Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 21
Posted: 23/07/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Chúng tôi đi chuyến tàu đặc biệt và sang trọng như thông lệ, lịch trình điều chỉnh theo giấc ngủ bất thường của Mao. Tuy nhiên, những biện pháp an toàn từ thời Uông Đông Hưng đã được thay đổi hoàn toàn. Đoàn hộ tống rút dần xuống đến một phần mười cơ số. Trưởng ban an ninh Vương Kính Tiên, một người nhút nhát, miễn cưỡng lãnh nhiệm vụ khó khăn này. Ông răm rắp tuân theo mọi yêu cầu của Mao từng chi tiết, giảm bớt lực lượng bảo vệ ở Trung Nam Hải xuống mức tối thiểu và chủ yếu sử dụng các đơn vị an ninh ở cơ sở vào việc bảo vệ.
Sau khi Mao quyết định trả đũa, ông đã nhanh chóng bình phục. Bệnh cảm đã khỏi hẳn, tinh thần và thể lực trở lại bình thường. Trên đường, Mao và Lâm Khắc đã dành nhiều thời gian trò chuyện với nhau. Những cuộc trò chuyện của hai người đã giúp tôi lấp những lỗ hổng thông tin của mình. Những cuộc nói chuyện ban đêm giữa tôi với Mao thường được Mao đúc kết lại một hoặc hai ngày sau đó.
Một lần ông nói với tôi:
– Tôi để cho đối thủ tấn công trước sau đó mới đánh trả. Tôi thực hiện ba nguyên tắc. Thứ nhất, làm theo vị hiền triết Lão Tử, tôi án binh bất động. Nếu bị tấn công, sẽ thoái lui, cố thủ và yên lặng. Kẻ thù tưởng đã chiếm ưu thế.
Mao bảo, nếu phản ứng ngay kẻ thù sẽ không dám lộ bộ mặt thật của chúng. Vì vậy chúng ta phải chờ cho tới lúc chúng lộ mặt.
– Chỉ khi nào kẻ thù xuất đầu lộ diện, lúc đó chúng ta mới báo thù. Chúng ta sẽ ăn miếng trả miếng. Đó là triết lý của Khổng Tử.
Thật ra, việc này chẳng liên quan gì tới giáo lý của Khổng Tử, chỉ là một chiến thuật riêng của Mao. Mao không chỉ sử dụng nó để chống những người hữu khuynh, ông còn dùng nó để đối phó với cả những đối thủ trong đảng.
– Lúc đầu, mọi người chẳng biết bọn hữu khuynh là ai, diện mạo của chúng như thế nào, vì thế khó giải thích cho mọi người hiểu. Nhưng bây giờ chúng ta đã có thể mô tả chúng chính xác. Đó là những tên phản cách mạng! Không, chúng ta hãy gọi chúng đơn giản, những “phần tử hữu khuynh”.
Nguyên tắc thứ hai của Mao, chỉ bỏ tù những đối thủ của ông một khi họ phạm những tội nghiêm trọng và chống lại nhân dân. Tại sao ta lại giam giữ để lãng phí sức sản xuất của họ? Nếu không thích hợp với công việc lãnh đạo, họ cũng có thể làm cái gì đó có ích cho xã hội chứ? Cách xử thế như vậy theo truyền thống lâu đời của Trung Quốc.
Nguyên tắc thứ ba: đối thủ phải được cải tạo ngay tại nơi làm việc của họ. Đồng nghiệp phải theo dõi những hành vi, phải nghe ngóng xem họ nói những gì. Mao nói: “Với những chuyện bọn hữu khuynh hành động sẽ cho chúng ta hiểu thế nào là xấu xa, sai trái”.
Theo Mao, ai cũng có thể cải tạo được, ai cũng có cơ hội để trở thành người tốt. Một con bò không tự đi cày hoặc cung cấp sữa cho người. Một con ngựa chưa thuần, người ta không thể cưỡi nó. Một tên phản cách mạng, hay tên gián điệp chẳng hạn, chắc chắn chúng phải có một biệt tài nào đó. Phải tự hỏi vì sao chúng lại trở thành một tên phản cách mạng, tên gián điệp hay kẻ hữu khuynh cơ chứ? Tại sao chúng ta lại không cải tạo, tận dụng những khả năng của chúng.
Mao tỏ ra nổi giận với Nhóm Dân chủ, nói: “Bọn chúng chẳng có đứa nào tử tế cả. Tuy giải tán nhưng chúng ta muốn lôi kéo, đoàn kết với họ, nhưng đảng cộng sản lại muốn cải tạo Nhóm Dân chủ và các đảng phái dân chủ khác. Mặc dầu đã bắt hàng trăm ngàn tên thiên hữu nhưng không tử hình một ai, vì nếu chỉ cần tử hình một tên thôi ta phải tử hình tất cả. Đó là điều luật trong đã từng làm trong thời kỳ thanh lọc đảng đầu thập niên 1940 ở Hồ Nam khi Vương Thực Vị mở chiến dịch tấn công đảng, xuất bản cuốn “Bông Huệ Dại”. Sau khi mở cuộc điều tra, chúng ta phát hiện Vương là phần tử Trotskist, một tên đặc vụ, nhưng tôi yêu cầu không tử hình hắn. Khi quân Quốc Dân đảng tấn công, chúng ta phải rút lui khỏi Hồ Nam, lực lượng an ninh đã xử tử, vì sợ Vương trốn, tôi đã phê bình khiển trách việc này”.
Nhà văn Vương Thực Vị trong cuốn sách của mình, đã chỉ trích cuộc sống xa hoa vương giả của các nhà lãnh đạo của đảng trong khi họ lại cứ giao giảng thuyết khổ hạnh và quân bình. Khi các lãnh tụ vui thú trong những đêm khiêu vũ thì người dân đang phải vật lộn chiến đấu chống quân Nhật xâm lăng. Họ quy tội Vương, một phần tử Trotskist, nhưng hoàn toàn không đúng. Tôi đọc Bông Huệ Dại sau khi nghe Mao kể, tôi thấy sự chỉ trích, phê phán của Vương hoàn toàn đúng sự thật. Không những thế, Vương còn vạch ra sự tham nhũng mà sau này làm việc ở Trung Nam Hải tôi đã thấy. Tôi được biết sự thoái hoá của các đảng viên rất sớm, từ những ngày ở Hồ Nam.
Đầu tiên chúng tôi tạm nghỉ ở Thái An, tỉnh Sơn Đông, sau đó tiếp tục đi Thượng Hải, đến thăm Thị trưởng Kha Thanh Thế, một đồ đệ trung thành hăng hái nhất của Mao. Kha Thanh Thế, cán bộ đảng duy nhất đã từng gặp Lenin. Trong thời gian học tập ở Trường Đại học Đông phương, Liên Xô, và làm việc ở một nhà máy, nơi Lenin có lần đến nói chuyện. Mao kể rằng, không bao giờ Kha quên được cảnh tượng ấy chính vì thế Kha trở thành một nhà cách mạng lớn.
– Qua đấy mới thấy ảnh hưởng của một lãnh tụ vĩ đại đối với nhân dàn lớn đến mức độ nào.
Mao kết luận như vậy sau khi kể chuyện với tôi.
Kha thu xếp cho Mao nghỉ trong một ngôi nhà lát đá cẩm thạch tráng lệ có mái bằng đồng. Nhà của một thương gia Do Thái, Silas Hardoon, người mà trong những năm 1910 đã bỏ một khoản tiền rất lớn xây ở Thượng Hải. Ngôi nhà ở ngay trung tâm thành phố, bao quanh là những bức tường cao bằng gạch nung. Khu vườn tạo ra một khung cảnh tuyệt vời, có đầm sen, hoa huệ, đầy ếch nhái và những cây cổ thụ mọc rải rác trên thảm cỏ thoai thoải. Trong sự sang trọng kiểu phương Tây này, Mao vẫn chẳng thấy thoải mái, bất chấp sự phản đối của Kha, ông muốn trở lại đoàn tàu.
Khác hẳn với những chuyến đi bí mật trước đây, chuyến viếng thăm Thượng Hải lần này là một sự kiện công khai đối với dư luận. Mao muốn cả nước biết rằng ông đang chỉ huy chiến dịch chống bọn hữu khuynh.
Chiến dịch chống thiên hữu ở Thượng Hải tiến triển rất tốt. Chúng tôi tới thăm một nhà máy, nơi công nhân đã dán những khẩu hiệu viết bằng chữ lớn kêu gọi chống bọn hữu khuynh. Mao đánh giá những khẩu hiệu dán trên tường là sự ủng hộ to lớn, ông phát biểu trước các cán bộ đảng ở địa phương, cán bộ quân đội, gặp gỡ những nghệ sĩ tả khuynh nối tiếng nhất của thành phố, như nhà văn Ba Kim, tài tử Triệu Đan cùng vợ Hoàng Tông Anh và tài tử Thanh Nghị.
Khi đấu tranh, lúc nào Mao cũng năng nổ. Chúng tôi rời thành phố Thượng Hải náo nhiệt, tới Hàng Châu yên tĩnh – thành phố đẹp nhất ở Trung Quốc, với Tây Hồ một địa danh nổi tiếng trên thế giới. Chưa bao giờ tôi thấy một ngôi nhà nào tráng lệ như Liễu Chương, nơi chúng tôi đã lưu lại. Trước đây. ngôi nhà thuộc về một đại gia buôn trà, bây giờ nó được tân trang lại cho Mao ở. Liễu Chương nằm trên một bán đảo hẻo lánh đây hoa cỏ, trải dài đến bờ biển phía tây, nhỏ hơn và hấp dẫn hơn so với cung Mùa hạ ở Bắc Kinh. Ngược lại, khu vườn của nó to hơn và đẹp hơn so với khu vườn tuyệt diệu của Tô Châu. Khu nhà xây theo lối cổ truyền, mái ngói nhiều tầng, chính giữa một chiếc hồ có dòng suối chảy róc rách nối liền bằng những chiếc cầu cong bằng đá cẩm bạch. Cá và hoa đầy hồ, thực đơn bữa nào cũng có món cá ngon tuyệt do nhà bếp đánh bắt chiêu đãi.
Phó thủ tướng Liên Xô Anastas Mikoyan có mặt ở Hàng Châu để thi hành một nhiệm vụ bí mật. Ông ta muốn trấn an Mao sau vụ Malenkov và Molotov bị phế truất. Ngoài ra còn có các cuộc đàm phán gay go về mục tiêu phát triển vũ khí nguyên tử ở Trung Quốc. Mao cho gọi tôi lên.
Mikoyan, một người mập mạp, dáng đi lom khom, trạc độ 60 tuổi. Ông mắc bệnh viêm khớp mạn ở lưng và chân. Ông hy vọng sẽ được chữa khỏi bằng châm cứu. Tôi liên hệ để ông gặp một chuyên gia châm cứu nổi tiếng nhất ở Bắc Kinh. Trong khi chúng tôi đang nói chuyện về sức khoẻ, ông mời tôi một ly vodka và chuyển sang nói về những nguy cơ của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Ông có vẻ bực bội về cuộc gặp gỡ với Mao, muốn thổ lộ điều đó với tôi. Ông lo ngại khi Mao chẳng hề bận tâm tới việc chết người hàng loạt.
Mao phân tích cho Mikoyan luận thuyết “hổ giấy”, quả quyết rằng Trung Quốc có thể chiến thắng trong một cuộc chiến tranh nguyên tử dù có phải hy sinh hàng triệu người. Mikoyan cố gắng mô tả cho tôi về sức tàn phá ghê gớm của một quả bom nguyên tử. Ông hy vọng Trung Quốc sẽ học kinh nghiệm của Liên Xô, không nên chế tạo bom này, một quả bom tốn kém triệu triệu rúp (ruble), tốn kém chỉ là một mặt thôi. Ông cũng kể cho tôi nghe một cán bộ cấp cao của Liên Xô đã phải chịu hậu quả tệ hại như thế nào, sau khi điều hành việc thử bom nguyên tử, đã chết vì bệnh máu trắng – căn bệnh mà tuỷ không còn khả năng sản xuất ra hồng cầu nữa.
Tôi đáp:
– Tôi là thầy thuốc, tôi không biết gì nhiều về bom nguyên tử. Theo quan điểm đạo đức của mình, tôi không chấp nhận nó, bởi vì nó cũng giết người như tất cả những loại vũ khí khác.
Tôi không có quyền trao đổi với một chính khách cao cấp nước ngoài về một đề tài quan trọng như vậy, tôi nghĩ, tốt hơn hết, phải báo cáo lại cho Mao về cuộc nói chuyện này. Đối với ông việc tàng trữ bom nguyên tử chỉ là vấn đề quyền lực chứ không phải là vấn đề sinh mạng con người. Mao rùng mình nói:
– Mikoyan đảm bảo với tôi, vũ khí nguyên tử của Liên có đủ cho cả hai nước dùng. Hệ thống phòng thủ hạt nhân của Liên Xô trùm lên tất cả chúng ta. Liên Xô muốn kiểm soát chúng ta, vì vậy họ ngăn cản việc Trung Quốc có bom nguyên tử. Họ sợ chúng ta có thể không nghe lời họ, chúng ta có thể khiêu khích Mỹ. Nhưng chúng ta không sợ xung đột với các nước khác. Bằng giá nào tôi cũng cho chế tạo bom nguyên tử. Đồng chí cứ yên tâm. Chúng ta sẽ không để cho kẻ nào cưỡi cổ chúng ta được.
Một khi Mao đã sẵn sàng hy sinh chừng ấy người Trung Quốc trong một cuộc chiến tranh nguyên tử, tại sao ông lại không dám để mặc cho hàng chục nghìn người thiên hữu bị giết hại. Tuy ông không trực tiếp hành hình họ nhưng ông cũng chẳng ngăn cản việc đó.
Ở Hàng Châu, Mao phát biểu trước công chúng thêm một lần nữa trước khi ông nghỉ ngơi mấy hôm. Lưu lại đó ít lâu, chúng tôi lên đường đi Nam Kinh, trú trong một ngôi biệt thự trước đây của một chính trị gia Quốc dân đảng. Ở Nam Kinh, tiết trời tháng 7 vô cùng nóng nực, nhiệt kế thường chỉ trên 40 độ C. Mao ít bị cái nóng quấy rầy hơn tôi. Hàng ngày, những người phục vụ của Mao mang vào phòng ông những thùng đựng đầy nước đá.
Trong khi ông phổ biến về chiến dịch chống hữu khuynh, nước đá tan chảy, còn tôi toát mồ hôi.
Chiến dịch này lan ra khắp đất nước như một cơn lốc. Mao khoan khoái đọc Bản tin Nội bộ kín mít những bài chỉ trích phái hữu khuynh. Vào thời gian này, chúng tôi thường hay chuyện trò ban đêm nhiều hơn. Sự thiếu ngủ hình như có tác dụng kích thích ông.
Lâm Khắc – trong thời gian tôi ở bệnh viện Bắc Kinh, vẫn liên lạc chặt chẽ với Mao – đã kể cho tôi những nhận định của ông ta về quan điểm chính trị hiện nay của Mao. Theo Lâm, Chủ tịch phải tạm thời thoả hiệp với những đối thủ trong đảng một cách miễn cưỡng để cùng nhau tìm cách chống lại phái hữu khuynh đang to mồm phê bình đảng. Đặng Tiểu Bình chịu trách nhiệm tổ chức chiến dịch chống hữu khuynh. Tuy Đặng đã làm Mao bực, nhưng không phải kẻ ngáng chân gợi ý Mao từ chức trong Đại hội đảng lần thứ VIII, Đặng thuộc vào hàng những cán bộ Mao rất tin tưởng trong việc chống thiên hữu. Mãi sau này tôi mới biết Đặng đã điều khiển chiến dịch kháng hữu một cách cuồng nhiệt, đã tấn công tàn bạo như thế nào đối với những kẻ đòi xét lại địa vị của đảng.
Trong bối cảnh hiện nay, tôi cho rằng những chiến dịch trong năm 1956 và 1957 của Mao giống như một cuộc Cách mạng văn hoá đầy sai lầm. Ngày nay chúng ta liên tưởng lại năm 1957 chủ yếu với chiến dịch chống hữu khuynh khủng khiếp, mặc dù đối thủ của Mao ban đầu không phải những người thiên hữu ngoài đảng, mà là các cán bộ lãnh đạo của đảng cộng sản, những người đã xúc phạm Mao, đòi bớt xén quyền lực, cảnh cáo trước những giấc mơ viễn tưởng của ông về chủ nghĩa xã hội. Mao muốn trả đũa đối thủ, nhưng không muốn người ta động chạm đến chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhất là không muốn vị trí lãnh đạo của bản thân ông bị lung lay. Vì vậy, ông miễn cưỡng tạm thời liên minh với các đối thủ trong đảng. Những người đã này theo ông hết lòng, vì địa vị lãnh đạo của chính họ cũng bị đe doạ.
Tuy nhiên, Mao cũng đã cho những nhà lãnh đạo đảng thấy, nếu cần, ông có thể dùng thế lực bên ngoài để tấn công, lời đe doạ này như một lưỡi gươm lơ lửng trên đầu tất cả những ai muốn lay chuyển địa vị của ông. Lúc đầu, đa số cán bộ đảng đứng về phía Mao. Lo sợ Mao tấn công, tầng lớp trí thức cũng như lòng tin vào những suy nghĩ ảo tưởng của Mao đã khiến họ ủng hộ phong trào Đại nhảy vọt sau này.
Chủ tịch có ý muốn triệu tập một hội nghị đảng để nhận định tình hình. Ở Nam Kinh quá nóng nên Giang Vệ Thanh, bí thư thứ nhất tỉnh Giang Tô, Nam Kinh trực thuộc tỉnh này, đã triệu tập các tỉnh uỷ viên tới để cùng tìm một nơi dễ chịu cho hội nghị của đảng.
Họ quyết định chọn Thanh Đảo. Một khu nghỉ mát bờ biển tỉnh Sơn Đông, trước đây do người Đức kiểm soát, khí hậu ở đó mát mẻ, rất thích hợp cho việc tắm biển. Nếu đi tàu hoả chủ tịch sẽ không chịu được nóng. Vì vậy chúng tôi đi bằng hai chiếc máy bay Il-14 do Liên Xô chế tạo và nghỉ giữa chặng bay tại Thái An. Tại đây, Mao đã sôi nổi phát biểu trước một nhóm cán bộ đảng, quân đội của tỉnh Sơn Đông về việc chống bọn hữu khuynh, nội dung tóm tắt của cuộc chuyện trò ban đêm của chúng tôi.
Với khí hậu, gió biển mát mẻ, Thanh Đảo, một nơi nghỉ lý tưởng sau khi chúng tôi rời lò lửa Nam Kinh. Thành phố có những quả đồi khiến người ta liên tưởng đến San Francisco xây dựng theo phong cách Đức. Giữa những hàng cây cao, những lùm cây um tùm, hai bên những dãy nhà gạch lợp ngói rất đẹp, được bao quanh bởi những bức tường. Mao ở cùng với vệ sĩ của ông nghỉ trong một lâu đài tráng lệ nằm trên một quả đồi, nơi ở của viên thống đốc người Đức trước đây. Từ trên đó nhìn xuống thành phố và biển hiện ra thật là đẹp.
Mao đi thăm những kỳ quan quan nổi tiếng nhất của thành phố được coi là đẹp nhất Trung Quốc, trường Đại học Sơn Đông, nơi Giang Thanh đã được nghe Lương Thế Kỳ – nhà nghiên cứu Shakespear nổi tiếng – giảng bài và một nhà máy sản xuất đầu máy xe lửa. Tại đó, sự có mặt của Mao làm tất cả mọi người trở nên phấn khích, mặc dù Mao chẳng phải phát biểu gì, chỉ đứng lẫn trong đám đông. Những biện pháp bảo vệ ở Thanh Đảo thật nghiêm ngặt. Trong thành phố, người ta đã phong toả nhiều con đường dành cho người và cho xe chạy.
Hội nghị các bí thư tỉnh uỷ và đảng uỷ các cấp bắt đầu vào ngày 17-7-1957, ngay sau khi chúng tôi đến, kéo dài nhiều ngày. Các cuộc thảo luận tập trung chủ yếu vào chiến dịch chống hữu khuynh và vấn đề cải tạo xã hội theo chủ nghĩa xã hội. Tờ Nhân dân Nhật báo đăng báo cáo của Mao trong hội nghị dưới nhan đế “Bối cảnh chính trị mùa hè 1957”. Trong đó, ông lại công kích những người hũu khuynh, bộc lộ rõ hơn viễn tưởng về xã hội chủ nghĩa, bức tranh một nhà nước công nông hiện đại được thiết lập bởi một đội ngũ đông đảo những nhà khoa học kỹ thuật xã hội chủ nghĩa. Mao nói về cặp mâu thuẫn, sự tập trung quyền lực và dân chủ; kỷ luật và tự do; Sự thống nhất tư tưởng và nguyện vọng của mỗi cá nhân. Nhiệm vụ đề ra là trong vòng 40-50 năm kể từ năm 1953 trở đi, phải vượt Mỹ về kinh tế và từ chủ nghĩa xã hội chuyển sang chủ nghĩa cộng sản. Đó là những ý trưởng trong mơ của Mao, thực tế chẳng có gì rõ nét.
Bị những vệ sĩ của Mao quây kín, lại ở nơi cách biệt với thế giới nghèo nàn bằng sự xa xỉ khôn tả, tôi không thể hiểu được nội dung thực của chiến dịch chống hữu khuynh, cách xử lý, cách giải quyết như thế nào và ra sao. Ngay cả trong những cuộc chuyện trò của tôi với Mao cũng có những điều không thực tế.
Ngoài ra ở Thanh Đảo, tôi rất bận, phải đối phó một vài vấn đề không liên quan gì tới chính trị.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Chúng tôi đi chuyến tàu đặc biệt và sang trọng như thông lệ, lịch trình điều chỉnh theo giấc ngủ bất thường của Mao. Tuy nhiên, những biện pháp an toàn từ thời Uông Đông Hưng đã được thay đổi hoàn toàn. Đoàn hộ tống rút dần xuống đến một phần mười cơ số. Trưởng ban an ninh Vương Kính Tiên, một người nhút nhát, miễn cưỡng lãnh nhiệm vụ khó khăn này. Ông răm rắp tuân theo mọi yêu cầu của Mao từng chi tiết, giảm bớt lực lượng bảo vệ ở Trung Nam Hải xuống mức tối thiểu và chủ yếu sử dụng các đơn vị an ninh ở cơ sở vào việc bảo vệ.
Sau khi Mao quyết định trả đũa, ông đã nhanh chóng bình phục. Bệnh cảm đã khỏi hẳn, tinh thần và thể lực trở lại bình thường. Trên đường, Mao và Lâm Khắc đã dành nhiều thời gian trò chuyện với nhau. Những cuộc trò chuyện của hai người đã giúp tôi lấp những lỗ hổng thông tin của mình. Những cuộc nói chuyện ban đêm giữa tôi với Mao thường được Mao đúc kết lại một hoặc hai ngày sau đó.
Một lần ông nói với tôi:
– Tôi để cho đối thủ tấn công trước sau đó mới đánh trả. Tôi thực hiện ba nguyên tắc. Thứ nhất, làm theo vị hiền triết Lão Tử, tôi án binh bất động. Nếu bị tấn công, sẽ thoái lui, cố thủ và yên lặng. Kẻ thù tưởng đã chiếm ưu thế.
Mao bảo, nếu phản ứng ngay kẻ thù sẽ không dám lộ bộ mặt thật của chúng. Vì vậy chúng ta phải chờ cho tới lúc chúng lộ mặt.
– Chỉ khi nào kẻ thù xuất đầu lộ diện, lúc đó chúng ta mới báo thù. Chúng ta sẽ ăn miếng trả miếng. Đó là triết lý của Khổng Tử.
Thật ra, việc này chẳng liên quan gì tới giáo lý của Khổng Tử, chỉ là một chiến thuật riêng của Mao. Mao không chỉ sử dụng nó để chống những người hữu khuynh, ông còn dùng nó để đối phó với cả những đối thủ trong đảng.
– Lúc đầu, mọi người chẳng biết bọn hữu khuynh là ai, diện mạo của chúng như thế nào, vì thế khó giải thích cho mọi người hiểu. Nhưng bây giờ chúng ta đã có thể mô tả chúng chính xác. Đó là những tên phản cách mạng! Không, chúng ta hãy gọi chúng đơn giản, những “phần tử hữu khuynh”.
Nguyên tắc thứ hai của Mao, chỉ bỏ tù những đối thủ của ông một khi họ phạm những tội nghiêm trọng và chống lại nhân dân. Tại sao ta lại giam giữ để lãng phí sức sản xuất của họ? Nếu không thích hợp với công việc lãnh đạo, họ cũng có thể làm cái gì đó có ích cho xã hội chứ? Cách xử thế như vậy theo truyền thống lâu đời của Trung Quốc.
Nguyên tắc thứ ba: đối thủ phải được cải tạo ngay tại nơi làm việc của họ. Đồng nghiệp phải theo dõi những hành vi, phải nghe ngóng xem họ nói những gì. Mao nói: “Với những chuyện bọn hữu khuynh hành động sẽ cho chúng ta hiểu thế nào là xấu xa, sai trái”.
Theo Mao, ai cũng có thể cải tạo được, ai cũng có cơ hội để trở thành người tốt. Một con bò không tự đi cày hoặc cung cấp sữa cho người. Một con ngựa chưa thuần, người ta không thể cưỡi nó. Một tên phản cách mạng, hay tên gián điệp chẳng hạn, chắc chắn chúng phải có một biệt tài nào đó. Phải tự hỏi vì sao chúng lại trở thành một tên phản cách mạng, tên gián điệp hay kẻ hữu khuynh cơ chứ? Tại sao chúng ta lại không cải tạo, tận dụng những khả năng của chúng.
Mao tỏ ra nổi giận với Nhóm Dân chủ, nói: “Bọn chúng chẳng có đứa nào tử tế cả. Tuy giải tán nhưng chúng ta muốn lôi kéo, đoàn kết với họ, nhưng đảng cộng sản lại muốn cải tạo Nhóm Dân chủ và các đảng phái dân chủ khác. Mặc dầu đã bắt hàng trăm ngàn tên thiên hữu nhưng không tử hình một ai, vì nếu chỉ cần tử hình một tên thôi ta phải tử hình tất cả. Đó là điều luật trong đã từng làm trong thời kỳ thanh lọc đảng đầu thập niên 1940 ở Hồ Nam khi Vương Thực Vị mở chiến dịch tấn công đảng, xuất bản cuốn “Bông Huệ Dại”. Sau khi mở cuộc điều tra, chúng ta phát hiện Vương là phần tử Trotskist, một tên đặc vụ, nhưng tôi yêu cầu không tử hình hắn. Khi quân Quốc Dân đảng tấn công, chúng ta phải rút lui khỏi Hồ Nam, lực lượng an ninh đã xử tử, vì sợ Vương trốn, tôi đã phê bình khiển trách việc này”.
Nhà văn Vương Thực Vị trong cuốn sách của mình, đã chỉ trích cuộc sống xa hoa vương giả của các nhà lãnh đạo của đảng trong khi họ lại cứ giao giảng thuyết khổ hạnh và quân bình. Khi các lãnh tụ vui thú trong những đêm khiêu vũ thì người dân đang phải vật lộn chiến đấu chống quân Nhật xâm lăng. Họ quy tội Vương, một phần tử Trotskist, nhưng hoàn toàn không đúng. Tôi đọc Bông Huệ Dại sau khi nghe Mao kể, tôi thấy sự chỉ trích, phê phán của Vương hoàn toàn đúng sự thật. Không những thế, Vương còn vạch ra sự tham nhũng mà sau này làm việc ở Trung Nam Hải tôi đã thấy. Tôi được biết sự thoái hoá của các đảng viên rất sớm, từ những ngày ở Hồ Nam.
Đầu tiên chúng tôi tạm nghỉ ở Thái An, tỉnh Sơn Đông, sau đó tiếp tục đi Thượng Hải, đến thăm Thị trưởng Kha Thanh Thế, một đồ đệ trung thành hăng hái nhất của Mao. Kha Thanh Thế, cán bộ đảng duy nhất đã từng gặp Lenin. Trong thời gian học tập ở Trường Đại học Đông phương, Liên Xô, và làm việc ở một nhà máy, nơi Lenin có lần đến nói chuyện. Mao kể rằng, không bao giờ Kha quên được cảnh tượng ấy chính vì thế Kha trở thành một nhà cách mạng lớn.
– Qua đấy mới thấy ảnh hưởng của một lãnh tụ vĩ đại đối với nhân dàn lớn đến mức độ nào.
Mao kết luận như vậy sau khi kể chuyện với tôi.
Kha thu xếp cho Mao nghỉ trong một ngôi nhà lát đá cẩm thạch tráng lệ có mái bằng đồng. Nhà của một thương gia Do Thái, Silas Hardoon, người mà trong những năm 1910 đã bỏ một khoản tiền rất lớn xây ở Thượng Hải. Ngôi nhà ở ngay trung tâm thành phố, bao quanh là những bức tường cao bằng gạch nung. Khu vườn tạo ra một khung cảnh tuyệt vời, có đầm sen, hoa huệ, đầy ếch nhái và những cây cổ thụ mọc rải rác trên thảm cỏ thoai thoải. Trong sự sang trọng kiểu phương Tây này, Mao vẫn chẳng thấy thoải mái, bất chấp sự phản đối của Kha, ông muốn trở lại đoàn tàu.
Khác hẳn với những chuyến đi bí mật trước đây, chuyến viếng thăm Thượng Hải lần này là một sự kiện công khai đối với dư luận. Mao muốn cả nước biết rằng ông đang chỉ huy chiến dịch chống bọn hữu khuynh.
Chiến dịch chống thiên hữu ở Thượng Hải tiến triển rất tốt. Chúng tôi tới thăm một nhà máy, nơi công nhân đã dán những khẩu hiệu viết bằng chữ lớn kêu gọi chống bọn hữu khuynh. Mao đánh giá những khẩu hiệu dán trên tường là sự ủng hộ to lớn, ông phát biểu trước các cán bộ đảng ở địa phương, cán bộ quân đội, gặp gỡ những nghệ sĩ tả khuynh nối tiếng nhất của thành phố, như nhà văn Ba Kim, tài tử Triệu Đan cùng vợ Hoàng Tông Anh và tài tử Thanh Nghị.
Khi đấu tranh, lúc nào Mao cũng năng nổ. Chúng tôi rời thành phố Thượng Hải náo nhiệt, tới Hàng Châu yên tĩnh – thành phố đẹp nhất ở Trung Quốc, với Tây Hồ một địa danh nổi tiếng trên thế giới. Chưa bao giờ tôi thấy một ngôi nhà nào tráng lệ như Liễu Chương, nơi chúng tôi đã lưu lại. Trước đây. ngôi nhà thuộc về một đại gia buôn trà, bây giờ nó được tân trang lại cho Mao ở. Liễu Chương nằm trên một bán đảo hẻo lánh đây hoa cỏ, trải dài đến bờ biển phía tây, nhỏ hơn và hấp dẫn hơn so với cung Mùa hạ ở Bắc Kinh. Ngược lại, khu vườn của nó to hơn và đẹp hơn so với khu vườn tuyệt diệu của Tô Châu. Khu nhà xây theo lối cổ truyền, mái ngói nhiều tầng, chính giữa một chiếc hồ có dòng suối chảy róc rách nối liền bằng những chiếc cầu cong bằng đá cẩm bạch. Cá và hoa đầy hồ, thực đơn bữa nào cũng có món cá ngon tuyệt do nhà bếp đánh bắt chiêu đãi.
Phó thủ tướng Liên Xô Anastas Mikoyan có mặt ở Hàng Châu để thi hành một nhiệm vụ bí mật. Ông ta muốn trấn an Mao sau vụ Malenkov và Molotov bị phế truất. Ngoài ra còn có các cuộc đàm phán gay go về mục tiêu phát triển vũ khí nguyên tử ở Trung Quốc. Mao cho gọi tôi lên.
Mikoyan, một người mập mạp, dáng đi lom khom, trạc độ 60 tuổi. Ông mắc bệnh viêm khớp mạn ở lưng và chân. Ông hy vọng sẽ được chữa khỏi bằng châm cứu. Tôi liên hệ để ông gặp một chuyên gia châm cứu nổi tiếng nhất ở Bắc Kinh. Trong khi chúng tôi đang nói chuyện về sức khoẻ, ông mời tôi một ly vodka và chuyển sang nói về những nguy cơ của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Ông có vẻ bực bội về cuộc gặp gỡ với Mao, muốn thổ lộ điều đó với tôi. Ông lo ngại khi Mao chẳng hề bận tâm tới việc chết người hàng loạt.
Mao phân tích cho Mikoyan luận thuyết “hổ giấy”, quả quyết rằng Trung Quốc có thể chiến thắng trong một cuộc chiến tranh nguyên tử dù có phải hy sinh hàng triệu người. Mikoyan cố gắng mô tả cho tôi về sức tàn phá ghê gớm của một quả bom nguyên tử. Ông hy vọng Trung Quốc sẽ học kinh nghiệm của Liên Xô, không nên chế tạo bom này, một quả bom tốn kém triệu triệu rúp (ruble), tốn kém chỉ là một mặt thôi. Ông cũng kể cho tôi nghe một cán bộ cấp cao của Liên Xô đã phải chịu hậu quả tệ hại như thế nào, sau khi điều hành việc thử bom nguyên tử, đã chết vì bệnh máu trắng – căn bệnh mà tuỷ không còn khả năng sản xuất ra hồng cầu nữa.
Tôi đáp:
– Tôi là thầy thuốc, tôi không biết gì nhiều về bom nguyên tử. Theo quan điểm đạo đức của mình, tôi không chấp nhận nó, bởi vì nó cũng giết người như tất cả những loại vũ khí khác.
Tôi không có quyền trao đổi với một chính khách cao cấp nước ngoài về một đề tài quan trọng như vậy, tôi nghĩ, tốt hơn hết, phải báo cáo lại cho Mao về cuộc nói chuyện này. Đối với ông việc tàng trữ bom nguyên tử chỉ là vấn đề quyền lực chứ không phải là vấn đề sinh mạng con người. Mao rùng mình nói:
– Mikoyan đảm bảo với tôi, vũ khí nguyên tử của Liên có đủ cho cả hai nước dùng. Hệ thống phòng thủ hạt nhân của Liên Xô trùm lên tất cả chúng ta. Liên Xô muốn kiểm soát chúng ta, vì vậy họ ngăn cản việc Trung Quốc có bom nguyên tử. Họ sợ chúng ta có thể không nghe lời họ, chúng ta có thể khiêu khích Mỹ. Nhưng chúng ta không sợ xung đột với các nước khác. Bằng giá nào tôi cũng cho chế tạo bom nguyên tử. Đồng chí cứ yên tâm. Chúng ta sẽ không để cho kẻ nào cưỡi cổ chúng ta được.
Một khi Mao đã sẵn sàng hy sinh chừng ấy người Trung Quốc trong một cuộc chiến tranh nguyên tử, tại sao ông lại không dám để mặc cho hàng chục nghìn người thiên hữu bị giết hại. Tuy ông không trực tiếp hành hình họ nhưng ông cũng chẳng ngăn cản việc đó.
Ở Hàng Châu, Mao phát biểu trước công chúng thêm một lần nữa trước khi ông nghỉ ngơi mấy hôm. Lưu lại đó ít lâu, chúng tôi lên đường đi Nam Kinh, trú trong một ngôi biệt thự trước đây của một chính trị gia Quốc dân đảng. Ở Nam Kinh, tiết trời tháng 7 vô cùng nóng nực, nhiệt kế thường chỉ trên 40 độ C. Mao ít bị cái nóng quấy rầy hơn tôi. Hàng ngày, những người phục vụ của Mao mang vào phòng ông những thùng đựng đầy nước đá.
Trong khi ông phổ biến về chiến dịch chống hữu khuynh, nước đá tan chảy, còn tôi toát mồ hôi.
Chiến dịch này lan ra khắp đất nước như một cơn lốc. Mao khoan khoái đọc Bản tin Nội bộ kín mít những bài chỉ trích phái hữu khuynh. Vào thời gian này, chúng tôi thường hay chuyện trò ban đêm nhiều hơn. Sự thiếu ngủ hình như có tác dụng kích thích ông.
Lâm Khắc – trong thời gian tôi ở bệnh viện Bắc Kinh, vẫn liên lạc chặt chẽ với Mao – đã kể cho tôi những nhận định của ông ta về quan điểm chính trị hiện nay của Mao. Theo Lâm, Chủ tịch phải tạm thời thoả hiệp với những đối thủ trong đảng một cách miễn cưỡng để cùng nhau tìm cách chống lại phái hữu khuynh đang to mồm phê bình đảng. Đặng Tiểu Bình chịu trách nhiệm tổ chức chiến dịch chống hữu khuynh. Tuy Đặng đã làm Mao bực, nhưng không phải kẻ ngáng chân gợi ý Mao từ chức trong Đại hội đảng lần thứ VIII, Đặng thuộc vào hàng những cán bộ Mao rất tin tưởng trong việc chống thiên hữu. Mãi sau này tôi mới biết Đặng đã điều khiển chiến dịch kháng hữu một cách cuồng nhiệt, đã tấn công tàn bạo như thế nào đối với những kẻ đòi xét lại địa vị của đảng.
Trong bối cảnh hiện nay, tôi cho rằng những chiến dịch trong năm 1956 và 1957 của Mao giống như một cuộc Cách mạng văn hoá đầy sai lầm. Ngày nay chúng ta liên tưởng lại năm 1957 chủ yếu với chiến dịch chống hữu khuynh khủng khiếp, mặc dù đối thủ của Mao ban đầu không phải những người thiên hữu ngoài đảng, mà là các cán bộ lãnh đạo của đảng cộng sản, những người đã xúc phạm Mao, đòi bớt xén quyền lực, cảnh cáo trước những giấc mơ viễn tưởng của ông về chủ nghĩa xã hội. Mao muốn trả đũa đối thủ, nhưng không muốn người ta động chạm đến chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhất là không muốn vị trí lãnh đạo của bản thân ông bị lung lay. Vì vậy, ông miễn cưỡng tạm thời liên minh với các đối thủ trong đảng. Những người đã này theo ông hết lòng, vì địa vị lãnh đạo của chính họ cũng bị đe doạ.
Tuy nhiên, Mao cũng đã cho những nhà lãnh đạo đảng thấy, nếu cần, ông có thể dùng thế lực bên ngoài để tấn công, lời đe doạ này như một lưỡi gươm lơ lửng trên đầu tất cả những ai muốn lay chuyển địa vị của ông. Lúc đầu, đa số cán bộ đảng đứng về phía Mao. Lo sợ Mao tấn công, tầng lớp trí thức cũng như lòng tin vào những suy nghĩ ảo tưởng của Mao đã khiến họ ủng hộ phong trào Đại nhảy vọt sau này.
Chủ tịch có ý muốn triệu tập một hội nghị đảng để nhận định tình hình. Ở Nam Kinh quá nóng nên Giang Vệ Thanh, bí thư thứ nhất tỉnh Giang Tô, Nam Kinh trực thuộc tỉnh này, đã triệu tập các tỉnh uỷ viên tới để cùng tìm một nơi dễ chịu cho hội nghị của đảng.
Họ quyết định chọn Thanh Đảo. Một khu nghỉ mát bờ biển tỉnh Sơn Đông, trước đây do người Đức kiểm soát, khí hậu ở đó mát mẻ, rất thích hợp cho việc tắm biển. Nếu đi tàu hoả chủ tịch sẽ không chịu được nóng. Vì vậy chúng tôi đi bằng hai chiếc máy bay Il-14 do Liên Xô chế tạo và nghỉ giữa chặng bay tại Thái An. Tại đây, Mao đã sôi nổi phát biểu trước một nhóm cán bộ đảng, quân đội của tỉnh Sơn Đông về việc chống bọn hữu khuynh, nội dung tóm tắt của cuộc chuyện trò ban đêm của chúng tôi.
Với khí hậu, gió biển mát mẻ, Thanh Đảo, một nơi nghỉ lý tưởng sau khi chúng tôi rời lò lửa Nam Kinh. Thành phố có những quả đồi khiến người ta liên tưởng đến San Francisco xây dựng theo phong cách Đức. Giữa những hàng cây cao, những lùm cây um tùm, hai bên những dãy nhà gạch lợp ngói rất đẹp, được bao quanh bởi những bức tường. Mao ở cùng với vệ sĩ của ông nghỉ trong một lâu đài tráng lệ nằm trên một quả đồi, nơi ở của viên thống đốc người Đức trước đây. Từ trên đó nhìn xuống thành phố và biển hiện ra thật là đẹp.
Mao đi thăm những kỳ quan quan nổi tiếng nhất của thành phố được coi là đẹp nhất Trung Quốc, trường Đại học Sơn Đông, nơi Giang Thanh đã được nghe Lương Thế Kỳ – nhà nghiên cứu Shakespear nổi tiếng – giảng bài và một nhà máy sản xuất đầu máy xe lửa. Tại đó, sự có mặt của Mao làm tất cả mọi người trở nên phấn khích, mặc dù Mao chẳng phải phát biểu gì, chỉ đứng lẫn trong đám đông. Những biện pháp bảo vệ ở Thanh Đảo thật nghiêm ngặt. Trong thành phố, người ta đã phong toả nhiều con đường dành cho người và cho xe chạy.
Hội nghị các bí thư tỉnh uỷ và đảng uỷ các cấp bắt đầu vào ngày 17-7-1957, ngay sau khi chúng tôi đến, kéo dài nhiều ngày. Các cuộc thảo luận tập trung chủ yếu vào chiến dịch chống hữu khuynh và vấn đề cải tạo xã hội theo chủ nghĩa xã hội. Tờ Nhân dân Nhật báo đăng báo cáo của Mao trong hội nghị dưới nhan đế “Bối cảnh chính trị mùa hè 1957”. Trong đó, ông lại công kích những người hũu khuynh, bộc lộ rõ hơn viễn tưởng về xã hội chủ nghĩa, bức tranh một nhà nước công nông hiện đại được thiết lập bởi một đội ngũ đông đảo những nhà khoa học kỹ thuật xã hội chủ nghĩa. Mao nói về cặp mâu thuẫn, sự tập trung quyền lực và dân chủ; kỷ luật và tự do; Sự thống nhất tư tưởng và nguyện vọng của mỗi cá nhân. Nhiệm vụ đề ra là trong vòng 40-50 năm kể từ năm 1953 trở đi, phải vượt Mỹ về kinh tế và từ chủ nghĩa xã hội chuyển sang chủ nghĩa cộng sản. Đó là những ý trưởng trong mơ của Mao, thực tế chẳng có gì rõ nét.
Bị những vệ sĩ của Mao quây kín, lại ở nơi cách biệt với thế giới nghèo nàn bằng sự xa xỉ khôn tả, tôi không thể hiểu được nội dung thực của chiến dịch chống hữu khuynh, cách xử lý, cách giải quyết như thế nào và ra sao. Ngay cả trong những cuộc chuyện trò của tôi với Mao cũng có những điều không thực tế.
Ngoài ra ở Thanh Đảo, tôi rất bận, phải đối phó một vài vấn đề không liên quan gì tới chính trị.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 22
Posted: 25/07/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [21], [22]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Giang Thanh đã thành cả một vấn đề rắc rối cho tôi. Tháng Tư trước khi Mao gọi tôi về không lâu, Giang Thanh từ Liên Xô trở về, ở lại Thanh Đảo với chúng tôi. Việc trị xạ bằng tia Cobalt 60 đã thành công, nhưng từ khi bị căn bệnh ung thư này, càng ngày càng bẳn tính. Chưa đầy hai ngày sau, đã đuổi hết đám tuỳ tùng của Mao ra khỏi lâu đài, vì bà không chịu nổi sự ồn ào do chúng tôi gây ra. Ngay cả tiếng giật nước trong cầu tiêu cũng khó chịu, bà chất vấn: “Ở đây ai cần nghỉ ngơi, các đồng chí hay tôi?”
Bà vẫn có hai bác sĩ phụ khoa chăm sóc. Tuy nhiên, từ cuối năm 1956 khi Hứa Đạo ra đi, không còn bác sĩ nội khoa nào chăm sóc bà, vì thế yêu cầu tôi. Tôi rất ngại, lấy cớ, nhiệm vụ của tôi chăm lo sức khỏe cho Chủ tịch, lại thường phải đi tháp tùng trong khi bà ít khi đi theo. Giang Thanh hiểu, nhưng vẫn yêu cầu tôi chăm sóc sức khỏe nếu cả hai gần nhau, nói:
– Thỉnh thoảng tôi mới cần đến đồng chí. Khi nào đồng chí không có ở đây, y tá của tôi có thể gọi điện cho đồng chí để xin đơn thuốc và chỉ dẫn cách dùng.
Tôi đành phải chấp nhận đề nghị của bà.
Chẳng bao lâu sau sự thoả thuận này đã gây ra bao phiền toái. sau khi chúng tôi bị đuổi ra khỏi lâu đài vài ngày, cô y tá của Giang Thanh gọi điện cho tôi. Lúc đó vào khoảng 11 giờ đêm. Trời mưa như trút. nhưng Giang Thanh vẫn muốn gặp tôi ngay. Giang bị ngạt mũi, khó thở. Qua điện thoại của y tá, tôi được biết mạch của bà vẫn bình thường, không sốt. Tôi bảo ý tá khuyên bà nên dùng thuốc chống dị ứng chữa ngạt mũi, hứa sáng hôm sau tôi sẽ đến ngay lập tức. Tôi không có ô tô và cũng chẳng muốn đội mưa chỉ vì cái mũi ngạt của Giang Thanh.
Vài phút sau chuông điện thoại lại reo. Giang Thanh tức tối, bảo cô y tá nói lại với tôi, một bác sĩ chưa hề thăm khám bệnh nhân đã kê đơn, đúng là vô trách nhiệm.
Tôi cũng bực mình. Lúc này đã khuya và Giang Thanh cũng biết rằng trời mưa rất to. “Bệnh” của bà chẳng có gì hơn là ngạt mũi sơ sơ, còn cách cư xử của bà chứng tỏ chẳng coi tôi ra gì. Tôi bảo cô y tá:
– Nếu đồng chí ấy không muốn, chẳng cần dùng loại thuốc nào cũng được. Ngày mai tôi sẽ đến.
Hôm sau Giang Thanh công khai trách tôi. Hai bác sĩ phụ khoa phải trở về Bắc Kinh, bà tổ chức một bữa tiệc để chia tay. Theo thông lệ, bữa tiệc phải có mặt tôi, nhưng bà cố tình lờ không mời và nói qua các nhân viên, đó là sự trừng phạt đối với lối cư xử tệ bạc của tôi. Còn tôi rất mừng. Phải dùng bữa với Giang Thanh là điều bất đắc dĩ. Bà ta thường uống thuốc trong bữa ăn. Khách mời buộc phải ngồi nghe giải thích từng loại thuốc, nào là thuốc chống tiêu hoá kém, thuốc bổ máu, viên bồi bổ thần kinh, các loại sinh tố. Người ta đến dự tiệc hy vọng được chiêu đãi của ngon vật lạ, nghe những câu chuyện phiếm vui vẻ hài hước, đằng này chỉ một mình Giang Thanh tuôn ra tràng giang đại hải những chứng bệnh bắt mọi người nghe, làm mất cả hứng.
Rồi đến lượt Mao bị cảm. Ở Thanh Đảo tháng 7 tiết trời vẫn lạnh và mưa. Mặc dù vậy, sáng nào Chủ tịch cũng đi bơi ở bãi tắm riêng ở Sơn Đông. Sau cuộc họp đảng, ông bị ho, ăn kém ngon, hay bị mệt. Những loại thuốc Tây của tôi cũng vô hiệu, nên mấy ngày sau tôi không cho dùng nữa. Bí thư thứ nhất tỉnh Sơn Đông – Trụ Đông, đã thuyết phục Mao để cho bác sĩ Lưu Huệ Mẫn, một bác sĩ chuyên khoa nổi tiếng về đông y cổ truyền Trung Quốc ở Vân Nam điều trị.
Lần đầu tiên Mao sẵn sàng chịu điều trị theo phương pháp y học cổ truyền. Ông chẳng tin vào y học Trung Quốc lắm, mặc dù bề ngoài vẫn cổ vũ, khuyến khích, nhưng ông lại ghét thứ nước sắc từ thảo dược vừa nóng vừa đắng, vốn là phương thuốc nổi tiếng của phương pháp điều trị truyền thống này. Vì bệnh cảm nặng làm ông khó chịu, nên quyết định thử dùng một lần xem sao. Mao bảo tôi:
– Đồng chí không muốn tôi uống thêm thuốc Tây, thôi được, tôi uống thuốc đông y thử xem sao.
Tôi chưa nắm được công dụng thuốc Đông dược Trung Hoa, nhưng những phương pháp điều trị bằng cây cỏ cũng có vẻ mang lại hiệu quả. Cũng có lần, bố tôi được một bác sĩ nổi tiếng của Trung Quốc chữa khỏi bệnh bằng phương pháp này sau khi cách điều trị bằng y học phương Tây bất lực. Tôi nghĩ Mao cũng nên thử chữa bệnh bằng phương pháp này. Mao bảo:
– Thôi được, cừ mời bác sĩ đến điều trị, nhưng dưới sự kiểm tra của đồng chí đấy.
Bác sĩ Lưu Huệ Mẫn, 60 tuổi, một người cao lớn, gầy gò, giản dị và trung thực. Mao đón tiếp ông rất ưu ái, như mỗi khi ông đón tiếp những người mới gặp gỡ lần đầu. Ông giài thích ý nghĩa của tên của người bác sĩ:
– “Huệ Mẫn” có nghĩa người mang lại hạnh phúc cho mọi người. Xin bác sĩ hãy mang lại hạnh phúc cho tôi bằng sự điều trị của bác sĩ.
Bác sĩ bắt mạch và khám lưỡi Mao. Ông nói với vẻ quan trọng. “Chủ tịch bị cảm nhập tâm. Chúng ta phải cho Chủ tịch uống thuốc giải cảm”.
Mao biết rằng ông bị cảm lạnh, chẳng cần phải nói, ông chỉ muốn được chữa khỏi bệnh, nói: “Tôi chẳng hiểu gì về y học Trung Quốc. Đồng chí hãy bàn với bác sĩ Lý về cách điều trị”, rồi bỏ đi.
Bác sĩ Lưu tỏ ra cung kính cúi đầu vái Mao theo truyền thống cổ xưa, sau đó tôi đưa ông và Trụ Đông vào phòng bàn cách chữa bệnh cho Mao.
Bác sĩ Lưu muốn sắc hai hỗn hợp thảo dược để Mao uống trước khi đi ngủ. Sau đó Mao phải chùm kín bằng chăn dày để ra mồ hôi. Tôi biết Chủ tịch sẽ chẳng ưa gì cách chữa bệnh theo kiểu này. Ông không thích thuốc đắng, chỉ thích ở những nơi mát mẻ và thích đắp chăn mỏng.
Mao đành chấp nhận đề nghị của tôi:
– Được, tôi sẽ thử một lần xem sao.
Vợ ông Trụ Đông chuẩn bị thuốc. Tôi kiểm tra thành phần của thuốc và khẳng định thuốc là vô hại. Vì thứ thuốc này không thể mang đi kiểm tra mức độ an toàn kỹ lưỡng ở Phòng Kiểm tra thuốc của Phó Liêm Phương, tôi phải đảm bảo thuốc an toàn với Ban y tế trung ương ở Bắc Kinh trước khi sử dụng. Mao có hệ thống điện thoại đặc biệt, khoảng 6 hay 8 đường dây, trực tiếp nối với Ban an ninh Trung Nam Hải, tôi sử dụng một đường dây trong hệ thống này để báo cáo. Ban chấp hành trung ương bảo, đồng chí Trụ Đông là uỷ viên trung ương, kiêm bí thư thứ nhất của tỉnh Sơn Đông, người bác sĩ do Trụ Đông tiến cử là người đáng tin cậy. Nhưng Ban chấp hành trung ương băn khoăn làm sao có thể đảm bảo thuốc không độc.
Cuối cùng, bốn thang của thứ thuốc này đã sắc ra được một loại nước đắng mầu nâu sẫm. Một thang được niêm phong và cất giữ cho Ban y tế trung ương. Sau đó tôi và Trụ Đông lấy mình làm những con thỏ thí nghiệm để nếm thử loại thuốc này. Khi không thấy có triệu chứng ngộ độc nào, mới đưa Mao uống thứ thuốc đó.
Mao đã trải qua một đêm khổ sở, mồ hôi vã ra dưới lớp chăn dày và hôm sau ông vẫn không hề thấy đỡ. Bác sĩ Lưu thuyết phục Mao tiếp tục dùng thuốc.
Vào buổi sáng ngày thứ ba, Mao vẫn không thấy đỡ. Bác sĩ Lưu bắt mạch và khám lưỡi Mao. Ông nghĩ Chủ tịch đã khỏi bệnh.
Nhưng Mao lại nghĩ khác. Ông vẫn ho và sổ mũi. Những triệu chứng vẫn như cũ và ba ngày tiếp theo vẫn không có một dấu hiệu bình phục nào.
Bác sĩ Lưu kinh ngạc, khám lại cho Chủ tịch lần nữa. Lần này ông kết luận nguyên nhân bệnh tật của Mao không phải do cảm, mà do suy nhược nói chung. Ông kê một toa thuốc gồm hồn hợp nhân sâm và những thảo dược truyền thống của Trung Quốc để tạo ra cho Mao sự cân bằng về dữ trữ dinh dưỡng. Đó là những loại thảo dược thông thường theo cách đĩều trị của Trung Quốc, tôi thấy toa thuốc vô hại nên chẳng có ý kiến ngăn cản việc kê đơn. Ngay cả Ban y tế trung ương cũng đồng ý, bốn thang lại được sắc. Tôi và Trụ Đông lại tiếp tục làm những con thỏ thí nghiệm.
Tình trạng sức khỏe của Mao vẫn chẳng khá hơn chút nào trước sự kinh ngạc của vị bác sĩ kia. Tôi cho rằng, một nơi có khí hậu ấm áp hơn sẽ giúp Mao và tôi cũng chẳng tin vào phỏng đoán của Trụ Đông là khí hậu ẩm ướt, lạnh sẽ thay đổi hàng ngày. Cuối cùng tôi đề nghị Mao trở lại Bắc Kinh. Ông đồng ý. Đầu tháng Tám, khi chúng tôi chưa tới Trung Nam Hải, sức khỏe của ông đã khá hơn nhiều.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [21], [22]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Giang Thanh đã thành cả một vấn đề rắc rối cho tôi. Tháng Tư trước khi Mao gọi tôi về không lâu, Giang Thanh từ Liên Xô trở về, ở lại Thanh Đảo với chúng tôi. Việc trị xạ bằng tia Cobalt 60 đã thành công, nhưng từ khi bị căn bệnh ung thư này, càng ngày càng bẳn tính. Chưa đầy hai ngày sau, đã đuổi hết đám tuỳ tùng của Mao ra khỏi lâu đài, vì bà không chịu nổi sự ồn ào do chúng tôi gây ra. Ngay cả tiếng giật nước trong cầu tiêu cũng khó chịu, bà chất vấn: “Ở đây ai cần nghỉ ngơi, các đồng chí hay tôi?”
Bà vẫn có hai bác sĩ phụ khoa chăm sóc. Tuy nhiên, từ cuối năm 1956 khi Hứa Đạo ra đi, không còn bác sĩ nội khoa nào chăm sóc bà, vì thế yêu cầu tôi. Tôi rất ngại, lấy cớ, nhiệm vụ của tôi chăm lo sức khỏe cho Chủ tịch, lại thường phải đi tháp tùng trong khi bà ít khi đi theo. Giang Thanh hiểu, nhưng vẫn yêu cầu tôi chăm sóc sức khỏe nếu cả hai gần nhau, nói:
– Thỉnh thoảng tôi mới cần đến đồng chí. Khi nào đồng chí không có ở đây, y tá của tôi có thể gọi điện cho đồng chí để xin đơn thuốc và chỉ dẫn cách dùng.
Tôi đành phải chấp nhận đề nghị của bà.
Chẳng bao lâu sau sự thoả thuận này đã gây ra bao phiền toái. sau khi chúng tôi bị đuổi ra khỏi lâu đài vài ngày, cô y tá của Giang Thanh gọi điện cho tôi. Lúc đó vào khoảng 11 giờ đêm. Trời mưa như trút. nhưng Giang Thanh vẫn muốn gặp tôi ngay. Giang bị ngạt mũi, khó thở. Qua điện thoại của y tá, tôi được biết mạch của bà vẫn bình thường, không sốt. Tôi bảo ý tá khuyên bà nên dùng thuốc chống dị ứng chữa ngạt mũi, hứa sáng hôm sau tôi sẽ đến ngay lập tức. Tôi không có ô tô và cũng chẳng muốn đội mưa chỉ vì cái mũi ngạt của Giang Thanh.
Vài phút sau chuông điện thoại lại reo. Giang Thanh tức tối, bảo cô y tá nói lại với tôi, một bác sĩ chưa hề thăm khám bệnh nhân đã kê đơn, đúng là vô trách nhiệm.
Tôi cũng bực mình. Lúc này đã khuya và Giang Thanh cũng biết rằng trời mưa rất to. “Bệnh” của bà chẳng có gì hơn là ngạt mũi sơ sơ, còn cách cư xử của bà chứng tỏ chẳng coi tôi ra gì. Tôi bảo cô y tá:
– Nếu đồng chí ấy không muốn, chẳng cần dùng loại thuốc nào cũng được. Ngày mai tôi sẽ đến.
Hôm sau Giang Thanh công khai trách tôi. Hai bác sĩ phụ khoa phải trở về Bắc Kinh, bà tổ chức một bữa tiệc để chia tay. Theo thông lệ, bữa tiệc phải có mặt tôi, nhưng bà cố tình lờ không mời và nói qua các nhân viên, đó là sự trừng phạt đối với lối cư xử tệ bạc của tôi. Còn tôi rất mừng. Phải dùng bữa với Giang Thanh là điều bất đắc dĩ. Bà ta thường uống thuốc trong bữa ăn. Khách mời buộc phải ngồi nghe giải thích từng loại thuốc, nào là thuốc chống tiêu hoá kém, thuốc bổ máu, viên bồi bổ thần kinh, các loại sinh tố. Người ta đến dự tiệc hy vọng được chiêu đãi của ngon vật lạ, nghe những câu chuyện phiếm vui vẻ hài hước, đằng này chỉ một mình Giang Thanh tuôn ra tràng giang đại hải những chứng bệnh bắt mọi người nghe, làm mất cả hứng.
Rồi đến lượt Mao bị cảm. Ở Thanh Đảo tháng 7 tiết trời vẫn lạnh và mưa. Mặc dù vậy, sáng nào Chủ tịch cũng đi bơi ở bãi tắm riêng ở Sơn Đông. Sau cuộc họp đảng, ông bị ho, ăn kém ngon, hay bị mệt. Những loại thuốc Tây của tôi cũng vô hiệu, nên mấy ngày sau tôi không cho dùng nữa. Bí thư thứ nhất tỉnh Sơn Đông – Trụ Đông, đã thuyết phục Mao để cho bác sĩ Lưu Huệ Mẫn, một bác sĩ chuyên khoa nổi tiếng về đông y cổ truyền Trung Quốc ở Vân Nam điều trị.
Lần đầu tiên Mao sẵn sàng chịu điều trị theo phương pháp y học cổ truyền. Ông chẳng tin vào y học Trung Quốc lắm, mặc dù bề ngoài vẫn cổ vũ, khuyến khích, nhưng ông lại ghét thứ nước sắc từ thảo dược vừa nóng vừa đắng, vốn là phương thuốc nổi tiếng của phương pháp điều trị truyền thống này. Vì bệnh cảm nặng làm ông khó chịu, nên quyết định thử dùng một lần xem sao. Mao bảo tôi:
– Đồng chí không muốn tôi uống thêm thuốc Tây, thôi được, tôi uống thuốc đông y thử xem sao.
Tôi chưa nắm được công dụng thuốc Đông dược Trung Hoa, nhưng những phương pháp điều trị bằng cây cỏ cũng có vẻ mang lại hiệu quả. Cũng có lần, bố tôi được một bác sĩ nổi tiếng của Trung Quốc chữa khỏi bệnh bằng phương pháp này sau khi cách điều trị bằng y học phương Tây bất lực. Tôi nghĩ Mao cũng nên thử chữa bệnh bằng phương pháp này. Mao bảo:
– Thôi được, cừ mời bác sĩ đến điều trị, nhưng dưới sự kiểm tra của đồng chí đấy.
Bác sĩ Lưu Huệ Mẫn, 60 tuổi, một người cao lớn, gầy gò, giản dị và trung thực. Mao đón tiếp ông rất ưu ái, như mỗi khi ông đón tiếp những người mới gặp gỡ lần đầu. Ông giài thích ý nghĩa của tên của người bác sĩ:
– “Huệ Mẫn” có nghĩa người mang lại hạnh phúc cho mọi người. Xin bác sĩ hãy mang lại hạnh phúc cho tôi bằng sự điều trị của bác sĩ.
Bác sĩ bắt mạch và khám lưỡi Mao. Ông nói với vẻ quan trọng. “Chủ tịch bị cảm nhập tâm. Chúng ta phải cho Chủ tịch uống thuốc giải cảm”.
Mao biết rằng ông bị cảm lạnh, chẳng cần phải nói, ông chỉ muốn được chữa khỏi bệnh, nói: “Tôi chẳng hiểu gì về y học Trung Quốc. Đồng chí hãy bàn với bác sĩ Lý về cách điều trị”, rồi bỏ đi.
Bác sĩ Lưu tỏ ra cung kính cúi đầu vái Mao theo truyền thống cổ xưa, sau đó tôi đưa ông và Trụ Đông vào phòng bàn cách chữa bệnh cho Mao.
Bác sĩ Lưu muốn sắc hai hỗn hợp thảo dược để Mao uống trước khi đi ngủ. Sau đó Mao phải chùm kín bằng chăn dày để ra mồ hôi. Tôi biết Chủ tịch sẽ chẳng ưa gì cách chữa bệnh theo kiểu này. Ông không thích thuốc đắng, chỉ thích ở những nơi mát mẻ và thích đắp chăn mỏng.
Mao đành chấp nhận đề nghị của tôi:
– Được, tôi sẽ thử một lần xem sao.
Vợ ông Trụ Đông chuẩn bị thuốc. Tôi kiểm tra thành phần của thuốc và khẳng định thuốc là vô hại. Vì thứ thuốc này không thể mang đi kiểm tra mức độ an toàn kỹ lưỡng ở Phòng Kiểm tra thuốc của Phó Liêm Phương, tôi phải đảm bảo thuốc an toàn với Ban y tế trung ương ở Bắc Kinh trước khi sử dụng. Mao có hệ thống điện thoại đặc biệt, khoảng 6 hay 8 đường dây, trực tiếp nối với Ban an ninh Trung Nam Hải, tôi sử dụng một đường dây trong hệ thống này để báo cáo. Ban chấp hành trung ương bảo, đồng chí Trụ Đông là uỷ viên trung ương, kiêm bí thư thứ nhất của tỉnh Sơn Đông, người bác sĩ do Trụ Đông tiến cử là người đáng tin cậy. Nhưng Ban chấp hành trung ương băn khoăn làm sao có thể đảm bảo thuốc không độc.
Cuối cùng, bốn thang của thứ thuốc này đã sắc ra được một loại nước đắng mầu nâu sẫm. Một thang được niêm phong và cất giữ cho Ban y tế trung ương. Sau đó tôi và Trụ Đông lấy mình làm những con thỏ thí nghiệm để nếm thử loại thuốc này. Khi không thấy có triệu chứng ngộ độc nào, mới đưa Mao uống thứ thuốc đó.
Mao đã trải qua một đêm khổ sở, mồ hôi vã ra dưới lớp chăn dày và hôm sau ông vẫn không hề thấy đỡ. Bác sĩ Lưu thuyết phục Mao tiếp tục dùng thuốc.
Vào buổi sáng ngày thứ ba, Mao vẫn không thấy đỡ. Bác sĩ Lưu bắt mạch và khám lưỡi Mao. Ông nghĩ Chủ tịch đã khỏi bệnh.
Nhưng Mao lại nghĩ khác. Ông vẫn ho và sổ mũi. Những triệu chứng vẫn như cũ và ba ngày tiếp theo vẫn không có một dấu hiệu bình phục nào.
Bác sĩ Lưu kinh ngạc, khám lại cho Chủ tịch lần nữa. Lần này ông kết luận nguyên nhân bệnh tật của Mao không phải do cảm, mà do suy nhược nói chung. Ông kê một toa thuốc gồm hồn hợp nhân sâm và những thảo dược truyền thống của Trung Quốc để tạo ra cho Mao sự cân bằng về dữ trữ dinh dưỡng. Đó là những loại thảo dược thông thường theo cách đĩều trị của Trung Quốc, tôi thấy toa thuốc vô hại nên chẳng có ý kiến ngăn cản việc kê đơn. Ngay cả Ban y tế trung ương cũng đồng ý, bốn thang lại được sắc. Tôi và Trụ Đông lại tiếp tục làm những con thỏ thí nghiệm.
Tình trạng sức khỏe của Mao vẫn chẳng khá hơn chút nào trước sự kinh ngạc của vị bác sĩ kia. Tôi cho rằng, một nơi có khí hậu ấm áp hơn sẽ giúp Mao và tôi cũng chẳng tin vào phỏng đoán của Trụ Đông là khí hậu ẩm ướt, lạnh sẽ thay đổi hàng ngày. Cuối cùng tôi đề nghị Mao trở lại Bắc Kinh. Ông đồng ý. Đầu tháng Tám, khi chúng tôi chưa tới Trung Nam Hải, sức khỏe của ông đã khá hơn nhiều.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 23
Posted: 27/07/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [21], [22], [23]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Mao muốn tôi là người đầu tiên chứng kiến chiến dịch chống những người hữu khuynh. Ông nói với tôi ngay sau khi trở về Bắc Kinh:
– Đồng chí cứ như vị đạo sĩ, ẩn dật nơi rừng sâu núi thẳm. chẳng biết gì sự đời.
Vì vậy, ông đề nghị tôi ghé thăm Bệnh viện Hiệp hội Đa khoa Bắc Kinh và báo cáo tình hình ở đó cho ông hay.
Trước đây, Hiệp hội y khoa Bắc Kinh do quỹ Rockefeller tài trợ, một bệnh viện có nhiều khoa nhất ở Trung Quốc, có đội ngũ bác sĩ giỏi nhất và được trang bị hiện đại nhất. Tuy nhiên, từ năm 1949, bệnh viện này được tái tổ chức hoàn toàn đổi mới theo kiểu Liên Xô. Người ta đã thay thế một số bác sĩ nổi tiếng và sự điều hành được đặt dưới sự kiểm soát của đảng. Bí thư thứ nhất Trương Trí Thường nắm toàn quyền lãnh đạo bệnh viện. Đảng coi ông như một bác sĩ, vì trong chiến tranh ông đã được những bác sĩ quân y cộng sản đào tạo. Nhưng những bác sĩ được đào tạo ở các nước phương Tây làm việc trong bệnh viện tất nhiên không công nhận ông. Trương, một người thô lỗ, vô học, một nhà cách mạng lão thành hồi đó được xem là có đủ trình độ.
Những bác sĩ thực sự, trong đó có cả những bạn bè và thầy dạy cũ của tôi, lo ngại trước những thay đổi về tổ chức. Họ phàn nàn, ông bộ trưởng Bộ y tế, cơ quan có trách nhiệm quản lý chung các bệnh viện, đã can thiệp vào công việc nội bộ của họ. Một số bác sĩ khi được khuyến khích phê bình trước công luận trong thời gian phong trào Trăm hoa đua nở đã bày tỏ suy nghĩ của họ.
Tôi đã viết báo cáo về những ưu tư của họ, Mao bác bỏ sự trình bày của tôi, khiển trách tôi đã nhận xét quá hấp tấp và lại cử tôi đi tìm hiểu tiếp.
Tôi đã tham dự một cuộc họp phê phán các “thành phần thân hữu” trong bệnh viện. Mục tiêu phê phán chủ yếu trước hết là hiệu trưởng trường Đại học y khoa Lý Tống Ân và giám đốc bệnh viện Lý Khắc Hồng.
Những người phê phán hầu hết là các kỹ thuật viên trẻ ở phòng xét nghiệm và y tá, những người không có khái niệm gì về việc điều hành một bệnh viện hiện đại. Vì tôn trọng những đồng nghiệp già, nên những bác sĩ trẻ không tham gia chiến dịch này. Cả hai bác sĩ họ Lý đều bị buộc tội đã âm mưu khước từ sự lãnh đạo của đảng, lạm dụng quyền hành can thiệp vào những công việc nhân sự, tài chính và hành chính. Ngay trong cuộc họp, mọi người sửng sốt và tức giận.
Tuy tôi có cảm tình với hai vị bác sĩ này, nhưng tôi cho việc phê bình đảng một cách công khai của họ là sự xuẩn ngốc. Không một ai dám phê bình chỉ trích đảng. Làm việc cho Mao đã ba năm nay, tôi phụ thuộc vào ông, không có quan điểm riêng, suy nghĩ độc lập. Tôi chẳng cần phải kiềm chế hoặc nuôi ý nghĩ chống lại ông, vì quan điểm của Mao cũng là của tôi. Tôi chưa bao giờ có quan điểm ngược lại Mao.
Sau cuộc họp, tôi tới thăm bác sĩ Trương Tiểu Kiều, một trong nhưng bác sĩ giàu kinh nghiệm mà đáng lẽ đã khám bệnh cho Mao ở Bắc Đới Hà. Ông cũng là người tỉnh Hồ Nam đồng hương với Mao. Trước giải phóng, ông là hiệu trưởng trường Đại học y khoa Yale-Trung Hoa ở Hồ Nam, được coi là một trong những bác sĩ giỏi nhất Trung Quốc. Hồi đầu năm, bác sĩ Trương cũng đã lên tiếng công khai công kích và phê bình bí thư đảng uỷ nhà trường vì đã tự tiện điều động các bác sĩ trong khoa của ông sang bệnh viện khác. Vì vậy chiến dịch chống những người hữu khuynh đã làm cho bác sĩ Trương vô cùng lo lắng. Ông nói: “Tôi đã nói quá nhiều, một sai lầm nghiêm trọng. Lẽ ra, tôi nên im lặng. Tôi không hề có ý tranh chức tranh quyền. Ý của tôi chỉ muốn, trưởng bộ môn khi nhân viên dưới quyền bị điều động, ban lãnh đạo nhà trường nên tham khảo và hỏi ý kiến trước khi điều động”. Ông khẩn khoản xin tôi “phản ảnh ý kiến của ông đến nơi có thẩm quyền”, ý ông muốn ám chỉ Mao.
Mao cười khi tôi báo cáo với ông về chuyến viếng thăm bệnh viện lần thứ hai, vì ông nghĩ rốt cuộc tôi đã hiểu được tình hình. Quyền lực của đảng đều được thể hiện trong những vấn đề nhân sự, tài chính và hành chính. “Sau hàng năm ròng nội chiến với vô số người hy sinh, chúng ta mới giành được chính quyền. Vậy mà giờ đây bọn cánh hữu lại muốn đoạt lấy chính quyền của chúng ta”. Nhưng ông đã tha thứ cho Trương Tiểu Kiều: “Bác sĩ Trương không phải là người hữu khuynh. Đồng chí ấy chỉ dại dột và để cho người khác lợi dụng”. Trương Tiểu Kiều không bị truy bức vì hành động của ông.
Các bác sĩ Lý Tống Ân và Lý Khắc Hồng ít gặp may hơn. Vài tuần sau chuyến viếng thăm của tôi, họ đã bị quy kết hữu khuynh, bị đày đi cải tạo ở nông thôn. Lý Khắc Hồng, một trong những bác sĩ giỏi nhất Trung Quốc, phải làm người thủ thư trong một Trường Trung cấp y tế nhỏ ở Vân Nam, nơi tận cùng miền Tây Nam Trung Quốc. Bác sĩ Lý Tống Ân, một bác sĩ chuyên môn nổi tiếng, bị đày đi Quí Châu xa xôi, chẳng bao giờ được trở lại Bắc Kinh. Cả hai đã chết yểu sau khi bị đi đày một thời gian ngắn.
Ngay cả khi chiến dịch chống phái hữu khuynh mỗi ngày một lan rộng, tôi vẫn chưa lường được mức độ của sự kiện này rõ ràng. Tôi không biết bao nhiêu người đã bị kết án đi cải tạo lao động, hoặc phải chịu đựng cực hình như thế nào trong cuộc cải tạo. Theo Mao nói, thậm chí tôi có cảm tưởng rằng Chủ tịch rất độ lượng đối với kẻ thù của ông và muốn dành cho họ một cơ hội để cải huấn. Khi Mao cho tôi biết, không nghĩ đến việc hành quyết những đối thủ, tôi tin ông ngay. Tôi đã ủng hộ Mao và chiến dịch chống những người thiên hữu. Mao tốt, đảng Cộng sản tốt và cả hai đã cứu Trung Quốc.
Mãi tới năm 1960, nghĩa là ba năm sau, bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Trần Nghị kể cho tôi, người ta đã quy kết hơn nửa triệu người là hữu khuynh, tôi mới vỡ ra rằng con số quá lớn, trong số đó có đã biến bao người vô tội trở thành nạn nhân. Tôi ái ngại nhất là ở các cơ sở sản xuất người ta phải hoàn thành một chỉ tiêu nhất định. Mỗi đơn vị phải quy kết được 5% thành viên của mình thuộc thành phần cánh hữu, bất kể đúng hay sai.
Đến bây giờ tôi mới rõ, biết bao nhiêu người đã bị chụp mũ, bị mất việc, bị tống vào những trại cải tạo lao động và chết một cách đau khổ, tức tưởi. Thực tế, Mao không ra lệnh tử hình những đối thủ, nhưng sự hành hạ về thể xác lẫn tinh thần của những biện pháp cải tạo thường dẫn đến chết dần, chết mòn và đầy đau đớn.
Cho đến khi có lần bản thân tôi phải lao động cật lực suốt hai tuần liền, tôi mới hiểu được cuộc sống trong trại cải tạo. Chẳng hạn, đàn ông chỉ vác được tối đa là 20 Jin (đơn vị đo trọng lượng của Trung Quốc) đá đã buộc phải khuân tới 40 Jin. Nếu họ gục xuống không thể bước nổi vì kiệt sức thì người ta bảo, nó là người phái hữu. Khi anh ta năm lăn quay, vô vọng họ ép phải nhận tội và khai ra những người khác. Số người chết trong các trại cải tạo nhiều hơn cả thời kỳ cải cách ruộng đất.
Đáng lẽ tôi phải biết điều đó rõ hơn mới đúng. Chính Mao đã nhiều lần tiết lộ với tôi. Một lần ông nói:
– Nếu chúng ta tính gộp tất cả những tên địa chủ, phú nông, những tên phần cách mạng, những thành phần không trong sạch và thành phần cánh hữu, ít nhất là 30 triệu người. Nếu chúng ta gom tất cả bọn chúng vào một chỗ duy nhất, chúng sẽ lập ra được cà một quốc gia mà mọi vấn đè rắc rối đều có thể từ đó mà ra. Ở các cấp uỷ đảng và các cơ quan chính quyền riêng lẻ, chúng sẽ chỉ là một thiểu số ít ỏi. Với dân tộc 600 triệu dân, chúng chỉ là một phần hai mươi. Vậy chúng ta chẳng cần phải sợ. Tuy nhiên, một số cán bộ đảng không nhận ra điều này. Tôi đã khuyên họ, trong trường hợp họ bị tấn công, hãy đứng vững, để cho vấn đề tự nó được giải quyết. Một số người hầu như không chịu được khi bị tấn công và thậm chí một số còn muốn bỏ đảng và chạy sang hàng ngũ bọn cánh hữu. Bây giờ chúng ta đã lột mặt nạ của tất cả bọn chúng và chính chúng ta lại tấn công chúng.
Khi đó, lần đầu tiên tôi được nghe con số 30 triệu kẻ thù nhân dân, một con số lớn không thể tưởng tượng được. Nhưng đồng thời, tôi cũng biết rằng Mao ít khi nói bừa. Con số của ông hẳn là từ các nguồn tin đáng tin cậy. Sau này tôi phòng đoán sự thật con số đó còn nhiều hơn thế.
Có cả bằng chứng về việc Mao coi sinh mạng của đồng bào chẳng có nghĩa lý gì ông thường nói: “Chúng ta đã quá đông dân. Chúng ta có thể loại bớt một số. Điều đó có sao đâu?”
Tôi vui mừng vì hồi đó tôi chẳng hiểu Mao. Mừng vì tôi chẳng thấy hết được những gì chất chứa trong chiến dịch thanh trừng, mừng vì tôi chẳng biết gì về sự khủng khiếp mà những người trí thức khác phải chịu đựng và biết bao người đã phải bỏ mạng. Tôi đã bao lần tìm cách thoát khỏi Mao, còn ông lại muốn kéo tôi trở lại. Bây giờ tôi tuyệt vọng ngồi trong cái bẫy. Tôi có thể làm gì được, nếu tôi biết những gì đang xảy ra bên ngoài cái kén bảo vệ của tôi? Tôi có thể làm gì được nếu tôi biết sâu sắc và cặn kẽ chuyện thanh trừng? Tôi không bao giờ chấp nhận nhưng cũng chẳng giúp gì được vì không quyền lực. Tôi cũng không thể thoát ra ngoài và cũng khó sống sót.
Theo lối nói của người Trung Quốc là nande hum, có nghĩa là muốn ra vẻ ngớ ngẩn cũng không hề đơn giản chút nào, bởi vì ngu si có khi lại hưởng thái bình. Ngày nay xem xét lại chuyện cũ, hồi đó tôi đúng là đầu đất và cần phải đầu đất. Đó là cơ hội để sống còn duy nhất của tôi.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Tags: Mao Trạch Đông
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [21], [22], [23]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Mao muốn tôi là người đầu tiên chứng kiến chiến dịch chống những người hữu khuynh. Ông nói với tôi ngay sau khi trở về Bắc Kinh:
– Đồng chí cứ như vị đạo sĩ, ẩn dật nơi rừng sâu núi thẳm. chẳng biết gì sự đời.
Vì vậy, ông đề nghị tôi ghé thăm Bệnh viện Hiệp hội Đa khoa Bắc Kinh và báo cáo tình hình ở đó cho ông hay.
Trước đây, Hiệp hội y khoa Bắc Kinh do quỹ Rockefeller tài trợ, một bệnh viện có nhiều khoa nhất ở Trung Quốc, có đội ngũ bác sĩ giỏi nhất và được trang bị hiện đại nhất. Tuy nhiên, từ năm 1949, bệnh viện này được tái tổ chức hoàn toàn đổi mới theo kiểu Liên Xô. Người ta đã thay thế một số bác sĩ nổi tiếng và sự điều hành được đặt dưới sự kiểm soát của đảng. Bí thư thứ nhất Trương Trí Thường nắm toàn quyền lãnh đạo bệnh viện. Đảng coi ông như một bác sĩ, vì trong chiến tranh ông đã được những bác sĩ quân y cộng sản đào tạo. Nhưng những bác sĩ được đào tạo ở các nước phương Tây làm việc trong bệnh viện tất nhiên không công nhận ông. Trương, một người thô lỗ, vô học, một nhà cách mạng lão thành hồi đó được xem là có đủ trình độ.
Những bác sĩ thực sự, trong đó có cả những bạn bè và thầy dạy cũ của tôi, lo ngại trước những thay đổi về tổ chức. Họ phàn nàn, ông bộ trưởng Bộ y tế, cơ quan có trách nhiệm quản lý chung các bệnh viện, đã can thiệp vào công việc nội bộ của họ. Một số bác sĩ khi được khuyến khích phê bình trước công luận trong thời gian phong trào Trăm hoa đua nở đã bày tỏ suy nghĩ của họ.
Tôi đã viết báo cáo về những ưu tư của họ, Mao bác bỏ sự trình bày của tôi, khiển trách tôi đã nhận xét quá hấp tấp và lại cử tôi đi tìm hiểu tiếp.
Tôi đã tham dự một cuộc họp phê phán các “thành phần thân hữu” trong bệnh viện. Mục tiêu phê phán chủ yếu trước hết là hiệu trưởng trường Đại học y khoa Lý Tống Ân và giám đốc bệnh viện Lý Khắc Hồng.
Những người phê phán hầu hết là các kỹ thuật viên trẻ ở phòng xét nghiệm và y tá, những người không có khái niệm gì về việc điều hành một bệnh viện hiện đại. Vì tôn trọng những đồng nghiệp già, nên những bác sĩ trẻ không tham gia chiến dịch này. Cả hai bác sĩ họ Lý đều bị buộc tội đã âm mưu khước từ sự lãnh đạo của đảng, lạm dụng quyền hành can thiệp vào những công việc nhân sự, tài chính và hành chính. Ngay trong cuộc họp, mọi người sửng sốt và tức giận.
Tuy tôi có cảm tình với hai vị bác sĩ này, nhưng tôi cho việc phê bình đảng một cách công khai của họ là sự xuẩn ngốc. Không một ai dám phê bình chỉ trích đảng. Làm việc cho Mao đã ba năm nay, tôi phụ thuộc vào ông, không có quan điểm riêng, suy nghĩ độc lập. Tôi chẳng cần phải kiềm chế hoặc nuôi ý nghĩ chống lại ông, vì quan điểm của Mao cũng là của tôi. Tôi chưa bao giờ có quan điểm ngược lại Mao.
Sau cuộc họp, tôi tới thăm bác sĩ Trương Tiểu Kiều, một trong nhưng bác sĩ giàu kinh nghiệm mà đáng lẽ đã khám bệnh cho Mao ở Bắc Đới Hà. Ông cũng là người tỉnh Hồ Nam đồng hương với Mao. Trước giải phóng, ông là hiệu trưởng trường Đại học y khoa Yale-Trung Hoa ở Hồ Nam, được coi là một trong những bác sĩ giỏi nhất Trung Quốc. Hồi đầu năm, bác sĩ Trương cũng đã lên tiếng công khai công kích và phê bình bí thư đảng uỷ nhà trường vì đã tự tiện điều động các bác sĩ trong khoa của ông sang bệnh viện khác. Vì vậy chiến dịch chống những người hữu khuynh đã làm cho bác sĩ Trương vô cùng lo lắng. Ông nói: “Tôi đã nói quá nhiều, một sai lầm nghiêm trọng. Lẽ ra, tôi nên im lặng. Tôi không hề có ý tranh chức tranh quyền. Ý của tôi chỉ muốn, trưởng bộ môn khi nhân viên dưới quyền bị điều động, ban lãnh đạo nhà trường nên tham khảo và hỏi ý kiến trước khi điều động”. Ông khẩn khoản xin tôi “phản ảnh ý kiến của ông đến nơi có thẩm quyền”, ý ông muốn ám chỉ Mao.
Mao cười khi tôi báo cáo với ông về chuyến viếng thăm bệnh viện lần thứ hai, vì ông nghĩ rốt cuộc tôi đã hiểu được tình hình. Quyền lực của đảng đều được thể hiện trong những vấn đề nhân sự, tài chính và hành chính. “Sau hàng năm ròng nội chiến với vô số người hy sinh, chúng ta mới giành được chính quyền. Vậy mà giờ đây bọn cánh hữu lại muốn đoạt lấy chính quyền của chúng ta”. Nhưng ông đã tha thứ cho Trương Tiểu Kiều: “Bác sĩ Trương không phải là người hữu khuynh. Đồng chí ấy chỉ dại dột và để cho người khác lợi dụng”. Trương Tiểu Kiều không bị truy bức vì hành động của ông.
Các bác sĩ Lý Tống Ân và Lý Khắc Hồng ít gặp may hơn. Vài tuần sau chuyến viếng thăm của tôi, họ đã bị quy kết hữu khuynh, bị đày đi cải tạo ở nông thôn. Lý Khắc Hồng, một trong những bác sĩ giỏi nhất Trung Quốc, phải làm người thủ thư trong một Trường Trung cấp y tế nhỏ ở Vân Nam, nơi tận cùng miền Tây Nam Trung Quốc. Bác sĩ Lý Tống Ân, một bác sĩ chuyên môn nổi tiếng, bị đày đi Quí Châu xa xôi, chẳng bao giờ được trở lại Bắc Kinh. Cả hai đã chết yểu sau khi bị đi đày một thời gian ngắn.
Ngay cả khi chiến dịch chống phái hữu khuynh mỗi ngày một lan rộng, tôi vẫn chưa lường được mức độ của sự kiện này rõ ràng. Tôi không biết bao nhiêu người đã bị kết án đi cải tạo lao động, hoặc phải chịu đựng cực hình như thế nào trong cuộc cải tạo. Theo Mao nói, thậm chí tôi có cảm tưởng rằng Chủ tịch rất độ lượng đối với kẻ thù của ông và muốn dành cho họ một cơ hội để cải huấn. Khi Mao cho tôi biết, không nghĩ đến việc hành quyết những đối thủ, tôi tin ông ngay. Tôi đã ủng hộ Mao và chiến dịch chống những người thiên hữu. Mao tốt, đảng Cộng sản tốt và cả hai đã cứu Trung Quốc.
Mãi tới năm 1960, nghĩa là ba năm sau, bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Trần Nghị kể cho tôi, người ta đã quy kết hơn nửa triệu người là hữu khuynh, tôi mới vỡ ra rằng con số quá lớn, trong số đó có đã biến bao người vô tội trở thành nạn nhân. Tôi ái ngại nhất là ở các cơ sở sản xuất người ta phải hoàn thành một chỉ tiêu nhất định. Mỗi đơn vị phải quy kết được 5% thành viên của mình thuộc thành phần cánh hữu, bất kể đúng hay sai.
Đến bây giờ tôi mới rõ, biết bao nhiêu người đã bị chụp mũ, bị mất việc, bị tống vào những trại cải tạo lao động và chết một cách đau khổ, tức tưởi. Thực tế, Mao không ra lệnh tử hình những đối thủ, nhưng sự hành hạ về thể xác lẫn tinh thần của những biện pháp cải tạo thường dẫn đến chết dần, chết mòn và đầy đau đớn.
Cho đến khi có lần bản thân tôi phải lao động cật lực suốt hai tuần liền, tôi mới hiểu được cuộc sống trong trại cải tạo. Chẳng hạn, đàn ông chỉ vác được tối đa là 20 Jin (đơn vị đo trọng lượng của Trung Quốc) đá đã buộc phải khuân tới 40 Jin. Nếu họ gục xuống không thể bước nổi vì kiệt sức thì người ta bảo, nó là người phái hữu. Khi anh ta năm lăn quay, vô vọng họ ép phải nhận tội và khai ra những người khác. Số người chết trong các trại cải tạo nhiều hơn cả thời kỳ cải cách ruộng đất.
Đáng lẽ tôi phải biết điều đó rõ hơn mới đúng. Chính Mao đã nhiều lần tiết lộ với tôi. Một lần ông nói:
– Nếu chúng ta tính gộp tất cả những tên địa chủ, phú nông, những tên phần cách mạng, những thành phần không trong sạch và thành phần cánh hữu, ít nhất là 30 triệu người. Nếu chúng ta gom tất cả bọn chúng vào một chỗ duy nhất, chúng sẽ lập ra được cà một quốc gia mà mọi vấn đè rắc rối đều có thể từ đó mà ra. Ở các cấp uỷ đảng và các cơ quan chính quyền riêng lẻ, chúng sẽ chỉ là một thiểu số ít ỏi. Với dân tộc 600 triệu dân, chúng chỉ là một phần hai mươi. Vậy chúng ta chẳng cần phải sợ. Tuy nhiên, một số cán bộ đảng không nhận ra điều này. Tôi đã khuyên họ, trong trường hợp họ bị tấn công, hãy đứng vững, để cho vấn đề tự nó được giải quyết. Một số người hầu như không chịu được khi bị tấn công và thậm chí một số còn muốn bỏ đảng và chạy sang hàng ngũ bọn cánh hữu. Bây giờ chúng ta đã lột mặt nạ của tất cả bọn chúng và chính chúng ta lại tấn công chúng.
Khi đó, lần đầu tiên tôi được nghe con số 30 triệu kẻ thù nhân dân, một con số lớn không thể tưởng tượng được. Nhưng đồng thời, tôi cũng biết rằng Mao ít khi nói bừa. Con số của ông hẳn là từ các nguồn tin đáng tin cậy. Sau này tôi phòng đoán sự thật con số đó còn nhiều hơn thế.
Có cả bằng chứng về việc Mao coi sinh mạng của đồng bào chẳng có nghĩa lý gì ông thường nói: “Chúng ta đã quá đông dân. Chúng ta có thể loại bớt một số. Điều đó có sao đâu?”
Tôi vui mừng vì hồi đó tôi chẳng hiểu Mao. Mừng vì tôi chẳng thấy hết được những gì chất chứa trong chiến dịch thanh trừng, mừng vì tôi chẳng biết gì về sự khủng khiếp mà những người trí thức khác phải chịu đựng và biết bao người đã phải bỏ mạng. Tôi đã bao lần tìm cách thoát khỏi Mao, còn ông lại muốn kéo tôi trở lại. Bây giờ tôi tuyệt vọng ngồi trong cái bẫy. Tôi có thể làm gì được, nếu tôi biết những gì đang xảy ra bên ngoài cái kén bảo vệ của tôi? Tôi có thể làm gì được nếu tôi biết sâu sắc và cặn kẽ chuyện thanh trừng? Tôi không bao giờ chấp nhận nhưng cũng chẳng giúp gì được vì không quyền lực. Tôi cũng không thể thoát ra ngoài và cũng khó sống sót.
Theo lối nói của người Trung Quốc là nande hum, có nghĩa là muốn ra vẻ ngớ ngẩn cũng không hề đơn giản chút nào, bởi vì ngu si có khi lại hưởng thái bình. Ngày nay xem xét lại chuyện cũ, hồi đó tôi đúng là đầu đất và cần phải đầu đất. Đó là cơ hội để sống còn duy nhất của tôi.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 24
Posted: 30/07/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [21], [22], [23], [24]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tháng 11-1957 Liên Xô kỷ niệm 40 năm ngày lập nước. Nhân dịp này Khrushchev mời các vị lãnh đạo các đảng cộng sản từ khắp thế giới sang Liên Xô dự lễ Quốc khánh. Hồi đó, Mao chủ tịch đã 63 tuổi, một lần duy nhất rời Trung Quốc là cuối năm 1949, ngay sau khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, ông và Stalin đàm phán về Hiệp định Xô-Trung ở Moskova.
Mao muốn trở lại Moskova. Chiến dịch chống hữu khuynh vẫn diễn biến tốt đẹp, Chủ tịch rất phấn khởi. Toàn dân tỏ ra đoàn kết một lòng, lạc quan chưa từng thấy. Chủ nghĩa xã hội đang được triển khai cả nông thôn lẫn thành thị, cuộc cách mạng tiến triển thuận lợi. Mao có thể tới Moskova với danh nghĩa một người thắng cuộc, một người nước ngoài với tư cách một nhà lãnh đạo lâu năm nhất của thành trì cộng sản, người dẫn đầu một đoàn đại biểu khổng lồ, một đối thủ và là một người tuyên chiến đối đầu với Khrushchev.
Theo kế hoạch, chúng tôi lên đường vào ngày 2-11-1957.
Tôi lo chuẩn bị mọi mặt về y tế cho chuyến đi. Phó ban y tế trung ương đảm nhận việc chăm lo sức khoẻ thành viên trong đoàn đại biểu, trong khi đó tôi đến Moscow với tư cách bác sĩ riêng của Chủ tịch.
Giang Thanh đề nghị cho cả Lưu Huệ Mẫn đi theo, người đã điều trị cho Mao ở Thanh Đảo. Như thế đây là dịp đền đáp sự phục vụ trước đây của ông, ngoài ra sự có mặt của ông ở Moscow cũng chứng tỏ Chủ tịch, một người khuyến khích nền y học cổ truyền Trung Quốc. Sự cảm kích lúc đầu của bác sĩ Lưu nhanh chóng chuyển thành lo ngại. Ông rất sợ cái lạnh của Moscow, trong khi tôi không dám cam đoan khu nhà ở có đủ ấm hay không. Tuy bác sĩ Lưu ít hơn Mao vài tuổi nhưng sức khỏe kém, giống như các ông già khác, ông sẽ bị mất mặt nếu bị cảm lạnh ở Moscow. Thật là nhục nếu Chủ tịch ốm và ngay cả bác sĩ điều trị cho Chủ tịch cũng ốm luôn. Bác sĩ Lưu cũng sợ những chiếc áo bành-tô đồng phục nhồi bông phát cho mọi thành viên trong đoàn đại biểu sẽ không đủ ấm, ông muốn có một áo bành-tô lông, một cái mũ lông. Lưu đã cảm thấy nhẹ nhõm ra mặt khi Diệp Tử Long, người phụ trách hậu cần đã đáp ứng yêu cầu của ông.
Thế rồi, ông Lưu bắt đầu nghĩ đến cách chăm sóc sức khỏe cho Mao. Ông yêu cầu phải được trang bị đầy đủ dụng cụ và thuốc đề phòng tất cả những trường hợp có thể xảy ra, vì ở Liên Xô không có những loại thảo dược Lưu cần khi Chủ tịch ốm. Thảo dược của ông chất đầy ba cái thùng lớn, nhiều đến mức tuy đã được niêm phong ấy thế mùi hăng hắc của thảo dược vẫn bốc ra. Không những thế, bác sĩ Lưu lại nhất quyết yêu cầu đòi mang những thùng đó lên máy bay.
Chúng tôi phải điều đình và thoả thuận với nhau, bác sĩ Lưu chỉ mang theo lên máy bay một lượng thảo dược đủ dùng cho một tuần, còn ba chiếc thùng cũng như chiếc nồi đất để sắc thuốc sẽ được gửi sang Moscow trước trong một chuyến tàu hoả chở đầy tặng phẩm.
Chúng tôi cần một y tá để chăm sóc Mao trong trường hợp khẩn cấp. Tôi chọn Ngô Tự Tuấn – vợ Hứa Đạo – y tá trưởng giàu kinh nghiệm nhất mà tôi biết. Tuy nhiên Diệp Tử Long muốn cử một trong những y tá mà năm ngoái đã đưa Giang Thanh sang Moscow. Như vậy sẽ tiết kiệm được, vì đảng phải cung cấp quần áo mùa đông cho các thành viên trong đoàn, còn người y tá hộ tống Giang Thanh trước đây đã có sẵn quần áo. Nhưng ngược lại, cô ta không được đào tạo về y khoa. Lần này Giang Thanh ủng hộ tôi một cách bất thường, nói: “Một y tá giỏi cho Mao chủ tịch quan trọng hơn nhiều so với việc tiết kiệm một chút tiền bạc”. Thế là Ngô Tự Tuấn được bổ nhiệm vào nhiệm vụ này.
Liên Xô cũng cử một bác sĩ để chăm sóc sức khoẻ Chủ tịch trên đường tới Moskova. Tôi phải tiếp đãi ông khách này trong thời gian ngắn ngùi ông lưu lại ở Bắc Kinh. Y tá trưởng, tôi và Lại Chu Liệt, phụ trách tài khoản đặc biệt của Trung Nam Hải đã dẫn ông ta tới Tư Đắc Quán, nhà hàng nổi tiếng món vịt Bắc Kinh quen thuộc. Vị bác sĩ này tỏ ra rất thích những món ăn Trung Hoa cùng rượu mạnh Mao Đài. Lúc đưa ông về sứ quán Liên Xô, tuy đã chếnh choáng, nhưng cũng rất mừng rỡ khi tôi tặng thêm cho ông một chai Mao Đài nữa.
Liên Xô dành cho chuyến bay chúng tôi hai chiếc máy bay Tu-104. Mao, Tống Khánh Linh, ông bác sĩ người Nga và tôi đi trên một chiếc, những người còn lại trong phái đoàn đại biểu khổng lồ của Trung Quốc đi chiếc thứ hai. Các chiêu đãi viên hàng không mang tới cho chúng tôi món trứng cá muối caviar, cá, khoai tây rán và sandwiches trong các chặng nghỉ để tiếp nhiên liệu giữa đường có quầy buffets nhiều món ăn cho đoàn. Mao chẳng giấu giếm mối ác cảm đối với những món ăn của người Nga, ông bảo: “Tôi chẳng thích món nào cả”. Ngay lúc mới khởi hành, ông bác sĩ Nga đã uống rất nhiều vodka, ông nói về tác hại của hút thuốc và lợi ích của uống rượu. Chặng đường còn lại của chuyến bay ông dành cho giấc ngủ để tỉnh rượu.
Nikita Khrushchev đón chúng tôi ở sân bay. Cùng đi với ông có Nikolai Bulganin, một người có bộ râu xồm đáng kính, có vẻ mặt u sầu và người bạn cũ của tôi, Anastas Mikoyan. Mikoyan chào đón tôi rất nồng nhiệt bằng tiếng Nga, vì không có phiên dịch nên tôi chẳng hiểu gì cả. Hình như ông ta nói gì đó về phương pháp điều trị bằng châm cứu mà tôi đã giới thiệu cho ông trước đây. Người phụ nữ duy nhất của Ban tiếp tân, bà Bộ trưởng Bộ văn hoá Yekaterina Furtseva, một phụ nữ trông rất khả ái, trạc 50 tuổi. Tôi không hiểu vì sao bà đi đi lại lại có vẻ tất bật như vậy.
Phái đoàn Trung Quốc, phái đoàn quan trọng nhất trong 64 đoàn đại biểu. Khrushchev tiếp Mao rất thân mật, đầy vẻ kính trọng. Ông đích thân đưa Mao vào nơi làm việc của mình trong điện Kremlin, mời Mao sau hội nghị có thể đi nghỉ lại ở một nhà nghỉ tại Moscow, hoặc đến bãi tắm Sochi bên bờ Biển Đen. Mao từ chối và ngay từ đầu đã tỏ ra thận trọng và lạnh lùng đối với Khrushchev. Ông vẫn còn tức việc Khrushchev đã phê phán Stalin. Gần như ngay sau khi chúng tôi đặt chân đến Moscow, Mao đã bắt đầu châm chọc người lãnh đạo đảng cộng sản Nga này. Khi chúng tôi đi từ sân bay vào thành phố, cũng giống như tôi, Mao nhận thấy dân chúng trên đường phố có vẻ chán chường, thiếu thiện cảm. Ngược hẳn với ở Trung Quốc, nơi mà lòng nhiệt tình cách mạng vẫn hừng hực dâng cao. Mao nói:
– Với chiến dịch chống Stalin, Khrushchev đã đánh mất đi sự ủng hộ của dân chúng. Chẳng có gì lạ khi người dân ở đây đã mất hết nhiệt tình.
Người ta chuẩn bị cho Mao và những người tuỳ tùng của ông cực kỳ kỹ lưỡng. Đó là một lâu đài, nơi ở của hoàng hậu Katharina trước đây với những hành lang tạo thành những mê cung rộng lớn và những căn phòng gọn gàng, được trang trí bằng những đồ cổ cực quí. Dưới sàn là những tấm thảm nhung dày, trên trần cao có treo những chùm đèn sáng lấp lánh, còn những bức tường được trang trí bằng những bức tranh chân dung. Mao ở trong căn phòng lộng lẫy nhất là phòng ngủ của hoàng hậu Yekaterina. Căn phòng đó khá rộng và được bày biện tuyệt đẹp. Lần này, tuy không mang theo chiếc giường gỗ riêng của ông, nhưng vẫn khăng khăng dùng chiếc bô riêng, mặc dù đã có cầu tiêu xả nước ngay bên cạnh phòng tắm.
Diệp Tử Long, Vương Kính Tiên, Lâm Khắc, Lý Ẩm Kiều, vệ sĩ Tiểu Trương, hai người dầu bếp và tôi cùng ở với Mao trong lâu đài. Những thành viên còn lại trong đoàn đại biểu, trong đó có nhiều vị lãnh đạo đảng và chính phủ như Tống Khánh Linh, Đặng Tiểu Bình. Bành Chân, Bành Đức Hoài, Lỗ Đình Nghị, Dương Thượng Côn, Trần Bá Đạt, Hồ Kiều Mục cũng như những người hộ tống khác ở các khách sạn hoặc chia nhau ở trong sứ quán Trung Quốc. Tôi hầu như chẳng gặp họ. Lâm Khắc và tôi cùng ở trong một căn phòng thuộc một phần lâu đài. Tuy căn phòng này không lộng lẫy như phòng của Mao, nhưng cũng rất sang trọng. Người ta luôn luôn mang tới cho chúng tôi nào táo, cam, sô-cô-la, nước cam, nước khoáng và thuốc lá. Rất nhiều rượu, đủ các loại, còn món ăn thật tuyệt vời.
Mao rất phấn khích, sôi nổi, vui vẻ. Tuy chẳng thèm để ý đến sự xa hoa bao quanh, nhưng lại rất lưu tâm đến thái độ ân cần người ta dành cho ông và các đại biểu Trung Quốc. Ông so sánh rất sắc xảo với những gì đã chứng kiến vào năm 1949, khi ông sang hội đàm với Stalin. Ông châm biếm với nụ cười khinh bỉ:
– Các đồng chí thấy, bây giờ người ta tiếp đãi mình như thế đấy. Ngay tại đất nước cộng sản này, người ta cũng phân biệt rõ, ai là người có thế lực và ai là người yếu hèn. Đúng là bọn trưởng giả học làm sang!
Một lời nhận xét thật chua cay, tôi không thể tin được Mao có thể nặng lời như vậy.
Chúng tôi viếng lăng Lenin, đặt vòng hoa trước quan tài kính của Lenin và Stalin, một cảm giác bâng khuâng ập đến tôi. Thi hài của hai nhà lãnh đạo Liên Xô trông nhăn nhúm và khô khốc. Sau này tôi được biết chân tay của họ đã bị thối rữa, thay thế bằng sáp. Hồi đó tôi không thể ngờ rằng 20 năm sau tôi phải điều hành một nhóm bác sĩ bảo quản thi hài Mao.
Mao tỏ ra ít để tâm đến phong tục tập quán văn hoá Nga. Ông ngồi ăn một mình, thậm chí còn tách ra khỏi các thành viên trong đoàn đại biểu Trung Quốc. Trong mỗi bữa ăn. Ông có thể thoải mái chọn các món ăn từ vô số các món ăn Nga và Trung Quốc. Người ta đã điều cho ông hai đầu bếp Nga và một trong hai đầu bếp riêng của ông cũng rất thành thạo nghệ thuật nấu ăn phương Tây. Tuy vậy, Mao vẫn chỉ ăn những món ăn của Hồ Nam quê hương, do người đầu bếp mà ông ưa thích nấu. Tôi cũng hiểu được sự ưu ái ông dành cho các món ăn Trung Quốc, bởi vì chúng tôi cũng không thấy ngon miệng khi phải ăn những món ăn nặng nề của Nga. Bởi vậy, khi ông mời tôi đến ăn cơm vào buổi tối, tôi đã ăn rất thích thú, mặc dù tôi mới vừa ăn các món ăn Nga. Mao trêu tôi: “Tôi không nghĩ đồng chí vừa mới ăn xong”.
Một lần Mao đã vô tình động chạm vào đời sống văn hoá Nga một cách đáng xấu hổ trong chuyến viếng thăm này. Khrushchev đưa ông đi xem buổi trình diễn vũ ba-lê vở Hồ thiên nga. Tôi cũng đi theo và ngồi với hai chính trị gia này ở lô riêng của Khrushchev. Chúng tôi đến muộn, khi hồi thứ hai bắt đầu mở màn, Mao đã tỏ ra chán ngán. Từ trước tới nay Mao chưa bao giờ xem múa ba-lê của phương Tây và chưa ai chuẩn bị trước cho Mao, cho nên ngay từ đầu buổi diễn ông đã ngán ngẩm. Ông nói với Khrushchev:
– Tôi chịu không nhảy được như vậy? Toàn bằng đầu ngón chân. Thế còn đồng chí?
Nhà lãnh đạo Liên Xô cũng quả quyết là ông không thể nào nhảy bằng đầu các ngón chân như thế được. Hết hồi thứ hai Mao nói ông muốn về.
Mao quay sang hỏi tôi:
– Tại sao trong khi nhảy họ lại nhún trên các đầu ngón chân nhỉ? Thật là nực cười. Sao họ không nhảy như những người bình thường?
Tôi đoán rằng, Mao cố tình không đánh giá cao nền văn hoá Nga. Ông khoái chí khi chê được Khrushchev và những khiếm khuyết của Liên Xô.
Tới khi chúng tôi đến thăm lưu học sinh Trung Quốc đang học tại trường Đại học tổng hợp quốc gia Moskova mang tên Lomonosov, mới thấy Mao có vẻ quan tâm đôi chút. Bữa ăn trong các nhà ăn sinh viên ở đây khá hơn nhiều so với cơm rau đạm bạc bình thường của sinh viên ở trong nước. Các cư xá sinh viên ở Moscow cũng đầy đủ tiện nghi hơn hẳn ở Trung Quốc. Ở đây cứ hai sinh viên ở trong một phòng. Còn ở Trung Quốc, căn phòng này đủ cho tám người ở. Mao nói: “Chúng ta không thể so bì được”.
Thường thường, ban ngày ông tham gia các cuộc gặp mặt. Tối đến ông ở trong phòng một mình. Vì vậy, các thành viên trong ban tham mưu của ông có rất nhiều thời gian rảnh rỗi. Có lần, tôi và Lâm Khắc đi xem chương trình ca nhạc dành cho các đoàn đại biểu nước ngoài chúng tôi rất ưa thích. Những buổi tối, chúng tôi thường vào rạp chiếu phim trong lâu đài xem phim của Mỹ nói về cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Bộ phim chúng tôi thích là The Great Waltz. Hán Tự, nhân viên bộ ngoại giao, sau này làm đại sứ ở Hoa Kỳ, sợ việc chúng tôi chỉ thích xem phim Mỹ sẽ xúc phạm nước chủ nhà. Do đó, chúng tôi không xem phim Mỹ nữa, xem phim Liên Xô. Tôi xem bộ phim mới công chiếu dựa theo tiểu thuyết Sông Đông Ếm Đềm của Sholokhov nói về thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh Thế giới thứ nhất và cuộc Cách mạng tháng Mười. Bộ phim chẳng có phụ đề chữ Trung cũng như chữ Anh, tôi lại chẳng hiểu tiếng Nga, nên nản chí không đủ kiên nhẫn xem tiếp.
Toàn đoàn được chủ nhà đặc biệt quí trọng. Chúng tôi mang theo rất nhiều tặng phẩm: một chiếc tàu chạm bằng ngà voi quí hiếm, những bình hoa bằng gốm, những lá cờ của quốc tế cộng sản làm bằng vàng lá dành cho các cán bộ cao cấp và một số lượng lớn thuốc lá Trung Quốc và rượu Mao Đài dành cho các nhân viên. Ngay sau khi đến nơi. chúng tôi bắt đầu phân phát tặng phẩm. Rồi người ta gõ cửa phòng chúng tôi vào ban đêm để xin thêm quà. Những tặng phẩm quí đã làm cho người ta ngộ nhận rằng, các bác sĩ Trung Quốc rất có uy tín và thu nhập rất cao. Có lẽ đó cũng là nguyên nhân khiến một cô hầu phòng đã có tình ý với tôi. Lâm Khắc thấy người cô gái này đặc biệt cẩn thận khi dọn giường cho tôi. Sau đó thông qua anh phiên dịch Nhan Minh Phục, cô biết muốn cặp bồ với tôi và thậm chí còn sẵn sàng theo tôi về Trung Quốc. Nhan Minh Phục thay mặt tôi đã từ chối và đoàn chúng tôi được một trận cười vui vẻ.
Khi thời gian ở Moskova sắp hết, Lại Chu Liệt, trưởng phòng chi tiêu đặc biệt đề nghị tôi cùng với một phiên dịch của sứ quán Trung Quốc đến cảm tạ ông bác sĩ đã tháp tùng Mao đến Moskova. Ông bác sĩ này có một căn hộ trải thảm rộng rãi, bày biện đồ gỗ khá đẹp.
Ông mừng rỡ khi chúng tôi tới thăm và tiếp đãi rất ân cần. Khi chúng tôi trao quà tặng cho ông gồm hai chai Mao Đài và một số thứ lặt vặt, ông có vẻ bối rối, đi tới đi lui. Cuối cùng, ông rút ra ba tờ một trăm rúp đưa cho chúng tôi mỗi người một tờ. Tôi ngượng quá, không muốn nhận, nhưng Lại giật tiền từ tay tôi và nhét vào túi. Trên đường về Lại giải thích, tất cả những tặng phẩm dành cho phái đoàn Trung Quốc là sở hữu của nhà nước.
Ngày 7-11-1957 có cuộc diễu hành nhân dịp 40 năm ngày Cách mạng tháng Mười. Tất cả chúng tôi đều tham dự. Mao đứng với Khrushchev trên lễ đài cao của lăng Lenin. Tôi đứng ngay cạnh lăng, cạnh tôi là Tổng bí thư đảng cộng sản Estonia. Ông đã ở Anh vài năm, nói tiếng Anh tuyệt vời. Ông nói rằng, hy vọng sẽ có ngày ông được đến Trung Quốc, một đất nước xa xôi, huyền bí.
Các cuộc diễu hành của chúng tôi vào ngày 1 tháng 5 và ngày 1 tháng 10 cũng dập khuôn Liên Xô. Trong khi đó, tôi đã thấm mệt không thể nán lại xem các cuộc duyệt binh tốn kém, lãng phí. Ngay Quảng trường Đỏ có con đường lát đá, với những tháp đường và các cung điện cũng chẳng khuyến rũ tôi. Hai năm sau, quảng trường Thiên An Môn được mở rộng nhân dịp kỷ niệm 10 năm Cách mạng Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng Trung Quốc đang chạy đua với Liên Xô xây dựng một quảng trường lớn nhất thế giới.
Mặc dù bất đồng với Khrushchev, sự kiện Hội nghị Moskova và Bản tuyên bố chung cũng tác động tới Mao. Mao nói:
– Năm 1848 Marx và Engels ra bản Tuyên ngôn Cộng sản và phát động phong trào cộng sản toàn cầu. Bây giờ, hơn 100 năm sau, bản Tuyên bố chung ở Moskova đã đúc kết những kinh nghiệm của phong trào, vạch ra những triển vọng cho tương lai.
Mao lạc quan nhìn về tương lai và cũng tự cảm thấy phấn khởi qua những tiên đoán trong bài phát biểu của mình. Trước đông đảo các đại biểu. Mao tiên đoán rằng, trong vòng 15 năm tới, Liên Xô sẽ vượt Mỹ về công nghiệp luyện kim và những ngành công nghiệp quan trọng khác. Cũng trong thời gian đó, Trung Quốc sẽ vượt Anh. Mao quả quyết trong vòng 15 năm tới, hệ thống kinh tế cộng sản sẽ vượt hết các nước tư bản và tình hình thế giới sẽ chín muồi cho một cuộc cách mạng cộng sản.
Mao coi ngành luyện kim là chủ đạo, quyết định việc phát triển kinh tế và cho rằng Trung Quốc cần phải tăng sản lượng thép. Ông chấp nhận cuộc chiến tranh lạnh, chính sách hiếu chiến của bộ trưởng ngoại giao Mỹ Dulles và những căng thẳng quốc tế: “Những căng thẳng quốc tế chỉ có lợi cho chúng ta, đất nước chúng ta càng chóng thống nhất. Chừng nào những kẻ khác còn mài kiếm, chừng ấy tôi chưa thể yên tâm”.
Sau này, qua hồi ký của Khrushchev tôi biết rằng, ông ta rất lo ngại trước bài phát biểu vô trách nhiệm của Mao vào tháng 11-1957 ở Moscow. Mao nhìn thế giới như ếch ngồi đáy giếng. Việc ông quả quyết trong vòng 15 năm tới các nước cộng sản sẽ vượt các nước tư bản là hoàn toàn thiếu cơ sở. Và việc tán thành tiếp tục duy trì tình hình căng thẳng trên thế giới trong thời đại nguyên tử là một sự mạo hiểm. Bài phát biểu của Mao cũng chẳng hơn gì những câu chuyện phiếm rỗng tuếch trong các cuộc tán gẫu ban đêm của chúng tôi. Ông đang ôm ấp một chiến lược mới. Sáng kiến “Đại nhảy vọt” – một chiến dịch mang tính chất chính trị bất hạnh nhất của Mao đã ra đời.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [21], [22], [23], [24]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tháng 11-1957 Liên Xô kỷ niệm 40 năm ngày lập nước. Nhân dịp này Khrushchev mời các vị lãnh đạo các đảng cộng sản từ khắp thế giới sang Liên Xô dự lễ Quốc khánh. Hồi đó, Mao chủ tịch đã 63 tuổi, một lần duy nhất rời Trung Quốc là cuối năm 1949, ngay sau khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, ông và Stalin đàm phán về Hiệp định Xô-Trung ở Moskova.
Mao muốn trở lại Moskova. Chiến dịch chống hữu khuynh vẫn diễn biến tốt đẹp, Chủ tịch rất phấn khởi. Toàn dân tỏ ra đoàn kết một lòng, lạc quan chưa từng thấy. Chủ nghĩa xã hội đang được triển khai cả nông thôn lẫn thành thị, cuộc cách mạng tiến triển thuận lợi. Mao có thể tới Moskova với danh nghĩa một người thắng cuộc, một người nước ngoài với tư cách một nhà lãnh đạo lâu năm nhất của thành trì cộng sản, người dẫn đầu một đoàn đại biểu khổng lồ, một đối thủ và là một người tuyên chiến đối đầu với Khrushchev.
Theo kế hoạch, chúng tôi lên đường vào ngày 2-11-1957.
Tôi lo chuẩn bị mọi mặt về y tế cho chuyến đi. Phó ban y tế trung ương đảm nhận việc chăm lo sức khoẻ thành viên trong đoàn đại biểu, trong khi đó tôi đến Moscow với tư cách bác sĩ riêng của Chủ tịch.
Giang Thanh đề nghị cho cả Lưu Huệ Mẫn đi theo, người đã điều trị cho Mao ở Thanh Đảo. Như thế đây là dịp đền đáp sự phục vụ trước đây của ông, ngoài ra sự có mặt của ông ở Moscow cũng chứng tỏ Chủ tịch, một người khuyến khích nền y học cổ truyền Trung Quốc. Sự cảm kích lúc đầu của bác sĩ Lưu nhanh chóng chuyển thành lo ngại. Ông rất sợ cái lạnh của Moscow, trong khi tôi không dám cam đoan khu nhà ở có đủ ấm hay không. Tuy bác sĩ Lưu ít hơn Mao vài tuổi nhưng sức khỏe kém, giống như các ông già khác, ông sẽ bị mất mặt nếu bị cảm lạnh ở Moscow. Thật là nhục nếu Chủ tịch ốm và ngay cả bác sĩ điều trị cho Chủ tịch cũng ốm luôn. Bác sĩ Lưu cũng sợ những chiếc áo bành-tô đồng phục nhồi bông phát cho mọi thành viên trong đoàn đại biểu sẽ không đủ ấm, ông muốn có một áo bành-tô lông, một cái mũ lông. Lưu đã cảm thấy nhẹ nhõm ra mặt khi Diệp Tử Long, người phụ trách hậu cần đã đáp ứng yêu cầu của ông.
Thế rồi, ông Lưu bắt đầu nghĩ đến cách chăm sóc sức khỏe cho Mao. Ông yêu cầu phải được trang bị đầy đủ dụng cụ và thuốc đề phòng tất cả những trường hợp có thể xảy ra, vì ở Liên Xô không có những loại thảo dược Lưu cần khi Chủ tịch ốm. Thảo dược của ông chất đầy ba cái thùng lớn, nhiều đến mức tuy đã được niêm phong ấy thế mùi hăng hắc của thảo dược vẫn bốc ra. Không những thế, bác sĩ Lưu lại nhất quyết yêu cầu đòi mang những thùng đó lên máy bay.
Chúng tôi phải điều đình và thoả thuận với nhau, bác sĩ Lưu chỉ mang theo lên máy bay một lượng thảo dược đủ dùng cho một tuần, còn ba chiếc thùng cũng như chiếc nồi đất để sắc thuốc sẽ được gửi sang Moscow trước trong một chuyến tàu hoả chở đầy tặng phẩm.
Chúng tôi cần một y tá để chăm sóc Mao trong trường hợp khẩn cấp. Tôi chọn Ngô Tự Tuấn – vợ Hứa Đạo – y tá trưởng giàu kinh nghiệm nhất mà tôi biết. Tuy nhiên Diệp Tử Long muốn cử một trong những y tá mà năm ngoái đã đưa Giang Thanh sang Moscow. Như vậy sẽ tiết kiệm được, vì đảng phải cung cấp quần áo mùa đông cho các thành viên trong đoàn, còn người y tá hộ tống Giang Thanh trước đây đã có sẵn quần áo. Nhưng ngược lại, cô ta không được đào tạo về y khoa. Lần này Giang Thanh ủng hộ tôi một cách bất thường, nói: “Một y tá giỏi cho Mao chủ tịch quan trọng hơn nhiều so với việc tiết kiệm một chút tiền bạc”. Thế là Ngô Tự Tuấn được bổ nhiệm vào nhiệm vụ này.
Liên Xô cũng cử một bác sĩ để chăm sóc sức khoẻ Chủ tịch trên đường tới Moskova. Tôi phải tiếp đãi ông khách này trong thời gian ngắn ngùi ông lưu lại ở Bắc Kinh. Y tá trưởng, tôi và Lại Chu Liệt, phụ trách tài khoản đặc biệt của Trung Nam Hải đã dẫn ông ta tới Tư Đắc Quán, nhà hàng nổi tiếng món vịt Bắc Kinh quen thuộc. Vị bác sĩ này tỏ ra rất thích những món ăn Trung Hoa cùng rượu mạnh Mao Đài. Lúc đưa ông về sứ quán Liên Xô, tuy đã chếnh choáng, nhưng cũng rất mừng rỡ khi tôi tặng thêm cho ông một chai Mao Đài nữa.
Liên Xô dành cho chuyến bay chúng tôi hai chiếc máy bay Tu-104. Mao, Tống Khánh Linh, ông bác sĩ người Nga và tôi đi trên một chiếc, những người còn lại trong phái đoàn đại biểu khổng lồ của Trung Quốc đi chiếc thứ hai. Các chiêu đãi viên hàng không mang tới cho chúng tôi món trứng cá muối caviar, cá, khoai tây rán và sandwiches trong các chặng nghỉ để tiếp nhiên liệu giữa đường có quầy buffets nhiều món ăn cho đoàn. Mao chẳng giấu giếm mối ác cảm đối với những món ăn của người Nga, ông bảo: “Tôi chẳng thích món nào cả”. Ngay lúc mới khởi hành, ông bác sĩ Nga đã uống rất nhiều vodka, ông nói về tác hại của hút thuốc và lợi ích của uống rượu. Chặng đường còn lại của chuyến bay ông dành cho giấc ngủ để tỉnh rượu.
Nikita Khrushchev đón chúng tôi ở sân bay. Cùng đi với ông có Nikolai Bulganin, một người có bộ râu xồm đáng kính, có vẻ mặt u sầu và người bạn cũ của tôi, Anastas Mikoyan. Mikoyan chào đón tôi rất nồng nhiệt bằng tiếng Nga, vì không có phiên dịch nên tôi chẳng hiểu gì cả. Hình như ông ta nói gì đó về phương pháp điều trị bằng châm cứu mà tôi đã giới thiệu cho ông trước đây. Người phụ nữ duy nhất của Ban tiếp tân, bà Bộ trưởng Bộ văn hoá Yekaterina Furtseva, một phụ nữ trông rất khả ái, trạc 50 tuổi. Tôi không hiểu vì sao bà đi đi lại lại có vẻ tất bật như vậy.
Phái đoàn Trung Quốc, phái đoàn quan trọng nhất trong 64 đoàn đại biểu. Khrushchev tiếp Mao rất thân mật, đầy vẻ kính trọng. Ông đích thân đưa Mao vào nơi làm việc của mình trong điện Kremlin, mời Mao sau hội nghị có thể đi nghỉ lại ở một nhà nghỉ tại Moscow, hoặc đến bãi tắm Sochi bên bờ Biển Đen. Mao từ chối và ngay từ đầu đã tỏ ra thận trọng và lạnh lùng đối với Khrushchev. Ông vẫn còn tức việc Khrushchev đã phê phán Stalin. Gần như ngay sau khi chúng tôi đặt chân đến Moscow, Mao đã bắt đầu châm chọc người lãnh đạo đảng cộng sản Nga này. Khi chúng tôi đi từ sân bay vào thành phố, cũng giống như tôi, Mao nhận thấy dân chúng trên đường phố có vẻ chán chường, thiếu thiện cảm. Ngược hẳn với ở Trung Quốc, nơi mà lòng nhiệt tình cách mạng vẫn hừng hực dâng cao. Mao nói:
– Với chiến dịch chống Stalin, Khrushchev đã đánh mất đi sự ủng hộ của dân chúng. Chẳng có gì lạ khi người dân ở đây đã mất hết nhiệt tình.
Người ta chuẩn bị cho Mao và những người tuỳ tùng của ông cực kỳ kỹ lưỡng. Đó là một lâu đài, nơi ở của hoàng hậu Katharina trước đây với những hành lang tạo thành những mê cung rộng lớn và những căn phòng gọn gàng, được trang trí bằng những đồ cổ cực quí. Dưới sàn là những tấm thảm nhung dày, trên trần cao có treo những chùm đèn sáng lấp lánh, còn những bức tường được trang trí bằng những bức tranh chân dung. Mao ở trong căn phòng lộng lẫy nhất là phòng ngủ của hoàng hậu Yekaterina. Căn phòng đó khá rộng và được bày biện tuyệt đẹp. Lần này, tuy không mang theo chiếc giường gỗ riêng của ông, nhưng vẫn khăng khăng dùng chiếc bô riêng, mặc dù đã có cầu tiêu xả nước ngay bên cạnh phòng tắm.
Diệp Tử Long, Vương Kính Tiên, Lâm Khắc, Lý Ẩm Kiều, vệ sĩ Tiểu Trương, hai người dầu bếp và tôi cùng ở với Mao trong lâu đài. Những thành viên còn lại trong đoàn đại biểu, trong đó có nhiều vị lãnh đạo đảng và chính phủ như Tống Khánh Linh, Đặng Tiểu Bình. Bành Chân, Bành Đức Hoài, Lỗ Đình Nghị, Dương Thượng Côn, Trần Bá Đạt, Hồ Kiều Mục cũng như những người hộ tống khác ở các khách sạn hoặc chia nhau ở trong sứ quán Trung Quốc. Tôi hầu như chẳng gặp họ. Lâm Khắc và tôi cùng ở trong một căn phòng thuộc một phần lâu đài. Tuy căn phòng này không lộng lẫy như phòng của Mao, nhưng cũng rất sang trọng. Người ta luôn luôn mang tới cho chúng tôi nào táo, cam, sô-cô-la, nước cam, nước khoáng và thuốc lá. Rất nhiều rượu, đủ các loại, còn món ăn thật tuyệt vời.
Mao rất phấn khích, sôi nổi, vui vẻ. Tuy chẳng thèm để ý đến sự xa hoa bao quanh, nhưng lại rất lưu tâm đến thái độ ân cần người ta dành cho ông và các đại biểu Trung Quốc. Ông so sánh rất sắc xảo với những gì đã chứng kiến vào năm 1949, khi ông sang hội đàm với Stalin. Ông châm biếm với nụ cười khinh bỉ:
– Các đồng chí thấy, bây giờ người ta tiếp đãi mình như thế đấy. Ngay tại đất nước cộng sản này, người ta cũng phân biệt rõ, ai là người có thế lực và ai là người yếu hèn. Đúng là bọn trưởng giả học làm sang!
Một lời nhận xét thật chua cay, tôi không thể tin được Mao có thể nặng lời như vậy.
Chúng tôi viếng lăng Lenin, đặt vòng hoa trước quan tài kính của Lenin và Stalin, một cảm giác bâng khuâng ập đến tôi. Thi hài của hai nhà lãnh đạo Liên Xô trông nhăn nhúm và khô khốc. Sau này tôi được biết chân tay của họ đã bị thối rữa, thay thế bằng sáp. Hồi đó tôi không thể ngờ rằng 20 năm sau tôi phải điều hành một nhóm bác sĩ bảo quản thi hài Mao.
Mao tỏ ra ít để tâm đến phong tục tập quán văn hoá Nga. Ông ngồi ăn một mình, thậm chí còn tách ra khỏi các thành viên trong đoàn đại biểu Trung Quốc. Trong mỗi bữa ăn. Ông có thể thoải mái chọn các món ăn từ vô số các món ăn Nga và Trung Quốc. Người ta đã điều cho ông hai đầu bếp Nga và một trong hai đầu bếp riêng của ông cũng rất thành thạo nghệ thuật nấu ăn phương Tây. Tuy vậy, Mao vẫn chỉ ăn những món ăn của Hồ Nam quê hương, do người đầu bếp mà ông ưa thích nấu. Tôi cũng hiểu được sự ưu ái ông dành cho các món ăn Trung Quốc, bởi vì chúng tôi cũng không thấy ngon miệng khi phải ăn những món ăn nặng nề của Nga. Bởi vậy, khi ông mời tôi đến ăn cơm vào buổi tối, tôi đã ăn rất thích thú, mặc dù tôi mới vừa ăn các món ăn Nga. Mao trêu tôi: “Tôi không nghĩ đồng chí vừa mới ăn xong”.
Một lần Mao đã vô tình động chạm vào đời sống văn hoá Nga một cách đáng xấu hổ trong chuyến viếng thăm này. Khrushchev đưa ông đi xem buổi trình diễn vũ ba-lê vở Hồ thiên nga. Tôi cũng đi theo và ngồi với hai chính trị gia này ở lô riêng của Khrushchev. Chúng tôi đến muộn, khi hồi thứ hai bắt đầu mở màn, Mao đã tỏ ra chán ngán. Từ trước tới nay Mao chưa bao giờ xem múa ba-lê của phương Tây và chưa ai chuẩn bị trước cho Mao, cho nên ngay từ đầu buổi diễn ông đã ngán ngẩm. Ông nói với Khrushchev:
– Tôi chịu không nhảy được như vậy? Toàn bằng đầu ngón chân. Thế còn đồng chí?
Nhà lãnh đạo Liên Xô cũng quả quyết là ông không thể nào nhảy bằng đầu các ngón chân như thế được. Hết hồi thứ hai Mao nói ông muốn về.
Mao quay sang hỏi tôi:
– Tại sao trong khi nhảy họ lại nhún trên các đầu ngón chân nhỉ? Thật là nực cười. Sao họ không nhảy như những người bình thường?
Tôi đoán rằng, Mao cố tình không đánh giá cao nền văn hoá Nga. Ông khoái chí khi chê được Khrushchev và những khiếm khuyết của Liên Xô.
Tới khi chúng tôi đến thăm lưu học sinh Trung Quốc đang học tại trường Đại học tổng hợp quốc gia Moskova mang tên Lomonosov, mới thấy Mao có vẻ quan tâm đôi chút. Bữa ăn trong các nhà ăn sinh viên ở đây khá hơn nhiều so với cơm rau đạm bạc bình thường của sinh viên ở trong nước. Các cư xá sinh viên ở Moscow cũng đầy đủ tiện nghi hơn hẳn ở Trung Quốc. Ở đây cứ hai sinh viên ở trong một phòng. Còn ở Trung Quốc, căn phòng này đủ cho tám người ở. Mao nói: “Chúng ta không thể so bì được”.
Thường thường, ban ngày ông tham gia các cuộc gặp mặt. Tối đến ông ở trong phòng một mình. Vì vậy, các thành viên trong ban tham mưu của ông có rất nhiều thời gian rảnh rỗi. Có lần, tôi và Lâm Khắc đi xem chương trình ca nhạc dành cho các đoàn đại biểu nước ngoài chúng tôi rất ưa thích. Những buổi tối, chúng tôi thường vào rạp chiếu phim trong lâu đài xem phim của Mỹ nói về cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Bộ phim chúng tôi thích là The Great Waltz. Hán Tự, nhân viên bộ ngoại giao, sau này làm đại sứ ở Hoa Kỳ, sợ việc chúng tôi chỉ thích xem phim Mỹ sẽ xúc phạm nước chủ nhà. Do đó, chúng tôi không xem phim Mỹ nữa, xem phim Liên Xô. Tôi xem bộ phim mới công chiếu dựa theo tiểu thuyết Sông Đông Ếm Đềm của Sholokhov nói về thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh Thế giới thứ nhất và cuộc Cách mạng tháng Mười. Bộ phim chẳng có phụ đề chữ Trung cũng như chữ Anh, tôi lại chẳng hiểu tiếng Nga, nên nản chí không đủ kiên nhẫn xem tiếp.
Toàn đoàn được chủ nhà đặc biệt quí trọng. Chúng tôi mang theo rất nhiều tặng phẩm: một chiếc tàu chạm bằng ngà voi quí hiếm, những bình hoa bằng gốm, những lá cờ của quốc tế cộng sản làm bằng vàng lá dành cho các cán bộ cao cấp và một số lượng lớn thuốc lá Trung Quốc và rượu Mao Đài dành cho các nhân viên. Ngay sau khi đến nơi. chúng tôi bắt đầu phân phát tặng phẩm. Rồi người ta gõ cửa phòng chúng tôi vào ban đêm để xin thêm quà. Những tặng phẩm quí đã làm cho người ta ngộ nhận rằng, các bác sĩ Trung Quốc rất có uy tín và thu nhập rất cao. Có lẽ đó cũng là nguyên nhân khiến một cô hầu phòng đã có tình ý với tôi. Lâm Khắc thấy người cô gái này đặc biệt cẩn thận khi dọn giường cho tôi. Sau đó thông qua anh phiên dịch Nhan Minh Phục, cô biết muốn cặp bồ với tôi và thậm chí còn sẵn sàng theo tôi về Trung Quốc. Nhan Minh Phục thay mặt tôi đã từ chối và đoàn chúng tôi được một trận cười vui vẻ.
Khi thời gian ở Moskova sắp hết, Lại Chu Liệt, trưởng phòng chi tiêu đặc biệt đề nghị tôi cùng với một phiên dịch của sứ quán Trung Quốc đến cảm tạ ông bác sĩ đã tháp tùng Mao đến Moskova. Ông bác sĩ này có một căn hộ trải thảm rộng rãi, bày biện đồ gỗ khá đẹp.
Ông mừng rỡ khi chúng tôi tới thăm và tiếp đãi rất ân cần. Khi chúng tôi trao quà tặng cho ông gồm hai chai Mao Đài và một số thứ lặt vặt, ông có vẻ bối rối, đi tới đi lui. Cuối cùng, ông rút ra ba tờ một trăm rúp đưa cho chúng tôi mỗi người một tờ. Tôi ngượng quá, không muốn nhận, nhưng Lại giật tiền từ tay tôi và nhét vào túi. Trên đường về Lại giải thích, tất cả những tặng phẩm dành cho phái đoàn Trung Quốc là sở hữu của nhà nước.
Ngày 7-11-1957 có cuộc diễu hành nhân dịp 40 năm ngày Cách mạng tháng Mười. Tất cả chúng tôi đều tham dự. Mao đứng với Khrushchev trên lễ đài cao của lăng Lenin. Tôi đứng ngay cạnh lăng, cạnh tôi là Tổng bí thư đảng cộng sản Estonia. Ông đã ở Anh vài năm, nói tiếng Anh tuyệt vời. Ông nói rằng, hy vọng sẽ có ngày ông được đến Trung Quốc, một đất nước xa xôi, huyền bí.
Các cuộc diễu hành của chúng tôi vào ngày 1 tháng 5 và ngày 1 tháng 10 cũng dập khuôn Liên Xô. Trong khi đó, tôi đã thấm mệt không thể nán lại xem các cuộc duyệt binh tốn kém, lãng phí. Ngay Quảng trường Đỏ có con đường lát đá, với những tháp đường và các cung điện cũng chẳng khuyến rũ tôi. Hai năm sau, quảng trường Thiên An Môn được mở rộng nhân dịp kỷ niệm 10 năm Cách mạng Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng Trung Quốc đang chạy đua với Liên Xô xây dựng một quảng trường lớn nhất thế giới.
Mặc dù bất đồng với Khrushchev, sự kiện Hội nghị Moskova và Bản tuyên bố chung cũng tác động tới Mao. Mao nói:
– Năm 1848 Marx và Engels ra bản Tuyên ngôn Cộng sản và phát động phong trào cộng sản toàn cầu. Bây giờ, hơn 100 năm sau, bản Tuyên bố chung ở Moskova đã đúc kết những kinh nghiệm của phong trào, vạch ra những triển vọng cho tương lai.
Mao lạc quan nhìn về tương lai và cũng tự cảm thấy phấn khởi qua những tiên đoán trong bài phát biểu của mình. Trước đông đảo các đại biểu. Mao tiên đoán rằng, trong vòng 15 năm tới, Liên Xô sẽ vượt Mỹ về công nghiệp luyện kim và những ngành công nghiệp quan trọng khác. Cũng trong thời gian đó, Trung Quốc sẽ vượt Anh. Mao quả quyết trong vòng 15 năm tới, hệ thống kinh tế cộng sản sẽ vượt hết các nước tư bản và tình hình thế giới sẽ chín muồi cho một cuộc cách mạng cộng sản.
Mao coi ngành luyện kim là chủ đạo, quyết định việc phát triển kinh tế và cho rằng Trung Quốc cần phải tăng sản lượng thép. Ông chấp nhận cuộc chiến tranh lạnh, chính sách hiếu chiến của bộ trưởng ngoại giao Mỹ Dulles và những căng thẳng quốc tế: “Những căng thẳng quốc tế chỉ có lợi cho chúng ta, đất nước chúng ta càng chóng thống nhất. Chừng nào những kẻ khác còn mài kiếm, chừng ấy tôi chưa thể yên tâm”.
Sau này, qua hồi ký của Khrushchev tôi biết rằng, ông ta rất lo ngại trước bài phát biểu vô trách nhiệm của Mao vào tháng 11-1957 ở Moscow. Mao nhìn thế giới như ếch ngồi đáy giếng. Việc ông quả quyết trong vòng 15 năm tới các nước cộng sản sẽ vượt các nước tư bản là hoàn toàn thiếu cơ sở. Và việc tán thành tiếp tục duy trì tình hình căng thẳng trên thế giới trong thời đại nguyên tử là một sự mạo hiểm. Bài phát biểu của Mao cũng chẳng hơn gì những câu chuyện phiếm rỗng tuếch trong các cuộc tán gẫu ban đêm của chúng tôi. Ông đang ôm ấp một chiến lược mới. Sáng kiến “Đại nhảy vọt” – một chiến dịch mang tính chất chính trị bất hạnh nhất của Mao đã ra đời.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 25
Posted: 01/08/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Hội nghị Moscow đã tạo đà cho Mao. Ngày 20-11-1957, khi chúng tôi rời Liên Xô, ông đã soạn thảo một chương trình hành động nhằm nâng cao sản xuất. Vì ban lãnh đạo đảng là chướng ngại vật chính cho kế hoạch này, nên trước hết ông phải tìm sự ủng hộ của ban lãnh đạo đảng.
Sau khi trở về, Mao và Giang Thanh ở Hàng Châu hai tuần. Sau đó chúng tôi cùng bay đi Nam Ninh dự hội nghị đảng ở khu tự trị Quảng Tây. Ngay trong chuyến đi, Mao đã tìm cách thu phục các cán bộ đảng để họ ủng hộ kế hoạch của ông.
Chu Tiểu Châu bí thư thứ nhất tỉnh uỷ Hồ Nam đã đón tiếp Mao trong lúc nghỉ giữa chừng đề tiếp nhiên liệu ở Trường Sa. Nhân dịp này Mao chọc tức người lãnh đạo đảng ở quê ông bằng câu hỏi:
– Tại sao sản lượng nông nghiệp ở Hồ Nam không tăng? Tại sao nông dân ở Hồ Nam chỉ thu hoạch được một vụ trong năm?
Chu Tiểu Châu trả lời, điều kiện khí hậu ở Hồ Nam chỉ cho phép thu hoạch một vụ duy nhất. Mao phản đối, nêu tỉnh Triết Giang, trong đó có Hàng Châu, điều kiện khí hậu ở đó cũng tương tự nhưng vẫn thu hoạch được hai vụ một năm.
– Tại sao ở Hồ Nam lại không như vậy – Mao hỏi tiếp.
Cuộc đối thoại làm Chu Tiểu Châu xấu hổ, không biết phải trả lời thế nào.
Mao nói:
– Đồng chí không chịu học kinh nghiệm của những tỉnh khác. Vấn đề là ở chỗ đó.
Chu Tiểu Châu ngoan ngoãn trả lời:
– Từ giờ chúng tôi sẽ học hỏi.
– Học hỏi ở đây nghĩa là thế nào? Như vậy đến bao giờ đồng chí học hỏi được nào? Thôi, đồng chí có thể đi.
Mao cầm một quyển sách lên đọc. Chu Tiểu Châu nhã nhặn cáo từ mọi người, rồi quay lại Mao, hứa:
– Chúng tôi sẽ cố gắng làm hai vụ ngay lập tức.
Khi Chu Tiểu Châu đi khỏi, Mao bực tức ném quyển sách sang một bên, nói gay gắt:
– Đồng chí ấy muốn thử làm hai vụ mà chẳng chịu học hỏi kinh nghiệm của người khác thì chẳng đi tới đâu cả.
Trong những tháng tiếp theo cũng đã có những cuộc trao đổi giữa Mao với những lãnh đạo chủ chốt địa phương cũng như hội nghị đảng bộ những lời cảnh cáo tương tự. Dần dần, Chủ tịch đã thành công, thu hút cả những người nhút nhát cũng hứa sẽ ủng hộ con đường ảo tưởng của ông.
Tại hội nghị đảng ở Nam Ninh sau đó, ông đã làm một cuộc thử nghiệm vĩ đại đưa toàn đảng đi theo đường lối của ông.
Nam Ninh, một thành phố cổ kính, nhà cửa nhiều màu sắc đẹp mắt và sạch sẽ. Phố xá ở đây hẹp, ban công ở các tầng trên chìa ra che cho các cửa hiệu nhỏ và khách bộ hành trước những cơn mưa bất thường ập tới. Vùng này ấm, ẩm ướt, cây cỏ xanh tươi quanh năm. Ngay cả trong tháng giêng, khi chúng tôi tới đây, thời tiết rất dễ chịu, nhiệt độ 26 độ C. Những cây cam và bưởi trổ hoa, làm cho không khí thoảng hương thơm. Con người ở đây ăn mặc cũng sặc sỡ. Ở vùng này có người Choang, một dân tộc thiểu số. Phụ nữ mặc váy ngắn duyên dáng, đầu quấn những chiếc khăn nhiều màu sặc sỡ.
Người dân Nam Ninh giản dị, ngay thẳng. Đây là vùng không giàu, cũng không phải vùng kinh tế phát triển cao. Các quan chức của thành phố lấy làm hãnh diện mời được Mao tới thăm và ra sức thực hiện bổn phận chủ nhà. Người ta tuyên truyền Mao và vợ ông là những người giản dị. Cũng chính từ miệng các quan chức tuyên truyền mọi người tin chắc rằng, Mao sẽ đánh giá cao những gì người ta dành cho ông. Khi chúng tôi đến vào đầu tháng Giêng, vài ngày trước khi hội nghị khai mạc. Người ta đã bố trí cho Chủ tịch và vợ ông ở trong hai toà nhà riêng biệt. Thực ra, đó là nhà khách của Uỷ ban hành chính tỉnh. Hai toà nhà này nằm trên một đồi cây yên tĩnh, phong cảnh xung quanh rất đẹp. Mao chẳng phàn nàn gì, nhưng Giang Thanh lại không chịu được nơi ở này.
Vài ngày sau khi chúng tôi tới đây, bà vẫn để tôi nghỉ ngơi. Các y tá của bà đã làm khổ bà. Bà nói vậy, yêu cầu tôi phải khiển trách những cô y tá này. Trong nhiệm vụ của tôi có cả việc quản lý nhân viên chăm sóc cho Giang Thanh, nếu bà không hài lòng với các cô y tá, tôi phải can thiệp.
Giang Thanh quả quyết, các nhân viên đã làm bà bị cảm lạnh. Nhà khách chẳng có hệ thống sưởi trong các phòng, ban đêm trời trở lạnh, các nhân viên phục vụ Giang Thanh đã đặt một lò sưởi điện. Lò sưởi này không có bộ phận điều chỉnh, khi cảm thấy quá nóng, tắt sưởi bà lại kêu quá lạnh. Cán bộ cơ sở ráo riết tìm cách giải quyết, cuối cùng họ cử một tổ sang Hong Kong mua được một lò sưởi xách tay hiện đại, được làm nóng bằng một hệ thống ống chứa nước nóng tuần hoàn, nhiệt độ căn phòng đã được ổn định.
Giang Thanh có thói quen tắm trước khi đi ngủ, nhưng nhà khách không có vòi tắm hoa sen và hệ thống nước nóng. Các y tá đổ nước ấm vào trong những cái chậu, thay nhau dội nước lên người Giang Thanh, khi nước trong chậu nguội đi, Giang Thanh đổ tội cho các cô y tá cố tình dội nước lạnh làm bà bị cảm.
Bởi vậy, cán bộ cơ sở lại phải cử người đi Hong Kong mua một hệ thống vòi tắm hoa sen nóng lạnh. Trong khi lắp hệ thống hoa sen, người ta yêu cầu Giang Thanh tạm thời rời khỏi nhà khách. Bà từ chối không chịu đi và vẫn tiếp tục trách móc các y tá. Khi tôi tới để tìm cách hoà giải, bà lại trút cơn giận lên đầu tôi, quả quyết rằng tôi cũng muốn ép bà chuyển ra khách sạn.
Nói chuyện nghiêm túc với Giang quả là không thể được. Tôi tức tối trình bày việc đó với Mao.
Mao nói:
– Giang Thanh là một con hổ giấy. Nhiều việc cứ phải lờ đi, đồng chí đừng chấp. Các cô y tá cũng chẳng phải gì mà sợ. Đồng chí hãy nói với họ, tôi biết và đánh giá cao công việc của họ làm.
Giang Thanh cũng tức giận và chất vấn chồng về chuyện này. Một vệ sĩ nghe được Mao nói với vợ:
– Bà cũng biết câu nói: Nếu mẹ ốm quá 100 ngày, đến con đẻ cũng bỏ đạo làm con. Người ta làm việc chỉ để kiếm tiền, chứ không nghĩ đến việc phục vụ chu đáo đâu.
Lúc có mặt tôi, Mao trách vợ và khen các cô y tá. Nhưng trước mặt vợ, ông lại chỉ trích họ. Nhưng Mao có vẻ muốn thuyết phục vợ hoà giải với tôi.
Một lần Giang Thanh hỏi tôi khi những chuyện cãi vã giữa chúng tôi vẫn còn chưa chấm dứt:
– Đồng chí có biết tôi thường nhường đồng chí không?
Tôi trả lời không biết.
Bà tiếp lời:
– Đồng chí có những điểm mạnh và điểm yếu đáng chú ý. Đồng chí rất sáng suốt khi giải quyết các vấn đề và có hành động cương quyết. Cả Chủ tịch cũng đánh giá cao sự sáng suốt của đồng chí. Nhưng đồng chí là người trí thức kiêu căng. Nếu đã có ý định chẳng có gì ngăn cản nổi đồng chí. Thế nhưng Chủ tịch không cho phép tôi được khiển trách đồng chí. Đồng chí biết không?
– Không, tôi không hiểu đồng chí đang nói gì.
– Có lúc tôi không chịu được đồng chí. Nhưng Chủ tịch muốn giữ đồng chí lại, vì ông hợp đồng chí. Tôi và đồng chí là đồng minh, cả hai chúng ta đều làm việc cho Chủ tịch. Tôi đã nói những suy nghĩ của tôi. Thế đồng chí nghĩ gì về tôi?
Tôi đáp:
– Tôi chẳng có ý kiến gì. Nhưng tôi tin, với trình độ học vấn và lý lịch gia đình, tôi không thích hợp với công việc ở đây. Tôi vẫn hy vọng có ai đó có thể thay thế được tôi.
Giang Thanh càng bị kích động và mất kiên nhẫn:
– Chủ tịch sẽ quyết định về tư cách của đồng chí.
Một vệ sĩ nghe được cuộc đối thoại của chúng tôi. Anh ta nói với tôi sau khi tôi rời khu ở của Giang Thanh:
– Đồng chí bác sĩ Lý này, đồng chí Giang Thanh có vẻ muốn đối xử tử tế với đồng chí đấy. Cả Chủ tịch cũng giận đồng chí Giang Thanh. Mới đây tôi nghe được khi đồng chí ấy vừa ra khỏi phòng, Chủ tịch ca cẩm: “Tôi đang bận, bà cứ làm rối tung rối mù ở đây. Không thể cứ thế này mãi”.
Nhưng Giang Thanh vẫn tiếp tục gây rối. Phòng tắm vẫn chưa được giải quyết, bà vẫn tiếp tục chửi mắng các cô y tá, khiến họ nước mắt giàn giụa chạy lại giãi bày với tôi. Tôi chẳng biết phải làm gì nữa. Trưởng ban an ninh Vương Kính Tiên, một người có năng lực, đã thông báo cho tôi biết, công việc của ông ta chỉ được giới hạn trong vấn đề bảo vệ an toàn cho các vị lãnh đạo cao cấp. Và Diệp Tử Long cũng cho vấn đề phòng tắm của Giang Thanh không phải bổn phận của ông. Thế là tôi buộc phải sử dụng toàn bộ ngón võ miệng của mình để thuyết phục bà vợ của Chủ tịch ngủ tạm một đêm ở khách sạn. Cuối cùng bà đồng ý. Hệ thống nóng lạnh và vòi hoa sen lắp rất nhanh.
Giang Thanh vẫn chưa hài lòng. Bây giờ lại ca cẩm xung quanh khu nhà ở quá ồn ào. Tất cả cán bộ cơ sở, nhân viên an ninh cùng với bộ phận nhà bếp phải chuyển xuống khu nhà dưới chân đồi, đường xá quanh khu đồi cấm xe cộ qua lại, chỉ để làm vừa lòng bà ta.
Trong hội nghị đảng ở Nam Ninh có các cán bộ đảng toàn quốc và các tỉnh tham gia. Hội nghị khai mạc vào ngày 11-1-1958 và ngay từ ngày đầu tiên một bầu không khí căng thẳng đã bao trùm hội nghị. Những người dự hội nghị như bị kích dộng, đa số người soạn thảo kế hoạch kinh tế của đảng đều cho dự định đuổi kịp Anh trong 15 năm của Mao là ảo tưởng. Còn Mao trong 11 ngày này đã phải mất rất nhiều thời gian để chống lại những cán bộ kế hoạch, phát triển và tài chính. Chỉ có rất ít người không bị Mao đụng tới, ngay cả Chu Ân Lai và Trần Vân cũng không thoát khỏi sự chỉ trích của ông.
Bốn ngày sau buổi khai mạc, uỷ viên dự khuyết bộ chính trị Trần Bá Đạt gọi tôi vào phòng ông ở khách sạn. Trần bị cảm muốn nhờ tôi điều trị. Thực ra ông muốn trở lại Bắc Kinh, nhưng đang bị Mao chỉ trích, sợ rời cuộc họp sẽ bị quy kết tự ý bỏ hội nghị. Trần cũng bị mất ngủ. Phòng trên buồng ông ở có một ai đó làm ồn cả đêm, ông muốn nhờ tôi xem ai ở trên đó mà cứ đi đi lại lại bình bịch trên sàn như vậy. Nhưng người đi đi lại lại cả đêm cũng có thể một lãnh đạo cao cấp, tôi chẳng có quyền hạn gì ngăn cấm bất cứ ai trong khách sạn này cả. Tôi hỏi ra, người ở trên phòng đó là Bạc Nhất Ba, Chủ tịch Uỷ ban Kinh tế nhà nước, cũng đang bị Mao chĩa mũi súng, căng thẳng thần kinh cả đêm không ngủ được nên cứ đi đi lại lại trên đầu Trần Bá Đạt.
Hoàng Kính, chồng cũ của Giang Thanh, chủ tịch Uỷ ban Kinh tế và Kỹ thuật, chịu trách nhiệm về vấn đề phát triển công nghệ phải chịu khuất phục trước áp lực của Mao. Gần đến khi kết thúc hội nghị, Kha Thanh Thế, thị trưởng thành phố Thượng Hải đã yêu cầu tôi khám cho Hoàng Kính. Sau nhiều lần bị Mao công kích gay gắt, ông ta đã có những biểu hiện không bình thường.
Hoàng Kính nằm trên giường, nhìn trừng trừng lên trần nhà và lảm nhảm những câu khó hiểu. Ông ta van xin tôi: “Cứu tôi với! Cứu tôi với!”
Dương Thượng Côn thu xếp cho ông ta đi điều trị ở thành phố Quảng Châu gần đó. Lý Phú Xuân, phó thủ tướng và chủ tịch Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Tập Trọng Huân, Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước đưa Hoàng Kính đi. Trên máy bay ông ta cũng có những cử chỉ kỳ lạ. Ông quì xuống và đập đầu xuống sàn trước mặt Lý Phú Xuân, van xin Lý hãy thả ông ra, tha mạng cho ông. Ông được đưa vào một bệnh viện quân y ở Quảng Châu, bị gẫy một chân trong một lần ông định trốn viện. Sau đó tôi không nghe được tin tức gì về ông nữa. Mãi sau này tôi mới biết ông chết vào khoảng tháng 11-1958.
Thái độ của Mao rất trái ngược đối với những người ông đã làm cho họ căng thẳng. Sau vài lần nổi giận, ông bắt đầu tỏ ra nhũn nhặn, tử tế, thậm chí lúc bế mạc hội nghị, còn tự bỏ sự phân biệt cấp trên cấp dưới thường ngày. Ông dự liên hoan bữa trưa tổng kết hội nghị, tỏ vẻ khoái khẩu món đặc sản “Long Đả Hổ” được nấu từ thịt rắn độc (tượng trưng cho rồng) và thịt mèo rừng (tượng trưng cho hổ). Món “đặc sản” này rất béo, khó nuốt, vậy mà Mao cứ khen ngon.
Hôm sau, Mao đi bơi ở sông Vĩnh Giang, chảy qua phía trước thành phố. Nhiệt độ của nước khoảng 20 độ C nghĩa là rất lạnh đối với việc bơi lội. Mao cứ nhất quyết đòi bơi, tôi phải đi tháp tùng. Như thường lệ, ông ngâm mình một tiếng liền dưới nước và đến ngày hôm sau bị ho và sổ mũi.
Lại một lần nữa, ông chỉ nghe theo lời khuyên của bác sĩ khi ông cảm thấy bệnh trở lên nghiêm trọng. Thế nhưng sau khi uống thuốc ông bình phục rất nhanh.
Tiếp theo hội nghị ở Nam Ninh là hàng loạt những cuộc họp đảng do Mao triệu tập trong những tháng tiếp theo. Với những lời châm chọc, động viên, phỉnh phờ, kể cả giận dữ, Mao tìm cách đưa đảng đi theo đường lối của ông. Đầu tiên ông buộc tội những cán bộ tỉnh, sau đó ông buộc tội những người soạn thảo kế hoạch kinh tế đã làm cho nền kinh tế trì trệ, chậm phát triển. Tuy nhiên cứ sau mỗi cuộc họp, những chỉ tiêu kế hoạch lại được nâng lên một chút và đến khoá họp thứ hai của Đại hội đảng lần thứ VIII vào tháng 5 năm 1958. Mao đã chuẩn bị xong kế hoạch Đại nhảy vọt của ông.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Hội nghị Moscow đã tạo đà cho Mao. Ngày 20-11-1957, khi chúng tôi rời Liên Xô, ông đã soạn thảo một chương trình hành động nhằm nâng cao sản xuất. Vì ban lãnh đạo đảng là chướng ngại vật chính cho kế hoạch này, nên trước hết ông phải tìm sự ủng hộ của ban lãnh đạo đảng.
Sau khi trở về, Mao và Giang Thanh ở Hàng Châu hai tuần. Sau đó chúng tôi cùng bay đi Nam Ninh dự hội nghị đảng ở khu tự trị Quảng Tây. Ngay trong chuyến đi, Mao đã tìm cách thu phục các cán bộ đảng để họ ủng hộ kế hoạch của ông.
Chu Tiểu Châu bí thư thứ nhất tỉnh uỷ Hồ Nam đã đón tiếp Mao trong lúc nghỉ giữa chừng đề tiếp nhiên liệu ở Trường Sa. Nhân dịp này Mao chọc tức người lãnh đạo đảng ở quê ông bằng câu hỏi:
– Tại sao sản lượng nông nghiệp ở Hồ Nam không tăng? Tại sao nông dân ở Hồ Nam chỉ thu hoạch được một vụ trong năm?
Chu Tiểu Châu trả lời, điều kiện khí hậu ở Hồ Nam chỉ cho phép thu hoạch một vụ duy nhất. Mao phản đối, nêu tỉnh Triết Giang, trong đó có Hàng Châu, điều kiện khí hậu ở đó cũng tương tự nhưng vẫn thu hoạch được hai vụ một năm.
– Tại sao ở Hồ Nam lại không như vậy – Mao hỏi tiếp.
Cuộc đối thoại làm Chu Tiểu Châu xấu hổ, không biết phải trả lời thế nào.
Mao nói:
– Đồng chí không chịu học kinh nghiệm của những tỉnh khác. Vấn đề là ở chỗ đó.
Chu Tiểu Châu ngoan ngoãn trả lời:
– Từ giờ chúng tôi sẽ học hỏi.
– Học hỏi ở đây nghĩa là thế nào? Như vậy đến bao giờ đồng chí học hỏi được nào? Thôi, đồng chí có thể đi.
Mao cầm một quyển sách lên đọc. Chu Tiểu Châu nhã nhặn cáo từ mọi người, rồi quay lại Mao, hứa:
– Chúng tôi sẽ cố gắng làm hai vụ ngay lập tức.
Khi Chu Tiểu Châu đi khỏi, Mao bực tức ném quyển sách sang một bên, nói gay gắt:
– Đồng chí ấy muốn thử làm hai vụ mà chẳng chịu học hỏi kinh nghiệm của người khác thì chẳng đi tới đâu cả.
Trong những tháng tiếp theo cũng đã có những cuộc trao đổi giữa Mao với những lãnh đạo chủ chốt địa phương cũng như hội nghị đảng bộ những lời cảnh cáo tương tự. Dần dần, Chủ tịch đã thành công, thu hút cả những người nhút nhát cũng hứa sẽ ủng hộ con đường ảo tưởng của ông.
Tại hội nghị đảng ở Nam Ninh sau đó, ông đã làm một cuộc thử nghiệm vĩ đại đưa toàn đảng đi theo đường lối của ông.
Nam Ninh, một thành phố cổ kính, nhà cửa nhiều màu sắc đẹp mắt và sạch sẽ. Phố xá ở đây hẹp, ban công ở các tầng trên chìa ra che cho các cửa hiệu nhỏ và khách bộ hành trước những cơn mưa bất thường ập tới. Vùng này ấm, ẩm ướt, cây cỏ xanh tươi quanh năm. Ngay cả trong tháng giêng, khi chúng tôi tới đây, thời tiết rất dễ chịu, nhiệt độ 26 độ C. Những cây cam và bưởi trổ hoa, làm cho không khí thoảng hương thơm. Con người ở đây ăn mặc cũng sặc sỡ. Ở vùng này có người Choang, một dân tộc thiểu số. Phụ nữ mặc váy ngắn duyên dáng, đầu quấn những chiếc khăn nhiều màu sặc sỡ.
Người dân Nam Ninh giản dị, ngay thẳng. Đây là vùng không giàu, cũng không phải vùng kinh tế phát triển cao. Các quan chức của thành phố lấy làm hãnh diện mời được Mao tới thăm và ra sức thực hiện bổn phận chủ nhà. Người ta tuyên truyền Mao và vợ ông là những người giản dị. Cũng chính từ miệng các quan chức tuyên truyền mọi người tin chắc rằng, Mao sẽ đánh giá cao những gì người ta dành cho ông. Khi chúng tôi đến vào đầu tháng Giêng, vài ngày trước khi hội nghị khai mạc. Người ta đã bố trí cho Chủ tịch và vợ ông ở trong hai toà nhà riêng biệt. Thực ra, đó là nhà khách của Uỷ ban hành chính tỉnh. Hai toà nhà này nằm trên một đồi cây yên tĩnh, phong cảnh xung quanh rất đẹp. Mao chẳng phàn nàn gì, nhưng Giang Thanh lại không chịu được nơi ở này.
Vài ngày sau khi chúng tôi tới đây, bà vẫn để tôi nghỉ ngơi. Các y tá của bà đã làm khổ bà. Bà nói vậy, yêu cầu tôi phải khiển trách những cô y tá này. Trong nhiệm vụ của tôi có cả việc quản lý nhân viên chăm sóc cho Giang Thanh, nếu bà không hài lòng với các cô y tá, tôi phải can thiệp.
Giang Thanh quả quyết, các nhân viên đã làm bà bị cảm lạnh. Nhà khách chẳng có hệ thống sưởi trong các phòng, ban đêm trời trở lạnh, các nhân viên phục vụ Giang Thanh đã đặt một lò sưởi điện. Lò sưởi này không có bộ phận điều chỉnh, khi cảm thấy quá nóng, tắt sưởi bà lại kêu quá lạnh. Cán bộ cơ sở ráo riết tìm cách giải quyết, cuối cùng họ cử một tổ sang Hong Kong mua được một lò sưởi xách tay hiện đại, được làm nóng bằng một hệ thống ống chứa nước nóng tuần hoàn, nhiệt độ căn phòng đã được ổn định.
Giang Thanh có thói quen tắm trước khi đi ngủ, nhưng nhà khách không có vòi tắm hoa sen và hệ thống nước nóng. Các y tá đổ nước ấm vào trong những cái chậu, thay nhau dội nước lên người Giang Thanh, khi nước trong chậu nguội đi, Giang Thanh đổ tội cho các cô y tá cố tình dội nước lạnh làm bà bị cảm.
Bởi vậy, cán bộ cơ sở lại phải cử người đi Hong Kong mua một hệ thống vòi tắm hoa sen nóng lạnh. Trong khi lắp hệ thống hoa sen, người ta yêu cầu Giang Thanh tạm thời rời khỏi nhà khách. Bà từ chối không chịu đi và vẫn tiếp tục trách móc các y tá. Khi tôi tới để tìm cách hoà giải, bà lại trút cơn giận lên đầu tôi, quả quyết rằng tôi cũng muốn ép bà chuyển ra khách sạn.
Nói chuyện nghiêm túc với Giang quả là không thể được. Tôi tức tối trình bày việc đó với Mao.
Mao nói:
– Giang Thanh là một con hổ giấy. Nhiều việc cứ phải lờ đi, đồng chí đừng chấp. Các cô y tá cũng chẳng phải gì mà sợ. Đồng chí hãy nói với họ, tôi biết và đánh giá cao công việc của họ làm.
Giang Thanh cũng tức giận và chất vấn chồng về chuyện này. Một vệ sĩ nghe được Mao nói với vợ:
– Bà cũng biết câu nói: Nếu mẹ ốm quá 100 ngày, đến con đẻ cũng bỏ đạo làm con. Người ta làm việc chỉ để kiếm tiền, chứ không nghĩ đến việc phục vụ chu đáo đâu.
Lúc có mặt tôi, Mao trách vợ và khen các cô y tá. Nhưng trước mặt vợ, ông lại chỉ trích họ. Nhưng Mao có vẻ muốn thuyết phục vợ hoà giải với tôi.
Một lần Giang Thanh hỏi tôi khi những chuyện cãi vã giữa chúng tôi vẫn còn chưa chấm dứt:
– Đồng chí có biết tôi thường nhường đồng chí không?
Tôi trả lời không biết.
Bà tiếp lời:
– Đồng chí có những điểm mạnh và điểm yếu đáng chú ý. Đồng chí rất sáng suốt khi giải quyết các vấn đề và có hành động cương quyết. Cả Chủ tịch cũng đánh giá cao sự sáng suốt của đồng chí. Nhưng đồng chí là người trí thức kiêu căng. Nếu đã có ý định chẳng có gì ngăn cản nổi đồng chí. Thế nhưng Chủ tịch không cho phép tôi được khiển trách đồng chí. Đồng chí biết không?
– Không, tôi không hiểu đồng chí đang nói gì.
– Có lúc tôi không chịu được đồng chí. Nhưng Chủ tịch muốn giữ đồng chí lại, vì ông hợp đồng chí. Tôi và đồng chí là đồng minh, cả hai chúng ta đều làm việc cho Chủ tịch. Tôi đã nói những suy nghĩ của tôi. Thế đồng chí nghĩ gì về tôi?
Tôi đáp:
– Tôi chẳng có ý kiến gì. Nhưng tôi tin, với trình độ học vấn và lý lịch gia đình, tôi không thích hợp với công việc ở đây. Tôi vẫn hy vọng có ai đó có thể thay thế được tôi.
Giang Thanh càng bị kích động và mất kiên nhẫn:
– Chủ tịch sẽ quyết định về tư cách của đồng chí.
Một vệ sĩ nghe được cuộc đối thoại của chúng tôi. Anh ta nói với tôi sau khi tôi rời khu ở của Giang Thanh:
– Đồng chí bác sĩ Lý này, đồng chí Giang Thanh có vẻ muốn đối xử tử tế với đồng chí đấy. Cả Chủ tịch cũng giận đồng chí Giang Thanh. Mới đây tôi nghe được khi đồng chí ấy vừa ra khỏi phòng, Chủ tịch ca cẩm: “Tôi đang bận, bà cứ làm rối tung rối mù ở đây. Không thể cứ thế này mãi”.
Nhưng Giang Thanh vẫn tiếp tục gây rối. Phòng tắm vẫn chưa được giải quyết, bà vẫn tiếp tục chửi mắng các cô y tá, khiến họ nước mắt giàn giụa chạy lại giãi bày với tôi. Tôi chẳng biết phải làm gì nữa. Trưởng ban an ninh Vương Kính Tiên, một người có năng lực, đã thông báo cho tôi biết, công việc của ông ta chỉ được giới hạn trong vấn đề bảo vệ an toàn cho các vị lãnh đạo cao cấp. Và Diệp Tử Long cũng cho vấn đề phòng tắm của Giang Thanh không phải bổn phận của ông. Thế là tôi buộc phải sử dụng toàn bộ ngón võ miệng của mình để thuyết phục bà vợ của Chủ tịch ngủ tạm một đêm ở khách sạn. Cuối cùng bà đồng ý. Hệ thống nóng lạnh và vòi hoa sen lắp rất nhanh.
Giang Thanh vẫn chưa hài lòng. Bây giờ lại ca cẩm xung quanh khu nhà ở quá ồn ào. Tất cả cán bộ cơ sở, nhân viên an ninh cùng với bộ phận nhà bếp phải chuyển xuống khu nhà dưới chân đồi, đường xá quanh khu đồi cấm xe cộ qua lại, chỉ để làm vừa lòng bà ta.
Trong hội nghị đảng ở Nam Ninh có các cán bộ đảng toàn quốc và các tỉnh tham gia. Hội nghị khai mạc vào ngày 11-1-1958 và ngay từ ngày đầu tiên một bầu không khí căng thẳng đã bao trùm hội nghị. Những người dự hội nghị như bị kích dộng, đa số người soạn thảo kế hoạch kinh tế của đảng đều cho dự định đuổi kịp Anh trong 15 năm của Mao là ảo tưởng. Còn Mao trong 11 ngày này đã phải mất rất nhiều thời gian để chống lại những cán bộ kế hoạch, phát triển và tài chính. Chỉ có rất ít người không bị Mao đụng tới, ngay cả Chu Ân Lai và Trần Vân cũng không thoát khỏi sự chỉ trích của ông.
Bốn ngày sau buổi khai mạc, uỷ viên dự khuyết bộ chính trị Trần Bá Đạt gọi tôi vào phòng ông ở khách sạn. Trần bị cảm muốn nhờ tôi điều trị. Thực ra ông muốn trở lại Bắc Kinh, nhưng đang bị Mao chỉ trích, sợ rời cuộc họp sẽ bị quy kết tự ý bỏ hội nghị. Trần cũng bị mất ngủ. Phòng trên buồng ông ở có một ai đó làm ồn cả đêm, ông muốn nhờ tôi xem ai ở trên đó mà cứ đi đi lại lại bình bịch trên sàn như vậy. Nhưng người đi đi lại lại cả đêm cũng có thể một lãnh đạo cao cấp, tôi chẳng có quyền hạn gì ngăn cấm bất cứ ai trong khách sạn này cả. Tôi hỏi ra, người ở trên phòng đó là Bạc Nhất Ba, Chủ tịch Uỷ ban Kinh tế nhà nước, cũng đang bị Mao chĩa mũi súng, căng thẳng thần kinh cả đêm không ngủ được nên cứ đi đi lại lại trên đầu Trần Bá Đạt.
Hoàng Kính, chồng cũ của Giang Thanh, chủ tịch Uỷ ban Kinh tế và Kỹ thuật, chịu trách nhiệm về vấn đề phát triển công nghệ phải chịu khuất phục trước áp lực của Mao. Gần đến khi kết thúc hội nghị, Kha Thanh Thế, thị trưởng thành phố Thượng Hải đã yêu cầu tôi khám cho Hoàng Kính. Sau nhiều lần bị Mao công kích gay gắt, ông ta đã có những biểu hiện không bình thường.
Hoàng Kính nằm trên giường, nhìn trừng trừng lên trần nhà và lảm nhảm những câu khó hiểu. Ông ta van xin tôi: “Cứu tôi với! Cứu tôi với!”
Dương Thượng Côn thu xếp cho ông ta đi điều trị ở thành phố Quảng Châu gần đó. Lý Phú Xuân, phó thủ tướng và chủ tịch Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Tập Trọng Huân, Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước đưa Hoàng Kính đi. Trên máy bay ông ta cũng có những cử chỉ kỳ lạ. Ông quì xuống và đập đầu xuống sàn trước mặt Lý Phú Xuân, van xin Lý hãy thả ông ra, tha mạng cho ông. Ông được đưa vào một bệnh viện quân y ở Quảng Châu, bị gẫy một chân trong một lần ông định trốn viện. Sau đó tôi không nghe được tin tức gì về ông nữa. Mãi sau này tôi mới biết ông chết vào khoảng tháng 11-1958.
Thái độ của Mao rất trái ngược đối với những người ông đã làm cho họ căng thẳng. Sau vài lần nổi giận, ông bắt đầu tỏ ra nhũn nhặn, tử tế, thậm chí lúc bế mạc hội nghị, còn tự bỏ sự phân biệt cấp trên cấp dưới thường ngày. Ông dự liên hoan bữa trưa tổng kết hội nghị, tỏ vẻ khoái khẩu món đặc sản “Long Đả Hổ” được nấu từ thịt rắn độc (tượng trưng cho rồng) và thịt mèo rừng (tượng trưng cho hổ). Món “đặc sản” này rất béo, khó nuốt, vậy mà Mao cứ khen ngon.
Hôm sau, Mao đi bơi ở sông Vĩnh Giang, chảy qua phía trước thành phố. Nhiệt độ của nước khoảng 20 độ C nghĩa là rất lạnh đối với việc bơi lội. Mao cứ nhất quyết đòi bơi, tôi phải đi tháp tùng. Như thường lệ, ông ngâm mình một tiếng liền dưới nước và đến ngày hôm sau bị ho và sổ mũi.
Lại một lần nữa, ông chỉ nghe theo lời khuyên của bác sĩ khi ông cảm thấy bệnh trở lên nghiêm trọng. Thế nhưng sau khi uống thuốc ông bình phục rất nhanh.
Tiếp theo hội nghị ở Nam Ninh là hàng loạt những cuộc họp đảng do Mao triệu tập trong những tháng tiếp theo. Với những lời châm chọc, động viên, phỉnh phờ, kể cả giận dữ, Mao tìm cách đưa đảng đi theo đường lối của ông. Đầu tiên ông buộc tội những cán bộ tỉnh, sau đó ông buộc tội những người soạn thảo kế hoạch kinh tế đã làm cho nền kinh tế trì trệ, chậm phát triển. Tuy nhiên cứ sau mỗi cuộc họp, những chỉ tiêu kế hoạch lại được nâng lên một chút và đến khoá họp thứ hai của Đại hội đảng lần thứ VIII vào tháng 5 năm 1958. Mao đã chuẩn bị xong kế hoạch Đại nhảy vọt của ông.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 26
Posted: 03/08/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Đầu năm 1958, lần đầu nên tôi thấy ở Mao có sự thay đổi. Tính đa nghi vô lý chưa hề thấy ở ông đã xuất hiện, càng ngày càng tăng trong những năm trước khi xảy ra cuộc Cách mạng văn hoá. Sau khi rời Nam Ninh, chúng tôi nghỉ lại ở Quảng Châu dăm tuần, rồi mới bay về Bắc Kinh. Mao tiếp tục gây sức ép với đảng. Sau khi ngừng chiến dịch chống hữu khuynh, để tránh thất bại, lần này những gì còn vướng mắc trong nội bộ đảng cần phải được giải quyết, các đảng viên lần lượt đấu tố lẫn nhau.
Đầu tháng ba, chúng tôi bay tới Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, được coi là vựa thóc của Trung Quốc. Tại đây, Mao đã triệu tập hội nghị đảng.
Chúng tôi nghỉ lại một khu có tên “Đập Bò Vàng” cách thành phố khoảng 7 dặm về phía tây. Cảnh vật ở đây làm người ta liên tưởng đến một vườn bách thảo với những đồng cỏ xanh mướt, những cánh rừng tre bương, những cây thông xanh ngát và những cây trắc bá. Ngoài những cây cọ, những bụi chuối và những cây bưởi mọc hai bên đường, còn có sơn trà và đỗ quyên đầy hoa đỏ rực. Trong thời gian chúng tôi ở đó, trời thường đổ mưa. Sau cơn mưa, những cánh rừng nhiệt đới được một lớp sương mù bao phủ, trông huyền bí giống như một bức trướng phong cảnh của Trung Quốc. Mao kể rằng, một số bài thơ và từ của ông về những khu vườn phủ sương và những triền núi xanh tươi đã được ngẫu hứng sáng tác từ những cảnh vật như thế này.
Tôi rất thích được trở lại Thành Đô. Kể từ kỳ thi tốt nghiệp y khoa cách đó mười bốn năm, tôi chưa bao giờ đặt chân tới thành phố này, quê hương thứ hai của tôi. Tôi mong ước sớm được đến thăm trường Đại học cũ.
Khu đất của trường Đại học Tổng hợp Y khoa Tây-Trung, hồi đó là một thảm thực vật xanh tốt, khi tôi còn là sinh viên. Khu vườn này được coi là lớn nhất, đẹp nhất Trung Quốc lúc bấy giờ. Còn đối với tôi, nó là thiên đường trên trái đất. Giờ đây tất cả đã đổi thay. Một phố lớn chạy qua khu đất trước đây. Nhiều toà nhà bị phá bỏ, những toà nhà còn lại đã đổ nát, các khu vườn không được chăm sóc.
Trường Đại học bây giờ mang tên trường Đại học Y khoa Tứ Xuyên. Khoa xã hội nhân văn chuyển sang trường Đại học tổng hợp Tứ xuyên. Chuyến viếng thăm các bạn học cũ và Tôn Ngọc Hoa, hiện làm hiệu trưởng trường Đại học, đã làm trỗi dậy trong tôi những kỷ niệm xa xưa. Nhưng sẽ rất nguy hiểm cho tôi, nếu tôi tiếp tục thăm viếng những người bạn khác, vì công việc của tôi làm cho Mao rất nhạy cảm, có thể sẽ ảnh hưởng đến việc giữ bí mật đối với hội nghị đảng sắp tới.
Mao tỏ ra thông cảm với sự đa cảm của tôi và ông ngâm một bài thơ nổi tiếng từ thời triều đại Đông Tấn (năm 317- 420 sau công nguyên):
Thắm thiết ôm sông rặng liễu già
Lượn lờ sông Hán vẫn xuôi xa
Liễu buồn rụng lá sông thêm tủi
Đất trời còn vậy huống chi ta.
Mao khuyên tôi nên đến thăm các bạn cũ. Nhưng tôi từ chối.
Sau khi chúng tôi tới chưa được bao lâu. Lý Tinh Toàn, bí thư thứ nhất tỉnh Tứ Xuyên mời Mao tới xem kinh kịch ở một nhà hát trong khu nhà khách. Lúc đầu, Mao còn ngờ vực, ông vốn chỉ thích kinh kịch Bắc Kinh – nhưng ông đã bị buổi biểu diễn thu hút, đến nỗi điếu thuốc trên miệng cháy hết từ lúc nào. Sau hôm đó, tối nào chúng tôi cũng đi xem kinh kịch Tứ Xuyên. Chỉ một thời gian ngắn, tin Mao thích kinh kịch đã đến tai các nhà lãnh đạo đảng ở các tỉnh – họ quan tâm đến thị hiếu của Mao, vì họ muốn được Mao đến thăm, chuẩn bị thật chu đáo cho cuộc viếng thăm của ông. Sau năm 1958, tại các nhà khách của tất cả các tỉnh đều có nhà hát kinh kịch.
Thái độ của Mao đối với bể bơi trong nhà ở Đập Bò Vàng, đã cho tôi thấy sự sợ hãi vô cớ lần đầu tiên của ông. Chiếc bể bơi đặc biệt dành riêng cho Mao được xây dưới sự chỉ đạo của Lý Tinh Toàn, phòng theo mẫu bể bơi có mái che ở Trung Nam Hải. Mao bảo tôi và đám vệ sĩ của ông xuống trước, nhưng chính ông lại cảm thấy không yên tâm. Nhiều lần ông hỏi tôi, liệu bể bơi này có thực sự giống bể bơi ở Bắc Kinh không và có vẻ lo ngại người ta pha thuốc độc vào trong nước. Vậy mà khi bơi chúng tôi chẳng ai bị làm sao. Thái độ của Mao làm tôi thấy tò mò hơn là lo ngại. Mãi đến khi tình trạng bệnh tật của ông xấu đi, hồi tưởng lại, tôi mới tìm ra sự đa nghi quá đáng của ông là nguyên nhân của chứng bệnh hoang tưởng.
Mao không an tâm, vẫn chưa hài lòng với các lãnh đạo đảng bộ địa phương. Ý định làm họ thức tỉnh khỏi trạng thái mê muội và đi theo đường lối của ông chỉ thu được kết quả giới hạn. Mao kêu gọi hội nghị có nhiệm vụ tiếp tục thuyết phục giới lãnh đạo đảng.
Trong phiên họp từ ngày 8 đến 26-3-1958, những cuộc tranh luận ở Hội nghị Nam Ninh lại tiếp tục diễn ra. Các cán bộ đảng phụ trách phát triển kinh tế bị Mao hối thúc. Ông muốn thuyết phục họ rằng, theo kế hoạch, trong vòng 15 năm nữa Trung Quốc phải đuổi kịp nước Anh về kinh tế. Ông cho những chỉ tiêu sản xuất vẫn còn quá thấp, những người lập kế hoạch kinh tế quá thận trọng. Việc quần chúng phê bình đảng đã bị chiến dịch chống hữu khuynh chấm dứt một cách đột ngột vào mùa hè năm 1957, trong khi lòng tin trong đảng đối với của Mao vẫn chưa hồi phục. Ông phàn nàn về sự lãnh đạo chưa toàn diện, đánh giá hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng như “một lũ tôi đòi đần độn”. Ông đòi hỏi mọi người phải có lòng dũng cảm và tính cương quyết.
Việc gần như cuồng tín rập khuôn theo Liên Xô, không cân nhắc khi trích dẫn những tác phẩm của Marx làm Mao vô cùng khó chịu. Ông nói: “Chủ nghĩa Marx đâu phải từ trên trời rơi xuống. Không phải lúc nào cũng phải học những lời răn dạy đó một cách giáo điều rồi nhai lại như những kẻ tôi đòi”. Mao liên hệ phong cách làm việc hiện nay của đảng với đạo Khổng trước đây ở Trung Quốc. Người dân Trung Quốc sùng kính Khổng Tử đến nỗi không ai dám gọi tên ông mà gọi “thánh nhân”. Đảng cũng coi Marx như vị thánh, không dám làm khác lời Marx, đảng đã biến lời của Marx thành thứ kinh thánh. Kết quả hiện nay cũng tương tự như Khổng Giáo trước đây. Chủ nghĩa Marx đã làm tê liệt tinh thần sáng tạo. Marx chính là một Khổng Tử hiện đại, làm cho Trung Quốc què quặt và kìm hãm sự phát triển của đất nước này. Mao rất ghét Stalin, nhưng việc Stalin chỉ trích Marx ông cho là đúng. Stalin biết không phải bất cứ điều gì Marx đưa ra cũng đúng, ông đã dũng cảm biết kết hợp giữa lý thuyết và thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mao cho rằng, đảng đã để cho giới trí thức hù doạ và đã bộc lộ cho chúng thấy sự yếu kém của đảng. Ông nghi ngờ, liệu đảng cộng sản Trung Quốc có thể đảm nhiệm được vai trò lãnh đạo trong công cuộc cải tổ xã hội hay không. Mao bảo:
– Các cán bộ đảng của chúng ta hiểu biết rất hạn chế. Họ hiện sống trong sung túc và chỉ biết ních cho đầy bụng. Năng lực của họ đã chuyển từ trí óc xuống dạ dày.
Tuy nhiên, ông vẫn hy vọng vào lớp trẻ:
– Thông thường lớp trẻ tuy không được học hành vẫn có thể nảy sinh ra những sáng kiến, đưa ra những thuyết mới và lập ra những tôn giáo mới. Khi Khổng Tử mở trường dạy học, thu nhận học trò lúc đó ông mới có 23 tuổi. Trình độ học vấn của Chúa Giê-Su (Jesus) đến đâu không ai rõ, nhưng tôn giáo do ông lập ra đến nay vẫn tồn tại. Shakyamuni đã phát triển những giáo lý của đạo phật khi ông ở tuổi 19. Ngay Tôn Trung Sơn đâu có phải sinh ra đã là nhà thông thái. Ông tham gia cách mạng khi mới chỉ là học sinh cấp 3. Chính Marx đã đề ra lý thuyết chủ nghĩa duy vật biện chứng khi ông còn rất trẻ. Mãi sau này ông mới trở thành học giả. Năm ông 29 tuổi, ông đã xuất bản những cuốn sách công khai tranh luận với những học thuyết nổi tiếng của các học giả lừng danh như Ricardo, Adam Smith và Hegel. Và khi mới 30 tuổi, ông đã viết bản Tuyên ngôn Cộng sản sáng lập ra một học thuyết mới.
Mao nói tiếp:
– Các học giả trẻ tuổi nổi tiếng, nhưng chưa qua trường lớp, thường bị ngờ vực. Tuổi tác cũng như sự non nớt của họ không quan trọng. Điều quan trọng là nhận biết được sự thật và can đảm tiến lên.
Những lời nói của Mao không hề có ẩn ý nào cả. Ông chẳng bao giờ nhận ra rằng, người ta không gọi ông bằng tên mà gọi “Chủ tịch” khác nào người ta gọi Khổng Tử là “Thánh nhân”. Chẳng bao lâu những lời nói của ông cũng sẽ được biến thành những tín điều. Mao thường bóp méo các sự kiện lịch sử nếu chúng có lợi cho mục đích của ông. Chẳng hạn, khi Tôn Trung Sơn bắt đầu hoạt động cách mạng vào năm 1911, ông đã là bác sĩ, một trong những nhà cách mạng cự phách chứ không phải là một học sinh.
Nhiều năm sau, năm 1966, khi Mao phát động cuộc Cách mạng văn hoá và kêu gọi thanh thiếu niên chống lại thày cô giáo của họ và phê bình đảng cộng sản, tôi lại nhớ đến buổi nói chuyện này và những buổi nói chuyện tương tự. Thì ra, Mao đã ấp ủ chiến lược này từ nhiều năm nay.
Ở Thành Đô, Mao vẫn phụ thuộc vào hoạt động của đảng đối với kế hoạch của ông. Ông lại dùng phương pháp đối chất và chỉ trích tất cả những ai phát biểu một cách dè đặt. Ông tìm cách thuyết phục để họ nhận thấy rằng, bác bỏ sáng kiến “tiến vọt” của ông là chống lại chủ nghĩa Marx, như vậy có nghĩa là “hữu khuynh”. Mao thúc đẩy kế hoạch phát triển kinh tế giống như quất roi, thúc đinh vào ngựa bắt nó phi nhanh hơn. Tôi nhớ, lần đầu tiên khi còn ở Thành Đô đã được nghe khẩu hiệu: “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc để xây dựng Chủ nghĩa xã hội với hiệu quả kinh tế cao”.
Những ngày ở Thành Đô, tôi cũng nhận thấy sự thay đổi trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội của Mao. Mặc dù áp dụng hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhưng các giai cấp vẫn tồn tại. Công nhân và nông dân là gia cấp lao động, vì vậy họ là những “người tốt”. Nhưng xã hội vẫn còn tồn tại những tàn dư của chủ nghĩa đế quốc, tàn dư của chủ nghĩa phong kiến và còn tồn tại ý thức tư bản quan liêu cũng như tầng lớp tư sản hữu khuynh. Ngay cả tầng lớp tư sản dân tộc đã từng ủng hộ những người cộng sản trong cuộc chiến đấu chống Quốc dân đảng trước đây vẫn còn và họ có thể chống lại những cải cách xã hội chủ nghĩa. Mao coi giới trí thức là giới tư sản. Mao nói với tôi:
– Người trí thức hay dao động, gió chiều nào theo chiều nấy. Họ đọc lắm sách nhưng chẳng biết gì về đời thực.
Rồi Mao chuyển sang nói về đấu tranh giai cấp.
Theo đánh giá của Mao, hội nghị ở Thành Đô đã thành công. Những chỉ tiêu kế hoạch đã được đặt ra cao hơn và 37 văn kiện mới được ban hành, với việc nâng cao những chỉ tiêu kinh tế thực dụng và bảo thủ trước đây.
Đảng đang đứng trước một cuộc đổi mới, có ảnh hưởng to lớn đến đất nước Trung Hoa. Lời của Mao quả có trọng lượng, ý kiến của ông đầy sức mạnh, đến nỗi ngay cả những người ôn hoà cũng không thể cưỡng lại được. Ai tỏ ra hoài nghi về những chỉ tiêu kế hoạch cao một cách không thực tế, sẽ có nguy cơ bị chụp mũ hữu khuynh. Tham vọng mạnh mẽ của Mao đã buộc những người có những ý kiến khác lần lượt phải câm nín. Những kẻ xu nịnh bắt đầu khoác lác, chấp nhận cả những chỉ tiêu kế hoạch cao hơn, mặc dù chính họ biết không thể nào đạt được. Sự dối trá tràn lan trong đảng và những kẻ nói dối trơ trẽn nhất đã chiếm được vị trí tốt nhất bên cạnh Mao. Nỗi sợ hãi bắt đầu lan rộng.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Đầu năm 1958, lần đầu nên tôi thấy ở Mao có sự thay đổi. Tính đa nghi vô lý chưa hề thấy ở ông đã xuất hiện, càng ngày càng tăng trong những năm trước khi xảy ra cuộc Cách mạng văn hoá. Sau khi rời Nam Ninh, chúng tôi nghỉ lại ở Quảng Châu dăm tuần, rồi mới bay về Bắc Kinh. Mao tiếp tục gây sức ép với đảng. Sau khi ngừng chiến dịch chống hữu khuynh, để tránh thất bại, lần này những gì còn vướng mắc trong nội bộ đảng cần phải được giải quyết, các đảng viên lần lượt đấu tố lẫn nhau.
Đầu tháng ba, chúng tôi bay tới Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, được coi là vựa thóc của Trung Quốc. Tại đây, Mao đã triệu tập hội nghị đảng.
Chúng tôi nghỉ lại một khu có tên “Đập Bò Vàng” cách thành phố khoảng 7 dặm về phía tây. Cảnh vật ở đây làm người ta liên tưởng đến một vườn bách thảo với những đồng cỏ xanh mướt, những cánh rừng tre bương, những cây thông xanh ngát và những cây trắc bá. Ngoài những cây cọ, những bụi chuối và những cây bưởi mọc hai bên đường, còn có sơn trà và đỗ quyên đầy hoa đỏ rực. Trong thời gian chúng tôi ở đó, trời thường đổ mưa. Sau cơn mưa, những cánh rừng nhiệt đới được một lớp sương mù bao phủ, trông huyền bí giống như một bức trướng phong cảnh của Trung Quốc. Mao kể rằng, một số bài thơ và từ của ông về những khu vườn phủ sương và những triền núi xanh tươi đã được ngẫu hứng sáng tác từ những cảnh vật như thế này.
Tôi rất thích được trở lại Thành Đô. Kể từ kỳ thi tốt nghiệp y khoa cách đó mười bốn năm, tôi chưa bao giờ đặt chân tới thành phố này, quê hương thứ hai của tôi. Tôi mong ước sớm được đến thăm trường Đại học cũ.
Khu đất của trường Đại học Tổng hợp Y khoa Tây-Trung, hồi đó là một thảm thực vật xanh tốt, khi tôi còn là sinh viên. Khu vườn này được coi là lớn nhất, đẹp nhất Trung Quốc lúc bấy giờ. Còn đối với tôi, nó là thiên đường trên trái đất. Giờ đây tất cả đã đổi thay. Một phố lớn chạy qua khu đất trước đây. Nhiều toà nhà bị phá bỏ, những toà nhà còn lại đã đổ nát, các khu vườn không được chăm sóc.
Trường Đại học bây giờ mang tên trường Đại học Y khoa Tứ Xuyên. Khoa xã hội nhân văn chuyển sang trường Đại học tổng hợp Tứ xuyên. Chuyến viếng thăm các bạn học cũ và Tôn Ngọc Hoa, hiện làm hiệu trưởng trường Đại học, đã làm trỗi dậy trong tôi những kỷ niệm xa xưa. Nhưng sẽ rất nguy hiểm cho tôi, nếu tôi tiếp tục thăm viếng những người bạn khác, vì công việc của tôi làm cho Mao rất nhạy cảm, có thể sẽ ảnh hưởng đến việc giữ bí mật đối với hội nghị đảng sắp tới.
Mao tỏ ra thông cảm với sự đa cảm của tôi và ông ngâm một bài thơ nổi tiếng từ thời triều đại Đông Tấn (năm 317- 420 sau công nguyên):
Thắm thiết ôm sông rặng liễu già
Lượn lờ sông Hán vẫn xuôi xa
Liễu buồn rụng lá sông thêm tủi
Đất trời còn vậy huống chi ta.
Mao khuyên tôi nên đến thăm các bạn cũ. Nhưng tôi từ chối.
Sau khi chúng tôi tới chưa được bao lâu. Lý Tinh Toàn, bí thư thứ nhất tỉnh Tứ Xuyên mời Mao tới xem kinh kịch ở một nhà hát trong khu nhà khách. Lúc đầu, Mao còn ngờ vực, ông vốn chỉ thích kinh kịch Bắc Kinh – nhưng ông đã bị buổi biểu diễn thu hút, đến nỗi điếu thuốc trên miệng cháy hết từ lúc nào. Sau hôm đó, tối nào chúng tôi cũng đi xem kinh kịch Tứ Xuyên. Chỉ một thời gian ngắn, tin Mao thích kinh kịch đã đến tai các nhà lãnh đạo đảng ở các tỉnh – họ quan tâm đến thị hiếu của Mao, vì họ muốn được Mao đến thăm, chuẩn bị thật chu đáo cho cuộc viếng thăm của ông. Sau năm 1958, tại các nhà khách của tất cả các tỉnh đều có nhà hát kinh kịch.
Thái độ của Mao đối với bể bơi trong nhà ở Đập Bò Vàng, đã cho tôi thấy sự sợ hãi vô cớ lần đầu tiên của ông. Chiếc bể bơi đặc biệt dành riêng cho Mao được xây dưới sự chỉ đạo của Lý Tinh Toàn, phòng theo mẫu bể bơi có mái che ở Trung Nam Hải. Mao bảo tôi và đám vệ sĩ của ông xuống trước, nhưng chính ông lại cảm thấy không yên tâm. Nhiều lần ông hỏi tôi, liệu bể bơi này có thực sự giống bể bơi ở Bắc Kinh không và có vẻ lo ngại người ta pha thuốc độc vào trong nước. Vậy mà khi bơi chúng tôi chẳng ai bị làm sao. Thái độ của Mao làm tôi thấy tò mò hơn là lo ngại. Mãi đến khi tình trạng bệnh tật của ông xấu đi, hồi tưởng lại, tôi mới tìm ra sự đa nghi quá đáng của ông là nguyên nhân của chứng bệnh hoang tưởng.
Mao không an tâm, vẫn chưa hài lòng với các lãnh đạo đảng bộ địa phương. Ý định làm họ thức tỉnh khỏi trạng thái mê muội và đi theo đường lối của ông chỉ thu được kết quả giới hạn. Mao kêu gọi hội nghị có nhiệm vụ tiếp tục thuyết phục giới lãnh đạo đảng.
Trong phiên họp từ ngày 8 đến 26-3-1958, những cuộc tranh luận ở Hội nghị Nam Ninh lại tiếp tục diễn ra. Các cán bộ đảng phụ trách phát triển kinh tế bị Mao hối thúc. Ông muốn thuyết phục họ rằng, theo kế hoạch, trong vòng 15 năm nữa Trung Quốc phải đuổi kịp nước Anh về kinh tế. Ông cho những chỉ tiêu sản xuất vẫn còn quá thấp, những người lập kế hoạch kinh tế quá thận trọng. Việc quần chúng phê bình đảng đã bị chiến dịch chống hữu khuynh chấm dứt một cách đột ngột vào mùa hè năm 1957, trong khi lòng tin trong đảng đối với của Mao vẫn chưa hồi phục. Ông phàn nàn về sự lãnh đạo chưa toàn diện, đánh giá hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng như “một lũ tôi đòi đần độn”. Ông đòi hỏi mọi người phải có lòng dũng cảm và tính cương quyết.
Việc gần như cuồng tín rập khuôn theo Liên Xô, không cân nhắc khi trích dẫn những tác phẩm của Marx làm Mao vô cùng khó chịu. Ông nói: “Chủ nghĩa Marx đâu phải từ trên trời rơi xuống. Không phải lúc nào cũng phải học những lời răn dạy đó một cách giáo điều rồi nhai lại như những kẻ tôi đòi”. Mao liên hệ phong cách làm việc hiện nay của đảng với đạo Khổng trước đây ở Trung Quốc. Người dân Trung Quốc sùng kính Khổng Tử đến nỗi không ai dám gọi tên ông mà gọi “thánh nhân”. Đảng cũng coi Marx như vị thánh, không dám làm khác lời Marx, đảng đã biến lời của Marx thành thứ kinh thánh. Kết quả hiện nay cũng tương tự như Khổng Giáo trước đây. Chủ nghĩa Marx đã làm tê liệt tinh thần sáng tạo. Marx chính là một Khổng Tử hiện đại, làm cho Trung Quốc què quặt và kìm hãm sự phát triển của đất nước này. Mao rất ghét Stalin, nhưng việc Stalin chỉ trích Marx ông cho là đúng. Stalin biết không phải bất cứ điều gì Marx đưa ra cũng đúng, ông đã dũng cảm biết kết hợp giữa lý thuyết và thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mao cho rằng, đảng đã để cho giới trí thức hù doạ và đã bộc lộ cho chúng thấy sự yếu kém của đảng. Ông nghi ngờ, liệu đảng cộng sản Trung Quốc có thể đảm nhiệm được vai trò lãnh đạo trong công cuộc cải tổ xã hội hay không. Mao bảo:
– Các cán bộ đảng của chúng ta hiểu biết rất hạn chế. Họ hiện sống trong sung túc và chỉ biết ních cho đầy bụng. Năng lực của họ đã chuyển từ trí óc xuống dạ dày.
Tuy nhiên, ông vẫn hy vọng vào lớp trẻ:
– Thông thường lớp trẻ tuy không được học hành vẫn có thể nảy sinh ra những sáng kiến, đưa ra những thuyết mới và lập ra những tôn giáo mới. Khi Khổng Tử mở trường dạy học, thu nhận học trò lúc đó ông mới có 23 tuổi. Trình độ học vấn của Chúa Giê-Su (Jesus) đến đâu không ai rõ, nhưng tôn giáo do ông lập ra đến nay vẫn tồn tại. Shakyamuni đã phát triển những giáo lý của đạo phật khi ông ở tuổi 19. Ngay Tôn Trung Sơn đâu có phải sinh ra đã là nhà thông thái. Ông tham gia cách mạng khi mới chỉ là học sinh cấp 3. Chính Marx đã đề ra lý thuyết chủ nghĩa duy vật biện chứng khi ông còn rất trẻ. Mãi sau này ông mới trở thành học giả. Năm ông 29 tuổi, ông đã xuất bản những cuốn sách công khai tranh luận với những học thuyết nổi tiếng của các học giả lừng danh như Ricardo, Adam Smith và Hegel. Và khi mới 30 tuổi, ông đã viết bản Tuyên ngôn Cộng sản sáng lập ra một học thuyết mới.
Mao nói tiếp:
– Các học giả trẻ tuổi nổi tiếng, nhưng chưa qua trường lớp, thường bị ngờ vực. Tuổi tác cũng như sự non nớt của họ không quan trọng. Điều quan trọng là nhận biết được sự thật và can đảm tiến lên.
Những lời nói của Mao không hề có ẩn ý nào cả. Ông chẳng bao giờ nhận ra rằng, người ta không gọi ông bằng tên mà gọi “Chủ tịch” khác nào người ta gọi Khổng Tử là “Thánh nhân”. Chẳng bao lâu những lời nói của ông cũng sẽ được biến thành những tín điều. Mao thường bóp méo các sự kiện lịch sử nếu chúng có lợi cho mục đích của ông. Chẳng hạn, khi Tôn Trung Sơn bắt đầu hoạt động cách mạng vào năm 1911, ông đã là bác sĩ, một trong những nhà cách mạng cự phách chứ không phải là một học sinh.
Nhiều năm sau, năm 1966, khi Mao phát động cuộc Cách mạng văn hoá và kêu gọi thanh thiếu niên chống lại thày cô giáo của họ và phê bình đảng cộng sản, tôi lại nhớ đến buổi nói chuyện này và những buổi nói chuyện tương tự. Thì ra, Mao đã ấp ủ chiến lược này từ nhiều năm nay.
Ở Thành Đô, Mao vẫn phụ thuộc vào hoạt động của đảng đối với kế hoạch của ông. Ông lại dùng phương pháp đối chất và chỉ trích tất cả những ai phát biểu một cách dè đặt. Ông tìm cách thuyết phục để họ nhận thấy rằng, bác bỏ sáng kiến “tiến vọt” của ông là chống lại chủ nghĩa Marx, như vậy có nghĩa là “hữu khuynh”. Mao thúc đẩy kế hoạch phát triển kinh tế giống như quất roi, thúc đinh vào ngựa bắt nó phi nhanh hơn. Tôi nhớ, lần đầu tiên khi còn ở Thành Đô đã được nghe khẩu hiệu: “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc để xây dựng Chủ nghĩa xã hội với hiệu quả kinh tế cao”.
Những ngày ở Thành Đô, tôi cũng nhận thấy sự thay đổi trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội của Mao. Mặc dù áp dụng hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhưng các giai cấp vẫn tồn tại. Công nhân và nông dân là gia cấp lao động, vì vậy họ là những “người tốt”. Nhưng xã hội vẫn còn tồn tại những tàn dư của chủ nghĩa đế quốc, tàn dư của chủ nghĩa phong kiến và còn tồn tại ý thức tư bản quan liêu cũng như tầng lớp tư sản hữu khuynh. Ngay cả tầng lớp tư sản dân tộc đã từng ủng hộ những người cộng sản trong cuộc chiến đấu chống Quốc dân đảng trước đây vẫn còn và họ có thể chống lại những cải cách xã hội chủ nghĩa. Mao coi giới trí thức là giới tư sản. Mao nói với tôi:
– Người trí thức hay dao động, gió chiều nào theo chiều nấy. Họ đọc lắm sách nhưng chẳng biết gì về đời thực.
Rồi Mao chuyển sang nói về đấu tranh giai cấp.
Theo đánh giá của Mao, hội nghị ở Thành Đô đã thành công. Những chỉ tiêu kế hoạch đã được đặt ra cao hơn và 37 văn kiện mới được ban hành, với việc nâng cao những chỉ tiêu kinh tế thực dụng và bảo thủ trước đây.
Đảng đang đứng trước một cuộc đổi mới, có ảnh hưởng to lớn đến đất nước Trung Hoa. Lời của Mao quả có trọng lượng, ý kiến của ông đầy sức mạnh, đến nỗi ngay cả những người ôn hoà cũng không thể cưỡng lại được. Ai tỏ ra hoài nghi về những chỉ tiêu kế hoạch cao một cách không thực tế, sẽ có nguy cơ bị chụp mũ hữu khuynh. Tham vọng mạnh mẽ của Mao đã buộc những người có những ý kiến khác lần lượt phải câm nín. Những kẻ xu nịnh bắt đầu khoác lác, chấp nhận cả những chỉ tiêu kế hoạch cao hơn, mặc dù chính họ biết không thể nào đạt được. Sự dối trá tràn lan trong đảng và những kẻ nói dối trơ trẽn nhất đã chiếm được vị trí tốt nhất bên cạnh Mao. Nỗi sợ hãi bắt đầu lan rộng.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 27
Posted: 06/08/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Trong lúc chúng tôi lưu lại Thành Đô chiến dịch làm trong sạch đảng được tăng cường. Ông bạn Lâm Khắc của tôi, người có nhiệm vụ báo cáo nội dung Bản tin Nội bộ ra hàng ngày và kèm thêm Mao học tiếng Anh, một trong những người đầu tiên nằm trong tầm ngắm. Khi vừa biết bị tố cáo, Lâm Khắc liền rời Thành Đô. Ông phải có mặt ở Bắc Kinh để đích thân bào chữa.
Trong thời kỳ này, người ta biết vụ “Những lá cờ đen”, một sự kiện đáng lưu ý nhất, rối rắm nhất tôi được chứng kiến từ trong nội bộ. Sự kiện này đã làm hại thanh danh, sinh mạng của nhiều người nhưng nó đã giúp tôi rút ra bài học xương máu.
Một trong những nguyên nhân gây ra việc kéo bè kết cánh trong đảng đã làm Mao tức giận là cách thức bổ nhiệm những chức vụ về chính trị. Đó cũng là lý do dẫn đến những mưu đồ chính trị phức tạp, sinh ra vụ Lá cờ đen. Vấn đề là trách nhiệm của từng cán bộ. Nếu một cán bộ đảng ở Trung Quốc, đề cử một người nào đó giữ một chức vụ, mặc nhiên người đó phải chịu trách nhiệm về những việc làm của người đã đề cử. Thể thức này chi có tác dụng khi người được bổ nhiệm tuyệt đối trung thành với cấp trên, phải chấp hành mệnh lệnh ngay cả khi họ là người hiểu biết hơn. Đối với đảng viên, điều lệ quan trọng nhất là kỷ luật, tuyệt đối phục tùng cấp trên, chấp hành sự lãnh đạo của đảng và chỉ thị của cán bộ cấp cao hơn. Đảng và cấp trên luôn luôn đúng. Phê bình cấp trên là vi phạm toàn bộ các điều lệ, đảng viên nào cũng phải nhớ. Công kích cấp trên của mình cũng tệ hại như công kích đảng. Trung thành là đức tính tối cần thiết.
Sự phục tùng sẽ được trả giá bằng sự bao che. Vì cấp dưới phải thi hành mệnh lệnh của cấp trên, nên cấp trên phải bảo vệ cấp dưới trước sự công kích. Hậu quả, tất cả những phản ứng hướng vào các quan chức cao cấp trong đảng lại nhắm vào cấp dưới. Nếu một cán bộ đảng cấp dưới bị chỉ trích về những sai lầm, dĩ nhiên cấp trên của người đó cũng bị liên luỵ. Những cuộc đấu đá chính trị triền miên tôi được chứng kiến nhiều năm ròng luôn luôn bắt đầu từ lớp cán bộ trung cấp – theo hệ thống phân cấp trong đảng. Nếu muốn đả kích những cán bộ đảng cao cấp, trước tiên người ta tấn công cấp dưới của họ.
Mao kịch liệt bác bỏ cách thức này, nguyên nhân dẫn đến việc thiếu cảnh giác, thiếu dũng cảm đấu tranh trong đảng. Ai cũng tìm cách đẩy trách nhiệm cho cấp cao hơn và vì sai lầm nào cũng đều bị xử lý nghiêm khắc, nên tinh thần sáng tạo, tính độc lập và lòng quả cảm bị hạn chế. Ai bị hạ bệ, sẽ kéo theo cả thủ trưởng, cấp dưới của người đó và nhiều người khác. Một cán bộ đảng để cho một cấp dưới phạm sai lầm thì những cấp dưới khác của người đó cũng phạm sai lầm như vậy.
Mùa thu năm 1957. Mao phục hồi chiến dịch làm trong sạch đảng để đập tan lối kết bè kéo cánh này. Ông khuyến khích những cán bộ đảng cấp dưới hãy vạch ra những sai lầm của cấp trên, đặc biệt sự bảo thủ vốn được coi là “hữu khuynh”.
Lời hiệu triệu khác thường đã làm những đảng viên cấp thấp lo ngại. Điều gì sẽ xảy ra nếu việc phê bình của họ không được ủng hộ, nếu vị lãnh đạo đảng bị phê bình kia vẫn được tại chức? Ông ta có thể sẽ trả thù với chức vụ, quyền hạn trong tay. Ông ta sẽ đẩy những người phê bình ông xuống địa ngục. Người ta đã rút ra được bài học từ chiến dịch “chống hữu khuynh”, vì thế đa số các đảng viên không dám lên tiếng.
Dĩ nhiên, tôi cũng im lặng. Tuy tôi có vấn đề với Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều nhưng cũng chẳng bao giờ phản ứng lại họ.
Một số nhân viên ở Trung Nam Hải đã lên tiếng phê bình. Tám thư ký chính trị làm việc trong Văn phòng trung ương của Dương Thượng Côn đã liên kết với nhau chỉ trích Hà Tài, phó phòng của họ. Họ đã lên án Hà Tài thường vơ hết công trạng và đổ mọi tội lỗi cho cấp dưới khi thất bại. Ngoài ra, còn buộc tội ông ta nịnh trên nạt dưới. Nhưng Hà Tài đã đổ trách nhiệm cho cấp trên, quả quyết người quyết định mọi việc không phải ông, mà là Dương Thượng Côn, thủ trưởng, người có chức vụ cao hơn ông rất nhiều theo cấp bậc trong đảng.
Lâm Khắc, nhân vật chủ chốt trong nhóm 8 người phê bình cấp trên.
Khi quy cho Hà Tài có tư tưởng hữu khuynh, theo lối lý luận như đã nói ở trên, chẳng khác nào buộc tội Dương Thượng Côn. Và như vậy rất nguy hại về chính trị. Hà Tài cũng quả quyết, phê bình cá nhân ông cũng đồng nghĩa với việc lên án đảng và chính tám người phê bình kia mới thực là những kẻ hữu khuynh. Ông kêu gọi những nhân viên khác của Văn phòng thư ký chính trị lên tiếng chống lại tám người đối nghịch đó và tung tin đồn, Điền Gia Anh, bạn tôi, một trong những thư ký của Mao và phó Văn phòng của Hà Tài đã xúi giục những người này lên tiếng phê bình. Tháng ba, trong lúc chúng tôi đang ở Thành Đô, Hà Tài đã tập hợp quanh mình nhiều người ở Văn phòng trung ương, đến nỗi tám người phê bình kia công khai bị coi là Nhóm hữu khuynh đối nghịch với đảng và chủ nghĩa xã hội.
Mãi tới khi hội nghị ở Thành Đô kết thúc, Lâm Khắc trở về Bắc Kinh, tôi mới biết được mức độ nghiêm trọng của những lời buộc tội. Tôi và Mao rời Thành Đô đến Trùng Khánh, sau đó đi tàu thuỷ dọc theo sông Dương Từ, nghỉ lại ở Vũ Hán, nơi đã có lần người ta nói về dự án đập thuỷ điện. Đầu tháng tư chúng tôi đi tiếp đến Quảng Châu. Diệp Tử Long và Điên Gia Anh đã chờ chúng tôi ở đó. Tôi biết, Dương Thượng Côn đã quyết định đình chỉ công tác của tám vị thư ký, ra lệnh cho họ phải viết bản “tự kiểm điểm”, trong đó có Lâm Khắc. Người ta tiếp tục điều tra những hoạt động chống đảng của họ.
Điền Gia Anh lo lắng. Biết những lời buộc tội chắc chắn sai, nhưng ông lâm vào tình trạng khó xử. Là một trong những phó Văn phòng thư ký chính trị, chức vụ của ông ta ngang với Hà Tài. Như vậy tám nhân viên kia cũng là cấp dưới. Người ta xì xầm ông đứng đằng sau 8 người, ông lo có thể sẽ trở thành mục tiêu của các cuộc điều tra. Tuy muốn trình bày vấn đề này với Mao, nhưng sợ rằng như vậy sẽ còn gặp nhiều phiền phức hơn. Cũng như tất cả các nhân viên của Nhóm Một, Điền Gia Anh phục vụ hai chủ. Một, ông làm việc trực tiếp với Mao, nhưng đồng thời cũng phải phục tùng chỉ thị chung của Văn phòng trung ương đảng. Nếu trực tiếp nói những tâm tư riêng cho Mao biết, sẽ bị kết tội dám qua mặt Dương Thượng Côn và Văn phòng trung ương.
Tôi lo ngại cho Lâm Khắc. Tôi cũng quen biết tám người bị buộc tội, nhưng đặc biệt gần gũi với Lâm Khắc hơn. Trong những năm qua, chúng tôi đã cộng tác chặt chẽ với nhau và trong các chuyến đi chúng tôi thường ở chung một phòng. Là thư ký của Mao, Lâm Khắc đang giữ chức vụ mà đã có lần Mao đề nghị tôi làm. Tôi hoàn toàn có thể đảm nhận được nhiệm vụ của ông, nếu tôi nhận lời. Tính cương trực của Lâm Khắc đôi khi cũng dễ làm mếch lòng người khác, nhưng chưa bao giờ tôi nghe thấy ông hé một lời chống đảng. Buộc tội ông có những hoạt động “chống đảng” thật phi lý.
Ở Quảng Châu, những câu chuyện của các thành viên Nhóm Một lúc nào cũng xoay quanh vụ này. Cuối cùng tôi ra sức bênh vực Lâm Khắc, tuyên bố, tôi không thể hình dung nổi ông ta lại làm cái gì đó chống đảng. Có phải những người buộc tội ông chỉ muốn thanh toán những mâu thuẫn cá nhân? Thế là tôi bị Diệp Tử Long công kích:
– Đồng chí không có mặt ở Bắc Kinh làm sao đồng chí lại khẳng định như vậy được?
Tôi đáp:
– Nếu đồng chí Lâm Khắc là kẻ thù của đảng, chắc chắn đồng chí ấy đã phản bội rồi. Theo tôi biết, đồng chí ấy luôn luôn trung thành. Tại sao bỗng nhiên đồng chí ấy lại có thể trở thành kẻ thù của đảng được?
Tôi vốn giữ im lặng, không ngờ lại buột miệng phản ứng.
Vương Kính Tiên ra hiệu, tôi theo ông vào phòng bên cạnh, Vương cảnh cáo tôi nói mà không cân nhắc. Quyết định đã có rồi, ý kiến của tôi cũng chẳng có trọng lượng chính trị. “Nếu đồng chí còn tiếp tục nói như vậy, có nghĩa là đồng chí muốn bao che cho hắn. Người ta sẽ buộc tội đồng chí chống lại quyết định của đảng, lúc đó sẽ đến lượt đồng chí”.
Diệp Tử Long, rất khoái trá về việc Lâm Khắc bị thất sủng, đã báo báo cho Mao về quyết định này. Nếu tôi còn tiếp tục bênh vực Lâm Khắc có lẽ Diệp Tử Long sẽ hại cả tôi.
Vương nói có lý. Tôi không thể làm gì được.
Mặc dù vậy tôi cảm thấy rất khó chịu. Những lời buộc tội thật sai, chẳng cao thượng chút nào khi không ai dám đứng ra bảo vệ Lâm Khắc.
Tôi tin Mao biết rõ mọi chuyện, sẽ bảo vệ Lâm Khắc. Khi Diệp Tử Long báo cáo, Mao không nói gì, chỉ thở dài như thể không tán thành. Nhưng Diệp hiểu nhầm, tưởng Mao im lặng là đồng ý. Nhưng nếu tôi nhẩy vào bảo vệ Lâm Khắc, Diệp Tử Long sẽ lên án tôi ngăn cản quyết định của đảng. Tôi chỉ còn hy vọng vào Mao giải quyết mà thôi.
Đến chiều tối hôm đó, Mao cho gọi tôi tới, ông đang nghỉ ngơi trên boong của chiếc tàu thả neo gần nhà khách, trên người chỉ mặc quần bơi và khoác áo choàng tắm. Ông đề nghị tôi dạy tiếng Anh. Chúng tôi vừa bắt đầu, Diệp Tử Long đi tới. Ông ta muốn báo cáo những tin tức mới nhất về “Nhóm chống đảng” ở Trung Nam Hải. Tôi đứng dậy định cáo lui vì việc này không phải phận sự, nhưng Mao yêu cầu tôi ở lại.
– Không có gì bí mật cả. Chúng ta sẽ tiếp tục học tiếng Anh ngay.
Mao hỏi tại sao người báo cáo về những kẻ thù của đảng lại là Diệp. Việc điều tra là nhiệm vụ của Dương Thượng Côn và cấp phó của ông ta. Lẽ ra họ phải báo cáo cho Mao nhưng người phó của Dương Thượng Côn lại cử Diệp đi.
Mao im lặng nghe báo cáo, sau đó Diệp Tử Long cáo lui.
Tôi thấy Mao có vẻ khó chịu với chuyện vừa rồi, nên tôi cũng không dám gợi chuyện đó. Tôi thuộc Ban y tế trung ương của Bộ y tế, còn vụ xung đột này lại xảy ra trong Văn phòng thư ký chính trị. Vì vậy, theo kỷ luật đảng không cho phép tôi dính vào. Nếu không, người ta có thể vu cho tôi cùng một giuộc với Lâm Khắc. Tôi không thể nói chuyện bí mật riêng với Mao, vì đám vệ sĩ luôn luôn ra vào. Họ mang trà tới, lau mặt cho Mao bằng khăn ấm, ghi lại từng lời hoặc đứng nghe lỏm ngoài cửa mỗi khi họ ra khỏi phòng. Nếu tôi gợi chuyện sẽ đến tai Diệp Tử Long và các đối thủ của Lâm Khắc ở Nhóm Một sẽ quay sang tấn công tôi. Vì vậy tôi không được phép gợi chuyện, phải đợi đến lúc Mao chuyển sang đề tài này.
Tôi quay sang bài học Anh ngữ. Chúng tôi đọc bản tiếng Anh báo cáo chính trị mà Lưu Thiếu Kỳ phải đọc ở phiên họp lần thứ hai của Đại hội đảng VIII dự định tổ chức vào tháng 5. Bài diễn văn dành cho Mao nhiều chỗ để bình luận và được viết hoàn toàn theo ý ông “tiến nhanh, tiếng mạnh, tiến vững chắc, đạt năng xuất cao…”. Mao ngắt lời tôi, im lặng, đăm chiêu suy nghĩ, hỏi:
– Đồng chí có biết chuyện ở Văn phòng thư ký chính trị không?
– Tôi cũng có nghe chuyện này, nhưng không biết chi tiết. Tôi rất ngạc nhiên khi đồng chí Diệp cho biết, Lâm Khắc đang gặp rất rắc rối vì dính dáng vào chuyện này.
– Đồng chí quen cả tám người đó chứ?
– Dạ, tôi chỉ biết sơ thôi. Lâm Khắc là người mà tôi biết rõ nhất.
– Đồng chí nghĩ Lâm Khắc là người như thế nào?
Cơ hội đã đến với tôi. Tôi phải thận trọng. Trong khi những kẻ khác đang vểnh tai lên nghe ngóng, tôi phải trình bày những điểm yếu, điểm mạnh của Lâm Khắc.
– Trong ba, bốn năm qua, chúng tôi đã có nhiều thời gian sống cùng, thường tâm sự với nhau. Tôi không tin đồng chí Lâm Khắc có thể chống đảng. Đồng chí ấy hơi ích kỷ, thế thôi, chẳng có ý gì khác.
– Bây giờ không phải lúc nói chuyện này. Tôi hỏi, theo đồng chí, Lâm Khắc có phải là kẻ chống đảng hay không?
Tôi trả lời theo những gì tôi biết, Lâm Khắc chưa bao giờ nói điều gì chống lại đảng cả. Có lẽ ông ta chỉ phê bình cá nhân hoặc cán bộ đảng nào đó, nhưng chưa bao giờ tôi nghe thấy ông ta nói một lời chống đảng hay chống Chủ tịch. Tôi bảo đảm với Mao, thậm chí Lâm Khắc còn đặc biệt trung thành.
– Thôi được. Trong thời kỳ chiến dịch chống hữu khuynh năm ngoái, thậm chí Lâm Khắc và bảy nhân viên kia rất tích cực. Sao bây giờ bỗng nhiên họ trở thành kẻ thù của đảng?
Tôi đáp:
– Tôi không nắm được chi tiết cụ thể, nhưng đồng chí Điền Gia Anh mới tới đây, đồng chí ấy biết rõ hơn tôi về chuyện này.
Mao muốn nói chuyện với Điền Gia Anh.
Điền Gia Anh và Vương Kính Tiên như rơi từ trên mây xuống khi tôi kể cho họ nghe về cuộc đối thoại giữa tôi và Mao. Vương khen tôi can đảm, nhưng Điền Gia Anh vẫn lo ngại. Dương Thượng Côn cũng là cấp trên của Điền, ông không muốn tỏ ra chống lại hay qua mặt Dương.
Nhưng Mao muốn biết rõ chuyện, Điền quyết định sẽ kể hết cho Mao. Cuộc đối thoại cũng đã diễn ra trong buổi tối hôm đó.
Vào lúc 4 giờ sáng khi tôi đang ngủ say, một vệ sĩ của Mao đánh thức. Chủ tịch muốn học thêm tiếng Anh nữa. Tôi xoa nước lạnh lên mặt rồi vội vã vào phòng ngủ của Mao:
– Tôi muốn đánh thức đồng chí cách đây hai tiếng, nhưng thấy quá sớm.
Một vệ sĩ mang tới cho tôi một cốc trà đặc.
Tôi biết Mao muốn nói chuyện về Lâm Khắc, nhưng đầu tiên chúng tôi đọc vài đoạn văn tiếng Anh. Sau đó Mao nói:
– Tôi nghĩ bây giờ tôi đã nắm được tình hình. Tám nhân viên đã buộc tội cán bộ lãnh đạo của Văn phòng thư ký chính trị là hữu khuynh. Rồi Hà Tài và Dương Thượng Côn tìm cách cứu nhau, cùng phản công tám người này, thành ra vụ này đã xoay ngược lại hoàn toàn. Tôi nghĩ tám người này đúng, một số cán bộ lãnh đạo có vẻ hữu khuynh, điều này thấy được qua cách thức họ dùng để chống lại tám người. Họ đã lạm dụng kỷ luật đảng để uy hiếp cấp dưới một cách tàn nhẫn. Tám người kia không còn cơ hội nào chống lại.
Mao so sánh vụ này với một vụ tương tự trong đời nhà Đường. Hồi đó có tám người cải cách trẻ tuổi đã can đảm đề nghị cải tổ bộ máy hành chính và như vậy đụng chạm đến các lãnh chúa và quan lại. Bọn này đã phản ứng đưa những người này đi đày.
– Tôi đã lệnh cho Điền Gia Anh trở về Bắc Kinh. Chúng ta cũng sắp lên đường.
Ba ngày trước lễ kỷ niệm ngày 1 tháng 5, chúng tôi trở về Bắc Kinh. Mao nói chuyện ba tiếng liền với Lâm Khắc và dò hỏi nhận xét của ông ta về vụ này. Việc Mao trở về đã làm thay đổi hẳn bầu không khí ở Trung Nam Hải. Dương Thượng Côn đã chuẩn bị một hiệp đấu dữ dội chống lại tám người khi Điền Gia Anh xuất hiện, thông báo vụ án này chỉ kết thúc sau khi đích thân Chủ tịch điều tra – Mao không đồng ý với quyết định của Văn phòng Trung ương. Bây giờ Hà Tài và Dương Thượng Côn lại trở nên bối rối, khó xử.
Ngay sau ngày l tháng 5, Mao mời Điền Gia Anh, Lâm Khắc, Hà Tài và hai đảng viên nữa của Văn phòng trung ương là Hoa Phong và Tiểu Lan đến gặp riêng. Tôi cũng phải đến làm người dự thính.
Mao nằm trên giường, chỉ khoác áo choàng. Bằng giọng nói ôn tồn, hoà giải, ông tìm ra một thoả hiệp. Văn phòng thư ký chính trị đã thực hiện chiến dịch không đúng quy định, tám nhân viên này đã từng ủng hộ chiến dịch chống hữu khuynh, họ không phải những người thiên hữu. Không được phép giải quyết những vấn đề của giai cấp vô sản bằng phương thức của giai cấp tư sản – ai đụng đến ta, ta sẽ thủ tiêu người đó.
Nếu tất cả những người có mặt đều nhất trí với Mao, chắc chắn vụ án xét xử tám kẻ chỉ trích này sẽ bị huỷ bỏ ngay lập tức. Nhưng Tiểu Lan, một nữ nhân viên chạc 40 tuổi của Văn phòng trung ương đã phản đối. Bà dẫn ra rằng, tám người này đã phê phán chánh Văn phòng trung ương và Văn phòng trung ương đã quyết định coi thái độ của họ là chống đảng. Họ đã bị đình chỉ công tác, buộc phải viết bản tự kiểm điểm.
Tiểu Lan đã khiêu khích Mao. Mặc dù tôi không đồng ý với quan điểm, nhưng tôi phục lòng can đảm của bà. Nhưng bà thật ngây thơ, dại dột không hiểu được lý do Mao phát động chiến dịch làm trong sạch đảng. Mao không hài lòng với thái độ bảo thủ của các nhà lãnh đạo đảng, ông muốn họ bị phê phán. Theo suy nghĩ của ông, lẽ phải thuộc về tám người kia.
Tiểu Lan quá ngây thơ cho rằng đảng là tối cao, đảng đã ra quyết định coi như mọi chuyện kết thúc. Bà không hiểu trên đảng còn có vị hoàng đế, Tiểu Lan đã dám chống lại hoàng đế.
Mao đột ngột thay đổi thái độ. Ông nhỏm dậy, quăng chiếc khăn tắm sang một bên, nhìn quanh. Ông đang ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Lạnh lùng, ông bảo:
– Được rồi, cả hai bên đều giữ lập trường của mình. Tôi không thể hoà giải được. Chúng ta sẽ triệu tập một cuộc họp để giải quyết vụ này. Tất cả đều phải có mặt. Chúng ta sẽ thảo luận kỹ lưỡng, chấm dứt hẳn vụ này. Ngày mai sẽ bắt đầu. Tất cả nhân viên của Trung Nam Hải đều phải tới. Bây giờ các đồng chí có thể về.
Mao đã châm ngòi nổ quả bom, không thể đập tắt được nữa. Ông ủng hộ những cán bộ đã phê bình thủ trưởng của mình, hy vọng những nhân viên khác sẽ đứng về phía họ.
Dương Thượng Côn, Chủ nhiệm kiêm bí thư đảng của Văn phòng trung ương và đồng thời cũng là bí thư đảng của đại bản doanh của Uỷ ban trung ương là một kẻ xảo quyệt. Hà Tài là thuộc hạ tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh của ông. Vì Dương Thượng Côn biết Mao chống Hà Tài, nên ông đã viết một bản “tự kiểm điểm” trong đó cho biết ông không dính dáng gì đến những việc làm của Hà Tài và nhận lỗi không quan tâm chu đáo đến những hoạt động của Hà, của phong trào làm trong sạch đảng trong Văn phòng thư ký chính trị. Trong cuộc họp lần thứ nhất, ông tuyên bố: “Tôi yêu cầu tất cả những đồng chí có mặt hãy kể tên những người muốn hạ bệ những người tả khuynh của chúng ta. Và nếu ai cho rằng, cả tôi cũng phạm sai lầm thì hãy nói ra”. Đó là một nước cờ cao.
Tiểu Lan vẫn buộc tội tám người kia, mặc dù đã biết quan điểm của Mao. Trong cuộc họp lần này và tất cả các cuộc họp tiếp theo, bà đều nhắc đi nhắc lại lời buộc tội nhóm Lâm Khắc không treo cờ đỏ của đảng cộng sản, mà lại treo lá cờ đen của phe đối lập.
Họp hành kéo dài tới hơn một tháng trời. Thần kinh của tôi không thể chịu được những cuộc họp đó. Không ngoài sự mong đợi, nhờ sự can thiệp của Mao, cuối cùng tám người kia đã được giải thoát. Nhưng mãi sau này trong cuộc Cách mạng văn hoá, tôi mới hiểu rõ chiến thuật của Mao trong vụ “Những lá cờ đen”. Dương Thượng Côn đảng viên cao cấp nhất đã dính vụ này, Đặng Tiểu Bình đứng phía sau, thủ trưởng của Dương là những người bị Mao nghi ngờ nhiều nhất. Vụ này đối với Mao chỉ là một trong nhiều kế hoạch Mao thử thách lòng trung thành của Dương – một sự thử thách mà cuối cùng Dương Thượng Côn đã không qua được. Năm 1958 ông ta vẫn giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng trung ương. Nhưng đại bản doanh của Uỷ ban trung ương mà ông làm bí thư đảng đã bị giải tán – một tổn thất lớn lao về uy tín, nhưng ông vẫn giữ được thể diện. Trong Cách mạng văn hoá, vụ Lá Cờ Đen được lôi ra, một trong hai tội bị lên án, ông bị phế truất.
Những cán bộ trung cấp, thuộc hạ trực tiếp của Dương cũng bị vạ lây. Lý Đông Diệp, Lưu Hoa Phong người đã làm theo chỉ thị của Dương Thượng Côn và Tăng San thành những con tốt thí, bị đưa đi cải tạo, số phận khắc nghiệt đang chờ đến họ. Cho tới năm 1980, sau khi Mao chết. Đặng Tiểu Bình và Dương Thượng Côn quay lại nắm quyền, họ mới được phục hồi.
Hà Tài người bị các nhân viên phê bình đầu tiên còn thê thảm hơn. Ông bị đuổi ra khỏi đảng, đi cải tạo, làm những công việc thấp kém. Việc phục hồi danh dự cho ông cũng phải đến năm 1980 mới được thực hiện.
Tiểu Lan người phụ nữ ngây thơ, dại dột khiêu khích Mao, làm sai lệch đường lối chính thống của đảng, bị diệt hoàn toàn. Bà mất chức, bị khai trừ ra khỏi đảng, tống vào trại cải tạo lao động khổ sai. Bà không được phục hồi danh dự, chết vì lao động quá sức.
Dường như không có chuyện gì xảy ra không có căn cứ. Những lời đồn đại Điền Gia Anh đứng đằng sau tám nhân viên của mình để chống lại Hà Tài ngày xưa đúng sự thật. Hà Tài và Dương Thượng Côn là mục tiêu công kích chính của Điền Gia Anh. Nhưng trong quá trình xét xử, Điền Gia Anh lại bảo vệ cho Dương Thượng Côn khỏi mất chức bằng cách ông quả quyết Dương Thượng Côn không biết gì về những việc làm của Hà Tài. Sau khi Hà Tài bị cách chức, Dương Thượng Côn đã thăng chức cho Điền Gia Anh để thưởng công.
Vụ Lá cờ đen đã cho tôi thấy những cuộc đấu đá chính trị ở Trung Nam Hải thật phức tạp, nguy hiểm tới mức nào. Mao yêu cầu những cán bộ cấp dưới hãy phê bình thủ trưởng của họ để đập tan khối bảo thủ trong hàng ngũ lãnh đạo. Vì những người lãnh đạo này có phương tiện, có quyền lực trong tay chống trả, nên những người phê bình có nguy cơ bị chụp mũ hữu khuynh hoặc phản cách mạng. Chỉ có sự can thiệp của cá nhân Mao mới có thể cứu một người cấp dưới khỏi cành tù tội. Nhưng Mao vẫn chưa sẵn sàng đích thân tấn công và phế truất những nhà lãnh đạo đảng không làm vừa lòng ông. Những cuộc thanh toán chính trị luôn có một lối thoát vô định và một số người luôn đứng về bên những người thua cuộc, chẳng hạn như những cán bộ trung cấp, những người như tôi hoặc Lâm Khắc. Chúng tôi rơi vào một tình thế khó xử. Lòng trung thành đối với đảng đòi hỏi sự phục tùng và tuân lệnh. Ai hưởng ứng lời kêu gọi của Mao và phê bình cấp trên, người đó có nguy cơ bị quy là hữu khuynh. Một lần nữa tôi lại vui mừng vì không giữ chức vụ của Lâm Khắc. Tôi tự răn mình, phải im lặng, đừng dính dáng vào những chuyện tranh giành quyền lực chính trị.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Tags: Mao Trạch Đông
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Trong lúc chúng tôi lưu lại Thành Đô chiến dịch làm trong sạch đảng được tăng cường. Ông bạn Lâm Khắc của tôi, người có nhiệm vụ báo cáo nội dung Bản tin Nội bộ ra hàng ngày và kèm thêm Mao học tiếng Anh, một trong những người đầu tiên nằm trong tầm ngắm. Khi vừa biết bị tố cáo, Lâm Khắc liền rời Thành Đô. Ông phải có mặt ở Bắc Kinh để đích thân bào chữa.
Trong thời kỳ này, người ta biết vụ “Những lá cờ đen”, một sự kiện đáng lưu ý nhất, rối rắm nhất tôi được chứng kiến từ trong nội bộ. Sự kiện này đã làm hại thanh danh, sinh mạng của nhiều người nhưng nó đã giúp tôi rút ra bài học xương máu.
Một trong những nguyên nhân gây ra việc kéo bè kết cánh trong đảng đã làm Mao tức giận là cách thức bổ nhiệm những chức vụ về chính trị. Đó cũng là lý do dẫn đến những mưu đồ chính trị phức tạp, sinh ra vụ Lá cờ đen. Vấn đề là trách nhiệm của từng cán bộ. Nếu một cán bộ đảng ở Trung Quốc, đề cử một người nào đó giữ một chức vụ, mặc nhiên người đó phải chịu trách nhiệm về những việc làm của người đã đề cử. Thể thức này chi có tác dụng khi người được bổ nhiệm tuyệt đối trung thành với cấp trên, phải chấp hành mệnh lệnh ngay cả khi họ là người hiểu biết hơn. Đối với đảng viên, điều lệ quan trọng nhất là kỷ luật, tuyệt đối phục tùng cấp trên, chấp hành sự lãnh đạo của đảng và chỉ thị của cán bộ cấp cao hơn. Đảng và cấp trên luôn luôn đúng. Phê bình cấp trên là vi phạm toàn bộ các điều lệ, đảng viên nào cũng phải nhớ. Công kích cấp trên của mình cũng tệ hại như công kích đảng. Trung thành là đức tính tối cần thiết.
Sự phục tùng sẽ được trả giá bằng sự bao che. Vì cấp dưới phải thi hành mệnh lệnh của cấp trên, nên cấp trên phải bảo vệ cấp dưới trước sự công kích. Hậu quả, tất cả những phản ứng hướng vào các quan chức cao cấp trong đảng lại nhắm vào cấp dưới. Nếu một cán bộ đảng cấp dưới bị chỉ trích về những sai lầm, dĩ nhiên cấp trên của người đó cũng bị liên luỵ. Những cuộc đấu đá chính trị triền miên tôi được chứng kiến nhiều năm ròng luôn luôn bắt đầu từ lớp cán bộ trung cấp – theo hệ thống phân cấp trong đảng. Nếu muốn đả kích những cán bộ đảng cao cấp, trước tiên người ta tấn công cấp dưới của họ.
Mao kịch liệt bác bỏ cách thức này, nguyên nhân dẫn đến việc thiếu cảnh giác, thiếu dũng cảm đấu tranh trong đảng. Ai cũng tìm cách đẩy trách nhiệm cho cấp cao hơn và vì sai lầm nào cũng đều bị xử lý nghiêm khắc, nên tinh thần sáng tạo, tính độc lập và lòng quả cảm bị hạn chế. Ai bị hạ bệ, sẽ kéo theo cả thủ trưởng, cấp dưới của người đó và nhiều người khác. Một cán bộ đảng để cho một cấp dưới phạm sai lầm thì những cấp dưới khác của người đó cũng phạm sai lầm như vậy.
Mùa thu năm 1957. Mao phục hồi chiến dịch làm trong sạch đảng để đập tan lối kết bè kéo cánh này. Ông khuyến khích những cán bộ đảng cấp dưới hãy vạch ra những sai lầm của cấp trên, đặc biệt sự bảo thủ vốn được coi là “hữu khuynh”.
Lời hiệu triệu khác thường đã làm những đảng viên cấp thấp lo ngại. Điều gì sẽ xảy ra nếu việc phê bình của họ không được ủng hộ, nếu vị lãnh đạo đảng bị phê bình kia vẫn được tại chức? Ông ta có thể sẽ trả thù với chức vụ, quyền hạn trong tay. Ông ta sẽ đẩy những người phê bình ông xuống địa ngục. Người ta đã rút ra được bài học từ chiến dịch “chống hữu khuynh”, vì thế đa số các đảng viên không dám lên tiếng.
Dĩ nhiên, tôi cũng im lặng. Tuy tôi có vấn đề với Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều nhưng cũng chẳng bao giờ phản ứng lại họ.
Một số nhân viên ở Trung Nam Hải đã lên tiếng phê bình. Tám thư ký chính trị làm việc trong Văn phòng trung ương của Dương Thượng Côn đã liên kết với nhau chỉ trích Hà Tài, phó phòng của họ. Họ đã lên án Hà Tài thường vơ hết công trạng và đổ mọi tội lỗi cho cấp dưới khi thất bại. Ngoài ra, còn buộc tội ông ta nịnh trên nạt dưới. Nhưng Hà Tài đã đổ trách nhiệm cho cấp trên, quả quyết người quyết định mọi việc không phải ông, mà là Dương Thượng Côn, thủ trưởng, người có chức vụ cao hơn ông rất nhiều theo cấp bậc trong đảng.
Lâm Khắc, nhân vật chủ chốt trong nhóm 8 người phê bình cấp trên.
Khi quy cho Hà Tài có tư tưởng hữu khuynh, theo lối lý luận như đã nói ở trên, chẳng khác nào buộc tội Dương Thượng Côn. Và như vậy rất nguy hại về chính trị. Hà Tài cũng quả quyết, phê bình cá nhân ông cũng đồng nghĩa với việc lên án đảng và chính tám người phê bình kia mới thực là những kẻ hữu khuynh. Ông kêu gọi những nhân viên khác của Văn phòng thư ký chính trị lên tiếng chống lại tám người đối nghịch đó và tung tin đồn, Điền Gia Anh, bạn tôi, một trong những thư ký của Mao và phó Văn phòng của Hà Tài đã xúi giục những người này lên tiếng phê bình. Tháng ba, trong lúc chúng tôi đang ở Thành Đô, Hà Tài đã tập hợp quanh mình nhiều người ở Văn phòng trung ương, đến nỗi tám người phê bình kia công khai bị coi là Nhóm hữu khuynh đối nghịch với đảng và chủ nghĩa xã hội.
Mãi tới khi hội nghị ở Thành Đô kết thúc, Lâm Khắc trở về Bắc Kinh, tôi mới biết được mức độ nghiêm trọng của những lời buộc tội. Tôi và Mao rời Thành Đô đến Trùng Khánh, sau đó đi tàu thuỷ dọc theo sông Dương Từ, nghỉ lại ở Vũ Hán, nơi đã có lần người ta nói về dự án đập thuỷ điện. Đầu tháng tư chúng tôi đi tiếp đến Quảng Châu. Diệp Tử Long và Điên Gia Anh đã chờ chúng tôi ở đó. Tôi biết, Dương Thượng Côn đã quyết định đình chỉ công tác của tám vị thư ký, ra lệnh cho họ phải viết bản “tự kiểm điểm”, trong đó có Lâm Khắc. Người ta tiếp tục điều tra những hoạt động chống đảng của họ.
Điền Gia Anh lo lắng. Biết những lời buộc tội chắc chắn sai, nhưng ông lâm vào tình trạng khó xử. Là một trong những phó Văn phòng thư ký chính trị, chức vụ của ông ta ngang với Hà Tài. Như vậy tám nhân viên kia cũng là cấp dưới. Người ta xì xầm ông đứng đằng sau 8 người, ông lo có thể sẽ trở thành mục tiêu của các cuộc điều tra. Tuy muốn trình bày vấn đề này với Mao, nhưng sợ rằng như vậy sẽ còn gặp nhiều phiền phức hơn. Cũng như tất cả các nhân viên của Nhóm Một, Điền Gia Anh phục vụ hai chủ. Một, ông làm việc trực tiếp với Mao, nhưng đồng thời cũng phải phục tùng chỉ thị chung của Văn phòng trung ương đảng. Nếu trực tiếp nói những tâm tư riêng cho Mao biết, sẽ bị kết tội dám qua mặt Dương Thượng Côn và Văn phòng trung ương.
Tôi lo ngại cho Lâm Khắc. Tôi cũng quen biết tám người bị buộc tội, nhưng đặc biệt gần gũi với Lâm Khắc hơn. Trong những năm qua, chúng tôi đã cộng tác chặt chẽ với nhau và trong các chuyến đi chúng tôi thường ở chung một phòng. Là thư ký của Mao, Lâm Khắc đang giữ chức vụ mà đã có lần Mao đề nghị tôi làm. Tôi hoàn toàn có thể đảm nhận được nhiệm vụ của ông, nếu tôi nhận lời. Tính cương trực của Lâm Khắc đôi khi cũng dễ làm mếch lòng người khác, nhưng chưa bao giờ tôi nghe thấy ông hé một lời chống đảng. Buộc tội ông có những hoạt động “chống đảng” thật phi lý.
Ở Quảng Châu, những câu chuyện của các thành viên Nhóm Một lúc nào cũng xoay quanh vụ này. Cuối cùng tôi ra sức bênh vực Lâm Khắc, tuyên bố, tôi không thể hình dung nổi ông ta lại làm cái gì đó chống đảng. Có phải những người buộc tội ông chỉ muốn thanh toán những mâu thuẫn cá nhân? Thế là tôi bị Diệp Tử Long công kích:
– Đồng chí không có mặt ở Bắc Kinh làm sao đồng chí lại khẳng định như vậy được?
Tôi đáp:
– Nếu đồng chí Lâm Khắc là kẻ thù của đảng, chắc chắn đồng chí ấy đã phản bội rồi. Theo tôi biết, đồng chí ấy luôn luôn trung thành. Tại sao bỗng nhiên đồng chí ấy lại có thể trở thành kẻ thù của đảng được?
Tôi vốn giữ im lặng, không ngờ lại buột miệng phản ứng.
Vương Kính Tiên ra hiệu, tôi theo ông vào phòng bên cạnh, Vương cảnh cáo tôi nói mà không cân nhắc. Quyết định đã có rồi, ý kiến của tôi cũng chẳng có trọng lượng chính trị. “Nếu đồng chí còn tiếp tục nói như vậy, có nghĩa là đồng chí muốn bao che cho hắn. Người ta sẽ buộc tội đồng chí chống lại quyết định của đảng, lúc đó sẽ đến lượt đồng chí”.
Diệp Tử Long, rất khoái trá về việc Lâm Khắc bị thất sủng, đã báo báo cho Mao về quyết định này. Nếu tôi còn tiếp tục bênh vực Lâm Khắc có lẽ Diệp Tử Long sẽ hại cả tôi.
Vương nói có lý. Tôi không thể làm gì được.
Mặc dù vậy tôi cảm thấy rất khó chịu. Những lời buộc tội thật sai, chẳng cao thượng chút nào khi không ai dám đứng ra bảo vệ Lâm Khắc.
Tôi tin Mao biết rõ mọi chuyện, sẽ bảo vệ Lâm Khắc. Khi Diệp Tử Long báo cáo, Mao không nói gì, chỉ thở dài như thể không tán thành. Nhưng Diệp hiểu nhầm, tưởng Mao im lặng là đồng ý. Nhưng nếu tôi nhẩy vào bảo vệ Lâm Khắc, Diệp Tử Long sẽ lên án tôi ngăn cản quyết định của đảng. Tôi chỉ còn hy vọng vào Mao giải quyết mà thôi.
Đến chiều tối hôm đó, Mao cho gọi tôi tới, ông đang nghỉ ngơi trên boong của chiếc tàu thả neo gần nhà khách, trên người chỉ mặc quần bơi và khoác áo choàng tắm. Ông đề nghị tôi dạy tiếng Anh. Chúng tôi vừa bắt đầu, Diệp Tử Long đi tới. Ông ta muốn báo cáo những tin tức mới nhất về “Nhóm chống đảng” ở Trung Nam Hải. Tôi đứng dậy định cáo lui vì việc này không phải phận sự, nhưng Mao yêu cầu tôi ở lại.
– Không có gì bí mật cả. Chúng ta sẽ tiếp tục học tiếng Anh ngay.
Mao hỏi tại sao người báo cáo về những kẻ thù của đảng lại là Diệp. Việc điều tra là nhiệm vụ của Dương Thượng Côn và cấp phó của ông ta. Lẽ ra họ phải báo cáo cho Mao nhưng người phó của Dương Thượng Côn lại cử Diệp đi.
Mao im lặng nghe báo cáo, sau đó Diệp Tử Long cáo lui.
Tôi thấy Mao có vẻ khó chịu với chuyện vừa rồi, nên tôi cũng không dám gợi chuyện đó. Tôi thuộc Ban y tế trung ương của Bộ y tế, còn vụ xung đột này lại xảy ra trong Văn phòng thư ký chính trị. Vì vậy, theo kỷ luật đảng không cho phép tôi dính vào. Nếu không, người ta có thể vu cho tôi cùng một giuộc với Lâm Khắc. Tôi không thể nói chuyện bí mật riêng với Mao, vì đám vệ sĩ luôn luôn ra vào. Họ mang trà tới, lau mặt cho Mao bằng khăn ấm, ghi lại từng lời hoặc đứng nghe lỏm ngoài cửa mỗi khi họ ra khỏi phòng. Nếu tôi gợi chuyện sẽ đến tai Diệp Tử Long và các đối thủ của Lâm Khắc ở Nhóm Một sẽ quay sang tấn công tôi. Vì vậy tôi không được phép gợi chuyện, phải đợi đến lúc Mao chuyển sang đề tài này.
Tôi quay sang bài học Anh ngữ. Chúng tôi đọc bản tiếng Anh báo cáo chính trị mà Lưu Thiếu Kỳ phải đọc ở phiên họp lần thứ hai của Đại hội đảng VIII dự định tổ chức vào tháng 5. Bài diễn văn dành cho Mao nhiều chỗ để bình luận và được viết hoàn toàn theo ý ông “tiến nhanh, tiếng mạnh, tiến vững chắc, đạt năng xuất cao…”. Mao ngắt lời tôi, im lặng, đăm chiêu suy nghĩ, hỏi:
– Đồng chí có biết chuyện ở Văn phòng thư ký chính trị không?
– Tôi cũng có nghe chuyện này, nhưng không biết chi tiết. Tôi rất ngạc nhiên khi đồng chí Diệp cho biết, Lâm Khắc đang gặp rất rắc rối vì dính dáng vào chuyện này.
– Đồng chí quen cả tám người đó chứ?
– Dạ, tôi chỉ biết sơ thôi. Lâm Khắc là người mà tôi biết rõ nhất.
– Đồng chí nghĩ Lâm Khắc là người như thế nào?
Cơ hội đã đến với tôi. Tôi phải thận trọng. Trong khi những kẻ khác đang vểnh tai lên nghe ngóng, tôi phải trình bày những điểm yếu, điểm mạnh của Lâm Khắc.
– Trong ba, bốn năm qua, chúng tôi đã có nhiều thời gian sống cùng, thường tâm sự với nhau. Tôi không tin đồng chí Lâm Khắc có thể chống đảng. Đồng chí ấy hơi ích kỷ, thế thôi, chẳng có ý gì khác.
– Bây giờ không phải lúc nói chuyện này. Tôi hỏi, theo đồng chí, Lâm Khắc có phải là kẻ chống đảng hay không?
Tôi trả lời theo những gì tôi biết, Lâm Khắc chưa bao giờ nói điều gì chống lại đảng cả. Có lẽ ông ta chỉ phê bình cá nhân hoặc cán bộ đảng nào đó, nhưng chưa bao giờ tôi nghe thấy ông ta nói một lời chống đảng hay chống Chủ tịch. Tôi bảo đảm với Mao, thậm chí Lâm Khắc còn đặc biệt trung thành.
– Thôi được. Trong thời kỳ chiến dịch chống hữu khuynh năm ngoái, thậm chí Lâm Khắc và bảy nhân viên kia rất tích cực. Sao bây giờ bỗng nhiên họ trở thành kẻ thù của đảng?
Tôi đáp:
– Tôi không nắm được chi tiết cụ thể, nhưng đồng chí Điền Gia Anh mới tới đây, đồng chí ấy biết rõ hơn tôi về chuyện này.
Mao muốn nói chuyện với Điền Gia Anh.
Điền Gia Anh và Vương Kính Tiên như rơi từ trên mây xuống khi tôi kể cho họ nghe về cuộc đối thoại giữa tôi và Mao. Vương khen tôi can đảm, nhưng Điền Gia Anh vẫn lo ngại. Dương Thượng Côn cũng là cấp trên của Điền, ông không muốn tỏ ra chống lại hay qua mặt Dương.
Nhưng Mao muốn biết rõ chuyện, Điền quyết định sẽ kể hết cho Mao. Cuộc đối thoại cũng đã diễn ra trong buổi tối hôm đó.
Vào lúc 4 giờ sáng khi tôi đang ngủ say, một vệ sĩ của Mao đánh thức. Chủ tịch muốn học thêm tiếng Anh nữa. Tôi xoa nước lạnh lên mặt rồi vội vã vào phòng ngủ của Mao:
– Tôi muốn đánh thức đồng chí cách đây hai tiếng, nhưng thấy quá sớm.
Một vệ sĩ mang tới cho tôi một cốc trà đặc.
Tôi biết Mao muốn nói chuyện về Lâm Khắc, nhưng đầu tiên chúng tôi đọc vài đoạn văn tiếng Anh. Sau đó Mao nói:
– Tôi nghĩ bây giờ tôi đã nắm được tình hình. Tám nhân viên đã buộc tội cán bộ lãnh đạo của Văn phòng thư ký chính trị là hữu khuynh. Rồi Hà Tài và Dương Thượng Côn tìm cách cứu nhau, cùng phản công tám người này, thành ra vụ này đã xoay ngược lại hoàn toàn. Tôi nghĩ tám người này đúng, một số cán bộ lãnh đạo có vẻ hữu khuynh, điều này thấy được qua cách thức họ dùng để chống lại tám người. Họ đã lạm dụng kỷ luật đảng để uy hiếp cấp dưới một cách tàn nhẫn. Tám người kia không còn cơ hội nào chống lại.
Mao so sánh vụ này với một vụ tương tự trong đời nhà Đường. Hồi đó có tám người cải cách trẻ tuổi đã can đảm đề nghị cải tổ bộ máy hành chính và như vậy đụng chạm đến các lãnh chúa và quan lại. Bọn này đã phản ứng đưa những người này đi đày.
– Tôi đã lệnh cho Điền Gia Anh trở về Bắc Kinh. Chúng ta cũng sắp lên đường.
Ba ngày trước lễ kỷ niệm ngày 1 tháng 5, chúng tôi trở về Bắc Kinh. Mao nói chuyện ba tiếng liền với Lâm Khắc và dò hỏi nhận xét của ông ta về vụ này. Việc Mao trở về đã làm thay đổi hẳn bầu không khí ở Trung Nam Hải. Dương Thượng Côn đã chuẩn bị một hiệp đấu dữ dội chống lại tám người khi Điền Gia Anh xuất hiện, thông báo vụ án này chỉ kết thúc sau khi đích thân Chủ tịch điều tra – Mao không đồng ý với quyết định của Văn phòng Trung ương. Bây giờ Hà Tài và Dương Thượng Côn lại trở nên bối rối, khó xử.
Ngay sau ngày l tháng 5, Mao mời Điền Gia Anh, Lâm Khắc, Hà Tài và hai đảng viên nữa của Văn phòng trung ương là Hoa Phong và Tiểu Lan đến gặp riêng. Tôi cũng phải đến làm người dự thính.
Mao nằm trên giường, chỉ khoác áo choàng. Bằng giọng nói ôn tồn, hoà giải, ông tìm ra một thoả hiệp. Văn phòng thư ký chính trị đã thực hiện chiến dịch không đúng quy định, tám nhân viên này đã từng ủng hộ chiến dịch chống hữu khuynh, họ không phải những người thiên hữu. Không được phép giải quyết những vấn đề của giai cấp vô sản bằng phương thức của giai cấp tư sản – ai đụng đến ta, ta sẽ thủ tiêu người đó.
Nếu tất cả những người có mặt đều nhất trí với Mao, chắc chắn vụ án xét xử tám kẻ chỉ trích này sẽ bị huỷ bỏ ngay lập tức. Nhưng Tiểu Lan, một nữ nhân viên chạc 40 tuổi của Văn phòng trung ương đã phản đối. Bà dẫn ra rằng, tám người này đã phê phán chánh Văn phòng trung ương và Văn phòng trung ương đã quyết định coi thái độ của họ là chống đảng. Họ đã bị đình chỉ công tác, buộc phải viết bản tự kiểm điểm.
Tiểu Lan đã khiêu khích Mao. Mặc dù tôi không đồng ý với quan điểm, nhưng tôi phục lòng can đảm của bà. Nhưng bà thật ngây thơ, dại dột không hiểu được lý do Mao phát động chiến dịch làm trong sạch đảng. Mao không hài lòng với thái độ bảo thủ của các nhà lãnh đạo đảng, ông muốn họ bị phê phán. Theo suy nghĩ của ông, lẽ phải thuộc về tám người kia.
Tiểu Lan quá ngây thơ cho rằng đảng là tối cao, đảng đã ra quyết định coi như mọi chuyện kết thúc. Bà không hiểu trên đảng còn có vị hoàng đế, Tiểu Lan đã dám chống lại hoàng đế.
Mao đột ngột thay đổi thái độ. Ông nhỏm dậy, quăng chiếc khăn tắm sang một bên, nhìn quanh. Ông đang ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Lạnh lùng, ông bảo:
– Được rồi, cả hai bên đều giữ lập trường của mình. Tôi không thể hoà giải được. Chúng ta sẽ triệu tập một cuộc họp để giải quyết vụ này. Tất cả đều phải có mặt. Chúng ta sẽ thảo luận kỹ lưỡng, chấm dứt hẳn vụ này. Ngày mai sẽ bắt đầu. Tất cả nhân viên của Trung Nam Hải đều phải tới. Bây giờ các đồng chí có thể về.
Mao đã châm ngòi nổ quả bom, không thể đập tắt được nữa. Ông ủng hộ những cán bộ đã phê bình thủ trưởng của mình, hy vọng những nhân viên khác sẽ đứng về phía họ.
Dương Thượng Côn, Chủ nhiệm kiêm bí thư đảng của Văn phòng trung ương và đồng thời cũng là bí thư đảng của đại bản doanh của Uỷ ban trung ương là một kẻ xảo quyệt. Hà Tài là thuộc hạ tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh của ông. Vì Dương Thượng Côn biết Mao chống Hà Tài, nên ông đã viết một bản “tự kiểm điểm” trong đó cho biết ông không dính dáng gì đến những việc làm của Hà Tài và nhận lỗi không quan tâm chu đáo đến những hoạt động của Hà, của phong trào làm trong sạch đảng trong Văn phòng thư ký chính trị. Trong cuộc họp lần thứ nhất, ông tuyên bố: “Tôi yêu cầu tất cả những đồng chí có mặt hãy kể tên những người muốn hạ bệ những người tả khuynh của chúng ta. Và nếu ai cho rằng, cả tôi cũng phạm sai lầm thì hãy nói ra”. Đó là một nước cờ cao.
Tiểu Lan vẫn buộc tội tám người kia, mặc dù đã biết quan điểm của Mao. Trong cuộc họp lần này và tất cả các cuộc họp tiếp theo, bà đều nhắc đi nhắc lại lời buộc tội nhóm Lâm Khắc không treo cờ đỏ của đảng cộng sản, mà lại treo lá cờ đen của phe đối lập.
Họp hành kéo dài tới hơn một tháng trời. Thần kinh của tôi không thể chịu được những cuộc họp đó. Không ngoài sự mong đợi, nhờ sự can thiệp của Mao, cuối cùng tám người kia đã được giải thoát. Nhưng mãi sau này trong cuộc Cách mạng văn hoá, tôi mới hiểu rõ chiến thuật của Mao trong vụ “Những lá cờ đen”. Dương Thượng Côn đảng viên cao cấp nhất đã dính vụ này, Đặng Tiểu Bình đứng phía sau, thủ trưởng của Dương là những người bị Mao nghi ngờ nhiều nhất. Vụ này đối với Mao chỉ là một trong nhiều kế hoạch Mao thử thách lòng trung thành của Dương – một sự thử thách mà cuối cùng Dương Thượng Côn đã không qua được. Năm 1958 ông ta vẫn giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng trung ương. Nhưng đại bản doanh của Uỷ ban trung ương mà ông làm bí thư đảng đã bị giải tán – một tổn thất lớn lao về uy tín, nhưng ông vẫn giữ được thể diện. Trong Cách mạng văn hoá, vụ Lá Cờ Đen được lôi ra, một trong hai tội bị lên án, ông bị phế truất.
Những cán bộ trung cấp, thuộc hạ trực tiếp của Dương cũng bị vạ lây. Lý Đông Diệp, Lưu Hoa Phong người đã làm theo chỉ thị của Dương Thượng Côn và Tăng San thành những con tốt thí, bị đưa đi cải tạo, số phận khắc nghiệt đang chờ đến họ. Cho tới năm 1980, sau khi Mao chết. Đặng Tiểu Bình và Dương Thượng Côn quay lại nắm quyền, họ mới được phục hồi.
Hà Tài người bị các nhân viên phê bình đầu tiên còn thê thảm hơn. Ông bị đuổi ra khỏi đảng, đi cải tạo, làm những công việc thấp kém. Việc phục hồi danh dự cho ông cũng phải đến năm 1980 mới được thực hiện.
Tiểu Lan người phụ nữ ngây thơ, dại dột khiêu khích Mao, làm sai lệch đường lối chính thống của đảng, bị diệt hoàn toàn. Bà mất chức, bị khai trừ ra khỏi đảng, tống vào trại cải tạo lao động khổ sai. Bà không được phục hồi danh dự, chết vì lao động quá sức.
Dường như không có chuyện gì xảy ra không có căn cứ. Những lời đồn đại Điền Gia Anh đứng đằng sau tám nhân viên của mình để chống lại Hà Tài ngày xưa đúng sự thật. Hà Tài và Dương Thượng Côn là mục tiêu công kích chính của Điền Gia Anh. Nhưng trong quá trình xét xử, Điền Gia Anh lại bảo vệ cho Dương Thượng Côn khỏi mất chức bằng cách ông quả quyết Dương Thượng Côn không biết gì về những việc làm của Hà Tài. Sau khi Hà Tài bị cách chức, Dương Thượng Côn đã thăng chức cho Điền Gia Anh để thưởng công.
Vụ Lá cờ đen đã cho tôi thấy những cuộc đấu đá chính trị ở Trung Nam Hải thật phức tạp, nguy hiểm tới mức nào. Mao yêu cầu những cán bộ cấp dưới hãy phê bình thủ trưởng của họ để đập tan khối bảo thủ trong hàng ngũ lãnh đạo. Vì những người lãnh đạo này có phương tiện, có quyền lực trong tay chống trả, nên những người phê bình có nguy cơ bị chụp mũ hữu khuynh hoặc phản cách mạng. Chỉ có sự can thiệp của cá nhân Mao mới có thể cứu một người cấp dưới khỏi cành tù tội. Nhưng Mao vẫn chưa sẵn sàng đích thân tấn công và phế truất những nhà lãnh đạo đảng không làm vừa lòng ông. Những cuộc thanh toán chính trị luôn có một lối thoát vô định và một số người luôn đứng về bên những người thua cuộc, chẳng hạn như những cán bộ trung cấp, những người như tôi hoặc Lâm Khắc. Chúng tôi rơi vào một tình thế khó xử. Lòng trung thành đối với đảng đòi hỏi sự phục tùng và tuân lệnh. Ai hưởng ứng lời kêu gọi của Mao và phê bình cấp trên, người đó có nguy cơ bị quy là hữu khuynh. Một lần nữa tôi lại vui mừng vì không giữ chức vụ của Lâm Khắc. Tôi tự răn mình, phải im lặng, đừng dính dáng vào những chuyện tranh giành quyền lực chính trị.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 28
Posted: 08/08/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Mùa hè năm 1958, toàn thể nhân dân Trung Quốc được kêu gọi thực hiện các công trình thuỷ lợi, huy động một lực lượng lao động đông đảo để tham gia. Mao đích thân phát động phong trào này. Dự án không chỉ có mục đích đơn thuần về kinh tế, còn sử dụng các hồ dự trữ nước nhằm cải thiện hệ thống thuỷ lợi của Trung Quốc và tăng sản lượng nông nghiệp. Bằng cách này, Mao còn muốn nhấn mạnh đến lao động chân tay, đề cao giá trị của người lao động. Những dự án xây dựng cũng nhằm để tỏ mối ác cảm lâu đời của Mao đối với sự ngạo mạn của lớp trí thức ăn bám và nhằm ca ngợi giai cấp công nông chịu khó, hay lam, hay làm.
Theo cơ quan tuyên truyền của đảng, ở Bắc Kinh đã có hàng trăm nghìn người “xung phong tình nguyện” – theo báo cáo của cơ quan tuyên truyền của đảng – đi xây dựng một hồ chứa nước mới gần khu mộ nổi tiếng đời nhà Minh. Những tấm bia mộ đổ nát của 13 trong số 16 vị vua nhà Minh nằm trên một vùng đồi thấp nhỏ, cách thành phố chừng 50 km. Bộ đội, đảng viên, công nhân viên chức từ các trường học, xí nghiệp, doanh nghiệp, thận chí cả nhân viên sứ quán cũng thu xếp thời gian tham gia lao động. Hầu như tất cả cư dân Bắc Kinh đều được kêu gọi, buộc phải đóng góp tham gia dự án.
Sau đó đến cả các nhà lãnh đạo đảng của Trung Quốc cũng tham gia. Họ xắn đất trong khi máy ảnh nháy liên tục, ghi lại sự kiện này cho hậu thế.
Vào chiều ngày 5-5-1958, sáu chiếc xe buýt chở đầy cán bộ cao cấp của đảng và chính phủ ở Trung Nam Hải lên đường. Mao ngồi ngay trước mặt tôi, ở hàng ghế gần cuối, trong chiếc xe đi đầu, tán chuyện. Ông nói:
– Thông thường, người lao động chân tay phục vụ chúng ta. Giờ đến lượt chính chúng ta bắt tay vào công việc lao động chân tay. Mọi người đều khẳng định lao động chân tay là tốt, nhưng đến khi thực sự phải làm, họ sẽ mau chóng thay đổi ý kiến. Những người đến đây xây dựng đập với nhiều lý do khác nhau. Một số người thực sự muốn lao động, một số khác cho đây là nghĩa vụ, còn một số nữa coi lao động chân tay cũng thật cao quý. Nhưng lúc nào cũng vậy, lao động chân tay bao giờ cũng tốt hơn ăn không ngồi rổi chẳng làm gì cả.
Người đông như kiến trên công trường. Đa số bộ đội, công nhân chuyên ngành xây dựng được điều động đến, nông dân từ các vùng ngoại ô và cả những người “tình nguyện” từ các thành phố đổ tới công trường. Việc Mao có mặt làm tất cả mọi người vô cùng sửng sốt. Khi ông từ trên xe buýt bước xuống, cả đám người khổng lồ đồng loạt vỗ tay, rầm rộ hô những khẩu hiệu chào mừng trong khi tướng Dương Thành Vũ tư lệnh quân khu Bắc Kinh đồng thời là tổng chỉ huy công trình, nhiệt liệt đón chào Mao.
Cả một đại đội lính được huy động đề mở một con đường xuyên qua đám đông cuồng nhiệt đến một chiếc lều làm đại bản doanh của tướng Dương. Từ chỗ chiếc lều, chúng tôi có thể nhìn bao quát toàn bộ khu vực, tướng Dương báo cáo Mao tình hình công việc.
Con đập đang xây ở tít phía xa, phía trước mặt chúng tôi, trong một cái hố khổng lồ, hàng ngàn người dùng cuốc xẻng đào khoét những tảng đá lớn. Họ xúc đá và cát cho vào sọt, rồi gánh bằng đòn gánh tới chất lên những chiếc xe goòng chạy trên đoạn đường ray đến một xưởng nghiền đá thành đá răm. Sau đó đá vụn lại được đổ vào sọt và được gánh thẳng đến con đập. Công việc thật nặng nhọc.
Mao cùng với tướng Dương, các cán bộ cao cấp của đảng và tôi trong đoàn hộ tống đi đến chân đập. Ông xắn tay áo, nhặt một cái xẻng, bắt đầu xúc đá vụn. Chúng tôi làm theo Mao. Mao mặc áo sơ mi trắng, chiếc quần màu xám đi đôi giày vải đen. Trời nóng như thiêu như đốt. Mặt Mao đỏ lên mau chóng và chẳng bao lâu, cả người ông đã bao phủ một lớp bụi màu vàng. Ông bắt đầu vã mồ hôi, những dòng mồ hôi ngang dọc chảy trên mặt ông. Gần đến giữa trưa, tức là sau hơn nửa giờ làm việc, tướng Dương Thành Vũ ép Chủ tịch phải nghỉ tay một chút. Mao nói:
– Đã lâu tôi chưa làm việc như thế này. Mới có làm một lúc đã toát mồ hôi!
Mao chui vào lều của tướng Dương nghỉ uống trà.
Trong khi ông ngồi nghỉ, Mao hỏi tôi:
– Tại sao những người ở Nhóm Một các đồng chí không đến đây lao động một tháng nhỉ? Các đồng chí phải biết lao động nặng nhọc như thế nào chứ. Nhiều người ở Bắc Kinh đã đến đây. Những nhân viên Nhóm Một không được phép vắng mặt.
Chiến dịch làm trong sạch đảng của Mao tiếp diễn, không chỉ liên quan đến những “người đã phạm sai lầm”, còn dính dáng đến cả những đảng viên thường như tôi. Chúng tôi phạm sai lầm vì đã “xa rời quần chúng” như cách nói hồi đó. Nhân viên Nhóm Một sống sung sướng, quá sướng theo cách đánh giá của Mao. Chúng tôi ăn ngon, mặc đẹp, luôn luôn được người khác phục vụ. Vậy chúng tôi phải làm quen với cuộc sống thiếu thốn, khó khăn của giai cấp công nông. Qua đó, chúng tôi sẽ rút ra được nhiều điều bổ ích. Mao tin lao động nặng nhọc sẽ có tác dụng tích cực, muốn tất cả chúng tôi, nhất là tôi, thành viên của tầng lớp trung lưu, hưởng đặc quyền đặc lợi, cuộc sống lúc nào cũng dễ dàng, cần phải trải qua một chút cay cực. Bây giờ tôi được nếm mùi cải tạo lao động.
Đề nghị của Mao không dành cho tôi một sự lựa chọn nào khác. Tôi chẳng hứng gì với cái việc vất vả này, nhưng phải chấp nhận. Tôi đáp:
– Dạ được ạ, thưa Chủ tịch. Nhưng chúng ta phải trở về thành phố để lấy đồ đạc.
Mao đồng ý.
Ngày hôm sau, ảnh Mao được đăng trên trang nhất của tất cả các báo trong nước. Với chiếc xẻng trong tay, xung quanh là các cán bộ đảng tươi cười và thường dân, Chủ tịch tuyên bố, ông rất tôn trọng lao động chân tay, hoà mình với quần chúng, mặc dù với cương vị lãnh đạo, ông sẵn sàng lao động như bất kỳ một người nào. Bức ảnh này được in đi in lại nhiều trên các báo và tạp chí, dĩ nhiên cả trong sách báo tuyên truyền về Mao. Đó là lần duy nhất Mao làm việc nặng trong suốt 22 năm tôi làm việc cho ông. Ông cầm xẻng chưa đầy một tiếng đồng hồ. Chưa bao giờ trong lịch sử, chỉ một hành động đơn giản như vậy lại làm cho dân chúng khoái lao động chân tay đến thế.
Buổi tối, sau khi việc làm qua quít, tôi đi gặp Mao ở bể bơi để lập kế hoạch cho việc tham gia của Nhóm Một vào dự án xây đập. Mao mới bơi xong, đang uống trà với Giang Thanh ở trên bờ.
– Đập chắn nước cạnh khu mộ đời nhà Minh là một công trình vĩ đại. Hàng trăm nghìn người đã tự nguyện cống hiến thời gian và sức lao động. Thậm chí cả những người nước ngoài cũng tham gia. Chúng ta không được phép làm cho họ thất vọng. Từ ngày mai nhân viên Nhóm Một – đồng chí, các thư ký và các vệ sĩ sẽ đến đó làm việc từ 10 đến 20 ngày. Nhiệm vụ rất đơn giản, đồng chí dùng xẻng xúc đất đá, vận chuyển đá, bất kể trời mưa hay nắng, làm mệt thì nghỉ. Khi nào thực sự không chịu đựng được nữa, hãy báo cho tôi biết, tôi sẽ đón đồng chí về.
Mao không trở lại công trường, vì ông rất bận. Một thư ký và một vệ sĩ ở lại với ông. Tất cả những nhân viên khác của Nhóm Một đều phải đi. Ông nói:
– Các đồng chí hãy làm thay tôi, hãy đại diện cho tôi.
Ông quay sang Giang Thanh:
– Sức khỏe bà không được tốt. Bà không cần phải đi. Nhưng bà đừng cản trở người khác. Bà hãy để cho các nhân viên của bà đi.
Vợ Mao trả lời:
– Tôi chỉ cần hai cô y tá, những người khác có thể đi.
Giảm bớt nhân sự đối với Giang Thanh là một sự hy sinh lớn lao.
Ngày hôm sau chúng tôi khởi hành. Diệp Tử Long và Vương Kính Tiên, mới thay Uông Đông Hưng điều hành Ban an ninh, dẫn đầu. Các cán bộ từ tất cả các cơ quan trung ương của đảng, chính phủ và Uỷ ban nhân dân thành phố Bắc Kinh có nghĩa vụ phải lao động 20 ngày ở công trường. Nhóm Một đến muộn hơn một chút, phần lớn những cơ quan khác đã lao động trước đó 5 ngày. Ngay ở đây, Nhóm Một cũng là nhóm được ưu đãi. Những người khác phải ngủ trong những túp lều cót đan ngoài trời. Ngược lại, tướng Dương Thành Vũ thu xếp cho chúng tôi ở trong phòng học của một trường trung học ở khu Phương Sơn gần đó. Căn phòng trống không, rộng chừng 12 mét vuông. Chúng tôi ngủ dưới đất, dùng chăn làm nệm – chín người chúng tôi nằm ngủ kiểu xếp cả hộp. Nếu một người muốn giở mình, tất cả những người khác đều phải thay đổi tư thế theo. Với tiếng ồn ào triền miên, lại nóng nực, nằm thẳng đơ không được cựa quậy, nên chẳng ai ngủ được. Tuy vậy chúng tôi vẫn biết ơn về điều kiện cư trú hạng nhất ưu đãi này.
Tướng Dương cũng ưu tiên cho chúng tôi làm việc theo ca thoải mái nhất. Đó là ca đêm, từ nửa đêm đến 8 giờ sang. Lại một dấu hiệu nữa về việc người ta ưu đãi chúng tôi. Lúc đó vào cuối tháng 5 ban ngày trời nóng kinh khủng. Ca đêm giúp chúng tôi tránh được cái nóng dữ dội nhất. Chúng tôi ăn điểm tâm lúc tan ca với một chiếc bánh bột ngô được gọi là “nắm đấm”, cháo, củ cải muối. Bữa trưa khá hơn một chút. Có rau luộc, cơm và bát canh, nhưng nhạt thếch, ăn chẳng thấy ngon, nuốt không trôi. Ăn xong đi ngủ đến khoảng 21 giờ dậy, sửa soạn đi làm.
Công trường cách trường học một tiếng đi đường. Chúng tôi khởi hành lúc gần 23 giờ. Mao đã có lý khi ông nói công việc rất đơn giản. Tôi đào đất, đá từ lòng sông và xúc từng xẻng đất đổ vào chiếc sọt lớn. Khi hai sọt đã đầy, tôi treo chúng lên đòn gánh, đưa lên vai, gánh tới những toa goòng chuyển đá vụn đến nơi xây đập. Tôi vẫn còn trẻ, mới 38 tuổi và rất khỏe mạnh. Thời thanh niên tôi tập thể thao, chơi bóng rổ. Nhưng đây là công việc khổ cực nhất, nặng nhọc nhất trong đời tôi. Cơ bắp mà tôi phải sử dụng ở đây hoàn toàn khác với khi tập thể thao.
Ban đêm mát mẻ, vậy mà sau một, hai tiếng lao động mồ hôi vã ra như tắm, người tôi chỗ nào cũng đau ê ẩm. Đối với nhiều người ở Nhóm Một, xuất thân từ nông thôn, công việc cầm xẻng đối với họ hoàn toàn bình thường như tôi cầm dao kéo vậy. Họ gánh liền 6 sọt chẳng có vẻ mệt nhọc gì, bước chân của họ uyển chuyển như nhảy múa.
Tôi cố gắng làm bằng các đồng chí xuất thân từ nông thôn, nhưng không được. Một đêm kiệt sức đến nỗi khi trút đá từ những chiếc sọt của mình xuống xe goòng, tôi đã mất thăng bằng, ngã lăn vào đó, làm cho những người quanh được một trận cười khoái chí. Họ đùa: “Việc này hơi khác với việc dùng ống nghe và dao mổ phải không?” Lần đầu tiên trong đời, một cảm giác thua kém thoáng hiện lên trong tôi. Nhưng tôi tự an ủi, những công nhân và nông dân kia trông cũng rất nực cười khi cầm ống nghe hoặc dao mổ trên tay. Làm việc ở đây tôi có thể hình dung được cuộc sống trong trại cải tạo lao động của những người hữu khuynh nặng nhọc và khắc nghiệt đến mức nào. Bao nhiêu người trong số họ sống sót?
Có người đề nghị chuyển tôi làm y tế công trường, điều trị cho công nhân bị tai nạn. Nhưng công việc lao động chỉ tạm thời, Mao muốn tôi chịu đựng gian khổ một thời gian, tôi đã đồng ý. Nếu bây giờ chuyển sang làm bác sĩ công trường, ông sẽ phê phán tôi lẩn tránh trách nhiệm được giao.
Người khác tìm cách giúp tôi, họ giải thích cách phân chia lực như thế nào, gánh như thế nào để không cảm thấy nặng. Nhưng vô ích. Một đêm mưa rất to, Vương Kính Tiên nhìn thấy tôi ướt như chuột lột, run lên vì lạnh. Ông ta đề nghị tôi nghỉ và quay về trường học. Nhưng tất cả mọi người vẫn đang làm, tôi không được phép bỏ cuộc. Tôi vẫn cố sức, chẳng bao lâu, mặc dù trời mưa và lạnh, mồ hôi tôi vẫn túa ra.
Đến ngày thứ 15 tôi gần như quỵ. Không ăn không ngù được, tất cả năng lượng dự trữ hầu như đã cạn kiệt. Tất cả cơ đều đau, mỏi dừ, mỗi bước đi tôi đều thấy đau đớn. Thời gian 20 ngày lao động đối với các cán bộ đảng và chính phủ đã kết thúc, riêng Nhóm Một đến muộn 5 ngày và phải quyết định có tiếp tục ở lại hay không. Chẳng một ai muốn làm tiếp cả. Nhưng cũng chẳng ai muốn bị chụp mũ “phần tử chậm tiến”, nếu người đó đề nghị không làm nữa. Chúng tôi quyết định làm tiếp 5 ngày.
Tướng Dương Thành Vũ đã cứu, ông chúc mừng thành tích lao động của chúng tôi. Ông nói: “Các đồng chí làm 15 hay 20 ngày không quan trọng. Chủ tịch đang rất cần các đồng chí. Một giờ làm việc cho Chủ tịch đáng giá hơn ngày lao động ở đây. Với tư cách là tổng công trình sư, tôi ra lệnh cho các đồng chí phải rời khỏi công trường”. Ông cười. Quá vui mừng trước mệnh lệnh của ông, chúng tôi cười phá lên. Chúng tôi được lệnh trở về Trung Nam Hải.
Tuy vậy, cuộc họp vẫn chưa được giải tán, chúng tôi phải chọn ra một người lao động tiên tiến nhất trong nhóm. Tôi đã được để cử. Một người nào đó phát biểu: “Bác sĩ Lý rất xứng đáng. Đồng chí ấy là trí thức, nhưng vẫn không nề hà, luôn theo sát chúng ta và làm việc đến cùng. Đối với đồng chí ấy, điều đó không phải là đơn giản”. Đa số tán thành ý kiến.
Nhưng tôi không thể nhận danh hiệu này. Trao tặng danh hiệu lao động tiên tiến cho tôi quả là vô lý. Tôi đến đây không phải do tự nguyện mà Mao đã ra lệnh. Ngoài ra, phần thưởng này đối với tôi không có giá trị gì lớn lao lắm. Tôi là bác sĩ, kiến thức về y học mới là niềm tự hào. Tôi cũng biết rõ Nhóm Một, nếu được tuyên dương lao động tiên tiến, những thành viên khác trong Nhóm Một, như Diệp Tử Long chẳng hạn sẽ có lý do cho những mưu mô xảo quyệt khác đẩy tôi đi lao động lần nữa.
Từ chối phần thưởng này, tôi giải thích: “Là một trí thức, tôi phải hoàn thiện mình bằng lao động chân tay. Tôi không xứng đáng nhận danh hiệu lao động tiên tiến, nếu không, những ngày lao động này không còn ý nghĩa”. Một vài thành viên của nhóm động viên nhưng tôi cương quyết từ chối.
Diệp Tử Long đứng ra giàn xếp. Bản thân Diệp không muốn tôi danh hiệu lao động tiên tiến, nói:
– Bác sĩ Lý đã nhiều lần từ chối, chúng ta nên tôn trọng ý kiến của đồng chí ấy.
Tuy nhiên, nhóm không nhất trí chọn người khác lao động tiên tiến. Lại một lần nữa, tướng Dương Thành Vũ tìm ra một giải pháp. Ông nói: “Tất cả các đồng chí đều làm việc cho Chủ tịch. Tất cả các đồng chí đã làm gương cho những người khác. Vậy tất cả các đồng chí đều xứng đáng lao động tiên tiến. Chúng tôi sẽ gọi nhóm của các đồng chí là nhóm lao động tiên tiến”.
Tất cả đều hài lòng với đề nghị này. Chúng tôi có thể trở về Bắc Kinh trong niềm vinh quang.
Khi chiếc xe tải cho chúng tôi xuống Trung Nam Hải tôi không dám về nhà ngay. Từ hơn hai tuần nay chưa tắm, không muốn cho gia đình nhìn thấy tôi trong tình trạng này. Thay vì về nhà, tôi tới Hạnh Hoa Viên, vào một trong những nhà tắm sang trọng kiểu cổ vẫn còn sót lại. Với 5 nhân dân tệ, giá trị tương đương gần 5 ký thịt lợn, tôi được dẫn vào một phòng riêng có chỗ nằm thoải mái và bồn tắm. Một nhân viên xà nước ấm vào bồn. Tôi ngâm mình trong bồn, lần đầu tiên trong hai tuần, tôi mới được thư giãn như thế.
Sau khi tắm xong, tôi lên giường nằm, người nhân viên tẩm quất, xoa bóp những bắp thịt đau nhức. Trong khi đó, quần áo của tôi được giặt sạch sẽ, hong khô, là cẩn thận. Sau hai tiếng nghỉ ngơi ở nhà tắm thư giãn, tôi đã hồi lại, có thể ra mắt gia đình. Tôi đến Lưu Linh Chương, chỗ mẹ tôi.
Diện mạo của tôi làm cho mẹ và vợ tôi bị sốc. Họ kêu lên. “Gày đi nhiều quá!” Lý Liên có thể hiểu được những đau đớn và cực nhọc của chồng. Cô đã lao động một ngày ở đập, bị cháy nắng và kiệt sức. Hai người đều muốn tôi ở nhà nghỉ ngơi cho lại sức.
Nhưng tôi không thể, Mao đang chờ, tôi muốn sẽ là người đầu tiên kể cho ông nghe về chuyến đi kém may mắn của mình. Tôi ăn ngấu nghiến những chiếc bánh bao nhân thịt thơm ngon của mẹ, rồi tất tưởi lên đường gặp Chủ tịch.
Ông đang ngồi với Giang Thanh trên bờ bể bơi. Ông trêu tôi:
– Trông kìa, anh chàng trói gà không chặt đã đến! Đồng chí bị ngã vào xe goòng phải không? Cũng may đồng chí nhanh chân nhảy ra được, nếu không đã bị đưa xuống đập xay cùng đá vụn rồi.
Tôi đã đến quá muộn. Một người nào đó đã báo cáo cho ông về công việc của tôi trong hai tuần qua. Y tá của Giang Thanh đã cho biết, bà rất khoái chí nghe kể về chuyện của tôi. Bà hỏi:
– Lúc ấy đồng chí thấy thế nào? Trong xe goòng có thích không? Vì đâu các đồng chí được ăn ngon, được ở những nơi tráng lệ, được tiếp đãi tử tế? Bởi vì các đồng chí là nhân viên của Chủ tịch. Bây giờ các đồng chí mới phải chịu khổ một chút.
Mao bảo:
– Xem ra đồng chí không kham nổi công việc này.
Tôi thú nhận:
– Tôi đã kiệt sức. Công việc thật sự không mấy dễ chịu.
– Trí thức các đồng chí chỉ được cái nói và viết lách là giỏi. Các đồng chí không hình dung được lao động nặng nhọc. Vì thế tôi nói trí thức đôi khi cũng nên tham gia lao động chân tay, không phải là những lời trống rỗng. Bởi vì lao động chân tay giúp cho chúng ta có khả năng gần gũi quần chúng, biết đánh giá sức mạnh tập thể của toàn dân. Đồng chí nên tham gia lao động thường xuyên hơn. Điều đó sẽ tốt cho đồng chí.
Những lời của Mao làm tôi phát hoảng. Chẳng có gì tốt đẹp đối với tôi, khi tôi phải trở lại công trường. Câu chuyện về cuộc vận lộn hai tuần với lao động nặng nhọc đã lan đi khắp Trung Nam Hải. Cú ngã vào xe goòng đáng xấu hổ vẫn được người ta lấy ra làm chuyện bông đùa kéo dài mãi.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Mùa hè năm 1958, toàn thể nhân dân Trung Quốc được kêu gọi thực hiện các công trình thuỷ lợi, huy động một lực lượng lao động đông đảo để tham gia. Mao đích thân phát động phong trào này. Dự án không chỉ có mục đích đơn thuần về kinh tế, còn sử dụng các hồ dự trữ nước nhằm cải thiện hệ thống thuỷ lợi của Trung Quốc và tăng sản lượng nông nghiệp. Bằng cách này, Mao còn muốn nhấn mạnh đến lao động chân tay, đề cao giá trị của người lao động. Những dự án xây dựng cũng nhằm để tỏ mối ác cảm lâu đời của Mao đối với sự ngạo mạn của lớp trí thức ăn bám và nhằm ca ngợi giai cấp công nông chịu khó, hay lam, hay làm.
Theo cơ quan tuyên truyền của đảng, ở Bắc Kinh đã có hàng trăm nghìn người “xung phong tình nguyện” – theo báo cáo của cơ quan tuyên truyền của đảng – đi xây dựng một hồ chứa nước mới gần khu mộ nổi tiếng đời nhà Minh. Những tấm bia mộ đổ nát của 13 trong số 16 vị vua nhà Minh nằm trên một vùng đồi thấp nhỏ, cách thành phố chừng 50 km. Bộ đội, đảng viên, công nhân viên chức từ các trường học, xí nghiệp, doanh nghiệp, thận chí cả nhân viên sứ quán cũng thu xếp thời gian tham gia lao động. Hầu như tất cả cư dân Bắc Kinh đều được kêu gọi, buộc phải đóng góp tham gia dự án.
Sau đó đến cả các nhà lãnh đạo đảng của Trung Quốc cũng tham gia. Họ xắn đất trong khi máy ảnh nháy liên tục, ghi lại sự kiện này cho hậu thế.
Vào chiều ngày 5-5-1958, sáu chiếc xe buýt chở đầy cán bộ cao cấp của đảng và chính phủ ở Trung Nam Hải lên đường. Mao ngồi ngay trước mặt tôi, ở hàng ghế gần cuối, trong chiếc xe đi đầu, tán chuyện. Ông nói:
– Thông thường, người lao động chân tay phục vụ chúng ta. Giờ đến lượt chính chúng ta bắt tay vào công việc lao động chân tay. Mọi người đều khẳng định lao động chân tay là tốt, nhưng đến khi thực sự phải làm, họ sẽ mau chóng thay đổi ý kiến. Những người đến đây xây dựng đập với nhiều lý do khác nhau. Một số người thực sự muốn lao động, một số khác cho đây là nghĩa vụ, còn một số nữa coi lao động chân tay cũng thật cao quý. Nhưng lúc nào cũng vậy, lao động chân tay bao giờ cũng tốt hơn ăn không ngồi rổi chẳng làm gì cả.
Người đông như kiến trên công trường. Đa số bộ đội, công nhân chuyên ngành xây dựng được điều động đến, nông dân từ các vùng ngoại ô và cả những người “tình nguyện” từ các thành phố đổ tới công trường. Việc Mao có mặt làm tất cả mọi người vô cùng sửng sốt. Khi ông từ trên xe buýt bước xuống, cả đám người khổng lồ đồng loạt vỗ tay, rầm rộ hô những khẩu hiệu chào mừng trong khi tướng Dương Thành Vũ tư lệnh quân khu Bắc Kinh đồng thời là tổng chỉ huy công trình, nhiệt liệt đón chào Mao.
Cả một đại đội lính được huy động đề mở một con đường xuyên qua đám đông cuồng nhiệt đến một chiếc lều làm đại bản doanh của tướng Dương. Từ chỗ chiếc lều, chúng tôi có thể nhìn bao quát toàn bộ khu vực, tướng Dương báo cáo Mao tình hình công việc.
Con đập đang xây ở tít phía xa, phía trước mặt chúng tôi, trong một cái hố khổng lồ, hàng ngàn người dùng cuốc xẻng đào khoét những tảng đá lớn. Họ xúc đá và cát cho vào sọt, rồi gánh bằng đòn gánh tới chất lên những chiếc xe goòng chạy trên đoạn đường ray đến một xưởng nghiền đá thành đá răm. Sau đó đá vụn lại được đổ vào sọt và được gánh thẳng đến con đập. Công việc thật nặng nhọc.
Mao cùng với tướng Dương, các cán bộ cao cấp của đảng và tôi trong đoàn hộ tống đi đến chân đập. Ông xắn tay áo, nhặt một cái xẻng, bắt đầu xúc đá vụn. Chúng tôi làm theo Mao. Mao mặc áo sơ mi trắng, chiếc quần màu xám đi đôi giày vải đen. Trời nóng như thiêu như đốt. Mặt Mao đỏ lên mau chóng và chẳng bao lâu, cả người ông đã bao phủ một lớp bụi màu vàng. Ông bắt đầu vã mồ hôi, những dòng mồ hôi ngang dọc chảy trên mặt ông. Gần đến giữa trưa, tức là sau hơn nửa giờ làm việc, tướng Dương Thành Vũ ép Chủ tịch phải nghỉ tay một chút. Mao nói:
– Đã lâu tôi chưa làm việc như thế này. Mới có làm một lúc đã toát mồ hôi!
Mao chui vào lều của tướng Dương nghỉ uống trà.
Trong khi ông ngồi nghỉ, Mao hỏi tôi:
– Tại sao những người ở Nhóm Một các đồng chí không đến đây lao động một tháng nhỉ? Các đồng chí phải biết lao động nặng nhọc như thế nào chứ. Nhiều người ở Bắc Kinh đã đến đây. Những nhân viên Nhóm Một không được phép vắng mặt.
Chiến dịch làm trong sạch đảng của Mao tiếp diễn, không chỉ liên quan đến những “người đã phạm sai lầm”, còn dính dáng đến cả những đảng viên thường như tôi. Chúng tôi phạm sai lầm vì đã “xa rời quần chúng” như cách nói hồi đó. Nhân viên Nhóm Một sống sung sướng, quá sướng theo cách đánh giá của Mao. Chúng tôi ăn ngon, mặc đẹp, luôn luôn được người khác phục vụ. Vậy chúng tôi phải làm quen với cuộc sống thiếu thốn, khó khăn của giai cấp công nông. Qua đó, chúng tôi sẽ rút ra được nhiều điều bổ ích. Mao tin lao động nặng nhọc sẽ có tác dụng tích cực, muốn tất cả chúng tôi, nhất là tôi, thành viên của tầng lớp trung lưu, hưởng đặc quyền đặc lợi, cuộc sống lúc nào cũng dễ dàng, cần phải trải qua một chút cay cực. Bây giờ tôi được nếm mùi cải tạo lao động.
Đề nghị của Mao không dành cho tôi một sự lựa chọn nào khác. Tôi chẳng hứng gì với cái việc vất vả này, nhưng phải chấp nhận. Tôi đáp:
– Dạ được ạ, thưa Chủ tịch. Nhưng chúng ta phải trở về thành phố để lấy đồ đạc.
Mao đồng ý.
Ngày hôm sau, ảnh Mao được đăng trên trang nhất của tất cả các báo trong nước. Với chiếc xẻng trong tay, xung quanh là các cán bộ đảng tươi cười và thường dân, Chủ tịch tuyên bố, ông rất tôn trọng lao động chân tay, hoà mình với quần chúng, mặc dù với cương vị lãnh đạo, ông sẵn sàng lao động như bất kỳ một người nào. Bức ảnh này được in đi in lại nhiều trên các báo và tạp chí, dĩ nhiên cả trong sách báo tuyên truyền về Mao. Đó là lần duy nhất Mao làm việc nặng trong suốt 22 năm tôi làm việc cho ông. Ông cầm xẻng chưa đầy một tiếng đồng hồ. Chưa bao giờ trong lịch sử, chỉ một hành động đơn giản như vậy lại làm cho dân chúng khoái lao động chân tay đến thế.
Buổi tối, sau khi việc làm qua quít, tôi đi gặp Mao ở bể bơi để lập kế hoạch cho việc tham gia của Nhóm Một vào dự án xây đập. Mao mới bơi xong, đang uống trà với Giang Thanh ở trên bờ.
– Đập chắn nước cạnh khu mộ đời nhà Minh là một công trình vĩ đại. Hàng trăm nghìn người đã tự nguyện cống hiến thời gian và sức lao động. Thậm chí cả những người nước ngoài cũng tham gia. Chúng ta không được phép làm cho họ thất vọng. Từ ngày mai nhân viên Nhóm Một – đồng chí, các thư ký và các vệ sĩ sẽ đến đó làm việc từ 10 đến 20 ngày. Nhiệm vụ rất đơn giản, đồng chí dùng xẻng xúc đất đá, vận chuyển đá, bất kể trời mưa hay nắng, làm mệt thì nghỉ. Khi nào thực sự không chịu đựng được nữa, hãy báo cho tôi biết, tôi sẽ đón đồng chí về.
Mao không trở lại công trường, vì ông rất bận. Một thư ký và một vệ sĩ ở lại với ông. Tất cả những nhân viên khác của Nhóm Một đều phải đi. Ông nói:
– Các đồng chí hãy làm thay tôi, hãy đại diện cho tôi.
Ông quay sang Giang Thanh:
– Sức khỏe bà không được tốt. Bà không cần phải đi. Nhưng bà đừng cản trở người khác. Bà hãy để cho các nhân viên của bà đi.
Vợ Mao trả lời:
– Tôi chỉ cần hai cô y tá, những người khác có thể đi.
Giảm bớt nhân sự đối với Giang Thanh là một sự hy sinh lớn lao.
Ngày hôm sau chúng tôi khởi hành. Diệp Tử Long và Vương Kính Tiên, mới thay Uông Đông Hưng điều hành Ban an ninh, dẫn đầu. Các cán bộ từ tất cả các cơ quan trung ương của đảng, chính phủ và Uỷ ban nhân dân thành phố Bắc Kinh có nghĩa vụ phải lao động 20 ngày ở công trường. Nhóm Một đến muộn hơn một chút, phần lớn những cơ quan khác đã lao động trước đó 5 ngày. Ngay ở đây, Nhóm Một cũng là nhóm được ưu đãi. Những người khác phải ngủ trong những túp lều cót đan ngoài trời. Ngược lại, tướng Dương Thành Vũ thu xếp cho chúng tôi ở trong phòng học của một trường trung học ở khu Phương Sơn gần đó. Căn phòng trống không, rộng chừng 12 mét vuông. Chúng tôi ngủ dưới đất, dùng chăn làm nệm – chín người chúng tôi nằm ngủ kiểu xếp cả hộp. Nếu một người muốn giở mình, tất cả những người khác đều phải thay đổi tư thế theo. Với tiếng ồn ào triền miên, lại nóng nực, nằm thẳng đơ không được cựa quậy, nên chẳng ai ngủ được. Tuy vậy chúng tôi vẫn biết ơn về điều kiện cư trú hạng nhất ưu đãi này.
Tướng Dương cũng ưu tiên cho chúng tôi làm việc theo ca thoải mái nhất. Đó là ca đêm, từ nửa đêm đến 8 giờ sang. Lại một dấu hiệu nữa về việc người ta ưu đãi chúng tôi. Lúc đó vào cuối tháng 5 ban ngày trời nóng kinh khủng. Ca đêm giúp chúng tôi tránh được cái nóng dữ dội nhất. Chúng tôi ăn điểm tâm lúc tan ca với một chiếc bánh bột ngô được gọi là “nắm đấm”, cháo, củ cải muối. Bữa trưa khá hơn một chút. Có rau luộc, cơm và bát canh, nhưng nhạt thếch, ăn chẳng thấy ngon, nuốt không trôi. Ăn xong đi ngủ đến khoảng 21 giờ dậy, sửa soạn đi làm.
Công trường cách trường học một tiếng đi đường. Chúng tôi khởi hành lúc gần 23 giờ. Mao đã có lý khi ông nói công việc rất đơn giản. Tôi đào đất, đá từ lòng sông và xúc từng xẻng đất đổ vào chiếc sọt lớn. Khi hai sọt đã đầy, tôi treo chúng lên đòn gánh, đưa lên vai, gánh tới những toa goòng chuyển đá vụn đến nơi xây đập. Tôi vẫn còn trẻ, mới 38 tuổi và rất khỏe mạnh. Thời thanh niên tôi tập thể thao, chơi bóng rổ. Nhưng đây là công việc khổ cực nhất, nặng nhọc nhất trong đời tôi. Cơ bắp mà tôi phải sử dụng ở đây hoàn toàn khác với khi tập thể thao.
Ban đêm mát mẻ, vậy mà sau một, hai tiếng lao động mồ hôi vã ra như tắm, người tôi chỗ nào cũng đau ê ẩm. Đối với nhiều người ở Nhóm Một, xuất thân từ nông thôn, công việc cầm xẻng đối với họ hoàn toàn bình thường như tôi cầm dao kéo vậy. Họ gánh liền 6 sọt chẳng có vẻ mệt nhọc gì, bước chân của họ uyển chuyển như nhảy múa.
Tôi cố gắng làm bằng các đồng chí xuất thân từ nông thôn, nhưng không được. Một đêm kiệt sức đến nỗi khi trút đá từ những chiếc sọt của mình xuống xe goòng, tôi đã mất thăng bằng, ngã lăn vào đó, làm cho những người quanh được một trận cười khoái chí. Họ đùa: “Việc này hơi khác với việc dùng ống nghe và dao mổ phải không?” Lần đầu tiên trong đời, một cảm giác thua kém thoáng hiện lên trong tôi. Nhưng tôi tự an ủi, những công nhân và nông dân kia trông cũng rất nực cười khi cầm ống nghe hoặc dao mổ trên tay. Làm việc ở đây tôi có thể hình dung được cuộc sống trong trại cải tạo lao động của những người hữu khuynh nặng nhọc và khắc nghiệt đến mức nào. Bao nhiêu người trong số họ sống sót?
Có người đề nghị chuyển tôi làm y tế công trường, điều trị cho công nhân bị tai nạn. Nhưng công việc lao động chỉ tạm thời, Mao muốn tôi chịu đựng gian khổ một thời gian, tôi đã đồng ý. Nếu bây giờ chuyển sang làm bác sĩ công trường, ông sẽ phê phán tôi lẩn tránh trách nhiệm được giao.
Người khác tìm cách giúp tôi, họ giải thích cách phân chia lực như thế nào, gánh như thế nào để không cảm thấy nặng. Nhưng vô ích. Một đêm mưa rất to, Vương Kính Tiên nhìn thấy tôi ướt như chuột lột, run lên vì lạnh. Ông ta đề nghị tôi nghỉ và quay về trường học. Nhưng tất cả mọi người vẫn đang làm, tôi không được phép bỏ cuộc. Tôi vẫn cố sức, chẳng bao lâu, mặc dù trời mưa và lạnh, mồ hôi tôi vẫn túa ra.
Đến ngày thứ 15 tôi gần như quỵ. Không ăn không ngù được, tất cả năng lượng dự trữ hầu như đã cạn kiệt. Tất cả cơ đều đau, mỏi dừ, mỗi bước đi tôi đều thấy đau đớn. Thời gian 20 ngày lao động đối với các cán bộ đảng và chính phủ đã kết thúc, riêng Nhóm Một đến muộn 5 ngày và phải quyết định có tiếp tục ở lại hay không. Chẳng một ai muốn làm tiếp cả. Nhưng cũng chẳng ai muốn bị chụp mũ “phần tử chậm tiến”, nếu người đó đề nghị không làm nữa. Chúng tôi quyết định làm tiếp 5 ngày.
Tướng Dương Thành Vũ đã cứu, ông chúc mừng thành tích lao động của chúng tôi. Ông nói: “Các đồng chí làm 15 hay 20 ngày không quan trọng. Chủ tịch đang rất cần các đồng chí. Một giờ làm việc cho Chủ tịch đáng giá hơn ngày lao động ở đây. Với tư cách là tổng công trình sư, tôi ra lệnh cho các đồng chí phải rời khỏi công trường”. Ông cười. Quá vui mừng trước mệnh lệnh của ông, chúng tôi cười phá lên. Chúng tôi được lệnh trở về Trung Nam Hải.
Tuy vậy, cuộc họp vẫn chưa được giải tán, chúng tôi phải chọn ra một người lao động tiên tiến nhất trong nhóm. Tôi đã được để cử. Một người nào đó phát biểu: “Bác sĩ Lý rất xứng đáng. Đồng chí ấy là trí thức, nhưng vẫn không nề hà, luôn theo sát chúng ta và làm việc đến cùng. Đối với đồng chí ấy, điều đó không phải là đơn giản”. Đa số tán thành ý kiến.
Nhưng tôi không thể nhận danh hiệu này. Trao tặng danh hiệu lao động tiên tiến cho tôi quả là vô lý. Tôi đến đây không phải do tự nguyện mà Mao đã ra lệnh. Ngoài ra, phần thưởng này đối với tôi không có giá trị gì lớn lao lắm. Tôi là bác sĩ, kiến thức về y học mới là niềm tự hào. Tôi cũng biết rõ Nhóm Một, nếu được tuyên dương lao động tiên tiến, những thành viên khác trong Nhóm Một, như Diệp Tử Long chẳng hạn sẽ có lý do cho những mưu mô xảo quyệt khác đẩy tôi đi lao động lần nữa.
Từ chối phần thưởng này, tôi giải thích: “Là một trí thức, tôi phải hoàn thiện mình bằng lao động chân tay. Tôi không xứng đáng nhận danh hiệu lao động tiên tiến, nếu không, những ngày lao động này không còn ý nghĩa”. Một vài thành viên của nhóm động viên nhưng tôi cương quyết từ chối.
Diệp Tử Long đứng ra giàn xếp. Bản thân Diệp không muốn tôi danh hiệu lao động tiên tiến, nói:
– Bác sĩ Lý đã nhiều lần từ chối, chúng ta nên tôn trọng ý kiến của đồng chí ấy.
Tuy nhiên, nhóm không nhất trí chọn người khác lao động tiên tiến. Lại một lần nữa, tướng Dương Thành Vũ tìm ra một giải pháp. Ông nói: “Tất cả các đồng chí đều làm việc cho Chủ tịch. Tất cả các đồng chí đã làm gương cho những người khác. Vậy tất cả các đồng chí đều xứng đáng lao động tiên tiến. Chúng tôi sẽ gọi nhóm của các đồng chí là nhóm lao động tiên tiến”.
Tất cả đều hài lòng với đề nghị này. Chúng tôi có thể trở về Bắc Kinh trong niềm vinh quang.
Khi chiếc xe tải cho chúng tôi xuống Trung Nam Hải tôi không dám về nhà ngay. Từ hơn hai tuần nay chưa tắm, không muốn cho gia đình nhìn thấy tôi trong tình trạng này. Thay vì về nhà, tôi tới Hạnh Hoa Viên, vào một trong những nhà tắm sang trọng kiểu cổ vẫn còn sót lại. Với 5 nhân dân tệ, giá trị tương đương gần 5 ký thịt lợn, tôi được dẫn vào một phòng riêng có chỗ nằm thoải mái và bồn tắm. Một nhân viên xà nước ấm vào bồn. Tôi ngâm mình trong bồn, lần đầu tiên trong hai tuần, tôi mới được thư giãn như thế.
Sau khi tắm xong, tôi lên giường nằm, người nhân viên tẩm quất, xoa bóp những bắp thịt đau nhức. Trong khi đó, quần áo của tôi được giặt sạch sẽ, hong khô, là cẩn thận. Sau hai tiếng nghỉ ngơi ở nhà tắm thư giãn, tôi đã hồi lại, có thể ra mắt gia đình. Tôi đến Lưu Linh Chương, chỗ mẹ tôi.
Diện mạo của tôi làm cho mẹ và vợ tôi bị sốc. Họ kêu lên. “Gày đi nhiều quá!” Lý Liên có thể hiểu được những đau đớn và cực nhọc của chồng. Cô đã lao động một ngày ở đập, bị cháy nắng và kiệt sức. Hai người đều muốn tôi ở nhà nghỉ ngơi cho lại sức.
Nhưng tôi không thể, Mao đang chờ, tôi muốn sẽ là người đầu tiên kể cho ông nghe về chuyến đi kém may mắn của mình. Tôi ăn ngấu nghiến những chiếc bánh bao nhân thịt thơm ngon của mẹ, rồi tất tưởi lên đường gặp Chủ tịch.
Ông đang ngồi với Giang Thanh trên bờ bể bơi. Ông trêu tôi:
– Trông kìa, anh chàng trói gà không chặt đã đến! Đồng chí bị ngã vào xe goòng phải không? Cũng may đồng chí nhanh chân nhảy ra được, nếu không đã bị đưa xuống đập xay cùng đá vụn rồi.
Tôi đã đến quá muộn. Một người nào đó đã báo cáo cho ông về công việc của tôi trong hai tuần qua. Y tá của Giang Thanh đã cho biết, bà rất khoái chí nghe kể về chuyện của tôi. Bà hỏi:
– Lúc ấy đồng chí thấy thế nào? Trong xe goòng có thích không? Vì đâu các đồng chí được ăn ngon, được ở những nơi tráng lệ, được tiếp đãi tử tế? Bởi vì các đồng chí là nhân viên của Chủ tịch. Bây giờ các đồng chí mới phải chịu khổ một chút.
Mao bảo:
– Xem ra đồng chí không kham nổi công việc này.
Tôi thú nhận:
– Tôi đã kiệt sức. Công việc thật sự không mấy dễ chịu.
– Trí thức các đồng chí chỉ được cái nói và viết lách là giỏi. Các đồng chí không hình dung được lao động nặng nhọc. Vì thế tôi nói trí thức đôi khi cũng nên tham gia lao động chân tay, không phải là những lời trống rỗng. Bởi vì lao động chân tay giúp cho chúng ta có khả năng gần gũi quần chúng, biết đánh giá sức mạnh tập thể của toàn dân. Đồng chí nên tham gia lao động thường xuyên hơn. Điều đó sẽ tốt cho đồng chí.
Những lời của Mao làm tôi phát hoảng. Chẳng có gì tốt đẹp đối với tôi, khi tôi phải trở lại công trường. Câu chuyện về cuộc vận lộn hai tuần với lao động nặng nhọc đã lan đi khắp Trung Nam Hải. Cú ngã vào xe goòng đáng xấu hổ vẫn được người ta lấy ra làm chuyện bông đùa kéo dài mãi.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 29
Posted: 10/08/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Sau khi từ Liên Xô trở về Giang Thanh mắc căn bệnh tự kỷ ám thị, tin chắc bệnh tình rất nặng. Bà nghĩ, bệnh ung thư cổ tử cung tái phát, có khối u ở gan, ở dạ dày và trong não, rằng cơ thể bà như đang bị bệnh tật tàn phá. Ngoài ra, còn cảm thấy trong tai như có tiếng chuông, cảm giác toàn thân có dấu hiệu kiến bò. Bà không chịu được cả ánh sáng lẫn tiếng động, gió lùa cũng kêu ca, ăn không ngon, ngủ không yên. Trước khi uống thuốc chữa bệnh, bà dùng thuốc ngủ, lần khác bà uống thuốc chữa bệnh trước, rồi mới dùng thuốc ngủ. Sau lại cho rằng các loại thuốc công phá nhau, thuốc uống sau phản ứng với thuốc uống trước. Bà nghiền thuốc ngủ, nghiện thuốc Tây và nghiện cả các chứng bệnh.
Việc điều trị bằng trị xạ đã làm cho bà hoàn toàn khỏi bệnh ung thư.
Khi Giang Thanh sống cùng với Mao, tôi lại phải chịu trách nhiệm về sức khỏe của bà, buộc phải khám, xem xét những lời phàn nàn về bệnh tật.
Qua nhiều lần xét nghiệm máu sau khi bà từ Liên Xô trở về, tôi phát hiện ra số lượng hồng bạch cầu hơi bất thường, tất nhiên không có gì đáng lo ngại, sau khi trị xạ bao giờ số lượng hồng bạch cầu cũng thay đổi. Thế nhưng Giang Thanh lo lắng đến phát cuồng, tôi đành trấn an bằng cách mời một số bác sĩ nổi tiếng nhất ở trong nước đến khám. Ngay sau khi tôi đi lao động, Ban Bảo vệ sức khỏe trung ương, trực thuộc Bộ y tế, chuyên chăm sóc sức khỏe cho những chính trị gia cao cấp nhất, đã phái một số chuyên gia tiến hành một cuộc khám bệnh kỹ lưỡng đối với tất cả các căn bệnh khả nghi của Giang Thanh. Công việc này kéo dài suốt hai tuần liền, vì trong thời gian đó Giang Thanh đã tỏ ra ngang ngược, tự ý thay đổi lịch khám, trịch thượng đối với các bác sĩ, sai khiến họ như những kẻ tôi tớ. Sau khi việc chẩn bệnh kết thúc, tôi họp các bác sĩ, tất cả đều đi đến một kết luận: Giang Thanh không có bệnh, hoàn toàn khỏe mạnh. Bệnh ung thư đã được chữa khỏi hoàn toàn, số lượng hồng bạch cầu giảm không đáng kể. Thực tế, từ mùa Xuân 1957 cho đến 20 năm sau khi bị bắt giam bà vẫn hoàn toàn khỏe mạnh.
Tất cả chúng tôi nhất trí kết luận nguyên nhân gây bệnh do tâm sinh lý của bà. Tôi hiểu, vấn đề này đã phát sinh như thế nào. Giang Thanh quá lo cho sức khỏe, ít hiểu biết về sự hoạt động của cơ thể con người. Thêm vào đó, bản tính đa nghi, hay lo, chẳng tin ai kể cả các bác sĩ riêng. Tôi không làm cách nào để bà xoá bỏ nỗi ám ảnh bệnh hoạn đó được. Cay độc, ích kỷ, tự bà làm khổ bản thân. Bà xua đuổi tất cả những người đáng lẽ có thể là bạn và người ta thấy mối quan hệ của bà với Mao không phải mối quan hệ vợ chồng thông thường. Cuộc sống đơn độc, lẻ loi càng làm bà thêm sợ hãi. Chúng tôi chỉ có thể gọi căn bệnh tâm sinh lý của bà, chứng suy nhược thần kinh, không thể gọi cách nào khác. Bởi vì chúng tôi là bác sĩ, chuyên chữa trị người bệnh thật nên không thể giải quyết nổi vấn đề tâm lý của Giang Thanh.
Chúng tôi viết báo cáo, gửi cho cả Mao lẫn Giang Thanh. Chúng tôi trình bày, đã kiểm tra toàn bộ tình trạng sức khỏe của đồng chí Giang Thanh, việc điều trị bằng cách trị xạ đã thành công và sức khỏe của đồng chí Giang Thanh hồi phục. Chúng tôi khuyên nên tăng thêm lượng vitamin để nâng cao tính đề kháng, khuyến khích bà hãy tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ và thể thao. Bên cạnh đó, khuyên bà phải quan hệ xã hội nhiều hơn nữa, tham gia lao động cho khuây khoả. Lời khuyên sau cùng hoàn toàn nhã nhặn, vì Giang Thanh chẳng có gì để mà làm. Đó cũng là một nguyên nhân gây nên căn bệnh tâm lý của bà.
Giang Thanh bác bỏ bản báo cáo, vẫn khẳng định đang mắc bệnh nặng. Theo bà, các bác sĩ hoặc là những kẻ ngu dốt, hoặc là những tên lừa đảo. Bà ra lệnh cho chúng tôi phải viết lại bản báo cáo.
Chúng tôi lại họp lần nữa, tuy nhiên lần này không phải để bàn về sức khỏe. Chúng tôi phải viết một bản báo cáo, một mặt có thể cho Giang Thanh biết được những nhận định của chúng tôi, mặt khác bà có thể chấp nhận được. Cuối cùng, chúng tôi quyết định một phương án điều trị dần từng bước căn bệnh suy nhược thần kinh một cách thoải mái hơn. Những dấu hiệu khiến bà khó chịu là kết quả của việc gia tăng một cách tự nhiên căn bệnh suy nhược thần kinh.
Nhưng Giang Thanh cũng chẳng hài lòng bản báo cáo này. Bà yêu cầu: “Các đồng chí có thể đảm bảo trong tương lại tôi cũng không mắc bệnh chứ”. Thật phi lý, chẳng ai dám bảo đảm điều đó. Bà còn cho báo cáo này quá trừu tượng. Yêu cầu chúng tôi phải lập tức biến những đề nghị bà tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao thành một thời gian biểu với những quy định cụ thể.
Chúng tôi khuyên bà đi xem phim, đi nghe nhạc, trau dồi nghệ thuật nhiếp ảnh, tham gia các buổi khiêu vũ, hoà nhạc. Bà cũng nên tập Thái cực quyền, một môn võ cổ truyền. Thái cực quyền đòi hỏi sự tập trung cao, điều hoà nhịp thở, hoạt động cơ thể. Chúng tôi nghĩ môn thể thao này sẽ giúp Giang Thanh trầm tĩnh hơn.
Mao có vẻ hoài nghi, nhưng cũng đồng ý để bà thử tập Thái cực quyền xem sao. Ban Bảo vệ sức khỏe đã tìm được một sư phụ là ông Cố, người được Ban thể dục thể thao Thượng Hải giới thiệu. Ông bắt đầu bằng những buổi luyện tập hàng ngày các kỹ thuật cơ bản. Mao và vợ đến nghỉ vài tuần tại một nhà nghỉ ngoại ô phía tây thành phố Bắc Kinh. Khu nhà này dành cho các các bộ cao cấp của đảng, “Lục Tân Lầu”. Ở đó tôi cũng giúp Cố trong các buổi tập hàng ngày.
Giang Thanh thực sự tỏ ra cố gắng học Thái cực quyền nhưng là học trò tồi. Cố, một người rất thận trọng, kín đáo. Tuy nhiên, ông coi trọng môn võ của ông, yêu cầu phải tuân thủ nghiêm ngặt kể cả vợ Chủ tịch. Giang Thanh tỏ ra tức giận mỗi khi bị ông sửa tư thế đứng hoặc cách hít thở. Tôi đã phải khuyên can ông nên mềm mỏng hơn, bỏ qua sự chậm tiến của Giang Thanh.
Mùa hè đã đến. Tháng 7, tôi cùng với Mao và Giang Thanh trở về Bắc Đới Hà. Sau hơn một tháng hướng dẫn, Cố đi theo chúng tôi để tiếp tục chương trình luyện tập.
Ở Bắc Đới Hà, căn bệnh tâm lý của Giang Thanh lại đột ngột gia tăng. Bà luôn luôn than vãn. Vì sợ ánh sáng mặt trời, bà ra lệnh cho các cô y tá phải kéo rèm lại. Sau đó bà lại muốn có không khí trong lành nên ra lệnh mở cửa sổ, nhưng lại ghét khói bụi bay vào. Đóng cửa sổ lại kêu ngột ngạt. Chỉ một tiếng động nhẹ, thậm chí cả tiếng quần áo sột soạt của nhân viên phục vụ cũng làm bà khó chịu. Màu sắc cũng ca cẩm, kêu màu hồng, màu nâu làm mắt bà đau. Tất cả đồ đạc trong nhà, các bức tường cũng như đồ gỗ đều phải sơn một màu xanh lam.
Các y tá thường xuyên bị mắng mỏ, đến phàn nàn với tôi, vì chẳng có cách nào làm vừa ý vợ Chủ tịch. Trong vòng một tháng, bà đã đổi y tá tới năm hay sáu lần. Có lần khi đuổi một cô y tá bà đã nói: “Nếu ai không muốn phục vụ tôi, không sao, họ có thể rời khỏi đây. Trung Quốc có 600 triệu dân cơ mà, tha hồ lựa chọn”.
Tôi phụ trách nhân viên chăm sóc Giang Thanh, cũng chẳng biết phải làm gì nữa, đành trình bày với Thạch Chu Hàn và Hoàng Thụ Tắc, trưởng và phó Ban bảo vệ sức khỏe trung ương. Hy vọng, kinh nghiệm của họ có thể sẽ giúp được tôi. Nhưng đến họ cũng bất lực. Hoàng Thụ Trạch đưa tôi đến gặp Dương Thượng Côn. Sau khi nghe tôi trình bày, Dương Thượng Côn bảo: “Giang Thanh cũng không nể tôi, vậy biết làm thế nào?”
Cuối cùng Thạch Chu Hàn, Hoàng Thụ Tắc và tôi đã quyết định trình bày vấn đề này với thủ tướng Chu Ân Lai. Tất cả chúng tôi đều rất kính trọng Chu. Thạch Chu Hàn cũng đã từng gặp phải một vấn đề tương tự với Lâm Bưu, vị nguyên soái, phó chủ tịch Hội đồng Quân sự, như tôi với Giang Thanh bây giờ. Hồi đó Lâm Bưu chưa hoàn toàn nghỉ hưu. Lâm Bưu cũng mắc bệnh suy nhược thần kinh và không chịu làm theo chỉ dẫn điều trị của bác sĩ. Chu Ân Lai nói với ông, Mao chủ tịch và đảng hy vọng Lâm Bưu sẽ tuân theo chỉ dẫn của bác sĩ. Ít ra, Làm Bưu cũng đã nghe lời bác sĩ một thời gian. Chúng tôi nghĩ Chu cũng sẽ tìm ra được một giải pháp tương tự đối với Giang Thanh.
Nhưng chúng tôi đã lầm.
Chúng tôi xin yết kiến thủ tướng, trình bày lý do. Chu từ chối, lý do rất bận. Thay vào đó ông đề nghị chúng tôi đến gặp vợ ông, bà Đặng Dĩnh Siêu, cố vấn và là người tin cẩn nhất của ông. Bà cũng là một Uỷ viên trung ương đảng có uy tín. Từ xưa đến nay, tôi chưa một lần gặp bà, nhưng từ lâu vẫn ngưỡng mộ. Chúng tôi thường gọi bà là “Chị cả Đặng”, thật vinh hạnh nếu được làm quen với bà.
Nhiệm vụ của tôi, phải thuật lại vấn đề cho Đặng Dĩnh Siêu nghe. Tôi trình bày tường tận tình trạng của Giang Thanh, giải thích rằng những khó khăn mà Giang Thanh đang gặp chỉ là tâm lý, vì vậy không thể giải quyết được bằng y học. Theo đánh giá của tôi, vấn đề tâm lý của Giang Thanh là hậu quả của sự cách biệt với bên ngoài và chẳng tham gia vào một hoạt động xã hội nào. Có lẽ Giang Thanh sẽ thay đổi được cách sống và khắc phục được vấn đề tâm lý nếu được người hợp tính tình khuyên bảo. Chúng tôi đã bất lực nên phải nhờ đến Đặng Dĩnh Siêu.
Đặng Dĩnh Siêu chăm chú nghe tôi trình bày. Sau đó bà nói: “Chủ tịch đã cống hiến trọn đời cho cách mạng. Tám người trong gia đình Chủ tịch đã hy sinh cho cách mạng. Chúng ta phải hiểu rằng hiện giờ Mao chủ tịch chỉ còn có vợ là đồng chí Giang Thanh thôi. Người vợ cả của Chủ tịch, Dương Khai Huệ đã hy sinh cho cách mạng, người vợ thứ hai, Hạ Tứ Trân mắc bệnh tâm thần. Bây giờ cả Giang Thanh cũng lâm bệnh. Với tất cả khả năng của chúng ta, chúng ta phải giúp đỡ đồng chí Giang Thanh. Bởi vì như thế mới chứng tỏ được lòng biết ơn của chúng ta đối với Chủ tịch. Dù nhiệm vụ có khó khăn đến đâu cũng phải hết lòng chữa chạy cho Giang Thanh”.
Bà nói tiếp: “Đồng chí nói rằng ở đồng chí Giang Thanh có vấn đề về tâm lý. Điều đó làm chúng tôi rất buồn. Lẽ ra đồng chí không nên nói ra điều đó, như vậy không công bằng đối với Chủ tịch. Đảng giao cho đồng chí nhiệm vụ điều trị cho đồng chí Giang Thanh với những phương tiện y học tốt nhất, đồng chí không có quyền can thiệp vào những công việc khác”.
Tôi như bị dội một gáo nước lạnh. Đặng Dĩnh Siêu đã làm đảo ngược sự việc. Rõ ràng, bà đã trao đổi với Chu Ân Lai và được tán thành, nếu không bà không có thái độ như vậy. Bỗng nhiên, tôi hiểu, Chu Ân Lai là kẻ nô lệ của Mao, chỉ nhất nhất tuân theo từng lời của Chủ tịch. Cả ông lẫn vợ chẳng ai dám có một ý nghĩ độc lập nhỏ nào. Đặng Dĩnh Siêu, người phụ nữ khôn ngoan, tính toán. Tôi tìm đến bà với một vấn đề thực sự, nhưng bà lại muốn lợi dụng việc này để trở thành người tin cẩn của Mao bằng cách tố cáo chúng tôi đã không hoàn thành nhiệm vụ đối với vợ Chủ tịch, không cố gắng làm việc. Nếu Mao biết cuộc đối thoại này, vợ chồng bà sẽ được lòng Mao. Còn mối quan hệ của tôi với Mao chắc chắn sẽ xấu đi.
Tôi cảm thấy mình bị lừa dối. Bà ta thành công trong việc lợi dụng ý tốt của tôi để chống lại tôi, đẩy tôi vào thế thù. Bằng cách biến sự bất lực của tôi trong việc giải quyết vấn đề của Giang Thanh thành sự thử thách lòng trung thành đối với Mao. Đặng Dĩnh Siêu phản bội chúng tôi. Từ đó tôi không còn tin bà nữa. Tôi tức giận và rùng mình khi rời khỏi nhà bà.
Bây giờ tôi chẳng còn cách nào khác, đích thân nói thẳng với Mao nhưng không có mặt Giang Thanh. Cơ hội đã đến trong chuyến viếng thăm bí mật Trung Quốc của Khrushchev. Khrushchev đến Bắc Kinh vào ngày 31-7-1958. Mao đi tàu từ Bắc Đới Hà về Bắc Kinh để tiếp đón. Trên đường đi tôi đã nói chuyện với Mao về tình hình sức khỏe của Giang Thanh. Mao sửng sốt:
– Các đồng chí đã nộp báo cáo cho tôi rồi cơ mà? Lại xuất hiện vấn đề mới hay sao?
Tôi đáp:
– Tuy không có vấn đề mới nào cả, nhưng bản báo cáo không chứa đựng được tất cả những điều các bác sĩ muốn trình bày.
Mao dụi điếu thuốc và đề nghị tôi nói tường tận sự việc với ông.
Tôi bắt đầu:
– Các bác sĩ cho rằng đồng chí Giang Thanh không có vấn đề gì nghiêm trọng về sức khỏe. Vấn đề của đồng chí ấy là tâm lý.
Tôi đưa cho Mao đọc bản hội chẩn khám cho Giang Thanh. Tôi nói tiếp:
– Ngoài ra, các bác sĩ còn cho rằng, đồng chí Giang Thanh thường lầm lẫn giữa cách đánh giá cái riêng với thực tế. Suy nghĩ của đồng chí ấy thường hay thay đổi. Tích cực hoạt động xã hội và tăng cường quan hệ có thể sẽ giúp được đồng chí ấy.
Mao im lặng.
– Tôi biết, nguyên soái Lâm Bưu khi bị mắc bệnh cũng đã cương quyết không nghe theo lời khuyên của bác sĩ. Nhưng khi thủ tướng Chu Ân Lai yêu cầu đồng chí ấy nghe theo chỉ dẫn cũng đã làm theo và đồng chí ấy dần dần bình phục. Vấn đề là ở chỗ đồng chí Giang Thanh chẳng nghe lời một ai trong chúng tôi cả. Chúng tôi không biết làm thế nào.
Mao nhắm mắt lại, châm một diếu thuốc và rít một hơi dài. Ông chậm rãi nói: “Giang Thanh chỉ nghe theo chỉ thị của đảng”. Tôi biết ông ám chỉ chính ông khi nói tới “đảng”. Ông nói thêm, vợ ông thường nghĩ những chuyện quá vụn vặt, ngược lại chúng tôi chỉ quan tâm đến vấn đề của bà mà chẳng để ý đến những chuyện khác. “Điều thực sự làm cho bà ấy lo nghĩ, một ngày nào đó tôi chán bà ấy. Tôi vẫn thường nói rằng bà không phải lo lắng gì”.
– Đồng chí hãy truyền đạt cho các y tá rằng tôi đánh giá cao những cố gắng của họ đối với Giang Thanh. Chắc chắn bà ấy chẳng dễ chịu chút nào đối với các y tá. Bảo họ đôi khi cũng cần phải từ chối những đòi hỏi của Giang Thanh.
Tôi nói:
– Điều đó họ chẳng dám đâu, thưa Chủ tịch. Làm sao họ có thể từ chối những yêu cầu của đồng chí Giang Thanh được? Nếu vậy, họ sẽ bị tố cáo là phản cách mạng. Các y tá cũng không thể làm cho đồng chí ấy hài lòng được, ngay cả khi họ đã cố hết sức.
Mao cười:
– Tôi đã nói với bà, cha mẹ ốm quá 100 ngày đến thằng con trưởng cũng hết tình thương. Bà ấy ốm đau đã quá lâu, bây giờ cũng phải niềm nở vui vẻ một chút chứ.
– Không phải các y tá mong muốn đồng chí ấy ân cần, niềm nở hơn, họ chỉ hy vọng rằng đồng chí Giang Thanh đừng hay mắng mỏ, đưa ra những đòi hỏi vô lý.
Mao nói:
– Tôi nghĩ bà ta đã qua khỏi giai đoạn tồi tệ nhất của căn bệnh hiểm nghèo. Đồng chí hãy nhân danh tôi cám ơn các bác sĩ và y tá.
Tiếp đó, tôi nói với Mao là các bác sĩ mong rằng ông sẽ không cho Giang Thanh biết bản hội chẩn.
Mao đồng ý:
– Không, tôi sẽ không kể chuyện này cho bà ấy đâu. Tôi nghĩ Giang Thanh sẽ nghe theo chỉ thị của đảng. Nếu đồng chí có vấn đề gì với bà ấy đồng chí hãy nói thẳng với bà ấy và cả với tôi nữa. Nhưng đồng chí đừng có nói với những người khác sau lưng chúng tôi. Như vậy không tốt đâu.
Tôi trả lời:
– Tôi chưa bao giờ nói sau lưng Chủ tịch.
Tất nhiên, cuộc gặp gỡ giữa tôi và Đặng Dĩnh Siêu đã diễn ra sau lưng Mao, nhưng tôi không dám thú nhận. Hơn nữa, đã từ lâu tôi lấy làm ân hận về cuộc gặp gỡ với vợ thủ tướng.
Mao lại cười:
– Tất cả hãy làm những việc mà chúng ta cần phải làm.
Tôi gặp Thạch Thụ Hán, Hoàng Thụ Tắc, những người lãnh đạo bộ phận bảo vệ sức khoẻ, báo cáo lại cuộc đối thoại giữa tôi và Mao. Họ có vẻ lo ngại nếu đến lúc nào đó Giang Thanh biết được chuyện này, các bác sĩ và Ban bảo vệ sức khỏe trung ương sẽ phải gánh chịu hậu quả lớn lao. Họ cho tôi một lời khuyên hữu ích: đừng bao giờ nói với Mao về Giang Thanh.
Chắc Mao đã cảnh cáo vợ về thái độ của bà đối với các y tá. Giang Thanh đã cố gắng cư xử tốt hơn. Nhưng mặc dù vậy, trong mùa hè năm đó ở Bắc Đới Hà, cũng có vài y tá bị sa thải. Tôi bắt đầu đoán được, những xung khắc giữa Giang Thanh đối với các y tá không chỉ vì bà không hài lòng với công việc của họ, mà lo ngại về sức quyến rũ của các cô gái trẻ đối với Mao. Giang Thanh có thói quen bắt chuyện với các cô y tá mới từ bệnh viện Bắc Kinh được cử đến chỗ bà trong các buổi khiêu vũ. Theo bà lúc đó thoái mái hơn. Cả Mao cũng có mặt, còn các cô gái trẻ chìm ngập trong sự kính cẩn khi họ nhìn thấy Mao. Có lần bà vô cùng bực tức khi một cô y tá trẻ ngừng lấy thuốc cho bà để bắt tay Mao, chào đón ông rất nồng nhiệt. Tôi cố gắng giải thích, thái độ quá lố đó của các cô y tá trẻ là điều hoàn toàn tự nhiên, vì họ đang đối diện với một vị lãnh tụ vĩ đại.
Nhưng Giang Thanh lại nghĩ khác:
– Bác sĩ không hiểu Chủ tịch đâu. Ông ấy phóng đãng lắm. Lối sống và lao động trí tuệ của ông ấy là hai thái cực hoàn toàn khác nhau. Lúc nào có những người đàn bà đẹp ông ấy chỉ muốn chiếm đoạt. Đồng chí có hiểu ý tôi không? Đồng chí phải bảo các cô bé hãy tỏ ra có đạo đức một chút. Họ phải lễ độ đối với vị lãnh tụ, nhưng cũng phải thận trọng khi tiếp xúc với ông ấy.
Sự nhắc nhở của Giang Thanh làm tôi bối rối. Hồi đó tôi vẫn chưa biết tí gì về sự vô độ trong tình dục của Mao, tôi chỉ nhớ rằng, trong cuộc nói chuyện giữa tôi và Mao, đã nói cho tôi biết nỗi lo sợ của vợ ông và cam đoan sẽ không bao giờ bỏ bà. Tôi vẫn chưa nhận thức được rằng trong một số điểm, Giang Thanh có thể tinh tường hơn tôi. Ham muốn tình dục của Mao thật vô cùng. Đối với ông, tình dục và tình yêu là hai vấn đề khác hẳn nhau.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Tags: Mao Trạch Đông
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Sau khi từ Liên Xô trở về Giang Thanh mắc căn bệnh tự kỷ ám thị, tin chắc bệnh tình rất nặng. Bà nghĩ, bệnh ung thư cổ tử cung tái phát, có khối u ở gan, ở dạ dày và trong não, rằng cơ thể bà như đang bị bệnh tật tàn phá. Ngoài ra, còn cảm thấy trong tai như có tiếng chuông, cảm giác toàn thân có dấu hiệu kiến bò. Bà không chịu được cả ánh sáng lẫn tiếng động, gió lùa cũng kêu ca, ăn không ngon, ngủ không yên. Trước khi uống thuốc chữa bệnh, bà dùng thuốc ngủ, lần khác bà uống thuốc chữa bệnh trước, rồi mới dùng thuốc ngủ. Sau lại cho rằng các loại thuốc công phá nhau, thuốc uống sau phản ứng với thuốc uống trước. Bà nghiền thuốc ngủ, nghiện thuốc Tây và nghiện cả các chứng bệnh.
Việc điều trị bằng trị xạ đã làm cho bà hoàn toàn khỏi bệnh ung thư.
Khi Giang Thanh sống cùng với Mao, tôi lại phải chịu trách nhiệm về sức khỏe của bà, buộc phải khám, xem xét những lời phàn nàn về bệnh tật.
Qua nhiều lần xét nghiệm máu sau khi bà từ Liên Xô trở về, tôi phát hiện ra số lượng hồng bạch cầu hơi bất thường, tất nhiên không có gì đáng lo ngại, sau khi trị xạ bao giờ số lượng hồng bạch cầu cũng thay đổi. Thế nhưng Giang Thanh lo lắng đến phát cuồng, tôi đành trấn an bằng cách mời một số bác sĩ nổi tiếng nhất ở trong nước đến khám. Ngay sau khi tôi đi lao động, Ban Bảo vệ sức khỏe trung ương, trực thuộc Bộ y tế, chuyên chăm sóc sức khỏe cho những chính trị gia cao cấp nhất, đã phái một số chuyên gia tiến hành một cuộc khám bệnh kỹ lưỡng đối với tất cả các căn bệnh khả nghi của Giang Thanh. Công việc này kéo dài suốt hai tuần liền, vì trong thời gian đó Giang Thanh đã tỏ ra ngang ngược, tự ý thay đổi lịch khám, trịch thượng đối với các bác sĩ, sai khiến họ như những kẻ tôi tớ. Sau khi việc chẩn bệnh kết thúc, tôi họp các bác sĩ, tất cả đều đi đến một kết luận: Giang Thanh không có bệnh, hoàn toàn khỏe mạnh. Bệnh ung thư đã được chữa khỏi hoàn toàn, số lượng hồng bạch cầu giảm không đáng kể. Thực tế, từ mùa Xuân 1957 cho đến 20 năm sau khi bị bắt giam bà vẫn hoàn toàn khỏe mạnh.
Tất cả chúng tôi nhất trí kết luận nguyên nhân gây bệnh do tâm sinh lý của bà. Tôi hiểu, vấn đề này đã phát sinh như thế nào. Giang Thanh quá lo cho sức khỏe, ít hiểu biết về sự hoạt động của cơ thể con người. Thêm vào đó, bản tính đa nghi, hay lo, chẳng tin ai kể cả các bác sĩ riêng. Tôi không làm cách nào để bà xoá bỏ nỗi ám ảnh bệnh hoạn đó được. Cay độc, ích kỷ, tự bà làm khổ bản thân. Bà xua đuổi tất cả những người đáng lẽ có thể là bạn và người ta thấy mối quan hệ của bà với Mao không phải mối quan hệ vợ chồng thông thường. Cuộc sống đơn độc, lẻ loi càng làm bà thêm sợ hãi. Chúng tôi chỉ có thể gọi căn bệnh tâm sinh lý của bà, chứng suy nhược thần kinh, không thể gọi cách nào khác. Bởi vì chúng tôi là bác sĩ, chuyên chữa trị người bệnh thật nên không thể giải quyết nổi vấn đề tâm lý của Giang Thanh.
Chúng tôi viết báo cáo, gửi cho cả Mao lẫn Giang Thanh. Chúng tôi trình bày, đã kiểm tra toàn bộ tình trạng sức khỏe của đồng chí Giang Thanh, việc điều trị bằng cách trị xạ đã thành công và sức khỏe của đồng chí Giang Thanh hồi phục. Chúng tôi khuyên nên tăng thêm lượng vitamin để nâng cao tính đề kháng, khuyến khích bà hãy tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ và thể thao. Bên cạnh đó, khuyên bà phải quan hệ xã hội nhiều hơn nữa, tham gia lao động cho khuây khoả. Lời khuyên sau cùng hoàn toàn nhã nhặn, vì Giang Thanh chẳng có gì để mà làm. Đó cũng là một nguyên nhân gây nên căn bệnh tâm lý của bà.
Giang Thanh bác bỏ bản báo cáo, vẫn khẳng định đang mắc bệnh nặng. Theo bà, các bác sĩ hoặc là những kẻ ngu dốt, hoặc là những tên lừa đảo. Bà ra lệnh cho chúng tôi phải viết lại bản báo cáo.
Chúng tôi lại họp lần nữa, tuy nhiên lần này không phải để bàn về sức khỏe. Chúng tôi phải viết một bản báo cáo, một mặt có thể cho Giang Thanh biết được những nhận định của chúng tôi, mặt khác bà có thể chấp nhận được. Cuối cùng, chúng tôi quyết định một phương án điều trị dần từng bước căn bệnh suy nhược thần kinh một cách thoải mái hơn. Những dấu hiệu khiến bà khó chịu là kết quả của việc gia tăng một cách tự nhiên căn bệnh suy nhược thần kinh.
Nhưng Giang Thanh cũng chẳng hài lòng bản báo cáo này. Bà yêu cầu: “Các đồng chí có thể đảm bảo trong tương lại tôi cũng không mắc bệnh chứ”. Thật phi lý, chẳng ai dám bảo đảm điều đó. Bà còn cho báo cáo này quá trừu tượng. Yêu cầu chúng tôi phải lập tức biến những đề nghị bà tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao thành một thời gian biểu với những quy định cụ thể.
Chúng tôi khuyên bà đi xem phim, đi nghe nhạc, trau dồi nghệ thuật nhiếp ảnh, tham gia các buổi khiêu vũ, hoà nhạc. Bà cũng nên tập Thái cực quyền, một môn võ cổ truyền. Thái cực quyền đòi hỏi sự tập trung cao, điều hoà nhịp thở, hoạt động cơ thể. Chúng tôi nghĩ môn thể thao này sẽ giúp Giang Thanh trầm tĩnh hơn.
Mao có vẻ hoài nghi, nhưng cũng đồng ý để bà thử tập Thái cực quyền xem sao. Ban Bảo vệ sức khỏe đã tìm được một sư phụ là ông Cố, người được Ban thể dục thể thao Thượng Hải giới thiệu. Ông bắt đầu bằng những buổi luyện tập hàng ngày các kỹ thuật cơ bản. Mao và vợ đến nghỉ vài tuần tại một nhà nghỉ ngoại ô phía tây thành phố Bắc Kinh. Khu nhà này dành cho các các bộ cao cấp của đảng, “Lục Tân Lầu”. Ở đó tôi cũng giúp Cố trong các buổi tập hàng ngày.
Giang Thanh thực sự tỏ ra cố gắng học Thái cực quyền nhưng là học trò tồi. Cố, một người rất thận trọng, kín đáo. Tuy nhiên, ông coi trọng môn võ của ông, yêu cầu phải tuân thủ nghiêm ngặt kể cả vợ Chủ tịch. Giang Thanh tỏ ra tức giận mỗi khi bị ông sửa tư thế đứng hoặc cách hít thở. Tôi đã phải khuyên can ông nên mềm mỏng hơn, bỏ qua sự chậm tiến của Giang Thanh.
Mùa hè đã đến. Tháng 7, tôi cùng với Mao và Giang Thanh trở về Bắc Đới Hà. Sau hơn một tháng hướng dẫn, Cố đi theo chúng tôi để tiếp tục chương trình luyện tập.
Ở Bắc Đới Hà, căn bệnh tâm lý của Giang Thanh lại đột ngột gia tăng. Bà luôn luôn than vãn. Vì sợ ánh sáng mặt trời, bà ra lệnh cho các cô y tá phải kéo rèm lại. Sau đó bà lại muốn có không khí trong lành nên ra lệnh mở cửa sổ, nhưng lại ghét khói bụi bay vào. Đóng cửa sổ lại kêu ngột ngạt. Chỉ một tiếng động nhẹ, thậm chí cả tiếng quần áo sột soạt của nhân viên phục vụ cũng làm bà khó chịu. Màu sắc cũng ca cẩm, kêu màu hồng, màu nâu làm mắt bà đau. Tất cả đồ đạc trong nhà, các bức tường cũng như đồ gỗ đều phải sơn một màu xanh lam.
Các y tá thường xuyên bị mắng mỏ, đến phàn nàn với tôi, vì chẳng có cách nào làm vừa ý vợ Chủ tịch. Trong vòng một tháng, bà đã đổi y tá tới năm hay sáu lần. Có lần khi đuổi một cô y tá bà đã nói: “Nếu ai không muốn phục vụ tôi, không sao, họ có thể rời khỏi đây. Trung Quốc có 600 triệu dân cơ mà, tha hồ lựa chọn”.
Tôi phụ trách nhân viên chăm sóc Giang Thanh, cũng chẳng biết phải làm gì nữa, đành trình bày với Thạch Chu Hàn và Hoàng Thụ Tắc, trưởng và phó Ban bảo vệ sức khỏe trung ương. Hy vọng, kinh nghiệm của họ có thể sẽ giúp được tôi. Nhưng đến họ cũng bất lực. Hoàng Thụ Trạch đưa tôi đến gặp Dương Thượng Côn. Sau khi nghe tôi trình bày, Dương Thượng Côn bảo: “Giang Thanh cũng không nể tôi, vậy biết làm thế nào?”
Cuối cùng Thạch Chu Hàn, Hoàng Thụ Tắc và tôi đã quyết định trình bày vấn đề này với thủ tướng Chu Ân Lai. Tất cả chúng tôi đều rất kính trọng Chu. Thạch Chu Hàn cũng đã từng gặp phải một vấn đề tương tự với Lâm Bưu, vị nguyên soái, phó chủ tịch Hội đồng Quân sự, như tôi với Giang Thanh bây giờ. Hồi đó Lâm Bưu chưa hoàn toàn nghỉ hưu. Lâm Bưu cũng mắc bệnh suy nhược thần kinh và không chịu làm theo chỉ dẫn điều trị của bác sĩ. Chu Ân Lai nói với ông, Mao chủ tịch và đảng hy vọng Lâm Bưu sẽ tuân theo chỉ dẫn của bác sĩ. Ít ra, Làm Bưu cũng đã nghe lời bác sĩ một thời gian. Chúng tôi nghĩ Chu cũng sẽ tìm ra được một giải pháp tương tự đối với Giang Thanh.
Nhưng chúng tôi đã lầm.
Chúng tôi xin yết kiến thủ tướng, trình bày lý do. Chu từ chối, lý do rất bận. Thay vào đó ông đề nghị chúng tôi đến gặp vợ ông, bà Đặng Dĩnh Siêu, cố vấn và là người tin cẩn nhất của ông. Bà cũng là một Uỷ viên trung ương đảng có uy tín. Từ xưa đến nay, tôi chưa một lần gặp bà, nhưng từ lâu vẫn ngưỡng mộ. Chúng tôi thường gọi bà là “Chị cả Đặng”, thật vinh hạnh nếu được làm quen với bà.
Nhiệm vụ của tôi, phải thuật lại vấn đề cho Đặng Dĩnh Siêu nghe. Tôi trình bày tường tận tình trạng của Giang Thanh, giải thích rằng những khó khăn mà Giang Thanh đang gặp chỉ là tâm lý, vì vậy không thể giải quyết được bằng y học. Theo đánh giá của tôi, vấn đề tâm lý của Giang Thanh là hậu quả của sự cách biệt với bên ngoài và chẳng tham gia vào một hoạt động xã hội nào. Có lẽ Giang Thanh sẽ thay đổi được cách sống và khắc phục được vấn đề tâm lý nếu được người hợp tính tình khuyên bảo. Chúng tôi đã bất lực nên phải nhờ đến Đặng Dĩnh Siêu.
Đặng Dĩnh Siêu chăm chú nghe tôi trình bày. Sau đó bà nói: “Chủ tịch đã cống hiến trọn đời cho cách mạng. Tám người trong gia đình Chủ tịch đã hy sinh cho cách mạng. Chúng ta phải hiểu rằng hiện giờ Mao chủ tịch chỉ còn có vợ là đồng chí Giang Thanh thôi. Người vợ cả của Chủ tịch, Dương Khai Huệ đã hy sinh cho cách mạng, người vợ thứ hai, Hạ Tứ Trân mắc bệnh tâm thần. Bây giờ cả Giang Thanh cũng lâm bệnh. Với tất cả khả năng của chúng ta, chúng ta phải giúp đỡ đồng chí Giang Thanh. Bởi vì như thế mới chứng tỏ được lòng biết ơn của chúng ta đối với Chủ tịch. Dù nhiệm vụ có khó khăn đến đâu cũng phải hết lòng chữa chạy cho Giang Thanh”.
Bà nói tiếp: “Đồng chí nói rằng ở đồng chí Giang Thanh có vấn đề về tâm lý. Điều đó làm chúng tôi rất buồn. Lẽ ra đồng chí không nên nói ra điều đó, như vậy không công bằng đối với Chủ tịch. Đảng giao cho đồng chí nhiệm vụ điều trị cho đồng chí Giang Thanh với những phương tiện y học tốt nhất, đồng chí không có quyền can thiệp vào những công việc khác”.
Tôi như bị dội một gáo nước lạnh. Đặng Dĩnh Siêu đã làm đảo ngược sự việc. Rõ ràng, bà đã trao đổi với Chu Ân Lai và được tán thành, nếu không bà không có thái độ như vậy. Bỗng nhiên, tôi hiểu, Chu Ân Lai là kẻ nô lệ của Mao, chỉ nhất nhất tuân theo từng lời của Chủ tịch. Cả ông lẫn vợ chẳng ai dám có một ý nghĩ độc lập nhỏ nào. Đặng Dĩnh Siêu, người phụ nữ khôn ngoan, tính toán. Tôi tìm đến bà với một vấn đề thực sự, nhưng bà lại muốn lợi dụng việc này để trở thành người tin cẩn của Mao bằng cách tố cáo chúng tôi đã không hoàn thành nhiệm vụ đối với vợ Chủ tịch, không cố gắng làm việc. Nếu Mao biết cuộc đối thoại này, vợ chồng bà sẽ được lòng Mao. Còn mối quan hệ của tôi với Mao chắc chắn sẽ xấu đi.
Tôi cảm thấy mình bị lừa dối. Bà ta thành công trong việc lợi dụng ý tốt của tôi để chống lại tôi, đẩy tôi vào thế thù. Bằng cách biến sự bất lực của tôi trong việc giải quyết vấn đề của Giang Thanh thành sự thử thách lòng trung thành đối với Mao. Đặng Dĩnh Siêu phản bội chúng tôi. Từ đó tôi không còn tin bà nữa. Tôi tức giận và rùng mình khi rời khỏi nhà bà.
Bây giờ tôi chẳng còn cách nào khác, đích thân nói thẳng với Mao nhưng không có mặt Giang Thanh. Cơ hội đã đến trong chuyến viếng thăm bí mật Trung Quốc của Khrushchev. Khrushchev đến Bắc Kinh vào ngày 31-7-1958. Mao đi tàu từ Bắc Đới Hà về Bắc Kinh để tiếp đón. Trên đường đi tôi đã nói chuyện với Mao về tình hình sức khỏe của Giang Thanh. Mao sửng sốt:
– Các đồng chí đã nộp báo cáo cho tôi rồi cơ mà? Lại xuất hiện vấn đề mới hay sao?
Tôi đáp:
– Tuy không có vấn đề mới nào cả, nhưng bản báo cáo không chứa đựng được tất cả những điều các bác sĩ muốn trình bày.
Mao dụi điếu thuốc và đề nghị tôi nói tường tận sự việc với ông.
Tôi bắt đầu:
– Các bác sĩ cho rằng đồng chí Giang Thanh không có vấn đề gì nghiêm trọng về sức khỏe. Vấn đề của đồng chí ấy là tâm lý.
Tôi đưa cho Mao đọc bản hội chẩn khám cho Giang Thanh. Tôi nói tiếp:
– Ngoài ra, các bác sĩ còn cho rằng, đồng chí Giang Thanh thường lầm lẫn giữa cách đánh giá cái riêng với thực tế. Suy nghĩ của đồng chí ấy thường hay thay đổi. Tích cực hoạt động xã hội và tăng cường quan hệ có thể sẽ giúp được đồng chí ấy.
Mao im lặng.
– Tôi biết, nguyên soái Lâm Bưu khi bị mắc bệnh cũng đã cương quyết không nghe theo lời khuyên của bác sĩ. Nhưng khi thủ tướng Chu Ân Lai yêu cầu đồng chí ấy nghe theo chỉ dẫn cũng đã làm theo và đồng chí ấy dần dần bình phục. Vấn đề là ở chỗ đồng chí Giang Thanh chẳng nghe lời một ai trong chúng tôi cả. Chúng tôi không biết làm thế nào.
Mao nhắm mắt lại, châm một diếu thuốc và rít một hơi dài. Ông chậm rãi nói: “Giang Thanh chỉ nghe theo chỉ thị của đảng”. Tôi biết ông ám chỉ chính ông khi nói tới “đảng”. Ông nói thêm, vợ ông thường nghĩ những chuyện quá vụn vặt, ngược lại chúng tôi chỉ quan tâm đến vấn đề của bà mà chẳng để ý đến những chuyện khác. “Điều thực sự làm cho bà ấy lo nghĩ, một ngày nào đó tôi chán bà ấy. Tôi vẫn thường nói rằng bà không phải lo lắng gì”.
– Đồng chí hãy truyền đạt cho các y tá rằng tôi đánh giá cao những cố gắng của họ đối với Giang Thanh. Chắc chắn bà ấy chẳng dễ chịu chút nào đối với các y tá. Bảo họ đôi khi cũng cần phải từ chối những đòi hỏi của Giang Thanh.
Tôi nói:
– Điều đó họ chẳng dám đâu, thưa Chủ tịch. Làm sao họ có thể từ chối những yêu cầu của đồng chí Giang Thanh được? Nếu vậy, họ sẽ bị tố cáo là phản cách mạng. Các y tá cũng không thể làm cho đồng chí ấy hài lòng được, ngay cả khi họ đã cố hết sức.
Mao cười:
– Tôi đã nói với bà, cha mẹ ốm quá 100 ngày đến thằng con trưởng cũng hết tình thương. Bà ấy ốm đau đã quá lâu, bây giờ cũng phải niềm nở vui vẻ một chút chứ.
– Không phải các y tá mong muốn đồng chí ấy ân cần, niềm nở hơn, họ chỉ hy vọng rằng đồng chí Giang Thanh đừng hay mắng mỏ, đưa ra những đòi hỏi vô lý.
Mao nói:
– Tôi nghĩ bà ta đã qua khỏi giai đoạn tồi tệ nhất của căn bệnh hiểm nghèo. Đồng chí hãy nhân danh tôi cám ơn các bác sĩ và y tá.
Tiếp đó, tôi nói với Mao là các bác sĩ mong rằng ông sẽ không cho Giang Thanh biết bản hội chẩn.
Mao đồng ý:
– Không, tôi sẽ không kể chuyện này cho bà ấy đâu. Tôi nghĩ Giang Thanh sẽ nghe theo chỉ thị của đảng. Nếu đồng chí có vấn đề gì với bà ấy đồng chí hãy nói thẳng với bà ấy và cả với tôi nữa. Nhưng đồng chí đừng có nói với những người khác sau lưng chúng tôi. Như vậy không tốt đâu.
Tôi trả lời:
– Tôi chưa bao giờ nói sau lưng Chủ tịch.
Tất nhiên, cuộc gặp gỡ giữa tôi và Đặng Dĩnh Siêu đã diễn ra sau lưng Mao, nhưng tôi không dám thú nhận. Hơn nữa, đã từ lâu tôi lấy làm ân hận về cuộc gặp gỡ với vợ thủ tướng.
Mao lại cười:
– Tất cả hãy làm những việc mà chúng ta cần phải làm.
Tôi gặp Thạch Thụ Hán, Hoàng Thụ Tắc, những người lãnh đạo bộ phận bảo vệ sức khoẻ, báo cáo lại cuộc đối thoại giữa tôi và Mao. Họ có vẻ lo ngại nếu đến lúc nào đó Giang Thanh biết được chuyện này, các bác sĩ và Ban bảo vệ sức khỏe trung ương sẽ phải gánh chịu hậu quả lớn lao. Họ cho tôi một lời khuyên hữu ích: đừng bao giờ nói với Mao về Giang Thanh.
Chắc Mao đã cảnh cáo vợ về thái độ của bà đối với các y tá. Giang Thanh đã cố gắng cư xử tốt hơn. Nhưng mặc dù vậy, trong mùa hè năm đó ở Bắc Đới Hà, cũng có vài y tá bị sa thải. Tôi bắt đầu đoán được, những xung khắc giữa Giang Thanh đối với các y tá không chỉ vì bà không hài lòng với công việc của họ, mà lo ngại về sức quyến rũ của các cô gái trẻ đối với Mao. Giang Thanh có thói quen bắt chuyện với các cô y tá mới từ bệnh viện Bắc Kinh được cử đến chỗ bà trong các buổi khiêu vũ. Theo bà lúc đó thoái mái hơn. Cả Mao cũng có mặt, còn các cô gái trẻ chìm ngập trong sự kính cẩn khi họ nhìn thấy Mao. Có lần bà vô cùng bực tức khi một cô y tá trẻ ngừng lấy thuốc cho bà để bắt tay Mao, chào đón ông rất nồng nhiệt. Tôi cố gắng giải thích, thái độ quá lố đó của các cô y tá trẻ là điều hoàn toàn tự nhiên, vì họ đang đối diện với một vị lãnh tụ vĩ đại.
Nhưng Giang Thanh lại nghĩ khác:
– Bác sĩ không hiểu Chủ tịch đâu. Ông ấy phóng đãng lắm. Lối sống và lao động trí tuệ của ông ấy là hai thái cực hoàn toàn khác nhau. Lúc nào có những người đàn bà đẹp ông ấy chỉ muốn chiếm đoạt. Đồng chí có hiểu ý tôi không? Đồng chí phải bảo các cô bé hãy tỏ ra có đạo đức một chút. Họ phải lễ độ đối với vị lãnh tụ, nhưng cũng phải thận trọng khi tiếp xúc với ông ấy.
Sự nhắc nhở của Giang Thanh làm tôi bối rối. Hồi đó tôi vẫn chưa biết tí gì về sự vô độ trong tình dục của Mao, tôi chỉ nhớ rằng, trong cuộc nói chuyện giữa tôi và Mao, đã nói cho tôi biết nỗi lo sợ của vợ ông và cam đoan sẽ không bao giờ bỏ bà. Tôi vẫn chưa nhận thức được rằng trong một số điểm, Giang Thanh có thể tinh tường hơn tôi. Ham muốn tình dục của Mao thật vô cùng. Đối với ông, tình dục và tình yêu là hai vấn đề khác hẳn nhau.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 30
Posted: 13/08/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn HọcTags: Mao Trạch Đông
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Ngày 31-7-1958, Khrushchev bí mật đến Bắc Kinh. Trong dịp này, Mao đã đáp lại lòng hiếu khách của Liên Xô ở Moscow với một thái độ khinh thường như một cái tát vào mặt Khrushchev. Mao đón tiếp Khrushchev bên bờ bể bơi, chỉ mặc độc một chiếc quần bơi trên người. Mao đề nghị Khrushchev mặc quần bơi và cùng xuống bơi. Khrushchev nhận lời, trước sự ngạc nhiên của tất cả chúng tôi, cùng Mao xuống nước. Khrushchev không biết bơi nên phải mặc áo phao. Một số vệ sĩ, tôi và người thông dịch bơi cạnh ông.
Khrushchev không để ý thái độ lăng nhục của Mao, nhưng cuộc đối thoại giữa hai người không đi đến kết quả nào. Trong hồi ký của mình, Khrushchev tỏ ra khinh bỉ cách đối xử không tôn trọng của Mao. Lúc đầu ông định lưu lại một tuần nhưng ba ngày sau ông đã cáo từ. Chủ tịch cố tình đóng vai một vị hoàng đế, cư xử với Khrushchev như một kẻ chư hầu đến cầu khẩn ông ban ơn. Trên đường trở về Bắc Đới Hà, Mao cho tôi biết, bằng thái độ này, ông muốn “chọc giận” Khrushchev.
Những bất đồng của Mao về Liên Xô ngày càng tăng, chung quy ông lo ngại về mục đích chính của Liên Xô. Mao nói:
– Thực ra mục đích của họ khống chế, tìm cách trói tay trói chân chúng ta. Nhưng đó chỉ là ảo tưởng của thằng ngốc kể chuyện giấc mơ của nó.
Liên Xô đề nghị thành lập một hạm đội chung, xây dựng một đài radar có công suất lớn tại Trung Quốc. Ngoài ra, Mao còn lên án Khrushchev định dùng Trung Quốc làm con bài cải thiện quan hệ với Mỹ. Khrushchev đòi Trung Quốc phải bảo đảm sẽ không tấn công Đài Loan. Khrushchev lại phê phán chương trình hợp nhất các hợp tác xã nông nghiệp thành công xã nhân dân ở Trung Quốc. Mao nói:
– Tôi đã bảo ông ta, chúng tôi có thể hợp tác xây dựng một đài radar tầm xa, nhưng phải cung cấp mọi trang thiết bị và công nghệ cao. Chúng tôi cũng có thể thành lập một hạm đội chung, những chiến hạm của Liên Xô nhưng đô đốc phải là người của ta. Tôi cũng nhấn mạnh với ông ta, chúng tôi có tấn công Đài Loan hay không là việc riêng. Ông ta không nên sốt sắng can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Còn về chuyện công xã nhân dân, tại sao chúng tôi không nên thử xem sao?” Tôi đã trả lời tất cả để ông ta hiểu. Chúng ta có thể tham gia hạm đội, xây dựng dàn radar tầm xa nhưng với điều kiện của tôi đưa ra. Còn vấn đề Đài Loan và công xã nhân dân chúng ta không phụ thuộc bất cứ điều gì của Liên Xô yêu cầu.
Dư luận thế giới và phương Tây xa xôi không biết xung đột giữa Trung Quốc và Liên Xô đã bắt đầu.
Trên đường đến Bắc Đới Hà, Mao vẫn còn bực tức. Ông phàn nàn:
– Khrushchev không hiểu ông ta đang nói gì, nói với ai. Ông ta muốn cái thiện mối quan hệ với Mỹ à? Được, chúng ta sẽ chúc mừng ông ta bằng vũ khí của chúng ta. Bom đạn của chúng ta cất giữ đã lâu đến nỗi trở thành vô dụng. Tại sao chúng ta không sử dụng chúng vào ngày ăn mừng buổi lễ của họ? Có thể chúng ta sẽ kéo cả Mỹ vào cuộc. Mỹ có thể điên khùng ném một trái bom nguyên tử vào Phúc Kiến, sẽ có mười hay hai muơi triệu người chết. Từ lâu Tưởng Giới Thạch mong Mỹ dùng bom nguyên tử chống chúng ta. Cứ để xem chúng có dám làm không? Hãy chờ xem Khrushchev nói gì. Một số đồng chí của chúng ta không hiểu tình hình. Họ muốn vượt qua eo biển, đánh chiếm Đài Loan. Tôi đã bác bỏ, cứ để yên, đừng đụng đến Đài Loan. Đài Loan đang gây sức ép chúng ta, vì thế nội bộ chúng ta đoàn kết. Hết sức ép bên ngoài, có thể nội bộ ta sẽ mất đoàn kết.
Những điều Mao thổ lộ làm tôi bối rối. Tôi chẳng biết gì về đài phát thanh hay hạm đội chung và biết rất ít về Đài Loan. Khi ông phân tích vấn đề Đài Loan, tôi thầm hy vọng chẳng bao lâu nữa sẽ có những cuộc đàm phán về hoà bình giữa hai bên. Tôi cũng chưa biết tí gì về kế hoạch thành lập công xã nhân dân. Chúng tôi chỉ vừa mới qua thời kỳ chuyển các hợp tác xã nông nghiệp lên một bậc cao hơn.
Phải mất vài tuần tôi mới hiểu được ý nghĩa thực tế của thái độ của Mao về vấn đề Đài Loan. Ngược lại, bằng quan sát của mình, tôi đã sớm hiểu được công xã nhân dân.
Ngày 2-8-1958, ngày chúng tôi từ Bắc Đới Hà trở về, vào lúc ba giờ sáng, một vệ sĩ của Mao đánh thức khi tôi đang ngủ say. Chủ tịch muốn học tiếng Anh. Tôi vội tới phòng ông và chúng tôi bắt đầu đọc “Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ viễn tưởng đến khoa học” của Engels. Bên cạnh Tuyên ngôn cộng sản, đó là một cuốn sách được ưu ái, chúng tôi thường xuyên bận rộn với cả hai cuốn sách này. Mao không bao giờ học tiếng Anh một cách nghiêm túc. Ông chỉ lợi dụng những giờ học này để thư giãn và tán gẫu. Khoảng sáu giờ sáng chúng tôi nghỉ. Mao mời tôi ăn điểm tâm.
Trong bữa ăn Mao cho tôi xem số mới nhất của tờ Bản tin Nội bộ. Nó cung cấp thông tin cho những cán bộ cao cấp nhất về những sự kiện mà đảng muốn giữ bí mật trước công chúng. Việc thông báo thường mang tính phê bình, phân tích những vấn đề thời sự hoặc những mâu thuẫn giữa lý tưởng của đảng và thực tế trong đời sống thường ngày. Trong thời kỳ phong trào Trăm hoa đua nở năm 1957, khi mà ai ai cũng đều được khuyến khích nói lên suy nghĩ của mình, thì Bản tin là chiếc loa truyền thanh những lời phê bình đảng không thương tiếc. Thi thoảng người ta cũng tìm được một số bài đưa những tin giật gân về các vụ cướp của, giết người mà chưa bao giờ thấy trên phương tiện thông tin đại chúng.
Khi chiến dịch chống hữu khuynh vào mùa hè năm 1957 bắt đầu, tờ Bản tin cũng thay đổi tính chất. Một số phóng viên đã phơi bày mảng tối của xã hội Trung Quốc, như Lý Thẩm Tri đã bị quy hữu khuynh, nên bị mất chức, thậm chí có người còn bị đày đi những vùng hẻo lánh xa xôi. Đầu năm 1958, khi chiến dịch làm trong sạch nội bộ đảng và thử nghiệm của Mao đưa đảng đi theo con đường của mình được làm sống dậy, tờ Bản tin Nội bộ đã quay ngoắt 180 độ. Bấy giờ nó lại ca tụng những thay đổi diễn ra ở Trung Quốc đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Bản tin Mao cho tôi xem sáng hôm đó đã tường thuật về buổi thành lập một công xã nhân dân – tổ hợp nhiều hợp tác xã nông nghiệp nhỏ thành một tổ chức khổng lồ duy nhất – ở Chay A Sơn thuộc tỉnh Hồ Nam.
Mao nói: “Đây là một sự kiện đặc biệt quan trọng. Nhiều họp tác xã ở nông thôn đã thống nhất lại để thành lập một công xã nhân dân lớn. Công xã nhân dân sẽ là chiếc cầu nối từ chủ nghĩa xã hội đến chủ nghĩa cộng sản. Thế nhưng có nhiều điều chúng ta vẫn chưa biết, như tổ chức một công xã nhân dân thế nào, công xã nhân dân làm việc, phân chia lợi tức ra sao và làm thế nào để biết được khối lượng công việc của mỗi người? Bằng cách nào thực hiện được gắn sản xuất nông nghiệp với huấn luyện quân sự trở thành thực tế”.
Vào khoảng thời gian Xuân-Hè 1958 khi đại công trường xây dựng đập triển khai, đã làm nông thôn thiếu lực lượng lao động trầm trọng, trong khi đó một số nơi bắt đầu hợp nhất lên Công xã nhân dân. Ban đầu công xã có rất nhiều tên gọi khác nhau, Mao chưa có điều kiện đi kiểm tra thực tế, bộ chính trị cũng chưa thông qua kế hoạch, nhưng ông muốn nó phát triển sâu rộng và kêu gọi mang tên Công xã nhân dân.
Mao muốn tôi đi kiểm tra một vài công xã nhân dân mới thành lập. “Đồng chí hãy quan sát tất cả. Hãy ở đó một tháng, thu thập tình hình đầy đủ, chính xác, về báo cáo tôi. Đồng chí đã làm xong những công việc cần thiết ở đây rồi chứ?”
Trong dịp hè yên tĩnh và kéo dài ở Bắc Đới Hà, theo đề nghị của Mao, tôi và ông cùng bắt tay dịch cuốn sách từ tiếng Anh sang tiếng Trung, cuốn sách bàn về quá trình lão hoá. Trong khi dịch, chúng tôi thường trao đổi với nhau, ông rất thú vị với mấy chương đầu, nhưng đến đoạn nói về ảnh hưởng của quá trình lão hoá đến các tế bào và cơ thể, ông bắt đầu chán. Tuy vậy, tôi vẫn tiếp tục dịch để thời gian được tận dụng vào một công việc có ý nghĩa đồng thời giữ mối quan hệ với các tài liệu y học. Nhưng tôi hứa với ông có thể tạm hoãn lại việc dịch sách, dành thời gian cho chuyến công du này.
Mao nói:
– Cuốn sách này chẳng có ý nghĩa thật đặc biệt. Sau này đồng chí cũng vẫn có thể dịch tiếp. Ngược lại, công xã nhân dân là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng đến cơ chế chính trị của nước ta. Năm 1949. khi quân đội chúng ta vượt sông Dương Tử, một người Mỹ đã viết một cuốn sách có tựa đề “Trung Quốc làm chấn động thế giới”, đại loại như vậy. Giờ đây, mười năm sau, với việc thành lập các công xã nhân dân, một lần nữa Trung Quốc lại làm chấn động thế giới. Vì vậy đồng chí hãy đi thị sát xem sao. Nhưng đừng đi một mình, hãy đề nghị Diệp Tử Long và Hoàng Thụ Tắc đi cùng.
Sự hiểu biết về một nước Trung Quốc nông nghiệp của tôi chỉ đóng khung trong các cuộc dạo chơi vào các xóm làng, mỗi khi con tàu của Mao dừng lại đôi chút ở đâu đó. Và những gì tôi được chứng kiến lại toàn là những cảnh ghê sợ, sự nghèo đói cùng cực và những người nông dân còn sống được nhờ những chiếc bánh bao làm bằng ngũ cốc xay xát qua loa. Họ là những con người thật thà, chất phác. Có lần, tôi mua hai chiếc bánh bao, nhưng họ đã biếu, không lấy tiền. Tôi ăn một chiếc, một chiếc tôi đưa cho Mao. Ông chẳng mấy ngạc nhiên khi tận mắt thấy cảnh cơ cực như tôi tưởng. Thế mà ông khuyến khích tôi, những người khác nên có những cuộc “điều tra xã hội” như vậy, mỗi khi chúng tôi có dịp.
Trong khi đang nói về việc biệt phái tôi đi thanh tra công xã nhân dân, ông thiếp dần trong giấc ngủ, lời nói nhỏ dần và gần như không thể nghe thấy được nữa. Ngay trước bữa ăn, ông đã uống thuốc ngủ. Ông nảy ra ý nghĩ kiểm tra công xã nhân dân khi đã ngấm thuốc, đưa ông vào trạng thái mơ màng. Tôi không rõ, đề nghị của ông nghiêm túc hay đó chỉ trong cơn mộng dưới tác dụng của những viên thuốc ngủ.
Tôi đáp:
– Tôi sẽ bàn với những người khác. Trong vòng từ hai đến ba ngày, chúng tôi có thể lên đường.
Vừa chợp mắt một lát, ông mở mắt nói to:
– Chẳng có gì phải bàn nữa. Đồng chí bảo với họ, hôm nay phải chuẩn bị xong, ngày mai lên đường ngay.
Rồi Chủ tịch lại thiếp đi. Lúc đó là 8 giờ sáng. Lập tức tôi thông báo cho Diệp Tử Long về nhiệm vụ mới nhất Mao vừa giao cho.
Một tháng ở nông thôn – một chuyến công du không có Mao và chỉ đi bằng xe lửa loại thường, phải ngủ trong những nhà trọ bình dân và ăn những thức ăn có chất lượng thấp của nông dân. Tất cả những điều đó khác hẳn với một nhiệm vụ dễ chịu như Diệp Tử Long tưởng bở. Ông chẳng thèm quan tâm đến chính sách quốc gia. Chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản đối với ông cũng như nhau, nếu như cuộc sống xa hoa của ông không bị ảnh hưởng.
Diệp Tử Long ca cẩm:
– Chủ tịch vẫn ăn ngon, thảnh thơi chả phải làm gì. Chúng ta làm trò trống gì theo phát rắm của ông trong chuyến đi này.
Tôi bảo chúng ta phải đi, đây là lệnh của Chủ tịch. Diệp nói:
– Đồng chí báo cho Hoàng Thụ Tắc biết. Sau đó chúng ta sẽ gặp nhau và bàn về việc này. Nhưng ngày mai chưa thể đi được, tôi phải cần vài ngày thu xếp.
Lời của ông làm tôi rất lo. Chúng tôi không được phép lần chần. Tôi cự lại:
– Chủ tịch ra lệnh ngày mai phải lên đường, chúng ta không được cưỡng lại chỉ thị của Chủ tịch.
Tôi đề nghị Diệp Tử Long trực tiếp lên nói chuyện với Mao trong khi tôi đi báo cho Hoàng Thụ Tắc, phó Ban y tế trung ương.
Hoàng, một môn đồ sùng tín của Mao. Lời của Chủ tịch đối với ông thật thiêng liêng. Tất nhiên, Hoàng cảm thấy tự hào khi được Mao giao nhiệm vụ, sẵn sàng lên đường ngay ngày hôm sau.
Tôi vẫn lo mệnh lệnh của Mao. Mệnh lệnh đưa ra khi ông ngấm thuốc trong tình trạng nửa thức nửa ngủ. Cũng có thể do ông ngẫu hứng. Tôi quyết định đem chuyện này bàn với Giang Thanh.
Vào lúc gần trưa, tôi được dẫn vào phòng của bà. Bà vẫn ở trên giường, đang ăn sáng gồm sữa chua hạnh nhân, bánh mì nướng. Tôi trình bày tình thế khó xử, bà trả lời:
– Tôi không tin Chủ tịch nói rồi để đó đâu, nếu lời nói đó liên quan đến một việc hệ trọng như vậy Nhưng khi nào Chủ tịch dậy tôi sẽ nói chuyện với ông.
Tôi đến gặp Điền Gia Anh, bí thư chính trị của Mao, bạn thân sẵn sàng tiếp tôi bất cứ lúc nào. Ông luôn luôn biết rõ mọi tin tức, không phải chỉ từ tờ Bản tin, mà từ các tài liệu mật do các bạn ông và những thư ký chính trị cấp dưới khắp nơi ở Trung Quốc thông báo. Ông biết hết các công xã nhân dân mới thành lập. Tuy nhiên ông vẫn tỏ ra nghi ngờ sự thành công.
Điền lấy thí dụ, năm 1956, nông dân đã kêu ca quá vội vã trong việc triển khai hoạt động của các hợp tác xã cấp cao. Trong khi việc quản lý hợp tác xã ở các cơ quan cấp thấp vẫn chưa quản lý tốt, người ta đã nâng cấp hợp tác xã. Bây giờ chúng ta lại tìm cách áp dụng một cơ cấu tổ chức cao hơn nữa là công xã nhân dân. Theo ý ông, người ta chưa biết công xã nhân dán sẽ có hiệu quả kinh tế hay không, nhưng những người lãnh đạo đảng ở các tỉnh vẫn lợi dụng công xã để lấy lòng Chủ tịch. Do Mao phát động trong cuộc họp ở Thành Đô, Nam Ninh, các vị lãnh đạo các tỉnh cố tỏ ra họ triệt để thực hiện nghị quyết. Họ nghĩ ra đủ mọi mánh khóe để thu hút được sự chú ý từ Bắc Kinh, phát động một chiến dịch ganh đua cuồng dại nhằm đạt tỉ lệ tăng trưởng sản xuất cao nhất. Ai cũng muốn mình dẫn đầu. Điền Gia Anh khuyên tôi hãy trực tiếp theo dõi việc này.
Sau bữa trưa, tôi gói ghém đồ đạc chuẩn bị cho chuyến công du hôm sau, rồi chợp mắt một chút vì đã dậy từ lúc ba giờ sáng cho đến giờ.
Bẩy giờ tối, anh vệ sĩ Tiểu Lý của Mao đánh thức tôi dậy. Chủ tịch muốn gặp tôi. Cả Diệp Tử Long cũng như Giang Thanh đều đã nói chuyện với Mao. Mao nói:
– Tôi đã quyết định đích thân đi thị sát tình hình. Đây là vấn đề lớn, tại sao tôi không trực tiếp đi kiểm tra. Vài ngày nữa chúng ta sẽ khởi hành. Tôi muốn đi thăm rất nhiều nơi. Đồng chí hãy chuẩn bị và đưa theo một trợ lý, nếu đồng chí cần người giúp đỡ.
Mao bảo, thôi “tha” Hoàng Thụ Tắc, không cần đi. Thay vào đó, Mao cần một nữ y tá. Ông vẫn thường dùng nhân sâm do tôi kê đơn để ông khỏi bị liệt dương. Nhân sâm được các y tá sắc theo phương pháp cổ truyền, tức là nấu với nước thành một loại thuốc uống. Tôi đề nghị đưa theo Ngô Tự Tuấn, người đã từng cùng đi với chúng tôi sang Moskova.
Mao nhắc tôi, chuyến đi này phải được giữ tuyệt đối bí mật. Nhiệm vụ của tôi không phải chỉ là bác sĩ riêng, ông còn cho rằng:
– Đối với những nhân viên y tế, không nên chỉ trói buộc họ trong việc chữa bệnh.
Ông không muốn tôi sống cách biệt với xã hội bên ngoài, nhất là khi trong xã hội đang có một biến cố quan trọng như thế. Phải tìm hiểu xem biến cố này sẽ làm con người thay đổi như thế nào. Chúng tôi sẽ xem xét mỗi công xã nhân dân có những đặc điểm mang tính nguyên tắc xã hội chủ nghĩa như thế nào. Hai ngày sau, chúng tôi rời Bắc Đới Hà trên tàu hoả sang trọng dành riêng cho Mao. Phần vì thách thức Khrushchev, phần do ngẫu hứng bởi tác dụng của thuốc ngủ, nhưng cũng do cả bàn tính hiếu kỳ bẩm sinh của Mao, nên “chuyến thanh tra” kỳ thú mà Mao thực hiện bắt đầu như vậy.
Con tàu của chúng tôi xuôi về phía Nam “Cuộc thăm dò xã hội” này từ đầu đã được hiểu như vậy thật đặc biệt. Thế là chiến dịch Đại nhảy vọt bắt đầu.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30]
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Ngày 31-7-1958, Khrushchev bí mật đến Bắc Kinh. Trong dịp này, Mao đã đáp lại lòng hiếu khách của Liên Xô ở Moscow với một thái độ khinh thường như một cái tát vào mặt Khrushchev. Mao đón tiếp Khrushchev bên bờ bể bơi, chỉ mặc độc một chiếc quần bơi trên người. Mao đề nghị Khrushchev mặc quần bơi và cùng xuống bơi. Khrushchev nhận lời, trước sự ngạc nhiên của tất cả chúng tôi, cùng Mao xuống nước. Khrushchev không biết bơi nên phải mặc áo phao. Một số vệ sĩ, tôi và người thông dịch bơi cạnh ông.
Khrushchev không để ý thái độ lăng nhục của Mao, nhưng cuộc đối thoại giữa hai người không đi đến kết quả nào. Trong hồi ký của mình, Khrushchev tỏ ra khinh bỉ cách đối xử không tôn trọng của Mao. Lúc đầu ông định lưu lại một tuần nhưng ba ngày sau ông đã cáo từ. Chủ tịch cố tình đóng vai một vị hoàng đế, cư xử với Khrushchev như một kẻ chư hầu đến cầu khẩn ông ban ơn. Trên đường trở về Bắc Đới Hà, Mao cho tôi biết, bằng thái độ này, ông muốn “chọc giận” Khrushchev.
Những bất đồng của Mao về Liên Xô ngày càng tăng, chung quy ông lo ngại về mục đích chính của Liên Xô. Mao nói:
– Thực ra mục đích của họ khống chế, tìm cách trói tay trói chân chúng ta. Nhưng đó chỉ là ảo tưởng của thằng ngốc kể chuyện giấc mơ của nó.
Liên Xô đề nghị thành lập một hạm đội chung, xây dựng một đài radar có công suất lớn tại Trung Quốc. Ngoài ra, Mao còn lên án Khrushchev định dùng Trung Quốc làm con bài cải thiện quan hệ với Mỹ. Khrushchev đòi Trung Quốc phải bảo đảm sẽ không tấn công Đài Loan. Khrushchev lại phê phán chương trình hợp nhất các hợp tác xã nông nghiệp thành công xã nhân dân ở Trung Quốc. Mao nói:
– Tôi đã bảo ông ta, chúng tôi có thể hợp tác xây dựng một đài radar tầm xa, nhưng phải cung cấp mọi trang thiết bị và công nghệ cao. Chúng tôi cũng có thể thành lập một hạm đội chung, những chiến hạm của Liên Xô nhưng đô đốc phải là người của ta. Tôi cũng nhấn mạnh với ông ta, chúng tôi có tấn công Đài Loan hay không là việc riêng. Ông ta không nên sốt sắng can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Còn về chuyện công xã nhân dân, tại sao chúng tôi không nên thử xem sao?” Tôi đã trả lời tất cả để ông ta hiểu. Chúng ta có thể tham gia hạm đội, xây dựng dàn radar tầm xa nhưng với điều kiện của tôi đưa ra. Còn vấn đề Đài Loan và công xã nhân dân chúng ta không phụ thuộc bất cứ điều gì của Liên Xô yêu cầu.
Dư luận thế giới và phương Tây xa xôi không biết xung đột giữa Trung Quốc và Liên Xô đã bắt đầu.
Trên đường đến Bắc Đới Hà, Mao vẫn còn bực tức. Ông phàn nàn:
– Khrushchev không hiểu ông ta đang nói gì, nói với ai. Ông ta muốn cái thiện mối quan hệ với Mỹ à? Được, chúng ta sẽ chúc mừng ông ta bằng vũ khí của chúng ta. Bom đạn của chúng ta cất giữ đã lâu đến nỗi trở thành vô dụng. Tại sao chúng ta không sử dụng chúng vào ngày ăn mừng buổi lễ của họ? Có thể chúng ta sẽ kéo cả Mỹ vào cuộc. Mỹ có thể điên khùng ném một trái bom nguyên tử vào Phúc Kiến, sẽ có mười hay hai muơi triệu người chết. Từ lâu Tưởng Giới Thạch mong Mỹ dùng bom nguyên tử chống chúng ta. Cứ để xem chúng có dám làm không? Hãy chờ xem Khrushchev nói gì. Một số đồng chí của chúng ta không hiểu tình hình. Họ muốn vượt qua eo biển, đánh chiếm Đài Loan. Tôi đã bác bỏ, cứ để yên, đừng đụng đến Đài Loan. Đài Loan đang gây sức ép chúng ta, vì thế nội bộ chúng ta đoàn kết. Hết sức ép bên ngoài, có thể nội bộ ta sẽ mất đoàn kết.
Những điều Mao thổ lộ làm tôi bối rối. Tôi chẳng biết gì về đài phát thanh hay hạm đội chung và biết rất ít về Đài Loan. Khi ông phân tích vấn đề Đài Loan, tôi thầm hy vọng chẳng bao lâu nữa sẽ có những cuộc đàm phán về hoà bình giữa hai bên. Tôi cũng chưa biết tí gì về kế hoạch thành lập công xã nhân dân. Chúng tôi chỉ vừa mới qua thời kỳ chuyển các hợp tác xã nông nghiệp lên một bậc cao hơn.
Phải mất vài tuần tôi mới hiểu được ý nghĩa thực tế của thái độ của Mao về vấn đề Đài Loan. Ngược lại, bằng quan sát của mình, tôi đã sớm hiểu được công xã nhân dân.
Ngày 2-8-1958, ngày chúng tôi từ Bắc Đới Hà trở về, vào lúc ba giờ sáng, một vệ sĩ của Mao đánh thức khi tôi đang ngủ say. Chủ tịch muốn học tiếng Anh. Tôi vội tới phòng ông và chúng tôi bắt đầu đọc “Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ viễn tưởng đến khoa học” của Engels. Bên cạnh Tuyên ngôn cộng sản, đó là một cuốn sách được ưu ái, chúng tôi thường xuyên bận rộn với cả hai cuốn sách này. Mao không bao giờ học tiếng Anh một cách nghiêm túc. Ông chỉ lợi dụng những giờ học này để thư giãn và tán gẫu. Khoảng sáu giờ sáng chúng tôi nghỉ. Mao mời tôi ăn điểm tâm.
Trong bữa ăn Mao cho tôi xem số mới nhất của tờ Bản tin Nội bộ. Nó cung cấp thông tin cho những cán bộ cao cấp nhất về những sự kiện mà đảng muốn giữ bí mật trước công chúng. Việc thông báo thường mang tính phê bình, phân tích những vấn đề thời sự hoặc những mâu thuẫn giữa lý tưởng của đảng và thực tế trong đời sống thường ngày. Trong thời kỳ phong trào Trăm hoa đua nở năm 1957, khi mà ai ai cũng đều được khuyến khích nói lên suy nghĩ của mình, thì Bản tin là chiếc loa truyền thanh những lời phê bình đảng không thương tiếc. Thi thoảng người ta cũng tìm được một số bài đưa những tin giật gân về các vụ cướp của, giết người mà chưa bao giờ thấy trên phương tiện thông tin đại chúng.
Khi chiến dịch chống hữu khuynh vào mùa hè năm 1957 bắt đầu, tờ Bản tin cũng thay đổi tính chất. Một số phóng viên đã phơi bày mảng tối của xã hội Trung Quốc, như Lý Thẩm Tri đã bị quy hữu khuynh, nên bị mất chức, thậm chí có người còn bị đày đi những vùng hẻo lánh xa xôi. Đầu năm 1958, khi chiến dịch làm trong sạch nội bộ đảng và thử nghiệm của Mao đưa đảng đi theo con đường của mình được làm sống dậy, tờ Bản tin Nội bộ đã quay ngoắt 180 độ. Bấy giờ nó lại ca tụng những thay đổi diễn ra ở Trung Quốc đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Bản tin Mao cho tôi xem sáng hôm đó đã tường thuật về buổi thành lập một công xã nhân dân – tổ hợp nhiều hợp tác xã nông nghiệp nhỏ thành một tổ chức khổng lồ duy nhất – ở Chay A Sơn thuộc tỉnh Hồ Nam.
Mao nói: “Đây là một sự kiện đặc biệt quan trọng. Nhiều họp tác xã ở nông thôn đã thống nhất lại để thành lập một công xã nhân dân lớn. Công xã nhân dân sẽ là chiếc cầu nối từ chủ nghĩa xã hội đến chủ nghĩa cộng sản. Thế nhưng có nhiều điều chúng ta vẫn chưa biết, như tổ chức một công xã nhân dân thế nào, công xã nhân dân làm việc, phân chia lợi tức ra sao và làm thế nào để biết được khối lượng công việc của mỗi người? Bằng cách nào thực hiện được gắn sản xuất nông nghiệp với huấn luyện quân sự trở thành thực tế”.
Vào khoảng thời gian Xuân-Hè 1958 khi đại công trường xây dựng đập triển khai, đã làm nông thôn thiếu lực lượng lao động trầm trọng, trong khi đó một số nơi bắt đầu hợp nhất lên Công xã nhân dân. Ban đầu công xã có rất nhiều tên gọi khác nhau, Mao chưa có điều kiện đi kiểm tra thực tế, bộ chính trị cũng chưa thông qua kế hoạch, nhưng ông muốn nó phát triển sâu rộng và kêu gọi mang tên Công xã nhân dân.
Mao muốn tôi đi kiểm tra một vài công xã nhân dân mới thành lập. “Đồng chí hãy quan sát tất cả. Hãy ở đó một tháng, thu thập tình hình đầy đủ, chính xác, về báo cáo tôi. Đồng chí đã làm xong những công việc cần thiết ở đây rồi chứ?”
Trong dịp hè yên tĩnh và kéo dài ở Bắc Đới Hà, theo đề nghị của Mao, tôi và ông cùng bắt tay dịch cuốn sách từ tiếng Anh sang tiếng Trung, cuốn sách bàn về quá trình lão hoá. Trong khi dịch, chúng tôi thường trao đổi với nhau, ông rất thú vị với mấy chương đầu, nhưng đến đoạn nói về ảnh hưởng của quá trình lão hoá đến các tế bào và cơ thể, ông bắt đầu chán. Tuy vậy, tôi vẫn tiếp tục dịch để thời gian được tận dụng vào một công việc có ý nghĩa đồng thời giữ mối quan hệ với các tài liệu y học. Nhưng tôi hứa với ông có thể tạm hoãn lại việc dịch sách, dành thời gian cho chuyến công du này.
Mao nói:
– Cuốn sách này chẳng có ý nghĩa thật đặc biệt. Sau này đồng chí cũng vẫn có thể dịch tiếp. Ngược lại, công xã nhân dân là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng đến cơ chế chính trị của nước ta. Năm 1949. khi quân đội chúng ta vượt sông Dương Tử, một người Mỹ đã viết một cuốn sách có tựa đề “Trung Quốc làm chấn động thế giới”, đại loại như vậy. Giờ đây, mười năm sau, với việc thành lập các công xã nhân dân, một lần nữa Trung Quốc lại làm chấn động thế giới. Vì vậy đồng chí hãy đi thị sát xem sao. Nhưng đừng đi một mình, hãy đề nghị Diệp Tử Long và Hoàng Thụ Tắc đi cùng.
Sự hiểu biết về một nước Trung Quốc nông nghiệp của tôi chỉ đóng khung trong các cuộc dạo chơi vào các xóm làng, mỗi khi con tàu của Mao dừng lại đôi chút ở đâu đó. Và những gì tôi được chứng kiến lại toàn là những cảnh ghê sợ, sự nghèo đói cùng cực và những người nông dân còn sống được nhờ những chiếc bánh bao làm bằng ngũ cốc xay xát qua loa. Họ là những con người thật thà, chất phác. Có lần, tôi mua hai chiếc bánh bao, nhưng họ đã biếu, không lấy tiền. Tôi ăn một chiếc, một chiếc tôi đưa cho Mao. Ông chẳng mấy ngạc nhiên khi tận mắt thấy cảnh cơ cực như tôi tưởng. Thế mà ông khuyến khích tôi, những người khác nên có những cuộc “điều tra xã hội” như vậy, mỗi khi chúng tôi có dịp.
Trong khi đang nói về việc biệt phái tôi đi thanh tra công xã nhân dân, ông thiếp dần trong giấc ngủ, lời nói nhỏ dần và gần như không thể nghe thấy được nữa. Ngay trước bữa ăn, ông đã uống thuốc ngủ. Ông nảy ra ý nghĩ kiểm tra công xã nhân dân khi đã ngấm thuốc, đưa ông vào trạng thái mơ màng. Tôi không rõ, đề nghị của ông nghiêm túc hay đó chỉ trong cơn mộng dưới tác dụng của những viên thuốc ngủ.
Tôi đáp:
– Tôi sẽ bàn với những người khác. Trong vòng từ hai đến ba ngày, chúng tôi có thể lên đường.
Vừa chợp mắt một lát, ông mở mắt nói to:
– Chẳng có gì phải bàn nữa. Đồng chí bảo với họ, hôm nay phải chuẩn bị xong, ngày mai lên đường ngay.
Rồi Chủ tịch lại thiếp đi. Lúc đó là 8 giờ sáng. Lập tức tôi thông báo cho Diệp Tử Long về nhiệm vụ mới nhất Mao vừa giao cho.
Một tháng ở nông thôn – một chuyến công du không có Mao và chỉ đi bằng xe lửa loại thường, phải ngủ trong những nhà trọ bình dân và ăn những thức ăn có chất lượng thấp của nông dân. Tất cả những điều đó khác hẳn với một nhiệm vụ dễ chịu như Diệp Tử Long tưởng bở. Ông chẳng thèm quan tâm đến chính sách quốc gia. Chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản đối với ông cũng như nhau, nếu như cuộc sống xa hoa của ông không bị ảnh hưởng.
Diệp Tử Long ca cẩm:
– Chủ tịch vẫn ăn ngon, thảnh thơi chả phải làm gì. Chúng ta làm trò trống gì theo phát rắm của ông trong chuyến đi này.
Tôi bảo chúng ta phải đi, đây là lệnh của Chủ tịch. Diệp nói:
– Đồng chí báo cho Hoàng Thụ Tắc biết. Sau đó chúng ta sẽ gặp nhau và bàn về việc này. Nhưng ngày mai chưa thể đi được, tôi phải cần vài ngày thu xếp.
Lời của ông làm tôi rất lo. Chúng tôi không được phép lần chần. Tôi cự lại:
– Chủ tịch ra lệnh ngày mai phải lên đường, chúng ta không được cưỡng lại chỉ thị của Chủ tịch.
Tôi đề nghị Diệp Tử Long trực tiếp lên nói chuyện với Mao trong khi tôi đi báo cho Hoàng Thụ Tắc, phó Ban y tế trung ương.
Hoàng, một môn đồ sùng tín của Mao. Lời của Chủ tịch đối với ông thật thiêng liêng. Tất nhiên, Hoàng cảm thấy tự hào khi được Mao giao nhiệm vụ, sẵn sàng lên đường ngay ngày hôm sau.
Tôi vẫn lo mệnh lệnh của Mao. Mệnh lệnh đưa ra khi ông ngấm thuốc trong tình trạng nửa thức nửa ngủ. Cũng có thể do ông ngẫu hứng. Tôi quyết định đem chuyện này bàn với Giang Thanh.
Vào lúc gần trưa, tôi được dẫn vào phòng của bà. Bà vẫn ở trên giường, đang ăn sáng gồm sữa chua hạnh nhân, bánh mì nướng. Tôi trình bày tình thế khó xử, bà trả lời:
– Tôi không tin Chủ tịch nói rồi để đó đâu, nếu lời nói đó liên quan đến một việc hệ trọng như vậy Nhưng khi nào Chủ tịch dậy tôi sẽ nói chuyện với ông.
Tôi đến gặp Điền Gia Anh, bí thư chính trị của Mao, bạn thân sẵn sàng tiếp tôi bất cứ lúc nào. Ông luôn luôn biết rõ mọi tin tức, không phải chỉ từ tờ Bản tin, mà từ các tài liệu mật do các bạn ông và những thư ký chính trị cấp dưới khắp nơi ở Trung Quốc thông báo. Ông biết hết các công xã nhân dân mới thành lập. Tuy nhiên ông vẫn tỏ ra nghi ngờ sự thành công.
Điền lấy thí dụ, năm 1956, nông dân đã kêu ca quá vội vã trong việc triển khai hoạt động của các hợp tác xã cấp cao. Trong khi việc quản lý hợp tác xã ở các cơ quan cấp thấp vẫn chưa quản lý tốt, người ta đã nâng cấp hợp tác xã. Bây giờ chúng ta lại tìm cách áp dụng một cơ cấu tổ chức cao hơn nữa là công xã nhân dân. Theo ý ông, người ta chưa biết công xã nhân dán sẽ có hiệu quả kinh tế hay không, nhưng những người lãnh đạo đảng ở các tỉnh vẫn lợi dụng công xã để lấy lòng Chủ tịch. Do Mao phát động trong cuộc họp ở Thành Đô, Nam Ninh, các vị lãnh đạo các tỉnh cố tỏ ra họ triệt để thực hiện nghị quyết. Họ nghĩ ra đủ mọi mánh khóe để thu hút được sự chú ý từ Bắc Kinh, phát động một chiến dịch ganh đua cuồng dại nhằm đạt tỉ lệ tăng trưởng sản xuất cao nhất. Ai cũng muốn mình dẫn đầu. Điền Gia Anh khuyên tôi hãy trực tiếp theo dõi việc này.
Sau bữa trưa, tôi gói ghém đồ đạc chuẩn bị cho chuyến công du hôm sau, rồi chợp mắt một chút vì đã dậy từ lúc ba giờ sáng cho đến giờ.
Bẩy giờ tối, anh vệ sĩ Tiểu Lý của Mao đánh thức tôi dậy. Chủ tịch muốn gặp tôi. Cả Diệp Tử Long cũng như Giang Thanh đều đã nói chuyện với Mao. Mao nói:
– Tôi đã quyết định đích thân đi thị sát tình hình. Đây là vấn đề lớn, tại sao tôi không trực tiếp đi kiểm tra. Vài ngày nữa chúng ta sẽ khởi hành. Tôi muốn đi thăm rất nhiều nơi. Đồng chí hãy chuẩn bị và đưa theo một trợ lý, nếu đồng chí cần người giúp đỡ.
Mao bảo, thôi “tha” Hoàng Thụ Tắc, không cần đi. Thay vào đó, Mao cần một nữ y tá. Ông vẫn thường dùng nhân sâm do tôi kê đơn để ông khỏi bị liệt dương. Nhân sâm được các y tá sắc theo phương pháp cổ truyền, tức là nấu với nước thành một loại thuốc uống. Tôi đề nghị đưa theo Ngô Tự Tuấn, người đã từng cùng đi với chúng tôi sang Moskova.
Mao nhắc tôi, chuyến đi này phải được giữ tuyệt đối bí mật. Nhiệm vụ của tôi không phải chỉ là bác sĩ riêng, ông còn cho rằng:
– Đối với những nhân viên y tế, không nên chỉ trói buộc họ trong việc chữa bệnh.
Ông không muốn tôi sống cách biệt với xã hội bên ngoài, nhất là khi trong xã hội đang có một biến cố quan trọng như thế. Phải tìm hiểu xem biến cố này sẽ làm con người thay đổi như thế nào. Chúng tôi sẽ xem xét mỗi công xã nhân dân có những đặc điểm mang tính nguyên tắc xã hội chủ nghĩa như thế nào. Hai ngày sau, chúng tôi rời Bắc Đới Hà trên tàu hoả sang trọng dành riêng cho Mao. Phần vì thách thức Khrushchev, phần do ngẫu hứng bởi tác dụng của thuốc ngủ, nhưng cũng do cả bàn tính hiếu kỳ bẩm sinh của Mao, nên “chuyến thanh tra” kỳ thú mà Mao thực hiện bắt đầu như vậy.
Con tàu của chúng tôi xuôi về phía Nam “Cuộc thăm dò xã hội” này từ đầu đã được hiểu như vậy thật đặc biệt. Thế là chiến dịch Đại nhảy vọt bắt đầu.
Lý Chí Thoả
Nguyễn Học và Lâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa
No comments:
Post a Comment