Friday, March 4, 2016

LÝ CHÍ THỎA * MAO TRẠCH ĐÔNG 2

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 11

Posted: 27/06/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Mao nói về bản thân như một người hoàn hảo nhất. Năm 1970, ông nói với Edgar Snow: “Tôi là hoà thượng đạt san”, dịch theo nghĩa văn chương là “hoà thượng cầm ô”. Nhưng “heshang dasan” chỉ là vế đầu của một câu thơ. Vế thứ hai vô phan vô thiên mới là vế quan trọng, nhưng lại thường không được nhắc đến. Vô phan vô thiên, có nghĩa là không tóc, không Trời, tức là “đội Trời đạp Đất”, để nói về một người bất phục. Vì người nữ phiên dịch của Mao không được học văn học cổ điển, nên đã dịch câu nói của Mao thành “một nhà sư cô đơn lang bạt với chiếc ô thủng”. Edgar Snow và những học giả khác suy ra rằng, Mao tự ví mình như một người độc hành đáng thương. Nhưng thực ra, Mao muốn nói rằng, chính ông là thiên, là Trời tạo lập ra vũ trụ: vô phan vô thiên.

Mao thường nói với tôi:
– Tôi tốt nghiệp Đại học Thảo khấu.
Mao chính là một phiến quân tài giỏi, nổi dậy chống lại chính quyền, kiểm soát tất cả, đoạt được mọi thứ. Điều này không chỉ có giá trị nắm quyền bính cao nhất trong chính trị mà còn ảnh hưởng lớn lao tới những hoạt động thường ngày. Tại Trung Nam Hải sẽ không có gì xảy ra nếu không được ông chuẩn y. Thậm chí ông còn quyết định cả việc vợ ông nên mặc y phục nào.
Đó là sự thật, Mao ít bạn, sống đơn độc, cách biệt với cuộc sống đời thường. Ông dành rất ít thời gian cho vợ và không quan tâm lắm đến con cái. Cho đến tận bây giờ, tôi có thể nói, tôi có ấn tượng không mấy cảm tình ngay buổi gặp gỡ đầu tiên, cảm nhận Mao ít tình người, thiếu nhân hậu và thiếu sự thân thiện một các trung thực. Một lần, tôi ngồi kế bên Mao trong buổi xem biểu diễn nghệ thuật ở Thượng Hải, trong mục đi trên dây, cháu bé biểu diễn trượt chân ngã xuống sàn, bị thương rất nặng. Tất cả khán giả lặng người nghẹt thở, mẹ cháu bé than khóc thảm thiết. Nhưng Mao vẫn thản nhiên tán chuyện và cười vang coi như không có chuyện gì xảy ra. Tôi biết ông không hề hỏi han số phận cháu bé bất hạnh đó.
Tôi không thể hiểu nổi sự nhẫn tâm của Mao. Có lẽ vì đã chứng kiến quá nhiều cảnh tang tóc, nên ông chai sạn với nỗi đau khổ của người khác. Người vợ đầu của ông, Đường Khai Tuệ và cả hai người em ruột của ông đều bị Quốc dân đảng sát hại. Con trai cả của ông cũng đã hy sinh trong cuộc chỉến ở Triều Tiên. Ông cũng đã mất những người con trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh vào giữa những năm 30. Nhưng không bao giờ tôi thấy ông để lộ bất cứ sự xúc động nào vì những mất mát này. Việc ông sống sót trong khi nhiều người khác đã hy sinh càng làm cho ông tin ông sẽ rất thọ. Ông nói, chính những người chết “đã phù hộ cho ông, cho cách mạng”.
Ấy thế Mao không bao giờ thờ ơ với những thông tin. Mặc dù suốt ngày nằm trên giường, không mặc quần áo, đọc sách nhưng thường xuyên được các cộng sự của ông báo cáo bằng văn bản hoặc bằng miệng về những sự kiện xảy ra ở Trung Quốc và thế giới, từ mưu mô lặt vặt ngay xung quanh ông, diễn biến tại những nơi hẻo lánh, vùng sâu vùng xa ở Trung Quốc cho đến những sự việc xảy ra ở những đất nước xa xôi khác.
Mao không ưa hình thức và nghi lễ. Sau khi Mao được bầu làm Chủ tịch nước năm 1949, vụ trưởng Vụ lễ tân Dư Tín Thanh đề nghị ông nên tuân theo lễ nghi quốc tế khi đón tiếp các đại sứ nước ngoài, như mặc âu phục màu sẫm, đi giày da đen. Mao đã nổi giận. Ông nói:
– Chúng ta là người Trung Quốc, có tập quán riêng. Tại sao lại phải theo phong tục tập quán người khác?
Từ đó ông thường mặc bộ đồng phục kiểu Tôn Trung Sơn, đi giày vải. Khi các chính trị gia hàng đầu khác noi gương vị Chủ tịch của họ, tên của bộ đồng phục đã thay đổi và bộ đồng phục màu xám “kiểu Mao” đã trở thành “mốt”. Vụ trưởng Vụ lễ tân, người dám cả gan khuyên Mao tuân theo nghi thứ quốc tế đã bị cách chức. Ông ta đã tự vẫn trong thời kỳ Cách mạng văn hoá.
Mao coi lịch trình công việc hàng ngày, nghi thức và lễ nghi như là phương tiện để kiểm tra chính mình, ông từ chối những quy định của cấp dưới. Ông thường vui chơi quá độ, không ai có thể đoán trước những gì ông sẽ làm tiếp theo. Khi đi dạo, ông thường về nhà bằng đường khác. Ông hay tìm tòi những cái mới, những điều chưa được thử nghiệm không những trong cuộc sống riêng tư, còn cả trong lĩnh vực chính trị.
Ông mê nhất lịch sử Trung Hoa. Ông thường nói:
– Chúng ta phải nghiên cứu về quá khứ để phục vụ hiện tại.
Ông đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần cuốn lịch sử 24 triều đại – một bộ biên niên sử chính thống, từ cổ xưa đến các triều đại gần đây, trong khoảng thời gian từ năm 221 trước công nguyên đến năm 1644 sau công nguyên.
Tuy nhiên, quan điểm lịch sử của Mao khác cơ bản với những người bình thường khác ở Trung Quốc. Lĩnh vực đạo đức không có chỗ trong chính sách của Mao. Tôi hoảng sợ khi được biết, Mao không những tự ví mình với những vị hoàng đế Trung Hoa, còn tỏ ra khâm phục những tên bạo chúa bất nhân nhất trong lịch sử.
Mao đặc biệt khâm phục vua Trụ, một bạo vương trị vì triều đại nhà Thương thế kỷ thứ XI trước công nguyên. Dân tộc Trung Hoa ghê tởm và khiếp sợ trước sự tàn bạo của vị bạo chúa này. Đối với nhà vua, sinh mạng của bầy tôi chỉ là cỏ rác, nhà vua thích bêu xác những nạn nhân bị hành quyết, để cảnh cáo những người nổi loạn chống lại nhà vua. Bể tắm của nhà vua thường đổ đầy rượu thay cho nước lã.
Tuy vậy, Mao cho rằng, sự quá thái của vua Trụ không có nghĩa lý gì so với những việc làm của nhà vua. Vua Trụ đã mở rộng lãnh thổ Trung Hoa, kiểm soát cả một vùng duyên hải từ Bắc tới Nam, đã thống nhất được các bộ tộc quy về một mối, tuy nhà vua đã ra lệnh giết một số vị quan có tài và trung thành. Ví dụ điển hình là quan thượng thư Tỷ Can đã lập được nhiều công trạng, nhưng chỉ vì can ngăn hành động ngang ngược mà bị Trụ Vương xử trảm. Vua Trụ sống rất xa hoa, có hàng nghìn cung tần mỹ nữ, nhưng vua nào mà chẳng thế.
Tần Thuỷ Hoàng, 221-206 trước công nguyên, người lập nên triều đại nhà Tần, vương quốc Trung Hoa thống nhất cách đây gần hai nghìn năm, cũng là người được Mao hâm mộ. Ông thường ví mình với vị hoàng đế này. Giống như Trụ vương, Tần Thuỷ Hoàng cũng bành trướng mở rộng lãnh thổ, đã thống nhất các tiểu vương quốc khác thành một nước Trung Quốc rộng lớn. Ông đã đặt ra đơn vị đo lường và trọng lượng thống nhất, xây dựng hệ thống đường bộ. Nhưng người Trung Hoa khinh bỉ và căm ghét, vì ông đã tàn sát những người theo đạo Khổng và đốt sách. Mặc dù vậy, Mao biện hộ, cho rằng Tần Thuỷ Hoàng làm điều này chỉ để cố gắng thống nhất đất nước và xây dựng đế quốc Trung Hoa không bị ai ngăn cản. Ngoài ra, ông ta chỉ giết 260 người Khổng giáo thì có gì quá thảm khốc? Khi nhận xét về Tần Thuỷ Hoàng, người ta không được cường điệu những điều không quan trọng để rồi quên đi những điểm nổi bật.
Mao cũng rất khâm phục Hoàng hậu Võ Tắc Thiên (627-705), một trong số ít phụ nữ nắm giữ quyền lực ở Trung Quốc cái đích mà sau này Giang Thanh đã cố vươn tới. Khi Mao hỏi tôi nghĩ gì về Võ Tắc Thiên, tôi đã nói thẳng: “Bà ta là người đa nghi, gian giảo và đã giết quá nhiều người”. Mao nói:
– Đúng vậy, nhưng Võ Tắc Thiên cũng là một người cải cách xã hội. Bà ta đã bênh vực quyền lợi của địa chủ nhỏ và trung bình trong việc nộp tô cho giới quý tộc và những dòng họ lớn. Nếu bà ta không đa nghi, không tin vào những tay do thám, làm sao bà phát hiện được những âm mưu của giới thượng lưu và của những gia tộc lớn chống lại bà? Tạì sao bà không ra tay hạ thủ những kẻ âm mưu chống lại mới được cơ chứ?
Đối với vua Tuỳ Dạng Đế (604- 618) cũng vậy. Dưới con mắt của người Trung Quốc, vị hoàng đế này là tên bạo chúa xấu xa nhất. Ông mê gái và nghiện rượu, sống rất xa hoa, đồi truỵ, bắt những cô gái trẻ đẹp phải kéo con thuyền du ngoạn của ông ngược dòng bằng những sợi dây lụa. Biết bao người đã chết trong khi đào và xây tất cả kênh trong nước theo lệnh của nhà vua. Nhưng Mao lại liệt ông vào hàng những kẻ cai trị giỏi nhất. Tất cả các con sông ở Trung Quốc đều chảy từ Tây sang Đông, nhưng nhờ những dòng kênh đào của nhà vua đã nối miền Bắc với miền Nam. Vì vậy, theo Mao vua Tuỳ Dạng Đế cũng là người vĩ đại hiếm có.
Mao quan tâm đến lịch sử Trung Quốc hơn cả. Nhưng ông cũng đã đọc nhiều sách nói về một số nhân vật lịch sử phương Tây. Trước hết, ông đánh giá cao Napoleon. Theo Mao, sử dụng lực lượng pháo binh mạnh, Napoleon đã làm một cuộc cách mạng về chiến lược quân sự. Ngoài ra, vị tướng Pháp này đã ứng dụng khoa học vào chính sách mở mang đất nước. Ông không chỉ đưa quân đến Ai Cập, còn đưa cả các học giả, nhà khoa học đến đó để nghiên cứu nguồn gốc của nền văn minh phương Tây. Mao cũng muốn tổ chức một chuyến đi nghiên cứu như vậy trên đất nước Trung Hoa. Năm 1964 ông đã dự định thực hiện chuyến thám hiểm khoa học tìm hiểu về cội nguồn sông Hoàng Hà thuộc tỉnh Thanh Hải xa xôi. Sông Hoàng Hà đã từ lâu gắn chặt với cái nôi của nền văn hoá Trung Hoa khiến Mao có ý định lần về quá khứ của nền văn hoá này và cả nguồn gốc của nó nữa.
Uông Đông Hưng được giao nhiệm vụ tập hợp và điều hành một nhóm những nhà sử học, trắc địa, địa chất và những chuyên viên thuỷ học và năng lượng học. Uông đã kiếm được những con ngựa vùng Nội Mông cũng như quân trang, quân dụng. Tôi và Mao cùng nhau tập cưỡi ngựa. Ngày 10-8-1964 chuyến đi bị hoãn lại, năm ngày trước Mao nhận được tin Mỹ định đổ thêm quân vào Việt Nam hòng làm chủ tình thế chiến trường. Ông quyết định bí mật đưa ra chiến trường những người lính Trung Quốc được cải trang bằng những bộ quân phục Việt Nam, để hỗ trợ cho đồng minh của ông đánh Mỹ.
Về chính bản thân ông, quan điểm lịch sử của Mao cũng có nhiều điểm không đúng. Những tài liệu về quá khứ của đất nước Trung Hoa đã giúp ông nắm được, điều hành được hiện tại và ông kết hợp điều đó với chính sách đối ngoại. Tôi biết, những mưu mô trong các triều đại vua chúa tác động đến tư tưởng của ông mạnh hơn cả chủ nghĩa Marx-Lenin. Dĩ nhiên, Mao vẫn là một người cách mạng. Mục đích của ông là thành lập nước Trung Quốc, mang lại sức mạnh và cuộc sống tốt đẹp cho nhân dân. Thế nhưng ông lại học từ quá khứ để lãnh đạo, dùng những con bài đầy thâm hiểm để đạt được quyền lực tối cao.
Nhưng lịch sử cổ đại Trung Hoa không đóng góp được gì to lớn trong tư tường chuyển giao của Mao. Mao cho rằng nền văn minh Trung Hoa đã lụi tàn, trì trệ, mục tiêu của ông là thúc đẩy, đổi mới nền văn hoá đó bằng cách học hỏi tiếp thu tư tưởng mới lạ của nước ngoài vận dụng với điều kiện và tình hình thực tế của Trung Quốc. Ông thường nói, kết quả sẽ “không mang tính chất của Trung Quốc, cũng không mang tính ngoại lai, chẳng phải là lừa, cũng chẳng phải là ngựa, mà là con la”.
Mao cho rằng chủ nghĩa xã hội giúp ông khơi dậy tiềm năng sáng tạo của dân tộc Trung Hoa, đưa đất nước Trung Quốc trở lại thời hoàng kim trước đây. Ông cần sự ủng hộ cần thiết của Liên Xô, vì đó là một mẫu nhà nước xã hội chủ nghĩa hết sức quan trọng đối với Trung Quốc. Ngay từ khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Mao đã tâm niệm, Trung Quốc phải đi theo một hướng riêng. Liên Xô là một tấm gương đối với ban lãnh đạo mới của Trung Quốc. Nhưng khi Mao nói về chủ nghĩa xã hội, ông thường đề cập đến một chủ nghĩa xã hội mang tính chất đặc thù của Trung Quốc, một chủ nghĩa xã hội làm cho đất nước Trung Quốc hạnh phúc và phồn quang. Ông thường nói, việc nhập cảng ồ ạt tư tưởng và hàng hoá của nước ngoài mà không có sáng tạo của mình thật đáng lên án. Ông không bao giờ có ý định tiếp thu mô hình xô viết mà không có phê phán và bổ xung.
Ngay hôm đầu chúng tôi quen nhau, ông đã tỏ ra rất khâm phục công nghệ, sự năng động và nền khoa học kỹ thuật của Mỹ và phương Tây. Với quan điểm phát triển theo một hướng riêng, nhờ có kiến thức và không cường điệu, ông không coi Liên Xô, một tấm gương sáng duy nhất đối với việc xây dựng lại đất nước Trung Quốc.
Mao có một cách nhìn đặc biệt về vai trò của riêng ông trong lịch sử. Ông không nghi ngờ vai trò của mình, người lãnh đạo vĩ đại nhất, kẻ trị vì vĩ đại nhất trong tất cả những kẻ trị vì, người đã thống nhất đất nước Trung Quốc và muốn đưa đất nước này trở lại thành cường quốc như trước đây. Với tôi, Mao không bao giờ dùng chữ “hiện đại hoá”. Ông không phải là người hiện đại. Thay vì điều này, ông nói về việc làm cho đất nước phồn vinh và lấy lại được tầm vóc trước đây của nó. Là một kẻ nổi loạn, một kẻ bài trừ sùng bái cá nhân, ông mong muốn đưa Trung Hoa trở thành nước vĩ đại, nhưng ông lại muốn dựng lên Vạn lý trường thành của riêng ông. Sự vĩ đại của bản thân ông và nhân dân Trung Quốc đan xen vào với nhau. Cả đất nước Trung Quốc là của Mao và ông có thể thử nghiệm tuỳ thích. Mao là Trung Quốc và ông nghi ngờ bất cứ ai tỏ ý muốn bàn về vị trí của ông hoặc không chia xẻ quan điểm với ông. Ông đã loại những đối thủ của ông một cách không thương xót. Đối với ông, sinh mạng của những người dưới quyền hoàn toàn vô nghĩa.
Lúc đầu, tôi khó tin, Mao lại sẵn sàng hy sinh những công dân của nước ta đề đạt được mục đích riêng. Từ khi Mao gặp thủ tướng Ấn Độ, Jawaharlan Nehru, vào tháng 10-1954, tôi mới biết rằng Mao đã so sánh những quả bom nguyên tử chỉ là “con hổ giấy” và không ngần ngại sẵn sàng hy sinh hàng trìệu người Trung Quốc để chiến thắng chống “cái gọi là chủ nghĩa đế quốc”. Ông quả quyết với Nehru: “Đừng có sợ bom nguyên tử. Trung Quốc rất đông dân, chúng không thể thả bom nguyên tử xoá sổ tất cả chúng tôi được. Kẻ nào dám ném bom nguyên tử, thì tôi cũng có thể làm được điều đó. Dù phải hy sinh 10 hay 20 triệu nhân dân, tôi đâu có sợ”. Nghe đến đó, ông Nehru phát hoảng.
Trong bài diễn văn đọc ở Moscow năm 1957, Mao tuyên bố, ông sẵn sàng hy sinh 300 triệu dân Trung Quốc, một nửa dân số Trung Quốc. Ngay khi Trung Quốc có mất đi nửa số dân, đó cũng chưa phải là tốn thất lớn lao, vì đất nước này vẫn có thể sản sinh ra nhiều người nữa.
Riêng trong thời kỳ Đại nhảy vọt, đã có hàng trìệu người Trung Quốc chết đói, làm cho tôi thấy, Mao hệt như những tên bạo chúa mà ông vốn khâm phục. Ông thừa biết nhiều người đã chết ra sao, nhưng ông không hề mảy may động lòng.
Từ cuộc nói chuyện đầu tiên giữa chúng tôi về lịch sử Trung Quốc, tôi đã có thể rút ra những bài học cho bản thân. Quan điểm lịch sử của Mao rất bổ ích đối với tôi. Ông là trung tâm để vạn vật quay quanh. Mao phải nắm quyền lực tối cao.
Sự trung thành là yêu cầu cao nhất hơn cả về nguyên tắc. Ông đòi hỏi ở những người dưới quyền ông, vợ ông, bạn gái của ông, các cộng sự và nhưng người phục vụ ông, cũng như những người lãnh dạo chính trị ông đã chia xẻ quyền lực với họ là sự trung thành tuyệt đối và trọn vẹn dành cho ông.
Sự trung thành này dựa vào sự tin cậy ít hơn vào sự lệ thuộc. Vì Mao không có khả năng mang lại những tình cảm khác, nên ông cũng không thể trông chờ người ta dành cho ông mối thiện cảm. Trong tất cả những năm làm bác sĩ riêng của Mao, tôi thường chứng kiến việc Mao củng cố lòng trung thành của người khác cũng như của tôi đối với ông như thế nào.
Với vẻ dễ mến, ông đã chiếm được lòng tin của người khác, làm cho họ thú nhận những khuyết điểm, như Vương Gấu Lớn đã tự thú âm mưu giết Mao và Hứa Thế Hữu đã từng trung thành với Tưởng Giới Thạch và tôi cũng đã kể lại quá khứ của gia đình tôi. Mao đã bỏ qua lỗi lầm, cứu giúp và làm cho họ yên tâm. Bằng cách này, ông đã thâu nạp được những cộng sự trung thành nhờ sự bao dung bên ngoài của ông.
Bất cứ những ai trung thành với Mao, đều bị lệ thuộc vào ông, càng lệ thuộc, họ càng khó thoát khỏi sự khống chế. Không một ai ở Trung Quốc dám ủng hộ một người nào đó đã không trung thành với Chủ tịch. Chỉ một số ít không thật sự trung thành mới muốn thoát ra khỏi sự khống chế, nhưng ai không trung thành đều bị loại trừ. Không một ai ở Trung Quốc này dám bao che, ủng hộ kẻ chống lại Mao chủ tịch.
Một số người trung thành tuyệt đối, vì Mao đã cứu hoặc làm cho họ yên tâm, hoặc họ coi ông là vị cứu tinh của đất nước Trung Hoa. Bên cạnh đó nhiều người là kẻ xu nịnh. Mao cũng thích được xu nịnh, ngay cả khi ông thừa biết họ giả dối, vì ông hiểu, thời gian sẽ phân loại được những kẻ nịnh thần với những người thực sự trung thành. Rút cuộc, những kẻ nịnh bợ sẽ bị phế truất, nếu họ không còn tác dụng nữa.
Phương châm của Mao: “Phục vụ nhân dân” và khắp đất nước Trung Quốc, đâu đâu lời hiệu triệu này cũng được quảng cáo bằng chữ trắng viết trên nền đỏ với bút tích của Mao. Đằng sau cánh cổng Tân Hoa (nước Trung Hoa mới) lối vào khu vực Trung Nam Hải ở phía Nam, có một tấm biển mang dòng chữ vàng cấm thường dân Trung Quốc ngó nghiêng vào bên trong khu Cấm Thành hiện đại, nơi những ngươi lãnh đạo cao cấp nhất của Trung Quốc sống và làm việc. Trong những buổi họp nghiên cứu chính trị định kỳ ở Trung Nam Hải, chúng tôi thường được nhắc nhở, phải phục vụ nhân dân và đảng thay vì phục vụ cá nhân mình. Lời hiệu triệu này luôn cổ vũ tôi, một trong những lý do khiến tôi cần phải gia nhập đảng cộng sản.
Nhưng sau khi bắt tay vào công việc ít lâu, tôi nhận thấy, Mao là trung tâm để vạn vật quay quanh, là một cái mỏ kim loại quí hiếm và cần được bảo vệ, được bợ đỡ và được nịnh hót. Mọi việc đều được làm vì Mao. Ông không bao giờ phải nhúng tay, không bao giờ tự xỏ tất đi giày, tự mặc quần áo hay tự chải đầu. Khi tôi lưu ý với Uông Đông Hưng, mọi việc hoạt động của Nhóm Một nhằm vào việc phục vụ Mao, chứ không phải “phục vụ nhân dân”, ông ta nói “phục vụ nhân dân” chỉ là một khái niệm trừu tượng. Uông giải thích:
– Chúng ta phải phục vụ một cá nhân cụ thể. Phục vụ Mao chủ tịch có nghĩa là chúng ta phục vụ nhân dân, không đúng sao? Đảng đã tin tưởng giao công việc cho đồng chí chủ tịch, tức là đồng chí ấy đã làm việc cho đảng hay không phải như vậy?
Thật non dại và thơ ngây làm sao khi tôi đã tin vào lời nói của Uông Đông Hưng là đúng.
Thế rồi sau này tôi đã hiểu rằng, ông hệt như các vị hoàng đế thời xưa đã ruồng bỏ không thương tiếc những thuộc hạ của mình, khi những người này không hoàn toàn đồng ý với sự nghĩ của các vị hoàng đế, Mao cũng có thể phế truất tất cả những cố vấn và cộng sự, nếu họ không hoàn toàn nhất trí với ông. Lúc đầu, người ta đã không trừng phạt các quan chức cao cấp vì đôi khi họ có những ý kiến khác với Mao. Nhưng Mao vẫn để bụng và một khi ông biết được ai đó dưới quyền không trung thành, đến khi thời gian chín muồi, ông có thể đánh gục cả những chiến sĩ cách mạng lão thành không hề đắn đo. Những người như Chu Ân Lai có vẻ biết được điều đó và hoàn toàn tuân phục Mao. Một số khác như Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu không thế, nên họ phải rút lui. Khi một người lãnh đạo cao cấp có tư duy độc lập, ông ta sẽ bị loại.
Một khi Mao nghi ngờ những ai trong ban tham mưu có quan hệ mật thiết với những quan chức cao cấp quan trọng khác, như Chu Ân Lai, Lâm Bưu hoặc Lưu Thiếu Kỳ, ông sẽ phế truất ngay. Mao cảnh cáo tôi: “Mọi tai hoạ đều do cái miệng”. Tôi biết số phận của tôi phụ thuộc vào sự nín lặng của chính mình. Trong khi xảy ra những trào lưu chính trị làm xáo trộn cả đất nước Trung Hoa trong hai thập kỷ liền, tôi đã ghi lòng tạc dạ lời giáo huấn của Mao chủ tịch và chỉ giới hạn mình trong việc chăm sóc sức khỏe cho ông, vì tôi là bác sĩ riêng của Mao. Ngay cả khi biết được tính tàn nhẫn của ông, tôi đã nín lặng, để khỏi mang vạ vào thân và chỉ nói khi Mao muốn. Mặc dù vậy tôi vẫn kính trọng ông. Ông là ngôi sao chỉ đường, vị cứu tinh, đỉnh núi cao nhất, là vị lãnh tụ tối cao của đất nước Trung Hoa. Với tôi, Trung Quốc là một đại gia đình duy nhất và gia đình này cần có người đứng đầu, đó là Mao chủ tịch, vị tộc trưởng. Tôi nguyện phục vụ ông, thông qua ông cũng là phục vụ cho nhân dân Trung Hoa.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa


Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 12

Posted: 29/06/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Chỉ khi cùng vi hành với Mao, tôi mới biết người ta đã sửa soạn cho những chuyến đi của ông như thế nào. Sự an toàn và sức khỏe được đặt lên hàng đầu, đồng thời ông phải cảm thấy thoải mái và hứng thú cũng là điều rất quan trọng không kém. Tôi biết Mao được bảo vệ rất cẩn mật bằng các biện pháp an ninh đa dạng, nhưng những biện pháp đó ở Trung Nam Hải dần dần trở nên quá nhàm, đến nỗi hầu như tôi không để ý đến nữa. Chỉ trong các chuyến đi công du, các biện pháp bảo vệ đặc biệt đó mới lại bộc lộ.

Mao thường hay đi đây đó, ít khi sống một thời gian dài ở Bắc Kinh. Tại “thủ phủ ở phía Bắc này”, ông cảm thấy như không phải nơi ở của mình. Ông thích về miền nam hơn, nơi chôn nhau cắt rốn, thích lưu lại những thành phố như Quảng Châu, Hàng Châu, Thượng Hải và Vũ Hán. Ông thường ở lại những nơi đó hàng tháng trời và miễn cưỡng trở về Bắc Kinh vào các ngày lễ 1-5 hay ngày Quốc khánh, hoặc để tiếp khách nước ngoài. Khi đi công lý, Mao cũng có những sở thích riêng. Nếu ông quyết định đi Hàng Châu vào buổi sáng, thường thường chúng tôi phải lên đường vào chiều hôm trước. Ngay những người tháp tùng cũng không được thông báo chính xác nơi đến của cuộc hành trình, dù kế hoạch đã định từ lâu nhưng người ta chỉ báo cho chúng tôi từ chiều hôm trước, vì lực lượng an ninh sợ chuyến đi có thể bị tiết lộ. Bởi vậy, rất ít khi chúng tôi có quá một hay hai ngày để chuẩn bị.
Mao thường công du bằng một đoàn tàu hoả của riêng, có mười một toa khang trang, lịch sự. Đoàn tàu để trong một khu nhà đặc biệt, cách xa ga chính của thành phố Bắc Kỉnh. Mao và Giang Thanh có toa riêng, mặc dù Giang Thanh chỉ một lần duy nhất cùng đi với chúng tôi. Toa thứ ba của đoàn tàu được dùng làm phòng ăn và nhà bếp. Trong toa sang trọng của Mao có một chiếc giường gỗ đồ sộ, một giá sách lớn chiếm mất khá nhiều chỗ.
Bốn toa ngủ có giường tầng được dành cho đám vệ sĩ, vốn là nhân viên an ninh của cơ quan trung ương, cho nhân viên trên tàu và ban tham mưu của Mao gồm thợ chụp ảnh, phục vụ và đầu bếp. Tất cả họ dùng một toa ăn riêng. Một toa khác chứa dụng cụ y tế dành cho trường hợp cấp cứu và có thêm một toa dự phòng nữa.
Thứ duy nhất mà đoàn tàu còn thiếu là máy điều hoà nhiệt độ, đến nỗi vào mùa hè trong tàu nóng như thiêu như đốt. Tuy nhiên, vào đầu những năm 60 Mao đã nhận được một đoàn tàu mới của Đông Đức tặng. Đoàn tàu được trang bị đầy đủ tiện nghi với hệ thống chiếu sáng gián tiếp, với những máy móc hiện đại nhất và tất nhiên còn có cả hệ thống điều hoà nhiệt độ. Uông Đông Hưng, Lâm Khắc, thư ký riêng của Mao và tôi có một toa riêng có buồng ở. Trong những căn buồng rộng, rất tiện lợi được kèm thêm một chiếc bàn và một chiếc giường, trong buồng tắm có hệ thống nước nóng.
Những biện pháp an ninh trên đường cũng rất khác thường. Khi đoàn tàu chạy, tất cả các hoạt động giao thông trên tuyến đường sắt đó đều bị đình trệ, làm đảo lộn cả các lịch trình giao thông trong suốt một tuần lễ cho đến khi mọi việc trở lại bình thường. Những nhà ga thường đông hành khách và người bán hàng rong bị nhân viên an ninh trấn dẹp. Thật rờn rợn khi vào những sân ga vắng ngắt, trên những thềm xe lửa đậu chỉ thấy lính canh. Khi một cộng sự khác và tôi cho Uông Đông Hưng biết thiếu người bán hàng rong, ông ta liền cho một vài nhân viên an ninh đóng giả người bán hàng rong, làm cho quang cảnh có vẻ tự nhiên hơn.
Tỉnh nào đoàn tàu của Mao đi qua, tỉnh đó phải chịu trách nhiệm bảo vệ an ninh, phải chuẩn bị sẵn một người lái tầu và một đầu tàu. Ngoài ra, cùng với những nhân viên an ninh của Bắc Kinh ngồi trong tàu và có mặt ở những điểm dừng, còn có một vài trăm lính do các Ban an ninh của các tỉnh bố trí trên suốt chặng đường, cứ năm chục mét có một người gác. Có lần tôi nói chuyện với trưởng Ban an ninh của địa phương nằm trên tuyến đường sắt giữa Bắc Kinh và Mãn Châu Lý, một thành phố ở biên giới giữa vùng Mãn Châu và Liên Xô, người có nhiệm vụ canh gác khi Mao từ Moscow trở về vào năm 1950. Giữa mùa đông tháng giá, trong suốt hai tuần lễ, những người lính đã bảo vệ tuyến đường sắt dài hàng trăm cây số này phải có mặt thường trực từng giờ từng phút. Cũng trong suốt hai tuần lễ, người nói chuyện với tôi đã phải chui rúc trong một đường hào trên tuyến đường sắt đó để đợi tàu. Mọi người đều biết, trong đoàn tàu có một số quan chức cao cấp, nhưng mãi về sau người ta mới biết chính là Mao.
Mao đi chẳng theo lịch trình nào, bởi vì tàu chỉ chuyển bánh khi Chủ tịch thức, chừng nào ông còn ngủ đoàn tàu còn đứng yên. Bởi vậy, chằng thể biết khi nào tàu chạy, hệt như giấc ngủ của Mao vậy. Khi ông ngủ, đoàn tàu dừng lại tại ga phụ của một sân bay quân sự, hay một ga để dồn toa hoặc tại ga phụ của một nhà máy đã được dọn dẹp trước khi ông đến. Như thế cũng là để dễ bảo vệ Mao hơn.
Đôi khi Mao lại đi máy bay. Tôi đi bằng máy bay cùng với ông lần đầu vào mùa hè năm 1956. Sau đó ông giành mùa đông để viết cuốn sách “Chủ nghĩa xã hội nở rộ trên đồng quê Trung Hoa”. Ông đã đến thăm Hàng Châu và Thượng Hải, tìm cách đẩy mạnh kế hoạch tập thể hoá nông nghiệp cấp tốc của ông. Vì thế ông muốn đi đến đó bằng máy bay, chủ yếu để thu thập kinh nghiệm như ông đã nói. Trước đó Mao mới đi máy bay một lần. Tháng 8-1945, một chiếc máy bay của Mỹ đã chở ông cùng với đại sứ Mỹ, Patrick Hurley, từ Diên An đến Trùng Khánh, nơi ông tham dự cuộc đàm phán gian nan giữa những người cộng sản và những người quốc gia, nhằm ngăn ngừa cuộc nội chiến bùng nổ.



Tất cả những người có trách nhiệm đều lưu tâm đến việc bảo vệ an ninh cho Mao trong chuyến bay. Những biện pháp an ninh đặc biệt tỉ mỉ được thực hiện. La Thuỵ Khanh, bộ trưởng công an đã làm việc trực tiếp với tư lệnh không quân, tướng Lưu Nha Lâu để bay thử và trang bị thêm cho chiếc máy bay kiểu Li-2 của Liên Xô, trở thành chiếc máy bay an toàn nhất.
Buổi sáng, tướng Lưu Mao và cấp phó của ông cùng đi với chúng tôi đến sân bay quân sự Tây Uyển nằm rìa phía tây thành phố, cách không xa Cung điện Mùa hè. Trong khi có chuyến bay, giao thông đường không trên toàn đất nước Trung Quốc bị đình chỉ và những tốp máy bay chiến đấu kiểm soát toàn bộ không phận. La Thuỵ Khanh, Dương Thượng Côn, Uông Đông Hưng và một loạt bí thư, thư ký, nhân viên an ninh và cần vụ đã bay trước trên một chiếc máy bay khác của Liên Xô, Il-14. Cả hai người lái xe, người đầu bếp, thợ chụp ảnh, hai “chuyên gia về thực phẩm” và những nhân viên an ninh bay trên hai máy bay khác. Những thành viên khác của ban tham mưu tổng cộng 200 người, đi cùng với xe của Mao – một loại xe limousine ZiC sang trọng của Liên Xô, vỏ bọc thép chống đạn được sản xuất riêng cho ông, đã được một đoàn tàu đặc biệt đưa đến trước. Chiếc xe này chở Mao từ sân bay về biệt thự ở Quảng Châu. Đoàn tàu được để trong một gian phòng lớn tại sân bay Bạch Vân đề phòng trong trường hợp Mao muốn tiếp tục cuộc hành trình bằng tàu hoả.
Máy bay của Mao nhỏ, chỉ có một cánh quạt. 24 ghế ngồi đã được gỡ bỏ và toàn bộ bên trong khoang được bố trí lại. Trong phần phía trước của máy bay, người ta lắp một chiếc giường, một chiếc bàn nhỏ và hai chiếc ghế cho Chủ tịch. Còn phía sau có bốn chiếc ghế dành cho những người tháp tùng, gồm hai vệ sĩ, một thư ký riêng và tôi.
Phi công chính là viên tư lệnh không quân, đại tá Hồ Bình. Khi chúng tôi lên máy bay, Mao chào tư lệnh Hồ:
– Trong chuyến bay này tôi đã làm phiền đồng chí – Ông tỏ ra ôn tồn để đại tá Hồ yên tâm.
– Thật là một vinh dự lớn lao, thật hạnh phúc đối với tôi khi được phép bay cùng với Chủ tịch – Hồ Bình trả lời.
Tôi nhận thấy ngay, giữa những lời nịnh hót được Mao chấp nhận và sự thăng quan tiến chức mau chóng của kẻ xu nịnh có một sự liên quan trực tiếp. Trong khi diễn ra cuộc Cách mạng văn hoá, Hồ Bình đã được thăng cấp tướng và làm Tổng tham mưu trưởng không quân. Tuy vậy, năm 1971, ông bị tống giam vì đã dính líu vào âm mưu tạo phản của Lâm Bưu. Thế là tất cả những công trạng phục vụ Chủ tịch của ông đều bị xoá sạch.
Chuyến bay được chia thành hai chặng. Trong khi bay, chúng tôi học tiếng Anh. Đến gần trưa đáp xuống Vũ Hán, được các quan chức địa phương đón tiếp, trong đó có bí thư thứ nhất tỉnh uỷ Vương Nhậm Trọng và cán bộ lãnh đạo đảng của tỉnh Vũ Hán là Lưu Khắc Nông, người đã tổ chức bữa đại tiệc đón chúng tôi trong một nhà khách tráng lệ, trước kia là biệt thự của Tưởng Giới Thạch. Toà biệt thự này nằm trong vùng nghỉ mát đẹp như tranh bao quanh một cái hồ ở phía Đông, đối diện với trường Đại học Vũ Hán. Những người phục vụ vui vẻ và ân cần. Họ được đào tạo trong các khách sạn của Anh và Pháp, mà trước năm 1949 chúng là một nét đặc sắc của Vũ Hán. Giống cá chép bạc của Ô Giang, một món ăn tuyệt ngon mà Mao rất ưa thích.
Trong chuyến đi, đâu đâu tôi cũng có dịp chứng kiến việc Mao được xu nịnh thế nào. Trong việc này, Vương Nhậm Trọng tỏ ra khá xuất sắc. Ông ta khẳng định:
– Người ta không thể đơn giản so sánh Stalin với Chủ tịch. Stalin đã giết quá nhiều người. Ngược lại, đảng ta không chỉ khoan hồng kẻ đối lập với đảng như Vương Minh, thậm chí đảng còn cố gắng lôi kéo ông ta vào một khối đoàn kết.
Mao vui vẻ đáp lại:
– Tất nhiên, chúng ta phải phân biệt giữa mâu thuẫn nội bộ và mâu thuẫn đối kháng. Đề giải quyết những mâu thuẫn trong dân chúng, chúng ta không được phép bắt hoặc thủ tiêu một cách tuỳ tiện như thế được.
Vương nói:
– Nhưng điều đó chỉ có thể thực hiện được dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch.
Và tôi có cảm tưởng, lời tâng bốc của ông đã được tính toán kỹ. Cho đến khi nổ ra cuộc Cách mạng văn hoá, ngôi sao chính trị của Vương không ngừng lên cao. Khi cuộc Cách mạng bắt đầu, ông trở thành một trong những phó chỉ huy của Cách mạng và ông bị thất sủng sau khi ông xúc phạm đến Giang Thanh, sau khi công khai diễn thuyết mà chưa được sự đồng ý.
Gần 6 giờ tối, chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Bạch Vân ở thành phố Quảng Châu. Tại đây đã diễn ra cuộc đón tiếp không kém phần xúc động. Bí thư thứ nhất tỉnh uỷ tỉnh Quảng Đông, Đào Chú, đã đến và người lãnh đạo chính quyền của tỉnh Trần Dư cũng có mặt. Trong khi xe chạy, tôi nhìn lướt qua cửa kính xe limousine, lần đầu tiên xem quanh cảnh thành phố Quảng Châu. Tôi sửng sốt về sự bẩn thỉu và sự ồn ào ở đó. Rác rưởi tràn ngập khắp nơi, nước cống chảy lênh láng trên đường phố. Sự ồn ào xô bồ hỗn tạp bởi những bài hát tiếng Quảng Đông hoà với tiếng guốc gỗ gõ lọc cọc trên vỉa hè.
Chuyến vi hành của Mao tại Quảng Châu được giữ tuyệt mật. Các thành viên tham mưu thuộc Nhóm Một hoàn toàn bị cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài. Chúng tôi không những không được phép rời khỏi vị trí, còn không được gọi điện thoại, không được tiếp khách hay nhận thư từ. Thư của chúng tôi viết về nhà được một người đưa thư đặc biệt chuyển đi. Mấy ngày trước khi lên đường, Uông Đông Hưng phái chúng tôi đi thị sát. Chuyến đi này do những nhân viên Ban an ninh tỉnh Quảng Đông chỉ đạo.
Vấn đề đảm bảo an toàn cho Mao được đặt lên hàng đầu, sau đó mới là làm sao để ông thật thoải mái.
Sau khi giải phóng Bắc Kinh ít lâu, đã trở thành lệ, người ta tịch thu những biệt thự trước đây hoặc xây mới những biệt thự khác cho giới lãnh đạo cao cấp nhất của đảng. Lúc đó, Dương Thượng Côn và Văn phòng trung ương đã cho xây trên đồi Ngọc Thạch Xuân gần Đồi Hương năm biệt thự cho năm nhân vật lãnh đạo cao nhất gồm Mao, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức và Nhậm Bích Thế. Theo lời của cả hai vệ sĩ không biết bơi của Mao là La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng, người ta đã xây một bể bơi cho Mao. Bởi vì đối với họ, sự an toàn của Mao trên hết, nên họ đã quyết định chiều dài của bể bơi chỉ bằng hai lần chiều dài của bồn tắm và nước chỉ sâu đến đầu gối.
Mao nổi giận lôi đình về cái bể bơi vô tích sự, như thứ đồ chơi trẻ con. Cơn thịnh nộ của ông càng bùng lên dữ dội khi đúng dịp phiên họp Bộ chính trị, ông Bành Đức Hoài vốn cứng rắn, đã phản đối Mao xài tiền của nhà nước để hưởng thụ cá nhân. Mao đã bồi hoàn cho nhà nước những chi phí xây bể bơi, nhưng ông không bao giờ đến biệt thự này.
Những biệt thự và bể bơi ở Bắc Đới Hà cũng được xung công hoặc được xây mới. Vào năm 1950, Dương Thượng Côn đã tịch thu những ngôi nhà ở đó, phân cho tất cả các chính trị gia cao cấp mỗi người một biệt thự. Người ta đã xây cho Mao một nhà mới đặc biệt, được gọi khu nhà 8.
Sau đó, biệt thự bắt đầu được xây ở các tỉnh và các vị lãnh đạo tỉnh đua nhau xây biệt thự theo kiểu nhà Mao.
Người ta đã sai lầm. Ai cũng cho rằng, hiện đại là tốt nhất, nên nhiều vị lãnh đạo đảng đã cho bày trong nội thất những chiếc đệm mút và xây hố xí bệt theo kiểu phương Tây. Nhưng đi đâu Mao cũng thường đưa theo chiếc giường bằng gỗ cứng và ông dùng bô. Thậm chí, khi sang Moscow vào năm 1949, ông cũng đưa theo giường riêng và trong chuyến viếng thăm Moscow năm 1957 ông đã sử dụng bô vệ sinh bởi vì trong điện Kreml chỉ có hố xí bệt.
Đào Chú, người đầu tiên đã cho xây một ngôi biệt thự mới và sang trọng cho Mao và Giang Thanh. Trong việc này ông đã phạm ít sai lầm hơn người khác. Vì thế Mao rất thích lưu lại ở Quảng Châu.
Nhà khách Tiểu Đảo, nơi chúng tôi lưu lại là một biệt thự tổng hợp, nằm trên một hòn đảo nhỏ, bao quanh đảo là hai nhánh của dòng Châu Giang. Trong vườn đầy hoa thơm chuối ngọt và những giống cây nhiệt đới.
Ba ngôi nhà ở trên hòn đảo đó được dành cho Mao. Một trong ba ngôi nhà trước đây là nhà nghỉ của bác sĩ Tôn Trung Sơn, nhưng vì Đào Chú chê nó quá nhỏ nên ông đã cho xây thêm một ngôi nhà khác mang số 1. Giữa phòng ngủ của Mao và Giang Thanh riêng biệt có một phòng họp lớn, trong đó người ta có thể xem phim. Trong ngôi nhà thứ ba, sau này người ta đã xây một bể bơi với kích thước của thế vận hội, ở đó người ta có thể giải trí, đọc sách và ăn uống. Những biệt thự số 4, 5 và 6 bình thường dành cho Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Chu Đức, nhưng tháng 6-1956, La Thuỵ Khanh, Dương Thượng Côn, Uông Đông Hưng và tôi đã được thu xếp đến ở.
Tại thành phố Quảng Châu, những biện pháp an ninh cần nghiêm ngặt hơn, vì Đào Chú, La Thuỵ Khanh và lực lượng an ninh lo ngại kẻ địch từ Hong Kong có thể thâm nhập vào. Họ biết, trong lãnh thổ thuộc địa của Anh cách đó khoảng 150 cây số có vô số đặc vụ của Quốc dân đảng và những phần tử phản động lăm le muốn ám sát Chủ tịch. Trên khắp hòn đảo đều có những người lính có vũ trang của đơn vị bảo vệ trung ương canh gác. Các phương tiện giao thông đường sông đều bị đình chỉ và những chiếc tàu tuần tiễu luôn rẽ sóng canh chừng những khả năng đột nhập. Trên đảo cực kỳ tĩnh mịch, chỉ còn nghe thấy tiếng hót của những con chim vùng nhiệt đới.
Bộ phận bảo vệ trung ương của Uông Đông Hưng đã phái toàn bộ một đơn vị đến Quảng Châu, chỉ riêng đoàn tuỳ tùng của Mao từ Bắc Kinh đến đã có tới 200 người. Thông thường, cứ từ 8 đến 10 người ở trong một căn phòng của toà nhà của Ban an ninh tỉnh Quảng Đông nằm ở đầu cầu nối hòn đảo với đất liền. Các nhân viên của Ban an ninh tỉnh Quảng Đông, của nhà khách trên đảo đã không thu xếp nổi nơi ăn chốn ở cho chừng đó con người. Ngược lại, nhà bếp dành riêng cho Mao lại được trang bị rất tốt, hợp vệ sinh không chê vào đâu được, sao cho không xảy ra những vấn đề về sức khỏe và tổ chức. Thực phẩm của Chủ tịch hàng ngày được chở đến bằng máy bay từ công xã Tụ Sơn ở Bắc Kinh, được đầu bếp của ông chế biến. Mao thường thưởng thức các loại trái cây hảo hạng, dùng rau và cá vùng Quảng Đông, nhưng ông thường rưới thêm dầu ăn cùng với nhiều gia vị cay của tỉnh Hồ Nam.
Việc cung cấp thực phẩm cho lực lượng an ninh, cả một vấn đề. Vì không có tủ lạnh và thực phẩm dành cho 200 con người phải để ngoài trời nóng, nên rất dễ có nguy cơ ngộ độc thực phẩm. Việc xử lý rác thải cũng khó khăn không kém, đã thu hút lũ chuột cống và chuột nhắt kéo đến.
Uông Đông Hưng đã điều nhân viên nhà bếp ở Quảng Châu một số cộng sự từ Bắc Kinh đến để giúp việc, chăm lo việc vệ sinh cũng như việc cung ứng, bảo quản thực phẩm. Còn tôi chịu trách nhiệm bao quát chung những vấn đề y tế.
Mặc dù Uông Đông Hưng và La Thuỵ Khanh đã cố gắng hết sức để che đậy những khó khăn do ban tham mưu của lực lượng an ninh gây ra, nhưng Chủ tịch vẫn thấy. Ông vạch ra cho Uông Đông Hưng:
– Các anh canh gác khắp nơi cứ như các anh sẵn sàng đương đầu với đơn vị kẻ địch mạnh. Các anh tự làm khó cho mình vì không tin vào lãnh đạo địa phương và quần chúng.
Chính Mao lại không cảm thấy có nguy cơ bị ám hại như ban bảo vệ. Ông biết quần chúng ngưỡng mộ ông. Tại sao họ lại muốn làm cái gì đó đối với ông?
Sau khi chúng tôi đến ít lâu, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức và Trần Vân cũng đến Quảng Châu, kéo theo cả các vị lãnh đạo đảng của tỉnh và các quan chức địa phương. Mao đã triệu tập một cuộc họp. Trong khi các quan chức chóp bu của đảng ở trong nhà khách trên đảo, tôi dọn sang ngôi nhà của Ban an ninh ở bên kia cầu. Các vị trong tỉnh uỷ và lãnh đạo địa phương được thu xếp ở trong các nhà khách khác, do thành đội Quảng Châu và Uỷ ban tỉnh Quảng Đông quản lý.
Đào Chú tổ chức một bữa tiệc chào mừng các vị khách mới đến, mời Mao làm khách danh dự. Đào Chú nói, đầu bếp Quảng Đông đã chuẩn bị những món đặc sản, hy vọng Mao sẽ thưởng thức các món ăn đặc sản. Song Mao đã không nhận những lời lẽ văn hoa lịch sự, ông từ chối. Uông Đông Hưng, Diệp Tử Long và tôi phải thay ông đến dự tiệc, rồi sau đó tôi phải báo cáo lại.
Trước khi khai tiệc một tiếng rưỡi, Điền Chu, trưởng phòng nhân sự của Cơ quan an ninh đến, đi về phía tôi. Các nhân viên hoá thực phẩm đã phát hiện ra trong thức ăn có thạch tín, ông ta tỏ ra đặc biệt lo ngại. Người ta đã phong toả nhà bếp, không một nhân viên nào được phép ra ngoài. Uông Đông Hưng yêu cầu tôi lập tức theo ông vào nhà bếp.
Bảy bàn dài các món ăn thịnh soạn chuẩn bị được dọn ra, chỉ đợi thực khách đến. Tôi đi vào phòng xét nghiệm cạnh nhà bếp, nơi có hai nhân viên hoá thực phẩm vừa từ Bắc Kinh đến đang kiểm nghiệm các loại đồ ăn cao cấp, cơm và thức uống. Sự căng thẳng làm cho họ toát cả mồ hôi, nhưng khi thấy tôi họ bớt lo và muốn nghe lời khuyên của tôi.
Một người tên Tô, Phó Ban công an tỉnh Quảng Đông, nói các nhân viên nhà bếp đã được kiểm tra lý lịch kỹ càng, không có vấn đề chính trị. Mặc dù vậy ông vẫn lo ngại. Ở Hong Kong có hàng nghìn gián điệp mà lại rất gần. Có lẽ một “phần tử xấu” nào đó đã đột nhập vào bỏ thuốc độc vào món ăn.
Điều hết sức kỳ lạ, chỉ có món nấu măng mới có chất thạch tín. Những đồ ăn khác đều không sao cả. Măng này lấy từ vườn của nhà khách. Tôi cho đào một ngọn măng tươi và mang đi kiểm nghiệm. Lại tìm thấy chất cyanide. Tôi theo xe đến ngay thư viện của Học viện y học Tôn Dật Tiên, ở cách nhà khách chỉ vài phút. Tại đó tôi mới biết, măng trong thiên nhiên có chứa một lượng rất nhỏ chất thạch tín, nhưng không gây nguy hiểm cho sức khỏe.
Đào Chú rất đỗi vui mừng. Ông ta mỉm cười bắt tay tôi, cám ơn luôn miệng và đề nghị nâng ly chúc sức khỏe tôi trong bữa tiệc.
Phó ban công an cũng cảm ơn tôi. Ông ta nói:
– Đồng chí làm chúng tôi rất vui. Cách đây vài phút, bí thư Đào còn bối rối, đe trừng phạt tôi và nhân viên của tôi. Nhưng bây giờ mọi việc đã rõ, bữa tiệc có thể bắt đầu đúng giờ. Không có đồng chí, có lẽ chúng tôi phải bó tay trước vấn đề hóc búa này mất.
Trong bữa tiệc, khi tôi đứng lên để cám ơn Đào Chú về lời chúc của ông, ông ta đến cạnh Uông Đông Hưng, nói một câu ngạn ngữ cổ của Trung Quốc: “Tướng nào, quân nấy”. Uông khoái chí với lời khen đó. Ông ta tự hào rằng, quyết định của ông tiến cử tôi làm bác sĩ riêng của Mao đã được công khai thừa nhận.
Ngay sau bữa tiệc, tôi đến gặp Mao. Ông đang nằm trên giường, đọc một cuốn sách về triều đại nhà Minh. Tôi kể về chất cyanide, ông đã đổ lỗi cho Liên Xô trong vụ lộn xộn này.
Ông lưu ý:
– Tôi không chấp nhận việc tiếp thu mọi thứ của nước ngoài mà không có phê phán.
Ý ông muốn nói, việc kiểm tra thực phẩm cũng như những biện pháp an ninh nhiều mặt đều xuất phát từ người anh cả của Trung Quốc. Ông nói tiếp:
– Bây giờ thức ăn không những được kiểm tra ở Bắc Kinh, còn được kiểm tra ở cả những nơi khác của đất nước. Việc này tạo ra những rắc rối vô lý. Đồng chí hãy bảo Uông Đông Hưng nên chấm dứt việc đó đi.
Uông Đông Hưng bực tức vì tôi đã nói với Mao, nhưng ông ta biết tôi có lý và phải thay đổi cách kiểm tra thực phẩm.
Nếu tôi không báo cáo, sẽ có người khác báo cáo, tôi bảo, mỗi lần gặp Chủ tịch, bao giờ ông cũng hỏi, “Có tin tức gì mới không?”, ông muốn biết những gì xảy ra với những người quanh ông. Nếu tin có thạch tín trong bữa tiệc, tôi không báo cáo, ông sẽ nổi giận, trút mọi lỗi lên tôi vì đã không báo cáo sớm.
Sau đó ít lâu, người ta thôi không dùng hai phòng xét nghiệm thực phẩm nữa, việc kiểm tra được thực hiện ở Bắc Kinh và cơ quan an ninh đã chuyển cho thành phố Bắc Kinh quản lý công xã Tụ Sơn. Tuy nhiên, việc thay đổi đó chỉ là hình thức. Phần lớn thực phẩm dành cho Mao vẫn tiếp tục được cung ứng từ công xã Tụ Sơn, mặc dù việc cung ứng đã được chỉ thị không chỉ lấy thực phẩm từ nơi đó, còn lấy từ những vùng khác.
Khi tôi báo cáo với Mao biết đã có sự thay đổi, ông cười:
– Tôi đã nói “học tập Liên Xô”, không phải chúng ta học ở Liên Xô kể cả cách người ta ỉa đái như thế nào, đúng không? Tôi không muốn chỉ học Liên Xô, tôi còn muốn học cả Mỹ nữa.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa


Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 13

Posted: 02/07/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Giang Thanh cũng lưu lại Quảng Châu, tôi thường xuyên gặp. Sau khi đến được hai ngày, vệ sĩ riêng của Mao, Lý Ẩm Kiều nói với tôi:
– Đồng chí nên báo cáo tình hình sức khỏe của Chủ tịch cho Giang Thanh biết.
Tôi hỏi:
– Sao vậy? Hôm đầu chúng tôi đến có thấy mặt bà ta đâu.
Lý hạ giọng:
– Nếu đồng chí không báo cáo, bà sẽ cho đồng chí coi thường.

Tôi làm theo lời khuyên của Lý. Khoảng 9 giờ sáng, người ta tôi được đưa đến phòng làm việc của bà ở khu biệt thự cũ của Tôn Dật Tiên, khu nhà số 2. Giang Thanh mặc bộ y phục màu xanh sẫm, đi giày da trắng, đế bằng, tóc búi tó. Bà đang ngồi trên ghế và đọc tờ Bản tin Nội bộ, hàng ngày được chuyển cho những nhà lãnh đạo cao cấp. Trong đó có nhiều tin quan trọng trong và ngoài nước, nguyên văn không cắt xén, phần lớn đều lấy từ báo chí nước ngoài. Giang Thanh cũng bắt chước thói quen của Mao, khi tiếp khách tay thường cầm sách. Tuy nhiên, ở bà việc này không gây ấn tượng. Bà chỉ vờ đọc, thường khi được thông báo khách có mặt mới cầm sách lên.
Nhớ lại lời nhắc nhở nhiều lần của Lý Ẩm Kiều và y tá, phải đặc biệt lễ phép đối với phu nhân của Chủ tịch, tôi đã ngoan ngoãn chào Giang Thanh. Bà ra hiệu cho tôi ngồi. Tôi nói:
– Thưa, Chủ tịch vẫn khỏe ạ. Mặc dù Chủ tịch sinh hoạt không theo giờ giấc, không có lợi cho sức khỏe, nhưng Chủ tịch vẫn rất thọ. Nếu ngay bây giờ chúng ta buộc Chủ tịch thay đổi, có thể sẽ có hại nhiều hơn là có lợi ạ.
Bà xẵng giọng hỏi lại:
– Đồng chí cho rằng việc Chủ tịch sinh hoạt điều độ không quan trọng sao?
– Thưa, Chủ tịch đã mắc chứng mất ngủ từ nhiều năm nay. Chỉ có thuốc ngủ mới làm cho Chủ tịch chợp mắt được.
Bà cau có vặn lại:
– Rõ ràng đồng chí không muốn thay đổi gì.
– Dạ, đúng thế ạ, nếu không chứng mất ngủ của Chủ tịch thêm trầm trọng.
– Chẳng có thày thuốc nào có lời khuyên hay đến nỗi người ta phải dùng thuốc ngủ. Quan điểm chữa bệnh của các bác sĩ có phải không?
Giọng bà đầy mỉa mai, giễu cợt, cuộc gặp gỡ này đang trở lên tệ hại.
– Dạ, đúng thế.
Lông mày bà nhướn lên, nhìn tôi chằm chằm:
– Đồng chí đã báo cáo điều này với Chủ tịch chưa?
– Dạ, đã.
Giang Thanh ngả người lại, ngón tay gõ gõ vào mép bàn, hỏi:
– Ý Chủ tịch thế nào?
Tôi giải thích:
– Chủ tịch nhất trí và bảo mỗi ngày một có tuổi rất khó bỏ được thói quen.
Bà ta hơi cúi đầu, ngửng lên rồi lấy tay vuốt mớ tóc xoã. Tôi biết thói quen của Mao làm Giang Thanh rất khó chịu, bà ta muốn thông qua tôi thay đổi thói quen của chồng, nhưng không dám nói thẳng với Mao, bà là người thiếu bản lĩnh, trung thành một cách hèn hạ và chẳng ngượng ngùng nhận những lời xiểm nịnh của những người xung quanh. Không có Mao, bà chả là cái thá gì với mọi người.
– Tôi đồng ý với ý kiến của đồng chí, ngày xưa nhìều cán bộ cao cấp cũng đã khuyên nhủ Chủ tịch thay đổi thói quen đó, tôi đâu có tán thành.
Bà mỉm cười, hỏi:
– Đồng chí không tăng liều thuốc đấy chứ?
– Dạ, không.
– Nhưng đồng chí biết rõ thuốc ngủ có hại cho sức khỏe chứ?
– Đã nhiều năm Chủ tịch mắc chứng mất ngủ, thuốc giúp Chủ tịch ngủ là lấy lại sức.
– Xem ra đồng chí không muốn thay đổi cách điều trị.
– Dạ, đúng thế, chỉ trừ khi nào Chủ tịch cần tăng liều lượng thôi ạ.
– Không, bác sĩ, dùng thuốc ngủ đâu có tốt gì.
Bà ta bắt đầu gài bẫy tôi:
– Thế đồng chí có dùng thuốc ngủ không đấy?
– Thưa, tôi không.
Bà ngạo mạn, hỏi:
– Đồng chí không uống, đồng chí biết thuốc ngủ có hại cho sức khỏe, có đúng thế không?
– Thưa, tốt hơn là không nên dùng thuốc ngủ ạ. Nhưng từ nhiều năm nay Chủ tịch đã quen…
Bà thô lỗ ngắt lời tôi:
– Đồng chí đã nói gì đó với Chủ tịch, để ông tiếp tục dùng thuốc ngủ chứ!
– Thưa vâng. Tôi đã từng hiểu cặn kẽ thói quen giấc ngủ của Chủ tịch. Hàng ngày ông ngủ muộn hơn hai hoặc ba tiếng so với ngày hôm trước. Thỉnh thoảng ông thức liền 24 tiếng hoặc 36 tiếng. Nhưng sau đó ông ngủ liền từ 10 đến 12 tiếng. Tính trung bình mỗi ngày ông ngủ từ 5 đến 6 tiếng. Thoạt nhìn, điều này có vẻ không theo quy luật, nhưng thực ra thói quen này cũng có sự đều đặn riêng.
Giang Thanh lại hỏi:
– Tại sao đồng chí không thông báo sớm tất cả điều này cho tôi biết?
Tôi mất dần kiên nhẫn:
– Thưa, tôi chưa có điều kiện. Chủ tịch chỉ mới vừa nói điều này với tôi.
Giang Thanh lạnh lùng nói:
– Thôi được, chúng ta tạm thế đã. Lần sau đồng chí hãy nói cho tôi biết trước khi đồng chí báo cáo với Chủ tịch.
Tôi không có ý định phải thưa bẩm với Giang Thanh trước. Bà ta không thể trực tiếp kiểm soát được chồng, định qua tôi để tác động đến Mao. Nếu tôi bẩm báo mọi việc về Mao, tôi sẽ phải làm theo chỉ thị của bà. Tôi tự nhiên chui đầu vào bẫy. Tôi lễ độ cáo từ, nhưng phớt lờ chỉ thị.
Một trận mưa rào xối xả đổ xuống khi tôi rời phòng nên đành phải đứng trú mưa ngoài hành lang. Bà ta đi ra nhìn thấy tôi, hỏi:
– Bác sĩ vẫn còn ở đây à?
Sau khi tôi giải thích lý do, giọng bà trở lên thân thiện, bảo:
– Vào trong này đã, ta nói chuyện phiếm với nhau.
Bà hỏi tôi về quá trình học tập, bà kể cho tôi nghe chuyện khám bác sĩ ở Thượng Hải lần ấy bà ốm nặng. Viên bác sĩ khám qua loa lấy lệ rồi ghi đơn thuốc chẳng thèm hỏi han đau ốm ra sao. Giang Thanh thắc mắc, nhưng bác sĩ lờ tít, an ủi mấy câu, bảo về. Giang Thanh nổi đoá, quát ầm ầm:
– Ông ta khám tôi như khám chó không bằng. Cách khám bệnh và hành xử của ông với bệnh nhân thật khốn nạn.
Rồi hầm hầm bước ra khỏi cửa, không thèm lấy đơn thuốc.
Dừng một lát sau khi kể xong chuyện, hỏi tiếp:
– Các bác sĩ được đào tạo ở Tây phương theo lối hành xử như vậy sao? Không một ai trong những bác sĩ quan tâm đến bệnh nhân có thật thế không?
Tôi khiêm tốn phản đối:
– Không phải bác sĩ nào cũng tắc trách như vậy.
Tôi cố giải thích và dẫn chứng rất nhiều bác sĩ đã hết lòng cứu chữa người bệnh.
Bà phản pháo:
– Chuyện ấy chẳng có gì ngoài chuyện ban phát chút xíu chủ nghĩa nhân đạo của tầng lớp trung lưu bố thí mà thôi.
– Có nhiều câu chuyện rất cảm động…
Tôi cố gắng nói để bà hiểu, nhưng vô ích. Trong Giang Thanh, phục vụ nhân nhân mà không có lập trường giai cấp là không thể chấp nhận. Bà ta cho rằng chỉ có “chủ nghĩa nhân đạo cách mạng” do chính công nhân và nông dân làm chủ mới thực sự phục vụ cho giai cấp mình. Giai cấp đối kháng, kể cả tầng lớp trung lưu cũng không đáng được làm công việc trị bệnh.
Tôi tin việc điều trị có liên quan đến chuyện quan hệ giai cấp, bạn bè hoặc kẻ địch, Giang Thanh thì không, chỉ tin chủ nghĩa nhân đạo cách mạng còn coi chủ nghĩa nhân đạo tư sản, tư bản là tồi tệ và xấu xa.
Bà ta trả lời tôi:
– Đồng chí là bác sĩ, tôi là bệnh nhân. Tôi không muốn ai tranh luận với tôi.
Tôi không cố ý gây bất hoà với phu nhân của Chủ tịch và tôi đã từng bị khiển trách.
Sau khi tôi đi khỏi, Giang Thanh nói với một cô y tá của bà:
– Bác sĩ Lý thật ương ngạnh và kiêu căng, cứ khăng khăng giữ ý kiến bảo thủ. Chúng ta phải dạy cho hắn một bài học.
Tôi kể cho Mao cuộc nói chuyện của tôi với Giang Thanh. Mao mỉm cười, bảo:
– Chúng ta không hoàn toàn phản đối chủ nghĩa nhân đạo thuần tuý, nhưng phản đối cách hành xử chủ nghĩa nhân đạo của kẻ thù.
Sự khó chịu của Giang Thanh làm Mao phải suy nghĩ, ông có ý định làm người trung gian giải hoà giữa tôi và vợ ông. Ông nói:
– Xem ra Giang Thanh đã công khai đối đầu với đồng chí. Đồng chí nên có lời nịnh nọt một chút chắc làm bà ta hài lòng.
Uông Đông Hưng cũng vậy. Ông ta muốn tôi kính trọng Giang Thanh hơn nữa và lo ngại hậu quả sẽ xảy ra khi tôi không làm theo lời. Có lẽ ông ta cũng đã từng xung đột với Giang Thanh.
Lời khuyên của cả hai người làm tôi ngạc nhiên, bởi vì tôi từng được huấn thị nên trung thực, tránh xa những chuyện bỡ đỡ nịnh nọt.
Mặc dù tôi không muốn nịnh Giang Thanh và thấy khó gây được thiện cảm, nhưng tôi vẫn tìm cách để hiểu bà.
Bà sống một cuộc sống xa hoa, muốn gì được nấy, chẳng phải làm gì, thật nhàm chán và vô nghĩa. Giang Thanh bị bỏ rơi. Mao không quan tâm đến và bà cũng chẳng có vai trò gì trong cuộc đời ông. Ông hơn vợ tới 20 tuổi và hai người có những xu hướng rất khác nhau. Giang Thanh coi trọng giờ giấc và lập trình định sẵn, ngược lại Mao chối bỏ tất cả mọi sự điều độ. Mao thích đọc, còn Giang Thanh lại thiếu tính kiên nhẫn đọc sách. Mao tự hào về sức khỏe, trái lại Giang Thanh luôn cảm thấy đau yếu, bệnh tật. Chưa bao giờ họ cùng ăn với nhau. Trong khi Mao ưa thích những món ăn cay của vùng Hồ Nam, Giang Thanh lại mê món cá nấu với rau nhạt nhẽo, hoặc làm ra vẻ sành các món ăn “phương Tây” từng nếm thử ở Liên Xô và còn đòi hỏi cả món thịt hầm và trứng cá caviar.
Người ta đã từng hết sức cố gắng tìm cho bà một công việc phù hợp. Năm 1949 bà được bổ nhiệm làm Phó phòng kiểm duyệt phim thuộc bộ Văn hoá, nhưng bà tỏ ra ngạo mạn, hễ động chuyện gì bà đe sẽ báo cáo với Mao chủ tịch, đến nỗi chẳng ai có thể chịu nổi. Sau đó đổi bà sang làm phó phòng Thư ký chính trị của Văn phòng tổn hợp của Dương Thượng Côn ở Trung Nam Hải, nhưng bà lại nói, Mao ra lệnh bảo bà miễn nhiệm.
Mao đành phái cử bà làm bí thư riêng của ông. Với chức vụ này, bà phải tổng hợp tin tức từ các bản tin mà phần lớn trong tờ Tin Nội Bộ. Vì không có thời gian đọc, Mao giao cho bí thư đọc và tổng hợp tóm tắt những tin quan trong. Các nhà lãnh đạo đảng và nhà nước đều giao cho vợ làm công việc tương tự như vậy.
Mặc dù Giang Thanh thường nhận đầy đủ bản Tin Nội Bộ nhưng ít khi đọc. Đọc xong, không thể phân biệt được tin nào quan trọng, tin nào không, đến nỗi công việc của bà chẳng giúp gì được cho Mao. Vì vậy, Lâm Khắc phải đảm nhiệm công việc của Giang Thanh là thu thập tin tức và báo cáo.
Giang Thanh, thuộc loại người Trung Quốc thường ví “xiao congming”, kẻ khôn vặt. Giỏi những chuyện vặt vãnh, mánh khóe ranh ma nhưng lại dốt đặc về chuyện đại sự, kém khả năng phân tích tổng hợp. Bà biết một chút về lịch sử Trung Hoa, còn những chuyện bên ngoài biên giới bà mù tịt. Bà có biết một số nước lớn, tên tuổi một vài lãnh tụ quốc gia đó, nhưng chỉ biết qua loa đại khái. Về Tây Ban Nha, bà không hiểu về thể chế chính trị thời xưa, chẳng biết ai là người đang lãnh đạo quốc gia. Bà thường chậm hiểu cái mà bà vừa đọc. Có lần bà nói với tôi, nước Anh không phong kiến như Trung Quốc, vì có nữ hoàng trị vì. Theo bà, chế độ gia trưởng của Trung Quốc mang tính chất phong kiến, cho nên sự lãnh đạo của phụ nữ biểu hiện của thời đại mới, tân tiến hơn. Bà nghe được giọng nói đặc thù Bắc Kinh, nhưng hiểu biết của bà về ngôn ngữ Trung Hoa lại rất hạn chế. Nhưng bà biết cách giấu dốt khi bà thường hỏi thêm những từ đó được phát âm như thế nào trong tiếng địa phương ở Bắc Kinh. Việc tra từ điển đối với bà thật khó khăn.
Mặc dù kiến thức kém cỏi như thế, nhưng bà lại hay giễu cợt, chê bai người khác. Một lần Mao nói đùa rằng tôi thu lượm được kiến thức về lịch sử Trung Quốc nhờ xem kinh kịch Bắc Kinh. Thật là một sự lăng nhục, tôi đã học tập và nghiên cứu lịch sử Trung Quốc hệ thống và nghiêm túc. Nhưng Giang Thanh vẫn tiếp tục lấy lời nhận xét của Mao để châm chọc, tuy câu chuyện tiếu lâm đó đã quá lỗi thời.
Mao không yên tâm về sự thờ ơ của vợ đối với những sự kiện lịch sử và thời sự. Bởi vậy, ông thường gửi sách, tài liệu và những tập sưu tầm tin tức mới nhất để bà nắm được những thông tin như ông. Nhưng Giang Thanh luôn luôn thoái thác. Thay vì đọc, tối ngày bà xem những cuốn phim nhập từ Hong Kong. Bà lấy lý do ốm. Giang Thanh luôn đau ốm, nhưng xem phim chữa được bệnh suy nhược thần kinh của bà.
Năm 1953, Bộ y tế và Văn phòng của lực lượng an ninh đã ra tay với những bệnh tật mơ hồ của bà. Họ cử bác sĩ Hứa Đào đến làm bác sĩ riêng. Ông nguyên là bác sĩ riêng của Mao trước đây, nhưng vì Giang Thanh luôn đau ốm, Mao chuyển bác sĩ Hứa Đào chăm sóc vợ ông.
Giang Thanh đã đẩy cuộc đời của bác sĩ Hứa xuống địa ngục. Trong chiến dịch chống bọn phản cách mạng năm 1954, bà đã công kích ông và sau này vẫn tiếp tục cái trò đê tiện đó. Tại Quảng Châu, ông đã trở thành nạn nhân của những lời vu khống cay độc. Lần này ông bị kiểm điểm vì đã giở trò sàm sỡ với một cô y tá của Giang Thanh.
Cô y tá vốn mắc chứng thiếu máu, luôn cảm thấy mệt mỏi và chóng mặt. Vì vậy, ngay sau khi đến Quảng Châu ít lâu, cô đã yêu cầu bác sĩ Hứa khám cho cô. Bác sĩ Hứa khám cô trong tiền sảnh của nhà khách, nơi cô ở. Bỗng nhiên, một vệ sĩ – một gã nông dân ít học, vô đạo đức, xộc vào phòng trong lúc đang khám. Gã vốn mù tịt về y tế, gã đã vu cho bác sĩ Hứa tội quấy rối tình dục.
Là chỉ huy toán vệ sĩ, Uông Đông Hưng buộc phải lưu tâm đến vụ này. Ông đã chứng minh được Hứa Đào vô tội, biết rõ đạo đức và tư cách của bác sĩ, hiểu rõ sự thất học và tư cách thô lỗ của tên vệ sĩ.
Tôi cũng rất bất bình về sự kiểm điểm này. Đơn giản, không đời nào bác sĩ Hứa lại hành động như vậy. Ông là người rất thận trọng, có thể bướng bỉnh một chút, nhưng ông sống có nguyên tắc và rất đạo đức. Ngoài ra, người ta đã gán cho ông tội có liên hệ với nhóm chống đảng, tôi tin chắc chắn ông không khờ khạo đền nỗi đánh mất tương lai của mình. Trong khi kiểm điểm, tôi đã biện hộ cho bác sĩ Hứa bằng cách đưa ra bằng chứng, sự liêm khiết, sự thành công trong nghề của ông là một tấm gương mẫu mực. Chúng ta không có quyền buộc tội ông với lời tố cáo hoàn toàn vô lý.
Cuối cùng, Mao cũng can thiệp bảo vệ danh dự cho bác sĩ. Bác sĩ Hứa được giải toả khỏi những nghi ngờ và gã vệ sĩ kia bị sa thải. Có lẽ, đây là lần đầu tiên người ta đã cư xử trung thực đối với một thày thuốc trong một vụ xung đột với lực lượng an ninh.
Nhưng Giang Thanh vẫn tiếp tục gây sự với vị bác sĩ của bà. Bác sĩ Hứa phải làm người chiếu phim và chỉ được phép chọn những cuốn phim làm cho bà sảng khoái, vui vẻ để đêm không làm bà mất ngủ. Nếu ông chọn không đúng phim bà thích – điều này thường xảy ra – lập tức bà nhiếc mắng ông thậm tệ. Hứa từ chối, bác sĩ không làm công việc người chiếu phim, nhưng Giang Thanh không chịu. Xem phim là điều trị chứng suy nhược thần kinh cho bà. Vì vậy trách nhiệm của ông phải chiếu phim để chữa bệnh. Tuy vậy, hầu hết các cuốn phim đều không làm cho bà vừa lòng, thường chì chiết ông. Khi xem bộ phim “Cuốn theo chiều gió”, bà quả quyết, đây là phim tuyên truyền cho chế độ nông nô ở miền Nam Hoa Kỳ, bà chửi rủa những người thích bộ phim đó là “bọn phản cách mạng thối tha”. Giữa những năm 1950, câu nói đó của bà cũng chẳng có mấy trọng lượng. Thế nhưng vài năm sau, trong khi diễn ra cuộc Cách mạng văn hoá, với lòng thù hận, bà đã huỷ hoại sự nghiệp và cuộc đời của biết bao con người với câu nói đó.
Nếu bác sĩ Hứa có chọn đúng cuốn phim, bà cũng chẳng hài lòng. Thỉnh thoảng cảnh phim trên màn ảnh quá sáng, kêu làm đau mắt, nếu điều chỉnh tối đi, lại ca cẩm không nhìn thấy gì.
Người ta xây cho bà hai buồng, một để xem phim, một để đọc sách và nghỉ ngơi. Ánh đèn quá sáng sau khi được điều chỉnh, bà lại kêu nhiệt độ trong phòng không được ổn, hoặc quá nóng, hoặc quá lạnh, hoặc quá ngột ngạt, gió lùa quá mạnh, bà tức thời bỏ sang phòng khác. Người ta chẳng bao giờ có thể chiều nổi ý bà, vì thế họ luôn luôn là người có lỗi và phải chịu những lời đay nghiến tưởng như không bao giờ dứt.
Có lần Quảng Châu có đợt không khí lạnh đột ngột tràn về, nhân viên phải chạy kiếm lò và than sưởi, nhưng không dám phá rối sự yên tĩnh của Giang Thanh, họ phải bò nhanh bằng hai tay và hai chân qua cửa sổ phòng khách. Một lần nhân viên bảo vệ tranh luận với bà điệu nhảy tango có 4 hay 5 bước, bực mình bà phạt đứng nghiêm ngoài sân 2 giờ đồng hồ. Khi quay trở về Bắc Kinh, bà ra lệnh máy bay hạ cánh xuống sân bay Tế Nam để đuổi bác sĩ vì người vệ sĩ đã làm bà phật ý trong chuyến bay. Thường xuyên bắt 5 hoặc 6 người phục vụ phải nhanh tay nhanh chân làm theo theo tính khí thất thường. Bà tự cho rằng được phục vụ cho phu nhân của Mao chủ tịch là niềm vinh hạnh, nhưng nỗi khốn khổ của họ cũng phải giá không kém với niềm vinh dự đó.
Khá lâu sau tôi mới biết, vô số câu chuyện dính dáng đến phụ nữ của Mao là nguyên nhân chính gây lên tính khí thất thường của Giang Thanh. Vì hầu hết các nữ y tá dưới quyền tôi đều là những thiếu nữ trẻ, đẹp, quyến rũ dễ làm Mao siêu lòng, nên thỉnh thoảng bà đề nghị tôi hãy lưu tâm, đừng để các cô y tá đó léng phéng với chồng bà. Một lần, tình cờ tôi bắt gặp Giang Thanh ngồi khóc trên một chiếc ghế dài trong công viên ở Trung Nam Hải, trước dinh thự của Mao. Bà khẩn khoản yêu cầu tôi đừng tiết lộ sự việc này, coi như không biết. Stalin chiến thắng trên các mặt trận, nhưng cũng từng thất bại trong tình yêu đó sao. Bà rất lo, chồng bà càng công khai săn đuổi các cô gái trẻ đẹp bao nhiêu, nỗi lo sợ của bà sẽ bị ông bỏ rơi ngày càng lớn bấy nhiêu.
Mao cố gắng không làm bẽ mặt Giang Thanh khi các cô gái quay quanh ông, nhưng đôi khi ông cũng thiếu cẩn trọng. Đã nhiều lần Giang Thanh bắt gặp Mao quấn quýt, ve vãn các cô gái kể cả y tá phục vụ bà. Giang Thanh thường tự hào về sắc đẹp và quyền lực vì thế cách cư xử của Mao đã làm tổn thương lòng tự ái, nhưng chẳng bao giờ dám thể hiện công khai sự khó chịu với Mao. Bà hoàn toàn bất lực việc chế ngự tính trai lơ của chồng.
Mao biết điều đó, có lần ông nói với tôi sau khi tôi phát hiện tính háu gái của ông:
– Giang Thanh thường lo sợ tôi không còn thiết gì đến bà ấy nữa. Tôi đã an ủi, động viên nhiều lần, không có chuyện đó, nhưng vẫn lo phiền. Thế có lạ không?
Mao chẳng hiểu gì phụ nữ, bởi không có người vợ nào muốn chồng mình đi ve vãn, tán tỉnh các cô gái trẻ, ông cũng chẳng hiểu vì sao Giang Thanh vẫn không an lòng.
Cô đơn, thất vọng và đau khổ, Giang Thanh lấy trút đau khổ đó lên đầu tất cả những người phục vụ xung quanh. Tôi không rõ bà đau khổ đến đâu, nhưng bao giờ cũng thấy bà ta tán thành, ủng hộ mọi quyết định của Mao và chẳng dám làm bất cứ điều gì nếu ông không cho phép.
Vì không thể chế ngự được Mao nên bà cố tận dụng cương vị là vợ ông để chỉ huy người khác. Sự chông chênh đó làm cho bà trở nên tầm thường và nanh ác. Đặc biệt bà thường nổi giận với đám vệ sĩ, vì bà biết họ đã giúp Mao trong những vụ bê bối. Nhưng bởi vì những người vệ sĩ lại trực tiếp làm việc cho Mao và ở dưới quyền Uông Đông Hưng, nên khó có cơ hội sinh sự với họ. Do đó, bà chỉ còn biết trút cơn thịnh nộ lên những người phục vụ riêng của bà, trước tiên là các nhân viên y tế.
Giang Thanh liên tiếp chỉ trích những người khác đã làm khổ bà, song thực ra bà lại đày đoạ tinh thần của những nhân viên của bà hơn thế nữa. Bà công khai cho rằng, nếu bà gặp chuyện không hay, mọi người khác cũng phải chịu đau khổ. Chỉ có một số ít người làm việc lâu được với bà, còn hầu hết đều xin thuyên chuyển đi nơi khác để khỏi bị hành hạ.
Mùa thu năm 1956 bác sĩ Hứa Đào xin từ chức. Sau chiến dịch chống bọn phản cách mạng và vụ vu khống quấy rối tình dục, ông đề nghị được đi học bồi dưỡng chuyên môn, xin chuyển về làm việc ở bệnh viện, để ông có điều kiện thể sử dụng khả năng và nâng cao kiến thức. Cuối cùng, ông đã chuyển về Bệnh viện Công đoàn Bắc Kinh, quỹ Rockefeller của Hoa Kỳ tài trợ. Đây là một trong những bệnh viện tốt nhất của Trung Quốc. Lúc đó, tôi đã ghen tị với Hứa Đào về việc ông chuyển công tác.


Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa



Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 14

Posted: 06/07/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Trong khi Giang Thanh, thành viên độc lập nhất trong chuỗi cộng tác viên gần gũi của Mao, thì Diệp Tử Long lại là người đắc lực nhất. Người nào xung quanh Mao cũng đều có một chức năng nhất định.
Về mặt tổ chức, Diệp chính thức là người phụ trách Văn phòng thư ký, kiêm Trưởng ban thư ký riêng của Mao. Ông lo thu xếp các cuộc họp, hoàn thành các biên bản với tư cách, người trợ lý cao nhất của Mao, ông còn quan tâm đến sinh hoạt cá nhân của Mao, như ăn, mặc và tiền bạc.
Sau này tôi được biết từ Uông Đông Hưng, chính Diệp Tử Long cũng đã từng kiếm gái cho Mao. Ông không những lấy gái từ Văn phòng thư ký riêng do ông phụ trách, từ Văn phòng bảo mật hoặc từ các đội văn công thuộc Cục bảo vệ trung ương, ngoài ra ông còn để mắt đến tìm những cô gái trẻ, ngây thơ, không có ý thức chính trị và tuyệt đối trung thành với Mao ở các cơ quan khác.

Diệp ở ngay trong tư dinh của Mao để tiện công việc cần vụ và thư ký riêng cho Mao. Nhưng Diệp lại dùng nhà ở của mình để giấu các cô gái trước khi ông dẫn họ đến gặp Chủ tịch. Diệp tìm cách đưa các cô gái trẻ đẹp vào Trung Nam Hải. Khi Giang Thanh vừa chìm vào giấc ngủ và Mao đã sẵn sàng tiếp các tố nữ, Diệp Tử Long dẫn các cô gái rón rén đi qua phòng ăn, rồi lẻn vào phòng ngủ của Mao. Đến gần sáng, ông mới quay trở lại đưa các cô ra.
Diệp còn là người quản lý tài khoản đáng kể mà Mao dành để chi cho những công việc đặc biệt trong văn phòng.
Vào năm 1966, trước khi có cuộc Cách mạng văn hoá không lâu và ngay trước khi hàng trăm triệu sổ tay bìa đỏ trích những câu nói của Mao được bán ra chưa kể đến, chỉ tính riêng Tuyển tập của mình, Mao đã kiếm được ba triệu nhân dân tệ. Trong những năm 1950, ông là một trong những người giàu nhất Trung Quốc và cũng là người rộng rãi trong chuyện tiền bạc. Ông đã giúp đỡ trợ cấp những thày giáo, bạn bè và những đồng chí cũ của ông, giúp họ một cuộc sống dễ chịu hơn sau khi bị chính quyền cộng sản mới tước mất quyền sở hữu và khả năng hành nghề. Ngoài ra, ông còn dùng tiền để trả ơn những phụ nữ đã ngủ với ông. Mao không đụng đến số tiền ông có, mọi việc do Diệp Tử Long thu xếp một cách kín đáo. Số tiền đó dao động từ một vài trăm đến một vài nghìn nhân dân tệ tuỳ từng trường hợp.
Tôi được biết Diệp Tử Long là một người bẳn tính, ít học và hầu như mù chữ. Ông là một trong những người nông dân theo đảng từ khi còn trẻ, tham gia cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh ít lâu, Diệp bắt đầu làm cần vụ cho Mao từ những năm 1930. Trước khi đến Bắc Kinh vào năm 1949, Diệp chưa hề đặt chân đến một thành phố lớn nào, không biết cách sử dụng điện, chưa một lần nhìn thấy ánh đèn neon. Việc đảng nắm quyền tại Bắc Kinh chính là sự giải phóng thực sự đối với Diệp, chính Diệp đánh giá cao Mao ở chỗ đó. Mao đã đưa Diệp từ bóng đêm nghèo đói ở nông thôn tới nơi thiên đường thịnh vượng. Nhưng Diệp không thuộc loại nông dân ngờ nghệch, dễ bị loá mắt trước ánh đèn rực rỡ ở thành phố. Tôi chắc rằng, trước khi đến Bắc Kinh, từ lâu ông đã có nhiều tham vọng. Có điều trước đây ông chưa có điều kiện thực hiện.
Tôi biết Diệp Tử Long từ hồi ở bệnh viện trong khu Trung Nam Hải, trước khi tôi trở thành bác sĩ riêng của Mao và không có cảm tình đối với ông ta. Tôi còn nhớ, năm 1951 Diệp đã xin tôi năm lọ kháng sinh penicillin để cho người bà con của ông ở Hồ Nam bị bệnh giang mai. Thời ấy, các cơ sở y tế nông thôn chưa có các loại thuốc kháng sinh mới. Trong khi đó Trung Quốc vẫn chưa sản xuất được loại penicillin này, chúng tôi phải nhập ngoại và quản lý chặt những lọ penicillin ở bệnh viện, thứ thuốc thuộc loại quý hiếm. Diệp khá ngạc nhiên, vì tôi đã từ chối lời đề nghị của ông.
Cô y tá trưởng của bệnh viện cũng rất ngạc nhiên. Lúc đó, người ta đều biết, Diệp rất gần gũi và có ảnh hưởng lớn đối với Chủ tịch. Hầu hết mọi người đã phải đáp ứng yêu cầu để lấy lòng ông, nên cô y tá nghĩ, tôi đã xúc phạm Diệp. Tôi không hề nghĩ, đường đi của chúng tôi lại một lần nữa gặp nhau và càng không ngờ hầu như ngày nào chúng tôi cũng phải gặp nhau.
Như tất cả chúng tôi, đầu những năm 1950, Diệp Tử Long cũng được hưởng chế độ trợ cấp. Diệp thèm khát một cuộc sống xa hoa, vậy mà ông không có tiền. Nhưng là thư ký riêng của Mao, Diệp có được tất cả những gì ông muốn. Ai muốn Mao ban cho ân huệ chỉ cần nịnh thư ký riêng của Mao. Trong khi đảng kêu gọi phải sống thanh bạch và tiết kiệm, Diệp lại sống xa hoa và phung phí. Sau khi một câu lạc bộ khang trang được xây dựng dành cho các quan chức cao cấp, Diệp Tử Long đã kết bạn với nhiều người phụ trách nên thường xuyên được mời dự những bữa tiệc lớn, chẳng phải trả một xu nào.
Những nhân viên an ninh không cho thường dân Trung Quốc bén mảng đến những nơi mà Diệp mong ước lui tới, như câu lạc bộ dành riêng cho các quan chức cao cấp hoặc khách sạn Bắc Kinh, người ta lại không hề hỏi giấy tờ ông. Ai cũng cho rằng Diệp, một nhân vật quan trọng, một cán bộ cao cấp của đảng. Chỉ khi nào Diệp phát biểu mới lòi cái đuôi nhà quê kém văn hoá của mình. Ấy thế, bề ngoài ít ra trông Diệp cũng có vẻ thanh lịch. Da trắng, sáng sủa, trong khi ở Bắc Kinh mọi người mặc quần áo bằng vải bông bạc màu, vá víu, Diệp lại diện bộ đồ len kiểu Mao được cắt may rất khéo. Bởi vì mỗi khi Mao nhận được một bộ quần áo mới vừa vặn, Diệp có mặt ở đó và người thợ may của Mao cũng vui vẻ mở tủ tặng một bộ quần áo để tạ ơn ông.
Là người cần vụ cao cấp nhất của Mao, Diệp có trách nhiệm quản lý kho riêng của Mao. Trong kho cất giữ nhiều món quà biếu Mao nhận được từ khắp nơi, y giống như một hoạn quan của thời đại phong kiến. Mao thường phân phát các món quà biếu cho nhân viên phục vụ, hầu như ai cũng nhận được quà tặng. Uông Đông Hưng bảo tôi, Diệp có máy ảnh Đông Đức, đồng hồ Thuỵ sĩ, đài thu thanh bán dẫn Nhật từ trong số quà biếu của Mao. Diệp Tử Long mau chóng thành chuyên gia đồ dùng vì thuộc hết tên các hãng sản xuất đồ điện nổi tiếng của nước ngoài, mặc dù không thể đọc nổi tên nước sản xuất trên bản đồ hay tên của các vị nguyên thủ quốc gia.
Diệp thực hiện câu ngạn ngữ cổ “Giàu nhà kho, no nhà bếp”. Ông liên hệ được thực phẩm không mất tiền từ trại cải tạo nông trang Duyên Hà. Trại cải tạo Duyên Hà, một nông trang do tù nhân làm sản xuất các loại thực phẩm từ rau xanh, chăn nuôi gia súc, gia cầm, thả ao nuôi cá, trồng lúa, một trong những nguồn thực phẩm cung cấp cho Diệp và được trả bằng những phiếu phân phối. Sau khi đảng cộng sản nắm quyền, chính phủ mới đã dựng lên khắp cả nước nhiều trại cải tạo, dành cho tù hình sự và tù chính trị. Điều kiện sống trong trại rất hà khắc. Phần lớn tù chính trị là những người thuộc tầng lớp thấp như lính trơn hoặc các công chức nhỏ đã từng phục vụ cho Quốc đân đảng, Còn những quan chức cao cấp thường đã đào tẩu hoặc theo cộng sản như cha tôi. Khi quân giải phóng tiến vào Nam Kinh, Chu Ân Lai đã cử người đến khuyên cha tôi đừng chạy theo Quốc dân đảng. Sau này, nhờ sự giúp đỡ của Chu Ân Lai, cha tôi chuyển về Bắc Kinh, có việc làm với đồng lương khá cao, có nhà ở, cuộc sống ổn định.
Trại nông trang Duyên Hà do Sở công an Bắc Kinh quản lý và là trại cải tạo lớn nhất ở thủ đô. Cũng như hầu hết các đồng chí giữ chức vụ cao cấp khác, Diệp đã lợi dụng quan hệ bạn bè với trưởng trại Duyên Hà để lấy một khối lượng lớn thực phẩm cao cấp mà Diệp muốn. Thậm chí ngay trong thời kỳ có nạn đói lớn năm 1960-1962, đã làm hàng triệu người chết đói, Diệp vẫn nhận được số lượng thực phẩm cao cấp khổng lồ.
Mặc dù Diệp đã có vợ, chẳng bao giờ ly dị, nhưng đã yêu cô gái của Phòng bảo mật trong một buổi khiêu vũ của Mao tại Hội trường Xuân Sen. Khi cấp trên của cô gái trẻ biết chuyện, bạn thân của Diệp đã bí mật đưa cô xuống tàu rời Bắc Kinh. Không ai dám hỏi bạn gái của ông đã biến đi đâu.
Vào năm 1958, khi Diệp ở Vũ Hán cùng với Mao, tình cờ gặp lại cô gái đó trong một buổi khiêu vũ khác, hai người đã nối lại duyên xưa. Diệp đã tìm mọi cách giúp cô ly dị, thời ấy rất khó, rồi chuyển cô đến thành phố công nghiệp Thiên Tân, cách thủ đô Bắc Kinh khoảng 100 km về phía Đông. Thời đó chưa có đường cao tốc và đường xá rất trở ngại, khó khăn nên đi từ Bắc Kinh đến đó phải mất tới 6 giờ đồng hồ. Diệp đã tìm cho cô bạn gái chỗ làm việc và một ngôi nhà để ông bí mật thường xuyên lui tới. Đôi khi Diệp sử dụng xe của Giang Thanh, lúc bà rời Bắc Kinh. Trong thời gian nạn đói lớn, ông đã lo chu cấp đầy đủ thực phẩm cho người tình. Đến khi người ta bắt đầu tiến hành xét hỏi ông trong thời kỳ Cách mạng văn hoá, ông mới cắt đứt quan hệ vừa được nối lại giữa hai người. Mãi đến năm 1980, khi Diệp Tử Long được phục hồi, được bầu làm phó thị trưởng thành phố Bắc Kinh, hai người mới quay lại với nhau. Lúc đó ông đã là một ông già hói đầu, còn cô bạn gái của ông đã là một bà già tóc bạc.
Việc tôi được nhận vào Nhóm Một đã làm cho Diệp Tử Long phật ý. Diệp vẫn không quên chuyện tôi đã từ chối không cho người bà con của ông penicillin. Là một cự chiến binh, một nông dân thuần tuý, từng tham gia Vạn Lý Trường Chinh, Diệp coi tôi là viên trí thức tầng lớp trung lưu thấm đậm ý thức hệ tư sản của xã hội cũ. Đối thủ của ông là Uông Đông Hưng lại chọn tôi càng làm tăng thêm ác cảm của ông. Sau khi Phó Liêm Chương và ông biết tôi được bổ nhiệm làm bác sĩ riêng của Mao, họ đã lập kế hoạch làm sao loại tôi ra một cách nhanh nhất. Giang Thanh đã cho tôi biết, bọn họ đã báo cáo trực tiếp với Mao rằng, cần phải lưu ý đến lý lịch tư sản của tôi, rằng tôi không đảm bảo chắc chắn về mặt chính trị, nhưng Mao đã không đồng ý.
Là thành viên của Nhóm Một, tôi buộc phải làm việc cùng với Diệp Tử Long, khiến mối ác cảm của tôi đối với ông ngày càng tăng.
Ngay cả những vệ sĩ của Mao cũng chẳng có thiện cảm với Diệp. Văn phòng của họ nằm ngay sát phòng của các nhân viên y tế, nên khó thấy được sự khác nhau giữa hai nhóm. Các cô y tá thường tập trung vào công việc và chỉ trao đổi về công việc của họ. Hứa Đào là người rất kín tiếng. Lại bị dán nhãn hiệu trong nhóm chống đảng cộng thêm gần đây ông bị buộc tội hủ hoá, ông hiểu ra rằng chỉ cần lỡ lời có thể gây cho ông những chuyện rắc rối lớn.
Ngược lại, đám vệ sĩ lại lắm lời. Họ thường oang oang, công khai kháo nhau những chuyện mà các cô nhân viên phục vụ rất xấu hổ không dám hé răng. Chuyện tình dục là đề tài mà họ ưa thích.
Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi thấy Mao thản nhiên nói chuyện làm tình. Mao không hiểu hệ thống sinh dục của con người, nhưng tôi nhanh chóng phát hiện ra ông rất quan tâm đến vấn đề tình dục. Chẳng hạn, ông thường xuyên nhắc đến cuộc sống tình dục của Cao Cương, một thời là thủ lĩnh vùng Mãn Châu, tự vẫn năm 1954 sau khi bị quy tội âm mưu “liên kết chống đảng”. Cao Cương từng nói, y nắm tất cả quyền lực tối cao, đến nỗi bạn thân Stalin đã gọi ông là “ông vua Mãn Châu”. Uông Đông Hưng nói với tôi, Cao đồng mưu với Giao Xương Trí tạo phản, cả hai đã bị thanh trừng vì họ ủng hộ Lưu Thiếu Kỳ trong cuộc chống đảng.
Ít khi Mao nói với tôi về sai lầm chính trị của Cao Cương. Thay vì việc đó, ông có ý quả quyết rằng, Cao đã ngủ với trên một trăm phụ nữ và ông băn khoăn tự hòi, làm sao Cao lại tán tỉnh giỏi đến thế, kể cả các cô gái trong vũ hội mà Cao tổ chức. Mao bảo: “Vợ Cao đã thú nhận, cái đêm Cao tự vẫn, đã hai lần làm tình. Đồng chí có thể tưởng tượng nổi dục vọng lớn như vậy không?”
Mao kể tiếp:
– Thói trăng hoa của Cao thực ra lỗi lầm không quá lớn. Giá như Cao không phạm những sai lầm chính trị nghiêm trọng, điều đó cũng chẳng đáng quan tâm. Ngay cả khi đã mắc sai lầm, chỉ cần Cao thành khẩn nhận khuyết điểm trước đảng, đảng vẫn có thể tha thứ, đồng chí ấy vẫn có ích đối với cách mạng.
Giang Thanh cũng công khai đề cập đến tình dục. Sau khi tôi trở thành bác sĩ riêng của Mao ít lâu, tôi ngạc nhiên thấy, nhiều lần bà đã tự hào khoe đêm hôm trước bà đã làm tình với Mao và khen ngợi hết lời khả năng tình dục của Chủ tịch.
Trong bối cảnh như vậy, thật không lấy gì làm ngạc nhiên khi tình dục là đề tài tán gẫu ưa thích nhất đối với đám vệ sĩ của Mao.
Một đề tài khác cũng không kém phần thú vị đối với nhân viên an ninh là Giang Thanh. Cứ khi vắng tai bà, câu chuyện lại xoay quanh và họ chẳng nể nang gì mà không chế nhạo. Đặc biệt cậu vệ sĩ trẻ, Tiểu Chương, có thể bắt chước cực giống điệu bộ của vợ Chủ tịch. Tiểu Chương, một chàng trai thông minh, có tướng phụ nữ, người sắm vai rất giỏi. Vì áo quần của Giang Thanh (cả áo quần lót bằng lụa) để trong phòng của nhân viên an ninh, nơi đám vệ sĩ tắm rửa, giặt giũ và là quần áo, nên Tiểu Chương đã khoác áo mưa, đội mũ rơm của bà, đi vênh váo lắc hông quanh trong phòng, làm mọi người phá lên cười. Ngay cả Mao, một lần tình cờ được chứng kiến cảnh đó, cũng chỉ tủm tỉm cười mà không nói gì.
Tôi cảm thấy không thích thú gì những trò đó và cố lánh xa bộ phận an ninh. Trước mặt họ, tôi thường nín thinh, người ta nghĩ rằng tôi không ủng hộ tư cách của họ. Bởi vậy, Diệp Tử Long khi biết điều đó, đã chỉ trích tôi tự kiêu tự đại và coi thường ông.
Sau lưng tôi, Diệp Tử Long trực tiếp đến gặp Mao nói tôi là kẻ ngạo mạn, vì là bác sĩ, nên coi thường những cán bộ xuất thân từ những gia đình công nhân và nông dân thuần tuý – bằng chứng chứng tỏ sự bấp bênh về quan điểm chính trị của tôi.
Mao khoái những lời tố cáo như vậy. Ông cố tình tạo ra sự hiềm khích giữa những người cộng sự của ông. Ông thường thu thập những tin tức làm cho chúng tôi chống đối nhau, để ngăn cản chúng tôi liên kết chống lại ông. Ông thường làm cho nội bộ Nhóm Một ở trong bầu không khí căng thẳng. Chẳng hạn, Giang Thanh thường xuyên va chạm với Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều. Trước đây, Giang Thanh và Diệp vốn thân nhau, nhưng khi bà phát hiện ra Diệp đóng một vai trò quan trọng đối với chồng bà, mối quan hệ giữa họ trở nên nguội lạnh trông thấy. Bà cũng không chịu thông cảm với Lý Ẩm Kiều vì Lý đã một lần xúc phạm bà và trong một cuộc phát động chính trị, bà đã chuyển đến Hàng Châu để thoát ra khỏi sự theo dõi. Uông Đông Hưng và Diệp Tử Long là hai kẻ cừu địch. Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều cũng không hoà hợp, vì cả hai đều ganh tị nhau trước những ân huệ của Mao. Mao lợi dụng những bất hoà đó nhưng khi nào có nguy cơ xô xát, ông lại đứng ra hoà giải và sự hoà hợp cũng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.
Một hôm ở Hàng Châu, Mao nói với tôi:
– Người làm ngành y thường tự kiêu. Tôi không thích thế.
Tôi đáp:
– Có thể với những người khác, nhưng đối với Chủ tịch thì không dám thế.
Mao phản bác:
– Tôi không tin điều đó. Đồng chí chưa bao giờ tự cao tự đại chứ?
Lúc đó tôi mới biết Diệp Tử Long đã tố cáo tôi.
Thực ra nếu so sánh với đám người phục vụ quanh Mao, tôi cũng có chút tự kiêu. Bởi vì xét cả hai mặt, địa vị xã hội của gia đình lẫn quá trình học hành trở thành bác sĩ, một nghề được trọng vọng và người bác sĩ đáng được mọi người kính trọng. Theo quan điểm cách mạng của Mao, mọi quan điểm đã thay đổi. Địa vị cáo quý hiện nay là nông dân và công nhân. Nhưng tôi khó thay đổi quan điểm, tôi luôn tự hào về công việc và cảm thấy khó chịu với những tiếng xì xèo thô thiển trong đám nhân viên của Mao.
Diệp nghĩ tôi nên từ chức, nhưng Mao đóng vai người giải hoà. Ông lệnh cho Diệp không được gây khó dễ đối với tôi và chỉ thị cho tôi hãy xích lại gần Giang Thanh hơn. Bà khuyên tôi nên kính trọng và niềm nở với ông ta một chút. Cuối cùng bà nói, Diệp Tử Long phục vụ Chủ tịch lâu hơn tôi và thậm chí ngay cả bà cũng phải chiều Diệp.
Nhưng tôi không muốn lấy lấy lòng Diệp Tử Long nhưng phải chiều ý Giang Thanh. Tôi nói với Mao những suy nghĩ về Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều, rồi kết luận rằng những người khác đều không có cảm tình đối với cả hai người. Mao đáp:
– Nhưng họ có ích đối với tôi. Đồng chí hãy cố hoà hợp với họ.
Lúc đó, tôi vẫn chưa hiểu tại sao cả hai lại hữu dụng đối với Mao. Mãi nhiều năm sau tôi mới biết được sự bí mật về lợi ích của họ đối với Chủ tịch.
Lúc nào tôi cũng cảm thấy mình ở trong tình trạng ngột ngạt – không phải vì Mao, người tôi luôn tôn kính, cũng không phải vì Giang Thanh người gây khó mà vì những cộng sự của Nhóm Một. Những kẻ nịnh bợ này làm cho tôi ghê tởm và chán ngấy những lời nhắc nhở nên bợ đỡ ai hoặc tôi phải sốt sắng với ai. Mặc dù tôi là người cộng sự gần gũi nhất của Mao, nhưng những thành viên của Nhóm Một lại coi tôi chẳng ra gì. Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều – nói chung, cả đám thư ký và vệ sĩ – có thể ví như các hoạn quan trong hoàng cung, suốt ngày tranh nhau lấy lòng vua, chuyển lệnh của vua và lợi dụng ảnh hưởng của họ để doạ nạt và làm nhục người khác. Người ta trông chờ tôi bỏ lòng tự trọng của mình đi và thành kẻ xu nịnh. Mặc dù là bác sĩ riêng của Mao, nhưng tôi vẫn bị Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều đối xử thô lỗ.
Tôi đã cố gắng để tình hình của tôi sáng sủa hơn. Mao vẫn còn khỏe và không cần bác sĩ túc trực hàng giờ bên ông. Nếu tôi ở lại tất nhiên tôi không bao giờ trở thành một thầy thuốc tầm cỡ, trong khi ước mơ trở thành bác sĩ giỏi vẫn thôi thúc không ngừng.
Bởi vậy, tôi đã quyết định từ chức.
Trước hết tôi nói với Uông Đông Hưng. Ông ta hoài nghi:
– Đồng chí đã làm được nhiều việc cho Chủ tịch đấy chứ.
Rồi ông động viên tôi:
– Đồng chí đã giải quyết được vấn đề bạch cầu và kê toa thuốc ngủ mới cho Chủ tịch. Đồng chí không được xem xét mọi việc một cách khe khắt như thế, đồng chí phải nghĩ đến đảng. Không mấy ai dễ có được một chức vụ như đồng chí. Ngoài ra, nếu đồng chí không cân nhắc kỹ càng một cách toàn diện, đầy đủ mà xin thôi việc không có lý do chính đáng, sau này có thể đồng chí sẽ không tìm được việc làm đâu.
Câu nói cuối cùng của Uông làm tôi tỉnh ngộ. Những người rời khỏi Nhóm Một không có lý do cụ thể, trong số đó có một người là bác sĩ của Mao trước đây, đã phải cố gắng lắm mới tìm nổi việc làm. Người ta cho rằng nếu ai đó phải thôi việc chắc chắn phải vì lý do chính trị. Vì tại sao người ta lại muốn rời khỏi khu vực Trung Nam Hải danh giá như thế nhỉ? Không ai dám liều lĩnh trở thành một người có nghi vấn về chính trị. Với lý lịch gia đình, sự ra đi của tôi sẽ trở thành nhiều nghi vấn chính trị. Tôi kẹt trong tình thế lưỡng nan. Nhưng tôi cảm thấy rất nguy làm việc trong Nhóm Một. Mặc dù vậy, tôi vẫn luôn luôn nghĩ tới quyết định từ chức, đù chẳng đi đến đâu.
Tôi nghĩ lung lắm về tình trạng của tôi, nhưng câu trả lời vẫn như cũ, tôi vẫn muốn xin thôi việc, càng sớm càng tốt, dù hậu quả xấu như thế nào cũng kệ.
Rồi tôi đến gặp Giang Thanh, báo cáo:
– Tôi đã suy nghĩ kỹ về tình trạng của tôi ở đây. Tôi là một trí thức của xã hội cũ, không hợp với những đòi hỏi về chính trị được đặt ra đối với bác sĩ riêng của Chủ tịch. Tôi thiết nghĩ, chúng ta cần phải tìm ai đó thay tôi và người đó xuất thân từ giai cấp chuyên chính và có lý lịch trong sạch về chính trị.
Giang Thanh hỏi tôi đã báo cáo chuyện này với Mao chưa. Tôi giải thích rằng tôi đã báo cáo đầy đủ thành phấn xuất thân, nhưng chưa nói chuyện xin từ nhiệm.
Bà ta trầm ngâm suy nghĩ một lát, khuyên tôi đừng đến gặp Chủ tịch. Bà muốn đích thân đến nói chuyện với ông.
Hôm sau, Giang Thanh cho gọi tôi tới. Bà đã nói chuyện với Mao và đi đến một quyết định, những khó khăn về chính trị của tôi và gia đình tôi đều thuộc về quá khứ. Ngoài ra, Uông Đông Hưng, La Thuỵ Khanh và Dương Thượng Côn đã kiểm tra kỹ lý lịch, tư cách và đã xếp tôi vào loại không có vấn đề. Nếu lấy thành phần gia đình đổ lên đầu đồng chí là hoàn toàn bất công. Chu Ân Lai cũng đã được báo cáo chuyện này. Giang Thanh bảo:
– Như vậy đồng chí có thể hoàn toàn yên tâm và trở lại công việc của đồng chí. Đồng chí hãy quên quá khứ vấn đề chính trị của đồng chí đi.
Uông Đông Hưng khá vui. Ông tự hào nói:
– Ít ra, chúng ta đã biết Chủ tịch nghĩ gì về đồng chí. Chủ tịch quý mến đồng chí, đúng thế không? Tôi đã bảo mà, hễ tôi tiến cử ai, người ấy rất xứng đáng, có phải không? Bây giờ đồng chí phải cố gắng làm việc. Đồng chí không còn gặp khó khăn gì nữa!
Thế là tôi không còn cựa quậy vào đâu được.
Sau sự việc này, Giang Thanh tỏ ra thân mật với tôi hơn trước nhiều. Bà thường gọi tôi đến để chuyện trò và pha trà mời tôi.
Bà bắt chước cách nói chuyện của Mao, thoải mái và không nặng nề. Bà động viên tôi nói thẳng và cố tìm hiểu nhưng suy nghĩ của tôi, mà không đánh giá một suy nghĩ nào. Giang Thanh có thể bắt chước giống hệt chồng, vì bà đã từng là diễn viên, nhưng thực ra lại không phải tác phong của ông. Quan điểm của bà ảnh hưởng trực tiếp từ Mao vì thế tôi thường bất đồng ý kiến, nhưng khi trò chuyện tôi rất cẩn trọng. Tôi không hề nghĩ, một lời nhận xét vô tư nhất về một cuốn tiểu thuyết hay một bài thơ, mười năm sau lại có thể trở thành nguy cơ đe doạ cuộc sống của người đó. Nhưng từ buổi ban đầu tôi không dễ gì cảm nhận thấy nhưng tôi đã có linh cảm như vậy và trước mặt Giang Thanh tôi luôn luôn cảnh giác mỗi lần đến viếng thăm.
Đầu mùa hè năm 1956, chúng tôi vẫn còn ở Quảng Châu, người y tá của Giang Thanh cho tôi hay, vợ của Chủ tịch muốn gặp tôi. Cô ta con nói thêm:
– Có tin mừng cho đồng chí đấy.
Khi tôi bước vào phòng, Giang Thanh đang ngắm nghía những tấm ảnh. Bà là người chụp ảnh nghiệp dư rất cừ. Bà đặt những tấm ảnh sang một bên và lên tiếng:
– Bác sĩ này, tôi nghe thấy người ta nói đồng chí thường ra mồ hôi khá nhiều.
Tôi lúng túng. Tôi thiếu quần áo hợp với khí hậu nhiệt đới ở Quảng Châu. Mặc dù khi làm việc tôi đã phải cởi áo ra, nhưng vì ở đây không có máy điều hoà nhiệt độ và quần của tôi may bằng vải dày, nên suốt ngày tôi vã mồ hôi.
Tôi đáp:
– Tôi không mang theo quần áo mùa hè.
Giang Thanh chỉ vào những xấp vải trên một cái bàn:
– Đồng chí hãy lấy một tấm vải để thợ may cho một bộ quần áo khác. Quần áo của đồng chí dày quá.
– Thưa, tôi có thể chỉ mắc áo sơ mi, không mặc áo vét cũng chẳng sao.
Tôi đang chần chừ thì cô y tá giật tay áo tôi, ra hiệu tôi nên nhận món quà của Giang Thanh. Nhưng tôi lại chối từ:
– Thành thật cám ơn sự quan tâm đặc biệt, nhưng tôi không dám nhận.
Tôi không muốn mang tiếng đã nhận quà của vợ Chủ tịch. Nhưng Giang Thanh vẫn không chịu.
– Đồng chí hãy nhận cho tôi hài lòng.
Bà sẽ cho người đưa tôi đến thợ may.
Món quà của Giang Thanh đã đặt tôi vào một tình thế khó xử. Mặc dù bà có tiếng keo kiệt, nhưng lần này bà lại tỏ ra hào phóng đối với tôi. Nhận món quà của bà sẽ làm nhân viên Nhóm Một thêm đố kỵ, họ đã từng bép xép nói xấu tôi sau lưng. Nếu tôi từ chối, có nghĩa là tôi dám xúc phạm bà và có thể cũng dám xúc phạm cả Mao nữa.
Tôi đã kể cho Uông Đông Hưng về sự khó xử của tôi. Uông nói:
– Nếu đồng chí không nhận vải, Giang Thanh sẽ quả quyết đồng chí coi thường bà ấy. Nếu đồng chí nhận, những người khác sẽ ghen tị với đồng chí. Tôi sẽ nói cho đồng chí ấy hiểu về vấn đề này và có thể thuyết phục được Giang Thanh.
Nhưng Giang Thanh không thay đổi ý kiến. Uông Đông Hưng thuật lại với tôi:
– Giang Thanh nói “Đồng chí ấy hỏi, tại sao người này không thể quan tâm đến người khác được?”. Đồng chí ấy đâu muốn mua chuộc đồng chí. Nếu có ai xì xào sau lưng đồng chí, tôi sẽ giải thích cho họ biết.
Tôi buộc phải nhận món quà của Giang Thanh. Nhưng lời đàm tiếu còn tệ hại hơn những điều tôi tưởng tượng. Lý Ẩm Kiều to nhỏ:
– Giang Thanh lúc nào mà chả keo kiệt. Cử chỉ thân thiện của bà đối với bác sĩ Lý chắc chỉ là một lần đầu tiên.
Rồi Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều đã phao tin, Giang Thanh và tôi rất “hữu  hảo” với nhau, tức là chúng tôi là những người bạn tốt, ý bóng gió rằng, giữa chúng tôi có mối quan hệ tình cảm nào đó. Tin đồn đến tai Mao và có lẽ ông cũng nửa tin nửa ngờ.
Ngay sau khi nghe được tin đồn thổi, tôi trực tiếp đến bào cáo với Mao.
Tôi hỏi ông có biết món quà Giang Thanh cho tôi không. Ông bảo:
– Biết, biết ngay từ đầu. Đồng chí cứ nhận lấy, sao lại từ chối.
Tôi báo cáo với ông về những lời đồn thổi giữa tôi và Giang Thanh, ông bảo ông cũng đã nghe thấy.
Bố bảo Giang Thanh chẳng dám ngoại tình. Ngoại tình, Mao có cớ để ruồng bỏ, điều bà ta rất lo sợ. Nhưng bà rất khéo lấy lòng những nhân viên gần gũi Mao và hài lòng khi được đàn ông ngưỡng mộ.
Tôi báo cáo với Mao về tin đồn nhảm và chứng minh không có chuyện đó. Mao bảo:
– Người quân tử hành xử theo lương tâm.
Lời đồn thổi thế là chấm dứt.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [15]


Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 15

Posted: 09/07/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Bấy giờ đã là tháng 6. Tiết trời ở Quảng Châu nóng kinh khủng. Mao dọn đến khu nhà số 3 và ở trong một phòng khách rộng. Hàng ngày những người phục vụ mang đến năm thùng đựng đầy nước đá để làm cho Chủ tịch mát mẻ, dễ chịu. Còn chúng tôi dùng quạt máy để xua tan khí nóng.
Tối đến muỗi nhiều vô cùng. Nếu ngủ không mắc màn, muỗi tấn công, nếu mắc màn bầu không hầm hập, ngột ngạt khó thở. Mao cũng không tránh khỏi những phiền phức. Ông ta đã khiền trách đám vệ sĩ đã không gắng hết mình diệt muỗi. Đám vệ sĩ đùn trách nhiệm cho tôi. Họ nói muỗi truyền bệnh sốt rét, nên việc chống muỗi là của bác sĩ.

Nạn muỗi là một vấn đề nan giải. Chúng tôi ở trên một hòn đảo có nước bao bọc xung quanh, đó chính là sào huyệt của muỗi. Ngoài ra, lại còn các xó xỉnh trong các ngôi nhà mà trần nhà chỉ cao khoảng ba, bốn mét, với những tấm rèm cửa dầy kín mít. Ban ngày bọn muỗi đậu trên trần nhà hoặc chui vào giữa các tấm rèm. Khi mặt trời lặn, chúng mới bay ra hàng đàn. Tất cả nhưng nỗ lực để giải toả sự hành hạ con người đều thất bại. Chỉ đến khi chúng tôi đề nghị phải có thuốc DDT mua từ Hong Kong, vấn nạn muỗi mới được giải quyết.
Tiết trời oi bức cũng làm cho những cộng sự của Mao nổi cáu. Họ đề nghị tôi thuyết phục Mao đã đến lúc nên trở về Bắc Kinh. Nhưng Mao nói: “Cái nóng không hành hạ tôi. Hơn nữa, tôi còn phải hoàn tất một vài công việc ở đây, nên chúng ta phải hoãn ngày về một chút”. Tôi đồ rằng có chuyện chính trị quan trọng Mao đang nung nấu suy nghĩ. Trong khi Mao đi vắng, nhiều bài xã luận đăng trên tờ Nhân dân Nhật Báo, ban lãnh đạo trung ương ở Bắc Kinh đã công khai chỉ trích “chính sách phiêu lưu” và tuyên bố, sản xuất công nông nghiệp phải được tăng trưởng từng bước vững chắc. Lúc đó, dư luận nhân dân Trung Quốc kể cả tôi cũng chưa hiểu sự chỉ trích “những chính sách phiêu lưu” của trung ương đảng nhằm vào Mao, vì ông chủ trương tập thể hoá và mở rộng sản xuất công nghiệp một cách ồ ạt.
Tôi định thuyết phục Mao trở về, La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng hỏi tôi, liệu nước dòng Châu Giang có sạch không. Tôi đành bỏ ý định, vì Chủ tịch vừa nói muốn bơi ở ba con sông: Châu Giang ở Quảng Châu, sông Tương ở Trường Sa tỉnh Hồ Nam và sông Dương Tử ở Vũ Hán, tỉnh Hà Bắc. La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng cũng như ban lãnh dạo của các tỉnh trên đều cho rằng, dự định của ông rất nguy hiểm. Đào Chú nói Châu Giang ở Quảng Châu bị nhiễm bẩn nặng. Vương Nhiệm Trọng nghĩ sông Dương Tử ở Vũ Hán quá rộng và dòng nước xoáy rất nguy hiểm. Nhưng Mao không nghe, bây giờ La và Uông chờ lời phán quyết chính thức của tôi là nước Châu Giang có bị nhiễm bẩn nặng không.
Có lẽ nước sông không sạch vì các nhà máy công nghiệp của tỉnh Quảng Châu đều làm ở phía thượng lưu của sông. Nhưng vì không xét nghiệm, nên tôi không thể nói được mức độ nhiễm bần như thế nào.
Uông và La đề nghị tôi kiểm tra vi khuẩn và chất thải trong nước, rồi nói lại kết quả cho họ biết, càng sớm càng tốt.
Sáng hôm sau, trước khi có kết quả xét nghiệm, một vệ sĩ của Mao đến đón tôi. Anh ta nói: “Chủ tịch có vẻ muốn đi bơi”. La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng sẽ gặp Mao và muốn tôi đi cùng.
Tôi đi ngay, vào tư dinh của Mao, hai nhân viên an ninh đã có mặt ở đó. Mặt họ đỏ bừng và nhễ nhại mồ hôi. Uông lúng túng cười gượng với tôi. Kết quả xét nghiệm giờ đây chẳng cần thiết, Chủ tịch đang thay quần áo bơi.
Mao từ phòng ngủ bước ra. Ông khoác chiếc áo choàng màu trắng, mặc chiếc quần bơi cũng màu trắng và đi dép da. Ông đi nhanh đến thẳng cầu tàu, tay vung vẩy, bước lên du thuyền đã chờ sẵn. Đào Chú, Vương Nhiệm Trọng và Dương Thượng Côn đi sát ông, tôi rảo bước theo họ. Mao muốn chứng minh với mọi người rằng, không ai có thể ngăn cản được ông.
Thuở thiếu thời, ông đã tập bơi trong ao nhà và bơi rất khá. Tất cả nhng ai chịu trách nhiệm về an toàn của ông đều cố khuyên can ông đừng bơi. Nhưng đám vệ sĩ của ông càng ra ngăn cản, ông lại càng quyết tâm.
Chiếc du thuyền chạy ngược một đoạn ngắn trên sông, vừa tắt máy dừng lại, lập tức có bốn thuyền tam bản vây quanh. Mao bước xuống dưới theo chiếc thang bên mạn thuyền rồi nhẩy tòm xuống nước. Nhảy theo ông có khoảng 20 đến 30 vệ sĩ và các vị lãnh tụ của đảng. Tôi nhảy xuống nước cuối cùng và nhập vào vòng bảo vệ vây xung quanh. Mao quyết định nhảy xuống bơi quá nhanh, đến nỗi chỉ mình ông là người duy nhất mặc quần bơi, còn chúng tôi đều mặc quần lót.
Sông rộng trên 100 mét, lững lờ trôi. Nước sông bẩn đúng như tôi lo ngại. Thỉnh thoảng những đám rác rưởi lềnh bềnh trôi qua. Nhưng Mao chẳng nề hà. Ông nằm ngửa, để cái bụng phệ nổi lên trên mặt nước như quả bóng, hai chân duỗi thẳng như nằm trên ghế xa-lông. Nước đẩy ông trôi theo dòng và ít khi ông sử dụng chân hoặc tay để bơi.
Tôi bơi kém, nên phải dùng hết sức để giữ cho người nổi trên mặt nước. Mao đế ý thấy tôi bơi khá vất vả ông nói với sang: “Đồng chí chùng người lại, đừng cử động chân tay nhiều, mới giữ người nổi trên nước lâu mà không mệt. Hãy thử đi”.
Tôi thử, nhưng tiếc không có kết quả. Tôi lại phải khua chân khua tay, không thì bị chìm nghỉm. Mao bảo: “Đồng chí sợ chìm chứ gì? Đừng nghĩ vậy, càng sợ càng dễ bị chìm. Không sợ chìm người sẽ nổi”.
Dương Thượng Côn và Vương Nhiệm Trọng đã học nhanh hơn. Họ đã nắm được bài dạy tập bơi của Mao và cùng trôi nổi với ông. Vài năm sau tôi cố tập ở biển, sông và bể bơi mới biết bơi theo cách của ông.
Chúng tôi bơi gần hai giờ đồng hồ xuôi theo dòng Châu Giang, độ 6 hay 7 dặm. Sau đó chúng tôi tráng lại người và ăn trưa trên boong thuyền được trang bị đầy đủ tiện nghi. Giang Thanh từ trên buồng lái xem chúng tôi bơi, bước xuống nhập bọn.
Mao cảm thấy rất sảng khoái, hệt như ông vừa thắng trận. Mao hỏi xoáy La Thuỵ Khanh:
– Người của đồng chí bảo bác sĩ Lý nói nước sông quá bẩn phải không?
Tôi chống chế:
– Tôi thấy cả phân trôi qua mà.
Mao cười sảng khoái:
– Nếu lúc nào chúng ta cũng nghe lời thầy thuốc thì chúng ta chẳng thể tồn tại nữa. Tất cả sinh vật không cần không khí, nước và đất hay sao? Đồng chí nói cho tôi biết, cái gì là sạch sẽ? Tôi không tin có không khí sạch, nước sạch và đất sạch tuyệt đối. Mọi thứ đều không sạch mà đều bẩn. Đồng chí thử thả một con cá vào nước cất xem, đồng chí nghĩ con cá sẽ sống được bao lâu?
Tôi im lặng. Dẫu sao Mao cũng không chấp nhận ý kiến về vệ sinh của tôi.
Buổi tối, khi chúng tôi gặp lại nhau, tôi mới biết giữa ông và nhân viên bảo vệ của ông đã nổ ra một cuộc xung đột mới. Ông nói:
– Tôi muốn bơi ở cả ba con sông. Theo ý kiến của La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng, tôi chẳng nên bơi ở con sông nào. Viện lý do Dương Tử là con sông có sóng to và nhiều xoáy nước nguy hiểm. Nếu không may tôi bị dòng nước cuốn đi thì không ai có thể cứu tôi được. Còn Đào Chú lại không muốn tôi bơi ở Châu Giang, nhưng đồng chí ấy không phản đối tôi bơi ở sông Tương. Vương Nhiệm Trọng không muốn tôi bơi ở sông Dương Tử, nhưng đồng chí ấy lại không phản đối tôi bơi ở Châu Giang và sông Tương.
Ở đây còn có vấn đề nhiệm vụ của mỗi người. La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng phải chịu trách nhiệm đảm bảo an toàn cho Mao ở khắp nơi. Vì vậy họ không hề muốn Mao bơi ở bất cứ con sông nào. Là bí thư thứ nhất tỉnh Quảng Đông, Đào Chú lại phản đối việc Mao bơi ở Châu Giang và cho rằng tính mạng Mao sẽ gặp nguy hiểm. Nếu Mao bơi ở Dương Tử, thì Vương Nhiệm Trọng phải chú ý đến vấn đề an toàn cho ông.
Mao nói:
– Tôi không cần các đồng chí bảo vệ tôi. Song, các đồng chí vẫn chưa biết nước sông như thế nào, nên tôi đã cử Yến Thanh Ngọc và Tôn Vĩnh đến bơi thử ở sông Dương Tử và kể lại cảm tưởng của họ cho tôi biết.
Cả hai nhân viên an ninh này đều là những người bơi giỏi và luôn bơi cạnh Mao.
Điều không thể ngờ, Mao có thể bơi ở sông Dương Tử. Đây là con sông lớn, nước chảy xiết, hung dữ và nguy hiềm nhất Trung Quốc. Ngay việc điều khiển tàu bè trong dòng nước xiết có nhiều xoáy nước cũng là việc không dễ. Chưa có ai trong số cư dân hai bên bờ sông bơi được một quãng sông dài. Mặc dù vậy, Mao vẫn liều. Sau khi kiểm tra trở về, Yến Thanh Ngọc và Tôn Vĩnh đều đồng thanh báo cáo lại rằng, sông Dương Tử nguy hiểm hơn nhiều so với Châu Giang. Ai đã bị cuốn vào xoáy nước có thể mất mạng như chơi. Ngoài ra, trong nước còn có vô số sò ốc mang sán lá dễ gây bệnh.
La Thuỵ Khanh đề nghị Vương Nhiệm Trọng nên thông báo kết quả đó cho Mao, nhưng Vương lại cử ngay hai người bơi thử đến báo cáo vì Vương biết Mao không nghe ông.
La Thuỵ Khanh dặn đi dặn lại hai viên vệ sĩ phải nói thật cho Mao rõ. Họ đồng ý. Tất cả chúng tôi cùng đến chỗ Mao. Khi đứng trước mặt lãnh tụ, Yến Thanh Ngọc vì quá xúc động, nên lắp bắp nói không nên lời. Không có cách nào khác, Mao đành ngắt lời anh ta. Ông nói:
– Thôi được, đồng chí đừng nói nữa. Bây giờ tôi sẽ hỏi đồng chí và đồng chí hãy trả lời lần lượt từng câu một.
Yến vẫn chưa hết run. Mao bắt đầu hỏi:
– Sông rộng lắm không?
Yến gật đầu:
– Thưa, rất rộng ạ.
– Có nhiều xoáy nước phải không?
– Thưa, có nhiều xoáy nước ạ.
– Người ta có thể tự thoát ra được nếu rơi vào một xoáy nước không?
Yến lắc mạnh đầu:
– Thưa không, không thể ạ.
– Như vậy, không thể bơi được ở sông đó phải không?
– Thưa, đúng thế ạ.
Đột nhiên, Mao đấm xuống bàn và gầm lên giận dữ:
– Tôi cuộc rằng, bản thân đồng chí chưa hề xuống nước. Từ đâu đồng chí biết được những điều đó? Làm thế nào đồng chí lại có thể là chỉ huy cảnh vệ của tôi được?
Mao quát:
– Gun dan!
Đó là thành ngữ cổ, dịch theo đúng nghĩa “cút mẹ mày đi!” Một thứ ngôn ngữ chắc chắn nhân dân Trung Quốc không thể ngờ phát ra từ vị lãnh tụ tối cao.
Yến tái mặt, kinh hãi đứng như trời trồng.
– Gun dan! – Mao lại quát.
Yến rời khỏi căn phòng. Những người khác không hề nhúc nhích. Mao quay sang Tôn Vĩnh.
– Bây giờ đồng chí hãy nói cho tôi biết, sông Dương Tử như thế nào?
Tôn biết rõ điều anh sẽ phải trả lời. Anh nói không do dự:
– Dạ thưa, Chủ tịch có thể bơi ở sông Dương Tử được ạ.
Mao cười. Tôn muốn nói thêm, nhưng Mao đã biết trước:
– Đủ rồi. Đừng nói nữa. Đồng chí hãy chuẩn bị đi.
Uông Đông Hưng bực tức với Tôn Vinh. Ông vặn:
– Tại sao đồng chí lại nói dối? Đồng chí đã hứa nói thật với Chủ tịch cơ mà!
Tôn đỏ mặt:
– Thưa thứ trưởng Uông, đồng chí không thấy điều gì đã xảy ra với đồng chí Yến sao? Nếu tôi cũng nói với Chủ tịch như vậy, đồng chí ấy cũng lại tống cổ tôi ra ngoài. Tôi không thể làm khác được.
Yến cũng tức và trách đồng nghiệp đã phản bội anh.
Uông Đông Hưng cố gắng trấn an Yến và hứa sẽ bảo vệ anh ta trước cơn giận của Mao. Nhưng ông không làm được điều đó.
Sau khi chúng tôi trở về Bắc Kinh, Yến bị loại khỏi Nhóm Một. Còn Tôn Vĩnh, kẻ vừa nói dối vừa phản bội đồng nghiệp vẫn tiếp tục làm vệ sĩ cho Mao, thậm chí anh ta còn được đề nghị thăng cấp.
Rốt cuộc, cuối tháng 6-1956 Mao đã lên đường. Cái đích của chuyến du hành sắp tới là Trường Sa, thủ phủ tỉnh Hồ Nam, quê của ông. Tại đó, ông muốn bơi ở con sông Tương như thuở thiếu thời. Chúng tôi đáp trên con tàu đặc biệt của Mao.
Tiết trời ở Trường Sa nóng khủng khiếp, nhiệt độ tới 40 độ C. Ngay sau hôm chúng tôi tới nơi, Mao đã bơi lần thứ nhất.
Sông Tương đang mùa lũ, có nơi rộng tới gần 200 mét. Nhóm của Mao, cả thảy có khoảng 50 chục người, bơi gần đến dãy phố chạy song song hai bên bờ. Bỗng nhiên ở đâu đó có tiếng kêu thất thanh. Một vài người nói: “Đưa đồng chí ấy vào bệnh viện”. Lý Tương, trưởng phòng an công an Hồ Nam bị rắn cắn.
Mao vẫn bình thản như không cố chuyện gì xảy ra, nhưng vòng người khoảng từ 25 đến 30 nhân viên an ninh bơi quanh ông khép lại La Thuỵ Khanh hoảng hốt hỏi tôi: “Đồng chí có thuốc chống rắn cắn không?” Tôi gật, đã chuẩn bị đầy đủ. Tôi biết ông lo ngại cho Lý Tương, còn tôi không thể giúp đỡ quan chức bị thương. Tôi chỉ chịu trách nhiệm chăm lo sức khỏe của Mao.
La Thuỵ Khanh không hiểu sao lại có rắn và tại sao bên an ninh không kiểm tra kỹ khu vực này.
Nhưng Mao cũng thay đổi dự định vào phút chót, nhân viên an ninh đã chuẩn bị địa điểm khác để Chủ tịch bơi, nhưng họ cũng không có cơ hội thực hiện theo kế hoạch.
Sự việc xảy ra ngoài dự kiến đã dồn thêm gánh nặng cho các vệ sĩ của Mao. Uông Đông Hưng quyết định từ nay về sau, nhân viên an ninh phải kiểm tra thật kỹ thêm khoảng cách trên 500 mét cả hai chiều nơi mà Mao sẽ xuống tắm.
Mặc dù nước sông Tương chảy mạnh hơn Châu Giang, nhưng Mao vẫn để cho người trôi xuôi dòng như ở Quảng Châu. Ông trôi đến một hòn đảo nhỏ nằm giữa sông mà hồi còn trẻ ông thường đến. Đảo đó gọi là đảo Cam.
Ngay khi ông vừa đặt chân lên đảo, một chiếc ca-nô tuần tiễu cũng đã thả neo xong. Những người cần vụ mang đến cho Mao một chiếc choàng, một dôi dép và một hộp thuốc lá. Còn chúng tôi đi chân đất và chỉ mặc độc có chiếc quần bơi. Bỗng nhiên một lũ trẻ con trên đảo nhận ra Chủ tịch đã chạy ùa tới, hô vang khẩu hiệu: Mao Chủ tịch muôn năm! Nhân viên an ninh định xua chúng đi chỗ khác, nhưng Mao cho phép chúng ở lại, ông rất muốn gặp gỡ quần chúng.
Có một vài gia đình sống trên đảo. Những ngôi nhà của họ đã đổ sập tới một nửa. Những cây cam mà người ta lấy tên loài cây này đặt cho hòn đảo, chưa từng thấy ở bất cứ đâu. Mao châm một điếu thuốc, đi lại phía một bà già ăn mặc rách rưới.
Mao hỏi: “Bà sống ở đây ra sao?” Rõ ràng bà ta không hề biết trước mặt bà là vị Chủ tịch đảng cộng sản Trung Quốc. Bà vẫn lúi húi làm việc, không trả lời. Mao nhắc lại câu hỏi.
Cuối cùng bà cũng hững hờ đáp lại, không thèm ngước lên nhìn:
Màn màn hẩu hẩu lớ!
Câu này có nghĩa “Vẫn vậy vậy thế thôi!”
Ngay lúc đó, một toán cư dân trên đảo tập trung xung quanh Mao và Mao kể thời còn trẻ ông thường bơi đến hòn đảo này. Khi đó hòn đảo vẫn còn hoang vắng.
Nhiều năm sau, vào tháng 6-1959 khi chúng tôi trở lại hòn đảo, bà già đã không còn sống ở đó nữa. Việc Mao ở lại trên đảo ngoài kế hoạch, nên lực lượng an ninh được một phen hú vía. Ngay sau đó, nhân viên phòng an ninh tỉnh và một đơn vị quân đội đóng ở gần đảo đã phải lùng tìm “những phần tử tình nghi” và đuổi tất cả dân trên đảo đi. Người ta đã biến hòn đảo thành một công viên lộng lẫy trồng cam. Vào mùa thu, hoa cam nở rộ, trông rất đẹp. Tôi hỏi Lý Tương, trưởng phòng an ninh tỉnh Hồ Nam, cái gì đã xảy ra với bà già, nhưng Lý nói không biết. Tất nhiên Lý biết, nhưng không muốn nói ra.
Vào ngày thứ ba chúng tôi lưu lại Hổ Nam, Mao lại đi bơi. Lần này tất cả chúng tôi đều bắt chước ông, thử để cho người nổi trôi theo dòng nước. Bỗng nhiên, Yến Thanh Ngọc, người đã khuyên Mao không nên bơi ở sông Dương Tử, không may sa vào hố phân. Bình thường hố phân nằm trên bờ sông, nhưng hố phân này lại ngập nước do nước đã dâng lên. Khắp người Yến toàn phân là phân. Trông anh ta thật đáng thương khiến tôi cũng phải bật cười theo những người khác.
Nhưng là bác sĩ riêng, phải quan tâm đến sức khỏe của Mao, nên buổi tối tôi đã nói đến việc này. Mao cười và cho rằng, thực phẩm mà chúng ta dùng đều nhờ phân bón. Ông nói tiếp:
– Sông Tương quá nhỏ. Tôi muốn bơi ở sông Dương Tử. Nào hãy đến sông Dương Tử!
Chúng tôi mất mấy tiếng đi tàu đến Vũ Hán.
Vương Nhiệm Trọng đã chuẩn bị tất cả mọi thứ. Chúng tôi ở nhà khách Đông Hồ. Vương tìm được một chiếc tàu thuỷ hiện đại, “Đệ nhất Đông phương hồng”, có khoảng từ hai đến ba trăm chỗ và trong khoang tàu có nhiều buồng ngủ nhỏ, một phòng tắm đầy đủ tiện nghi và có nhiều nhà vệ sinh. Mao, các vị lãnh đạo đảng cũng như ban tham mưu cồng kềnh của đám vệ sĩ lên tàu ở gần một nhà máy đã định sẵn và được lực lượng an ninh canh gác. Tám thuyền chở đầy nhân viên an ninh đi theo bảo vệ chiếc tàu thuỷ của Mao vă thêm bốn xuồng tuần tiễu nữa canh chừng ở khu vực xung quanh.
Khi chiếc tàu thuỷ của Mao xuôi ra giữa dòng đến chiếc một chiếc cầu lớn đang xây, Mao tụt thang xuống nước và các vị lãnh đạo khác làm theo ông. Lập tức, khoảng 40 nhân viên an ninh bơi thành một vòng quây quanh Chủ tịch. Tôi thử bắt chước bơi theo kiểu của Mao.
Tôi để cho người nổi, trôi theo nước và cử động tay chân càng ít càng tốt. Sông Dương Tử đang mùa lũ và từ giữa sông khó có thề nhìn thấy được bờ sông. Đây là con sông đẹp, đáng để thưởng ngoạn.
Bỗng tôi nghe thấy tiếng kêu từ con tầu Đông Phương Hồng và nhìn thấy những ca nô nhỏ lao nhanh hướng về phía chiếc tàu thuỷ. Mấy người thuỷ thủ nhảy xuống nước. Tôi bơi sát phía Mao, hỏi chuyện gì đã xảy ra nhưng chẳng ai biết.
Khi lên trên tàu mới hay, tướng ba sao Trần Tái Đạo, tư lệnh vùng Vũ Hán, đã xuống nước một mình sau chúng tôi không lâu. Dòng nước chảy rất xiết đã làm ông phát hoảng. Ông cố bơi trở lại tàu, nhưng dòng nước cuốn phăng, được một phen uống no nước. Các thuỷ thủ đã kịp vớt trước khi ông chìm nghỉm.
Chúng tôi đã để cho người trôi được khoảng hai giờ đồng hồ, La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng yêu cầu tôi khuyên Mao nên thôi.
Nhưng Mao muốn bơi tiếp, ông hỏi tôi:
– Thấy chưa, bơi trên sông Dương Tử đâu có quá nguy hiểm có phải không?
– Dạ, lo là lo chuyện khác, thưa Chủ tịch.
Mao vẫn tiếp tục:
– Đối với tôi, tất cả những chuyện khó mấy, nguy hiểm mấy tôi cũng không ngại khi đã chuẩn bị kỹ và đầy đủ. Nếu không chuẩn bị tốt, dù việc thật dễ cũng trở lên khó.
Tôi rất tán thành ý kiến của Chủ tịch, nhưng tôi nghĩ không phải ông đề cập đến chuyện bơi lội mà là những chuyện khác.
Chúng tôi cứ bồng bềnh trôi theo dòng nước hơn một giờ nữa, La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng lại nhắc tôi yêu cầu Mao lên tầu Đông Phương Hồng nghỉ vì đã tới đoạn sông có nhiều ốc sò có chứa sán lá gây bệnh.
Tôi nhắc Mao nên chú ý, nhưng ông bảo:
– Chuyện vặt. Đồng chí muốn tôi trở lại tàu chứ gì!
Tôi đáp:
– Chúng ta bơi hai giờ đồng hồ là đủ rồi. Trước khi bơi, nhiều người chưa ăn uống gì cả. Bây giờ chắc họ đói lắm.
– Thôi được. Ta trở lên tàu ăn cái gì đã.

Một thuỷ thủ cùng bơi với chúng tôi ước đoán chúng tôi đã bơi được chừng 15 dặm. Nhưng tôi chắc quãng đường còn xa hơn nữa. Nước sông chảy xiết, nên chúng tôi không tốn sức lắm. Dương Thượng Côn cũng đồng ý, bảo: “Đây không phải là bơi, mà thả người trôi theo dòng nước”.
Đến khi Mao trở lên tàu, những người chịu trách nhiệm an toàn cho ông mới thở phào nhẹ nhõm. Uông Đông Hưng rất lo, vì nếu Mao rơi vào trường hợp Trần Tái Đạo, chắc ông cũng chìm. Uông bảo:
– Chủ tịch có mệnh hệ gì chắc tôi không thoát khỏi tội thiếu trách nhiệm.
Tôn Vĩnh người đã dám nói Mao nên bơi ở sông Dương Tử cũng như trút được gánh nặng. Vì anh ta biết, đời anh ta sẽ chấm hết, nếu Mao có mệnh hệ gì. Mao mời chúng tôi dùng bữa trưa. Ông rất hoan hỉ về kết quả ông đã đạt được. Và những kẻ xu nịnh đã không bỏ lỡ thời cơ. Vương Nhiệm Trọng rót một ly rượu vang mời Mao. Ông nói:
– Thưa Chủ tịch, xin Chủ tịch dùng một ly rượu để tránh bị cảm lạnh ạ.
Mao cười lớn:
– Ai lại cảm lạnh giữa trời nóng nực như thế này? Nhưng đồng chí hãy cho chúng tôi uống cái gì đi đã. Tất cả cụng ly với tôi nào!
Ông nhấp ly rượu và nói với tướng Trần khi đó vẫn chưa hoàn hồn:
– Đồng chí Trần Tái Đạo này, tôi nghĩ đồng chí nên uống thêm chút vang nữa. Bình thường mọi người đều bơi được cả, tại sao đồng chí lại không?
Trần chẳng biết nói thế nào, đành im lặng.
Vương bắt đầu nịnh rất lộ liễu:
– Thưa Chủ tịch, chúng tôi biết Chủ tịch từ nhiều năm nay, nhưng đến giờ, mới biết Chủ tịch là một người bơi rất giỏi và có nghị lực rất cao. Khi còn trẻ, Chủ tịch đã từng nói: “Chiến đấu chống lại trời, chống lại đất, chống lại con người – hạnh phúc là vô tận”. Điều này đã được thể hiện trong hành động. Hôm nay chúng tôi được bơi cùng Chủ tịch, đó là hạnh phúc vô tận cho chúng tôi. Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều ở Chủ tịch. Tôi hy vọng rằng, trong tương lai Chủ tịch sẽ còn dìu dắt, chỉ bảo và giáo dục chúng tôi nhiều hơn nữa.
La Thuỵ Khanh, người đã cứng đầu cứng cổ ngăn cản ý định của Mao bơi ở cả ba con sông, cũng hùa theo ca ngợi:
– Từ lâu chúng tôi là những môn đồ của Chủ tịch, nhưng vẫn chưa thấu hiểu được tất cả những gì đã học được ở Chủ tịch. Tôi không phải là người lỳ lợm, cứng đầu như Chủ tịch thường nhắc nhở. Tôi có thể sửa đổi được mình.
Dương Thượng Côn không tỏ ra chống lại các dự định của Mao, thường giữ im lặng. Dương gọi cuộc bơi của chúng tôi là “thả nổi người theo dòng nước”, tôi biết, ông cũng không ấn tượng gì thành tích mà Mao đã đạt được. Mặc dù vậy, cũng bắt đầu hoà giọng ông vừa cười vừa nói:
– Không ai có sức mạnh bằng Chủ tịch. Không có vị lãnh tụ nào trên trái đất này cồ thể coi thường núi cao, sông dữ như Chủ tịch. Không có một nhân vật lịch sử nào có thể sánh được với Người.
Ngay cả Uông Đông Hưng, dù đã cố gắng làm tất cả mọi việc để can Mao đừng bơi, cũng quên hết mọi sự. Uông nói:
– Thưa Chủ tịch, chúng tôi cần rút ra bài học kinh nghiệm này. Chúng tôi không nên chỉ nhìn vào vấn đề an ninh mà cần phải noi gương Chủ tịch, làm theo những hành động vì đất nước của Chủ tịch. Nhân dân ta phải noi theo gương Chủ tịch…
Mao chìm đắm trong những lời ca tụng.
– Thôi đừng nịnh tôi nữa. Không có việc gì là không thể làm được, nếu người ta thực sự muốn làm việc dó. Các đồng chí nghĩ xem, nếu các đồng chí gặp điều gì đó bất thường nhưng không chế ngự được ngay và nếu các đồng chí buộc phải làm điều gì đó thì đừng có do dự, mà phải nghiêm túc chuẩn bị mà làm – như Vương Nhiệm Trọng vậy. Đồng chí ấy lúc đầu cũng can ngăn tôi, nhưng nhanh chóng hiểu ra và đã chuẩn bị kỹ trước khi bơi và đã làm được. Đó mới là quan điểm đúng.
Giang Thanh lại ca tụng Mao khi mọi người đã tạm ngưng. Bà đã từng là người phản đối Mao bơi ở sông Dương Tử, nhưng thái độ kiên quyết của Mao đã làm cho bà đổi ý. Với giọng khinh khỉnh, bà hỏi:
– Đi bơi có gì nguy hiểm đâu nhỉ?
Rồi bà hợm hĩnh nhìn mọi người xung quanh:
– Khi ở Quảng Châu, các đồng chí đã phản đối việc Chủ tịch bơi. Các đồng chí đã hoảng hốt ra mặt. Nhưng tôi lại nghĩ khác.
Mao thường quả quyết: “Chỉ có Giang Thanh là luôn luôn ủng hộ tôi”. Ông có lý. Giang Thanh đã ủng hộ tất cả các việc làm của Mao vì bà không có sự lựa chọn nào khác.
Tất cả mọi người ở đây đều là những người lãnh đạo cao cấp của đảng cộng sản, và tôi đã liên tưởng tới những lời Mao thường nói về đồng chí của ông: “Họ thường ghen tị nhau về những ân huệ tôi ban cho”. Mao nói tiếp: “Họ là những người tốt mà tôi có thể lợi dụng”. Nhưng họ đều là cán bộ lãnh đạo của Đảng nhưng cũng là những kẻ thích nịnh bợ. Vậy làm sao Mao có thể lợi dụng sự nịnh bợ này?
Cuộc nói chuyện trong bữa ăn và những lời tán tụng của mọi người thật là nhàm chán và vô nghĩa. Câu chuyện chỉ xoay quanh việc Mao bơi 3 con sông. Nhưng những lời bốc thơm Mao cũng có tác dụng về chính trị. Kế hoạch cải tổ Trung Quốc của Mao thật đồ sộ, nguy hiểm và đầy mạo hiểm. Ông có tham vọng mau chóng đẩy Trung Quốc trở thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ông phản đối sự dè đặt của ban lãnh đạo trung ương đảng, phê phán tất cả những ai cưỡng lại những dị biệt mà thiếu cân nhắc, kể cả những nhân vật bảo thủ ở Bắc Kinh. Theo quan điểm của Mao, những vấn đề xuất hiện trong quá trình tập thể hoá nông nghiệp và trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa là do thiếu chuẩn bị đầy đủ, chứ không phải do chính sách, đường lối. Nếu bản thân Mao đã có thể bơi ở những con sông nguy hiểm mà không mệnh hệ gì, thì đất nước Trung Quốc cũng có thể dám cải tổ toàn bộ nền kinh tế và cơ cấu xã hội để tiến tới thời kỳ hoàng kim và được thế giới vì nể. Nếu các nhà lãnh đạo cao cấp Trung Quốc không ủng hộ kế hoạch của ông, thì ít ra cũng có giới lãnh đạo ở các tỉnh như Đào Chú và Vương Nhiệm Trọng đứng về phía ông. Mao chỉ có thể thực hiện được kế hoạch của ông nếu các quan chức cao cấp của các tỉnh và địa phương hợp tác. Do đó, ông thường đi vi hành các nơi. Chính ở các tỉnh, ông đã tìm kiếm sự ủng hộ mà ở Bắc Kinh ông không có và chuyến đi điền đã vào mùa hè năm 1956 của ông đã thu được kết quả to lớn.
Mao lãnh đạo Trung Quốc tương tự như ông đi bơi. Ông theo đuổi những chính sách mà chẳng ai hiểu nổi và thực hiện những ý tưởng chính trị kỳ quặc như “Đại nhảy vọt”, Công xã nhân dân và Cách mạng văn hoá. Vào tháng 6-1956, những dự định chính trị mạo hiểm nhất như “Đại nhảy vọt” và Cách mạng văn hoá vẫn chưa được nói đến. Và mười công trình lớn dưới thời cai trị của ông được dự định dựng lên nhân kỷ niệm thập niên “giải phóng” đầu tiên do đảng cộng sản tiến hành, trong đó có Đại lễ đường Nhân dân và Viện bảo tàng cách mạng, phải được phác thảo trên bản vẽ từ bấy giờ. Sau lần bơi đầu tiên ở sông Dương Tử, tỉnh Vũ Hán, dần dần tôi hình dung thấy Mao có những suy nghĩ rất đặc biệt.
Ở Vũ Hán, tôi đã đi cùng Mao đến gặp Lâm Nghị Sơn – trưởng phòng kế hoạch của khu vực thung lũng sông Dương Tử. Lúc đó tôi mới biết Mao có dự định cho xây một đập nước khổng lồ chắn ngang sông Dương Tử. Khi được nghe ông Lâm trình bày, xem kế hoạch xây đập, điều làm cho tôi thật sự lo ngại là Lâm Nghị Sơn chỉ là một nhà cách mạng lão thành, chứ không phải là một nhà khoa học hay một kỹ sư, trong khi đề án lại đề cập đến một công trình kỹ thuật là thay đổi toàn bộ khu vực thung lũng sông Dương Tử. Muốn làm được điều này, cần những kiến thức khoa học chuyên sâu, nhưng kết quả như thế nào khó mà mường tượng được. Tuy thế, Mao rất phấn chấn. Ông nói với tôi:
– Trong tương lai, ba thung lũng sẽ biến mất và ở đó sẽ là một hồ chứa nước mênh mông.
Ông muốn nói tới đoạn sông Dương Tử nổi tiếng nhất với những tảng đá dựng đứng, nước chảy rất xiết, tạo nên một quang cảnh đầy thu hút vốn đã được ngợi ca trong những bức tranh, trong những bài thơ từ hàng thế kỷ nay. Buổi tối sau khi chúng tôi đến gặp Lâm, Mao đã sáng tác một bài từ để ca ngợi cuộc đi bơi, ca ngợi những con sông và sự can đảm của những người đã quyết định thay đổi cả thế giới.
Mấy khi uống nước Trường xa
Mấy khi chén cá la đà Ô Giang
Mấy khi bơi dọc sông Dương
Ngắm nhìn đất Thục mờ sương đôi bờ
Sóng to, gió rít, sương mờ
Kinh ngư vẫn vượt mới là kình ngư
Giữa trời lồng lộng bao la,
Vẳng nghe tiếng vọng người xưa phán truyền:
“Quá khứ, vị lai tại hà tất biến”.
Gió nổi, buồm căng
Rắn rết sợ nằm im
Anh tài vững tay lái
Xây dựng cho tương lai
Quê hương và đất nước
Sự thật hơn mơ ước
Cầu nối giữa đất trời
Vắt ngang lưng chừng trời
Khai thông đường Bắc-Nam
Xẻ núi, ngăn mây Vũ Hán
Nước hồ kia sẽ lặng như tờ
Hồn ma quỷ dữ vật vờ trốn mau.
Thế giới đã đổi thay.
Trung Hoa đổi thay!
Không có một thế lực nào ngăn cản được Mao, kể cả sóng to bão lớn của Ban chấp hành trung ương ở Bắc Kinh phản đối. Giống như Tần Thuỷ Hoàng, người sáng lập đế chế Trung Hoa, xây dựng Vạn Lý Trường Thành, Mao cũng muốn xây những công trình vĩ đại lưu lại trăm năm cho hậu thế. Đập thuỷ điện xây trên con sông lớn nhất, quan trọng nhất chỉ là một trong những đề án ông đưa ra.
Sau này, các nhà khoa học và các kỹ sư cũng đã được đưa đến làm thuỷ điện trên sông Dương Tử. Họ biết ước mơ của Mao xây dựng đập thuỷ điện mới điều họ thực hiện. Các nhà khoa học tin ước mơ của Mao sẽ thực hiện được. Mặc dù sau này các nhà khoa học và các kỹ sư chân thật đã bày tỏ sự nghi ngờ trước Hội đồng nhà nước và trong Hội nghị tư vấn chính trị những trăn trở của họ, mãi hơn 15 năm sau khi Mao chết, công trình này mới được chuẩn y vào tháng 4-1992.
Cả hai ngày sau, Mao cũng bơi ở sông Dương Tử và cứ mỗi lần bơi xong, ông đều tỏ ra khoái trá. Sau lần bơi thứ ba, bỗng nhiên ông nói, tất cả trở về Bắc Kinh ngay gấp. Bây giờ đã tháng 7. Vì dồn tất cả tinh thần vào việc chăm lo sức khỏe cho Chủ tịch và sự tranh cãi giữa những người cộng sự gần gũi của ông, nên tôi không hề biết đến những cuộc tranh chấp chính trị mà chính Mao đã dàn xếp được khi ông vắng mặt ở Bắc Kinh. Nếu tôi muốn sống, bằng mọi giá tôi không được để lộ quan điểm chính trị của mình. Chỉ qua Mao, tôi mới biết được những thay đổi lớn lao của đất nước, từ những tài liệu trong nội bộ đảng, tôi đã nhận được tận tay và từ những báo cáo mà người bạn của tôi, Điền Gia Anh, thư ký riêng về chính trị của Mao, đã cho tôi hay. Sau khi chúng tôi trở về Bắc Kinh, việc tôi giữ khoảng cách với lĩnh vực chính trị không còn đơn giản nữa.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [16]

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 16

Posted: 11/07/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Ở Bắc Kinh, Mao tìm cách lôi kéo tôi nhiều hơn. Càng ngày ông càng tin và muốn tôi tham gia vào chính trị chứ không chỉ đơn thuần làm bác sĩ còn làm thư ký riêng. Ông nói:
– Tôi vẫn khỏe, công việc của đồng chí không quá bận. Tôi nghĩ, đồng chí là người trung thực.
Ông muốn giao cho tôi công việc tương tự như đã giao cho Lâm Khắc. Ngoài đọc Bản tin nội bộ, một tài liệu tối mật thu gộp tin tức quan trong trong và nước, tôi còn phải tự tìm hiểu về chính trị, viết báo cáo và làm cố vấn cho Mao.

Đề nghị trên chẳng lấy gì làm hấp dẫn đối với tôi. Nếu tôi đảm nhiệm công việc của một thư ký tôi sẽ bị cuốn vào một cơn xoáy lốc chính trị, hiểm nguy khôn lường.
Hơn nữa tôi chẳng biết gì về chính trị, cũng không muốn dính dáng đến chính trị. Uông Đông Hưng khuyên tôi nên chấp nhận đề nghị của Mao. Nếu tôi trở thành một trong thư ký của Mao như vậy quan hệ của Uông đối với Chủ tịch cũng sẽ được thắt chặt. Nhưng tôi cũng thừa hiểu, những thành viên khác trong Nhóm Một sẽ ganh tị và họ sẽ châm chọc, gièm pha thêm. Chỉ cần vướng một sai lầm nhỏ, cũng đủ làm những kẻ đố kỵ nhảy bổ vào công kích. Tôi thấy rõ sự nguy hiểm. Là bác sĩ của Mao tính mạng tôi chưa hẳn đã an toàn, huống hồ khi làm thư ký cho Mao, tôi sẽ luôn phải đối mặt với những nguy nan. Tôi đã từ chối đề nghị.
Lấy cớ tôi không đủtrình độ làm những công việc hành chính, càng không thể là một thư ký đắc lực như Lâm Khắc được. Vì vậy tôi chỉ muốn được tiếp tục làm bác sĩ riêng của Mao.
Tuy vậy, Mao vẫn không chịu. Ông ve vãn ban đặc ân cho gia đình tôi. Mùa hè năm 1956, khi kỳ nghỉ hè hàng năm của chúng tôi ở Bắc Đới Hà sắp tới ông bảo đưa cả hai đứa con trai tôi cùng đi nghỉ.
Tôi viện cớ con trai út còn quá nhỏ, còn John đứa lớn lại là đứa hiếu động, hơn nữa khu an dưỡng Bắc Đới Hà gồm toàn lãnh tụ cao cấp, thật vô lễ khi tôi đem theo con.
Mao phê bình:
– Đồng chí kỹ tính quá. Chẳng có gì ngạc nhiên khi Giang Thanh nói đồng chí là người thận trọng. Nếu Lí Nạp, Lý Minh và Viên Tân có thể đi thì tại sao con đồng chí lại không đi được.
Những đặc ân Mao dành cho đã đẩy tôi vào tình trạng khó xử đối với Nhóm Một. Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều có vẻ không hài lòng. Diệp gắt gỏng khi tôi kể cho ông ta nghe đề nghị của Mao:
– Nếu thế cứ cho bọn trẻ đi theo.
Tình huống này cảm thấy khó xử.
Uông Đông Hưng cứ ngỡ tôi đã ưng thuận đề nghị của Mao. Đồng thời ông cũng lo ngại về thái độ không vui của những nhân viên an ninh khi các con tôi được đi mà con những người khác lại không được đi. Ông ta khuyên tôi nên để cho bộ phận y tế ở Trung Nam Hải lo việc chuẩn bị. Như vậy, những nhân viên bảo vệ sẽ đỡ gây khó khăn.
Từ trước tới nay, tôi vẫn làm việc cho hai nơi – văn phòng An ninh dưới trướng Uông Đông Hưng và bộ phận y tế ở Trung Nam Hải, nơi tôi chính thức là bệnh viện trưởng. Vì hầu hết những lãnh tụ của đảng cộng sản Trung Quốc đều nghỉ hè ở Bắc Đới Hà, nên nhân viên của bộ phận y tế cũng đi theo. Các cô y tá sẵn sàng chăm sóc các con tôi trên đường đến Bắc Đới Hà.
Cuối cùng tôi chỉ cho thằng lớn, John, hồi đó mới 6 tuổi, đi cùng. Erchong, Lý Liên và mẹ tôi ở lại Bắc Kinh.
Trước khi đi, trong khi nói chuyện với Uông Đông Hưng, Giang Thanh đã gợi ý tôi làm gia sư kèm cặp Lý Minh, cô con gái riêng 19 tuổi của Mao với Hạ Tử Trân, khi chúng tôi ở Bắc Đới Hà. Lý Minh là cô gái ngay thật, giản dị, gia giáo và lễ phép, nhưng không thông minh lắm. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, cô sống ở Liên Xô, cũng không được học hành đến nơi đến chốn. Năm 1956 Lý Minh học trung học và phải học thêm các môn toán, lý và hoá. Uông Đông Hưng đã biến tôi thành gia sư của cô mà chẳng thèm hỏi ý kiến tôi.
Tôi đồng ý dạy riêng cho Lý Minh. Nhưng Giang Thanh còn có một đề nghị. Bà nghe nói vợ tôi rất giỏi tiếng Anh, muốn Lý Liên dạy tiếng Anh cho Lí Nạp. Uông cũng đồng ý như vậy.
Tôi phát bực, với tôi việc kèm cặp Lí Minh không có gì đáng ngại, nhưng vợ tôi kèm Lí Nạp lại là chuyện rất khó. Bởi vì tuy mới 16 tuổi, nhưng Lí Nạp, con gái của Giang Thanh thiếu lễ độ, rất hỗn xược, đáng ghét. Ngược lại, Lý Liên, một phụ nữ cởi mở, hiền lành, nhu mì làm sao có thể chịu đựng được Lí Nạp.
Uông nói:
– Tôi đã hứa với đồng chí Giang Thanh rồi. Đồng chí đừng làm tôi khó xử.
Nhưng tôi vẫn kiên quyết nói:
– Không! Lý Liên rất bận.
Vợ tôi làm ở ngoại giao đoàn, thường đưa các phái đoàn nước ngoài đi đây đó khắp Trung Quốc. Tôi nói tiếp.
– Cô ấy không phải là đảng viên. Nếu cô ấy cứ ra vào nhà Mao chủ tịch sẽ không tiện lắm. Vả lại, cha mẹ cô đã từng là địa chủ và anh chị cô ấy hiện đang sống ở Đài Loan. Cô ấy có nhiều vấn đề về chính trị khiến chúng ta lưu tâm.
Uông cứ nhất định bảo La Thuỵ Khanh và ban an ninh đã kiểm tra kỹ lí lịch Lý Liên.
Tôi buộc phải cương quyết, đành nói:
– Đồng chí đã thấy tôi gặp bao nhiêu khó khăn là gì, tôi không thể để Lý Liên làm việc ở đây, bởi chỉ gây thêm phiền hà cho tôi mà thôi!
Uông nổi giận:
– Đồng chí không tin vào sự lãnh đạo của đảng à? Thứ trưởng La và tôi đã đồng ý, nhưng đồng chí lại khước từ. Chính đồng chí cũng gây phiền hà không kém cho chúng tôi.
Tôi phản ứng:
– Không phải tôi gây khó khăn, nhưng đồng chí biết Giang Thanh, người phụ nữ khó tính như thế nào rồi, Lí Nạp lại là cô gái khó bảo, hỗn xược. Đến ngay Diệp Tử Long và Lí Thanh Đạo còn tung tin nhảm về tôi. Nhà tôi, người phụ nữ bình thường, mềm yếu, chẳng thể nào phù hợp với nhân viên Nhóm Một.
Nhưng ông vẫn không nhượng bộ:
– Thôi được. Đồng chí không cần phân vân. Tôi sẽ đích thân nói chuyện với vợ đồng chí. Đồng chí bảo cô ấy đến gặp tôi.
Tôi tức tốc về nhà và khẩn khoản yêu cầu Lý Liên đừng lùi bước. Cô ấy hứa, đi ngay đến chỗ Uông. Tôi bồn chồn đợi cô ấy trở về.
Một tiếng sau, Lý Liên trở về. Cô có vẻ bình tĩnh. Vẻ mặt cô đã phá tan mọi sự lo ngại của tôi. Cô kể:
– Em và Uông nói chuyện với nhau rất thoải mái. Em kể cho thứ trưởng Uông về công việc của em, về những vị khách nước ngoài em đưa họ đi du lịch khắp đất nước. Bởi vậy, em không thể thu xếp thời gian để dạy Lí Nạp.
Tôi nhẹ hẳn người và khen:
– Em khá lắm. Thế đồng chí ấy nói gì?
– Đồng chí ấy chăm chú lắng nghe. Sau đó đồng chí ấy cũng thừa nhận công việc này cũng chẳng nhẹ nhàng chút nào và cuối cùng đồng chí ấy nói, sẽ bàn lại việc này sau. Thế thôi.
Hôm sau, khi gặp tôi Giang Thanh nói:
– Vợ đồng chí bận lắm à?
– Vâng, cô ấy phải lo cho rất nhiều khách nước ngoài và thường về muộn.
Giang Thanh gặt đầu:
– Chuyện Lí Nạp chúng ta nói sau vậy. Đồng chí có thể bắt đầu dạy Lý Minh chứ?
– Vâng, mỗi ngày hai tiếng.
Cuối tháng 7-1956, tôi cùng với Mao đáp một chuyến tàu đặc biệt đi Bắc Đới Hà. Mao và Giang Thanh lại ở trong ngôi nhà số 8. Chị của Giang Thanh, cả hai cô con gái của Mao và Viễn Tân, cháu trai của Mao, sống trong căn biệt thự cũ của Trương Học Lương, người đã từng bắt cóc Tưởng Giới Thạch 1936 và rồi bị giam lỏng tại Đài Loan. Còn tôi và thư ký Lâm Khắc ở ngôi nhà số 10.
Bắc Đới Hà đẹp một cách huyền diệu, tiềm ẩn. Năm 1954, Lý Liên và tôi đã ở đây, hoá ra đó là kỳ nghỉ hè cuối cùng trong hơn hai thập niên chúng tôi đã yêu nhau tại nơi này. Lúc đầu Bắc Đới Hà chỉ là một làng chài nhỏ ven biển ở trong vịnh Bắc Hải, phía Bắc tỉnh Hà Bắc. Sau chiến tranh Nha phiến (giữa Anh và Trung Quốc 1839-1843, chú thích của người dịch), người Anh đã biến làng này trở thành một nơi nghỉ mát tuyệt vời, xây dựng một tuyến đường sắt đến tận Bắc Kinh. Ngay cả khi người Anh rút đi, ở đây vẫn tiếp tục phát triển. Những người có chức quyền, những thương gia giàu có người Trung Quốc đã cho xây các biệt thự ở đây và bây giờ ở đó đã mọc lên vô số các cửa hiệu, nhà hàng. Những ngôi biệt thự được xây bằng gạch nung màu đỏ theo kiểu Anh nổi bật trên nền trời xanh, mây trắng, trông như tranh vẽ. Còn mặt biển sắc màu sặc sỡ biến hoá, hệt như ống kính vạn hoa. Màu xanh của biển, theo lời dân chài, mặt biển thay đổi theo màu sắc của những đàn cá nổi lên sát mặt nước. Chúng tôi thích nhất loài cá làm cho mặt biển có một vệt sáng, trông như được giát bạc.
Năm 1954, khi tôi với Lý Liên ở Bắc Đới Hà, chúng tôi thường dậy vào khoảng hai, ba giờ sáng và đi nhặt sò trên bãi cát trong khi thuỷ triều xuống. Đến khoảng bốn giờ, khi những ngư dân bày bán những hải sản họ vừa đánh được, chúng tôi đi mua đồ ăn cho cả ngày. Tôm ở đây rất ngon, nhưng chúng tôi thích một loại cá tên Trung Quốc bimuyu (thờn bơn). Hai mắt cá thờn bơn cùng nằm một bên, khiến chúng tôi nhớ tới một bài thơ tình của Trung Quốc về đôi cá bimuyu cũng nhau bơi ra khơi.
Trong khi nghỉ mát cùng với Mao, tiết trời thật tuyệt, như để cho chúng tôi trốn cái nóng ở Bắc Kinh. Cứ buổi sáng và chiều, một làn gió nhẹ, mằn mặn từ biển thổi vào, thật dễ chịu và mát mẻ. Ngay trước cửa khu biệt thự có một bãi cát phẳng lì, chạy dài 11 km từ đông sang tây. Và ở chân trời xa xa, những chiếc thuyền buồm trông vui mắt đang bồng bềnh trên mặt nước. Mặt tiền khu biệt thư có bốn cây mận trĩu cành những quả mận tím ngọt, to bằng quả trứng gà, chỉ chờ người hái. Mỗi khi trời đổ mưa, chúng tôi đi thành từng nhóm nhỏ vào rừng hái những cây nấm to, thơm mùi thông, trồi lên khỏi mặt đất khi gặp hơi ấm và cùng với tôm khô, đầu bếp của chúng tôi đã nấu món súp cực ngon. Mao không thích súp nấm, nhưng Giang Thanh lại rất khoái món ăn này.
Một bầu không khí đầy quyến rũ bao trùm Bắc Đới Hà. Tối nào người ta cũng chiếu phim, trong đó có những cuốn phim nước ngoài mới nhất. Vào thứ tư và thứ bảy hàng tuần, Mao tổ chức dạ vũ trong hội trường lớn có ban công lộ thiên. Đôi khi, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Đức cũng tham gia. Buổi sáng tôi dạy Lý Minh học hai tiếng, còn buổi chiều tôi đi bơi với Mao, được một tiểu đội vệ binh hộ tống và vô số nhân viên của văn phòng chính, cả thảy đến ba, bốn chục người. Lính gác đã neo một cái bè cách bãi cát khoảng hai nghìn mét để Mao có thể nghỉ ngơi và tắm nắng ở trên bè trước khi bơi trở lại bãi cát.
Về mùa hè, ở Bắc Đới Hà thường có giông tố dữ dội. Những đợt sóng cả ào qua chiếc bè. Tuy vậy, ngày nào Mao cũng quyết bơi ra đó. Uông Đông Hưng và La Thuỵ Khanh tìm cách cản Mao. Tôi và Mao đã vật lộn với những cơn sóng dữ – ngoài cảm giác kích thích, đôi khi còn hãi hùng nữa. Sóng biển nâng chúng tôi lên cao, ném chúng tôi vào không trung rồi dìm chúng tôi xuống biển sâu. Vì ngạt thở, tôi cố vẫy vùng để nhô lên mặt nước. Tôi thường phải dốc hết sức bơi về phía chiếc bè, để sau đó lại được một con sóng lớn lôi trở lại bải cát.
Sau chuyến mạo hiểm, Mao hỏi tôi:
– Đồng chí có thấy rỡn với sóng to gió lớn thích không?
– Dạ, tôi chưa bao giờ được mạo hiểm như thế này.
Thực lòng tôi cũng không biết mình thích hay không.
Mao khẳng định:
– Giống như chúng ta vừa cưỡi mây đạp sóng 10 ngàn dặm!
Ở vùng biển đó có rất nhiều cá mập. Đám lính gác của Mao đã giăng lưới phía trước bè, không cho cá mập vào gần. Lần nào lính gác bắt được cá mập, họ đều cho Mao xem – một lời cảnh cáo ngầm: đừng bơi quá xa.
Mao thường ở lại bên bãi cát đến tận chiều. Ông đọc tài liệu hoặc tán chuyện với những vị lãnh đạo khác của đảng. Một căn lều vừa là phòng khách vừa che nắng cho ông.
John, cậu con trai của tôi mau chóng quen với cuộc sống ở Bắc Đới Hà. Đây là kỳ nghỉ hè đẹp nhất của thằng bé. Cháu trở về Bắc Kinh với nước da rám nắng, trông thật khỏe khoắn. Nhân viên an ninh yêu mến cháu, chiều chiều đưa nó đi bơi, tối đến dắt đến xem phim. Lý Minh cũng có thiện cảm với cháu. Hai đứa trẻ thường cùng chơi với nhau. John ở với tôi, sáng nào cháu cũng gấp chăn màn cho bố, lo quần áo của hai bố con lúc nào cũng sạch sẽ. Tôi rất tự hào về tư cách của cháu.
Những lãnh tụ khác của đảng cũng hay lui tới Bắc Đới Hà, nhưng tôi thường xuyên gặp là Lưu Thiếu Kỳ và Chu Đức. Những vị lãnh đạo khác ngại Mao, bởi vậy họ thường sống khá dè dặt. Họ tắm ở bãi tắm riêng, tổ chức những tối khiêu vũ trong những khu nhà chính phủ dành cho họ ở khu Đồi Đông. Hiếm khi họ dám tới gần khu nhà Mao. Tôi chưa lần nào đến khu vực đó, vì Mao mong đợi ở chúng tôi lòng trung thành tuyệt đối, sợ chúng tôi có thể tiết lộ những bí mật của ông.
Tuy nhiên Chu Đức có vẻ không biết Mao vẫn còn giận. Ông thường ra bãi cát mỗi khi Mao ở đó, thậm chí đôi khi còn tán chuyện với Mao ở trong lều. Vị cựu tổng tư lệnh này không biết bơi, nên ông thường mặc áo phao khi xuống nước. Ông rất mê chơi cờ tướng. Những lúc không có bạn chơi, ông thường rủ con trai tôi làm một ván. Chu Đức luôn cư xử lịch lãm, ân cần đối với tôi và cũng rất lưu tâm đến sức khỏe của Chủ tịch về bữa ăn, giấc ngủ.
Ngoài Chu Đức ra, còn có Lưu Thiếu Kỳ, dáng cao, gầy, tóc hoa râm, hơi gù, là lãnh tụ đảng duy nhất thường tới thăm Mao trên bãi cát. Ông thường xuất hiện vào khoảng từ ba đến bốn giờ chiều. Lưu Thiếu Kỳ vốn dè dặt, đeo kính và hồi đó được coi là mẫu người kế nhiệm Mao, nhân vật số hai trong đảng, phụ trách những việc chính trị nội bộ. Mặc dù Mao và Lưu cộng tác chặt chẽ với nhau, nhưng họ có vẻ là đồng chí, chứ không phải là bạn của nhau. Ở Bắc Kinh họ rất ít gặp nhau và gần như chỉ liên lạc với nhau qua thư từ. Nếu trung ương đảng soạn thảo một tài liệu cần sự chuẩn y của Mao, trước tiên người ta phải gửi cho Lưu. Ông xem xét, ghi lời góp ý bên lề, rồi chuyển qua phòng bảo mật chuyển cho Mao. Sau đó, Mao lại gửi tài liệu trở lại cho Lưu, kèm theo những phê chuẩn của mình.
Người vợ sau cùng của Lưu Thiếu Kỳ là Vương Quang Mỹ thường theo chồng đi nghỉ mát ở Bắc Đới Hà. Như nhiều phu nhân của các vị lãnh đạo đảng khác, bà trẻ hơn chồng một chút. Hồi đó, Vương khoảng ba mươi, tóc đen, dày, khuôn mặt dài và răng hơi hô. Bà không đẹp nhưng có vẻ quyến rũ, dễ mến và là một phụ nữ ưa ánh đèn sân khấu.
Hễ gặp Mao bà chào đón xởi lởi, thậm chí có lần bà còn bơi với Mao ra tận bè. Giang Thanh không hề giấu giếm mối ác cảm đối với vợ Lưu và tôi nhận thấy cả sự ghen tuông của bà. Vương trẻ hơn Giang Thanh nhiều, dễ mến và dễ gần. Giang Thanh thường lấy cớ mệt nên chẳng ra bãi cát. Không bao giờ bà chịu tập bơi và bà thấy khó chịu với bàn chân phải có sáu ngón. Vì thế, mỗi khi xuống nước, bao giờ bà cũng giấu đôi bàn chân trong ủng cao su.
Lưu để lại vô số con cái sau nhiều cuộc hôn nhân và trong mùa hè này, một số người trong cuộc cũng có mặt ở Bác Đại Hà. Lưu Đạo, cô con gái 16 hay 17 tuổi gì đó của Lưu với Vương Tiền, người vợ cũ, hoạt bát, vui vẻ và cởi mở, thỉnh thoảng bơi với Mao ra bè. Và trong các buổi dạ vũ được tổ chức mỗi tuần hai lần, cô thường mời Mao nhảy với tất cả sự trong trắng. Đối với cô, không bao giờ Mao tự cho mình thoải mái như đối với nhiều thiếu nữ khác. Mặc dù vậy, Giang Thanh bực tức ra mặt, vô lý với Lưu Đạo chỉ vì sự hồn nhiên và cởi mở của tuổi trẻ.
Giang Thanh thường xuyên nổi nóng, tôi gắng quen với thói xấu của bà ta. Nhưng ở Bắc Đới Hà thơ mộng, tôi không thể ngờ những vụ ghen tuông lặt vặt và những hồ nghi của bà, mười năm sau lại có thể biến thành sự thù hận, đến nỗi bà đã tìm cách xoá sổ cả gia đình Lưu Thiếu Kỳ.
Vào mùa hè năm 1956 ấy, không ai có linh cảm, sau này chính Mao chống lại người mà tất cả chúng ta đều cho là người tin cậy nhất của Mao.
Nhưng sự đổ vỡ này đã được định trước vì giữa Mao và Lưu có sự bất đồng về vai trò của Lưu trong bối cảnh chính trị trong nước. Mao tự cho mình là lãnh tụ tối cao, lời nói của ông là mệnh lệnh cao nhất. Ông coi Lưu Thiếu Kỳ như một người phụ tá trong việc giải quyết công việc hàng ngày của đảng. Nhưng theo cách nhìn của mình, Lưu Thiếu Kỳ coi mình ngang bằng, hay ít ra cũng gần như thế và đất nước không thể thiếu ông. Lưu càng tỏ ra muốn ngang hàng với Mao bao nhiêu, Chủ tịch càng không vừa lòng bấy nhiêu.
Mùa hè năm 1956 đã đánh dấu bước ngoặt trong mối quan hệ của Mao đối với Lưu. Mãi tới khi chính mối quan hệ của tôi đối với Mao đột ngột xấu đi thì tôi mới phát hiện ra điều này.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 17

Posted: 13/07/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tưởng mùa hè này gây khó chịu nhất đối với tôi là những cơn giông bão ở Bắc Đới Hà, nhưng hoá ra không phải thế. Lần đầu tiên tôi được nếm cơn giận dữ của Mao mà lỗi do Phó Liêm Chương gây ra.
Ngay sau khi về Bắc Kinh vào tháng 6-1956, Phó Liêm Chương đề nghị tôi báo cáo sức khỏe của Mao cho ông. Phó vẫn chịu trách nhiệm chung về sức khỏe của Mao. Phó viết cho Chủ tịch một bức thư, yêu cầu tôi đưa tận tay. Trong thư ông giới thiệu một thứ thuốc ngủ mới, biệt dược Phanodorm của Tây Đức và thông báo thuốc đã được kiểm tra cẩn thận, yêu cầu nhóm bảo vệ sức khoẻ chúng tôi dùng cho Chủ tịch.

Tôi thấy không cần thiết phải dùng thuốc mới. Từ khi tôi thay đổi cách điều trị, Mao ngủ tương đối tốt hơn, trung bình từ 6 đến 12 giờ trong một ngày đêm, chẳng có lý do gì phải dùng biệt dược mới. Phó phải biết rõ hơn ai hết Chủ tịch chẳng ưa bác sĩ khám xét. Chính Phó đã từng kể chuyện đoàn bác sĩ Liên Xô khám cho Mao năm 1951 bị bỏ dở, để cảnh báo tôi Mao rất ghét khám bệnh.
Tôi trình bày sự không đồng tình của mình với Phó.
Ông đồng ý gác lại việc dùng thuốc ngủ mới, nhưng khăng khăng yêu cầu tôi khuyến khích Mao đi kiểm tra sức khoẻ. Phó lại nhắc đi nhắc lại, ông theo Mao từ những năm 30 và luôn luôn được tin tưởng, bảo: “Đồng chí cứ chuyển cho lãnh tụ thư của tôi” – Phó gọi hai chuyên viên Nội khoa từ Trường Đại học Tổng Hợp Y khoa Bắc Kinh chuẩn bị đến để kiểm tra. Tôi lại phản đối, nhưng Phó đột ngột cắt lời, nhìn tôi với ánh mắt lạnh lùng, phán:
– Đồng chí đừng có nhiều lời, mọi việc đã quyết.
Tôi trong tình thế rất khó xử. Về hình thức, Phó Liêm Chương là thủ trưởng, tôi không thể không tuân lệnh. Tôi biết Mao sẽ bác đề nghị của Phó, và tất cả các bực tức của Mao có thể đổ xuống đầu tôi nếu chuyển bức thư này. Tôi tính kế hoãn binh.
Hai ngày sau. Phó bực mình vì sự chậm trễ và yêu cầu tôi đưa thư tận tay Mao ngay.
Tôi chẳng còn cách nào khác, chuẩn bị tinh thần gặp chủ tịch.
Mao vừa mới bơi xong, đang tắm nắng, trông thấy tôi, ông hỏi:
– Sao đồng chí đến muộn thế? – Mao muốn biết lý do vì sao. – Bác sĩ cũng cần phải chăm sóc sức khoẻ của mình chứ.
Tôi thay quần bơi, nhảy ùm xuống bể.
– Đừng để ý đến tốc độ vội, cứ luyện sức dẻo dai đã – Mao hướng dẫn tôi, trong khi vẫn phơi nắng.
– Tôi vẫn chưa thuộc cách bơi của Chủ tịch – Tôi trả lời – vẫn cần tập nhiều.
Mao lội xuống, bơi sát bên để tôi biết rõ cách bơi của ông. Mao khen:
– Đồng chí có thể lực tốt đấy.
“Bắt đầu được rồi”, tôi nghĩ thầm, nói:
– Khi chúng ta ở Vũ Hán, Chủ tịch bơi ở sông Dương Tử mỗi lần vài giờ liền thế mà nhịp tim và hệ tuần hoàn vẫn bình thường.
– Đồng chí lại nịnh tôi rồi – Mao cười.
– Không đâu, tôi nói thật đấy. Nhiều thanh niên không thể bơi lâu như vậy được. Có thể lấy ví dụ – thậm chí ngay cả một thuỷ thủ không đủ sức bơi cùng với chúng ta.
– Sao tôi không biết điều này nhỉ?
– Khi bơi có đông người, đồng chí Uông Đông Hưng giấu chuyện anh thuỷ thủ sợ phiền lòng người khác.
– Trong trường hợp như thế có gì mà phải phiền lòng. – Mao nhận xét – Thể trạng mỗi người khác nhau, không ai giống ai.
– Không có gì bằng, nếu bây giờ Chủ tịch đi kiểm tra sức khỏe tổng thể trong khi đang rất khoẻ mạnh hay biết bao – Tôi thận trọng thăm dò – Kết quả khám sẽ dùng làm bảng tiêu chuẩn cho những kỳ kiểm tra trong tương lai.
Tôi không nói chính Phó Liêm Chương yêu cầu, e Chủ tịch buộc tội tôi thụ động nghe lời của Phó mà không có trách nhiệm cá nhân.
Mao liếc nhìn tôi, lắc đầu:
– Đấy chỉ là ý kiến riêng của bác sĩ. Khi nông dân đau ốm, họ cũng chẳng để ý. Mọi thứ sẽ tự qua đi. Thậm chí nếu ốm nặng, không phải ai cũng tới bác sĩ. Thuốc chỉ chữa được bệnh tật thông thường, không chữa được bệnh nan y. Có thật thuốc có thể chữa được các loại bệnh không? Thí dụ, ung thư chả hạn. Chẳng lẽ bác sĩ có thể chữa được nó à? Tôi nghĩ là không!
Tôi cố giải thích, giai đoạn đầu của ung thư người ta có thể chữa được nếu khối u đó chưa thành ác tính, bằng phẫu thuật hiện đại có thể loại bỏ được.
– Tuy nhiên nếu không có sự khám xét tổng thể, không thể phát hiện ung thư ngay từ giai đoạn đầu.
Mao ngắt lời tôi:
– Đồng chí hãy cho ví dụ?
Phần đông những người lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc là những người tương đối trẻ và khỏe mạnh. Đương nhiên, tôi không thể lấy họ ra làm ví dụ được đành nói về một số trường hợp chữa thành công về ung thư vú.
Mao cười, vì tôi đã công nhận ông lập luận đúng.
– Ung thư vú – ông nhận xét – có thể nhận biết bằng mắt thường. Nó phát sinh ra trên bề mặt cơ thể, vì thế có thể phát hiện kịp thời và chữa chạy bằng mổ xẻ. Tuy nhiên có nhiều thể ung thư, không phải loại nào cũng chữa được. Hiện nay y học còn bó tay.
Mao ngừng một lát, sau đó hỏi:
– Có phải đồng chí muốn nói với tôi nên kiểm tra sức khoẻ phải không?
– Đây là thư của thứ trưởng Phó Liêm Chương – tôi lấy từ trong túi ra – Chủ tịch hãy đọc qua.
Đọc sơ qua bức thư, Mao giận dữ quát:
– Lại Phó Liêm Chương, biết ngay mà, ông ta chẳng có việc gì làm. Bây giờ tôi không có thời gian để theo ý ông ta vẽ ra. Hãy chờ khi tôi đến Bắc Đới Hà.
Thế là chúng tôi quyết định cử các bác sĩ của Phó đến Bắc Đới Hà, kiểm tra sức khỏe tại đó.
Phó không giấu vẻ vui mừng.
– Thấy chưa – ông nói – khi Chủ tịch biết của tôi, ông đồng ý ngay lập tức.
Phó vẫn còn ngây thơ cho rằng lãnh tụ đối xử tốt với ông giống như cách đây 30 năm.
Bộ y tế lập kế hoạch tỉ mỉ khám tổng thể cho Chủ tịch và Giang Thanh. Khám cho Mao là giáo sư Trương Tiểu Giang và Đặng Kiếm Đông, thuộc Trường Đại học Tổng Hợp Y Khoa Bắc Kinh. Kiểm tra sức khoẻ cho Giang Thanh được giao cho bác sĩ Vũ Ánh Phương và Lâm Giảo Trí. Họ không cần chờ lâu. Giang Thanh đến đúng ngày và việc khám được tiến hành. Chủ tịch đã ở Bắc Đới Hà, nhưng không đến bệnh viện. Các giáo sư chờ gần hai tuần lễ, nhưng tôi không dám nhắc Chủ tịch đến hay không, ông rất bận. Cuối cùng Phó gọi điện phê bình tôi, bảo, hai bác sĩ có việc cần trở về Bắc Kinh gấp, yêu cầu tôi nhắc Chủ tịch đến kiểm tra sức khỏe.
Tôi cho rằng chuyện này đơn giản, vì Mao đã đồng ý kiểm tra sức khỏe chỉ chờ thời gian thuận tiện. Hôm sau, tôi gợi chuyện trong lúc học tiếng Anh. Tôi nói với Mao rằng các chuyên gia từ Bắc Kinh đã đợi 2 tuần, muốn biết khi nào ông kiểm tra sức khỏe.
Mao trả lời:
– Để cho họ nghỉ ngơi một chút tránh cái nóng Bắc Kinh đã – Mao trả lời.
– Thế tôi sẽ nói với họ thế nào? – tôi lo lắng hỏi.
– Nói cái gì cơ?
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
– Chẳng lẽ chúng ta chưa nói chuyện về việc khám bệnh đấy sao.
Mao tự nhiên cáu kỉnh:
– Ai nói rằng tôi đi kiểm tra sức khỏe?
Tôi nhắc khéo:
– Chính Chủ tịch đề nghị khám ở Bắc Đới Hà?
Bỗng nhiên Mao khùng lên:
– Tôi không thể đổi ý được hay sao?
Ông to tiếng:
– Tôi thậm chí có thể bác bỏ quyết định của Bộ chính trị. Thằng Uông Đông Hưng chắc lại nghĩ ra cái trò này. Không khám xét gì hết! Bảo nó cút khỏi đây.
Tôi hoàn toàn không hiểu tại sao lãnh tụ lại giận dữ đến như thế, cũng không thể hiểu ông ra lệnh đuổi ai.
Tôi lúng túng đáp:
– Thưa, đây là ý kiến đề nghị của Thứ trưởng Phó Liêm Chương, chứ không phải Uông Đông Hưng đâu ạ.
Mao thét lên:
– Đuổi mẹ cả thằng Phó bố láo đi!
– Nhưng ông ta không có đây – tôi nói lí nhí – Tuy vậy tôi tin Mao cho rằng tôi có thể huỷ chuyện kiểm tra sức khỏe của ông.
Cơn giận dữ của Mao thật bất ngờ và bất thường đến nỗi tôi hoàn toàn lúng túng. Kiểm tra sức khỏe định kỳ cho lãnh tụ là chuyện bình thường của người bác sĩ, không có chuyện gì sai cả. Nếu không muốn, ông có thể lịch sự khước từ, cớ sao lại cáu giận.
Khi tôi ra ngoài phòng, Lý Ẩm Kiều chạy theo giải thích:
– Chủ tịch không cáu giận đồng chí đâu.
Hoá ra Lý Ẩm Kiều và vệ sĩ Tiểu Chương đứng ngoài cửa nghe được. Lý nói tiếp:
– Mấy hôm nay Bộ chính trị họp. Ngoài ra, còn có một số cuộc họp với các bộ trưởng của Quốc vụ viện, với các bí thư tỉnh uỷ. Thảo luận nhiều vấn đề. Chủ tịch còn phát cáu vì có quá nhiều bảo vệ trong đoàn tầu của ông và đám đông nhân viên an ninh trong thời gian Chủ tịch bơi trên sông Dương Tử. Tôi cũng không rõ chuyện đó ra sao nữa.
Nghe xong, tôi nghĩ, có thể, Mao không hoàn toàn cáu tôi, mà cáu ai đó trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp, nhân chuyện tôi, ông tuôn ra sự bực dọc đó.
– Nếu ngày mai Chủ tịch không giải thích cho đồng chí vì sao, chắc đồng chí Giang Thanh cũng nói thôi – Lý an ủi – Đừng lo lắng, quẳng cái ấy ra khỏi đầu đi.
Nhưng tôi không cách nào thể an tâm được. Tôi thường thấy, Mao cư xử thô lỗ với người khác như thế nào, nhưng ông chưa lần nào giận giữ và thô lỗ, văng lời khiếm nhã như thế này với tôi. Tôi rất buồn và thất vọng. Tôi sẽ phải làm việc như thế nào với con người nóng nảy, tính khí bất thường này đây? Bỗng nhiên tôi hiểu việc phục vụ lãnh tụ hoá ra cũng đầy khó khăn và nguy hiểm. Tôi muốn thoát khỏi Trung Nam Hải, về làm việc ở bệnh viện nào đó.
Trở về phòng riêng, tôi tự kiểm lại bản thân để tìm nguyên nhân, và hiểu ngay rằng mình cũng có lỗi trong vụ này. Biết Mao không thích kiểm tra sức khỏe mà cứ nài nỉ. Hình như ông ừ ào qua quýt chỉ để tôi đừng đả động đến việc này nữa. Từ trước tôi không quan tâm đến chính trị, vì thế tôi không hiểu Mao có những chuyện gì xảy ra ở Bắc Đới Hà. Có thể, ông đang gặp những vấn đề hóc búa, còn tôi đưa ra ý kiến chẳng đúng lúc. Tôi đúng là kẻ vô tâm.
Chiều hôm sau Mao gọi tôi đến. Khi tôi có mặt ở văn phòng ông, Mao cười và nói:
– Làm việc với tôi không dễ chịu chút nào, đúng không?
Tôi cũng cười, thay cho việc đáp lại.
Mao nói:
– Nổi cáu là một trong những vũ khí của tôi. Khi người ta muốn tôi phải làm cái tôi không muốn tôi nổi khùng, thế là họ thôi. Vừa qua tôi nổi khùng không phải với các bác sĩ, đừng chấp tôi làm gì. Tôi luôn luôn cho rằng không những cần phải phê bình, còn phải tự phê bình nữa. Vì thế, nếu mai kia đồng chí cho rằng tôi có cái gì không đúng, nói thẳng với tôi, đừng nói sau lưng tôi. Kiểu ấy tôi rất ghét.
– Thưa Chủ tịch – Tôi trả lời – Tôi đã hành động thiếu suy nghĩ, đem chuyện khám bệnh ra bàn không đúng lúc.
– Ở Bắc Đới Hà tôi có nhiều chuyện quan trọng phải làm.
Mao giải thích. Ông nói, vài tuần nữa sẽ khai mạc Đại hội lần thứ VIII Đảng cộng sản Trung Quốc, phải chuẩn bị nội dung, không có thời gian kiểm tra sức khỏe.
– Hãy chuyển lời cho các bác sĩ rằng tôi rất bận – ông yêu cầu – Tôi sẽ đi kiểm tra sức khỏe sau – Ông nghĩ một lát, rồi tiếp tục, giọng bình tĩnh hơn:
– Hãy quan tâm đến các bác sĩ ấy. Nếu họ muốn, họ có thể ở lại Bắc Đới Hà lâu hơn. Bác sĩ Trương Tiểu Giang người cùng quê Hồ Nam với tôi. Có thể, tôi cố thu xếp thời gian để chuyện trò với ông.
Tôi vẫn chưa biết về tình hình chính trị trong nước, nhưng cũng cảm thấy rằng Mao giận dữ ai đó.
Sau khi làm lành, cũng như trước đây, Mao tin và tôn trọng tôi. Chúng tôi hàng ngày học tiếng Anh, mỗi khi mất ngủ ông gọi tôi đến tâm sự. Chủ tịch thường phẫn nộ bởi chính sách của Liên Xô trong quan hệ với Trung Quốc, ông thường nhắc, ta cần học hỏi phương Tây. Ông cho rằng tư duy phương Tây giúp đỡ việc hồi phục văn hoá của đất nước lạc hậu chúng ta. Mao chống lại sự bắt chước mù quáng, muốn trên cơ sở kết hợp văn hoá phương đông và phương tây tạo ra một nguyên tắc mới để phát triển nhưng không được lai căng. Khi tôi lưu ý Mao về sự khác nhau giữa hai nền văn hoá Đông và Tây, Mao nhận xét rằng tôi thiếu sáng tạo, chưa đủ trí lãng mạn và khát vọng. Theo tôi, chính vì điều này ông thường mâu thuẫn với các vị lãnh đạo trong đảng.
Gần thời kỳ ấy, cuối hè năm 1956, Mao lần đầu tiên nói với tôi ý định từ chức chủ tịch nước. Thoạt đầu tôi không tin. Khi ấy tôi chưa biết rằng Chủ tịch không bao giờ nói suông. Tuy nhiên mấy tháng hoặc gần năm sau tôi mới hiểu Mao đã suy nghĩ kỹ và đã quyết trong khi trao đổi với tôi. Việc từ chức chủ tịch nước của Mao vẫn chưa lan ra, nhưng dư luận đã bóng gió nói đến trong những cuộc thảo luận của các vị lãnh tụ tối cao. Chỉ sau ba năm sau, 1959, chính thức Mao mới bỏ chức vụ này. Ông lấy lí do sức khoẻ, đồng thời muốn giành thời gian giải quyết các vấn đề trong nước và chính sách đối ngoại. Thực ra Mao cũng có cả những kiểu chơi ngầm.
Thật vậy, sức khỏe của Mao cũng có vấn đề, mỗi buổi lễ trọng đại trên quảng trường Thiên An Môn làm ông mất ngủ vài hôm, có khi thức trắng và mọi việc xong xuôi thường bị cảm hoặc viêm phế quản. Mao rất bực mình vì chuyện ốm đau làm mất thời gian vô ích.
Chủ tịch không thích các buổi tiếp khách theo nghi lễ cũng là một trong nguyên nhân từ chức. Với cương vị lãnh tụ đứng đầu nhà nước, ông phải mặc quần áo đúng nghi thức mà ông rất ghét. Ông cho rằng tiếp đại sứ nước ngoài trình quốc thư và các thủ tục nghi lễ chỉ làm mất thời gian. Từ năm 1956 cuộc biểu tình tuần hành trong ngày lễ trên quảng trường Thiên An Môn thưa dần.
Mãi sau một vài năm tôi mới hiểu, việc Chủ tịch từ chức là một phép thử lòng trung thành của các chiến hữu, đặc biệt với Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, những người ông bắt đầu nghi ngờ. Việc Khrushchev cáo buộc Stalin tội sùng bái cá nhân đẩy Mao vào vị trí phòng thủ, trong khi các lãnh đạo đảng Trung Quốc ngấm ngầm ủng hộ Khrushchev, muốn tập thể lãnh đạo nhà nước, họ phê bình chủ nghĩa phiêu lưu của Mao. Khi thông báo cho các cán bộ lãnh đạo cao cấp của đảng ý định từ chức chủ tịch nước, Mao muốn kiểm tra lòng trung thành các chiến hữu bằng cách xem họ có cố thuyết phục ông ở lại hay không. Nếu không ai nài nỉ, Mao sẽ dùng các biện pháp quyết liệt để giành lại quyền lực của mình.
Rút khỏi lò đấu tranh chính trị, Chủ tịch rời Bắc Kinh đi một chuyến vi hành phía nam đầu mùa hè, nhưng ông vẫn tiếp tục theo dõi sự chuyển biến tình hình chính trị từ xa. Mao không có ý định rời bỏ quyền lực, mà ngược lại, ông muốn nắm hết quyền lực tối cao, tóm lấy tất cả sợi dây điều khiển đất nước vào tay mình. Mao không cần cái vỏ quyền lực, cần quyền lực tối cao thật sự để thúc đẩy, chuyển đổi những vấn đề cốt lõi của Trung Quốc.
Phép thử lòng trung thành của Mao không cần chờ lâu. Đại hội VIII của đảng cộng sản Trung Quốc, khai mạc tháng 9-1956, xác nhận tất cả sự nghi ngờ tồi tệ của ông trong mối quan hệ của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình là có thật.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [18]


Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 18

Posted: 16/07/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc dự kiến khai mạc ngày 15-9-1956. Các vị lãnh đạo đảng cao cấp có mặt ở Bắc Kinh sớm hơn, trong khi chính Mao vẫn còn nằm lại ở Bắc Đới Hà. Thời tiết bắt đầu chớm lạnh, nhưng Mao ưa thời tiết lạnh, vì vậy vẫn như trước đây, sau bữa cơm chiều lại ra biển. Cứ vậy tiếp tục bơi như thế đến chừng nào nước quá lạnh. Chúng tôi trở lại Bắc Kinh trước khi đại hội khai mạc.

Đại hội VIII, diễn đàn đầu tiên của đảng cộng sản Trung Quốc sau năm 1945, khi ấy căn cứ cách mạng còn ở Hồ Nam, trước khi nước Cộng hoà Nhân dân thành lập. Tại đại hội kỳ này vừa có kế hoạch bầu Ban chấp hành mới vừa đề ra những nguyên tắc cơ bản phát triển chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc. Mao tin đại hội sẽ chấp nhận hướng đi cải cách tận gốc của ông và chính thức đề cử ông là người lãnh đạo cao nhất của đảng và nhà nước. Nhưng ông lại để Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình điều khiển đại hội. Theo cái nhìn của tôi, sự quá tự tin của hai người đã lấn át những nhạy cảm chính trị. Họ không thấy được thủ đoạn từ chức của Mao, họ điều khiển đại hội theo chiều hướng của họ, điều đó đã giáng một đòn mạnh trực tiếp vào Chủ tịch. Mao buộc tội Lưu và Đặng không những âm mưu gạt ông khỏi chính trường mà còn định cướp chính quyền trong tay ông.
Lưu Thiếu Kỳ trình bày bản báo cáo chính trị – sự kiện trung tâm của đại hội. Trước đó, Lưu Thiếu Kỳ luôn luôn đưa cho Mao xem văn bản bài phát biểu của ông nhân danh đảng mà Mao thường sửa chữa và bổ xung. Nhưng lần này, như Mao nói với tôi, Lưu Thiếu Kỳ không làm như vậy. Điều này, Lưu Thiếu Kỳ đã ký vào bản án tử hình cho chính mình trong những năm Cách mạng văn hoá.
– Dù tôi từ bỏ chức vị Chủ tịch nước, nhưng tôi vẫn là Chủ tịch đảng cộng sản Trung Quốc – Mao tâm sự với tôi – Vì sao họ không trình tôi các thông tin về các vấn đề cần thảo luận trong báo cáo? Họ biện bạch không kịp thời gian, nhưng tôi có đi khỏi nước đâu. Tại sao họ lại bảo không kịp cơ chứ?
Tôi không biết trước kia Mao có đọc các dự thảo báo cáo chính trị của Lưu hay không, nhưng các mục chính của bài phát biểu này rõ ràng không hợp ý Mao. Đường lối chung của đảng được vạch ra trong đại hội VIII khác hẳn với ý tưởng của Mao. Tất cả các sự kiện chính trị sau này của Mao – thanh lọc hàng ngũ đảng viên, Đại nhảy vọt, chiến dịch “phục hồi chủ nghĩa xã hội” của quần chúng, cuối cùng, Cách mạng văn hoá – là sự xác nhận rõ nhất sự khác nhau này. Mao chỉ có thể tính sổ hoàn toàn các đối thủ chính trị của mình vào năm 1969, ở hội nghị đại biểu lần thứ 12 Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc, khai trừ Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình ra khỏi đảng và phần đông những người tham gia đại hội VIII và thông báo ý tưởng của Mao là người lãnh đạo đảng và nhà nước.
Đặng Tiểu Bình và Lưu Thiếu Kỳ cùng một quan điểm, cho rằng mọi quyết định của đảng phải được tập thể thông qua. Theo tôi đây là sự bất đồng cơ bản, khác biệt ý tưởng của Mao. Họ coi ban lãnh đạo đảng là nòng cốt, sự chỉ trích và phê phán của Khrushchsev vào Stalin là xác nhận sự lãnh đạo của tập thể, họ cho Mao tuy là người đứng đầu, những các lãnh đạo chủ chốt cũng phải có quyền ngang Mao, điều này rõ ràng chống lại hoài bão làm vua của Chủ tịch.
Tôi có mặt tại đại hội từ ngày khai mạc đến hôm bế mạc với tư cách bác sĩ riêng. Ngày đầu tiên Mao thu hút các đại biểu đại hội bằng bài phát biểu chào mừng. Sau đó Lưu Thiếu Kỳ đọc báo cáo chính trị. Nghe bản báo cáo chính trị của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, tôi biết ngay Mao đã nổi xung. Tôi kinh hãi khi được nghe họ chỉ trích đích danh Mao. Trong báo cáo Lưu và Đặng đưa ra ý tưởng lãnh đạo tập thể của đảng và nhà nước, lên án tệ sùng bái cá nhân. Trong đề án xây dựng hiến pháp mới Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, do Đặng trình bày, không có điểm nào về vai trò lãnh đạo của tư tưởng Mao Trạch Đông, đặt Mao vào cương vị mới, vai trò chủ tịch danh dự. Người ta cho rằng cứ theo bài phát biểu này, chức vụ chủ tịch đảng không thể vĩnh viễn và hy vọng Mao cũng phải rời bỏ cả chức vụ Chủ tịch đảng cộng sản trong tương lai.
Đối với Mao, nguyên tắc lãnh đạo tập thể theo đường lối Khrushchev không thể chấp nhận. Bởi nếu đảng quán triệt đường lối lãnh đạo tập thể, như vậy đã tước bỏ quyền lực tuyệt đối của ông, đặt lãnh tụ ngang hàng với những người lãnh đạo khác. Nhưng ông vẫn muốn là vị lãnh tụ tối cao. Ông luôn thèm khát sự sùng bái cá nhân.
Tôi hoàn toàn đồng ý điều này. Chẳng phải Lưu Thiếu Kỳ, chẳng phải tổ chức tập thể nào cả, chỉ có Mao mới là người lãnh đạo cao nhất của đất nước.
Tuy từ chức nhưng ông vẫn muốn tham gia, làm cố vấn tất cả những cuộc họp thảo luận các sự kiện trọng đại. Theo Mao, vấn đề ở chỗ Lưu và Đặng tự coi mình là người quan trọng, coi ông còn là nhân vật quan trọng ngang hàng, chính vì lẽ đó đã gây cho Mao để ý Lưu và Đặng.
Đại hội VIII, phơi bày sự chia rẽ giữa Mao và người thừa kế của ông – Lưu Thiếu Kỳ. Sự kiện này coi như điểm đảo ngược trong mối quan hệ của Mao với Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, đang cố gắng làm giảm quyền lực của Chủ tịch.
Tuy nhiên Mao quyết định tạm thời chưa xông vào cuộc chiến công khai với Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, đầu tiên ông trút xuống những thuộc hạ trực tiếp của họ – La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng. Ông từng làm như thế từ trước đây, Mao giận dữ Stalin, nhưng trút xuống đầu nhân vật thân Kremlin là Vương Minh. Hành động quyết liệt của Mao trong mối quan hệ cả với La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng trong thời gian ngắn đã đụng chạm trực tiếp đến cả tôi.
Cơn lôi đình nổ ra ngay trong một buổi chiều đại hội. Ngày Quốc khánh 1-10-1956 vừa mới được tổ chức, đa số quan chức Trung Nam Hải đến xem buổi trình diễn vở kinh kịch trong hội trường Hoài Nhân. Giờ ấy, Mao đang ở buồng ngủ, còn tôi đang ngồi kiểm tra hồ sơ bệnh án trong buồng nhỏ bên cạnh. Bỗng nhiên Lý Ẩm Kiều giận dữ vào phòng tôi, gọi điện vào hội trường Hoài Nhân gọi La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng cả hai đang xem kinh kịch, cấp tốc về gặp Chủ tịch.
Cả hai đến ngay sau vài phút, chưa hiểu lý do gì Chủ tịch cần gặp khẩn cấp. Lý Ẩm Kiều vội báo:
– Chủ tịch cần gặp hai đồng chí.
Họ chưa kịp bước qua ngưỡng cửa phòng, Mao đã nổi cơn lôi đình. Tôi được giải thích việc này sau đó mấy giờ do Lý Ẩm Kiều và một vệ sĩ của lãnh tụ đứng ngoài cửa nghe lỏm được kể lại.
Mao từ trước đã không ưa La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng. Ông bực mình về các biện pháp an ninh đắt tiền và phức tạp, bởi lẽ họ hoàn toàn áp dụng nguyên xi hệ thống an ninh của Liên Xô. Mao cũng nhắc là Uông đã phát biểu chống lại việc bơi của lãnh tụ trên sông Dương Tử. Nhưng tất cả cơn giận Chủ tịch ở chỗ cả hai người này luôn luôn thông báo mọi hoạt động của ông cho Ban chấp hành trung ương, thông qua hai cố vấn cao cấp của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình.
Đứng đầu Ban bí thư Trung ương đảng là Mao, vì thế La và Uông đã qua mặt ông. Tuy nhiên các báo cáo của họ không có ác ý gì cả, đơn thuần cho rằng mối quan hệ Mao với Ban chấp hành trung ương là thân thiết và đoàn kết. Ngoài ra trước Ban chấp hành trung ương, La và Uông được giao lãnh đạo bộ phận an ninh cho các lãnh tụ cao cấp khác của đảng, trước hết Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Họ báo cáo với Ban chấp hành chuyện Mao không tán thành biện pháp an ninh nghiêm ngặt đề phòng tai nạn rủi ro. Họ chỉ muốn báo cáo với các lãnh tụ cao cấp nếu có chuyện gì sơ xảy với Mao, xin ra đừng trút toàn bộ trách nhiệm lên đầu họ.
Chuyện hai cán bộ thường xuyên báo cáo với Ban chấp hành đã làm ông phật ý, cộng thêm thái độ cư xử của Lưu Thiếu Kỳ trong Đại hội VIII Mao vẫn chưa nguôi, bây giờ Lý Ẩm Kiều lại đổ thêm dầu vào lửa, báo cho Mao rằng La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng, dù đã bị phê bình nghiêm khắc ở Bắc Đới Hà, vẫn tiếp tục tăng cường các biện pháp an ninh tối đa quanh Chủ tịch.
Lý Ẩm Kiều chắc chắn biết Mao coi những hoạt động phục vụ an ninh như thế khác nào sự hạn chế tự do của ông. Mao rõ ràng không muốn đời tư của ông nằm dưới sự kiểm soát hàng ngày, mọi việc ông làm đều bị lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc nắm vững. Mao muốn được tự do, không muốn các lãnh tụ khác kiểm soát hoạt động của mình. Tất cả các sĩ quan phục vụ an ninh chịu sự chỉ huy của La và Uông, Mao muốn rằng đội bảo vệ chỉ trung thành đối với mình ông, chứ không phải cho tất cả giới chóp bu của đảng, tuy nhiên ông không thể nói điều này một cách công khai, bởi nó sẽ làm xấu đi mối quan hệ với chiến hữu của mình.
Mao quát La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng:
– Tôi không tin thành ngữ Hồ Nam, “anh hàng thịt chết khách hàng không phải ăn da lợn”.
Câu cổ ngữ ấy có nghĩa là, “Tôi chẳng cần đến các anh nữa!” Các anh bị thải hồi.
Mao chuyển Bộ trưởng công an La Thuỵ Khanh về làm tỉnh trưởng Hồ Nam, một chức vụ thấp hơn. Uông Đông Hưng được cử đi học trường Đảng cao cấp Bắc Kinh, học xong, sẽ chuyển về Giang Tây, quê ông, phụ trách công tác đảng.
Khi đi ra, mặt họ tái mét, người run run đầy xúc động, đặc biệt là La rất buồn, đau khổ. La Thuỵ Khanh chẳng thể nào hiểu được vì sao Mao lột chức khi ông làm tốt công tác an ninh cho Chủ tịch.
– Thế này là thế nào?
La hỏi mà mồm run lập cập khi bước vào phòng làm việc, ông muốn gọi điện, trình bày tất cả sự việc với Ban chấp hành trung ương và triệu tập cuộc họp bộ công an. La không đoán được nguyên nhân thật sự lý do cách chức.
Uông Đông Hưng biết Mao khá rõ và hiểu ngay lập tức. Uông hiểu, nếu La triệu tập cuộc họp hoặc đến Ban chấp hành trung ương báo cáo, chỉ đưa đến sự đổ vỡ hoàn toàn và có những hậu quả không thể lường được với cả hai người.
Uông khuyên La đừng hành động vội vàng hấp tấp, đừng triệu tập cuộc họp, hãy chờ đợi, sau khi tìm hiểu rõ lý do vì sao bị miễn nhiệm. La chấp nhận lời khuyên.
Về sau La viết một bức thư cho Mao, trong đó ông nhận lỗi của mình và đề nghị lãnh tụ tha thứ. Trong phiên họp của Bộ công an La công khai xám hối, tự phê bình những thiếu sót của mình.
Mao mềm lòng, vẫn để La giữ chức bộ trưởng Bộ công an, không phải chuyển công tác về Hồ Nam.
Chủ tịch cũng nhận được bức thư tương tự của Uông Đông Hưng, tuy nhiên điều này không cứu nổi Uông, ông vẫn bị thải hồi.
Uông ra đi, tôi ở lại cô đơn, thiếu sự giúp đỡ và bảo vệ. Uông là người bạn, người bảo vệ, người duy nhất ủng hộ tôi ở Nhóm Một. Uông tin tôi và đã tiến cử tôi làm bác sĩ riêng của Mao. Những lời khuyên và sự giúp đỡ của Uông giúp tôi hiểu đúng nhiều vấn đề và định hướng được các sự kiện đang xảy ra ở Trung Nam Hải, cũng như ở trong nước. Thiếu Uông Đông Hưng tôi trở thành cái bị bông cho Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều, những người không ưa tôi, từ lâu họ đã chờ sẵn cơ hội như thế này. Tôi hiểu, mình không có cơ hội sống sót. Tôi đang chết dần chết mòn. Tôi cũng phải rời khỏi Nhóm Một và bắt đầu lên kế hoạch đào tẩu khỏi Trung Nam Hải càng sớm càng tốt.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa



Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 19

Posted: 18/07/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Giang Thanh đã làm hỏng hết kế hoạch của tôi. Lần này bà ốm thật.
Trong lần kiểm tra thường kỳ ở Bắc Đới Hà mẫu xét nghiệm bệnh phẩm tế bào âm đạo Giang Thanh có dấu hiệu dương tính. Để xác định kết quả xét nghiệm, các bác sĩ riêng của Giang Thanh, Lâm Kiều Trí và Dư Ái Phong đã gửi lam kính chứa bệnh phẩm tới hai nhà bệnh lý học giỏi nhất trong nước, Lương Bá Cường ở Học viện Y học Tôn Dật Tiên tại Quảng Châu và Hồ Trịnh Tường ở trường Đại học Tổng hợp Y khoa Bắc Kinh. Cả hai đều đi đến kết luận giống nhau: bệnh phẩm dương tính. Xét nghiệm cho thấy bệnh ung thư cổ tử cung đang ở thời kỳ đầu, chưa có di căn và người ta cho rằng có nhiều khả năng chữa được.

Nhưng Giang Thanh lại là vợ của Mao, để thật chắc chắn, bác sĩ Dư Ái Phong đem tiêu bản bệnh phẩm khác bay sang Liên Xô để kiểm tra lại. Ở đó người ta cũng xác nhận kết quả xét nghiệm đúng như vậy. Phó Liêm Chương, người liên hệ với các bác sĩ, đã viết một bản báo cáo cho Mao.
Mao triệu tập một cuộc họp với các bác sĩ. Nữ bác sĩ chuyên khoa sản phụ Lâm Kiều Trí, người đã lấy bệnh phẩm, đề nghị đưa Giang Thanh sang Liên Xô chữa bằng phương pháp trị xạ Cobalt 60. Các bệnh viện ở Trung Quốc vẫn thường trị xạ bằng tia Radium, nhưng chưa có máy điều trị bằng tia Cobalt 60. Các bác sĩ Nga tin rằng trị xạ bằng Cobalt 60 có kết quả khả quan hơn tia Radium. Lời đề nghị của bác sĩ Lâm không chí căn cứ vào sự thận trọng nghề nghiệp, bà còn muốn bảo vệ mình và những đồng nghiệp. Chẳng có bác sĩ Trung Quốc nào muốn nhận trách nhiệm về mình nếu dự đoán điều trị lạc quan bị thất bại.
Mao nói: “Các đồng chí là người quyết định. Khi người ta ốm, người ta phải nghe theo lời khuyên của bác sĩ”. Vậy là đề nghị của bác sĩ Lâm đã được chấp thuận. Giang Thanh sẽ phải sang Liên Xô với sự tháp tùng của bác sĩ Dư Ái Phong.
Giang Thanh lờ mờ nhận ra có điều gì không ổn, thế nhưng bà vẫn không hay biết tí gì về bệnh tình của mình. Mao muốn các bác sĩ nói chuyện thẳng thắn với bà. Ông mời tất cả chúng tôi tới dùng cơm.
Khi biết được sự thật. Giang Thanh rất bồn chồn, cho tới khi các bác sĩ nhiều lần khẳng định, việc chữa bệnh bằng phương pháp chiếu xạ này sẽ làm bà khỏi hẳn, lúc đó mới yên tâm. Vài ngày sau, Giang Thanh bay sang Liên Xô.
Lúc đó, đầu tháng 11. Bây giờ tôi phải tích cực hơn chuyện xin thuyên chuyển.
Có hai khoá học bổ mà tôi quan tâm: Các thể bệnh vùng nhiệt đới và cách điều trị, khoá học tại Anh. Khoá phẫu thuật thần kinh tại Bệnh viện Bắc Kinh. Tại đó, tôi sẽ học một khoá do nhà phẫu thuật thần kinh nổi tiếng nhất Liên Xô, Ruschinski hướng dẫn. Lúc đó ông đang làm việc tại Trung Quốc. Những bác sĩ trưởng khoa thần kinh có tiếng nhất ở trong nước đều tham dự khoá học này. Sau khoá học, bệnh viện Bắc Kinh muốn thành lập một viện nghiên cứu về tâm-thần kinh.
Tôi báo cho Mao biết cả hai khoá học bổ túc. Mao hỏi:
– Thế có nghĩa là đồng chí muốn đi chứ gì?
Tôi đáp:
– Vâng, nếu Chủ tịch cho phép.
Ông hỏi với vẻ tư lự:
– Y học nhiệt đới à? Cái đó chẳng liên quan gì tới tôi.
Qua những lời nói này của Mao, tôi cảm nhận, Mao cho việc tôi đi chỉ là tạm thời. Ông muốn tôi sẽ quay lại.
– Nếu thực sự muốn đi, đồng chí hãy học ngay ở Bắc Kinh. Sau này còn có thể giúp tôi được tốt hơn nữa.
Bởi vì Mao ca cẩm nhiều nhất về chứng suy nhược thần kinh, nên việc học bồ túc thần kinh học sẽ thực sự giúp tôi điều trị cho ông nhiều hơn.
– Nếu Chủ tịch đồng ý, tôi sẽ thu xếp việc này với Bộ y tế.
Tôi vẫn nuôi ý định từ bỏ Nhóm Một vĩnh viễn, tuy nhiên phải làm từng bước. Bộ y tế có trách nhiệm phân công công tác cho các bác sĩ.
Mao hỏi:
– Ai sẽ thay thế khi đồng chí vắng mặt.
Tôi cũng đã nghĩ tới điều này. Tôi muốn bàn giao việc này cho bác sĩ Biện Thế Cường. Ông là bác sĩ nội khoa ở bệnh viện Bắc Kinh, trẻ hơn tôi khoảng 5 tuổi, tốt nghiệp một trường Đại học danh tiếng ở Nam Kinh.
Mao nói:
– Tôi không biết đồng chí ấy. Đồng chí muốn đi hẳn, nếu đồng chí ấy nhận việc này à?
Tôi cam đoan với Mao, tôi sẽ trở lại nếu Mao muốn.
– Đồng chí hãy nói lại với đồng chí Phó Liêm Chương tạm thời tôi không cần người thay thế. Chúng ta sẽ quyết định vấn đề này sau.
Phó Liêm Chương vui mừng trước sự ra đi của tôi. Ông ta chẳng bao giờ muốn tôi làm bác sĩ riêng cho Mao. Bất chấp sự phản đối của Mao, ông ta vẫn cử bác sĩ Biện làm người kế nhiệm tôi. Biện chuyển ngay về Trung Nam Hải. Còn tôi, từ giữa tháng 11, bắt đầu đi học.
Thế là tôi lại được tự do! Tôi rất thích khoá học, thời khoá biểu lúc nào cũng kín mít, như bị hút chặt vào lớp học mới này. Được làm việc chung với các bác sĩ khác, tôi cảm thấy thật hào hứng. Tôi thường làm việc đến hai, ba giờ sáng, mặc dù vậy tôi vẫn cảm thấy sung sức và thoải mái hơn ở Trung Nam Hải, nơi tôi phải cộng tác với những “đồng nghiệp” như Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều. Phó giám đốc bệnh viện Bắc Kinh đề nghị tôi ở lại làm việc sau khoá học, hứa sẽ dành cho tôi một chỗ trong khoa thần kinh.
Công việc mới của tôi làm cho Lý Liên mừng rỡ và trở lại vẻ tươi tắn bấy lâu nay không thấy. Công việc mới vẫn không dành cho chúng tôi nhiều thời gian để gần gũi nhau, nhưng ít ra, cuộc sống cũng trở lại bình thường. Cha mẹ Lý Liên rời Nam Kinh đến Bắc Kinh ở với mẹ tôi, Lý Liên và hai con sống trong khu nhà cũ của gia đình tôi. Cha mẹ nàng rất vui khi được sống chung với chúng tôi. Trước đây ít lâu, người ta đã trả lại quyền công dân cho ông bà, khi các nhà chức trách ở Nam Kinh được biết, tôi là bác sĩ của một cán bộ cao cấp ở Bắc Kinh. Ông bà lại được liệt vào tầng lớp dân nghèo thành thị. Cả hai bây giờ cũng cảm thấy được tự do, rất quan tâm chăm sóc hai đứa cháu ngoại.
Tôi vẫn giữ căn hộ ở Trung Nam Hải, mặc dù chúng tôi rất ít khi ở đó. La Đạo Nhương, người tạm thời giữ chức chỉ huy lực lượng an ninh sau khi Uông Đông Hưng bị cách chức, đã cho phép tôi chuyển đồ văn phòng về bệnh viện, tuy nhiên ông không muốn tôi xa hẳn Mao để sau này tôi có thể dễ dàng trở lại. Trước tôi đã có ba người làm bác sĩ riêng cho Mao bị cách chức. Nếu để tôi đi hẳn, La sợ sẽ gặp khó khăn, nhỡ ra sau này Mao muốn tôi quay về.
Tôi lao vào học đến nỗi chẳng hay biết gì những biến cố chính trị đang xảy ra ở Trung Quốc. Mãi lâu sau tôi mới hay, Mao đã bắt đầu phát động phong trào “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”.
Tôi cũng được biết, trong một bài phát biểu ngày 27-2-1957, Mao đã kêu gọi trí thức và đảng viên của “các đảng dân chủ” hãy vạch những sai lầm của đảng. Trong khoá học, chúng tôi cũng được phép phê bình những sai sót của đảng bộ của chúng tôi. Các cuộc họp đã được triệu tập trong bệnh viện để làm việc này. Tôi đang phải bù đầu vào việc học hành, nên chẳng có thời gian tham dự các cuộc họp. Những biến cố chính trị có vẻ xa lạ như một cuộc chiến tranh ở nơi nào đó xa xôi, chẳng có ai ép chúng tôi phải tham gia các cuộc họp.
Mùa xuân 1957, tôi vẫn tập trung học và cảm thấy hạnh phúc khi lại được trở về môi trường cũ của mình.
Sau đó, ngày 4-5-1957, Lý Ẩm Kiều tới bệnh viện gặp tôi.
– Chủ tịch bị cảm lạnh và muốn gặp đồng chí.
Thế là tôi bị gọi về, nhưng tôi không muốn.
Tôi bảo với Lý, bây giờ bác sĩ Biện Thế Cường có nhiệm vụ chăm sóc Chủ tịch cơ mà.
Lý kể lại rằng, sau khi tôi đi, Mao đã gặp bác sĩ Biện khoảng hai lần, nhưng Mao không thể hoà hợp với ông ta. Để làm quen, Mao đã mời người bác sĩ trẻ này tham dự một buổi khiêu vũ, ông cho rằng bầu không khí đông vui sẽ làm Biện tự nhiên hơn.
Mặc dù vậy, ông ta vẫn phát run lên trước sự có mặt của Mao. Mao không thể chịu được ông ta hơn. Sau khi từ Quảng Châu trở về Mao không có bác sĩ nữa. Giang Thanh cũng từ Liên Xô trở về. Lý Ẩm Kiều bảo cả hai người đều muốn tôi coi sóc sức khỏe.
– Nếu Chủ tịch đã gọi, đồng chí không được từ chối.
Tôi đang làm việc trong bệnh viện. Theo nội quy, nếu muốn đi đâu, tôi phải xin phép, chỉ có bí thư đảng uỷ bệnh viện biết tôi là bác sĩ riêng Chủ tịch. Vì lý do an ninh, chức vụ của tôi được giữ kín. Người ta sợ rằng những kẻ mưu sát có thể đầu độc Mao và thông qua tôi để làm việc này. Nếu đi không xin phép mà tự ý đi, tôi sẽ bị khiển trách vì vi phạm nội quy, mang tiếng xấu.
Lý nói:
– Cấp trên của đồng chí đã biết chuyện này rồi!
Sau khi Uông Đông Hưng bị cách chức, một ông Vương Kính Tiên nào đó phụ trách việc bảo đảm an ninh cho Mao. Ông này cũng đã thu xếp để tôi trở về và uỷ nhiệm cho Lý Ẩm Kiều đi đón. Một chiếc xe đang chờ bên ngoài.
Tôi định đi báo cáo lãnh đạo. Lý Ẩm Kiều không chịu, bảo:
– Muộn rồi. Chúng ta đừng để Chủ tịch phải chờ. Đồng chí cứ đến gặp Chủ tịch trước rồi báo cho bệnh viện sau cũng được.
Vậy là tôi chưa bao giờ thực sự thoát khỏi Nhóm Một, chẳng qua Bộ y tế mượn tôi một thời gian. Cuộc sống của tôi vẫn bị phòng an ninh hoàn toàn kiểm soát. Tôi chẳng còn sự lựa chọn nào khác. Với chiếc ca-táp đựng thuốc và dụng cụ cấp cứu trong tay, tôi trở về Trung Nam Hải.
Mao nằm trên giường trông xanh xao, mệt mỏi. Ông bảo tôi ngồi cạnh ông. Một vệ sĩ mang trà lại. Tôi hỏi ông cảm thấy trong người thế nào, ông đáp:
– Không được khỏe. Tôi bị cảm.
Suốt hơn hai tháng nay, ngay sau khi đọc báo cáo chính trị ngày 27-2 ông bị cảm và ho, ăn không ngon miệng.
Mao để tôi khám bệnh. Bệnh tình của ông không trầm trọng, chỉ bị cảm nặng. Tôi muốn dùng xirô trị ho và thuốc chống táo bón để điều trị cho ông.
– Được rồi, tôi sẽ dùng những thuốc này.
Mao nói tiếp:
– Đồng chí ghi đơn thuốc, cách sử dụng cho nhân viên an ninh sẽ đi lĩnh, không cần phải đến, tôi tự uống được.
Tôi đồng ý với ông và muốn cáo từ.
Mao bảo tôi: “Hãy cứ ngồi đây một lúc nữa đã”. Tôi ngồi lại.
Ông cười và hỏi còn nhớ lại sự việc ở Bắc Đới Hà, khi ông mất bình tĩnh:
– Làm việc cho tôi chằng dễ chịu chút nào phải không? Đồng chí muốn bỏ hẳn chỗ này à? Nhưng tôi vẫn chưa có bác sĩ mới. Tôi đề nghị với đồng chí một thoả thuận quân tử hai bên cùng có lợi. Đồng chí trở lại làm việc, tôi biết, ở đây đồng chí cũng chẳng có gì nhiều để làm. Chúng tôi sẽ kiếm thêm việc gì khác cho đồng chí. Tôi nhớ tới bộ trưởng y tế dưới chế độ Quốc dân đảng – ông Chu Nghị Xuân gì đó. Tôi không nhớ rõ nữa, ông ta đã đạt học vị tiến sĩ của Đức bằng công trình nghiên cứu buồng trứng của thỏ. Đồng chí cũng có thể nghiên cứu trong thời gian rỗi. Có thể, đồng chí kiếm vài con vật, mua trang thiết bị và mở một phòng nghiên cứu thí nghiệm. Tôi sẽ bỏ tiền túi ra đài thọ tất cả, chứ không phải tiền của chính phủ đâu. Đồng chí nghĩ thế nào?
Theo tôi, việc mở một phòng thí nghiệm súc vật ở Trung Nam Hải không tiện lắm. Tôi sẽ bị phê phán gay gắt, bởi vì trong phạm vi Trung Nam Hài không được phép chứa súc vật, kể cả chó hoặc mèo.
Lực lượng an ninh và y tế sợ thú vật có thể mang bệnh và truyền cho Mao hoặc những nhà lãnh đạo đảng khác. Sau này Giang Thanh cũng có lần gây ra một vụ náo động, khi bà mua một con khỉ con để nuôi.
Tôi nói:
– Nếu tôi không có gì làm, có lẽ tôi có thể đọc nhiều sách hơn.
Ông suy nghĩ về đề nghị này một lát, rồi nói:
– Được đấy. Nhưng chỉ như vậy cũng chưa đủ. Học phải đi đôi với hành. Vậy thì chúng ta thống nhất thế này: đồng chí đảm nhiệm việc chăm sóc sức khỏe cho tôi còn việc đồng chí muốn sử dụng thời gian rảnh rồi còn lại như thế nào ta sẽ thảo luận sau.
Đó chẳng phải một thoả thuận hai bên cùng có lợi, chỉ là một mệnh lệnh được đưa ra một cách lịch sự của vị Chủ tịch đảng.
Chẳng ai dám cả gan cưỡng lại Mao. Lời nói của ông là pháp lệnh. Nếu tôi từ chối, tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được một công việc nào khác. Cả vợ tôi chắc chắn cũng sẽ bị sa thải. Thậm chí tôi có thể bị bắt giam, bị tra tấn.
Một lúc sau, Mao nhắc lại với tôi:
– Đã có lần tôi hỏi đồng chí có muốn làm thư ký cho tôi hay không, nhưng đồng chí đã từ chối. Trong thời cận đại ở Trung Quốc, có rất nhiều chính trị gia nối tiếng, họ bắt đầu cũng làm nghề bác sĩ sau đó chuyển sang nghiệp chính trị, ví dụ như Tôn Trung Sơn, Lỗ Tấn và Quách Mạc Nhược. Nghề bác sĩ tuy danh giá, nhưng người ta không nhất thiết phải đóng khung trong đó. Tham dự vào cả các ngành khoa học xã hội cũng chẳng sao.
Mao có thể ép tôi làm bác sĩ cho ông, nhưng ông không thể thuyết phục tôi làm thư ký. Tôi là một bác sĩ y khoa, chứ không phải là một chính trị gia, không bao giờ muốn dính líu vào việc tranh giành quyền lực chính trị.
Mao hỏi:
– Đồng chí vẫn không muốn làm thư ký riêng cho tôi phải không? Thôi được. Thế thì đồng chí chỉ làm bác sĩ cho tôi vậy. Nhưng chúng ta phải thông cảm với nhau, học hỏi lẫn nhau. Không cần là thư ký của tôi, đồng chí vẫn có thể đọc những Bản tin Nội bộ. Như vậy chúng ta dễ trao đổi và hoà thuận với nhau hơn.
Tôi vô cùng thất vọng. Khi làm việc ở Bắc Kinh tôi tưởng cuối cùng đã yên thân và muốn bằng mọi giá phải ở lại đó. Khi làm việc với Mao, tôi sẽ chẳng bao giờ được gặp các bạn đồng nghiệp.
Lòng trung thành đối với Mao, có nghĩa chỉ làm việc trong phạm vi những người thân tín. Ý nghĩ sẽ lại phải làm việc với Diệp Tử Long và những người khác trong Nhóm Một khiến tôi rùng mình. Thế nhưng tôi vẫn phải lệ thuộc vào Mao, chẳng còn cách nào khác.
Mao nói:
– Tôi sẽ thực sự rời chức Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân.
Ý định từ chức chủ tịch tuy vẫn còn giữ kín, nhưng bây giờ mới được quyết định dứt khoát. Ông nói tiếp:
– Ban trị sự Trung ương đã đệ trình các cán bộ cao cấp của đảng và chính phủ một bản tham khảo ý kiến. Diệp Tử Long, Lý Ẩm Kiều và một vài người khác trong Nhóm Một hoàn toàn không tán thành. Theo tôi, từ chức có lợi cho sức khỏe. Nhưng họ không hiểu vấn đề, họ sợ sẽ bị mất quyền lợi khi tôi không còn là Chủ tịch nước nữa. Họ nghĩ, làm việc cho Chủ tịch danh giá hơn.
Đến giờ tôi mới biết. Mao không chỉ phải chịu đựng bệnh cảm lạnh. Trong sáu tháng tôi vắng mặt, biết bao biến cố chính trị lớn lao đã xảy ra. Tôi mải mê với công việc của bệnh viện, đến nỗi không nhận ra điều đó. Bây giờ tôi lại bị chìm ngập trong bầu không khí chính trị.
Tôi chẳng bao giờ quay trở lại bệnh viện Bắc Kinh được nữa, cũng không thể tự đến để lấy những đồ đạc lặt vặt, cũng chẳng giải thích được với đồng nghiệp tại sao tôi bỏ học giữa chừng. Tôi gọi điện báo cho bí thư đảng bệnh viện thông báo việc Mao ra lệnh cho tôi quay trở lại. Một nhân viên an ninh Trung Nam Hải đã đến lấy đồ hộ tôi. Ngay trong đêm hôm đó. tôi đã lại ở Trung Nam Hải, không thể thoát khỏi Nhóm Một. Lần này hết lối thoát.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa


Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 20

Posted: 20/07/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Lâm Khắc thuật lại cho tôi những sự kiện xảy ra trong khi tôi vắng mặt đi học.
Mao giận dữ về những đề nghị cho là xúc phạm ông trong Đại hội đảng lần thứ VIII: kêu gọi một sự lãnh đạo tập thể, tuyên bố Trung Quốc sẽ xoá bỏ tệ sùng bái cá nhân, gạch bỏ một điều trong hiến pháp, trong đó những lời nói của Chủ tịch dẫn lối chỉ đường cho nhà nước nhân dân, và chỉ trích “sự phiêu lưu” của Mao. Ông cho rằng, nhiều cán bộ cao cấp của đảng quá bảo thủ và nhút nhát trong việc áp dụng những thay đồi có tính cách mạng. Trong kỳ họp thứ hai của Ban chấp hành trung ương khoá VIII giữa tháng 11, ông vẫn chưa nguôi. Trong bài phát biểu, ông nhấn mạnh ý nghĩa của cuộc đấu tranh giai cấp và công bố ý định của ông sẽ phát động một chiến dịch làm trong sạch đảng, nhằm loại bỏ “chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa quan liêu” ra khỏi đảng.

Ngay sau cuộc họp tháng 11, Lâm Khắc kể, trong ba tháng liền Mao suốt ngày nằm trên giường, một hiện tượng thường thấy ở Mao mỗi khi gặp một xung đột chính trị hóc búa. Ông chỉ rời khỏi giường khi đi tắm hoặc đi đọc diễn văn ở đâu đó. Mao lợi dụng trạng thái mệt mỏi này để sắp đặt kế hoạch cho những bước đi chính trị tiếp theo.
Bài phát biểu của Mao trong ngày 27-2-1957 một phần nằm trong chiến lược. Ông rời khỏi giường đến nói chuyện ở Hội nghị Tối cao của quốc hội ông làm chủ toạ với tư cách Chủ tịch nước. Thành phần tham gia hội nghị không chỉ có các thành viên của Bộ chính trị, các quan chức cao cấp trong quân đội, những đại diện cao cấp của chính phủ, còn có những người đứng đầu cái gọi là “các đảng phái dân chủ”. Trong bài phát biểu, ông lên án gay gắt thói quan liêu trong đảng, kêu gọi đảng viên của “các đảng phái dân chủ” hãy vạch những sai lầm của đảng cộng sản và đưa ra những đề nghị cải cách. Ông coi cuộc cách mạng đã thắng lợi, chủ nghĩa xã hội đã thành công và tuyên bố thời kỳ đấu tranh giai cấp đã qua. Mặc dù vẫn còn bọn phản cách mạng, nhưng chỉ là thiểu số – như những đám cỏ dại trong cánh đồng lúa – nên chúng không thể làm gì được. Những mâu thuẫn trong xã hội hiện nay “không mang bản chất đối kháng”, chủ yếu là những mâu thuẫn nội bộ có thề giải quyết bằng những biện pháp thích hợp.
Bài phát biểu đóng vai trò tối quan trọng trong chiến lược làm trong sạch đảng của Mao sắp tới. Phong trào làm trong sạch đảng chẳng có gì mới đối với đảng cộng sản. Năm 1942, Mao đã phát động phong trào này lần đầu ở Diên An. Nhưng lần này nó sẽ không chỉ giới hạn trong nội bộ đảng. Mao chằng còn tin vào việc đảng tự làm trong sạch. Ông muốn tất cả quần chúng, nhất là giới trí thức trong những đảng gọi là dân chủ cũng tham gia vào việc góp ý phê bình đảng. Một cách làm rất khác thường, bởi vì đảng cộng sản, một tổ chức chặt chẽ về nội bộ, bí mật và đầy quyền lực mà những thành phần ngoài đảng chưa bao giờ dám hé răng phê bình. Ai dám cả gan phê bình, người đó sẽ phải tính đến việc bị chụp mũ phản cách mạng như hàng trăm nghìn tấm gương khác.
Hơn thế nữa, Mao chẳng tin giới trí thức Trung Hoa một chút nào. Tuy nhiên, vẫn công khai nói ông muốn hợp tác và tận dụng kiến thức của họ, song vẫn nghi ngờ lòng trung thành. Những trí thức phải nghiên cứu đường lối của đảng. Việc cải tạo trí thức Trung Quốc đã được bắt đầu ngay sau khi giải phóng. Những trí thức cứng đầu hoặc những người đã học khoa lý luận không chịu học tập cải tạo sẽ bị công kích.
Nạn nhân gần đây nhất của những vụ công kích đó là nhà văn Hồ Phong. Hồ Phong, đã thẳng thắn phê bình việc kiểm duyệt, cả gan trình bày với Bộ văn hoá những đề nghị có tinh chất xây dựng. Dĩ nhiên, ông chỉ thổ lộ những chỉ trích gay gắt nhất qua thư từ trong phạm vi bạn bè thân thiết. Trong số đó, có người trung thành với đảng đã nộp những bức thư của ông cho chính quyền. Do những điều tâm sự Hồ dại dột viết ra chỉ có tính chất riêng tư này, năm 1955 ông bị tống tù với danh nghĩa thủ lĩnh của một “tố chức bí mật chống đảng’. Hồ Phong bị bắt không làm cho giới trí thức im lặng, họ càng lên tiếng phê phán công khai trên diễn đàn, chứ không chỉ trong những bức thư bày tỏ trong phạm vi bạn bè.
Chiến thuật của Mao khởi xướng tranh luận trong giới trí thức, cho phép “trăm hoa đua nở và trăm nhà đua tiếng”, chấp nhận sự mạo hiểm, bởi vì chỉ có ít người thực sự “phản cách mạng” và những người gan dạ như Hồ Phong sẽ chẳng bao giờ lên tiếng được nữa. Những trí thức khác sẽ chỉ phê phán những cá nhân mà Mao chủ tâm cải tạo.
Mao có lý do tin tưởng “chiến thuật mạo hiểm” của ông sẽ thành công. Bởi vì, ngay cả trong những cuộc họp với các đại diện của “các đảng dân chủ”, ông luôn luôn ngập trong những lời xu nịnh thấp hèn – tôi đã chứng kiến trong chuyến du lịch hè năm 1956, khi ông gặp giới lãnh đạo đảng các tỉnh. Sau khi Hồ Phong bị bịt miệng, người ta phỏng đoán, những trí thức trung thành còn lại sẽ đi theo đường lối của Mao.
Trong Hội nghị Tối cao, Mao đã tự phê bình sự yếu kém về lãnh đạo của chính mình, liên quan tới sự xuống dốc của nền kinh tế nước nhà. Trương Thế Trung liền đỡ lời, bênh vực vị Chủ tịch. Trước đây, Trương Thế Trung, tướng của Quốc dân đảng, người đứng đầu trong cuộc đàm phán giữa những người cộng sản và những người quốc gia năm 1945. Năm 1949, do Chu Ân Lai lôi kéo, Trương đã chạy sang hàng ngũ cộng sản, từ đó trở đi, trở thành một đối thủ lừng lẫy của kẻ thù cũ.
Trương nói trong hội nghị: “Tôi thường so sánh Chủ tịch với Tưởng Giới Thạch”. Tưởng Giới Thạch lúc nào cũng đổ lỗi cho người khác, mỗi khi việc gì bị thất bại. Không bao giờ ông ta nhận trách nhiệm về mình. Ngược lại không bao giờ Mao Chủ tịch đổ lỗi cho người khác. “Thật là một trời một vực! Thật đáng kính phục!”
Phong trào phê và tự phê bình do Mao khởi xướng cứ ì ra. Hầu hết các trí thức không dám mở miệng. Tính cách cai trị của Mao cũng như vầng hào quang huyền bí của quyền lực, sự bất khả xâm phạm bao quanh, đã khiến cho ngay cả những kẻ to gan nhất và những người trung thực nhất cũng phải kính cẩn trước ông. Những thú nhận mà Mao cố gợi được ở người đối thoại trong những cuộc nói chuyện riêng tư chỉ là những lời xin lỗi đáng thương vì trước đây họ đã ngờ vực ông. Trước công luận cũng như trong phạm vi cá nhân, chẳng bao giờ Mao khuyến khích những người bất đồng chính kiến nói lên sự thật, tại sao ông lại tin được nhân dân ủng hộ hết lòng.
Khi các trí thức vẫn giữ thái độ im lặng, một lần nữa, Mao lại rời khỏi giường, bước lên bục diễn thuyết. Trong Hội nghị Tuyên huấn toàn quốc của đảng cộng sản về công tác tuyên truyền diễn ra từ ngày 6 đến 13-3-1957, với sự tham dự của các cán bộ lãnh đạo đảng, những “nhân tố dân chủ” ngoài đảng, Mao nhắc lại những câu quan trọng của bài phát biểu tháng hai của ông và cổ động cho phong trào “Trăm hoa đua nở”. Ông kêu gọi “các lực lượng dân chủ” đừng ngần ngại phê bình. Các báo chí tường thuật lại những luận điểm của ông, những người lãnh đạo đảng bộ địa phương trong toàn quốc đã hưởng ứng trào lưu, càng yêu đảng bao nhiều, càng phải thằng thắn phê bình đảng bấy nhiêu.
Nhưng khi phê bình chỉ được nêu ra một cách chung chung, rất hời hợt và nhẹ nhàng. Trong một cuộc mít tinh tại quảng trường Thiên An Môn cuối tháng 4, Mao lại khuyến khích mọi người hãy phê bình đảng.
Cuối cùng những người dân chủ đã hưởng ứng đề nghị của ông, những tiếng nói phê bình ngày tăng lên.
Lúc đó, đầu tháng 5, thời điểm tôi trở lại với Mao. Dần dần, “những sai lầm” của đảng bị lên án càng ngày càng gay gắt, thậm chí người ta còn đặt vấn đề về quyền lãnh đạo của đảng. Không chỉ từng cá nhân đảng viên, mà toàn đảng bị công kích. Bỗng nhiên có tiếng nói, đảng cộng sản không thể độc quyền lãnh đạo, quyền lực phải được chia sẻ. Một số người đòi chế độ đa đảng hoặc nguyên tắc lãnh đạo luân chuyển, mỗi đảng đều có cơ hội lãnh đạo, thậm chí một vài kẻ lộn xộn còn đòi “các đảng dân chủ” phải có quân đội riêng.
Cuối cùng, ngay cả sự lãnh đạo của Mao cũng bị lên án cực lực. Người ta so sánh đảng cộng sản với một ngôi chùa đạo Phật, sư tổ (tức là Mao) “đọc kinh”, còn các sư sãi (các cán bộ đảng) tụng theo. Thậm chí một vài người còn phàn nàn, họ chỉ được phép phê bình các sư sãi chứ không được phê bình thượng toạ.
Dĩ nhiên, Mao bị “sốc”, ông không hề có chủ ý đem mình ra để người ta phê phán, hoặc để cho toàn thể bộ máy đảng bị công kích. Từ trước tới nay ông chỉ quen với những lời xu nịnh, chẳng hề biết các nhà trí thức bất mãn đến mức độ nào.
Giữa tháng 5, cuộc phê bình đạt tới tột đỉnh. Tư tưởng chống đảng của quần chúng ở Trung Quốc đã biến thành một cơn sóng lớn dữ dội. Ngay cả những thành viên của chính phủ, những người được coi là thủ lĩnh của “những đảng dân chủ” mà ý kiến của họ thường xuyên được chính phủ tham khảo, cũng lên tiếng phê bình. Tờ Nhân dân, cơ quan ngôn luận của đảng do Đặng Tước làm tổng biên tập được Hồ Kiều Mục, bạn tôi, cục phó Cục Tuyên truyền, kiểm duyệt cũng bị phê bình.
Về cơ bản. Mao đã tính sai. Ông chán ngán nằm lì trên giường và dưỡng bệnh cảm của ông, vì nó tôi lại bị triệu tới.
Bực tức trước những công kích ngày càng tăng, Mao soát lại chiến lược và lập kế hoạch trả đũa.
Ngày 15 tháng 5, vài ngày sau khi tôi trở lại, Mao viết một bài với tiêu đề “Sự biến hoá của vạn vật”. Bài này được lưu hành bí mật trong phạm các cán bộ cao cấp của đảng. Sau đó chiến dịch làm trong sạch đảng được chuyên hướng. Mao lập kế hoạch giáng trả những kẻ đã lớn tiếng phê bình ông. Các báo chỉ vẫn tiếp tục đăng những ý kiến phê bình, nhưng đồng thời đăng cả những bài cảm tình với đảng và những bài công kích “những phần tử khuynh hữu”.
Mao nói: “Trước hết, chúng ta phải nhử rắn rết bò ra khỏi hang sau đó mới đánh chúng. Chiến lược của tôi, trước tiên chúng ta hãy để cỏ dại mọc lên, rồi bứng từng cụm một làm phân bón”.
Trí thức vẫn tiếp tục được khuyến khích phê bình, nhưng các cán bộ cao cấp của đảng được đánh động và hiểu rằng, đòn phản công nhằm vào trí thức sắp được tung ra.
Mao nói: “Tôi muốn dựa vào các đảng dân chủ để đưa đảng cộng sản đi theo con đường đúng đắn. Nhưng tôi không ngờ họ lại có thể thay đổi đến như vậy”. Mao bực nhất với các thành viên của Liên minh Dân chủ, một liên minh được một nhóm trí thức thành lập trong những năm 40. Liên minh này đã vận động những người cộng sản và người quốc gia thoả hiệp. Mao chì chiết: “Chúng nó, một lũ cướp và đĩ điếm”. Theo nhận định của Mao việc Khrushchev chống lại Stalin vào tháng 2-1956 và cuộc nối dậy ở Hungary cuối năm ấy đã gây nên một làn sóng chống cộng lan rộng khắp thế giới. Nhiều người Trung Quốc, kể cả các cán bộ đảng cũng như thường dân, dưới con mắt của Mao họ là những kẻ đầu đất đã chịu ảnh hướng của làn sóng này.
Ông nổi đoá với Hồ Kiều Mục, vì ông ta hình như chẳng chịu làm gì để chấm dứt việc phê bình đảng trên báo Nhân dân. “Nếu đồng chí không nắm được tờ báo này, đồng chí hãy từ chức để cho người khác làm”. Ông quát tháo, ra lệnh cho Hồ chuẩn bị công kích lại bọn hữu khuynh.
Ngày 8-6-1957, trên Nhân dân Nhật báo đã xuất hiện dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự chuyển hướng của chiến dịch làm trong sạch đảng. Bài xã luận do Mao viết với tiêu đề “Để làm gì?” đã quả quyết rằng có một nhóm nhỏ đang âm mưu lật đổ chính phủ xã hội chủ nghĩa. Bài này kêu gọi quần chúng hãy giáng trả nhóm người đó.
Ngày 19-6-1957, Nhân dân Nhật báo đăng lời phát biểu của Mao “Về phương pháp giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn trong nhân dân”. Đó là bản sao bài phát biểu phê bình đảng của Mao trong Hội nghị cấp cao nhà nước hồi tháng hai và được sửa đổi đôi chút. Thực ra, bài viết này có khác cơ bản với nguyên bản trong đó việc phê bình không bị hạn chế. Mao ra sức kêu gọi đề cao tự do ngôn luận và để cho trăm hoa đua nở.
Ngược lại, trong bài phát biểu được đăng báo ngày 19-6-1957, Mao đã đề ra 6 tiêu chuẩn phê bình được coi là hợp lệ: phải góp phần đoàn kết, không được gây chia rẽ, khuyến khích công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố nền chuyên chính dân chủ của nhân dân, bảo dám sự lãnh đạo của đảng cộng sản và khuyến khích sự đoàn kết của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Nếu Mao đã cảm thấy bị phản bội khi giới trí thức lớn tiếng phê bình, bây giờ giới trí thức lại cảm thấy cay đắng khi bị ông ruồng bỏ. Mao luôn khuyến khích họ phê bình. Thông điệp của ông được đăng trên tất cả các báo ở Trung Quốc và phân phát tới từng cơ sở sản xuất kêu gọi họ phê và tự phê bình. Thế mà giờ đây lại trở mặt.
Mao biết giới trí thức đã nhận ra họ bị mắc lừa. Sau khi bản sao bài phát biểu của ông được đăng báo ngày 19-6-1957, ông nói với tôi:
– Bây giờ một số người hữu khuynh quả quyết, tôi đã hối thúc họ tham gia phong trào Trăm hoa đua nở, khuyến khích họ phê bình đảng vô điều kiện và bây giờ lại trả thù họ. Nhưng ngay từ đầu tôi đã cảnh cáo họ, đừng có trêu ngươi. Tôi đã khuyên họ đóng góp và ủng hộ đảng cộng sản. Một số người đã nghe lời tôi, nhưng chỉ rất ít thôi.
Cho tới nay, tôi mới biết khi đó Mao đã giả dối. Chiến lược của ông, lợi dụng những phê bình của tầng lớp trí thức để chọi lại những đối thủ của ông trong đảng. Nhưng không ngờ mũi dùi phê bình đó lại chĩa vào chính ông.
Khoảng cuối tháng 6, vài tuần sau khi tôi trở lại, Vương Kính Tiên, người chỉ huy mới của Ban an ninh, yêu cầu tôi thu xếp đồ đạc. Mao sẽ rời Bắc Kinh đi đến một nơi nào chưa rõ. Thời kỳ Trăm hoa đua nở đã qua. Chiến dịch chống bọn hữu khuynh của Mao bắt đầu.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa

No comments: