Wednesday, April 19, 2017

VÕ PHƯỚC HIẾU * CON NHỆN GIĂNG TƠ


Võ Phước Hiếu


Con Nhện Giăng Tơ

                 (Tập truyện)


          In lần thứ nhứt, Hương Cau 2012.

                 Ta chợt già như không trẻ được
Buồn trăm năm, lẻ mấy năm vui?
Vai thế hệ gánh bao lần sông núi
Đời gian nan vẫn bước chưa hề lui!
                                     (Gởi anh Võ Phước Hiếu)
                                              Phương Triều
                                               17-09-2007

                                                                           -***-

                             Miền Nam Lục Tỉnh
                              Trong truyện ký của Võ Phước Hiếu



Trong tập biên khảo Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX: Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại xuất bản năm 2004, chúng tôi đã nói đến một văn nghệ «miệt vườn» nở rộ ở ngoài nước, sau biến cố 30-04-1975. Trong hoài niệm, người miền Nam đã làm sống lại một «mảng» văn học đặc thù. Người miền Nam «Lục Tỉnh» lần đầu phải rời bỏ quê hương đông đảo đã thành công ghi lại quá vãng văn hóa, tình tự con người và những thú điền viên, nếp sống không còn nữa hay không còn hy vọng tìm lại như trước. Võ Kỳ Điền, Nguyễn Tấn Hưng, Kiệt Tấn, Hồ Trường An, Nguyễn Văn Sâm, Trần Long Hồ, Nguyễn Văn Ba, Sĩ Liêm, Huỳnh Hữu Cửu, Võ Phước Hiếu, Phùng Nhân, Cao Bình Minh, Đặng Thị Quế Phượng, Nguyễn Thị Phong Dinh, Hoàng Du Thụy, Nguyễn Thị Thảo An, Tiểu Thu v.v… Khi đã xa thì cây trái quê mình mới thấy là quý và khi phải sống đời lưu xứ thì mảnh đất quê nhà trở nên thân thương như không thể dứt rời! Chúng tôi sử dụng cụm từ «Nam Kỳ Lục Tỉnh», một đặc điểm rộng lớn hơn tính «miệt vườn». Và sau khi được mùa với nhiều đợt tỵ nạn, đoàn tụ gia đình, thì vào những năm cuối thế kỷ XX, «mặt trận» văn chương «miệt vườn» lặng lờ hơn, người viết ít lại và ít tác phẩm hơn. Tính chất khai phóng của văn học miền Nam dần mất phần nào khía cạnh bộc phát hồn nhiên, văn chương và tình ý dần dà cũng được lăng kính tâm và trí thức gạn lọc hơn.


Trong số các nhà văn Nam Kỳ Lục Tỉnh, Võ Phước Hiếu năng động và bền bĩ hơn cả, dù ông xuất hiện trên văn đàn hải ngoại sau đợt sóng «miệt vườn». Tập truyện đầu tay ông xuất bản ở hải ngoại là Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá do Làng Văn (Toronto, Canada) xuất bản năm 2000 (tái bản 2009), sau đó là Hùm Chết Để Da (Làng Văn 2001, tái bản 2010), Như Nước Trong Nguồn (2004), Quê Cha Quê Mẹ Quê Mình (2006). Ông còn xuất bản chung với nhà văn Hiếu Đệ các tập: Bên Đục Bên Trong (2004), Niềm Đau Bạc Tóc (2005), Nước Mắt Tình Yêu (2006), Nước Lớn Nước Ròng (2007), Ngàn Sao Lấp Lánh (2008). Tất cả đều do nhà Hương Cau ở Pháp xuất bản.


Với bút hiệt Võ Đức Trung, ông làm thơ phần lớn bằng Pháp ngữ và đã xuất bản Thắp Sáng Hoàng Hôn (1989), Le Chemin Vers La Mer (1988), Cœur De Mère (1989), Les Sentiers De L’Exil (Editions Feu Sacré, 2009), cũng như chủ biên tập hợp thi ca Một Phần Tư Thế Kỷ Thi Ca Việt Nam Hải Ngoại 1975-2000 (2003-2008), hai tuyển tập thi ca lưu vong Ba Mươi Năm Niềm Đau Còn Đó 1975-2005 (2006), Tình Lính Duyên Thơ (2008), cùng các tuyển tập hoài niệm Phi Vân, Nỗi Buồn Hoài Niệm (2009) và Hiếu Đệ Lão Ngoan Đồng (2010). Ông từng chủ trương tạp chí Văn Hóa (France Vietnam Culture) xuất bản ở miền Bắc Pháp vào thập niên 90. Trước khi phải rời bỏ quê hương làm thân tỵ nạn và làm văn hóa, trong thời lịch sử miền Nam tự do 1954-1975, Võ Phước Hiếu đã chủ trương một nhà xuất bản đa dạng, tụ tập được nhiều giáo sư đại học cũng như khuynh hướng chính trị.


Trong bài nầy, chúng tôi viết về các truyện ký của tác giả Võ Phước Hiếu đã xuất bản cho đến hôm nay 2010, qua bốn tập truyện và năm tập in chung với Hiếu Đệ, và chúng tôi đi tìm những đặc tính Nam Kỳ Lục Tỉnh qua các trang viết của ông. Một số các tuyển tập truyện được tác giả ghi thêm phụ đề «chuyện đồng quê», «chuyện đồng quê miền Nam» hoặc «chuyện đồng quê Nam Kỳ Lục Tỉnh». Các tựa đề Võ Phước Kiếu chọn đã gợi ý và khiêu khích người đọc tìm đến truyện ký của ông: Ngày Ấy Qua Mau, Như Nước Trong Nguồn, Nỗi Buồn Hoài Niệm, Nỗi Nhớ Tìm Về, Quê Hương Lãng Đãng, Miếng Thương Miếng Nhớ, Niềm Đau Cuối Đời v.v…


Thật vậy, ông viết về những đề tài thường thấy nhất của văn học hải ngoại, đó là quá khứ và quê nhà, và ở những vùng thôn quê của miền Nam Lục Tỉnh! Người phải sống lưu xứ có những nhu cầu, hy vọng và những âu lo riêng. Trong tình cảm đó, quá khứ trở thành tổ ấm, ngọn lửa. Thời gian đã qua khiến quá khứ trở thành một thực tại thường trực, bất biến! Quê hương của người phải sống lưu đày như đối với người Việt sau tháng Tư 1975 là một quê hương đã mất nhưng đồng thời quê hương đó cũng trở nên không chắc chắn, mơ hồ vì cái mất mát ở đây không thể đo lường, thống kê như khi người ta đánh mất vật dụng hay tài sản! Quê hương đó đi đôi với quá khứ, một quá khứ lịch sử và văn hóa!


Quê nhà, không gian ấy, Rạch Rít hay làng xóm miền quê sống động trong những trang viết và đối với Võ Phước Hiếu, như một hạnh phúc được sống lại, như đang sống. Thứ hạnh phúc còn có thể tìm thấy trong văn chương, nhờ đó mà còn có thể qua văn chương đi thăm lại những con đường quê, bờ ruộng, khu phố xưa, càng xưa càng thấm. Qua văn chương và với một tấm lòng! Như Võ Phước Hiếu đã hơn một lần tâm sự với người đọc:


«Tôi có thói quen thường lang thang trở về quá khứ, sống lại những ngày qua xa hút, xem như một phong cách đương nhiên của con người trần tục, lúc tuổi xuân đã bị bỏ lại quá xa sau lưng mình (…). Và cũng để nhận rõ ra rằng mỗi cuộc đời đều phải có trước có sau, có cội có nguồn, có căn cơ gốc rể (QCQMQM, tr. 208).


Nhìn chung, bối cảnh của gần toàn bộ truyện ký của Võ Phước Hiếu là các vùng đất thôn quê, những nơi chốn khác nhau của miền Tây không xa Sài Gòn là bao. Ngôn ngữ, nhân vật, tâm lý cũng là của con người sống chết với miền đất mới còn gọi là vùng đất phù sa và tân bồi - cũng là những nơi ông đã sống, nay phải xa và đã mất đi - nhờ đó ông đã có nhiều cảm hứng để viết, và cũng nhờ đó ông đã ghi nhận được những nét tinh tế, linh động và đặc thù địa phương! Thật vậy, tác phẩm của Võ Phước Hiếu vẽ lại một cách sống động hình ảnh những con người chân lấm tay bùn, quanh năm bám chặt với ruộng vườn - nơi cảnh có thơ mộng nhưng phải đổ mồ hôi, nước mắt và cũng đầy bất công, áp bức, khổ đau. Miền Nam là nơi «đất đai hoang vu ngút ngàn không ai thừa nhận sở hữu chủ. Mạnh ai nấy vóc tâm gắng sức đổ mồ hôi làm thành khoảnh, theo sự cổ võ khuyến khích của làng xã, đã chánh thức cấp giấy phép tạm thời cho vỡ hoang, cày cấy trồng trọt sinh sống. Họ đến đấy ‘đất nước lạ lùng’, ‘chim kêu vượn hú’, không một bóng người, đôi khi đơn độc một mình. Tứ cố vô thân. Hành trang mang theo chỉ vỏn vẹn vài dụng cụ cần thiết cho cuộc sống và nhu cầu làm việc hằng ngày.


«Đại khái một nóp bàng để ngủ đêm cuốn tròn gọn lỏn quải trên vai. Một chiếc áo tơi lá chầm, người bạn đời không bao giờ rời, như bóng với hình mùa mưa dầm rả rích, gió lạnh thấu xương. Rồi ít dao rựa, vài cái phản cổ cò cổ diệc để phác cỏ hoang, năn sậy.


«Và quan trọng hơn hết, một cái cà rang dễ di chuyển, đặt nơi nào cũng được, trong chòi vào mùa khô, trên bè hay xuồng ba lá nhằm mùa lũ lụt. Quanh năm nó giúp ấm lòng ấm dạ để an tâm trong hiện tại và phấn khởi ở những ngày dài trước mắt.


«Thêm chiếc xuồng con thon thon làm chưn làm cẳng xê dịch đó đây hoặc dùng chuyên chở mạ non, thóc lúa. Không có nó kể như bị chặt tiện mất hai chân. Không còn khả năng làm ăn ra trò trống gì cả ở vùng sông rạch với những đường nước mà trời cao lồng lộng, rộng rãi ban cho thừa thải khắp nơi.


«Nhưng khi đất đã có chút ít hoa màu, dân ra quận, lên tỉnh xin hợp thức hóa, họ mới tá hỏa tam tinh, té ngữa, kêu trời không thấu. Phần đất khai khẩn bấy nay là sở hữu của thầy Cai tổng nầy, ông Hội đồng nọ, hoặc của ông lớn ông nhỏ, bà thứ bà bé các quan ở quận ở tỉnh. Đôi khi còn ở xa mút tí tè tận Sài Gòn Chợ Lớn hoa lệ nữa. Họ ngồi không, chưa hề động đến móng tay, chẳng nhễu một giọt mồ hôi công khó, chỉ chờ đến thời điểm thuận lợi cấu kết nhau chia phần từ thuở nào rồi” (Trâu Già Chẳng Nệ Dao Phay).


Các nhân vật chánh trong truyện của Võ Phước Hiếu thường gặp những biến cố, trắc trở, bất ngờ xảy ra, vì “cuộc đời thăng trầm, thượng vàng hạ cám”. Nhất là những người dân nghèo lam lũ, những nạn nhân của thời cuộc v.v… Đi vào thế giới văn chương của Võ Phước Hiếu, thật vậy, người đọc bắt gặp một trời tình cảm dạt dào, găn bó với đất đai, dù hoàn cảnh, tình thế có thế nào đi nữa. Cũng vì tình cảm nầy mà người dân ở chốn thôn quê phải gánh chịu nhiều cay đắng cũng như nợ nần và thất vọng. Họ bắt buộc phải đối dầu vời những khó khăn trước mắt, chạm trán từng ngày với thực tế khắc nghiệt, cam khổ. Vì thế họ liên tục là nạn nhân dù thời thế có đổi thay!


Truyện Bác Thầy Hù vẽ lại cuộc sống đầy bất trắc sau ngày 30-04-1975, với chánh sách Giản dân Kinh tế mới của cộng sản Hà Nội, thật ra chỉ là đòn thù nhắm những thành phần chúng xem như là kẻ thù giai cấp - những Hai Nhím nghệ sĩ hát bội nay phải hớt tóc dạo - qua nhân vật nầy, những tên cán bộ, công an khu vực dưới ngòi bút của tác giả trở nên kịch cỡm: “đồng phục màu vàng xúng xính xùng xình, xanh xao vàng vọt như tàu lá chuối non, ốm yếu trơ bẹ xường như cá lẹp tăm nhang, mặt mày hống hác nhăn nheo như những người già háp (…) Bây giờ đã thấy hắn ta phì ra tròn vo, căng da trắng mởn…”. Chúng ‘lột da, đổi lốt’ nhưng lòng dạ vẫn tham hiểm, tàn bạo. Đạo đức hay cách mạng đều giả, có lúc sàm sở hỏi tìm gái ‘chịu chơi’.


Trong Đồ Quân Ăn Cướp, nhân vật thằng Vẳng dù theo cộng sản và được nhìn nhận có công với “cách mạng”, nhưng hai năm sau ngày 30-04-1975 cuối cùng cũng đã trở nên nạn nhân, y cũng bị cướp nhà đất như dân “ngụy”, do âm mưu của “đồng chí” mụ Bảy Rồi, đại diện tập đoàn “như gà mở cửa mả, quanh quẩn bên mồ ma”. Tựa truyện mà cũng là tiếng chưởi rủa của thằng Vẳng sau khi bị chúng xảo quyệt cướp mất nhà mất vườn.


Đến truyện Bức Chân Dung, nhân vật bộ đội Tư Ca, người xứ “Đồng khởi” nhưng không tiến thân được vì lý lịch bần cố nông chưa đủ và bị phê bình kiểm thảo liên tu. Dù trung thành theo Đảng cộng sản nhưng lại thường trực sợ hãi, sợ chết, xin xâm nhập vào Nam vì muốn xa lánh đám cộng sản Bắc. Về sau lê la kiếp sống “mượn hơi men cay nồng nóng cháy của rượu đế quốc doanh để vỗ về giấc ngủ hối hận và lỗi lầm (?) nhằm xoa dịu những ray rứt xót xa trong lòng (?). Và cũng để quên những “thành tích lẫy lừng” suốt một kiếp người đóng góp xây dựng chế độ Xã hội Chủ nghĩa tai hại cho cả nước”.


Chú Năm Nghê trong truyện Trâu Già Chẳng Nệ Dao Phay sau 1975 tuổi đời đã hơn 70, đã sống qua đủ đổi thay nhưng cũng không thể sống dưới chế độ cộng sản Hà Nội. Ông cũng muốn chết vì “ông bà viễn tổ mình nói đúng lắm: ‘Chết trẻ khoẻ ma, chết già nhọc xác’. Sống lâu trong chế độ nầy thêm nhục nhã. Tao cầu nguyện ông Trời thương, ngủ một đêm đi luôn, khoẻ ru bà rù, không phiền hà ai, ngay cả cái bản thân của mình nữa. Sống thoi thóp, cơm ngày hai buổi, chạy túi bụi, mệt cầm canh mà còn bữa đói bữa no. Chết đói cà dựt cà dựt như vầy thêm đau đớn, tội cho xác thân”.


Chú cho biết lý do: “Cái đám lãnh đạo lãnh địa, chỉ đường chỉ ngõ nầy, dốt đặc cán mai. Chữ viết như cua bò, quọt quẹt chấm phết như ở thời phong kiến La Mã. Nhiều tay vua chúa, tướng tá chém giết không ngừng tay, oai phong lẫm liệt, hò hét thét ra lửa, nhưng khi ký tên chỉ có hai sổ ngang và đứng làm dấu thánh giá. Làm sao chú cháu mình ngóc đầu dậy nổi? Họp hè thúc réo, tao đếch có đi. Tao ‘măng phú’. Tới đâu thì tới. Đường cùng rồi! Tụi nó có muốn làm gì thì làm. Sao cũng được. Đầu tao đã bạc trắng rồi! ‘Trâu già chẳng nệ dao phay’ mà!”. Đám cán bộ làm mưa làm gió bất kể tình người vì ‘Đám con cháu bác Hồ nghèo xơ nghèo xác đang hồ hởi tập tành đổi đời qua những tiện nghi phồn vinh giả tạo của miền Nam’”.


Những chuyện bi hài hậu-30 tháng Tư chiếm nhiều trang truyện của Võ Phước Hiếu. Như hầu hết tất cả người miền Nam đã phải bàng hoàng trước những đổi đời sau ngày gọi là “giải phóng”. Nói như tác giả, “’Khí thế cách mạng’ đang lên, lòng người hời hợt nhẹ dạ có lắm đổi thay không ai lường trước được”. Trong Con Sao Chiếu Mạng, nhân vật Hai Ngọng đời cha đời con đạp xích lô ở Xóm Cống là một nạn nhân tiêu biểu, hồ hởi khi cộng sản đến bao nhiêu thì sau những trò học tập và tuyên truyền “giải phóng giai cấp nghèo”, “làm chủ tập thể” v.v… lại trở về làm nạn nhân còn tệ hại nhiều lần so với trước ngày chúng vào. Cộng sản bày ra Tổ hợp đạp xích lô, Hai Ngọng phải giao nộp xe cho Tổ hợp và trở thành… tổ viên đạp chiếc xe xích lô của mình ngày trước: “Làm chủ mà nay đói nhăn răng, vợ con ốm yếu gầy mòn. Nó bắt đầu càu nhàu cau có và văng tục với giọng ngọng nghịu bẩm sinh”. Cuối cùng nhà đất cũng mất hết, nằm trong một mái lá lụp xụp, nó mới nghiệm ra rằng nó đã bị “sao vàng” chiếu cho… mạt tận luôn! (Trong khi bà vợ thực tế cho là y bị con sao “chàn hảng” chiếu cố).


Truyện ký của Võ Phước Hiếu mang tính truyền thần vì ông dùng văn tự để minh họa lại cho người đọc ông - phần lớn ở ngoài nước - những con người trọng nghĩa khinh tài, thật thà, quê mùa, lời nói thẳng ruột ngựa. Cá tính thì cương trực, dứt khoát và trọng chữ tín. Đó là tính cách của người nông dân Nam Kỳ trong một xã hội đen tối, đầy phức tạp và nhiều biến động, từ thời Pháp thuộc cho đến sau 1975. Chính hoàn cảnh sống và việc phản ứng lại tình cảnh là những nhân tố tạo thành tính cách nầy.



**


Trâu Già Chẳng Nệ Dao Phay kể chuyện chú Năm Nghê của cùng xóm Rạch Rít, có duyên “kể chuyện xưa tích cũ, nói thơ Chàng Lía, thơ Thầy Thông Chánh, cậu Hai Miêng… nhứt là thuật chuyện tiếu lâm châm biếm, mọi người đều cười nôn ruột…”. “Chú tự tạo niềm vui, tự tạo những ngày tháng hạnh phúc cho chính bản thân mình. Vì chú quả quyết, niềm vui và hạnh phúc chỉ do chính mình tự tạo ra, chính mình suy nghĩ phát kiến mà có, chớ không ai vào chéo đất hoang vu nầy ban bố cho bao giờ. Nhứt là chẳng ai mang tiền mang của, dù tiền rừng bạc biển ra mà hòng mua được. Nhưng cái ưu điểm quý hiếm tuyệt vời ở chú Năm Nghê là biết chia xẻ niềm vui và hạnh phúc đó cho mọi người xung quanh. Như vậy cuộc sống chung đụng hằng ngày thêm dễ chịu, hào hứng và có ý nghĩa hơn”.


Với một nhân sinh quan lạc quan tự nhiên như nắng mưa, như con nước lên xuống, nhân vật Năm Nghê cuộc đời đổi thay, lên xuống, cả bị đưa sang Pháp mẫu quốc làm lính thợ, nhưng vẫn nhìn đời bằng con mắt tin tưởng, thanh thản:“Kinh nghiệm cho tao thấy đời sống hằng ngày vô cùng tươi đẹp với muôn màu muôn sắc và ý nghĩa. Tha hồ mà chọn lựa. Đời rất hấp dẫn, chất chứa bao nhiêu lôi cuốn quyến rủ gọi mời. Đời lại muôn hình vạn trạng. Mỗi người nhìn một góc cạnh nào đó của cuộc đời để qua cái đẹp mình vừa khám phá, đón nhận đời với niềm vui hạnh phúc tự tạo. Từ đó dẫn dắt mình thêm thương yêu cuộc sống, thêm thương yêu những gì chung quanh mình như yêu người, yêu thiên nhiên, yêu nội tâm, yêu ngoại cảnh… Tất cả đều bao la không biên giới. Đời luôn luôn mở rộng cửa nẻo thênh thang để vẫy mời, đón đợi, mở rộng những ngõ ngách lối đi niềm nỡ tiếp rước mình. Chỉ có những ai bi quan chán chường, những tâm hồn bịnh hoạn, trật đường rầy mới lạnh lùng quay lưng lại đời. Những hạng người đó mới thực sự cô đơn thôi” (Trâu Già Chẳng Nệ Dao Phay).


Cách ứng xử rặt Nam Kỳ, có thể bị xem như có chút… quê mùa, thô sơ, nhưng là một thứ ứng xử kiểu Lục Vân Tiên hay “kiến nghĩa bất vi vô dõng dã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng” đã là những phương thức xử thế và nhân sinh quan của con người Nam Kỳ Lục Tỉnh, vốn đã thấm nhuần từ truyền thống văn hóa và giáo dục dân gian. Từ những ứng xử đó, người dân như ở xóm Rạch Rít đã đi đến một thứ triết lý tác giả gọi là “tự vệ để sinh tồn”: “Bà con tôi vốn nhẫn nhục, chịu đựng, trông cậy ở thứ tình đoàn kết keo sơn gắn bó, ở sự hy sinh bất kể đến sinh mạng mình để bảo vệ xóm làng. Cái triết lý tự vệ để sinh tồn, duy trì sự sống đáng sống ấy là niềm hãnh diện lớn lao của bà con tôi. Niềm hãnh diện ấy cùng với khí thế tự hào chung được thể hiện tròn đầy qua tiếng cười vui bất chợt trong những câu chuyện dong dài nhắc nhớ nhau sau mỗi đêm thức trắng. Họ ríu rít không ngưng ở những buổi sáng uể oải chống cướp quấy nhiểu dân tình” (Đám Cháy Đầu Xuân). Chuyện Vét Ao Ăn Tết cho thấy thêm khía cạnh thực tế của triết lý tập đoàn nầy ở chốn ruộng bưng và đồng rừng tân lập. Các truyện của Võ Phước Hiếu đầy rẫy những chuyện đạo lý, vốn là đặc điểm trội bật của xã hội ở vùng đất “tân lập ráo hổi” như Miền Nam Lục Tỉnh, nơi người dân vẫn tin “có đức mặc sức mà ăn” và “ăn trái nhớ kẻ trồng cây”. Người đọc được thấy lại những tinh thần đạo lý như “quân, sư, phụ” và “trọng đạo tôn sư” trong các truyện Ông Thầy Giáo Làng Quê, tinh thần kẻ sĩ như của ông Thầy Huế và ông thầy dạy chữ nho trong Chữ Nghĩa Một Thời, Giáo Sử và Thầy Huế trong Ngày Ấy Qua Mau, Hương sư Chương trong Như Nước Trong Nguồn. Như lời dạy của ông Thầy Huế tác giả còn nhớ: “đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi đạo” (đạo không xa cái bổn tánh con người; hễ vì đạo mà xa cái bổn tánh ấy thì kể đạo ấy không phải là đạo). Dù chỉ học một thời gian ngắn, nhưng theo tác giả ông Thầy Huế “đã hun đúc trong tâm hồn trong trắng của tôi một nền tảng vững chắc về đạo đức làm người và phương châm ứng xử qua cái tâm lành và nhân cách trong sáng của Thầy. Chính đó là căn cơ cội rễ của niềm tin nơi cuộc sống và cuộc đời của tôi sau nầy”.


Viên đốc tên Thường trong truyện Hùm Chết Để Da thì lại khác. Làm công chức ngành giáo dục thời Pháp thuộc, được lòng cấp trên và đồng nghiệp (như ông ta), nhưng lại là một con người bất thường và vong bản. Ngay từ trẻ, Hai Thường đã tỏ ra là một tay chân tốt cho chủ là ông bà Hương quản Hạnh. Cuộc đời tiến thân dễ dàng vì lúc đầu may mắn được giúp đỡ, từ quận lên Sài Thành học trường Sư Phạm, về sau thì bợ đỡ: ra trường, y làm đốc học trường nhỏ rồi trường lớn, rồi làm thanh tra (ta), dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ sinh sống, viết cả sách giáo khoa, nịnh quan Tây, nhưng xa lần tiếng mẹ đẻ cùng gốc gác của mình. Hương quản Hạnh trở thành Cai tổng Hạnh, gả con gái cho Hai Thường. Đốc Thường là môt người con bất hiếu, từ hành cử đến ngôn ngữ ăn nói, khiến thân sinh đã phải chua xót than phiền: “Hai Thường có học mà không có hạnh. Mà con người không có hạnh thì kể như đời vất đi”.


Thời đi học, y xấu hổ với bạn bè biết thân phận nghèo nên không thích mỗi khi cha là Bảy Cối, thợ đóng cối xay, lên thăm; khi lấy vợ rồi thì từ bỏ gốc gác gia đình và không hề nhắc đến xứ sở xóm Cống Bể Long Khê, ai hỏi thì chỉ khoe là con rễ của Cai tổng Hạnh ở Long Hưng Trung. Nhưng thời cuộc đổi thay, Nhựt đến, Pháp thua, rồi thời Việt Nam Cộng Hòa, đốc Thường bị cho về hưu non, sống đó mà như lê lết quãng đời còn lại - phải chăng ông hối tiếc đã “từ mẹ phụ cha” và “vong ơn bội nghĩa”?


Ngoài tình thầy trò và trọng đạo tôn sư, một số mẫu mực đạo lý nho giáo Á Đông như Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín hoặc tình phụ tử, mẫu tử, lòng hiếu thảo, tình gia đình, bằng hữu, hay của Phật giáo (nhân quả) v.v… cũng được Võ Phước Hiếu đưa vào các truyện ký. Các truyện trong tập Như Nước Trong Nguồn là những nỗi nhớ, thương tưởng ông bà, cha mẹ: ta có mặt và được như hôm nay là nhờ ở công ơn ông bà tổ tiên, và công danh hành trạng ta có cũng là do cha mẹ chăm chút tập tành từ những ngày thơ ấu. Mà được sống gần mẹ cha là hạnh phúc lớn: “phụ mẫu tại đường như Phật tại thế” (Cha mẹ còn sống trong nhà như Đức Phật ở thế gian). Mẹ tác giả qua đời khi ông đã đến đất tạm dung miền Bắc nước Pháp, nơi không có những chim vịt tiếng “kêu khắc khoải theo con nước lớn ròng”, mỗi khi hoàng hôn xuống, nỗi tiếc nhớ và ray rứt đậm đà cùng những nỗi buồn cứ trở về xâm chiếm gậm nhấm tâm hồn ông!


Ngoài ra, những chuyện trị quỷ trấn ma như với nhân vật Sáu Kiếm trong Con Quỷ Gò Bướm Quê Tôi cũng là phương tiện để đề cao đạo ngay lẽ phải và nhân quả nhãn tiền ngay tại kiếp nầy, cũng như để phê phán thói mê tín dị đoan của người mình.


Như vậy đặc tính Miền Nam Lục Tỉnh thật đã rõ rệt trong truyện của Võ Phước Hiếu, qua văn phong ngôn ngữ sử dụng cũng như qua các nhân vật, sự kiện và ký ức cá nhân cũng như tập thể!


**


Võ Phước Hiếu tinh tế trong việc sử dụng chọn lựa tình tiết câu chuyện một cách rất Nam Kỳ mà chỉ những người sinh trưởng ở một địa phương và thật sự yêu mến con người xóm làng của mình, mới thể hiện một thứ tình tự quê hương tinh tế như thế. Trong Quê Hương Lãng Đãng, người con là tác giả phải bỏ xóm Rạch Rít để đến Gò Đen trọ học, tuy không xa xôi lắm nhưng đã gây nơi tác giả biết bao nhung nhớ từng con nước, từng nơi chốn trẻ nhỏ vui đùa bè bạn, tất cả đã hiện lên trang giấy những hình ảnh quê hương tuyệt đẹp, không phải cái dẹp hào nhoáng, vật chất, mà là đẹp vì cảnh vật nơi đó có hồn và chứa đựng biết bao quá khứ và biến cố cuộc đời! Hay như trong Nhứt Phá Sơn Lâm Nhì Đâm Hà Bá, người đọc có thể sống lại những ý nghĩ của Tám Thôi, người con xóm Phú Thứ bỏ đi xa (tuy không xa lắm, Chợ Lớn), nay về thăm quê cũ và chỉ muốn sống yên nơi quê hương, chấp nhận làm nghề câu tôm câu cá như thời xa xưa. Vui buồn lẫn lộn, niềm vui dù khôn tả trong tình cảnh tái ngộ, nhìn lại song hành với nỗi buồn trước những cảnh sống nghèo nàn, khốn cùng đang bủa vây quê nhà vì chế độ bần cùng hóa nhân dân cho dễ bề thống trị.


Người đọc thường nghĩ là nhà văn ẩn mình tinh tế kín đáo sau tác phẩm, nhưng trong nhiều tình huống và trước những hoàn cảnh xúc cảm, nhà văn sẽ trực tiếp đưa cái “Tôi” ra để đến với người đọc. Trong Cơn Lốc Xoáy Tim, xóm Rạch Rít trở lại với những kỷ niệm ấu thời để tụ lại ở thời tác giả rời nhà ra học trường Bổ túc Gò Đen (Bến Lức), nơi đưa ký ức và tình cảm tác giả ngừng lại rất lâu với những nhân vật lịch sử như ông Hội đồng Võ Công Tồn mà mẹ con ông thuê căn phố trọ. Phần mộ ông Hội đồng Võ Công Tồn (không xa nơi yên nghĩ của chí sĩ Nguyễn An Ninh) còn đó như nhắc nhở người đời những thành tích chống thực dân Pháp và bênh vực kẻ cô thế. Trước khi vượt biên tác giả đã “ngoái nhìn lại về phía sau, về phía Voi Lá - Long Phú của quận Bến Lức thân yêu. Giữa bối cảnh nội tâm dồn dập đó, hình ảnh ông Hội đồng Võ Công Tồn, mẫu người lý tưởng của tôi thuở thiếu thời lại hiện ra trong sáng, chói lọi hào quang”.


Cũng nơi địa danh Voi Lá - Long Phú nầy, thằng Bảy Cò ngang ngược, cờ bạc ngày xưa, khi Cộng quân xâm chiếm quê hương, đã trở về tác oai tác quái, hành hạ chính dân làng mình:“Bảy Cò mà làm cách mạng cái con khỉ khô gì! Chữ cách mạng thiêng liêng cao đẹp biết dường nào đã bị chúng nó bôi bẩn (…). Thối thân của nó là thằng cờ gian bạc lận, đá cá lăn dưa, thuộc phường ăn hại, quỵt nợ, quỵt đời (…). Nó trở mình còn hơn bánh phồng nướng lửa rơm… Nó làm như người ở dưới đất nẻ chui lên”. Người xưa người nay, tác giả không nói ra nhưng người đọc đã thấy quá rõ ai thương nước thương dân.


Võ Phước Hiếu dùng phương ngữ Miền Nam Lục Tỉnh. Hầu hết các nhân vật đều có ngôn ngữ và cử chỉ của người miền sông Tiền, quê hương của người viết truyện. Đặc tính tìm thấy trong ngôn ngữ mà cả không gian và các địa danh đặc thù Nam Kỳ Lục Tỉnh như Ổ Cu, Ổ Cò, Con Lươn, vàm Cây Trôm, Bàu Lác, bưng Bà Mụ, ấp Bà Lác, ao Bà Vãi, gò Bà Sún, Gò Bướm, xóm Rạch Rít v.v… Tác giả cũng nói đến cách đặt tên, gọi theo thứ tự trong gia đình và làm sao cho khỏi trùng (X. Niềm Đau Bạc Tóc).


Ngôn ngữ trong truyện của Võ Phước Hiếu đa tạp vì con người đến từ nhiều đời, từ nhiều phương hướng, từ Đàng Ngoài của đất Việt, cũng như từ các nước lân cận. Một phương ngữ phản ánh tâm tư, chân dung con người và hình ảnh của nhiều địa phương, đồng thời phản ánh quá trình phát triển của một vùng đất: tâm hơ, lạ huơ, nóng hơ, “chà lết, lờn mặt” v.v… Hoặc những từ hay nghe thấy ở Miền Nam Lục Tỉnh hơn là những nơi khác như sung túc thạnh mậu, thum lá (nghèo nàn), mâm cơm vĩ vèo, “qua cầu rút ván, qua sông đụt đò”… Những tiêu đề truyện như Nhứt Phá Sơn Lâm Nhì Đâm Hà Bá mang vẻ hoang dã của thời khai khẩn đất hoang, ở Võ Phước Hiếu là chuyện bẫy chim, câu cá của nhân vật Tám Thôi.


Ông đã sử dụng ngôn ngữ của đời thường, thứ tiếng nói bình dân, giản dị nhưng không kém phần độc đáo của địa phương nơi nhân vật sinh sống, những vùng địa lý Rạch Rít, Gò Công, Bến Lức… “(nồi nước) to bình rỉnh, hàng lu vú, hũ da bò, trụ hình trụ bộ, bườm (rút lui, rời), (con heo) ú na ú nú, mập lút chỉ, đám trẻ lòng tong cá chốt, sợ lưn tim, (tóc) cạo trọc trơn lu bóng láng, mập mạp xởn xơ, miệng mồm ống nhổ đường mương, mặt mày đỏ gay như mồng gà cồ sung sức lúc tờ mờ sáng, bùn non xà xịn… Hoặc đầy hình ảnh như “những cánh rừng mút chỉ cà tha”, “chòi lá lè tè xập xệ”, “ngăn ngắt gậm nhấm” tâm hồn, “ganh hát xả giàn”, bạn nhỏ thuộc “hàng chằn ăn trăn quấn”… Hay “bán lưng cho trời” khi nói về nỗ lực, phấn đấu, như “ăn mắm húp giòi” về thói hà tiện v.v…


Văn Võ Phước Hiếu giản dị được bổ sung bởi những từ láy, những từ ngữ tiếp âm đơn hoặc ghép, riêng nhưng đầy lý thú của miền Lục Tỉnh, gây sống động và đồng thời gợi hình qua âm thanh, hình ảnh: phơi (lác) dôn dốt, bù trơ bù trớt, công việc đăng đăng đê đê, lục lăn lục lữa, (mấy bà) bồng chanh bốc chách, xa xưa hun hút, chợ chiền thị tứ, (gà) mập trìu trịu, cắc ca cắc củm, lạ hoắc lạ huơ v.v…


Ngôn ngữ ở đây rõ là chân phương và giàu hình ảnh cụ thể, trực tiếp, cả để diễn tả những tình cảm, suy tư v.v… Ngôn ngữ chân phương để phản ánh đúng cách nói của người Nam Kỳ cũng như cách tác giả tả cử chỉ, diện mạo, thái độ, hành động v.v… của các nhân vật đã giúp người đọc khám con người cùng tâm lý, tư tưởng nơi vùng đất mới nầy. Ngôn ngữ đó được phát xuất từ những con người mộc mạc, thẳng ruột ngựa nhưng tế nhị, thừa biết ăn ở cho phải đạo! Một ngôn ngữ đầy tính lạc quan, tính chân thật và giản dị. Võ Phước Hiếu đã ghi lại ngôn ngữ Nam Kỳ của một thời cố cựu và đã góp phần tái dựng nên bức tranh xã hội của thời điểm đó. Người đọc thưởng thức truyện ký của Võ Phước Hiếu sẽ tìm thấy một thời đại đã qua với con người cũng như văn hóa, tâm lý, cách cư xử v.v…


**


Cái riêng độc đáo của Võ Phước Hiếu là sự chân chất mộc mạc phát ra từ mỗi truyện, và nồng độ phương ngữ Miền Nam trong truyện, với một kho từ vựng dân dã, lấy thẳng từ cuộc sống chung quanh. Sự hấp dẫn của truyện Võ Phước Hiếu là ở chỗ sử dụng phương ngữ tối đa và đúng chỗ vào những câu chuyện thật “Miền Nam Lục Tỉnh”. Đó là Miền Nam của miệt ruộng miệt vườn, đất tân lập, miền hoang dã. Đó là Miền Nam đã thái bình nhưng vẫn còn dấu chiến tranh - không ở sự điêu tàn vì bom đạn mà ở những vết thương trong đời người (…).


Nước Mắt Tình Yêu là chuyện tình trai gái có thể là duy nhất của Võ Phước Hiếu. Chuyện anh Bần và cô Tư Xinh quen nhau nơi đồng áng và đến với nhau thân mật giữa thiên nhiên. Hai người có vẻ “môn đăng hộ đối” không do hoàn cảnh gia đình mà do có cùng số phần long đong lận đận. Nhưng kết cuộc, cô Tư Xinh lại làm vợ Hai Phú, con ông Bang Biện, có vẻ “tham phú bụ bần”, còn anh Bần đau buồn thành bệnh tâm thần rồi “âm thầm đi vào giấc ngủ thiên thu trong cô đơn cô độc”.


Trong một truyện ngắn, việc xây dựng và dàn tả tất cả tình huống làm nổi bật tính độc đáo của nhân vật hoặc khiến người đọc cảm nhận được khúc mắc của tình huống mà còn cho thấy một tâm trạng, một nhận thức nào đó của nhà văn. Nhân vật trong truyện của Võ Phước Hiếu không thao thức, dằn vặt nội tâm theo kiểu thời thượng hiện sinh như nhiều nhà văn khác. Nhân vật của ông nói chung sống những mảnh đời đơn sơ, bình thương, “nơi chéo đất quê nhà”, nào là những con người của xóm Rạch Rít với tục danh dân làng đặt cho: thím Chín Tý (lò bún nổi tiếng), Bảy Sô (ba xi đế), chú Bảy Cối (cối xay lúa)… rồi những con người mộc mạc, tình tứ khác của xóm Cầu Sắt, xóm Phú Thứ, xóm Cống, xóm Rạch Chung, Ba Cụm, Sò Đo, Voi Lá-Long Phú, Thủ Thừa, Bến Lức, làng Phước Lợi, chợ Đệm, chợ Gò Đen, tỉnh Chợ Lớn v.v… Rạch Rít thuộc làng Thanh Hà, Bến Lức - “nơi chôn chặt ghì níu chuỗi ngày dài thơ ấu của tôi. Nơi chưa một lần vẩn đục những vướng bận hệ lụy của cuộc đời” (QCQMQM, tr. 113), được xem như là không gian quá vãng được tác giả viết đến nhiều nhất gần như toàn bộ các truyện ký.


Võ Phước Hiếu đặc sắc ở cách đặt tên nhân vật: Năm Nghê, Tám Thôi, Bảy Sô, Sáu Củ Nừn, thằng Ba Nô, thằng Vẳng, thằng Xồi, thằng Ba La, mụ Bảy Rồi, bà Mười Phận, bà Tư Trầu, bà Hai Xệ, Sáu Kiếm, bác Thầy Hù, chú Quậy, Hai Nhím, Hai Khánh, Năm Đặng, Hai Ngọng, Hương quản Quan, Bảy Thứ-Bảy Nổ, Bảy Cò… Trẻ con thì mang những tên bình dân như con Lem, con Rớt, con Xí, con Đẹt, thằng Sỏi, thằng Sạn, thằng Tàn, thàng Tèo… trong Cơn Lốc Xoáy Tim, thằng Đực Lớn, thằng Đực Nhỏ, thằng Bảy Rái, thằng Hai Đớt, con Tư Yêm… trong Ngày Ấy Qua Mau, Như Nước Trong Nguồn, hay thằng Đực Lang tục danh Cò Lửa trong Miếng Thương Miếng Nhớ chuyên bẫy chim, bắt ếch bắt lươn. Nhân vật đủ nguồn gốc, người Nam Kỳ từ nhiều đời hoặc từ Trung vào, có cả người Hoa, người Tiều, người gốc Miên, Ấn Độ v.v… Nhân vật khác nhau hoặc đôi khi trở đi trở lại (Thầy Huế, Giáo Sử, Hương sư Chương, thằng Đực Nhỏ, thằng Bảy Rái, thằng Hai Đớt…), cứ như những nhân vật đó đã có thật trong đời sống, quanh quẩn trong những vùng đồng chua sông nước Tiền và Hậu giang mà nếu nối kết những truyện ngắn nầy sẽ có thể thành một tiểu thuyết trường thiên.


Một đặc thù khác trong các truyện ký của Võ Phước Hiếu, đó là sông nước: sông nước tư bề hoặc kinh rạch tuôn chảy len lỏi trong khắp cùng miền đồng bằng sông Cửu Long. Sông rạch, cảnh trí thiên nhiên và đồng thời là nguồn sự sống: “mọi sinh hoạt lớn nhỏ của xóm tôi nhứt nhứt đều xuất phát và trông cậy vào dòng nước duy nhất trời ban cho”. Sông nước trở thành hình ảnh của nhớ nhung, của quá vãng, dù những dòng sông con nước đó nay vẫn tuôn chảy, luồn lách. Tác giả còn nói đến “sự trở về của dòng nước lớn”, có nước ròng thì phải có nước lớn như chu kỳ tất yếu của vạn vật, cũng là ngày tàn sẽ phải đến với chế độ độc tài đảng trị thối nát đang tàn phá đất nước (QCQMQM, tr. 160).


Quan niệm sống Nam Kỳ Lục Tỉnh theo Võ Phước Hiếu “rất giản đơn như nước lớn nước ròng, như con rạch cắt ngang cái xóm nghèo của họ, có lúc vơi lúc đầy” (Nẻo Nhớ Tìm Về). Đó còn là những đam mê, như trong Chữ Nghĩa Một Thời, “Nơi xóm Rạch Rít của tôi, cái đam mê chung của bà con vẫn không ngoài công việc phá rừng lấp vũng, đào kinh lên rẫy. Họ biến những vùng hoang vu rậm rạp chẳng mấy chốc thành cảnh thổ quyến rủ với ruộng nương vồng liếp ngút ngàn, quanh năm xanh um mơn mởn”. Con người Miền Nam trong truyện Võ Phước Hiếu phần lớn sống gắn chặt với mảnh đát quê nhà, từ thế hệ nầy sang thế hệ khác, chấp nhận “định mệnh an bày”, những nơi đó, như ở làng Thanh Hà của tác giả, “bà con trong xóm như những dây mơ rễ má, có mối quan hệ rất thân thiết với nhau” mà tác giả xem như là “một bộ lạc nhỏ hẹp thuở xa xưa”. Theo tác giả, đó là một nơi chốn thật buồn, “trăm năm cũng một vẻ rã rượi buồn tênh, hắt hiu nghèo khó” (Nước Mắt Tình Yêu).


Mặt khác, những hình ảnh như những bếp lửa mà bà của tác giả đã nhắc nhở con cháu mỗi khi xây nhà mới lại mang giá trị tượng trưng: những vật dụng thực tế và thiết yếu ở vùng đồng quê hẻo lánh đánh dấu sự an cư lạc nghiệp, đã trở thành những hình ảnh thân thương đầy ý nghĩa và ắp tâm tình mỗi khi nhớ lại (Ngày Ấy Qua Mau). Cũng như những chiếc bánh phồng của một thời, nay sống ở nước người, “mỗi lần nghe trong hồn tôi tiếng chày khuya quết bánh phồng Tết là tôi ý thức và nhìn lại rõ ràng sáng trưng gốc rễ cội nguồn của bản làng thôn ổ khắc khổ của mình. Để rồi xác quyết thêm một lần cuối, muôn thuở tôi vẫn là người Việt Nam” (Cái Bánh Phồng Tết).


Về văn phong, các truyện của Võ Phước Hiếu nói chung có đặc tính hồn nhiên. Hãy đọc đoạn văn sau đây:


“… Có bữa chú cao hứng thuật lại một câu chuyện cũ mèm, xưa từ đời ông Nhược ỉa cứt su, nhưng bà con vẫn chăm chú theo dõi, hồi hộp với những cảm giác chưa từng có. Chú khéo léo thêm thắc, bày vẽ nhiều tình tiết éo le gay cấn, cải sửa nội dung sao cho phù hợp hoàn cảnh đang sống hoặc đúng khớp thời sự mới tinh khôi vừa mới xảy ra nóng hổi ở xóm làng. Hoặc chú dậm mắm thêm muối bằng vài chi tiết lạ hoắc lạ huơ, người nghe chưa bao giờ nghĩ và tưởng tượng đến, nhờ ba mớ kinh nghiệm sống thực, rất dồi dào trong cuộc đời phiêu lưu bất đắc dĩ của chú trước đây. Và chính cuộc đời phiêu bạt đó của chú khiến cho chất lãng mạn bay bướm phảng phất hơi hướm ngoại lai, cứ tuôn trào ngọt ngào trong câu chuyện…


“Bà con tôi phần lớn sinh trưởng và lớn lên quanh quẩn ở vùng đèo heo hút gió, chó ăn đá gà ăn đất buồn tênh, suốt đời cột chặt với thửa mạ luống cày, lúc thúc bên lũy tre xóm làng. Có người từ cha sanh mẹ đẻ tới giờ chưa ra tỉnh ra quận một lần. Cái thủ đô Sài Gòn Chợ Lớn sát bên, lớn nhỏ ra sao, tròn méo, đông đúc thế nào còn chưa biết, nói chi đi đó đi đây vạn dặm làm gì” (Trâu Già Chẳng Nệ Dao Phay).


Một đoạn văn khác nhẹ nhàng cho cảnh sống êm đềm của miền quê Rạch Rít trước khi thảm cảnh xảy tới:
“Bà tôi cầm cái đèn dầu trứng vịt để ở đầu giường, vén mùng chung vào, cẩn thận ém đi ém lại rất kỹ. Muỗi mồng ở xóm Rạch Rít của tôi cũng như ở những nơi khẩn hoang lập ấp khác nhun nhúc, vo ve ngày đêm như trẩy hội.


“Bà nhè nhẹ thò tay ra ngoài, phất tay liên tiếp mấy cái mạnh để tắt đèn. Tim đèn hãy còn đỏ ửng, từ từ uốn thành vòng cung rồi lịm dần trong u tối.


“Cử chỉ quen thuộc đó, bà tôi đã làm từ hơn nửa thế kỷ nay. Một cử chỉ sản khoái toại nguyện vì bà tỏ ra sung sướng đã kết thúc một ngày làm lụng không ngừng tay, đón đợi giấc ngủ an tịnh trong lành.


“Bên ngoài vắng vẻ tĩnh mịch như thường lệ. Nhạc bản ngàn đời của côn trùng ếch nhái bắt đầu trổi lên dai dẳng buồn tênh, ru giấc ngủ ông bà tôi thêm nồng nàn say đắm. Vài tiếng chim ăn đêm quá quen tai chập chập vút lên đâu đó bên liếp mía, vồng khoai, ngoài vườn cau vườn dừa, cũng không thể phá giấc ngủ vùi đó, chuẩn bị sức lực cho ngày mai đón đợi”.


Truyện của Võ Phước Hiếu hay nói đến xóm Rạch Rít vốn là quê hương thân thương của tác giả:


“Xóm Rạch Rít của tôi phát đạt, trù phú. Ruộng lúa bát ngát, óng ánh vàng hực mùa gặt. Cây trái oằn cành. Kinh đào tăm tắp ngút mắt. Nhà ngói kinh dinh đỏ au. Đêm đêm, đèn “măng soong” rực trời ngày lễ lộc.


“Ghe máy xình xịch, sông rạch dậy sóng, tung bọt trắng xóa làm cho mấy chiếc xuồng ba la và ghe tam bảy nhảy sóng liên hồi, chồm lên hụp xuống dịu dàng. Hội hè đình đám tấp nập người xem. Hát cải lương, hát bội dù là những đoàn hát bầu tèo nghèo xơ xác chỉ lưu diễn ở làng ở tổng, thỉnh thoảng tạt ngang trụ lại trình diễn năm bảy đêm liền” (Đám Cháy Đầu Xuân).


**


Tình cảnh sống lưu vong xa quê hương ngày về, Võ Phước Hiếu thương nhớ quê nhà da diết nên ông đã dùng vần thơ câu văn chuyên chở những tâm tình nhung nhớ, ký vãng pha cùng hy vọng. Nhung nhớ quê hương nhập vào tâm tình của nhân vật Năm Nghê trong truyện Trâu Già Chẳng Nệ Dao Phay khi phải làm lính thợ sang Âu Châu:


“Nhớ hơn bao giờ hết. Nhớ cồn cào trong tủi hận…


“Chú nhớ khoảng không gian thênh thang trước nhà mình, lung linh ánh nắng sớm chiều với tiếng chim nô đùa họp chợ ríu ra ríu rít không thôi trên những tàn ổi, tàn mãn cầu… đâm tượt non mướt mùa mưa.


“Chú nhớ những bữa cơm đạm bạc với cá tép tôm cua, rau cỏ vườn nhà chú thường ăn, tuy không thịnh soạn, nhưng lúc nào cũng no bụng ấm lòng.


“Chú nhớ những con cá rô to bằng bàn tay phóng nhảy rèn rẹt… rèn rẹt rất cao khỏi mặt nước ở những đám lúa trổ đồng đồng để táp bông lúa non thơm ngon, mà chú thường câu nhấp đem về nướng lửa rơm căn phồng tươm mỡ.


“Chú nhớ những ngày ra giêng, gió lành lạnh, những trái xoài con thon thon nho nhỏ đong đưa đồng loạt với những bông xoài nở muộn, một màu trắng vàng giữa những lá non tim tím, báo hiệu một mùa trái ngon ngọt hứa hẹn.


“Chú nhớ mấy bầy ròng rong lớn nhỏ, màu đỏ hoe, quấn quít sát vào nhau, ganh đưa trườn lên mặt nước ngớp thở, bên cạnh cá lóc mẹ, thỉnh thoảng táp mống bụp bụp bảo vệ con, xua đuổi ếch nhái khuấy rầy.


“Chú nhớ vào những mùa gió chướng bắt đầu thổi, mấy cây so đũa suông đuột trước nhà chú trồng cốt để về sau lấy thân ủ làm núm mèo, trổ bông trắng ngần lòng thòng, phất phới lay chuyển theo gió chiều. Chú đang thèm một nồi canh chua cá trào, cá chốt bụng trứng nặng kè kè nấu với bông so đũa, ăn mệt nghỉ. Nhứt là phải để sót chút ít nhụy bông so đũa để có mùi đăng đắng nhân nhẩn.


“Giờ đây, nơi xa xôi có lúc bất chợt nghĩ đến, chú càng thêm nhớ thêm thương quê hương khổ hạnh của chú. Và cái mùi nhân nhẩn đăng đắng của bông so đũa ngày xưa càng làm cho chú thêm thấm thía với cuộc sống giăng mắc đắng cay hiện tại.


“Sau khi Đức Quốc Xã bại trận, chú Năm Nghê thuộc nhóm lính thợ đầu tiên đăng ký hồi hương. Chú thương cái xóm Rạch Rít của tôi. Chú nhớ quê hương, bà con lối xóm. Chú không chần chừ rời khỏi mảnh đất xa lạ bị tàn phá với nhiều kỷ niệm chú cố gắng quên mau, xem như một vấp váp trong đời mình.


“Sau nầy chú có thố lột tâm trạng của chú lúc đó như những chú cá lóc, cá trê, cá rô… ưa thích sống trên đồng ruộng, bưng biền hay đầm vũng, nơi chúng được sinh trưởng và lớn lên. Sau nầy nên hình nên vóc, dù cho đồng ruộng có cạn khô mùa nắng, dù cho bưng biền có hết nước đi nữa, nhưng chúng nó không bao giờ phiêu lưu thoát ra sông cái đầy cạm bẫy. Trái lại, chúng nó lần mò tìm mọi cách rút xuống ao sâu đầm vắng, như chúng quyến luyến không rời bỏ được vùng đất dưỡng nuôi bảo bọc chúng trước đây. Cũng như chú, chú không bỏ được quê hương Rạch Rít của chú” (Trâu Già Chẳng Nệ Dao Phay).


Phần Võ Phước Hiếu sống đời tỵ nạn, nỗi nhớ hiện tại có khác, nhưng cũng không khác những nhớ nhung của chú Năm Nghê năm xưa:


“Nỗi buồn lưu đày ray rứt, nỗi tủi nhục về thân phận lạc lõng bơ vơ nơi xứ lạ quê người, nỗi chán chường đeo đẳng hiện tại với niềm uất hận tràng giang ngút ngàn… tất cả nỗi niềm thầm kín đó gậm nhấm tim tôi khiến tôi càng thêm vọng nhớ quê hương xa xôi ngăn cách.


“Tôi nhớ tôi yêu đậm đà tha thiêt cái xóm hẻo lánh, nghèo nàn, nơi tôi sinh trưởng, cất tiếng đầu đời. Cái quê mẹ, quê cha, quê ông bà thân thương đó với những kỷ niệm chia thịt thà ngày tư ngày Tết thuở quê hương tôi thanh bình sung túc, những cảnh trao đổi thổ sản, thóc lúc, biếu xén không vụ lợi, không mảy may hậu ý… đương nhiên đã trở thành một cái gì thiêng liêng, quý giá nhất trong cuộc sống của tôi.


“Quê nhà đó cứ vấn vương réo gọi, thôi thúc không thôi, nhắc nhớ gọi hồn, giục giã hướng đến mùa Xuân ước mơ, thanh bình thực sự, hạnh phúc ấm no tràn đầy, vĩnh cửu” (Đám Cháy Đầu Xuân).


Trong thương nhớ có con sông lớn, cả con rạch nhỏ “hằng ngày, nước chảy xuôi ngược lững lờ, kéo theo những dề lục bình, những người bạn trăm năm ngàn năm uể oải u buồn”. Nhớ những vườn cây trái như xoài, bưởi, chùm ruột, mãng cầu dai… Những ruộng đồng tân lập bát ngát… những rừng chồi, rừng tràm “chạy dài ngút mắt” – mà tác giả gọi là “những cánh rừng mút chỉ cà tha”. Những địa danh có tính “man dại”, “hoang dã của một thời xa xôi khẩn hoang lấn đất… thời hoang sơ hun hút của tổ tiên”. Thương nhớ những thú vui đạm bạc hay tao nhã xa xưa, như các loại trà Thiết Quan Âm, Bạch Hào Kỳ Chưởng, Nghị Bồi Nhâm, thứ mua thứ trồng chung quanh nhà, ruợu đế Gò Đen, thuốc rê Gò Vấp v.v… và những món ăn như bún thịt cua đinh nấu cà ri, như nem chua và bánh phồng ngày Tết, gạo nanh chồn vùng Chợ Đào v.v…


Qua truyện kể của Võ Phước Hiếu, người đọc có thể “thấy” lại những ngành nghề nay không còn nữa như nghề đạo tỳ của nhân vật Năm Đặng trong Chữ Nghĩa Một Thời, nghề trị quỷ trấn ma của ông Sáu Kiếm trong Con Quỷ Gò Bướm Quê Tôi, hay nghề bà mụ thô sơ xa xưa với bà Hai khánh trong Như Nước Trong Nguồn. Và những thú vui hay sinh hoạt đã mất với thời gian như cảnh ăn Tết nhộn nhịp đầy ý nghĩa văn hóa dân tộc ở vùng quê, cảnh gánh hát ở các đình miễu xóm làng quê heo hút hay trong nhà lồng chợ những nơi thị tứ nhỏ với những tài tử hát diễn một thời! Tác giả còn kể chuyện những chuyến xe điện ở Sài Gòn và xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho của ngày nào, những sinh hoạt và cảnh tượng nay đã mất dấu theo đà hiện đại hóa!


Võ Phước Hiếu thương nhớ những vùng đất cũ, rồi những kỷ niệm và bạn bè, người thân nay kẻ còn người mất. Thương nhớ theo cùng phẫn nộ trước khốn khổ của người dân quê, bất mãn trước lề lối cai trị tàn bạo và tham ô nhũng lạm của cán bộ cộng sản. Thương nhớ biểu hiện theo từng hình ảnh, nhân vật, mà lo âu tiếc nuối cũng theo từng dòng chữ viết. Trong Nẻo Nhớ Tìm Về, nẻo nhớ là con đường tráng nhựa từ nhà lồng chợ Phú Lâm đến thị trấn Hiệp Hòa chạy ngang qua trường Sò Đo, thị xã Tân Phú Thượng, con đường thân mẫu tác giả đã phải đi về khi dạy học ở Sò Đo. Con đường huyết mạch nhưng lởm chởm đá xanh và “ổ gà, ổ trâu, cả ổ voi tầy quầy… úng nước lầy lội”. Cứ vài tháng bà mới có thể về thăm nhà, bằng phương tiện xe thổ mộ, có khi tác giả được đi theo, nhờ đó có dịp quan sát, nay ông nhớ tả lại cảnh sinh hoạt và lưu thông trên đoạn đường đó thật linh động và cảm động. Nỗi nhớ tha thiết với những đoạn văn đẹp, vừa hiện thực vừa trữ tình:


“Đoạn đường nhiêu khê trắc trở nầy, hầu như hoang vu, lâu lâu mới thấy một mái tranh lẻ loi nằm lạnh lùng sát bên cánh rừng chồi hay một thum lá nghèo nàn xơ xác với ánh đèn dầu mờ ảo, leo lét xa xa giữa màu đêm đen mù mịt. Ếch nhái uềnh oang não nuột và bầy đôm đóm lập loè như ma trơi bên những buội rậm sẫm tối, càng dấy lên trong lòng những người xiêu lạc, trôi nổi mưu sinh nơi xa xôi như mẹ tôi một nỗi buồn hoài hương thấm thía (…). Trời đã tối khá lâu rồi. Cảnh vật hai bên vệ đường vắng hoe dễ sợ. Chỉ thấy xa xa từng chập, ở những gò hoang mênh mông bát ngát hay dọc theo những chéo đất bỏ phế, cỏ lác năn sậy mọc loạn xạ không quá gối, vài ngọn đèn chai soi cá, soi chim khúm núm. Ánh sáng le lói bập bùng như hồn ma bóng quế vui đùa trửng giỡn ở những truyện liêu trai rợn tóc gáy…”. Chuyện xảy ra khi tác giả đã lớn hơn thời mẹ ông đưa ông đến trường lớp ông Thầy Huế và Hương sư Chương ở ngay trong làng Thanh Hà trong Ngày Ấy Qua Mau và Như Nước Trong Nguồn.


Cũng như một số tác giả văn học hải ngoại khác, tính chất tự truyện khá trội bật trong các truyện của Võ Phước Hiếu. Có thể nói quá khứ và kỷ niệm sống đã là nền tảng và bước khởi đi của văn thơ Võ Phước Hiếu. Ông khiêm tốn gọi đó là những “kỷ niệm giản đơn, bình thường”, bình thường nhưng “không thể vứt bỏ đi được”; ông cho biết: “Bao nhiêu kỷ niệm xa xưa vẫn cứ lắng đọng, chìm sâu trong miền ký ức phức tạp, nhiều lúc tôi tưởng chừng như nó vĩnh viễn nằm im trong quên lãng để chết rũ trong đó. Nào dè, thỉnh thoảng, nó lại cục cựa nhỏm dậy sáng trưng với đầy đủ cả những chi tiết và tình tiết vui buồn sướng khổ ngày nào, đôi lúc quá bất ngờ nhưng đầy ấp hấp dẫn lôi cuốn” (Như Nước Trong Nguồn, tr. 151). Đó cũng là lý do nhiều nhân vật và không gian được tác giả nhiều lần sử dụng lại, đưa vào tác phẩm.


Theo thiển ý, Võ Phước Hiếu viết với ý thức trách nhiệm đối với tổ quốc, dân tộc, và ý thức của nhà văn có vai trò đối với xã hội. Võ Phước Hiếu hình như không quan tâm đến chỗ đứng tương lai của ông như là nhà văn đó trong văn học sử, mà đúng hơn ông đóng góp cho lịch sử dân tộc qua phương tiện văn học. Ông không làm văn chương, không viết ra những câu văn thời thượng hay theo chủ thuyết hình thức nầy kia thường rỗng tếch nội dung và vắng chiều sâu. Văn ông được diễn tả theo kiểu có sao nói vậy, nghĩ sao bộc tả vậy!


Võ Phước Hiếu tỏ ra ý thức sứ mạng văn chương của mình. Viết về quê hương không phải để chỉ nhớ quê nhà, đụng đến quá khứ không phải để tưởng tiếc thuần tình, mà ông còn dụng ý cho người đọc tìm biết tại sao ông đã đánh mất quê hương đó, tại sao và vì ai mà có người phải bỏ chốn thân thương đó để ra đi… Sống đời lưu xứ, những việc tưởng là tủn mủn, lẩm cẩm như sưu tập, nghiên cứu ca dao tục ngữ hay phương ngữ đều là những cách thế tích cực đóng góp cho dân tộc hơn là thuần nhung nhớ quê hương. Như nhân vật thầy giáo Mạnh trong truyện Ông Thầy Giáo Làng Quê, hoàn cảnh bị đưa về vùng “xa xôi hun hút” làng Thanh Hà, đã sưu tầm văn chương văn hóa bình dân mà ông xem như là “ký ức tập thể của chòm xóm” với quan niệm đó là một thể cách “sống đam mê là một hạnh phúc vô biên cương, vô giới hạn của một kiếp người”.


Đề cao tình quê hương, tình yêu đất cũng như đề cao quá khứ oai hùng, kiên cường của những con người đã làm nên mảnh đất đó, truyện của Võ Phước Hiếu đã ghi lại những hình ảnh xinh đẹp, tốt lành trước khi biến mất với thời gian và trước khi những con người cai trị sau 1975 đến áp bức, gây xáo trộn. Với một ý thức trân quý muốn giữ gìn truyền thống văn hóa của đất nước, truyền thống với những giá trị văn hóa địa phương và cả nước, đã ăn sâu vào tiềm thức và thể hiện qua sinh hoạt hằng ngày. Qua tác phẩm của Võ Phước Hiếu, người đọc thấy thấp thoáng một thứ đạo đức phổ quát, nền tảng về đạo làm người, làm con dân đất nước, và một tâm tình đôn hậu, chân phương, cởi mở như là xương sống cho đặc tính Nam Kỳ Lục Tỉnh!


Như Võ Phước Hiếu đã có lần tâm sự “cuộc đời lưu đày ray rứt vẫn cứ ngăn ngắt gậm nhấm tâm hồn tôi” (Quê Cha Quê Mẹ Quê Mình, tr. 110), tác phẩm của ông được viết ra bộc phát từ trái tim mẫn cảm, thương nhớ của mình, mà Võ Phước Hiếu đã đem đến cho người đồng hương và đồng bào lòng tin yêu vào cuộc đời, tin vào tính nhân bản, dù ở vào hoàn cảnh nào cũng hãy còn đó.


Ngoài ra, tác phẩm của Võ Phước Hiếu còn làm phong phú thêm cho chữ nghĩa Việt Nam ở quê người và còn cung cấp thêm những chứng liệu lịch sử, văn hóa về vùng đồng bằng sông Cử Long, cho thấy những yếu tố đặc trưng riêng của vùng đất và con người nơi đây.






Nguyễn Vy Khanh
Montréal (Canada)
15-11-2010

Sinh ngày 05-03-1951 tại Quảng Bình           
Đại học Sài Gòn: Cử nhân Giáo khoa Triết Tây 1973
Đại học Sư phạm Việt Hán (1974)
Cao học Triết Tây (1975)
Đại học Montréal: Cao học Quản trị Thư viện (Master of Library Sciences, 1978)
Dạy học (Sài Gòn, Nha Trang) và Quản thủ Thư viện (Montréal và Québec)
Nghề tay trái nghiên cứu lịch sử và nhân văn liên hệ đến Việt Nam, chuyên về Văn học Miền Nam
                 từ thời  khởi đầu 1865 đến  Miền Nam tự do 1954-1975
Hiện đã về hưu và định cư tại Montréal, Québec, Canada
Đã xuất bản:
* Khung Cửa (Thơ, Tác giả xuất bản, Sài Gòn, 1972)
* Ngô Đình Diệm Và Nổ Lực Hòa Bình Dang Dở (dịch, Xuân Thu, tái bản 1989)
* Lỗ Tấn Và Truyện Xưa Viết Lại (Xuân Thu, 1997)
* Bốn Mươi Năm Văn Học Chiến Tranh 1957-1997 (Đại Nam 1997; tái bản 2000)
* Văn Học Và Thời Gian (Văn Nghệ, 2000)
        * Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX - Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại (Đại Nam, 2004).

                                                                                              - ***-

                           Bằng Liệt Sĩ
                                                                             Thương tặng Tiện nội
                                                                            để nhớ một thời lận đận đã qua.
                                                                                  V.P.H.
            đời không một ai đoán được chữ ngờ bao giờ! Có ai ngờ ngày 30 tháng Tư năm 1975 Miền Nam Tự Do đang thời ấm no sung túc lại rã hàng tức tửi và nhanh chóng như vậy, trong khi tinh thần hy sinh chiến đấu, quyết tâm bảo vệ tổ quốc, giữ vững biên cương đất nước của quân dân cán chính các cấp vẫn cao vòi vọi. Ấy vậy, chúng ta lại mất nước do đám cộng sản miền Bắc bù trơ bù trớt, cuồng tính lật lộng và cực kỳ hiếu chiến, âm mưu phối hợp cùng bọn chăn trâu đồ tể, đá cá lăn dưa Giải phóng Miền Nam, một lũ ngu ngơ nhẹ dạ non lòng, đang tâm tiếp tay với bọn cùng hung ác quỷ phá hoại đất nước, gây đổ vỡ tang tóc cho dân lành. Có ai ngờ một số người tên tuổi trong hàng ngũ cộng đồng tỵ nạn chúng ta, khi đã no cơm ấm cật ở các xứ tạm dung lại đánh mất lương tri, cúi mặt trở cờ một cách bĩ ổi hèn hạ. Chúng đón gió, hời hợt nghe theo những lời ngọt lịm đường phèn và giọng lưỡi ma đầu phù phép cố hữu của đám cán bộ ngoại vận cộng sản về "giao lưu văn hóa", "hòa hợp hòa giải", "xóa bỏ hận thù để xây dựng đất nước", ‘‘cứu đói cứu khổ’’...

 Chúng không còn sĩ diện tối thiểu của con người, quên hẳn những ngày từng bị cộng sản gạt gẫm, trừng trị, đày đọa trước đây trong các trại tù cải tạo hoặc nơi ‘‘xứ tù chung thân xã hội chủ nghĩa’’ để quay mặt đánh phá, lũng đoạn, làm rối loạn hàng ngũ cộng đồng Việt Nam hải ngoại. Tất cả cũng chỉ vì một chút danh vị hão huyền, tan biến nhanh chóng trong mây khói ảo tưởng và một chút hơi hướm bạc tiền rủng rẻng hứa hẹn qua đầu môi chót lưỡi… Có ai ngờ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của tiền nhân và của thế hệ chúng ta lại có hằng triệu, hằng triệu người dân lương thiện, yêu nước, yêu quê hương xứ sở lại âm thầm gạt lệ trong phẫn uất hờn căm, đành lòng phủi tay tất cả để bỏ xứ ra đi bao giờ? Vậy mà sau ngày cộng sản hoàn toàn cưỡng chiếm Miền Nam bằng đại bác xe tăng, bằng võ lực và mưu mô chướt quỷ để áp đặt một chế độ sắt máu, hận thù nghiệt ngã, họ phải đánh đổi mạng sống để mong chọn lấy tự do và an bình trong tâm hồn, cùng lo cho tương lai của con cháu. Bao nhiêu người đã nằm xuống trong oán hờn, trong uất hận ngút ngàn ngoài biển khơi Thái Bình Dương, mồ chôn vĩ đại người lương thiện vô tội, hay nơi rừng sâu trùng trùng điệp điệp vùng biên giới Miên Lào đầy cạm bẫy giết người…

Việc chúng tôi bất đắc dĩ phải quyết định sống kiếp tha hương cũng là một bất ngờ trong đời mình. Bình sinh chúng tôi không bao giờ nghĩ tới, dù chỉ phớt qua trong tâm trí. Chúng tôi cùng toàn thể gia đình phải cải trang thành người Hoa, trà trộn đi theo diện vượt biên bán chánh thức. Lúc này đảng và nhà nước cộng sản chủ trương xô đuổi họ rời khỏi Việt Nam bằng mọi giá. Đó là thời kỳ Việt-Hoa hục hặc nhau quá trầm trọng có thể đưa đến chiến tranh bất cứ lúc nào. Lý do là Trung cộng thường xuyên làm áp lực gây hấn vùng biên giới nhằm cứu nguy phe Khờ Me Đỏ, vốn nằm trong vòng quỷ đạo ảnh hưởng của chúng. Cả hai chẳng những không còn xem nhau như anh em đồng chí ruột thịt "huynh đệ keo sơn môi hở răng lạnh", sống chết có nhau trong "tinh thần quốc tế vô sản, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lê-nin chói lòa hào quang" nữa. Trái lại, họ ghìm chống nhau còn hơn những tử thù truyền kiếp để sau đó ồ ạt đưa quân đội chánh qui đánh nhau chí tử nơi các tỉnh biên giới. Họ cho nhau những bài học xương máu khó có thể hàn gắn được ít ra trong trước mắt.

            Chúng tôi đi qua trung gian của nhiều người môi giới cả Hoa lẫn Việt nên phải trả một giá rất đắc. Thời buổi đó mỗi nhân mạng phải tốn mười hai lượng vàng hay mười hai "cây", nói theo ngôn ngữ lóng rất thông dụng trong giới vượt biên. Các con chúng tôi còn nhỏ, dưới mười hai tuổi, chỉ chung sáu "cây" cho mỗi đứa. Những ông bạn người Hoa trung gian này trước kia có cơ sở buôn bán dụng cụ điện ở đường Nguyễn Huệ, nơi dãy phố trệt hay phố lầu một tầng, cận Tòa Án Thương Mại Sài Gòn. Đa số đều được ràng buộc khắng khít với nhau qua mối dây huyết thống họ hàng hoặc thông gia xa gần nên họ rất tin cẩn nhau trong những giờ phút khó khăn sinh tử. Do chỗ quen biết ngày trước với những người môi giới, có qua có lại hoặc trong giao tế hoặc trong thương trường nên chúng tôi đặt trọn vẹn lòng tin vào sự thành thật, bằng hữu thủy chung trước sau như một của họ. Hơn nữa, họ cũng đã từng tổ chức thành công viên mãn nhiều chuyến đi trước đây. Và có nhiều người vượt biên thư từ về thân nhân ở Sài Gòn cho biết họ đã may mắn đến nơi đến chốn an toàn, tức bến bờ tự do ấp ủ từ tháng Tư Đen.

Đến lúc lênh đênh giữa biển khơi, ngày này qua ngày nọ trong mỏi mòn chán chường, người ta chỉ thấy trên trời dưới nước một cảnh bao la hãi hùng trùm phủ con thuyền mong manh. Chiếc tàu cây võn vẹn một máy duy nhứt này chở khẩm quá mức, chật nức như nêm những con người nhỏ bé yếu đuối, hốc hác lạc thần, chỉ còn biết phú mặc cho định mệnh đưa đẩy họ đến đâu hay đến đó. Nhưng đôi lúc, tất cả mọi người trên tàu dường như đều thống nhứt với nhau trong âm thầm, thách thức vũ trụ và định mệnh quá đỗi khắc khe nghiệt ngã này. Một đêm nọ, tàu gặp sóng to gió lớn đến bất thình lình, không có một triệu chứng đáng ngại có thể giúp ước đoán trước được. Bốn bề bỗng trở nên đen kịt, chỉ có con tàu lẻ loi cô đơn, rên rỉ nặng nề, cứ trồi lên hụp xuống rợn người, như đang cố gắng chống chọi trong tuyệt vọng. Mưa biển nặng hột từng đợt… từng đợt quất mạnh vào mui tàu, chỉ được kết lên tạm bợ trong vội vàng hấp tấp lúc tàu vừa vào đến hải phận quốc tế, bằng những tấm ‘ny long’ hay đệm chiếu chằng khíu mỏng te. 

Tiếng lốp bốp… lốp bốp liên tục cùng nhịp với tiếng gió hú từng cơn nghe lạnh điến người. Tàu bỗng vô nước, cứ tiếp tục nhồi lên phụp xuống, chòng chành lắc lư không thôi. Sóng biển chòm lên sát be tàu, bắn tung nước khắp nơi. Đa số những người ngồi ở mũi tàu hầu như đều ướt nhem, lạnh cóng. Tiếng máy tàu vẫn nổ nặng nề, khổ nhọc, trầm trầm. Tàu cứ âm thầm lướt lên chầm chậm, cởi trườn trên những ngọn sóng đen ngòm đang hờn giận gầm thét không ngưng. Có lúc con tàu cây mong manh dài mười sáu thước lại chở trên ba trăm thuyền nhân lớn nhỏ như dội ngược trở lại, rồi chòng chành chao đảo làm cho nhiều người kiệt sức mữa đến mật xanh. Họ nằm la liệt khắp nơi, bất động như người chết chưa chôn. Trên sàn tàu, trong hầm tàu hắc lên mùi hôi hám ngộp thở. 

            Bỗng có tiếng báo động hốt hoảng làm cho mọi người giật thót dậy. Những người ngồi dưới khoan tàu chân cẳng đã ướt nhem. Có người bị ướt đến bàn tọa. Thôi rồi! Cuộc đời kể như kết thúc ở đây, ở đêm này, ngay nơi lòng đại dương xa lạ này, xa nơi cắt rún chôn nhao, xa quê hương xứ sở vạn dặm. Trước mắt, không một ai còn có chút ít hy vọng tối thiểu nào. Dù vậy, mọi người vẫn tỏ ra rất mực bình tĩnh, cố giữ trật tự chung. Họ ngồi yên bất động tại chỗ, giữ im lặng đến độ lạnh lùng vì họ hiểu rằng mọi sự xáo trộn không cần thiết lúc chỉ mành treo chuông ấy sẽ mau đưa đến tai họa thê thảm mà thôi. Thủy thủ phải tận lực tát nước xột xạt, xột xạt liên tu bất tận nghe rợn mình trong sợ hãi lo âu của mọi trái tim còn biết đập. Cả tàu im re phăng phắt. Nhiều  người bắt đầu lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Chẳng một ai dám nhúc nhích, nhứt là sự di chuyển bị tuyệt đối cấm chỉ.

Dường như trong thâm tâm mỗi người, họ sợ sự cử động của mình dù nhẹ nhàng đi nữa sẽ làm cho con tàu rã ra từng mảnh vụn chăng?  Quả tàu đã vô nước thật sự rồi. Nhiều thủy thủ can đảm nhảy ùm xuống biển trong đêm tối, nắm níu giữ chặt lấy tay nhau, dùng vải áo quần và bao bố cũ lần mò cố tìm chỗ vô nước để mong trám lại. Họ chấp nhận hy sinh tánh mạng mình với chút hy vọng mong manh cứu con tàu khỏi thảm nạn. Anh tài công thức suốt đêm, đôi mắt trắng dờ, không bao giờ dám rời tay lái. Thỉnh thoảng, người ta phải tiếp tế cho anh cà phê, sữa, thuốc lá và nhứt là những khoanh bánh tét giúp anh chịu đựng qua cơn dông bão ngặc nghèo. Dường như anh có tay nghề đi đường biển nên anh lèo lái con tàu an toàn khiến cho mọi người bắt đầu an tâm vững bụng. Nhưng rốt cuộc, Phật Trời phò hộ tai qua nạn khỏi. Tất cả đều đến được bến bờ đất hứa hằng ao ước. Chỉ trừ một ít người xấu số chịu không nổi sóng to gió lớn với cái lạnh mưa đêm thấu xương đành xuôi tay an giấc ngàn thu để được bà con trên tàu xúc động làm lễ tiễn đưa cuối đời nơi lòng đại dương! 

            Nhớ lại hôm xuống tàurời Việt Nam, bọn cán bộ cộng sản có tổ chức một buổi lễ tiễn biệt ngay tại bãi khởi hành Vũng Tàu, cũng rườm rà kiểu cọ, mà mắt thiên hạ theo phương thức ngàn đời dối gian lật lộng của chúng, tức nặng về phần trình diễn rỗng tuếch. Cũng có mấy câu đầu môi cầu chúc thượng lộ bình an... Còn việc sống chết thế nào mặc bây, có ra sao ở đại dương thì mặc người đi vô tội. Chúng thúc ép, dồn chật nức nhiều người chừng nào tốt chừng nấy. Miễn sao chúng thu được vàng bạc, đô la tối đa bỏ túi là đạt tiêu chuẩn qui định. Chúng tôi lắng tai nghe chúng đọc danh sách, kêu tên từng người tuần tự bước lên chiếc cầu khỉ nhỏ hếu lắc lư chòng chành để xuống tàu. Và lần này, chúng lại trơ trẻn như bản tánh cố hữu, hôi thêm của cải lần cuối cùng. Chúng bắt buộc mỗi người vượt biên chỉ xuống tàu mình không, phải vất bỏ lại tất cả những gì họ mang theo, dù là một ví tay hay một giỏ xách nhỏ những thứ cần thiết như thực phẩm, thuốc men... Báo hại, vào giờ phút bất ngờ ấy, biết bao nhiêu người trở tay không kịp, phải cười đau khóc hận. 

Bọn cộng sản vơ vét tận xương tủy của những người bất hạnh. Có người bịn rịn trong lúc hoang mang mất định hướng, khi xuống được cầu tàu an toàn còn nuối tiếc, ngập ngừng sục sùi ngoái nhìn lại đông đảo bà con trên bãi đang lóng ngóng tiễn đưa, đứng lố nhố đó đây, nước mắt lưn tròng. “Cái cảnh biệt ly” muôn thuở đều đong đầy nước mắt quyến luyến. “Kẻ ở người đi” nào mà không thê thiết, se thắc lòng, một khi trước mặt tương lai “người đi” mù mờ, có thể là phút cuối cùng giã từ vĩnh biệt! Họ bị thân nhân hay những người Hoa trong ban tổ chức vượt biên không hết lời la ó quát tháo. Họ dùng tiếng Hoa “xí xô xí xào” rùm trời rùm đất, chúng tôi không sao hiểu được. Nhưng tựu trung họ bảo đừng bao giờ ngoái nhìn lại phía sau. Người Hoa họ rất mê tín, dễ tin dị đoan lắm. Cái cử chỉ quyến luyến nhìn lại bà con, nhìn lại quê hương lần cuối cùng trong đời ấy đối với họ là một cử chỉ vô tình báo hiệu những điều không may. Họ xem như mình còn tiếc nuối nên không thể vượt thoát dứt khoát được. Chuyến đi có thể gặp nhiều rủi ro bất trắc, ngoài tai nạn thảm khốc không lường trước được trên hải trình thập tử nhất sanh trong đời người và trong lịch sử. 

Hoặc tàu sẽ bị trục trặc máy móc ngoài biển khơi, bắt buộc phải quay mũi trở lại điểm xuất phát, như bao nhiêu chuyến đi bất hạnh, mất của mất tiền trước đây của bao nhiêu nạn nhân khốn đốn. Hoặc tàu sẽ gặp dông bão giết người, khi linh đinh trên đại dương làm cho bao gia đình sinh tử chia lìa, ôm nỗi buồn và mối hận thiên thu suốt tháng ngày còn lại. Hoặc bị bọn cướp biển Thái Lan cuồng bạo, khát máu, vô tâm lúc ấy lùng sục đêm ngày khắp nơi trên Biển Đông, cướp của, hãm hiếp, gây nhiều thảm họa khủng khiếp . Riêng đối với người Việt Nam cải trang thành người Hoa để trà trộn trong chuyến đi, họ muốn tránh không cho người trên bờ nhìn mặt, nhứt là đối với những người có tên tuổi được nhiều người biết đến. Một khi không may bị nhận diện, họ có thể bị bắt lại và sẽ gây phiền hà, làm trì trệ chuyến khởi hành.

            Xuống tàu ổn định được một chỗ ngồi đâu vào đó là một nỗi khấp khởi vui mừng không sao tả xiết. Nhưng mấy tên cán bộ tổ chức và đám a dua xua nịnh trở mặt dựa hơi hám cộng sản vẫn hùm hổ xuống tàu dồn thúc mãi nên người vượt biên cứ phải lấn vào nhau như cá mòi hộp, đến độ co rúm người không sao nhúc nhích được. Ấy thế, chúng lại không ngớt xô đẩy thêm không thôi, hăm dọa và dồn thúc liên hồi. Vì lúc đó trên bờ, những người chuyên nghe ngóng theo dõi các chuyến vượt biên bán chính thức, biết được hôm ấy có tàu ra khơi nên đã chuẩn bị sẵn. Họ kèn cựa, trả giá tại chỗ, chung tiền tượng trưng vào giờ chót là được cho xuống tàu với giá rẻ mạt.  Ban tổ chức vào giờ chót này tha hồ hốt bạc bỏ đầy túi áo khỉ để ăn chơi phè phỡn, qua mặt cái vù đám đảng ủy, chủ tịch bù trơ bù trớt, u mê dốt nát đang ngồi nhà chờ đàn em về báo cáo láo. Một cái đồng hồ “có cửa sổ, không người lái”, một sợi dây chuyền, một chiếc vòng đeo tay, đôi bông tai, vài chỉ vàng, thậm chí vài trăm đô la Mỹ cũng được cho xuống tàu thong thả trước khi tàu sắp nhổ neo. 
            Chiếc tàu cây vừa mới đóng xong trong vội vàng vì chủ tàu nơm nớp lo sợ đảng và nhà nước tráo trở lật lộng, thay đổi chủ trương chánh sách như chong chóng không bằng. Nó còn thơm mùi chai mùi sơn, mang số VT ****, dài không quá 17/18 thước, chở quá trọng tải, nặng khẩm làm cho mọi người tái mặt âu lo. Khi đến được đất liền ở Nam Dương quần đảo, nhà chức trách địa phương đến kiểm tra, đếm đến 349 nhân mạng sống sót, chưa kể những người bất hạnh oan uổn nằm xuống trong suốt hãi trình. Kẻ trước người sau, họ lần lượt chết trong âm thầm, chết trong tức tửi oán hờn không nguôi. Họ được bà con trên tàu làm lễ cầu nguyện trong hấp tấp vội vàng nhưng dù sao cũng tôn trọng theo đúng với tín ngưỡng và ước nguyện của người nhà.

 Sau đó, do vấn đề vệ sinh chung trên tàu, họ được những thanh niên còn mạnh khoẻ gói ghém đơn sơ nhưng không kém phần trang nghiêm trong những bọc nylon hay đệm chiếu cuốn tròn để từ từ thả xuống lòng biển khơi thâm u hãi hùng, sẵn sàng thịnh nộ bất cứ lúc nào, đêm cũng như ngày. Thật hú hồn hú vía! Hôm ra đi tủi nhục ấy, không tự người vượt biên dồn thúc như nêm sao được? Bọn cộng sản ác ôn, vô tâm vô hồn đã có quá nhiều kinh nghiệm sống trong việc tổ chức cướp của này. Chúng cứ bắt loa tay oang oang giọng Sơn Tây, Hà Nam Ninh, Bắc Sơn, Bắc Kạn...:

            - Không còn chỗ à? Cứ cho tất cả "nên" bờ hết. Hoản "nại" để kiểm tra xem người nào "nà" người Việt bỏ "nại", đem về phòng chấp pháp để cơ quan an ninh điều tra xử "ný"...
            Không ai bảo ai, mọi người đều một lòng tranh thủ nhau, tự giác nhường nhịn mỗi người một chút, chịu khó thêm ít phút nữa để qua truông khổ ải. Ai ai cũng ép mình bó gối cho nên có những chuyến đi quá khẩm, không bao giờ đến được bến bờ đất hứa. Hằng bao nhiêu người chắt chiu ấp ủ ước mơ duy nhứt được hít thở không khí tự do nhưng sở nguyện cuối cùng của một đời người bất thành, đành làm mồi cho tôm cá dưới sâu lòng đại dương. Một chuyến đi tủi nhục đầy uất ức và căm hờn. Tủi nhục vì đã cúi mặt lén lút như một tên tội phạm giết người không bằng. Ngay cả bà con thân  thích, bạn bè chí cốt lối xóm, những người thương yêu đã từng đi qua đời chúng tôi hơn mấy mươi năm đằng đẵng nơi cái xóm nhỏ nhắn hiền hòa, dễ mến dễ thương của thành phố Sài Gòn, đã đổi họ thay tên, cũng không bao giờ chúng tôi dám hở môi thố lộ một li. Căm hờn uất ức vì đã chọn con đường cùng tuyệt vọng, đánh đổi mạng sống với hai chữ tự do ấp ôm trân quý trong lòng để đảm bảo tương lai cho con cái. Ấy vậy mà bọn Cộng sản dã man khát máu vẫn còn bám riết đeo đuổi theo cố tình giết chết không cần dùng đến dao tu mã tấu hay súng đạn ngoại bang. 

            Chúng tôi những tưởng mình không sao thấy lại được cảnh trần gian, tuy có lắm ngang trái ưu phiền nhưng đôi lúc đã mang đến cho chúng tôi biết bao niềm vui và hạnh phúc bất tận. Quả thật, chúng tôi không ngờ mình còn sống sót trong chuyến hải trình lịch sử đầy kinh hoàng này. Bao lần gặp bão bùng sóng gió, kiệt quệ ói ra mật xanh. Bao lần bị bọn cướp biển Thái Lan vô tâm khát khao của cải, u mê nhục dục, truy kiếm lùng sục, dập vùi tám chín lần liên tiếp suốt 8 ngày 7 đêm lênh đênh tuyệt vọng trên biển cả mênh mông vô tận. Nhưng cuộc đời lúc nào cũng dành cho chúng ta những cái bất ngờ. Đúng như lời của ông già bà cả mộc mạc chân quê thuở nào nơi quê nhà thường hay nói: "Trái đất tròn, có ngày mình vẫn gặp lại nhau". Mà thật vậy. Có những ước mơ mình trông chờ mòn con mắt, ngóng đợi từng ngày từng tháng đến giản nở  con ngươi nhưng chúng không bao giờ đến cả. Nhưng ngược lại, có những điều, những việc không bao giờ mình dám ước mơ nghĩ tới, dù một thoáng mong manh, nhưng lại đến với mình thật bất ngờ, thích thú. Trong trường hợp này còn gì  sung sướng cho bằng.

            Hôm tham dự mết tin kỷ niệm ngày Quốc Hận 30 tháng Tư tại thủ đô ánh sáng Paris, trong rừng người già trẻ bé lớn cùng một nhịp tim phất cao những ngọn cờ vàng ba sọc đỏ phất phới dưới con mắt đầy thiện cảm và biểu đồng tình của khách ngoại quốc cùng người Pháp địa phương, chúng tôi đang theo chân bạn bè biểu dương khí thế và quyết tâm trước tòa đại sứ Việt cộng, 62 đường Boileau, Paris 16. Thình lình, chúng tôi nghe có người gọi đúng tên cúng cơm của chúng tôi rồi chạy đến ôm chặt lấy chúng tôi vào lòng, mừng vui quýnh quíu. 

Chúng tôi rất ngạc nhiên, quá đỗi ngạc nhiên là khác. Không ngờ trong quang cảnh ồn ào tưng bừng khí thế đang lên này, chúng tôi gặp lại vợ chồng anh Bảy Thành, Hoàng Đức Thành, người bạn hàng xóm chí thân ở cách nhà tôi chỉ có mấy căn phố trệt nơi phường Đa Kao Đất Hộ, Quận Nhứt Sài Gòn.  Mừng mừng tủi tủi, xúc động nghẹn ngào tột độ, chúng tôi không nói được gì nhiều vì là chỗ đông người, thanh thiên bạch nhựt. Mới hay anh chị Bảy Thành vừa từ Cologne cùng với ít người bạn tâm huyết hẹn nhau từ Hambourg, Dusseldorf hay Berlin bên Đức Quốc lái xe qua Paris tham dự mết tin để tỏ tình đoàn kết của cộng đồng tỵ nạn Âu Châu vốn keo sơn gắn bó, một dạ một lòng.  Sau đó, chúng tôi mời cả hai vợ chồng về thẳng nhà trọ để có nhiều thì giờ hơn cùng nhau tâm tình, hàn huyên ôn cố thoải mái. 

Vì nhứt định, chúng tôi sẽ có rất nhiều câu chuyện vui buồn kể cho nhau nghe, sau cơn đổi đời nghiệt ngã mà mỗi người chúng tôi cũng như tất cả bà con quyến thuộc ở Miền Nam nước Việt đều là nạn nhân khốn đốn của chế độ xã hội chủ nghĩa không sót một ai cả:
            - Trái đất tròn và mênh mông quá, không dè gặp lại anh chị trong vui mừng hạnh phúc ở xứ tạm dung tứ cố vô thân này.
            Chúng tôi lại hóm hỉnh đùa dai nhắc lại một thời quá khứ tuy xa mà gần:
- Con "liệt sĩ" cũng rời bỏ "đảng và nhà nước quang vinh" để vượt biên đi tỵ nạn chánh trị nữa cơ!
            Như được gãy trúng chỗ ngứa, anh Bảy Thành bắt đầu thao thao:
            - Đấy! Đấy! Anh chị có biết không? Chính nhờ vào cái bằng "liệt sĩ", "Tổ Quốc Ghi Công" làm bình phong đó mà đám con cháu tuyệt lộ cùng đường, tương lai tối thui tối thủi như trời ba mươi của "Bác" mới vượt biên an toàn dễ dàng. Chúng tôi không hề bị công an khu vực và bọn đón gió trở cờ ‘cách mạng’ ngang xương rình rập, theo dõi dòm ngó.
            Sự nhắc nhớ đùa vui vô tình ấy của chúng tôi đưa hai vợ chồng anh Bảy Thành trở về quá khứ, với những khúc phim thời sự hãy còn nóng bỏng ở Miền Nam, vẫn cứ chập chờn ẩn hiện đâu đó trong ký ức rối nhùi như nồi canh bún tàu của hai ông bà. Đêm hôm đó, chúng tôi thức rất khuya, không hề biết mệt mỏi là gì và anh chị Bảy Thành được một dịp quý hiếm để trang trải nỗi lòng mình. Sau 30/04/1975, bao nhiêu biện pháp khắc nghiệt do chánh sách và chủ trương trả thù, cướp của, giựt vợ, đày con của kẻ chiến thắng ngông nghênh hống hách, giết người không gớm tay, khiến bà con thành phố Sài Gòn đua nhau chạy chết tìm một nơi ẩn trú an toàn. Họ chỉ mong được tạm qua cơn sóng gió, thinh không đổ ập đến không kịp trở tay.  Gia đình anh Bảy Thành cũng như bao nhiêu gia đình bất hạnh khác vò đầu moi óc mong tìm một chỗ dung thân. Anh không hề bị theo dõi làm khó dễ phiền hà trong lúc nhập nhầy tranh tối tranh sáng của thời kỳ quân quản và cả giai đoạn về sau nữa. 

            Nhạc phụ và nhạc mẫu của anh trước giai đoạn toàn dân khởi nghĩa, toàn quốc đứng lên chống đế quốc Pháp xâm lăng sau Thế chiến thứ hai, có quen rất thân với một bác sĩ thuộc gia đình cố cựu danh tiếng ở miền Nam, đang hành nghề ở giữa trung tâm thành phố Sài Gòn, ‘Hòn ngọc Viễn Đông’. Hai bên rất tâm đắc, thương yêu, coi nhau như anh em ruột thịt trong nhà. Vì nhạc phụ anh cùng với viên bác sĩ này đều xuất thân là những sinh viên hiếm hoi ở miền Nam may mắn thi đổ để được theo học trường Đại học Hà Nội ngày trước. Vào thời kỳ này, trên toàn quốc Việt Nam chỉ có mỗi một trường Đại học duy nhứt là Đại học Hà Nội. Sau khi mãn khóa học trở về Nam, mỗi người mỗi ngả, làm việc sinh sống qua hai ngành nghề khác nhau. Một người phục vụ ngành y tế và một người được bổ dụng vào nhiệm sở ở ngành bưu điện. Dù vậy, từ dạo đó mãi về sau, cả hai càng tỏ ra thường xuyên qua lại khắng khít nhau luôn. Hơn thế nữa, cả hai đều có chung một quan điểm chánh trị rõ rệt, có ý thức sĩ diện quốc gia dân tộc, bất mãn và đau lòng trước sự hà khắc hống hách của thực dân Pháp và nhứt là bọn tay sai khuyển mã, hà hiếp bà con đồng bào lương thiện không nương tay. Do đó, họ âm thầm nhứt trí thề một lòng cùng nhau tham gia hoạt động bí mật trong mạng lưới "hội kín" của nhà cách mạng quốc gia chân chính Nguyễn An Ninh, cùng chung với một số không ít bạn bè trí thức thức thời được chọn lọc và tín nhiệm.

 Lúc bấy giờ, họ là những thành phần trẻ trung rất hiếm hoi, đồng tâm quyết và đầy cao vọng trong sáng. Họ thường lấy địa chỉ phòng mạch của vị bác sĩ này ở ngay con đường sang trọng bực nhứt của Sài Gòn, nơi có những dinh thự nguy nga đồ sộ của Pháp kiều hay những viên chức thuộc địa cao cấp để làm nơi hội họp định kỳ. Việc chọn lựa thận trọng đó nhằm đánh lạc hướng sự dòm ngó theo dõi của công an mật thám Pháp nhun nhúc khắp nơi và nhứt là bọn tay sai đông như kiến, công cụ trấn áp sắt máu của thực dân lúc ấy. Nay "giải phóng", "thống nhứt đất nước", ‘‘Bắc Nam chung một nhà’’ sau ba mươi năm ‘‘cốt nhục tương tàn’’, ‘‘gà nhà bôi mặt đá nhau’’, vị bác sĩ này sau thời gian chín năm tham gia kháng chiến ở Đồng Tháp Mười rồi tập kết ra Bắc năm 1954 theo tinh thần hiệp định đình chiến Genève, ‘‘hồ hởi phấn khởi’’ khăn gói trở về Nam. Ông sinh sống tại Sài Gòn với tư cách là cán bộ đảng viên cao cấp hưu trí. Dù có gốc gác là một trí thức tư sản tên tuổi ở miền Nam nhưng uy  tính của vị này vẫn còn lớn lắm, nhờ tiếng tăm quốc tế của ông trong guồng máy y tế thời kỳ Nam Bộ chống xâm lăng, cũng như về sau ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa. 

Bọn Cộng sản bản tính đa nghi còn hơn xa Tào Tháo, lại nặng về đấu tranh giai cấp, nhưng chúng có thâm ý xử dụng và kết nạp những thành phần trí thức nhẹ dạ dễ tin để làm tấm bình phong che chắn cho chánh sách đen tối của chúng. Qua đó, chúng nhắm mục đích duy nhứt là gạt gẫm nhân dân vốn có truyền thống yêu nước và tấm lòng trong sáng dám hy sinh cho tổ quốc lúc lâm nguy về tình đoàn kết dân tộc và nhứt là để mà mắt giới trí thức thiên tả cùng các hệ thống truyền thông, báo chí thế giới. Những người non lòng này một khi đã trót chọn lầm đường, đến khi thức tỉnh thì ô hô đã quá muộn. Họ không còn con đường nào tháo lui được, do bị các chi bộ đảng và các đội ‘‘bảo vệ’’ gồm toàn những đảng viên trung kiên ba bốn đời bần cố, bao vây chặt chẽ, thường xuyên đêm cũng như ngày. Cuộc đời của vị bác sĩ nầy cũng thăng trầm bao độ. Ông không chết dưới bàn tay sắt máu cuồng ngông của cộng sản là may mắn cho đời ông rồi. Là một nhà trí thức tư sản hạng gộc, lại một thời được biết qua lập trường quốc gia vững vàng, ông quyết tâm kháng chiến chỉ nhằm chống lại thực dân Pháp ngay từ những ngày đầu khói lửa. Ông đã cởi trên lưng cọp và sa vào hang hùm độc hiểm không sao thoát khỏi. Nhưng qua những đợt ‘rèn cán chỉnh quân’ rùng rợn, cộng sản không ra tay hay chưa ra tay đối với ông, chẳng qua do tên tuổi của ông đối với dư luận quốc tế. Mà chắc hẳn cũng do định số của ông nữa. 

Nhiều lần bà bác sĩ từ Sài Gòn đích thân lén lút lặn lội vào tận chiến khu để thuyết phục ông trở về sinh sống nơi vùng tạm chiếm. Theo lời bà bác sĩ thuật lại với những người thân trong gia đình hay bạn bè tính cẩn thì ông cũng lung lay, chỉ chờ giờ phút thuận tiện của một ngày tốt trời nào đó để lên đường thực hiện ý định thầm kín của mình. Nhưng ở đời chữ ngờ luôn luôn dành cho con người nhiều ngạc nhiên ngang trái. Lần sau cùng, bà bác sĩ lại vào chiến khu nhằm thu xếp mọi việc rồi thình lình ngã ra mất tại đây vì bị chấn tim. Xác bà được chôn cất sơ sài ở Đồng Tháp Mười làm tiêu tan một chuyến về. Bà mang xuống tuyền đài một giấc mơ chẳng bao giờ được thành tựu. Và không lâu, đảng bố trí một nữ đảng viên trẻ đẹp đến cột chân cột cẳng ông vĩnh viễn dưới ngọn cờ máu đến ngày qua đời ở Sài Gòn sau ngày đổi đời vài năm.

            Nhờ sự nễ nan trọng vọng của cộng sản qua nhiều thập niên phục vụ trong ngành y tế xã hội chủ nghĩa, cộng thêm tình cảm đặc biệt, bạn bè chung thủy, "bằng hữu chi giao mạc khả vong" đối với nhạc phụ anh trước đây, khiến ông bác sĩ hồi hưu không một phút ngần ngại hạ bút chứng nhận nhạc phụ anh đã hy sinh vì Tổ Quốc trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ. Thái độ này chẳng có gì là lạ cả. Qua mấy mươi năm bị nhồi nhét chủ nghĩa Mác Lê-Nin và đường lối đấu tranh giai cấp, cái gốc của ông vẫn là một trí thức tư sản với cảm nghĩ và tình cảm cốt tủy ‘tạch tạch sè’ mà cộng sản đành chịu thất bại chua cay vì khó có thể gột rửa sạch được. Việc xác nhận này xảy ra trong chiến dịch rầm rộ "bình công báo công", "ơn đền nghĩa trả" đầu tiên của cộng sản ở thành Hồ. Anh Bảy Thành cười ngắt nga ngắt nghẻo thỏa chí lắm:
            - Từ dạo đó, bà nhạc tôi bỗng nhiên trở thành bà vợ "liệt sĩ" ngang xương, cũng có bằng "Tổ Quốc Ghi Công" được trịnh trọng "lộng kiếng" đàng hoàng và được trang nghiêm treo trên vách tường chính giữa nhà để hù dọa đám cò ke lục chốt, cắc ké ba mươi. Và dĩ nhiên cũng để dằn mặt đám cán bộ cộng sản địa phương ở trong ‘Rờ’ vừa ra ánh sáng, bù trơ bù trớt, ngu dốt, xớ rớ ăn không ngồi rồi, hí hoái loay hoay như gà mở cửa mả. Ngày ngày, chúng chỉ ra vào, đi tới đi lui ‘‘lên lớp’’ trả bài như két, hoặc đấu láo vô tích sự, làm trò hề giúp thiên hạ những dịp cười ra nước mắt. Chúng nhan nhản khắp nơi, tận trong các ngõ ngách phường khóm, giống như những tên hề hạ cấp diễn dở, đối đáp vô duyên. Người dân không phải tốn một đồng xu cắc bạc nào để mua vé vào cửa xem.
            Anh lại nhíu mày:
            - Lúc đó, chúng tôi chẳng còn sáng suốt, chẳng có tinh thần gì để hỏi han cho cặn kẽ, tìm hiểu rõ ràng trắng đen sự thật ra sao. Chỉ biết trong lúc hỗn loạn hoang mang, bế tắc trầm trọng, gia đình chúng tôi như có cái phao cứu tử, đeo bám vào không rời để mong bơi đến chỗ an toàn hay chờ người tốt bụng đến cứu vớt. 
            Rồi anh tiếp:
            - Về sau, mỗi ngày qua, chúng tôi càng nhận thấy chế độ cộng sản "ưu việt, bách chiến bách thắng" hiện nguyên hình qua giọng lưỡi tuyên truyền đường mật với chánh sách gian dối hà khắc hận thù, bất nghĩa bất nhân. Nó tồi tệ bệ rạt qua những đặc ân đặc quyền bất chánh do cấu kết có hệ thống, mánh mung móc ngoặc mà chỉ trong nội bộ giai cấp đảng viên mới có mà thôi. Người dân chơn quê cần cù lương thiện trở thành công cụ phục vụ không công cho một thiểu số cầm quyền chuyên chính độc tài đầy quyền lực với súng gươm trong tay. Chúng tôi cứ cười thầm về cái "bằng liệt sĩ" của nhạc mẫu chúng tôi mỗi lần nhìn lên vách tường.

            Anh choàng qua bá vai chúng tôi rồi vỗ vai chúng tôi nhẹ nhàng, biểu lộ một sự gần gũi thân thiết như thói quen của anh đối với chúng tôi từ những năm xa xưa đến nay vẫn còn nguyên vẹn, không hề thay đổi mảy may. Chung quanh anh bây giờ tất cả đều đổi thay và đổi thay tận gốc rễ, nhưng cái tính thủy chung truyền thống trước sau như nhứt, ‘bằng hữu chi giao mạc nhược thủy’ của anh vẫn vậy.
            Anh bỗng dưng nghiêm sắc mặt như muốn nói một điều gì quan trọng:         
            - Việc chứng nhận giấy tờ ma mảnh này chẳng phải là trường hợp đặc biệt có một không hai ở thành Hồ đâu. Không phải chỉ riêng đối với nhạc mẫu chúng tôi. Chúng tôi biết khá rành rọt có những người sau ngày "giải phóng!?" được trọng vọng, được ‘‘đề bạt’’ nắm những chức vụ quan trọng trong guồng máy hành chánh mới. Họ chỉ nhờ vào mảnh giấy xác nhận, có đống dấu ngôi sao đỏ chói của bà con thân thuộc, những đảng viên kỳ cựu có thế thần. Đám này hoặc do tình cảm gia đình hoặc do tiền bạc đút lót mua chuộc đã chứng nhận gian ngoa họ là đảng viên được kết nạp theo thủ tục ‘‘đơn phương’’, ‘‘đơn tuyến’’ gì đó. 
Anh ân cần giải thích thêm:
- Cộng sản dùng ‘‘cụm từ đơn tuyến’’ để chỉ những người được chúng giao cho một nhiệm vụ đặc biệt đơn phương, không phải tùy thuộc vào cấp lãnh đạo của một hệ thống chánh thức nào. Tức nhiên, trong trường hợp này, chỉ có hai người biết là tên đảng viên đứng ra kết nạp và người được kết nạp vào đảng mà thôi.

            Chị Bảy Thành ngồi im từ nãy giờ chen vào gọn hơ:
            - Chỉ có trời mới biết. Đôi khi ông trời còn mù tịt nữa kìa đối với cái đám mánh mung lươn lẹo tầy trời này. Mà nếu có người biết thì những chứng nhân khốn khổ ấy cũng đã ‘‘hy sinh’’ từ lâu rồi. Nói ‘‘hy sinh’’ là nói theo giọng điệu tuyên truyền của cộng sản, chớ thực ra những người này đã bị quân đội Quốc Gia mình truy lùng và tuần tự tiêu diệt hết.
            Anh Bảy vội cướp lời vợ, lên tiếng bổ túc thêm:
- Nhờ được giấy chứng nhận ma như vậy mà đám trở cờ, sớm đầu tối đánh này thành công chạy thoát, khỏi phải đi học tập cải tạo. Rồi để được lòng tin của chủ mới, chúng trở nên nghênh ngang, phây phây ‘‘hồ hởi’’ lập công góp ý lung tung beng không ăn nhập vào đâu, báo cáo dối loạn xà ngầu, chỉ điểm bày vẽ này nọ làm phiền hà bao nhiêu đồng nghiệp cũ cũng như bà con lối xóm thân tình trước đây. Nhưng bọn cộng sản không phải vừa gì. Bản tánh chúng đa nghi còn hơn Tào Tháo không bằng nên về sau Ban Tổ chức đảng rà tới rà lui, xem xét thẩm tra tất cả những vụ ‘‘kết nạp đơn tuyến’’ nầy suốt trong thời kỳ mấy mươi năm dằn co liên tục đánh phá ở miền Nam. 

Anh hăm hở cười đắc chí:
- Và kết quả - anh biết không - nhiều đứa bị hạ tầng công tác thảm hại do không còn được nhìn nhận là đảng viên nữa. Việc kết nạp có những chi tiết không ổn, có những hoàn cảnh mập mờ khúc mắc, bí hiểm là khác. Do đó, chúng trở nên bất mãn hơn cả những người dân lành bất mãn nhất. Chúng cho là mình bị vắt chanh bỏ vỏ. Nhưng chúng đành ngậm câm như hến, không hề dám rụt rịch hé môi hé mồm chống đối công khai. Chúng chỉ còn có nước giỏi chửi đổng trong nhà cho vợ con cùng nghe!

            Ngừng một lúc để hớp chút cà phê đậm đặc mà anh ít khi dùng thêm đường hay sữa, anh tiếp câu chuyện dở dang qua gương mặt xương xương hóm hỉnh ngạo đời:
            - Đám cán bộ cộng sản dốt đặc cán mai này làm việc theo một lề lối có một không hai, chỉ thấy ở các xứ sở xã hội chủ nghĩa như ở Việt Nam mà thôi. Việc cấp phát bằng "liệt sĩ" ngang xương này cho gia đình bà nhạc chúng tôi có những tình tiết đầy kịch tính khiến chúng tôi cười đến bể bụng, thốn tận óc o. Tôi kể ra đây chắc anh không ngờ, nhưng chúng tôi đảm bảo với anh đây là chuyện có thật một trăm phần trăm. Chúng tôi không hề cường điệu không cần thiết, thêm bớt một chi tiết cỏn con nào cả. 

Anh kể:
- Một ngày nọ, tên cán bộ ở phường, có vẻ có chức phận và quyền hành, đi kèm với một tên công an khu vực, chỉ liếc nhìn thoáng qua là đã biết ngay hắn thuộc thành phần răng đen mã tấu ngoài Bắc mới được ‘‘điều’’ vào Nam công tác. Anh chàng cán bộ này ăn mặc theo ‘‘mốt’’ thời trang của những tháng năm chân ướt chân ráo vừa vào thành phố, cũng dép râu, áo bà ba đen, khăn rằn quấn cổ đàng hoàng… đến gõ cửa nhà xin gặp vợ chồng chúng tôi. Chúng tôi đang lúc hoang mang âu lo thụt mạng vì những tin đồn sẽ không còn đường, không còn muối bày bán, dầu hôi lại khan hiếm, xăng nhớt không tìm đâu ra v.v... ngay cả những nơi buôn lẻ ở đầu đường cuối phố. Chúng tôi vò đầu vò trán tìm cách mua chút ít thủ sẵn để dành cho các con chúng tôi hãy còn  quá  nhỏ và để xử dụng những đêm cúp điện. Anh ta bệ vệ ra vẻ như quan trọng hung lắm. Nhưng nhìn kỹ, gương mặt anh ta vẫn không che giấu được nét vênh vênh hống hách, tự cao tự đại và khó hiểu của kẻ vừa chiến thắng. 

            Sau khi chào hỏi xã giao đôi điều vài chuyện rất ư lịch sự theo cung cách đầu môi chót lưỡi "tác phong con người mới, con người văn minh xã hội chủ nghĩa", những câu sáo rỗng không ăn nhậu và chẳng dính dáng vào đâu, anh ta lấy giấy tờ ra, đưa mắt lướt tới lướt lui rồi trình bày sự việc:
            - Đảng và Nhà Nước ta vừa cứu xét trong dịp "bình công báo công" đợt một ở thành phố và đã nhứt trí cấp bằng "liệt sĩ" cho nhạc mẫu của đồng chí. Đồng chí thấy đó. Đảng ta không hề quên công trạng của nhạc phụ đồng chí đã anh dũng ‘‘hy sinh’’ trong cuộc ‘‘kháng chiến thần thánh’’ và trường kỳ chống Pháp ở Nam Bộ ngày trước. Đây quả đúng là một vinh dự lớn lao, một hãnh diện, một tự hào to lớn và hiếm hoi của gia đình đồng chí. Và đây cũng là chủ trương và chính sách của đảng, trông nom chiếu cố đến những ‘‘gia đình cách mạng’’ và ‘‘con em liệt sĩ, thương binh’’ ngay trong giai đoạn khó khăn chuyển tiếp hiện tại.

            Ngừng một đôi giây, anh ta khệ nệ lên giọng nói:
            - Tôi đã làm việc với bác gái ở Quận Nhứt Thành phố, nơi bác có hộ khẩu chính thức hiện nay. Bác là vợ của ‘‘liệt sĩ’’, chồng bác, nhưng tôi rất tiếc báo cho vợ chồng đồng chí biết, bác không thể nhận bằng "Tổ Quốc Ghi Công" cao quý này được. Lý do là bác không làm tròn trách nhiệm của một người vợ ‘‘liệt sĩ’’ trong thời gian  ‘‘chống Mỹ cứu nước’’. Bác đã không để ý dạy dỗ, không quan tâm giáo dục đúng mức và không khuyến khích đôn đốc các con bác đi theo con đường cách mạng của chồng mình dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tuyệt vời của đảng ta. 

            Nhìn thẳng chúng tôi, hắn đưa tay vuốt đi vuốt lại mái tóc hoa râm khá nhiều với gương mặt khắc khổ rồi khịt mũi tiếp lời:
            - Chẳng những thế, và đây là điểm quan trọng nhứt là bác còn để cho hai đứa con trai mình cùng con rễ mặc nhiên tự tung tự tác, tiếp tay với Mỹ Ngụy, chống phá sự nghiệp cách mạng của toàn dân nữa.
            Nói đến đây, anh ta bỏ lửng như có ý chờ xem thái độ và phản ứng của chúng tôi. Anh ta tự nhiên ngồi rút một chân gác gọn hơ lên chiếc ghế đẩu đối diện với chúng tôi rồi lật đi lật lại vài trang giấy viết tay lấy ra từ trong tập hồ sơ ngã màu thâm đen:
- Bác gái có người con trai trưởng là tư sản mại bản ác ôn, từng bóc lột hút máu hạ tầng giai cấp, đã cùng với vợ con nhanh chân tháo chạy theo đế quốc Mỹ và bọn ‘‘thằng Thiệu thằng Kỳ’’ những ngày cuối cùng của tháng Tư 1975. Thêm một người con trai kế đó là sĩ quan cấp úy trong quân đội Ngụy, đã từng a tòng với bọn phản động gây nợ máu đối với đất nước và nhân dân. Người này hiện đang được hưởng chánh sách khoan hồng của đảng và nhà nước, đi học tập cải tạo để thấm nhuần chủ trương và đường lối của đảng, hầu trở thành một công dân tốt trong chế độ ‘‘xã hội chủ nghĩa ưu việt’’ của ta. Chẳng những thế, bác lại có thêm một người con rễ, công chức cao cấp trong chính quyền ngụy thuộc ngành tư pháp bù nhìn, hiện cũng đang đi học tập cải tạo tại địa phương chưa về. 
            Anh ta mồi điếu thuốc rê đen xì rồi hít một hơi nhẹ dịu giọng:
            - Nay Phường ủy và Ủy ban Nhân dân Phường xét thấy trong gia đình của bác gái chỉ còn vợ chồng đồng chí thuộc diện tiểu thương tiểu chủ, buôn bán nhỏ trong thành phố, trước đây không dính líu đến chánh quyền cũng như quân đội Ngụy nên đảng và phường ủy nhứt trí trao cho vợ chồng đồng chí giữ giùm bằng "Tổ Quốc Ghi Công". Và đương nhiên vợ chồng đồng chí được hưởng tất cả quyền lợi tinh thần lẫn vật chất của người thừa hưởng chánh thức quyết định cao quý nhất này của Thành ủy.
            Chị Bảy Thành không ngồi yên được. Bản tánh chị rất năng động. Hồi còn nhỏ, gia đình bảo chị là con lật đật nhưng lại ít nói ít cười trước chỗ đông người. Nãy giờ chị cứ nhích tới nhích lui không thôi. Bỗng dưng, chị ngứa cổ cười ngất rồi chen vào câu chuyện:
- Anh chị thấy đó. Cái bằng "liệt sĩ ngang xương" này đến với tụi tôi bất ngờ làm sao. Thinh khổng thinh không tự trên trời cao rớt xuống một cái ầm làm cho vợ chồng chúng tôi bẽ mặt bẽ mày, quê một cục khi phải đối diện với bạn bè chung xóm. Cũng may, bà con này vốn hiểu chúng tôi nên không nhìn chúng tôi với cặp mắt nghi kỵ hay khinh bỉ. Nhưng dù gì, nó cũng giúp chúng tôi giải quyết ổn thỏa nhiều điều, nhiều việc lắm, nhứt là tránh được sự dòm ngó, rình mò theo dõi của đám cán bộ ba mươi, nổi tiếng cà chớn muối mặt, chèn ép hiếp đáp, bức bách  những người trong phường quen biết ngày xưa, cũng như của tên công an khu vực cùng tổ trưởng, tổ phó an ninh. 

Chị ngồi ngã người trên ghế cười khanh khách:
- Ngoài việc ưu tiên được mua nhu yếu phẩm hằng tháng khỏi phải xếp hàng dài dài ngoằn ngoèo như rắn trên lề đường hằng giờ hằng buổi dưới cái nắng cực kỳ gay gắt của mùa hè, chúng tôi còn được tổ phân phối nhu yếu phẩm bán cho gạo trắng gạo nguyên không cát sạn, khoai mì khoai lang ít sượng sùng, không thúi hư, thịt thà khá ngon, cá mắm, rau  ươi chọn lọc... Xem như một đặc ân đặc quyền trong chế độ đãi ngộ bè phái phe nhóm núp dưới danh nghĩa những gia đình có công. 

            Chị nghiêm sắc mặt:
- Đám cán bộ cộng sản bản chất rất thâm độc có hệ thống. Chúng thừa biết trong phường lúc ấy số gia đình con em "thương binh liệt sĩ" hiếm hoi lắm, đếm chưa hết năm ngón trên bàn tay. Chúng nó cố tâm săn sóc, tranh thủ cảm tình, lấy quyền lợi vật chất trong lúc khó khăn đói rách nhằm ý đồ mua chuộc. Chúng ngăn ngừa ‘‘gia đình liệt sĩ’’ phê bình nầy nọ hoặc có ý kiến ra vào... làm phản tác dụng, nêu gương xấu trước nhân dân quần chúng đang lúc hoang mang, ly tán, nghi ngờ.
            Chị Bảy Thành lần gặp mặt lại chúng tôi kỳ này tỏ ra khá hoạt bát, lanh lợi hơn ngày xưa nhiều. Hồi trước, chị  nhu mì ít nói, kín đáo lắm. Trông chị như e ấp thẹn thùng, luôn luôn khép nép núp dưới sự bảo bộc, sẵn sàng bao sân của ông chồng. Đụng tới, chị cười mỉm, mặt mày chị đỏ hồng bẽn lẽn. Nay chỉ trong vòng mấy năm ngắn ngủi, chưa đầy một thập niên sống đời tỵ nạn chính trị ở hải ngoại, chị thay đổi hẳn. Chị tiếp tục thao thao độc diễn một mình một chợ, thường xuyên cướp lời lấn lướt anh Bảy. Chúng tôi để ý anh vẫn cứ ngồi im ỉm mỉm cười những lúc ch  nói uyên thuyên. Mà xét kỹ ra việc này cũng không lạ lẫm gì cho lắm. Một số đàn bà Việt Nam ổn cư nơi hải ngoại tỏ ra hấp thụ văn minh Âu Mỹ nhanh chóng hơn đàn ông nhiều. Nhứt là những thứ văn minh vặt vạnh trong đời sống và va chạm hằng ngày. Đụng chuyện, họ quát tháo bảo đàn ông chẳng biết gì ráo, đôi khi còn nghinh mặt nghinh mày khinh khỉnh nữa. Không biết tôi có chủ quan, nhận xét đúng không hay quá đà? Còn đàn ông, ngoài những cái lăng nhăng ấy, họ còn có những thứ khác quan trọng hơn trong công danh, trong sự nghiệp và nhứt là trong nghĩa vụ mà ít khi được người đàn bà nội trợ hiểu biết để cảm thông và chia xẻ. Chẳng qua cũng vì nhu cầu vật chất và đua đòi mà ra cả. Khổ nỗi, trong câu chuyện, chị Bảy Thành thường hay chêm vào đôi ba tiếng Đức, không biết trúng trật ra sao nhưng rốt cuộc cũng đủ làm khó dễ chúng tôi không ít. 

            Những lần đó, anh Bảy Thành bất ngờ trở thành một thông dịch viên miễn phí. Anh phải nhỏ nhẹ giải thích cho chúng tôi hiểu, nhưng chúng tôi trông anh rất tội nghiệp. Vì anh không sao che giấu được sự ngượng nghiệu bối rối nơi gương mặt khắc khổ cố hữu của anh. Một điều chúng tôi để ý là anh không hề phản đối vợ về việc này, có thể làm phật lòng vợ anh chăng? Vì chắc trong thâm tâm, anh cũng biết rõ hơn ai hết, đàn bà Việt Nam nơi cõi tạm lưu vong này có giá lắm. Đàn ông bây giờ xuống cấp thảm thương chưa từng thấy trong suốt dọc dài lịch sử loài người. Đôi lúc họ cảm nhận sự hiện diện của mình trong gia đình bằng thừa. Mà nghĩ kỹ ra đây chắc cũng là hậu quả của cái vòng lẩn quẩn ‘‘vay trả trả vay’’ của một thời xa xưa nơi quê nhà, đức ông chồng là một ông vua hét ra lửa trong gia đình chăng? Nhưng rồi chị Bảy nói tiếp:
            - Ôi thôi nhằm nhò gì ba cái quyền lợi lẻ tẻ đó anh chị. Nó to lớn đối với đám cộng sản quần xà lỏn chân trần, rách rưới, nghèo đói rớt mồng tơi kìa. Chúng từng trốn chui trốn nhủi, đói khát, thiếu thốn khổ sở. Nhưng đối với mình, mình chẳng xem ra cái thớ gì. Vì như anh chị đã biết, dù sao mình cũng còn phương tiện, của chìm của nổi hậu thân. Mình có thể chịu đựng được đường dài kia mà. Nhưng bực mình nhứt là mỗi lần trong phường có tổ chức lễ lộc, tất niên, Nguyên Đán, hay kỷ niệm này nọ loạn xạ cào cào châu chấu... chúng tôi phải có mặt làm cảnh. Đôi khi chúng tôi còn bị bắt buộc phát biểu nọ kia theo bài bản sắp xếp, trái với lương tâm và cảm nghĩ trung thực của mình. Những lúc ấy, chúng tôi nói như vẹt, lập lại đúng y như khuôn những lời lẽ học tập ở tổ dân phố hằng đêm. 

            Chị nói luôn miệng, nói không phút giây ngừng nghỉ, quên cả uống nước ngọt và ăn bánh trái bày biện ê hề trên bàn:
            - Nhưng chúng tôi nói thiệt với anh chị, cũng nhờ mảnh bằng "liệt sĩ" ấy mà chúng tôi vững tâm bán đổ bán tháo gia tài sự sản, lên tiếng là do cuộc mưu sinh khắc khổ hằng ngày, nhưng thực ra là để góp nhóp thu mua vàng đủ số giao nộp cho người tổ chức vượt biên. Giá nếu không có bức bình phong cứu tinh đó, chúng tôi chắc cũng đi được, nhưng trần thân khoai củ, vất vả lắm. Vì thực tình, mình chẳng dám mạnh dạng giải quyết mọi việc trong gia đình.
            Chị ngon trớn:
- Tôi nói anh chị nghe cho vui và chắc anh chị sẽ tức cười chết luôn. Mình bán hấp tấp gấp rút cho kịp chuyến ra khơi đã định giờ giấc trước rồi. Có hôm, chúng tôi bán cái tủ lạnh hiệu General Electric còn mới tinh với giá năm trăm ngàn đồng cho một bà bạn hàng xóm, tánh tình chân quê dễ thương. Bà ta không có phương tiện để góp phần mua bãi vượt biên, mặc dầu trong lòng ham muốn lắm, cũng như tất cả bà con giàu nghèo thời bấy giờ. Bà có ý định mua cốt để sản xuất nước đá bán lẻ trong khu phố. Nước đá là món hàng xa xí rất khan hiếm nên đắc giá. Bà ta đẩy ra chưa được ba căn nhà thì một tên cán bộ nón cối rà rà xáplại hỏi mua. Bà ta sợ chung quanh để ý, nhứt là phường đội đóng đô nơi dãy phố lầu đối diện, công chuyện sẽ đổ bể liên can đến chúng tôi nên nhanh chóng bán tỉnh bơ một triệu đồng chẵn chòi. Bán ngay tại lề đường trước phố, bà chưa phí một chút công sức đẩy về đến tận nhà.

Trông chị còn ấm ức lắm:
- Trong đầu óc, chúng tôi chỉ có mỗi một việc là tập trung lo nghĩ về chuyến ra khơi đã cận kề với bao nhiêu âu lo chồng chất trong lòng, do không sao gở được những rối rắm lúc ấy. Ngày thì lo bươn chải. Tối lại thao thức thom lom. Mặt mày chúng tôi bơ phờ hốc hác với những nụ cười gượng gạo bên ngoài, không che giấu nổi những dằn co ray rứt, những bí ẩn thấp thỏm trong lòng. Tình trạng này càng căn thẳng soi mòn thần kinh hơn, làm cho mình mất ăn mất ngủ, khi mình đã chồng đủ số vàng cho ban tổ chức chờ lên đường, không có một mảnh giấy nhỏ biên nhận lận lưng. Mà dầu có biên nhận cũng chẳng có giá trị gì, thưa gởi với ai đây, mà không khéo còn bị xộ khám ở tù cả đám.
            Chị nghiêm giọng:
            - Mãi đến một hôm tên công an khu vực thuộc đám răng đen mã tấu Bắc Sơn Bắc Cạn... đến chơi thăm hỏi sức khoẻ chúng tôi. Cái sở trường sở đoản của những tên này là như vậy đó. Chúng đến chơi, tiếng là để thăm lom sức khoẻ, vấn an bà con, nhưng thực tình là để lâng la dòm ngó và theo dõi tìm hiểu. 

“Bỗng nó phát biểu xanh dờn:
            - Vợ chồng đồng chí chừng nào vượt biên đây? Tôi thấy đồng chí bán gần hết vật dụng trong nhà và hôm rồi mới bán cái tủ lạnh chắc để cho gọn và để được nhẹ mình... chớ gì?
            “Đến lúc đó, chúng tôi mới giựt mình nhảy nhỏm, nhìn quanh nhìn quẩn khắp các nơi trong nhà thấy hầu như trống huơ trống hoác lạnh lùng dễ sợ. Bàn ghế, tủ giường, chén dĩa, vật dụng bếp núc, tivi, quạt máy, màn cửa, khung ảnh trang trí... đều biến mất. Căn nhà có vẻ như một nhà ma trong những truyện liêu trai, những tiểu thuyết dã sử đường rừng.
            “Chúng tôi vội định thần vả lả:
            - Ấy chết! Miệng mồm ăn mắm ăn muối đồng chí đừng nói chơi như vậy có hại đến uy tín của chúng tôi nhé. Dù sao chúng tôi cũng là con của "liệt sĩ" kia mà. Bộ đồng chí hết chuyện nói chơi sao?
            Chị trầm ngâm, đôi mắt long lanh buồn rười rượi như đăm đắm nhớ về một nơi chốn xa xôi nào đó:
            - Không biết đấng khuất mày khuất mặt nào ra tay cứu chúng tôi, khi chúng tôi mở miệng nhắc đến vị thế của mình là con "liệt sĩ" như để lưu ý anh ta. Lúc này bỗng dưng sao chúng tôi khôn lanh quá anh chị à. Đời đã dạy chúng tôi thêm nhiều điều lắm chuyện từ khi mình mất nước và sống trong tù ngục. Hay hương hồn linh thiêng của thân sinh chúng tôi đã về để hướng dẫn chúng tôi chăng?
            “Tên công an khu vực không suy nghĩ, đáp lại trong chớp nhoáng:
            - Tôi đâu có nói chơi. Tôi nói thật đấy các đồng chí ạ.
            Chỉ Bảy tròn xoe đôi mắt:
            - Đến đây, cả hai vợ chồng chúng tôi có vẻ khựng lại và hơi lo lắng. Tiếp theo chỉ vài phút sau, chúng tôi tự trấn an mình và tự hỏi thầm: không biết tên công an khu vực này muốn gì? Thật tình, bọn này khó hiểu lắm. Trong phường, trong khóm ai mà chẳng ngại bóng dáng rình rập của chúng nó. “Dò sông dò biển dễ dò... chớ ai lấy thước mà đo được lòng”... đám cán bộ cộng sản bao giờ. 
            “Rồi chúng tôi vẫn tỏ ra vui vẻ bải buôi với hắn ta:
            - Đi đâu đồng chí ơi! Đất nước mình, mình ở chẳng sướng hơn sao? Ông già chúng tôi ổng đi kháng chiến, ổng hy sinh cũng chỉ mong muốn được có ngày này, được sống an vui hạnh phúc trên đất nước độc lập tự do và thực sự thanh bình của mình thôi. Giờ đây, đất nước đã tự do độc lập hẳn rồi, "Nam Bắc thống nhứt một nhà dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đảng và nhà nước" mà còn bỏ đi đâu nữa?

            “Chúng tôi lại nói đến sự hy sinh cao cả của cha chúng tôi để một lần nữa nhắc nhớ nhằm lưu ý anh ta. Rồi chúng tôi đồng thanh bật cười tâm đắc, nhưng tên công an khu vực vẫn chưa chịu tin chúng tôi bao giờ đâu. Bản chất nghi kỵ là phản ứng đầu tiên của mỗi tên cán bộ cộng sản Miền Bắc khi chúng đứng trước một đối tượng, nhứt là đồng bào Miền Nam, ai ai cũng đều có tội, ai ai cũng có “nợ máu với nhân dân”. Đối với chúng, tất cả đều là những người thù của ngày hôm qua mà ngay cả của ngày hôm nay và trong tương lai nữa. Anh ta nghiêm nghị, giọng nói càng tỏ ra trang trọng, đứng đắn:
            -  Tôi thú thiệt với anh chị (bây giờ anh ta gọi chúng tôi là anh chị chớ không còn gọi là đồng chí nữa), việc vượt biên dù dưới hình thức nào, đi chui, mua bãi hay đi theo diện bán chánh thức của người Hoa, hẳn nhiên không phải là chánh sách hàng đầu của đảng và nhà nước ta lúc nầy. Thực tình, đảng không chủ trương khuyến khích việc đó nhưng cũng không hề có chỉ thị chánh thức ngăn cản hay trừng trị một ai cả. Nếu có trừng trị là do cán bộ từng địa phương bày vẽ “triển khai” thế nầy thế nọ thôi. Đó là những trường hợp đơn lẻ, không kiểm soát được. Tóm lại, ai muốn đi thì đi. Ai có đủ phương tiện đi được thì cứ đi. Đảng không đôn đốc nhưng cũng chẳng cấm cản.

            “Chúng tôi giả đò như ngơ ngác. Trong khi dưới con mắt cú vọ của tên công an khu vực, nó đã đoán biết sự chuẩn bị ra khơi của chúng tôi chắc cũng từ lâu rồi. Chúng tôi bèn nói:
- Nhờ anh cho biết rõ ràng như vậy chớ từ trước đến nay, chúng tôi vẫn nghĩ người ta bỏ trốn đi mà thôi. Lỡ họ chẳng may bị bắt lại là phải bị đưa đi học tập cải tạo!
            “Tên công an nhẹ giọng:
            - Bây giờ anh chị đã biết rõ hết rồi. Mà trước khi đi, anh chị nhớ cho tôi xin chiếc xe đạp của anh chị để gởi về Bắc, giúp vợ tôi làm chân đi làm việc ở cơ quan hoặc cho con tôi dùng đi học đường xa. Anh chị không cho, sau khi anh chị đi rồi, nhà nước kéo đến kiểm kê cũng lấy sạch hết. Anh chị cho tôi, tôi nhớ ơn, giữ một kỷ niệm tốt về anh chị...

            “Câu chuyện nào rồi cũng đến hồi phải kết thúc. Tên công an khu vực vẫn nấn ná chưa chịu ra về và cứ nằn nằn lưu ý chúng tôi về chiếc xe đạp y ta xin. Đối với anh ta, chiếc xe đạp là tài sản to lớn lắm. Bao nhiêu năm cúc cung phục vụ, hy sinh đến kiệt quệ thân xác và trí lực cho đảng và nhà nước, chẳng bao giờ anh ta dám ước mơ tới. Vì một lẽ rất dễ hiểu là anh ta biết trước không thể nào có hy vọng thực hiện được ước mơ của mình nơi "thiên đường" cùng khổ của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo “thần thánh” của đảng. Chẳng biết phải làm cách nào gỡ rối cho huề cả làng, một mặt để chúng tôi yên tâm và mặt khác để anh ta không phật lòng, chúng tôi vừa nói vừa cười xòa cởi mở:
            - Đi đâu mà đi! Bộ anh tưởng đi vượt biên dễ lắm cơ? À, thì khi nào đi, chẳng những chúng tôi biếu cho anh chiếc xe đạp mà còn cho thêm tất cả những thứ gì anh muốn nữa kìa. Vừa ý anh chưa?
            Anh chị Bảy Thành vượt biên không lâu sau đó làm cho lối xóm đàm tiếu rỉ tai nhau. Đám cộng sản ăn ở như thế nào mà ai ai cũng bỏ xứ ra đi hết! Người giàu có, có phương tiện đi đã đành, mà ngay những người cùng khổ cũng đi nữa. Kể cả “con em cách mạng”. Cột đèn nếu có chân có cẳng cũng muốn đi thay!  Nhưng phường ủy quá đỗi lúng túng vì bà con trong phường cứ luôn mồm đồn rùm lên: con "liệt sĩ" mà còn "binh" nữa kìa, huống hồ là người dân bình thường. Việc này làm cho phường ủy đêm đêm hợp tổ dân phố giải thích lung tung beng, loạn xà ngầu. Nhưng càng cố tình giải thích bao nhiêu càng làm cho người dân quan tâm, chú ý bấy nhiêu. 

Trước đây, chúng tôi đã ra đi theo diện bán chánh thức. Người ta hay nói trái đất tròn, có ngày sẽ gặp lại nhau. Mà quả vậy, chúng tôi không chờ không hẹn, lại sống sót để gặp nhau nơi đất tạm dung diệu vợi này.  Đêm hôm đó, chúng tôi thức trắng dờ để hàn huyên ôn cố, suy gẩm chung quanh những cuộc vượt biên thành công hay thất bại, những thảm cảnh trên đường đi tìm tự do, cũng như những thăng trầm trong cuộc đời lưu vong nơi xứ lạ quê người. Mãi đến hai ba giờ sáng, chúng tôi vẫn còn quây quần bên nhau muốn nói thêm nhiều nữa, như chưa trút hết những gì ẩn ức, chất chứa trong lòng. Nhưng câu chuyện làm cho chúng tôi lưu ý theo dõi và xúc động nhiều nhất là khi chị Bảy Thành hồi tưởng trong ngấn lệ, nhắc nhớ đến ông thân của chị, ông già "liệt sĩ" bất đắc dĩ đã giúp gia đình chị thoát khỏi gông cùm kềm kẹp của chế độ khó nghèo nghiệt ngã, đã giúp chị thành công vượt ra khỏi nhà tù khổng lồ “xã hội chủ nghĩa Việt Nam ưu việt”. 

Với một giọng nghẹn ngào tưởng tiếc người cha sớm khuất núi, chị kể:
            - Cha chúng tôi xuất thân từ một gia đình túng khó ở Gò Công, trong  mình  mang hai dòng máu Hoa và Việt. Nhưng thành thật mà nói, về mặt tâm linh tình cảm sâu xa, cha chúng tôi nghiêng nặng về phía Việt Nam nhiều hơn. Ông nội chúng tôi là ông Bang có tiếng của một cộng đồng người Hoa gốc Phước Kiến thì phải, có cơ ngơi làm ăn khá lớn ở Cầu Long Chiến thuộc thị xã Gò Công. 

Chị sụt sùi:
- Nhưng chẳng may, ông mất sớm ở tuổi trung niên đầy cao vọng, do một thảm trạng về tranh chấp trong việc quản lý và điều hành một cơ sở sản xuất cây gỗ ở địa phương. Gia đình từ dạo đó trở nên sa sút nhanh chóng, làm suy sụp một sự nghiệp dầy công gầy dựng lâu ngày. Sự việc này tiếp ngay sau ngày bà nội tôi qua đời trong đau buồn bẩn chật. Bà là người Việt Nam, vợ kế của ông nội chúng tôi trong lúc người bôn ba lập thân xa quê hương xứ sở. Ngôi mộ bà hiện còn ở tại Nhị tỳ Gò Tre thuộc Gò Công. Cha chúng tôi bỗng dưng trở thành mồ côi mồ cút chẳng những cha mà cả lẫn mẹ, lúc tuổi đời còn nhỏ hếu, chưa biết gì. Cha chúng tôi được bà cố ngoại chúng tôi lúc ấy có nhà ở Bờ Lộ Me, nuôi dưỡng, dạy dỗ và bảo bọc. Lúc ấy bà cố tôi ở vào tuổi ướm rụng, gần đất xa trời, ngày lành tháng Phật cận kề trong gang tất. 

            Mắt chị long lanh. Chị muốn khóc nhưng cố nén những dòng nước mắt nóng bỏng:
            - Mỗi sáng, để sinh sống, bà cố tôi bán hàng lặt vặt nơi một sạp cây ở ngay trong nhà lồng chợ Gò Công. Lúc tờ mờ, chợ vừa bắt đầu nhóm le hoe vài người, cha chúng tôi cũng vừa banh mắt đã đẩy chiếc xe tay chở hàng lỉnh kỉnh ra chợ cùng với bà cố chúng tôi. Bày biện hàng hóa xong xuôi đâu vào đó, cha chúng tôi quay quả trở về nhà nấu nước pha trà, đồng thời dò lại bài vở trong ngày. Khi đi học, một tay cha chúng tôi xách cặp, tay kia xách tòn teng ấm trà nóng, ghé chợ trao cho bà cố chúng tôi trước khi đến trường. Tan trường, cha chúng tôi lại tạt qua chợ lo sắp xếp hàng hóa còn lại, chất vén khéo lên xe tay, loại xe cút kít rồi đẩy xe trực chỉ về nhà. Cuộc đời lam lũ khó nghèo của cha chúng tôi là vậy đó. Lao đao lận đận ngay từ khi còn nhỏ.
            Chị nói tiếp trong niềm tự hào chưa từng thấy nơi người đàn bà chí hiếu:
            - Dù vậy, cha chúng tôi học hành siêng năn giỏi lắm, xuất sắc là khác. Cả bạn bè cùng trường Nam Tiểu học Gò Công lúc đó đều nể nang trọng vọng và thầy cô các lớp không ngớt lời ngợi khen. Về sau, cha chúng tôi thi đậu ngạch thư ký hành chánh, được bổ dụng làm việc ở Ty Bưu Điện tỉnh lỵ mà thuở xa xôi đó được người bình dân nôm na gọi là Nhà Giây Thép. Làm việc không lâu, nhận thấy nơi nhiệm sở ở tỉnh lẻ này công việc nhàm chán, không có tương lai, cha chúng tôi lại thử thời vận một lần nữa và được trúng tuyển vào trường Sư Phạm Sài Gòn, dù tứ cố vô thân, không được một ai chở che, đỡ đầu dẫn dắt cả. Đến lúc mãn khóa học, người được bổ về gỏ đầu trẻ ở ngay tỉnh lỵ Châu Đốc, nổi tiếng với lăng Thoại Ngọc Hầu, kinh Vĩnh Tế, núi Thất Sơn và những ngày lễ vía Bà tưng bừng nhộn nhịp “ngựa xe như nước, áo quần như nêm”.

Một niềm vui thoáng hiện trên gương mặt yêu đời của chị:
- Cha chúng tôi gặp mẹ chúng tôi trong một hoàn cảnh hi hữu của định mệnh, của tiền duyên. Số là bà cố ngoại của mẹ chúng tôi có một người em gái út, em ruột của mình đã quyết định từ bỏ đất giồng Gò Công lên đường phiêu lưu đổ xuống tận Châu Đốc xa xôi, lập nghiệp. Bà em này làm nghề mắm đồng, một nghề tiếng tăm nổi như cồn ở vùng biên giới Việt Miên. Việc này nhờ bà cũng biết chút ít kỹ thuật căn bản làm mắm biển theo phương cách cha truyền con nối lúc ở tuổi thanh xuân. Mắm biển không được giá nên bà bỏ xứ xuống đây làm ăn. 

            “Năm nọ, bà cố ngoại của mẹ chúng tôi khăn gói xuống Châu Đốc thăm đứa em mình, nhớ thương cách mặt khá lâu. Trong chuyến đi đường trường xa dịu vợi đầu tiên trong đời này, bà quyết tâm dẫn mẹ chúng tôi theo cho bằng được để xách giỏ trầu và chăm lo gánh gồng đồ tế nhuyển. Nhưng thành thật mà nói, trong thâm ý của bà, bà cũng muốn cho mẹ chúng tôi được dịp “ngàn năm một thuở” ra khỏi làng quê cố thổ, biết đó biết đây với người ta. Thuở xa xôi ấy, đàn bà con gái nơi thôn quê, ngày ngày quanh quẩn lúc thúc nơi phòng the, bó mình sau lũy tre xóm làng. Tầm nhìn của họ được giới hạn ở lũy tre thôn ấp đó hay con sông ranh làng bên. Sự hiểu biết được gói ghém qua việc đồng áng nặng nhọc, chăn nuôi, xay lúa, giả gạo...

 Việc ra đi xa khỏi làng khỏi tổng xem như một cái gì rất nay, một phá lệ trong sinh hoạt thường nhựt, ít ai dám thực hiện, do ngại ngùng sợ lời dèm pha của thế gian. Bà cố ngoại của mẹ chúng tôi cũng thừa biết rằng đời người con gái ở lứa tuổi cặp kê được bàng quan thiên hạ ví như một đóa hoa, dù là hoa kiểng trồng trong chậu sứ chậu sành hay hoa dại mộc ven đường mòn đường đê, vừa thắm tươi rực rỡ quyến rũ, vừa ngan ngát hương thơm gọi mời.  Nhưng khốn nỗi, cái hương sắc bắt mắt ấy lại chóng tàn phai héo úa như sương sớm ban mai, cái thời xuân hoa mộng đó lại qua mau như bóng câu qua cửa. 


Tội cho những người con gái thời trước, nếu cứ lúc thúc quanh quẩn “bế môn” trong nhà rồi theo đà tiệm tiến đó, ngoái nhìn lại cái tuổi hai mươi hai, hai mươi ba ngấp nghé bên mình, được người đời cho là quá hớp, và nói theo ngôn ngữ bình dân là “ế chồng”, còn người bây giờ cho là “quá đát”. Thật tội cho họ đã chôn chặt cả cuộc đời mình giữa bốn bức tường nghất nghểu kiên cố của truyền thống phong kiến, không cách nào tự thân thoát ra được, đành ôm nỗi đau thầm kín trong lòng. Bà cố ngoại của mẹ chúng tôi xem ra tiến bộ quá cở thợ mộc. Bà muốn mẹ chúng tôi thoát ra khỏi những ràng buộc hẹp hòi khép kín, những bế tắt phi lý mà bà đã từng trải qua trước đây. Nào ngờ, khi đến nhà cô em ruột của mình ở Châu Đốc, bà gặp cha chúng tôi đang tá túc ở trọ ăn cơm tháng nơi đây, tức nơi nhà người đồng hương để đi dạy học. Khi đối diện nhau, lửa yêu đương giữa cha mẹ chúng tôi bỗng dưng nhóm lên bắt bén trong lần gặp gỡ duy nhứt nhưng kỳ thú này. Và cha chúng tôi lên tiếng nhờ bà chủ nhà ngõ lời xin cưới mẹ chúng tôi, như một tiếng sét ái tình trong những pho tiểu thuyết tình cảm lãng mạn đương thời.

            “Mọi việc đều xảy ra tốt đẹp. Cha chúng tôi lúc đó cũng giành giụm được chút ít tiền của sau nhiều năm đi dạy học say mê, cần mẫn tận tụy và có trách nhiệm cao. Nhưng vì có tinh thần cầu tiến vươn lên để bù đắp lại khoảng thiếu thời lao đao vất vả, kham khổ thiếu thốn, cha chúng tôi quyết định lần cuối cùng trong đời, bỏ nghề dạy học, tiếp tục kiên trì ôn bài vở và thi đậu ngay vào trường Đại học Hà Nội, trường Đại học duy nhứt của ba miền Nam Trung Bắc thời bấy giờ. Chính nơi đây, cha tôi kết thân với nhiều sinh viên ưu tú miền Nam du học ngoài Bắc. Số này không đông lắm, le hoe mỗi khóa học năm bảy người là nhiều nên sự thương yêu đùm bọc, giúp đỡ nhau rất đậm đà, khắng khít. Họ xem nhau như anh em ruột thịt trong nhà, nhứt là ở nơi đất lạ xa xôi, tứ cố vô thân. Trong số bạn bè hiếm hoi này, dĩ nhiên có vị bác sĩ đảng viên cộng sản cao cấp, người đã chứng nhận cha chúng tôi trong cuộc "bình công báo công" đợt một trong thành Hồ. 

Do đó, cha chúng tôi bỗng nhiên trở  thành một trong số "liệt sĩ" đầu tiên của miền Nam sau ngày "giải phóng". Trong số những sinh viên Miền Nam chỉ có mỗi một mình cha chúng tôi là người lớn tuổi hơn hết, đã lập gia đình và có thời gian gỏ đầu trẻ nhiều năm. Mẹ chúng tôi cũng thừa dịp hiếm hoi trong đời, theo chân cha chúng tôi sinh sống ở Hà Nội suốt trong thời gian cha chúng tôi ăn học ở đây. Có điều khá tức cười, tôi kể anh chị nghe cho vui. Số là mẹ chúng tôi có sanh một người anh trai của chúng tôi ở Hà Nội. Về sau, khi lên chín mười tuổi gì đó, chúng tôi được nghe kể lại anh thường hay chơi đánh cá cùng bạn bè trang lứa. Anh lại nghĩ ra một phương thức đánh cá khá độc đáo bằng cách nghéo tay đố xem anh là dân Bắc Kỳ Hà Nội hay Nam Kỳ Lục Tỉnh. Lần nào anh cũng thắng, vì tất cả đều cam đoan anh là "giá sống" một trăm phần trăm. Anh chìa thẻ học sinh ra có ghi rõ ràng nơi sanh là Hà Nội, "rau muống" chính thống không chạy chối đâu được cả. Nhờ vậy, lần nào đánh cá, anh cũng được tiền, nhưng anh tiếc hùi hụi vì chỉ gạt được bạn bè một lần duy nhứt mà thôi.

            “Ra trường Đại học Hà Nội, cha chúng tôi được bổ nhiệm giữ một chức vụ khá quan trọng thời thực dân cực thịnh và tùng sự ở Nhà Giây Thép Chánh (Bưu Điện) Sài Gòn, bên hông nhà thờ Đức Bà mà người trong đạo công giáo gọi là Vương Cung Thánh Đường. Hồi nhỏ, có đôi lần chúng tôi nghe mẹ chúng tôi nói nơi cha chúng tôi làm việc được xây cất sau khi Pháp chiếm trọn vẹn sáu tỉnh Nam Kỳ không lâu, khoảng thập niên 70 của thế kỷ 19 để sau này sừng sững đứng đó lạnh lùng chứng kiến bao nhiêu cảnh nhiểu nhương đổi thay của lịch sử Miền Nam.  Nhựt đảo chánh, ồ ạt phát triển chủ trương Đại Đông Á. Đồng Minh quật khởi đánh thắng trục phát xít Đức, Ý, Nhựt. Cách Mạng mùa thu tháng tám, toàn dân đồng thanh đứng lên nêu cao ngọn cờ độc lập tự do. Rồi Pháp đổ bộ tái chiếm Đông Dương lâm le đặt lại ách đô hộ cũ. Thế là lệnh tiêu thổ kháng chiến chống xăm lăng bùng nổ. Những sự kiện lịch sử này xảy đến rất nhanh, biến chuyển từng giờ từng phút, trong thời gian ngắn chỉ mấy năm. Cha chúng tôi là một công dân Việt Nam yêu nước. Lúc ấy chúng tôi còn quá nhỏ, chỉ nhớ lờ mờ gương mặt của cha chúng tôi cùng vài sinh hoạt của người. 

Ch úng tôi còn nhớ đêm đêm, cha chúng tôi xách tầm vong vạt nhọn đi canh gát khu phố Đa Kao Đất Hộ, khoản Cầu Bông, Cầu Sắt, hăng say lắm. Đêm nào không tới phiên gát, cha chúng tôi nằm trên ván ngựa ở nhà trước, tréo ngoải chân rồi bắt nhịp hát say sưa như đám trẻ hồn nhiên những bản hùng ca thuở bấy giờ do các nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng và Mai Văn Bộ sáng tác lúc còn là sinh viên trong trắng, chưa bị cộng sản nhuộm đỏ. Cha chúng tôi cũng thường đưa chúng tôi đong đưa trên chiếc võng bắt tréo giữa hai gốc cột nhà và ru ngủ chúng tôi với những âm hưởng thúc giục lòng người ở một khúc quanh quan trọng và quyết định của lịch sử nước nhà. 

Về sau này, mẹ chúng tôi thường kể cho chúng tôi nghe, cha chúng tôi thường xuyên đi họp mặt tại nhà bác sĩ bạn, nơi phòng mạch ở ngay trung tâm Sài Gòn để đánh lạc hướng bọn mật thám Pháp, giả như một bệnh nhơn đi khám bịnh vậy. Mẹ chúng tôi thỉnh thoảng cũng có theo chân cha chúng tôi và được đưa sang chuyện trò với bà bác sĩ nên giữa hai gia đình rất thân thiết, tâm đắc và nể trọng nhau. Một đôi khi, mẹ chúng tôi thấy có nhà cách mạng quốc gia Nguyễn An Ninh đến tham dự cùng với nhiều người lạ mặt khác, ăn mặc rất sang trọng. Mẹ chúng tôi được giới thiệu với họ nhưng thời gian mấy mươi năm không còn nhớ rõ tên.

            “Đến giai đoạn sôi động tiêu thổ kháng chiến, Lâm ủy Hành chánh Kháng chiến Sài Gòn/Chợ Lớn ra lệnh di tản, nhà không vườn trống, toàn dân bất hợp tác với địch... cha chúng tôi cùng một người bạn chí thân hùn vốn mua một chiếc ghe lườn nhỏ xuất phát từ Cầu Bông, Đa Kao Đất Hộ, đưa hai gia đình cùng trở về quê quán ở Gò Công lánh nạn. Không được mấy ngày sau, cha chúng tôi vốn là mẫu người có lương tâm và có trách nhiệm cao, nghe theo lời kêu gọi của Chánh Phủ Cách Mạng rút về Mỹ Tho, sau khi tạm thời đặt cơ sở hành chánh kháng chiến một thời gian rất ngắn ở Chợ Đệm thuộc tỉnh Chợ Lớn cũ, quê hương của Nguyễn Văn Trấn, tức Bảy Trấn. Cha chúng tôi vội chia tay từ giã mẹ chúng tôi và các con, cương quyết lên đường, mặc dù mẹ chúng tôi cản ngăn, bịn rịn thút thít mãi nhưng không làm xiêu lòng cha chúng tôi được. Cha chúng tôi an ủi mẹ chúng tôi, người sẽ trở về trong vài ngày ngắn ngủi tới đây vì tình hình tranh chấp chắc chắn sẽ được giải quyết nhanh chóng, do có sự can thiệp hữu hiệu của Đồng Minh và quốc tế.


Cha chúng tôi trấn an mẹ chúng tôi chăng? Không dè hôm chia tay ấy đối với mẹ chúng tôi là ngày vĩnh biệt mãi mãi cha chúng tôi. Mấy ngày sau, mẹ chúng tôi chỉ nhận được một lá thơ tay do một người lạ mang đến, khi cha chúng tôi viết vội vàng và ngắn gọn vài câu làm tin ở tỉnh lỵ Mỹ Tho, lúc được tin đoàn thiết giáp thiện chiến của quân đội viễn chinh Pháp sắp đến chiếm thành phố. Trong thư ấy, cha chúng tôi cho biết sắp sửa lên đường chạy qua Vĩnh Long để xuống hướng Trà Vinh, Sóc Trăng... có lẻ sẽ trực chỉ vùng an toàn Cà Mau, U Minh để bàn giao tiền bạc cho chánh phủ cách mạng. Số tiền này cha chúng tôi còn giữ của Nhà Bưu Điện Sài Gòn. Rồi mẹ chúng tôi bặt tin cha chúng tôi luôn từ ngày đó. Sau này, mẹ chúng tôi có tìm hỏi nơi bạn bè của cha chúng tôi nhưng cũng như đi mò kim đáy biển, bặt vô âm tín. Từ dạo chia tay cha chúng tôi trong ngấn lệ, mẹ chúng tôi đâu ngờ mình sẽ vĩnh viễn trở thành góa phụ mãi mãi trông chồng, thủy chung một lòng với cha chúng tôi để nuôi nấn dạy dỗ anh em chúng tôi trưởng thành đến ngày qua đời năm 1988 ở Quận Nhứt Sài Gòn. Hôm tang lễ mẹ chúng tôi, vị bác sĩ ân nhân ngày nào đích thân có đến thắp nén hương chia buồn gia đình đứa cháu chúng tôi. 


Và khi nghiêm chỉnh đứng trước quan tài của mẹ chúng tôi, ông có thốt lên mấy lời ngưỡng mộ mẹ chúng tôi:
- Người đàn bà nầy thật đáng kính, một gương hiền phụ hiền mẫu hiếm hoi còn sót lại trong xã hội hiện nay.
            “Lâu lắm, sau khi thoát nạn qua định cư bên Đức Quốc, nhân khi đọc một thiên hồi ký dài của nhà văn An Khê Nguyễn Bính Thinh, một tác giả nổi tiếng viết truyện từng kỳ, hằng ngày đăng trên các nhựt báo lớn ở Sài Gòn, chúng tôi để ý một đoạn văn tác giả thuật lại hoàn cảnh thoát chết của mình dưới bàn tay độc tài sắt máu của bọn cán bộ cộng sản đệ tam. Đám ác ôn vô tâm này có chủ trương tiêu diệt, loại trừ những thành phần quốc gia yêu nước chân chính, những người không chịu ươn hèn quỳ gối cúi đầu tùng phục quỷ đạo của chúng, cả những người bị chúng tình nghi, trước khi chúng hèn nhát tháo chạy. Chúng lần lượt bỏ ngõ các thành phố cho bọn xâm lăng mà không chút chống cự nào. Những dòng hồi ký trung thực của tác giả làm cho chúng tôi rất đỗi xúc động và càng nhận thức rõ ràng hơn nữa lòng dạ của cộng sản. Chúng đấu tranh chỉ vì đảng, vì phe nhóm, vì giai cấp, vì chủ nghĩa quốc tế vô sản ngoại lai mà thôi. Còn việc quốc gia trọng đại, tình đoàn kết dân tộc, nghĩa đồng bào, tiền đồ của đất nước trong lúc quốc biến gia vong, vận nước nghiêng ngửa trong dầu sôi lửa bỏng chỉ là chuyện tuyên truyền nơi chót lưỡi đầu môi. 

Chúng tôi thuật đại khái cho anh chị nghe hôm nay nhưng xin hứa khi về lại nhà ở Cologne, nhứt định thế nào chúng tôi cũng sẽ tìm cho bằng được và sẽ phóng ảnh bài báo gởi ngay sang anh chị xem tận tường hơn:
            (Tác giả bài viết xin trích đoạn bài báo của nhà văn An Khê - Những đoạn đóng ngoặc là do tác giả ghi, xem như những chú thích để được sáng tỏ rõ ràng):
            "Chúng (cộng sản) bắt tôi sau cuộc hội nghị toàn dân quân toàn tỉnh (Rạch Giá) tại Cà Lăng. Chúng khám xét trụ sở Cảm Tử Quân (danh xưng của những thanh niên quốc gia yêu nước) tại Rạch Giá, tướt lấy súng ống và giải tán tổ chức. Chúng bắt thêm bốn anh em cảm tử quân trong đó có bào huynh thứ tám tên Nguyễn Bính Long (về sau tác giả An Khê Nguyễn Bính Thinh viết truyện trinh thám ký bút hiệu là Nguyễn Bính Long để ghi nhớ một kỷ niệm gia đình). Chúng cấp tốc đưa chúng tôi đi ngõ tắt sang tỉnh Sóc Trăng bằng chiếc xe Citroën 15 ngựa... Chúng tôi bị tống giam vào khám đường Sóc Trăng chiều hôm ấy. Qua hôm sau, chúng tôi được chuyển sang Quốc gia Tự vệ Cuộc (tức Sở Công an) để điều tra. Trưởng phòng điều tra nói với tôi:
            - Anh còn nhớ tôi? Tôi là Lịch, trước kia là đảng viên (Đảng Quốc Gia) của anh. Chín anh đứng chứng lời tuyên thệ nhập đảng của tôi. Nhưng bây giờ tình thế nó khác rồi và tôi phải làm việc ở đây... Vậy anh cũng hiểu cho... Lẽ ra anh Ủy viên Chánh trị miền Tây là anh Nguyễn Văn Tây đứng ra điều tra anh (tên Tây, một hung thần thời đó có việc phải vắng mặt) và giao việc điều tra anh cho tôi. Và để chứng minh công ơn của anh dìu dắt tôi vào con đường cách mạng, tôi cho anh xem chỉ thị của anh Tây.

            "Anh Lịch kéo ngăn hộc bàn viết ra một tờ giấy chỉ có bốn chữ viết tháo: ‘đánh chết thời bỏ’... Tôi hỏi lại anh Lịch:
            - Bây giờ anh tính sao? Cho đến giờ phút nầy, tôi cũng xét thấy mình chưa có tội gì với nhân dân.
            - Anh chỉ có một tội là... không theo cộng sản!... Cũng như tôi, tôi làm việc với họ nhưng không theo họ. Chúng ta biết đặt tình yêu nước lên trên hết... Tôi sẽ làm hồ sơ các anh nội trong đêm nay rồi giải tòa. Tòa án nhân dân có ông Cha Công là ngay thẳng và công bình. Hy vọng bọn anh được sớm ra tòa...

            "Đúng như sự giúp đỡ của anh Lịch, hơn hai tháng sau, chúng tôi được ra tòa. Hôm ấy, tôi để ý trông thấy kế bên các ông tòa có để một chiếc va ly nhỏ nên độ chừng các ông sắp chạy giặc đến nơi. Tòa gọi tên chúng tôi, thấy vắng mặt bào huynh thứ tám. Thì ra anh Tám tôi bị đau, phải chích thuốc mà nhiễm độc nên sưng tấy bên mông. Ông Cha Công, chánh tòa, muốn dời ngày xử chờ khi anh tôi lành bệnh.  Nhưng tôi cương quyết trình tòa:
            - Kính tòa, đồng chí Long (tức anh Tám tôi) vừa mới giải phẩu xong, tuy không đi đứng được nhưng cũng đủ đầu óc sáng suốt để hầu tòa. Xin tòa cho vời đồng chí Long ra trước tòa nghe xử án. Nếu chúng tôi có tội, xin tòa cứ cho xử bắn cả. Bằng như chúng tôi vô tội, xin tòa cho chúng tôi về để kháng chiến chống giặc.

"Tòa bằng lòng cho khiêng anh tôi ra. Và khi luận án thì tòa nhận thấy không có tội gì buộc chúng tôi cả. Tuy nhiên, theo đúng quy luật ra tòa là phải lãnh án treo một tháng... mà không kể vì sao. Chúng tôi được ra khỏi khám chiều tối hôm ấy. Chỉ có bào huynh thứ tám, vì nằm tại khám nhà thương, chưa làm giấy tờ kịp nên được chuyển ra ngoài song sắt đêm ấy để chờ sáng lãnh giấy ra về. Chúng tôi, tối hôm ấy đi tìm phòng trọ. Cả các dãy phố chung quanh chợ đều chất sẵn lá dừa héo khô, sẵn sàng chờ ngọn lửa đốt châu thành của bọn cộng sản bỏ chạy. Đêm khuya, tiếng đại bác âm ỉ, càng lúc càng nghe gần. Sáng lại, đã có máy bay do thám của Pháp quần trên trời. Châu thành hoàn toàn hỗn loạn. Chúng tôi vội đến nhà thương tính để rước anh Tám Long. Anh khủng khiếp lắc đầu:
            - Vừa sáng sớm, bọn Quốc gia Tự vệ Cuộc đã vào nhà thương trong khám chĩa súng bắn gục những con bệnh còn bên trong song sắt. Có cả ông Phán già hiền từ, người thầy giáo rất đạo đức... May cho anh vừa ra khỏi ngoài song sắt hồi đầu hôm.

            "Chúng tôi tìm thuê được ghe, chèo đi một khoảng thì nghe có tiếng súng nổ vang trong châu thành. Đạn kêu veo veo trên đầu... Cộng sản tiêu diệt những người yêu nước, những người vô tội như thế đấy. Ngay cả những người bệnh đang nằm rên siết ở trạm xá nhà tù. Đương nhiên, chúng không thể nương tay đối với những người còn sức khoẻ, những người chân chính có khả năng cản bước tiến thực hiện ý đồ đen tối của chúng: độc quyền lãnh đạo kháng chiến lúc ấy...". Gương mặt chị Bảy Thành dàu dàu:
- Đọc đoạn trên đây, chúng tôi liên tưởng đến cha chúng tôi, một người yêu nước nhiệt tình, có ý thức quốc gia dân tộc mạnh mẽ, từng tham gia "hội kín" của chí sĩ Nguyễn An Ninh. Cha chúng tôi không thể nào thoát khỏi bàn tay sắt máu của cộng sản lúc nhập nhầy nhiễu nhương ấy. Cha chúng tôi biệt tích từ đoạn đường Mỹ Tho qua Vĩnh Long để xuống Sóc Trăng, Cà Mau.  Chúng tôi có cảm tưởng và linh tính người không sao thoát khỏi nanh vuốt và sự cuồng tín của tên cộng sản khát máu Nguyễn Văn Tây, một hung thần khét tiếng của những năm dầu sôi lửa bỏng ấy ở miền Nam. Biết bao nhiêu người dân vô tội chết oan ức thảm thiết do chủ trương: thà giết lầm của chúng.
            Nói đến đây đôi mắt chị Bảy Thành đỏ hoe. Chị kết luận:
            - Chúng tôi tin chắc như vậy anh chị à. Cha chúng tôi lúc đó cũng đã trọng tuổi lại mắc phải chứng bịnh nan y là tiểu đường. Người thường phải nằm bệnh viện để chuyên trị. Nên từ sau ngày đọc được những dòng nhựt ký của nhà văn An Khê Nguyễn Bính Thinh, chúng tôi chọn ngày tỉnh Sóc Trăng rơi vào tay quân đội viễn chinh Pháp để làm ngày giỗ kỵ cho cha chúng tôi. Đồng thời cũng để tưởng niệm những người yêu nước chết oan uổng và tức tửi trong những ngày tháng đau thương ấy.

 “Chúng tôi có liên lạc và cám ơn tác giả An Khê lúc còn sanh tiền, định cư ở miền Nam Pháp, đã giúp chúng tôi một số chi tiết đáng tin cậy về sự ra đi biền biệt của cha chúng tôi, từ ấy nhẫn đến nay hãy còn là một bí mật chưa được giải tỏa. Và thân xác của cha chúng tôi không biết được vùi dập nơi đâu!? Dù vậy, chúng tôi cũng thấy tâm hồn mình bớt ray rứt phần nào. Không ngờ, ba mươi năm sau, qua một mối giao tình đậm đà từ thuở thanh xuân, cha chúng tôi bỗng nhiên trở thành một "liệt sĩ" của cộng sản. Chúng tôi nghĩ không sai, cha chúng tôi nơi chín suối chắc chắn sẽ uất hận về cái danh vị "liệt sĩ" bất đắc dĩ của người. Nhưng hồn thiêng của cha chúng tôi còn lảng vảng đâu đó nơi chốn hư vô, hẳn cũng nguôi ngoai đôi chút.  Chúng tôi tin như thế. Vì người hẳn nhiên sung sướng khi biết rằng nhờ vậy mà gia đình chúng tôi đã vượt qua được sóng gió phũ phàng sau tháng Tư Đen. Và người cũng biết thêm rằng nhờ tấm bình phong hữu hiệu ấy, gia đình chúng tôi đã âm thầm tổ chức cuộc vượt biên xa rời thiên đàng xã hội chủ nghĩa một cách an toàn.

            Chị Bảy hớn hở cười vui như một người vừa thắng trận:
- Chẳng những đối với gia đình chúng tôi không đâu. Sau ngày chúng tôi vượt thoát ra được nước ngoài, trước khi nhà cửa chúng tôi bị cộng sản kiểm kê tịch thu để làm trạm y tế phường, mẹ chồng chúng tôi đã ẵm gọn cái giấy chứng nhận “liệt sĩ” đem về. Bà làm phóng ảnh qua mặt ngọt xớt đám cán bộ quản lý bến xe, dùng đi mua vé xe đò để phía bên gia đình chồng chúng tôi xuôi ngược các tỉnh ven biển như Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Rạch Giá, Cà Mau, Bạc Liêu... tìm đường vượt biên, kẻ trước người sau trót lọt hết. Cả phía gia đình các cháu ruột của chúng tôi nữa...
“Vì hồi đó, xăng dầu khan hiếm, xe cộ không còn bao nhiêu chiếc xử dụng được, mua được tấm vé xe đò trần thân khổ ải không biết cơ man nào kể cho xiết. Người người phải sắp hàng dài dài rắn rồng ngút mắt bên lề đường cả ngày cả buổi mới hy vọng mua được. Nhờ có tấm giấy “liệt sĩ”, gia đình nhà chồng chúng tôi mua vé khoẻ re. Lại được đảm bảo cả phần di chuyển về những vùng tình nghi bị cộng sản chú tâm kiểm soát ngặt nghèo nữa. Chị tỉnh bơ:
            - Cám ơn “cách mạng” đã giúp “con em liệt sĩ" vượt biên thành công để thấm thía về ý nghĩa và giá trị của hai chữ Tự Do.

      -***-

                       Con Nhện Giăng Tơ
                 Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà,
Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ.

                 Vì Nhớ Mà Buồn

            Ca dao (Trích Quốc Văn Giáo Khoa Thư Lớp Sơ Đẳng).

Giàn kiểng của Út Đằng rất nổi tiếng, không những ở xóm Rạch Rít của tôi mà ngay cả khắp quận nhà. Thông thường ở nông thôn Miền Nam, nhứt là ở những nơi cùng cốc, khỉ ho cò gáy, quanh năm vo ve muỗi mồng, bù hong bù mắt của quê tôi, người ta trồng nhiều loại kiểng như bùm xụm, bằng thăng, kim quít... và một vài loại cây cảnh địa phương khác, ít được nhắc nhớ vì không sống lâu. Giàn kiểng của Út Đằng thuộc loại kim quít, gieo trồng và dưỡng nuôi đòi hỏi nhiều năm kiên trì săm soi, chăm sóc tận tình. Kiểng kim quít sống dai nên được những tay nhà nghề tưng tiu yêu chuộng. Có những cây sống cả thế kỷ ngoài, không như bùm xụm lớn nhanh như thổi, nhưng thường hay chết nhát, khiến người ta mất toi công khó và thời giờ nuôi cành uốn nhánh. 

Kim quít lại thon thon, thân cây nhỏ vừa phải, chiều cao cũng không quá đà, khác hẳn loại bằng thăng, gốc to dềnh dàng lại xum xuê, đôi khi cao cả hai thước, hai thước ngoài. Kiểng của Út Đằng được gieo trồng lâu đời lắm, anh cũng không biết chính xác vào năm nào. Anh chỉ biết rành rọt do bàn tay khéo léo cần cù, xây dựng cơ ngơi của mẹ anh, bà Ngô Thị Hải, thuở bà còn thanh xuân hoa mộng, vừa mới bước về làm dâu kiếng họ Nguyễn. Bà gieo trồng lúc thảnh thơi những năm khẩn hoang trúng mùa, lúa thóc đầy bồ, dãy ngang dãy dọc. Bà không phải là người dân Rạch Rít rặt nòi. Bà vốn có gốc gác nhiều đời ở miệt vùng sâu trầm nước Đức Hòa - Hiệp Hòa, lúc ấy hãy còn hoang vu cách trở với những rừng chồi chập chùng đó đây. Bà được xem như một nàng dâu gương mẫu, lam lũ đầy nghị lực ở vùng xa, chấp nhận về lập thân nơi quê chồng. Quê hương bà cũng là vùng khỉ ho cò gáy, không hơn không kém, tháng ngày hắt hiu u trầm buồn tênh. Rồi từ dạo đó, bà vĩnh viễn chôn chặt đời mình, làm ăn sinh sống độ nhựt và sẽ gởi nắm xương tàn sau này cũng ở đây.



            Đến đời Út Đằng vừa mới biết tập tành để về sau đam mê thú chơi kiểng, noi theo gót ông cha vốn là những tay sành sõi trong giới thanh tao cao nhã hạng hẹp này thì đám kim quít do mẹ anh gieo trồng thuở nào cũng vừa cao lum lúp năm bảy tấc tây. Gốc trông đã khá nở nang đẫy đà. Hình thù bắt đầu thấy ló lé trông ra vẻ, báo trước nhiều hứa hẹn ở tương lai. Cành lá xanh um tươi mướt suốt bốn mùa. Út Đằng bắt đầu chọn lựa trong đám kim quít mọc loạn xạ cào cào châu chấu này, những cây sởn sơ tốt mã, có những tược mới nhú hay những nhánh non mềm mại mà óc phán đoán theo kinh nghiệm tích lũy gia truyền giúp anh nhận định sẽ có nhiều triển vọng đối xứng nhau về sau. Anh bứng trồng từng cặp một, ngay hàng thẳng lối, dọc dài theo hai bên lối đi, từ đầu ngõ chí đến sát mái hiên nhà trước. Qua giai đoạn sơ khởi đó, Út Đằng bắt đầu gia công trì chí uốn cành tỉa nhánh, bắt sâu cắt lá thường xuyên. Anh loại bỏ những tược nhánh bừa bãi rườm rà vô ích, o bế tược non, tưng tiu chúng, cưng như trứng hứng như hoa. Anh thêm phân, nuôi dưỡng nhánh mới vừa chớm phát ở những nơi ưng ý nhứt, nhằm thôi thúc sự phát triển hài hòa.

 Gặp thời kỳ kiểng phát triển quá nhanh vì già phân, anh vội vàng thay thế, chêm vào mỗi gốc cây loại đất thịt gánh từ vuông ruộng cạnh ao làng hay vạt đất sát bên hông nhà để cành nhánh khựng bớt lại đôi chút. Chiều chiều, những hôm Út Đằng bận bịu ruộng nương vồng liếp hay những lúc anh phải vắng mặt đi dự giỗ quảy cưới hỏi nơi những thôn ấp xa xôi, cách nhà vài ngày đường nước để thắt chặt tình lâng bang chòm xóm không thể thiếu sót được nơi thôn quê rẫy bái, mẹ anh hay vợ anh thay nhau tưới nước, canh chừng lưu lượng điều hòa. Hai bà không để oi nước mùa mưa dầm tầm tã đêm ngày đến thúi đất. Cũng không để thiếu nước lúc hè sang, nắng như thiêu như đốt, trời khô đất cứng nức nẻ. Riêng mẹ anh lúc đó mái tóc đã bạc phau bồng bềnh theo bước đi chậm chạp khó khăn, trông có vẻ hắt hiu u buồn, tựa như cảnh mưa bụi lúc chập choạng hoàng hôn.

            Vấn đề phân phướng là cả một nghệ thuật trong ngành trồng trọt và chơi cây kiểng. Đúng như các lão nông thường nói, kinh qua nhiều thế hệ: "nhứt nước, nhì phân, tam cần, tứ giống". Anh quan niệm việc phân, nước không khác mảy may sự dinh dưỡng của con người. Cây cối cũng thế. Cây cối không sao thoát khỏi định luật phát triển cân bằng và hài hòa của tạo hóa. Hôm bứng trồng kiểng dọc theo hai bên lối đi, Út Đằng dùng rất ít phân chuồng. Có người hiếu kỳ tò mò đặt câu hỏi. Anh cho biết chỉ bón phân vừa vừa phải phải mà anh gọi là đưa hơi, nhấp nhấp đôi chút giúp rễ non mau bắt bén và mau lớn. Kỳ dư toàn là đất ruộng bâm nát. Anh sợ nhứt là mình vô tình dùng quá già phân, kim quít sẽ lớn hỗn hào. Nếu sơ ý bỏ quên đôi ba tuần, vài tháng, một ngày nào đó nhìn lại thấy tược nhánh lớn đại, cứng chắc, khó uốn. Giai đoạn sơ khởi cơ bản này rồi cũng qua mau như tuổi đời bay đi vùng vụt theo nắng sớm mưa chiều trong cảnh tự sinh tự diệt. 

Chẳng mấy chốc, chẳng đợi chẳng chờ, một hôm mát trời, ngó qua ngó lại mới giựt mình nhìn hàng kim quít sung mản thấy phát ham. Út Đằng khi tách trồng hai bên lối đi cũng đã chọn lựa kỹ lưỡng. Anh bắt từng cặp một, nhưng với sự phát triển tuần tự nhịp nhàng suốt một hai năm sau khi tẻ đám, nhiều cây cho ra những tược mới, biến đổi hẳn hình thù với nhiều triển vọng thẩm mỹ khác lạ. Do vậy, anh bỏ ra thêm nhiều thì giờ, cố công rà tới rà lui, tuyển cặp lần cuối cùng, xem như dứt khoát bắt đôi cho chúng ăn đời ở kiếp với nhau.  Có cây nơi đầu ngõ lại cân đối với cây ở khoảng giữa lối đi hay sát tận thềm nhà. Ấy vậy, Út Đằng nhớ phong phóc cây nào đối ứng với cây nào để uốn nắn, không hề lầm lẫn sai chạy. Và anh tin tưởng ở kết quả về sau khi đã thực sự vượt qua giai đoạn mầm mò khổ cực này.

            Cái khó là tàng nhánh phải vừa cân đối theo tầm vóc lớn nhỏ, vừa cân đối ở vị trí của nó nữa. Hai tàng đối xứng tuyệt hảo phải ngang tầm nhau, không được so le, nếu căn cứ lấy gốc kiểng làm chuẩn. Và cũng từ sự tuyển chọn tối hậu đó, Út Đằng bắt đầu thi thố tài nghệ, vừa khéo léo vừa nhẫn nại của mình, lấy thời gian năm tháng làm móc thẩm định và trí tưởng tượng phong phú trời cho để uốn nhánh tỉa cành. Anh dùng những thanh tre mảnh khảnh chuốt láng coón cập theo từng nhánh non, ghịt chặt bằng những nuột dây chuối khô tướt nhỏ mềm mại, trông đều khoảng đẹp mắt. Anh giúp đỡ, đôi khi cưỡng ép nhánh trưởng thành, nhứt định bằng mọi giá, bắt phải tuân hành theo đúng ý muốn của anh. Do vậy, anh tạo được một bản sắc riêng, một khám phá tìm tòi mới, thể hiện trọn vẹn một sáng tạo tuyệt vời, một phong thái đặc thù của sự sống. 

Có thể nói không sai, giai điệu của cuộc đời anh vào thời buổi này hầu như được gắn liền với giàn kiểng lắm công phu và đầy nét mỹ thuật nơi tâm hồn anh. Nhánh càng vòng vo cầu kỳ, uốn éo nhỏng nha nhỏng nhảnh khác lạ bao nhiêu, càng khó khăn nắn nót cây non phục tùng ý chí con người bấy nhiêu. Được vậy, kiểng mới trở nên độc đáo, tăng thêm giá trị nghệ thuật trong làng chơi mà ít người theo bì kịp. Anh vốn là một dân quê chơn chất đặc sệt, nôm na nghĩ đơn giản rằng đất đai có thiên thời còn cây cỏ có địa lợi. Nếu mình chí tình chí nghĩa, hết lòng thương yêu, hết mực trọng quí thì nhứt định không sớm thì chầy, đất đai và cây cối, dù có vô giác nhưng không hẳn vô tri, sẽ trả ơn công khó cho mình. Cả vốn bốn năm lời nữa kìa! Nhánh khi hướng lên trên, khi thòng ẻo lã xuống dưới, lúc co lúc giãn, ẹo qua ẹo lại khúc mắc nhiều vòng. Sau cùng lúc nào cũng được anh kết thúc bằng một tàng to hơn bàn tay xòe người lớn một chút. 

Út Đằng đã dành nhiều tháng nhiều năm mới hoàn thành được những công trình mỹ thuật có tầm vóc cỡ đó của một nghệ nhân dân gian với tấm lòng đam mê và ý hướng trân quý cái đẹp, cái hài hòa tuyệt vời của đất trời. Lớp người này ngày càng hiếm hoi, dù cố công tìm đỏ con mắt, giãn nở con ngươi chưa chắc đã có, nhứt là vào thời buổi ganh đua tranh giành, người người chen lấn cấu xé, dẫm đạp lên nhau bất kể tình người. Họ thường lạnh nhạt với liêm sĩ nhằm đâm đầu lao theo năng suất, lợi nhuận và tốc độ trong xã hội tân tiến hiện nay. Người nào thiếu đức tánh kiên nhẩn trì chí thường gánh lấy thất bại chua cay ở lãnh vực hạn hẹp này. 

Uốn kiểng già quá do nôn nóng, mong muốn có kết quả cấp thời, nhánh nhiều khi gãy ngang tức tưởi trong sự hít hà tiếc nuối của chủ gia. Tược non không phải lúc nào cũng mọc ngay phóc nơi mong đợi hòng thay thế tược gãy. Hơn nữa, nhánh non phải có thời gian để trưởng thành nên khó đối xứng về dáng vóc, hình thù của nhánh to hơn bên cây đối ứng. Với giàn kiểng ở lối đi này, khi coi mòi tàm tạm được, Út Đằng khởi sự đào những rãnh nhỏ chung quanh độ năm ba tấc tây cách gốc. Thỉnh thoảng, anh lại móc sâu thêm, lấn vào gốc vài phân tây nữa. Và cứ như thế, anh tiếp tục cho đến khi nhận thấy có thể bứng kiểng an toàn, không sợ bị động đến rễ cái. Anh luôn tự hào với châm ngôn sáng rực của người xưa: ‘‘cái khó nó bó cái khôn’’, ‘‘giục tốc bất đạt’’. Đến lúc này, anh chờ khi có phương tiện tài chánh dư giả, như những lúc bán heo phá bầy hay bán lúa  sớm, sau khi đong xong đầy đủ lúa mướn cho chủ điền. Còn lại chút ít tiền nổi, anh chèo ghe ra quận ra tỉnh chọn mua mấy chậu da bò đắc tiền, loại chậu được sản xuất ở các lò gốm danh tiếng ở Biên Hòa hay Thủ Dầu Một đem về bứng trồng an toàn, không sợ kiểng mất sức hoặc chết yểu, chết nhát bất tử. Ngày bứng kiểng vào chậu đối với Út Đằng là một ngày trọng đại được chuẩn bị chu đáo bao nhiêu ngày trước. Anh vừa làm với bản tánh đam mê cố hữu như một phong cách sống thanh tao hòa hợp với thiên nhiên vạn vật, vừa sung sướng hãnh diện công khó bấy nay của mình đã có kết quả viên mãn.



            Nơi cái sân rộng thênh thang ngay trước nhà, Út Đằng giành một khu đất khá lớn dùng làm sân phơi lúa, phẳng phiu sạch sẽ. Hồi mẹ anh còn bươn  chải, lấy vườn tược chăn nuôi, chuộng ruộng nương ao đìa làm phương kế sinh sống chánh yếu trong gia đình ‘‘tứ đại đồng đường’’, cứ vài tháng trước mỗi mùa gặt, anh pha loãng phân trâu rồi tưới lên sân, cán mỏng và cán đều khắp mọi nơi. Qua một hai con nắng toé lửa mùa khô, lớp phân mỏng này trở nên rắng cứng, lỗ hang bị nước phân bít kín. Sân giờ đây trở nên bằng mặt, keo quến bụi cát. Lúa phơi nắng dễ tran, dễ cày, dễ trở và cũng dễ quét dọn mỗi buổi chiều, nhứt là những lúc ông trời đâm ra hừng mát, cắc cớ chẳng những không hầm hừ báo hiệu chi cả lại đổ mưa như trút bất thình lình. Bây giờ cơ ngơi của anh kinh dinh bề thế, ruộng vườn không đến đỗi ‘‘cò bay thẳng cánh’’, ‘‘chó chạy cong đuôi’’ nhưng vẫn hơn xưa vượt bực, do kết quả của bao nhiêu thế hệ ông bà, cha mẹ, con cái tiếp nối xây dựng, đạt thành. Anh đã có một sân phơi lúa riêng biệt, lại rộng rãi với tiện nghi đầy đủ hơn, ở ngay cạnh bên hông nhà.


Do vậy, anh dùng cái sân cũ trước nhà đó để trưng bày kiểng quí. Anh sấp xếp từng đôi kiểng một, đối ứng nhau. Chậu sành, chậu da bò có viền màu và chạm hình tứ linh, tứ mùa hay bát tiên được kê trên những hàng gạch tiểu, chất chồng ngay ngắn vuông vức để kiểng vừa tầm mắt thưởng ngoạn của người đứng xem. Anh quan niệm đơn giản rằng cây kiểng dù có quí bao nhiêu mà để nằm ị mãi dưới đất cũng trở nên xoàng xỉnh, tầm thường. Phải được đem vào chậu, giá trị của nó mới tăng lên gấp bội. Ví như người đàn bà có một vẻ đẹp tự nhiên thiên phú, giá nếu có thêm một chút phấn son phớt sương thì chắc chắn sẽ lôi cuốn quyến rủ người ngắm nhìn nhiều hơn. Cũng như một tay đầu bếp giỏi đã sáng tạo ra nhiều món ăn cầu kỳ độc đáo mà thiếu sự săn sóc, trình bày mỹ thuật thì làm sao bắt mắt, hấp dẫn khẩu vị của thực khách sành sõi?

            Mỗi chậu đều có một lỗ lù nhỏ bên hông, sát đáy chậu. Qua mùa khô, Út Đằng nhét kín lại bằng những nút cặt bần, chặt ở ven sông Cái, khoảng gần vàm Cây Trôm không thiếu gì, để giữ nước tưới. Theo kiểu chắt mót tiết kiệm của người dân quê chơn chất cần cù, được chút nào hay chút nấy, ‘‘tích tiểu thành đa, góp gió thành bão’’. Mùa mưa, anh rút nút ra để kiểng khỏi bị oi nước nguy hiểm. Do đó, nơi chỗ lỗ lù, nước chảy rỉ rả nhỏ giọt lâu ngày chày tháng xuống chồng gạch tiểu kê phía dưới, tạo thành một vệt i ỉ, đóng rong xanh rờn. Giàn kiểng quí của Út Đằng thường là đề tài đàm đạo trao đổi của bà con xóm Rạch Rít mỗi dịp gặp nhau khi rổi rảnh giải trí, hoặc qua lại thăm lom nhau trong thân tình lâng bang chòm xóm. Người người đều tấm tắt trầm trồ, hết lời khen ngợi khi ngắm nhìn những tàng kiểng cân đối, những nhánh uốn éo quanh co. Đây quả thật là cả một công trình rất khó thực hiện nếu không có bàn tay nghệ thuật tinh luyện và một đam mê hiếm lạ của gia chủ.

 Trên chót vót mỗi cây kiểng, nào hình con phụng xoè đôi cánh rộng như muốn chớp bay đến một chân trời tự do thênh thang, phóng khoáng xa xôi nào đó. Nào con rồng uốn mình ngẩng cao đầu mà chủ gia như thầm gởi gấm vào đó một chút tình cảm riêng tư của mình, con rồng thiêng liêng trong uy thế trang nghiêm, tượng trưng cho một dân tộc thời lệ thuộc ngoại bang, với nhiều cao vọng trong sáng vươn lên cao vút. Nào con lân với cái đuôi cong cong nhỏng nha nhỏng nhảnh vỏng ngược lên bầu trời xanh thẳm trong khí thế khát khao vẫy vùng đến một thiên đường trần gian mơ ước, ấp ủ thầm kín... Đa số những người thưởng ngoạn không tưởng tượng được người phàm phu tục tử lại khéo tay và kiên nhẫn đến mức độ lạ lùng ấy. Mới hay thiên nhiên dù đẹp đẽ hấp dẫn và có ma lực quyến rủ ngất ngây đến đâu, nhưng thiên nhiên không, chưa hẳn đủ, mà phải có thêm bàn tay sáng tạo của con người nhúng vào để thiên nhiên được hoàn hảo, hài hòa hơn.

            Khách khứa vô ra, tới lui ngắm nghía không dứt ở những ngày thảnh thơi thóc lúa đã vào bồ, vào lẫm trại xong. Người trong xóm có. Đương nhiên là như vậy rồi. Kẻ ở làng bên có. Họ cũng không hiếm do nghe danh biết tiếng. Người lạ hoắc lạ huơ đến từ phương xa cũng có, với những địa danh âm hưởng lạ lẫm mà dân tình chơn quê ở đây, đa số dốt đặc cán mai, suốt đời cặm cụi âm thầm đi sau đít trâu, chỉ mới nghe qua lần đầu tiên trong đời mình. Những người này ăn mặc bảnh bao, áo quần tươm tất, có lẽ là người ở thành ở chợ và có học thức, tiếng Tây tiếng u chắc lão thông rơm rớp. Mỗi lần có khách đến viếng, trăm lần như một, Út Đằng và khách có khi đứng tần ngần chăm chú, nghiêm nghị săm soi, có khi thân mật cùng rảo bước khoan thai, hết cặp kiểng này đến cặp kiểng khác, chỉ chỏ phẩm bình, gật gù tương đắc. Lắm lúc họ ngồi chòm hỏm, rù rì rủ rỉ cả buổi trời nơi sân kiểng ngập nắng ấm dịu hiền những hôm trời trong gió mát.

 Kim quít gặp mùa đơm bông với những trái nho nhỏ xanh xanh hay chín đỏ au, no tròn bóng láng đó đây như e lệ thẹn thùng núp dưới giàn lá xanh um, kín đáo chào đón gọi mời khách lạ. Thỉnh thoảng gặp người tâm đắc, Út Đằng cũng chịu chơi lắm, rộng rãi biếu khách một cặp đã được đánh rãnh hai bên lối đi, loại kiểng đã được thanh lọc đợt sơ khởi với nhánh tàng có nhiều hứa hẹn, nhưng chưa đi vào hẳn khuôn khổ nghệ thuật của làng chơi thanh cao tao nhã này. Dù là kiểng hạng nhì hạng ba đối với bực sành sõi, nhưng khách tài tử hâm mộ cây cảnh cũng đã quá đỗi ưng ý bằng lòng. Họ tỏ vẻ sung sướng ra mặt. Mừng húm, họ gánh trên vai một đòn gánh tre dịu nhễu, ở hai đầu gióng hai cây kiểng mà họ rất trân quý. Và họ phong phong rảo bước phóng đi nhẹ hêu...
                                                                              **
            Út Đằng rất thương yêu trọng kính mẹ anh. Không phải vì mẹ anh có công gieo trồng đám kim quít lúc thanh xuân mới về làm dâu nhà chồng để hôm nay anh có giàn kiểng nổi tiếng trong xóm làng và tên tuổi anh bay xa cả trong quận nhà. Sự thương yêu trọng kính đó là một nghĩa cử tự nhiên xuất phát từ lòng hiếu thảo chân thật của anh đối với một bà mẹ hiền lương gương mẫu. Bà suốt đời chân lấm tay bùn, âm thầm hy sinh nuôi nấng dưỡng dục con cái, tích cực góp công góp sức gầy dựng cơ nghiệp nhà chồng từ bao nhiêu thập niên qua và đến hôm nay vẫn tiếp tục giúp anh một tay đắc lực. Những khi hồi nhớ cha anh chẳng may bị bịnh ngặt nghèo mất sớm lúc anh còn được ẵm bồng, đêm đêm nhỏng nhẻo khóc nhề nhệ, anh càng thấm thía về sự côi cút rất sớm ấy. Lâu sau, anh nghe mẹ anh thường kể về cha anh như một người hiền hậu đức độ, ngày ngày làm việc liền tay ngoài đồng áng đến vườn tược trong vuông nhà. Người rất ghét bất công áp bức, bách hại người dân quê, cô thế khó nghèo. Trái lại, người rất quý chuộng sự công bằng và nhứt là tôn trọng lẫn nhau, không kỳ thị phân biệt giàu sang nghèo khó. Do nếp sống của người xem danh vọng và của cải nhẹ hêu, phóng túng theo phương châm của những bực tiền bối tên tuổi mãi mãi lưu danh hậu thế: "tiền tài như phấn thổ, nhân nghĩa tợ thiên kim". Tình thương của mẹ anh bao la lai láng như biển cả. 

Bà dồn hết tình thương ấy được gói ghém trang trọng trong lòng mình, giành riêng cho anh, đứa con côi cút bất hạnh lại là đứa con duy nhứt, con cầu con khẩn trong gia đình. Nhưng với anh, dù tình mẹ có lai láng nồng nàn không giới tuyến, lắm lúc anh thầm mơ hay tiếc nuối trong tuyệt vọng, hình ảnh của người cha có tiếng đạo đức cương nghị với đôi tay rắng chắt chở che, sẵn sàng hy sinh tất cả cho đứa con trai nối dõi tông đường. Anh đã bao nhiêu lần cố gắng tìm kiếm, đào bới qua từng ngõ ngách chằng chịt, níu kéo nhau lờ mờ trong ký ức phức tạp của mình, vẫn không sao tìm kiếm được một vài chi tiết để hình dung dáng vóc, cử  chỉ cùng điệu bộ của cha anh. Dù là một đôi nét hiếm hoi, phơn phớt hay mang máng nào đó.

            Út Đằng một lòng phụng dưỡng mẹ vuông tròn chu đáo lúc bà trở nên trọng tuổi, cái tuổi chuối chín cây ướm rụng. Bà không còn đủ khả năng tự lực như ngày xưa. Bây giờ đương nhiên bà phải nhờ vả nương cậy người chung quanh những lúc trở gió trái mùa, tối lửa tắt đèn mà sức người trở nên mong manh từng giây từng khắc. Ấy vậy, hằng ngày bà vẫn để tâm hụ hợ anh và con dâu trong những công việc đăng đăng đê đê nơi rẫy bái hẻo lánh. Nhứt nhứt, trong nhà ngoài ngõ, nơi đâu anh đều thấy phảng phất đâu đó một dấu vết, một làn hơi, một nỗi khắc khoải âu lo, một niềm tự hào sung sướng, một tiếng nói, một giọng cười, cái hơi hướm đậm đà, cái ánh mắt trìu mến thương yêu của mẹ anh. Nói tóm lại, một cái gì đó rất mông lung, vô hình, thật khó tả thành lời, nhưng lao xao ngăn ngắt, chập chập cứ ẩn hiện mãi trong lòng anh. Anh rất hãnh diện nhắc nhở cùng vợ con anh công lao khổ nhọc, sự hy sinh vô bờ bến của mẹ. Mái tóc bạc màu, khuôn lưng còng thêm khá nhiều theo với nhịp độ hủy hoại của thời gian, bước đi mệt mỏi, dò dẫm nặng nề, giọng nói ngập ngừng cách khoảng yếu ớt của mẹ anh là kết quả của cả một chuỗi dài ngày tháng gió sương lận đận suốt một cuộc đời cần lao tận tụy, chí thú làm ăn nơi vùng đất mới ráo hổi, lắm công quá nhiều việc này. Tình cảm chân thành ấy của anh còn được bộc lộ rõ rệt mỗi khi có cơ hội thuận tiện đưa đến. 

Với bà con lối xóm thân thương đã đành. Nhưng với bạn bè quen biết phương xa, anh không ngần ngại bày tỏ một cách công khai và tự hào tình cảm riêng tư đó. Đối với khách khứa thuộc làng chơi kiểng, lời giới thiệu đầu tiên của anh về gia đình vẫn không ngoài sự nhắc nhở trang nghiêm và đậm đà về nguồn gốc của giàn kiểng quí. Đây là công lao của mẹ anh đã gieo trồng chăm sóc phân phướng, thường xuyên chắt chiu, tỉa lá bắt sâu, tưới nước, nhổ cỏ dại... Anh nhắc nhớ như hàm ý để mọi người suy ra đều biết rằng giàn kiểng kim quít kia là biểu tượng trong sáng một sự nghiệp kế thừa, tuy không kinh dinh đồ sộ lắm của gia đình anh, nhưng trong đó chính mẹ anh đã đóng góp một phần công chẳng những không nhỏ, trái lại còn quyết định là khác.

            Bà Năm Hải, mẹ anh, là một người đàn bà tề gia nội trợ đúng mẫu mực truyền thống tốt đẹp của một thế hệ xa xưa đã mất hút lâu rồi. Đời bà rất thăng bằng, bình ổn như mặt nước hồ thu không một chút gợn. Về làm dâu nhà chồng lúc còn trẻ măng chưa quá đôi chín, bà một mực phục vụ giang san nhà chồng, không lời than tiếng thở, dù kín đáo nhẹ nhàng. Khi chồng bà mãn phần, dù công việc trong nhà câu thúc, bà một mình quán xuyến cơ ngơi, thủ tiết nuôi con, quanh quẩn ở cái xóm Rạch Rít của tôi, nắng mưa hai mùa vất vả buồn tênh. Tuy không được may mắn học rộng hiểu xa, nhưng sự chung đụng với nhiều thành phần phức tạp ở vùng đất khẩn hoang hắt hiu đang trên đà hấp dẫn thu hút nhiều lớp người phiêu lưu lập nghiệp, đã giúp bà có chút ít kinh nghiệm trong việc xử sự. 

Và nhứt là nhận xét về con người cùng những sự việc xảy ra chung quanh bà. Những lúc gần đây, bà có vẻ âu lo đăm chiêu, đôi mắt quần sâu rười rượi. Bà ít nói, ngay với mấy đứa cháu lóc nhóc trong nhà. Bà ít cười, trái hẳn thói quen của bà vốn dĩ cởi mở, lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống. Thỉnh thoảng, Út Đằng bắt gặp bà lộ nét buồn sâu thẳm. Có khi anh còn len lén nghe những tiếng thở dài xoáy hút của bà lúc hoàng hôn hấp hối, quạnh quẽ đìu hiu hay những lúc chiều xuống chầm chậm, mưa rơi dai dẳng trầm kha với những hạt nhẹ nhàng lất phất làm cho bầu trời thêm sẫm đục buồn tênh.  Những tiếng thở dài não nuột đầy âu lo của mẹ cứ ngăn ngắt đụt khoét, gậm nhấm làm nhói

 đau tim anh. Vợ anh, con người hiền lành, ăn nói lễ phép nhỏ nhẹ còn thỏ thẻ báo cho anh biết thời gian gần đây, ở các bữa cơm chiều, mẹ anh thường ăn lấy lệ, dù món ăn được thay đổi, trở bữa thường xuyên. Bà loay hoay không thích đi ngủ sớm, khác hẳn thói quen từ mấy mươi năm về trước. Nay bà cứ ngồi im lặng một mình bên ngọn đèn chong le lói để ăn trầu xỉa thuốc, uống trà mãi đến khuya lơ khuya lắc vẫn chưa chịu vào đặt lưng trên giường. Út Đằng để ý đến cái gát tay trên trán trầm ngâm suy tư nghĩ ngợi của mẹ. Đây chắc hẳn là một điều bất thường và sự trằn trọc đến khuya lơ khuya lắc ấy của bà làm anh ái ngại cho sức khỏe của mẹ. Anh đến gần bên hỏi han trìu mến. Mẹ anh gượng cười bảo sức khỏe của bà vẫn khả quan, bình thường là khác. Nhưng Út Đằng không sao an tâm khi nét mặt hân hoan tươi cười gượng gạo của bà phảng phất một cái gì không được thơi thới trọn vẹn.
            Thật ra bà Năm rất tinh tường do trực tính người đàn bà dấn thân giàu kinh nghiệm. Bà có nhận xét nhạy bén và chính xác, ít khi sai lầm. Bà biết chắc và khẳng định với riêng lòng mình là nhóm bà con bạn bè, bằng hữu xa gần của con bà, những khách khứa chơi kiểng đến rù rì rủ rỉ thường xuyên đó, có khi cả ngày cả buổi, có khi còn ngủ lại đêm, hoặc cơm nước đôi ba ngày liền, không hẳn là những người thực sự tìm đến con bà để thưởng thức công trình nghệ thuật thanh cao hiếm hoi ở thời buổi khó khăn giăng mắc và sục sôi xáo trộn này. Dù ở nơi đèo heo hút gió, quanh năm mù mù tăm tăm giữa sự quên lãng hững hờ của người đời, bà cũng đã nghe gần xa to nhỏ về sự chuyển mình vương lên của bà con nông dân chơn chất của bà. Họ đang đối đầu với bao nhiêu bất công nhan nhản mà họ là nạn nhân khốn khó đáng thương trước khí thế của thực dân gian ác và cường quyền hống hách. Bà cũng thừa hiểu rằng những tiếng tù và văng vẳng thôi thúc xa xa vào lúc chạng vạng tối đỏ đèn và sự vắng mặt thường xuyên liên tục bấy nay của Út Đằng về đêm chắc phải có lý do chính đáng. Bà chíp tâm theo dõi từng cử chỉ, từng thái độ và từng lời nói của con bà mỗi khi có khách lạ từ phương xa đến xem kiểng. Khách cùng con bà trao đổi với nhau nho nhỏ vừa đủ nghe. Nhưng với con mắt tinh đời, đầy kinh nghiệm sống của bà, bà để ý câu chuyện giữa họ chẳng những không được thanh thản thoải mái đã đành mà đôi khi còn đượm nét trang nghiêm quan trọng khác thường.

 Bà nghiệm ra lý do và không mảy may nghi ngờ gì nữa. Vì bà đoan quyết Út Đằng đã có những tính toán và hành động ngoài tầm tay chở che của bà. Mà khốn nổi, vào giờ phút này, với đôi bàn tay run run yếu đuối, bà làm sao che nổi cả một bầu trời mênh mông, giăng mắc cạm bẫy khắp nơi. Con bà không còn là một nông dân chơn chất đơn thuần, cơm ngày hai bữa, ngày ngày dãi nắng dầm mưa trên đồng không mông quạnh nữa. Con bà đã thay đổi thực sự trong suy nghĩ và cung cách sống hằng ngày.  Do sự bất lực vượt quá khả năng đó khiến gần đây bà có tâm trạng triền miên buồn bã, áy náy âu lo. Bà chọn sự im lặng sâu lắng cốt để giữ cho mình một nhân cách lớn. 

Vả lại, bà còn biết cái tính khí khái hào hùng và sự can đảm, quyết tâm có thừa của con bà từ thuở nhỏ. Con bà thường tỏ ra lì lọm ăn thua đủ, ngang ngửa với trang lứa oắt con, dù chúng có to xương lớn gộc hơn gấp bội vẫn không hề chạy mặt tốp re. Bà luôn luôn thấp thỏm xót xa lo lắng về tánh khí khái, dám nghĩ dám làm đó của Út Đằng mà bà biết rõ hơn ai hết. Út Đằng cũng thừa biết nguyên nhân nỗi buồn sâu hút của mẹ. Anh cố làm cho bà an tâm khuây khỏa để bà có cơ may sống thêm với anh, với vợ con anh thêm vài ba năm nữa, khi sức bà giờ đây đã có nhiều triệu chứng ngày càng bệ rạt, suy thoái.

Một hôm, anh đề nghị với mẹ để làm vui lòng bà, sẽ đốn cây cẩm lai duy nhứt ở gốc vườn sau nhà làm cho mẹ anh giật thót người, ngạc nhiên sững sốt. Bà tiếp trố mắt nhìn anh tròng trọc trong im lặng một hồi lâu. Bà cố dồn nén vì bà đang suy tư nghĩ ngợi hung lắm. Bà xem đây như một quyết định, một hành động quá quan trọng đối với bà. Và bà đang âm thầm trở về với quá khứ, cái quá khứ tuy đã xa hơn bao nhiêu thập niên dài đăng đẳng, nhưng giờ đây lại sáng trưng trong tâm hồn bà. Bản tánh bà không thích sống với quá khứ, nhưng nay những kỷ niệm ngày xưa bỗng dưng lại hiện về mồn một, dù là những kỷ niệm vui đi nữa, nhưng khi nhắc nhớ đến sao bà lại thấy buồn buồn vô cớ.

            Cây cẩm lai này theo bà kể lại với con cháu trong nhà đã có từ đời cố hỉ cố lai của chồng bà. Nó đã ngất ngưởng hiên ngang vi vu trong gió sớm mưa chiều, qua không biết bao nhiêu năm tháng, từ thuở bà mới bước chân về đây, ở cái tuổi vừa chớm biết yêu. Bây giờ nó quá to lớn xum xuê. Cả đôi ba thanh niên nổi tiếng lực lưỡng khoẻ mạnh trong làng xúm nhau ôm chưa giáp mấy vòng tay. Hơn nữa, về mặt tâm linh, bà không sao gột rửa được ảnh hưởng trầm trọng của người xưa.

 Do vậy, bà rất đau lòng. Vì bà không thể nào quên được trong thuyết nhà Phật có nói chí tình chí lý, con người muốn có hạnh phúc vuông tròn, muốn được thư thái an lành và bình ổn nội tâm, muốn tạo phước đức cho con cái dòng tộc và thực tế hơn muốn lùa xa, quên những phiền toái do đời sống hằng ngày gây ra thì việc tốt hơn hết là nên trồng cây, càng nhiều càng tốt, để tạo bóng mát cho nhơn loài. Nếu vô tình hay vô tâm làm trái ngược lại, đang tâm hủy hoại, đốn phá bừa bãi cây cối thì chắc chắn thế nào những người nầy cũng bị những người khuất mày khuất mặt, những đấng thần linh trách cứ quở mắng, giáng cho những hình phạt không lường trước được. 

Chẳng hạn như tai nạn thê thảm, gia đình suy sụp, đói khổ triền miên... Bà không biết sự thật ra sao nhưng trong lòng bất ổn, xốn xang lo âu mãi. Đối với xóm Rạch Rít của bà, cây cẩm lai của gia đình bà là ngọn hải đăng ngày đêm sừng sững, uy nghi dẫn đắt, hướng dẫn từng lối đi bước đến của bà con mỗi khi có việc phải đi xa trở về xóm. Từ xa, họ chỉ cần nhìn cây cẩm lai cao chót vót, vượt hẳn mấy khóm tre khóm trúc xanh rờn, vượt hẳn mấy đám dừa nước mịt mù chằng chịt giao ngọn nhau hay những lùm buội lố nhố ở cuối chân trời, rồi cứ nhắm thẳng hướng ấy mà trực chỉ, thanh thản rảo bước là vững bụng sẽ đến xóm đến nhà.   

Cây cẩm lai này là biểu tượng của cả dòng họ nhà chồng bà qua nhiều thế hệ tiếp nối tạo dựng cơ ngơi bề thế vững vàng ngày nay. Hình ảnh của một sự thành công trong lương thiện, trong sự sòng phẳng mà những kiếp người chân đất đầu trần, cần cù lam lũ, không bao giờ nghe một lời than van oán trách định mệnh, cũng chẳng thấy biểu lộ ra mặt và quá đà sự hân hoan sung sướng. Nhưng trái lại, họ cứ thầm lặng trong kiên trì, quyết tâm chế ngự cho bằng được thiên nhiên khắc nghiệt để cùng nắm tay nhau tuần tự cống hiến công sức mình, đóng góp cho tộc họ và cộng đồng được sung mản dài lâu. Bà quá đỗi sững sốt ngạc nhiên. 

Bà không dám tưởng tượng đến một sự mất mát không thể bù đắp được. Vì bà nuối tiếc cái cây cổ thụ thân quen này đã đứng vững như trồng, hằng ngày tỏa những tàn xanh um tươi mướt nơi cuối vườn, mang đến gia đình bà sự thư thái sản khoái những trưa hè. Nếu cây cẩm lai này không còn nữa thì đối với bà, cái cơ ngơi của gia đình bà, cái chéo quê hương thân thương của bà sẽ trở nên vô hồn. Còn gì đau khổ cho bằng!? Nhưng sự ngạc nhiên sững sốt của bà không sao lay chuyển được quyết định chung thẩm của Út Đằng. Có lẽ anh cũng bị thôi thúc bởi một động lực tiềm ẩn, mạnh mẽ và chánh đáng nào đó. 

            Mà thật vậy. Út Đằng từng nhận thức đúng mức những nguy hiểm cận kề bên anh khi đã dứt khoát lao vào sứ mạng khó khăn, dấn thân theo tiếng gọi của lương tri và bổn phận. Trong thực tế, sự chọn lựa dấn thân nào mà không đi đôi với sự thiệt thòi và hy sinh, ngay đến tánh mạng mình. Nhưng anh đã chấp nhận trong tự nguyện thì không một động lực nào có thể lay chuyển được. Do đó, anh tâm nguyện với lòng mình, muốn chuẩn bị cho thật chu đáo giai đoạn "dưỡng già" và cái "ngày về sau" của mẹ anh. Như vậy, anh mới an tâm, nếu một mai bà đến thời điểm cuối cùng của một kiếp người, phải vĩnh viễn giã từ quê hương nhà chồng.

 Nơi đây đã trở thành chính quê hương dấu yêu của bà từ khi bà e lệ rụt rè, nguệch ngoạt vụng về đặt chữ ký lên văn bản hôn thú ở nhà việc. Mà cũng để vợ anh, một thân một mình, sẽ không phải bối rối ngỡ ngàng khi anh vắng mặt. Cây cẩm lai sau cùng cũng được đốn ngã, gây một chấn động quá lớn trong bà con chòm xóm vốn dĩ lưa thưa không bao nhiêu người, sống chùm nhum với nhau trên một vạt đất hẹp té cạnh gò hoang. Gỗ quý, khó tìm lại thuộc hàng cổ thụ duy nhứt trong làng. Những nhà giàu có sang trọng, những chủ điền chủ trang trại, ruộng nương cò bay thẳng cánh, cố nài nĩ hỏi mua cho bằng được một đoạn. Vì không phải người nào hay những chức sắc trong ban bệ hội tề nào trong đời cũng có dịp mua được một phần gỗ cẩm lai, tuy đắc giá nhưng lại sát bên hè. 

Út Đằng dành riêng cho mình nhiều đoạn lõi gốc, mướn cưa thành hai bộ ván ngựa, mỗi bộ hai tấm dầy cui cả tấc rưỡi tây, thênh thang chiếm ngay chính giữa gian nhà trước mà bà con ở xóm Rạch Rít có dịp ghé qua lấy tay vuốt vuốt phơn phớt nhẹ nhàng rồi mơ ước trầm trồ không ngớt. Những ngày nóng bức toé đôm đốm mắt, đứng gió khó chịu, được ngã lưng thoải mái trên bộ ván cẩm lai này mới thấy cái hạnh phúc lâng lâng đang dâng trào và cái mát mẻ sản khoái của toàn châu thân qua từng đường gân sớ thịt. Có những buổi sáng dậy trễ, được nằm nướng đôi khắc đồng hồ trên bộ ván này, cuộc đời rõ ràng không còn gì thú vị hơn. Anh rất sung sướng vì đối với anh, bộ ván truyền thống dân gian lâu đời này tượng trưng cho phong cách sống phóng túng, khoáng đạt và nhứt là hiếu khách của anh. Vì nơi đó là nơi anh trang trọng dành riêng để tiếp rước bà con, bạn bè thân quen, vốn tới lui không lúc nào vắng. Và anh cũng đã từng biểu bộ sự hãnh diện và tự hào của mình về tánh hiếu khách, chia xẻ chân tình này của dân tộc Việt Nam, mà anh quả quyết cho rằng trên thế giới chắc ít có một dân tộc nào khác có thể bì kịp.

            Anh hay nhắc đến tư tưởng người xưa cho rằng “quân tử chi giao đạm nhược thủy”. Ngày nay, chân dung người quân tử thời trước đã thực sự phai mờ, bất cập lâu rồi nên anh cảm thấy cần phải thay vào đó hai chữ “bằng hữu” chắc hợp tình, hợp hoàn cảnh mới hơn. Tình bằng hữu - bạn bè - giống như nước lạnh nước mát thiên nhiên, không thấy chi ồn ào to lớn lắm nhưng lúc nào cũng trong suốt, thật tinh khiết, thực chất... và thiết yếu cho đời sống hằng ngày của con người và vạn vật. Do vậy, anh nghiệm ra rằng tình bạn giữa nhau không có không được trong đời sống xã hội và tâm linh. Có được một bạn hiền là có được tâm đắc trong vòng tay vói... 

Sau một thời gian thiếu cơ hội gặp gỡ nhau lại cùng vói gọi nhau để nói đôi lời... hoặc được nồng hậu tiếp rước nhau trong thân tình, dầu chưa có điều chi quan trọng, ngoài những lưu dấu kỷ niệm giữa nhau về một thời giao động, lận đận lao đao ngoài đời. Cho nên tự thân, anh ý thức sự cần thiết gắn bó với nhau và giờ đây mới thực sự thể hiện tròn đầy câu nói người xưa được cải biến: “bằng hữu chi giao đạm nhược thủy”, không có không được. Số gỗ còn lại, anh mướn thợ mộc danh tiếng, đích thực là những nghệ nhân dân gian ở Gò Công và Biên Hòa về cất giàn lợp rạp, đóng tủ giường bàn ghế và hai ba bàn thờ tổ tiên, chạm hình bát tiên, bồng lai tiên cảnh, cẩn ốc xa cừ, màu sắc lấp la lấp lánh quyến rủ gọi mời. Anh vốn thuộc thế hệ tiến bộ. Dù ở nơi hẻo lánh cách trở, nhưng nhờ tiếp xúc thường xuyên với thế giới bên ngoài lũy tre làng, anh rất quan tâm đến những cải cách thời thượng. Anh không thích loại bàn thờ có bốn chân như thường bắt gặp đó đây nơi những ngôi nhà cổ trên trăm năm ở trong quận nhà.

 Trái lại, anh chuộng kiểu tủ thờ, loại tủ lai căng theo  mỹ thuật Tây Phương. Bề cao loại tủ này xấp xỉ chiều cao bàn thờ xưa, nhưng có cửa trước với hai cánh và hai cửa bên hông, mỗi cửa chỉ có một cánh. Anh và những người trong gia đình chỉ dùng cửa hông và tuyệt nhiên không bao giờ mở cửa phía trước, ngụ ý tỏ lòng quí trọng và tôn kính người quá cố. Công việc đóng tủ bàn này quá đỗi bề bộn kéo dài ròng rã mấy tháng trường rất vui vẻ nhộn nhịp, tạo một sinh khí gia đình cật ruột thật ấm cúng, ít khi thấy nơi vùng đất mới đa đoan, làm không ngớt tay.

            Khi bà Năm Hải phát hiện Út Đằng vừa đóng xong cho bà một cái thọ bằng đoạn gỗ cẩm lai nặng ì ì, nước mắt bà ràng rụa xúc động không cách  nào cầm lại được. Bà biểu lộ sự hân hoan sung sướng khi tưởng tượng cái ngày kết thúc cuộc đời mình trong ấm áp, đã được con bà chuẩn bị chu đáo, không để đến lúc bất cập, nước tới trôn rồi hấp tấp đập dập, gây thêm phiền hà cho bà con chòm xóm phải nhọc thân mệt xác đến phụ một tay. Cái thọ được để sát vách bên chái hiên nhà trước, nơi chỗ quan trọng, đối diện với bộ ván cẩm lai vừa được thợ dồi láng bóng. Chỗ quan trọng đó thể hiển sự cung kính và thương yêu vô bờ bến của Út Đằng đối với mẹ anh mà ngày tháng trước mặt cứ thầm lặng, phũ phàng rút ngắn dần dần nhanh chóng. 

Mẹ anh rất ư mừng rỡ. Thỉnh thoảng bà tốc cái màn vải xám dợt mịn màng, đậy nắp thọ mà con bà đích thân mua ở chợ Bến Lức không lâu trước đây, để lau bụi bậm. Bà sâm soi, âu yếm rờ tới mó lui không ngớt cái thọ. Bà nhìn ngoài xem trong, để tâm chú ý từng chỗ vô mộng, từng nơi ngàm ráp nối cẩn thận, nhằm phát hiện sớm những đường mối ngoằn ngoèo như ở vách ván bổ kho nếu có. Bà cẩn thận phòng xa. Bản tánh cố hữu của bà mà! Thật tình gỗ cẩm lai là loại gỗ rắng cứng mối chê, không như ván bảng bằng loại cây dầu hay dênh dênh tạp nhạp, đóng vách nhà không được bao năm thì bị mối tinh ranh âm thầm gậm nhấm, đụt phá. Dù cố công chữa trị trối chết cũng không xuể. Bà lau chùi cả giờ cả buổi vẫn còn cặm cụi nâng niu vật quý đó. 

Nó sẽ bao bọc, gói ghém bà sau này, lúc phải rời khỏi cát bụi thế gian. Bà hãnh diện thỉnh thoảng nhìn cái thọ và cảm thức sự ra đi thiên thu vĩnh biệt của mình như một sự việc xảy đến một cách bình thường, có sanh có tử, có sống có chết, không một ai có thể cưỡng chống lại được định luật thiên nhiên bất biến của đất trời. Cái triết lý sống và chết của bà được diễn giải như một chấp nhận đương nhiên, cái gì phải đến sẽ đến. 

Thế thôi. Vì bà nghĩ mình đã làm tròn chức năng và bổn phận của người có ý thức vay trả, trả vay đối với gia đình, xã hội và nhân quần một cách sòng phẳng, phơi phới, không hề ăn quỵch thế gian. Sự xúc động và mãn nguyện của bà còn gia tăng gấp bội khi bà trông thấy cái thọ gỗ cẩm lai được Út Đằng cẩn trọng nhờ thợ điêu luyện chạm trổ cảnh non bồng nước nhược, những huyền thoại về cái thế giới vô hình ước mơ này rất tỉ mỉ công phu. Bà thêm mãn nguyện hơn khi đo đạt nó rất vừa vặn với kích thước “kim tỉnh” của bà được xây lúc bà ăn lễ thượng thọ trong không khí ấm cúng của gia đình và bà con chòm xóm. Tuy nhiên, đại lễ này không kém phần trang nghiêm trọng thể. Nhưng sự mãn nguyện đó bị một lớp mây mù che phủ. Sự âu lo của bà quả có thật. Nó hiện hữu từng giờ từng phút trong ánh mắt đăm đắm u buồn, trong những cử chỉ lơ đễnh mất hồn hay lượm thượm vụng về của bà. Niềm vui mong manh tạm bợ của bà không được trọn vẹn khi chốc chốc bàng bạt, phảng phất trong tâm tư tình cảm bà nỗi buồn canh cánh bấy nay về nhận xét của bà đối với bạn bè khách khứa của Út Đằng. Bề ngoài, họ thường tới lui ngắm nghía thưởng ngoạn giàn kiểng kim quít. Nhưng thực tế bà nghĩ không phải vậy. Và nhứt là sự vắng mặt bất thường của đứa con yêu quí của bà những đêm văng vẳng tiếng tù và túc hối xa xôi thúc giục lòng người...


                                                                          **
            Lính tráng hùm hổ bủa vây đầy đồng với những tiếng súng thị oai đì đùng từng chập đó đây. Nào là Tây đen, Chà và Ma ní, nào là Tây trắng râu xôm ục nịt cùng với đám hương chức hội tề làng xã đang lùng sục, xét hỏi, bắt bớ, đốt nhà cửa người dân. Khói lửa ngùn ngụt ở đầu trên xóm dưới. Út Đằng cùng vài bà con lân cận trong xóm, cả đàn bà con gái cuốn cuồn, hớt hơ hớt hãi cùng nhau hùn hục xúm lại long vừa xong bộ ván cẩm lai xuống đìa nước sát bên hông nhà. Anh đang cặm cụi cố gắng lôi thêm mấy cái tủ thờ gia tiên chạm trổ đắt giá, nhận sâu xuống vũng rau dừa rau nhúc đầu ngõ đang độ ngày mùa xanh tươi mơn mởn.  Nhưng chưa kịp xong thì đã thấy lính tráng ầm ầm sát khí ập vào nhà anh, khám xét không sót một chỗ. Hang cùn ngõ hẹp nào cũng không thoát được đôi mắt cú vọ của bọn tay sai a dua vô hồn, cố lập công làm vừa lòng chủ Tây. Sự bình tỉnh và khôn khéo của anh nhằm đối phó những tình huống khó khăn nguy hiểm, tuy được anh dự phóng trước đó, vẫn không đủ để giúp anh vượt qua tai ách chung của bà con bạn bè đồng hành, cùng chung chí hướng.

            Lính tráng nhà nước thuộc địa qua một số tay sai khuyển mã chỉ điểm ở địa phương, đã nắm quá đầy đủ chứng cớ những xáo trộn xách động, những đêm liên tiếp biểu tình đánh phá làng xã bấy nay ở quận nhà. Và trong số những thành phần được chính quyền liệt kê là "bất hảo, làm loạn", phá rối trị an công cộng, đã có ghi rõ ràng tên tuổi anh. Anh là một trong những người đầu não quan trọng từng đứng mũi chịu sào, xông xáo đứng lên cổ động bà con nông dân các làng xã trong quận tập hợp, thường xuyên kéo nhau đêm đêm đi biểu tình có võ trang dao mác gậy gộc để phản đối chánh sách hà khắc của thực dân và sự hống hách lộng quyền của hương chức làng xã ngay ở quận lỵ Bến Lức thời gian qua. Anh đã làm cho chánh quyền địa phương, các ban bệ hội tề thất điên bát đảo, chập tối đã tìm đường trốn chui trốn nhủi như trùn như dế, không đêm nào bọn chúng có đủ can đảm dám ngủ thong thả an giấc tại nhà. Út Đằng bị truy lùng theo dõi lâu nay. Anh bị bắt trói thúc ké ngay sau đó để giải thẳng về quận cùng vài chú bác, bạn bè anh trong xóm. 

Cùng lúc ấy, ngôi nhà tổ phụ của anh bắt khói nghi ngút do biện pháp bức bách trừng trị của nhà chức trách thực dân đối với những người lúc bây giờ dám cả gan đứng lên cổ vũ chống lại chế độ thuộc địa. Nhìn ngọn lửa hung hãn với cột khói đen ngòm oán hờn xoáy vòng vòng vun vút trên từng không, anh nhớ thương vợ con anh, mẹ già chân mỏi gối dùn, giờ đây không nơi nương tựa giữa lúc bóng xế trăng lu, gần đất xa trời. Bây giờ trong gông cùm của bạo lực, anh đành thúc thủ xuôi tay với trận bão lòng đang hừng hực dấy lên trong anh. 

Bất giác, anh thoạt nhớ đến cái thọ của mẹ anh vào giờ phút ấy chắc cũng trở thành một khối than đỏ hồng, làm tiêu tan hết bao ước mơ thầm kín của anh, lo lắng đầy đủ cho mẹ khi đến ngày lâm chung. Ngọn lửa đen ngòm lại cuồn cuộn ngùn ngụt thêm theo bước đi uể oải của anh và sự thúc hối, đánh đập, chửi mắng thậm tệ của bọn lính tráng tay sai. Khói lửa càng vùn vụt vút cao bao nhiêu thì hy vọng vớt vát phần nào nơi anh về mái nhà ấm cúng, hạnh phúc tròn đầy bấy nay càng tiêu tan nhanh chóng bấy nhiêu. Anh quá đỗi thất vọng cho số phận người dân mất nước, cho thân phận “cá chậu chim lồng” của mình, không giúp gì được gia đình, mẹ già, vợ yếu con thơ trong tận cùng của nghiệt ngã.

            Sau thời gian bị điều tra rất mực tàn nhẫn, bị nhốt xà lim, đông người chật nức như nêm lâu ngày vào mùa hè oi bức ngột ngạt, thêm ăn uống thiếu thốn, ngủ nghê thất thường vì thương tích lúc bị khảo tra vặn hỏi, rệp muỗi thi nhau cắn chích đêm ngày, trông anh già đi rất nhiều. Chỉ sau một năm hơn giam giữ, không ai có thể nhìn được anh, một nông dân rắng chắc, hiền hòa và năng động, bây giờ còn là cái bóng mờ của một thời đã mất. Tóc tai anh dài bùm xùm. Râu ria mọc loạn xạ cào cào châu chấu. Thân hình tiều tụy, tuy chưa đến đỗi như con cá lẹp, tăm nhang, nhưng trơ xương, xanh xao bủn xịt. Chuyến tàu đưa anh ra Côn Đảo dằn đặt thương nhớ oán hờn. Anh đã bị xử chung thân cấm cố, lưu đày ra hoang đảo. 

Dù vậy, sóng gió và cuộc đời tù tội trước mắt không làm sao nao núng quyết tâm và chí hướng anh. Nhưng thực sự trong cuộc phiêu lưu cực kỳ nguy hiểm này, kẻ đi đày vốn có đi mà ngày trở về lại ít oi quá. Nhưng thực sự  đối với anh lúc bấy giờ chỉ có con đường bắt buộc trước mắt trong thế bế tắc nhứt thời, chớ anh không hề tính chuyện quay lưng cứu rổi tức khắc. Tất cả những suy nghĩ đó đã gậm nhấm tâm tư tình cảm anh nhiều hơn để thêm ngậm ngùi về một lý do riêng tư thầm kín. Anh nhớ đến bổn phận làm chồng làm cha chưa tròn mà thêm thương người ở lại, từ đây phải chống chỏi bơ vơ với một nghịch cảnh não nề trầm thống chưa hề xảy ra trong gia đạo. 

Cuộc đời mới của anh sẽ bị giam hãm vĩnh viễn sau bốn bức tường tù ngục đen ngòm qua những hàng kẻm gai nhọn lểu bủa giăng buồn nôn. Tuy nhiên, anh không đau đớn cho thân phận mình, vốn đã ý thức những gì đang xảy ra hôm nay, nhưng anh rất khổ tâm khi hồi nhớ đến mẹ anh đang khắc khoải đêm ngày, khi nghĩ đến vợ anh, chân yếu tay mềm, hoài công dõi mắt trông tin lành ngày càng thêm biền biệt. Đất Côn Nôn, một phần đất của quê hương anh, cũng như xóm Rạch Rít thân thương ngàn                      đời của anh, chỉ khác là nằm sòng soãi giữa biển khơi, hằng bao nhiêu dặm diệu viễn cách ngăn. Với ý chí và quyết tâm đang ở tuổi yêu đời vươn lên, dồi dào sinh lực, anh cùng bạn bè đồng hội đồng thuyền, vừa quen thuộc vừa xa lạ, lòng nhũ lòng sẽ cố gắng vượt qua mọi thử thách từng bước chực chờ. 

Và nhứt định anh sẽ có ngày trở về góp công xây dựng lại quê hương, trong đó có xóm Rạch Rít của anh, được hoàn toàn độc lập tự do, được thực sự phồn vinh hạnh phúc, thực sự nhân ái công bằng, mọi người thương yêu đùm bọc lấy nhau. Anh càng tự tin hơn khi hồi nhớ người tù quốc sự tiếng tăm lừng lẫy khắp ba kỳ năm xưa, đã xem thường cái cảnh đi đày Côn Đảo, khi thố lộ nỗi lòng và tâm sự mình qua bài thơ thất ngôn bát cú vang danh một thời. Bài thơ này anh đã thuộc làu không thua gì những bài học thuộc lòng trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, khi anh còn mài đủng quần trên ghế nhà trường tiểu học ở quận nhà:
                                        Đập Đá
                        Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
                        Lừng lẫy làm cho lở núi non.
                        Xách búa đánh tan năm bảy khối
                        Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
                        Tháng ngày bao quản thân sành sõi
                        Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.
                        Những kẻ vá trời khi trái bước
                        Giang san nào sá sự con con.
                                                Phan Châu Trinh
                                                    (tự Tây Hồ)

            Út Đằng nào ngờ khi bước lên cầu tàu Côn Đảo dưới lằn roi vọt dồn dập và chửi bới thậm tệ, tục tằng của bọn lại ngục người Việt mất gốc, mất cả lương tri đồng chũng, anh chưa kịp nhìn ngắm phong quang cảnh trí chung quanh mình ra sao cho thỏa tánh tò mò, hiếu kỳ, anh chưa kịp phân biệt cái vịnh nhỏ nhắn êm đềm một màu xanh biếc nơi tàu nhổ neo với màu nước đen thẳm ngoài khơi qua trí tưởng tượng của anh. Ngay khi ấy, anh liền bị lùa như lùa súc vật để đưa ngay vào bốn bức tường cao ngất nghểu, được tăng cường bởi những vòng kẻm gai nhọn lểu với những vọng canh kiên cố. Rồi  không lâu sau đó, anh được chuyển đến những đội đập đá, bắn đá để hoàn tất con đường lên núi Chúa. Con đường khổ ải và nguy hiểm khôn tả. Người tù nào bất hạnh bị đày đến đây kể như thập tử nhất sanh, vĩnh viễn sẽ không còn có cơ hội trở về đất liền, sum hợp gia đình vợ con. Con số may mắn sống sót chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ăn uống thiếu thốn. Làm việc hộc gạch, cực nhọc nặng nề và liên tục hằng ngày, kể cả nắng mưa sương gió, không một phút nghỉ ngơi. Còn thêm tệ nạn bị bọn lại ngục vô lương tâm a dua lập công, đánh đập không nương tay, cứ thôi thúc bức bách liên hồi. Sương lam chướng khí mắc giăng sớm chiều. 

Nắng mưa, thời tiết đổi thay nhanh chóng không đoán trước được. Mới thấy oi bức, nóng bỏng da thịt, nhịp thở khó khăn như muốn đứt hơi, nhưng chỉ trong phút chốc ngắn ngủi kịp tới những làn gió lạnh buốt, rét rung người. Con người gầy ốm như con cắc kè phơi khô mà vẫn phải quần quật è ạch khiêng vác suốt ngày, ngay những lúc giông bão với gió núi tê lạnh cóng tay cóng chưn. Những người tù quốc sự, mảnh khảnh gầy yếu lần lượt rơi rụng, kẻ trước người sau như lá mùa thu, mong manh và tức tưởi. Con đường hiểm độc tăm tiếng giết người đó được tù nhân đồng thanh gán cho cái tên rùng rợn Ma Thiên Lãnh với âm hưởng tận tiêu tận diệt. Nơi mà sự chết chốc thê lương thảm thiết vào bậc nhứt của các pho truyện chương hồi trường thiên nổi tiếng của Trung Hoa cổ thời. 

            Không đầy mấy năm sau, chỉ mấy năm thoáng qua thôi mà sức khỏe của Út Đằng suy giảm nhanh chóng khủng khiếp ngoài sức chịu đựng dẻo dai của anh. Ngày anh bị bắt rồi lưu đày ở đây, anh là một thanh niên vạm vỡ cường tráng, tràn đầy nhựa sống yêu đời với những ước mơ sáng rực ở tương lai. Bây giờ anh trở thành một xác chết chưa chôn, ốm nhom cà tong cà teo, xanh xao vàng vọt như tàu lá chuối non, chắc khó có ai nhận ra anh được. Anh không ngờ và không tưởng tượng đúng mức chánh sách hà khắc, trừng trị dã man của nhà tù thuộc địa quá ư tàn nhẫn đến thế. Giết người về lâu về dài trong lao động khổ sai liên tục và đói khát triền miên. 

Nhưng cái đau đớn nhứt của anh trong thời gian “chim lồng cá chậu”, mất tự do và nhân phẩm con người là sự hèn hạ trở mặt của một thiểu số người, cũng là tù nhân như anh nhưng cam tâm làm những tên tay sai điềm chỉ, phản bội. Đó là những tên tù cộng sản đầu não, những gian nhân hiệp đảng trân tráo, a tùng tiếp tay với bọn cai ngục vô tâm. Chúng xem tình nghĩa đồng hương, đồng hành nhẹ hêu. Chúng nhẩn tâm bày mưu thần chước quỷ hành hạ nhằm loại trừ người quốc gia chân chính yêu nước. Những người can trường mẫu mực này dám đứng lên công khai khước từ sự lãnh đạo độc tôn của chúng, vốn hoạt động trong những tổ chức bí mật, cấu kết nhau thao túng và khống chế nhà tù. Nhiều chiến sĩ quốc gia dũng cảm và khí tiết tuần tự bị đưa đến những đội, những sở giết người và đành cam gục ngã thảm thương. 

Như trường hợp của anh. Ngày đi đến những đội, những sở tuyệt mạng đó, người tù xấu số còn được nhà lao thực dân dành cho một ân huệ nhân đạo cuối cùng, được cấp phát manh quần tấm áo lành lặn để đến ngày về, xác thân vô hồn của họ được quấn đơn sơ bằng mảnh chiếu rách là điều may mắn cuối đời lắm rồi. Phần đông họ được những bạn đồng hành, dù có thương yêu mũi lòng đến đâu cũng đành phải bó tay đập dập ở ven rừng hay hốc núi hoang vu nào đó. Ngày phân đội của anh được chỉ định làm công tác bắn đá phá đường như thường lệ, Út Đằng bị thương trầm trọng lúc rủi ro trợt chân té xấp. Anh không đủ sức để nhanh chóng đứng lên chạy tránh né. Anh bị một tảng đá to lăn từ trên cao, càn quét một khoảng đường dài để sau cùng đè lên thân mình anh. Anh không còn chút hy vọng nào sống sót trong hoàn cảnh nghiệt ngã, thiếu thốn trầm kha. Có chăng, anh chỉ hoi hóp, kéo dài cuộc sống đau đớn tuyệt đỉnh này thêm một thời gian ngắn nữa. 

            Anh không ngờ ngày ra đi, anh rất tin tưởng sẽ có ngày trở về lối cũ thôn xưa, về xóm Rạch Rít cắt rún chôn nhao ngàn đời thân thương của anh để gặp lại bà con quen biết. Anh sẽ gặp lại mẹ già và vợ con anh trong ngấn lệ. Anh sẽ tiếp tục cuộc sống bình thường trong không khí và bối cảnh tràn đầy hạnh phúc, lúc đất nước đã thực sự tự do thanh bình, ấm no thạnh mậu. Anh cũng tin tưởng rằng, với tuổi đời đang vươn lên của anh, anh bất chấp hiểm nguy và thử thách dù trầm thống đến đâu. Anh sẽ không thể chết nơi hoang đảo, uổn phí một đời trai. Anh sẽ sống và phải sống cho đại cuộc, cho tương lai con cái mình. Anh còn vợ con ngoan hiền, tay yếu chân mềm, đang chờ đợi đôi bàn tay dìu đắt đỡ nâng của anh. Anh còn mẹ già trong thời ướm rụng, lòng quặn thắt đêm ngày, vò võ ngóng tin anh. Anh còn có dịp biểu lộ lòng hiếu thảo khi hãnh diện với chòm xóm tổ chức tang lễ mẹ anh rỡ ràng trọng thể.

            Bây giờ, ngày về đối với anh như kết thúc ở đây, nơi hoang đảo oán hờn chất ngất này, ở lòng đất lạnh xa xôi thôn làng bản quán diệu vợi, càng buốt lạnh thêm với những đợt sóng biển hầm hừ tưởng tiếc, gầm róng uất hận thiên thu, không bao giờ dập tắt được. Bây giờ, cái ngày tang khó của mẹ anh mà anh hằng tưởng tượng, để tâm chờ đợi lúc còn tự do bay nhảy ngoài đời, bắt đầu trở nên lờ mờ trong tâm trí, được gởi gấm tạm bợ trong một thân xác xanh xao vàng võ với những đớn đau quặn nhói từng cơn. Bây giờ, cái ước mơ nhỏ nhoi và thầm kín nhưng chánh đáng sẽ ăn ở với vợ anh đến răng long đầu bạc, đến hơi thở cuối đời, sẽ nuôi nấng dạy dỗ các con anh nên người hữu dụng, ích nước lợi dân, trở nên mong manh như sương sớm đầu núi Chúa, chợt đến chợt đi. Bây giờ, anh giựt mình, nào ngờ mình sắp vĩnh viễn ra đi quá ư nhanh chóng và phũ phàng giữa thời hoa tươi xuân mộng, trong hoàn cảnh thật sự oái oăm ngang trái hơn lúc nào hết trong đời mình. 

Anh tiếc tuổi trẻ của anh còn nhiều hứa hẹn hữu ích cho cố thổ thôn làng anh, cho quê hương đất nước anh và xa hơn nữa cho xã hội nhơn quần. Nhưng cái chữ ngờ đay nghiến nhứt nơi anh lúc ấy vẫn là sự ám ảnh ray rứt dằn dặt. Một sự ám ảnh trớ trêu. Có thể nào anh lại bất hiếu chết đi trước khi mẹ anh nhắm mắt xuôi tay trở về với cát bụi? Việc mà không bao giờ anh nghĩ đến trước đây, nhưng thực tế đã dành cho anh quá nhiều cay đắng, đắng cay phũ phàng. Anh mãi tắc lưỡi, cho rằng đời người có thiếu gì nghịch cảnh éo le nhưng sao nghịch cảnh lại đến với anh quá ngỡ ngàng thế này! Dù rằng sự bất hiếu đang dầy vò tâm hồn anh đôi lúc được vơi đi phần nào khi anh hồi nhớ những lời giảng dạy ngàn vàng của sư cụ trụ trì ngôi chùa duy nhứt trong làng thuở nhỏ, khi anh theo học bập bẹ chữ nho: “Phụ mẫu tại bất viễn du, du tất hữu phương’’. Anh vẫn còn nhớ mồn một lời giải thích của sư cụ như sau:
            - Khi cha mẹ còn sống, người con có hiếu không nên đi xa để được gần gũi phụng dưỡng các đấng sinh thành, mà nếu vạn bất đắc dĩ cần đi xa thì phải có mục đích và phương hướng rõ rệt phục vụ cho mục đích đó. 

            Anh tự an ủi qua một trong số những hình thức sáng ngời của đạo Hiếu tích lũy trong tâm thức mình, bây giờ lại phục hiện lờ mờ từng chập. Tuy nhiên, anh không thể dập tắt hẳn khắc khoải trong lòng. Hôm Út Đằng vừa chớp mắt tỉnh dậy trong sự đau đớn, nhức nhối dằn dật tột cùng, người tù áo trắng, hạng tù sắp mãn hạn được giám đốc đề lao phân công phụ trách chăm sóc tù nhân ở trạm y tế, báo cho anh biết một tin vui. Anh được một dịp may hiếm có trong đời tù nhân ở đây. Viên xếp Tây lai Ấn Độ động lòng sao đó lại ra lịnh cho bốn anh tù trong đội võng cán anh về đây chữa trị. Nhưng thật bất hạnh cho anh. Đã quá muộn rồi! 

Vết thương để lâu ngày, không thuốc men và băng bó chu đáo, đã làm độc trầm trọng. Da thịt bắt đầu có những triệu chứng ung thối nguy hiểm, trong khi sức khỏe của anh suy giảm bấp bênh. Hơn nữa, thuốc men ở y trạm dành cho tù nhân lại có ngần, nhỏ giọt, nên không hiệu quả mấy. Anh không còn đủ sức lực để chống chỏi lại tử thần đang ám ảnh trước mắt. Đêm đêm, trong giấc ngủ chập chờn, nửa tỉnh nửa mơ, thỉnh thoảng anh khe khẽ gọi mẹ, gọi tên vợ anh làm cho anh tù áo trắng trực đêm thêm nhiều cảm tình. Anh được chăm sóc hết sức tận tình qua cái tình cảm riêng tư đặc biệt hiếm hoi đó. Nhưng sự tận tình nào rồi cũng không qua được định mệnh, đúng theo nhận xét của người đời: cái gì sẽ đến ắt một ngày nào đó cũng phải đến thôi.

            Một buổi chiều, lúc mặt trời ráng hồng le lói sau núi Chúa, sóng vỗ ngoài khơi rì rào bất tận, gió lạnh se sẽ phất vào y trạm hắt hiu đã vắng bóng người. Con đường trước mặt y trạm bắt đầu trở nên lạnh lùng tĩnh mịt với những ánh đèn điện yếu ớt vàng vọt, càng làm lu mờ thêm cảnh vật chung quanh. Út Đằng cảm thấy như nghèn nghẹn ngạt thở. Sức anh quá yếu rồi. Qua đôi mắt lờ đờ lạc thần, anh chỉ còn thấy một chút ánh sáng trắng bệch, mờ mờ đục đục của chia ly, của tang khó. Linh tính báo trước giờ khắc anh vĩnh viễn ra đi chỉ còn trong đường tơ kẻ tóc. Anh cố gắng đưa tay gầy ốm trơ xương tưởng chừng như muốn đâm toạt làm rách bươm lớp da nhăn nheo, xám ngắt bao bọc bên ngoài, để  khẽ ngoắt anh tù áo trắng trực đêm. Anh ngõ ý muốn trăn trối đôi lời như khẩn khoản ký gởi một đôi điều ẩn giấu để lòng anh được thanh thản trước lúc ra đi. 

Giọng nói của anh trở nên phều phào khó nhọc, ngắt khoảng. Anh đã quá kiệt sức rồi, bập bẹ từng tiếng, từng tiếng một, tuy không rõ ràng nhưng cũng đủ để cho người nghe nhận được hết ý nghĩa chính yếu lời nói cuối cùng của một kiếp người mong manh ngang trái. Anh tù áo trắng vội vàng liếc nhìn anh và phỏng đoán ngay giây phút kết thúc của một đời người cô đơn bất hạnh, xa quê hương cố thổ bản làng, xa hẳn những người thân thương cật ruột. Anh ta phóng ngay đến sát bên giường, áp tai vào đôi môi anh đang mấp máy trên một gương mặt gầy còm hốc hác với nền da xanh xao lốm đốm màu chì.

            “Nếu một mai, vài tháng hay cùng lắm một đôi năm, nếu anh có may mắn nhờ ơn trên và tổ tiên phù hộ để về được đất liền, anh vui lòng tìm đến xóm Rạch Rít của tôi, thuộc quận Bến Lức, Chợ Lớn, hỏi qua gia đình Út Đằng, con bà Năm Ngô Thị Hải. Anh nhắn giùm người vợ gương mẫu tôi rất thương yêu quý trọng, hãy cố gắng nuôi các con tôi nên người xứng đáng, hữu dụng. Và nhứt là nhớ lôi bộ ván cẩm lai năm xưa tôi long ở đìa nước sát bên hông nhà, lúc Tây thực dân đàn áp tràn vào đốt xóm đốt làng để đóng một cái hòm trang trọng tươm tất cho mẹ tôi khi mẹ tôi qua đời...”.
            Út Đằng phều phào thêm, càng lúc càng yếu ớt dần. Anh tù áo trắng vội vàng đưa tay vuốt mắt anh hãy còn đọng i ỉ những giọt ân tình và lẩm nhẩm:
- Sống khôn thác thiêng. Nếu còn sống về đất liền, tôi nguyện sẽ không bao giờ quên lời trăn trối của anh.
                                                                        **
            Sóng gió ngoài khơi rì rào bất tận. Những ngọn dương ngất nghểu nơi nghĩa địa hoang vu quật qua quật lại nhịp nhàng xa xa. Đêm lạnh ở trạm y tế thêm não nuột buồn tênh. Sổ tù ngày mai thu ngắn lại, xóa thêm một tên tù bất hạnh nữa. Bãi cát đìu hiu ở Hàng Dương Côn Đảo vi vu oán hờn, tiếp nhận thêm một nấm mồ mới với tấm thẻ cây đơn sơ, sẽ bật gốc nằm la liệt ngổn ngang đó đây, cùng với hằng hà sa số các thẻ khác đã bị thời gian phũ phàng đụt khoét rã mục. Xóm Rạch Rít diệu vợi vẫn trông ngóng ngày về của đứa con quê hương, người tù quốc sự lưu đày Côn Đảo duy nhứt của vùng đất khẩn hoang khỉ ho cò gáy nầy.  Bà Năm Hải thương nhớ con, mỗi ngày già thêm đi nhiều. Mái tóc bạc phau, nhưng mỗi buổi chiều bà vẫn nhớ nhắc nhở mấy đứa cháu nội tưới giàn kiểng quý còn sót lại sau ngọn lửa trừng trị của thực dân năm xưa.  Bà cùng với con dâu, chị Út Đằng vẫn ngày ngày chờ đợi và vẫn hy vọng ngày hồi hương của đứa con thân yêu, của người chồng yêu quí, mãi mãi sống trong lòng hai người đàn bà chơn quê, qua hình ảnh con nhện giăng tơ trông chờ một mối, cứ mỗi chiều chiều thấp thỏm ngóng về nơi xa xăm ấp ủ tin lành.

                                                                     -***-
                          Tình Đất Hương Quê
           Ông Tám Bóng là một nông dân cố cựu, một thổ công của xóm tôi. Có lẽ ông là người lớn tuổi nhất trong cả làng nữa, ngày xưa xa lắc xa lơ được liệt vào hàng trượng triều trượng quốc, ra vào nơi công đường thoải mái, không hề sợ bị một viên chức lớn nhỏ nào trong ban bệ Hội Tề bắt lỗi bắt phải mình gì cả. Gốc gác của ông từ nhiều đời, từ thuở tằng tổ huyền tổ xa xôi mà chính ông cũng không biết rõ ràng đích thực. Nhưng ông nhớ lơ mơ, có lẽ ông thuộc con cháu của lớp người miền Trung vùng lưỡng Quảng, tiên phuông tha phương xuôi Nam lập nghiệp nơi vùng đất mới khỉ ho cò gáy nầy.

 Thuở đó, hầu hết tổ tiên ông đều lận lưng,  mang theo mình một chút vốn liếng tối thiểu làm bàn đạp tiến thân, gồm những kinh nghiệm tích lũy trong ngành nông, trồng trọt và chăn nuôi gia cầm. Kỳ thật, họ đâu có của nổi của chìm gì khác, ngoài đôi tay trắng với một tấm lòng và nghị lực phấn đấu để vương lên. Rồi từ dạo dấn thân không ức đoán trước được ngày mai đó, họ hăng say lao vào việc mở đất đai, khai khẩn những nơi hoang vu, đào kinh đắp đập, phá rừng lập rẫy, bất chấp nắng mưa sớm tối, cùng sương lam chướng khí và nhứt là hằng ngày phải đối phó với đỉa vắt, rắn rết, thú rừng hung độc chực chờ vây quanh. Bây giờ, trải qua bao nhiêu đời đắng cay nghiệt ngã, nếm đầy đủ những thăng trầm của cuộc sống chí tử nghèo mạt, ông ăn nói giọng Nam Kỳ Lục Tỉnh của những người rặt nòi. 

Không một ai có thể lầm lẫn ông vốn là người tận miền ngoài. Lời đối đáp và nếp suy nghĩ của ông thấm đẫm nét quê mùa, mộc mạc chơn chất và nhứt là cách hành xử ứng phó, cởi mở đậm đà, rất mực tình nghĩa của người dân địa phương lâu đời nhứt ở đây, những người chân lấm tay bùn, ngày ngày phơi lưng trần dầm mưa dãi nắng xuyên suốt bốn mùa. Năm nay, ngoảnh đi ngoảnh lại, ông vụt trực nhớ mình đã bước khá xa vào cái tuổi cổ lai hy lúc nào không hay. Thời gian vốn tàn nhẫn lại qua thật mau, tóc đã hoa râm khá nhiều ông chẳng biết từ lúc nào. 

Những khi ung dung hồi hướng ôn cố dĩ vãng, ông thường ngồi uống trà rung đùi, hãnh diện vuốt vuốt chòm râu dài sọc, cười hăng hắc, bong đùa với đám trẻ lóc chóc mới tấn lên vài thập niên sau này. Rồi ông dỏng dạt khoe rằng: ‘‘Ông Trời già đã tha mạng Tào tao rồi!’’. Qua đó, ông tỏ ra rất tự tin ở đường tương lai của mình, cho dù những ngày mong manh trước mặt ông cứ rút ngắn dần. Ông cũng hay hóm hỉnh nhắc đến mấy ông tai to mặt lớn trong làng trong tổng nhà, như các vị chức sắc quyền uy lẫm liệt trong ban bệ Hội Tề, cũng như những tên tuổi đại điền chủ đất đai bề bề, ruộng vườn cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi, các ông cai tổng oai vệ khét tiếng hét ra lửa, đến mấy ông bang biện đường đường lừng lẫy làm ông vua con một cõi… thảy thảy hầu như đều mất sớm cả. 

Theo ông cho biết, đa số các ông này không hề bước qua khỏi tuổi lục tuần, thất tuần… do mắc phải những chứng bệnh ngặc nghèo của nhà giàu. Còn lễ thượng thọ kể như chuyện mò kim đáy biển, ước mơ hão huyền cho vui cửa vui nhà những lúc nhàn nhã uống trà hay nhậu rượu lai rai qua ngày tháng. Mà nếu có may mắn thọ đến được tuổi hiếm hoi ấy, họ cũng eo xèo bệ rạc, nay đau mai ốm, bệnh hoạn rề rề, chẳng thấy lúc nào thật sự vui sướng hạnh phúc. Ông đinh ninh và hãnh diện cho rằng có lẽ nhờ mắm muối cháo rau, sò ốc cá tép, gạo nếp trong trắng hằng ngày… lại trường kỳ năm này sang tháng nọ, thêm vào đó còn làm việc chân tay cật lực bất kể giờ giấc ngoài đồng không mông quạnh gió mưa sớm tối, giúp ông có được cái tuổi thọ, phúc đức ông trời ưu ái ban cho như vậy. Thay vì những thứ cao lương mỹ vị, sơn hào hải sản đắc tiền xào nấu với những phụ phẩm cầu kỳ và nhứt là các loại gia vị thời thượng lắm độc tố, nên tác hại đến sức khỏe của các vị giàu có nứt trứng kia chăng?

Trong những lần giỗ chạp, lễ lộc, được mời thỉnh, không sót lần nào, sau khi qua lại mấy từng rượu, chén anh chén tôi thù tạc thân tình, những câu chuyện vòng vo, quanh co ngoắc ngoéo về thời sự nóng bỏng, về nắng mưa lúa thóc mùa màng rồi cũng tắt dần để bước sang những đề tài dí dỏm bong đùa, mua vui không hề làm phiền hà, mếch lòng một ai. Cho dù là một đứa con nít miệng còn hôi sữa. Những lúc đó, ông Tám Bóng nhậu cho có nhậu, nghĩa là nhậu tượng trưng theo phép xã giao có người có ta, có trên có dưới, không thể cầm lòng từ chối được. Vì nếu không tham gia nhập cuộc, ông cảm thấy mình như lẻ loi cô đơn đã đành. Mà không khéo dám có người ác ý xa gần bảo ông lập dị, sống kiểu cách khác thiên hạ, không giống ai. Hơn nữa, không khí hội hè đình đám lâu lâu mới được tổ chức một lần, chẳng lẽ chỉ vì một mình ông mà buổi họp mặt đông đảo trở nên mất vui. Người ta sẽ mỉa mai đàm tiếu, tiếng ra tiếng vào, úp úp mở mở bóng gió, trách ông chơi như vậy thì nên đóng cửa ở nhà, chớ chơi với ai ở vùng trời nước quanh năm một màu u u tăm tăm buồn tẽ này. 

Do đó, thường thường người ta chỉ thấy ông đưa ly mím môi chút chút thấm giọng, khi cái mỏ nhọn hoắt của đầu con gà luộc được bà con đồng hội đồng thuyền xoay tròn nhiều vòng lại chẳng may chỉa thẳng về phía ông. Ấy mới chết! Một ly rượu tràn đầy được trang trọng chuyền đến đặt ngay trước mặt ông. Tiếp theo đó, ông không sao tránh khỏi bị bà con đồng tình vỗ tay bom bóp, ép nài thách thức, cười hăng hắc vang râng. Chập chập, ông còn nghe rõ bên tai mình những lời nói xốc óc dồn dập, đôi co kích bát nhập nhầy đến bực mình khó chịu. 

Dù vậy, ông vẫn giữ nụ cười dĩ hòa vi quý quen thuộc, nhưng không hề xiêu lòng. Một mực, trước sau như một, ông cương quyết lựa lời hợp lý hợp tình chối từ khéo léo, tránh không làm mếch lòng một ai. Nhưng nhứt định ông không ngã theo thị hiếu cũng như sự áp đảo và ảnh hưởng của đám đông. Thì ra ông nhậu tượng trưng, đúng như quan niệm và thói quen lâu đời của dân gian: ‘‘Nam vô tửu như kỳ vô phong’’. Chớ thật tình, lúc nào ông cũng tự chủ được mình, không đi quá trớn quá đà để mang tai mang tiếng, mà hậu quả là rước lấy lời thiên hạ cười chê. 

Trong xóm tôi, dân cư không đông lắm, áng chừng đôi mươi nhân mạng lớn nhỏ là cùng. Nhà cửa thì cụm năm cụm ba xan xát, chỉ cách nhau chừng vài thửa ruộng gò, vừa tầm để hú gọi nhau một tiếng lớn những lúc hữu sự, cần được sự tiếp tay giúp đỡ khẩn cấp. Diện tích đất đai ruộng vườn lại mênh mông bát ngát, cây cối chen chúc xanh um bạt ngàn, ngoài những nơi bị bỏ hoang sầm uất, nhưng không vì thế bà con tôi bị cách ngăn rồi đâm ra thờ ơ, dửng dưng trông nhau như người xa kẻ lạ. Trái lại, họ đều quen mặt quen mày, quen tên quen tuổi, biết gốc gác cội nguồn, thường thể hiện tình cảm nồng nàn đối với mọi người, từ lớn chí nhỏ, không sót một người nào cả.

 Khác hẳn trường hợp ở quận lỵ, ở tỉnh lỵ, những nơi thị tứ tấp nập, phức tạp xô bồ, có người phút chốc đối mặt nhau, tay bắt mặt mừng qua loa, nói năn ba điều bốn chuyện bải bui ngoài mặt cho vui miệng vui mồm, để rồi ngay sau đó, khi họ xoay lưng chia tay nhau không còn giữ trong lòng một chút lưu luyến. Ngược lại, nơi đây hằng ngày, không hò không hẹn, họ đều gặp nhau, không nơi đồng áng nắng cháy bỏng da thì cũng ở vườn tược, sông rạch ao đầm chằng chịt như mặt nia. Nhiều ngày, đầu tắt mặt tối miệt mài trong muôn ngàn công việc tới tắp, không có cơ hội gặp gỡ, bỗng dưng một giây một phút nào đó, họ trực nhớ để hết lời nhắc nhở hỏi thăm tin tức nhau.

Việc nầy biểu lộ tấm lòng trọng kính cố hữu, thương yêu quý mến như trong vòng bà con cật ruột đậm đà, làm như họ đã rời xa, ngăn cách nhau vạn vạn dặm từ lâu lắm rồi. Cũng tại nơi cuộc đất huyền thoại cầu tiến nhưng thiên nan vạn nan nầy, có nhiều tay nhậu cừ khôi khét tiếng lắm. Nhiều tay không chút tự trọng, xem trời bằng vung, tự gán cho mình danh xưng vô địch trong cả làng nhậu nữa. Nhứt là những bợm nhậu ‘‘chuyên nghiệp’’ sống bất cần đời, chỉ biết tận hưởng những phút giây khoái lạc trước mắt, còn tương lai ra sao để hồi sau phân giải. 

Thêm những tay chuyên môn sống chết với cái nghề lén lút nấu rượu lậu, cơ thể quanh năm được ướp thường xuyên chất đế nồng cay xé gan đốt phổi. Đối với những tay lưu linh bạt mạng này, chẳng khi nào thấy họ ưng nhậu bằng ly cối hay bằng tô kiểu con rồng do mấy chú chệt năm sông bảy chợ đem lén từ Trung Hoa vào. Hoặc tô đá tô sành nội hóa to lớn, sản xuất ở những lò gốm thủ công vang danh một thời của vùng Thủ Dầu Một hay Biên Hòa. Những thứ đó chỉ để dành cho những tay mơ, hạng gà mờ mới ngấp nghé tập tành làm đồ đệ ma men, lưu linh miễng tử. Bọn này có tửu lượng đàn bà con gái, mới nhắp nhắp chưa được vài tầng rượu giáo đầu đã trông thấy mặt mày xanh xao hao gầy, vàng vọt như mặt gà mái đẻ. Việc say xỉn té lăn quay bò càn ở sàn đất hay dẫm đạp bờ tre chẳng có gì là lạ. 

Chai lít trắng tinh trong ngần, loại chai rượu Tây chánh gốc nhập cảng tận Phú Lang Sa mà bợm nhậu tứ chiến kèn cựa nài mua lại cho bằng được của mấy chú chệt già mua ve chai lông vịt. Lúc đó, mấy tay gần đất xa trời nầy, nói năn cổ họng khàn khàn, cố lấy hơi lên thổi tò le tí te... để gây sự chú ý của bà con xa gần. Bọn di dân kinh tế, đám người trôi sông lạc chợ, lưu lạc kiếm sống này đôi ba tháng tạt ngang qua xóm tôi tóm thâu, mua đủ thứ thập vật lỉnh kỉnh phế thải với giá bèo rẽ mạt. Mỗi lần nhập cuộc, họ hô hào tu gần nửa chai hay đánh tróc một lèo dứt điểm nửa chai hơn mới ưng chịu. Do vậy, họ không bao giờ chịu lép vé trước một ai khi đụng trận. Mà không biết vì một lẽ thầm kín bí hiểm nào đó, họ vẫn nể nan ông Tám Bóng ra mặt, cho dù tửu lượng của ông không có gì đáng để ý. Có lẽ những lúc hiếm hoi tỉnh rượu, họ cũng biết cái nguy cơ tai hại không lường của rượu nên trong lòng cũng dấy lên đôi phút ăn năn sám hối? 

Nhưng ngặc một nỗi đã mang tật nghiện ngập kinh niên thật khó lòng mà bỏ được. Bây giờ họ mới nghiệm ra một chân lý: không uống rượu là tốt nhứt, vì lỡ sa chân vào có muốn cay rượu khó giàng trời giàng mây. Chắc cũng vì vậy mà họ nể nan trọng vọng ông Tám ra mặt do cốt cách của ông chăng? Nhưng có điều đáng chú ý chắc nịch là ông Tám Bóng không hề nhậu thường xuyên như hủ chìm, bất chấp giờ giấc trong ngày như bao nhiêu người khác. Ông chỉ bị thần men ma đế bắt khi có tiệc tùng, giỗ kỵ, cưới hỏi trong xóm trong làng. Nghĩa là ông nhậu theo kiểu ‘‘vô tửu bất thành nhân’’, chớ không lạm dụng đến nghiện ngập quá đáng, ngày ngày mặt mày đỏ gay, khập khễnh lừ nhừ, ăn nói sàm sỡ làm phiền hà những người chung quanh. Đa số bà con cô bác trong thôn xóm trầm trồ khen ngợi phong thái của ông không tiếc lời. 

Họ thường đến ông thỉnh ý. Không biết ông có bí quyết tiềm ẩn gì để có được một thân hình tráng kiện, một nghị lực đáng làm gương và một nếp sống tinh thần lành mạnh, một tư cách yêu đời thiết tha nồng nàn đến thế? Mà quả vậy. Đã đến tuổi gần ướm rụng, trông ông còn quắt thước, đầy phong độ, trong khi những người cùng lớp tuổi đó của ông thường lụm cụm, lẩm cẩm, quên đầu quên đuôi. Bà con hóm hỉnh bảo ông còn có nét lắm. Vả lại, ông cũng hay nói:


Ông Trời đã thương mến và rộng rãi ban bố cho mình một cái gì quý giá nhứt trên thế gian là trí óc minh mẩn và sức khỏe cường tráng. Nhứt là sức khỏe, vì sức khỏe quyết định tất cả mọi việc trong đời sống. Mình còn ước mơ gì hơn! Mình còn đòi hỏi gì nữa! Mình nên cám ơn ông trời. Mà đòi hỏi và ước mơ thêm ngẫm ra mình có tham lam quá đáng không?
Những buổi trưa mùa hè nóng bức khó chịu đến nghẹt thở, ông bước tréo qua mấy liếp mía tây ngút ngàn, chặt một cây thon thon vàng hườm rồi ngồi dưới bóng mát cây xoài thanh ca hay cây bưởi da xanh, thông thả xướt rơm rớp ngọt lịm đả khát. Hàm răng ông chắc nịch. Còn những lúc kiến cắn bụng, bao tử bắt đầu cấu xé gào thét sau một buổi dẫy cỏ dọn vườn, cuốc giồng lên rẫy, ông tạt qua mấy giồng dưa leo xanh um mút mắt, hái gọn vài trái tươi rói, lấy tay phủi phủi cho sạch gai và phấn trắng rồi cắn một cái bụp, miệng nhai rào rạo ngon lành.

Ai tình cờ đi ngang trông thấy mà chẳng phát thèm. Những lần chạm mặt với bà con chòm xóm, ông khề khà giải thích ngắn gọn và dứt khoát là ông chẳng có một bí quyết gì cả. Chẳng qua ông biết tự khắc phục bản thân, biết tự chế những cám dổ ham muốn bốc đồng, thường xuyên thúc bách dậy sóng trong lòng mỗi người. Và nhứt là biết tự ép mình trong một số tiêu chuẩn chủ yếu, một vài mẫu mực chỉ đạo tối cần thiết phải được triệt để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày. Vì ông chỉ là một người bình thường như muôn vạn người bình thường khác trong xã hội, chớ nào có phải thần thánh gì đâu. Nói khắc phục và ép mình thì không hẳn đúng lắm đối với trường hợp của ông, nhưng xét cho kỹ cũng không quá đáng cho mấy. Vì ông quan niệm đơn giản rằng việc tự nguyện khắc phục có nghĩa là mình biết hạn chế những ham muốn thái thậm ở mọi lãnh vực trong đời sống con người.

Giàu sang, danh vọng, phú quý vinh hoa, chức tước phẩm hàm… không hề làm xiêu lòng mình được một cách bất chánh bất lương. Mà giàu sang ở đây không hẳn là tính theo số lượng khổng lồ của tiền bạc gia sản, của chìm của nổi, đất đai ruộng vườn… mà chính là phương cách mình biết xử dụng nó sao cho xứng đáng, hợp tình hợp lý, sao cho có ý nghĩa. Còn bần tiện, túng thiếu khốn khó bao nhiêu, cho dù trong tình thế nghèo tàn nghèo mạt đến rã beng “bành tô“ đi nữa cũng không làm thay đổi mảy may được ý chí và hướng đi trong sáng của mình. Nói trắng ra, tiền bạc và những cám dổ vật chất chưa hẳn đưa đến cho mình tột đỉnh của hạnh phúc và sự bình ổn nội tâm. Chúng là một loại nha phiến vô cùng tai hại có ma lực lôi cuốn, hấp dẫn trong hiện tại, trong nhứt thời nhưng lại là thuốc độc về lâu về dài. Nó ngấm ngầm thúc bách xúi giục mình làm những điều tệ hại, xấu xa nhơ nhớp, tất nhiên thiếu đạo đức, cần phải lánh cho thật xa.

Còn ép mình là tự bó mình, kềm kẹp bản thân, nhứt định không làm một điều gì dù to lớn hay nho nhỏ theo đúng với sở thích của mình, mà chính lương tâm và trí phán xét của mình không cho phép, hoặc xa hơn thế nữa, tuyệt đối cấm đoán. Tức là làm trái với tiếng nói trung thực từ trong sâu thẳm của lòng mình, của cái tâm lành hướng thượng mà chỉ riêng một mình mình biết rõ mà thôi. Mà biết mình mới có thể tìm hiểu chính chắn để quán triệt được lòng người, giúp mình không vấp phải những sai quấy lỗi lầm trong việc xử thế. Nhưng những ràng buộc tinh thần, tâm linh tình cảm tự nguyện này bất quá chỉ ở giai đoạn đầu tiên, giai đoạn khởi thủy ngắn ngủi thoáng qua. Hẳn nhiên, ông cũng có gặp không ít khó khăn giăng mắc trên từng bước đi của mình. Nếu nói không có gặp khó khăn là mình tự dối lòng mình, mình không có can đảm dám nhìn thẳng vào sự thật đang đối đầu. Nhưng thét rồi ông cũng vượt qua được để quen dần với nếp sống lành mạnh ấy. Rồi ông vui vẻ kết thúc:


- Lúc này, mình bỗng nhiên trở thành một cái máy, không hơn không kém. Hễ mở máy chạy rồi thì chiếc xe, dù có chở nặng bao nhiêu, cứ theo đà đó lăn bánh ngon trớn, phong phóng hướng tới phía trước.‘‘ Khoẻ re như bò kéo xe, như ghe nằm ụ‘‘ không bằng mà!
Có người lên tiếng phiền hà, trách cứ phản đối ông. Họ bảo ông Tám cà kê vòng vo tam quốc, đầu đuôi lẫn lộn. Ông không giải thích tận tường, minh bạch rõ ràng ngay những phương pháp chủ yếu hay những bí quyết cụ thể ông đã từng áp dụng trong thực tế hằng ngày để qua đó bà con suy nghiệm hầu bắt chước noi theo. Việc dong dài cố tình này của ông làm cho họ xốn xang nóng hơ. Ông ung dung thản nhiên se sẻ cười tủm tỉm:


- Bây sao cái gì cũng hấp tấp, vội vàng, chưa chi đã nhảy thót vào đốc vọng khiến tao ăn nói sao đây. Bây làm như nước tới trôn phải nhanh chân nhảy vọt cứu lấy bản thân vậy. Mắc mớ gì mà mình phải nhảy vội vàng hấp tấp như thế đó? Mệt lắm đa. Đôi khi kiệt sức, đứt hơi, đi tàu suốt nữa là khác. Tao nói thật đó. Mình cứ từ từ đứng lên, thả bộ thong dong rồi thế nào cũng tới nơi tới đích mà! Tuy có chậm nhưng đảm bảo phần kết quả thích nghi.

Ông càng thư thả, nhếch một nụ cười cảm thông thứ tha:
- Tao từ thuở giờ, từ thuở cha sanh mẹ đẻ tới nay, cứ sống thanh thản nhàn nhã, làm việc gì cũng chầm chậm, tiệm tiến. Tao bất chấp giờ giấc, xem như không gian đang chết rục chung quanh tao. Làm như thời gian đối với tao lúc nào cũng ngưng đọng hẳn lại. Tao nói thật, tao có cảm tưởng như nó đang đứng im, dậm chưn dậm cẳng một chỗ, không đến cũng không đi. Mình không cần phải nghĩ tới nó nữa cho thêm mệt tâm mệt trí. Mà nói cho cùng, nghĩ tới để làm gì bây, khi cái trống không mông mênh sâu lắng trong lòng mình giúp mình được thư thái thanh thản và an tịnh hạnh phúc. Vội vả quá thêm mệt thân nhọc xác bây à!

Ông thòng thêm một câu như để nhấn mạnh ý mình:
- Nhờ không cấp bách vội vàng trong mọi việc nên tao luôn luôn vui vẻ nhẹ nhỏm, bằng lòng với số phận mình, thả trôi theo vòng quay cuộc đời và nhứt là xuôi theo thời gian đưa đẩy như bây thấy đó. Tao noi theo lối sống của ông bà tổ tiên mình ngày xa xưa, thuở tao được chứng kiến từ lúc còn quá nhỏ, khi những bậc kỳ lão bất hạnh của thời đại phong kiến tàn tạ đó, trong nhà không bao giờ có được một cái đồng hồ treo tường hay loại đồng hồ quả quít nhỏ hếu để theo dõi giờ giấc như ngày nay đâu. Họ chỉ coi giờ và coi một cách đích xác qua ánh sáng mặt trời chiếu trên thềm nhà trước hay bóng mát cây cối chung quanh lẫm trại.

Trở lại câu chuyện dang dở bỏ lững, ông tiếp tục say sưa với một giọng chan chứa âm hưởng yêu đời cởi mở, như thuở ông còn trong tuổi thanh xuân bay nhảy mấy mươi năm về trước:
- Cái bí quyết mà tụi bây nằn nằn đòi hỏi cho bằng được đó, chính tao không bao giờ nhìn nhận là của riêng tao đâu. Tao chẳng có công khó sáng chế chút ít gì trong đó cả. Bây có tin thì tốt, nhược bằng không tin cũng chẳng sao. Tao có mất mát một cắc bạc hay đồng xu lớn đồng xu nhỏ nào mà thắc mắc. Thú thật, tao thừa hưởng cái của quý báu hiếm hoi và thăng bằng đó của người xưa, của ông bà cha mẹ để lại! Chớ thật ra có gì mới mẻ, độc đáo của tao đâu. Mà cũng chẳng có chi đáng giá cả. Nó rẽ mạt như bèo, chúng bây thường bắt gặp nhan nhản ở khắp kinh mương ao đầm nơi cái xứ khỉ ho cò gáy của mình. Mà oái oăm thay, tụi bây đứa nào đứa nấy vốn hời hợt khinh thường hay vô tâm không ngó ngàng để ý đến thôi. Tao không hề tốn công tốn của đi tìm kiếm nơi đâu xa, cho mất thì giờ. Nó ở sát cận kề bên hè, cứ vui vẻ chìa tay thẳng ra trước mặt vói lấy là đụng ngay.

Ông Tám Bóng quả thật là người đôi khi cũng tỏ ra bí hiểm, khó hiểu là khác theo sự nhận xét của bà con tôi. Nhưng thực ra do tánh cân nhắc, thận trọng tối đa của ông thôi chớ ông không hề cầu kỳ lập dị, làm dáng bao giờ. Bà con nóng hơ, đứng ngồi không yên, như lúc lửa đang cháy táp phừng phựt vào nhà tranh vách lá, nhưng ông vẫn không hề nôn nóng chút nào. Ông trầm ngâm tỉnh bơ, mặt lạnh như tiền. Lý do? Những câu chuyện ông kể phải có đầu có đuôi, có trước có sau, phải có nhập đề, triển khai và kết thúc đàng hoàng, lớp lan tuần tự mạch lạc ông mới ưng chịu.

Lúc đó ông mới mở miệng:
- Bây thấy trên bàn tay mình đây, người nào cũng chỉ có năm ngón. Lâu lâu, mình mới bắt gặp một người có sáu ngón, tức thêm một “ngón đeo“, nằm lủng lẳng lòng thòng cạnh sát ngón út. Hồi còn nhỏ, tao còn nhớ đám trẻ choi choi phá làng phá xóm gọi người nầy là “từ đeo“ cũng như “từ thẹo“ để chỉ những người có thẹo vậy. Nhưng đây là trường hợp hy hữu, theo tao đoán biết trong cả trăm cả triệu người mới có một người. Cũng giống như bàn tay, tao chỉ có năm tiêu chuẩn đặt để, cứ theo đó mà tuần tự áp dụng. Không hề có tiêu chuẩn thứ sáu, bây nhớ cho. Chỉ vỏn vẹn năm tiêu chuẩn đơn thuần thôi, không hơn không kém. Mà là năm tiêu chuẩn xuất phát từ vận hành bất biến của Tạo Hóa, Đất Trời, rút tỉa từ trong kho tàng vô tận của thiên nhiên vạn vật mà ra, chứ không hoa mỹ rườm rà, làm duyên làm cảnh không đúng chỗ đâu.

Tới đây, ông lại ung dung vuốt chòm râu dài thượt óng mượt rồi đằng hắng đi thẳng vào vấn đề:
- Tiêu chuẩn thứ nhứt là tao chỉ uống rặt nước mưa trời cho. Quanh năm như vậy suốt bốn mùa. “Ơn trời mưa nắng phải thì…“ hoặc “Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống…“ như bà con nông dân chơn chất hiền lành của mình từng cầu nguyện khấn vái từ ngày tạo thiên lập địa, chớ chẳng có chi mới mẻ cả. Tha hồ mà uống, uống không giới hạn khi cơ thể đòi hỏi. Nước mát nầy trong lành tinh khiết, tao dầm mưa hứng lấy, rồi đem chứa trong hàng lu vú hay khạp da bò để chung quanh thềm nhà. Vừa giữ nước mưa luôn luôn mát lạnh, uống đả khát, thấm lòng mát dạ, nhứt là vào mùa hè oi nồng, nóng bức như thiêu như đốt, da dẻ khô khan. Vừa tấn vách chung quanh rất hữu hiệu, phòng ngừa bọn ăn cắp vặt hay lũ trộm đạo chuyên nghiệp lén đào ngạch viếng nhà vào giờ tý canh ba, trong lúc tao nằm ngủ say sưa, thẳng giò thẳng cẳng, đất trời bất biết sau một ngày làm việc cất lực.

Dứt lời, ông nhíu mày trực nhớ:
- Mà nếu năm nào quê hương bản làng mình bất hạnh gặp mùa hạn hán dây dưa xuyên suốt cả mấy tháng trường, ruộng vườn trở nên khô khan nứt nẻ, cứ chiều chiều lúc nắng xuống, không khí mát mẻ, thơi thới dễ chịu, tao chịu khó gánh đôi mươi thùng nước ở ao làng mình đem về nhà lóng kỹ. Tuyệt đối tao không hề dùng phèn chua để lóng, như thói quen những năm gần đây của một ít bà con mình học lóm đâu đó nơi người thành thị để tỏ ra theo thời mới tiến bộ. Để lóng tự nhiên lâu ngày, nước cũng trở nên trong lành, uống vẫn ngon, không thua gì nước trời mưa. Đem đun sôi pha trà, dù là trà Thiết Quan Âm hay trà Huế, trà xanh vẫn giữ được mùi thơm tho cố hữu của nó.

Ông nói tiếp qua nét mặt phương phi hồng hào đầy tự tin:
- Giữa chốn đồng không mông quạnh bát ngát này, cây cỏ vườn tược xanh tươi quanh năm. Bây chẳng thấy, cạnh bưng Bà Mụ ở xóm trên, một dãy rậm rì cây trâm bầu cổ thụ nối đuôi nhau mút chỉ cà tha. Xa kia, giáp ranh làng bên, những hàng dương trên trăm năm tuổi ngất nghểu, vi vu suốt ngày suốt đêm không dứt. Dài theo hai bên mé sông mé rạch, những đám dừa nước tối trời giao ngọn một màu xanh thẳm. Còn ngôi vườn nào vườn nấy ở xóm mình đều có lủy tre bao quanh với nào dừa, cau, chuối, nào cây ăn trái, hoa màu đủ loại sum xuê mướt mượt. Bây thấy đó, chung quanh tao quả dư thừa dưỡng khí toát ra từ cây xanh, nước uống nhờ đó không bao giờ bị ô nhiễm độc tố tác hại.

Ông mỉm cười, một nụ cười ý nghĩa rồi tiếp lời:
- Tao nhứt định nguyện với lòng dứt khoát tránh uống nước “xá xị“, nước “li mô nát“ hay “xi rô“ gì gì đó... của các công ty sản xuất, chế biến hằng loạt theo phương pháp dây chuyền trông đến chóng mặt, xây xẩm ngất ngư. Người ta cố tình quảng cáo rùm beng, nói là công ty nội địa, nhưng thực ra theo tao dò dẫm mầm mò biết được, tất cả đều thuộc thẩm quyền sở hữu, dưới sự sanh sát không nươn tay của mấy thằng chệt, xì thẩu Ba Tàu đầu nậu ở Chợ Lớn Mới, Xóm Củi, Bình Đông Bình Tây, Phú Thọ Hòa, Bình Thới hay của đám thực dân ngoại quốc, Tây tà mũi lõ, Chà Và Ma Ní đen thui đen thủi hệch như cột nhà cháy. Họ chế biến cách nào đố ai mà biết đích xác, với đủ thứ chất liệu và màu sắc hực hỡ, tạp nhạp xà bần, nhằm lôi cuốn, hấp dẫn nhản quan đồng bào mình. Nhưng chí tình, tao không biết những thứ đó xuất xứ từ đâu ra.

Đến đây, ông tỏ vẻ bất bình, bĩu môi phát biểu hoạch tẹt:
- Họ sản xuất theo lối công nghệ khoa học tân tiến thật đó, không ai hẹp hòi hay cục bộ phủ nhận được. Mà thú thật, dốt nát bít bôi, chữ nghĩa không đầy lá me lá mít như tao, tao đành mù tịt. Tao chỉ biết có một điều chắc chắn như bắp, như đinh đóng cột, không thể nào chối cãi là họ có chủ trương duy nhứt là nhắm vào lợi nhuận trên hết, càng nhiều càng tốt. Mà bây biết đó, cái gì có dính dấp xa gần, ít nhiều đến tiền bạc là mình phải chú tâm thận trọng, nên nghi ngờ là tốt hơn hết. Đó là thượng sách đó bây, để tránh hối hận về sau. Vì một khi đã chú trọng đến tiền bạc thì phải bội bạc. Bạc tình bạc nghĩa… dối gian phản phúc, trở trái làm mặt và ngược lại.

Ông bỗng nhăn mặt lắt đầu:
- Tao lại đại kỵ nhứt là loại “xi rô“ màu xanh xanh, hồng hồng, vàng vàng… đựng trong mấy chai keo to lớn tổ bố, trông cũng hấp dẫn bắt mắt lắm của mấy thằng Tiều, thằng Quảng, thằng Hẹ… bán nước đá ở chợ quận mình. Hồi chúng bây còn nhỏ mài đủng quần ở ghế nhà trường tiểu học, tập tành chốn văn chương chữ nghĩa, chắc bây không quên những lần nghỉ xả hơi hay những buổi tập thể dục thể thao trở về, chúng bây chẳng đứa nào không ghé uống một ly nước đá đó hoặc thưởng thức một cục đá nhận. Chúng nó làm ăn mạnh tay lắm, pha chế tới chữ với hầm bà lằn đủ thứ, bất chấp hậu quả, miễn thu nhập được cao. Toàn là chất độc màu mè tiềm ẩn trong đó. Bây tin lời tao đi, đừng có cười. Tiền vào túi áo như nước làm cho chúng nó mờ mắt, xem lương tâm, đạo lý nhẹ hêu không bằng tờ giấy quyến hút thuốc mỏng te. Mà mấy thằng “con trời“ nầy lém lỉnh gian manh số một trên đời. Cả thế giới đều biết tiếng, chớ đâu phải chỉ có mình biết đâu mà hòng bảo mình cục bộ hẹp hòi. Chúng nó che mặt bà con mình, gồm toàn là những người chất phác quê mùa, nhẹ dạ non lòng, qua những lát cam bo, cam sành mỏng te nổi lềnh bềnh trên mặt mấy chai keo.
Ông đưa tay sờ sờ càm rồi nhíu mày tỏ ra suy nghĩ:

- Chúng nó không giết bà con mình ngay tức khắc đâu. Chúng lại giết về lâu về dài, giết trong âm thầm, giết trong êm ái mà mình ngây ngô khờ khạo, không một phút một giây nghĩ đến việc truy căng đích xác nguyên do sâu xa và chánh phạm ẩn núp đâu đó bao giờ. Cái cách giết người mát tay ngọt xớt đó mới nguy hại, hiểm độc lắm. Bây nên nhớ cái đám trôi sông lạc chợ đó dù gì cũng mang trong mình chúng nó giòng máu Hán tộc đã từng đè đầu đè cổ ông bà tổ tiên mình hơn ngàn năm trước. Một giòng máu bành trướng bá quyền nên trong thâm tâm luôn luôn nuôi mộng chinh phục, trước sau như nhứt, như một quốc sách hàng đầu là tận diệt các dân tộc lâng bang láng giềng, chiếm lĩnh đất đai của người khác, nhằm nới rộng biên cương lãnh hải. Bây hãy coi chừng. Phải cảnh giác tối đa, chớ có hời hợt. Nên nhớ, bây có thân phải lo lấy thân. Phải quan tâm đúng mức để đừng hối tiếc, một khi thức tỉnh thì đã quá muộn.

Ngừng một chút, ông sửa giọng nghiêm nghị:
- Tiêu chuẩn thứ hai là tiệt hậu tao không hút thuốc lá đốt liền tay, không uống rượu hà rầm sáng tối đến phải hư thân mất nết, đánh mất nhân cách để bàng nhân thiên hạ chê cười, miệng lưỡi thế gian xa gần phỉ nhổ. Việc rượu chè chừng mực này của tao lâu nay bây cũng đã từng thừa biết rồi. Tao khỏi cần dong dài giang ca thêm làm mất thì giờ quý báu chắt mót của tụi bây. Mà tao đã nói thì tao nhứt định làm y như vậy. Quân tử mà bây! Quân tử phải giữ lấy lời mới ra trang quân tử chớ.

Ông cười, trông có vẻ hãnh diện bằng lòng lắm, nhưng chưa kịp dứt thì thằng Sáu Ớt thúc cùi chỏ vào hông thằng bạn ngồi cạnh bên, xỏ miệng vào nhấp nha nhấp nhứ đôi lần ba lượt mới dám thốt ra lời:
- Ông Tám ơi! “Quân tử nhứt ngôn là quân tử dại. Quân tử nói đi nói lại mới là quân tử khôn“. Người đời thường ví von nói đi nói lại hoài như vậy! Ông Tám thuộc hàng quân tử nào vậy ông?

Ông Tám se sẻ nở nụ cười duyên:
- É! Bây đừng có nói bậy bạ tầm xàm thiên hạ nghe được sẽ cười chê, nhứt là những người đứng đắn, có cái tâm lành chí thiện. Nhưng tao nói ra thì chắc tụi bây nghe rồi cho là quá đáng, đôi khi chỏi tai bây là khác. Có khi tụi bây còn lên tiếng chê lên chê xuống là tao thuộc thế hệ hủ lậu không bằng, hàng chậm tiến hết thuốc chữa, thầy chạy từ khuya rồi. Nào là tao thuộc về cái thời xa xưa mất hút của ông già Hai Lúa lẩm cẩm cục mịt của quê mình. Có nghĩa là tao lọt sổ, không theo kịp trào lưu văn minh tân tiến của xã hội thời thượng bây giờ.

Ông cười ruồi:
- Hoặc bây mỉa mai, oang oang bảo tao bây giờ già cả quá hớp rồi, sắp sửa dọn chưn dọn cẳng nhảy thót lên bàn thờ về với ông bà viễn tổ nên đâm ra hẹp hòi ích kỷ, lên lớp dạy đời, sau khi đã hưởng thụ đầy đủ những khoái lạc trần tục. Hay tụi bây sẽ cất tiếng nói trên cõi đời rối nhùi lắm chuyện này cuộc sống vốn dĩ quá ngắn ngủi, chẳng ai đi trọn trăm năm, con người chỉ sống có một lần và có được bao nhiêu thú vui đâu mà tao không thử bước vào cho biết mùi, biết vị với người ta. Rồi bây sẽ kết luận, sống như tao thì sống làm chi cho phí uổng cả một kiếp người. Sống vô nghĩa như vậy, thà chết còn sướng hơn phải không bây?
Ông lại cười cởi mở như thói quen của ông không hề ích kỷ hiểm độc, cứ ghim giữ mãi trong bụng:


- Trong số bây chắc có đứa còn đi xa hơn, sẽ khuyên tao cũng nên nếm thử “một phút huy hoàng“ rồi sau đó ra sao thì ra. Có phải vậy không?

Nhưng ông giải thích thêm:
- Nhưng bây đừng có phẩm bình, đánh giá hấp tấp vội vàng như vậy. “Giục tốc bất đạt“ mà! Cái gì phải đến thế nào cũng sẽ đến, tao tin chắc như vậy qua kinh nghiệm bấy nay. Chạy đâu cho khỏi nắng. Chỉ mất công thôi. Tao nói không, ở đây là không trong chừng mực. Chớ tao đâu phải là bọn người quá khích, thậm chí cực đoan, cứ bo bo khư khư quyết ôm giữ cho bằng được ý kiến của mình. Ông trời tạo sanh ra con người chẳng hề dạy mình một chữ một lời nào nhằm khống chế bắt buộc người khác phải sống giống như mình đâu. Thuốc, tao cũng hút lai rai chút đỉnh mua vui những lúc thư thả ruộng vườn, lễ lộc, nghĩa là có thì có lúc. Nhưng tuyệt nhiên tao không thò tay mó đến loại thuốc gói nội địa của mấy công ty thực dân Phú Lang Sa như Job, Mic, Bastos, Mélia... chỉ vì tao ngại họ thêm thắt trong đó đủ thứ chất này chất nọ mà mình ít học lại thiển cận đâu có biết nguồn gốc. Nhưng từng bước, với thời gian len lén trôi qua nhanh chóng, nó sẽ làm cho mình đâm ra nghiện ngập, đến chừng muốn bỏ, bỏ cũng không cách nào được. Mà nghiện ngập kinh niên có hại cho sức khỏe đã đành còn làm suy nhược tinh thần, ngoài những tánh hư tật xấu thiên hạ đàm tiếu.


Ông đưa tay chỉ thẳng ra phía thềm nhà trước:

- Bây thấy tao có trồng mấy vồng thuốc trước sân nhà đó, hằng ngày mỗi sáng sớm ra bắt sâu cuốn lá, thỉnh thoảng vô thêm phân chuồng hay phân ung, mình biết chắc chắn thuốc mình đã bỏ công khó trồng trọt có những chất gì trong nó. Lá thuốc trở nên to lớn, xinh tươi mịn màng, chính tay tao tự xắc lấy, đem phơi vài con nắng, hút cũng ngon đáo để. Còn gì sung sướng thoải mái cho bằng khi mình thưởng thức những gì mình sản xuất lấy và nhứt là mình biết rõ ràng thành phần cấu tạo trong đó. Hơn nữa, tao mang trong mình cái bịnh xuyển di truyền từ đầu ông cố tao, tuy không nặng lắm nhưng đeo đẳng tao hơn mấy chục năm nay, mỗi lần hút, tao kèm theo một ít cà dược khô nên thuốc tăng thêm hương bị thiên nhiên đặc thù.


Ông ngừng đôi phút ngắn ngủi, sau đó lại theo thói quen đưa tay vuốt vuốt chòm râu hoa râm dài chí cách thủy nhưng bạc nhiều hơn đen, rồi ôn tồn tiếp lời:

- Còn rượu, không uống người ta chê mình không phải là “nam nhi chi chí“, hay “nam vô tữu như kỳ vô phong“. Tao cũng đâu đến đỗi ngu ngơ khờ khạo mà không biết. “Nước Nam lấy rượu dụng lễ nghi“. Thiếu rượu thì lễ mễ truyền thống dân tộc mình xem ra sượn trân, không còn ý nghĩa linh thiêng diệu kỳ. Nhưng tao uống vừa vừa phải phải, uống theo kiểu nhấp rượu để thưởng thức biết ngon những khi hợp mặt đông đủ bà con như dịp giỗ chạp, cưới hỏi, cúng Kỳ Yên hằng năm hoặc Tết Nguyên Đán, người người nhà nhà ăn chơi thả cửa. Tuyệt nhiên tao không uống bừa bãi mỗi lần cả lít như những bợm nhậu vô tình đem đốt cuộc đời mình rất phí uổng. Mà phải là rượu đế quê hương mình với nếp tinh tuyền và men chọn lọc thơm ngon.


Ông khẳng quyết:

- Tốt hơn hết là phải tìm kiếm mua cho bằng được rượu đế Gò Đen, Phước Lợi, loại rượu đặc biệt tuyệt vời của ông Tư Bốn sản xuất pha chế ở ấp Phú Thứ, làng Thanh Hà quận Bến Lức mới đảm bảo chất lượng. Nếu không có rượu đó thì thà không nên uống thì hơn. Nhứt định, tao tránh không dùng rượu của hãng rượu do tên thực dân “Phông Tên“ (Fontaine) làm chủ, về sau đổi danh hiệu thành công xi rượu Bình Tây, do các cửa tiệm bán rượu độc quyền có mang bản hiệu chánh thức “R.A“ cung cấp. Loại rượu này cay nồng xé gan đốt phổi, còn gây chóng mặt. Cơ thể con người làm sao chịu nổi, cho dù tụi bây có chữa cháy bằng nước dừa xiêm quê hương ngọt lịm thanh tao.


Ông hạ thấp giọng, gương mặt rười rượi phân trần:

- Uống như hủ chìm, say li bì từ sáng sớm chí đến tối mù, nhiều khi té lăn chiêng bò càn, nằm la liệt dưới sàn đất sàn cát, bên vĩa hè… uống như vậy không phải là phong thái của người biết uống rượu, đồng thời biết tự trọng. Nhứt là trọng những người chung quanh mình. Mình phải biết trọng mình trước tiên rồi mới đòi hỏi thiên hạ quý trọng mình.


Đến đây ông bỗng trực nhớ bài vè về “Say Rượu“ mà ông từng nghe qua khi còn ở tuổi thanh xuân rồi nhập tâm để bây giờ nhắc lại đám trẻ cho vui:

- Bây chắc biết những tai hại của rượu, nhưng bây vì thiếu sáng suốt hay yếu đuối nhu nhược nên không cưỡng lại được. Tao nhắc lại bây nghe một bài vè thật xưa để bây suy nghiệm mà chắc có đứa trong bọn bây từng nghe qua một vài lần:


Một chén giải cơn sầu
Hai chén còn nhân đạo
Ba chén còn gượng gạo
Bốn chén nổi sân si
Năm chén sập thần vi
Sáu chén ngồi ghì xuống đó
Bảy chén thì đuổi chẳng đi
Tám chén lóc trong lộn ra
Chín chén lóc trong lộn vô
Mười chén ai xô tôi ngã
Mười một chén chửi cha ai xô...


Đó, bây thấy chưa? Còn những bực có ăn học cũng không quên lưu ý đám lưu linh miễng tử, tối ngày rượu lít cập nách kè kè. Họ xa gần ví von một cách văn chương chữ nghĩa hơn, mà tiếc thay tao chỉ còn nhớ loáng thoáng, có chút sai sót như vầy:


Nước Nam lấy rượu dựng lễ nghi



Ít chén hãy còn phân nhân nghĩa

Nhiều thì hự hẹ lại sân si

Anh em tay dắt ra cửa ngõ

Đường cái không đi đạp hàng rào.

Trẻ nhỏ đến coi cười hả hả

Người lớn sợ e lấy vôi ghi.

Cười thay đứa dại khó mùa sau

Khuyên chớ uống say chẳng tốt đâu.


Một chén hãy còn phân tử tế

Hai ve rồi lại nói câu mâu.

Tròng kia trợn trạc như tròng khỉ

Môi nọ phều phào tợ môi trâu.

Lẽo đẽo nước trong mà độc địa

Nuốt vào khỏi cổ lại rêm đầu.


Ngồi bệt xuống nơi đầu ván ngựa, ông ung dung hóp một búng nước trà Thiết Quan Âm nóng ấm xong, lại nói tiếp:

- Tiêu chuẩn thứ ba của tao chắc tụi bây cũng thường nghe người ta nói rùm trời rùm đất hai bên tai từ lâu, chớ đâu phải chỉ có mỗi một mình tao mới biết đâu. Mà tao chẳng phải là người ảo tưởng, bỏ công khó đi mò kim đáy biển để hoài công và thất vọng. Tao cũng đâu có độc quyền, nhưng khốn thay bây không quan tâm để ý đến thôi. Không phải tụi bây khinh thường, tao đoan chắc như vậy, vì nó rất đơn giản, rất dễ hiểu nên bây để vuột khỏi tầm tay mà không hay không biết. Tao nghĩ tụi bây hẳn đã từng nghe đôi lần ba lượt trong đời rồi. Bàng dân thiên hạ, nhứt là những bực trưởng thượng gần đất xa trời, giàu kinh nghiệm sống, họ hay quanh co ví von: “Con người tự tay mình đào mồ đào mả để chôn mình bằng miếng ăn“. Tao ngẫm nghĩ thấy nó đúng quá chừng chừng.


Gương mặt phúc hậu nhưng già dặn gió sương mưa nắng của ông Tám Bóng thể hiện đúng con người sớm hiểu biết đời và hiểu một cách sâu sắc, bỗng bật sáng lên nét lạc quan yêu đời:

- Tao nói thật với tụi bây và tao có một niềm tin lạ lùng là không sợ tụi bây chê tao lạc hậu của thời tiền sử ăn lông ở lổ. Trái lại, tao còn hãnh diện là khác, hãnh diện trong việc biết cân phân nhu cầu ẩm thực, làm sao cho thật đơn giản chừng nào tốt chừng nấy, biết tính toán lợi hại, chọn lọc phân minh rõ ràng.


Ông bà xưa có nói: “Khéo ăn thì ắt đặng no. Khéo co thời ấm, khéo lo thời vừa“. Tao nhập tâm nhớ nằm lòng những lời dạy trong sáng đó để ngày nay đem ra áp dụng. Tao luôn luôn ăn toàn cây nhà lá vườn, những cây trái, hoa quả, rau cỏ tươi tốt tự tay tao chăm sóc trồng lấy trong vườn nhà. Bây cũng dư biết, đất đai ruộng vườn xứ mình, thôn làng bản quán mình màu mỡ phì nhiêu khét tiếng, tha hồ để mình khai thác trồng trọt và tự thu hoạch lấy. Mặc sức mình kén lựa để tiêu dùng theo đúng nhu cầu, không thừa không thiếu. Ngoài ra, mình vừa trao dồi sức khỏe hằng ngày qua công việc canh tác cũng bề bộn không ít và vừa có thức ăn thanh khiết trong sạch trong tầm tay vói của mình nữa. Tao khỏi phải khổ công đi tìm kiếm thu mua tận nơi đâu đâu cho xa, đã tốn kém làm rổng túi tiền tụi bây chắc mót trầy vi tróc vãy hằng ngày mà còn phí lảng giờ giấc nữa.


Giọng nói ông thêm thấm đẫm âm thanh tin tưởng, dạt dào âm hưởng hy vọng hơn lúc nào hết của con người cấp tiến, có đôi mắt quan sát tận tường:

- Ngoài ra cá tôm, sò ốc, lươn lịt, ếch nhái… loi ngoi lóp ngóp chen chúc tranh đua nhau không thiếu gì ở ao hồ sông rạch, ở kinh mương đầm trũng chung quanh nhà. Rỗi rảnh một chút, tao thông thả thả bộ, đánh vòng lớn vòng nhỏ dọc theo bờ bưng bờ biền, chưa kịp dập bã trầu là tao có mồi ngon béo bổ đầy cả giỏ ngay. Hoặc tao lò dò đi cấm câu mồi chạy hay đặt một mẽ lưới xuống ruộng nước, ngồi chưa kịp nóng đít là có cá tôm tươi rói nhảy soi sói. Cá lóc con nào con nấy to bằng bắp chưn người lớn, trườn long lóc trên bãi bùn trông quen mắt, nhưng giờ phút nầy nhắc tới tao còn phát ham. Tao tha hồ thay đổi làm tăng khẩu vị, bắt mắt bắt cơm ở ba buổi ăn chánh: trưa, chiều, tối.



Ông tỏ ra thỏa chí lắm:

- Còn muốn có thêm hương vị mặn mòi, tao luôn luôn dùng loại nước mắm nhỉ Phú Quốc được tiếng thơm ngon thượng hão hạng hoặc dùng nước mắm đồng chắt mót nơi mấy khạp mắm lóc mắm sặc, mắm cá rô… thay vì mấy lọ tàu vị yểu, xì dầu nước tương đen đen lềnh lềnh của mấy tay xì thẩu năm sông bảy chợ. Xin lỗi tụi bây, tao hay nói đến “năm sông bảy chợ“ chẳng qua không biết vì sao tao ghét cay ghét đắng tụi nó, ghét từ trong xương tủy.


Ông tỏ vẻ hân hoan sung sướng ít khi thấy ở con người thoát trông bên ngoài có vẻ khắc khổ, qua những nếp nhăn sâu hóm nơi vầng trán hay ở hai bên khoé mắt, nhưng thực tình không phải như vậy. Đôi mắt đăm chiêu hướng nhìn về phía trước, ông như hồi nhớ một điều gì ưng ý vừa chợt đến trong tâm trí mình:

- Nhưng tao thích nhứt là mật ong, loại mật ong nguyên chất, không pha chế nước đường tạp nhạp bừa bãi của bọn buôn thần bán thánh vô tâm, ham lợi quá trớn. Loại mật ong này ăn bổ khỏe lắm. Các bực trưởng thượng nói đó là loại dưỡng sinh thiên nhiên vào bậc nhất, quý hiếm vô cùng. Các bực giàu có, tiền rừng bạc biển, tiêu xài hoang phí như nước chưa chắc có được một lần thưởng thức loại mật ong nguyên chất này. Còn tao thuộc hạng lục lục thường tình, phó thường dân Nam Kỳ Lục Tỉnh lại có diễm phúc hơn người, tha hồ mà tận hưởng nó. Của trời cho! Mà nơi xứ mình bây giờ khi nhắc nhớ đến loại mật thượng đẳng ngoại hạng này, trong lòng tao vẫn phát thèm, như thuở tao còn trong tuổi thanh xuân bay nhảy vậy.


Dù năm tháng len lén trôi qua có gậm nhấm bào mòn và xóa nhòa đi phần nào những kỷ niệm êm đẹp thuở nào, ông vẫn nhớ rõ ràng từng sự việc, như những sự việc này vừa mới xảy ra trong vài ngày trước:

- Rừng tràm mênh mông bát ngát, rậm ri trông mút chỉ cà tha ở thôn xóm mình. Chèn ơi!... Hồi đó, có người không khéo, vô tình lỡ lọt thỏm vào đây đi lạc cả buổi trời, mò mẫm định hướng tới lui lui tới rã cẳng rã giò cũng chưa chắc thoát thân ra sớm được. Nhưng đối với tao thì rừng tràm ở thôn ấp mình không xa lạ gì. Hồi nhỏ, ngày ngày vào những tháng nghỉ hè, tao theo chân đám chăn trâu lục lăn lục lữa nhưng không đến đỗi phá trời khuấy đất, thường vào sâu trong đó mặc tình thả bộ rong chơi, chạy xuyên chạy quàng khét nắng hôi trâu, bất kể giờ giấc và ngay cả cơm nước. Tao đã dẫm đạp cày nát từng đoạn kinh, từng ngọn rạch, từng đầm vũng, từng gò đất lớn nhỏ nối đuôi nhau không dứt. Và dĩ nhiên, tao biết rõ thông thống, biết rõ ngọn ngành những nơi nào có ong làm tổ.



Ông đăm đăm nhìn thẳng đám trẻ ngồi trước mặt mình như đang thôi miên, bắt hồn bắt vía chúng nó:

- Bây đừng tưởng việc lấy mật ong là chuyện dỡn chơi đâu. Trần thân khổ ải lắm đó. Bắt ong, nếu là tay mơ gà mờ chỉ đưa đầu đưa cổ cho chúng nó chích, cho chúng nó đâm rồi tháo chạy cuốn gió, chạy bán sống bán chết, vắt giò lên cổ mà chưa chắc thoát thân được. Thất bại là cầm cái chắc.

Trông ông có vẽ tự đắc. Gương mặt ông thêm một lần nữa toát lên nét hân hoan ít khi thấy nơi người trọng tuổi vốn kín đáo, ăn nói lựa lời, có ngần có lớp, làm như có chuyện gì vui lắm vừa chợt đến trong lòng ông:


- Mình phải biết cách thế và phải có bài bản nghệ thuật mới được. Thêm nữa, đối với tao, đây là một thú vui, một thách thức nơi cái xứ khỉ ho cò gáy, u u tăm tăm cách trở này, nơi mà những trò chơi giải trí truyền thống của ông bà viễn tổ ngày xưa càng mất dần đi, những thú tiêu khiển dân gian tập thể còn sót lại hiếm hoi lắm. Hôm nào gặp một tổ ong đóng riêng rẻ thì kể như trúng mối lớn. Việc lấy mật rất dễ dàng gọn hơ, khỏe ru bà rù như trở bàn tay, chẳng có gì khó khăn làm phiền lòng mình cả.


Bỗng dưng, ông im lặng vài giây mới bắt đầu nói tiếp:

- Nhưng chẳng may, gặp ngày xui xẻo, rắn rết hay kỳ đà kỳ nhông cản đường cản nẻo, mó vào loại ong ráp, tức loại ong đóng hai ba tổ chùm nhum khít đeo nhau thì khó giàng trời giàng đất. Lấy được mật vất vả vô cùng, mệt lã hộc xì dầu. Đôi khi còn nguy hiểm nữa là khác. Lắm lúc tưởng chừng như cam thúc thủ, phải bỏ cuộc nửa chừng. Nhưng thật tình, với loại ong ráp hấp dẫn này, bỏ thì uổng mà vương thì mệt cầm canh, nhiêu khê còn hơn lội vịnh lội biển một mình không bằng. Mình đụng đầu này, nơi đầu kia ong cha ong con tua tủa tuông bay ra từng đàn đen kịch, ào ào xã thân tấn công túi bụi bất kể sống chết. Mình mẫy tay chưn mình bị chúng đâm chích để lại ngòi nhọn hoắt, đau thấy mồ tổ cha ông. Chúng nó liều mạng, không sợ gì cả, một mực cứ xông ra bu quanh tứ phía.


Rồi ông tuần tự giải thích thêm như mong muốn chinh phục người nghe:

- Trong trường hợp này, người đi bắt ong phải cầu cứu đến mưu mẹo và kinh nghiệm của ông bà tổ tiên lưu truyền lại. Các ông bà mình coi vậy mà không phải vậy. Bản chất quê mùa cố hữu, nhưng trong con người họ có quá nhiều suy nghĩ thực dụng, có nhiều sáng kiến tuyệt vời để lại đời. Đa số những sáng tạo để sinh tồn, duy trì dòng giống đó của họ xuất phát từ nhu cầu thực tế trong cuộc sống hằng ngày. Trong trường hợp bế tắc nầy, tao phải tìm chặt chà nhánh để quấn vào đó rơm rạ, lá cau lá dừa khô, hay bất kể loại lá khô gì cũng được, rồi quện phía ngoài một mớ lá cây tươi cốt để khi đốt làm thành một cây đuốc. Lửa không cháy hổn hào phừng phừng để mau tàn rụi sau đó không lâu. Khói xông lên nghi ngút, vừa quyện vào nhau mịt mù một vùng trời, vừa giữ được lâu dài.


Đôi mắt ông bỗng sáng hẳn lên:

- Lúc đó, tao bèn trèo lên cây cao, kềm chặt ngọn đuốc bên dưới tổ ong ráp. Ong bị khói và bị nóng nên tranh đua dẫm đạp lên nhau, thoát thân chuôi ra ngoài tá hỏa tam tinh. Chúng hoảng hồn hoảng vía, bay vung vút từng đàn chung quanh, nhưng chúng nào thấy mặt mũi tao đâu mà hòng tấn chích. Chưa nói, còn một số không nhỏ bị cháy cánh, bị phỏng lửa rơi rụng như lá mùa thu. Tao chỉ cần đưa con dao mác cán dài lên đốn nhanh lẹ bớt tàn nhánh cây chướng ngại, rồi gạt gọn tàn ong bỏ vào bao bố bịt miệng lại. Xong xuôi, tao lật đật phi nhanh gọn hơ một cái rột xuống đất an toàn.


Ông lại bật cười trông móm duyên, xác nhận:

- Tao chỉ dùng mật ong thay thế chất ngọt hằng ngày do cơ thể đòi hỏi, dù trong xóm mình có đường tán nội hóa được sản xuất từ mía đường theo phương pháp thủ công không hiếm và cũng khá tốt. Tao không hề dùng loại đường kỹ nghệ có nhiều chất hóa học mà tao rất dị ứng. Mật ong nguyên chất không pha chế chi cả, ăn ngon tuyệt vời, lại có tác dụng trị bá bệnh nữa. Không biết quả có đúng như vậy hay không, theo như bà con trọng tuổi ở xóm mình có thói quen ca tụng truyền miệng, mà tao được nghe lần đầu tiên trong đời, ngay từ cái thời còn nhỏ hếu lêu lỏng phá đình phá miễu, rồi từ đó nhập tâm nhớ mãi đến tận hôm nay. Đối với người khác không biết họ nhận xét như thế nào, nhưng riêng đối với tao, tao thấy vô cùng hiệu nghiệm.


Không kịp nghỉ lấy hơi lên, ông Tám Bóng thao thao theo hứng khởi đang trào dâng trong lòng mình:

- Tiêu chuẩn thứ tư phải tránh là những buồn phiền, nhọc tâm khổ trí, ưu tư dai dẳng, phải khắc phục những bực tức bức rức triền miên dằn dật trong lòng. Ở đời, dĩ nhiên phải có hỉ nộ ái ố, sân si phiền toái. Những hiện tượng éo le ngang trái đó không thể thiếu vắng trong đời sống phức tạp và phiền nhiễu của con người. Mình không làm sao tránh được. Mà cũng chẳng có cách nào hữu hiệu ngừa trước. Cả thứ dân ngày hai buổi chân lấm tay bùn, đầu tắt mặt tối, đến những bậc vua chúa chễm chệ trên ngai vàng bệ ngọc, không sót một hạng người nào cả, đều không thể là người ngoại lệ. Tiền bạc, giàu sang, danh vọng, địa vị, quyền thế… không thể lùa xa hóa giải được, do đó con người đành bất lực chấp nhận thôi. Mình nên giữ thái độ an nhiên trầm tỉnh vì những trái ngang ngang trái dồn dập trong đời chẳng qua là một điều đương nhiên phải có trong xã hội và môi trường mình đang sống. Mình phải hòa mình và chấp nhận những trắc trở ưu phiền đến với mình, xem đó như một định luật bất biến của vũ trụ, của đất trời.


Đến đây ông Tám ngừng đôi phút nhưng nét mặt ông lúc đó không che giấu được nét buồn buồn:

- Mình cũng nên nhớ nằm lòng để không cảm thấy khổ đau thêm câu thúc dằn xé mình triền miên là trên thế gian nầy không bao giờ có một địa ngục nào bằng sự độc ác của người đồng chủng. Hơn nữa, ông bà mình cũng thường hay nói, đối với bạn bè bằng hữu, cho dù là bè bạn trong vòng thân tính nhứt cũng phải cảnh giác đề phòng. Vì trong con người khó hiểu của họ, một nửa là bạn của mình thật đó, nhưng còn phân nửa kia chính là thằng phản bội, đứa phản phúc, tay tráo trở ẩn thân chực chờ hãm hại mình khi có quyền lợi chen vào. Biết như vậy để không phải ngỡ ngàng.


Đôi mắt ông bỗng phớt lên một thoáng suy tư:

- Thường thường, niềm vui bất chợt đến với mình qua nụ cười hả hê thích thú còn in rõ nét trên môi. Nhưng thời gian mừng vui hạnh phúc ngắn ngủi đó chưa được bao lâu thì những chuyện đau buồn, phiền hà sồng sộc đổ ập tiếp theo sau đó bén gót. Nơi đây, tao lập lại một lần nữa để được minh bạch rõ ràng là mình nên thảng nhiên xem như không thể tránh khỏi, không thể ngừa được và dĩ nhiên không thể chống lại dòng chảy tự nhiên của Tạo Hóa. Mình phải chấp nhận thả xuôi theo dòng, sáng suốt tìm cách hóa giải nhẹ nhàng và hợp tình hợp lý trong can đảm chịu đựng, trong quyết tâm phấn đấu, lấy giọng cười và niềm tin xô đuổi, lùa xa âm u hắc ám. Rồi cũng sẽ có ngày niềm vui sẽ trở lại không mấy hồi. Thêm vào đó, ông bà viễn tổ mình cũng có nói một ý rất chính xác mà tao khắc cốt ghi tâm là đời người rốt cuộc ngẫm lại chẳng ra cái cốc khô gì cả, nhưng ngặc một nỗi, chẳng có gì bằng đời sống ở giây phút hiện tại, mà cuộc sống đó thể hiện chính ngay nơi mảnh đất mình đang sinh sống. Âu đó cũng là cái oái oăm và phức tạp của cuộc đời đó nghen bây!


Ông quả quyết:

- Cái gì đã xuống tận cùng của hố sâu, của vực thẳm đau khổ rồi chắc chắc thế nào cũng đến lúc vượt hẳn lên đỉnh chót vót của hạnh phúc yên vui. Sự sống mà không có niềm vui thường được người xưa ví như cây đèn chong bong bóng hết dầu vậy. Mình cứ tin như thế và vững tin như thế mới là nếp sống đáng sống. Chứ cứ ngồi đó mà than van nguyền rũa thân phận mình, oán trách định mệnh hay phiền hà những người chung quanh, hoặc hận thù ông Trời già cắt cớ, chẳng ích lợi gì.


Ông bèn kết luận:

- Những giọt nước mắt thương tâm không bao giờ xóa lấp được nỗi dằn xé khổ đau, mà còn làm cho mình thêm buồn khổ, suy nhược cơ thể lẫn tinh thần. Đó là chưa nói đến những hành động hời hợt, thiếu suy nghĩ như hủy hoại thân thể mà mang tội trầm trọng bất hiếu với mẹ cha chẳng hạn. Mạng sống con người quý giá vô cùng, mình phải tuyệt đối tôn trọng và hết mực giữ gìn, xem như nghĩa cử trả hiếu đối với đấng sinh thành và đối với dòng tộc nữa. Mà nói cho cùng, một khi đã biết yêu sự sống, dù trong một thời khoảng nhất định nào đó thì trong thâm tâm mình phải biết chấp nhận cái chết. Không phải cái chết do ý muốn bốc đồng và mù quáng hay do bàn tay tội lỗi của mình cố tình gây ra, mà là cái chết bình thường, cái chết êm ả, cái chết tự nhiên không hối tiếc, cái chết không oán trách hận thù, khi nó đến với mình vào thời điểm chung cuộc chẳng đặng đừng. Vì sống trên đời đương nhiên mình phải trải qua một chuỗi dài rủi may thành công hay thất bại, một thời phước họa đưa đến tột đỉnh của vinh quang hay tận cùng địa ngục, một chu kỳ bất biến sống chết…Vả lại, mình phải coi như bình thường, mỗi phút giây được tận hưởng hạnh phúc trên đời, do mỗi bước đi hằng ngày của mình chính là một phút, một bước dẫn dắt hướng mình đi dần dần tới cõi chết. Nhưng theo tao, tao xem như đã chết, chỉ có những người đã thực sự biết sống mà thôi.


Nói tới đây, ông bỗng nhiên cười hóm hỉnh, nụ cười thỏa thích, thể hiện tròn đầy một chút lém lỉnh ranh mảnh của những đứa phá làng phá xóm, chằn ăn trăn quấn thuở nào. Lúc ấy, xem ông như trẻ hẳn lại đôi ba mươi tuổi về trước, khoảng thanh xuân “bẻ gãy sừng trâu“ chớ chẳng phải chơi đâu:

- Cái tiêu chuẩn thứ năm tao muốn nói với tụi bây, thoạt trông thì dễ nhưng về thực hành chắc khó khăn lắm. Bây phải có quyết tâm và ý chí sắt đá mới được. Nó vượt hẳn bốn tiêu chuẩn tao vừa kể bây nghe hồi nãy. Mà lại là tiêu chuẩn quyết định đó bây. Bây cần quan tâm chú ý nhiều hơn nữa. Ở đời, đã nghèo như bà con mình đây, không hằng sản đành vậy, nhưng ít ra cũng hằng tâm, tức phải có ý chí và quyết tâm, phải kiên cường và can đảm. Những người có bản chất yếu đuối, tính khí suy nhược khó mà vượt qua nổi tiêu chuẩn nầy. Nếu phước đức ông bà, may mắn có vượt qua được thì chỉ trong ngắn hạn rồi lại tái phạm thôi. Nhưng có một điều chắc chắn là tao đã từng triệt để áp dụng trong đời mình. Tao đảm bảo với bây có kết quả cụ thể và mỹ mãn không tưởng tượng được.


Ông nheo nheo mắt lém lỉnh như lúc còn trai trẻ:

- Bằng cớ? Bây trông thấy tao đã bước qua hơn bảy bó chẳn chòi rồi, để nói theo tầng lớp dân gian bình dị của mình là tao được coi như sống lâu lên lão làng mà còn hồng hào phương phi, dẽo dai, vui vẻ mạnh khỏe, đôi chân rắng chắc đứng vững vàng trên cuộc đất quê mình, đường đường một đấng. Không khác mấy so với đám trai trẻ tụi bây, như bây thấy đó. Mà không chừng, tao nói không sai hoặc quá đà chăng, có đứa trong đám lực lưỡng “vai u thịt bắp“ tụi bây không theo kịp tao đâu.


Ông đằng hắng vừa đủ nghe rồi lên giọng trượng triều trượng quốc bất cần đời, chẳng còn sợ ai bắt lỗi bắt phải gì cả:

- Bí quyết thứ năm này cũng đơn giản thôi, là khi ngủ, bây phải tuyệt đối giữ cho bằng được cái thế thăng bằng, thường xuyên nằm ngửa. Bây khắc cốt hai chữ “nằm ngửa“ nầy nhé! Nằm cho ngay ngắn thư thả, hai tay buông xuôi, buông thỏng theo thân mình. Máu huyết nhờ đó sẽ lưu thông điều hòa, hai lá phổi được tự do thơi thới, tha hồ bây hít thở thoải mái, không có một sức cản hay trở lực nào tác động đến. Còn nếu có nhu cầu cục cựa, trở mình nằm sấp thì chỉ nên thỉnh thoảng thôi, những lúc cần thiết theo cơ thể đòi hỏi. Những lúc đó, bây xoay bộ cho vui, cho đỡ nhàm chán vậy mà. Nhưng cũng phải vừa vừa phải phải, có chừng có mực, không được lạm dụng cái tư thế sản khoái, phút chốc tuyệt vời nhưng thoáng qua này một cách quá đà. Cái gì cũng vậy, một khi quá đà, quá trớn không bao giờ tốt cả.


Mấy bà con đang chăm chú lắng tai nghe không biết có hiểu tận tường thâm ý của ông hay không, nhưng bề ngoài coi bộ họ có mòi thấm ý, tỏ ra vừa cảm thông vừa bẽn lẽn tâm đắc. Chắc họ cũng đang suy nghiệm tưởng tượng đến những vụ việc thầm kín nơi phòng the chăn gối, mà đã là con người biết vui biết buồn, biết sướng biết khổ, không một ai tránh khỏi. Rồi bỗng nhiên, họ đồng thanh phát lên cười vang rân. Họ bảo ông Tám Bóng quả thật ranh mảnh hết mực, ông tếu có duyên quá cở.


Ông Tám cũng dư biết tụi nó đã hiểu ý ngầm của mình nên sẵn đà, ông lên giọng kẻ cả, lấy tiếng đàn anh, bậc chú bác dạn dầy kinh nghiệm trường đời:

- Hồi nãy, tao có lưu ý tụi bây về cách ăn uống sao cho hợp thiên nhiên, hài hòa vạn vật để không hại đến sức khỏe. Tao có nhắc đến câu nói chí thực, chí thiết, một nhận định chí tình, chí lý của một thức giả vô danh nào đó của thời phong kiến đang trên đà tàn tạ: “Nếu mình không khéo ăn, không khéo chọn lựa đúng mức thức ăn thức uống, mình sẽ tự tay mình đào mồ đào mả chôn lấy mình“. Thì bây giờ, về vấn đề nằm ngửa nằm sấp, tao cũng lưu ý thêm với tụi bây một câu nói khác cũng có nội dung khuyên răn, cảnh giác người đời không kém. Bây nên nghe cho kỷ và nhớ lấy.


Ông thông thả:

- Mà chắc đây cũng do một tay tứ chiến giang hồ, hào hoa phong nhã bậc nhứt hay một công tử bột thuộc hàng “phá gia chi tử“ khét tiếng miệt vườn đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, sau một thời gian dài tung hoành ngang dọc dọc ngang, chộc trời khuấy nước, tiêu xài rất mực hoang phí nơi chốn kinh kỳ phồn hoa đô hội, nay bước vào tuổi chỉ mành treo chuông, bóng xế trăng lu, đã hồi tâm ăn năn sám hối, phát ra một câu để đời có ý nghĩa nhắn nhủ, nhắc nhở và cảnh giác lớp người đến sau: “Ở đời có sinh có tử, có sống có chết, dĩ nhiên ai ai cũng phải đi qua điểm hẹn cuối cùng đó. Không một người nào thoát khỏi, dù là vua chúa quyền quí hay thứ dân tay trắng. Nhưng cái vô duyên lảng nhách đáng phiền đáng trách nhứt là vì quá hời hợt vô tâm, vì quá thiển cận vô ý thức, hay vì thiếu suy nghĩ trong cấp thời, mình tự hủy hoại, phá hư cuộc đời mình, chính tay mình giết mình bằng những cuộc truy hoan vương giả không giới hạng, bằng những cuộc vui chơi trác tán thâu đêm“.


Ngừng một đỗi, ông Tám Bóng nghiêm nghị, đúng với phong cách một nhà luân lý am tường lịch sử:

- Hồi còn nhỏ, bây đi học ở trường làng trường tỉnh nhà, chắc bây hẳn còn nhớ lời thầy cô giáo có giảng giải, trong lịch sử nước Nam ta có ông vua tên Lê Long Đỉnh. Ông vua nầy nổi tiếng ham mê tửu sắc, hà lạm chuyện buồn the chăn gối. Ông ta có hằng hà sa số cung phi mỹ nữ chim sa cá lặn, sắc nước hương trời, đắm say sắc dục, cuồng dâm quá độ đến phải kiệt sức, đi đứng không nổi. Sau cùng, khoảng cuối đời, ông ta suy nhược đến đỗi nằm liệt giường liệt chiếu, ngay cả những lúc lâm triều trước mặt văn võ bá quan. Do đó, ông ta mới có hổn danh chẳng tốt đẹp gì là vua Ngọa Triều lưu lại hậu thế. Nhưng đây không phải là tiếng thơm mà là tiếng xấu muôn đời của ông vua sa đọa, bạo ngược dâm loạn bị người đời chê bai, nguyền rủa phỉ nhổ… Còn đọc truyện bên Tàu, thấy mấy ông hoàng đế cổ thời có đến đôi ba ngàn thứ phi, cho nên mấy ổng có ông nào sống lâu được như tao đâu. Đại đa số đều không bước qua khỏi cái tuổi bốn năm mươi, nếu trí nhớ không phản bội tao.


Đôi mắt ông bỗng sáng hẳn lên:

- Bây còn quá trẻ, bản tánh háo thắng từ trong xương trong tủy, làm việc gì cũng thường thiếu suy nghĩ chín chắn. Bây bạt mạng lắm, ai mà không biết. Nhiều lúc, bây bất chấp mọi hậu quả của việc mình làm. Bây sẽ lầm to, khi cứ khư khư tự an ủi mình là mọi việc tới đâu hay tới đó. Cần gì phải lo xa. Bảo nằm ngửa hoài bây chịu đâu nỗi. Mà đối với con người, tao ít thấy có ai đi suốt trăm năm bao giờ, nhưng có thân phải ráng nghen bây. Bây còn gánh nặng gia đình con cái leo nheo lóc nhóc, đứa lớn vừa quá chỏm tóc đứa nhỏ, đứa nhỏ mới vừa đứng chựng chưa cứng cáp đã có thằng em lù đù tiếp theo sau. Mình đã tạo ra thì phải có trách nhiệm dưỡng nuôi, giáo dục, hướng dẫn đến nơi đến chốn đối với chúng nó. Chúng nó đâu có đứa nào đòi hỏi sự hiện diện của chúng trên cõi đời nhiểu nhương lắm phiền hà này đâu. Mình phải lo chu đáo đường tương lai, phải chu toàn cho chúng nó trở nên những người hữu sự, ích nước lợi dân mới đúng với chức năng của kẻ làm cha làm mẹ có trách nhiệm lớn, có lương tâm cao.



Ông gằng từng tiếng:

- Hơn nữa, tụi bây nên nhớ nằm lòng, bây làm lụng vất vả cực nhọc ngoài đồng áng tối ngày, mỗi ngày đôi khi mười mấy tiếng đồng hồ xuyên suốt không ngừng tay. Bây luôn luôn thở hơi lên, mệt cầm canh. Có phải đúng phóc như vậy không? Đêm hôm, nếu bây có trở bộ nằm sấp thì cũng phải điều độ, có giờ có giấc, nếu không sẽ đứt hơi đó đa. Bây đừng hời hợt ỷ y nơi tuổi trẻ mà xem tánh mạng mình không bằng một cái nháy mắt.


Nhận thấy đám trẻ chăm chú nghe ông nói hơn thiệt, dào dạt ý hướng trong sáng, ông tiếp tục nói sa đà qua chuyện khác:

- Cha chả, nói gì thì nói chớ mới đây thằng Sáu Ớt vừa gặp tao hôm qua ở đình làng khi đang đứng lóng nhóng xem đám trẻ quét dọn trong ngoài chuẩn bị lễ cúng Kỳ Yên vào vài ngày tới. Nó không hết lời phân trần thở than, lúa thóc gặt hái xong xuôi cả mấy tuần, đã phơi khô tới mức và cho vào bồ đâu vào đấy tươm tất cẩn thận, tưởng rỗi rang thơi thới một chút. Nào ngờ nó thấy thường xuyên mệt mỏi, tứ chi bủn rủn, đứng lên ngồi xuống xây xẩm choáng váng mặt mày, dù thoáng qua. Nó có cảm giác muốn cúp xương sống, thốn xương sườn, ê ẩm mình mẫy. Tao nghe nó trút bầu tâm sự mà thấy thót tim, làm như tim tao teo lại như trái mù u khô trúng vài con nắng. Khổ không?!


Ngừng một chút, ông tắt lưỡi:

- Nhưng tao có cảm tưởng không phải nó đau ốm bệnh hoạn trầm trọng gì đâu. Vì một mực nó dứt khoát như vậy mà. Nhiều lần, nó tự đặt câu hỏi, không hiểu sao, ngày chí tối nó nghe trong mình như nuổn, không ham thích làm việc, vì bệ rạc thiếu sức sống. Nó còn khẳng định là ông Hai thầy thuốc chẩn mạch cho biết không có gì quan trọng, rồi bán cho nó vài hộp thuốc tể, căn dặn nó cứ uống đều đặn là xong ngay. Tình trạng bệ rạc sẽ chóng khỏi, nó cứ yên chí, không phải lo lắng gì cả. Ông Hai còn đảm bảo thuốc tể của ông là loại thuốc bổ gia truyền thứ thiệt một trăm phần trăm, loại thuốc được bào chế theo toa và phương thức lâu đời của mấy đại danh y tiếng tăm lừng lẫy của dân tộc mình từ thời xưa truyền lại. Có cao hổ cốt, có cao sừng tê giác, sừng dê núi... cộng với nhiều tinh túy có tính bổ gan bổ thận, cường dương sinh lực.


Ông vói tay chít lại cái khăn trắng bịt đầu đang trệ xuống trán rồi tiếp:

- Cuối cùng nó vẫn ráng gân cổ tiếp tục lãi nhãi than phiền mãi. Nó báo cho tao đã uống đầy đủ liên tiếp mấy tuần lễ liền mà chưa thấy thuyên giảm chút nào cả. Đâu rồi cũng vào đấy. Chứng nào vẫn hoàn chứng nấy. Cơ thể vẫn không đổi thay mảy may. Mặt mày nó đâm ra lo lắng thấy rõ, tội nghiệp làm sao! Dù nó có dong dài trình bày như thế nào nhưng thực tình tao nghe không lọt lỗ tai vì chẳng có gì hợp lý cả. Nhưng thấy nó bơ phờ, lạc thần mà thêm thương nó lắm. Tao bèn khều nhẹ nói với nó vài hôm huởn huởn một chút nó chịu khó tạt qua nhà tao, tao sẽ mách nó được toại nguyện.


Ông Tám Bóng cười mỉm:

- Tao cũng nói với nó, bây cần gì phải dùng tới mấy loại thuốc bổ đắc tiền đó làm chi, chỉ vô tình tiếp tay làm giàu thêm cho mấy ông lang băm lang vườn ở làng ở quận. Tao chỉ cần biên cho bây một toa và chỉ một toa một duy nhứt thôi là đủ, không cần có thuốc men chi cả, nhưng đảm bảo khỏi ngay. Đảm bảo một trăm phần trăm, chắc ăn như bắp. Vì cái toa truyền thống dân tộc này hiệu quả vô cùng.


Ông khề khà:

- Bây cứ nằm ngửa mà ngủ, đêm đêm nằm như vậy ngủ thẳng giò thẳng cẳng. Tuyệt nhiên, nhớ đừng có rọ rạy, bày đặt trở bộ nằm sấp hằng đêm. Bây cứ thử áp dụng ngay đi thì biết. Chỉ một thời gian ngắn là hết tiệt. Tao cam đoan chắc với bây kết quả sẽ như mong muốn. Nếu không có kết quả, bây cứ tự tiện đến nhà đập cửa rầm rầm báo cho biết, tao sẽ bắt đền bây một đôi gà trống thiến nặng trìu trịu.


Giọng ông cương quyết như ba bó vào một giạ vậy:

- Bây sẽ thấy không cần phải uống thuốc bổ chi cả. Phí uổn tiền lắm, trong lúc đồng tiền bây làm ra trầy vi tróc vãy, mồ hôi mồ kê đổ ra như suối. Bây phải xử dụng nó cho hợp tình hợp lý. Bây uống một chục viên, mà có lạm dụng uống thêm cả trăm viên thuốc tể, loại bổ gan bổ thận gì đó thường được đám sơn đông mãi võ quảng cáo rùm trời rùm đất ở chợ quận mình cũng chẳng thấm vào đâu. Bây không nghe người ta nói một trăm viên thuốc bổ không bằng nằm ngủ riêng rẻ, một người một giường, mỗi người một nơi sao? Tao còn dám quả quyết như đinh đóng cột, thuốc bổ Cửu Long Hoàn mà mấy tay làm quảng cáo đập bồn đập bát rùm beng mà bây chắc cũng có đôi lần chứng kiến: “Một viên Cửu Long Hoàn bằng mười thang thuốc bổ“, cũng chẳng thấp tháp gì đối với trường hợp của bây.

Ông Tám Bóng sa đà lắm chuyện nhưng bà con lại thích nghe đỡ buồn. Và ông cũng thích cà kê giang ca cho cuộc sống bớt căng thẳng vì lao nhọc hằng ngày.


**



Ông Tám Bóng chắc hẳn là người đại diện hiếm hoi còn sót lại của một thời đáng yêu đáng nhớ nơi quê hương khổ hạnh của tôi. Cái thời để đời đó đã mất hút theo dĩ vãng xa rồi và nay không có cách nào tìm lại được. Xã hội đã biến chuyển không ngừng. Thời gian lại phũ phàng lướt qua quá nhanh, không chờ không đợi một ai. Có chăng là còn trong ký ức của những người được “ông Trời tha mạng“ chờ ngày trở về với mái ấm nơi vùng miên viễn. Như đã nói, xã hội ngày nay đã biến chuyển theo một vận tốc chóng mặt. Con người hấp tấp vội vàng tìm kiếm, khám phá, dắt tay hùa nhau dẫm đạp chạy đua theo nhu cầu vật chất không giới hạng. Họ đắm đuối tiện nghi quá trớn quá đà, bất chấp biên giới của nề nếp kỷ cương, xem nhẹ những thành tựu của ông cha nhọc công để lại, coi thường giới hạng của đạo lý luân thường được đãi lọc qua nhiều thế hệ. Và cũng vì đắm đuối ham muốn tiện nghi vật chất, họ có trong tầm tay quá đầy đủ, ngay cả dư thừa, nhưng xem ra họ chưa bằng lòng với những gì mình đang có, ngày ngày vẫn tiếp tục tất tả ngược xuôi như chong chóng, thần kinh lúc nào cũng căn thẳng. Họ phập phồng hoảng hốt, hớt hơ hớt hải cố công kiếm tìm thêm mãi để thỏa mản túi tham không đáy. Trông họ có thực sự được bao ngày sung sướng gì đâu.


Trái lại, đôi khi họ còn thua xa các tầng lớp dân nghèo mạt từ đường, chạy gạo nuôi con nuôi gia đình, chân không bén gót nơi quê nhà thuở xa xưa, lắm lúc trông quá thoải mái hạnh phúc trong khó nghèo. Họ không biết nơi chốn nào phải dừng chân hầu có chút ít thì giờ cần thiết để tâm suy gẫm cân phân lợi hại, đắn đo truy xét căn nguyên diễn biến, đánh giá phương hướng con đường đi, điểm đến của mình trong vòng nhân sinh lẩn quẩn. Nhưng có một điều chắc chắc là trong cuộc chạy đua tốc hành buông cương đó, nội tâm họ không lúc nào được bình ổn an lạc an toàn, thanh thản thơi thới. Trái lại con người họ luôn luôn mệt mỏi lo âu, bất an rối loạn… sống trong bứt rứt triền miên, trong áy náy lương tâm, nhiều khi đưa đến đảo điên loạn động rất nguy hiểm, chẳng những đối với chính cá nhân mình mà còn đối với xã hội nhân quần nữa. Họ không một phút giây vững tâm ở ngày mai. Họ đã mất niềm tin vào mục đích. Bao nhiêu thảm trạng gia đình xảy ra đó đây đưa đến cảnh tan nát đổ vỡ, chết chốc chém giết, phân ly chia lìa.


Những cảnh xót xa thương tâm “vợ bỏ chồng chê“ bắt gặp hằng ngày trong cuộc sống của xã hội tân tiến thời buổi bây giờ, gây bế tắc trầm trọng là con cái bất hạnh mất chỗ nương tựa và niềm tin ở bực làm cha làm mẹ, chới với khi bước vào ngưỡng cửa trường đời đầy cạm bẫy. Tội nghiệp và đáng thương những đứa trẻ vô tội đó biết dường nào! Rồi bao nhiêu biến thiên sinh thái với hậu quả nguy khốn không lường xảy ra hằng ngày khắp nơi trên lục địa. Và tệ hơn nữa là những tranh chấp sống còn giữa con người và con người, giữa các quốc gia lớn nhỏ vì tham vọng quyền lợi và hận thù chũng tộc đã gây ra cảnh bất ổn liên tiếp với tai họa chiến tranh ở rất nhiều điểm nóng trên thế giới. Tất cả dường như đã nói lên phần nào một xã hội sa đọa, đang trên đà thoái hóa ngày nay?!


Vào thời buổi ông Tám Bóng, quả thật ông sống trong bẩn chật nghèo túng, thiếu thốn tiện nghi văn minh tân tiến thời thượng, nhưng ông biết xử dụng một cách thăng bằng, cân đối giữa những tài nguyên thiên nhiên và con người. Vì chắc chắn qua sự thừa hưởng của tổ tiên dòng giống, ông ý thức được trong chừng mực cái tinh túy sâu xa là con người và thiên nhiên vạn vật vốn có sự quan hệ qua lại khắng khít với nhau và tối hệ trọng cần phải được bảo vệ tối đa, để qua đó con người hy vọng được sống hạnh phúc và hài hòa. Dẫu rằng ý thức đơn giản đó của ông chỉ là kết quả của những nhu cầu sống thực nghiệm, chớ không hẳn được đúc kết nhuần nhuyễn qua những qui luật thành văn. Dù sở học hạng hẹp do thiếu may mắn đầu thai nơi đèo heo, hắt hiu cùng cốc, từ nhỏ sớm nối gót cha ông ngày ngày miệt mài lầm lũi đi theo sau đít trâu để có cơm ngày hai buổi mắm muối cháo rau, nhưng ông chọn cuộc sống căn bản kỷ cương, lấy phương châm trong sáng của tổ tiên dòng tộc làm kim chỉ nam hướng dẫn từng bước đi của mình: “Tích thiện phùng thiện, Tích ác phùng ác“ hay “Ác lai ác báo“. Do đó, ông biết giữ mình, biết phân biệt sai quấy lỗi lầm, biết làm việc lành tránh điều dữ. Ông cũng lấy hai chữ “tri túc“ làm mẫu mực, không đua đòi chợp giựt, dẫm đạp tranh giành đến mức thanh toán tận diệt nhau không nương tay.


“Tri túc“ ở đây tức biết giới hạn, biết đủ là đủ, biết hạn chế mọi ham muốn quá đà quá trớn. Mà biết “tri túc“, biết “vô cầu“ không phải mình tự hạ thấp mình xuống đâu, mà đó chính là một hình thức, một cử chỉ trọng mình đúng với nhân cách con người thức thời và nhứt là trọng người. Vả lại, thỉnh thoảng ông cũng hay tâm sự với đám trẻ trong thôn xóm là ông có được chút ít may mắn nhờ vào hoàn cảnh và môi trường sinh sống. Vì nơi thôn làng rẫy bái cùng khổ quá cơ cực nầy, ông không hề thấy thiếu thốn chi cả, bởi một lẽ do chẳng mấy ai có đâu mà mình biết so sánh để thấy thiếu. Ông ý thức đúng mức nếp sống lành mạnh, chừng mực của người xưa, nhứt nhứt không hề nhúng tay vào việc hủy hoại hoặc trực tiếp hay gián tiếp tham gia cưỡng bức vũ trụ, bắt buộc phải phục tùng vô điều kiện thị hiếu và nhu cầu cấp thời, những đòi hỏi thiển cận thấp kém của con người. Tức cái lỗi lầm tai hại và trầm trọng nhứt của người trần tục, tự mình phá hủy, bẽ gãy luật quân bình của tạo vật. Vì dù muốn dù không, luật quân bình này chi phối tư tưởng và mọi sinh hoạt hằng ngày của con người.


Thế giới nầy, xã hội nầy nói chung và cảnh thổ nầy nói riêng nếu có được như ngày nay là do bao nhiêu bàn tay lam lũ vô danh của nhiều thế hệ dốc lòng góp công xây dựng trong lao động cật lực, trong gian khổ kiên trì. Nhưng tiếc thay, bây giờ hiếm có người biết ngắm nhìn thưởng thức, biết đánh giá đúng mức để bảo vệ và duy trì nó được dài lâu, ngỏ hầu lưu lại vẹn toàn cho con cháu về sau. Con người theo mẫu mực ngày nay, trước sau gì cũng đưa đến nguy cơ hủy thể?! Nhận xét nầy có chủ quan và quá đáng lắm không? Vì chính bàn tay bé nhỏ và bộ óc quá đỗi phi thường nhưng thiếu sự kềm hãm hợp lý của con người đã biến đổi nguy hại môi trường sinh sống của họ, dẫn đến ách nước tai trời nguy hiểm như thời đại chúng ta. Và nhứt là triển vọng khủng hoảng lương thực trong những thập niên sắp tới không tránh khỏi, nếu không có những biện pháp hữu hiệu và cấp bách ngay. Đó là chưa nói đến những lo âu ưu phiền, căn thẳng thần kinh triền miên luôn bào mòn và làm ung thối tâm tư tình cảm cùng tâm linh mà con người phải gánh chịu và không sao thoát ra được.


Noi gương người xưa, ông Tám Bóng thích sống thanh thản vô tư, sống trong bình tâm lương thiện. Nói tóm lại có thể nói ông sống tự nhiên, bình dị giản đơn như sau trời mưa đến nắng, sau đêm lại ngày. Ông không cần quan tâm truy nguyên tìm hiểu nếp sống thực tại của mình cho thêm phiền phức rối nhùi mà ông chưa chắc tìm ra được đáp số. Ông chỉ biết một điều và chỉ một điều duy nhứt thôi mà ông thường dong dài nhắc tới nhắc lui lớp hậu sinh mỗi khi có dịp, là con người muốn đạt được hạnh phúc đích thực thì phải sống theo “Thiên Đạo“. Tức là “Đạo Trời“, hòa hợp hài hòa với vận hành của Trời Đất.

 Giản dị có thế thôi. Đó là chìa khóa vàng mở cửa cho con người thung dung rảo bước vào kiếp nhân sinh an lạc, xa hẳn khổ đau phiền toái, xa hẳn loạn lạc chém giết và hủy diệt. Muốn được như thế, con người phải sống lương thiện và phải có cái tâm lành thể hiện trong thực tế. Chính những người lương thiện qua cái tâm lành trong sáng ấy mới xứng đáng được hưởng hạnh phúc trên thế gian. Tóm lại, có thể nói ông Tám Bóng sống theo tinh thần của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng để lại những lời vàng ngọc của cuộc sống “Thiên Đạo“ qua bài thơ thất ngôn bát cú đánh dấu một thời, ngoài bao nhiêu tác phẩm còn được nhắc nhớ đến hôm nay:


Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao!


Nói cho cùng, ông Tám Bóng, con người quê mùa chơn chất, bộc trực giản dị như củ khoai hòn đất, như nắng sớm mưa chiều, không tìm chân lý của hạnh phúc ở đâu cho xa. Con người thực tế với đôi chân luôn đứng vững vàng trên mảnh đất quê hương mình, ông quan niệm rằng hạnh phúc đó, ông đã bắt gặp ngay nơi cảnh thổ thiên nhiên thiên phú của bản làng, nơi ông trân quý, thương mến trọn một kiếp, trọn một đời. Ông bắt gặp nó ngay trong sâu thẳm của lòng mình, chứ không phải từ đâu đưa đến hay từ trên trời cao vời vợi rơi rớt xuống. Vì hạnh phúc nằm trọn vẹn trong chính lòng mình nên ông luôn luôn phải nổ lực, liên tục phấn đấu bản thân để đạt đến trạng thái tinh thần cao đẹp ấy.


Con người ngày nay cố công đánh đổi tất cả để đi tìm hạnh phúc theo xu hướng trái nghịch hẳn với thiên nhiên vạn vật, nghịch hành với nếp sống lương thiện, với cái tâm lành trong sáng nguyên thủy của họ. Trong thực tế, họ đã đạt được cuộc sống vật chất quá mức dư thừa, nhưng thiết nghĩ họ có tìm được hạnh phúc đích thực hay không? Đó cũng là câu hỏi nan giải vì chưa có lời đáp thích nghi. Hay chỉ là giấc mơ không tưởng để dắt dẫn họ trực chỉ đến tận diệt? Đến đây, chúng tôi bỗng nhớ lại lời nói thường lập đi lập lại của ông Tám Bóng lúc sinh thời. Ông chỉ có mỗi một ước mơ sau khi đã suy nghĩ chín chắn:


- Xã hội bây giờ thay đổi nhanh chóng quá, xem ra không có gì đáng ngạc nhiên cả. Đó là qui luật tất nhiên của tiến hóa, nhưng tiếc thay sự tiến hóa nầy không đi đúng đường hướng. Giá nếu về sau có hóa kiếp theo đúng thuyết nhà Phật, tức tao đi “đầu thai“ sống kiếp khác, lúc đó tao cũng chỉ có mỗi ước mơ duy nhứt là được sống trở lại cái thời xa xưa ấy của tao thôi.


-***-




Thằng Gọi Lô Tô


Viết để mến tặng M.V.M. (Cộng Hòa Liên Bang Đức).


Tôi có thằng em gặp gỡ trong một tình cờ qua duyên văn chữ nghĩa. Cái duyên nầy thật ra lạ lùng lắm, không sao cắt nghĩa đầy đủ vuông tròn được, nó chợt đến nhưng lại có ma lực ‘nối vòng tay lớn’, kết hợp keo sơn những người đồng tâm đồng điệu qua một đam mê đưa đến chung tình chung nghĩa. Nó tên là Trọng Minh, cái tên mà bạn bè thân thuộc nối khố nơi xã nhà, nhứt là về sau các chiến hữu trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, ngay cả sĩ quan các cấp chỉ huy đơn vị trong binh chủng ngày xưa của nó thường quen miệng gọi như vậy. Chớ thật ra tên họ chính thức, tên họ cúng cơm của nó do cha mẹ đặt để và do ông chánh lục bộ trong ban bệ hội tề làng xã trịnh trọng o bế ghi vào sổ bộ đời là cả một màn bí mật, ít có người biết lắm. Dù sao cái tên Trọng Minh là cái tên đẹp nó miễn cưỡng chấp nhận. Còn trong vòng ruột rà gia đình thì cha mẹ và anh chị em lớn nhỏ của nó quen gọi nó với cái tên thân thương là thằng Út hay Út Minh. Có nhiều lúc nó bất bình bảo nó có tên đặt để chánh thức thì cứ gọi y như vậy, đâu có cái tên nào từ khởi nguyên làm nhục nhã gia phong, làm tổn thương ô uế dòng tộc bao giờ đâu mà phải tránh né như né tránh dịch tả dịch hạch vậy.


Nếu có làm ô nhục hay tổn thương gì gì đó thì chính do tự mình gây ra, chớ nào phải do cái tên mình mang trong đời. Nhiều năm sau ngày cờ đỏ lên ngôi năm 1975 ở quê nhà, nó thề nhứt định không sống chung với cộng sản nên quyết tâm chạy đôn chạy đáo mua bãi vượt biển tìm tự do và sau đó khá lâu may mắn xin được tỵ nạn chính trị ở Cộng hòa Liên bang Đức, xem như quá muộn màng. Chỉ vì hoàn cảnh trắc trở điêu đứng mà nó đã thành công vượt qua cũng khó khăn nhiêu khê, trầy vi tróc vãy lắm. Nó đến đất tạm dung tính đến nay khoảng một hay hai thập niên là cùng, sau những tháng năm dài sống lang thang tầm gởi, vất vơ vất vưởng như người chết chưa chôn trong xứ tù chung thân xã hội chủ nghĩa. Dĩ nhiên trong thời gian kham khổ nhức nhối và bế tắc không ngày mai nầy nó xem như cả một thế kỷ dài không bằng, vì nó cũng đã nếm đầy đủ mùi vị đắng cay nghiệt ngã nơi ngục tù hắc ám cải tạo giết người của cộng sản. Chỉ với tội danh duy nhứt bị đám cướp ngày cướp đêm răng đen mả tấu miền Bắc hàm hồ gán cho là phản động, a tùng cùng bọn CIA Mỹ trực tiếp tham gia trong các phong trào kháng chiến phục quốc nhằm mưu đồ lật đổ chế độ. Thêm vào đó còn là thời gian dằn dặt nguy hiểm, bôn ba xuôi ngược các tỉnh miền duyên hải tổ chức mua bãi, nhưng vượt biên thất bại liên miên không biết bao nhiêu lần, tiền tài sản nghiệp chắt mót dành dụm từ trước kể như mất trắng.


Tôi vừa nói do cái duyên chữ nghĩa vì nó là một độc giả, tuy mới chừng năm ba năm sau nầy nhưng rất mực trung thành của tôi. Chỉ với danh xưng ‘độc giả trung thành’ dù tôi chưa một lần gặp mặt là tôi có cảm tình ngay với nó và quý trọng nó. Lý do là ở hải ngoại gần đây, số người tìm đọc sách báo Việt ngữ giảm sút thê thảm và lãnh vực văn chương chữ nghĩa xuống dốc đáng quan ngại. Một nhận xét đau lòng nữa là các cơ sở phát hành sách báo tức các nhà sách trên thế giới lần lượt, cái trước cái sau, đóng cửa chuyển ngành tìm phương hướng khác để sinh tồn.


Trong khi đó, đa số thừa tiền dư của chọn con đường vui chơi lạc thú khác, thích về Việt Nam mang ‘áo gấm về làng’ tha hồ tiêu xài trác táng, không còn nghĩ gì đến tiền đồ văn hóa dân tộc, đậm đà tánh nhân bản và đấu tranh. Hơn nữa, tôi thường viết truyện đồng quê Nam Kỳ Lục Tỉnh, mục đích làm sống lại một quá khứ tốt đẹp của ông cha ngày trước, thăng hoa một vùng đất màu mỡ phì nhiêu hiếm có, một lịch sử oai hùng dựng nước đầm đìa mồ hôi và nước mắt, một nếp sống quân bình tình cảm xóm làng đầy ấp tình người… nên rất được lớp người cao tuổi từng có một thời gian dài gắn bó với thôn làng cố thổ đặc biệt để tâm tìm đọc. Riêng nó là độc giả còn trẻ đối với nhận xét của tôi nên tôi càng quý mến hơn. Là độc giả trung thành nên mỗi tác phẩm mới nào của tôi, dù viết riêng hay viết chung với các bạn văn, nhứt là với họa sĩ nhà văn Hiếu Đệ (Nguyễn Tánh Đệ ở tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ) vừa trình làng và đã được anh Phù Vân Nguyễn Hòa ưu ái giới thiệu nồng nhiệt trên tạp chí Viên Giác là ít ngày sau, nó gởi tiền mua ngay. Không sót một tác phẩm nào.


Đôi khi nó còn bảo sao tôi viết lách cái gì mà chậm chạp quá, còn thua rùa bò, một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày chỉ xuất bản một hay hai quyển tối đa, có sách mỏng te vừa tròn trịa hai trăm trang, dù nội dung tình cảm chất chứa có dày bao nhiêu làm sao đủ để nó đọc cho qua ngày tháng lẻ loi cô đơn nơi xứ người. Vì nó là độc giả nên tôi thoáng nghĩ chắc nó tâm đắc với ý tưởng của một nhà văn tiên phong trong phong trào truyền hình Pháp mà tôi có đọc đâu đó nay còn nhớ ý chánh: “đọc văn là để được sống và sống lại lần thứ hai”. Nó háo hức đọc chẳng qua là để được trầm mình trong cuộc sống hoa mộng được vẽ vời trong chữ nghĩa chăng? Tuy nhiên, nó nào có biết, viết văn chẳng dễ dàng như nó lầm tưởng, trái lại cần phải đào bới gạn lọc một số vốn liếng sống tối thiểu và cái vốn liếng tối thiểu quý giá nầy nào phải thinh không tự nhiên trên trời bỗng rớt xuống mà có được đâu. Người viết nào, dù nổi tiếng hay không cũng đau khổ không ít, họ để biết bao thì giờ vắt tim nạo óc mình mới thành văn, thành sách. 

Nó cũng nào có biết viết văn đâu phải là chuyện đơn giản hằng ngày như “bửa củi” mà thi sĩ tài danh của núi Tản sông Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã từng để đời khi than thở hay phẫn nộ lúc sinh tiền ở thế kỷ trước. Hơn nữa, đối với tôi, việc viết lách dù để mua vui lúc nhàn rỗi chuỗi ngày hưu trí nhằm lùa xa những ray rứt thôi thúc trong lòng đòi hỏi rất nhiều cố gắng và hy sinh, có lẽ do khả năng quá giới hạn của tôi. Tôi đắn đo chọn lựa đề tài sáng tác. Tôi cẩn trọng từng câu từng đoạn văn. Viết xong, tôi lại bôi xóa, sửa chữa đôi lần ba lượt. Chỉ sau khi nắm được phần chủ động, sau khi xét thấy không còn sai sót theo chủ quan của tôi, tôi mới ngừng hẳn.

Trọng Minh đang sống trong tâm trạng lẻ loi, cô đơn buồn chán hơn lúc nào hết trong đời, vì thời gian ở Đức đối với nó kéo dài lê thê bất tận, gia đình vợ con nheo nhóc của nó chẳng may vì hoàn cảnh chẳng đặng đừng còn kẹt lại ở Việt Nam, xa cách cả nửa vòng trái đất. Nó rất đau khổ về sự chia lìa oái oăm nầy do thảm trạng của lịch sử, biết đến ngày nào mới được sum họp. Nó đã chạy đôn chạy đáo nhờ người am tường rành rọt về hành chánh làm đầy đủ thủ tục quá phức tạp rườm rà để xin bảo lãnh tất cả gia đình nó theo diện đoàn tụ. Nhưng tới giờ phút nầy, nó ngóng trông  chờ mãi mỏi con mắt mòn con ngươi vẫn chưa có kết quả ước mơ… Nó chỉ còn đặt một chút hy vọng mỏng manh vào phép lạ nhiệm mầu của thiêng liêng huyền năng tối thượng. Hằng ngày, sau khi đi làm tối mày tối mặt qua những công việc quá nặng nhọc trong hệ thống dây chuyền ở hãng xưởng về để cuối tháng lãnh được đồng lương “hộc máu”, nó cảm thấy trong lòng trống vắng đáng sợ. 

Chỉ có sách vở, báo chí truyền thanh Việt ngữ và truyền hình Đức mà nó chỉ xem được hình ảnh mới giúp nó hằng đêm an ủi vỗ về những giấc ngủ cô liêu, dằn dặt đay nghiến. Nó tìm đọc, để tâm để thời giờ đọc và cũng nhờ tình cảm yêu thương bắt gặp trong chữ nghĩa, một liều thuốc nhiệm mầu giúp nó kéo dài thời gian tạm bợ sống vui, sống có ý nghĩa. Nhưng không vì vậy lắm lúc đối đầu với những tình tiết, trạng huống đen tối đến đỗi không tự chế, không làm chủ được mình, nó có ý nghĩ điên rồ cùng đường, không còn thiết tha gì đến cuộc sống nữa. Cuộc đời đối với nó quá phức tạp, dồn dập bao éo le ngang trái. Đây quả là một tư tưởng thất vọng, bi quan ngao ngán chán đời cực kỳ nguy hiểm. Vì manh nha trong nó hình ảnh chết chóc nhằm thoát nợ trần.

Biết vậy nên từ dạo đó mãi về sau, cảm thông hoàn cảnh đặc biệt nầy của nó, tôi lấy quyết định biếu nó những mặt sách mới phát hành của tôi, để nó giữ làm kỷ niệm cùng chung nhau chia xẻ  niềm đau ly hương biệt xứ. Và cũng hy vọng để nó vơi bớt phần nào nỗi bi quan qua những đề tài lạc quan yêu đời tôi thường thăng hoa trong các tác phẩm của tôi. Hơn nữa, tôi biết lúc đó nó đang thất nghiệp, một nỗi khổ tâm nhức nhối đối với những người tứ cố vô thân nơi đất lạ quê người và chỉ sinh sống duy nhứt với số tiền xã hội khiêm nhường mà chính phủ Đức rộng rãi cung ứng cho nó hằng tháng. Thành thật mà nói trong thực tế, tôi chỉ biết nó qua ba mớ thư từ qua lại thuộc loại “kỳ thinh bất kiến kỳ hình”. Vỏn vẻn chỉ có thế. Đơn thuần là vậy. 

Tôi nhớ một lần trước đây cũng khá lâu, khi nhận được sách nó đặt mua, nó vội vàng viết thư hồi âm ngay cho tôi chỉ mấy hôm sau với những lời thật bình dị chân tình, xuất phát từ tấm lòng và ngôn ngữ truyền thống rặc mùi Nam Kỳ Lục Tỉnh. Qua cái giọng phảng phất hơi hướm quê mùa ngay tình nầy của nó, tôi bỗng thấy gần gũi nó vô điều kiện và ngay từ dạo đó. Có lẽ do gốc gác chân quê của dòng tộc tôi với bao nhiêu thế hệ xã thân khai hoang khẩn đất nơi vùng bùn lầy nước đọng khỉ ho cò gáy ngày trước và của chính bản thân tôi nữa nên tôi dễ dàng cảm thông với nó chăng? Mà lời lẽ chân tình bình dị, xuất phát từ trong sâu thẳm lòng mình, nghĩ sao viết ra như vậy, không còn gì quí hơn, vì nó đến rất tự nhiên, không cầu kỳ xảo ngôn xảo ngữ, không bay bướm rườm rà. Tôi bỗng nhớ đến những năm tháng dài mài đũng quần gần như làm láng coón băng ghế nhà trường trung học Petrus Trương Vĩnh Ký Sài Gòn. 


Thuở đó, tôi từng nghe thầy Phan Quốc Quân, giáo sư khả ái của tôi về môn Pháp văn, từng dong dài giải thích lời nói của một tác giả người Pháp tài danh là Nicolas Boileau để làm nguyên tắc chỉ đạo xem như “khuôn vàng thước ngọc” trong việc hành văn: “Cái gì ta quan niệm rõ rệt, ta nói ra rất rõ rệt và tự nhiên chữ nghĩa đến một cách dễ dàng”  (Ce que l’on conçoit bien s’énonce clairement, et les mots pour le dire arrivent aisément). Và những năm gần đây, tôi có đọc những dòng chữ sau đây của lão ký giả Văn Lang Trần Văn Ân, cựu chủ nhiệm tuần báo Đời Mới: “Viết đơn giản, minh bạch, có đầu có đuôi mạch lạc là cần thiết. Tránh vẽ vời cho bóng bẩy, cầu kỳ. Văn cầu kỳ không nên dùng. Văn bóng bẩy được gọi là văn ‘o mèo’ cũng nên tránh… Chớ ham dùng chữ khó. Càng dùng chữ dễ hiểu mà dùng đúng chỗ và vừa đủ, không dài dòng là ‘ăn khách’, tức dễ được cảm tình. Có những dòng văn chương làm người đọc mê say lúc đọc, mà sau thì không còn lưu lại trong đầu điều gì cả. Ta nên tránh. Cần viết một cách thật thà với cả quả tim và đầu óc”.

Trọng Minh hồi âm cho tôi như sau và cũng như những bức thư kế tiếp, tôi nhận thấy chắc mỗi lần cầm viết nó không hề đắn đo suy nghĩ lâu lắc mất thì giờ. Nó chỉ để tình cảm trung thực của mình trào vọt ra ngoài, tuần tự tuôn chảy thông thống trên giấy trắng: “Vừa nhận được quyển sách anh gởi mới hôm qua, nay em vội gát qua một bên mọi việc không cần thiết phúc thư ngay kẻo anh trông và em rất hãnh diện nay có thêm một ông đạo thờ Tổ Quốc. Đọc văn kể chuyện của anh giống như anh đang nói, báo hại em sặc cà phê tùm lùm tà la. Phải nói là em vui hết chỗ kể. Em thấy anh rất tự tin và tự hào nhưng thật chí lý”.

Rồi từ dạo đó, tâm đắc và cảm mến nhau qua thư từ gởi đến gởi đi, ngày nầy tiếp nối ngày khác, hai anh em chúng tôi, một kẻ trung niên vì hoàn cảnh đất nước bất đắc dĩ phải bơ vơ trôi giạt nơi xứ lạ quê người, một người ngấp nghé trước ngưởng cửa “thất thập cổ lai hy” ướm rụng cũng không hơn gì nên thêm gần gũi thân mật để chia xẻ nỗi niềm xa xứ. Quả đây mới đúng là một bạn vong niên tâm đắc, tôi nghĩ rất hiếm hoi nơi đất lạ, không phải lúc nào tôi cũng có dịp may mắn bắt gặp. Nơi cuối thư lần đó, Trọng Minh thành thật xác định dứt khoát thái độ và lập trường trước sau như một của mình khiến tôi càng thêm trọng mến nó hơn:

“Thú thật, từ lúc em bỏ nhà bỏ cửa, bỏ gia đình đi lang bạt bụi đời đến giờ phút nầy đã hơn bốn mươi năm trời dài đăng đẳng, em chưa hề biết và chưa xem một ai là thần tượng của em, kể cả lúc em hăng say tham gia trước đây vào phong trào kháng chiến của đề đốc chủ tịch Hoàng Cơ Minh. Lúc đó, em lên tinh thần nhưng cũng chỉ biết kính trọng ông và tổ chức phục quốc của ông thôi. Chứ còn chữ thần tượng, em ít dùng đến và ít khi để tâm suy nghĩ về cái từ ngữ nầy lắm. Nhưng hôm nay tiếp xúc với anh, em giống như một người có cái ‘radio’ mà bật được đúng đài, đúng băng tầng họ muốn nghe vậy”. Tôi nghe nó tâm sự như vậy bỗng hồi nhớ mấy câu nói cũng của cố lão ký giả Văn Lang Trần Văn Ân cách đây khá lâu, xin được ghi lại nơi đây ý chính: 

- Nguyên tắc chỉ đạo là không phò người, tức không có vấn đề ràng buộc Chúa/Tôi. Mà chỉ thờ Dân Tộc, thờ Tổ Quốc, xuyên qua địa vị của người cầm đầu đất nước, nhưng tuyệt đối không quên ơn tri ngộ.

Có một thư dài bốn năm trang giấy với nét chữ tháo như cua bò, như gà bới nếu tôi dùng lời không quá đà, tôi chóng mắt đọc đến giản nở con ngươi mới nắm được trọn vẹn ý nó muốn diễn đạt và ký gởi trong đó. Nó viết cho tôi qua lời lẽ rất cảm động làm cho tôi thêm thấm thía, bắt phải suy nghĩ hoài:  “Cuối thư anh viết cho em có một đoạn về ‘những ngày hạnh phúc huy hoàng thời Việt Nam Cộng Hòa nay đã mất hút trong quá khứ, nghĩ lại cũng vui, nhưng dù kỷ niệm nào có vui bao nhiêu mà bây giờ nhắc lại sao thấy buồn buồn’. Theo em thì bây giờ nghĩ lại sao thấy cay cay, đắng đắng, tủi tủi, hờn hờn mới phải và mới đúng nghĩa hơn anh à.

 Tủi là vì anh em mình là loại chết trôi, đang bềnh bồng trôi giạt nơi xứ người, như những bựng lục bình héo úa theo con nước lớn ròng xuôi ngược trên con sông Đồng Nai muôn thuở nơi quê em. Còn hờn là nỗi hờn vong quốc, nỗi hờn thất thổ ly hương. Vì phải nhìn nhận một điều là các anh đều thuộc lớp người lớn tuổi có ‘mặc cảm tội lỗi’ trước cái bất lực dằn co nhục nhã của kẻ ‘thất phu hữu trách’ đang ‘ăn năn một đời lầm lỡ, một thuở dạy khờ để mất quê hương’ nên vào lúc cuối đời còn nặng nợ với núi với sông. Còn cái chữ buồn buồn anh dùng đó nên để cho tụi em, cái đám chăn trâu bạt mạng xử dụng mới đúng hơn anh à”.

Ly hương tỵ nạn, làm việc nặng nhọc vất vả trong các hãng xưởng dây chuyền như người máy, nhà trọ mướn khá đắt nhưng hẹp té, con chó con mèo ngồi còn ló cái đuôi dài thượt ra ngoài, day trở bực dọc lại ở chơi vơi nơi làng mạc ngoại ô cách biệt với cộng đồng Việt Nam, Trọng Minh lúc nào cũng cảm thấy bơ vơ trơ trọi, cô đơn lạc lỏng nơi cõi tạm dung. Cô đơn cô độc, nó sống nội tâm nhiều hơn thực tế, vì thực tế đối với nó đã phũ phàng không phải ngay bây giờ mà từ trong cái nôi đại gia đình ra đến ngoài xã hội trước đây. Những đêm sương tuyết băng giá, chập chờn trằn trọc không ngủ, nó không sao quên được quá khứ cứ mãi rình rập đeo đuổi theo nó làm cho nó càng thêm tủi thân tủi phận mình. Trong một thư tâm tình, nó không mắc mướu kín tiếng và không ngần ngại xuống bút viết gởi cho tôi những dòng chữ mà tôi suy đoán nó không sao và không thể nào tránh được bồi hồi dằn xé trong ngấn lệ: “Số anh phước đức rất nhiều đó, cho nên cha mẹ anh mới lót chữ ‘phước’ vào tên anh (Võ Phước Hiếu) để cho anh hưởng. 

Có phước anh cứ hưởng đi. Tận hưởng ngay bây giờ. Chớ đừng có để mất uổng lắm, đến khi chợt biết mình đã đánh mất thì không sao tìm lại được. Chứ còn như em, vào năm Nhâm Thìn bão lụt 1952 ở Biên Hòa, mẹ em sanh em ra có một tháng rồi mất, nên em mồ côi mẹ rất sớm từ đó. Do vậy, em không hiểu đích thật vì sao mẹ em mất và nhứt là không hiểu hết ý nghĩa khắng khít đối với một người mẹ như anh thường nhắc nhớ trong sách, đặc biệt là trong quyển Như Nước Trong Nguồn.  Mẹ em sinh năm 1909 như trong giấy tờ hộ tịch mà em có dịp đọc qua khi đã lớn khôn biết đời chút ít. Đến lúc mẹ em chết có để lại cũng nhiều ruộng đất cho nên sau ngày 30 tháng tư năm 1975, tụi Việt Cộng ác ôn, túi tham không đáy, hợp hành kết tội ba em là thành phần trung nông, phú nông gì đó, chúng cứ mời tới mời lui ‘làm việc’ hoài hoài, ngày lẫn đêm, bực mình hết sức. Nhưng mục tiêu duy nhứt của chúng là nhằm gỡ tay ba em, tịch thu tất cả ruộng đất qua những từ ngữ mỹ miều ‘hợp tác hóa, làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa’ v.v… Chuyện nầy quá dong dài khúc mắc lắm, chắc em sẽ phải kể anh nghe trong những thư sau nầy”.

Nhưng trước hết, Trọng Minh không sao quên được hình ảnh đau thương đầy tủi hờn của những thằng chổng chết trôi trên con sông quê hương cứ ám ảnh đeo đuổi theo nó luôn. Do đó, nhiều lần nó buồn buồn chán chường so sánh những thằng chổng chết trôi nầy với số phận tạm dung bềnh bồng của nó ở Cộng hòa Liên bang Đức, xa hẳn gốc gác cội nguồn, quê hương xứ sở Việt Nam thân yêu của nó. Toàn là những hình ảnh đã khắc ghi sâu đậm trong ký ức nó. Dù năm tháng sóng dập gió dồn, lang bạt trôi nổi khắp bốn vùng chiến thuật ngày trước, cũng như thời gian gần đây sống còn thua loài cầm thú trong ngục tù xã hội chủ nghĩa có bào mòn trí nhớ phần nào không sao tránh khỏi, nhưng mỗi khi nó hồi hướng ngoái nhìn về dĩ vãng đau thương đã qua, vẫn hừng hực sáng trưng như thuở nào. Trọng Minh ký gởi tâm sự mình qua hơi hướm trung thực thật thà của con người chất phát mộc mạc, xuất thân từ vùng thôn quê sông nước bạt ngàn, thơm thơm hương đồng vị đất của tổ tiên dòng tộc. Nguyên là ngôi nhà thênh thang, kinh dinh bề thế ‘tứ đại đồng đường’ của nó nằm trên một cuộc đất chỉ cách con sông Đồng Nai không hơn mươi thước và cách bến đò Xóm Lá, Ngã Ba Cây Keo Biên Hòa khoảng một trăm thước là cùng. 

Nơi đây ký ức hiện về dẫn dắt từng dòng chữ nó: “Ba em là ông Cả, tức người đứng đầu trong làng, một cái làng nhỏ nhắn xinh xinh ngót nghét chừng ba ngàn năm trăm cư dân thời xa lắc xa lơ đó. Người thưa ít chuyện phiền phức nhức đầu, tình nghĩa lại đậm đà thấm thiết lắm. Vì thế anh em của em thường xung phong giúp cha em làm những việc thiện nguyện, nhằm gây phúc lợi cho cộng đồng, cũng như phát huy và bảo vệ cuộc sống an cư lập nghiệp, hạnh phúc thoải mái của bà con trong làng. Hằng năm, hầu như năm nào cũng vậy, không sót một năm nào, em có tham gia cùng các anh lớn và các chú bác bà con trong xóm đi vớt cha chổng chết trôi, mặc dù lúc ấy em còn quá trẻ, ăn chưa no lo chưa tới. Mà chết trôi như anh biết đó, thường không ai biết quê quán, gốc gác cội nguồn. Nhiều xác chết lại xình ươn chương thối, đôi lúc trên đà rã mục.

Thôi thì cứ hè hụi xúm nhau cẩn thận vớt lên rồi tưới trên xác chết năm bảy lít rượu đế, loại rượu ngọn rẽ tiền, xong trùm vào một chiếc chiếu mà mỗi lần đó, em còn nhớ rõ như in cha em động lòng thương xót cứ luôn miệng thúc hối bảo gia nhân mau chân chạy đi mua một chiếc chiếu mới toanh ngoài chợ quận. Sau đó vỏng đem ra đất làng, mà người dân ở xóm em quen gọi là đất công thổ chôn cũng tươm tất lắm. Và bà con không quên ghi trên bia mộ bằng đá xanh rất có tiếng một thời ở núi Bửu Long, Biên Hòa, ba chữ ngắn gọn ‘Ông chết trôi’. Như vậy coi như xong một kiếp con người bất hạnh, lỡ sanh nhằm thời buổi nhiểu nhương trong hoàn cảnh oái oăm ngang trái”. 

Việc nầy theo nó kể trước là làm phước, tích đức mai hậu, kiếp tới không phải vất vả kham khổ, sau để làm sạch sẽ nguồn nước cho bà con hằng triệu người sinh sống dọc dài ven theo hai bên mé sông cùng xài chung. Vì mọi sinh hoạt lớn nhỏ và thường nhựt dù quan trọng hay không của họ hầu như đều xuất phát từ con sông duy nhứt trong xanh nầy. Tôi không thể nào quên được lời kết luận của nó, nay mỗi lần nhớ đến vẫn thấm thía đắng cay trong lòng: “Thật ra cái chữ chết trôi không có gì xấu cả anh à. Có điều là họ không có gốc gác cội nguồn, làng quê thôn ổ. Bây giờ anh thử nghĩ lại xem, tới đây một đôi năm hay nhiều lắm năm mười năm, anh em mình rồi cũng nhắm mắt xuôi tay theo ông theo bà về bên kia thế giới. Anh em mình lại không được may mắn nhìn thấy tận mắt đất nước Việt Nam mình thoát được cảnh đói nghèo, vẫn còn bế tắc đen tối mất tự do, nhân phẩm trong ngục tù xã hội chủ nghĩa. Mấy thằng Tây, thằng Đức lúc đó chúng nó dòm ngôi mộ của mình cũng giống như em kể về mấy ông chết trôi bên nhà vậy thôi”.

Trọng Minh sống cuộc đời mồ côi mồ cúc ngay từ ngày còn trong tháng như nó đã từng thố lộ nhiều lần. Quá sớm. Quá bất hạnh. Nhưng sống được đến hôm nay âu cũng là một cái may hiếm có, mà nếu nói theo đức tin là một ân sủng thiêng liêng dành riêng cho nó. Lúc mẹ nó chết có để lại cuốn sổ ghi đầy đủ ngày sanh tháng đẻ của các con lớn nhỏ. Nó là Trọng Minh sanh lúc 4 giờ sáng ngày mùng bốn… năm Nhâm Thìn. Nhưng năm đó, năm 1952 lụt lớn ở miền Đông làm nhiều người thiệt mạng, nhà cửa hư hao tan hoang đổ nát, bao nhiêu người màn trời chiếu đất. Và vì nước lụt nên thất thoát hết các giấy tờ, sau nầy làm lại thế vì khai sanh cho nên sai bét, không đúng với sự thật. Ngay cả cái tên của nó nữa. Theo nó nghe bà con kể lại thì sau khi mẹ nó sinh nó ra chỉ được đúng một tháng là bà qua đời. Trên trán nó lúc đó có một vành màu trắng như để tang mẹ, giống như khăn tang vậy nên trong đời, nó thường van vái mẹ những khi gặp khó khăn. Về sau, cha của Trọng Minh lại bước thêm một bước nữa và cảnh mẹ ghẻ con chồng không biết có thuận hòa tốt đẹp hay khắc nghiệt chua cay như thế gian truyền tụng qua câu ca dao dưới đây hay không?:

Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời dì ghẻ yêu thương con chồng?
Việc nầy không nghe nó thố lộ và tâm sự với tôi nửa lời. Việc nầy cũng lạ vì thường khi nó hay ký gởi và trang trải những bí ẩn của nó như để vơi bớt nỗi lòng. Hay nó muốn trang trọng giữ kỹ trong lòng mình trường hợp quí hiếm của người mẹ ghẻ rộng lượng, thực sự yêu thương con chồng. Hoặc nó không muốn khơi lại vết thương lòng để đau đớn thêm không ít gì, khi nhắc nhở những ngày tháng lận đận lao đao của kiếp làm con không cùng chung máu mủ ruột rà với người mẹ ghẻ? Nhưng có điều là khi lớn lên, nó cũng được cha nó cùng bà mẹ ghẻ cho đi ăn học đường hoàng như bao đứa trẻ cùng trang lứa trong xóm cho đến dứt cấp tiểu học. Nhưng khi vào trung học ở Biên Hòa, chỉ tới hết lớp đệ lục thì nó đâm ra bỏ học ngang xương, không kèn không trống, không một lời giã từ thầy cô và bạn bè chí thân. Không biết vì nó chán ngán con đường từ chương chữ nghĩa lắm công phu, nhiều khổ nhọc hay vì lý do nó bị gia đình ruồng rẫy bắt buộc phải đi chăn trâu hoặc cày cấy, ngày ngày âm thầm lầm lũi đi theo sau đít trâu để có cơm ngày hai bữa no bụng ấm lòng chăng? 

Tôi suy đoán lung tung như vậy nhưng sau cùng mạnh dạng đặt thẳng vấn đề tế nhị nầy với nó để sau đó nó vui vẻ hồi đáp tôi ngay, không chút dè dặt: “Em viết chánh tả chưa sạch nước cản vì bỏ học ngang xương rất sớm, trong khi đại gia đình em có đến bốn anh chị em lớn đều là giáo chức có nhiệm sở tại tỉnh nhà, một cái nghề vừa lương thiện vừa cao cả. Nhưng lúc em còn đi học ở trường tiểu học, em nhớ cứ mỗi lần em bê bối phạm lỗi lầm, dù quan trọng hay nho nhỏ, ngoài việc bị phạt y như các bạn học sinh khác, em còn bị cộng thêm, đôi khi gấp bốn lần cho đáng đít. Thầy cô còn nói rõ:  Anh chị của trò đều là thầy giáo cô giáo cả, sao trò không cố gắng học hành cần mẫn để có kết quả tốt. Trái lại, trò còn bê tha lười biếng lại hay đùa giỡn phá phách làm mất trật tự trường lớp nên phải trừng trị gấp đôi, gấp ba các trò khác để làm gương.

 Ôi, cái gương nầy sao mà bất công quá đối với lối suy nghĩ non nớt thiếu chiều sâu của em lúc bấy giờ. Lâu ngày chày tháng cứ bị trừng phạt liên miên như vậy, em hết sức bực mình nhưng không hề dám công khai hở môi để phản đối ra mặt, mà chỉ hầm hầm bất mản trong lòng chớ nào biết làm sao cho hả dạ. Cộng thêm là khi về đến nhà, em còn phải lo chăn bốn con trâu cui trâu cổ và hai con bò mộng nữa nên em có phản ứng nghỉ học bất thình lình rất sớm, không ngoài nuôi trong lòng giấc mơ thầm kín đi lang bạt bụi đời, thoát ly gia đình”.

Cuộc đời của Trọng Minh tưởng chừng như vĩnh viễn sẽ phơi lưng trần quần quật không ngừng trên đồng ruộng sông nước quê hương với ngày ngày nắng sớm mưa chiều. Một cuộc đời bình thường không tai tiếng, không đua chen tranh giành, ngoài việc cống hiến mồ hôi công sức hướng về tương lai, xây dựng cơ ngơi gia đình. Nào ngờ một biến cố lịch sử, biến cố bi thảm nhứt trong đời nó, biến đổi cả một cuộc sống tưởng đã an bày của định mệnh. Năm đó là năm Mậu Thân 1968 mà bọn cộng sản Bắc Việt sau 1975, khi đã nắm gọn trong tay vận mệnh đất nước từ Nam chí Bắc, luôn miệng luôn mồm huynh hoang gọi là năm “tập kích chiến lược”. 

Dù chúng đã nướng trọn cả một thế hệ cán bộ nhẹ dạ mù quáng của Mặt trận Giải phóng miền Nam, giúp chúng dọn đường sau nầy thôn tính và “cai trị” dãy đất phía Nam. Lúc ấy, chúng đồng hành đánh phá thủ đô Sài Gòn cùng hầu hết các thị trấn lớn nhỏ và tỉnh lỵ miền Nam nhằm đúng  vào những ngày đầu xuân, người người lớn bé nô nức “quẳng gánh lo”, vui vẻ ăn mừng Tết Nguyên Đán, cầu chúc đất nước sớm thanh bình, toàn dân an cư lạc nghiệp, sống đời hạnh phúc ấm no.  Chúng lật lộng gian dối, bội phản, lưu manh trở mặt, lợi dụng lời cam kết hưu chiến bất thành văn hằng năm giữa hai bên để nuôi tham vọng hão huyền thôn tính bất ngờ miền Nam, nhưng rốt cuộc đành gánh lấy những thất bại chua cay, thảm thương ở khắp cả nước. Toàn dân Miền Nam từ thành thị đến thôn quê đều một lòng nhứt định không nghe theo lời đường mật tuyên truyền đứng lên hưởng ứng cướp chánh quyền như chúng đã đánh giá sai lệch. Trái lại tất cả đều xa lánh chúng, tuôn chạy về phía quân đội quốc gia để được bảo vệ. 

  Nhưng hai bên, các chiến sĩ anh dũng trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa cũng như bộ đội cụ Hồ “sinh Bắc tử Nam” bị thương và thiệt mạng rất nhiều. Chưa kể đến những tan hoang đổ nát khắp hang cùng ngõ hẽm và con số tử vong dân sự cao không sao kể xiết. Tiếng oán than, lời nguyền rũa vang vọng thấu trời xanh. Đêm 14 tháng 4 năm 1968, Việt cộng lén lút kéo về đóng quân tại xã nó. Còn nỗi kinh hoàng hốt hoảng nào hơn đối với người dân cần cù lam lủ, quanh năm chí thú làm ăn lương thiện như gia đình nó. Chúng hùm hổ, rầm rộ chia nhau từng toán năm ba đứa vào lục soát khắp mọi nhà lớn nhỏ trong xóm. Không chừa một nhà nào, kể cả công đường, chùa chiền, đình miếu… những nơi thờ phượng linh liêng. 

Tới đây, tôi xin nhường lời cho nó kể để được trung thực hơn: “…Nhưng vì nhà em là một trong số nhà gạch nền đúc khá to với vườn tược kinh dinh sầm uất trong xã nên mấy anh em em biết hết và biết rõ những ngõ ngách thích hợp để chạy trốn không khó khăn gì lắm, mà lại quá vô tình hay hấp tấp, lung túng dạy dột để giép guốc hầu như đầy đủ ngoài hành lang thềm nhà trước. Đúng khi đó có hai thằng Bắc Kỳ nòi, nói giọng nằng nặng  Bắc Kạn, Bắc Sơn hay Hà Nam Ninh gì đó rất khó nghe, chỉ đoán mò tiếng được tiếng không… Chúng nó hầm hầm bước vào nhà, đôi mắt láo liên lục xét. Dường như chúng sợ hãi, rất mực nghi kỵ những người trong gia đình em, kể cả những động tác vô tình. Một thằng dỏng dạt nói: Thế nầy là thế nào? Thiệt tình mà nói, đây là lần đầu tiên trong đời từ cha sanh mẹ đẻ em mới chứng kiến cái cảnh thiếu điều “xón đái” nầy, vì với cái tuổi mười lăm non chèo thuở đó, đa số lớp trẻ tụi em còn ngu ngơ khờ khạo lắm anh à! 

Chớ nào phải như đám thanh niên ở vào tuổi đó thời bây giờ đâu. Xã hội tiến hóa nhanh chóng và không ngừng đưa đẩy khiến tụi nó khôn lanh trật đời. Hơn nữa, từ nhỏ đến giờ, em lại ở nơi nửa chợ nửa quê, ít khi dám lê la ra tận tỉnh lỵ Biên Hòa ngoài những năm vùi đầu ở trường lớp để biết đó biết đây với người ta.

 Hôm ấy em mới biết được tận mặt tận mày của một tên Việt cộng chánh gốc miền Bắc. Chớ từ trước đến giờ phút đó, em chỉ nghe bà con cô bác trong xóm nói về tụi nó, nhưng em không màng để ý tới bao giờ. Thằng Bắc Kỳ đó lãi nhãi tiếp:  Bác Năm! Thời buổi nầy mà còn học hành gì nữa (vì sau khi ba em nài nĩ viện lý do các cháu còn nhỏ vẫn còn phải đi học hằng ngày). Cho chúng cháu mượn đỡ các anh chỉ trong vòng đôi ba ngày thôi để đi làm nghĩa vụ dân công tải đạn, rồi sau đó chúng cháu sẽ trả về cho bác đầy đủ cả, không thiếu một ai. Mà bác nhớ căn dặn kỹ, bảo mỗi anh chỉ mang theo ba lít gạo là đủ. Không cần phải mang theo những thứ gì khác, cồng kềnh vướng bận lắm. Thật là lời lẻ ngọt liệm đường phèn, lịch sự đến mức nhưng nếu hời hợt nghe theo là chết không kịp trối trăn”.

Nói đến đây, tôi không sao quên được một đoạn thư hiện thực nói lên cái tính mộc mạc thơ ngây ngay tình của một thanh niên Miền Nam tự do chưa biết gì về bọn cộng sản cả. Và thái độ chống đối nếu có chăng đi nữa cũng chỉ là phản ứng tự nhiên xuất phát từ tình thương yêu gia đình, bạn bè làng xóm, xuất phát từ trái tim và tâm lành:  “Lúc mấy thằng Bắc Kỳ nòi vào lục lọi xét nhà, ba em vốn là ông Hương Cả có nhiều nhiệm kỳ đứng đầu ban bệ Hội tề xã, tích lũy kinh nghiệm trường đời cũng lắm và không ít kinh nghiệm chính trị qua thái độ dứt khoát với cộng sản nên có phản ứng đối phó nhạy cảm. Cái phản ứng nhạy cảm nầy của ba em đã từng giúp ba em giải quyết tốt đẹp nhiều việc tranh chấp tưởng chừng không sao giải quyết được. Cũng như việc giữ vững an ninh công cộng, đảm bảo đời sống của xóm làng. 

Ba em rất bình tĩnh nhưng cũng lật đật đến cửa sau mở tung cánh cửa rồi thúc hối tụi em mau chân chuồn nhanh lũi trốn. Chỉ cần nhảy ùm xuống sông là xong chuyện, vì tụi em lội giỏi không thua gì rái cá. Mà chưa chắc đám rái cá lém lỉnh tinh ranh đã thắng tụi em đâu. Mà anh biết không? Con sông Đồng Nai là nơi em bập bủm tập bơi từ lúc còn nhỏ hếu với những kỷ niệm để đời qua nhiều lần hụt giò hụt cẳng uống nước no nê cả bụng, tưởng đâu đã ra ma nếu không có bạn bè cứu vớt kịp thời. Sau nầy lớn lên một chút, không chiều nào em không cùng đám bạn lục lăn lục lữa đùng ra tắm giỡn đến dợp cả năm đầu ngón tay. 

Nó tuy lớn rộng mênh mông sóng nhồi dễ sợ đối với người lạ không quen sông nước, nhưng đối với em nó dễ thương dễ mến biết dường nào. Nó rất khắn khít gần gũi với cuộc sống của em. Nay nơi xứ lạ quê người, mỗi lần gặp một con sông, em đều thấy thoáng hiện lên trong lòng mình hình ảnh con sông Đồng Nai năm xưa mà nghe bùi ngùi thương nhớ. Ngày ấy, nếu may mắn em ùm được xuống nước an toàn thế nào nó cũng bảo bọc che chở em, đố có thằng Việt cộng ma mảnh nào bắt em được. Nhưng không ngờ, ông trời bất dung, tụi nó lại có đứa đứng chận cửa sau, lên cò súng A.K. lắc cắc, miệng thì quát tháo dọa bắn đứa nào bỏ chạy. Quả chúng ‘ma giáo’ hết mức, đã điều nghiên tỷ mỷ địa thế do mấy thằng nằm vùng ra mặt chỉ điểm. Nhưng lúc đó ba em lanh trí chỉ vào em đang đứng kế bên, nói:  Thằng Út Minh nó có tánh khùng khùng điên điên bẩm sinh, xin mấy ông rộng lòng tha nó, để nó ở lại. Trong lúc bất cập đó, em liền ứng khẩu nói một cách máy móc, không cần đến ai chỉ dạy mớm lời cả: Tui khùng, tui khùng mà!

“Cũng lúc đó, em đái ướt mẹ cái quần hết rồi, vì bên tai em nghe rõ ràng thằng Bắc Kỳ khá đứng tuổi, gương mặt xương xương khắc khổ thâm đen dường như là tên chỉ huy thì phải, nó nhấn mạnh từng tiếng một:  Nếu khùng khùng điên điên thì không phải đi tải đạn cực khổ nặng nhọc. Chúng cháu sẽ nhất trí miễn cho nó việc nầy mà chỉ dành cho nó một việc nhẹ nhàng hơn là đi khiêng xác người chết thôi. Hơn nữa, ngoài cái sợ hãi đó, em còn liên tưởng đến bọn Việt cộng, ngoài hai thằng Bắc Kỳ nòi em vừa nói trên đây, chắc lũ chúng nó ở một hành tinh nào khác hoặc mặt mày chúng nó dị họm lắm. Vì thời gian trước đó xã nhà của em được chánh quyền địa phương bình chọn vào hạng A, nằm cách đường chim bay với phi trường Biên Hòa chỉ hai cây số. Mà theo ba em thường kể lại cho con cháu trong nhà nghe, từ sau Hiệp định Đình chiến Genève năm 1954 chia đôi đất nước, bà con trong xã chưa hề trông thấy một thằng Việt cộng nào ló mó léo hánh về đây, kể cả bọn du kích cốc nhái, đá cá lăn dưa cũng không có. 

Nếu có thì chúng nó đã bị tóm cổ cho đi tù rục xương hoặc đã bị an ninh tiêu diệt trong những đợt truy lùn. Qua lời lẽ ngọt ngào nhưng dưới sự uy hiếp của súng ống lo le dằn mặt, mấy anh em em đành nhắm mắt buông xuôi, phú thác cho định mệnh ra sao thì ra. Chớ gia đình em biết làm gì trước võ lực, trước bọn người vô tâm vô hồn không từ chối một việc gì, trong khi mình tay không cô thế. Giữa đêm đen biết nươn cậy vào đâu, biết cầu cứu với ai? Nhưng khi ra đến đường làng đất đỏ, cây cối hai bên vệ đường còn ngáy ngủ vô tư, chỉ khỏi nhà em không bao xa, em gặp hầu như đầy đủ mặt một số bà con trai tráng trong xóm, nhứt là mấy thằng bạn choi choi, phá làng phá xóm, ngày ngày bập bũm ở những vũng trâu nằm hay long dưới dòng nước lềnh bềnh lục bình tươi mướt xuôi ngược của con sông Đồng Nai quen thuộc. 

Chúng nó cùng chung số phận con rệp của anh em em. Bọn em nhìn nhau chia xẻ âu lo, không đứa nào nói nên lời. Nhưng đi được một đoạn khá xa xã nhà, trên những con đường đất uốn éo quanh co không lạ gì đối với tụi em, lúc đó khoảng canh hai canh ba gì đó, em đoán chừng như vậy chớ tai mắt lùng bùng còn biết gì nữa đâu, thì bỗng nghe có tiếng máy nổ văng vẳng từ xa rồi sau đó cứ lớn dần lên để cuối cùng em thấy chiếc trực thăng H34 của Mỹ bắt đầu lù đù hiện ra và vầng vầng không ngưng trên đầu. Em nửa mừng nửa lo. Niềm vui hay là tai họa sắp đến đây? Mừng vì thấy tụi cộng sản đang nhốn nha nhốn nháo, hốt hoảng lo tìm nơi ẩn tránh, ém quân. Chúng không còn kiểm soát chặt chẽ chúng em như lúc đầu hôm nữa. Còn lo vì không biết phản ứng của mình ra sao? Tấn thối lưỡng nan. Mà mọi việc lại xảy ra quá nhanh, suy nghĩ của mình không sao theo kịp. Thừa lúc một chiếc trực thăng quầng quầng sát trên đầu, dù không có bắn súng nhưng tụi em mạnh ai nấy chạy thoát lấy thân, bất chấp nguy hiểm và đếch có sợ mấy thằng Việt cộng đang lăng xăng lích xích lên nòng AK rắc rắc, miệng mồm không ngớt quát tháo hâm dọa cản ngăn…
 


Nhưng em lại sợ nhứt là khi trực thăng Mỹ rọi đèn khám phá ra tụi em đang trốn chui trốn nhủi mà ngỡ là Việt cộng nên bắn nhằm là bỏ mẹ đời! Chết oan chết ức với tuổi đời còn nhỏ, chưa hề nếm một lần lạc thú của trần gian để biết với người ta. Hơn nữa, thỉnh thoảng một trái sáng phựt lên từ trên trời cao càng làm cho tụi em hồn vía lên mây. Tụi em đông cả mấy chục đứa cứ chui riết vô mấy vồng của các vườn mía rậm rạp liền ranh nhau, cắn răng lủi hủi trốn chạy, rách tay rách chưn vì mắc mèo và nhứt là gai mắc cở (Hoa Trinh Nữ của nghệ sĩ Nhật Trường Trần Thiện Thanh) mọc cùng khắp. Đau thì đau, mặc kệ, nhưng tụi em vẫn chạy bán mạng.Thật may mắn làm sao, tụi em tất cả đều thoát thân chạy được về nhà an toàn, không sót một đứa nào cả, tuy mệt xiểng niểng.

 “Đến sáng hôm sau, lúc trời vừa tưng bửng, chim chóc bắt đầu thi đua nhau ríu ra ríu rít ngoài bờ tre tức ngày 15 tháng 4 năm 1968, em tự ên một mình lấy quyết định táo bạo trốn nhà đi bụi, không một lời giải thích lý do, cũng như nhắn tin từ giã tám người anh chị em ruột cùng một cha một mẹ của em, kể cả ông già em mà em rất quý trọng và thương yêu. Quả thật, em đã liều mạng rồi, em dứt khoát, bất cần. Em không nghĩ gì đến lỗi đạo nhà, đến tổn thương dòng tộc, danh giá gia đình. Em không hiểu sao lúc ấy em có thái độ buông cương như vậy. Em trực chỉ xuống ngay Chợ Đồn, đúng ra là nơi Cầu Gành Biên Hòa, cây cầu do thực dân Pháp xây dựng ngày trước vào thời kỳ thịnh trị làm mưa làm gió của chúng để tình nguyện xin nhập ngũ vào binh chủng Biệt Cách 81 Nhảy Dù hiện đang đóng quân tại đây. Như anh thấy đó, lúc ấy em bỗng dưng ngông như thế nào?! Chắc anh sẽ cười thằng nhóc con như em đã bốc đồng quá táo bạo? Nhưng đến giờ phút viết bức thư tâm sự nầy cho anh, em không hề có chút ăn năn sám hối về quyết định của mình.


 Thú thật, một phần em bị cú “sóc” nặng quá đêm trước chưa hẳn hoàn hồn. Mặt khác, em cũng thích đi bụi đời để mong thoát khỏi cảnh gia đình càng sớm chừng nào càng tốt chừng nấy, vì ở đó em không được thoải mái cho lắm. Mà cũng để mơ ước thỏa “chí làm trai”, ngang dọc dọc ngang cho biết đó biết đây với thiên hạ, chứ cứ ru rú quanh quẩn ở nhà bên cha mẹ anh chị em làm sao có cơ hội mở mắt được. Hơn nữa, em không phải vướng bận chi cả, cũng không còn ai ở cạnh bên em để cột chưn cột cẳng mình, ngày ngày đêm đêm lời ra lời vào khuyên lơn, cản ngăn cấm đoán mọi việc, nghe mãi nhức đầu nhức óc lắm. Mặc dù lúc đó cái “chí làm trai” mà em có dịp đọc qua nơi cụ Thượng Nguyễn Công Trứ khi còn đi học ở trường tỉnh Biên Hòa, nó lờ mờ còn hơn trời ba mươi Tết”.

Đến đây, tôi không khỏi vừa bật cười vừa xúc động khi nghe nó kể về diễn tiến những ngày đầu tiên nhập ngũ của nó, một thanh niên chưa đến tuổi trưởng thành, mặt mũi còn non chèo non choẹt: “…Ông trung sĩ nhíu mày ngạc nhiên nhận thấy không khó khăn lắm việc em đã cạo sửa giấy khai sanh nhằm tăng thêm tuổi cho đúng với tuổi hợp lệ để được nhập ngũ mà cái mặt lúc đó búng một cái bốc chắc phải ra từng giọt sữa nữa. Mà chắc có lẽ vì có tịch thường hay rụt rịt, làm điều gian dối em không sao tránh được những cử chỉ lúng túng vụng về gây chú ý người đối thoại? Làm sao em che giấu được sai trái của mình trước cặp mắt tinh vi của những người đầy kinh nghiệm chiến trường như ông trung sĩ nên em dễ bị khám phá chăng? 

Các anh em trang lứa khác, đồng hội đồng thuyền cùng một ngày với em lần lượt được tuyển chọn ngay cho vào các đơn vị tân binh tình nguyện nhập ngũ. Vì theo em biết lúc đó đơn vị cần bổ sung khẩn cấp lính mới. Riêng phần em, khi bị vặn hỏi, em làm liều cương ẩu mong qua truông, cũng quanh co cãi chài cãi cối một đỗi, nhưng sau cùng nhắm không xong, buộc lòng em phải ngập ngừng thú thiệt. Ông trung sĩ có trách nhiệm làm thủ tục không giải quyết được nên sau một lúc dằn co gạn tới hỏi lui nhiều lần cho chắc ăn, ông bèn dắt em đến trình diện ông đại úy đơn vị trưởng mà bốn mươi năm hơn qua đi quá mau, em quên tuốt luốt tên ổng rồi.  Anh thấy đó, trí nhớ em bây giờ tồi tệ bệ rạc quá. Khi nhớ khi quên, mà nhớ thì có lúc nhớ lỏm bỏm mù mờ, nhưng khốn nỗi quên lại nhiều hơn nhớ. Những khổ ải dồn dập trong đời đã tác hại trầm trọng đến con người em như thế đó. 

Không biết giờ phút nầy ông đại úy em vừa nói trên đây còn sống ở quê nhà trong xứ tù chung thân xã hội chủ nghĩa hay đã ra được hải ngoại? Hoặc buồn hơn là thân xác đã rã mục nơi những nghĩa địa hoang vu thuộc vùng núi rừng trùng trùng điệp điệp Việt Bắc do chánh sách cải tạo đầy hận thù đấu tranh giai cấp của cộng sản vô tâm vô hồn? Em nài nĩ riết rồi ông đại úy nhìn em tròng trọc. Ông đang suy nghĩ thì phải. Chập chập, ông mỉm cười, chắc cũng động lòng sao đó nên nói lời cảm thông: Chú mầy còn cái giấy gì khác ngoài giấy khai sanh cạo sửa để chứng minh tuổi tác nữa không? Nhứt là lược giải cá nhân. Em nghe lời nói dịu dàng của ông mà cảm thấy hơi nhẹ nhỏm trong lòng. Và tự tin là khác. Nhưng trời đất thánh thần ơi! Em mới mười lăm tuổi chưa tròn, làm gì có giấy lược giải cá nhân. Theo em biết thì vào thời đó nếu muốn được cấp giấy lược giải cá nhân, người xin cấp phải hội đủ điều kiện mười sáu tuổi tròn mới hợp với thủ tục hành chánh. Mà em thì chí tình thích sống thật, chứ mượn hay mua khai sanh thì em không thích chút nào’’.

Tôi không phải là người sống nhiều năm trong quân đội kiêu hùng Việt Nam Cộng Hòa nên không dám lạm bàn hoặc phiêu lưu vào lãnh vực cao quý nầy. Thôi thì cứ để cho nó hầu chuyện với quí vị là hơn: “Cuối cùng nhờ vào sự nài nĩ tận tình của ông trung sĩ, ông đại úy mới vui vẻ gật đầu bằng lòng. Hôm nay, nơi đây, tôi xin có đôi lời muộn màng chân thành cám ơn ông trung sĩ đã giúp tôi được toại nguyện, phỉ chí. Và ngay tối hôm đó, em gặp lại đầy đủ mặt mấy anh em cùng tình nguyện một lượt với em và được lãnh mỗi người ba mươi đồng để trang trải nhu cầu vệ sinh cá nhân. “Đến ngày khám sức khoẻ, em còn nhớ như in và rất buồn cười lúc ông trung úy bác sĩ quân y mặt mũi trẻ câm lại khá đẹp trai khám tổng quát. Ông đưa tay nhẹ nhàng nâng hai quả “bi” của em lên. Ông se sẻ mò mẫm nắn nót nhanh tay điêu luyện lắm. ‘Nghề của chàng’ mà anh và bảo em ho lớn một tiếng. Em cảm thấy nhột thấy bà nội vì từ cha sanh mẹ đẻ chưa hề gặp trường hợp tế nhị hi hữu nầy. Của quý của mình mà anh, đâu dễ để ai đụng đến bao giờ đâu mà biết cái cảm giác rùng mình dễ thương đó. Nhưng tai em bỗng nghe ông nói: Quả lớn quả nhỏ, không thể học nhảy dù được. Trời đất ơi, em lẩm bẩm trong miệng. Rồi cúi xuống lặng thinh. Quá thất vọng và cũng hơi bực mình, em mới trả lời gọn hơ, không giữ lời tôn ti cấp bực:  Đã tình nguyện đi lính nhảy dù mà rốt cuộc không được cho nhảy dù thì chỉ có nước đào ngũ thôi.

“Thế rồi một lần nữa em hết lời năn nĩ ổng thêm. Cái màn năn nĩ ỉ ôi nầy em thuộc vào hạng ‘sư tổ’ rồi. Em đã từng làm và có chút ít kinh nghiệm đối với ông trung sĩ chỉ mấy khắc đồng hồ trước . Mà thôi, nói cho vui chớ thực ra cũng may mắn nhờ tổ đãi. Cuối cùng ổng xiêu lòng ưng thuận và em cũng được tham dự nhảy năm “xô”. Thực tế còn phải nhảy thêm hai “xô đêm” nữa, nhưng lúc đó nhu cầu đồng bào ở cố đô Huế và tỉnh Thừa Thiên họ mong muốn thấy tận mắt lính nhảy dù về trên thành phố, họ mới chịu ở lại, không còn tính tới chuyện di tản vào Nam. Vì vậy em có làm thêm một “xô” nữa ở Huế, kể ra cũng được sáu “xô” tất cả. Xong em được bổ sung vào tiểu đoàn 7 Dù ngoài căn cứ Hòa Mỹ hướng ra cầu Mỹ Chánh, Quảng Trị…

“Bây giờ em trở lại ngày khám sức khoẻ. Em xin kể tiếp anh nghe. Đúng một tuần lễ sau, tụi em được đưa đến bến Bạch Đằng Sài Gòn và được chuyển trên chiếc tàu 504 mà hình như tàu nầy vào tháng 4 năm 1975 đô đốc Hoàng Cơ Minh cùng hơn một ngàn chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa dùng để di tản thành công đến Phi Luật Tân, nếu trí nhớ của em không phản bội lại em. Trên tàu đó, tụi em được đưa đến Nha Trang cùng với nhiều xe ủi đất. Riêng đám tân binh binh chủng 81 Biệt Kích Dù của tụi em đêm đó ở tại trại Hoàng Diệu. Và hôm sau thì tất cả đều đến quân trường Lam Sơn, Dục Mỹ. Sau chín tuần lễ học tập lại trở về đơn vị trại Hoàng Diệu. Ôi thôi nào là tiền lương, tiền đầu quân… bao nhiêu thứ tiền bỗng dưng vào tay nhiều quá sức tưởng tượng của em, từ trước đến giờ chưa hề biết một cắc một đồng lương là gì. 

Cứ tiền cha mẹ hay anh chị thỉnh thoảng cho dằn túi tha hồ mà rủng rỉnh, chớ nào biết có được đồng tiền cực nhọc dầm dề mồ hôi ra sao. Bây giờ, em mới thấm thía đồng lương nào mà không trần thân vất vả, nhưng dù vậy em cảm thấy sướng ơi là sướng. Vui ơi là vui. Chắc anh đoán biết tâm trạng phấn chấn lửng lơ lơ lửng như đi trên mây của em vào lúc mê tơi đó. Em còn nhớ rõ tiền lương nhiều quá đến đỗi chỉ vỏn vẻn trong một tháng thôi mà em có đến hai ngàn một trăm bảy mươi mốt đồng chẳn chòi. Vì là số tiền đầu tay lại to lớn như thế nên em nhớ mãi khắc ghi trong đầu, không thể nào sai được. 

Cả đến con số lẻ một đồng em còn nhớ như in mà. Nhưng anh biết đó, đồng tiền lúc nào cũng có hai mặt đối ứng nhau. Mặt phải và mặt trái. Mặt cười mặt khóc anh ơi! Từ dạo ‘làm giàu’ bất thình lình nầy, sau đó em bắt đầu bước vào cuộc đời bê tha hư hỏng của một thanh niên vừa chớm lớn lại buông cương. Nào bạc bài cắt tê xì phé, nào hút thuốc lá phì phà như ống khói tàu đò trên sông Đồng Nai của em, nào nhậu rượu bất biết quây quần bên mấy em trẻ đẹp… ba “cái thứ lăng nhăng” của cụ Thượng ngày xưa quyến rủ đeo đuổi khuấy rầy em luôn. Thật phiền hết sức. Nhiều đêm một mình, nhớ gia đình, nhớ anh chị, em cũng thấy cái hại của cuộc sống sa đọa, nhưng khổ nỗi không biết nó có cái ma lực gì cứ tiếp tục quyến rủ lôi cuốn em. Vào cuộc thì dễ như trở bàn tay, không khó nhưng đến lúc định trí muốn rút ra lại khó giàn trời giàn đất.

 Nhưng cũng may cho đời em, chỉ trong một thời gian ngắn, cuộc đời binh nghiệp chong chênh, sống chết trong nháy mắt, sớm chiều, rồi tình chiến hữu gắn bó những lúc khó khăn cần đến sự nương tựa lẫn nhau giúp em nhận thức con đường mình phải đi và đã hoán chuyển đời em để trở thành một đứa không còn buông thả bạt mạng nữa. Dạo đó, em cao 1m68 dáng dóc cũng được đến, nhưng trông em già trước tuổi, tóc lại quăng quăng đen giống y hệt như ông Bảy Tàn trong chuyện có cái tựa là “Quê Hương Lãng Đãng” anh đã kể ở quyển “Quê Cha Quê Mẹ Quê Mình”, em đọc khoái chí tử. Thú thật, em đọc đến mấy lần do tâm đắc, vì giống em quá. Có điều những năm tháng gần đây, bộ nhớ của em dỏm quá chừng, không bằng một phần mười của anh, mặc dù anh trọng tuổi hơn em nhiều. Và em cũng chẳng đủ chữ nghĩa để mong viết lại một khoảng đời mình cho ra hồn”.

Cũng may cho Trọng Minh là cuộc đời binh nghiệp sống chết trong đường tơ kẽ tóc đã trui luyện nó có được một nếp sống hùng và còn là nếp sống lành mạnh gương mẫu của đấng làm trai thời nghiêng ngửa quốc phá gia vong. Với bảy năm ròng rã chiến đấu không ngừng nghỉ trước làn tên mũi đạn của quân thù, nó luôn luôn là một thành viên trong nhóm đi trước đồng đội vì là khinh binh. Nó viết:
“…Việc sống chết mất còn xem như một may rủi của định mệnh, đúng như lời của anh Trung úy Phan Văn Thuận thuộc binh chủng Biệt Động Quân mà anh đã hết lời ca ngợi trong “Ngược Sóng Sông Dài” (thi tập Nửa Mãnh Tình Riêng) là không hiểu sao súng đạn lại chê tụi em và không hiểu sao nhờ đâu tụi em lại sống sót được đến ngày hôm nay. Nhưng sống sót để làm gì? Hay chỉ để đau lòng và chất ngất uất hận chứng kiến cảnh tang khó rã hàng tức tửi của Việt Nam Cộng Hòa ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi bọn cộng sản Miền Bắc lật lộng gian dối cưỡng chiếm bằng súng đạn hận thù và đấu tranh giai cấp, bất chấp những lời cam kết long trọng trong các hiệp ước có quốc tế chứng minh và đảm bảo. Em bị rã ngũ trong buồn tủi uất hận vì trong lòng vẫn còn ấm ức tiêng tiếc không được tham dự  cùng các chiến hữu đánh một trận cuối cùng trong đời của một tên lính quèn như mình để rồi ngẩn ngơ trước những biến chuyển tai hại quá mau của thời cuộc. Em thấm thía về sự cô đơn và nỗi bất lực của những người có tình với quê hương, có tinh thần chiến đấu bảo vệ đất nước vẫn còn sáng rực mà phải đành bó tay buông súng. Em buông súng thật đó, đúng với tinh thần tôn trọng kỷ cương của một quân nhân tuyệt đối chấp hành lệnh thượng cấp. Em buông súng theo lệnh cấp trên nhưng xác nhận với anh, em không hề đầu hàng, không hề phất cờ trắng bao giờ.

 Cách bảy tám năm về trước, em mới thấy rõ mặt những tên Việt cộng khi nó vào nhà ruồng bố tìm bắt em đi tải đạn hoặc khiêng xác chết, thì ngày nay chúng nó nhun nhúc nhởn nhơ khắp nơi trước mặt mình hằng ngày, gieo rắc kinh hoàng cho bà con xóm làng em. Ngay ở xã em, bọn du kích cốc nhái chuyên đắp mô, đào đường, bắn tỉa, chém giết dân lành… ngày nào trốn chui trốn nhủi nay lên mặt lên mày hống hách thấy nhờm tởm phát ghét. Bây giờ là kẻ ngã ngựa sau khi học tập cải tạo mấy ngày ở địa phương, em đành miễn cưỡng xin chui vào làm việc trong một tổ sản xuất công tư hợp doanh. Em hy vọng được yên thân yên phận để qua truông, khỏi bị tên công an khu vực vừa được điều từ miền Bắc vào hài tên hài tuổi, xua đuổi đi vùng kinh tế mới hay giản dân gì đó mà chúng nó huyênh hoang cổ vũ rùm trời rùm đất qua mấy cái ống loa khuếch đại bưng tai nhức óc đặt ngay tại đầu ngõ nhà em, coi như một thiên đường trần gian không bằng”.

Dù vậy, nó vẫn không yên thân để sống một cuộc đời ẩn danh lánh mặt trong âm thầm như nó mơ ước. Nguyên nó có một người anh lớn giàu có ở lãnh vực thương trường trước 1975. Nhà lầu ba tầng đôi ba cái, một số cơ sở thương mãi có tầm vóc ở ngay trung tâm chợ Biên Hòa. Ngoài ra còn nhà cửa riêng kinh dinh đồ sộ ở xã nhà, rồi nào lò gạch, lò đường với nhiều xe vận tải, loại xe thớt dùng để chuyên chở hàng hóa… Do cơ nghiệp đồ sộ kinh dinh đó nên sau tháng Tư Đen, anh nầy khiếp sợ quá đã khờ dại nghe theo lời đường mật “khoan hồng” của cộng sản nhè đi trình diện, cũng không ngoài lý do mơ ước sẽ được yên thân không bị khuấy rầy về sau. Anh ta thật thà khai báo trong những “tờ kiểm điểm” có một thời gian rất ngắn, nhưng đã lâu lắm rồi, từng làm trung sĩ thông ngôn cho quân đội viễn chinh Pháp. Cái thời nhiễu nhương nầy đã mất húc vào dĩ vãng đau buồn quá xa và chắc hẳn nhiều người bây giờ đã quên mất, nhưng không ai bảo, anh nó lại đi khai báo đầu đuôi rành rọt. Rõ là thinh không “lạy ông con ở buội nầy”. 

Cộng sản khoái chí tử. Bỗng dưng lại có con thỏ mập mạp béo tốt no tròn đem dâng hiến, giao nộp vào miệng hùm. Anh nó bị bọn cộng sản trong Ban Quân quản tỉnh bắt vào tù cải tạo ba tháng. Hú hồn cho anh nó vì chỉ nếm mùi tù tội có ba tháng. Nhưng cộng sản đâu phải là đám ngu ngơ khờ dại. Chúng khờ dại ngu ngơ ở lãnh vực điều hành quốc gia, chứ ở lãnh vực cướp của giết người, gian manh hiệp đảng, bán nước buôn dân, bán biển bán đất, tham nhũng để “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên tư bản đỏ”, chúng thuộc thành phần lật lộng tráo trở vào hàng sư tổ. Chỉ cần thời gian ba tháng chưa kịp nếm tất cả mùi vị kham khổ cùng cực của nhà tù xã hội chủ nghĩa, nhưng bấy nhiêu cũng đủ để cho anh nó kê khai tường tận sơ yếu lý lịch với năm ba thế hệ dòng tộc tiếp nối. Việc nầy gián tiếp giúp cho cán bộ quản giáo cộng sản suy tra khảo hạch tỷ mỷ không biết bao nhiêu lần từng của chìm của nổi mà dưới chánh thể tự do dân chủ Việt Nam Cộng Hòa, anh nó tiệm tiến xây dựng được với bao nhiêu mồ hôi nước mắt xuyên suốt mấy thập niên liên tiếp. 

Cuối cùng để đánh đổi mạng sống và nhứt là để thoát khỏi địa ngục trần gian qua biện pháp “khoan hồng” cải tạo đầu môi chót lưỡi của cộng sản, anh nó phải làm giấy long trọng cam kết “tự nguyện dâng hiến”, giao nộp tất cả tài sản cho chúng. Nào nhà lầu, cơ sở thương mãi, nào lò gạch, nào xe du lịch, xe vận tải… để được tự do về nhà chứng kiến cảnh nhà tan, gia đình ly tán, sự sản bay vèo theo mây khói phù du, không kịp trở bàn tay… Rốt cuộc, anh nó chỉ được quyền giữ lại duy nhứt một lò đường thủ công ở xã nhà. Tưởng cũng nên nhắc thêm để minh chứng cái tánh tham lam quá đỗi của cộng sản khi vừa mới về thành đang khát khao đủ thứ thiết bị và tiện nghi hào nhoáng của Mỹ Ngụy để lại. Không phải cộng sản rộng rãi tha mạng cho ông anh nầy, trái hẳn với chủ trương của chúng “thà giết lầm hơn là tha lầm”, “nhổ cỏ phải nhổ tận gốc”. Lý do là vì lúc mới rời hang ổ núi rừng về thành, chúng khù khờ ngu dốt nào có biết kỹ thuật sản xuất và quản lý chi đâu. Ngay như lò đường thủ công, chúng cũng bù trơ bù trớt, ngày ngày xớ rớ như thằng bù nhìn hoặc một hình nộm, loay hoay tới lui như gà mở cửa mả. Nhứt là việc sản xuất đường mật, đường cát trắng, lúc đó là hàng quốc cấm do nhà nước độc quyền quản lý cũng như phần lớn các thứ nhu yếu phẩm khác. 

Cuối cùng, chúng nó cưỡng bức bắt buộc anh nó phải hợp doanh với nhà nước gọi là công tư hợp doanh mà trong thực tế của cải, tư  liệu, chất xám, việc điều hành… nhứt nhứt đều do anh nó chịu trách nhiệm. Còn phần đóng góp của cộng sản chỉ vỏn vẹn có nước bọt, nói quấy nói quá trên trời dưới đất, chỉ đạo ngu dốt vô trách nhiệm mà miệng mồm cứ oang oang vỗ ngực tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ của loài người”. Trên danh nghĩa là ăn chia nhưng cũng trầy vi tróc vẫy, trần ai khoai củ lắm. Người Á Đông ta có câu: “vi phú bất nhân”. Làm giàu thì không có nhân nghĩa. Không biết ông anh nó có bất nhân bất nghĩa, có tàn ác bốc lột hay không, nhưng thấy bà con trong làng trong tỉnh chẳng có ai oán thù anh nó chi cả, trái lại còn tỏ ra trọng vọng kính nể là khác. 

Ngay sau khi ra tù, rất nhiều người quen biết ngày cũ cũng như bà con lối xóm thường lén lút hay dè dặt kéo đến thăm hỏi vấn an. Phải chăng anh nó cũng có tánh rộng lượng thương người, biết xử dụng hợp lý và trọng quý người ăn kẻ ở dưới tay, hơn nữa thường phát tâm bố thí giúp đỡ người nghèo khó chung quanh, làm những điều phúc lợi cho cộng đồng, đúng theo phương châm sáng rực của ông bà huyền tổ thất tổ ngày xưa còn lưu truyền trong dân gian: “trọng hiền quý năng”? Ông anh nó có cái may trong đời là làm giàu ở thời đệ nhứt và đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa, nhưng cái may đó đến từ không thành có và bây giờ dưới chế độ bần cùng xã hội chủ nghĩa, cuối cùng anh nó đi từ có về không. Anh bị trắng tay, sống vất vưởng thoi thóp qua ngày nhưng vẫn không yên thân.

Dạo nầy Trọng Minh chỉ muốn được hưởng cảnh đời trời yên biển lặng và lợi dụng ông anh mình đang làm phụ tá trong ban điều hành của lò đường hợp doanh mà sự thực chính anh nó điều hành mọi việc. Từ chuyện sản xuất, giao tế đến quản lý, còn tên cán bộ cộng sản trưởng ban điều hành chỉ là một hình nộm không hơn không kém, đầu óc bít bôi, lên lớp phát biểu như két làm trò hề rẽ tiền. Nhưng ngặt một nỗi là quyền quyết định tối hậu thuộc về nó. Nó là bí thư của chi bộ cơ sở hợp doanh. Lúc đó cũng như về sau nầy, nhưng lúc đó khắc nghiệt hơn nhiều, cộng sản phát huy chánh sách hận thù đấu tranh giai cấp, dùng biện pháp sưu tra lý lịch để không nhận binh lính “ngụy” vào làm việc trong các cơ quan nhà nước cũng như trong các cơ sở công tư hợp doanh, vì chúng cho là có “nợ máu với nhân dân và nhà nước”. 

Thật tình, chúng chủ trương trừng trị những thành phần của “chế độ cũ”, nhứt là binh lính cũng như thương phế binh bất hạnh của quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn kẹt lại sau 1975, nhằm xua đuổi họ ra khỏi Đô thành Sài Gòn, ra khỏi các tỉnh lỵ và thị trấn lớn miền Nam. Do vậy, đơn xin việc của nó bị chi bộ đảng từ chối mà thật ra anh nó sợ bị chụp mũ liên lụy cũng không dám hé môi để có đôi lời can thiệp. Bây giờ nó thuộc về hạng ăn bám gia đình vốn sa sút đổ vỡ, ngày ngày lê la lang bạt, tụ năm tụ bảy với bạn bè chiến hữu xưa đấu chuyện tào lao qua ngày tháng, mong tìm con đường giải thoát cứu nguy, lặn lội rủ rê tổ chức mua bãi mua ghe tàu vượt biên. Đời trai trẻ, tương lai mù mịt, thực tế hằng ngày kham khổ, tinh thần bị khủng hoảng trầm trọng do công an khu vực bố trí theo dõi, không ngớt khuấy rầy, nhưng không vì vậy bạn bè nó mất đi chiến đấu tính trong việc bảo vệ tổ quốc ngày nào. Tụ tập trong vòng thân mật, nó mò mẫm tập tành bắt chước, nhại y theo những câu vè đường phố bỗng dưng không biết từ đâu được đồng bào mọi từng lớp phổ biến rùm trời để cười vui “xã xú bắp”. 

Những câu vè xuất phát từ trong sâu thẳm tâm hồn những người dân bất mãn, uất ức nhưng đành cam bất lực trước gọng kềm khắc nghiệt của súng đạn và mạn lưới đàn áp của công an nổi chìm nhun nhúc khắp nơi, của cảnh sát rình rập, bắt bớ, vu khống, chém giết không gớm tay. Những câu vè nầy nó đã nghe đầy tai, đôi khi xảy ra công khai trước đám đông cùng tâm đắc chia xẻ niềm đau dằn xé và nỗi uất hận ngút ngàn chung của cả dân tộc. Nó từng thú nhận mình dốt đặc về thơ ca thi phú, vì lúc nhỏ có ăn học bao nhiều đâu, rồi sau đó tình nguyện đăng lính lúc vừa tròn mười lăm tuổi đầu. Nhưng dù vậy, nó vẫn cố gắng tìm kiếm, tự nhặt từng chữ, từng chữ một để đặt được cả thảy bảy mươi câu vè với mục đích để chơi lô tô cho vui vào những ngày lễ lộc lớn hay Tết Nguyên Đán. Những ngày nầy được tổ chức trong vòng hạn hẹp giữa bạn bè chiến hữu chí thân và những người đáng được tin cậy trong bối cảnh “tai vách mạch dừng” cực kỳ nguy hiểm. 

Đối với những người tâm đầu ý hợp nầy, nó không hề sợ bị phản bội, hèn hạ lén lút đi tố giác với chính quyền mới. Bây giờ xin mời bà con hãy lắng tai nghe nó gọi lô tô giải khuây, không văn vẻ cầu kỳ, nhưng mộc mạc chân tình như cuộc đời của nó, ẩn giấu một chút khí khái can trường, xuất phát từ tấm lòng của một con dân Miền Nam bị bức bách mất tự do:
Vè dạo lô tô
Mời thầy mời cô
Xin nghe cho kỷ
Đừng có sơ ý
Mà gạch sai ô
Bắt đầu tôi trộn
Tôi lắc tôi xoa
Tôi móc cờ ra
Cờ ra con mấy
Con gì ra đây (lập lại…)
Con gì ra đây…
Cờ ra con mấy
Con mấy gì đây?...
Hồ Duẫn ngu si
Lấy thân mà đợ
Bà con mà sợ
Nó mãi đè đầu
Sống kiếp ngựa trâu
Cả đời lam lũ
Cơm không no đủ
Con cái học hành
«Chống đối chiến tranh
Chiến tranh Miên Lào
Sau bảy mươi lăm
Khuyên răn con cháu».
Số sáu mươi sáu
(Số sổ 66)
Sáu sáu ra rồi
Con số gì đây?
(Phần nầy cứ sau mỗi lần sổ một con số thì lập lại nhưng ngân dài một chút để chờ móc con số khác)
Bây giờ bước sang lục bát:
Vì sao em ốm xanh xao
Vì sao Bác đảng hồng hào mập thây
Đằng ăn cơm trắng heo quay
Còn em lao động hằng ngày ăn khoai.
Số hai mươi hai
(Xổ số 22).
Ăn phân nổi tiếng cá vồ
Gian manh nổi tiếng có Hồ Chí Minh
Tố cha tỏ dạ trung thành
Trường Chinh Lê Duẫn rừng xanh hay người?
Thứ con nghịch mạng trên đời
Rồi đây sớm muộn đất trời không tha.
Số ba mươi ba
(Xổ số 33).
Vừa qua Việt cộng xử hình
Hai ông Đại Đức tử hình án kêu…
Rằng là tranh đấu nhân quyền
Nhưng nào há sợ gông xiềng tối tăm.
Số năm mươi lăm
(Xổ số 55).
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng đồng
Cảm mình số phận long đong
Chồng đi bộ đội hết mong ngày về
Anh ơi! Bỏ ngũ cho mau
Về với kháng chiến cùng nhau diệt thù.
Là chị Mười Ù
(Xổ số 10).
Hoặc
Thiếu niên con cháu Tiên Rồng
Lấy súng Việt cộng góp công diệt thù.
Là chị Mười Ù.
Tổng cộng có chín mươi con số lô tô nhưng nó chỉ đặt được khoảng bảy mươi số và sau hơn hai mươi năm: «em quên mẹ mất hết rồi. Chỉ còn nhớ sơ sơ vài con số, nay em đọc lại cho anh nghe cũng thấy vui vui». Trong một bức thư nó viết như sau, tôi xin trích nguyên văn để kết thúc bài viết nhằm riêng tặng nó đọc để ôn cố những ngày hạnh phúc, xan xẻ với nhau những nỗi nhục nhằn năm xưa. Nhưng tiếc thay, có một số người vô tình hay cố ý muốn quên, nhưng đối với chúng tôi vẫn hừng hực rực sáng mãi mãi: «Hôm nay Chúa Nhựt, ai có đạo nào thì đi lễ đạo nấy. Người có đạo Thiên Chúa thì đi nhà thờ cầu nguyện. Người đạo Phật đi nhà chùa nghe kinh. Còn riêng em thì Chúa Nhựt em vẫn bế môn nằm nhà, viết đôi lời tâm tình gởi đến anh đây. Hơn nữa, em thuộc đạo thờ Tổ Quốc, vì quan niệm rằng mỗi người đều có tự do chọn lựa đức tin riêng của mình. Nhưng mọi người đã là công dân Việt Nam thì cũng phải có bổn phận thờ chung là Tổ Quốc Việt Nam.
«Và để gắn liền tâm niệm với đạo nên em có mấy câu:
Dù cho lưu lạc phương xa
Nhớ ngày Quốc Tổ tháng Ba mùng Mười
Dù cho lưu lạc phương nào
Lạc Hồng sát cánh tìm về Tổ Tiên.
Con bảy mươi nguyên
(Xổ số 70).
«Vì em nôm na nghĩ rằng từ ngày lập quốc đến nay với các Tổ Hùng Vương, dân tộc Việt Nam mình là một dân tộc có tiếng là hiếu sinh, biết quý trọng sự sống, biết thăng hoa tình thương và qua cái tâm lành cùng quả tim biết rung động nên yêu chuộng công bằng, tự do, độc lập và nhân quyền. Mà một khi mất độc lập, mất tự do, dân tộc mình dám hy sinh tất cả kể cả tánh mạng để chống xăm lăng, nêu cao tinh thần bất khất. Em vững tin như thế anh à!».

                                                           -***-
                               Mục Lục
              Gi anh Võ Phước Hiếu của Phương Triều
Min Nam Lc Tnh trong truyn ký  ca Võ Phước Hiếu  ca Nguyn Vy Khanh                Bng Lit Sĩ
Con Nhn Giăng Tơ
Tình Đt Hương Quê
Thng Gi Lô Tô 

-***-

                                    Võ Phước Hiếu
Bút hiệu Võ Đức Trung
Sinh năm 1933 tại làng Thanh Hà, quận Châu Thành, tỉnh Chợ Lớn, nay thuộc quận Bến Lức, tỉnh Long An (Nam Việt)
Xuất thân từ gia đình giáo chức, cha mẹ đều là giáo viên tỉnh Chợ Lớn
Công chức thời Đệ Nhứt Cộng Hòa
Thời Đệ Nhị Cộng Hòa, sinh sống với nghề tự do trong ngành ấn loát, xuất bản và báo chí
Vượt biên bằng đường biển năm 1979 đến đảo Kuku (Nam Dương)
Tỵ nạn chánh trị tại Pháp từ tháng 11 năm 1979
Tác giả song ngữ Pháp và Việt
Hoạt động văn chương nghệ thuật trước 1975
Ra hải ngoại tiếp tục sáng tác văn thơ đăng rải rác trên báo Pháp và Việt ngữ: Art & Poésie, Horizon 21, Un Coin de Poésie, Bulle du Ternois, Messages (Pháp), Làng Văn (Canada), Quê Hương (Hoa Kỳ), Dân Chúa (Đức)... và nhiều nội san, hội đoàn
Góp mặt trong các tuyển tập:
* Những Cây Viết Miền Nam của nhà văn Nguyễn Văn Ba (Canada – 1990)
* Tiếng Thơ Hải Ngoại của nhà thơ Hoàng Duy (Hoa Kỳ - 1994)
                Được nhà văn Hồ Trường An giới thiệu trong Tập Diễm Ngưng Huy (Hoa Ô Môi – Hoa Kỳ, 2003)
        Được nhà biên khảo Nguyễn Thiên Thụ giới thiệu trong Văn Học Sử Việt Nam: Văn Học Hiện Đại - Tập IV (Gia Hội – Canada, 2006)
        Đã xuất bản:
* Le Chemin Vers La Mer (Poèmes), 1988
* Cœur De Mère (Poèmes), 1989
* Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá (Truyện đồng quê Nam Kỳ Lục Tỉnh), Làng Văn (Canada) 2000
* Hùm Chết Để Da (Truyện đồng quê Nam Kỳ Lục Tỉnh), Làng Văn (Canada) 2001
* Như Nước Trong Nguồn (Truyện đồng quê Nam Kỳ Lục Tỉnh), Hương Cau 2004
* Bên Đục Bên Trong (Tập truyện), Hương Cau 2004
* Niềm Đau Bạc Tóc (Tập truyện), Hương Cau 2005
* Nước Mắt Tình Yêu (Tập truyện), Hương Cau 2006 (Ba tập truyện này viết chung với nhà văn Hiếu Đệ)
* Ba Mươi Năm Niềm Đau Còn Đó (Tuyển tập Thi ca), Hương Cau 2006
* Quê Cha Quê Mẹ Quê Mình (Truyện đồng quê Nam Kỳ Lục Tình), Hương Cau 2006
* Nước Lớn Nước Ròng (Tập truyện), Hương Cau 2007
* Ngàn Sao Lấp Lánh (Tập truyện), Hương Cau  2008 (Hai tập truyện sau cùng nầy viết chung với nhà văn Hiếu Đệ)
* Tình Lính Duyên Thơ (Tuyển tập Thi ca), Hương Cau 2008
* Phi Vân, Nỗi Buồn Hoài Niệm, (Hoài niệm), Hương Cau 2009
* Les Sentiers de l’Exil (Poèmes), Feu Sacré 2009
* Hiếu Đệ Lão Ngoan Đồng, (Hoài niệm), Hương Cau 2010
* Việt Nam Niềm Thương Nỗi Nhớ (Tập truyện viết chung với nhà văn Nguyễn Song Anh), Hương Cau 2011
* Cảnh Đấy Người Đây (Tập truyện viết chung với nhà văn Thôi Hiên), Hương Cau 2011
* Con Nhện Giăng Tơ (Tập truyện), Hương Cau 2012
* Dòng Đời Xuôi Ngược (Tập truyện viết chung với nhà văn Thôi Hiên), Hương Cau 2012
* An Khê Nguyễn Bính Thinh (Hoài niệm), Hương Cau 2013
* Chỉ Là Kỷ Niệm (Tập truyện), Hương Cau 2014
* Một Thuở Yêu Nhau (Tập truyện), Hương Cau 2015.
Sẽ xuất bản:
* Nợ Bút (Kỷ niệm)
* Duyên Văn (Kỷ niệm).
     
                                                                                

No comments: