Thursday, February 2, 2012

DU LỊCH VIỆT NAM I



NHIỀU TÁC GIẢ

DU LỊCH VIỆT NAM


D&G bị tẩy chay dữ dội tại Hong Kong, Thời trang, d&g bi bieu tinh, fendi bi bieu tinh, scandal thoi trang, thoi trang, tin tuc thoi trang


NGUYỄN THIÊN THỤ
sưu tập



GIA HỘI
2012








LỜI NÓI ĐẦU

Sau ngày Việt Nam mở của, ngành du lịch Việt Nam trở thành một dịch vụ tốt cho kinh tế Việt Nam. Nhiều du khách ngoại quốc đến Việt Nam, và nhiều Việt kiều cũng đã trở về thăm quê hương. Có rất nhiều ý kiến, nhiều cảm tưởng đã được trinh bày qua các hồi ký hoặc các bài báo. Có kẻ khen, người chê.

Chúng tôi xin phép các tác giả được tập hợp lại các bài viết của quý vị để các độc giả và nhà nghiên cứu có thể hiểu rõ vấn đề du lịch và văn hóa của người Việt Nam.

Ottawa ngày 6 tháng 2 năm 2012

Nguyễn Thiên Thụ

PHẦN I
DU KHÁCH NGOẠI QUỐC






Matt Kepnes

founder and author of Nomadic Matt’s Travel Site,
http://www.nomadicmatt.com/
a backpacking and budget travel website dedicated to showing people
how to travel longer on less money.

BÀI I. Why I'll Never Return To Vietnam
Posted: 01/30/2012 8:00 am

lake in vietnam with bonsaiTraveling through Southeast Asia, you are frequently asked where you are going. "Everywhere," I tell people. This is my last adventure through the region. Except, I'll be skipping Vietnam. After my experience there in 2007, I'll never go back to that country. Never, ever, ever. A business trip or a girlfriend may force me there in the future but for as long as I can see down the road, I'll never touch down again in that country.

No one ever wants to return to a place where they felt treated poorly. When I was in Vietnam, I was constantly hassled, overcharged, ripped off and mistreated. I never felt welcome.

I met street sellers who constantly tried to overcharge me. There was the bread lady who refused to give me back the proper change, the food seller who charged me triple even though I saw how much the customer in front of me paid, or the cabbie who rigged his meter on the way to the bus station. While buying t-shirts in Hoi An, three women tried to keep me in their store until I bought something, even if that meant pulling my shirt.

On a trip to Halong Bay, the tour operator didn't have water on the boat and the operator overbooked the trip, so people who paid for single rooms suddenly found themselves with roommates...sometimes in the same bed!

a rice paddy in vietnam


One of the worst experiences came while in the Mekong Delta. I was catching a bus back to Ho Chi Minh City. I was thirsty, so I bought a common drink in Vietnam - water, lemon, and some powdery, sugary substance in a plastic bag. You can find it everywhere, especially in transit stations. I went to the one next to the bus and pointed at what I wanted. She looked at me and nodded. The woman then started making this drink, turned to her friends, said something, laughed, then started laughing at me while clearly not putting in all the ingredients into this drink. I knew I was being blatantly ripped off.

"She's telling her friends she's going to overcharge and rip you off because you're white," said a Vietnamese American who was also on my bus. "She doesn't think you will notice." "

How much should this really cost?" I asked him. He told me. It was some tiny number -- a few cents. I gave the vendor the correct change, told her she was a bad person and walked away onto my bus. It wasn't the money that I was upset about but the disrespect and contempt she had for me.

I wondered if it was just me. Perhaps I simply had a bad experience and Vietnam was really great. The countryside is stunning and I can only imagine what it looked like before America napalmed most of it. Maybe I just had bad luck. Maybe I caught people on an off day. However, after talking to a number of other travelers, I realized that we all had the same story. They all had tales of being ripped off, cheated, or lied to. We all had to struggle for everything. We never felt welcome in the country.

Additionally, I witnessed other people having problems in Vietnam. I saw friends of mine getting ripped off. Once my friend bought bananas and the seller walked away before giving change back. At a supermarket, a friend was given chocolate instead of their change. Two of my friends lived in Vietnam for 6 months, and even they said the Vietnamese were rude to them despite becoming "locals." Their neighbors never warmed up to them. Wherever I went, it seemed my experience was the norm and not the exception.

the skyline of dalat vietnam


While in Nha Trang, I met an English teacher who had been in Vietnam for many years. He said that the Vietnamese are taught that all their problems are caused by the West, especially the French and Americans, and that the West "owes" Vietnam. They expect Westerners to spend money in Vietnam, so when they see western backpackers trying to penny pitch, they get upset and treat them poorly. Those who are spending money, however, seem to be treated quite well. I don't know if this is true or not but based on what I had seen and the experiences I had heard, it did make some sense.

Two friends were out eating once and a woman came riding up on a very nice looking bike. My friend Sean describes it as one of those Huffy mountain bikes you were always jealous your neighbor had as a kid. The woman locked up her bike and then proceeded to go around the restaurant asking for money. When she came to my friends, they asked the Vietnamese woman if she could afford such a nice bike, why couldn't she afford food? That's my sisters bike, the woman said. Sean looked at her and said "Then she can pay for your food."

I'm not here to make judgments about Vietnam or the Vietnamese. I only have my experience to fall back on. However, the stories and anecdotes I've heard from other people only reinforce that experience and the feelings I have.

Travel doesn't always need to be perfect. I like it when it is difficult. I like the struggle and having to find my way through the world. I think it builds character. And I don't mind paying more money. A dollar for them goes a lot further than a dollar for me. I get that we will haggle in the market, have a laugh, and I'll still overpay. But what I don't like is being treated like I'm not a person. I don't like being disrespected or cheated. I don't want to look at everyone and wonder if they are trying to cheat me. Every interaction doesn't need to be a struggle.

After three weeks in Vietnam, I couldn't get out fast enough and I'll be happy to never go back.

Author's Note: While I had a bad experience in Vietnam, many people have had good experiences. You need to find out for yourself. Learn about the good, the bad, and the ugly to become an informed traveler, and then go experience it for yourself. I'm not advocating anyone skip Vietnam. I'm just saying I have no desire to return.

Follow Matt Kepnes on Twitter: www.twitter.com/nomadicmatt

TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ TRỞ LẠI VIỆT NAM
Matt Kepnes
Huỳnh Tiến Nghiêu dịch

Khi đi du lịch vùng Đông Nam Á, bạn thường được hỏi là "Anh đi đâu?".Tôi trả lời là "Tôi đi khắp nơi." Đây là cuộc phiêu lưu cuối cùng của tôi ở khu vực này, còn Việt Nam thì tôi bỏ qua. Sau kinh nghiệm của tôi năm 2007, tôi sẽ không bao giờ quay trở lại nước này. Không bao giờ, Không bao giờ, không bao giờ nữa. Trong tương lai có thể tôi trở lại Việt Nam vì công việc bắt buộc hoặc vì áp lực của bạn gái tôi, nhưng mắt còn thấy đường đi thì chẳng bao giờ tôi đặt chân đến cái nước ấy nữa.

Không ai muốn trở lại một nơi mà họ cảm thấy bị bạc đãi. Khi tôi ở Việt Nam, tôi đã bị liên tục làm phiền, bán quá đắt, bị lường gạt và bị ngược đãi. Tôi không bao giờ cảm thấy được hoan nghênh.

Tôi đã gặp người bán hàng trên đường phố liên tục nâng giá. Có người phụ nữ bán bánh mì không trả tiền lẻ cho tôi; người bán thức ăn bắt tôi trả gấp ba trong khi tôi thấy những người khác trước mặt tôi chỉ trả một phần; người tài xế taxi gian lận đồng hồ đếm km trên đường đến trạm xe buýt . Trong khi mua áo thun ở Hội An, ba phụ nữ đã cố gắng giữ cho tôi trong cửa hàng của họ cho đến khi tôi mua một cái gì đó, thậm chí họ ciòn níu áo sơ mi của tôi.

Trên một chuyến đi Vịnh Hạ Long, các nhà điều hành tour du lịch đã không cung cấp nước trên tàu và họ đã lấy khách quá tải, khiến cho người trả tiền cho phòng một người đột nhiên thấy mình với người lạ cùng phòng ... đôi khi trong cùng một giường!



Một trong những kinh nghiệm tồi tệ nhất trong khi ở đồng bằng sông Cửu Long. Tôi đón xe buýt trở lại thành phố Hồ Chí Minh. Tôi đã khát nước, vì vậy tôi đã mua một thức uống phổ biến tại Việt Nam - nước, chanh, và một số chất bột đường trong một túi nhựa. Bạn có thể tìm thấy ở khắp mọi nơi, đặc biệt là tại các trạm xe. Tôi đã đi đến bên cạnh xe buýt và chỉ vào những gì tôi muốn. Cô bán hàng nhìn tôi và gật đầu, sau đó bắt đầu chế thức uống, cô ta quay sang người bạn của cô, nói một câu gì đó, cười, sau đó bắt đầu cười với tôi trong khi rõ ràng cô ấy chỉ bỏ sơ sài vài thứ gì đó trong bịch nylon. Tôi biết tôi đang bị gạt.

Đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất của Việt Nam.

Một người Mỹ gốc Việt cũng trên xe buýt cho tôi biết. "Cô ấy nói với bạn cô ấy là cô sẽ nâng cao giá và lừa dối tôi bởi vì tôi là người da trắng . Cô ấy không nghĩ rằng bạn sẽ nhìn thấy". "

Tôi hỏi anh ta: Giá thật một bịch nylon nước là bao nhiêu? It thôi, chỉ vài xu thôi. Tôi trả tiền đúng giá cho cô . Tôi nói với cô rằng cô là một người xấu . Tôi bước đi lên xe buýt của tôi. Tôi bực bội không phải vì tiền mà vì sự không tôn trọng và khinh bỉ mà cô đã đối xử với tôi.

Tôi tự hỏi phải chăng riêng tôi xui xẻo, riêng tôi gặp kinh nghiệm xấu, mà đất nước Việt Nam thì thật sự vĩ đại! Nông thôn là cảnh quan tuyệt đẹp và tôi chỉ có thể tưởng tượng những gì nó trông giống như trước khi Mỹ thả bom napal. Có lẽ tôi gặp xui, gặp những người trong một ngày xấu. Tuy nhiên, sau khi nói chuyện với một số du khách khác, tôi nhận ra rằng tất cả chúng ta đều có câu chuyện tương tự. Tất cả họ đều có câu chuyện của bị gạt, lừa dối, hoặc nói dối. Chúng tôi đã phải đấu tranh cho tất cả mọi thứ. Chúng tôi không bao giờ cảm thấy được hoan nghênh ở đất nước này.

Ngoài ra, tôi đã chứng kiến ​​những người khác đều có những vấn đề ở Việt Nam. Tôi thấy những bạn tôi bị lường gạt. Sau khi người bạn của tôi đã mua chuối và người bán đã bỏ đi trước khi thối tiền. Tại một siêu thị, một người bạn đã được đưa ra sô-cô-la thay vì thối tiền lẻ. Hai người bạn của tôi sống ở Việt Nam trong 6 tháng, và thậm chí họ nói rằng người Việt Nam đã thô lỗ với họ mặc dù họ gần như là "người địa phương." Láng giềng của họ không bao giờ làm ấm lòng du khách . Bất cứ nơi nào tôi đến, những kinh nghiệm của tôi đều là bình thường chứ không phải ngoại lệ.

Trong khi ở Nha Trang, tôi đã gặp một giáo viên tiếng Anh đã có mặt tại Việt Nam trong nhiều năm. Ông nói rằng Việt Nam được giảng dạy rằng tất cả các vấn đề họ mắc phải đều do người Tây phương gây ra, đặc biệt là Pháp và Mỹ, và rằng người phương Tây "nợ" Việt Nam. Họ hy vọng phương Tây để tiêu xài nhiều tiền ở Việt Nam, do đó, khi họ nhìn thấy Tây ba-lô dè sẻn từng xu, họ thất vọng nên đối xử tồi tệ với họ. Còn những người chi tiêu rộng rãi, thì được họ đối xử khá tốt. Tôi không biết điều này là đúng hay không nhưng dựa trên những gì tôi đã nhìn thấy và những kinh nghiệm mà tôi đã nghe nói, thật sự là có ý nghĩa.

Hai người bạn đã đi ăn một lần và một người phụ nữ đã cưỡi trên một chiếc xe đạp rất đẹp. Sean bạn tôi mô tả nó như là một trong những chiếc xe đạp rất đẹp mà bạn ưa thích như là bạn luôn luôn ghen tị với người hàng xóm của bạn có một đứa trẻ. Người phụ nữ khóa xe đạp của mình và sau đó đi quanh nhà hàng xin tiền. Khi cô ta đến bên các bạn tôi, các bạn tôi hỏi cô gái Việt Nam rằng : " Cô có tiền mua xe đẹp, tại sao lại không có tiền mua thực phẩm?". Cô ta nói:"Xe này của chị tôi". Sean nhìn cô và nói: " Như vậy là chị cô trả tiền ăn cho cô à?"

Tôi không ở đây để làm cho bản án về Việt Nam hoặc người Việt Nam. Tôi chỉ viết lại những kinh nghiệm của tôi. Tuy nhiên, những câu chuyện và giai thoại tôi đã nghe từ những người khác chỉ củng cố thêm rằng kinh nghiệm và những cảm giác mà tôi có.

Du lịch không phải lúc nào cũng cần được hoàn hảo. Tôi thích du lịch khi du lịch khó khăn. Tôi thích đấu tranh và phải tìm phương cách để vượt thế giới. Tôi nghĩ rằng sẽ có được cá tính. Và tôi không quan tâm về việc trả tiền nhiều hơn. Một đô la cho họ đi xa hơn một đô la cho tôi. Tôi nhận được rằng chúng ta sẽ mặc cả trên thị trường, để có một tiếng cười, và tôi vẫn sẽ trả thừa. Nhưng tôi không thích được đối xử như tôi không phải là người. Tôi không thích bị coi khinh hoặc lừa dối. Tôi không muốn nhìn vào tất cả mọi người và nghĩ rằng phải chăng họ đang cố gắng lừa tôi. Mọi cuộc tương giao không cần phải là một cuộc đấu tranh

Sau ba tuần tại Việt Nam, tôi không thể ở lâu hơn được và tôi rất sung sướng là không bao giờ quay trở lại Việt Nam.


Lưu ý: Trong khi tôi có một kinh nghiệm xấu tại Việt Nam, nhiều người đã có kinh nghiệm tốt. Bạn cần phải tự tìm ra cho chính mình. Tìm hiểu về tốt, xấu và tệ hại để trở thành một khách du lịch đã được thông báo mọi sự , và sau đó tìm hiểu nó cho chính mình. Tôi không ủng hộ bất cứ ai bỏ qua Việt Nam. Tôi chỉ nói rằng tôi không có mong muốn quay trở lại.

Thực hiện theo Matt Kepnes trên Twitter:
www.twitter.com / nomadicmatt


BÀI II
Tâm sự của một người Nhật: Lý do tôi ghét Việt Na
m
(phần I)


Lang thang trong thế giới mạng mênh mông tôi chợt gặp những dòng tâm sự của một người Nhật sau chuyến du lịch đến Việt Nam. Anh chàng có tên Shimata này chỉ kể về những “chuyện thường ngày ở huyện” của Việt Nam nhưng nó rất… hấp dẫn. Có lẽ cần phải đưa câu chuyện của anh vào giáo trình ngành du lịch và cẩm nang du lịch dành cho người nước ngoài đến Việt Nam. Câu chuyện dài nên sẽ post làm vài kì. Mời các bạn thưởng thức.

Tâm sự của một người Nhật: Lý do tôi ghét Việt Nam.

Cái gì? Bình thường tôi vào đọc blog của anh có bao giờ thấy chủ đề “Việt Nam” đâu? Lấy đâu ra người quan tâm nào?

Đúng thế!

Trên Blog của tôi chưa hề xuất hiện “Việt Nam”

Cả chữ “V” trong từ “Việt Nam” cũng không có nốt.

“Anh đã đến Việt Nam lần nào chưa?”, nếu có ai hỏi thế thì câu trả lời là có, 10 năm trước tôi có đến thành phố Hồ Chí Minh một lần duy nhất.

Tuy nhiên, trong tôi nói tới Việt Nam thì đấy là quốc gia xấu xa tồi tệ nhất (最低最悪の国) và nỗi bất mãn trong tôi sẽ tăng lên tới mức 150%.

Trong lòng tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ đến đó lần thứ hai, thật là một nước tồi tệ số 1.

Tôi ghét Việt Nam.

Mà nói đúng ra thì tôi ghét người Việt Nam hơn là ghét Việt Nam.

Tôi căm ghét thứ văn hóa “móc được cái gì thì móc” của người Việt.

Tôi càng căm ghét thứ người Việt Nam làm những điều như thế.

Tôi không muốn nhìn mặt người Việt Nam và sẽ không đến Việt Nam đến lần thứ hai. Trái tim tôi đã quyết định như thế.

Thời còn ba lô trên vai lấy điểm khởi đầu là Bangkok tôi đã đi tới nhiều nước châu Á xung quanh như Malaysia, Singapore, Laos, Myanma, Campodia… nhưng chưa lần nào nghĩ mình muốn đi tới Việt Nam.

Tiếp xúc với người Việt Nam thì cũng chỉ có hai lần.

Khi có người cần tư vấn về du lịch Việt Nam, tôi cũng thường nói toàn những điều tiêu cực như “thôi bỏ đi!” hay đưa ra lời chú ý đầy căm hận “hãy cẩn thận với người Việt Nam”.

Tôi tảng lờ trước câu chuyện của ai đó khi họ nói “Việt Nam tuyệt vời lắm”.

Hoặc là chỉ hờ hững đáp “ừ ừ, tốt nhỉ!”

Từ thời điểm tôi đi du lịch Việt Nam đến giờ đã 10 năm.

Tôi đã duy trì mãi hành động “không thèm mua” đồ Việt Nam vì thế khi mua Maruboro (có lẽ là thuốc lá Malboro?) ở tỉnh Vân Nam của Trung Quốc tôi đã trả lại vì nó được sản xuất tại Việt Nam.

Đôi khi trong cửa hàng 100 Yên tôi có nhặt lên vài sản phẩm nhưng do nó là đồ Việt Nam nên tôi đã tuyệt đối không mua.

Đối với Việt Nam đáng ghét thì một Yên cũng tiếc.

Có thể các bạn sẽ nói tôi: Ấy ấy!! chơi đến mức đó hay sao hả? Nhưng các bạn hãy xem dưới đây xem tôi “ghét Việt Nam” đến cỡ nào.

Cứ nghĩ đến những việc xấu xa mà người Việt Nam làm với tôi thì thực sự tôi lại cảm thấy bực mình.

Thế đến Việt Nam lần đầu tiên đã gặp chuyện gì vậy?

Tôi sẽ kể đây nhưng xin các bạn đừng có khóc nhé.

Nghe cũng khóc và kể cũng khóc…
Nguyễn Quốc Vương
dịch


Tâm sự của một người Nhật: Lý do tôi ghét Việt Nam (phần II)

10 năm về trước. Năm 1997 (năm Heisei thứ 9).

Đấy là câu chuyện trước lúc tôi trở thành khách du lịch ba lô 5 năm.

Khi ấy tôi mới có 24 tuổi.

Tôi, vốn làm việc cho một công ty du lịch ở quê hương Shikoku đã nhận được một chuyến đi du lịch tới thành phố Hồ Chí Minh bằng vé của công ty hàng không Việt Nam nhân dịp mới vào làm việc.

“Từ giờ trở đi Việt Nam sẽ trở thành thị trường đầy hứa hẹn, người du lịch tới Việt Nam chắc chắn sẽ tăng”.

“Với tư cách là nhân viên công ty du lịch, hãy tận mắt quan sát Việt Nam nơi đang tăng trưởng nhanh chóng”.

Cấp trên của tôi đã khuyến khích và cũng có thể nói là ngợi khen như thế.

Tôi cùng với cậu K, hai người đã quyết định tham gia “Tour Hồ Chí Minh 4 ngày 2 đêm”.

Tôi lần đầu đặt chân tới Việt Nam trong tâm trạng vừa lo lắng vừa khấp khởi trong cảm xúc “đột nhiên được tới Việt Nam sướng thật”.

Tuy nhiên với tôi, người lần đầu tiên tới Việt Nam thì đấy là một chuỗi những sự việc đáng ghét và khủng khiếp.

Tôi và cậu K hai nhân viên công ty du lịch đã gặp chuyện gì với người Việt Nam?

Một kết cục bất hạnh đã chờ đón chúng tôi.

Nói đơn giản thì thì chúng tôi đã bị người người Việt Nam lừa đến độ phát điên lên và ra về trong nỗi tức giận. Lý do là thế đấy.

Hẹn các bạn lần sau nhé ( Híc! Lại công việc! Công việc).

Ghi chú: Xin lỗi chị Shikayoshi hiện đang sống ở tp Hồ chí Minh nhé.

10 năm về trước.

Tôi sẽ kể cho các bạn nghe câu chuyện xảy ra trong chuyến đi “Hồ Chí Minh 2 đêm 4 ngày” trong lần đầu tới Việt Nam.

Tháng 12 năm 1997.

Tôi cùng với đồng nghiệp K xuất phát từ Kansai tới Hồ Chí Minh trên máy bay của hãng Hàng không Việt Nam.

Trong máy bay tất cả các tiếp viên đều mặc áo dài gợi cảm và ngay từ trước lúc đáp xuống Việt Nam cảm xúc của hai chúng tôi đã dâng cao và trong lòng tràn ngập cảm xúc mong đợi “ không biết những việc vui vẻ nào đang đợi chúng mình đây?”.

Sau chuyến bay khoảng 5 tiếng chúng tôi đáp xuống thành phố Hồ Chí Minh.

Chúng tôi ra khỏi máy bay và đi vào tòa nhà cũ kĩ, đứng xếp hàng làm thủ tục nhập cảnh.

Đến lượt mình khi chúng tôi đưa passport cho nhân viên nhập cảnh thì anh ta vừa lắc đầu vừa nói: “Thế này không thể nhập cảnh được”. Hóa ra vấn đề nằm ở chỗ tấm ảnh đi kèm Visa là ảnh đen trắng.

Với lý do “phải là ảnh màu” tôi và cậu K đã đột nhiên bị từ chối nhập cảnh vào Việt Nam.

Nhân viên nhập cảnh nói: “đằng sau kia kìa”, chúng tôi quay lại và nhìn thấy chủ cửa hàng ảnh vẫy tay cười cười “lại đậy lại đây”.

Không có cách nào khác chúng tôi buộc phải đến đó chụp ảnh dán vào visa và cuối cùng thì cũng được nhập cảnh. Ngay trước lúc nhập cảnh đã gặp rắc rối với ông chủ hiệu ảnh. Phí chụp ảnh đến 20 đô la Mĩ.

Chẳng ai yêu cầu thế mà bị bắt phải chụp và mất tới 40 đô la.

“Không đùa đâu! Quái đản!”

Tôi và cậu K cáu, phản kháng với chủ hiệu ảnh nhưng cho dù có nói gì cũng vô ích.

Phải gắng lắm mới miễn cưỡng chấp nhận giá của mỗi bức ảnh.

“Thật là một đất nước quái gở nhỉ”

Tôi vừa than thở với cậu K vừa bước một bước ra ngoài tòa nhà sân bay thì lần này bị vây chặt bởi những người lái Taxi mời khách.

“Đi đâu thế? Lên đây tôi chở!”

Dù thế nào cũng phải mặt dày tí! Muốn về khách sạn thì không thể không bắt xe vì thế tôi cùng cậu K vừa thương thuyết vừa lên chiếc Taxi của một lái xe có vẻ như là người tốt và có lương tâm nhất.

Giá về đến khách sạn trong thành phố là 20 đô la.

Chát thật! tôi nghĩ vậy nhưng so với các xe khác thì vẫn rẻ hơn vì thế tôi cầm tay 20 đô la và lên đường về khách sạn trong thành phố.

Quang cảnh nội thị Hồ Chí Minh nhìn từ cửa sổ xe Taxi có thể diễn đạt chỉ bằng một từ “vô trật tự”, nhìn chỗ nào cũng thấy toàn người không đội mũ bảo hiểm. Chuyện 3, 4 người ngồi một xe là chuyện đương nhiên.

Trước cảnh ở Nhật Bản không thể nào chấp nhận chúng tôi một lần nữa cảm thấy thực sự mình đã đi đến một nước lạ.

Số lượng xe rất nhiều và hoàn toàn không coi vạch sang đường dành cho người đi bộ hay đèn tín hiệu là cái thá gì.

Chiếc taxi chạy khục khặc trên con đường chưa trải nhựa đầy bụi khiến mặt chúng tôi rung giần giật.

20 phút sau xe đến khách sạn.

Khi xuống xe và đưa cho lái xe 20 đô la thì anh ta nói: “ Không! 30 đô la”

“ Anh chẳng nói là 20 đô la sao?”

Cậu K thét lên phản kháng.

“Được rồi! Được rồi! 20 đô la”.

Lái xe vừa thản nhiên nói vừa thè lưỡi ra.

“Thật chán! Quái gở thật!”

Khi mở cốp xe để lấy hành lý và định bước vào khách sạn thì lái xe taxi kêu lên: “ Tip! Tip!”

“Không! Vớ vẩn!”

Cả tôi và cậu K đều nổi khùng.

“Hứ! “, lái xe lại thè lưỡi ra và chạy mất.

Thật là một tay lái xe rách giời rơi xuống.

Chúng tôi làm thủ tục nhận phòng.

Chúng tôi ở trong một khách sạn hạng trung nhìn ra đường Nguyễn Huệ và gần đại lộ Đồng Khởi.

Căn phòng nồng nặc mùi hôi ẩm mốc và từ vòi hoa sen chảy ra thứ nước màu vàng. Mặc dù phòng có vấn đề nhưng từ ban công có thể nhìn thấy sự ồn ào tấp nập của đại lộ và con sông Sài Gòn rất đẹp.

Hai người đặt vội hành lý xuống phòng rồi nhanh chóng ra ngoài ngắm cảnh trong thành phố.

Trước hết chúng tôi muốn đi chậm dọc theo đại lộ Đồng Khởi, con đường chính của thành phố Hồ Chí Minh để xem cuộc sống của người dân và tới chợ Bến Thành, nơi được coi là nhà bếp của thành phố Hồ Chí Minh.

Khi vừa đặt hai tay lên tủ kính bán hàng và ngắm nhìn bật lửa Zippo của Việt Nam thì một con chuột to cỡ lòng bàn tay người vừa kêu phù phù vừa chạy vọt qua trước mắt.

O a..oái…Tôi kêu lên hoảng sợ.

Tôi đỏ mặt vì người Việt Nam xung quanh cười.

Lần này đột nhiên trời đổ mưa nền chợ Bến Thành bắt đầu ngập nước và rồi…lần này thì đàn gián và chuột với quy mô lớn tôi chưa từng thấy bao giờ diễu hành ngay trước mắt.

“Oái!!!!”

Tởm quá!

Tôi cảm thấy kinh tởm như toàn thân nôn mửa.

Hai người chúng tôi nhanh chóng bỏ lại chợ Bến Thành ở phía sau với đàn trẻ con ăn xin vây quanh.

Thật không muốn đến lần thứ hai.

Cậu K kêu đói bụng vì thế chúng tôi cùng đến hàng mì.

(Đàn gián và chuột lúc nãy làm cho tôi không thiết gì ăn)

Cậu K gọi Phở còn tôi thì chỉ gọi Coca và hút thuốc.

Vừa châm điếu thuốc thì tôi nghe có tiếng người qua đường gọi.

“Cho xin điếu thuốc”, “Cho xin tí lửa”

“Tôi có bạn ở Nhật”, “Cho xem tiền Nhật Bản nào”

Thật là ầm ĩ. Những người khách du lịch như chúng tôi không thể nào thấy bình yên.

Lúc đầu cho dẫu mong mỏi sẽ được tiếp xúc với người Việt Nam vui vẻ nhưng lúc này ngay lập tức tôi cảm thấy chán ngán.

Lúc nào cũng thế, cuối cùng thì cũng bị xin xỏ thuốc lá.

Đi đến đâu cũng bị người Việt Nam vây quanh, xin xỏ một ngày kết thúc và với chúng tôi Việt Nam đã gần như là quá đủ.

Nguyễn Quốc Vương dịch


Tâm sự của một người Nhật: Lý do tôi ghét Việt Nam (phần III)

Ngày thứ hai ở Hồ Chí Minh

Cậu K nói với tôi là đi đến nhà người Việt mới quen để chơi rồi bước ra ngoài.

Cậu ta có rủ tôi đi cùng nhưng tôi muốn một mình chậm rãi đi dạo nên đã từ chối.

Chúng tôi giao hẹn rằng buổi tối sẽ cùng nhau đi uống bia hơi.

Tôi đi đến xem bảo tàng.

Khi tôi ra khỏi khách sạn thì ngay lập tức có một chiếc xích lô đi theo sau tôi tới tận trước cửa bảo tàng.

Khi tôi quay trở lại khách sạn thì chiếc xích lô lúc nãy cũng lại đi theo về trước khách sạn.

Khi tôi đi ngang qua thì ang ta lên tiếng gọi to: “Này! Đi không?” nhưng tôi làm thinh.

Đó là do trong sách hướng dẫn du lịch có ghi: “cần phải thận trọng với những xích lô lưu manh”.

Vì thế mà tôi không lên xích lô, tôi tuy đã quyết định như vậy nhưng vì anh ta nhiệt tình quá vì thế mà cái tình của xích lô đã chuyển phắt sang tôi khiến cho tôi dần dần muốn lên xe.

Tôi hỏi: “giá bao nhiêu?”.

“ Mỗi giờ 50 đô la”, anh ta đáp. Đắt thế! Đừng có đùa! Ai ngồi! tôi nghĩ vậy và làm thinh tiếp tục bước đi. Dần dần giá cả cứ hạ thấp dần.

“10 đô la nhé, đi không?”

“Đắt nhỉ”

“Thế thì 5 đô la”

“ Hừ, làm thế nào bây giờ”

Giá cả giờ đây đã tụt xuống còn có 1/10.

Nếu là 5 đô la thì có ngồi cũng chẳng sao nhỉ…tôi bắt đầu có ý nghĩ như thế.

Mất công đã đến Việt Nam vì thế cũng muốn một lần được cưỡi xích lô.

Người đạp xích lô cũng trẻ trông như một thanh niên tốt.

Nhìn kĩ thì thấy mắt rất đẹp, thật là một tay điển trai.

Thôi được! Cưỡi thử nào.

“5 đô la nhé, nếu cao hơn tôi không trả đâu. Giao kèo đấy nhé”

“OK. Giao kèo thì giao kèo! Nhảy lên nào, nhảy lên nào!”

Thấy anh ta nhiệt tình làm việc từ sáng tới giờ tôi liền đi đến quán cà phê ở gần gọi súp và bánh sandwich cùng cà phê mời anh xích lô.

Chúng tôi vừa ăn vừa trò chuyện sau khi bụng đã ổn ổn tôi lại lên xe và bắt đầu đi ngắm cảnh thành phố.

Lần đầu tiên ngồi trên xích lô được ngắm cảnh thật là thích.

Tôi ngồi trên chiếc xích lô rung lắc vừa chụp ảnh cảnh phố phường Hồ Chí Minh mang phong cách Pháp vừa cảm nhận đầy đủ cái tình của kì quốc cùng ngọn gió dễ chịu.

Thoáng cái đã hết một tiếng việc còn lại chỉ là về khách sạn.

Cuối cùng tôi có ý định chụp ảnh anh chàng xích lô. Tuy nhiên khi giơ camera lên thì anh ta cương quyết từ chối. Lý do là anh ta không thích chụp ảnh.

Khi đến trước đường Đồng Khởi chỉ cách khách sạn chút ít thì đột nhiên anh ta nói: “Đến đây là hết! Xuống!”.

Tại sao đột nhiên thế này? Tôi nghĩ thế nhưng do chỉ cách có chút ít là về đến khách sạn nên tôi đáp: “hiểu rồi, hiểu rồi, xin cảm ơn” và định đưa cho anh ta 5 đô la.

Khi làm vậy thì anh xích lô đột nhiên có vẻ mặt dễ sợ khác hẳn lúc trước.

“Hai trăm đô la! Trả 200 đô la đi!”.

Khuôn mặt đầy sát khí và nói như thét vào mặt.

“Đợi đã! Đã giao kèo là 5 đô la rồi mà”

“Không! 200 đô la! Trả 200 đô la đi!”.

Cái này thì thật gay…

200 đô la có biết cao hơn bao lần không?

Đừng có đùa! Đây tuyệt đối không trả đâu!!!

“Vớ vẩn! Đồ ngu!”, tôi nói vậy rồi ù té chạy.

Anh xích lô đuổi theo.

Tuy nhiên do mặt đường hẹp nên xích lô không đuổi được.

Thật chua chát! Việc không trả tiền tất nhiên rồi, và hơn hết việc tiếp xúc với anh ta rồi trao đổi tình cảm kia tóm lại là cái thứ gì đây!? Trong lòng tôi tràn ngập cảm giác bị phản bội. Kể lể công ơn là việc tôi không hề thích nhưng tôi đã mời anh ta ăn cơm, mua nước cho anh ta uống thân thiện đến thế còn gì! Vậy mà tại sao anh ta lại có thái độ như thế!

Trả 200 đô la đi! Lẽ ra không có câu đó chứ!

Tâm trạng tôi lại tụt dốc.

Chuyện này lẽ ra chắc chắn chả bao giờ xảy ra thế mà….

Tôi về khách sạn và vừa ngủ thì cậu K cùng phòng về.

Cậu K trông cũng không khỏe.

Khi tôi hỏi: “sao thế?”, cậu ta hỏi lại với giọng trầm xuống: “ Cậu Shimata này, cậu còn tiền không?”

“ Còn nhưng sao thế?”.

Hỏi ra mới biết cậu ta đến nhà người Việt Nam chơi và bị lấy mất toàn bộ số tiền.

Khi cậu ta chơi bài thì chỉ trong phút chốc nó bỗng biến thành trò bài bạc và khi tỉnh ra thì cậu đã thua lớn bị đe dọa và phải trả toàn bộ số tiền.

Tổng cộng cậu ta đã phải trả 400 đô la và số tiền mang theo còn lại chỉ còn có 20 đô la.

Tại sao cả tôi và cậu K lại gặp vận đen như thế…

Chúng tôi không đến Việt Nam để có những kỉ niệm như thế này thế mà…

Tôi không muốn nói với cậu K: “tại sao cậu không cẩn thận’” vì chuyện ấy cũng giống như tôi.

Để an ủi cậu K chúng tôi vừa uống bia hơi ở quán gần đó vừa an ủi lẫn nhau tới sáng.

Nhân tiện, tôi trả tiền.

Mặc dù tôi đã tính toán thật cẩn thận nhưng cho dẫu thế thì số tiền phải trả cũng cao gần gấp 4 lần.

Do đã mệt nên tôi chán không muốn phản kháng nữa chỉ ‘vâng, vâng” rồi trả tiền.

Người bán hàng nói tiền thừa là tiền “tip” và không hề trả lại.

Thật quá lắm rồi.

Tôi căm ghét Việt Nam! Tôi muốn mau chóng quay trở về Nhật.

May là chỉ còn ngày mai nữa là trở về. Buổi tối máy bay sẽ cất cánh từ Hồ Chí Minh.

Ngày mai, ngày cuối cùng thì chỉ còn mỗi việc mua quà cho người cùng công ty sau đó đợi đến giờ check out rồi ra khỏi khách sạn là xong.

Trong tâm trạng chán chường như thế ngày thứ hai kết thúc.

Tuy nhiên sự “cãi vã” với người Việt không kết thúc ở đó.

Ngày thứ ba cũng là ngày cuối cùng đã xảy ra “sự kiện đáng ghét hơn nhiều”.

Nguyễn Quốc Vương dịch


Tâm sự của một người Nhật: Lý do tôi ghét Việt Nam (phần IV)

Ngày thứ ba ở Hồ Chí Minh.

Khi tỉnh dậy mở mắt ra thì đã 2 giờ chiều.

Trên bàn là lá thư của cậu K.

“Chào! Tớ đi ra ngoài ngắm cảnh. Buổi chiều tối sẽ quay lại”.

Sắp đến buổi tối về nước rồi. Muốn được nhanh nhanh trở về Nhật.

Máy bay xuất phát lúc 23 giờ vì thế tôi phải ở khách sạn đến 21 giờ.

Cuối cùng tôi muốn đi mua quà Việt Nam nên đi ra ngoài…

Trời! cái gì thế này! Ngay trước hành lang khách sạn là người đạp xích xô ngày hôm trước đang đứng đó.

Nhưng lần này anh ta kéo theo cả bạn và có đến 10 người đạp xích lô có bộ mặt dễ sợ đang nắm tay đứng đợi!

Làm sao bây giờ…

Chắc chắn sẽ bị đánh nên thân…

Chân tôi run lên.

Vào khi đó ở chỗ tiếp tân có một ông già giống như người Nhật và tôi đã cầu cứu ông giúp đỡ.

“Xin lỗi…ông có nói được tiếng Việt Nam không?”

“Có! Tôi nói được nhưng có chuyện gì thế?”

Thật là may ông cụ đúng là người Nhật Bản.

Tôi kể cho ông cụ nghe một phần sự việc xảy ra đến lúc này và cầu xin ông làm trọng tài trung gian.

Ông già đứng trước chỗ tiếp tân là nhân viên lưu trú của Ngân hàng Sanwa.

“ Được, hiểu rồi. Lẽ ra không được ngồi xích lô!”

“Vâng, thành thật xin lỗi!”

“ Ở gần đây xích lô đặc biệt lưu manh đấy”

“Vâng, thành thật xin lỗi!”

Thế đã mặc cả bao nhiêu?”

“Thưa, 5 đô la ạ”

“Và thành 200 đô la? Trời ơi!”

“Thế trả bao nhiêu thì ổn?”

“Cháu không muốn trả quá số tiền đã nói”

“Được, tôi sẽ thử thương thuyết nhưng nếu gặp người xấu thì hãy chuẩn bị tinh thần là gần 100 đô la cũng phải trả đấy”.

Nhân viên của ngân hàng Sanwa ( dưới đây xin gọi là ông B) đã giúp thương thảo với người đạp xích lô hôm qua.

Bạn bè của anh ta đã về hết chỉ còn lại có mình anh ta.

Ông B đưa anh ta lại chỗ quầy lễ tân nơi tôi đợi.

Tôi, ông B và người đạp xích lô ba người ngồi xuống Sofa và bắt đầu nói chuyện.

B: Người đạp xích lô nói anh hứa sẽ trả 100 đô la.

Shimata: Không, tôi không nói thế… hắn ta ngày hôm qua đột nhiên đòi tôi 200 đô la và giờ thì đến đòi đấy!

Xích lô: haaaa (thét lên bằng tiếng Việt nam.)

B: Anh ta nói anh hứa trả 100 đô la.

Shimata: Tôi không hiểu chuyện gì cả. 100 đô la hay 200 đô la cũng đều là vớ vẩn.

B: Lần này không trả hơn 5 đô không được đâu. Ví dụ như 10 đô chẳng hạn.

Shimata: không (tôi ngoan cố).

Xích lô: haaaaa (tiếng Việt Nam).

B: Anh ta nói là anh nói láo

Shimata: Tôi đâu có nói láo. Người nói láo chính là thằng cha đó

Xích lô: Haaaa (tiếng Việt Nam).

B: Thôi được anh ta nói 7 đô la đấy.

Shimata : Không! (tôi ngoan cố).

Tôi không muốn trả cho thằng cha như thế này. 200 đô la rồi đột ngột thành 100 đô la rồi lần này thành 7 đô la làm như thế hóa ra tôi giống như thằng nói láo.

Tôi không thể tha thứ cho kẻ đạp xích lô đáng ghét đó được.

Tuy nhiên người đạp xe xích lô cứ cương quyết là tôi nói sẽ trả 100 đô la.

Shimata: Xin lỗi đã làm mất thời gian của ông…

B: Không sao, cái việc này ở Việt Nam hoàn toàn không phải là chuyện hiếm.

Shimata: Hả? Thật vậy sao?

B: Lúc đầu lên xích lô có tưởng tượng ra chuyện này không?

Shimata: thì…

B: Anh cũng có phần sai

Shimata: Vâng…

B: Anh ta là người vô văn hóa vì thế có thương thuyết bằng giá trị quan đạo đức của người Nhật đi nữa cũng vô ích. Tôi nghĩ thế.

Shimata: Vâng…

Xích lô: Haaaa (tiếng Việt Nam).

B: Anh ta nói là 7 đô la.

Shimata: Không! Không được. 5 đô la. Đã giao kèo là 5 đô la rồi mà. ( tôi ngoan cố đến cùng).

B: Trả đi thì sẽ tốt hơn tôi nghĩ thế. Nếu là 7 đô la thì vẫn còn rẻ đấy!

Nhờ ông B mà cũng có thể tôi đã chuyển tải được cảm xúc của mình tới người đạp xích lô.

Thật là một gã lưu manh, tôi bực biết bao nhiêu.

Cho dù là thương thuyết được tới 5 đô la đi nữa thì anh ta cũng đã phá hỏng lời giao kèo.

Việc mời cơm anh ta thật là ngu ngốc.

Tôi cảm thấy khó chịu và không muốn trả tiền.

Quả thật đúng như ông B nói.

Cho dù có nói với người đạp xích lô quan niệm đạo đức của người Nhật đi chăng nữa thì cũng vô ích. Thông thường thì với tôi 7 đô la cũng không vấn đề gì nhưng vào thời điểm đó tôi không hề có tâm trạng muốn trả.

Tôi không muốn trả cho anh ta một Yên nào. Vấn đề không phải là tiền bạc mà vấn đề là cảm xúc. Và thế là tôi trở nên ngoan cố.

Tuy nhiên, tôi không muốn làm ông B mất thêm thời gian…

Shimata: Hiểu rồi…Tôi sẽ trả 7 đô la.

B: Rồi! Thế nhé xong một vụ rồi nhé (ông cười).

Kết cục tôi trả cho người đạp xích lô 7 đô la và chẳng hiểu sao tôi muốn khóc.

Tôi đã nghĩ hắn là người tốt thế rồi ngồi lên xích lô và đột nhiên bị hắn lừa rồi bỏ chạy.

Rồi bị 10 người đến đợi rồi có khả năng bị dần một trận nên thân.

Người đạp xích lô nói láo kia lại gọi tôi là thằng nói láo.

Tôi đã làm phiền đến cả ông B.

Nhờ sự tốt bụng của ông B mà tôi cũng ổn giống như một đứa trẻ.

Nhưng rồi kết cùng vẫn phải trả tiền.

Mất công đi du lịch mà cuối cùng thế này đây.

Tại sao tôi lại phải gặp chuyện cay đắng thế này càng nghĩ tôi càng cảm thấy xấu hổ và muốn khóc.

B: Rồi! Cuối cùng hai người bắt tay cái nào! Rồi! Rồi! bắt tay đi.

Không có lí do gì phải bắt tay.

Cuối cùng tôi hỏi tên người đạp xích lô

Tên anh ta là “Minh”. Tên hắn và khuôn mặt hắn tôi sẽ không bao giờ quên.

Tôi nhìn mặt hắn như muốn nói này thằng ngu cút xéo đi.

Minh có vẻ khó chịu, nắm chặt tiền rồi ra khỏi khách sạn.

Bản thân số tiền thiệt hại không lớn.

Cũng có thể số tiền đó nhỏ đến mức không thể nói đó là thiệt hại.

Nhưng sự mất mát về tinh thần thì lớn hơn nhiều.

Người ta đã nhắc rằng là nguy hiểm thế mà tôi vẫn lên xích lô tôi mới ngu làm sao.

Việt Nam thế là đủ rồi. Tôi không muốn đến Việt Nam lần thứ hai.

Tôi không muốn đến Việt Nam lần thứ hai. Tôi sẽ không đi Việt Nam lần thứ hai.

Tôi thề trong tim như vậy, tôi cảm ơn ông B, trao đổi địa chỉ rồi ru rú trong phòng chờ đến sát giờ checkout. Tôi không đi đâu cũng không đi mua quà mà ngủ ngay trên giường.

Vào lúc checkout chợt nhớ đến chiếc áo sơ mi bỏ quên trên phòng tôi liền quay lên nhưng nó đã bị ai đó lấy mất.

Đến lúc cuối cùng mà cũng… Sẽ không đến lần hai đâu, đồ ngu! Tôi vừa lầm bầm như thế vừa hướng ra phi trường.

Tôi sẽ không bao giờ quên chuyến đi 4 ngày 2 đêm tháng 12 năm 1997 ở thành phố Hồ Chí Minh.
Tâm sự của một người Nhật: Lý do tôi ghét Việt Nam (phần cuối)

Tôi không muốn đến Việt Nam lần thứ hai. Tôi sẽ không đi Việt Nam lần thứ hai.

Tôi thề trong tim như vậy, tôi cảm ơn ông B, trao đổi địa chỉ rồi ru rú trong phòng chờ đến sát giờ checkout. Tôi không đi đâu cũng không đi mua quà mà ngủ ngay trên giường.

Vào lúc checkout chợt nhớ đến chiếc áo sơ mi bỏ quên trên phòng tôi liền quay lên nhưng nó đã bị ai đó lấy mất.

Đến lúc cuối cùng mà cũng… Sẽ không đến lần hai đâu, đồ ngu! Tôi vừa lầm bầm như thế vừa hướng ra phi trường.

Tôi sẽ không bao giờ quên chuyến đi 4 ngày 2 đêm tháng 12 năm 1997 ở thành phố Hồ Chí Minh.



Kể từ đó đã 10 năm…

Cả ý nghĩ căm ghét du lịch Việt Nam cùng sự việc xảy ra với người đạp xích lô đáng ghét đã được thanh tẩy trong dòng chảy của thời gian, tôi, người đã căm ghét Việt nam suốt 10 năm trời giờ đây bắt đầu có ý nghĩ thế nào cũng được.

Gần đây vô tình tôi lại chú ý tới Việt Nam không thể nào cưỡng được.

Vào thời điểm này nghĩ lại thì điều tôi cần phản tỉnh thật nhiều.

Tôi thật xấu khi cái gì cũng đổ tại người Việt Nam.

Tôi đã không hề có chút tri thức nào về Việt Nam, tôi cũng không hề có ý nghĩ mong muốn lí giải người Việt Nam. Tôi đã chỉ bị hút hồn bởi Áo dài và khi gặp người Việt Nam thì vênh mặt lên rằng ta đến từ nước Nhật cường quốc kinh tế đây… và thiếu đi sự khiêm tốn.

Tôi đã tự ý mời người đạp xích lô và tự mình sung sướng và tôi phải cảm thấy xấu hổ vì điều đó. Khi đã trở về Nhật tôi nói với người xung quanh rằng tôi ghét Việt Nam, khi được hỏi về du lịch Việt Nam tôi đã nói là nên đi Bangkok rồi khi nghe ai đó nói du lịch Việt Nam rất thú vị thì tôi giả điếc không nghe. Tôi cũng đã ích kỉ tẩy chay hàng Việt Nam…

Tại sao trong 10 năm ròng tôi đã làm những điều ấy với Việt Nam?

Sự thay đổi tâm tính này quả thật phần lớn nhờ vào blog tôi nghĩ vậy.

Vào tháng 4, chị Yakibuta, người sống ở Hồ Chí Minh về nước và đến nhà tôi chơi có mời tôi cà phê Việt Nam.

Mất công người ta mời lại đã lâu không uống cà phê Việt Nam.

“Shit! Thật là ngon!!!”

Đúng vậy, Việt Nam không chỉ là nước có cà phê ngon mà còn là nước có thức ăn ngon!

Khi đọc blog của chị ấy ở Hồ Chí Minh thì cuộc sống ở Việt Nam đã được viết rất sống động mỗi lần đọc là một lần tăng cảm hứng về Việt Nam.

Ngoài chị ấy còn có chị Shikayoshi đang sống rất vui vẻ ở Hồ Chí Minh.

Tôi chỉ có 2 ngày 4 đêm rồi từ bỏ tại sao hai người lại có thế sống vui vẻ như thế với những người Việt Nam vây quanh.

Tôi cảm thấy có hứng thú với Yakibuta và Shikayoshi.

Xung quanh việc gặp gỡ hai người tôi cũng phải cảm ơn chị Boctok.

Tôi muốn một lần quay trở lại Hồ Chí Minh để thử xem sao. Tôi nghĩ như thế từ tận đáy lòng.

Ngoài Hồ Chí Minh thì Việt Nam cón có rất nhiều nơi du lịch nữa. Đến giờ phút này tôi cảm thấy luyến tiếc vì vào thời còn là kẻ ba lô trên vai tôi đã không đến thăm Việt Nam. Cho dù để có được ý nghĩ ấy tôi đã mất đến 10 năm.

Chà! Tôi muốn đến Việt Nam.

あーベトナム行きたい。


BÀI III
Ai Làm Hại Du Lịch V iệt Nam

Posted on Tháng Mười Một 9, 2011
Vi Anh

«Merde aux Droits de l’homme. Partez en vacances au Vietnam.» Thụy My của Đài RFI của Pháp vì lý do lịch sự không dùng chữ tục nên tạm dịch ‘Nếu cóc cần nhân quyền, hãy đến Việt Nam‘. Chớ chữ ‘merde’ của Pháp nghĩa còn nặng hơn nhiều. Tự điển song ngữ Pháp Anh của Harper Collins ấn bản dành cho đại học Mỹ dịch là shit, hell; và Google Translate, là shit, damn it. Câu hỏi đặt ra là vì ai làm cho du lịch là một kỹ nghệ kiếm ra nhiều tiền mà không có khói, của VN bị thiệt hại như vậy. Hỏi tức là trả lời rồi. Chỉ có Đảng Nhà Nước CS Hà nội độc tài đảng trị tòan diện mới có thể chà đạp nhân quyền của người dân Việt Nam, làm du lịch VN ra nông nổi – chớ không ai vào đó cả.

Thưa, câu nói «Merde aux Droits de l’homme. Partez en vacances au Vietnam» không phải của những người dân Việt bị CS Hà nội chụp mũ là “nặng quá khứ nên quá khích” với CS và CS Hà nội gọi là “lực lượng thù địch”, thành phần “tuyên truyền, chống phá nhà nước”” nói đâu. Đó là câu nói của một tổ chức quốc tế, có uy danh là “Phóng Viên Không Biên Giới” (Reporter Sans Frontieres, RSF), trụ sở chánh ở Paris và có tầm mắt quan sát và giám sát về nhân quyền khắp thế giới.


RSF nói vào 27 tháng 10, năm 2011 khi phát động chiến dịch qui mô, tòan thế giới, phổ biến bằng những phương tiện nhanh nhất. RSF báo động cho những người có ý định du lịch VN về tình hình nhân quyền tồi tệ của nước VN đang nằm trong gọng kềm CS.
Tổ chức RSF này từng coi Cựu Tổng Bí Thư Đảng CSVN Nông Đức Mạnh là đại sát thủ nhân quyền. Tổ chức này cũng nhiều lần phê bình, chỉ trích, khuyên cáo, yêu cầu nhà cầm quyền CS Hà nội trả tự do cho nhiều người tranh đấu cho nhân quyền bị CS ngang ngược hành hung, sách nhiễu, trấn áp, bắt bớ, giam cầm.


Nhà cầm quyền CS Hà nội chứng nào vẫn tất ấy, cứ tăng gia và thô bạo chà đạp nhân quyền của người dân Việt. Nên RSF mới chỉ mặt đặt tên CS Hà nội, công bố trong một chiến dịch truyền thông báo động khách du lịch đừng quên rằng Việt Nam, Thái Lan và Mêhicô, những địa điềm du lịch này có một bề trái rất xấu về tự do ngôn luận, dân chủ, và nhân quyền.


Ba áp-phích của RSF nêu rõ. «Merde à la liberté d’expression. Partez au Mexique (Nếu cóc cần đến quyền tự do ngôn luận, thì hãy đi Mêhicô». «Merde à la démocratie. Partez en vacances en Thailande (Nếu cóc cần đến dân chủ, hãy đi nghỉ hè ở Thái Lan). Còn Việt Nam CS là điạ ngục của nhân quyền: « Merde aux Droits de l’homme. Partez en vacances au Vietnam ( Nếu cóc cần nhân quyền, hãy đến Việt Nam). Có thể tham khảo những điều này ở trang mạng http://www.censorshipparadise.com/fr/.


Ông Jean-François Julliard, Tổng thư ký Phóng viên Không Biên giới nói: «Chúng tôi không kêu gọi tẩy chay việc đi du lịch tại các nước này, nhưng mong muốn du khách biết được mặt trái của vấn đề. Chúng tôi đã chọn ba quốc gia vừa được xem là thiên đường du lịch, nhưng cũng vừa là địa ngục đối với các nhà báo. Đó là Mêhicô, Việt Nam và Thái Lan».


Ông còn minh họa và nhấn mạnh: «Đằng sau những hàng cây cọ, các bãi biển và đền đài, đôi khi ẩn giấu nạn đàn áp các nhà báo và những người viết blog. Chúng tôi cổ vũ cho một nền du lịch có trách nhiệm. Lựa chọn đi du lịch ở đâu là quyền của các bạn, nhưng bổn phận của chúng tôi là phải nói cho các bạn biết». .


RSF cho du khách biết ở VN, CS độc tài đảng trị tòan diện. Truyển thông chỉ được nói những gì khi Đảng cho phép. Bất cứ ai nói điều gì bất lợi cho Đảng Nhà Nước là bị trừng trị. Đảng Nhà Nước làm chủ, kiềm sóat “báo đài”, Internet, những phương tiện online, các trang mạng xã hội, trang blog, facebook. CS Hà nội đã bỏ tù 17 bloggers và một số nhà cấm bút như giáo sư Phạm Minh Hoàng, sinh viên Nguyễn Tiến Trung, từng du học Pháp chỉ vì viết bào đòi hỏi dân chủ một cách ôn hòa. CS Hà nội hình sự hóa , sử dụng điều 88 bộ luật hình sự “tuyên truyền, chống phá nhà nước” để triệt hạ tiếng nói dân chủ, đối lập với chánh quyền Việt Nam, trong đó có hàng chục bloggers, nhà báo.


Tuy trong chiến dịch báo động khách du lịch tòan thế giới, RSF nói “Chúng tôi không kêu gọi tẩy chay việc đi du lịch tại các nước này”. Nhưng người hiểu biết và khách du lịch trên thế giới có lương tâm, ý thức và trách nhiệm với đồng lọai bị chà đạp nhân quyền chắc không ai thích du lịch một nơi mà nhà cầm quyền chà đạp nhân quyền đối với người dân của mình như VNCS.


Thế giới này có vô số những nơi du lịch có thể vừa thưởng thức danh lam thắng cảnh, tìm hiểu văn hóa, hưởng thụ 3 chữ S (sun nắng, sand cát , sex tình). Ngay ở vùng nhiệt đới, có cả chục nước, chớ không phải chỉ riêng ở VN với bộ mặt “hình sự” của công an CS đầy đường đầy chợ,với một nhà cầm quyền tước đọat quyền làm người của người dân, sẵn sàng kiếm chuyện với người ngọai quốc bất đồng chánh kiến với họ và với mức độ vệ sinh an tòan thực phẩm rất đáng lo ngại. Nên theo sưu khảo của các công ty du lịch quốc tế, du khách ngọai quốc đến VN lần đầu ít khi trở lại.


Ngay người gốc Việt trên thế giới, định cư ở các quốc gia Tây Phương, những người có ý thức chánh trị và hiểu biết thời cuộc và có tình liên đới với đồng bào bị CS tước đọat nhân quyền cũng cực chẳng đã lắm, gia đình hữu sự mới đi VN.
Ngay ba ngày xuân nhựt của người VN, Tết Nguyên Đán truyển thống, cũng chỉ có số nhỏ người cao niên đi VN, chớ lớp trẻ ít đi lắm. Người lớn tuổi đi VN như đi du lịch vì đi chỗ khác phải nói tiếng Anh tiếng Mỹ, ăn đồ Tây, đồ Mỹ lạ miệng lạ mồm.


Phương chi theo qui chế an sinh xã hội của Mỹ, nơi chứa phân nửa số người Việt ở hải ngọai, lớn tuổi hưởng trợ cấp an sinh xã hội nếu đi VN quá một tháng là bị cúp tiển SSI, rủi bị thẩm tra sẽ bị trừ lại và trả góp. Có người nói làm sao sở An Sinh Xã hội biết khi vào ra Mỹ có khi Quân Thuế và Di Trú Mỹ không mở passport ra xem. Đứng quên thời đại tin học một vạch trên bắng lái xe, một cái chip nhỏ như cây kim chứa tất cả lý lịch của người cầm thẻ ấy và hiện lên khi qua cổng phi trường.


Còn suốt thời gian rời khỏi nước Mỹ, bảo hiểm y tế công Medicare và Medicaid chánh phủ Mỹ không bảo chi. Nếu đi bác sĩ và mua thuốc người bịnh phải trả bằng tiền túi. Ngay với người hồi hưu ăn tiền hưu trí là tiền mình đóng góp khi làm việc cho quỹ hưu trí, cũng không được lãnh tiền ấy ở VN nếu ở quá sáu tháng.


Nhứt là dư luận trong cộng đổng Việt ở hải ngọai rất không tốt đối với những người Việt hải ngọai về VN len lén nhét Đô la vào pasport, gãi đầu gãi tai, gọi dạ bảo vâng để qua truông trạm “Hải Quan” của Nhà Hồ. Hay những người vênh váo coi như áo gấm về làng, tìm bò lạc cỏ non, làm hư hỏng thêm những cô gái đáng thương vì nghèo mà phải bán trôn cho những người đáng cha chú mình


Phải nói Phóng viên Không Biên giới ra chiêu này tuy nghe rất êm nhưng rất thấm đau cho CS Hà nội. Không những đòn này tấn công vào bộ mặt chánh trị độc tài mà còn vào xương sống kinh tế của chế độ CSVN chuyên chà đạp tư do, dân chủ, nhân quyền của người dân Việt.

http://hoalaivn.wordpress.com/2011/11/09/ai-lam-h%E1%BA%A1i-du-l%E1%BB%8Bch-v-i%E1%BB%87t-nam/



BÀI IV
GIÃ TỪ VIỆT NAM

Ed. Oshiro, MPH (Master of Public Health-Bác Sĩ Y Tế Công Cộng)

Trần Trúc Lâm chuyển ngữ


Ba mươi phút sau khi chuyến bay của hãng Hàng Không Việt Nam chở chúng tôi rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhất thuộc thành phố Hồ CHí Minh, chúng tôi nhìn xuống những đồng bằng màu đỏ trơ trụi của xứ Cambodia, tôi và vợ tôi bỗng dưng có một cảm giác kỳ lạ của sự thoải mái và tự do. Hú vía, chúng tôi thực sự đã thoát khỏi những sự cách nhiễu, hăm dọa và tham nhũng thường nhật của các giới chức Việt Nam, và cái gánh nặng đè trên vai trong ba tháng qua chợt trút mất.


Mọi chuyện như bắt đầu từ mùa thu năm ngoái, khi tôi nhận làm quản lý hải ngoại vụ cho Cơ Sở Đông Gặp Tây (East Meets West Foundation) hiện đang trông coi một bệnh xá toàn khoa cho “kẻ nghèo nhất trong đám nghèo” và một cô nhi viện với 125 trẻ em ở ngoại ô thành phố Đà Nẳng, Việt Nam. Tôi đã quyết định chụp lấy cơ hội hưu trí sớm với đầy đủ cấp dưỡng do Group Health đề nghị và về hưu vào đầu tháng Giêng với ý định đi phục vụ tình nguyện khoảng một đến hai năm tại Việt Nam, bắt đầu vào giữa tháng Giêng.

Công tác của tôi là giúp bệnh xá hoạt động được hữu hiệu hơn và hướng dẫn những chương trình về giáo dục y tế công cộng cho bốn làng hẻo lánh. Vợ tôi thì được giao việc ở cô nhi viện như là giáo viên mỹ thuật và dạy Anh ngữ cho các nhân viên.

Một điều báo trước cho những việc sẽ gặp ở trong nước Việt Nam thực ra đã bắt đầu khi chúng tôi bay xuống San Francisco để nhận giấy hộ chiếu trên đường đi Việt Nam. Khi đến San Francisco thì chúng tôi được báo rằng viên chức Bộ Ngoại Giao (Việt Nam) muốn chúng tôi phải thuê căn phòng của y ở Đà Nẳng với giá 700 đô la mỗi tháng, với sáu tháng tiền nhà đưa trước.

Chúng tôi phản đối và y không chịu cấp giấy nhập cảnh nữa, chúng tôi đành phải quay về lại Seattle để chờ Cơ sở tiếp tục thương lượng. Cuối cùng đến tháng Hai, sau khi đồng ý với vụ sắp xếp, trả cho y 4200 đô la, và dấu hộ chiếu cho ba tháng thay vì một năm, chúng tôi bay đi Việt Nam. Khi đến nơi thì căn phòng, hỡi ôi! còn đang sửa chữa và chúng tôi đành ở khách sạn với giá 15 đô la một ngày.

Vừa vào đến Việt Nam thì tất cả đĩa điện toán của chúng tôi đều bị tịch thâu ngay, và mãi đến ba tuần mới được trả sau khi đóng 40 đô la gọi là “lệ phí bảo quản” và có cả khối bản phụ được sao chép (để bán về sau).

Ngày đầu làm việc trong văn phòng, tôi nhắc máy điện thoại để gọi con gái tôi ở Seattle và đã có thể nghe rõ tiếng nhạc quân hành văng vẳng trong máy suốt cuộc điện đàm. Tôi nhắc lại chuyện đó với nhân viên người Việt thì được họ cho biết là công an và quân đội luôn theo dõi nghe trộm mọi cuộc điện đàm. Chúng tôi được khuyến cáo là ngay cả thư từ cũng được mở ra đọc ngang xương, cho nên phải cẩn thận khi viết. Có một lần công an gọi tôi phải đem tờ báo cáo tài chính cuối tháng cho họ xem để họ quyết định cho gởi hay không.

Vài ngày sau khi tôi bắt đầu làm việc, thì cô kế toán viên bay đi Florida để làm đám cưới với anh bác sĩ Mỹ mà cô đã quen trong thời gian anh ta phục vụ tình nguyện cho bệnh xá. Khi chúng tôi rao tuyển người thay thế thì viên Bộ Trưởng chuyển đến một danh sách ứng viên mà y muốn chúng tôi thâu dụng. Chúng tôi bác ngay vì họ không biết tí gì vế kế toán và chẳng có chút khiếu năng gì về Anh ngữ. Chúng tôi tuyển được một cô có bằng kế toán và nói giỏi tiếng Anh, nhưng viên Bộ trưởng và Sở Công An lại trì hoản việc chuẩn y thâu dụng, cho mãi đến khi tôi nghĩ rằng, có chút tiền đút lót hoặc cô ta chịu chia một phần lương của cô.

Chúng tôi được biết rằng tất cả nhân viên người Việt đều buộc phải đóng một phần tiền lương cho cho công an, các viên chức nhà nước, đảng viên, v.v... Đã mấy lần công an đến văn phòng chúng tôi hạch hỏi vì sao chúng tôi không dùng người của họ. Bất ngờ có một bác sĩ người Việt lại nộp đơn xin làm kế toán bởi vì anh đã thất nghiệp đến hơn 5 năm nay. Quả có hàng trăm bác sĩ thất nghiệp mặc dù họ thuộc hạng lao động có lương thấp nhất ở Việ Nam... 30 đô la một tháng. Tôi chẳng thể nào hiểu được vì sao lại có quá nhiều bác sĩ thất nghiệp tại Việt Nam. Tôi được nghe kể rằng họ buộc phải đăng ký quỹ 1,500 đô la để được thực tập và lấy kinh nghiệm ở bệnh viện sau khi học xong. Không có kinh nghiệm ở bệnh viện là thất nghiệp. Tôi lại được biết có một sự kỳ thị nặng nề đối với dân trong Nam, đặc biệt l à những người đã từng phục vụ cho chế độ cũ. Hầu hết những bác sĩ thất nghiệp mà chúng tôi đã gặp là dân miền Nam.


Trong phần họp định hướng tại Hoa Kỳ, chúng tôi được báo cho biết rằng các bác sĩ tại bệnh xá làng Hòa Bình rất lười và ù lì, vì họ chỉ biết có một điều là viết toa cho thuốc bổ sinh tố. Sau khi làm việc với họ vài ngày, tôi nhận thấy họ rất thông minh, rất ham học để hành nghề tốt và sẵn sàng đón nhận những sự giúp đỡ để trở thành thầy thuốc giỏi.. Điều đáng tiếc là sự đào tạo của họ tệ quá, cho nên họ độc chỉ giỏi viết toa sinh tố cho mọi bệnh trạng.

Mỗi ngày trong một tuần, các bác sĩ đi khám bệnh ở một trong những làng lân cận. Tôi đi theo họ vài lần và nhận thấy rằng sinh tố được cấp cho mọi chứng: sốt rét, mù lòa, sốt nóng, bệnh ký sinh trùng, đái ra máu, ỉa chảy v.v... Họ đâu có thể làm gì khác hơn được? Họ chẳng có món thuốc nào ngoài vài lọ Ampicilin. Mấy bác sĩ bảo rằng ít ra cũng nên cho bệnh nhân món gì để đem về nhà, và họ cấp sinh tố. À ra thế! Trụ sinh thì ai cũng có thể mua được chẳng cần toa cho nên nhà nào cũng có vài lọ trữ sẵn. Ngay cả thông dịch viên của tôi cũng dùng trụ sinh cho nhức đầu, cảm, tiêu chảy, đau lưng, hoặc khi cô ta cảm không thấy được khỏe.

Một ông bác sĩ Sản Phụ Khoa từ San Diego đã làm việc vài ngày tại bệnh xá và đã chỉ cho các bác sĩ cách sử dụng mỏ vịt đế khám âm đạo. Năm sau, ông ta quay lại và bất bình vì các bác sĩ không dùng mỏ vịt. Ông ta báo cáo với Ban Quản Trị Cơ Sở Đông Gặp Tây ở San Francisco rằng các bác sĩ ở bệnh xá ù lì và lười biếng. Tôi báo cáo về Ban Quản Trị chất vấn sự giám định của ông ta. Các bác sĩ tại bệnh xá không thể nào học khám và chữa bệnh phụ khoa trong vài ngày được, và kỹ thuật viên phòng thí nghiệm chỉ làm được dăm ba xét nghiệm đơn giản mà thôi. Cho dù họ có chuẩn được điều gì đi nữa thì cũng chẳng có thuốc men và dụng cụ để điều trị. Tại sao phải đi học những chuyện mà dù có biết mình cũng đành bó tay? Tôi cảm thấy rằng bác sĩ Mỹ tình nguyện làm việc tại bệnh xá làng Hòa Bình thiếu nhạy bén và làm hại nhiều hơn là giúp đỡ.

Sau khi ổn định công việc, tôi liền gặp viên Bộ trưởng Y Tế (CSVN) để đề nghị xúc tiến dự án hướng dẫn y tế công cộng cho bốn làng, và ông ta cũng phấn khởi về ý kiến đó. Ông ta nhận bản dự án đó và bảo rằng ông ta sẽ thảo luận với Ủy Ban Nhân Dân rồi cho tôi biết sau, hai tuần sau, ông ta gửi cho chúng tôi một lá thư nói rằng bản dự án đó đã được chấp thuận và Bộ sẽ thi hành, nhưng họ lại muốn tôi tài trợ 25 ngàn đô la. Tôi trả lời rằng tôi không có tiền mà chỉ có sự hiểu biết, thời giờ và lòng nhiệt thành muốn huấn luyện và làm việc với các nhân viên y tế mà thôi, nhưng họ chẳng tha thiết mấy đến sự tham gia của tôi – mà chỉ nghĩ đến tiền của tôi thôi. Tôi không được mời trở lại Bộ Y Tế nữa.

Khi tôi đi thăm ngôi làng đầu tiên để lượng định về y tế thì tôi được gặp Chủ Tịch Nhân Dân xã và y dẫn tôi đi thăm những gia đình nghèo nhất. Tại mỗi nhà y đòi tôi giúp cho những món mà gia đình đó cần như một mái nhà nới, tiền mua gạo, áo quần, xe lăn v.v... Đến khi tôi nhắc đi nhắc lại rằng tôi đến đây không phải để cho tiền, y liền bảo thông dịch viên dẫn tôi ra khỏi làng ngay.

Ở một làng khác, các viên chức đòi tôi phải cấp một ngân khoản để xây một ngôi chợ mới, và khi họ biết tôi không thể làm được, họ bắt giữ tôi lại tại chỗ rồi ra lệnh cấm tôi rời khỏi trụ sở Ủy Ban. Đêm đó tôi bị buộc phải ngủ trên sàn gỗ bẩn thỉu với một manh mền rách, và một tên an ninh nằm ngủ bên cạnh canh phòng tôi trốn. Cho thêm phần khốn khỗ, tên an ninh này lại bị cụt tay vì mìn, y đặt cánh tay cụt lên bụng tôi suốt đêm mà ngủ. Còn tôi thì làm sao mà ngủ được, nằm nghĩ ngợi lung tung, mấy ai tin được rằng tôi lại ngủ trên sàn nhà một văn phòng đảng Cộng Sản, cạnh một tên công an Cộng Sản, mà cánh tay cụt của hằn lại đặt trên bụng tôi! Đó là một trong những đêm kinh dị và hãi hùng nhất trong đời. Tôi cứ ngỡ mình bị ác mộng.

Vì tôi trú trong khách sạn nên phải đi ăn hiệu. Chỉ có một nơi mà chúng tôi và hầu hết các du khách đến ăn mà không sợ bệnh là nhà hàng mang tên Christies. Mỗi đêm chúng tôi gặp nhóm Thủy Quân Lục Chiến và quân nhân Mỹ đến Việt Nam tìm kiếm lính mất tích trong cuộc chiến (MIA’s) . Họ bảo ràng mỗi làng đều có mánh khóe làm ăn trong vụ này. Chức sắc ở làng có thể báo cáo là đã chôn hai hay ba xác lính Mỹ ngoài ruộng. Thế là Hoa Kỳ phải mất khoảng 10 ngàn đô la cho việc đào xới và mướn phu phen địa phương.

Các giới chức Mỹ mà tôi chuyện trò bảo rằng từ năm 1991, họ chẳng tìm ra cái gì ráo và cũng chẳng mong mỏi tìm thêm cái gì khác. Họ được yêu cầu trú tại khách sạn của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam với giá 75 đô la một đêm và phải thuê phi cơ trực thăng chở họ đến các làng, mà giá của một giờ bay trực thăng là 750 đô la. Có khoảng 30 quân nhân Hoa Kỳ tìm kiếm MIAs tại Đà Nẳng và ở mỗi thành phố lớn đều có một nhóm như vây. Dĩ nhiên là Hoa Kỳ tốn hàng triệu đô la vào túi các viên chức người Việt!

Sau hai tháng rõ ràng là chẳng ai cần đến chúng tôi tại Việt Nam. Cô nhi viện thì đã được Chính Phủ Hoa Kỳ tài trợ dồi dào và nhân viên Việt Nam thì làm việc xuất sắc. Trẻ em học ở trường nhà nước, được dạy nghề mộc, may vá, điện toán, v.v... và một bác sĩ toàn thời gian chăm sóc sức khỏe cho chúng. Chúng có cả sân bóng rổ, bóng bàn, máy truyền hình, mày chiếu hình, xe đạp, máy điện toán, một nông trại trồng rau, và chúng nuôi gà và lợn để sinh lợi. Ai cũng biết rằng chúng sống khá hơn đại đa số trẻ con khác ở Việt Nam! Tôi đã tìm cách tăng lương cho tất cả các bác sĩ và nhân viên (Việt Nam) tại bệnh xá từ 30 đô la đến 50 đô la mỗi tháng. Nhà cầm q uyền lại đòi rằng ai cũng được trả đồng hạng dù là bác sĩ hay y công.

Tôi cũng đã giúp vào một chương trình phát triển dài hạn giáo dục liên tục cho các bác sĩ. Một bác sĩ tim mạch ở Nhật chịu đỡ đầu hàng năm, trong nhiều năm về sau, cho một bác sĩ của bệnh xá luân phiên qua tu học tại bệnh viện Okasa khoảng sáu tháng. Người đầu tiên đi Osaka đã rời hồi tháng Sáu. Tôi cũng đã bắt liên lạc với bệnh viện Huế xin các bác sĩ của bệnh viện thực tập và chúng tôi chịu trả tiền phí tổn huấn luyện. Tôi đã đệ trình dự án này với Ban Quản Trị Cơ Sở Đông Gặp Tây vào ngày công tác cuối cùng của tôi ở Việt Nam. Hi vọng rằng Ban Quản Trị sẽ biểu quyết tán đồng chương trình này. Tôi cảm thấy quá rẻ để huấn luyện một bác sĩ với giá 1500 đô la.

Vài tuần sau khi đến Đà Nẳng, viên chức Bộ Ngoại Giao đòi thêm tiền để dứt điểm việc tu bổ căn phòng và mua đồ bày biện. Nhưng chúng tôi được biết rằng một bác sĩ Việt Nam kiếm được 30 đô la một tháng và đã trả, có lẽ từ 10 đến 15 đô la tiền thuê căn phòng như thế nên chúng tôi đã lịch sự phất lờ đòi hỏi thêm tiền của y. Y bèn trở mặt chèn ép, đòi chúng tôi phải báo cáo trước chi tiết lộ trình mỗi hai tuần, không cứu xét yêu cầu gia hạn hộ chiếu và làm khó dễ các nhân viên người Việt của bệnh xá.

Ba tháng sau khi đến Việt Nam viên chức Bộ Ngoại Giao bảo rằng chúng tôi có thể vào ở được rồi, và chúng tôi chỉ trú – có mỗi một đêm. Căn phòng chỉ được tu sửa nửa chừng với dây điện còn lòng thòng từ trần nhà, tường được sơn một phần, ống nước chưa được nối vào, không có bàn ghế và gián thì ôi thôi! bò lổn ngổn khắp nơi. Chỉ trong mấy phút mà tôi xài hết một lọ xịt côn trùng và sàn nhà đầy la liệt cả dán dài khoảng 2 đốt tay đang nằm ngửa ngo ngoe.

Chúng tôi dọn trở lại khách sạn sau đúng một đêm. Viên chức Bộ Ngoại Giao rất bực dọc và gay gắt bảo chúng tôi nên rời khỏi nước nếu không hài lòng. Lần đầu tiên chúng tôi cảm thấy sợ hãi, chúng tôi biết rằng y có thể bỏ tù chúng tôi hoặc dàn cảnh một tai nạn mà chẳng ai có thể làm gì được.

Biết rõ rằng chẳng ai muốn và cần đến chúng tôi tại Việt Nam, sự đóng góp của chúng tôi cũng nhỏ nhoi, và có một sự đe dọa đến an ninh của chúng tôi, chúng tôi quyết định rời khỏi Việt Nam. Chúng tôi cũng bị dằn vặt bời quyết định này bởi vì chúng tôi đã đến và mến yêu trẻ mồ côi, những người làm việc chung và cái bệnh xá làng Hòa Bình. Chúng tôi mang theo một tình cảm rất nồng nàn đối với dân Việt, đối với đất nước tuyệt đẹp này, và mong một ngày nào đó sẽ trở lại để hoàn tất những công tác đã phát khởi.

Một ngày kia, cái thế hệ lãnh đạo hiện nay sẽ trao quyền lại và Việt Nam sẽ vươn mình như con bướm sặc sỡ của vùng Đông Nam Á.

Ed Oshiro hiện về hưu và ngụ tại Mereer Island (thành phố Seattle, tiểu bang Washington) nguyên là Phụ Tá Giám Đốc Chương Trình Giáo Dục Y Tế của Group Health Cooperatives.
http://hoanlan. multiply. com/journal/ item/1


GOOD-BYE VIETNAM
by Ed Oshiro, MPH (Master of Public Health)

Thirty minutes after our Vietnam Airline flight departed from Tan Son Nhut airport in Ho Chi Minh City, we looked down upon the denuded red plains and my wife and I instantaneously felt an incredible sense of relief and freedom. We were finally free from the daily harassment, intimidation and greed of the Vietnamese officials and we could actually feel the weight of the last three months lift off our shoulders.

It all began last fall when I was accepted as the overseas manager for the East Meets West Foundation which operated primary care clinic for the "poorest of the poor" and an orphanage for 125 children on the outkirts of Da Nang, Vietnam. I had decided to take advantage of the early retirement package offered by Group Health and retired in January with the intention of volunteering in Vietnam for a year or two, beginning in mid-January. My mission was to help the clinic become more efficient and effective and to conduct pilot public health education programs in four remote villages. My wife was assigned to work with the orphanage as an art and recreation instructor, and to teach English to the staff.

A preview of what we were to experience in country actually began when we flew to San Francisco to pick up our visa on our way to Vietnam. Upon our arrival in San Francisco, we were advised that the Foreign Minister, who issues the visas, wanted us to rent his appartment in Da Nang for $700 a month, with a six month advance payment. We objected, he refused to issue the visas, so we return to Seattle while the Foundation continued the negotiations. Finally, in February, we agreed to the arrangement, paid him $4200, and with a 3 month instead of a 12-month visa, flew to Vietnam. When we arrived, the apartment, of course, still being renovated so we were compelled to stay in a hotel at $45 a day. Upon entering Vietnam, all of our computer discs were cofiscated and only after paying a $40 "handling fee" and copies had been made (for later resale) were they returned to us three weeks later.

On our first day in the office, I picked up the telephone to call my daughter in Seattle and noticed that martial music could be heard in the background during our conversation. I later mentioned that to the Vietnamese staff and they stated the police and military were listening in on all of our telephone calls. We were also warned that our letters were opened and read by the government, so we had to be careful what we wrote. Once, I was required to take a month-end financial report to the police and they decided whether it should be sent off or not.
<> A few days after we began working in the office, the Vietnamese accountant left for Florida to marry an American doctor she had met when he came to Da Nang to volunteer at the clinic. When we announced the position, the minister sent us candidates who had no accounting training nor English language skills and hired a certified accountant who spoke fluent English. The Minister and the Security Police delayed approval of the new employee, untill, we suspect, some money changed hands or she agreed to kick back a percentage of her salary. We were informed that all the Vietnamese employees were required to pay the police, government offcials, party member, ect, a portion of their salary. The Security Police came to our office to demand, several times, why we refused to hire their candidates.

Incidentally, a Vietnamese physician applied for the accounting job because he had been unemployed for over five years. Apparently, there were hundreds of doctors that were unemployed in spite of the fact that they are some of the lowest paid workers in Vietnam... $30 a month. I never learned why there were so many unemployed doctors. I was told that they had to pay upwards of $1500 to get practical training and experience in a hospital after they completed their training. Without the training, they were unemployable. I also became aware that there was tremendous discrimination against the South Vietnamese, especially these whose family members supported the defeated government. Most of the unemployed doctors we m et were South Vietnamese.

During my orientation in the States, I was warned that the doctors at the Peace Village Clinic were lazy and unmotivated, and only knew how to prescribe vitamins. After spending a few days with the doctors, I found them to be very intelligent, very willing to learn to practice good medicine and were eager to receive any assistance that would enable them to become good practitioners. Unfortunately, their medical training was so poor and inadequate that they were only qualified to prescribe vitamins for every affliction. One day a week, the doctors visited one of the surrounding villages and provided care to the people. I accompanied them on several visits and noted that vitamins were precribed for every ailment, malaria, blindness, fevers, parasites, blood in the urine, diarrhea, ect.. What else could they do? They didn't have any other drugs except a few bottles of Ampicillin. The doctors claim that they had to give the patients something to take home so they prescribed vitamins. Made sense to me. Antibiotics may be purchased over the counter so every Vietnamese already had several bottles at home. My translater took antibiotics for headaches, colds, diarrhea, backache, and when she just was not feeling well.

An OB/GYN doctor from San Diego spent a few days at the clinic and showed the doctors how to use a vaginal speculum. A year later, he returned and was very upset that the doctors were not using the speculum and complained to the East Meets West Foundation Board in San Francisco that the doctors were unmotivated and lazy. My report to the Board questioned his assessment. The doctors could not be trained in diagnose and treat gynecological diseases in a few days and the lab tech was only able to do very simple tests. Even if they did, find something, there were no drugs or equipment to treat the problem. Why look for something if you can't do anything about it? I felt that some of the American doctors who volunteered at the Peace Village Clinic were very insensitive and did more harm than good.

As soon as I had settled in, I met with the Minister of Health with a proposal to conduct a pilot public health project in four villages and he seemed to be very enthusiastic about the idea. He accepted the proposal and informed me that he would discuss it with the People's Commitee and get back to me. Two weeks later, he sent me a letter stating that the project was approved and that the Ministry would implement it, but they wanted me to provide them with $20,000. I stated that I did not have the money, only the knowledge, time and willingness to do the training and work with the health workers, but they were not interested in my participation - only my money. I was not invited back to the Ministry.

When I visited my first village to do a health assessment. I was met by the Director of the People's Committee who took me around to the homes of the poorest families. At each farm house, he requested that I pay=2 0for something that the family needed, for example: a new roof, a new well, a new house, money for rice, clothes, wheel chair, etc. When I stated over and over that I was not there to give them money, he finally told my translator to get me out of the village. At another village, the officials demanded that I provide them with funds to build a new school and when they realized that I would not provide the funds, I was immediately put under house arrest and ordered not to leave the grounds of the People's Committe office. That night, I was ordered to sleep on the dirty wood floor of the office with only a tattered blanket, and one of the security police officer slept next to me to assure that I did not leave the building. To add to my misery, the officer, whose hand had been blown off by a land mine, place his stump on my stomatch all night while he slept. I, of couse, did not sleep a wink and keep thinking who would ever believe that I would be sleeping on the floor of a Communist party office, next to a Viet Cong policeman whose handless arm rested on my belly! It was one of strangest and scarrest night I have experienced. I kept wondering if I was having a nightmare.

Because we were living in a hotel, we had to eat our meals in restaurants. The only place we and most visitors could eat in Da Nang without getting sick was a restaurant called Christies. Every night, we met American marrines and soldiers who were in Vietnam searching for MIA's. They20stated that every village had a scam in operation. The village leaders would claim to have burried in the rice fields two or three Americans who had died during the war. It would cost the American $10,000 to dig in the fields and to hire local workers. The officers we talked to claimed that since 1991 they had found nothing and they didn't expect to find anything. They were required to stay in Vietnam Army Hotel for $75 a night and hire the Vietnam helicopter to take them to the village. We were informed that it cost $750 an hour for the helicopter ride. There were about 30 US military personel looking for MIA's in Da Nang and every major city had a silmilar team. It is coating the US milion of dollars and the Vietnamese are laughing all the way to the bank!

After a couple of months, it became very evident to us that we were not needed in VietNam. The orphanage was being very adequately funded by the US Government and the Vietnamese staff was excellent. The kids were attended in the government school, being provided with training in carpentry, sewing, computer, etc .... and a full time physician took care of the medical needs of the children. They had a basketball court, ping-pong tables, television, videos, bicycles, computers, a vegetable farm, and they raised chickens and pigs for income. The Vietnamese claimed that these chidren, in fact, lived better than all other children in Vietnam.

I was able to raise the salaries of all the doctors, and the rest of clin ic staff from $30 to $50 a month. The government required every employee to be paid the same amount whether he/she were a doctor or janitor. I also assisted in development of a long term continuing education program for the doctors. A cadiologist from Japan is sponsoring each year, one doctor from the Peace Village Clinic, who will spend six months in her hospital in Osaka for next few years. The first doctor left Osaka in June. I also opened communication with the Hue hospital to accept our doctors into their resisdency program with us paying for the training. I presented this proposal to East Meets West Foundation Board on my last day in the country. Hopefully, the Boad will vote favourably on this program. I feel that it is very inexpensive to train the doctor for $1600.

Several weeks after we arrived in Da Nang, the Forein Minister demanded more money to finish renovating the apartment to purchase furniture. We were aware of this fact that a Vietnamese doctor makes $30 a month and he would pay, perhaps $10-$15 a month to rent that apartment so we politely ignore his demand for more money. He tightened the screws by requiring us to to provide him with a detailed itinerary as to where we would be every hour, two weeks in advance, by holding up our request for a visa extention and by intimidating our Vietnamese office staff. Three months after we arrived, the Foreign Minister said we could move into the house and we did - for one night. It was only partially completed wit h electric wires dangling from the ceiling, walls partially painted, plumbing unconnected, no furniture and cockroaches crawling everywhere. In a few minutes, I used up a can of insecticide and the floor was covered with two-inch long cockroaches lying on their backs, leg flailing away. We moved back to the hotel after one night. The minister became very upset and advised us to leave the country if we were unhappy. For the first time ever, we experience real fear. We realized that he could jail us or arrange an accident and no one could do anything about it.

Realizing that we were not really wanted or needed in the country, that our contributions would be negligible, and that there was a real threat to our safety, we made the decision to leave Vietnam. We agonized over the decision because we had come to love the children in the orphanage and the people working there as well as at the Peace Village Clinic. We have very warm feelings for the Vietnamese people and the incredibly beautiful country, and we would, someday, like to return there complete the work we have begun.

One day, this generation of leaders will pass on and then Vietnamese will emerge to become to the butterfly of Southeast Asia.

http://www.vietthuc.org/2011/11/01/gia-t%E1%BB%AB-vi%E1%BB%87t-nam/

BÀI V.
Chuyến Đi Thăm Việt Nam

Khiến Lại Phải Ghét Chủ Nghĩa Cộng Sản


Dennis Prager
PBD dịch

Nhìn thấy Miền Bắc Cộng Sản khiến phải nổi giận trước những cái chết vô nghĩa và những lời dối trá lịch sử.



Thật khó mà kềm nổi các xúc động của tôi — nhất là không tránh được phải nổi giận — trong chuyến viếng thăm Viêt Nam của tôi hồi tuần trước. Tôi càng ngưỡng mộ người dân Việt bao nhiêu — thông minh, yêu đời, tự trọng, và chăm chỉ — thì tôi lại càng tức giận lũ Cộng Sản đã gây đau khổ quá nhiều cho người dân nước này (và dĩ nhiên cả người Mỹ chúng ta) trong nửa thế kỷ sau của thế kỷ 20.

Điều không may là lũ Cộng Sản vẫn cai trị nước này. Mà Việt Nam ngày nay đã đón nhận cách duy nhất, chủ nghĩa tư bản và thị trường tự do, để thoát khỏi cảnh nghèo đói, chứ khoan nói đến chuyện thịnh vượng. Vậy thì 2 triệu người Việt phải bỏ mạng trong Chiến Tranh Việt Nam để làm gì?

Tôi muốn hỏi một trong những tên lãnh đạo Cộng Sản đang cai trị Việt Nam câu hỏi đó. Tôi muốn hỏi: “Này đồng chí, đồng chí đã bỏ hết tất cả những gì mà đảng Cộng Sản của đồng chí đã tranh đấu cho kỳ được: nào là cộng sản, nông nghiệp tập thể, hoạch định trung ương, và quân phiệt, ngoài những lý tưởng khác nữa. Vậy thì hãy nhìn lại xem Hồ Chí Minh yêu kính của đồng chí và đảng của đồng chí đã hy sinh hàng triệu đồng bào người Việt của đồng chí thì đúng ra là để được cái gì?”


Không có câu trả lời nào là câu trả lời hay. Chỉ có một lời nói dối và một lời nói thật, và lời nói thật thì thật là thê lương.

Lời nói dối chính là câu trả lời của Cộng Sản Việt Nam, cũng như hầu hết mọi lời nói dối của Cộng Sản, và đã được khối Thiên Tả không Cộng Sản trên Thế Giới lặp lại. Lời nói dối này đã (và vẫn tiếp tục đang) được dạy tại hầu hết các viện đại học ở phương Tây, và đã (và vẫn tiếp tục đang) được hầu hết mọi phương tiện truyền thông trên địa cầu truyền tải:

Lời nói dối đó là Cộng Sản Việt Nam (tức là Bắc Việt), và Việt Cộng chỉ tranh đấu giành độc lập cho nước họ khỏi tay ngoại bang. Trước hết là tranh đấu chống Pháp, sau đó là Nhật, rồi đến Mỹ. Những người Mỹ sinh vào thời hậu chiến (sau thế chiến 2) sẽ nhớ là họ cứ được nhắc nhở mãi Hồ Chí Minh là George Washington của Việt Nam, và ông ta yêu mến Hiến Pháp Hoa Kỳ và đã dùng bản hiến pháp này làm nền tảng mô phỏng hiến pháp của ông ta, và chỉ muốn giành độc lập cho Việt Nam.


Sau đây mới là sự thật: Tất cả những tên độc tài Cộng Sản trên thế giới đều là những tên côn đồ ngông cuồng, thần thánh hóa cá nhân, tham quyền, khát máu. Hồ Chí Minh cũng thế. Hắn thủ tiêu các đối thủ, tra tấn biết bao nhiêu người Việt vô tội mà chỉ có trời mới biết chính xác được bao nhiêu người, và đe dọa hàng triệu người để họ phải cầm súng ra trận cho hắn — phải, cho hắn và cho đảng Cộng Sản Việt Nam đẫm máu, và được một tên sát nhân “vĩ đại” muôn năm khác yểm trợ: Mao Trạch Đông. Nhưng những kẻ ngu dốt đạo lý tại Hoa Kỳ lại cứ hô to “Ho, Ho, Ho Chi Minh” trong các cuộc biểu tình chống chiến tranh và gọi Hoa Kỳ là những kẻ giết người — “Hey, Hey, LBJ, hôm nay ngươi giết được bao nhiêu trẻ con?”

Đảng Cộng Sản Việt Nam không đánh Mỹ để giành độc lập cho Việt Nam. Mỹ không bao giờ muốn kiểm soát người dân Việt, và có một trường hợp tương tự để chứng minh điều đó: Chiến Tranh Triều Tiên. Mỹ có đánh Cộng Sản Triều Tiên để kiểm soát Triều Tiên hay không? Hay là 37,000 người Mỹ bỏ mạng tại Triều Tiên để người dân Triều Tiên được hưởng tự do? Ai đã (và vẫn là) người có tự do hơn — một người Triều Tiên sống dưới chế độ Cộng Sản Triều Tiên ở Bắc Triều Tiên hay một người Triều Tiên sống tại nơi mà Hoa Kỳ đã đánh bại Cộng Sản Triều Tiên?

Và ai đã là người có tự do hơn ở Việt Nam — những người sống ở miền Nam Việt Nam không Cộng Sản (dù là với tất cả các khuyết điểm của chế độ đó) hay những người sống dưới chế độ Cộng Sản của Ho, Ho, Ho Chi Minh ở Bắc Việt Nam?

Hoa Kỳ tranh đấu để giải phóng các nước, không phải để cai trị họ. Sự thật là, chính đảng Cộng Sản Việt Nam chứ không phải Hoa Kỳ, mới là những kẻ muốn kiểm soát người dân Việt. Nhưng lời dối trá lại được tuyên truyền lan rộng khắp nơi và hiệu nghiệm đến mức đa số mọi người trên thế giới — trừ những người Mỹ hậu thuẫn cho cuộc chiến đó và thuyền nhân người Việt và những người Việt khác khao khát tự do — cứ tin rằng Hoa Kỳ nhập trận là để lấy kẽm, tungsten, và để thành lập cả một “đế quốc Mỹ” giả tưởng trong khi Cộng Sản Việt Nam thì tranh đấu cho tự do của người Việt.

Tôi ghé đến “Bảo Tàng Viện Chứng Tích Chiến Tranh Việt Nam” — tòa nhà triển lãm các hình ảnh chống Mỹ cao ba tầng của đảng Cộng Sản. Chẳng có gì để tôi phải ngạc nhiên — tôi chẳng ngạc nhiên vì không có đến một chữ chỉ trích Cộng Sản Bắc Việt hoặc Việt Cộng, không có đến một chữ về việc đe dọa mạng sống của mọi người khắp nơi nếu họ không chiến đấu cho Cộng Sản, không có đến một chữ về những người liều mạng để vượt thoát bằng thuyền, thà chịu nguy hiểm bỏ mạng ngoài biển cả, vào bụng cá mập, hoặc bị hải tặc tra tấn hoặc hãm hiếp tập thể, còn hơn sống dưới chế độ Cộng Sản đã “giải phóng” Nam Việt Nam.

Điều cũng không có gì đáng ngạc nhiên là không thấy có khác biệt gì mấy giữa lịch sử Chiến Tranh Việt Nam do đảng Cộng Sản Việt Nam kể lại với lịch sử cuộc chiến đó mà hầu như sinh viên nào cũng sẽ được nghe kể lại từ hầu như bất cứ giáo sư nào tại bất cứ trường đại học nào ở Mỹ Châu, Âu Châu, Á Châu, hoặc Châu Mỹ La Tinh.

Tôi sẽ kết thúc bằng đề tài tôi đã bắt đầu— người Việt. Đã đến thăm Việt Nam thì không thể không mang ấn tượng tốt đẹp về người dân nước này. Tôi hy vọng tôi còn sống để thấy ngày người dân Việt Nam, được giải phóng khỏi những lời dối trá của Cộng Sản hiện vẫn lan tràn trong đời sống hàng ngày của họ, hiểu rằng mỗi mạng người Việt hy sinh trong cuộc chiến chống Mỹ đều bị phí phạm vô nghĩa, là thêm một mạng người nữa trong số 140 triệu sinh mạng bị đem ra hy sinh trước bệ thờ tên giả thần khát máu nhất trong lịch sử: Chủ Nghĩa Cộng Sản.


— Dennis Prager is a nationally syndicated radio talk-show host and columnist. He may be contacted through his website, dennisprager.com.
http://vn-buddhist.blogspot.com/2011/10/chuyen-i-tham-viet-nam-khien-lai-phai.html
BKBĐ 172
BÀI VI
Các ông tây tại Việt Nam

Chưa bao giờ Việt Nam nhiều tây du lịch đến thế, nhất là tây ba lô. Họ ăn mặc đơn giản gần như bẩn thỉu với chiếc áo ba lỗ thường là cũ rích, chiếc quần soọc rộng thùng thình tới gần đầu gối, chân dậm đôi giày vải không có bít tất, lưng lúc nào cũng đeo toòng teng chiếc ba lô méo mó nên gọi họ là tây ba lô.



Hình ảnh
Tây balô

Họ ăn cơm rẻ tại các quán bên lề đường gọi là “cơm bụi” vì hứng bụi, uống nước trà đá trong những chiếc bịch ny lông dùng bán cho hạng thợ thuyền, và ngủ tại bất cứ nơi nào có thể ngủ được, như công viên hay các phòng trọ hạng bét chẳng hạn.

Hôn nhân Pháp Việt

Ở khu Phạm Ngũ Lão Q.1 Sài Gòn có rất nhiều phòng cho tây ba lô thuê. Giá trung bình mỗi phòng 5 đô la Mỹ/ đêm. Nhưng đối với họ hình như vẫn còn là quá mắc (phải ở “free” thì mới không mắc!). Họ giải quyết sự mắc mỏ đó hết sức ranh mảnh bằng cách chờ buổi tối mới đến thuê, chẳng có giấy tờ gì cả rồi một anh thuê, hàng chục anh tới ngủ, chủ nhà chẳng làm gì được vì mặt “tây” thì anh nào chả giống anh nào. Họ nằm chen chúc như cá hộp trên sàn nhà, chẳng cần mùng vì trong ba lô anh nào cũng có sẵn tuýp thuốc thoa muỗi. Năm đô la tức gồm cả tiền nước và tiền điện.

Chiều 3/10, đám cưới của Lương Vịnh Kỳ và chú rể người Tây Ban Nha Sergio đã diễn ra trong không khí lãng mạn của hòn đảo Ibiza xinh đẹp. Cô dâu, chú rể và các quan khách đều mặc trang phục trắng, khiến cho buổi lễ càng lãng mạn. Nữ diễn viên Hong Kong tiết lộ, cô gặp


Hôn nhân Mỹ Việt

Điện thì họ không cần, còn nước, những anh lang thang ngoài công viên cũng cần tắm hàng ngày nên bèn đến tắm ké, nhà chủ không có cách chi đuổi họ. Có những anh thuê phòng dài hạn, hàng tháng không trả tiền rồi bỏ đồ đấy đi đâu mất. Chủ phải nhờ công an đến lập biên bản, niêm phong, phải chính tay công an đem đồ đi chỗ khác cho chủ lấy phòng cho thuê tiếp chứ nếu chủ động tới, lúc về họ sẽ tru tréo lên mất đồ, đi thưa, công an không biết giải quyết cách nào! Họ hay ăn vạ, có khi chính họ nhờ bạn đến lấy trộm giùm chiếc máy ảnh, cặp kính mát để...bắt đền nhà chủ. Công an phường Phạm Ngũ Lão là phường chuyên giải quyết chuyện...tây ba lô đến phát nhức đầu vì hầu hết các nhân viên công an chẳng ai biết nói tiếng Anh nên họ tha hồ ăn vạ!...

Nhưng, không phải tất cả tây ba lô đều như thế. Có những người đã vươn lên bằng sự kiên nhẫn và trí thông minh của mình. Họ làm nhiều nghề, trong đó có những nghề người Việt Nam không thể ngờ tới. Từ ngoài Bắc, ngoài Trung cho tới trong Nam đều gọi chung họ là những ông tây “rau muống”. Sau đây chúng ta thử xem xét một vài ông tây tiêu biểu chứ không thể nói hết được vì họ hoạt động kiếm sống tại VN nhiều lắm...

ÔNG TÂY BÁN THỊT CHÓ

Nhìn ông tây San bán quán và giải thích về các món ăn VN, nhất là món thịt chó, thông thạo như người Việt, nhiều khách mới đến quán rất ngạc nhiên, hỏi: “Ông là tây thật hay tây dỏm mà rành VN quá vậy?”. San cười: “Tây xịn, nhá!”. Nhiều người còn ngạc nhiên hơn khi biết ông tây “thịt chó” này đã có bằng thạc sĩ kinh tế và dân tộc học tại Pháp.

Tất cả là nhờ thịt chó!

San tên thật là Stanilas Boissau, sinh năm 1975 tại Paris, Pháp, sang VN từ đầu năm 1999 làm việc cho dự án Nghiên cứu và phát triển nông nghiệp (S.A.M) của Chính phủ Pháp tại tỉnh Bắc Kạn.

San kể: “Hồi tôi mới sang VN lần đầu tiên, thấy các phong tục, tập quán của người VN cái gì cũng lạ nên muốn nghiên cứu thử xem thế nào. Tôi làm dự án ở vùng Na Rì (Bắc Kạn), tìm hiểu cách sống và nếp sinh hoạt của người Tày, Nùng, Dao nên sống chung với họ, ai ngờ thích luôn mấy món thuốc lào, rượu sắn và rượu táo Mèo. Sẵn tính tò mò, tôi tìm học luôn cách thức chế biến các thứ rượu là lạ mà hấp dẫn đó, vì biết đâu chả có lúc cần đến nó”.

Cuối năm 2000, dự án S.A.M kết thúc, San trở về Pháp. Anh kể lại: “Chỉ mấy tháng sau, nhớ VN quá không chịu nổi, tôi xin quay trở lại VN làm nghiên cứu sinh. Với lại, ở VN có lẽ dễ sống hơn. Nhưng dự án đã chấm dứt, học bổng cũng không xin được, tôi chắt bóp những đồng tiền đã dành dụm được, mở một quán nước nhỏ ở vỉa hè phố Huế Hà Nội sống qua ngày”. San kể tiếp: “Nhiều hôm đói bụng mà trong túi không còn đủ tiền ăn một suất cơm bụi vỉa hè Hà Nội là chuyện thường”.

Chân dài Tây Ban Nha trở thành MC duyên dáng
Đầm làm MC

Những ngày ấy San tìm thuê một căn phòng giá rẻ ở gần Quốc Tử Giám cho vừa túi tiền lại tiện học thêm, nhưng không ngờ lại bén duyên cùng cô sinh viên ngành du lịch trọ học ở xóm bên cạnh. Cô đưa San về thăm quê ở Vân Đình (huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây). Họ làm đám cưới vào năm 2003.

Cuối năm 2004, một hôm San đưa mấy người bạn đồng hương về thăm quê vợ, được bố vợ mời thưởng thức món thịt chó chính gốc Vân Đình. San nảy ra ý nghĩ: “Người Việt thích món này, người nước ngoài cũng thế, tại sao mình không mở quán bán món đó tại Hà Nội? Nếu thành công là sống và học tiếp được rồi”.

Mấy hôm sau, vợ chồng San gom góp số tiền ít ỏi, thuê một địa điểm ở ngõ phố Huế để mở quán. Vợ San lo quản lý, còn San chạy vạy học cách chế biến món thịt chó, cả tháng trời đi tham khảo các quán khác và về cả các vùng quê để học cách bài trí quán.

Lúc đầu quán chưa đông khách, vợ lại mới sinh con đầu lòng, gánh nặng cuộc sống đè nặng lên vai San. Chuyện học hành và thu thập tài liệu cho luận án tiến sĩ dân tộc học của San cũng bị ngưng trệ.

Cuối cùng San có ý nghĩ: “Nếu bán một thịt chó không thôi thì những người không ưa món này không biết ăn gì, mà ăn hôm qua rồi nay đến ăn nữa cũng chán. Nếu là mình mình cũng không đến liên tục”. San liền mở rộng thêm các món ăn truyền thống khác, tuyển thêm nhân viên biết chế biến theo cách dân dã: cơm cá kho, dưa cà, thịt ba chỉ ram khô... Nhưng thịt chó vẫn là món chủ yếu. San cười: “Toàn món ăn với giá bình dân cả nên khách thích đến luôn”. Để quán “100% dân tộc”, San đặt tên là quán Chim Sáo.

Quán của San ngày càng đông khách. Cũng nhờ số tiền kiếm được từ quán mà vợ San đã đủ vốn thành lập một công ty chuyên tổ chức các tours du lịch cho khách nước ngoài. San khoe: “Hai vợ chồng đã mua được một căn nhà nhỏ ở Gia Lâm Hà Nội, không còn phải sống cảnh ở thuê như trước nữa. Tất cả là nhờ quán thịt chó đấy nhá!”. San nói: “Ở VN tuy không có nhiều tiền nhưng sống được lắm nhá!”.

Một ngày bán hàng

San mặc quần ống ngắn, chân đi đôi dép cao su cũ kỹ, áo bà ba màu cháo lòng, vai vắt chiếc khăn tay, cùng mấy nhân viên trong quán cũng ăn mặc tương tự, tất bật chạy hết bàn nọ đến bàn kia mời khách. “Đang là giờ cao điểm của quán ông thấy rồi đấy nhá! Ông phải ngồi đợi một lúc nhá!” (Hình như câu nói nào của ông tây nói tiếng Việt này cũng có tiếng “nhá”. San bảo mời khách kiểu thân mật như vậy thành quen miệng rồi). Chỉ một lát, chưa kịp hết câu đã lại có thêm một tốp khách tây ba lô bước vào. Không cần coi thực đơn, mấy vị khách gọi ngay: “Thịt chó và rượu táo Mèo” bằng thứ tiếng lơ lớ mới học. “Rượu táo Mèo thì có nhưng thịt chó thì hết. Đợi khoảng 30 phút nhá. OK nhá?”, San vừa cười hề hề với khách vừa xoa hai tay, dọn bàn.

Chờ mấy vị khách gật đầu xong, bảo nhân viên bưng tạm mấy món ăn trước cho khách, San lật đật phóng vội chiếc xe Minsk nổ bành bạch xuống tận Hà Đông (thuộc tỉnh Hà Tây) xa hơn 10km, lấy thêm thứ “thịt chó thui rơm thứ thiệt”, từ Vân Đình đem về vẫn còn thơm mùi khói.

Lấy được thịt rồi, San tự tay chế biến rồi đem lên cho khách. Các vị khách nhìn bát mắm tôm tỏ vẻ không hiểu, San đánh vần từng tiếng: “M...ắ... m t...ô...m”, rồi giải thích: “Mắm tôm đấy, ngon lắm nhá. Thiếu nó là món này hết ngon đấy nhá”. Đoạn, San quay sang dặn các nhân viên: “Từ nay nhớ tăng 7 kg lên 10kg nhá! Không ngày mai lại thiếu, phải đi lấy thêm vất vả lắm nhá!”. Ít tháng trước, những khách quen của quán muốn ăn thịt chó phải đặt trước ba tiếng đồng hồ để đích thân San có thì giờ xuống tận vùng “nguyên liệu thịt chó” ở Vân Đình (Ứng Hòa, Hà Tây) lấy về cho đủ món. Nhưng nhiều lần thấy khách sốt ruột đợi món ăn như món hầm chẳng hạn, nên San mua sẵn để trong tủ lạnh, khách gọi, chỉ cần hâm lên là sẽ có ngay.

Gần 11 giờ đêm, khi quán đã bớt khách San mới được một chút nghỉ ngơi. Anh ngồi gác nhẹ chân lên chiếc ghế tre trước cửa quán, lấy ra chiếc điếu cày, vê thuốc lào, châm lửa và rít một hơi dài rồi mơ màng nhả khói. Có người đi qua, anh cười khoái trá: “Cái điếu này thật là kêu!”. Các nhân viên của San đã hiểu quá rõ ông chủ của mình, họ kể: “Ông San biết hút rồi nghiện thuốc lào VN ngay từ lúc mới sang. Ông ta nói hút thuốc lào cũng là phương tiện thư giãn sau một ngày làm việc mệt nhọc”.

ÔNG TÂY LÀM MC

Nhiều người gọi ông Tây sinh năm 1978 này bằng cái tên thân mật là Joe hay Dâu! “Mình đến VN là để học, nhưng học cũng phải sống trước đã. Mình làm việc, kiếm tiền để có một cuộc sống dễ chịu hơn”, Joe tâm sự một cách thẳng thắn như vậy.

Một “cuộc sống dễ chịu” của Joelà: “Đủ tiền uống trà đá sinh viên 1,000đ, ăn phở hay bún ốc 5.000đ và cơm bụi vỉa hè là rẻ nhất nhưng phải có thời gian viết blog bằng tiếng Việt”.

Nhà trọ, cơm bụi, trà đá...

Joe tốt nghiệp hai ngành biểu diễn và truyền thông tại Đại học Acadia (Canada). Tháng 10 năm 2002, khi những người bạn cùng lớp với Joe tìm đường sang các nước Mỹ, Anh, Úc làm việc thì Joe chọn VN theo một dự án nhỏ của Chính phủ Canada.

Ấn tượng đầu tiên của Joe về VN là “không có những cao ốc chọc trời và những thành phố lớn nhưng con người thật tuyệt vời, dễ gần gũi”. Joe kể lại bằng tiếng Việt khá thông thạo: “Mới đến VN lần đầu tiên nhưng mình cảm thấy sẽ gắn bó với nơi này lâu dài”.

Mấy ngày sau, Joe tìm được việc dạy tiếng Anh cho một trung tâm Anh ngữ ở phố Cát Linh Hà Nội với mức lương không đủ cho một người bình dân sống. “Đó là những ngày sống khó khăn nhất của mình. Tiền kiếm được chỉ đủ trả thuê nhà trọ, ăn cơm bụi và uống trà đá dài dài”.

Cũng chính vì lang thang đi tìm các quán cơm bụi rẻ tiền, la cà những chốn bình dân nên Joe thuộc làu các ngõ phố Hà Nội. “Chỉ tội lúc ấy mình nói tiếng Việt dở quá, đi mua cái gì cũng toàn bị đắt. Người Việt có từ gì nhỉ? À, đúng rồi, “bần cùng”. Hoàn cảnh mình cũng bần cùng như thế. Nhưng kể cả những lúc khó khăn nhất, chưa bao giờ mình nghĩ sẽ trở về nước”, Joe tâm sự.

Để sống được ở VN lâu dài, đầu năm 2004 Joe đăng ký xin học khoa Tiếng Việt tại trường đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Hà Nội. Bây giờ Joe có thể nói tiếng Việt làu làu, riêng khả năng viết tiếng Việt thì khó ai tin được đó là do một ông tây viết.

Joe vừa rèn giũa vốn liếng tiếng Việt vừa “chạy sô” một loạt các công việc để kiếm sống, nói như Joe là để “lấy ngắn nuôi dài”: làm biên tập thời vụ cho báo Đầu Tư bản tiếng Anh, phụ trách truyền thông cho một dự án của Cơ quan Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) tại VN, soạn tài liệu bản thảo cho Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF)...

Joephải “quay chong chóng” để xếp lịch sao cho phù hợp: sáng lên lớp, trưa lên văn phòng UNDP, chiều chạy đến nhà in in tài liệu cho UNICEF. “Hôm nào phải biên tập ở báo Đầu Tư nữa thì ù cả tai. Có ốm cũng cố gượng mà đi làm. Thứ bảy, chủ nhật các bạn đi chơi, nghỉ ngơi thì mình phải cày. Tục ngữ VN chẳng nói đói thì đầu gối phải bò đấy thôi. Muốn mưu sinh bằng chính khả năng của mình ư? Đâu có dễ!”, Joe nói.

Rồi cơ hội để có một công việc ổn định cũng đến với Joe. Trong một tiểu phẩm phụ họa cho chương trình “Hành trình văn hóa” (VTV3), Joe diễn vai một sinh viên nước ngoài đi mặc cả mua hàng. Cách diễn dí dỏm và hài hước của Joe được những người làm show truyền hình để ý đến.

Dịp Hội nghị APEC được tổ chức tại VN năm 2006, với vốn liếng tiếng Việt sành sỏi, Joe được mời làm MC cho chương trình ca nhạc lớn, truyền hình trực tiếp. Khá tự tin trong vai trò MC, Joe đã nhận được những ánh mắt thiện cảm và bất ngờ từ khán giả. Đầu năm 2007, VTV6 ra mắt khán giả, Joe đã nhận được hợp đồng làm việc phù hợp với ý muốn của mình tại VN.

Làm gì cũng được, ăn gì cũng xong

Những ngày này Joe bận túi bụi chuẩn bị và thực hiện một loạt những cảnh quay, show diễn cho các chương trình VTV6. Joe nói thật mà như đùa: “Lịch “chạy” đã khép kín từ 5g sáng tới 11g đêm, chỉ gặp được mình sớm nhất là giao điểm 0 giờ hai ngày cũ mới. Không “chạy”, mất việc là đói thì bỏ tiền ra nuôi mình nhá!”. (Người phương Tây nói tiếng Việt thường có tiếng “nhá” đằng sau).

Đêm Hà Nội rất khuya Joe mới lần mò từ trường quay về căn phòng chung cư thuê ở phố Kim Liên, ngay sát đường tàu chạy qua chạy lại ồn ào không ai muốn ở. Căn phòng quá thiếu tiện nghi, Joe bảo: “Chỉ hợp với những người không có mặt ở nhà thường xuyên như tớ thôi. Có chỗ ở là tốt rồi”. Rủ thêm hai người bạn ở chung, Joe giải thích:”Kiểu Campuchia cho rẻ!”. Chỉ kịp tắm ào một cái, Joe xách xe ra đường “lôi” về cho mình bữa tối (hay bữa khuya!) với hai cái bánh mì pa-tê và “gặm” ngon lành vì đói. Gần 2 giờ sáng, khi đường phố Hà Nội còn vắng hoe thì mới là lúc Joe thư giãn cuối ngày: lên mạng để viết nhật ký điện tử (blog).

Nhưng 7g sáng hôm sau, gặp Joe ở quán cà phê gần Trường ĐH Mỹ thuật Hà Nội, người ta đã thấy anh cười nói và pha trò bằng những câu đùa kiểu Việt Nam trước khi bước vào dàn dựng một tiểu phẩm mới cho chương trình sắp phát sóng.

“Trông Joe vui vui, ngộ ngộ, hay đùa vậy thôi chứ khi làm việc thì cực kỳ nghiêm túc, cái gì được giao cũng làm ngon ơ, chưa bao giờ bỏ lỡ việc chung của tập thể “, các bạn đồng nghiệp của Joe ở VTV6 nhận xét như vậy.

Riêng đối với Joe: “Có được một chỗ làm ổn định tại VN là tốt lắm rồi. Làm gì cũng được, ăn gì cũng xong, miễn sao trụ được và sống được ở đây. Nhưng bền vững và ổn định với một công việc thì vẫn tốt hơn”.

Buổi chiều, 15g30, khoảng giữa hai cảnh quay của một chương trình, được tạm nghỉ 30 phút, Joe đi rất nhanh về phía một quán cơm bụi: “Cơm, cá kho, rau muống luộc. Suất 7.000đ thôi bác nhé”. Thấy Joe không phải là khách quen, bà chủ quán há hốc miệng, làm suất cơm nhưng vẫn lẩm bẩm: “Tây gì mà ăn uống hà tiện đến thế!”.

Joe cho biết ăn uống đơn giản như vậy lâu ngày sẽ tiết kiệm được khối tiền. Nhiều người thấy Joe bình dân, nghe Joe nói tiếng Việt sành sỏi, ai cũng ngạc nhiên. Những lúc ấy Joe giải thích: “Tớ là Dâu mà! Tây “rau muống” mà!”.

ÔNG TÂY LÀM BỒI

Từ lâu, người dân ở phố cổ Hội An (Quảng Nam) đã quen với hình ảnh những du khách từ nhiều nơi trên thế giới đến đây làm việc. Nhiều người trong số họ đã chọn Hội An làm quê hương mình. Họ xin được làm thuê cho các ông chủ người Việt để mưu sinh, và điều quan trọng nhất đối với họ là được sống tại Hội An.

Rành Hội An như trong lòng bàn tay

Cứ vào 9 giờ sáng, Damien cưỡi chiếc xe máy màu đỏ với xấp tờ rơi trên tay, chạy long nhong khắp phố cổ. Chỗ nào có khách sạn mới mở, có du khách là Damien tìm đến. Chỉ mới nhận việc chưa được bao lâu tại hai quán bar King Kong và Sleepy Gecko, nhưng cuốn sổ tay của Damien đã chi chít những số điện thoại, địa chỉ của hàng trăm khách sạn và nhà hàng ở Hội An - những nơi hàng ngày Damien thường lui tới để tiếp thị cho quán bar Sleepy Gecko của một ông Tây lấy vợ Việt mới mở bên bờ sông Hoài.

À Một ngày làm việc của Damien bắt đầu từ 9 giờ sáng và kết thúc lúc 11giờ đêm. Từ 9g-17g, Damien làm tiếp thị cho quán Sleepy Gecko. Còn từ 19g-23g, anh lo âm thanh, ánh sáng kiêm cả chạy bàn, thu tiền tại quán bar King Kong của một ông chủ Việt Nam người Hội An.

Chàng trai 26 tuổi sinh ra và lớn lên ở bang Queensland (Úc) này vốn là một kỹ sư chuyên ngành sửa chữa ôtô, máy móc. Damien kể: “Hơn bốn năm làm nghề, ngày nào cũng vậy, từ sáng đến tối tôi chỉ biết những chiếc máy hư và chiếc xe hỏng. Nhiều lúc tôi nghĩ không lẽ mình cứ cặm cụi suốt đời quanh những chiếc máy như vậy hay sao?”. Nghĩ thế, Damien xin nghỉ việc và khoác ba lô, lên đường sang VN du lịch.

“Tôi định đi thăm VN khoảng một tháng rồi về lại Úc. Vậy mà đến Hội An chỉ mới mấy ngày, tôi đã muốn ở lại luôn. Ở đây tôi thấy cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn”. Công việc tuy thu nhập không cao, chỉ đủ tiền thuê một căn nhà nhỏ ở ngoại ô và ăn uống, nhưng Damien rất thích.

Hội An hút hồn Damien vì thức ăn ở đây rất ngon mà lại rẻ, không khí trong lành, người dân thân thiện. Lúc rảnh Damien nhảy lên xe máy, vẻ ngoài bụi bặm, ra các quán lá bên sông Hoài ăn hến xào, bánh tráng đập dập chấm mắm nêm, chè bắp... Ăn món nào anh cũng khen ngon. Ở Hội An một thời gian, Damien rành Hội An như lòng bàn tay, biết từng ngõ hẻm mà thậm chí nhiều người Hội An chưa biết. Những ngày đầu khi ăn uống hay đi mua hàng Damien còn bị hớ, nhưng nay đã biết trả giá bằng tiếng Việt. Anh kể: “Lúc tôi mới đến Hội An, ghé một quán cơm bình dân gần chợ, bà bán hàng bán cho tôi đĩa cơm với giá gấp đôi những người khác cùng ăn. Tôi im lặng trả tiền rồi đi về. Hôm sau, tôi cũng ghé lại hàng cơm đó, bà bán hàng chỉ lấy giá bằng nửa. Tôi ngạc nhiên. Bà nhìn tôi cười thân thiện và nhờ đứa cháu dịch cho tôi nghe: người quen mà. Vậy đó, ở Hội An chỉ gặp một lần là trở thành người quen thôi. Chính vì vậy mà tôi chọn Hội An để làm việc và sống”.

NHỮNG “ÔNG TÂY” KHÁC

Với vợ chồng người Hà Lan là Marc (36 tuổi) và Fem (27 tuổi), Hội An là nơi khởi đầu cho cuộc sống gia đình của họ. Cả hai chỉ mới quen biết nhau khi cùng đi du lịch VN cuối năm 2003, và cuộc sống êm đềm ở phố cổ Hội An đã kéo cả hai lại gần nhau.

Super League: Tên Tây nên kết quả cũng Tây, Bóng đá, super league, v-league, vpf, vff, bong da viet nam, bong da

Tây đá banh

Marc xin vào làm hướng dẫn viên du lịch cho Công ty TNHH Sơn Mỹ chuyên tổ chức các tour đưa khách đi thăm khu di tích Mỹ Sơn. Yêu cuộc sống hiền hòa ở phố cổ, Fem không về Hà Lan mà chọn Hội An để cùng Marc tạo dựng cuộc sống mới. Đám cưới của Marc và Fem chỉ là một bữa cơm rau trong căn nhà nhỏ trên đường Nhị Trưng.

Căn nhà mà hai vợ chồng Marc thuê để ở được Marc trang trí như một trung tâm điều hành du lịch. Ở đó có cả bản đồ nội thị Hội An với đầy đủ hệ thống nhà hàng, khách sạn và các shops mua bán hàng lưu niệm, có ghi rõ từng mặt hàng mà Marc và vợ đã mất gần ba tháng trời để thu thập và cày cục vẽ nên bằng bút màu. Mức lương của vợ chồng Marc đủ để trang trải tiền thuê nhà và chi tiêu hằng ngày.

“Hội An dễ sống, người dân dễ mến, chúng tôi luôn cảm thấy thoải mái khi đi trên phố, la cà ở các quán cà phê với các bạn trẻ địa phương” - Marc nói. Con trai đầu lòng của Marc có tên Việt là Sơn, “Chúng tôi đặt tên Sơn vì muốn con trai tôi nhớ về Mỹ Sơn”. Cái gia đình nho nhỏ ấy sắp sửa đón thêm một thành viên nữa ra đời, “Nếu là con gái, chúng tôi sẽ đặt tên là Hội An, có thể đó là một cái tên rất Việt: Nguyễn Thị Hội An”.

Với Scott McMillan (30 tuổi, đến từ Anh), Hội An là môi trường khá thuận lợi để anh làm việc. Vốn là bác sĩ thú y, nhưng khi qua VN du lịch, đến ở Hội An một tuần, Scott thích quá nên tìm cách ở lại. Tìm một ngôi nhà nhỏ ở ngoại ô để thuê, Scott đi gõ cửa các nhà hàng, khách sạn để tìm việc và nhận dạy thêm tiếng Anh cho một trung tâm ngoại ngữ ở Đà Nẵng. Ban ngày đi thử việc ở khách sạn tại Hội An, ban đêm Scott chạy xe máy hơn 30km ra Đà Nẵng dạy kèm. Gần bốn tháng làm việc như con thoi giữa Hội An và Đà Nẵng, Scott nói bằng tiếng Việt là “cày bừa”, anh được nhận vào làm quản lý cho Nhà hàng Khách sạn Phố Hội 2. “Hàng ngày tôi tiếp khách, hướng dẫn họ những nơi cần đến, kiểm tra các bàn tiệc, nơi ăn chốn ở của khách. Ban đêm tôi dạy tiếng Anh cho nhân viên của nhà hàng, còn họ thì dạy tôi tiếng Việt” - Scott kể với vẻ thích thú hiện rõ trên nét mặt.

Scott đang ấp ủ nhiều dự định: “Tôi chưa thể nói rõ kế hoạch của tôi cho các bạn biết, nhưng trong một tương lai rất gần tôi sẽ làm một cái gì đó cho tôi ở Hội An, dĩ nhiên là làm du lịch. Ba mẹ tôi ở Anh cũng rất ủng hộ”.

Qua câu chuyện của mình, Scott tiết lộ anh đang yêu một cô gái Hội An: “Chúng tôi sẽ làm đám cưới tại Hội An và sống với nhau ở đây. Tôi chọn Hội An làm quê hương và có thể con cái tôi cũng sẽ lập nghiệp tại đây”. Còn một điều Scott đang phấn đấu: “Phải nói tiếng Việt giỏi và sống hòa đồng hơn để mọi người không gọi tôi là ông Tây nữa. Tôi ghét bị gọi là ông Tây lắm, sao không gọi tôi là... “ông ta”?”.

(Source tu Internet Forum)

http://www.baocalitoday.com/index.php?option=com_content&view=article&id=4695:cac-ong-tay-ti-vit-nam&catid=2:vit-nam&Itemid=50


BÀI VII

Ông Tây bán lẩu dê độc nhất vô nhị ở miền Tây Nam Bộ

Phunutoday.vn - 2 tháng trước 191 lượt xem 3 tin đăng lại

(Phunutoday) - Thời mở cửa hội nhập kinh tế thế giới, những ông Tây bà đầm sang Việt Nam mở công ty, nhà hàng, khách sạn không phải là chuyện hiếm. Nhưng một anh chàng dân Pháp chính hiệu Paris dám từ bỏ kinh đô ánh sáng hoa lệ sang miền Tây Nam bộ quanh năm sóng nước, lụt lội để làm chủ quán lẩu dê - món ăn đặc sắc của người Việt - thì ai cũng nói đúng là “chuyện lạ 100%”.

Từ chuyện tình giữa chàng trai Paris và cô thôn nữ miệt vườn Ô Môn...

Quán lẩu dê Christian Thanh Thúy nằm khiêm tốn trên đường 30-4 - con đường lớn và đẹp nhất Tây Đô (TP. Cần Thơ, thủ phủ miền Tây Nam bộ). Quán cũng bình thường như bao quán lẩu dê khác, nhưng nổi tiếng nhờ giá bình dân và đầu bếp kiêm phục vụ bàn là một ông Tây dân Paris chính gốc.

Chúng tôi vừa bước vào quán đã thấy Christian đon đả chạy ra chào đón khách. Ông Tây nói tiếng Việt rất điệu nghệ, tuy cách phát âm vẫn còn lơ lớ: “Xin mời quý khách, chúng tôi hân hạnh được phục vụ quý khách”. Gọi một nồi lẩu dê, ông Tây niềm nở trả lời: “Xin quý khách chờ vài phút, chúng tôi sẽ phục vụ ngay”, sau đó nhanh tay bày biện chén đũa, ly tách lên bàn rồi chạy vội vào bếp. Cô Thanh Thúy - vợ của Christian - cũng lăng xăng phụ chồng bày biện các món nước chấm lên bàn ăn.

Chỉ một loáng sau, Christian khệ nệ bê đến một chiếc lò than đỏ rực, rồi tiếp tục bưng nồi lẩu dê nghi ngút khói thơm phức đặt lên bếp lò, xong đứng sang một bên cười tươi rói, xoa tay mời khách: “Xin mời quý khách thưởng thức lẩu dê Thanh Thúy - Christian”. Chờ cho chúng tôi dùng vài lượt, Christian nhẹ nhàng hỏi: “Món ăn của nhà hàng chúng tôi có ngon không ạ?”. Khi nghe chúng tôi tấm tắc khen ngon, Christian nở nụ cười mãn nguyện, luôn miệng nói “Cảm ơn, cảm ơn quý khách”.

Mời Christian một ly rượu, anh vui vẻ nâng cốc, mời lại khách đúng điệu dân miền Tây Nam bộ: “Xin mời, vô trăm phần trăm nhé” rồi uống cạn ly, sau đó xin phép đi phục vụ bàn khác, không quên chúc chúng tôi ăn ngon miệng.

Vừa ăn, vừa nhìn ông Tây chính gốc Paris và cô vợ Việt Nam lăng xăng chạy ra, chạy vào phục vụ khách, miệng lúc nào cũng nở nụ cười tươi dù mồ hôi nhễ nhại, chúng tôi không khỏi tò mò vì sao một người đàn ông Paris - vốn nổi tiếng thế giới về tính cách bặt thiệp, hào hoa - lại chịu khó đến Tây Đô cách xa quê hương hàng ngàn cây số chỉ để… mở quán lẩu dê. Nhìn động tác của Christian bưng nồi lẩu đặt lên bếp than đang rực lửa đủ thấy anh rất chuyên nghiệp, cả cung cách phục vụ khách tận tình cũng cho thấy anh không phải mở quán để… giết thời gian.

Chờ cho quán bớt khách và vợ chồng Christian có thời gian rảnh rỗi, chúng tôi mời anh ngồi chơi để tìm lời giải đáp cho thắc mắc của mình. Nghe chúng tôi hỏi, vợ chồng Thanh Thúy - Christian cười rất vui. Anh nói: “Nhiều người cũng thắc mắc như các bạn rồi đó”. Và anh kể cho chúng tôi nghe duyên cớ để anh từ bỏ Paris thơ mộng, xa hoa của nước Pháp để đến Việt Nam, làm chủ quán lẩu dê bình dân. Tất cả bắt đầu từ mối tình sét đánh với cô thôn nữ miệt vườn Thanh Thúy ở đất Ô Môn, Cần Thơ.

Christian nói, ở Paris, gia đình anh thuộc hàng trung lưu, cuộc sống không thiếu thốn. Christian có nhiều anh em, tất cả đều là thầy giáo đi dạy học, nhưng chỉ có một mình anh không theo nghề giáo mà đam mê… nấu các món ăn và đi du lịch. Chính vì vậy mà sau khi học xong trung học, Christian xin vào làm đầu bếp cho một nhà hàng nhỏ ở Paris để kiếm tiền tự sinh sống và dành dụm để mỗi năm vào mùa nghỉ hè, anh có thể một mình đi đến một nước nào đó trên thế giới khám phá cuộc sống, phong tục tập quán của cư dân bản địa.

Ông Tây Christian đang phục vụ món lẩu dê cho thực khách

Trước đây, anh đã đọc nhiều sách báo nói về Việt Nam và rất muốn đi du lịch một chuyến đến đất nước ngày xưa từng là thuộc địa của Pháp, chủ yếu để tìm hiểu vì sao con người Việt Nam có thể tự đứng lên, thoát khỏi ách nô lệ của thực dân. Nhưng mãi cho đến năm 2000, Christian mới có dịp đi du lịch đến Việt Nam.

“Lần đó, tôi đến thành phố Hồ Chí Minh, sau đó đi tham quan nhiều nơi ở Việt Nam, khám phá được rất nhiều điều thú vị. Nhưng khi đến bãi biển Nha Trang gặp được Thanh Thúy, tôi mới quyết định sẽ xin định cư luôn tại Việt Nam”.

Hóa ra, lần đó, đoàn du khách Pháp (trong đó có Christian) đến Nha Trang ở lại hơn một tuần lễ để vui đùa với sóng biển, cát trắng vì bãi biển quá đẹp. Nhưng đến ngày về, chàng trai Christian nhất định ở lại, không chịu theo đoàn. Mọi người ngạc nhiên tìm hiểu thì biết Christian đang bị vẻ đẹp mộc mạc của một cô thôn nữ quê ở huyện Ô Môn, Cần Thơ, cách xa Nha Trang mấy trăm cây số, làm cho xao lòng khiến anh không muốn trở về Pháp quốc. Thanh Thúy cười cười, kể tiếp: “Lần đó, trời xui đất khiến hay sao mà tôi đột ngột đi thăm người thân đang làm quản gia cho một người Pháp ở Nha Trang. Những ngày ở Nha Trang, ngày nào tôi cũng ra biển tắm và một hôm thì Christian đến làm quen với tôi trên bãi biển lộng gió”.

Lúc đầu, cô Thúy ngần ngại, e dè phần vì Christian là người nước ngoài xa lạ, phần vì bất đồng ngôn ngữ, chẳng ai hiểu ai nói gì. Nhưng ông Tây Paris quyết không bỏ cuộc, chạy vạy đến Đại sứ quán Pháp xin gia hạn thêm thời gian ở Việt Nam để tìm mọi cách chinh phục cô thôn nữ xứ Ô Môn. Sau khi có phép, Christian quay trở lại Nha Trang, hằng ngày đều kiên trì đến tìm Thanh Thúy để bày tỏ tình yêu của anh đối với cô và cuối cùng mạnh dạn ngỏ lời cầu hôn Thúy. Thanh Thúy kể, ban đầu, cô tìm mọi cách né tránh ông Tây, thậm chí còn sợ Christian vì chẳng hiểu anh chàng muốn gì.

Nhưng sau đó, qua sự phiên dịch của người thân và những người quen, cô biết Christian đang yêu cô mê mệt. Biết vậy, Thanh Thúy cảm thấy vui vui trong lòng nhưng cũng chưa dám nói gì với Christian. Thế nhưng, ông Tây Christian si tình nhất định không chịu bỏ cuộc, ngày nào cũng đến tìm cô, rồi sau đó lại tặng hoa, tặng quà tới tấp để bày tỏ tình yêu theo đúng kiểu dân Paris.

Cuối cùng cô thôn nữ miệt vườn Ô Môn đã cảm động trước tình yêu chân thành của chàng trai Pháp Christian. Sau nhiều đêm đắn đo suy nghĩ, Thanh Thúy chấp nhận lời cầu hôn của chàng trai xứ Paris, lúc đó cũng có phần thuận lợi là gia đình của cô không ai phản đối cuộc hôn nhân xuyên biên giới này.

Đám cưới của Christian và Thanh Thúy diễn ra đơn sơ, phía họ hàng bên chồng không có mặt ai vì đường sá xa xôi cách trở, nhưng người vợ Việt Nam và họ hàng bên vợ đều quý mến chàng rể người Pháp. Sau ngày cưới, hai vợ chồng Christian quyết định đưa nhau về Cần Thơ quê vợ lập nghiệp.

...đến quán lẩu dê độc nhất vô nhị đất Tây Đô

Về đất Cần Thơ, ông Tây Paris cứ lóng nga lóng ngóng vì không biết làm ruộng, cũng chẳng biết làm vườn, trong khi hai nghề đó là nghề chính của gia đình bên vợ. Không muốn làm kẻ ăn không ngồi rồi, sẵn có cái nghề đầu bếp từ bên Pháp nên Christian bàn với vợ gom góp vốn liếng dành dụm được bấy lâu để mở quán ăn. Nhưng mở quán ăn bán món gì để có thể kiếm sống được thì lúc đó cả hai vợ chồng Christian cũng không biết.

Thanh Thúy nói, suốt nhiều tháng liền, Christian đạp xe hơn 20 cây số từ Ô Môn lên Cần Thơ, chạy lòng vòng khắp thành phố tìm hiểu xem người miền Tây đang thích ăn món gì nhất, cuối cùng phát hiện ra những quán lẩu dê luôn đông khách, bất kể trời nắng hay mưa. Nhưng lúc đó, ở đất Cần Thơ chỉ có vài quán lẩu dê sang trọng, lẩu dê bình dân lại càng ít. Phát hiện được chi tiết độc đáo này, anh đã chịu khó ngày ngày tiếp cận các quán lẩu dê để làm quen, xin học cách nấu lẩu, tìm đọc thêm sách vở để bổ sung kiến thức, tay nghề.

“Trời đất ơi, sau khi học xong nghề nấu lẩu dê, Christian về nhà mua thịt dê, gia vị các loại để… nấu thử, làm cả nhà tôi ăn lẩu dê mệt xỉu để vừa ăn vừa góp ý cho tay nghề của ông đầu bếp. Mãi đến khi tôi và gia đình xác nhận tay nghề nấu lẩu dê của Christian không thua kém quán nào ở đất Tây Đô, lúc đó anh chàng mới cười khà khà mãn nguyện, lên Cần Thơ tìm chỗ thuê nhà, tuyên bố khai trương mở quán bán lẩu dê bình dân với tôn chỉ: ngon, bổ, rẻ” - Thanh Thúy nhớ lại.

Ngày khai trương quán lẩu dê, Christian và Thanh Thúy rất vui, nhưng chỉ vài ngày sau, quán lâm vào cảnh ế ẩm, mỗi ngày chỉ có một, hai bàn. Suốt mấy tháng liền, thực khách quá ít, buôn bán ế ẩm trong khi tiền thuê nhà, tiền thuế má, điện nước vẫn phải trả khiến cô vợ Thanh Thúy đâm nản chí, khuyên Christian dẹp quán để chuyển nghề khác dễ sống hơn. Nghe vợ bàn như vậy, vốn bản tính luôn lạc quan, Christian không chịu mà cương quyết duy trì quán lẩu dê.

Christian nói, quán mới mở nên khách ít là chuyện thường tình, dẹp quán là đầu hàng, phải tìm cách làm cho thực khách biết đến quán lẩu dê của Tây bán ngon, bổ, rẻ thì người ta thấy lạ, độc đáo và sẽ có khách đến ăn thường xuyên.

Suy đi tính lại, Christian quyết định “đột phá” tìm thực khách ở các trường đại học trong thành phố. Thanh Thúy nhớ lại, hồi đó chiều nào cũng vậy, khoảng 5 giờ là Christian lấy xe đạp dạo quanh các trường đại học ở gần quán, khéo léo làm quen và mời chào các thầy cô, sinh viên để giới thiệu về quán lẩu dê của mình. Đi xong một vòng giới thiệu sản phẩm, Christian trở về quán, lao vào bếp chuẩn bị mọi thứ để đón khách.

Ban đầu, các thầy cô giáo và sinh viên thấy một ông Tây đến tận cổng trường mời chào quán lẩu dê của ông, ai cũng ngạc nhiên nên nhiều người tìm đến, chủ yếu để xem rõ thực hư. Đến khi họ xác định lẩu dê ở đây vừa ngon mà giá lại rẻ hơn nhiều quán khác thì chính những thực khách ban đầu này truyền tai cho nhau đến thưởng thức, khiến quán ngày một đông khách.

Quán lẩu dê Thanh Thúy - Christian trên đường 30-4 phường Hưng Lợi, thành phố Cần Thơ

Lúc đó, quán lẩu dê của hai vợ chồng Christian tuy không tấp nập lắm, nhưng lượng khách gây dựng được khá ổn định vì ngoài món chủ đạo là lẩu dê, vợ chồng anh còn làm thêm nhiều món ăn độc đáo theo kiểu Pháp nhưng bán với giá bình dân. Thanh Thúy nói, những ngày đầu, phần lớn khách là giáo viên, sinh viên khoa tiếng Pháp của các trường đại học, họ đến quán vì giá cả bình dân và có cơ hội rất tốt để tranh thủ thực tập ngoại ngữ miễn phí với ông chủ quán có chất giọng Paris chính hiệu.

Tiếng lành đồn xa, quán lẩu dê của vợ chồng Christian ngày càng đông khách và năm 2001, địa chỉ của quán này đã được các bạn anh đưa vào cuốn sách hướng dẫn du lịch Lonely Planet, nhờ vậy mà từ đó nhiều du khách nước ngoài khi đến Cần Thơ cũng nằng nặc đòi hướng dẫn viên du lịch dẫn đến quán lẩu dê của ông Tây Paris để thưởng thức món ăn mà theo nhiều người thì… không có ở nước họ. Christian còn nói rằng, chính nhờ quyển sách này mà quán của anh ngày càng được nhiều người Pháp đi du lịch Việt Nam tìm đến để vừa thưởng thức lẩu dê vừa "ủng hộ" đồng hương, khiến anh cũng phần nào vơi bớt nỗi nhớ quê của người con xa xứ.

Thuyết phục suôn sẻ bà mẹ Pháp thương con

Hỏi chuyện gia đình anh bên Pháp, Christian vui vẻ cho biết lâu lâu anh mới về thăm quê, nhưng mẹ và các em có dịp là bay sang Việt Nam để thăm anh và… thưởng thức món lẩu dê do anh nấu. “Bây giờ thì mọi việc đã ổn định rồi, chứ lúc tôi cưới Thúy và quyết định ở lại Cần Thơ mở quán lẩu dê, mẹ tôi phản đối dữ lắm. Hồi đó, khi quán vừa buôn bán ổn định thì sóng gió lại nổi lên từ trời Tây, tôi và vợ tôi phải làm đủ mọi cách, gia đình tôi bên Pháp mới yên tâm cho tôi ở lại Việt Nam làm chủ quán lẩu dê” - anh chàng chủ quán người Pháp cười hà hà nhớ lại.

Hồi đó, sau hai năm không thấy Christian về Pháp thăm nhà, bà mẹ của Christian nhớ con quá nên thu xếp công việc từ Pháp bay sang thăm con trai, con dâu và cháu nội. Hay tin mẹ sang thăm, Christian vội giao quán lại cho cô vợ Thanh Thúy, đích thân lên tận sân bay Tân Sơn Nhất đón mẹ.

Khi xe về đến chỗ ở cũng là nơi mở quán mưu sinh của vợ chồng Christian, bà mẹ đã không cầm được nước mắt khi thấy nơi ở của con trai và vợ chật chội, nóng bức, ẩm thấp vì lúc ấy hai vợ chồng Christian đang ở trong căn nhà vách tôn, mái tôn, nền gạch trên đường 30-4, phường Hưng Lợi.

Cô vợ Thanh Thúy góp lời: "Cũng may là lúc đó vợ chồng tôi vừa sửa sang lại căn quán, chứ lúc mới thuê, căn nhà này xập xệ lắm. Vậy mà mẹ chồng tôi vẫn không vừa ý. Đưa mẹ chồng ra ở khách sạn nhưng ngày nào bà cũng đến quán ngồi xem vợ chồng tôi buôn bán, chơi đùa với cháu nội. Nhưng những khi vãng khách, ngồi nói chuyện với tôi và Christian, bà không giấu ý định khuyên anh ấy trở về Pháp, vì trong lòng bà rất xót xa và lo âu cho cuộc sống của hai vợ chồng còn quá khó khăn".

Trước quyết định căng thẳng của bà mẹ, Christian không dám cãi lại, nhưng anh chàng cũng không muốn trở về Paris vì đã trót yêu mến thành phố miền sông nước này. Hơn nữa, theo Christian thì trở về Paris, anh lại tiếp tục đi làm thuê, trong khi ở xứ sở này, vợ chồng anh là chủ quán, tự quyết định chuyện kinh doanh của mình. Lúc đó, cô vợ Thanh Thúy cũng không muốn theo chồng về Pháp định cư vì xa quê hương, bản quán.

Vợ chồng Christian nói, tình thế lúc đó thật khó khăn, một bên là thái độ căng thẳng, cương quyết của người mẹ buộc con trai phải hồi hương; một bên là vợ con, cơ sở làm ăn, buôn bán mất rất nhiều thời gian, công sức mới gây dựng được. Bà mẹ của Christian tuyên bố, bà chỉ ở Việt Nam vài ngày, sau đó vợ chồng con cái Christian phải thu xếp đóng cửa quán, mua vé máy bay theo bà về Pháp. Hai vợ chồng ông Tây bàn đi tính lại, cuối cùng quyết định không về Pháp mà tiếp tục bán lẩu dê ở đất Cần Thơ.

Cô vợ Thanh Thúy được giao nhiệm vụ thuyết phục bà mẹ chồng người Pháp khó tính, dù vốn tiếng Tây của cô chưa nhiều lắm. Suy tính mãi, Thanh Thúy quyết định tìm kế hoãn binh. Hằng ngày, cô tới khách sạn đón mẹ chồng, thuê thuyền du lịch đưa bà đi thăm thú các vườn cây ăn trái, đến các điểm du lịch sông nước, đưa bà về thăm gia đình sui gia ở Ô Môn, gặp gỡ và tìm hiểu cuộc sống của người dân miền Tây…

Sự nhiệt tình, hồn nhiên của Thanh Thúy và những cuộc đón tiếp trọng thị của những người nông dân miền Tây chất phác, chân tình đã khiến bà mẹ Christian thay đổi thái độ, quên mất dự định ban đầu là buộc con trai phải dẹp quán, hồi hương. Chỉ sau một tuần lễ, bà mẹ Christian không chịu ở khách sạn sang trọng nữa mà nằng nặc đòi chuyển hành lý từ khách sạn về ở chung trong căn nhà lợp tôn nóng bức của hai vợ chồng Christian.

Bà cũng không nhắc gì đến chuyện chỉ ở Việt Nam một vài ngày mà hôm nào cũng vui vẻ cùng con dâu dạo chơi khắp các miền sông nước hữu tình của miền Tây Nam bộ để khám phá những điều thú vị. Những hôm rảnh rỗi, bà còn hào hứng lao vào bếp phụ con trai và con dâu một tay để… bán lẩu dê, khiến lúc đó quán đông khách hẳn lên vì nhiều thực khách hiếu kỳ đến ăn để được chứng kiến cảnh hai mẹ con ông Tây cùng bán lẩu dê bình dân. Kế hoãn binh của Thanh Thúy công hiệu đến mức thời gian một tháng trôi qua lúc nào, bà mẹ Pháp cũng không hay.

Ngày bịn rịn chia tay vợ chồng Christian để về nước, bà không còn nhắc gì đến ý định bắt buộc con trai dẹp quán lẩu dê, đem vợ con hồi hương, chỉ căn dặn các con ráng giữ gìn sức khỏe, lo làm ăn và… lâu lâu thì nhớ bay về Pháp thăm bà và gia đình, anh chị em. Nếu công việc bận bịu quá thì bà và các anh chị em của Christian sẽ thu xếp bay qua Việt Nam thăm quán lẩu dê và thưởng thức món ăn đặc sắc do chính tay Christian nấu.

Sau nhiều năm bán lẩu dê ở đất Tây Đô, quán của vợ chồng Christian trở thành một “thương hiệu đặc biệt” trong làng lẩu dê, mà dân sành ăn đất Cần Thơ chỉ gọi ngắn gọn là “lẩu dê ông Tây”. Suốt nhiều năm qua, lượng thực khách của quán không tấp nập lắm, nhưng khách thân quen luôn ổn định. Christian nói, lâu nay số khách thân tình nhất của quán vẫn là những sinh viên khoa tiếng Pháp của các trường đại học ở Cần Thơ, các giáo viên và cả cán bộ, công chức Nhà nước. Họ đến quán vì giá cả bình dân là một lẽ, nhưng chủ yếu là ai cũng thích cơ hội thực tập ngoại ngữ với Christian.

Quán Thanh Thúy- Christian bây giờ đã được sửa sang đẹp đẽ, bảng hiệu hoành tráng, có thêm nhiều người giúp việc chứ không còn ọp ẹp như ngày đầu mới khai trương, nhưng giá cả vẫn rẻ hơn các quán lẩu dê trong thành phố, và vợ chồng ông Tây vẫn vui vẻ, nhiệt tình đón chào tất cả thực khách đến quán thưởng thức lẩu dê và các món ăn Pháp.

Mấy năm gần đây, nghe nói ngoài thời gian lo cho quán lẩu dê, Christian còn đi làm thêm cho một công ty du lịch lữ hành. Hỏi chuyện này, Christian cười cười, nói đó là nghề tay trái, còn quán lẩu dê bình dân từ những ngày đầu lập nghiệp ở miền Tây thì nhất quyết không bỏ được.

Hỏi rằng một ông Tây đặc sệt chất Paris thì làm sao có thể nấu lẩu dê ngon, thu hút được thực khách, cạnh tranh ngang ngửa với những quán lẩu dê lâu đời, Christian hào hứng nói: “Quan trọng là phải chú ý đến từng chi tiết của món ăn, không được bỏ qua một loại gia vị cần thiết nào, đặc biệt là phải làm sao để chế biến cùng một món lẩu dê như các quán khác nhưng thực khách ăn xong là phải nhớ đến hương vị đặc biệt của lẩu dê Thanh Thúy – Christian, để lần sau họ còn tìm đến. Đó là bí quyết của một đầu bếp, mà anh quên rằng tôi đã là đầu bếp nhà hàng chính hiệu từ hồi còn ở Paris à?”.

Thường Dân
http://www.baomoi.com/Ong-Tay-ban-lau-de-doc-nhat-vo-nhi-o-mien-Tay-Nam-Bo/137/7457566.epi


BÀI VIII
Ngả mũ thán phục 'ông Tây' hát cải lương
Cập nhật lúc :9:27 AM, 12/04/2011
“Tây” giỏi tiếng Việt thì không hiếm, nhưng một ông Tây mê vọng cổ và có thể hát cải lương Nam bộ rất “nuột” thì quả là có một không hai.

>> Số phận 'buồn' của hai bé gái Nga hát 'Vọng Cổ Việt'

Ông Tây Berna, quốc tịch Đức, là người có niềm đam mê đặc biệt với loại hình nghệ thuật cải lương của Việt Nam.

Berna có khả năng nói được 5 thứ tiếng: Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Đức, và tất nhiên là cả tiếng Việt Nam. Mỗi lần đến thăm Việt Nam, anh đếu không bở lỡ cơ hội ca vài bản nhạc tài tử khi tề tựu cùng bạn bè. Chất giọng Nam bộ chuẩn cùng giọng ca luyến láy đầy biểu cảm của Berna khiến người nghe không khỏi ngả mũ thán phục.

Những đoạn clip ghi lại màn trình diễn cải lương của Berna đã được đăng tải trên mạng Youtube và nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của khán giả (xem clip ở cuối bài).

Anh Berna trong một buổi diễn. Ảnh trích từ clip.

Nhiều người đã không giấu nổi sự kinh ngạc và khâm phục. “Quá hay, một người Việt Nam bình thường cũng không hát được "mùi" như vậy, huống hồ là một ông Tây đúng nghĩa!”, thành viên titaigroup bày tỏ.

Thành viên IClubSod chia sẻ: “Bái phục luôn. Ca thật là hay. Chồng tôi cũng là Tây, anh ấy nói và viết tiếng Việt cũng rất giỏi, nhưng chưa hát cải lương như ông ấy. Điệu này tôi học hát cải lương và chỉ cho chồng tôi tập hát luôn quá. Tôi nghe ông ấy hát mà nghiền quá đi thôi”.

Không ít người tỏ ra tự hào khi văn hóa dân tộc Việt được một người nước ngoài đam mê, đồng thời cũng không khỏi hổ thẹn vì mình là người Việt Nam mà lại không thích cải lương. Thành viên HuynhHoaiAn thổ lộ: “Quá tuyệt vời, tiếng Việt quá chuẩn, hát khá hay. Mình rất mừng vì giá trị văn hóa đang mai một này lại được người Tây tiếp thu, gìn giữ và cảm thấy hổ thẹn vì mình là người Việt lại không thích cải lương”.

“Chúng ta thực sự hổ thẹn vì ông Tây còn hát hay như vậy trong khi chúng ta lại bỏ bê truyền thống của mình như vậy”, nhận xét của thành viên ankhocnhe hẳn sẽ khiến nhiều người phải suy ngẫm.

Qua chuyện một ông Tây hát cải lương, hi vọng di sản văn hóa đặc sắc của đất Nam bộ sẽ được khán giả ngày nay, đặc biệt là giới trẻ quan tâm đến nhiều hơn. Thành viên phflower2 cho rằng: “Người nước ngoài mà họ còn đam mê như thế thì người Việt mình sao lại nỡ quay lưng. Ca cổ, cải lương là di sản của dân tộc và sẽ mãi tồn tại nếu như vẫn còn tình yêu của khán giả, của công chúng”.

Clip "Ông Tây ca cải lương vọng cổ"








No comments: