Đời tư Mao Trạch Đông: Lời nói đầu
Posted: 02/06/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Điền là “hàng xóm” của tôi ở Trung Nam Hải, giúp tôi thói quen viết nhật ký và gửi bài tới các tạp chí. Thực ra Điền đã từng đọc bài của tôi, chính vì lẽ đó anh ta gợi ý tôi tập hợp những bài đã viết cho xuất bản.
Tôi bắt đầu viết nhật ký từ năm 1954, khi được chỉ định làm bác sĩ riêng cho Mao, vì đó là đam mê. Chính điều này đã giúp tôi ghi lại những kinh nghiệm trong quá trình làm việc. Ban đầu, tôi chỉ ghi tóm tắt những vấn đề quan trọng, nhưng dần dà tôi ghi cả những gì tôi chứng kiến, quan sát được. Nhưng chưa bao giờ có ý định xuất bản thành sách và tôi từng từ chối lời đề nghị của một số tạp chí.
Vào giữa năm 1966, khi đám Hồng vệ binh bắt đầu đi lục soát nhà các lãnh tụ đối kháng thì sổ nhật ký ghi chép đã hơn 40 cuốn. Lúc ấy, tôi sống trong khu tập thể Quảng Xương của Bắc Kinh, cùng với 3 thứ trưởng Bộ y tế. Các ông là nạn nhân của cuộc Cách mạng văn hoá, thường xuyên bị nhóm Hồng Vệ binh kiểm soát, khu chung cư cũng không thoát khỏi phiền nhiễu của đán thanh niên nổi loạn đó. Đã nhiều lần, Hồng vệ binh lục soát nhầm nhà vào cả khu chúng tôi. Nhà tôi, Lý Liên rất lo, bảo tôi cẩn thận, vô tình bọn chúng tìm thấy tập nhật ký trong đó ghi chép nhiều chuyện riêng tư về Mao sẽ bị rắc rối liên luỵ lớn.
Không thể tìm nơi cất giấu an toàn, chúng tôi đành phải tìm cách đốt dù rất đau xót. Nhưng cũng không thể huỷ nó tại nhà, vì có thể hàng xóm sinh nghi tôi thủ tiêu những tài liệu bí mật ghi chép phản động. Ngay lập tức, tôi nhớ ở Trung Nam Hải có lò huỷ tài liệu và những bức thư của Mao và Giang Thanh không cần lưu trữ.
Tôi đem ngay các cuốn nhật ký ném vào lò thiêu. Còn hơn chục cuốn chưa kịp đốt, Uông Đông Hưng, chủ nhiệm Cục bảo vệ Trung ương gọi điện cho tôi, lên gặp ông khẩn cấp. Ông bảo, người đầu bếp của Giang Thanh báo cáo nhìn thấy tôi vứt tài liệu vào lò đốt rác. Tôi vội quả quyết đấy là ghi chép cá nhân, không phải tài liệu quốc gia. Ông ta hỏi, ghi chép ấy có gì mà phải thủ tiêu. Tôi bảo, những ghi chép hoạt động thường ngày của Mao chủ tịch, nếu không huỷ tôi có thể bị nguy hiểm. Uông bảo, thủ tiêu nó là tự rước vạ vào thân, chẳng may tên đầu bếp mách Giang Thanh, anh còn gặp thảm hoạ hơn nhiều.
Tôi đã đốt gần hết số sách ghi chép quan trọng, những cuốn còn lại nội dung không có gì, tôi quay lại và ném nốt vào lò thiêu.
Hôm sau, Uông Đông Hưng la tôi:
– Tôi đã bảo anh không được đốt nữa thế mà anh vẫn tiếp tục. Đầu bếp của Mao chủ tịch vừa báo cáo với tôi xong. Chuyện này người khác biết anh sẽ gặp đại hoạ. Thôi chấm dứt ngay, nếu còn tiếp tục tôi sẽ ra lệnh bắt anh.
Tôi báo cáo chẳng còn gì để huỷ cả, việc đã xong. Đó là những cuốn nhật ký tôi đã ghi chép hơn chục năm.
Trong suốt thời kỳ Cách mạng văn hoá, thường xuyên sống trong lo sợ, tôi không dám ghi nhật ký.
Năm 1976, sau khi Mao qua đời, Giang Thanh và Bè lũ bốn tên bị bắt, Lý Liên tỏ ra luyến tiếc, than thở với tôi:
– Thật hoài của, giá như chúng mình đừng đốt, chắc gì đã có gì xảy ra. Đốt đi chả được tích sự gì.
Vợ tôi thúc tôi tiếp tục ghi lại những chuyện gì đã xảy ra trong những năm gần đây.
Một hôm, vào mùa hè 1977, Nguyên soái Diệp Kiếm Anh đến Bệnh viện 305, tôi làm giám đốc, kiểm tra sức khỏe định kỳ, ông hỏi:
– Anh làm việc với Mao chủ tịch hai mươi hai năm, một thời gian quá dài. Anh hãy viết tự truyện của anh đi, đây cũng là một phần của nhân chứng lịch sử đấy.
Ông hứa, nếu sách tôi xuất bản, ông sẽ viết lời giới thiệu.
Tiếp theo hàng loạt các tờ báo và tạp chí yêu cầu tôi viết và gửi bài. Tôi từ chối như đã từng làm, tôi biết cái gì đã xảy ra nếu tôi viết tất cả sự thật, phơi bầy tất cả những gì tôi chứng kiến, họ sẽ buộc tội tôi kẻ hữu khuynh, trí thức tư sản. Tất nhiên tôi không thể nào viết sai sự thật, cũng chẳng muốn ca ngợi sự độc quyền và phủi tay trước những hành động tội ác man rợ mà tôi làm nhân chứng.
Cũng tất nhiên tôi chẳng muốn những ký ức sau 22 năm với Mao bị phai mờ theo năm tháng và tuổi tác, tôi quyết định viết lại những chuyện đã xảy ra trong đời. Năm 1977 tôi bắt đầu viết, không thường xuyên, nhưng cũng đến vài chục cuốn vở viết. Ngôn từ của Mao thật phong phú, sinh động khắc sâu trong nếp nghĩ tôi. Tôi cố hồi tưởng lại những gì Mao đã từng phát biểu. Sự sống còn của tôi và gia đình tuỳ thuộc vào việc làm của Mao, tôi chẳng bao giờ quên. Tôi chẳng bao giờ hy vọng cuốn sách sẽ được xuất bản, vì tôi biết không có nhà xuất bản nào dám in. Tôi chả dại gì mang vạ vào thân khi tự mình xuất bản. Tôi viết chẳng qua để hồi tưởng những ngày đã qua, tôi và Lý Liên đã từng trải nghiệm.
Tháng Hai 1988, Lý Liên bị phát hiện chứng viêm thận mạn tính, phải vào viện tháng 5, đến tháng Bẩy tình trạng càng xấu. Hai thằng con trai, John và Erchong cùng vợ con nó đang định cư ở Hoa Kỳ từ đầu thập niên 1980 yêu cầu tôi khẩn cấp đưa Lý Liên sang Mỹ điều trị.
Tháng Tám, tôi, Lý Liên và đứa cháu gái, Lý Linh, sang Chicago. Trong thời gian Lý Liên chữa bệnh, tôi ở bên lo liệu chăm sóc món ăn kiêng và thuốc thang. Cũng trong thời gian này, Lý Liên thúc giục tôi viết từ những gì ghi chép trong nhật ký, nhưng tôi không thể làm được vì chẳng còn tâm trí.
Đến tháng Mười hai, Lý Liên bị cảm, tình trạng sức khỏe càng tồi tệ. Tôi đưa Lý Liên vào viện, làm tất cả những gì có thể nhưng nhà tôi không qua được, vĩnh biệt ngày 12-1-1989.
Trước khi hôn mê, nhà tôi nhắc đi nhắc lại cố gắng viết kể lại những chuyện xảy ra trong 40 năm qua. Nhà tôi nhấn mạnh:
– Mình phải viết, không những cho mình mà còn vì tôi, vì hậu thế vì đứa cháu đích tôn sắp ra đời. Xin lỗi mình, tôi không thể giúp gì mình hơn được nữa.
Tháng Ba 1989, tôi lục chồng vở nhật ký trong đáy hòm và bắt tay viết, hy vọng cuốn sách được xuất bản để tạ lòng với Lý Liên.
Tôi hy vọng đọc những trang hồi ký này mọi người sẽ hiểu sự thật cuộc đời Mao Trạch Đông người ta đang truyền tụng. Nếu như đọc cuốn sách này, độc giả hiểu được sự thật, yêu tự do hơn như trong hiện tại, cũng là điều tôi và Lý Liên đã từng mong mỏi và yêu quý nhất trong đời.
Năm 1948, tôi là bác sĩ phẫu thuật trong Công ty Đông Á-Úc Châu ở Sydney cho đến hè 1949. Hè năm ấy tôi nhận được thư của thứ trưởng Bộ Y tế trong Ban Đối ngoại của Quân uỷ trung ương đảng cộng sản qua anh cả tôi, mời tôi trở về phục vụ tổ quốc. Tôi nhận lời, đến Hương Cảng gặp vợ tôi, Lý Liên, cả hai cùng trở về Bắc Kinh, thành phố quê hương. Lúc ấy tôi 29 tuổi đời.
Vị thứ trưởng phân công tôi làm việc ở khu điều trị Đồi Hương, phía tây ngoại ô Bắc Kinh, một khu điều trị trực thuộc Văn phòng Trung ương đảng cộng sản. Sau này chuyển sang khu điều trị Trung Nam Hải, tổng hành dinh Trung ương đảng.
Tôi chăm chỉ cần cù trong công tác, chiếm được cảm tình hầu hết các lãnh đạo cao cấp. Năm 1952, trong Bộ tổng nhất trí bầu tôi cán bộ loại A, cũng năm ấy, tôi tham gia chính phủ của đảng cộng sản Trung Quốc, được chỉ định là Viện trưởng khu điều trị Trung Nam Hải, giám đốc Văn phòng Y tế, phó tổng giám đốc Uỷ ban Y tế thuộc Bộ Y Tế công cộng kiêm chủ tịch Bệnh viện 305 của Giải phóng quân.
Năm 1954, tôi được Uông Đông Hưng, giám đốc Cục bảo vệ trung ương với sự đồng thuận của Trương Xuân Kiều, giám đốc Văn phòng trung ương và La Thuỵ Khanh Cục trưởng Cục bảo vệ nội bộ và được thủ tướng Chu Ân Lai đồng ý, tôi được chỉ định làm bác sĩ riêng cho Mao Trạch Đông sau đó làm trưởng ban bảo vệ sức khoẻ cho chủ tịch. Từ đó cho đến khi Mao chủ tịch qua đời năm 1976, trong suốt 22 năm chịu trách nhiệm chăm nom sức khoẻ Mao, tôi là người gần gũi Mao nhất ở Bắc Kinh hay bất cứ Mao đi công tác nơi nào.
Khi bắt tay vào việc chăm nom sức khoẻ cho Mao, điều làm tôi ngạc nhiên nhất, lối sống kỳ lạ khác hẳn bất cứ người bình thường nào. Mao không theo bất cứ một quy tắc nào trong lối sống từ bữa ăn đến giấc ngủ. Với ông, không phân biệt ngày hay đêm trong khoảng 24 giờ trong một ngày có chăng chỉ thoáng qua. Hoạt động thường ngày hay trước công chúng kể cả những cuộc họp, gặp gỡ đoàn ngoại giao nước ngoài, ông có những cuộc hẹn rất lạ theo sở thích riêng của ông.
Mao ưa lối làm việc theo tính cách cá nhân khuấy động phong trào nhưng không hề báo trước, ngay cả những người kế cận cũng không đoán nổi ông sẽ yêu cầu làm gì tiếp theo. Trong khi đó đảng cộng sản Trung Quốc có quyền lực rất lớn và rất bí mật. Mao từng chỉ thị “Đừng có bép xép những chuyện trong cơ quan”. Kết quả, đời thực của ông chìm trong màn sương dầy đặc, ông như một người bí hiểm và uy quyền tuyệt đối.
Mãi đến năm 1959 tôi mới ngưỡng mộ Mao, mặc dù là bác sĩ riêng thường xuyên bên Mao nhưng có một điều bí ẩn huyền bí như một bức tường kiên cố như ngăn cách hai người. Tôi không thể nào hiểu được đời sống thực tại của Mao. Sau năm 1959 tôi mới được phép vượt qua bức rào ngăn cách và chứng kiến bộ mặt thật của Mao trong cuộc sống hàng ngày. Giống như một kịch sĩ, khi lên sân khấu được hoá trang công phu tỉ mỉ khác hẳn khuôn mặt của đời thường.
Đầu thập niên 1950, Mao ký Hiệp ước hữu nghị, liên minh tương trợ Xô-Trung ủng hộ chiến lược ngoại giao “Liên minh một phái”, làm cho mọi người nhầm tưởng mối quan hệ thật gắn bó với Liên Xô. Nhưng chẳng ai hiểu nguyên nhân sâu xa từ những năm 1930 Mao đã từng bất đồng quan điểm với Stalin và Đảng cộng sản Liên Xô, kiểu “xanh vỏ đỏ lòng”, như hoa turnip “nhị trắng hoa đỏ” mà thôi. Trong lần đầu tiên thay mặt chính phủ, Mao sang thăm hữu nghị Liên Xô vào mùa đông 1949-50, đã bị Stalin đón tiếp thật lạnh nhạt, ở lại đến 2 tháng trời ròng rã, chẳng đạt được một kết quả nào đáng kể. Chỉ sau khi Mao tuyên bố ra về Stalin mới chịu ký hiệp ước hữu nghị. Mao hiểu Nga là đối thủ nguy hiểm nhất của Trung Hoa, nhưng không nói ra mà thôi. Phải đến đầu thập niên 1960, sự rạn vỡ quan hệ Trung-Xô người ta mới hiểu một cách rõ ràng.
Trong những năm 1930, đi theo đại bản doanh của đảng cộng sản ở phía bắc tỉnh Thiểm Tây, phóng viên Edgar Snow và đồng nghiệp Hoa Kỳ đã đưa tin về sự kiện phi thường về đảng cộng sản Trung Quốc. Cũng từ đó Mao rất coi trọng, thiện cảm với chính phủ Mỹ nhất là với nhân dân Hoa Kỳ. Từ thập niên 1950 dù chủ trương đường lối “dựa vào Liên Xô”, thanh niên đua nhau học tiếng Nga, nhưng Mao lại không, không những thế ông lại học tiếng Anh. Mao nhiều lần tự hỏi “Lời nói không đi đôi với hành động”.
Trong số cán bộ quanh Mao, làm tham gia những công việc tối mật, hầu hết những trí thức đó kể cả tôi đều được đào tạo trong các trường Anh-Mỹ. Mao không cho phép tuyển những trí thức, hay bất cứ cá nhân nào đào tạo tại Liên Xô làm việc cho ông.
Chiến tranh Triều Tiên và Việt nam đã đẩy Trung Quốc và Hoa Kỳ vào cuộc đối đầu. Một trong nhiều nguyên nhân đưa đến chiến tranh là do Hoa Kỳ chưa hiểu rõ bản chất đích thực của Mao đối với Mỹ vì thế những người lãnh đạo Hoa Kỳ đã coi chính quyền cộng sản Trung Quốc là kẻ thù địch. Ngay từ cuối thập niên 1960 Mao đã làm hết sức mình để quan hệ Trung-Mỹ được cải thiện cho đến khi Mao qua đời. Mao tuy coi Tưởng Giới Thạch là kẻ thù nhưng vẫn đánh giá Tưởng là người yêu nước, người có công trong mối bang giao với Hoa Kỳ. Mao từng nói: “Tưởng giới Thạch và tôi đều chỉ công nhận một nước Trung Hoa, cả hai chúng tôi đều có ý kiến chung về một nước Trung Hoa thống nhất”.
Cuộc đấu đá tranh giành quyền lực lãnh đạo trong nội bộ Ban chấp hành Trung ương đảng đầy phức tạp, khó hiểu. Từ “phong trào chống tả khuynh” năm 1957, người ta gọi là “ cuộc khủng hoàng nhóm Bành Đức Hoài chống đảng” thành chiến dịch từ 1959 đến Cách mạng văn hoá 1966, hầu các chức vụ cao cấp trong lãnh đạo bị xáo trộn do rất nhiều nguyên nhân. Trong thực tế dù sự thay đổi gì chăng nữa Mao vẫn cố tình nắm chặt quy tắc cơ bản, giữ quyền lãnh đạo tối cao.
Như trong chiến dịch chống Stalin và tệ sùng bái cá nhân do Khrushchev và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Liên Xô năm 1959 đã đe doạ chính vị trí và quyền lực tối cao của Mao trong đảng cộng sản Trung Quốc. Mao đã có hàng loạt động thái để bảo tồn quyền lực tối thượng của ông. Như Uông Đông Hưng nói: ” Mao tán thành chống tệ sùng bái và chuyên quyền trong đảng, nhưng với ông thì không”.
Về đời tư của Mao thật kinh khủng. Giữa công chúng, Mao xuất hiện như một lãnh tụ hết lòng vì nước vì dân, thân thiện, cởi mở chiếm được cảm tình tối đa của quần chúng đối với một lãnh tụ có tuổi kính mến. Nhưng cuộc đời thực Mao là kẻ háu gái. Càng về già Mao càng thể hiện sự dâm dục háo sắc đến kinh khủng gây biết bao chuyện động trời, không ai có thể đếm xuể số các thiếu nữ phải ăn nằm với Mao. Uông Đông Hưng từng nhận xét: “Có lẽ Mao nghĩ sắp đến ngày gần đất xa trời nên cố chiếm được bao nhiêu các cô gái thì cố, cho nên Mao mới ham muốn đến như vậy”. Giang Thanh, vợ Mao, từng nói về chồng: “Giải quyết mọi khó khăn, khủng hoảng chính trị, không có một lãnh tụ Trung Hoa hay Xô viết hơn Mao. Trong lĩnh vực tình dục cũng không ai bằng Mao”.
Tôi không viết tiểu sử Mao Trạch Đông, tôi chỉ ghi lại những sự việc bản thân đã thấy, đã nghe, đã biết trong 22 năm gần Mao với tư cách là bác sĩ riêng chăm nom sức khoẻ cho ông. Cuốn sách này để tưởng nhớ Lý Liên, người vợ thân yêu đã đồng cam cộng khổ với tôi trong những năm tháng dưới thời Mao. Không có sự động viên, khuyến khích của Lý Liên tôi không thể hoàn thành cuốn sách này.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Bác sĩ Lý Chí Thỏa (1919-1995) – Ảnh: Giang Thanh, 1961
Bác sĩ Lý Chí Thỏa, tốt nghiệp y khoa bác sĩ trường Đại Học Liên Hợp Tây –Trung, Thành Đô năm 1945, làm việc tại Sydney trước khi trở thành bác sĩ riêng cho Mao Trạch Đông 1954 cho đến khi Mao qua đời.
Từ năm 1980 đến 1988, trước khi định cư tại Hoa-Kỳ, bác sĩ Lý giữ chức vụ Phó chủ tịch Hội Y học Trung Hoa, Chủ tịch Hội Người Cao Tuổi Trung quốc, Tổng biên tập tạp chí Y học và Tự nhiên Trung quốc, Ban biên tập Tạp chí Hội y học Hoa Kỳ.
Bác sĩ Lý Chí Thỏa và vợ Ngô Lý Liên chụp bên Hồ Nam (Trung Nam Hải, Bắc Kinh). Căn hộ của họ ờ tầng 3, bao quát mặt hồ
Bác sĩ Lý sống ở Chicago từ năm 1988 cho đến khi tạ thế 1995.
Tags: Mao Trạch Đông
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Lời nói đầu
Năm 1960, tạp chí Thanh Niên Trung Quốc liên hệ với tôi qua Điền Gia Anh, một thành viên trong tổ thư ký của Mao, Điền hỏi tôi có muốn tham gia viết bài cho tạp chí không.Điền là “hàng xóm” của tôi ở Trung Nam Hải, giúp tôi thói quen viết nhật ký và gửi bài tới các tạp chí. Thực ra Điền đã từng đọc bài của tôi, chính vì lẽ đó anh ta gợi ý tôi tập hợp những bài đã viết cho xuất bản.
Tôi bắt đầu viết nhật ký từ năm 1954, khi được chỉ định làm bác sĩ riêng cho Mao, vì đó là đam mê. Chính điều này đã giúp tôi ghi lại những kinh nghiệm trong quá trình làm việc. Ban đầu, tôi chỉ ghi tóm tắt những vấn đề quan trọng, nhưng dần dà tôi ghi cả những gì tôi chứng kiến, quan sát được. Nhưng chưa bao giờ có ý định xuất bản thành sách và tôi từng từ chối lời đề nghị của một số tạp chí.
Vào giữa năm 1966, khi đám Hồng vệ binh bắt đầu đi lục soát nhà các lãnh tụ đối kháng thì sổ nhật ký ghi chép đã hơn 40 cuốn. Lúc ấy, tôi sống trong khu tập thể Quảng Xương của Bắc Kinh, cùng với 3 thứ trưởng Bộ y tế. Các ông là nạn nhân của cuộc Cách mạng văn hoá, thường xuyên bị nhóm Hồng Vệ binh kiểm soát, khu chung cư cũng không thoát khỏi phiền nhiễu của đán thanh niên nổi loạn đó. Đã nhiều lần, Hồng vệ binh lục soát nhầm nhà vào cả khu chúng tôi. Nhà tôi, Lý Liên rất lo, bảo tôi cẩn thận, vô tình bọn chúng tìm thấy tập nhật ký trong đó ghi chép nhiều chuyện riêng tư về Mao sẽ bị rắc rối liên luỵ lớn.
Không thể tìm nơi cất giấu an toàn, chúng tôi đành phải tìm cách đốt dù rất đau xót. Nhưng cũng không thể huỷ nó tại nhà, vì có thể hàng xóm sinh nghi tôi thủ tiêu những tài liệu bí mật ghi chép phản động. Ngay lập tức, tôi nhớ ở Trung Nam Hải có lò huỷ tài liệu và những bức thư của Mao và Giang Thanh không cần lưu trữ.
Tôi đem ngay các cuốn nhật ký ném vào lò thiêu. Còn hơn chục cuốn chưa kịp đốt, Uông Đông Hưng, chủ nhiệm Cục bảo vệ Trung ương gọi điện cho tôi, lên gặp ông khẩn cấp. Ông bảo, người đầu bếp của Giang Thanh báo cáo nhìn thấy tôi vứt tài liệu vào lò đốt rác. Tôi vội quả quyết đấy là ghi chép cá nhân, không phải tài liệu quốc gia. Ông ta hỏi, ghi chép ấy có gì mà phải thủ tiêu. Tôi bảo, những ghi chép hoạt động thường ngày của Mao chủ tịch, nếu không huỷ tôi có thể bị nguy hiểm. Uông bảo, thủ tiêu nó là tự rước vạ vào thân, chẳng may tên đầu bếp mách Giang Thanh, anh còn gặp thảm hoạ hơn nhiều.
Tôi đã đốt gần hết số sách ghi chép quan trọng, những cuốn còn lại nội dung không có gì, tôi quay lại và ném nốt vào lò thiêu.
Hôm sau, Uông Đông Hưng la tôi:
– Tôi đã bảo anh không được đốt nữa thế mà anh vẫn tiếp tục. Đầu bếp của Mao chủ tịch vừa báo cáo với tôi xong. Chuyện này người khác biết anh sẽ gặp đại hoạ. Thôi chấm dứt ngay, nếu còn tiếp tục tôi sẽ ra lệnh bắt anh.
Tôi báo cáo chẳng còn gì để huỷ cả, việc đã xong. Đó là những cuốn nhật ký tôi đã ghi chép hơn chục năm.
Trong suốt thời kỳ Cách mạng văn hoá, thường xuyên sống trong lo sợ, tôi không dám ghi nhật ký.
Năm 1976, sau khi Mao qua đời, Giang Thanh và Bè lũ bốn tên bị bắt, Lý Liên tỏ ra luyến tiếc, than thở với tôi:
– Thật hoài của, giá như chúng mình đừng đốt, chắc gì đã có gì xảy ra. Đốt đi chả được tích sự gì.
Vợ tôi thúc tôi tiếp tục ghi lại những chuyện gì đã xảy ra trong những năm gần đây.
Một hôm, vào mùa hè 1977, Nguyên soái Diệp Kiếm Anh đến Bệnh viện 305, tôi làm giám đốc, kiểm tra sức khỏe định kỳ, ông hỏi:
– Anh làm việc với Mao chủ tịch hai mươi hai năm, một thời gian quá dài. Anh hãy viết tự truyện của anh đi, đây cũng là một phần của nhân chứng lịch sử đấy.
Ông hứa, nếu sách tôi xuất bản, ông sẽ viết lời giới thiệu.
Tiếp theo hàng loạt các tờ báo và tạp chí yêu cầu tôi viết và gửi bài. Tôi từ chối như đã từng làm, tôi biết cái gì đã xảy ra nếu tôi viết tất cả sự thật, phơi bầy tất cả những gì tôi chứng kiến, họ sẽ buộc tội tôi kẻ hữu khuynh, trí thức tư sản. Tất nhiên tôi không thể nào viết sai sự thật, cũng chẳng muốn ca ngợi sự độc quyền và phủi tay trước những hành động tội ác man rợ mà tôi làm nhân chứng.
Cũng tất nhiên tôi chẳng muốn những ký ức sau 22 năm với Mao bị phai mờ theo năm tháng và tuổi tác, tôi quyết định viết lại những chuyện đã xảy ra trong đời. Năm 1977 tôi bắt đầu viết, không thường xuyên, nhưng cũng đến vài chục cuốn vở viết. Ngôn từ của Mao thật phong phú, sinh động khắc sâu trong nếp nghĩ tôi. Tôi cố hồi tưởng lại những gì Mao đã từng phát biểu. Sự sống còn của tôi và gia đình tuỳ thuộc vào việc làm của Mao, tôi chẳng bao giờ quên. Tôi chẳng bao giờ hy vọng cuốn sách sẽ được xuất bản, vì tôi biết không có nhà xuất bản nào dám in. Tôi chả dại gì mang vạ vào thân khi tự mình xuất bản. Tôi viết chẳng qua để hồi tưởng những ngày đã qua, tôi và Lý Liên đã từng trải nghiệm.
Tháng Hai 1988, Lý Liên bị phát hiện chứng viêm thận mạn tính, phải vào viện tháng 5, đến tháng Bẩy tình trạng càng xấu. Hai thằng con trai, John và Erchong cùng vợ con nó đang định cư ở Hoa Kỳ từ đầu thập niên 1980 yêu cầu tôi khẩn cấp đưa Lý Liên sang Mỹ điều trị.
Tháng Tám, tôi, Lý Liên và đứa cháu gái, Lý Linh, sang Chicago. Trong thời gian Lý Liên chữa bệnh, tôi ở bên lo liệu chăm sóc món ăn kiêng và thuốc thang. Cũng trong thời gian này, Lý Liên thúc giục tôi viết từ những gì ghi chép trong nhật ký, nhưng tôi không thể làm được vì chẳng còn tâm trí.
Đến tháng Mười hai, Lý Liên bị cảm, tình trạng sức khỏe càng tồi tệ. Tôi đưa Lý Liên vào viện, làm tất cả những gì có thể nhưng nhà tôi không qua được, vĩnh biệt ngày 12-1-1989.
Trước khi hôn mê, nhà tôi nhắc đi nhắc lại cố gắng viết kể lại những chuyện xảy ra trong 40 năm qua. Nhà tôi nhấn mạnh:
– Mình phải viết, không những cho mình mà còn vì tôi, vì hậu thế vì đứa cháu đích tôn sắp ra đời. Xin lỗi mình, tôi không thể giúp gì mình hơn được nữa.
Tháng Ba 1989, tôi lục chồng vở nhật ký trong đáy hòm và bắt tay viết, hy vọng cuốn sách được xuất bản để tạ lòng với Lý Liên.
Tôi hy vọng đọc những trang hồi ký này mọi người sẽ hiểu sự thật cuộc đời Mao Trạch Đông người ta đang truyền tụng. Nếu như đọc cuốn sách này, độc giả hiểu được sự thật, yêu tự do hơn như trong hiện tại, cũng là điều tôi và Lý Liên đã từng mong mỏi và yêu quý nhất trong đời.
oOo
Năm 1949, sau hơn 20 năm chiến tranh đẫm máu, Đảng cộng sản cuối cùng đã đánh thắng Quốc dân đảng, dựng lên nước CHND Trung Hoa.Năm 1948, tôi là bác sĩ phẫu thuật trong Công ty Đông Á-Úc Châu ở Sydney cho đến hè 1949. Hè năm ấy tôi nhận được thư của thứ trưởng Bộ Y tế trong Ban Đối ngoại của Quân uỷ trung ương đảng cộng sản qua anh cả tôi, mời tôi trở về phục vụ tổ quốc. Tôi nhận lời, đến Hương Cảng gặp vợ tôi, Lý Liên, cả hai cùng trở về Bắc Kinh, thành phố quê hương. Lúc ấy tôi 29 tuổi đời.
Vị thứ trưởng phân công tôi làm việc ở khu điều trị Đồi Hương, phía tây ngoại ô Bắc Kinh, một khu điều trị trực thuộc Văn phòng Trung ương đảng cộng sản. Sau này chuyển sang khu điều trị Trung Nam Hải, tổng hành dinh Trung ương đảng.
Tôi chăm chỉ cần cù trong công tác, chiếm được cảm tình hầu hết các lãnh đạo cao cấp. Năm 1952, trong Bộ tổng nhất trí bầu tôi cán bộ loại A, cũng năm ấy, tôi tham gia chính phủ của đảng cộng sản Trung Quốc, được chỉ định là Viện trưởng khu điều trị Trung Nam Hải, giám đốc Văn phòng Y tế, phó tổng giám đốc Uỷ ban Y tế thuộc Bộ Y Tế công cộng kiêm chủ tịch Bệnh viện 305 của Giải phóng quân.
Năm 1954, tôi được Uông Đông Hưng, giám đốc Cục bảo vệ trung ương với sự đồng thuận của Trương Xuân Kiều, giám đốc Văn phòng trung ương và La Thuỵ Khanh Cục trưởng Cục bảo vệ nội bộ và được thủ tướng Chu Ân Lai đồng ý, tôi được chỉ định làm bác sĩ riêng cho Mao Trạch Đông sau đó làm trưởng ban bảo vệ sức khoẻ cho chủ tịch. Từ đó cho đến khi Mao chủ tịch qua đời năm 1976, trong suốt 22 năm chịu trách nhiệm chăm nom sức khoẻ Mao, tôi là người gần gũi Mao nhất ở Bắc Kinh hay bất cứ Mao đi công tác nơi nào.
Khi bắt tay vào việc chăm nom sức khoẻ cho Mao, điều làm tôi ngạc nhiên nhất, lối sống kỳ lạ khác hẳn bất cứ người bình thường nào. Mao không theo bất cứ một quy tắc nào trong lối sống từ bữa ăn đến giấc ngủ. Với ông, không phân biệt ngày hay đêm trong khoảng 24 giờ trong một ngày có chăng chỉ thoáng qua. Hoạt động thường ngày hay trước công chúng kể cả những cuộc họp, gặp gỡ đoàn ngoại giao nước ngoài, ông có những cuộc hẹn rất lạ theo sở thích riêng của ông.
Mao ưa lối làm việc theo tính cách cá nhân khuấy động phong trào nhưng không hề báo trước, ngay cả những người kế cận cũng không đoán nổi ông sẽ yêu cầu làm gì tiếp theo. Trong khi đó đảng cộng sản Trung Quốc có quyền lực rất lớn và rất bí mật. Mao từng chỉ thị “Đừng có bép xép những chuyện trong cơ quan”. Kết quả, đời thực của ông chìm trong màn sương dầy đặc, ông như một người bí hiểm và uy quyền tuyệt đối.
Mãi đến năm 1959 tôi mới ngưỡng mộ Mao, mặc dù là bác sĩ riêng thường xuyên bên Mao nhưng có một điều bí ẩn huyền bí như một bức tường kiên cố như ngăn cách hai người. Tôi không thể nào hiểu được đời sống thực tại của Mao. Sau năm 1959 tôi mới được phép vượt qua bức rào ngăn cách và chứng kiến bộ mặt thật của Mao trong cuộc sống hàng ngày. Giống như một kịch sĩ, khi lên sân khấu được hoá trang công phu tỉ mỉ khác hẳn khuôn mặt của đời thường.
Đầu thập niên 1950, Mao ký Hiệp ước hữu nghị, liên minh tương trợ Xô-Trung ủng hộ chiến lược ngoại giao “Liên minh một phái”, làm cho mọi người nhầm tưởng mối quan hệ thật gắn bó với Liên Xô. Nhưng chẳng ai hiểu nguyên nhân sâu xa từ những năm 1930 Mao đã từng bất đồng quan điểm với Stalin và Đảng cộng sản Liên Xô, kiểu “xanh vỏ đỏ lòng”, như hoa turnip “nhị trắng hoa đỏ” mà thôi. Trong lần đầu tiên thay mặt chính phủ, Mao sang thăm hữu nghị Liên Xô vào mùa đông 1949-50, đã bị Stalin đón tiếp thật lạnh nhạt, ở lại đến 2 tháng trời ròng rã, chẳng đạt được một kết quả nào đáng kể. Chỉ sau khi Mao tuyên bố ra về Stalin mới chịu ký hiệp ước hữu nghị. Mao hiểu Nga là đối thủ nguy hiểm nhất của Trung Hoa, nhưng không nói ra mà thôi. Phải đến đầu thập niên 1960, sự rạn vỡ quan hệ Trung-Xô người ta mới hiểu một cách rõ ràng.
Trong những năm 1930, đi theo đại bản doanh của đảng cộng sản ở phía bắc tỉnh Thiểm Tây, phóng viên Edgar Snow và đồng nghiệp Hoa Kỳ đã đưa tin về sự kiện phi thường về đảng cộng sản Trung Quốc. Cũng từ đó Mao rất coi trọng, thiện cảm với chính phủ Mỹ nhất là với nhân dân Hoa Kỳ. Từ thập niên 1950 dù chủ trương đường lối “dựa vào Liên Xô”, thanh niên đua nhau học tiếng Nga, nhưng Mao lại không, không những thế ông lại học tiếng Anh. Mao nhiều lần tự hỏi “Lời nói không đi đôi với hành động”.
Trong số cán bộ quanh Mao, làm tham gia những công việc tối mật, hầu hết những trí thức đó kể cả tôi đều được đào tạo trong các trường Anh-Mỹ. Mao không cho phép tuyển những trí thức, hay bất cứ cá nhân nào đào tạo tại Liên Xô làm việc cho ông.
Chiến tranh Triều Tiên và Việt nam đã đẩy Trung Quốc và Hoa Kỳ vào cuộc đối đầu. Một trong nhiều nguyên nhân đưa đến chiến tranh là do Hoa Kỳ chưa hiểu rõ bản chất đích thực của Mao đối với Mỹ vì thế những người lãnh đạo Hoa Kỳ đã coi chính quyền cộng sản Trung Quốc là kẻ thù địch. Ngay từ cuối thập niên 1960 Mao đã làm hết sức mình để quan hệ Trung-Mỹ được cải thiện cho đến khi Mao qua đời. Mao tuy coi Tưởng Giới Thạch là kẻ thù nhưng vẫn đánh giá Tưởng là người yêu nước, người có công trong mối bang giao với Hoa Kỳ. Mao từng nói: “Tưởng giới Thạch và tôi đều chỉ công nhận một nước Trung Hoa, cả hai chúng tôi đều có ý kiến chung về một nước Trung Hoa thống nhất”.
Cuộc đấu đá tranh giành quyền lực lãnh đạo trong nội bộ Ban chấp hành Trung ương đảng đầy phức tạp, khó hiểu. Từ “phong trào chống tả khuynh” năm 1957, người ta gọi là “ cuộc khủng hoàng nhóm Bành Đức Hoài chống đảng” thành chiến dịch từ 1959 đến Cách mạng văn hoá 1966, hầu các chức vụ cao cấp trong lãnh đạo bị xáo trộn do rất nhiều nguyên nhân. Trong thực tế dù sự thay đổi gì chăng nữa Mao vẫn cố tình nắm chặt quy tắc cơ bản, giữ quyền lãnh đạo tối cao.
Như trong chiến dịch chống Stalin và tệ sùng bái cá nhân do Khrushchev và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Liên Xô năm 1959 đã đe doạ chính vị trí và quyền lực tối cao của Mao trong đảng cộng sản Trung Quốc. Mao đã có hàng loạt động thái để bảo tồn quyền lực tối thượng của ông. Như Uông Đông Hưng nói: ” Mao tán thành chống tệ sùng bái và chuyên quyền trong đảng, nhưng với ông thì không”.
Về đời tư của Mao thật kinh khủng. Giữa công chúng, Mao xuất hiện như một lãnh tụ hết lòng vì nước vì dân, thân thiện, cởi mở chiếm được cảm tình tối đa của quần chúng đối với một lãnh tụ có tuổi kính mến. Nhưng cuộc đời thực Mao là kẻ háu gái. Càng về già Mao càng thể hiện sự dâm dục háo sắc đến kinh khủng gây biết bao chuyện động trời, không ai có thể đếm xuể số các thiếu nữ phải ăn nằm với Mao. Uông Đông Hưng từng nhận xét: “Có lẽ Mao nghĩ sắp đến ngày gần đất xa trời nên cố chiếm được bao nhiêu các cô gái thì cố, cho nên Mao mới ham muốn đến như vậy”. Giang Thanh, vợ Mao, từng nói về chồng: “Giải quyết mọi khó khăn, khủng hoảng chính trị, không có một lãnh tụ Trung Hoa hay Xô viết hơn Mao. Trong lĩnh vực tình dục cũng không ai bằng Mao”.
Tôi không viết tiểu sử Mao Trạch Đông, tôi chỉ ghi lại những sự việc bản thân đã thấy, đã nghe, đã biết trong 22 năm gần Mao với tư cách là bác sĩ riêng chăm nom sức khoẻ cho ông. Cuốn sách này để tưởng nhớ Lý Liên, người vợ thân yêu đã đồng cam cộng khổ với tôi trong những năm tháng dưới thời Mao. Không có sự động viên, khuyến khích của Lý Liên tôi không thể hoàn thành cuốn sách này.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Sơ lược tiểu sử tác giả
Bác sĩ Lý Chí Thỏa (1919-1995) – Ảnh: Giang Thanh, 1961
Bác sĩ Lý Chí Thỏa, tốt nghiệp y khoa bác sĩ trường Đại Học Liên Hợp Tây –Trung, Thành Đô năm 1945, làm việc tại Sydney trước khi trở thành bác sĩ riêng cho Mao Trạch Đông 1954 cho đến khi Mao qua đời.
Từ năm 1980 đến 1988, trước khi định cư tại Hoa-Kỳ, bác sĩ Lý giữ chức vụ Phó chủ tịch Hội Y học Trung Hoa, Chủ tịch Hội Người Cao Tuổi Trung quốc, Tổng biên tập tạp chí Y học và Tự nhiên Trung quốc, Ban biên tập Tạp chí Hội y học Hoa Kỳ.
Bác sĩ Lý Chí Thỏa và vợ Ngô Lý Liên chụp bên Hồ Nam (Trung Nam Hải, Bắc Kinh). Căn hộ của họ ờ tầng 3, bao quát mặt hồ
Bác sĩ Lý sống ở Chicago từ năm 1988 cho đến khi tạ thế 1995.
Mao Trạch Đông – Chương 1
Posted: 04/06/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
– Chủ tịch gọi tôi phải không ạ?
Mao cố gắng mở mắt và mấp máy đôi môi, nhưng không nổi. Chiếc mặt nạ truyền oxygen trượt khỏi mặt, ông lại bị ngạt. Tôi ghé sát ông, nhưng chỉ có thể nghe thấy: “A…a…a…”. Ông vẫn tỉnh, nhưng hầu như không thể nói được gì nữa.
Trong những năm ấy, tôi, bác sĩ riêng của lãnh tụ, phụ trách mười sáu bác sĩ giỏi nhất Trung Quốc với hai mươi bốn y tá dày dạn kinh nghiệm. Chúng tôi được trao nhiệm vụ cứu sống Mao. Trong hơn hai tháng, kể từ ngày 26-6-1976 Mao bị nhồi máu cơ tim lần thứ hai, từ lúc ấy chúng tôi không rời Mao nửa bước. Quanh giường ông, luôn luôn có ba bác sĩ và tám y tá túc trực ngày đêm. Chưa kể hai bác sĩ tim mạch theo dõi cẩn thận điện tim ông từng phút. Đội ngũ bác sĩ thay phiên nhau trực 24/24, mỗi ca trực 8 tiếng, tuy vậy tôi thường xuyên vẫn phải có mặt. Phòng làm việc của tôi là buồng xép chật chội, cạnh phòng điều trị của Chủ tịch, tôi ngủ không quá ba, bốn tiếng một ngày.
Nhân dân Trung Quốc hoàn toàn không biết gì về tình trạng ốm đau của lãnh tụ kính yêu của mình. Tuy nhiên các ảnh trên mặt báo, thường hiếm khi in những tấm ảnh các cuộc gặp của Mao với những người lãnh đạo nước ngoài. Dù rằng báo chí Trung Quốc loan tải khắp thế giới về sức khoẻ tốt của Mao, trong tấm ảnh chụp với thủ tướng Lào, Kaysone Phoumivan vào tháng 5-1976 Chủ tịch trông lờ đờ như một cụ già mệt mỏi. Tuy thế, sang ngày 8-9-1976 hàng trăm triệu nhân dân xuống đường tuần hành hô vang khẩu hiệu “Mao chủ tịch muôn năm”.
Tuy nhiên, đối với những người trải qua những đêm trong phòng bệnh của ông, hiểu rằng Mao Trạch Đông chỉ còn sống một vài giờ thậm chí vài phút thôi. Mao đột quỵ từ tháng Sáu, nhiều uỷ viên bộ chính trị thường xuyên có mặt. Họ túc trực từng cặp ứng theo cấp bậc, vị trí chính trị và được thay đổi 12 giờ một lần. Trong số những người này có ông phó của Mao – người thuộc phái ôn hoà Hoa Quốc Phong, phái cực đoan Vương Hồng Văn, ngoài ra còn có cả các Uỷ viên Bộ chính trị – phái ôn hoà Uông Đông Hưng và phái cực đoan Trương Xuân Kiều.
Hoa Quốc Phong chịu trách nhiệm mọi hoạt động cấp cứu Chủ tịch. Ông thành kính tôn sùng Mao, thường xuyên hỏi han sức khoẻ. Lắng nghe báo cáo của các bác sĩ, ông tin người ta đã làm tất cả những gì có thể để kéo dài cuộc sống của lãnh tụ. Khi chúng tôi đề nghị hồi sức nhân tạo cho chủ tịch bằng các phương pháp mới đôi khi gây đau đớn như cho ống xông qua đường mũi bơm thức ăn vào dạ dày, Hoa Quốc Phong là người duy nhất muốn thử ngay phương pháp này lên chính ông ta. Tôi rất quý Hoa Quốc Phong. Tính liêm khiết, sự thẳng thắn quả là hiếm hoi trong số những người lãnh đạo đảng dính líu đến tham nhũng, thối nát.
Lần đầu tiên tôi gặp Hoa Quốc Phong vào năm 1959, trong thời kỳ Đại nhảy vọt. Khi đó tôi cùng với Mao về quê hương ông ở Thiếu Sơn tỉnh Hồ Nam. Hoa Quốc Phong khi ấy là bí thư đảng ở Tương Đàm. Sau hai năm, chính sách Đại nhảy vọt đã đẩy đất nước vào khủng hoảng kinh tế, tuy vậy chính quyền địa phương vẫn tiếp tục vẫn báo cáo lên về sự tăng trưởng sản xuất nông nghiệp và chỉ có Hoa Quốc Phong duy nhất dám dũng cảm công khai nói rằng không những chỉ sức người và gia súc mà cả đất đai cũng bị kiệt cạn, tất cả các báo cáo về tăng trưởng sản xuất là sự nói dối trắng trợn.
– Không một ai, ngoài Hoa Quốc Phong, nói cho tôi tất cả sự thật – Mao nhận xét như thế.
Hoa Quốc Phong trở thành người thay thế Mao vào tháng 4-1976, khi ông chiến thắng trong cuộc đấu đá giành quyền lực các phe cánh khi họ biết Mao sắp qua đời.
Tháng giêng 1976, Mao bổ nhiệm Hoa Quốc Phong chức vụ quyền thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thay cho Chu Ân Lai đã qua đời, giải quyết mọi công việc chính phủ. Đầu tháng tư, hàng trăm nghìn người Bắc Kinh đã tụ họp nhau trên quảng trường Thiên An Môn tưởng nhớ vị thủ tướng vừa mất Chu Ân Lai và bày tỏ sự phẫn nộ của mình bởi những hoạt động của Giang Thanh cùng nhóm chiến hữu Thượng Hải của bà là Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn. Cuộc biểu tình đã bị chính quyền buộc tội “phản cách mạng”. Để làm vừa lòng những nhà cách mạng vây quanh vợ mình, Mao buộc tội bài phát biểu của Đặng Tiểu Bình trước quần chúng.
Mao luôn luôn có xu hướng cân bằng lực lượng tả khuynh và hữu khuynh, trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp bằng cách bổ nhiệm người trợ lý của mình là Hoa Quốc Phong. Như vậy, Hoa Quốc Phong không những trở thành người đứng đầu chính phủ, còn là người thừa kế Mao ở vị trí người đứng đầu đảng cộng sản Trung Quốc. Tôi vui mừng vì điều này, xem quyết định của Chủ tịch rất khôn ngoan. Thậm chí bản thân Giang Thanh cũng tán thành quyết định, nói, cuối cùng lãnh tụ hành động sáng suốt. Tuy nhiên những người cực đoan buộc tội Hoa Quốc Phong là “hữu khuynh”.
Do vẫn bị công kích, ngày 30 tháng 4 năm 1976 Hoa Quốc Phong nói với Mao rằng ông không thể giữ nổi vị trí vì sự đả kích thường xuyên và nhục mạ từ nhóm Giang Thanh. Sau cuộc hội đàm với Chủ tịch, Hoa Quốc Phong cho tôi xem một số văn bản. Lúc ấy Mao nói năng rất khó khăn, phải nhờ người khác viết hộ. Mao viết cho Hoa Quốc Phong như sau:
“Khi đồng chí ở chính quyền, tôi yên tâm. Hãy hành động với nhiệm vụ được giao. Phải tự tin và đừng lo ngại”.
Sau khi Mao qua đời, với bằng chứng giấy trắng mực đen, tài liệu trên mở đường cho Hoa Quốc Phong trở thành người thừa kế.
Sau nửa đêm 8-9-1976, các bác sĩ lại cố gắng kích thích hoạt động tim của Mao. Do tiêm vào người Mao một chế phẩm từ nhân sâm, vì vậy huyết áp nâng lên từ 86/66 lên 104/72 gần như tới mức bình thường và mạch đập ổn định chút ít, tuy nhiên tôi hiểu, huyết áp tăng giả tạo, không kéo dài lâu được.
Sau khi tiêm, Hoa Quốc Phong kéo tôi lại bên thì thầm, không muốn Trương Xuân Kiều, Uông Đông Hưng, hai uỷ viên bộ chính trị đứng gần đấy nghe thấy:
– Bác sĩ Lý, liệu chúng ta có thể làm một cái gì đó khác được không?
Tôi không nói gì cả, bản thân thủ tướng hiểu, đó là chấm hết. Tôi không thể dũng cảm nói từ “chết”.
Phòng bệnh lặng như tờ. Tôi ngước mắt nhìn Hoa Quốc Phong. Không gian câm lặng, chỉ nghe thấy tiếng máy hô hấp nhân tạo phát ra tiếng động đều đều theo nhịp thở. Tôi lắc đầu, thì thầm lo lắng:
– Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được.
Hoa Quốc Phong quay sang người đứng cạnh, Uông Đông Hưng, trưởng ban tổ chức Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc, cựu trưởng ban bảo vệ Mao, nói:
– Mời đồng chí Giang Thanh và các Uỷ viên Bộ Chính trị ở Bắc Kinh cấp tốc lại đây, đồng thời thông báo cho các Uỷ viên Bộ Chính trị toàn quốc phải về ngay thủ đô họp.
Uông Đông Hưng gặp Mao lần đầu tiên ở Diên An và từng hàng chục năm phụ trách an ninh, một trong số người thân cận, gần gũi nhất của chủ tịch.
Sau khi Uông Đông Hưng đi khỏi, cô y tá chạy đến tôi, nói Trương Ngọc Phượng thông báo ý muốn của Chủ tịch muốn gặp tôi. Trương Ngọc Phượng trước đây là người phục vụ trên đoàn tàu hoả đặc biệt dành cho Mao đi thăm trong nước, bây giờ cô ấy vừa là thư ký riêng, vừa là bạn gái tin cẩn của ông.
Lần đầu tiên tháp tùng Mao, tôi thấy cô ta ở Trương Sa trong buổi dạ hội do Mao tổ chức. Trương Ngọc Phượng lúc ấy, một cô gái mười tám tuổi, có đôi mắt to ngây thơ, làn da trắng nõn. Cô đã mời Mao nhảy sau đó Mao đưa cô về phòng mình, họ qua đêm ở đó. Quan hệ tình cảm của họ một thời bàn tán ồn ào, tuy nhiên bên Mao còn có nhiều cô gái khác. Thậm chí giờ đây vẫn còn hai cô vũ nữ trẻ đang làm y tá phục vụ xoa bóp cho Mao không chính thức. Nhưng Trương Ngọc Phượng ở gần Mao lâu hơn các cô khác, mặc dù có những cử chỉ vụng về và thói thích rượu, nhưng cô vẫn giữ được sự ưu ái của lãnh tụ.
Năm 1974, sau khi thư ký của Mao, Tô Dạ Phú mắc bệnh ung thư phải nằm viện, Trương Ngọc Phượng thay vào đó. Cô ta xử lý các thư tín hàng ngày gửi đến Chủ tịch, sau này khi thị lực Mao giảm đi, cô đọc cho ông một khối lượng lớn tài liệu, viết tốc ký lời bình và chỉ thị. Cuối năm ấy, Uông Đông Hưng chính thức tin tưởng giao Trương Ngọc Phượng giữ cương vị thư ký riêng của Mao.
Với tư cách bác sĩ riêng, tôi có thể rẽ vào phòng Mao bất kỳ lúc nào, còn tất cả mọi người phải được phép của Trương Ngọc Phượng. Sau năm 1974 ngay cả Giang Thanh, vợ Chủ tịch và các uỷ viên Bộ chính trị muốn vào phòng của lãnh tụ cũng phải có sự đồng ý của Trương Ngọc Phượng, buộc phải chịu đựng tính khinh khỉnh của cô. Một hôm vào tháng 6-1976, Hoa Quốc Phong đến, muốn gặp Mao, nhưng Trương Ngọc Phượng đang nghỉ trưa, ấy thế ông cũng không dám đánh thức cô ta. Hai giờ đồng hồ trôi qua, Trương Ngọc Phượng cũng chưa đến làm việc, vì thế thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, vị tư lệnh chỉ đứng sau chức của Chủ tịch đành phải ra về, không được hội kiến. Vào đầu năm ấy, Đặng Tiểu Bình ốm, cộng thêm sự công kích của phe đối lập, làm gia đình ông xẻ đàn tan nghé. Đặng Dung, con gái út của Đặng Tiểu Bình viết cho Mao bức thư cầu khẩn lãnh tụ cho phép cô được sống với bố, lá thư ấy Trương Ngọc Phượng không chuyển cho Mao, cô con gái bất hạnh ấy không nhận được quyết định cho phép quay về sống với bố.
Trong những năm cuối đời, chỉ có Trương Ngọc Phượng mới nghe và hiểu được lời nói lủng củng, đầy mâu thuẫn của ông, thậm chí cô ta còn phiên dịch lời của Chủ tịch cho tôi.
Khi tôi lại gần giường của vị lãnh tụ sắp qua đời, Trương Ngọc Phượng hỏi:
– Bác sĩ Lý, liệu Chủ tịch còn hy vọng nào không?
Một cách khó khăn Mao khẽ gật đầu, từ từ chìa tay phải nắm tay tôi. Tay của ông yếu lắm, mạch đập khó bắt, cằm xệ xuống, da đã xạm dần. Cái nhìn của ông không còn có sức sống, chỉ còn lại sự mệt mỏi của người sắp chết. Đường ghi điện tim gần như phẳng.
Mao được thu xếp đưa vào buồng này trong toà nhà 202 ở Trung Nam Hải sáu tuần trước đó, 28 tháng sáu 1976. Trong những ngày ấy ở phía đông Trung Quốc có trận động đất lớn phá huỷ hoàn toàn thành phố Đường Sơn, cách Bắc Kinh khoảng 100 dặm, làm chết hơn 250 nghìn người. Chính ngay tại thủ đô, nạn nhân tuy không nhiều, nhưng nhà cửa cũng bị phá huỷ đáng kể, mọi người lo sợ những trận động đất kế tiếp nên hàng triệu người đã phải tự dựng lều sống trên đường phố. Nơi Mao nằm điều trị ngay sát phòng làm việc và bể bơi, từ thời Cách mạng văn hoá, trong dinh thự cũng bị đổ vỡ nhiều vì thế chúng tôi buộc phải chuyển ông vào chỗ an toàn hơn.
Khu dinh thự 202 là lựa chọn duy nhất, nơi lãnh tụ nằm, nối liền với toà nhà chính bằng một hành lang. Dinh thự được xây cất đặc biệt cho Mao vào năm 1974, có thể chịu được động đất mạnh. Buổi chiều hôm chuyển đi, có một trận chấn động mạnh trong khi trời mưa tầm tã, ấy thế ở dinh thự 202 không thấy dư chấn. Bầu trời dường như sắp sập xuống, nhưng tôi chẳng để ý – chúng tôi cần phải tập trung, giành giựt cuộc sống Mao chủ tịch.
Hoa Quốc Phong, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Uông Đông Hưng đến sát giường lãnh tụ. Sau tấm bình phong tôi nghe thấy cả từng bước chân nhẹ nhàng bước vào. Phòng đầy người, tổ trực đêm của bác sĩ và y tá đang chuẩn bị thay ca.
Tôi kiểm tra mạch, đứng sau tôi, bốn uỷ viên Bộ Chính trị. Bất ngờ Giang Thanh giận dữ bước vào phòng, gào lên:
– Ai là người sẽ nói cho tôi biết cái gì đang xảy ra ở đây?
Giang Thanh, người vợ thứ tư của Mao, nếu tính cả lần ông tảo hôn do ép buộc của gia đình mà ông từ chối. Mao cưới Giang Thanh ở Diên An năm 1938. Người ta kể cho tôi rằng, khi đó bà ta còn có mối quan hệ thân thiết với người đàn ông khác cũng ở Diên An. Nhưng sau 1949, vai trò thụ động của vợ lãnh tụ vĩ đại làm Giang Thanh buồn bực, bà hay cáu kỉnh, đòi hỏi quá nhiều. Chỉ trong những năm Cách mạng văn hoá bà mới được xuất hiện và thành Uỷ viên Bộ Chính trị, bà tàn nhẫn với tất cả những ai ngăn cản con đường danh vọng. Hai người sống ly thân trong nhiều năm, tuy nhiên Mao không có ý định ly dị Giang Thanh, nếu làm thế, ông không tránh khỏi phải cưới một trong số người tình, điều ông không muốn. Trong những năm Cách mạng văn hoá, Giang Thanh chuyển đến ở một biệt thự lớn ở Điếu Ngọc Thái, nhà khách của chính phủ, nơi khách cao cấp nước ngoài nghỉ chân. Sau cơn đau tim của Mao, Giang Thanh trở lại Trung Nam Hải, sống trong dinh Xuân-Sen.
Bà không dễ dàng chấp nhận ảnh hưởng của Trương Ngọc Phượng đối với Mao, nhưng cuối cùng đành chịu vì biết lợi dụng người phiên dịch phục vụ cho ông chồng ốm đau của mình. Căn bệnh nặng, sự sắp qua đời của Mao là cú đòn nặng với Giang Thanh. Bà lo quyền lực của bà sẽ biến theo gót chân ông và cũng trong thời gian ấy trong tâm khảm bà nuôi niềm hy vọng thay chỗ chồng.
Hoa Quốc Phong cố an ủi:
– Đồng chí Giang Thanh – Hoa lịch sự nói – Chủ tịch đang nói chuyện với bác sĩ Lý.
Tôi an ủi, động viên Mao, mặc dù trạng thái của ông thật vô vọng. Ông bắt đầu xuống sức nhiều năm qua. Từ tháng Chín 1971, chấn động bởi sự phản bội của Lâm Bưu, một người bạn cũ, một người phó duy nhất, người kế thừa sự nghiệp, bạn chiến đấu sát cánh đã trở mặt lật đổ Mao. Âm mưu đảo chính bất thành, Lâm Bưu cùng vợ và con trai quyết định bay sang Liên Xô. Tuy nhiên máy bay hết nhiên liệu, rớt tại Under Khan, vùng ngoại Mông. Tổ lái và gia đình Lâm Bưu đã chết. Sự việc tác động mạnh đến Mao. Ông bị suy sụp, chán nản, các cơn mất ngủ giày vò dẫn ông đến bệnh tật.
Cuộc viếng thăm lịch sử của tổng thống Hoa Kỳ đến Trung Quốc, Richard Nixon, vào tháng Hai 1972. Dù bệnh nặng Mao liên tục từ chối bác sĩ chăm sóc, chỉ ba tuần lễ trước khi tổng thống Mỹ tới, Chủ tịch cuối cùng mới chịu chữa bệnh. Thể trạng của ông xấu trầm trọng không có khả năng hồi phục hoàn toàn. Khi Nixon đến. Mao yếu lắm, nói năng rất khó. Bệnh viêm phổi của Mao chưa hồi phục, lại kèm thêm bệnh tim mạch. Nhưng Mao tự cho rằng đủ sức khoẻ tiếp khách. Để tiếp Richard Nixon tại dinh, Mao cần tôi. Tôi đón tổng thống Nixon trước dinh thự của Mao, đưa tổng thống vào phòng làm việc, qua phòng nghỉ, qua hành lang sát phòng khách, tôi đứng sau cánh cửa phòng tiếp khách nghe rõ cuộc trò chuyện giữa hai người, đồng thời chuẩn bị bất kỳ lúc nào có tín hiệu sẽ thuốc thang ngay cho lãnh tụ.
Cơ thể ở ông già 83 tuổi đã xuất hiện nhiều bệnh. Nhiều năm nghiện thuốc lá phá hỏng hai lá phổi. Lại còn thường xuyên bị bệnh viêm phế quản, viêm phổi dày vò. Các lá phổi bị xơ cứng mất tính đàn hồi, Mao thở khó khăn và ho nhiều. Phổi trái thực tế không làm việc, nên để dễ thở và nói bình thường Mao chỉ có thể nằm nghiêng sang trái. Tôi thường phải sử dụng mặt lạ oxygen, còn trong trường hợp nặng dùng máy hô hấp nhân tạo của Mỹ do Henry Kissinger gửi sang sau chuyến thăm bí mật Trung Hoa năm 1971.
Nhiều chuyên gia y tế nước ngoài cho rằng Mao mắc chứng bệnh Parkingson. Tuy nhiên năm 1974 các bác sĩ Trung Quốc phát hiện ra chẩn đoán sai, ông có căn bệnh nan y hiếm gặp, hoại tử tế bào thần kinh vận động trong vỏ não, làm liệt từng bộ phận cơ thể. Sự phát triển của bệnh làm ông mất khả năng nói và nuốt cho nên phải bơm thức ăn qua đường mũi. Trương lực cơ giảm, thở rất khó khăn. Cơ thể liên tiếp bị viêm nhiễm nhẹ. Do thiếu thuốc đặc hiệu, người bệnh sẽ chết một vài năm sau khi phát hiện.
Bệnh tình của Mao phát triển như các chuyên gia dự đoán. Nhưng ở thời điểm nói trên căn bệnh quái ác này ảnh hưởng xấu tới tim. Cơn nhồi máu cơ tim đầu tiên của Mao vào tháng 5-1976. Điều này xảy ra khi cãi nhau với Trương Ngọc Phượng. Cơn tiếp theo vào ngày 26 tháng sáu, cơn thứ ba – 2 tháng 9. Tất cả bác sĩ hiểu rằng cái chết rất gần nhưng để nói ra được điều này, đòi hỏi phải vô cùng dũng cảm. Tuy vậy, cơ thể của lãnh tụ vẫn chưa chịu đầu hàng.
– Mọi thứ bình thường, thưa Chủ tịch – tôi nói, nắm tay ông – chúng tôi đang hết sức cố gắng.
Trong khoảnh khắc, mắt Mao xuất hiện một tia hy vọng. Tôi thậm chí còn thấy má ông hơi hồng lên chút ít, rồi Mao thở hắt ra, mắt nhắm lại, bàn tay phải không còn sự sống nữa tuột khỏi tay tôi. Đường điện tim phẳng lỳ. Tôi liếc đồng hồ, lúc 0 giờ 10 phút. Bắt đầu một ngày mới – 9 tháng 9 năm 1976.
Tôi không đau buồn khi ông qua đời. Hơn hai mươi năm tôi hàng ngày ở bên cạnh Mao, tháp tùng ông trong các chuyến đi, kiên trì giúp ông trong những hội nghị dài. Đối với Mao, tôi không những bác sĩ riêng còn là người tin cẩn. Ông tâm tình với tôi chuyện riêng tư, các điều bí mật chính trị. Tôi có thể còn gần gũi hơn cả Uông Đông Hưng, người bảo vệ tin cậy của ông.
Trong những năm đầu, tôi ngưỡng mộ Mao. Ông đã cứu Trung Hoa khỏi ách đô hộ Nhật Bản, được coi như sứ giả của Trời. Nhưng trong những năm Cách mạng văn hoá ước mơ của tôi về nước Trung Hoa mới, về tự do, không bị đàn áp và công bằng đã tan thành mây khói. Tôi không tin vào lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, mặc dù tôi là đảng viên đảng cộng sản Trung Quốc. Nhìn vào điện tâm đồ đang chạy một đường thẳng nhịp tim “Người cầm lái vĩ đại”, tôi cảm thấy kết thúc một kỷ nguyên và hiểu rằng ngôi sao của Mao đã tắt. Một ý nghĩ xâm nhập đầu tôi, tôi thấy kinh sợ. Cái gì đang chờ tôi? Một bác sĩ riêng của Mao, sống trong lo âu, sợ hãi từ nhiều năm.
Nhìn vào xác lãnh tụ không còn linh hồn và bộ mặt những người đang đứng xung quanh, tôi hiểu, họ cũng đang tính toán số phận của mình. Cuộc sống ở Trung Nam Hải luôn luôn ẩn nấp sự nguy hiểm, giờ đây tôi bỗng thấy nó tiến gần đến. Giang Thanh nhìn xoáy vào tôi, nói vỗ mặt:
– Các người đang làm cái gì thế? Anh phải chịu hoàn toàn trách nhiệm!
Lời buộc tội của Giang Thanh không làm tôi ngạc nhiên. Giang Thanh nổi tiếng mưu mô, tàn ác. Quan hệ giữa chúng tôi bắt đầu vẩn đục từ hai mươi năm trước, bốn năm gần đây càng xấu đi, năm 1972, thậm chí Giang còn buộc tội tôi là gián điệp.
Hoa Quốc Phong xen vào, chậm chạp đi về phía bà, từ tốn nói:
– Tất cả mọi việc diễn ra trước mắt chúng tôi. Các đồng chí bác sĩ đã làm tất cả mọi cái có thể.
Vương Hồng Văn xác nhận lời thủ tướng:
– Tất cả bốn chúng tôi không dời khỏi Mao chủ tịch nửa bước.
Nói xong mặt ông đỏ dần lên. Vương Hồng Văn, người trẻ nhất trong số Uỷ viên Bộ Chính trị, đôi khi người ta gọi đùa là “tên lửa” do việc thăng tiến quá nhanh. Từ một nhân viên quèn bộ phận an ninh nhà máy ở Thượng Hải, ông leo đến đỉnh cao quyền lực chính trị. Không ai có thể hiểu sự ưu ái của Mao với con người trẻ này, vì sao cất nhắc anh ta thăng tiến nhanh như thế. Vương Hồng Văn, gầy gò, cũng đáng yêu vì cái dáng thông minh nhưng thiếu tự tin. Vất vả lắm ông mới học xong trung học, trông ông chẳng có dáng dấp lãnh tụ. Vương chẳng đóng góp, chẳng có ích trong ban lãnh đạo Trung Hoa. Vào tháng 5, sau khi sức khoẻ Mao xấu đi đột ngột, Vương Hồng Văn nói với tôi, đề nghị cho Mao dùng ngọc trai đã chế biến thay cho thuốc. Nhưng tôi bác bỏ đề nghị, lãnh tụ cũng không được uống thuốc ngọc trai.
Mao chết trong phiên trực của Vương Hồng Văn, nhưng ngoài phiên trực hiếm khi có mặt vì còn bận săn thỏ gần một sân bay quân sự bí mật Tây Uyển. Phần đông thời gian rỗi ông xem phim nhập từ Hong Kong. Tôi ngờ, Vương Hồng Văn trước đây không phải người tử tế, giờ đây quyền lực làm ông thoái hoá thêm.
– Bác sĩ đã báo cáo cho chúng tôi tất cả rồi – Vương Hồng Văn bào chữa với Giang Thanh – Chúng tôi biết rất rõ từng diễn biến.
Giang Thanh cắt ngang:
– Nhưng vì sao người ta không báo cho tôi sớm hơn?
Đó là một câu hỏi mánh khóe, thủ đoạn. Giang Thanh thường xuyên nhận được báo cáo về sức khoẻ của chồng, nhưng lại buộc tội bác sĩ thổi phồng bệnh tật, không tin lời các phần tử tư sản. Ngày 27-8 chúng tôi chính thức thông báo cho bà về tình trạng sức khoẻ nguy kịch của Mao, nhưng bà phớt lờ, vẫn đi “thanh tra” ở Đại Trại, nơi bà chỉ đạo một công xã nông nghiệp kiểu mẫu. Hoa Quốc Phong đã thông báo khẩn cấp cho Giang Thanh ngày 5 tháng 9, nhưng khi trở về chẳng thèm hỏi thăm tới sức khoẻ chồng, chỉ than vãn quá mệt mỏi sau chuyến công tác.
Ngày 7 tháng 9 sức khoẻ của lãnh tụ đã trở nên quá xấu, Giang Thanh buộc phải gặp các bác sĩ. Bà bắt tay từng người, nói “Đây là vinh dự lớn lao và hạnh phúc cho các đồng chí đấy”. Giang Thanh gần như tin chắc sẽ thay thế chỗ Mao, nghĩ chúng tôi hoàn toàn hài lòng dưới sự lãnh đạo của bà.
Một số bác sĩ lần đầu tiên gặp rất ngạc nhiên về thái độ lạnh lùng, tính nhẫn tâm của Giang. Uông Đông Hưng có lần nói với tôi “Không có gì đáng ngạc nhiên cả, Chủ tịch, vật cản duy nhất trên đường nắm quyền tối cao của bà ta”. Giang đã chờ đợi cái chết của Mao từ lâu. Cuộc đấu đá tranh giành quyền lực càng căng thẳng theo từng phút sống của Mao chủ tịch.
Giang Thanh cầm đầu nhóm cực đoan trong đảng, gồm Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên, Mao Viên Tân – cháu Mao, Trương Xuân Kiều, một “lý thuyết gia” gốc Thượng Hải có quan điểm tả khuynh, nhà tư tưởng chủ chốt của Cách mạng văn hoá. Ông thích lặp lại câu nói “Cỏ dại của chủ nghĩa xã hội còn quý hơn cao lương chủ nghĩa tư bản”. Bây giờ thấy Giang Thanh giận dữ, Trương Xuân Kiều cúi mặt nhìn xuống sàn nhà, chắp tay sau lưng, lo lắng.
Mao Viên Tân lục lọi khắp phòng với ánh mắt soi mói như muốn tìm kiếm cái gì đấy. Mao Viên Tân, con trai của Mao Trạch Minh, em trai của Chủ tịch. Trong chiến tranh thế giới thứ II, Mao Trạch Minh bị tỉnh trưởng Tân Cương, tây bắc Trung Quốc kết án tử hình. Chính tỉnh trưởng Thân Tử Hải từng là người cùng chí hướng với Mao Trạch Minh, nhưng sau khi phát xít Đức tấn công Liên Xô đã chạy sang hàng ngũ Tưởng Giới Thạch, Quốc dân đảng. Sau đó vợ của Mao Trạch Minh bị bắt, bản thân Mao Viên Tân sinh ra trong tù. Ra tù, mẹ Mao Viên Tân đi lấy chồng, Mao phải nuôi đứa cháu. Sau năm 1949, Mao đưa vào Trung Nam Hải, nhưng hiếm khi nhòm ngó đến cháu.
Tôi được chứng kiến tận mắt Mao Viên Tân lớn lên như thế nào. Trong những năm còn bé, quan hệ của anh ta với Giang Thanh không suôn sẻ. Tuy nhiên năm 1966, khi bắt đầu Cách mạng văn hoá, anh ta vào lứa tuổi trên 20, rồi tham gia nhóm nổi loạn. Mao Viên Tân viết lá thư xin lỗi Chủ tịch về những gì sai trái đối xử không đúng mức khi còn trẻ, giờ đây xin ra nhập đội ngũ của Giang Thanh. Bây giờ đã ngoài 30, Mao Viên Tân được bổ nhiệm Chính uỷ tư lệnh vùng Triết Giang. Cuối năm 1975, khi Mao ốm nặng, Mao Viên Tân trở thành người liên lạc giữa Chủ tịch với những nhà lãnh đạo cao cấp. Từ đây Mao Viên Tân có chút quyền lực. Giang tin tưởng người cháu.
Đám bác sĩ và y tá cúi đầu sợ hãi, liếc nhìn nét mặt giận dữ của Giang Thanh. Uông Đông Hưng nói một cái gì đó với Trương Diêu Tự, người phụ trách nhóm cận vệ của Mao. Hận thù giữa Uông Đông Hưng và Giang Thanh có từ lâu. Uông Đông Hưng hoàn toàn không sợ, lờ đi sự nổi khùng của Giang Thanh. Uông chiếm được quyền lực lớn, giành nhiều chức vụ quan trong. Không những Trưởng ban tổ chức Ban chấp hành Trung ương đảng, còn lãnh đạo cơ quan mật vụ, bí thư đảng uỷ của Sư đoàn bảo vệ Mao, đảm bảo an ninh cho các lãnh tụ đảng cộng sản trong dinh thự Trung Nam Hải nhiều năm. Trước Cách mạng văn hoá, Uông Đông Hưng giữ chức thứ trưởng Bộ công an.
Trương Diêu Tự, cũng như Uông Đông Hưng, cựu trào trong đảng, từng tham gia cuộc Vạn Lý Trường Chinh, cả hai đều người Giang Tây. Giờ đây hai cán bộ an ninh đang soạn thảo kế hoạch đặt thi hài Mao trong Đại sảnh đường Nhân dân, với hàng chục ngàn nhân dân đến viếng, việc an ninh phải được thắt chặt an toàn mức tối đa.
Bỗng nhiên Giang Thanh đổi giận làm lành. Có lẽ bà ngộ nhận con đường tới quyền lực chỉ còn gang tấc, không thể vuột khỏi, nhanh chóng trở thành người thống trị Trung Hoa.
– Thôi được – bà nói – các đồng chí đã làm tất cả những điều có thể và các đồng chí chẳng sung sướng gì. Xin cám ơn tất cả mọi người.
Quay người sang cô phục vụ, bà đề nghị chuẩn bị cho bà bộ áo tang bằng lụa đen. Giang Thanh chuẩn bị để tang chồng.
Hoa Quốc Phong đề nghị Uông Đông Hưng gấp rút triệu tập phiên họp bộ chính trị. Mối quan hệ giữa Hoa và Uông mới gần đây.
Phần đông những người có mặt sắp ra về, bỗng nhiên Trương Ngọc Phượng vừa khóc vừa nói:
– Chủ tịch bỏ chúng ta rồi! Tôi sẽ làm với ai đây?
Giang Thanh tiến đến ôm cô, mỉm cười, khuyên nhủ đừng khóc.
– Bây giờ cô sẽ làm việc với tôi – bà nói.
Nước mắt của Trương Ngọc Phượng tức thời biến mất. Cô ta không giữ nổi nụ cười và trả lời:
– Tôi rất cám ơn đồng chí, đồng chí Giang Thanh ạ.
Tôi nghe thấy Giang Thanh thì thầm với Trương Ngọc Phượng:
– Từ bây giờ đừng cho ai vào buồng Chủ tịch hay phòng khách, thu nhặt, sắp xếp tất cả các giấy tờ trong phòng đưa lại cho tôi.
Sau đấy Giang Thanh mới đi vào phòng lớn chờ cuộc họp Bộ chính trị, cách buồn Mao hai phòng. Trương Ngọc Phượng đi theo sau, hứa thực hiện lệnh được giao.
Lúc sau Trương Diêu Tự, đội trưởng đội cận vệ tìm tôi. Ông vừa mới từ phòng ngủ của lãnh tụ ra, đang băn khoăn điều gì đó. Trương hỏi có ai trong số người thày thuốc nhìn thấy đồng hồ của Mao không.
– Đồng hồ nào chứ? Tôi hỏi.
– Cái đồng hồ mà đồng chí Quách Mạc Nhược tặng Mao chủ tịch trong thời kỳ hội đàm ở Trùng Khánh 8-1945.
Mao không có thói quen đeo đồng hồ, chiếc đồng hồ Omega Thuỵ sĩ, món quà tặng của Quách Mạc Nhược có giá trị lịch sử lớn.
Quách Mạc Nhược nhà văn lớn nổi tiếng, nhà khoa học xuất sắc đa tài, bạn và người ủng hộ Mao. Một thời gian dài ông làm Chủ tịch Viện hàn lâm khoa học Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, tạ thế năm 1978. Trong cuộc hội đàm lịch sử ở Trùng Khánh qua trung gian Mỹ đã thoả thuận đạt được hoà giải giữa đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân đảng, hình thành một chính phủ liên minh chống Nhật. Do đó ở Trung Quốc đã ngăn chặn được một cuộc nôị chiến, tập hợp được lực lượng chống Nhật.
– Tất cả chúng tôi đều bận cấp cứu lãnh tụ – Tôi trả lời – Không ai chú ý tới đồng hồ. Sao ông không hỏi Trương Ngọc Phượng?
– Tôi thấy Mao Viên Tân cứ loanh quanh chỗ đó. Có thể ông ta lấy chiếc đồng hồ?
– Không ai trong số nhân viên y tế có thể lấy. Tôi trả lời.
Trương Diêu Tự đi tới giường Mao. Lát sau từ trong phòng lớn nơi bắt đầu cuộc họp Bộ chính trị, Uông Đông Hưng đi ra, mời tôi sang buồng nhỏ bên cạnh để nói chuyện. Qua đấy, tôi biết Bộ chính trị vừa mới quyết định thi hài của lãnh tụ phải được bảo quản khỏi phân huỷ trong hai tuần để nhân dân viếng tang ông. Bắc Kinh vào tháng chín trời còn rất nóng, giới lãnh đạo đảng mong muốn công việc bảo quản thi hài phải làm khẩn cấp.
Khi Mao còn sống, không ai trong chúng tôi cả gan nghĩ tới vấn đề tang lễ khi ông còn sống, nhưng bây giờ người ta yêu cầu bản quản thi hài ông vài tuần, chúng tôi không ngạc nhiên, cũng chẳng khó khăn gì.
Tôi đi ra thực hiện mệnh lệnh của lãnh đạo, chuẩn bị thi hài trong lễ viếng, một đại uý trong ban bảo vệ của Trương Diêu Tự chặn tôi lại, nói lấp lửng:
– Bác sĩ Lý, đừng làm rối công việc chuẩn bị. Bộ chính trị đang họp, tôi linh cảm thấy rằng chẳng có cái gì tốt đẹp hứa hẹn với ông đâu. Chỉ cần ông phạm sơ xuất nhỏ, cũng phải trả giá đấy.
Trong khoảnh khắc đầu tiên sau cái chết của Mao tôi cảm thấy ớn lạnh trong lồng ngực, nhưng nó nhanh chóng bị nén lại, tôi ghi nhận những lời doạ của viên sĩ quan với sự bình thản tự tin.
Tôi hoàn toàn nhận ra, người ta có thể buộc tội giết lãnh tụ. Nhà tôi năm đời làm thày thuốc. Các cụ đã kể cho tôi, thời nhà Thanh, trong những năm cai trị của Từ Hy Thái Hậu (1835-1908), cụ tôi là người rất được kính trọng. Thậm chí người ta đã vời cụ từ quê An Hội ra cung vua để làm ngự y. Một cụ tổ khác cũng chữa cho Hoàng đế Đồng Trị và sau đó cũng trở thành ngự y trong hoàng cung.
Người ta kể, Hoàng đế Đồng Trị thích vi hành. Nhà Vua cải trang, trốn khỏi hoàng cung, thường vào nhà thổ trong các ngõ hẻm phía nam Cấm Thành. Gia đình tôi kể, cụ tôi phát hiện ra hoàng đế Đồng Trị mắc bệnh giang mai. Từ Hy Thái Hậu đã giận dữ xử tội hoàng đế, rút trâm ngọc cài tóc ném xuống đất, thể hiện sự bực mình tột độ, không cho ông tôi chữa bệnh, nhốt Đồng Trị trong hậu cung. Chẳng bao lâu Đồng Trị chết, cụ tôi bị tước phẩm hàm quý tộc, mặc dù vẫn làm trong Ngự y viện. Lời buộc tội vẫn còn gắn với cụ đến lúc chết, nhưng người ta bỏ chiếc mũ ngự y vào quan tài cụ. Nghề của gia đình tôi vẫn tiếp tục tồn tại, truyền đời này sang đời khác, tuy nhiên do trường hợp của cụ tôi, không ai trong số dòng họ có thể hành nghề trong hoàng cung.
Tuy vậy không ai dám khước từ lời yêu cầu của các quan đại thần, tôi cũng không mong ước trở thành bác sĩ riêng cho Mao, nhưng đấy cũng là niềm vinh dự không thể từ chối. Đôi lần tôi định từ bỏ nhưng lần nào cũng bị Mao gọi trở lại.
Chỗ tôi làm việc rất bí mật, chỉ có gia đình, bạn rất thân biết. Công tác an ninh của lãnh tụ kiểm soát rất cao vì sợ những âm mưu tạo phản, huống chi tôi chỉ là bác sĩ riêng của Chủ tịch. Tất cả những ai biết công việc tôi đều cảnh cáo, tôi có thể chết bất ngờ. Một trong số các chị họ tôi đã nhắc tôi từ năm 1963 rằng: “Sức khoẻ của Mao chủ tịch nằm dưới sự theo dõi của toàn đảng và toàn dân. Nếu ai đó trong số uỷ viên Ban chấp hành trung ương tỏ ra không hài lòng về công việc của chú, họ không tha đâu”.
Một vài người bạn ngừng thăm tôi. Thậm chí sau khi gia đình tôi rời khỏi Trung Nam Hải, khách cũng hiếm khi đến chơi. Một người bạn của tôi ở Côn Minh, tỉnh Vân Nam, người bạn thân của Đàm Phú Dân, thời gian ấy là chính uỷ khu vực Côn Minh. Đàm bị người bảo vệ của chính ông ta xử tử trong Cách mạng văn hoá. Sau đó ai từng có mặt ở nhà Đàm, đều lôi đi thẩm vấn, rồi tống vào ngục. Về trường hợp này, cháu tôi cũng đã kể với tôi: “May mắn cháu chưa khi nào đến ngôi nhà ông ta”. Ít lâu sau cô cháu cũng ngừng đến thăm tôi.
Tôi không bao giờ có thể quên lời buộc tội các bác sĩ chữa cho Stalin, tội mưu sát lãnh tụ Xô viết. Vì vậy có thể đoán được hành động tương tự trong quan hệ của tôi và y tá điều trị cho Mao. Từ khi Mao gần chết tôi cũng đã âm thầm chuẩn bị ngày bị bắt. Ngay đầu tháng 9, sau cơn nhồi máu cơ tim lần thứ ba của Mao, tôi nhanh chóng chạy về nhà. Đây là lần đầu tiên sau nhiều tháng không về, tôi chuẩn bị quần áo bông và bành-tô, đồ vật lặt vặt đóng gói lại. Tôi nghĩ sẽ bị tống giam một nơi nào đó rất lạnh nên cần quần áo ấm. Tôi đi quanh phòng với ý nghĩ từ giã, không còn hy vọng quay trở lại. Vợ tôi đang đi làm, con tôi ở trường. Sau này vợ tôi kể, biết tôi về nhà do người giúp việc nói lại. Bà ta thấy tôi rất vội, vẻ bồn chồn lo lắng, hình như có một cái gì đáng sợ đang xảy ra.
Vì vậy khi nghe lời doạ nạt của tay bảo vệ ngay sau khi Mao qua đời tôi hoàn toàn bình tĩnh, vì đã chuẩn bị từ lâu. Mao hay nói “con lợn đã bị chọc tiết không sợ nước sôi”. Tôi giờ đây cũng như con lợn đã chết.
Trời vẫn tối, tôi gọi về nhà bộ trưởng y tế Lưu Thân Bình đề nghị gặp khẩn cấp. Tôi không nêu nguyên nhân, chỉ lưu ý, cuộc gặp gỡ không có mặt người khác. Lưu Thân Bình, vợ goá của cựu bộ trưởng công an Tạ Phú Trị. Cả hai đều thân cận Giang Thanh. Tôi ngờ Giang Thanh tác động để bổ nhiệm Lưu Thân Bình vào chức vụ bộ trưởng trong thời kỷ Cách mạng văn hoá, vì Lưu mù tịt về y tế.
Lưu Thân Bình vẫn ở trong khu Bộ công an, ngay Đại lộ Trường An, phía bắc khu phố cổ, kiến trúc theo phong cách cổ điển châu Âu, trước kia là toà nhà đại sứ quán nước ngoài. Bà chờ tôi ở phòng khách, còn ngái ngủ.
– Mao chủ tịch đã từ trần lúc mười hai giờ mười phút sáng – tôi nói.
Bà oà lên khóc không đợi tôi nói hết câu.
– Chúng ta có rất nhiều việc phải làm, đừng lãng phí thời gian.
Tôi nói tiếp:
– Lãnh đạo yêu cầu chúng ta bảo quản thi hài Chủ tịch trong vòng hai tuần lễ. Phải khẩn trương. Họ đang chờ chúng ta.
Bà lau nước mắt:
– Chúng ta cần phải làm gì?
– Chúng ta cần phải tham khảo ý kiến của các nhà khoa học Viện hàn lâm y học. Phải tìm ở các chuyên gia khoa giải phẫu bệnh và tế bào học để bàn bạc, xin ý kiến.
– Được rồi, trước tiên phải gọi Hoàng Thụ Trạch và Dương Trung tới đã.
Hoàng Thụ Trạch, thứ trưởng Bộ y tế, Lưu Thân Bình thường xuyên trao đổi với ông vì ông có bằng bác sĩ, mỗi khi cần tham khảo ý kiến, bà thường mời ông. Dương Trung là bí thư đảng uỷ Viện hàn lâm y học.
– Chúng ta không nên phí hoài thời giờ nếu gọi họ đến đây. Trước tiên chúng ta gọi các chuyên viên đến, hẹn tất cả sẽ gặp nhau ở phòng Dương Trung ở Viện Hàn lâm.
Lưu đồng ý và gọi các chuyên viên, còn tôi lái xe đến Viện Hàn lâm.
Khi tôi đến, thấy Dương Trung và Hoàng Thụ Trạch ở đó. Cũng có cả các chuyên viên – Trương Bình Thân, giáo sư khoa giải phẫu và Ngô Thanh, đồng nghiệp, trạc 40 tuổi – giáo sư khoa tế bào. Lưu Thân Bình vẫn chưa thông báo cho họ về lý do cuộc gọi ban đêm, Trương Bình Thân lo lắng, căng mắt nhìn qua cửa sổ.
Sau này tôi hiểu, các cuộc gọi như thế này thường xảy ra từ lâu. Trong những năm Cách mạng văn hoá, Trương Bình Thân thường bị kéo ra khỏi giường ấm để làm giấy chứng tử về cái chết của người bị tử hình hoặc tự tử. Bởi vì Hồng vệ binh thường dính dáng trong những cái chết đó, người ta không muốn đưa vụ việc công khai, nhưng giấy chứng tử cái chết có thể được dùng làm văn bản kết tội cho nên phải cần tới chuyên viên.
Trương Bình Thân không dám nhạo báng đám tiểu tướng Hồng vệ binh. Ông đã từng bị “tấn công”, bị đánh đập, nhưng sợ nhất bị gán cái nhãn “phản cách mạng”, tội này sẽ bị đánh chết. Nhiều lần ông tâm sự với tôi: “Mình không sợ bị tra tấn, cái mình sợ nhất là bị gán mác Phản cách mạng”. Hễ ai bị dán nhãn ấy, cầm chắc bản án tử hình. Mới đây người ta gọi ông vào ban đêm để khám thi thể ông cựu bộ trưởng bộ công an Lý Chấn “tự tử” bằng thuốc ngủ. Do bản kết luận ông ký, nên phải “ở lại” trụ sở bộ công an hơn hai tháng. Vì thế, khi tôi thông báo với mọi người, lãnh tụ từ trần, nét mặt Trương hết lo lắng.
Các chuyên viên nói, việc bảo quản thi hài Mao trong vòng hai tuần không phức tạp. Để làm điều đó chỉ cần tiêm hai lít dung dịch formaldehyde vào động mạch chân. Hoàng Thụ Trạch và Dương Trung chấp nhận phương pháp này. Trương Bình Thân và Ngô Thanh chuẩn bị bơm tiêm, thuốc rồi đi cùng tôi vào Trung Nam Hải. Phố xá vắng tanh. Lúc đó, 4 giờ sáng, trời vẫn tối. Nhân dân Trung Quốc vẫn còn chưa biết lãnh tụ vĩ đại không còn trên đời từ mấy tiếng rồi.
Bộ Chính trị vẫn còn họp. Sĩ quan trưởng bảo vệ nhìn thấy tôi nói: “Uông Đông Hưng và nguyên soái Diệp Kiếm Anh mấy lần tìm đống chí”. Ông nói thêm, “Bộ Chính trị đã thông qua bản thông báo cho toàn đảng, toàn quân và nhân dân Trung Quốc về sự từ trần của chủ tịch, bản tin sẽ được truyền tải qua đài phát thanh vào lúc 4 giờ chiều nay”.
Tôi nóng lòng chờ thông báo chính thức, bởi vì tôi hiểu rằng sẽ rõ mọi chuyện, liệu người ta có buộc tội tôi, đội cấp cứu do tôi phụ trách về cái chết của Mao hay không.
– Thông báo nói về bệnh và cái chết của Mao thế nào? – tôi lo lắng hỏi.
Ông ta đưa tôi một bản sao.
– Đồng chí tự đọc lấy.
Tôi cầm vội tờ giấy, vài dòng đầu tiên lập tức đập vào mắt tôi. Trong đó viết:
“… Các bác sĩ đã làm mọi thứ có thể, nhưng do tình trạng sức khoẻ của Chủ tịch không còn hy vọng. Mao Chủ tịch qua đời lúc 0 giờ 10 phút ngày 9 tháng 9 năm 1976 tại Bắc Kinh”.
Đọc tiếp không có ý nghĩa nữa. Tôi đã nằm ngoài vòng nghi ngờ rồi. Sau đó vài ngày, 13-9-1976, tên tôi xuất hiện trên tờ “Nhân dân Nhật báo”, đăng tải chức danh, lãnh đạo đội cấp cứu điều trị Mao. Thế là nguy hiểm đã qua.
Ngay khi tôi xuất hiện ở phòng họp mười bảy Uỷ viên Bộ chính trị, Uông Đông Hưng gặp tôi, nói rằng cần thảo luận gấp riêng. Chúng tôi đi vào phòng nhỏ, Uông Đông Hưng hỏi tôi đã đọc thông báo chưa.
Tôi trả lời, vừa đọc được mấy đoạn đầu tiên. Uông cười nhạt:
– Bộ chính trị vừa mới chấp thuận quyết định bảo quản thi hài lãnh tụ lâu dài. Đồng chí hãy nghĩ đi, làm điều này thế nào cho tốt nhất.
Tôi há hốc mồm kinh ngạc.
– Nhưng các ông vừa mới nói, chỉ bảo quản hai tuần thôi. Vì sao lại quyết định bảo quản thi hài lâu dài? Năm 1956 chính Mao chủ tịch bằng văn bản đã bày tỏ mong muốn được hoả táng. Tôi nhớ rõ thế.
– Đây là ý nguyện của Bộ chính trị. Chúng tôi vừa thông qua xong.
Tôi vẫn giữ ý kiến:
– Chuyện này rất khó thực hiện. Đồng chí nghĩ thế nào về chuyện này?
Uông Đông Hưng nói thêm:
– Thủ tướng Hoa Quốc Phong và tôi đã ủng hộ quyết định này.
– Nhưng cũng cần phải hiểu, điều này vượt quá sức chúng ta – Tôi nói – thậm chí sắt và thép còn bị thời gian huỷ hoại, nói gì đến xác người chết. Làm thế nào để ngăn cản thối rữa bây giờ được.
Lúc ấy, tôi nhớ chuyến đi với Mao năm 1957 tới Moskova, viếng lăng Lenin và Stalin. Thi hài đã héo quắt. Người ta kể cho tôi, mũi và tai của Lenin đã hoàn toàn hỏng, được thay bằng sáp. Bộ râu nổi tiếng Stalin cũng hoàn toàn bị hỏng, mặc dù kỹ thuật ướp xác của Liên Xô hoàn thiện hơn Trung Quốc rất nhiều. Tôi không thể hình dung chúng tôi sẽ bảo quản xác Mao như thế nào.
– Đồng chí cần phải hiểu tình cảm của chúng ta – Uông trả lời và nháy mắt.
– Tôi hiểu tất cả, nhưng khoa học Trung Quốc chưa đủ khả năng tiếp cận công việc này – Tôi trả lời.
– Chỉ cần ông tìm cho được những người có khả năng giúp anh làm việc này. Lãnh đạo đảm bảo tất cả các điều kiện cần thiết. Đồng chí cần thiết bị, hoá chất… bất cứ điều gì báo cho tôi biết – Uông kiên trì giải thích.
Lão Nguyên soái Diệp Kiếm Anh, người cao tuổi nhất trong số đảng viên cộng sản, người sáng lập Giải phóng quân Trung Quốc gặp tôi. Tôi rất quý trọng nguyên soái. Ông quan tâm đến quan điểm của tôi về quyết định vừa được thông qua, tôi phải nói đi nói lại cho ông biết tất cả các khó khăn. Lặng đi một lát ông nói:
– Không còn sự lựa chọn nào nữa, chúng ta cần thực hiện quyết định của Bộ chính trị. Nhưng bác sĩ Lý nên tiếp tục tham khảo những người tin cậy và có thể đề nghị Viện mỹ thuật và tạo hình. Có thể người ta ở đó làm được hình Mao chủ tịch bằng sáp. Nếu nó giống y thật, khi cần thiết thì trong tương lai chúng ta sẽ dùng nó để thay thế thi hài lãnh tụ.
Thế mới biết, đến cả Diệp Kiếm Anh, phó Chủ tịch Uỷ ban Khoa học kỹ thuật và Công nghiệp quốc phòng, trụ cột của Bộ chính trị cũng đòi làm những điều không thể làm được.
Uông Đông Hưng cũng đồng ý với Diệp Kiếm Anh, yêu cầu tôi không kể cho ai.
Đến tận giờ, tôi không biết có bao nhiêu Uỷ viên Bộ chính trị biết về phương án phiên bản Mao bằng sáp. Có thể điều này bí mật đến mức thậm chí Giang Thanh cũng không biết.
Tôi trở vào phòng đặt thi hài. Trong phòng chất đầy thiết bị y học, chúng tôi chuyển thi hài sang buồng thoáng hơn nối liền với phòng Bộ chính trị vừa họp. Nhiệt độ không khí khoảng 78 độ F (26 độ C), tương đối cao đối với thi hài. Tôi đề nghị hạ nhiệt độ xuống 50 độ F (10 độ C), tuy nhiên nhân viên phục vụ từ chối:
– Tôi không thể. Tất cả các lãnh tụ cao cấp đều có mặt, đây là chỉ thị của đồng chí Giang Thanh giữ nguyên nhiệt độ cao như thế. Đồng chí phải đề nghị trực tiếp với lãnh đạo.
Hệ thống điện ở Trung Nam Hải lấy từ hai trạm điện lực ở Bắc Kinh đảm bảo cung cấp để nhiệt độ bình thường trong phòng không phụ thuộc vào thời tiết bên ngoài, dù nơi khác bị cắt điện. Nhưng trong toà nhà 202 xây riêng cho Mao, lại không có khả năng điều hoà nhiệt độ cho từng phòng riêng biệt. Tôi vào phòng họp đề đạt quyết định Bộ chính trị, yêu cầu giảm nhiệt độ trong toà nhà. Sau đó các cuộc họp Bộ chính trị chuyển sang thời gian khác.
Khi tôi trở lại cũng là lúc Trương Bình Thân và Ngô Thanh đã tiêm xong formaldehyde. Tôi kể cho họ về quyết định mới của bộ chính trị. Cả hai ngạc nhiên, thống nhất cho rằng giữ thi hài lãnh tụ nhiều năm trong thời điểm hiện nay thực tế là không thể.
Tôi thấu hiểu mọi vấn đề khó khăn, nhưng đề nghị họ chấp hành quyết định lãnh đạo. “Chúng ta cần phải tìm cách nào đó để làm điều này. Tôi đề nghị ai đó trong chúng ta vào thư viện Viện hàn lâm Y học và cố tìm xem có tài liệu về vấn đề này không”.
Sau một tiếng, Ngô Thanh từ thư viện gọi cho tôi nói, đã đọc qua phương pháp bảo quản xác lâu dài. Theo phương pháp đó, tiêm vào thân thể người chết khoảng 12 đến 16 lít formaldehyde tuỳ theo trọng lượng thi hài. Đồng thời làm việc đó phải trước 4 đến 8 giờ sau khi chết. Quy trình dừng lại khi dung dịch đã căng đầy ngón tay, ngón chân người quá cố.
Nhưng Ngô Thanh cũng tìm thấy bản lý thuyết phương pháp này trong một tài liệu Tây phương, nhưng bài viết không tin chắc kết quả thực nghiệm. Bà đề nghị tham khảo ý kiến với các Uỷ viên Bộ chính trị. Tôi gặp Uông Đông Hưng, nhưng ông ta bảo:
– Các đồng chí là chuyên gia phải tự quyết định lấy chứ. Có thể đồng chí xin ý kiến thủ tướng Hoa Quốc Phong trước cũng được.
Tôi tìm Hoa Quốc Phong báo cáo đề xuất của Ngô Thanh. Ngẫm nghĩ một lát, ông bảo:
– Không thể triệu tập cuộc họp nữa, dù có họp cũng chẳng tác dụng gì. Tất cả thành viên Bộ chính trị đâu có rành chuyện này. Sao các đồng chí không bắt tay làm ngay đi. Tôi cũng chưa nghĩ ra cách nào khả dĩ hơn.
Trong phòng nhà xác tạm thời, xuất hiện thêm hai gương mặt mới – Trần, chuyên khoa giải phẫu từ viện Hàn lâm y học và Mã ở bộ phận giải phẫu bệnh thuộc Bệnh viện Bắc Kinh. Trần giúp tiêm formaldehyde vào thi hài, còn Mã lo việc trang điểm người quá cố. Tôi thông báo, công việc bắt đầu. Đến 10 giờ sáng, xác Mao đã được tiêm 22 lít dung dịch, nhiều hơn 6 lít theo dự kiến, hy vọng mọi chuyện tốt hơn. Mất hơn hai giờ tiêm, mãi gần 10 giờ sáng mới xong.
Kết quả làm mọi người choáng. Mặt Mao phồng lên như quả bóng, cổ dày đẩy lên đến đầu. Da căng bóng và từ các lỗ chân lông phun ra những hạt formaldehyde bé li ty. Thân người phồng to khác thường. Mấy tay bảo vệ và người giúp việc hết sức sợ hãi không nói nên lời.
– Sao lại ghê thế này – Trương Ngọc Phượng thét lên – Các ông nghĩ rằng Bộ chính trị bỏ qua chuyện này chăng?
Mặc sự cố, Ngô Thanh không bối rối. Nhưng Trương Bình Thân thấy hãi thật. Ông ta mặt tái mét, lộ vẻ lo sợ.
– Đừng lo – tôi an ủi ông – Chúng ta phải nghĩ một cái gì đó xem.
Chúng tôi đã đưa vào xác nhiều formaldehyde nhưng không biết lấy chúng ra như thế nào đây.
– Chỗ nào không chữa được phủ quần áo lên, nhưng mặt và cổ thì phải sửa – tôi trả lời.
Trần đưa ra ý kiến xoa bóp để dung dịch chạy xuống dưới thân. Tất cả mọi người xúm lại lấy gạc, bông băng quấn quanh để dồn dung dịch xuống thân. Trần sợ hãi đến nỗi làm rách mẩu da cổ Mao. Ông sợ thực sự, nhưng Mã động viên, dùng son phấn sẽ che được. Sau một phút, dưới bàn tay lành nghề của Mã đã che phủ thiếu sót của Trương, vết xước không nhìn thấy, da cổ trở lại bình thường.
Chúng tôi làm đến ba giờ chiều, cuối cùng, bộ mặt Mao coi cũng giống như trước đây. Cổ đã bé bớt, tai đỡ phồng, nhưng vùng cổ còn sưng. Đám bảo vệ và người giúp việc nhận xét rằng bây giờ trông Mao được hơn. Vất vả lắm họ mới thay được quần áo vì thân thể căng phồng dung dịch formaldehyde, buộc phải rạch áo phía lưng.
Đúng lúc này Hứa Thế Hữu, tư lệnh quân khu Quảng Châu bước vào phòng. Ông ta vừa tới Bắc Kinh, ngay lập tức quyết định vào viếng lãnh tụ lần cuối.
Hứa Thế Hữu, một trong những tướng tài của Trung Quốc. Ông vào đảng từ hồi trẻ, tham gia cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Hứa Thế Hữu sinh ra trong một gia đình rất nghèo, từ thuở ấu thơ đã phải bỏ nhà, trở thành một phật tử tại Thiếu lâm Tự, tỉnh Hồ Nam. Ngôi chùa nổi tiếng thế giới nhờ món võ thuật phương đông, mang tên ngôi chùa. Bố mẹ Hứa Thế Hữu là nông dân, mù chữ, Hứa Thế Hữu chỉ được học đọc và viết trong quân đội. Ông là người thô lỗ, chân chất, nhưng theo Uông Đông Hưng kể, Hứa có sức khoẻ và võ nghệ phi thường, một mình có thể đánh bại 20 đối thủ, Hứa không thích Giang Thanh, nhưng trung thành với Mao như một con chó.
Nhìn Mao, Hứa Thế Hữu theo truyền thống cổ Trung Hoa, cúi đầu vái ba lần sau đó quay sang tôi hỏi:
– Bao nhiêu “ga-ma” ở Mao chủ tịch trước khi chết?
Tôi không thể hiểu ông ta nói gì, nhưng Hứa Thế Hữu tiếp tục:
– Con người ta có 24 ga-ma. Ở Chủ tịch có bao nhiêu?
Tôi không biết trả lời thế nào.
– Đồng chí bác sĩ giỏi mà không biết ga-ma là cái gì? – Hứa Thế Hữu xỉ nhục tôi.
Cho đến nay tôi vẫn không hiểu có phải đấy là trò đùa không. Các bạn của tôi, biết nhiều về thuyết phật giáo giải thích, theo thuyết nhà Phật, trong mỗi cơ thể người sống có 24 ga-ma, nhưng là cái gì, không ai trong số họ có thể nói ra được.
Hứa Thế Hữu hai lần đi quanh thi hài Mao nói:
– Trông ghê quá! Sao trên mình mẩy lại có vết chấm đen?
Sau đó lại cúi đầu thật thấp, vái ba vái và đi ra.
Mã kết thúc trang điểm, chúng tôi hài lòng với công việc, phủ lên thi hài đảng kỳ có búa liềm nền đỏ tươi. Đêm 9 rạng ngày 10 tháng 9, gần một đêm sau khi Mao chết, chúng tôi đưa xác Mao vào quan tài thuỷ tinh. Một vài Uỷ viên Bộ chính trị đứng quanh quan tài, chụp ảnh. Sau đó thi hài Mao được chở đi bằng xe cứu thương. Tôi ngồi cạnh quan tài, xe chúng tôi ra khỏi cổng Trung Nam Hải về phía nam Bắc Kinh trong đêm thanh vắng. Để linh cữu Mao vào sảnh đường Hội trường Nhân Dân, ở đó trong thời gian một tuần làm lễ truy điệu.
Cuộc đấu đá chính trị trong thời gian nhà độc tài lâm bệnh, bây giờ lại chuyển sang lãnh vực giấy tờ của Mao và tài liệu cá nhân. Giang Thanh cùng với Mao Viên Tân, những người đầu tiên có mặt trong nhà lãnh tụ. Như trước đây, Trương Ngọc Phượng, người quản lý giấy tờ. Giang Thanh và Viễn Tân thuyết phục cô ta đưa giấy tờ của Mao cho họ. Đặc biệt họ chú ý tới các ghi chép buổi hội đàm của Mao trong chuyến đi của ông đến miền Nam Trung Quốc từ 14-8 tới 12-9-1971, đêm hôm trước cái chết của Lâm Bưu, sau khi thất bại đã cùng gia đình bay đến Liên Xô. Những cuộc nói chuyện và cả những phát biểu của Mao không tìm thấy, nhưng người ta biết trong đó Mao không những đề cập phê phán hành động cực đoan của Lâm Bưu cùng chiến hữu, còn đánh giá, phê phán những người lãnh đạo khác trong đảng, gồm cả Giang Thanh và bè đảng – Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên, sau này gọi là “Bè lũ 4 tên”.
Uông Đông Hưng, phụ trách việc giữ gìn giấy tờ Mao, đảm trách an ninh trong phòng, nơi nhân dân từ giã lãnh tụ của mình. Mỗi ngày hàng chục nghìn người được sàng lọc kỹ càng về an ninh để rồi được vinh dự vĩnh biệt Chủ tịch. Trong ngày quốc tang, các lãnh tụ cấp cao Trung Quốc đứng xung quanh quan tài Mao. Vì thế Uông không có thời gian theo dõi giấy tờ của Mao, ông không biết ý đồ của Giang Thanh thu thập giấy tờ của chồng. Cận vệ riêng của Mao, Trương Diêu Tự, báo cho Uông. Uông Đông Hưng vội gặp Trương Ngọc Phượng và dặn:
– Trách nhiệm của cô bảo quản giấy tờ của lãnh tụ, không được nghiêng ngả bên này bên kia! Đó là tài sản của Ban chấp hành trung ương đảng và phải nằm ở đây, trong nhà của Chủ tịch, không ai được phép mang đi!
Trương Ngọc Phượng khóc thút thít.
– Đồng chí Giang Thanh, Uỷ viên Bộ chính trị, lại là vợ của Mao chủ tịch, Mao Viên Tân – người liên lạc của chủ tịch với Bộ chính trị, cũng lại là cháu. Tôi không thể cản họ. Tôi phải làm gì bây giờ?
– Thôi được! – Uông nói – Tôi sẽ cử người đến, kiểm tra lại tất cả giấy tờ hiện có, nhưng phía cô phải yêu cầu Giang Thanh trả lại tất cả giấy tờ đã lấy đi.
Tuy nhiên Giang Thanh từ chối trả lại, Hoa Quốc Phong phải can thiệp.
– Thi hài Mao Chủ tịch còn chưa lạnh mà các ông đã định áp bức tôi! – Giang Thanh phẫn nộ.
Về sau Uông Đông Hưng nói cho tôi biết, một số giấy tờ bị lấy mất hoặc bị thay thế. Có khả năng Giang Thanh đã huỷ các giấy tờ phê phán bà.
Tôi bắt đầu chọn người cho đề án bảo quản lâu dài xác lãnh tụ. Trong tay tôi có hơn 20 chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực giải phẫu bệnh lý, tế bào học và hoá hữu cơ. Họ từ khắp các miền của đất nước tập trung đến.
Chúng tôi chú ý theo phương pháp cổ truyền bảo quản. Một số bộ phận có thể giữ hàng trăm năm. Tuy nhiên chúng tôi hiểu rằng thi hài Mao được tiến hành khác đi. Người ta ướp các xác cổ chôn sâu trong lòng đất nơi không có oxygen. Xác chết được bao bọc một lớp sáp, đặt vào trong một chất lỏng giống thuỷ ngân, nhưng khi đưa ra ngoài không khí, xác phân huỷ ngay.
Người ta cũng biết, bảo quản thi hài Lenin ở Moskova như thế nào, nhưng quan hệ với Liên Xô hiện tại rất xấu, thậm chí không thể đi đến đó được, cũng không thể nói chuyện được. Chúng tôi gửi hai người đến Hà nội – nơi đó bảo quản thi hài Hồ Chí Minh. Nhưng chuyến đi không kết quả. Việt nam từ chối chia xẻ kinh nghiệm, thậm chí họ còn chẳng thèm cho các nhà khoa học Trung Quốc xem thi hài Hồ Chí Minh. Theo tin mật, mũi Hồ Chí Minh đã bị rữa, râu cũng hỏng, rụng nhiều.
Cử hai người sang viện bảo tàng người sáp Madame Tussaud ở London, Anh quốc. Trung Quốc cũng không kém kinh nghiệm, có phần nổi trội hơn trong việc làm hình nộm như vậy. Thi hài Mao làm bằng sáp do Viện nghệ thuật trang trí ứng dụng Bắc Kinh làm ra rất giống lãnh tụ lúc sống. Ngay cả người ở bảo tàng Anh cũng không thể làm giống đến như thế.
Chúng tôi xem nhiều tạp chí khoa học, đi đến kết luận, có thể bảo quản được thi hài Mao. Nhưng để làm điều đó cần phải hoàn thiện phương pháp chúng tôi đưa ra. Vì không muốn cưa sọ, chúng tôi quyết định giữ óc Mao. Nội tạng gồm tim phổi, dạ dày thận gan, sinh dục… phải lấy ra. Chúng tôi quyết định bảo quản chúng ngâm trong các bình riêng biệt chứa formaldehyde. Đề phòng trường hợp ai đó lật lại nguyên nhân cái chết của Mao. Bụng sẽ nhồi bông tẩm formaldehyde. Ở cổ sẽ đặt một cái ống đặc biệt theo chu kỳ đưa dung dịch vào. Trong quan tài thuỷ tinh sẽ bơm khí hê-li. Tất cả công việc sẽ bắt đầu sau khi kết thúc lễ tang và tiến hành trong điều kiện cực kỳ bí mật. Chương trình của chúng tôi mang tên “Đề án bí mật 19 tháng 5”.
Đề án 19-5 liên quan tới cuộc xung đột biên giới giữa Trung Quốc và Liên Xô ở đảo Trân Bảo (đảo Châu Báu), phía bắc tỉnh Hắc Long Giang. Hoạt động vũ trang bắt đầu từ ngày 2-3-1969, chính khi đó Mao cho rằng đe doạ an ninh Trung Quốc không xuất phát từ Mỹ mà từ Liên Xô, điều đó dẫn đến khai thông trong quan hệ Mỹ-Trung.
Chính phủ kêu gọi nhân dân Trung Quốc “xây hầm trú ẩn, tích trữ lương thực, chống bọn bá quyền”. Từ đó suy ra, đất nước Trung Hoa yêu hoà bình nhưng luôn luôn sẵn sàng giáng trả kẻ thù. Dân chúng tất cả các thành phố được động viên đắp hầm tránh bom chống quân xâm lược Xô Viết. Bắc Kinh đến giờ vẫn giữ được nhiều hệ thống giao thông hào chằng chịt ngầm dưới lòng đất, đủ để toàn bộ dân Bắc Kinh chui xuống hầm sau ba phút.
Trong thời gian dân Bắc Kinh làm hầm tránh bom, bộ phận kỹ thuật của Quân đội Trung Quốc xây dựng dưới lòng đất một công trình lớn mang tên “tổ hợp bí mật 19 tháng 5”, bởi vì chính ngày 19-5-1969 đã thông qua quyết định xây công trình ngầm khổng lồ này dùng cho lãnh đạo cao cấp quân đội trong thời kỳ chiến tranh. Đã xây được một đường ô tô ngầm 4 làn đường để chạy, nối liền Trung Nam Hải, Thiên An Môn, toà nhà Hội nghị đại biểu toàn quốc, dinh cựu bộ trưởng quốc phòng Lâm Bưu ở Mao Tần Vũ và Bệnh viện 305 trực thuộc Giải phóng quân Trung Quốc ở trung tâm Bắc Kinh, tới phía tây thành phố nơi phần đông các sĩ quan chỉ huy sống ở đó. Ngoài sở chỉ huy chính, còn có các khu điện thoại, điện báo, khu tập thể, bệnh viện với các thiết bị hiện đại dùng khi chiến tranh. Bệnh viện đặc biệt này, nằm ngay dưới bệnh viện 305, nơi tôi làm giám đốc, bây giờ trở thành trung tâm nghiên cứu để thực hiện đề án bí mật của chúng tôi.
Tuần lễ tang kết thúc, 17-9-1976, vào khoảng nửa đêm khi toàn bộ Bắc Kinh đang ngon giấc, chúng tôi chuyển xác Mao từ phòng vào phía sau mini-bus, chạy qua các phố Bắc Kinh vào khu Mao Tần Vũ, khu nhà bị bỏ trống sau khi Lâm Bưu chết. Trong chiếc mini-bus, tôi ngồi cạnh quan tài, Hoa Quốc Phong và Uông Đông Hưng đi xe riêng, đoàn xe được hộ tống một hàng rào lính cưỡi mô tô được vũ trang đến tận răng. Ngoài chúng tôi, còn có bộ trưởng và thứ trưởng Bộ y tế cùng nhóm chuyên viên thực hiện đề án cũng đến đó.
Ở lối vào tổ hợp, chúng tôi gặp toán bảo vệ. Họ được báo trước, chúng tôi vào tiếp bên trong.
Qua đường hầm, đến một bệnh viện đặc biệt nằm dưới lòng đất. Sau mười phút đoàn xe dừng lại. Chúng tôi chuyển xác Mao vào một trong phòng mổ, nơi nhóm tôi sẽ làm việc.
Vài hôm sau, hình giả Mao bằng sáp được mang đến. Họ đặt ở buồng bên cạnh, lần đầu tiên tôi nhìn thấy, quả thật các nhà nặn tượng quá giỏi, y hệt Mao như còn sống.
Về hai xác Mao – một trong formaldehyde và một Mao khác nặn bằng sáp ít người biết. Hai xác đó nằm trong bệnh viện gần một năm, mỗi tuần một lần tôi tới đó kiểm tra. Thậm chí lính canh bệnh viện cũng không biết họ đang canh giữ của quý gì bên trong.
Năm 1977, người ta tiến hành sửa chữa lăng trên quảng trường Thiên An Môn. Cả hai Mao và các bình chứa nội tạng đều được đặt vào lăng trong một bể lớn nằm dưới phòng rộng. Phần nền giữa gian nơi đặt quan tài thuỷ tinh, chính là chiếc thang máy, khi cần có thể hạ xuống bể. Giáo sư Ngô Thanh, khoa bệnh lý Viện hàn lâm y học, người tham gia việc ướp xác Mao, phụ trách việc xem xét cả hai xác Mao theo dõi trật tự trong lăng để hàng ngày hàng chục nghìn thường dân Trung Quốc, khách du lịch vào viếng. Họ đến chiêm ngưỡng con người đáng kính, vị lãnh tụ lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc trong suốt 40 năm.
Lễ truy điệu Mao tổ chức ngày 18-9-1976. Chính hôm đó tôi chở thi hài ông vào hầm chứa đặc biệt. Nóng bức ngột ngạt, tôi có mặt ở Thiên An Môn lúc hai giờ chiều – một giờ trước khi lễ khai mạc.
“Thiên An Môn” nghĩa là “Cổng trời thanh bình”. Thời trước cổng này là lối ra phía nam Cấm Thành, chỗ ở các hoàng đế đời Minh và Thanh trong 450 năm. Trên quảng trường như trước đây treo đầy chân dung Mao, ảnh chụp những năm 1950. Cả hai phía chân dung kết đầy các khẩu hiệu cách mạng kêu gọi đoàn kết vô sản quốc tế, chúc nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa muôn năm giàu có, hùng cường.
Trong gần 30 năm qua, tính từ ngày trở về Trung Quốc tôi thường có mặt trên quảng trường Thiên An Môn. Tôi có mặt ở đây ngày 1 tháng 10 năm 1949, ngày thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Sau đó một thời gian, đã cùng với Mao – trong ngày lễ duyệt binh hai lần trong năm: 1-10 và 1-5. Trong những năm bão tố Cách mạng văn hoá (1966-1976) tôi cùng Mao trong các ngày lễ, nơi hàng triệu Hồng vệ binh từ các trường trung học và Đại học cả nước kéo về chúc mừng Mao. Hôm nay trên quảng trường lớn này, nối tới phía nam Thiên An Môn, giáp toà nhà của tổ chức cao nhất của chính quyền quốc gia – Hội trường Đại biểu nhân dân toàn quốc, từ phía đông tới quảng trường, ngăn cách bởi toà nhà bảo tàng lịch sử cách mạng. Trên quảng trường tụ tập khoảng nửa triệu người được chọn lọc trong các tập thể kiểu mẫu. Đủ các loại người, đủ các lứa tuổi. Ba giờ đúng, toàn đất nước Trung Quốc lặng ngắt. Trong ba phút, các nhà máy xí nghiệp dừng việc, còi nhà máy cùng còi tầu thuỷ vang lên như một bản hợp xướng vĩnh biệt người. Sau đó là mặc niệm quan tài. Cả nước cũng tại thời điểm này, tiến hành mít tinh truy điệu chủ tịch. Cuối cùng Vương Hồng Văn khai mạc buổi lễ. Nhìn đám đông dân chúng, tự nhiên tôi toát mồ hôi lạnh. Phải chăng vì mệt mỏi kéo dài trong vài tháng qua, sức khoẻ tôi đã suy sụp. Khi Hoa Quốc Phong bắt đầu đọc diễn văn, tôi phải cố gắng lắm mới không bị khuỵu xuống vì quá mệt mỏi.
Sau khi phát cơn bệnh tim đầu tiên của Mao vào tháng 5, tôi ở quanh ông suốt ngày đêm. Tôi chỉ chợp mắt khoảng ba giờ mỗi đêm. Tôi gầy tọp, giảm từ 77 xuống 55 ki-lô. Đầu óc tâm trí tôi đờ đẫn trong suốt thời gian tang lễ. Tôi choàng tỉnh khi tang lễ kết thúc, ít ra cũng đã chợp mắt được đôi chút. Bây giờ tôi có thể về nhà nghỉ ngơi.
Năm giờ rưỡi tối tôi trở về cơ quan ở Trung Nam Hải, nằm vật xuống giường, thiếp đi.
Vài phút sau, chuông điện thoại dựng tôi dậy. Uông Đông Hưng gọi. Uông thông báo, 4 ngày nữa, 22 tháng 9, sẽ có cuộc họp Bộ chính trị. Mọi người sẽ chờ báo cáo đầy đủ rõ ràng về bệnh tật, cách điều trị và nguyên nhân chết của Mao. Tôi phải đọc báo cáo, tất cả các nhân viên y tế điều trị lãnh tụ nhất thiết phải có mặt tại phòng họp.
– Đây là cuộc họp rất quan trọng – Uông nhấn mạnh – Anh cần phải chuẩn bị đầy đủ, kỹ càng.
Hôm sau tên tôi xuất hiện trên tờ Nhân Dân Nhật Báo. Tôi được giới thiệu, người lãnh đạo nhóm bác sĩ điều trị cho Mao chủ tịch.
Nhưng tôi vẫn nằm trong sự nghi vấn. Niềm vui của tôi đã quá sớm khi đọc bản thông báo về cái chết của Mao, lẽ thường tình của tạo hoá. Trong thông báo, ca ngợi đội y tế chăm nom sức khoẻ chủ tịch trong thời gian dài khi người mắc bệnh, giải toả những nghi vấn của nhân dân. Bây giờ Bộ chính trị họp để tìm nguyên nhân cái chết của lãnh tụ có phải bình thường hay không. Nếu báo cáo của tôi được chấp nhận, trong kết luận chính thức, người ta viết rằng Mao chết tự nhiên, việc nghi vấn bác sĩ sẽ bị gạt đi. Trong trường hợp ngược lại, quả là nguy hiểm giữa cái sống và cái chết cho tất cả chúng tôi.
Tôi họp anh em, tất cả đồng ý tôi soạn báo cáo, nhưng sau đó họp lại, thảo luận đầy đủ kỹ càng từng vấn đề. Tôi ngay lập tức bắt tay khởi thảo. Tôi viết và viết suốt đêm 18-9 đến sáng hôm sau hoàn thành. Bài viết tổng hợp tất cả mọi chi tiết, khoảng 50 trang. Kể lại bắt đầu từ việc cố gắng cứu Mao lần đầu tiên khi bị tắc nghẽn động mạch vành tim vào tháng Giêng 1972. Tiếp theo, mô tả sự suy sụp sức khoẻ dần dần của Chủ tịch cùng ba vụ nhồi máu cơ tim. Tôi giải thích việc chẩn bệnh như thế nào, chạy chữa ra sao, nguyên nhân nào dẫn tới tử vong. Đồng nghiệp của tôi đã góp ý và bổ xung nhiều ý kiến quý báu. Cuối cùng, sáng ngày 20-9-1976 bản báo cáo đã hoàn chỉnh.
Uông Đông Hưng từ chối xem, yêu cầu tôi đưa cho Hoa Quốc Phong duyệt. Đọc qua, Hoa Quốc Phong nhận xét rằng trong đó có quá nhiều thuật ngữ y học, các Uỷ viên Bộ chính trị sẽ không hiểu được. Ông cũng nhấn mạnh, trong báo cáo chưa nói rõ nguyên nhân cái chết, yêu cầu có bổ xung.
Các bác sĩ chống việc dịch thuật ngữ y học sang ngôn ngữ thường, bởi vì làm điều đó rất khó, trong nhiều trường hợp không thể dịch được. Họ yêu cầu tôi nếu cần sẽ giải thích bằng lời trong cuộc họp. Họ đều cho cái chết của Mao là lẽ tự nhiên, Mao quá già yếu lại nhiều bệnh. Ngoài ra, họ còn nhấn mạnh tới việc ông bị suy hệ thống hô hấp, do bệnh tâm-phế mãn gây ra, phá huỷ chức năng tải máu lên não. Tôi chỉnh lại báo cáo, 21-9-1976 gửi cho Hoa Quốc Phong đồng thời nói rõ ý kiến của các đồng nghiệp. Hoa Quốc Phong nhắc nhở, một số Uỷ viên Bộ chính trị sẽ hỏi nhiều, tôi cần bình tĩnh, cố gắng giải trình cho họ những câu trả lời để tất cả cùng hiểu.
Sáng 22-9-1976, tôi với các đồng nghiệp có mặt ở phòng họp, mọi người đã tề tựu đầy đủ. Các Uỷ viên Bộ chính trị ngồi trong ghế bành đặt lộn xộn trong phòng. Trước mặt mỗi người có bàn trà nhỏ. Trong phòng có một số tốc ký viên thuộc Ban chấp hành Trung ương và một số người trẻ tham dự. Tôi ngồi vào ghế sau lưng thủ tướng Hoa Quốc Phong và nguyên soái Diệp Kiếm Anh, người đề nghị làm tượng Mao bằng sáp. Trần Tử Lăng, Tư lệnh quân khu Bắc Kinh phát biểu:
– Tôi không thể đảm nhận trách nhiệm, đề nghị cho tôi thôi chức vụ này – ông nói.
– Bình tĩnh đã, đồng chí Tử Lăng – Hoa Quốc Phong nói – Chúng tôi sẽ giải quyết việc đồng chí sau. Bây giờ chúng ta nghe báo cáo của nhóm bác sĩ điều trị Mao chủ tịch. Họ đã bốn tháng liền trực tiếp phục vụ ngày đêm quanh giường lãnh tụ để cứu sống Mao chủ tịch. Xin mời bác sĩ Lý phát biểu.
Đến tận giờ, tôi chẳng hiểu vì sao Trần Tử Lăng xin từ chức.
Diệp Kiếm Anh nhắc tôi nói to hơn. Một số Uỷ viên Bộ chính trị tương đối già và nặng tai. Trong thời gian phát biểu, họ đã ngắt tôi nhiều lần, đề nghị giải thích thuật ngữ này, thuật ngữ kia.
Khi tôi bắt đầu kể về sự suy giảm nhanh chóng sức khoẻ Mao từ tháng 6-1976, đột nhiên tướng Hứa Thế Hữu đứng lên với điệu bộ hung hăng tiến lên.
– Vì sao trên thân thể Mao chủ tịch có những vết thâm tím? – ông hỏi, mắt đưa về phía tôi để nhấn mạnh – Nguyên nhân nào xuất hiện nó?
Cần lưu ý, người Trung Quốc kiêng kỵ cho rằng xuất hiện nốt như thế trên thân thể người quá cố là biểu hiện sự đầu độc.
Tôi giải thích điều này như sau:
– Trong những ngày cuối đời, lãnh tụ khó thở. Cơ thể thiếu oxygen. Vì thế trên thân thể xuất hiện vết thâm tím.
Hình như Hứa Thế Hữu không thoả mãn câu trả lời của tôi và tiếp tục:
– Cả cuộc đời tôi tham gia nhiều trận chiến đấu, thấy nhiều xác chết, nhưng không xác nào tôi gặp lại có những vết như thế. Ngày 9 tháng 9 tôi thấy nó trên thân thể của Chủ tịch, hỏi các ông, bác sĩ Lý, có bao nhiêu “ga-ma” trong cơ thể Mao chủ tịch, tuy nhiên các ông không thể trả lời tôi lúc đó. Và bây giờ tôi cảm thấy rằng Chủ tịch đã bị đầu độc. Chỉ có chất độc mới dẫn đến xuất hiện những vết này. Chúng tôi phải hỏi bác sĩ và y tá, giải thích, ai đầu độc Mao?
Từ ngày đầu thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, chính phủ đã thành lập hệ thống bảo vệ rất cẩn thận tránh Mao bị đầu độc. Tôi kể về hệ thống này cho Hứa Thế Hữu.
– Trước khi đưa cho Mao chủ tịch bất kỳ thuốc gì, chúng tôi phải thử nó ngay trên bản thân mình – tôi nói – Tất cả đơn thuốc đều ghi trong sổ đặc biệt. Mỗi thứ thuốc đều được hai y tá ký và có bác sĩ trực xác nhận. Thuốc được cung cấp theo đường dây đặc biệt chỉ dùng cho giới lãnh đạo đảng cao cấp. Thuốc luôn luôn chứa trong hộp niêm phong và chỉ cấp phát theo lệnh bác sĩ chữa Mao.
– Âm mưu có thể một người bất kỳ trong số các anh làm chứ – Hứa nói thêm – Chúng tôi cần kiểm tra cẩn thận việc này.
Hứa Thế Hữu thành tâm tin rằng cái chết Mao do một hành động có tính toán. Ông nghi rằng người tổ chức có thể Giang Thanh cùng chiến hữu của bà. Hứa không biết quan hệ giữa tôi với Giang Thanh bị xấu đi từ rất lâu vì vậy cho rằng tôi và đồng nghiệp có thể dính líu vào âm mưu chống lãnh tụ.
Khi Hứa kết thúc, trong phòng lặng ngắt. Ông đứng đối diện tôi, mặt giận dữ. Sau đó ông nhìn vào Trương Xuân Kiều, nhưng ông này lờ đi. Giang Thanh, trong bộ áo tang, ngồi trên đi văng. Hoa Quốc Phong cứng người trong sự lúng túng. Uông Đông Hưng đang làm giả bộ đọc một tài liệu gì đó. Vương Hồng Văn nhìn khắp phòng, lộ vẻ lo lắng.
Nguyên soái Diệp Kiếm Anh, tướng Lý Đan Sâm tư lệnh quân khu Triết Giang, quay lại phía tôi, hỏi nhỏ: “Vết tím ấy từ đâu ra thế?” Tôi trả lời:
– Phía phổi trái chủ tịch có ba phế nang phình to, cản trở cả hai phổi. Mao chủ tịch rất khó thở và rất thiếu oxygen thường xuyên. Những vết ấy gọi là những vết xác chết, thường xuất hiện sau 4 giờ khi đã chết. Khi đồng chí Hứa Thế Hữu thấy xác đã 16 tiếng rồi.
Ngay lúc ấy, vợ goá Mao đứng dậy, nói:
– Đồng chí Hứa Thế Hữu, các bác sĩ vật lộn vì cuộc sống của lãnh tụ tròn bốn tháng, hà cớ gì đồng chí không cho bác sĩ Lý đọc hết báo cáo của mình?
Hứa tiến gần Giang Thanh, đấm tay xuống bàn. Tách chén rơi xuống sàn.
– Ai cho phép đồng chí chặn họng các Uỷ viên Bộ chính trị trong khi họp? – Hứa tức giận – Đừng có mà nhiễu sự.
Hoa Quốc Phong can:
– Đồng chí Hứa, bình tĩnh đã – Sau đó quay về phía tôi và nói:
– Bác sĩ và các đồng nghiệp tốt nhất dời khỏi đây. Chúng tôi sẽ xem xét vấn đề ấy sau.
Nhóm y tế chúng tôi im lặng quay về Trung Nam Hải, tôi mới đọc báo cáo giải trình được 10 trang trong số 50 trang. Trương ngọc Phượng bảo:
– Giám đốc Uông Đông Hưng chưa phát biểu gì, vậy các đồng chí phải đợi ý kiến của Bộ chính trị.
Tôi hy vọng được trở lại báo cáo tiếp. Bữa trưa, Trương Ngọc Phượng lại cảnh báo, chúng tôi lo lắng đến mức độ không ai đi ăn trưa.
Tôi đợi chờ lời buộc tội tham gia giết Mao. Đáng ngạc nhiên nó thốt ra từ miệng Hứa Thế Hữu và Giang Thanh lại đứng ra bảo vệ chúng tôi, dù rằng tôi nhớ rõ sự công kích bác sĩ của bà ta trong những ngày cuối cùng của Mao. Tôi đoán, nếu chiến hữu của Giang Thanh – Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều, giúp bà theo dõi bác sĩ, xảy ra chuyện gì họ cũng có phần lỗi. Nếu Bộ chính trị quyết định rằng có âm mưu đầu độc Mao, hai người này khó tránh khỏi bị tội. Chính vì thế Giang Thanh bảo vệ bác sĩ.
Ngày tháng trôi qua không thấy Bộ chính trị đưa lại tin tức gì cả. Tôi biết, cuộc đấu đá chính trị ở Trung Nam Hải chỉ mới bắt đầu. Hai tháng trước, tháng Sáu, Uông Đông Hưng nói cho tôi hay, đã nghĩ tới việc bắt Giang Thanh, không cần chờ Mao chết. Uông Đông Hưng trong quan hệ nhiều mặt với Giang Thanh, luôn giữ lịch sự và cảnh giác, tôi cảm thấy rằng sớm muộn họ cũng bắt Giang Thanh. Dù rằng Giang Thanh tưởng như quyền lực đã nắm trong tay, nên bớt thở than những lời nguy hiểm. Khi cuộc đấu đá chưa ngã ngũ, tình thế của các bác sĩ còn rất mong manh. Lời buộc tội phản động trong cái chết của Mao sẽ phục vụ cho con chủ bài trong mánh khóe bẩn thỉu đen tối này.
Ở Trung Nam Hải, tôi biết số phận thay đổi như thế nào. Tôi tròn 22 năm theo dõi sức khoẻ, bệnh tật, cuối cùng chứng kiến cả cái chết của Mao. Tôi biết, nguy hiểm còn theo đuổi tôi tất cả những ngày còn lại.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
– Chủ tịch gọi tôi phải không ạ?
Mao cố gắng mở mắt và mấp máy đôi môi, nhưng không nổi. Chiếc mặt nạ truyền oxygen trượt khỏi mặt, ông lại bị ngạt. Tôi ghé sát ông, nhưng chỉ có thể nghe thấy: “A…a…a…”. Ông vẫn tỉnh, nhưng hầu như không thể nói được gì nữa.
Trong những năm ấy, tôi, bác sĩ riêng của lãnh tụ, phụ trách mười sáu bác sĩ giỏi nhất Trung Quốc với hai mươi bốn y tá dày dạn kinh nghiệm. Chúng tôi được trao nhiệm vụ cứu sống Mao. Trong hơn hai tháng, kể từ ngày 26-6-1976 Mao bị nhồi máu cơ tim lần thứ hai, từ lúc ấy chúng tôi không rời Mao nửa bước. Quanh giường ông, luôn luôn có ba bác sĩ và tám y tá túc trực ngày đêm. Chưa kể hai bác sĩ tim mạch theo dõi cẩn thận điện tim ông từng phút. Đội ngũ bác sĩ thay phiên nhau trực 24/24, mỗi ca trực 8 tiếng, tuy vậy tôi thường xuyên vẫn phải có mặt. Phòng làm việc của tôi là buồng xép chật chội, cạnh phòng điều trị của Chủ tịch, tôi ngủ không quá ba, bốn tiếng một ngày.
Nhân dân Trung Quốc hoàn toàn không biết gì về tình trạng ốm đau của lãnh tụ kính yêu của mình. Tuy nhiên các ảnh trên mặt báo, thường hiếm khi in những tấm ảnh các cuộc gặp của Mao với những người lãnh đạo nước ngoài. Dù rằng báo chí Trung Quốc loan tải khắp thế giới về sức khoẻ tốt của Mao, trong tấm ảnh chụp với thủ tướng Lào, Kaysone Phoumivan vào tháng 5-1976 Chủ tịch trông lờ đờ như một cụ già mệt mỏi. Tuy thế, sang ngày 8-9-1976 hàng trăm triệu nhân dân xuống đường tuần hành hô vang khẩu hiệu “Mao chủ tịch muôn năm”.
Tuy nhiên, đối với những người trải qua những đêm trong phòng bệnh của ông, hiểu rằng Mao Trạch Đông chỉ còn sống một vài giờ thậm chí vài phút thôi. Mao đột quỵ từ tháng Sáu, nhiều uỷ viên bộ chính trị thường xuyên có mặt. Họ túc trực từng cặp ứng theo cấp bậc, vị trí chính trị và được thay đổi 12 giờ một lần. Trong số những người này có ông phó của Mao – người thuộc phái ôn hoà Hoa Quốc Phong, phái cực đoan Vương Hồng Văn, ngoài ra còn có cả các Uỷ viên Bộ chính trị – phái ôn hoà Uông Đông Hưng và phái cực đoan Trương Xuân Kiều.
Hoa Quốc Phong chịu trách nhiệm mọi hoạt động cấp cứu Chủ tịch. Ông thành kính tôn sùng Mao, thường xuyên hỏi han sức khoẻ. Lắng nghe báo cáo của các bác sĩ, ông tin người ta đã làm tất cả những gì có thể để kéo dài cuộc sống của lãnh tụ. Khi chúng tôi đề nghị hồi sức nhân tạo cho chủ tịch bằng các phương pháp mới đôi khi gây đau đớn như cho ống xông qua đường mũi bơm thức ăn vào dạ dày, Hoa Quốc Phong là người duy nhất muốn thử ngay phương pháp này lên chính ông ta. Tôi rất quý Hoa Quốc Phong. Tính liêm khiết, sự thẳng thắn quả là hiếm hoi trong số những người lãnh đạo đảng dính líu đến tham nhũng, thối nát.
Lần đầu tiên tôi gặp Hoa Quốc Phong vào năm 1959, trong thời kỳ Đại nhảy vọt. Khi đó tôi cùng với Mao về quê hương ông ở Thiếu Sơn tỉnh Hồ Nam. Hoa Quốc Phong khi ấy là bí thư đảng ở Tương Đàm. Sau hai năm, chính sách Đại nhảy vọt đã đẩy đất nước vào khủng hoảng kinh tế, tuy vậy chính quyền địa phương vẫn tiếp tục vẫn báo cáo lên về sự tăng trưởng sản xuất nông nghiệp và chỉ có Hoa Quốc Phong duy nhất dám dũng cảm công khai nói rằng không những chỉ sức người và gia súc mà cả đất đai cũng bị kiệt cạn, tất cả các báo cáo về tăng trưởng sản xuất là sự nói dối trắng trợn.
– Không một ai, ngoài Hoa Quốc Phong, nói cho tôi tất cả sự thật – Mao nhận xét như thế.
Hoa Quốc Phong trở thành người thay thế Mao vào tháng 4-1976, khi ông chiến thắng trong cuộc đấu đá giành quyền lực các phe cánh khi họ biết Mao sắp qua đời.
Tháng giêng 1976, Mao bổ nhiệm Hoa Quốc Phong chức vụ quyền thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thay cho Chu Ân Lai đã qua đời, giải quyết mọi công việc chính phủ. Đầu tháng tư, hàng trăm nghìn người Bắc Kinh đã tụ họp nhau trên quảng trường Thiên An Môn tưởng nhớ vị thủ tướng vừa mất Chu Ân Lai và bày tỏ sự phẫn nộ của mình bởi những hoạt động của Giang Thanh cùng nhóm chiến hữu Thượng Hải của bà là Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn. Cuộc biểu tình đã bị chính quyền buộc tội “phản cách mạng”. Để làm vừa lòng những nhà cách mạng vây quanh vợ mình, Mao buộc tội bài phát biểu của Đặng Tiểu Bình trước quần chúng.
Mao luôn luôn có xu hướng cân bằng lực lượng tả khuynh và hữu khuynh, trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp bằng cách bổ nhiệm người trợ lý của mình là Hoa Quốc Phong. Như vậy, Hoa Quốc Phong không những trở thành người đứng đầu chính phủ, còn là người thừa kế Mao ở vị trí người đứng đầu đảng cộng sản Trung Quốc. Tôi vui mừng vì điều này, xem quyết định của Chủ tịch rất khôn ngoan. Thậm chí bản thân Giang Thanh cũng tán thành quyết định, nói, cuối cùng lãnh tụ hành động sáng suốt. Tuy nhiên những người cực đoan buộc tội Hoa Quốc Phong là “hữu khuynh”.
Do vẫn bị công kích, ngày 30 tháng 4 năm 1976 Hoa Quốc Phong nói với Mao rằng ông không thể giữ nổi vị trí vì sự đả kích thường xuyên và nhục mạ từ nhóm Giang Thanh. Sau cuộc hội đàm với Chủ tịch, Hoa Quốc Phong cho tôi xem một số văn bản. Lúc ấy Mao nói năng rất khó khăn, phải nhờ người khác viết hộ. Mao viết cho Hoa Quốc Phong như sau:
“Khi đồng chí ở chính quyền, tôi yên tâm. Hãy hành động với nhiệm vụ được giao. Phải tự tin và đừng lo ngại”.
Sau khi Mao qua đời, với bằng chứng giấy trắng mực đen, tài liệu trên mở đường cho Hoa Quốc Phong trở thành người thừa kế.
Sau nửa đêm 8-9-1976, các bác sĩ lại cố gắng kích thích hoạt động tim của Mao. Do tiêm vào người Mao một chế phẩm từ nhân sâm, vì vậy huyết áp nâng lên từ 86/66 lên 104/72 gần như tới mức bình thường và mạch đập ổn định chút ít, tuy nhiên tôi hiểu, huyết áp tăng giả tạo, không kéo dài lâu được.
Sau khi tiêm, Hoa Quốc Phong kéo tôi lại bên thì thầm, không muốn Trương Xuân Kiều, Uông Đông Hưng, hai uỷ viên bộ chính trị đứng gần đấy nghe thấy:
– Bác sĩ Lý, liệu chúng ta có thể làm một cái gì đó khác được không?
Tôi không nói gì cả, bản thân thủ tướng hiểu, đó là chấm hết. Tôi không thể dũng cảm nói từ “chết”.
Phòng bệnh lặng như tờ. Tôi ngước mắt nhìn Hoa Quốc Phong. Không gian câm lặng, chỉ nghe thấy tiếng máy hô hấp nhân tạo phát ra tiếng động đều đều theo nhịp thở. Tôi lắc đầu, thì thầm lo lắng:
– Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được.
Hoa Quốc Phong quay sang người đứng cạnh, Uông Đông Hưng, trưởng ban tổ chức Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc, cựu trưởng ban bảo vệ Mao, nói:
– Mời đồng chí Giang Thanh và các Uỷ viên Bộ Chính trị ở Bắc Kinh cấp tốc lại đây, đồng thời thông báo cho các Uỷ viên Bộ Chính trị toàn quốc phải về ngay thủ đô họp.
Uông Đông Hưng gặp Mao lần đầu tiên ở Diên An và từng hàng chục năm phụ trách an ninh, một trong số người thân cận, gần gũi nhất của chủ tịch.
Sau khi Uông Đông Hưng đi khỏi, cô y tá chạy đến tôi, nói Trương Ngọc Phượng thông báo ý muốn của Chủ tịch muốn gặp tôi. Trương Ngọc Phượng trước đây là người phục vụ trên đoàn tàu hoả đặc biệt dành cho Mao đi thăm trong nước, bây giờ cô ấy vừa là thư ký riêng, vừa là bạn gái tin cẩn của ông.
Lần đầu tiên tháp tùng Mao, tôi thấy cô ta ở Trương Sa trong buổi dạ hội do Mao tổ chức. Trương Ngọc Phượng lúc ấy, một cô gái mười tám tuổi, có đôi mắt to ngây thơ, làn da trắng nõn. Cô đã mời Mao nhảy sau đó Mao đưa cô về phòng mình, họ qua đêm ở đó. Quan hệ tình cảm của họ một thời bàn tán ồn ào, tuy nhiên bên Mao còn có nhiều cô gái khác. Thậm chí giờ đây vẫn còn hai cô vũ nữ trẻ đang làm y tá phục vụ xoa bóp cho Mao không chính thức. Nhưng Trương Ngọc Phượng ở gần Mao lâu hơn các cô khác, mặc dù có những cử chỉ vụng về và thói thích rượu, nhưng cô vẫn giữ được sự ưu ái của lãnh tụ.
Năm 1974, sau khi thư ký của Mao, Tô Dạ Phú mắc bệnh ung thư phải nằm viện, Trương Ngọc Phượng thay vào đó. Cô ta xử lý các thư tín hàng ngày gửi đến Chủ tịch, sau này khi thị lực Mao giảm đi, cô đọc cho ông một khối lượng lớn tài liệu, viết tốc ký lời bình và chỉ thị. Cuối năm ấy, Uông Đông Hưng chính thức tin tưởng giao Trương Ngọc Phượng giữ cương vị thư ký riêng của Mao.
Với tư cách bác sĩ riêng, tôi có thể rẽ vào phòng Mao bất kỳ lúc nào, còn tất cả mọi người phải được phép của Trương Ngọc Phượng. Sau năm 1974 ngay cả Giang Thanh, vợ Chủ tịch và các uỷ viên Bộ chính trị muốn vào phòng của lãnh tụ cũng phải có sự đồng ý của Trương Ngọc Phượng, buộc phải chịu đựng tính khinh khỉnh của cô. Một hôm vào tháng 6-1976, Hoa Quốc Phong đến, muốn gặp Mao, nhưng Trương Ngọc Phượng đang nghỉ trưa, ấy thế ông cũng không dám đánh thức cô ta. Hai giờ đồng hồ trôi qua, Trương Ngọc Phượng cũng chưa đến làm việc, vì thế thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, vị tư lệnh chỉ đứng sau chức của Chủ tịch đành phải ra về, không được hội kiến. Vào đầu năm ấy, Đặng Tiểu Bình ốm, cộng thêm sự công kích của phe đối lập, làm gia đình ông xẻ đàn tan nghé. Đặng Dung, con gái út của Đặng Tiểu Bình viết cho Mao bức thư cầu khẩn lãnh tụ cho phép cô được sống với bố, lá thư ấy Trương Ngọc Phượng không chuyển cho Mao, cô con gái bất hạnh ấy không nhận được quyết định cho phép quay về sống với bố.
Trong những năm cuối đời, chỉ có Trương Ngọc Phượng mới nghe và hiểu được lời nói lủng củng, đầy mâu thuẫn của ông, thậm chí cô ta còn phiên dịch lời của Chủ tịch cho tôi.
Khi tôi lại gần giường của vị lãnh tụ sắp qua đời, Trương Ngọc Phượng hỏi:
– Bác sĩ Lý, liệu Chủ tịch còn hy vọng nào không?
Một cách khó khăn Mao khẽ gật đầu, từ từ chìa tay phải nắm tay tôi. Tay của ông yếu lắm, mạch đập khó bắt, cằm xệ xuống, da đã xạm dần. Cái nhìn của ông không còn có sức sống, chỉ còn lại sự mệt mỏi của người sắp chết. Đường ghi điện tim gần như phẳng.
Mao được thu xếp đưa vào buồng này trong toà nhà 202 ở Trung Nam Hải sáu tuần trước đó, 28 tháng sáu 1976. Trong những ngày ấy ở phía đông Trung Quốc có trận động đất lớn phá huỷ hoàn toàn thành phố Đường Sơn, cách Bắc Kinh khoảng 100 dặm, làm chết hơn 250 nghìn người. Chính ngay tại thủ đô, nạn nhân tuy không nhiều, nhưng nhà cửa cũng bị phá huỷ đáng kể, mọi người lo sợ những trận động đất kế tiếp nên hàng triệu người đã phải tự dựng lều sống trên đường phố. Nơi Mao nằm điều trị ngay sát phòng làm việc và bể bơi, từ thời Cách mạng văn hoá, trong dinh thự cũng bị đổ vỡ nhiều vì thế chúng tôi buộc phải chuyển ông vào chỗ an toàn hơn.
Khu dinh thự 202 là lựa chọn duy nhất, nơi lãnh tụ nằm, nối liền với toà nhà chính bằng một hành lang. Dinh thự được xây cất đặc biệt cho Mao vào năm 1974, có thể chịu được động đất mạnh. Buổi chiều hôm chuyển đi, có một trận chấn động mạnh trong khi trời mưa tầm tã, ấy thế ở dinh thự 202 không thấy dư chấn. Bầu trời dường như sắp sập xuống, nhưng tôi chẳng để ý – chúng tôi cần phải tập trung, giành giựt cuộc sống Mao chủ tịch.
Hoa Quốc Phong, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Uông Đông Hưng đến sát giường lãnh tụ. Sau tấm bình phong tôi nghe thấy cả từng bước chân nhẹ nhàng bước vào. Phòng đầy người, tổ trực đêm của bác sĩ và y tá đang chuẩn bị thay ca.
Tôi kiểm tra mạch, đứng sau tôi, bốn uỷ viên Bộ Chính trị. Bất ngờ Giang Thanh giận dữ bước vào phòng, gào lên:
– Ai là người sẽ nói cho tôi biết cái gì đang xảy ra ở đây?
Giang Thanh, người vợ thứ tư của Mao, nếu tính cả lần ông tảo hôn do ép buộc của gia đình mà ông từ chối. Mao cưới Giang Thanh ở Diên An năm 1938. Người ta kể cho tôi rằng, khi đó bà ta còn có mối quan hệ thân thiết với người đàn ông khác cũng ở Diên An. Nhưng sau 1949, vai trò thụ động của vợ lãnh tụ vĩ đại làm Giang Thanh buồn bực, bà hay cáu kỉnh, đòi hỏi quá nhiều. Chỉ trong những năm Cách mạng văn hoá bà mới được xuất hiện và thành Uỷ viên Bộ Chính trị, bà tàn nhẫn với tất cả những ai ngăn cản con đường danh vọng. Hai người sống ly thân trong nhiều năm, tuy nhiên Mao không có ý định ly dị Giang Thanh, nếu làm thế, ông không tránh khỏi phải cưới một trong số người tình, điều ông không muốn. Trong những năm Cách mạng văn hoá, Giang Thanh chuyển đến ở một biệt thự lớn ở Điếu Ngọc Thái, nhà khách của chính phủ, nơi khách cao cấp nước ngoài nghỉ chân. Sau cơn đau tim của Mao, Giang Thanh trở lại Trung Nam Hải, sống trong dinh Xuân-Sen.
Bà không dễ dàng chấp nhận ảnh hưởng của Trương Ngọc Phượng đối với Mao, nhưng cuối cùng đành chịu vì biết lợi dụng người phiên dịch phục vụ cho ông chồng ốm đau của mình. Căn bệnh nặng, sự sắp qua đời của Mao là cú đòn nặng với Giang Thanh. Bà lo quyền lực của bà sẽ biến theo gót chân ông và cũng trong thời gian ấy trong tâm khảm bà nuôi niềm hy vọng thay chỗ chồng.
Hoa Quốc Phong cố an ủi:
– Đồng chí Giang Thanh – Hoa lịch sự nói – Chủ tịch đang nói chuyện với bác sĩ Lý.
Tôi an ủi, động viên Mao, mặc dù trạng thái của ông thật vô vọng. Ông bắt đầu xuống sức nhiều năm qua. Từ tháng Chín 1971, chấn động bởi sự phản bội của Lâm Bưu, một người bạn cũ, một người phó duy nhất, người kế thừa sự nghiệp, bạn chiến đấu sát cánh đã trở mặt lật đổ Mao. Âm mưu đảo chính bất thành, Lâm Bưu cùng vợ và con trai quyết định bay sang Liên Xô. Tuy nhiên máy bay hết nhiên liệu, rớt tại Under Khan, vùng ngoại Mông. Tổ lái và gia đình Lâm Bưu đã chết. Sự việc tác động mạnh đến Mao. Ông bị suy sụp, chán nản, các cơn mất ngủ giày vò dẫn ông đến bệnh tật.
Cuộc viếng thăm lịch sử của tổng thống Hoa Kỳ đến Trung Quốc, Richard Nixon, vào tháng Hai 1972. Dù bệnh nặng Mao liên tục từ chối bác sĩ chăm sóc, chỉ ba tuần lễ trước khi tổng thống Mỹ tới, Chủ tịch cuối cùng mới chịu chữa bệnh. Thể trạng của ông xấu trầm trọng không có khả năng hồi phục hoàn toàn. Khi Nixon đến. Mao yếu lắm, nói năng rất khó. Bệnh viêm phổi của Mao chưa hồi phục, lại kèm thêm bệnh tim mạch. Nhưng Mao tự cho rằng đủ sức khoẻ tiếp khách. Để tiếp Richard Nixon tại dinh, Mao cần tôi. Tôi đón tổng thống Nixon trước dinh thự của Mao, đưa tổng thống vào phòng làm việc, qua phòng nghỉ, qua hành lang sát phòng khách, tôi đứng sau cánh cửa phòng tiếp khách nghe rõ cuộc trò chuyện giữa hai người, đồng thời chuẩn bị bất kỳ lúc nào có tín hiệu sẽ thuốc thang ngay cho lãnh tụ.
Cơ thể ở ông già 83 tuổi đã xuất hiện nhiều bệnh. Nhiều năm nghiện thuốc lá phá hỏng hai lá phổi. Lại còn thường xuyên bị bệnh viêm phế quản, viêm phổi dày vò. Các lá phổi bị xơ cứng mất tính đàn hồi, Mao thở khó khăn và ho nhiều. Phổi trái thực tế không làm việc, nên để dễ thở và nói bình thường Mao chỉ có thể nằm nghiêng sang trái. Tôi thường phải sử dụng mặt lạ oxygen, còn trong trường hợp nặng dùng máy hô hấp nhân tạo của Mỹ do Henry Kissinger gửi sang sau chuyến thăm bí mật Trung Hoa năm 1971.
Nhiều chuyên gia y tế nước ngoài cho rằng Mao mắc chứng bệnh Parkingson. Tuy nhiên năm 1974 các bác sĩ Trung Quốc phát hiện ra chẩn đoán sai, ông có căn bệnh nan y hiếm gặp, hoại tử tế bào thần kinh vận động trong vỏ não, làm liệt từng bộ phận cơ thể. Sự phát triển của bệnh làm ông mất khả năng nói và nuốt cho nên phải bơm thức ăn qua đường mũi. Trương lực cơ giảm, thở rất khó khăn. Cơ thể liên tiếp bị viêm nhiễm nhẹ. Do thiếu thuốc đặc hiệu, người bệnh sẽ chết một vài năm sau khi phát hiện.
Bệnh tình của Mao phát triển như các chuyên gia dự đoán. Nhưng ở thời điểm nói trên căn bệnh quái ác này ảnh hưởng xấu tới tim. Cơn nhồi máu cơ tim đầu tiên của Mao vào tháng 5-1976. Điều này xảy ra khi cãi nhau với Trương Ngọc Phượng. Cơn tiếp theo vào ngày 26 tháng sáu, cơn thứ ba – 2 tháng 9. Tất cả bác sĩ hiểu rằng cái chết rất gần nhưng để nói ra được điều này, đòi hỏi phải vô cùng dũng cảm. Tuy vậy, cơ thể của lãnh tụ vẫn chưa chịu đầu hàng.
– Mọi thứ bình thường, thưa Chủ tịch – tôi nói, nắm tay ông – chúng tôi đang hết sức cố gắng.
Trong khoảnh khắc, mắt Mao xuất hiện một tia hy vọng. Tôi thậm chí còn thấy má ông hơi hồng lên chút ít, rồi Mao thở hắt ra, mắt nhắm lại, bàn tay phải không còn sự sống nữa tuột khỏi tay tôi. Đường điện tim phẳng lỳ. Tôi liếc đồng hồ, lúc 0 giờ 10 phút. Bắt đầu một ngày mới – 9 tháng 9 năm 1976.
Tôi không đau buồn khi ông qua đời. Hơn hai mươi năm tôi hàng ngày ở bên cạnh Mao, tháp tùng ông trong các chuyến đi, kiên trì giúp ông trong những hội nghị dài. Đối với Mao, tôi không những bác sĩ riêng còn là người tin cẩn. Ông tâm tình với tôi chuyện riêng tư, các điều bí mật chính trị. Tôi có thể còn gần gũi hơn cả Uông Đông Hưng, người bảo vệ tin cậy của ông.
Trong những năm đầu, tôi ngưỡng mộ Mao. Ông đã cứu Trung Hoa khỏi ách đô hộ Nhật Bản, được coi như sứ giả của Trời. Nhưng trong những năm Cách mạng văn hoá ước mơ của tôi về nước Trung Hoa mới, về tự do, không bị đàn áp và công bằng đã tan thành mây khói. Tôi không tin vào lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, mặc dù tôi là đảng viên đảng cộng sản Trung Quốc. Nhìn vào điện tâm đồ đang chạy một đường thẳng nhịp tim “Người cầm lái vĩ đại”, tôi cảm thấy kết thúc một kỷ nguyên và hiểu rằng ngôi sao của Mao đã tắt. Một ý nghĩ xâm nhập đầu tôi, tôi thấy kinh sợ. Cái gì đang chờ tôi? Một bác sĩ riêng của Mao, sống trong lo âu, sợ hãi từ nhiều năm.
Nhìn vào xác lãnh tụ không còn linh hồn và bộ mặt những người đang đứng xung quanh, tôi hiểu, họ cũng đang tính toán số phận của mình. Cuộc sống ở Trung Nam Hải luôn luôn ẩn nấp sự nguy hiểm, giờ đây tôi bỗng thấy nó tiến gần đến. Giang Thanh nhìn xoáy vào tôi, nói vỗ mặt:
– Các người đang làm cái gì thế? Anh phải chịu hoàn toàn trách nhiệm!
Lời buộc tội của Giang Thanh không làm tôi ngạc nhiên. Giang Thanh nổi tiếng mưu mô, tàn ác. Quan hệ giữa chúng tôi bắt đầu vẩn đục từ hai mươi năm trước, bốn năm gần đây càng xấu đi, năm 1972, thậm chí Giang còn buộc tội tôi là gián điệp.
Hoa Quốc Phong xen vào, chậm chạp đi về phía bà, từ tốn nói:
– Tất cả mọi việc diễn ra trước mắt chúng tôi. Các đồng chí bác sĩ đã làm tất cả mọi cái có thể.
Vương Hồng Văn xác nhận lời thủ tướng:
– Tất cả bốn chúng tôi không dời khỏi Mao chủ tịch nửa bước.
Nói xong mặt ông đỏ dần lên. Vương Hồng Văn, người trẻ nhất trong số Uỷ viên Bộ Chính trị, đôi khi người ta gọi đùa là “tên lửa” do việc thăng tiến quá nhanh. Từ một nhân viên quèn bộ phận an ninh nhà máy ở Thượng Hải, ông leo đến đỉnh cao quyền lực chính trị. Không ai có thể hiểu sự ưu ái của Mao với con người trẻ này, vì sao cất nhắc anh ta thăng tiến nhanh như thế. Vương Hồng Văn, gầy gò, cũng đáng yêu vì cái dáng thông minh nhưng thiếu tự tin. Vất vả lắm ông mới học xong trung học, trông ông chẳng có dáng dấp lãnh tụ. Vương chẳng đóng góp, chẳng có ích trong ban lãnh đạo Trung Hoa. Vào tháng 5, sau khi sức khoẻ Mao xấu đi đột ngột, Vương Hồng Văn nói với tôi, đề nghị cho Mao dùng ngọc trai đã chế biến thay cho thuốc. Nhưng tôi bác bỏ đề nghị, lãnh tụ cũng không được uống thuốc ngọc trai.
Mao chết trong phiên trực của Vương Hồng Văn, nhưng ngoài phiên trực hiếm khi có mặt vì còn bận săn thỏ gần một sân bay quân sự bí mật Tây Uyển. Phần đông thời gian rỗi ông xem phim nhập từ Hong Kong. Tôi ngờ, Vương Hồng Văn trước đây không phải người tử tế, giờ đây quyền lực làm ông thoái hoá thêm.
– Bác sĩ đã báo cáo cho chúng tôi tất cả rồi – Vương Hồng Văn bào chữa với Giang Thanh – Chúng tôi biết rất rõ từng diễn biến.
Giang Thanh cắt ngang:
– Nhưng vì sao người ta không báo cho tôi sớm hơn?
Đó là một câu hỏi mánh khóe, thủ đoạn. Giang Thanh thường xuyên nhận được báo cáo về sức khoẻ của chồng, nhưng lại buộc tội bác sĩ thổi phồng bệnh tật, không tin lời các phần tử tư sản. Ngày 27-8 chúng tôi chính thức thông báo cho bà về tình trạng sức khoẻ nguy kịch của Mao, nhưng bà phớt lờ, vẫn đi “thanh tra” ở Đại Trại, nơi bà chỉ đạo một công xã nông nghiệp kiểu mẫu. Hoa Quốc Phong đã thông báo khẩn cấp cho Giang Thanh ngày 5 tháng 9, nhưng khi trở về chẳng thèm hỏi thăm tới sức khoẻ chồng, chỉ than vãn quá mệt mỏi sau chuyến công tác.
Ngày 7 tháng 9 sức khoẻ của lãnh tụ đã trở nên quá xấu, Giang Thanh buộc phải gặp các bác sĩ. Bà bắt tay từng người, nói “Đây là vinh dự lớn lao và hạnh phúc cho các đồng chí đấy”. Giang Thanh gần như tin chắc sẽ thay thế chỗ Mao, nghĩ chúng tôi hoàn toàn hài lòng dưới sự lãnh đạo của bà.
Một số bác sĩ lần đầu tiên gặp rất ngạc nhiên về thái độ lạnh lùng, tính nhẫn tâm của Giang. Uông Đông Hưng có lần nói với tôi “Không có gì đáng ngạc nhiên cả, Chủ tịch, vật cản duy nhất trên đường nắm quyền tối cao của bà ta”. Giang đã chờ đợi cái chết của Mao từ lâu. Cuộc đấu đá tranh giành quyền lực càng căng thẳng theo từng phút sống của Mao chủ tịch.
Giang Thanh cầm đầu nhóm cực đoan trong đảng, gồm Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên, Mao Viên Tân – cháu Mao, Trương Xuân Kiều, một “lý thuyết gia” gốc Thượng Hải có quan điểm tả khuynh, nhà tư tưởng chủ chốt của Cách mạng văn hoá. Ông thích lặp lại câu nói “Cỏ dại của chủ nghĩa xã hội còn quý hơn cao lương chủ nghĩa tư bản”. Bây giờ thấy Giang Thanh giận dữ, Trương Xuân Kiều cúi mặt nhìn xuống sàn nhà, chắp tay sau lưng, lo lắng.
Mao Viên Tân lục lọi khắp phòng với ánh mắt soi mói như muốn tìm kiếm cái gì đấy. Mao Viên Tân, con trai của Mao Trạch Minh, em trai của Chủ tịch. Trong chiến tranh thế giới thứ II, Mao Trạch Minh bị tỉnh trưởng Tân Cương, tây bắc Trung Quốc kết án tử hình. Chính tỉnh trưởng Thân Tử Hải từng là người cùng chí hướng với Mao Trạch Minh, nhưng sau khi phát xít Đức tấn công Liên Xô đã chạy sang hàng ngũ Tưởng Giới Thạch, Quốc dân đảng. Sau đó vợ của Mao Trạch Minh bị bắt, bản thân Mao Viên Tân sinh ra trong tù. Ra tù, mẹ Mao Viên Tân đi lấy chồng, Mao phải nuôi đứa cháu. Sau năm 1949, Mao đưa vào Trung Nam Hải, nhưng hiếm khi nhòm ngó đến cháu.
Tôi được chứng kiến tận mắt Mao Viên Tân lớn lên như thế nào. Trong những năm còn bé, quan hệ của anh ta với Giang Thanh không suôn sẻ. Tuy nhiên năm 1966, khi bắt đầu Cách mạng văn hoá, anh ta vào lứa tuổi trên 20, rồi tham gia nhóm nổi loạn. Mao Viên Tân viết lá thư xin lỗi Chủ tịch về những gì sai trái đối xử không đúng mức khi còn trẻ, giờ đây xin ra nhập đội ngũ của Giang Thanh. Bây giờ đã ngoài 30, Mao Viên Tân được bổ nhiệm Chính uỷ tư lệnh vùng Triết Giang. Cuối năm 1975, khi Mao ốm nặng, Mao Viên Tân trở thành người liên lạc giữa Chủ tịch với những nhà lãnh đạo cao cấp. Từ đây Mao Viên Tân có chút quyền lực. Giang tin tưởng người cháu.
Đám bác sĩ và y tá cúi đầu sợ hãi, liếc nhìn nét mặt giận dữ của Giang Thanh. Uông Đông Hưng nói một cái gì đó với Trương Diêu Tự, người phụ trách nhóm cận vệ của Mao. Hận thù giữa Uông Đông Hưng và Giang Thanh có từ lâu. Uông Đông Hưng hoàn toàn không sợ, lờ đi sự nổi khùng của Giang Thanh. Uông chiếm được quyền lực lớn, giành nhiều chức vụ quan trong. Không những Trưởng ban tổ chức Ban chấp hành Trung ương đảng, còn lãnh đạo cơ quan mật vụ, bí thư đảng uỷ của Sư đoàn bảo vệ Mao, đảm bảo an ninh cho các lãnh tụ đảng cộng sản trong dinh thự Trung Nam Hải nhiều năm. Trước Cách mạng văn hoá, Uông Đông Hưng giữ chức thứ trưởng Bộ công an.
Trương Diêu Tự, cũng như Uông Đông Hưng, cựu trào trong đảng, từng tham gia cuộc Vạn Lý Trường Chinh, cả hai đều người Giang Tây. Giờ đây hai cán bộ an ninh đang soạn thảo kế hoạch đặt thi hài Mao trong Đại sảnh đường Nhân dân, với hàng chục ngàn nhân dân đến viếng, việc an ninh phải được thắt chặt an toàn mức tối đa.
Bỗng nhiên Giang Thanh đổi giận làm lành. Có lẽ bà ngộ nhận con đường tới quyền lực chỉ còn gang tấc, không thể vuột khỏi, nhanh chóng trở thành người thống trị Trung Hoa.
– Thôi được – bà nói – các đồng chí đã làm tất cả những điều có thể và các đồng chí chẳng sung sướng gì. Xin cám ơn tất cả mọi người.
Quay người sang cô phục vụ, bà đề nghị chuẩn bị cho bà bộ áo tang bằng lụa đen. Giang Thanh chuẩn bị để tang chồng.
Hoa Quốc Phong đề nghị Uông Đông Hưng gấp rút triệu tập phiên họp bộ chính trị. Mối quan hệ giữa Hoa và Uông mới gần đây.
Phần đông những người có mặt sắp ra về, bỗng nhiên Trương Ngọc Phượng vừa khóc vừa nói:
– Chủ tịch bỏ chúng ta rồi! Tôi sẽ làm với ai đây?
Giang Thanh tiến đến ôm cô, mỉm cười, khuyên nhủ đừng khóc.
– Bây giờ cô sẽ làm việc với tôi – bà nói.
Nước mắt của Trương Ngọc Phượng tức thời biến mất. Cô ta không giữ nổi nụ cười và trả lời:
– Tôi rất cám ơn đồng chí, đồng chí Giang Thanh ạ.
Tôi nghe thấy Giang Thanh thì thầm với Trương Ngọc Phượng:
– Từ bây giờ đừng cho ai vào buồng Chủ tịch hay phòng khách, thu nhặt, sắp xếp tất cả các giấy tờ trong phòng đưa lại cho tôi.
Sau đấy Giang Thanh mới đi vào phòng lớn chờ cuộc họp Bộ chính trị, cách buồn Mao hai phòng. Trương Ngọc Phượng đi theo sau, hứa thực hiện lệnh được giao.
Lúc sau Trương Diêu Tự, đội trưởng đội cận vệ tìm tôi. Ông vừa mới từ phòng ngủ của lãnh tụ ra, đang băn khoăn điều gì đó. Trương hỏi có ai trong số người thày thuốc nhìn thấy đồng hồ của Mao không.
– Đồng hồ nào chứ? Tôi hỏi.
– Cái đồng hồ mà đồng chí Quách Mạc Nhược tặng Mao chủ tịch trong thời kỳ hội đàm ở Trùng Khánh 8-1945.
Mao không có thói quen đeo đồng hồ, chiếc đồng hồ Omega Thuỵ sĩ, món quà tặng của Quách Mạc Nhược có giá trị lịch sử lớn.
Quách Mạc Nhược nhà văn lớn nổi tiếng, nhà khoa học xuất sắc đa tài, bạn và người ủng hộ Mao. Một thời gian dài ông làm Chủ tịch Viện hàn lâm khoa học Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, tạ thế năm 1978. Trong cuộc hội đàm lịch sử ở Trùng Khánh qua trung gian Mỹ đã thoả thuận đạt được hoà giải giữa đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân đảng, hình thành một chính phủ liên minh chống Nhật. Do đó ở Trung Quốc đã ngăn chặn được một cuộc nôị chiến, tập hợp được lực lượng chống Nhật.
– Tất cả chúng tôi đều bận cấp cứu lãnh tụ – Tôi trả lời – Không ai chú ý tới đồng hồ. Sao ông không hỏi Trương Ngọc Phượng?
– Tôi thấy Mao Viên Tân cứ loanh quanh chỗ đó. Có thể ông ta lấy chiếc đồng hồ?
– Không ai trong số nhân viên y tế có thể lấy. Tôi trả lời.
Trương Diêu Tự đi tới giường Mao. Lát sau từ trong phòng lớn nơi bắt đầu cuộc họp Bộ chính trị, Uông Đông Hưng đi ra, mời tôi sang buồng nhỏ bên cạnh để nói chuyện. Qua đấy, tôi biết Bộ chính trị vừa mới quyết định thi hài của lãnh tụ phải được bảo quản khỏi phân huỷ trong hai tuần để nhân dân viếng tang ông. Bắc Kinh vào tháng chín trời còn rất nóng, giới lãnh đạo đảng mong muốn công việc bảo quản thi hài phải làm khẩn cấp.
Khi Mao còn sống, không ai trong chúng tôi cả gan nghĩ tới vấn đề tang lễ khi ông còn sống, nhưng bây giờ người ta yêu cầu bản quản thi hài ông vài tuần, chúng tôi không ngạc nhiên, cũng chẳng khó khăn gì.
Tôi đi ra thực hiện mệnh lệnh của lãnh đạo, chuẩn bị thi hài trong lễ viếng, một đại uý trong ban bảo vệ của Trương Diêu Tự chặn tôi lại, nói lấp lửng:
– Bác sĩ Lý, đừng làm rối công việc chuẩn bị. Bộ chính trị đang họp, tôi linh cảm thấy rằng chẳng có cái gì tốt đẹp hứa hẹn với ông đâu. Chỉ cần ông phạm sơ xuất nhỏ, cũng phải trả giá đấy.
Trong khoảnh khắc đầu tiên sau cái chết của Mao tôi cảm thấy ớn lạnh trong lồng ngực, nhưng nó nhanh chóng bị nén lại, tôi ghi nhận những lời doạ của viên sĩ quan với sự bình thản tự tin.
Tôi hoàn toàn nhận ra, người ta có thể buộc tội giết lãnh tụ. Nhà tôi năm đời làm thày thuốc. Các cụ đã kể cho tôi, thời nhà Thanh, trong những năm cai trị của Từ Hy Thái Hậu (1835-1908), cụ tôi là người rất được kính trọng. Thậm chí người ta đã vời cụ từ quê An Hội ra cung vua để làm ngự y. Một cụ tổ khác cũng chữa cho Hoàng đế Đồng Trị và sau đó cũng trở thành ngự y trong hoàng cung.
Người ta kể, Hoàng đế Đồng Trị thích vi hành. Nhà Vua cải trang, trốn khỏi hoàng cung, thường vào nhà thổ trong các ngõ hẻm phía nam Cấm Thành. Gia đình tôi kể, cụ tôi phát hiện ra hoàng đế Đồng Trị mắc bệnh giang mai. Từ Hy Thái Hậu đã giận dữ xử tội hoàng đế, rút trâm ngọc cài tóc ném xuống đất, thể hiện sự bực mình tột độ, không cho ông tôi chữa bệnh, nhốt Đồng Trị trong hậu cung. Chẳng bao lâu Đồng Trị chết, cụ tôi bị tước phẩm hàm quý tộc, mặc dù vẫn làm trong Ngự y viện. Lời buộc tội vẫn còn gắn với cụ đến lúc chết, nhưng người ta bỏ chiếc mũ ngự y vào quan tài cụ. Nghề của gia đình tôi vẫn tiếp tục tồn tại, truyền đời này sang đời khác, tuy nhiên do trường hợp của cụ tôi, không ai trong số dòng họ có thể hành nghề trong hoàng cung.
Tuy vậy không ai dám khước từ lời yêu cầu của các quan đại thần, tôi cũng không mong ước trở thành bác sĩ riêng cho Mao, nhưng đấy cũng là niềm vinh dự không thể từ chối. Đôi lần tôi định từ bỏ nhưng lần nào cũng bị Mao gọi trở lại.
Chỗ tôi làm việc rất bí mật, chỉ có gia đình, bạn rất thân biết. Công tác an ninh của lãnh tụ kiểm soát rất cao vì sợ những âm mưu tạo phản, huống chi tôi chỉ là bác sĩ riêng của Chủ tịch. Tất cả những ai biết công việc tôi đều cảnh cáo, tôi có thể chết bất ngờ. Một trong số các chị họ tôi đã nhắc tôi từ năm 1963 rằng: “Sức khoẻ của Mao chủ tịch nằm dưới sự theo dõi của toàn đảng và toàn dân. Nếu ai đó trong số uỷ viên Ban chấp hành trung ương tỏ ra không hài lòng về công việc của chú, họ không tha đâu”.
Một vài người bạn ngừng thăm tôi. Thậm chí sau khi gia đình tôi rời khỏi Trung Nam Hải, khách cũng hiếm khi đến chơi. Một người bạn của tôi ở Côn Minh, tỉnh Vân Nam, người bạn thân của Đàm Phú Dân, thời gian ấy là chính uỷ khu vực Côn Minh. Đàm bị người bảo vệ của chính ông ta xử tử trong Cách mạng văn hoá. Sau đó ai từng có mặt ở nhà Đàm, đều lôi đi thẩm vấn, rồi tống vào ngục. Về trường hợp này, cháu tôi cũng đã kể với tôi: “May mắn cháu chưa khi nào đến ngôi nhà ông ta”. Ít lâu sau cô cháu cũng ngừng đến thăm tôi.
Tôi không bao giờ có thể quên lời buộc tội các bác sĩ chữa cho Stalin, tội mưu sát lãnh tụ Xô viết. Vì vậy có thể đoán được hành động tương tự trong quan hệ của tôi và y tá điều trị cho Mao. Từ khi Mao gần chết tôi cũng đã âm thầm chuẩn bị ngày bị bắt. Ngay đầu tháng 9, sau cơn nhồi máu cơ tim lần thứ ba của Mao, tôi nhanh chóng chạy về nhà. Đây là lần đầu tiên sau nhiều tháng không về, tôi chuẩn bị quần áo bông và bành-tô, đồ vật lặt vặt đóng gói lại. Tôi nghĩ sẽ bị tống giam một nơi nào đó rất lạnh nên cần quần áo ấm. Tôi đi quanh phòng với ý nghĩ từ giã, không còn hy vọng quay trở lại. Vợ tôi đang đi làm, con tôi ở trường. Sau này vợ tôi kể, biết tôi về nhà do người giúp việc nói lại. Bà ta thấy tôi rất vội, vẻ bồn chồn lo lắng, hình như có một cái gì đáng sợ đang xảy ra.
Vì vậy khi nghe lời doạ nạt của tay bảo vệ ngay sau khi Mao qua đời tôi hoàn toàn bình tĩnh, vì đã chuẩn bị từ lâu. Mao hay nói “con lợn đã bị chọc tiết không sợ nước sôi”. Tôi giờ đây cũng như con lợn đã chết.
Trời vẫn tối, tôi gọi về nhà bộ trưởng y tế Lưu Thân Bình đề nghị gặp khẩn cấp. Tôi không nêu nguyên nhân, chỉ lưu ý, cuộc gặp gỡ không có mặt người khác. Lưu Thân Bình, vợ goá của cựu bộ trưởng công an Tạ Phú Trị. Cả hai đều thân cận Giang Thanh. Tôi ngờ Giang Thanh tác động để bổ nhiệm Lưu Thân Bình vào chức vụ bộ trưởng trong thời kỷ Cách mạng văn hoá, vì Lưu mù tịt về y tế.
Lưu Thân Bình vẫn ở trong khu Bộ công an, ngay Đại lộ Trường An, phía bắc khu phố cổ, kiến trúc theo phong cách cổ điển châu Âu, trước kia là toà nhà đại sứ quán nước ngoài. Bà chờ tôi ở phòng khách, còn ngái ngủ.
– Mao chủ tịch đã từ trần lúc mười hai giờ mười phút sáng – tôi nói.
Bà oà lên khóc không đợi tôi nói hết câu.
– Chúng ta có rất nhiều việc phải làm, đừng lãng phí thời gian.
Tôi nói tiếp:
– Lãnh đạo yêu cầu chúng ta bảo quản thi hài Chủ tịch trong vòng hai tuần lễ. Phải khẩn trương. Họ đang chờ chúng ta.
Bà lau nước mắt:
– Chúng ta cần phải làm gì?
– Chúng ta cần phải tham khảo ý kiến của các nhà khoa học Viện hàn lâm y học. Phải tìm ở các chuyên gia khoa giải phẫu bệnh và tế bào học để bàn bạc, xin ý kiến.
– Được rồi, trước tiên phải gọi Hoàng Thụ Trạch và Dương Trung tới đã.
Hoàng Thụ Trạch, thứ trưởng Bộ y tế, Lưu Thân Bình thường xuyên trao đổi với ông vì ông có bằng bác sĩ, mỗi khi cần tham khảo ý kiến, bà thường mời ông. Dương Trung là bí thư đảng uỷ Viện hàn lâm y học.
– Chúng ta không nên phí hoài thời giờ nếu gọi họ đến đây. Trước tiên chúng ta gọi các chuyên viên đến, hẹn tất cả sẽ gặp nhau ở phòng Dương Trung ở Viện Hàn lâm.
Lưu đồng ý và gọi các chuyên viên, còn tôi lái xe đến Viện Hàn lâm.
Khi tôi đến, thấy Dương Trung và Hoàng Thụ Trạch ở đó. Cũng có cả các chuyên viên – Trương Bình Thân, giáo sư khoa giải phẫu và Ngô Thanh, đồng nghiệp, trạc 40 tuổi – giáo sư khoa tế bào. Lưu Thân Bình vẫn chưa thông báo cho họ về lý do cuộc gọi ban đêm, Trương Bình Thân lo lắng, căng mắt nhìn qua cửa sổ.
Sau này tôi hiểu, các cuộc gọi như thế này thường xảy ra từ lâu. Trong những năm Cách mạng văn hoá, Trương Bình Thân thường bị kéo ra khỏi giường ấm để làm giấy chứng tử về cái chết của người bị tử hình hoặc tự tử. Bởi vì Hồng vệ binh thường dính dáng trong những cái chết đó, người ta không muốn đưa vụ việc công khai, nhưng giấy chứng tử cái chết có thể được dùng làm văn bản kết tội cho nên phải cần tới chuyên viên.
Trương Bình Thân không dám nhạo báng đám tiểu tướng Hồng vệ binh. Ông đã từng bị “tấn công”, bị đánh đập, nhưng sợ nhất bị gán cái nhãn “phản cách mạng”, tội này sẽ bị đánh chết. Nhiều lần ông tâm sự với tôi: “Mình không sợ bị tra tấn, cái mình sợ nhất là bị gán mác Phản cách mạng”. Hễ ai bị dán nhãn ấy, cầm chắc bản án tử hình. Mới đây người ta gọi ông vào ban đêm để khám thi thể ông cựu bộ trưởng bộ công an Lý Chấn “tự tử” bằng thuốc ngủ. Do bản kết luận ông ký, nên phải “ở lại” trụ sở bộ công an hơn hai tháng. Vì thế, khi tôi thông báo với mọi người, lãnh tụ từ trần, nét mặt Trương hết lo lắng.
Các chuyên viên nói, việc bảo quản thi hài Mao trong vòng hai tuần không phức tạp. Để làm điều đó chỉ cần tiêm hai lít dung dịch formaldehyde vào động mạch chân. Hoàng Thụ Trạch và Dương Trung chấp nhận phương pháp này. Trương Bình Thân và Ngô Thanh chuẩn bị bơm tiêm, thuốc rồi đi cùng tôi vào Trung Nam Hải. Phố xá vắng tanh. Lúc đó, 4 giờ sáng, trời vẫn tối. Nhân dân Trung Quốc vẫn còn chưa biết lãnh tụ vĩ đại không còn trên đời từ mấy tiếng rồi.
Bộ Chính trị vẫn còn họp. Sĩ quan trưởng bảo vệ nhìn thấy tôi nói: “Uông Đông Hưng và nguyên soái Diệp Kiếm Anh mấy lần tìm đống chí”. Ông nói thêm, “Bộ Chính trị đã thông qua bản thông báo cho toàn đảng, toàn quân và nhân dân Trung Quốc về sự từ trần của chủ tịch, bản tin sẽ được truyền tải qua đài phát thanh vào lúc 4 giờ chiều nay”.
Tôi nóng lòng chờ thông báo chính thức, bởi vì tôi hiểu rằng sẽ rõ mọi chuyện, liệu người ta có buộc tội tôi, đội cấp cứu do tôi phụ trách về cái chết của Mao hay không.
– Thông báo nói về bệnh và cái chết của Mao thế nào? – tôi lo lắng hỏi.
Ông ta đưa tôi một bản sao.
– Đồng chí tự đọc lấy.
Tôi cầm vội tờ giấy, vài dòng đầu tiên lập tức đập vào mắt tôi. Trong đó viết:
“… Các bác sĩ đã làm mọi thứ có thể, nhưng do tình trạng sức khoẻ của Chủ tịch không còn hy vọng. Mao Chủ tịch qua đời lúc 0 giờ 10 phút ngày 9 tháng 9 năm 1976 tại Bắc Kinh”.
Đọc tiếp không có ý nghĩa nữa. Tôi đã nằm ngoài vòng nghi ngờ rồi. Sau đó vài ngày, 13-9-1976, tên tôi xuất hiện trên tờ “Nhân dân Nhật báo”, đăng tải chức danh, lãnh đạo đội cấp cứu điều trị Mao. Thế là nguy hiểm đã qua.
Ngay khi tôi xuất hiện ở phòng họp mười bảy Uỷ viên Bộ chính trị, Uông Đông Hưng gặp tôi, nói rằng cần thảo luận gấp riêng. Chúng tôi đi vào phòng nhỏ, Uông Đông Hưng hỏi tôi đã đọc thông báo chưa.
Tôi trả lời, vừa đọc được mấy đoạn đầu tiên. Uông cười nhạt:
– Bộ chính trị vừa mới chấp thuận quyết định bảo quản thi hài lãnh tụ lâu dài. Đồng chí hãy nghĩ đi, làm điều này thế nào cho tốt nhất.
Tôi há hốc mồm kinh ngạc.
– Nhưng các ông vừa mới nói, chỉ bảo quản hai tuần thôi. Vì sao lại quyết định bảo quản thi hài lâu dài? Năm 1956 chính Mao chủ tịch bằng văn bản đã bày tỏ mong muốn được hoả táng. Tôi nhớ rõ thế.
– Đây là ý nguyện của Bộ chính trị. Chúng tôi vừa thông qua xong.
Tôi vẫn giữ ý kiến:
– Chuyện này rất khó thực hiện. Đồng chí nghĩ thế nào về chuyện này?
Uông Đông Hưng nói thêm:
– Thủ tướng Hoa Quốc Phong và tôi đã ủng hộ quyết định này.
– Nhưng cũng cần phải hiểu, điều này vượt quá sức chúng ta – Tôi nói – thậm chí sắt và thép còn bị thời gian huỷ hoại, nói gì đến xác người chết. Làm thế nào để ngăn cản thối rữa bây giờ được.
Lúc ấy, tôi nhớ chuyến đi với Mao năm 1957 tới Moskova, viếng lăng Lenin và Stalin. Thi hài đã héo quắt. Người ta kể cho tôi, mũi và tai của Lenin đã hoàn toàn hỏng, được thay bằng sáp. Bộ râu nổi tiếng Stalin cũng hoàn toàn bị hỏng, mặc dù kỹ thuật ướp xác của Liên Xô hoàn thiện hơn Trung Quốc rất nhiều. Tôi không thể hình dung chúng tôi sẽ bảo quản xác Mao như thế nào.
– Đồng chí cần phải hiểu tình cảm của chúng ta – Uông trả lời và nháy mắt.
– Tôi hiểu tất cả, nhưng khoa học Trung Quốc chưa đủ khả năng tiếp cận công việc này – Tôi trả lời.
– Chỉ cần ông tìm cho được những người có khả năng giúp anh làm việc này. Lãnh đạo đảm bảo tất cả các điều kiện cần thiết. Đồng chí cần thiết bị, hoá chất… bất cứ điều gì báo cho tôi biết – Uông kiên trì giải thích.
Lão Nguyên soái Diệp Kiếm Anh, người cao tuổi nhất trong số đảng viên cộng sản, người sáng lập Giải phóng quân Trung Quốc gặp tôi. Tôi rất quý trọng nguyên soái. Ông quan tâm đến quan điểm của tôi về quyết định vừa được thông qua, tôi phải nói đi nói lại cho ông biết tất cả các khó khăn. Lặng đi một lát ông nói:
– Không còn sự lựa chọn nào nữa, chúng ta cần thực hiện quyết định của Bộ chính trị. Nhưng bác sĩ Lý nên tiếp tục tham khảo những người tin cậy và có thể đề nghị Viện mỹ thuật và tạo hình. Có thể người ta ở đó làm được hình Mao chủ tịch bằng sáp. Nếu nó giống y thật, khi cần thiết thì trong tương lai chúng ta sẽ dùng nó để thay thế thi hài lãnh tụ.
Thế mới biết, đến cả Diệp Kiếm Anh, phó Chủ tịch Uỷ ban Khoa học kỹ thuật và Công nghiệp quốc phòng, trụ cột của Bộ chính trị cũng đòi làm những điều không thể làm được.
Uông Đông Hưng cũng đồng ý với Diệp Kiếm Anh, yêu cầu tôi không kể cho ai.
Đến tận giờ, tôi không biết có bao nhiêu Uỷ viên Bộ chính trị biết về phương án phiên bản Mao bằng sáp. Có thể điều này bí mật đến mức thậm chí Giang Thanh cũng không biết.
Tôi trở vào phòng đặt thi hài. Trong phòng chất đầy thiết bị y học, chúng tôi chuyển thi hài sang buồng thoáng hơn nối liền với phòng Bộ chính trị vừa họp. Nhiệt độ không khí khoảng 78 độ F (26 độ C), tương đối cao đối với thi hài. Tôi đề nghị hạ nhiệt độ xuống 50 độ F (10 độ C), tuy nhiên nhân viên phục vụ từ chối:
– Tôi không thể. Tất cả các lãnh tụ cao cấp đều có mặt, đây là chỉ thị của đồng chí Giang Thanh giữ nguyên nhiệt độ cao như thế. Đồng chí phải đề nghị trực tiếp với lãnh đạo.
Hệ thống điện ở Trung Nam Hải lấy từ hai trạm điện lực ở Bắc Kinh đảm bảo cung cấp để nhiệt độ bình thường trong phòng không phụ thuộc vào thời tiết bên ngoài, dù nơi khác bị cắt điện. Nhưng trong toà nhà 202 xây riêng cho Mao, lại không có khả năng điều hoà nhiệt độ cho từng phòng riêng biệt. Tôi vào phòng họp đề đạt quyết định Bộ chính trị, yêu cầu giảm nhiệt độ trong toà nhà. Sau đó các cuộc họp Bộ chính trị chuyển sang thời gian khác.
Khi tôi trở lại cũng là lúc Trương Bình Thân và Ngô Thanh đã tiêm xong formaldehyde. Tôi kể cho họ về quyết định mới của bộ chính trị. Cả hai ngạc nhiên, thống nhất cho rằng giữ thi hài lãnh tụ nhiều năm trong thời điểm hiện nay thực tế là không thể.
Tôi thấu hiểu mọi vấn đề khó khăn, nhưng đề nghị họ chấp hành quyết định lãnh đạo. “Chúng ta cần phải tìm cách nào đó để làm điều này. Tôi đề nghị ai đó trong chúng ta vào thư viện Viện hàn lâm Y học và cố tìm xem có tài liệu về vấn đề này không”.
Sau một tiếng, Ngô Thanh từ thư viện gọi cho tôi nói, đã đọc qua phương pháp bảo quản xác lâu dài. Theo phương pháp đó, tiêm vào thân thể người chết khoảng 12 đến 16 lít formaldehyde tuỳ theo trọng lượng thi hài. Đồng thời làm việc đó phải trước 4 đến 8 giờ sau khi chết. Quy trình dừng lại khi dung dịch đã căng đầy ngón tay, ngón chân người quá cố.
Nhưng Ngô Thanh cũng tìm thấy bản lý thuyết phương pháp này trong một tài liệu Tây phương, nhưng bài viết không tin chắc kết quả thực nghiệm. Bà đề nghị tham khảo ý kiến với các Uỷ viên Bộ chính trị. Tôi gặp Uông Đông Hưng, nhưng ông ta bảo:
– Các đồng chí là chuyên gia phải tự quyết định lấy chứ. Có thể đồng chí xin ý kiến thủ tướng Hoa Quốc Phong trước cũng được.
Tôi tìm Hoa Quốc Phong báo cáo đề xuất của Ngô Thanh. Ngẫm nghĩ một lát, ông bảo:
– Không thể triệu tập cuộc họp nữa, dù có họp cũng chẳng tác dụng gì. Tất cả thành viên Bộ chính trị đâu có rành chuyện này. Sao các đồng chí không bắt tay làm ngay đi. Tôi cũng chưa nghĩ ra cách nào khả dĩ hơn.
Trong phòng nhà xác tạm thời, xuất hiện thêm hai gương mặt mới – Trần, chuyên khoa giải phẫu từ viện Hàn lâm y học và Mã ở bộ phận giải phẫu bệnh thuộc Bệnh viện Bắc Kinh. Trần giúp tiêm formaldehyde vào thi hài, còn Mã lo việc trang điểm người quá cố. Tôi thông báo, công việc bắt đầu. Đến 10 giờ sáng, xác Mao đã được tiêm 22 lít dung dịch, nhiều hơn 6 lít theo dự kiến, hy vọng mọi chuyện tốt hơn. Mất hơn hai giờ tiêm, mãi gần 10 giờ sáng mới xong.
Kết quả làm mọi người choáng. Mặt Mao phồng lên như quả bóng, cổ dày đẩy lên đến đầu. Da căng bóng và từ các lỗ chân lông phun ra những hạt formaldehyde bé li ty. Thân người phồng to khác thường. Mấy tay bảo vệ và người giúp việc hết sức sợ hãi không nói nên lời.
– Sao lại ghê thế này – Trương Ngọc Phượng thét lên – Các ông nghĩ rằng Bộ chính trị bỏ qua chuyện này chăng?
Mặc sự cố, Ngô Thanh không bối rối. Nhưng Trương Bình Thân thấy hãi thật. Ông ta mặt tái mét, lộ vẻ lo sợ.
– Đừng lo – tôi an ủi ông – Chúng ta phải nghĩ một cái gì đó xem.
Chúng tôi đã đưa vào xác nhiều formaldehyde nhưng không biết lấy chúng ra như thế nào đây.
– Chỗ nào không chữa được phủ quần áo lên, nhưng mặt và cổ thì phải sửa – tôi trả lời.
Trần đưa ra ý kiến xoa bóp để dung dịch chạy xuống dưới thân. Tất cả mọi người xúm lại lấy gạc, bông băng quấn quanh để dồn dung dịch xuống thân. Trần sợ hãi đến nỗi làm rách mẩu da cổ Mao. Ông sợ thực sự, nhưng Mã động viên, dùng son phấn sẽ che được. Sau một phút, dưới bàn tay lành nghề của Mã đã che phủ thiếu sót của Trương, vết xước không nhìn thấy, da cổ trở lại bình thường.
Chúng tôi làm đến ba giờ chiều, cuối cùng, bộ mặt Mao coi cũng giống như trước đây. Cổ đã bé bớt, tai đỡ phồng, nhưng vùng cổ còn sưng. Đám bảo vệ và người giúp việc nhận xét rằng bây giờ trông Mao được hơn. Vất vả lắm họ mới thay được quần áo vì thân thể căng phồng dung dịch formaldehyde, buộc phải rạch áo phía lưng.
Đúng lúc này Hứa Thế Hữu, tư lệnh quân khu Quảng Châu bước vào phòng. Ông ta vừa tới Bắc Kinh, ngay lập tức quyết định vào viếng lãnh tụ lần cuối.
Hứa Thế Hữu, một trong những tướng tài của Trung Quốc. Ông vào đảng từ hồi trẻ, tham gia cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Hứa Thế Hữu sinh ra trong một gia đình rất nghèo, từ thuở ấu thơ đã phải bỏ nhà, trở thành một phật tử tại Thiếu lâm Tự, tỉnh Hồ Nam. Ngôi chùa nổi tiếng thế giới nhờ món võ thuật phương đông, mang tên ngôi chùa. Bố mẹ Hứa Thế Hữu là nông dân, mù chữ, Hứa Thế Hữu chỉ được học đọc và viết trong quân đội. Ông là người thô lỗ, chân chất, nhưng theo Uông Đông Hưng kể, Hứa có sức khoẻ và võ nghệ phi thường, một mình có thể đánh bại 20 đối thủ, Hứa không thích Giang Thanh, nhưng trung thành với Mao như một con chó.
Nhìn Mao, Hứa Thế Hữu theo truyền thống cổ Trung Hoa, cúi đầu vái ba lần sau đó quay sang tôi hỏi:
– Bao nhiêu “ga-ma” ở Mao chủ tịch trước khi chết?
Tôi không thể hiểu ông ta nói gì, nhưng Hứa Thế Hữu tiếp tục:
– Con người ta có 24 ga-ma. Ở Chủ tịch có bao nhiêu?
Tôi không biết trả lời thế nào.
– Đồng chí bác sĩ giỏi mà không biết ga-ma là cái gì? – Hứa Thế Hữu xỉ nhục tôi.
Cho đến nay tôi vẫn không hiểu có phải đấy là trò đùa không. Các bạn của tôi, biết nhiều về thuyết phật giáo giải thích, theo thuyết nhà Phật, trong mỗi cơ thể người sống có 24 ga-ma, nhưng là cái gì, không ai trong số họ có thể nói ra được.
Hứa Thế Hữu hai lần đi quanh thi hài Mao nói:
– Trông ghê quá! Sao trên mình mẩy lại có vết chấm đen?
Sau đó lại cúi đầu thật thấp, vái ba vái và đi ra.
Mã kết thúc trang điểm, chúng tôi hài lòng với công việc, phủ lên thi hài đảng kỳ có búa liềm nền đỏ tươi. Đêm 9 rạng ngày 10 tháng 9, gần một đêm sau khi Mao chết, chúng tôi đưa xác Mao vào quan tài thuỷ tinh. Một vài Uỷ viên Bộ chính trị đứng quanh quan tài, chụp ảnh. Sau đó thi hài Mao được chở đi bằng xe cứu thương. Tôi ngồi cạnh quan tài, xe chúng tôi ra khỏi cổng Trung Nam Hải về phía nam Bắc Kinh trong đêm thanh vắng. Để linh cữu Mao vào sảnh đường Hội trường Nhân Dân, ở đó trong thời gian một tuần làm lễ truy điệu.
Cuộc đấu đá chính trị trong thời gian nhà độc tài lâm bệnh, bây giờ lại chuyển sang lãnh vực giấy tờ của Mao và tài liệu cá nhân. Giang Thanh cùng với Mao Viên Tân, những người đầu tiên có mặt trong nhà lãnh tụ. Như trước đây, Trương Ngọc Phượng, người quản lý giấy tờ. Giang Thanh và Viễn Tân thuyết phục cô ta đưa giấy tờ của Mao cho họ. Đặc biệt họ chú ý tới các ghi chép buổi hội đàm của Mao trong chuyến đi của ông đến miền Nam Trung Quốc từ 14-8 tới 12-9-1971, đêm hôm trước cái chết của Lâm Bưu, sau khi thất bại đã cùng gia đình bay đến Liên Xô. Những cuộc nói chuyện và cả những phát biểu của Mao không tìm thấy, nhưng người ta biết trong đó Mao không những đề cập phê phán hành động cực đoan của Lâm Bưu cùng chiến hữu, còn đánh giá, phê phán những người lãnh đạo khác trong đảng, gồm cả Giang Thanh và bè đảng – Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên, sau này gọi là “Bè lũ 4 tên”.
Uông Đông Hưng, phụ trách việc giữ gìn giấy tờ Mao, đảm trách an ninh trong phòng, nơi nhân dân từ giã lãnh tụ của mình. Mỗi ngày hàng chục nghìn người được sàng lọc kỹ càng về an ninh để rồi được vinh dự vĩnh biệt Chủ tịch. Trong ngày quốc tang, các lãnh tụ cấp cao Trung Quốc đứng xung quanh quan tài Mao. Vì thế Uông không có thời gian theo dõi giấy tờ của Mao, ông không biết ý đồ của Giang Thanh thu thập giấy tờ của chồng. Cận vệ riêng của Mao, Trương Diêu Tự, báo cho Uông. Uông Đông Hưng vội gặp Trương Ngọc Phượng và dặn:
– Trách nhiệm của cô bảo quản giấy tờ của lãnh tụ, không được nghiêng ngả bên này bên kia! Đó là tài sản của Ban chấp hành trung ương đảng và phải nằm ở đây, trong nhà của Chủ tịch, không ai được phép mang đi!
Trương Ngọc Phượng khóc thút thít.
– Đồng chí Giang Thanh, Uỷ viên Bộ chính trị, lại là vợ của Mao chủ tịch, Mao Viên Tân – người liên lạc của chủ tịch với Bộ chính trị, cũng lại là cháu. Tôi không thể cản họ. Tôi phải làm gì bây giờ?
– Thôi được! – Uông nói – Tôi sẽ cử người đến, kiểm tra lại tất cả giấy tờ hiện có, nhưng phía cô phải yêu cầu Giang Thanh trả lại tất cả giấy tờ đã lấy đi.
Tuy nhiên Giang Thanh từ chối trả lại, Hoa Quốc Phong phải can thiệp.
– Thi hài Mao Chủ tịch còn chưa lạnh mà các ông đã định áp bức tôi! – Giang Thanh phẫn nộ.
Về sau Uông Đông Hưng nói cho tôi biết, một số giấy tờ bị lấy mất hoặc bị thay thế. Có khả năng Giang Thanh đã huỷ các giấy tờ phê phán bà.
Tôi bắt đầu chọn người cho đề án bảo quản lâu dài xác lãnh tụ. Trong tay tôi có hơn 20 chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực giải phẫu bệnh lý, tế bào học và hoá hữu cơ. Họ từ khắp các miền của đất nước tập trung đến.
Chúng tôi chú ý theo phương pháp cổ truyền bảo quản. Một số bộ phận có thể giữ hàng trăm năm. Tuy nhiên chúng tôi hiểu rằng thi hài Mao được tiến hành khác đi. Người ta ướp các xác cổ chôn sâu trong lòng đất nơi không có oxygen. Xác chết được bao bọc một lớp sáp, đặt vào trong một chất lỏng giống thuỷ ngân, nhưng khi đưa ra ngoài không khí, xác phân huỷ ngay.
Người ta cũng biết, bảo quản thi hài Lenin ở Moskova như thế nào, nhưng quan hệ với Liên Xô hiện tại rất xấu, thậm chí không thể đi đến đó được, cũng không thể nói chuyện được. Chúng tôi gửi hai người đến Hà nội – nơi đó bảo quản thi hài Hồ Chí Minh. Nhưng chuyến đi không kết quả. Việt nam từ chối chia xẻ kinh nghiệm, thậm chí họ còn chẳng thèm cho các nhà khoa học Trung Quốc xem thi hài Hồ Chí Minh. Theo tin mật, mũi Hồ Chí Minh đã bị rữa, râu cũng hỏng, rụng nhiều.
Cử hai người sang viện bảo tàng người sáp Madame Tussaud ở London, Anh quốc. Trung Quốc cũng không kém kinh nghiệm, có phần nổi trội hơn trong việc làm hình nộm như vậy. Thi hài Mao làm bằng sáp do Viện nghệ thuật trang trí ứng dụng Bắc Kinh làm ra rất giống lãnh tụ lúc sống. Ngay cả người ở bảo tàng Anh cũng không thể làm giống đến như thế.
Chúng tôi xem nhiều tạp chí khoa học, đi đến kết luận, có thể bảo quản được thi hài Mao. Nhưng để làm điều đó cần phải hoàn thiện phương pháp chúng tôi đưa ra. Vì không muốn cưa sọ, chúng tôi quyết định giữ óc Mao. Nội tạng gồm tim phổi, dạ dày thận gan, sinh dục… phải lấy ra. Chúng tôi quyết định bảo quản chúng ngâm trong các bình riêng biệt chứa formaldehyde. Đề phòng trường hợp ai đó lật lại nguyên nhân cái chết của Mao. Bụng sẽ nhồi bông tẩm formaldehyde. Ở cổ sẽ đặt một cái ống đặc biệt theo chu kỳ đưa dung dịch vào. Trong quan tài thuỷ tinh sẽ bơm khí hê-li. Tất cả công việc sẽ bắt đầu sau khi kết thúc lễ tang và tiến hành trong điều kiện cực kỳ bí mật. Chương trình của chúng tôi mang tên “Đề án bí mật 19 tháng 5”.
Đề án 19-5 liên quan tới cuộc xung đột biên giới giữa Trung Quốc và Liên Xô ở đảo Trân Bảo (đảo Châu Báu), phía bắc tỉnh Hắc Long Giang. Hoạt động vũ trang bắt đầu từ ngày 2-3-1969, chính khi đó Mao cho rằng đe doạ an ninh Trung Quốc không xuất phát từ Mỹ mà từ Liên Xô, điều đó dẫn đến khai thông trong quan hệ Mỹ-Trung.
Chính phủ kêu gọi nhân dân Trung Quốc “xây hầm trú ẩn, tích trữ lương thực, chống bọn bá quyền”. Từ đó suy ra, đất nước Trung Hoa yêu hoà bình nhưng luôn luôn sẵn sàng giáng trả kẻ thù. Dân chúng tất cả các thành phố được động viên đắp hầm tránh bom chống quân xâm lược Xô Viết. Bắc Kinh đến giờ vẫn giữ được nhiều hệ thống giao thông hào chằng chịt ngầm dưới lòng đất, đủ để toàn bộ dân Bắc Kinh chui xuống hầm sau ba phút.
Trong thời gian dân Bắc Kinh làm hầm tránh bom, bộ phận kỹ thuật của Quân đội Trung Quốc xây dựng dưới lòng đất một công trình lớn mang tên “tổ hợp bí mật 19 tháng 5”, bởi vì chính ngày 19-5-1969 đã thông qua quyết định xây công trình ngầm khổng lồ này dùng cho lãnh đạo cao cấp quân đội trong thời kỳ chiến tranh. Đã xây được một đường ô tô ngầm 4 làn đường để chạy, nối liền Trung Nam Hải, Thiên An Môn, toà nhà Hội nghị đại biểu toàn quốc, dinh cựu bộ trưởng quốc phòng Lâm Bưu ở Mao Tần Vũ và Bệnh viện 305 trực thuộc Giải phóng quân Trung Quốc ở trung tâm Bắc Kinh, tới phía tây thành phố nơi phần đông các sĩ quan chỉ huy sống ở đó. Ngoài sở chỉ huy chính, còn có các khu điện thoại, điện báo, khu tập thể, bệnh viện với các thiết bị hiện đại dùng khi chiến tranh. Bệnh viện đặc biệt này, nằm ngay dưới bệnh viện 305, nơi tôi làm giám đốc, bây giờ trở thành trung tâm nghiên cứu để thực hiện đề án bí mật của chúng tôi.
Tuần lễ tang kết thúc, 17-9-1976, vào khoảng nửa đêm khi toàn bộ Bắc Kinh đang ngon giấc, chúng tôi chuyển xác Mao từ phòng vào phía sau mini-bus, chạy qua các phố Bắc Kinh vào khu Mao Tần Vũ, khu nhà bị bỏ trống sau khi Lâm Bưu chết. Trong chiếc mini-bus, tôi ngồi cạnh quan tài, Hoa Quốc Phong và Uông Đông Hưng đi xe riêng, đoàn xe được hộ tống một hàng rào lính cưỡi mô tô được vũ trang đến tận răng. Ngoài chúng tôi, còn có bộ trưởng và thứ trưởng Bộ y tế cùng nhóm chuyên viên thực hiện đề án cũng đến đó.
Ở lối vào tổ hợp, chúng tôi gặp toán bảo vệ. Họ được báo trước, chúng tôi vào tiếp bên trong.
Qua đường hầm, đến một bệnh viện đặc biệt nằm dưới lòng đất. Sau mười phút đoàn xe dừng lại. Chúng tôi chuyển xác Mao vào một trong phòng mổ, nơi nhóm tôi sẽ làm việc.
Vài hôm sau, hình giả Mao bằng sáp được mang đến. Họ đặt ở buồng bên cạnh, lần đầu tiên tôi nhìn thấy, quả thật các nhà nặn tượng quá giỏi, y hệt Mao như còn sống.
Về hai xác Mao – một trong formaldehyde và một Mao khác nặn bằng sáp ít người biết. Hai xác đó nằm trong bệnh viện gần một năm, mỗi tuần một lần tôi tới đó kiểm tra. Thậm chí lính canh bệnh viện cũng không biết họ đang canh giữ của quý gì bên trong.
Năm 1977, người ta tiến hành sửa chữa lăng trên quảng trường Thiên An Môn. Cả hai Mao và các bình chứa nội tạng đều được đặt vào lăng trong một bể lớn nằm dưới phòng rộng. Phần nền giữa gian nơi đặt quan tài thuỷ tinh, chính là chiếc thang máy, khi cần có thể hạ xuống bể. Giáo sư Ngô Thanh, khoa bệnh lý Viện hàn lâm y học, người tham gia việc ướp xác Mao, phụ trách việc xem xét cả hai xác Mao theo dõi trật tự trong lăng để hàng ngày hàng chục nghìn thường dân Trung Quốc, khách du lịch vào viếng. Họ đến chiêm ngưỡng con người đáng kính, vị lãnh tụ lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc trong suốt 40 năm.
Lễ truy điệu Mao tổ chức ngày 18-9-1976. Chính hôm đó tôi chở thi hài ông vào hầm chứa đặc biệt. Nóng bức ngột ngạt, tôi có mặt ở Thiên An Môn lúc hai giờ chiều – một giờ trước khi lễ khai mạc.
“Thiên An Môn” nghĩa là “Cổng trời thanh bình”. Thời trước cổng này là lối ra phía nam Cấm Thành, chỗ ở các hoàng đế đời Minh và Thanh trong 450 năm. Trên quảng trường như trước đây treo đầy chân dung Mao, ảnh chụp những năm 1950. Cả hai phía chân dung kết đầy các khẩu hiệu cách mạng kêu gọi đoàn kết vô sản quốc tế, chúc nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa muôn năm giàu có, hùng cường.
Trong gần 30 năm qua, tính từ ngày trở về Trung Quốc tôi thường có mặt trên quảng trường Thiên An Môn. Tôi có mặt ở đây ngày 1 tháng 10 năm 1949, ngày thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Sau đó một thời gian, đã cùng với Mao – trong ngày lễ duyệt binh hai lần trong năm: 1-10 và 1-5. Trong những năm bão tố Cách mạng văn hoá (1966-1976) tôi cùng Mao trong các ngày lễ, nơi hàng triệu Hồng vệ binh từ các trường trung học và Đại học cả nước kéo về chúc mừng Mao. Hôm nay trên quảng trường lớn này, nối tới phía nam Thiên An Môn, giáp toà nhà của tổ chức cao nhất của chính quyền quốc gia – Hội trường Đại biểu nhân dân toàn quốc, từ phía đông tới quảng trường, ngăn cách bởi toà nhà bảo tàng lịch sử cách mạng. Trên quảng trường tụ tập khoảng nửa triệu người được chọn lọc trong các tập thể kiểu mẫu. Đủ các loại người, đủ các lứa tuổi. Ba giờ đúng, toàn đất nước Trung Quốc lặng ngắt. Trong ba phút, các nhà máy xí nghiệp dừng việc, còi nhà máy cùng còi tầu thuỷ vang lên như một bản hợp xướng vĩnh biệt người. Sau đó là mặc niệm quan tài. Cả nước cũng tại thời điểm này, tiến hành mít tinh truy điệu chủ tịch. Cuối cùng Vương Hồng Văn khai mạc buổi lễ. Nhìn đám đông dân chúng, tự nhiên tôi toát mồ hôi lạnh. Phải chăng vì mệt mỏi kéo dài trong vài tháng qua, sức khoẻ tôi đã suy sụp. Khi Hoa Quốc Phong bắt đầu đọc diễn văn, tôi phải cố gắng lắm mới không bị khuỵu xuống vì quá mệt mỏi.
Sau khi phát cơn bệnh tim đầu tiên của Mao vào tháng 5, tôi ở quanh ông suốt ngày đêm. Tôi chỉ chợp mắt khoảng ba giờ mỗi đêm. Tôi gầy tọp, giảm từ 77 xuống 55 ki-lô. Đầu óc tâm trí tôi đờ đẫn trong suốt thời gian tang lễ. Tôi choàng tỉnh khi tang lễ kết thúc, ít ra cũng đã chợp mắt được đôi chút. Bây giờ tôi có thể về nhà nghỉ ngơi.
Năm giờ rưỡi tối tôi trở về cơ quan ở Trung Nam Hải, nằm vật xuống giường, thiếp đi.
Vài phút sau, chuông điện thoại dựng tôi dậy. Uông Đông Hưng gọi. Uông thông báo, 4 ngày nữa, 22 tháng 9, sẽ có cuộc họp Bộ chính trị. Mọi người sẽ chờ báo cáo đầy đủ rõ ràng về bệnh tật, cách điều trị và nguyên nhân chết của Mao. Tôi phải đọc báo cáo, tất cả các nhân viên y tế điều trị lãnh tụ nhất thiết phải có mặt tại phòng họp.
– Đây là cuộc họp rất quan trọng – Uông nhấn mạnh – Anh cần phải chuẩn bị đầy đủ, kỹ càng.
Hôm sau tên tôi xuất hiện trên tờ Nhân Dân Nhật Báo. Tôi được giới thiệu, người lãnh đạo nhóm bác sĩ điều trị cho Mao chủ tịch.
Nhưng tôi vẫn nằm trong sự nghi vấn. Niềm vui của tôi đã quá sớm khi đọc bản thông báo về cái chết của Mao, lẽ thường tình của tạo hoá. Trong thông báo, ca ngợi đội y tế chăm nom sức khoẻ chủ tịch trong thời gian dài khi người mắc bệnh, giải toả những nghi vấn của nhân dân. Bây giờ Bộ chính trị họp để tìm nguyên nhân cái chết của lãnh tụ có phải bình thường hay không. Nếu báo cáo của tôi được chấp nhận, trong kết luận chính thức, người ta viết rằng Mao chết tự nhiên, việc nghi vấn bác sĩ sẽ bị gạt đi. Trong trường hợp ngược lại, quả là nguy hiểm giữa cái sống và cái chết cho tất cả chúng tôi.
Tôi họp anh em, tất cả đồng ý tôi soạn báo cáo, nhưng sau đó họp lại, thảo luận đầy đủ kỹ càng từng vấn đề. Tôi ngay lập tức bắt tay khởi thảo. Tôi viết và viết suốt đêm 18-9 đến sáng hôm sau hoàn thành. Bài viết tổng hợp tất cả mọi chi tiết, khoảng 50 trang. Kể lại bắt đầu từ việc cố gắng cứu Mao lần đầu tiên khi bị tắc nghẽn động mạch vành tim vào tháng Giêng 1972. Tiếp theo, mô tả sự suy sụp sức khoẻ dần dần của Chủ tịch cùng ba vụ nhồi máu cơ tim. Tôi giải thích việc chẩn bệnh như thế nào, chạy chữa ra sao, nguyên nhân nào dẫn tới tử vong. Đồng nghiệp của tôi đã góp ý và bổ xung nhiều ý kiến quý báu. Cuối cùng, sáng ngày 20-9-1976 bản báo cáo đã hoàn chỉnh.
Uông Đông Hưng từ chối xem, yêu cầu tôi đưa cho Hoa Quốc Phong duyệt. Đọc qua, Hoa Quốc Phong nhận xét rằng trong đó có quá nhiều thuật ngữ y học, các Uỷ viên Bộ chính trị sẽ không hiểu được. Ông cũng nhấn mạnh, trong báo cáo chưa nói rõ nguyên nhân cái chết, yêu cầu có bổ xung.
Các bác sĩ chống việc dịch thuật ngữ y học sang ngôn ngữ thường, bởi vì làm điều đó rất khó, trong nhiều trường hợp không thể dịch được. Họ yêu cầu tôi nếu cần sẽ giải thích bằng lời trong cuộc họp. Họ đều cho cái chết của Mao là lẽ tự nhiên, Mao quá già yếu lại nhiều bệnh. Ngoài ra, họ còn nhấn mạnh tới việc ông bị suy hệ thống hô hấp, do bệnh tâm-phế mãn gây ra, phá huỷ chức năng tải máu lên não. Tôi chỉnh lại báo cáo, 21-9-1976 gửi cho Hoa Quốc Phong đồng thời nói rõ ý kiến của các đồng nghiệp. Hoa Quốc Phong nhắc nhở, một số Uỷ viên Bộ chính trị sẽ hỏi nhiều, tôi cần bình tĩnh, cố gắng giải trình cho họ những câu trả lời để tất cả cùng hiểu.
Sáng 22-9-1976, tôi với các đồng nghiệp có mặt ở phòng họp, mọi người đã tề tựu đầy đủ. Các Uỷ viên Bộ chính trị ngồi trong ghế bành đặt lộn xộn trong phòng. Trước mặt mỗi người có bàn trà nhỏ. Trong phòng có một số tốc ký viên thuộc Ban chấp hành Trung ương và một số người trẻ tham dự. Tôi ngồi vào ghế sau lưng thủ tướng Hoa Quốc Phong và nguyên soái Diệp Kiếm Anh, người đề nghị làm tượng Mao bằng sáp. Trần Tử Lăng, Tư lệnh quân khu Bắc Kinh phát biểu:
– Tôi không thể đảm nhận trách nhiệm, đề nghị cho tôi thôi chức vụ này – ông nói.
– Bình tĩnh đã, đồng chí Tử Lăng – Hoa Quốc Phong nói – Chúng tôi sẽ giải quyết việc đồng chí sau. Bây giờ chúng ta nghe báo cáo của nhóm bác sĩ điều trị Mao chủ tịch. Họ đã bốn tháng liền trực tiếp phục vụ ngày đêm quanh giường lãnh tụ để cứu sống Mao chủ tịch. Xin mời bác sĩ Lý phát biểu.
Đến tận giờ, tôi chẳng hiểu vì sao Trần Tử Lăng xin từ chức.
Diệp Kiếm Anh nhắc tôi nói to hơn. Một số Uỷ viên Bộ chính trị tương đối già và nặng tai. Trong thời gian phát biểu, họ đã ngắt tôi nhiều lần, đề nghị giải thích thuật ngữ này, thuật ngữ kia.
Khi tôi bắt đầu kể về sự suy giảm nhanh chóng sức khoẻ Mao từ tháng 6-1976, đột nhiên tướng Hứa Thế Hữu đứng lên với điệu bộ hung hăng tiến lên.
– Vì sao trên thân thể Mao chủ tịch có những vết thâm tím? – ông hỏi, mắt đưa về phía tôi để nhấn mạnh – Nguyên nhân nào xuất hiện nó?
Cần lưu ý, người Trung Quốc kiêng kỵ cho rằng xuất hiện nốt như thế trên thân thể người quá cố là biểu hiện sự đầu độc.
Tôi giải thích điều này như sau:
– Trong những ngày cuối đời, lãnh tụ khó thở. Cơ thể thiếu oxygen. Vì thế trên thân thể xuất hiện vết thâm tím.
Hình như Hứa Thế Hữu không thoả mãn câu trả lời của tôi và tiếp tục:
– Cả cuộc đời tôi tham gia nhiều trận chiến đấu, thấy nhiều xác chết, nhưng không xác nào tôi gặp lại có những vết như thế. Ngày 9 tháng 9 tôi thấy nó trên thân thể của Chủ tịch, hỏi các ông, bác sĩ Lý, có bao nhiêu “ga-ma” trong cơ thể Mao chủ tịch, tuy nhiên các ông không thể trả lời tôi lúc đó. Và bây giờ tôi cảm thấy rằng Chủ tịch đã bị đầu độc. Chỉ có chất độc mới dẫn đến xuất hiện những vết này. Chúng tôi phải hỏi bác sĩ và y tá, giải thích, ai đầu độc Mao?
Từ ngày đầu thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, chính phủ đã thành lập hệ thống bảo vệ rất cẩn thận tránh Mao bị đầu độc. Tôi kể về hệ thống này cho Hứa Thế Hữu.
– Trước khi đưa cho Mao chủ tịch bất kỳ thuốc gì, chúng tôi phải thử nó ngay trên bản thân mình – tôi nói – Tất cả đơn thuốc đều ghi trong sổ đặc biệt. Mỗi thứ thuốc đều được hai y tá ký và có bác sĩ trực xác nhận. Thuốc được cung cấp theo đường dây đặc biệt chỉ dùng cho giới lãnh đạo đảng cao cấp. Thuốc luôn luôn chứa trong hộp niêm phong và chỉ cấp phát theo lệnh bác sĩ chữa Mao.
– Âm mưu có thể một người bất kỳ trong số các anh làm chứ – Hứa nói thêm – Chúng tôi cần kiểm tra cẩn thận việc này.
Hứa Thế Hữu thành tâm tin rằng cái chết Mao do một hành động có tính toán. Ông nghi rằng người tổ chức có thể Giang Thanh cùng chiến hữu của bà. Hứa không biết quan hệ giữa tôi với Giang Thanh bị xấu đi từ rất lâu vì vậy cho rằng tôi và đồng nghiệp có thể dính líu vào âm mưu chống lãnh tụ.
Khi Hứa kết thúc, trong phòng lặng ngắt. Ông đứng đối diện tôi, mặt giận dữ. Sau đó ông nhìn vào Trương Xuân Kiều, nhưng ông này lờ đi. Giang Thanh, trong bộ áo tang, ngồi trên đi văng. Hoa Quốc Phong cứng người trong sự lúng túng. Uông Đông Hưng đang làm giả bộ đọc một tài liệu gì đó. Vương Hồng Văn nhìn khắp phòng, lộ vẻ lo lắng.
Nguyên soái Diệp Kiếm Anh, tướng Lý Đan Sâm tư lệnh quân khu Triết Giang, quay lại phía tôi, hỏi nhỏ: “Vết tím ấy từ đâu ra thế?” Tôi trả lời:
– Phía phổi trái chủ tịch có ba phế nang phình to, cản trở cả hai phổi. Mao chủ tịch rất khó thở và rất thiếu oxygen thường xuyên. Những vết ấy gọi là những vết xác chết, thường xuất hiện sau 4 giờ khi đã chết. Khi đồng chí Hứa Thế Hữu thấy xác đã 16 tiếng rồi.
Ngay lúc ấy, vợ goá Mao đứng dậy, nói:
– Đồng chí Hứa Thế Hữu, các bác sĩ vật lộn vì cuộc sống của lãnh tụ tròn bốn tháng, hà cớ gì đồng chí không cho bác sĩ Lý đọc hết báo cáo của mình?
Hứa tiến gần Giang Thanh, đấm tay xuống bàn. Tách chén rơi xuống sàn.
– Ai cho phép đồng chí chặn họng các Uỷ viên Bộ chính trị trong khi họp? – Hứa tức giận – Đừng có mà nhiễu sự.
Hoa Quốc Phong can:
– Đồng chí Hứa, bình tĩnh đã – Sau đó quay về phía tôi và nói:
– Bác sĩ và các đồng nghiệp tốt nhất dời khỏi đây. Chúng tôi sẽ xem xét vấn đề ấy sau.
Nhóm y tế chúng tôi im lặng quay về Trung Nam Hải, tôi mới đọc báo cáo giải trình được 10 trang trong số 50 trang. Trương ngọc Phượng bảo:
– Giám đốc Uông Đông Hưng chưa phát biểu gì, vậy các đồng chí phải đợi ý kiến của Bộ chính trị.
Tôi hy vọng được trở lại báo cáo tiếp. Bữa trưa, Trương Ngọc Phượng lại cảnh báo, chúng tôi lo lắng đến mức độ không ai đi ăn trưa.
Tôi đợi chờ lời buộc tội tham gia giết Mao. Đáng ngạc nhiên nó thốt ra từ miệng Hứa Thế Hữu và Giang Thanh lại đứng ra bảo vệ chúng tôi, dù rằng tôi nhớ rõ sự công kích bác sĩ của bà ta trong những ngày cuối cùng của Mao. Tôi đoán, nếu chiến hữu của Giang Thanh – Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều, giúp bà theo dõi bác sĩ, xảy ra chuyện gì họ cũng có phần lỗi. Nếu Bộ chính trị quyết định rằng có âm mưu đầu độc Mao, hai người này khó tránh khỏi bị tội. Chính vì thế Giang Thanh bảo vệ bác sĩ.
Ngày tháng trôi qua không thấy Bộ chính trị đưa lại tin tức gì cả. Tôi biết, cuộc đấu đá chính trị ở Trung Nam Hải chỉ mới bắt đầu. Hai tháng trước, tháng Sáu, Uông Đông Hưng nói cho tôi hay, đã nghĩ tới việc bắt Giang Thanh, không cần chờ Mao chết. Uông Đông Hưng trong quan hệ nhiều mặt với Giang Thanh, luôn giữ lịch sự và cảnh giác, tôi cảm thấy rằng sớm muộn họ cũng bắt Giang Thanh. Dù rằng Giang Thanh tưởng như quyền lực đã nắm trong tay, nên bớt thở than những lời nguy hiểm. Khi cuộc đấu đá chưa ngã ngũ, tình thế của các bác sĩ còn rất mong manh. Lời buộc tội phản động trong cái chết của Mao sẽ phục vụ cho con chủ bài trong mánh khóe bẩn thỉu đen tối này.
Ở Trung Nam Hải, tôi biết số phận thay đổi như thế nào. Tôi tròn 22 năm theo dõi sức khoẻ, bệnh tật, cuối cùng chứng kiến cả cái chết của Mao. Tôi biết, nguy hiểm còn theo đuổi tôi tất cả những ngày còn lại.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 2
Posted: 06/06/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Năm 1949 tôi tròn 29 tuổi. Tôi là bác sĩ hàng hải ở Sydney, Úc. Qua báo chí tôi hiểu thành phố quê hương tôi đã ngừng tiếng súng. Ngày 31-01-1949 tất cả dân Bắc Bình (tên gọi Bắc Kinh thời đó) đổ ra đường để đón chào những người giải phóng mình. Kéo về đây có cả lãnh đạo đảng cộng sản. Họ dự định thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Bắc Bình lại trở thành Bắc Kinh thủ đô Trung Quốc. Tên gọi Bắc Bình, nghĩa là “bình yên phương Bắc”. Tên gọi Bắc Kinh nhận được sau khi chính phủ Tưởng Giới Thạch rút về “thủ đô phía nam” – thành phố Nam Kinh. Nội chiến trong nước giữa những người cộng sản và Quốc dân đảng vẫn tiếp tục, nhưng không ai hoài nghi rằng chiến thắng sẽ thuộc về hồng quân Trung Quốc.
Bắc Kinh, thành phố quê hương, ở đó tôi sống 13 năm đầu tiên cuộc đời. Nhà của chúng tôi xây theo phong cách truyền thống Trung Hoa. Gia đình tôi giàu có, thuộc giới thượng lưu. Thực tế chúng tôi sống không phải một căn nhà mà trong một khu gồm nhiều nhà một tầng mái ngói và ba sân riêng biệt trồng cỏ và rau. Chúng tôi sống ở phía nam Cấm Thành ở khu Lưu Linh Chương. Khu này bắt đầu sau bức tường dày, ngăn cách Thành Nội, nơi ở hoàng đế. Cứ mỗi năm một lần, ngày lễ Xuân, mọi người Bắc Kinh đổ về đây. Tại đây có thể mua được đồ chơi Trung Quốc cho trẻ con. Tên gọi “Lưu Linh Chương” xuất phát từ chữ Trung Quốc “Lưu Linh” – bắt mắt. Ở đây thời Minh có xưởng thợ làm ngói mạ vàng cho các toà nhà hoàng cung (1368-1644)
Ông tôi mất trước khi tôi ra đời, nhưng gia phong cụ lập ra vẫn được giữ gìn. Chân dung cụ treo ở một phòng, nơi hàng năm chúng tôi thường tụ họp tất cả gia đình vài lần để tưởng nhớ. Phòng thăm bệnh của cụ ngay trong khu nhà vẫn giữ nguyên, nhà thuốc Bắc Chí Đường do cụ sáng lập vẫn phát đạt nhưng giao cho một người bào chế tin cậy trông nom. Cụ tôi giàu có nhưng được mọi người kính trọng, tôn quý vì cụ luôn luôn giúp đỡ người nghèo. Trong hiệu Bắc Chí Đường người bệnh có thể được phát không, nếu như quá nghèo. Không những người dân Lưu Linh Chương mà còn cả Bắc Kinh biết tiếng tăm cụ. Tôi lớn lên trong gia đình, nơi người ta cho rằng người nghèo chịu đựng quá nhiều đau khổ, cần lòng từ thiện.
Tuy nhiên do sự giàu có của chúng tôi đã tạo ra bức tường vô hình ngăn cách với các gia đình nghèo. Mẹ tôi không cho phép tôi chơi với trẻ con gia đình nghèo, trong thời ấy có nhiều người nghèo ở Bắc Kinh. Từ thuở thơ ấu, gia đình khuyên tôi cần tiếp tục truyền thống và tôi trở thành bác sĩ. Tôi cho rằng tôi được sinh trong gia đình đặc biệt. Tôi rất tự hào về dòng tộc, muốn trở thành người xuất chúng.
Em trai bố tôi, cũng trở thành bác sĩ, đóng góp nhiều công sức cứu giúp người nghèo. Khi tỉnh Hồ Nam có dịch thương hàn, chú tôi tự nguyện đến đó để cứu họ, chính ông cũng bị lây bệnh, chết khi chưa tròn 30 tuổi. Thím và hai con trai ông vẫn sống trong khu nhà, chúng tôi coi nhau như anh em ruột. Tôi còn có người anh trai cùng cha khác mẹ, con người vợ trước của bố tôi. Tất cả chúng tôi thân thiết như anh em ruột thịt. Bố tôi cưới mẹ tôi sau khi bà cả qua đời.
Riêng cha tôi đã phá vỡ gia phong của dòng họ. Năm 1920 ông sang Pháp tu nghiệp. Lúc ấy tôi mới ra đời. Tôi biết mặt bố mãi 7 năm sau. Qua thư từ, chúng tôi biết trong số sinh viên của nhóm bố tôi có Chu Ân Lai, người mà ông đánh bạn. Tình bạn của họ giữ được đến tận khi bố tôi mất, dù rằng Chu Ân Lai trở thành lãnh tụ cộng sản, còn bố tôi thuộc về những người quốc gia thuộc Quốc dân đảng, ông nắm chức vụ cao trong chính phủ Tưởng Giới Thạch.
Việc bố tôi quay về nước gây ra một bê bối, lộn xộn trong gia đình. Ông mang theo một bà vợ người Pháp, cùng sống trong ngôi nhà chúng tôi. Mẹ tôi, một phụ nữ Trung Hoa điển hình, ít học, xuất thân từ tầng lớp thường dân, bó chân theo phong tục. Hy vọng duy nhất của bà trở thành người vợ đảm đang, người mẹ hiền chăm sóc gia đình con cái. Theo tục lệ Trung Quốc thời bấy giờ, đàn ông giàu, có nhiều vợ tương đối phổ biến. Nhưng gia phong của dòng tộc tôi không chấp nhận ông lấy hai vợ, không những thế còn cho đó là sự sỉ nhục gia đình.
Bà vợ hai của bố tôi là người tốt, lịch sự, học thức cao. Bà dạy tiếng Pháp ở Đại học Bắc Kinh, đặc biệt rất luôn luôn thân thiện, đối xử tử tế với tôi. Tuy nhiên tôi cảm thấy mẹ tôi phải cắn răng chịu đựng, bà thường trút nỗi bực tức xuống đầu tôi, nhiều lần bị bà đánh oan. Chỉ khi lớn rồi, tôi hiểu, mọi sự rắc rối trong gia đình nguyên nhân do bố tôi gây ra.
Thậm chí thời thơ ấu tôi không thích bố. Hiếm khi hai bố con nói chuyện với nhau trừ khi ông chửi mắng, còn tôi thì bỏ ngoài tai. Tất vả mọi người còn lại trong gia đình đối xử với nhau thân mật và kính trọng. Sự bình đẳng trong gia đình tôi đã tồn tại từ lâu, cho nên thái độ gia trưởng của bố đã xúc phạm không những đến chúng tôi mà còn đến ký ức dòng họ. Ngay sau khi quay về Trung Quốc, bố tôi cùng bà vợ hai chuyển đến Nam Kinh tham gia chính quyền Tưởng Giới Thạch. Sau vài năm, người vợ Pháp của ông từ trần. Ông trở thành người hám gái, sống lang chạ, nhưng chẳng lấy ai. Tôi rất xấu hổ về tư cách của ông, quyết tâm học hành tử tế để trở thành một bác sĩ lành nghề phục vụ nhân dân. Sự hằn thù của tôi đối với bố khiến tôi ghét chính phủ Quốc dân Đảng, vài năm sau, tôi có mối quan hệ thân thiện với đảng cộng sản. Có lẽ tôi từng ghét lối sống vô đạo đức cha tôi, cho nên sau này, ở gần Mao, tôi kinh hoàng về đời sống tình dục của chủ tịch.
Cũng như đa số người Trung Quốc cùng thế hệ, tôi yêu nước và tự hào về nền văn hoá lâu đời của tổ quốc mình. Lịch sử 4000 năm của Trung Quốc mang đến sự vinh quang và giàu có, triết học Trung Hoa cổ đại, thi ca, sử ký đã đạt được những kỳ tích khác thường, được ngưỡng mộ trên thế giới. Vì thế tôi không thể chịu đựng, trong quá khứ đất nước vĩ đại bắt đầu xảy ra sự suy tàn từ thế kỷ trước. Ngay từ hồi cấp I, tôi biết cái nhục của Trung Quốc trong “Chiến tranh nha phiến” với Anh vào năm 1839. Sau đó lại tới Pháp, Nhật và Nga can thiệp, xâu xé khiến đất nước tôi kiệt quệ. Do đó Trung Quốc mất độc lập phải trở thành thuộc địa, sự hùng mạnh thuở nào biến mất không còn dấu vết. Các ông chủ ngoại quốc tới tràn đầy các thành phố lớn, đất nước bắt đầu sống dưới một luật lệ mới lạ, ngược với truyền thống văn hoá và tinh thần của dân tộc Trung Hoa. Từ nhỏ tôi đã nhìn thấy tận mắt chiếc biển treo ngay lối vào công viên cạnh khu phố Tây ở Thượng Hải, trên đó dòng chữ: “Cấm chó và người Trung Quốc” làm tôi thấy nhục nhã và đau lòng. Cũng như nhiều người, tôi cho rằng nỗi bất hạnh của đất nước Trung Hoa xuất phát từ ảnh hưởng ngoại quốc hoặc từ các thế lực đế quốc – như sau này người ta thường nói.
Năm 1931, khi tôi tròn 11 tuổi, người Nhật chiếm Bắc Mãn Châu và lập nên quốc gia bù nhìn Mãn Châu Lý. Mẹ con chúng tôi bỏ Bắc Kinh, chuyển về phương nam – đến Quý Châu, nơi tôi theo học trường trung học thuộc Đại học Quý Châu do phái bộ Truyền giáo Mỹ thành lập. Tất cả các môn học đều bằng tiếng Anh, tiếng Anh kiểu Mỹ. Chương trình học có nhiều bài phần giảng về tôn giáo. Tôi đã tìm hiểu cuộc hành hương từ Anh sang Mỹ 1620, lịch sử nước Mỹ. Năm 1935, lúc 15 tuổi tôi đã rửa tội chuyển sang đạo Tin Lành.
Trong thời gian rất ngắn tôi đã quan tâm đến tư tưởng cộng sản. Người anh cùng cha khác mẹ của tôi học y khoa ở Đại học Aurora Thượng Hải và năm 1935 vào đảng cộng sản. Đó là điều bất thường đối với người gia thế quyền quý, giàu có, nhưng vì lòng yêu nước, thương người nghèo đã thôi thúc anh tôi tham gia tổ chức. Những ngày cuối tuần, anh đến Quý Châu thăm, luôn khẳng định sự xấu xa, bóc lột công nhân tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Ông bảo cho tôi, chỉ có những người cộng sản mới có thể xây dựng được một thế giới không có nghèo đói và bình đẳng. Anh tôi lên án Quốc dân đảng tham nhũng, làm tay sai cho đế quốc, không có khả năng chống quân xâm lược Nhật ở Mãn Châu. Anh khẳng định, chỉ có người cộng sản mới có thể đánh đuổi bọn Nhật ra khỏi đất nước Trung Quốc. Tôi kính trọng anh, tin tưởng vào giấc mơ đất nước Trung Hoa hồi sinh, giàu có, thịnh vượng, văn minh, bình đẳng, bác ái. Tôi bắt đầu chăm chú đọc những cuốn sách anh tôi đưa cho: “Chuyện về kế hoạch 5 năm lần thừ nhất”, “Thép đã tôi thế đấy” của Nicolai Ostroevsky và cả sách của ký giả Pháp, Henry Barbus về vai trò xuất sắc của Stalin trong việc chuẩn bị và thực hiên cách mạng tháng 10 vĩ đại ở Nga. Anh vạch cho tôi, chỉ có ý tưởng cộng sản mới cứu được Trung Quốc, các lãnh tụ cộng sản xuất sắc như Chu Đức và Mao Trạch Đông mới dẫn dắt đất nước đến nền kinh tế và tinh thần sáng lạn. Số phận Trung Quốc trong tay họ. Chúng tôi và anh gọi họ là Chu Mao, dường như đó chỉ là một người. Từ ấy, tôi bắt đầu đọc Chu Mao, lòng tin này dần dà tăng lên, khi tôi hiểu rằng Lỗ Tấn nhà văn yêu quý của tôi cũng thiên về lý tưởng cộng sản.
Cũng thời gian đó, năm 1936, một người chị họ giới thiệu tôi với cô bạn cùng lớp của chị. Cô ta tên là Ngô Tương Thanh – hay Ngô Lý Liên (theo tên thánh), tôi phải lòng cô ấy từ cái nhìn đầu tiên. Cô cũng xuất thân từ gia đình giầu có, theo đạo Tin Lành. Mười năm sau chúng tôi mới cưới nhau mặc dù khi chiến tranh lan rộng, mỗi người một ngả, nhưng thường xuyên liên lạc tìm mọi cách đoàn tụ.
Quân Nhật tràn vào đất nước, ban đầu chúng tôi cùng mẹ chạy về Vũ Hán, năm 1937 chạy về Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên. Thành phố này, năm 1938, Tưởng Giới Thạch, coi là thủ đô của Quốc dân đảng. Cuối năm 1935 căn cứ địa của đảng cộng sản Trung Quốc ở Giang Tây bị quân đội Quốc dân đảng bao vây, nên trong tháng 10, lực lượng chính của Hồng quân, bị rơi vào vòng vây, đã phải làm cuộc Vạn Lý Trường Chinh sang phía tây Trung Quốc để nhập với căn cứ khác. Cuộc hành quân này kết thúc cuối năm 1935 ở tỉnh Thiểm Tây và viết nên trang sử hào hùng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc. Anh tôi và bà chị họ cũng theo đoàn quân đến đó.
Năm 1939 tôi bắt đầu học y ở trường Đại học Liên hiệp Y khoa Tây-Trung, do phái bộ Truyền giáo Canada thành lập gần một thế kỷ ở Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Sau khi Nhật chiếm Bắc Kinh nhiều khoa và sinh viên trường y Bắc Kinh chuyển về Thành Đô, sau năm 1941 các bộ phận này hợp nhất làm một. Cả hai trường đều được Mỹ, đúng ra do là quỹ Rockefeller tài trợ. Phần đông giáo sư người Mỹ. Bài giảng được giảng bằng tiếng Anh, tác giả sách giáo khoa là những nhà y học đầu ngành xuất sắc của phương Tây. Vì thế trình độ học vấn của chúng tôi rất cao và tương ứng với những tiêu chuẩn mà Mỹ và các nước châu Âu chấp nhận.
Sau khi học xong, tôi được trao hai bằng: bằng tốt nghiệp trường y khoa thuộc Đại học Liên hiệp Tây-Trung và bằng tốt nghiệp Đại học tổng hợp New York.
Lý Liên học môn xã hội tổng hợp ở Đại học Phục Đan, Trùng Khánh, nhưng rồi sau chuyển sang học trường nữ sinh Tin Lành ở Thành Đô.
Tôi kết thúc thực hành phẫu thuật năm 1945, cũng là năm Nhật đầu hàng. Tôi nhận việc làm trong Bệnh viện đa khoa Trung tâm Nam Kinh, được trang bị thiết bị hiện đại nhất, nơi tụ hợp các bác sĩ giỏi nhất do phương Tây đào tạo. Tôi muốn được học chuyên khoa phẫu thuật thần kinh. Tháng 11-1946 tôi và Lý Liên kết hôn. Lý Liên làm ở thư viện thuộc Hội Đồng Anh quốc.
Nội chiến Quốc-Cộng đang diễn ra, lạm phát tăng chóng mặt, đời sống khó khăn vô cùng. Lý Liên nhận lương ở Sứ quán Anh không đến nỗi tồi – khoảng 150 đô-la/tháng, trả bằng đồng bảng Anh. Lương tôi khoảng 25 đô la Mỹ/tháng nhưng nhận bằng tiền Trung Quốc, lĩnh xong tôi tức tốc đem ra chợ đen đổi sang đô la Mỹ hoặc đô la Mehico đúc bằng bạc. Lạm phát phi mã đến nỗi nếu số tiền vào buổi sáng đủ mua ba quả trứng, đến chiều chỉ mua nổi một quả. Người ta chở tiền lên xe kéo, giá gạo tăng đến mức trước đây người lương thiện không bao giờ nghĩ tới ăn cắp, nay lao vào đập phá các cửa hàng bán gạo cướp những gì có thể lấy được.
Trong cơn khủng hoảng, Danny Hoàng, bạn cùng lớp, đang làm bác sĩ ở Hong Kong gợi ý tôi chuyển đến đó làm việc với anh. Cuộc sống ở đó ổn định, nghề bác sĩ kiếm được số tiền không nhỏ.
Đối với tôi, quyết định chẳng dễ dàng gì. Ở Hong Kong chúng tôi có thể sống tốt hơn, tuy nhiên trình độ y học ở đó thấp hơn đáng kể so với Trung Quốc, tay nghề bác sĩ phẫu thuật như tôi có thể bị mai một. Nhưng nội chiến vẫn còn tiếp tục lan rộng, Lý Liên khuyên tôi nên đi. Tháng 12 năm 1948 tôi rời Nam Kinh đi Hong Kong.
Nhưng sống ở đó không lâu. Cũng năm ấy tôi nhận việc ở một hãng tầu biển Đông Phương Úc Châu, trở thành bác sĩ ở Sydney, bác sĩ phẫu thuật của đoàn tầu biển thường qua lại giữa Úc và New Zeland, thu nhập khá cao. Lý Liên chuyển sang Hong Kong, thuê nhà, kiếm việc trong một cơ quan của người Anh. Tôi không muốn vợ tôi chuyển sang Úc, nơi còn kỳ thị chủng tộc, chẳng ưa dân da vàng. Vì thế tôi cũng chẳng có ý định cư lâu dài ở Sydney, chỉ mê mải làm việc hy vọng kiếm nhiều tiền, nhưng không muốn nhập quốc tịch. Niềm tự hào dân tộc, lòng tự trọng làm cho tôi không thể hoà hợp được với những người bảo hoàng có tư tưởng phân biệt chủng tộc ở đây. Tôi sống trong một căn buồng nhỏ, quanh tôi toàn người Úc, họ tin rằng Trung Quốc không khi nào hồi sinh được. Tôi tức nhưng cần tiền, nên nấn ná chưa đi. Nhưng tôi cũng không thích sống ở Hương Cảng, thuộc địa của Anh. Niềm tự hào dân tộc quá lớn cho nên không chấp nhận, bị tước đoạt quyền công dân dưới sự đô hộ nhà vua ngoại quốc.
Khi những người cộng sản chiếm Bắc Kinh, tôi cảm thấy trong lòng trào lên nỗi mừng không thể tả được. Tháng 2-1949 Hồng quân Trung Quốc đè bẹp hải quân Anh khi định vượt qua sông Dương Tử, sự kiện này làm tôi sung sướng tột độ. Tôi tin với chiến thắng của những người cộng sản Trung Quốc, bọn cai trị nước ngoài sẽ phải cuốn xéo, đất nước được giải phóng sánh vai với các nước trên thế giới.
Tháng 4-1949, tôi nhận được thư của mẹ, bà đã quay về Bắc Kinh. Mẹ tôi gửi kèm thư của anh tôi, cũng vừa về thành phố quê hương, giờ đây giữ một chức vụ trong Cục bảo vệ sức khoẻ thuộc Uỷ ban quân sự đảng cộng sản Trung Quốc. Anh tôi rất sung sướng, rất mong tôi trở về.
“Ở Trung Quốc còn thiếu các bác sĩ lành nghề – anh tôi viết – chính phủ mới đảm bảo cho chú công việc tốt, toàn thể gia đình ta lại đoàn tụ”.
Tôi băn khoăn lắm. Cuộc sống ở Sydney đang yên ổn và tốt đẹp. Vợ và mẹ tôi nếu muốn, có cơ hội đến đây được với tôi. Ngoài ra, tôi có thể giúp mẹ tôi ở Bắc Kinh tiền nong.
Chỉ có một điều tôi tin chắc, ở Úc, không khi nào tôi thành bác sĩ phẫu thuật não, vì tôi là người Trung Quốc. Dĩ nhiên, tôi có thể kiếm được hàng đống tiền, nhưng cuộc sống hoàn toàn không thoải mái, luôn luôn mặc cảm mình là người xa lạ bị đày ra nước ngoài. Đây có phải là lòng yêu nước của tôi không?
Gần đến lễ Phục Sinh. Tôi dự định đi chơi với anh bạn thân Alex Dương. Alex sinh ở Úc, nhưng vẫn cố gắng giữ nhiều phong tục Trung Quốc. Anh ta và vợ làm việc chăm chỉ. Họ có một cửa hàng tạp hoá ở phố Elizabeth.
Khi tôi gặp, Alex ngay lập tức nhận xét tôi như kẻ mất hồn. Tôi kể cho anh ta nghe tất cả.
– Cần phải nghĩ cho kỹ đấy – Alex nói.
– Anh tính thế nào? – tôi hỏi.
– Anh và tôi hai hoàn cảnh khác nhau – Alex Dương chậm rãi – Gia đình tôi ở Úc. Thậm chí nếu họ hứa, trả lương tôi hậu hĩnh ở Bắc Kinh, tôi cũng chẳng nghĩ tới quay về. Đúng, ở đây có tệ phân biệt chủng tộc, nhưng dân số không nhiều, có thể kiếm sống dễ dàng. Vì sao anh không viết cho anh trai, hỏi tỷ mỉ về công việc, lương lậu ra sao chứ? Sau đó chúng ta so sánh tính toán tiếp.
Lời của Alex thức tỉnh lòng yêu nước của tôi. Tôi hoàn toàn không để ý ở đâu kiếm được nhiều tiền hơn. Nếu những người cộng sản đưa Trung Quốc đến giàu có, tôi sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc cho tổ quốc.
Nhưng Alex nói đúng, tôi phải biết tất cả một cách tỷ mỉ. Ngay chiều đó tôi viết thư cho anh tôi.
Đầu tháng 5 tôi nhận được thư trả lời. Anh tôi lại giục tôi về nước. Anh kèm thư của thủ trưởng của anh, Phó Liêm Chương, phó cục trưởng cục bảo vệ sức khoẻ thuộc Uỷ ban quân sự đảng cộng sản Trung Quốc. Phó Liêm Chương, ở nước ngoài gọi Nelson Phó, một nhà y học nổi tiếng của Trung Quốc. Đồng thời ông cũng là bác sĩ duy nhất được đào tạo ở phương Tây tham gia Vạn Lý Trường Chinh. Năm 1934, trước khi có cuộc Vạn Lý Trường Chinh ông chữa cho Mao khỏi sốt rét, trong thời gian chiến tranh ông trong Ban bảo vệ sức khoẻ lãnh tụ đảng cộng sản Trung Quốc ở Diên An.
Thư của Phó ngắn ngủn, nhưng trong đó sự nồng nhiệt, chân thành. Ông rất vui mừng chờ đón, động viên và kêu gọi các bác sĩ ở hải ngoại nên trở về. Về công việc tôi ở Bắc Kinh, lương lậu ông không đả động đến, chỉ viết bâng quơ, công việc rất phù hợp với tài năng của tôi.
Tôi được ông tâng bốc sẽ được giữ chức vụ cao, yêu cầu tôi trở về. Vì đảng cộng sản rất thiếu thày thuốc lành nghề. Tôi nghĩ mình đã tìm thấy chỗ đứng ở nước Trung Hoa mới. Tôi quyết định về nước ngay.
Alex Dương tổ chức bữa tiệc tiễn biệt. Có hai người Trung Quốc, cũng là bác sĩ. Họ bảo, khi nào đến Bắc Kinh viết thư báo tin, nếu tôi thấy khó sống, họ có thể giúp quay lại Úc.
Tôi chẳng khi nào viết cho anh ta cả. Ba mươi sáu năm sau, năm 1985 tôi ở Úc theo lời mời của hiệp hội bác sĩ Úc, tôi đến đại lộ Elizabeth tìm Alex Dương. Nhưng tất cả đã thay đổi, cửa hàng nhỏ của anh không còn nữa. Tôi không tìm thấy Alex Dương.
Thế là tôi và Lý Liên lại đoàn tụ ở Hong Kong. Giữa tháng 5-1949 Hong Kong hỗn loạn. Hàng nghìn người đã chạy loạn sang đây tránh hoạ cộng sản và hàng nghìn người chuẩn bị quay về quê quán. Hiện tượng này thật lạ lung, không bình thường. Khi gặp Danny Hoàng, tôi kể về quyết định trở về Trung Quốc, anh ta lắc đầu quầy quậy:
– Chẳng lẽ anh không thể ở lại đây và làm việc với tôi?
Tôi kể cho anh ta thư của Phó Liêm Chương. Danny buông lời:
– Thôi, ông tự quyết lấy. Nếu mọi việc xuôi xẻ, viết cho tôi. Có thể, cả tôi cũng trở về.
Tôi chẳng bao giờ viết cho anh ta được cả.
Tôi cùng Lý Liên tới thăm ông Trương Thành Đức, giáo sư cũ của nhà tôi, Đại học Phục Đan. Ông cũng về Bắc Kinh. Người ta xếp ông làm đại biểu Hội Hiệp thương chính trị Trung Quốc. Đảng cộng sản lôi kéo thêm các trí thức không đảng phái vào một mặt trận duy nhất, trong diễn đàn được triệu tập để bày tỏ cho các lực lượng dân chủ và giải quyết vấn đề chính quyền trong nước. Chúng tôi nghĩ lúc đó chính phủ cộng sản sử dụng tri thức để đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng.
– Ở Trung Quốc đều có tương lai – ông nói – cả nước đang trên đường hồi sinh.
Phiên họp đầu tiên Uỷ ban hiệp thương được tổ chức cuối tháng 9. 1949, đã đi tới quyết định thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và bầu ra chính phủ mới do Chủ tịch Mao Trạch Đông đứng đầu. Phó chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, bạn chiến đấu, bà Tống Khánh Linh, vợ goá của nhà cách mạng vĩ đại Tôn Trung Sơn, người đã đánh đổ triều Thanh và lập nên nước Cộng hoà Trung Hoa từ 1912. Nhưng sau này mới rõ, Uỷ ban Hiệp thương chính trị nhân dân chỉ là cây cảnh cho nền dân chủ – mọi việc điều hành trong nước nằm trong tay những người cộng sản. Uỷ ban Hiệp thương chính trị nhân dân chỉ bình cắm hoa cho vui mắt nhưng hoàn toàn vô tích sự. Ai đó trong số thành viên Uỷ ban này phát biểu bày tỏ quan điểm không hợp quan điểm những người lãnh đạo cộng sản sẽ bị buộc tội hữu khuynh, bị lăng nhục thô bạo, trừng phạt nặng. Một trong số những người như thế là giáo sư Trương Thành Đức. Năm 1957 người ta buộc tội ông hữu khuynh, tống ông đi cải tạo trong trại lao động khổ sai. Ông được phục hồi hai mươi năm sau, được trả tự do, thành một ông già mù loà, không nơi nương tựa.
Trong những năm đầu tiên, trước khi bắt đầu đàn áp hàng loạt, tôi cảm thấy những người cộng sản lãnh đất nước hoàn toàn hợp lý, hợp tình. Tôi khâm phục đảng của họ. Toàn thể nhân dân Trung Quốc đặt niềm tin vào đảng. Tôi như người mù ở Úc không biết hướng đi. Chính sách xây đựng Mặt trận Thống nhất đã trở thành ngôi sao dẫn đường cho tôi. Chúng tôi, những người trí thức, sẽ được trọng dụng, thậm chí còn được tham gia điều hành đất nước. Khi tôi nhìn thấy một số hành động của người lãnh đạo cộng sản đi ngược với những nguyên tắc đảng đề ra, nhưng cho rằng đó chỉ là thiểu, có thể khắc phục.
Một người bạn sống với tôi ở Hong Kong, giới thiệu tôi một người tên là Dương. Ông này có chức vụ trong giới lãnh đạo đảng, phụ trách vấn đề lôi kéo các nhà chuyên môn từng bỏ ra nước ngoài quay trở về Trung Quốc. Anh bạn thân khuyên tôi nên biếu cho Dương một món quà để ông ta đảm bảo việc trở về Trung Quốc được tốt đẹp.
– Nhờ ông Dương, anh có thể kiếm được một công việc thu nhập cao ở một trường y khoa ở Bắc Kinh. Có thể chiếc đồng hồ Rolex chả hạn, để được ông ấy cho về làm ở Bắc Kinh, việc trả một món quà như thế cũng không phải quá đắt.
Chẳng lẽ ông Dương cũng nhận những khoản tiền hối lộ bẩn thỉu từng được coi là nguồn gốc bệnh dịch ở Trung Hoa hàng nghìn năm nay. Tôi nghĩ rằng nạn tham nhũng xa lạ với những người cộng sản, chính vì thế họ đã thức tỉnh được hàng triệu người đứng dậy chiến đấu chống Quốc dân Đảng tham nhũng. Tôi từ chối tặng quà cho ông Dương. “Đảng cộng sản chân thực, không dễ mua chuộc – tôi nói với các bạn – tôi sẽ tự kiếm sống bằng khả năng và trí tuệ của mình”.
Từ đó tôi không gặp Dương nữa. Nhưng một thời gian sau ông Dương xuất hiện trên chính trường với tư cách là người lãnh đạo đảng dân chủ. Thực tế đây là thủ đoạn chính trị đối với dân chủ. Dương chưa bao giờ ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản Trung Quốc như nhiều đảng viên khác trong Hội hiệp thương chính trị nhân dân đeo mặt nạ dân chủ.
Năm 1956 tôi kể cho Mao câu chuyện về ý nghĩ hối lộ Dương. Chủ tịch cười phá lên:
– Anh đúng là con mọt sách.
Mao trách:
– Sao anh keo kiệt thế. Anh chả hiểu quan hệ xã hội giữa người với người. Cá không thể sống trong nước trong được. Anh nghĩ khi tặng người khác một món quà là điều đáng ngạc nhiên à? Chẳng lẽ Quách Mạc Nhược không tặng được tôi chiếc đồng hồ khi hội đàm ở Trùng Khánh hay sao?
Mùa Xuân 1949, Hong Kong giống như ong vỡ tổ. Nhưng tôi còn trẻ, bồng bột đầy ảo tưởng. Tôi trở về tổ quốc, nhận việc tại một bệnh viện đa khoa đứng đầu ở Bắc Kinh. Tôi có thể sống xứng đáng với truyền thống gốc gác của tôi và tin vào lời thề của Hippocrat chữa bệnh, cứu chữa tất cả đồng bào giàu cũng như nghèo. Tôi sẽ trở thành nhà phẫu thuật nơ-ron xuất sắc. Y học là kho báu của tôi để xây dựng nước Trung Hoa mới, thịnh vượng, hùng mạnh, nơi không còn bất công, tham nhũng.
Vợ chồng tôi rời Hong Kong về Bắc Kinh vào giữa tháng sáu 1949. Tính ra tôi xa thành phố chôn rau cắt rốn gần 17 năm.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [3]
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Năm 1949 tôi tròn 29 tuổi. Tôi là bác sĩ hàng hải ở Sydney, Úc. Qua báo chí tôi hiểu thành phố quê hương tôi đã ngừng tiếng súng. Ngày 31-01-1949 tất cả dân Bắc Bình (tên gọi Bắc Kinh thời đó) đổ ra đường để đón chào những người giải phóng mình. Kéo về đây có cả lãnh đạo đảng cộng sản. Họ dự định thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Bắc Bình lại trở thành Bắc Kinh thủ đô Trung Quốc. Tên gọi Bắc Bình, nghĩa là “bình yên phương Bắc”. Tên gọi Bắc Kinh nhận được sau khi chính phủ Tưởng Giới Thạch rút về “thủ đô phía nam” – thành phố Nam Kinh. Nội chiến trong nước giữa những người cộng sản và Quốc dân đảng vẫn tiếp tục, nhưng không ai hoài nghi rằng chiến thắng sẽ thuộc về hồng quân Trung Quốc.
Bắc Kinh, thành phố quê hương, ở đó tôi sống 13 năm đầu tiên cuộc đời. Nhà của chúng tôi xây theo phong cách truyền thống Trung Hoa. Gia đình tôi giàu có, thuộc giới thượng lưu. Thực tế chúng tôi sống không phải một căn nhà mà trong một khu gồm nhiều nhà một tầng mái ngói và ba sân riêng biệt trồng cỏ và rau. Chúng tôi sống ở phía nam Cấm Thành ở khu Lưu Linh Chương. Khu này bắt đầu sau bức tường dày, ngăn cách Thành Nội, nơi ở hoàng đế. Cứ mỗi năm một lần, ngày lễ Xuân, mọi người Bắc Kinh đổ về đây. Tại đây có thể mua được đồ chơi Trung Quốc cho trẻ con. Tên gọi “Lưu Linh Chương” xuất phát từ chữ Trung Quốc “Lưu Linh” – bắt mắt. Ở đây thời Minh có xưởng thợ làm ngói mạ vàng cho các toà nhà hoàng cung (1368-1644)
Ông tôi mất trước khi tôi ra đời, nhưng gia phong cụ lập ra vẫn được giữ gìn. Chân dung cụ treo ở một phòng, nơi hàng năm chúng tôi thường tụ họp tất cả gia đình vài lần để tưởng nhớ. Phòng thăm bệnh của cụ ngay trong khu nhà vẫn giữ nguyên, nhà thuốc Bắc Chí Đường do cụ sáng lập vẫn phát đạt nhưng giao cho một người bào chế tin cậy trông nom. Cụ tôi giàu có nhưng được mọi người kính trọng, tôn quý vì cụ luôn luôn giúp đỡ người nghèo. Trong hiệu Bắc Chí Đường người bệnh có thể được phát không, nếu như quá nghèo. Không những người dân Lưu Linh Chương mà còn cả Bắc Kinh biết tiếng tăm cụ. Tôi lớn lên trong gia đình, nơi người ta cho rằng người nghèo chịu đựng quá nhiều đau khổ, cần lòng từ thiện.
Tuy nhiên do sự giàu có của chúng tôi đã tạo ra bức tường vô hình ngăn cách với các gia đình nghèo. Mẹ tôi không cho phép tôi chơi với trẻ con gia đình nghèo, trong thời ấy có nhiều người nghèo ở Bắc Kinh. Từ thuở thơ ấu, gia đình khuyên tôi cần tiếp tục truyền thống và tôi trở thành bác sĩ. Tôi cho rằng tôi được sinh trong gia đình đặc biệt. Tôi rất tự hào về dòng tộc, muốn trở thành người xuất chúng.
Em trai bố tôi, cũng trở thành bác sĩ, đóng góp nhiều công sức cứu giúp người nghèo. Khi tỉnh Hồ Nam có dịch thương hàn, chú tôi tự nguyện đến đó để cứu họ, chính ông cũng bị lây bệnh, chết khi chưa tròn 30 tuổi. Thím và hai con trai ông vẫn sống trong khu nhà, chúng tôi coi nhau như anh em ruột. Tôi còn có người anh trai cùng cha khác mẹ, con người vợ trước của bố tôi. Tất cả chúng tôi thân thiết như anh em ruột thịt. Bố tôi cưới mẹ tôi sau khi bà cả qua đời.
Riêng cha tôi đã phá vỡ gia phong của dòng họ. Năm 1920 ông sang Pháp tu nghiệp. Lúc ấy tôi mới ra đời. Tôi biết mặt bố mãi 7 năm sau. Qua thư từ, chúng tôi biết trong số sinh viên của nhóm bố tôi có Chu Ân Lai, người mà ông đánh bạn. Tình bạn của họ giữ được đến tận khi bố tôi mất, dù rằng Chu Ân Lai trở thành lãnh tụ cộng sản, còn bố tôi thuộc về những người quốc gia thuộc Quốc dân đảng, ông nắm chức vụ cao trong chính phủ Tưởng Giới Thạch.
Việc bố tôi quay về nước gây ra một bê bối, lộn xộn trong gia đình. Ông mang theo một bà vợ người Pháp, cùng sống trong ngôi nhà chúng tôi. Mẹ tôi, một phụ nữ Trung Hoa điển hình, ít học, xuất thân từ tầng lớp thường dân, bó chân theo phong tục. Hy vọng duy nhất của bà trở thành người vợ đảm đang, người mẹ hiền chăm sóc gia đình con cái. Theo tục lệ Trung Quốc thời bấy giờ, đàn ông giàu, có nhiều vợ tương đối phổ biến. Nhưng gia phong của dòng tộc tôi không chấp nhận ông lấy hai vợ, không những thế còn cho đó là sự sỉ nhục gia đình.
Bà vợ hai của bố tôi là người tốt, lịch sự, học thức cao. Bà dạy tiếng Pháp ở Đại học Bắc Kinh, đặc biệt rất luôn luôn thân thiện, đối xử tử tế với tôi. Tuy nhiên tôi cảm thấy mẹ tôi phải cắn răng chịu đựng, bà thường trút nỗi bực tức xuống đầu tôi, nhiều lần bị bà đánh oan. Chỉ khi lớn rồi, tôi hiểu, mọi sự rắc rối trong gia đình nguyên nhân do bố tôi gây ra.
Thậm chí thời thơ ấu tôi không thích bố. Hiếm khi hai bố con nói chuyện với nhau trừ khi ông chửi mắng, còn tôi thì bỏ ngoài tai. Tất vả mọi người còn lại trong gia đình đối xử với nhau thân mật và kính trọng. Sự bình đẳng trong gia đình tôi đã tồn tại từ lâu, cho nên thái độ gia trưởng của bố đã xúc phạm không những đến chúng tôi mà còn đến ký ức dòng họ. Ngay sau khi quay về Trung Quốc, bố tôi cùng bà vợ hai chuyển đến Nam Kinh tham gia chính quyền Tưởng Giới Thạch. Sau vài năm, người vợ Pháp của ông từ trần. Ông trở thành người hám gái, sống lang chạ, nhưng chẳng lấy ai. Tôi rất xấu hổ về tư cách của ông, quyết tâm học hành tử tế để trở thành một bác sĩ lành nghề phục vụ nhân dân. Sự hằn thù của tôi đối với bố khiến tôi ghét chính phủ Quốc dân Đảng, vài năm sau, tôi có mối quan hệ thân thiện với đảng cộng sản. Có lẽ tôi từng ghét lối sống vô đạo đức cha tôi, cho nên sau này, ở gần Mao, tôi kinh hoàng về đời sống tình dục của chủ tịch.
Cũng như đa số người Trung Quốc cùng thế hệ, tôi yêu nước và tự hào về nền văn hoá lâu đời của tổ quốc mình. Lịch sử 4000 năm của Trung Quốc mang đến sự vinh quang và giàu có, triết học Trung Hoa cổ đại, thi ca, sử ký đã đạt được những kỳ tích khác thường, được ngưỡng mộ trên thế giới. Vì thế tôi không thể chịu đựng, trong quá khứ đất nước vĩ đại bắt đầu xảy ra sự suy tàn từ thế kỷ trước. Ngay từ hồi cấp I, tôi biết cái nhục của Trung Quốc trong “Chiến tranh nha phiến” với Anh vào năm 1839. Sau đó lại tới Pháp, Nhật và Nga can thiệp, xâu xé khiến đất nước tôi kiệt quệ. Do đó Trung Quốc mất độc lập phải trở thành thuộc địa, sự hùng mạnh thuở nào biến mất không còn dấu vết. Các ông chủ ngoại quốc tới tràn đầy các thành phố lớn, đất nước bắt đầu sống dưới một luật lệ mới lạ, ngược với truyền thống văn hoá và tinh thần của dân tộc Trung Hoa. Từ nhỏ tôi đã nhìn thấy tận mắt chiếc biển treo ngay lối vào công viên cạnh khu phố Tây ở Thượng Hải, trên đó dòng chữ: “Cấm chó và người Trung Quốc” làm tôi thấy nhục nhã và đau lòng. Cũng như nhiều người, tôi cho rằng nỗi bất hạnh của đất nước Trung Hoa xuất phát từ ảnh hưởng ngoại quốc hoặc từ các thế lực đế quốc – như sau này người ta thường nói.
Năm 1931, khi tôi tròn 11 tuổi, người Nhật chiếm Bắc Mãn Châu và lập nên quốc gia bù nhìn Mãn Châu Lý. Mẹ con chúng tôi bỏ Bắc Kinh, chuyển về phương nam – đến Quý Châu, nơi tôi theo học trường trung học thuộc Đại học Quý Châu do phái bộ Truyền giáo Mỹ thành lập. Tất cả các môn học đều bằng tiếng Anh, tiếng Anh kiểu Mỹ. Chương trình học có nhiều bài phần giảng về tôn giáo. Tôi đã tìm hiểu cuộc hành hương từ Anh sang Mỹ 1620, lịch sử nước Mỹ. Năm 1935, lúc 15 tuổi tôi đã rửa tội chuyển sang đạo Tin Lành.
Trong thời gian rất ngắn tôi đã quan tâm đến tư tưởng cộng sản. Người anh cùng cha khác mẹ của tôi học y khoa ở Đại học Aurora Thượng Hải và năm 1935 vào đảng cộng sản. Đó là điều bất thường đối với người gia thế quyền quý, giàu có, nhưng vì lòng yêu nước, thương người nghèo đã thôi thúc anh tôi tham gia tổ chức. Những ngày cuối tuần, anh đến Quý Châu thăm, luôn khẳng định sự xấu xa, bóc lột công nhân tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Ông bảo cho tôi, chỉ có những người cộng sản mới có thể xây dựng được một thế giới không có nghèo đói và bình đẳng. Anh tôi lên án Quốc dân đảng tham nhũng, làm tay sai cho đế quốc, không có khả năng chống quân xâm lược Nhật ở Mãn Châu. Anh khẳng định, chỉ có người cộng sản mới có thể đánh đuổi bọn Nhật ra khỏi đất nước Trung Quốc. Tôi kính trọng anh, tin tưởng vào giấc mơ đất nước Trung Hoa hồi sinh, giàu có, thịnh vượng, văn minh, bình đẳng, bác ái. Tôi bắt đầu chăm chú đọc những cuốn sách anh tôi đưa cho: “Chuyện về kế hoạch 5 năm lần thừ nhất”, “Thép đã tôi thế đấy” của Nicolai Ostroevsky và cả sách của ký giả Pháp, Henry Barbus về vai trò xuất sắc của Stalin trong việc chuẩn bị và thực hiên cách mạng tháng 10 vĩ đại ở Nga. Anh vạch cho tôi, chỉ có ý tưởng cộng sản mới cứu được Trung Quốc, các lãnh tụ cộng sản xuất sắc như Chu Đức và Mao Trạch Đông mới dẫn dắt đất nước đến nền kinh tế và tinh thần sáng lạn. Số phận Trung Quốc trong tay họ. Chúng tôi và anh gọi họ là Chu Mao, dường như đó chỉ là một người. Từ ấy, tôi bắt đầu đọc Chu Mao, lòng tin này dần dà tăng lên, khi tôi hiểu rằng Lỗ Tấn nhà văn yêu quý của tôi cũng thiên về lý tưởng cộng sản.
Cũng thời gian đó, năm 1936, một người chị họ giới thiệu tôi với cô bạn cùng lớp của chị. Cô ta tên là Ngô Tương Thanh – hay Ngô Lý Liên (theo tên thánh), tôi phải lòng cô ấy từ cái nhìn đầu tiên. Cô cũng xuất thân từ gia đình giầu có, theo đạo Tin Lành. Mười năm sau chúng tôi mới cưới nhau mặc dù khi chiến tranh lan rộng, mỗi người một ngả, nhưng thường xuyên liên lạc tìm mọi cách đoàn tụ.
Quân Nhật tràn vào đất nước, ban đầu chúng tôi cùng mẹ chạy về Vũ Hán, năm 1937 chạy về Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên. Thành phố này, năm 1938, Tưởng Giới Thạch, coi là thủ đô của Quốc dân đảng. Cuối năm 1935 căn cứ địa của đảng cộng sản Trung Quốc ở Giang Tây bị quân đội Quốc dân đảng bao vây, nên trong tháng 10, lực lượng chính của Hồng quân, bị rơi vào vòng vây, đã phải làm cuộc Vạn Lý Trường Chinh sang phía tây Trung Quốc để nhập với căn cứ khác. Cuộc hành quân này kết thúc cuối năm 1935 ở tỉnh Thiểm Tây và viết nên trang sử hào hùng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc. Anh tôi và bà chị họ cũng theo đoàn quân đến đó.
Năm 1939 tôi bắt đầu học y ở trường Đại học Liên hiệp Y khoa Tây-Trung, do phái bộ Truyền giáo Canada thành lập gần một thế kỷ ở Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Sau khi Nhật chiếm Bắc Kinh nhiều khoa và sinh viên trường y Bắc Kinh chuyển về Thành Đô, sau năm 1941 các bộ phận này hợp nhất làm một. Cả hai trường đều được Mỹ, đúng ra do là quỹ Rockefeller tài trợ. Phần đông giáo sư người Mỹ. Bài giảng được giảng bằng tiếng Anh, tác giả sách giáo khoa là những nhà y học đầu ngành xuất sắc của phương Tây. Vì thế trình độ học vấn của chúng tôi rất cao và tương ứng với những tiêu chuẩn mà Mỹ và các nước châu Âu chấp nhận.
Sau khi học xong, tôi được trao hai bằng: bằng tốt nghiệp trường y khoa thuộc Đại học Liên hiệp Tây-Trung và bằng tốt nghiệp Đại học tổng hợp New York.
Lý Liên học môn xã hội tổng hợp ở Đại học Phục Đan, Trùng Khánh, nhưng rồi sau chuyển sang học trường nữ sinh Tin Lành ở Thành Đô.
Tôi kết thúc thực hành phẫu thuật năm 1945, cũng là năm Nhật đầu hàng. Tôi nhận việc làm trong Bệnh viện đa khoa Trung tâm Nam Kinh, được trang bị thiết bị hiện đại nhất, nơi tụ hợp các bác sĩ giỏi nhất do phương Tây đào tạo. Tôi muốn được học chuyên khoa phẫu thuật thần kinh. Tháng 11-1946 tôi và Lý Liên kết hôn. Lý Liên làm ở thư viện thuộc Hội Đồng Anh quốc.
Nội chiến Quốc-Cộng đang diễn ra, lạm phát tăng chóng mặt, đời sống khó khăn vô cùng. Lý Liên nhận lương ở Sứ quán Anh không đến nỗi tồi – khoảng 150 đô-la/tháng, trả bằng đồng bảng Anh. Lương tôi khoảng 25 đô la Mỹ/tháng nhưng nhận bằng tiền Trung Quốc, lĩnh xong tôi tức tốc đem ra chợ đen đổi sang đô la Mỹ hoặc đô la Mehico đúc bằng bạc. Lạm phát phi mã đến nỗi nếu số tiền vào buổi sáng đủ mua ba quả trứng, đến chiều chỉ mua nổi một quả. Người ta chở tiền lên xe kéo, giá gạo tăng đến mức trước đây người lương thiện không bao giờ nghĩ tới ăn cắp, nay lao vào đập phá các cửa hàng bán gạo cướp những gì có thể lấy được.
Trong cơn khủng hoảng, Danny Hoàng, bạn cùng lớp, đang làm bác sĩ ở Hong Kong gợi ý tôi chuyển đến đó làm việc với anh. Cuộc sống ở đó ổn định, nghề bác sĩ kiếm được số tiền không nhỏ.
Đối với tôi, quyết định chẳng dễ dàng gì. Ở Hong Kong chúng tôi có thể sống tốt hơn, tuy nhiên trình độ y học ở đó thấp hơn đáng kể so với Trung Quốc, tay nghề bác sĩ phẫu thuật như tôi có thể bị mai một. Nhưng nội chiến vẫn còn tiếp tục lan rộng, Lý Liên khuyên tôi nên đi. Tháng 12 năm 1948 tôi rời Nam Kinh đi Hong Kong.
Nhưng sống ở đó không lâu. Cũng năm ấy tôi nhận việc ở một hãng tầu biển Đông Phương Úc Châu, trở thành bác sĩ ở Sydney, bác sĩ phẫu thuật của đoàn tầu biển thường qua lại giữa Úc và New Zeland, thu nhập khá cao. Lý Liên chuyển sang Hong Kong, thuê nhà, kiếm việc trong một cơ quan của người Anh. Tôi không muốn vợ tôi chuyển sang Úc, nơi còn kỳ thị chủng tộc, chẳng ưa dân da vàng. Vì thế tôi cũng chẳng có ý định cư lâu dài ở Sydney, chỉ mê mải làm việc hy vọng kiếm nhiều tiền, nhưng không muốn nhập quốc tịch. Niềm tự hào dân tộc, lòng tự trọng làm cho tôi không thể hoà hợp được với những người bảo hoàng có tư tưởng phân biệt chủng tộc ở đây. Tôi sống trong một căn buồng nhỏ, quanh tôi toàn người Úc, họ tin rằng Trung Quốc không khi nào hồi sinh được. Tôi tức nhưng cần tiền, nên nấn ná chưa đi. Nhưng tôi cũng không thích sống ở Hương Cảng, thuộc địa của Anh. Niềm tự hào dân tộc quá lớn cho nên không chấp nhận, bị tước đoạt quyền công dân dưới sự đô hộ nhà vua ngoại quốc.
Khi những người cộng sản chiếm Bắc Kinh, tôi cảm thấy trong lòng trào lên nỗi mừng không thể tả được. Tháng 2-1949 Hồng quân Trung Quốc đè bẹp hải quân Anh khi định vượt qua sông Dương Tử, sự kiện này làm tôi sung sướng tột độ. Tôi tin với chiến thắng của những người cộng sản Trung Quốc, bọn cai trị nước ngoài sẽ phải cuốn xéo, đất nước được giải phóng sánh vai với các nước trên thế giới.
Tháng 4-1949, tôi nhận được thư của mẹ, bà đã quay về Bắc Kinh. Mẹ tôi gửi kèm thư của anh tôi, cũng vừa về thành phố quê hương, giờ đây giữ một chức vụ trong Cục bảo vệ sức khoẻ thuộc Uỷ ban quân sự đảng cộng sản Trung Quốc. Anh tôi rất sung sướng, rất mong tôi trở về.
“Ở Trung Quốc còn thiếu các bác sĩ lành nghề – anh tôi viết – chính phủ mới đảm bảo cho chú công việc tốt, toàn thể gia đình ta lại đoàn tụ”.
Tôi băn khoăn lắm. Cuộc sống ở Sydney đang yên ổn và tốt đẹp. Vợ và mẹ tôi nếu muốn, có cơ hội đến đây được với tôi. Ngoài ra, tôi có thể giúp mẹ tôi ở Bắc Kinh tiền nong.
Chỉ có một điều tôi tin chắc, ở Úc, không khi nào tôi thành bác sĩ phẫu thuật não, vì tôi là người Trung Quốc. Dĩ nhiên, tôi có thể kiếm được hàng đống tiền, nhưng cuộc sống hoàn toàn không thoải mái, luôn luôn mặc cảm mình là người xa lạ bị đày ra nước ngoài. Đây có phải là lòng yêu nước của tôi không?
Gần đến lễ Phục Sinh. Tôi dự định đi chơi với anh bạn thân Alex Dương. Alex sinh ở Úc, nhưng vẫn cố gắng giữ nhiều phong tục Trung Quốc. Anh ta và vợ làm việc chăm chỉ. Họ có một cửa hàng tạp hoá ở phố Elizabeth.
Khi tôi gặp, Alex ngay lập tức nhận xét tôi như kẻ mất hồn. Tôi kể cho anh ta nghe tất cả.
– Cần phải nghĩ cho kỹ đấy – Alex nói.
– Anh tính thế nào? – tôi hỏi.
– Anh và tôi hai hoàn cảnh khác nhau – Alex Dương chậm rãi – Gia đình tôi ở Úc. Thậm chí nếu họ hứa, trả lương tôi hậu hĩnh ở Bắc Kinh, tôi cũng chẳng nghĩ tới quay về. Đúng, ở đây có tệ phân biệt chủng tộc, nhưng dân số không nhiều, có thể kiếm sống dễ dàng. Vì sao anh không viết cho anh trai, hỏi tỷ mỉ về công việc, lương lậu ra sao chứ? Sau đó chúng ta so sánh tính toán tiếp.
Lời của Alex thức tỉnh lòng yêu nước của tôi. Tôi hoàn toàn không để ý ở đâu kiếm được nhiều tiền hơn. Nếu những người cộng sản đưa Trung Quốc đến giàu có, tôi sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc cho tổ quốc.
Nhưng Alex nói đúng, tôi phải biết tất cả một cách tỷ mỉ. Ngay chiều đó tôi viết thư cho anh tôi.
Đầu tháng 5 tôi nhận được thư trả lời. Anh tôi lại giục tôi về nước. Anh kèm thư của thủ trưởng của anh, Phó Liêm Chương, phó cục trưởng cục bảo vệ sức khoẻ thuộc Uỷ ban quân sự đảng cộng sản Trung Quốc. Phó Liêm Chương, ở nước ngoài gọi Nelson Phó, một nhà y học nổi tiếng của Trung Quốc. Đồng thời ông cũng là bác sĩ duy nhất được đào tạo ở phương Tây tham gia Vạn Lý Trường Chinh. Năm 1934, trước khi có cuộc Vạn Lý Trường Chinh ông chữa cho Mao khỏi sốt rét, trong thời gian chiến tranh ông trong Ban bảo vệ sức khoẻ lãnh tụ đảng cộng sản Trung Quốc ở Diên An.
Thư của Phó ngắn ngủn, nhưng trong đó sự nồng nhiệt, chân thành. Ông rất vui mừng chờ đón, động viên và kêu gọi các bác sĩ ở hải ngoại nên trở về. Về công việc tôi ở Bắc Kinh, lương lậu ông không đả động đến, chỉ viết bâng quơ, công việc rất phù hợp với tài năng của tôi.
Tôi được ông tâng bốc sẽ được giữ chức vụ cao, yêu cầu tôi trở về. Vì đảng cộng sản rất thiếu thày thuốc lành nghề. Tôi nghĩ mình đã tìm thấy chỗ đứng ở nước Trung Hoa mới. Tôi quyết định về nước ngay.
Alex Dương tổ chức bữa tiệc tiễn biệt. Có hai người Trung Quốc, cũng là bác sĩ. Họ bảo, khi nào đến Bắc Kinh viết thư báo tin, nếu tôi thấy khó sống, họ có thể giúp quay lại Úc.
Tôi chẳng khi nào viết cho anh ta cả. Ba mươi sáu năm sau, năm 1985 tôi ở Úc theo lời mời của hiệp hội bác sĩ Úc, tôi đến đại lộ Elizabeth tìm Alex Dương. Nhưng tất cả đã thay đổi, cửa hàng nhỏ của anh không còn nữa. Tôi không tìm thấy Alex Dương.
Thế là tôi và Lý Liên lại đoàn tụ ở Hong Kong. Giữa tháng 5-1949 Hong Kong hỗn loạn. Hàng nghìn người đã chạy loạn sang đây tránh hoạ cộng sản và hàng nghìn người chuẩn bị quay về quê quán. Hiện tượng này thật lạ lung, không bình thường. Khi gặp Danny Hoàng, tôi kể về quyết định trở về Trung Quốc, anh ta lắc đầu quầy quậy:
– Chẳng lẽ anh không thể ở lại đây và làm việc với tôi?
Tôi kể cho anh ta thư của Phó Liêm Chương. Danny buông lời:
– Thôi, ông tự quyết lấy. Nếu mọi việc xuôi xẻ, viết cho tôi. Có thể, cả tôi cũng trở về.
Tôi chẳng bao giờ viết cho anh ta được cả.
Tôi cùng Lý Liên tới thăm ông Trương Thành Đức, giáo sư cũ của nhà tôi, Đại học Phục Đan. Ông cũng về Bắc Kinh. Người ta xếp ông làm đại biểu Hội Hiệp thương chính trị Trung Quốc. Đảng cộng sản lôi kéo thêm các trí thức không đảng phái vào một mặt trận duy nhất, trong diễn đàn được triệu tập để bày tỏ cho các lực lượng dân chủ và giải quyết vấn đề chính quyền trong nước. Chúng tôi nghĩ lúc đó chính phủ cộng sản sử dụng tri thức để đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng.
– Ở Trung Quốc đều có tương lai – ông nói – cả nước đang trên đường hồi sinh.
Phiên họp đầu tiên Uỷ ban hiệp thương được tổ chức cuối tháng 9. 1949, đã đi tới quyết định thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và bầu ra chính phủ mới do Chủ tịch Mao Trạch Đông đứng đầu. Phó chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, bạn chiến đấu, bà Tống Khánh Linh, vợ goá của nhà cách mạng vĩ đại Tôn Trung Sơn, người đã đánh đổ triều Thanh và lập nên nước Cộng hoà Trung Hoa từ 1912. Nhưng sau này mới rõ, Uỷ ban Hiệp thương chính trị nhân dân chỉ là cây cảnh cho nền dân chủ – mọi việc điều hành trong nước nằm trong tay những người cộng sản. Uỷ ban Hiệp thương chính trị nhân dân chỉ bình cắm hoa cho vui mắt nhưng hoàn toàn vô tích sự. Ai đó trong số thành viên Uỷ ban này phát biểu bày tỏ quan điểm không hợp quan điểm những người lãnh đạo cộng sản sẽ bị buộc tội hữu khuynh, bị lăng nhục thô bạo, trừng phạt nặng. Một trong số những người như thế là giáo sư Trương Thành Đức. Năm 1957 người ta buộc tội ông hữu khuynh, tống ông đi cải tạo trong trại lao động khổ sai. Ông được phục hồi hai mươi năm sau, được trả tự do, thành một ông già mù loà, không nơi nương tựa.
Trong những năm đầu tiên, trước khi bắt đầu đàn áp hàng loạt, tôi cảm thấy những người cộng sản lãnh đất nước hoàn toàn hợp lý, hợp tình. Tôi khâm phục đảng của họ. Toàn thể nhân dân Trung Quốc đặt niềm tin vào đảng. Tôi như người mù ở Úc không biết hướng đi. Chính sách xây đựng Mặt trận Thống nhất đã trở thành ngôi sao dẫn đường cho tôi. Chúng tôi, những người trí thức, sẽ được trọng dụng, thậm chí còn được tham gia điều hành đất nước. Khi tôi nhìn thấy một số hành động của người lãnh đạo cộng sản đi ngược với những nguyên tắc đảng đề ra, nhưng cho rằng đó chỉ là thiểu, có thể khắc phục.
Một người bạn sống với tôi ở Hong Kong, giới thiệu tôi một người tên là Dương. Ông này có chức vụ trong giới lãnh đạo đảng, phụ trách vấn đề lôi kéo các nhà chuyên môn từng bỏ ra nước ngoài quay trở về Trung Quốc. Anh bạn thân khuyên tôi nên biếu cho Dương một món quà để ông ta đảm bảo việc trở về Trung Quốc được tốt đẹp.
– Nhờ ông Dương, anh có thể kiếm được một công việc thu nhập cao ở một trường y khoa ở Bắc Kinh. Có thể chiếc đồng hồ Rolex chả hạn, để được ông ấy cho về làm ở Bắc Kinh, việc trả một món quà như thế cũng không phải quá đắt.
Chẳng lẽ ông Dương cũng nhận những khoản tiền hối lộ bẩn thỉu từng được coi là nguồn gốc bệnh dịch ở Trung Hoa hàng nghìn năm nay. Tôi nghĩ rằng nạn tham nhũng xa lạ với những người cộng sản, chính vì thế họ đã thức tỉnh được hàng triệu người đứng dậy chiến đấu chống Quốc dân Đảng tham nhũng. Tôi từ chối tặng quà cho ông Dương. “Đảng cộng sản chân thực, không dễ mua chuộc – tôi nói với các bạn – tôi sẽ tự kiếm sống bằng khả năng và trí tuệ của mình”.
Từ đó tôi không gặp Dương nữa. Nhưng một thời gian sau ông Dương xuất hiện trên chính trường với tư cách là người lãnh đạo đảng dân chủ. Thực tế đây là thủ đoạn chính trị đối với dân chủ. Dương chưa bao giờ ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản Trung Quốc như nhiều đảng viên khác trong Hội hiệp thương chính trị nhân dân đeo mặt nạ dân chủ.
Năm 1956 tôi kể cho Mao câu chuyện về ý nghĩ hối lộ Dương. Chủ tịch cười phá lên:
– Anh đúng là con mọt sách.
Mao trách:
– Sao anh keo kiệt thế. Anh chả hiểu quan hệ xã hội giữa người với người. Cá không thể sống trong nước trong được. Anh nghĩ khi tặng người khác một món quà là điều đáng ngạc nhiên à? Chẳng lẽ Quách Mạc Nhược không tặng được tôi chiếc đồng hồ khi hội đàm ở Trùng Khánh hay sao?
Mùa Xuân 1949, Hong Kong giống như ong vỡ tổ. Nhưng tôi còn trẻ, bồng bột đầy ảo tưởng. Tôi trở về tổ quốc, nhận việc tại một bệnh viện đa khoa đứng đầu ở Bắc Kinh. Tôi có thể sống xứng đáng với truyền thống gốc gác của tôi và tin vào lời thề của Hippocrat chữa bệnh, cứu chữa tất cả đồng bào giàu cũng như nghèo. Tôi sẽ trở thành nhà phẫu thuật nơ-ron xuất sắc. Y học là kho báu của tôi để xây dựng nước Trung Hoa mới, thịnh vượng, hùng mạnh, nơi không còn bất công, tham nhũng.
Vợ chồng tôi rời Hong Kong về Bắc Kinh vào giữa tháng sáu 1949. Tính ra tôi xa thành phố chôn rau cắt rốn gần 17 năm.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [3]
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 3
Posted: 08/06/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Bắc Kinh hoang tàn và tiêu điều. Sau tám năm Nhật chiếm đóng, bốn năm nội chiến, phố xá trở nên ngổn ngang, bẩn thỉu, những bức tường dày bao quanh Thành Nội bị lở từng mảng, có chỗ đã bắt đầu sập. Các biển quảng cáo vui mắt, sặc sỡ cũng biến mất khỏi các cửa hiệu và quầy hàng, những quán sách thân thương của tôi ở Lưu Linh Chương đóng cửa im ỉm dường như lâu lắm rồi.
Dân tình xem ra nghèo đói, nhếch nhác chẳng khác gì bộ mặt thành phố. Đàn ông, đàn bà chỉ mặc những chiếc bộ quần áo cũ kỹ màu ghi đá hoặc xanh xám đã bạc phếch. Mỗi người đều có một đôi giày bằng vải buồm thô màu đen, tóc cắt ai cũng giống ai. Đàn ông tóc húi cua, đàn bà búi tó sau lưng. Tôi mặc com-lê Tây phương, cà vạt, giày da bóng lộn, tóc chải mượt giống y như người nước ngoài. Lý Liên váy áo sặc sỡ, giầy cao gót, tóc thời trang uốn thành nếp tuyệt đẹp, nàng nổi bật trông giống bông hoa anh túc đỏ rực trên cánh đồng lúa mì vàng óng. Tôi phải mượn ngay bộ đồng phục mà mấy ông cộng sản đã khuyên. Lý Liên đến ngay cửa hàng may đo đặt may một bộ áo quần giống mọi người.
Mẹ tôi thay đổi quá. Bà già đi nhiều, trông khắc khổ, gầy nhom, nặng chưa tới 40 ki-lô, tóc bạc, nhưng rất sung sướng khi thấy chúng tôi quay về, cầu mong chúng tôi đừng bỏ nhà đi nữa. Tôi hứa ở lại với bà.
Dù nghèo, nhưng khí thế của dân Bắc Kinh sôi nổi. Khắp chốn, khắp nơi những khuôn mặt tràn trề hạnh phúc. Bắc Kinh được tự do, dân chúng chân thành chào mừng chính phủ cộng sản mới. Trong thành phố bao trùm bầu không khí thân thiện tin tưởng vào hạnh phúc. Chỉ một số ít bạn bè, họ hàng cho rằng việc tôi trở về là dại dột, không thể chấp nhận được.
Anh tôi thu xếp cho tôi gặp Phó Liêm Chương để thảo luận vấn đề công việc của tôi. Tôi đến nhà Phó. Ông sống trong toà nhà của Bộ y tế phân cho. Toà nhà nằm ở đường Quảng Xương phía bắc trung tâm thương mại Vương Phú Thanh. Toà nhà này từng là nơi ở của hoàng tử Mãn Châu, sau đó một tướng Quốc dân đảng chiếm cho đến khi cộng sản tịch thu. Biệt thự này có kiểu cách làm tôi nghĩ tới ngôi nhà của chúng tôi, nhưng nó rộng, sang trọng, lộng lẫy hơn nhiều. Phía sau biệt thự có 6 vườn nhỏ, với 7 hay 8 gốc nho đang leo giàn, hòn non bộ nước chảy róc rách theo phong cách Trung Hoa truyền thống, lối đi lát gạch tráng men.
Khi tôi đến, Phó Liêm Chương nửa ngồi nửa nằm trên trường kỷ làm bằng trúc bện song. Ông dáng người cao, hơi gầy, vẻ ốm yếu mệt mỏi, vầng trán cao vuông vắn, đôi mắt tinh ranh. Ông chừng 55, hơn tôi tới 26 tuổi, trông có vẻ già trước tuổi.
Khi tôi đến, Phó Liêm Chương cũng chẳng đứng dậy, chỉ chìa tay cho tôi bắt. Bàn tay mềm mại của một trí thức. Tôi thấy vinh dự khi được viếng thăm một quan chức cao cấp như ông.
– Tôi đã bị ho lao mấy năm nay, vì thế tôi không thể nói chuyện lâu với đồng chí được – ông ta giải thích, sau khi hoan nghênh tôi đã hồi hương rồi hỏi tỷ mỉ về học hành, kinh nghệm làm việc. Vừa nghĩ ngợi, ông nói tiếp:
– Vấn đề công việc của đồng chí đã được giải quyết. Sáng mai đồng chí có mặt ở Cục Bảo vệ sức khoẻ.
Chính phủ mới vẫn hoàn toàn chưa thành hình, chức năng quyền lực điều hành tạm thời trao cho Uỷ ban quân quản thuộc đảng cộng sản Trung Quốc. Cục Bảo vệ sức khoẻ trực thuộc Uỷ ban này.
Tại Cục Bảo vệ sức khoẻ tôi được tiếp đón nồng nhiệt. Một cán bộ nói với tôi, ở đây còn thiếu bác sĩ điều trị và kể, anh tôi từng là sếp của anh ta.
Một cán bộ trong phòng nói:
– Thứ trưởng Phó Liêm Chương bảo đồng chí sẽ trở thành các bộ của Cục chúng tôi – anh ta giải thích – Chúng tôi ở đây hưởng chế độ bao cấp miễn phí. Lãnh đạo đảm bảo cho đồng chí mọi thứ cần thiết: nhà cửa, chỗ làm việc, quần áo, thậm chí cả giày dép nữa. Vì đồng chí sẽ đảm đương công việc bác sĩ trưởng điều trị, đồng chí sẽ nhận bậc lương hạng hai, khẩu phần cao hơn chút ít so với anh em.
Hệ thống “bao cấp miễn phí” nghĩa là tôi sẽ chẳng có lương. Đảng cộng sản thi hành hai dạng trả công cho viên chức nhà nước. Ai tham gia cách mạng chưa lâu, bắt đầu làm cho đảng nhận lương bình thường, ai tham gia cách mạng lâu năm được cung cấp toàn phần. Những người tham gia tình nguyện nhận kiểu riêng. Tôi thuộc hạng “tình nguyện theo cách mạng”. Dù tôi là người mới vào nhưng vẫn được vinh dự thuộc hạng được nhà nước cho hưởng chế độ cung cấp toàn phần.
Nhưng tôi vẫn băn khoăn, chẳng vui chút nào. Giờ đây gia đình tôi đông người, phải nuôi mẹ, hai bà cô, bố mẹ vợ và cả Lý Liên nữa. Thật ra tôi cũng đã để dành được ít vàng và Mỹ kim, nhưng nếu không có lương, số tiền dành dụm đó chẳng mấy chốc mà bay.
Chỉ khi gặp đồng chí Lại tôi nhận được một số hướng dẫn về nhiệm vụ sắp tới của mình.
– Đồng chí Lại sẽ dẫn đồng chí tới chỗ làm việc Khu Điều trị bệnh nhân ngoại trú tại Đại học Công Nhân ở Đồi Hương – người ta nói cho tôi biết – bây giờ đồng chí cứ về nhà, thu xếp tất cả đồ dùng cần thiết. Báo cáo lại cho tôi sau một tuần lễ tính từ hôm nay. Xe tải sẽ chở đồng chí đến chỗ làm. Đồng chí Lại sẽ đi cùng đồng chí.
Thời gian gặp chẳng nói rõ, thậm chí chẳng ai hỏi xem tôi có muốn làm ở chỗ mà họ phân công ra hay không. Tôi đâm ra lúng túng, bởi vì tôi chưa bao giờ nghe đến tên trường Đại học Công Nhân này mặc dù tôi vui vì được làm việc ở trường Đại học. Nhưng dù sao tôi cũng rất muốn công việc ở trường Đại học phải có liên quan tới bệnh viện tôi mơ ước. Giờ đây tôi được giới thiệu làm việc phòng điều trị bệnh nhân ngoại trú, chẳng như lời đã hứa.
Hơn nữa, tôi biết Cục Bảo vệ sức khoẻ cũng chẳng kiếm được việc cho Lý Liên. Người ta chỉ xếp vợ tôi làm việc tạm thời ở trường mẫu giáo cách Bắc Kinh 20 ki lô mét, nơi có viện đào tạo nhân viên y tế cộng đồng ở quận Tống. Khả năng, trình độ của Lý Liên người ta chẳng quan tâm. Thật bực mình, chả lẽ họ so sánh công việc được giao ngang với công việc của vợ tôi đã từng làm ở lãnh sự Anh bên Hong Kong? Chuyện hồi hương xem ra không thuận lợi chút nào, tôi cay đắng nghĩ rằng tại sao mình lại không tặng chiếc đồng hồ Rolex cho Dương.
– Chú về chưa lâu nên chưa thể hiểu tất cả cái gì đang xảy ra ở đất nước – anh tôi an ủi – Ở đây không phải người chọn việc mà việc chọn người. Điều này nghĩa là “chấp hành sự phân công của tổ chức”. Về lương, chú tạm thời sử dụng tiền tiết kiệm. Dần dà mọi thứ sẽ đâu vào đấy. Điều luật đảng không cho phép anh nói thêm.
Cơ quan được gọi là Đại học Công Nhân đặt ở Xương Sơn hay còn có tên Đồi Hương, phía tây bắc thành phố Bắc Kinh, cách cung điện cổ Mùa Hạ vài dặm, một khu đồi đi săn của hoàng đế Càn Long khi đương quyền đã xây dựng. Ở đây có hai chùa phật nổi tiếng – Phật Nằm và Thanh Thiên Vân tự. Mùa thu, hàng cây thông chuyển sang màu bạc, các cây khác lá chuyển màu đỏ thẫm mọc bên đồi tạo ra bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Đại học Công Nhân chiếm một khu rộng lớn ở Đồi Hương, nơi đây rất nhộn nhịp và nổi tiếng.
Khu này thật kỳ lạ, chỗ nào cũng có lính canh gác. Hai quan chức cao cấp, cán bộ lão thành cách mạng của đảng – Vũ Trần Phổ và La Đạo Nhương, giám đốc và phó giám đốc Cục Bảo vệ dưới quyền trực tiếp Tổng Hành dinh của Uỷ Ban Trung ương Đảng cộng sản, đưa tôi thăm trường. Tại đây, hầu hết là cán bộ cao cấp của đảng. Vũ Trần Phổ phát cho tôi tất cả các thứ cần thiết, trao cho huy hiệu của trường, nhắc nhở phải giữ gìn nó như con ngươi của mình. Ông dặn tôi:
– Đừng kể cho ai những gì xảy ra ở đây, công việc của anh thuộc bí mật.
Lúc đó tôi chẳng hiểu vì lẽ gì.
Khu tập thể tôi ở nằm dọc hàng cây thoai thoải phía đồi, trong dẫy nhà gỗ xem ra không tương xứng với cung vua lộng lẫy trên đồi. Đó là một căn phòng tồi tàn, nền đất, mái dột nát, không thể nào tưởng tượng nổi, bởi tôi sinh ra trong một gia đình giàu có. Duy nhất trong phòng có một bóng đèn điện toả ánh sáng đỏ quạch. Giường nằm là hai miếng ván kê trên hai cái niễng, không thành giường, đệm nằm cũng không. Nước, tất nhiên cũng không nốt, phía sau là nhà vệ sinh công cộng. Tôi phải dùng chăn bông mỏng xếp lại thành đệm để nằm. Sau đó người ta lắp bình nước, khí đốt, bồn rửa mặt. Với chức vụ bác sĩ tôi không phải ở chung với người khác. Điều kiện ăn ở tồi tệ đến mức tôi không thể đưa Lý Liên đến ở cùng, chúng tôi chỉ gặp nhau cuối tuần ở nhà mẹ, nơi tôi thường về để nghỉ và tắm giặt.
Bữa ăn cũng lại thể hiện đẳng cấp, chức vụ của tôi. Ngày hai bữa theo phong tục gia đình nông dân Trung Hoa: mười giờ sáng và bốn giờ chiều. Nhưng khác với nông dân bữa ăn hiếm khi có thịt, chúng tôi theo khẩu phần hạng hai, thịt được cung cấp hàng ngày. Nhà ăn tập thể cũng chẳng gì hơn khu tôi, nhưng món ăn được nấu khéo léo, thậm chí lại còn ngon, nhà bếp sạch đến ngạc nhiên.
Chỗ làm việc trong bệnh viện còn làm tôi kinh ngạc hơn. Đó cũng lại là cái lều nông thôn, nền đất chẳng có một tí thiết bị y tế nào cả, trừ vài cái nhiệt kế, vài bộ đo huyết áp. Trong số thuốc thang, tôi chỉ thấy aspirin, thuốc ho nước, vài loại kháng sinh. Khi khám bệnh tôi chỉ có mỗi chiếc ống nghe với kinh nghiệm tay nghề của mình để chẩn đoán, điều trị. Hy vọng chẳng có bệnh nhân nặng nào chui vào đây.
Dù vậy, nhân viên trong bệnh viện rất lạc quan, tinh thần rất cao. Trong biên chế có gần 30 người, họ chờ đợi sự xuất hiện của tôi từ lâu. Gặp tôi họ mừng ra mặt. Tất cả đều rất trẻ, phần lớn trẻ hơn tôi mặc dù tôi mới 29. Ngay cả hai người phụ trách cũng không quá 25 tuổi. Đám nhân viên được đảng lựa chọn từ nông thôn vùng ngoại ô, mới học hết tiểu học. Vì thế họ chỉ làm được công việc sơ cứu – băng vết thương nhỏ, cho uống aspirin khi sốt, không có một chút kiến thức cơ bản về bệnh tật, làm sao có thể chẩn đoán bệnh được. Họ bảo tôi:
– Chúng tôi tin rằng đồng chí sẽ dậy chúng tôi kiến thức y học hiện đại. Chúng tôi hoàn toàn chưa hiểu biết gì cả.
Họ rất muốn tôi giảng bài cho họ. Tôi thất kinh, làm sao tôi có thể giảng dạy với trình độ học vấn của họ chỉ có như vậy.
Một người bạn cũ đã 11 năm xa cách, anh đến thăm trong ngày nghỉ cuối tuần đầu tiên ở nhà mẹ tôi. Chúng tôi ôn lại kỷ niệm đã qua, trao đổi với nhau về tình hình đất nước. Anh bạn tôi vào đảng từ nhiều năm trước, bây giờ làm việc ở Đoàn thanh niên Tân Dân chủ, tiền thân của Đoàn Thanh niên cộng sản Trung Quốc. Tôi kể cho bạn tôi nghe về công việc của mình ở phòng khám của trường Đại học Công Nhân ở Đồi Hương:
– Đây là một trường Đại học quá rộng, nơi nào cũng có lính cầm súng gác. Cả đời tôi chưa thấy trường Đại học nào lại như vậy.
Anh ta đột nhiên nghiêm mặt nói:
– Nói thật nhá, mình được lệnh của các đồng chí lãnh đạo của tổ chức đến đây trao đổi cởi mở với cậu. Họ yêu cầu mình uốn nắn những sai lầm cậu có thể mắc phải vì mới tham gia cách mạng.
Anh bạn nhận xét rằng tôi vẫn còn hiểu quá ít về công tác cách mạng, cần ăn nói thận trọng hơn.
Tôi không phủ nhận những thiếu sót, nhưng tôi không thể nào hiểu anh ta nói gì. Tôi bảo:
– Tôi là bác sĩ, khi người bệnh đến, tôi làm tất cả để chữa bệnh cho họ. Thế sai ở đâu, phải ăn nói thận trọng như thế nào?
– Được thôi, bình tĩnh đã – bạn tôi trả lời – Hãy nói nghe xem bạn đang làm việc ở đâu thế?
Tôi nhắc lại, tôi đang làm việc ở Đại học Công nhân, nhưng không biết gì về nó. Thỉnh thoảng mới có bệnh nhân mà xem ra chẳng thấy có vẻ bệnh nặng gì hết. Tóm lại tôi phí hoài thời gian.
Anh bạn tôi cười phá lên, trả lời:
– Bạn nói chưa khi nào nhìn thấy Đại học tương tự như thế phải không? Thế bạn đã để ý tới lính canh hay không? Có bao giờ bạn đặt câu hỏi vì sao công việc của bạn lại bí mật? Này nhé, bạn thân mến của tôi ơi, bạn đang làm việc chẳng phải ở Đại học đâu. Nơi bạn đang làm bây giờ là đầu não của các cơ quan cao cấp đảng cộng sản Trung Quốc, bệnh viện của bạn phục vụ những người lãnh đạo đảng không những hàng trung cấp mà còn cả hàng cao cấp nữa, họ sống tạm ở đó vì lý do an ninh, bởi vì Bắc Kinh giải phóng chưa lâu. Vì thế, việc của bạn được giữ bí mật. Sau này bạn sẽ tự hiểu thêm, nhưng trong lúc này đừng biểu lộ gì về tình trạng bệnh viện. Tạm thời trang bị tồi, ít bệnh nhân, nhưng bạn làm việc ở chỗ rất có uy tín, rồi sẽ gặp nhiều người chức vụ cao. Chính vì thế, sếp tôi đã cho phép nói thẳng với bạn chuyện bí mật này.
Khi đó tôi không tiện hỏi sếp bạn tôi tên gì, nhưng sau này tôi hiểu ra rằng ông ta là Giang Nam Thanh, phó bí thư Đoàn thanh niên Tân Dân chủ, năm 1965 giữ chức Bộ trưởng giáo dục.
Tôi trở về tổ quốc với ước mơ trở thành nhà phẫu thuật, giúp đất nước thông qua lĩnh vực y học, không ngờ rơi vào cơ quan trung ương đảng cộng sản Trung Quốc. Bắc Kinh vừa mới được giải phóng, nội chiến vẫn tiếp diễn, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa vẫn chưa chính thức ra đời. Trước khi lập chính phủ và chuyển giao quyền lực, các lãnh tụ cộng sản quyết định nằm lại ở Đồi Hương. Tại đấy có Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc, các cơ quan trực thuộc, cả Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức – ba trong số những lãnh tụ cao cấp đảng cũng sống ở đó, chỉ có Chu Ân Lai và Nhậm Bích Thế ở chỗ khác.
Phòng điều trị nơi tôi làm việc không liên quan gì đến trường Đại học, nó trực thuộc dưới quyền của một cơ quan đại diện, sau khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, thuộc Văn phòng Trung ương, Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản do Dương Thượng Côn phụ trách, 40 năm sau, năm 1988, ông trở thành Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Ban tổ chức thuộc Ban chấp hành trung ương lo việc an ninh, sinh hoạt của tổ chức, hoạt động rất hiệu quả của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc – Mao và 4 bí thư cao cấp. Ban tổ chức là cơ quan bí mật nhất, thậm chí ngay cả nhân viên cũng không biết gì về cơ cấu và chức năng của nó. Chỉ có giới chức chóp bu trong đảng biết mà thôi.
Đầu thập niên 1950 Văn phòng Trung ương gồm 8 ban, quyền lực ngang nhau.
– Vũ Trần Phổ và La Đạo Nhương phụ trách Ban Hành chính-quản trị. Chịu trách nhiệm cung cấp phương tiện làm việc cho các lãnh tụ đảng, cung cấp đồ ăn, mọi thứ cần thiết, sửa chữa, xây dựng nhà cửa cho công việc cũng như cho cá nhân, lo xe cộ, phương tiện giao thông và liên lạc và các tiền nong.
– Uông Đông Hưng phụ trách Ban Bảo vệ trung ương, sau này ông kiêm chức thứ trưởng bộ công an do La Thuỵ Sinh làm bộ trưởng, đảm bảo anh ninh và sức khoẻ cho giới lãnh đạo đảng. Ngoài phần lo bảo vệ tất cả lãnh tụ đảng, Uông Đông Hưng cũng lo luôn an ninh cho chính Mao, vì thế Uông luôn luôn nằm ngoài tầm kiểm soát. Hệ thống an ninh, thậm chí trong thời ấy, được thanh lọc kỹ càng. Giúp Uông chăm lo sức khoẻ lãnh đạo còn Bộ y tế, đứng đầu là Phó Liêm Chương. Điều làm tôi hết sức ngạc nhiên, ngay việc phục vụ chụp ảnh lãnh tụ thậm chí cũng nằm dưới sự kiểm soát của Uông Đông Hưng.
– Diệp Tử Long phụ trách Ban thư ký riêng lo tổ chức, tiến hành các buổi hội thảo của đảng và tuyên truyền, ghi văn bản các bài phát biểu, gửi, nhận bưu kiện, văn thư. Bản thân Diệp Tử Long còn là thư ký tin cẩn của Mao. Với tư cách này, Diệp phải theo sát để cung cấp cho lãnh tụ tất cả các thứ cần thiết bao gồm thức ăn, tiền nong, vào sổ và bảo quản tất cả quà biếu gửi tới Mao. Theo nguyên tắc cơ bản, công việc thư ký thường là người phục vụ riêng cho lãnh đạo.
Ban thư ký riêng có trách nhiệm cung cấp cho lãnh đạo tất cả các thông tin cần thiết, cũng như các văn bản báo cáo và tài liệu. Năm 1949 phụ trách bộ phận này là Trần Bá Đạt, trưởng ban thư ký riêng của Mao. Ngoài ra chủ tịch còn có một số thư ký khác trong đó có Giang Thanh vợ ông, Hồ Kiều Mục và Điền Gia Anh. Những nhà lãnh đạo khác cũng có ban thư ký như thế số lượng khác nhau và các bà vợ của chính giới lãnh đạo cũng tham gia ban này.
– Ban Bảo vệ nội bộ do Lý Chí Dương và Ban Thông tin cơ mật do Vương Khải đứng đầu là cơ quan bí mật nhất của Văn phòng Trung ương. Đa số nhân viên trẻ tuổi, tài năng làm việc ở đó. Họ phải có trí nhớ tuyệt vời, nhiệm vụ của họ hoá mã và giải mã các thông tin khác nhau chủ yếu các bức điện đặc biệt. Bộ mã ấy khác hẳn với bộ mã điện báo chính thức của Trung Quốc, thường xuyên thay đổi để bảo toàn bí mật. Nó dùng để truyền tin bí mật trong nội bộ lãnh đạo trung ương xuống địa phương, tới giới quân sự cao cấp. Nhân viên được đào tạo trong một trường đặc biệt ở Trương Dương Kiều, tỉnh Hà Bắc, mỗi nhân viên cơ yếu đều mang một bí số riêng. Họ phải nhớ bộ khoá và giải mã, cấm ghi chép, không có sổ tay tra cứu. Khi lớn tuổi, trí nhớ giảm, họ chuyển sang việc khác.
Ban Thông tin cơ mật đảm bảo an toàn bí mật tuyệt đối khi truyền và nhận thông tin giữa các nhà lãnh đạo đảng với quân đội trong nước. Phần đông cán bộ của cơ quan này xuất thân từ thành phần cơ bản, thường ít được học hành, thậm chí mù chữ. Họ làm công việc giao liên, đưa chỉ thị xuống các tỉnh xa xôi hẻo lánh khắp Trung Hoa. Người ta không đòi hỏi họ trí tuệ mà cần lòng trung thành tuyệt đối về mặt chính trị.
– Ban Văn Khố do Tăng Sơn phụ trách có nhiệm vụ ghi chép các số liệu lưu trữ.
– Ban Hậu cần vận tải do Đặng Đình Tường phụ trách đảm nhận cung ứng vận tải để cung cấp tất cả các thứ cần thiết cho cơ quan đảng.
Bệnh viện Đồi Hương trực thuộc dưới quyền La Đạo Nhương và Phó Liêm Chương, có nhiệm vụ bảo vệ sức khoẻ của tất cả những người làm việc trong tổ chức. Tất cả biên chế của Văn phòng Trung ương, từ những nhà lãnh đạo cao cấp đến nhân viên quèn và gia đình họ, đều là bệnh nhân của tôi. Một nhóm toàn người trẻ tuổi, khỏe mạnh hiếm khi đến khám, nếu có đến đa số bệnh nhẹ, tôi không hứng thú vì tôi là bác sĩ phẫu thuật. Tôi rất thất vọng vì ước mơ của tôi thành bác sĩ phẫu thuật não bị tan thành mây khói, ở Đồi Hương tôi là bác sĩ duy nhất có bằng cấp Tây phương được quen biết nhiều gương mặt những người lãnh đạo. Còn trẻ, có lý tưởng, khi trở về Bắc Kinh tôi lấy làm tự hào được làm việc bên cạnh lãnh đạo quyền lực của đảng. Tôi đều kính trọng, ngưỡng mộ tất cả các bệnh nhân. Những con người này thực hiện cuộc cách mạng, sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc của chúng ta. Họ rời gia đình từ thời thanh niên trai trẻ tham gia Vạn Lý Trường Chinh, chịu đựng nhiều gian khổ và mất mát. Họ làm nên chiến thắng chói loà đối với chính phủ tham nhũng, vô dụng Tưởng Giới Thạch. Họ cống hiến toàn bộ sinh lực của mình cho sự nghiệp xây dựng một nước Trung Hoa mới, coi thường lợi ích và quyền lợi cá nhân. Trước đó, tôi chưa hề gặp những người như thế, tôi thành tâm kính phục lòng dũng cảm và tin vào tương lai đất nước.
Là một thành viên mới ở giữa trung tâm của cuộc cách mạng Trung Quốc, sung sướng không những đã trở thành người chứng kiến việc thành lập chính thức nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, mà còn được vinh dự ngồi trên hàng ghế đầu bên cạnh những lập nên nó.
Đó là ngày 1-10-1949. Tất cả mọi người ở Đồi Hương thức dậy lúc 5 giờ sáng, một buổi sáng tinh sương không khí tươi mát đến ngạc nhiên, để lên đường vào Bắc Kinh được trang hoàng đẹp đẽ trong buổi sáng ngày ấy. Xe tải chở chúng tôi đến quảng trường Thiên An Môn, chưa tới 7 giờ. Chúng tôi tập hợp đội ngũ ở chiếc cầu đá gần cổng Thiên Bình, cổng này thời cổ là lối vào Cấm Thành. Hồi ấy quảng trường nhỏ hơn bây giờ, ở đó nhiều nhà nghỉ trong những năm trước đây dùng cho quan lại triều kiến hoàng đế. Toà nhà Hội nghị đại biểu toàn quốc và bảo tàng cách mạng được xây trên quảng trường vào năm 1959, nhân dịp 10 năm thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Khi chúng tôi đến, trên quảng trường đã có nhiều đám đông – đại diện nông dân, công nhân, trí thức và dân chúng trên khắp đất nước rộng lớn. Tôi thấy rõ lễ đài, trước khi khai mạc đã có nhiều nhà lãnh đạo đất nước. Trước biển người hàng nghìn lá cờ đỏ vẫy tung, Bắc Kinh điêu tàn đổ nát dường như được tiếp máu và hồi sinh. Đám đông người hô lớn: “Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa muôn năm! Đảng cộng sản Trung Quốc muôn năm!”. Vang lên bài hát cách mạng. Đám đông người lạc quan cầm biểu ngữ vừa đi vừa hát vang tiến vào quảng trường tăng dần.
Đúng 10 giờ, Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo cao cấp khác xuất hiện trên lễ đài. Trời đất như nổ tung. Mao là thần tượng của tôi, anh tôi giải thích, đây là vị lãnh tụ vĩ đại, cứu tinh của Trung Quốc. Hôm ấy, tôi lần đầu tiên thấy Mao. Thậm chí làm việc ở Đồi Hương tôi không thấy ông, dù rằng tôi sống cách không xa dinh thự ông là mấy.
Mao cao lớn khoẻ mạnh, tròn 56 tuổi trước đây chưa lâu, nhưng trông ông khá trẻ. Khuôn mặt đôn hậu, dưới mái tóc đen và dầy là vầng trán cao. Giọng ông vang lên, âm vang, phong thái toát lên vẻ tự tin, mạnh mẽ. Ông mặc bộ quân phục như trong ảnh mà mọi người thấy trên sách báo. Chính phủ mới đã được thành lập, Mao phát biểu với tư thế của Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, đại diện không phải cho đảng, mà cho chính quyền nhà nước. Ông mặc bộ quần áo xám xẫm giống hệt bộ quần áo Tôn Trung Sơn đã mặc (những năm sau trang phục này mang tên Mao Trạch Đông), đầu ông đội chiếc mũ công nhân thường đội trong các ngày lễ. Trên lễ đài đứng cạnh ông là những nhân vật đại diện cho những người không đảng phái và tổ chức như để xác nhận sự tồn tại của một mặt trận thống nhất. Bà Tống Khánh Linh đẹp đẽ, vợ goá của Tôn Trung Sơn, người đánh đổ triều đại phong kiến cuối cùng, mở cho Trung Quốc con đường chính trị mới phát triển.
Mao Trạch Đông trở thành trung tâm của sự chu ý, nhưng phong cách trang nghiêm, không khí hoà hợp, không tỏ vẻ của sự cao ngạo. Tôi đã nhiều lần thấy Tưởng Giới Thạch, khi hắn còn nắm quyền lực. Tưởng luôn luôn tỏ ra cách biệt với người khác, thích được thuộc hạ tâng bốc. Mao tỏ ra khác hẳn.
Mao có sức thu hút như nam châm. Dù rằng ông không phát biểu theo giọng Bắc Kinh chính gốc, pha giọng Hồ Nam nhưng cũng được đón nhận một cách đáng yêu. Với giọng mượt mà, sang sảng ông thôi miên đám công chúng. “Nhân dân Trung Quốc đã vùng dậy” – Mao tuyên bố, đám đông cuồng nhiệt đáp lại lời ông bằng tiếng vỗ tay như sấm dậy, những tiếng hô vang dội không ngừng: “Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa muôn năm!” “Đảng cộng sản Trung Quốc muôn năm!” Tim tôi rung lên vì sung sướng, mắt tôi tràn lệ vì hạnh phúc. Tôi rất tự hào về nước mình tin vào tương lai thịnh vượng của nó. Những năm bị đè đầu cưỡi cổ, ách nô lệ và tủi nhục vĩnh viễn trôi qua. Tôi tin rằng Mao là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Trung Hoa, người khai sinh ra lịch sử nước Trung Hoa mới. Tôi đứng cách ông chỉ vài bước chân, nhưng tôi cảm thấy sao mà xa thế. Tôi là một bác sĩ quèn, còn ông là lãnh tụ cách mạng vĩ đại. Ngày hôm ấy tôi thậm chí không thể hình dung rằng chỉ một thời gian sau tôi thành bác sĩ riêng của ông, theo sát ông 22 năm liền và chứng kiến cái chết của ông.
Tháng 12-1949, sau ngày lễ không lâu, Mao Trạch Đông đến Moskova, ông ở đấy vài tháng hội thảo, điều đình, ký với Stalin Hiệp định hữu nghị và hợp tác giữa Trung Quốc và Liên Xô. Tháng 2-1950 ông quay về Trung Quốc, ngay sau đó chuyển từ Đồi Hương về Trung Nam Hải. Tư dinh của ông là cung điện nằm trên vườn thượng uyển trong Cấm Thành. Các nhà lãnh đạo đảng cộng sản lần lượt chuyển về đây chiếm các ngôi nhà sang trọng của vua trước đây. Ở Đồi Hương chỉ còn lại Ban hành chính quản trị và Ban bảo mật tài liệu. Bệnh viện chúng tôi chia làm đôi. Một phần ở Bắc Kinh để chữa các nhà lãnh đạo và phần còn lại nằm lại Đồi Hương do tôi phụ trách.
Nếu không gặp chuyện ngẫu nhiên, đời tôi có thể đã khác.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [4]
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Bắc Kinh hoang tàn và tiêu điều. Sau tám năm Nhật chiếm đóng, bốn năm nội chiến, phố xá trở nên ngổn ngang, bẩn thỉu, những bức tường dày bao quanh Thành Nội bị lở từng mảng, có chỗ đã bắt đầu sập. Các biển quảng cáo vui mắt, sặc sỡ cũng biến mất khỏi các cửa hiệu và quầy hàng, những quán sách thân thương của tôi ở Lưu Linh Chương đóng cửa im ỉm dường như lâu lắm rồi.
Dân tình xem ra nghèo đói, nhếch nhác chẳng khác gì bộ mặt thành phố. Đàn ông, đàn bà chỉ mặc những chiếc bộ quần áo cũ kỹ màu ghi đá hoặc xanh xám đã bạc phếch. Mỗi người đều có một đôi giày bằng vải buồm thô màu đen, tóc cắt ai cũng giống ai. Đàn ông tóc húi cua, đàn bà búi tó sau lưng. Tôi mặc com-lê Tây phương, cà vạt, giày da bóng lộn, tóc chải mượt giống y như người nước ngoài. Lý Liên váy áo sặc sỡ, giầy cao gót, tóc thời trang uốn thành nếp tuyệt đẹp, nàng nổi bật trông giống bông hoa anh túc đỏ rực trên cánh đồng lúa mì vàng óng. Tôi phải mượn ngay bộ đồng phục mà mấy ông cộng sản đã khuyên. Lý Liên đến ngay cửa hàng may đo đặt may một bộ áo quần giống mọi người.
Mẹ tôi thay đổi quá. Bà già đi nhiều, trông khắc khổ, gầy nhom, nặng chưa tới 40 ki-lô, tóc bạc, nhưng rất sung sướng khi thấy chúng tôi quay về, cầu mong chúng tôi đừng bỏ nhà đi nữa. Tôi hứa ở lại với bà.
Dù nghèo, nhưng khí thế của dân Bắc Kinh sôi nổi. Khắp chốn, khắp nơi những khuôn mặt tràn trề hạnh phúc. Bắc Kinh được tự do, dân chúng chân thành chào mừng chính phủ cộng sản mới. Trong thành phố bao trùm bầu không khí thân thiện tin tưởng vào hạnh phúc. Chỉ một số ít bạn bè, họ hàng cho rằng việc tôi trở về là dại dột, không thể chấp nhận được.
Anh tôi thu xếp cho tôi gặp Phó Liêm Chương để thảo luận vấn đề công việc của tôi. Tôi đến nhà Phó. Ông sống trong toà nhà của Bộ y tế phân cho. Toà nhà nằm ở đường Quảng Xương phía bắc trung tâm thương mại Vương Phú Thanh. Toà nhà này từng là nơi ở của hoàng tử Mãn Châu, sau đó một tướng Quốc dân đảng chiếm cho đến khi cộng sản tịch thu. Biệt thự này có kiểu cách làm tôi nghĩ tới ngôi nhà của chúng tôi, nhưng nó rộng, sang trọng, lộng lẫy hơn nhiều. Phía sau biệt thự có 6 vườn nhỏ, với 7 hay 8 gốc nho đang leo giàn, hòn non bộ nước chảy róc rách theo phong cách Trung Hoa truyền thống, lối đi lát gạch tráng men.
Khi tôi đến, Phó Liêm Chương nửa ngồi nửa nằm trên trường kỷ làm bằng trúc bện song. Ông dáng người cao, hơi gầy, vẻ ốm yếu mệt mỏi, vầng trán cao vuông vắn, đôi mắt tinh ranh. Ông chừng 55, hơn tôi tới 26 tuổi, trông có vẻ già trước tuổi.
Khi tôi đến, Phó Liêm Chương cũng chẳng đứng dậy, chỉ chìa tay cho tôi bắt. Bàn tay mềm mại của một trí thức. Tôi thấy vinh dự khi được viếng thăm một quan chức cao cấp như ông.
– Tôi đã bị ho lao mấy năm nay, vì thế tôi không thể nói chuyện lâu với đồng chí được – ông ta giải thích, sau khi hoan nghênh tôi đã hồi hương rồi hỏi tỷ mỉ về học hành, kinh nghệm làm việc. Vừa nghĩ ngợi, ông nói tiếp:
– Vấn đề công việc của đồng chí đã được giải quyết. Sáng mai đồng chí có mặt ở Cục Bảo vệ sức khoẻ.
Chính phủ mới vẫn hoàn toàn chưa thành hình, chức năng quyền lực điều hành tạm thời trao cho Uỷ ban quân quản thuộc đảng cộng sản Trung Quốc. Cục Bảo vệ sức khoẻ trực thuộc Uỷ ban này.
Tại Cục Bảo vệ sức khoẻ tôi được tiếp đón nồng nhiệt. Một cán bộ nói với tôi, ở đây còn thiếu bác sĩ điều trị và kể, anh tôi từng là sếp của anh ta.
Một cán bộ trong phòng nói:
– Thứ trưởng Phó Liêm Chương bảo đồng chí sẽ trở thành các bộ của Cục chúng tôi – anh ta giải thích – Chúng tôi ở đây hưởng chế độ bao cấp miễn phí. Lãnh đạo đảm bảo cho đồng chí mọi thứ cần thiết: nhà cửa, chỗ làm việc, quần áo, thậm chí cả giày dép nữa. Vì đồng chí sẽ đảm đương công việc bác sĩ trưởng điều trị, đồng chí sẽ nhận bậc lương hạng hai, khẩu phần cao hơn chút ít so với anh em.
Hệ thống “bao cấp miễn phí” nghĩa là tôi sẽ chẳng có lương. Đảng cộng sản thi hành hai dạng trả công cho viên chức nhà nước. Ai tham gia cách mạng chưa lâu, bắt đầu làm cho đảng nhận lương bình thường, ai tham gia cách mạng lâu năm được cung cấp toàn phần. Những người tham gia tình nguyện nhận kiểu riêng. Tôi thuộc hạng “tình nguyện theo cách mạng”. Dù tôi là người mới vào nhưng vẫn được vinh dự thuộc hạng được nhà nước cho hưởng chế độ cung cấp toàn phần.
Nhưng tôi vẫn băn khoăn, chẳng vui chút nào. Giờ đây gia đình tôi đông người, phải nuôi mẹ, hai bà cô, bố mẹ vợ và cả Lý Liên nữa. Thật ra tôi cũng đã để dành được ít vàng và Mỹ kim, nhưng nếu không có lương, số tiền dành dụm đó chẳng mấy chốc mà bay.
Chỉ khi gặp đồng chí Lại tôi nhận được một số hướng dẫn về nhiệm vụ sắp tới của mình.
– Đồng chí Lại sẽ dẫn đồng chí tới chỗ làm việc Khu Điều trị bệnh nhân ngoại trú tại Đại học Công Nhân ở Đồi Hương – người ta nói cho tôi biết – bây giờ đồng chí cứ về nhà, thu xếp tất cả đồ dùng cần thiết. Báo cáo lại cho tôi sau một tuần lễ tính từ hôm nay. Xe tải sẽ chở đồng chí đến chỗ làm. Đồng chí Lại sẽ đi cùng đồng chí.
Thời gian gặp chẳng nói rõ, thậm chí chẳng ai hỏi xem tôi có muốn làm ở chỗ mà họ phân công ra hay không. Tôi đâm ra lúng túng, bởi vì tôi chưa bao giờ nghe đến tên trường Đại học Công Nhân này mặc dù tôi vui vì được làm việc ở trường Đại học. Nhưng dù sao tôi cũng rất muốn công việc ở trường Đại học phải có liên quan tới bệnh viện tôi mơ ước. Giờ đây tôi được giới thiệu làm việc phòng điều trị bệnh nhân ngoại trú, chẳng như lời đã hứa.
Hơn nữa, tôi biết Cục Bảo vệ sức khoẻ cũng chẳng kiếm được việc cho Lý Liên. Người ta chỉ xếp vợ tôi làm việc tạm thời ở trường mẫu giáo cách Bắc Kinh 20 ki lô mét, nơi có viện đào tạo nhân viên y tế cộng đồng ở quận Tống. Khả năng, trình độ của Lý Liên người ta chẳng quan tâm. Thật bực mình, chả lẽ họ so sánh công việc được giao ngang với công việc của vợ tôi đã từng làm ở lãnh sự Anh bên Hong Kong? Chuyện hồi hương xem ra không thuận lợi chút nào, tôi cay đắng nghĩ rằng tại sao mình lại không tặng chiếc đồng hồ Rolex cho Dương.
– Chú về chưa lâu nên chưa thể hiểu tất cả cái gì đang xảy ra ở đất nước – anh tôi an ủi – Ở đây không phải người chọn việc mà việc chọn người. Điều này nghĩa là “chấp hành sự phân công của tổ chức”. Về lương, chú tạm thời sử dụng tiền tiết kiệm. Dần dà mọi thứ sẽ đâu vào đấy. Điều luật đảng không cho phép anh nói thêm.
Cơ quan được gọi là Đại học Công Nhân đặt ở Xương Sơn hay còn có tên Đồi Hương, phía tây bắc thành phố Bắc Kinh, cách cung điện cổ Mùa Hạ vài dặm, một khu đồi đi săn của hoàng đế Càn Long khi đương quyền đã xây dựng. Ở đây có hai chùa phật nổi tiếng – Phật Nằm và Thanh Thiên Vân tự. Mùa thu, hàng cây thông chuyển sang màu bạc, các cây khác lá chuyển màu đỏ thẫm mọc bên đồi tạo ra bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Đại học Công Nhân chiếm một khu rộng lớn ở Đồi Hương, nơi đây rất nhộn nhịp và nổi tiếng.
Khu này thật kỳ lạ, chỗ nào cũng có lính canh gác. Hai quan chức cao cấp, cán bộ lão thành cách mạng của đảng – Vũ Trần Phổ và La Đạo Nhương, giám đốc và phó giám đốc Cục Bảo vệ dưới quyền trực tiếp Tổng Hành dinh của Uỷ Ban Trung ương Đảng cộng sản, đưa tôi thăm trường. Tại đây, hầu hết là cán bộ cao cấp của đảng. Vũ Trần Phổ phát cho tôi tất cả các thứ cần thiết, trao cho huy hiệu của trường, nhắc nhở phải giữ gìn nó như con ngươi của mình. Ông dặn tôi:
– Đừng kể cho ai những gì xảy ra ở đây, công việc của anh thuộc bí mật.
Lúc đó tôi chẳng hiểu vì lẽ gì.
Khu tập thể tôi ở nằm dọc hàng cây thoai thoải phía đồi, trong dẫy nhà gỗ xem ra không tương xứng với cung vua lộng lẫy trên đồi. Đó là một căn phòng tồi tàn, nền đất, mái dột nát, không thể nào tưởng tượng nổi, bởi tôi sinh ra trong một gia đình giàu có. Duy nhất trong phòng có một bóng đèn điện toả ánh sáng đỏ quạch. Giường nằm là hai miếng ván kê trên hai cái niễng, không thành giường, đệm nằm cũng không. Nước, tất nhiên cũng không nốt, phía sau là nhà vệ sinh công cộng. Tôi phải dùng chăn bông mỏng xếp lại thành đệm để nằm. Sau đó người ta lắp bình nước, khí đốt, bồn rửa mặt. Với chức vụ bác sĩ tôi không phải ở chung với người khác. Điều kiện ăn ở tồi tệ đến mức tôi không thể đưa Lý Liên đến ở cùng, chúng tôi chỉ gặp nhau cuối tuần ở nhà mẹ, nơi tôi thường về để nghỉ và tắm giặt.
Bữa ăn cũng lại thể hiện đẳng cấp, chức vụ của tôi. Ngày hai bữa theo phong tục gia đình nông dân Trung Hoa: mười giờ sáng và bốn giờ chiều. Nhưng khác với nông dân bữa ăn hiếm khi có thịt, chúng tôi theo khẩu phần hạng hai, thịt được cung cấp hàng ngày. Nhà ăn tập thể cũng chẳng gì hơn khu tôi, nhưng món ăn được nấu khéo léo, thậm chí lại còn ngon, nhà bếp sạch đến ngạc nhiên.
Chỗ làm việc trong bệnh viện còn làm tôi kinh ngạc hơn. Đó cũng lại là cái lều nông thôn, nền đất chẳng có một tí thiết bị y tế nào cả, trừ vài cái nhiệt kế, vài bộ đo huyết áp. Trong số thuốc thang, tôi chỉ thấy aspirin, thuốc ho nước, vài loại kháng sinh. Khi khám bệnh tôi chỉ có mỗi chiếc ống nghe với kinh nghiệm tay nghề của mình để chẩn đoán, điều trị. Hy vọng chẳng có bệnh nhân nặng nào chui vào đây.
Dù vậy, nhân viên trong bệnh viện rất lạc quan, tinh thần rất cao. Trong biên chế có gần 30 người, họ chờ đợi sự xuất hiện của tôi từ lâu. Gặp tôi họ mừng ra mặt. Tất cả đều rất trẻ, phần lớn trẻ hơn tôi mặc dù tôi mới 29. Ngay cả hai người phụ trách cũng không quá 25 tuổi. Đám nhân viên được đảng lựa chọn từ nông thôn vùng ngoại ô, mới học hết tiểu học. Vì thế họ chỉ làm được công việc sơ cứu – băng vết thương nhỏ, cho uống aspirin khi sốt, không có một chút kiến thức cơ bản về bệnh tật, làm sao có thể chẩn đoán bệnh được. Họ bảo tôi:
– Chúng tôi tin rằng đồng chí sẽ dậy chúng tôi kiến thức y học hiện đại. Chúng tôi hoàn toàn chưa hiểu biết gì cả.
Họ rất muốn tôi giảng bài cho họ. Tôi thất kinh, làm sao tôi có thể giảng dạy với trình độ học vấn của họ chỉ có như vậy.
Một người bạn cũ đã 11 năm xa cách, anh đến thăm trong ngày nghỉ cuối tuần đầu tiên ở nhà mẹ tôi. Chúng tôi ôn lại kỷ niệm đã qua, trao đổi với nhau về tình hình đất nước. Anh bạn tôi vào đảng từ nhiều năm trước, bây giờ làm việc ở Đoàn thanh niên Tân Dân chủ, tiền thân của Đoàn Thanh niên cộng sản Trung Quốc. Tôi kể cho bạn tôi nghe về công việc của mình ở phòng khám của trường Đại học Công Nhân ở Đồi Hương:
– Đây là một trường Đại học quá rộng, nơi nào cũng có lính cầm súng gác. Cả đời tôi chưa thấy trường Đại học nào lại như vậy.
Anh ta đột nhiên nghiêm mặt nói:
– Nói thật nhá, mình được lệnh của các đồng chí lãnh đạo của tổ chức đến đây trao đổi cởi mở với cậu. Họ yêu cầu mình uốn nắn những sai lầm cậu có thể mắc phải vì mới tham gia cách mạng.
Anh bạn nhận xét rằng tôi vẫn còn hiểu quá ít về công tác cách mạng, cần ăn nói thận trọng hơn.
Tôi không phủ nhận những thiếu sót, nhưng tôi không thể nào hiểu anh ta nói gì. Tôi bảo:
– Tôi là bác sĩ, khi người bệnh đến, tôi làm tất cả để chữa bệnh cho họ. Thế sai ở đâu, phải ăn nói thận trọng như thế nào?
– Được thôi, bình tĩnh đã – bạn tôi trả lời – Hãy nói nghe xem bạn đang làm việc ở đâu thế?
Tôi nhắc lại, tôi đang làm việc ở Đại học Công nhân, nhưng không biết gì về nó. Thỉnh thoảng mới có bệnh nhân mà xem ra chẳng thấy có vẻ bệnh nặng gì hết. Tóm lại tôi phí hoài thời gian.
Anh bạn tôi cười phá lên, trả lời:
– Bạn nói chưa khi nào nhìn thấy Đại học tương tự như thế phải không? Thế bạn đã để ý tới lính canh hay không? Có bao giờ bạn đặt câu hỏi vì sao công việc của bạn lại bí mật? Này nhé, bạn thân mến của tôi ơi, bạn đang làm việc chẳng phải ở Đại học đâu. Nơi bạn đang làm bây giờ là đầu não của các cơ quan cao cấp đảng cộng sản Trung Quốc, bệnh viện của bạn phục vụ những người lãnh đạo đảng không những hàng trung cấp mà còn cả hàng cao cấp nữa, họ sống tạm ở đó vì lý do an ninh, bởi vì Bắc Kinh giải phóng chưa lâu. Vì thế, việc của bạn được giữ bí mật. Sau này bạn sẽ tự hiểu thêm, nhưng trong lúc này đừng biểu lộ gì về tình trạng bệnh viện. Tạm thời trang bị tồi, ít bệnh nhân, nhưng bạn làm việc ở chỗ rất có uy tín, rồi sẽ gặp nhiều người chức vụ cao. Chính vì thế, sếp tôi đã cho phép nói thẳng với bạn chuyện bí mật này.
Khi đó tôi không tiện hỏi sếp bạn tôi tên gì, nhưng sau này tôi hiểu ra rằng ông ta là Giang Nam Thanh, phó bí thư Đoàn thanh niên Tân Dân chủ, năm 1965 giữ chức Bộ trưởng giáo dục.
Tôi trở về tổ quốc với ước mơ trở thành nhà phẫu thuật, giúp đất nước thông qua lĩnh vực y học, không ngờ rơi vào cơ quan trung ương đảng cộng sản Trung Quốc. Bắc Kinh vừa mới được giải phóng, nội chiến vẫn tiếp diễn, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa vẫn chưa chính thức ra đời. Trước khi lập chính phủ và chuyển giao quyền lực, các lãnh tụ cộng sản quyết định nằm lại ở Đồi Hương. Tại đấy có Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc, các cơ quan trực thuộc, cả Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức – ba trong số những lãnh tụ cao cấp đảng cũng sống ở đó, chỉ có Chu Ân Lai và Nhậm Bích Thế ở chỗ khác.
Phòng điều trị nơi tôi làm việc không liên quan gì đến trường Đại học, nó trực thuộc dưới quyền của một cơ quan đại diện, sau khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, thuộc Văn phòng Trung ương, Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản do Dương Thượng Côn phụ trách, 40 năm sau, năm 1988, ông trở thành Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Ban tổ chức thuộc Ban chấp hành trung ương lo việc an ninh, sinh hoạt của tổ chức, hoạt động rất hiệu quả của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc – Mao và 4 bí thư cao cấp. Ban tổ chức là cơ quan bí mật nhất, thậm chí ngay cả nhân viên cũng không biết gì về cơ cấu và chức năng của nó. Chỉ có giới chức chóp bu trong đảng biết mà thôi.
Đầu thập niên 1950 Văn phòng Trung ương gồm 8 ban, quyền lực ngang nhau.
– Vũ Trần Phổ và La Đạo Nhương phụ trách Ban Hành chính-quản trị. Chịu trách nhiệm cung cấp phương tiện làm việc cho các lãnh tụ đảng, cung cấp đồ ăn, mọi thứ cần thiết, sửa chữa, xây dựng nhà cửa cho công việc cũng như cho cá nhân, lo xe cộ, phương tiện giao thông và liên lạc và các tiền nong.
– Uông Đông Hưng phụ trách Ban Bảo vệ trung ương, sau này ông kiêm chức thứ trưởng bộ công an do La Thuỵ Sinh làm bộ trưởng, đảm bảo anh ninh và sức khoẻ cho giới lãnh đạo đảng. Ngoài phần lo bảo vệ tất cả lãnh tụ đảng, Uông Đông Hưng cũng lo luôn an ninh cho chính Mao, vì thế Uông luôn luôn nằm ngoài tầm kiểm soát. Hệ thống an ninh, thậm chí trong thời ấy, được thanh lọc kỹ càng. Giúp Uông chăm lo sức khoẻ lãnh đạo còn Bộ y tế, đứng đầu là Phó Liêm Chương. Điều làm tôi hết sức ngạc nhiên, ngay việc phục vụ chụp ảnh lãnh tụ thậm chí cũng nằm dưới sự kiểm soát của Uông Đông Hưng.
– Diệp Tử Long phụ trách Ban thư ký riêng lo tổ chức, tiến hành các buổi hội thảo của đảng và tuyên truyền, ghi văn bản các bài phát biểu, gửi, nhận bưu kiện, văn thư. Bản thân Diệp Tử Long còn là thư ký tin cẩn của Mao. Với tư cách này, Diệp phải theo sát để cung cấp cho lãnh tụ tất cả các thứ cần thiết bao gồm thức ăn, tiền nong, vào sổ và bảo quản tất cả quà biếu gửi tới Mao. Theo nguyên tắc cơ bản, công việc thư ký thường là người phục vụ riêng cho lãnh đạo.
Ban thư ký riêng có trách nhiệm cung cấp cho lãnh đạo tất cả các thông tin cần thiết, cũng như các văn bản báo cáo và tài liệu. Năm 1949 phụ trách bộ phận này là Trần Bá Đạt, trưởng ban thư ký riêng của Mao. Ngoài ra chủ tịch còn có một số thư ký khác trong đó có Giang Thanh vợ ông, Hồ Kiều Mục và Điền Gia Anh. Những nhà lãnh đạo khác cũng có ban thư ký như thế số lượng khác nhau và các bà vợ của chính giới lãnh đạo cũng tham gia ban này.
– Ban Bảo vệ nội bộ do Lý Chí Dương và Ban Thông tin cơ mật do Vương Khải đứng đầu là cơ quan bí mật nhất của Văn phòng Trung ương. Đa số nhân viên trẻ tuổi, tài năng làm việc ở đó. Họ phải có trí nhớ tuyệt vời, nhiệm vụ của họ hoá mã và giải mã các thông tin khác nhau chủ yếu các bức điện đặc biệt. Bộ mã ấy khác hẳn với bộ mã điện báo chính thức của Trung Quốc, thường xuyên thay đổi để bảo toàn bí mật. Nó dùng để truyền tin bí mật trong nội bộ lãnh đạo trung ương xuống địa phương, tới giới quân sự cao cấp. Nhân viên được đào tạo trong một trường đặc biệt ở Trương Dương Kiều, tỉnh Hà Bắc, mỗi nhân viên cơ yếu đều mang một bí số riêng. Họ phải nhớ bộ khoá và giải mã, cấm ghi chép, không có sổ tay tra cứu. Khi lớn tuổi, trí nhớ giảm, họ chuyển sang việc khác.
Ban Thông tin cơ mật đảm bảo an toàn bí mật tuyệt đối khi truyền và nhận thông tin giữa các nhà lãnh đạo đảng với quân đội trong nước. Phần đông cán bộ của cơ quan này xuất thân từ thành phần cơ bản, thường ít được học hành, thậm chí mù chữ. Họ làm công việc giao liên, đưa chỉ thị xuống các tỉnh xa xôi hẻo lánh khắp Trung Hoa. Người ta không đòi hỏi họ trí tuệ mà cần lòng trung thành tuyệt đối về mặt chính trị.
– Ban Văn Khố do Tăng Sơn phụ trách có nhiệm vụ ghi chép các số liệu lưu trữ.
– Ban Hậu cần vận tải do Đặng Đình Tường phụ trách đảm nhận cung ứng vận tải để cung cấp tất cả các thứ cần thiết cho cơ quan đảng.
Bệnh viện Đồi Hương trực thuộc dưới quyền La Đạo Nhương và Phó Liêm Chương, có nhiệm vụ bảo vệ sức khoẻ của tất cả những người làm việc trong tổ chức. Tất cả biên chế của Văn phòng Trung ương, từ những nhà lãnh đạo cao cấp đến nhân viên quèn và gia đình họ, đều là bệnh nhân của tôi. Một nhóm toàn người trẻ tuổi, khỏe mạnh hiếm khi đến khám, nếu có đến đa số bệnh nhẹ, tôi không hứng thú vì tôi là bác sĩ phẫu thuật. Tôi rất thất vọng vì ước mơ của tôi thành bác sĩ phẫu thuật não bị tan thành mây khói, ở Đồi Hương tôi là bác sĩ duy nhất có bằng cấp Tây phương được quen biết nhiều gương mặt những người lãnh đạo. Còn trẻ, có lý tưởng, khi trở về Bắc Kinh tôi lấy làm tự hào được làm việc bên cạnh lãnh đạo quyền lực của đảng. Tôi đều kính trọng, ngưỡng mộ tất cả các bệnh nhân. Những con người này thực hiện cuộc cách mạng, sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc của chúng ta. Họ rời gia đình từ thời thanh niên trai trẻ tham gia Vạn Lý Trường Chinh, chịu đựng nhiều gian khổ và mất mát. Họ làm nên chiến thắng chói loà đối với chính phủ tham nhũng, vô dụng Tưởng Giới Thạch. Họ cống hiến toàn bộ sinh lực của mình cho sự nghiệp xây dựng một nước Trung Hoa mới, coi thường lợi ích và quyền lợi cá nhân. Trước đó, tôi chưa hề gặp những người như thế, tôi thành tâm kính phục lòng dũng cảm và tin vào tương lai đất nước.
Là một thành viên mới ở giữa trung tâm của cuộc cách mạng Trung Quốc, sung sướng không những đã trở thành người chứng kiến việc thành lập chính thức nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, mà còn được vinh dự ngồi trên hàng ghế đầu bên cạnh những lập nên nó.
Đó là ngày 1-10-1949. Tất cả mọi người ở Đồi Hương thức dậy lúc 5 giờ sáng, một buổi sáng tinh sương không khí tươi mát đến ngạc nhiên, để lên đường vào Bắc Kinh được trang hoàng đẹp đẽ trong buổi sáng ngày ấy. Xe tải chở chúng tôi đến quảng trường Thiên An Môn, chưa tới 7 giờ. Chúng tôi tập hợp đội ngũ ở chiếc cầu đá gần cổng Thiên Bình, cổng này thời cổ là lối vào Cấm Thành. Hồi ấy quảng trường nhỏ hơn bây giờ, ở đó nhiều nhà nghỉ trong những năm trước đây dùng cho quan lại triều kiến hoàng đế. Toà nhà Hội nghị đại biểu toàn quốc và bảo tàng cách mạng được xây trên quảng trường vào năm 1959, nhân dịp 10 năm thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Khi chúng tôi đến, trên quảng trường đã có nhiều đám đông – đại diện nông dân, công nhân, trí thức và dân chúng trên khắp đất nước rộng lớn. Tôi thấy rõ lễ đài, trước khi khai mạc đã có nhiều nhà lãnh đạo đất nước. Trước biển người hàng nghìn lá cờ đỏ vẫy tung, Bắc Kinh điêu tàn đổ nát dường như được tiếp máu và hồi sinh. Đám đông người hô lớn: “Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa muôn năm! Đảng cộng sản Trung Quốc muôn năm!”. Vang lên bài hát cách mạng. Đám đông người lạc quan cầm biểu ngữ vừa đi vừa hát vang tiến vào quảng trường tăng dần.
Đúng 10 giờ, Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo cao cấp khác xuất hiện trên lễ đài. Trời đất như nổ tung. Mao là thần tượng của tôi, anh tôi giải thích, đây là vị lãnh tụ vĩ đại, cứu tinh của Trung Quốc. Hôm ấy, tôi lần đầu tiên thấy Mao. Thậm chí làm việc ở Đồi Hương tôi không thấy ông, dù rằng tôi sống cách không xa dinh thự ông là mấy.
Mao cao lớn khoẻ mạnh, tròn 56 tuổi trước đây chưa lâu, nhưng trông ông khá trẻ. Khuôn mặt đôn hậu, dưới mái tóc đen và dầy là vầng trán cao. Giọng ông vang lên, âm vang, phong thái toát lên vẻ tự tin, mạnh mẽ. Ông mặc bộ quân phục như trong ảnh mà mọi người thấy trên sách báo. Chính phủ mới đã được thành lập, Mao phát biểu với tư thế của Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, đại diện không phải cho đảng, mà cho chính quyền nhà nước. Ông mặc bộ quần áo xám xẫm giống hệt bộ quần áo Tôn Trung Sơn đã mặc (những năm sau trang phục này mang tên Mao Trạch Đông), đầu ông đội chiếc mũ công nhân thường đội trong các ngày lễ. Trên lễ đài đứng cạnh ông là những nhân vật đại diện cho những người không đảng phái và tổ chức như để xác nhận sự tồn tại của một mặt trận thống nhất. Bà Tống Khánh Linh đẹp đẽ, vợ goá của Tôn Trung Sơn, người đánh đổ triều đại phong kiến cuối cùng, mở cho Trung Quốc con đường chính trị mới phát triển.
Mao Trạch Đông trở thành trung tâm của sự chu ý, nhưng phong cách trang nghiêm, không khí hoà hợp, không tỏ vẻ của sự cao ngạo. Tôi đã nhiều lần thấy Tưởng Giới Thạch, khi hắn còn nắm quyền lực. Tưởng luôn luôn tỏ ra cách biệt với người khác, thích được thuộc hạ tâng bốc. Mao tỏ ra khác hẳn.
Mao có sức thu hút như nam châm. Dù rằng ông không phát biểu theo giọng Bắc Kinh chính gốc, pha giọng Hồ Nam nhưng cũng được đón nhận một cách đáng yêu. Với giọng mượt mà, sang sảng ông thôi miên đám công chúng. “Nhân dân Trung Quốc đã vùng dậy” – Mao tuyên bố, đám đông cuồng nhiệt đáp lại lời ông bằng tiếng vỗ tay như sấm dậy, những tiếng hô vang dội không ngừng: “Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa muôn năm!” “Đảng cộng sản Trung Quốc muôn năm!” Tim tôi rung lên vì sung sướng, mắt tôi tràn lệ vì hạnh phúc. Tôi rất tự hào về nước mình tin vào tương lai thịnh vượng của nó. Những năm bị đè đầu cưỡi cổ, ách nô lệ và tủi nhục vĩnh viễn trôi qua. Tôi tin rằng Mao là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Trung Hoa, người khai sinh ra lịch sử nước Trung Hoa mới. Tôi đứng cách ông chỉ vài bước chân, nhưng tôi cảm thấy sao mà xa thế. Tôi là một bác sĩ quèn, còn ông là lãnh tụ cách mạng vĩ đại. Ngày hôm ấy tôi thậm chí không thể hình dung rằng chỉ một thời gian sau tôi thành bác sĩ riêng của ông, theo sát ông 22 năm liền và chứng kiến cái chết của ông.
Tháng 12-1949, sau ngày lễ không lâu, Mao Trạch Đông đến Moskova, ông ở đấy vài tháng hội thảo, điều đình, ký với Stalin Hiệp định hữu nghị và hợp tác giữa Trung Quốc và Liên Xô. Tháng 2-1950 ông quay về Trung Quốc, ngay sau đó chuyển từ Đồi Hương về Trung Nam Hải. Tư dinh của ông là cung điện nằm trên vườn thượng uyển trong Cấm Thành. Các nhà lãnh đạo đảng cộng sản lần lượt chuyển về đây chiếm các ngôi nhà sang trọng của vua trước đây. Ở Đồi Hương chỉ còn lại Ban hành chính quản trị và Ban bảo mật tài liệu. Bệnh viện chúng tôi chia làm đôi. Một phần ở Bắc Kinh để chữa các nhà lãnh đạo và phần còn lại nằm lại Đồi Hương do tôi phụ trách.
Nếu không gặp chuyện ngẫu nhiên, đời tôi có thể đã khác.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [4]
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 4
Posted: 11/06/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Một quan chức bị ốm và chết do viêm não Nhật Bản, tôi cấp tốc được triệu về Trung Nam Hải. Dịch viêm não Nhật Bản truyền qua muỗi đốt, muỗi lại rất nhiều ở Bắc Kinh đặc biệt vào mùa hè và mùa thu. Vì thế trường hợp sốt do viêm não ở đây không phải hiếm. Các nhà chuyên môn thời kỳ đó khuyên nên theo dõi hội chứng căn bệnh nguy hiểm này, nó phá huỷ não. Giai đoạn đầu của bệnh có thể bị ngăn chặn bằng thuốc đông y cổ truyền, triệu chứng giống như cúm. Tuy nhiên nếu điều trị không kịp thời, bệnh tiến triển nhanh người bệnh rối loạn hệ thần kinh, cái chết khó tránh được.
Mùa hè 1950 có mưa nhiều, Bắc Kinh ẩm ướt, muỗi nhiều như trấu. Một nhân viên ở Trung Nam Hải bị sốt do viêm não Nhật Bản, bác sĩ trẻ ít kinh nghiệm chẩn đoán cúm. Do điều trị không đúng, bệnh nhân tử vong. Người nhân viên này sống gần biệt thự của Mao chủ tịch, vì thế Dương Thượng Côn và Chu Ân Lai lo lắng sự nguy hiểm bệnh dịch đe doạ lãnh tụ.
Bác sĩ giám đốc trẻ tuổi ở bệnh viện Trung Nam Hải bị thải hồi tức khắc. Bệnh viện được cải tổ, trong thành phố người ta tổ chức diệt muỗi quyết liệt. Lãnh đạo quyết định chuyển bộ phận y tế ở Đồi Hương vào Trung Nam Hải, đây là một phần trong kế hoạch tái tổ chức bệnh viện. Quyết định này thực tế làm thay đổi tận gốc cuộc đời tôi.
Bệnh viện ở Trung Nam Hải vốn trang bị tồi tàn nay được cấp tốc nâng cấp, hiện đại hoá để trở thành trung tâm chữa bệnh cho các lãnh tụ đảng và nhà nước. Đồng thời người ta cũng cải tạo lại các ngôi nhà ở Trung Nam Hải. Tại đó có hai hồ lớn chiếm một diện tích rộng: hồ Trung và hồ Nam, phong cảnh tuyệt vời, xung quanh bao bọc bức tường màu đỏ son sát Cấm Thành. Khu này rất bí mật vì thế bức tường ngăn người lạ nhìn vào. Sau khi các nhà lãnh đạo cộng sản đến đây ở, các sách viết về Cấm thành, kèm theo bản đồ biến mất trong quán sách. Bộ đội vũ trang thuộc trung đoàn Cận vệ canh gác khắp nơi và cổng ra vào, ngay cán bộ nhân viên trong khu vực cũng bị kiểm soát nghiêm ngặt. Ra vào Trung Nam Hải chỉ cho phép những ai làm việc và sống ở đấy, hoặc khách mời chính thức của nhà nước. Trụ sở Quốc vụ viện Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, do Chu Ân Lai lãnh đạo nằm ở phía bắc, cạnh hồ Trung. Cùng sống và làm việc với Mao còn có những người bạn chiến đấu của ông – Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Bành Đức Hoài, Đặng Tiểu Bình, Lý Tiên Niệm, Đổng Bích Vũ, Lý Phú Xuân và Trần Nghị. Họ là quan chức cao cấp nhất của đảng, tư dinh của họ là những biệt thự trong cung điện Cấm Thành. Tất cả cán bộ, công nhân viên chức làm việc cũng được sống ở đây. Tôi được chia một căn nhà nhỏ trong khu, sau tôi chuyển sang căn nhà lớn hơn, đưa Lý Liên và thằng con trai John mới chập chững về sống cùng.
Thậm chí ngay trên vùng đất được bảo vệ cẩn mật thế này mà lực lượng an ninh vẫn luôn luôn cảnh giác cao độ. Đi từ khu này sang khu kia đều qua sự kiểm soát rất nghiêm ngặt. Đi đến đâu cũng bị hỏi thẻ ra vào. Tôi làm việc ở bệnh viện cách tư dinh Mao không xa. Tuy tôi có thẻ ra vào “B”, nhưng tôi chỉ có thể đi quanh khu bệnh viện, về nhà, loanh quanh sân nhà minh mà thôi. Lý Liên cũng có thẻ B, nhưng không được đi lại nhiều như tôi.
Là giám đốc Bệnh viện Trung Nam Hải chịu trách nhiệm điều trị không những cán bộ cao cấp sống trong Trung Nam Hải, còn cả các gia đình, những nhân vật quan trọng sống ở Bắc Kinh. Nhiều chiến sĩ cách mạng tám năm chiến đấu với Nhật và bốn năm với quân đội Quốc dân đảng, giờ đây họ mới lập gia đình, vì thế tôi còn phải chữa bệnh cho đám con nhỏ của họ. Gánh nặng công việc đè nặng lên vai, tôi không còn thời gian nghỉ ngơi nữa.
Tôi viết đơn xin vào đảng, nhưng nguồn gốc xuất thân của tôi lại thành trở ngại. Lý lịch của tôi thuộc thành phần bất hảo đối với tiêu chí của đảng cộng sản đề ra. Bố tôi từng giữ chức vụ quan trọng trong chính phủ Quốc dân đảng. Dù Chu Ân Lai mời ông trở về Bắc Kinh, hứa sẽ bảo vệ ông, nhưng người ta vẫn coi bố tôi thuộc diện “phản động”. Bố vợ tôi, đại điền chủ tỉnh An Huy trong khi đó cuộc cải cách ruộng đất vẫn tiến hành, ông bị quy tội “kẻ thù nhân dân”, bị tước không chỉ quyền công dân, còn tịch thu tất cả tài sản. Bây giờ cuộc sống của ông phụ thuộc vào sự chu cấp của tôi. Họ nghi ngờ cả vợ tôi. Trước giải phóng, vợ tôi làm việc cho không lực Hoa Kỳ và toà lãnh sự Anh, người ta đồn rằng vợ tôi là điệp viên bí mật của cả hai đế quốc tư bản.
Những hoạt động thời thanh niên của tôi cũng bị nghi ngờ. Trong bản khai lý lịch, kèm đơn xin vào đảng tôi có khai, sau khi học xong lớp 10 trung học ở Quý Châu, tôi bị Quốc dân đảng gọi đi huấn luyện quân sự ba tháng. Người ta nói, sau lớp huấn luyện tôi sẽ gia nhập Hội Phục hưng Quốc gia của Quốc dân đảng. Tuy nhiên, khi mãn khoá huấn luyện, tôi chẳng bao giờ nghe đến cái tổ chức này, cũng không quan hệ bất cứ hoạt động nào của nó kể cả gián tiếp. Sau mới hay, Hội Phục hưng Quốc gia là tiền thân Tam Đầu Chế của Đoàn thanh niên nhân dân, một tổ chức chính trị có liên quan tới Hội Áo bồ câu – một trong số tổ chức đặc nhiệm của Quốc dân đảng. Các đảng viên cộng sản có nhiệm vụ điều tra lý lịch tôi, không tin tôi không dính líu vào hoạt động của Hội Phục hưng.
Lại phát sinh thêm sự nghi ngờ mối quan hệ trong thời kỳ tập sự sau khi tôi tốt nghiệp y khoa. Đợt thực hành y khoa đầu tiên của tôi bắt đầu với tư cách bác sĩ quân y của Quốc dân đảng.
Quan chức của đảng tiếp tục đào bới quá khứ, dĩ nhiên họ tin tôi đã hoạt động trong Hội Phục Hưng, tôi chính là tên gián điệp. Việc kết nạp tôi vào đảng bị hoãn vô thời hạn.
Thật vô lý, tôi chỉ muốn đóng góp sức lực vào sự nghiệp cách mạng. Để làm điều này, tôi tình nguyện tham gia đội cải cách ruộng đất trực tiếp xuống nông thôn, lấy đất đai và tài sản tịch thu của bọn đại điền chủ chia cho bần cố nông. Thậm chí cuộc cải cách ruộng đất đã tước đi tất cả mọi thứ của nhạc phụ, nhưng tôi vẫn ủng hộ cách mạng. Cải cách ruộng đất kết thúc sự bóc lột hàng trăm năm đối với nông dân, cải thiện đáng kể đời sống nghèo khó ở thôn quê. Chỉ sau vài năm, một số người bạn kể lại, tôi mới biết thực chất cuộc cải cách man rợ, mất hết nhân tính mà những “ông đội, bà đội” tham gia lúc đó gây ra. It lâu sau người ta không cho tôi tham gia cải cách ruộng đất, lý do Trung Nam Hải rất cần nghề bác sĩ của tôi.
Hè năm 1950 chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Tôi lập tức làm đơn tình nguyện ra mặt trận. Tôi chưa được tham gia kháng Nhật và nội chiến Quốc-Cộng, vì thế tôi quyết định, giờ đây là cơ hội phục vụ tổ quốc. Tuy vậy, tôi tin Trung Quốc khó thắng nổi cuộc chiến này, vì Hoa Kỳ hiện đại về mọi mặt, hơn hẳn Trung Quốc, một nước hùng mạnh bậc nhất thế giới.
Tôi theo dõi chặt chẽ tin chiến sự, thật ngạc nhiên, vui mừng thấy quân đội Trung Quốc không bị đẩy lùi, còn giáng cho kẻ địch những đòn sấm sét hết mặt trận này sang mặt trận khác. Lần đầu tiên sau một thế kỷ, Trung Quốc tỏ rõ sức mạnh đủ khả năng chống lại lực lượng xâm lược ngoại quốc hùng mạnh. Tôi kinh hoàng khi biết Hoa Kỳ đã sử dụng vũ khí vi trùng ở Triều Tiên. Dù rằng cuộc chiến ở Triều Tiên vẫn tiếp diễn chưa có dấu hiệu kết thúc, tôi vẫn tự hào vô hạn là người Trung Hoa, nhưng cấp trên không cho tôi tham gia chiến sự, họ bảo công việc tôi ở Trung Nam Hải còn quan trọng và cần thiết hơn ra chiến trường.
Tôi buồn, chán nản vì họ không cho phép tôi đóng góp cho cách mạng, càng thất vọng vì không có cơ hội thành bác sĩ phẫu thuật. Tôi cảm thấy cô đơn, bị người cách mạng xa lánh, tuy họ là bệnh nhân của tôi, càng buồn hơn khi việc vào đảng vẫn giậm chân tại chỗ.
Đang trong lúc buồn nản, mùa xuân 1952 lần đầu tiên tôi gặp gia đình Mao chủ tịch. Mao Ngạn Thanh, người con trai 30 tuổi của lãnh tụ được đưa vào bệnh viện. Anh ta mắc bệnh tâm thần, thướng xuyên mất ngủ, suốt đêm đi lại quanh nhà, lẩm bẩm một mình. Mao có hai con trai – Mao Ngạn Anh và Mao Ngạn Thanh. Hai người này là con của bà Đường Khai Tuệ, người vợ đầu tiên do ông lựa chọn, bị Quốc dân đảng xử tử năm 1930 vì không chịu bỏ người chồng mình, mặc dù lúc đó Mao sống cách đấy vài trăm dặm ở Giang Tây, vùng căn cứ địa xô viết và cũng đã lấy bà Hạ Tử Trân. Sau khi mẹ chết, hai người con nhỏ được chuyển về Thượng Hải, ở đó sống như kẻ du thủ du thực, kiếm ăn từng bữa qua ngày. Những ai từng biết Mao Ngạn Thanh đều cho rằng bệnh tâm thần do bị đòn dã man của cảnh sát Thượng Hải. Họ mới tìm thấy hai người con trai Mao cách đây vài năm. Khi Diên An trở thành căn cứ địa của đảng. Mao đã gửi con sang Liên Xô du học.
Khi bắt đầu chiến tranh Triều Tiên, người con lớn, Mao Ngạn Anh, ra chiến trường, hy sinh trong cuộc ném bom của Mỹ. Người con út Mao Ngạn Thanh làm phiên dịch ở Ban Tuyên huấn trực thuộc Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc.
Năm 1953 trong khi cả nước rầm rộ chiến dịch “Ba Chống”, chống tham nhũng, chống lãng phí và chống tệ quan liêu trong hàng ngũ cán bộ viên đảng cộng sản. Mao Ngạn Thanh phát hiện một đồng sự đã biển thủ tiền nhuận bút bài báo của anh bằng cách giả mạo chữ ký. Mao Ngạn Thanh điên tiết đánh người đồng sự. Biết tin, Mao nổi giận, quở trách người con thậm tệ. Có thể, đây là một trong những nguyên nhân gây nên bệnh tâm thần của Mao Ngạn Thanh. Tôi không phải chuyên gia trong lĩnh vực tâm-thần kinh, hơn nữa cơ sở chúng tôi chỉ điều trị tạm thời. Tôi cho Mao Ngạn Thanh uống thuốc an thần, chờ thời cơ thuận tiện báo cho gia đình, chuyển sang bệnh viện tâm thần điều trị lâu dài.
Một chiều, khi tôi đang kiểm tra bệnh án, cô y tá chạy hớt hơ hớt hải tới báo tin Giang Thanh đang có mặt trong bệnh viện và muốn nói chuyện với tôi về sức khoẻ của Ngạn Thanh.
Giang Thanh đi cùng người nữ y tá trang phục chỉnh tề, chờ tôi trong phòng khách, cạnh buồng Ngạn Thanh. Tôi thấy vợ Mao một vài lần, nhưng chỉ thoáng qua. Bà ta vào đảng ở Diên An, trước đó là diễn viên ở Thượng Hải. Tất nhiên, tôi cho rằng quần áo của bà khác hẳn bộ đồ một màu xám của lãnh tụ, kiểu quần áo cho tất cả mọi người thời đó. Nhưng điều tôi nhìn thấy lại rất gây ấn tượng. Giang Thanh mặc bộ âu phục dạ thanh lịch. Dưới áo gi-lê là chiếc váy bằng nhung lụa mềm mại. Chân bà đi tất mỏng – thời ấy được xem là xa xỉ – đôi giầy da màu đen gót thấp. Mái tóc đen dày, uốn từng nếp cuộn tròn chải chuốt. Bà có đôi mắt to tròn, đen xẫm quyến rũ, nước da trắng màu ngà voi. Giang Thanh cao khoảng mét sáu mươi, mảnh mai, phần lưng dài hơn phần dưới. Hồi ấy bà 38 tuổi, tôi 32.
– Chắc đồng chí là bác sĩ Lý?
Giang Thanh chào hỏi tôi rất lịch sự, giọng Bắc Kinh, khi tôi ngồi đối diện. Không chờ tôi trả lời, Giang Thanh hỏi luôn:
– Sức khỏe Ngạn Thanh thế nào?
Mặc dù giọng nói rất thanh lịch nhưng rất lạnh lùng. Người ta kể rằng thời trẻ Giang Thanh là cô gái đẹp, duyên dáng. Theo tôi Giang Thanh, một phụ nữ đáng yêu nhưng không đẹp. Bà ta có vẻ vừa đoan trang, vừa ngạo mạn.
Tôi báo cáo tỷ mỉ tình trạng sức khoẻ của Ngạn Thanh và khuyên nên chuyển anh ta đến bệnh viện tâm thần hoặc trại an dưỡng, bởi vì bệnh viện chúng tôi không đủ phương tiện chữa bệnh tâm thần.
Giang Thanh nghĩ một lúc, cuối cùng bảo:
– Tôi sẽ nói lại điều này với Chủ tịch, để chủ tịch quyết định.
Khi chia tay chúng tôi bắt tay nhau. Ngón tay bà nhỏ nhắn, mềm mại, móng tay được thợ sửa cầu kỳ. Cám ơn tôi xong, bà đi ra sân, có ba vệ sĩ đứng chờ. Bà ta dường như không tin tôi, đôi mắt nhìn soi mói, ngữ điệu dò hỏi đã toát lên vẻ nghi ngờ của bà đối với những lời chân thật của tôi.
Sau một thời gian ngắn, bác sĩ tâm thần xác nhận Mao Ngạn Thanh bị điên, chuyển anh về thị xã sát bờ biển thuộc tỉnh Đại Liên, đông bắc Trung Quốc điều trị. Anh ta sống trong một căn nhà riêng và có cô y tá phục vụ. Hai người yêu nhau, nhưng gia đình Mao lại chọn cho anh ta một cô vợ khác, em gái út vợ goá Mao Ngạn Anh. Cô y tá đau khổ đã phải trở về Bắc Kinh.
Mùa thu năm 1953, một năm sau cuộc gặp ở bệnh viện, tôi lại chạm trán với Giang Thanh, nhưng ở nhà Hồ Kiều Mục, một trong các thư ký của Mao, trưởng Ban Tuyên huấn. Hồ Kiều Mục vị nể công việc y khoa của tôi, chúng tôi trở thành bạn của nhau.
Tôi đến nhà Hồ Kiều Mục trong khu Trung Nam Hải để chữa cho ông chứng dị ứng và bệnh loét dạ dày. Lúc đang khám, bỗng nhiên vợ ông, Hồ Hữu, làm việc ở Viện hàn lâm khoa học, chạy vào thông báo Giang Thanh đang tới. Bà giục chồng:
– Mặc quần áo nhanh lên.
Ông xin lỗi tôi vì phải bỏ dở cuộc khám.
Tôi chạm trán Giang Thanh ngay lối vào.
– Có phải bác sĩ Lý không?
Vừa hỏi vừa bắt tay tôi trong khi Hồ Kiều Mục giải thích lý do cuộc viếng thăm của tôi. Tuy đã lâu rồi nhưng tôi không quên được giọng lạnh lùng khi bà nói chuyện với tôi lần thứ hai này.
Phụ trách bệnh viện Trung Nam Hải, tôi coi tất cả bệnh nhân như nhau, không phân biệt địa vị, chức vụ của họ. Danh tiếng của tôi tăng lên từng ngày. Nhiều người đã hài lòng khi tôi chữa bệnh cho họ, một số người thậm chí tin tôi, kể cho tôi nghe đời tư, chuyện gia đình để tìm lời khuyên trong tình huống phức tạp. Họ tin tưởng vì tôi chưa khi nào làm lộ bí mật những điều tâm sự.
Cuối năm 1952 tôi được cấp chứng minh thư “A” dành cho nhân viên gương mẫu của Văn phòng Trung ương. Đó là một vinh hạnh lớn.
Cuối cùng người ta kết nạp tôi vào đảng viên dự bị đảng cộng sản. Toàn đảng bộ nhất trí, không ai phản đối tôi cả. Trong quá trình thẩm tra lý lịch, họ phát hiện một người cùng quê, Tô Biên, lãnh đạo trong thời kỳ tôi tham gia lớp huấn luyện năm 1936, đang lao động khổ sai trong trại cải tạo ở Quý Châu, nhưng anh ta không nhớ gì về tôi. Họ lại đi tìm những bạn học cùng trường, cùng lớp cũ, nhưng tất cả đều nhất trí xác nhận tôi chẳng hứng thú tham gia chuyện chính trị. Việc thẩm tra lý lịch vào đảng của tôi kéo dài tròn hai năm.
Thành phần xuất thân của tôi và những hoạt động không thích chính trị đã gây nhiều bất lợi cho tôi khi đất nước Trung Hoa tiến hành làn sóng thanh lọc mới, nhưng tháng 11-1952, đứng dưới lá cờ đảng tôi đã thề trung thành, cống hiến trọn đời, sẵn sàng hy sinh cho đảng cộng sản Trung Quốc. Về chủ nghĩa Mác, tôi chỉ đọc qua “Tuyên ngôn đảng cộng sản” của Marx, hai bài chính luận của Mao. Ngoài ra, tôi chỉ nhớ một vài lần anh tôi giảng giải, một số khẩu hiệu Mác-xít, đại loại như “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Thật ra, tôi chưa bao giờ trở thành người đảng viên như họ. Phần đông đảng viên làm việc ở Trung Nam Hải thuộc hạng đặc quyền đặc lợi. Họ tham gia cách mạng đã lâu, vào đảng khi còn trẻ, thường ở lứa tuổi đôi mươi, tham gia cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Hầu hết xuất thân từ dân nghèo, ít học vẫn mang nặng thành kiến thủ cựu của nông dân. Nhiều người trong số họ ngưỡng mộ sự hiểu biết của tôi. Còn tôi đánh giá cao sự nhiệt tình cách mạng, sự sẵn sàng hy sinh cho lý tưởng cách mạng của họ. Nhưng giữa chúng tôi vẫn có hố ngăn cách quá lớn. Họ coi tôi là trí thức, một bác sĩ, thuộc về tầng lóp bóc lột, đáng ngờ, tôi trở thành mục tiêu để “lôi kéo, sử dụng và cải tạo”. Giá trị duy nhất của tôi đối với đảng là kinh nghiệm tay nghề của một bác sĩ y khoa.
Sự đánh giá khả năng tay nghề của tôi sau khi Uông Đông Hưng gọi điện mời tôi đến nhà ông vào buổi tối ngày 2 tháng 10 năm 1954 tôi mới biết.
Uông phụ trách Ban bảo vệ trung ương, lo toan an ninh cho giới lãnh đạo, đồng thời ông còn chỉ huy đội vệ sĩ của Mao chủ tịch. Tôi quen ông trong bệnh viện, khi vợ ông và con nhỏ vài lần tới khám chữa bệnh, lần nào cũng hỏi tôi cặn kẽ về bệnh tình vợ con ông. Chúng tôi thành bạn với nhau. Uông là công thần của đảng, sống sót sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Ngay từ nhỏ, mới 10 tuổi đã theo cách mạng, ông là con nông dân nghèo ngoại ô, không được học hành, lang thang đường phố, một lần bị cảnh sát bắt vì tội đái bậy trên đường phố, may nhờ khoản tiền hối lộ khổng lồ của bố, ông mới thoát cảnh tù tội. Căm ghét chế độ tham nhũng của Quốc Dân đảng, ông theo đảng cộng sản, gặp Mao, tham gia hoạt động với Mao từ hồi ở Hồ Nam. Sau năm 1949, bất ngờ ông được tiến cử vào hàng ngũ lãnh đạo cao cấp uy tín, nhưng ông luôn luôn tôn trọng tầng lớp trí thức, nhất là tôi, một bác sĩ được đào tạo ở Tây phương.
Trên điện thoại, ông không cho biết lý do, chỉ nói có chuyện gấp cần trao đổi riêng. Điều này làm tôi bối rối, bởi vì giữa tôi và Uông Đông Hưng luôn cởi mở với nhau.
Tôi gặp ông trong một phòng rộng lớn ở Trung Nam Hải, ông sống với vợ ở đó. Căn buồng vừa là phòng làm việc, phòng khách, phòng ăn thậm chí còn là phòng ngủ. Con cái ông và người trông trẻ sống trong khu nhà đối diện bên kia chiếc sân rộng. Uông Đông Hưng rót trà, đưa một chén cho tôi, nói:
– Đây là trà Long Thanh mới hái năm nay đấy. Thử đi đồng chí! Trà này trồng ở Hàng Châu, ngon nhất Trung Quốc. Rượu vang chất lượng phụ thuộc vào độ tuổi, còn trà ngon và đắt nhất lại là trà vừa thu hoạch trong năm.
Uông Đông Hưng đúng là dân sành điệu uống trà. Tôi nhấp một ngụm, thấy rất thơm ngon. Cuối cùng tôi phải hỏi vì sao Uông mời tôi đến.
– Tôi có thể giúp gì đồng chí?
Uông Đông Hưng giọng trở lên quan trọng, hỏi tôi:
– Đồng chí biết vì sao trong thời gian dài tôi không điều đồng chí đi chỗ khác?
Tôi bối rối về câu hỏi của ông ta, đáp:
– Tôi không biết.
– Tôi theo dõi đồng chí vài năm nay, mọi người ở Trung Nam Hải quý trọng đồng chí. Đồng chí được bệnh nhân đánh giá cao vì không phân biệt địa vị, chức vụ và không khi nào tỏ vẻ ngạo mạn. Kinh nghiệm, kiến thức y học, tinh thần, thái độ phục vụ trong công việc của đồng chí đã làm chúng tôi kính phục, kể cả lãnh đạo cao cấp. Thậm chí chính Mao chủ tịch đã nghe thấy lời ca ngợi về đồng chí. Lâu nay chúng tôi chọn tìm một bác sĩ riêng Mao chủ tịch, nhưng chuyện này thật không đơn giản.
Uông nói tiếp:
– Tôi đã thảo luận với Bộ trưởng công an La Thuỵ Khanh và Dương Thượng Côn trưởng ban Ban tổ chức, xếp đồng chí vào công việc này. Tôi cũng thông báo cho thủ tướng Chu Ân Lai, mọi người đều thống nhất chấp thuận sự lựa chọn của tôi. Hôm qua, tôi đã đệ trình lên Mao chủ tịch, sơ bộ chủ tịch đã đồng ý, nhưng trước khi có quyết định chính thức, chủ tịch muốn nói chuyện trực tiếp với đồng chí. Đồng chí cần chuẩn bị chu đáo. Tôi nghĩ rằng Chủ tịch sẽ nhanh chóng gọi đồng chí đến gặp đấy.
Tôi rất bất ngờ tin này. Tôi biết sau cái chết bất ngờ của Nhậm Bích Thế năm 1950, tất cả các nhà lãnh đạo bắt đầu sử dụng bác sĩ riêng, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ trở thành bác sĩ riêng. Từ bệnh viện tôi thường nhìn sang khu nhà Mao ở. Tôi cho rằng ngôi nhà này là trái tim của Trung Quốc, nhịp đập Mao, cũng là nhịp đập của người dân Trung Hoa. Thậm chí không dám hình dung một ngày nào đó tôi được đặt chân đến nơi ấy. Mao đối với tôi là người vĩ đại, xa xăm như ngôi sao trên trời. Đầu óc tôi đột nhiên ngổn ngang bao ý nghĩ. “Công việc này không thể dành cho mình”. Tôi hoàn toàn không xứng đáng đảm nhận công việc đó. Thành phần xuất thân của tôi thế nào đây? Tôi đã từng bị nghi ngờ có liên quan với Quốc dân đảng, bố tôi đã làm cho chính phủ Quốc dân đảng. Còn vợ tôi? Người ta từng đồn thổi là gián điệp. Lý Liên chưa là đảng viên và chẳng khi nào có thể vào đảng được. Không, công việc như thế thường trao cho con cái công nhân và nông dân. Quá khứ của tôi luôn luôn bám sát tôi, không thể thay đổi được”. Ngoài ra, Mao cũng đã có bác sĩ riêng.
Tôi nhớ lại trường hợp đau buồn trong quá khứ của cụ tôi, từng là thầy thuốc trong hoàng cung Từ Hy Thái Hậu, sau khi phát hiện bệnh giang mai ở con trai bà – hoàng đế Đồng Trị. Họ tước phẩm hàm cụ tôi khỏi chức vụ ngự y thái sử, đã ảnh hưởng tới thế hệ sau, không ai trong họ chúng tôi có quyền chữa bệnh trong hoàng cung.
Tôi từ chối, không xứng đáng làm công việc này, nhưng Uông cười phá lên, bảo:
– Đừng lo! Trước khi cho đồng chí vào đảng, chúng tôi điều tra cẩn thận quá khứ và những người thân của đồng chí. Mọi nghi vấn đã được tháo gỡ. La Thuỵ Khanh, Dương Thượng Côn và thủ tướng Chu Ân Lai không nghi ngờ lòng trung thành và an tâm về quá khứ của đồng chí. Nếu không thế làm sao đồng chí được tiến cử làm bác sĩ riêng cho Mao chủ tịch. Quá khứ cụ tổ đồng chí, thuộc về thời phong kiến. Thời nay khác xưa rồi, đồng chí nên xoá bỏ tất cả những mặc cảm đó đi.
Tôi hỏi:
– Nhưng đồng chí Phó Liêm Chương có biết việc này không chứ?
Chính Phó Liêm Chương kêu gọi tôi hồi hương, bố trí công việc cho tôi, giờ đây là thứ trưởng Bộ y tế, trực thuộc Quốc vụ viện Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Trước đây đồng chí ấy lãnh đạo Cục bảo vệ sức khoẻ, lo về công tác bảo vệ sức khoẻ các lãnh tụ cao cấp đất nước. Phó Liêm Chương tự cho mình là bạn thân, là chiến hữu của Mao chủ tịch, đương nhiên, luôn luôn phải quan tâm sức khoẻ của Mao chủ tịch nhiều hơn. Vì thế tôi cho rằng giao việc cho tôi nên thảo luận cả với Phó.
Uông đáp:
– Các đồng chí lãnh đạo cao nhất sẽ quyết định. Dù rằng đồng chí Phó Liêm Chương là thủ trưởng trực tiếp của đồng chí, tôi không nghĩ chúng tôi nhất thiết phải hỏi đồng chí ấy.
Nhưng tôi linh cảm điều này có gì không ổn nếu như Phó Liêm Chương không được hỏi ý kiến.
Tôi nói với Uông:
– Tôi cũng cần có thời gian suy nghĩ đề nghị của đồng chí.
Lý do chưa thuyết phục tôi. Tôi không cảm thấy mình vẫn đang ở bên ngoài Trung Nam Hải, dù rằng về hình thức tôi đã đứng trong hàng ngũ đảng. Thành phần xuất thân của tôi không khi nào xoá được. Nếu tôi thành bác sĩ riêng của Mao chủ tịch, tôi sẽ luôn luôn nằm dưới sự theo dõi chặt chẽ. Chỉ cần phạm lỗi nhỏ người ta sẽ ghi vào lý lịch, có thể đổ tội về thành phần gia đình. Bất cứ sai phạm nào người ta có thể buộc tội tôi âm mưu chống đảng. Tôi sẽ tức khắc bị coi là kẻ thù giai cấp, trở thành kẻ tội đồ khủng khiếp.
Uông nói:
– Không còn thời gian để đồng chí nghĩ lung tung nữa. Chúng tôi đã quyết định rồi.
Lúc này tôi hiểu rằng mình hết lựa chọn. Tôi nói với ông:
– Nếu tôi đảm nhận trách nhiệm này, tất nhiên tôi sẽ làm hết sức mình. Nhưng nói trước, tôi chưa đạt được trình độ hoàn thiện, nếu mắc lỗi xin cứ kỷ luật tôi chứ đừng đổ xuống đầu đồng chí.
Thực tế, Uông Đông Hưng rất liều khi đề bạt tôi vào nhiệm vụ này. Nếu tôi mắc lỗi gì đó, Uông cũng phải gánh chịu. Chúng tôi đã buộc chung dây với nhau, thả trong cùng một rọ cho đến khi Mao chủ tịch qua đời.
Uông động viên tôi:
– Đừng lo. Dĩ nhiên, đồng chí phải hết sức chú ý và thận trọng, phải thường xuyên trao đổi với thủ trưởng, nhưng đồng chí cũng phải tự quyết định nếu thấy việc làm ấy là đúng. Đồng chí sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm công việc mình làm. Tất cả chỉ có thế. Tôi nghĩ, đồng chí sẽ thành công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, hy vọng tôi không sai lầm khi chọn đồng chí. Bây giờ, đồng chí về, chuẩn bị cho cuộc nói chuyện với Mao chủ tịch. Chủ tịch là người quyết định cuối cùng. Khi nào chủ tịch gọi, tôi sẽ điện thoại để đồng chí rõ.
Uông Đông Hưng đưa tôi hồ sơ sức khoẻ Mao, yêu cầu tôi xem trước. Uông cũng nói rằng Mao sớm rời khỏi Bắc Kinh đi nghỉ ở phương nam. Tôi vẫn tiếp tục làm việc ở bệnh viện, chờ quyết định cuối cùng.
Trong khi chờ đợi, tôi nghe không ít những lời cảnh cáo. Trần Dương Anh, vợ goá Nhậm Bích Thế, một trong 5 bí thư hàng đầu của đảng cộng sản, nhắc tôi công việc sắp tới sẽ chẳng đơn giản chút nào đâu. Sau khi chồng chết 1950, bà sống trong sự thất vọng. Tôi cố an ủi và động viên bà. Bà là người phụ nữ khả kính, một người vợ chung thuỷ, một người mẹ đáng kính. Sau cuộc gặp này chúng tôi trở thành bạn tốt của nhau.
Cùng với Trần Dương Anh, tôi có mặt trong các cuộc hội nghị đảng, đi Thượng Hải và Hàng Châu. Bà kể cho tôi về sự lập dị và quái đản của Mao cảnh báo tôi rằng phải thận trọng khi nói chuyện với Mao chủ tịch. Bà bảo:
– Mao có thói nổi xung bất thường, chỉ một sai sót nhỏ có thể làm ông phát khùng. Vợ ông, Giang Thanh, một người độc ác, thô bạo với người xung quanh, ngoài ra còn có tật quyến rũ đàn ông. Đừng bị mê hoặc bởi vẻ ngoài của bà ta. Nếu không, đồng chí rơi vào thảm hoạ, không một ai trong số những người gần Mao giúp được đồng chí đâu. Hơn thế nữa, bất kỳ lúc nào đồng chí cũng có thể chui đầu vào tù đấy.
Những lời cảnh báo của Trần Dương Anh làm tôi giật mình. Tôi tôn thờ Mao, cho rằng chủ tịch không bao giờ làm điều sai quấy. Dĩ nhiên, ông không phải là vua, nhưng ông uy quyền tuyệt đối, điều không cần phải bàn cãi. Không ai có đủ dũng cảm phê bình ông. Thêm nữa, chính trong những năm này rộ lên chiến dịch đấu tranh chống bọn phản cách mạng, nếu ai đó nghe được lời cảnh báo của Trần Dương Anh, người ta có thể buộc tội bà âm mưu tạo phản, phần tử phản cách mạng.
Tôi không bao giờ quên những lời cảnh báo của bà, đã bao nhiêu năm nhưng lời của bà vẫn ám ảnh tôi. Thậm chí bây giờ tôi vẫn còn biết ơn sâu sắc người phụ nữ khả kính này, vì lòng chân thành, thiện chí, cởi mở.
Cuộc đấu tranh với phản cách mạng ở Trung Nam Hải làm tôi lo sợ thật sự. Cầm đầu chiến dịch chính là Uông Đông Hưng, giám đốc Ban bảo vệ nôi bộ, người tiến cử tôi làm bác sĩ riêng cho Mao. Người ta thường quy tội những bác sĩ riêng của các lãnh tụ cao cấp nhất, coi họ liên quan trong nhóm chống đảng.
Tôi lo lắng, sợ hãi vì trong vài tuần lễ ngày nào cũng có bác sĩ bị bắt. Hàng ngày tất cả mọi người ở Trung Nam Hải họp kéo dài 4-5 giờ liền, từ trưa đến tối để lên án, phê phán các bác sĩ, tôi buộc phải tham dự ngồi nghe những lời chỉ trích bịa đặt, lăng mạ trút xuống đầu những bác sĩ vô tội. Các bác sĩ đâu có sung sướng gì. Mỗi người chịu trách nhiệm coi sóc sức khoẻ cho một vị lãnh tụ, chỉ có Nhậm Bích Thế bị chết bất ngờ, còn những người lãnh đạo vẫn còn khoẻ mạnh cơ mà. Bác sĩ làm việc ở đây bị hạn chế quyền làm việc, những cuộc gặp gỡ bạn bè trao đổi kinh nghiệm y học đều bị ngăn cấm. Họ đều trẻ hơn tôi, mới tốt nghiệp, kinh nghiệm còn ít ỏi. Họ cảm thấy rằng khả năng, kiến thức của họ không được sử dụng đúng chỗ, nghề nghiệp sẽ mai một, phí công học hành. Họ thường phàn nàn không được làm việc theo khả năng, chính vì phàn nàn họ bị khép tội không toàn tâm toàn ý, hy sinh phục vụ cho lãnh tụ. Chính vì lý do ấy họ bị buộc tội tham gia nhóm chống đảng.
Cuộc tấn công vào các bác sĩ vẫn chưa ngừng lại, những lời buộc tội mới hoàn toàn vô lý đã được cộng thêm vào tội của họ. Hứa Đào, bác sĩ của Giang Thanh, từng là bác sĩ riêng của Mao một thời gian ngắn, trở thành nạn nhân. Người ta buộc tội Hứa Đào không những chống đảng, mà còn dám chế nhạo Giang Thanh. Dù những lời buộc tội hoàn toàn lố bịch, vô căn cứ, nhưng Hứa Đào bị đe doạ sẽ bị trừng phạt nặng nề. Các vệ sĩ vợ Mao kể, khi Giang Thanh yêu cầu kéo rèm che cửa sồ, bác sĩ Hứa Đào làm quá chậm. Do đó ánh sáng mặt trời thường xuyên chiếu vào mắt Giang Thanh, gây giảm thị lực của bà. Ngoài ra, Hứa Đào còn bị buộc tội chủ ý giảm nhiệt độ phòng của vợ Chủ tịch, khi Giang Thanh nổi giận, ông ta chỉ cho bà cái nhiệt kế hỏng đang chỉ mức 25 độ, đó là nhiệt độ mà Giang Thanh yêu cầu. Vì tất cả “những lỗi” ấy, ông bị buộc tội chống đảng.
Cuối cùng tất cả các bác sĩ trả về bệnh viện nhân dân, trừ một người bị thải hồi. Những người bị tống ra thật may mắn, họ chuyển về Bệnh viện Bắc Kinh nơi họ mong ước nhất để tiếp tục nghề y của mình. Trớ trêu thay, Hứa Đào, bị buộc tội nhiều nhất, lại vẫn ở lại làm bác sĩ riêng của Giang Thanh.
Tôi rất thông cảm các đồng nghiệp, tin rằng họ vô tội. Tất nhiên họ cũng không tham gia trong nhóm chống đảng, nhưng tôi không thể lên tiếng bảo vệ họ được. Nếu ai đó dám công khai đứng ra lên tiếng bênh vực họ, chắc chắn sẽ bị kết tội kẻ chống đảng.
Ngày ấy tôi chưa có nhiều kinh nghiệm, còn quá ngây thơ. Điều này bắt đầu ngay sau khi tôi trở về Bắc Kinh, khi Lý Liên không thể tìm thấy việc làm. Tôi khi đó hiểu rằng, giá như tôi tặng Dương chiếc đồng hồ Rolex, mọi việc sẽ khác đi, Lý Liên chắc chắn có việc làm phù hợp.
Năm 1953, bắt đầu chiến dịch “Ba chống”, chống tham nhũng, lãng phí và quan liêu, đụng chạm tới gia đình tôi. Anh và chị họ tôi bị buộc tội. Họ từng khuyến khích tôi vào đảng, tôi biết họ vô tội. Nhưng tôi lại phải ngậm miệng, nếu đứng ra bảo vệ cũng bị buộc tội kẻ thù của đảng.
Trong khi chưa trở thành bác sĩ riêng của Mao, tôi củng đã mâu thuẫn với chính lương tâm của mình. Tôi đã không dám nói thật những điều suy nghĩ trong tận đáy lòng. Thông thường, đối mặt với những chuyện trái với lương tâm, tôi thường giữ im lặng, không phát biểu, nhưng trong thời gian đấu tố bác sĩ tôi buộc phải đứng ở phía những người buộc tội, bởi vì số phận những người thân cũng như bản thân gia đình tôi phụ thuộc vào điều đó. Tôi phải lừa dối, nhưng đó là cơ hội duy nhất để giữ được việc làm và lên chức. Tôi cần phải làm điều này, vì tất cả để tồn tại.
Nhưng tôi không buộc tội các bác sĩ chống đảng, tôi không thể làm điều đó. Tôi chỉ xác nhận họ thắc mắc, phàn nàn là sai, cũng như chưa hoàn thành tốt công việc, tay nghề còn yếu cần phải trau dồi nghiệp vụ để làm việc tốt hơn trong tương lai.
Bốn mươi năm đã trôi qua, tôi cũng vẫn còn sợ hãi mặc dù tôi đang sống ở Hoa Kỳ, một đất nước tự do và dân chủ. Nghĩ lại chặng đường đã qua, tôi nghĩ, tôi buộc phải lặp lại những gì đã làm, bởi tôi không có sự lựa chọn. Sự sống còn của họ hàng thân thích tuỳ thuộc vào tôi, tôi không thể trốn tránh rũ bỏ trách nhiệm. Nếu bây giờ tôi còn ở lại Trung Quốc, làm nhân chứng cho cuộc đàn áp đẫm máu của quân đội với những người biểu tình trên quảng trường Thiên An Môn ngày 4 tháng Sáu năm 1989, người ta yêu cầu tôi ủng hộ, tôi chắc sẽ phải ủng hộ, kể cả việc đảng cộng sản vẫn tiếp tục theo dõi, đàn áp những người vô tội chỉ vì họ phản đối đường lối, chính sách sai lầm của chính phủ. Như những năm trước đây kể cả hôm nay, để mà sống được ở Trung Quốc, cần phải phản bội lương tâm và từ bỏ lòng tự trọng.
Năm 1954, trong “vụ án bác sĩ”, tôi không biết đồng nghiệp của tôi chỉ là những con tốt đen trong ván cờ tranh chấp quyền lực giữa Uông Đông Hưng và Phó Liêm Chương.
Phó Liêm Chương, thứ trưởng Bộ y tế, đảm nhiệm bảo vệ sức khoẻ cho các lãnh tụ cao cấp. Các bác sĩ riêng cho họ đều được bổ nhiệm theo lời đề nghị của ông ta. Nhưng Phó Liêm Chương rất khó có cơ hội gặp gỡ Mao chủ tịch và các lãnh tụ khác, vì thế ông ta sử dụng các bác sĩ được tiến cử vào mục đích của mình. Họ không những chỉ thông báo cho Phó về tình trạng sức khoẻ của lãnh đạo đảng mà còn phải kể tất cả cái gì thấy và nghe được. Điều này giúp Phó trong cơn bão táp chính trị giữ được vị trí của mình, tránh khỏi chỉ trích và bị buộc tội. Tất nhiên ông quan tâm hơn cả là quan điểm của Mao và nhiều lãnh tụ tối cao khác.
Uông Đông Hưng, phụ trách an ninh quốc gia, đảm bảo an toàn lãnh tụ, kể cả việc bảo vệ sức khoẻ cũng là nhiệm vụ của ông. Quyền lực của Uông thực tế lớn hơn quyền lực của Phó Liêm Chương. Uông là người có hoài bão chính trị, lại gần gũi Mao. Tin tức về hoạt động, các bài phát biểu của các nhà lãnh tụ cao cấp, Uông Đông Hưng đều nhận được không những từ đám vệ sĩ, mà còn từ các bác sĩ mà Phó Liêm Chương bổ nhiệm. Miếng mồi giành độc quyền nguồn thông tin dẫn cuộc cắn xé giữa hai con hổ.
Cuộc xung đột tới đỉnh điểm sau khi Uông, không trao đổi với Phó Liêm Chương khi tiến cử tôi vào chức vụ bác sĩ riêng của Mao. Mâu thuẫn ngấm ngầm ban đầu đã biến thành thù địch công khai. Phó Liêm Chương bắn tin để Mao chủ tịch chống sự bổ nhiệm tôi, bắng cách lôi thành phần gia đình, quá khứ của tôi ra. Trả miếng Phó Liêm Chương, Uông Đông Hưng kích động “vụ án bác sĩ”, được tiến hành dưới ngọn cờ đấu tranh với bọn phản cách mạng là hoàn toàn tự nhiên. Kết quả, tất cả các bác sĩ do Phó bổ nhiệm bị thải hồi, Uông Đông Hưng ăn mừng chiến thắng. Chia rẽ trong mối quan hệ giữa Phó Liêm Chương và Uông tăng lên, họ trở thành kẻ thù không đội trời chung.
Chiến dịch chống bác sĩ gây tổn thương giới trí thức. Mọi người đều hiểu, ở Trung Quốc không có nhân quyền. Mọi người buộc phải nhắm mắt tuân theo mệnh lệnh của cấp trên. Một sự không bằng lòng nho nhỏ hoặc một lời nói bừa bãi có thể làm cho anh trở thành kẻ thù của đảng, của nhân dân. Trên khắp đất nước, chiến dịch chống bọn phản cách mạng được phát động, chỉ cần vô tình sơ sẩy có thể bị khối quần chúng nhân dân phẫn nộ lên án là bọn kẻ thù của cách mạng.
Mỗi người chỉ là một chiếc đinh ốc nhỏ trong cỗ máy quyền lực khổng lồ phức tạp. Một bất đồng nho nhỏ, không hài lòng nhau bộ máy sẽ không hoạt động đồng đều, lệch khỏi các tiêu chuẩn định sẵn đều có thể bị quy tội, bị tống đi cải tạo.
Tuy nhiên trở lại việc bổ nhiệm tôi, càng tôn thờ Mao bao nhiêu thì công việc tương lai lại đe doạ tôi bấy nhiêu. Lý Liên cảnh cáo tôi:
– Người ta sẽ không khi nào tha thứ sai lầm của anh dù sai lầm ấy nhỏ nhất.
Vợ tôi rất hiểu công việc khó khăn của chồng, chúng tôi hồi hương đã được 5 năm, nàng đã trưởng thành rất nhiều, đã gột bỏ ảo tưởng khi chứng kiến những gì xảy ra trong nước. Vợ tôi lúc nào cũng bị nghi ngờ, vì nàng là con đại địa chủ, ngoài ra tội gián điệp luôn lơ lửng trên đầu vẫn chưa buông tha. Nhưng chính vợ tôi cũng hiểu tôi không thể từ chối công việc được giao, luôn luôn lo sợ cho tính mạng của tôi.
Vài tháng trôi qua kể từ hôm gặp Uông. Tôi sống trong tình trạng căng thẳng chờ đợi, nhưng vẫn chưa thấy lãnh tụ gọi.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [5]
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Một quan chức bị ốm và chết do viêm não Nhật Bản, tôi cấp tốc được triệu về Trung Nam Hải. Dịch viêm não Nhật Bản truyền qua muỗi đốt, muỗi lại rất nhiều ở Bắc Kinh đặc biệt vào mùa hè và mùa thu. Vì thế trường hợp sốt do viêm não ở đây không phải hiếm. Các nhà chuyên môn thời kỳ đó khuyên nên theo dõi hội chứng căn bệnh nguy hiểm này, nó phá huỷ não. Giai đoạn đầu của bệnh có thể bị ngăn chặn bằng thuốc đông y cổ truyền, triệu chứng giống như cúm. Tuy nhiên nếu điều trị không kịp thời, bệnh tiến triển nhanh người bệnh rối loạn hệ thần kinh, cái chết khó tránh được.
Mùa hè 1950 có mưa nhiều, Bắc Kinh ẩm ướt, muỗi nhiều như trấu. Một nhân viên ở Trung Nam Hải bị sốt do viêm não Nhật Bản, bác sĩ trẻ ít kinh nghiệm chẩn đoán cúm. Do điều trị không đúng, bệnh nhân tử vong. Người nhân viên này sống gần biệt thự của Mao chủ tịch, vì thế Dương Thượng Côn và Chu Ân Lai lo lắng sự nguy hiểm bệnh dịch đe doạ lãnh tụ.
Bác sĩ giám đốc trẻ tuổi ở bệnh viện Trung Nam Hải bị thải hồi tức khắc. Bệnh viện được cải tổ, trong thành phố người ta tổ chức diệt muỗi quyết liệt. Lãnh đạo quyết định chuyển bộ phận y tế ở Đồi Hương vào Trung Nam Hải, đây là một phần trong kế hoạch tái tổ chức bệnh viện. Quyết định này thực tế làm thay đổi tận gốc cuộc đời tôi.
Bệnh viện ở Trung Nam Hải vốn trang bị tồi tàn nay được cấp tốc nâng cấp, hiện đại hoá để trở thành trung tâm chữa bệnh cho các lãnh tụ đảng và nhà nước. Đồng thời người ta cũng cải tạo lại các ngôi nhà ở Trung Nam Hải. Tại đó có hai hồ lớn chiếm một diện tích rộng: hồ Trung và hồ Nam, phong cảnh tuyệt vời, xung quanh bao bọc bức tường màu đỏ son sát Cấm Thành. Khu này rất bí mật vì thế bức tường ngăn người lạ nhìn vào. Sau khi các nhà lãnh đạo cộng sản đến đây ở, các sách viết về Cấm thành, kèm theo bản đồ biến mất trong quán sách. Bộ đội vũ trang thuộc trung đoàn Cận vệ canh gác khắp nơi và cổng ra vào, ngay cán bộ nhân viên trong khu vực cũng bị kiểm soát nghiêm ngặt. Ra vào Trung Nam Hải chỉ cho phép những ai làm việc và sống ở đấy, hoặc khách mời chính thức của nhà nước. Trụ sở Quốc vụ viện Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, do Chu Ân Lai lãnh đạo nằm ở phía bắc, cạnh hồ Trung. Cùng sống và làm việc với Mao còn có những người bạn chiến đấu của ông – Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Bành Đức Hoài, Đặng Tiểu Bình, Lý Tiên Niệm, Đổng Bích Vũ, Lý Phú Xuân và Trần Nghị. Họ là quan chức cao cấp nhất của đảng, tư dinh của họ là những biệt thự trong cung điện Cấm Thành. Tất cả cán bộ, công nhân viên chức làm việc cũng được sống ở đây. Tôi được chia một căn nhà nhỏ trong khu, sau tôi chuyển sang căn nhà lớn hơn, đưa Lý Liên và thằng con trai John mới chập chững về sống cùng.
Thậm chí ngay trên vùng đất được bảo vệ cẩn mật thế này mà lực lượng an ninh vẫn luôn luôn cảnh giác cao độ. Đi từ khu này sang khu kia đều qua sự kiểm soát rất nghiêm ngặt. Đi đến đâu cũng bị hỏi thẻ ra vào. Tôi làm việc ở bệnh viện cách tư dinh Mao không xa. Tuy tôi có thẻ ra vào “B”, nhưng tôi chỉ có thể đi quanh khu bệnh viện, về nhà, loanh quanh sân nhà minh mà thôi. Lý Liên cũng có thẻ B, nhưng không được đi lại nhiều như tôi.
Là giám đốc Bệnh viện Trung Nam Hải chịu trách nhiệm điều trị không những cán bộ cao cấp sống trong Trung Nam Hải, còn cả các gia đình, những nhân vật quan trọng sống ở Bắc Kinh. Nhiều chiến sĩ cách mạng tám năm chiến đấu với Nhật và bốn năm với quân đội Quốc dân đảng, giờ đây họ mới lập gia đình, vì thế tôi còn phải chữa bệnh cho đám con nhỏ của họ. Gánh nặng công việc đè nặng lên vai, tôi không còn thời gian nghỉ ngơi nữa.
Tôi viết đơn xin vào đảng, nhưng nguồn gốc xuất thân của tôi lại thành trở ngại. Lý lịch của tôi thuộc thành phần bất hảo đối với tiêu chí của đảng cộng sản đề ra. Bố tôi từng giữ chức vụ quan trọng trong chính phủ Quốc dân đảng. Dù Chu Ân Lai mời ông trở về Bắc Kinh, hứa sẽ bảo vệ ông, nhưng người ta vẫn coi bố tôi thuộc diện “phản động”. Bố vợ tôi, đại điền chủ tỉnh An Huy trong khi đó cuộc cải cách ruộng đất vẫn tiến hành, ông bị quy tội “kẻ thù nhân dân”, bị tước không chỉ quyền công dân, còn tịch thu tất cả tài sản. Bây giờ cuộc sống của ông phụ thuộc vào sự chu cấp của tôi. Họ nghi ngờ cả vợ tôi. Trước giải phóng, vợ tôi làm việc cho không lực Hoa Kỳ và toà lãnh sự Anh, người ta đồn rằng vợ tôi là điệp viên bí mật của cả hai đế quốc tư bản.
Những hoạt động thời thanh niên của tôi cũng bị nghi ngờ. Trong bản khai lý lịch, kèm đơn xin vào đảng tôi có khai, sau khi học xong lớp 10 trung học ở Quý Châu, tôi bị Quốc dân đảng gọi đi huấn luyện quân sự ba tháng. Người ta nói, sau lớp huấn luyện tôi sẽ gia nhập Hội Phục hưng Quốc gia của Quốc dân đảng. Tuy nhiên, khi mãn khoá huấn luyện, tôi chẳng bao giờ nghe đến cái tổ chức này, cũng không quan hệ bất cứ hoạt động nào của nó kể cả gián tiếp. Sau mới hay, Hội Phục hưng Quốc gia là tiền thân Tam Đầu Chế của Đoàn thanh niên nhân dân, một tổ chức chính trị có liên quan tới Hội Áo bồ câu – một trong số tổ chức đặc nhiệm của Quốc dân đảng. Các đảng viên cộng sản có nhiệm vụ điều tra lý lịch tôi, không tin tôi không dính líu vào hoạt động của Hội Phục hưng.
Lại phát sinh thêm sự nghi ngờ mối quan hệ trong thời kỳ tập sự sau khi tôi tốt nghiệp y khoa. Đợt thực hành y khoa đầu tiên của tôi bắt đầu với tư cách bác sĩ quân y của Quốc dân đảng.
Quan chức của đảng tiếp tục đào bới quá khứ, dĩ nhiên họ tin tôi đã hoạt động trong Hội Phục Hưng, tôi chính là tên gián điệp. Việc kết nạp tôi vào đảng bị hoãn vô thời hạn.
Thật vô lý, tôi chỉ muốn đóng góp sức lực vào sự nghiệp cách mạng. Để làm điều này, tôi tình nguyện tham gia đội cải cách ruộng đất trực tiếp xuống nông thôn, lấy đất đai và tài sản tịch thu của bọn đại điền chủ chia cho bần cố nông. Thậm chí cuộc cải cách ruộng đất đã tước đi tất cả mọi thứ của nhạc phụ, nhưng tôi vẫn ủng hộ cách mạng. Cải cách ruộng đất kết thúc sự bóc lột hàng trăm năm đối với nông dân, cải thiện đáng kể đời sống nghèo khó ở thôn quê. Chỉ sau vài năm, một số người bạn kể lại, tôi mới biết thực chất cuộc cải cách man rợ, mất hết nhân tính mà những “ông đội, bà đội” tham gia lúc đó gây ra. It lâu sau người ta không cho tôi tham gia cải cách ruộng đất, lý do Trung Nam Hải rất cần nghề bác sĩ của tôi.
Hè năm 1950 chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Tôi lập tức làm đơn tình nguyện ra mặt trận. Tôi chưa được tham gia kháng Nhật và nội chiến Quốc-Cộng, vì thế tôi quyết định, giờ đây là cơ hội phục vụ tổ quốc. Tuy vậy, tôi tin Trung Quốc khó thắng nổi cuộc chiến này, vì Hoa Kỳ hiện đại về mọi mặt, hơn hẳn Trung Quốc, một nước hùng mạnh bậc nhất thế giới.
Tôi theo dõi chặt chẽ tin chiến sự, thật ngạc nhiên, vui mừng thấy quân đội Trung Quốc không bị đẩy lùi, còn giáng cho kẻ địch những đòn sấm sét hết mặt trận này sang mặt trận khác. Lần đầu tiên sau một thế kỷ, Trung Quốc tỏ rõ sức mạnh đủ khả năng chống lại lực lượng xâm lược ngoại quốc hùng mạnh. Tôi kinh hoàng khi biết Hoa Kỳ đã sử dụng vũ khí vi trùng ở Triều Tiên. Dù rằng cuộc chiến ở Triều Tiên vẫn tiếp diễn chưa có dấu hiệu kết thúc, tôi vẫn tự hào vô hạn là người Trung Hoa, nhưng cấp trên không cho tôi tham gia chiến sự, họ bảo công việc tôi ở Trung Nam Hải còn quan trọng và cần thiết hơn ra chiến trường.
Tôi buồn, chán nản vì họ không cho phép tôi đóng góp cho cách mạng, càng thất vọng vì không có cơ hội thành bác sĩ phẫu thuật. Tôi cảm thấy cô đơn, bị người cách mạng xa lánh, tuy họ là bệnh nhân của tôi, càng buồn hơn khi việc vào đảng vẫn giậm chân tại chỗ.
Đang trong lúc buồn nản, mùa xuân 1952 lần đầu tiên tôi gặp gia đình Mao chủ tịch. Mao Ngạn Thanh, người con trai 30 tuổi của lãnh tụ được đưa vào bệnh viện. Anh ta mắc bệnh tâm thần, thướng xuyên mất ngủ, suốt đêm đi lại quanh nhà, lẩm bẩm một mình. Mao có hai con trai – Mao Ngạn Anh và Mao Ngạn Thanh. Hai người này là con của bà Đường Khai Tuệ, người vợ đầu tiên do ông lựa chọn, bị Quốc dân đảng xử tử năm 1930 vì không chịu bỏ người chồng mình, mặc dù lúc đó Mao sống cách đấy vài trăm dặm ở Giang Tây, vùng căn cứ địa xô viết và cũng đã lấy bà Hạ Tử Trân. Sau khi mẹ chết, hai người con nhỏ được chuyển về Thượng Hải, ở đó sống như kẻ du thủ du thực, kiếm ăn từng bữa qua ngày. Những ai từng biết Mao Ngạn Thanh đều cho rằng bệnh tâm thần do bị đòn dã man của cảnh sát Thượng Hải. Họ mới tìm thấy hai người con trai Mao cách đây vài năm. Khi Diên An trở thành căn cứ địa của đảng. Mao đã gửi con sang Liên Xô du học.
Khi bắt đầu chiến tranh Triều Tiên, người con lớn, Mao Ngạn Anh, ra chiến trường, hy sinh trong cuộc ném bom của Mỹ. Người con út Mao Ngạn Thanh làm phiên dịch ở Ban Tuyên huấn trực thuộc Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc.
Năm 1953 trong khi cả nước rầm rộ chiến dịch “Ba Chống”, chống tham nhũng, chống lãng phí và chống tệ quan liêu trong hàng ngũ cán bộ viên đảng cộng sản. Mao Ngạn Thanh phát hiện một đồng sự đã biển thủ tiền nhuận bút bài báo của anh bằng cách giả mạo chữ ký. Mao Ngạn Thanh điên tiết đánh người đồng sự. Biết tin, Mao nổi giận, quở trách người con thậm tệ. Có thể, đây là một trong những nguyên nhân gây nên bệnh tâm thần của Mao Ngạn Thanh. Tôi không phải chuyên gia trong lĩnh vực tâm-thần kinh, hơn nữa cơ sở chúng tôi chỉ điều trị tạm thời. Tôi cho Mao Ngạn Thanh uống thuốc an thần, chờ thời cơ thuận tiện báo cho gia đình, chuyển sang bệnh viện tâm thần điều trị lâu dài.
Một chiều, khi tôi đang kiểm tra bệnh án, cô y tá chạy hớt hơ hớt hải tới báo tin Giang Thanh đang có mặt trong bệnh viện và muốn nói chuyện với tôi về sức khoẻ của Ngạn Thanh.
Giang Thanh đi cùng người nữ y tá trang phục chỉnh tề, chờ tôi trong phòng khách, cạnh buồng Ngạn Thanh. Tôi thấy vợ Mao một vài lần, nhưng chỉ thoáng qua. Bà ta vào đảng ở Diên An, trước đó là diễn viên ở Thượng Hải. Tất nhiên, tôi cho rằng quần áo của bà khác hẳn bộ đồ một màu xám của lãnh tụ, kiểu quần áo cho tất cả mọi người thời đó. Nhưng điều tôi nhìn thấy lại rất gây ấn tượng. Giang Thanh mặc bộ âu phục dạ thanh lịch. Dưới áo gi-lê là chiếc váy bằng nhung lụa mềm mại. Chân bà đi tất mỏng – thời ấy được xem là xa xỉ – đôi giầy da màu đen gót thấp. Mái tóc đen dày, uốn từng nếp cuộn tròn chải chuốt. Bà có đôi mắt to tròn, đen xẫm quyến rũ, nước da trắng màu ngà voi. Giang Thanh cao khoảng mét sáu mươi, mảnh mai, phần lưng dài hơn phần dưới. Hồi ấy bà 38 tuổi, tôi 32.
– Chắc đồng chí là bác sĩ Lý?
Giang Thanh chào hỏi tôi rất lịch sự, giọng Bắc Kinh, khi tôi ngồi đối diện. Không chờ tôi trả lời, Giang Thanh hỏi luôn:
– Sức khỏe Ngạn Thanh thế nào?
Mặc dù giọng nói rất thanh lịch nhưng rất lạnh lùng. Người ta kể rằng thời trẻ Giang Thanh là cô gái đẹp, duyên dáng. Theo tôi Giang Thanh, một phụ nữ đáng yêu nhưng không đẹp. Bà ta có vẻ vừa đoan trang, vừa ngạo mạn.
Tôi báo cáo tỷ mỉ tình trạng sức khoẻ của Ngạn Thanh và khuyên nên chuyển anh ta đến bệnh viện tâm thần hoặc trại an dưỡng, bởi vì bệnh viện chúng tôi không đủ phương tiện chữa bệnh tâm thần.
Giang Thanh nghĩ một lúc, cuối cùng bảo:
– Tôi sẽ nói lại điều này với Chủ tịch, để chủ tịch quyết định.
Khi chia tay chúng tôi bắt tay nhau. Ngón tay bà nhỏ nhắn, mềm mại, móng tay được thợ sửa cầu kỳ. Cám ơn tôi xong, bà đi ra sân, có ba vệ sĩ đứng chờ. Bà ta dường như không tin tôi, đôi mắt nhìn soi mói, ngữ điệu dò hỏi đã toát lên vẻ nghi ngờ của bà đối với những lời chân thật của tôi.
Sau một thời gian ngắn, bác sĩ tâm thần xác nhận Mao Ngạn Thanh bị điên, chuyển anh về thị xã sát bờ biển thuộc tỉnh Đại Liên, đông bắc Trung Quốc điều trị. Anh ta sống trong một căn nhà riêng và có cô y tá phục vụ. Hai người yêu nhau, nhưng gia đình Mao lại chọn cho anh ta một cô vợ khác, em gái út vợ goá Mao Ngạn Anh. Cô y tá đau khổ đã phải trở về Bắc Kinh.
Mùa thu năm 1953, một năm sau cuộc gặp ở bệnh viện, tôi lại chạm trán với Giang Thanh, nhưng ở nhà Hồ Kiều Mục, một trong các thư ký của Mao, trưởng Ban Tuyên huấn. Hồ Kiều Mục vị nể công việc y khoa của tôi, chúng tôi trở thành bạn của nhau.
Tôi đến nhà Hồ Kiều Mục trong khu Trung Nam Hải để chữa cho ông chứng dị ứng và bệnh loét dạ dày. Lúc đang khám, bỗng nhiên vợ ông, Hồ Hữu, làm việc ở Viện hàn lâm khoa học, chạy vào thông báo Giang Thanh đang tới. Bà giục chồng:
– Mặc quần áo nhanh lên.
Ông xin lỗi tôi vì phải bỏ dở cuộc khám.
Tôi chạm trán Giang Thanh ngay lối vào.
– Có phải bác sĩ Lý không?
Vừa hỏi vừa bắt tay tôi trong khi Hồ Kiều Mục giải thích lý do cuộc viếng thăm của tôi. Tuy đã lâu rồi nhưng tôi không quên được giọng lạnh lùng khi bà nói chuyện với tôi lần thứ hai này.
Phụ trách bệnh viện Trung Nam Hải, tôi coi tất cả bệnh nhân như nhau, không phân biệt địa vị, chức vụ của họ. Danh tiếng của tôi tăng lên từng ngày. Nhiều người đã hài lòng khi tôi chữa bệnh cho họ, một số người thậm chí tin tôi, kể cho tôi nghe đời tư, chuyện gia đình để tìm lời khuyên trong tình huống phức tạp. Họ tin tưởng vì tôi chưa khi nào làm lộ bí mật những điều tâm sự.
Cuối năm 1952 tôi được cấp chứng minh thư “A” dành cho nhân viên gương mẫu của Văn phòng Trung ương. Đó là một vinh hạnh lớn.
Cuối cùng người ta kết nạp tôi vào đảng viên dự bị đảng cộng sản. Toàn đảng bộ nhất trí, không ai phản đối tôi cả. Trong quá trình thẩm tra lý lịch, họ phát hiện một người cùng quê, Tô Biên, lãnh đạo trong thời kỳ tôi tham gia lớp huấn luyện năm 1936, đang lao động khổ sai trong trại cải tạo ở Quý Châu, nhưng anh ta không nhớ gì về tôi. Họ lại đi tìm những bạn học cùng trường, cùng lớp cũ, nhưng tất cả đều nhất trí xác nhận tôi chẳng hứng thú tham gia chuyện chính trị. Việc thẩm tra lý lịch vào đảng của tôi kéo dài tròn hai năm.
Thành phần xuất thân của tôi và những hoạt động không thích chính trị đã gây nhiều bất lợi cho tôi khi đất nước Trung Hoa tiến hành làn sóng thanh lọc mới, nhưng tháng 11-1952, đứng dưới lá cờ đảng tôi đã thề trung thành, cống hiến trọn đời, sẵn sàng hy sinh cho đảng cộng sản Trung Quốc. Về chủ nghĩa Mác, tôi chỉ đọc qua “Tuyên ngôn đảng cộng sản” của Marx, hai bài chính luận của Mao. Ngoài ra, tôi chỉ nhớ một vài lần anh tôi giảng giải, một số khẩu hiệu Mác-xít, đại loại như “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Thật ra, tôi chưa bao giờ trở thành người đảng viên như họ. Phần đông đảng viên làm việc ở Trung Nam Hải thuộc hạng đặc quyền đặc lợi. Họ tham gia cách mạng đã lâu, vào đảng khi còn trẻ, thường ở lứa tuổi đôi mươi, tham gia cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Hầu hết xuất thân từ dân nghèo, ít học vẫn mang nặng thành kiến thủ cựu của nông dân. Nhiều người trong số họ ngưỡng mộ sự hiểu biết của tôi. Còn tôi đánh giá cao sự nhiệt tình cách mạng, sự sẵn sàng hy sinh cho lý tưởng cách mạng của họ. Nhưng giữa chúng tôi vẫn có hố ngăn cách quá lớn. Họ coi tôi là trí thức, một bác sĩ, thuộc về tầng lóp bóc lột, đáng ngờ, tôi trở thành mục tiêu để “lôi kéo, sử dụng và cải tạo”. Giá trị duy nhất của tôi đối với đảng là kinh nghiệm tay nghề của một bác sĩ y khoa.
Sự đánh giá khả năng tay nghề của tôi sau khi Uông Đông Hưng gọi điện mời tôi đến nhà ông vào buổi tối ngày 2 tháng 10 năm 1954 tôi mới biết.
Uông phụ trách Ban bảo vệ trung ương, lo toan an ninh cho giới lãnh đạo, đồng thời ông còn chỉ huy đội vệ sĩ của Mao chủ tịch. Tôi quen ông trong bệnh viện, khi vợ ông và con nhỏ vài lần tới khám chữa bệnh, lần nào cũng hỏi tôi cặn kẽ về bệnh tình vợ con ông. Chúng tôi thành bạn với nhau. Uông là công thần của đảng, sống sót sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Ngay từ nhỏ, mới 10 tuổi đã theo cách mạng, ông là con nông dân nghèo ngoại ô, không được học hành, lang thang đường phố, một lần bị cảnh sát bắt vì tội đái bậy trên đường phố, may nhờ khoản tiền hối lộ khổng lồ của bố, ông mới thoát cảnh tù tội. Căm ghét chế độ tham nhũng của Quốc Dân đảng, ông theo đảng cộng sản, gặp Mao, tham gia hoạt động với Mao từ hồi ở Hồ Nam. Sau năm 1949, bất ngờ ông được tiến cử vào hàng ngũ lãnh đạo cao cấp uy tín, nhưng ông luôn luôn tôn trọng tầng lớp trí thức, nhất là tôi, một bác sĩ được đào tạo ở Tây phương.
Trên điện thoại, ông không cho biết lý do, chỉ nói có chuyện gấp cần trao đổi riêng. Điều này làm tôi bối rối, bởi vì giữa tôi và Uông Đông Hưng luôn cởi mở với nhau.
Tôi gặp ông trong một phòng rộng lớn ở Trung Nam Hải, ông sống với vợ ở đó. Căn buồng vừa là phòng làm việc, phòng khách, phòng ăn thậm chí còn là phòng ngủ. Con cái ông và người trông trẻ sống trong khu nhà đối diện bên kia chiếc sân rộng. Uông Đông Hưng rót trà, đưa một chén cho tôi, nói:
– Đây là trà Long Thanh mới hái năm nay đấy. Thử đi đồng chí! Trà này trồng ở Hàng Châu, ngon nhất Trung Quốc. Rượu vang chất lượng phụ thuộc vào độ tuổi, còn trà ngon và đắt nhất lại là trà vừa thu hoạch trong năm.
Uông Đông Hưng đúng là dân sành điệu uống trà. Tôi nhấp một ngụm, thấy rất thơm ngon. Cuối cùng tôi phải hỏi vì sao Uông mời tôi đến.
– Tôi có thể giúp gì đồng chí?
Uông Đông Hưng giọng trở lên quan trọng, hỏi tôi:
– Đồng chí biết vì sao trong thời gian dài tôi không điều đồng chí đi chỗ khác?
Tôi bối rối về câu hỏi của ông ta, đáp:
– Tôi không biết.
– Tôi theo dõi đồng chí vài năm nay, mọi người ở Trung Nam Hải quý trọng đồng chí. Đồng chí được bệnh nhân đánh giá cao vì không phân biệt địa vị, chức vụ và không khi nào tỏ vẻ ngạo mạn. Kinh nghiệm, kiến thức y học, tinh thần, thái độ phục vụ trong công việc của đồng chí đã làm chúng tôi kính phục, kể cả lãnh đạo cao cấp. Thậm chí chính Mao chủ tịch đã nghe thấy lời ca ngợi về đồng chí. Lâu nay chúng tôi chọn tìm một bác sĩ riêng Mao chủ tịch, nhưng chuyện này thật không đơn giản.
Uông nói tiếp:
– Tôi đã thảo luận với Bộ trưởng công an La Thuỵ Khanh và Dương Thượng Côn trưởng ban Ban tổ chức, xếp đồng chí vào công việc này. Tôi cũng thông báo cho thủ tướng Chu Ân Lai, mọi người đều thống nhất chấp thuận sự lựa chọn của tôi. Hôm qua, tôi đã đệ trình lên Mao chủ tịch, sơ bộ chủ tịch đã đồng ý, nhưng trước khi có quyết định chính thức, chủ tịch muốn nói chuyện trực tiếp với đồng chí. Đồng chí cần chuẩn bị chu đáo. Tôi nghĩ rằng Chủ tịch sẽ nhanh chóng gọi đồng chí đến gặp đấy.
Tôi rất bất ngờ tin này. Tôi biết sau cái chết bất ngờ của Nhậm Bích Thế năm 1950, tất cả các nhà lãnh đạo bắt đầu sử dụng bác sĩ riêng, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ trở thành bác sĩ riêng. Từ bệnh viện tôi thường nhìn sang khu nhà Mao ở. Tôi cho rằng ngôi nhà này là trái tim của Trung Quốc, nhịp đập Mao, cũng là nhịp đập của người dân Trung Hoa. Thậm chí không dám hình dung một ngày nào đó tôi được đặt chân đến nơi ấy. Mao đối với tôi là người vĩ đại, xa xăm như ngôi sao trên trời. Đầu óc tôi đột nhiên ngổn ngang bao ý nghĩ. “Công việc này không thể dành cho mình”. Tôi hoàn toàn không xứng đáng đảm nhận công việc đó. Thành phần xuất thân của tôi thế nào đây? Tôi đã từng bị nghi ngờ có liên quan với Quốc dân đảng, bố tôi đã làm cho chính phủ Quốc dân đảng. Còn vợ tôi? Người ta từng đồn thổi là gián điệp. Lý Liên chưa là đảng viên và chẳng khi nào có thể vào đảng được. Không, công việc như thế thường trao cho con cái công nhân và nông dân. Quá khứ của tôi luôn luôn bám sát tôi, không thể thay đổi được”. Ngoài ra, Mao cũng đã có bác sĩ riêng.
Tôi nhớ lại trường hợp đau buồn trong quá khứ của cụ tôi, từng là thầy thuốc trong hoàng cung Từ Hy Thái Hậu, sau khi phát hiện bệnh giang mai ở con trai bà – hoàng đế Đồng Trị. Họ tước phẩm hàm cụ tôi khỏi chức vụ ngự y thái sử, đã ảnh hưởng tới thế hệ sau, không ai trong họ chúng tôi có quyền chữa bệnh trong hoàng cung.
Tôi từ chối, không xứng đáng làm công việc này, nhưng Uông cười phá lên, bảo:
– Đừng lo! Trước khi cho đồng chí vào đảng, chúng tôi điều tra cẩn thận quá khứ và những người thân của đồng chí. Mọi nghi vấn đã được tháo gỡ. La Thuỵ Khanh, Dương Thượng Côn và thủ tướng Chu Ân Lai không nghi ngờ lòng trung thành và an tâm về quá khứ của đồng chí. Nếu không thế làm sao đồng chí được tiến cử làm bác sĩ riêng cho Mao chủ tịch. Quá khứ cụ tổ đồng chí, thuộc về thời phong kiến. Thời nay khác xưa rồi, đồng chí nên xoá bỏ tất cả những mặc cảm đó đi.
Tôi hỏi:
– Nhưng đồng chí Phó Liêm Chương có biết việc này không chứ?
Chính Phó Liêm Chương kêu gọi tôi hồi hương, bố trí công việc cho tôi, giờ đây là thứ trưởng Bộ y tế, trực thuộc Quốc vụ viện Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Trước đây đồng chí ấy lãnh đạo Cục bảo vệ sức khoẻ, lo về công tác bảo vệ sức khoẻ các lãnh tụ cao cấp đất nước. Phó Liêm Chương tự cho mình là bạn thân, là chiến hữu của Mao chủ tịch, đương nhiên, luôn luôn phải quan tâm sức khoẻ của Mao chủ tịch nhiều hơn. Vì thế tôi cho rằng giao việc cho tôi nên thảo luận cả với Phó.
Uông đáp:
– Các đồng chí lãnh đạo cao nhất sẽ quyết định. Dù rằng đồng chí Phó Liêm Chương là thủ trưởng trực tiếp của đồng chí, tôi không nghĩ chúng tôi nhất thiết phải hỏi đồng chí ấy.
Nhưng tôi linh cảm điều này có gì không ổn nếu như Phó Liêm Chương không được hỏi ý kiến.
Tôi nói với Uông:
– Tôi cũng cần có thời gian suy nghĩ đề nghị của đồng chí.
Lý do chưa thuyết phục tôi. Tôi không cảm thấy mình vẫn đang ở bên ngoài Trung Nam Hải, dù rằng về hình thức tôi đã đứng trong hàng ngũ đảng. Thành phần xuất thân của tôi không khi nào xoá được. Nếu tôi thành bác sĩ riêng của Mao chủ tịch, tôi sẽ luôn luôn nằm dưới sự theo dõi chặt chẽ. Chỉ cần phạm lỗi nhỏ người ta sẽ ghi vào lý lịch, có thể đổ tội về thành phần gia đình. Bất cứ sai phạm nào người ta có thể buộc tội tôi âm mưu chống đảng. Tôi sẽ tức khắc bị coi là kẻ thù giai cấp, trở thành kẻ tội đồ khủng khiếp.
Uông nói:
– Không còn thời gian để đồng chí nghĩ lung tung nữa. Chúng tôi đã quyết định rồi.
Lúc này tôi hiểu rằng mình hết lựa chọn. Tôi nói với ông:
– Nếu tôi đảm nhận trách nhiệm này, tất nhiên tôi sẽ làm hết sức mình. Nhưng nói trước, tôi chưa đạt được trình độ hoàn thiện, nếu mắc lỗi xin cứ kỷ luật tôi chứ đừng đổ xuống đầu đồng chí.
Thực tế, Uông Đông Hưng rất liều khi đề bạt tôi vào nhiệm vụ này. Nếu tôi mắc lỗi gì đó, Uông cũng phải gánh chịu. Chúng tôi đã buộc chung dây với nhau, thả trong cùng một rọ cho đến khi Mao chủ tịch qua đời.
Uông động viên tôi:
– Đừng lo. Dĩ nhiên, đồng chí phải hết sức chú ý và thận trọng, phải thường xuyên trao đổi với thủ trưởng, nhưng đồng chí cũng phải tự quyết định nếu thấy việc làm ấy là đúng. Đồng chí sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm công việc mình làm. Tất cả chỉ có thế. Tôi nghĩ, đồng chí sẽ thành công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, hy vọng tôi không sai lầm khi chọn đồng chí. Bây giờ, đồng chí về, chuẩn bị cho cuộc nói chuyện với Mao chủ tịch. Chủ tịch là người quyết định cuối cùng. Khi nào chủ tịch gọi, tôi sẽ điện thoại để đồng chí rõ.
Uông Đông Hưng đưa tôi hồ sơ sức khoẻ Mao, yêu cầu tôi xem trước. Uông cũng nói rằng Mao sớm rời khỏi Bắc Kinh đi nghỉ ở phương nam. Tôi vẫn tiếp tục làm việc ở bệnh viện, chờ quyết định cuối cùng.
Trong khi chờ đợi, tôi nghe không ít những lời cảnh cáo. Trần Dương Anh, vợ goá Nhậm Bích Thế, một trong 5 bí thư hàng đầu của đảng cộng sản, nhắc tôi công việc sắp tới sẽ chẳng đơn giản chút nào đâu. Sau khi chồng chết 1950, bà sống trong sự thất vọng. Tôi cố an ủi và động viên bà. Bà là người phụ nữ khả kính, một người vợ chung thuỷ, một người mẹ đáng kính. Sau cuộc gặp này chúng tôi trở thành bạn tốt của nhau.
Cùng với Trần Dương Anh, tôi có mặt trong các cuộc hội nghị đảng, đi Thượng Hải và Hàng Châu. Bà kể cho tôi về sự lập dị và quái đản của Mao cảnh báo tôi rằng phải thận trọng khi nói chuyện với Mao chủ tịch. Bà bảo:
– Mao có thói nổi xung bất thường, chỉ một sai sót nhỏ có thể làm ông phát khùng. Vợ ông, Giang Thanh, một người độc ác, thô bạo với người xung quanh, ngoài ra còn có tật quyến rũ đàn ông. Đừng bị mê hoặc bởi vẻ ngoài của bà ta. Nếu không, đồng chí rơi vào thảm hoạ, không một ai trong số những người gần Mao giúp được đồng chí đâu. Hơn thế nữa, bất kỳ lúc nào đồng chí cũng có thể chui đầu vào tù đấy.
Những lời cảnh báo của Trần Dương Anh làm tôi giật mình. Tôi tôn thờ Mao, cho rằng chủ tịch không bao giờ làm điều sai quấy. Dĩ nhiên, ông không phải là vua, nhưng ông uy quyền tuyệt đối, điều không cần phải bàn cãi. Không ai có đủ dũng cảm phê bình ông. Thêm nữa, chính trong những năm này rộ lên chiến dịch đấu tranh chống bọn phản cách mạng, nếu ai đó nghe được lời cảnh báo của Trần Dương Anh, người ta có thể buộc tội bà âm mưu tạo phản, phần tử phản cách mạng.
Tôi không bao giờ quên những lời cảnh báo của bà, đã bao nhiêu năm nhưng lời của bà vẫn ám ảnh tôi. Thậm chí bây giờ tôi vẫn còn biết ơn sâu sắc người phụ nữ khả kính này, vì lòng chân thành, thiện chí, cởi mở.
Cuộc đấu tranh với phản cách mạng ở Trung Nam Hải làm tôi lo sợ thật sự. Cầm đầu chiến dịch chính là Uông Đông Hưng, giám đốc Ban bảo vệ nôi bộ, người tiến cử tôi làm bác sĩ riêng cho Mao. Người ta thường quy tội những bác sĩ riêng của các lãnh tụ cao cấp nhất, coi họ liên quan trong nhóm chống đảng.
Tôi lo lắng, sợ hãi vì trong vài tuần lễ ngày nào cũng có bác sĩ bị bắt. Hàng ngày tất cả mọi người ở Trung Nam Hải họp kéo dài 4-5 giờ liền, từ trưa đến tối để lên án, phê phán các bác sĩ, tôi buộc phải tham dự ngồi nghe những lời chỉ trích bịa đặt, lăng mạ trút xuống đầu những bác sĩ vô tội. Các bác sĩ đâu có sung sướng gì. Mỗi người chịu trách nhiệm coi sóc sức khoẻ cho một vị lãnh tụ, chỉ có Nhậm Bích Thế bị chết bất ngờ, còn những người lãnh đạo vẫn còn khoẻ mạnh cơ mà. Bác sĩ làm việc ở đây bị hạn chế quyền làm việc, những cuộc gặp gỡ bạn bè trao đổi kinh nghiệm y học đều bị ngăn cấm. Họ đều trẻ hơn tôi, mới tốt nghiệp, kinh nghiệm còn ít ỏi. Họ cảm thấy rằng khả năng, kiến thức của họ không được sử dụng đúng chỗ, nghề nghiệp sẽ mai một, phí công học hành. Họ thường phàn nàn không được làm việc theo khả năng, chính vì phàn nàn họ bị khép tội không toàn tâm toàn ý, hy sinh phục vụ cho lãnh tụ. Chính vì lý do ấy họ bị buộc tội tham gia nhóm chống đảng.
Cuộc tấn công vào các bác sĩ vẫn chưa ngừng lại, những lời buộc tội mới hoàn toàn vô lý đã được cộng thêm vào tội của họ. Hứa Đào, bác sĩ của Giang Thanh, từng là bác sĩ riêng của Mao một thời gian ngắn, trở thành nạn nhân. Người ta buộc tội Hứa Đào không những chống đảng, mà còn dám chế nhạo Giang Thanh. Dù những lời buộc tội hoàn toàn lố bịch, vô căn cứ, nhưng Hứa Đào bị đe doạ sẽ bị trừng phạt nặng nề. Các vệ sĩ vợ Mao kể, khi Giang Thanh yêu cầu kéo rèm che cửa sồ, bác sĩ Hứa Đào làm quá chậm. Do đó ánh sáng mặt trời thường xuyên chiếu vào mắt Giang Thanh, gây giảm thị lực của bà. Ngoài ra, Hứa Đào còn bị buộc tội chủ ý giảm nhiệt độ phòng của vợ Chủ tịch, khi Giang Thanh nổi giận, ông ta chỉ cho bà cái nhiệt kế hỏng đang chỉ mức 25 độ, đó là nhiệt độ mà Giang Thanh yêu cầu. Vì tất cả “những lỗi” ấy, ông bị buộc tội chống đảng.
Cuối cùng tất cả các bác sĩ trả về bệnh viện nhân dân, trừ một người bị thải hồi. Những người bị tống ra thật may mắn, họ chuyển về Bệnh viện Bắc Kinh nơi họ mong ước nhất để tiếp tục nghề y của mình. Trớ trêu thay, Hứa Đào, bị buộc tội nhiều nhất, lại vẫn ở lại làm bác sĩ riêng của Giang Thanh.
Tôi rất thông cảm các đồng nghiệp, tin rằng họ vô tội. Tất nhiên họ cũng không tham gia trong nhóm chống đảng, nhưng tôi không thể lên tiếng bảo vệ họ được. Nếu ai đó dám công khai đứng ra lên tiếng bênh vực họ, chắc chắn sẽ bị kết tội kẻ chống đảng.
Ngày ấy tôi chưa có nhiều kinh nghiệm, còn quá ngây thơ. Điều này bắt đầu ngay sau khi tôi trở về Bắc Kinh, khi Lý Liên không thể tìm thấy việc làm. Tôi khi đó hiểu rằng, giá như tôi tặng Dương chiếc đồng hồ Rolex, mọi việc sẽ khác đi, Lý Liên chắc chắn có việc làm phù hợp.
Năm 1953, bắt đầu chiến dịch “Ba chống”, chống tham nhũng, lãng phí và quan liêu, đụng chạm tới gia đình tôi. Anh và chị họ tôi bị buộc tội. Họ từng khuyến khích tôi vào đảng, tôi biết họ vô tội. Nhưng tôi lại phải ngậm miệng, nếu đứng ra bảo vệ cũng bị buộc tội kẻ thù của đảng.
Trong khi chưa trở thành bác sĩ riêng của Mao, tôi củng đã mâu thuẫn với chính lương tâm của mình. Tôi đã không dám nói thật những điều suy nghĩ trong tận đáy lòng. Thông thường, đối mặt với những chuyện trái với lương tâm, tôi thường giữ im lặng, không phát biểu, nhưng trong thời gian đấu tố bác sĩ tôi buộc phải đứng ở phía những người buộc tội, bởi vì số phận những người thân cũng như bản thân gia đình tôi phụ thuộc vào điều đó. Tôi phải lừa dối, nhưng đó là cơ hội duy nhất để giữ được việc làm và lên chức. Tôi cần phải làm điều này, vì tất cả để tồn tại.
Nhưng tôi không buộc tội các bác sĩ chống đảng, tôi không thể làm điều đó. Tôi chỉ xác nhận họ thắc mắc, phàn nàn là sai, cũng như chưa hoàn thành tốt công việc, tay nghề còn yếu cần phải trau dồi nghiệp vụ để làm việc tốt hơn trong tương lai.
Bốn mươi năm đã trôi qua, tôi cũng vẫn còn sợ hãi mặc dù tôi đang sống ở Hoa Kỳ, một đất nước tự do và dân chủ. Nghĩ lại chặng đường đã qua, tôi nghĩ, tôi buộc phải lặp lại những gì đã làm, bởi tôi không có sự lựa chọn. Sự sống còn của họ hàng thân thích tuỳ thuộc vào tôi, tôi không thể trốn tránh rũ bỏ trách nhiệm. Nếu bây giờ tôi còn ở lại Trung Quốc, làm nhân chứng cho cuộc đàn áp đẫm máu của quân đội với những người biểu tình trên quảng trường Thiên An Môn ngày 4 tháng Sáu năm 1989, người ta yêu cầu tôi ủng hộ, tôi chắc sẽ phải ủng hộ, kể cả việc đảng cộng sản vẫn tiếp tục theo dõi, đàn áp những người vô tội chỉ vì họ phản đối đường lối, chính sách sai lầm của chính phủ. Như những năm trước đây kể cả hôm nay, để mà sống được ở Trung Quốc, cần phải phản bội lương tâm và từ bỏ lòng tự trọng.
Năm 1954, trong “vụ án bác sĩ”, tôi không biết đồng nghiệp của tôi chỉ là những con tốt đen trong ván cờ tranh chấp quyền lực giữa Uông Đông Hưng và Phó Liêm Chương.
Phó Liêm Chương, thứ trưởng Bộ y tế, đảm nhiệm bảo vệ sức khoẻ cho các lãnh tụ cao cấp. Các bác sĩ riêng cho họ đều được bổ nhiệm theo lời đề nghị của ông ta. Nhưng Phó Liêm Chương rất khó có cơ hội gặp gỡ Mao chủ tịch và các lãnh tụ khác, vì thế ông ta sử dụng các bác sĩ được tiến cử vào mục đích của mình. Họ không những chỉ thông báo cho Phó về tình trạng sức khoẻ của lãnh đạo đảng mà còn phải kể tất cả cái gì thấy và nghe được. Điều này giúp Phó trong cơn bão táp chính trị giữ được vị trí của mình, tránh khỏi chỉ trích và bị buộc tội. Tất nhiên ông quan tâm hơn cả là quan điểm của Mao và nhiều lãnh tụ tối cao khác.
Uông Đông Hưng, phụ trách an ninh quốc gia, đảm bảo an toàn lãnh tụ, kể cả việc bảo vệ sức khoẻ cũng là nhiệm vụ của ông. Quyền lực của Uông thực tế lớn hơn quyền lực của Phó Liêm Chương. Uông là người có hoài bão chính trị, lại gần gũi Mao. Tin tức về hoạt động, các bài phát biểu của các nhà lãnh tụ cao cấp, Uông Đông Hưng đều nhận được không những từ đám vệ sĩ, mà còn từ các bác sĩ mà Phó Liêm Chương bổ nhiệm. Miếng mồi giành độc quyền nguồn thông tin dẫn cuộc cắn xé giữa hai con hổ.
Cuộc xung đột tới đỉnh điểm sau khi Uông, không trao đổi với Phó Liêm Chương khi tiến cử tôi vào chức vụ bác sĩ riêng của Mao. Mâu thuẫn ngấm ngầm ban đầu đã biến thành thù địch công khai. Phó Liêm Chương bắn tin để Mao chủ tịch chống sự bổ nhiệm tôi, bắng cách lôi thành phần gia đình, quá khứ của tôi ra. Trả miếng Phó Liêm Chương, Uông Đông Hưng kích động “vụ án bác sĩ”, được tiến hành dưới ngọn cờ đấu tranh với bọn phản cách mạng là hoàn toàn tự nhiên. Kết quả, tất cả các bác sĩ do Phó bổ nhiệm bị thải hồi, Uông Đông Hưng ăn mừng chiến thắng. Chia rẽ trong mối quan hệ giữa Phó Liêm Chương và Uông tăng lên, họ trở thành kẻ thù không đội trời chung.
Chiến dịch chống bác sĩ gây tổn thương giới trí thức. Mọi người đều hiểu, ở Trung Quốc không có nhân quyền. Mọi người buộc phải nhắm mắt tuân theo mệnh lệnh của cấp trên. Một sự không bằng lòng nho nhỏ hoặc một lời nói bừa bãi có thể làm cho anh trở thành kẻ thù của đảng, của nhân dân. Trên khắp đất nước, chiến dịch chống bọn phản cách mạng được phát động, chỉ cần vô tình sơ sẩy có thể bị khối quần chúng nhân dân phẫn nộ lên án là bọn kẻ thù của cách mạng.
Mỗi người chỉ là một chiếc đinh ốc nhỏ trong cỗ máy quyền lực khổng lồ phức tạp. Một bất đồng nho nhỏ, không hài lòng nhau bộ máy sẽ không hoạt động đồng đều, lệch khỏi các tiêu chuẩn định sẵn đều có thể bị quy tội, bị tống đi cải tạo.
Tuy nhiên trở lại việc bổ nhiệm tôi, càng tôn thờ Mao bao nhiêu thì công việc tương lai lại đe doạ tôi bấy nhiêu. Lý Liên cảnh cáo tôi:
– Người ta sẽ không khi nào tha thứ sai lầm của anh dù sai lầm ấy nhỏ nhất.
Vợ tôi rất hiểu công việc khó khăn của chồng, chúng tôi hồi hương đã được 5 năm, nàng đã trưởng thành rất nhiều, đã gột bỏ ảo tưởng khi chứng kiến những gì xảy ra trong nước. Vợ tôi lúc nào cũng bị nghi ngờ, vì nàng là con đại địa chủ, ngoài ra tội gián điệp luôn lơ lửng trên đầu vẫn chưa buông tha. Nhưng chính vợ tôi cũng hiểu tôi không thể từ chối công việc được giao, luôn luôn lo sợ cho tính mạng của tôi.
Vài tháng trôi qua kể từ hôm gặp Uông. Tôi sống trong tình trạng căng thẳng chờ đợi, nhưng vẫn chưa thấy lãnh tụ gọi.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [5]
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 5
Posted: 13/06/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Ngày 25 tháng 4 năm 1955, gần ba giờ chiều, cô y tá trưởng bệnh viện Trung Nam Hải với vẻ mặt căng thẳng, bối rối, báo cho tôi biết:
– Nhóm Một vừa gọi điện sang – Cô ta thì thào – Đồng chí phải đến ngay bể bơi.
“Nhóm Một” là bí danh của Mao và những cộng sự của ông ta. “Bể bơi” ám chỉ Mao chủ tịch. Lúc đó ở Trung Nam Hải có hai bể bơi. Một bể ngoài trời, tất cả mọi người đều được phép sử dụng trong mùa hè. Bể bơi khác xây trong nhà, dành cho cán bộ lãnh đạo cao cấp của đảng. Tuy vậy, dần dần bể bơi này chỉ mình Mao sử dụng, sau này ông thường hay tới đó, đến nỗi người ta phải xây thêm một phòng ngủ, phòng tiếp khách và phòng làm việc cho ông ngay cạnh bể bơi. Năm 1967, khi Cách mạng văn hoá đang diễn ra, Mao dọn đến ở hẳn tại ngôi nhà có bể bơi đó cho đến khi ông gần qua đời. Tại đây, ông đã đón tiếp tổng thống Nixon, thủ tướng Tanaka và nhiều chính khách nước ngoài khác. Ngay từ năm 1955 chữ “bể bơi” đã luôn gắn liền với Mao.
Chủ tịch đã đích thân ra lệnh gọi tôi.
Như thường lệ, hôm đó công việc ở bệnh viện rất bận rộn, một số bệnh nhân đã kiên tâm chờ đợi hàng giờ liền chờ khám. Tôi phải khám cho họ trước khi đến bể bơi bằng xe đạp. Lý Ẩm Kiều, đội phó đội vệ sĩ của Mao vội vã đi về phía tôi.
– Tại sao đồng chí đến muộn thế? – anh ta hỏi với vẻ đầy lo âu – Đồng chí bắt Chủ tịch phải chờ à?
– Tôi không thể bỏ bệnh nhân mà đi – tôi giải thích – Chủ tịch ốm à? Chủ tịch có cần chăm sóc thuốc men không?
– Không, Chủ tịch chỉ muốn nói chuyện với đồng chí.
Lý Ẩm Kiều đưa tôi đến khu bể bơi. Mao đang nằm trên phản gỗ, say sưa đọc sách. Ông khoác một chiếc áo tắm bằng vải bông lên tấm thân trần, quấn một chiếc khăn bông ngang hông. Trông ông mạnh khỏe, to lớn như lần đầu tiên tôi thấy ông trên khán đài ở quảng trường Thiên An Môn. Ông có đôi vai rộng, bụng phệ, sắc mặt hồng hào, tóc vẫn đen đen nhánh và dày, trán rộng, da bóng, không có lông tơ. Cặp đùi của ông gầy, hai bàn chân thô, xỏ đôi tất màu cà phê. Lý Ẩm Kiều báo tôi đã đến, tôi liền xin lỗi ông vì sự chậm trễ, giải thích vì phải khám nốt số bệnh nhân đã ngồi chờ hàng tiếng đồng hồ. Mao không hề bực mình. Ông để quyển sách sang bên, rồi bảo Lý mang một chiếc ghế đến, vì thế tôi ngồi sát chủ tịch. Khi tiếp khách, số vệ sĩ của Mao thường tăng gấp đôi, một nhóm bốn người túc trực dưới sự điều khiển của một đội, họ cắt nhau túc trực phục vụ ngày cũng như đêm 24/24.
– Trương Trí Đông chẳng bao giờ ăn đúng giờ, ngủ đúng giờ – Mao giải thích – tự ví mình với một quan chức cao cấp trong triều đại nhà Thanh – Tôi cũng như Trương, tỉnh dậy là đến đây ngay. Bây giờ mấy giờ rồi?
– Bốn rưỡi chiều ạ – tôi trả lời.
– Giờ này đối với tôi vẫn còn là bình minh. Đồng chí dậy lúc mấy giờ?
Tôi lúng túng. Vì sau bữa ăn trưa phần lớn người Trung Quốc thường chợp mắt một chút, tôi vẫn chưa hề biết thói quen của Mao, nên tôi không dám chắc ông muốn biết tôi dậy sau giấc ngủ trưa vào lúc nào hay tôi dậy vào buổi sáng lúc mấy giờ.
– Buổi sáng tôi thường dậy lúc hơn 6 giờ – cuối cùng tôi đã nói – buổi trưa tôi chợp mắt một chút ạ.
– Đồng chí là bác sĩ – Mao vừa cười vừa nói – nên đồng chí mới lưu tâm đến sức khỏe và cuộc sống của đồng chí theo thời gian biểu một cách nghiêm ngặt.
Trong cái nhìn của Mao, ông tỏ ra là người khôn ngoan, nhân ái – bằng điệu bộ của ông nhiều hơn bằng lời nói. Tôi bị ông chinh phục, vì tôi cảm thấy mình đang đối diện với một người vĩ đại.
Ông hút thuốc lá của Anh, mác “555”. Khi hút, ông dùng thêm tẩu.
– Tống Khánh Linh tặng tôi cái tẩu này – ông ám chỉ quả phụ của Tôn Trung Sơn và khuyên nên dùng tẩu, vì bên trong có thêm đầu lọc để giảm hàm lượng nicotine – Tôi đã hút thuốc từ nhiều năm nay nhưng luôn tự hỏi, chất nicotine đã gây tác hại như thế nào. Đồng chí có hút thuốc không?
– Tôi có hút, nhưng không nhiều. Buổi tối, sau giờ làm việc tôi thường hút ba hoặc bốn điếu.
– Đồng chí là bác sĩ hút thuốc đầu tiên mà tôi biết.
Ông nhìn tôi vừa cười chế nhạo tinh quái vừa bập bập hơi thuốc.
– Hút thuốc cũng là phương pháp luyện tập hít thở tốt đúng không?
Tôi không biết ông nói đùa hay nói thật, nên tôi chỉ cười, không nói gì. Mao nhìn tóc tôi, rồi nói:
– Đồng chí mới trên 30 tuổi, sao tóc bạc nhiều hơn tôi thế?
Tôi đáp, tóc tôi bạc trước tuổi là theo gen di truyền.
– Cứ theo tóc mà phán, tôi già hơn Chủ tịch nhiều.
Mao cười:
– Đồng chí nịnh tôi chứ gì?
Dần dần tôi đã bạo hơn.
Mao hỏi tôi về việc học hành, về quá trình công tác và lắng nghe tôi nói.
– Từ khi đi học, đồng chí đã được giáo dục hoàn toàn theo kiểu Mỹ – ông nói – Trong cuộc chiến tranh giải phóng chống Tưởng Giới Thạch và Quốc dân đảng, người Mỹ đã ủng hộ Tưởng. Và ở Triều Tiên họ cũng đã chống lại chúng ta. Mặc dù vậy, tôi vẫn thích những người đã từng học ở các trường của Mỹ và Anh làm việc cho tôi. Tôi cũng rất thích ngoại ngữ. Người ta đã nhiều lần đề nghị tôi học tiếng Nga, nhưng tôi không thích. Tôi thích tiếng Anh hơn. Có lẽ đồng chí có thể giúp được tôi việc này?
Tôi đồng ý.
Mao ngừng nói, rồi nghiêm giọng:
– Mới có 15 tuổi, khi vẫn còn là trẻ con, đồng chí đã gia nhập tổ chức Phục hưng Quốc gia vào năm 1935. Khi đó, đồng chí chưa hề hiểu chính trị là gì. Ngoài ra, đồng chí đã kể những mẩu chuyện về quá khứ của đồng chí. Tôi thấy không có vấn đề gì.
Ông kể cho tôi nghe về Lý Thế Dân, vị hoàng đế lập ra triều đại nhà Đường (618-907), không những đã từ chối lời can ngăn của các quan thượng thư không nên dùng một viên tướng không rõ lai lịch mà còn tin tưởng cho hầu cận kế bên. Nhưng viên tướng đó lại có tài năng phi thường, đã phụng sự nhà vua rất tích cực. Chẳng bao lâu nhà vua và viên tướng đó đã thân thiết với nhau.
Mao nhìn tôi, nói:
– Điều gì đã khiến nhà vua tin tưởng? Đó chính là sự thành thật. Chúng ta cần phải thành thật với nhau. Quan hệ và sự thành thật của chúng ta cần phải trải qua thử thách trong một thời gian dài.
Mao nói tiếp:
– Trường hợp Hứa Thế Hữu làm thí dụ – Ông nhắc đến nhà sư từng là tư lệnh quân khu Nam Kinh – Hứa Thế Hữu nguyên là phe cánh của Trương Quốc Đạo, một trong những người sáng lập ra đảng cộng sản Trung Quốc nhưng đã chạy sang hàng ngũ Quốc dân đảng sau khi bất đồng với Mao. Hứa Thế Hữu không chịu chạy theo Trương Quốc Đạo, tuyên bố trung thành với Mao. “Trong đợt chỉnh huấn năm 1942 ở Diên An, nhiều người ngờ vực lòng trung thành của Hữu, vì trước đó đồng chí ấy đã từng làm việc cho Trương Quốc Đạo. Hứa bị phê phán kịch liệt. Đồng chí ấy đã thất vọng, nghĩ đến việc rút quân của mình khỏi Diên An. Khang Sinh muốn bắt, xử bắn đồng chí ấy. Tôi ra lệnh không được động thủ vội, muốn đích thân nói chuyện với đồng chí ấy trước đã. Nhiều người e ngại, nhưng tôi không sợ.
– Khi gặp tôi, Hứa bật khóc. Tôi nói, đừng khóc nữa, hãy trả lời hai câu hỏi đơn giản của tôi: “Đồng chí tin Trương Quốc Đạo hay tin tôi?” tôi hỏi. “Tất nhiên, tôi tin đồng chí”, Hứa trả lời. “Đồng chí muốn đi hay ở lại?”, tôi hỏi tiếp. “Tất nhiên là tôi muốn ở lại” đồng chí ấy đáp. Và tôi nói: “Được, đồng chí hãy ở lại. Đồng chí tiếp tục chỉ huy bộ đội của đồng chí. Thế thôi”. Từ đó, đâu phải Hứa Thế Hữu đã không hoàn thành nhiệm vụ của đồng chí ấy.
Tất cả mối lo lắng và nản lòng cả năm trời nay bỗng nhiên tôi cảm thấy vững tâm. Mao đã gạt bỏ nguồn gốc xuất thân, quá khứ chính trị của tôi. Với người khác, họ thường lấy quá khứ để phê phán, khai trừ tôi ra khỏi đảng, gây hoang mang. Mao chủ tịch nói:
– Lúc ấy anh hãy còn trẻ con, thành thật khai báo có gì sai?
Lý lẽ của chủ tịch thật đơn giản nhưng cũng nhờ đó quá khứ của tôi được xoá bỏ. Mao, vị lãnh tụ tối cao, không ai dám cưỡng lời. Tôi biết ơn chủ tịch, ông đã cứu tôi.
Một vệ sĩ đến chuẩn bị bữa ăn cho Mao. Chủ tịch mời tôi dùng cơm chung. Bữa ăn có 4 món, cá, thịt lợn trộn ớt thái lát, thịt cừu xào tỏi tây (món ăn khoái khẩu của chủ tịch), một đĩa rau. Trong khi đó các món ăn thường được đảo qua dầu nóng nhưng không rưới xì dầu, rắc thêm chút muối.
Vào giữa những năm 1950, hầu hết mọi người đều phải chịu đựng cuộc sống nghèo khó, thực phẩm thiếu thốn, dầu ăn trở thành một món xa xỉ. Nhưng tôi lại quen ăn những món nhúng dầu, vì vậy tôi đã phải cắn răng nhịn.
– Đồng chí không ăn à? – Mao có vẻ trách – Món cá ngon lắm, thịt lợn cũng thế.
– Tôi không đói lắm – tôi cáo từ.
Mãi sau này tôi mới quen với khẩu vị của ông.
– Đây là bữa sáng cũng là bữa trưa của tôi – ông nói – Mỗi ngày tôi ăn hai bữa là đủ. Hình như bây giờ chưa phải là giờ ăn của đồng chí?
Chúng tôi tiếp tục trò chuyện. Ông muốn biết tôi có quan tâm đến triết học không.
– Khi còn là sinh viên, chưa bao giờ tôi đọc những cuốn sách giáo khoa về nghề y của tôi kỹ lưỡng như tôi mong muốn – tôi đáp – Tôi không có thời gian để đọc những cuốn sách khác. Từ khi trở thành bác sĩ, tôi hoàn toàn dành thời gian điều trị cho bệnh nhân. Vì vậy, tôi không có điều kiện để đọc sách triết học. Nhưng tôi cũng đã đọc hai bài luận văn triết học của Chủ tịch: “Bàn về thực tiễn” và “Bàn về mâu thuẫn”.
Tôi rất thích hai bài này. Mao viết rất hay, giản dị, chính xác từng vấn đề. Bài “Bàn về thực tiễn” đã cho tôi thấy, sự hiểu biết đúng đắn chỉ có thể có được từ hành động hơn là từ những lý thuyết suông. Đó là một bài học bổ ích đối với một bác sĩ phẫu thuật tương lai. Bài “Bàn về mâu thuẫn” đã giải thích cho tôi, rằng người ta cần phải tìm hiểu bản chất của vấn đề thay vì tập trung vào hiện tượng bên ngoài của nó.
Mao cười:
– Trong cuộc kháng Nhật (1937-1945) tôi đã đề nghị đưa môn triết học vào Trường Đại học chống Nhật ở Diên An. Lúc đó tôi nghĩ, cần phải đúc kết kinh nghiệm cách mạng của ta, kết hợp giữa lý luận của chủ nghĩa Marx vào thực tế cụ thể ở Trung Quốc. Vì thế tôi đã viết cả hai bài này. Tôi nghĩ, bài “Bàn về thực tiễn” có ý nghĩa hơn bài “Bàn về mâu thuẫn”. Tôi viết “Bàn về mâu thuẫn” trong hai tuần, nhưng khi trình bày chỉ mất hai tiếng đồng hồ.
Sau này, mỗi khi nhớ lại, tôi đã tự hỏi, tại sao trong lần gặp đầu tiên, tôi lại gây ấn tượng tốt cho Mao như vậy, tôi thường nhớ đến cuộc trò chuyện này. Chỉ sau khi tôi trở thành người gần gũi với Mao, người cộng sự tin cậy nhất của ông, tôi mới biết, hai bài lý luận triết học quan trọng đối với Mao như thế nào. Mao coi đó là những bài học cơ sở đưa đến sự phát triển triết học của chủ nghĩa Marx-Lenin, tức là sự áp dụng “chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh cụ thể của Trung Quốc”. Không những Liên Xô đã coi thường bài viết này mà còn gán cho những bài viết đó có tính chất xét lại. Tôi nghe tin đồn Stalin đã chỉ định P. F. Yudin, một triết gia Marxist- Leninnist nổi tiếng sang làm đại sứ Liên Xô ở Trung Quốc, nghiên cứu tư tưởng Mao, viết báo cáo tường trình về tư tưởng đó. Mao thường gặp Yudin, rồi hai người tranh luận với nhau đến tận đêm khuya. Nhưng Yudin đã cương quyết phủ nhận những quan điểm của Mao, cho đến khi Mao phật lòng. “Có phải triết học chỉ ở trong giới hạn của Marx-Lenin?“, đôi khi ông nặng lời, “Kinh nghiệm thực tế cách mạng Trung Quốc không thể tạo ra những tư tưởng triết học mới sao?”
Tuy nhiên buổi chiều hôm đó tôi vẫn chưa biết nhiều điều vì Mao vẫn còn dè dặt.
Ông nói:
– Tôi nghĩ, đồng chí nên đọc vài cuốn sách triết học. Là bác sĩ, điều đó có thể rất bổ ích đối với đồng chí. Tôi vừa mới đọc xong “Phép biện chứng tự nhiên của Engels”. Đồng chí cầm cầm lấy cuốn sách này. Tôi đã từng nghe, ở các trường Đại học bên Mỹ người có học vị hàn lâm cao nhất trong khoa học tự nhiên và thần học đều là tiến sĩ triết học. Rõ ràng, người Mỹ cũng có quan điểm cho rằng, trong tất cả các ngành khoa học, triết học đóng một vai trò quan trọng. Tôi đã nắm được điều quan trọng đó để nghiên cứu lịch sử. Nếu không biết gì về lịch sử, chúng ta không thể hiểu được cái gì đang xảy ra trong hiện tại. Và đồng chí cũng nên biết về văn học. Một khi là bác sĩ, thường xuyên giao tiếp với nhiều người, đồng chí chỉ sử dụng những kiến thức y học không thôi sẽ thấy lạc lõng, xa lạ. Đồng chí sẽ không chia xẻ tâm tư, tình cảm qua ngôn ngữ bình dân của mọi người.
Mao dừng một lát.
– Hôm nay như thế là đủ rồi. Trong tương lai chúng ta sẽ còn có nhiều dịp để thường xuyên trao đổi với nhau.
Ông chìa tay, bắt tay tôi thật chặt.
Hơn bảy giờ tối, tôi rời khu bể bơi, trong đầu chất chứa bao suy tư. Cuộc gặp gỡ có quá nhiều bất ngờ, từ chuyện Mao nằm trên giường, thói quen ngủ nghê kỳ quặc, lối nói khôi hài khuyến rũ, giúp tôi đỡ căng thẳng, khiến tôi nói hết cảm nghĩ của mình. Người ta sợ hãi ông đồng thời cũng rất dễ gần gũi, ông khôn ngoan nhưng không sùng bái thần tượng. Sự lo lắng đã biến mất, tự nhiên tôi cảm thấy yên tâm hơn so với những năm trước đây. Mặc dù giữa chúng tôi vẫn luôn luôn còn hố sâu ngăn cách, tôi biết rất ít về ông, nhưng tôi hiểu đã gặp một con người vĩ đại. Tôi rất tự hào vì được giao nhiệm vụ đấy tin cậy, phục vụ ông. Một dịp may tôi không dám mơ đến. Nhưng liệu tôi có hoàn thành nhiệm vụ hay không? Tôi nên chuẩn bị như thế nào? Người ta đã trông mong ở tôi điều gì? Tôi lập tức tìm gặp Uông Đông Hưng.
Uông hoan hỷ:
– Như vậy đồng chí ở bên Chủ tịch khá lâu, Chủ tịch chắc hài lòng lắm. Đồng chí nói gì với Chủ tịch?
Tôi báo cáo lại tất cả. Uông vui lắm:
– Thấy chưa, tôi đã bảo mà. Buổi đầu như thế quá tốt, hãy cố gắng lên.
Chuông điện thoại reo. Vệ sĩ của Mao là Lý Ẩm Kiều gọi điện đến. Tôi đã gây ấn tượng rất tốt đối với Mao, vượt qua được thử thách. Mao muốn tôi làm bác sĩ riêng của ông.
– Tôi sẽ báo việc này cho Bộ trưởng công an La Thuỵ Khanh – Uông nói – Bây giờ đồng chí về nghỉ đi. Nhớ giữ kín tất cả mọi chuyện đã xảy ra ngày hôm nay.
Lý Liên, người duy nhất được tôi kể cho nghe về nhiệm vụ mới. Cô ấy cũng nghĩ, hẳn tôi phải gây được thiện cảm tốt đẹp rồi. Nếu không Mao đã không nói chuyện với tôi lâu như vậy, lại còn mời tôi cùng dùng cơm. Tôi vui lắm, nhưng vẫn còn lo về công việc sắp tới, bảo:
– Hãy chờ xem liệu công việc có thuận lợi như vậy hay không đã?
Lý Liên hỏi:
– Mình có hiểu công việc cần đòi hỏi những gì không?
Hôm sau Phó Liêm Chương gọi điện mời tôi đến nhà ở đường Dây Cung. Tôi đạp xe đến. Lần này, ông đích thân ra tận cửa đón, bắt chặt tay tôi:
– Hôm qua đồng chí gặp Mao chủ tịch phải không? Kể cho tôi nghe đi.
Tôi không hiểu sao tin này lại lan nhanh đến như vậy. Phó Liêm Chương chăm chú lắng nghe tôi kể lại cuộc gặp gỡ giữa tôi và Mao. Câu chuyện làm ông phấn khích. Ông rót trà mời tôi, đi vòng quanh bàn trà nhỏ hai lần, lẩm bẩm: “Thật là may mắn”. Quay người lại nhìn tôi, ông ta cười, nói:
– Đồng chí thật may mắn. Lần đầu gặp Mao chủ tịch mà đồng chí đã được nói chuyện với Chủ tịch lâu như vậy. Đúng là một đặc ân.
Tôi cảm thấy Phó Liêm Chương ngạc nhiên ra mặt và có ý ghen tị.
Phó Liêm Chương kể:
– Năm 1934, lúc đó Chủ tịch mắc bệnh sốt rét, tôi đã cho Chủ tịch uống ký ninh. Khi Chủ tịch ra mặt trận lại giao phó cho tôi chăm sóc vợ Chủ tịch đang có mang, đó là nữ đồng chí Hạ Tử Trân. Tôi đã đỡ đứa con của họ chào đời.
Nhưng Phó Liêm Chương lại không nhớ chính xác Hạ Tử Trân có mấy con, chỉ biết mang máng có hai con trai trước khi cuộc Vạn Lý Trường Chinh xảy ra, hai đứa con phải bỏ lại cho gia đình nông dân nuôi dưỡng khi cộng sản rút lui phía Nam, khó khăn lắm sau này mới tìm được. Hai má Phó nóng bừng vì phấn kích khi ông nhớ lại thời kỳ đó. Những hạt mồ hôi lăn trên trán, ông nhấp vài ngụm nước đun sôi, bảo:
– Mình không uống trà hoặc bất cứ chất kích thích nào.
Phó nói tiếp, lái câu chuyện sang hướng khác.
– Sau đó, Chủ tịch đã cứu tôi. Lần đó tôi bị cáo buộc là người của Quốc dân đảng, nhưng Mao chủ tịch đã đứng ra bảo vệ. Hồi trẻ, tôi mắc bệnh lao, lần đó Chủ tịch cũng rất tốt với tôi. Trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh, khi mọi người khác phải đi bộ, Chủ tịch đã cho tôi cưỡi ngựa. Vì sức khỏe của tôi rất yếu, Chủ tịch cũng rất quan tâm, bảo người lo cho tôi mỗi ngày được ăn một con gà. Hồi đó, gà đắt lắm lại khó mua nữa, mỗi ngày ăn một con gà thật là xa xỉ không tưởng tượng nổi.
Phó rót thêm trà cho tôi, nói tiếp:
– Tôi kể tất cả cho đồng chí nghe, vì tôi muốn đồng chí hiểu Chủ tịch.
Tôi biết quá ít về thời kỳ đầu lịch sử của đảng cộng sản và quá khứ của Mao. Vì vậy tới đòi Phó kể tiếp.
– Những điều mà đồng chí kể rất bổ ích đối với tôi.
Phó cười.
– Chủ tịch mắc chứng mất ngủ. Đầu những năm 1930, trong thời kỳ Giang Tây Xô Viết, tôi đã phải hoá trang thành thương gia để đến Thượng Hải mua thuốc giảm đau, an thần veronal và đường glucose. Tôi đã hướng dẫn Chủ tịch dùng thuốc trước khi đi ngủ. Thuốc có hiệu quả, Mao rất vui. Đồng chí thấy đấy, tôi rất trung thành với Chủ tịch. Chủ tịch và tôi bằng tuổi nhau nhưng tôi không sung sức như Chủ tịch.
Phó nhìn tôi chăm chú, nói:
– Việc đồng chí được giao nhiệm vụ có nghĩa đảng đã tin tưởng đồng chí. Đó là một nhiệm vụ vinh quang, nhưng cũng đầy khó khăn.
Bữa ăn được dọn ra. Phó nói:
– Hôm qua, Chủ tịch đã mời đồng chí dùng cơm, nay đến lượt tôi.
Đó chỉ là bữa ăn đạm bạc, ngoài các món còn có món gà hấp.
– Hàng ngày tôi thường ăn gà.
Ông gọi người mang rượu vang, nâng ly mời:
– Thường ngày tôi không uống rượu vang, nhưng hôm nay là ngoại lệ – ông nói tiếp – Là bác sĩ riêng của Mao chủ tịch, đồng chí cần phải thận trọng. Nếu có điều gì bất cập, đồng chí cứ nói, tôi sẽ giúp.
Tôi không biết Phó có thể giúp tôi như thế nào. Rõ ràng ông chỉ muốn nghe được càng nhiều càng tốt về Mao và những hoạt động của Mao. Phó ăn xong món thịt gà, rồi buông bát, giải thích:
– Mỗi ngày tôi ăn năm bữa, nhưng ăn rất ít. Đồng chí tiếp tục ăn đi chứ. Chủ tịch muốn đồng chí dạy tiếng Anh cho Chủ tịch – Phó nói tiếp – Đấy là một dịp may để đồng chí kết thân với Chủ tịch. Đồng chí không những phải chăm sóc sức khỏe mà còn phải làm tất cả những việc Chủ tịch yêu cầu.
Tôi cảm thấy lời khuyên của Phó ra vẻ dạy đời. Tôi là bác sĩ, tôi chỉ quan tâm đến công việc y học ngoài ra tôi không muốn gì hết. Tôi trả lời không đắn đo:
– Một khi tôi làm theo lời khuyên của đồng chí, tôi lấy đâu ra thời gian cho chuyên môn của tôi.
Phó nghiêm nghị:
– Đồng chí không nên nhìn vấn đề như thế. Chủ tịch uyên bác lắm, kiến thức mênh mông như biển cả, đồng chí có thể học hỏi được rất nhiều ở Chủ tịch. Đồng chí là bác sĩ, cũng cần mở rộng kiến thức của mình chứ. Nếu muốn, đồng chí sẽ có nhiều cơ hội hơn để trao đổi học hỏi và hiểu Chủ tịch hơn.
Mao cũng đã khuyên tôi trau dồi, mở mang kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau, tôi hiểu điều Phó nói có lý. Mao vẫn còn trẻ, khỏe, nhiệm vụ của tôi không chỉ điều trị bệnh tật cho ông mà còn phải lo cho ông luôn luôn khỏe mạnh. Tôi phải làm quen với cá tính, đặc điểm, thói quen và chiếm được lòng tin của ông. Phó nói phải, tôi cần mở mang kiến thức, có như thế tôi mới có thể chuyện trò lâu với Chủ tịch. Tôi cảm ơn lời khuyên của Phó. Ông rất hài lòng, cầm lấy tay tôi, siết chặt, dặn:
– Tuần nào cũng đến tôi nhé, không cứ phải có công chuyện.
Ngoài đường người đông nghịt, không khí ngày lễ tràn ngập khi tôi đạp xe về nhà. Bắc Kinh đang sửa soạn đón ngày lễ mồng l tháng Năm, những toà nhà được trang hoàng bằng những tấm biểu ngữ, băng rôn và những lá cờ đỏ rực. Lòng tôi lâng lâng hạnh phúc.
Sau khi trở về Trung Quốc, tôi đã tỉnh ngộ. Giấc mơ của tôi tan nhanh. Những người cùng thế hệ trong họ tộc – anh em ruột, họ hàng và bạn bè tôi đã tìm được chỗ đứng trong xã hội mới. Họ từng là chiến sĩ lão thành, những người đàn ông của những năm 30 ở Diên An, những người làm lên cuộc cách mạng. Sau khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, họ đã được tưởng thưởng những chức vụ quan trọng. Một số bị phê phán trong phong trào “Ba Chống”, đôi khi đấu đá nhau để bám giữ chức vụ và bây giờ họ được kính trọng như những người thành đạt trong xã hội. Một số bạn học trường y cũng vậy, con đường khoa học của như mùa hoa nở rộ. Một số trở thành những chuyên gia y học chuyên ngành rất nổi tiếng, được tôn kính trong các bệnh viện lớn của đất nước.
Sự nghiệp của tôi trôi sang hướng khác, công việc được giao chẳng mong ước, buộc phải bỏ nghề phẫu thuật, thành bác sĩ đa khoa. Mặc dù trước đó ít lâu thủ tướng Chu Ân Lai đã thông báo, bệnh viện tôi phụ trách ở Trung Nam Hải sẽ thành một bệnh viện tổng hợp phục vụ Hội đồng nhà nước, thủ tướng sẽ bổ nhiệm tôi làm giám đốc cơ sở mới này. Nhưng sự tái tổ chức cơ cấu còn đang dang dở. Tôi không biết tương lai sẽ ra sao. Người ta chỉ định tôi bác sĩ riêng của Mao, không làm việc trong bệnh viện, thay vào đấy là áp lực làm việc sẽ rất lớn.
Khi trở thành bác sĩ riêng của Mao, tôi vui mùng vì được nhiều người kính trọng. Mao, vị lãnh tụ tối cao của Trung Quốc, được hàng triệu triệu người tôn sùng. Nhưng nơi ông ở rất bí mật, cách biệt riêng, thậm chí với cả những chính trị gia thân cận nhất của ông. Ông được bảo vệ rất cẩn mật. Với người thường, ông là nhân vật khó hiểu, khó gần. Ngay những cán bộ cao cấp của đảng cũng chỉ gặp ông trong những cuộc họp. Là bác sĩ riêng, tôi thường xuyên túc trực bên ông, hàng ngày hướng dẫn ông học tiếng Anh, nói chuyện triết học và chứng kiến những điều bí mật xảy ra xung quanh ông.
Cuộc đời tôi đã thay đổi. Bầu trời mở rộng, đất nước ôm lấy tôi vào lòng. Tôi không còn là tôi nữa. Ngay sau khi trở về vào năm 1949, tôi đã tìm gặp Phó Liêm Chương. Trong lúc tôi chào hỏi, ông vẫn nằm trên chiếc ghế bố không thèm đứng dậy, ấy thế tôi vẫn cảm thấy vinh hạnh được một cán bộ cao cấp như vậy đón tiếp. Bây giờ ông lại ra tận cửa đón tôi với vẻ nhũn nhặn. Tôi sớm nhận ra rằng, bỗng nhiên nhiều chính trị gia cao cấp đối xử với tôi nhã nhặn, ân cần, muốn được trò chuyện với tôi. Tôi không còn là một thầy thuốc bình thường nữa. Tôi đã là bác sĩ riêng của Mao chủ tịch. Lòng tôi dâng lên niềm hân hoan ngây ngất, đầy tự hào, kiêu hãnh.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Tags: Mao Trạch Đông
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Ngày 25 tháng 4 năm 1955, gần ba giờ chiều, cô y tá trưởng bệnh viện Trung Nam Hải với vẻ mặt căng thẳng, bối rối, báo cho tôi biết:
– Nhóm Một vừa gọi điện sang – Cô ta thì thào – Đồng chí phải đến ngay bể bơi.
“Nhóm Một” là bí danh của Mao và những cộng sự của ông ta. “Bể bơi” ám chỉ Mao chủ tịch. Lúc đó ở Trung Nam Hải có hai bể bơi. Một bể ngoài trời, tất cả mọi người đều được phép sử dụng trong mùa hè. Bể bơi khác xây trong nhà, dành cho cán bộ lãnh đạo cao cấp của đảng. Tuy vậy, dần dần bể bơi này chỉ mình Mao sử dụng, sau này ông thường hay tới đó, đến nỗi người ta phải xây thêm một phòng ngủ, phòng tiếp khách và phòng làm việc cho ông ngay cạnh bể bơi. Năm 1967, khi Cách mạng văn hoá đang diễn ra, Mao dọn đến ở hẳn tại ngôi nhà có bể bơi đó cho đến khi ông gần qua đời. Tại đây, ông đã đón tiếp tổng thống Nixon, thủ tướng Tanaka và nhiều chính khách nước ngoài khác. Ngay từ năm 1955 chữ “bể bơi” đã luôn gắn liền với Mao.
Chủ tịch đã đích thân ra lệnh gọi tôi.
Như thường lệ, hôm đó công việc ở bệnh viện rất bận rộn, một số bệnh nhân đã kiên tâm chờ đợi hàng giờ liền chờ khám. Tôi phải khám cho họ trước khi đến bể bơi bằng xe đạp. Lý Ẩm Kiều, đội phó đội vệ sĩ của Mao vội vã đi về phía tôi.
– Tại sao đồng chí đến muộn thế? – anh ta hỏi với vẻ đầy lo âu – Đồng chí bắt Chủ tịch phải chờ à?
– Tôi không thể bỏ bệnh nhân mà đi – tôi giải thích – Chủ tịch ốm à? Chủ tịch có cần chăm sóc thuốc men không?
– Không, Chủ tịch chỉ muốn nói chuyện với đồng chí.
Lý Ẩm Kiều đưa tôi đến khu bể bơi. Mao đang nằm trên phản gỗ, say sưa đọc sách. Ông khoác một chiếc áo tắm bằng vải bông lên tấm thân trần, quấn một chiếc khăn bông ngang hông. Trông ông mạnh khỏe, to lớn như lần đầu tiên tôi thấy ông trên khán đài ở quảng trường Thiên An Môn. Ông có đôi vai rộng, bụng phệ, sắc mặt hồng hào, tóc vẫn đen đen nhánh và dày, trán rộng, da bóng, không có lông tơ. Cặp đùi của ông gầy, hai bàn chân thô, xỏ đôi tất màu cà phê. Lý Ẩm Kiều báo tôi đã đến, tôi liền xin lỗi ông vì sự chậm trễ, giải thích vì phải khám nốt số bệnh nhân đã ngồi chờ hàng tiếng đồng hồ. Mao không hề bực mình. Ông để quyển sách sang bên, rồi bảo Lý mang một chiếc ghế đến, vì thế tôi ngồi sát chủ tịch. Khi tiếp khách, số vệ sĩ của Mao thường tăng gấp đôi, một nhóm bốn người túc trực dưới sự điều khiển của một đội, họ cắt nhau túc trực phục vụ ngày cũng như đêm 24/24.
– Trương Trí Đông chẳng bao giờ ăn đúng giờ, ngủ đúng giờ – Mao giải thích – tự ví mình với một quan chức cao cấp trong triều đại nhà Thanh – Tôi cũng như Trương, tỉnh dậy là đến đây ngay. Bây giờ mấy giờ rồi?
– Bốn rưỡi chiều ạ – tôi trả lời.
– Giờ này đối với tôi vẫn còn là bình minh. Đồng chí dậy lúc mấy giờ?
Tôi lúng túng. Vì sau bữa ăn trưa phần lớn người Trung Quốc thường chợp mắt một chút, tôi vẫn chưa hề biết thói quen của Mao, nên tôi không dám chắc ông muốn biết tôi dậy sau giấc ngủ trưa vào lúc nào hay tôi dậy vào buổi sáng lúc mấy giờ.
– Buổi sáng tôi thường dậy lúc hơn 6 giờ – cuối cùng tôi đã nói – buổi trưa tôi chợp mắt một chút ạ.
– Đồng chí là bác sĩ – Mao vừa cười vừa nói – nên đồng chí mới lưu tâm đến sức khỏe và cuộc sống của đồng chí theo thời gian biểu một cách nghiêm ngặt.
Trong cái nhìn của Mao, ông tỏ ra là người khôn ngoan, nhân ái – bằng điệu bộ của ông nhiều hơn bằng lời nói. Tôi bị ông chinh phục, vì tôi cảm thấy mình đang đối diện với một người vĩ đại.
Ông hút thuốc lá của Anh, mác “555”. Khi hút, ông dùng thêm tẩu.
– Tống Khánh Linh tặng tôi cái tẩu này – ông ám chỉ quả phụ của Tôn Trung Sơn và khuyên nên dùng tẩu, vì bên trong có thêm đầu lọc để giảm hàm lượng nicotine – Tôi đã hút thuốc từ nhiều năm nay nhưng luôn tự hỏi, chất nicotine đã gây tác hại như thế nào. Đồng chí có hút thuốc không?
– Tôi có hút, nhưng không nhiều. Buổi tối, sau giờ làm việc tôi thường hút ba hoặc bốn điếu.
– Đồng chí là bác sĩ hút thuốc đầu tiên mà tôi biết.
Ông nhìn tôi vừa cười chế nhạo tinh quái vừa bập bập hơi thuốc.
– Hút thuốc cũng là phương pháp luyện tập hít thở tốt đúng không?
Tôi không biết ông nói đùa hay nói thật, nên tôi chỉ cười, không nói gì. Mao nhìn tóc tôi, rồi nói:
– Đồng chí mới trên 30 tuổi, sao tóc bạc nhiều hơn tôi thế?
Tôi đáp, tóc tôi bạc trước tuổi là theo gen di truyền.
– Cứ theo tóc mà phán, tôi già hơn Chủ tịch nhiều.
Mao cười:
– Đồng chí nịnh tôi chứ gì?
Dần dần tôi đã bạo hơn.
Mao hỏi tôi về việc học hành, về quá trình công tác và lắng nghe tôi nói.
– Từ khi đi học, đồng chí đã được giáo dục hoàn toàn theo kiểu Mỹ – ông nói – Trong cuộc chiến tranh giải phóng chống Tưởng Giới Thạch và Quốc dân đảng, người Mỹ đã ủng hộ Tưởng. Và ở Triều Tiên họ cũng đã chống lại chúng ta. Mặc dù vậy, tôi vẫn thích những người đã từng học ở các trường của Mỹ và Anh làm việc cho tôi. Tôi cũng rất thích ngoại ngữ. Người ta đã nhiều lần đề nghị tôi học tiếng Nga, nhưng tôi không thích. Tôi thích tiếng Anh hơn. Có lẽ đồng chí có thể giúp được tôi việc này?
Tôi đồng ý.
Mao ngừng nói, rồi nghiêm giọng:
– Mới có 15 tuổi, khi vẫn còn là trẻ con, đồng chí đã gia nhập tổ chức Phục hưng Quốc gia vào năm 1935. Khi đó, đồng chí chưa hề hiểu chính trị là gì. Ngoài ra, đồng chí đã kể những mẩu chuyện về quá khứ của đồng chí. Tôi thấy không có vấn đề gì.
Ông kể cho tôi nghe về Lý Thế Dân, vị hoàng đế lập ra triều đại nhà Đường (618-907), không những đã từ chối lời can ngăn của các quan thượng thư không nên dùng một viên tướng không rõ lai lịch mà còn tin tưởng cho hầu cận kế bên. Nhưng viên tướng đó lại có tài năng phi thường, đã phụng sự nhà vua rất tích cực. Chẳng bao lâu nhà vua và viên tướng đó đã thân thiết với nhau.
Mao nhìn tôi, nói:
– Điều gì đã khiến nhà vua tin tưởng? Đó chính là sự thành thật. Chúng ta cần phải thành thật với nhau. Quan hệ và sự thành thật của chúng ta cần phải trải qua thử thách trong một thời gian dài.
Mao nói tiếp:
– Trường hợp Hứa Thế Hữu làm thí dụ – Ông nhắc đến nhà sư từng là tư lệnh quân khu Nam Kinh – Hứa Thế Hữu nguyên là phe cánh của Trương Quốc Đạo, một trong những người sáng lập ra đảng cộng sản Trung Quốc nhưng đã chạy sang hàng ngũ Quốc dân đảng sau khi bất đồng với Mao. Hứa Thế Hữu không chịu chạy theo Trương Quốc Đạo, tuyên bố trung thành với Mao. “Trong đợt chỉnh huấn năm 1942 ở Diên An, nhiều người ngờ vực lòng trung thành của Hữu, vì trước đó đồng chí ấy đã từng làm việc cho Trương Quốc Đạo. Hứa bị phê phán kịch liệt. Đồng chí ấy đã thất vọng, nghĩ đến việc rút quân của mình khỏi Diên An. Khang Sinh muốn bắt, xử bắn đồng chí ấy. Tôi ra lệnh không được động thủ vội, muốn đích thân nói chuyện với đồng chí ấy trước đã. Nhiều người e ngại, nhưng tôi không sợ.
– Khi gặp tôi, Hứa bật khóc. Tôi nói, đừng khóc nữa, hãy trả lời hai câu hỏi đơn giản của tôi: “Đồng chí tin Trương Quốc Đạo hay tin tôi?” tôi hỏi. “Tất nhiên, tôi tin đồng chí”, Hứa trả lời. “Đồng chí muốn đi hay ở lại?”, tôi hỏi tiếp. “Tất nhiên là tôi muốn ở lại” đồng chí ấy đáp. Và tôi nói: “Được, đồng chí hãy ở lại. Đồng chí tiếp tục chỉ huy bộ đội của đồng chí. Thế thôi”. Từ đó, đâu phải Hứa Thế Hữu đã không hoàn thành nhiệm vụ của đồng chí ấy.
Tất cả mối lo lắng và nản lòng cả năm trời nay bỗng nhiên tôi cảm thấy vững tâm. Mao đã gạt bỏ nguồn gốc xuất thân, quá khứ chính trị của tôi. Với người khác, họ thường lấy quá khứ để phê phán, khai trừ tôi ra khỏi đảng, gây hoang mang. Mao chủ tịch nói:
– Lúc ấy anh hãy còn trẻ con, thành thật khai báo có gì sai?
Lý lẽ của chủ tịch thật đơn giản nhưng cũng nhờ đó quá khứ của tôi được xoá bỏ. Mao, vị lãnh tụ tối cao, không ai dám cưỡng lời. Tôi biết ơn chủ tịch, ông đã cứu tôi.
Một vệ sĩ đến chuẩn bị bữa ăn cho Mao. Chủ tịch mời tôi dùng cơm chung. Bữa ăn có 4 món, cá, thịt lợn trộn ớt thái lát, thịt cừu xào tỏi tây (món ăn khoái khẩu của chủ tịch), một đĩa rau. Trong khi đó các món ăn thường được đảo qua dầu nóng nhưng không rưới xì dầu, rắc thêm chút muối.
Vào giữa những năm 1950, hầu hết mọi người đều phải chịu đựng cuộc sống nghèo khó, thực phẩm thiếu thốn, dầu ăn trở thành một món xa xỉ. Nhưng tôi lại quen ăn những món nhúng dầu, vì vậy tôi đã phải cắn răng nhịn.
– Đồng chí không ăn à? – Mao có vẻ trách – Món cá ngon lắm, thịt lợn cũng thế.
– Tôi không đói lắm – tôi cáo từ.
Mãi sau này tôi mới quen với khẩu vị của ông.
– Đây là bữa sáng cũng là bữa trưa của tôi – ông nói – Mỗi ngày tôi ăn hai bữa là đủ. Hình như bây giờ chưa phải là giờ ăn của đồng chí?
Chúng tôi tiếp tục trò chuyện. Ông muốn biết tôi có quan tâm đến triết học không.
– Khi còn là sinh viên, chưa bao giờ tôi đọc những cuốn sách giáo khoa về nghề y của tôi kỹ lưỡng như tôi mong muốn – tôi đáp – Tôi không có thời gian để đọc những cuốn sách khác. Từ khi trở thành bác sĩ, tôi hoàn toàn dành thời gian điều trị cho bệnh nhân. Vì vậy, tôi không có điều kiện để đọc sách triết học. Nhưng tôi cũng đã đọc hai bài luận văn triết học của Chủ tịch: “Bàn về thực tiễn” và “Bàn về mâu thuẫn”.
Tôi rất thích hai bài này. Mao viết rất hay, giản dị, chính xác từng vấn đề. Bài “Bàn về thực tiễn” đã cho tôi thấy, sự hiểu biết đúng đắn chỉ có thể có được từ hành động hơn là từ những lý thuyết suông. Đó là một bài học bổ ích đối với một bác sĩ phẫu thuật tương lai. Bài “Bàn về mâu thuẫn” đã giải thích cho tôi, rằng người ta cần phải tìm hiểu bản chất của vấn đề thay vì tập trung vào hiện tượng bên ngoài của nó.
Mao cười:
– Trong cuộc kháng Nhật (1937-1945) tôi đã đề nghị đưa môn triết học vào Trường Đại học chống Nhật ở Diên An. Lúc đó tôi nghĩ, cần phải đúc kết kinh nghiệm cách mạng của ta, kết hợp giữa lý luận của chủ nghĩa Marx vào thực tế cụ thể ở Trung Quốc. Vì thế tôi đã viết cả hai bài này. Tôi nghĩ, bài “Bàn về thực tiễn” có ý nghĩa hơn bài “Bàn về mâu thuẫn”. Tôi viết “Bàn về mâu thuẫn” trong hai tuần, nhưng khi trình bày chỉ mất hai tiếng đồng hồ.
Sau này, mỗi khi nhớ lại, tôi đã tự hỏi, tại sao trong lần gặp đầu tiên, tôi lại gây ấn tượng tốt cho Mao như vậy, tôi thường nhớ đến cuộc trò chuyện này. Chỉ sau khi tôi trở thành người gần gũi với Mao, người cộng sự tin cậy nhất của ông, tôi mới biết, hai bài lý luận triết học quan trọng đối với Mao như thế nào. Mao coi đó là những bài học cơ sở đưa đến sự phát triển triết học của chủ nghĩa Marx-Lenin, tức là sự áp dụng “chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh cụ thể của Trung Quốc”. Không những Liên Xô đã coi thường bài viết này mà còn gán cho những bài viết đó có tính chất xét lại. Tôi nghe tin đồn Stalin đã chỉ định P. F. Yudin, một triết gia Marxist- Leninnist nổi tiếng sang làm đại sứ Liên Xô ở Trung Quốc, nghiên cứu tư tưởng Mao, viết báo cáo tường trình về tư tưởng đó. Mao thường gặp Yudin, rồi hai người tranh luận với nhau đến tận đêm khuya. Nhưng Yudin đã cương quyết phủ nhận những quan điểm của Mao, cho đến khi Mao phật lòng. “Có phải triết học chỉ ở trong giới hạn của Marx-Lenin?“, đôi khi ông nặng lời, “Kinh nghiệm thực tế cách mạng Trung Quốc không thể tạo ra những tư tưởng triết học mới sao?”
Tuy nhiên buổi chiều hôm đó tôi vẫn chưa biết nhiều điều vì Mao vẫn còn dè dặt.
Ông nói:
– Tôi nghĩ, đồng chí nên đọc vài cuốn sách triết học. Là bác sĩ, điều đó có thể rất bổ ích đối với đồng chí. Tôi vừa mới đọc xong “Phép biện chứng tự nhiên của Engels”. Đồng chí cầm cầm lấy cuốn sách này. Tôi đã từng nghe, ở các trường Đại học bên Mỹ người có học vị hàn lâm cao nhất trong khoa học tự nhiên và thần học đều là tiến sĩ triết học. Rõ ràng, người Mỹ cũng có quan điểm cho rằng, trong tất cả các ngành khoa học, triết học đóng một vai trò quan trọng. Tôi đã nắm được điều quan trọng đó để nghiên cứu lịch sử. Nếu không biết gì về lịch sử, chúng ta không thể hiểu được cái gì đang xảy ra trong hiện tại. Và đồng chí cũng nên biết về văn học. Một khi là bác sĩ, thường xuyên giao tiếp với nhiều người, đồng chí chỉ sử dụng những kiến thức y học không thôi sẽ thấy lạc lõng, xa lạ. Đồng chí sẽ không chia xẻ tâm tư, tình cảm qua ngôn ngữ bình dân của mọi người.
Mao dừng một lát.
– Hôm nay như thế là đủ rồi. Trong tương lai chúng ta sẽ còn có nhiều dịp để thường xuyên trao đổi với nhau.
Ông chìa tay, bắt tay tôi thật chặt.
Hơn bảy giờ tối, tôi rời khu bể bơi, trong đầu chất chứa bao suy tư. Cuộc gặp gỡ có quá nhiều bất ngờ, từ chuyện Mao nằm trên giường, thói quen ngủ nghê kỳ quặc, lối nói khôi hài khuyến rũ, giúp tôi đỡ căng thẳng, khiến tôi nói hết cảm nghĩ của mình. Người ta sợ hãi ông đồng thời cũng rất dễ gần gũi, ông khôn ngoan nhưng không sùng bái thần tượng. Sự lo lắng đã biến mất, tự nhiên tôi cảm thấy yên tâm hơn so với những năm trước đây. Mặc dù giữa chúng tôi vẫn luôn luôn còn hố sâu ngăn cách, tôi biết rất ít về ông, nhưng tôi hiểu đã gặp một con người vĩ đại. Tôi rất tự hào vì được giao nhiệm vụ đấy tin cậy, phục vụ ông. Một dịp may tôi không dám mơ đến. Nhưng liệu tôi có hoàn thành nhiệm vụ hay không? Tôi nên chuẩn bị như thế nào? Người ta đã trông mong ở tôi điều gì? Tôi lập tức tìm gặp Uông Đông Hưng.
Uông hoan hỷ:
– Như vậy đồng chí ở bên Chủ tịch khá lâu, Chủ tịch chắc hài lòng lắm. Đồng chí nói gì với Chủ tịch?
Tôi báo cáo lại tất cả. Uông vui lắm:
– Thấy chưa, tôi đã bảo mà. Buổi đầu như thế quá tốt, hãy cố gắng lên.
Chuông điện thoại reo. Vệ sĩ của Mao là Lý Ẩm Kiều gọi điện đến. Tôi đã gây ấn tượng rất tốt đối với Mao, vượt qua được thử thách. Mao muốn tôi làm bác sĩ riêng của ông.
– Tôi sẽ báo việc này cho Bộ trưởng công an La Thuỵ Khanh – Uông nói – Bây giờ đồng chí về nghỉ đi. Nhớ giữ kín tất cả mọi chuyện đã xảy ra ngày hôm nay.
Lý Liên, người duy nhất được tôi kể cho nghe về nhiệm vụ mới. Cô ấy cũng nghĩ, hẳn tôi phải gây được thiện cảm tốt đẹp rồi. Nếu không Mao đã không nói chuyện với tôi lâu như vậy, lại còn mời tôi cùng dùng cơm. Tôi vui lắm, nhưng vẫn còn lo về công việc sắp tới, bảo:
– Hãy chờ xem liệu công việc có thuận lợi như vậy hay không đã?
Lý Liên hỏi:
– Mình có hiểu công việc cần đòi hỏi những gì không?
Hôm sau Phó Liêm Chương gọi điện mời tôi đến nhà ở đường Dây Cung. Tôi đạp xe đến. Lần này, ông đích thân ra tận cửa đón, bắt chặt tay tôi:
– Hôm qua đồng chí gặp Mao chủ tịch phải không? Kể cho tôi nghe đi.
Tôi không hiểu sao tin này lại lan nhanh đến như vậy. Phó Liêm Chương chăm chú lắng nghe tôi kể lại cuộc gặp gỡ giữa tôi và Mao. Câu chuyện làm ông phấn khích. Ông rót trà mời tôi, đi vòng quanh bàn trà nhỏ hai lần, lẩm bẩm: “Thật là may mắn”. Quay người lại nhìn tôi, ông ta cười, nói:
– Đồng chí thật may mắn. Lần đầu gặp Mao chủ tịch mà đồng chí đã được nói chuyện với Chủ tịch lâu như vậy. Đúng là một đặc ân.
Tôi cảm thấy Phó Liêm Chương ngạc nhiên ra mặt và có ý ghen tị.
Phó Liêm Chương kể:
– Năm 1934, lúc đó Chủ tịch mắc bệnh sốt rét, tôi đã cho Chủ tịch uống ký ninh. Khi Chủ tịch ra mặt trận lại giao phó cho tôi chăm sóc vợ Chủ tịch đang có mang, đó là nữ đồng chí Hạ Tử Trân. Tôi đã đỡ đứa con của họ chào đời.
Nhưng Phó Liêm Chương lại không nhớ chính xác Hạ Tử Trân có mấy con, chỉ biết mang máng có hai con trai trước khi cuộc Vạn Lý Trường Chinh xảy ra, hai đứa con phải bỏ lại cho gia đình nông dân nuôi dưỡng khi cộng sản rút lui phía Nam, khó khăn lắm sau này mới tìm được. Hai má Phó nóng bừng vì phấn kích khi ông nhớ lại thời kỳ đó. Những hạt mồ hôi lăn trên trán, ông nhấp vài ngụm nước đun sôi, bảo:
– Mình không uống trà hoặc bất cứ chất kích thích nào.
Phó nói tiếp, lái câu chuyện sang hướng khác.
– Sau đó, Chủ tịch đã cứu tôi. Lần đó tôi bị cáo buộc là người của Quốc dân đảng, nhưng Mao chủ tịch đã đứng ra bảo vệ. Hồi trẻ, tôi mắc bệnh lao, lần đó Chủ tịch cũng rất tốt với tôi. Trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh, khi mọi người khác phải đi bộ, Chủ tịch đã cho tôi cưỡi ngựa. Vì sức khỏe của tôi rất yếu, Chủ tịch cũng rất quan tâm, bảo người lo cho tôi mỗi ngày được ăn một con gà. Hồi đó, gà đắt lắm lại khó mua nữa, mỗi ngày ăn một con gà thật là xa xỉ không tưởng tượng nổi.
Phó rót thêm trà cho tôi, nói tiếp:
– Tôi kể tất cả cho đồng chí nghe, vì tôi muốn đồng chí hiểu Chủ tịch.
Tôi biết quá ít về thời kỳ đầu lịch sử của đảng cộng sản và quá khứ của Mao. Vì vậy tới đòi Phó kể tiếp.
– Những điều mà đồng chí kể rất bổ ích đối với tôi.
Phó cười.
– Chủ tịch mắc chứng mất ngủ. Đầu những năm 1930, trong thời kỳ Giang Tây Xô Viết, tôi đã phải hoá trang thành thương gia để đến Thượng Hải mua thuốc giảm đau, an thần veronal và đường glucose. Tôi đã hướng dẫn Chủ tịch dùng thuốc trước khi đi ngủ. Thuốc có hiệu quả, Mao rất vui. Đồng chí thấy đấy, tôi rất trung thành với Chủ tịch. Chủ tịch và tôi bằng tuổi nhau nhưng tôi không sung sức như Chủ tịch.
Phó nhìn tôi chăm chú, nói:
– Việc đồng chí được giao nhiệm vụ có nghĩa đảng đã tin tưởng đồng chí. Đó là một nhiệm vụ vinh quang, nhưng cũng đầy khó khăn.
Bữa ăn được dọn ra. Phó nói:
– Hôm qua, Chủ tịch đã mời đồng chí dùng cơm, nay đến lượt tôi.
Đó chỉ là bữa ăn đạm bạc, ngoài các món còn có món gà hấp.
– Hàng ngày tôi thường ăn gà.
Ông gọi người mang rượu vang, nâng ly mời:
– Thường ngày tôi không uống rượu vang, nhưng hôm nay là ngoại lệ – ông nói tiếp – Là bác sĩ riêng của Mao chủ tịch, đồng chí cần phải thận trọng. Nếu có điều gì bất cập, đồng chí cứ nói, tôi sẽ giúp.
Tôi không biết Phó có thể giúp tôi như thế nào. Rõ ràng ông chỉ muốn nghe được càng nhiều càng tốt về Mao và những hoạt động của Mao. Phó ăn xong món thịt gà, rồi buông bát, giải thích:
– Mỗi ngày tôi ăn năm bữa, nhưng ăn rất ít. Đồng chí tiếp tục ăn đi chứ. Chủ tịch muốn đồng chí dạy tiếng Anh cho Chủ tịch – Phó nói tiếp – Đấy là một dịp may để đồng chí kết thân với Chủ tịch. Đồng chí không những phải chăm sóc sức khỏe mà còn phải làm tất cả những việc Chủ tịch yêu cầu.
Tôi cảm thấy lời khuyên của Phó ra vẻ dạy đời. Tôi là bác sĩ, tôi chỉ quan tâm đến công việc y học ngoài ra tôi không muốn gì hết. Tôi trả lời không đắn đo:
– Một khi tôi làm theo lời khuyên của đồng chí, tôi lấy đâu ra thời gian cho chuyên môn của tôi.
Phó nghiêm nghị:
– Đồng chí không nên nhìn vấn đề như thế. Chủ tịch uyên bác lắm, kiến thức mênh mông như biển cả, đồng chí có thể học hỏi được rất nhiều ở Chủ tịch. Đồng chí là bác sĩ, cũng cần mở rộng kiến thức của mình chứ. Nếu muốn, đồng chí sẽ có nhiều cơ hội hơn để trao đổi học hỏi và hiểu Chủ tịch hơn.
Mao cũng đã khuyên tôi trau dồi, mở mang kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau, tôi hiểu điều Phó nói có lý. Mao vẫn còn trẻ, khỏe, nhiệm vụ của tôi không chỉ điều trị bệnh tật cho ông mà còn phải lo cho ông luôn luôn khỏe mạnh. Tôi phải làm quen với cá tính, đặc điểm, thói quen và chiếm được lòng tin của ông. Phó nói phải, tôi cần mở mang kiến thức, có như thế tôi mới có thể chuyện trò lâu với Chủ tịch. Tôi cảm ơn lời khuyên của Phó. Ông rất hài lòng, cầm lấy tay tôi, siết chặt, dặn:
– Tuần nào cũng đến tôi nhé, không cứ phải có công chuyện.
Ngoài đường người đông nghịt, không khí ngày lễ tràn ngập khi tôi đạp xe về nhà. Bắc Kinh đang sửa soạn đón ngày lễ mồng l tháng Năm, những toà nhà được trang hoàng bằng những tấm biểu ngữ, băng rôn và những lá cờ đỏ rực. Lòng tôi lâng lâng hạnh phúc.
Sau khi trở về Trung Quốc, tôi đã tỉnh ngộ. Giấc mơ của tôi tan nhanh. Những người cùng thế hệ trong họ tộc – anh em ruột, họ hàng và bạn bè tôi đã tìm được chỗ đứng trong xã hội mới. Họ từng là chiến sĩ lão thành, những người đàn ông của những năm 30 ở Diên An, những người làm lên cuộc cách mạng. Sau khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, họ đã được tưởng thưởng những chức vụ quan trọng. Một số bị phê phán trong phong trào “Ba Chống”, đôi khi đấu đá nhau để bám giữ chức vụ và bây giờ họ được kính trọng như những người thành đạt trong xã hội. Một số bạn học trường y cũng vậy, con đường khoa học của như mùa hoa nở rộ. Một số trở thành những chuyên gia y học chuyên ngành rất nổi tiếng, được tôn kính trong các bệnh viện lớn của đất nước.
Sự nghiệp của tôi trôi sang hướng khác, công việc được giao chẳng mong ước, buộc phải bỏ nghề phẫu thuật, thành bác sĩ đa khoa. Mặc dù trước đó ít lâu thủ tướng Chu Ân Lai đã thông báo, bệnh viện tôi phụ trách ở Trung Nam Hải sẽ thành một bệnh viện tổng hợp phục vụ Hội đồng nhà nước, thủ tướng sẽ bổ nhiệm tôi làm giám đốc cơ sở mới này. Nhưng sự tái tổ chức cơ cấu còn đang dang dở. Tôi không biết tương lai sẽ ra sao. Người ta chỉ định tôi bác sĩ riêng của Mao, không làm việc trong bệnh viện, thay vào đấy là áp lực làm việc sẽ rất lớn.
Khi trở thành bác sĩ riêng của Mao, tôi vui mùng vì được nhiều người kính trọng. Mao, vị lãnh tụ tối cao của Trung Quốc, được hàng triệu triệu người tôn sùng. Nhưng nơi ông ở rất bí mật, cách biệt riêng, thậm chí với cả những chính trị gia thân cận nhất của ông. Ông được bảo vệ rất cẩn mật. Với người thường, ông là nhân vật khó hiểu, khó gần. Ngay những cán bộ cao cấp của đảng cũng chỉ gặp ông trong những cuộc họp. Là bác sĩ riêng, tôi thường xuyên túc trực bên ông, hàng ngày hướng dẫn ông học tiếng Anh, nói chuyện triết học và chứng kiến những điều bí mật xảy ra xung quanh ông.
Cuộc đời tôi đã thay đổi. Bầu trời mở rộng, đất nước ôm lấy tôi vào lòng. Tôi không còn là tôi nữa. Ngay sau khi trở về vào năm 1949, tôi đã tìm gặp Phó Liêm Chương. Trong lúc tôi chào hỏi, ông vẫn nằm trên chiếc ghế bố không thèm đứng dậy, ấy thế tôi vẫn cảm thấy vinh hạnh được một cán bộ cao cấp như vậy đón tiếp. Bây giờ ông lại ra tận cửa đón tôi với vẻ nhũn nhặn. Tôi sớm nhận ra rằng, bỗng nhiên nhiều chính trị gia cao cấp đối xử với tôi nhã nhặn, ân cần, muốn được trò chuyện với tôi. Tôi không còn là một thầy thuốc bình thường nữa. Tôi đã là bác sĩ riêng của Mao chủ tịch. Lòng tôi dâng lên niềm hân hoan ngây ngất, đầy tự hào, kiêu hãnh.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 6
Posted: 15/06/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Chỉ vài ngày sau khi tôi được tiếp kiến Mao lần đầu, gần nửa đêm ngày lễ 1-5, một vệ sĩ của Mao đã triệu tôi đến ngay để gặp Chủ tịch.
Tôi vội đến tư dinh của Mao, được biết ông bị ốm. Nhưng tại sao người ta lại gọi tôi muộn như vậy?
Cho tới lúc đó, tôi chưa bao giờ bước chân vào cái tư dinh thâm nghiêm, có vẻ đầy bí ẩn của Mao. Đi qua cổng, bước vào trong sân, tôi cảm giác như chính tôi đã vượt qua cuộc Vạn Lý Trường Chinh, từ một bác sĩ quèn trở thành một nhân viên trong trung tâm của cuộc cách mạng. Tôi nghĩ, từ nay trở đi, cuộc đời tôi sẽ gắn chặt với cái miền đất thâm cung bí sử này. Tôi thật sự xúc động.
Người ta thường kể, hàng ngày Mao sống rất đơn giản, khổ hạnh, một tấm gương sáng về sự tiết kiệm. Sau khi ông qua đời, cánh cửa tư dinh của ông được mở, những bộ quần áo cũ kỹ sờn rách, chiếc áo choàng buổi sáng, đôi dép lê… mới xuất hiện trước công chúng là những bằng chứng cho thấy ông đã cự tuyệt sự xa hoa một cách có ý thức. Mao vốn là một nông dân, có sở thích đơn giản. Mao chỉ mặc quần áo khi chẳng đừng, còn hầu như lúc nào ông cũng khoác một chiếc áo choàng và nằm trên giường, chân đất. Khi cần ông mặc nhưng bộ quần áo cũ, đi đôi giày vải đã mòn đế, chỉ khi xuất hiện trước đám đông mới mặc quần áo chỉnh tề, đó là bộ đồng phục “kiểu Mao”, chân đi giày da. Thông thường, một trong những vệ sĩ của Mao là người chăm lo tìm mua quần áo và thửa giày mới cho ông. Những bức ảnh ông ăn mặc tươm tất làm việc trong văn phòng đều là ảnh đã được bố trí sẵn. Hầu hết công việc, ông đều giải quyết trong phòng ngủ hoặc bên bể bơi.
Mặc dù vậy, ông sống cũng như một vị hoàng đế. Tư dinh của ông nằm ở chính giữa khu Trung Nam Hải, chính điện của triều đình trước đây, hướng về phía Nam, giữa hồ Trung và hồ Nam. Tư dinh này được canh gác cẩn mật nhất thế giới. Khách nước ngoài viếng thăm có cảm giác không có lính canh gác, nhưng thực ra, lính được bố trí gác khắp nơi khu Trung Nam Hải, nhưng họ kín đáo đến nỗi người ta không nhận điều đó. Tất cả xoay quanh như một vòng tròn lớn mà ông là tâm điểm. Vệ sĩ của Mao đồng thời cũng là người phục vụ ông ta. Họ đều mang súng ngắn, nhưng thực ra họ không cần phải mang vũ khí, vì bên ngoài khu vực trọng yếu đó người ta đã thực hiện những biện pháp an ninh nghiêm ngặt đến nỗi tư dinh của ông kín như nằm trong cái kén. Ngoài những vệ sĩ của Mao ở bên ngoài cũng như bên trong tư dinh, còn những “trạm gác ngoại vi” của những nhân viên Ban An ninh trung ương. Họ cũng được vũ trang đầy đủ.
Những người lính vũ trang của Quân đoàn Thủ đô, danh nghĩa dưới quyền của Bộ tổng tham mưu, nhưng thực ra lại thuộc quyền quản lý trực tiếp của Uông Đông Hưng với tư cách thứ trưởng Bộ Nội Vụ, canh gác những khu vực lân cận của Trung Nam Hải, đó là lớp bảo vệ vòng ngoài. Những lớp vỏ canh gác này chính là cơ sở bảo vệ lãnh tụ mỗi khi Mao đi ra ngoài.
Nơi ở của Mao được giữ tuyệt mật, chỉ những cán bộ lãnh đạo cao cấp của đảng mới biết. Mỗi khi ông rời Trung Nam Hải đi thăm viếng, xe chở ông được đỗ cách xa khu dân cư để người ta khỏi nhận ra số xe, không những thế, biển số xe thường xuyên thay đổi. Hệ thống an ninh tiếp thu kinh nghiệm của Liên Xô và sự bảo mật các Hoàng đế thời xưa ngay sau khi những người cộng sản cướp chính quyền.
Dinh thự của Mao, vốn được xây dựng từ thời Càn Long (1735-1796), vừa là thư viện vừa là nơi ẩn náu của vua nếu có binh biến. Ngôi nhà này hàng thập kỷ không được trùng tu, có nguy cơ bị hỏng. Nó vẫn chưa lấy lại được cái vẻ hào nhoáng ngày xưa, vì công việc sửa chữa đang dở dang. Lần đầu bước vào khu nhà đó, tôi có ấn tượng rằng nét hào hoa chính là ở sự giản dị có chủ ý bày trong nội thất. Nhưng Càn Long vốn lại là người ưa hiện đại.
Cổng chính tư dinh của Mao ở phía Nam toà nhà, theo phong tục cổ truyền được sơn loè loẹt. Tấm bảng gỗ treo trên cổng mang chữ “Vườn thượng uyển” do chính vua Càn Long viết. Tất cả những bảng chữ treo trên những lối vào toà nhà đều là bút tự của Càn Long. Những viên ngói trên mái đều có màu xám, chứ không phải thiếp vàng như trong Cấm Thành, nhưng toà nhà lại được xây dựng theo cùng một phong cách cung điện của vua.
Bên trong cổng chính, hai bên lối đi là hai căn phòng nhỏ thường có vệ sĩ. Chỉ có những người có thẻ đặc biệt loại “A” mới được phép ra vào, có tường bao bọc xung quanh. Đi qua sân rộng là một khu nhà đồ sộ thiết kế theo lối Giao Hoà Đường hoặc Trường Sinh Đại Sảnh hội họp, đón tiếp khách nước ngoài trình quốc thư, tổ chức lễ tiệc chiêu đãi trước khi xây Nhân Dân Đại Lễ Đường năm 1959. Ngay phía sau Trường Sinh Đại Sảnh là Giao Hoà Đường, đó thư viện phong phú rất nhiều sách của Mao chọn lọc, nhưng thường đóng cửa im ỉm.
Khu tư dinh của Mao, biệt danh Phòng Đọc Hương Cúc, ngay trong sân thứ hai, nối liền với sân thứ nhất bằng dãy hành lang có mái che. Khu vườn tuyệt đẹp, dưới bóng những cây thông, dẫy trắc bá cổ thụ đẹp đẽ là những chiếc bàn, những chiếc ghế bằng mây, nơi mùa hè Mao thường tổ chức cuộc họp ngoài trời. Dinh thự của ông gồm hai toà nhà chính với nhiều công trình phụ. Phòng lớn của ông vừa là phòng ngủ, vừa là phòng làm việc ở toà nhà thứ nhất, cách biệt với phòng ngủ của Giang Thanh bằng một phòng ăn rộng. Trong toà nhà thứ hai, đi qua một hành lang nối với phòng ngủ của Giang Thanh là phòng khách của bà. Bên cạnh đó, phòng của Diệp Tử Long, chánh thư ký riêng, đồng thời cũng là quản trị cao cấp của Mao, chuyên lo đáp ứng những nhu cầu cá nhân cho hai vợ chồng Chủ tịch.
Trong một toà nhà khác ở phía Tây nơi ở của Diệp Tử Long, thông với Giao Hoà Đường là nhà bếp. Diệp cũng lo việc ăn uống cho Mao. Việc chế biến thực phẩm tuy theo khuôn mẫu của Liên Xô, nhưng lại phỏng theo phương cách cổ điển thời vua chúa, được Ban an ninh của Uông Đông Hưng canh chừng. Ngay sau khi Mao từ Moscow trở về vào đầu năm 1950, Ban an ninh đã được hai chuyên gia Liên Xô truyền cho những phương pháp chế biến, cách kiểm tra thực phầm dành cho giới lãnh đạo ở Trung Nam Hải. Một nông trang – công xã Tụ Sơn – chuyên cung cấp đặc sản rau, thịt, gà, trứng cho Mao và những lãnh tụ cao cấp khác. Đầu bếp của Mao chỉ cần gửi thực đơn đến phòng cung ứng của Ban an ninh ở phía bắc Trung Nam Hải, gần công viên Bắc Hải. Phòng cung ứng chuyển tiếp thực đơn đến công xã Tụ Sơn. Từ đó, thực phẩm được chuyển về phòng cung ứng ở công viên Bắc Hải, để người ta khám nghiệm thực phẩm đó trong hai phòng kiểm nghiệm xem chúng tươi đến mức nào, độ dinh dưỡng ra sao và có độc tố không. Sau đó, thức ăn được nếm thử trước khi mang cho Mao thưởng thức. Đối với tất cả các quan chức cao cấp, kể cả ở các tỉnh, người ta đều áp dụng phương pháp tốn kém đó, ngốn không biết bao tiền của dân. Phòng ngủ của Mao nối với một toà nhà khác, ông thường dùng làm văn phòng bằng một hành lang. Tuy nhiên, văn phòng này quanh năm khoá trái, chỉ mở cửa khi cần để chụp ảnh. Mao chẳng bao giờ dùng đến nó.
Một toà nhà khác chắn ngang toà nhà Mao và Giang Thanh sống trong đó là nơi Lí Minh, con gái riêng của Mao với Hạ Tử Trân, Lí Nạp, con gái của ông với Giang Thanh và chị của Giang Thanh, Lý Vân Lục đang cư ngụ.
Lý Vân Lục hơn Giang Thanh vài tuổi, chân bó từ bé. Sau khi mẹ qua đời, bà nuôi dưỡng Giang Thanh. Về sau bà trở thành vợ bé của một thương gia. Khi giới lãnh đạo chuyển về Trung Nam Hải, Giang Thanh yêu cầu bà cùng với con trai về ở, chăm sóc dạy dỗ Lí Nạp và Lí Minh, vì cả Mao và Giang Thanh không có thời gian chăm sóc và ít có điều kiện gặp con. Bọn trẻ học trong trường nội trú, thậm chí, trong những kỳ nghỉ, thỉnh thoảng chúng mới gặp hai người trong bữa ăn, mỗi năm không quá vài lần.
Toà nhà thứ tư, văn phòng của các nhân viên y tế và thư ký của Mao cũng như là nơi ở của đứa cháu trai Mao Viên Tân, lúc đó còn đang học trung học. Ngoài ra, ở đó còn có một phòng chơi bóng bàn, một phòng lưu giữ quà tặng, quần áo của Mao, nhiều đồ lặt vặt của Giang Thanh. Trong một phòng khác, treo những bức tranh của các hoạ sĩ nổi tiếng như Tề Bạch Thạch và Từ Bắc Hồng tặng Mao. Tuy nhiên, hầu hết những tặng phầm đều của nước ngoài. Về sau tôi phát hiện ra một hộp xì gà Cuba lớn, bằng gỗ chạm, rất nghệ thuật, do Fidel Castro tặng và một két rượu Brandy lâu năm do Chủ tịch nước Rumania, Ceausescu tặng. Vua Iran tặng Mao một hộp đựng thuốc lá chạm vàng và bạc. Diệp Tử Long vừa là quản gia, vừa là thủ kho khu nhà đó.
Tư dinh có một cái sân bên trong lớn nhất, nơi có những khóm tre và cây cối luôn luôn xanh tươi, một vòi phun nước, một dàn nho. Mùa hè, không khí ở đây thật dễ chịu, mát mẻ hơn bất cứ nơi đâu Trong sân còn có một vườn rau xanh trông rất bắt mắt, cuối thập niên 1960, người ta đã xây một hầm phòng không dưới khu vườn này.
Toà nhà thứ 5, có cổng ra vào riêng, đơn giản hơn nhiều so với lối cổng phía Nam, một lối vào ở phía sau thuộc Ban Quản lý Quảng Trường kiểm soát. Trước khi Đại lễ đường xây dựng, các đại sứ thường đến khu nhà này trình quốc thư. Toà nhà còn có phòng ngủ các vệ sĩ của Mao, các y tá của Giang Thanh. Ngoài ra, ở đó còn cất chứa thực phẩm dành cho Mao, có 3 tủ lạnh sản xuất từ những năm 1940 nhãn hiệu General Electric cũng như dự trữ những vật dụng hàng ngày và thuốc men.
Phòng ở vệ sĩ của Mao, trong đó lịch trình làm việc của Mao cũng được ghi chép dán ngay sau cánh cửa, toà nhà thứ tư. Bất kỳ ai, kể cả những nhân vật thân cận muốn gặp gỡ với Mao, trước hết đều phải trình phòng bảo vệ. Tôi hộc tốc tới khu vườn lúc nửa đêm, 30 tháng 4 năm 1955, vì Mao ốm, một vệ sĩ niềm nở ra đón. Tôi hỏi:
– Có chuyện gì thế.
Người vệ sĩ trả lời:
– Chủ tịch đã uống thuốc ngủ hai lần, nhưng không tài nào chợp mắt được. Chủ tịch muốn nói chuyện với đồng chí.
Tôi được đưa vào phòng ngủ của Mao. Đó là căn phòng quá rộng, gần rộng bằng phòng khiêu vũ. Đồ đạc trang trí toàn đồ Tây phương, hiện đại, tiện lợi, bốn cửa sổ có treo những tấm rèm nhung dày. Sau này tôi mới biết những tấm rèm không bao giờ mở, ở trong buồng Mao người ta không biết bên ngoài ban ngày hay ban đêm.
Mao nằm trong một chiếc giường gỗ rộng, gấp rưỡi chiếc giường đôi bình thường, do một thợ mộc ở Trung Nam Hải thửa riêng cho ông. Trên giường sách vở chất đống, tôi nhận thấy một bên giường cao hơn bên kia, nơi Mao đang nằm, khoảng mười xăng-ti-mét. Sau này, Lý Ẩm Kiều nói rằng giường nghiêng là để đảm bảo an toàn cho Mao không bị lăn khỏi giường. Mấy năm sau tôi mới biết, chiếc giường kê nghiêng để những cuộc làm tình của Mao có nhiều khoái cảm, hơn là để Mao khỏi lăn xuống đất.
Cạnh giường, một chiếc bàn lớn, vừa làm bàn ăn, vừa là bàn làm việc. Mao thường ăn một mình trong phòng ngủ, ông đã sống ly thân với Giang Thanh, hiếm khi họ ăn chung với nhau.
Thấy tôi, Mao bảo:
– Tôi chưa ăn bữa tối đâu đấy! – rồi ông nói tiếp – Tôi muốn nói chuyện phiếm với đồng chí.
Ông khoác một cái áo choàng, lộ khoảng ngực trần. Tay ông cầm một cuốn cổ sử Trung Quốc cũ bọc vải gai. Mao đặt cuốn sách sang một bên, tôi kéo ghế ngồi xuống bên cạnh, nhấm nháp tách trà mà người vệ sĩ mang đến.
– Có tin tức gì không? – Mao hỏi.
Tôi bối rối. Các bản tin tôi biết chẳng qua đọc từ tờ Nhân Dân Nhật Báo, như vậy, tôi tin Mao cũng rất quan tâm đến báo chí. Tôi chẳng biết tin tức gì hơn ông.
– Chẳng hạn mấy ngày qua đồng chí đã gặp những ai? – Mao nói thêm khi nhận thấy sự lúng túng của tôi – trao đổi về những vấn đề gì?
“Có tin tức gì không?”, từ giờ trở đi thành câu cửa miệng mỗi khi gặp, ông cũng nêu câu hỏi đó đối với các cộng sự khác. Bằng cách đó, Mao đã thu lượm được thông tin cũng như thường xuyên kiểm tra chúng tôi, ông mong muốn chúng tôi kể cho ông nghe mọi chuyện kể cả công việc, tạo điều kiện cho chúng tôi tranh luận lẫn nhau. Ông thoả mãn khi khích được một cộng sự này phản biện với những cộng sự khác. Ông cho phép tự do tranh luận.
Tôi kể cho ông nghe cuộc nói chuyện của tôi với Phó Liêm Chương. Ông chăm chú lắng nghe, rồi ông kể về Phó Liêm Chương đã đi theo những người cộng sản trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh từ tỉnh Giang Tây đến sở chỉ huy mới ỏ tình Thiểm Tây như thế nào.
– Trong cuộc tranh đấu của chúng ta chống lại Quốc dân đảng, năm người của gia đình Phó Liêm Chương đã bị hành hình theo lệnh của đảng cộng sản, trong đó có con gái và con rể của đồng chí ấy. Dù là đảng viên cộng sản, nhưng họ vẫn bị buộc tội là thành viên bí mật của một sư đoàn Quốc dân đảng.
Phó Liêm Chương, từng kể, lúc đó ông chăm sóc Mao đang mắc bệnh sốt rét.
Mao nói tiếp:
– Dù Phó không còn là đảng viên cộng sản nữa, nhưng tôi đã hỏi đồng chí ấy có muốn tham gia cuộc Vạn Lý Trường Chinh hay không. Đồng chí ấy đồng ý đi theo. Chúng tôi cho mang ngựa đến, nhưng đồng chí ấy không biết cưỡi, đã ngã xuống sông, suýt chết đuối. Tuy thế đồng chí ấy vẫn tiếp tục lên đường đến Thiểm Tây cùng chúng tôi. Phó Liêm Chương là người tốt, nhưng không cần phải làm theo tất cả những gì đồng chí ấy yêu cầu, cũng không nên báo cho đồng chí ấy biết về tình hình sức khỏe của tôi. Nếu tôi cảm thấy khó ở, hãy nói với tôi biết về cách chữa bệnh, nhưng đừng nói với đồng chí đó. Nếu tôi đồng ý với cách điều trị đó, tôi sẽ không phê bình, thậm chí cả khi đồng chí làm sai. Nếu đồng chí không trao đổi với tôi về phương pháp điều trị, tôi sẽ không thừa nhận đồng chí đã chữa khỏi bệnh, dù tôi khỏi bệnh thật.
Một mặt tôi vui mừng vì không phải thảo luận với Phó Liêm Chương, mặt khác tôi cảm thấy lo lắng, vì Mao muốn tôi cho ông biết phương pháp điều trị. Có đúng là Mao yêu cầu tôi trình bày với ông những thay đổi về tâm-sinh lý của cơ thể trong thời kỳ mắc bệnh hay không? Tôi cần phải thuyết phục ông theo cách điều trị của tôi hay không? Tôi làm sao tìm được những thuật ngữ đơn giản để lý giải cho ông hiểu.
Mao là người bệnh khó tính.
Bữa ăn được dọn ra. Các món ăn lại được đảo qua dầu. Mao đã 62 tuổi, nặng hơn 80 cân, quá béo so với khổ người cao 1 mét 75 của ông. Sau này, tôi thường góp ý với ông nên ăn uống điều độ, không nên ăn quá nhiều chất béo, nhưng ông không nghe. Thời còn trẻ, ông đã thích ăn thịt lợn mỡ và ông vẫn giữ thói quen này cho đến khi chết. Ông còn mời tôi ăn món mướp đắng xào ớt cay, rồi hỏi:
– Ngon không?
Cả đời tôi chưa bao giờ nếm món này, tôi bảo:
– Cay và đắng lắm.
Mao cười rung cả cổ:
– Ai cũng nên nếm một ít vị đắng trong đời, nhất là người như đồng chí. Đồng chí học y khoa, thành bác sĩ, có lẽ chưa bao thử món “Chi ku” cay đắng như thế này.
“Chi ku”, có nghĩa ăn món có vị đắng, hoặc có nghĩa là cuộc đời phải chịu nhiều trầm luân, khổ ải. Tôi không chắc Mao chỉ nói về món ăn thôi, hay ông chơi chữ, ám chỉ rằng, ông coi tôi như loại công tử bột, sản phẩm của tầng lớp thượng lưu. Tôi lặp lại:
– Tôi chưa bao giờ nếm món mướp đắng, nhưng nó có vị lạ.
– Tốt lắm – ông trả lời – Đồng chí còn được thưởng thức nhiều món cay đắng hơn nhiều.
Câu trả lời của Mao rõ ràng khẳng định tôi chưa từng trải cuộc sống gian truân, khốn khổ, ông muốn tôi hãy chia ngọt xẻ bùi đồng cam cộng khổ với mọi người. Thông qua nhiều người, tôi khám phá ra, kể cả con gái Lý Nạp và Lý Minh của Mao, vị lãnh tụ tối cao, cũng từng phải “Chi ku” như mọi người khác. Hầu hết cán bộ lãnh đạo cao cấp của đảng xuất thân từ nông dân, họ đã chiến đấu hàng chục năm ròng để làm nên thắng lợi lịch sử của cách mạng, họ cũng đã nếm trải đủ mùi đắng cay. Mao cho rằng, quyền chức và cuộc sống xa hoa ở chốn đô hội sẽ làm cho họ tha hoá. Theo Mao, nếu không thường xuyên rèn luyện khổ ải, đến ngay các vị lãnh tụ cao cấp cũng sẵn sàng quên béng nước Trung Hoa rồi. Những năm tiếp theo, ông cố gắng tạo điều kiện bắt buộc những người sống quanh ông, kể cả tôi và các lãnh tụ cao cấp khác ăn những món cay đắng nhiều hơn.
Mao chuyển đề tài. Ông nói, Trung Hoa đóng góp cho nhân loại với ba sự việc quan trọng: Nền y học cổ truyền Trung Hoa, tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Huyết Cần và trò chơi Mạt chược. Ông hỏi tôi có biết chơi Mạt chược không.
Mạt chược, một trò chơi giải trí phổ biến trong dân gian, gồm 136 quân bài, thường dành cho bốn người chơi. Nhiều người Trung Hoa đã nghiện nó. Nhưng gia đình tôi không thích trò chơi may rủi đỏ đen này. Từ hồi còn học trung học, tôi coi nghiện cờ bạc, nghiện thuốc phiện là hai thứ ung thư gặm nát xã hội Trung Hoa từ trong ra ngoài. Vì vậy tôi không học chơi cái trò đỏ đen đó. Mao trách tôi:
– Không nên coi thường trò chơi Mạt chược. Mỗi người chơi không những phải chú ý đến quân chơi của mình, mà còn phải quan tâm đến tất cả 136 quân bài khác, để tính toán sao cho có thể thắng được. Nếu đồng chí đã làm chủ được trò chơi, đồng chí sẽ hiểu được mối quan hệ giữa thuyết Tương đối và thuyết Tuyệt đối.
Trong thực tế, Mạt chược là một trò chơi có tính chiến lược. Mao không chỉ là một nhà chiến lược vĩ đại, mà còn là một tay chơi Mạt chược cừ khôi của Trung Quốc. Tôi nghĩ, tài thao lược của ông bắt nguồn từ những bài học trong cuốn Binh pháp Tôn Tử rất có giá trị thời cổ đại, từ lịch sử của nước Trung Hoa và từ lịch sử tiểu thuyết Tam quốc Diễn nghĩa. Nhưng Mao không chỉ chơi Mạt chược một cách đơn thuần, mà còn để trau dồi trí tuệ của mình. Như sau này tôi kể, lệ chơi của ông, bạn chơi phải là những cô gái trẻ đẹp. Khi chơi, tay ông vừa cầm quân, ông vừa buông lời ong bướm ve vãn các em. Dưới gầm bàn, ông dùng chân cọ cọ vào chân hoặc sờ tay vào đùi các cô gái.
Mao nói tiếp:
– Hồng Lâu Mộng đã mô tả sự thịnh suy của chế độ xã hội phong kiến. Cuốn tiểu thuyết đã tóm tắt lịch sử của Trung Hoa trong hai nghìn năm qua. Tôi ít đọc tiểu thuyết, nhưng tôi lại thích đọc Hồng Lâu Mộng.
Tôi mới xem lướt qua cuốn tiểu thuyết này, nhưng không thể nào đọc từ đầu cho đến cuối được, mặc dù đó là cuốn tiểu thuyết vĩ đại của Trung Hoa. Câu chuyện quá rắc rối, nhân vật lại quá nhiều, mỗi lần đọc chỉ được vài ba trang, tôi đã thấy chán rồi gập nó lại. Cuốn tiểu thuyết kể về sự suy đồi của gia đình thượng lưu Gia Bảo Ngọc và nạn tham nhũng, hối lộ trong xã hội phong kiến đã ăn sâu vào gia đình này. Đối với Mao, cuốn tiểu thuyết này là một tài liệu nghiên cứu về nạn tham nhũng, hối lộ và sự suy tàn của chủ nghĩa phong kiến Trung Hoa. Nhưng đối với nhiều người Trung Hoa, nó lại là một tấn bi kịch tình yêu của Gia Bảo Ngọc. Gia đình của Gia đã phản đối tình yêu và cấm anh không được kết hôn với cô. Rút cuộc, Gia Bảo Ngọc đã bỏ nhà, quay lưng lại với xã hội, tìm nơi cửa Phật. Nhưng phản ứng ban đầu của anh là lao vào những cuộc ăn chơi trác tang thâu đêm với gái đẹp. Sau này khi quá quen Mao, tôi quan niệm, Mao gần như là hiện thân của nhân vật Gia Bảo Ngọc. Chính tư dinh của ông, “mảnh vườn của lòng từ bi bác ái” lại là phiên bản khá chính xác của biệt thự gia đình Gia Bảo Ngọc. Mao cũng là một tên phiến loạn, thích lôi kéo, quyến rũ những người đàn bà trẻ, ông có vô số phụ nữ quanh ông. Tuy nhiên, ông khác với nhân vật Gia Bảo Ngọc, ông không quy y, nương mình nơi cửa Phật. Mao đã nhắc tôi ngay khi chúng tôi mới quen nhau:
– Đồng chí đừng suy tôn tôi, tôi không phải ông thánh, cũng chẳng nhà sư. Tôi không bao giờ muốn như thế.
Mao quy cho sự gia tăng dân số ở Trung Quốc là do tác dụng của nền y học Trung Hoa. Ông bảo, mặc dù trong suốt bốn nghìn năm qua, chiến tranh và thiên tai thường xuyên xảy ra ở Trung Quốc, nhưng dân số vẫn tăng tới năm trăm triệu người. Hay tại y học Tây phương? Nền y học Tây phương du nhập vào Trung Quốc mới khoảng một trăm năm nay. Nhưng trước đó hàng nghìn năm con người đã quen dùng dược liệu của Trung Quốc vậy tại sao vẫn có người phủ nhận nền y học đó? Chỉ có sách y học Trung Quốc và sách Phật giáo Mao chưa nghiên cứu, ông hỏi tôi biết những gì về y học Trung Hoa không.
Mặc dù, ông cha tôi là những người từng làm nghề thuốc đông dược Trung Hoa, nhưng tôi lại được đào tạo nghề y theo khuôn mẫu của phương Tây nên tôi không quan tâm đến y học cổ truyền. Tuy nhiên, tôi cũng không nghĩ, Trung Hoa đông dân do nền y học cổ truyền gây ra.
Tôi trả lời ông, tôi đã đọc một vài cuốn sách cổ y học Trung Hoa, nhưng không hiểu, nhất là bàn đến thuyết ngũ hành Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Tôi không lĩnh hội được lý thuyết này.
Mao cười, bảo:
– Đúng, thuyết âm dương, thuyết ngũ hành rối rắm, rất khó hiểu. Các thày lang dùng những lý luận y học cổ truyền của Trung Hoa để giải trình tình trạng sinh lý và bệnh lý của người bệnh. Quan điểm của tôi, ta nên kết hợp y học cổ truyền Trung Hoa với Tây y. Bác sĩ Tây phương giàu kinh nghiệm cần phải tham khảo đông y, ngược lại lương y Trung Hoa lành nghề cũng cần phải nghiên cứu sinh lý học, bệnh lý học, khoa học giải phẫu, dịch tế học và những lĩnh vực tương tự. Đồng chí nên tìm cách giải thích những nguyên tắc y học Trung Hoa dưới ánh sáng của khoa học hiện đại. Những cuốn sách y cổ truyền của Trung Quốc cần được dịch sang ngôn ngữ hiện đại, được chú giải và cắt nghĩa cho sáng tạo. Như vậy, bằng sự liên hệ giữa y học Trung Hoa và y học phương Tây, có thể tạo ra một nền y học tổng hợp mới. Điều đó sẽ là một đóng góp to lớn cho y học thế giới.
Mao dừng một chút rồi nói:
– Mặc dù tôi ủng hộ, khuyến khích nền y học Trung Hoa, nhưng bản thân tôi lại không tin tưởng nên y học đó lắm. Tôi không dùng thuốc đông y. Đồng chí có thấy kỳ quặc không?
Tôi đồng ý, đó là điều kỳ lạ. Trước công chúng, ông công khai ủng hộ nền y học cổ truyền, nhưng chính ông lại từ chối dùng thuốc đông y. Kết thúc cuộc trao đổi, Mao nói:
– Mai là ngày lễ 1-5. Đồng chí cùng đi với tôi đến quảng trường Thiên An Môn, đứng trên lễ đài, chứng kiến buổi lễ tiến hành ra sao. Đó là một sự kiện quan trọng, đồng chí sẽ học hỏi được nhiều điều.
Ông ta hỏi về đứa con trai cả của tôi.
Tôi đáp:
– Cháu đã 5 tuổi.
Mao đề nghị:
– Đồng chí đưa cháu đi cho nó xem quang cảnh nhé.
Tôi đáp:
– Tôi nghĩ không nên. Tất cả các chính trị gia cao cấp đều ở đấy mà chẳng ai đưa con đi cả, tôi lại có nhiều việc cần làm, nếu cháu mải xem quá, cháu sẽ lạc.
Mao cười.
– Thôi được. Đồng chí không cần mang cháu theo. Bây giờ đồng chí về nhà ngủ một chút đi.
Tôi về nhà đã ba rưỡi sáng. Thường thường tôi đi ngủ lúc mười giờ. Lý Liên đang đợi tôi. Tôi kể cho nhà tôi về cuộc chuyện trò giữa tôi và Mao.
– Ông ta khỏe, thực sự chưa cần bác sĩ chăm sóc thường ngày. Anh có cảm tưởng, ông cần anh như người bạn để tâm sự hơn cần bác sĩ.
Lý Liên khuyên tôi hãy kiên nhẫn chiều theo ý muốn của Chủ tịch, bảo:
– Anh vừa mới bắt đầu làm việc cho Chủ tịch, đã gây được ấn tượng tối đối. Vậy anh phải cẩn thận, không được hấp tấp.
Đó mới chỉ buổi đầu tiên trong vô số buổi nói chuyện với Mao vào ban đêm. Ông sống rất cô độc. Hiếm khi ông gặp Giang Thanh, ông không có bạn. Tinh thần Diên An, tình đồng chí của những người sống sót sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh chỉ còn là một huyền thoại. Thỉnh thoảng Lưu Thiếu Kỳ hoặc Chu Ân Lai gặp Mao vì công việc, nhưng cuộc gặp gỡ cũng chỉ giới hạn trong phạm vi những điều cần bàn đến trong những tài liệu trao đổi hoặc trong những cuộc họp của Ban thường vụ Bộ chính trị. Mao triệu tập những cuộc họp này rất thất thường. Lúc thì ở trong phòng khách khu Trường Sinh, lúc thì ở ngay những nơi mà ông vừa tới. Ban ngày ông gặp gỡ đám vệ sĩ thân cận gần gũi nhất. Họ là những trai làng thất học. Nói chuyện với họ Mao chỉ hạn chế trong một số chuyện, thường chỉ tán gẫu về các cô người yêu của họ, thậm chí ông còn làm cố vấn tình yêu cho họ, thỉnh thoảng giúp họ viết những lá thư tình. Những đề tài ông thường quan tâm là lịch sử Trung Hoa và về triết học, ông không thể trao đổi với họ được.
Vì thế, Mao coi tôi là người trò chuyện duy nhất của ông, khuyến khích tôi đọc những bài ông viết về lịch sử và triết học, mỗi tuần ông trao đổi với tôi hàng giờ liền. Khi khó ngủ, có lúc ông đọc sách, có lúc triệu tập một cuộc họp bất thường, bất kể vào lúc nào, thuận tiện hay bất tiện với người khác. Nhưng thường thường, ông cho gọi một người nào đó đến để trò chuyện, người đó thường là tôi. Chẳng có gì lạ khi ba giờ sáng lại bị Mao lôi ra khỏi giường. Trước những ngày quốc khánh và mồng 1 tháng Năm, Mao mất ngủ nặng nếu ông phải tham gia duyệt binh và chào mừng quần chúng ở quảng trường Thiên An Môn.
Lý Liên có lý khi yêu cầu tôi nên nhẫn lại, nhưng lại sai khi khuyên tôi chỉ nên vờ vĩnh chiều ý Chủ tịch. Mao, một nhà độc tài, chúng tôi phải chiều theo mọi sở thích của ông. Chống lại ông, thực hiện ý nguyện cá nhân đều có thể thành thảm hoạ.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [7]
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Chỉ vài ngày sau khi tôi được tiếp kiến Mao lần đầu, gần nửa đêm ngày lễ 1-5, một vệ sĩ của Mao đã triệu tôi đến ngay để gặp Chủ tịch.
Tôi vội đến tư dinh của Mao, được biết ông bị ốm. Nhưng tại sao người ta lại gọi tôi muộn như vậy?
Cho tới lúc đó, tôi chưa bao giờ bước chân vào cái tư dinh thâm nghiêm, có vẻ đầy bí ẩn của Mao. Đi qua cổng, bước vào trong sân, tôi cảm giác như chính tôi đã vượt qua cuộc Vạn Lý Trường Chinh, từ một bác sĩ quèn trở thành một nhân viên trong trung tâm của cuộc cách mạng. Tôi nghĩ, từ nay trở đi, cuộc đời tôi sẽ gắn chặt với cái miền đất thâm cung bí sử này. Tôi thật sự xúc động.
Người ta thường kể, hàng ngày Mao sống rất đơn giản, khổ hạnh, một tấm gương sáng về sự tiết kiệm. Sau khi ông qua đời, cánh cửa tư dinh của ông được mở, những bộ quần áo cũ kỹ sờn rách, chiếc áo choàng buổi sáng, đôi dép lê… mới xuất hiện trước công chúng là những bằng chứng cho thấy ông đã cự tuyệt sự xa hoa một cách có ý thức. Mao vốn là một nông dân, có sở thích đơn giản. Mao chỉ mặc quần áo khi chẳng đừng, còn hầu như lúc nào ông cũng khoác một chiếc áo choàng và nằm trên giường, chân đất. Khi cần ông mặc nhưng bộ quần áo cũ, đi đôi giày vải đã mòn đế, chỉ khi xuất hiện trước đám đông mới mặc quần áo chỉnh tề, đó là bộ đồng phục “kiểu Mao”, chân đi giày da. Thông thường, một trong những vệ sĩ của Mao là người chăm lo tìm mua quần áo và thửa giày mới cho ông. Những bức ảnh ông ăn mặc tươm tất làm việc trong văn phòng đều là ảnh đã được bố trí sẵn. Hầu hết công việc, ông đều giải quyết trong phòng ngủ hoặc bên bể bơi.
Mặc dù vậy, ông sống cũng như một vị hoàng đế. Tư dinh của ông nằm ở chính giữa khu Trung Nam Hải, chính điện của triều đình trước đây, hướng về phía Nam, giữa hồ Trung và hồ Nam. Tư dinh này được canh gác cẩn mật nhất thế giới. Khách nước ngoài viếng thăm có cảm giác không có lính canh gác, nhưng thực ra, lính được bố trí gác khắp nơi khu Trung Nam Hải, nhưng họ kín đáo đến nỗi người ta không nhận điều đó. Tất cả xoay quanh như một vòng tròn lớn mà ông là tâm điểm. Vệ sĩ của Mao đồng thời cũng là người phục vụ ông ta. Họ đều mang súng ngắn, nhưng thực ra họ không cần phải mang vũ khí, vì bên ngoài khu vực trọng yếu đó người ta đã thực hiện những biện pháp an ninh nghiêm ngặt đến nỗi tư dinh của ông kín như nằm trong cái kén. Ngoài những vệ sĩ của Mao ở bên ngoài cũng như bên trong tư dinh, còn những “trạm gác ngoại vi” của những nhân viên Ban An ninh trung ương. Họ cũng được vũ trang đầy đủ.
Những người lính vũ trang của Quân đoàn Thủ đô, danh nghĩa dưới quyền của Bộ tổng tham mưu, nhưng thực ra lại thuộc quyền quản lý trực tiếp của Uông Đông Hưng với tư cách thứ trưởng Bộ Nội Vụ, canh gác những khu vực lân cận của Trung Nam Hải, đó là lớp bảo vệ vòng ngoài. Những lớp vỏ canh gác này chính là cơ sở bảo vệ lãnh tụ mỗi khi Mao đi ra ngoài.
Nơi ở của Mao được giữ tuyệt mật, chỉ những cán bộ lãnh đạo cao cấp của đảng mới biết. Mỗi khi ông rời Trung Nam Hải đi thăm viếng, xe chở ông được đỗ cách xa khu dân cư để người ta khỏi nhận ra số xe, không những thế, biển số xe thường xuyên thay đổi. Hệ thống an ninh tiếp thu kinh nghiệm của Liên Xô và sự bảo mật các Hoàng đế thời xưa ngay sau khi những người cộng sản cướp chính quyền.
Dinh thự của Mao, vốn được xây dựng từ thời Càn Long (1735-1796), vừa là thư viện vừa là nơi ẩn náu của vua nếu có binh biến. Ngôi nhà này hàng thập kỷ không được trùng tu, có nguy cơ bị hỏng. Nó vẫn chưa lấy lại được cái vẻ hào nhoáng ngày xưa, vì công việc sửa chữa đang dở dang. Lần đầu bước vào khu nhà đó, tôi có ấn tượng rằng nét hào hoa chính là ở sự giản dị có chủ ý bày trong nội thất. Nhưng Càn Long vốn lại là người ưa hiện đại.
Cổng chính tư dinh của Mao ở phía Nam toà nhà, theo phong tục cổ truyền được sơn loè loẹt. Tấm bảng gỗ treo trên cổng mang chữ “Vườn thượng uyển” do chính vua Càn Long viết. Tất cả những bảng chữ treo trên những lối vào toà nhà đều là bút tự của Càn Long. Những viên ngói trên mái đều có màu xám, chứ không phải thiếp vàng như trong Cấm Thành, nhưng toà nhà lại được xây dựng theo cùng một phong cách cung điện của vua.
Bên trong cổng chính, hai bên lối đi là hai căn phòng nhỏ thường có vệ sĩ. Chỉ có những người có thẻ đặc biệt loại “A” mới được phép ra vào, có tường bao bọc xung quanh. Đi qua sân rộng là một khu nhà đồ sộ thiết kế theo lối Giao Hoà Đường hoặc Trường Sinh Đại Sảnh hội họp, đón tiếp khách nước ngoài trình quốc thư, tổ chức lễ tiệc chiêu đãi trước khi xây Nhân Dân Đại Lễ Đường năm 1959. Ngay phía sau Trường Sinh Đại Sảnh là Giao Hoà Đường, đó thư viện phong phú rất nhiều sách của Mao chọn lọc, nhưng thường đóng cửa im ỉm.
Khu tư dinh của Mao, biệt danh Phòng Đọc Hương Cúc, ngay trong sân thứ hai, nối liền với sân thứ nhất bằng dãy hành lang có mái che. Khu vườn tuyệt đẹp, dưới bóng những cây thông, dẫy trắc bá cổ thụ đẹp đẽ là những chiếc bàn, những chiếc ghế bằng mây, nơi mùa hè Mao thường tổ chức cuộc họp ngoài trời. Dinh thự của ông gồm hai toà nhà chính với nhiều công trình phụ. Phòng lớn của ông vừa là phòng ngủ, vừa là phòng làm việc ở toà nhà thứ nhất, cách biệt với phòng ngủ của Giang Thanh bằng một phòng ăn rộng. Trong toà nhà thứ hai, đi qua một hành lang nối với phòng ngủ của Giang Thanh là phòng khách của bà. Bên cạnh đó, phòng của Diệp Tử Long, chánh thư ký riêng, đồng thời cũng là quản trị cao cấp của Mao, chuyên lo đáp ứng những nhu cầu cá nhân cho hai vợ chồng Chủ tịch.
Trong một toà nhà khác ở phía Tây nơi ở của Diệp Tử Long, thông với Giao Hoà Đường là nhà bếp. Diệp cũng lo việc ăn uống cho Mao. Việc chế biến thực phẩm tuy theo khuôn mẫu của Liên Xô, nhưng lại phỏng theo phương cách cổ điển thời vua chúa, được Ban an ninh của Uông Đông Hưng canh chừng. Ngay sau khi Mao từ Moscow trở về vào đầu năm 1950, Ban an ninh đã được hai chuyên gia Liên Xô truyền cho những phương pháp chế biến, cách kiểm tra thực phầm dành cho giới lãnh đạo ở Trung Nam Hải. Một nông trang – công xã Tụ Sơn – chuyên cung cấp đặc sản rau, thịt, gà, trứng cho Mao và những lãnh tụ cao cấp khác. Đầu bếp của Mao chỉ cần gửi thực đơn đến phòng cung ứng của Ban an ninh ở phía bắc Trung Nam Hải, gần công viên Bắc Hải. Phòng cung ứng chuyển tiếp thực đơn đến công xã Tụ Sơn. Từ đó, thực phẩm được chuyển về phòng cung ứng ở công viên Bắc Hải, để người ta khám nghiệm thực phẩm đó trong hai phòng kiểm nghiệm xem chúng tươi đến mức nào, độ dinh dưỡng ra sao và có độc tố không. Sau đó, thức ăn được nếm thử trước khi mang cho Mao thưởng thức. Đối với tất cả các quan chức cao cấp, kể cả ở các tỉnh, người ta đều áp dụng phương pháp tốn kém đó, ngốn không biết bao tiền của dân. Phòng ngủ của Mao nối với một toà nhà khác, ông thường dùng làm văn phòng bằng một hành lang. Tuy nhiên, văn phòng này quanh năm khoá trái, chỉ mở cửa khi cần để chụp ảnh. Mao chẳng bao giờ dùng đến nó.
Một toà nhà khác chắn ngang toà nhà Mao và Giang Thanh sống trong đó là nơi Lí Minh, con gái riêng của Mao với Hạ Tử Trân, Lí Nạp, con gái của ông với Giang Thanh và chị của Giang Thanh, Lý Vân Lục đang cư ngụ.
Lý Vân Lục hơn Giang Thanh vài tuổi, chân bó từ bé. Sau khi mẹ qua đời, bà nuôi dưỡng Giang Thanh. Về sau bà trở thành vợ bé của một thương gia. Khi giới lãnh đạo chuyển về Trung Nam Hải, Giang Thanh yêu cầu bà cùng với con trai về ở, chăm sóc dạy dỗ Lí Nạp và Lí Minh, vì cả Mao và Giang Thanh không có thời gian chăm sóc và ít có điều kiện gặp con. Bọn trẻ học trong trường nội trú, thậm chí, trong những kỳ nghỉ, thỉnh thoảng chúng mới gặp hai người trong bữa ăn, mỗi năm không quá vài lần.
Toà nhà thứ tư, văn phòng của các nhân viên y tế và thư ký của Mao cũng như là nơi ở của đứa cháu trai Mao Viên Tân, lúc đó còn đang học trung học. Ngoài ra, ở đó còn có một phòng chơi bóng bàn, một phòng lưu giữ quà tặng, quần áo của Mao, nhiều đồ lặt vặt của Giang Thanh. Trong một phòng khác, treo những bức tranh của các hoạ sĩ nổi tiếng như Tề Bạch Thạch và Từ Bắc Hồng tặng Mao. Tuy nhiên, hầu hết những tặng phầm đều của nước ngoài. Về sau tôi phát hiện ra một hộp xì gà Cuba lớn, bằng gỗ chạm, rất nghệ thuật, do Fidel Castro tặng và một két rượu Brandy lâu năm do Chủ tịch nước Rumania, Ceausescu tặng. Vua Iran tặng Mao một hộp đựng thuốc lá chạm vàng và bạc. Diệp Tử Long vừa là quản gia, vừa là thủ kho khu nhà đó.
Tư dinh có một cái sân bên trong lớn nhất, nơi có những khóm tre và cây cối luôn luôn xanh tươi, một vòi phun nước, một dàn nho. Mùa hè, không khí ở đây thật dễ chịu, mát mẻ hơn bất cứ nơi đâu Trong sân còn có một vườn rau xanh trông rất bắt mắt, cuối thập niên 1960, người ta đã xây một hầm phòng không dưới khu vườn này.
Toà nhà thứ 5, có cổng ra vào riêng, đơn giản hơn nhiều so với lối cổng phía Nam, một lối vào ở phía sau thuộc Ban Quản lý Quảng Trường kiểm soát. Trước khi Đại lễ đường xây dựng, các đại sứ thường đến khu nhà này trình quốc thư. Toà nhà còn có phòng ngủ các vệ sĩ của Mao, các y tá của Giang Thanh. Ngoài ra, ở đó còn cất chứa thực phẩm dành cho Mao, có 3 tủ lạnh sản xuất từ những năm 1940 nhãn hiệu General Electric cũng như dự trữ những vật dụng hàng ngày và thuốc men.
Phòng ở vệ sĩ của Mao, trong đó lịch trình làm việc của Mao cũng được ghi chép dán ngay sau cánh cửa, toà nhà thứ tư. Bất kỳ ai, kể cả những nhân vật thân cận muốn gặp gỡ với Mao, trước hết đều phải trình phòng bảo vệ. Tôi hộc tốc tới khu vườn lúc nửa đêm, 30 tháng 4 năm 1955, vì Mao ốm, một vệ sĩ niềm nở ra đón. Tôi hỏi:
– Có chuyện gì thế.
Người vệ sĩ trả lời:
– Chủ tịch đã uống thuốc ngủ hai lần, nhưng không tài nào chợp mắt được. Chủ tịch muốn nói chuyện với đồng chí.
Tôi được đưa vào phòng ngủ của Mao. Đó là căn phòng quá rộng, gần rộng bằng phòng khiêu vũ. Đồ đạc trang trí toàn đồ Tây phương, hiện đại, tiện lợi, bốn cửa sổ có treo những tấm rèm nhung dày. Sau này tôi mới biết những tấm rèm không bao giờ mở, ở trong buồng Mao người ta không biết bên ngoài ban ngày hay ban đêm.
Mao nằm trong một chiếc giường gỗ rộng, gấp rưỡi chiếc giường đôi bình thường, do một thợ mộc ở Trung Nam Hải thửa riêng cho ông. Trên giường sách vở chất đống, tôi nhận thấy một bên giường cao hơn bên kia, nơi Mao đang nằm, khoảng mười xăng-ti-mét. Sau này, Lý Ẩm Kiều nói rằng giường nghiêng là để đảm bảo an toàn cho Mao không bị lăn khỏi giường. Mấy năm sau tôi mới biết, chiếc giường kê nghiêng để những cuộc làm tình của Mao có nhiều khoái cảm, hơn là để Mao khỏi lăn xuống đất.
Cạnh giường, một chiếc bàn lớn, vừa làm bàn ăn, vừa là bàn làm việc. Mao thường ăn một mình trong phòng ngủ, ông đã sống ly thân với Giang Thanh, hiếm khi họ ăn chung với nhau.
Thấy tôi, Mao bảo:
– Tôi chưa ăn bữa tối đâu đấy! – rồi ông nói tiếp – Tôi muốn nói chuyện phiếm với đồng chí.
Ông khoác một cái áo choàng, lộ khoảng ngực trần. Tay ông cầm một cuốn cổ sử Trung Quốc cũ bọc vải gai. Mao đặt cuốn sách sang một bên, tôi kéo ghế ngồi xuống bên cạnh, nhấm nháp tách trà mà người vệ sĩ mang đến.
– Có tin tức gì không? – Mao hỏi.
Tôi bối rối. Các bản tin tôi biết chẳng qua đọc từ tờ Nhân Dân Nhật Báo, như vậy, tôi tin Mao cũng rất quan tâm đến báo chí. Tôi chẳng biết tin tức gì hơn ông.
– Chẳng hạn mấy ngày qua đồng chí đã gặp những ai? – Mao nói thêm khi nhận thấy sự lúng túng của tôi – trao đổi về những vấn đề gì?
“Có tin tức gì không?”, từ giờ trở đi thành câu cửa miệng mỗi khi gặp, ông cũng nêu câu hỏi đó đối với các cộng sự khác. Bằng cách đó, Mao đã thu lượm được thông tin cũng như thường xuyên kiểm tra chúng tôi, ông mong muốn chúng tôi kể cho ông nghe mọi chuyện kể cả công việc, tạo điều kiện cho chúng tôi tranh luận lẫn nhau. Ông thoả mãn khi khích được một cộng sự này phản biện với những cộng sự khác. Ông cho phép tự do tranh luận.
Tôi kể cho ông nghe cuộc nói chuyện của tôi với Phó Liêm Chương. Ông chăm chú lắng nghe, rồi ông kể về Phó Liêm Chương đã đi theo những người cộng sản trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh từ tỉnh Giang Tây đến sở chỉ huy mới ỏ tình Thiểm Tây như thế nào.
– Trong cuộc tranh đấu của chúng ta chống lại Quốc dân đảng, năm người của gia đình Phó Liêm Chương đã bị hành hình theo lệnh của đảng cộng sản, trong đó có con gái và con rể của đồng chí ấy. Dù là đảng viên cộng sản, nhưng họ vẫn bị buộc tội là thành viên bí mật của một sư đoàn Quốc dân đảng.
Phó Liêm Chương, từng kể, lúc đó ông chăm sóc Mao đang mắc bệnh sốt rét.
Mao nói tiếp:
– Dù Phó không còn là đảng viên cộng sản nữa, nhưng tôi đã hỏi đồng chí ấy có muốn tham gia cuộc Vạn Lý Trường Chinh hay không. Đồng chí ấy đồng ý đi theo. Chúng tôi cho mang ngựa đến, nhưng đồng chí ấy không biết cưỡi, đã ngã xuống sông, suýt chết đuối. Tuy thế đồng chí ấy vẫn tiếp tục lên đường đến Thiểm Tây cùng chúng tôi. Phó Liêm Chương là người tốt, nhưng không cần phải làm theo tất cả những gì đồng chí ấy yêu cầu, cũng không nên báo cho đồng chí ấy biết về tình hình sức khỏe của tôi. Nếu tôi cảm thấy khó ở, hãy nói với tôi biết về cách chữa bệnh, nhưng đừng nói với đồng chí đó. Nếu tôi đồng ý với cách điều trị đó, tôi sẽ không phê bình, thậm chí cả khi đồng chí làm sai. Nếu đồng chí không trao đổi với tôi về phương pháp điều trị, tôi sẽ không thừa nhận đồng chí đã chữa khỏi bệnh, dù tôi khỏi bệnh thật.
Một mặt tôi vui mừng vì không phải thảo luận với Phó Liêm Chương, mặt khác tôi cảm thấy lo lắng, vì Mao muốn tôi cho ông biết phương pháp điều trị. Có đúng là Mao yêu cầu tôi trình bày với ông những thay đổi về tâm-sinh lý của cơ thể trong thời kỳ mắc bệnh hay không? Tôi cần phải thuyết phục ông theo cách điều trị của tôi hay không? Tôi làm sao tìm được những thuật ngữ đơn giản để lý giải cho ông hiểu.
Mao là người bệnh khó tính.
Bữa ăn được dọn ra. Các món ăn lại được đảo qua dầu. Mao đã 62 tuổi, nặng hơn 80 cân, quá béo so với khổ người cao 1 mét 75 của ông. Sau này, tôi thường góp ý với ông nên ăn uống điều độ, không nên ăn quá nhiều chất béo, nhưng ông không nghe. Thời còn trẻ, ông đã thích ăn thịt lợn mỡ và ông vẫn giữ thói quen này cho đến khi chết. Ông còn mời tôi ăn món mướp đắng xào ớt cay, rồi hỏi:
– Ngon không?
Cả đời tôi chưa bao giờ nếm món này, tôi bảo:
– Cay và đắng lắm.
Mao cười rung cả cổ:
– Ai cũng nên nếm một ít vị đắng trong đời, nhất là người như đồng chí. Đồng chí học y khoa, thành bác sĩ, có lẽ chưa bao thử món “Chi ku” cay đắng như thế này.
“Chi ku”, có nghĩa ăn món có vị đắng, hoặc có nghĩa là cuộc đời phải chịu nhiều trầm luân, khổ ải. Tôi không chắc Mao chỉ nói về món ăn thôi, hay ông chơi chữ, ám chỉ rằng, ông coi tôi như loại công tử bột, sản phẩm của tầng lớp thượng lưu. Tôi lặp lại:
– Tôi chưa bao giờ nếm món mướp đắng, nhưng nó có vị lạ.
– Tốt lắm – ông trả lời – Đồng chí còn được thưởng thức nhiều món cay đắng hơn nhiều.
Câu trả lời của Mao rõ ràng khẳng định tôi chưa từng trải cuộc sống gian truân, khốn khổ, ông muốn tôi hãy chia ngọt xẻ bùi đồng cam cộng khổ với mọi người. Thông qua nhiều người, tôi khám phá ra, kể cả con gái Lý Nạp và Lý Minh của Mao, vị lãnh tụ tối cao, cũng từng phải “Chi ku” như mọi người khác. Hầu hết cán bộ lãnh đạo cao cấp của đảng xuất thân từ nông dân, họ đã chiến đấu hàng chục năm ròng để làm nên thắng lợi lịch sử của cách mạng, họ cũng đã nếm trải đủ mùi đắng cay. Mao cho rằng, quyền chức và cuộc sống xa hoa ở chốn đô hội sẽ làm cho họ tha hoá. Theo Mao, nếu không thường xuyên rèn luyện khổ ải, đến ngay các vị lãnh tụ cao cấp cũng sẵn sàng quên béng nước Trung Hoa rồi. Những năm tiếp theo, ông cố gắng tạo điều kiện bắt buộc những người sống quanh ông, kể cả tôi và các lãnh tụ cao cấp khác ăn những món cay đắng nhiều hơn.
Mao chuyển đề tài. Ông nói, Trung Hoa đóng góp cho nhân loại với ba sự việc quan trọng: Nền y học cổ truyền Trung Hoa, tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Huyết Cần và trò chơi Mạt chược. Ông hỏi tôi có biết chơi Mạt chược không.
Mạt chược, một trò chơi giải trí phổ biến trong dân gian, gồm 136 quân bài, thường dành cho bốn người chơi. Nhiều người Trung Hoa đã nghiện nó. Nhưng gia đình tôi không thích trò chơi may rủi đỏ đen này. Từ hồi còn học trung học, tôi coi nghiện cờ bạc, nghiện thuốc phiện là hai thứ ung thư gặm nát xã hội Trung Hoa từ trong ra ngoài. Vì vậy tôi không học chơi cái trò đỏ đen đó. Mao trách tôi:
– Không nên coi thường trò chơi Mạt chược. Mỗi người chơi không những phải chú ý đến quân chơi của mình, mà còn phải quan tâm đến tất cả 136 quân bài khác, để tính toán sao cho có thể thắng được. Nếu đồng chí đã làm chủ được trò chơi, đồng chí sẽ hiểu được mối quan hệ giữa thuyết Tương đối và thuyết Tuyệt đối.
Trong thực tế, Mạt chược là một trò chơi có tính chiến lược. Mao không chỉ là một nhà chiến lược vĩ đại, mà còn là một tay chơi Mạt chược cừ khôi của Trung Quốc. Tôi nghĩ, tài thao lược của ông bắt nguồn từ những bài học trong cuốn Binh pháp Tôn Tử rất có giá trị thời cổ đại, từ lịch sử của nước Trung Hoa và từ lịch sử tiểu thuyết Tam quốc Diễn nghĩa. Nhưng Mao không chỉ chơi Mạt chược một cách đơn thuần, mà còn để trau dồi trí tuệ của mình. Như sau này tôi kể, lệ chơi của ông, bạn chơi phải là những cô gái trẻ đẹp. Khi chơi, tay ông vừa cầm quân, ông vừa buông lời ong bướm ve vãn các em. Dưới gầm bàn, ông dùng chân cọ cọ vào chân hoặc sờ tay vào đùi các cô gái.
Mao nói tiếp:
– Hồng Lâu Mộng đã mô tả sự thịnh suy của chế độ xã hội phong kiến. Cuốn tiểu thuyết đã tóm tắt lịch sử của Trung Hoa trong hai nghìn năm qua. Tôi ít đọc tiểu thuyết, nhưng tôi lại thích đọc Hồng Lâu Mộng.
Tôi mới xem lướt qua cuốn tiểu thuyết này, nhưng không thể nào đọc từ đầu cho đến cuối được, mặc dù đó là cuốn tiểu thuyết vĩ đại của Trung Hoa. Câu chuyện quá rắc rối, nhân vật lại quá nhiều, mỗi lần đọc chỉ được vài ba trang, tôi đã thấy chán rồi gập nó lại. Cuốn tiểu thuyết kể về sự suy đồi của gia đình thượng lưu Gia Bảo Ngọc và nạn tham nhũng, hối lộ trong xã hội phong kiến đã ăn sâu vào gia đình này. Đối với Mao, cuốn tiểu thuyết này là một tài liệu nghiên cứu về nạn tham nhũng, hối lộ và sự suy tàn của chủ nghĩa phong kiến Trung Hoa. Nhưng đối với nhiều người Trung Hoa, nó lại là một tấn bi kịch tình yêu của Gia Bảo Ngọc. Gia đình của Gia đã phản đối tình yêu và cấm anh không được kết hôn với cô. Rút cuộc, Gia Bảo Ngọc đã bỏ nhà, quay lưng lại với xã hội, tìm nơi cửa Phật. Nhưng phản ứng ban đầu của anh là lao vào những cuộc ăn chơi trác tang thâu đêm với gái đẹp. Sau này khi quá quen Mao, tôi quan niệm, Mao gần như là hiện thân của nhân vật Gia Bảo Ngọc. Chính tư dinh của ông, “mảnh vườn của lòng từ bi bác ái” lại là phiên bản khá chính xác của biệt thự gia đình Gia Bảo Ngọc. Mao cũng là một tên phiến loạn, thích lôi kéo, quyến rũ những người đàn bà trẻ, ông có vô số phụ nữ quanh ông. Tuy nhiên, ông khác với nhân vật Gia Bảo Ngọc, ông không quy y, nương mình nơi cửa Phật. Mao đã nhắc tôi ngay khi chúng tôi mới quen nhau:
– Đồng chí đừng suy tôn tôi, tôi không phải ông thánh, cũng chẳng nhà sư. Tôi không bao giờ muốn như thế.
Mao quy cho sự gia tăng dân số ở Trung Quốc là do tác dụng của nền y học Trung Hoa. Ông bảo, mặc dù trong suốt bốn nghìn năm qua, chiến tranh và thiên tai thường xuyên xảy ra ở Trung Quốc, nhưng dân số vẫn tăng tới năm trăm triệu người. Hay tại y học Tây phương? Nền y học Tây phương du nhập vào Trung Quốc mới khoảng một trăm năm nay. Nhưng trước đó hàng nghìn năm con người đã quen dùng dược liệu của Trung Quốc vậy tại sao vẫn có người phủ nhận nền y học đó? Chỉ có sách y học Trung Quốc và sách Phật giáo Mao chưa nghiên cứu, ông hỏi tôi biết những gì về y học Trung Hoa không.
Mặc dù, ông cha tôi là những người từng làm nghề thuốc đông dược Trung Hoa, nhưng tôi lại được đào tạo nghề y theo khuôn mẫu của phương Tây nên tôi không quan tâm đến y học cổ truyền. Tuy nhiên, tôi cũng không nghĩ, Trung Hoa đông dân do nền y học cổ truyền gây ra.
Tôi trả lời ông, tôi đã đọc một vài cuốn sách cổ y học Trung Hoa, nhưng không hiểu, nhất là bàn đến thuyết ngũ hành Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Tôi không lĩnh hội được lý thuyết này.
Mao cười, bảo:
– Đúng, thuyết âm dương, thuyết ngũ hành rối rắm, rất khó hiểu. Các thày lang dùng những lý luận y học cổ truyền của Trung Hoa để giải trình tình trạng sinh lý và bệnh lý của người bệnh. Quan điểm của tôi, ta nên kết hợp y học cổ truyền Trung Hoa với Tây y. Bác sĩ Tây phương giàu kinh nghiệm cần phải tham khảo đông y, ngược lại lương y Trung Hoa lành nghề cũng cần phải nghiên cứu sinh lý học, bệnh lý học, khoa học giải phẫu, dịch tế học và những lĩnh vực tương tự. Đồng chí nên tìm cách giải thích những nguyên tắc y học Trung Hoa dưới ánh sáng của khoa học hiện đại. Những cuốn sách y cổ truyền của Trung Quốc cần được dịch sang ngôn ngữ hiện đại, được chú giải và cắt nghĩa cho sáng tạo. Như vậy, bằng sự liên hệ giữa y học Trung Hoa và y học phương Tây, có thể tạo ra một nền y học tổng hợp mới. Điều đó sẽ là một đóng góp to lớn cho y học thế giới.
Mao dừng một chút rồi nói:
– Mặc dù tôi ủng hộ, khuyến khích nền y học Trung Hoa, nhưng bản thân tôi lại không tin tưởng nên y học đó lắm. Tôi không dùng thuốc đông y. Đồng chí có thấy kỳ quặc không?
Tôi đồng ý, đó là điều kỳ lạ. Trước công chúng, ông công khai ủng hộ nền y học cổ truyền, nhưng chính ông lại từ chối dùng thuốc đông y. Kết thúc cuộc trao đổi, Mao nói:
– Mai là ngày lễ 1-5. Đồng chí cùng đi với tôi đến quảng trường Thiên An Môn, đứng trên lễ đài, chứng kiến buổi lễ tiến hành ra sao. Đó là một sự kiện quan trọng, đồng chí sẽ học hỏi được nhiều điều.
Ông ta hỏi về đứa con trai cả của tôi.
Tôi đáp:
– Cháu đã 5 tuổi.
Mao đề nghị:
– Đồng chí đưa cháu đi cho nó xem quang cảnh nhé.
Tôi đáp:
– Tôi nghĩ không nên. Tất cả các chính trị gia cao cấp đều ở đấy mà chẳng ai đưa con đi cả, tôi lại có nhiều việc cần làm, nếu cháu mải xem quá, cháu sẽ lạc.
Mao cười.
– Thôi được. Đồng chí không cần mang cháu theo. Bây giờ đồng chí về nhà ngủ một chút đi.
Tôi về nhà đã ba rưỡi sáng. Thường thường tôi đi ngủ lúc mười giờ. Lý Liên đang đợi tôi. Tôi kể cho nhà tôi về cuộc chuyện trò giữa tôi và Mao.
– Ông ta khỏe, thực sự chưa cần bác sĩ chăm sóc thường ngày. Anh có cảm tưởng, ông cần anh như người bạn để tâm sự hơn cần bác sĩ.
Lý Liên khuyên tôi hãy kiên nhẫn chiều theo ý muốn của Chủ tịch, bảo:
– Anh vừa mới bắt đầu làm việc cho Chủ tịch, đã gây được ấn tượng tối đối. Vậy anh phải cẩn thận, không được hấp tấp.
Đó mới chỉ buổi đầu tiên trong vô số buổi nói chuyện với Mao vào ban đêm. Ông sống rất cô độc. Hiếm khi ông gặp Giang Thanh, ông không có bạn. Tinh thần Diên An, tình đồng chí của những người sống sót sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh chỉ còn là một huyền thoại. Thỉnh thoảng Lưu Thiếu Kỳ hoặc Chu Ân Lai gặp Mao vì công việc, nhưng cuộc gặp gỡ cũng chỉ giới hạn trong phạm vi những điều cần bàn đến trong những tài liệu trao đổi hoặc trong những cuộc họp của Ban thường vụ Bộ chính trị. Mao triệu tập những cuộc họp này rất thất thường. Lúc thì ở trong phòng khách khu Trường Sinh, lúc thì ở ngay những nơi mà ông vừa tới. Ban ngày ông gặp gỡ đám vệ sĩ thân cận gần gũi nhất. Họ là những trai làng thất học. Nói chuyện với họ Mao chỉ hạn chế trong một số chuyện, thường chỉ tán gẫu về các cô người yêu của họ, thậm chí ông còn làm cố vấn tình yêu cho họ, thỉnh thoảng giúp họ viết những lá thư tình. Những đề tài ông thường quan tâm là lịch sử Trung Hoa và về triết học, ông không thể trao đổi với họ được.
Vì thế, Mao coi tôi là người trò chuyện duy nhất của ông, khuyến khích tôi đọc những bài ông viết về lịch sử và triết học, mỗi tuần ông trao đổi với tôi hàng giờ liền. Khi khó ngủ, có lúc ông đọc sách, có lúc triệu tập một cuộc họp bất thường, bất kể vào lúc nào, thuận tiện hay bất tiện với người khác. Nhưng thường thường, ông cho gọi một người nào đó đến để trò chuyện, người đó thường là tôi. Chẳng có gì lạ khi ba giờ sáng lại bị Mao lôi ra khỏi giường. Trước những ngày quốc khánh và mồng 1 tháng Năm, Mao mất ngủ nặng nếu ông phải tham gia duyệt binh và chào mừng quần chúng ở quảng trường Thiên An Môn.
Lý Liên có lý khi yêu cầu tôi nên nhẫn lại, nhưng lại sai khi khuyên tôi chỉ nên vờ vĩnh chiều ý Chủ tịch. Mao, một nhà độc tài, chúng tôi phải chiều theo mọi sở thích của ông. Chống lại ông, thực hiện ý nguyện cá nhân đều có thể thành thảm hoạ.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [7]
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 7
Posted: 18/06/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Sau đêm đầu tiên nói chuyện với Mao, sáng hôm sau ngày lễ 1-5, hơn 9 giờ tôi phải có mặt ở đội bảo vệ tư dinh Mao và mang theo túi thuốc cấp cứu. Uông Đông Hưng đã có mặt ở đó, sau đó Mao chủ tịch xuất hiện. Ông mặc bộ quần áo dạ kiểu Tôn Trung Sơn, chân đi giày da nâu. Ông vui mừng phấn chấn vì buổi lễ sắp khai mạc, nồng nhiệt đón chào chúng tôi. Lát sau Bộ trưởng công an La Thuỵ Khanh đến giơ tay chào Mao theo lối quân đội. Mao ra hiệu chúng tôi ngồi vào xe limousine và tiến về quảng trường Thiên An Môn.
Từ năm 1949, sau khi trở về Trung Quốc những ngày lễ 1-5 và quốc khánh 1-10 tôi thường xuyên đi dự ở quảng trường Thiên An Môn, đó là những ngày đầy tự hào, sung sướng. Dưới lễ đài, quần chúng hân hoan với rừng cờ, biểu ngữ, từng đoàn diễu hành, đoàn quân nhạc đi qua lễ đài. Ngắm nhìn các nhà lãnh đạo đảng, nhà nước đứng trên lễ đài vẫy tay chào đón nhân dân, những ngày lễ khơi dậy trong tôi lòng tự hào dân tộc. Nhưng hôm nay không còn đứng dưới quảng trường, tôi được đứng trên lễ đài cùng với những nhà lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước chào đón, ngắm nhìn quần chúng hân hoan dưới quảng trường Thiên An Môn.
Tôi ngồi xe đầu tiên cùng La Thuỵ Khanh. Khi xe đến phía sau cổng Thiên An Môn, La Thuỵ Khanh xuống khỏi xe, chạy lại chiếc xe Mao ngồi, kính cẩn mở cửa, nâng tay lãnh tụ. Mao nhìn La với vẻ không hài lòng, tự xuống xe, cáu kỉnh nói:
– Đừng vô ý như thế, tôi không cần giúp, người cần giúp là phó chủ tịch Tống Khánh Linh.
Ngày lễ quốc tế Lao động 1-5, chính phủ cộng sản bề ngoài vẫn duy trì Mặt trận thống nhất liên hiệp giữa những người cộng sản với phong trào dân chủ và các đảng phái không cộng sản. Người đại diện và phát ngôn viên của chính sách đại đoàn kết thống nhất dân tộc là bà Tống Khánh Linh, phu nhân của cố tổng thống Tôn Trung Sơn. La Thuỵ Khanh chạy sang, nhưng bà đã ra khỏi xe.
Tống Khánh Linh khoảng sáu mươi tuổi, trông còn trẻ đẹp và duyên dáng, đây là lần đầu tiên tôi thấy bà trên lễ đài. Bà toát lên vẻ đôn hậu, dịu dàng, thân mật bắt tay từng người.
Một số người khác được mệnh danh nhân sĩ dân chủ lại hoàn toàn trái ngược, tất cả tỏ vẻ cao ngạo, lạnh nhạt chào mọi người, uể oải, bước từng bước chậm chạp như đã già cả, yếu sức. Mao chân thành chào họ, sau đó quay về phía Tống Khánh Linh, lịch thiệp nhường bà dẫn đầu lên phòng khách trên cổng Thiên Bình, giúp Tống Khánh Linh bước lên các bậc thềm đá thô nháp.
Khi chúng tôi lên đến trên, một tràng vỗ tay vang lên đón khách của nhiều người đã có mặt. Tôi không ngờ phía tiền sảnh và phòng tiếp khách rộng lớn đến thế, có nhiều ghế bành êm ái xếp theo hình giẻ quạt và bày rất nhiều thức ăn, đồ uống, hoa quả. Vì thế các nhà lãnh tụ tối cao có thể ngồi ở đây 5 đến 6 giờ liền để xem đoàn diễu hành nhưng không thấy thể hiện mệt mỏi.
Mao bắt tay tất cả khách mời, sau đó tiến về ban công của lễ đài nhìn xuống quảng trường. Ban công được trang hoàng bằng biểu ngữ, cờ đỏ rực rỡ, được ngăn với tiền sảnh phòng đón tiếp bằng một tấm rèm lớn, người ngoài không thể nhìn thấy bên trong. Tôi theo Mao lên lễ đài, nhìn mọi người ngưỡng mộ chào mừng, ông giơ tay vẫy chào, chậm rãi, nghiêm trang, đi dọc lễ đài, gửi lời chào tới tất cả mọi người có mặt ở dưới quảng trường Thiên An Môn rộng lớn. Vẻ mặt của lãnh tụ bình thản, nhưng tôi biết ông rất tự hào, tràn trề niềm vui. Tôi cũng cảm thấy hoàn toàn như thế. Quảng trường giống như một biển người dập rờn, nhấp nhô nhiều màu sắc. Trong đó có thể phân biệt được, áo trắng của hàng ngàn sinh viên, khăn quàng đỏ của thiếu nhi tiền phong, biểu ngữ đỏ của đại diện giai cấp công nhân và trí thức. Khi Mao xuất hiện trên lễ đài, đám đông ồn ào chuyển động, cờ hoa vẫy liên tục, khẩu hiệu hô vang ca ngợi đảng cộng sản, Trung Hoa mới và Mao chủ tịch.
Thị trưởng Bắc Kinh Bành Chân khai khai mạc buổi lễ. Sát dưới lễ đài, quân nhạc cử quốc ca. Đại bác bắn 21 phát chào mừng. Tiếp theo quân nhạc tiếp tục hoà tấu bản “Đông phương hồng”, “Quốc tế ca”, cuối cùng, bài “Hành quân ca”.
Buổi lễ bắt đầu.
Đầu tiên diễu binh. Các đại diện cho hải, lục, không quân trang phục chỉnh tề diễu qua quảng trường, rồi xe tăng và pháo binh. Quân nhạc vang những khúc quân hành, Mao chủ tịch và các vị lãnh đạo đứng trên lễ đài xem đoàn quân diễu binh. Sau đó, cuộc tuần hành trên Thiên An Môn. Dường như làn sóng người khổng lồ phủ lên là đội ngũ những người lao động, công nhân và sinh viên. Hàng đoàn người cờ hoa, biểu ngữ sặc sỡ. Quần chúng lao động chào mừng những người lãnh đạo đất nước đứng đầu với Mao.
Diễu binh và tuần hành kéo dài vài giờ, nhưng Mao rất xúc động gần như không rời lễ đài, chỉ thỉnh thoảng vào phòng uống nước cho đỡ khát.
Lúc gần kết thúc, hàng nghìn thiếu nhi sơ mi trắng, khăn quàng đỏ lên lễ đài. Chẳng có gì ngạc nhiên khi những người tuần hành tỏ lòng ngưỡng mộ Mao. Hình như người ta đã kiểm tra cẩn thận từng người.
Mao nói:
– Tham dự buổi lễ, đồng chí nhận thêm bài học tuyệt vời chủ nghĩa yêu nước, càng yêu tổ quốc mình hơn.
Ông nói đúng quá đi rồi. Trong ngày 1-5-1955 lần đầu tiên tôi đứng trên lễ đài cạnh lãnh tụ, nhìn xuống biển người mà lòng cảm thấy niềm tự hào lớn lao về tổ quốc vĩ đại, sẵn sàng cống hiến hết sức mình.
Cuộc tuần hành kết thúc khoảng 4 giờ rưỡi chiều, chúng tôi về Trung Nam Hải. Mao nghỉ ở phòng đọc Hương Cúc, La Thuỵ Khanh gặp Mao báo cáo, 7 giờ tối mọi người trở lại quảng trường Thiên An Môn dự lễ bắn pháo hoa.
La Thuỵ Khanh nói với tôi:
– Đồng chí rất mệt phải không, nhưng tôi sẽ chờ tất cả các đồng chí tại đây lúc 6h30. Đừng chậm đấy!
Tôi quay về nhà khu phía Nam của Trung Nam Hải. Vợ và con trong lúc chờ, chơi cờ tướng. Hôm ấy tôi đã hứa với gia đình đi công viên, sau đó rẽ vào thăm mẹ dự bữa cơm liên hoan, nhưng tất cả kế hoạch phải bỏ.
– Em biết nói với mẹ gì đây? – Lý Liên than thở.
Tôi bảo nhà tôi và cháu đến chỗ mẹ trước, hứa rằng xong việc, sẽ đến đó luôn, nhưng nếu không có mặt trước lúc 9 giờ tối, hai mẹ con cứ về nhà. Sau đó tôi quay về phòng làm việc với Nhóm Một, tranh thủ ăn bát mỳ.
Mọi người đã tới. Các thư ký và bảo vệ than phiền chưa kịp ăn tối nữa. Uông Đông Hưng an ủi họ:
– Đừng lo, ở Thiên An Môn thừa đồ ăn cho tất cả mọi người. Chỉ đừng có tụ tập cả đống quanh bàn, để người ta khỏi xì xào, nhân viên của Mao được đối xử đặc biệt, ăn món ăn dành cho các lãnh tụ.
Đến 7 giờ, nhưng Mao vẫn chưa thấy đâu. Cuối cùng Uông Đông Hưng giải thích:
– Vương Gấu Lớn đang cắt tóc cho Chủ tịch.
Đến 7 rưỡi, La Thuỵ Khanh nhắc Uông Đông Hưng nói cho Mao biết đã đến giờ lên đường. Uông Đông Hưng biến vào phòng Mao. Tôi theo gót ông tới đó xem sao.
Mao ngồi ghế mây trong nhà ăn, khăn trắng quấn từ cổ trở xuống, tay cầm cuốn sách cũ mỏng, được đóng gáy bằng dây, đang mải mê đọc, lúc xoay bên người bên này, lúc bên kia chẳng hề để ý đến Vương Gấu Lớn, người phó cạo cao lớn đang xoay người theo Mao để cắt tóc. Người Vương đầm đìa mồ hôi.
Vương Gấu Lớn – cắt tóc cho Mao từ cuối những năm 30. Tên ông Vương Hoá, ông ngoài 60 tuổi. Khi đảng năm 1942 tiến hành chiến dịch thanh lọc hàng ngũ, Vương bị buộc tội thiếu lòng tin vào đảng. Vụ việc này được đem ra mổ xẻ, người ta tuyên bố, thợ cạo Vương Hoá tự thú nằm trong số những người mưu giết Mao bằng dao cạo.
Sau này Mao kể, bảo tôi:
– Tôi không tin về lời tự thú của Vương Gấu Lớn, chả lẽ tay phó cạo này cắt tóc, cạo râu cho mình từng ấy năm thậm chí chẳng có lần nào làm xước mặt bao giờ, nếu như muốn, anh ta giết tôi từ lâu. Tôi cho gọi Vương Gấu Lớn đến. Anh ta quỳ xuống, nước mắt đầm đìa thú tội, có ý định giết lãnh tụ.
Mao hỏi:
– Vì sao anh vẫn chưa giết tôi?
Vương trả lời rằng còn chờ quân Quốc dân đảng kéo tới. Mao nói:
– Nhưng nếu họ tới được thì họ giết tôi, cần gì đến anh!
Mao bắt Vương phải kể hết sự thật và ông phó cạo nói, trong khi hỏi cung người cán bộ điều tra không cho ông ta ngủ mấy hôm liền, bắt ông nhận tội chống Mao mới cho phép ngủ. Mao nói:
– Khi phát động chiến dịch, tôi đã nhấn mạnh, cần làm tìm rõ sự thật, chứ không được gán hay ép tội cho người lương thiện.
Vương Gấu Lớn, người thợ cạo to lớn trở thành người trung thành tuyệt đối của Chủ tịch. Thật kỳ lạ, phần đông những người phục vụ họ rất tin cẩn, tận tuỵ, trung thành tuyệt đối với Mao thời ấy, chính họ đã được Chủ tịch cứu sống khỏi sự trừng phạt.
La Thuỵ Khanh đi đến thì thào với Vương Gấu Lớn:
– Nhanh tay lên một tí được không?
Uông Đông Hưng cũng thì thào:
– Không được, nhỡ vội, vô tình gây tai nạn, có phải rách việc ra không.
Tóc cắt xong, Vương Gấu Lớn bắt đầu cạo râu. Công việc này té ra lại phức tạp hơn. Mao vẫn mải đọc, cằm của ông hạ thấp, má sát tập sách Vương buộc phải quỳ xuống để đưa dao cạo vào đúng chỗ, thời gian cứ trôi dần.
Cuối cùng mọi việc kết thúc, bầu đoàn kéo tới quảng trường. Tôi ngồi cùng xe với Uông Đông Hưng và La Thuỵ Khanh. Họ thảo luận vấn đề cắt tóc và cạo râu của Chủ tịch. La Thuỵ Khanh đề nghị mang một chiếc ghế cắt tóc từ khách sạn Bắc Kinh đặt vào phòng riêng cho Mao. Uông Đông Hưng nói, đã gợi ý từ lâu, nhưng Mao từ chối. Uông nói thêm:
– Chủ tịch thích ngồi như thế.
La Thuỵ Khanh tiếp tục:
– Nhưng Vương Gấu Lớn già quá rồi, tay thì run run, cái gì xảy ra nếu ông ta làm xước mặt Mao. Lúc ấy hơi ghê đấy!
Uông nói:
– Nhưng tìm được người thay Vương cũng chẳng đơn giản. Chủ tịch không muốn thay. Ông sợ, không thể tin một người ở đâu lạ hoắc, cứ quanh quẩn bên cạnh với con dao sắc trong tay.
La Thuỵ Khanh im. Tôi nghĩ đáng lẽ ông ta phải hiểu chuyện này hơn ai hết, phải hiểu tính đa nghi của Chủ tịch. La Thuỵ Khanh rất trung thành nhưng không thể và mãi mãi không hiểu Chủ tịch. Nghe hai người trao đổi, đột nhiên sợ rằng một ngày nào đó, khi tôi đến chữa bệnh đem theo bơm tiêm và tiêm vào người Mao. Chủ tịch cho phép tôi làm điều này chỉ khi nào ông tin tôi tuyệt đối. Tôi cần phải chiếm được niềm tin, nếu không chiếm được lòng tin, tôi không thể làm bác sĩ riêng của lãnh tụ trong tương lai. Tôi cần phải gần gũi Chủ tịch hơn nữa, để ông hiểu, phải cố gắng trở thành người bạn của ông.
Ngay lúc Mao lên ban công, pháo hoa bắt đầu bắn lên. Tất cả các toà nhà lớn bừng sáng bởi hàng nghìn bóng đèn nối liền đường dây điện các toà nhà với nhau. Phía dưới là quảng trường Thiên An Môn rộng lớn, hàng trăm nghìn người vui sướng, hạnh phúc, hớn hở quây quần nhảy múa.
Trong khi xem pháo hoa, Chu Ân Lai đến chỗ Mao đề nghị lãnh tụ chụp ảnh kỷ niệm với khách nước ngoài được mời đến dự lễ. Trong số khách có cả Hồ Chí Minh, lãnh tụ của nhân dân Việt nam.
Ông Hồ năm ấy 65 tuổi, tuy gầy gò nhưng đầy sinh lực. Ông nổi bật ở bộ râu hoa râm, thưa và dài, ăn vận như một nông dân, chân đi đôi săng-đan. Một vệ sĩ nói với tôi, ông từng sống ở Trung Quốc nhiều năm và rất thích các đồ Trung Quốc từ thức ăn, quần áo đến nhà cửa, phương tiện đi lại. Ông nói tiếng Trung rất thạo, do nhiều năm sống ở Vân Nam và Quảng Đông, hai tỉnh giáp giới Việt nam. Người ta giới thiệu tôi với ông, tôi rất mến mộ ông. Mao, vị tư lệnh đầy uy quyền, còn Hồ Chí Minh tính tình chan hoà, cởi mở, dễ gần không làm người khác khiếp sợ.
Pháo hoa kết thúc lúc 10 giờ đêm. Tôi không biết phải chi phí hết bao nhiêu tiền cho vui chơi và phục vụ khách khứa, nhưng người ta kể, chỉ riêng tiền pháo hoa cũng hết nửa triệu nhân dân tệ. Năm ấy lương công nhân trung bình khoảng 30 nhân dân tệ một tháng. Về sau tôi coi tất cả những buổi lễ được tổ chức đều quá lãng phí và tội lỗi. Đặc biệt, những ngày lễ tổ chức trong thời kỳ “ba năm đói kém, mất mùa” hàng triệu người chết đói. Từ đó trở đi ngày lễ với tôi cũng mất ý nghĩa.
Đối với Mao cũng vậy, ông thấy không cần thiết tổ chức lễ hội. Một năm hai ngày, Quốc khánh và Quốc tế lao động đã làm ông kiệt sức. Vì thế Mao chỉ đến đúng giờ khai mạc, hơn nữa ông thường mất ngủ vào đêm trước buổi lễ vì quá lo lắng, càng làm bệnh mất ngủ của ông thêm tồi tệ. Trước sự quá hân hoan, hăng hái của quần chúng nhân dân làm ông vui vẻ đã tiếp sức mạnh giúp ông dự hết buổi. Nhưng thường sau những ngày ấy ông bị cảm, đôi khi chuyển sang viêm phế quản, ốm đến tuần lễ. Khi ông có tuổi, bệnh viêm phế quản thường xuyên bội nhiễm biến thành viêm phổi.
Mao rất ghét phải đóng bộ để dự lễ. Một trong những lý do ông từ chức chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa vì ông không muốn có mặt trên lễ đài những ngày lễ 1-5 và ngày Quốc khánh. Ông muốn bỏ bớt những buổi lễ mệt nhọc và các cuộc gặp gỡ ngoại giao. Giữa thập niên 1960, ông yêu cầu ngày 1-5 cứ 5 năm mới tổ chức một lần để giảm bớt lãng phí thời gian và tiền bạc của nhân dân. Trong những năm cuối Cách mạng văn hoá, lúc cao trào đấu tranh giành quyền lực tăng cao, Mao xuất hiện trên quảng trường Thiên An Môn tám lần cả thảy. Ông chào mừng Hồng vệ binh từ khắp các ngõ ngách Trung Quốc, thổi vào họ những luồng khí lực kích thích mới. Đương nhiên, phí tổn cho cuộc biểu dương lực lượng vượt quá tiền chi cho buổi lễ do nhà nước tổ chức. Nhưng để giải quyết vấn đề quyền lực, Mao không ngần ngại chi phí. Sau âm mưu bất thành, Lâm Bưu bay sang Liên Xô tháng 9-1971, Mao cũng thôi tham dự các buổi lễ.
Tuy nhiên ngày 1-5-1955 Mao vẫn còn đang vui mừng thích thú, còn tôi hoan hỉ bên cạnh ông, chẳng quan tâm chuyện tốn kém tiền bạc.
Tôi đợi đến cuối buổi lễ để được quay về xum họp gia đình. Nhưng lại có vấn đề nảy sinh. Tôi ngạc nhiên khi biết Mao rất thích khiêu vũ một cách cuồng nhiệt. Sau cách mạng hơn chục năm, khiêu vũ bị cấm, các vũ trường bị đóng cửa, coi như đó là lối sống tư sản. Tuy nhiên đằng sau bức tường Trung Nam Hải, Mao hàng tuần đều bố trí khiêu vũ. Buổi khiêu vũ thường tổ chức ở phòng Liên Xuân, phía bắc tư dinh Mao. Ngay tối hôm ấy, sau khi bắn pháo hoa, Mao quyết định khiêu vũ và tôi, bác sĩ riêng phải ở lại với ông.
Tôi theo Mao vào đại sảnh. Tức khắc vây quanh Mao là những cô gái trẻ của nhóm khiêu vũ trong bộ phận bảo vệ Mao. Họ tán tỉnh ông và mời ông nhảy. Ban kèn hơi chơi những bài nhạc nhảy điệu foxtrots, van-xơ (waltzes) và tango, còn Mao nhảy với hết cô này đến cô khác. Ông nhảy chưa đẹp, nhưng đúng nhịp, khá tao nhã. Sau mỗi lần nhảy, ông thường nói chuyện với bạn nhảy đôi lời khoảng 5 phút sau đó đổi bạn nhảy. Những người còn lại cũng theo gương Mao vào nhảy. Giang Thanh đêm ấy vắng mặt. Đêm hôm trước bà bay đi Hàng Châu, tuy nhiên Chu Đức và Lưu Thiếu Kỳ có tham dự. Sàn nhảy có một chiếc bàn, Mao và hai lãnh đạo ngồi xung quanh. Hàng trăm người phục vụ và ca sĩ của ban nhạc ngồi ở ghế đặt quanh tường phòng nhảy. Đàn ông ít hơn phụ nữ, vì thế các cô gái xinh đẹp mời tôi nhảy.
Dần dần người ta thay các điệu nhạc phương tây bằng nhạc kinh kịch Trung Quốc. Kinh kịch, môn nghệ thuật cổ điển truyền thống, thường là một chuyện tình sướt mướt, mưu mô, xảo quyệt, thậm chí đôi khi thiếu đứng đắn. Bản thân nhạc Trung Quốc người phương tây không thể hiểu được, chỉ toàn những tiếng kèn nghe chói tai, khác hẳn tiết tấu nhạc khiêu vũ Tây phương. Tôi ngạc nhiên đêm đó lại vang lên bản kinh kịch của Thục Sơn Khải Kiệt, kể về tình yêu của một cô gái điếm với chàng sinh viên trẻ. Tôi còn ngạc nhiên hơn nữa mọi người chiều theo ý Chủ tịch ra sàn nhảy, nhạc kinh kịch nhưng khiêu vũ lối phương tây.
Khuya rồi, tưởng nhiệm vụ đã xong, tôi gặp Lý Ẩm Kiều báo cáo về nhà, nhưng anh ta nói:
– Đồng chí cần ở lại. Chủ tịch đang vui nhảy, nhưng vẫn quan sát tất cả chúng ta đấy. Nếu bây giờ đồng chí về, Chủ tịch đánh giá giữa chúng ta có cái gì trục trặc, tôi sẽ bị khiển trách.
Tôi ngạc nhiên:
– Thế là thế nào? Giữa chúng ta có mâu thuẫn gì đâu.
Lý trả lời:
– Đúng thế, nhưng đồng chí chưa hiểu Chủ tịch. Hãy nghe tôi, sau này sẽ hiểu.
Lý hoàn toàn đúng. Thậm chí khi Mao nghỉ ngơi, ông ta cũng biết người của ông ở đâu, bắt tất cả mọi người phải ở bên cạnh ông. Một năm sau, ở Hàng Châu, tôi mệt đến mức quyết định không đến khiêu vũ. Tôi quay về vào buồng mình, nghỉ một lát, nhưng tôi nghe thấy tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa, tay vệ sĩ của Mao đứng ngay ngưỡng cửa:
– Có thật là người ta không báo cho đồng chí về buổi dạ hội không?
Anh ta nói thêm:
– Đồng chí nên đi ngay!
Sau này vào năm 1958 ở Hồ Nam, tôi quyết định phớt lờ cuộc vui ban đêm do trời mưa to. Tuy nhiên sau một giờ, tay phụ trách công an tỉnh Hồ Nam xuất hiện, nói, Mao chủ tịch trao cho anh nhiệm vụ đón tôi. Sau đấy, tôi hiểu, mình phải luôn có mặt bên Mao.
Phải vài năm sau tôi mới hiểu, Mao thu xếp các buổi khiêu vũ ban tối để làm gì. Các nhóm khiêu vũ thuộc bộ phận bảo vệ do Uông Đông Hưng xây dựng. Té ra, đội ngũ các cô gái nhẩy ấy không chỉ tiêu khiển các tay vệ sĩ và lính tráng, còn cho cả lãnh tụ. Trong nhóm có nhiều cô gái nhảy duyên dáng, thành thạo được trải qua thử thách lòng trung thành về mặt chính trị.
Năm 1961, người ta mang một trong những chiếc giường của lãnh tụ sang buồng bên cạnh phòng nhảy. Trong thời gian khiêu vũ, Mao không ít lần vào đó thư giãn cùng với các bạn nhảy xinh đẹp của mình.
Phó Chủ tịch Uỷ ban quân sự Bành Đức Hoài hai lần phê bình Mao về chuyện phiêu lưu tình ái với gái nhảy trong các cuộc họp Bộ chính trị. Bành, một Uỷ viên Bộ chính trị trung thực, thẳng thắn và người duy nhất thường phê bình Mao. Bành cũng tuyên bố, Mao sống như vua và chứa chấp khoảng ba nghìn tì thiếp. Ngoài ra, Bành buộc tội La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng đã thoả mãn mọi ý thích của lãnh tụ. Kết quả nhóm gái nhảy bị giải tán, nhưng Mao chẳng thay đổi gì, tiếp tục kéo các cô gái trẻ vào giường mình. Ông tìm những cô gái này chủ yếu ở các đoàn văn công thuộc Giải phóng quân Trung Quốc, trong quân khu Bắc Kinh, trong các đơn vị không quân, đường sắt, pháo binh, cuối cùng là ở các tỉnh Triết Giang, Giang Tây và Hà Bắc. Nhưng lãnh tụ cũng chẳng từ cả các nữ nhân viên làm việc phục vụ Ban chấp hành trung ương.
Nhưng buổi khiêu vũ lần đầu đêm 1-5-1955 tôi vẫn còn chưa biết điều đó. Tôi rất muốn về nhà, nhưng phải chờ đến cuối buổi. Tôi khước từ buổi dạ tiệc của Uông Đông Hưng, ấy thế mãi đến gần hai giờ sáng tôi mới được về với vợ con.
Lý Liên đưa tôi bát cơm rang, rất thất vọng vì ngày vui của gia đình vắng tôi. Mẹ tôi chuẩn bị bữa cỗ ngon lành. Cả nhà chờ tôi đến 10 giờ tối mới ngồi vào bàn. Thằng con trai nhỏ của tôi mệt đến nỗi ngủ lại nhà bà nội.
Sau vài tuần kể từ buổi gặp Mao hôm đầu, cuộc sống của tôi đã ra khỏi tầm tay. Chế độ sinh hoạt hàng ngày đảo lộn, Lý Liên nhận xét:
– Anh đã nhiễm thói quen của Mao chủ tịch!
Từ lúc nhận việc bác sĩ riêng của lãnh tụ, cuộc sống của tôi và gia đình tôi trong suốt hai chục năm liền luôn luôn trong tình trạng bất ổn, khác trước hoàn toàn. Tôi rất yêu Lý Liên, nhưng hiếm khi có mặt ở nhà. Các buổi giỗ chạp ở nhà mẹ thường vắng mặt tôi. Trong 22 năm làm việc với Mao tôi chỉ có một tuần nghỉ phép.
Theo lịch công tác, Mao thường yêu cầu tôi phải có mặt vào sáng sớm, về nhà quá nửa đêm, Lý Liên vẫn thức chờ tôi và rất lo lắng.
Mao thường xuyên đi, tôi phải tháp tùng ông, đôi khi vắng nhà vài tháng, có một lần gia đình không nhìn thấy tôi cả năm. Lý Liên luôn trong tình trạng lo lắng cho tôi nên ăn ngủ kém. Thằng con thứ hai của tôi, Erchong sinh năm 1956, ngày sinh nó tôi cũng không có mặt ở nhà.
Không chỉ giữa tôi và Lý Liên thường xuyên xa cách, tôi còn bị cuốn vào vòng xoáy của Bắc Kinh, nhưng Lý Liên vẫn không được vào đảng. Người ta không thể tin về chính trị vợ tôi do thành phần xuất thân, do đã từng ở làm sở của Mỹ và Anh. Chỉ có chức vụ của tôi mới bảo vệ được Lý Liên trong những cuộc bão táp chính trị, gây ra bao cái chết của những người vô tội.
Trong những năm ấy, vợ tôi hy sinh tất cả cho gia đình, nuôi dạy con cái, chăm sóc mẹ già. Lý Liên cố gắng xây dựng trong nhà bầu không khí ấm cúng hạnh phúc để trong những giờ hiếm hoi khi tôi ở nhà, giúp tôi cảm thấy sung sướng và yên tâm làm việc. Lý Liên trở về Trung Quốc khi còn trẻ, hiền lành và đầy nghị lực. Trong máu vợ tôi sôi lên nhiệt huyết, hăng hái. Nhưng năm tháng đã làm vợ tôi thay đổi đến mức tôi cảm thấy đau lòng và thất vọng. Sự sợ hãi vì tôi, không công việc ổn định trong cuộc sống mới ở Trung Quốc, khiến vợ tôi trầm cảm.
– Chúng ta sống như chiếc bè phiêu dạt. Có gia đình cũng như không.
Vợ tôi than thở trước khi nhắm mắt.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [8]
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Sau đêm đầu tiên nói chuyện với Mao, sáng hôm sau ngày lễ 1-5, hơn 9 giờ tôi phải có mặt ở đội bảo vệ tư dinh Mao và mang theo túi thuốc cấp cứu. Uông Đông Hưng đã có mặt ở đó, sau đó Mao chủ tịch xuất hiện. Ông mặc bộ quần áo dạ kiểu Tôn Trung Sơn, chân đi giày da nâu. Ông vui mừng phấn chấn vì buổi lễ sắp khai mạc, nồng nhiệt đón chào chúng tôi. Lát sau Bộ trưởng công an La Thuỵ Khanh đến giơ tay chào Mao theo lối quân đội. Mao ra hiệu chúng tôi ngồi vào xe limousine và tiến về quảng trường Thiên An Môn.
Từ năm 1949, sau khi trở về Trung Quốc những ngày lễ 1-5 và quốc khánh 1-10 tôi thường xuyên đi dự ở quảng trường Thiên An Môn, đó là những ngày đầy tự hào, sung sướng. Dưới lễ đài, quần chúng hân hoan với rừng cờ, biểu ngữ, từng đoàn diễu hành, đoàn quân nhạc đi qua lễ đài. Ngắm nhìn các nhà lãnh đạo đảng, nhà nước đứng trên lễ đài vẫy tay chào đón nhân dân, những ngày lễ khơi dậy trong tôi lòng tự hào dân tộc. Nhưng hôm nay không còn đứng dưới quảng trường, tôi được đứng trên lễ đài cùng với những nhà lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước chào đón, ngắm nhìn quần chúng hân hoan dưới quảng trường Thiên An Môn.
Tôi ngồi xe đầu tiên cùng La Thuỵ Khanh. Khi xe đến phía sau cổng Thiên An Môn, La Thuỵ Khanh xuống khỏi xe, chạy lại chiếc xe Mao ngồi, kính cẩn mở cửa, nâng tay lãnh tụ. Mao nhìn La với vẻ không hài lòng, tự xuống xe, cáu kỉnh nói:
– Đừng vô ý như thế, tôi không cần giúp, người cần giúp là phó chủ tịch Tống Khánh Linh.
Ngày lễ quốc tế Lao động 1-5, chính phủ cộng sản bề ngoài vẫn duy trì Mặt trận thống nhất liên hiệp giữa những người cộng sản với phong trào dân chủ và các đảng phái không cộng sản. Người đại diện và phát ngôn viên của chính sách đại đoàn kết thống nhất dân tộc là bà Tống Khánh Linh, phu nhân của cố tổng thống Tôn Trung Sơn. La Thuỵ Khanh chạy sang, nhưng bà đã ra khỏi xe.
Tống Khánh Linh khoảng sáu mươi tuổi, trông còn trẻ đẹp và duyên dáng, đây là lần đầu tiên tôi thấy bà trên lễ đài. Bà toát lên vẻ đôn hậu, dịu dàng, thân mật bắt tay từng người.
Một số người khác được mệnh danh nhân sĩ dân chủ lại hoàn toàn trái ngược, tất cả tỏ vẻ cao ngạo, lạnh nhạt chào mọi người, uể oải, bước từng bước chậm chạp như đã già cả, yếu sức. Mao chân thành chào họ, sau đó quay về phía Tống Khánh Linh, lịch thiệp nhường bà dẫn đầu lên phòng khách trên cổng Thiên Bình, giúp Tống Khánh Linh bước lên các bậc thềm đá thô nháp.
Khi chúng tôi lên đến trên, một tràng vỗ tay vang lên đón khách của nhiều người đã có mặt. Tôi không ngờ phía tiền sảnh và phòng tiếp khách rộng lớn đến thế, có nhiều ghế bành êm ái xếp theo hình giẻ quạt và bày rất nhiều thức ăn, đồ uống, hoa quả. Vì thế các nhà lãnh tụ tối cao có thể ngồi ở đây 5 đến 6 giờ liền để xem đoàn diễu hành nhưng không thấy thể hiện mệt mỏi.
Mao bắt tay tất cả khách mời, sau đó tiến về ban công của lễ đài nhìn xuống quảng trường. Ban công được trang hoàng bằng biểu ngữ, cờ đỏ rực rỡ, được ngăn với tiền sảnh phòng đón tiếp bằng một tấm rèm lớn, người ngoài không thể nhìn thấy bên trong. Tôi theo Mao lên lễ đài, nhìn mọi người ngưỡng mộ chào mừng, ông giơ tay vẫy chào, chậm rãi, nghiêm trang, đi dọc lễ đài, gửi lời chào tới tất cả mọi người có mặt ở dưới quảng trường Thiên An Môn rộng lớn. Vẻ mặt của lãnh tụ bình thản, nhưng tôi biết ông rất tự hào, tràn trề niềm vui. Tôi cũng cảm thấy hoàn toàn như thế. Quảng trường giống như một biển người dập rờn, nhấp nhô nhiều màu sắc. Trong đó có thể phân biệt được, áo trắng của hàng ngàn sinh viên, khăn quàng đỏ của thiếu nhi tiền phong, biểu ngữ đỏ của đại diện giai cấp công nhân và trí thức. Khi Mao xuất hiện trên lễ đài, đám đông ồn ào chuyển động, cờ hoa vẫy liên tục, khẩu hiệu hô vang ca ngợi đảng cộng sản, Trung Hoa mới và Mao chủ tịch.
Thị trưởng Bắc Kinh Bành Chân khai khai mạc buổi lễ. Sát dưới lễ đài, quân nhạc cử quốc ca. Đại bác bắn 21 phát chào mừng. Tiếp theo quân nhạc tiếp tục hoà tấu bản “Đông phương hồng”, “Quốc tế ca”, cuối cùng, bài “Hành quân ca”.
Buổi lễ bắt đầu.
Đầu tiên diễu binh. Các đại diện cho hải, lục, không quân trang phục chỉnh tề diễu qua quảng trường, rồi xe tăng và pháo binh. Quân nhạc vang những khúc quân hành, Mao chủ tịch và các vị lãnh đạo đứng trên lễ đài xem đoàn quân diễu binh. Sau đó, cuộc tuần hành trên Thiên An Môn. Dường như làn sóng người khổng lồ phủ lên là đội ngũ những người lao động, công nhân và sinh viên. Hàng đoàn người cờ hoa, biểu ngữ sặc sỡ. Quần chúng lao động chào mừng những người lãnh đạo đất nước đứng đầu với Mao.
Diễu binh và tuần hành kéo dài vài giờ, nhưng Mao rất xúc động gần như không rời lễ đài, chỉ thỉnh thoảng vào phòng uống nước cho đỡ khát.
Lúc gần kết thúc, hàng nghìn thiếu nhi sơ mi trắng, khăn quàng đỏ lên lễ đài. Chẳng có gì ngạc nhiên khi những người tuần hành tỏ lòng ngưỡng mộ Mao. Hình như người ta đã kiểm tra cẩn thận từng người.
Mao nói:
– Tham dự buổi lễ, đồng chí nhận thêm bài học tuyệt vời chủ nghĩa yêu nước, càng yêu tổ quốc mình hơn.
Ông nói đúng quá đi rồi. Trong ngày 1-5-1955 lần đầu tiên tôi đứng trên lễ đài cạnh lãnh tụ, nhìn xuống biển người mà lòng cảm thấy niềm tự hào lớn lao về tổ quốc vĩ đại, sẵn sàng cống hiến hết sức mình.
Cuộc tuần hành kết thúc khoảng 4 giờ rưỡi chiều, chúng tôi về Trung Nam Hải. Mao nghỉ ở phòng đọc Hương Cúc, La Thuỵ Khanh gặp Mao báo cáo, 7 giờ tối mọi người trở lại quảng trường Thiên An Môn dự lễ bắn pháo hoa.
La Thuỵ Khanh nói với tôi:
– Đồng chí rất mệt phải không, nhưng tôi sẽ chờ tất cả các đồng chí tại đây lúc 6h30. Đừng chậm đấy!
Tôi quay về nhà khu phía Nam của Trung Nam Hải. Vợ và con trong lúc chờ, chơi cờ tướng. Hôm ấy tôi đã hứa với gia đình đi công viên, sau đó rẽ vào thăm mẹ dự bữa cơm liên hoan, nhưng tất cả kế hoạch phải bỏ.
– Em biết nói với mẹ gì đây? – Lý Liên than thở.
Tôi bảo nhà tôi và cháu đến chỗ mẹ trước, hứa rằng xong việc, sẽ đến đó luôn, nhưng nếu không có mặt trước lúc 9 giờ tối, hai mẹ con cứ về nhà. Sau đó tôi quay về phòng làm việc với Nhóm Một, tranh thủ ăn bát mỳ.
Mọi người đã tới. Các thư ký và bảo vệ than phiền chưa kịp ăn tối nữa. Uông Đông Hưng an ủi họ:
– Đừng lo, ở Thiên An Môn thừa đồ ăn cho tất cả mọi người. Chỉ đừng có tụ tập cả đống quanh bàn, để người ta khỏi xì xào, nhân viên của Mao được đối xử đặc biệt, ăn món ăn dành cho các lãnh tụ.
Đến 7 giờ, nhưng Mao vẫn chưa thấy đâu. Cuối cùng Uông Đông Hưng giải thích:
– Vương Gấu Lớn đang cắt tóc cho Chủ tịch.
Đến 7 rưỡi, La Thuỵ Khanh nhắc Uông Đông Hưng nói cho Mao biết đã đến giờ lên đường. Uông Đông Hưng biến vào phòng Mao. Tôi theo gót ông tới đó xem sao.
Mao ngồi ghế mây trong nhà ăn, khăn trắng quấn từ cổ trở xuống, tay cầm cuốn sách cũ mỏng, được đóng gáy bằng dây, đang mải mê đọc, lúc xoay bên người bên này, lúc bên kia chẳng hề để ý đến Vương Gấu Lớn, người phó cạo cao lớn đang xoay người theo Mao để cắt tóc. Người Vương đầm đìa mồ hôi.
Vương Gấu Lớn – cắt tóc cho Mao từ cuối những năm 30. Tên ông Vương Hoá, ông ngoài 60 tuổi. Khi đảng năm 1942 tiến hành chiến dịch thanh lọc hàng ngũ, Vương bị buộc tội thiếu lòng tin vào đảng. Vụ việc này được đem ra mổ xẻ, người ta tuyên bố, thợ cạo Vương Hoá tự thú nằm trong số những người mưu giết Mao bằng dao cạo.
Sau này Mao kể, bảo tôi:
– Tôi không tin về lời tự thú của Vương Gấu Lớn, chả lẽ tay phó cạo này cắt tóc, cạo râu cho mình từng ấy năm thậm chí chẳng có lần nào làm xước mặt bao giờ, nếu như muốn, anh ta giết tôi từ lâu. Tôi cho gọi Vương Gấu Lớn đến. Anh ta quỳ xuống, nước mắt đầm đìa thú tội, có ý định giết lãnh tụ.
Mao hỏi:
– Vì sao anh vẫn chưa giết tôi?
Vương trả lời rằng còn chờ quân Quốc dân đảng kéo tới. Mao nói:
– Nhưng nếu họ tới được thì họ giết tôi, cần gì đến anh!
Mao bắt Vương phải kể hết sự thật và ông phó cạo nói, trong khi hỏi cung người cán bộ điều tra không cho ông ta ngủ mấy hôm liền, bắt ông nhận tội chống Mao mới cho phép ngủ. Mao nói:
– Khi phát động chiến dịch, tôi đã nhấn mạnh, cần làm tìm rõ sự thật, chứ không được gán hay ép tội cho người lương thiện.
Vương Gấu Lớn, người thợ cạo to lớn trở thành người trung thành tuyệt đối của Chủ tịch. Thật kỳ lạ, phần đông những người phục vụ họ rất tin cẩn, tận tuỵ, trung thành tuyệt đối với Mao thời ấy, chính họ đã được Chủ tịch cứu sống khỏi sự trừng phạt.
La Thuỵ Khanh đi đến thì thào với Vương Gấu Lớn:
– Nhanh tay lên một tí được không?
Uông Đông Hưng cũng thì thào:
– Không được, nhỡ vội, vô tình gây tai nạn, có phải rách việc ra không.
Tóc cắt xong, Vương Gấu Lớn bắt đầu cạo râu. Công việc này té ra lại phức tạp hơn. Mao vẫn mải đọc, cằm của ông hạ thấp, má sát tập sách Vương buộc phải quỳ xuống để đưa dao cạo vào đúng chỗ, thời gian cứ trôi dần.
Cuối cùng mọi việc kết thúc, bầu đoàn kéo tới quảng trường. Tôi ngồi cùng xe với Uông Đông Hưng và La Thuỵ Khanh. Họ thảo luận vấn đề cắt tóc và cạo râu của Chủ tịch. La Thuỵ Khanh đề nghị mang một chiếc ghế cắt tóc từ khách sạn Bắc Kinh đặt vào phòng riêng cho Mao. Uông Đông Hưng nói, đã gợi ý từ lâu, nhưng Mao từ chối. Uông nói thêm:
– Chủ tịch thích ngồi như thế.
La Thuỵ Khanh tiếp tục:
– Nhưng Vương Gấu Lớn già quá rồi, tay thì run run, cái gì xảy ra nếu ông ta làm xước mặt Mao. Lúc ấy hơi ghê đấy!
Uông nói:
– Nhưng tìm được người thay Vương cũng chẳng đơn giản. Chủ tịch không muốn thay. Ông sợ, không thể tin một người ở đâu lạ hoắc, cứ quanh quẩn bên cạnh với con dao sắc trong tay.
La Thuỵ Khanh im. Tôi nghĩ đáng lẽ ông ta phải hiểu chuyện này hơn ai hết, phải hiểu tính đa nghi của Chủ tịch. La Thuỵ Khanh rất trung thành nhưng không thể và mãi mãi không hiểu Chủ tịch. Nghe hai người trao đổi, đột nhiên sợ rằng một ngày nào đó, khi tôi đến chữa bệnh đem theo bơm tiêm và tiêm vào người Mao. Chủ tịch cho phép tôi làm điều này chỉ khi nào ông tin tôi tuyệt đối. Tôi cần phải chiếm được niềm tin, nếu không chiếm được lòng tin, tôi không thể làm bác sĩ riêng của lãnh tụ trong tương lai. Tôi cần phải gần gũi Chủ tịch hơn nữa, để ông hiểu, phải cố gắng trở thành người bạn của ông.
Ngay lúc Mao lên ban công, pháo hoa bắt đầu bắn lên. Tất cả các toà nhà lớn bừng sáng bởi hàng nghìn bóng đèn nối liền đường dây điện các toà nhà với nhau. Phía dưới là quảng trường Thiên An Môn rộng lớn, hàng trăm nghìn người vui sướng, hạnh phúc, hớn hở quây quần nhảy múa.
Trong khi xem pháo hoa, Chu Ân Lai đến chỗ Mao đề nghị lãnh tụ chụp ảnh kỷ niệm với khách nước ngoài được mời đến dự lễ. Trong số khách có cả Hồ Chí Minh, lãnh tụ của nhân dân Việt nam.
Ông Hồ năm ấy 65 tuổi, tuy gầy gò nhưng đầy sinh lực. Ông nổi bật ở bộ râu hoa râm, thưa và dài, ăn vận như một nông dân, chân đi đôi săng-đan. Một vệ sĩ nói với tôi, ông từng sống ở Trung Quốc nhiều năm và rất thích các đồ Trung Quốc từ thức ăn, quần áo đến nhà cửa, phương tiện đi lại. Ông nói tiếng Trung rất thạo, do nhiều năm sống ở Vân Nam và Quảng Đông, hai tỉnh giáp giới Việt nam. Người ta giới thiệu tôi với ông, tôi rất mến mộ ông. Mao, vị tư lệnh đầy uy quyền, còn Hồ Chí Minh tính tình chan hoà, cởi mở, dễ gần không làm người khác khiếp sợ.
Pháo hoa kết thúc lúc 10 giờ đêm. Tôi không biết phải chi phí hết bao nhiêu tiền cho vui chơi và phục vụ khách khứa, nhưng người ta kể, chỉ riêng tiền pháo hoa cũng hết nửa triệu nhân dân tệ. Năm ấy lương công nhân trung bình khoảng 30 nhân dân tệ một tháng. Về sau tôi coi tất cả những buổi lễ được tổ chức đều quá lãng phí và tội lỗi. Đặc biệt, những ngày lễ tổ chức trong thời kỳ “ba năm đói kém, mất mùa” hàng triệu người chết đói. Từ đó trở đi ngày lễ với tôi cũng mất ý nghĩa.
Đối với Mao cũng vậy, ông thấy không cần thiết tổ chức lễ hội. Một năm hai ngày, Quốc khánh và Quốc tế lao động đã làm ông kiệt sức. Vì thế Mao chỉ đến đúng giờ khai mạc, hơn nữa ông thường mất ngủ vào đêm trước buổi lễ vì quá lo lắng, càng làm bệnh mất ngủ của ông thêm tồi tệ. Trước sự quá hân hoan, hăng hái của quần chúng nhân dân làm ông vui vẻ đã tiếp sức mạnh giúp ông dự hết buổi. Nhưng thường sau những ngày ấy ông bị cảm, đôi khi chuyển sang viêm phế quản, ốm đến tuần lễ. Khi ông có tuổi, bệnh viêm phế quản thường xuyên bội nhiễm biến thành viêm phổi.
Mao rất ghét phải đóng bộ để dự lễ. Một trong những lý do ông từ chức chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa vì ông không muốn có mặt trên lễ đài những ngày lễ 1-5 và ngày Quốc khánh. Ông muốn bỏ bớt những buổi lễ mệt nhọc và các cuộc gặp gỡ ngoại giao. Giữa thập niên 1960, ông yêu cầu ngày 1-5 cứ 5 năm mới tổ chức một lần để giảm bớt lãng phí thời gian và tiền bạc của nhân dân. Trong những năm cuối Cách mạng văn hoá, lúc cao trào đấu tranh giành quyền lực tăng cao, Mao xuất hiện trên quảng trường Thiên An Môn tám lần cả thảy. Ông chào mừng Hồng vệ binh từ khắp các ngõ ngách Trung Quốc, thổi vào họ những luồng khí lực kích thích mới. Đương nhiên, phí tổn cho cuộc biểu dương lực lượng vượt quá tiền chi cho buổi lễ do nhà nước tổ chức. Nhưng để giải quyết vấn đề quyền lực, Mao không ngần ngại chi phí. Sau âm mưu bất thành, Lâm Bưu bay sang Liên Xô tháng 9-1971, Mao cũng thôi tham dự các buổi lễ.
Tuy nhiên ngày 1-5-1955 Mao vẫn còn đang vui mừng thích thú, còn tôi hoan hỉ bên cạnh ông, chẳng quan tâm chuyện tốn kém tiền bạc.
Tôi đợi đến cuối buổi lễ để được quay về xum họp gia đình. Nhưng lại có vấn đề nảy sinh. Tôi ngạc nhiên khi biết Mao rất thích khiêu vũ một cách cuồng nhiệt. Sau cách mạng hơn chục năm, khiêu vũ bị cấm, các vũ trường bị đóng cửa, coi như đó là lối sống tư sản. Tuy nhiên đằng sau bức tường Trung Nam Hải, Mao hàng tuần đều bố trí khiêu vũ. Buổi khiêu vũ thường tổ chức ở phòng Liên Xuân, phía bắc tư dinh Mao. Ngay tối hôm ấy, sau khi bắn pháo hoa, Mao quyết định khiêu vũ và tôi, bác sĩ riêng phải ở lại với ông.
Tôi theo Mao vào đại sảnh. Tức khắc vây quanh Mao là những cô gái trẻ của nhóm khiêu vũ trong bộ phận bảo vệ Mao. Họ tán tỉnh ông và mời ông nhảy. Ban kèn hơi chơi những bài nhạc nhảy điệu foxtrots, van-xơ (waltzes) và tango, còn Mao nhảy với hết cô này đến cô khác. Ông nhảy chưa đẹp, nhưng đúng nhịp, khá tao nhã. Sau mỗi lần nhảy, ông thường nói chuyện với bạn nhảy đôi lời khoảng 5 phút sau đó đổi bạn nhảy. Những người còn lại cũng theo gương Mao vào nhảy. Giang Thanh đêm ấy vắng mặt. Đêm hôm trước bà bay đi Hàng Châu, tuy nhiên Chu Đức và Lưu Thiếu Kỳ có tham dự. Sàn nhảy có một chiếc bàn, Mao và hai lãnh đạo ngồi xung quanh. Hàng trăm người phục vụ và ca sĩ của ban nhạc ngồi ở ghế đặt quanh tường phòng nhảy. Đàn ông ít hơn phụ nữ, vì thế các cô gái xinh đẹp mời tôi nhảy.
Dần dần người ta thay các điệu nhạc phương tây bằng nhạc kinh kịch Trung Quốc. Kinh kịch, môn nghệ thuật cổ điển truyền thống, thường là một chuyện tình sướt mướt, mưu mô, xảo quyệt, thậm chí đôi khi thiếu đứng đắn. Bản thân nhạc Trung Quốc người phương tây không thể hiểu được, chỉ toàn những tiếng kèn nghe chói tai, khác hẳn tiết tấu nhạc khiêu vũ Tây phương. Tôi ngạc nhiên đêm đó lại vang lên bản kinh kịch của Thục Sơn Khải Kiệt, kể về tình yêu của một cô gái điếm với chàng sinh viên trẻ. Tôi còn ngạc nhiên hơn nữa mọi người chiều theo ý Chủ tịch ra sàn nhảy, nhạc kinh kịch nhưng khiêu vũ lối phương tây.
Khuya rồi, tưởng nhiệm vụ đã xong, tôi gặp Lý Ẩm Kiều báo cáo về nhà, nhưng anh ta nói:
– Đồng chí cần ở lại. Chủ tịch đang vui nhảy, nhưng vẫn quan sát tất cả chúng ta đấy. Nếu bây giờ đồng chí về, Chủ tịch đánh giá giữa chúng ta có cái gì trục trặc, tôi sẽ bị khiển trách.
Tôi ngạc nhiên:
– Thế là thế nào? Giữa chúng ta có mâu thuẫn gì đâu.
Lý trả lời:
– Đúng thế, nhưng đồng chí chưa hiểu Chủ tịch. Hãy nghe tôi, sau này sẽ hiểu.
Lý hoàn toàn đúng. Thậm chí khi Mao nghỉ ngơi, ông ta cũng biết người của ông ở đâu, bắt tất cả mọi người phải ở bên cạnh ông. Một năm sau, ở Hàng Châu, tôi mệt đến mức quyết định không đến khiêu vũ. Tôi quay về vào buồng mình, nghỉ một lát, nhưng tôi nghe thấy tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa, tay vệ sĩ của Mao đứng ngay ngưỡng cửa:
– Có thật là người ta không báo cho đồng chí về buổi dạ hội không?
Anh ta nói thêm:
– Đồng chí nên đi ngay!
Sau này vào năm 1958 ở Hồ Nam, tôi quyết định phớt lờ cuộc vui ban đêm do trời mưa to. Tuy nhiên sau một giờ, tay phụ trách công an tỉnh Hồ Nam xuất hiện, nói, Mao chủ tịch trao cho anh nhiệm vụ đón tôi. Sau đấy, tôi hiểu, mình phải luôn có mặt bên Mao.
Phải vài năm sau tôi mới hiểu, Mao thu xếp các buổi khiêu vũ ban tối để làm gì. Các nhóm khiêu vũ thuộc bộ phận bảo vệ do Uông Đông Hưng xây dựng. Té ra, đội ngũ các cô gái nhẩy ấy không chỉ tiêu khiển các tay vệ sĩ và lính tráng, còn cho cả lãnh tụ. Trong nhóm có nhiều cô gái nhảy duyên dáng, thành thạo được trải qua thử thách lòng trung thành về mặt chính trị.
Năm 1961, người ta mang một trong những chiếc giường của lãnh tụ sang buồng bên cạnh phòng nhảy. Trong thời gian khiêu vũ, Mao không ít lần vào đó thư giãn cùng với các bạn nhảy xinh đẹp của mình.
Phó Chủ tịch Uỷ ban quân sự Bành Đức Hoài hai lần phê bình Mao về chuyện phiêu lưu tình ái với gái nhảy trong các cuộc họp Bộ chính trị. Bành, một Uỷ viên Bộ chính trị trung thực, thẳng thắn và người duy nhất thường phê bình Mao. Bành cũng tuyên bố, Mao sống như vua và chứa chấp khoảng ba nghìn tì thiếp. Ngoài ra, Bành buộc tội La Thuỵ Khanh và Uông Đông Hưng đã thoả mãn mọi ý thích của lãnh tụ. Kết quả nhóm gái nhảy bị giải tán, nhưng Mao chẳng thay đổi gì, tiếp tục kéo các cô gái trẻ vào giường mình. Ông tìm những cô gái này chủ yếu ở các đoàn văn công thuộc Giải phóng quân Trung Quốc, trong quân khu Bắc Kinh, trong các đơn vị không quân, đường sắt, pháo binh, cuối cùng là ở các tỉnh Triết Giang, Giang Tây và Hà Bắc. Nhưng lãnh tụ cũng chẳng từ cả các nữ nhân viên làm việc phục vụ Ban chấp hành trung ương.
Nhưng buổi khiêu vũ lần đầu đêm 1-5-1955 tôi vẫn còn chưa biết điều đó. Tôi rất muốn về nhà, nhưng phải chờ đến cuối buổi. Tôi khước từ buổi dạ tiệc của Uông Đông Hưng, ấy thế mãi đến gần hai giờ sáng tôi mới được về với vợ con.
Lý Liên đưa tôi bát cơm rang, rất thất vọng vì ngày vui của gia đình vắng tôi. Mẹ tôi chuẩn bị bữa cỗ ngon lành. Cả nhà chờ tôi đến 10 giờ tối mới ngồi vào bàn. Thằng con trai nhỏ của tôi mệt đến nỗi ngủ lại nhà bà nội.
Sau vài tuần kể từ buổi gặp Mao hôm đầu, cuộc sống của tôi đã ra khỏi tầm tay. Chế độ sinh hoạt hàng ngày đảo lộn, Lý Liên nhận xét:
– Anh đã nhiễm thói quen của Mao chủ tịch!
Từ lúc nhận việc bác sĩ riêng của lãnh tụ, cuộc sống của tôi và gia đình tôi trong suốt hai chục năm liền luôn luôn trong tình trạng bất ổn, khác trước hoàn toàn. Tôi rất yêu Lý Liên, nhưng hiếm khi có mặt ở nhà. Các buổi giỗ chạp ở nhà mẹ thường vắng mặt tôi. Trong 22 năm làm việc với Mao tôi chỉ có một tuần nghỉ phép.
Theo lịch công tác, Mao thường yêu cầu tôi phải có mặt vào sáng sớm, về nhà quá nửa đêm, Lý Liên vẫn thức chờ tôi và rất lo lắng.
Mao thường xuyên đi, tôi phải tháp tùng ông, đôi khi vắng nhà vài tháng, có một lần gia đình không nhìn thấy tôi cả năm. Lý Liên luôn trong tình trạng lo lắng cho tôi nên ăn ngủ kém. Thằng con thứ hai của tôi, Erchong sinh năm 1956, ngày sinh nó tôi cũng không có mặt ở nhà.
Không chỉ giữa tôi và Lý Liên thường xuyên xa cách, tôi còn bị cuốn vào vòng xoáy của Bắc Kinh, nhưng Lý Liên vẫn không được vào đảng. Người ta không thể tin về chính trị vợ tôi do thành phần xuất thân, do đã từng ở làm sở của Mỹ và Anh. Chỉ có chức vụ của tôi mới bảo vệ được Lý Liên trong những cuộc bão táp chính trị, gây ra bao cái chết của những người vô tội.
Trong những năm ấy, vợ tôi hy sinh tất cả cho gia đình, nuôi dạy con cái, chăm sóc mẹ già. Lý Liên cố gắng xây dựng trong nhà bầu không khí ấm cúng hạnh phúc để trong những giờ hiếm hoi khi tôi ở nhà, giúp tôi cảm thấy sung sướng và yên tâm làm việc. Lý Liên trở về Trung Quốc khi còn trẻ, hiền lành và đầy nghị lực. Trong máu vợ tôi sôi lên nhiệt huyết, hăng hái. Nhưng năm tháng đã làm vợ tôi thay đổi đến mức tôi cảm thấy đau lòng và thất vọng. Sự sợ hãi vì tôi, không công việc ổn định trong cuộc sống mới ở Trung Quốc, khiến vợ tôi trầm cảm.
– Chúng ta sống như chiếc bè phiêu dạt. Có gia đình cũng như không.
Vợ tôi than thở trước khi nhắm mắt.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [8]
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 8
Posted: 20/06/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Giữa tháng 7-1955, khoảng sáu tuần sau khi được đứng với Mao Chủ tịch trên lể đài Thiên An Môn, bất ngờ người ta gọi tôi vào Bắc Đới Hà, khu điều dưỡng ở vịnh Bắc Hải Văn. Lãnh đạo cao cấp đảng thường đến an dưỡng tránh cơn nóng ở Bắc Kinh. Mao cùng đoàn tuỳ tùng vừa rời đây vài ngày trước. Đi cùng ông có bác sĩ Chu Thế Đào, người trước khi tôi thay. Khi ấy tôi vẫn còn là giám đốc bệnh viện Trung Nam Hải và chưa có dịp nào đi cùng với Mao. Cuộc gọi bất ngờ này nghĩa là có một cái gì đó thật nghiêm trọng.
Tôi ngồi trên đoàn tàu chuyên dụng chở tài liệu cơ quan đi và về hàng ngày giữa Bắc Kinh và Bắc Đới Hà, ngay trong hôm ấy tôi đã đến nơi.
Tôi được biết, Mao đêm qua ngủ không ngon giấc, nhưng lại dạy sớm để ra biển bơi. Các vệ sĩ can ông đừng làm cuộc phiêu lưu dại dột này. Đêm qua Bắc Đới Hà có giông, sáng nay gió vẫn mạnh, biển động. Các vệ sĩ sợ Mao chết đuối vỉ sóng lớn. Nhưng Mao cố tình ra bãi bể, các vệ sĩ trẻ theo sát ông.
Vệ sĩ cấp báo Uông Đông Hưng, đích thân Uông Đông Hưng ra biển để can Mao. Nhưng Chủ tịch phớt lờ tất cả, nhảy xuống giữa đợt sóng lớn quyết tâm bơi ra biển, phía sau, một đoàn vệ sĩ trai tráng bơi theo.
Uông Đông Hưng lo lắng, nếu xảy ra chuyện không may với Mao, ông phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Ông gọi La Thuỵ Khanh và Chu Ân Lai để trút trách nhiệm tính mạng Mao lên đầu họ. Mao bơi đã khá xa khi hai ông đến. Chu không biết làm thế nào, lập tức thông báo ngay cho cấp trên, Lưu Thiếu Kỳ, nhân vật thứ hai sau Mao và tin rằng Lưu Thiếu Kỳ có thể khuyên Mao không liều mạng nữa. Lưu từ chối can thiệp. Ông là người khôn ngoan, kín đáo và quyết định để Mao muốn làm gì thì làm.
Trên bờ có Giang Thanh và bác sĩ Chu. Sự bình tĩnh của bác sĩ Chu làm bà vợ Mao nổi khùng. Bác sĩ Chu, một người nhút nhát, tuổi chừng 50, hơn tôi đến 20 tuổi.
Giang Thanh to tiếng:
– Chủ tịch đang vật lộn với sóng biển, và nếu cái gì đó xảy ra, đồng chí sẽ làm gì? Đứng nhìn thôi à?
Nhưng bác sĩ Chu thậm chí còn không biết bơi nữa.
Hai người lính giúp bác sĩ Chu xuống chiếc xuồng cứu trợ nhỏ để ông có thể lại gần Mao. Nhưng sóng quá lớn, họ không thể điều khiển được xuồng, không những thế bác sĩ Chu lại say sóng. Khi Mao bắt đầu bơi về bờ, chiếc xuồng của bác sĩ vẫn còn vật lộn, rập rờn trên sóng. Cuối cùng xuồng cũng cập bờ, bác sĩ Chu toàn thân run rẩy, lảo đảo rời xuồng, ngã rụi xuống bãi cát, nôn thốc nôn tháo. Giang Thanh nổi điên lên. Chính vì lẽ đó bà ta cho gọi tôi.
Mao nổi cáu với Uông Đông Hưng, thét lên:
– Đồ vô tích sự. Anh biết tôi có thể bơi trên biển trong thời tiết như thế này chứ, không những cản tôi, còn gọi các đồng chí lãnh đạo khác đến đây can thiệp!
Uông Đông Hưng và La Thuỵ Khanh luôn luôn được Mao che chở. Họ phục vụ Mao một cách tin cẩn và trung thành, nhưng lại nằm trong hoàn cảnh rất phức tạp. Họ chịu trách nhiệm sinh mạng của Chủ tịch. Nếu bất cứ chuyện gì xảy ra, người ta không còn nhớ đến sự trung thành hoặc đã hết sức cố gắng ngăn cản lãnh tụ, nhưng không được. Họ không những mất chức, còn mất đầu như chơi.
Những việc làm của họ, Mao nhìn nhận như là chuyện xâm phạm vào quyền tự do của ông cũng như các Uỷ viên Bộ chính trị khác muốn kiềm chế ông. Không ai được ngăn cản ý thích và ông sẽ phê phán kịch liệt những ai có ý định này. Vụ Bắc Đới Hà ảnh hưởng mạnh tới mối quan hệ của Mao đối với Uông Đông Hưng và La Thuỵ Khanh. Sự khó chịu ấy Mao vẫn không quên, sau này ông thẳng tay trừng trị.
Sự việc trên liên quan đến tôi. Cuối vụ hè năm ấy, bác sĩ Chu lặng lẽ ra khỏi Trung Nam Hải sang phụ trách Bệnh viện Bắc Kinh, còn tôi chính thức trở thành bác sĩ riêng của Mao. Công việc của tôi không chỉ đơn thuần phòng và điều trị bệnh, còn phải nâng cao trạng thái sức khoẻ của Mao. Trong bất kỳ sự yếu đau nào của Chủ tịch hoặc chỉ cần mủi tiêm đau thậm chí cảm thấy trong người khó ở tôi là người có lỗi. Kể từ đây không những ngoài công việc, tính mạng của tôi còn phụ thuộc vào điều chăm lo sức khoẻ Mao. Để làm được điều này, tôi cần luôn luôn ở bên cạnh theo dõi cặn kẽ sự thay đổi về sức khỏe của Chủ tịch. Sau khi Chủ tịch từ Bắc Đới Hà về, hàng ngày tôi phải gặp ông, lấy lý do kèm ông học Anh ngữ. Tôi thường xuyên tháp tùng Chủ tịch trong các chuyến công vụ ở Bắc Kinh và cả các tỉnh.
Tôi cần nắm vững tổng thể về sức khỏe hiện tại và những thay đổi trong tương lai khi tuổi ông tăng lên. Trong hồ sơ sức khỏe, tôi thấy số lượng bạch cầu của ông cao, trên 10 ngàn, so với con số bình thường từ 6 đến 8 ngàn. Như vậy Chủ tịch bị viêm nhiễm nhẹ cần phải tìm ra nguyên nhân vì sao.
Tôi miễn cưỡng phải kể cho Mao điều này. Ông tự hào về sức khoẻ và thể lực, ghét ốm đau bệnh tật, tôi biết ông không ưa các bác sĩ. Năm 1951 một đội bác sĩ giỏi Liên Xô đến khám ông. Do bị thăm khám, xét nghiệm quá nhiều, Mao mất hết kiên nhẫn, nổi khùng và bỏ dở việc khám.
Tăng cường khả năng tiếng Anh, tôi và Chủ tịch đọc tác phẩm “Chủ nghĩa xã hội không tưởng và khoa học” của Engels, lợi dụng bàn tới chủ đề này, tôi giải thích Mao rằng bạch cầu của ông tăng cao, có nghĩa bị viêm nhiễm nhẹ nào đấy trong cơ thể.
– Nhưng tại sao mới được cơ chứ?
Mao muốn biết nguyên nhân, nhưng ông lại coi thường y học hiện đại.
Tôi bảo:
– Chẳng có gì nghiêm trọng đâu. Tôi chỉ muốn xác định ổ viêm nhiễm.
Sau đó tôi nói rằng tôi sẽ kiểm tra toàn diện kể cả tai mũi họng, răng hàm mặt, làm các xét nghiệm sinh hoá nhanh gọn và hứa không quá nửa giờ. Ông đồng ý.
Mũi và các xoang mũi bình thường. Tôi xem qua miệng. Mao chưa bao giờ đánh răng. Theo thói quen của nông dân miền nam Trung Quốc, ông chỉ làm sạch răng bằng chè, mỗi buổi sáng nhai một nắm lá chè và xúc miệng bằng nước. Mao khăng khăng từ chối đi khám chuyên khoa răng hàm mặt. Tướng Bành Đức Hoài, người hay nói thẳng nói thật, có lần ông khuyên tôi nên chú ý đến vấn đề vệ sinh răng miệng của Mao chủ tịch. Ông nói, “Răng của Chủ tịch dường như được sơn xanh”. Khám miệng cho Chủ tịch, ngà răng ông phủ một lớp cao màu xanh lá cây, răng hàm rụng vài cái, chạm nhẹ vào lợi, nước màu vàng rỉ ra, ông bị nha chu viêm. Thật lạ, Mao chưa bao giờ kêu đau răng, dù rằng bệnh nha chu viêm gây rất khó chịu và đau đớn. Tôi cảm thấy hình như ông vui lòng chịu đựng đau đớn hơn gọi thày thuốc mà ông vốn chẳng ưa gì.
– Đồng chí có thể chữa cho tôi được chứ?
Mao muốn biết rõ hơn nên yêu cầu tôi nói rõ. Tôi giải thích, nha khoa không thuộc lĩnh vực của tôi, tôi khuyên ông nên khám răng hàm mặt.
Mao mỉm cười:
– Khổng Tử nói: “Biết cái mình biết, biết cái mà mình chưa biết – nghĩa là biết”. Như vậy xem ra đồng chí không muốn biết cái mình không biết có phải không?
Sau đó tôi khám bộ sinh dục. Bao quy đầu hơi bị hẹp, tụt ra khó co lại, tôi nghi ngờ bị viêm nhiễm. Từ khi chuyển vào Trung Nam Hải, Mao không tắm nữa, cho rằng mất thời gian. Các vệ sĩ thường dùng khăn bông tẩm nước nóng kỳ cọ thân thể cho ông, còn chính Mao lúc ấy đọc tài liệu hoặc kể chuyện vui.
Tôi phát hiện kích thước tinh hoàn bên trái nhỏ hơn bình thường, còn tinh hoàn bên phải không nằm ở bìu dái mà nằm trong thể hang. Sự khiếm khuyết tinh hoàn như vậy thường do dị tật bẩm sinh, không ảnh hưởng tới chức năng sinh dục, tuy nhiên dần dần có thể dẫn đến ung thư tinh hoàn. Tôi phải tiếp tục theo dõi tới sự bất bình thường này.
Để xác định vùng viêm nhiễm, cần phải xét nghiệm tinh dịch. Bộ phận sinh dục của Mao nhỏ và mềm. Để làm điều này tôi phải kích thích xoa nắn lấy tinh dịch đem về phòng xét nghiệm.
Vài ngày sau, Mao cho phép đưa nha sĩ Trương Quang Hán, của Trường Đại học y khoa Bắc Kinh tới. Tôi biết Trương từ hồi còn học ở Đại học Liên hợp miền Tây Trung Quốc. Ông hơn tôi hai tuổi và học về nha khoa.
Việc khám và chữa răng cho Mao cũng tiến hành ở buồng ăn, nơi Mao cắt tóc, cạo râu trong khu Hương Cúc. Chiếc ghế tựa nhanh chóng được biến thành chiếc ghế chữa răng. Trương chuẩn bị đồ nghề, tinh thần khá căng thẳng, hỏi tôi khám thấy gì, cũng như thái độ tính khí của chính Mao ra sao. Tôi phụ trách công việc này chỉ mới được vài tháng nên chưa biết nhiều về tính khí chủ tịch. Tôi bảo: “Chỉ chắc một điều, Mao chủ tịch thích khám xét nhanh gọn và không chuyện trò dài dòng, lề mề mất thì giờ”. Tôi cũng cho Trương biết, Mao đồng ý cho Trương đến, nghĩa là chủ tịch muốn thực hiện tất cả những gì tôi đề nghị.
Khi chúng tôi vào, Chủ tịch đang đọc sách lịch sử Trung Quốc. Ông thích gặp khách với quyển sách này trong tay. Dù rằng ông đầy quyền lực nhưng đôi khi bị bất an khi gặp người lạ. Nhưng ông biết, những người gặp ông đều bị xúc động khi được nhìn thấy vị thánh sống. Sách làm ông thoải mái, tự tin giúp ông chuyện trò cởi mở hơn. Để bớt vẻ ngăn cách với khách, ông thường pha trò giúp họ tự tin, cởi mở hơn. Trong cuộc gặp lần đầu tiên ông thường chú ý lắng nghe, vui vẻ giúp người đối thoại trở nên thoải mái, thân thiện. Cách này Mao đã giúp khách nói thẳng, nói thật và nhờ thế ông đã khéo léo thu thập nhiều thông tin từ họ.
Thấy chúng tôi, Mao bảo:
– Các đồng chí đến rồi.
Mao đặt sách sang một bên, bảo:
– Đọc sách là một thú vui kỳ diệu.
Ông đứng dậy chìa tay cho bác sĩ Trương bắt. Sau đó mời chúng tôi ngồi. Người ta mang bình trà đến. Một vệ sĩ mang cho Mao một khăn bông tẩm nước nóng, lau mặt và ông lau đi lau lại tay nhiều lần cẩn thận.
Mao hỏi tên của nha sĩ. Trương giải thích rằng tên của ông Trương Quang Hán, “Quang” nghĩa là “Vinh quang”, “Hán” – “dân tộc Hán”. Trung Quốc – một quốc gia đa sắc tộc, nhưng dân tộc Hán đông hơn, khoảng 93% dân số. Khi nói về Trung Quốc, người ta nói đến dân tộc Hán.
– Đồng chí cũng biết làm vinh quang cho dân tộc Hán – Mao nhận xét – Tên của đồng chí rất nổi tiếng trong thời gian chống với Mãn châu, trong những năm tháng cuối cùng của triều đại Nhà Thanh.
Nhà Thanh sụp đổ năm 1911, do dân tộc Mãn Châu, bắc Vạn Lý Trường Thành cai trị. Vì thế ở Trung Quốc luôn luôn có tâm lý chống nhà Thanh rất mạnh, coi đó là triều đại của người thiểu số “ngoại bang phương Bắc”.
Khi Mao hỏi Trương về quê quán, Trương nói, quê ông ở tỉnh Hà Bắc, nghĩa là “phía bắc con sông”, nhưng từ lâu ông sống ở tỉnh Tứ Xuyên, nghĩa là “bốn con sông”.
– Đồng chí biết con sông nào gọi là Hà Bắc? – Mao hỏi.
– Vâng, con sông Vàng, tức Hoàng hà – nha sĩ trả lời.
Trong lịch sử Trung Quốc, con sông Hoàng Hà đổi dòng chảy nhiều lần, người ta đặt tên tỉnh Hà Bắc vì con sông nằm phía nam của tỉnh. Bây giờ Hoàng Hà lại còn đổi dòng, xuống tận phía nam xa xôi, thậm chí chảy qua tỉnh Sơn Đông.
Mao rít hơi thuốc, hỏi:
– Thế còn bốn con sông ở tỉnh Tứ Xuyên là những sông gì?
Trương chẳng cần nghĩ ngợi nói luôn:
– Sông Minh, sông Tô, sông Giang và sông Thanh Hà.
Mao cười và chữa lại:
– Không phải sông Thanh Hà mà là Ô Giang, rộng hơn sông Thanh Hà.
Trương cũng cười và nói:
– Tôi nhớ một bài thơ của Chủ tịch nói về Tứ Xuyên. Trong đó có câu: “Nước sông Thanh bồi đắp đôi bờ trong sương”. Vì thế tôi nghĩ là sông Thanh.
Mao mỉm cười và nói:
– Đấy là thơ.
Sau đó Mao chuyển sang nói chuyện về trường y khoa thuộc Đại học Liên hợp Tây-Trung Quốc, do Hoa Kỳ sáng lập, Mao nói rằng ông rất mừng, có người Trung Quốc học ở trường Mỹ. Mao nói:
– Trong thời gian kháng Nhật, Mỹ đã gửi cố vấn đến Diên An, họ giúp chúng ta rất nhiều. Bác sĩ Mỹ, Gorge Haitem giúp đỡ và đóng góp to lớn vào chiến dịch bài trừ bệnh hoa liễu. Ông cũng là đồng nghiệp của các đồng chí đấy.
Bác sĩ Haitem (1910-1988) cùng với trợ lý của mình là Edgar Snow có mặt ở chiến khu Sa An Tây của đảng cộng sản năm 1936 và sau đó ở lại để chữa cho các chiến sĩ giải phóng quân Trung Quốc.
Mao tiếp tục:
– Mỹ đã đào tạo cho chúng ta không ít chuyên gia.
Nếu người dân thường Trung Quốc nói câu này, người ta cho rằng thiếu suy nghĩ và buộc tội phản cách mạng, bởi vì thời ấy ở Trung Quốc, Mỹ được gọi công khai “kẻ thù số một”, bất kỳ sự tán dương nào về Mỹ đều được xem như phản cách mạng.
– Như thế, tất cả các đồng chí tốt nghiệp Đại học Mỹ – Mao nhận xét – Tôi kính trọng các chuyên gia do Mỹ và Anh đào tạo.
Ông cũng khoe với Trương, tôi đã giúp ông học tiếng Anh và ông bắt đầu đọc nguyên bản tác phẩm của Engels “Chủ nghĩa xã hội từ ảo tưởng đến khoa học. Từ “Shehuizhuyi” trong Anh ngữ là “socialism” có phải thế không?”
– Dạ phải – Bác sĩ Trương đáp lời.
Tính hay chuyện và cởi mở của Mao đã làm yên lòng Trương, tôi gợi ý chúng tôi bắt đầu khám bệnh, Mao gật đầu.
Trương cậy hết cao răng, lấy các thức ăn dính trong kẽ răng, sau đó nói:
– Thưa Chủ tịch, xin ngươi cần đánh răng hàng ngày. Răng chủ tịch tồi lắm.
Mao phản đối:
– Tôi thường làm sạch răng bằng chè và chẳng bao giờ dùng bàn chải đánh răng cả. Anh xem con hổ đấy, có bao giờ nó đánh răng đâu. Sao răng nó cứng và sắc thế.
Logic của Mao thật không ai bắt bẻ được, dù khá lạ lùng. Tôi và Trương im lặng. Mao cảm thấy rằng giành được chiến thắng, nháy mắt, nhận xét:
– Thấy chưa, thậm chí các đồng chí là bác sĩ có bằng cấp Mỹ hẳn hoi cũng chẳng thể giải thích được.
Trương khiêm tốn:
– Xin chịu Chủ tịch!
Sau đó Trương nói cho Mao, cần phải nhổ vài chiếc răng hàm trên.
– Nó bị sâu rồi, vùng lợi xung quanh viêm nhiễm, răng cũng lung lay, những răng này là nguồn viêm nhiễm. Nếu không nhổ đi, nó lại làm hỏng tiếp các răng bên cạnh.
– Có thật nặng thế không? – Mao ngạc nhiên.
– Tôi xin thề với Chủ tịch đúng như thế – Trương trả lời.
– Thôi được, nhưng hãy làm cho khéo nhé, tôi sợ đau lắm. Tiêm thuốc tê đi.
Trương quay về phía tôi thì thào:
– Chủ tịch có bị dị ứng novocain không?
– Không – Tôi trả lời – đôi lần tôi đã tiêm penecilin và novocain không thấy dị ứng thuốc.
– Có cần phải dùng tới anestesine không? – Trương lại hỏi nhỏ – Tôi nhổ nó chỉ trong tích tắc thôi.
– Đồng chí cứ làm như Chủ tịch yêu cầu – Tôi trả lời – Để ông ấy yên tâm.
Trương tiêm novocain, mấy phút sau khi bệnh nhân bị tê, ông nhổ chiếc răng sâu dễ dàng.
Mao vui lắm, cười to:
– Trường học Anh Mỹ đã giành chiến thắng vĩ đại!
Sau vài ngày, lượng bạch cầu trong máu trở lại mức bình thường. Mao vui như trẻ con, nói:
– Đồng chí đã giải quyết được vấn đề làm tôi suy nghĩ nhiều năm qua. Đó là thành công lớn của các đồng chí. Hoan hô trường Đại học Anh Mỹ!
Sáng hôm sau ông bảo tôi mang cho ông bàn chải và thuốc đánh răng và ông bắt đầu cọ răng. Nhưng ông chỉ đánh răng được vài ngày. Thói quen nông dân thâm căn cố đế đánh răng bằng chè vượt hẳn lên. Hơn nữa Mao không muốn mất thời gian vào việc tắm rửa và đánh răng.
Răng Mao dần dần tồi đi, cũng như trước đây ông không khoái gì nha sĩ đến khám và chữa bệnh. Răng của Chủ tịch bị xỉn đen và lần lượt rụng dần. Đến đầu những năm 1970 hàm trên chẳng còn chiếc răng hàm nào cả. May mắn thay, khi ông cười, chỉ thấy những chiếc răng tốt còn giữ được, còn những răng đen và bị nhổ rồi nằm ở phía trong không nhìn thấy rõ.
Xét nghiệm tuyến sinh dục cho thấy Mao mất khả năng có con. Tinh dịch của ông không có tinh trùng khoẻ. Mao từng là ông bố của một số con từ ba bà vợ. Đứa sau cùng là con gái, con của Giang Thanh, Lí Nạp, khi ấy khoảng 15 tuổi. Bệnh vô sinh cũng thường xảy ra ở tuổi trung niên, tôi không đủ khả năng giải thích được nguyên nhân vì sao tinh trùng ông lại chết, nhưng tôi chịu không thể chữa được cho ông.
– Nghĩa là tôi trở thành hoạn quan phải không?
Mao đau buồn hỏi thế, khi tôi nói cho ông về sự không thể có con. Ông lo ngại thục sự.
– Hoàn toàn không phải thế – Tôi trả lời – Phần đông quan thái giám trong cung vua, bị cắt hoàn toàn cơ quan sinh dục. Vài người may mắn còn giữ được tinh hoàn.
Tôi hiểu ra rằng Mao thậm chí không có khái niệm hiểu biết cơ bản về các cơ quan trong cơ thể và chức năng của chúng. Từ cuộc khám xét, tôi biết rằng tinh hoàn bên phải của ông bị teo nhỏ. Tuy nhiên sự bất lực không biến ông thành hoạn quan.
Tôi bắt đầu nói để ông hiểu.
– Tinh dịch của Chủ tịch không có tinh trùng, vì thế không thể có con được nữa. Tuy nhiên điều này lại không ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng tình dục.
Tôi hiểu rằng Mao hoàn toàn không vui về sự bất lực của ông. Ông hoảng sợ nếu bị liệt dương. Cả một thời gian dài ông tin rằng hoạt động tình dục bắt đầu từ tuổi 12 và chấm dứt ở tuổi 60. Sau này ông kể, ông bắt đầu cuộc sống tình dục ở tuổi vị thành niên khi còn ở làng Sào Sơn, quê ông. Ông vui vẻ nhớ đầu tiên quan hệ tình dục thời trẻ, bạn tình của ông, cô bé 12 tuổi trong làng.
Tháng 12-1953, Mao tròn 60 tuổi. Tôi là bác sĩ riêng của ông từ năm 1955, khi đó ông chờ đợi trong lo sợ về hết khả năng tình dục. Các bác sĩ trước tôi thường tiêm cho ông nhung hươu. Trong y học dân tộc Trung Hoa, đây là một trong thứ thuốc kích thích tình dục mạnh. Tuy nhiên dấu hiệu suy yếu tình dục không thấy mất đi nhưng ông vẫn lo lắng. Ông muốn sống tới 80 tuổi vẫn giữ được vẻ đẹp, khoẻ mạnh và hoạt động tình dục bình thường. Tôi, bác sĩ riêng của ông, cần phải giúp ông thực hiện ham muốn đó.
Ông mất bình tĩnh, khi tôi tỏ ra nghi ngờ hiệu quả của nhung hươu. Ngoài ra, tôi không tin vào hiệu dụng của chất này đối với cơ quan sinh dục.
Mao buồn rầu, nói:
– Các ông bác sĩ, người khuyên thế này, người khuyên thế kia. Tôi chỉ tin các ông 70% thôi.
Mao không đòi dùng nhung hươu nữa, nhưng đòi tôi kiếm thần dược để kéo dài tuổi thọ và chống liệt dương. Trong hoàn cảnh ấy ông lại thích đưa ra các ví dụ từ các vua Trung Quốc. Ông vua thọ nhất Trung Hoa là Vua Hoàng, tổ tiên dân tộc Hán, người đã tạo ra tất cả người Trung Quốc. Truyền thuyết kể, ông đạt được bất tử, vì ngủ với hàng ngàn gái đồng trinh. Thậm chí các vua đời sau còn cho rằng càng ngủ nhiều với gái, tuổi thọ càng tăng lên. Từ đó truyền thống các vua đều có tới hàng nghìn nữ tỳ. Hoàng đế Tần Thuỷ Hoàng, lập nên nhà Tần, theo truyền thuyết, có lần đã cử một đạo sĩ và năm trăm gái đồng trinh ra biển khơi để kiếm thuốc trường sinh. Mao cho Tần Thuỷ Hoàng là thần tượng, cố gắng noi gương ông vua này. Truyền thuyết này còn cho rằng họ chính là thuỷ tổ của người Nhật Bản.
Một thời gian ngắn sau khi tôi làm việc cho Mao, Chủ tịch nghe tin một nữ bác sĩ Rumani, Lepshinskaya, tìm ra công thức thuốc kéo dài tuổi thọ và tăng khả năng tình dục. Thứ thần dược này bề ngoài hồi phục sinh lực và có khả năng làm tăng độ dẻo dai sau khi thường xuyên sử dụng một lượng nhỏ. Mao rất khoái thuốc này, nhưng lại muốn, tôi phải thử trước thần dược. Nếu nó có tác dụng với tôi, Mao nói, ông mới dùng.
Tôi cũng phải bóng gió nói cho ông biết tôi và ông chênh lệch nhau gần 30 tuổi. Tôi hãy còn trẻ mới 35 còn ông đã 62 và lại không có chứng bệnh ông mắc. Bác sĩ Rumani đặt tên thuốc của mình, vitamin H3, nhưng té ra thuốc này thành phần chủ yếu novocain. Không tin vào khả năng thần diệu của nó, nhưng cũng biết Mao không dị ứng với novocain, tôi quyết định tiêm vitamin H3 này vào mông Chủ tịch, sau 3 tháng thì ngừng, vì chẳng đem lại kết quả gì.
Trong tất cả những năm làm việc với Mao, tôi chẳng giúp được ông hiểu biết thêm về lĩnh vực y học. Ý nghĩ không tin vào y học cản trở ông. Tôi ngày càng nghi ngờ, nguyên nhân sự bất lực của ông do tinh thần hơn do thể xác. Sau khi tham khảo các chuyên gia bài tiết và thần kinh, tôi tin tôi chẩn đoán đúng. Tôi quyết định sử dụng phương pháp tác động tinh thần. Tôi cho ông uống viên nhộng, chế phẩm từ nhân sâm và glucose và nói, đây là một loại thuốc mới từ thảo mộc “bồi bổ sức khoẻ”.
Trong thời gian đấu đá chính trị hậu tường gay gắt nhất thì bệnh liệt dương của ông đặc biệt xuất hiện mạnh. Nhưng đầu những năm 60, khi quyền lực của ông còn bền vững, không thấy ông phàn nàn về vấn đề yếu tình dục. Tại thời gian cao điểm Cách mạng văn hoá, cuối thập niên 60, khi giữa Mao và Giang Thanh không có quan hệ tình dục nào cả, nhưng Chủ tịch thường xuyên lôi các cô gái trẻ lên giường, đồng thời số lượng các cô ấy tăng lên, nhưng độ tuổi các cô càng nhỏ lại.
Lãnh tụ của chúng ta thực hiện chương trình kéo dài tuổi thọ theo công thức hoàng đế cổ Trung Hoa như thế đấy.
Mao tiếp tục tìm kiếm đan dược trường sinh bất lão, thậm chí cũng chẳng hề nghi ngờ ông có thể thọ như vậy hay không. Lại còn tin những bài thơ thời thanh niên “sẽ sống hai trăm tuổi và bơi qua con sông lớn dài ngàn dặm”. Giữa những năm 60 ông tuyên bố với khách nước ngoài, chuẩn bị gặp Chúa trời và cụ Karl Marx, đó là mánh khóe chiến lược của ông. Năm ấy ông còn khỏe, lạc quan hơn cả thời kỳ bắt đầu cuộc Cách mạng văn hoá và kéo dài đến vài năm sau. Gặp những chuyện rắc rối ông thường giả vờ ốm, lấy sự sa sút về sức khoẻ làm thủ đoạn chính trị. Sức khoẻ của Mao chủ tịch và chính trị Trung Quốc có quan hệ tương hỗ.
Năm 1963, Mao đóng vai một ông già ốm yếu trước đại sứ Liên Xô ở Bắc Kinh. Chủ tịch muốn dò xét phản ứng của Liên Xô trước cái chết giả tưởng của mình. Mối quan hệ Trung Quốc – Liên Xô trong những năm ấy rất xấu, vì thế đối với Mao điều này cực kỳ quan trọng. Trước khi chuẩn bị màn kịch, Mao đã vài lần thử nhập vai một ông già run rẩy sắp chết cho chúng tôi xem, rồi hỏi xem liệu có giống như người sắp chầu trời hay không. Sau đó chui vào giường, cho gọi đại sứ Liên Xô đến. Buổi diễn đạt được thành công mỹ mãn.
Cũng vẫn trò như thế, năm 1965, Mao nói với người bạn cũ của, nhà báo Mỹ Edgar Snow rằng ông sắp chầu thượng đế. Mao rất chú ý thái độ phản ứng của người Mỹ về tin tức ông sắp chết. Ông rất muốn cải thiện quan hệ với Mỹ. Mao tin rằng E. Snow, tác giả cuốn sách “Ngôi sao đỏ trên đất nước Trung Hoa”, tác phẩm kinh điển xuất bản bằng Hoa ngữ và Anh ngữ, là người của Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA), và vì thế thông tin về cái chết gần kề của lãnh tụ sẽ rơi vào tay chính quyền Mỹ. Năm 1965, mánh khóe tương tự Mao cũng sử dụng với Bộ trưởng Văn hoá Pháp André Malraux và sau đó ông chú ý theo dõi phản ứng của phương tây qua báo chí.
Mao thường lên án chuyện âm mưu, mánh khóe của người khác nhưng chính ông lại người nhiều thủ đoạn xảo quyệt và mánh khóe nhất.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [9]
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Giữa tháng 7-1955, khoảng sáu tuần sau khi được đứng với Mao Chủ tịch trên lể đài Thiên An Môn, bất ngờ người ta gọi tôi vào Bắc Đới Hà, khu điều dưỡng ở vịnh Bắc Hải Văn. Lãnh đạo cao cấp đảng thường đến an dưỡng tránh cơn nóng ở Bắc Kinh. Mao cùng đoàn tuỳ tùng vừa rời đây vài ngày trước. Đi cùng ông có bác sĩ Chu Thế Đào, người trước khi tôi thay. Khi ấy tôi vẫn còn là giám đốc bệnh viện Trung Nam Hải và chưa có dịp nào đi cùng với Mao. Cuộc gọi bất ngờ này nghĩa là có một cái gì đó thật nghiêm trọng.
Tôi ngồi trên đoàn tàu chuyên dụng chở tài liệu cơ quan đi và về hàng ngày giữa Bắc Kinh và Bắc Đới Hà, ngay trong hôm ấy tôi đã đến nơi.
Tôi được biết, Mao đêm qua ngủ không ngon giấc, nhưng lại dạy sớm để ra biển bơi. Các vệ sĩ can ông đừng làm cuộc phiêu lưu dại dột này. Đêm qua Bắc Đới Hà có giông, sáng nay gió vẫn mạnh, biển động. Các vệ sĩ sợ Mao chết đuối vỉ sóng lớn. Nhưng Mao cố tình ra bãi bể, các vệ sĩ trẻ theo sát ông.
Vệ sĩ cấp báo Uông Đông Hưng, đích thân Uông Đông Hưng ra biển để can Mao. Nhưng Chủ tịch phớt lờ tất cả, nhảy xuống giữa đợt sóng lớn quyết tâm bơi ra biển, phía sau, một đoàn vệ sĩ trai tráng bơi theo.
Uông Đông Hưng lo lắng, nếu xảy ra chuyện không may với Mao, ông phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Ông gọi La Thuỵ Khanh và Chu Ân Lai để trút trách nhiệm tính mạng Mao lên đầu họ. Mao bơi đã khá xa khi hai ông đến. Chu không biết làm thế nào, lập tức thông báo ngay cho cấp trên, Lưu Thiếu Kỳ, nhân vật thứ hai sau Mao và tin rằng Lưu Thiếu Kỳ có thể khuyên Mao không liều mạng nữa. Lưu từ chối can thiệp. Ông là người khôn ngoan, kín đáo và quyết định để Mao muốn làm gì thì làm.
Trên bờ có Giang Thanh và bác sĩ Chu. Sự bình tĩnh của bác sĩ Chu làm bà vợ Mao nổi khùng. Bác sĩ Chu, một người nhút nhát, tuổi chừng 50, hơn tôi đến 20 tuổi.
Giang Thanh to tiếng:
– Chủ tịch đang vật lộn với sóng biển, và nếu cái gì đó xảy ra, đồng chí sẽ làm gì? Đứng nhìn thôi à?
Nhưng bác sĩ Chu thậm chí còn không biết bơi nữa.
Hai người lính giúp bác sĩ Chu xuống chiếc xuồng cứu trợ nhỏ để ông có thể lại gần Mao. Nhưng sóng quá lớn, họ không thể điều khiển được xuồng, không những thế bác sĩ Chu lại say sóng. Khi Mao bắt đầu bơi về bờ, chiếc xuồng của bác sĩ vẫn còn vật lộn, rập rờn trên sóng. Cuối cùng xuồng cũng cập bờ, bác sĩ Chu toàn thân run rẩy, lảo đảo rời xuồng, ngã rụi xuống bãi cát, nôn thốc nôn tháo. Giang Thanh nổi điên lên. Chính vì lẽ đó bà ta cho gọi tôi.
Mao nổi cáu với Uông Đông Hưng, thét lên:
– Đồ vô tích sự. Anh biết tôi có thể bơi trên biển trong thời tiết như thế này chứ, không những cản tôi, còn gọi các đồng chí lãnh đạo khác đến đây can thiệp!
Uông Đông Hưng và La Thuỵ Khanh luôn luôn được Mao che chở. Họ phục vụ Mao một cách tin cẩn và trung thành, nhưng lại nằm trong hoàn cảnh rất phức tạp. Họ chịu trách nhiệm sinh mạng của Chủ tịch. Nếu bất cứ chuyện gì xảy ra, người ta không còn nhớ đến sự trung thành hoặc đã hết sức cố gắng ngăn cản lãnh tụ, nhưng không được. Họ không những mất chức, còn mất đầu như chơi.
Những việc làm của họ, Mao nhìn nhận như là chuyện xâm phạm vào quyền tự do của ông cũng như các Uỷ viên Bộ chính trị khác muốn kiềm chế ông. Không ai được ngăn cản ý thích và ông sẽ phê phán kịch liệt những ai có ý định này. Vụ Bắc Đới Hà ảnh hưởng mạnh tới mối quan hệ của Mao đối với Uông Đông Hưng và La Thuỵ Khanh. Sự khó chịu ấy Mao vẫn không quên, sau này ông thẳng tay trừng trị.
Sự việc trên liên quan đến tôi. Cuối vụ hè năm ấy, bác sĩ Chu lặng lẽ ra khỏi Trung Nam Hải sang phụ trách Bệnh viện Bắc Kinh, còn tôi chính thức trở thành bác sĩ riêng của Mao. Công việc của tôi không chỉ đơn thuần phòng và điều trị bệnh, còn phải nâng cao trạng thái sức khoẻ của Mao. Trong bất kỳ sự yếu đau nào của Chủ tịch hoặc chỉ cần mủi tiêm đau thậm chí cảm thấy trong người khó ở tôi là người có lỗi. Kể từ đây không những ngoài công việc, tính mạng của tôi còn phụ thuộc vào điều chăm lo sức khoẻ Mao. Để làm được điều này, tôi cần luôn luôn ở bên cạnh theo dõi cặn kẽ sự thay đổi về sức khỏe của Chủ tịch. Sau khi Chủ tịch từ Bắc Đới Hà về, hàng ngày tôi phải gặp ông, lấy lý do kèm ông học Anh ngữ. Tôi thường xuyên tháp tùng Chủ tịch trong các chuyến công vụ ở Bắc Kinh và cả các tỉnh.
Tôi cần nắm vững tổng thể về sức khỏe hiện tại và những thay đổi trong tương lai khi tuổi ông tăng lên. Trong hồ sơ sức khỏe, tôi thấy số lượng bạch cầu của ông cao, trên 10 ngàn, so với con số bình thường từ 6 đến 8 ngàn. Như vậy Chủ tịch bị viêm nhiễm nhẹ cần phải tìm ra nguyên nhân vì sao.
Tôi miễn cưỡng phải kể cho Mao điều này. Ông tự hào về sức khoẻ và thể lực, ghét ốm đau bệnh tật, tôi biết ông không ưa các bác sĩ. Năm 1951 một đội bác sĩ giỏi Liên Xô đến khám ông. Do bị thăm khám, xét nghiệm quá nhiều, Mao mất hết kiên nhẫn, nổi khùng và bỏ dở việc khám.
Tăng cường khả năng tiếng Anh, tôi và Chủ tịch đọc tác phẩm “Chủ nghĩa xã hội không tưởng và khoa học” của Engels, lợi dụng bàn tới chủ đề này, tôi giải thích Mao rằng bạch cầu của ông tăng cao, có nghĩa bị viêm nhiễm nhẹ nào đấy trong cơ thể.
– Nhưng tại sao mới được cơ chứ?
Mao muốn biết nguyên nhân, nhưng ông lại coi thường y học hiện đại.
Tôi bảo:
– Chẳng có gì nghiêm trọng đâu. Tôi chỉ muốn xác định ổ viêm nhiễm.
Sau đó tôi nói rằng tôi sẽ kiểm tra toàn diện kể cả tai mũi họng, răng hàm mặt, làm các xét nghiệm sinh hoá nhanh gọn và hứa không quá nửa giờ. Ông đồng ý.
Mũi và các xoang mũi bình thường. Tôi xem qua miệng. Mao chưa bao giờ đánh răng. Theo thói quen của nông dân miền nam Trung Quốc, ông chỉ làm sạch răng bằng chè, mỗi buổi sáng nhai một nắm lá chè và xúc miệng bằng nước. Mao khăng khăng từ chối đi khám chuyên khoa răng hàm mặt. Tướng Bành Đức Hoài, người hay nói thẳng nói thật, có lần ông khuyên tôi nên chú ý đến vấn đề vệ sinh răng miệng của Mao chủ tịch. Ông nói, “Răng của Chủ tịch dường như được sơn xanh”. Khám miệng cho Chủ tịch, ngà răng ông phủ một lớp cao màu xanh lá cây, răng hàm rụng vài cái, chạm nhẹ vào lợi, nước màu vàng rỉ ra, ông bị nha chu viêm. Thật lạ, Mao chưa bao giờ kêu đau răng, dù rằng bệnh nha chu viêm gây rất khó chịu và đau đớn. Tôi cảm thấy hình như ông vui lòng chịu đựng đau đớn hơn gọi thày thuốc mà ông vốn chẳng ưa gì.
– Đồng chí có thể chữa cho tôi được chứ?
Mao muốn biết rõ hơn nên yêu cầu tôi nói rõ. Tôi giải thích, nha khoa không thuộc lĩnh vực của tôi, tôi khuyên ông nên khám răng hàm mặt.
Mao mỉm cười:
– Khổng Tử nói: “Biết cái mình biết, biết cái mà mình chưa biết – nghĩa là biết”. Như vậy xem ra đồng chí không muốn biết cái mình không biết có phải không?
Sau đó tôi khám bộ sinh dục. Bao quy đầu hơi bị hẹp, tụt ra khó co lại, tôi nghi ngờ bị viêm nhiễm. Từ khi chuyển vào Trung Nam Hải, Mao không tắm nữa, cho rằng mất thời gian. Các vệ sĩ thường dùng khăn bông tẩm nước nóng kỳ cọ thân thể cho ông, còn chính Mao lúc ấy đọc tài liệu hoặc kể chuyện vui.
Tôi phát hiện kích thước tinh hoàn bên trái nhỏ hơn bình thường, còn tinh hoàn bên phải không nằm ở bìu dái mà nằm trong thể hang. Sự khiếm khuyết tinh hoàn như vậy thường do dị tật bẩm sinh, không ảnh hưởng tới chức năng sinh dục, tuy nhiên dần dần có thể dẫn đến ung thư tinh hoàn. Tôi phải tiếp tục theo dõi tới sự bất bình thường này.
Để xác định vùng viêm nhiễm, cần phải xét nghiệm tinh dịch. Bộ phận sinh dục của Mao nhỏ và mềm. Để làm điều này tôi phải kích thích xoa nắn lấy tinh dịch đem về phòng xét nghiệm.
Vài ngày sau, Mao cho phép đưa nha sĩ Trương Quang Hán, của Trường Đại học y khoa Bắc Kinh tới. Tôi biết Trương từ hồi còn học ở Đại học Liên hợp miền Tây Trung Quốc. Ông hơn tôi hai tuổi và học về nha khoa.
Việc khám và chữa răng cho Mao cũng tiến hành ở buồng ăn, nơi Mao cắt tóc, cạo râu trong khu Hương Cúc. Chiếc ghế tựa nhanh chóng được biến thành chiếc ghế chữa răng. Trương chuẩn bị đồ nghề, tinh thần khá căng thẳng, hỏi tôi khám thấy gì, cũng như thái độ tính khí của chính Mao ra sao. Tôi phụ trách công việc này chỉ mới được vài tháng nên chưa biết nhiều về tính khí chủ tịch. Tôi bảo: “Chỉ chắc một điều, Mao chủ tịch thích khám xét nhanh gọn và không chuyện trò dài dòng, lề mề mất thì giờ”. Tôi cũng cho Trương biết, Mao đồng ý cho Trương đến, nghĩa là chủ tịch muốn thực hiện tất cả những gì tôi đề nghị.
Khi chúng tôi vào, Chủ tịch đang đọc sách lịch sử Trung Quốc. Ông thích gặp khách với quyển sách này trong tay. Dù rằng ông đầy quyền lực nhưng đôi khi bị bất an khi gặp người lạ. Nhưng ông biết, những người gặp ông đều bị xúc động khi được nhìn thấy vị thánh sống. Sách làm ông thoải mái, tự tin giúp ông chuyện trò cởi mở hơn. Để bớt vẻ ngăn cách với khách, ông thường pha trò giúp họ tự tin, cởi mở hơn. Trong cuộc gặp lần đầu tiên ông thường chú ý lắng nghe, vui vẻ giúp người đối thoại trở nên thoải mái, thân thiện. Cách này Mao đã giúp khách nói thẳng, nói thật và nhờ thế ông đã khéo léo thu thập nhiều thông tin từ họ.
Thấy chúng tôi, Mao bảo:
– Các đồng chí đến rồi.
Mao đặt sách sang một bên, bảo:
– Đọc sách là một thú vui kỳ diệu.
Ông đứng dậy chìa tay cho bác sĩ Trương bắt. Sau đó mời chúng tôi ngồi. Người ta mang bình trà đến. Một vệ sĩ mang cho Mao một khăn bông tẩm nước nóng, lau mặt và ông lau đi lau lại tay nhiều lần cẩn thận.
Mao hỏi tên của nha sĩ. Trương giải thích rằng tên của ông Trương Quang Hán, “Quang” nghĩa là “Vinh quang”, “Hán” – “dân tộc Hán”. Trung Quốc – một quốc gia đa sắc tộc, nhưng dân tộc Hán đông hơn, khoảng 93% dân số. Khi nói về Trung Quốc, người ta nói đến dân tộc Hán.
– Đồng chí cũng biết làm vinh quang cho dân tộc Hán – Mao nhận xét – Tên của đồng chí rất nổi tiếng trong thời gian chống với Mãn châu, trong những năm tháng cuối cùng của triều đại Nhà Thanh.
Nhà Thanh sụp đổ năm 1911, do dân tộc Mãn Châu, bắc Vạn Lý Trường Thành cai trị. Vì thế ở Trung Quốc luôn luôn có tâm lý chống nhà Thanh rất mạnh, coi đó là triều đại của người thiểu số “ngoại bang phương Bắc”.
Khi Mao hỏi Trương về quê quán, Trương nói, quê ông ở tỉnh Hà Bắc, nghĩa là “phía bắc con sông”, nhưng từ lâu ông sống ở tỉnh Tứ Xuyên, nghĩa là “bốn con sông”.
– Đồng chí biết con sông nào gọi là Hà Bắc? – Mao hỏi.
– Vâng, con sông Vàng, tức Hoàng hà – nha sĩ trả lời.
Trong lịch sử Trung Quốc, con sông Hoàng Hà đổi dòng chảy nhiều lần, người ta đặt tên tỉnh Hà Bắc vì con sông nằm phía nam của tỉnh. Bây giờ Hoàng Hà lại còn đổi dòng, xuống tận phía nam xa xôi, thậm chí chảy qua tỉnh Sơn Đông.
Mao rít hơi thuốc, hỏi:
– Thế còn bốn con sông ở tỉnh Tứ Xuyên là những sông gì?
Trương chẳng cần nghĩ ngợi nói luôn:
– Sông Minh, sông Tô, sông Giang và sông Thanh Hà.
Mao cười và chữa lại:
– Không phải sông Thanh Hà mà là Ô Giang, rộng hơn sông Thanh Hà.
Trương cũng cười và nói:
– Tôi nhớ một bài thơ của Chủ tịch nói về Tứ Xuyên. Trong đó có câu: “Nước sông Thanh bồi đắp đôi bờ trong sương”. Vì thế tôi nghĩ là sông Thanh.
Mao mỉm cười và nói:
– Đấy là thơ.
Sau đó Mao chuyển sang nói chuyện về trường y khoa thuộc Đại học Liên hợp Tây-Trung Quốc, do Hoa Kỳ sáng lập, Mao nói rằng ông rất mừng, có người Trung Quốc học ở trường Mỹ. Mao nói:
– Trong thời gian kháng Nhật, Mỹ đã gửi cố vấn đến Diên An, họ giúp chúng ta rất nhiều. Bác sĩ Mỹ, Gorge Haitem giúp đỡ và đóng góp to lớn vào chiến dịch bài trừ bệnh hoa liễu. Ông cũng là đồng nghiệp của các đồng chí đấy.
Bác sĩ Haitem (1910-1988) cùng với trợ lý của mình là Edgar Snow có mặt ở chiến khu Sa An Tây của đảng cộng sản năm 1936 và sau đó ở lại để chữa cho các chiến sĩ giải phóng quân Trung Quốc.
Mao tiếp tục:
– Mỹ đã đào tạo cho chúng ta không ít chuyên gia.
Nếu người dân thường Trung Quốc nói câu này, người ta cho rằng thiếu suy nghĩ và buộc tội phản cách mạng, bởi vì thời ấy ở Trung Quốc, Mỹ được gọi công khai “kẻ thù số một”, bất kỳ sự tán dương nào về Mỹ đều được xem như phản cách mạng.
– Như thế, tất cả các đồng chí tốt nghiệp Đại học Mỹ – Mao nhận xét – Tôi kính trọng các chuyên gia do Mỹ và Anh đào tạo.
Ông cũng khoe với Trương, tôi đã giúp ông học tiếng Anh và ông bắt đầu đọc nguyên bản tác phẩm của Engels “Chủ nghĩa xã hội từ ảo tưởng đến khoa học. Từ “Shehuizhuyi” trong Anh ngữ là “socialism” có phải thế không?”
– Dạ phải – Bác sĩ Trương đáp lời.
Tính hay chuyện và cởi mở của Mao đã làm yên lòng Trương, tôi gợi ý chúng tôi bắt đầu khám bệnh, Mao gật đầu.
Trương cậy hết cao răng, lấy các thức ăn dính trong kẽ răng, sau đó nói:
– Thưa Chủ tịch, xin ngươi cần đánh răng hàng ngày. Răng chủ tịch tồi lắm.
Mao phản đối:
– Tôi thường làm sạch răng bằng chè và chẳng bao giờ dùng bàn chải đánh răng cả. Anh xem con hổ đấy, có bao giờ nó đánh răng đâu. Sao răng nó cứng và sắc thế.
Logic của Mao thật không ai bắt bẻ được, dù khá lạ lùng. Tôi và Trương im lặng. Mao cảm thấy rằng giành được chiến thắng, nháy mắt, nhận xét:
– Thấy chưa, thậm chí các đồng chí là bác sĩ có bằng cấp Mỹ hẳn hoi cũng chẳng thể giải thích được.
Trương khiêm tốn:
– Xin chịu Chủ tịch!
Sau đó Trương nói cho Mao, cần phải nhổ vài chiếc răng hàm trên.
– Nó bị sâu rồi, vùng lợi xung quanh viêm nhiễm, răng cũng lung lay, những răng này là nguồn viêm nhiễm. Nếu không nhổ đi, nó lại làm hỏng tiếp các răng bên cạnh.
– Có thật nặng thế không? – Mao ngạc nhiên.
– Tôi xin thề với Chủ tịch đúng như thế – Trương trả lời.
– Thôi được, nhưng hãy làm cho khéo nhé, tôi sợ đau lắm. Tiêm thuốc tê đi.
Trương quay về phía tôi thì thào:
– Chủ tịch có bị dị ứng novocain không?
– Không – Tôi trả lời – đôi lần tôi đã tiêm penecilin và novocain không thấy dị ứng thuốc.
– Có cần phải dùng tới anestesine không? – Trương lại hỏi nhỏ – Tôi nhổ nó chỉ trong tích tắc thôi.
– Đồng chí cứ làm như Chủ tịch yêu cầu – Tôi trả lời – Để ông ấy yên tâm.
Trương tiêm novocain, mấy phút sau khi bệnh nhân bị tê, ông nhổ chiếc răng sâu dễ dàng.
Mao vui lắm, cười to:
– Trường học Anh Mỹ đã giành chiến thắng vĩ đại!
Sau vài ngày, lượng bạch cầu trong máu trở lại mức bình thường. Mao vui như trẻ con, nói:
– Đồng chí đã giải quyết được vấn đề làm tôi suy nghĩ nhiều năm qua. Đó là thành công lớn của các đồng chí. Hoan hô trường Đại học Anh Mỹ!
Sáng hôm sau ông bảo tôi mang cho ông bàn chải và thuốc đánh răng và ông bắt đầu cọ răng. Nhưng ông chỉ đánh răng được vài ngày. Thói quen nông dân thâm căn cố đế đánh răng bằng chè vượt hẳn lên. Hơn nữa Mao không muốn mất thời gian vào việc tắm rửa và đánh răng.
Răng Mao dần dần tồi đi, cũng như trước đây ông không khoái gì nha sĩ đến khám và chữa bệnh. Răng của Chủ tịch bị xỉn đen và lần lượt rụng dần. Đến đầu những năm 1970 hàm trên chẳng còn chiếc răng hàm nào cả. May mắn thay, khi ông cười, chỉ thấy những chiếc răng tốt còn giữ được, còn những răng đen và bị nhổ rồi nằm ở phía trong không nhìn thấy rõ.
Xét nghiệm tuyến sinh dục cho thấy Mao mất khả năng có con. Tinh dịch của ông không có tinh trùng khoẻ. Mao từng là ông bố của một số con từ ba bà vợ. Đứa sau cùng là con gái, con của Giang Thanh, Lí Nạp, khi ấy khoảng 15 tuổi. Bệnh vô sinh cũng thường xảy ra ở tuổi trung niên, tôi không đủ khả năng giải thích được nguyên nhân vì sao tinh trùng ông lại chết, nhưng tôi chịu không thể chữa được cho ông.
– Nghĩa là tôi trở thành hoạn quan phải không?
Mao đau buồn hỏi thế, khi tôi nói cho ông về sự không thể có con. Ông lo ngại thục sự.
– Hoàn toàn không phải thế – Tôi trả lời – Phần đông quan thái giám trong cung vua, bị cắt hoàn toàn cơ quan sinh dục. Vài người may mắn còn giữ được tinh hoàn.
Tôi hiểu ra rằng Mao thậm chí không có khái niệm hiểu biết cơ bản về các cơ quan trong cơ thể và chức năng của chúng. Từ cuộc khám xét, tôi biết rằng tinh hoàn bên phải của ông bị teo nhỏ. Tuy nhiên sự bất lực không biến ông thành hoạn quan.
Tôi bắt đầu nói để ông hiểu.
– Tinh dịch của Chủ tịch không có tinh trùng, vì thế không thể có con được nữa. Tuy nhiên điều này lại không ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng tình dục.
Tôi hiểu rằng Mao hoàn toàn không vui về sự bất lực của ông. Ông hoảng sợ nếu bị liệt dương. Cả một thời gian dài ông tin rằng hoạt động tình dục bắt đầu từ tuổi 12 và chấm dứt ở tuổi 60. Sau này ông kể, ông bắt đầu cuộc sống tình dục ở tuổi vị thành niên khi còn ở làng Sào Sơn, quê ông. Ông vui vẻ nhớ đầu tiên quan hệ tình dục thời trẻ, bạn tình của ông, cô bé 12 tuổi trong làng.
Tháng 12-1953, Mao tròn 60 tuổi. Tôi là bác sĩ riêng của ông từ năm 1955, khi đó ông chờ đợi trong lo sợ về hết khả năng tình dục. Các bác sĩ trước tôi thường tiêm cho ông nhung hươu. Trong y học dân tộc Trung Hoa, đây là một trong thứ thuốc kích thích tình dục mạnh. Tuy nhiên dấu hiệu suy yếu tình dục không thấy mất đi nhưng ông vẫn lo lắng. Ông muốn sống tới 80 tuổi vẫn giữ được vẻ đẹp, khoẻ mạnh và hoạt động tình dục bình thường. Tôi, bác sĩ riêng của ông, cần phải giúp ông thực hiện ham muốn đó.
Ông mất bình tĩnh, khi tôi tỏ ra nghi ngờ hiệu quả của nhung hươu. Ngoài ra, tôi không tin vào hiệu dụng của chất này đối với cơ quan sinh dục.
Mao buồn rầu, nói:
– Các ông bác sĩ, người khuyên thế này, người khuyên thế kia. Tôi chỉ tin các ông 70% thôi.
Mao không đòi dùng nhung hươu nữa, nhưng đòi tôi kiếm thần dược để kéo dài tuổi thọ và chống liệt dương. Trong hoàn cảnh ấy ông lại thích đưa ra các ví dụ từ các vua Trung Quốc. Ông vua thọ nhất Trung Hoa là Vua Hoàng, tổ tiên dân tộc Hán, người đã tạo ra tất cả người Trung Quốc. Truyền thuyết kể, ông đạt được bất tử, vì ngủ với hàng ngàn gái đồng trinh. Thậm chí các vua đời sau còn cho rằng càng ngủ nhiều với gái, tuổi thọ càng tăng lên. Từ đó truyền thống các vua đều có tới hàng nghìn nữ tỳ. Hoàng đế Tần Thuỷ Hoàng, lập nên nhà Tần, theo truyền thuyết, có lần đã cử một đạo sĩ và năm trăm gái đồng trinh ra biển khơi để kiếm thuốc trường sinh. Mao cho Tần Thuỷ Hoàng là thần tượng, cố gắng noi gương ông vua này. Truyền thuyết này còn cho rằng họ chính là thuỷ tổ của người Nhật Bản.
Một thời gian ngắn sau khi tôi làm việc cho Mao, Chủ tịch nghe tin một nữ bác sĩ Rumani, Lepshinskaya, tìm ra công thức thuốc kéo dài tuổi thọ và tăng khả năng tình dục. Thứ thần dược này bề ngoài hồi phục sinh lực và có khả năng làm tăng độ dẻo dai sau khi thường xuyên sử dụng một lượng nhỏ. Mao rất khoái thuốc này, nhưng lại muốn, tôi phải thử trước thần dược. Nếu nó có tác dụng với tôi, Mao nói, ông mới dùng.
Tôi cũng phải bóng gió nói cho ông biết tôi và ông chênh lệch nhau gần 30 tuổi. Tôi hãy còn trẻ mới 35 còn ông đã 62 và lại không có chứng bệnh ông mắc. Bác sĩ Rumani đặt tên thuốc của mình, vitamin H3, nhưng té ra thuốc này thành phần chủ yếu novocain. Không tin vào khả năng thần diệu của nó, nhưng cũng biết Mao không dị ứng với novocain, tôi quyết định tiêm vitamin H3 này vào mông Chủ tịch, sau 3 tháng thì ngừng, vì chẳng đem lại kết quả gì.
Trong tất cả những năm làm việc với Mao, tôi chẳng giúp được ông hiểu biết thêm về lĩnh vực y học. Ý nghĩ không tin vào y học cản trở ông. Tôi ngày càng nghi ngờ, nguyên nhân sự bất lực của ông do tinh thần hơn do thể xác. Sau khi tham khảo các chuyên gia bài tiết và thần kinh, tôi tin tôi chẩn đoán đúng. Tôi quyết định sử dụng phương pháp tác động tinh thần. Tôi cho ông uống viên nhộng, chế phẩm từ nhân sâm và glucose và nói, đây là một loại thuốc mới từ thảo mộc “bồi bổ sức khoẻ”.
Trong thời gian đấu đá chính trị hậu tường gay gắt nhất thì bệnh liệt dương của ông đặc biệt xuất hiện mạnh. Nhưng đầu những năm 60, khi quyền lực của ông còn bền vững, không thấy ông phàn nàn về vấn đề yếu tình dục. Tại thời gian cao điểm Cách mạng văn hoá, cuối thập niên 60, khi giữa Mao và Giang Thanh không có quan hệ tình dục nào cả, nhưng Chủ tịch thường xuyên lôi các cô gái trẻ lên giường, đồng thời số lượng các cô ấy tăng lên, nhưng độ tuổi các cô càng nhỏ lại.
Lãnh tụ của chúng ta thực hiện chương trình kéo dài tuổi thọ theo công thức hoàng đế cổ Trung Hoa như thế đấy.
Mao tiếp tục tìm kiếm đan dược trường sinh bất lão, thậm chí cũng chẳng hề nghi ngờ ông có thể thọ như vậy hay không. Lại còn tin những bài thơ thời thanh niên “sẽ sống hai trăm tuổi và bơi qua con sông lớn dài ngàn dặm”. Giữa những năm 60 ông tuyên bố với khách nước ngoài, chuẩn bị gặp Chúa trời và cụ Karl Marx, đó là mánh khóe chiến lược của ông. Năm ấy ông còn khỏe, lạc quan hơn cả thời kỳ bắt đầu cuộc Cách mạng văn hoá và kéo dài đến vài năm sau. Gặp những chuyện rắc rối ông thường giả vờ ốm, lấy sự sa sút về sức khoẻ làm thủ đoạn chính trị. Sức khoẻ của Mao chủ tịch và chính trị Trung Quốc có quan hệ tương hỗ.
Năm 1963, Mao đóng vai một ông già ốm yếu trước đại sứ Liên Xô ở Bắc Kinh. Chủ tịch muốn dò xét phản ứng của Liên Xô trước cái chết giả tưởng của mình. Mối quan hệ Trung Quốc – Liên Xô trong những năm ấy rất xấu, vì thế đối với Mao điều này cực kỳ quan trọng. Trước khi chuẩn bị màn kịch, Mao đã vài lần thử nhập vai một ông già run rẩy sắp chết cho chúng tôi xem, rồi hỏi xem liệu có giống như người sắp chầu trời hay không. Sau đó chui vào giường, cho gọi đại sứ Liên Xô đến. Buổi diễn đạt được thành công mỹ mãn.
Cũng vẫn trò như thế, năm 1965, Mao nói với người bạn cũ của, nhà báo Mỹ Edgar Snow rằng ông sắp chầu thượng đế. Mao rất chú ý thái độ phản ứng của người Mỹ về tin tức ông sắp chết. Ông rất muốn cải thiện quan hệ với Mỹ. Mao tin rằng E. Snow, tác giả cuốn sách “Ngôi sao đỏ trên đất nước Trung Hoa”, tác phẩm kinh điển xuất bản bằng Hoa ngữ và Anh ngữ, là người của Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA), và vì thế thông tin về cái chết gần kề của lãnh tụ sẽ rơi vào tay chính quyền Mỹ. Năm 1965, mánh khóe tương tự Mao cũng sử dụng với Bộ trưởng Văn hoá Pháp André Malraux và sau đó ông chú ý theo dõi phản ứng của phương tây qua báo chí.
Mao thường lên án chuyện âm mưu, mánh khóe của người khác nhưng chính ông lại người nhiều thủ đoạn xảo quyệt và mánh khóe nhất.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [9]
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 9
Posted: 22/06/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Trong những năm đầu tiên phục vụ Mao, tôi thấy ông mắc những bệnh thông thường như cảm sốt, viêm phế quản, ngứa, chai chân và ăn không ngon miệng. Do mắc chứng táo bón cứ hai hay ba ngày các vệ sĩ lại phải tháo thụt cho ông, vì thế chuyện đại tiện của Mao là chủ đề các cuộc giao ban hàng ngày của chúng tôi. Ngày nào tiêu hoá của ông bình thường ngày đó thực sự là ngày lễ đối với những người làm việc quanh Mao.
Đối với tôi, chứng mất ngủ của Mao làm tôi lo lắng nhất.
Mao là người có nghị lực phi thường. Bản chất ương ngạnh, ông tỏ ra không chấp nhận những thói quen thông lệ, thậm chí chống lại sự độc quyền khắc nghiệt đồng hồ thời gian của cơ thể. Theo ông, tắm táp và ngủ nghê chỉ làm tiêu tốn thời gian một cách vô ích. Cơ thể của Mao không thừa nhận nhịp sống sinh học ngày đêm, ông có thể thức nhiều hơn người khác, đồng thời mọi hoạt động chính của ông đều diễn về ban đêm. Ví thử nếu ông đi ngủ vào lúc nửa đêm, tối hôm sau ông cũng chẳng hề nhớ và đến ba giờ sáng ông mới lại lên giường, đêm tiếp theo ông cũng không thể nhắm mắt trước 6 giờ sáng. Chứng mất ngủ của ông ngày một nặng, có lúc ông thức liền vài ngày. Khi quá mệt, ông nằm vật xuống giường, ngủ mê mệt 10-12 tiếng liền mặc mọi tiếng ồn ào xung quanh. Tôi không biết chứng mất ngủ, lối sinh hoạt của Mao bắt đầu từ bao giờ. Có thể, nhịp sống sinh học lệch lạc của ông có từ lúc cha sinh mẹ đẻ. Vì rằng Phó Liêm Chương kể cho tôi, ông đã chữa cho Mao chứng mất ngủ từ đầu những năm 30. Tất nhiên, hai thập kỷ kháng chiến trước khi lập lên nước Cộng Hoà Nhân Dân và nhiều năm nội chiến đã làm đảo lộn cuộc sống, ảnh hưởng giấc ngủ của ông.
Trong những giờ mà Mao không thể ngủ được, ông phải sử dụng phương cách hoạt động thân thể: bơi, khiêu vũ, đi dạo. Nhưng cuối cùng ông đành phải dùng thuốc ngủ thường xuyên hơn 20 năm trước khi tôi về phụ trách sức khỏe của chủ tịch. Trong những năm 1930 Phó Liêm Chương cho ông dùng thuốc veronal, nhưng sau 1949 dùng dạng thuốc sodium amytal, một loại thuốc ngủ mạnh thuộc barbiturate, viên nhộng hàm lượng 0,1 gam. Nếu một viên không tác dụng, ông cho Mao dùng 2 hay 3 có khi tới 4 viên, nhưng nhiều khi vẫn không tác dụng. Càng ngày ông càng mệt mỏi vì thiếu ngủ, tăng ảo giác và bắt đầu chân có hiện tượng run rẩy đi không vững. Những người quanh ông rất lo rằng Mao có thể gục ngã, thậm chí có thể đột quỵ.
Trước khi tôi nhận nhiệm vụ, Phó Liêm Chương bắt đầu sợ rằng Mao có thể bị quá liều barbiturate, đã bí mật không cho Mao biết, thay hàm lượng viên từ 0,1 gam xuống 0,05 đến 0,075 gam, nhưng quen thuốc, vẫn phải tăng liều uống.
Tôi rất lo khi biết Mao dùng quá nhiều thuốc ngủ dạng barbiturate. Tôi chưa bao giờ kê đơn cho bệnh nhân cũng như cho bản thân mình liều lượng thuốc ngủ cao như thế, rất lo ông sẽ ngộ độc vì liều cao và kéo dài. Lần đầu tiên biết tất cả việc này, tôi khuyên Mao bỏ thuốc ngủ.
– Nghĩa là đồng chí muốn tước giấc ngủ của tôi phải không?
Ông phản ứng và vẫn yêu cầu thuốc ngủ. Tôi chẳng có cách nào để buộc Mao ngừng thuốc. Tôi là thuộc cấp và ông chẳng thèm đếm xỉa ý kiến của tôi.
Một lần ông gọi tôi vào buồng, hỏi:
– Theo đồng chí một năm có bao nhiêu ngày?
Mao thích đặt các câu hỏi bất thướng dường như nó chứa một ẩn ý nào đó. Tôi trả lời:
– Tất nhiên rồi, thưa chủ tịch, ba trăm sáu nhăm ngày.
Mao bảo:
– Đối với tôi một năm cả thảy chỉ có 200 ngày thôi, vì rằng tôi ngủ ít.
Thoạt đầu tôi không hiểu, nhưng sau đó mới biết rằng ông tính số lần ngủ và thức trong thời gian một năm.
– Nếu tính cả số giờ không ngủ, thức trắng và quy lại thành ngày, một năm của Chủ tịch sẽ là 400 ngày đấy. Từ quan điểm này, thưa chủ tịch, tiến gần đến bất tử rồi đấy, có một bài thơ nói về việc này: “Mặt trời và mặt trăng không hiện ra, núi không thể nhận ra hàng nghìn năm đã qua”.
Mao cười phá lên và nhận xét:
– Nghĩa là, theo đồng chí, cơn mất ngủ của tôi – đó là con đường đến bất tử phải không?
Tất nhiên ông nói đùa, tôi hiểu ông muốn tôi giúp ông giảm bớt căng thẳng, chữa cho ông bệnh mất ngủ.
Tôi khuyên ông thay đổi cách chữa. Dù rằng chất amital natri mà Phó Liêm Chương kê đơn vẫn tương đối có hiệu quả, giúp Mao giấc ngủ sâu, nhưng tác dụng chậm.
Vì thế tôi gợi ý Mao trước bữa cuối cùng hai mươi phút, uống hai viên hàm lượng 0,1 gram, nó sẽ có tác dụng nhanh. Ngay sau khi ăn, tôi khuyên Mao uống một viên amital natri để đảm bảo giấc ngủ kéo dài. Tôi không đồng ý cách điều trị của Phó Liêm Chương khi ông giấu Mao hạ liều lượng thuốc. Tôi cho rằng bệnh nhân cần phải biết liều lượng họ uống. Thuốc đưa cho Mao từ tay các nhân viên bảo vệ, họ xuất thân từ nông dân nghèo, ít học, thiếu không hiểu biết về y học, hơn nữa bây giờ tôi chịu trách nhiệm về sức khoẻ Mao, vì thế để tránh bất cứ trường hợp không may nào xảy ra, đích thân Mao phải kiểm tra được lượng thuốc uống và họ không đưa quá liều cho chủ tịch.
Phó Liêm Chương là thủ trưởng, tôi phải báo cho ông ta biết tất cả lý do. Ông không phản đối. Nhưng khi tôi vui mừng thông báo phương pháp điều trị mới có hiệu quả, Phó Liêm Chương tỏ ra hoài nghi nhắc lại một câu châm ngôn Trung Hoa: “Một bác sĩ hay khoe khoang, chẳng qua vì không có thuốc hay”, nhưng dù vậy ông vẫn đồng ý cho thử.
Đợt điều trị tỏ ra có hiệu quả, tôi giảm dần lượng thuốc ngủ thay vào đó là glucoza. Kết quả cũng không tồi. Khi tôi kể cho Mao, ông nhận xét:
– Chẳng lâu nữa, đồng chí điều trị cho tôi chỉ bằng glucoza phải không?
Cũng có những ngày, khi Mao quá lo lắng, cách điều trị của tôi cũng không tác dụng. Thực ra cơn mất ngủ của Mao do hai nguyên nhân. Ngoài nhịp điệu sinh học còn có suy nhược thần kinh.
Mặc dù đã từ lâu suy nhược thần kinh không được coi là bệnh ở Hoa Kỳ, bản thân nó chỉ là triệu chứng, với nhiều tên khác nhau, nhưng rất phổ biến ở Trung Quốc, kể cả Mao và Giang Thanh thường xuyên mắc phải. Chứng suy nhược thần kinh thường do tình trạng tâm sinh lý quá căng thẳng gây nên trầm cảm. Đối với người Trung Hoa nếu chấp nhận mình bị trầm cảm là điều thật nhục nhã và đáng xấu hổ vì bản chất sự trầm cảm biểu lộ bằng thực thể. Chứng mất ngủ là triệu chứng thường thấy và thường xảy ra của chứng suy nhược thần kinh, nhưng ngoài ra nó còn biểu hiện những triệu chứng khác như cơn đau đầu, tức ngực kéo dài, hay lo lắng, tăng áp huyết, phiền muộn, giảm tình dục, bệnh ngoài da, rối loạn tiêu hoá, chán ăn, dễ bực tức và nhiều chứng khác.
Dần dần tôi nhận thấy chứng suy nhược thần kinh phổ biến nhiều nhất từ khi đất nước chuyển sang chế độ cộng sản do sự hạn chế tự do cá nhân và cảm giác tuyệt vọng không tránh khỏi. Tôi nhận ra triệu chứng này từ 1952, khi anh trai tôi mắc chứng suy nhược thần kinh với dấu hiệu tăng huyết áp, cộng thêm những triệu chứng khác xảy ra trong những năm đấu tranh khốc liệt của chiến dịch “ba chống”: hối lộ, lãng phí, quan liêu. Sau chiến dịch “chống hữu khuynh trong đảng” năm 1957, hậu quả làm hàng triệu người vô tội bị quy kết sai lầm, hội chứng suy nhược thần kinh tăng lên đột biến. Trong những năm dưới thời chính phủ Quốc Dân Đảng tôi không nhận thấy có dấu hiệu suy nhược thần kinh như vậy. Dưới chế độ đó, xấu dở gì người ta cũng còn có lối thoát, chạy đi nơi khác nhưng dưới thời cộng sản, người ta không còn lựa chọn nào, không thể đi đâu. Số người bị rối loạn tâm thần rất lớn như tâm thần phân lập, trầm cảm do hoang tưởng dưới chế độ cộng sản tăng lên, một số rơi vào tình trạng “khủng hoảng tư tưởng”. Đối với người Trung Hoa, người ta định kiến, coi chứng rối loạn tâm thần như là do trắc trở cá nhân và được xem như chuyện đáng xấu hổ và nhục nhã. Vì thế người ta không đi khám và chữa bệnh, thường giải quyết riêng trong nội bộ. Cách giải quyết này tiếp diễn cho đến khi Mao qua đời. Tất cả các bác sĩ đều biết, những người mắc chứng suy nhược thần kinh đều gặp những chuyện bất ổn lớn về tinh thần, nhưng bác sĩ chỉ kê đơn điều trị triệu chứng chứ không tìm hiểu nguyên nhân sâu xa để trị tận gốc bệnh tật đó.
Đàm luận với Mao về cơn mất ngủ của ông và những chứng bệnh lặt vặt khác, tôi thậm chí không dám đả động đến từ “suy nhược thần kinh”, bởi vì biết điều này làm Mao nổi cơn thịnh nộ, tôi có thể bị mất việc. Ngay cả Mao cũng không đả động đến từ này. Khi nào đi ngủ bị ức chế, ông nói với tôi, ông cảm thấy bất ổn và nhờ tôi giúp. Tôi cho ông nhân sâm và vitamin B và C. Chứng suy nhược thần kinh của Mao biểu hiện: mất ngủ thường xuyên, choáng váng, ngứa da và liệt dương. Bệnh trở lên nghiêm trọng mỗi khi quá lo lắng vì cuộc đấu đá nội bộ. Một lần trong buổi đi dạo trên cánh đồng, bỗng nhiên đầu óc ông quay cuồng, choáng váng các vệ sĩ đã phải đỡ cho ông khỏi ngã. Những trường hợp như thế sau này xảy ra thường xuyên. Trong buổi giao tiếp với đoàn đại biểu Châu Phi, khi các vị đại biểu xúm quanh Chủ tịch, đột nhiên tôi thấy họ lúng túng, chỉ chỉ chỏ chỏ. Tôi nhận thấy Mao lảo đảo, lập tức chạy lại đỡ ông. Từ đó bất cứ ông ở đâu, đi dạo hay tiếp khách đều có đoàn vệ sĩ đi kèm đề phòng ông mất thăng bằng. Nhưng khi nào ông nghỉ ngơi, vui vẻ những dấu hiệu trên biến mất, tôi đã cho làm tất cả các xét nghiệm cần thiết về tim mạch, não đồ, kiểm tra tai mũi họng nhưng không thấy gì lạ, tất cả đều bình thường.
Nguyên nhân gây ra chứng suy nhược thần kinh của Mao chủ tịch khác hẳn với người dân bình thường. là một vị lãnh tụ đầy quyền lực của quốc gia, chính ông là nguyên nhân gây bất hạnh cho người khác. Chứng suy nhược thần kinh của ông do quá đa nghi, thiếu niềm tin vào sự trung thành của các chiến hữu trong đảng, ông có rất ít bạn đáng tin cậy. Các triệu chứng tăng mỗi khi có cuộc đấu tranh chính trị dữ dội trong nội bộ. Trong thời gian đề ra sách lược tranh giành quyền lực chính trị quyết liệt với phe đối lập, hầu như ông mất ngủ cả tuần, thậm chí cả tháng. Nhưng tôi lại không hiểu khi tôi nhận chức vụ đảm nhiệm chăm sóc sức khoẻ cho Chủ tịch đúng lúc ông đang trong cuộc đấu tranh giải quyết những vấn đề về phát triển nông thôn, tôi phải điều trị chứng mất ngủ trong vô vọng vì ông đang vật lộn trong cuộc đấu đá nội bộ.
Mao rất muốn đẩy mạnh cải cách trong nước, càng nhanh càng sớm càng tốt, không cần đến điều kiện khách quan. Tiến độ chậm chạp của cuộc cải cách ở nông thôn làm ông điên tiết, dù rằng từ đầu những năm 50 ngay sau khi thành lập nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, đã tịch thu ruộng đất và tài sản của địa chủ chia cho nông dân. Tuy ruộng đất vẫn còn nằm trong tay sở hữu riêng, nhưng Mao muốn tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không chờ cơ giới hoá nông nghiệp, vì ông cho rằng Trung Quốc quá nghèo, nếu chờ quá trình cơ khí hoá thì quá lâu.
Những hợp tác xã nông nghiệp được chỉ đạo tiến hành rất sớm ở nông thôn từ năm 1953, đẩy nhanh xu hướng xây dựng liên hợp kinh tế nông nghiệp lớn khác thường và việc tước đoạt từ tay nông dân phương tiện sản xuất và gia súc đã gây ra chống đối mạnh mẽ không những từ phía các người lãnh tụ chính trị đối lập mà còn từ phía nông dân. Ở một số vùng kinh tế tập thể bị tan rã nhanh ngay sau khi nó được thành lập. Mao trút tội không những xuống đầu người lãnh đạo Ban nông nghiệp Ban chấp hành trung ương đảng Đặng Tử Huy mà nhiều cả nhiều cán bộ trong đảng. Ông buộc tội họ chậm chạp, thiếu cương quyết, thậm chí cả tội phá hoại ngầm. Đặng Tử Huy bị mất chức, cơ quan do ông lãnh đạo bị giải tán. Thật ra, người ta không gạt Đặng Tử Huy ra khỏi guồng máy, mà thuyên chuyển ông sang cương vị nhỏ hơn. Về sau Mao tâm sự với tôi:
– Đặng Tử Huy đã sát cánh với chúng tôi trong những năm cách mạng. Tuy nhiên sau khi giải phóng, ông ta đã đi chệch đường.
Sự chia rẽ của Mao với chiến hữu trở nên gay gắt từ mùa hè 1955, khi những người lãnh đạo đảng cộng sản họp hội nghị ở Bắc Đới Hà. Tại đây, Mao đã phớt lờ sự khuyên can, ngăn cản ông bơi ra biển, dù biết thất bại nhưng họ vẫn làm.
Trong những năm đầu tiên cạnh Mao, tôi cố gắng tránh mọi chuyện liên quan đến chính trị mà chỉ quan tâm về lượng bạch cầu tăng, giảm tình dục, chứng mất ngủ của Chủ tịch. Lúc ấy tôi không biết gì về cuộc đấu tranh mạnh mẽ mà Mao tiến hành chống những phe bảo thủ trong đảng. Mặc dù thất bại, nhưng thời gian từ mùa đông 1955 đến mùa xuân 1956, Mao tổ chức một loạt các cuộc họp, ông trình bày chương trình cải cách chủ nghĩa xã hội trong nước. Cuối mùa thu 1955, ông bắt đầu viết cuốn: “Sự đi lên chủ nghĩa xã hội của nông thôn Trung Quốc”, chọn lọc những bài diễn văn, phát biểu của mình về vấn đề tập thể hoá, sửa chữa và bổ xung, viết lời mở đầu và kêu gọi đẩy mạnh cuộc cải cách nông thôn. Ông chỉ trích nặng nề Ban chấp hành Trung ương đảng, đưa ra đường lối cho đảng đẩy mạnh tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nông thôn. Trong thời kỳ căng thẳng và kích động này ông thường xuyên mất ngủ.
Một ngày vào cuối năm 1955, trong thời kỳ ông đang viết sách, có lần 3 ngày liền ông ngủ thất thường, có khi thức trắng hơn 36 giờ đồng hồ. Những viên thuốc ngủ tôi đưa, ông uống nhưng hầu như chẳng tác dụng gì. Để bớt căng thẳng và mệt mỏi ông thường đi bơi và gọi tôi.
Khi tôi đến bể bơi, Mao nằm trên ghế bố. Trên khuôn mặt đỏ ửng của ông lộ vẻ kích động mạnh, trông rất mệt mỏi. Ông bảo tôi cùng bơi, nhưng tôi lịch sự từ chối, nói, chưa kịp ăn sáng, thời gian ấy tôi vẫn còn kiêm nhiệm công việc trong bệnh viện Trung Nam Hải. Mao cười và nói:
– Tôi cũng chưa ăn và chưa ngủ, nhưng cũng đã kịp nhảy xuống nước bơi được một giờ rồi. Tôi uống toa thuốc của đồng chí ba lần, nhưng không thể ngủ được. Đồng chí, có lẽ, lại giảm đô phải không?
– Đâu có thưa chủ tịch, đô thuốc vẫn như trước đây thôi – Tôi trả lời.
– Thế thì đồng chí làm cái gì đó rồi để tôi ngủ được chứ.
Tôi kê đơn cho Mao dung dịch chloralhydrade, Phó Liêm Chương đã nói với tôi rằng Mao không thích uống thuốc dạng nước. Vì thế tôi báo trước cho Mao thuốc sẽ đắng và hơi cay.
Mao trả lời:
– Không sao đâu, tôi thích tất cả các thứ cay đắng.
Tôi đến kho dược do Phó Liêm Phương phụ trách, chuyên chứa thuốc dành cho Mao và các lãnh tụ cao cấp khác. Thuốc mua từ một hãng nào đấy ở Hong Kong, nhập từ Anh, Mỹ và Nhật. Tất cả thuốc được kiểm tra, bảo quản cẩn thận. Để tăng cường biện pháp an toàn, tất cả toa thuốc kê cho Mao đều mang tên Lý Đăng Sơn. Tên “Lý” năm 1947 là bí danh của Mao, do sự đối mặt sự tấn công của quân Quốc dân đảng, những người cộng sản buộc phải rút khỏi Diên An. Trong khi dược sĩ đang pha chế, Phó Liêm Chương đến lưu ý tôi rằng Mao không thích thuốc nước, và cũng nhận xét rằng chloralhydrade làm cho Mao rất khó chịu về mùi, Chủ tịch có thể cáu. Tôi nói, Chủ tịch đã được báo trước và đồng ý, yêu cầu nhanh lên, ông đang đợi tôi.
– Sau này tôi sẽ thông báo cho đồng chí kết quả.
Tôi trả lời và đi ra cổng.
– Đồng chí đã tự ý hành động chẳng hỏi ý kiến tôi gì cả!
Phó Liêm Chương bỏ đi, vẻ khó chịu.
Phó Liêm Chương cho rằng tôi là thuộc cấp của ông và bắt tôi phải cung cấp tin tức tất cả những gì liên quan tới sức khoẻ của lãnh tụ. Phó Liêm Chương rất tự hào, có nhiều năm quan hệ tốt với Mao, tin rằng Chủ tịch sẽ nghe lời khuyên của ông ta. Nhưng thời thế đã đổi thay, giờ đây Mao lại tin tôi hơn.
Chủ tịch chờ tôi ở bể bơi, mời tôi ăn trưa với ông. Tôi bảo:
– Thuốc nên uống trước khi ăn.
Sau đó tôi rót 15 phân khối dung dịch 10% chloralhydrade vào chén đưa cho Mao. Ông uống một hơi, nói, cũng không khó uống, thậm chí còn giống rượu vang mà Mao hiếm khi dùng. Ông nói thêm:
– Bây giờ xem nó tác dụng ra sao!
Chúng tôi còn chưa kịp ăn xong bữa, thuốc đã bắt đầu ngấm. Mắt Mao đờ đẫn, ông bắt đầu thẫn thờ. Cuối bữa ông gần như không còn biết gì nữa. Tôi dìu ông vào phòng ngủ bên cạnh bể bơi, hai giờ chiều ông đã chìm trong giấc ngủ và ngủ một mạch hơn 10 tiếng đồng hồ.
Đến nửa đêm một vệ sĩ gặp tôi và với giọng ngưỡng mộ gọi tôi là phù thuỷ.
Khi tôi đến, ông vẫn còn nằm trên giường, mắt nhắm nghiền. Khi mở mắt, lấy thuốc lá và hỏi:
– Đồng chí cho tôi thuốc gì hay thế?
– Đây là một loại thuốc ngủ. Người ta biết nó từ thế kỷ thứ 12, tác dụng của nó đối với cơ thể đã được biết cặn kẽ. Không có chống chỉ định nào cả.
– Vì sao đồng chí không đưa thuốc này cho tôi từ trước?
Tôi giải thích:
– Người ta nói cho tôi rằng Chủ tịch không thích thuốc nước, ngoài ra, vị của nó khá đắng, khó uống, và gần đây trong kho chưa có thuốc này.
Thực ra giữa sodium amytal và chloralhydrade chẳng có gì khác nhau đáng kể. Đơn giản, Mao bị kích thích bởi những cơn mất ngủ đến nỗi trò quảng cáo thuốc của tôi, có thể, gây nên hiệu quả tâm lý thuần tuý.
Tôi cảm thấy Mao biết rõ chứng suy nhược thần kinh của ông do nguyên nhân tâm lý, ông tin vào hiệu quả của tác dụng thuần tuý tâm lý. Khi Mao còn nhỏ bị ốm nặng, mẹ ông đưa lên chùa, thắp hương quỳ lạy, cầu Trời Phật phù hộ độ trì cứu giúp đứa con bệnh tật của bà. Chẳng bao lâu sau, Mao hồi sức và khỏi bệnh.
Mao nói với tôi:
– Tôi luôn luôn chống lại việc phá đền phá chùa.
Trong khi đó những lãnh tụ cộng sản khác ra lệnh triệt phá chùa chiền trong cả nước. Chủ tịch nói tiếp:
– Những người nghèo khi đau ốm cần tìm sự giúp của trời phật mà họ tin tưởng. Họ cầu cứu Phật để chữa khỏi bệnh, nhưng thay vì thuốc men, họ chỉ cần được một nhúm tàn nhang làm thuốc thánh. Tuy thế thậm chí chỗ tàn hương đó cũng làm giảm bớt đau đớn, buồn phiền bởi họ đặt tất cả niềm tin vào nhúm tàn nhang đó, giúp họ vượt qua bệnh tật của chính mình, trả lại sức khoẻ cho họ. Chẳng lẽ thuốc ngủ lại không giống tàn nhang hay sao? Chẳng lẽ nó không làm tôi khỏi bệnh? Tôi cảm thấy rằng trong tủ thuốc của đồng chí hãy còn không ít thuốc thần diệu.
Sau cuộc độc thoại lạ lùng này, Mao tuyên bố:
– Bây giờ đồng chí có thể về nhà và ngủ một lúc đi. Tôi lại bắt tay vào công việc.
Từ đó Mao chỉ chấp nhận chloralhydrade và thường uống nó với seconal natri. Đến lúc này ông đã bắt đầu quen thuốc. Chúng không những giúp ông ngủ được, còn kích thích khẩu vị, thậm chí nó có tác dụng như ma tuý. Ông chuộng trạng thái lâng lâng gây ra bởi thuốc, ông thường dùng nó khi cần tiếp khách hay họp hành. Ông cũng không quên chúng cả trong các buổi dạ hội khiêu vũ.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [10]
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Trong những năm đầu tiên phục vụ Mao, tôi thấy ông mắc những bệnh thông thường như cảm sốt, viêm phế quản, ngứa, chai chân và ăn không ngon miệng. Do mắc chứng táo bón cứ hai hay ba ngày các vệ sĩ lại phải tháo thụt cho ông, vì thế chuyện đại tiện của Mao là chủ đề các cuộc giao ban hàng ngày của chúng tôi. Ngày nào tiêu hoá của ông bình thường ngày đó thực sự là ngày lễ đối với những người làm việc quanh Mao.
Đối với tôi, chứng mất ngủ của Mao làm tôi lo lắng nhất.
Mao là người có nghị lực phi thường. Bản chất ương ngạnh, ông tỏ ra không chấp nhận những thói quen thông lệ, thậm chí chống lại sự độc quyền khắc nghiệt đồng hồ thời gian của cơ thể. Theo ông, tắm táp và ngủ nghê chỉ làm tiêu tốn thời gian một cách vô ích. Cơ thể của Mao không thừa nhận nhịp sống sinh học ngày đêm, ông có thể thức nhiều hơn người khác, đồng thời mọi hoạt động chính của ông đều diễn về ban đêm. Ví thử nếu ông đi ngủ vào lúc nửa đêm, tối hôm sau ông cũng chẳng hề nhớ và đến ba giờ sáng ông mới lại lên giường, đêm tiếp theo ông cũng không thể nhắm mắt trước 6 giờ sáng. Chứng mất ngủ của ông ngày một nặng, có lúc ông thức liền vài ngày. Khi quá mệt, ông nằm vật xuống giường, ngủ mê mệt 10-12 tiếng liền mặc mọi tiếng ồn ào xung quanh. Tôi không biết chứng mất ngủ, lối sinh hoạt của Mao bắt đầu từ bao giờ. Có thể, nhịp sống sinh học lệch lạc của ông có từ lúc cha sinh mẹ đẻ. Vì rằng Phó Liêm Chương kể cho tôi, ông đã chữa cho Mao chứng mất ngủ từ đầu những năm 30. Tất nhiên, hai thập kỷ kháng chiến trước khi lập lên nước Cộng Hoà Nhân Dân và nhiều năm nội chiến đã làm đảo lộn cuộc sống, ảnh hưởng giấc ngủ của ông.
Trong những giờ mà Mao không thể ngủ được, ông phải sử dụng phương cách hoạt động thân thể: bơi, khiêu vũ, đi dạo. Nhưng cuối cùng ông đành phải dùng thuốc ngủ thường xuyên hơn 20 năm trước khi tôi về phụ trách sức khỏe của chủ tịch. Trong những năm 1930 Phó Liêm Chương cho ông dùng thuốc veronal, nhưng sau 1949 dùng dạng thuốc sodium amytal, một loại thuốc ngủ mạnh thuộc barbiturate, viên nhộng hàm lượng 0,1 gam. Nếu một viên không tác dụng, ông cho Mao dùng 2 hay 3 có khi tới 4 viên, nhưng nhiều khi vẫn không tác dụng. Càng ngày ông càng mệt mỏi vì thiếu ngủ, tăng ảo giác và bắt đầu chân có hiện tượng run rẩy đi không vững. Những người quanh ông rất lo rằng Mao có thể gục ngã, thậm chí có thể đột quỵ.
Trước khi tôi nhận nhiệm vụ, Phó Liêm Chương bắt đầu sợ rằng Mao có thể bị quá liều barbiturate, đã bí mật không cho Mao biết, thay hàm lượng viên từ 0,1 gam xuống 0,05 đến 0,075 gam, nhưng quen thuốc, vẫn phải tăng liều uống.
Tôi rất lo khi biết Mao dùng quá nhiều thuốc ngủ dạng barbiturate. Tôi chưa bao giờ kê đơn cho bệnh nhân cũng như cho bản thân mình liều lượng thuốc ngủ cao như thế, rất lo ông sẽ ngộ độc vì liều cao và kéo dài. Lần đầu tiên biết tất cả việc này, tôi khuyên Mao bỏ thuốc ngủ.
– Nghĩa là đồng chí muốn tước giấc ngủ của tôi phải không?
Ông phản ứng và vẫn yêu cầu thuốc ngủ. Tôi chẳng có cách nào để buộc Mao ngừng thuốc. Tôi là thuộc cấp và ông chẳng thèm đếm xỉa ý kiến của tôi.
Một lần ông gọi tôi vào buồng, hỏi:
– Theo đồng chí một năm có bao nhiêu ngày?
Mao thích đặt các câu hỏi bất thướng dường như nó chứa một ẩn ý nào đó. Tôi trả lời:
– Tất nhiên rồi, thưa chủ tịch, ba trăm sáu nhăm ngày.
Mao bảo:
– Đối với tôi một năm cả thảy chỉ có 200 ngày thôi, vì rằng tôi ngủ ít.
Thoạt đầu tôi không hiểu, nhưng sau đó mới biết rằng ông tính số lần ngủ và thức trong thời gian một năm.
– Nếu tính cả số giờ không ngủ, thức trắng và quy lại thành ngày, một năm của Chủ tịch sẽ là 400 ngày đấy. Từ quan điểm này, thưa chủ tịch, tiến gần đến bất tử rồi đấy, có một bài thơ nói về việc này: “Mặt trời và mặt trăng không hiện ra, núi không thể nhận ra hàng nghìn năm đã qua”.
Mao cười phá lên và nhận xét:
– Nghĩa là, theo đồng chí, cơn mất ngủ của tôi – đó là con đường đến bất tử phải không?
Tất nhiên ông nói đùa, tôi hiểu ông muốn tôi giúp ông giảm bớt căng thẳng, chữa cho ông bệnh mất ngủ.
Tôi khuyên ông thay đổi cách chữa. Dù rằng chất amital natri mà Phó Liêm Chương kê đơn vẫn tương đối có hiệu quả, giúp Mao giấc ngủ sâu, nhưng tác dụng chậm.
Vì thế tôi gợi ý Mao trước bữa cuối cùng hai mươi phút, uống hai viên hàm lượng 0,1 gram, nó sẽ có tác dụng nhanh. Ngay sau khi ăn, tôi khuyên Mao uống một viên amital natri để đảm bảo giấc ngủ kéo dài. Tôi không đồng ý cách điều trị của Phó Liêm Chương khi ông giấu Mao hạ liều lượng thuốc. Tôi cho rằng bệnh nhân cần phải biết liều lượng họ uống. Thuốc đưa cho Mao từ tay các nhân viên bảo vệ, họ xuất thân từ nông dân nghèo, ít học, thiếu không hiểu biết về y học, hơn nữa bây giờ tôi chịu trách nhiệm về sức khoẻ Mao, vì thế để tránh bất cứ trường hợp không may nào xảy ra, đích thân Mao phải kiểm tra được lượng thuốc uống và họ không đưa quá liều cho chủ tịch.
Phó Liêm Chương là thủ trưởng, tôi phải báo cho ông ta biết tất cả lý do. Ông không phản đối. Nhưng khi tôi vui mừng thông báo phương pháp điều trị mới có hiệu quả, Phó Liêm Chương tỏ ra hoài nghi nhắc lại một câu châm ngôn Trung Hoa: “Một bác sĩ hay khoe khoang, chẳng qua vì không có thuốc hay”, nhưng dù vậy ông vẫn đồng ý cho thử.
Đợt điều trị tỏ ra có hiệu quả, tôi giảm dần lượng thuốc ngủ thay vào đó là glucoza. Kết quả cũng không tồi. Khi tôi kể cho Mao, ông nhận xét:
– Chẳng lâu nữa, đồng chí điều trị cho tôi chỉ bằng glucoza phải không?
Cũng có những ngày, khi Mao quá lo lắng, cách điều trị của tôi cũng không tác dụng. Thực ra cơn mất ngủ của Mao do hai nguyên nhân. Ngoài nhịp điệu sinh học còn có suy nhược thần kinh.
Mặc dù đã từ lâu suy nhược thần kinh không được coi là bệnh ở Hoa Kỳ, bản thân nó chỉ là triệu chứng, với nhiều tên khác nhau, nhưng rất phổ biến ở Trung Quốc, kể cả Mao và Giang Thanh thường xuyên mắc phải. Chứng suy nhược thần kinh thường do tình trạng tâm sinh lý quá căng thẳng gây nên trầm cảm. Đối với người Trung Hoa nếu chấp nhận mình bị trầm cảm là điều thật nhục nhã và đáng xấu hổ vì bản chất sự trầm cảm biểu lộ bằng thực thể. Chứng mất ngủ là triệu chứng thường thấy và thường xảy ra của chứng suy nhược thần kinh, nhưng ngoài ra nó còn biểu hiện những triệu chứng khác như cơn đau đầu, tức ngực kéo dài, hay lo lắng, tăng áp huyết, phiền muộn, giảm tình dục, bệnh ngoài da, rối loạn tiêu hoá, chán ăn, dễ bực tức và nhiều chứng khác.
Dần dần tôi nhận thấy chứng suy nhược thần kinh phổ biến nhiều nhất từ khi đất nước chuyển sang chế độ cộng sản do sự hạn chế tự do cá nhân và cảm giác tuyệt vọng không tránh khỏi. Tôi nhận ra triệu chứng này từ 1952, khi anh trai tôi mắc chứng suy nhược thần kinh với dấu hiệu tăng huyết áp, cộng thêm những triệu chứng khác xảy ra trong những năm đấu tranh khốc liệt của chiến dịch “ba chống”: hối lộ, lãng phí, quan liêu. Sau chiến dịch “chống hữu khuynh trong đảng” năm 1957, hậu quả làm hàng triệu người vô tội bị quy kết sai lầm, hội chứng suy nhược thần kinh tăng lên đột biến. Trong những năm dưới thời chính phủ Quốc Dân Đảng tôi không nhận thấy có dấu hiệu suy nhược thần kinh như vậy. Dưới chế độ đó, xấu dở gì người ta cũng còn có lối thoát, chạy đi nơi khác nhưng dưới thời cộng sản, người ta không còn lựa chọn nào, không thể đi đâu. Số người bị rối loạn tâm thần rất lớn như tâm thần phân lập, trầm cảm do hoang tưởng dưới chế độ cộng sản tăng lên, một số rơi vào tình trạng “khủng hoảng tư tưởng”. Đối với người Trung Hoa, người ta định kiến, coi chứng rối loạn tâm thần như là do trắc trở cá nhân và được xem như chuyện đáng xấu hổ và nhục nhã. Vì thế người ta không đi khám và chữa bệnh, thường giải quyết riêng trong nội bộ. Cách giải quyết này tiếp diễn cho đến khi Mao qua đời. Tất cả các bác sĩ đều biết, những người mắc chứng suy nhược thần kinh đều gặp những chuyện bất ổn lớn về tinh thần, nhưng bác sĩ chỉ kê đơn điều trị triệu chứng chứ không tìm hiểu nguyên nhân sâu xa để trị tận gốc bệnh tật đó.
Đàm luận với Mao về cơn mất ngủ của ông và những chứng bệnh lặt vặt khác, tôi thậm chí không dám đả động đến từ “suy nhược thần kinh”, bởi vì biết điều này làm Mao nổi cơn thịnh nộ, tôi có thể bị mất việc. Ngay cả Mao cũng không đả động đến từ này. Khi nào đi ngủ bị ức chế, ông nói với tôi, ông cảm thấy bất ổn và nhờ tôi giúp. Tôi cho ông nhân sâm và vitamin B và C. Chứng suy nhược thần kinh của Mao biểu hiện: mất ngủ thường xuyên, choáng váng, ngứa da và liệt dương. Bệnh trở lên nghiêm trọng mỗi khi quá lo lắng vì cuộc đấu đá nội bộ. Một lần trong buổi đi dạo trên cánh đồng, bỗng nhiên đầu óc ông quay cuồng, choáng váng các vệ sĩ đã phải đỡ cho ông khỏi ngã. Những trường hợp như thế sau này xảy ra thường xuyên. Trong buổi giao tiếp với đoàn đại biểu Châu Phi, khi các vị đại biểu xúm quanh Chủ tịch, đột nhiên tôi thấy họ lúng túng, chỉ chỉ chỏ chỏ. Tôi nhận thấy Mao lảo đảo, lập tức chạy lại đỡ ông. Từ đó bất cứ ông ở đâu, đi dạo hay tiếp khách đều có đoàn vệ sĩ đi kèm đề phòng ông mất thăng bằng. Nhưng khi nào ông nghỉ ngơi, vui vẻ những dấu hiệu trên biến mất, tôi đã cho làm tất cả các xét nghiệm cần thiết về tim mạch, não đồ, kiểm tra tai mũi họng nhưng không thấy gì lạ, tất cả đều bình thường.
Nguyên nhân gây ra chứng suy nhược thần kinh của Mao chủ tịch khác hẳn với người dân bình thường. là một vị lãnh tụ đầy quyền lực của quốc gia, chính ông là nguyên nhân gây bất hạnh cho người khác. Chứng suy nhược thần kinh của ông do quá đa nghi, thiếu niềm tin vào sự trung thành của các chiến hữu trong đảng, ông có rất ít bạn đáng tin cậy. Các triệu chứng tăng mỗi khi có cuộc đấu tranh chính trị dữ dội trong nội bộ. Trong thời gian đề ra sách lược tranh giành quyền lực chính trị quyết liệt với phe đối lập, hầu như ông mất ngủ cả tuần, thậm chí cả tháng. Nhưng tôi lại không hiểu khi tôi nhận chức vụ đảm nhiệm chăm sóc sức khoẻ cho Chủ tịch đúng lúc ông đang trong cuộc đấu tranh giải quyết những vấn đề về phát triển nông thôn, tôi phải điều trị chứng mất ngủ trong vô vọng vì ông đang vật lộn trong cuộc đấu đá nội bộ.
Mao rất muốn đẩy mạnh cải cách trong nước, càng nhanh càng sớm càng tốt, không cần đến điều kiện khách quan. Tiến độ chậm chạp của cuộc cải cách ở nông thôn làm ông điên tiết, dù rằng từ đầu những năm 50 ngay sau khi thành lập nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, đã tịch thu ruộng đất và tài sản của địa chủ chia cho nông dân. Tuy ruộng đất vẫn còn nằm trong tay sở hữu riêng, nhưng Mao muốn tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không chờ cơ giới hoá nông nghiệp, vì ông cho rằng Trung Quốc quá nghèo, nếu chờ quá trình cơ khí hoá thì quá lâu.
Những hợp tác xã nông nghiệp được chỉ đạo tiến hành rất sớm ở nông thôn từ năm 1953, đẩy nhanh xu hướng xây dựng liên hợp kinh tế nông nghiệp lớn khác thường và việc tước đoạt từ tay nông dân phương tiện sản xuất và gia súc đã gây ra chống đối mạnh mẽ không những từ phía các người lãnh tụ chính trị đối lập mà còn từ phía nông dân. Ở một số vùng kinh tế tập thể bị tan rã nhanh ngay sau khi nó được thành lập. Mao trút tội không những xuống đầu người lãnh đạo Ban nông nghiệp Ban chấp hành trung ương đảng Đặng Tử Huy mà nhiều cả nhiều cán bộ trong đảng. Ông buộc tội họ chậm chạp, thiếu cương quyết, thậm chí cả tội phá hoại ngầm. Đặng Tử Huy bị mất chức, cơ quan do ông lãnh đạo bị giải tán. Thật ra, người ta không gạt Đặng Tử Huy ra khỏi guồng máy, mà thuyên chuyển ông sang cương vị nhỏ hơn. Về sau Mao tâm sự với tôi:
– Đặng Tử Huy đã sát cánh với chúng tôi trong những năm cách mạng. Tuy nhiên sau khi giải phóng, ông ta đã đi chệch đường.
Sự chia rẽ của Mao với chiến hữu trở nên gay gắt từ mùa hè 1955, khi những người lãnh đạo đảng cộng sản họp hội nghị ở Bắc Đới Hà. Tại đây, Mao đã phớt lờ sự khuyên can, ngăn cản ông bơi ra biển, dù biết thất bại nhưng họ vẫn làm.
Trong những năm đầu tiên cạnh Mao, tôi cố gắng tránh mọi chuyện liên quan đến chính trị mà chỉ quan tâm về lượng bạch cầu tăng, giảm tình dục, chứng mất ngủ của Chủ tịch. Lúc ấy tôi không biết gì về cuộc đấu tranh mạnh mẽ mà Mao tiến hành chống những phe bảo thủ trong đảng. Mặc dù thất bại, nhưng thời gian từ mùa đông 1955 đến mùa xuân 1956, Mao tổ chức một loạt các cuộc họp, ông trình bày chương trình cải cách chủ nghĩa xã hội trong nước. Cuối mùa thu 1955, ông bắt đầu viết cuốn: “Sự đi lên chủ nghĩa xã hội của nông thôn Trung Quốc”, chọn lọc những bài diễn văn, phát biểu của mình về vấn đề tập thể hoá, sửa chữa và bổ xung, viết lời mở đầu và kêu gọi đẩy mạnh cuộc cải cách nông thôn. Ông chỉ trích nặng nề Ban chấp hành Trung ương đảng, đưa ra đường lối cho đảng đẩy mạnh tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nông thôn. Trong thời kỳ căng thẳng và kích động này ông thường xuyên mất ngủ.
Một ngày vào cuối năm 1955, trong thời kỳ ông đang viết sách, có lần 3 ngày liền ông ngủ thất thường, có khi thức trắng hơn 36 giờ đồng hồ. Những viên thuốc ngủ tôi đưa, ông uống nhưng hầu như chẳng tác dụng gì. Để bớt căng thẳng và mệt mỏi ông thường đi bơi và gọi tôi.
Khi tôi đến bể bơi, Mao nằm trên ghế bố. Trên khuôn mặt đỏ ửng của ông lộ vẻ kích động mạnh, trông rất mệt mỏi. Ông bảo tôi cùng bơi, nhưng tôi lịch sự từ chối, nói, chưa kịp ăn sáng, thời gian ấy tôi vẫn còn kiêm nhiệm công việc trong bệnh viện Trung Nam Hải. Mao cười và nói:
– Tôi cũng chưa ăn và chưa ngủ, nhưng cũng đã kịp nhảy xuống nước bơi được một giờ rồi. Tôi uống toa thuốc của đồng chí ba lần, nhưng không thể ngủ được. Đồng chí, có lẽ, lại giảm đô phải không?
– Đâu có thưa chủ tịch, đô thuốc vẫn như trước đây thôi – Tôi trả lời.
– Thế thì đồng chí làm cái gì đó rồi để tôi ngủ được chứ.
Tôi kê đơn cho Mao dung dịch chloralhydrade, Phó Liêm Chương đã nói với tôi rằng Mao không thích uống thuốc dạng nước. Vì thế tôi báo trước cho Mao thuốc sẽ đắng và hơi cay.
Mao trả lời:
– Không sao đâu, tôi thích tất cả các thứ cay đắng.
Tôi đến kho dược do Phó Liêm Phương phụ trách, chuyên chứa thuốc dành cho Mao và các lãnh tụ cao cấp khác. Thuốc mua từ một hãng nào đấy ở Hong Kong, nhập từ Anh, Mỹ và Nhật. Tất cả thuốc được kiểm tra, bảo quản cẩn thận. Để tăng cường biện pháp an toàn, tất cả toa thuốc kê cho Mao đều mang tên Lý Đăng Sơn. Tên “Lý” năm 1947 là bí danh của Mao, do sự đối mặt sự tấn công của quân Quốc dân đảng, những người cộng sản buộc phải rút khỏi Diên An. Trong khi dược sĩ đang pha chế, Phó Liêm Chương đến lưu ý tôi rằng Mao không thích thuốc nước, và cũng nhận xét rằng chloralhydrade làm cho Mao rất khó chịu về mùi, Chủ tịch có thể cáu. Tôi nói, Chủ tịch đã được báo trước và đồng ý, yêu cầu nhanh lên, ông đang đợi tôi.
– Sau này tôi sẽ thông báo cho đồng chí kết quả.
Tôi trả lời và đi ra cổng.
– Đồng chí đã tự ý hành động chẳng hỏi ý kiến tôi gì cả!
Phó Liêm Chương bỏ đi, vẻ khó chịu.
Phó Liêm Chương cho rằng tôi là thuộc cấp của ông và bắt tôi phải cung cấp tin tức tất cả những gì liên quan tới sức khoẻ của lãnh tụ. Phó Liêm Chương rất tự hào, có nhiều năm quan hệ tốt với Mao, tin rằng Chủ tịch sẽ nghe lời khuyên của ông ta. Nhưng thời thế đã đổi thay, giờ đây Mao lại tin tôi hơn.
Chủ tịch chờ tôi ở bể bơi, mời tôi ăn trưa với ông. Tôi bảo:
– Thuốc nên uống trước khi ăn.
Sau đó tôi rót 15 phân khối dung dịch 10% chloralhydrade vào chén đưa cho Mao. Ông uống một hơi, nói, cũng không khó uống, thậm chí còn giống rượu vang mà Mao hiếm khi dùng. Ông nói thêm:
– Bây giờ xem nó tác dụng ra sao!
Chúng tôi còn chưa kịp ăn xong bữa, thuốc đã bắt đầu ngấm. Mắt Mao đờ đẫn, ông bắt đầu thẫn thờ. Cuối bữa ông gần như không còn biết gì nữa. Tôi dìu ông vào phòng ngủ bên cạnh bể bơi, hai giờ chiều ông đã chìm trong giấc ngủ và ngủ một mạch hơn 10 tiếng đồng hồ.
Đến nửa đêm một vệ sĩ gặp tôi và với giọng ngưỡng mộ gọi tôi là phù thuỷ.
Khi tôi đến, ông vẫn còn nằm trên giường, mắt nhắm nghiền. Khi mở mắt, lấy thuốc lá và hỏi:
– Đồng chí cho tôi thuốc gì hay thế?
– Đây là một loại thuốc ngủ. Người ta biết nó từ thế kỷ thứ 12, tác dụng của nó đối với cơ thể đã được biết cặn kẽ. Không có chống chỉ định nào cả.
– Vì sao đồng chí không đưa thuốc này cho tôi từ trước?
Tôi giải thích:
– Người ta nói cho tôi rằng Chủ tịch không thích thuốc nước, ngoài ra, vị của nó khá đắng, khó uống, và gần đây trong kho chưa có thuốc này.
Thực ra giữa sodium amytal và chloralhydrade chẳng có gì khác nhau đáng kể. Đơn giản, Mao bị kích thích bởi những cơn mất ngủ đến nỗi trò quảng cáo thuốc của tôi, có thể, gây nên hiệu quả tâm lý thuần tuý.
Tôi cảm thấy Mao biết rõ chứng suy nhược thần kinh của ông do nguyên nhân tâm lý, ông tin vào hiệu quả của tác dụng thuần tuý tâm lý. Khi Mao còn nhỏ bị ốm nặng, mẹ ông đưa lên chùa, thắp hương quỳ lạy, cầu Trời Phật phù hộ độ trì cứu giúp đứa con bệnh tật của bà. Chẳng bao lâu sau, Mao hồi sức và khỏi bệnh.
Mao nói với tôi:
– Tôi luôn luôn chống lại việc phá đền phá chùa.
Trong khi đó những lãnh tụ cộng sản khác ra lệnh triệt phá chùa chiền trong cả nước. Chủ tịch nói tiếp:
– Những người nghèo khi đau ốm cần tìm sự giúp của trời phật mà họ tin tưởng. Họ cầu cứu Phật để chữa khỏi bệnh, nhưng thay vì thuốc men, họ chỉ cần được một nhúm tàn nhang làm thuốc thánh. Tuy thế thậm chí chỗ tàn hương đó cũng làm giảm bớt đau đớn, buồn phiền bởi họ đặt tất cả niềm tin vào nhúm tàn nhang đó, giúp họ vượt qua bệnh tật của chính mình, trả lại sức khoẻ cho họ. Chẳng lẽ thuốc ngủ lại không giống tàn nhang hay sao? Chẳng lẽ nó không làm tôi khỏi bệnh? Tôi cảm thấy rằng trong tủ thuốc của đồng chí hãy còn không ít thuốc thần diệu.
Sau cuộc độc thoại lạ lùng này, Mao tuyên bố:
– Bây giờ đồng chí có thể về nhà và ngủ một lúc đi. Tôi lại bắt tay vào công việc.
Từ đó Mao chỉ chấp nhận chloralhydrade và thường uống nó với seconal natri. Đến lúc này ông đã bắt đầu quen thuốc. Chúng không những giúp ông ngủ được, còn kích thích khẩu vị, thậm chí nó có tác dụng như ma tuý. Ông chuộng trạng thái lâng lâng gây ra bởi thuốc, ông thường dùng nó khi cần tiếp khách hay họp hành. Ông cũng không quên chúng cả trong các buổi dạ hội khiêu vũ.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Mời đọc: Chương kế tiếp [10]
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần II. 1949-1957 – Chương 10
Posted: 25/06/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tôi vốn giữ quan điểm tránh xa chính trị cho nên không quan tâm sự căng thẳng ngày càng tăng giữa Mao và lãnh tụ trong trung ương. Nhưng vào đầu năm 1956, tôi cảm thấy Chủ tịch bất an, day dứt, phiền muộn nào đó về chính trị. Sau này tôi mới biết, năm 1956, thời điểm xảy ra nhiều biến cố, chính năm ấy mầm mống của cuộc Cách mạng văn hoá đã hình thành, gieo mầm sự xáo trộn chính trị to lớn, mà sau này nó đã làm chao đảo cả đất nước suốt một thập kỷ liền.
Bản báo cáo chính trị bí mật của Khrushchev chống Stalin tại Đại hội lần thứ XX của đảng cộng sản Liên Xô vào tháng hai năm 1956 đã đưa đến sự chia rẽ lớn trong nội bộ quốc tế cộng sản.
Mao không tham dự Đại hội đảng ở Moskova. Đoàn đại biểu Trung Quốc do Chu Đức dẫn đầu, người đồng sáng lập Hồng Quân với Mao, vị chỉ huy tối cao đội quân du kích trong chiến tranh. Khi đó, Chu Đức khoảng 70 tuổi, đẹp lão với mái tóc đen dày, có nụ cười hiền hậu. Ông không hề có tham vọng chính trị. Sau giải phóng, ông hầu như đã về hưu, từng giữ những vụ quan trọng: Phó chủ tịch Quốc Vụ Viện, (từ năm 1949 đến năm 1954), Phó chủ tịch nước và phó chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (từ năm 1954 đến năm 1959). Những ngày không đi thị sát, không làm việc dưới cơ sở, ông dành thời gian chăm sóc những giò phong lan trong nhà vườn của ông ở Trung Nam Hải, nơi ông trồng tới hơn một nghìn giò lan các loại. Tuy giữ chức phó chủ tịch nước ngồi chơi xơi nước, nhưng chúng tôi thường gọi ông là “Tổng tư lệnh” và ông được nhân dân Trung Quốc kính trọng, vì ông đã góp phần đưa đảng cộng sản lên nắm chính quyền.
Chu Đức không được chuẩn bị trong cuộc công kích Stalin của Khrushchev. Ông điện hỏi Mao về việc đó và xin chỉ thị nên phản ứng như thế nào. Là cựu phó tổng tư lệnh quân đội, ông đề nghị Trung Quốc nên ủng hộ việc chỉ trích của Khrushchev. Mao phẫn nộ:
– Chu Đức đúng là dốt! – giận dữ, Mao thốt lên – Khrushchev và Chu Đức cả hai thật không thể chấp nhận được.
Thêm vào đó, Mao lại có niềm tin huyền bí vào vai trò của người lãnh đạo. Ông không hề băn khoăn khi cho rằng, chỉ có sự lãnh đạo duy nhất của ông mới cứu vãn và thay đổi được đất nước Trung Hoa. Ông chính là Stalin của Trung Quốc, ai cũng biết điều đó. Mao hình dung, ông là đấng Cứu thế của đất nước. Việc Khrushchev chỉ trích Stalin đã buộc Mao phải đề phòng, rồi có lúc quyền lực của ông bị xói mòn và địa vị lãnh đạo của ông gặp trắc trở. Đối với Mao việc tán thành chỉ trích phê phán Stalin chính là phê phán và đe doạ quyền lực cá nhân ông. Sau khi Stalin chết và Khrushchev lên thay vào năm 1953, Mao đã chúc mừng việc bổ nhiệm này. Nhưng khi Stalin bị chỉ trích, Mao trở thành đối thủ không đội trời chung đối với Khrushchev. Dưới con mắt của ông, người lãnh đạo mới của Liên Xô đã phạm một nguyên tắc cơ bản của cách mạng. Đó là nguyên tắc trung quân bất di bất dịch. Mặc dù Khrushchev chịu ơn Stalin về tất cả mọi việc, nhưng ông ta lại chống Stalin.
Hơn nữa, theo Mao, ngoài việc chỉ trích của mình, Khrushchev đã bắt tay với Mỹ, tức là bất tay với tên đế quốc đầu sỏ. Ông tố cáo:
– Ông ta đã trao gươm cho người khác để bầy cọp có thể nuốt chửng chúng ta. Nếu họ không muốn giữ thanh gươm đó, chúng ta sẽ giữ nó. Chúng ta có thể sử dụng nó một cách hữu hiệu. Liên Xô muốn chỉ trích Stalin, nhưng chúng ta sẽ không làm điều đó. Nhưng không chỉ có vậy, chúng ta sẽ kiên định ủng hộ Stalin.
Tôi đã từng ngưỡng mộ Stalin, coi ông là vị lãnh tụ vĩ đại, một vị cứu tinh của Liên Xô cũng giống như Mao của người Trung Hoa. Ấy thế Mao lại không chấp nhận đường lối, chủ trương và không hề ngưỡng mộ Stalin. Sự thật Mao coi thường Stalin. Khi Mao kể cho tôi về thái độ của ông đối với vị lãnh tụ Xô viết quá cố, tôi mới sửng sốt nhận ra rằng, Stalin và ông không bao giờ có thể đồng hành với nhau được. Qua lời kể, tôi thấy rõ sự tức giận của Mao đối với Stalin một cách đầy đủ vào đầu năm 1956. Qua đây tôi mới rõ, Mao thường dối trá cho phù hợp trong ván bài chính trị của ông.
Sự cừu địch của Mao đối với vị lãnh tụ Liên Xô này thật ghê gớm, từ thời kỳ Xô viết Giang Tây, đầu những năm 1930.
Năm 1924, khi đảng cộng sản Trung Quốc mới gần ba tuổi, Quốc tế cộng sản đã chỉ thị cho tổ chức đảng còn non trẻ này hợp tác với Quốc dân đảng thành lập một liên minh chính trị. Vì ở Trung Quốc đang gặp khủng hoảng, phái Quốc gia vừa lật đổ các thế lực phong kiến địa phương cát cứ, cần đoàn kết thống nhất dưới một chính phủ để lãnh đạo đất nước. Một mặt trận thống nhất đã được hình thành. Tuy nhiên, năm 1927, Tưởng Giới Thạch đã dồn hết sức chống lại những người cộng sản vùng ngoại ô, cơ sở chính của đảng làm cho số đảng viên giảm đi mau chóng trong các thành phố. Khi đó, Mao đã trở về quê ông ở Hồ Nam, nơi ông đã chứng kiến những cuộc nôi dậy của nông dân. Theo kinh nghiệm, những cuộc nổi dậy ở Trung Quốc thường xuất phát từ nông thôn. Bởi vậy Mao hiểu rằng, nếu có một cuộc cách mạng xảy ra ở đất nước này trong thế kỷ 20, khởi điểm của nó chính từ nông thôn, nông dân sẽ là lực lượng nòng cốt trong cuộc cách mạng đó. Ông đã đưa ra một chiến lược táo bạo, mặc dù nó không tuân theo học thuyết Marx-Lenin chính thống. Nhưng những điều kiện lịch sử ở Trung Quốc lại diễn ra hoàn toàn ngược lại. Theo diễn giải của Mao, đảng cộng sản sẽ là người lãnh đạo nông dân nổi dậy. Tại những vùng núi hẻo lánh thuộc tỉnh Giang Tây, ông đã xây dựng một căn cứ địa, thực hiện cải cách ruộng đất với sự hỗ trợ của nông dân. Ngoài ra, ông thường đưa du kích tiến hành những cuộc tập kích vào quân Tưởng Giới Thạch, hy vọng sẽ tiêu hao được sinh lực của những người quốc gia, tạo điều kiện cho nông dân chiếm được các đô thị. Dưới sự chỉ huy của Mao, khu Xô viết tỉnh Giang Tây ngày càng được mở rộng.
Năm 1930, Stalin bổ nhiệm Vương Minh, người vừa tốt nghiệp khoá học vài năm ở Liên Xô, mới 25 tuổi, làm đại diện của Quốc tế cộng sản ở Trung Quốc. Theo Mao, mặc dù Vương Minh không muốn giành quyền lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc, nhưng những việc làm và hành động của Vương Minh chuyển hoạt động cách mạng từ nông thôn vào thành thị, do đó đã đẩy những người cộng sản còn non kém vào những cuộc chiến đấu vô vọng. Ở khu Xô viết, Mao bị coi là bảo thủ và ông bị dồn đến chân tường. Mao kể:
– Stalin gọi tôi là người cộng sản hai mang – đỏ vỏ trắng lòng.
Khu Xô viết Giang Tây thành lập. Tưởng Giới Thạch đem quân bao vây khu căn cứ ở vùng núi, bắt đầu hàng loạt các cuộc tấn công mãnh liệt mà Tưởng gọi là “chiến dịch tảo thanh” và gần như thành công. Chiến dịch tảo thanh thứ năm mang ý nghĩa tiêu diệt đảng cộng sản Trung Quốc đến cùng. Nhưng đảng cộng sản quyết định phá vòng vây, thực hiện một cuộc rút lui nổi tiếng, cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Ngay sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh này, Mao đã đoạt lại vị trí lãnh đạo của ông.
Mao đã buộc Stalin và Quốc tế cộng sản phải chịu trách nhiệm đối với những khủng hoảng trước đây của đảng. Theo ông, Quốc tế cộng sản đã biến những lối thoát có lợi thành ngõ cụt. Ông nói:
– Khi đó trong những vùng do Quốc dân đảng kiểm soát ở đô thị chúng ta đã bị tiêu diệt 100%, và 90% ở khu Xô viết. Lẽ ra chúng ta phải buộc Stalin hoặc Liên Xô chịu trách nhiệm về thảm hoạ đó, chúng ta lại khiển trách một số đồng chí của mình, vì thứ chủ nghĩa giáo điều mang tính duy ý chí sai lầm của họ.
Không phải Stalin, chính Vương Minh, tín đồ của chính sách Stalin, phải chịu trách nhiệm về tai hoạ này. Thậm chí, Mao cũng đã kết tội ông ta là người “cánh tả phiêu lưu”.
Ngoài ra, Mao còn chỉ trích Stalin, sau chiến tranh thế giới thứ hai ông ta đã quy phục trước sức mạnh của Mỹ và khuyên đảng cộng sản Trung Quốc noi gương các đảng cộng sản Pháp, Ý và Hy Lạp, buông súng đầu hàng chính phủ, tức là đầu hàng Quốc dân đảng. Nhưng Mao đã cự tuyệt. Trong cuộc nội chiến giữa những người Quốc gia và những người cộng sản, Stalin không hề giúp những người cộng sản một khẩu súng hay một viên đạn nào, kể cả “đến cái rắm cũng không”. Chẳng những thế, ông ta lại ép những người cộng sản phải ngừng cuộc hành quân của họ ở phía Bắc sông Dương Tử, để cho Quốc dân đảng kiểm soát toàn bộ miền Nam. Mao nói: “Chúng tôi không thèm đề ý đến lời ông ta”.
Tôi thường nghe, phần lớn vũ khí mà những người cộng sản dùng trong cuộc nội chiến là từ Liên Xô và được để lại khi người Xô Viết rời Mãn Châu sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Nhưng Mao lại không muốn xác nhận Liên Xô đã giúp và tôi khó cãi lại ông được.
Khi những người cộng sản chiếm thành phố Nam Kinh – thủ phủ của Quốc dân đảng, Tưởng Giới Thạch phải chạy trốn về Quảng Châu. Mao nói, đại sứ Anh và Hoa Kỳ đã ở lại Nam Kinh để hợp tác với chính phủ mới. Ngược lại, Liên Xô đã ủng hộ Quốc dân đảng và chuyển sứ quán của họ về Quảng Châu. Theo Mao, Stalin không muốn những người cộng sản chiến thắng. Mao nói tiếp:
– Mùa đông năm 1949, chỉ vài tháng sau giải phóng, tôi đi hội đàm ở Liên Xô. Nhưng Stalin không tin tôi. Hai tháng trôi qua vẫn không thấy động tĩnh gì. Cuối cùng, tôi bực quá và nói: “Nếu đồng chí không muốn hội đàm, chúng ta cứ gác việc đó lại và tôi về”.
Nhưng rồi, cuối cùng Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ song phương giữa Liên Xô và Trung Quốc cũng đã được ký.
Cuộc chiến ở Triều Tiên cũng gây ra căng thẳng giữa Mao và Stalin. Tôi thường nghĩ, Liên Xô và Trung Quốc đã hợp tác với nhau trong chiến tranh, thế nhưng Mao lại phủ nhận. Ông nói:
– Khi quân đội Mỹ tiến đến biên giới Trung – Triều tại sông Áp Lục, tôi đã nói với Stalin, chúng tôi sẽ điều quân đến đó. Nhưng Stalin không đồng ý, vì ông ta sợ xảy ra Thế chiến thứ ba.
Mao báo cho Stalin, nếu ông ta không muốn tham chiến nhưng nếu người Mỹ chiếm được Triều Tiên, họ sẽ không chỉ đe doạ Trung Quốc, còn là mối nguy hiểm đối với cả Liên Xô nữa. Môi hở răng lạnh! Cứ muốn đánh nhau, Mao lại phải cần đến vũ khí của Liên Xô. Một khi Liên Xô sợ Mỹ và Anh kết tội ủng hộ Trung Quốc, Trung Quốc buộc phải mua vũ khí của Liên Xô. Trung Quốc sẽ đơn phương chiến đấu và Liên Xô không dính dáng gì đến việc này. Mao quy cho Stalin muốn chia cắt Trung Quốc. Để làm điều đó, Stalin đã cố đưa Cao Cương lên làm một thứ hoàng đế Mãn Châu và thành lập ở đây một đảng cộng sản riêng.
Sự khẳng định của Mao làm tôi ngạc nhiên. Trong công luận tất cả mọi người cho rằng Liên Xô là anh cả của Trung Quốc, là tấm gương cho sự phát triển xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc là đồng minh thân thiết. Nhưng theo Mao, thực ra sự tương quan này gần như là mối quan hệ Hoàng Đế và chư hầu. Mao nói: “Họ muốn nuốt chửng chúng ta”. Không bao giờ ông muốn bị thất thế. Lịch sử đã dạy ông, nên ủng hộ những đất nước xa xôi, nên thận trọng đối với những nước láng giềng, đừng có đặt niềm tin vào chủ nghĩa bành trướng Xô viết.
Tuy nhiên, Mao không bao giờ để lộ sự chỉ trích, với tư cách một người lãnh đạo cách mạng, Mao vẫn liên hệ mật thiết với Stalin.
Bản tường trình của Khrushchev cũng làm cho chính sách đối nội của Trung Quốc thay đổi. Việc Chu Đức đề nghị Trung Quốc nên ủng hộ việc chỉ trích Stalin là một sự xúc phạm ghê gớm đối với Mao. Không bao giờ tôi tin Chu Đức lại là mối nguy hiểm đối với Mao và sự bực tức của Mao là vô lý. Nhưng trước đây, Mao và Chu Đức đã từng tranh cãi với nhau khi còn ở Giang Tây và Mao đã quả quyết, nhận định ban đầu của Chu Đức về bản tường trình của Khrushchev đã “phản ánh tư tưởng của ông ta”. Vì vậy ông nghi ngờ sự trung thành của Chu Đức.
Ngày 1-5-1956, hai tháng sau khi bản tường trình của Khrushchev được công bố và cơn giận lôi đình của Mao, Chu Đức lâm bệnh. Thực ra, tình trạng sức khỏe đã không cho phép ông có mặt trên khán đài ở quảng trường Thiên An Môn, nhưng đó lại là một sự kiện chính trị quan trọng, vì các vị lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc đều phải có mặt vào ngày hôm đó để chụp một bức ảnh chính thức. Bởi thế, Chu Đức ngại rằng người ta sẽ có ấn tượng nào đấy khi ông vắng mặt trước công chúng. Ông đã nói với Trần Dương Anh, vợ goá của Nhậm Bích Thế:
– Nếu tôi không đến, mọi người sẽ nghĩ tôi đã phạm một sai lầm tồi tệ về chính trị và vì thế buộc phải vắng mặt.
Cuối cùng, khi chụp ảnh, Chu Đức mệt mỏi, mặt tái mét đứng vào chỗ của ông cách không xa Mao chủ tịch.
Mao không bao giờ tha thứ cho Khrushchev vì đã chỉ trích Stalin. Tuy nhiên, vào năm 1956 tôi để ý thấy Mao cũng thường bất bình với ban lãnh đạo đảng của ông như thế nào. Trước hết, lớp người hèn hạ, cứng nhắc, dập khuôn theo mô hình Xô viết đã làm ông không hài lòng.
Ngay năm 1956, Trung Quốc đã dập khuôn theo mô hình của Liên Xô. Một bộ máy quan liêu, cồng kềnh đã được triển khai từ trung ương đến những vùng nông thôn đã ra đời dưới sự điều hành trực tiếp của đảng cộng sản. Công cuộc tập thể hoá nông nghiệp đã hoàn thành, những nhà máy và doanh nghiệp lớn ở các thành phố đều do nhà nước quản lý. Các xí nghiệp tiểu thủ công nghiệp có quy mô nhỏ hơn và các cửa hiệu đã bị quốc hữu hoá hoặc được giao cho chính quyền địa phương quản lý. Sự chuyển biến mang tính xã hội chủ nghĩa gần như đã hoàn chỉnh về kinh tế và hệ thống hành chính quan liêu.
Nhưng sự chuyển biến về tư tưởng, sự hồi sinh sống động của Trung Quốc Mao ao ước thật khó đạt được. Với số lượng cơ quan hành chính dầy đặc, những chiến sĩ cách mạng kỳ cựu đã trở thành những kẻ quan liêu, đối với họ, đặc quyền đặc lợi và địa vị xã hội quan trọng hơn cả tư tưởng cách mạng của Mao. Mao tỏ ra nóng lòng. Ông muốn đẩy mạnh cuộc cách mạng. Nhưng nhưng kẻ quan liêu trong đảng, trong đó có cả những cán bộ lãnh đạo cao cấp, vẫn còn dè dặt và bám lỳ hình mẫu phát triển của Liên Xô. Người ta đã thiết lập những thể chế, cơ cấu tổ chức theo khuôn mẫu của Liên Xô, không lưu tâm đến hoàn cảnh đặc biệt ở Trung Quốc. Do vậy, Mao đã nổi giận với các đồng chí của ông.
Cuộc cách mạng do Mao tiến hành đòi hỏi lòng dũng cảm, sự hăng hái, tinh thần sẵn sàng chiến đấu và Mao cho rằng, những người lãnh đạo của Trung Quốc vẫn còn thiếu những đặc điểm đó. Bởi vì, thậm chí một số người tán thành việc Khrushchev chỉ trích Stalin, nên ông phải dè chừng những thách thức vị trí lãnh đạo của mình. Mao không muốn một thuộc hạ nào của ông noi gương trở thành Khrushchev Trung Hoa lên án ông mãnh liệt sau khi ông qua đời. Cho nên, ông cũng tính đến việc đề phòng có kẻ nào đó âm mưu lật đổ ông khi ông còn sống.
Sự bất bình của ông đối với đảng ngày càng tăng theo năm tháng, nó đã đưa đến cuộc Cách mạng văn hoá đầy thảm hoạ.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tôi vốn giữ quan điểm tránh xa chính trị cho nên không quan tâm sự căng thẳng ngày càng tăng giữa Mao và lãnh tụ trong trung ương. Nhưng vào đầu năm 1956, tôi cảm thấy Chủ tịch bất an, day dứt, phiền muộn nào đó về chính trị. Sau này tôi mới biết, năm 1956, thời điểm xảy ra nhiều biến cố, chính năm ấy mầm mống của cuộc Cách mạng văn hoá đã hình thành, gieo mầm sự xáo trộn chính trị to lớn, mà sau này nó đã làm chao đảo cả đất nước suốt một thập kỷ liền.
Bản báo cáo chính trị bí mật của Khrushchev chống Stalin tại Đại hội lần thứ XX của đảng cộng sản Liên Xô vào tháng hai năm 1956 đã đưa đến sự chia rẽ lớn trong nội bộ quốc tế cộng sản.
Mao không tham dự Đại hội đảng ở Moskova. Đoàn đại biểu Trung Quốc do Chu Đức dẫn đầu, người đồng sáng lập Hồng Quân với Mao, vị chỉ huy tối cao đội quân du kích trong chiến tranh. Khi đó, Chu Đức khoảng 70 tuổi, đẹp lão với mái tóc đen dày, có nụ cười hiền hậu. Ông không hề có tham vọng chính trị. Sau giải phóng, ông hầu như đã về hưu, từng giữ những vụ quan trọng: Phó chủ tịch Quốc Vụ Viện, (từ năm 1949 đến năm 1954), Phó chủ tịch nước và phó chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (từ năm 1954 đến năm 1959). Những ngày không đi thị sát, không làm việc dưới cơ sở, ông dành thời gian chăm sóc những giò phong lan trong nhà vườn của ông ở Trung Nam Hải, nơi ông trồng tới hơn một nghìn giò lan các loại. Tuy giữ chức phó chủ tịch nước ngồi chơi xơi nước, nhưng chúng tôi thường gọi ông là “Tổng tư lệnh” và ông được nhân dân Trung Quốc kính trọng, vì ông đã góp phần đưa đảng cộng sản lên nắm chính quyền.
Chu Đức không được chuẩn bị trong cuộc công kích Stalin của Khrushchev. Ông điện hỏi Mao về việc đó và xin chỉ thị nên phản ứng như thế nào. Là cựu phó tổng tư lệnh quân đội, ông đề nghị Trung Quốc nên ủng hộ việc chỉ trích của Khrushchev. Mao phẫn nộ:
– Chu Đức đúng là dốt! – giận dữ, Mao thốt lên – Khrushchev và Chu Đức cả hai thật không thể chấp nhận được.
Thêm vào đó, Mao lại có niềm tin huyền bí vào vai trò của người lãnh đạo. Ông không hề băn khoăn khi cho rằng, chỉ có sự lãnh đạo duy nhất của ông mới cứu vãn và thay đổi được đất nước Trung Hoa. Ông chính là Stalin của Trung Quốc, ai cũng biết điều đó. Mao hình dung, ông là đấng Cứu thế của đất nước. Việc Khrushchev chỉ trích Stalin đã buộc Mao phải đề phòng, rồi có lúc quyền lực của ông bị xói mòn và địa vị lãnh đạo của ông gặp trắc trở. Đối với Mao việc tán thành chỉ trích phê phán Stalin chính là phê phán và đe doạ quyền lực cá nhân ông. Sau khi Stalin chết và Khrushchev lên thay vào năm 1953, Mao đã chúc mừng việc bổ nhiệm này. Nhưng khi Stalin bị chỉ trích, Mao trở thành đối thủ không đội trời chung đối với Khrushchev. Dưới con mắt của ông, người lãnh đạo mới của Liên Xô đã phạm một nguyên tắc cơ bản của cách mạng. Đó là nguyên tắc trung quân bất di bất dịch. Mặc dù Khrushchev chịu ơn Stalin về tất cả mọi việc, nhưng ông ta lại chống Stalin.
Hơn nữa, theo Mao, ngoài việc chỉ trích của mình, Khrushchev đã bắt tay với Mỹ, tức là bất tay với tên đế quốc đầu sỏ. Ông tố cáo:
– Ông ta đã trao gươm cho người khác để bầy cọp có thể nuốt chửng chúng ta. Nếu họ không muốn giữ thanh gươm đó, chúng ta sẽ giữ nó. Chúng ta có thể sử dụng nó một cách hữu hiệu. Liên Xô muốn chỉ trích Stalin, nhưng chúng ta sẽ không làm điều đó. Nhưng không chỉ có vậy, chúng ta sẽ kiên định ủng hộ Stalin.
Tôi đã từng ngưỡng mộ Stalin, coi ông là vị lãnh tụ vĩ đại, một vị cứu tinh của Liên Xô cũng giống như Mao của người Trung Hoa. Ấy thế Mao lại không chấp nhận đường lối, chủ trương và không hề ngưỡng mộ Stalin. Sự thật Mao coi thường Stalin. Khi Mao kể cho tôi về thái độ của ông đối với vị lãnh tụ Xô viết quá cố, tôi mới sửng sốt nhận ra rằng, Stalin và ông không bao giờ có thể đồng hành với nhau được. Qua lời kể, tôi thấy rõ sự tức giận của Mao đối với Stalin một cách đầy đủ vào đầu năm 1956. Qua đây tôi mới rõ, Mao thường dối trá cho phù hợp trong ván bài chính trị của ông.
Sự cừu địch của Mao đối với vị lãnh tụ Liên Xô này thật ghê gớm, từ thời kỳ Xô viết Giang Tây, đầu những năm 1930.
Năm 1924, khi đảng cộng sản Trung Quốc mới gần ba tuổi, Quốc tế cộng sản đã chỉ thị cho tổ chức đảng còn non trẻ này hợp tác với Quốc dân đảng thành lập một liên minh chính trị. Vì ở Trung Quốc đang gặp khủng hoảng, phái Quốc gia vừa lật đổ các thế lực phong kiến địa phương cát cứ, cần đoàn kết thống nhất dưới một chính phủ để lãnh đạo đất nước. Một mặt trận thống nhất đã được hình thành. Tuy nhiên, năm 1927, Tưởng Giới Thạch đã dồn hết sức chống lại những người cộng sản vùng ngoại ô, cơ sở chính của đảng làm cho số đảng viên giảm đi mau chóng trong các thành phố. Khi đó, Mao đã trở về quê ông ở Hồ Nam, nơi ông đã chứng kiến những cuộc nôi dậy của nông dân. Theo kinh nghiệm, những cuộc nổi dậy ở Trung Quốc thường xuất phát từ nông thôn. Bởi vậy Mao hiểu rằng, nếu có một cuộc cách mạng xảy ra ở đất nước này trong thế kỷ 20, khởi điểm của nó chính từ nông thôn, nông dân sẽ là lực lượng nòng cốt trong cuộc cách mạng đó. Ông đã đưa ra một chiến lược táo bạo, mặc dù nó không tuân theo học thuyết Marx-Lenin chính thống. Nhưng những điều kiện lịch sử ở Trung Quốc lại diễn ra hoàn toàn ngược lại. Theo diễn giải của Mao, đảng cộng sản sẽ là người lãnh đạo nông dân nổi dậy. Tại những vùng núi hẻo lánh thuộc tỉnh Giang Tây, ông đã xây dựng một căn cứ địa, thực hiện cải cách ruộng đất với sự hỗ trợ của nông dân. Ngoài ra, ông thường đưa du kích tiến hành những cuộc tập kích vào quân Tưởng Giới Thạch, hy vọng sẽ tiêu hao được sinh lực của những người quốc gia, tạo điều kiện cho nông dân chiếm được các đô thị. Dưới sự chỉ huy của Mao, khu Xô viết tỉnh Giang Tây ngày càng được mở rộng.
Năm 1930, Stalin bổ nhiệm Vương Minh, người vừa tốt nghiệp khoá học vài năm ở Liên Xô, mới 25 tuổi, làm đại diện của Quốc tế cộng sản ở Trung Quốc. Theo Mao, mặc dù Vương Minh không muốn giành quyền lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc, nhưng những việc làm và hành động của Vương Minh chuyển hoạt động cách mạng từ nông thôn vào thành thị, do đó đã đẩy những người cộng sản còn non kém vào những cuộc chiến đấu vô vọng. Ở khu Xô viết, Mao bị coi là bảo thủ và ông bị dồn đến chân tường. Mao kể:
– Stalin gọi tôi là người cộng sản hai mang – đỏ vỏ trắng lòng.
Khu Xô viết Giang Tây thành lập. Tưởng Giới Thạch đem quân bao vây khu căn cứ ở vùng núi, bắt đầu hàng loạt các cuộc tấn công mãnh liệt mà Tưởng gọi là “chiến dịch tảo thanh” và gần như thành công. Chiến dịch tảo thanh thứ năm mang ý nghĩa tiêu diệt đảng cộng sản Trung Quốc đến cùng. Nhưng đảng cộng sản quyết định phá vòng vây, thực hiện một cuộc rút lui nổi tiếng, cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Ngay sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh này, Mao đã đoạt lại vị trí lãnh đạo của ông.
Mao đã buộc Stalin và Quốc tế cộng sản phải chịu trách nhiệm đối với những khủng hoảng trước đây của đảng. Theo ông, Quốc tế cộng sản đã biến những lối thoát có lợi thành ngõ cụt. Ông nói:
– Khi đó trong những vùng do Quốc dân đảng kiểm soát ở đô thị chúng ta đã bị tiêu diệt 100%, và 90% ở khu Xô viết. Lẽ ra chúng ta phải buộc Stalin hoặc Liên Xô chịu trách nhiệm về thảm hoạ đó, chúng ta lại khiển trách một số đồng chí của mình, vì thứ chủ nghĩa giáo điều mang tính duy ý chí sai lầm của họ.
Không phải Stalin, chính Vương Minh, tín đồ của chính sách Stalin, phải chịu trách nhiệm về tai hoạ này. Thậm chí, Mao cũng đã kết tội ông ta là người “cánh tả phiêu lưu”.
Ngoài ra, Mao còn chỉ trích Stalin, sau chiến tranh thế giới thứ hai ông ta đã quy phục trước sức mạnh của Mỹ và khuyên đảng cộng sản Trung Quốc noi gương các đảng cộng sản Pháp, Ý và Hy Lạp, buông súng đầu hàng chính phủ, tức là đầu hàng Quốc dân đảng. Nhưng Mao đã cự tuyệt. Trong cuộc nội chiến giữa những người Quốc gia và những người cộng sản, Stalin không hề giúp những người cộng sản một khẩu súng hay một viên đạn nào, kể cả “đến cái rắm cũng không”. Chẳng những thế, ông ta lại ép những người cộng sản phải ngừng cuộc hành quân của họ ở phía Bắc sông Dương Tử, để cho Quốc dân đảng kiểm soát toàn bộ miền Nam. Mao nói: “Chúng tôi không thèm đề ý đến lời ông ta”.
Tôi thường nghe, phần lớn vũ khí mà những người cộng sản dùng trong cuộc nội chiến là từ Liên Xô và được để lại khi người Xô Viết rời Mãn Châu sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Nhưng Mao lại không muốn xác nhận Liên Xô đã giúp và tôi khó cãi lại ông được.
Khi những người cộng sản chiếm thành phố Nam Kinh – thủ phủ của Quốc dân đảng, Tưởng Giới Thạch phải chạy trốn về Quảng Châu. Mao nói, đại sứ Anh và Hoa Kỳ đã ở lại Nam Kinh để hợp tác với chính phủ mới. Ngược lại, Liên Xô đã ủng hộ Quốc dân đảng và chuyển sứ quán của họ về Quảng Châu. Theo Mao, Stalin không muốn những người cộng sản chiến thắng. Mao nói tiếp:
– Mùa đông năm 1949, chỉ vài tháng sau giải phóng, tôi đi hội đàm ở Liên Xô. Nhưng Stalin không tin tôi. Hai tháng trôi qua vẫn không thấy động tĩnh gì. Cuối cùng, tôi bực quá và nói: “Nếu đồng chí không muốn hội đàm, chúng ta cứ gác việc đó lại và tôi về”.
Nhưng rồi, cuối cùng Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ song phương giữa Liên Xô và Trung Quốc cũng đã được ký.
Cuộc chiến ở Triều Tiên cũng gây ra căng thẳng giữa Mao và Stalin. Tôi thường nghĩ, Liên Xô và Trung Quốc đã hợp tác với nhau trong chiến tranh, thế nhưng Mao lại phủ nhận. Ông nói:
– Khi quân đội Mỹ tiến đến biên giới Trung – Triều tại sông Áp Lục, tôi đã nói với Stalin, chúng tôi sẽ điều quân đến đó. Nhưng Stalin không đồng ý, vì ông ta sợ xảy ra Thế chiến thứ ba.
Mao báo cho Stalin, nếu ông ta không muốn tham chiến nhưng nếu người Mỹ chiếm được Triều Tiên, họ sẽ không chỉ đe doạ Trung Quốc, còn là mối nguy hiểm đối với cả Liên Xô nữa. Môi hở răng lạnh! Cứ muốn đánh nhau, Mao lại phải cần đến vũ khí của Liên Xô. Một khi Liên Xô sợ Mỹ và Anh kết tội ủng hộ Trung Quốc, Trung Quốc buộc phải mua vũ khí của Liên Xô. Trung Quốc sẽ đơn phương chiến đấu và Liên Xô không dính dáng gì đến việc này. Mao quy cho Stalin muốn chia cắt Trung Quốc. Để làm điều đó, Stalin đã cố đưa Cao Cương lên làm một thứ hoàng đế Mãn Châu và thành lập ở đây một đảng cộng sản riêng.
Sự khẳng định của Mao làm tôi ngạc nhiên. Trong công luận tất cả mọi người cho rằng Liên Xô là anh cả của Trung Quốc, là tấm gương cho sự phát triển xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc là đồng minh thân thiết. Nhưng theo Mao, thực ra sự tương quan này gần như là mối quan hệ Hoàng Đế và chư hầu. Mao nói: “Họ muốn nuốt chửng chúng ta”. Không bao giờ ông muốn bị thất thế. Lịch sử đã dạy ông, nên ủng hộ những đất nước xa xôi, nên thận trọng đối với những nước láng giềng, đừng có đặt niềm tin vào chủ nghĩa bành trướng Xô viết.
Tuy nhiên, Mao không bao giờ để lộ sự chỉ trích, với tư cách một người lãnh đạo cách mạng, Mao vẫn liên hệ mật thiết với Stalin.
Bản tường trình của Khrushchev cũng làm cho chính sách đối nội của Trung Quốc thay đổi. Việc Chu Đức đề nghị Trung Quốc nên ủng hộ việc chỉ trích Stalin là một sự xúc phạm ghê gớm đối với Mao. Không bao giờ tôi tin Chu Đức lại là mối nguy hiểm đối với Mao và sự bực tức của Mao là vô lý. Nhưng trước đây, Mao và Chu Đức đã từng tranh cãi với nhau khi còn ở Giang Tây và Mao đã quả quyết, nhận định ban đầu của Chu Đức về bản tường trình của Khrushchev đã “phản ánh tư tưởng của ông ta”. Vì vậy ông nghi ngờ sự trung thành của Chu Đức.
Ngày 1-5-1956, hai tháng sau khi bản tường trình của Khrushchev được công bố và cơn giận lôi đình của Mao, Chu Đức lâm bệnh. Thực ra, tình trạng sức khỏe đã không cho phép ông có mặt trên khán đài ở quảng trường Thiên An Môn, nhưng đó lại là một sự kiện chính trị quan trọng, vì các vị lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc đều phải có mặt vào ngày hôm đó để chụp một bức ảnh chính thức. Bởi thế, Chu Đức ngại rằng người ta sẽ có ấn tượng nào đấy khi ông vắng mặt trước công chúng. Ông đã nói với Trần Dương Anh, vợ goá của Nhậm Bích Thế:
– Nếu tôi không đến, mọi người sẽ nghĩ tôi đã phạm một sai lầm tồi tệ về chính trị và vì thế buộc phải vắng mặt.
Cuối cùng, khi chụp ảnh, Chu Đức mệt mỏi, mặt tái mét đứng vào chỗ của ông cách không xa Mao chủ tịch.
Mao không bao giờ tha thứ cho Khrushchev vì đã chỉ trích Stalin. Tuy nhiên, vào năm 1956 tôi để ý thấy Mao cũng thường bất bình với ban lãnh đạo đảng của ông như thế nào. Trước hết, lớp người hèn hạ, cứng nhắc, dập khuôn theo mô hình Xô viết đã làm ông không hài lòng.
Ngay năm 1956, Trung Quốc đã dập khuôn theo mô hình của Liên Xô. Một bộ máy quan liêu, cồng kềnh đã được triển khai từ trung ương đến những vùng nông thôn đã ra đời dưới sự điều hành trực tiếp của đảng cộng sản. Công cuộc tập thể hoá nông nghiệp đã hoàn thành, những nhà máy và doanh nghiệp lớn ở các thành phố đều do nhà nước quản lý. Các xí nghiệp tiểu thủ công nghiệp có quy mô nhỏ hơn và các cửa hiệu đã bị quốc hữu hoá hoặc được giao cho chính quyền địa phương quản lý. Sự chuyển biến mang tính xã hội chủ nghĩa gần như đã hoàn chỉnh về kinh tế và hệ thống hành chính quan liêu.
Nhưng sự chuyển biến về tư tưởng, sự hồi sinh sống động của Trung Quốc Mao ao ước thật khó đạt được. Với số lượng cơ quan hành chính dầy đặc, những chiến sĩ cách mạng kỳ cựu đã trở thành những kẻ quan liêu, đối với họ, đặc quyền đặc lợi và địa vị xã hội quan trọng hơn cả tư tưởng cách mạng của Mao. Mao tỏ ra nóng lòng. Ông muốn đẩy mạnh cuộc cách mạng. Nhưng nhưng kẻ quan liêu trong đảng, trong đó có cả những cán bộ lãnh đạo cao cấp, vẫn còn dè dặt và bám lỳ hình mẫu phát triển của Liên Xô. Người ta đã thiết lập những thể chế, cơ cấu tổ chức theo khuôn mẫu của Liên Xô, không lưu tâm đến hoàn cảnh đặc biệt ở Trung Quốc. Do vậy, Mao đã nổi giận với các đồng chí của ông.
Cuộc cách mạng do Mao tiến hành đòi hỏi lòng dũng cảm, sự hăng hái, tinh thần sẵn sàng chiến đấu và Mao cho rằng, những người lãnh đạo của Trung Quốc vẫn còn thiếu những đặc điểm đó. Bởi vì, thậm chí một số người tán thành việc Khrushchev chỉ trích Stalin, nên ông phải dè chừng những thách thức vị trí lãnh đạo của mình. Mao không muốn một thuộc hạ nào của ông noi gương trở thành Khrushchev Trung Hoa lên án ông mãnh liệt sau khi ông qua đời. Cho nên, ông cũng tính đến việc đề phòng có kẻ nào đó âm mưu lật đổ ông khi ông còn sống.
Sự bất bình của ông đối với đảng ngày càng tăng theo năm tháng, nó đã đưa đến cuộc Cách mạng văn hoá đầy thảm hoạ.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
No comments:
Post a Comment