Friday, March 4, 2016

LÝ CHÍ THỎA * MAO TRẠCH ĐÔNG 5

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 41

Posted: 07/09/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Cuối tháng 12-1959, tôi nhận được lệnh trở về Nhóm Một. Hứa Vân Bích, thứ trưởng Bộ y tế đến thăm, ông nói chuyện với bác sĩ điều trị Ngô Tiếp, về trường hợp của tôi. Khi Lý Ẩm Kiều định lôi tôi ra khỏi viện, Ngô Tiếp nói, tôi cần phải nghỉ thêm một thời gian nữa. Thứ trưởng Bộ y tế can thiệp, Ngô Tiếp buộc phải đồng ý cho tôi xuất viện.
Tôi muốn ở lại bệnh viện, nhưng Hứa không chịu. Mẹ của Hoàng Thụ Trạch, người thay thế tôi, vừa mới mất. Cho nên Hoàng phải về Thiên Tân lo mai táng. Vì thế Nhóm Một đang cần tôi.

Tôi vẫn tiếp tục khước từ.
Nhưng sự bình phục của tôi lại bao hàm một ý nghĩa chính trị. Hứa cảnh cáo:
– Chiến dịch chống bọn cơ hội hữu khuynh đang lan nhanh như cơn lốc. Nếu đồng chí thực sự chẳng bệnh tật gì nghiêm trọng, cứ ở trong bệnh viện thật khó coi.
Rõ ràng một vụ tống tiền chính trị. Trong thời gian bốn tháng tôi nằm viện, tình hình đã thay đổi khá nhiều. Bành Đức Hoài bị cách chức trong quân đội. Cấp phó của ông, Tổng tham mưu trưởng Hoàng Khắc Thành cũng mất chức luôn. La Thuỵ Khanh được bổ nhiệm thay thế Hoàng. Lâm Bưu thay chỗ Bành Đức Hoài, giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Chủ tịch Quân uỷ trung ương, phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Nhiều người tự hỏi, tại sao Mao lại để cho một người già yếu như vậy đảm nhận quá nhiều trọng trách đến thế.
Công việc đầu tiên Lâm Bưu với tư cách Bộ trưởng Quốc phòng, công kích người tiền nhiệm trong cuộc họp của Quân uỷ lên án Bành “kẻ chống đảng” và “hữu khuynh”. Sau đó, quay sang tấn công Nguyên soái Chu Đức, ông mỉa mai nói về Chu, người đã từng cùng Mao sáng lập ra Hồng quân: “Với tư cách Tổng tư lệnh đồng chí Chu đã làm được những gì? Đồng chí ấy chưa tham gia một trận đánh lớn nào, cũng chẳng có được một thắng lợi lớn nào. Đồng chí ấy chẳng là gì ngoài chức “tổng tham mưu đen”. Bài phát biểu của Lâm đã được Mao cho phép. Chủ tịch đã quay lưng lại với Chu Đức, người bạn chiến đấu cũ của mình.
Nếu tôi cứ ở lại bệnh viện, có thể Hứa Vân Bích sẽ quy cho tôi ủng hộ Bành Đức Hoài. Biết đâu tôi lại là nạn nhân của chiến dịch chống bọn cơ hội hữu khuynh.
Tôi hứa với Hứa Vân Bích sẽ ra viện khi nào làm xong thủ tục giấy tờ. Nhưng Hứa bảo chẳng cần thiết, với tư cách Thứ trưởng bộ Y tế, lời của ông đủ điều kiện để bệnh viện đồng ý cho xuất viện.
Ngay ngày hôm sau tôi trở về Nhóm Một.
***
Mao đang ở Hàng Châu. Vương Kính Tiên đã được báo hai ngày trước khi tôi xuất viện, ông yêu cầu tôi phải tới đó càng sớm càng tốt.
Ngày 22-12-1959, tôi lên máy bay cùng với Lý Ẩm Kiều. Trên đường, chúng tôi gặp phải bão tuyết, máy bay bị rung, buộc phải hạ cánh ở Nam Kinh. Cơn bão di chuyển về hướng Nam, phía Hàng Châu, nếu tiếp tục bay sẽ rất nguy hiểm. Trưởng Ban An ninh tỉnh Giang Tô điều một chiếc ô tô chở chúng tôi đến chỗ Mao. Chúng tôi nghỉ đêm ở Nam Ninh, sáng hôm sau lên đường. Tuyết rơi dày đặc. Xe đi rất chậm về hướng Hàng Châu. Khoảng ba giờ chiều mới đến nơi. Mao vẫn ngủ. Mãi đến tối chúng tôi mới gặp nhau.
Mao nhìn tôi bằng cặp mắt ủ rũ, mệt mỏi. Ông ho liên tục kèm thêm chứng cảm lạnh. Ông hỏi:
– Tôi ốm từ mấy hôm nay. Còn đồng chí sức khỏe ra sao?
– Tôi đã khỏe, thưa Chủ tịch. Hình như Chủ tịch bị cảm lạnh.
– Tôi cũng chẳng biết. Có điều tôi thấy không được khỏe.
– Đế tôi khám cho Chủ tịch.
Mao sốt nhẹ, nhưng tim, huyết áp và mạch đập vẫn bình thường. Ông bị cảm và viêm phế quản nặng. Mao muốn bình phục sớm, vì sắp có một cuộc họp đảng. Tôi đề nghị Mao dùng kháng sinh chữa viêm phế quản và vài loại thuốc chống cảm lạnh. Mao đồng ý.
Tối hôm sau bệnh trạng của Mao khá hơn rõ rệt. Nhiệt độ của ông trở lại bình thường, không còn ho nữa. Ông tỏ ra vui vẻ, nói đùa:
– Đúng là ông bác sĩ tài hoa có thần dược.
Ngày sinh nhật lần thứ 66 của Chủ tịch sắp đến. Tôi báo tin cho Mao rằng Giang Hoa, bí thư thứ nhất tỉnh Triết Giang, mời Mao đến dự tiệc. Mao từ chối không muốn dự tiệc sinh nhật, cần nghỉ ngơi lấy lại sức khỏe, ông đề nghị Nhóm Một đi dự tiệc, về báo cáo lại. Đồng thời, cảnh cáo chúng tôi không được lấy cớ mừng sinh nhật mà lãng phí, chỉ nên chuyện trò giải trí với nhau thôi. Vì nạn đói, Mao đang bị mất thể diện, không muốn sống an chơi xa xỉ trong khi nhân dân đang lầm than, khổ cực. Những cán bộ khác của đảng ít thông cảm với hoàn cảnh của nhân dân.
Diệp Tử Long, người đặc biệt thích ăn ngon, nghiện rượu nhân dịp này sẽ ăn chơi thoả sức. Diệp định sẽ chuốc rượu cho Vương Phương, trưởng Ban An ninh Triết Giang đến say mèm. Khi tôi đem giấy mời đến, ông nói có vẻ biết ơn: “Bác sĩ ạ, đồng chí đã quan tâm chu đáo đến tất cả chúng tôi quá”.
Hôm sau, 26-12 ngày sinh nhật Mao. Toàn bộ những người giúp việc của ông đã đến chúc mừng. Mao đã hoàn toàn bình phục, tỏ ra rất phấn khởi. Ông cảm ơn tôi vì đã chữa khỏi bệnh. Sau đó chúng tôi chụp ảnh chung.
Bữa tiệc tối hôm đó có cả thảy 8 bàn, mỗi bàn có 10 người. Toàn bộ ban lãnh đạo cao cấp của tỉnh Triết Giang đã đến dự. Giang Hoa, bí thư thứ nhất, Vương Phương, trưởng Ban An ninh tỉnh thay mặt quan khách đến chỗ Mao chúc mừng sinh nhật.
Lời cảnh cáo đừng nên hưởng thụ quá đáng của Mao đã không được đếm xỉa. Bữa tiệc này tốn kém nhất so với những bữa tiệc tôi từng được tham dự trong. Người ta dọn ra bàn những món đặc sản đắt giá nhất, hiếm nhất, quí nhất mà Trung Quốc có. Chúng tôi được ăn món súp yến chính hiệu nấu với thịt chim bồ câu non, một trong những món ăn quí hiếm nhất, món súp vây cá mập nấu trong nồi đất đặc biệt, món đặc sản đắt tiền. Không có món ăn nào sánh được với hai món đặc sản này. Tuy nhiên, các món khác cũng không kém phần hấp dẫn. Cả rượu vang cũng là thứ tuyệt hảo, Diệp Tử Long chẳng cần cố gắng quá sức chuốc rượu, ấy thế mà Vương Phương say mèm.
Trong bữa tiệc, Vương Kính Tiên thì thầm với tôi: “Thật xấu hổ trong khi rất nhiều người đang chết đói, chúng ta lại tiệc tùng như thế này”.
Tôi tán thành ý kiến của ông. Bên ngoài bức tường bao bọc Nhóm Một và giới lãnh đạo cao cấp, có đặc quyền đặc lợi, rất nhiều nông dân Trung Quốc đang chết đói. Vụ mùa năm 1959 còn tệ hơn cả năm trước. Hàng triệu người chết, con số lên đến hàng chục triệu khi nạn đói tràn qua. Trong khi đó, tôi với Lâm Khắc, Vương Kính Tiên, Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều cùng toàn thể cán bộ lãnh đạo cao cấp của tỉnh Triết Giang lại đang ăn mừng ngày sinh lần thứ 66 của vị hoàng đế Mao vắng mặt tại đây. Những chiếc bàn nặng trĩu cong xuống bởi những món sơn hào, hải vị. Viên trưởng Ban An ninh tỉnh say khướt, ngã lăn quay ra đất. Tôi cảm thấy mình thật đáng trách.
Nhưng tôi chẳng còn sự lựa chọn nào khác. Nếu từ chối không tham dự bữa tiệc, tôi sẽ gặp rắc rối về chính trị. “Kẻ nào đơn thương độc mã, kẻ đó sẽ bị bắn hạ”. Lâm Khắc thường trích dẫn câu đó của văn hào Lỗ Tấn. “Nếu muốn bảo toàn tính mạng trong Nhóm Một, chúng ta phải cưỡng lại lương tâm”. Nếu muốn được sống theo lương tâm, tôi chỉ có một cách duy nhất, rời khỏi Nhóm Một. Nhưng cứ lần nào định bỏ, lần đó tôi lại không thành.
Tôi sống trong một thế giói cách biệt. Trong Nhóm Một không hề có luật lệ, pháp luật. Đây là thiên đường, không bị một cái gì bó buộc ngoài việc bị phụ thuộc vào tâm trạng của Mao, với những người còn đôi chút lương tâm thường bị dằn vặt bởi cảm giác tội lỗi.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa


Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 42

Posted: 10/09/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Trong khi nạn đói đang lan đi dễ sợ, nạn tham nhũng, truỵ lạc trong đảng không giảm, thậm chí còn gia tăng hơn nữa. Đầu tháng 1-1960, vài ngày sau sinh nhật Mao, chúng tôi rời Hàng Châu đi Thượng Hải, nơi một hội nghị mở rộng của Bộ chính trị sẽ được tổ chức vào ngày 7-1-1960 Mao ở lại trên tàu hoả, còn những người tham dự hội nghị và đoàn tuỳ tùng ở trong khách sạn Tấn Giang sang trọng do Pháp xây dựng trước đây. Trong các cuộc họp của hội nghị, người ta đã đưa ra hết báo cáo tuyệt vời này đến đề nghị hay khác, Bộ Chính trị càng ngày càng ngả sang tả. Sản lượng thép được nâng lên 18 triệu tấn, người ta muốn thành lập những doanh nghiệp nhỏ trong phạm vi các tỉnh và công xã nhân dân. Hệ thống thuỷ lợi được mở rộng, các xí nghiệp chăn nuôi lợn cỡ lớn được thành lập.

Ban ngày, các nhà lãnh đạo đảng ngồi nghĩ ra những kế hoạch kinh tế không tưởng. Tối đến, họ lại vui chơi giải trí. Các nhóm biểu diễn nhào lộn, các đoàn ca múa nhạc, các đội khiêu vũ từ khắp đất nước cũng như những ngôi sao kinh kịch nổi tiếng của Bắc Kinh và của các nhà hát địa phương được đưa về đây trình diễn.
Người ta đổ xô đi mua sắm. Đến lượt Kha Thanh Thế, thị trưởng thành phố Thượng Hải, biểu diễn một màn kịch tốn kém để mê hoặc Mao và giới lãnh đạo cao cấp. Trong khi toàn dân đang lâm vào tình trạng thiếu thốn lương thực, hàng tiêu dùng khan hiếm trầm trọng thì các quầy hàng của khách sạn Tấn Giang đầy ắp đủ các mặt hàng có chất lượng cao với giá bán rất phải chăng như: xe đạp, giầy da, hàng len dạ, những mặt hàng không bao giờ người dân mua được trong những cửa hàng ở các địa phương khác.
Các nhà lãnh đạo của Trung Quốc, các nhân viên của Trung Nam Hải và chúng tôi, những thành viên của Nhóm Một thi nhau mua sắm như điên loạn. Cả tôi cũng bị hút vào cơn sốt mua hàng.
Một buổi chiều tôi gặp Dương Thượng Côn và Diệp Tử Long ôm một đống đồ ra khỏi cửa hàng. Diệp Tử Long bắt đầu sao nhãng công việc và đây là cơ hội đối với Lý Ẩm Kiều. Do tác động của Giang Thanh. Mao đã không cho Diệp quản lý tiền của ông, giao việc này cho Lý Ẩm Kiều.
Diệp Tử Long bực tức, một hôm phàn nàn với tôi:
– Đồ tồi! Tôi đã dàn xếp những chuyện bẩn thỉu của ông từng ấy năm, thế mà bây giờ tôi được trả công như thế đấy.
Tôi tìm cách an ủi:
– Theo tôi, Chủ tịch đối tốt với đồng chí lắm.
Diệp phản đối:
– Làm gì có chuyện đó. Ông ta tước hết chức quyền, lại còn tuyên bố tôi làm việc chẳng ra gì, chẳng qua muốn kiếm chuyện đuổi tôi, như thế khác gì giết người ta cơ chứ.
Sự thận trọng hàng ngày biến mất, bỗng nhiên ông ta phun ra hết những chi tiết về đời tư của Mao. Chính ông ta đã dẫn các tì thiếp của Mao trong đêm tối đến Mao như thế nào, cất giấu họ cho đến khi Mao sẵn sàng ra sao. Ông ta đã lấy tiền từ tài khoản của Mao để trả cho những người đàn bà này thế nào, đã bí mật đưa họ đi mà Giang Thanh không hề hay biết.
Từ giờ tôi không thể giả ngô giả ngọng được nữa mỗi khi Mao tiếp những vị khách nữ của ông. Diệp Tử Long đã giúp tôi xác nhận điều mà nhiều năm tôi còn nghi ngờ, chưa dám tin.
Sau khi xuất viện tôi trở lại Nhóm Một, Mao không tìm cách che đậy bê bối của nữa. Trong thời gian tôi nằm viện, Mao quen một cô nhân viên của Phòng bảo mật. Một thiếu nữ trẻ, trắng trẻo, có cặp mắt đen láy, đôi lông mày cong, đã gây ấn tượng mạnh đối với Mao bằng lời quả quyết, từ hồi còn đi học cấp I, cô đã bênh vực Mao trước những bọn phản động dám phỉ bang dám gọi ông là “tướng cướp”, tung tin đồn cộng sản là cộng vợ cộng chồng, vì thế cô đã bị các bạn học đánh.
Sau đó cô ta thường ở bên Mao, ai cũng biết mối quan hệ này. Cô đi Thượng Hải cùng ông, ban ngày cũng như ban đêm đều kè kè bên cạnh, thường nhảy với ông cho đến 1 hay 2 giờ sáng. Mao không biết mệt và chỉ quay về đoàn tàu khi cô đã kiệt sức.
Cô là người tình đầu tiên của Mao mà không cần giấu giếm Giang Thanh. Cô ta tỏ ra hãnh diện vì được làm tì thiếp, cư xử với bà vợ già của Chủ tịch như một người bạn gái. Giang Thanh tỏ vẻ đáp lại tình bạn đó. Theo tôi, hành động này chính là sự cáo lỗi của Giang Thanh đối với Mao – sau khi bắt quá tang ông ngủ với y tá của bà, và rõ ràng là tín hiệu bà đã chấp nhận những vụ bê bối của chồng.
Việc Bành Đức Hoài bị đi đày làm cho lòng tin của tôi đối với Mao giảm sút. Khi đã biết tường tận về đời tư của Mao, sự sùng kính của tôi đối với ông đã hết.
Việc Mao giao cho Lý Ẩm Kiều trách nhiệm quản lý những vấn đề riêng của ông cũng không làm cho tệ tham nhũng trong Nhóm Một giảm đi. Lý Ẩm Kiều cũng đồi bại như Diệp Tử Long.
Năm 1958, Lý Ẩm Kiều cặp bồ với một cô trong đám nhân viên của Mao. Cả hai vì đam mê sao nhãng công việc. Việc này đã không thoát khỏi mắt Mao. Một hôm, Mao bảo tôi, hai cô cậu này quấn nhau như dính keo, chẳng chú ý đến công việc.
Trong khi Mao đang ngủ trên tàu, Lý bí mật lẻn ra ngoài gặp gỡ cô bồ trong khách sạn Tấn Giang. Một hôm, khi Kha Thanh Thế tới đón Mao đi họp đảng chẳng thấy người hộ tống của Mao đâu. Mãi sau, Lý mới xuất hiện. Mao điên tiết nói:
– Lý Ẩm Kiều anh cứ ôm gái cả ngày lẫn đêm. Anh tự coi anh là cái thá cơ chứ?
Kha Thanh Thế rất lo. Lý Ẩm Kiều chịu trách nhiệm đảm bảo an toàn cho Chủ tịch mà bê bối thế này, nhỡ có chuyện gì không may xảy ra ở Thượng Hải, Kha Thanh Thế sẽ phải chịu trách nhiệm. Kha kể cho thị trưởng Bắc Kinh Bành Chân và vài cán bộ cáo cấp khác trưng cấu ý kiến. Mọi người đồng ý phải làm một việc gì đó, bởi sự an toàn của Mao đang bị coi nhẹ.
Khi chúng tôi rời Thượng Hải đi Quảng Châu, sự việc trở nên rắc rối hơn. Ba ngày sau khi chúng tôi vừa đến nơi, cô tình nhân của Lý Ẩm Kiều hốt hoảng đến tìm tôi. Cô ta đã có thai, xin tôi giúp cô ta nạo thai ở Quảng Châu.
Tôi chần chừ, vì chúng tôi chỉ đến những cơ sở y tế địa phương trong trường hợp cực kỳ cấp bách. Do cô quả quyết đã có thai từ khi ở Bắc Kinh, tôi hỏi tại sao không trở về thủ đô nạo thai, lại đòi nạo ở Quảng Châu.
Hai ngày sau, Lý Ẩm Kiều mò đến chỗ tôi lạy lục xin giúp đỡ. Nếu để tình nhân phá thai ở Bắc Kinh sẽ “không tiện lắm”. Bởi vì ở đó có quá nhiều người biết cô ta, sự việc có thể vỡ lở. Diệp Tử Long đã đồng ý cho phép cô ta được nạo thai ở Quảng Châu.
Việc Diệp Tử Long đồng ý cho người tình của Lý Ẩm Kiều nạo thai ở Quảng Châu và sự im lặng của Lý Ẩm Kiều lại liên quan đến một chuyện khác. Sau khi chúng tôi vừa đến Quảng Châu, Diệp xin tôi kê cho ông đơn thuốc chống bệnh rụng tóc. Ông ta muốn thuốc do Nhật sản xuất, loại này nhập từ Hong Kong. Đơn tôi kê, tiền thuốc sẽ tính vào tài khoản chính phủ, nhưng lần ấy tôi kê đơn cho ông ta. Chắc hẳn Diệp Tử Long vẫn còn nhớ chuyện trước đây tôi đã từ chối không cho người em trai bị bệnh giang mai thuốc penicillin. Tôi hiểu, nếu một lần nữa tôi từ chối lời đề nghị, ông ta sẽ không để yên. Những chuyện tống tiền theo kiểu vặt vãnh này thường xảy ra trong Nhóm Một. Diệp Tử Long đồng ý cho cô gái kia nạo thai để Lý Ẩm Kiều không ton hót với Mao về thứ thuốc nhập ngoại trên.
Tôi còn lưỡng lự, tình nhân của Lý lại đến nài nỉ, cô bảo thai đã 2 tháng, không thể chờ lâu được nữa.
Tôi thoả thuận với giám đốc Bệnh viện Nhân dân ở Quảng Châu việc nạo thai sẽ được tiến hành trong bệnh viện. Tuy nhiên, tôi thấy không thoải mái khi phải dùng ảnh hưởng của mình với tư cách bác sĩ riêng của Mao. Buổi chiều, nhân tình của Lý vào viện.
Tối hôm đó, Giang Thanh hỏi tôi tại sao cô ta lại phải vào viện. Tôi trả lời, cô ta vào để nạo thai và chẳng cần nói cho Giang Thanh biết ai là cha đứa bé. “Thật là quá quắt!” bà kêu lên, đập bàn tay xuống mặt bàn.
Sau khi chúng tôi về Bắc Kinh. Lý Ẩm Kiều vẫn công khai chung chăn gối với nhân tình trong lúc vợ ông, Hàn Quí Tường đi vắng. Chồng của cô nhân tình, đạo diễn phim Hứa Tiêu Băng, biết chuyện định tự vẫn. Một buổi chiến. cô nhân tình của Lý hốt hoảng chạy vào nhà tôi kêu cứu một cách thảm thiết. Chồng cô sắp chết, vừa nói vừa khóc, giục tôi nhanh chân xem có cách nào cứu chữa được không.
Hứa Tiêu Bằng nằm trên sàn nhà, thở rất nặng nhọc. Anh ta phều phào: “Tôi chẳng thiết sống nữa. Nhục nhã quá!” Anh ta đã uống thuỷ ngân từ một chiếc nhiệt kế. Nhưng anh ta vẫn sống, chẳng cần phải đi bệnh viện.
Ngay việc người chồng tự sát cũng không thể làm cho người phụ nữ kia dứt bỏ khỏi cuộc tình phiêu lưu với Lý Ẩm Kiều.
Diệp Tử Long vẫn không vui, phàn nàn:
– Mao không nói thẳng ra muốn tôi thôi việc, nhưng cũng chẳng bảo tôi làm việc gì đó cho ông nữa?
Mao bắt đầu chỉ trích Diệp trước mặt các nhân viên. Diệp đến cầu cứu Bành Chân thu xếp cho Diệp một chức vụ nào đó. Diệp vẫn thường nói xấu Mao, chẳng bao lâu cả những cán bộ lãnh đạo cao cấp như Bành Chân, Dương Thượng Côn đều biết những vụ bê bối của Mao. Tuy những vụ bê bối đó không còn là chuyện bí mật, bất cứ ai trong giới lãnh đạo cao cấp của đảng cũng biết, nhưng việc Diệp ngồi lê đôi mách vẫn vô cùng nguy hiểm.
Suýt nữa Diệp Tử Long toi mạng. Mao không hề biết Diệp nói xấu ông, tôi cũng không biết Mao sẽ phản ứng ra sao nếu như ông biết chuyện này. Uông Đông Hưng bảo tôi, việc này đã đến tai Lưu Thiếu Kỳ. Lưu bảo vệ Chủ tịch. Ông lo lắng cho sự an toàn của Chủ tịch, nhanh chóng thực hiện những biện pháp cứng rắn đối với Diệp. Lưu nói: “Đồng chí Diệp đã nói xấu đảng”. Lưu đòi bắt giam và xử tử viên bí thư của Mao. Đến khi Chu Ân Lai và Bành Chân can thiệp, Lưu Thiếu Kỳ mới tha cho Diệp Tử Long.
Những nhân viên trong Nhóm Một đều lấy cuộc sống tình dục của Mao làm gương, điều đó chẳng lấy gì ngạc nhiên. Đa số họ là thanh niên trẻ đẹp. Những đêm khiêu vũ có tất cả chúng tôi tham gia là dịp may để làm quen với những thiếu nữ xinh đẹp. Nhưng đối với hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đất nước lại có một chuẩn mực khác với cấp dưới. Mao chẳng cần nghe lời ai, ông có thể làm bất cứ gì ông muốn. Nhưng các nhân viên của ông lại bị điều lệ khe khắt của đảng trói buộc. Tất nhiên chuyện gì đó sẽ phải xảy ra. Có thể Uông Đông Hưng sẽ giải quyết được vấn đề này, cho nên Mao triệu Uông trở lại Nhóm Một.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 43

Posted: 12/09/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Uông Đông Hưng quay về Trung Nam Hải tháng 10-1960. Uông đã tĩnh tâm suy xét sau những năm bị đầy ải khốn khổ và hoàn thiện thêm năng khiếu chính trị sắc bén vốn có, giờ đây ông nắm chặt nguyên tắc mới, sống còn về chính trị, “tuyệt đối phục tùng Mao bằng mọi giá”. Không bao giờ nói “không” đã trở thành quy tắc ứng xử của Uông. “Nếu Mao bảo một, nghĩa là một. Nếu Mao bảo hai, nghĩa là hai”. Từ nay trở đi, Uông tin Chủ tịch luôn luôn tuyệt đối đúng. Uông không muốn bị đi đầy lần nữa và cũng không muốn phạm phải thêm sai lầm một lần nữa.

Sự phục tùng Giang Thanh là sai lầm đầu tiên của Uông, lẽ ra ông có thể tránh được. Trước khi bị đầy đi Giang Tây, Uông thi hành mệnh lệnh của Giang Thanh như mệnh lệnh của Mao. Nhưng đòi hỏi Giang Thanh không có giới hạn, dù Uông thực hiện mọi ý muốn của bà. Giang Thanh vẫn phát biểu chống ông. Mao phê bình, bảo: “Nếu anh theo yêu cầu của Giang Thanh, hãy sang làm với bà ấy chứ đừng làm với tôi nữa”. Thế là Uông giờ đây chỉ nghe Mao. Giang Thanh không thể doạ nạt ông thêm được. “Tôi đã bị hạ cấp xuống 4 năm – ông nói – đã không chết. Giờ đây nếu tệ nhất cũng chỉ đến đi đầy như xưa là cùng. Như thế nếu nghĩ rằng có thể thúc ép tôi như cũ, bà ta sẽ nhầm, chỉ có trong giấc mơ thôi”.
Nhiệm vụ đầu tiên của Uông củng cố quyền lực trong Nhóm Một bằng cách thanh lọc kẻ thù, lựa chọn những người trung thành tuyệt đối. Chuyện tham nhũng trong Nhóm Một lùm xùm từ lâu, gia tăng đến mức Mao cũng không thể làm ngơ, nên ông đành tạo điều kiện cho Uông chỉnh đốn sai lầm trong chiến dịch thanh lọc nội bộ.
Trước đây, Uông Đông Hưng từng bị dính đến tham nhũng với Nhóm Một. Đầu những năm 50, khi đảng tuyên truyền cán bộ đảng viên trong sạch, Uông bị buộc tội tham nhũng, bê tha. Uông đã nhận phê bình thành khẩn và được biểu dương cán bộ gương mẫu.
Tuy nhiên năm 1952, khi bộ trưởng Bộ công an La Thuỵ Khanh bắt đầu chiến dịch “ba chống”, chống tham nhũng trong nội bộ, Uông lại dính. Một lần, La Thuỵ Khanh triệu tập thành phần lãnh đạo chủ chốt bộ công an, yêu cầu ai có lỗi đứng lên tự phê bình. Tất cả im lặng. Thời gian trôi qua, chẳng ai phát biểu.
– Uông! – cuối cùng La lên tiếng – Vì sao anh không nói? Chẳng lẽ anh không có vấn đề gì để nói cho chúng tôi hay sao?
Uông, một dòng họ khá phổ biến ở Trung Quốc. Đông Hưng cũng không phải là tên duy nhât của Uông trên hội nghị. Cả hai Uông liếc nhìn nhau, không nói gì.
– Uông Đông Hưng, Vì sao anh liếc nhìn người khác thế? – La rời ghế chủ tịch đoàn, đi xuống – Tốt nhất, anh nên tự phê bình, nếu không sẽ rất nguy hiểm về sinh mạng chính trị đấy!
Uông Đông Hưng sau này kể tôi nghe vụ việc.
– Anh ăn cắp một cái gì đó của Chủ tịch và bán nó, đúng thế không? – La hỏi.
Uông Đông Hưng không thể hiểu La định nói gì.
– Anh lại còn im lặng, thậm chí sau gợi ý của tôi? – La dồn – Hãy nhìn xem, cái gì đây? – La giữ trong tay tập giấy.
Đó là bức thư của cửa hàng xác nhận, Uông Đông Hưng lấy máy ảnh của Mao bán cho cô. Hoá đơn kèm theo có chữ ký của Uông Đông Hưng.
Nhưng Uông không lấy máy ảnh của Mao, cũng không biết gì về việc này. Tên trên hoá đơn là tên ông, nhưng chữ ký không phải. Cuối cùng Uông đã chứng minh rằng chữ ký là giả.
Thông thường Mao nhìn nhận sự tham nhũng bình tĩnh hơn Uông. Sự thật thà không làm Mao quá quan tâm. Nếu người có lỗi, nhưng thực sự làm được việc, hữu ích cho ông, chẳng may phạm tội dù lớn hay nhỏ, Mao sẽ bảo vệ. Nhưng khi người đó trở nên vô dụng, Mao trừng phạt không thương tiếc. Dù người đó là trợ lý hay đồng minh chính trị thân cận cũng có thể trở thành kẻ thù của lãnh tụ chỉ sau một đêm.
Mao cũng không còn hài lòng Diệp và Lý, nhưng hai người lại biết qua nhiều đời tư, nếu bị dồn tới chân tường, họ cũng thể liều lĩnh bung hết bí mật. Tuy nhiên, Mao tìm cách đáp trả họ một cách bí mật, khôn khéo.
Mục đích chính của Uông quay về Nhóm Một là thâu tóm quyền lực, tống khứ hai kẻ thù Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều ngay lập tức. Nhưng cả hai người tìm cách thông qua Mao để trừng phạt ông. Uông buộc tội họ làm ông bị đày ải 4 năm. Bây giờ trờ về Trung Nam Hải, đến lượt Uông trả đũa hai người.
Tuy nhiên tôi tin Uông không chỉ khát mộng trả thù, còn vì những cảnh đời thực tế ông đã trải qua. Tại vùng nông thôn Giang Tây, Uông thấy tận mắt sự khổ cực, sự vất vả của nhân dân và bản thân đã nếm mùi cay đắng như thế nào, trong khi đặc quyền, đặc lợi được dành cho Nhóm Một như đã xát muối vào vết thương cũ. Điều quan trọng hơn, nạn đói cuối cùng đã tràn vào Trung Nam Hải. Bên trong những bức tường màu châu sa, ngăn cách bao bọc nhóm người được hưởng đặc quyền đặc lợi cũng không tránh khỏi tình trạng đói kém trong cả nước.
Khẩu phần của chúng tôi giảm xuống còn 16 cân (một cân = 0,454 gram) ngũ cốc trong một tháng. Thịt, trứng, dầu rán nói chung không có. Nhà bếp được phép mua rau quả ở chợ, nhưng ở đó cũng thật hiếm hoi, không nhiều. Một số người tổ chức đi săn dê rừng, nhưng rồi chẳng bao lâu dê rừng cũng trở nên hiếm.
Nạn đói tấn công Trung Nam Hải, bệnh phù thiếu dinh dưỡng và viêm gan bùng phát. Gia đình tôi chịu nhiều tổn thất. Lý Liên có dấu hiệu suy dinh dưỡng, bắt đầu phù thũng nhưng lo cho các con hơn lo cho bản thân. Thỉnh thoảng tôi mang về nhà một ít hạt đậu tương, vợ tôi dành tất cho tụi trẻ. Những chuyến đi cùng với Mao tới các tỉnh thành, tuy làm nhà tôi buồn, nhưng bù lại, trở thành ngày vui của gia đình. Mỗi khi tôi vắng mặt, khẩu phần ăn gia đình khá hơn, vì vẫn được nhận 16 cân gạo tiêu chuẩn của tôi.
Mao, tất nhiên, không phải đương đầu với nạn đói, mọi người cố tình dấu nhẹm, nhưng rồi ông cũng đã biết sự nghiêm trọng của khủng hoảng lương thực. Các tài liệu ông nhận được hàng ngày giờ đây không cho phép ông tránh né sự thật. Khắp mọi miền đất nước tin tức đưa về, từ mùa hè năm 1960, tin xấu đã đè nặng Mao đến nỗi ông nằm bẹp dí gần như không ra khỏi giường. Ông cảm thấy không còn đủ minh mẫn để hiểu được làm thế nào chấm dứt nạn đói. Khi tôi báo cáo cho ông về bệnh phù thũng do thiếu dinh dưỡng và viêm gan lan rộng, Chủ tịch buộc tội tôi quấy rối, gây khó khăn cho người khác.
– Đồng chí là bác sĩ chẳng có việc gì hơn là doạ mọi người – Mao nói đốp vào mặt tôi – Đồng chí chỉ có mỗi việc là đi bới bệnh. Nếu người ta không đau ốm, chắc hẳn đồng chí sẽ thất nghiệp?
Tôi trả lời, bới bệnh không phải công việc của bác sĩ, nhưng chúng tôi đã phải đối mặt với những bệnh nhân do thiếu ăn đến khám bệnh hàng ngày. Mao bảo:
– Khác cái gì nảo? Chúng ta đang ở trong nạn đói. Còn các bác sĩ, chỉ làm người ta rối lên, toàn nói đến bệnh tật. Đồng chí tạo ra những khó khăn cho mọi người. Tôi không tin đồng chí.
Mao đưa tôi tập Bản tin Nội bộ, trong đó có những bài nhận định, đời sống nhân dân đã được cải thiện, lượng đạm và các thành phần chất bổ đang tăng lên chống nạn đói. Dương Thượng Côn bắt đầu đưa ra khẩu hiệu, “phát huy tinh thần Vạn Lý Trường Chinh”. Ông ta khuyên chúng tôi bình tĩnh chấp nhận khó khăn, phải biết tự tin, nên tham gia trồng rau và dưa hấu tự cải thiện đời sống gia đình.
Chẳng mấy chốc tất cả chúng tôi trồng những luống rau, nhiều người xin nghỉ phép chăm sóc vườn rau nho nhỏ quý giá. Dù vậy dạ dày của chúng tôi vẫn luôn luôn không đầy. Các vườn rau không làm giảm bệnh phù thũng do đói ăn và bệnh tật đang hoành hành.
Tôi nghĩ Mao thật vô lý, nhắm mắt không nhận ra bệnh tật đang lan truyền quanh ông. Nhưng tôi chấp nhận ảo tưởng của ông, không bao giờ đả động đến đề tài này và cũng không nói khi Chủ tịch có mặt, làm như nạn đói và bệnh tật đột nhiên đã biến mất một cách siêu thần. Mao vẫn tức một số cán bộ cao cấp của đảng, người mà ông gọi là “phía tiêu cực” của mọi vấn đề. Mao thường nhắc lại:
– Họ càng nói nhiều về phía đen tối của vấn đề, họ càng đến gần chỗ tối tăm.
Mao coi những người lãnh đạo hay nói về khó khăn để làm áp lực đè nặng lên vai ông.
Mao chỉ làm một sự nhượng bộ duy nhất đối với nạn đói, ông ngừng ăn thịt. Ông nói:
– Mọi người bị đói. Trong hoàn cảnh này tôi không thể ăn thịt được.
Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai sợ rằng việc này làm hại sức khoẻ Mao, khuyên tôi tác động đến lãnh tụ.
Khi một số tỉnh đông bắc gửi biếu các nhà lãnh đạo cao cấp đất nước thịt hổ và thịt nai, tôi khuyên Mao nên ăn. Ông từ chối.
– Đem cho bếp ăn tập thể – ông ra lệnh.
– Liệu chúng tôi để lại cho Chủ tịch một ít được không? – tôi hỏi.
– Giờ đây tôi không ăn thịt – Mao đáp – Chờ một thời gian nữa.
Việc từ chối không ăn thịt chẳng làm giảm sự đói kém. Chỉ có một số người trong Trung Nam Hải được ăn khá hơn, vì Mao chia xẻ phần thịt hổ, thịt nai còn người dân vẫn thế. Chủ tịch hy vọng mọi người trong giới lãnh đạo đánh giá cao cử chỉ và hành động này của ông.
Lợi dụng cảnh đói kém, Uông Đông Hưng ra tay phát động chiến dịch sắp xếp, cải tổ nội bộ Nhóm Một. Sự đặc quyền đặc lợi của Nhóm Một chưa bao giờ bị cắt giảm ưu đãi cho những đồng chí làm việc trong Trung Nam Hải. Ai cũng biết chúng tôi thường xuyên hưởng ưu tiên đặc biệt, được ăn uống miễn phí. Họ có thể nhìn thấy đồng hồ Rolex, máy ảnh Leica, tịch thu từ bọn gián điệp Đài Loan xâm phạm đất liền, của lực lượng an ninh bán cho chúng tôi. Họ cũng biết chúng tôi được quyền dùng đồ sa sỉ, sang trọng như com-lê dạ, áo lụa, giầy da những thứ người dân thường không thể mua được. Cuộc sống chúng tôi vẫn đầy đủ, rực rỡ đầy sang trọng ngay trong thời kỳ đói kém, chỉ gây lên sự tương phản trái chiều, xa cách giữa chúng tôi với các đồng chí khác.
Để tăng quyền lực Nhóm Một, Uông Đông Hưng tấn công vào đặc quyền đặc lợi này. Uông chĩa mũi dùi vào Lý Ẩm Kiều.
– Diệp Tử Long và tôi chức vụ ngang hàng nhau, nhưng Diệp làm việc cho Chủ tịch lâu hơn tôi – Uông giải thích – Nếu tôi phát biểu chống ông ta, tôi sẽ bị ông ta gây khó dễ.
Nếu Uông tấn công đồng thời cả hai, họ có thể liên kết với nhau. Chiến thuật của Uông cô lập Diệp, tập trung chĩa mũi dùi vào Lý Ẩm Kiều.
Mao đồng ý, Diệp Tử Long chưa cần phải đánh công khai. Tất cả lời buộc tội được xem xét kín đáo dưới dạng văn bản.
Khi Uông Đông Hưng chưa cần nhắc đến chuyện nhân tình Lý Ẩm Kiều cũng đã quá sợ hãi. Tình hình trở lên rất tế nhị. Hậu quả của việc đưa ra công khai chuyện phá thai ở Quảng Châu không thể nói trước được. Nếu lộ ra, Uông cũng sợ Lý do quá xấu hổ có thể tự sát.
Cuộc phê bình Lý Ẩm Kiều bắt đầu cuối tháng 10-1960, kéo dài hai tháng. Họp hành liên tục 2-3 giờ một ngày. Người ta tiến hành họp lúc Mao ngủ, khi các nhân viên rảnh rỗi không phải làm việc. Ít người biết về vai trò của Chủ tịch trong chiến dịch thanh trừng nội bộ, bởi vì những cuộc kiểm điểm chỉ xảy ra khi ông ngủ. Ông sử dụng các vệ sĩ của mình để điều khiển tất cả màn kịch bằng cách nhận tin tức hàng ngày và xúi ai nói và nói cái gì. Vệ sĩ Tiểu Chương kể về việc Lý Ẩm Kiều vào cửa hàng ở Thượng Hải và ngạc nhiên thấy Lý móc tiền ra mua hàng.
Việc huy động tất cả nhân viên chống Lý Ẩm Kiều thật dễ. Vì Lý có đủ các kẻ thù, người đã từng sợ hãi tính cách kiêu căng, lỗ mãng của Lý. Nhưng những chuyện đình đám nhất vẫn chưa nổi lên trên mặt nước. Ai cũng ngại làm mất danh dự Lý quá nhiều. Tôi cũng hạn chế phê bình, chỉ đề cập đến sự lạm đụng đặc quyền một cách chung chung mà chúng tôi ít nhiều được hưởng như khách sạn thanh lịch trong chuyến đi, thức ăn ngon lành, phục vụ miễn phí, được mua đồ xa xỉ. Còn về vụ nạo thai ở Quảng Châu tôi lờ tịt.
Nhưng cuộc thanh trừng nội bộ này có hậu quả không lường. Khi mà Diệp Tử Long tưởng rằng mình thoát khỏi phê bình, thì sự giàu có phi lý của ông đã lộ ra, trở thành yếu tố quan trọng chống lại ông. Ví dụ như ngôi nhà của Diệp ở Điền Trang, nơi thường được tổ chức ăn uống gặp mặt với các quan chức cao cấp, mà những người vạch tội, gọi “nhóm bạn nhậu”, dùng tiền công quỹ mở tiệc nhậu nhẹt. Diệp Tử Long lo ngay ngáy vì sợ chuyện này bị phanh phui.
Sau một đêm, Uông Đông Hưng đã trở thành vị anh hùng của Trung Nam Hải, ông dám thách thức, cả gan đấu tranh với những người có quyền lực, tiếng tăm của Uông nổi như cồn. Chu Ân Lai và Lưu Thiều Kỳ rất hài lòng.
Phán xét, kết luận thuộc thẩm quyền của Mao. Sắp sinh nhật 67 tuổi của ông, ngày 26-12-1960.
Hai ngày trước sinh nhật, Uông Đông Hưng trình Mao kết quả điều tra. Uông báo cáo, một số nhân viên làm việc lâu năm quanh lãnh tụ đã phớt lờ nỗi thống khổ của nhân dân, trở thành những người hưởng đặc quyền, đặc lợi. Trong khi nhân dân cả nước chịu khổ cực, họ tổ chức tiệc tùng hoang phí, đi lại, ăn uống bằng tiền ngân khố nhà nước, sử dụng chức vụ của mình để mua những hàng hoá quý hiếm không bán trên thị trường. Họ đã gây tiếng xấu cho Nhóm Một.
Ngày sinh nhật Mao, có mặt Diệp Tử Long, Lý Ẩm Kiều, Vương Kính Tiên, Lâm Khắc, thư ký riêng Quang Trị, y tá trưởng Ngô Tự Tuấn và Uông Đông Hưng. Lúc ấy, tôi ở Quảng Châu với Giang Thanh, nhưng Uông Đông Hưng sau này kể tôi nghe.
Vì Chủ tịch không ăn thịt nên bữa cơm đạm bạc. Trong bữa ăn, Mao bắt đầu kể chuyện lịch sử thời kỳ Chiến Quốc (403-221 trước công nguyên), Từ Thanh đến thăm bạn cũ Thương Ưởng, tể tướng triều Tần. Từ Thanh đang rất túng quẫn, hy vọng Thương Ưởng giúp ông xếp cho việc làm. Thương Ưởng cho người tiếp bạn vào một nhà khách sang trọng, (giống như khách sạn hiện đại Bắc Kinh ngày nay – Mao giải thích), tiếp đón rất ân cần, nhưng Thương Ưởng không ra gặp ông. Sau hai tháng sống trong nhà khách sa hoa, Từ Thanh cũng chẳng thấy tể tướng đến. Ông đành trở về, hoàn toàn tin tình bạn quý báu, ưu ái của hai người đã hết.
Sau khi về nhà, ông thấy nhà mình đã được sửa chữa lại, khang trang và đẹp hơn. Bếp đầy thức ăn. “Tể tướng Thương Ưởng chưa muốn tiếp ông, vì Tể tướng biết ông tài năng có thể thực hiện những kỳ công lớn” – Vị thượng thư giải thích – Tể tướng cử ông tham gia trong sứ bộ ngoại giao. Tể tướng muốn ông làm thuyết khách viếng sáu nước lân bang, khuyên họ đừng tấn công nhà Tần”. Từ Thanh sung sướng nhận nhiệm vụ thuyết khách, ông đã thành công cứu nhà Tần khỏi bị tấn công.
Mao cũng gửi nhân viên của mình làm sứ mạng ngoại giao. “Thậm chí những người bạn tốt không cần sống gần nhau – ông nói – Mỗi người phụ thuộc vào bản thân mình, chúng ta cần phải làm việc thực hiện kỳ công lớn. Nước ta đang chịu đựng thử thách lớn. Thực tế đang lâm vào tình trạng khủng hoảng thiếu trầm trọng. Dân đang đói khổ”. Mao muốn, các bạn ông xuống làm việc chung với tầng lớp tận cùng xã hội, chia xẻ số phận với nhân dân, có thế họ mới thấu hiểu khó khăn của ông. Rồi sau đó họ sẽ báo cáo cho Chủ tịch tất cả cái gì họ biết.
Không một ai trong số những người có mặt trong bữa ăn muốn ra đi. Uông Đông Hưng, tất nhiên, được ở lại. Nhưng Mao muốn Diệp Tử Long, Lý Ẩm Kiều, Vương Kính Tiên và Lâm Khắc ra đi, kể cả thư ký riêng Quang Trị, vệ sĩ Phong Dân Chung. Đây là cách giải quyết công bằng, hợp lý. Phái hữu khuynh gồm Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều, phái trung hữu Vương Kính Tiên và phái tả khuynh Lâm Khắc phải ra đi.
Mao đề nghị có thể bổ nhiệm cho Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều về Sơn Đông và Hồ Nam. Đây là hai tỉnh năng động, đã tiến hành chính sách Đại nhảy vọt, nhưng giờ đây cả hai tỉnh trong tình trạng đói kém. Mao nghĩ, tình hình kinh tế Hồ Nam không xấu như Sơn Đông. Mao vừa nhận báo cáo từ vùng Thạch Ninh buộc tội bọn phản cách mạng và các phần tử phong kiến phá rối kinh tế. Tất cả vẫn chưa đủ năng lực tìm hiểu thực tế tình hình kinh tế xấu đến mứa độ nào và vì sao, Mao cho rằng chính bọn phản cách mạng gây suy yếu sản xuất. Ông tự coi mình như Thương Ưởng thời hiện đại, gửi những người bạn mình làm sứ giả quan hệ ngoại giao, để tránh cuộc tấn công của bọn phản cách mạng trong tương lai. Ông động viên Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều đi về Thạch Ninh:
– Hãy đến đó – ông vạch đường cho họ – Nếu việc được giao quá khó với các đồng chí, hãy quay lại. Đừng lo. Không ai chết đâu.
Mao quả là một nghệ sĩ tài ba. Ông tống khứ một số chủ chốt trong đám nhân viên bằng cách gửi họ xuống vùng khó khăn, vất vả, tuy ông ra tay thanh trừng nhưng vẫn muốn họ giữ lòng trung thành. Do đó, ông vờ vịt coi họ là những người bạn thân thiết, buộc phải cử họ đi là ngược lại sự mong muốn của ông, chỉ vì ông cần họ giúp đỡ mà bắt buộc phải làm như vậy.
Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều tin Mao. Họ cảm ơn ông đã tạo điều kiện tốt, dù thực lòng không muốn. Cả hai lần chần, dây dưa muốn ăn tết ở Bắc Kinh. Nhưng Mao ra lệnh họ phải đi cuối tháng 12. Ông muốn thấy công việc được tiến hành sớm.
Trước khi họ đi, Uông Đông Hưng tìm cách bổ xung vào danh sách một kẻ thù của ông, Lương Đào Sơn, người hộ tống tôi vào “Đại học lao động” năm 1949. Trong thời gian Uông bị đuổi, Lương Đào Sơn tạm thời thay thế giữ chức giám đốc Văn phòng Bảo vệ trung ương và tìm mọi cách để ngăn cản Uông quay lại. Uông phục đúng lúc để trả thù. Lương Đào Sơn trở thành nạn nhân của trò đùa chính mình.
– Nhiều người Nhóm Một được gửi xuống dưới để sửa khuyết điểm. Khi nào những người còn lại đợi cơ hội của chúng tôi?
Lương châm chọc Uông Đông Hưng khi công bố danh sách. Lời châm chọc dí dỏm này quả là đắt giá.
– Tôi sẽ nói chuyện với Chủ tịch xem liệu có thể để đồng chí đi bây giờ được không.
Uông trả lời, giả bộ không hiểu ý Lương. Cả Mao cũng gửi Lương Đào Sơn xuống nông thôn.
Bằng sự thuyên chuyển Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều, Uông kiểm soát hoàn toàn Nhóm Một. Một trong số phó của Lý Ẩm Kiều, Trương Tăng Bành được cử làm phó đội trưởng bảo vệ Mao. Mao Bắc Trung và Tiểu Chu làm phó giám đốc mới Văn phòng bảo vệ trung ương. Người tin cẩn của Uông, Ngô Giang Hoa, làm sếp văn phòng, Ngô Tự Tuấn làm y tá chính của Mao, hàng ngày cô thông báo Uông Đông Hưng về tất cả các hoạt động của Chủ tịch.
Khi thâu tóm xong tất cả quyền lực ở Nhóm Một, Uông Đông Hưng tiến hành chiến dịch chống Bành Đức Hoài, để khôi phục quyền kiểm soát Văn phòng Bảo vệ trung ương và đội cận vệ. Gồm hơn hai nghìn người lính đặc nhiệm được đào tạo và trang bị tốt, đảm bảo an ninh bên ngoài cho Mao, cho lãnh đạo cao cấp khác và bảo vệ các cơ quan then chốt của đảng. Bởi vì đa số những người thuộc hai cơ quan này là thuộc hạ Bành Đức Hoài khi ông còn nắm quyền, Uông tin rằng họ có thiện cảm với Bành, phái hữu khuynh. Viện cớ, Mao cần được bảo vệ, phải được tin tưởng tuyệt đối, Uông Đông Hưng đặt người phục tùng mình vào các vị trí then chốt Văn phòng bảo vệ trung ương, bằng cách giữ đồng minh của mình Trương Ưu Dự và Giang Đăng Trung ở vị trí tư lệnh và chính uỷ đội bảo vệ trung ương.
Dù quyền lực tăng lên, Uông không dẹp nổi sự tham nhũng. Đầu năm 1961, ngay sau cuộc thanh lọc, Mao dừng lại vài ngày ở Trường Sa gặp gỡ Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai trong đoàn tầu. Bí thư tỉnh uỷ mới của Hồ Nam, Trương Bình Hoa và trưởng ty công an tỉnh chịu trách nhiệm bảo vệ cuộc gặp của ba lãnh đạo. (Trương Bình Hoa được bổ nhiệm sau khi Mao cách chức Chu Tiểu Châu, người công khai đứng về phía Bành Đức Hoài ở hội nghị Lư Sơn). Mọi chi phí về phục vụ Mao và người tháp tùng đều do chính quyền trung ương trả. Uông Đông Hưng thường ký thanh toán.
Lần này khi nhận bản thanh toán, Uông ngạc nhiên thấy tính vào tài khoản Chủ tịch là hai nghìn con gà. Con số này gây nên nghi ngờ. Hồ Nam ở trong vị trí tốt nhất hơn nhiều tỉnh khác, nhưng nạn đói đang dữ dội, món thịt gà vẫn thuộc món ăn xa xỉ ở Trung Quốc, hầu như không thể mua nổi. Dù có thu mua được, những người tháp tùng không thể ăn hết lượng gà nhiều đến thế trong một số ngày ở đó. Ngoài ra, Mao và nhân viên của ông không ăn thịt. Trương Bình Hoa đồng ý hoá đơn sai. Có thể chỉ hai mươi con gà, chứ không phải hai nghìn con.
Nhưng con số 2 ngàn hoàn toàn đúng sự thật, chẳng có gì sai cả. Đoàn tàu của Chủ tịch được 15 nghìn lính bảo vệ. Trời thì lạnh, lính đang chịu đói. Trưởng ty công an tỉnh đặt hai nghìn con gà để nuôi nhóm bảo vệ. Linh đặc nhiệm cũng chỉ là những người bình thường, không ai cho họ đặc quyền ăn gà, thậm chí Mao cũng phải từ chối ăn thịt.
Chính quyền tỉnh không khi nào được phép chi tiêu tốn kém đến như thế, nếu như phải trả tiền. Nhưng sếp công an tin rằng đây là lộc của Chủ tịch dành cho sự phục vụ của họ. Tương tự như Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều thường làm, lần này lãnh đạo tỉnh Hồ Nam cũng cứ tiền trảm hậu tấu. Uông Đông Hưng đành chấp nhận thanh toán, nhưng bực lắm.
***
Sau khi kết thúc tái tổ chức, Uông Đông Hưng hoàn toàn điều khiển Nhóm Một, Văn phòng bảo vệ trung ương và đội bảo vệ trung ương – ba cơ quan quan trọng chính ở Trung Nam Hải. Quyền lực và địa vị Uông tăng lên, ông trở thành nhân quan trọng trong nội chiến cung đình Bắc Kinh. Gần sáu năm trôi qua, từ khi bắt đầu Cách mạng văn hoá, Mao yêu cầu được quân sự hoá một số đơn vị để chiếm các xí nghiệp quan trọng và các trường Đại học ở Bắc Kinh. Ông cho phép Uông Đông Hưng tăng thêm sức mạnh quyền lực.
Trong thời gian đó, Uông chăm sóc Chủ tịch nhiều hơn. Khiêu vũ trước đây mỗi tuần một lần vào thứ bảy, giờ đây hai lần – thứ tư và thứ bảy. Uông tăng số ban nhạc và “đội văn công” để đảm bảo giải trí trong buổi dạ hội được vui vẻ, nhưng thực chất tăng số phụ nữ đến với Mao.
Từ khi Uông trở lại, Lực lượng không quân, Quân khu Bắc Kinh, Tổng cục chính trị Giải phóng quân, Sư đoàn pháo binh II và Sư doàn công binh xây dựng đường sắt – tất cả phải đảm bảo có ban nhạc, dàn đồng ca, vũ nữ. Tại toà nhà Hội nghị Đại biểu toàn quốc mở cửa nhân ngày quốc khánh 1959, gian số 118 đẹp nhất, gian Bắc Kinh, được trang bị đặc biệt cho Mao và một số gái trẻ trong số nhân viên phục vụ thư giãn lãnh tụ. Mao không cần mối lái như xưa.
Khó mà nghĩ, hàng ngày xài nhiều cung nữ như thế, Mao vẫn tự giải quyết hết công việc mình. Ông đã 67 tuổi. Tháng 9-1961, khi gặp nguyên soái Montgomery, Mao lần đầu tiên đưa khả năng lý thuyết cái chết của mình. Cho rằng ông có thể chết vì bị ám sát, chết trong tai nạn máy bay, đổ tàu, chết đuối, nhưng khả năng gặp nhiều hơn cả là do bệnh tật.
Nhưng khả năng thèm muốn tình dục của Mao lại tăng theo độ tuổi. Đôi lúc ông cũng nghĩ đến Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa


Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 44

Posted: 14/09/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Trong khi Uông Đông Hưng củng cố quyền lực tại Bắc Kinh, tôi đang ở Quảng Châu, giải quyết các việc khó khăn riêng. Tôi đến thành phố phương Nam vào cuối tháng 12-1960 theo yêu cầu của Giang Thanh. Vợ Chủ tịch về đây tránh rét, bà vẫn phàn nàn theo thói quen, kêu bị ốm, ánh sáng, tiếng ồn và cả gió cũng làm bà khó chịu. Bà ca cẩm các cô y tá, nhân viên phục vụ, vệ sĩ chẳng giúp được gì, vì vậy cần tôi đến giúp đỡ.

Đòi hỏi của Giang Thanh đối với tôi thật quá quắt. Thậm chí Mao cũng thoáng nghi ngờ. Ở Nhóm Một lại xuất hiện tin đồn do Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều tung ra, tôi là “bạn cánh hẩu” của Giang Thanh.
– Hãy cứ để hai người này chiều chuộng nhau!
Mao nói một đượm vẻ ghen tuông khi nghe tin Giang Thanh muốn tôi đến Quảng Châu.
Ông giục tôi đi. Nhưng tôi không muốn. Mọi khó chịu về bệnh tật của Giang Thanh chỉ do tưởng tượng, tôi không thể giải quyết được vấn đề thuộc bệnh tâm lý. Bà như con hổ cái đối với nhân viên phục vụ, những cố gắng đứng ra làm trung gian hoà giải của tôi trước đây hầu như không đem lại kết quả nào cả. Phải có mặt tại chỗ ở của vợ Chủ tịch là điều làm tôi cực kỳ khó chịu. Tôi biết Mao nghi ngờ nên không muốn sự nghi ngờ tăng lên gây bất lợi.
Nhưng tôi không còn có sự lựa chọn nào khác. Chủ tịch ra lệnh tôi đi Quảng Châu, thậm chí còn dành một máy bay quân sự đưa tôi đi.
Khi tôi có mặt ở biệt thự, nơi Giang Thanh nghỉ ở nhà khách trên đảo nhỏ ở Quảng Châu, các cô y tá và bảo vệ tìm đến tôi phàn nàn. Họ cam đoan vợ Chủ tịch khoẻ mạnh, chẳng ốm đau gì hết. Bằng cớ là sự hoạt động hàng ngày của bà. Đổng Chử, bí thư tỉnh uỷ, thường mở tiệc khiêu vũ và Giang Thanh luôn luôn là mỹ nhân của sàn nhảy. Tất cả các nhân vật máu mặt của tỉnh đều tham gia nhảy nhót. Mọi người từ lãnh đạo cao cấp tới nhân viên bảo vệ và phục vụ đều phải nhảy với vợ Chủ tịch ít nhất một lần. Nhưng Giang Thanh có thể nhảy liền 3-4 tiếng không thấy dấu hiệu mệt mỏi và sau đó lại xem phim. Vậy bà ta ốm ở điểm nào?
Nhưng khi gặp tôi, Giang Thanh rền rĩ, kêu ca ốm đau. Các y tá, nhân viên phục vụ, như bà thường khẳng định, cục cằn, cẩu thả, bướng bỉnh và thiếu tinh thần trách nhiệm. Bà không che dấu nổi sự bực, khi tôi thông báo rằng sau khi khám cho bà, tôi sẽ quay về Bắc Kinh ngay. “Tôi không hiểu ông bác sĩ này – Giang Thanh sau này phàn nàn với một cô y tá – ông ta đến Quảng Châu, không thực hiện công việc của mình một cách cẩn thận, sau đó lập tức muốn chạy về Bắc Kinh. Ông ta là cái thá gì nhỉ?”
Không muốn Giang Thanh bực thêm, tôi quyết định chẳng vội vàng khám và cũng không nói về việc quay về nữa, đành phải chờ Giang Thanh gọi.
Vợ Chủ tịch cô đơn, thèm khát bạn tâm giao, chọn tôi làm người để tâm sự. Cuộc sống ở Quảng Châu mang vẻ thơ mộng. Hàng ngày chẳng ai phải làm gì ngoài việc làm bà vui vẻ, thư giãn. Chúng tôi lên kế hoạch làm việc ngay. Sau những buổi khiêu vũ hay xem phim, Giang Thanh ngủ rất muộn, thức giấc khoảng 10 hay 11 giờ sáng hôm sau. Ắn sáng, trang điểm xong, bà đi dạo hay làm gì đấy, đến 2 hay 3 giờ chiều lại chợp mắt đến 4 hay 5. Chúng tôi đôi khi cùng nhau dạo chơi, xem phim. Bữa tối ăn riêng, nhưng tôi được hưởng cuộc sống thừa mứa của Giang Thanh. Dù nạn đói ngày càng tồi tệ nhưng chưa khi nào cảm thấy sự thiếu thốn trong một khu vực yên tĩnh như vậy.
Những ngày nhàn tản cứ thế trôi qua. Hôm 26 tháng 12, chính ngày mà Mao ở Bắc Kinh tuyên bố đuổi Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều, chúng tôi tổ chức mừng ngày sinh Chủ tịch bằng bữa tiệc do Đổng Chử bí thư tỉnh uỷ khoản đãi. Tết dương lịch đến và qua đi. Bầu không khí xung quanh đẹp lộng lẫy, cuộc sống tiện nghi thật dễ chịu, nhưng tôi buồn phiền chán nản, người thấy có vẻ ốm. Tôi thấy vợ Mao, sống trong đặc quyền và xa hoa, nhưng rất bất hạnh.
Các cuộc truy hoan của Mao với đàn bà ngày càng công khai, Giang Thanh rất căng thẳng. Vì được nghe bà tâm sự, nên tôi hiểu, ngoài nguyên nhân ấy, còn có những nguyên nhân khác làm bà cảm thấy bất hạnh hơn. Giang Thanh ấp ủ hoài bão chính trị to lớn. Cách duy nhất tách Giang Thanh khỏi tham vọng quyền lực, người ta xếp bà giữ chức vụ tương đối thấp trong đảng. Tất cả quan chức của đảng có chức vụ nhất định. Cao nhất là Mao và 5 bí thư cao cấp. Tiếp theo từ hạng hai đến hạng sáu là của các lãnh tụ cận kề. Các cán bộ từ hạng 7 đến hạng 13, thuộc cán bộ hạng trung – từ hạng 14 đến hạng 17, cán bộ cấp thấp, cấp thấp nhất đứng ở hạng từ 18 đến 25. Giang Thanh đứng ở hạng 9, Diệp Tử Long và Uông Đông Hưng được bổ nhiệm hạng cao hơn – hạng 7. Bà than phiền với tôi, cấp bậc chỉ ngang hàng chúng tôi, những nhân viên thường của bộ máy trực thuộc Mao chủ tịch, buộc tội Dương Thượng Côn, đã xếp bà vào hạng chín.
Chính Mao cũng đồng ý xếp Giang Thanh vào hạng này. Mao hiểu, năng lực của bà không tương xứng với hoài bão. Bà chẳng có chút kinh nghiệm nào, chỉ hành động theo mệnh lệnh của Mao. Giang Thanh nóng tính, thích lên mặt dạy đời, chẳng ai ưa, không ai muốn tuân theo mệnh lệnh của một người đàn bà như thế.
Căn bệnh hoang tưởng của Giang Thanh do tham vọng bị cản trở. Sự căng thẳng do nguyên nhân chính trị gây ra. Nếu bà mạnh khỏe, buộc phải làm việc, nhưng cấp bậc không cho Giang Thanh một chút quyền lực, một chút kính trọng. Mọi người khúm núm, phục vụ không phải vì họ kính trọng hoặc để làm vừa lòng, chỉ vì bà là vợ Chủ tịch. Tất nhiên những kẻ nịnh nọt, bợ đỡ sẽ biến mất, nếu bà được bổ nhiệm làm việc. Do tính khí nóng nảy, giọng lưỡi độc ác của bà đã tạo ra biết bao kẻ thù, họ sẽ khinh miệt, coi thường.
***
Giang Thanh cần tạo ra vẻ ốm đau, cuối cùng tôi cũng hiểu ra, vì chỉ có ốm – cách duy nhất để có thể trội hơn người khác. Và bà cũng cần làm sao Mao tin bà ốm thật, nếu không thế ông sẽ bắt Giang Thanh phải làm việc, nghĩa là phải chịu dưới trướng Diệp Tử Long và Uông Đông Hưng, người có cấp bậc cao.
Sau khi tôi sống ba tuần lễ trong sự nhàn nhã bắt buộc, Giang Thanh gọi tôi vào buồng. Chỉ chỗ tôi ngồi, Giang Thanh nhiếc móc tôi ở đây đã vài tuần, nhưng chẳng làm cái gì cả. Bà muốn biết lý do, hỏi:
– Đồng chí nghĩ gì mới được cơ chứ?
Tôi trả lời:
– Tôi đợi đồng chí thông báo khi nào muốn kiểm tra sức khỏe.
– Có điều khác tôi muốn thảo luận với đồng chí đây! – Giang Thanh nói.
Tôi cứng người.
– Chủ tịch hiện sức khoẻ tốt, ông không cần giữ cho mình một bác sĩ bên cạnh ngày đêm. Còn tôi lại không được khoẻ lắm. Từ ngày bác sĩ Hứa Đạo bỏ việc, tôi chẳng còn bác sĩ riêng. Tôi muốn đồng chí làm bác sĩ cho tôi. Đồng chí có thể chữa cả cho lãnh tụ, khi nào ông ấy cần.
Lời mời của Giang Thanh, lời mời tôi lo sợ nhất đã thành sự thật. Tôi đã đồng ý như bác sĩ riêng phục vụ Giang Thanh chỉ với điều kiện bà và Chủ tịch sống chung với nhau. Giờ đây bà yêu cầu tôi ở lại mãi với bà. Điều tôi rất sợ và không muốn.
Lời đề nghị này đối với tôi chẳng có gì bất ngờ. Tôi ngờ rằng đằng sau việc gọi tôi đến Quảng Châu có một cái gì đó mờ ám từ lâu. Vì thế tôi đã chuẩn bị câu trả lời sẵn.
Tôi nói, lãnh đạo bổ nhiệm tôi làm việc với Chủ tịch, đảng không trao nhiệm vụ cho tôi làm cho bà. Chủ tịch cũng không nói gì về sự thay đổi tính chất công việc cả.
Trời đất ơi, té ra là Giang Thanh đã nói chuyện với Mao và ông đã đồng ý. Ngoài ra, Giang Thanh còn chuẩn bị nói chuyện với thủ trưởng của tôi để họ không ngăn cản.
– Dù sao chăng nữa tôi cho rằng đồng chí nên nghĩ kỹ vấn đề này, đồng chí Giang Thanh ạ – tôi đứng lên – đây không phải là ý tưởng tốt – như vậy sẽ thay đổi công việc và số phận của tôi.
Giang Thanh trở lên căng thẳng:
– Vì sao đây là ý tưởng xấu? – Bà to tiếng – Đồng chí chỉ tôn trọng lãnh tụ và coi thường tôi, có đúng thế không?
Giang Thanh luôn luôn lo tôi chỉ kính trọng Mao, còn khinh thường bà.
Nhưng điều này không làm tôi sợ, tất cả chỉ là chuyện bép xép của bọn người xung quanh. Nếu tôi được bổ nhiệm làm bác sĩ chính thức của bà, những kẻ rách việc trong cung đình sẽ tin chuyện quan hệ bất chính là có thật như lời đồn thổi.
Tôi mạnh dạn:
– Đây không phải là vấn đề tôi coi thường ai. Là bác sĩ, tất nhiên tôi sẽ khám chữa bất kỳ ai tôi thấy cần thiết. Nhưng tôi sợ, với đồng chí bằng cách này, người ta có thể xì xèo. Điều mà họ sẽ nói, có thể sẽ mang lại những không hay cho đồng chí và cả cho Chủ tịch.
Bỗng nhiên Giang Thanh đứng lại, nhìn thẳng vào tôi:
– Đồng chí nói cái gì thế? Cái gì có thể ảnh hưởng xấu đến chúng tôi?
– Tin đồn – Tôi trả lời – Những lới đàm tiếu. Vô ích khi nói về chúng.
Giang Thanh bối rối:
– Bác sĩ, tôi luôn luôn nghĩ tốt về đồng chí – Bà nói – Nếu đồng chí có điều gì cần nói, cứ nói thẳng ra.
– Nếu đồng chí muốn nghe, thưa đồng chí Giang Thanh, tôi sẽ kể. Ngay lúc tôi quay về Nhóm Một cuối năm 1959, đã có tin đồn. Một số người nói, đồng chí có quan hệ quá tốt với tôi và có một cái gì đó thật “đặc biệt” giữa chúng ta. Có ai đó thậm chí đã đưa tin đồn nguy hiểm này cho Chủ tịch. Nhưng Chủ tịch nói: “Hãy để họ đánh bạn với nhau”. Đồng chí Giang Thanh, đây là nguyên nhân mà tôi nói ý tưởng của đồng chí chẳng hứa hẹn đem lại một cái gì tốt lành cả.
Giang Thanh trở nên im lặng.
– Ai nói thế? – Giang Thanh hỏi, giọng căng thẳng.
– Không cần để ý. Điều này không có giá trị gì cả.
– Đừng có ngu xuẩn, đồng chí bác sĩ. Tôi cư xử tốt với đồng chí vì tôi biết khó khăn như thế nào mới tìm được bác sĩ cho Chủ tịch. Ông quý đồng chí, vì thế tôi cũng đối xử tốt. Té ra là có ai đó tung tin đồn nhảm về chúng ta. Ai đấy?
– Nếu đồng chí yêu cầu, tôi sẽ nói. Đó là Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều.
Tôi chẳng hối hận khi nói thẳng với vợ Chủ tịch về người đã tung tin đồn nhảm. Tôi rất căm cả Diệp lẫn Lý, kẻ đã ton hót với Mao muốn tôi phải thôi việc.
Giang Thanh bỏ luôn kế hoạch của mình, bật khóc gọi điện cho Mao. Sau vài ngày tôi quay lại Bắc Kinh bằng máy bay đặc biệt của không quân. “Không bao giờ được cho ai biết bất kỳ điều gì về cuộc nói chuyện giữa chúng ta” – Giang Thanh cảnh cáo tôi trước tôi lên máy bay.
***
Tình hình ở Bắc Kinh càng ngày càng trở nên tồi tệ. Người dân hầu như không xuất hiện trên đường phố, nếu có gặp ai, họ đều lờ đờ kiệt sức, lãnh đạm. Người ta ở nhà để tiết kiệm năng lượng. Vài tuần lễ sau gia đình tôi tổ chức đón Tết nguyên đán, chúng tôi chỉ ăn cháo loãng với rau. Bình thường thời xưa, mâm cơm đủ thứ thịt, cá, hoa quả. Tết nguyên đán – đó là ngày lễ vui nhất duy nhất của năm, người Trung Hoa theo truyền thống, khắp nơi ăn uống linh đình. Tết năm nay không có gì cả.
Tôi phải đợi, trước khi được gặp Mao báo cáo. Hội nghị lần thứ 9 của Ban chấp hành trung ương khoá VIII khai mạc hai ngày sau khi tôi quay về. Tôi biết Chủ tịch rất bận cho việc chuẩn bị. Hội nghị cuối cùng cần có hành động để đối mặt “bóng tối của cuộc sống”, vấn đề Mao không thể phớt lờ. Chính ông cũng bị gánh nặng đè, nên phải bỏ mất nhiều thời gian trên giường. Nếu nghĩ ông muốn để ra nạn đói như ngày nay thì thật nhẫn tâm, tôi tin Mao phát động Đại nhảy vọt với ý đồ mong muốn mang lại cho đất nước Trung Quốc một cái gì đó tốt hơn, tươi đẹp hơn. Vấn đề ở chỗ, ông không được đào tạo đầy đủ trong nền giáo dục hiện đại, thiếu kiến thức và khái niệm về thế giới hiện đại, không hiểu rõ Trung Quốc có thể hoà nhập với thế giới theo cách nào. Thế kỷ XX sắp qua rồi, Mao vẫn còn mang ý nghĩ của thế kỷ XIX, ông không đủ khả năng dẫn dắt đất nước. Bây giờ ông đã tụt hậu, nhưng vẫn cố thử tìm kiếm giải quyết khó khăn ra sao.
Hội nghị là một đòn đối với Mao. Những người tham gia hội nghị đòi phục hồi sản xuất nông nghiệp như nhiệm vụ quan trọng sống còn của đảng. Khi cả nước đói kém, ước mơ công nghiệp hoá nhanh chóng là sự sai lầm chết người. Con người đầu tiên cần phải có cái gì để sống cái đã, rồi sau mới nghĩ tiếp được.
Tôi gặp Chủ tịch hôm 18-1-1961 ngay sau khi kết thúc hội nghị, kể về cuộc nói chuyện của tôi với Giang Thanh và tin đồn về mối quan hệ đặc biệt của chúng tôi. Tôi giải thích vì sao giữ im lặng lâu đến thế, bởi vì tôi nghĩ Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều xúc phạm đến Chủ tịch, chứ không phải xúc phạm tôi. Tôi hỏi:
– Bằng chứng nào ở họ về mối quan hệ đặc biệt của chúng tôi? Vì sao họ bịa đặt ra điều này?
Thực tế tôi đã ra đòn hiểm vào Mao, người hay khuyến khích người khác phao tin đồn nhảm. Nói rằng tin đồn xúc phạm Mao, nghĩa là tôi đã gián tiếp tát thẳng vào mặt ông ta.
Mao chăm chú nghe, mắt ông nheo lại. Chắc hẳn Giang Thanh cũng đã kể cho ông câu chuyện này.
– Đừng lo, tôi hiểu – ông nói – Hãy quên đi. Ai có thể bảo các đồng chí ấy đừng có bao giờ nói sau lưng người khác?
Sau đấy ít lâu, Mao bảo tôi, Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều bị cách chức, chỉ nội trong vài ngày tới sẽ đi Hồ Nam. Thậm chí Uông Đông Hưng không thông báo cho tôi biết điều này sớm hơn.
Cục sức khoẻ trung ương gửi đến Quảng Châu vài bác sĩ để khám bệnh cho Giang Thanh – Cơ Túc Hoa, giám đốc bệnh viện Bắc Kinh, Thế Bành Thư, giám đốc bệnh viện Thượng Hải và Tôn Xuyên Hứa, giám đốc bệnh viện tâm thần Thượng Hải, một nhà tâm thần kinh nổi tiếng. Giang Thanh để họ chờ đợi sáu tuần, cho đến khi Mao, tôi và Uông Đông Hưng đến Quảng Châu vào cuối tháng 2.
Các bác sĩ nổi tiếng cảm thấy hãnh diện được mời tới chữa bệnh cho Giang Thanh. Nhưng vì bỏ cơ quan quá lâu, họ bắt đầu lo lắng không hoàn thành công việc của bệnh viện.
– Họ tự coi trọng công việc này thái quá!
Giang Thanh cười khẩy châm chọc, khi tôi giải thích, các bác sĩ muốn được khám và chữa bệnh càng sớm càng tốt.
Cuối cùng Giang Thanh đồng ý bác sĩ khám một ngày nghỉ một ngày, chương trình kéo dài sáu ngày. Bác sĩ ngoại khoa, Cơ Túc Hoa, chuyên gia nội khoa Thế Bành Thư kết thúc công việc sau hơn một giờ. Nhưng việc kiểm tra thần kinh và tâm lý, do Tôn Xuyên Hứa thực hiện, lại chiếm nhiều thời gian. Giang Thanh yêu cầu bác sĩ Tôn chú ý đến sai lệch về thần kinh chứ không phải vấn đề tâm lý. Vì thế người ta không đặt những câu hỏi giúp bác sĩ chẩn đoán vấn đề tâm sinh lý của bà.
Ngay sau khi cuộc khám hoàn tất, tôi gặp Giang Thanh. Bà muốn biết người ta phát hiện mắc bệnh gì.
Tôi nói, các bác sĩ không phát hiện được bệnh gì, tất cả đều bình thường:
– Sức khoẻ của đồng chí tiến triển tốt. Bác sĩ muốn gặp đồng chí để báo cáo kết quả sau khi kiểm tra.
Nhưng Giang Thanh không muốn gặp bác sĩ để nghe giải thích không có bệnh tật và thay vì gặp mặt, yêu cầu báo cáo bằng văn bản. Bà yêu cầu không được thông báo kết quả cho Chủ tịch. Giang Thanh chỉ muốn Mao tin bà có bệnh.
Cuộc chiến gay go kéo dài bắt đầu nổ ra. Bản báo cáo kết luận của các bác sĩ hoàn toàn khách quan. Xác nhận sự phục hồi sức khoẻ của Giang Thanh sau khi trị xạ ung thư tử cung tiến triển tốt, tuy có dấu hiệu chứng suy nhược thần kinh mạn tính, khuyên bà nên tiếp tục hoạt động trò chơi giải trí như xem phim, khiêu vũ, nghe nhạc và chụp ảnh. Nhưng Uông Đông Hưng không đồng ý với bản kết luận của họ. Ông chống bất cứ kết luận nào cho rằng Giang Thanh bị bệnh. Uông không muốn bác sĩ chứng thực tính lười biếng, vô tích sự của Giang Thanh bằng cách khuyên nên giải khuây, giết thì giờ vào những chuyện vui chơi giải trí như xem phim, khiêu vũ để chữa bệnh vô công rồi nghề.
Tôi cũng dính ngay vào chuyện này của các bác sĩ. Tôi thay mặt và đồng ý khi Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương giao nhiệm vụ các bác sĩ phải chăm sóc sức khỏe, điều trị bệnh cho Giang Thanh thật cẩn thận. Sau này, trong sự mất bình tĩnh, tôi nói với họ, thật vô nghĩa khi các ông thoả hiệp với những bệnh bà ta tưởng tượng ra, tại sao không nói thật, nói thẳng Giang Thanh hoàn toàn khỏe mạnh, chẳng ốm đau gì. Nhưng các bác sĩ này chỉ là những nhà khoa học thuần tuý, chẳng hiểu cách cư xử thô bạo của Giang Thanh đối với mọi người. Sự kiên nhẫn của tôi đã quá sức chịu đựng và sự trả thù của Uông Đông Hưng với vợ Chủ tịch chỉ làm tôi thêm đắng cay.
Như vậy bản báo cáo kết quả kiểm tra sức khỏe của các bác sĩ chả làm vừa lòng ai cả.
– Gì thế này? – Giang Thanh kêu lên khi đọc qua bản kết luận – Những người này thật vô trách nhiệm. Họ nghĩ cái mà họ viết như thế này?
Bà trả lại các bác sĩ bản kết luận coi như không chấp nhận, từ chối nó.
Đổng Chử tổ chức tiệc giã từ để cám ơn bác sĩ đã phục vụ Giang Thanh. Đổng Chử biết Giang Thanh không hài lòng về bàn kết luận của họ, nhưng không hình dung được Giang Thanh độc ác và hoang tưởng như thế nào. Sau này, tất cả ba người này đã bị đau khổ vô cùng trong thời kỳ Cách mạng văn hoá. Bác sĩ Cơ Túc Hoa bị tù 5 năm, người ta tra tấn dã man trong trại giam đến nỗi ông mất trí nhớ. Ông không thể làm việc được, chết sau đó ít lâu. Bác sĩ Thế Bành Thư cũng trở thành đối tượng phê phán và bị đàn áp mạnh. Ông sống sót sau Cách mạng văn hoá và chết trong cơn đau tim.
Nhà thần kinh học, bác sĩ Tôn Xuyên Hứa bị khốn khổ hơn tất cả, Họ tống ông vào tù với tội chống đảng, bị tra tấn dã man. Ông viết cho tôi một số thư từ trong tù, nhắc lại rằng ông đã chấp hành nghiêm chỉnh nhiệm vụ khám chữa bệnh cho đồng chí Giang Thanh và ông làm việc siêng năng như thế nào.
Tôi viết thư cho Bệnh viện Tâm thần Thượng Hải, đề nghị chứng thực ông vô tội, nhưng không nhận được hồi âm. Sau đó Tôn Xuyên Hứa, đã tự vẫn trong tù. Ông không thể chịu nổi sự tra tấn kéo dài.
Sau khi các bác sĩ đi khỏi, còn lại mình tôi, hứng chịu nỗi bực tức của Giang Thanh cho là vì tôi người ta không chịu chứng nhận bà có bệnh. Mối quan hệ của chúng tôi tiếp tục xấu đi. Bà bắt đầu nói với mọi người, tôi khác trước, trở thành người có ý định chống lại bà. Để lấy chứng cớ, Giang Thanh kể lại trường hợp xảy ra năm 1958, tôi đã thực hiện nhiệm vụ khó khăn, báo cáo với Mao bà bị bệnh. Bây giờ tôi lại không muốn làm điều này nữa.
Giang Thanh thấy nguyên nhân thay đổi của tôi có mối quan hệ với sự thay đổi sự tương quan quyền lực của Nhóm Một. Giang Thanh nói, tôi chẳng cần sự che chở của bà nữa. Khi Uông Đông Hưng bị đuổi, Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều nắm quyền, tôi cần phải tìm sự ủng hộ. Bây giờ Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều bị bật đi xa, bạn tôi Uông Đông Hưng quay lại, người có bàn tay sắt, đang lãnh đạo Nhóm Một. Dưới sự che chở của Uông Đông Hưng, Giang Thanh cho rằng, tôi coi thường bà, nhưng vẫn công nhận lòng trung thành của tôi với Chủ tịch không thay đổi.
Tuy nhiên Giang Thanh suy luận sai về tâm trạng của tôi. Việc Uông Đông Hưng trở lại nắm quyền lực, cuộc sống của tôi ở Nhóm Một trở nên dễ chịu hơn. Đơn thuần tôi không thích Giang Thanh vì cuộc sống xa hoa, vô tích sự, bà ta hoàn toàn khỏe mạnh như tôi, nhưng cứ vờ ốm. Lúc nào cũng như mẹ người ta, phàn nàn liên miên, ra lệnh sai khiến những người xung quanh với những đòi hỏi vô lý. Giang Thanh, một thứ quỷ cái đầu kỷ nguyên của đảng cộng sản, lúc nào cũng thích la lối om xòm.
Tôi căm ghét thói đạo đức giả của bọn người quanh tôi đang thịnh hành. Những người lãnh đạo cộng sản thường to mồm phê phán lối sống tư sản cặn bã của những người tiền nhiệm chế độ cũ, họ đề cao nguyên tắc đạo đức cộng sản như một thứ đạo đức cao thượng tuyệt đỉnh, nhưng chính họ sống trong xa hoa, truỵ lạc. Quần chúng nhân dân đau khổ, lao động cực nhọc và bị chết dần chết mòn để một nhúm những kẻ cầm quyền làm giàu.
Lòng tin và ước mơ, sự ngưỡng mộ của tôi về Mao, về một xã hội mới tốt đẹp hơn mà những người cộng sản đang xây dựng đã bị sụp đổ hoàn toàn trong tôi.
Giang Thanh sai lầm khi cho rằng tôi vẫn còn cuồng tín ngưỡng mộ Mao. Sự ngưỡng mộ cuồng tín của tôi đã biến mất. Mao theo đuổi những nguyên tắc đạo đức nào? Khi Mao gạt bỏ Bành Đức Hoài như một thứ rác rưởi cần đổ ra đường, ông, một trong những nhà lãnh đạo cách mạng vĩ đại nhất của đất nước, một người trung thành với sự chọn lựa cộng sản và cống hiến hết sức lực vì sự cải thiện cuộc sống ở Trung Quốc. Còn Mao tập hợp xung quanh mình những cô gái trẻ giống như đa số các ông vua đời trước đầy cung tần mỹ nữ vây quanh.
Còn nhân dân Trung Quốc thì sao? Đảng cộng sản sử dụng “nhân dân” đưa họ lên tận mây xanh nhưng chính những người lãnh đạo đảng đã áp bức, bóc lột, buộc họ phải chịu đựng tất cả mọi khó khăn, bắt buộc họ phải chấp nhận mọi sự xỉ nhục để mà sống cho qua ngày. “Nhân dân” không là cái gì, chỉ là một khối lượng người to lớn, đồ sộ nhưng vô danh tiểu tốt là những người nô lệ vô vọng. Đó chính là “xã hội mới”, thế giới mới của chủ nghĩa cộng sản như thế đấy.
Giang Thanh đúng khi nhận xét, tôi coi thường, ghê tởm bà. Không những thế tôi còn coi thường, ghê tởm cả chồng bà nữa và tất cả những con người trong Nhóm Một.
Một nước “Trung Hoa mới” đang suy đồi, thối nát trong tham nhũng.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch



Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 45

Posted: 17/09/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Cuộc khủng hoảng nông nghiệp đã chọc tức giới chóp bu trong đảng, từ nay Mao không thể hoàn toàn làm theo những mong muốn, đâm ra buồn rầu, phần lớn nằm bẹp trên giường. Phòng “Xuân Sen” ở Trung Nam Hải đang sửa chữa. Trong thời gian sửa, hai lần trong tuần vẫn tiến hành khiêu vũ ở gian khác. Khi công việc sửa chữa xong, người ta đặt một cái giường lớn trong một phòng, cạnh phòng nhảy để Mao thư giãn. Tôi thường cùng Mao đến sàn nhảy, thấy tận mắt Chủ tịch kéo các vũ nữ trẻ vào buồng mình để “thư giãn”. Nội thất trong buồng sang trọng không tưởng được. Các đồ dùng thật hoành tráng, chúc đài treo đẹp hơn hẳn trong điện Kremlin tôi đã thấy.

Đối với các cô gái trẻ được Mao chọn, phục vụ và làm vừa lòng bất kỳ yêu cầu của ông là vinh dự không gì so sánh được. Những phụ nữ lớn tuổi hơn, có học hành thường từ chối. Một số y tá phục vụ cho rằng mối quan hệ riêng với Chủ tịch phải chăng đã vi phạm nghề nghiệp của họ. Những họ cũng đồng ý và hoan hỉ khi được mời.
Bất kỳ ai làm việc cho Mao, đều được nghiên cứu, điều tra cẩn thận, thiếu nữ cũng không loại trừ. Việc nghiên cứu kiểm tra lý lịch cẩn thận đảm bảo rằng họ hoàn toàn không hại cho Chủ tịch. Tất cả họ đều gốc gác nông dân, xuất thân từ những gia đình có quan hệ ràng buộc và ơn huệ với đảng cộng sản. Đối với họ, Mao là thánh, là đấng cứu thế.
Lưu, chẳng hạn, cô gái ăn mày. Mồ côi cha từ thuở ấu thơ. Khi bố chết, sống trong cảnh bần cùng, hai mẹ con đành đi ăn xin. Cô gái lúc ấy mới 8, 9 tuổi, khi đảng cộng sản nắm chính quyền, người ta tuyển và cô đào tạo trong Đoàn văn công Không quân. Đảng Cộng sản đã cứu vớt cô.
Một phụ nữ trẻ khác, thành viên của nhóm văn công trong Tổng cục đường sắt – cũng mồ côi, con gái một “chiến sĩ cách mạng kiên cường”. Cha mẹ cô, đảng viên, đã hy sinh vì lý tưởng cộng sản. Cô ta thậm chí chưa học xong tiểu học, nhưng đảng đưa đi đào thành diễn viên múa trong đoàn văn công Tổng cục đường sắt.
Được đảng cứu vớt, giúp đỡ cũng được coi là cái vỏ bọc đầy triển vọng, nay được Mao vời tới, họ càng cho đây là sự kiện trọng đại nhất trong đời. Đối với đa số nhân dân Trung Quốc, người ta ao ước được ngắm nhìn Mao bình thản đứng trên lễ đài trên quảng trường Thiên An Môn cũng đã là một niềm hạnh phúc, một sự kiện vô cùng sung sướng mà họ chưa bao giờ được trải nghiệm. Một ít người được bắt tay lãnh tụ đã không dám rửa tay vài tuần. Khi bạn thân và người quen vượt dặm đường xa tới gặp, để mà được sờ vào bàn tay được chạm với tay Mao để hiểu cảm giác lạ kỳ họ được trải nghiệm như thế nào.
Trong thời gian Cách mạng văn hoá, thậm chí chỉ một quả xoài Mao tặng cũng trở thành phẩm vật của thánh nhân, được thờ phụng đặt lên bàn thờ. Những giọt nước từ quả xoài được hoà vào nước, bỏ lên đun sôi, coi như là thuốc thánh chữa bách bệnh. Vậy, hãy hình dung khi một cô gái được Mao mời để phục vụ, họ sẽ sung sướng đến bậc nào.
Các cung nữ chưa bao giờ yêu Mao theo ý nghĩ thông thường của tình yêu trai gái. Họ yêu Mao bởi ý nghĩ, ông là lãnh tụ vĩ đại, người thày cách mạng, vị cứu nhân độ thế. Đa số biết rằng mối quan hệ chỉ tạm thời. Tất cả các cô đều rất trẻ, tuổi đôi tám, chưa chồng. Khi Mao chán chường, hết lạc thú, họ đi lấy chồng hoặc biến khỏi đây. Chồng họ, những thanh niên trẻ tuổi trong đám lính bảo vệ hay nhân viên phục vụ, lớp người ít học, cội rễ thuộc thành phần bần cố nông.
Đi lấy chồng, phải có sự đồng ý của lãnh tụ. Việc giải quyết thường đạt được sau khi chính Mao chán ngấy. Nhưng đôi khi Chủ tịch lại muốn phục hồi mối quan hệ từng bị gián đoạn. Ngay cả các cô lấy chồng, cũng phải chấp nhận, không được chống cự. Một số không hiểu về sự ràng buộc trong mối quan hệ, lấy chồng không được ông cho phép trong khi đang quan hệ tình ái là điều cấm kỵ. Đôi khi ông muốn nối lại tình xưa một cách rất vô lý. Mao thực sự không hiểu tâm trạng, cách nhìn của các cô gái trẻ về tình yêu của họ đối với vị lãnh tụ vĩ đại, vị cứu thế khác với tình yêu trai gái như thế nào.
Chẳng có gì lấy làm lạ về việc Mao chiếm đoạt tình dục một cách tàn bạo. Một hôm có cô gái nói với tôi:
– Chủ tịch – một người rất hấp dẫn, nhưng ông không hiểu ranh giới giữa tình yêu đối với lãnh tụ và tình yêu trai gái. Thế có lố bịch không chứ?
Một cô khác, tả lại các ngón tình dục của Mao và nhận xét: “Mao vĩ đại về mọi mặt!”
Những cô gái trẻ nếm mùi sợ hãi trong hoan lạc như thế trước sự tâng bốc tình dục của Mao, cũng như trước tầm quan trọng chính trị của ông. Mao đã 67 tuổi, bước sang ranh giới của độ tuổi hoạt động tình dục suy giảm. Không phải vì tò mò, nhưng giai đoạn đó tôi chẳng thấy ông phàn nàn về chuyện liệt dương cả. Chính từ thời gian đó ông trở thành môn đồ Lão tử, người đã cho rằng tình dục không chỉ để thoả mãn, còn cần thiết để kéo dài tuổi thọ.
Khoái cảm nhất của Mao khi ân ái với vài cô gái trẻ cùng một lúc trên giường. Mao rất thích, toại nguyện khi cùng một lúc làm tình với mấy cô gái. Mao cổ vũ chuyện ân ái với nhiều người tình, ông bảo, trong lúc truy hoan như vậy, giúp sự dẻo dai và cường tráng trong quá trình giao hợp.
Lòng tin của Mao về thực hành tình dục của Đạo Lão đã bảo vệ và nâng cao sức khoẻ của ông, tôi thực sự nghi ngờ, nhưng không dám nói. Hàng tá gái trẻ, luôn sẵn sàng chờ lệnh từ hoàng cung, mang trong lòng sự tự hào được phục vụ Chủ tịch, một số cô đã không ngần ngại kể cho tôi về họ được nếm mùi như thế nào. Các cô gái không bao giờ che giấu mối quan hệ của mình. Trẻ tuổi, ít được học hành, họ đến tìm tôi vì tôi giữ trọng trách về sức khỏe của Chủ tịch, đồng thới là sếp của họ. Té ra, khi tuyển chọn các cô gái để làm tình, Mao thường đưa họ đọc trước quyển sách hướng dẫn tình dục của đạo Lão “Con đường bí mật kinh điển của thiếu nữ dạy thì”. Sách được viết theo văn phong Trung Quốc cổ, khiến các cô gái không thể hiểu nổi. Họ hỏi tôi nghĩa của những từ ấy. Trong nhiều năm tôi đã dạy những từ ngữ này chẳng phải nghiên cứu nhưng vẫn hiểu. Các cô gái rất thán phục những gì mà Chủ tịch ban phát. Một thiếu nữ đã thú nhận với tôi về quan hệ ái ân của Mao:
– Chủ tịch thật vĩ đại trong tất cả mọi chuyện, kể cả chuyện chăn gối.
Hoạt động tình dục của Mao không giới hạn ở phụ nữ. Những thanh niên trẻ trong số những người phục vụ, đẹp trai và khỏe mạnh, cũng lọt vào sự chú ý của ông. Một trong số họ có trách nhiệm xoa bóp cho Mao về đêm. Mao đòi hỏi phải xoa bóp cả vùng háng của ông nữa. Tôi biết kiểu quái dị này vào năm 1960, khi một vệ sĩ từ chối thực hiện đòi hỏi của Chủ tịch.
– Đây là việc cho đàn bà, chứ không phải cho tôi – Anh chàng kể lại cho tôi trước khi rời khỏi Trung Nam Hải.
Về sau, năm 1964, tôi trở thành người chứng kiến vụ bê bối ngay trên tàu hoả của Mao. Khi một vệ sĩ thu xếp để ông đi ngủ, Chủ tịch ôm chặt lấy anh chàng trẻ tuổi này và bắt đầu vuốt ve anh ta rồi định vật xuống giường.
Đôi lần tôi cũng nhận thấy nhiều cử chỉ gần với hành động của người đồng tính luyến ái. Sau này tôi biết đó chỉ là lòng ham muốn vô độ để thoả mãn tình dục mà thôi.
Theo truyền thống văn hoá Trung Hoa, những thanh niên, chưa vợ, đẹp trai, thường đóng các vai nữ trong kinh kịch. Những người trong số họ dính líu tới việc phục vụ tình dục cho thương nhân giàu có và cho những quan chức địa phương. Tiểu thuyết khiêu dâm “Hồng lâu mộng” và “Kim Bình Mai” – những tác phẩm Mao thích – phản ánh những câu chuyện đồng tính luyến ái.
Những vệ sĩ của Mao, không phải là người đồng tính luyến ái, vì thế sự xuất hiện thường xuyên quanh lãnh tụ những cô gái trẻ hấp dẫn đã gây cho họ những vấn đề phức tạp.
Trong thời kỳ vua chúa cai trị, sự trinh bạch của các tỳ thiếp được đảm bảo, bằng cách cách ly tuyệt đối. Tất cả đàn ông, trừ vua và các tỳ thiếp, không được ở qua đêm trong khu Cấm Thành. Nhưng những vệ sĩ của Mao lại không phải hoạn quan. Họ là thanh niên nông thôn trẻ, khỏe, đẹp trai, chất phác, họ không thể chống lại sự cám dỗ về sắc đẹp của các cung nữ của Mao. Một số đã phải trả giá rất đắt cho việc này.
Một bạn tình của Mao như thường lệ, vào phòng trực ban đêm lấy thuốc ngủ cho Chủ tịch, một vệ sĩ trẻ bắt gặp, ôm eo tán tỉnh, mơn trớn làn da trắng và thậm chí còn thò tay sờ mó vào ngực cô ta.
– Đồ khốn nạn! – Cô gái kêu thất thanh, chạy đến Mao tố cáo. Chủ tịch ngay lập tức cho gọi Uông Đông Hưng.
– Thằng ngu, mày làm gì thế? Mày định vuốt râu hùm đấy à? – Uông vẻ mặt tức giận lôi tay vệ sĩ đến hiện trường.
Trong lúc Mao và Uông Đông Hưng thảo luận. “Thật khủng khiếp!” Chàng thanh niên nghèo khổ ngồi rên rỉ, cắm mặt xuống sàn nhà, ủ rũ khiếp sợ. Mao ra lệnh Uông tước vũ khí cá nhân tay vệ sĩ và tống giam. Uông tước súng nhưng kín đáo cứu tay vệ sĩ trẻ khỏi bị giam, bằng cách thuyên chuyển anh ta đi xa hẳn về phương nam, làm ở bộ phận an ninh của một thành phố miền duyên hải.
Một số vệ sĩ trẻ dính đã vào chuyện này nhưng không ai biết rõ số phận của họ ra sao.
Một lần vào sáng sớm, một vệ sĩ của Mao – chàng thanh niên 19 tuổi – đánh thức tôi. “Có chuyện khủng khiếp lắm” – anh ta sắc mặt thất thần nhắc lại, lay tôi dậy.
Chúng tôi đang ở Thượng Hải, tại khách sạn cũ Thanh Dương sang trọng, nằm giữa khu phố Pháp trước đây, Mao ở tầng trên cùng. Trước khi ông đến, toàn bộ khách sạn được giải phóng, không còn khách bên trong nữa. Một nhóm gái trẻ ở phòng bên cạnh, thay nhau ngủ với lãnh tụ bên buồng ông.
Tay vệ sĩ rót thêm chút nước sôi vào ấm trà của Chủ tịch, không nghĩ ngợi gì cả, nhìn thoáng qua giường Mao. Anh chàng vệ sĩ mới chuyển đến, vẫn chưa biết chuyện đời tư của Mao. Anh ta bảo, không biết trong buồng Chủ tịch có gái. Không trông thấy tận mắt, chỉ thấp thoáng qua khe hở của bức rèm lụa che cửa buồng Mao, anh nghĩ mình là vệ sĩ có quyền vào kiểm tra.
– Tôi vừa bước vào, cô ta ngã từ giường xuống đất – tay vệ sĩ hổn hển – Cô ta trần như nhộng! Tôi hoảng quá, chuồn luôn. Tôi phải làm gì bây giờ?
Anh chàng vệ sĩ cho rằng vì nhìn thấy anh, cô ta sợ quá nên ngã lăn xuống sàn.
Ngồi dậy bên mép giường, tôi tỉnh hẳn, động viên chàng thanh niên bình tĩnh, hỏi:
– Nói cho tôi nghe, Chủ tịch nhìn thấy anh không?
– Tôi không biết nữa – anh ta trả lời – Tôi chạy ngay, khi nhìn thấy cô ta.
Tôi thật sự lo. Sự hoang tưởng của Mao mỗi ngày một tăng lên, tính cách của ông ngày càng bất thường. Tôi không hình dung ra, ông sẽ làm gì nếu biết tay vệ sĩ nhìn thấy hai người trên giường.
Tay vệ sĩ bắt đầu khóc lóc, hoảng hốt:
– Tôi mới đến – anh ta khẳng định – Không ai nói cho tôi, khi nào có thể vào buồng của Chủ tịch, khi nào không thể. Tôi không biết rằng ở đây lại xảy ra….
Anh chàng muốn tôi xác nhận anh ta hoàn toàn vô tình, không cố ý.
Tôi đảm bảo với anh, tôi sẽ làm chứng, nhưng nhắc, trong tương lai, cần cẩn thận hơn trước khi vào buồng lãnh tụ. Tôi bảo:
– Chỉ vào khi Chủ tịch gọi mới vào, không gọi đừng vào. Nếu không người ta có thể nghĩ anh là gián điệp nữa đấy.
Anh chàng vệ sĩ muốn xin nghỉ ngay lập tức khỏi Nhóm Một, nhưng bây giờ bắt buộc phải quay về chỗ Chủ tịch vì đang giờ trực, quy tắc đòi hỏi vệ sĩ ngày cũng như đêm phải bên cạnh Mao.
Khi tay vệ sĩ quay về, Mao và cô gái trẻ vẫn còn to tiếng với nhau. Anh ta đứng ngoài cửa tin rằng họ đang cãi nhau vì chuyện anh nhìn thấy. Nhưng Mao trông thấy, bảo anh ta vào, cô gái vẫn đang cằn nhằn. Mao muốn tay vệ sĩ trở thành người làm chứng chuyện này. Chẳng bao lâu anh chàng này hiểu cái gì đã xảy ra.
Hoá ra trước khi anh vệ sĩ bước vào, hai người đang cãi vã. Cô tỳ thiếp gặp một thanh niên, muốn lấy làm chồng. Nhưng Mao không đồng ý. Cô ta càng vật nài, Chủ tịch lại càng lắc đầu. Cô gái cuối cùng tức giận đến mức buộc tội Mao cư xử theo kiểu tư sản thối nát, dùng cô để thoả mãn dục vọng của mình. Mao giận dữ đến mức hất cô ra khỏi giường. Điều này xảy ra đúng lúc tay vệ sĩ bước vào phòng. Tuy nhiên hai người này vẫn cãi nhau, không để ý tới anh ta.
Uông Đông Hưng được thông báo vụ việc. Mao đòi nhanh chóng tổ chức cuộc họp bộ máy của ông, yêu cầu kiểm điểm phê bình cô gái một cách khắt khe nhất.
Nhưng sự gần gũi lâu dài với Mao làm cô nhân tình không sợ. Cô tuyên bố, nếu tổ chức họp, cô sẽ kể toạc tất cả sự thật về mối quan hệ với Chủ tịch, sẽ kết tội ông mang tính cách bọn tư sản. Uông lâm vào thế khó xử. Ông không thể trái lệnh Mao, nhưng lại sợ vụ bê bối vỡ lở trước công luận. Không thể nghĩ điều gì tốt hơn, Uông cầu cứu tôi.
Tôi nói chuyện với cô gái, cố tìm ra lối thoát đối với Mao cũng như đối với cô. Tôi bảo, những lời buộc tội công khai của cô cũng chẳng dẫn tới cái gì tốt hơn, cô không thể làm gì được họ. Cô gái vẫn nước mắt đầm đìa, tức giận, nhưng sau một hồi nói chuyện, cô ta đồng ý trong cuộc họp phát biểu trước các nhân viên, nhận thiếu sót và xin lỗi Mao.
Mao chấp nhận sự tự phê bình của cô. Nhưng điều này không mang lại cho cô gái trẻ điều gì tốt hơn. Mao dù thế nào chăng nữa không cho phép cô đi lấy chồng. Chỉ tới năm 1966, sau khi bắt đầu Cách mạng văn hoá, cô mới được kết hôn với người yêu. Mối quan hệ giữa hai người không còn nồng ấm như trước sau khi xảy ra vụ việc, còn Mao hướng sự chú ý tới cô khác trong Đoàn văn công Tổng cục Đường sắt, ông quen trong một buổi khiêu vũ ở Trung Nam Hải.
Cô bạn gái mới của Mao trong buồng ngủ của ông ngày cũng như đêm mỗi khi Giang Thanh đi vắng. Ngủ cùng với ông và chờ đến khi ông tỉnh dậy, mang đồ ăn, trà, lau cho ông bằng khăm tẩm nước nóng. Mao bắt đầu mang cô theo trong các chuyến công du. Quan hệ của họ trở nên công khai đối với lực lượng an ninh và nhân viên phục vụ khách sạn, đáng lẽ không nên để những người này biết chuyện.
Việc cần thiết giữ bí mật làm cô gái trẻ đau khổ. Cô ta hỏi tôi:
– Tình yêu và cuộc sống là thế này à? Tại sao lại nửa kín, nửa hở, nửa bí mật, nửa công khai!
Dù sao chăng nữa sự gần gũi với Mao làm cô trở nên vênh váo, kiêu căng, vì tin rằng được Mao chọn làm tỳ thiếp cho phép cô có những đặc ân hơn người khác. Cô ta quên mất sự cần thiết phải giữ bí mật, cấm công khai khoe khoang mối quan hệ đặc biệt của mình với lãnh tụ.
Trách nhiệm của Uông Đông Hưng bảo vệ che dấu những khiếm khuyết của Mao. Uông cần phải chặn trước việc tiết lộ đời tư của Chủ tịch. Bộ máy và các thư ký riêng của Mao, biết phải giữ im lặng. Nhưng chẳng thể mong người không nằm trong Nhóm Một cũng làm như vậy. Uông không muốn động chạm đến uy danh Chủ tịch. Ông chỉ muốn sao cho phụ nữ trong thời gian công du với Mao nên ở trong phòng riêng của họ.
Nhưng Uông không thể trực tiếp nói ra điều này, sợ cơn giận dữ của Chủ tịch. Để giải quyết vấn đề, Uông sử dụng một tay vệ sĩ 19 tuổi chất phác, giải thích cho Mao. Trong một chuyến đi, anh chàng vệ sĩ thực hiện nhiệm vụ được giao và Mao, thật đáng ngạc nhiên, lại đồng ý bắt cô gái hay bép xép kia ở phòng bên cạnh. Nhưng chàng trai trẻ đã làm Mao bối rối, lo lắng đến mức người ta điều anh ta đi khỏi Trung Nam Hải.
Cô nhân tình mới lại giới thiệu Mao môt cô gái khác. Mối quan hệ của cô với Chủ tịch giờ đây chuyển sang tính chất gia đình, cô này thậm chí còn tổ chức cuộc gặp chiều theo ý của lãnh tụ với vài cô gái trong họ hàng thân thuộc. Một trong các cô ấy, trong dàn đồng ca kinh kịch, làm Mao chán, cô ta hết vẻ trẻ trung lại không đẹp, nhưng ông lại mê mẩn em gái cô ta.
Tháng 12-1961 Mao mời tôi dự tiệc khi chúng tôi ở Vô Tích. Ở đó có cả cô nhân tình của ông, em gái và em rể cô, một quân nhân. Khi chúng tôi thưởng thức những món ăn ngon trong bữa tiệc, không thấy báo hiệu dấu vết gì của điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Chỗ tổ chức tiệc trong cảnh điền viên, không khí ngào ngạt hương thơm của hoa mai. Ngay khi bắt đầu tuyết rơi, bầu trời mù mịt. Nơi đây nổi tiếng cá ngon, chè và tơ lụa. Những bãi dâu mà lá của nó người ta dùng để nuôi tằm mênh mông bát ngát.
Cô em gái của tình nhân Mao dù đã có chồng bên cạnh, cũng chẳng có nghĩa gì đối với Mao. Cả người chồng cũng không cảm thấy nhục nhã về sự chiếm đoạt của Mao. Tay chồng ngưỡng mộ Mao, hiến vợ mình cho lãnh tụ, còn hơn là không được đặt chân vào bậc thềm thăng tiến. Cuối bữa tiệc Mao bảo tay chồng về nhà, giữ hai chị em cô gái dự các buổi giải trí của mình trong thời gian gặp thị trưởng Thượng Hải Kha Thanh Thế và bí thư tỉnh An Huy Tăng Huy Sinh.
Thậm chí Uông Đông Hưng cũng thấy nhục, nổi xung:
– Nếu mẹ cô gái còn sống, Chủ tịch chắc cũng ngủ với bà ta? – Uông giận dữ văng ra. Tuy nhiên câu chửi rủa lạ lùng nhất của Uông không nhằm vào Mao, mà vào tay quân nhân – thằng chồng mọc sừng – Nó đã bán vợ mình cho Mao!
Uông xem cuộc phiêu lưu tình dục của Mao như là sự đấu tranh với cái chết. Chủ tịch đang vật lộn với tuổi tác. Có một lần, Uông nói với tôi như vậy.
Uông ngạc nhiên:
– Có thật là Mao sợ chết đến nỗi cố gắng nằm trong vòng tay đàn bà càng nhiều càng tốt không?
Phần đông các cô gái ngả vào tay Mao đều là các cô gái ngây thơ, trinh trắng. Sau vài năm, tôi nhận ra những hiện tượng kỳ quái lặp đi lặp lại. Sau khi được Mao đưa lên giường, họ trở lên tha hoá. Đòi hỏi về xác thịt, tính cách kỳ cục của Mao chính là nguyên nhân gây sự sa đoạ này. Chính vì sự hèn hạ vì tình của Mao đã làm hư hỏng các cô gái. Sau khi ân ái với ông, các cô gái trở nên kiêu căng, lố bịch. Họ, những kẻ ít học, vô nghề nghiệp, xuẩn ngốc, không có tương lai, nhưng lại cố gắng sử dụng mối quan hệ với Mao, để khẳng định sự chơi trội của mình với người khác. Họ tiến thân theo con đường ấy! Trong thời kỳ Cách mạng văn hoá, thậm chí một số cô gái đã bị Mao loại bỏ vẫn dùng mối quan hệ đặc biệt trong quá khứ với Chủ tịch để kiếm chác quyền lực.
Nhìn lại, nhiều cô gái trẻ ngây thơ, trong trắng đã trở nên hư hỏng, tha hoá, khi quan hệ với Mao, tôi bắt đầu nghĩ ngay cả Giang Thanh trải qua con đường cũng giống thế. Có thể, sự thật cuộc đời của Giang Thanh hoàn toàn khác khi còn ở Diên An, kể cả thời kỳ đầu kết hôn với Mao. Và cũng có thể, Mao đã làm Giang Thanh hư đốn.
Bệnh hoa liễu – bạn đồng hành của những hoạt động tình dục dâm loạn. Chỉ cần một cô gái nhiễm khuẩn đường âm đạo có thể lây lan ra nhiều người. Những diễn viên múa trong đoàn thường mặc chung quần áo, tôi ngờ rằng chỉ một phụ nữ bị bệnh sẽ lây lan sang cho nhiều người khác nếu mặc chung quần lót. Viêm nhiễm vùng âm hộ, nói một cách nghiêm túc, không phải bệnh hoa liễu, nhưng một người phụ nữ nhiễm bệnh sẽ đổ bệnh khi qua đêm với bạn trai. Người đàn ông này có thể đổ bệnh cho những phụ nữ khác. Căn bệnh thường mang lại sự khó chịu cho phụ nữ, nhưng nó lại không biểu lộ chứng bệnh ở đàn ông, anh ta như vậy trở thành người mang bệnh nhưng không lại biết mình mang mầm bệnh.
Một cô bạn tình của Mao bị nhiễm bệnh, ông bị lây bệnh ngay, ông lây lan sang các tỳ thiếp khác. Mao gửi các cô đến tôi điều trị.
Các cô gái lại tự hào về chuyện này. Căn bệnh do Mao truyền sang là dấu hiệu của sự ngưỡng mộ, một bằng chứng mối quan hệ gần gũi của họ. Họ cũng tự hào được tôi điều trị. Là bác sĩ riêng của Chủ tịch, tôi có quyền dùng những thuốc tốt nhất, mới nhất, hiện đại nhất được nhập từ phương Tây để chữa bệnh cho họ.
Việc điều trị không giải quyết được vấn đề triệt tận gốc nguồn bệnh, vì rằng bản thân Mao là người mang mầm bệnh. Việc lây lan bệnh chỉ có thể ngăn chặn được nếu Mao được chữa trị. Để đạt được điều này trong thời gian điều trị, Mao không được quan hệ tình dục với phụ nữ.
Nhưng Chủ tịch chỉ giễu cợt trước đề nghị của tôi. Như mọi lần, ông cũng tuyên bố rằng bác sĩ luôn phóng đại, thổi phồng mọi thứ. Tôi giải thích rằng ông mang mầm bệnh, thậm chí chính bản thân ông cũng không nhận thấy sự mẫn cảm khó chịu nào cả.
– Nếu chẳng gây cho tôi đau đớn, khó chịu, cũng chẳng cần chữa đã sao nào. Vì sao anh lại cứ lo lắng về điều ấy đến thế nhỉ?
Tôi vẫn nài nỉ, chỉ cho ông rõ, cái gì xảy ra nếu Giang Thanh bị lây bệnh.
Mao thú vị khi nghe tôi nói. Vừa cười, tay vừa vung lên, nét mặt tươi tỉnh, bảo:
– Điều này không bao giờ xảy ra cả. Tôi bảo Giang Thanh từ lâu, tôi già quá rồi không thể quan hệ tình dục được nữa. Cả hai đã lâu không ăn nằm với nhau.
Tôi đề nghị Mao ít ra cũng phải tắm rửa. Ông chỉ lau người bằng khăn nước nóng mỗi đêm, dứt khoát không chịu tắm. Thực tế Mao chẳng bao giờ tắm rửa sạch sẽ. Cả lần này, ông cũng không chấp nhận đề nghị của tôi.
– Tôi tắm rửa bằng dâm thủy của các phụ nữ.
Mao cắt ngang, để tôi biết rằng cuộc nói chuyện chấm dứt.
Có thể, đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy ghê tởm với “người cầm lái vĩ đại”. Mao theo đuổi sở thích tình dục theo ảo giác của triết lý Đạo Lão, sự nhơ nhuốc bẩn thỉu của Mao tàn phá, huỷ hoại biết bao cô gái ngây thơ, nhẹ dạ mà tôi chứng kiến.
Nhưng phải làm một cái gì đó, tôi cần phải tìm cách ngăn ngừa lây lan của bệnh. Ít ra tôi cũng tin khăn trải giường, khăn tắm trong nhà khách, nơi Mao nghỉ phải được tiệt trùng. Việc tẩy trùng khăn trải giường được coi là biện pháp bảo vệ sức khỏe Chủ tịch, tôi giải thích lý do để giấu kín bí mật.
Tôi kín đáo nói chuyện riêng với nhân viên Nhóm Một, khuyên họ chỉ sử dụng khăn cá nhân, tránh dung khăn chung. Tôi hướng dẫn họ sát trùng giường và khăn lau cho Mao kín đáo và khéo léo để ông không nhận ra điều này.
Nhưng Mao vẫn mang mầm bệnh ấy tới ngay ông qua đời.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa



Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 46

Posted: 19/09/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Dưới con mắt của Mao, các tì thiếp của ông trở nên thật quan trọng khi một cô trong bọn họ phát hiện ra hệ thống nghe trộm. Chuyện này xảy ra vào tháng 2-1961, sau ngày Tết nguyên đán ít lâu khi chúng tôi cùng đi với Mao đến Quảng Châu trên chuyến tầu hoả đặc chủng.
Ngay từ đầu, Uông Đông Hưng đã cảm thấy chuyến đi sẽ gặp nhiều rắc rối. Vì lần này còn có quá nhiều phụ nữ trong đoàn tuỳ tùng so với những lần khác. Lúc lên đường, Uông Đông Hưng nói với tôi:
– Hai người đàn bà và một con vịt đã thành cái chợ.

Trong đám phụ nữ có mặt thêm trên tầu gồm cô thư ký riêng của Mao, đã công khai nói mối quan hệ với Mao, ngoài ra còn có cô đã từng cãi nhau với Mao vì chuyện muốn lấy chồng. Tôi sửng sốt khi nhìn thấy một cô giáo tôi quen, càng kinh ngạc hơn khi biết cô ta có quan hệ tình dục với Mao hàng năm nay. Cô giáo đáng yêu chân thật này quen Mao trong một buổi khiêu vũ và mối quan hệ của họ bắt đầu từ đó. Cô chưa bao giờ ra khỏi Bắc Kinh ngoài Đồi Hương nên bây giờ Mao muốn cho cô được thăm quan thế giới bên ngoài.
Người đàn bà này có nước da ngăm ngăm đen, chạc tuổi 40, vợ của một tướng lĩnh cao cấp trong quân đội. Họ đã từng quan hệ với nhau từ hồi ở Diên An. Khi mối quan hệ đó vỡ lở, Mao đã cho bà sang Liên Xô, sau đó “cưới chồng” cho bà, một sĩ quan cao cấp. Giang Thanh đã biết sự tằng tịu này từ lâu, muốn trả thù bằng cách cách chức ông chồng. Thế nhưng ông ta là người thân cận của Bành Đức Hoài, được bộ quốc phòng che chở. Đến năm 1959 khi Bành mất chức, sự che chở biến mất. Giang Thanh đã ép Lâm Bưu xuống tay trừng phạt người sĩ quan đó. Bây giờ, chắc người phụ nữ bất hạnh trong lo âu đã tìm đến xin Mao che chở cho chồng.
Những tình ý ngày xưa như được hồi sinh. Trong chuyến đi, Mao nhiều lần gọi bà tới toa riêng vào buổi tối đầu tiên khi chúng tôi đến Hàng Châu, tôi biết chắc bà ta đã ở trong phòng ngủ của Mao mấy tiếng đồng hồ liền. Thế nhưng sau đó bà biến đâu mất khỏi đoàn tầu. Một người trong đám phụ nữ lo ngại, tìm tôi xin giúp đỡ. Nhưng sáng sớm hôm sau người ta đã thấy bà quay trở lại. Bà đã cãi vã với Mao, ban đêm bỏ ra ngoài, ngồi khóc trên một tảng đá ven hồ. Ngay trong ngày hôm đó, Mao cho bà quay trở lại Bắc Kinh.
Sau vài ngày lưu lại ở Hàng Châu, chúng tôi lên tàu tiếp tục đi về phía Tây, đến Vũ Hán. Chuyến công du của chúng tôi chỉ bị tạm dừng trong thời gian rất ngắn để Mao họp với Trương Bình Hoa, bí thư tỉnh uỷ Vũ Hán.
Cuộc gặp gỡ của họ sẽ diễn ra trên đoàn tàu, nhưng Mao đến muộn.
Ông đang ở trong toa ngủ của ông cùng với cô giáo nọ, trong khi Trương và người trợ lý Vương Nhuận Xuân chờ ở toa khách cạnh đó. Đặc tính nông dân vẫn còn ăn sâu trong con người Vương đến nỗi ông không ngồi vào ghế sa lông như người khác mà lại ngồi chồm hỗm trên sàn. Cuối cùng Mao cũng xuất hiện. Còn tôi, cô giáo cùng với những phụ nữ khác trong đoàn tuỳ tùng của Mao đi dạo phía ngoài đoàn tầu. Lưu Cơ Thuận, người kỹ thuật viên trẻ tuổi có nhiệm vụ bí mật thu lại những cuộc nói chuyện của Mao cũng cùng đi với chúng tôi. Bỗng nhiên Lưu Cơ Thuận nói với cô giáo:
– Hôm nay tôi nghe thấy chị nói.
Cô giáo hỏi lại:
– Anh nói thế nghĩa là sao? Anh nghe thấy gì?
– Khi Chủ tịch chuẩn bị gặp Trương Bình Hoa, chị đã giục Chủ tịch phải mặc quần áo nhanh lên.
Mặt người phụ nữ trẻ biến sắc. Cô hỏi nhỏ:
– Anh nghe thấy những gì nữa?
– Nghe thấy tất cả – Lưu cười và đáp.
Cô chết đứng, quay ngoắt lại, chạy về phía đoàn tàu. Chúng tôi hối hả đuổi theo sau. Đám tì thiếp của Mao cũng hớt hải, vì nếu Lưu đã nghe được những lời mơn trớn khi Mao và cô giáo kia đang làm tình, thể nào anh ta cũng nghe được cả những lời họ nói với Mao.
Khi chúng tôi trở lại, cuộc họp cũng vừa xong. Cô giáo chạy bổ vào toa riêng của Mao, kể lại cuộc nói chuyện của cô với anh chàng Lưu.
Mao nổi giận lôi đình vì ông chẳng hề hay biết người ta nghe trộm. Ông gọi ngay Uông Đông Hưng đến, đằng sau những cánh cửa khép chặt hai người nói chuyện với nhau rất gay gắt hàng tiếng đồng hồ. Uông Đông Hưng quả quyết không hề hay biết gì về việc nghe trộm này, vì ông mới từ nơi lưu đày trở về một thời gian ngắn. Mao lệnh cho đoàn tàu phải lập tức khởi hành đến Vũ Hán, càng sớm càng tốt. Khi tàu đã chuyển bánh, Uông Đông Hưng cho gọi kỹ thuật viên Lưu Cơ Thuận và thư ký riêng La Quang Lư lên gặp ông.
– Chủ tịch muốn biết kế hoạch nghe trộm này đã được bố trí như thế nào.
Ba mặt một lời, Uông tra hỏi anh kỹ thuật viên, cho anh biết Mao đã ra lệnh bắt giam anh. Nhưng Uông không bắt anh ngay. Uông nói với Lưu:
– Đằng nào cậu cũng chẳng thoát.
Còn viên thư ký riêng La Quang Lư cuống cả lên. Tất cả bắt đầu từ hồi Diệp Tử Long còn nắm quyền. Cần phải hỏi Diệp mới biết được. Nhưng Diệp Tử Long đã bị điều đi cải tạo lao động xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, chẳng có mặt ở đây để hỏi.
Còn Lưu Cơ Thuận chẳng biết gì. Anh ta chỉ làm công việc của mình do “thượng cấp” ra lệnh.
Uông Đông Hưng hỏi:
– Thế “thượng cấp” cũng ra lệnh cho cậu thu cả những cuộc nói chuyện riêng tư của Chủ tịch à? Cậu không có việc gì làm nữa hay sao? Tại sao cậu lại muốn gây ra những phiền toái nhỉ? Tại sao Chủ tịch không biết những cuộc nói chuyện của Chủ tịch bị thu trộm? Bây giờ tôi phải giải thích như thế nào với Chủ tịch?
Lưu im thin thít.
Cuối cùng chúng tôi đã đến Vũ Hán, vào nghỉ ở nhà khách “Vườn Mai”. Lúc đó 4 giờ sáng. Uông Đông Hưng và Lưu Cơ Thuận đã dựng một anh thợ điện ở địa phương dậy, họ cùng nhau tháo gỡ tất cả hệ thống nghe trộm được lắp đặt trên tàu ra. Còn tôi lăn ra ngủ.
Đến buổi chiều hôm sau, khi tôi tỉnh giấc, tất cả hệ thống nghe trộm – máy thu thanh, băng, loa và dây dợ – đã được đem bày ở phòng họp. Toàn bộ nhân viên được triệu tập lại để chiêm ngưỡng những thứ đó. Cả nhà khách “Vườn Mai” của chúng tôi cũng được lắp đặt những hệ thống nghe trộm nên người ta tiện thể kiểm tra luôn. Uông Đông Hưng, Khang Nhất Dân, La Quang Lư và Lưu Cơ Thuận phải đứng sau bàn trưng bày hiện vật. Mao cho chụp ảnh để làm bằng chứng.
Khang Nhất Dân, Phó phòng của Ban thư ký riêng phải rời Văn phòng trung ương đến đây, trao đổi với Uông Đông Hưng về việc này. Khang cho biết. Diệp Tử Long đã ra chỉ thị nghe trộm Chủ tịch.
Nhưng Khang cũng biết, thực ra chỉ thị này được ban ra từ cấp “tối cao”. Quyết định này quá quan trọng đến nỗi một cán bộ như Diệp Tử Long cũng phải tuân theo. Tôi không bao giờ hiểu được vì sao người ta lại nghĩ những hệ thống nghe trộm này sẽ không bị phát hiện.
Hệ thống nghe trộm đã bị phát hiện, Khang Nhất Dân muốn tránh cho những cán bộ cấp cao hơn không bị lôi kéo vào vụ cãi cọ này, nên tìm cách thuyết phục Uông Đông Hưng rằng, toàn bộ vấn đề này nên được giải quyết một cách kín đáo. Nhưng cũng như Mao, Uông muốn truy tận gốc rễ của sự việc, phải tìm ra người đã phát lệnh này.
Cuối cùng Uông cũng đi đến một thoả hiệp. Ông thông báo với Mao rằng, các ống nghe được sắp đặt chẳng qua để thu thập tài liệu cho lịch sử đảng sau này. Mao điên tiết, ông gầm lên:
– Vậy có nghĩa là người ta thu thập cả những thông tin đen tối về tôi, giống như Khrushchev hay sao?
Một “lịch sử đảng” dựa vào những băng ghi âm trộm chuyện đời thường chỉ có thể dùng để chống lại ông. Mao lo ngại đến khả năng ông sẽ bị tấn công như Khrushchev đã chống lại Stalin. Những điều mà Khrushchev lên án Stalin cũng chứa đựng những chi tiết bất lợi trong đời tư của Stalin. Mao không muốn đời tư của ông bị người ta ghi vào băng.
Nhưng điều làm ông sợ nhất lại không phải là sự phanh phui này. Những bê bối về quan hệ tình dục của Mao tuy bí mật, nhưng trong nội bộ đảng ai cũng biết. Nỗi sợ hãi lớn nhất là quyền lực của ông bị đe doạ. Những chuyến công du của Mao ở khắp mọi miền đất nước, những cuộc gặp gỡ chính thức của ông với các nhà lãnh đạo đảng ở các địa phương là một phần trong chiến lược chính trị của ông. Nó giúp ông liên hệ trực tiếp với những người lãnh đạo địa phương, không bị bộ máy hành chính quan liêu nặng nề của hệ thống đảng và nhà nước ngăn cản. Ông muốn ngăn chặn việc các cơ quan trung ương biết ông nói gì với những người lãnh đạo cấp tỉnh, muốn ràng buộc cơ quan trung ương và các cơ quan đó phải tuyệt đối trung thành để không có điều gì ảnh hưởng tới vai trò lãnh đạo.
Ông lệnh cho Uông Đông Hưng phải lập tức huỷ hết các băng ghi âm. Mao bảo:
– Không được để sót một băng nào. Tôi không muốn bất cứ ai sử dụng nó để chống lại tôi sau này.
Khiếp đảm trước cơn thịnh nộ của Mao, anh chàng thợ điện Lưu Cơ Thuận cho biết cả những nơi khác – chẳng hạn như ở nhà khách Vương Thường ở Hàng Châu mà chúng tôi vừa đi khỏi – cũng được gài “bọ” nghe trộm. Mao ra lệnh cho Uông cử một số tay chân đi gỡ bỏ những hệ thống này và huỷ những cuốn băng ghi âm.
Trong vụ này, nhiều người đã bị mất chức. Khang Nhất Dân, trợ thủ của Diệp Tử Long, thư ký riêng của Mao, La Quang Lư đã mất chức. Khang phải xuống làm ở Ngân hàng Nhân dân. La bị Hứa Dịp Phụ phế truất, phải xuống làm việc ở Bộ công nghiệp. La bị mất chức thư ký riêng cho Mao, vì trong lúc phê bình công khai Lý Ẩm Kiều, ông đã nói rằng Giang Thanh đã chạy đến Hàng Châu để khỏi bị phê bình. Lưu Cơ Thuận, chỉ vì những lời cợt nhả của mình mà gây ra chuyện động trời bị đày đi Thiểm Tây để cải tạo lao động xã hội chủ nghĩa.
Mao đã thừa nhận một số người bị đuổi việc trong năm 1961 thực ra không phải là những người có tội. Ông bảo:
– Thực ra họ chẳng biết họ đã làm chuyện gì. Họ đâu có biết chuyện gì đã xảy ra?
Mao và Khang Nhất Dân biết rằng, lệnh nghe trộm các cuộc nói chuyện có lẽ được đưa xuống từ cấp lãnh đạo rất cao của đảng. Cả Bộ công an cũng có thể dính đến vụ này. Mao tin rằng, họ đã theo dõi ông trong khuôn khổ của một âm mưu nào đó. Theo tôi, sự nghi ngờ mỗi ngày mỗi tăng của Mao bắt đầu từ suy nghĩ cho rằng đến một lúc nào đó, sẽ có một âm mưu chống lại ông trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp nhất của đảng. Lúc bấy giờ sự bất đồng chính kiến giữa Mao và các cán bộ lãnh đạo khác của đảng vẫn chưa bộc lộ. Nhưng những rạn nứt giữa họ, ngày càng rõ rệt từ khi có cuộc Cách mạng văn hoá mà Mao phải trả giá.
Vụ nghe trộm đã làm Mao mất tinh thần. Vốn đa nghi, nhưng ông lại không nghĩ rằng, những cuộc bí mật thu trộm đã gửi về Bắc Kinh tất cả những băng ghi âm các cuộc đối thoại. Ông tỏ ra thất vọng về các nhân viên. Ông nghĩ, cả những người trong nội bộ ông tin cậy cũng nhúng tay vào âm mưu kia. Ông chắc mẩm, từ lâu chúng tôi đã biết về việc người ta ghi âm các cuộc nói chuyện và gửi về trụ sở chính rồi, nhưng giữ kín. Càng ngày Mao càng ít tin tưởng vào lòng trung thành của chúng tôi hơn. Ông bổ xung, quanh ông toàn phụ nữ, sa thải hàng loạt cần vụ nam giới. Thế là các cô tì thiếp trẻ trung đã trở thành những kẻ thân tín nhất của ông.
Đối với tôi ông cũng tỏ ra tệ hơn. Với câu hỏi: “Có gì mới không?” mỗi khi gặp, ông muốn moi ở tôi những điều tôi biết. Chỉ cần không nói hết cho ông biết cũng đã đủ để chứng minh có âm mưu tạo phản. Căn bệnh đa nghi của Mao càng ngày càng tăng, từ nay chẳng bao giờ ông tin tôi tuyệt đối như trước nữa.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa



Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 47

Posted: 21/09/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Chúng tôi ở lại Vũ Hán thời gian ngắn, rồi lại lên tàu đi về phía Nam, đến Quảng Châu, tình hình càng căng thẳng hơn. Mao triệu tập một cuộc họp bàn về công tác chính trị. Những cán bộ đảng ở cấp cao nhất như Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức và Trần Vân cũng phải tham dự. Giờ đây, Mao đã ngờ vực tất cả mọi người xung quanh ông, cho nên người ta phải thực hiện những biện pháp an ninh thật nghiêm ngặt. Nạn đói vẫn tiếp diễn, hàng ngũ lãnh đạo của đảng bị phân hoá đã làm cho tình hình chính trị trở nên bất ổn.

Theo đánh giá, Quảng Châu có nguy cơ bị phá hoại về an ninh. Cuộc họp dự định phải được giữ bí mật tuyệt đối, vì gián điệp từ Hong Kong có thể lọt vào thành phố một cách khá dễ dàng. Mao hoặc những cán bộ lãnh đạo khác của đảng có thể sẽ trở thành mục tiêu của một vụ ám sát nào đó. Năm ngoái, trong khi đang diễn ra cuộc họp mở rộng của Bộ Chính trị ở Thượng Hải. Bộ công an đã phát giác cuộc họp đó chẳng phải là điều bất ngờ đối với cơ quan mật vụ Đài Loan. Thị trưởng thành phố Thượng Hải, Kha Thanh Thế đoán già đoán non, có lẽ trong ban giúp việc đã lộ tin, ông ra lệnh kiểm soát tất cả các đường bưu điện, điện thoại, điện tín đã liên lạc với bên ngoài. Một thời gian dài sau cuộc họp ở Quảng Châu, Bộ công an và Ban thanh tra trung ương mới vỡ lẽ rằng, sở dĩ Đài Loan biết sẽ có đại hội ở Thượng Hải vì mật độ giao thông đường hàng không đến đó tăng mạnh.
Bí thư thứ nhất tỉnh Quảng Châu, Đào Chú tỏ ra khá lúng túng. Ngay sau khi chúng tôi đến, ông triệu tập một cuộc họp lập kế hoạch bảo vệ an ninh. Cuộc họp do bộ trưởng Bộ công an Tạ Phú Trị và thứ trưởng Uông Đông Hưng chủ trì. Tất cả cán bộ chỉ huy cũng như nhân viên công an Quảng Đông đều tham dự cuộc họp này. Cả tôi cũng có mặt, vì tôi chịu trách nhiệm tổ chức việc chăm sóc y tế. Sau cuộc họp về an ninh, tôi triệu tập một cuộc họp với các nhân viên y tế địa phương. Chúng tôi đề ra các kế hoạch chăm sóc y tế cho những người tham dự hội nghị.
Đang trao đổi với giám đốc Bệnh viện Nhân dân tỉnh Quảng Châu, tôi nhận được một cú điện thoại khẩn cấp từ cô y tá của Giang Thanh. Cô ta bảo, Giang Thanh đang giận dữ, yêu cầu tôi đến gấp. Căn bệnh rối loạn thần kinh của Giang Thanh lại quấy rầy tôi trong khi đang phải làm những việc quan trọng hơn. Tôi đành bỏ dở cuộc họp để xem chuyện gì đã xảy ra.
Khi tôi bước vào biệt thự trong khu nhà khách có tên “Tiểu đáo” của Giang Thanh, toàn bộ nhân viên của bà đã có mặt. Các cô y tá khóc sướt mướt, còn những chàng vệ sĩ, cần vụ nam giới tỏ ra khá căng thẳng. Một nhân viên an ninh túc trực ở đó, Tôn Vĩnh nói: “Lần này thì gay go to rồi”.
Tối hôm trước, một nữ y tá pha nước nóng vào bồn để Giang Thanh tắm. Bỗng nhiên bà kêu ầm lên, vu cho cô y tá cái tội định làm cho bà chết bỏng. Ngoài ra, Giang Thanh còn cho rằng có người âm mưu đầu độc bà bằng thuốc ngủ. Tôi là cấp trên của những nhân viên phục vụ y tế, cuối cùng mọi tội lỗi lại đổ lên đầu tôi.
Tôi tìm cách trấn an đám nhân viên, hứa sẽ bảo vệ họ trước Giang Thanh. Sau đó tôi mới đến thăm Chủ tịch phu nhân. Vừa thấy tôi, bà ném ngay chiếc khăn lau lên bàn, giận dữ hỏi:
– Đồng chí phái đến chỗ tôi những y tá kiểu gì thế, thưa đồng chí bác sĩ. Đồng chí định hại tôi phải không?
Tôi ngồi xuống ghế đối diện, hỏi:
– Có chuyện gì vậy?
Bà nghi ngờ hỏi lại:
– Chuyện gì à! Đồng chí không biết sao?
Tôi giải thích, đang tham dự một cuộc họp nên không ở đây để biết được chuyện gì đã xảy ra.
Giang Thanh kể lại những chuyện tôi đã nghe, y tá định hại bà bằng nước sôi, bằng thuốc ngủ. Giang Thanh nghi ngờ có kẻ muốn ám hại, bảo:
– Nơi đây toàn một lũ ma quái cả.
Tôi giải thích, nước có thể quá nóng nhưng nước trong vòi không thể là nước sôi, hệ thống đun nước tắm không bao có nước sôi, hơn nữa y tá thử trước khi mời bà tắm. Giang Thanh quặc lại:
– Thế đồng chí cho tôi nói dối chắc? Lại còn thuốc ngủ nữa chứ. Màu thuốc khác hẳn, trước kia màu đỏ, nay màu tím, thế là thế nào, đồng chí nói sao đây?
Tôi không có ý ngờ đồng chí nói dối, tôi giải thích. Tôi chỉ nói nước có thể quá nóng, nhưng không phải nước sôi. Thuốc ngủ nhập từ Hong Kong, hàng nhập vào từng thời kỳ khác nhau, màu thuốc có thể thay đổi. Tôi cam đoan, thuốc đã được kiểm định nghiêm ngặt. Không có chuyện sai lầm, cũng không có thuốc độc. Bệnh viện Bắc Kinh đã kiểm nghiệm, niêm phong rồi mới gửi về Quảng Châu. Chỉ có Tiểu Tăng và Tiểu Lý mới có quyền mở niêm phong. Hai y tá này lại được Văn phòng an ninh và Ban y tế trung ương tuyệt đối tin tưởng. Họ hoàn toàn được bảo đảm về chính trị, nếu không họ không được phép phục vụ. Tôi bảo:
– Có thể tinh thần trách nhiệm chưa cao, nhưng ở đây không hề có bọn quỷ quái nào. Nếu họ có ý đồ xấu, cả Văn phòng trung ương và Ban bảo vệ sức khỏe cũng phải chịu trách nhiệm. Chắc chắn không có điều tồi tệ ấy đâu.
Thế nhưng Giang Thanh vẫn lên án tôi bênh vực, bao che cho cô y tá, không chịu tìm hiểu nguyên nhân, bà nói:
– Đồng chí nhận định chẳng đúng tí nào. Tôi không thèm tranh luận với đồng chí nữa!
Giang Thanh ra lệnh cho tôi gọi ngay Uông Đông Hưng tới.
Tôi bực mình sự quy kết vô lý của Giang Thanh. Bà ta lên án tôi đã tham gia chuyện đầu độc bà.
Uông Đông Hưng tỏ ra rất khéo léo, làm tất cả đế xoa dịu. Giang Thanh kích Uông:
– Đồng chí là thứ trưởng Bộ công an, Chánh Văn phòng an ninh. Vậy đồng chí phải chịu trách nhiệm tất cả những gì xảy ra xung quanh Chủ tịch. Đồng chí cho phép tôi hỏi một câu chứ!
– Dạ, được chứ ạ, thưa đồng chí Giang Thanh!
– Nếu các nhân viên dưới quyền đồng chí có nhiệm vụ phải chăm sóc những người khác, tư cách của họ phải như thế nào?
Uông Đông Hưng vẫn tươi cười:
– Thưa đồng chí Giang Thanh, chắc lại có vấn đề gì đó xảy ra. Tôi tin rằng có thể giải quyết vấn đề này. Chỉ cần chúng ta kiên nhẫn một chút.
Giang Thanh chống lại:
– Trời đất! Làm sao tôi có thể kiên nhẫn được khi tôi vừa mở miệng bị ông bác sĩ này đốp chát lại ngay cơ chứ.
Tôi gắng kể lại mọi việc theo cách của tôi nhưng bà đã ngắt ngang lời, tôi chưa kịp nói ba câu:
– Đồng chí im đi! Tôi không muốn nghe nữa.
Sau đó bà lại nhắc tới câu chuyện nước nóng và những viên thuốc độc. Bà nói:
– Tôi có được phép phê bình các y tá của tôi mỗi khi họ mắc sai lầm không? Tôi có thể trông chờ ở bác sĩ điều trị của tôi sự cảm thông không? Không! Thay vào đó chỉ là một bài thuyết trình. Ông ta mắng tôi và chẳng hề coi tôi là một bệnh nhân. Vậy tư cách của ông ta ở đâu? Đồng chí có tin rằng ông ta phục vụ nhân dân tận tuỵ không?
Bà dừng lời để lấy hơi, còn tôi lại tìm cách kể lại câu chuyện một lần nữa. Nhưng bà không cho tôi nói. Bà nói:
– Các bác sĩ và y tá phải chăm lo cho bệnh nhân, chứ không phải cứ đi tranh cãi với bệnh nhân. Ông bác sĩ này thật ngạo mạn. Đây có phải là một kiểu tra tấn về tâm lý không?
Tôi lên tiếng:
– Thưa đồng chí Giang Thanh…
Nhưng bà không cho tôi nói tiếp. Bà quát:
– Đồng chí đừng có nói với tôi nữa! Tôi không thèm tranh luận với đồng chí!
Tôi không chịu nổi nữa. Tôi đứng hẳn dậy, nói:
– Chúng ta đang thảo luận ở đây, theo tôi ai cũng có quyền được phát biểu. Nếu không được phép nói, tôi thấy tôi chẳng có việc gì ở đây nữa.
Tôi bỏ ra khỏi phòng và đóng sập cửa lại, quyết định bỏ việc.
Ở ngưỡng cửa, tôi còn nghe thấy bà nói:
– Thấy chưa, trước mặt đồng chí thứ trưởng, ông ta còn dám làm như thế đó!
Tôi đi dạo quanh vườn lấy lại bình tĩnh. Tôi thấy phải đến gặp Mao ngay, vì chắc chắn ông sẽ đứng về phía người nào đến thuật lại việc này cho ông trước. Nếu ông tin các cô y tá đã tìm cách hãm hại, đầu độc Giang Thanh, trách nhiệm cuối cùng lại thuộc về tôi. Như vậy, rất có thể phải tính đến chuyện tôi sẽ bị bắt giam hoặc thậm chí bị tử hình. Tôi đang định đến Mao trình bày trước khi Giang Thanh bóp méo sự thật với ông. Nhưng tôi không có cơ hội để gặp Mao, vì vệ sĩ của Giang Thanh, Tôn Vĩnh tìm thấy tôi ở trong vườn, triệu tôi trở lại chỗ Giang Thanh và thứ trưởng Uông Đông Hưng. Khi tôi vừa bước vào phòng, Mao phu nhân lên tiếng:
– Đồng chí bị buộc thôi việc và bị quản thúc.
– Được thôi! – Tôi trả lời và quay ngoắt trở ra.
Tôi mừng vì thoát khỏi công việc mà tôi chẳng thích thú gì. Nhưng tôi không muốn bị quản thúc tại gia. Tôi lập tức tới gặp Mao. Lúc đó vào khoảng 2, 3 giờ chiều, Mao cũng vừa tỉnh giấc. Ông vẫn nằm trên giường, mắt nhắm mắt mở, đang nhấm nháp ly trà mà anh vệ sĩ Tiểu Trương của ông vừa mang tới. Tôi bắt đầu:
– Thưa Chủ tịch…
Ông hỏi như thường lệ:
– Có gì mới không?
Tôi nói:
– Đồng chí Giang Thanh đã sa thải và ra lệnh quản thúc tôi.
– Thế ư? – ông rít một hơi thuốc lá, rồi hỏi – Tệ đến thế cơ à? Chuyện gì đã xảy ra vậy?
Tôi kể cho Mao nghe về những rắc rối Giang Thanh đã gây ra trong lần khám bệnh của bà cách đó vài tháng, về việc bà không hài lòng với kết quả khám bệnh của các bác sĩ. Sau đó tôi kể toàn bộ sự việc vừa rồi, đảm bảo với ông, những viên thuốc ngủ các cô y tá cho bà uống cũng giống như những viên thuốc Mao vẫn thường dùng. Sau khi nghe tôi nói xong. Mao vẫn bình thản tiếp tục rít thuốc. Rồi ông nói:
– Giang Thanh thật vô lý. Chuyện này sẽ ổn thôi. Đồng chí đừng nói gì nữa. Tôi sẽ nói với Giang Thanh. Nhưng đồng chí phải lánh mặt vài hôm. Chúng ta phải làm cho Giang Thanh khỏi mất mặt. Đồng chí hãy nói với các y tá, họ không phải sợ bà ấy. Bà ấy chỉ là con hổ giấy.
Lúc ra đến cửa, tôi chạm trán ngay với Giang Thanh. Bà cũng đến gặp Mao.
Tôi tạm lánh ba ngày. Khi Mao và Giang Thanh cùng Đào Chú đi tham quan xưởng làm đồ sứ nổi tiếng ở Phú Sơn, tôi cùng Chu Đức đi xem một cuốn phim “High Noon” có diễn viên tôi ưa thích, Gary Cooper đóng. Phim thật hấp dẫn.
***
Thực ra, Giang Thanh rất khoái xem tôi bị trừng phạt ra sao. Nhưng có lẽ Mao đã đề nghị bà phải giải hoà với tôi. Hôm từ Phú Sơn về, bà cho gọi tôi tới, nói:
– Tôi biết Chủ tịch rất tin tưởng vào khả năng y khoa của đồng chí. Nhưng đó không phải là lý do để đồng chí kiêu ngạo. Tôi đã mất bình tĩnh. Tối qua, Chủ tịch bảo tôi thông báo cho đồng chí biết đừng lo lắng gì, an tâm làm việc. Hãy quên đi cuộc cãi vã của chúng ta và hãy hướng về tương lai.
Bà đưa cho tôi Bản tin Nội bộ trong đó Mao đã đánh dấu một bài yêu cầu tôi đọc. Bà nói tiếp:
– Chủ tịch muốn đồng chí quan tâm hơn nữa đến những sự kiện quan trọng của quốc gia.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 48

Posted: 24/09/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Vào tháng 3-1961, nạn đói lan rộng khắp nơi đã cướp đi sinh mạng hàng triệu nông dân. Mục đích hội nghị mở rộng Bộ Chính trị được tổ chức tại Quảng Châu nhằm xem xét lại chính sách nông nghiệp của Mao. Mao đã dành gần hết tháng Hai để thảo ra một chương trình nông nghiệp cho là khả thi.
Bài báo Mao chọn cho tôi đọc nói về những biện pháp hiện đại hoá ở An Huy, nơi thường xuyên là một trong những tỉnh nghèo đói nhất Trung Quốc, bây giờ ở đó rất nguy kịch. Trước đó, bí thư tỉnh uỷ Tăng Huy Sinh, người ủng hộ kế hoạch Đại nhảy vọt một cách cực đoan. Chính ông ta đã làm Mao phát kiến ra lò luyện kim gia đình. Nhưng đến giờ – đầu năm 1961 – vẫn có gần 10 triệu nông dân ở An Huy bị đói, hàng triệu người trong số họ đã chết trong những tháng tiếp theo. Hàng trăm nghìn người thân tàn ma dại bỏ quê hương làng xóm ra đi. Lòng nhiệt tình của Tăng Huy Sinh đối với Đại nhảy vọt biến mất. Ông vội trở lại khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Để làm việc này, ông chia cho từng nông hộ những mảnh đất của công xã để họ tự canh tác, nộp một phần thu hoạch cho công xã. Vì nông dân không phải là địa chủ, nên Tăng có thể quả quyết, cách làm đó vẫn thuộc cơ cấu “xã hội chủ nghĩa”, Mao có thể chấp nhận được.

Tăng Huy Sinh tin Mao sẽ ủng hộ, trước đó hơn một năm, vào tháng 1-1960, sau cuộc hội nghị Thượng Hải, ông đề xuất một cơ cấu mới. Mao đã đồng ý với cơ cấu sản xuất với tinh thần trách nhiệm này. Còn Tăng Huy Sinh cảm thấy Mao đã khích lệ ông thử nghiệm cơ cấu đó. Lúc đầu, kết quả thu được rất khả quan. Nông dân cày cấy trên mảnh ruộng họ được chia, tỏ ra có tinh thần trách nhiệm đối với nông phẩm họ làm ra. Nhờ vậy, giữa công việc và thành quả lao động có một mối liên hệ mật thiết. Sản xuất nông nghiệp ở An Huy tăng lên rõ rệt.
Trong bản dự thảo, Mao trình bày tại hội nghị Quảng Châu, không đề cập đến cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Tăng, cũng chẳng nói tới các hình mẫu tương tự theo kiểu kinh tế tư nhân đã được áp dụng tại một số nơi ở Trung Quốc. Nhưng sau khi chăm chú nghe Tăng đọc bài phát biểu vào ngày 15-3-1961, Mao lại có vẻ tán thưởng cơ cấu mới của Tăng. Mao nói:
– Nếu làm tốt, chúng ta có thể tăng sản lượng nông nghiệp của đất nước thêm một tỉ “Jin” lúa (jin = 0,500 gram – chú thích của người dịch). Như vậy là rất tốt.
Tăng coi lời bình của Mao là một sự xác nhận.
Tuy nhiên, trong thực tế, đảng cộng sản đang có nguy cơ bị phân hoá do tranh cãi về cơ cấu mới trong sản xuất nông nghiệp.
Kha Thanh Thế, thị trưởng thành phố Thượng Hải, đồng thời cũng là Trưởng ban miền Đông của Bộ Chính trị, đã phản đối Tăng. Tuy Kha vẫn là môn đồ của Mao và bạn của Tăng Huy Sinh, ông suy nghĩ về chủ nghĩa xã hội theo tư duy xã hội chủ nghĩa giáo điều. Với tư cách Trưởng ban miền Đông, lẽ ra Kha Thanh Thế phải quan tâm đến tình hình ở An Huy. Nhưng ông đã tự ái vì Tăng áp dụng cơ cấu nông nghiệp mới không tham khảo ý kiến. Kha trở thành người bảo vệ mô hình tập thể hoá cực đoan nhất.
Trong hội nghị Quảng Châu, giới lãnh đạo chóp bu vẫn chưa thể hiện rõ thái độ của họ, nhưng đã bắt đầu hình thành một khuynh hướng mới. Vào tháng 3-1961, trong một bài phát biểu của mình, Đặng Tiểu Bình đã nói một câu lẫy lừng nhất trong cả sự nghiệp đầy công danh của ông, khi ông lên tiếng ủng hộ đề nghị của Tăng Huy Sinh: “Mèo mà bắt được chuột, nó màu trắng hay màu đen cũng chẳng quan trọng!”
Bất kể có là phương thức tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa – mục đích trước mắt của Đặng là nâng cao được sản lượng nông nghiệp và khắc phục nạn đói.
Lưu Thiếu Kỳ, người không có tài hùng biện thu phục lòng người như Đặng, lời nói của ông không giàu hình ảnh như Đặng, nhưng dần dà ông cũng xác định được quan điểm của riêng mình. Nhưng ở Quảng Châu, ông cũng ngả theo phe ủng hộ thử nghiệm mô hình kinh tế tư nhân. Trong hội nghị Quảng Châu, nhiều vấn đề vẫn chưa được giải quyết thoả đáng. Chương trình về cách làm việc trong công xã của Mao (chương trình “60 điểm”) được chấp thuận không hề đếm xỉa tới những đề nghị hiện đại hoá của Tăng. Thế nhưng chương trình này mới là dự thảo, nên sau này có thể sẽ có những thay đổi. Các cán bộ cao cấp lập kế hoạch đi thanh tra ở nông thôn và một hội nghị tiếp theo diễn ra vào tháng 5 nhằm đánh giá những kết quả của việc thanh tra. Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức và Đặng Tiểu Bình lập tức đi về nông thôn. Ít ra, bề ngoài người ta còn thấy sự thống nhất trong nội bộ đảng vẫn được duy trì.
Nhưng ở đằng sau hậu trường, những cuộc xung đột về tư tưởng giữa các cá nhân liên tiếp xảy ra, bởi vì Mao không đánh giá, khuyến khích cấp dưới theo trình độ và khả năng, ông chỉ lưu tâm đến thái độ xu nịnh của họ.
Khi tôi đọc bài báo về chính sách kinh tế tư nhân của Tăng Huy Sinh, tôi nhận thấy chính sách sẽ gây ra những rắc rối. Thoạt nhìn, chính sách rất thuyết phục. Nếu như sản xuất nông nghiệp, phương thức chia ruộng đất trực tiếp cho nông dân, đạt được hiệu quả cao nhất, cơ cấu này chắc chắn là tối ưu. Nông nghiệp là huyết mạch của đất nước.
Hàng triệu người dân Trung Quốc đang chết đói. Chúng ta cần có thực phẩm để ăn. Nhiều chính trị gia đã chọn chủ nghĩa xã hội, bởi vì họ tin chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể khắc phục được nghèo đói, nâng cao được mức sống của nhân dân, sẽ làm cho Trung Quốc trở thành cường quốc. Cả tôi cũng tin chủ nghĩa xã hội là công cụ để đạt được mục đích đó. Trước tình hình khủng hoảng trầm trọng, nhiều cán bộ đảng cho rằng, chỉ còn một giải pháp duy nhất, trả lại nông dân trách nhiệm sản xuất nông nghiệp của họ. Nếu thu hoạch thực sự tăng, cuộc thử nghiệm này sẽ càng được ủng hộ hơn.
Tuy nhiên, chính sách của Tăng sặc mùi tư hữu nông thôn chứ không phải xã hội chủ nghĩa. Trong nội bộ đảng đã xuất hiện những quan điểm khác biệt về lợi ích quốc gia và chủ nghĩa xã hội nghĩa là gì. Mao tin vào xã hội chủ nghĩa theo kiểu lý tưởng chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng cao nhất của ông không phải sự phồn vinh hay sản xuất, mà là hình thức sở hữu tập thể, cuộc sống chung, nguyên tắc bình quân, một hình thức sơ khai của sự phân phối. Mối quan tâm lớn nhất của Mao không phải là câu hỏi liệu chủ nghĩa xã hội có nâng được mức sống của nhân dân Trung Quốc hay không. Mao biết rất rõ, nông dân bao giờ chẳng muốn có ruộng riêng. Mao nói:
– Điếu chúng ta mong muốn, đó là xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đang đối mặt thực tế những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, vì thế cần phải dựa vào nông dân. Nhưng nó không phải phương hướng chúng ta sẽ đi trong tương lai.
Ông chẳng quan tâm đến việc liệu kinh tế tư nhân có hiệu quả hơn công xã nhân dân không. Ông thuộc loại người cố chấp, Mao trích dẫn một câu ngạn ngữ cổ của Trung Quốc: “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Còn tôi, nếu nhìn thấy quan tài tôi vẫn không từ bỏ lòng tin”. Mao cương quyết không bỏ ý tưởng của mình.
Khi có cuộc họp của giới lãnh đạo cao cấp của đảng vào tháng 5-1961 ở Bắc Kinh, đất nước đang lâm vào tình trạng nguy khốn nhất. Nhiều người bị suy dinh dưỡng, mặt mày xanh xao, bụng báng to vì đói. Đường phố vắng tanh, ở nhà cũng chẳng còn hơi sức, huống chi ra ngoài hay đi làm. Hiện tượng di dân về nông thôn bắt đầu diễn ra, vì không thể cung cấp lương thực cho các thành phố nữa. Đảng đã đưa khoảng 10 triệu dân thành thị về nông thôn. Như vậy, người ta còn có thể giảm những mầm mống bạo loạn chính trị ở các trọng điểm, đồng thời đưa được những người bị đói về gần các nguồn lương thực.
Nhưng kết quả của những chuyến thanh tra không được khả quan cho lắm. Tình hình nông thôn cũng thảm hại. Một số cán bộ lãnh đạo của đảng đã can đảm ngả theo phe đối lập. Trần Vân, người được coi nhân vật cực kỳ thủ cựu, vẫn im hơi lặng tiếng trong hội nghị tháng 3, bây giờ lại là người chống đối kịch liệt nhất. Ông báo cáo:
– Nông dân ca thán. Họ nói dưới thời Tưởng Giới Thạch tuy họ “khổ” thật, nhưng họ vẫn no đủ. Dưới thời Mao, tất cả đều “tuyệt”, nhưng họ chỉ có húp cháo loãng mà thôi. Nếu chúng ta trả lại nông dân ruộng đất của họ, mọi người sẽ lại đủ ăn.
Trần Vân muốn giải tán tất cả các công xã nhân dân. Chương trình 60 điểm đối với “công xã nhân dân” của Mao được sửa đổi. Các nhà ăn công cộng đã không còn tác dụng ở nhiều nơi, bây giờ được chính thức bãi bỏ. Năm 1962 đảng đã điều thêm 10 triệu dân thành thị về nông thôn. Trong công nghiệp trước hết là ngành luyện kim, định mức theo kế hoạch đề ra được giảm xuống rất thấp. Tuy nhiên, các công xã vẫn được duy trì và bề ngoài sự thống nhất trong đảng vẫn được bảo tồn.
***
Mùa hè năm 1961 Mao lại về vùng núi Lư Sơn, nơi vào tháng 7 và 8-1959 đã diễn ra hội nghị tai hoạ mà Bành Đức Hoài đã phê phán Mao và Mao đã cất chức bộ trưởng Quốc phòng của Bành. Bây giờ, Mao lại muốn triệu tập một cuộc họp nữa. Lần này, chương trình họp bàn về sự điều hoà các kế hoạch sản xuất cho công và nông nghiệp. Mao không thể chịu nổi tình trạng hỗn loạn được nữa.
Trước khi diễn ra cuộc họp vào tháng 8, Mao vẫn có một số đệ tử tin cậy. Ông có thể luôn đặt niềm tin vào Kha Thanh Thế. Còn Lâm Bưu lúc nào cũng tỏ ra ngưỡng mộ Mao. Vào tháng 5, Lâm đã chỉ thị cho tờ Giải phóng quân Nhật Báo, số nào cũng phải đăng một câu nói của Mao chủ tịch trên trang nhất. Lâm Bưu đã phát động một chiến dịch nghiên cứu tư tưởng Mao trong quân đội. Lúc nào Lâm Bưu cũng nhắc “tư tưởng Mao chủ tịch là sự thể hiện cao nhất chủ nghĩa Marx-Lenin”. Ngoài ra, Lâm còn khuyến khích toàn dân “đọc sách của Mao chủ tịch, nghe lời Mao chủ tịch và hãy làm người lính trung thành của Mao chủ tịch”. Tuy nhiên, những việc làm của Lâm Bưu khiến tôi thấy chúng có vẻ những cố gắng quá thái nhằm tranh thủ được nhiều quyền lực hơn sự ngưỡng mộ thực lòng.
Cả Vương Nhiệm Trọng, bí thư tỉnh uỷ Hồ Bắc cũng ủng hộ Mao. Ông ta, một kẻ xu nịnh vô liêm sỉ. Hình như Bành Đức Hoài đã làm thay đổi tư tưởng ông ta. Vậy mà giờ đây Vương Nhiệm Trọng lại phê phán mô hình kinh tế tư nhân, bênh vực ý kiến cho rằng, kinh tế tập thể tạo ra phần lớn nhất trong thu nhập quốc dân.
Chu Ân Lai và Chu Đức không bày tỏ ý kiến gì về vấn đề tập thể hoá ở nông thôn. Về vấn đề này, trước đây cả hai đã từng làm Mao nổi đoá, bây giờ họ không muốn một lần nữa chuốc vạ vào thân. Đào Chú, bí thư thứ nhất tỉnh Quảng Đông, mới được kiêm nhiệm chức Trưởng ban miền Trung và Nam Trung Quốc có thái độ nước đôi. Đại khái ông ta cũng ủng hộ kinh tế tư nhân, nhưng đề nghị chỉ trả lại nông dân 30% đất được tập thể hoá. Ông ta nói: “Nếu làm như thế sẽ chẳng có ai bị đói là chủ nghĩa tư bản thì tôi ủng hộ chủ nghĩa tư bản. Chẳng lẽ chúng ta muốn tất cả mọi người trong chủ nghĩa xã hội đều nghèo khổ sao?”
Lưu Thiếu Kỳ ủng hộ dứt khoát cơ cấu khuyến khích tinh thần trách nhiệm trong sản xuất, ông nói:
– Chúng ta phải giảm bớt định mức trong công và nông nghiệp. Đối với chúng ta. vấn đề quan trọng khích lệ được tinh thần lao động của nông dân. Khi lựa chọn. chúng ta không loại trừ một phương thức nào. Tôi đề nghị áp dụng lại cơ cấu kinh tế tư nhân và tư hữu về ruộng đất…
Đặng Tiểu Bình vẫn giữ quan điểm, mèo đen hay mèo trắng không quan trọng, miễn bắt được chuột, ông cam đoan sẽ ủng hộ bất kỳ một cơ cấu nào, miễn là nó có thể nâng cao sản lượng nông nghiệp. Đặng cho rằng tiếp tục áp dụng cơ cấu tập thể thật vô nghĩa. Khi Kha Thanh Thế chỉ trích những phát biểu của Tăng Huy Sinh về ích lợi của kinh tế tư nhân, Đặng liền khiển trách Kha:
– Đồng chí lãnh đạo ban miền Trung không nên có những quyết định hấp tấp như vậy.
Quan điểm của Mao lại khác và tôi biết ông sẽ không chịu nhượng bộ. Tháng 5-1960, Mao đã từng nói với đô đốc Bernard Montgomery, người từng chỉ trích Mao như một tên bạo chúa, đến Trung Nam Hải trong chiếc áo sơ-mi màu đỏ, Mao bắt tay Montgomery và hỏi có biết cảm giác của ông như thế nào khi bắt tay với kẻ đả kích không. Ông nói với Montgomery:
– Nếu không gạt bỏ tất cả chướng ngại vật trên đường bằng mọi giá mà vẫn cứ đi, sẽ không đến được cái đích đã định.
Tôi ngỡ ở hội nghị Lư Sơn lần này, Mao sẽ dùng nguyên tắc đó để ép giới lãnh đạo cao cấp cứng đầu của đảng phải theo ý ông. Nhưng lại không phải như vậy. Ông tham dự các buổi họp thưa thớt, nhưng tối nào cũng nhận được bản báo cáo khá tường tận. Một lần ông gặp riêng Tăng Huy Sinh, nhắc Tăng tiếp tục bảo vệ mô hình kinh tế tư nhân. Ngoài ra, chẳng thấy ông cáu kỉnh hay nổi đoá.
Mao vẫn giữ thế thủ. Một mặt các sự kiện bên ngoài khiến ông phải cân nhắc lại chiến lược đã đề ra. Mặt khác, đó cũng là một phần trong chiến lược, nhử rắn ra khỏi hang. Trận chiến hai bên đang cân bằng.
Tôi biết Mao bực tức với giới lãnh đạo cao cấp của đảng. Một buổi tối trong giờ học tiếng Anh của chúng tôi, Mao chợt thốt ra:
– Những đảng viên tốt đã chết cả rồi. Những kẻ còn lại chỉ là lũ ma quái.
Tôi sửng sốt. Mãi năm năm sau, khi Cách mạng văn hoá bùng nổ, tôi mới hiểu rõ “lũ ma quái” ông nói đến là ai và cái chết của những ai làm cho ông khoái trá.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa


Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 49

Posted: 26/09/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Hầu như Mao không tham gia dự họp Lư Sơn khi đảng thảo luận tìm cách tháo gỡ, đưa đất nước ra khỏi thảm hoạ, cứu hàng triệu nông dân đang bị đói. Mao vẫn chẳng bao giờ đề cập đến những hậu quả tai hại, công khai chấp nhận chính sách Đại nhẩy vọt thất bại, vẫn không nghĩ sự khủng hoảng do chính sách sai lầm của ông gây ra. Tuy nhiên, việc ông ẩn mình trước công luận, phù hợp với cách xử sự của một quan chức thất bại.

Ông không nói đến việc đi thăm nhân dân nữa, cũng chẳng xuất hiện trên các lễ đài. Mặt khác, cuộc sống của ông dựa vào sự ngưỡng mộ của những người khác, khao khát được mọi người chú ý, tán thưởng. Ông càng trở nên không được ưa thích trong đảng bao nhiêu thì sự khao khát đó của ông lại càng lớn bấy nhiêu. Lời hô hào nghiên cứu tư tưởng Mao chủ tịch của Lâm Bưu và những cô gái tụ tập quanh ông vẫn ngưỡng mộ, kính trọng là một cách làm dịu bớt nỗi khát khao đó. Họ bù đắp cho ông bằng những lời nịnh nọt, mơn trớn mà mới trước đây ít lâu, ông vẫn hằng được nghe thấy từ công luận và giới lãnh đạo cao cấp của đảng.
Giang Thanh đến Lư Sơn, sống cùng với Mao trong biệt thự cũ của Tưởng Giới Thạch. Sự có mặt của Giang đã cản trở rất nhiều đến việc trăng gió của Mao. Tuy đêm nào vẫn có các buổi khiêu vũ, Mao nhảy với rất nhiều phụ nữ, nhưng Giang Thanh có mặt, không rời mắt khỏi chồng. Mao giải quyết vấn đề bằng cách đổi sang hẹn các cô gái vào ban ngày.
Mao còn tỏ ra tử tế với Giang Thanh bằng cách viết tặng bà thơ. Đã từ lâu, bà thường ghen tị về việc chồng chỉ làm thơ tặng những phụ nữ khác, nhất là với người vợ cũ Dương Khải Tuệ và các cô gái phục vụ quanh ông, mà chẳng tặng bà một câu thơ nào. Khi Giang tặng Mao một số bức ảnh đẹp, chụp ở Lư Sơn – đã bỏ nhiều thì giờ vào ham mê này, tỏ ra người chụp ảnh rất có khả năng – Mao đáp lại ý muốn của bà bằng việc ghi vào bức ảnh đẹp nhất một bài thơ:
 Nắng mới xuyên qua những rặng thông
Trên trời mây trắng tựa như bông
Cảnh trần đẹp tựa như tiên thế
Bừng sáng bốn phương ánh mai hồng
Giang Thanh rất khoái. Gặp ai, bà cũng khoe bài thơ và bà thấy phải làm một bài thơ để tự khen mình. Thế là một bài thơ tứ tuyệt lố bịch, khoe khoang được ra đời với tựa đề “Tự thuật”:
Núi cao sừng sững đứng bên sông,
Che phủ quanh mình lớp mây hồng.
Ngày ngày ngỡ núi vô hình vậy
Nhưng tỏa uy nghiêm hiếm khi trông.
“Núi cao sừng sững” là một lối chơi chữ vì tên của Giang Thanh cũng được viết từ những chữ đó. Bà tự cho mình là một phụ nữ có tài, nhưng không gặp thiên thời. Trong thời kỳ Cách mạng văn hoá, những bài thơ của bà đã trở thành những lời hiệu triệu.
Sau khi làm cho Giang Thanh thoả mãn bằng thơ, như một vị hoàng đế, Mao lại rút về thế giới của riêng. Ngày nào tôi cũng tới chỗ ông khi ông vừa dậy, đi bơi trong các hồ chứa nước ngay cạnh biệt thư hiện đại mà đảng bộ tỉnh Giang Tây đã chỉ thị xây cho Mao sau hội nghị năm 1959, mặc dù nông dân đang chết đói.
Để giữ bí mật với vợ và trung ương đảng, Mao sử dụng biệt thự này để thì thụt gặp đám thị nữ. Cô gái ông rất thích hồi đó là một cô y tá trẻ ở viện an dưỡng Lư Sơn, ông quen cô ta từ hội nghị năm 1959.
Đôi khi phải trốn Giang Thanh và những người khác, ông nghĩ có thể họ đang theo dõi, ông đi cùng tôi và các cô gái xuống núi, đến tận thành phố Cửu Giang gần sông Dương Tử. Đến nơi, ông xuống sông bơi, đùa vui với các cô bồ trong nhà khách. Nhưng chẳng bao lâu, cái nóng của mùa hè buộc chúng tôi phải lui về với “đỉnh núi sừng sững”.

Trong thời gian ở Lư Sơn vào mùa hè năm 1961. Mao mời vợ thứ hai của ông, Hạ Tử Trân đến chơi. Vào mùa thu hay đầu hè gì đó, bà viết thư cho ông và nhắc ông về những khó khăn sắp tới:
– Ông phải đề phòng những người xung quanh. Có thể một vài người trong số họ là của nhóm Vương Minh, đang tìm cách hại ông.
Đầu những năm 30, sau khi Mao và Hạ Tử Trân kết hôn được ít lâu, Vương Minh, thủ lĩnh của nhóm sinh viên du học từ Liên Xô trở về. Ông đã khiêu khích Mao và cuối cùng bị thất sủng, phải sống lưu đày ở Liên Xô từ những năm 50 đến nay. Bây giờ ông ta chẳng còn làm gì được Mao nữa.
Sau khi sống ly thân với Mao, tinh thần của Hạ Tử Trân bị rối loạn. Bề ngoài, họ chưa bao giờ ly dị. Mao hết hứng đối với bà, sau khi đến Diên An vào năm 1935, bà là một trong số rất ít phụ nữ đã vượt qua được cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Bà ở cùng với con gái, Lý Minh và hai người con trai Mao Ngạn Anh, Mao Ngạn Thanh, bà đã sống trong những năm chiến tranh đầy gian khổ ở Liên Xô, ở đó người ta đã xác định bà mắc chứng tâm thần phân liệt. Sau khi trở về, Mao bố trí cho bà một căn nhà đầy đủ tiện nghi và được nhà nước đài thọ ở Thượng Hải. Bệnh tình không thuyên giảm. Giờ Mao muốn gặp bà.
Qua giám đốc công an Thượng Hải. Mao gửi cho Hạ Tử Trân một cây thuốc lá ngoại 555, một nghìn nhân dân tệ và yêu cầu nhân viên an ninh đưa bà đến Lư Sơn. Giới chức trách Thượng Hải đã cử em trai của Hạ Tử Trân, một sĩ quan cảnh sát làm người liên lạc.
Bà đến nơi trong khi hội nghị đang họp. Mao đón bà trong biệt thự mới xây, tôi cũng ở đó cùng với Mao.
Hồi đó, Hạ Tử Trân đã già yếu nhiều. Tóc bạc, đi không vững, hệt như một bà già. Nhưng khi thấy Mao, khuôn mặt xanh xao của bà rạng rỡ hẳn lên.
Mao lập tức đứng dậy đưa tay ra cầm lấy tay bà và dẫn tới ghế, trong khi Hạ Tử Trân giàn giụa nước mắt. Sau đó Mao ôm lấy bà, vừa cười vừa hỏi:
– Bà có nhận được thư và tiền của tôi không?
Chưa bao giờ tôi thấy ông hiền và cởi mở như vậy.
Bà nói:
– Có! Tôi nhận được thư và cả tiền nữa.
Mao hỏi bà về cuộc sống, về bệnh tật được chữa chạy ra sao. Giọng nói của bà đột nhiên chuyển sang rất khó nghe. Chỉ một thoáng, nét mặt trở nên đờ đẫn, lời nói rời rạc vô nghĩa. Chỉ một thoáng, bà lại tươi tỉnh, nét mặt đờ đẫn biến mất. Mao mời bà cùng ăn tối, nhưng bà từ chối. Mao an ủi:
– Thôi được. Chúng ta đã gặp nhau, nhưng vẫn chưa kể gì nhiều về bà có phải không? Khi về, bà phải nghe lời bác sĩ và tự lo cho mình. Chúng ta sẽ gặp nhau sau.
Rồi bà ra đi.
Sau khi bà đi khỏi một lúc lâu, tôi vẫn ở bên Mao. Ông ngồi lặng yên, có vẻ buồn bã, hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Tôi nhận ra ông sững sờ trước tình trạng của Hạ Tử Trân. Cuối cùng ông lí nhí nói:
– Bà ấy già và ốm yếu quá – Ông quay sang tôi – Bác sĩ Tô Đông Hoa chăm sóc cho Giang Thanh ở Quảng Châu trước đây cũng là người điều trị Hạ Tử Trân phải không?
Tôi xác nhận điều này.
– Thế bà ấy bị bệnh gì?
– Bệnh tâm thần phân liệt.
– Là cái gì?
– Trí óc không liên hệ chính xác với thực tế nữa. Nguyên nhân của bệnh này vẫn chưa tìm ra, còn những loại thuốc người ta dùng để điều trị, hình như không có hiệu quả lắm.
– Mao Ngạn Thanh cũng mắc bệnh này à?
Tôi cũng xác nhận điều này và nhắc ông rằng, Mao Ngạn Thanh đang điều trị ở Đại Liên.
Mao bảo, như vậy cả hai người vô phương cứu chữa, chúng ta không thể làm gì được hơn.
Tôi chỉ còn cách gật đầu đồng ý.
Năm 1962, ở Thượng Hải, tôi cũng thấy ông cũng có tâm trạng buồn như thế, khi ông làm tình với cô gái lần đầu tiên trong đời của cô. Đã 50 năm trôi qua, gặp lại người phụ nữ đã tóc bạc da mồi, Mao tặng hai ngàn nhân dân tệ, bảo bà về. Mao trầm ngâm, nói:
– Bà ấy thay đổi nhiều quá.
Theo tôi, Giang Thanh không bao giờ biết về cuộc gặp với Hạ Tử Trân.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa


Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 50

Posted: 28/09/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46], [47], [48], [49], [50]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Năm 1962, một bước ngoặt về chính trị đối với Mao. Vào tháng giêng, khi ông triệu tập hội nghị mở rộng của Ban chấp hành Trung ương đảng thảo luận, nạn khủng hoảng vẫn tiếp diễn, cũng chính là lúc lòng ngưỡng mộ của mọi người đối với Mao đã xuống đến điểm thấp nhất. Bảy nghìn cán bộ tham dự cuộc họp này, gồm các cán bộ đảng, sĩ quan quân đội từ các vùng, các tỉnh, các thành phố, các quận, các huyện, đồng thời cả những giám đốc của các ngành công nghiệp và khai thác mỏ đến dự cuộc họp mặt lịch sử của một hội nghị gồm bảy nghìn cán bộ đảng viên trong cả nước. Đa số thành viên dự cuộc họp không thuộc hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng, những người không thể quyết định chính sách nhà nước bằng ý kiến của mình, nhưng là người chịu trách nhiệm triển khai mệnh lệnh từ trên xuống trong từng lĩnh vực riêng. Ở Bắc Kinh họ được ưu đãi đặc biệt, được ở trong những khách sạn sang trọng và tối nào cũng có thể tiêu khiển một cách thoải mái. Ban lãnh đạo cần sự ủng hộ của họ.

Lưu Thiếu Kỳ chủ trì cuộc họp, nhưng ông tham khảo ý kiến Mao để viết bài diễn văn cho hội nghị Bẩy ngàn cán bộ đảng viên. Mao bảo, ông không muốn đọc trước bài diễn văn, nhưng hội nghị phải được diễn ra trên tinh thần “dân chủ”, phải khuyến khích đại biểu phát biểu ý kiến riêng của mình, và Lưu có thể xem xét, bổ xung bản thảo cho bài diễn văn trên tinh thần đóng góp cho việc thảo luận.
Vì Mao không đóng góp ý cho bài diễm văn của Lưu, vả lại Lưu không chấp nhận ý kiến của Mao bào chữa, tình trạng kinh tế tồi tệ hiện nay trong nước do thiên tai gây nên. Lưu tuyên bố trong Đại lễ đường nhân dân:
– Thiên tai chỉ xảy ra ở một vùng của đất nước. Ngược lại, những tai hoạ do con người gây nên đã tàn phá toàn bộ đất nước Trung Hoa. Chúng ta không bao giờ được quên bài học này.
Lưu Thiếu Kỳ đề nghị phục chức cho những cán bộ bị sa thải vì họ đã chống lại “chính sách phiêu lưu mạo hiểm tả khuynh” của Đại nhảy vọt, phục chức cho những cán bộ địa phương đã từng ủng hộ ý kiến của Bành Đức Hoài.
Tôi biết Mao nổi xung. Ngay sau cuộc họp, ông phàn nàn:
– Lưu Thiếu Kỳ đã đi chệch khỏi lập trường đấu tranh giai cấp. Đồng chí ấy không đặt ra câu hỏi chúng ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa. Thay vào đó, đồng chí lại so sánh thiên tai với những hỗn loạn do con người gây nên. Theo tôi sự phát biểu nhảm nhí này mới thực là một tai hoạ.
Nhưng đa số những người dự họp đều đồng tình với đánh giá của Lưu Thiếu Kỳ. Sự chia rẽ mất đoàn kết trong đảng trở nên tồi tệ. Tình hình Trung Quốc lúc bấy giờ ảm đạm đến nỗi trong cả những vấn đề thuộc về chính sách quan trọng, phải chật vật lắm người ta mới đi đến được sự thống nhất về quan điểm. Vì vậy hội nghị phải kéo dài hơn một tháng. Các cán bộ địa phương thi nhau than phiền về những khó khăn đang gặp phải, về chính sách đã đưa đất nước đến tình trạng như hiện nay.
Hội nghị lần này như một liều thuốc tẩy. Như thường lệ. Mao rất ít khi tham dự các phiên họp của hội nghị. Trong khi tất cả đại biểu dự hội nghị khắp nơi phát biểu sôi nổi, đưa ra những lời than phiền những sai lầm của cấp trên. Còn Mao, phần lớn thời gian ông nằm trên chiếc giường ngoại cỡ trong “Phòng 118” của Đại lễ đường nhân dân. Ông “nghỉ ngơi” với các tì thiếp trẻ, đọc các báo cáo về những phiên họp, mặc dù hội nghị diễn ra ngay trong toà nhà ông đang ở.
Với sự vắng mặt của Mao, các cán bộ nòng cốt cấp dưới, rốt cuộc, đã có thể chôn vùi tham vọng quá lố của kế hoạch Đại nhảy vọt, chống chọi với thực tế tình trạng kinh tế suy sụp mà không bị Mao cản trở. Trong thời kỳ Đại nhảy vọt, những cán bộ này đã phải chịu đựng một sức ép rất lớn. Khẩu hiệu: “Nhanh, nhiều, tốt, rẻ” đã thúc bách họ phải đưa ra những chỉ tiêu sản xuất vô lý. Họ đứng trước nguy cơ bị chụp mũ hữu khuynh hoặc có thể còn tệ hơn nữa, thậm chí bị mất việc nếu họ giảm chỉ tiêu sản xuất hoặc không hoàn thành định mức mà họ tự đề ra. Cuộc hội nghị của bảy nghìn cán bộ đã tạo cho họ cơ hội khiếu nại về tất cả mọi vấn đề đổi với ban lãnh đạo đảng.
Những khiếu nại đó không bao giờ trực tiếp công kích Mao, chỉ chống lại đường lối Đại nhảy vọt. Tuy nhiên, ai cũng biết, Mao người chịu trách nhiệm về chính sách này. Chỉ trích chính sách này, tức là chỉ trích Mao.
Mao tức giận khi đọc những báo cáo hàng ngày về sự chỉ trích. Ông nói với tôi:
– Suốt ngày họ chỉ biết than vãn, tối đến họ lại đi xem kịch. Ngày nào họ cũng ăn ba bữa …. và đánh rắm. Chủ nghĩa Marx-Lenin của họ như thế à?
Chỉ vì theo nghi thức phải túc trực 24/24 nên tôi phải sống một tháng trời chán ngán, đi đi lại trong hành lang Đại lễ đường, phải nghe những lời đàm tiếu, đọc tài liệu sát ngay phòng của Mao.
Trong khi sự chỉ trích vẫn kéo dài, cuối cùng Mao đành nhận một cái lỗi nào đó đối với cuộc khủng hoảng. Theo tôi biết, chưa có ai yêu cầu Mao tự phê bình bao giờ. Việc tự phê bình chẳng qua chỉ là một phần trong chiến lược của Mao.

Mao rất ghét phải nhận sai lầm. Năm 1960, trong một buổi nói chuyện với Thống chế quân đội Anh, Montgomery, tôi đã nghe thấy Mao thú nhận “đã làm rất nhiều điều dại dột, phạm rất nhiều sai lầm”, nhưng đối với các cán bộ cao cấp của đảng và nhân dân Trung Quốc, về mặt tâm lý, ông không muốn thú nhận rằng tình trạng thảm hại của đất nước có liên quan đến ông. Lần này là lần đầu tiên Mao tự kiểm điểm kể từ khi nắm quyền hành từ năm 1949, trong bài phát biểu ngày 30-1-1962: “Tôi phải chịu trách nhiệm về tất cả những sai lầm do các cơ quan trung ương trực tiếp hay gián tiếp gây ra, bởi vì tôi là Chủ tịch của các cơ quan trung ương”. Nhưng Mao không bao giờ nói cụ thể sai lầm ở chỗ nào, mà ông phản công lại một cách nhanh chóng bằng cách quy trách nhiệm cho những người khác. Sau đó ông chỉ trích cái cơ chế mang tính chất khoán tới hộ lao động là thành phần kinh tế tư nhân.
Tôi tin chắc rằng, thực ra Mao không hề cho ông đã phạm sai lầm. Nhưng mối lo ngại bị mất sự kiểm soát đối với bộ máy đảng trên toàn quốc của ông ngày càng lộ rõ. Ông muốn là trung tâm để dân chúng quây quanh, cho dù có lui xuống hàng thứ hai. Mao đã cho Lưu Thiếu Kỳ đảm nhiệm chức Chủ tịch nước để kiểm tra lòng trung thành của ông ta và trong thời gian diễn ra Hội nghị bảy nghìn cán bộ, Mao đi đến kết luận, tất cả những chuyện Lưu làm đều đi ngược lại với lòng trung thành đối với ông. Một nước có 2 chủ tịch, 2 trung ương, 2 trung tâm điều ấy Mao không bao giờ chấp nhận. Vậy ông đứng ra “chịu trách nhiệm” đối với những khủng hoảng để giữ vững vị trí của ông ở trung ương, chứ không phải vì ông thành khẩn nhận sai lầm.
Lâm Bưu, một người mồm mép, lanh lợi nhất trong đám thuộc hạ thân tín còn lại của Mao. Mao vừa dứt lời, ông ta đã lên phát biểu: “Tư tưởng của Mao chủ tịch luôn luôn đúng đắn. Nếu chúng ta gặp phải khó khăn hay một vấn đề nào đó, điều đó có nghĩa, chúng ta đã không thực hiện đúng chỉ thị, không làm theo những lời căn dặn của Chủ tịch, hoặc đã đi chệch hướng”.
Trong khi Lâm Bưu nói, tôi ngồi ngay sau diễn đàn, phía sau bức rèm cửa. Mao sau này nói với tôi:
– Bài phát biểu của phó chủ tịch Lâm thật hay. Những lời nói của đồng chí Lâm Bưu lúc nào cũng rõ ràng, đầy sức thuyết phục. Tại sao các cán bộ lãnh đạo khác của đảng không thể phát biểu như vậy?
Ít ra, bây giờ tôi đã có thể kết luận, việc Mao tự phê bình chỉ là thủ đoạn, không bao giờ nghĩ ông phạm sai lầm. Nhưng chắc chắn việc Lâm Bưu bảo vệ Mao có hàm chứa một ý đồ không sạch sẽ gì cho lắm. Lâm Bưu từ lâu không giữ trọng trách trong chính phủ, lời phát biểu của Lâm không thật lòng. Bởi vì hầu hết những nhà lãnh đạo đảng đều bất mãn với kế hoạch Đại nhẩy vọt, riêng Lâm Bưu lại không nói ra.
Hoa Quốc Phong, cựu bí thư huyện uỷ Tương Đàm, thuộc tỉnh Hồ Nam, quê Mao, tôi gặp lần đầu tiên vào năm 1959, lại có vẻ thực lòng, ít nịnh nọt hơn Lâm, nhưng cũng như Lâm, Hoa không chỉ trích Mao, khiến Mao đánh giá tốt về ông. Cũng như năm ngoái, Hoa phát biểu trước hội nghị, lại một lần nữa nói lên sự thật: “Sau những nỗ lực của chúng ta trong thời gian từ năm 1958, 1959 và 1960, con người cũng như trâu bò và cả đất nước đều khánh kiệt. Chúng ta không còn đủ sức cho những bước tiếp theo”. Vừa nói, Hoa vừa hướng về phía Mao một cách thành kính: “Nếu chúng ta muốn khắc phục được những khó khăn ở các vùng nông thôn, chúng ta phải cương quyết đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, chúng ta không được phép chấp nhận cơ chế khoán tới từng nông hộ và một nền nông nghiệp không bao cấp. Nếu không, chúng ta sẽ đâm đầu vào ngõ cụt”.
Sau Hội nghị tháng 1 năm 1962. Mao nói: “Hoa Quốc Phong là người trung thực. Đồng chí ấy còn hơn nhiều người lãnh đạo nhà nước hiện nay của chúng ta”. Sau khi Chu Tiểu Châu và các đàn em của ông ở Hồ Nam thất sủng, Trương Bình Hoa được bổ nhiệm làm bí thư thứ nhất của tỉnh. Một số chức vụ trong bộ máy tỉnh còn trống, thế là Hoa Quốc Phong được cử làm Trưởng ban bí thư tỉnh, phụ trách các công việc thường vụ ở Hồ Nam.
Sau Hội nghị bảy nghìn cán bộ, việc bài xích kế hoạch Đại nhảy vọt càng tăng lên. Cả những thế lực ly gián cũng tăng theo, đảng có nguy cơ bị chia rẽ. Đảng và nhà nước thoát dần sự phụ thuộc vào Mao ngày một tăng. Các công xã nhân dân cuối cùng được cải tổ lại thành những đơn vị nhỏ hơn, dễ kiểm soát hơn, trở lại thời kỳ hợp tác xã của năm 1956. Định mức sản xuât công nghiệp được giảm xuổng. Toàn bộ nền kinh tế đang chuyển mình, người ta vẫn nếp tục lên án thái độ thiên tả của kế hoạch Đại nhảy vọt.
Vào tháng hai và tháng ba, Uỷ ban Khoa học và Công nghiệp nhà nước tổ chức hội nghị tại Quảng Châu. Thậm chí người ta còn định phục hồi danh dự cho những trí thức, mặc dù thừa biết Mao rất ác cảm với họ. Các nhà khoa học, các nhân sĩ trí thức của Trung Quốc vẫn chưa hoàn hồn bởi chiến dịch chống hữu khuynh hồi năm 1957. Trong chiến dịch đó, hàng trăm nghìn người bị sa thải, bị giáng chức hoặc bị đưa đi cải tạo lao động. Còn những người không bị truy bức về chính trị, lúc nào cũng sống trong lo sợ, không dám hé miệng.
Bây giờ phó thủ tướng Trần Nghị lại nhấn mạnh ý kiến khác trong bài phát biểu trong Hội nghị khoa học và kỹ thuật: “Có một số vấn đề nhiều người không dám nói, nhưng tôi sẽ nói”. Trần Nghị động viên giới trí thức. “Đất nước Trung Hoa cần những nhà khoa học, nhân sĩ trí thức, nhưng trong những năm qua, họ đã bị ngược đãi. Bây giờ chúng ta phải sắp xếp cho họ trở lại đúng vị trí”. Lời nói của Trần Nghị xúc phạm trực tiếp tới Mao, nhưng đối với giới trí thức lại là một niềm hy vọng sẽ được trọng dụng, được người ta đánh giá đúng khả năng của họ.
Cũng tại hội nghị này, diễn văn của Chu Ân Lai đưa ra những vấn đề chủ yếu. Bài diễn văn “Về vấn đề của những người trí thức” cũng có chiều hướng chống lại những xu thế thù nghịch với trí thức kể từ chiến dịch chống hữu khuynh. Chu Ân Lai tuyên bố với các thính giả, ở nước Trung Hoa xã hội chủ nghĩa đại đa số những người nhân sĩ trí thức được xếp vào giai cấp công nhân, do đó họ cũng được coi là những người bạn của chủ nghĩa xã hội. “Bài trừ mê tín” không đồng nghĩa với “bài trừ khoa học”. Trái lại, để bài trừ mê tín dị đoan, người ta phải nhờ vào những nhà khoa học. Ông kêu gọi nhân sĩ trí thức hãy tích cực và hết lòng đóng góp vào công cuộc phát triển đất nước.
Các nhà khoa học, nhân sĩ trí thức cũng cảm thấy thoả mãn về cuộc hội nghị này, hệt như những cán bộ địa phương đã hài lòng với Hội nghị bảy nghìn cán bộ. Những lời ngon ngọt của đã an ủi được họ. Tất cả những bài phát biểu của họ đều tỏ ra biết ơn những cố gắng của đảng. Đặc biệt, những người “hữu khuynh” rất phấn khích, bởi vì họ hy vọng con dấu thiên hữu đang đóng trên người sắp sửa mất đi, họ sẽ lại được thu xếp vào một vị trí xứng đáng nào đó.
Cũng như các thính giả của mình, Chu Ân Lai thừa biết, năm 1957 Mao đã công kích tầng lóp nhân sĩ trí thức, kêu gọi công nhân và nông dân hãy bài trừ thói mê tín dị đoan. Nếu không có sự đồng ý của Mao, Chu sẽ chẳng dám cả gan phát biểu như vậy.
Tuy vậy, khi đọc biên bản, Mao vẫn tỏ ra không hài lòng về Hội nghị. Một buổi tối. Mao hỏi tôi với một giọng châm biếm:
– Tôi rất muốn biết tầng lớp nào đã làm nên lịch sử? Công nhân, nông dân và nhân dân lao động hay tầng lớp nào khác?
Mao luôn cho rằng, làm nên lịch sử là công nhân và nông dân chứ không phải tầng lớp nhân sĩ trí thức. Những cuộc khởi nghĩa của nông dân là sức mạnh chủ lực của lịch sử Trung Quốc.
Ngay sau Hội nghị, với thái độ tự do, hoà giải hơn của Chu Ân Lai. Mao quyết định triệu tập hội nghị tiếp theo, lần này ít công khai hơn, để xác định vị trí của tầng lớp nhân sĩ trí thức trong xã hội Trung Quốc. Bởi vì ông không thể thực hiện được ý muốn qua những cửa ải quan liêu được nữa, nên từ sau hậu trường, cố gắng tập hợp vây cánh triển khai chiến thuật, tìm kiếm sự ủng hộ những cuộc phản công trong tương lai, một cách âm thầm và bí mật. Ông bắt đầu quy tụ các tay chân. Một trong số họ là Trần Bá Đạt, người đứng đầu các bí thư chính trị của Mao, kiêm Tổng biên tập tạp chí Hồng Kỳ, cơ quan lý luận của đảng. Theo đánh giá của Mao, Trần Bá Đạt, nhà lý luận xuất sắc nhất của đảng về chủ nghĩa Marx-Lenin. Ông thường nói: “Không có lý luận, không có cuộc cách mạng nào thành công được. Trần Bá Đạt, một lý luận gia quý hiếm của đảng ta”.
Trần Bá Đạt không phải lý luận gia, nhưng ông đã có những bài phân tích, đánh giá, ca ngợi Đại nhẩy vọt một cách sâu sắc. Trích lời Marx, “Một ngày sống trong chủ nghĩa cộng sản bằng 20 năm dưới chế độ tư bản”. Trần Bá Đạt quả quyết coi Đại nhẩy vọt như buổi bình minh của chủ nghĩa cộng sản Trung Hoa. Trần thúc giục tiến nhanh, tiến mạnh ông cho rằng công việc mà Trung Quốc hoàn thành trong một ngày thì các nước tư bản phải mất hai mươi năm. Trung Quốc đã đổi thay. Chủ nghĩa cộng sản bước sang bước ngoặt lịch sử mới.
Hai năm sau, khi phải đối đầu với nạn đói do kế hoạch Đại nhảy vọt gây ra, Trần Bá Đạt thản nhiên đối với hàng triệu người đã chết, ông quả quyết: “Đó là một hiện tượng phụ tất yếu trong quá trình đi lên của chúng ta”. Cũng chẳng có gì lạ, khi Mao đánh giá cao Trần Bá Đạt, con người đểu giả, nhỏ mọn, đầy tham vọng một cách bệnh hoạn của ông. Chỉ bằng một dòng chữ đơn thuần đăng trên tạp chí, ông ta đã giúp Mao được trắng án, thoát khỏi trách nhiệm đối với một thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử Trung Hoa.
Năm 1962, Mao nhờ Trần Bá Đạt giúp một tay để chuyển hướng tình hình chính trị sang phía tả. Trần Bá Đạt đã tổ chức hội nghị, trong đó đánh giá của chủ nghĩa Maoist về tầng lớp trí thức được nhấn mạnh. Bài phát biểu của Mao khác hẳn với thái độ trước đây của Chu Ân Lai:
– Tầng lớp nhân sĩ trí thức làm việc trong các văn phòng. Họ sống sung sướng, nhàn nhã, ăn ngon, mặc đẹp. Họ thường ít khi ra ngoài. Bởi vậy họ hay bị cảm lạnh.
Mao muốn rằng những sinh viên, giảng viên Đại học và những nhân viên hành chính phải lao động chân tay năm tháng liền ở các nhà máy hoặc ở đồng ruộng – giới trí thức xem như hình thức trừng phạt mới. Theo Mao, họ phải tham gia đấu tranh giai cấp và làm quen với cuộc cách mạng. Mao tiếp:
– Tình hình hiện nay càng trở nên phức tạp. Một số người đang hô hào phát triển cơ chế kinh tế tư nhân, nhưng trong thực tế chính là sự phục hồi lại chủ nghĩa tư bản. Chúng ta lãnh đạo đất nước từ nhiều năm nay, tuy nhiên chúng ta mới chỉ kiểm soát được hai phần ba xã hội. Một phần ba còn lại nằm trong tay kẻ thù hoặc trong tay của bè lũ của chúng. Kẻ thù có thể mua chuộc người của chúng ta, tôi chưa kể đến các đồng chí lấy con gái địa chủ.
Tôi không biết Mao định nói gì, nhưng qua đó người ta cảm thấy sự thù hằn của ông đối với giới trí thức cũng như đối với các cán bộ lãnh đạo cao cấp khác của đảng vẫn giữ nguyên. Mấy năm sau, trong thời kỳ Cách mạng văn hoá, Giang Thanh đánh giá Hội nghị dưới sự chủ toạ của Chu Ân Lai và Trần Nghị là một “Hội nghị đen”, lên án “một số” cán bộ lãnh đạo đảng – ám chỉ Chu Ân Lại và Trần Nghị – đã quì mọp dưới chân giới nhân sĩ trí thức, khi họ vất bỏ cái mũ tư sản trí thức thay bằng chiếc mũ giai cấp lao động”.
Công việc của Lưu Thiếu Kỳ khiến cho ông thường xuyên xung đột với Mao. Lưu đòi phục hồi danh dự cho những nạn nhân của các cuộc thanh trừng năm 1959. Ý kiến này được hầu hết mọi người trong đảng tán thành. Trong thời gian cuộc Hội nghị Bảy nghìn cán bộ, người ta đã thận trọng và kín đáo thảo luận về vụ Bành Đức Hoài. Nhiều người bắt đầu so sánh Bành Đức Hoài với Hải Thuỵ, một trung thần đời nhà Minh, người đã bị vua cách chức chỉ vì những lời góp ý trung thực, phê bình xác đáng và cũng là một nhân vật được Mao rất khâm phục.
Đến tháng 4, Ban bí thư trung ương dưới sự chỉ đạo của Lưu Thiếu Kỳ đã bắt tay vào việc phục hồi cho những người theo Bành, hoặc những người đã phê phán kế hoạch Đại nhảy vọt. Dưới khẩu hiệu “Đánh giá lại công việc của cán bộ và đảng viên”, người ta đã ủng hộ việc tha thứ ít nhất 70% cho cán bộ đảng bị coi có tội. Chỉ có việc thanh trừng nội bộ chống Bành Đức Hoài không được xét lại, bởi vì ngay đến Luu Thiếu Kỳ cũng không dám qua mặt Mao trong vấn đề này.
Lưu Thiếu Kỳ không hề xin phép Mao trong việc phục hồi cho các cán bộ, cả An Tử Văn, Trưởng ban tổ chức Trung ương đảng cũng vậy. Đến khi Mao nhận được một bản sao của văn bản phục hồi nói trên, Mao nói với tôi:
– An Tử Văn có lẽ chẳng bao giờ báo cáo trung ương về những việc làm của đồng chí ấy. Vì vậy, các đồng chí ở trung ương chẳng biết gì về các hoạt động trong ban tổ chức của đảng. Đồng chí ấy chẳng cho chúng ta biết những thông tin quan trọng, cung cách làm việc còn như ông vua con. Đồng chí có nghĩ họ đang gây sức ép với tôi không?
Điền Gia Anh cho tôi biết. An Tử Văn rất bực khi biết Mao đã nói như vậy. An Tử Văn hỏi: “Trung ương à? Thế trung ương là ai? Có rất nhiều các đồng chí lãnh đạo cao cấp ở Bắc Kinh – Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Bành Chân. Họ là những người chịu trách nhiệm về các công việc hành chính hàng ngày của đảng. Tôi báo cáo với họ không phải đã báo cáo cho trung ương hay sao?
Cả Trần Vân, lãnh đạo cao cấp của đảng, cũng xung khắc với Mao. Hồi đó ông là phó chủ tịch đảng, một chức vụ rất có quyền lực, nhưng từ lâu, mối quan hệ của ông với Mao rất căng thẳng vì thế vai trò, ảnh hưởng của ông cũng rất thấp. Sau những biến cố đầu thập niên 60, Trần Vân nhận ra rằng chỉ bằng cách giải tán các công xã nhân dân, trả lại ruộng đất cho nông dân mới có thể cải thiện tình hình. Sau cuộc Hội nghị Bảy nghìn cán bộ, ông được uỷ nhiệm phụ trách các công việc kinh tế, tài chính của đảng. Khi ông trình lên bản báo cáo với những đề nghị cụ thể cho con đường thoát khỏi khủng hoảng, trả lại ruộng đất cho nông dân, nhưng Mao từ chối không chịu phê chuẩn. Mao ghi ngoài lề: “Bức tranh được vẽ ra một cách đen tối, chẳng thấy một tia sáng nào. Đồng chí Trần Vân vốn xuất thân từ một gia đình buôn bán nhỏ, đồng chí ấy đã không dứt bỏ được đặc tính tư sản của mình. Đồng chí luôn luôn có chiều hướng hữu khuynh”.
Vấn đề chủ tịch công kích phó chủ tịch, người phụ trách kinh tế của đảng, lại lên án ông ta có đặc tính tư sản và thiên hữu, theo kiểu này sẽ là một tai hoạ. Trong cấp bậc và quyền lực của đảng, Trần Vân cao hơn hẳn so với Bành Đức Hoài với một sự kết luận kiểu như vậy từ phía Mao có thể dẫn đến việc đảng bị tan vỡ. Những lời của Mao đã xúc phạm Trần Vân đến nỗi Điền Gia Anh phải xử sự một cách bất thường. Điền ra lệnh cho Lâm Khắc, vừa mới trở về sau khi bị đi đày, không được gửi tài liệu có ghi chú của Mao lên trung ương. Nếu như tài liệu này được gửi lên có thể nó sẽ được người ta sử dụng trong tương lại để chống lại Trần Vân.
Điền Gia Anh không được phép giữ lại một tài liệu quan trọng như vậy, nhưng ngưỡng mộ và tán thành những đánh giá của Trần Vân. Hơn nữa Điền Gia Anh không muốn giới lãnh đạo cao cấp của đảng phải đi đến chỗ bị chia rẽ. Thay vì gửi lên trung ương, Điền Gia Anh đưa tài liệu đó cho Lâm Khắc, bí thư của Mao, còn Lâm Khắc giấu nó dưới đệm. Tài liệu đó không trình lên ban lãnh đạo đảng.
Phải có một ai đó đã báo cho Trần Vân biết về lời bình của Mao. Bởi vậy, Trần Vân lập tức về Tô Châu lấy cớ dưỡng bệnh. Chẳng qua chỉ là một lý do chính trị. Ông không bao giờ bị cách chức hoặc bị công kích đích danh trong thời gian Mao còn sống, không còn giữ một vai trò nào quan trọng. Mãi đến năm 1980, sau Cách mang Văn hoá và Mao qua đời, Trần Vân lại bước lên diễn đàn chính trị. Mỉa mai thay, chỉ vì biết Mao công kích, qua sự rút lui, ông đã cứu giúp rất nhiều người và chính ông cũng được an toàn trước những cuộc trừng phạt của cuộc Cách mạng văn hoá.
Tài liệu bị yểm đi với những lời phê phán Trần Vân đã bị phát hiện vào năm 1964. Hứa Diệp Phụ, người sau khi các hệ thống nghe trộm bị phát hiện, lại được cử làm bí thư riêng cho Mao, coi Lâm Khắc là một đối thủ, biết được vụ này, ra lệnh khám nhà Lâm Khắc trong khi Lâm Khắc đang đi công du với Mao. Người ta đã tìm được tài liệu. Hứa Diệp Phụ gửi nó cho Ban bí thư Trung ương, viết báo cáo cho Mao và Uông Đông Hưng. Lâm Khắc bị đuổi ra khỏi Nhóm Một, Hứa Diệp Phụ được bổ nhiệm bí thư riêng đặc biệt của Mao.
***
Tuy Điền Gia Anh thoát khỏi sự trừng phạt, nhưng cho đến khi cuộc Cách mạng văn hoá bắt đầu, ông là một nhân viên đầu tiên của Mao bị công kích.
Khi nhìn thấy tình trạng khốn khổ anh bạn Lâm Khắc, tôi thật sự mừng vì đã khước từ việc ông yêu cầu làm thư ký riêng. Nếu không tôi cũng sẽ phải vạ.
Uông Đông Hưng cho rằng tôi quá tưởng tượng khi thổ lộ với ông mối nghi ngờ về Mao ngày càng thất vọng với hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng. Ông khẳng định:
– Đảng ta không phải là đảng cộng sản Liên Xô. Trong đảng cộng sản Trung Quốc chỉ có sự thống nhất, đoàn kết nhất trí mà thôi.
Thế nhưng, mỗi lời nói của Mao tôi đều giỏng tai lên nghe. Tình thế rất căng thẳng.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa

No comments: