Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 51
Posted: 01/10/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Mao đã đến lưu vực sông Hoàng hà, quyết định không lùi bước thêm nữa. Mùa hè năm 1962, Mao thoát khỏi tình thế đơn độc. Trong những tháng tới, ông muốn triệu tập hai cuộc họp đảng quan trọng, tôi biết, tại các cuộc họp đó ông sẽ phản công. Nhưng tôi không rõ ai sẽ là nạn nhân đầu tiên.
Cuộc họp đảng đầu tiên, một cuộc họp tương đối nhỏ, gồm bí thư thứ nhất của các tỉnh, cán bộ cấp bộ trưởng trở lên diễn ra vào ngày 6-8 tại Bắc Đới Hà. Trong cuộc họp, Mao đọc một bài diễn văn: “Vấn đề giai cấp, thực tiễn và mâu thuẫn”.
Ông đã tốn khá nhiều thời gian biện hộ cho việc dùng lý luận chủ nghĩa Marx công kích chính đảng của ông. Tuy chưa đủ uy lực để ông có thể dễ dàng thanh trừng những chính trị gia cao cấp bất đồng chính kiến. Cũng như tất cả các nhà lãnh đạo Trung Quốc khác, ông phải giành cho được những lý luận chủ nghĩa Marx đứng về phía ông. Bởi vì chỉ có như vậy, mới có thể vận động được quần chúng chống lại những thành viên đáng ghét trong ban lãnh đạo đảng.
Cuộc công kích lần này được đưa ra là sự tồn tại các giai cấp không biến mất một cách đơn thuần chỉ thông qua việc áp dụng chủ nghĩa xã hội. Thậm chí, sau khi quốc hữu hoá tài sản, các giai cấp vẫn tồn tại và cuộc đấu tranh giai cấp vẫn còn tiếp diễn. Theo ông, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, giữa đường lối tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại.
Trong hội nghị lần thứ mười của Uỷ ban Trung ương đảng khoá VIII diễn ra vào mấy tháng sau, Mao tiếp tục triển khai lý luận của mình, ông diễn giải rằng, không những các giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tồn tại, mà cuộc đấu tranh gay gắt giữa tư sản và vô sản sẽ còn kéo dài. “Trong tiến trình lịch sử, từ cuộc cách mạng vô sản đi đến chuyên chính vô sản và trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa cộng sản, thời kỳ này có thể kéo dài hàng thập kỷ hay lâu hơn nữa, cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, giữa đường lối tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiếp diễn”. Nguy cơ phục hồi chủ nghĩa tư bản vẫn đang đe doạ Trung Quốc, vì vậy, người ta vẫn phải tiếp tục tiến hành một cuộc đấu tranh giai cấp không mệt mỏi chống lại nguy cơ này.
Thậm chí, sau đó Mao còn tuyên bố ngay cả bộ máy đảng cũng trở thành nơi ẩn nấp cho bọn tư bản và những thành viên của giai cấp tư sản đã trà trộn vào hàng ngũ của đảng. Cả hai bài phát biểu mang đầy tính thoá mạ, ông công kích mọi phía. Ông đã giáng một đòn chí tử vào tầng lớp trí thức, đòi xét lại thái độ cầu an của Chu Ân Lai và Trần Nghị. Một liên minh giữa những người lao động và trí thức đã quá sớm. Ông nói:
– Đảng ta vẫn chưa giáo dục giới trí thức một cách đúng đắn. Bóng ma tư sản vẫn lẩn quẩn trên đầu, họ vẫn còn ngả nghiêng, chưa kiên định.
Bành Đức Hoài lại bị chỉ trích. Bành đã trình một lá đơn dài xin phục hồi danh dự. Ông bày tỏ sự ủng hộ đối với các công xã nhân dân, quả quyết không hề thành lập một phe phái chống đảng và cũng chưa bao giờ có quan hệ mờ ám với Liên Xô.
Thay vì chấp nhận lá đơn của Bành, Mao lại còn buộc tội ông nặng nề hơn. Lúc này Mao không chỉ buộc tội Bành Đức Hoài đã hợp tác với Liên Xô, thậm chí còn kết tội Bành đã hợp tác với tất cả các lực lượng phản cách mạng trên thế giới trong đó có Mỹ. Theo sự trình bày của Mao, Bành đã âm mưu thành lập một liên minh phản cách mạng, chống cộng toàn cầu. Những bản án đối với Bành Đức Hoài và đồng bọn sẽ không được bãi bỏ. Không lẽ gì lại tha bổng cho kẻ thù.
Tiếp đó, Mao quay sang tấn công Panchen Lama của Tây Tạng, quy kết là “kẻ thù giai cấp”. Dalai Lama, người đứng đầu phần hồn và tôn giáo ở Tây Tạng, đã phải chạy sang Ấn Độ từ năm 1959 sau cuộc thương thuyết không có kết quả giữa chính phủ Trung Quốc và những người đứng đầu Tây Tạng, trong một cuộc nổi dậy đã nổ ra ở Tây Tạng. Cuộc nổi dậy bị đàn áp và Panchen Lama, chỉ nhắc lại những lời nói của các chính trị gia ở Bắc Kinh, trở nên lo sợ, bởi vì theo ông, cái gọi là “cải tổ dân chủ” của Bắc Kinh mang tính chất cực tả. Ông hy vọng, khuynh hướng cực tả ở Tây Tạng có thể sửa đổi được.
Sau đó tới Lý Vệ Hán, Chủ nhiệm Mặt trận thống nhất của đảng, trở thành mục tiêu của Mao. Lý Vệ Hán đã ủng hộ quan điểm của Panchen Lama. Mao chì chiết Lý Vệ Hán là “kẻ đầu hàng”, quì mọp lạy lục lãnh chúa Tây Tạng. Mao còn phê phán Lý Vệ Hán, đã khuyến khích những người lao động và giới trí thức liên minh với nhau. Khi Lý Vệ Hán bị cách chức. Tuy Panchen Lama thoát nạn, nhưng trong thời kỳ Cách mạng văn hoá, ông bị quản thúc tại gia gần 10 năm.
Vương Kính Tiên, Chủ nhiệm Văn phòng đối ngoại của đảng, đề nghị củng cố mối quan hệ với Liên Xô và Đông Âu, đồng thời cắt giảm trợ giúp tài chính cho các đảng cộng sản đang đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh. Mao đánh giá Vương “xét lại”, tước bớt quyền hạn. Tuy Vương vẫn giữ nguyên chức vụ, nhưng quyền hành quan trọng nhất đã được Triệu Nghị Minh thay thế đảm nhiệm.
Dưới con mắt của Mao, thành phần kinh tế tư nhân là một đặc trưng điển hình của chủ nghĩa tư bản vẫn đang thịnh hành ở Trung Quốc, ông chỉ thị phải loại bỏ ngay thành phần kinh tế này. Theo ông, những người ủng hộ thành phần kinh tế tư nhân là bọn tư bản, chúng phải bị đào thải. Ông công kích Đặng Tử Huy và Liêu Lộc Nhuận, hai người chịu trách nhiệm chính sách nông nghiệp. Khi tôi bắt đầu làm việc ở Nhóm Một vào giữa những năm 50. Đặng Tử Huy, Chủ nhiệm Uỷ ban nông nghiệp của đảng, thường được coi người có thái độ ôn hoà nhất trong các chính sách nông nghiệp. Bây giờ ông lại bị vu hữu khuynh, đi ngược lại quyền lại của đảng từ hàng chục năm nay. Liêu Lộc Nhuận bộ trưởng Bộ Nông nghiệp bị đóng dấu “xét lại” khi ông thẳng thắn nói, sự thất bại của Đại nhảy vọt do sai lầm về đường lối, chính sách chứ không phải do thiên tai.
Tăng Huy Sinh, bí thư tỉnh An Huy, cán bộ địa phương đầu tiên mất chức sau cuộc hội nghị. Thế là những thử nghiệm thành công về chính sách nông nghiệp của tỉnh này cũng bị đình chỉ luôn, sản lượng nông nghiệp của cái vùng vốn xơ xác nay càng giảm xuống một cách thảm hại.
Cấp Mẫn – bí thư đảng huyện Linh Hạ thuộc tỉnh Cam Túc, một tỉnh đang tranh giành với An Huy “danh hiệu” tỉnh nghèo nhất Trung Quốc – là người kế tiếp trong danh sách của Mao. Ông đã áp dụng thành công cơ chế kinh tế cá thể và thu hoạch nông nghiệp của tỉnh tăng lên. Vương Phong, bí thư đảng tỉnh Cam Túc cho rằng tình trạng nghèo đói ở Cam Túc do công xã nhân dân và ông hết lòng ủng hộ những thử nghiệm của Cấp Mẫn. Mao buộc tội cả hai đang đi chệch sang con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng chỉ có Cấp Mẫn bị cách chức vào năm 1962. Còn Vương Phong mãi đến tháng 8 năm 1966 mới bị mất chức. Trong thời kỳ đầu của Cách mạng văn hoá. Vương Phong, một trong những người đầu tiên bị Mao quy “xét lại – phản cách mạng”, ông bị đấu tố tàn nhẫn, cuối cùng ông đã phẫn chí quyên sinh.
Mùa thu năm 1962, đánh dấu một bước ngoặt quyết định đối với Mao và đảng cộng sản. Việc Mao cứ khăng khăng trong chủ nghĩa xã hội cũng tồn tại các giai cấp rốt cuộc đã bịt đi những lời nói phải và sự phê bình chính trực. Tinh thần thẳng thắn, lòng can đảm của Hội nghị Bảy nghìn cán bộ giờ đây bỗng biến mất. Những chính trị gia thực lòng vì sự phồn vinh của đất nước, những người từng cho rằng, tốt nhất là trả lại việc tổ chức sản xuất nông nghiệp từ tay cán bộ và hợp tác xã cho nông dân, không dám nói ra ý kiến của mình nữa. Những lập luận của Mao về đấu tranh giai cấp, về mặt lý thuyết đã tạo ra cớ cho mọi cuộc thanh trừng sắp tới mà đỉnh cao là Cách mạng văn hoá năm 1966. Kẻ nào cãi lại lời Chủ tịch, kẻ đó là phản cách mạng, “chạy theo con đường tư bản chủ nghĩa”. Đối với Mao, không có tội nào nặng hơn thế.
Khang Sinh đã theo Mao từ hồi còn ở Diên An. Thậm chí người ta còn xì xào, Khang Sinh đã đưa Giang Thanh gia nhập đảng, bố trí cho Giang Thanh ở lại Diên An, nơi bà gặp rồi kết hôn với Mao. Giang Thanh và Khang Sinh đều là người Sơn Đông, quen thân nhau từ trước cách mạng 1949.
Năm 1958, tôi gặp Khang Sinh lần đầu. Sau năm 1949, ông rút khỏi những hoạt động chính trị. Khi đảng cộng sản nắm chính quyền, ông được đưa vào bệnh viện. Mấy năm sau ông ra viện khi kế hoạch Đại nhảy vọt bắt đầu, ông là một trong những người cổ vũ mạnh mẽ cho kế hoạch này. Bạn tôi, bác sĩ từng điều trị cho ông ở bệnh viện Bắc Kinh cho hay, Khang mắc bệnh tâm thần phân lập, nhưng vì sao ông được xuất viện tôi không rõ. Tôi ít quan hệ, cũng chẳng thân thiết, thỉnh thoảng thấy ông đến gặp Mao bàn những chuyện kín đáo. Khang Sinh chẳng vui vẻ, cởi mở, thân thiện như những người lãnh đạo khác thỉnh thoảng đến gặp Chủ tịch.
Trong thời kỳ Cách mạng văn hoá năm 1966, Khang Sinh và Giang Thanh đặc biệt thân thiết, đôi khi họ mời cả tôi cùng đi xem những bộ phim của Mỹ mà Giang Thanh ưa thích. Bà vợ của Mao ngày càng quấn quít với Khang Sinh hơn. Bà hỏi ý kiến, cầu xin những lời khuyên chân thành của ông. Bà gọi ông một cách kính trọng nhất theo lối xưng hô ở Trung Quốc, “Già Khang”. Khang Sinh, người đầu tiên được bà ban cho niềm vinh hạnh ấy.
Tôi thường tìm cách tránh mặt Khang Sinh, bởi vì khi gần ông, cảm thấy có mối đe doạ mà tôi không thể giải thích được. Dáng dấp con người ông thể hiện một kẻ đầy mưu mô xảo quyệt, giả dối. Chỉ cần quan sát ông trong ảnh, người ta cũng cảm nhận được cái gì đó chẳng tốt lành toát ra. Đối với tôi, ông đại diện cho “mặt tối” của đảng, sẵn sàng làm tất cả những việc bẩn thỉu người ta sai khiến. Tôi không muốn dính vào những việc đó và Mao chẳng cần đến tôi. Cho nên, có nhiều vụ việc tôi không hề hay biết.
Sau hội nghị lần thứ X, Khang Sinh tích cực hoạt động chính trị. Hồi đó Mao công kích cả phó thủ tướng Tập Trọng Huân, người đã ủng hộ những nỗ lực phục hồi của Cao Cương, kẻ có thái độ thù địch với đảng. Thế rồi Khang Sinh được giao trách nhiệm điều tra “âm mưu chống đảng của Tập Trọng Huân”. Cuộc điều tra của Khang Sinh đã động chạm đến hơn 300 cán bộ đảng viên trong chính phủ và quân đội, trong sổ đó có cả Giả Thác Phủ, Uỷ viên trung ương đảng, Mã Văn Nhuệ, bộ trưởng Bộ Lao động và Bái Kiến, thứ trưởng thứ nhất Bộ công nghiệp và xây dựng.
Tôi quen Tập Trọng Huân, hiểu rằng những lời buộc tội ông và những người ủng hộ ông chỉ là bịa đặt. Nhưng nhiệm vụ Khang Sinh phải loại bỏ, tiêu diệt các đồng chí của mình. Những cuộc “điều tra” cán bộ lãnh đạo triền miên của Khang Sinh trong thời gian đầu thập kỷ 60 đã dọn đường cho cuộc Cách mạng văn hoá sau này. Ngay sau hội nghị lần thứ 10 ít lâu, các cuộc điều tra đã tìm được những nạn nhân đầu tiên. Trước tiên là phó thủ tướng Tập Trọng Huân bị đày đi Hà Nam, sau đó bị quản thúc tại gia. Mãi đến năm 1980 ông mới được phục hồi danh dự. Rất nhiều người trong số hơn 300 cán bộ bị kết án oan và cũng phải chịu những số phận tương tự.
Do sự cách biệt trong cái kén của Nhóm Một, ngoài sự thật Đại nhảy vọt đã gây ra những hậu quả lại hại và chỉ khắc phục được nạn đói một cách chậm chạp ra, tôi chẳng biết gì nhiều về tình hình ở nông thôn. Tôi cũng chẳng hiểu ý nghĩa của chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa của Mao. Sau cuộc họp ở Hàng Châu vào tháng 5 năm 19ó3. khi chúng tôi lại ngồi trên đoàn tàu đặc biệt, tôi hỏi Uông Đông Hưng và Lâm Khắc – người mà chỉ một thời gian sau vĩnh viên phải rời khỏi Nhóm Một – về cách làm này của Mao. Vừa mới cải tổ thành công các công xã nhân dân và nông dân trở về với việc phân chia lao động hợp lý hơn, bây giờ Mao lại muốn làm đảo lộn tất cả. Ông kêu gọi cán bộ ở thành phố xuống làng xã để kiểm tra tình hình kinh tế, tài chính của các công xã nhân dân. Người ta ngờ rằng, trong thời gian đói kém nhiều cán bộ địa phương đã ăn hối lộ. Cán bộ ở thành phố về nông thôn, một mặt để có thể cảm thông với điều kiện sống khắc nghiệt. Mặt khác, với tư cách những thanh tra từ nơi khác đến, họ có thể phát hiện ra những thủ thuật gian trá trong công tác kế toán, phân phối lương thực, phân chia sở hữu và trả lương cho các thành viên của công xã.
Lý Liên được cử đi trong một đoàn công tác đầu tiên về nông thôn. Vì thế, lập tức chiến dịch này ảnh hưởng trực tiếp đến tôi. Sau khi Lý Liên đi, còn lại mình tôi với hai thằng con, John đang học lớp sơ-trung, Erchong lớp mẫu giáo. Một mình tôi không thể nào chăm sóc được hai đứa bé, bởi vì lúc nào tôi cũng phải túc trực bên Mao. Nếu Mao quyết định đi công du, không biết sẽ ra sao đây!
Việc người ta cử Lý Liên, con gái của địa chủ, về nông thôn để “giáo dục xã hội chủ nghĩa” liệu có hàm ý gì không? Cô không những không phải là đảng viên cộng sản mà gia đình cô còn bị coi là kẻ thù giai cấp. Có ích lợi gì khi cô đi thanh tra và giáo dục những kẻ thù giai cấp khác?
Vậy mà khi tôi tìm cách trì hoãn quyết định này, ông viện trưởng Viện nghiên cứu Tây Á và châu Phi thuộc Viện hàn lâm khoa học xã hội Trung Quốc, nơi Lý Liên làm việc với tư cách nghiên cứu sinh, đã giải thích với tôi rằng, Lý Liên được cử về nông thôn chính vì lý lịch gia đình “xấu”. Nếu cô được chứng kiến những người như cô bị giáo dục như thế nào, cô sẽ có thể tự sửa đổi được nhận thức của mình.
Cuối tháng 9-1963, Lý Liên đi công tác. Tôi phàn nàn với Uông Đông Hưng:
– Cấp trên đòi hỏi chúng tôi ngày đêm phải làm việc hết sức mình, nhưng họ chẳng màng đến những vấn đề cá nhân của chúng tôi. Đó đâu phải là cách đối xử của cấp trên đối với cấp dưới.
Uông Đông Hưng đã đề nghị với Ban y tế trung ương về việc này, ngầm cho thủ trưởng của Lý Liên biết, tôi là bác sĩ riêng của Mao. Lập tức Lý Liên được trở về.
Cả Lưu Thiếu Kỳ cũng gặp rắc rối với chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa. Ông đã tự sửa đổi nghị quyết về các vấn đề nông thôn của Mao, đưa ra những lý luận riêng với bản “Dự thảo phương hướng thực hiện một số biện pháp đặc biệt liên quan đến phong trào giáo dục xã hội chủ nghĩa ở nông thôn”. Trong hội nghị Trung ương đảng vào tháng 9 năm 1963, những đề nghị của Lưu được đưa ra thảo luận. Mao cảm thấy bị xúc phạm. Ông lên án Lưu đã phá hoại những nỗ lực phát động đấu tranh giai cấp của ông. Nhưng theo tôi, Mao khó chịu với nội dung của bản dự thảo được thảo luận trong tháng 9 của Lưu sau này được gọi là “Dự thảo 10 điểm thứ hai” thì ít, mà ông cảm thấy bất bình việc Lưu thường tung ra những đề nghị mới làm cho ông bực mình nhiều hơn. Lúc nào Mao cũng tự cho mình có lý.
Vượt lên tất cả các vấn đề, Mao cảm thấy bị súc phạm khi Lưu thành lập chính quyền riêng. Trong việc dám đánh giá giải pháp của Mao, một lần nữa chứng tỏ Lưu đã nắm quyền điều hành trung ương. Mao chỉ cho phép ông, một mình ông thôi, là trung tâm, là hạt nhân duy nhất. Không bao giờ có hai trung tâm.
Nỗi bực tức của Mao đối với Lưu Thiếu Kỳ tăng lên, khi Lưu cử vợ, Vương Quang Mỹ, phụ trách nhóm công tác về công xã “Vườn Đào” vào năm 1964 để xem xét tình hình ở đó. Việc Vương Quang Mỹ về nông thôn hoàn toàn không có gì khác với những cán bộ được điều từ Bắc Kinh. Tuy nhiên. về việc này Mao lại cáu bẳn, vì người ta đã đề cao chuyến đi của bà, rằng việc bà báo cáo những gì bà đã mắt thấy lại nghe trong một cuộc họp của các cán bộ cao cấp sau khi bà trở về, nhằm mục đích đưa đội công tác trở thành một hình mẫu cho các đội công tác sau này. Mao nghi ngờ Lưu đã chuyển giao quyền lực cho vợ. Mao không hề thấy dễ chịu khi hai người đã qua mặt. Lúc đó tôi có cảm giác, mục tiêu công kích của Mao nhằm vào những người như Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Tuy nhiên, Mao hiện đang tiếp tục công việc tảo thanh những cán bộ cấp dưới và tạm thời chưa động đến những cán bộ lãnh đạo cao cấp khác.
Trong khi Mao chỉ trích Lưu, đã dành cho vợ một vai trò chính trị tích cực, mỉa mai thay, Mao cũng giao cho Giang Thanh những nhiệm vụ chính trị mới quan trọng.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Tags: Mao Trạch Đông
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Mao đã đến lưu vực sông Hoàng hà, quyết định không lùi bước thêm nữa. Mùa hè năm 1962, Mao thoát khỏi tình thế đơn độc. Trong những tháng tới, ông muốn triệu tập hai cuộc họp đảng quan trọng, tôi biết, tại các cuộc họp đó ông sẽ phản công. Nhưng tôi không rõ ai sẽ là nạn nhân đầu tiên.
Cuộc họp đảng đầu tiên, một cuộc họp tương đối nhỏ, gồm bí thư thứ nhất của các tỉnh, cán bộ cấp bộ trưởng trở lên diễn ra vào ngày 6-8 tại Bắc Đới Hà. Trong cuộc họp, Mao đọc một bài diễn văn: “Vấn đề giai cấp, thực tiễn và mâu thuẫn”.
Ông đã tốn khá nhiều thời gian biện hộ cho việc dùng lý luận chủ nghĩa Marx công kích chính đảng của ông. Tuy chưa đủ uy lực để ông có thể dễ dàng thanh trừng những chính trị gia cao cấp bất đồng chính kiến. Cũng như tất cả các nhà lãnh đạo Trung Quốc khác, ông phải giành cho được những lý luận chủ nghĩa Marx đứng về phía ông. Bởi vì chỉ có như vậy, mới có thể vận động được quần chúng chống lại những thành viên đáng ghét trong ban lãnh đạo đảng.
Cuộc công kích lần này được đưa ra là sự tồn tại các giai cấp không biến mất một cách đơn thuần chỉ thông qua việc áp dụng chủ nghĩa xã hội. Thậm chí, sau khi quốc hữu hoá tài sản, các giai cấp vẫn tồn tại và cuộc đấu tranh giai cấp vẫn còn tiếp diễn. Theo ông, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, giữa đường lối tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại.
Trong hội nghị lần thứ mười của Uỷ ban Trung ương đảng khoá VIII diễn ra vào mấy tháng sau, Mao tiếp tục triển khai lý luận của mình, ông diễn giải rằng, không những các giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tồn tại, mà cuộc đấu tranh gay gắt giữa tư sản và vô sản sẽ còn kéo dài. “Trong tiến trình lịch sử, từ cuộc cách mạng vô sản đi đến chuyên chính vô sản và trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa cộng sản, thời kỳ này có thể kéo dài hàng thập kỷ hay lâu hơn nữa, cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, giữa đường lối tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiếp diễn”. Nguy cơ phục hồi chủ nghĩa tư bản vẫn đang đe doạ Trung Quốc, vì vậy, người ta vẫn phải tiếp tục tiến hành một cuộc đấu tranh giai cấp không mệt mỏi chống lại nguy cơ này.
Thậm chí, sau đó Mao còn tuyên bố ngay cả bộ máy đảng cũng trở thành nơi ẩn nấp cho bọn tư bản và những thành viên của giai cấp tư sản đã trà trộn vào hàng ngũ của đảng. Cả hai bài phát biểu mang đầy tính thoá mạ, ông công kích mọi phía. Ông đã giáng một đòn chí tử vào tầng lớp trí thức, đòi xét lại thái độ cầu an của Chu Ân Lai và Trần Nghị. Một liên minh giữa những người lao động và trí thức đã quá sớm. Ông nói:
– Đảng ta vẫn chưa giáo dục giới trí thức một cách đúng đắn. Bóng ma tư sản vẫn lẩn quẩn trên đầu, họ vẫn còn ngả nghiêng, chưa kiên định.
Bành Đức Hoài lại bị chỉ trích. Bành đã trình một lá đơn dài xin phục hồi danh dự. Ông bày tỏ sự ủng hộ đối với các công xã nhân dân, quả quyết không hề thành lập một phe phái chống đảng và cũng chưa bao giờ có quan hệ mờ ám với Liên Xô.
Thay vì chấp nhận lá đơn của Bành, Mao lại còn buộc tội ông nặng nề hơn. Lúc này Mao không chỉ buộc tội Bành Đức Hoài đã hợp tác với Liên Xô, thậm chí còn kết tội Bành đã hợp tác với tất cả các lực lượng phản cách mạng trên thế giới trong đó có Mỹ. Theo sự trình bày của Mao, Bành đã âm mưu thành lập một liên minh phản cách mạng, chống cộng toàn cầu. Những bản án đối với Bành Đức Hoài và đồng bọn sẽ không được bãi bỏ. Không lẽ gì lại tha bổng cho kẻ thù.
Tiếp đó, Mao quay sang tấn công Panchen Lama của Tây Tạng, quy kết là “kẻ thù giai cấp”. Dalai Lama, người đứng đầu phần hồn và tôn giáo ở Tây Tạng, đã phải chạy sang Ấn Độ từ năm 1959 sau cuộc thương thuyết không có kết quả giữa chính phủ Trung Quốc và những người đứng đầu Tây Tạng, trong một cuộc nổi dậy đã nổ ra ở Tây Tạng. Cuộc nổi dậy bị đàn áp và Panchen Lama, chỉ nhắc lại những lời nói của các chính trị gia ở Bắc Kinh, trở nên lo sợ, bởi vì theo ông, cái gọi là “cải tổ dân chủ” của Bắc Kinh mang tính chất cực tả. Ông hy vọng, khuynh hướng cực tả ở Tây Tạng có thể sửa đổi được.
Sau đó tới Lý Vệ Hán, Chủ nhiệm Mặt trận thống nhất của đảng, trở thành mục tiêu của Mao. Lý Vệ Hán đã ủng hộ quan điểm của Panchen Lama. Mao chì chiết Lý Vệ Hán là “kẻ đầu hàng”, quì mọp lạy lục lãnh chúa Tây Tạng. Mao còn phê phán Lý Vệ Hán, đã khuyến khích những người lao động và giới trí thức liên minh với nhau. Khi Lý Vệ Hán bị cách chức. Tuy Panchen Lama thoát nạn, nhưng trong thời kỳ Cách mạng văn hoá, ông bị quản thúc tại gia gần 10 năm.
Vương Kính Tiên, Chủ nhiệm Văn phòng đối ngoại của đảng, đề nghị củng cố mối quan hệ với Liên Xô và Đông Âu, đồng thời cắt giảm trợ giúp tài chính cho các đảng cộng sản đang đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh. Mao đánh giá Vương “xét lại”, tước bớt quyền hạn. Tuy Vương vẫn giữ nguyên chức vụ, nhưng quyền hành quan trọng nhất đã được Triệu Nghị Minh thay thế đảm nhiệm.
Dưới con mắt của Mao, thành phần kinh tế tư nhân là một đặc trưng điển hình của chủ nghĩa tư bản vẫn đang thịnh hành ở Trung Quốc, ông chỉ thị phải loại bỏ ngay thành phần kinh tế này. Theo ông, những người ủng hộ thành phần kinh tế tư nhân là bọn tư bản, chúng phải bị đào thải. Ông công kích Đặng Tử Huy và Liêu Lộc Nhuận, hai người chịu trách nhiệm chính sách nông nghiệp. Khi tôi bắt đầu làm việc ở Nhóm Một vào giữa những năm 50. Đặng Tử Huy, Chủ nhiệm Uỷ ban nông nghiệp của đảng, thường được coi người có thái độ ôn hoà nhất trong các chính sách nông nghiệp. Bây giờ ông lại bị vu hữu khuynh, đi ngược lại quyền lại của đảng từ hàng chục năm nay. Liêu Lộc Nhuận bộ trưởng Bộ Nông nghiệp bị đóng dấu “xét lại” khi ông thẳng thắn nói, sự thất bại của Đại nhảy vọt do sai lầm về đường lối, chính sách chứ không phải do thiên tai.
Tăng Huy Sinh, bí thư tỉnh An Huy, cán bộ địa phương đầu tiên mất chức sau cuộc hội nghị. Thế là những thử nghiệm thành công về chính sách nông nghiệp của tỉnh này cũng bị đình chỉ luôn, sản lượng nông nghiệp của cái vùng vốn xơ xác nay càng giảm xuống một cách thảm hại.
Cấp Mẫn – bí thư đảng huyện Linh Hạ thuộc tỉnh Cam Túc, một tỉnh đang tranh giành với An Huy “danh hiệu” tỉnh nghèo nhất Trung Quốc – là người kế tiếp trong danh sách của Mao. Ông đã áp dụng thành công cơ chế kinh tế cá thể và thu hoạch nông nghiệp của tỉnh tăng lên. Vương Phong, bí thư đảng tỉnh Cam Túc cho rằng tình trạng nghèo đói ở Cam Túc do công xã nhân dân và ông hết lòng ủng hộ những thử nghiệm của Cấp Mẫn. Mao buộc tội cả hai đang đi chệch sang con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng chỉ có Cấp Mẫn bị cách chức vào năm 1962. Còn Vương Phong mãi đến tháng 8 năm 1966 mới bị mất chức. Trong thời kỳ đầu của Cách mạng văn hoá. Vương Phong, một trong những người đầu tiên bị Mao quy “xét lại – phản cách mạng”, ông bị đấu tố tàn nhẫn, cuối cùng ông đã phẫn chí quyên sinh.
Mùa thu năm 1962, đánh dấu một bước ngoặt quyết định đối với Mao và đảng cộng sản. Việc Mao cứ khăng khăng trong chủ nghĩa xã hội cũng tồn tại các giai cấp rốt cuộc đã bịt đi những lời nói phải và sự phê bình chính trực. Tinh thần thẳng thắn, lòng can đảm của Hội nghị Bảy nghìn cán bộ giờ đây bỗng biến mất. Những chính trị gia thực lòng vì sự phồn vinh của đất nước, những người từng cho rằng, tốt nhất là trả lại việc tổ chức sản xuất nông nghiệp từ tay cán bộ và hợp tác xã cho nông dân, không dám nói ra ý kiến của mình nữa. Những lập luận của Mao về đấu tranh giai cấp, về mặt lý thuyết đã tạo ra cớ cho mọi cuộc thanh trừng sắp tới mà đỉnh cao là Cách mạng văn hoá năm 1966. Kẻ nào cãi lại lời Chủ tịch, kẻ đó là phản cách mạng, “chạy theo con đường tư bản chủ nghĩa”. Đối với Mao, không có tội nào nặng hơn thế.
***
Tháng 9-1962, sau Hội nghị lần thứ 10 của Uỷ ban trung ương đảng khoá VIII, các cuộc thanh trừng vẫn tiếp diễn, Mao uỷ nhiệm cho Khang Sinh thực hiện việc thanh trừng này.Khang Sinh đã theo Mao từ hồi còn ở Diên An. Thậm chí người ta còn xì xào, Khang Sinh đã đưa Giang Thanh gia nhập đảng, bố trí cho Giang Thanh ở lại Diên An, nơi bà gặp rồi kết hôn với Mao. Giang Thanh và Khang Sinh đều là người Sơn Đông, quen thân nhau từ trước cách mạng 1949.
Năm 1958, tôi gặp Khang Sinh lần đầu. Sau năm 1949, ông rút khỏi những hoạt động chính trị. Khi đảng cộng sản nắm chính quyền, ông được đưa vào bệnh viện. Mấy năm sau ông ra viện khi kế hoạch Đại nhảy vọt bắt đầu, ông là một trong những người cổ vũ mạnh mẽ cho kế hoạch này. Bạn tôi, bác sĩ từng điều trị cho ông ở bệnh viện Bắc Kinh cho hay, Khang mắc bệnh tâm thần phân lập, nhưng vì sao ông được xuất viện tôi không rõ. Tôi ít quan hệ, cũng chẳng thân thiết, thỉnh thoảng thấy ông đến gặp Mao bàn những chuyện kín đáo. Khang Sinh chẳng vui vẻ, cởi mở, thân thiện như những người lãnh đạo khác thỉnh thoảng đến gặp Chủ tịch.
Trong thời kỳ Cách mạng văn hoá năm 1966, Khang Sinh và Giang Thanh đặc biệt thân thiết, đôi khi họ mời cả tôi cùng đi xem những bộ phim của Mỹ mà Giang Thanh ưa thích. Bà vợ của Mao ngày càng quấn quít với Khang Sinh hơn. Bà hỏi ý kiến, cầu xin những lời khuyên chân thành của ông. Bà gọi ông một cách kính trọng nhất theo lối xưng hô ở Trung Quốc, “Già Khang”. Khang Sinh, người đầu tiên được bà ban cho niềm vinh hạnh ấy.
Tôi thường tìm cách tránh mặt Khang Sinh, bởi vì khi gần ông, cảm thấy có mối đe doạ mà tôi không thể giải thích được. Dáng dấp con người ông thể hiện một kẻ đầy mưu mô xảo quyệt, giả dối. Chỉ cần quan sát ông trong ảnh, người ta cũng cảm nhận được cái gì đó chẳng tốt lành toát ra. Đối với tôi, ông đại diện cho “mặt tối” của đảng, sẵn sàng làm tất cả những việc bẩn thỉu người ta sai khiến. Tôi không muốn dính vào những việc đó và Mao chẳng cần đến tôi. Cho nên, có nhiều vụ việc tôi không hề hay biết.
Sau hội nghị lần thứ X, Khang Sinh tích cực hoạt động chính trị. Hồi đó Mao công kích cả phó thủ tướng Tập Trọng Huân, người đã ủng hộ những nỗ lực phục hồi của Cao Cương, kẻ có thái độ thù địch với đảng. Thế rồi Khang Sinh được giao trách nhiệm điều tra “âm mưu chống đảng của Tập Trọng Huân”. Cuộc điều tra của Khang Sinh đã động chạm đến hơn 300 cán bộ đảng viên trong chính phủ và quân đội, trong sổ đó có cả Giả Thác Phủ, Uỷ viên trung ương đảng, Mã Văn Nhuệ, bộ trưởng Bộ Lao động và Bái Kiến, thứ trưởng thứ nhất Bộ công nghiệp và xây dựng.
Tôi quen Tập Trọng Huân, hiểu rằng những lời buộc tội ông và những người ủng hộ ông chỉ là bịa đặt. Nhưng nhiệm vụ Khang Sinh phải loại bỏ, tiêu diệt các đồng chí của mình. Những cuộc “điều tra” cán bộ lãnh đạo triền miên của Khang Sinh trong thời gian đầu thập kỷ 60 đã dọn đường cho cuộc Cách mạng văn hoá sau này. Ngay sau hội nghị lần thứ 10 ít lâu, các cuộc điều tra đã tìm được những nạn nhân đầu tiên. Trước tiên là phó thủ tướng Tập Trọng Huân bị đày đi Hà Nam, sau đó bị quản thúc tại gia. Mãi đến năm 1980 ông mới được phục hồi danh dự. Rất nhiều người trong số hơn 300 cán bộ bị kết án oan và cũng phải chịu những số phận tương tự.
***
Từ sau hội nghị lần thứ X, Mao tìm cách thiết lập lại sự kiểm soát các vùng nông thôn bằng cách ngăn chặn, chấm dứt xu hướng kinh tế cá thể, ông cho đó là sự hồi sinh của chủ nghĩa tư bản. Quá trình này tiến triển rất chật vật, chậm chạp, câu hỏi tại sao Đại nhảy vọt thất bại đã chìm vào quên lãng. Mãi đến tháng 5 năm 1963, trong một cuộc họp Bộ chính trị và các bí thư đảng địa phương ở Hàng Châu, Mao mới dứt điểm được. Trong cuộc họp, “Nghị quyết về các vấn đề nông nghiệp hiện nay” được thảo luận và ban hành. Trong nghị quyết có nói, những thế lực phong kiến và tư bản đang tìm cách trở lại ở nông thôn. Việc này sẽ dẫn đến một cuộc đấu tranh giai cấp khốc liệt. Để giải quyết vấn đề, Mao đề nghị phát động một “chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa” ở nông thôn. Phải tìm ra kẻ thù giai cấp, đưa ra luận tội, cán bộ đảng viên địa phương và nông dân phải được giáo dục, rèn luyện về chủ nghĩa xã hội và đấu tranh giai cấp.Do sự cách biệt trong cái kén của Nhóm Một, ngoài sự thật Đại nhảy vọt đã gây ra những hậu quả lại hại và chỉ khắc phục được nạn đói một cách chậm chạp ra, tôi chẳng biết gì nhiều về tình hình ở nông thôn. Tôi cũng chẳng hiểu ý nghĩa của chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa của Mao. Sau cuộc họp ở Hàng Châu vào tháng 5 năm 19ó3. khi chúng tôi lại ngồi trên đoàn tàu đặc biệt, tôi hỏi Uông Đông Hưng và Lâm Khắc – người mà chỉ một thời gian sau vĩnh viên phải rời khỏi Nhóm Một – về cách làm này của Mao. Vừa mới cải tổ thành công các công xã nhân dân và nông dân trở về với việc phân chia lao động hợp lý hơn, bây giờ Mao lại muốn làm đảo lộn tất cả. Ông kêu gọi cán bộ ở thành phố xuống làng xã để kiểm tra tình hình kinh tế, tài chính của các công xã nhân dân. Người ta ngờ rằng, trong thời gian đói kém nhiều cán bộ địa phương đã ăn hối lộ. Cán bộ ở thành phố về nông thôn, một mặt để có thể cảm thông với điều kiện sống khắc nghiệt. Mặt khác, với tư cách những thanh tra từ nơi khác đến, họ có thể phát hiện ra những thủ thuật gian trá trong công tác kế toán, phân phối lương thực, phân chia sở hữu và trả lương cho các thành viên của công xã.
Lý Liên được cử đi trong một đoàn công tác đầu tiên về nông thôn. Vì thế, lập tức chiến dịch này ảnh hưởng trực tiếp đến tôi. Sau khi Lý Liên đi, còn lại mình tôi với hai thằng con, John đang học lớp sơ-trung, Erchong lớp mẫu giáo. Một mình tôi không thể nào chăm sóc được hai đứa bé, bởi vì lúc nào tôi cũng phải túc trực bên Mao. Nếu Mao quyết định đi công du, không biết sẽ ra sao đây!
Việc người ta cử Lý Liên, con gái của địa chủ, về nông thôn để “giáo dục xã hội chủ nghĩa” liệu có hàm ý gì không? Cô không những không phải là đảng viên cộng sản mà gia đình cô còn bị coi là kẻ thù giai cấp. Có ích lợi gì khi cô đi thanh tra và giáo dục những kẻ thù giai cấp khác?
Vậy mà khi tôi tìm cách trì hoãn quyết định này, ông viện trưởng Viện nghiên cứu Tây Á và châu Phi thuộc Viện hàn lâm khoa học xã hội Trung Quốc, nơi Lý Liên làm việc với tư cách nghiên cứu sinh, đã giải thích với tôi rằng, Lý Liên được cử về nông thôn chính vì lý lịch gia đình “xấu”. Nếu cô được chứng kiến những người như cô bị giáo dục như thế nào, cô sẽ có thể tự sửa đổi được nhận thức của mình.
Cuối tháng 9-1963, Lý Liên đi công tác. Tôi phàn nàn với Uông Đông Hưng:
– Cấp trên đòi hỏi chúng tôi ngày đêm phải làm việc hết sức mình, nhưng họ chẳng màng đến những vấn đề cá nhân của chúng tôi. Đó đâu phải là cách đối xử của cấp trên đối với cấp dưới.
Uông Đông Hưng đã đề nghị với Ban y tế trung ương về việc này, ngầm cho thủ trưởng của Lý Liên biết, tôi là bác sĩ riêng của Mao. Lập tức Lý Liên được trở về.
Cả Lưu Thiếu Kỳ cũng gặp rắc rối với chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa. Ông đã tự sửa đổi nghị quyết về các vấn đề nông thôn của Mao, đưa ra những lý luận riêng với bản “Dự thảo phương hướng thực hiện một số biện pháp đặc biệt liên quan đến phong trào giáo dục xã hội chủ nghĩa ở nông thôn”. Trong hội nghị Trung ương đảng vào tháng 9 năm 1963, những đề nghị của Lưu được đưa ra thảo luận. Mao cảm thấy bị xúc phạm. Ông lên án Lưu đã phá hoại những nỗ lực phát động đấu tranh giai cấp của ông. Nhưng theo tôi, Mao khó chịu với nội dung của bản dự thảo được thảo luận trong tháng 9 của Lưu sau này được gọi là “Dự thảo 10 điểm thứ hai” thì ít, mà ông cảm thấy bất bình việc Lưu thường tung ra những đề nghị mới làm cho ông bực mình nhiều hơn. Lúc nào Mao cũng tự cho mình có lý.
Vượt lên tất cả các vấn đề, Mao cảm thấy bị súc phạm khi Lưu thành lập chính quyền riêng. Trong việc dám đánh giá giải pháp của Mao, một lần nữa chứng tỏ Lưu đã nắm quyền điều hành trung ương. Mao chỉ cho phép ông, một mình ông thôi, là trung tâm, là hạt nhân duy nhất. Không bao giờ có hai trung tâm.
Nỗi bực tức của Mao đối với Lưu Thiếu Kỳ tăng lên, khi Lưu cử vợ, Vương Quang Mỹ, phụ trách nhóm công tác về công xã “Vườn Đào” vào năm 1964 để xem xét tình hình ở đó. Việc Vương Quang Mỹ về nông thôn hoàn toàn không có gì khác với những cán bộ được điều từ Bắc Kinh. Tuy nhiên. về việc này Mao lại cáu bẳn, vì người ta đã đề cao chuyến đi của bà, rằng việc bà báo cáo những gì bà đã mắt thấy lại nghe trong một cuộc họp của các cán bộ cao cấp sau khi bà trở về, nhằm mục đích đưa đội công tác trở thành một hình mẫu cho các đội công tác sau này. Mao nghi ngờ Lưu đã chuyển giao quyền lực cho vợ. Mao không hề thấy dễ chịu khi hai người đã qua mặt. Lúc đó tôi có cảm giác, mục tiêu công kích của Mao nhằm vào những người như Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Tuy nhiên, Mao hiện đang tiếp tục công việc tảo thanh những cán bộ cấp dưới và tạm thời chưa động đến những cán bộ lãnh đạo cao cấp khác.
Trong khi Mao chỉ trích Lưu, đã dành cho vợ một vai trò chính trị tích cực, mỉa mai thay, Mao cũng giao cho Giang Thanh những nhiệm vụ chính trị mới quan trọng.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 52
Posted: 05/10/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Giang Thanh lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng 29-9-1962, hai năm sau khi hội nghị lần thứ 9. Lý do, gặp vợ tổng thống Indonessia Sukarno. Những bức ảnh về sự kiện này, bức ảnh đầu tiên về vợ Mao trên báo chí xuất hiện trên tờ “Nhân dân Nhật báo” ngày hôm sau. Khi Mao bắt tay vợ Sukarno, Giang Thanh, trong bộ âu phục trang nhã phương tây, đứng giữa, cười tươi, trong khi vợ Chu Ân Lai – Đặng Dĩnh Siêu đứng đằng sau. Tờ Nhân dân Nhật báo cũng đăng một số ảnh về Vương Quang Mỹ. Là người đứng đầu nhà nước trong buổi đón tiếp, Lưu Thiếu Kỳ cần phải đón tiếp Sukarno phu nhân ở sân bay. Uông tháp tùng vợ chồng Lưu Thiếu Kỳ ra sân bay đón tổng thống Indonessia và phu nhân.
Sự xuất hiện công khai của Giang Thanh gây sự chú ý của đông đảo tầng lớp nhân dân. Điều này vi phạm sự cấm kỵ từ lâu không cho phép Giang Thanh dính vào chính trị. Nhưng với Vương Quang Mỹ lại khác, nghi lễ đòi hỏi sự có mặt của Chủ tịch phu nhân. Thực tế, sự xuất hiện của Giang Thanh có nghĩa vai trò hoạt động chính trị của bà bắt đầu. Giới văn hoá và nghệ thuật Trung Quốc chẳng bao lâu rơi vào tay bà. Như thế, chính văn hoá và nghệ thuật đã được đưa lên sân khấu từ cuộc “Cách mạng văn hoá vô sản vĩ đại” phát động.
Vai trò mới của Giang Thanh thoạt đầu làm cho cuộc sống của tôi dễ chịu hơn. Bà càng dính sâu vào chính trị, chứng ảo tưởng và chứng suy nhược thần kinh càng bớt. Tôi hiếm nghe thấy những lời phàn nàn hay các cuộc cãi cọ giữa bà và các cô y tá.
Nhưng Giang Thanh vẫn còn căm tôi, quyền lực chính trị cho bà điều kiện, phương tiện mới để trả thù. Cuộc trả thù đầu tiên của Giang Thanh xảy ra đầu năm 1963.
Tôi biết nhà hát kinh kịch Bắc Kinh mới cải biên và dựng lại vở “Hồng Mai”, thời trẻ tôi rất thích, bây giờ vở kinh kịch này đổi tên “Lý Huy Nhân”. Những người hoạt động văn hoá và nghệ thuật, bao gồm cả Điền Hãn, một trong số kịch tác gia hàng đầu Trung Quốc, viết những bài báo ca ngợi vở kịch, trong đó một phụ nữ trẻ đẹp thiết tha trả thù cho cuộc sống bị áp bức của mình. Liêu Mạt Sa, giám đốc Phòng văn hoá tổng hợp Bác kinh, bút danh Phạm Thắng ca ngợi vở kịch, xác nhận chẳng có gì sai lầm khi vở kịch thể hiện vai ma quỷ.
Tôi xem vở “Hồng Mai” lần cuối cùng từ khi còn nhỏ và ký ức của tôi về nội dung đã phai mờ nhiều. Tôi nhớ mang máng có cảnh hồn ma cô gái đẹp nhảy múa duyên dáng trong bộ quần áo lụa trắng trong suốt. Là người say mê kinh kịch Bắc Kinh, tôi muốn xem vở dàn dựng mới. Nhưng công việc với Mao không dành cho tôi thời gian.
Tại đây có một sự trùng hợp ngẫu nhiên, một đêm, Mao nói chuyện với tôi về vở kịch. Mao không thấy thích thú vở kịch vì lẽ trong đó có nhiều phụ nữ trẻ đẹp, đối với kinh kịch, nam diễn viên đóng thế thường trung niên mới hay. Nhưng tôi nhớ trong vở Lý Huy Nhân có cả nam nữ diễn viên lớn tuổi tham gia. Tôi nói rằng Mao nên thưởng thức những cảnh các nghệ sĩ trẻ đẹp lượn lờ dọc sân khấu, gợi ý ông xem xét vở này này.
Mao đồng ý:
– Hãy bảo họ diễn ở đây, trong Hội trường Hoài Nhân, khu Trung Nam Hải, như thế tất cả chúng ta có thể xem. Bảo Uông Đông Hưng thu xếp buổi diễn.
Buổi diễn trở thành sự kiện ở Trung Nam Hải. Bởi vì chính Mao đặt diễn vở, tất cả những nhà lãnh đạo cao cấp kéo đến hội trường. Thậm chí Lý Liên cũng đến xem cùng chúng tôi.
Giữa buổi diễn, ngồi ngay phía sau Mao, tôi đột nhiên hiểu rằng mình đã phạm sai lầm kinh khủng. Nói chung tôi đã không nhớ cốt truyện. Cao điểm của vở kịch đạt được khi tể tướng Nhà Thương, Giả Thạch Đảo, một lão già, từ thuyền trên Hồ Tây ở Hàng Châu – một nơi Mao thích – ngắm nhìn đoàn kỹ nữ múa hát. Nhiều tỳ thiếp trẻ của Giả Thạch Đảo vây quanh ông ta. Họ theo dõi người đẹp Lý Huy Nhân, một trong số tì thiếp yêu của Tể tướng, chợt thấy anh học trò nghèo, cô thốt lên sự ngưỡng mộ: “Chao ôi, sao chàng điển trai đến vậy!” Giả Thạch Đảo nghe thấy, ông giận điên người, ra lệnh xử tử người ái thiếp. Màn kịch, tôi còn nhớ, người tỳ thiếp từ cõi chết – hồn ma – hiện về báo thù kẻ vừa là tình nhân vừa là kẻ thù.
Chính thời điểm này, khi cô tì thiếp xinh đẹp thốt lên về sự ngưỡng mộ chàng trai trẻ, thái độ Mao đột ngột thay đổi. Ngoại trừ đôi khi nổi giận bất thường, ông hiếm khi cho phép mình công khai thể hiện sự không hài lòng trước công chúng. Nhưng tôi quá hiểu ông, không cần nhiều lời, chỉ những thể hiện vẻ mặt bên ngoài – môi cong, mi mắt nâng lên, người cứng đờ ra… tôi hiểu, vở kịch vô tình đã lăng mạ ông. Vở kịch gần như công khai bóng gió đến cái gì đang xảy ra trong cung điện, những chàng trai ve vãn các tỳ thiếp xinh đẹp của Mao. Vở kịch gợi lại việc “người cầm lái vĩ đại” từ chối cho một trong những cô nhân tình của mình đi lấy chồng, chàng trai trẻ cô yêu. Cô gái ấy đã gào lên, buộc tội lãnh tụ mang tính cách của kẻ tư sản.
Buổi diễn kết thúc, rèm sân khấu buông xuống, trong phòng vang lên tiếng vỗ tay hoan hô, Mao đứng dậy, vẻ buồn rầu, nhăn nhó, phẩy tay 3, 4 cái rồi bỏ đi. Thông thường sau buổi diễn, ông lên chúc mừng nồng nhiệt, cám ơn các nghệ sĩ, hôm nay không thế, ông lẳng lặng bỏ về. Ý định của tôi giải khuây cho ông, không ngờ lại kết thúc một cách thảm hại.
Tôi biết ông sẽ cáu tôi và dĩ nhiên tìm cách trả thù.
Ngay sau đó, một tờ báo hàng đầu của Thượng Hải, “Văn Hối Báo”, bắt đầu in những bài phê bình tác giả vở kịch và Liêu Mạt Sa – một trong số những nhà phê bình ca ngợi vở kịch. Tờ báo đánh giá vở kịch sai lầm về tư tưởng, đấu tranh giai cấp. Sau đó chính phủ ra lệnh cấm tất cả các vở kinh kịch và kịch sân khấu đề cập tới hồn và bóng ma. Mao bắt đầu phê bình Bộ văn hoá về khuyết điểm lãnh đạo nhà hát, gọi bộ này ”phục vụ bọn vua chúa, quan lại, thanh niên nam nữ đú đởn và bọn ngoại bang đáng ghét”. Bỗng nhiên vở kinh kịch, tôi cho vô thưởng vô phạt về nội dung, có nhiều cảnh đẹp, không ngờ trở thành một vấn đề tư tưởng, chính trị nghiêm trọng trong cuộc đấu tranh giai cấp mới ở Trung Hoa do cách giải thích của Mao.
Sau vài tháng, người ta chưa lôi tôi vào cuộc đấu tranh này. Nhưng rồi một hôm Uông Đông Hưng gặp tôi, bảo:
– Nguy rồi, Giang Thanh cho rằng “Lý Huy Nhân” là vở kịch rất xấu, loài cỏ độc nguy hại. Bà ấy nói rằng vở kịch bóng ma truyên truyền mê tín dị đoan. Giang Thanh biết Mao chẳng muốn xem vở kịch, nhưng chắc ai đó đã khuyên Mao điều này. Chẳng có một nhà lãnh đạo cao cấp hay bí thư Trần Bá Đạt có liên quan đến việc này. Người thích kinh kịch Bắc Kinh trong chúng ta chỉ có anh thôi. Giang Thanh biết Mao thường nói với anh về mọi thứ có thể. Thế là phải chờ tai hoạ…
Nhưng Giang Thanh chưa bao giờ nhớ đến tên tôi.
Có lẽ, Mao che tôi. Dĩ nhiên, không phải theo tình bạn, mà vì ông cần tôi, bác sĩ y khoa. Khi Giang Thanh hỏi ai đề nghị diễn vở kịch ở gian Hoài Nhân, Mao trả lời rằng không nhớ. Uông Đông Hưng cũng bảo vệ tôi, nói, ông chỉ tuân lệnh tổ chức buổi diễn, ý kiến của ai, ông không quan tâm. Ngoài ra, ông chẳng biết tí gì về vở kịch – cái gì xấu, cái gì tốt.
Nhưng Giang Thanh không nhượng bộ. Bà ra lệnh cho Uông Đông Hưng tìm ra kẻ khởi xướng.
– Giang Thanh muốn tống cổ anh đấy – Uông nhắc tôi – Bà ta kiếm cớ từ đã lâu, giờ đây đã tìm thấy cơ hội. Giang Thanh chưa buông tha đâu, chừng nào chưa gắn cho anh cái mác “hữu khuynh”.
Uông Đông Hưng và tôi quyết định nói chuyện với Mao, đề nghị Mao nói với Giang, chính ông quyết định muốn xem vở kinh kịch, sau khi bài ca ngợi của Điền Hãn. Mao đồng ý. Uông Đông Hưng đưa Giang Thanh bài báo này.
Vợ Chủ tịch tha cho tôi. Nhưng nước cờ của chúng tôi đem lại tai hoạ cho Điền Hãn. Bây giờ Giang Thanh nhận được lý do để loại bỏ ông.
– Đây rồi, người này trong văn hoá và nghệ thuật, đứng đằng sau vở diễn – bà nói với tôi, khi đọc qua bài báo – Tuyệt! Chúng ta để bọn quỷ lộ mặt rồi chúng ta tóm cổ bọn chúng. Họ không thoát khỏi tay chúng ta đâu.
Giang Thanh đi Thượng Hải, với Kha Thanh Thế, đồng minh của bà, vạch kế hoạch chiến lược tấn công văn học nghệ thuật Trung Hoa hiện đại.
Nhưng Giang Thanh không bỏ lỡ cơ hội một lần nữa cố gắng “lột vỏ” xơi tôi.
– Anh cũng xem vở “Lý Huy Nhân” diễn ở đây, có phải không? – Giang Thanh hỏi tôi trước khi đi – Anh có thích vở ấy không?
– Vở kịch có từ xa xưa – Tôi trả lời, thoái thác – Đây là sự tưởng tượng. Nó tương tự vở kịch cách mạng “Bạch Mao Nữ”. Họ đều là cô gái trẻ bị bọn địa chủ, cường hào bóc lột.
Giang Thanh xem ý kiến của tôi là lạ lùng và ngạc nhiên so sánh hai vở kịch giống nhau. Tôi giải thích rằng cả hai câu chuyện đều kể về những phụ nữ bị áp bức, đều cố gắng trả thù cho chính bản thân họ. Bạch Mao Nữ trong vở kịch hãy còn sống, đau khổ, tàn tạ như hồn ma. Lý Huy Nhân trở thành hồn ma ngay sau khi chết do tra tấn.
Giang Thanh cho rằng tôi nói nhảm nhí.
– Hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau – Giang Thanh dứt khoát – Các cuộc nói chuyện về hồn và bóng ma khuyến khích mê tín dị đoan. Hoàn toàn không có lợi cho dân chúng.
Tôi biện bạch:
– Nhưng kinh kịch là nghệ thuật sân khấu. Hồn ma là sự tưởng tượng của tác giả. Trong vở kịch “Hamlet” của Shakespeare cũng có hồn ma đấy thôi. Chẳng lẽ có thể xem “Hamlet” truyền bá mê tín dị đoan?
Giang Thanh lắc đầu không đồng ý.
Đối với Giang Thanh, hồn ma là mê tín dị đoan, là sự thể hiện mâu thuẫn giai cấp. Shakespeare chết từ đời nảo đời nào. Ông là người Anh, vở kịch của một người nước ngoài đã chết từ lâu không thể phản ánh đúng và không phải là tiến bộ.
– Hồn ma trong kịch Shakespeare, nói chung không có nghĩa là chúng ta cũng phải có hồn ma. – Giang Thanh cắt ngang – Chủ tịch phát hiện ra một lượng lớn các vấn đề trong văn hoá, nghệ thuật, các vấn đề ấy chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp nghiêm trọng. Anh cần phải chú ý nhiều đến lời tôi.
Đối với Giang Thanh tôi là người khá bảo thủ, chịu ảnh hưởng nặng quá khứ tư sản. Cứ cố tranh cãi với bà, tôi biết sẽ bị dán mác tả khuynh. Tình hình này làm tôi chợt tỉnh. Tôi 43 tuổi, tóc của tôi từ chỗ còn đen, nay đã điểm bạc. Ở Nhóm Một tôi đã học được tính cẩn thận. Tôi cần phải cố sống, bằng mọi cách giữ mồm giữ miệng, phải biết im lặng.
– Tôi là người lính trơn, lính canh của Chủ tịch trên mặt trận tư tưởng – Giang Thanh nói cho tất cả những ai có mặt ở đó – Tôi là người kiểm tra, theo dõi và thông báo cho Chủ tịch những gì tôi phát hiện ra.
Cái mà bà ta phát hiện ra, chẳng có gì đáng ngạc nhiên, văn học nghệ thuật chứa đầy sự thối nát của chủ nghĩa tư bản vẫn phá hoại ngầm do quá khứ để lại như người ta đã từng đánh giá.
Ngày 12 tháng 12 năm 1963 Mao đề nghị tôi đọc qua một trong số những nghiên cứu của Giang Thanh về văn hoá Trung Hoa – những bài báo mà Kha Thanh Thế gửi cho ông và gọi là “Những báo cáo kết luận chính thức về những thay đổi cách mạng trong ca nhạc và kịch Thượng Hải”. Mao viết bình luận cho tài liệu này.
– Nhìn xem – Mao nói – Chúng ta đặt nền móng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế, nhưng thượng tầng kiến trúc – văn hoá và nghệ thuật – gần như không thay đổi. Những người đã chết về linh hồn vẫn đang nắm văn hoá và nghệ thuật. Chúng ta cần phải ca ngợi những thành tựu của chúng ta trong phim ảnh, nhạc, hoạ, dân ca, nghệ thuật và tiểu thuyết, nhưng ngược lại, họ lại hạ thấp thành tựu ấy đi. Vấn đề là ở chỗ đó, đang hiện hữu. Đặc biệt nghiêm trọng, những vấn đề ấy chiếm trong lĩnh vực nhà hát. Chúng ta cần phải nghiên cứu chúng nghiêm túc. Thậm chí đảng viên còn hăng hái vỗ tay hoan nghênh nghệ thuật tư bản và phong kiến, phớt lờ nghệ thuật xã hội chủ nghĩa. Thật là ngu xuẩn.
Vài tháng sau, Mao hướng bực tức của mình trực tiếp chống Hội Liên hiệp Văn hoá và Nghệ thuật Trung Quốc. “Trong thời gian 15 năm gần đây, các tổ chức của nó và các tạp chí do Hội Liên hiệp lãnh đạo đã không thực hiện chính sách của đảng – Mao nói – Họ chỉ tác động như những người bề trên, do dự tiếp cận với công nhân, nông dân, quân đội. Họ không phản ánh cách mạng xã hội chủ nghĩa trong tác phẩm, đi theo hướng của chủ nghĩa xét lại. Nếu những tổ chức này hoàn toàn không cải tổ, một ngày gần đây nó trở thành Câu lạc bộ Petôfi ở Hungary”.
Khi công nhân trẻ Hungary năm 1954 lập ra Câu lạc bộ Petôfi, chủ trương đòi hỏi tự do và dân chủ hơn nữa, ban đầu chính phủ xem tổ chức này trung thành với nhà nước. Hai năm sau, 1956, chính phủ ra tay đàn áp không thương tiếc. Hiểu điều này, Mao đã lên kế hoạch riêng của mình ngăn chặn những người ly khai ở Trung Quốc trước khi họ nghĩ đến phản kháng.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Giang Thanh lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng 29-9-1962, hai năm sau khi hội nghị lần thứ 9. Lý do, gặp vợ tổng thống Indonessia Sukarno. Những bức ảnh về sự kiện này, bức ảnh đầu tiên về vợ Mao trên báo chí xuất hiện trên tờ “Nhân dân Nhật báo” ngày hôm sau. Khi Mao bắt tay vợ Sukarno, Giang Thanh, trong bộ âu phục trang nhã phương tây, đứng giữa, cười tươi, trong khi vợ Chu Ân Lai – Đặng Dĩnh Siêu đứng đằng sau. Tờ Nhân dân Nhật báo cũng đăng một số ảnh về Vương Quang Mỹ. Là người đứng đầu nhà nước trong buổi đón tiếp, Lưu Thiếu Kỳ cần phải đón tiếp Sukarno phu nhân ở sân bay. Uông tháp tùng vợ chồng Lưu Thiếu Kỳ ra sân bay đón tổng thống Indonessia và phu nhân.
Sự xuất hiện công khai của Giang Thanh gây sự chú ý của đông đảo tầng lớp nhân dân. Điều này vi phạm sự cấm kỵ từ lâu không cho phép Giang Thanh dính vào chính trị. Nhưng với Vương Quang Mỹ lại khác, nghi lễ đòi hỏi sự có mặt của Chủ tịch phu nhân. Thực tế, sự xuất hiện của Giang Thanh có nghĩa vai trò hoạt động chính trị của bà bắt đầu. Giới văn hoá và nghệ thuật Trung Quốc chẳng bao lâu rơi vào tay bà. Như thế, chính văn hoá và nghệ thuật đã được đưa lên sân khấu từ cuộc “Cách mạng văn hoá vô sản vĩ đại” phát động.
Vai trò mới của Giang Thanh thoạt đầu làm cho cuộc sống của tôi dễ chịu hơn. Bà càng dính sâu vào chính trị, chứng ảo tưởng và chứng suy nhược thần kinh càng bớt. Tôi hiếm nghe thấy những lời phàn nàn hay các cuộc cãi cọ giữa bà và các cô y tá.
Nhưng Giang Thanh vẫn còn căm tôi, quyền lực chính trị cho bà điều kiện, phương tiện mới để trả thù. Cuộc trả thù đầu tiên của Giang Thanh xảy ra đầu năm 1963.
Tôi biết nhà hát kinh kịch Bắc Kinh mới cải biên và dựng lại vở “Hồng Mai”, thời trẻ tôi rất thích, bây giờ vở kinh kịch này đổi tên “Lý Huy Nhân”. Những người hoạt động văn hoá và nghệ thuật, bao gồm cả Điền Hãn, một trong số kịch tác gia hàng đầu Trung Quốc, viết những bài báo ca ngợi vở kịch, trong đó một phụ nữ trẻ đẹp thiết tha trả thù cho cuộc sống bị áp bức của mình. Liêu Mạt Sa, giám đốc Phòng văn hoá tổng hợp Bác kinh, bút danh Phạm Thắng ca ngợi vở kịch, xác nhận chẳng có gì sai lầm khi vở kịch thể hiện vai ma quỷ.
Tôi xem vở “Hồng Mai” lần cuối cùng từ khi còn nhỏ và ký ức của tôi về nội dung đã phai mờ nhiều. Tôi nhớ mang máng có cảnh hồn ma cô gái đẹp nhảy múa duyên dáng trong bộ quần áo lụa trắng trong suốt. Là người say mê kinh kịch Bắc Kinh, tôi muốn xem vở dàn dựng mới. Nhưng công việc với Mao không dành cho tôi thời gian.
Tại đây có một sự trùng hợp ngẫu nhiên, một đêm, Mao nói chuyện với tôi về vở kịch. Mao không thấy thích thú vở kịch vì lẽ trong đó có nhiều phụ nữ trẻ đẹp, đối với kinh kịch, nam diễn viên đóng thế thường trung niên mới hay. Nhưng tôi nhớ trong vở Lý Huy Nhân có cả nam nữ diễn viên lớn tuổi tham gia. Tôi nói rằng Mao nên thưởng thức những cảnh các nghệ sĩ trẻ đẹp lượn lờ dọc sân khấu, gợi ý ông xem xét vở này này.
Mao đồng ý:
– Hãy bảo họ diễn ở đây, trong Hội trường Hoài Nhân, khu Trung Nam Hải, như thế tất cả chúng ta có thể xem. Bảo Uông Đông Hưng thu xếp buổi diễn.
Buổi diễn trở thành sự kiện ở Trung Nam Hải. Bởi vì chính Mao đặt diễn vở, tất cả những nhà lãnh đạo cao cấp kéo đến hội trường. Thậm chí Lý Liên cũng đến xem cùng chúng tôi.
Giữa buổi diễn, ngồi ngay phía sau Mao, tôi đột nhiên hiểu rằng mình đã phạm sai lầm kinh khủng. Nói chung tôi đã không nhớ cốt truyện. Cao điểm của vở kịch đạt được khi tể tướng Nhà Thương, Giả Thạch Đảo, một lão già, từ thuyền trên Hồ Tây ở Hàng Châu – một nơi Mao thích – ngắm nhìn đoàn kỹ nữ múa hát. Nhiều tỳ thiếp trẻ của Giả Thạch Đảo vây quanh ông ta. Họ theo dõi người đẹp Lý Huy Nhân, một trong số tì thiếp yêu của Tể tướng, chợt thấy anh học trò nghèo, cô thốt lên sự ngưỡng mộ: “Chao ôi, sao chàng điển trai đến vậy!” Giả Thạch Đảo nghe thấy, ông giận điên người, ra lệnh xử tử người ái thiếp. Màn kịch, tôi còn nhớ, người tỳ thiếp từ cõi chết – hồn ma – hiện về báo thù kẻ vừa là tình nhân vừa là kẻ thù.
Chính thời điểm này, khi cô tì thiếp xinh đẹp thốt lên về sự ngưỡng mộ chàng trai trẻ, thái độ Mao đột ngột thay đổi. Ngoại trừ đôi khi nổi giận bất thường, ông hiếm khi cho phép mình công khai thể hiện sự không hài lòng trước công chúng. Nhưng tôi quá hiểu ông, không cần nhiều lời, chỉ những thể hiện vẻ mặt bên ngoài – môi cong, mi mắt nâng lên, người cứng đờ ra… tôi hiểu, vở kịch vô tình đã lăng mạ ông. Vở kịch gần như công khai bóng gió đến cái gì đang xảy ra trong cung điện, những chàng trai ve vãn các tỳ thiếp xinh đẹp của Mao. Vở kịch gợi lại việc “người cầm lái vĩ đại” từ chối cho một trong những cô nhân tình của mình đi lấy chồng, chàng trai trẻ cô yêu. Cô gái ấy đã gào lên, buộc tội lãnh tụ mang tính cách của kẻ tư sản.
Buổi diễn kết thúc, rèm sân khấu buông xuống, trong phòng vang lên tiếng vỗ tay hoan hô, Mao đứng dậy, vẻ buồn rầu, nhăn nhó, phẩy tay 3, 4 cái rồi bỏ đi. Thông thường sau buổi diễn, ông lên chúc mừng nồng nhiệt, cám ơn các nghệ sĩ, hôm nay không thế, ông lẳng lặng bỏ về. Ý định của tôi giải khuây cho ông, không ngờ lại kết thúc một cách thảm hại.
Tôi biết ông sẽ cáu tôi và dĩ nhiên tìm cách trả thù.
Ngay sau đó, một tờ báo hàng đầu của Thượng Hải, “Văn Hối Báo”, bắt đầu in những bài phê bình tác giả vở kịch và Liêu Mạt Sa – một trong số những nhà phê bình ca ngợi vở kịch. Tờ báo đánh giá vở kịch sai lầm về tư tưởng, đấu tranh giai cấp. Sau đó chính phủ ra lệnh cấm tất cả các vở kinh kịch và kịch sân khấu đề cập tới hồn và bóng ma. Mao bắt đầu phê bình Bộ văn hoá về khuyết điểm lãnh đạo nhà hát, gọi bộ này ”phục vụ bọn vua chúa, quan lại, thanh niên nam nữ đú đởn và bọn ngoại bang đáng ghét”. Bỗng nhiên vở kinh kịch, tôi cho vô thưởng vô phạt về nội dung, có nhiều cảnh đẹp, không ngờ trở thành một vấn đề tư tưởng, chính trị nghiêm trọng trong cuộc đấu tranh giai cấp mới ở Trung Hoa do cách giải thích của Mao.
Sau vài tháng, người ta chưa lôi tôi vào cuộc đấu tranh này. Nhưng rồi một hôm Uông Đông Hưng gặp tôi, bảo:
– Nguy rồi, Giang Thanh cho rằng “Lý Huy Nhân” là vở kịch rất xấu, loài cỏ độc nguy hại. Bà ấy nói rằng vở kịch bóng ma truyên truyền mê tín dị đoan. Giang Thanh biết Mao chẳng muốn xem vở kịch, nhưng chắc ai đó đã khuyên Mao điều này. Chẳng có một nhà lãnh đạo cao cấp hay bí thư Trần Bá Đạt có liên quan đến việc này. Người thích kinh kịch Bắc Kinh trong chúng ta chỉ có anh thôi. Giang Thanh biết Mao thường nói với anh về mọi thứ có thể. Thế là phải chờ tai hoạ…
Nhưng Giang Thanh chưa bao giờ nhớ đến tên tôi.
Có lẽ, Mao che tôi. Dĩ nhiên, không phải theo tình bạn, mà vì ông cần tôi, bác sĩ y khoa. Khi Giang Thanh hỏi ai đề nghị diễn vở kịch ở gian Hoài Nhân, Mao trả lời rằng không nhớ. Uông Đông Hưng cũng bảo vệ tôi, nói, ông chỉ tuân lệnh tổ chức buổi diễn, ý kiến của ai, ông không quan tâm. Ngoài ra, ông chẳng biết tí gì về vở kịch – cái gì xấu, cái gì tốt.
Nhưng Giang Thanh không nhượng bộ. Bà ra lệnh cho Uông Đông Hưng tìm ra kẻ khởi xướng.
– Giang Thanh muốn tống cổ anh đấy – Uông nhắc tôi – Bà ta kiếm cớ từ đã lâu, giờ đây đã tìm thấy cơ hội. Giang Thanh chưa buông tha đâu, chừng nào chưa gắn cho anh cái mác “hữu khuynh”.
Uông Đông Hưng và tôi quyết định nói chuyện với Mao, đề nghị Mao nói với Giang, chính ông quyết định muốn xem vở kinh kịch, sau khi bài ca ngợi của Điền Hãn. Mao đồng ý. Uông Đông Hưng đưa Giang Thanh bài báo này.
Vợ Chủ tịch tha cho tôi. Nhưng nước cờ của chúng tôi đem lại tai hoạ cho Điền Hãn. Bây giờ Giang Thanh nhận được lý do để loại bỏ ông.
– Đây rồi, người này trong văn hoá và nghệ thuật, đứng đằng sau vở diễn – bà nói với tôi, khi đọc qua bài báo – Tuyệt! Chúng ta để bọn quỷ lộ mặt rồi chúng ta tóm cổ bọn chúng. Họ không thoát khỏi tay chúng ta đâu.
Giang Thanh đi Thượng Hải, với Kha Thanh Thế, đồng minh của bà, vạch kế hoạch chiến lược tấn công văn học nghệ thuật Trung Hoa hiện đại.
Nhưng Giang Thanh không bỏ lỡ cơ hội một lần nữa cố gắng “lột vỏ” xơi tôi.
– Anh cũng xem vở “Lý Huy Nhân” diễn ở đây, có phải không? – Giang Thanh hỏi tôi trước khi đi – Anh có thích vở ấy không?
– Vở kịch có từ xa xưa – Tôi trả lời, thoái thác – Đây là sự tưởng tượng. Nó tương tự vở kịch cách mạng “Bạch Mao Nữ”. Họ đều là cô gái trẻ bị bọn địa chủ, cường hào bóc lột.
Giang Thanh xem ý kiến của tôi là lạ lùng và ngạc nhiên so sánh hai vở kịch giống nhau. Tôi giải thích rằng cả hai câu chuyện đều kể về những phụ nữ bị áp bức, đều cố gắng trả thù cho chính bản thân họ. Bạch Mao Nữ trong vở kịch hãy còn sống, đau khổ, tàn tạ như hồn ma. Lý Huy Nhân trở thành hồn ma ngay sau khi chết do tra tấn.
Giang Thanh cho rằng tôi nói nhảm nhí.
– Hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau – Giang Thanh dứt khoát – Các cuộc nói chuyện về hồn và bóng ma khuyến khích mê tín dị đoan. Hoàn toàn không có lợi cho dân chúng.
Tôi biện bạch:
– Nhưng kinh kịch là nghệ thuật sân khấu. Hồn ma là sự tưởng tượng của tác giả. Trong vở kịch “Hamlet” của Shakespeare cũng có hồn ma đấy thôi. Chẳng lẽ có thể xem “Hamlet” truyền bá mê tín dị đoan?
Giang Thanh lắc đầu không đồng ý.
Đối với Giang Thanh, hồn ma là mê tín dị đoan, là sự thể hiện mâu thuẫn giai cấp. Shakespeare chết từ đời nảo đời nào. Ông là người Anh, vở kịch của một người nước ngoài đã chết từ lâu không thể phản ánh đúng và không phải là tiến bộ.
– Hồn ma trong kịch Shakespeare, nói chung không có nghĩa là chúng ta cũng phải có hồn ma. – Giang Thanh cắt ngang – Chủ tịch phát hiện ra một lượng lớn các vấn đề trong văn hoá, nghệ thuật, các vấn đề ấy chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp nghiêm trọng. Anh cần phải chú ý nhiều đến lời tôi.
Đối với Giang Thanh tôi là người khá bảo thủ, chịu ảnh hưởng nặng quá khứ tư sản. Cứ cố tranh cãi với bà, tôi biết sẽ bị dán mác tả khuynh. Tình hình này làm tôi chợt tỉnh. Tôi 43 tuổi, tóc của tôi từ chỗ còn đen, nay đã điểm bạc. Ở Nhóm Một tôi đã học được tính cẩn thận. Tôi cần phải cố sống, bằng mọi cách giữ mồm giữ miệng, phải biết im lặng.
***
Ở Thượng Hải Giang Thanh thử vai trò mới của mình theo dõi về văn hoá nghệ thuật. Kha Thanh Thế rất trung thành với Mao, cố gắng tìm mọi cách giúp đỡ Chủ tịch phu nhân. Kha Thanh Thế giới thiệu bà với Trương Xuân Kiều phụ trách tuyên huấn Thượng Hải. Giang Thanh rất bận rộn với công việc, thăm nhà hát kinh kịch, hoà nhạc, đoàn văn công, ban nhạc và dàn giao hưởng.– Tôi là người lính trơn, lính canh của Chủ tịch trên mặt trận tư tưởng – Giang Thanh nói cho tất cả những ai có mặt ở đó – Tôi là người kiểm tra, theo dõi và thông báo cho Chủ tịch những gì tôi phát hiện ra.
Cái mà bà ta phát hiện ra, chẳng có gì đáng ngạc nhiên, văn học nghệ thuật chứa đầy sự thối nát của chủ nghĩa tư bản vẫn phá hoại ngầm do quá khứ để lại như người ta đã từng đánh giá.
Ngày 12 tháng 12 năm 1963 Mao đề nghị tôi đọc qua một trong số những nghiên cứu của Giang Thanh về văn hoá Trung Hoa – những bài báo mà Kha Thanh Thế gửi cho ông và gọi là “Những báo cáo kết luận chính thức về những thay đổi cách mạng trong ca nhạc và kịch Thượng Hải”. Mao viết bình luận cho tài liệu này.
– Nhìn xem – Mao nói – Chúng ta đặt nền móng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế, nhưng thượng tầng kiến trúc – văn hoá và nghệ thuật – gần như không thay đổi. Những người đã chết về linh hồn vẫn đang nắm văn hoá và nghệ thuật. Chúng ta cần phải ca ngợi những thành tựu của chúng ta trong phim ảnh, nhạc, hoạ, dân ca, nghệ thuật và tiểu thuyết, nhưng ngược lại, họ lại hạ thấp thành tựu ấy đi. Vấn đề là ở chỗ đó, đang hiện hữu. Đặc biệt nghiêm trọng, những vấn đề ấy chiếm trong lĩnh vực nhà hát. Chúng ta cần phải nghiên cứu chúng nghiêm túc. Thậm chí đảng viên còn hăng hái vỗ tay hoan nghênh nghệ thuật tư bản và phong kiến, phớt lờ nghệ thuật xã hội chủ nghĩa. Thật là ngu xuẩn.
Vài tháng sau, Mao hướng bực tức của mình trực tiếp chống Hội Liên hiệp Văn hoá và Nghệ thuật Trung Quốc. “Trong thời gian 15 năm gần đây, các tổ chức của nó và các tạp chí do Hội Liên hiệp lãnh đạo đã không thực hiện chính sách của đảng – Mao nói – Họ chỉ tác động như những người bề trên, do dự tiếp cận với công nhân, nông dân, quân đội. Họ không phản ánh cách mạng xã hội chủ nghĩa trong tác phẩm, đi theo hướng của chủ nghĩa xét lại. Nếu những tổ chức này hoàn toàn không cải tổ, một ngày gần đây nó trở thành Câu lạc bộ Petôfi ở Hungary”.
Khi công nhân trẻ Hungary năm 1954 lập ra Câu lạc bộ Petôfi, chủ trương đòi hỏi tự do và dân chủ hơn nữa, ban đầu chính phủ xem tổ chức này trung thành với nhà nước. Hai năm sau, 1956, chính phủ ra tay đàn áp không thương tiếc. Hiểu điều này, Mao đã lên kế hoạch riêng của mình ngăn chặn những người ly khai ở Trung Quốc trước khi họ nghĩ đến phản kháng.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 53
Posted: 08/10/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tôi cảm thấy Mao dẫn dắt Giang Thanh ra sân khấu chính trị, chỉ vì đời tư của ông chuyển sang bước ngoặt mới, chứ không phải hoàn toàn vô tình. Gần một tháng sau buổi xuất hiện đầu tiên trước công chúng của Giang Thanh, Mao đã chú ý tới Trương Ngọc Phượng, một phụ nữ, sau này trở thành người tình, người trợ lý gần gũi nhất của ông. Tôi gặp họ lần đầu ở cùng với nhau tại Trường Sa trong buổi chiều khiêu vũ chiêu đãi Mao, do Trương Bình Hoa, tân tỉnh trưởng tổ chức. Nhân viên phục vụ trên tàu hoả cũng được mời đến, trong số đó có Trương Ngọc Phượng. Sau vài điệu nhảy Mao dắt tay cô vào buồng ngủ, bảo những cô gái trẻ khác trở về đoàn tàu.
Mao ở lại với Trương Ngọc Phượng ở Trường Sa hai ngày, khi chuyến tầu tiếp tục chuyển bánh, ông chuyển cô từ nhóm toa ăn, nơi cô làm việc, sang nhóm trực nhật trong phòng riêng của ông.
Mao không phải là người theo lối sống một vợ một chồng. Mỗi khi Giang Thanh vắng mặt, chẳng bao giờ ông ăn nằm với cô gái nào vài ba ngày liền. Mao thường dịch chuyển, khi ở trên tầu, khi ở biệt thự. Trong chuyến đi đầu tiên cùng với Trương Ngọc Phượng, khi chúng tôi sang ở biệt thự, ông ở lại trên tàu hoả, luân phiên các cô gái trong đám phục vụ. Cũng như thế, vào năm 1962, người ta thu xếp hai thư ký mà ông có cảm tính, trong nhà khách ngoại ô phía tây Thượng Hải, nơi có một tổ hợp biệt thự lớn, Kha Thanh Thế xây dựng cho Mao và những nhà lãnh đạo cao cấp khác giữa lúc thảm hoạ kinh tế đang xảy ra.
Khu này nằm trong vùng đồng bằng có đồi bằng phẳng, từng thuộc về một nhà tư bản công nghiệp Thượng Hải. Vẫn còn giữ được những ngôi nhà kiểu Nhật Bản đáng yêu, xây cho các tỳ thiếp Nhật của ông. Mao ngủ và nghỉ ở một trong số toà nhà mới, còn toà bên cạnh – có phòng nhảy, làm nơi giải trí. Thường thường thời gian giải trí, Mao đến câu lạc bộ “Thanh Dương”, khu trung tâm thương mại mới được nâng cấp ở giữa khu phố cổ kiểu Pháp.
Từ trưa, sau khi ông thức giấc, chúng tôi đến bằng chiếc xe ô tô chống đạn ZiC do Liên Xô sản xuất. Tại đấy Chủ tịch chăm chú đọc các tài liệu gửi đến hàng ngày, sau đó ông vui đùa, giải trí với các cô gái trẻ đến nửa đêm. Ông quay về khu ngoại ô miền tây khi đường phố tối đen không còn bóng người vào lúc hai, ba giờ sáng.
Tôi luôn luôn tháp tùng Mao đến câu lạc bộ Thanh Dương. Ngồi trong chiếc xe cuối, trong số ba chiếc xe bảo vệ Mao, theo sát chúng tôi có hai quan chức. Giang Thanh khi đó cũng đang ở Thượng Hải, nhưng trong biệt thự, khi Chủ tịch quay về, bà vẫn đang ngủ. Lịch làm việc, sinh hoạt khác biệt đến nỗi ít khi họ gặp nhau.
Giang Thanh, tất nhiên, biết rằng chồng bà vui vầy với đám gái trẻ vây quanh, nhưng phải im lặng. Ông quay về biệt thự chỉ để che đậy mối quan hệ gia đình và giữ thể diện cho vợ.
Tôi đi đến kết luận, Mao và vợ có sự hiểu ngầm nhau. Ông đồng ý để bà có vai trò trước công chúng với cương vị phu nhân Chủ tịch, ngầm thông báo sẽ không bỏ rơi và cũng không ly dị. Đổi lại, Giang Thanh, có nghĩa vụ không được phản ứng trước số lượng ngày một tăng các cô gái trẻ trong buồng ngủ của ông. Mao có những lý do xác đáng tin vợ mình, không có ông, Giang Thanh chẳng là cái thá gì. Và Giang Thanh, cuối cùng, được thoả mãn tham vọng chính trị.
Phải mất nhiều năm, trước khi Trương Ngọc Phượng tự tin được Mao chấp nhận là người tin cẩn. Ban đầu, Mao không hoàn toàn tin tưởng cô. Trương sinh trưởng vùng quê Mông Đăng Thanh, Hắc Long Giang, Mãn Châu Lý. “Bố” cô, công nhân đường sắt. Nhưng khu Mãn Châu này bị Nhật chiếm từ những năm 1930. Trương Ngọc Phượng có một lần thú nhận với Mao, cô được sinh ra bởi mối tình của mẹ với nha sĩ Nhật, bà làm người hầu gái của ông. Biết Trương Ngọc Phượng mang nửa giòng máu Nhật, Mao lúc đó cũng suy nghĩ vẩn vơ, liệu cô ta có phải là gián điệp Nhật không. Tôi chẳng hề biết chuyện thật hư về gốc gác của Trương Ngọc Phượng, nhưng cô chiếm được lòng tin của lãnh tụ phải mất nhiều năm.
Mối quan hệ của tôi với Trương Ngọc Phượng không suôn sẻ ngay từ buổi ban đầu. Sự va chạm nhỏ nhặt đầu tiên xảy ra ngay sau cuộc họp ở Hàng Châu tháng 5-1963, nơi Mao phát động chiến dịch cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn. Trên đường trở về Bắc Kinh, Chủ tịch gọi tôi vào toa của ông.
Mao nằm trên giường, khoác áo choàng, Trương Ngọc Phượng đứng sát bên. Mao chỉ ngực trái, kêu đau.
– Tôi thấy người khó chịu – Mao nói.
Trên ngực trái có một nốt đỏ ửng, bằng hạt gạo, nhưng nhiệt độ bình thường, không có hạch xung quanh, cho thấy dấu hiệu viêm nhiễm nào cả.
– Chủ tịch ngứa rồi gãi phải không? – tôi hỏi.
Mao đã lâu không bị ngứa, mỗi lần ngứa. ông thường gãi hoặc cào mạnh đến mức da bị trầy sước ra. Đôi lúc ông bảo cả nhân tình gãi hộ. Tôi ngờ rằng cái mụn nhọt được tạo thành chính bởi điều này.
Sau lưng Mao, Trương Ngọc Phượng nháy mắt, ra dấu hiệu, tôi đã đoán đúng.
Chuyện vặt vãnh. Tôi bôi thuốc chống nhiễm trùng, dán miếng gạc sát trùng lên nhọt.
– Mọi việc sẽ nhanh chóng ổn thôi – Tôi động viên Mao – Chẳng cần thuốc, chẳng cần tiêm đâu.
Nhưng tôi khuyên ông đừng động vào nhọt.
Ngay tối hôm đó, Mao lại gọi tôi vào toa của ông. Miếng gạc biến mất, nhọt bị vỡ tung, kích thước bây giờ to bằng hạt đỗ tương. Rõ ràng phải có ai đấy làm nó bung ra như thế. Miếng gạc biến thành màu đỏ và cứng. Một đường màu hồng chạy từ vết thương nhỏ xuống nách trái, hạch to lên. Mao sốt.
Tôi đề nghị tiêm peneciline. Mao phản đối. Ông ta muốn tôi trích nhọt. Nhưng điều này còn sớm quá. Sự trích để tháo mủ còn non có thể làm bệnh nặng thêm. Tôi khuyên ông uống một vài viên tetracycline do Mỹ sản xuất. Tôi lại nhắc ông và Trương Ngọc Phượng đừng động chạm vào chỗ này nữa.
Tuy nhiên tôi cực kỳ lo lắng. Mao nói với tôi, theo yêu cầu của ông, Trương Ngọc Phượng đã gãi mụn. Tôi không dám tin, người ta sẽ không động chạm vết thương nữa, lo rằng nhiễm trùng có thể phát triển nhanh. Tôi gọi Thạch Thụ Hán, giám đốc Ban Bảo vệ sức khoẻ Trung ương ở Bắc Kinh. Thạch cũng lo lắng, ngay lập tức cũng thông báo việc xảy ra cho Chu Ân Lai. Chu thậm chí muốn cử thêm bác sĩ giúp tôi chữa Chủ tịch.
Điều thêm bác sĩ khác, theo tôi chẳng cần thiết, nhưng theo Uông Đông Hưng chuyện chính trị lớn hơn chuyện bệnh tật, mắng tôi cứng nhắc, khờ khạo. “Anh bảo Chủ tịch đừng gãi mụn, nhưng ông đã gãi. Có thể ông lại phớt lờ lời anh dặn nữa. Cứ gọi bác sĩ khác đến đây. Họ chia xẻ trách nhiệm với anh. Nếu một cái gì đó xảy ra, các anh còn có thể bảo vệ cho nhau. Chắc chắn một người không tự bảo vệ được đâu. Hãy tin tôi, đây không phải thuần tuý vấn đề y học đâu”.
Tôi buộc phải đồng ý. Tôi thông báo cho Mao rằng Bắc Kinh muốn cử thêm bác sĩ để chạy chữa ông. Ông đồng ý cho Cơ Túc Hoa, lãnh đạo bệnh viện Bắc Kinh đến. Bác sĩ Cơ Túc Hoa tức tốc từ Nam Kinh tới và ngay trong chặng dừng chân đầu tiên đã được đưa lên đoàn tàu hoả.
Lúc này sức khoẻ Mao xấu đi. Nhọt đã nổi lên đầu mụn bằng hạt điều to, có năm hoặc sáu ngòi mủ. Chân nhọt sưng vù bằng quả đào nhỏ, hạch nách trái sưng to.
Cơ Túc Hoa lo sợ. Ông chưa từng gặp Mao bao giờ. Mao theo thói quen vẫn hỏi đùa. Mao mời bác sĩ ngồi bên cạnh, hỏi tên tuổi, quê quán.
Bác sĩ có cái họ hiếm, Mao tò mò, muốn biết bác sĩ có quan hệ họ hàng với nhà văn, nhà sử học đời Thanh, Cơ Lương Thi không. Nhưng bác sĩ Cơ không biết điều này.
– Nghĩa là anh chỉ cố gắng làm bác sĩ giỏi, chẳng chú ý đến lịch sử dòng họ nhà mình? – Mao nói, khuyến khích, động viên bác sĩ.
Tuy nhiên, Cơ Túc Hoa chẳng thể nào yên tâm. Trán ông lấm tấm mồ hôi, tay run run. Trong quá trình khám cho Chủ tịch sự căng thẳng của ông tăng lên.
– Có ai đó chọc nhọt này ra – Ông nói, khi nhìn thấy chỗ vỡ, Mao và Trương Ngọc Phượng bỗng nhiên im lặng.
– Nặng đấy – bác sĩ Cơ nói thầm cho tôi, khi ông đang khám.
Chúng tôi biết cần phải trích mủ, nhưng trích non rất nguy hiểm. Nhiễm trùng có thể dễ lan toả, thành nhiễm trùng máu, đe doạ tính mạng người bệnh. Đây là căn bệnh hóc búa nhất đối với tôi trong suốt thời gian điều trị cho Mao từ trước đến giờ.
Toa ngủ của Mao quá chật không đủ chỗ đặt thiết bị y tế, tôi thấy chưa cần mời bác sĩ ngoại khoa, cứ tiếp tục chữa bằng tetracycline, chườm nóng ngực trái và hố nách. Mao và bác sĩ Cơ đều đồng ý, chúng tôi đợi đến khi ổ abscess chín, lúc ấy mới trích mủ.
Chẳng bao lâu đoàn tàu chúng tôi có mặt ở Bắc Kinh. Sau 5 ngày, một ổ abscess thứ 2 xuất hiện. Chúng tôi trích cả 2 ổ, ra rất nhiều mủ. Tuy nhiên hạch vẫn còn sưng. Ba ngày sau hạch đỡ hẳn. Chỉ từ lúc đó Mao mới bắt đầu hồi sức. Đã sang cuối tháng Sáu.
Việc trích nhọt tiến hành tốt, nhưng thậm chí đến giữa tháng Bẩy vết thương vẫn chưa hoàn toàn kín miệng. Chẳng ai hài lòng với tôi. Giang Thanh giận. Tôi không để Mao đi với các nhà lãnh đạo cao cấp tới Bắc Đới Hà, vì lo rằng nếu Mao cứ nhất quyết bơi ở đó, vết thương sẽ nhiễm trùng trở lại. Tôi biết không ai có thể cản Mao đừng bơi ở Bắc Đới Hà. Vợ lãnh tụ cằn nhằn vì vắng Mao, chẳng có một nhà lãnh đạo cao cấp nào dám đến đó cả. Họ khó có thể cho phép mình tiếp tục nghỉ phép, khi Mao bị bệnh còn đang nằm lại Bắc Kinh. Cái gì xảy ra nếu Mao đột nhiên muốn gặp một ai đó? Mất mùa hè, Giang Thanh bực tức.
Mao cũng bực mình, vì tôi không tiên lượng được tình trạng bệnh nặng như thế nào.
– Bây giờ anh mới cho tôi biết mọi việc tốt đẹp – Mao nói, khi bắt đầu chích mủ – nhưng khi ở trên tàu hoả, anh động viên tôi, bảo chẳng có gì nguy hiểm. Là bác sĩ, anh phải biết trước cái tốt và cái xấu sẽ xảy chứ. Khi đó anh sẽ không bị xái. Ban đầu, anh hứa rằng điều trị chỉ vài ngày, bây giờ, mười ngày qua rồi mà tất cả vẫn chưa xong…
Tôi hứa từ giờ trở đi sẽ cảnh báo cả 2 khả năng tốt xấu để Chủ tịch rõ.
Trương Ngọc Phượng cũng không hài lòng tôi. Tôi không miễn tội gây ra tình trạng ốm đau cho Mao. Tôi biết cô ta không rửa tay trước khi ta cậy mụn và cảnh cáo cô. Mao phàn nàn cô về điều này cả đến khi ông chết. Là bác sĩ, chịu trách nhiệm chính về sức khoẻ Chủ tịch, tôi không tha thứ cho Trương Ngọc Phượng về việc không nghe lời hướng dẫn.
Tôi buộc cô phải thực hiện ý kiến điều trị, vì thế mối quan hệ giữa chúng tôi chẳng bao giờ trở nên tốt đẹp.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tôi cảm thấy Mao dẫn dắt Giang Thanh ra sân khấu chính trị, chỉ vì đời tư của ông chuyển sang bước ngoặt mới, chứ không phải hoàn toàn vô tình. Gần một tháng sau buổi xuất hiện đầu tiên trước công chúng của Giang Thanh, Mao đã chú ý tới Trương Ngọc Phượng, một phụ nữ, sau này trở thành người tình, người trợ lý gần gũi nhất của ông. Tôi gặp họ lần đầu ở cùng với nhau tại Trường Sa trong buổi chiều khiêu vũ chiêu đãi Mao, do Trương Bình Hoa, tân tỉnh trưởng tổ chức. Nhân viên phục vụ trên tàu hoả cũng được mời đến, trong số đó có Trương Ngọc Phượng. Sau vài điệu nhảy Mao dắt tay cô vào buồng ngủ, bảo những cô gái trẻ khác trở về đoàn tàu.
Mao ở lại với Trương Ngọc Phượng ở Trường Sa hai ngày, khi chuyến tầu tiếp tục chuyển bánh, ông chuyển cô từ nhóm toa ăn, nơi cô làm việc, sang nhóm trực nhật trong phòng riêng của ông.
Mao không phải là người theo lối sống một vợ một chồng. Mỗi khi Giang Thanh vắng mặt, chẳng bao giờ ông ăn nằm với cô gái nào vài ba ngày liền. Mao thường dịch chuyển, khi ở trên tầu, khi ở biệt thự. Trong chuyến đi đầu tiên cùng với Trương Ngọc Phượng, khi chúng tôi sang ở biệt thự, ông ở lại trên tàu hoả, luân phiên các cô gái trong đám phục vụ. Cũng như thế, vào năm 1962, người ta thu xếp hai thư ký mà ông có cảm tính, trong nhà khách ngoại ô phía tây Thượng Hải, nơi có một tổ hợp biệt thự lớn, Kha Thanh Thế xây dựng cho Mao và những nhà lãnh đạo cao cấp khác giữa lúc thảm hoạ kinh tế đang xảy ra.
Khu này nằm trong vùng đồng bằng có đồi bằng phẳng, từng thuộc về một nhà tư bản công nghiệp Thượng Hải. Vẫn còn giữ được những ngôi nhà kiểu Nhật Bản đáng yêu, xây cho các tỳ thiếp Nhật của ông. Mao ngủ và nghỉ ở một trong số toà nhà mới, còn toà bên cạnh – có phòng nhảy, làm nơi giải trí. Thường thường thời gian giải trí, Mao đến câu lạc bộ “Thanh Dương”, khu trung tâm thương mại mới được nâng cấp ở giữa khu phố cổ kiểu Pháp.
Từ trưa, sau khi ông thức giấc, chúng tôi đến bằng chiếc xe ô tô chống đạn ZiC do Liên Xô sản xuất. Tại đấy Chủ tịch chăm chú đọc các tài liệu gửi đến hàng ngày, sau đó ông vui đùa, giải trí với các cô gái trẻ đến nửa đêm. Ông quay về khu ngoại ô miền tây khi đường phố tối đen không còn bóng người vào lúc hai, ba giờ sáng.
Tôi luôn luôn tháp tùng Mao đến câu lạc bộ Thanh Dương. Ngồi trong chiếc xe cuối, trong số ba chiếc xe bảo vệ Mao, theo sát chúng tôi có hai quan chức. Giang Thanh khi đó cũng đang ở Thượng Hải, nhưng trong biệt thự, khi Chủ tịch quay về, bà vẫn đang ngủ. Lịch làm việc, sinh hoạt khác biệt đến nỗi ít khi họ gặp nhau.
Giang Thanh, tất nhiên, biết rằng chồng bà vui vầy với đám gái trẻ vây quanh, nhưng phải im lặng. Ông quay về biệt thự chỉ để che đậy mối quan hệ gia đình và giữ thể diện cho vợ.
Tôi đi đến kết luận, Mao và vợ có sự hiểu ngầm nhau. Ông đồng ý để bà có vai trò trước công chúng với cương vị phu nhân Chủ tịch, ngầm thông báo sẽ không bỏ rơi và cũng không ly dị. Đổi lại, Giang Thanh, có nghĩa vụ không được phản ứng trước số lượng ngày một tăng các cô gái trẻ trong buồng ngủ của ông. Mao có những lý do xác đáng tin vợ mình, không có ông, Giang Thanh chẳng là cái thá gì. Và Giang Thanh, cuối cùng, được thoả mãn tham vọng chính trị.
Phải mất nhiều năm, trước khi Trương Ngọc Phượng tự tin được Mao chấp nhận là người tin cẩn. Ban đầu, Mao không hoàn toàn tin tưởng cô. Trương sinh trưởng vùng quê Mông Đăng Thanh, Hắc Long Giang, Mãn Châu Lý. “Bố” cô, công nhân đường sắt. Nhưng khu Mãn Châu này bị Nhật chiếm từ những năm 1930. Trương Ngọc Phượng có một lần thú nhận với Mao, cô được sinh ra bởi mối tình của mẹ với nha sĩ Nhật, bà làm người hầu gái của ông. Biết Trương Ngọc Phượng mang nửa giòng máu Nhật, Mao lúc đó cũng suy nghĩ vẩn vơ, liệu cô ta có phải là gián điệp Nhật không. Tôi chẳng hề biết chuyện thật hư về gốc gác của Trương Ngọc Phượng, nhưng cô chiếm được lòng tin của lãnh tụ phải mất nhiều năm.
Mối quan hệ của tôi với Trương Ngọc Phượng không suôn sẻ ngay từ buổi ban đầu. Sự va chạm nhỏ nhặt đầu tiên xảy ra ngay sau cuộc họp ở Hàng Châu tháng 5-1963, nơi Mao phát động chiến dịch cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn. Trên đường trở về Bắc Kinh, Chủ tịch gọi tôi vào toa của ông.
Mao nằm trên giường, khoác áo choàng, Trương Ngọc Phượng đứng sát bên. Mao chỉ ngực trái, kêu đau.
– Tôi thấy người khó chịu – Mao nói.
Trên ngực trái có một nốt đỏ ửng, bằng hạt gạo, nhưng nhiệt độ bình thường, không có hạch xung quanh, cho thấy dấu hiệu viêm nhiễm nào cả.
– Chủ tịch ngứa rồi gãi phải không? – tôi hỏi.
Mao đã lâu không bị ngứa, mỗi lần ngứa. ông thường gãi hoặc cào mạnh đến mức da bị trầy sước ra. Đôi lúc ông bảo cả nhân tình gãi hộ. Tôi ngờ rằng cái mụn nhọt được tạo thành chính bởi điều này.
Sau lưng Mao, Trương Ngọc Phượng nháy mắt, ra dấu hiệu, tôi đã đoán đúng.
Chuyện vặt vãnh. Tôi bôi thuốc chống nhiễm trùng, dán miếng gạc sát trùng lên nhọt.
– Mọi việc sẽ nhanh chóng ổn thôi – Tôi động viên Mao – Chẳng cần thuốc, chẳng cần tiêm đâu.
Nhưng tôi khuyên ông đừng động vào nhọt.
Ngay tối hôm đó, Mao lại gọi tôi vào toa của ông. Miếng gạc biến mất, nhọt bị vỡ tung, kích thước bây giờ to bằng hạt đỗ tương. Rõ ràng phải có ai đấy làm nó bung ra như thế. Miếng gạc biến thành màu đỏ và cứng. Một đường màu hồng chạy từ vết thương nhỏ xuống nách trái, hạch to lên. Mao sốt.
Tôi đề nghị tiêm peneciline. Mao phản đối. Ông ta muốn tôi trích nhọt. Nhưng điều này còn sớm quá. Sự trích để tháo mủ còn non có thể làm bệnh nặng thêm. Tôi khuyên ông uống một vài viên tetracycline do Mỹ sản xuất. Tôi lại nhắc ông và Trương Ngọc Phượng đừng động chạm vào chỗ này nữa.
Tuy nhiên tôi cực kỳ lo lắng. Mao nói với tôi, theo yêu cầu của ông, Trương Ngọc Phượng đã gãi mụn. Tôi không dám tin, người ta sẽ không động chạm vết thương nữa, lo rằng nhiễm trùng có thể phát triển nhanh. Tôi gọi Thạch Thụ Hán, giám đốc Ban Bảo vệ sức khoẻ Trung ương ở Bắc Kinh. Thạch cũng lo lắng, ngay lập tức cũng thông báo việc xảy ra cho Chu Ân Lai. Chu thậm chí muốn cử thêm bác sĩ giúp tôi chữa Chủ tịch.
Điều thêm bác sĩ khác, theo tôi chẳng cần thiết, nhưng theo Uông Đông Hưng chuyện chính trị lớn hơn chuyện bệnh tật, mắng tôi cứng nhắc, khờ khạo. “Anh bảo Chủ tịch đừng gãi mụn, nhưng ông đã gãi. Có thể ông lại phớt lờ lời anh dặn nữa. Cứ gọi bác sĩ khác đến đây. Họ chia xẻ trách nhiệm với anh. Nếu một cái gì đó xảy ra, các anh còn có thể bảo vệ cho nhau. Chắc chắn một người không tự bảo vệ được đâu. Hãy tin tôi, đây không phải thuần tuý vấn đề y học đâu”.
Tôi buộc phải đồng ý. Tôi thông báo cho Mao rằng Bắc Kinh muốn cử thêm bác sĩ để chạy chữa ông. Ông đồng ý cho Cơ Túc Hoa, lãnh đạo bệnh viện Bắc Kinh đến. Bác sĩ Cơ Túc Hoa tức tốc từ Nam Kinh tới và ngay trong chặng dừng chân đầu tiên đã được đưa lên đoàn tàu hoả.
Lúc này sức khoẻ Mao xấu đi. Nhọt đã nổi lên đầu mụn bằng hạt điều to, có năm hoặc sáu ngòi mủ. Chân nhọt sưng vù bằng quả đào nhỏ, hạch nách trái sưng to.
Cơ Túc Hoa lo sợ. Ông chưa từng gặp Mao bao giờ. Mao theo thói quen vẫn hỏi đùa. Mao mời bác sĩ ngồi bên cạnh, hỏi tên tuổi, quê quán.
Bác sĩ có cái họ hiếm, Mao tò mò, muốn biết bác sĩ có quan hệ họ hàng với nhà văn, nhà sử học đời Thanh, Cơ Lương Thi không. Nhưng bác sĩ Cơ không biết điều này.
– Nghĩa là anh chỉ cố gắng làm bác sĩ giỏi, chẳng chú ý đến lịch sử dòng họ nhà mình? – Mao nói, khuyến khích, động viên bác sĩ.
Tuy nhiên, Cơ Túc Hoa chẳng thể nào yên tâm. Trán ông lấm tấm mồ hôi, tay run run. Trong quá trình khám cho Chủ tịch sự căng thẳng của ông tăng lên.
– Có ai đó chọc nhọt này ra – Ông nói, khi nhìn thấy chỗ vỡ, Mao và Trương Ngọc Phượng bỗng nhiên im lặng.
– Nặng đấy – bác sĩ Cơ nói thầm cho tôi, khi ông đang khám.
Chúng tôi biết cần phải trích mủ, nhưng trích non rất nguy hiểm. Nhiễm trùng có thể dễ lan toả, thành nhiễm trùng máu, đe doạ tính mạng người bệnh. Đây là căn bệnh hóc búa nhất đối với tôi trong suốt thời gian điều trị cho Mao từ trước đến giờ.
Toa ngủ của Mao quá chật không đủ chỗ đặt thiết bị y tế, tôi thấy chưa cần mời bác sĩ ngoại khoa, cứ tiếp tục chữa bằng tetracycline, chườm nóng ngực trái và hố nách. Mao và bác sĩ Cơ đều đồng ý, chúng tôi đợi đến khi ổ abscess chín, lúc ấy mới trích mủ.
Chẳng bao lâu đoàn tàu chúng tôi có mặt ở Bắc Kinh. Sau 5 ngày, một ổ abscess thứ 2 xuất hiện. Chúng tôi trích cả 2 ổ, ra rất nhiều mủ. Tuy nhiên hạch vẫn còn sưng. Ba ngày sau hạch đỡ hẳn. Chỉ từ lúc đó Mao mới bắt đầu hồi sức. Đã sang cuối tháng Sáu.
Việc trích nhọt tiến hành tốt, nhưng thậm chí đến giữa tháng Bẩy vết thương vẫn chưa hoàn toàn kín miệng. Chẳng ai hài lòng với tôi. Giang Thanh giận. Tôi không để Mao đi với các nhà lãnh đạo cao cấp tới Bắc Đới Hà, vì lo rằng nếu Mao cứ nhất quyết bơi ở đó, vết thương sẽ nhiễm trùng trở lại. Tôi biết không ai có thể cản Mao đừng bơi ở Bắc Đới Hà. Vợ lãnh tụ cằn nhằn vì vắng Mao, chẳng có một nhà lãnh đạo cao cấp nào dám đến đó cả. Họ khó có thể cho phép mình tiếp tục nghỉ phép, khi Mao bị bệnh còn đang nằm lại Bắc Kinh. Cái gì xảy ra nếu Mao đột nhiên muốn gặp một ai đó? Mất mùa hè, Giang Thanh bực tức.
Mao cũng bực mình, vì tôi không tiên lượng được tình trạng bệnh nặng như thế nào.
– Bây giờ anh mới cho tôi biết mọi việc tốt đẹp – Mao nói, khi bắt đầu chích mủ – nhưng khi ở trên tàu hoả, anh động viên tôi, bảo chẳng có gì nguy hiểm. Là bác sĩ, anh phải biết trước cái tốt và cái xấu sẽ xảy chứ. Khi đó anh sẽ không bị xái. Ban đầu, anh hứa rằng điều trị chỉ vài ngày, bây giờ, mười ngày qua rồi mà tất cả vẫn chưa xong…
Tôi hứa từ giờ trở đi sẽ cảnh báo cả 2 khả năng tốt xấu để Chủ tịch rõ.
Trương Ngọc Phượng cũng không hài lòng tôi. Tôi không miễn tội gây ra tình trạng ốm đau cho Mao. Tôi biết cô ta không rửa tay trước khi ta cậy mụn và cảnh cáo cô. Mao phàn nàn cô về điều này cả đến khi ông chết. Là bác sĩ, chịu trách nhiệm chính về sức khoẻ Chủ tịch, tôi không tha thứ cho Trương Ngọc Phượng về việc không nghe lời hướng dẫn.
Tôi buộc cô phải thực hiện ý kiến điều trị, vì thế mối quan hệ giữa chúng tôi chẳng bao giờ trở nên tốt đẹp.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 54
Posted: 10/10/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Ấn bản đầu tiên cuốn “Trước tác Mao chủ tịch” được phát hành tháng 5-1964. Một cuốn sách nhỏ bằng bàn tay, bìa nhựa đỏ chói, trích dẫn các câu cách ngôn, câu ngắn trong những diễn văn, bài viết của Mao. Kể từ đây, tệ sùng bái cá nhân Mao bắt đầu.
Trong khi sự đòi hỏi thực tế cấp bách xây dựng một nền kinh tế kiểu mới để tồn tại lại bị lãng quên, các nhà lãnh đạo quốc gia chẳng rút ra được bài học từ sự thất bại thảm hại trong chính sách Đại nhẩy vọt. Họ coi trọng thuần nhất tư tưởng, xem nhẹ kinh nghiệm thực tế. Lâm Bưu, người tiên phong trong phong trào thuần nhất tư tưởng, đưa ra khẩu hiệu “Bốn trước tiên”: Trước tiên con người; Trước tiên công tác chính trị; Trước tiên công tác tư tưởng và Trước tiên sống vì lý tưởng.
Mao rất thích kiểu xu nịnh này, đáp lại những lời khen, ông nói:
– “Bốn điều trước tiên” của đồng chí Lâm Bưu đúng là một sáng kiến tuyệt vời. Ai dám nói người Trung Hoa chúng ta không phát minh và sáng chế được mọi thứ.
Ông lệnh cho toàn dân – trong các trường học, nhà máy, công xã – phải học tập Lâm Bưu và Quân giải phóng nhân dân. Mao nhấn mạnh:
– Vinh quang và thành tựu của Giải phóng quân Nhân dân là sự quán triệt tư tưởng chính trị đúng đắn.
Quân đội thành lập những Ban công tác chính trị khắp nơi để truyền bá tư tưởng Mao. Mao nói:
– Chỉ có thế chúng ta mới có thể phát động được tinh thần cách mạng của hàng chục triệu cán bộ và công nhân viên chức trong các ngành công nghiệp, thương mại và nông nghiệp.
Bỗng nhiên, cả đất nước Trung Hoa say sưa nghiên cứu chính trị. Người ta đọc những tác phẩm của Mao, thậm chí còn học thuộc lòng cả những câu tầm thường nhất của ông. Sự tôn sùng Mao lan toả trong các trường học, nhà máy và các công xã.
Và “Người cầm lái vĩ đại” đã trở thành Chúa trời.
Nhưng không phải ai cũng đồng tình hoặc quảng bá cho sự tôn sùng Mao của Lâm Bưu. Những người có cách nhìn thực tế, sáng suốt trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng đã công khai chỉ trích Lâm Bưu. Đặng Tiểu Bình, Tổng bí thư Uỷ ban Trung ương đảng và Lục Đỉnh Nhất, Chủ nhiệm Uỷ ban Tuyên truyền trung ương đảng cho rằng cuốn sách nhỏ màu đỏ của Mao viết quá xoàng so với chủ nghĩa Marx – Lenin và tư tưởng của Mao đã hạ thấp giá trị của tư tưởng đó.
Cả La Thuỵ Khanh, hồi đó là Tổng tham mưu trưởng và bí thư đảng uỷ của bộ quốc phòng cũng tỏ ra hoảng hốt. “Nếu tư tưởng của Mao Trạch Đông thực sự tiến bộ nhất, thiên tài nhất, có nghĩa chủ nghĩa Marx – Lenin không thể phát triển hơn nữa được hay sao? Không thể tiến lên, chỉ dậm chân tại chỗ hay sao?” La Thuỵ Khanh cho việc nghiền ngẫm cuốn sách đỏ là sự luyện tập trí nhớ một cách vô bổ, ngớ ngẩn, khi người ta cố tìm những câu trả lời không thể có về nguyên tắc cũng như nguyên lý của tư tưởng Marx-Lenin trong cuốn sổ tay.
Tiếp đó La Thuỵ Khanh lại mâu thuẫn với Lâm Bưu về quan điểm quân sự. Lâm Bưu vẫn khẳng định, chiến thuật du kích là con đường duy nhất để dành được mọi thắng lợi trong chiến tranh, viện cớ tư tưởng quan trọng hơn vũ khí, lý tưởng cách mạng quan trọng hơn chiến lược.
Năm 1964, quan hệ Trung-Xô xấu đi, đến nỗi Trung Quốc ngấp nghé một cuộc chiến tranh chống lại người anh cả của mình. Lâm Bưu tuyên bố, trong cuộc chiến này, Trung Quốc chỉ dành được thắng lợi khi quân đội được trang bị bằng tư tưởng Mao Trạch Đông. Trái lại, ý kiến La Thuỵ Khanh thực tế hơn nhiều. Theo La Thuỵ Khanh, binh lính phải được trang bị vũ khí mới, quân đội Trung Quốc phải làm quen với chiến tranh hiện đại.
Dĩ nhiên, Mao không hài lòng với những cán bộ đảng đã lên án sự sùng bái cá nhân. Nhưng ông vẫn chưa đủ sức mạnh để trực tiếp ra tay với họ. Thay vào đó, giận cả chém thớt, ông tìm vật tế thần thay thế, lại chính là Ban y tế trung ương.
Mùa Xuân 1964, trong khi ban lãnh đạo đảng vẫn đang cãi vã nhau về cuốn sách đỏ, thì Lưu Thiếu Kỳ mắc bệnh lao. Từ Vẫn Bắc, thứ trưởng Bộ y tế báo tin cho tôi, yêu cầu báo cáo lại cho Chủ tịch và viết một báo cáo chính thức cho ông về tình hình sức khỏe của Lưu Thiếu Kỳ.
Mao xem ra chẳng ngạc nhiên, cũng chẳng tỏ ra ái ngại, khi nghe tôi báo cáo về tình trạng sức khỏe của Lưu Thiếu Kỳ. Ngược lại, ông nở một nụ cười mãn nguyện. Ông bảo:
– Làm gì mà hoảng hốt lên thế. Nếu đồng chí ấy bị bệnh thì phải nghỉ ngơi, các bác sĩ phải điều trị, thế thôi. Việc này không liên quan gì đến đồng chí, đừng có xen vào!
Nhưng bệnh của Lưu làm cho Mao hoạt bát hẳn lên. Mao không thể trực tiếp tấn công đối thủ, nhưng tìm mọi cách gây khó khăn cho Lưu. Ông lệnh Bộ y tế chấm dứt ngay những đặc ân y tế cho các cán bộ cao cấp, chấm dứt cả việc đề cử bác sĩ riêng cho họ nữa. Ban y tế trung ương, cơ quan có nhiệm vụ đặc biệt lo về vấn đề y tế cho các cán bộ cao cấp của đảng bị giải tán. Mao chỉ thị cho Bệnh viện Bắc Kinh, nơi chuyên điều trị những nhân vật quan trọng, tinh tuý nhất của đất nước, chuyển tên gọi mới “Bệnh viện phục vụ Lãnh đạo ”
Từ lâu, Mao đã chỉ trích Ban y tế trung ương và Bệnh viện Bắc Kinh. Có lần, ông nói: “Những ông lãnh chúa này sống trong xa hoa, sung sướng”, để ám chỉ lối sống của lãnh đạo cao cấp. “Họ được hưởng đặc quyền ưu đãi về y tế, hơi nhức đầu sổ mũi một tý cũng được chăm sóc hết lòng”.
Ban y tế trung ương sững sờ trước đòn đánh của Mao. Thạch Thụ Hán, trưởng Ban y tế trung ương kinh ngạc. Cả Bộ y tế náo động. Giới lãnh đạo do Lưu Thiếu Kỳ đứng đầu rất bực tức.
Tuy không ai dám cả gan cưỡng lại lệnh của Mao, nhưng người ta cũng không thể đột nhiên bãi bỏ cơ chế cấp phát y tế cho các cán bộ lãnh đạo. Người ta phải tìm ra một giải pháp sao cho một mặt, lệnh của Mao vẫn được thi hành, mặt khác chế độ chăm sóc y tế đặc biệt cho các cán bộ lãnh đạo vẫn được duy trì.
Sau những cuộc thảo luận liên tục kéo dài giữa các đại diện của Ban y tế trung ương và Hội đồng y tế của chính phủ, rốt cuộc người ta đã đi đến một thoả hiệp. Ban y tế Trung ương cũng như Phân ban y tế chịu sự điều khiển của Ban y tế trung ương và Ban An ninh ở Trung Nam Hải giải thể. Thạch Thụ Hán và Hoàng Thụ Trạch những người phụ trách Ban y tế trung ương, được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Y tế. Về cơ bản, họ vẫn đảm trách việc chăm sóc sức khỏe cho những cán bộ lãnh đạo, nhưng phải tập trung dành nhiều thời gian cho công việc mới phân nhiệm. Đa số các bác sĩ riêng của cán bộ cao cấp, được bổ nhiệm về làm các trưởng khoa trong Bệnh viện Bắc Kinh. Họ sẵn sàng trở về Trung Nam Hải khi có lệnh. Mặc dù Mao chỉ thị cho Bệnh viện Bắc Kinh mở cửa đón tất cả mọi người, nhưng nó vẫn tiếp tục được dùng để điều trị cho cán bộ cao cấp. Bộ y tế hạn chế người được nhập viện để đảm bảo an toàn cho cán bộ cao cấp trong thời gian điều trị.
Dĩ nhiên, Mao vẫn có bác sĩ riêng, nhưng cơ quan y tế của tôi là Phân ban y tế ở Trung Nam Hải không còn nữa. Do đó, một Uỷ ban Y học trực thuộc Bộ y tế và Khoa học Kỹ thuật được thành lập, Uỷ ban này có nhiệm vụ phối bợp và chỉ đạo nghiên cứu y học ở cấp cao nhất. Tôi được bổ nhiệm làm Phó bí thư cho Uỷ ban trên. Buổi sáng, tôi làm việc tại đó buổi chiều và buổi tối tôi lại trở về chỗ Mao ở Trung Nam Hải.
Như ý kiến mọi người, tôi đồng ý Mao cần phải có bác sĩ riêng, vì ông là Chủ tịch xứng đáng được hưởng đặc quyền. Chỉ đến mãi sau này tôi mới thấy điều ấy bất hợp lý.
Còn một điều nữa vẫn chưa được giải quyết: không ai trong ngành y tế muốn thấy Bệnh viện Bắc Kinh bị đổi tên thành “Bệnh viện phục vụ Lãnh đạo”. Tuy nhiên, theo Từ Vẫn Bắc và Thạch Thụ Hãn, vì chính Mao đã ra lệnh đổi tên, nên chỉ có ông mới có thể bãi bỏ lệnh này.
Tôi thuyết phục Mao nên thay đổi ý định. Tôi thông báo cho Mao về việc bãi bỏ Ban y tế trung ương và việc thành lập Uỷ ban Y học trung ương. Tôi nói tiếp: “Chỉ còn một vấn đề là cái tên “Bệnh viện phục vụ Lãnh đạo”, nghe không được hay cho lắm. Bệnh viện này do người Đức xây dựng từ những năm hai mươi và đã có tên là Bệnh viện Bắc Kinh. Chẳng lẽ chúng ta không thể giữ cái tên cũ lại được hay sao?”
Mao không phản đối gì. “Thế thì các đồng chí cứ gọi nó là Bệnh viện Bắc Kinh. Bây giờ công chúng cũng được chữa bệnh vào là tôi vui rồi”.
Việc thay đổi chế độ y tế cho hàng ngũ lãnh đạo cao cấp, chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống riêng của Mao. Giang Thanh cũng vậy. Vì tình trạng sức khỏe không tốt, bà vẫn được rất nhiều y tá chăm sóc, còn tôi vẫn là bác sĩ riêng của Mao. Tuy buổi sáng làm việc ở Uỷ ban Y học trung ương, nhưng nhiệm vụ của tôi vẫn không thể tách rời Mao. Do Mao hay bị viêm khí quản và cảm lạnh nên tôi cố công nghiên cứu phương pháp ngăn ngừa và điều trị hai chứng bệnh này.
Cuộc sống cá nhân tôi đã chuyển sang bước ngoặt mới. Sự thay đổi dẫn đến hậu quả, gia đình tôi phải chuyển ra khỏi Trung Nam Hải. Vì Ban Y tế trung ương không còn nữa, chúng tôi không có quyền ở lại trong đó.
Nhưng chúng tôi không chuyển đi xa, vẫn gần nơi Mao ở. Việc giải tán Ban y tế trung ương đã để lại nhiều căn phòng trống trong một toà nhà tuyệt đẹp, được xây cất theo kiểu cổ ở phố Quảng Xương, bên trong có nhiều khoảnh sân. Đó là nơi số phận xui khiến tôi gặp Phó Liêm Chương lần đầu tiên vào năm 1949, sau khi tôi trở về Trung Quốc. Lý Liên, hai thằng con và tôi được phân cho một căn hộ tiện lợi gồm bốn phòng trong toà nhà này. Tôi rất hài lòng với cảnh vật xung quanh. Mảnh vườn trong sân sau, chúng tôi trồng nhiều hoa, những đoá hoa tròn to trắng như sữa nở quanh năm. Khi mới dọn về đây, chúng tôi trồng thêm một cây chà là. Chẳng bao lâu, nó đã trĩu những quả thơm ngon. Ngoài ra, từ nhà đến chợ bán thực phẩm Long Phú Tây, trung tâm thương mại náo nhiệt ở Vương Phủ Tinh rất tiện.
Thằng con lớn có thể đi xe đạp đi đến trường trung học thuộc Đại học Nhân dân Bắc Kinh, còn tôi được tài xế đưa về Trung Nam Hải. Trong thời gian chuyển nhà cũng là lúc sứ quán Ba Lan tân trang lại chỗ ở của họ, nên chúng tôi mua lại những đồ gỗ cũ với giá rất phải chăng, trang bị cho căn nhà mới.
Chúng tôi thật hạnh phúc, vui vẻ vì được rời khỏi Trung Nam Hải, ở đó phải đối diện với bao sự phiền hà, không được phép mời bạn bè, họ mạc tới viếng thăm. Giờ đây, ngồi bên cửa sổ nhìn xuống sân đầy ắp những bông hoa tươi thắm, tôi hầu như quên bẵng đã từng phải rời bỏ khu nhà do tổ tiên để lại. Thậm chí quên cả Nhóm Một và Mao nữa.
Mao chỉ ân hận một điều, quyết định giải tán Ban Y tế Trung Nam Hải. Một đêm, vào lúc ba giờ sáng, ngay sau khi tôi chuyển đến nhà mới, ông muốn gọi tôi, nhưng không thể được vì lúc đó tôi đã về nhà ở phố Quảng Xương rồi.
Hôm sau, Mao nói:
– Không ngờ chỉ thị của tôi lại hại chính tôi.
Thế là tôi phải đặt một chiếc giường trong phòng làm việc ở Trung Nam Hải túc trực ngày đêm mỗi khi Mao cần. Tôi thường phải ngủ lại đó, nên vẫn không có thời gian dành cho gia đình.
Quan hệ giữa Mao với Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình ngày càng xấu đi. Tháng 1-1965, Đặng Tiểu Bình tổ chức hội nghị cán bộ đảng chiến dịch học tập chủ nghĩa xã hội, tập trung thảo luận, bàn về vấn đề chống tham nhũng trong các cán bộ nông thôn với khẩu hiệu “bốn minh bạch”: Minh bạch sổ sách nông nghiệp; Minh bạch tài sản công cộng; Minh bạch kho dự trữ; Minh bạch công điểm.
Khi triệu tập cuộc họp, Mao cảm thấy không được khỏe và Đặng Tiểu Bình khuyên Mao đừng đến. Mao không nghe, ông đến phát biểu ý kiến cho rằng vấn đề phức tạp ở nông thôn do mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Lưu Thiếu Kỳ ngắt lời Mao, cho rằng mâu thuẫn ở nông thôn không những chỉ là vấn đề giai cấp mà con do mâu thuẫn giữa “4 sạch” và “4 bẩn” phát sinh trong và ngoài đảng.
Hôm sau, Mao đem bản sao hiến pháp và điều lệ đảng, biện lý, theo điều khoản trong hiến pháp, ông có quyền phát biểu quan điểm với tư cách một công dân Trung Hoa, với điều lệ đảng ông có quyền phát biểu với tư cách của một đảng viên, phải được bày tỏ ý kiến cá nhân của mình trước hội nghị. Mao nói: “Một trong các đồng chí – ám chỉ Đặng Tiểu Bình, cản không cho tôi tới cuộc họp, và người kia – ám chỉ Lưu Thiếu Kỳ – không cho tôi bày tỏ quan điểm của mình”.
Kỳ họp Quốc hội lần thứ ba diễn ra từ ngày 21-12-1964 đến ngày 4-1-1965. Trong bản “Báo cáo hoạt động của chính phủ” của Chu Ân Lai, Mao đóng góp thêm rất nhiều, chứng tỏ ông vẫn nghĩ đến ý tưởng Đại nhảy vọt, nhưng giờ đây ông trình bày điều dưới hình thức khác. Ông bắt đầu:
– Chúng ta không thể đi từng bước bằng con đường thông thường để phát triển kinh tế, không thể bò từng bước để đuổi theo các nước khác. Chúng ta phải bỏ qua mọi khuôn mẫu, phải tiếp thu, áp dụng công nghệ tiên tiến, để trong một thời gian ngắn đưa đất nước Trung Hoa trở thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa tiên tiến, hùng mạnh. Đó là ý tưởng của chiến dịch Đại nhảy vọt… Một trong các nhà lãnh đạo cách mạng lớn của Trung Quốc, vị tiền bối Tôn Dật Tiên, đã tiên đoán rằng, đầu thế kỷ này, Trung Quốc sẽ có những bước nhảy vọt.
Sau Tết nguyên đán 1965, Mao rời Bắc Kinh đi Vũ Hán cùng với hai cô thư ký riêng. Ngoài ra còn có Vương Hải Dung, cháu gái em họ Mao – Vương Thanh Phương. Trên tàu, Trương Ngọc Phượng thường xuyên phục vụ, chăm sóc Mao. Trong thời gian ở Vũ Hán, quanh Mao đầy những cô gái tranh giành sự ưu ái của Mao.
Một buổi sáng Vương Hải Dung hớt hải đến phòng làm việc của tôi, chua chát nói:
– Tại sao đồng chí lại có thể để cho một người đàn bà như Trương Ngọc Phượng làm việc ở đây? Cô ta là một kẻ trơ trẽn, lố bịch và ăn nói láo xược với Chủ tịch. Tối hôm qua Chủ tịch nói với tôi Trương Ngọc Phượng làm ông bực tức. Chủ tịch đã có tuổi, chúng ta cũng không cho phép Trương Ngọc Phượng thoá mạ Chủ tịch như vậy được. Nếu đồng chí không có biện pháp đối với cô ta, tôi sẽ báo cáo cấp trên.
Tôi nói:
– Bình tĩnh đã nào. Hãy kể xem có chuyện gì xảy ra.
– Tôi không thể bình tĩnh được nữa. Tôi không thể chịu được khi Chủ tịch bị con người này hạ nhục.
Cô ta bỏ đi tìm Uông Đông Hưng.
Đúng lúc này, anh vệ sĩ Tiểu Chương bước vào, nói:
– Chủ tịch đang tức giận, Chủ tịch nói Trương Ngọc Phượng thật quá quắt. Ông muốn triệu tập một cuộc họp để kiểm điểm Trương Ngọc Phượng.
Khi được nghe kể về việc này. Uông Đông Hưng bực bội, bảo:
– Lúc nào chúng ta cũng phải giải quyết những chuyện vớ vẩn như thế này sao? Làm sao chúng ta có thể vì việc này mà triệu tập một cuộc họp? Quan hệ riêng của Mao với bọn đàn bà thật rách việc. Phải giải quyết như thế nào trong cuộc họp đây?
Nhưng Mao đã yêu cầu phải có một cuộc họp, vì vậy cuộc họp cũng được tổ chức tại phòng ăn của ông, trong nhà khách. Chỉ lát sau, Uông Đông Hưng đã cáo lui, nhường lại chức chủ toạ cho tôi. Vương Hải Dung lặp lại lời buộc tội của cô ta.
Trương Ngọc Phượng cự:
– Khi tôi và Mao chủ tịch cãi nhau. Ông đã chửi tôi và thậm chí còn chửi cả mẹ tôi, nên tôi mới chửi lại chứ.
Khi Trương Ngọc Phượng định kể vụ cãi cọ đó được bắt đầu như thế nào, tôi cho rằng, cuộc họp phải tạm hoãn tại đây là hay hơn. Nếu không, cô ta sẽ còn kể tiếp về mối quan hệ tệ hại giữa cô với Mao. Nếu để cuộc họp tiếp diễn, Mao sẽ có cảm tưởng rằng một số người trong chúng tôi muốn can thiệp vào đòi tư của ông, mặc dù cuộc họp do chính ông yêu cầu.
Nhưng Vương Hải Dung vẫn cương quyết, đòi phải có một quyết định. Tôi cảm thấy tình hình có vẻ căng, chịu không giải quyết nổi, nên giao lại cho Uông Đông Hưng để ông ta phân tích cho Vương Hải Dung. Ngoài ra, tôi yêu cầu y tá trưởng, Ngô Tự Tuấn, phải thuyết phục Trương Ngọc Phượng đến gặp Mao để tự kiểm điểm.
Vương Hải Dung vẫn không bằng lòng với cách giải quyết, phê phán tôi và Uông Đông Hưng thiếu công bằng. Cô bực tức lên đường trở về Bắc Kinh.
Còn Trương Ngọc Phượng vẫn ấm ức. Cô chất vấn tại sao cô phải tự kiểm điểm trước Mao, ông đã chửi mẹ cô cơ mà. Trương Ngọc Phượng rời nhà khách, trở về đoàn tàu.
Chẳng bao lâu sau, tình hình trở lại bình thường.
Sau đó ít lâu, Mao bị cảm lạnh khiến ông bị viêm phế quản cấp tính, ho và sốt. Mặc dù nhiệt độ còn cao, những cơn ho đã giảm, nhưng ông lại bị viêm thanh quản, mất tiếng, hai ngày liền không thể nói được. Vì sợ bị câm lâu dài, ông nài nỉ tôi hãy chữa cho ông. Tôi giải thích, phải đợi một thời gian điều trị thanh đới mới hết sưng, không thể khỏi ngay được, nhưng ông cứ một mực đòi được chữa khỏi ngay.
Tôi điều trị ông bằng phương pháp vật lý trị liệu, nhưng không thích, ông bỏ ngay sau buổi đầu tiên. Tôi pha chế một thứ được liệu từ những thảo được của Trung Quốc vốn được coi là rất hiệu nghiệm yêu cầu ông uống. Chỉ sau hai ngày ông đã có thể nói được vài câu, sau ba ngày tiếp theo ông đã nói chuyện được bình thường.
Ông đòi đi bơi. Ông bỏ ngoài tai lời khuyên của tôi và nói:
– Tất cả những phương pháp điều trị của đồng chí bằng y học Trung Quốc hay y học Tây phương thực ra chẳng có tác dụng. Bơi là phương pháp điều trị tốt nhất.
Nói rồi ông bỏ đi đến bể bơi nhà khách.
Sau ngày lễ mồng một tháng 5 năm 1965. Mao quyết định đến thăm Tinh Cương Sơn, một vùng giáp ranh giữa tỉnh Hồ Nam và Giang Tây. Nơi ông lập căn cứ du kích hồi năm 1927, phát động cuộc cuộc cách mạng bắt nguồn từ đó. Chúng tôi đi tàu đến Trường Sa, thuộc tỉnh Hồ Nam, từ đó đi tiếp bằng ô tô. Vì còn giận dỗi, Trương Ngọc Phượng không chịu đi cùng.
Qua chuyến ngao du đến Tinh Cương Sơn, căn cứ địa cũ, để đe doạ chính quyền trung ương bằng cách ông doạ sẽ tái lập cơ sở mới, trong trường hợp chính phủ trung ương không chịu nghe theo ý kiến chỉ đạo của ông. Chuyến chu du này cũng là một phần trong chiến dịch lâu dài chống lại đối thủ Lưu Thiếu Kỳ.
Trong chuyến đi, bí thư tỉnh uỷ Hồ Nam cùng đi với Mao. Không có nhân vật nào của tỉnh Giang Tây trong chuyến đi này, bởi vì Uông Đông Hưng đã biết rất rõ những nơi chúng tôi muốn tới thăm. Trước kia, trong thời gian “cải tạo” gần năm năm, Uông Đông Hưng đã từng làm phó tỉnh trưởng tỉnh.
Chúng tôi nghỉ đêm tại huyện Trác Lâm ở Hồ Nam. Uỷ ban hành chính huyện phải dọn những phòng làm việc lấy chỗ cho chúng tôi nghỉ. Khắp các phòng. muỗi bay như trấu. Chúng tôi cũng có lọ xịt diệt côn trùng, nhưng chỉ có Mao mới được dùng nó. Còn chúng tôi phải đốt cỏ chống muỗi, ngủ trong những chiếc màn bằng vải gai dày đầy khói. Sáng hôm sau tôi cảm thấy người nôn nao, choáng váng.
Đến Tinh Cương Sơn, chúng tôi nghỉ trong một nhà khách hai tầng ở làng Mao Bình, hẻo lánh nằm lọt thỏm trong cánh đồng lúa. Phía nam của làng có một cửa hàng bán đồ thủ công. Trong một cãn phòng trưng bày một chiếc đòn gánh, nghe nói nguyên soái Chu Đức đã dùng để gánh nước trong cuộc nổi dậy những năm hai mươi. (Trong thời kỳ Cách mạng văn hoá, người ta nghe nói Lâm Bưu đã sử dụng chiếc đòn gánh này – một ví dụ nữa cho việc bóp méo lịch sử trong thời kỳ này)
Tinh Cương Sơn có vô số rừng tre, nứa, bương, vầu, đành hanh và trong một xưởng nhỏ sản xuất một loại giấy pơ-luya (pelure) trắng tinh có thể nhìn xuyên qua từ nguyên liệu tre nứa. Loại giấy này tôi đã thấy từ khi còn nhỏ.
Ngày 29-5-1965, chúng tôi rời Tinh Cương Sơn, đến giữa tháng 6, chúng tôi có mặt ở Bắc Kinh.
Mao vẫn tỏ ra bất bình với Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, vì vậy ông lại chuẩn bị tấn công Bộ Y tế. Ngày 26-6-1965, ông nói với tôi:
– Tôi muốn đồng chí thông báo cho những người trong Bộ y tế, họ chỉ đáp ứng được nhu cầu y tế cho khoảng 15% dân chúng. Trong số 15% này, những ông lớn của nhà nước và địa phương được cung cấp chu đáo nhất. Có lẽ Bộ y tế cho rằng, chỉ cần thoả mãn nhu cầu của các ông lớn này là đủ. Nhưng đại đa số nhân dân ở nông thôn chẳng được chăm sóc gì về y tế – không có thuốc thang, không có bác sĩ.
Mao nói tiếp:
– Bộ y tế không phục vụ người dân lao động. Đó không phải là một bộ của toàn dân. Nó chỉ chăm lo cho nhân dân ở thành thị và những nhân vật tai to mặt lớn. Tôi đã viết mấy câu thơ tặng Bộ Y tế:
Y tế vì ai? Phục vụ ai?
Dân nghèo chẳng được họ đoái hoài
Cán to, cán nhỏ chăm sóc kỹ
Y tế các anh phục vụ ai?
Mao tiếp tục nói:
– Bộ y tế không phục vụ nhân dân. Đó không phải một bộ của dân, vì dân, lo cho dân. Vậy, chúng ta đặt cho nó một cái tên khác: “Bộ y tế cho các thành phố”, “Bộ y tế cho các ông lớn”. Các bệnh viện của chúng ta có đầy đủ những máy móc, y cụ tối tân, nhưng chúng chẳng được dùng cho những người dân ở nông thôn. Chúng ta đào tạo ra các bác sĩ để họ phục vụ cho các đô thị. Nhưng Trung Quốc có tới 500 triệu nông dân.
Mao yêu cầu phải cải tổ toàn bộ hệ thống y tế, hướng vào phục vụ quần chúng thay vì những cán bộ cao cấp, hướng về nông thôn thay vì các đô thị.
Kể cả việc đào tạo y khoa ông cũng muốn cải tổ. Ông quả quyết:
– Các sinh viên y khoa không cần đọc nhiều sách đến như vậy! Những thầy thuốc nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc như Hoa Đà, Biển Thước, Lý Thời Trân chưa bao giờ học Đại học y khoa. Vào trường y, không cần tốt nghiệp hết cấp chương trình phổ thông trung học, chỉ cần học hết lớp Sơ-Trung là đủ sức học rồi. Người ta chỉ có thể thu nhận được những kiến thức y khoa tốt nhất bằng thực tế.
Mao nói:
– Loại bác sĩ chúng ta cần ở các làng xã không cần phải được đào tạo cao siêu. Chỉ cần anh ta giỏi hơn những thầy mo là đủ. Hơn nữa, trong làng xã chỉ đủ điều kiện cho những thầy thuộc cỡ đó làm việc.
Mao chỉ trích Bộ y tế đã đầu tư gây lãng phí sức lao động, của cải vật chất vào việc nghiên cứu những căn bệnh hiếm, bệnh lạ mà không quan tâm đến những biện pháp phòng ngừa và điều trị những bệnh thông thường. Mao giải thích:
– Tôi không nói chúng ta không cần nghiên cứu y học, mà cần phải sử dụng phần lớn những phương tiện của chúng ta đã có đáp ứng cho nhu cầu của quần chúng hiện nay.
Ông tiếp tục dẫn giải:
– Còn một chuyện lạ nữa. Các bác sĩ lúc nào cũng mang khẩu trao khi khám chữa bệnh cho bệnh nhân. Có phải họ sợ sẽ truyền những căn bệnh họ có cho bệnh nhân không? Không! Tôi nghĩ, họ sợ lây bệnh từ bệnh nhân. Theo ý tôi, các bác sĩ chỉ nên đeo khẩu trang khi nào thực sự cần thiết. Bằng không họ sẽ xây lớp rào ngăn cách giữa bác sĩ và bệnh nhân.
Ông còn muốn đề nghị một điều nữa, bổ nhiệm những y, bác sĩ mới ra trường, chưa có kinh nghiệm gì về nghề nghiệp vào những bệnh viện của các thành phố. Những bác sĩ già dặn, nhiều kinh nghiệm phải được đưa về nông thôn.
– Trong tương lai các nhà y học của chúng ta phải đặt trọng tâm công việc của họ ở các làng xóm.
Tôi bàng hoàng về sự công kích của Mao đối với những nhà y học nổi danh. Nhưng Mao lại chỉ thị cho tôi phải thông báo cho Bộ y tế những ý kiến của ông. Tôi soạn lại một bản tóm tắt về cuộc nói chuyện của chúng tôi ngày 26-6-1965, rồi lập tức nộp cho Bộ Y tế. Hồi đó, tất nhiên tôi không dám nghĩ tới một điều, trong thời kỳ Cách mạng văn hoá cái “Chỉ thị ngày 26 tháng 6” này lại được dùng làm cơ sở để phát động một chiến dịch sẵn sàng phục vụ của những thầy thuốc chân đất trên phạm vi toàn quốc. Những kẻ cực đoan đã sử dụng chỉ thị này để xúi giục đấu tranh giai cấp trong ngành y tế, phá hoại hệ thống y tế của Trung Quốc. Ngoài ra, hồi đó tôi không thể nghĩ rằng, Mao sẽ điều tôi về nông thôn.
Chúng tôi đâm ra nghi ngờ chính mình. Tôi không bao giờ nói với ai trong Ban Y tế Trung ương, chính vì Lưu Thiếu Kỳ ốm đau đã khiến Mao cải tổ hệ thống y tế. Đối với chúng tôi trong Nhóm Một, những ai nghe được lời chế giễu, châm chọc của Mao nhằm vào Lưu Thiếu Kỳ, không bao giờ dám nói lại với người khác. Người duy nhất tôi chia xẻ ý nghĩ vui buồn, đó là Uông Đông Hưng.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Tags: Mao Trạch Đông
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Ấn bản đầu tiên cuốn “Trước tác Mao chủ tịch” được phát hành tháng 5-1964. Một cuốn sách nhỏ bằng bàn tay, bìa nhựa đỏ chói, trích dẫn các câu cách ngôn, câu ngắn trong những diễn văn, bài viết của Mao. Kể từ đây, tệ sùng bái cá nhân Mao bắt đầu.
Trong khi sự đòi hỏi thực tế cấp bách xây dựng một nền kinh tế kiểu mới để tồn tại lại bị lãng quên, các nhà lãnh đạo quốc gia chẳng rút ra được bài học từ sự thất bại thảm hại trong chính sách Đại nhẩy vọt. Họ coi trọng thuần nhất tư tưởng, xem nhẹ kinh nghiệm thực tế. Lâm Bưu, người tiên phong trong phong trào thuần nhất tư tưởng, đưa ra khẩu hiệu “Bốn trước tiên”: Trước tiên con người; Trước tiên công tác chính trị; Trước tiên công tác tư tưởng và Trước tiên sống vì lý tưởng.
Mao rất thích kiểu xu nịnh này, đáp lại những lời khen, ông nói:
– “Bốn điều trước tiên” của đồng chí Lâm Bưu đúng là một sáng kiến tuyệt vời. Ai dám nói người Trung Hoa chúng ta không phát minh và sáng chế được mọi thứ.
Ông lệnh cho toàn dân – trong các trường học, nhà máy, công xã – phải học tập Lâm Bưu và Quân giải phóng nhân dân. Mao nhấn mạnh:
– Vinh quang và thành tựu của Giải phóng quân Nhân dân là sự quán triệt tư tưởng chính trị đúng đắn.
Quân đội thành lập những Ban công tác chính trị khắp nơi để truyền bá tư tưởng Mao. Mao nói:
– Chỉ có thế chúng ta mới có thể phát động được tinh thần cách mạng của hàng chục triệu cán bộ và công nhân viên chức trong các ngành công nghiệp, thương mại và nông nghiệp.
Bỗng nhiên, cả đất nước Trung Hoa say sưa nghiên cứu chính trị. Người ta đọc những tác phẩm của Mao, thậm chí còn học thuộc lòng cả những câu tầm thường nhất của ông. Sự tôn sùng Mao lan toả trong các trường học, nhà máy và các công xã.
Và “Người cầm lái vĩ đại” đã trở thành Chúa trời.
Nhưng không phải ai cũng đồng tình hoặc quảng bá cho sự tôn sùng Mao của Lâm Bưu. Những người có cách nhìn thực tế, sáng suốt trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng đã công khai chỉ trích Lâm Bưu. Đặng Tiểu Bình, Tổng bí thư Uỷ ban Trung ương đảng và Lục Đỉnh Nhất, Chủ nhiệm Uỷ ban Tuyên truyền trung ương đảng cho rằng cuốn sách nhỏ màu đỏ của Mao viết quá xoàng so với chủ nghĩa Marx – Lenin và tư tưởng của Mao đã hạ thấp giá trị của tư tưởng đó.
Cả La Thuỵ Khanh, hồi đó là Tổng tham mưu trưởng và bí thư đảng uỷ của bộ quốc phòng cũng tỏ ra hoảng hốt. “Nếu tư tưởng của Mao Trạch Đông thực sự tiến bộ nhất, thiên tài nhất, có nghĩa chủ nghĩa Marx – Lenin không thể phát triển hơn nữa được hay sao? Không thể tiến lên, chỉ dậm chân tại chỗ hay sao?” La Thuỵ Khanh cho việc nghiền ngẫm cuốn sách đỏ là sự luyện tập trí nhớ một cách vô bổ, ngớ ngẩn, khi người ta cố tìm những câu trả lời không thể có về nguyên tắc cũng như nguyên lý của tư tưởng Marx-Lenin trong cuốn sổ tay.
Tiếp đó La Thuỵ Khanh lại mâu thuẫn với Lâm Bưu về quan điểm quân sự. Lâm Bưu vẫn khẳng định, chiến thuật du kích là con đường duy nhất để dành được mọi thắng lợi trong chiến tranh, viện cớ tư tưởng quan trọng hơn vũ khí, lý tưởng cách mạng quan trọng hơn chiến lược.
Năm 1964, quan hệ Trung-Xô xấu đi, đến nỗi Trung Quốc ngấp nghé một cuộc chiến tranh chống lại người anh cả của mình. Lâm Bưu tuyên bố, trong cuộc chiến này, Trung Quốc chỉ dành được thắng lợi khi quân đội được trang bị bằng tư tưởng Mao Trạch Đông. Trái lại, ý kiến La Thuỵ Khanh thực tế hơn nhiều. Theo La Thuỵ Khanh, binh lính phải được trang bị vũ khí mới, quân đội Trung Quốc phải làm quen với chiến tranh hiện đại.
Dĩ nhiên, Mao không hài lòng với những cán bộ đảng đã lên án sự sùng bái cá nhân. Nhưng ông vẫn chưa đủ sức mạnh để trực tiếp ra tay với họ. Thay vào đó, giận cả chém thớt, ông tìm vật tế thần thay thế, lại chính là Ban y tế trung ương.
Mùa Xuân 1964, trong khi ban lãnh đạo đảng vẫn đang cãi vã nhau về cuốn sách đỏ, thì Lưu Thiếu Kỳ mắc bệnh lao. Từ Vẫn Bắc, thứ trưởng Bộ y tế báo tin cho tôi, yêu cầu báo cáo lại cho Chủ tịch và viết một báo cáo chính thức cho ông về tình hình sức khỏe của Lưu Thiếu Kỳ.
Mao xem ra chẳng ngạc nhiên, cũng chẳng tỏ ra ái ngại, khi nghe tôi báo cáo về tình trạng sức khỏe của Lưu Thiếu Kỳ. Ngược lại, ông nở một nụ cười mãn nguyện. Ông bảo:
– Làm gì mà hoảng hốt lên thế. Nếu đồng chí ấy bị bệnh thì phải nghỉ ngơi, các bác sĩ phải điều trị, thế thôi. Việc này không liên quan gì đến đồng chí, đừng có xen vào!
Nhưng bệnh của Lưu làm cho Mao hoạt bát hẳn lên. Mao không thể trực tiếp tấn công đối thủ, nhưng tìm mọi cách gây khó khăn cho Lưu. Ông lệnh Bộ y tế chấm dứt ngay những đặc ân y tế cho các cán bộ cao cấp, chấm dứt cả việc đề cử bác sĩ riêng cho họ nữa. Ban y tế trung ương, cơ quan có nhiệm vụ đặc biệt lo về vấn đề y tế cho các cán bộ cao cấp của đảng bị giải tán. Mao chỉ thị cho Bệnh viện Bắc Kinh, nơi chuyên điều trị những nhân vật quan trọng, tinh tuý nhất của đất nước, chuyển tên gọi mới “Bệnh viện phục vụ Lãnh đạo ”
Từ lâu, Mao đã chỉ trích Ban y tế trung ương và Bệnh viện Bắc Kinh. Có lần, ông nói: “Những ông lãnh chúa này sống trong xa hoa, sung sướng”, để ám chỉ lối sống của lãnh đạo cao cấp. “Họ được hưởng đặc quyền ưu đãi về y tế, hơi nhức đầu sổ mũi một tý cũng được chăm sóc hết lòng”.
Ban y tế trung ương sững sờ trước đòn đánh của Mao. Thạch Thụ Hán, trưởng Ban y tế trung ương kinh ngạc. Cả Bộ y tế náo động. Giới lãnh đạo do Lưu Thiếu Kỳ đứng đầu rất bực tức.
Tuy không ai dám cả gan cưỡng lại lệnh của Mao, nhưng người ta cũng không thể đột nhiên bãi bỏ cơ chế cấp phát y tế cho các cán bộ lãnh đạo. Người ta phải tìm ra một giải pháp sao cho một mặt, lệnh của Mao vẫn được thi hành, mặt khác chế độ chăm sóc y tế đặc biệt cho các cán bộ lãnh đạo vẫn được duy trì.
Sau những cuộc thảo luận liên tục kéo dài giữa các đại diện của Ban y tế trung ương và Hội đồng y tế của chính phủ, rốt cuộc người ta đã đi đến một thoả hiệp. Ban y tế Trung ương cũng như Phân ban y tế chịu sự điều khiển của Ban y tế trung ương và Ban An ninh ở Trung Nam Hải giải thể. Thạch Thụ Hán và Hoàng Thụ Trạch những người phụ trách Ban y tế trung ương, được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Y tế. Về cơ bản, họ vẫn đảm trách việc chăm sóc sức khỏe cho những cán bộ lãnh đạo, nhưng phải tập trung dành nhiều thời gian cho công việc mới phân nhiệm. Đa số các bác sĩ riêng của cán bộ cao cấp, được bổ nhiệm về làm các trưởng khoa trong Bệnh viện Bắc Kinh. Họ sẵn sàng trở về Trung Nam Hải khi có lệnh. Mặc dù Mao chỉ thị cho Bệnh viện Bắc Kinh mở cửa đón tất cả mọi người, nhưng nó vẫn tiếp tục được dùng để điều trị cho cán bộ cao cấp. Bộ y tế hạn chế người được nhập viện để đảm bảo an toàn cho cán bộ cao cấp trong thời gian điều trị.
Dĩ nhiên, Mao vẫn có bác sĩ riêng, nhưng cơ quan y tế của tôi là Phân ban y tế ở Trung Nam Hải không còn nữa. Do đó, một Uỷ ban Y học trực thuộc Bộ y tế và Khoa học Kỹ thuật được thành lập, Uỷ ban này có nhiệm vụ phối bợp và chỉ đạo nghiên cứu y học ở cấp cao nhất. Tôi được bổ nhiệm làm Phó bí thư cho Uỷ ban trên. Buổi sáng, tôi làm việc tại đó buổi chiều và buổi tối tôi lại trở về chỗ Mao ở Trung Nam Hải.
Như ý kiến mọi người, tôi đồng ý Mao cần phải có bác sĩ riêng, vì ông là Chủ tịch xứng đáng được hưởng đặc quyền. Chỉ đến mãi sau này tôi mới thấy điều ấy bất hợp lý.
Còn một điều nữa vẫn chưa được giải quyết: không ai trong ngành y tế muốn thấy Bệnh viện Bắc Kinh bị đổi tên thành “Bệnh viện phục vụ Lãnh đạo”. Tuy nhiên, theo Từ Vẫn Bắc và Thạch Thụ Hãn, vì chính Mao đã ra lệnh đổi tên, nên chỉ có ông mới có thể bãi bỏ lệnh này.
Tôi thuyết phục Mao nên thay đổi ý định. Tôi thông báo cho Mao về việc bãi bỏ Ban y tế trung ương và việc thành lập Uỷ ban Y học trung ương. Tôi nói tiếp: “Chỉ còn một vấn đề là cái tên “Bệnh viện phục vụ Lãnh đạo”, nghe không được hay cho lắm. Bệnh viện này do người Đức xây dựng từ những năm hai mươi và đã có tên là Bệnh viện Bắc Kinh. Chẳng lẽ chúng ta không thể giữ cái tên cũ lại được hay sao?”
Mao không phản đối gì. “Thế thì các đồng chí cứ gọi nó là Bệnh viện Bắc Kinh. Bây giờ công chúng cũng được chữa bệnh vào là tôi vui rồi”.
Việc thay đổi chế độ y tế cho hàng ngũ lãnh đạo cao cấp, chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống riêng của Mao. Giang Thanh cũng vậy. Vì tình trạng sức khỏe không tốt, bà vẫn được rất nhiều y tá chăm sóc, còn tôi vẫn là bác sĩ riêng của Mao. Tuy buổi sáng làm việc ở Uỷ ban Y học trung ương, nhưng nhiệm vụ của tôi vẫn không thể tách rời Mao. Do Mao hay bị viêm khí quản và cảm lạnh nên tôi cố công nghiên cứu phương pháp ngăn ngừa và điều trị hai chứng bệnh này.
Cuộc sống cá nhân tôi đã chuyển sang bước ngoặt mới. Sự thay đổi dẫn đến hậu quả, gia đình tôi phải chuyển ra khỏi Trung Nam Hải. Vì Ban Y tế trung ương không còn nữa, chúng tôi không có quyền ở lại trong đó.
Nhưng chúng tôi không chuyển đi xa, vẫn gần nơi Mao ở. Việc giải tán Ban y tế trung ương đã để lại nhiều căn phòng trống trong một toà nhà tuyệt đẹp, được xây cất theo kiểu cổ ở phố Quảng Xương, bên trong có nhiều khoảnh sân. Đó là nơi số phận xui khiến tôi gặp Phó Liêm Chương lần đầu tiên vào năm 1949, sau khi tôi trở về Trung Quốc. Lý Liên, hai thằng con và tôi được phân cho một căn hộ tiện lợi gồm bốn phòng trong toà nhà này. Tôi rất hài lòng với cảnh vật xung quanh. Mảnh vườn trong sân sau, chúng tôi trồng nhiều hoa, những đoá hoa tròn to trắng như sữa nở quanh năm. Khi mới dọn về đây, chúng tôi trồng thêm một cây chà là. Chẳng bao lâu, nó đã trĩu những quả thơm ngon. Ngoài ra, từ nhà đến chợ bán thực phẩm Long Phú Tây, trung tâm thương mại náo nhiệt ở Vương Phủ Tinh rất tiện.
Thằng con lớn có thể đi xe đạp đi đến trường trung học thuộc Đại học Nhân dân Bắc Kinh, còn tôi được tài xế đưa về Trung Nam Hải. Trong thời gian chuyển nhà cũng là lúc sứ quán Ba Lan tân trang lại chỗ ở của họ, nên chúng tôi mua lại những đồ gỗ cũ với giá rất phải chăng, trang bị cho căn nhà mới.
Chúng tôi thật hạnh phúc, vui vẻ vì được rời khỏi Trung Nam Hải, ở đó phải đối diện với bao sự phiền hà, không được phép mời bạn bè, họ mạc tới viếng thăm. Giờ đây, ngồi bên cửa sổ nhìn xuống sân đầy ắp những bông hoa tươi thắm, tôi hầu như quên bẵng đã từng phải rời bỏ khu nhà do tổ tiên để lại. Thậm chí quên cả Nhóm Một và Mao nữa.
Mao chỉ ân hận một điều, quyết định giải tán Ban Y tế Trung Nam Hải. Một đêm, vào lúc ba giờ sáng, ngay sau khi tôi chuyển đến nhà mới, ông muốn gọi tôi, nhưng không thể được vì lúc đó tôi đã về nhà ở phố Quảng Xương rồi.
Hôm sau, Mao nói:
– Không ngờ chỉ thị của tôi lại hại chính tôi.
Thế là tôi phải đặt một chiếc giường trong phòng làm việc ở Trung Nam Hải túc trực ngày đêm mỗi khi Mao cần. Tôi thường phải ngủ lại đó, nên vẫn không có thời gian dành cho gia đình.
Quan hệ giữa Mao với Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình ngày càng xấu đi. Tháng 1-1965, Đặng Tiểu Bình tổ chức hội nghị cán bộ đảng chiến dịch học tập chủ nghĩa xã hội, tập trung thảo luận, bàn về vấn đề chống tham nhũng trong các cán bộ nông thôn với khẩu hiệu “bốn minh bạch”: Minh bạch sổ sách nông nghiệp; Minh bạch tài sản công cộng; Minh bạch kho dự trữ; Minh bạch công điểm.
Khi triệu tập cuộc họp, Mao cảm thấy không được khỏe và Đặng Tiểu Bình khuyên Mao đừng đến. Mao không nghe, ông đến phát biểu ý kiến cho rằng vấn đề phức tạp ở nông thôn do mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Lưu Thiếu Kỳ ngắt lời Mao, cho rằng mâu thuẫn ở nông thôn không những chỉ là vấn đề giai cấp mà con do mâu thuẫn giữa “4 sạch” và “4 bẩn” phát sinh trong và ngoài đảng.
Hôm sau, Mao đem bản sao hiến pháp và điều lệ đảng, biện lý, theo điều khoản trong hiến pháp, ông có quyền phát biểu quan điểm với tư cách một công dân Trung Hoa, với điều lệ đảng ông có quyền phát biểu với tư cách của một đảng viên, phải được bày tỏ ý kiến cá nhân của mình trước hội nghị. Mao nói: “Một trong các đồng chí – ám chỉ Đặng Tiểu Bình, cản không cho tôi tới cuộc họp, và người kia – ám chỉ Lưu Thiếu Kỳ – không cho tôi bày tỏ quan điểm của mình”.
Kỳ họp Quốc hội lần thứ ba diễn ra từ ngày 21-12-1964 đến ngày 4-1-1965. Trong bản “Báo cáo hoạt động của chính phủ” của Chu Ân Lai, Mao đóng góp thêm rất nhiều, chứng tỏ ông vẫn nghĩ đến ý tưởng Đại nhảy vọt, nhưng giờ đây ông trình bày điều dưới hình thức khác. Ông bắt đầu:
– Chúng ta không thể đi từng bước bằng con đường thông thường để phát triển kinh tế, không thể bò từng bước để đuổi theo các nước khác. Chúng ta phải bỏ qua mọi khuôn mẫu, phải tiếp thu, áp dụng công nghệ tiên tiến, để trong một thời gian ngắn đưa đất nước Trung Hoa trở thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa tiên tiến, hùng mạnh. Đó là ý tưởng của chiến dịch Đại nhảy vọt… Một trong các nhà lãnh đạo cách mạng lớn của Trung Quốc, vị tiền bối Tôn Dật Tiên, đã tiên đoán rằng, đầu thế kỷ này, Trung Quốc sẽ có những bước nhảy vọt.
Sau Tết nguyên đán 1965, Mao rời Bắc Kinh đi Vũ Hán cùng với hai cô thư ký riêng. Ngoài ra còn có Vương Hải Dung, cháu gái em họ Mao – Vương Thanh Phương. Trên tàu, Trương Ngọc Phượng thường xuyên phục vụ, chăm sóc Mao. Trong thời gian ở Vũ Hán, quanh Mao đầy những cô gái tranh giành sự ưu ái của Mao.
Một buổi sáng Vương Hải Dung hớt hải đến phòng làm việc của tôi, chua chát nói:
– Tại sao đồng chí lại có thể để cho một người đàn bà như Trương Ngọc Phượng làm việc ở đây? Cô ta là một kẻ trơ trẽn, lố bịch và ăn nói láo xược với Chủ tịch. Tối hôm qua Chủ tịch nói với tôi Trương Ngọc Phượng làm ông bực tức. Chủ tịch đã có tuổi, chúng ta cũng không cho phép Trương Ngọc Phượng thoá mạ Chủ tịch như vậy được. Nếu đồng chí không có biện pháp đối với cô ta, tôi sẽ báo cáo cấp trên.
Tôi nói:
– Bình tĩnh đã nào. Hãy kể xem có chuyện gì xảy ra.
– Tôi không thể bình tĩnh được nữa. Tôi không thể chịu được khi Chủ tịch bị con người này hạ nhục.
Cô ta bỏ đi tìm Uông Đông Hưng.
Đúng lúc này, anh vệ sĩ Tiểu Chương bước vào, nói:
– Chủ tịch đang tức giận, Chủ tịch nói Trương Ngọc Phượng thật quá quắt. Ông muốn triệu tập một cuộc họp để kiểm điểm Trương Ngọc Phượng.
Khi được nghe kể về việc này. Uông Đông Hưng bực bội, bảo:
– Lúc nào chúng ta cũng phải giải quyết những chuyện vớ vẩn như thế này sao? Làm sao chúng ta có thể vì việc này mà triệu tập một cuộc họp? Quan hệ riêng của Mao với bọn đàn bà thật rách việc. Phải giải quyết như thế nào trong cuộc họp đây?
Nhưng Mao đã yêu cầu phải có một cuộc họp, vì vậy cuộc họp cũng được tổ chức tại phòng ăn của ông, trong nhà khách. Chỉ lát sau, Uông Đông Hưng đã cáo lui, nhường lại chức chủ toạ cho tôi. Vương Hải Dung lặp lại lời buộc tội của cô ta.
Trương Ngọc Phượng cự:
– Khi tôi và Mao chủ tịch cãi nhau. Ông đã chửi tôi và thậm chí còn chửi cả mẹ tôi, nên tôi mới chửi lại chứ.
Khi Trương Ngọc Phượng định kể vụ cãi cọ đó được bắt đầu như thế nào, tôi cho rằng, cuộc họp phải tạm hoãn tại đây là hay hơn. Nếu không, cô ta sẽ còn kể tiếp về mối quan hệ tệ hại giữa cô với Mao. Nếu để cuộc họp tiếp diễn, Mao sẽ có cảm tưởng rằng một số người trong chúng tôi muốn can thiệp vào đòi tư của ông, mặc dù cuộc họp do chính ông yêu cầu.
Nhưng Vương Hải Dung vẫn cương quyết, đòi phải có một quyết định. Tôi cảm thấy tình hình có vẻ căng, chịu không giải quyết nổi, nên giao lại cho Uông Đông Hưng để ông ta phân tích cho Vương Hải Dung. Ngoài ra, tôi yêu cầu y tá trưởng, Ngô Tự Tuấn, phải thuyết phục Trương Ngọc Phượng đến gặp Mao để tự kiểm điểm.
Vương Hải Dung vẫn không bằng lòng với cách giải quyết, phê phán tôi và Uông Đông Hưng thiếu công bằng. Cô bực tức lên đường trở về Bắc Kinh.
Còn Trương Ngọc Phượng vẫn ấm ức. Cô chất vấn tại sao cô phải tự kiểm điểm trước Mao, ông đã chửi mẹ cô cơ mà. Trương Ngọc Phượng rời nhà khách, trở về đoàn tàu.
Chẳng bao lâu sau, tình hình trở lại bình thường.
Sau đó ít lâu, Mao bị cảm lạnh khiến ông bị viêm phế quản cấp tính, ho và sốt. Mặc dù nhiệt độ còn cao, những cơn ho đã giảm, nhưng ông lại bị viêm thanh quản, mất tiếng, hai ngày liền không thể nói được. Vì sợ bị câm lâu dài, ông nài nỉ tôi hãy chữa cho ông. Tôi giải thích, phải đợi một thời gian điều trị thanh đới mới hết sưng, không thể khỏi ngay được, nhưng ông cứ một mực đòi được chữa khỏi ngay.
Tôi điều trị ông bằng phương pháp vật lý trị liệu, nhưng không thích, ông bỏ ngay sau buổi đầu tiên. Tôi pha chế một thứ được liệu từ những thảo được của Trung Quốc vốn được coi là rất hiệu nghiệm yêu cầu ông uống. Chỉ sau hai ngày ông đã có thể nói được vài câu, sau ba ngày tiếp theo ông đã nói chuyện được bình thường.
Ông đòi đi bơi. Ông bỏ ngoài tai lời khuyên của tôi và nói:
– Tất cả những phương pháp điều trị của đồng chí bằng y học Trung Quốc hay y học Tây phương thực ra chẳng có tác dụng. Bơi là phương pháp điều trị tốt nhất.
Nói rồi ông bỏ đi đến bể bơi nhà khách.
Sau ngày lễ mồng một tháng 5 năm 1965. Mao quyết định đến thăm Tinh Cương Sơn, một vùng giáp ranh giữa tỉnh Hồ Nam và Giang Tây. Nơi ông lập căn cứ du kích hồi năm 1927, phát động cuộc cuộc cách mạng bắt nguồn từ đó. Chúng tôi đi tàu đến Trường Sa, thuộc tỉnh Hồ Nam, từ đó đi tiếp bằng ô tô. Vì còn giận dỗi, Trương Ngọc Phượng không chịu đi cùng.
Qua chuyến ngao du đến Tinh Cương Sơn, căn cứ địa cũ, để đe doạ chính quyền trung ương bằng cách ông doạ sẽ tái lập cơ sở mới, trong trường hợp chính phủ trung ương không chịu nghe theo ý kiến chỉ đạo của ông. Chuyến chu du này cũng là một phần trong chiến dịch lâu dài chống lại đối thủ Lưu Thiếu Kỳ.
Trong chuyến đi, bí thư tỉnh uỷ Hồ Nam cùng đi với Mao. Không có nhân vật nào của tỉnh Giang Tây trong chuyến đi này, bởi vì Uông Đông Hưng đã biết rất rõ những nơi chúng tôi muốn tới thăm. Trước kia, trong thời gian “cải tạo” gần năm năm, Uông Đông Hưng đã từng làm phó tỉnh trưởng tỉnh.
Chúng tôi nghỉ đêm tại huyện Trác Lâm ở Hồ Nam. Uỷ ban hành chính huyện phải dọn những phòng làm việc lấy chỗ cho chúng tôi nghỉ. Khắp các phòng. muỗi bay như trấu. Chúng tôi cũng có lọ xịt diệt côn trùng, nhưng chỉ có Mao mới được dùng nó. Còn chúng tôi phải đốt cỏ chống muỗi, ngủ trong những chiếc màn bằng vải gai dày đầy khói. Sáng hôm sau tôi cảm thấy người nôn nao, choáng váng.
Đến Tinh Cương Sơn, chúng tôi nghỉ trong một nhà khách hai tầng ở làng Mao Bình, hẻo lánh nằm lọt thỏm trong cánh đồng lúa. Phía nam của làng có một cửa hàng bán đồ thủ công. Trong một cãn phòng trưng bày một chiếc đòn gánh, nghe nói nguyên soái Chu Đức đã dùng để gánh nước trong cuộc nổi dậy những năm hai mươi. (Trong thời kỳ Cách mạng văn hoá, người ta nghe nói Lâm Bưu đã sử dụng chiếc đòn gánh này – một ví dụ nữa cho việc bóp méo lịch sử trong thời kỳ này)
Tinh Cương Sơn có vô số rừng tre, nứa, bương, vầu, đành hanh và trong một xưởng nhỏ sản xuất một loại giấy pơ-luya (pelure) trắng tinh có thể nhìn xuyên qua từ nguyên liệu tre nứa. Loại giấy này tôi đã thấy từ khi còn nhỏ.
Ngày 29-5-1965, chúng tôi rời Tinh Cương Sơn, đến giữa tháng 6, chúng tôi có mặt ở Bắc Kinh.
Mao vẫn tỏ ra bất bình với Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, vì vậy ông lại chuẩn bị tấn công Bộ Y tế. Ngày 26-6-1965, ông nói với tôi:
– Tôi muốn đồng chí thông báo cho những người trong Bộ y tế, họ chỉ đáp ứng được nhu cầu y tế cho khoảng 15% dân chúng. Trong số 15% này, những ông lớn của nhà nước và địa phương được cung cấp chu đáo nhất. Có lẽ Bộ y tế cho rằng, chỉ cần thoả mãn nhu cầu của các ông lớn này là đủ. Nhưng đại đa số nhân dân ở nông thôn chẳng được chăm sóc gì về y tế – không có thuốc thang, không có bác sĩ.
Mao nói tiếp:
– Bộ y tế không phục vụ người dân lao động. Đó không phải là một bộ của toàn dân. Nó chỉ chăm lo cho nhân dân ở thành thị và những nhân vật tai to mặt lớn. Tôi đã viết mấy câu thơ tặng Bộ Y tế:
Y tế vì ai? Phục vụ ai?
Dân nghèo chẳng được họ đoái hoài
Cán to, cán nhỏ chăm sóc kỹ
Y tế các anh phục vụ ai?
Mao tiếp tục nói:
– Bộ y tế không phục vụ nhân dân. Đó không phải một bộ của dân, vì dân, lo cho dân. Vậy, chúng ta đặt cho nó một cái tên khác: “Bộ y tế cho các thành phố”, “Bộ y tế cho các ông lớn”. Các bệnh viện của chúng ta có đầy đủ những máy móc, y cụ tối tân, nhưng chúng chẳng được dùng cho những người dân ở nông thôn. Chúng ta đào tạo ra các bác sĩ để họ phục vụ cho các đô thị. Nhưng Trung Quốc có tới 500 triệu nông dân.
Mao yêu cầu phải cải tổ toàn bộ hệ thống y tế, hướng vào phục vụ quần chúng thay vì những cán bộ cao cấp, hướng về nông thôn thay vì các đô thị.
Kể cả việc đào tạo y khoa ông cũng muốn cải tổ. Ông quả quyết:
– Các sinh viên y khoa không cần đọc nhiều sách đến như vậy! Những thầy thuốc nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc như Hoa Đà, Biển Thước, Lý Thời Trân chưa bao giờ học Đại học y khoa. Vào trường y, không cần tốt nghiệp hết cấp chương trình phổ thông trung học, chỉ cần học hết lớp Sơ-Trung là đủ sức học rồi. Người ta chỉ có thể thu nhận được những kiến thức y khoa tốt nhất bằng thực tế.
Mao nói:
– Loại bác sĩ chúng ta cần ở các làng xã không cần phải được đào tạo cao siêu. Chỉ cần anh ta giỏi hơn những thầy mo là đủ. Hơn nữa, trong làng xã chỉ đủ điều kiện cho những thầy thuộc cỡ đó làm việc.
Mao chỉ trích Bộ y tế đã đầu tư gây lãng phí sức lao động, của cải vật chất vào việc nghiên cứu những căn bệnh hiếm, bệnh lạ mà không quan tâm đến những biện pháp phòng ngừa và điều trị những bệnh thông thường. Mao giải thích:
– Tôi không nói chúng ta không cần nghiên cứu y học, mà cần phải sử dụng phần lớn những phương tiện của chúng ta đã có đáp ứng cho nhu cầu của quần chúng hiện nay.
Ông tiếp tục dẫn giải:
– Còn một chuyện lạ nữa. Các bác sĩ lúc nào cũng mang khẩu trao khi khám chữa bệnh cho bệnh nhân. Có phải họ sợ sẽ truyền những căn bệnh họ có cho bệnh nhân không? Không! Tôi nghĩ, họ sợ lây bệnh từ bệnh nhân. Theo ý tôi, các bác sĩ chỉ nên đeo khẩu trang khi nào thực sự cần thiết. Bằng không họ sẽ xây lớp rào ngăn cách giữa bác sĩ và bệnh nhân.
Ông còn muốn đề nghị một điều nữa, bổ nhiệm những y, bác sĩ mới ra trường, chưa có kinh nghiệm gì về nghề nghiệp vào những bệnh viện của các thành phố. Những bác sĩ già dặn, nhiều kinh nghiệm phải được đưa về nông thôn.
– Trong tương lai các nhà y học của chúng ta phải đặt trọng tâm công việc của họ ở các làng xóm.
Tôi bàng hoàng về sự công kích của Mao đối với những nhà y học nổi danh. Nhưng Mao lại chỉ thị cho tôi phải thông báo cho Bộ y tế những ý kiến của ông. Tôi soạn lại một bản tóm tắt về cuộc nói chuyện của chúng tôi ngày 26-6-1965, rồi lập tức nộp cho Bộ Y tế. Hồi đó, tất nhiên tôi không dám nghĩ tới một điều, trong thời kỳ Cách mạng văn hoá cái “Chỉ thị ngày 26 tháng 6” này lại được dùng làm cơ sở để phát động một chiến dịch sẵn sàng phục vụ của những thầy thuốc chân đất trên phạm vi toàn quốc. Những kẻ cực đoan đã sử dụng chỉ thị này để xúi giục đấu tranh giai cấp trong ngành y tế, phá hoại hệ thống y tế của Trung Quốc. Ngoài ra, hồi đó tôi không thể nghĩ rằng, Mao sẽ điều tôi về nông thôn.
***
Việc giải tán và tổ chức lại Ban y tế trung ương đã tạo ra những căng thẳng, hỗn loạn. Trong sự căng thẳng và hỗn loạn đó, những ý nghĩ của Mao đã hoàn toàn lắng xuống. Mao ra lệnh chấm dứt sự ưu đãi y tế đối với cán bộ lãnh đạo, khi ông biết Lưu Thiếu Kỳ mắc bệnh lao. Mao ra lệnh cho tôi không được dính đến chuyện điều trị cho Lưu Thiếu Kỳ, cũng từ đó tôi không hề biết bệnh tật của Lưu được điều trị ra sao. Tất cả những người trong Nhóm Một chúng tôi đều biết, hành động này của Mao đối với cơ chế y tế cũng chính là một đòn giấu mặt nhằm đánh thẳng vào Lưu Thiếu Kỳ. Trước những sự kiện này, Điền Gia Anh rút ra một điều: “Bây giờ vẫn còn quá sớm để có thể khẳng định Lưu Thiếu Kỳ sẽ là người kế nhiệm Chủ tịch. Chúng ta cũng còn chưa biết Mao có ủng hộ Lưu Thiếu Kỳ hay không. Hôm nay nói thế này, mai nói thế khác. Không ai có thể hiểu ông ta nghĩ gì”. Uông Đông Hưng tán thành nhận xét của Điền Gia Anh.Chúng tôi đâm ra nghi ngờ chính mình. Tôi không bao giờ nói với ai trong Ban Y tế Trung ương, chính vì Lưu Thiếu Kỳ ốm đau đã khiến Mao cải tổ hệ thống y tế. Đối với chúng tôi trong Nhóm Một, những ai nghe được lời chế giễu, châm chọc của Mao nhằm vào Lưu Thiếu Kỳ, không bao giờ dám nói lại với người khác. Người duy nhất tôi chia xẻ ý nghĩ vui buồn, đó là Uông Đông Hưng.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 55
Posted: 12/10/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Cuối tháng 6-1955, vài ngày sau khi tôi viết tóm tắt tổng kết của Chủ tịch lời phát biểu kêu gọi các bác sĩ giỏi đi xuống nông thôn, Mao gọi tôi đến.
– Đấu tranh giai cấp ở nông thôn đang trở nên gay gắt – ông nói – “Chiến dịch minh bạch” sẽ thổi bùng đám cháy rừng đấy. Nhưng tất cả Nhóm Một hãy còn ở đây, như thế là không được.
Mao muốn Uông Đông Hưng chỉ huy một đội của Nhóm Một tham gia chiến dịch học tập cải tạo xã hội chủ nghĩa ở vùng thôn quê hẻo lánh. Thủ trưởng của Uông, Bộ trưởng công an Tạ Phú Trị đứng đầu bộ đã lên đường.
Bây giờ đến lượt chúng tôi.
Chúng tôi cảm thấy chỉ thị của Chủ tịch như một hình phạt. “Chúng ta đã làm điều gì sai sót trong thời gian qua khiến Chủ tịch không hài lòng?” Uông Đông Hưng hỏi, khi tôi báo tin. Điền Gia Anh và tôi đã tin rằng, một đi sẽ không bao giờ trở lại. Mao thường dùng chiêu bài thay thế nhân viên bằng cách tạm chuyển người đó xuống vùng hẻo lánh để “sửa chữa”, sau đó chuyển công tác khác. Chính Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều đã phải rời bỏ cương vị công tác từ mùa đông 1960 cũng theo cách này. Chúng tôi e sợ số phận tương tự sẽ dành cho chúng tôi.
Mao muốn toàn bộ Nhóm Một ra đi. Chỉ giữ lại thư ký Hứa Diệp Phụ và thường trực Chu Phúc Minh. Tuy vậy Giang Thanh không phải đi vì trước những khó khăn xảy ra, các thứ bệnh của bà đột nhiên tái phát.
Điền Gia Anh cảm thấy trong sự ra đi của chúng tôi có một cái gì đấy may mắn. Tình hình chính trị ở Bắc Kinh ngày càng căng thẳng. Không ai trong chúng tôi biết cái gì sẽ xảy ra ngày mai, nhưng tất cả sợ chẳng có điều gì tốt đẹp chờ đợi chúng tôi. Ít ra, khi chuyện đụng độ phe phái xảy ra, chúng tôi không bị vạ lây. Dù vậy chúng tôi không vui vì chuyến công tác này. Vì Uông Đông Hưng chỉ huy nên đang lo cuống vó. Mao thúc chúng tôi. Cuối cùng Uông quyết định chúng tôi sẽ đến vùng Điền Sơn, quê ông.
Tôi không an tâm, không biết ai sẽ thế chân khi tôi ra đi. Tôi muốn trong thời gian ấy, người chăm sóc sức khỏe Mao là Hoàng Thụ Trạch, một trong số thứ trưởng Bộ y tế. Nhưng Mao vẫn bất bình về hệ thống y tế nông thôn và hoài nghi các đồng nghiệp nên ông kiên quyết không cần bác sĩ riêng.
– Sức khoẻ tôi tốt hơn rồi – Mao khẳng định – Tôi không cần bất kỳ sự chăm sóc sức khoẻ nào cả. Tôi không phải là vua chúa, hễ sổ mũi nhức đầu cần người đo huyết áp và đếm mạch đập. Tôi không cần hệ thống phục dịch sức khoẻ, không cần Hoàng Thụ Trạch. Chỉ cần một y tá là đủ. Nhưng không phải từ bệnh viện Bắc Kinh.
Cô y tá Ngô Tự Tuấn đi trong đoàn chúng tôi. Mao muốn thay thế chỗ cô là một y tá mới từ Quân y viện 301, một bệnh viện quân y hàng đầu của hệ thống y tế của Giải phóng quân.
Bộ Thuỵ Thành, phó giám đốc quân y viện 301, nói nịnh Mao khi ông yêu cầu một cô y tá trong bệnh viện của ông. Bộ Thuỵ Thành thật thà khi tôi đến trao đổi công việc tuyển người, ông bảo: “Chỉ Bệnh viện Bắc Kinh hệ thống y tế mới tốt nhất”. Ông ta nói thật lòng. Ngay bản thân Bộ Thuỵ Thành cũng không được đào tạo bác sĩ một cách bài bản. Ông trưởng thành trong kinh nghiệm từ thời kỳ tham gia Hồng quân.
Bộ Thuỵ Thành yêu cầu tôi phỏng vấn, tự chọn một trong hai cô có kinh nghiệm đã từng phục vụ tướng lĩnh cao cấp. Cả hai đều xứng đáng – một cô kín đáo, e thẹn, cô kia khéo léo, nhã nhặn trong giao tiếp và cởi mở.
Chúng tôi cho Mao xem ảnh 2 y tá, yêu cầu ông quyết một trong hai cô đến với ông. Ông chọn cô gái ăn nói nhẹ nhàng Lưu Thảo Dương. “Cô ta trông dễ coi” – Chủ tịch nói.
Đội công tác của chúng tôi xuống nông thôn vào đầu tháng Bẩy. Trước khi chúng tôi tới Điền Sơn, đã có đội quân lao động học tập chủ nghĩa xã hội ở đó có hơn một trăm người khỏe mạnh. Lực lượng bổ xung gồm các nhân viên Ban bảo vệ trung ương, Sư đoàn của tỉnh đội, Sư đoàn pháo số 2, đảng bộ tỉnh Giang Tây cũng gửi đại diện của mình. Mao cho Lí Nạp theo đoàn, đi cùng với một nhân viên vừa làm nhiệm vụ bảo vệ vừa làm cần vụ.
Quan hệ của tôi với Lí Nạp căng thẳng từ “Hội nghị Bẩy ngàn cán bộ”, khi người ta gọi tôi về Bắc Kinh để khám cho cô. Lí Nạp học khoa sử, Đại học tổng hợp. Tôi tới, con gái Mao bị cảm nặng. Lý Bình, hiệu phó kiêm bí thư đảng uỷ nhà trường báo cáo cho tôi biết. Ông ta và bí thư đảng uỷ khoa Sử, gặp tôi, tỏ vẻ lo âu. Họ là những người lịch sự, luôn mồm xin lỗi đã không mời tôi sớm hơn. Chính họ cũng vừa mới biết về bệnh tật con gái Chủ tịch. Lí Nạp vẫn đang giận dữ. Cô ta tức tại sao tôi không đến sớm hơn, kêu không ai chăm sóc, không ai để ý xem cô ta sống hay chết. Lí Nạp la hét, khóc lối om xòm, tôi cảm giác rằng miệng cô ta không bao giờ đóng cả. Cuối cùng tôi không nhịn được.
– Cô hai mươi mốt tuổi rồi đấy – Tôi át giọng – không phải trẻ con. Cô ốm, cả ban lãnh đạo trường Đại học tới thăm cô. Cô còn muốn gì nữa? Ở Đại học Bắc Kinh có hơn 10 nghìn sinh viên, nếu ai cũng làm như cô, thử hỏi nếu cô là lãnh đạo, cô có thể điều khiển nhà trường được không?
Ngòi lửa của tôi làm cơn giận bùng cháy. Cô hờn dỗi, la hét to hơn trước, hệt như một đứa trẻ lên ba. Lí Nạp vẫn không nguôi, giãy giụa chửi bới khi tôi đẩy cô vào trong xe chở thẳng đến Bệnh viện Bắc Kinh. Trên đường Lí Nạp tiếp tục la thét, cấu xé, như muốn nhảy ra khỏi xe. Cảnh sát đã hai lần chặn xe kiểm tra, tưởng có điều gì bất thường.
Về sau, khi nghe tôi nói lại, Mao tức giận.
– Bệnh viện Bắc Kinh dành cho cán bộ cấp cao – Mao nhắc – Sao lại nhận chữa Lí Nạp?
Tôi giải thích rằng bệnh viện không nhận bệnh nhân bị cảm. Còn đưa cô vào Trung Nam Hải tôi e rằng có thể làm lây bệnh cho Chủ tịch. Bệnh viện Bắc Kinh nhận Lí Nạp vì cô là con gái Chủ tịch.
Mao không muốn con cháu ông được hưởng đặc quyên đặc lợi, bảo tôi lần sau không được chuyển đến Bệnh viện Bắc Kinh. Sau đó ông hỏi Lí Nạp, Lí Minh và Mao Viên Tân ăn ở đâu khi sống trong Trung Nam Hải. Tôi nói, họ ăn ở nhà ăn của ông, bếp trưởng của Chủ tịch lo nấu cho cả họ nữa.
Mao không hài lòng.
– Bảo Uông Đông Hưng từ nay trở đi không cho phép chúng ăn ở bếp của tôi. Chúng phải ăn ở nhà ăn tập thể!
Dù đây là lệnh của Mao, nhưng các con cháu ông nghĩ tôi xúi bẩy. Cả Giang Thanh cũng cáu, nói tôi đối xử với con gái bà thô bạo, vì tôi mà con bé mất đặc quyền. Giang Thanh đòi Mao sa thải tôi. Mao không nghe, nhưng mâu thuẫn về việc này chưa chấm dứt. Khi Mao đề nghị tôi cư xử tốt hơn với Giang Thanh và Lí Nạp, tôi trả lời rằng Lí Nạp rất hư, hỗn hào chả ai có thể làm cô hài lòng, khác hẳn cô chị hiền lành, ngoan ngoãn, có giáo dục. Mao không vui khi tôi nhận xét, dù rằng ông biết đó là sự thật. Giờ đây, chắc muốn chứng tỏ con cái ông không có bất cứ đặc quyền đặc lợi nào, ông cho Lí Nạp xuống nông thôn cùng với chúng tôi. Uông Đông Hưng đành sắp xếp người đi cùng bảo vệ Lí Nạp.
***
Ngay từ lúc bắt đầu, đoàn chúng tôi ở Giang Tây đã nhìn thấy sự sai lầm. Việc gửi các cán bộ nhân viên cao cấp hưởng đặc quyền từ Bắc Kinh ra hiện trường để tiến hành chiến dịch chống sự tha hoá và cổ vũ đấu tranh giai cấp là một điều ngớ ngẩn. Chúng tôi đi hàng nghìn dặm bằng tàu hoả và ô tô, bằng tiền của chính phủ. Chúng tôi sống trong nhà khách, chính phủ trả tiền, ăn uống do quỹ quốc gia trả tiền. Nói khác, con đường của chúng tôi về nông thôn và công việc ở đó tốn không phải ít. Việc đưa hàng trăm nghìn người cày đường nhựa xuống nông thôn rất tốn kém tiền của nhà nước, đặc biệt với “chiến dịch học tập chủ nghĩa xã hội”, trong khi không một ai trong chúng tôi muốn xuống nông thôn, chúng tôi bị đẩy đi, chứ đâu có muốn.
Ở Điền Sơn chúng tôi chia làm 4 nhóm, mỗi nhóm đến một làng. Sau thất bại Đại nhảy vọt công xã nhân dân tan rã thành những đội sản xuất, y như mỗi làng ngày xưa. Đội bao gồm các tổ sản xuất. Vương Nhiệm Trọng, phó giám đốc Ban bảo vệ trung ương, và tôi phụ trách nhóm đến làng Thạch Tư, cùng với chúng tôi có 2 cán bộ địa phương, Trương Trần Hợi, công an trưởng và Thượng Tạo quận trưởng Điền Sơn. Tôi rất mến và có cảm tình cả hai người. Họ không phàn nàn khó khăn đang gặp, chúng tôi cư xử với nhau rất thân thiết.
Nông dân làng Thạch Tư nghèo nàn lạc hậu đến mức tôi không hình dung được. Tôi hồi hương về Trung Quốc 16 năm trước đây, 11 năm làm việc với Mao. Công việc cho phép cho tôi có điều kiện biết tất cả các tin tức bí mật. Tôi biết rõ sự thiếu thực phẩm và nạn đói, do Đại nhảy vọt gây ra. Tôi biết rằng các làng quê còn rất nghèo. Nhưng những người nông dân làng quê này còn nghèo dưới mức nghèo. Quần áo xác xơ, vá chằng vá đụp. Món ăn của họ khó có thể hình dung nổi, gạo xay lẫn đất cát, đôi khi có cả sỏi đá, với món rau nấu như cám lợn. Nhà của họ thật tồi tàn, một túp lều dột nát, không giường phản. Con đường làng duy nhất nhỏ hẹp, bẩn thỉu, sau mỗi cơn mưa biến thành vũng bùn lầy lội. Làng Thạch Tư không có trường, tôi không nhìn thấy một tờ báo, tạp chí hay một cuốn sách nào cả. Hầu hết người lớn mù chữ, số phận này sẽ tiếp tục truyền cho con cháu đời sau. Trường tiểu học gần nhất làng cách vài cây số, nhưng rất ít trẻ đi học.
Tổ “Bốn minh bạch” chúng tôi quyết định chiếu một bộ phim cũ từ những năm 50. Chúng tôi đặt máy chiếu giữa cánh đồng đã gặt, nơi rộng rãi nhất để cho nhiều người xem. Dân làng xã khác đi bộ hàng tiếng, đường xa vài cây số cũng cố gắng đến. Đây là lần đầu tiên trong đời họ được xem phim.
So với nông dân, mặc dù với điều kiện xuống nông thôn, chúng tôi xem ra vẫn quá giàu sang, ngoài sức tưởng tượng của họ. Để giảm bởi sự ngăn cách, chúng tôi đổi quần áo thành phố lấy những quần vải bông và xà cạp do quân nhu cấp cho. Những người dân thôn quê vẫn ghen tỵ, thèm muốn vì quần áo chúng tôi không có miếng vá.
Khi tôi nói chuyện với một ông già trong làng. Ông sờ sờ, vuốt ve chiếc áo khoác của tôi và nói: “Đây này, nếu như tôi có chiếc áo khoác như thế này, khi ấy tôi tin rằng chủ nghĩa cộng sản đã đến nước ta”.
Chúng tôi là nguồn tò mò không dứt đối với dân làng. Đặc biệt anh chàng Vương Nhiệm Trọng, phó Ban An ninh, thành viên nhóm, làm họ ngạc nhiên. Nông dân trong làng toàn người gày gò ốm đói, còm nhom, trơ xương sườn chưa từng thấy ai to béo, phương phi phì nộn bao giờ, vì thế, mỗi lần Vương béo xuất hiện, người lớn vây quanh hỏi xem ông ăn gì mà béo đến vậy, còn trẻ con rồng rắn chạy theo sau dường như ông là người từ hành tinh khác mới xuống. Những người dân thôn dã không nhớ nổi tên, họ gọi ông là “Phật Di Đà” – một người béo ị.
Theo tư tưởng “Ba cùng” của Mao, chúng tôi phải “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với nông dân. Nhưng dân làng lại quá nghèo đến mức không thể nhận khách lạ trong nhà. Tuy rất hiếu khách, nhưng lực bất tòng tâm, họ xếp cho chúng tôi ở trong một nhà kho tồi tàn, xập xệ. Chúng tôi cố gắng kiếm chiếc chõng bằng gỗ, lấy rơm trải thay đệm, lấy quần áo, chăn trải lên trên. Chúng tôi tổ chức bếp ăn riêng, vì đến đây để gột bỏ khỏi đặc quyền, sống như quần chúng lao động, ăn những thứ mà nông dân ăn, nghĩa là gạo xay không giã, thứ gạo “lức” lẫn đất cát.
Chúng tôi lao động trên cánh đồng của 12 gia đình trong tổ. Họ cày cấy gần 50 “mu” đất (9 công mẫu). Ngoài ra, mỗi gia đình được chia mảnh đất nhỏ để trồng rau gia đình. Không có máy móc, không gia súc kéo cày, thiếu cả nông cụ cần thiết. Chúng tôi lao động bằng chân tay, bằng tất cả sức lực như súc vật. Công việc chán ngắt, mệt nhọc, quá vất vả. Đất đai ít, phương pháp canh tác thô sơ, thu hoạch vụ mùa rất thấp. Sau khi đóng thuế nông nghiệp, người nông dân hầu như trắng tay.
Mãi ở nơi xa xôi nào đó, nơi khoa học kỹ thuật phát triển, sức lao động giảm thiểu, năng xuất lại tăng cao, chứ ở đây, trong cái ao tù Giang Tây, nông nghiệp Trung Hoa vẫn thế, không hề thay đổi như đã có hàng ngàn năm để lại. Nói đến Đại nhẩy vọt chỉ là chuyện kỳ cục, vô lý. Tôi không thể hiểu tại sao Trung Quốc không tận dụng sử dụng tất cả khả năng trí tuệ của các nhà khoa học để sản xuất máy nông nghiệp, giảm sức lao động tối thiểu, giúp nông dân thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu như thế này. Khi tôi thú nhận với Uông Đông Hưng không hiểu vì sao lại như vậy, sau 16 năm cách mạng thành công, nhưng đời sống nông dân vẫn khốn khổ, nghèo đói. Uông bảo, nhiều nơi còn nghèo khổ, tồi tệ hơn thế này.
Tôi hiểu, Uông đã nói thật. Biết bao goá phụ trẻ tuổi làng Thạch Tư đã bỏ quê hương An Huy trong nạn đói mấy năm về trước khi chồng con họ chết đói. Tình hình An Huy ngày nay tuy khấm khá hơn, nhưng những goá phụ đó vẫn không trở về. Cuộc sống ở Giang Tây dễ thở hơn ở đây nhiều.
Trong cảnh nghèo nàn này, hoạt động của chúng tôi phải là cổ vũ cuộc đấu tranh giai cấp. Chiến dịch “Bốn minh bạch” đòi hỏi chúng tôi theo dõi, xác định những yếu tố tham nhũng của cán bộ và những người lãnh đạo nông nghiệp, chỉ có thể xảy ra nơi đời sống khấm khá chứ không thể xảy ra ở nơi nghèo khổ được, vì tham nhũng dẫn đến tai hoạ “Ba năm thắt lưng bụng bụng”, người ta cho rằng không phải do chính sách Đại nhẩy vọt gây ra. Nhiệm vụ phải tìm những người lãnh đạo tham lam độc ác cưỡng chiếm sản phẩm do nông dân sản xuất, chiếm dụng tài sản công hữu làm của riêng và lừa dối nông dân cách chấm công điểm trong công xã.
Dĩ nhiên, đó là tham nhũng, bằng chứng không thể chối cãi. Nhưng tìm nó trong đội nghèo đói này lại là điều xuẩn ngốc. Trong nhóm lao động học tập chủ nghĩa xã hội chúng tôi không thể kiểm tra sổ sách. Đội sản xuất này không có sổ sách thu chi, chấm công chia điểm. Người nông dân đảm nhận kế toán lại mù chữ, cũng chẳng biết tại sao phải có sổ sách ghi chép. Đội sản xuất quá nghèo, bà con sống liền kề, biết nhau chân tơ kẽ tóc, biết rõ thu chi của đội, của từng cá nhân, từng gia đình. Dân làng sống và làm việc với nhau bao đời, họ hiểu nhau, vì thế cán bộ xã hay ban chủ nhiệm hợp tác xã có muốn tham nhũng cũng không thể làm được. Người cán bộ quyền chức cao nhất là người chịu trách nhiệm thu thuế nông nghiệp, họ có thể trích số thóc nộp thuế, hoặc gian lận thu trực tiếp nông dân nếu họ có ý đồ. Đấy là cơ hội duy nhất để tham nhũng. Nhưng đội trưởng ở đây không thể kiếm lợi từ tham nhũng, thậm chí nếu anh ta muốn. Làm điều này chỉ có các quan chức cao cấp – công xã, khu, và tỉnh. Chính họ thu hoa quả trong điều kiện họ tạo ra, nhận hối lộ, kiếm lợi. Họ, xét theo bản chất, có quyền lực vô biên – đặt ra mức thuế cho nông dân, bắt nông dân phải làm cái gì mà họ cho rằng cho rằng có lợi cho bản thân họ.
Đấu tranh giai cấp, theo Mao, vẫn còn tiếp tục, cuộc chiến đấu giữa địa chủ và nông dân nghèo, giữa phong kiến và chủ nghĩa xã hội, giữa tư sản và giai cấp công nhân còn thảm hoạ. Trong thời gian cải cách ruộng đất, ngay sau khi những người cộng sản nắm quyền lực trong nông thôn, tất cả dân làng đều được đeo mác giai cấp. Ai bị người ta gọi là địa chủ và phú nông, đều bị mất tất cả sở hữu tư nhân của mình. Và những người trong gia đình, đều phải chịu sự theo dõi của chính quyền địa phương. Theo như họ nói, thành quả đạt được, địa chủ và phú nông, cả vợ hay chồng cũng như con cái phải đi cải tạo lao động khổ sai. Theo chu kỳ, nhất là ngày lễ lớn, họ tập trung địa chủ và phú nông thành từng nhóm, cán bộ an ninh địa phương hoặc đội trưởng lại lên lớp, lên án những tội ác quá khứ của họ. Cứ mỗi lần xảy ra chuyện không hay, như bệnh nở mồm long móng trâu bò chả hạn, nghiễm nhiên các địa chủ, phú nông lại bị nghi ngờ. Người ta thẩm vấn, điều tra theo dõi họ sát sao.
Có một người nông dân chăm chỉ lao động trong làng, làm việc từ bảnh mắt đến tối mịt bị dán cái nhãn con địa chủ, được chia một mảnh đất cằn cỗi nhất. Ông không bao giờ dám mở miệng kêu ca. Nhưng nghịch lý ở chỗ, thực tế ông không phải con địa chủ. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo trong làng, người cha nghèo khó của ông, để cứu con khỏi chết trong nạn đói, cho ông làm con nuôi địa chủ. Giờ đây ông là con địa chủ, người ta bắt ông làm việc như cu-li, tước hết mọi quyền lợi, khinh bỉ bắt ông chào, gọi dân làng từ bé đến lớn là ông bà. Trong cái làng nghèo này, ông là người nghèo nhất, khốn khổ nhất, bắt buộc phải ăn đói mặc rét. Thậm chí đến thóc người ta cũng chia cho ông ít hơn người khác. Ông mặc chiếc áo bao tải mà người ta đã quẳng đi.
Cha đẻ của một người được gọi là con địa chủ lại chưa bao giờ có ruộng đất. Nhưng ông nội thì có một mẩu ruộng. Cái mác “con địa chủ” mang tính thừa kế, cha truyền con nối, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, đó là cái cùm, con người không thể chạy thoát được.
Chính sách quy kết dán mác cho con cái phải chịu trách nhiệm việc làm tội lỗi của cha ông, truyền hết đời này sang đời khác và đối sử với họ như kẻ phạm tội hoàn toàn bất công. Tôi tin chắc đã đến thời điểm phải thay đổi địa vị của những người đã chịu quá nhiều đau khổ kéo dài. Nhưng người ta phớt lời quan điểm của tôi, không những thế, còn cảnh cáo những hậu quả chính trị có thể xảy ra nếu như người ta biết tôi phát biểu đồng cảm như vậy.
Trong làng người ta biết tôi là bác sĩ Mao, nhưng điều này không che chở gì được cho tôi. “Anh nghĩ, nếu anh chữa chạy cho Chủ tịch, anh có thể nói những điều tốt cho con địa chủ được?” Một trong những dân làng cảnh cáo. “Tôi nói để anh biết, nếu ai đó trong số chúng tôi báo cáo chuyện của anh cho chính phủ, anh có thể dính vào rắc rối nhiều hơn đấy”. Cuộc đấu tranh giai cấp theo kiểu Mao như thế đấy. Mao dạy rằng, đấu tranh giai cấp sẽ tiếp diễn suốt thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, có thể kéo dài 50 hoặc 100 năm. Cuộc đấu tranh cha truyền con nối không dừng lại ở thế hệ con cái địa chủ, mà còn tiếp tục ở đời cháu, đời chắt cho đến khi đạt được chủ nghĩa cộng sản. Năm 1956 khi bắt đầu Cách mạng văn hoá, con cái của các vị lãnh đạo cao cấp hớn hở giơ cao khẩu hiệu: “Trứng rồng nở ra rồng; Trứng phượng hoàng nở ra phượng hoàng; Chuột cống sinh ra chuột cống”. Như vậy, họ đã mặc nhiên biến thành những con rồng và phượng hoàng thần thánh trong huyền thoại Trung Quốc. Thân phận con cái địa chủ và phú nông không bằng chuột cống. Tôi và các thành viên trong nhóm bất lực không thể làm thay đổi sự khủng khiếp và bất công thấm sâu trong tư tưởng của vùng nông thôn này.
Sự nghèo khổ cùng cực đang làm hại thôn xã Trung Quốc, sự bất công của cuộc đấu tranh giai cấp, tôi chứng kiến nhưng bất lực đã đè nặng tâm khảm tôi. Tôi cảm thấy rằng sau 16 năm cách mạng, Trung Quốc không tiến một bước nào lên phía trước nói chung. Cuộc sống cùng cực, chính phu tàn bạo dẫn đến thất vọng. Có thể dưới thời Quốc dân đảng cuộc sống cũng tồi tệ, nhưng công việc nặng nhọc luôn luôn được đền bù. Những người nghèo nhưng có năng lực, có khả năng vẫn có điều kiện vươn lên đỉnh cao nhất. Địa vị kinh tế, xã hội của con người không trở thành hòn đá, treo ở mạng sườn ở thế hệ. Con người có lòng tin những điều tốt hơn.
Tham gia chiến dịch học tập cải tạo xã hội chủ nghĩa, tôi cũng học được nhiều điều. Nhưng đó không phải bài học theo ý muốn của Mao. Sự khác biệt về quan điểm, nhận thức của tôi ngày càng tăng lên. Sự bất mãn của tôi đối với đảng cộng sản càng lắng sâu. Trong khi cán bộ cao cấp của đảng ăn uống no say, phè phỡn, sống sa hoa thì người nông dân đời sống xác sơ, vẫn phải cắn răng để tồn tại. Họ càng ngày càng nghèo hơn, bất hạnh hơn cái mà tôi có thể hình dung. Đảng cộng sản đã làm được điều gì tốt cho họ nào? Sự đổi thay to lớn ở nơi nào mà cuộc cách mạng của Mao đã hứa? Nhóm chúng tôi đã đến đây thực ra chỉ làm xấu thêm cuộc đấu tranh giai cấp. Đến để làm gì, ích gì? Chúng tôi sẽ rời làng nay mai, nông dân ở lại thậm chí sẽ nghèo hơn, ngân khố quốc gia bị thâm thủng nhiều hơn.
Sự bất mãn của tôi với chính sách của Mao tăng lên, nhưng tôi vẫn phải im lặng.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Cuối tháng 6-1955, vài ngày sau khi tôi viết tóm tắt tổng kết của Chủ tịch lời phát biểu kêu gọi các bác sĩ giỏi đi xuống nông thôn, Mao gọi tôi đến.
– Đấu tranh giai cấp ở nông thôn đang trở nên gay gắt – ông nói – “Chiến dịch minh bạch” sẽ thổi bùng đám cháy rừng đấy. Nhưng tất cả Nhóm Một hãy còn ở đây, như thế là không được.
Mao muốn Uông Đông Hưng chỉ huy một đội của Nhóm Một tham gia chiến dịch học tập cải tạo xã hội chủ nghĩa ở vùng thôn quê hẻo lánh. Thủ trưởng của Uông, Bộ trưởng công an Tạ Phú Trị đứng đầu bộ đã lên đường.
Bây giờ đến lượt chúng tôi.
Chúng tôi cảm thấy chỉ thị của Chủ tịch như một hình phạt. “Chúng ta đã làm điều gì sai sót trong thời gian qua khiến Chủ tịch không hài lòng?” Uông Đông Hưng hỏi, khi tôi báo tin. Điền Gia Anh và tôi đã tin rằng, một đi sẽ không bao giờ trở lại. Mao thường dùng chiêu bài thay thế nhân viên bằng cách tạm chuyển người đó xuống vùng hẻo lánh để “sửa chữa”, sau đó chuyển công tác khác. Chính Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều đã phải rời bỏ cương vị công tác từ mùa đông 1960 cũng theo cách này. Chúng tôi e sợ số phận tương tự sẽ dành cho chúng tôi.
Mao muốn toàn bộ Nhóm Một ra đi. Chỉ giữ lại thư ký Hứa Diệp Phụ và thường trực Chu Phúc Minh. Tuy vậy Giang Thanh không phải đi vì trước những khó khăn xảy ra, các thứ bệnh của bà đột nhiên tái phát.
Điền Gia Anh cảm thấy trong sự ra đi của chúng tôi có một cái gì đấy may mắn. Tình hình chính trị ở Bắc Kinh ngày càng căng thẳng. Không ai trong chúng tôi biết cái gì sẽ xảy ra ngày mai, nhưng tất cả sợ chẳng có điều gì tốt đẹp chờ đợi chúng tôi. Ít ra, khi chuyện đụng độ phe phái xảy ra, chúng tôi không bị vạ lây. Dù vậy chúng tôi không vui vì chuyến công tác này. Vì Uông Đông Hưng chỉ huy nên đang lo cuống vó. Mao thúc chúng tôi. Cuối cùng Uông quyết định chúng tôi sẽ đến vùng Điền Sơn, quê ông.
Tôi không an tâm, không biết ai sẽ thế chân khi tôi ra đi. Tôi muốn trong thời gian ấy, người chăm sóc sức khỏe Mao là Hoàng Thụ Trạch, một trong số thứ trưởng Bộ y tế. Nhưng Mao vẫn bất bình về hệ thống y tế nông thôn và hoài nghi các đồng nghiệp nên ông kiên quyết không cần bác sĩ riêng.
– Sức khoẻ tôi tốt hơn rồi – Mao khẳng định – Tôi không cần bất kỳ sự chăm sóc sức khoẻ nào cả. Tôi không phải là vua chúa, hễ sổ mũi nhức đầu cần người đo huyết áp và đếm mạch đập. Tôi không cần hệ thống phục dịch sức khoẻ, không cần Hoàng Thụ Trạch. Chỉ cần một y tá là đủ. Nhưng không phải từ bệnh viện Bắc Kinh.
Cô y tá Ngô Tự Tuấn đi trong đoàn chúng tôi. Mao muốn thay thế chỗ cô là một y tá mới từ Quân y viện 301, một bệnh viện quân y hàng đầu của hệ thống y tế của Giải phóng quân.
Bộ Thuỵ Thành, phó giám đốc quân y viện 301, nói nịnh Mao khi ông yêu cầu một cô y tá trong bệnh viện của ông. Bộ Thuỵ Thành thật thà khi tôi đến trao đổi công việc tuyển người, ông bảo: “Chỉ Bệnh viện Bắc Kinh hệ thống y tế mới tốt nhất”. Ông ta nói thật lòng. Ngay bản thân Bộ Thuỵ Thành cũng không được đào tạo bác sĩ một cách bài bản. Ông trưởng thành trong kinh nghiệm từ thời kỳ tham gia Hồng quân.
Bộ Thuỵ Thành yêu cầu tôi phỏng vấn, tự chọn một trong hai cô có kinh nghiệm đã từng phục vụ tướng lĩnh cao cấp. Cả hai đều xứng đáng – một cô kín đáo, e thẹn, cô kia khéo léo, nhã nhặn trong giao tiếp và cởi mở.
Chúng tôi cho Mao xem ảnh 2 y tá, yêu cầu ông quyết một trong hai cô đến với ông. Ông chọn cô gái ăn nói nhẹ nhàng Lưu Thảo Dương. “Cô ta trông dễ coi” – Chủ tịch nói.
Đội công tác của chúng tôi xuống nông thôn vào đầu tháng Bẩy. Trước khi chúng tôi tới Điền Sơn, đã có đội quân lao động học tập chủ nghĩa xã hội ở đó có hơn một trăm người khỏe mạnh. Lực lượng bổ xung gồm các nhân viên Ban bảo vệ trung ương, Sư đoàn của tỉnh đội, Sư đoàn pháo số 2, đảng bộ tỉnh Giang Tây cũng gửi đại diện của mình. Mao cho Lí Nạp theo đoàn, đi cùng với một nhân viên vừa làm nhiệm vụ bảo vệ vừa làm cần vụ.
Quan hệ của tôi với Lí Nạp căng thẳng từ “Hội nghị Bẩy ngàn cán bộ”, khi người ta gọi tôi về Bắc Kinh để khám cho cô. Lí Nạp học khoa sử, Đại học tổng hợp. Tôi tới, con gái Mao bị cảm nặng. Lý Bình, hiệu phó kiêm bí thư đảng uỷ nhà trường báo cáo cho tôi biết. Ông ta và bí thư đảng uỷ khoa Sử, gặp tôi, tỏ vẻ lo âu. Họ là những người lịch sự, luôn mồm xin lỗi đã không mời tôi sớm hơn. Chính họ cũng vừa mới biết về bệnh tật con gái Chủ tịch. Lí Nạp vẫn đang giận dữ. Cô ta tức tại sao tôi không đến sớm hơn, kêu không ai chăm sóc, không ai để ý xem cô ta sống hay chết. Lí Nạp la hét, khóc lối om xòm, tôi cảm giác rằng miệng cô ta không bao giờ đóng cả. Cuối cùng tôi không nhịn được.
– Cô hai mươi mốt tuổi rồi đấy – Tôi át giọng – không phải trẻ con. Cô ốm, cả ban lãnh đạo trường Đại học tới thăm cô. Cô còn muốn gì nữa? Ở Đại học Bắc Kinh có hơn 10 nghìn sinh viên, nếu ai cũng làm như cô, thử hỏi nếu cô là lãnh đạo, cô có thể điều khiển nhà trường được không?
Ngòi lửa của tôi làm cơn giận bùng cháy. Cô hờn dỗi, la hét to hơn trước, hệt như một đứa trẻ lên ba. Lí Nạp vẫn không nguôi, giãy giụa chửi bới khi tôi đẩy cô vào trong xe chở thẳng đến Bệnh viện Bắc Kinh. Trên đường Lí Nạp tiếp tục la thét, cấu xé, như muốn nhảy ra khỏi xe. Cảnh sát đã hai lần chặn xe kiểm tra, tưởng có điều gì bất thường.
Về sau, khi nghe tôi nói lại, Mao tức giận.
– Bệnh viện Bắc Kinh dành cho cán bộ cấp cao – Mao nhắc – Sao lại nhận chữa Lí Nạp?
Tôi giải thích rằng bệnh viện không nhận bệnh nhân bị cảm. Còn đưa cô vào Trung Nam Hải tôi e rằng có thể làm lây bệnh cho Chủ tịch. Bệnh viện Bắc Kinh nhận Lí Nạp vì cô là con gái Chủ tịch.
Mao không muốn con cháu ông được hưởng đặc quyên đặc lợi, bảo tôi lần sau không được chuyển đến Bệnh viện Bắc Kinh. Sau đó ông hỏi Lí Nạp, Lí Minh và Mao Viên Tân ăn ở đâu khi sống trong Trung Nam Hải. Tôi nói, họ ăn ở nhà ăn của ông, bếp trưởng của Chủ tịch lo nấu cho cả họ nữa.
Mao không hài lòng.
– Bảo Uông Đông Hưng từ nay trở đi không cho phép chúng ăn ở bếp của tôi. Chúng phải ăn ở nhà ăn tập thể!
Dù đây là lệnh của Mao, nhưng các con cháu ông nghĩ tôi xúi bẩy. Cả Giang Thanh cũng cáu, nói tôi đối xử với con gái bà thô bạo, vì tôi mà con bé mất đặc quyền. Giang Thanh đòi Mao sa thải tôi. Mao không nghe, nhưng mâu thuẫn về việc này chưa chấm dứt. Khi Mao đề nghị tôi cư xử tốt hơn với Giang Thanh và Lí Nạp, tôi trả lời rằng Lí Nạp rất hư, hỗn hào chả ai có thể làm cô hài lòng, khác hẳn cô chị hiền lành, ngoan ngoãn, có giáo dục. Mao không vui khi tôi nhận xét, dù rằng ông biết đó là sự thật. Giờ đây, chắc muốn chứng tỏ con cái ông không có bất cứ đặc quyền đặc lợi nào, ông cho Lí Nạp xuống nông thôn cùng với chúng tôi. Uông Đông Hưng đành sắp xếp người đi cùng bảo vệ Lí Nạp.
***
Ngay từ lúc bắt đầu, đoàn chúng tôi ở Giang Tây đã nhìn thấy sự sai lầm. Việc gửi các cán bộ nhân viên cao cấp hưởng đặc quyền từ Bắc Kinh ra hiện trường để tiến hành chiến dịch chống sự tha hoá và cổ vũ đấu tranh giai cấp là một điều ngớ ngẩn. Chúng tôi đi hàng nghìn dặm bằng tàu hoả và ô tô, bằng tiền của chính phủ. Chúng tôi sống trong nhà khách, chính phủ trả tiền, ăn uống do quỹ quốc gia trả tiền. Nói khác, con đường của chúng tôi về nông thôn và công việc ở đó tốn không phải ít. Việc đưa hàng trăm nghìn người cày đường nhựa xuống nông thôn rất tốn kém tiền của nhà nước, đặc biệt với “chiến dịch học tập chủ nghĩa xã hội”, trong khi không một ai trong chúng tôi muốn xuống nông thôn, chúng tôi bị đẩy đi, chứ đâu có muốn.
Ở Điền Sơn chúng tôi chia làm 4 nhóm, mỗi nhóm đến một làng. Sau thất bại Đại nhảy vọt công xã nhân dân tan rã thành những đội sản xuất, y như mỗi làng ngày xưa. Đội bao gồm các tổ sản xuất. Vương Nhiệm Trọng, phó giám đốc Ban bảo vệ trung ương, và tôi phụ trách nhóm đến làng Thạch Tư, cùng với chúng tôi có 2 cán bộ địa phương, Trương Trần Hợi, công an trưởng và Thượng Tạo quận trưởng Điền Sơn. Tôi rất mến và có cảm tình cả hai người. Họ không phàn nàn khó khăn đang gặp, chúng tôi cư xử với nhau rất thân thiết.
Nông dân làng Thạch Tư nghèo nàn lạc hậu đến mức tôi không hình dung được. Tôi hồi hương về Trung Quốc 16 năm trước đây, 11 năm làm việc với Mao. Công việc cho phép cho tôi có điều kiện biết tất cả các tin tức bí mật. Tôi biết rõ sự thiếu thực phẩm và nạn đói, do Đại nhảy vọt gây ra. Tôi biết rằng các làng quê còn rất nghèo. Nhưng những người nông dân làng quê này còn nghèo dưới mức nghèo. Quần áo xác xơ, vá chằng vá đụp. Món ăn của họ khó có thể hình dung nổi, gạo xay lẫn đất cát, đôi khi có cả sỏi đá, với món rau nấu như cám lợn. Nhà của họ thật tồi tàn, một túp lều dột nát, không giường phản. Con đường làng duy nhất nhỏ hẹp, bẩn thỉu, sau mỗi cơn mưa biến thành vũng bùn lầy lội. Làng Thạch Tư không có trường, tôi không nhìn thấy một tờ báo, tạp chí hay một cuốn sách nào cả. Hầu hết người lớn mù chữ, số phận này sẽ tiếp tục truyền cho con cháu đời sau. Trường tiểu học gần nhất làng cách vài cây số, nhưng rất ít trẻ đi học.
Tổ “Bốn minh bạch” chúng tôi quyết định chiếu một bộ phim cũ từ những năm 50. Chúng tôi đặt máy chiếu giữa cánh đồng đã gặt, nơi rộng rãi nhất để cho nhiều người xem. Dân làng xã khác đi bộ hàng tiếng, đường xa vài cây số cũng cố gắng đến. Đây là lần đầu tiên trong đời họ được xem phim.
So với nông dân, mặc dù với điều kiện xuống nông thôn, chúng tôi xem ra vẫn quá giàu sang, ngoài sức tưởng tượng của họ. Để giảm bởi sự ngăn cách, chúng tôi đổi quần áo thành phố lấy những quần vải bông và xà cạp do quân nhu cấp cho. Những người dân thôn quê vẫn ghen tỵ, thèm muốn vì quần áo chúng tôi không có miếng vá.
Khi tôi nói chuyện với một ông già trong làng. Ông sờ sờ, vuốt ve chiếc áo khoác của tôi và nói: “Đây này, nếu như tôi có chiếc áo khoác như thế này, khi ấy tôi tin rằng chủ nghĩa cộng sản đã đến nước ta”.
Chúng tôi là nguồn tò mò không dứt đối với dân làng. Đặc biệt anh chàng Vương Nhiệm Trọng, phó Ban An ninh, thành viên nhóm, làm họ ngạc nhiên. Nông dân trong làng toàn người gày gò ốm đói, còm nhom, trơ xương sườn chưa từng thấy ai to béo, phương phi phì nộn bao giờ, vì thế, mỗi lần Vương béo xuất hiện, người lớn vây quanh hỏi xem ông ăn gì mà béo đến vậy, còn trẻ con rồng rắn chạy theo sau dường như ông là người từ hành tinh khác mới xuống. Những người dân thôn dã không nhớ nổi tên, họ gọi ông là “Phật Di Đà” – một người béo ị.
Theo tư tưởng “Ba cùng” của Mao, chúng tôi phải “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với nông dân. Nhưng dân làng lại quá nghèo đến mức không thể nhận khách lạ trong nhà. Tuy rất hiếu khách, nhưng lực bất tòng tâm, họ xếp cho chúng tôi ở trong một nhà kho tồi tàn, xập xệ. Chúng tôi cố gắng kiếm chiếc chõng bằng gỗ, lấy rơm trải thay đệm, lấy quần áo, chăn trải lên trên. Chúng tôi tổ chức bếp ăn riêng, vì đến đây để gột bỏ khỏi đặc quyền, sống như quần chúng lao động, ăn những thứ mà nông dân ăn, nghĩa là gạo xay không giã, thứ gạo “lức” lẫn đất cát.
Chúng tôi lao động trên cánh đồng của 12 gia đình trong tổ. Họ cày cấy gần 50 “mu” đất (9 công mẫu). Ngoài ra, mỗi gia đình được chia mảnh đất nhỏ để trồng rau gia đình. Không có máy móc, không gia súc kéo cày, thiếu cả nông cụ cần thiết. Chúng tôi lao động bằng chân tay, bằng tất cả sức lực như súc vật. Công việc chán ngắt, mệt nhọc, quá vất vả. Đất đai ít, phương pháp canh tác thô sơ, thu hoạch vụ mùa rất thấp. Sau khi đóng thuế nông nghiệp, người nông dân hầu như trắng tay.
Mãi ở nơi xa xôi nào đó, nơi khoa học kỹ thuật phát triển, sức lao động giảm thiểu, năng xuất lại tăng cao, chứ ở đây, trong cái ao tù Giang Tây, nông nghiệp Trung Hoa vẫn thế, không hề thay đổi như đã có hàng ngàn năm để lại. Nói đến Đại nhẩy vọt chỉ là chuyện kỳ cục, vô lý. Tôi không thể hiểu tại sao Trung Quốc không tận dụng sử dụng tất cả khả năng trí tuệ của các nhà khoa học để sản xuất máy nông nghiệp, giảm sức lao động tối thiểu, giúp nông dân thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu như thế này. Khi tôi thú nhận với Uông Đông Hưng không hiểu vì sao lại như vậy, sau 16 năm cách mạng thành công, nhưng đời sống nông dân vẫn khốn khổ, nghèo đói. Uông bảo, nhiều nơi còn nghèo khổ, tồi tệ hơn thế này.
Tôi hiểu, Uông đã nói thật. Biết bao goá phụ trẻ tuổi làng Thạch Tư đã bỏ quê hương An Huy trong nạn đói mấy năm về trước khi chồng con họ chết đói. Tình hình An Huy ngày nay tuy khấm khá hơn, nhưng những goá phụ đó vẫn không trở về. Cuộc sống ở Giang Tây dễ thở hơn ở đây nhiều.
Trong cảnh nghèo nàn này, hoạt động của chúng tôi phải là cổ vũ cuộc đấu tranh giai cấp. Chiến dịch “Bốn minh bạch” đòi hỏi chúng tôi theo dõi, xác định những yếu tố tham nhũng của cán bộ và những người lãnh đạo nông nghiệp, chỉ có thể xảy ra nơi đời sống khấm khá chứ không thể xảy ra ở nơi nghèo khổ được, vì tham nhũng dẫn đến tai hoạ “Ba năm thắt lưng bụng bụng”, người ta cho rằng không phải do chính sách Đại nhẩy vọt gây ra. Nhiệm vụ phải tìm những người lãnh đạo tham lam độc ác cưỡng chiếm sản phẩm do nông dân sản xuất, chiếm dụng tài sản công hữu làm của riêng và lừa dối nông dân cách chấm công điểm trong công xã.
Dĩ nhiên, đó là tham nhũng, bằng chứng không thể chối cãi. Nhưng tìm nó trong đội nghèo đói này lại là điều xuẩn ngốc. Trong nhóm lao động học tập chủ nghĩa xã hội chúng tôi không thể kiểm tra sổ sách. Đội sản xuất này không có sổ sách thu chi, chấm công chia điểm. Người nông dân đảm nhận kế toán lại mù chữ, cũng chẳng biết tại sao phải có sổ sách ghi chép. Đội sản xuất quá nghèo, bà con sống liền kề, biết nhau chân tơ kẽ tóc, biết rõ thu chi của đội, của từng cá nhân, từng gia đình. Dân làng sống và làm việc với nhau bao đời, họ hiểu nhau, vì thế cán bộ xã hay ban chủ nhiệm hợp tác xã có muốn tham nhũng cũng không thể làm được. Người cán bộ quyền chức cao nhất là người chịu trách nhiệm thu thuế nông nghiệp, họ có thể trích số thóc nộp thuế, hoặc gian lận thu trực tiếp nông dân nếu họ có ý đồ. Đấy là cơ hội duy nhất để tham nhũng. Nhưng đội trưởng ở đây không thể kiếm lợi từ tham nhũng, thậm chí nếu anh ta muốn. Làm điều này chỉ có các quan chức cao cấp – công xã, khu, và tỉnh. Chính họ thu hoa quả trong điều kiện họ tạo ra, nhận hối lộ, kiếm lợi. Họ, xét theo bản chất, có quyền lực vô biên – đặt ra mức thuế cho nông dân, bắt nông dân phải làm cái gì mà họ cho rằng cho rằng có lợi cho bản thân họ.
Đấu tranh giai cấp, theo Mao, vẫn còn tiếp tục, cuộc chiến đấu giữa địa chủ và nông dân nghèo, giữa phong kiến và chủ nghĩa xã hội, giữa tư sản và giai cấp công nhân còn thảm hoạ. Trong thời gian cải cách ruộng đất, ngay sau khi những người cộng sản nắm quyền lực trong nông thôn, tất cả dân làng đều được đeo mác giai cấp. Ai bị người ta gọi là địa chủ và phú nông, đều bị mất tất cả sở hữu tư nhân của mình. Và những người trong gia đình, đều phải chịu sự theo dõi của chính quyền địa phương. Theo như họ nói, thành quả đạt được, địa chủ và phú nông, cả vợ hay chồng cũng như con cái phải đi cải tạo lao động khổ sai. Theo chu kỳ, nhất là ngày lễ lớn, họ tập trung địa chủ và phú nông thành từng nhóm, cán bộ an ninh địa phương hoặc đội trưởng lại lên lớp, lên án những tội ác quá khứ của họ. Cứ mỗi lần xảy ra chuyện không hay, như bệnh nở mồm long móng trâu bò chả hạn, nghiễm nhiên các địa chủ, phú nông lại bị nghi ngờ. Người ta thẩm vấn, điều tra theo dõi họ sát sao.
Có một người nông dân chăm chỉ lao động trong làng, làm việc từ bảnh mắt đến tối mịt bị dán cái nhãn con địa chủ, được chia một mảnh đất cằn cỗi nhất. Ông không bao giờ dám mở miệng kêu ca. Nhưng nghịch lý ở chỗ, thực tế ông không phải con địa chủ. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo trong làng, người cha nghèo khó của ông, để cứu con khỏi chết trong nạn đói, cho ông làm con nuôi địa chủ. Giờ đây ông là con địa chủ, người ta bắt ông làm việc như cu-li, tước hết mọi quyền lợi, khinh bỉ bắt ông chào, gọi dân làng từ bé đến lớn là ông bà. Trong cái làng nghèo này, ông là người nghèo nhất, khốn khổ nhất, bắt buộc phải ăn đói mặc rét. Thậm chí đến thóc người ta cũng chia cho ông ít hơn người khác. Ông mặc chiếc áo bao tải mà người ta đã quẳng đi.
Cha đẻ của một người được gọi là con địa chủ lại chưa bao giờ có ruộng đất. Nhưng ông nội thì có một mẩu ruộng. Cái mác “con địa chủ” mang tính thừa kế, cha truyền con nối, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, đó là cái cùm, con người không thể chạy thoát được.
Chính sách quy kết dán mác cho con cái phải chịu trách nhiệm việc làm tội lỗi của cha ông, truyền hết đời này sang đời khác và đối sử với họ như kẻ phạm tội hoàn toàn bất công. Tôi tin chắc đã đến thời điểm phải thay đổi địa vị của những người đã chịu quá nhiều đau khổ kéo dài. Nhưng người ta phớt lời quan điểm của tôi, không những thế, còn cảnh cáo những hậu quả chính trị có thể xảy ra nếu như người ta biết tôi phát biểu đồng cảm như vậy.
Trong làng người ta biết tôi là bác sĩ Mao, nhưng điều này không che chở gì được cho tôi. “Anh nghĩ, nếu anh chữa chạy cho Chủ tịch, anh có thể nói những điều tốt cho con địa chủ được?” Một trong những dân làng cảnh cáo. “Tôi nói để anh biết, nếu ai đó trong số chúng tôi báo cáo chuyện của anh cho chính phủ, anh có thể dính vào rắc rối nhiều hơn đấy”. Cuộc đấu tranh giai cấp theo kiểu Mao như thế đấy. Mao dạy rằng, đấu tranh giai cấp sẽ tiếp diễn suốt thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, có thể kéo dài 50 hoặc 100 năm. Cuộc đấu tranh cha truyền con nối không dừng lại ở thế hệ con cái địa chủ, mà còn tiếp tục ở đời cháu, đời chắt cho đến khi đạt được chủ nghĩa cộng sản. Năm 1956 khi bắt đầu Cách mạng văn hoá, con cái của các vị lãnh đạo cao cấp hớn hở giơ cao khẩu hiệu: “Trứng rồng nở ra rồng; Trứng phượng hoàng nở ra phượng hoàng; Chuột cống sinh ra chuột cống”. Như vậy, họ đã mặc nhiên biến thành những con rồng và phượng hoàng thần thánh trong huyền thoại Trung Quốc. Thân phận con cái địa chủ và phú nông không bằng chuột cống. Tôi và các thành viên trong nhóm bất lực không thể làm thay đổi sự khủng khiếp và bất công thấm sâu trong tư tưởng của vùng nông thôn này.
Sự nghèo khổ cùng cực đang làm hại thôn xã Trung Quốc, sự bất công của cuộc đấu tranh giai cấp, tôi chứng kiến nhưng bất lực đã đè nặng tâm khảm tôi. Tôi cảm thấy rằng sau 16 năm cách mạng, Trung Quốc không tiến một bước nào lên phía trước nói chung. Cuộc sống cùng cực, chính phu tàn bạo dẫn đến thất vọng. Có thể dưới thời Quốc dân đảng cuộc sống cũng tồi tệ, nhưng công việc nặng nhọc luôn luôn được đền bù. Những người nghèo nhưng có năng lực, có khả năng vẫn có điều kiện vươn lên đỉnh cao nhất. Địa vị kinh tế, xã hội của con người không trở thành hòn đá, treo ở mạng sườn ở thế hệ. Con người có lòng tin những điều tốt hơn.
Tham gia chiến dịch học tập cải tạo xã hội chủ nghĩa, tôi cũng học được nhiều điều. Nhưng đó không phải bài học theo ý muốn của Mao. Sự khác biệt về quan điểm, nhận thức của tôi ngày càng tăng lên. Sự bất mãn của tôi đối với đảng cộng sản càng lắng sâu. Trong khi cán bộ cao cấp của đảng ăn uống no say, phè phỡn, sống sa hoa thì người nông dân đời sống xác sơ, vẫn phải cắn răng để tồn tại. Họ càng ngày càng nghèo hơn, bất hạnh hơn cái mà tôi có thể hình dung. Đảng cộng sản đã làm được điều gì tốt cho họ nào? Sự đổi thay to lớn ở nơi nào mà cuộc cách mạng của Mao đã hứa? Nhóm chúng tôi đã đến đây thực ra chỉ làm xấu thêm cuộc đấu tranh giai cấp. Đến để làm gì, ích gì? Chúng tôi sẽ rời làng nay mai, nông dân ở lại thậm chí sẽ nghèo hơn, ngân khố quốc gia bị thâm thủng nhiều hơn.
Sự bất mãn của tôi với chính sách của Mao tăng lên, nhưng tôi vẫn phải im lặng.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần IV. 1965-1976 – Chương 56
Posted: 15/10/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Sau ba tháng ở Tiên Sơn, đầu tháng 11-1965 Uông Đông Hưng bị triệu về Bắc Kinh để dự một cuộc họp khẩn cấp. Hẳn cuộc họp này liên quan đến một vấn đề quan trọng nào đó, nhưng chúng tôi ở trong làng, tách rời với thế giới bên ngoài, chẳng biết chuyện gì đã xảy ra. Uông Đông Hưng cho rằng, chỉ vài ngày sau ông sẽ trở lại.
Hàng tuần trôi qua. Mùa đông kéo tới cùng với cái lạnh và những cơn mưa ảm đạm. Công việc ngoài đồng cũng ngưng lại. Tôi bất đầu tỏ ra chán nản, lo lắng và cảm thấy mình ở không đúng chỗ. Uông Đông Hưng mãi vẫn chưa về.
Rốt cuộc, cuối tháng 12 ông ta cũng xuất hiện. Ông chọc tôi:
– Chắc đồng chí không nghĩ tôi lại đi lâu như vậy phải không? – Nhưng bỗng nhiên ông tỏ vẻ nghiêm trọng – Có chuyện lôi thôi đã xảy ra.
Uông Đông Hưng không về Bắc Kinh. Ông đến gặp Mao ở Hàng Châu.
Nhiều cán bộ cao cấp – Bí thư thành uỷ Bắc Kinh, Bành Chân, Tổng tham mưu trưởng La Thuỵ Khanh, Chánh Văn phòng đảng Dương Thượng Côn và Chủ nhiệm Uỷ ban tuyên truyền Lục Đỉnh Nhất – đang vướng vào những rắc rối về chính trị. Đảng triệu tập nhiều phiên họp kín để giải quyết từng trường họp. Nhưng đến nay, người ta vẫn chưa đưa ra những biện pháp cụ thể. Trong những trường hợp đó, đã có một trường hợp được quyết định.
Dương Thượng Côn, kẻ đầu tiên làm Mao tức trong vụ Lá Cờ Đen và người chịu trách nhiệm trong việc gắn hệ thống nghe trộm trên đoàn tàu của Mao, bị cách chức. Uông Đông Hưng được bổ nhiệm làm người kế nhiệm. Uông vẫn đảm nhiệm chức Chủ nhiệm Văn phòng của các lực lượng an ninh, nhưng rời ghế thứ trưởng Bộ công an. Với tư cách Chủ nhiệm Tổng văn phòng, ông có ảnh hưởng lớn hơn nhiều. Uông kể:
– Tôi nói rằng không xứng đáng với chức vụ này, đề cử Trần Bá Đạt, nhưng Chủ tịch từ chối. Khi đề nghị Hồ Kiều Mục làm Chủ nhiệm Tổng văn phòng, tôi sẽ làm phó cho ông ta, Mao nói, Hồ Kiều Mục thuộc loại người nhỏ nhen, không thích hợp với công việc hành chính. Chủ tịch cứ nhất quyết đề nghị tôi phải đảm nhận chức vụ này.
Tôi nói:
– Xin chúc mừng đồng chí được thăng chức.
Dĩ nhiên, tôi lập tức tự hỏi, cuộc thay đổi chính trị này sẽ ảnh hưởng đến tôi ra sao. La Thuỵ Khanh và Dương Thượng Côn đã ủng hộ khi người ta đề nghị tôi làm bác sĩ riêng của Mao. Nếu cuộc thanh trừng lan xuống cấp dưới, tôi chắc cũng sẽ bị vạ lây. Thế nhưng, người thực sự bênh vực tôi, Uông Đông Hưng, lại được thăng chức. Có lẽ nhờ vậy tôi thoát hiểm, nhưng vẫn có cảm giác không được tốt lành cho lắm. Đây là lần đầu tiên cải tổ thành phần cấp lãnh đạo cao nhất từ khi cộng sản nắm chính quyền, chắc chắn gây tiếng vang lớn tới tất cả các tầng lớp trong xã hội.
Uông Đông Hưng đã nhìn thấu tình hình, ông quay lại Giang Tây không chỉ để hoàn tất chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa của chúng tôi mà còn để né tránh những cuộc phản công, phân tranh quyền lực chính trị, ông muốn đứng ngoài, quan sát trận đấu cho đến khi tất cả các vấn đề trở nên rõ ràng. Chúng tôi cũng nên ở lại Giang Tây, vì các cuộc thanh trừng cũng chẳng chừa cấp dưới. Ở nông thôn, an toàn hơn.
Tôi ngày càng cảm thấy khó chịu. Mặc dù luôn luôn không muốn dính đến chính trị. nhưng thấy cần phải biết những biến động chính trị đang diễn ra. Tuy vẫn đang ở nơi yên ổn, nhưng phải biết rõ hơn những gì đang diễn ra ở trung tâm quyền lực, Mao đang nghĩ gì, có những kế hoạch gì, nhưng sống trong làng quê, khó mà biết những gì đang diễn ra ở Bắc Kinh.
Đã từ lâu, Mao nghi ngờ Bành Chân, bí thư thành uỷ Bắc Kinh. Mấy năm trước, Mao kể cho tôi nghe, Khang Sinh nghi ngờ Bành Chân có xu hướng “chống Mao”. Theo nhận biết của tôi, Bành Chân lúc nào cũng tỏ ra trung thành, thường xuyên hỏi tôi về tình hình sức khỏe Chủ tịch. Khang Sinh quả quyết Bành Chân đã phê phán chính sách Ba ngọn cờ hồng của Mao trong Đại nhẩy vọt và yêu cầu xét lại tính cách mạng của chính sách này.
Việc Lục Đỉnh Nhất gặp rắc rối về chính trị cũng không làm tôi sửng sốt. Với tư cách Chủ nhiệm Ban tuyên truyền. Lục Đỉnh Nhất chịu trách nhiệm lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật. Bởi vì Giang Thanh và Kha Thanh Thế tuyên truyền chống trường phái lãng mạn được Mao ủng hộ, vấn đề của Lục Đỉnh Nhất hầu như không thể tránh được.
Tôi biết rất rõ La Thuỵ Khanh, chúng tôi cộng tác chặt chẽ với nhau ngay từ khi đảm nhận nhiệm vụ làm bác sĩ cho Mao. La gặp rắc rối lần đầu tại Bắc Đới Hà khi ông ngăn Mao đi bơi lúc biển động. Đối với La Thuỵ Khanh, vấn đề an ninh của Mao bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và đúng ra, chưa bao giờ ông bất trung với Mao. Nhưng ông có nhiều quan điểm khác với Lâm Bưu, vì thế khác luôn cả với Mao.
Tôi được biết La gặp chuyện lôi thôi về chính trị vào tháng 6-1964 khi ông mở cuộc tập trận quy mô lớn gần khu lăng mộ nhà Minh, ngoại ô thành Bắc Kinh. Cuộc tập trận tham gia của các binh lính Bắc Kinh và Tế Nam do La Thuỵ Khanh, Dương Vĩnh và Dương Đắc Chí cùng chỉ đạo. Lâm Bưu được mời đến với tư cách quan sát viên, nhưng từ chối, ông bảo, không tin tưởng những cuộc diễn tập quân sự.
Mao đã chứng kiến vài buổi tập trận, cuộc tập trận lần này lại chứng minh hùng hồn cho thuyết của Lâm Bưu, “con người và lý tưởng còn quan trọng hơn cả vũ khí”. Một tiểu đội chiến sĩ tay không đánh chiếm được cả một toà nhà năm tầng làm Mao rất hài lòng. Cuộc tập trận đã khiến ông nhìn nhận rằng, chính nước Trung Hoa lạc hậu và kém phát triển có thể chiến thắng được kẻ thù mạnh nhất, được trang bị tối tân nhất, kể cả kẻ thù hùng mạnh to lớn ở phương Bắc. Mao nói với La Thuỵ Khanh sau khi xem xong:
– Liên Xô là người khổng lồ, nhưng không phải là không có điểm yếu. Chừng nào chúng ta biết cách chống người khổng lồ, chừng đó chúng ta không có gì phải sợ dù chúng to lớn và hùng cường đến đâu.
Nhưng Mao cũng biết, La Thuỵ Khanh yêu cầu hiện đại hoá quân đội Trung Quốc, bác bỏ thuyết của Lâm Bưu. Có lần Mao nói đùa:
– Đối với La Thuỵ Khanh, chỉ có quần áo mặc trên người có giá trị, ngoài ra chẳng còn có gì nữa.
Tôi được biết thêm về chuyện phiền toái của La Thuỵ Khanh qua tài liệu của hải quân do Uỷ ban quân sự chuyển cho Mao và bây giờ được Uông Đông Hưng mang từ Hàng Châu về. Vợ Lâm Bưu, Diệp Quần, đã phát động chiến dịch công kích La Thuỵ Khanh. Tháng 11-1965, trước khi Uông Đông Hưng được triệu về Bắc Kinh ít lâu, bà ta bay đến Hàng Châu tố với Mao rằng La Thuỵ Khanh cưỡng lại khẩu hiệu “Lấy chính trị làm thống soái” của chồng bà.
Mao đứng về phía Diệp Quần. Ông đã ghi trong tài liệu mà Uông Đông Hưng đưa cho tôi xem:
– Kẻ nào không công nhận lấy chính trị làm thống soái, chỉ biết dẻo mồm kiểu ấy, kẻ đó đã tuyên truyền cho chủ nghĩa cơ hội. Chúng ta phải cảnh giác trước thái độ này.
Chính uỷ không quân Vũ Từ Tuấn đã liên kết với Diệp Quần chống lại La Thuỵ Khanh, quả quyết rằng, ngay từ đầu La Thuỵ Khanh đã phản đối việc bổ nhiệm Lâm Bưu làm người thay thế Bành Đức Hoài, bây giờ lại đòi Lâm Bưu từ chức. Khi Lâm Bưu ốm, không thể thường xuyên gặp La Thuỵ Khanh như quy định. La Thuỵ Khanh nói rằng:
– Nếu đồng chí ấy hay ốm như vậy, làm sao đảm đương được việc gì? Nên có một người khác đảm nhận công việc của đồng chí ấy. Đừng đứng cản đường người khác.
La Thuỵ Khanh bực về tham gia trực tiếp vào chính trị của Diệp Quần, khuyên bà ta nên quan tâm nhiều hơn đến ông chồng mắc bệnh kinh niên. La cho rằng, nếu sức khỏe của Lâm Bưu tốt hơn, ông có thể chuyên tâm hơn vào những công việc quan trọng trong Bộ quốc phòng. Vũ Phát Tiên khẳng định, La Thuỵ Khanh tìm cách để Lâm Bưu từ chức, nên La Thuỵ Khanh đã thuyết phục Lưu Nha Lâu, tổng tư lệnh không quân, tác động đến Diệp Quần để bà khuyên chồng nghỉ hưu. La Thuỵ Khanh từng tranh luận: “Ai cũng đến lúc phải rút khỏi chính trường, cả Lâm Bưu cũng vậy”. Chính La Thuỵ Khanh muốn đoạt cái ghế trong Uỷ ban quân sự của Lâm Bưu. Nếu Diệp Quần thuyết phục được chồng từ chức, La hứa sẽ có trọng thưởng. Chuyện này thực hư ra sao tôi không rõ.
Diệp Quần và Vũ Phát Tiên không chấp nhận đề nghị của La Thuỵ Khanh, còn Mao lại đứng về phía hai người này. Giữa tháng 12-1965, La Thuỵ Khanh bị tước hết tất cả những chức vụ quan trọng trong quân đội.
Đối với tôi việc La Thuỵ Khanh bị hạ bệ báo hiệu một điều chẳng lành.
Qua Uông Đông Hưng, tôi nhận thấy Chu Ân Lai, người đứng ra bênh vực La Thuỵ Khanh trong vụ này và bất đồng với Lâm Bưu, cũng tỏ ra lo lắng. Thủ tướng Chu Ân Lai yêu cầu Uông Đông Hưng phải khẩn cấp trở về Bắc Kinh. Hàng ngày Chu giải quyết hầu hết công việc của chính phủ. Đầu năm 1964, Chu Ân Lai đã phàn nàn với Uông Đông Hưng về tình hình thiếu nhân sự có khả năng điều hành công việc hành chính ở cấp cao nhất trong chính phủ, Chu nói “Chúng ta rất thiếu những người có năng lực”. Bành Chân lo về công việc hành chính của đảng, La Thuỵ Khanh đảm nhiệm công việc hành chính của quân đội, còn Chu Ân Lai lo về chính phủ. Bây giờ, Bành Chân và La Thuỵ Khanh đều bị công kích, nên Chu ân Lại lo ngại việc ổn định tình hình ở Bắc Kinh sẽ còn khó khăn hơn nhiều. Ông giục Uông Đông Hưng phải nhận chức vụ mới càng sớm càng tốt. Nhưng Uông đã cố tình ở lại Giang Tây cùng với các nhân viên Nhóm Một đến tháng 4-1966.
Tôi cảm thấy vui vì được ở lại, bởi trong hoàn cảnh này, chẳng ai có thể biết trước cái gì sẽ chờ tôi khi trở về Bắc Kinh?
Chẳng bao lâu sau, tôi cũng biết. Sau khi Uông Đông Hưng quay lại được ít hôm – tôi vẫn chưa hoàn toàn nắm bắt được hết những biến động chính trị – tôi bị Mao gọi về.
Hôm ấy là ngày 1 tết dương lịch năm 1966, các nhân viên Nhóm Một muốn được ăn mừng ngày lễ kha khá một chút. Buổi sáng, tôi và y tá trưởng Ngô Tự Tuấn vật lộn với mưa lạnh và bùn lầy để tới làng Uông Đông Hưng đang ở. Chỉ những người thành thị chúng tôi mới tổ chức đón năm mới dương lịch, vì nông dân trong làng vẫn cứ theo tết âm lịch. Đối với họ, dương lịch không có ý nghĩa gì.
Uông Đông Hưng chỉ thị cho chúng tôi chuẩn bị thứ bánh cổ truyền mà người ta hay làm vào dịp Tết Tây. Một số người chúng tôi băm thịt và trộn nhân bánh, số khác nhào bột hoặc nặn bánh. Khi chúng tôi làm gần xong, bỗng nhiên một nhân viên an ninh của huyện Thang Nghiên xộc vào phòng. Anh ta thở hổn hển và mồ hôi mồ kê vã ra như tắm. Có người nào đó nói đùa:
– Làm gì mà nhắng lên thế. Đủ bánh mà.
Anh ta kéo tôi, Uông Đông Hưng và Ngô Tự Tuấn ra một bên, nói:
– Tôi cố gọi điện cho các đồng chí suốt hai tiếng đồng hồ liền mà không được.
Lúc ba giờ sáng anh ta nhận được một cú điện thoại của tỉnh uỷ tỉnh Giang Tây. Chủ tịch bị ốm, ông đang ở Nam Xương, thủ phủ của tỉnh. Y tá Ngô Tự Tuấn và tôi phải lập tức đến chỗ ông.
Đi bằng xe Jeep cũng phải mất 11 hoặc 12 tiếng mới tới nơi. Chúng tôi phải lập tức khởi hành.
Tôi muốn quay lại Thạch Tư để gói ghém một ít đồ, nhưng Uông Đông Hưng cấm, bảo, mọi thứ cần thiết có thể mua ở Nam Xương, chuyến đi phải được giữ bí mật. Uông Đông Hưng quyết định đi theo. Ông muốn biết bệnh tình của Mao nghiêm trọng đến mức nào và cũng muốn tranh thủ xem ở Bắc Kinh có chuyện gì mới không. Nếu không phải Chủ tịch ốm nặng, Uông sẽ lập tức trở về làng.
Thế là chúng tôi chẳng được ăn món bánh bao nhân thịt, Uông yêu cầu lên đường ngay lập tức. Xe chạy trên con đường đất lầy lội dưới trời mưa tầm tã. Bùn bắn cả lên kính, đến nỗi chẳng còn nhìn thấy gì nữa. Chúng tôi nghỉ một chút ở nhà khách Thang Nghiên, rồi lại tiếp tục đi với tốc độ như sên bò. Đến khi xe ra đến một con đường trải đá răm, mới chạy nhanh hơn. Nửa đêm, chúng tôi tới Nam Xương.
Đầu tiên chúng tôi gặp Phương Chí Xuân, chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Giang Tây và một vài cán bộ đảng khác của tỉnh. Phương nói:
– Chủ tịch đến đây từ hai tuần nay, hai hôm trước ông trở bệnh.
Chúng tôi được dẫn tới nhà khách Bân Giang, nơi Mao và đoàn tuỳ tùng ăn nghỉ. Thuộc hạ của Uông Đông Hưng, Trương Diêu Tự, vị tư lệnh quân đoàn trung ương đang ở đó cùng với Hứa Diệp Phụ, tay thư ký xảo quyệt đã đẩy được Lâm Khắc đi để chiếm chỗ. Một người phụ trách an ninh mới, Khắc Kỳ Hữu chịu trách nhiệm bảo vệ Mao và một người phục vụ mới. Chu Phúc Minh, chịu trách nhiệm lo những nhu cầu cá nhân. Một số tì nữ của Mao cũng có mặt trong nhà khách. Trong số họ có một cô y tá, hai cô thư ký riêng và cô phục vụ trên đoàn tàu đặc biệt của Mao là Trương Ngọc Phượng. Mao đem theo ba đầu bếp, một tá vệ sĩ. Nhưng chẳng có ai trong số những người thuộc ban cũ, nên bầu không khí khác hẳn, tôi cảm thấy khó chịu thế nào ấy.
Người duy nhất ở đây tôi quen là Chu Phúc Minh, người phục vụ mới của Mao, quê ở Hàng Châu, người đã vài lần cắt tóc cho Mao trước khi anh ta được vào Nhóm Một (Vương Gấu lớn nghỉ hưu với khoản tiền hưu hậu hĩnh).
Thông qua Chu Phúc Minh, tôi biết những gì đã xảy ra. Ngày 26-12-1965, Mao tổ chức sinh nhật lần thứ 72 của ông. Buổi chiều, ông uống chút rượu vang, sau đó cùng một số phụ nữ ra bờ Châu Giang đi dạo. Lúc ấy mặc dù gió to, nhưng cảm thấy nóng bức Mao phanh cúc áo ngực. Trương Ngọc Phượng và ông vừa đi vừa cãi lộn chuyện cũ của hai người. Gần đây, Mao phát hiện Trương Ngọc Phương yêu một tay trong đám vệ sĩ, ông bắt Trương quỳ xin lỗi, còn tay vệ sĩ bị tống cổ ra khỏi Trung Nam Hải đuổi về Nam Kinh, câu chuyện mâu thuẫn vẫn kéo dài trong quan hệ giữa hai người, không ngờ rồi bùng nổ sau buổi chiều sinh nhật của ông.
Ngay buổi tối xảy ra sự việc, Chủ tịch bị cảm, đến đêm ông ho và sốt cao. Ông không cho các bác sĩ ở Nam Xương khám bệnh, hy vọng bệnh tự khỏi. Khi tình trạng bệnh tình ngày càng xấu đi, ông vẫn từ chối mọi sự chăm sóc y tế, làm giới lãnh đạo đảng ở Giang Tây lo ngại. Cuối cùng, Mao cho gọi tôi và y tá Vũ.
Khi tôi bước vào phòng, ông nằm trên giường, mặt ông đỏ lựng, thở nặng nhọc và ho liên tục. Ông nói:
– Tôi bị như vậy từ vài hôm rồi. Tôi tưởng sẽ khỏi nhưng không được. Vì vậy phải gọi đồng chí tới.
Trước sau tôi cũng vẫn là bác sĩ duy nhất được Mao tin tưởng. Ông bị sốt tới 40 độ, cơn cảm lạnh đã làm ông bị viêm phế quản. Tôi bảo phải dùng kháng sinh chữa viên phế quản và hạ sốt, ông chịu uống ngay.
Đến 5 giờ sáng, tôi và y tá Vũ trở về nhà khách ở Nam Xương, nơi Uông Đông Hưng và một số cán bộ lãnh đạo của tỉnh Giang Tây đang chờ. Nếu ngày hôm sau tình hình sức khỏe của Mao tốt hơn, ba chúng tôi sẽ trở lại nông thôn.
Ngày hôm sau, tôi và Uông Đông Hưng cùng đến chỗ Mao. Thuốc kháng sinh đã có tác dụng, cơn sốt đã hạ, nhưng Mao vẫn còn ho. Ông yêu cầu chúng tôi tiếp tục điều trị thêm vài ngày nữa. Uông Đông Hưng phải quay về nông thôn, tôi và y tá Vũ ở lại.
Uông bối rối. Mao điều chúng tôi về nông thôn để chúng tôi làm quen với khổ cực, tham gia vào chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa, rồi báo cáo lại cho ông về công việc. Vậy mà bây giờ Mao chẳng hỏi một câu gì đến công việc. Uông tự hỏi không biết Mao đang nghĩ gì nữa.
Ngay tối hôm đó, Uông Đông Hưng trở về nông thôn mà những thắc mắc của ông chẳng tìm được một câu trả lời.
Việc tiếp xúc với Mao ngày càng trở nên khó khăn, vì những cô tì nữ thay phiên nhau vây quanh Chủ tịch. Lúc nào cũng có một cô trong số họ túc trực. Chu Phúc Minh rất ít khi bước vào phòng Mao. Anh ta chỉ lấy thức ăn hay trà cho ông từ dưới bếp lên, còn việc phục vụ ông được một trong những cô nhân tình đảm nhiệm. Vì tôi biết những cô gái này có quan hệ sâu kín với Mao, không muốn xen vào những chuyện riêng tư nên tôi rất ý tứ trong việc chăm sóc sức khỏe cho ông.
Tình trạng sức khỏe của ông trở nên đáng lo ngại. Tuy nhờ thuốc kháng sinh, sau vài ngày bệnh ho và viêm khí quản đã giảm, nhưng trong quá trình điều trị, tôi nhận thấy Mao uống thuốc ngủ nhiều một cách bất thường – gấp mười lần liều lượng thông thường, liều lượng đủ để giết chết một người. Mặc dù với thời gian dùng thuốc an thần hết năm này qua năm khác, cơ thể Mao đã có một khả năng đáng kể chống lại tác dụng của thuốc an thần, nhưng tôi không thể xác định được giới hạn giữa khả năng quen thuốc và liều lượng dẫn tới tử vong ở Mao. Chừng nào tôi vẫn còn ở nông thôn, chừng đó người ta không thể đổ lỗi cho tôi, nếu Mao dùng thuốc ngủ quá liều lượng. Nhưng ở Nam Xương, tôi trực tiếp theo dõi tình trạng sức khỏe của ông, sẽ là người hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với bất cứ chuyện gì xảy ra.
Việc dùng thuốc tăng liều của Mao có quan hệ với tình hình chính trị căng thẳng. Một số nhân viên ở đây cho tôi hay, từ khi vợ Lâm Bưu, Diệp Quần đến gặp Mao hồi tháng 11-1965, báo cáo lại thái độ bất tuân lệnh của La Thuỵ Khanh đối với chồng bà, liều thuốc ngủ Mao dùng cứ tăng dần. Ngày 8-12-1965, trong một cuộc họp mở rộng của Uỷ ban thường vụ của Bộ Chính trị ở Thượng Hải, Mao đã cách chức Tổng tham mưu trưởng của La Thuỵ Khanh, bổ nhiệm người phó của La, tướng Dương Thành Vũ lên thay. Kỳ họp kéo dài một tuần và Mao căng thẳng đến độ không ngủ được, ông uống thuốc liên tục hơn, thậm chí khi không muốn ngủ ông vẫn uống thuốc.
Tôi phải giải thoát cho ông khỏi cơn nghiện này.
Sau khi về đây được một tuần, tôi đến chỗ ông vào lúc nửa đêm. Mao đang nằm trên giường, đọc lịch sử đời hậu Hán (25 đến 20 sau công nguyên). Để chuẩn bị cho một trận đánh trên chính trường, ông thích đọc những tác phẩm lịch sử hơn những tác phẩm của Marx. Cuốn lịch sử nhà Hán viết rất hay, đầy đủ những mưu mô thủ đoạn cuộc chiến nội bộ.
Ông nói:
– Lần này hình như đồng chí đã lại có thần dược mới. Tôi lại khỏe lại rồi.
Tôi đáp:
– Đó là loại thuốc rất bình thường nhưng đã có tác dụng.
Ông đưa tôi xem một tập tài liệu, hỏi tôi có muốn đọc không. Thực ra tôi tới để nói về việc ông dùng thuốc ngủ chứ không phải thảo luận về chính trị. Tôi đọc được hàng tít: “Bình luận vở kịch lịch sử Hải Thuỵ Từ Quan”. Bài báo này là một trong số bài báo ít ỏi mà tôi đã đọc qua ở Thạch Từ xa xôi và cách trở với thế giới bên ngoài. Bài này của “nhà lý luận” Diêu Văn Nguyên ở Thượng Hải, đăng trên tờ Văn Hối Báo của Thượng Hải ngày 10 tháng 11 năm 1965. Bài này phê phán một vở kịch của phó thị trưởng Bắc Kinh, Ngô Hàm. Vở kịch ca ngợi Hải Thuỵ, một quan trong triều đời nhà Minh người mà Mao thường lấy làm tấm gương sáng ngời để cán bộ đảng nơi theo.
Bài bình luận làm tôi phải suy nghĩ. Chính Mao đã quảng bá cho các vở kịch truyền thống về nhân vật Hải Thuỵ. Ngô Hàm, tác giả của vở kịch, không chỉ là phó thị trưởng thành phố Bắc Kinh, ngoài ra ông còn là giáo sư Đại học Bắc Kinh, một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử đời nhà Minh. Sự quan tâm của Mao về thời kỳ lịch sử này đã làm nảy sinh mối quan hệ của ông với Ngô Hàm từ nhiều năm nay. Từ khi Mao khuyên tôi nên nghiên cứu sâu hơn nữa về lịch sử Trung Quốc, thỉnh thoảng tôi có dự những cuộc mạn đàm của Mao và Ngô Hàm.
Mao từng phê phán những tác phẩm đầu tay của Ngô Hàm, cuốn tiểu sử người sáng lập triều đại nhà Minh, Chu Nguyên Chương, tiêu đề “Từ ăn mày thành Hoàng đế”, cuốn sách đánh giá sai lầm về lịch sử, ông phê phán Ngô Hàm đã tham gia đội quân Khăn Xếp Đỏ, qua nhân vật Chu Nguyên Chương ông phê phán Tưởng Giới Thạch thời hiện tại. Hàng loạt vấn đề tà giáo Mao vạch ra và cho rằng mọi người có thể mắc phải, ngoại trừ ông, nhưng vị Chủ tịch đảng cộng sản đã bảo vệ vai trò lịch sử của Tưởng Giới Thạch trong cuộc viễn chinh Bắc phạt năm 1926-1927, Tưởng đã kiên quyết từ chối không chịu chia cắt Trung Quốc dưới sức ép chính trị to lớn của Hoa Kỳ. Ngô Hàm tiếp thu ý kiến phê phán của Mao mặc dù tác giả vở kinh kịch Hải Thuỵ được chính Mao kêu gọi học tập, lấy nhân vật Hải Thuỵ làm tấm gương cho mọi người học tập. Tôi chẳng hiểu vì sao bây giờ Ngô Hàm và vở kịch lại bị phê phán.
Giờ đây Mao lại muốn nói chuyện với tôi về vở kịch của Ngô Hàm. Ông tán thành những lời phê bình của Diêu Văn Nguyên dựa theo ý của Giang Thanh và Trương Xuân Kiều.
“Ý tưởng” của bài phê bình này đi ngược lại dòng thời gian về hội nghị của Bẩy ngàn cán bộ hồi tháng 1-1962. Khi đó Mao đã phải “tự phê bình”. Việc cách chức Bành Đức Hoài khi đó là một đề tài thường được nhắc tới, vì nhiều người cho là không công bằng. Người ta bắt đầu so sánh giữa việc vua Gia Kính cách chức và tống giam Hải Thuỵ với việc Mao cách chức Bành Đức Hoài. Cả Bành Đức Hoài và Hải Thuỵ đều là những quan chức trung trực, họ đã phục vụ đất nước và người đứng đầu quốc gia một cách trung thành. Họ đã chỉ cho người đứng đầu quốc gia những sai lầm không phải với dụng ý trách móc, mà để quốc gia có một chính quyền tốt hơn, qua đó tiếng thơm của người đứng đầu quốc gia được nhân lên gấp bội. Bành Đức Hoài được xem là một Hải Thuỵ thời nay.
Cả Mao và ông vua nọ có cùng một điểm giống nhau, không chịu để người khác phê phán.
Tính đa nghi của Giang Thanh, vai trò chính trị mới và mối quan tâm đối với văn hoá và nghệ thuật đã khiến bà luôn luôn để ý đến những nhà soạn kịch cho là không trung thành với chồng bà. Có lẽ, bà nghi Ngô Hàm bất trung, khi bà xem vở kịch Hải Thuỵ Từ Quan của ông.
Tuy nhiên, Thị trưởng thành phố Bắc Kinh Bành Chân, Trưởng ban tuyên truyền Lục Đỉnh Nhất và Phó trưởng ban tuyên truyền Chu Dương đã từ chối đề nghị của Giang Thanh phát động một chiến dịch chỉ trích vở kịch. Ngô Hàm vừa là bạn, là đồng chí, là một trí thức đáng kính và một người được coi là trung thành với Mao. Nhưng Giang Thanh đưa ra câu hỏi, tại sao ông không thay đổi tiêu đề cuốn tiểu sử “Từ ăn mày thành vị Hoàng đế” thành “Tiểu sử Hoàng đế Chu Nguyên Chương”? Tại sao ông không trả lời Mao vở kịch “Hải Thuỵ Từ Quan” rút ra được bài học gì? Giới lãnh đạo Bắc Kinh thấy chẳng có cớ gì phải nghe theo chỉ thị Giang Thanh. Đã đành bà là vợ của Mao, nhưng bà chẳng có một chức vụ chính thức nào từ những ngày ở Hồ Nam. Giới lãnh đạo chính trị cao cấp đánh giá bà rất thấp. Tầng lớp diễn viên, đào kép theo truyền thống Trung Hoa người ta coi thường, xếp vào hạng “xướng ca vô loài”, Giang Thanh cũng từ cô đào có nhiều tham vọng chính trị, vận may vớ được và kết hôn với người lãnh lãnh đạo quốc gia, càng làm người ta ghét, không ưa.
Mao cần Giang Thanh trong bước ngoặt trên con đường danh vọng của ông. Thậm chí tham vọng chính trị của bà lại có lợi cho ông. Giang Thanh đã từng nói, bà là chiến sĩ trung thành tuyệt đối của Mao, nhưng nếu không có Mao, bà chả là cái đinh gì. Khi bí thư thành uỷ Thượng Hải, Kha Thanh Thế đột ngột qua đời tháng 4 năm 1965. Cái ghế của ông được Trưởng ban tuyên truyền của Thượng Hải, Trương Xuân Kiều đảm nhiệm. Cũng như Kha Thanh Thế, Trương Xuân Kiều, người nhất nhất tuân theo mọi chỉ thị của Mao. Trương Xuân Kiều đã bố trí cho thân hữu của ông ta, Diêu Văn Nguyên, Chủ nhiệm tờ Giải Phóng Quân Nhật Báo, trực tiếp cộng tác với Giang Thanh. Khi bài phê bình được đăng tải trên tờ Văn Hối Báo, Mao mới được biết nội dung. Bài đả kích nhằm tạo ra một chiến dịch chống Ngô Hàm và những đồng đảng còn lại của Bành Đức Hoài. Các tờ báo và tạp chí khác phải hưởng ứng phê bình.
Nhưng giới truyền thông ở Bắc Kinh lờ bài đả kích của Diêu Văn Nguyên. Mao cáu kỉnh, nói:
– Mãi 19 ngày sau, kể từ ngày bài này được đăng trên tờ Văn Hối Báo, cho tới khi tôi can thiệp, các báo chí ở Bắc Kinh mới tham gia. Đồng chí thấy họ cứng đầu ghê gớm không?
Tôi bối rối, vì tôi vẫn không làm sao hiểu nổi tại sao Hải Thuỵ và Ngô Hàm lại bị phê phán. Dĩ nhiên tôi không thể hiểu được rằng, bài báo của Diêu Văn Nguyên là tiếng súng mở đầu cho một cuộc Đại cách mạng văn hoá vô sản của Mao. Tôi cũng không hiểu, theo lời Mao, ai là kẻ cứng đầu ghê gớm. Mãi đến khi cuộc Cách mang Văn hoá bắt đầu, tôi mới biết rằng ông nói về Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và những đồng chí thân thiết nhất của ông trong ban lãnh đạo đảng và nhà nước.
Tôi vẫn giữ im lặng, cố tìm hiểu nội tình của Mao, hứa với Mao sẽ đọc bài báo của Diêu Văn Nguyên thêm một lần nữa. Mao đưa bài báo cho tôi, nói:
– Phải đấy, đồng chí hãy đọc qua một lượt nữa đi. Sau đó đồng chí hãy cho tôi biết ý kiến.
Tôi tìm cách lái câu chuyện sang đề tài sức khỏe của ông:
– Còn một vấn đề liều lượng dùng thuốc ngủ của Chủ tịch. Chủ tịch đang dùng một liều lượng gấp 10 lần liều lượng thông thường.
Mao hỏi lại:
– Nhiều đến thế sao?
– Đúng vậy. Tôi đã đọc y bạ của Chủ tịch. Với liều lượng thuốc ngủ như vậy có thể làm tổn hại đến sức khỏe của Chủ tịch.
– Theo đồng chí, phải làm sao bây giờ?
– Tôi nghĩ rằng phải giảm liều lượng này càng sớm càng tốt.
Tôi đề nghị dùng hỗn hợp của đường glucose với thuốc an thần nhồi vào những vỏ thuốc con nhộng để làm một loại thuốc tương dương với lượng thuốc ngủ thích hợp. Mao chấp thuận.
Nhưng ông còn cảm thấy một cái gì khác lạ, ông muốn trao đổi thêm:
– Có cái gì đó không bình thường ở nhà khách này. Hình như bị người ta xả khí độc. Tôi không thể ở lại đây lâu hơn được nữa. Đồng chí hãy nói với Trương Diêu Tự, anh ta phải chuẩn bị đi. Chúng ta sẽ lên đường đi Vũ Hán.
Nỗi sợ hãi bị đầu độc của Mao xét bề ngoài cũng không phải hoàn toàn vô lý. Có một lần ngủ trong một biệt thự của Mao, tôi cũng không thể nào ngủ nổi. Không hẳn chỉ vì nó quá rộng rãi và xa hoa, mà vì có một thứ mùi gì đó rất lạ. Một người bạn tôi cũng phát hiện ra một thứ mùi rất đặc biệt, khi ông đến ở một nhà nghỉ của Mao. Đa số các nhà nghỉ của Mao đều nằm ở những địa điểm nóng, ẩm ở miền Nam Trung Quốc và Mao thường nhiều năm mới tới ở một lần. Trong thời gian đó, chúng như những căn nhà hoang không ai ở. Tôi chỉ có thể phỏng đoán, qua nhiều năm như vậy những ngôi nhà bị ẩm mốc. Nhiều người đã chứng minh rằng những người nông dân hầu như quanh năm suốt tháng lao động ngoài trời và cư trú trong những ngôi nhà đơn sơ thường không thể ở nổi trong những ngôi nhà kiểu mới ngày nay, họ sợ bầu không khí ngột ngạt, ẩm mốc.
Chứng hoang tưởng cục bộ của Mao, lần đầu tiên phát hiện ở Mao hồi năm 1958 ở Thành Đô, khi ông tưởng nước ở trong bể bơi bị đầu độc, bây giờ lại gia tăng. Nhưng thứ độc thực sự chính là những mưu toan chính trị trong nội bộ giới lãnh đạo đảng cộng sản. Tôi phải làm việc thận trọng.
Trước hết, tôi truyền lệnh của Mao cho Trương Diêu Tự chuẩn bị sẵn sàng đi Vũ Hán khi có lệnh lên đường. Sau đó qua đường đây đảm bảo không bị nghe trộm, tôi gọi điện cho Thạch Thụ Hán, Thứ trưởng Bộ y tế để báo cáo với ông về căn bệnh vừa rồi của Mao, nên giải quyết vấn đề dùng thuốc ngủ của Mao như thế nào. Những viên thuốc nói trên phải được điều chế ngay trong Bệnh viện Bắc Kinh.
Thạch Thụ Hán lo lắng. Ông sợ rằng cơn sốt của Mao có thể là một bệnh gì đó nghiêm trọng hơn bệnh phế-quản-phế viêm. Ông ta muốn bàn bạc với Chu Ân Lai, cử một đội chuyên viên tới khám bệnh cho Chủ tịch. Nhưng tôi chắc rằng, cơ thể của Mao đã bình phục trở lại.
Điều mà tôi không yên tâm, vấn đề nghiện thuốc ngủ và nỗi sợ bị đầu độc ở ông. Đâu đâu ông cũng nhìn thấy bọn cùng một giuộc. Nếu các chuyên viên y tế tới khám bệnh, biết đâu ông sẽ nghĩ, tôi đã nói dối ông về bệnh tình hoặc muốn trốn tránh trách nhiệm hay muốn cài gián điệp vào chỗ ông. Tôi đã thuyết phục Thạch Thụ Hán, tốt hơn hết không nên làm gì cả.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Tags: Mao Trạch Đông
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Sau ba tháng ở Tiên Sơn, đầu tháng 11-1965 Uông Đông Hưng bị triệu về Bắc Kinh để dự một cuộc họp khẩn cấp. Hẳn cuộc họp này liên quan đến một vấn đề quan trọng nào đó, nhưng chúng tôi ở trong làng, tách rời với thế giới bên ngoài, chẳng biết chuyện gì đã xảy ra. Uông Đông Hưng cho rằng, chỉ vài ngày sau ông sẽ trở lại.
Hàng tuần trôi qua. Mùa đông kéo tới cùng với cái lạnh và những cơn mưa ảm đạm. Công việc ngoài đồng cũng ngưng lại. Tôi bất đầu tỏ ra chán nản, lo lắng và cảm thấy mình ở không đúng chỗ. Uông Đông Hưng mãi vẫn chưa về.
Rốt cuộc, cuối tháng 12 ông ta cũng xuất hiện. Ông chọc tôi:
– Chắc đồng chí không nghĩ tôi lại đi lâu như vậy phải không? – Nhưng bỗng nhiên ông tỏ vẻ nghiêm trọng – Có chuyện lôi thôi đã xảy ra.
Uông Đông Hưng không về Bắc Kinh. Ông đến gặp Mao ở Hàng Châu.
Nhiều cán bộ cao cấp – Bí thư thành uỷ Bắc Kinh, Bành Chân, Tổng tham mưu trưởng La Thuỵ Khanh, Chánh Văn phòng đảng Dương Thượng Côn và Chủ nhiệm Uỷ ban tuyên truyền Lục Đỉnh Nhất – đang vướng vào những rắc rối về chính trị. Đảng triệu tập nhiều phiên họp kín để giải quyết từng trường họp. Nhưng đến nay, người ta vẫn chưa đưa ra những biện pháp cụ thể. Trong những trường hợp đó, đã có một trường hợp được quyết định.
Dương Thượng Côn, kẻ đầu tiên làm Mao tức trong vụ Lá Cờ Đen và người chịu trách nhiệm trong việc gắn hệ thống nghe trộm trên đoàn tàu của Mao, bị cách chức. Uông Đông Hưng được bổ nhiệm làm người kế nhiệm. Uông vẫn đảm nhiệm chức Chủ nhiệm Văn phòng của các lực lượng an ninh, nhưng rời ghế thứ trưởng Bộ công an. Với tư cách Chủ nhiệm Tổng văn phòng, ông có ảnh hưởng lớn hơn nhiều. Uông kể:
– Tôi nói rằng không xứng đáng với chức vụ này, đề cử Trần Bá Đạt, nhưng Chủ tịch từ chối. Khi đề nghị Hồ Kiều Mục làm Chủ nhiệm Tổng văn phòng, tôi sẽ làm phó cho ông ta, Mao nói, Hồ Kiều Mục thuộc loại người nhỏ nhen, không thích hợp với công việc hành chính. Chủ tịch cứ nhất quyết đề nghị tôi phải đảm nhận chức vụ này.
Tôi nói:
– Xin chúc mừng đồng chí được thăng chức.
Dĩ nhiên, tôi lập tức tự hỏi, cuộc thay đổi chính trị này sẽ ảnh hưởng đến tôi ra sao. La Thuỵ Khanh và Dương Thượng Côn đã ủng hộ khi người ta đề nghị tôi làm bác sĩ riêng của Mao. Nếu cuộc thanh trừng lan xuống cấp dưới, tôi chắc cũng sẽ bị vạ lây. Thế nhưng, người thực sự bênh vực tôi, Uông Đông Hưng, lại được thăng chức. Có lẽ nhờ vậy tôi thoát hiểm, nhưng vẫn có cảm giác không được tốt lành cho lắm. Đây là lần đầu tiên cải tổ thành phần cấp lãnh đạo cao nhất từ khi cộng sản nắm chính quyền, chắc chắn gây tiếng vang lớn tới tất cả các tầng lớp trong xã hội.
Uông Đông Hưng đã nhìn thấu tình hình, ông quay lại Giang Tây không chỉ để hoàn tất chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa của chúng tôi mà còn để né tránh những cuộc phản công, phân tranh quyền lực chính trị, ông muốn đứng ngoài, quan sát trận đấu cho đến khi tất cả các vấn đề trở nên rõ ràng. Chúng tôi cũng nên ở lại Giang Tây, vì các cuộc thanh trừng cũng chẳng chừa cấp dưới. Ở nông thôn, an toàn hơn.
Tôi ngày càng cảm thấy khó chịu. Mặc dù luôn luôn không muốn dính đến chính trị. nhưng thấy cần phải biết những biến động chính trị đang diễn ra. Tuy vẫn đang ở nơi yên ổn, nhưng phải biết rõ hơn những gì đang diễn ra ở trung tâm quyền lực, Mao đang nghĩ gì, có những kế hoạch gì, nhưng sống trong làng quê, khó mà biết những gì đang diễn ra ở Bắc Kinh.
***
Việc bốn cán bộ lãnh đạo của đảng bị công kích chẳng làm tôi ngạc nhiên. Sau vụ đặt “bọ” nghe trộm, Mao không còn tin Dương Thượng Côn. Mặc dù, thực ra lỗi của giới lãnh đạo cao cấp nhất của đảng – những người như Đặng Tiểu Bình và Lưu Thiếu Kỳ, nhưng bao giờ cũng vậy, trước tiên Mao tấn công các cán bộ trung cấp.Đã từ lâu, Mao nghi ngờ Bành Chân, bí thư thành uỷ Bắc Kinh. Mấy năm trước, Mao kể cho tôi nghe, Khang Sinh nghi ngờ Bành Chân có xu hướng “chống Mao”. Theo nhận biết của tôi, Bành Chân lúc nào cũng tỏ ra trung thành, thường xuyên hỏi tôi về tình hình sức khỏe Chủ tịch. Khang Sinh quả quyết Bành Chân đã phê phán chính sách Ba ngọn cờ hồng của Mao trong Đại nhẩy vọt và yêu cầu xét lại tính cách mạng của chính sách này.
Việc Lục Đỉnh Nhất gặp rắc rối về chính trị cũng không làm tôi sửng sốt. Với tư cách Chủ nhiệm Ban tuyên truyền. Lục Đỉnh Nhất chịu trách nhiệm lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật. Bởi vì Giang Thanh và Kha Thanh Thế tuyên truyền chống trường phái lãng mạn được Mao ủng hộ, vấn đề của Lục Đỉnh Nhất hầu như không thể tránh được.
Tôi biết rất rõ La Thuỵ Khanh, chúng tôi cộng tác chặt chẽ với nhau ngay từ khi đảm nhận nhiệm vụ làm bác sĩ cho Mao. La gặp rắc rối lần đầu tại Bắc Đới Hà khi ông ngăn Mao đi bơi lúc biển động. Đối với La Thuỵ Khanh, vấn đề an ninh của Mao bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và đúng ra, chưa bao giờ ông bất trung với Mao. Nhưng ông có nhiều quan điểm khác với Lâm Bưu, vì thế khác luôn cả với Mao.
Tôi được biết La gặp chuyện lôi thôi về chính trị vào tháng 6-1964 khi ông mở cuộc tập trận quy mô lớn gần khu lăng mộ nhà Minh, ngoại ô thành Bắc Kinh. Cuộc tập trận tham gia của các binh lính Bắc Kinh và Tế Nam do La Thuỵ Khanh, Dương Vĩnh và Dương Đắc Chí cùng chỉ đạo. Lâm Bưu được mời đến với tư cách quan sát viên, nhưng từ chối, ông bảo, không tin tưởng những cuộc diễn tập quân sự.
Mao đã chứng kiến vài buổi tập trận, cuộc tập trận lần này lại chứng minh hùng hồn cho thuyết của Lâm Bưu, “con người và lý tưởng còn quan trọng hơn cả vũ khí”. Một tiểu đội chiến sĩ tay không đánh chiếm được cả một toà nhà năm tầng làm Mao rất hài lòng. Cuộc tập trận đã khiến ông nhìn nhận rằng, chính nước Trung Hoa lạc hậu và kém phát triển có thể chiến thắng được kẻ thù mạnh nhất, được trang bị tối tân nhất, kể cả kẻ thù hùng mạnh to lớn ở phương Bắc. Mao nói với La Thuỵ Khanh sau khi xem xong:
– Liên Xô là người khổng lồ, nhưng không phải là không có điểm yếu. Chừng nào chúng ta biết cách chống người khổng lồ, chừng đó chúng ta không có gì phải sợ dù chúng to lớn và hùng cường đến đâu.
Nhưng Mao cũng biết, La Thuỵ Khanh yêu cầu hiện đại hoá quân đội Trung Quốc, bác bỏ thuyết của Lâm Bưu. Có lần Mao nói đùa:
– Đối với La Thuỵ Khanh, chỉ có quần áo mặc trên người có giá trị, ngoài ra chẳng còn có gì nữa.
Tôi được biết thêm về chuyện phiền toái của La Thuỵ Khanh qua tài liệu của hải quân do Uỷ ban quân sự chuyển cho Mao và bây giờ được Uông Đông Hưng mang từ Hàng Châu về. Vợ Lâm Bưu, Diệp Quần, đã phát động chiến dịch công kích La Thuỵ Khanh. Tháng 11-1965, trước khi Uông Đông Hưng được triệu về Bắc Kinh ít lâu, bà ta bay đến Hàng Châu tố với Mao rằng La Thuỵ Khanh cưỡng lại khẩu hiệu “Lấy chính trị làm thống soái” của chồng bà.
Mao đứng về phía Diệp Quần. Ông đã ghi trong tài liệu mà Uông Đông Hưng đưa cho tôi xem:
– Kẻ nào không công nhận lấy chính trị làm thống soái, chỉ biết dẻo mồm kiểu ấy, kẻ đó đã tuyên truyền cho chủ nghĩa cơ hội. Chúng ta phải cảnh giác trước thái độ này.
Chính uỷ không quân Vũ Từ Tuấn đã liên kết với Diệp Quần chống lại La Thuỵ Khanh, quả quyết rằng, ngay từ đầu La Thuỵ Khanh đã phản đối việc bổ nhiệm Lâm Bưu làm người thay thế Bành Đức Hoài, bây giờ lại đòi Lâm Bưu từ chức. Khi Lâm Bưu ốm, không thể thường xuyên gặp La Thuỵ Khanh như quy định. La Thuỵ Khanh nói rằng:
– Nếu đồng chí ấy hay ốm như vậy, làm sao đảm đương được việc gì? Nên có một người khác đảm nhận công việc của đồng chí ấy. Đừng đứng cản đường người khác.
La Thuỵ Khanh bực về tham gia trực tiếp vào chính trị của Diệp Quần, khuyên bà ta nên quan tâm nhiều hơn đến ông chồng mắc bệnh kinh niên. La cho rằng, nếu sức khỏe của Lâm Bưu tốt hơn, ông có thể chuyên tâm hơn vào những công việc quan trọng trong Bộ quốc phòng. Vũ Phát Tiên khẳng định, La Thuỵ Khanh tìm cách để Lâm Bưu từ chức, nên La Thuỵ Khanh đã thuyết phục Lưu Nha Lâu, tổng tư lệnh không quân, tác động đến Diệp Quần để bà khuyên chồng nghỉ hưu. La Thuỵ Khanh từng tranh luận: “Ai cũng đến lúc phải rút khỏi chính trường, cả Lâm Bưu cũng vậy”. Chính La Thuỵ Khanh muốn đoạt cái ghế trong Uỷ ban quân sự của Lâm Bưu. Nếu Diệp Quần thuyết phục được chồng từ chức, La hứa sẽ có trọng thưởng. Chuyện này thực hư ra sao tôi không rõ.
Diệp Quần và Vũ Phát Tiên không chấp nhận đề nghị của La Thuỵ Khanh, còn Mao lại đứng về phía hai người này. Giữa tháng 12-1965, La Thuỵ Khanh bị tước hết tất cả những chức vụ quan trọng trong quân đội.
Đối với tôi việc La Thuỵ Khanh bị hạ bệ báo hiệu một điều chẳng lành.
Qua Uông Đông Hưng, tôi nhận thấy Chu Ân Lai, người đứng ra bênh vực La Thuỵ Khanh trong vụ này và bất đồng với Lâm Bưu, cũng tỏ ra lo lắng. Thủ tướng Chu Ân Lai yêu cầu Uông Đông Hưng phải khẩn cấp trở về Bắc Kinh. Hàng ngày Chu giải quyết hầu hết công việc của chính phủ. Đầu năm 1964, Chu Ân Lai đã phàn nàn với Uông Đông Hưng về tình hình thiếu nhân sự có khả năng điều hành công việc hành chính ở cấp cao nhất trong chính phủ, Chu nói “Chúng ta rất thiếu những người có năng lực”. Bành Chân lo về công việc hành chính của đảng, La Thuỵ Khanh đảm nhiệm công việc hành chính của quân đội, còn Chu Ân Lai lo về chính phủ. Bây giờ, Bành Chân và La Thuỵ Khanh đều bị công kích, nên Chu ân Lại lo ngại việc ổn định tình hình ở Bắc Kinh sẽ còn khó khăn hơn nhiều. Ông giục Uông Đông Hưng phải nhận chức vụ mới càng sớm càng tốt. Nhưng Uông đã cố tình ở lại Giang Tây cùng với các nhân viên Nhóm Một đến tháng 4-1966.
Tôi cảm thấy vui vì được ở lại, bởi trong hoàn cảnh này, chẳng ai có thể biết trước cái gì sẽ chờ tôi khi trở về Bắc Kinh?
Chẳng bao lâu sau, tôi cũng biết. Sau khi Uông Đông Hưng quay lại được ít hôm – tôi vẫn chưa hoàn toàn nắm bắt được hết những biến động chính trị – tôi bị Mao gọi về.
Hôm ấy là ngày 1 tết dương lịch năm 1966, các nhân viên Nhóm Một muốn được ăn mừng ngày lễ kha khá một chút. Buổi sáng, tôi và y tá trưởng Ngô Tự Tuấn vật lộn với mưa lạnh và bùn lầy để tới làng Uông Đông Hưng đang ở. Chỉ những người thành thị chúng tôi mới tổ chức đón năm mới dương lịch, vì nông dân trong làng vẫn cứ theo tết âm lịch. Đối với họ, dương lịch không có ý nghĩa gì.
Uông Đông Hưng chỉ thị cho chúng tôi chuẩn bị thứ bánh cổ truyền mà người ta hay làm vào dịp Tết Tây. Một số người chúng tôi băm thịt và trộn nhân bánh, số khác nhào bột hoặc nặn bánh. Khi chúng tôi làm gần xong, bỗng nhiên một nhân viên an ninh của huyện Thang Nghiên xộc vào phòng. Anh ta thở hổn hển và mồ hôi mồ kê vã ra như tắm. Có người nào đó nói đùa:
– Làm gì mà nhắng lên thế. Đủ bánh mà.
Anh ta kéo tôi, Uông Đông Hưng và Ngô Tự Tuấn ra một bên, nói:
– Tôi cố gọi điện cho các đồng chí suốt hai tiếng đồng hồ liền mà không được.
Lúc ba giờ sáng anh ta nhận được một cú điện thoại của tỉnh uỷ tỉnh Giang Tây. Chủ tịch bị ốm, ông đang ở Nam Xương, thủ phủ của tỉnh. Y tá Ngô Tự Tuấn và tôi phải lập tức đến chỗ ông.
Đi bằng xe Jeep cũng phải mất 11 hoặc 12 tiếng mới tới nơi. Chúng tôi phải lập tức khởi hành.
Tôi muốn quay lại Thạch Tư để gói ghém một ít đồ, nhưng Uông Đông Hưng cấm, bảo, mọi thứ cần thiết có thể mua ở Nam Xương, chuyến đi phải được giữ bí mật. Uông Đông Hưng quyết định đi theo. Ông muốn biết bệnh tình của Mao nghiêm trọng đến mức nào và cũng muốn tranh thủ xem ở Bắc Kinh có chuyện gì mới không. Nếu không phải Chủ tịch ốm nặng, Uông sẽ lập tức trở về làng.
Thế là chúng tôi chẳng được ăn món bánh bao nhân thịt, Uông yêu cầu lên đường ngay lập tức. Xe chạy trên con đường đất lầy lội dưới trời mưa tầm tã. Bùn bắn cả lên kính, đến nỗi chẳng còn nhìn thấy gì nữa. Chúng tôi nghỉ một chút ở nhà khách Thang Nghiên, rồi lại tiếp tục đi với tốc độ như sên bò. Đến khi xe ra đến một con đường trải đá răm, mới chạy nhanh hơn. Nửa đêm, chúng tôi tới Nam Xương.
Đầu tiên chúng tôi gặp Phương Chí Xuân, chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Giang Tây và một vài cán bộ đảng khác của tỉnh. Phương nói:
– Chủ tịch đến đây từ hai tuần nay, hai hôm trước ông trở bệnh.
Chúng tôi được dẫn tới nhà khách Bân Giang, nơi Mao và đoàn tuỳ tùng ăn nghỉ. Thuộc hạ của Uông Đông Hưng, Trương Diêu Tự, vị tư lệnh quân đoàn trung ương đang ở đó cùng với Hứa Diệp Phụ, tay thư ký xảo quyệt đã đẩy được Lâm Khắc đi để chiếm chỗ. Một người phụ trách an ninh mới, Khắc Kỳ Hữu chịu trách nhiệm bảo vệ Mao và một người phục vụ mới. Chu Phúc Minh, chịu trách nhiệm lo những nhu cầu cá nhân. Một số tì nữ của Mao cũng có mặt trong nhà khách. Trong số họ có một cô y tá, hai cô thư ký riêng và cô phục vụ trên đoàn tàu đặc biệt của Mao là Trương Ngọc Phượng. Mao đem theo ba đầu bếp, một tá vệ sĩ. Nhưng chẳng có ai trong số những người thuộc ban cũ, nên bầu không khí khác hẳn, tôi cảm thấy khó chịu thế nào ấy.
Người duy nhất ở đây tôi quen là Chu Phúc Minh, người phục vụ mới của Mao, quê ở Hàng Châu, người đã vài lần cắt tóc cho Mao trước khi anh ta được vào Nhóm Một (Vương Gấu lớn nghỉ hưu với khoản tiền hưu hậu hĩnh).
Thông qua Chu Phúc Minh, tôi biết những gì đã xảy ra. Ngày 26-12-1965, Mao tổ chức sinh nhật lần thứ 72 của ông. Buổi chiều, ông uống chút rượu vang, sau đó cùng một số phụ nữ ra bờ Châu Giang đi dạo. Lúc ấy mặc dù gió to, nhưng cảm thấy nóng bức Mao phanh cúc áo ngực. Trương Ngọc Phượng và ông vừa đi vừa cãi lộn chuyện cũ của hai người. Gần đây, Mao phát hiện Trương Ngọc Phương yêu một tay trong đám vệ sĩ, ông bắt Trương quỳ xin lỗi, còn tay vệ sĩ bị tống cổ ra khỏi Trung Nam Hải đuổi về Nam Kinh, câu chuyện mâu thuẫn vẫn kéo dài trong quan hệ giữa hai người, không ngờ rồi bùng nổ sau buổi chiều sinh nhật của ông.
Ngay buổi tối xảy ra sự việc, Chủ tịch bị cảm, đến đêm ông ho và sốt cao. Ông không cho các bác sĩ ở Nam Xương khám bệnh, hy vọng bệnh tự khỏi. Khi tình trạng bệnh tình ngày càng xấu đi, ông vẫn từ chối mọi sự chăm sóc y tế, làm giới lãnh đạo đảng ở Giang Tây lo ngại. Cuối cùng, Mao cho gọi tôi và y tá Vũ.
Khi tôi bước vào phòng, ông nằm trên giường, mặt ông đỏ lựng, thở nặng nhọc và ho liên tục. Ông nói:
– Tôi bị như vậy từ vài hôm rồi. Tôi tưởng sẽ khỏi nhưng không được. Vì vậy phải gọi đồng chí tới.
Trước sau tôi cũng vẫn là bác sĩ duy nhất được Mao tin tưởng. Ông bị sốt tới 40 độ, cơn cảm lạnh đã làm ông bị viêm phế quản. Tôi bảo phải dùng kháng sinh chữa viên phế quản và hạ sốt, ông chịu uống ngay.
Đến 5 giờ sáng, tôi và y tá Vũ trở về nhà khách ở Nam Xương, nơi Uông Đông Hưng và một số cán bộ lãnh đạo của tỉnh Giang Tây đang chờ. Nếu ngày hôm sau tình hình sức khỏe của Mao tốt hơn, ba chúng tôi sẽ trở lại nông thôn.
Ngày hôm sau, tôi và Uông Đông Hưng cùng đến chỗ Mao. Thuốc kháng sinh đã có tác dụng, cơn sốt đã hạ, nhưng Mao vẫn còn ho. Ông yêu cầu chúng tôi tiếp tục điều trị thêm vài ngày nữa. Uông Đông Hưng phải quay về nông thôn, tôi và y tá Vũ ở lại.
Uông bối rối. Mao điều chúng tôi về nông thôn để chúng tôi làm quen với khổ cực, tham gia vào chiến dịch giáo dục xã hội chủ nghĩa, rồi báo cáo lại cho ông về công việc. Vậy mà bây giờ Mao chẳng hỏi một câu gì đến công việc. Uông tự hỏi không biết Mao đang nghĩ gì nữa.
Ngay tối hôm đó, Uông Đông Hưng trở về nông thôn mà những thắc mắc của ông chẳng tìm được một câu trả lời.
Việc tiếp xúc với Mao ngày càng trở nên khó khăn, vì những cô tì nữ thay phiên nhau vây quanh Chủ tịch. Lúc nào cũng có một cô trong số họ túc trực. Chu Phúc Minh rất ít khi bước vào phòng Mao. Anh ta chỉ lấy thức ăn hay trà cho ông từ dưới bếp lên, còn việc phục vụ ông được một trong những cô nhân tình đảm nhiệm. Vì tôi biết những cô gái này có quan hệ sâu kín với Mao, không muốn xen vào những chuyện riêng tư nên tôi rất ý tứ trong việc chăm sóc sức khỏe cho ông.
Tình trạng sức khỏe của ông trở nên đáng lo ngại. Tuy nhờ thuốc kháng sinh, sau vài ngày bệnh ho và viêm khí quản đã giảm, nhưng trong quá trình điều trị, tôi nhận thấy Mao uống thuốc ngủ nhiều một cách bất thường – gấp mười lần liều lượng thông thường, liều lượng đủ để giết chết một người. Mặc dù với thời gian dùng thuốc an thần hết năm này qua năm khác, cơ thể Mao đã có một khả năng đáng kể chống lại tác dụng của thuốc an thần, nhưng tôi không thể xác định được giới hạn giữa khả năng quen thuốc và liều lượng dẫn tới tử vong ở Mao. Chừng nào tôi vẫn còn ở nông thôn, chừng đó người ta không thể đổ lỗi cho tôi, nếu Mao dùng thuốc ngủ quá liều lượng. Nhưng ở Nam Xương, tôi trực tiếp theo dõi tình trạng sức khỏe của ông, sẽ là người hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với bất cứ chuyện gì xảy ra.
Việc dùng thuốc tăng liều của Mao có quan hệ với tình hình chính trị căng thẳng. Một số nhân viên ở đây cho tôi hay, từ khi vợ Lâm Bưu, Diệp Quần đến gặp Mao hồi tháng 11-1965, báo cáo lại thái độ bất tuân lệnh của La Thuỵ Khanh đối với chồng bà, liều thuốc ngủ Mao dùng cứ tăng dần. Ngày 8-12-1965, trong một cuộc họp mở rộng của Uỷ ban thường vụ của Bộ Chính trị ở Thượng Hải, Mao đã cách chức Tổng tham mưu trưởng của La Thuỵ Khanh, bổ nhiệm người phó của La, tướng Dương Thành Vũ lên thay. Kỳ họp kéo dài một tuần và Mao căng thẳng đến độ không ngủ được, ông uống thuốc liên tục hơn, thậm chí khi không muốn ngủ ông vẫn uống thuốc.
Tôi phải giải thoát cho ông khỏi cơn nghiện này.
Sau khi về đây được một tuần, tôi đến chỗ ông vào lúc nửa đêm. Mao đang nằm trên giường, đọc lịch sử đời hậu Hán (25 đến 20 sau công nguyên). Để chuẩn bị cho một trận đánh trên chính trường, ông thích đọc những tác phẩm lịch sử hơn những tác phẩm của Marx. Cuốn lịch sử nhà Hán viết rất hay, đầy đủ những mưu mô thủ đoạn cuộc chiến nội bộ.
Ông nói:
– Lần này hình như đồng chí đã lại có thần dược mới. Tôi lại khỏe lại rồi.
Tôi đáp:
– Đó là loại thuốc rất bình thường nhưng đã có tác dụng.
Ông đưa tôi xem một tập tài liệu, hỏi tôi có muốn đọc không. Thực ra tôi tới để nói về việc ông dùng thuốc ngủ chứ không phải thảo luận về chính trị. Tôi đọc được hàng tít: “Bình luận vở kịch lịch sử Hải Thuỵ Từ Quan”. Bài báo này là một trong số bài báo ít ỏi mà tôi đã đọc qua ở Thạch Từ xa xôi và cách trở với thế giới bên ngoài. Bài này của “nhà lý luận” Diêu Văn Nguyên ở Thượng Hải, đăng trên tờ Văn Hối Báo của Thượng Hải ngày 10 tháng 11 năm 1965. Bài này phê phán một vở kịch của phó thị trưởng Bắc Kinh, Ngô Hàm. Vở kịch ca ngợi Hải Thuỵ, một quan trong triều đời nhà Minh người mà Mao thường lấy làm tấm gương sáng ngời để cán bộ đảng nơi theo.
Bài bình luận làm tôi phải suy nghĩ. Chính Mao đã quảng bá cho các vở kịch truyền thống về nhân vật Hải Thuỵ. Ngô Hàm, tác giả của vở kịch, không chỉ là phó thị trưởng thành phố Bắc Kinh, ngoài ra ông còn là giáo sư Đại học Bắc Kinh, một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử đời nhà Minh. Sự quan tâm của Mao về thời kỳ lịch sử này đã làm nảy sinh mối quan hệ của ông với Ngô Hàm từ nhiều năm nay. Từ khi Mao khuyên tôi nên nghiên cứu sâu hơn nữa về lịch sử Trung Quốc, thỉnh thoảng tôi có dự những cuộc mạn đàm của Mao và Ngô Hàm.
Mao từng phê phán những tác phẩm đầu tay của Ngô Hàm, cuốn tiểu sử người sáng lập triều đại nhà Minh, Chu Nguyên Chương, tiêu đề “Từ ăn mày thành Hoàng đế”, cuốn sách đánh giá sai lầm về lịch sử, ông phê phán Ngô Hàm đã tham gia đội quân Khăn Xếp Đỏ, qua nhân vật Chu Nguyên Chương ông phê phán Tưởng Giới Thạch thời hiện tại. Hàng loạt vấn đề tà giáo Mao vạch ra và cho rằng mọi người có thể mắc phải, ngoại trừ ông, nhưng vị Chủ tịch đảng cộng sản đã bảo vệ vai trò lịch sử của Tưởng Giới Thạch trong cuộc viễn chinh Bắc phạt năm 1926-1927, Tưởng đã kiên quyết từ chối không chịu chia cắt Trung Quốc dưới sức ép chính trị to lớn của Hoa Kỳ. Ngô Hàm tiếp thu ý kiến phê phán của Mao mặc dù tác giả vở kinh kịch Hải Thuỵ được chính Mao kêu gọi học tập, lấy nhân vật Hải Thuỵ làm tấm gương cho mọi người học tập. Tôi chẳng hiểu vì sao bây giờ Ngô Hàm và vở kịch lại bị phê phán.
Giờ đây Mao lại muốn nói chuyện với tôi về vở kịch của Ngô Hàm. Ông tán thành những lời phê bình của Diêu Văn Nguyên dựa theo ý của Giang Thanh và Trương Xuân Kiều.
“Ý tưởng” của bài phê bình này đi ngược lại dòng thời gian về hội nghị của Bẩy ngàn cán bộ hồi tháng 1-1962. Khi đó Mao đã phải “tự phê bình”. Việc cách chức Bành Đức Hoài khi đó là một đề tài thường được nhắc tới, vì nhiều người cho là không công bằng. Người ta bắt đầu so sánh giữa việc vua Gia Kính cách chức và tống giam Hải Thuỵ với việc Mao cách chức Bành Đức Hoài. Cả Bành Đức Hoài và Hải Thuỵ đều là những quan chức trung trực, họ đã phục vụ đất nước và người đứng đầu quốc gia một cách trung thành. Họ đã chỉ cho người đứng đầu quốc gia những sai lầm không phải với dụng ý trách móc, mà để quốc gia có một chính quyền tốt hơn, qua đó tiếng thơm của người đứng đầu quốc gia được nhân lên gấp bội. Bành Đức Hoài được xem là một Hải Thuỵ thời nay.
Cả Mao và ông vua nọ có cùng một điểm giống nhau, không chịu để người khác phê phán.
Tính đa nghi của Giang Thanh, vai trò chính trị mới và mối quan tâm đối với văn hoá và nghệ thuật đã khiến bà luôn luôn để ý đến những nhà soạn kịch cho là không trung thành với chồng bà. Có lẽ, bà nghi Ngô Hàm bất trung, khi bà xem vở kịch Hải Thuỵ Từ Quan của ông.
Tuy nhiên, Thị trưởng thành phố Bắc Kinh Bành Chân, Trưởng ban tuyên truyền Lục Đỉnh Nhất và Phó trưởng ban tuyên truyền Chu Dương đã từ chối đề nghị của Giang Thanh phát động một chiến dịch chỉ trích vở kịch. Ngô Hàm vừa là bạn, là đồng chí, là một trí thức đáng kính và một người được coi là trung thành với Mao. Nhưng Giang Thanh đưa ra câu hỏi, tại sao ông không thay đổi tiêu đề cuốn tiểu sử “Từ ăn mày thành vị Hoàng đế” thành “Tiểu sử Hoàng đế Chu Nguyên Chương”? Tại sao ông không trả lời Mao vở kịch “Hải Thuỵ Từ Quan” rút ra được bài học gì? Giới lãnh đạo Bắc Kinh thấy chẳng có cớ gì phải nghe theo chỉ thị Giang Thanh. Đã đành bà là vợ của Mao, nhưng bà chẳng có một chức vụ chính thức nào từ những ngày ở Hồ Nam. Giới lãnh đạo chính trị cao cấp đánh giá bà rất thấp. Tầng lớp diễn viên, đào kép theo truyền thống Trung Hoa người ta coi thường, xếp vào hạng “xướng ca vô loài”, Giang Thanh cũng từ cô đào có nhiều tham vọng chính trị, vận may vớ được và kết hôn với người lãnh lãnh đạo quốc gia, càng làm người ta ghét, không ưa.
Mao cần Giang Thanh trong bước ngoặt trên con đường danh vọng của ông. Thậm chí tham vọng chính trị của bà lại có lợi cho ông. Giang Thanh đã từng nói, bà là chiến sĩ trung thành tuyệt đối của Mao, nhưng nếu không có Mao, bà chả là cái đinh gì. Khi bí thư thành uỷ Thượng Hải, Kha Thanh Thế đột ngột qua đời tháng 4 năm 1965. Cái ghế của ông được Trưởng ban tuyên truyền của Thượng Hải, Trương Xuân Kiều đảm nhiệm. Cũng như Kha Thanh Thế, Trương Xuân Kiều, người nhất nhất tuân theo mọi chỉ thị của Mao. Trương Xuân Kiều đã bố trí cho thân hữu của ông ta, Diêu Văn Nguyên, Chủ nhiệm tờ Giải Phóng Quân Nhật Báo, trực tiếp cộng tác với Giang Thanh. Khi bài phê bình được đăng tải trên tờ Văn Hối Báo, Mao mới được biết nội dung. Bài đả kích nhằm tạo ra một chiến dịch chống Ngô Hàm và những đồng đảng còn lại của Bành Đức Hoài. Các tờ báo và tạp chí khác phải hưởng ứng phê bình.
Nhưng giới truyền thông ở Bắc Kinh lờ bài đả kích của Diêu Văn Nguyên. Mao cáu kỉnh, nói:
– Mãi 19 ngày sau, kể từ ngày bài này được đăng trên tờ Văn Hối Báo, cho tới khi tôi can thiệp, các báo chí ở Bắc Kinh mới tham gia. Đồng chí thấy họ cứng đầu ghê gớm không?
Tôi bối rối, vì tôi vẫn không làm sao hiểu nổi tại sao Hải Thuỵ và Ngô Hàm lại bị phê phán. Dĩ nhiên tôi không thể hiểu được rằng, bài báo của Diêu Văn Nguyên là tiếng súng mở đầu cho một cuộc Đại cách mạng văn hoá vô sản của Mao. Tôi cũng không hiểu, theo lời Mao, ai là kẻ cứng đầu ghê gớm. Mãi đến khi cuộc Cách mang Văn hoá bắt đầu, tôi mới biết rằng ông nói về Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và những đồng chí thân thiết nhất của ông trong ban lãnh đạo đảng và nhà nước.
Tôi vẫn giữ im lặng, cố tìm hiểu nội tình của Mao, hứa với Mao sẽ đọc bài báo của Diêu Văn Nguyên thêm một lần nữa. Mao đưa bài báo cho tôi, nói:
– Phải đấy, đồng chí hãy đọc qua một lượt nữa đi. Sau đó đồng chí hãy cho tôi biết ý kiến.
Tôi tìm cách lái câu chuyện sang đề tài sức khỏe của ông:
– Còn một vấn đề liều lượng dùng thuốc ngủ của Chủ tịch. Chủ tịch đang dùng một liều lượng gấp 10 lần liều lượng thông thường.
Mao hỏi lại:
– Nhiều đến thế sao?
– Đúng vậy. Tôi đã đọc y bạ của Chủ tịch. Với liều lượng thuốc ngủ như vậy có thể làm tổn hại đến sức khỏe của Chủ tịch.
– Theo đồng chí, phải làm sao bây giờ?
– Tôi nghĩ rằng phải giảm liều lượng này càng sớm càng tốt.
Tôi đề nghị dùng hỗn hợp của đường glucose với thuốc an thần nhồi vào những vỏ thuốc con nhộng để làm một loại thuốc tương dương với lượng thuốc ngủ thích hợp. Mao chấp thuận.
Nhưng ông còn cảm thấy một cái gì khác lạ, ông muốn trao đổi thêm:
– Có cái gì đó không bình thường ở nhà khách này. Hình như bị người ta xả khí độc. Tôi không thể ở lại đây lâu hơn được nữa. Đồng chí hãy nói với Trương Diêu Tự, anh ta phải chuẩn bị đi. Chúng ta sẽ lên đường đi Vũ Hán.
Nỗi sợ hãi bị đầu độc của Mao xét bề ngoài cũng không phải hoàn toàn vô lý. Có một lần ngủ trong một biệt thự của Mao, tôi cũng không thể nào ngủ nổi. Không hẳn chỉ vì nó quá rộng rãi và xa hoa, mà vì có một thứ mùi gì đó rất lạ. Một người bạn tôi cũng phát hiện ra một thứ mùi rất đặc biệt, khi ông đến ở một nhà nghỉ của Mao. Đa số các nhà nghỉ của Mao đều nằm ở những địa điểm nóng, ẩm ở miền Nam Trung Quốc và Mao thường nhiều năm mới tới ở một lần. Trong thời gian đó, chúng như những căn nhà hoang không ai ở. Tôi chỉ có thể phỏng đoán, qua nhiều năm như vậy những ngôi nhà bị ẩm mốc. Nhiều người đã chứng minh rằng những người nông dân hầu như quanh năm suốt tháng lao động ngoài trời và cư trú trong những ngôi nhà đơn sơ thường không thể ở nổi trong những ngôi nhà kiểu mới ngày nay, họ sợ bầu không khí ngột ngạt, ẩm mốc.
Chứng hoang tưởng cục bộ của Mao, lần đầu tiên phát hiện ở Mao hồi năm 1958 ở Thành Đô, khi ông tưởng nước ở trong bể bơi bị đầu độc, bây giờ lại gia tăng. Nhưng thứ độc thực sự chính là những mưu toan chính trị trong nội bộ giới lãnh đạo đảng cộng sản. Tôi phải làm việc thận trọng.
Trước hết, tôi truyền lệnh của Mao cho Trương Diêu Tự chuẩn bị sẵn sàng đi Vũ Hán khi có lệnh lên đường. Sau đó qua đường đây đảm bảo không bị nghe trộm, tôi gọi điện cho Thạch Thụ Hán, Thứ trưởng Bộ y tế để báo cáo với ông về căn bệnh vừa rồi của Mao, nên giải quyết vấn đề dùng thuốc ngủ của Mao như thế nào. Những viên thuốc nói trên phải được điều chế ngay trong Bệnh viện Bắc Kinh.
Thạch Thụ Hán lo lắng. Ông sợ rằng cơn sốt của Mao có thể là một bệnh gì đó nghiêm trọng hơn bệnh phế-quản-phế viêm. Ông ta muốn bàn bạc với Chu Ân Lai, cử một đội chuyên viên tới khám bệnh cho Chủ tịch. Nhưng tôi chắc rằng, cơ thể của Mao đã bình phục trở lại.
Điều mà tôi không yên tâm, vấn đề nghiện thuốc ngủ và nỗi sợ bị đầu độc ở ông. Đâu đâu ông cũng nhìn thấy bọn cùng một giuộc. Nếu các chuyên viên y tế tới khám bệnh, biết đâu ông sẽ nghĩ, tôi đã nói dối ông về bệnh tình hoặc muốn trốn tránh trách nhiệm hay muốn cài gián điệp vào chỗ ông. Tôi đã thuyết phục Thạch Thụ Hán, tốt hơn hết không nên làm gì cả.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần IV. 1965-1976 – Chương 57
Posted: 17/10/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56], [57]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Đêm đó, đoàn tàu của Mao rời thành phố đi Vũ Hán, trưa ngày hôm sau, chúng tôi có mặt. Những viên thuốc ngủ mới cùng với tập tài liệu hàng ngày của đảng đã được gửi từ Bắc Kinh đến văn phòng thư ký riêng của Mao. Y tá Ngô Tự Tuấn và tôi cùng các nhân viên khác – những người phục vụ, những thư ký và các thiếu nữ của Mao – đều ở trong khách sạn.
Bầu không khí trong nội bộ các nhân viên thân cận của Mao đã thay đổi. Uông Đông Hưng luôn tìm cách nắm được những ý nghĩ và hành động của Mao càng nhiều càng tốt, ngược lại, Trương Diêu Tự lại không muốn can thiệp vào. Căn cứ vào những căng thẳng cao độ của tình hình chính trị hiện nay, ông cố gắng giữ khoảng cách với Mao để tự vệ. Ông không cho phép tôi thông báo tình hình sức khỏe hàng ngày của Mao với ông, vì chỉ chịu trách nhiệm đối với sự an toàn của Mao. Nếu được báo cáo đều đặn về tình hình sức khỏe của Mao, người ta có thể sẽ quy trách nhiệm nếu có chuyện chẳng lành xảy ra.
Khắc Kỳ Hữu, trưởng ban an ninh, thì ngược lại. Ông ra sức tìm hiểu tất cả mọi chuyện về Chủ tịch để được gần Mao hơn. Ông moi tin từ những nhân tình của Mao và gây khó khăn cho chúng tôi trong việc gặp Mao. Tôi và y tá Ngô Tự Tuấn thường phải báo cáo ông rồi mới được vào thăm bệnh cho Mao. Tôi rất ghét thái độ kiêu căng gây phiền hà của ông ta.
Tôi theo dõi cuộc thử nghiệm những viên thuốc ngủ đối với Mao và phương pháp này tỏ ra có hiệu quả. Sau năm ngày, liều lượng thuốc ngủ khủng khiếp Mao dùng đã giảm xuống mức bình thường như trước kia. Tôi chẳng cần phải ở đây lâu hơn nữa. Đã đến lúc tôi và y tá Ngô Tự Tuấn trở về Thạch Tư. Bầu không khí ở Nhóm Một quá căng thẳng, vả lại chúng tôi vẫn chưa hoàn tất công việc của chiến dịch “Bốn Minh bạch”.
Thế nhưng Trương Diêu Tự muốn chúng tôi ở lại. Ông vẫn lo ngại về tình trạng sức khỏe của Chủ tịch, sợ trách nhiệm sẽ phải gánh vác khi có chuyện rắc rối xảy ra. Ông cũng không chịu đựng nổi Khắc Kỳ Hữu. Chừng nào tôi và y tá Ngô Tự Tuấn vẫn còn có mặt ở đây, chừng đó ông vẫn biết về tình trạng sức khỏe của Chủ tịch mà không phải chịu một trách nhiệm nào. Mặt khác, chúng tôi như cái lá chắn để chống lại sự lên mặt của Khắc Kỳ Hữu.
Nhưng chúng tôi vẫn phải đi. Tôi đến gặp Mao, nói với ông, liều lượng thuốc ngủ cũng như tình trạng sức khỏe của ông đã ổn, tôi và y tá Ngô Tự Tuấn phải tiếp tục chiến dịch “Bốn minh bạch”. Tôi nói: “Nếu Chủ tịch yêu cầu, chúng tôi sẽ đến ngay lập tức”. Nhưng Mao cũng không muốn cho tôi đi. Ông nói: “Chiến dịch đó không quan trọng nữa. Bây giờ đang có những việc khác. Đồng chí nên ở lại đây. Có lẽ tôi sắp cần đến đồng chí rồi”.
Tôi phát hoảng. Chiến dịch “Bốn minh bạch” rất khổng lồ, một trong những chiến dịch vĩ đại nhất kể từ Cải cách ruộng đất. Người ta đã cử hàng trăm nghìn cán bộ từ các thành phố về nông thôn. Thế mà bây giờ phong trào giáo dục xã hội chủ nghĩa không còn quan trọng. Chính vì vậy Mao chẳng buồn nói chuyện với Uông Đông Hưng về chiến dịch này nữa. Nhưng tôi vẫn như người mò mẫm trong bóng tối của những kế hoạch mới rất quan trọng của Mao đang tiến hành.
Tôi do dự. Mao muốn tôi ở lại vì ông tin tưởng vào trình độ tay nghề của tôi. Ông sẽ bảo vệ, che chở nếu tôi chỉ giới hạn công việc của mình với tư cách một người thầy thuốc của ông. Thế nhưng bầu không khí bao quanh ông thật ngột ngạt với tôi. Và Khắc Kỳ Hữu, kẻ tham quyền lực, thích gây rắc rối cho người khác. Tôi suy nghĩ lung lắm, cân nhắc lợi hại. Cuối cùng tôi quyết định biện pháp an toàn hơn là quay lại nông thôn, mặc dù cuộc sống ở đó khổ cực. Tôi đòi về Thạch Tư, viện cớ:
– Ngô Tự Tuấn và tôi chẳng có gì ngoài bộ quần áo mặc trên người, như thế thật bất tiện. Vì vậy chúng tôi cần phải quay trở lại nông thôn.
Mao đáp:
– Không sao. Tôi chỉ cần nói Trương Diêu Tự gửi quần áo từ Bắc Kinh đến là xong.
Sau đó Mao cho chúng tôi hay, liệu chúng tôi có phải về nông thôn nữa hay không. Tại sao trong cuộc đời của mình, tôi thường không được tự lựa chọn. Thế là tôi phải ở lại. Có cái gì đó khá đặc biệt diễn ra ở Trung Nam Hải. Mao lui về phòng và được các cô nhân tình vây quanh săn sóc. Bên ngoài, Khắc Kỳ Hữu mới dựng lên một hàng rào xung quanh phòng Mao, không cho ai vào. Tôi ở phòng trực và chỉ vào thăm khi ông cho người gọi. Ở vòng ngoài, tôi chờ đợi điều gì sẽ xảy ra.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56], [57]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Đêm đó, đoàn tàu của Mao rời thành phố đi Vũ Hán, trưa ngày hôm sau, chúng tôi có mặt. Những viên thuốc ngủ mới cùng với tập tài liệu hàng ngày của đảng đã được gửi từ Bắc Kinh đến văn phòng thư ký riêng của Mao. Y tá Ngô Tự Tuấn và tôi cùng các nhân viên khác – những người phục vụ, những thư ký và các thiếu nữ của Mao – đều ở trong khách sạn.
Bầu không khí trong nội bộ các nhân viên thân cận của Mao đã thay đổi. Uông Đông Hưng luôn tìm cách nắm được những ý nghĩ và hành động của Mao càng nhiều càng tốt, ngược lại, Trương Diêu Tự lại không muốn can thiệp vào. Căn cứ vào những căng thẳng cao độ của tình hình chính trị hiện nay, ông cố gắng giữ khoảng cách với Mao để tự vệ. Ông không cho phép tôi thông báo tình hình sức khỏe hàng ngày của Mao với ông, vì chỉ chịu trách nhiệm đối với sự an toàn của Mao. Nếu được báo cáo đều đặn về tình hình sức khỏe của Mao, người ta có thể sẽ quy trách nhiệm nếu có chuyện chẳng lành xảy ra.
Khắc Kỳ Hữu, trưởng ban an ninh, thì ngược lại. Ông ra sức tìm hiểu tất cả mọi chuyện về Chủ tịch để được gần Mao hơn. Ông moi tin từ những nhân tình của Mao và gây khó khăn cho chúng tôi trong việc gặp Mao. Tôi và y tá Ngô Tự Tuấn thường phải báo cáo ông rồi mới được vào thăm bệnh cho Mao. Tôi rất ghét thái độ kiêu căng gây phiền hà của ông ta.
Tôi theo dõi cuộc thử nghiệm những viên thuốc ngủ đối với Mao và phương pháp này tỏ ra có hiệu quả. Sau năm ngày, liều lượng thuốc ngủ khủng khiếp Mao dùng đã giảm xuống mức bình thường như trước kia. Tôi chẳng cần phải ở đây lâu hơn nữa. Đã đến lúc tôi và y tá Ngô Tự Tuấn trở về Thạch Tư. Bầu không khí ở Nhóm Một quá căng thẳng, vả lại chúng tôi vẫn chưa hoàn tất công việc của chiến dịch “Bốn Minh bạch”.
Thế nhưng Trương Diêu Tự muốn chúng tôi ở lại. Ông vẫn lo ngại về tình trạng sức khỏe của Chủ tịch, sợ trách nhiệm sẽ phải gánh vác khi có chuyện rắc rối xảy ra. Ông cũng không chịu đựng nổi Khắc Kỳ Hữu. Chừng nào tôi và y tá Ngô Tự Tuấn vẫn còn có mặt ở đây, chừng đó ông vẫn biết về tình trạng sức khỏe của Chủ tịch mà không phải chịu một trách nhiệm nào. Mặt khác, chúng tôi như cái lá chắn để chống lại sự lên mặt của Khắc Kỳ Hữu.
Nhưng chúng tôi vẫn phải đi. Tôi đến gặp Mao, nói với ông, liều lượng thuốc ngủ cũng như tình trạng sức khỏe của ông đã ổn, tôi và y tá Ngô Tự Tuấn phải tiếp tục chiến dịch “Bốn minh bạch”. Tôi nói: “Nếu Chủ tịch yêu cầu, chúng tôi sẽ đến ngay lập tức”. Nhưng Mao cũng không muốn cho tôi đi. Ông nói: “Chiến dịch đó không quan trọng nữa. Bây giờ đang có những việc khác. Đồng chí nên ở lại đây. Có lẽ tôi sắp cần đến đồng chí rồi”.
Tôi phát hoảng. Chiến dịch “Bốn minh bạch” rất khổng lồ, một trong những chiến dịch vĩ đại nhất kể từ Cải cách ruộng đất. Người ta đã cử hàng trăm nghìn cán bộ từ các thành phố về nông thôn. Thế mà bây giờ phong trào giáo dục xã hội chủ nghĩa không còn quan trọng. Chính vì vậy Mao chẳng buồn nói chuyện với Uông Đông Hưng về chiến dịch này nữa. Nhưng tôi vẫn như người mò mẫm trong bóng tối của những kế hoạch mới rất quan trọng của Mao đang tiến hành.
Tôi do dự. Mao muốn tôi ở lại vì ông tin tưởng vào trình độ tay nghề của tôi. Ông sẽ bảo vệ, che chở nếu tôi chỉ giới hạn công việc của mình với tư cách một người thầy thuốc của ông. Thế nhưng bầu không khí bao quanh ông thật ngột ngạt với tôi. Và Khắc Kỳ Hữu, kẻ tham quyền lực, thích gây rắc rối cho người khác. Tôi suy nghĩ lung lắm, cân nhắc lợi hại. Cuối cùng tôi quyết định biện pháp an toàn hơn là quay lại nông thôn, mặc dù cuộc sống ở đó khổ cực. Tôi đòi về Thạch Tư, viện cớ:
– Ngô Tự Tuấn và tôi chẳng có gì ngoài bộ quần áo mặc trên người, như thế thật bất tiện. Vì vậy chúng tôi cần phải quay trở lại nông thôn.
Mao đáp:
– Không sao. Tôi chỉ cần nói Trương Diêu Tự gửi quần áo từ Bắc Kinh đến là xong.
Sau đó Mao cho chúng tôi hay, liệu chúng tôi có phải về nông thôn nữa hay không. Tại sao trong cuộc đời của mình, tôi thường không được tự lựa chọn. Thế là tôi phải ở lại. Có cái gì đó khá đặc biệt diễn ra ở Trung Nam Hải. Mao lui về phòng và được các cô nhân tình vây quanh săn sóc. Bên ngoài, Khắc Kỳ Hữu mới dựng lên một hàng rào xung quanh phòng Mao, không cho ai vào. Tôi ở phòng trực và chỉ vào thăm khi ông cho người gọi. Ở vòng ngoài, tôi chờ đợi điều gì sẽ xảy ra.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần IV. 1965-1976 – Chương 58
Posted: 19/10/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56], [57], [58]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tôi chờ hơn một tháng liền. Sau đó, ngày 8-2-1966, Mao cho phép tôi tới dự thính cuộc họp ở phòng khách đồ sộ của khách sạn Mỹ Viên, nơi chúng tôi ở lại Vũ Hán. Ông luôn luôn khuyến khích các nhân viên phải thường xuyên dự những buổi họp để nắm được tình hình. Tôi có mặt lẫn trong đám đông đến dự, nghe được hết mọi chuyện. Ba uỷ viên của một Uỷ ban mới được thành lập có tên “Tổ Ngũ nhân của Cách mạng văn hoá” vừa từ Bắc Kinh tới. Uỷ ban này thành lập từ năm 1964, được giao nhiệm vụ trực tiếp viết bài phê bình vở kịch Hải Thuỵ Từ Quan của Ngô Hàm. Thành viên của Uỷ ban gồm Trưởng ban Tuyên huấn Lục Đỉnh Nhất, Uỷ viên bộ chính trị Khang Sinh, Bí thư trung ương Đảng kiêm Thị trưởng thành phố Thượng Hải là Bành Chân, phó trưởng Ban tuyên truyền Chu Dương và Tổng biên tập Nhân Dân Nhật Báo Ngô Lĩnh Hi. Cùng đi với họ có Hồ Sinh, phó tổng biên tập nguyệt san Hồng Kỳ của đảng.
Mao chủ toạ cuộc họp, nói, ông đã thông báo cho Trần Bá Đạt và Khang Sinh vào ngày 21-2 năm ngoái rằng, ông đánh giá bài báo của Diêu Văn Nguyên, trong đó vở Hải Thuỵ Từ Quan đã bị phê phán, là đúng đắn. Tuy nhiên Diêu Văn Nguyên vẫn chưa nói toạc móng heo, Gia Kính, một ông vua triều Minh đã cách chức Hải Thuỵ và năm 1959 Mao đã cách chức Bành Đức Hoài. Như vậy có nghĩa là Bành Đức Hoài là một Hải Thuỵ hiện đại.
Mao quay sang Bành Chân, chủ nhiệm Uỷ ban Năm người, hỏi:
– Có phải Ngô Hàm thực sự là kẻ thù của đảng và của chủ nghĩa xã hội không?
Bành Chân chưa kịp trả lời, Khang Sinh đã lên án vở kịch của Ngô Hàm “chống đảng, chống chủ nghĩa xã hội, loài cỏ độc”.
Không ai dám phản đối ông ta.
Trong không khí im lặng kéo dài, Mao nói:
– Nếu ai có ý kiến gì khác cứ tự nhiên. Tất cả các đồng chí hãy phát biểu ý kiến đi.
Mao muốn biết quan điểm khác biệt rõ ràng, chính xác, để chúng tôi có thể so sánh, nhận định ai sai, ai đúng. Mọi người vẫn im lặng, Mao lại động viên:
– Tất cả chúng ta được tự do phát biểu. Ai có ý kiến gì khác cứ tự nhiên.
Cuối cùng, Bành Chân lên tiếng. Ông muốn bào chữa, tài liệu mà ông mang tới. Dưới tựa đề “Dự thảo báo cáo của Tiểu tổ Ngũ Nhân gửi Trung ương đảng”, tài liệu cho rằng, đề tài mà vở kịch của Ngô Hàm đề cập mang tính lịch sử, học thuật hơn là tính chính trị. Họ Bành nói:
– Tôi nghĩ, chúng ta phải theo lời của Chủ tịch, để cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng, nếu chúng ta thảo luận về những vấn đề sử học mà vở kịch đề cập đến. Chúng ta cần có một cuộc tranh luận sôi nổi.
Bản dự thảo đã được Ban thường trực Bộ chính trị phê chuẩn, chỉ còn cần sự đồng ý của Mao.
Lục Đỉnh Nhất ủng hộ Bành Chân, nhấn mạnh vào tính khoa học trong buổi thảo luận. Theo ý ông, phải tránh những danh từ như “kẻ thù của đảng” hay “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội”, nếu không, sự im lặng sẽ bao trùm tất cả.
Khang Sinh im lặng sau khi Bành Chân, Lục Đỉnh Nhất phát biểu quan điểm của họ. Chiến tuyến đã rõ ràng. Khang Sinh cho những tranh luận quanh vấn đề của Ngô Hàm là một cuộc đấu tranh giai cấp, yêu cầu phải có những biện pháp cụ thể đối với Ngô Hàm và những kẻ ủng hộ. Ngược lại Bành Chân và Lục Đỉnh Nhất tìm cách giải quyết mâu thuẫn bằng cách cho rằng vở kịch chỉ mang tính nghệ thuật thuần tuý, hoàn toàn phi chính trị.
Thời gian trôi qua chẳng ai phát biểu thêm. Mao đành hoãn cuộc họp.
Những người tham dự vẫn không biết quan điểm của Mao ra sao. Bành Chân muốn biết, liệu Chủ tịch có cho phép ông viết một lời bình luận nào đó về vở kịch cho đảng không.
Câu trả lời của Mao: “Các đồng chí hãy làm đi. Tôi không cần xem trước”.
Tôi biết ngay nguy rồi, gió sắp nổi. Mao đã gài bẫy người ta. Việc từ chối không đọc trước lời bình của Bành Chân thực ra có nghĩa, Mao không đồng ý. Nhưng Bành Chân không hiểu rõ Mao như tôi, ông và Lục Đỉnh Nhất đã đùa với lửa. Nếu họ phân phát bản thảo lời bình, họ có thể sẽ gặp nguy hiểm khôn lường.
Bốn ngày sau, ngày 12-2-1966, bản “Dự thảo báo cáo của Tiểu tổ Ngũ Nhân về cuộc tranh luận mang tính chất học thuật hiện nay” cùng với lời bình luận của “Cơ quan trung ương” được phổ biến trong đảng. Nhưng Mao không đọc, cả trong cơ quan trung ương cũng có những ý kiến trái ngược về việc này. Trong đó chỉ có tên của Bành Chân và Lục Đỉnh Nhất. Theo lời bình luận, các cuộc tranh luận về vở Hải Thuỵ Từ Quan chỉ nên dựa trên khía cạnh học thuật.
Mao coi tài liệu trên là sự phủ nhận quan điểm của ông. Ông đồng tình với Khang Sinh, vở kịch của Ngô Hàm là một loại cỏ độc, chính Ngô Hàm là “kẻ thù của đảng”, “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội”. Do đó, việc Lục Đỉnh Nhất và Bành Chân không chịu lên án Ngô Hàm sẽ khiến họ có nguy cơ bị chụp mũ, kẻ thù của đảng và chủ nghĩa xã hội.
Tối hôm bản Dự thảo được công bố, Mao nói với tôi:
– Tôi nói đúng. Bọn phản cách mạng chỉ bị gục ngã khi người ta ra đòn thật nặng.
Mao chuẩn bị một trận đánh quyết định. Bài bình luận của Bành Chân sau này được coi là “Bản Dự thảo tháng Hai” mang tính thù địch, xấu xa với đảng và chủ nghĩa xã hội. Sự sụp đổ của Bành Chân chỉ còn vấn đề thời gian.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56], [57], [58]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tôi chờ hơn một tháng liền. Sau đó, ngày 8-2-1966, Mao cho phép tôi tới dự thính cuộc họp ở phòng khách đồ sộ của khách sạn Mỹ Viên, nơi chúng tôi ở lại Vũ Hán. Ông luôn luôn khuyến khích các nhân viên phải thường xuyên dự những buổi họp để nắm được tình hình. Tôi có mặt lẫn trong đám đông đến dự, nghe được hết mọi chuyện. Ba uỷ viên của một Uỷ ban mới được thành lập có tên “Tổ Ngũ nhân của Cách mạng văn hoá” vừa từ Bắc Kinh tới. Uỷ ban này thành lập từ năm 1964, được giao nhiệm vụ trực tiếp viết bài phê bình vở kịch Hải Thuỵ Từ Quan của Ngô Hàm. Thành viên của Uỷ ban gồm Trưởng ban Tuyên huấn Lục Đỉnh Nhất, Uỷ viên bộ chính trị Khang Sinh, Bí thư trung ương Đảng kiêm Thị trưởng thành phố Thượng Hải là Bành Chân, phó trưởng Ban tuyên truyền Chu Dương và Tổng biên tập Nhân Dân Nhật Báo Ngô Lĩnh Hi. Cùng đi với họ có Hồ Sinh, phó tổng biên tập nguyệt san Hồng Kỳ của đảng.
Mao chủ toạ cuộc họp, nói, ông đã thông báo cho Trần Bá Đạt và Khang Sinh vào ngày 21-2 năm ngoái rằng, ông đánh giá bài báo của Diêu Văn Nguyên, trong đó vở Hải Thuỵ Từ Quan đã bị phê phán, là đúng đắn. Tuy nhiên Diêu Văn Nguyên vẫn chưa nói toạc móng heo, Gia Kính, một ông vua triều Minh đã cách chức Hải Thuỵ và năm 1959 Mao đã cách chức Bành Đức Hoài. Như vậy có nghĩa là Bành Đức Hoài là một Hải Thuỵ hiện đại.
Mao quay sang Bành Chân, chủ nhiệm Uỷ ban Năm người, hỏi:
– Có phải Ngô Hàm thực sự là kẻ thù của đảng và của chủ nghĩa xã hội không?
Bành Chân chưa kịp trả lời, Khang Sinh đã lên án vở kịch của Ngô Hàm “chống đảng, chống chủ nghĩa xã hội, loài cỏ độc”.
Không ai dám phản đối ông ta.
Trong không khí im lặng kéo dài, Mao nói:
– Nếu ai có ý kiến gì khác cứ tự nhiên. Tất cả các đồng chí hãy phát biểu ý kiến đi.
Mao muốn biết quan điểm khác biệt rõ ràng, chính xác, để chúng tôi có thể so sánh, nhận định ai sai, ai đúng. Mọi người vẫn im lặng, Mao lại động viên:
– Tất cả chúng ta được tự do phát biểu. Ai có ý kiến gì khác cứ tự nhiên.
Cuối cùng, Bành Chân lên tiếng. Ông muốn bào chữa, tài liệu mà ông mang tới. Dưới tựa đề “Dự thảo báo cáo của Tiểu tổ Ngũ Nhân gửi Trung ương đảng”, tài liệu cho rằng, đề tài mà vở kịch của Ngô Hàm đề cập mang tính lịch sử, học thuật hơn là tính chính trị. Họ Bành nói:
– Tôi nghĩ, chúng ta phải theo lời của Chủ tịch, để cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng, nếu chúng ta thảo luận về những vấn đề sử học mà vở kịch đề cập đến. Chúng ta cần có một cuộc tranh luận sôi nổi.
Bản dự thảo đã được Ban thường trực Bộ chính trị phê chuẩn, chỉ còn cần sự đồng ý của Mao.
Lục Đỉnh Nhất ủng hộ Bành Chân, nhấn mạnh vào tính khoa học trong buổi thảo luận. Theo ý ông, phải tránh những danh từ như “kẻ thù của đảng” hay “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội”, nếu không, sự im lặng sẽ bao trùm tất cả.
Khang Sinh im lặng sau khi Bành Chân, Lục Đỉnh Nhất phát biểu quan điểm của họ. Chiến tuyến đã rõ ràng. Khang Sinh cho những tranh luận quanh vấn đề của Ngô Hàm là một cuộc đấu tranh giai cấp, yêu cầu phải có những biện pháp cụ thể đối với Ngô Hàm và những kẻ ủng hộ. Ngược lại Bành Chân và Lục Đỉnh Nhất tìm cách giải quyết mâu thuẫn bằng cách cho rằng vở kịch chỉ mang tính nghệ thuật thuần tuý, hoàn toàn phi chính trị.
Thời gian trôi qua chẳng ai phát biểu thêm. Mao đành hoãn cuộc họp.
Những người tham dự vẫn không biết quan điểm của Mao ra sao. Bành Chân muốn biết, liệu Chủ tịch có cho phép ông viết một lời bình luận nào đó về vở kịch cho đảng không.
Câu trả lời của Mao: “Các đồng chí hãy làm đi. Tôi không cần xem trước”.
Tôi biết ngay nguy rồi, gió sắp nổi. Mao đã gài bẫy người ta. Việc từ chối không đọc trước lời bình của Bành Chân thực ra có nghĩa, Mao không đồng ý. Nhưng Bành Chân không hiểu rõ Mao như tôi, ông và Lục Đỉnh Nhất đã đùa với lửa. Nếu họ phân phát bản thảo lời bình, họ có thể sẽ gặp nguy hiểm khôn lường.
Bốn ngày sau, ngày 12-2-1966, bản “Dự thảo báo cáo của Tiểu tổ Ngũ Nhân về cuộc tranh luận mang tính chất học thuật hiện nay” cùng với lời bình luận của “Cơ quan trung ương” được phổ biến trong đảng. Nhưng Mao không đọc, cả trong cơ quan trung ương cũng có những ý kiến trái ngược về việc này. Trong đó chỉ có tên của Bành Chân và Lục Đỉnh Nhất. Theo lời bình luận, các cuộc tranh luận về vở Hải Thuỵ Từ Quan chỉ nên dựa trên khía cạnh học thuật.
Mao coi tài liệu trên là sự phủ nhận quan điểm của ông. Ông đồng tình với Khang Sinh, vở kịch của Ngô Hàm là một loại cỏ độc, chính Ngô Hàm là “kẻ thù của đảng”, “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội”. Do đó, việc Lục Đỉnh Nhất và Bành Chân không chịu lên án Ngô Hàm sẽ khiến họ có nguy cơ bị chụp mũ, kẻ thù của đảng và chủ nghĩa xã hội.
Tối hôm bản Dự thảo được công bố, Mao nói với tôi:
– Tôi nói đúng. Bọn phản cách mạng chỉ bị gục ngã khi người ta ra đòn thật nặng.
Mao chuẩn bị một trận đánh quyết định. Bài bình luận của Bành Chân sau này được coi là “Bản Dự thảo tháng Hai” mang tính thù địch, xấu xa với đảng và chủ nghĩa xã hội. Sự sụp đổ của Bành Chân chỉ còn vấn đề thời gian.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần IV. 1965-1976 – Chương 59
Posted: 22/10/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56], [57], [58], [59]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Sau cuộc họp với Bành Chân và Lục Đỉnh Nhất, Mao trở nên cáu kỉnh và cảnh giác. Ngay cả những viên thuốc ngủ cũng không thể giúp được gì. Mao làm việc 24 giờ một ngày, cho tới khi kiệt sức hoàn toàn. Điều này ảnh hưởng tới khẩu vị, cả ngày ông ăn có một bữa và ăn rất ít. Tôi tăng một chút liều lượng trong thuốc ngủ cho ông. Việc này làm tôi không yên tâm, nhưng càng lo hơn khi biết con người ta càng có tuổi càng ít ngủ. Sau một tuần lễ, khẩu vị và giấc ngủ của Mao trở lại bình thường, tôi bắt đầu bình tâm.
Ngay lúc sự mối lo nghề nghiệp của tôi đang giảm đi, tôi đụng phải vấn đề mới với Trương Ngọc Phượng.
– Chủ tịch nghĩ rằng ban đêm có ai đó ở trên trần nhà. Đêm đêm ông nghe thấy trên trần có một tiếng động di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác.
Tôi gần như bật cười. Vâng, chuyện vô lý. Làm thế nào người ta có thể chui vào trần nhà được? Chủ tịch được bao bọc bởi một bức tường an ninh chắc chắn. Nhưng Trương Ngọc Phượng không yên tâm, huống chi Mao.
Tôi biết, người chẳng có thể chui thể trong trần nhà? Chuột hoặc mèo hoang? Một anh bảo vệ nhớ lại điều này, khi thảo luận biện pháp an ninh cho Mao. Người lính này đã để ý nhìn thấy dấu chân, có thể thuộc mèo hoang.
Bảo vệ đặt bẫy, dùng cá làm mồi. Ngày thứ hai chiến công đã không phụ công sức của họ. Bắt được hai con mèo rừng – Con lớn to gần bằng con báo con, còn con kia bằng con mèo nhà to. Biệt thự ở Vũ Hán xây dựng trong một cánh rừng, dành cho Mao và thường bỏ hoang. Những con mèo rừng lang thang cũng tận dụng cơ hội này, chẳng ai biết.
Khi người ta trưng bày những con vật chết cho mọi người xem, tôi nghĩ, giờ đây chắc Mao yên tâm. Nhưng sự lo sợ không dễ mất đi. Mao vẫn còn bồn chồn lo lắng, ông cho vẫn còn ai đó trên trần nhà. Mao đòi đi ngay.
Sau vài giờ bẫy được mèo rừng, chúng tôi đã trên đường đến Hàng Châu.
Mao chưa trở lại bình thường ngay cả khi ở Hàng Châu. Tôi cảm nhận, dù không có tin tức cụ thể, nhưng tin bầu không khí chính trị không được cải thiện. Ngay sau khi đến, tôi hiểu, Mao gọi Diệp Quần từ Quý Châu, nơi bà và Lâm Bưu thường ở đó.
Ngày hôm sau, Diệp Quần bay đến, ngồi lại với Chủ tịch sau cánh cửa kín ba giờ liền, sau đó quay về. Không ai có mặt trong cuộc trao đổi mật, Mao và Diệp Quần không thông báo cho bất kỳ người nào của Nhóm Một biết họ bàn về cái gì. Chính trong ngày hôm ấy, trong bữa cơm chiều cùng ăn với Chủ tịch, ông bảo:
– Tôi không biết Đặng Tiểu Bình điều hành Ban bí thư Trung ương kiểu gì ráo trọi! – Mao nói trong bữa ăn – Chỗ ông ta có nhiều người tôi rất khả nghi, bây giờ tôi nghi cả ông ấy. Bành Chân khả nghi số một. Bành Chân kiểm soát đảng bộ thành phố Bắc Kinh chặt đến nỗi không ai có thể xuyên qua dù một lỗ nhỏ, thậm chí dùng kim hay giỏ giọt nước cũng không qua nổi. Lục Đỉnh Nhất kiểm soát Ban Tuyên giáo chặt chẽ như quản ngục, không cho một bài viết tả khuynh nào thoát lưới kiểm duyệt. Lại cả La Thuỵ Khanh, người ra sức quấy đảo ngăn cản khẩu hiệu “Lấy chính trị làm thống soái”, lại còn tuyên truyền chủ nghĩa cơ hội. Cả Dương Thượng Côn bận rộn thu thập và phổ biến những tin tức.
Từ khi phát hiện hệ thống nghe lén, Mao quy kết Dương Thượng Côn làm gián điệp, cả bí thư trung ương nữa, Đặng Tiểu Bình, Mao giận dữ kết luận.
Những ngày sau, Giang Thanh gặp Mao. Tôi để ý, bà bắt đầu thay đổi từ năm 1962 nhưng bây giờ thay đổi hoàn toàn. Bà bước những bước chắc nịch, lưng cố giữ thẳng, không nhận thấy một chút biểu hiện nào bệnh tật của bà trước đây. Giang Thanh phớt lờ sự có mặt của tôi, đôi khi kiêu kỳ nghiêng đầu khẽ gật khi đi ngang qua hoặc chạn trán nhau. Gần đây bà giảm người phục vụ, còn một y tá, một cần vụ và một vệ sĩ người Thượng Hải. Bà cũng hết phàn nàn về sức khoẻ, cô y tá của bà nói với tôi trong lúc chờ bà quay ra. Giang Thanh giờ đây chẳng quan tâm ánh đèn quá sáng, tiếng ồn và gió lùa. Cơn đau đầu cũng tan biến. Bà không đeo cả hoa tai, cũng chẳng cần bác sĩ phục vụ nữa.
Cuộc viếng thăm chồng thật ngắn ngủi, Giang Thanh lập tức đi ngay Thượng Hải. Vài ngày sau, bà đến lần thứ hai, tôi hiểu, họ có chuyện gì đang bàn luận.
Lâm Bưu và Giang Thanh liên minh với nhau. Hai người triệu tập ở Thượng Hải một cuộc họp từ 2 đến 20 tháng 2-1966, để thảo luận sự phát triển văn hoá nghệ thuật do quân đội ủng hộ. Giang Thanh tham khảo ý kiến Mao, báo cáo về cuộc họp. Mao đưa tôi đọc qua các tài liệu tóm tắt.
Bài phát biểu có lẽ do chính Chủ tịch viết. Đó là cuộc tấn công vào Lục Đỉnh Nhất, cảnh cáo rằng từ khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân “trong lĩnh vực văn hoá, hầu hết các giáo sư như một lực lượng đen tối, mưu toan thống lĩnh chính sách của chúng ta”. Cái làm tôi ngạc nhiên không phải vì nội dung văn kiện mà là mối quan hệ mới giữa Giang Thanh và Lâm Bưu: Con đường của vị nguyên soái đi đến quyền lực phải qua tay vợ Chủ tịch. Lâm Bưu chiếm được sự ủng hộ của Mao, bằng cách o bế, lấy cảm tình của vợ Mao trước tiên. Một cách thường dùng trong lịch sử Trung Quốc, đó là con đường lắt léo, tôi chưa khi nào tin vào những người theo con đường ấy. Lâm Bưu muốn đưa vợ Chủ tịch đến quyền lực. Ngay từ buổi đầu, tôi đã khó chịu, vì khi đạt được quyền lực Giang Thanh có thể trở nên cực kỳ nguy hiểm.
Tôi chưa gặp Lâm Bưu bao giờ, thậm chí chưa một lần giáp mặt. Mặc dù Lâm Bưu nắm giữ một số chức vụ cao, nhưng sống ẩn dật, ít có mặt nơi làm việc, thậm chí không đến Thiên An Môn dự lễ ngày 1-5 hay quốc khánh. Trong “Hội nghị Bẩy ngàn cán bộ” tôi ngồi sau hậu trường, nghe bài phát biểu của ông ta. Đó là lần duy nhất tôi nhìn thấy lưng ông. Nhưng ông, một trong mười nguyên soái nổi tiếng, xuất sắc, mạnh mẽ, cương quyết và tàn bạo. Trước kia, tôi ngưỡng mộ thiên tài quân sự của vị tướng quân. Giờ đây, liên minh của Lâm Bưu với Giang Thanh cho phép tôi có điều kiện gặp ông thường xuyên.
Tháng 3-1966, ngay sau khi thăm chồng, Giang Thanh bị cảm, gọi tôi đến Thượng Hải.
Mao động viên:
– Tôi sẽ đến Thượng Hải ngay – ông ta nhắc – Chẳng thích thú gì ở lâu một chỗ.
Chứng hoang tưởng cục bộ của ông lại xuất hiện. Sau vài ngày ở đâu đó, ông bắt đầu lo ngại, yêu cầu đi tiếp, ngay ở Hàng Châu ông cũng cảm thấy không an toàn.
Sự thay đổi trong vai trò tham gia chính trị đã giúp chứng suy nhược thần kinh của Giang Thanh giảm nhiều, chính bà cũng xác nhận, chỉ cảm cúm qua loa, chẳng có gì nghiêm trọng. Nhưng ngay ngày hôm sau tôi đến Thượng Hải, Lâm Bưu đã xuất hiện. Lâm bảo, nghe tin Giang Thanh mệt, ông đến thăm.
Đây là lần đầu tiên tôi gặp Lâm Bưu. Ấn tượng đầu tiên với tôi là bộ quân phục ông mặc. Bộ quân phục may vừa khít như dán sát thân hình ông. Lâm Bưu vào phòng đón tiếp cùng với viên thư ký tháp tùng, cởi chiếc áo khoác dạ. Ông gày gò, dáng người nhỏ thó, nước da xanh xám. Chiếc mũ vải mềm bộ đội Lâm Bưu không bao giờ rời, thậm chí trong phòng khách để che cái đầu lơ thơ dăm sợi tóc. Ông đi đôi ủng da dày. Lâm Bưu chỉ khẽ gật đầu về phía tôi, không nói một lời nào, đến chỗ Giang Thanh. Mắt ông ta đen đến mức, dường như con ngươi và mống mắt hoà vào nhau, toát lên vẻ thần bí.
Giang Thanh ra lệnh không ai được phiền nhiễu, cả hai đàm luận trong vài giờ trong phòng đóng cửa kín. Khi đó, tôi nói chuyện với thư ký của nguyên soái, Lý Văn Phúc, qua anh ta tôi cũng biết vài thứ về thói quen và quá khứ của Lâm Bưu. Lâm Bưu và Giang Thanh có nhiều cái giống nhau. Lâm Bưu cũng mắc chứng suy nhược thần kinh, sợ gió và ánh sáng đến nỗi rất ít ra khỏi nhà. Giống như Giang Thanh, việc cuốn hút vào chính trị làm ông năng động lên. Căng thẳng đã biến mất. Bệnh tật Lâm Bưu, như tôi đoán, chủ yếu là chính trị.
Nhưng ông vẫn thường ốm đau. Tôi phát hiện điều này vài tháng sau, tháng 8-1966, khi Cách mạng văn hoá đến cao trào điên loạn, Lâm Bưu đã leo lên đỉnh cao quyền lực, Uông Đông Hưng cố gắng xây dựng liên minh với Lâm, người mà Mao dự kiến thừa kế ông. Lâm Bưu ốm, Uông yêu cầu tôi đi cùng tới thăm nguyên soái trong tư dinh ở Mao Tần Vũ.
Khi dẫn chúng tôi vào buồng, Lâm Bưu ngồi trên giường, trong vòng tay vợ và đầu ép vào ngực bà. Ông khóc, Diệp Quần an ủi, động viên như dỗ dành một đứa trẻ. Chỉ một điều này tức khắc làm thay đổi cách nhìn của tôi về Lâm Bưu – từ vị tư lệnh quân đội tài năng, cứng rắn ông biến thành kẻ thiếu tự chủ, kém bản lãnh. Hai bác sĩ Hứa Định và Vương Thế Vinh xuất hiện ngay sau khi chúng tôi đến. Diệp Quần đưa Uông Đông Hưng và tôi sang phòng khách, để các bác sĩ mới tới khám bệnh chồng bà. Họ phát hiện ra nguyên soái có sỏi thận, đưa thuốc cho ông. Cơn đau giảm nhanh chóng, ông trở lại bình thường, nhưng cái nhìn của tôi về ông không thay đổi. Việc sỏi thận đi xuống niệu quản thường gây rất đau đớn, nhưng tôi cho rằng, vị nguyên soái cần dũng cảm nén cơn đau mới đúng.
Trong khi chúng tôi đợi, Diệp Quần kể về chồng. Lâm Bưu năm 1940 nghiện thuốc phiện, sau chuyển sang morphine. Cuối năm 1949, ông sang Liên Xô điều trị. Bệnh nghiện hết, nhưng tính tình thay đổi. Lâm Bưu sợ ánh sáng, sợ gió nên ít khi ra ngoài, vì thế thường không đi hội họp. Tiếng nước chảy cũng gây cho ông đau đớn. Ông nói chung ít uống nước, Diệp Quần thường thả thịt viên vào nước, cho chồng vừa ăn vừa uống, giúp cơ thể ông nhận được nước bằng cách ấy.
Lâm Bưu không bao giờ dùng nhà cầu. Khi phát sinh cần thiết, ông dùng bô do vợ để ở nhà kho, đôi khi són ra cả quần lót, vợ phải thay giúp.
Tôi thật sự choáng, rất kinh ngạc. Lâm Bưu rõ ràng mắc bệnh tâm thần, nhưng Mao đưa Lâm Bưu lên bậc thang cao nhất của quyền lực. Chẳng bao lâu nữa, người ta sẽ chào đón ông như “người bạn chiến đấu thân thiết, gần gũi nhất” của Chủ tịch. Liệu có xảy ra điều bất hạnh gì không, một khi Lâm Bưu trở thành người lãnh đạo tối cao dân tộc.
Mao đến Thượng Hải hôm 15-3-1966. Hai hôm sau ông triệu tập một phiên họp mở rộng thường vụ Bộ chính trị, tiến hành cuộc nói chuyện về những kết luận của Giang Thanh, trong lĩnh vực Đại học, học viện và giáo dục, do các phần tử trí thức tư sản chiếm ưu thế, trong nhiều năm đã huỷ hoại tất cả những cái gì còn lại của văn hoá. Để phân tích Mao dẫn ra vở kịch của Ngô Hàm, tác giả vở kịch gây tranh cãi lớn trong dư luận “Hải Thuỵ Từ Quan”, giáo sư sử học Giang Bật Dương, Đặng Tường và chủ tịch Mặt trận thống nhất của thành phố Bắc Kinh Liêu Mạt Sa. Những trí thức đầu ngành này là đảng viên cộng sản, Mao nói, nhưng họ lại là đảng viên Quốc dân đảng trong ý nghĩ và tư cách. Ông đề nghị bắt đầu cuộc Cách mạng văn hoá trong văn hoá, lịch sử, luật học, và kinh tế. Tôi quá ngây thơ để tin rằng cuộc “cách mạng” này chỉ bó gọn trong lĩnh vực văn hoá và tưởng rằng mình biết cách đứng ngoài trận cuồng phong.
Cuối tháng 3-1966, vài ngày sau cuộc họp Bộ chính trị mở rộng, tất cả chúng tôi còn ở Thượng Hải, Mao mấy lần gặp Giang Thanh, Khang Sinh và Trương Xuân Kiều. Mao nói với họ muốn huỷ bỏ “Dự thảo báo cáo tháng Hai” của Bành Chân. “Dự thảo” làm rối tung đường lối giai cấp của đảng. Mao muốn Thành uỷ Bắc Kinh, do Bành Chân lãnh đạo, Ban Tuyên giáo do Lục Đỉnh Nhất nắm, và “Tiểu tổ Ngũ Nhân của Cách mạng văn hoá” gồm Bành Chân, Lục Đỉnh Nhất, Khang Sinh, Chu Dương và Ngô Lĩnh Hy phải giải tán, Mao nhấn mạnh, có khá nhiều nhân vật đáng nghi ngờ trong ba tổ chức trên. Mao muốn thúc đẩy, mở rộng Cách mạng văn hoá.
Mao quyết định tấn công theo hai hướng. Hướng thứ nhất giành lấy Ban thường vụ Bộ chính trị, phê bình những trí thức đầu đàn. Hướng thứ hai – bồi dưỡng thế hệ kế nhiệm, những người nằm ngoài Ban thường vụ Bộ chính trị và quan chức đảng, tập hợp quanh thành những đồng minh gần gũi nhất của ông như Giang Thanh và Khang Sinh, nhóm này sẽ vạch mặt kẻ thù của Mao kể cả trong Ban thường vụ Bộ chính trị và Ban Bí thư trung ương đảng. Hành động này không ai có thể lường trước sẽ như thế nào. Từ trước đến nay, chưa bao giờ Mao ra đòn với các nhân vật cao cấp như thế này.
Đầu tháng 4-1966 chúng tôi trở về Hàng Châu. Ở đó Mao triệu tập cuộc họp mở rộng Thường vụ Bộ chính trị. Trong cuộc họp, Mao công khai mở rộng phê phán kể cả người đứng đầu thành đảng bộ Bắc Kinh, Bành Chân. Bằng cách từ chối đọc và bình luận bản “Dự thảo báo cáo tháng Hai” của Bành Chân, bản dự thảo yêu cầu hạn chế thảo luận phê phán những vấn đề học thuật, Mao đã giăng bẫy để Bành Chân đào hố tự chôn mình. Bây giờ Chủ tịch công khai buộc Bành Chân vào tội có quan điểm chống đảng và Mao đòi giải thể “Tiểu tổ Ngũ nhân Cách mạng văn hoá” và hình thành nhóm lãnh đạo mới. Cuộc họp tháng Tư trong bầu không khí cực kỳ căng thẳng.
Tôi cảm thấy mình trong vòng nguy hiểm. Nhóm Một thay đổi nhiều, khác xưa, tôi không hiểu và cũng không tin những người mới. Mao trở thành khó tiếp cận sau bức tường, được chặn đứng bởi người đứng đầu an ninh mới, Khắc Kỳ Hữu. Uông Đông Hưng vẫn chưa thấy quay lại, tôi không gặp Uông từ buổi chia tay ở Nam Kinh ngay sau tết. Không có Uông bảo vệ, tôi dường như lạc trong biển cả.
Tôi cần gặp Uông Đông Hưng đang họp ở Hàng Châu, hỏi xem có biết những chuyện gì đang xảy ra không và nhờ Uông có vấn. Tôi muốn khuyên Uông trở về Nhóm Một.
Một đêm huya, tôi đến tìm Uông ở khách sạn Chí Linh. Khi tôi đến, ông đang trao đổi với thủ tướng Chu Ân Lai. Thấy tôi, thủ tướng khó chịu, không vui, hỏi:
– Anh có biết bây giờ mấy giờ không? Sao anh đến muộn thế này.
– Tôi muốn báo cáo cho đồng chí Uông Đông Hưng về sức khoẻ của Chủ tịch, chúng tôi mấy tháng rồi chưa gặp nhau.
– Vì sao phải báo cáo vào đêm khuya thế này? – Chu ngạc nhiên.
– Tôi đề nghị anh ta đến, thưa thủ tướng – Uông Đông Hưng can thiệp để yên lòng Chu.
– Thôi được, nhưng nhanh lên – Chu đồng ý – Đồng chí Khang Sinh và Trần Bá Đạt cũng đang ở đây. Chúng tôi không thể bắt họ chờ – Chu quay sang tôi – Khi xong việc, đề nghị đồng chí nhanh chóng quay về nhà khách Vương Trung.
Tôi không ngờ Chu Ân Lai có thể dễ nổi cáu đến thế và tự giải thích tính khí của Chu phát sinh do những lo lắng trầm trọng về chính trị. Khi tôi hỏi Uông cái gì đã xảy ra, ông từ chối trả lời.
– Anh biết đủ rồi – Uông đáp – Cái này dính đến quyền lực trung ương. Tốt hơn cả, anh đừng hỏi thêm nữa. Hãy kể cho tôi nghe sức khoẻ của Chủ tịch.
Tôi đoán, chắc đang có cuộc tranh giành quyền lực quyết liệt khó hiểu, dễ gì biết được. Tôi kể cho Uông Đông Hưng về sức khoẻ Mao, yêu cầu Uông quay về phụ trách Nhóm Một. Tôi giải thích, Trương Diêu Tự, anh chàng nhát như cáy, giờ tự phong xếp, điều hành an ninh mà chẳng được tích sự gì. Tôi không yên tâm, chừng nào Uông Đông Hưng chưa trở lại giữ vị trí này.
Nhưng Uông cảm thấy bị bắn ra khỏi Nhóm Một từ lâu. Ông muốn quay lại, nhưng không thể, chừng nào Mao chưa yêu cầu. Tuy nhiên Uông hứa đến nhà khách Vương Trung gặp nhau, khi cuộc họp kết thúc.
Tôi rất lo lắng vì đã đến khách sạn Chi Linh. Chu Ân Lai khó chịu, có thể còn có chuyện gì hơn thế nữa mà tôi không rõ. Không loại trừ vì có cuộc gặp trước với Khang Sinh và Trần Bá Đạt, hai kẻ cực tả đang khuấy tung mọi chuyện lên. Để phòng xa, tôi quyết định kể cho Mao tất cả. Nếu người ta kể với Mao về cuộc gặp gỡ của tôi, có thể ông nghĩ tôi hoạt động lén sau lưng.
– Họ làm cái gì ở đó? – Mao ngạc nhiên. Nụ cười thoáng qua môi ông, khi tôi kể hết mọi chuyện việc đến gặp Uông Đông Hưng, Chu Ân Lai yêu cầu tôi báo cáo nhanh gọn, ông có vẻ lo lắng và tôi sợ mọi người nghi ngờ tôi có điều gì mờ ám.
– Chỉ là chuyện đến thăm, tôi chẳng thấy trong cuộc gặp của đồng chí có cái gì đáng để ý cả – Mao động viên tôi.
Sự lo xa cảnh giác của tôi đã cứu mạng sống của tôi sau này. Cuối năm 1966, khi “Tiểu Tổ Cách mạng văn hoá Trung ương” mới được thành lập, đã mở rộng mục tiêu nhằm cả Uông Đông Hưng, có âm mưu cố ý kéo tôi vào. Trong khi mỗi cuộc gặp gỡ đều được coi là âm mưu, kể cả gặp bạn, gặp người quen gặp đồng nghiệp của người bị buộc tội, đều bị họ đặt dưới sự nghi ngờ. Tay bảo vệ khách sạn, thấy tôi đến khách sạn Chí Linh, viết báo cáo cho Khang Sinh, khẳng định tôi cùng với Uông Đông Hưng và Chu Ân Lai tham gia vào một âm mưu gì đấy tại khách sạn, có thể tôi chuyển cho họ tin tức bí mật. Khang Sinh viết thư cho Chủ tịch.
Mao cho tôi xem thư, yêu cầu chuyển Uông Đông Hưng cất kín. Mao nói:
– Anh đã báo cáo với tôi về cuộc viếng thăm này.
Mao bảo vệ cả tôi và Uông Đông Hưng. Vụ việc bị chôn luôn.
Thường vụ Bộ chính trị mở rộng lại họp ngày 24 tháng 4 năm 1966. Mao đưa ra thảo luận một tài liệu mới, do Trần Bá Đạt thảo ra. Đó là “Chỉ thị của Ban chấp hành Đảng cộng sản Trung Quốc”, được Mao chấp bút. Mục đích chính của chỉ thị, thủ tiêu bản Dự thảo Báo cáo tháng Hai của Bành Chân đã nhấn mạnh cuộc tranh luận có tính chất “học thuật” và nghệ thuật thuần tuý thông qua nhân vật Hải Thuỵ để giải tán tổ chức Tiểu Tổ Ngũ Nhân Cách mạng văn hoá do Bành Chân lãnh đạo. Tiểu Tổ Cách mạng văn hoá mới thành lập, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban thường trực Bộ chính trị. Mục tiêu của Cách mạng văn hoá thay đổi. Phong trào không đưa ra vấn đề học thuật, Mao phát động chiến dịch, với khẩu hiệu “Tấn công trực diện không khoan nhượng” vào các phần tử tư sản trong đảng, chính quyền và quân đội.
Chỉ thị được trình Bộ chính trị xem xét trong cuộc họp mở rộng ban thường trực Bộ chính trị từ ngày 4 đến 26 tháng 5. Chỉ thị được thông qua ngày 16-5, trở thành ngọn đuốc dẫn đường của Cách mạng văn hoá, người ta gọi “Chỉ thị 16 tháng 5”.
Mao không dự hội nghị, chúng tôi vẫn ở Hàng Châu. Khi Mao cho tôi xem danh sách các thành viên mới của “Tiểu Tổ Cách mạng văn hoá Trung ương”, tim tôi rụng rời. Lãnh đạo nhóm là Trần Bá Đạt, kẻ cực hữu, Khang Sinh giữ chức cố vấn. Giang Thanh được bổ nhiệm phó ban thứ nhất của Trần Bá Đạt. Những người nịnh nọt Vương Trọng Nhiệm, thị trưởng Thượng Hải, Trương Xuân Kiều làm phó, các thành viên gồm Vương Lí, Quan Phong, Khắc Kỳ Hữu và Diêu Văn Nguyên, tất cả đều thuộc phái cực tả. Vương Trọng Nhiệm do Mao bổ xung thêm.
Sự trao việc Giang Thanh làm tôi đặc biệt lo ngại. Bà ta đã nhận được sự thoả mãn lớn là phát hiện “những phần tử tư sản” trong đảng và giờ đây, được mang quyền lực thực sự, có thể sử dụng chiến dịch chính trị để thanh toán kẻ thù của mình. Mối quan hệ của chúng tôi tiếp tục xấu đi bắt đầu từ 1960, giờ đây Giang Thanh có thể gây cho tôi và gia đình tôi nhiều rắc rối.
Mao biết, Giang Thanh có tính thù hận và trả thù vặt như thế nào. Ông khuyên tôi làm lành với bà ta cũng như đã làm điều này với Mao Viên Tân, cháu ông. Chàng trai này từ lúc còn trẻ rất ghét Giang Thanh, nghỉ hè thường chạy vào Trung Nam Hải, nhưng chẳng thèm chào hỏi bác gái. Nhưng khi bắt đầu có cuộc Cách mạng văn hoá, Viên Tân viết cho Mao một bức thư xin lỗi. Trong thư viết, Viên Tân nhận ra rằng Giang Thanh, người học trò trung thành nhất của Mao rồi kết luận, chàng ta biết ơn bà với lòng kính trọng sâu sắc.
Mao hài lòng, đưa thư cho Giang Thanh xem.
Viên Tân, hồi ấy là sinh viên Trường kỹ thuật quân đội Đông Bắc Trung Quốc, đã thể hiện một chính trị gia sảo quyệt. Giang Thanh chấp nhận lời xin lỗi của đứa cháu, kéo nó vào sự che chở và ít lâu sau phong chức thiếu uý. Khi Giang Thanh tiến hành chiến tranh với các đối thủ của mình. Mao Viên Tân trở thành cánh tay đắc lực, nhanh chóng được thăng tiến qua các cấp bậc quân đội. Qua một vài năm, người ta đề bạt anh ta làm chính uỷ quân khu Xương Sơn ở Mãn Châu Lý.
Mao bóng gió rằng tôi cũng nên cố gắng chiếm lấy sự bảo trợ của vợ ông. Nhưng sự bất đồng của tôi với Giang Thanh không thể giải quyết dễ dàng như thế. Mao Viên Tân là cháu của chồng, Giang Thanh kiểu gì đi nữa cũng phải tính đến điều này.
Tôi cũng không thể cho phép mình quỵ luỵ trước bà ta. Tôi biết bà ta cũng chờ đợi cơ hội thuận lợi để quật. Điều này dẫn tôi đến cái chết không tránh được. Tôi cần phải tìm được sự bảo vệ.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56], [57], [58], [59]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Sau cuộc họp với Bành Chân và Lục Đỉnh Nhất, Mao trở nên cáu kỉnh và cảnh giác. Ngay cả những viên thuốc ngủ cũng không thể giúp được gì. Mao làm việc 24 giờ một ngày, cho tới khi kiệt sức hoàn toàn. Điều này ảnh hưởng tới khẩu vị, cả ngày ông ăn có một bữa và ăn rất ít. Tôi tăng một chút liều lượng trong thuốc ngủ cho ông. Việc này làm tôi không yên tâm, nhưng càng lo hơn khi biết con người ta càng có tuổi càng ít ngủ. Sau một tuần lễ, khẩu vị và giấc ngủ của Mao trở lại bình thường, tôi bắt đầu bình tâm.
Ngay lúc sự mối lo nghề nghiệp của tôi đang giảm đi, tôi đụng phải vấn đề mới với Trương Ngọc Phượng.
– Chủ tịch nghĩ rằng ban đêm có ai đó ở trên trần nhà. Đêm đêm ông nghe thấy trên trần có một tiếng động di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác.
Tôi gần như bật cười. Vâng, chuyện vô lý. Làm thế nào người ta có thể chui vào trần nhà được? Chủ tịch được bao bọc bởi một bức tường an ninh chắc chắn. Nhưng Trương Ngọc Phượng không yên tâm, huống chi Mao.
Tôi biết, người chẳng có thể chui thể trong trần nhà? Chuột hoặc mèo hoang? Một anh bảo vệ nhớ lại điều này, khi thảo luận biện pháp an ninh cho Mao. Người lính này đã để ý nhìn thấy dấu chân, có thể thuộc mèo hoang.
Bảo vệ đặt bẫy, dùng cá làm mồi. Ngày thứ hai chiến công đã không phụ công sức của họ. Bắt được hai con mèo rừng – Con lớn to gần bằng con báo con, còn con kia bằng con mèo nhà to. Biệt thự ở Vũ Hán xây dựng trong một cánh rừng, dành cho Mao và thường bỏ hoang. Những con mèo rừng lang thang cũng tận dụng cơ hội này, chẳng ai biết.
Khi người ta trưng bày những con vật chết cho mọi người xem, tôi nghĩ, giờ đây chắc Mao yên tâm. Nhưng sự lo sợ không dễ mất đi. Mao vẫn còn bồn chồn lo lắng, ông cho vẫn còn ai đó trên trần nhà. Mao đòi đi ngay.
Sau vài giờ bẫy được mèo rừng, chúng tôi đã trên đường đến Hàng Châu.
Mao chưa trở lại bình thường ngay cả khi ở Hàng Châu. Tôi cảm nhận, dù không có tin tức cụ thể, nhưng tin bầu không khí chính trị không được cải thiện. Ngay sau khi đến, tôi hiểu, Mao gọi Diệp Quần từ Quý Châu, nơi bà và Lâm Bưu thường ở đó.
Ngày hôm sau, Diệp Quần bay đến, ngồi lại với Chủ tịch sau cánh cửa kín ba giờ liền, sau đó quay về. Không ai có mặt trong cuộc trao đổi mật, Mao và Diệp Quần không thông báo cho bất kỳ người nào của Nhóm Một biết họ bàn về cái gì. Chính trong ngày hôm ấy, trong bữa cơm chiều cùng ăn với Chủ tịch, ông bảo:
– Tôi không biết Đặng Tiểu Bình điều hành Ban bí thư Trung ương kiểu gì ráo trọi! – Mao nói trong bữa ăn – Chỗ ông ta có nhiều người tôi rất khả nghi, bây giờ tôi nghi cả ông ấy. Bành Chân khả nghi số một. Bành Chân kiểm soát đảng bộ thành phố Bắc Kinh chặt đến nỗi không ai có thể xuyên qua dù một lỗ nhỏ, thậm chí dùng kim hay giỏ giọt nước cũng không qua nổi. Lục Đỉnh Nhất kiểm soát Ban Tuyên giáo chặt chẽ như quản ngục, không cho một bài viết tả khuynh nào thoát lưới kiểm duyệt. Lại cả La Thuỵ Khanh, người ra sức quấy đảo ngăn cản khẩu hiệu “Lấy chính trị làm thống soái”, lại còn tuyên truyền chủ nghĩa cơ hội. Cả Dương Thượng Côn bận rộn thu thập và phổ biến những tin tức.
Từ khi phát hiện hệ thống nghe lén, Mao quy kết Dương Thượng Côn làm gián điệp, cả bí thư trung ương nữa, Đặng Tiểu Bình, Mao giận dữ kết luận.
Những ngày sau, Giang Thanh gặp Mao. Tôi để ý, bà bắt đầu thay đổi từ năm 1962 nhưng bây giờ thay đổi hoàn toàn. Bà bước những bước chắc nịch, lưng cố giữ thẳng, không nhận thấy một chút biểu hiện nào bệnh tật của bà trước đây. Giang Thanh phớt lờ sự có mặt của tôi, đôi khi kiêu kỳ nghiêng đầu khẽ gật khi đi ngang qua hoặc chạn trán nhau. Gần đây bà giảm người phục vụ, còn một y tá, một cần vụ và một vệ sĩ người Thượng Hải. Bà cũng hết phàn nàn về sức khoẻ, cô y tá của bà nói với tôi trong lúc chờ bà quay ra. Giang Thanh giờ đây chẳng quan tâm ánh đèn quá sáng, tiếng ồn và gió lùa. Cơn đau đầu cũng tan biến. Bà không đeo cả hoa tai, cũng chẳng cần bác sĩ phục vụ nữa.
Cuộc viếng thăm chồng thật ngắn ngủi, Giang Thanh lập tức đi ngay Thượng Hải. Vài ngày sau, bà đến lần thứ hai, tôi hiểu, họ có chuyện gì đang bàn luận.
Lâm Bưu và Giang Thanh liên minh với nhau. Hai người triệu tập ở Thượng Hải một cuộc họp từ 2 đến 20 tháng 2-1966, để thảo luận sự phát triển văn hoá nghệ thuật do quân đội ủng hộ. Giang Thanh tham khảo ý kiến Mao, báo cáo về cuộc họp. Mao đưa tôi đọc qua các tài liệu tóm tắt.
Bài phát biểu có lẽ do chính Chủ tịch viết. Đó là cuộc tấn công vào Lục Đỉnh Nhất, cảnh cáo rằng từ khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân “trong lĩnh vực văn hoá, hầu hết các giáo sư như một lực lượng đen tối, mưu toan thống lĩnh chính sách của chúng ta”. Cái làm tôi ngạc nhiên không phải vì nội dung văn kiện mà là mối quan hệ mới giữa Giang Thanh và Lâm Bưu: Con đường của vị nguyên soái đi đến quyền lực phải qua tay vợ Chủ tịch. Lâm Bưu chiếm được sự ủng hộ của Mao, bằng cách o bế, lấy cảm tình của vợ Mao trước tiên. Một cách thường dùng trong lịch sử Trung Quốc, đó là con đường lắt léo, tôi chưa khi nào tin vào những người theo con đường ấy. Lâm Bưu muốn đưa vợ Chủ tịch đến quyền lực. Ngay từ buổi đầu, tôi đã khó chịu, vì khi đạt được quyền lực Giang Thanh có thể trở nên cực kỳ nguy hiểm.
Tôi chưa gặp Lâm Bưu bao giờ, thậm chí chưa một lần giáp mặt. Mặc dù Lâm Bưu nắm giữ một số chức vụ cao, nhưng sống ẩn dật, ít có mặt nơi làm việc, thậm chí không đến Thiên An Môn dự lễ ngày 1-5 hay quốc khánh. Trong “Hội nghị Bẩy ngàn cán bộ” tôi ngồi sau hậu trường, nghe bài phát biểu của ông ta. Đó là lần duy nhất tôi nhìn thấy lưng ông. Nhưng ông, một trong mười nguyên soái nổi tiếng, xuất sắc, mạnh mẽ, cương quyết và tàn bạo. Trước kia, tôi ngưỡng mộ thiên tài quân sự của vị tướng quân. Giờ đây, liên minh của Lâm Bưu với Giang Thanh cho phép tôi có điều kiện gặp ông thường xuyên.
Tháng 3-1966, ngay sau khi thăm chồng, Giang Thanh bị cảm, gọi tôi đến Thượng Hải.
Mao động viên:
– Tôi sẽ đến Thượng Hải ngay – ông ta nhắc – Chẳng thích thú gì ở lâu một chỗ.
Chứng hoang tưởng cục bộ của ông lại xuất hiện. Sau vài ngày ở đâu đó, ông bắt đầu lo ngại, yêu cầu đi tiếp, ngay ở Hàng Châu ông cũng cảm thấy không an toàn.
Sự thay đổi trong vai trò tham gia chính trị đã giúp chứng suy nhược thần kinh của Giang Thanh giảm nhiều, chính bà cũng xác nhận, chỉ cảm cúm qua loa, chẳng có gì nghiêm trọng. Nhưng ngay ngày hôm sau tôi đến Thượng Hải, Lâm Bưu đã xuất hiện. Lâm bảo, nghe tin Giang Thanh mệt, ông đến thăm.
Đây là lần đầu tiên tôi gặp Lâm Bưu. Ấn tượng đầu tiên với tôi là bộ quân phục ông mặc. Bộ quân phục may vừa khít như dán sát thân hình ông. Lâm Bưu vào phòng đón tiếp cùng với viên thư ký tháp tùng, cởi chiếc áo khoác dạ. Ông gày gò, dáng người nhỏ thó, nước da xanh xám. Chiếc mũ vải mềm bộ đội Lâm Bưu không bao giờ rời, thậm chí trong phòng khách để che cái đầu lơ thơ dăm sợi tóc. Ông đi đôi ủng da dày. Lâm Bưu chỉ khẽ gật đầu về phía tôi, không nói một lời nào, đến chỗ Giang Thanh. Mắt ông ta đen đến mức, dường như con ngươi và mống mắt hoà vào nhau, toát lên vẻ thần bí.
Giang Thanh ra lệnh không ai được phiền nhiễu, cả hai đàm luận trong vài giờ trong phòng đóng cửa kín. Khi đó, tôi nói chuyện với thư ký của nguyên soái, Lý Văn Phúc, qua anh ta tôi cũng biết vài thứ về thói quen và quá khứ của Lâm Bưu. Lâm Bưu và Giang Thanh có nhiều cái giống nhau. Lâm Bưu cũng mắc chứng suy nhược thần kinh, sợ gió và ánh sáng đến nỗi rất ít ra khỏi nhà. Giống như Giang Thanh, việc cuốn hút vào chính trị làm ông năng động lên. Căng thẳng đã biến mất. Bệnh tật Lâm Bưu, như tôi đoán, chủ yếu là chính trị.
Nhưng ông vẫn thường ốm đau. Tôi phát hiện điều này vài tháng sau, tháng 8-1966, khi Cách mạng văn hoá đến cao trào điên loạn, Lâm Bưu đã leo lên đỉnh cao quyền lực, Uông Đông Hưng cố gắng xây dựng liên minh với Lâm, người mà Mao dự kiến thừa kế ông. Lâm Bưu ốm, Uông yêu cầu tôi đi cùng tới thăm nguyên soái trong tư dinh ở Mao Tần Vũ.
Khi dẫn chúng tôi vào buồng, Lâm Bưu ngồi trên giường, trong vòng tay vợ và đầu ép vào ngực bà. Ông khóc, Diệp Quần an ủi, động viên như dỗ dành một đứa trẻ. Chỉ một điều này tức khắc làm thay đổi cách nhìn của tôi về Lâm Bưu – từ vị tư lệnh quân đội tài năng, cứng rắn ông biến thành kẻ thiếu tự chủ, kém bản lãnh. Hai bác sĩ Hứa Định và Vương Thế Vinh xuất hiện ngay sau khi chúng tôi đến. Diệp Quần đưa Uông Đông Hưng và tôi sang phòng khách, để các bác sĩ mới tới khám bệnh chồng bà. Họ phát hiện ra nguyên soái có sỏi thận, đưa thuốc cho ông. Cơn đau giảm nhanh chóng, ông trở lại bình thường, nhưng cái nhìn của tôi về ông không thay đổi. Việc sỏi thận đi xuống niệu quản thường gây rất đau đớn, nhưng tôi cho rằng, vị nguyên soái cần dũng cảm nén cơn đau mới đúng.
Trong khi chúng tôi đợi, Diệp Quần kể về chồng. Lâm Bưu năm 1940 nghiện thuốc phiện, sau chuyển sang morphine. Cuối năm 1949, ông sang Liên Xô điều trị. Bệnh nghiện hết, nhưng tính tình thay đổi. Lâm Bưu sợ ánh sáng, sợ gió nên ít khi ra ngoài, vì thế thường không đi hội họp. Tiếng nước chảy cũng gây cho ông đau đớn. Ông nói chung ít uống nước, Diệp Quần thường thả thịt viên vào nước, cho chồng vừa ăn vừa uống, giúp cơ thể ông nhận được nước bằng cách ấy.
Lâm Bưu không bao giờ dùng nhà cầu. Khi phát sinh cần thiết, ông dùng bô do vợ để ở nhà kho, đôi khi són ra cả quần lót, vợ phải thay giúp.
Tôi thật sự choáng, rất kinh ngạc. Lâm Bưu rõ ràng mắc bệnh tâm thần, nhưng Mao đưa Lâm Bưu lên bậc thang cao nhất của quyền lực. Chẳng bao lâu nữa, người ta sẽ chào đón ông như “người bạn chiến đấu thân thiết, gần gũi nhất” của Chủ tịch. Liệu có xảy ra điều bất hạnh gì không, một khi Lâm Bưu trở thành người lãnh đạo tối cao dân tộc.
***
Tôi ở lại Thượng Hải đến tháng Ba sau khi Giang Thanh khỏi bệnh, tại đây tôi trở thành người chứng kiến các hoạt động chính trị của bà. Lần lượt đến thăm bà là những người mang khuynh hướng cực tả, cuộc gặp gỡ tiến hành sau cánh cửa đóng chặt, sự bí mật được dấu kín, một âm mưu gì đó rất đáng ngờ. Diêu Văn Nguyên, Ban Tuyên giáo Thượng Hải viết bài phê phán Ngô Hàm về vở kịch Hải Thuỵ Từ Quan, người không được Lâm Bưu tin cẩn, đã tự im hơi lặng tiếng với vợ Chủ tịch. Thích Bản Ngư, người giữ chức giám đốc Tổng thư ký Văn phòng Trung ương, tiếp theo Quan Phong, kẻ cực tả trong ban biên tập tạp chí Hồng Kỳ.Mao đến Thượng Hải hôm 15-3-1966. Hai hôm sau ông triệu tập một phiên họp mở rộng thường vụ Bộ chính trị, tiến hành cuộc nói chuyện về những kết luận của Giang Thanh, trong lĩnh vực Đại học, học viện và giáo dục, do các phần tử trí thức tư sản chiếm ưu thế, trong nhiều năm đã huỷ hoại tất cả những cái gì còn lại của văn hoá. Để phân tích Mao dẫn ra vở kịch của Ngô Hàm, tác giả vở kịch gây tranh cãi lớn trong dư luận “Hải Thuỵ Từ Quan”, giáo sư sử học Giang Bật Dương, Đặng Tường và chủ tịch Mặt trận thống nhất của thành phố Bắc Kinh Liêu Mạt Sa. Những trí thức đầu ngành này là đảng viên cộng sản, Mao nói, nhưng họ lại là đảng viên Quốc dân đảng trong ý nghĩ và tư cách. Ông đề nghị bắt đầu cuộc Cách mạng văn hoá trong văn hoá, lịch sử, luật học, và kinh tế. Tôi quá ngây thơ để tin rằng cuộc “cách mạng” này chỉ bó gọn trong lĩnh vực văn hoá và tưởng rằng mình biết cách đứng ngoài trận cuồng phong.
Cuối tháng 3-1966, vài ngày sau cuộc họp Bộ chính trị mở rộng, tất cả chúng tôi còn ở Thượng Hải, Mao mấy lần gặp Giang Thanh, Khang Sinh và Trương Xuân Kiều. Mao nói với họ muốn huỷ bỏ “Dự thảo báo cáo tháng Hai” của Bành Chân. “Dự thảo” làm rối tung đường lối giai cấp của đảng. Mao muốn Thành uỷ Bắc Kinh, do Bành Chân lãnh đạo, Ban Tuyên giáo do Lục Đỉnh Nhất nắm, và “Tiểu tổ Ngũ Nhân của Cách mạng văn hoá” gồm Bành Chân, Lục Đỉnh Nhất, Khang Sinh, Chu Dương và Ngô Lĩnh Hy phải giải tán, Mao nhấn mạnh, có khá nhiều nhân vật đáng nghi ngờ trong ba tổ chức trên. Mao muốn thúc đẩy, mở rộng Cách mạng văn hoá.
Mao quyết định tấn công theo hai hướng. Hướng thứ nhất giành lấy Ban thường vụ Bộ chính trị, phê bình những trí thức đầu đàn. Hướng thứ hai – bồi dưỡng thế hệ kế nhiệm, những người nằm ngoài Ban thường vụ Bộ chính trị và quan chức đảng, tập hợp quanh thành những đồng minh gần gũi nhất của ông như Giang Thanh và Khang Sinh, nhóm này sẽ vạch mặt kẻ thù của Mao kể cả trong Ban thường vụ Bộ chính trị và Ban Bí thư trung ương đảng. Hành động này không ai có thể lường trước sẽ như thế nào. Từ trước đến nay, chưa bao giờ Mao ra đòn với các nhân vật cao cấp như thế này.
Đầu tháng 4-1966 chúng tôi trở về Hàng Châu. Ở đó Mao triệu tập cuộc họp mở rộng Thường vụ Bộ chính trị. Trong cuộc họp, Mao công khai mở rộng phê phán kể cả người đứng đầu thành đảng bộ Bắc Kinh, Bành Chân. Bằng cách từ chối đọc và bình luận bản “Dự thảo báo cáo tháng Hai” của Bành Chân, bản dự thảo yêu cầu hạn chế thảo luận phê phán những vấn đề học thuật, Mao đã giăng bẫy để Bành Chân đào hố tự chôn mình. Bây giờ Chủ tịch công khai buộc Bành Chân vào tội có quan điểm chống đảng và Mao đòi giải thể “Tiểu tổ Ngũ nhân Cách mạng văn hoá” và hình thành nhóm lãnh đạo mới. Cuộc họp tháng Tư trong bầu không khí cực kỳ căng thẳng.
Tôi cảm thấy mình trong vòng nguy hiểm. Nhóm Một thay đổi nhiều, khác xưa, tôi không hiểu và cũng không tin những người mới. Mao trở thành khó tiếp cận sau bức tường, được chặn đứng bởi người đứng đầu an ninh mới, Khắc Kỳ Hữu. Uông Đông Hưng vẫn chưa thấy quay lại, tôi không gặp Uông từ buổi chia tay ở Nam Kinh ngay sau tết. Không có Uông bảo vệ, tôi dường như lạc trong biển cả.
Tôi cần gặp Uông Đông Hưng đang họp ở Hàng Châu, hỏi xem có biết những chuyện gì đang xảy ra không và nhờ Uông có vấn. Tôi muốn khuyên Uông trở về Nhóm Một.
Một đêm huya, tôi đến tìm Uông ở khách sạn Chí Linh. Khi tôi đến, ông đang trao đổi với thủ tướng Chu Ân Lai. Thấy tôi, thủ tướng khó chịu, không vui, hỏi:
– Anh có biết bây giờ mấy giờ không? Sao anh đến muộn thế này.
– Tôi muốn báo cáo cho đồng chí Uông Đông Hưng về sức khoẻ của Chủ tịch, chúng tôi mấy tháng rồi chưa gặp nhau.
– Vì sao phải báo cáo vào đêm khuya thế này? – Chu ngạc nhiên.
– Tôi đề nghị anh ta đến, thưa thủ tướng – Uông Đông Hưng can thiệp để yên lòng Chu.
– Thôi được, nhưng nhanh lên – Chu đồng ý – Đồng chí Khang Sinh và Trần Bá Đạt cũng đang ở đây. Chúng tôi không thể bắt họ chờ – Chu quay sang tôi – Khi xong việc, đề nghị đồng chí nhanh chóng quay về nhà khách Vương Trung.
Tôi không ngờ Chu Ân Lai có thể dễ nổi cáu đến thế và tự giải thích tính khí của Chu phát sinh do những lo lắng trầm trọng về chính trị. Khi tôi hỏi Uông cái gì đã xảy ra, ông từ chối trả lời.
– Anh biết đủ rồi – Uông đáp – Cái này dính đến quyền lực trung ương. Tốt hơn cả, anh đừng hỏi thêm nữa. Hãy kể cho tôi nghe sức khoẻ của Chủ tịch.
Tôi đoán, chắc đang có cuộc tranh giành quyền lực quyết liệt khó hiểu, dễ gì biết được. Tôi kể cho Uông Đông Hưng về sức khoẻ Mao, yêu cầu Uông quay về phụ trách Nhóm Một. Tôi giải thích, Trương Diêu Tự, anh chàng nhát như cáy, giờ tự phong xếp, điều hành an ninh mà chẳng được tích sự gì. Tôi không yên tâm, chừng nào Uông Đông Hưng chưa trở lại giữ vị trí này.
Nhưng Uông cảm thấy bị bắn ra khỏi Nhóm Một từ lâu. Ông muốn quay lại, nhưng không thể, chừng nào Mao chưa yêu cầu. Tuy nhiên Uông hứa đến nhà khách Vương Trung gặp nhau, khi cuộc họp kết thúc.
Tôi rất lo lắng vì đã đến khách sạn Chi Linh. Chu Ân Lai khó chịu, có thể còn có chuyện gì hơn thế nữa mà tôi không rõ. Không loại trừ vì có cuộc gặp trước với Khang Sinh và Trần Bá Đạt, hai kẻ cực tả đang khuấy tung mọi chuyện lên. Để phòng xa, tôi quyết định kể cho Mao tất cả. Nếu người ta kể với Mao về cuộc gặp gỡ của tôi, có thể ông nghĩ tôi hoạt động lén sau lưng.
– Họ làm cái gì ở đó? – Mao ngạc nhiên. Nụ cười thoáng qua môi ông, khi tôi kể hết mọi chuyện việc đến gặp Uông Đông Hưng, Chu Ân Lai yêu cầu tôi báo cáo nhanh gọn, ông có vẻ lo lắng và tôi sợ mọi người nghi ngờ tôi có điều gì mờ ám.
– Chỉ là chuyện đến thăm, tôi chẳng thấy trong cuộc gặp của đồng chí có cái gì đáng để ý cả – Mao động viên tôi.
Sự lo xa cảnh giác của tôi đã cứu mạng sống của tôi sau này. Cuối năm 1966, khi “Tiểu Tổ Cách mạng văn hoá Trung ương” mới được thành lập, đã mở rộng mục tiêu nhằm cả Uông Đông Hưng, có âm mưu cố ý kéo tôi vào. Trong khi mỗi cuộc gặp gỡ đều được coi là âm mưu, kể cả gặp bạn, gặp người quen gặp đồng nghiệp của người bị buộc tội, đều bị họ đặt dưới sự nghi ngờ. Tay bảo vệ khách sạn, thấy tôi đến khách sạn Chí Linh, viết báo cáo cho Khang Sinh, khẳng định tôi cùng với Uông Đông Hưng và Chu Ân Lai tham gia vào một âm mưu gì đấy tại khách sạn, có thể tôi chuyển cho họ tin tức bí mật. Khang Sinh viết thư cho Chủ tịch.
Mao cho tôi xem thư, yêu cầu chuyển Uông Đông Hưng cất kín. Mao nói:
– Anh đã báo cáo với tôi về cuộc viếng thăm này.
Mao bảo vệ cả tôi và Uông Đông Hưng. Vụ việc bị chôn luôn.
Thường vụ Bộ chính trị mở rộng lại họp ngày 24 tháng 4 năm 1966. Mao đưa ra thảo luận một tài liệu mới, do Trần Bá Đạt thảo ra. Đó là “Chỉ thị của Ban chấp hành Đảng cộng sản Trung Quốc”, được Mao chấp bút. Mục đích chính của chỉ thị, thủ tiêu bản Dự thảo Báo cáo tháng Hai của Bành Chân đã nhấn mạnh cuộc tranh luận có tính chất “học thuật” và nghệ thuật thuần tuý thông qua nhân vật Hải Thuỵ để giải tán tổ chức Tiểu Tổ Ngũ Nhân Cách mạng văn hoá do Bành Chân lãnh đạo. Tiểu Tổ Cách mạng văn hoá mới thành lập, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban thường trực Bộ chính trị. Mục tiêu của Cách mạng văn hoá thay đổi. Phong trào không đưa ra vấn đề học thuật, Mao phát động chiến dịch, với khẩu hiệu “Tấn công trực diện không khoan nhượng” vào các phần tử tư sản trong đảng, chính quyền và quân đội.
Chỉ thị được trình Bộ chính trị xem xét trong cuộc họp mở rộng ban thường trực Bộ chính trị từ ngày 4 đến 26 tháng 5. Chỉ thị được thông qua ngày 16-5, trở thành ngọn đuốc dẫn đường của Cách mạng văn hoá, người ta gọi “Chỉ thị 16 tháng 5”.
Mao không dự hội nghị, chúng tôi vẫn ở Hàng Châu. Khi Mao cho tôi xem danh sách các thành viên mới của “Tiểu Tổ Cách mạng văn hoá Trung ương”, tim tôi rụng rời. Lãnh đạo nhóm là Trần Bá Đạt, kẻ cực hữu, Khang Sinh giữ chức cố vấn. Giang Thanh được bổ nhiệm phó ban thứ nhất của Trần Bá Đạt. Những người nịnh nọt Vương Trọng Nhiệm, thị trưởng Thượng Hải, Trương Xuân Kiều làm phó, các thành viên gồm Vương Lí, Quan Phong, Khắc Kỳ Hữu và Diêu Văn Nguyên, tất cả đều thuộc phái cực tả. Vương Trọng Nhiệm do Mao bổ xung thêm.
Sự trao việc Giang Thanh làm tôi đặc biệt lo ngại. Bà ta đã nhận được sự thoả mãn lớn là phát hiện “những phần tử tư sản” trong đảng và giờ đây, được mang quyền lực thực sự, có thể sử dụng chiến dịch chính trị để thanh toán kẻ thù của mình. Mối quan hệ của chúng tôi tiếp tục xấu đi bắt đầu từ 1960, giờ đây Giang Thanh có thể gây cho tôi và gia đình tôi nhiều rắc rối.
Mao biết, Giang Thanh có tính thù hận và trả thù vặt như thế nào. Ông khuyên tôi làm lành với bà ta cũng như đã làm điều này với Mao Viên Tân, cháu ông. Chàng trai này từ lúc còn trẻ rất ghét Giang Thanh, nghỉ hè thường chạy vào Trung Nam Hải, nhưng chẳng thèm chào hỏi bác gái. Nhưng khi bắt đầu có cuộc Cách mạng văn hoá, Viên Tân viết cho Mao một bức thư xin lỗi. Trong thư viết, Viên Tân nhận ra rằng Giang Thanh, người học trò trung thành nhất của Mao rồi kết luận, chàng ta biết ơn bà với lòng kính trọng sâu sắc.
Mao hài lòng, đưa thư cho Giang Thanh xem.
Viên Tân, hồi ấy là sinh viên Trường kỹ thuật quân đội Đông Bắc Trung Quốc, đã thể hiện một chính trị gia sảo quyệt. Giang Thanh chấp nhận lời xin lỗi của đứa cháu, kéo nó vào sự che chở và ít lâu sau phong chức thiếu uý. Khi Giang Thanh tiến hành chiến tranh với các đối thủ của mình. Mao Viên Tân trở thành cánh tay đắc lực, nhanh chóng được thăng tiến qua các cấp bậc quân đội. Qua một vài năm, người ta đề bạt anh ta làm chính uỷ quân khu Xương Sơn ở Mãn Châu Lý.
Mao bóng gió rằng tôi cũng nên cố gắng chiếm lấy sự bảo trợ của vợ ông. Nhưng sự bất đồng của tôi với Giang Thanh không thể giải quyết dễ dàng như thế. Mao Viên Tân là cháu của chồng, Giang Thanh kiểu gì đi nữa cũng phải tính đến điều này.
Tôi cũng không thể cho phép mình quỵ luỵ trước bà ta. Tôi biết bà ta cũng chờ đợi cơ hội thuận lợi để quật. Điều này dẫn tôi đến cái chết không tránh được. Tôi cần phải tìm được sự bảo vệ.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần IV. 1965-1976 – Chương 60
Posted: 24/10/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56], [57], [58], [59], [60]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tháng 5-1966, ngay sau khi bùng lên ngọn lửa đấu tranh chính trị, Mao lui vào bóng tối.
– Tôi để những người khác tham gia chính trị – Mao tâm sự với tôi kế hoạch của ông vài ngày sau khi phê chuẩn “Chỉ thị 16-5” – Bây giờ chúng ta chuẩn bị đi nghỉ mát.
Đó là một chiến lược quen thuộc, ông lùi bước nằm im, chờ những con rắn độc – kẻ thù của ông – bò ra khỏi hang. Chúng tôi đi Hàng Châu, tránh xa cuộc đấu đá chính trị.
Sự lùi bước của Mao chẳng đem lại sự ổn định ghế ngồi của nhà lãnh đạo đảng. Cách mạng văn hoá cần sự chỉ đạo của ông, hơn nữa mục đích thật sự của Mao, tôi nghĩ, vẫn còn là điều bí mật đối với đa số lãnh tụ cao cấp. Đầu tháng 6, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình đến Hàng Châu, báo cáo Mao về sự phát triển của phong trào, xin hướng chỉ đạo trực tiếp phải làm gì tiếp theo.
– Tôi mặc họ tự giải quyết- Chủ tịch nói với tôi, sau khi hai người ra về – Tôi cần nghỉ ngơi.
Việc Mao lùi vào bóng tối báo trước điềm gở. Thiếu sự chỉ đạo của Mao, đảng sẽ rơi vào sự hỗn loạn.
Mao đang phấn chấn, vui vẻ nghỉ ngơi ở Hàng Châu. Chính quyền tỉnh Triết Giang thường xuyên tổ chức những buổi dạ vũ hội. Ông được đưa lên đồi Đĩnh Gia gần biệt thự của mình. Nhưng Chủ tịch thường trầm ngâm, im lặng, như đang nghĩ chuyện gì lung lắm. Giữa tháng Sáu, Mao lại nghĩ đến đi tiếp. Lần này, về quê ông Sào Sơn, chúng tôi đến đây ngày 18-6.
Lần cuối cùng Mao đến Sào Sơn vào năm 1959. Bí thư thứ nhất Văn phòng trung ương đảng Đào Chú đã xây cho Chủ tịch một biệt thự mới ở chỗ gọi là Động Đình Thuý. Mao nói, khi nào từ chức, muốn được sống ở Sào Sơn, trong ngôi nhà mái rạ. Biệt thự Đào Chú xây lên, đã trả lời mong ước của ông.
Động Đình Thuý là một góc nhỏ ấm cúng nằm ở chân đồi. Rừng và các bụi cây bao quanh, ngăn cách thế giới bên ngoài. Mao biết rõ vùng này. Thuở nhỏ, kiếm củi trong rừng, ông vẫn còn nhớ đã từng quỳ lạy trước tảng lớn, Đá Bà trên đỉnh đồi Trống Cái. Mao thường leo vào đền “Hổ phục”, xây trên đỉnh đồi bên cạnh.
Bắc Kinh xa cách hẳn động Đình Thuý, tin tức đến với ông rất khó. Các giao liên đặc biệt chuyển tài liệu phải qua hai hay ba ngày mới tới. Tôi sốt ruột muốn biết chuyện gì đang xảy ra, nên gãi chuyện anh chàng giao liên. Thủ đô rơi vào tình trạng hỗn loạn. Trường học đóng cửa, sinh viên xuống đường, thành phố bị đập phá. Không ai kiểm soát được tình hình. Tôi muốn biết thêm chi tiết, nhưng do tình hình rất rối ren, căng thẳng, anh ta chẳng dám nói thêm.
Tôi biết thủ trưởng cũ của tôi Phó Liêm Chương, người khuyên tôi quay về Trung Quốc và xếp tôi vào “Đại học Công nhân”, đã trở thành nạn nhân Cách mạng văn hoá. Phó buộc phải từ chức từ năm 1958. Thói quen của ông muốn biết về hoạt động của các nhà lãnh đạo, khi thấy chú ý đến sức khoẻ của họ quá nhiều, họ phát cáu, tống khứ ông đi. Từ lâu, tôi không biết Phó sống ra sao, bây giờ người giao liên chuyển cho Mao một bức thư của Phó, người bác sĩ riêng ngày xưa của ông.
Người ta nghĩ ông xin nghỉ hưu thể hiện sự chống đối, họ đưa ra đấu tố, tự tử hụt, giờ đây ông cầu cứu Mao.
– Phó Liêm Chương, một người tốt – Mao nói với tôi – Ông đã từ chức, không dây dưa vào chính trị. Chẳng có lý do gì lại đấu tố ông ta cả. Tôi sẽ làm một cái gì đó để bảo vệ.
Nhưng giúp đỡ của Mao quá ít hoặc quá muộn. Cuối năm 1966, đám thanh thiếu niên nổi loạn Hồng vệ binh của Tổng cục Hậu cần dùng sức mạnh lôi ông ra khỏi nhà. Từ đó tôi không biết tin gì về ông. Phó chết trong thời kỳ đấu tố, nhưng xác không bao giờ tìm thấy.
Sau mười ngày đến Sào Sơn, cái nóng ngột ngạt không ngờ ập đến. Hàng ngày chúng tôi đi bơi ở bể bơi Sào Sơn, nhưng biệt thự động Đình Thuý không có máy lạnh, quạt máy chẳng tác dụng gì. Mao quyết định ra đi, chúng tôi trở về Vũ Hán.
Tại đây, tin tức từ Bắc Kinh nhận được nhiều hơn. Các giao liên đến hàng ngày. Tôi nhận bức thư đầu tiên từ Lý Liên sau nhiều tháng. Tôi không ở Bắc Kinh, xa nhà hơn một năm – kể từ lúc tôi đi với đội công tác trong chiến dịch “Bốn Minh bạch” ở làng Thạch Tư, tỉnh Giang Tây từ tháng 7-1965.
Theo dõi Cách mạng văn hoá, Mao khoái chí về cuộc nổi loạn, xảy ra theo đúng ý được tiến hành ở Bắc Kinh. Với sự vắng mặt của Mao, kẻ thù đã phô trương sức mạnh, không biết rằng chính họ đã giúp ông dễ dàng tiêu diệt họ sau này. Tôi ước đoán điều này từ cuộc nói chuyện với Chủ tịch, từ những bức thư ông viết ngày 8-6-1966 gửi Giang Thanh ở Thượng Hải.
Mao chưa bao giờ có kế hoạch thực sự về cuộc Cách mạng văn hoá. Nhưng bức thư gửi vợ cho thấy ông đang suy nghĩ về điều này. Khi sự ngờ vực những người quanh tăng lên, lòng tin của ông vào Giang Thanh cũng tăng theo.
– Hàng ngày, tôi đọc tài liệu, tin tức thấy rất hứng thú. – Mao viết cho Giang Thanh khi đã về Vũ Hán – Sự hỗn loạn lớn sẽ dẫn đến một trật tự lớn. Chu kỳ thường lặp lại 7 hoặc 8 năm. Ma quỷ và quái vật sẽ thò chân tướng. Bộ mặt giai cấp của chúng sẽ lộ rõ.
Mao còn viết, không hài lòng sự xu nịnh của Lâm Bưu, tâng bốc quá trơ tráo như vậy. “Tôi không tin cuốn sổ tay tôi viết lại trở nên kỳ diệu và có sức mạnh như ông ta phát biểu” – Mao phàn nàn. “Điều này tương tự Già Vương bán dưa hấu, cho rằng dưa hấu ngọt vì bản thân nó ngọt. Nhưng sau khi Lâm Bưu bắt đầu thổi phồng, toàn đảng toàn dân đã hùa theo ông ta”. Mao xác nhận, sự tâng bốc của Lâm Bưu là bước ngoặt đầu tiên của tệ sùng bái lãnh tụ trong đời, trong khi vẫn chấp nhận những ý kiến trái ngược, điều đó đã làm ông thay đổi quan trọng trong nhận thức. “Người quá nổi tiếng khó sống với đời thực của chính mình”. Mao viết, trích dẫn lời Lý Gia nhà Hán. Mao bảo: “Câu này ứng vào tôi thật đúng”. Mao phản đối sự tâng bốc, tán dương trong phiên họp thường vụ Bộ chính trị vào tháng Tư ở Hàng Châu. Nhưng Lâm Bưu phớt lờ, vẫn lặp lại những lời nịnh bợ vào tháng 5. “Thế là báo chí lại thêu dệt, phóng đại quá mức tầm quan trọng của các bài tôi viết đến nỗi dường bài ấy do siêu nhân viết ra. Tôi buộc phải chấp nhận lời nhận xét của họ. Tôi cho chủ đích của họ đánh bại bọn ma quái (kẻ thù của Mao trong đảng) bằng cách tạo ra sức mạnh vô biên của tôi”.
Mao chưa bao giờ tin Cách mạng văn hoá đạt được mục đích đề ra. Ông cũng chẳng tin chủ nghĩa xã hội đến Trung Quốc để thực hiện một cái gì đó tốt đẹp hơn. Mao nghĩ, phái hữu khuynh đã nắm được chính quyền, chính ông sẽ đập nát nó. Nhưng tin chắc tư tưởng của ông tồn tại và lý luận chủ nghĩa xã hội phải xem xét, kiểm nghiệm lại. Thắng lợi của kẻ phản động không bao giờ lâu dài.
Mao cảnh cáo Giang Thanh: “Đừng để chiến thắng đầu độc bản thân. Hãy thường xuyên nghĩ về yếu kém, khuyết điểm và sai lầm của chính mình. Tôi đã nói với bà hàng chục lần rồi, phải cố nhớ lấy”.
Giang Thanh rất xúc động bức thư của chồng – mặc dù trong thư ông phê bình, chỉ trích bà – đến mức muốn in nó ra, phân phát để cho người khác cùng đọc. Mao chia xẻ với bà một số ý nghĩ thầm kín về quan điểm chính trị, Giang Thanh coi đó như sự thể hiện sự tin cậy của Mao và giúp bà nâng cao vị thế chính trị. Giang Thanh bắt đầu chia xẻ với các thành viên trong phe, bằng cách tìm kiếm những bức thư Mao viết gần đây, kể các bản sao chép khi Mao đề cập điều này. Tôi đã sao chép một bức thư vào sổ tay, trước khi đưa trả lại vào Tổng Kho Lưu trữ Văn khố, thậm chí giữ đến bây giờ.
Trong thời gian một phần tư thế kỷ trôi qua, tôi thường nghĩ đến bức thư của Mao. Đến tận hôm nay, mọi việc đã qua, tôi vẫn nhìn thấy trong đó bằng chứng, Mao, nhà chính trị thông thái, biết dự đoán được những sự việc hơn những gì ông biết. Lâm Bưu, con người chưa bao giờ Mao đặt niềm tin hoàn toàn, chỉ sử dụng Lâm tạm thời để chống kẻ thù trong đảng, Lâm đã quay lại chống ông, sau khi Mao qua đời, phái hữu khuynh sẽ lên nắm quyền lực.
***
Mao muốn tránh không về Bắc Kinh càng lâu càng tốt, ông theo dõi cuộc Cách mạng văn hoá từ xa, nhờ thế tôi đã tránh vào sa bẫy bất ngờ trong cuộc đấu đá chính trị. Tôi rất vui vì không có mặt ở Bắc Kinh. Nhờ những chiến dịch đấu đá chính trị trước đây tôi không liên quan, nên tin cuộc Cách mạng văn hoá không đụng đến. Tuy nhiên, Mao nghĩ khác.
Đến đầu tháng 7, Mao đã xa thủ đô nhiều tháng, Bắc Kinh trong rối loạn. Giờ đến lúc ông quyết định quay về. “Tình hình ở Bắc Kinh bắt đầu khởi sắc”. Một buổi tối, Mao nói với tôi. “Chúng ta không thể chỉ nghe báo cáo để biết cái gì đang xảy ra, phải tự bản thân mình nhìn thấy, khi đó mới có thể phân biệt người tốt trong số người xấu. Tạm thời tôi vẫn ở lại, nhưng ngày mai đồng chí trở về Bắc Kinh trước, theo dõi xem xét những gì đã xảy ra”.
Ông tôi muốn điều tra, tìm hiểu ở Bắc Kinh, sau đó báo cáo theo nhận xét cá nhân về cuộc Cách mạng văn hoá. Đấy là “cái gì đó” mà ông đã nói, cũng như muốn tôi làm thay khi ông khước từ không cho phép tôi trở lại Thạch Tư.
Tình hình chính trị ở Bắc Kinh quá phức tạp. Bộ chính trị hay Ban chấp hành Trung ương cũng không điều khiển được tình hình. Ngay đến những người thân tín, đại diện cho Mao cũng bị tấn công. Còn tôi chỉ là bác sĩ bình thường, không liên quan dính líu vào chính trị, làm sao phân biệt được ai bạn, ai thù?
– Thưa Chủ tịch, tôi không có khả năng phân biệt những người tốt trong số những người xấu. – Tôi tự vệ – Tôi biết hỏi ai về chuyện này?
Mao khuyên gặp Đào Chú, người tôi biết từ khi ông bí thư thứ nhất đảng bộ tỉnh Quảng Đông. Đào Chú đã thay Lục Đỉnh Nhất giữ chức trưởng Ban Tuyên giáo. Với tôi, Đào Chú là người dễ gặp, ông giữ chức Trưởng ban Tuyên giáo, kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban y tế quốc gia.
– Nói với ông ta, tôi cử anh tới – Mao vạch đường cho tôi – Hãy để ông ta tạo điều kiện thấy phong trào cách mạng nổi loạn làm được những gì. Hãy nhìn những bức chân dung lớn quần chúng đang giơ cao. Khi nào tôi về Bắc Kinh, báo cáo cho tôi biết anh nghĩ gì về tất cả việc này.
Tôi đang cân nhắc việc được giao. Dưới sự che chở trực tiếp của Mao, tôi cảm thấy mình còn an toàn. Trong tình thế đơn thương độc mã, được chỉ định để đánh giá phong trào chẳng hiểu mô tê gì, tôi sẽ rơi vào vòng nguy hiểm. “Hàng nghìn người đã chết trong thời gian này, tôi nghĩ”. Mao nói với tôi vài tuần trước đây – “Tất cả mọi thứ đang lộn tùng phèo. Tôi thích những sự thay đổi lớn”.
Nhưng tôi không thích những cuộc nổi loạn lớn, Cách mạng văn hoá làm tôi rất sợ. Nhưng ngày hôm sau tôi bay về Bắc Kinh, như Mao đã ra lệnh. Đây là lần đầu tiên tôi trở về Bắc Kinh sau hơn một năm.
Tôi có mặt ở thủ đô 16-6-1966, ngày mà Mao trong hội bơi thi trên sông Dương Tử. Tôi bơi nhiều lần với Mao nhưng không chú ý. Lần này tôi không thể hiểu những người nước ngoài sẽ kinh ngạc đến mức nào khi một ông già 73 tuổi lại có thể bơi nhanh hơn và xa hơn người đã từng vô địch thế vận Olympic.
Tôi biết sông Dương Tử chảy xiết như thế nào. Mao, vẫn như trong các lần bơi trước, ông nằm ngửa, bụng như quả bóng nổi trên mặt nước, cứ để dòng nước chảy mang theo ông. Đối với tôi, cuộc bơi của Mao trên sông Dương Tử có ý nghĩa như hành động thách thức chống lại ban lãnh đạo đảng, dấu hiệu cuộc chiến bắt đầu.
Với tôi, việc Mao bơi trên sông Dương Tử báo hiệu chuyện ông tự rút lui vào bóng tối đã kết thúc. Ông quay lại sân khấu chính trị. Hai ngày sau, 18-6-1966, Mao có mặt ở Bắc Kinh, để thâu tóm quyền lãnh đạo vào tay mình, trực tiếp chỉ đạo cuộc Cách mạng văn hoá.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50], [51], [52], [53], [54], [55], [56], [57], [58], [59], [60]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tháng 5-1966, ngay sau khi bùng lên ngọn lửa đấu tranh chính trị, Mao lui vào bóng tối.
– Tôi để những người khác tham gia chính trị – Mao tâm sự với tôi kế hoạch của ông vài ngày sau khi phê chuẩn “Chỉ thị 16-5” – Bây giờ chúng ta chuẩn bị đi nghỉ mát.
Đó là một chiến lược quen thuộc, ông lùi bước nằm im, chờ những con rắn độc – kẻ thù của ông – bò ra khỏi hang. Chúng tôi đi Hàng Châu, tránh xa cuộc đấu đá chính trị.
Sự lùi bước của Mao chẳng đem lại sự ổn định ghế ngồi của nhà lãnh đạo đảng. Cách mạng văn hoá cần sự chỉ đạo của ông, hơn nữa mục đích thật sự của Mao, tôi nghĩ, vẫn còn là điều bí mật đối với đa số lãnh tụ cao cấp. Đầu tháng 6, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình đến Hàng Châu, báo cáo Mao về sự phát triển của phong trào, xin hướng chỉ đạo trực tiếp phải làm gì tiếp theo.
– Tôi mặc họ tự giải quyết- Chủ tịch nói với tôi, sau khi hai người ra về – Tôi cần nghỉ ngơi.
Việc Mao lùi vào bóng tối báo trước điềm gở. Thiếu sự chỉ đạo của Mao, đảng sẽ rơi vào sự hỗn loạn.
Mao đang phấn chấn, vui vẻ nghỉ ngơi ở Hàng Châu. Chính quyền tỉnh Triết Giang thường xuyên tổ chức những buổi dạ vũ hội. Ông được đưa lên đồi Đĩnh Gia gần biệt thự của mình. Nhưng Chủ tịch thường trầm ngâm, im lặng, như đang nghĩ chuyện gì lung lắm. Giữa tháng Sáu, Mao lại nghĩ đến đi tiếp. Lần này, về quê ông Sào Sơn, chúng tôi đến đây ngày 18-6.
Lần cuối cùng Mao đến Sào Sơn vào năm 1959. Bí thư thứ nhất Văn phòng trung ương đảng Đào Chú đã xây cho Chủ tịch một biệt thự mới ở chỗ gọi là Động Đình Thuý. Mao nói, khi nào từ chức, muốn được sống ở Sào Sơn, trong ngôi nhà mái rạ. Biệt thự Đào Chú xây lên, đã trả lời mong ước của ông.
Động Đình Thuý là một góc nhỏ ấm cúng nằm ở chân đồi. Rừng và các bụi cây bao quanh, ngăn cách thế giới bên ngoài. Mao biết rõ vùng này. Thuở nhỏ, kiếm củi trong rừng, ông vẫn còn nhớ đã từng quỳ lạy trước tảng lớn, Đá Bà trên đỉnh đồi Trống Cái. Mao thường leo vào đền “Hổ phục”, xây trên đỉnh đồi bên cạnh.
Bắc Kinh xa cách hẳn động Đình Thuý, tin tức đến với ông rất khó. Các giao liên đặc biệt chuyển tài liệu phải qua hai hay ba ngày mới tới. Tôi sốt ruột muốn biết chuyện gì đang xảy ra, nên gãi chuyện anh chàng giao liên. Thủ đô rơi vào tình trạng hỗn loạn. Trường học đóng cửa, sinh viên xuống đường, thành phố bị đập phá. Không ai kiểm soát được tình hình. Tôi muốn biết thêm chi tiết, nhưng do tình hình rất rối ren, căng thẳng, anh ta chẳng dám nói thêm.
Tôi biết thủ trưởng cũ của tôi Phó Liêm Chương, người khuyên tôi quay về Trung Quốc và xếp tôi vào “Đại học Công nhân”, đã trở thành nạn nhân Cách mạng văn hoá. Phó buộc phải từ chức từ năm 1958. Thói quen của ông muốn biết về hoạt động của các nhà lãnh đạo, khi thấy chú ý đến sức khoẻ của họ quá nhiều, họ phát cáu, tống khứ ông đi. Từ lâu, tôi không biết Phó sống ra sao, bây giờ người giao liên chuyển cho Mao một bức thư của Phó, người bác sĩ riêng ngày xưa của ông.
Người ta nghĩ ông xin nghỉ hưu thể hiện sự chống đối, họ đưa ra đấu tố, tự tử hụt, giờ đây ông cầu cứu Mao.
– Phó Liêm Chương, một người tốt – Mao nói với tôi – Ông đã từ chức, không dây dưa vào chính trị. Chẳng có lý do gì lại đấu tố ông ta cả. Tôi sẽ làm một cái gì đó để bảo vệ.
Nhưng giúp đỡ của Mao quá ít hoặc quá muộn. Cuối năm 1966, đám thanh thiếu niên nổi loạn Hồng vệ binh của Tổng cục Hậu cần dùng sức mạnh lôi ông ra khỏi nhà. Từ đó tôi không biết tin gì về ông. Phó chết trong thời kỳ đấu tố, nhưng xác không bao giờ tìm thấy.
Sau mười ngày đến Sào Sơn, cái nóng ngột ngạt không ngờ ập đến. Hàng ngày chúng tôi đi bơi ở bể bơi Sào Sơn, nhưng biệt thự động Đình Thuý không có máy lạnh, quạt máy chẳng tác dụng gì. Mao quyết định ra đi, chúng tôi trở về Vũ Hán.
Tại đây, tin tức từ Bắc Kinh nhận được nhiều hơn. Các giao liên đến hàng ngày. Tôi nhận bức thư đầu tiên từ Lý Liên sau nhiều tháng. Tôi không ở Bắc Kinh, xa nhà hơn một năm – kể từ lúc tôi đi với đội công tác trong chiến dịch “Bốn Minh bạch” ở làng Thạch Tư, tỉnh Giang Tây từ tháng 7-1965.
Theo dõi Cách mạng văn hoá, Mao khoái chí về cuộc nổi loạn, xảy ra theo đúng ý được tiến hành ở Bắc Kinh. Với sự vắng mặt của Mao, kẻ thù đã phô trương sức mạnh, không biết rằng chính họ đã giúp ông dễ dàng tiêu diệt họ sau này. Tôi ước đoán điều này từ cuộc nói chuyện với Chủ tịch, từ những bức thư ông viết ngày 8-6-1966 gửi Giang Thanh ở Thượng Hải.
Mao chưa bao giờ có kế hoạch thực sự về cuộc Cách mạng văn hoá. Nhưng bức thư gửi vợ cho thấy ông đang suy nghĩ về điều này. Khi sự ngờ vực những người quanh tăng lên, lòng tin của ông vào Giang Thanh cũng tăng theo.
– Hàng ngày, tôi đọc tài liệu, tin tức thấy rất hứng thú. – Mao viết cho Giang Thanh khi đã về Vũ Hán – Sự hỗn loạn lớn sẽ dẫn đến một trật tự lớn. Chu kỳ thường lặp lại 7 hoặc 8 năm. Ma quỷ và quái vật sẽ thò chân tướng. Bộ mặt giai cấp của chúng sẽ lộ rõ.
Mao còn viết, không hài lòng sự xu nịnh của Lâm Bưu, tâng bốc quá trơ tráo như vậy. “Tôi không tin cuốn sổ tay tôi viết lại trở nên kỳ diệu và có sức mạnh như ông ta phát biểu” – Mao phàn nàn. “Điều này tương tự Già Vương bán dưa hấu, cho rằng dưa hấu ngọt vì bản thân nó ngọt. Nhưng sau khi Lâm Bưu bắt đầu thổi phồng, toàn đảng toàn dân đã hùa theo ông ta”. Mao xác nhận, sự tâng bốc của Lâm Bưu là bước ngoặt đầu tiên của tệ sùng bái lãnh tụ trong đời, trong khi vẫn chấp nhận những ý kiến trái ngược, điều đó đã làm ông thay đổi quan trọng trong nhận thức. “Người quá nổi tiếng khó sống với đời thực của chính mình”. Mao viết, trích dẫn lời Lý Gia nhà Hán. Mao bảo: “Câu này ứng vào tôi thật đúng”. Mao phản đối sự tâng bốc, tán dương trong phiên họp thường vụ Bộ chính trị vào tháng Tư ở Hàng Châu. Nhưng Lâm Bưu phớt lờ, vẫn lặp lại những lời nịnh bợ vào tháng 5. “Thế là báo chí lại thêu dệt, phóng đại quá mức tầm quan trọng của các bài tôi viết đến nỗi dường bài ấy do siêu nhân viết ra. Tôi buộc phải chấp nhận lời nhận xét của họ. Tôi cho chủ đích của họ đánh bại bọn ma quái (kẻ thù của Mao trong đảng) bằng cách tạo ra sức mạnh vô biên của tôi”.
Mao chưa bao giờ tin Cách mạng văn hoá đạt được mục đích đề ra. Ông cũng chẳng tin chủ nghĩa xã hội đến Trung Quốc để thực hiện một cái gì đó tốt đẹp hơn. Mao nghĩ, phái hữu khuynh đã nắm được chính quyền, chính ông sẽ đập nát nó. Nhưng tin chắc tư tưởng của ông tồn tại và lý luận chủ nghĩa xã hội phải xem xét, kiểm nghiệm lại. Thắng lợi của kẻ phản động không bao giờ lâu dài.
Mao cảnh cáo Giang Thanh: “Đừng để chiến thắng đầu độc bản thân. Hãy thường xuyên nghĩ về yếu kém, khuyết điểm và sai lầm của chính mình. Tôi đã nói với bà hàng chục lần rồi, phải cố nhớ lấy”.
Giang Thanh rất xúc động bức thư của chồng – mặc dù trong thư ông phê bình, chỉ trích bà – đến mức muốn in nó ra, phân phát để cho người khác cùng đọc. Mao chia xẻ với bà một số ý nghĩ thầm kín về quan điểm chính trị, Giang Thanh coi đó như sự thể hiện sự tin cậy của Mao và giúp bà nâng cao vị thế chính trị. Giang Thanh bắt đầu chia xẻ với các thành viên trong phe, bằng cách tìm kiếm những bức thư Mao viết gần đây, kể các bản sao chép khi Mao đề cập điều này. Tôi đã sao chép một bức thư vào sổ tay, trước khi đưa trả lại vào Tổng Kho Lưu trữ Văn khố, thậm chí giữ đến bây giờ.
Trong thời gian một phần tư thế kỷ trôi qua, tôi thường nghĩ đến bức thư của Mao. Đến tận hôm nay, mọi việc đã qua, tôi vẫn nhìn thấy trong đó bằng chứng, Mao, nhà chính trị thông thái, biết dự đoán được những sự việc hơn những gì ông biết. Lâm Bưu, con người chưa bao giờ Mao đặt niềm tin hoàn toàn, chỉ sử dụng Lâm tạm thời để chống kẻ thù trong đảng, Lâm đã quay lại chống ông, sau khi Mao qua đời, phái hữu khuynh sẽ lên nắm quyền lực.
***
Mao muốn tránh không về Bắc Kinh càng lâu càng tốt, ông theo dõi cuộc Cách mạng văn hoá từ xa, nhờ thế tôi đã tránh vào sa bẫy bất ngờ trong cuộc đấu đá chính trị. Tôi rất vui vì không có mặt ở Bắc Kinh. Nhờ những chiến dịch đấu đá chính trị trước đây tôi không liên quan, nên tin cuộc Cách mạng văn hoá không đụng đến. Tuy nhiên, Mao nghĩ khác.
Đến đầu tháng 7, Mao đã xa thủ đô nhiều tháng, Bắc Kinh trong rối loạn. Giờ đến lúc ông quyết định quay về. “Tình hình ở Bắc Kinh bắt đầu khởi sắc”. Một buổi tối, Mao nói với tôi. “Chúng ta không thể chỉ nghe báo cáo để biết cái gì đang xảy ra, phải tự bản thân mình nhìn thấy, khi đó mới có thể phân biệt người tốt trong số người xấu. Tạm thời tôi vẫn ở lại, nhưng ngày mai đồng chí trở về Bắc Kinh trước, theo dõi xem xét những gì đã xảy ra”.
Ông tôi muốn điều tra, tìm hiểu ở Bắc Kinh, sau đó báo cáo theo nhận xét cá nhân về cuộc Cách mạng văn hoá. Đấy là “cái gì đó” mà ông đã nói, cũng như muốn tôi làm thay khi ông khước từ không cho phép tôi trở lại Thạch Tư.
Tình hình chính trị ở Bắc Kinh quá phức tạp. Bộ chính trị hay Ban chấp hành Trung ương cũng không điều khiển được tình hình. Ngay đến những người thân tín, đại diện cho Mao cũng bị tấn công. Còn tôi chỉ là bác sĩ bình thường, không liên quan dính líu vào chính trị, làm sao phân biệt được ai bạn, ai thù?
– Thưa Chủ tịch, tôi không có khả năng phân biệt những người tốt trong số những người xấu. – Tôi tự vệ – Tôi biết hỏi ai về chuyện này?
Mao khuyên gặp Đào Chú, người tôi biết từ khi ông bí thư thứ nhất đảng bộ tỉnh Quảng Đông. Đào Chú đã thay Lục Đỉnh Nhất giữ chức trưởng Ban Tuyên giáo. Với tôi, Đào Chú là người dễ gặp, ông giữ chức Trưởng ban Tuyên giáo, kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban y tế quốc gia.
– Nói với ông ta, tôi cử anh tới – Mao vạch đường cho tôi – Hãy để ông ta tạo điều kiện thấy phong trào cách mạng nổi loạn làm được những gì. Hãy nhìn những bức chân dung lớn quần chúng đang giơ cao. Khi nào tôi về Bắc Kinh, báo cáo cho tôi biết anh nghĩ gì về tất cả việc này.
Tôi đang cân nhắc việc được giao. Dưới sự che chở trực tiếp của Mao, tôi cảm thấy mình còn an toàn. Trong tình thế đơn thương độc mã, được chỉ định để đánh giá phong trào chẳng hiểu mô tê gì, tôi sẽ rơi vào vòng nguy hiểm. “Hàng nghìn người đã chết trong thời gian này, tôi nghĩ”. Mao nói với tôi vài tuần trước đây – “Tất cả mọi thứ đang lộn tùng phèo. Tôi thích những sự thay đổi lớn”.
Nhưng tôi không thích những cuộc nổi loạn lớn, Cách mạng văn hoá làm tôi rất sợ. Nhưng ngày hôm sau tôi bay về Bắc Kinh, như Mao đã ra lệnh. Đây là lần đầu tiên tôi trở về Bắc Kinh sau hơn một năm.
Tôi có mặt ở thủ đô 16-6-1966, ngày mà Mao trong hội bơi thi trên sông Dương Tử. Tôi bơi nhiều lần với Mao nhưng không chú ý. Lần này tôi không thể hiểu những người nước ngoài sẽ kinh ngạc đến mức nào khi một ông già 73 tuổi lại có thể bơi nhanh hơn và xa hơn người đã từng vô địch thế vận Olympic.
Tôi biết sông Dương Tử chảy xiết như thế nào. Mao, vẫn như trong các lần bơi trước, ông nằm ngửa, bụng như quả bóng nổi trên mặt nước, cứ để dòng nước chảy mang theo ông. Đối với tôi, cuộc bơi của Mao trên sông Dương Tử có ý nghĩa như hành động thách thức chống lại ban lãnh đạo đảng, dấu hiệu cuộc chiến bắt đầu.
Với tôi, việc Mao bơi trên sông Dương Tử báo hiệu chuyện ông tự rút lui vào bóng tối đã kết thúc. Ông quay lại sân khấu chính trị. Hai ngày sau, 18-6-1966, Mao có mặt ở Bắc Kinh, để thâu tóm quyền lãnh đạo vào tay mình, trực tiếp chỉ đạo cuộc Cách mạng văn hoá.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
No comments:
Post a Comment