ám, khiến chúng tôi lúc nào cũng cảm thấy ngột ngạt khó thở. Chúng tôi sống mà không có gì trước mắt để hy vọng, không biết ngày mai của mình sẽ ra sao.

Tù chính trị chúng tôi không có tòa nào xử, không có kêu án, nhưng được gọi bằng cái tên rất đẹp là “Tập Trung Cải Tạo”. Nếu ai “cải tạo tốt” sẽ được đảng và nhà nước khoan hồng cho về đoàn tụ với gia đình! Tôi còn nhớ mãi hình ảnh của anh Lâm Thành Văn, người bạn tù cùng buồng, có nhiều đêm trằn trọc không ngủ được, anh kéo tôi xuống góc phòng sát vách nhà cầu ngồi hút thuốc lào. Hút xong, hai anh em ngồi nói chuyện rù rì một lát. Lần nào Lâm Thành Văn cũng buồn rầu nói:“Chắc nó giam mình chết rục xương trong tù quá anh Lễ ơi!”

Tôi nhớ mãi ba tiếng “chết rục xương” của Văn, mà mỗi lần nghĩ tới tôi vẫn còn xúc động.

Riêng số anh em thuộc nhóm 48 Quyết Tiến từ Cổng Trời về, chúng tôi tự biết rõ số phận đã được nhà cầm quyền cộng-sản định đoạt như thế nào rồi. Vì sợ có chiến tranh biên giới nên chúng tôi mới được về đây, bằng không thì giờ này chúng tôi đang chết dần chết mòn ở Cổng Trời. Họ không giết chúng tôi công khai, nhưng họ tha tội chết mà hành tội sống. Mặc dù cán bộ vẫn luôn nói tới tính khoan hồng nhân đạo của đảng, nhưng chúng tôi quá hiểu, đây là một lối tuyên truyền láo khoét để ru ngủ những kẻ nhẹ dạ. Trong cảnh khốn cùng và tuyệt vọng đó, ai cũng mong có ngày về, nhưng mỗi người có một lối suy nghĩ và thái độ khác nhau.

Đại đa số sống an phận và để mặc cho số mệnh đưa đẩy, tới đâu thì tới. Một số người cố lập công “cải tạo tốt” để được về sớm bằng cách làm mật báo, theo dõi các anh em trong buồng và trong đội. Có người đã bày ra những chuyện lếu láo hại anh em. Có người đã thực sự “bán linh hồn”, công khai đứng hẳn về phía cộng-sản và có những hành động còn “cộng-sản” hơn những người cộng-sản bình thường. Một số khác chủ trương phải tìm cách thoát ra được khỏi nơi này mới mong được sống còn, trong số đó có tôi.

Chúng tôi đều biết rõ trại Thanh Cẩm nằm trên một ốc đảo, chung quanh núi sông bao bọc, đường ra là độc đạo, nên muốn thoát khỏi chốn này không phải là chuyện dễ. Mấy anh Tàu “gián điệp” bị giam ở nhà kỷ luật rất giỏi về phương hướng và mưu sinh, nhưng lần nào trốn ra cũng bị bắt lại. Tuy nhiên, trong số tù hình sự vượt ngục mà chúng tôi biết từ ngày đến trại Thanh Cẩm cũng có vài người thoát được.

Như vậy chuyện trốn thoát khỏi trại Thanh Cẩm không phải là hoàn toàn vô vọng. Chúng tôi biết nếu bị bắt lại, sẽ bị đánh đập và hành hạ dã man, nhưng trong cảnh khốn cùng, tôi nghĩ phải chấp nhận mọi rủi ro. Chúng tôi thường bảo nhau, vượt ngục là đi vào cõi chết để tìm sự sống.

“Trung Quốc Vĩ Đại!”

Đầu năm 1979, chiến tranh Trung Quốc-Việt Nam lên tới cao điểm. Đêm đêm, cái loa của đài phát thanh trong trại vang lên inh ỏi tin tức chiến sự và những lời chửi bới Trung Quốc. Tiếng chửi bới cứ ra rả ngày đêm rót vào tai chúng tôi. Họ dùng đủ mọi hình thức và mọi kiểu để chửi Trung Quốc, từ tin tức, bình luận, kịch nghệ, âm nhạc v.v… Từ chửi thanh tới chửi tục, kiểu gì cũng có.

Tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao các thợ viết kịch của chế độ cộng-sản Việt Nam đã sáng tác được những vở kịch chửi Trung Quốc nhanh và hay đến như thế. Những khẩu hiệu ngày trước Hồ Chí Minh dùng để ca ngợi người anh em Trung Quốc “núi liền núi, sông liền sông”, bây giờ không còn nữa. Thay vào đó, lúc này họ “ca ngợi” Trung Quốc bằng hai câu thơ mà đêm nào chúng tôi cũng nghe trong chương trình phát thanh Quân Đội Nhân Dân. Nghe mãi rồi tôi thuộc nằm lòng:

“Quốc kỳ là váy đàn bà,
Quốc huy là cái bội gà mang theo!”

Sở dĩ có hai câu thơ hạ cấp ấy vì theo họ nói, lính Trung Quốc đánh tràn qua các làng mạc Việt Nam ở vùng biên giới, đã vơ vét tài sản của dân chúng không chừa một thứ gì, kể cả váy đàn bà và cái bội nhốt gà. Vì thế, Chính phủ Việt Nam nghĩ rằng lính Trung Quốc mang váy đàn bà về làm quốc kỳ thay cho cờ đỏ ở góc có mấy ông sao, và cái bội nhốt gà được sơn lại thành màu đỏ để treo lên tường làm quốc huy!

Tôi xin ngả mũ thán phục óc tưởng tượng vô cùng phong phú của những cán bộ tuyên truyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đêm đêm nằm nghe chửi kiểu này, tôi mỉm cười nghĩ thầm rằng, may mà các “người bạn Trung Quốc vĩ đại” không hiểu được tiếng Việt, nếu hiểu được chắc họ cũng nhức đầu không kém gì anh em tù Thanh Cẩm chúng tôi. Tôi thấy cách nói “trò hề chính trị” ít có chỗ nào được dùng đúng nghĩa hơn chỗ này!

Gặp Lại “Cố Nhân”

Cuộc sống của tôi đang đều đều trôi qua một cách nặng nề như thế, thì một ngày kia, vào khoảng tháng 2 năm 1979, có phái đoàn Cục Cảnh-sát vào thăm khu kiên giam trong giờ ăn trưa. Phái đoàn chừng bốn, năm người mặc áo sơ-mi trắng ngắn tay, quần màu vàng, áo bỏ ngoài quần, đầu đội nón cối, vai mang sắc-cốt. Mới nhìn qua trông giống như một tốp thợ sửa điện, hoặc mấy ông thợ hoạn lợn mà lúc còn nhỏ tôi thường thấy đi vào làng thiến heo.

Họ chỉ trỏ, nói năng gì đó với ông trại trưởng, lúc đó là Thiếu tá Thực, theo hướng dẫn phái đoàn. Ông trại trưởng có vẻ khép nép khi nói năng đối đáp lại. Nhìn thấy thái độ của trại trưởng đối với mỗi phái đoàn, chúng tôi có thể đoán được tầm quan trọng của từng phái đoàn. Thỉnh thoảng có những phái đoàn khác nhau vào thăm trại, nhưng không phải lần nào trại trưởng cũng hướng dẫn. Có khi người hướng dẫn phái đoàn chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ đi theo. Lúc ấy tôi biết ngay đó chỉ là loại phái đoàn loại “dỏm”.

Trưa hôm ấy, như thường lệ sau khi Bùi Đình Thi mở cửa buồng, chúng tôi ra ngoài, người lấy cơm, kẻ quét tước dọn dẹp. Lúc này không còn phải đi đổ các ống bẩu nữa, vì chúng tôi đã được sử dụng cầu tiêu trong buồng. Thông thường như mọi ngày khác, khi anh trật tự mở cửa buồng cho tù ra sân, chúng tôi rất vui vẻ, đi lại nhốn nháo, có khi lợi dụng lúc không ai để ý còn “quan hệ linh tinh” với các anh em buồng bên cạnh. Tuy nhiên, hôm đó mọi chuyện được làm trong bầu khí yên tịnh và trang nghiêm, khác với ngày thường vì đang có phái đoàn Cục Cảnh-sát đứng trong sân quan sát.

Nhóm người lạ mặt này đứng yên lặng nhìn chúng tôi mà không hỏi han gì, khiến cho bầu không khí lúc bấy giờ càng trở nên căng thẳng. Lấy thức ăn xong, chúng tôi vào buồng và Bùi Đình Thi đóng cửa, cài then bên ngoài bằng song sắt như thường lệ. Trong lúc anh em đang chia thức ăn trong buồng, nhìn ra ngoài, tôi chợt thấy một người cao lớn mặc sắc phục công-an bước vào sân. Tôi giật mình khi nhận ra Đại tá Hoàng Thanh, một thứ “khắc tinh” của tôi từ nhiều năm qua. Tôi lẩm bẩm một mình:“Gặp lại cố nhân nữa rồi!”

Đại tá Hoàng Thanh làm Cục trưởng Cục Cảnh-sát thuộc Bộ Nội Vụ. Lúc ấy ông đã ngoài 50, người cao lớn dềnh dàng nhưng không mập, lưng tôm, mặt bẹt, đôi gò má nhô cao, miệng rộng, các kẽ răng đen lại vì nhựa thuốc lào và chè (trà) đặc. Điểm trái ngược trên khuôn mặt rộng bèn bẹt này, là cặp mắt ti hí thật nhỏ và tròn như mắt loài chồn cáo. Mắt ông ta không bao giờ đứng yên mà lúc nào cũng chao đảo, liếc qua liếc lại. Cho dù thiện ý đến đâu, tôi cũng không thể hình dung được một sự lương thiện tối thiểu nào ẩn nấp đàng sau đôi mắt ấy.

Tôi đã từng chạm mặt với Hoàng Thanh nhiều lần ở trại Nam Hà trước khi bị đi đày lên Cổng Trời. Khi nói chuyện với tôi, thỉnh thoảng ông ta có cười nhưng chỉ cười bằng miệng, còn đôi mắt và khuôn mặt không dự phần một chút nào vào tiếng cười ấy. Tôi vẫn ngại tiếng cười của ông ta, loại tiếng cười được phát ra qua kẽ răng khép kín tạo thành một hơi gió xì xì như tiếng rít của loài rắn lục trong đêm.

Dưới cái nhìn của tôi lúc đó, Hoàng Thanh là một mẫu cán bộ Việt cộng điển hình, vì trông ông ta rất giống các hình vẽ cán bộ Việt cộng trong các tranh biếm họa ở miền Nam trước kia, nhưng có điểm hơi khác là ông ta thiếu hàm răng vẩu.

Hoàng Thanh dừng lại giữa sân nói gì đó với cán bộ trực trại một chập, rồi cả hai đi thẳng tới cửa buồng 1 của chúng tôi và dừng lại một lúc bên ngoài cửa sắt. Vì cánh cửa che khuất nên tôi không biết ông ta đứng đó làm gì, nhưng tôi đoán là ông ta đang đọc bảng tên dán ở cửa buồng. Linh tính báo cho biết là sắp có chuyện liên hệ đến tôi, nên tôi lo chuẩn bị tinh thần, vì từ trước tới nay, chưa lần nào gặp tôi mà Hoàng Thanh để tôi yên bao giờ.

Tôi đoán không sai! Ông ta bước trở ra sân, vẫy tay gọi Bùi Đình Thi lại để mở cửa buồng. Nghe tiếng chìa khóa mở cửa lách cách bên ngoài, trong buồng chúng tôi ngưng chia thức ăn và ngồi cả lên bệ nằm bằng xi-măng. Cửa buồng mở ra, Hoàng Thanh bước vào một mình.

Ông ta đi dọc theo lối đi ngắn trước mặt chúng tôi một cách chậm rãi có chủ ý. Chúng tôi lên tiếng “chào cán bộ” theo quy định và ngồi yên chờ đợi. Ông ta bước chậm, hai tay chắp sau lưng và nhìn thẳng vào mặt từng người chúng tôi, như một ông tướng đang duyệt qua hàng quân của mình. Bầu không khí trong phòng lúc đó trở nên nặng nề và căng thẳng khác thường.

Từ lúc bước vào buồng, Hoàng Thanh không nói một lời nào. Khi đi tới cửa cầu tiêu ở vách bên trong, ông ta quay trở ra, gần tới cửa buồng. Tôi mừng thầm nghĩ bụng, như vậy chắc là xong, lần này chẳng có việc gì xẩy ra. Nhưng khi ra tới cửa, bất ngờ ông ta quay lại, chỉ thẳng vào tôi và hất hàm hỏi bằng cái giọng khàn khàn quen thuộc:

- Anh mang kính ngồi trong cùng kia có phải là anh Nguyễn Hữu Lễ không?

Tuy trong lòng đang lo ngại, nhưng tôi đáp lại thật gọn và rõ ràng:

-Báo cáo cán bộ, đúng, tôi là Nguyễn Hữu Lễ.

Ông ta nhếch mép cười, vẫn cái cười cố hữu mà tôi e ngại, nhẹ nhàng nói:

-Tôi cũng định hôm nào rảnh, mời anh lên để chúng ta nói lại một chút về vụ tàu Sông Hương, anh Lễ nhé!

Nói xong ông ta bỏ đi ra cửa, không đợi tôi trả lời. Tôi ngồi lặng yên và bàng hoàng khi nghe Hoàng Thanh nhắc tới vụ tàu Sông Hương và nghĩ bụng, “thế là tên cáo già này chưa buông tha mình!”


No comments: