PHÁ SƠN LÂM - ĐÂM HÀ BÁ
VÕ PHƯỚC HIẾU
In lần thứ nhứt - Làng Văn (Canada) năm 2000.
● Tái bản lần thứ nhứt - Hương Cau năm 2009.
● Tái bản lần thứ hai – Hương Cau năm 2013.
Mục Lục
- Cảm tưởng (bài của Diên Nghị).
- Vét ao ăn Tết.
- Trâu già chẳng nệ dao phay.
- Con quỷ gò bướm quê tôi.
- Nhứt phá sơn lâm nhì đâm Hà Bá.
- Đồ quân ăn cướp.
- Văng vẳng tiếng chuông.
- Đám cháy đầu Xuân.
1. Cảm tưởng (bài của Diên Nghị)
Nền văn hóa nông nghiệp thuở thanh bình ấy, mô tả tâm lý người miền Tây, phởn phơ, lạc quan, an nhiên, yêu đời.
Sanh hoạt thôn làng thể hiện trong tinh thần tự giác, tự nguyện cao, chẳng cần lệch lạc, ích lợi chung được mọi người cùng góp công sức, ít nề hà, so đo, dựa dẫm hoặc đố kỵ. Lao động tay chân, vất vả được đền bù bằng niềm vui, bằng nghĩa tình đồng hương thôn xóm. Một nồi cơm nếp với muối đậu đạm bạc mà vẫn ngon miệng, mặn mòi, phải chăng bắt nguồn từ niềm hưng phấn thuận hòa, thân thương, biết quý chuộng nhau thật tình. Một ít kẻ có lối sống ích kỷ, không nghĩ đến ai ngoài mình, thường bị chê bai, phê phán, nơi chốn bùn lầy nước đọng, đã bộc lộ ý tưởng thật chân thành: “Riêng tao, thì tao sinh đẻ ở đây, lớn lên sống ở đây mà chết, nhất quyết cũng chết ở cái chéo đất này” (Vét Ao Ăn Tết).
Lòng yêu đất, yêu nhà không chỉ nhìn bằng nhãn quan hiện tại, truyền thống dân tộc, máu thịt đã dạy cho lớp kế thừa, khi bà Tư Quán nhắc lại chuyện vét ao. Đây không phải lần đầu tiên, đã nhiều lần sạt lở, cạn kiệt, cũng đã có những bàn tay cần cù trách nhiệm nối tiếp, sửa sang, tu bổ... Bà nghĩ đến một ngày trong mai hậu, thì thằng Xê, điển hình thế hệ trẻ nở nụ cười tin tưởng: “Mười lăm hai mươi lăm năm tới, nếu ao xóm mình sạt nữa, chừng đó sẽ có tụi tui...”.
Những năm tháng bình yên hồn hã ấy, cũng đã có lần vẩn đục nhiễu sự, chiến tranh Nhật, Pháp, Việt Minh tỏa khói lửa tận thôn xóm hiền hòa. Xã hội chủ nghĩa xáo trộn, bung xung, đánh động con người. Chú Năm Nghê, nông dân rắn chắc, to khoẻ, từ cha sanh mẹ đẻ tới giờ, chưa ra tỉnh, ra quận một lần. Cái thủ đô Sài Gòn sát bên lớn nhỏ ra sao, tròn méo ra sao chú cũng không biết, nhưng rồi chú bị nộp tuyển vào lính thợ sang Pháp kỳ Thế chiến Thứ hai - chú bị đi lính, vì con của bọn bang biện, chủ điền giàu có, cầu an sợ chết - được gì ngoài xóm thôn quen thuộc, chôn nhau cắt rốn của chú: “Chú lo âu, với nỗi buồn của chú sẽ là chết trên mảnh đất xa lạ, xa hẳn cái chéo mạ, vồng khoai nơi quê hương”. Chú cũng tự hỏi, mình chết cho ai, vì ai mà mình chết? Con tàu vượt đại dương đưa chú đi, cho đến khi tàn cuộc chiến, trở về. Chẳng bao lâu sau, Việt Minh cầm quyền. Cuộc sống chú hằng ước mơ lại lần nữa bị đe dọa, thử thách. Chú sống cô đơn, cơ cực ở tuổi bảy mươi. Bây giờ có gì ăn nấy, chú thích nói chuyện ngày xưa, tiếng Tây quen miệng không bỏ được, nên bị ghép vào thành phần phản động, làm tay sai cho thực dân! Nhưng chú không ngán ngại, chú thích nói, nói cho bọn trẻ, mỉa mai cái bọn “cách mạng, con cháu thần vô sản” mà tham lam hữu sản, còn tham lam hơn cả thực dân (Trâu Già Chẳng Nệ Dao Phay).
Chuyện anh Tám Thôi, thuộc gia đình cố cựu xóm Phú Thứ, con người hiếu động, ham thích làm việc, không chịu bó gối ngồi yên vô tích sự. Anh luôn muốn vươn lên, hy vọng xoay đảo cuộc đời, cố thoát ra khỏi bầu trời thảm đạm đói khát, nghèo khổ. Anh bỏ thôn, lên Chợ Lớn, xin việc làm. Anh rời cái nghề câu cá bắt tôm mà anh cảm thấy khó ngóc đầu lên được, với cái nghề hèn hạ soi bói, săn chim đâm cá của anh, người xưa nói không sai “nhứt phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”, nên nghèo cứ nghèo mãi tận. Tám Thôi được sự giúp đỡ, có việc làm tại thành phố, dần dà có một vài đứa bạn cảm thông, thân thiết. Chẳng được bao lâu, nhiều điều bất hạnh dồn tới cho mấy đứa bạn Tám Thôi. Cũng do chiến tranh, sản sinh tội ác. Bao người phải chịu oan ức, bức tử không trời đất nào hiểu nổi. Sinh mạng con người trong cuộc bể dâu, bạo lực hung hãn, mù quáng, chỉ bằng thân phận con kiến, con ruồi... Tám Thôi trở lại thôn làng cũ... mong ước an phận như bao nhiêu người cùng cảnh ngộ. Tuổi mỗi ngày mỗi cao, thời thế chuyển đổi không ngừng, cho đến ngày oan trái tháng Tư-1975.
Thêm một lần nữa, tan đàn sẩy nghé. Người ta hô hào “tiến nhanh, tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa” mà thực tế đang tiến nhanh tiến mạnh lùi vào thời đồ đá đói rách và khổ sở. Con sông thơ mộng ngày xưa, Tám Thôi hiện diện tìm sự sống trong cô độc, thì nay, cả xóm nghèo khổ đang tranh nhau săn đuổi cá tôm kiếm sống qua ngày. Tôm cá, do đó, ngày càng khan kiệt. Cuộc sống nhờ vào nguồn lợi trời cho giữa dòng sông nước nay trở nên sẫm đục, mù mờ - nguồn lợi dâng hiến tạo niềm vui cho con người sở tại đã trôi theo chiều sớm, rùng mình từng giờ cho cuộc sống tạm bợ, bấp bênh hôm nay trong chế độ bần cùng chủ nghĩa. Ông Tám Thôi bùi ngùi cho chính khung cảnh xã hội, cho những người dân trên cùng mảnh đất, cùng chia xẻ cho nhau những buồn vui, “bà con xa không bằng láng giềng gần” tiếc nuối hòa lẫn ước mơ không bao giờ có nữa... (Phá Sơn Lâm, Đâm Hà Bá).
Câu ca dao phản ảnh rõ nét thời thế đổi thay, từ khi con cháu ông Hồ “nhun nhúc vào giải phóng Miền Nam”. Mấy tên răng đen mã tấu, kèm thêm bọn “cách mạng 30” bắt đầu dòm ngó nhà cửa, vườn tược của một số đối tượng chế độ cũ. Bọn chúng nhân danh cái đảng cộng, trước tiên bày mưu tính kế, đạo diễn tuồng tích để chiếm đoạt. Nó bước từng bước, chậm rãi mà chắc, gọi là giải quyết có lý có tình. Những người như thằng Vẳng ở giữ nhà cho ông quận trưởng chế độ cũ, nay “cách mạng” cho sở hữu, gán cho thằng Vẳng có công nằm vùng theo giúp đỡ “cách mạng” nhưng thằng Vẳng cũng chỉ là con nợ thí, đóng vai trung gian chuyển tiếp cho con mụ Bảy Rồi, Bí thư xã ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân. Nhiệm vụ thằng Vẳng chấm dứt sau khi chịu ký trao nhà để làm trụ sở, cuối cùng thằng Vẳng trở lại với kiếp sống trong chòi, đầu hè... Mánh lới tước đoạt tinh vi, thằng Vẳng mang đủ tiếng xấu với bà con làng xóm. Và nó vẫn có niềm tin vào trời cao có mắt, ông không để lọt một tội ác nào với bọn gian ác như mụ Bảy Rồi (Đồ Quân Ăn Cướp).
Trong khung cảnh đời sống nông nghiệp, thiếu thốn mọi bề. Ngoài tay lấm chân bùn, mảnh vườn, thửa ruộng, khi mùa màng thất bát, lụt lội tai ương, đau ốm bệnh hoạn, họ tin số mệnh do trời. Niềm tin sâu đậm, tha thiết quá, nhiều lúc trộn lẫn dị đoan, mê tín. Thực tế, nông thôn thuở xa xưa, khan hiếm thuốc men. Họ vẫn thuộc lòng câu “đói ăn rau, đau uống thuốc” nhưng không thể thỏa mãn được. Già bé khi ốm đau, không thuốc men chữa trị, lâu ngày, chỉ tin cậy vào những thầy sống có phù phép đánh đuổi quỷ ma ám hại người. Quỷ ma vô hình, con người cũng hãi sợ sự phá phách tiềm ẩn. Họ truyền tụng quỷ ma nơi nào cũng có, và thường trực ở vùng hoang vu hẻo lánh, gò đống nông thôn. Ông Sáu Kiếm có biệt tài bắt vong nên làng xóm ai cũng nể nang, coi như kẻ ra tay tế độ. Ông sử dụng đủ thứ phù phép là niềm tin của những gia đình có con cháu lâm bịnh. Họ tin là quỷ ma quở phạt, chọc ghẹo, quấy rầy lúc chạng vạng, lúc khuya khoắt, lắng đọng cõi âm. Niềm tin không chỉ một thời, một lúc, mà đã trải qua nhiều thế hệ, già trẻ, khắc sâu vào tận xương tủy. Niềm tin thâm căn cố đế, khó giải bạt một tháng, một ngày.
Ông thầy Sáu Kiếm cao tay ấn nhất định diệt lũ quỷ ma phá làng phá xóm, không nhân nhượng được nữa. Tay cầm hình vong, ông xiết mạnh, vẻ giận dữ :
- “Nhà ngươi tên họ là gì? Phải khai trình cho rõ tông ti họ hàng ngay, kẻo ta nổi nóng mà mang họa.
- Ái da! Ông nới tay một chút cho kẻ hèn này được nhờ. Tôi nghẹt thở sắp chết đến nơi rồi. Nhè cuống họng của tôi mà ông siết mạnh quá. Không khéo bị thương tật. Tôi ngự trị lâu nay ở Gò Bướm này, ai cũng biết. Họ gọi tôi là “Con Quỷ Đầu Đỏ”. Xin ông nhẹ tay giùm!
- A ha! Thì ra nhà ngươi là con quỷ hung hãn, lật lọng, thường xuyên quấy phá dân tình ở đây? Nhà ngươi muốn gì mà đang tâm hãm hại bà con lương thiện vậy? Có ai xa lạ gì đâu? Đều là ruột rà thân thuộc, cùng chung thôn xóm. Hãy khai rõ thêm, ta sẽ tùy nghi cứu xét ‘xử lý’... Nếu không, ta sẽ siết họng cho nhà ngươi tắt thở luôn.
- Lạy ông... Xin ông rũ lòng thương... (Con Quỷ Gò Bướm Quê Tôi).
Nó là con quỷ đỏ, mang bao tai họa cho dân chúng trong vùng... Tác giả muốn gởi gắm một triết lý phổ quát đời sống thực tại, mượn lời ông Sáu Kiếm, thầy bắt vong, rằng: “Mình vượng quỷ ma nó yếu. Mình mạnh chúng nó xuống nước nhỏ, quỳ lạy phục tùng mình ngay”. Thời đại ngày nay trên quê hương, sức mạnh đồng tiền đã tạo cho quỷ ma vô sản cúi đầu hành phục, còn tranh giành, xâu xé nhau triền miên, đưa xã hội đến bờ âm vực tội ác.
Đọc hết 7 truyện ngắn trong toàn tập, Võ Phước Hiếu kể lại qua hồi niệm quá khứ nơi mảnh đất thân thương, nơi phế hưng, nhiễu sự, nhiều giai thoại, thời kỳ, nhiều liên hệ biến cố, cùng nhiều thân phận điển hình thật gần gũi, sống động của miền Tây Nam Bộ. Mỗi nhân vật trong truyện tượng trưng “đất lề quê thói”, nổi bậc bản ngã đặc trưng, cùng với ngôn ngữ Miền Nam chân chất mà phong vị. Tác giả đã vận dụng thứ ngôn ngữ địa phương, người từ miền Trung, miền Bắc có thể không tiếp thu, thứ ngôn ngữ riêng giao tiếp chân tình, và chia xẻ hồn nhiên, không cần hoa mỹ, văn vẻ, rỗng nhạt. Những ‘cụm từ’ “bỏ bụng sơ sơ gần nửa xị”, “cà quơ cà quào”, “đăng đăng đê đê”, “thét rồi cả hai...”, “cắc ca cắc củm”, “chằn ăn trăn quấn”, “mỏ hò mỏ ó”, “cò ke lục chốt”, “chàn hản chê hê”, “bù trơ bù trớt”, “lạ hoắc lạ huơ”, v.v... và những cái tên không thể lẫn vào một nơi nào khác, nhất định là miền Tây đất mẹ. Những bà Tư Trầu, bà Mười Phận, Tám Thôi, Sáu Kiếm, Bảy Bèo, Năm Nghê, Sáu Củ Nừn, Hai Xệ, Thím Bảy, Mợ Năm v.v... và những địa danh Rạch Rít, Gò Đen... nghe thân thương hương đồng vị đất.
Lâu lắm, kể từ thời trước tháng Tư tai họa, đọc Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, nổi cộm văn học đặc trưng ngôn ngữ văn chương miền Nam, đến nay, tiếp nhận “Phá Sơn Lâm, Đâm Hà Bá” của Võ Phước Hiếu tại hải ngoại. Tác giả tái họa cuộc sống, văn hóa nông nghiệp nông thôn, quần chúng bình dân xa thành thị, họ sống quần tụ bằng tình thương giúp đỡ, đùm bọc nhau, thành thật chia ngọt xẻ bùi, khi tối lửa tắt đèn, khi trở trời trái gió. Tác giả cũng đã ghi lại những kỷ niệm xa xưa, những tâm tình, mơ ước thanh bình, hạnh phúc, ấm no vĩnh cửu, những nhớ nhung về một quê nhà xa xôi ngăn cách. Nghịch cảnh định mệnh đã đưa đẩy tác giả bồng bềnh trong kiếp lưu đày tạm bợ, tác giả vẫn vững niềm tin: “còn người thì còn của, còn sống là còn hy vọng”. Còn nhiệt huyết, quyết tâm thì còn cơ hội tin tưởng ở tương lai mai hậu.
Chuyện kể, có thể là chuyện xảy ra hằng ngày bình thường mà mức độ truyền cảm thấm thía. Thấm thía cho kiếp người, thương xót cho đất nước và sinh mệnh dân tộc đang chịu dập vùi, tha hóa, sa đọa dưới bàn tay vô đạo, vô thần, phi nhân phi nghĩa...
“Phá Sơn Lâm, Đâm Hà Bá” có vị trí riêng biệt trong tủ sách văn học Việt Nam hôm nay.
Ra đi gặp vịt cũng lùa
Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu.
Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu.
Sanh hoạt thôn làng thể hiện trong tinh thần tự giác, tự nguyện cao, chẳng cần lệch lạc, ích lợi chung được mọi người cùng góp công sức, ít nề hà, so đo, dựa dẫm hoặc đố kỵ. Lao động tay chân, vất vả được đền bù bằng niềm vui, bằng nghĩa tình đồng hương thôn xóm. Một nồi cơm nếp với muối đậu đạm bạc mà vẫn ngon miệng, mặn mòi, phải chăng bắt nguồn từ niềm hưng phấn thuận hòa, thân thương, biết quý chuộng nhau thật tình. Một ít kẻ có lối sống ích kỷ, không nghĩ đến ai ngoài mình, thường bị chê bai, phê phán, nơi chốn bùn lầy nước đọng, đã bộc lộ ý tưởng thật chân thành: “Riêng tao, thì tao sinh đẻ ở đây, lớn lên sống ở đây mà chết, nhất quyết cũng chết ở cái chéo đất này” (Vét Ao Ăn Tết).
Lòng yêu đất, yêu nhà không chỉ nhìn bằng nhãn quan hiện tại, truyền thống dân tộc, máu thịt đã dạy cho lớp kế thừa, khi bà Tư Quán nhắc lại chuyện vét ao. Đây không phải lần đầu tiên, đã nhiều lần sạt lở, cạn kiệt, cũng đã có những bàn tay cần cù trách nhiệm nối tiếp, sửa sang, tu bổ... Bà nghĩ đến một ngày trong mai hậu, thì thằng Xê, điển hình thế hệ trẻ nở nụ cười tin tưởng: “Mười lăm hai mươi lăm năm tới, nếu ao xóm mình sạt nữa, chừng đó sẽ có tụi tui...”.
Những năm tháng bình yên hồn hã ấy, cũng đã có lần vẩn đục nhiễu sự, chiến tranh Nhật, Pháp, Việt Minh tỏa khói lửa tận thôn xóm hiền hòa. Xã hội chủ nghĩa xáo trộn, bung xung, đánh động con người. Chú Năm Nghê, nông dân rắn chắc, to khoẻ, từ cha sanh mẹ đẻ tới giờ, chưa ra tỉnh, ra quận một lần. Cái thủ đô Sài Gòn sát bên lớn nhỏ ra sao, tròn méo ra sao chú cũng không biết, nhưng rồi chú bị nộp tuyển vào lính thợ sang Pháp kỳ Thế chiến Thứ hai - chú bị đi lính, vì con của bọn bang biện, chủ điền giàu có, cầu an sợ chết - được gì ngoài xóm thôn quen thuộc, chôn nhau cắt rốn của chú: “Chú lo âu, với nỗi buồn của chú sẽ là chết trên mảnh đất xa lạ, xa hẳn cái chéo mạ, vồng khoai nơi quê hương”. Chú cũng tự hỏi, mình chết cho ai, vì ai mà mình chết? Con tàu vượt đại dương đưa chú đi, cho đến khi tàn cuộc chiến, trở về. Chẳng bao lâu sau, Việt Minh cầm quyền. Cuộc sống chú hằng ước mơ lại lần nữa bị đe dọa, thử thách. Chú sống cô đơn, cơ cực ở tuổi bảy mươi. Bây giờ có gì ăn nấy, chú thích nói chuyện ngày xưa, tiếng Tây quen miệng không bỏ được, nên bị ghép vào thành phần phản động, làm tay sai cho thực dân! Nhưng chú không ngán ngại, chú thích nói, nói cho bọn trẻ, mỉa mai cái bọn “cách mạng, con cháu thần vô sản” mà tham lam hữu sản, còn tham lam hơn cả thực dân (Trâu Già Chẳng Nệ Dao Phay).
Chuyện anh Tám Thôi, thuộc gia đình cố cựu xóm Phú Thứ, con người hiếu động, ham thích làm việc, không chịu bó gối ngồi yên vô tích sự. Anh luôn muốn vươn lên, hy vọng xoay đảo cuộc đời, cố thoát ra khỏi bầu trời thảm đạm đói khát, nghèo khổ. Anh bỏ thôn, lên Chợ Lớn, xin việc làm. Anh rời cái nghề câu cá bắt tôm mà anh cảm thấy khó ngóc đầu lên được, với cái nghề hèn hạ soi bói, săn chim đâm cá của anh, người xưa nói không sai “nhứt phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”, nên nghèo cứ nghèo mãi tận. Tám Thôi được sự giúp đỡ, có việc làm tại thành phố, dần dà có một vài đứa bạn cảm thông, thân thiết. Chẳng được bao lâu, nhiều điều bất hạnh dồn tới cho mấy đứa bạn Tám Thôi. Cũng do chiến tranh, sản sinh tội ác. Bao người phải chịu oan ức, bức tử không trời đất nào hiểu nổi. Sinh mạng con người trong cuộc bể dâu, bạo lực hung hãn, mù quáng, chỉ bằng thân phận con kiến, con ruồi... Tám Thôi trở lại thôn làng cũ... mong ước an phận như bao nhiêu người cùng cảnh ngộ. Tuổi mỗi ngày mỗi cao, thời thế chuyển đổi không ngừng, cho đến ngày oan trái tháng Tư-1975.
Thêm một lần nữa, tan đàn sẩy nghé. Người ta hô hào “tiến nhanh, tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa” mà thực tế đang tiến nhanh tiến mạnh lùi vào thời đồ đá đói rách và khổ sở. Con sông thơ mộng ngày xưa, Tám Thôi hiện diện tìm sự sống trong cô độc, thì nay, cả xóm nghèo khổ đang tranh nhau săn đuổi cá tôm kiếm sống qua ngày. Tôm cá, do đó, ngày càng khan kiệt. Cuộc sống nhờ vào nguồn lợi trời cho giữa dòng sông nước nay trở nên sẫm đục, mù mờ - nguồn lợi dâng hiến tạo niềm vui cho con người sở tại đã trôi theo chiều sớm, rùng mình từng giờ cho cuộc sống tạm bợ, bấp bênh hôm nay trong chế độ bần cùng chủ nghĩa. Ông Tám Thôi bùi ngùi cho chính khung cảnh xã hội, cho những người dân trên cùng mảnh đất, cùng chia xẻ cho nhau những buồn vui, “bà con xa không bằng láng giềng gần” tiếc nuối hòa lẫn ước mơ không bao giờ có nữa... (Phá Sơn Lâm, Đâm Hà Bá).
... “Muốn nói ngang làm quan mà nói”. ...
“Con ơi nhớ lấy câu này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”.
“Con ơi nhớ lấy câu này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”.
Câu ca dao phản ảnh rõ nét thời thế đổi thay, từ khi con cháu ông Hồ “nhun nhúc vào giải phóng Miền Nam”. Mấy tên răng đen mã tấu, kèm thêm bọn “cách mạng 30” bắt đầu dòm ngó nhà cửa, vườn tược của một số đối tượng chế độ cũ. Bọn chúng nhân danh cái đảng cộng, trước tiên bày mưu tính kế, đạo diễn tuồng tích để chiếm đoạt. Nó bước từng bước, chậm rãi mà chắc, gọi là giải quyết có lý có tình. Những người như thằng Vẳng ở giữ nhà cho ông quận trưởng chế độ cũ, nay “cách mạng” cho sở hữu, gán cho thằng Vẳng có công nằm vùng theo giúp đỡ “cách mạng” nhưng thằng Vẳng cũng chỉ là con nợ thí, đóng vai trung gian chuyển tiếp cho con mụ Bảy Rồi, Bí thư xã ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân. Nhiệm vụ thằng Vẳng chấm dứt sau khi chịu ký trao nhà để làm trụ sở, cuối cùng thằng Vẳng trở lại với kiếp sống trong chòi, đầu hè... Mánh lới tước đoạt tinh vi, thằng Vẳng mang đủ tiếng xấu với bà con làng xóm. Và nó vẫn có niềm tin vào trời cao có mắt, ông không để lọt một tội ác nào với bọn gian ác như mụ Bảy Rồi (Đồ Quân Ăn Cướp).
Trong khung cảnh đời sống nông nghiệp, thiếu thốn mọi bề. Ngoài tay lấm chân bùn, mảnh vườn, thửa ruộng, khi mùa màng thất bát, lụt lội tai ương, đau ốm bệnh hoạn, họ tin số mệnh do trời. Niềm tin sâu đậm, tha thiết quá, nhiều lúc trộn lẫn dị đoan, mê tín. Thực tế, nông thôn thuở xa xưa, khan hiếm thuốc men. Họ vẫn thuộc lòng câu “đói ăn rau, đau uống thuốc” nhưng không thể thỏa mãn được. Già bé khi ốm đau, không thuốc men chữa trị, lâu ngày, chỉ tin cậy vào những thầy sống có phù phép đánh đuổi quỷ ma ám hại người. Quỷ ma vô hình, con người cũng hãi sợ sự phá phách tiềm ẩn. Họ truyền tụng quỷ ma nơi nào cũng có, và thường trực ở vùng hoang vu hẻo lánh, gò đống nông thôn. Ông Sáu Kiếm có biệt tài bắt vong nên làng xóm ai cũng nể nang, coi như kẻ ra tay tế độ. Ông sử dụng đủ thứ phù phép là niềm tin của những gia đình có con cháu lâm bịnh. Họ tin là quỷ ma quở phạt, chọc ghẹo, quấy rầy lúc chạng vạng, lúc khuya khoắt, lắng đọng cõi âm. Niềm tin không chỉ một thời, một lúc, mà đã trải qua nhiều thế hệ, già trẻ, khắc sâu vào tận xương tủy. Niềm tin thâm căn cố đế, khó giải bạt một tháng, một ngày.
Ông thầy Sáu Kiếm cao tay ấn nhất định diệt lũ quỷ ma phá làng phá xóm, không nhân nhượng được nữa. Tay cầm hình vong, ông xiết mạnh, vẻ giận dữ :
- “Nhà ngươi tên họ là gì? Phải khai trình cho rõ tông ti họ hàng ngay, kẻo ta nổi nóng mà mang họa.
- Ái da! Ông nới tay một chút cho kẻ hèn này được nhờ. Tôi nghẹt thở sắp chết đến nơi rồi. Nhè cuống họng của tôi mà ông siết mạnh quá. Không khéo bị thương tật. Tôi ngự trị lâu nay ở Gò Bướm này, ai cũng biết. Họ gọi tôi là “Con Quỷ Đầu Đỏ”. Xin ông nhẹ tay giùm!
- A ha! Thì ra nhà ngươi là con quỷ hung hãn, lật lọng, thường xuyên quấy phá dân tình ở đây? Nhà ngươi muốn gì mà đang tâm hãm hại bà con lương thiện vậy? Có ai xa lạ gì đâu? Đều là ruột rà thân thuộc, cùng chung thôn xóm. Hãy khai rõ thêm, ta sẽ tùy nghi cứu xét ‘xử lý’... Nếu không, ta sẽ siết họng cho nhà ngươi tắt thở luôn.
- Lạy ông... Xin ông rũ lòng thương... (Con Quỷ Gò Bướm Quê Tôi).
Nó là con quỷ đỏ, mang bao tai họa cho dân chúng trong vùng... Tác giả muốn gởi gắm một triết lý phổ quát đời sống thực tại, mượn lời ông Sáu Kiếm, thầy bắt vong, rằng: “Mình vượng quỷ ma nó yếu. Mình mạnh chúng nó xuống nước nhỏ, quỳ lạy phục tùng mình ngay”. Thời đại ngày nay trên quê hương, sức mạnh đồng tiền đã tạo cho quỷ ma vô sản cúi đầu hành phục, còn tranh giành, xâu xé nhau triền miên, đưa xã hội đến bờ âm vực tội ác.
Đọc hết 7 truyện ngắn trong toàn tập, Võ Phước Hiếu kể lại qua hồi niệm quá khứ nơi mảnh đất thân thương, nơi phế hưng, nhiễu sự, nhiều giai thoại, thời kỳ, nhiều liên hệ biến cố, cùng nhiều thân phận điển hình thật gần gũi, sống động của miền Tây Nam Bộ. Mỗi nhân vật trong truyện tượng trưng “đất lề quê thói”, nổi bậc bản ngã đặc trưng, cùng với ngôn ngữ Miền Nam chân chất mà phong vị. Tác giả đã vận dụng thứ ngôn ngữ địa phương, người từ miền Trung, miền Bắc có thể không tiếp thu, thứ ngôn ngữ riêng giao tiếp chân tình, và chia xẻ hồn nhiên, không cần hoa mỹ, văn vẻ, rỗng nhạt. Những ‘cụm từ’ “bỏ bụng sơ sơ gần nửa xị”, “cà quơ cà quào”, “đăng đăng đê đê”, “thét rồi cả hai...”, “cắc ca cắc củm”, “chằn ăn trăn quấn”, “mỏ hò mỏ ó”, “cò ke lục chốt”, “chàn hản chê hê”, “bù trơ bù trớt”, “lạ hoắc lạ huơ”, v.v... và những cái tên không thể lẫn vào một nơi nào khác, nhất định là miền Tây đất mẹ. Những bà Tư Trầu, bà Mười Phận, Tám Thôi, Sáu Kiếm, Bảy Bèo, Năm Nghê, Sáu Củ Nừn, Hai Xệ, Thím Bảy, Mợ Năm v.v... và những địa danh Rạch Rít, Gò Đen... nghe thân thương hương đồng vị đất.
Lâu lắm, kể từ thời trước tháng Tư tai họa, đọc Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, nổi cộm văn học đặc trưng ngôn ngữ văn chương miền Nam, đến nay, tiếp nhận “Phá Sơn Lâm, Đâm Hà Bá” của Võ Phước Hiếu tại hải ngoại. Tác giả tái họa cuộc sống, văn hóa nông nghiệp nông thôn, quần chúng bình dân xa thành thị, họ sống quần tụ bằng tình thương giúp đỡ, đùm bọc nhau, thành thật chia ngọt xẻ bùi, khi tối lửa tắt đèn, khi trở trời trái gió. Tác giả cũng đã ghi lại những kỷ niệm xa xưa, những tâm tình, mơ ước thanh bình, hạnh phúc, ấm no vĩnh cửu, những nhớ nhung về một quê nhà xa xôi ngăn cách. Nghịch cảnh định mệnh đã đưa đẩy tác giả bồng bềnh trong kiếp lưu đày tạm bợ, tác giả vẫn vững niềm tin: “còn người thì còn của, còn sống là còn hy vọng”. Còn nhiệt huyết, quyết tâm thì còn cơ hội tin tưởng ở tương lai mai hậu.
Chuyện kể, có thể là chuyện xảy ra hằng ngày bình thường mà mức độ truyền cảm thấm thía. Thấm thía cho kiếp người, thương xót cho đất nước và sinh mệnh dân tộc đang chịu dập vùi, tha hóa, sa đọa dưới bàn tay vô đạo, vô thần, phi nhân phi nghĩa...
“Phá Sơn Lâm, Đâm Hà Bá” có vị trí riêng biệt trong tủ sách văn học Việt Nam hôm nay.
Diên Nghị
Tên thật Dương Diên Nghị
Sinh quán: Lệ Thủy, Quảng Bình (TV)
Sinh năm 1933
Tốt nghiệp Cử nhân Luật trước 1975
Làm thơ từ 1950
Giải thưởng Thi Ca Tao Đàn – Xuân 60
Ủy viên Thơ, Ban Chấp hành Trung ương Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội VNCH
Định cư tại Hoa Kỳ năm 1993, diện tỵ nạn
Một trong những sáng lập viên Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn tại Bắc California từ 1995
Tác phẩm:
Sinh quán: Lệ Thủy, Quảng Bình (TV)
Sinh năm 1933
Tốt nghiệp Cử nhân Luật trước 1975
Làm thơ từ 1950
Giải thưởng Thi Ca Tao Đàn – Xuân 60
Ủy viên Thơ, Ban Chấp hành Trung ương Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội VNCH
Định cư tại Hoa Kỳ năm 1993, diện tỵ nạn
Một trong những sáng lập viên Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn tại Bắc California từ 1995
Tác phẩm:
* Khái Luận Về Thơ Mới, 1956
* Xác Lá Rừng Thu (Thơ), 1956
* Chuyện Của Nàng (Thơ), 1962
* Rừng, Đỗ Quyên Và Kẻ Lạ (Thơ), 1971
* Vùng Trời Mây Trắng (Truyện dài), 1972.
* Xác Lá Rừng Thu (Thơ), 1956
* Chuyện Của Nàng (Thơ), 1962
* Rừng, Đỗ Quyên Và Kẻ Lạ (Thơ), 1971
* Vùng Trời Mây Trắng (Truyện dài), 1972.
2. Vét ao ăn Tết
Ông Bảy Sô đã ngà ngà qua mấy từng rồi, tay run run cầm nhạo rót rượu
vào hai cái ly lốm đốm dấu tay. Ông lừ nhừ, giọng nói khàng khàng như
tắt tiếng, giống hệt mấy anh kép hát bội hạng nhì hạng ba được thầy
tuồng xếp vai cho ra giáo đầu, trong khi khán giả bình dân ở giàn cá kèo
ồn ào không thua chợ chồm hỏm hợp định kỳ hằng tháng ở đầu làng:
- Bà ơi! Rượu này pha hôm nào mà chẳng có bọt bèo chi cả? Tôi chiết nó đúng ở cái bong bóng sát giàn bếp kia cà.
Bà Bảy cũng chẳng hơn gì ông Bảy. Từ hừng đông sáng thức dậy, bà đã bỏ bụng sơ sơ gần nửa xị. Bà chẩm rải bước ngang ngạch cửa ăn thông ra nhà trước, vừa nhướng đôi mắt lờ đờ mơ màng, lúc nào hai mí trên cũng muốn sụp hẳn xuống, vừa nói:
- Rượu nào mà không bọt bèo? Ông giả bộ hoài! Ông nói thiệt hay giỡn chơi vậy ông kẹ? Mới hồi tưng bửng gà gáy, thằng Chín Tý qua đập cửa rầm rầm hỏi mua một lít. Nó nếm thử, khen ơi là khen. Bà trở giọng :
- À, cũng phải mà! Bọt đâu có bọt phải không ông? Ông xỉn quất cần câu rồi!? Trời đất thiên địa ơi ngó xuống mà coi nè! Kìa, ông rót trót lọt ra ngoài bàn, tôi đoán độ cả nửa ly, còn đọng vũng đó.
Ông Bảy vội lắc lắc đầu do tật cha sanh mẹ đẻ từ nhỏ. Ông vội đưa tay chít lại cái khăn chéo trắng đã ngã màu nâu từ lâu, làm cho mớ tóc muối tiêu của ông không còn lù xù bồng bềnh. Ông đằng hắng cãi lại:
- Hứ! Say đâu mà say? Tôi uống năm ba tỉn nước mắm, cả hũ, cả khạp da bò cũng chả thấm thía gì! Bợm nhậu tiếng tăm nổi như cồn vùng này bà không nhớ sao?
Giọng ông như phân trần:
- Bữa nay, tay tôi sao bỗng dưng run run kỳ lạ vậy cà! Mới nhậu có cái chân gà chưa hết xị mà. Làm thêm cái nữa đủ cặp, chắc hết run phải không bà?
Ông day qua phía bà Bảy hỏi:
- Bà còn làm gì nữa đó? Cứ nấn ná không chịu vào mâm cho rồi. Đồ ăn nguội lạnh hết. Cả ruồi lằn nữa... Coi được cứ lên mâm cho vui. Thấy bà ăn tôi mới mắc thèm bắt trớn. Ăn ên một mình ngon cái nổi gì?
Vừa đi, bà Bảy vừa trả lời:
- Biết rồi! Ông bợm khét tiếng vùng mình mà. Khét tiếng hồi nhỏ... lúc ông Nhược ỉa cứt su, chứ bây giờ ông như ông Táo ngồi lù đù cú rũ ở gốc me bên đình kìa, cà quơ cà quào chờ Ngọc Hoàng giũ sổ! Bà bỗng nói lẫy, cau có:
- Ông đói ăn trước đi. Nước cất rượu đã nóng. Thay nước xong, tôi vào ngay. Ông làm như tôi chặt ruột không biết đói à!
Bà Bảy đẩy củi vào lò nấu rượu, can lửa cháy đều, liu riu liu riu. Xong, bà quày quả lên mâm, vén vạt áo ngồi trên ván ngựa, thòng hai chân xuống đất. Bà chà xát hai lòng bàn chân qua lại đôi ba lần cho bụi cát bụi đất bay bớt đi. Xong bà xếp một chân gọn lỏn, chân kia gập lại chỏi thẳng lên, vói tay xắp lại chén dĩa, thức ăn thức uống cho ngay hàng ngăn nắp. Ông Bảy chép miệng làm lành:
- Tôi thật vô công rồi nghề, ngày ngày chẳng làm chuyện gì nên thân. Sáng chiều cứ lai rai vô tích sự. Tôi mới làm tiếp cái đầu gà. Con gà giò bông lúa đang trổ mã bị thằng Xê phang xiểng niểng, xà lếch xà lếch mấy bữa nay. Tôi cứ tưởng nó còn nhỏ hếu hôi lông, không dè mềm mại ngọt thịt quá.
Bà Bảy hơi phật ý:
- Gà giò gà chạy không ngọt thịt sao được? Ông nói gì kỳ lạ quá? Khéo vẽ duyên! Tôi nghe không lọt lỗ tai. Lãng xẹt!
Bà nguýt khẽ:
- Làm như ông mới ăn thịt gà giò, gà chạy lần đầu. Thiên hạ chòm xóm nghe, họ cười tôi thúi đầu. Họ kêu rêu tôi tổn thọ. Họ tưởng đâu tôi siết hầu siết họng không cho ông ăn, trong khi gà vịt nhà mình nheo nhóc đầy đàn, rậm rật trong vườn ngoài ngõ.
Ông Bảy biết ý vợ, bèn vả lả:
- Bà xem này! Đến cái xương sọ cũng mềm rụm. Răng cỏ tôi như cây trốc gốc, xiêu vẹo, cái này đéo bà cái kia mà tôi nhai nát ngướu, chứ đâu như thằng Năm Ống Quyển. Nó nhỏ hơn tôi ít ra cũng năm bảy tuổi gì lận, nhưng trơ nướu móm xọm. Vậy mà nó giống tôi, rất thích đầu gà đầu vịt. Tôi cam đoan nó chỉ mút mút chép chép đỡ ghiền, chớ nó làm sao thưởng thức được cái óc gà béo bổ thâm thúy bên trong.
Ông lại cười khề khà:
- “Trai thời trung hiếu làm đầu” phải không bà? Phần tôi xong rồi. Tôi vừa chiết thêm một nhạo nữa đó. Bây giờ tới lượt bà đi. “Gái thời tiết hạnh, phau câu, gan mề”. Ly của bà đây này. Bà nhấm thử, xem nước ngọt dịu tôi mới pha có hậu không?
Ngừng một chút, ông nghiêm giọng:
- À, tôi quên phứt. Chưa già khụ mà đã lú lẩn, quên trước quên sau. Không lên tiếng ngay, bà nói tôi say... Cơm nước xong, bà cứ để đó cho tôi. Bà làm ơn đi ngay xuống quán chị Tư gọi chỉ cho người lên lấy hai bong bóng rượu đặt hôm kia. Chỉ căn dặn kỹ lắm. Nhắc đi nhắc lại nhiều lần, bảo gấp để kịp giao theo chuyến xe đò sáng sớm đi Chợ Lớn.
Cặp vợ chồng ông Bảy Sô tuy vậy mà đầm ấm lắm. Lấy nhau gần bốn mươi năm, cả hai không có một mụn gái để hủ hỉ những lúc buồn vui. Đừng nói chi con trai nối dõi tông đường. Hai ông bà rất thảnh thơi nhàn nhã. Ông bà không bị ràng buộc vướng bận bởi trách nhiệm nặng nề làm cha làm mẹ. Thêm ở thôn quê rẫy bái, cuộc sống không đòi hỏi nhiều điều phức tạp quá đáng, vợ chồng thả nổi tà tà, đắp đổi qua ngày nhờ cái nghề sinh sống tự do: nấu rượu lậu. Rượu ông Bảy Sô có tiếng nhất vùng. Bợm nhậu từ đầu trên cuối xóm, chí đến các làng lân cận không ai không một lần ghé nhà ông mua để thưởng thức. Gặp những ngày lễ lộc định kỳ trong xóm hoặc dịp Tết nhứt, kể như hai ông bà đầu tắt mặt tối, lúi húi tới lui tối ngày bên bếp rượu. Dù nổi tiếng nhờ làm ăn ngày càng phát đạt và được bà con một mực tín nhiệm, nhưng vợ chồng gói ghém kín đáo lắm. Ông bà không hề phô trương bung thùa, luôn luôn cảnh giác đề phòng kẻ ghét ghen ganh tỵ dòm ngó. Ngay thuở xa xưa còn thực dân thuộc địa Pháp, đố tào cáo lành nghề vào ruồng bắt được ông. Còn nói gì các hương chức trong Ban Hội Tề, họ đều là những bạn nhậu chí tình chí cốt, dĩ nhiên không làm khó dễ gì ông. Trái lại, họ còn lân la thân mật nữa. Rượu ngon nhờ ông bà Bảy cất rượu tươm tất, tỉ mỉ theo phương pháp và kỹ thuật cổ truyền được thừa hưởng từ đầu huyền tổ tằng tổ, thuở mấy tay phiêu lưu Pháp mới đặt chân đến đất Nam Kỳ Lục Tỉnh. Ông bà lại biết chọn nếp chọn men lão luyện do kinh nghiệm mấy mươi năm liên tục trong nghề. Tánh tình lại hề hà vui vẻ, một mực chiều chuộng quý mến khách. Cả hai chịu khó pha chế sao cho phù hợp với thị hiếu mỗi khách hàng, dù họ có khó tánh đến đâu. Trong nhà, ông còn ngâm, để dọc để ngang trên các kệ cây sát vách, chai hũ lớn nhỏ đủ loại. Nào rượu thuốc do các ông thầy thuốc Bắc Tam Thiện Đường ở chợ Gò Đen hoặc Phú Xuân Đường ở đèn năm ngọn trong Chợ Lớn cung cấp theo toa các y tổ ngày xưa mà các ông bảo còn giữ được nhờ cha truyền con nối cả chục đời lương y bên Trung Quốc. Rồi nào rượu ngâm trái cây đủ loại, ngâm các loại gia súc hà nàm. Rượu nhím, rượu kỳ đà, rượu rắn, rượu nếp than... đầy đủ màu sắc và hương vị.
Khách hàng nào cũng tìm được ở nhà ông bà Bảy hương men vị nếp mình thích thú kiếm tìm. Họ không uổng công lặn lội xa xôi để được hồi xuân hồi dương, bổ gan bổ thận. Bạn bè thân thích tha hồ tới lui thưởng thức bất kể giờ giấc sớm tối. Nhà ông không lúc nào vắng khách. Nhờ đó, cuộc sống hàng ngày vui nhộn, giúp ông bà quên cảnh vợ chồng già cô đơn, không con không cháu quấn quít một bên. Cái nghề nấu rượu lậu dĩ nhiên mang đến vợ chồng ông Bảy lợi tức tối thiểu, đảm bảo việc tiêu xài hằng ngày. Hai ông bà sống phây phây như tiên ở làng mạt khỉ ho cò gáy nầy. Chẳng hề bận tâm lo lắng ngày sau ra sao. Nhưng sự sung mãn của gia đình nhờ ông bà khéo léo bươn chải, khai thác thêm một nguồn lợi thứ yếu là bã hèm. Ông bà dùng để nuôi heo, nuôi gà, vịt. Đàn heo Thuộc Nhiêu của ông bà thường thường khoảng nửa chục đủ đầu, lớn như thổi, gối thêm một số heo con sởn sơ mập ú. Do đó, lúc nào trong chuồng cũng xôm tụ, nheo nhóc eng ét náo nhiệt cả ngày. Gà vịt của ông bà không sao kiểm soát hết. Ông bà thả tự do bay nhảy nhởn nhơ trong sân trong vườn, bươi xới ăn cào cào châu chấu, sâu bọ tha hồ. Còn nếu đói nữa, chúng nhảy vào chuồng tìm các máng heo thế nào cũng có chút ít bã hèm rơi rớt. Có con đẻ ngoài buội rậm, ở bờ tre, nơi cuối vồng cuối liếp lúc nào không hay. Đến chừng chúng nó lục tục dẫn đàn con về sân lúc cho ăn chập tối, ông bà Bảy mới phát hiện trong ngạc nhiên thích thú đàn gà của mình nay có thêm một bầy mới nữa.
Vợ chồng ông bà Bảy rất bằng lòng với số phận mình, nhìn lên không giàu có hơn ai nhưng nhìn xuống thấy mình cũng phong lưu đáo để. Từ nhỏ đến lớn, nay tóc đã muối tiêu tuổi xế chiều, có ngày nào hai ông bà đội trời đạp đất dang nắng dầm mưa, làm việc đồng áng nặng nhọc bao giờ đâu. Ông bà rất cởi mở dễ dãi. Ai cần, ông bà cho. Ai thiếu, ông bà biếu. Bẩm sinh như vậy. Không bao giờ ông bà biết tính toán trong cử chỉ thương yêu giúp người. Thật vậy. Ở đời, bợm nhậu có tiếng háo ăn lắm. Nhậu một mình không vui, mất hứng. Phải có bạn bè tri âm tri kỷ nhâm nhi đấu chuyện tào lao tầm phào. Thói thường người ta nói không sai. Có hôm, gặp ngày mưa rơi như cầm tỉn mà đổ, ông Bảy ngồi nhà bó gối buồn hiu. Hoặc ông đi tới đi lui, xớ rớ trong gian nhà chật hẹp. Thấy có chiếc áo tơi nào lù đù tạt ngang qua trước cửa nhà, ông lớn giọng cất tiếng:
- Vô đây anh Hương Hào, đụt mưa cho ấm. Vội vã gì với thời tiết thúi đất nầy. Trà tam rượu tứ! Tôi uống một mình từ đầu cơn mưa tới giờ không thú vị chút nào cả. Anh Hương Hào sẵn dịp tháp tùng cho vui.
Qua ngày mùa, ai ai cũng phải làm ruộng nương rẫy bái tận lực, từ tờ mờ sáng chim chóc vừa chớp mắt hát líu lo ở hàng tre mãi đến đỏ đèn mới về nhà. Khách mua rượu tiêu khiển cũng vơi đi. Đâu có ai rổi rảnh cho dù có nhớ có thèm hơi hướm của chất đế nồng cay. Ông Bảy bèn tập bà Bảy lai rai với ông cho vui cửa vui nhà. Thét rồi cả hai vợ chồng già không lúc nào không có đế nồng lưu thông trong huyết quản. Thức dậy là ông bà có vài ly ấm bụng điểm tâm, không cần phải ăn sáng với xôi nếp, khoai củ chắc bụng như bà con thiên hạ lục lục thường tình. Tối đến, ông bà cũng nhờ đế ru giấc ngủ thêm nồng nàn, mặc cuộc đời đen đỏ đỏ đen ra sao thì ra.
Tiếng mấy đứa nhỏ lao xao ngoài ngõ ngắt khoảng bởi tiếng cười rộ từng chập làm cho thằng Xê bỗng dưng buông đũa. Nó nhanh nhẹn bỏ giò xuống đất chạy ra xem, mặt mày hăm hở chưa từng thấy. Miệng nó lập bập nghe tiếng được tiếng không:
- Thôi rồi! Đúng là bà Bảy đang xỉn. Má ơi! Tụi nó đang theo chọc ghẹo bả đó.
Bà Hai Xệ vội hét lên, lôi giựt vọng thằng Xê quày trở lại:
- Ông ôn hoàng dịch lệ ơi! Con lạy ông mà! Mau mau làm ơn trở vô tém dẹp chén cơm lở dở, bỏ hột rơi hột rớt bừa bãi mang tội ông ơi. Con không có thì giờ chờ đợi hầu hạ nhe. Lúa thóc còn đang đăng đê đê ngoài sân từ sáng chưa ai trở. Lạ gì bà Bảy nữa?
Rồi bà hướng thẳng về phía thằng Xê, nghiếng răng:
- Bộ mới mẻ lắm sao? Ngày nào cũng vậy. Giờ nầy là bả cà kê xiểng niểng đi ra quán bà Tư. Chục ngày như một. Cả năm nay, có sót ngày nào cho tao cùi đi. Bả say mèm.
Bà buông lời móc họng:
- Con xin ông đừng có tụ năm tụ bảy chọc phá trêu ghẹo bả, kẻo con nổi nóng lên, dằn không được mà mang họa đấy. Chừng đó ông đừng trách con... Thằng Xê khựng lại, đứng như chết ngắc chết trân. Dù bực dọc cách mấy nhưng nó nào dám biểu lộ ra ngoài. Nó quày quả trở về ván ngựa, hấp tấp tém tém chén cơm dở dang rồi lùa lia lịa một búng phùng cả hai má. Nó vẫn còn ấm ức, ngồi không yên. Nó đưa mắt nhìn ra ngõ:
- Chọc ghẹo gì bả má. Con ra cùng tụi nó theo đỡ bả kẻo bả té vào bờ tre, buội rậm gai đâm chích tội nghiệp. Già cả rồi! Mà cũng để nghe bả ca Vân Tiên.
Lần này bà Hai dứt khoát:
- Tao bảo thôi là thôi. Chẳng có giang ca dong dài gì hết. Ở nhà! Chẳng đi đâu cả. Bày đặt. Lỡ trúng nắng trúng mưa về báo đời tao? Nuôi cho ăn học muốn hụt hơi, tiền đâu tao chạy thầy chạy thuốc nữa đây?
Thằng Xê cũng ơn ớn lịnh bà Hai Xệ vì bả thường dám nói dám làm. Nó đành thúc thủ trụ bộ ở ngạch cửa trước, đưa mắt thèm thuồng nhìn ra ngoài sân, tỏ vẻ vùng vằng. Một đỗi sau, nó tự nhiên cười khanh khách một mình, réo vọng xuống sàn nước nơi bà Hai Xệ đang rửa chén:
- Má nghe không? Bà Bảy bữa nay không ca Vân Tiên mà lại nói lái có tuồng tích. Đó má nghe không?
Văng vẳng...:
Tiếng mấy đứa trẻ tiếp theo nhịp nhàng “tót... tót...” cười rân lên làm thằng Xê càng thêm nôn ruột. Nó vang lơn nài nĩ bà Hai cho nó ra họp mặt với chúng bạn. Nó kèo nài đôi lần ba lượt, chỉ xin vài phút phù du thôi, nhưng bà Hai vẫn một mực cương quyết:
- Tao đã bảo không đi đâu hết. Bả nói lái tầm bậy tầm bạ, có dây có nhợ. Cứ bổn cũ soạn lại, nói tới khuya cũng bao nhiêu đó thôi. Mầy ngứa cẳng ngứa chưn, lấy nón lá máng ở gốc cột nhà sau đội ra cày lúa ngoài sân cho tao. Còn có ích lợi hơn.
Bà Hai bỗng xuống giọng nhỏ nhẹ, nhắc nhở thằng Xê:- Coi chừng mấy chỗ đệm rách, lúa lọt đổ ra ngoài.
Bà Hai Xệ mặc dầu ở sát nhà ông bà Bảy Sô, cách nhau chỉ một cái mương ranh, ngoằm ngoèo nhỏ hếu, vừa đúng tầm thằng Xê bắt trớn phóng qua phóng lại gọn lỏn như đi chợ sớm chợ chiều. Nhưng hai bên không mấy hòa thuận. Mà cũng chẳng có gì quan trọng. Vẫn mấy chuyện lặt vặt đàn bà con nít. Những chuyện xích mích bất đồng tiếp diễn từ ngàn xưa giữa những cơ ngơi giáp ranh nhau. Ổi, xoài, mãn cầu, mận, thậm chí đến cam sành, quít đường... dựa mé mương phía bên ông bà Bảy cứ thoải mái, điệu đàng chĩa ít cành oằn trái ve qua sát vạt đất bên này. Thằng Xê lém lỉnh, ở cái tuổi ăn không ngồi rồi, tối ngày cà nhổng chỏng mông rong chơi với bạn bè trang lứa, rủ bọn lục lăn lục lữa, trời đánh thánh đâm đến độ thầy chạy, a tòng lặt ráo nạo, nhiều khi còn phá hủy tanh bành té bẹ, chưa kịp chờ trái hườm hườm nở gai. Bà Hai Xệ phiền trách ông bà Bảy thả gà thả vịt lội lên lội xuống phá sạt mương sạt liếp, bươi xới sạch sành sanh rau cải vườn bà. Bà trồng thứ gì cũng chẳng ra hồn. Có công trồng, chăm nom bón phân, tưới nước sáng chiều rã cánh tay xệ bã vai muốn đứt hơi, chẳng những không thu hoạch tương xứng, còn mất thêm thì giờ rình rập đuổi đập từng chập. Gà vịt ông bà Bảy quen thói, đuổi đó, một đỗi lại thong dong bén mảng qua, làm cho bà Hai luôn luôn cằn nhằn cau có. Khổ nỗi, gà vịt ông bà Bảy ăn toàn hèm. Ăn riết chán phèo. Chúng cứ ngóng cổ tìm cách tràn qua sân bên nầy mổ trộm thóc lúa phơi ở sân. Bực mình, bà Hai Xệ lúc đầu mắn vốn ông bà Bảy nhưng ông bà Bảy chỉ hề hà cười trừ. Hứa hẹn thì có, thực tế đâu cũng vào đấy. Chẳng có gì thay đổi. Gà vịt vẫn tiếp tục bay qua rậm rật trong vườn gay mắt bà Hai. Tánh ông bà Bảy như thế. Hề hà như không có chuyện gì quan trọng trong đời. Còn nói gì gặp lúc tào cáo bủa vây ruồng bố, lùng sục nhiều ngày tận hang cùn ngõ cụt, ông bà không ra hèm được. Heo không ăn dặm, đói kêu la eng ét cả ngày nhức tai điếc óc.
Nói là bà Hai Xệ không ưa ông bà Bảy Sô cũng không đúng lắm. Phải nói là bà Hai không bằng lòng ưng ý mới đúng hơn. Tuy không bằng lòng nhưng bà Hai để bụng, thề chết mang theo, không la cà thân mật, chớ tuyệt nhiên không sanh sự cãi cọ, chưởi bới hàng tôm hàng cá bần tiện. Ít ra cũng còn chút thể thống tối thiểu của người láng giềng sát bên hè. Thỉnh thoảng bực mình quá, bà dằn lòng không được, dù nặng lời thì cũng bông lông bóng gió, xa gần có văn chương nghệ thuật… theo kiểu bình dân. Hoặc bà im lặng, lấy tay ngoắc lấy ngoắc để, thúc hối đôn đốc thằng Xê rượt đuổi, phang gà vịt ông bà Bảy đổ lông tung toé, có khi què giò xệ cánh nữa. Mỗi lần gà vịt chạy có cờ, kêu la thất thanh toát toát, ông bà Bảy biết ngay là bà Hai hoặc thằng Xê chút chít ra tay, chớ không ai khác vào đó. Thằng Xê con nít con nôi, khi bà Hai trong bóng tối giựt dây, âm thầm ném đá giấu tay thị thiền cho nó cứ thấy gà vịt ông bà Bảy bén mảng qua vườn, tha hồ rược đuổi. Đá cục nó chất dài dài bên vỉa hè, dọc theo hàng lu vú. Mấy đống xà bần mảnh sành, gạch bể ngùn ngụn nó để rải rác sát theo mương ranh, không cần che giấu chi cả. Làm như nó chú tâm thách thức trêu tức ông bà Bảy vậy. Nó còn có thêm mấy cái ná thun treo lủng lẳng ở gốc cột nhà, chuồng gà, cột bếp hay nhà chòi chứa củi. Mỗi khi bà Hai thầm ra dấu, nó biết ngay ý đồ của bà. Vì đây chẳng phải là lần thứ nhất. Nó vụt chạy như bay, nhanh như chớp, tóm đồ nghề gọn gàng, lanh lẹ còn hơn các chiến sĩ lúc nghe còi báo động ứng chiến trong các loại phim chiến tranh chống Đức, Ý, Nhựt thời Thế Chiến thứ hai.
Bà Hai Xệ ở góa lúc nào không ai biết, vì chẳng ai để ý làm chi nơi chéo đất người thưa ít chuyện này. Chỉ biết bà ở với thằng Xê, đứa con trai duy nhứt của bà. Mẹ con quanh năm hủ hỉ không đến đỗi tẽ nhạt. Lợi tức của bà không đáng bao nhiêu, vừa ngam ngám để hai mẹ con sinh sống đắp đổi qua ngày. Lợi tức đó nhờ bà ky cỏm, lam lũ cặm cụi, ăn cây nào rào cây nấy. Bà không hề tiêu xài, phí phạm đồng xu cắc bạc. Trái lại, bà gói ghém chu đáo, chừng mực. Bà không cho vay cắt hầu cắt họng, vì trong thâm tâm bà vẫn sợ luật trời đất vay trả trả vay nhãn tiền. Bà hay nói với bà con trong xóm cho vay «xen xít đít đuôi» theo kiểu chủ nợ Chà Và Ma Ní ở Sài Gòn, Chợ Lớn, đẻ con không khùng khùng điên điên cũng quái thai, không tay chân, không lỗ đít. Bởi vậy, bà nguyện làm ăn lương thiện, cho nuôi heo rẻ. Cứ mua heo con sởn sơ tốt mã đem rải dài dài đầu trên xóm dưới. Người một con. Người một cặp. Kẻ có của ra vốn đầu tư. Người có công chăm sóc cho ăn uống hằng ngày. Đến khi bán chia theo tỷ lệ vừa phải, đôi bên đều có lợi. Đâu ra đó, vừa hợp lý, vừa phân minh. Bà Hai cũng có cho nuôi heo nái, nhưng không nhiều. Chỉ vài con, đếm không quá năm ngón trên bàn tay. Mỗi lứa, bà bắt vài heo con tùy nái và cũng tùy lời cam kết lúc đầu. Nái này vừa dứt ở đầu xóm, lật bật đến nái kia ở cuối thôn. Bà tới lui lo phân phối, chạy đôn chạy đáo bán heo con cũng mệt đã đời trời đất. Bà rất có tay ở địa hạt này. Bầy heo thịt núc ních của bà rậm đám lắm. Hết con nầy bán đến con kia. Thế cũng vui. Vài ngày thấy bà vắt khăn rằn ở vai, xà lĩa xà lĩa đi từ nhà nầy sang nhà khác thăm bầy heo. Bà có công lắm. Vì đây là của tiền, sự sản chắt chiu của bà. Lỡ có người bê tha, heo ốm đói bịnh hoạn thì cụt vốn. Lần lữa, tháng ngày qua như vậy giúp bà quên đi mình đã trọng tuổi nhiều.
Cái tật lớn của bà Hai Xệ là ham đánh tứ sắc. Mà hễ lọt vào vòng lẩn quẩn đen đỏ đó rồi ai cũng muốn ăn. Thua hết vốn, tiền của đâu đánh nữa. Hầu như ngày nào bà cũng ngồi sòng. Ngồi không lâu, tùy bữa. Nhưng nhứt định không quá bốn, năm giờ mỗi ngày. Tuyệt nhiên, bà không thích đánh ban đêm, có hại sức khoẻ. Hôm nào đến trưa đúng ngọ không thấy thằng Heo con bà Tư Quán chạy kêu tay đến mời, bà thúc hối thằng Xê ba chưn bốn cẳng u ra quán xem coi có tay bài đến chưa? Bà cứ tắc lưỡi lẩm nhẩm một mình:
- Chẳng lẽ hôm nay lại háp tay kìa?
Cái xóm Phú Thứ là xóm đặc sệt nông dân chơn chất làm ăn. Chỉ năm ba người khá giả, ăn không ngồi rồi, bày ra đánh tứ sắc tiêu khiển, giết thì giờ nhàn rỗi. Chủ chứa là bà Tư Quán. Trong xóm ai cũng biết danh. Tay em lúc đầu khá đông. Không người này có người kia. Ít khi thất nghiệp ngáp ghiền. Dần dà nhiều người thua lỗ lún đáy, gia đạo xào xáo nên đôi lúc chích tay ngặt nghèo lắm. Bọn ghiền, đánh tay ba không vui, mất hết hứng thú. Đã nói tứ sắc tứ trụ, phải bốn người chẳn chòi mới được. Bà Tư bắt đầu mời thêm tay em ở các thôn làng lân cận, trước họ sang chơi mua vui, sau tránh mang tai mang tiếng trong xóm của họ. Dù sao, chơi bạc bài cũng chẳng có danh dự gì mà hãnh diện cả. Chơi trong xóm, bà Hai Xệ còn nương tay chớ chơi với người lạ, bà sát phạt không dung tha. Trong giới, bà thuộc hạng thầy rùa, già tay ấn, cao bài lắm. Thế cũng chưa đủ. Vì nhiều hôm xuất hành không may gặp rắn rít hay kỳ đà cản mũi, nhứt là trên đoạn đường từ nhà đến quán bà Tư, rủi gặp đàn bà bụng chửa dạ mang, dứt khoát bài hôm ấy rác rưới ê hề, dù cao tay, rị mọ trì chí đến đâu không sao cứu nổi. Nhờ lớn tuổi, với dáng vẻ lờ đờ chậm chạp bên ngoài, ít người quan tâm lưu ý tới nên trong trường hợp bất khả khán ấy, bà ra tay trổ ngón đánh lận. Mấy ai nghi ngờ chi nữa khi nghe bà phân trần:
- Tôi lớn tuổi rồi, ham chơi cho vui vậy mà. Ăn thua không kể. Tay run rẩy, mắt lại lem nhem. Thật tình tôi ạch đụi quá do ngồi lâu muốn cúp xương sườn xương sống. Bây chịu khó chờ tôi nhé! Đừng có hối làm tôi quýnh lên, thêm lâu lắc hơn.
Bà nói như van lơn khẩn thiết:
- Thím Bảy, mợ Năm, thằng Chín còn trẻ, cảm phiền nhá!
Bà kéo cặp kiếng lão trệ nơi sóng mũi, nhướng mắt nhìn chầm chầm xuống chiếu, hướng đối diện, ngang sông:
- Bây lật con gì đó? Có thấy chi đâu? Không khéo bỏ đôi bỏ tụi, chút nữa bây bắt thường, đứt chếnh sớm.
Bà Hai chậm lụt như vậy, không lanh mắt, không sáng bài. Già cả mà! Nhưng sòng nào bà cũng ăn. Kẹt lắm là huề vốn. Ăn, bà không ăn nhiều. Bà canh kỹ lắm. Bà ăn theo lối chạy gạo hằng ngày, ăn theo kiểu câu thiên hạ đường dài. Ăn sát ván, người ta chạy mặt sao? Đánh ăn cũng nhờ không ai ngờ vực, bà lên rác xuống rác tổ trời. Cái tuổi già đạo mạo, cái thái độ mù mờ, giả đò sa mưa của bà thực tế có kết quả viên mãn. Có lẽ bà Hai Xệ sợ đấng thiêng liêng vô hình trừng phạt sau này nên đêm đêm bà mặc áo nâu, gõ mõ tụng kinh vang rền. Khốn nỗi, ban ngày tánh nào tật nấy, bà không chừa không bỏ được. Con ma bài nó bắt mà. Tánh tham lại lồng lộn không nguôi. Chưa bao giờ nghe nói có ai bắt được bà gian lận. Chẳng những đã lanh tay, bà còn có cái hào nhoáng lú lẩn, lụm khụm bên ngoài. Nhưng chắc lương tâm không để bà yên với đồng tiền ác đức bất chánh, bất nghĩa, bất nhân. Mỗi đêm, không sót đêm nào, bà gõ mõ tụng kinh khoảng mười giờ, lúc tĩnh mịch vắng vẻ.
- Bà Hai bắt đầu tụng kinh rồi tụi bây ơi!
Mấy tay nhậu ở quán bà Tư hễ nghe gõ mõ tụng kinh, biết tới giờ bà Hai tỉnh tâm hối lỗi. Và cũng là lúc phải chia tay, kẻo ngày mai còn sức đi làm việc đồng áng. Một hôm nọ, bà Hai Xệ đang tụng kinh ngon lành theo tiếng mõ trầm đều, lúc cao lúc thấp. Tuy lớn tuổi nhưng giọng bà còn trong ấm lắm. Bà lại dài hơi. Câu kinh nhiều lúc ngân nga bất tận, tưởng chừng như bà sắp hụt hơi. Tiếng mõ vẫn nhịp đều, nhỏ dần nhỏ dần nhưng người bên quán bà Tư bỗng dưng nghe lồng lộng giọng hấp tấp của bà:
- Xê ơi! Mầy ra gỡ con cá cắn câu. Nó vãy đùng đùng bên hông nhà bếp, ở gốc buội sả. Mầy ở đâu? Bộ điếc lác, lỗ tai trâu sao không nghe, không trả lời trả vốn gì cả? Ra gỡ mau lên kẻo nó sức mép...
Tiếng mõ, câu kinh tiếp tục trầm buồn nhịp nhàng trong đêm. Và câu chuyện cười đùa không ác ý ở quán bà Tư hôm đó đượm thêm sắc màu trào lộng hóm hỉnh.
Xóm Phú Thứ có non ba mươi nóc gia. Năm ba gia đình lớn tuổi hiếm con hoặc không một mụn nối dõi tông đường, như vợ chồng ông Bảy Sô, bà Hai Xệ chẳng hạn, sức khoẻ không có, đã chọn những nghề nhàn nhã, người thì nấu rượu lậu, người thì cho nuôi heo rẻ. Nghĩ ra cũng sướng một đời. Số người sinh sống như thế ấy không bao nhiêu, đếm chưa giáp bàn tay. Trong số đó, nổi bậc nhứt là bà Tư Quán. Bà Tư trước có chồng làm trùm vạn cấy, ăn đầu chận đuôi vào ngày mùa khan hiếm nhân công nên thuộc hàng quá ư trưởng giả. Chẳng may, ông Tư sớm bị triệu hồi phủ phục Ngọc Hoàng Thượng Đế khoảng năm ông bốn mươi lăm bốn mươi sáu tuổi gì đó. Ông ra đi bất thình lình, để lại thằng Heo vừa đậu xong bằng Sơ đẳng Tiểu học, con Hổ còn nhỏ biếu và con Dê mới được gả về làm dâu gia đình khá giả làng Mỹ Yên bên cạnh. Bà Tư sống với thằng Heo và con Hổ, tu bổ, khai thác miếng vườn cả mẫu tây do ông Tư tạo dựng lúc sinh thời. Cây trái xum xuê, nguồn lợi tức duy nhứt của gia đình bà. Cứ một đôi ngày có bạn hàng sỉ tạt ghé ngang, mua mão đem bỏ mối ở các vựa Bình Đông, Xóm Củi hay Chợ Lớn Mới. Nhiều lúc bà Tư chê rẻ, giá cả không tương xứng với phân phướng và công sức bà. Bà hì hục gánh ra chợ làng Phước Lợi, Gò Đen hay chợ quận Bến Lức, ngồi bán lẻ sẽ có lợi hơn. Sẵn dịp, bà đi chợ luôn thể. Thật tiện lợi vô cùng. Lần hồi bà cất một quán lá nhỏ đầu ngõ để bán thổ sản tươi trong vườn, trong khi ngôi nhà khang trang to lớn của bà ở tận cuối vườn, cửa trước quay mặt xuống bến sông. Nhà cất theo kiểu quay mặt xuống sông trong vùng hiếm hoi lắm, còn rơi rớt lại rải rác đó đây vài cái, do phong tục tập quán xưa.
Lúc bấy giờ, phương tiện giao thông chánh yếu là đường thủy. Đâu có đường thênh thang trải đá đỏ, đá xanh hay nhựa hắc ín như ngày nay. Những nhà còn sót lại đó đều là nhà bề thế chắc chắn, cột gõ vách bổ kho bằng loại ván lỏi, chịu đựng nắng mưa, năm tháng. Nhà bà Tư xem ra còn có nét lắm. Bán buôn cắc ca cắc cụp như vậy ngày càng thu hút thêm đông đảo khách hàng. Có đồng vô đồng ra luân lưu cũng vui. Về sau, bà phát triển thêm địa bàn hoạt động do nhu cầu đòi hỏi thôi thúc tới tấp của bà con trong thôn ấp. Mỗi khi đi chợ, bà bổ thêm hàng thiết yếu sinh sống hàng ngày như dầu hôi, nước mắm, đường muối, thuốc rê, diêm quẹt, nhiều nhứt là bánh trái, kẹo mứt, bòn bon... quến con nít. Bà còn lãnh rượu lậu của ông bà Bảy Sô để bán lẻ trong xóm nữa. Những năm gần đây, tiếng tăm đồn đãi thêm thắt chanh ớt muối đường, ông bà Bảy Sô sợ kẻ ra người vào tấp nập, gây sự chú ý của bọn tào cáo và nhứt là đám điềm chỉ rấp ranh rình mò. Từ dạo có cái quán bà Tư, ông bà Bảy mới thực sự an phận với nghề nấu rượu lậu, chớ không bán lẻ nữa. Bỗng nhiên bà Tư trở thành mối lái tin cậy của ông bà Bảy. Bợm nhậu trong xóm kể cả bạn hàng mua sỉ rượu đế từ nơi xa đều phải đến quán, qua tay bà Tư. Thế là quán bà Tư mỗi ngày thêm thạnh hành. Nó lại chiếm địa thế lý tưởng, nằm ngay ngả ba lộ cái, tụ điểm yết hầu trong xóm. Người qua kẻ lại dập dìu sáng chiều. Quán ngó thẳng ra ao làng, chiều chiều trai gái tụ năm tụ bảy gánh nước, chuyện trò vang rân, quên đi cả ngày dang nắng dầm mưa ngoài đồng không mông quạnh. Gặp mùa nước sông trở mặn chát, giặt áo quần bằng xà bông dù là xà bông Cô Ba, xà bông Con Cọp thượng hảo hạng đi nữa cũng không có chút bọt. Nước sông dù lắng phèn lâu ngày cách mấy không sao uống được. Lờ lợ tanh tanh. Khi đi ngang quán bà Tư, tuy không hẹn hò trước, đám thanh niên thiếu nữ ấy dừng chân nghỉ năm mười phút. Kẻ ngồi trên đòn gánh bắt ngang hai thùng thiếc nước. Người ngồi trên ghế tre dài trước quán, chắc chắn láng cón. Mọi việc xảy ra trong ngày, cả tiếng đồn thầm kín loại thầm thì rỉ tai cứ cuồn cuộn tuôn chảy, dòn như pháo Tết, pha lẫn tiếng cười từng chập rất mực mộc mạc hồn nhiên.
Quán bà Tư treo lủng lẳng phía trước những xâu bánh còng bánh neo, vài phong bánh bẻn, kẹo đậu phọng, đặc biệt nhứt là những quày chuối cả chục nải chín cây vàng hườm căn da hấp dẫn. Tự nhiên đây là nơi họp mặt thường xuyên của đầy đủ các lứa tuổi trong làng. Con nít thì kẹo bánh, trái cây. Người lớn nhậu nhẹt. Đàn bà, trầu cau, dầu hôi nước mắm. Đám trẻ rửng mởn, lứa tuổi chớm biết so hình đọ dạng, tập tành làm duyên làm dáng, cũng nhờ cái quán dễ thương của bà để trộm nhớ thương thầm, ước mơ nên vợ nên chồng sau này. Khách khứa vô ra vui nhộn luôn. Bà Tư quên dần cảnh đời éo le ngang trái, cuộc sống góa bụa hẩm hiu buồn tẽ của mình. Nhứt động nhứt tịnh, bà đều hay biết. Trăm thứ chuyện vui buồn sốt dẻo trong xóm đều đổ vào đây như cá chui vào rọ. Từ vụ ghen bóng ghen gió đến việc quan hôn tang tế, gia đạo mỗi người, bà rành mạch từng chi tiết một, phông phốc không sai. Khi nào vắng khách, bà lắc lư trên chiếc võng bằng lác mịn màng, nhai trầu chót chét rồi phun phèn phẹt bên vách phên. Có khi người ta đến quán không nghe tiếng ngoáy trầu cụp cụp hay những lời nói nhẩm một mình của bà thì thấy bà đang ngáy khò khò, kéo đàn cò đàn gáo có bài bản, âm điệu bổng trầm, nhặt khoan nhờ những ngọn gió trong lành, mát dịu từng cơn hắt nhẹ vào quán.
Bà Tư cũng như cặp vợ chồng ông Bảy Sô rất hề hà cởi mở. Bản chất hiền hậu nhưng khổ một tý là dễ nóng tính lắm. Khi nổi trận lôi đình là bà bất kể, ra sao thì ra, phang ngang văn tục, không thua gì những tay anh chị đứng đường đầu chợ cuối hẻm ở quận ở tỉnh. Trong xóm, bà được bà con xếp vào hàng lẫm liệt, chỉ có duy nhứt mỗi mình bà trong phái đàn bà con gái ở đây. Dù góa bụa, ít ai, cả đến mấy tay xâm mình rống mắc không hề dám hở môi hở miệng chọc phá trêu ghẹo, lẳng lơ xa xôi, đưa đò với bà. Rõ ở đời, những người dao to búa lớn, nói năng bất cần, đàn áp thiên hạ, thường được việc là vậy. Lúc ông Tư còn sanh tiền, vợ chồng hợp tánh hợp tình, cũng thích đánh tứ sắc. Không ngày nào không có sòng bài trong nhà. Tay bài thích chơi ở nhà ông bà Tư, vì hai ông bà có phong cách chịu chơi. Lấy xâu, hai ông bà lấy không bao nhiêu, lấy cho có lệ theo thói thường, có trải chiếu phải lấy xâu. Thực tế, ông bà rất hậu đãi tay bài, chăm lo ăn uống tử tế, thịnh soạn như hàng thượng khách. Không ngại tiếc công tiếc của, tốn kém gấp bội so với tiền xâu. Sau ngày ông Tư mất, bà Tư buồn cuộc đời vô duyên cô quạnh, tiếp tục không bỏ thói quen lân la với “bốn ông tướng” xanh trắng đỏ vàng. Bà nuôi một chút hy vọng cỏn con, đen tình phải đỏ bạc. Bè bạn cũ trong số có bà Hai Xệ, ghiền bài bốn màu nhỏ lá còn hơn tiên ông khắn khít ả phù dung. Bà Hai rất mến mộ bà, ngày nào cũng la lết tới nhóm. Nhưng từ lúc bà Tư lập ra cái quán, nó bắt đầu cột chưn cột cẳng bà trong công việc buôn bán hằng ngày không ngớt tay. Bà bèn từ bỏ hẳn nghiệp tứ sắc từ dạo đó, tập trung làm ăn, lo tương lai thằng Heo, con Hổ bắt đầu lớn đại rồi. Tuy nhiên, tay bài cũ không rủ cũng đến và bà để họ tự do tiếp tục trải chiếu chọn nơi, giải trí như thuở nào.
Hiền nhưng nóng tánh. Việc bà Tư dùng ngôn từ anh chị chốn thị thành cũng có nguyên do của nó. Vốn khá giả, ngày trước ông Tư thuộc hàng sạch sẽ trong làng trong tổng, sát lẻm bảnh bao, áo quần phẳng phiu ủi láng mướt. Mỗi khi đi ra ngoài, dự tiệc tùng hay giỗ quảy, ông tự lo quạt than đỏ hồng bỏ vào bàn ủi rồi cũng tự tay ông ủi lấy áo quần tươm tất. Đàn ông như ông chắc hiếm hoi lắm. Trong khi ấy, bà Tư dễ dãi hẳn. Bà tỏ ra xập xệ, không đòi hỏi gì nhiều. Áo quần, bà chỉ xếp ngay ngắn, tối ngủ gối đầu nằm, sáng dậy lấy ra mặc là bà quá ưng ý. Ông Tư có mèo hay không, không ai biết rõ ràng nhưng lời ra tiếng vào soi bói, thêm nhưn thêm nhụy, đồ tới đồ lui nhè lọt vào hai tai bà Tư. Bà ghen bóng ghen gió, ong óng lên lồng lộng, chưởi bới như tát hằng đêm, hòa lẫn với lời kinh trầm bổng của bà Hai Xệ. Đi ngoài bờ tre, có đêm nghe bà đằng giọng đay nghiến:
- Ông à! Tôi tuy thất học thật nhưng nào phải phường dốt nát ngu đần. Tôi không phải hàng một chữ nhứt một bẻ đôi không có. Mẹ họ... Bộ đánh trống bỏ dùi, khỏi lỗ vỗ vế hả?... Hay là “vợ là địch, bồ bịch mới là ta” đây? Ông nói cho tôi lọt lỗ tai đi!
Rồi bà không cầm được tức giận khi nghĩ đến mối tình chăn gối đằm thắm của ông Tư đối với bà, nay chia xẻ làm đôi làm ba. Bà phân bua nổi phồng gân xanh hai bên cổ:
- Tao thề trước ngọn đèn cầy đang cháy ở bàn thờ ông bà. Tao mà biết con đỉ ngựa đó, tao bầm nó ra từng mảnh, tao lột da đầu nó mới nghe. Mẹ họ... Nước chảy hoài đá cũng mòn. Sắt thép mài giũa mãi cũng hao hụt huống hồ là thịt... là xương...
Bà nghiến dài từng tiếng một. Nghe rợn người. Sau này, lâu lâu ngồi nhắc chuyện xưa với bà con lối xóm, nhứt là với đám trẻ mới tấn lên gánh nước ao dừng chân ở quán bà, bà thường hay khuyên lơn răn bảo, mỗi khi nghe chúng nhắc nhớ tới ông Tư:
- Thím thương ổng lắm chớ. Vợ chồng một ngày một buổi cũng là chồng vợ. Ổng cũng từng nồng nàn với thím nên mới có mấy mặt con đó. Con Dê rồi thằng Heo, con Hổ khít đeo còn hơn năm một.
Bà Tư xỉa thuốc, nhổ trầu phèn phẹt, cười khanh khách, nhe hàm răng nửa trống trên nửa trống dưới:
- Thím bực ổng có cái tánh mèo mả gà đồng. Ban đầu thím ghen lắm. Đố bà nào, cô nào bóp kèn qua mặt được thím. Kể tụi bây nghe cả tháng, cả năm chưa hết chuyện.
Bà nhíu mày:
- Nhiều khi thím hận ổng ăn ở đản hậu với thím, được xôi rồi việc, trở mặt làm ngơ. Có lúc trực nhớ ông bà mình hồi xưa có nói: “chàng năm sương gặp nường bảy nắng”, thím thầm vái van thần thánh linh hiển cho ổng gặp một tay tứ chiến giang hồ cho ổng biết thân, tởn tới già. Nhưng sau, suy nghĩ kỹ lại. Ối, đàn ông năm thê bảy thiếp, làm sao cầm chưn họ được.
Rồi bà trầm ngâm nghĩ ngợi, đôi mắt đâm chiêu, u buồn, phảng phất một niềm riêng bà cố giấu kín tận sâu thẳm đáy lòng:
- Thím tự an ủi mình. Thím xem như mình mua cái áo, về nhà mặc không vừa. Thím cũng không bán mà cũng không vất bỏ đi, đem treo nó tòn ten ở gốc cột trong hốc để đó. Thím còn gánh nặng gia đình, làm thẳng thừng quá sợ đổ vỡ. Một vai thím gánh mẹ già. Lúc ấy, bà bác còn sõi, trên dưới bảy mươi, thất thập cổ lai hi rồi. Một vai thím gánh con Dê và thằng Heo, miệng còn hôi sữa, lo nuôi chúng nó nên người.
Bà cười ngất như người chiến thắng sau những trận thảm bại chua cay. Rồi bà ung dung kể tiếp:
- Đi đã đời, ổng lạy thím mà về. Bây biết không? Ghen quá ổng tưởng đâu ổng quý lắm, vàng ô, hột xoàn tô, giấy xăng bộ lư đầy hộp “bít ki” không bằng, được nước làm tới. Mà hồi thím ghen, thím rầu, ốm o cà tông cà teo, gió thổi muốn bay. Sau, lấy áo ra mặc vừa y. Bởi vậy... mới có con Hổ, còn nhỏ hếu đó, nhỏ hơn thằng Heo một con giáp tròn vo.
Dứt lời, bà Tư bật cười ngân ngất, thòng giò xuống sàn tre, lắc lư đẩy đưa cái võng nghe kèn kẹt kèn kẹt... Đâu mặt quán bà Tư, phía xéo bên kia ao là giang san bất khả xâm phạm của ông Hương quản Nghé, bốn năm đời cha truyền con nối từ cố hỉ cố lai, tiếp nhau vững như trồng ở các chức vụ quan trọng cầm giềng mối trong làng. Hương quản Nghé có lối sống công tử, thừa tiền dư của, ăn xài phong lưu, tuyệt nhiên không hề dấn thân kham khổ. Tuy làm hương quản nhưng Hương quản Nghé làm cho có chức vị lấy tiếng. Danh vọng đi đôi với tiền tài. Vốn giữ trật tự an ninh nhưng ông không mấy vất vả. Thảnh thơi là khác. Cây súng hai nòng duy nhứt trong làng của ông chưa bao giờ thấy ông xử dụng chống trộm cướp bất lương. Trái lại, người ta chỉ thấy ông mang kè kè bên mình lấy le thiên hạ, hoặc đi săn chim bắn thú. Ông có thừa thì giờ chăm sóc ngôi nhà ba căn song hai chái, cột gõ to gần bằng một vòng tay ôm, bóng lưỡng đen huyền. Hàng cột lâu đời này mang những hàng liễn chữ nho thếp vàng sáng chói. Nền đúc, ngói âm dương. Thêm mảnh vườn thênh thang rộng lớn không biết đến bao nhiêu mẫu tây. Dù có quyền thế, Hương quản Nghé rất thận trọng. Thái độ phòng xa và phong cách ăn ở ba phải của ông ít khi va chạm, gây phiền hà người lân cận. Vườn ông mênh mông nhưng ông kỹ lưỡng trồng tre khít đeo bao bọc, còn tăng cường thêm một hàng xương rồng xương hùm gai nhọn hoắt tua tủa lạnh lùng. Sau rào tre, ông đào mương sâu, tiếng là để chận rễ tre không cho ăn sâu vào đất phá vườn, nhưng thực ra nhà ông xem như một chiến lũy kiên cố thuở xa xưa. Trong nhà, ông nuôi thường xuyên bốn năm con chó thiến. Ban ngày, ông trống mỗi con một góc, ăn uống ngủ nghê tại chỗ. Ban đêm, ông thả ra giữ nhà, giữ vườn. Chúng được tự do, mừng rỡ chạy giỡn suốt đêm.
Xưa nay, thói thường là như vậy. Lúc khó khăn, nghèo khổ túng thiếu, người ta sống gần gũi chung đụng, nương tựa chia sớt, không ngớt kêu réo gọi mời nhau. Hoặc biếu xén dù là một củ khoai ngon, một trái cây ngọt vừa mới hái ở vườn nhà. Nhà cửa trang trại cửa nẻo mở toanh tha hồ vào ra không kể giờ giấc. Nhưng khốn nỗi, khi làm ăn phát đạt khá giả, xây dựng vườn tược thành khoảnh, cơ ngơi kinh dinh bề thế, người ta bắt đầu làm mặt lạ. Giàu đổi vợ, sang đổi bạn mà! Họ cố tình sống ngăn cách, xa lánh nhau hoặc giả chào hỏi xã giao lấy lệ. Cho nên không hiếm gì người nghe lòng mình cứ nằng nặng tiêng tiếc phải chi cái hàng rào tre vút cao nghều nghệu với xương rồng xương hùm chơm chởm gai nhọn hoắt kia không thay thế dãy bùm xụm mùa trái nở rộ, nho nhỏ dễ thương trong bóng… phải chi cái hàng rào bông bụp xanh mướt đầy bông hoa đỏ thẳm, lất phất ít nhụy vàng đong đưa còn đó… hoặc cùng lắm giàn mướp khía mướp hương néo trái dài sộc cạnh bờ ranh vẫn như ngày xưa… để chiều chiều người bên này nhón gót nhìn sang thấu bên kia nhắc nhở thăm hỏi chân tình:
- Làm gì dữ vậy bác Hai, thím Ba... Cơm nước xong chưa ? Bộ quên, sao để heo cúi vẫn eng ét vang rân vậy?
Ông Hương quản Nghé và gia đình sống cách biệt hẳn với bà con láng giềng, ngay cả với hai gia đình sát ranh. Người trong xóm cũng không hề bén mảng lui tới nhà ông làm chi thêm phiền phức. Ai lạng quạng đi ngang bờ tre vườn ông, đàn chó hùa nhau sủa rân, hậm hực như muốn vồ lấy ăn tươi nuốt sống. Thận trọng hoặc giả không muốn gay mắt, họ thường đi tắt, chọn lấy bờ con mà đi. Bất đắc dĩ lắm mới đi ngang. Vườn tược của ông được rào dầy đặc như vậy nên gà vịt bên nhà ông bà Bảy Sô chịu phép, không hó hé qua được. Ông bà Bảy không hề bị Hương quản Nghé phiền hà mắn vốn hoặc bà Hương quản phiền trách như trường hợp bấy nay của bà Hai Xệ. Ông Hương quản biết vợ chồng ông bà Bảy nấu rượu lậu từ lâu nhưng cứ làm ngơ, xem như không hề hay biết. Bản tánh ông thích tránh đụng chạm. Hằng ngày đi ngang qua quán bà Tư, ông hỏi qua loa nắng mưa lúa thóc, hỏi lấy lệ vài câu xã giao tối thiểu. Thế thôi.
Thế chiến thứ hai vừa chấm dứt trong đổ vỡ hoang tàn. Việt Minh Cộng sản âm mưu đứng lên cướp chính quyền. Rồi Pháp trở lại Việt Nam mưu toan đặt lại nền thống trị cũ. Toàn dân đứng lên kháng chiến giành độc lập quốc gia, chủ quyền dân tộc. Trong khi đó, Việt Minh Cộng sản lén lút hoạt động với ý đồ đen tối độc quyền lãnh đạo quốc gia. Chiến dịch “Diệt tề phản đế” theo đúng chủ trương đấu tranh giai cấp, xóa bỏ tư hữu của chúng đã gây bao nhiêu tang tóc chia lìa khắp nông thôn. Quân đội quốc gia mới thành hình đóng ở Gò Đen, Bến Lức vất vả bảo vệ an ninh trong vùng. Nhứt là các trục giao thông chính yếu như đường lục tỉnh, cầu Bến Lức...
Hương quản Nghé bấy giờ không còn làm làng nữa. Lúc ấy, Hội đồng xã các làng lân cận đều rút về đóng ở Gò Đen. Trụ sở xã Thanh Hà, Long Hiệp, Mỹ Yên rải rác cách nhau không xa mấy. Xã trưỏng kiêm nhiệm luôn mặt an ninh trật tự như những chỉ huy trưởng đồn bót mới được củng cố. Hương quản Nghé và gia đình tiếp tục sinh sống ở ngôi nhà cũ nơi xóm Phú Thứ. Bản tính cầu an hưởng lạc thúc giục ông mua sẵn một căn phố ở chợ Gò Đen, để hờ đó. Ông nghĩ xa, phòng khi tình hình bất ổn trầm trọng, ông có sẵn cơ ngơi bỏ giò trú thân. Về sau, việc quân lực địa phương và làng xã ruồng bố thường xuyên cộng thêm những đợt phá hoại thanh trừng tàn bạo của Việt Minh Cộng sản làm cho Hương quản Nghé và gia đình thay đổi hẳn thái độ. Ông không còn sống ngăn cách co rút sau lũy tre chơm chởm gai của mình nữa. Ông tỏ ra cởi mở hơn, lân la chào hỏi thân mật bà con lối xóm hơn. Đám thằng Xê, thằng Heo và lũ nhỏ trời đánh thánh đâm, chằn ăn trăn quấn ngày càng thân mật với ông. Chúng nó không còn nể sợ ông như ngày trước. Hồi ông đương thời, dù không hãm hại bức bách ai quá lạm, nhưng với cây súng hai nòng kè kè bên mình, chúng nó lấm lét, tránh né ông. Cùng lắm chúng chỉ liếc trộm nhìn thầm từ xa thôi. Bây giờ, chúng nó rất thân mật gọi ông, đứa bằng bác, đứa bằng chú xem như trong họ hàng bổn tộc vậy. Ổi, điều, mận, mãn cầu... trong vườn ông, chúng hái ăn thả cửa. Ông bà Hương quản không hề hở môi nghiêm khắc la rầy. Mấy con chó thiến hùm hổ độ nào đã bị Việt Minh Cộng sản đập chết từ lâu nên bọn trẻ không còn thấp tha thấp thỏm mỗi khi vào nhà ông. Ông còn khuyến khích chúng kéo tàu dừa tàu cau khô, mo nan chà củi rơi rụng đầy rẩy trong vườn đem về nhà chụm bếp. Bặp dừa ở bến sông, ông cho tha hồ xắn làm phao cắm câu mồi chạy hay kết bè mỗi lần tụ tập tắm sông. Dây mây, dây choại leo chằng chịt, ông cho rút lúc nào thì rút không cần xin phép tắc trước. Cả mù u, gừa dẹt, bần nước, trâm bầu hay đùng đình đủng đỉnh...khi cần cứ đốn về xài, miễn là phải dọn dẹp sạch sẽ chà nhánh. Sự chuyển hướng trong thái độ đối xử của ông Hương quản làm cho bà Tư Quán gay mắt. Nhiều lúc bà tỏ ra phật ý trước mặt đông đủ bà con. Những lần tiếp xúc thường nhựt với khách hàng giúp bà có nhiều kinh nghiệm sống nên bà khá bén nhạy trong phản ứng. Có hôm bà quở thằng Heo trước mặt thằng Xê và lũ trẻ choi choi như để dằn mặt cảnh cáo chúng nó:
- Mấy ông con của tôi ơi! Mấy ông khờ khạo quá.. Đừng tưởng ông Hương quản tử tế. Thấy ổng chiếu cố thương yêu mấy ông làm tao phát ham... Mẹ… họ! Chớ không phải ổng sợ! Bây giờ đâu như hồi xưa. Ai cũng như ai. Đừng thấy vậy tưởng bở nhào vô.
Thằng Heo vội cắt lời:
- Má không biết! Má không có đến nhà ổng. Ổng tử tế lắm. Bả cũng vậy. Như để tranh thủ lòng tin của bà Tư, nó không ngần ngại nói:
- Má thử hỏi thằng Xê xem có phải như vậy không? Tụi con vắng mặt, lâu ngày không qua chơi là ổng nhắc ổng chờ. Ổng hỏi tại sao lâu quá không qua.
Bà Tư Quán vừa nguýt vừa lấy cây chổi tàu cau moi xột xạt bã trầu khô ở kẹt vách:
- Chà! Chà! Coi bộ ngọt ngào tình ái quá cỡ! Ở đó mà nhắc mà chờ. Hồi bây còn nhỏ léo hánh ở bờ tre là ổng suýt chó, sợ tụi bây còn hơn sợ dịch tả.
Rồi bà hậm hực bực tức:
- ... Mẹ! Bây giờ tụi bây đứa nào đứa nấy như trâu cui trâu cổ, cưới vợ được rồi, nhờ cậy cũng được rồi, ổng bả mới thương tụi bây. Bây là một lũ đần độn, hời hợt, mắt không nhìn qua khỏi hai lỗ mũi... Bà đoan quyết:
- Mẹ… họ! Chớ không phải ổng nhờ tụi bây rửa vườn tược không công cho ổng đó sao? Hôm rồi, xã Ngoạt qua đây với lính tráng, vào từng nhà bảo đốn lá phát buội rậm. Vườn tược phải trống trải sạch sẽ để dễ kiểm soát, ngăn ngừa đám đá cá lăn dưa giết người không gớm tay Việt Minh Cộng sản ẩn núp, thừa dịp đến đêm tối phá hoại xóm làng. Tụi bây lo ăn chơi đâu có biết... Mẹ! Tử tế thương yêu quá mà!
Bà Tư còn muốn nói tiếp nữa nhưng mấy đứa nhỏ từ từ bỏ giò lái, rút êm có trật tự. Văng vẳng có tiếng vọng lại xa xa:
- Thôi cho tụi con sống với má!
Nói là nói như vậy chớ bà Tư một mực lễ độ đối với ông Hương quản Nghé trong giao tế hằng ngày. Thật vậy, ngoại trừ những lúc bà nổi nóng, kềm hãm không được ngôn từ, chớ ngày thường bà rất ư lịch sự với tất cả mọi người chung quanh. Kể cả những đứa nhỏ trời đánh thánh đâm, ngày nào không đi học, tụ tập rong chơi hôi trâu khét nắng. Vốn nhanh nhẹn, nhạy bén và rộng rãi, nghĩ sao nói vậy, không chải chuốt cầu kỳ, không so đo tính toán hơn thiệt, bốp chát thẳng thừng còn hơn ruột ngựa nên ai nấy không buồn lúc tự ái bị tổn thương va chạm. Họ cho rằng bà Tư không hề cố ý. Ngay như khi nghe mấy đứa trẻ gánh nước than phiền cái ao xóm đã cạn, nước đục ngầu sau khi xách được vài gàu. Về nhà phải lóng phèn đến mấy ngày mới dùng được. Bờ ao lở lói. Mấy con trâu không trẻ chăn giữ mặc tình lội dọc lội ngang xuống uống nước mùa nắng. Bà bèn phát biểu ngay:
- Bây còn nhỏ mới lớn lên, bây không biết. Hồi trước ao nầy đẹp lắm. Nước trong vắt lại có cầu ao chắc chắn, làm bằng nhánh cái cây cẩm lai lúc đốn cất đình trước mặt bây đó. Cả vùng nầy vào những mùa khô kéo dài, thiên hạ đổ xô về đây gánh nước dập dìu.
Bà như nhớ lại một thời xa xưa:
- Chiều chiều đông đảo vui nhộn không sao tả xiết. Cái bến ghe kia kìa, bây giờ bây trông thấy lở sạt tầy quầy. Hồi trước ghe xuồng bên Phước Tỉnh, Bàu Lác qua đậu nối đuôi chực chờ chở nước. Ao sâu nước ngọt không bao giờ cạn. Ngay cả mùa hạn hán năm tao hai mươi mốt hai mươi hai tuổi...Mấy đứa trẻ chăm chú nghe bà nhắc cái chéo đời thời thạnh trị xa xưa làm bà Tư xúc động nhưng hiu hiu hài lòng. Bà sẵn trớn mỉa mai trách móc:
- Chớ đâu phải như bây giờ. Bây thấy đó. Từ ngày lộn xộn, chém giết xưng bá xưng vương đến nay, ao mình bị bỏ bê đâu có ai dòm ngó tới. Bông súng mọc đầy. Chàng hiu ếch nhái mặc tình nhảy múa trửng giỡn phá hại.
Bà đưa tay mặt chỉ thẳng về phía trước như để lưu ý đám trẻ:- Bây coi kìa. Nội cái buội sậy, cỏ hoang, bìm bìm chằng chịt hỗn loạn dưới gốc, tao phát ớn. Tao sợ còn hơn sợ bị toi bị gió. Sâu bọ lớn nhỏ đủ cỡ lểnh nghểnh. Chim chóc ỉa đầy bừa bãi. Còn mấy bà mấy mẹ ở ấp nhứt ấp nhì đi chợ Gò Đen về ngang nghỉ chân, ăn hàng bánh xả rác vất từng đống ở bờ ao. Bà không dứt tiếng phàn nàn, đâm chiêu buồn buồn:
- Ban đầu, xế xế trời mát, tao còn ra quét. Để vậy gay mắt. Thét rồi chán ngán, tao bỏ luôn, quét dọn chỉ hoài công. Quét bữa nay, vài bữa họ lại xả nữa. Ngặt nó gần cạnh quán tao quá, nó nhởn nhơ trước mặt. Giận nói là bỏ nhưng bỏ không đành. Quyền lực đã suy đồi. Hết thuốc chữa. Thầy chạy rồi!
Có tiếng trong đám trẻ vừa trịnh trọng, vừa ướm hơi:
- Thôi, bà Tư xung phong đứng ra cổ động vét lại ao mình đi. Bà có uy trong xóm mình lắm mà! Bà nhận lời chắc chắn bà con mình sẽ nhiệt liệt nhiệt liệt hoan hô bà đó!Bà Tư dẩy nẩy:
- Uy cái con khỉ gì? Tao thuộc hàng dốt nát, chữ nghĩa không đầy lá me lá mít, lại bún thiêu, trói gà không chặt. Bộ tụi bây giỡn chơi à? Hại tao sao? Thiếu gì người có tài có đức. Xóm mình không hiếm đâu. Đừng có xúi quẻ, xúi dại, tao làm việc ruồi bu không giống ai. Thiên hạ mỉa mai xầm xì cười tao. Thôi. Để tao yên thân yên phận tuổi già.
Mấy tháng sau, câu chuyện đùa vui ý nhị đó đã thành sự thật. Bà Tư Quán tích cực dấn thân, vận động bà con xa gần lớn nhỏ trong xóm cùng nhau tham gia vét lại ao nhà. Bà đến từng nhà một, giáp mặt từng người, trình bày kêu gọi kẻ góp công người góp của, đốc thúc thực hiện sớm. Đến đúng kỳ hẹn, người ta thấy gần như đông đủ bà con hăng hái tham gia. Họ chia làm nhiều nhóm. Kẻ tát nước. Người dưới ao. Đàn bà con gái, những người yếu đuối đứng cách khoảng vừa tầm tay nhau, làm thành những hàng dài từ dưới đáy lên tận bờ ao chuyền đất. Nhà nào cũng có người đại diện. Cả đám thằng Heo, thằng Xê gọi nhau í ới, vui vẻ tham dự. Chúng sẵn dịp vọc đất thả giàn. Mới xọt xẹt chưa ra hồn, mình mẫy chúng đều lem luốc, sình đất đen ngòm. Thỉnh thoảng có đứa lún sình kêu la rùm trời rùm đất. Cái gốc trâm, lùm buội um tùm, gai dứa chơm chởm hồi sáng thấy phát ghê vừa được phác sạch. Mấy đứa nhỏ gom chà nhánh, quét dọn rác rưởi đem đốt cạnh bờ ao, khói lên cuồn cuộn đen ngòm. Tàn lửa bay ngổn ngang trong không gian bao la vô tận. Chúng tỏ ra sung sướng với công tác được người lớn lần đầu tiên chính thức giao phó cho. Trưa hôm ấy, bà Tư Quán đã chu đáo đặt cộc mượn trước một vài bà còn khoẻ trong xóm, đang rảnh tay rảnh chưn để gánh mấy tấm đệm bàng to, loại đệm dùng phơi lúa cuốn tròn treo lủng lẳng ở các giàn lẫm trại. Họ đem trải rộng chung quanh gốc trâm chờ đợi phái đoàn vét ao lên ăn trưa. Bà Tư tỉ mỉ sắp xếp không thiếu sót mảy may gì cả. Chả sao bà không hổ thẹn với biệt danh bà Tư Lãnh Tụ được bà con phong cho từ ngày bà đứng ra hô hào phát động chiến dịch vét ao nhà. Nhiều lần bà nói:
- Gấp rút quá. Năm tàn tháng lụn, Tết nhứt, nhưng thôi làm quách cho rồi. Chờ sau Tết phải dời ra ngoài ngày. Thời đại mới nhưng bà con mình ở đây có người chưa theo kịp. Dĩ hòa vi quý. Tao cũng tôn trọng phong tục xưa, định chờ qua động đất, kẻo sau này có bà con đổ thừa, tao chịu trời không thấu. Bà đắn đo:
- Tham khảo ý kiến, thật vô cùng rắc rối. Người thì bảo qua mùng mười khởi hành, người lại nói phải qua rằm mới được. Ông Chủ Đầu Cầu còn khăng khăng phải ra giêng, ngoài ngày. Vì đây là chuyện trọng đại lớn lao chớ không phải như động dao động thớt thường tình trong gia đình đâu.
Bà lại tiếp:
- Bây thấy chưa? Nhức đầu lắm. Mỗi người mỗi ý. Vạn người vạn ý. Rốt cuộc tao định phức trước Tết cho xong chuyện, chấm dứt lời ra tiếng vào, bàn tán quanh co mãi không đi tới đâu. Mà sẵn dịp để cái ao xóm mình xinh đẹp bảnh bao đón Xuân ăn Tết luôn thể.
Đệm trải dưới gốc trâm cũng vừa xong. Gió đồng cuốn bay tung toé. Bà Tư hò hét lấy mấy thúng cơm nếp dằn lên bốn góc. Bữa cơm trưa hôm nay đông đảo quá, chưa từng thấy nhưng rất ư đạm bạc, gồm vỏn vẹn cơm nếp muối đậu. Cơm nếp chắc bụng, muối đậu mặn mòi chịu đựng mới nổi một ngày làm đất nặng nhọc. Bà con đã quen thức ăn truyền thống này ngày mùa nhưng từ hôm nắng ráo đến nay, bặt lâu ngày, nay ăn cũng ngon miệng. Trong khi mọi người đang quây quần chen chúc nhau ăn, cười nói không ngớt, bỗng có tiếng bà Tư oang oảng:
- Mẹ họ... Mấy thằng ôn hoàng. Hai cái rá bánh ít trần và mấy phong kẹo đậu phọng bánh phồng tao dành để đãi người lớn khổ cực. Nảy giờ tao tìm đỏ con mắt không thấy. Đứa nào moi ra đây? Ăn hổn ăn ẩu, không còn bao nhiêu cái. Lại cũng tụi bầy trẻ chằn tinh gấu ngựa nữa. Toàn là đồ mỏ hò mỏ ó, lòng tong cá chốt. Không biết kính trước nhường sau gì cả. Còn giả vờ ím thính im ỉm nữa!
Thằng Xê ngậm một búng đầy họng, phồng hai má, ú a ú ớ lơ lớ:
- Bánh ít trần kẹp với kẹo đậu phọng ngon quá bà Tư ơi. Từ hồi cha sanh mẹ đẻ tới giờ mới được bà Tư đãi. Không ăn cũng uổng. Cám ơn, cám ơn bà Tư nhé.
Nói rồi nó chôm thêm một cái bánh và miếng kẹo nữa, chạy thụt mạng thẳng ra ruộng. Mấy đứa trẻ khác bắt chước nó chạy lúp xúp theo sau tận đầu gò hoang. Mọi người cười rần lên, ngước mắt nhìn theo chúng :
- Thây nó chị Tư ơi! Con nít con nôi. Tụi nó thèm thuồng. Nhớ hồi tôi còn nhỏ cũng vậy. Má tôi đi dọn giỗ. Tôi đi theo tò tò. Thấy mấy bà rỉa cua hay cuốn bì cuốn thèm chảy nước miếng mà mấy bà ác lắm. Đâu có ai cho ăn. Sau này lớn lên, thèm khát gì, người ta cứ mời mọc ép nài. Thây tụi nó. Coi vậy chớ có tụi nó mới rậm đám, mới vui.
- “Chời, chời”! Ai như ông Bảy kia kìa. Hình như ổng còn kè kè hai chai “dượu” bên nách nữa.
- Đúng ổng “dồi” chớ ai.
- Bộ ổng định thuốc mình sao? Công việc còn đăng đăng đê đê, đầy đàng đầy đống làm trối chết chưa chắc đã nhòn. Mơi giờ có thấy vực được bao nhiêu đâu. Thấm tháp gì mới chỉ được một buổi. Không khéo, cứ trì hưởn nhậu nhẹt tới tối chưa xong.
- Bữa nay trời tốt. Ông trời ổng hầm hừ hâm dọa như vậy từ tang tảng sáng nhưng bây giờ trống chưn rồi. Trời mát làm tới chừng nào xong mới nghỉ nghe bà con.
- Ai nói như vậy đó. Bằng thừa. Không làm dứt sao được? Ngày mai nước mạch lên lai láng, quân ngũ nào tát cho cạn để vét?
- Mà tôi cá. Mười ăn một. Mặt trời lặn là xong ngay.
Lời qua tiếng lại của bà con chưa dứt đã thấy ông Bảy Sô lất la lất lửng đến sát bờ ao rồi. Mọi người mừng rỡ thân mật chào đùa ông Bảy vì biết ông mới trưa mà đã ngà ngà trong khi ông Bảy Sô lập bập từng tiếng một:
- Tao mang cho tụi bây hai lít bọt ngọt dịu. Tao với bà Bảy tụi bây vừa ý lắm. Mới pha còn ấm hiểm đây này.
- Chiều còn làm nữa ông Bảy ơi. Bộ ông hại tụi này sao?
- Ậy mà! Thấm giọng mỗi đứa một chút cho ấm bụng, dầm dưới ao đỡ lạnh. Tụi bây đâu phải đàn bà con gái nheo nhẻo đâu, hễ thấy rượu là sợ. Dầu hèn cũng thể chớ. Nát vỏ cũng còn bờ tre mà!
Ông Bảy chìa ra hai cái tô con rồng ngã màu xam xám do chất dơ lâu năm khắn chặt, miệng tô sờn mẻ nhiều nơi. Ông khụm nụm rót rượu ra tô. Xong, đích thân ông đi đến nơi này nơi kia chuyền cho mọi người cùng nhấm, mỗi người một chút thôi.
- “Chời, chời”! Bộ nhậu khan như vầy sao ông Bảy?
- Bây lo gì mà nhắc nhở đòi hỏi. Chiều nay vét ao xong, tao mời hết bà con lại nhà tao ăn mừng xóm mình có cái ao mới. Cho có vẻ trịnh trọng hơn. Bà Bảy bây sáng giờ cùng với thím Hai Xệ làm cả chục gà mái dầu, con nào con nấy ăn hèm mập lút, mở sa vàng hườm, mỗi con cả bụm tay người lớn.
- Ông Bảy chịu chơi quá.
- Chịu chơi cái giống gì? Phải việc là làm tới, làm mút chỉ luôn. Tụi bây cũng biết, tao giàu có hơn ai ở xóm này, nhưng như tao vừa nói, dù hèn cũng thể, dù bể cũng kêu cành cạch mà. Tao mời hết nhé. Lớn nhỏ mời ráo nạo. Ai cũng có công hết.
- Ông Bảy không mời thời thôi. Ông có lòng mời thì tụi này đâu đứa nào dám phụ lòng ông. Nhứt định sẽ đến đông đủ.
- Hồi sáng tao bơi ghe qua Phước Tỉnh mang lúa đổi cả chục quảo bún rồi. Nhưng tao khoái là thỉnh được thím Hai qua giúp bà Bảy tụi bây một tay đắc lực. Vì là chuyện chung, công ích nên thím Hai không từ chối. Như vậy hai bà đã xí xóa mọi hiềm khích bấy nay.
Ông tỏ ra phấn chấn:
- Ở sát bên hè mà ngày ngày cứ hườm nguýt, trâu trắng trâu đen, thậm chí còn chưởi bới bông lông nữa, chòm xóm nghe được họ chê cười. Hai bà mới đó xem ra tương đắc lắm. Nhân tiện đãi tụi bây, tao ăn mừng luôn sự hòa thuận tác hợp đó.
Ông lại chậm rãi trình bày thêm:
- Thím Hai chẳng những giúp công còn mang bột giáo trùng nắn bánh cụt bánh hòn, nạo dừa khô thắn “lòng lanh, bồng con” nữa. Giờ nầy hai bà mãi lo chuẩn bị nấu nướng đâu có hột nào trong bụng. Tao bỏ đó đi đây.
- Nhưng chỗ đâu chứa hết đám lâu la này ông Bảy?
Bà Tư Quán quát lên:
- Tụi bây lộn xộn quá. Khéo lo mà ốm. Chuyện của chủ nhà để chủ nhà người ta lo. Ai có phận sự nấy. Ông Bảy là người có trách nhiệm cao. Ổng trông như vậy chớ thật ra không phải như vậy đâu.
Đằng hắng đôi ba cái, ông Bảy lấy giọng giải thích:
- Thì người lớn ở nhà trên. Đàn bà con gái ở nhà sau. Đám cò ke lục chốt ở chòi củi. Tao đã quét dọn chòi củi từ sáng hôm qua sợ bữa nay một mình làm không xuể. Cứ trải đệm ra là tụi nhỏ chúng nó vui rồi.
- Thời nay bình quyền bình đẳng sao ông Bảy còn phân cách vậy?
- É! Ai nói đó? Bình quyền bình đẳng là một việc nhưng phải có người lớn kẻ nhỏ chớ. Đâu ra đấy. Thêm nữa, bây không nhớ câu: “Thương người uống rượu mà hận kẻ phá mồi” sao? Mới rồi đi đàng xa tao chả nghe văng vẳng tiếng chị Tư quát tháo về mấy rá bánh ít trần, kẹo đậu phọng à?
Tiếng người cười rân lên như ong vỡ tổ.
- Phải đó ông Bảy.
Ông Bảy được trớn, đứng phắc dậy nói tiếp:
- Có được dịp bà con đông đủ như vầy hiếm hoi lắm. Quý biết dường nào.
- Đúng vậy. Nhưng hình như thiếu...
- Ai nói như vậy đó?
Bà Tư Quán nảy giờ lăng xăng đơm cơm nếp cho từng người cùng với mấy cô gái trẻ gánh nước ao mỗi buổi chiều khi mặt trời phụp xuống, buông lời ấm ức:
- Biết rồi! Đứa nào nhắc tới đó làm tao nóng mặt.
Ông Bảy hỏi:
- Giống gì vậy chị Tư?
- Tánh tôi rất phân minh, thích nói huỵch tẹt. Trắng ra trắng, đen ra đen, chớ không ỡm ờ, lập là lập lững, nửa nạc nửa mỡ. Thì tụi nó nhắc đến gia đình ông Hương quản Nghé chớ ai vào đây. Tụi nó không nói đích danh. Nhưng ngửi hơi, tôi thừa biết. Cửa nẻo nhà ổng đóng kín im ỉm, ngoài ngõ còn rắp chà tre mấy lớp, anh không thấy sao?
Có người nói:
- Hồi xưa, ổng rộng rãi quá mà. Mỗi lần cúng Kỳ Yên ở đình, ổng cúng heo quay, đãi ăn đãi uống linh đình...
Bà Tư cãi lại:
- Nữa...!.... Mẹ! Ổng cúng đình để mua chuộc người khuất mặt khuất mày, sợ tội lỗi chớ bây giờ đình mình sập rồi, từ bữa đụng độ năm ngoái. Đến nay có ai dòm ngó quan tâm để ý tới. Bây giờ ổng đã bám rễ chắc nẹo ở Gò Đen, an ninh đảm bảo, sống tà tà, có màng đâu đến cái xóm Phú Thứ quê mùa hẻo lánh này nữa hòng đóng với góp. Đôi mắt bà bỗng dàu dàu:- Mà đóng góp làm gì? Ban ngày ruồng bố, ban đêm khủng bố, một cổ hai tròng. Thét rồi xóm mình tả tơi xơ xác. Bây không thấy sao? Chập tối đỏ đèn, cửa nẻo nhà ai cũng kín mít. Mọi người đều rút vào nhà tử thủ. Tụi bây nhắc cho mắc công.
- Cháu thấy thỉnh thoảng ổng có về. Sáng hôm qua tôi có thấy mà!
- Ấy! Về là để táo vét cây ngon trái ngọt trong vườn, vét được thứ nào hay thứ nấy. Vét để sống phè phởn ngoài ấy. Tụi bây vẫn ngây thơ cục mịt. Làm như ổng còn thương còn nhớ, bỏ không đứt bức không rời xóm mình à?... Mẹ họ! Thôi bỏ qua đi bây ơi. Tao chán ngấy. Tao đã già hai thứ tóc rồi.
- À há! Êm êm chắc ổng sẽ về. Mà biết chừng ổng sẽ khai thác cái ao này bằng máy bơm để tưới vườn nữa. Tụi mình bất quá mỗi ngày gánh vài đôi nước để uống là cùng.
Bà Tư Quán bỗng lồng lộn lên:
- ... Mẹ! Sao tao ghét cái lối sống chàn hảng chê hê đó quá. Chỉ biết mình, không nghĩ đến thiên hạ, bà con chung quanh. Bây nói phải đó. Êm xuôi mới về hẳn chớ bây giờ đi đi về về để thăm bẫy. Mà lạng quạng không khéo mấy thằng Việt Minh Cộng sản mù quáng, dốt đặc cán mai, gán cho tội làm gián điệp, mổ bụng dồn trấu, trói thúc ké cho đi mò tôm mà coi. Tao ăn hiền ở lành, trực tính nói như vậy chớ không phải kêu rêu trù ẻo ổng đâu. Riêng tao thì tao sinh đẻ ở đây, lớn lên sống ở đây mà chết nhứt quyết cũng chết ở cái chéo đất này...
Rồi bà ngừng một chút ra chiều đâm chiêu suy nghĩ:
- Tụi bây đâu có biết. Cái ao xóm mình nó sạt lở, nó cạn bao nhiêu lần rồi chớ bộ mới lần thứ nhứt sao? Hồi tao khoảng đâu mười bảy mười tám gì đó, tao tham gia vét một lần lúc thực dân Pháp còn thế lực. Đến khi Nhựt Bổn tràn qua xâm chiếm đánh nhau với Đồng Minh, bom nổ ầm ầm, ban đêm súng bắn đạn lửa tua tủa như pháo bông ngày Tết đan quyện sáng rực trời, tao lại đóng góp vét lần nữa. Bây giờ là lần thứ ba chớ phải chơi sao. Tao chắc cũng là lần chót trong đời vì tao đã gần đất xa trời rồi. Tao cũng chán ngán trò đời nên ước ao sớm được về với ông bà tổ tiên, an phận ấm cúng hơn.
Tiếng thằng Xê lảnh lót:
- Bà Tư ơi! Bà đừng có lo. Mười lăm, hai mươi năm nữa, nếu ao mình có lở có sạt, chừng đó còn có tụi tui.
Mấy đứa nhỏ ào ào lên:
- Xê ơi! Tụi tao không bỏ mầy đâu.
Thằng Heo đứng cạnh bà Tư Quán, khều nhẹ tay má nó:
- Má à! Thằng Xê định làm lãnh tụ thay thế má ở xóm này đó. Thôi má cho nó làm lãnh tụ... hàm ngay bây giờ đi.
Đoàn người cười ầm:
- Phải! Phải đó chị Tư...
Chiều nghiêng. Mặt trời đỏ choét tròn xoe vẫn còn mắc lửng như trồng ở chân trời và cái ao vừa vét xong, sâu, sâu lắm. Bờ ao được mấy đứa nhóc con, lũ thằng Heo thằng Xê gia công bo láng, trông đẹp mắt. Sau khi ngắm nghía kết quả mỹ mãn một ngày công ích để đời, đoàn người bắt đầu tẻ xuống bờ mẫu. Quần áo họ lem luốc, hăn hắc mùi bùn non xà xịn nhưng vốn đã quen hơi nên không đến đỗi khó chịu.Thỉnh thoảng họ dừng chân, ngoái nhìn từ xa hình ảnh toàn bộ cái ao mới vét của mình. Rồi sau đó họ trao đổi với nhau vài câu thân mật, đôi lời phê bình phơn phớt nhẹ nhàng để cùng nhau cười vang đắc ý. Họ đã lần lượt, kẻ trước người sau tách rời xa nhau trên những đường mòn ngoằn ngoèo dẫn vào thôn ấp nhưng không quên nói vói theo. Họ vẫy tay hứa hẹn tối nay thế nào cũng phải có mặt ở nhà ông bà Bảy Sô. Đã hứa, phải giữ lời, không thể vắng mặt được. Đứa nào hoặc vô tình hay cố ý xé lẻ không đi, ông Thần đình Phú Thứ sẽ vặn lọi cổ nó. Tuy đình đã sập từ lâu nhưng ổng còn đâu đấy, linh thiêng lắm.
Riêng bà Tư Quán vẫn lui cui thu dọn đệm, chiếu, tìm mấy cái rá để lăn lóc mỗi nơi một cái. Xong, bà phân công các cô gánh về hoàn trả chủ cũ. Bà rời ao sau cùng như còn quấn quít, quyến luyến không khí chung lưng đâu cật của xóm bà lúc cần thiết hữu sự. Bà cũng sung sướng xúc động từ nay ao nhà đẹp đẽ, trong trẻo, tinh khiết như thuở xa xưa mới đào lần thứ nhứt lúc bà ở tuổi thanh xuân mơ mộng. Bà thở phào lâng lâng khoan khoái. Chân bước nhanh hướng về phía quán đã bắt đầu lên đèn le lói. Lòng bà rộn rả vì tai bà hãy còn nghe vang dội rõ ràng trong hoàng hôn hấp hối, lời nói bộc trực của thằng Xê:
- Mười lăm, hai mươi năm tới, nếu ao xóm mình sạt nữa, chừng đó sẽ có tụi tui.
- Bà ơi! Rượu này pha hôm nào mà chẳng có bọt bèo chi cả? Tôi chiết nó đúng ở cái bong bóng sát giàn bếp kia cà.
Bà Bảy cũng chẳng hơn gì ông Bảy. Từ hừng đông sáng thức dậy, bà đã bỏ bụng sơ sơ gần nửa xị. Bà chẩm rải bước ngang ngạch cửa ăn thông ra nhà trước, vừa nhướng đôi mắt lờ đờ mơ màng, lúc nào hai mí trên cũng muốn sụp hẳn xuống, vừa nói:
- Rượu nào mà không bọt bèo? Ông giả bộ hoài! Ông nói thiệt hay giỡn chơi vậy ông kẹ? Mới hồi tưng bửng gà gáy, thằng Chín Tý qua đập cửa rầm rầm hỏi mua một lít. Nó nếm thử, khen ơi là khen. Bà trở giọng :
- À, cũng phải mà! Bọt đâu có bọt phải không ông? Ông xỉn quất cần câu rồi!? Trời đất thiên địa ơi ngó xuống mà coi nè! Kìa, ông rót trót lọt ra ngoài bàn, tôi đoán độ cả nửa ly, còn đọng vũng đó.
Ông Bảy vội lắc lắc đầu do tật cha sanh mẹ đẻ từ nhỏ. Ông vội đưa tay chít lại cái khăn chéo trắng đã ngã màu nâu từ lâu, làm cho mớ tóc muối tiêu của ông không còn lù xù bồng bềnh. Ông đằng hắng cãi lại:
- Hứ! Say đâu mà say? Tôi uống năm ba tỉn nước mắm, cả hũ, cả khạp da bò cũng chả thấm thía gì! Bợm nhậu tiếng tăm nổi như cồn vùng này bà không nhớ sao?
Giọng ông như phân trần:
- Bữa nay, tay tôi sao bỗng dưng run run kỳ lạ vậy cà! Mới nhậu có cái chân gà chưa hết xị mà. Làm thêm cái nữa đủ cặp, chắc hết run phải không bà?
Ông day qua phía bà Bảy hỏi:
- Bà còn làm gì nữa đó? Cứ nấn ná không chịu vào mâm cho rồi. Đồ ăn nguội lạnh hết. Cả ruồi lằn nữa... Coi được cứ lên mâm cho vui. Thấy bà ăn tôi mới mắc thèm bắt trớn. Ăn ên một mình ngon cái nổi gì?
Vừa đi, bà Bảy vừa trả lời:
- Biết rồi! Ông bợm khét tiếng vùng mình mà. Khét tiếng hồi nhỏ... lúc ông Nhược ỉa cứt su, chứ bây giờ ông như ông Táo ngồi lù đù cú rũ ở gốc me bên đình kìa, cà quơ cà quào chờ Ngọc Hoàng giũ sổ! Bà bỗng nói lẫy, cau có:
- Ông đói ăn trước đi. Nước cất rượu đã nóng. Thay nước xong, tôi vào ngay. Ông làm như tôi chặt ruột không biết đói à!
Bà Bảy đẩy củi vào lò nấu rượu, can lửa cháy đều, liu riu liu riu. Xong, bà quày quả lên mâm, vén vạt áo ngồi trên ván ngựa, thòng hai chân xuống đất. Bà chà xát hai lòng bàn chân qua lại đôi ba lần cho bụi cát bụi đất bay bớt đi. Xong bà xếp một chân gọn lỏn, chân kia gập lại chỏi thẳng lên, vói tay xắp lại chén dĩa, thức ăn thức uống cho ngay hàng ngăn nắp. Ông Bảy chép miệng làm lành:
- Tôi thật vô công rồi nghề, ngày ngày chẳng làm chuyện gì nên thân. Sáng chiều cứ lai rai vô tích sự. Tôi mới làm tiếp cái đầu gà. Con gà giò bông lúa đang trổ mã bị thằng Xê phang xiểng niểng, xà lếch xà lếch mấy bữa nay. Tôi cứ tưởng nó còn nhỏ hếu hôi lông, không dè mềm mại ngọt thịt quá.
Bà Bảy hơi phật ý:
- Gà giò gà chạy không ngọt thịt sao được? Ông nói gì kỳ lạ quá? Khéo vẽ duyên! Tôi nghe không lọt lỗ tai. Lãng xẹt!
Bà nguýt khẽ:
- Làm như ông mới ăn thịt gà giò, gà chạy lần đầu. Thiên hạ chòm xóm nghe, họ cười tôi thúi đầu. Họ kêu rêu tôi tổn thọ. Họ tưởng đâu tôi siết hầu siết họng không cho ông ăn, trong khi gà vịt nhà mình nheo nhóc đầy đàn, rậm rật trong vườn ngoài ngõ.
Ông Bảy biết ý vợ, bèn vả lả:
- Bà xem này! Đến cái xương sọ cũng mềm rụm. Răng cỏ tôi như cây trốc gốc, xiêu vẹo, cái này đéo bà cái kia mà tôi nhai nát ngướu, chứ đâu như thằng Năm Ống Quyển. Nó nhỏ hơn tôi ít ra cũng năm bảy tuổi gì lận, nhưng trơ nướu móm xọm. Vậy mà nó giống tôi, rất thích đầu gà đầu vịt. Tôi cam đoan nó chỉ mút mút chép chép đỡ ghiền, chớ nó làm sao thưởng thức được cái óc gà béo bổ thâm thúy bên trong.
Ông lại cười khề khà:
- “Trai thời trung hiếu làm đầu” phải không bà? Phần tôi xong rồi. Tôi vừa chiết thêm một nhạo nữa đó. Bây giờ tới lượt bà đi. “Gái thời tiết hạnh, phau câu, gan mề”. Ly của bà đây này. Bà nhấm thử, xem nước ngọt dịu tôi mới pha có hậu không?
Ngừng một chút, ông nghiêm giọng:
- À, tôi quên phứt. Chưa già khụ mà đã lú lẩn, quên trước quên sau. Không lên tiếng ngay, bà nói tôi say... Cơm nước xong, bà cứ để đó cho tôi. Bà làm ơn đi ngay xuống quán chị Tư gọi chỉ cho người lên lấy hai bong bóng rượu đặt hôm kia. Chỉ căn dặn kỹ lắm. Nhắc đi nhắc lại nhiều lần, bảo gấp để kịp giao theo chuyến xe đò sáng sớm đi Chợ Lớn.
Cặp vợ chồng ông Bảy Sô tuy vậy mà đầm ấm lắm. Lấy nhau gần bốn mươi năm, cả hai không có một mụn gái để hủ hỉ những lúc buồn vui. Đừng nói chi con trai nối dõi tông đường. Hai ông bà rất thảnh thơi nhàn nhã. Ông bà không bị ràng buộc vướng bận bởi trách nhiệm nặng nề làm cha làm mẹ. Thêm ở thôn quê rẫy bái, cuộc sống không đòi hỏi nhiều điều phức tạp quá đáng, vợ chồng thả nổi tà tà, đắp đổi qua ngày nhờ cái nghề sinh sống tự do: nấu rượu lậu. Rượu ông Bảy Sô có tiếng nhất vùng. Bợm nhậu từ đầu trên cuối xóm, chí đến các làng lân cận không ai không một lần ghé nhà ông mua để thưởng thức. Gặp những ngày lễ lộc định kỳ trong xóm hoặc dịp Tết nhứt, kể như hai ông bà đầu tắt mặt tối, lúi húi tới lui tối ngày bên bếp rượu. Dù nổi tiếng nhờ làm ăn ngày càng phát đạt và được bà con một mực tín nhiệm, nhưng vợ chồng gói ghém kín đáo lắm. Ông bà không hề phô trương bung thùa, luôn luôn cảnh giác đề phòng kẻ ghét ghen ganh tỵ dòm ngó. Ngay thuở xa xưa còn thực dân thuộc địa Pháp, đố tào cáo lành nghề vào ruồng bắt được ông. Còn nói gì các hương chức trong Ban Hội Tề, họ đều là những bạn nhậu chí tình chí cốt, dĩ nhiên không làm khó dễ gì ông. Trái lại, họ còn lân la thân mật nữa. Rượu ngon nhờ ông bà Bảy cất rượu tươm tất, tỉ mỉ theo phương pháp và kỹ thuật cổ truyền được thừa hưởng từ đầu huyền tổ tằng tổ, thuở mấy tay phiêu lưu Pháp mới đặt chân đến đất Nam Kỳ Lục Tỉnh. Ông bà lại biết chọn nếp chọn men lão luyện do kinh nghiệm mấy mươi năm liên tục trong nghề. Tánh tình lại hề hà vui vẻ, một mực chiều chuộng quý mến khách. Cả hai chịu khó pha chế sao cho phù hợp với thị hiếu mỗi khách hàng, dù họ có khó tánh đến đâu. Trong nhà, ông còn ngâm, để dọc để ngang trên các kệ cây sát vách, chai hũ lớn nhỏ đủ loại. Nào rượu thuốc do các ông thầy thuốc Bắc Tam Thiện Đường ở chợ Gò Đen hoặc Phú Xuân Đường ở đèn năm ngọn trong Chợ Lớn cung cấp theo toa các y tổ ngày xưa mà các ông bảo còn giữ được nhờ cha truyền con nối cả chục đời lương y bên Trung Quốc. Rồi nào rượu ngâm trái cây đủ loại, ngâm các loại gia súc hà nàm. Rượu nhím, rượu kỳ đà, rượu rắn, rượu nếp than... đầy đủ màu sắc và hương vị.
Khách hàng nào cũng tìm được ở nhà ông bà Bảy hương men vị nếp mình thích thú kiếm tìm. Họ không uổng công lặn lội xa xôi để được hồi xuân hồi dương, bổ gan bổ thận. Bạn bè thân thích tha hồ tới lui thưởng thức bất kể giờ giấc sớm tối. Nhà ông không lúc nào vắng khách. Nhờ đó, cuộc sống hàng ngày vui nhộn, giúp ông bà quên cảnh vợ chồng già cô đơn, không con không cháu quấn quít một bên. Cái nghề nấu rượu lậu dĩ nhiên mang đến vợ chồng ông Bảy lợi tức tối thiểu, đảm bảo việc tiêu xài hằng ngày. Hai ông bà sống phây phây như tiên ở làng mạt khỉ ho cò gáy nầy. Chẳng hề bận tâm lo lắng ngày sau ra sao. Nhưng sự sung mãn của gia đình nhờ ông bà khéo léo bươn chải, khai thác thêm một nguồn lợi thứ yếu là bã hèm. Ông bà dùng để nuôi heo, nuôi gà, vịt. Đàn heo Thuộc Nhiêu của ông bà thường thường khoảng nửa chục đủ đầu, lớn như thổi, gối thêm một số heo con sởn sơ mập ú. Do đó, lúc nào trong chuồng cũng xôm tụ, nheo nhóc eng ét náo nhiệt cả ngày. Gà vịt của ông bà không sao kiểm soát hết. Ông bà thả tự do bay nhảy nhởn nhơ trong sân trong vườn, bươi xới ăn cào cào châu chấu, sâu bọ tha hồ. Còn nếu đói nữa, chúng nhảy vào chuồng tìm các máng heo thế nào cũng có chút ít bã hèm rơi rớt. Có con đẻ ngoài buội rậm, ở bờ tre, nơi cuối vồng cuối liếp lúc nào không hay. Đến chừng chúng nó lục tục dẫn đàn con về sân lúc cho ăn chập tối, ông bà Bảy mới phát hiện trong ngạc nhiên thích thú đàn gà của mình nay có thêm một bầy mới nữa.
Vợ chồng ông bà Bảy rất bằng lòng với số phận mình, nhìn lên không giàu có hơn ai nhưng nhìn xuống thấy mình cũng phong lưu đáo để. Từ nhỏ đến lớn, nay tóc đã muối tiêu tuổi xế chiều, có ngày nào hai ông bà đội trời đạp đất dang nắng dầm mưa, làm việc đồng áng nặng nhọc bao giờ đâu. Ông bà rất cởi mở dễ dãi. Ai cần, ông bà cho. Ai thiếu, ông bà biếu. Bẩm sinh như vậy. Không bao giờ ông bà biết tính toán trong cử chỉ thương yêu giúp người. Thật vậy. Ở đời, bợm nhậu có tiếng háo ăn lắm. Nhậu một mình không vui, mất hứng. Phải có bạn bè tri âm tri kỷ nhâm nhi đấu chuyện tào lao tầm phào. Thói thường người ta nói không sai. Có hôm, gặp ngày mưa rơi như cầm tỉn mà đổ, ông Bảy ngồi nhà bó gối buồn hiu. Hoặc ông đi tới đi lui, xớ rớ trong gian nhà chật hẹp. Thấy có chiếc áo tơi nào lù đù tạt ngang qua trước cửa nhà, ông lớn giọng cất tiếng:
- Vô đây anh Hương Hào, đụt mưa cho ấm. Vội vã gì với thời tiết thúi đất nầy. Trà tam rượu tứ! Tôi uống một mình từ đầu cơn mưa tới giờ không thú vị chút nào cả. Anh Hương Hào sẵn dịp tháp tùng cho vui.
Qua ngày mùa, ai ai cũng phải làm ruộng nương rẫy bái tận lực, từ tờ mờ sáng chim chóc vừa chớp mắt hát líu lo ở hàng tre mãi đến đỏ đèn mới về nhà. Khách mua rượu tiêu khiển cũng vơi đi. Đâu có ai rổi rảnh cho dù có nhớ có thèm hơi hướm của chất đế nồng cay. Ông Bảy bèn tập bà Bảy lai rai với ông cho vui cửa vui nhà. Thét rồi cả hai vợ chồng già không lúc nào không có đế nồng lưu thông trong huyết quản. Thức dậy là ông bà có vài ly ấm bụng điểm tâm, không cần phải ăn sáng với xôi nếp, khoai củ chắc bụng như bà con thiên hạ lục lục thường tình. Tối đến, ông bà cũng nhờ đế ru giấc ngủ thêm nồng nàn, mặc cuộc đời đen đỏ đỏ đen ra sao thì ra.
Tiếng mấy đứa nhỏ lao xao ngoài ngõ ngắt khoảng bởi tiếng cười rộ từng chập làm cho thằng Xê bỗng dưng buông đũa. Nó nhanh nhẹn bỏ giò xuống đất chạy ra xem, mặt mày hăm hở chưa từng thấy. Miệng nó lập bập nghe tiếng được tiếng không:
- Thôi rồi! Đúng là bà Bảy đang xỉn. Má ơi! Tụi nó đang theo chọc ghẹo bả đó.
Bà Hai Xệ vội hét lên, lôi giựt vọng thằng Xê quày trở lại:
- Ông ôn hoàng dịch lệ ơi! Con lạy ông mà! Mau mau làm ơn trở vô tém dẹp chén cơm lở dở, bỏ hột rơi hột rớt bừa bãi mang tội ông ơi. Con không có thì giờ chờ đợi hầu hạ nhe. Lúa thóc còn đang đăng đê đê ngoài sân từ sáng chưa ai trở. Lạ gì bà Bảy nữa?
Rồi bà hướng thẳng về phía thằng Xê, nghiếng răng:
- Bộ mới mẻ lắm sao? Ngày nào cũng vậy. Giờ nầy là bả cà kê xiểng niểng đi ra quán bà Tư. Chục ngày như một. Cả năm nay, có sót ngày nào cho tao cùi đi. Bả say mèm.
Bà buông lời móc họng:
- Con xin ông đừng có tụ năm tụ bảy chọc phá trêu ghẹo bả, kẻo con nổi nóng lên, dằn không được mà mang họa đấy. Chừng đó ông đừng trách con... Thằng Xê khựng lại, đứng như chết ngắc chết trân. Dù bực dọc cách mấy nhưng nó nào dám biểu lộ ra ngoài. Nó quày quả trở về ván ngựa, hấp tấp tém tém chén cơm dở dang rồi lùa lia lịa một búng phùng cả hai má. Nó vẫn còn ấm ức, ngồi không yên. Nó đưa mắt nhìn ra ngõ:
- Chọc ghẹo gì bả má. Con ra cùng tụi nó theo đỡ bả kẻo bả té vào bờ tre, buội rậm gai đâm chích tội nghiệp. Già cả rồi! Mà cũng để nghe bả ca Vân Tiên.
Lần này bà Hai dứt khoát:
- Tao bảo thôi là thôi. Chẳng có giang ca dong dài gì hết. Ở nhà! Chẳng đi đâu cả. Bày đặt. Lỡ trúng nắng trúng mưa về báo đời tao? Nuôi cho ăn học muốn hụt hơi, tiền đâu tao chạy thầy chạy thuốc nữa đây?
Thằng Xê cũng ơn ớn lịnh bà Hai Xệ vì bả thường dám nói dám làm. Nó đành thúc thủ trụ bộ ở ngạch cửa trước, đưa mắt thèm thuồng nhìn ra ngoài sân, tỏ vẻ vùng vằng. Một đỗi sau, nó tự nhiên cười khanh khách một mình, réo vọng xuống sàn nước nơi bà Hai Xệ đang rửa chén:
- Má nghe không? Bà Bảy bữa nay không ca Vân Tiên mà lại nói lái có tuồng tích. Đó má nghe không?
Văng vẳng...:
Mé chiếc gươn (mướn chiếc ghe)
Xuổm bồ (xổ buồm)
Chạ quay (chạy qua)
Đài Nông (Đồng Nai)
Ma bua (mua ba)
Thấn phung (thúng phân)
Đê vèm (đem về)
Trít cây mồng (trồng cây mít)
Băm na (ba năm)
Cái tró (có trái)
Trền leo (trèo lên)
Huống xái (hái xuống)
Xử làm te (xẻ làm tư)
Cá ông bùng (cúng ông bà)
Bòn ca (bà con)
Xái lụm (xúm lại)
Ôi cho rằn (ăn cho rồi)
Đọt cái tít... (địt cái tót...).
Xuổm bồ (xổ buồm)
Chạ quay (chạy qua)
Đài Nông (Đồng Nai)
Ma bua (mua ba)
Thấn phung (thúng phân)
Đê vèm (đem về)
Trít cây mồng (trồng cây mít)
Băm na (ba năm)
Cái tró (có trái)
Trền leo (trèo lên)
Huống xái (hái xuống)
Xử làm te (xẻ làm tư)
Cá ông bùng (cúng ông bà)
Bòn ca (bà con)
Xái lụm (xúm lại)
Ôi cho rằn (ăn cho rồi)
Đọt cái tít... (địt cái tót...).
Tiếng mấy đứa trẻ tiếp theo nhịp nhàng “tót... tót...” cười rân lên làm thằng Xê càng thêm nôn ruột. Nó vang lơn nài nĩ bà Hai cho nó ra họp mặt với chúng bạn. Nó kèo nài đôi lần ba lượt, chỉ xin vài phút phù du thôi, nhưng bà Hai vẫn một mực cương quyết:
- Tao đã bảo không đi đâu hết. Bả nói lái tầm bậy tầm bạ, có dây có nhợ. Cứ bổn cũ soạn lại, nói tới khuya cũng bao nhiêu đó thôi. Mầy ngứa cẳng ngứa chưn, lấy nón lá máng ở gốc cột nhà sau đội ra cày lúa ngoài sân cho tao. Còn có ích lợi hơn.
Bà Hai bỗng xuống giọng nhỏ nhẹ, nhắc nhở thằng Xê:- Coi chừng mấy chỗ đệm rách, lúa lọt đổ ra ngoài.
Bà Hai Xệ mặc dầu ở sát nhà ông bà Bảy Sô, cách nhau chỉ một cái mương ranh, ngoằm ngoèo nhỏ hếu, vừa đúng tầm thằng Xê bắt trớn phóng qua phóng lại gọn lỏn như đi chợ sớm chợ chiều. Nhưng hai bên không mấy hòa thuận. Mà cũng chẳng có gì quan trọng. Vẫn mấy chuyện lặt vặt đàn bà con nít. Những chuyện xích mích bất đồng tiếp diễn từ ngàn xưa giữa những cơ ngơi giáp ranh nhau. Ổi, xoài, mãn cầu, mận, thậm chí đến cam sành, quít đường... dựa mé mương phía bên ông bà Bảy cứ thoải mái, điệu đàng chĩa ít cành oằn trái ve qua sát vạt đất bên này. Thằng Xê lém lỉnh, ở cái tuổi ăn không ngồi rồi, tối ngày cà nhổng chỏng mông rong chơi với bạn bè trang lứa, rủ bọn lục lăn lục lữa, trời đánh thánh đâm đến độ thầy chạy, a tòng lặt ráo nạo, nhiều khi còn phá hủy tanh bành té bẹ, chưa kịp chờ trái hườm hườm nở gai. Bà Hai Xệ phiền trách ông bà Bảy thả gà thả vịt lội lên lội xuống phá sạt mương sạt liếp, bươi xới sạch sành sanh rau cải vườn bà. Bà trồng thứ gì cũng chẳng ra hồn. Có công trồng, chăm nom bón phân, tưới nước sáng chiều rã cánh tay xệ bã vai muốn đứt hơi, chẳng những không thu hoạch tương xứng, còn mất thêm thì giờ rình rập đuổi đập từng chập. Gà vịt ông bà Bảy quen thói, đuổi đó, một đỗi lại thong dong bén mảng qua, làm cho bà Hai luôn luôn cằn nhằn cau có. Khổ nỗi, gà vịt ông bà Bảy ăn toàn hèm. Ăn riết chán phèo. Chúng cứ ngóng cổ tìm cách tràn qua sân bên nầy mổ trộm thóc lúa phơi ở sân. Bực mình, bà Hai Xệ lúc đầu mắn vốn ông bà Bảy nhưng ông bà Bảy chỉ hề hà cười trừ. Hứa hẹn thì có, thực tế đâu cũng vào đấy. Chẳng có gì thay đổi. Gà vịt vẫn tiếp tục bay qua rậm rật trong vườn gay mắt bà Hai. Tánh ông bà Bảy như thế. Hề hà như không có chuyện gì quan trọng trong đời. Còn nói gì gặp lúc tào cáo bủa vây ruồng bố, lùng sục nhiều ngày tận hang cùn ngõ cụt, ông bà không ra hèm được. Heo không ăn dặm, đói kêu la eng ét cả ngày nhức tai điếc óc.
Nói là bà Hai Xệ không ưa ông bà Bảy Sô cũng không đúng lắm. Phải nói là bà Hai không bằng lòng ưng ý mới đúng hơn. Tuy không bằng lòng nhưng bà Hai để bụng, thề chết mang theo, không la cà thân mật, chớ tuyệt nhiên không sanh sự cãi cọ, chưởi bới hàng tôm hàng cá bần tiện. Ít ra cũng còn chút thể thống tối thiểu của người láng giềng sát bên hè. Thỉnh thoảng bực mình quá, bà dằn lòng không được, dù nặng lời thì cũng bông lông bóng gió, xa gần có văn chương nghệ thuật… theo kiểu bình dân. Hoặc bà im lặng, lấy tay ngoắc lấy ngoắc để, thúc hối đôn đốc thằng Xê rượt đuổi, phang gà vịt ông bà Bảy đổ lông tung toé, có khi què giò xệ cánh nữa. Mỗi lần gà vịt chạy có cờ, kêu la thất thanh toát toát, ông bà Bảy biết ngay là bà Hai hoặc thằng Xê chút chít ra tay, chớ không ai khác vào đó. Thằng Xê con nít con nôi, khi bà Hai trong bóng tối giựt dây, âm thầm ném đá giấu tay thị thiền cho nó cứ thấy gà vịt ông bà Bảy bén mảng qua vườn, tha hồ rược đuổi. Đá cục nó chất dài dài bên vỉa hè, dọc theo hàng lu vú. Mấy đống xà bần mảnh sành, gạch bể ngùn ngụn nó để rải rác sát theo mương ranh, không cần che giấu chi cả. Làm như nó chú tâm thách thức trêu tức ông bà Bảy vậy. Nó còn có thêm mấy cái ná thun treo lủng lẳng ở gốc cột nhà, chuồng gà, cột bếp hay nhà chòi chứa củi. Mỗi khi bà Hai thầm ra dấu, nó biết ngay ý đồ của bà. Vì đây chẳng phải là lần thứ nhất. Nó vụt chạy như bay, nhanh như chớp, tóm đồ nghề gọn gàng, lanh lẹ còn hơn các chiến sĩ lúc nghe còi báo động ứng chiến trong các loại phim chiến tranh chống Đức, Ý, Nhựt thời Thế Chiến thứ hai.
Bà Hai Xệ ở góa lúc nào không ai biết, vì chẳng ai để ý làm chi nơi chéo đất người thưa ít chuyện này. Chỉ biết bà ở với thằng Xê, đứa con trai duy nhứt của bà. Mẹ con quanh năm hủ hỉ không đến đỗi tẽ nhạt. Lợi tức của bà không đáng bao nhiêu, vừa ngam ngám để hai mẹ con sinh sống đắp đổi qua ngày. Lợi tức đó nhờ bà ky cỏm, lam lũ cặm cụi, ăn cây nào rào cây nấy. Bà không hề tiêu xài, phí phạm đồng xu cắc bạc. Trái lại, bà gói ghém chu đáo, chừng mực. Bà không cho vay cắt hầu cắt họng, vì trong thâm tâm bà vẫn sợ luật trời đất vay trả trả vay nhãn tiền. Bà hay nói với bà con trong xóm cho vay «xen xít đít đuôi» theo kiểu chủ nợ Chà Và Ma Ní ở Sài Gòn, Chợ Lớn, đẻ con không khùng khùng điên điên cũng quái thai, không tay chân, không lỗ đít. Bởi vậy, bà nguyện làm ăn lương thiện, cho nuôi heo rẻ. Cứ mua heo con sởn sơ tốt mã đem rải dài dài đầu trên xóm dưới. Người một con. Người một cặp. Kẻ có của ra vốn đầu tư. Người có công chăm sóc cho ăn uống hằng ngày. Đến khi bán chia theo tỷ lệ vừa phải, đôi bên đều có lợi. Đâu ra đó, vừa hợp lý, vừa phân minh. Bà Hai cũng có cho nuôi heo nái, nhưng không nhiều. Chỉ vài con, đếm không quá năm ngón trên bàn tay. Mỗi lứa, bà bắt vài heo con tùy nái và cũng tùy lời cam kết lúc đầu. Nái này vừa dứt ở đầu xóm, lật bật đến nái kia ở cuối thôn. Bà tới lui lo phân phối, chạy đôn chạy đáo bán heo con cũng mệt đã đời trời đất. Bà rất có tay ở địa hạt này. Bầy heo thịt núc ních của bà rậm đám lắm. Hết con nầy bán đến con kia. Thế cũng vui. Vài ngày thấy bà vắt khăn rằn ở vai, xà lĩa xà lĩa đi từ nhà nầy sang nhà khác thăm bầy heo. Bà có công lắm. Vì đây là của tiền, sự sản chắt chiu của bà. Lỡ có người bê tha, heo ốm đói bịnh hoạn thì cụt vốn. Lần lữa, tháng ngày qua như vậy giúp bà quên đi mình đã trọng tuổi nhiều.
Cái tật lớn của bà Hai Xệ là ham đánh tứ sắc. Mà hễ lọt vào vòng lẩn quẩn đen đỏ đó rồi ai cũng muốn ăn. Thua hết vốn, tiền của đâu đánh nữa. Hầu như ngày nào bà cũng ngồi sòng. Ngồi không lâu, tùy bữa. Nhưng nhứt định không quá bốn, năm giờ mỗi ngày. Tuyệt nhiên, bà không thích đánh ban đêm, có hại sức khoẻ. Hôm nào đến trưa đúng ngọ không thấy thằng Heo con bà Tư Quán chạy kêu tay đến mời, bà thúc hối thằng Xê ba chưn bốn cẳng u ra quán xem coi có tay bài đến chưa? Bà cứ tắc lưỡi lẩm nhẩm một mình:
- Chẳng lẽ hôm nay lại háp tay kìa?
Cái xóm Phú Thứ là xóm đặc sệt nông dân chơn chất làm ăn. Chỉ năm ba người khá giả, ăn không ngồi rồi, bày ra đánh tứ sắc tiêu khiển, giết thì giờ nhàn rỗi. Chủ chứa là bà Tư Quán. Trong xóm ai cũng biết danh. Tay em lúc đầu khá đông. Không người này có người kia. Ít khi thất nghiệp ngáp ghiền. Dần dà nhiều người thua lỗ lún đáy, gia đạo xào xáo nên đôi lúc chích tay ngặt nghèo lắm. Bọn ghiền, đánh tay ba không vui, mất hết hứng thú. Đã nói tứ sắc tứ trụ, phải bốn người chẳn chòi mới được. Bà Tư bắt đầu mời thêm tay em ở các thôn làng lân cận, trước họ sang chơi mua vui, sau tránh mang tai mang tiếng trong xóm của họ. Dù sao, chơi bạc bài cũng chẳng có danh dự gì mà hãnh diện cả. Chơi trong xóm, bà Hai Xệ còn nương tay chớ chơi với người lạ, bà sát phạt không dung tha. Trong giới, bà thuộc hạng thầy rùa, già tay ấn, cao bài lắm. Thế cũng chưa đủ. Vì nhiều hôm xuất hành không may gặp rắn rít hay kỳ đà cản mũi, nhứt là trên đoạn đường từ nhà đến quán bà Tư, rủi gặp đàn bà bụng chửa dạ mang, dứt khoát bài hôm ấy rác rưới ê hề, dù cao tay, rị mọ trì chí đến đâu không sao cứu nổi. Nhờ lớn tuổi, với dáng vẻ lờ đờ chậm chạp bên ngoài, ít người quan tâm lưu ý tới nên trong trường hợp bất khả khán ấy, bà ra tay trổ ngón đánh lận. Mấy ai nghi ngờ chi nữa khi nghe bà phân trần:
- Tôi lớn tuổi rồi, ham chơi cho vui vậy mà. Ăn thua không kể. Tay run rẩy, mắt lại lem nhem. Thật tình tôi ạch đụi quá do ngồi lâu muốn cúp xương sườn xương sống. Bây chịu khó chờ tôi nhé! Đừng có hối làm tôi quýnh lên, thêm lâu lắc hơn.
Bà nói như van lơn khẩn thiết:
- Thím Bảy, mợ Năm, thằng Chín còn trẻ, cảm phiền nhá!
Bà kéo cặp kiếng lão trệ nơi sóng mũi, nhướng mắt nhìn chầm chầm xuống chiếu, hướng đối diện, ngang sông:
- Bây lật con gì đó? Có thấy chi đâu? Không khéo bỏ đôi bỏ tụi, chút nữa bây bắt thường, đứt chếnh sớm.
Bà Hai chậm lụt như vậy, không lanh mắt, không sáng bài. Già cả mà! Nhưng sòng nào bà cũng ăn. Kẹt lắm là huề vốn. Ăn, bà không ăn nhiều. Bà canh kỹ lắm. Bà ăn theo lối chạy gạo hằng ngày, ăn theo kiểu câu thiên hạ đường dài. Ăn sát ván, người ta chạy mặt sao? Đánh ăn cũng nhờ không ai ngờ vực, bà lên rác xuống rác tổ trời. Cái tuổi già đạo mạo, cái thái độ mù mờ, giả đò sa mưa của bà thực tế có kết quả viên mãn. Có lẽ bà Hai Xệ sợ đấng thiêng liêng vô hình trừng phạt sau này nên đêm đêm bà mặc áo nâu, gõ mõ tụng kinh vang rền. Khốn nỗi, ban ngày tánh nào tật nấy, bà không chừa không bỏ được. Con ma bài nó bắt mà. Tánh tham lại lồng lộn không nguôi. Chưa bao giờ nghe nói có ai bắt được bà gian lận. Chẳng những đã lanh tay, bà còn có cái hào nhoáng lú lẩn, lụm khụm bên ngoài. Nhưng chắc lương tâm không để bà yên với đồng tiền ác đức bất chánh, bất nghĩa, bất nhân. Mỗi đêm, không sót đêm nào, bà gõ mõ tụng kinh khoảng mười giờ, lúc tĩnh mịch vắng vẻ.
- Bà Hai bắt đầu tụng kinh rồi tụi bây ơi!
Mấy tay nhậu ở quán bà Tư hễ nghe gõ mõ tụng kinh, biết tới giờ bà Hai tỉnh tâm hối lỗi. Và cũng là lúc phải chia tay, kẻo ngày mai còn sức đi làm việc đồng áng. Một hôm nọ, bà Hai Xệ đang tụng kinh ngon lành theo tiếng mõ trầm đều, lúc cao lúc thấp. Tuy lớn tuổi nhưng giọng bà còn trong ấm lắm. Bà lại dài hơi. Câu kinh nhiều lúc ngân nga bất tận, tưởng chừng như bà sắp hụt hơi. Tiếng mõ vẫn nhịp đều, nhỏ dần nhỏ dần nhưng người bên quán bà Tư bỗng dưng nghe lồng lộng giọng hấp tấp của bà:
- Xê ơi! Mầy ra gỡ con cá cắn câu. Nó vãy đùng đùng bên hông nhà bếp, ở gốc buội sả. Mầy ở đâu? Bộ điếc lác, lỗ tai trâu sao không nghe, không trả lời trả vốn gì cả? Ra gỡ mau lên kẻo nó sức mép...
Tiếng mõ, câu kinh tiếp tục trầm buồn nhịp nhàng trong đêm. Và câu chuyện cười đùa không ác ý ở quán bà Tư hôm đó đượm thêm sắc màu trào lộng hóm hỉnh.
***
Xóm Phú Thứ có non ba mươi nóc gia. Năm ba gia đình lớn tuổi hiếm con hoặc không một mụn nối dõi tông đường, như vợ chồng ông Bảy Sô, bà Hai Xệ chẳng hạn, sức khoẻ không có, đã chọn những nghề nhàn nhã, người thì nấu rượu lậu, người thì cho nuôi heo rẻ. Nghĩ ra cũng sướng một đời. Số người sinh sống như thế ấy không bao nhiêu, đếm chưa giáp bàn tay. Trong số đó, nổi bậc nhứt là bà Tư Quán. Bà Tư trước có chồng làm trùm vạn cấy, ăn đầu chận đuôi vào ngày mùa khan hiếm nhân công nên thuộc hàng quá ư trưởng giả. Chẳng may, ông Tư sớm bị triệu hồi phủ phục Ngọc Hoàng Thượng Đế khoảng năm ông bốn mươi lăm bốn mươi sáu tuổi gì đó. Ông ra đi bất thình lình, để lại thằng Heo vừa đậu xong bằng Sơ đẳng Tiểu học, con Hổ còn nhỏ biếu và con Dê mới được gả về làm dâu gia đình khá giả làng Mỹ Yên bên cạnh. Bà Tư sống với thằng Heo và con Hổ, tu bổ, khai thác miếng vườn cả mẫu tây do ông Tư tạo dựng lúc sinh thời. Cây trái xum xuê, nguồn lợi tức duy nhứt của gia đình bà. Cứ một đôi ngày có bạn hàng sỉ tạt ghé ngang, mua mão đem bỏ mối ở các vựa Bình Đông, Xóm Củi hay Chợ Lớn Mới. Nhiều lúc bà Tư chê rẻ, giá cả không tương xứng với phân phướng và công sức bà. Bà hì hục gánh ra chợ làng Phước Lợi, Gò Đen hay chợ quận Bến Lức, ngồi bán lẻ sẽ có lợi hơn. Sẵn dịp, bà đi chợ luôn thể. Thật tiện lợi vô cùng. Lần hồi bà cất một quán lá nhỏ đầu ngõ để bán thổ sản tươi trong vườn, trong khi ngôi nhà khang trang to lớn của bà ở tận cuối vườn, cửa trước quay mặt xuống bến sông. Nhà cất theo kiểu quay mặt xuống sông trong vùng hiếm hoi lắm, còn rơi rớt lại rải rác đó đây vài cái, do phong tục tập quán xưa.
Lúc bấy giờ, phương tiện giao thông chánh yếu là đường thủy. Đâu có đường thênh thang trải đá đỏ, đá xanh hay nhựa hắc ín như ngày nay. Những nhà còn sót lại đó đều là nhà bề thế chắc chắn, cột gõ vách bổ kho bằng loại ván lỏi, chịu đựng nắng mưa, năm tháng. Nhà bà Tư xem ra còn có nét lắm. Bán buôn cắc ca cắc cụp như vậy ngày càng thu hút thêm đông đảo khách hàng. Có đồng vô đồng ra luân lưu cũng vui. Về sau, bà phát triển thêm địa bàn hoạt động do nhu cầu đòi hỏi thôi thúc tới tấp của bà con trong thôn ấp. Mỗi khi đi chợ, bà bổ thêm hàng thiết yếu sinh sống hàng ngày như dầu hôi, nước mắm, đường muối, thuốc rê, diêm quẹt, nhiều nhứt là bánh trái, kẹo mứt, bòn bon... quến con nít. Bà còn lãnh rượu lậu của ông bà Bảy Sô để bán lẻ trong xóm nữa. Những năm gần đây, tiếng tăm đồn đãi thêm thắt chanh ớt muối đường, ông bà Bảy Sô sợ kẻ ra người vào tấp nập, gây sự chú ý của bọn tào cáo và nhứt là đám điềm chỉ rấp ranh rình mò. Từ dạo có cái quán bà Tư, ông bà Bảy mới thực sự an phận với nghề nấu rượu lậu, chớ không bán lẻ nữa. Bỗng nhiên bà Tư trở thành mối lái tin cậy của ông bà Bảy. Bợm nhậu trong xóm kể cả bạn hàng mua sỉ rượu đế từ nơi xa đều phải đến quán, qua tay bà Tư. Thế là quán bà Tư mỗi ngày thêm thạnh hành. Nó lại chiếm địa thế lý tưởng, nằm ngay ngả ba lộ cái, tụ điểm yết hầu trong xóm. Người qua kẻ lại dập dìu sáng chiều. Quán ngó thẳng ra ao làng, chiều chiều trai gái tụ năm tụ bảy gánh nước, chuyện trò vang rân, quên đi cả ngày dang nắng dầm mưa ngoài đồng không mông quạnh. Gặp mùa nước sông trở mặn chát, giặt áo quần bằng xà bông dù là xà bông Cô Ba, xà bông Con Cọp thượng hảo hạng đi nữa cũng không có chút bọt. Nước sông dù lắng phèn lâu ngày cách mấy không sao uống được. Lờ lợ tanh tanh. Khi đi ngang quán bà Tư, tuy không hẹn hò trước, đám thanh niên thiếu nữ ấy dừng chân nghỉ năm mười phút. Kẻ ngồi trên đòn gánh bắt ngang hai thùng thiếc nước. Người ngồi trên ghế tre dài trước quán, chắc chắn láng cón. Mọi việc xảy ra trong ngày, cả tiếng đồn thầm kín loại thầm thì rỉ tai cứ cuồn cuộn tuôn chảy, dòn như pháo Tết, pha lẫn tiếng cười từng chập rất mực mộc mạc hồn nhiên.
Quán bà Tư treo lủng lẳng phía trước những xâu bánh còng bánh neo, vài phong bánh bẻn, kẹo đậu phọng, đặc biệt nhứt là những quày chuối cả chục nải chín cây vàng hườm căn da hấp dẫn. Tự nhiên đây là nơi họp mặt thường xuyên của đầy đủ các lứa tuổi trong làng. Con nít thì kẹo bánh, trái cây. Người lớn nhậu nhẹt. Đàn bà, trầu cau, dầu hôi nước mắm. Đám trẻ rửng mởn, lứa tuổi chớm biết so hình đọ dạng, tập tành làm duyên làm dáng, cũng nhờ cái quán dễ thương của bà để trộm nhớ thương thầm, ước mơ nên vợ nên chồng sau này. Khách khứa vô ra vui nhộn luôn. Bà Tư quên dần cảnh đời éo le ngang trái, cuộc sống góa bụa hẩm hiu buồn tẽ của mình. Nhứt động nhứt tịnh, bà đều hay biết. Trăm thứ chuyện vui buồn sốt dẻo trong xóm đều đổ vào đây như cá chui vào rọ. Từ vụ ghen bóng ghen gió đến việc quan hôn tang tế, gia đạo mỗi người, bà rành mạch từng chi tiết một, phông phốc không sai. Khi nào vắng khách, bà lắc lư trên chiếc võng bằng lác mịn màng, nhai trầu chót chét rồi phun phèn phẹt bên vách phên. Có khi người ta đến quán không nghe tiếng ngoáy trầu cụp cụp hay những lời nói nhẩm một mình của bà thì thấy bà đang ngáy khò khò, kéo đàn cò đàn gáo có bài bản, âm điệu bổng trầm, nhặt khoan nhờ những ngọn gió trong lành, mát dịu từng cơn hắt nhẹ vào quán.
Bà Tư cũng như cặp vợ chồng ông Bảy Sô rất hề hà cởi mở. Bản chất hiền hậu nhưng khổ một tý là dễ nóng tính lắm. Khi nổi trận lôi đình là bà bất kể, ra sao thì ra, phang ngang văn tục, không thua gì những tay anh chị đứng đường đầu chợ cuối hẻm ở quận ở tỉnh. Trong xóm, bà được bà con xếp vào hàng lẫm liệt, chỉ có duy nhứt mỗi mình bà trong phái đàn bà con gái ở đây. Dù góa bụa, ít ai, cả đến mấy tay xâm mình rống mắc không hề dám hở môi hở miệng chọc phá trêu ghẹo, lẳng lơ xa xôi, đưa đò với bà. Rõ ở đời, những người dao to búa lớn, nói năng bất cần, đàn áp thiên hạ, thường được việc là vậy. Lúc ông Tư còn sanh tiền, vợ chồng hợp tánh hợp tình, cũng thích đánh tứ sắc. Không ngày nào không có sòng bài trong nhà. Tay bài thích chơi ở nhà ông bà Tư, vì hai ông bà có phong cách chịu chơi. Lấy xâu, hai ông bà lấy không bao nhiêu, lấy cho có lệ theo thói thường, có trải chiếu phải lấy xâu. Thực tế, ông bà rất hậu đãi tay bài, chăm lo ăn uống tử tế, thịnh soạn như hàng thượng khách. Không ngại tiếc công tiếc của, tốn kém gấp bội so với tiền xâu. Sau ngày ông Tư mất, bà Tư buồn cuộc đời vô duyên cô quạnh, tiếp tục không bỏ thói quen lân la với “bốn ông tướng” xanh trắng đỏ vàng. Bà nuôi một chút hy vọng cỏn con, đen tình phải đỏ bạc. Bè bạn cũ trong số có bà Hai Xệ, ghiền bài bốn màu nhỏ lá còn hơn tiên ông khắn khít ả phù dung. Bà Hai rất mến mộ bà, ngày nào cũng la lết tới nhóm. Nhưng từ lúc bà Tư lập ra cái quán, nó bắt đầu cột chưn cột cẳng bà trong công việc buôn bán hằng ngày không ngớt tay. Bà bèn từ bỏ hẳn nghiệp tứ sắc từ dạo đó, tập trung làm ăn, lo tương lai thằng Heo, con Hổ bắt đầu lớn đại rồi. Tuy nhiên, tay bài cũ không rủ cũng đến và bà để họ tự do tiếp tục trải chiếu chọn nơi, giải trí như thuở nào.
Hiền nhưng nóng tánh. Việc bà Tư dùng ngôn từ anh chị chốn thị thành cũng có nguyên do của nó. Vốn khá giả, ngày trước ông Tư thuộc hàng sạch sẽ trong làng trong tổng, sát lẻm bảnh bao, áo quần phẳng phiu ủi láng mướt. Mỗi khi đi ra ngoài, dự tiệc tùng hay giỗ quảy, ông tự lo quạt than đỏ hồng bỏ vào bàn ủi rồi cũng tự tay ông ủi lấy áo quần tươm tất. Đàn ông như ông chắc hiếm hoi lắm. Trong khi ấy, bà Tư dễ dãi hẳn. Bà tỏ ra xập xệ, không đòi hỏi gì nhiều. Áo quần, bà chỉ xếp ngay ngắn, tối ngủ gối đầu nằm, sáng dậy lấy ra mặc là bà quá ưng ý. Ông Tư có mèo hay không, không ai biết rõ ràng nhưng lời ra tiếng vào soi bói, thêm nhưn thêm nhụy, đồ tới đồ lui nhè lọt vào hai tai bà Tư. Bà ghen bóng ghen gió, ong óng lên lồng lộng, chưởi bới như tát hằng đêm, hòa lẫn với lời kinh trầm bổng của bà Hai Xệ. Đi ngoài bờ tre, có đêm nghe bà đằng giọng đay nghiến:
- Ông à! Tôi tuy thất học thật nhưng nào phải phường dốt nát ngu đần. Tôi không phải hàng một chữ nhứt một bẻ đôi không có. Mẹ họ... Bộ đánh trống bỏ dùi, khỏi lỗ vỗ vế hả?... Hay là “vợ là địch, bồ bịch mới là ta” đây? Ông nói cho tôi lọt lỗ tai đi!
Rồi bà không cầm được tức giận khi nghĩ đến mối tình chăn gối đằm thắm của ông Tư đối với bà, nay chia xẻ làm đôi làm ba. Bà phân bua nổi phồng gân xanh hai bên cổ:
- Tao thề trước ngọn đèn cầy đang cháy ở bàn thờ ông bà. Tao mà biết con đỉ ngựa đó, tao bầm nó ra từng mảnh, tao lột da đầu nó mới nghe. Mẹ họ... Nước chảy hoài đá cũng mòn. Sắt thép mài giũa mãi cũng hao hụt huống hồ là thịt... là xương...
Bà nghiến dài từng tiếng một. Nghe rợn người. Sau này, lâu lâu ngồi nhắc chuyện xưa với bà con lối xóm, nhứt là với đám trẻ mới tấn lên gánh nước ao dừng chân ở quán bà, bà thường hay khuyên lơn răn bảo, mỗi khi nghe chúng nhắc nhớ tới ông Tư:
- Thím thương ổng lắm chớ. Vợ chồng một ngày một buổi cũng là chồng vợ. Ổng cũng từng nồng nàn với thím nên mới có mấy mặt con đó. Con Dê rồi thằng Heo, con Hổ khít đeo còn hơn năm một.
Bà Tư xỉa thuốc, nhổ trầu phèn phẹt, cười khanh khách, nhe hàm răng nửa trống trên nửa trống dưới:
- Thím bực ổng có cái tánh mèo mả gà đồng. Ban đầu thím ghen lắm. Đố bà nào, cô nào bóp kèn qua mặt được thím. Kể tụi bây nghe cả tháng, cả năm chưa hết chuyện.
Bà nhíu mày:
- Nhiều khi thím hận ổng ăn ở đản hậu với thím, được xôi rồi việc, trở mặt làm ngơ. Có lúc trực nhớ ông bà mình hồi xưa có nói: “chàng năm sương gặp nường bảy nắng”, thím thầm vái van thần thánh linh hiển cho ổng gặp một tay tứ chiến giang hồ cho ổng biết thân, tởn tới già. Nhưng sau, suy nghĩ kỹ lại. Ối, đàn ông năm thê bảy thiếp, làm sao cầm chưn họ được.
Rồi bà trầm ngâm nghĩ ngợi, đôi mắt đâm chiêu, u buồn, phảng phất một niềm riêng bà cố giấu kín tận sâu thẳm đáy lòng:
- Thím tự an ủi mình. Thím xem như mình mua cái áo, về nhà mặc không vừa. Thím cũng không bán mà cũng không vất bỏ đi, đem treo nó tòn ten ở gốc cột trong hốc để đó. Thím còn gánh nặng gia đình, làm thẳng thừng quá sợ đổ vỡ. Một vai thím gánh mẹ già. Lúc ấy, bà bác còn sõi, trên dưới bảy mươi, thất thập cổ lai hi rồi. Một vai thím gánh con Dê và thằng Heo, miệng còn hôi sữa, lo nuôi chúng nó nên người.
Bà cười ngất như người chiến thắng sau những trận thảm bại chua cay. Rồi bà ung dung kể tiếp:
- Đi đã đời, ổng lạy thím mà về. Bây biết không? Ghen quá ổng tưởng đâu ổng quý lắm, vàng ô, hột xoàn tô, giấy xăng bộ lư đầy hộp “bít ki” không bằng, được nước làm tới. Mà hồi thím ghen, thím rầu, ốm o cà tông cà teo, gió thổi muốn bay. Sau, lấy áo ra mặc vừa y. Bởi vậy... mới có con Hổ, còn nhỏ hếu đó, nhỏ hơn thằng Heo một con giáp tròn vo.
Dứt lời, bà Tư bật cười ngân ngất, thòng giò xuống sàn tre, lắc lư đẩy đưa cái võng nghe kèn kẹt kèn kẹt... Đâu mặt quán bà Tư, phía xéo bên kia ao là giang san bất khả xâm phạm của ông Hương quản Nghé, bốn năm đời cha truyền con nối từ cố hỉ cố lai, tiếp nhau vững như trồng ở các chức vụ quan trọng cầm giềng mối trong làng. Hương quản Nghé có lối sống công tử, thừa tiền dư của, ăn xài phong lưu, tuyệt nhiên không hề dấn thân kham khổ. Tuy làm hương quản nhưng Hương quản Nghé làm cho có chức vị lấy tiếng. Danh vọng đi đôi với tiền tài. Vốn giữ trật tự an ninh nhưng ông không mấy vất vả. Thảnh thơi là khác. Cây súng hai nòng duy nhứt trong làng của ông chưa bao giờ thấy ông xử dụng chống trộm cướp bất lương. Trái lại, người ta chỉ thấy ông mang kè kè bên mình lấy le thiên hạ, hoặc đi săn chim bắn thú. Ông có thừa thì giờ chăm sóc ngôi nhà ba căn song hai chái, cột gõ to gần bằng một vòng tay ôm, bóng lưỡng đen huyền. Hàng cột lâu đời này mang những hàng liễn chữ nho thếp vàng sáng chói. Nền đúc, ngói âm dương. Thêm mảnh vườn thênh thang rộng lớn không biết đến bao nhiêu mẫu tây. Dù có quyền thế, Hương quản Nghé rất thận trọng. Thái độ phòng xa và phong cách ăn ở ba phải của ông ít khi va chạm, gây phiền hà người lân cận. Vườn ông mênh mông nhưng ông kỹ lưỡng trồng tre khít đeo bao bọc, còn tăng cường thêm một hàng xương rồng xương hùm gai nhọn hoắt tua tủa lạnh lùng. Sau rào tre, ông đào mương sâu, tiếng là để chận rễ tre không cho ăn sâu vào đất phá vườn, nhưng thực ra nhà ông xem như một chiến lũy kiên cố thuở xa xưa. Trong nhà, ông nuôi thường xuyên bốn năm con chó thiến. Ban ngày, ông trống mỗi con một góc, ăn uống ngủ nghê tại chỗ. Ban đêm, ông thả ra giữ nhà, giữ vườn. Chúng được tự do, mừng rỡ chạy giỡn suốt đêm.
Xưa nay, thói thường là như vậy. Lúc khó khăn, nghèo khổ túng thiếu, người ta sống gần gũi chung đụng, nương tựa chia sớt, không ngớt kêu réo gọi mời nhau. Hoặc biếu xén dù là một củ khoai ngon, một trái cây ngọt vừa mới hái ở vườn nhà. Nhà cửa trang trại cửa nẻo mở toanh tha hồ vào ra không kể giờ giấc. Nhưng khốn nỗi, khi làm ăn phát đạt khá giả, xây dựng vườn tược thành khoảnh, cơ ngơi kinh dinh bề thế, người ta bắt đầu làm mặt lạ. Giàu đổi vợ, sang đổi bạn mà! Họ cố tình sống ngăn cách, xa lánh nhau hoặc giả chào hỏi xã giao lấy lệ. Cho nên không hiếm gì người nghe lòng mình cứ nằng nặng tiêng tiếc phải chi cái hàng rào tre vút cao nghều nghệu với xương rồng xương hùm chơm chởm gai nhọn hoắt kia không thay thế dãy bùm xụm mùa trái nở rộ, nho nhỏ dễ thương trong bóng… phải chi cái hàng rào bông bụp xanh mướt đầy bông hoa đỏ thẳm, lất phất ít nhụy vàng đong đưa còn đó… hoặc cùng lắm giàn mướp khía mướp hương néo trái dài sộc cạnh bờ ranh vẫn như ngày xưa… để chiều chiều người bên này nhón gót nhìn sang thấu bên kia nhắc nhở thăm hỏi chân tình:
- Làm gì dữ vậy bác Hai, thím Ba... Cơm nước xong chưa ? Bộ quên, sao để heo cúi vẫn eng ét vang rân vậy?
Ông Hương quản Nghé và gia đình sống cách biệt hẳn với bà con láng giềng, ngay cả với hai gia đình sát ranh. Người trong xóm cũng không hề bén mảng lui tới nhà ông làm chi thêm phiền phức. Ai lạng quạng đi ngang bờ tre vườn ông, đàn chó hùa nhau sủa rân, hậm hực như muốn vồ lấy ăn tươi nuốt sống. Thận trọng hoặc giả không muốn gay mắt, họ thường đi tắt, chọn lấy bờ con mà đi. Bất đắc dĩ lắm mới đi ngang. Vườn tược của ông được rào dầy đặc như vậy nên gà vịt bên nhà ông bà Bảy Sô chịu phép, không hó hé qua được. Ông bà Bảy không hề bị Hương quản Nghé phiền hà mắn vốn hoặc bà Hương quản phiền trách như trường hợp bấy nay của bà Hai Xệ. Ông Hương quản biết vợ chồng ông bà Bảy nấu rượu lậu từ lâu nhưng cứ làm ngơ, xem như không hề hay biết. Bản tánh ông thích tránh đụng chạm. Hằng ngày đi ngang qua quán bà Tư, ông hỏi qua loa nắng mưa lúa thóc, hỏi lấy lệ vài câu xã giao tối thiểu. Thế thôi.
Thế chiến thứ hai vừa chấm dứt trong đổ vỡ hoang tàn. Việt Minh Cộng sản âm mưu đứng lên cướp chính quyền. Rồi Pháp trở lại Việt Nam mưu toan đặt lại nền thống trị cũ. Toàn dân đứng lên kháng chiến giành độc lập quốc gia, chủ quyền dân tộc. Trong khi đó, Việt Minh Cộng sản lén lút hoạt động với ý đồ đen tối độc quyền lãnh đạo quốc gia. Chiến dịch “Diệt tề phản đế” theo đúng chủ trương đấu tranh giai cấp, xóa bỏ tư hữu của chúng đã gây bao nhiêu tang tóc chia lìa khắp nông thôn. Quân đội quốc gia mới thành hình đóng ở Gò Đen, Bến Lức vất vả bảo vệ an ninh trong vùng. Nhứt là các trục giao thông chính yếu như đường lục tỉnh, cầu Bến Lức...
Hương quản Nghé bấy giờ không còn làm làng nữa. Lúc ấy, Hội đồng xã các làng lân cận đều rút về đóng ở Gò Đen. Trụ sở xã Thanh Hà, Long Hiệp, Mỹ Yên rải rác cách nhau không xa mấy. Xã trưỏng kiêm nhiệm luôn mặt an ninh trật tự như những chỉ huy trưởng đồn bót mới được củng cố. Hương quản Nghé và gia đình tiếp tục sinh sống ở ngôi nhà cũ nơi xóm Phú Thứ. Bản tính cầu an hưởng lạc thúc giục ông mua sẵn một căn phố ở chợ Gò Đen, để hờ đó. Ông nghĩ xa, phòng khi tình hình bất ổn trầm trọng, ông có sẵn cơ ngơi bỏ giò trú thân. Về sau, việc quân lực địa phương và làng xã ruồng bố thường xuyên cộng thêm những đợt phá hoại thanh trừng tàn bạo của Việt Minh Cộng sản làm cho Hương quản Nghé và gia đình thay đổi hẳn thái độ. Ông không còn sống ngăn cách co rút sau lũy tre chơm chởm gai của mình nữa. Ông tỏ ra cởi mở hơn, lân la chào hỏi thân mật bà con lối xóm hơn. Đám thằng Xê, thằng Heo và lũ nhỏ trời đánh thánh đâm, chằn ăn trăn quấn ngày càng thân mật với ông. Chúng nó không còn nể sợ ông như ngày trước. Hồi ông đương thời, dù không hãm hại bức bách ai quá lạm, nhưng với cây súng hai nòng kè kè bên mình, chúng nó lấm lét, tránh né ông. Cùng lắm chúng chỉ liếc trộm nhìn thầm từ xa thôi. Bây giờ, chúng nó rất thân mật gọi ông, đứa bằng bác, đứa bằng chú xem như trong họ hàng bổn tộc vậy. Ổi, điều, mận, mãn cầu... trong vườn ông, chúng hái ăn thả cửa. Ông bà Hương quản không hề hở môi nghiêm khắc la rầy. Mấy con chó thiến hùm hổ độ nào đã bị Việt Minh Cộng sản đập chết từ lâu nên bọn trẻ không còn thấp tha thấp thỏm mỗi khi vào nhà ông. Ông còn khuyến khích chúng kéo tàu dừa tàu cau khô, mo nan chà củi rơi rụng đầy rẩy trong vườn đem về nhà chụm bếp. Bặp dừa ở bến sông, ông cho tha hồ xắn làm phao cắm câu mồi chạy hay kết bè mỗi lần tụ tập tắm sông. Dây mây, dây choại leo chằng chịt, ông cho rút lúc nào thì rút không cần xin phép tắc trước. Cả mù u, gừa dẹt, bần nước, trâm bầu hay đùng đình đủng đỉnh...khi cần cứ đốn về xài, miễn là phải dọn dẹp sạch sẽ chà nhánh. Sự chuyển hướng trong thái độ đối xử của ông Hương quản làm cho bà Tư Quán gay mắt. Nhiều lúc bà tỏ ra phật ý trước mặt đông đủ bà con. Những lần tiếp xúc thường nhựt với khách hàng giúp bà có nhiều kinh nghiệm sống nên bà khá bén nhạy trong phản ứng. Có hôm bà quở thằng Heo trước mặt thằng Xê và lũ trẻ choi choi như để dằn mặt cảnh cáo chúng nó:
- Mấy ông con của tôi ơi! Mấy ông khờ khạo quá.. Đừng tưởng ông Hương quản tử tế. Thấy ổng chiếu cố thương yêu mấy ông làm tao phát ham... Mẹ… họ! Chớ không phải ổng sợ! Bây giờ đâu như hồi xưa. Ai cũng như ai. Đừng thấy vậy tưởng bở nhào vô.
Thằng Heo vội cắt lời:
- Má không biết! Má không có đến nhà ổng. Ổng tử tế lắm. Bả cũng vậy. Như để tranh thủ lòng tin của bà Tư, nó không ngần ngại nói:
- Má thử hỏi thằng Xê xem có phải như vậy không? Tụi con vắng mặt, lâu ngày không qua chơi là ổng nhắc ổng chờ. Ổng hỏi tại sao lâu quá không qua.
Bà Tư Quán vừa nguýt vừa lấy cây chổi tàu cau moi xột xạt bã trầu khô ở kẹt vách:
- Chà! Chà! Coi bộ ngọt ngào tình ái quá cỡ! Ở đó mà nhắc mà chờ. Hồi bây còn nhỏ léo hánh ở bờ tre là ổng suýt chó, sợ tụi bây còn hơn sợ dịch tả.
Rồi bà hậm hực bực tức:
- ... Mẹ! Bây giờ tụi bây đứa nào đứa nấy như trâu cui trâu cổ, cưới vợ được rồi, nhờ cậy cũng được rồi, ổng bả mới thương tụi bây. Bây là một lũ đần độn, hời hợt, mắt không nhìn qua khỏi hai lỗ mũi... Bà đoan quyết:
- Mẹ… họ! Chớ không phải ổng nhờ tụi bây rửa vườn tược không công cho ổng đó sao? Hôm rồi, xã Ngoạt qua đây với lính tráng, vào từng nhà bảo đốn lá phát buội rậm. Vườn tược phải trống trải sạch sẽ để dễ kiểm soát, ngăn ngừa đám đá cá lăn dưa giết người không gớm tay Việt Minh Cộng sản ẩn núp, thừa dịp đến đêm tối phá hoại xóm làng. Tụi bây lo ăn chơi đâu có biết... Mẹ! Tử tế thương yêu quá mà!
Bà Tư còn muốn nói tiếp nữa nhưng mấy đứa nhỏ từ từ bỏ giò lái, rút êm có trật tự. Văng vẳng có tiếng vọng lại xa xa:
- Thôi cho tụi con sống với má!
Nói là nói như vậy chớ bà Tư một mực lễ độ đối với ông Hương quản Nghé trong giao tế hằng ngày. Thật vậy, ngoại trừ những lúc bà nổi nóng, kềm hãm không được ngôn từ, chớ ngày thường bà rất ư lịch sự với tất cả mọi người chung quanh. Kể cả những đứa nhỏ trời đánh thánh đâm, ngày nào không đi học, tụ tập rong chơi hôi trâu khét nắng. Vốn nhanh nhẹn, nhạy bén và rộng rãi, nghĩ sao nói vậy, không chải chuốt cầu kỳ, không so đo tính toán hơn thiệt, bốp chát thẳng thừng còn hơn ruột ngựa nên ai nấy không buồn lúc tự ái bị tổn thương va chạm. Họ cho rằng bà Tư không hề cố ý. Ngay như khi nghe mấy đứa trẻ gánh nước than phiền cái ao xóm đã cạn, nước đục ngầu sau khi xách được vài gàu. Về nhà phải lóng phèn đến mấy ngày mới dùng được. Bờ ao lở lói. Mấy con trâu không trẻ chăn giữ mặc tình lội dọc lội ngang xuống uống nước mùa nắng. Bà bèn phát biểu ngay:
- Bây còn nhỏ mới lớn lên, bây không biết. Hồi trước ao nầy đẹp lắm. Nước trong vắt lại có cầu ao chắc chắn, làm bằng nhánh cái cây cẩm lai lúc đốn cất đình trước mặt bây đó. Cả vùng nầy vào những mùa khô kéo dài, thiên hạ đổ xô về đây gánh nước dập dìu.
Bà như nhớ lại một thời xa xưa:
- Chiều chiều đông đảo vui nhộn không sao tả xiết. Cái bến ghe kia kìa, bây giờ bây trông thấy lở sạt tầy quầy. Hồi trước ghe xuồng bên Phước Tỉnh, Bàu Lác qua đậu nối đuôi chực chờ chở nước. Ao sâu nước ngọt không bao giờ cạn. Ngay cả mùa hạn hán năm tao hai mươi mốt hai mươi hai tuổi...Mấy đứa trẻ chăm chú nghe bà nhắc cái chéo đời thời thạnh trị xa xưa làm bà Tư xúc động nhưng hiu hiu hài lòng. Bà sẵn trớn mỉa mai trách móc:
- Chớ đâu phải như bây giờ. Bây thấy đó. Từ ngày lộn xộn, chém giết xưng bá xưng vương đến nay, ao mình bị bỏ bê đâu có ai dòm ngó tới. Bông súng mọc đầy. Chàng hiu ếch nhái mặc tình nhảy múa trửng giỡn phá hại.
Bà đưa tay mặt chỉ thẳng về phía trước như để lưu ý đám trẻ:- Bây coi kìa. Nội cái buội sậy, cỏ hoang, bìm bìm chằng chịt hỗn loạn dưới gốc, tao phát ớn. Tao sợ còn hơn sợ bị toi bị gió. Sâu bọ lớn nhỏ đủ cỡ lểnh nghểnh. Chim chóc ỉa đầy bừa bãi. Còn mấy bà mấy mẹ ở ấp nhứt ấp nhì đi chợ Gò Đen về ngang nghỉ chân, ăn hàng bánh xả rác vất từng đống ở bờ ao. Bà không dứt tiếng phàn nàn, đâm chiêu buồn buồn:
- Ban đầu, xế xế trời mát, tao còn ra quét. Để vậy gay mắt. Thét rồi chán ngán, tao bỏ luôn, quét dọn chỉ hoài công. Quét bữa nay, vài bữa họ lại xả nữa. Ngặt nó gần cạnh quán tao quá, nó nhởn nhơ trước mặt. Giận nói là bỏ nhưng bỏ không đành. Quyền lực đã suy đồi. Hết thuốc chữa. Thầy chạy rồi!
Có tiếng trong đám trẻ vừa trịnh trọng, vừa ướm hơi:
- Thôi, bà Tư xung phong đứng ra cổ động vét lại ao mình đi. Bà có uy trong xóm mình lắm mà! Bà nhận lời chắc chắn bà con mình sẽ nhiệt liệt nhiệt liệt hoan hô bà đó!Bà Tư dẩy nẩy:
- Uy cái con khỉ gì? Tao thuộc hàng dốt nát, chữ nghĩa không đầy lá me lá mít, lại bún thiêu, trói gà không chặt. Bộ tụi bây giỡn chơi à? Hại tao sao? Thiếu gì người có tài có đức. Xóm mình không hiếm đâu. Đừng có xúi quẻ, xúi dại, tao làm việc ruồi bu không giống ai. Thiên hạ mỉa mai xầm xì cười tao. Thôi. Để tao yên thân yên phận tuổi già.
***
Mấy tháng sau, câu chuyện đùa vui ý nhị đó đã thành sự thật. Bà Tư Quán tích cực dấn thân, vận động bà con xa gần lớn nhỏ trong xóm cùng nhau tham gia vét lại ao nhà. Bà đến từng nhà một, giáp mặt từng người, trình bày kêu gọi kẻ góp công người góp của, đốc thúc thực hiện sớm. Đến đúng kỳ hẹn, người ta thấy gần như đông đủ bà con hăng hái tham gia. Họ chia làm nhiều nhóm. Kẻ tát nước. Người dưới ao. Đàn bà con gái, những người yếu đuối đứng cách khoảng vừa tầm tay nhau, làm thành những hàng dài từ dưới đáy lên tận bờ ao chuyền đất. Nhà nào cũng có người đại diện. Cả đám thằng Heo, thằng Xê gọi nhau í ới, vui vẻ tham dự. Chúng sẵn dịp vọc đất thả giàn. Mới xọt xẹt chưa ra hồn, mình mẫy chúng đều lem luốc, sình đất đen ngòm. Thỉnh thoảng có đứa lún sình kêu la rùm trời rùm đất. Cái gốc trâm, lùm buội um tùm, gai dứa chơm chởm hồi sáng thấy phát ghê vừa được phác sạch. Mấy đứa nhỏ gom chà nhánh, quét dọn rác rưởi đem đốt cạnh bờ ao, khói lên cuồn cuộn đen ngòm. Tàn lửa bay ngổn ngang trong không gian bao la vô tận. Chúng tỏ ra sung sướng với công tác được người lớn lần đầu tiên chính thức giao phó cho. Trưa hôm ấy, bà Tư Quán đã chu đáo đặt cộc mượn trước một vài bà còn khoẻ trong xóm, đang rảnh tay rảnh chưn để gánh mấy tấm đệm bàng to, loại đệm dùng phơi lúa cuốn tròn treo lủng lẳng ở các giàn lẫm trại. Họ đem trải rộng chung quanh gốc trâm chờ đợi phái đoàn vét ao lên ăn trưa. Bà Tư tỉ mỉ sắp xếp không thiếu sót mảy may gì cả. Chả sao bà không hổ thẹn với biệt danh bà Tư Lãnh Tụ được bà con phong cho từ ngày bà đứng ra hô hào phát động chiến dịch vét ao nhà. Nhiều lần bà nói:
- Gấp rút quá. Năm tàn tháng lụn, Tết nhứt, nhưng thôi làm quách cho rồi. Chờ sau Tết phải dời ra ngoài ngày. Thời đại mới nhưng bà con mình ở đây có người chưa theo kịp. Dĩ hòa vi quý. Tao cũng tôn trọng phong tục xưa, định chờ qua động đất, kẻo sau này có bà con đổ thừa, tao chịu trời không thấu. Bà đắn đo:
- Tham khảo ý kiến, thật vô cùng rắc rối. Người thì bảo qua mùng mười khởi hành, người lại nói phải qua rằm mới được. Ông Chủ Đầu Cầu còn khăng khăng phải ra giêng, ngoài ngày. Vì đây là chuyện trọng đại lớn lao chớ không phải như động dao động thớt thường tình trong gia đình đâu.
Bà lại tiếp:
- Bây thấy chưa? Nhức đầu lắm. Mỗi người mỗi ý. Vạn người vạn ý. Rốt cuộc tao định phức trước Tết cho xong chuyện, chấm dứt lời ra tiếng vào, bàn tán quanh co mãi không đi tới đâu. Mà sẵn dịp để cái ao xóm mình xinh đẹp bảnh bao đón Xuân ăn Tết luôn thể.
Đệm trải dưới gốc trâm cũng vừa xong. Gió đồng cuốn bay tung toé. Bà Tư hò hét lấy mấy thúng cơm nếp dằn lên bốn góc. Bữa cơm trưa hôm nay đông đảo quá, chưa từng thấy nhưng rất ư đạm bạc, gồm vỏn vẹn cơm nếp muối đậu. Cơm nếp chắc bụng, muối đậu mặn mòi chịu đựng mới nổi một ngày làm đất nặng nhọc. Bà con đã quen thức ăn truyền thống này ngày mùa nhưng từ hôm nắng ráo đến nay, bặt lâu ngày, nay ăn cũng ngon miệng. Trong khi mọi người đang quây quần chen chúc nhau ăn, cười nói không ngớt, bỗng có tiếng bà Tư oang oảng:
- Mẹ họ... Mấy thằng ôn hoàng. Hai cái rá bánh ít trần và mấy phong kẹo đậu phọng bánh phồng tao dành để đãi người lớn khổ cực. Nảy giờ tao tìm đỏ con mắt không thấy. Đứa nào moi ra đây? Ăn hổn ăn ẩu, không còn bao nhiêu cái. Lại cũng tụi bầy trẻ chằn tinh gấu ngựa nữa. Toàn là đồ mỏ hò mỏ ó, lòng tong cá chốt. Không biết kính trước nhường sau gì cả. Còn giả vờ ím thính im ỉm nữa!
Thằng Xê ngậm một búng đầy họng, phồng hai má, ú a ú ớ lơ lớ:
- Bánh ít trần kẹp với kẹo đậu phọng ngon quá bà Tư ơi. Từ hồi cha sanh mẹ đẻ tới giờ mới được bà Tư đãi. Không ăn cũng uổng. Cám ơn, cám ơn bà Tư nhé.
Nói rồi nó chôm thêm một cái bánh và miếng kẹo nữa, chạy thụt mạng thẳng ra ruộng. Mấy đứa trẻ khác bắt chước nó chạy lúp xúp theo sau tận đầu gò hoang. Mọi người cười rần lên, ngước mắt nhìn theo chúng :
- Thây nó chị Tư ơi! Con nít con nôi. Tụi nó thèm thuồng. Nhớ hồi tôi còn nhỏ cũng vậy. Má tôi đi dọn giỗ. Tôi đi theo tò tò. Thấy mấy bà rỉa cua hay cuốn bì cuốn thèm chảy nước miếng mà mấy bà ác lắm. Đâu có ai cho ăn. Sau này lớn lên, thèm khát gì, người ta cứ mời mọc ép nài. Thây tụi nó. Coi vậy chớ có tụi nó mới rậm đám, mới vui.
- “Chời, chời”! Ai như ông Bảy kia kìa. Hình như ổng còn kè kè hai chai “dượu” bên nách nữa.
- Đúng ổng “dồi” chớ ai.
- Bộ ổng định thuốc mình sao? Công việc còn đăng đăng đê đê, đầy đàng đầy đống làm trối chết chưa chắc đã nhòn. Mơi giờ có thấy vực được bao nhiêu đâu. Thấm tháp gì mới chỉ được một buổi. Không khéo, cứ trì hưởn nhậu nhẹt tới tối chưa xong.
- Bữa nay trời tốt. Ông trời ổng hầm hừ hâm dọa như vậy từ tang tảng sáng nhưng bây giờ trống chưn rồi. Trời mát làm tới chừng nào xong mới nghỉ nghe bà con.
- Ai nói như vậy đó. Bằng thừa. Không làm dứt sao được? Ngày mai nước mạch lên lai láng, quân ngũ nào tát cho cạn để vét?
- Mà tôi cá. Mười ăn một. Mặt trời lặn là xong ngay.
Lời qua tiếng lại của bà con chưa dứt đã thấy ông Bảy Sô lất la lất lửng đến sát bờ ao rồi. Mọi người mừng rỡ thân mật chào đùa ông Bảy vì biết ông mới trưa mà đã ngà ngà trong khi ông Bảy Sô lập bập từng tiếng một:
- Tao mang cho tụi bây hai lít bọt ngọt dịu. Tao với bà Bảy tụi bây vừa ý lắm. Mới pha còn ấm hiểm đây này.
- Chiều còn làm nữa ông Bảy ơi. Bộ ông hại tụi này sao?
- Ậy mà! Thấm giọng mỗi đứa một chút cho ấm bụng, dầm dưới ao đỡ lạnh. Tụi bây đâu phải đàn bà con gái nheo nhẻo đâu, hễ thấy rượu là sợ. Dầu hèn cũng thể chớ. Nát vỏ cũng còn bờ tre mà!
Ông Bảy chìa ra hai cái tô con rồng ngã màu xam xám do chất dơ lâu năm khắn chặt, miệng tô sờn mẻ nhiều nơi. Ông khụm nụm rót rượu ra tô. Xong, đích thân ông đi đến nơi này nơi kia chuyền cho mọi người cùng nhấm, mỗi người một chút thôi.
- “Chời, chời”! Bộ nhậu khan như vầy sao ông Bảy?
- Bây lo gì mà nhắc nhở đòi hỏi. Chiều nay vét ao xong, tao mời hết bà con lại nhà tao ăn mừng xóm mình có cái ao mới. Cho có vẻ trịnh trọng hơn. Bà Bảy bây sáng giờ cùng với thím Hai Xệ làm cả chục gà mái dầu, con nào con nấy ăn hèm mập lút, mở sa vàng hườm, mỗi con cả bụm tay người lớn.
- Ông Bảy chịu chơi quá.
- Chịu chơi cái giống gì? Phải việc là làm tới, làm mút chỉ luôn. Tụi bây cũng biết, tao giàu có hơn ai ở xóm này, nhưng như tao vừa nói, dù hèn cũng thể, dù bể cũng kêu cành cạch mà. Tao mời hết nhé. Lớn nhỏ mời ráo nạo. Ai cũng có công hết.
- Ông Bảy không mời thời thôi. Ông có lòng mời thì tụi này đâu đứa nào dám phụ lòng ông. Nhứt định sẽ đến đông đủ.
- Hồi sáng tao bơi ghe qua Phước Tỉnh mang lúa đổi cả chục quảo bún rồi. Nhưng tao khoái là thỉnh được thím Hai qua giúp bà Bảy tụi bây một tay đắc lực. Vì là chuyện chung, công ích nên thím Hai không từ chối. Như vậy hai bà đã xí xóa mọi hiềm khích bấy nay.
Ông tỏ ra phấn chấn:
- Ở sát bên hè mà ngày ngày cứ hườm nguýt, trâu trắng trâu đen, thậm chí còn chưởi bới bông lông nữa, chòm xóm nghe được họ chê cười. Hai bà mới đó xem ra tương đắc lắm. Nhân tiện đãi tụi bây, tao ăn mừng luôn sự hòa thuận tác hợp đó.
Ông lại chậm rãi trình bày thêm:
- Thím Hai chẳng những giúp công còn mang bột giáo trùng nắn bánh cụt bánh hòn, nạo dừa khô thắn “lòng lanh, bồng con” nữa. Giờ nầy hai bà mãi lo chuẩn bị nấu nướng đâu có hột nào trong bụng. Tao bỏ đó đi đây.
- Nhưng chỗ đâu chứa hết đám lâu la này ông Bảy?
Bà Tư Quán quát lên:
- Tụi bây lộn xộn quá. Khéo lo mà ốm. Chuyện của chủ nhà để chủ nhà người ta lo. Ai có phận sự nấy. Ông Bảy là người có trách nhiệm cao. Ổng trông như vậy chớ thật ra không phải như vậy đâu.
Đằng hắng đôi ba cái, ông Bảy lấy giọng giải thích:
- Thì người lớn ở nhà trên. Đàn bà con gái ở nhà sau. Đám cò ke lục chốt ở chòi củi. Tao đã quét dọn chòi củi từ sáng hôm qua sợ bữa nay một mình làm không xuể. Cứ trải đệm ra là tụi nhỏ chúng nó vui rồi.
- Thời nay bình quyền bình đẳng sao ông Bảy còn phân cách vậy?
- É! Ai nói đó? Bình quyền bình đẳng là một việc nhưng phải có người lớn kẻ nhỏ chớ. Đâu ra đấy. Thêm nữa, bây không nhớ câu: “Thương người uống rượu mà hận kẻ phá mồi” sao? Mới rồi đi đàng xa tao chả nghe văng vẳng tiếng chị Tư quát tháo về mấy rá bánh ít trần, kẹo đậu phọng à?
Tiếng người cười rân lên như ong vỡ tổ.
- Phải đó ông Bảy.
Ông Bảy được trớn, đứng phắc dậy nói tiếp:
- Có được dịp bà con đông đủ như vầy hiếm hoi lắm. Quý biết dường nào.
- Đúng vậy. Nhưng hình như thiếu...
- Ai nói như vậy đó?
Bà Tư Quán nảy giờ lăng xăng đơm cơm nếp cho từng người cùng với mấy cô gái trẻ gánh nước ao mỗi buổi chiều khi mặt trời phụp xuống, buông lời ấm ức:
- Biết rồi! Đứa nào nhắc tới đó làm tao nóng mặt.
Ông Bảy hỏi:
- Giống gì vậy chị Tư?
- Tánh tôi rất phân minh, thích nói huỵch tẹt. Trắng ra trắng, đen ra đen, chớ không ỡm ờ, lập là lập lững, nửa nạc nửa mỡ. Thì tụi nó nhắc đến gia đình ông Hương quản Nghé chớ ai vào đây. Tụi nó không nói đích danh. Nhưng ngửi hơi, tôi thừa biết. Cửa nẻo nhà ổng đóng kín im ỉm, ngoài ngõ còn rắp chà tre mấy lớp, anh không thấy sao?
Có người nói:
- Hồi xưa, ổng rộng rãi quá mà. Mỗi lần cúng Kỳ Yên ở đình, ổng cúng heo quay, đãi ăn đãi uống linh đình...
Bà Tư cãi lại:
- Nữa...!.... Mẹ! Ổng cúng đình để mua chuộc người khuất mặt khuất mày, sợ tội lỗi chớ bây giờ đình mình sập rồi, từ bữa đụng độ năm ngoái. Đến nay có ai dòm ngó quan tâm để ý tới. Bây giờ ổng đã bám rễ chắc nẹo ở Gò Đen, an ninh đảm bảo, sống tà tà, có màng đâu đến cái xóm Phú Thứ quê mùa hẻo lánh này nữa hòng đóng với góp. Đôi mắt bà bỗng dàu dàu:- Mà đóng góp làm gì? Ban ngày ruồng bố, ban đêm khủng bố, một cổ hai tròng. Thét rồi xóm mình tả tơi xơ xác. Bây không thấy sao? Chập tối đỏ đèn, cửa nẻo nhà ai cũng kín mít. Mọi người đều rút vào nhà tử thủ. Tụi bây nhắc cho mắc công.
- Cháu thấy thỉnh thoảng ổng có về. Sáng hôm qua tôi có thấy mà!
- Ấy! Về là để táo vét cây ngon trái ngọt trong vườn, vét được thứ nào hay thứ nấy. Vét để sống phè phởn ngoài ấy. Tụi bây vẫn ngây thơ cục mịt. Làm như ổng còn thương còn nhớ, bỏ không đứt bức không rời xóm mình à?... Mẹ họ! Thôi bỏ qua đi bây ơi. Tao chán ngấy. Tao đã già hai thứ tóc rồi.
- À há! Êm êm chắc ổng sẽ về. Mà biết chừng ổng sẽ khai thác cái ao này bằng máy bơm để tưới vườn nữa. Tụi mình bất quá mỗi ngày gánh vài đôi nước để uống là cùng.
Bà Tư Quán bỗng lồng lộn lên:
- ... Mẹ! Sao tao ghét cái lối sống chàn hảng chê hê đó quá. Chỉ biết mình, không nghĩ đến thiên hạ, bà con chung quanh. Bây nói phải đó. Êm xuôi mới về hẳn chớ bây giờ đi đi về về để thăm bẫy. Mà lạng quạng không khéo mấy thằng Việt Minh Cộng sản mù quáng, dốt đặc cán mai, gán cho tội làm gián điệp, mổ bụng dồn trấu, trói thúc ké cho đi mò tôm mà coi. Tao ăn hiền ở lành, trực tính nói như vậy chớ không phải kêu rêu trù ẻo ổng đâu. Riêng tao thì tao sinh đẻ ở đây, lớn lên sống ở đây mà chết nhứt quyết cũng chết ở cái chéo đất này...
Rồi bà ngừng một chút ra chiều đâm chiêu suy nghĩ:
- Tụi bây đâu có biết. Cái ao xóm mình nó sạt lở, nó cạn bao nhiêu lần rồi chớ bộ mới lần thứ nhứt sao? Hồi tao khoảng đâu mười bảy mười tám gì đó, tao tham gia vét một lần lúc thực dân Pháp còn thế lực. Đến khi Nhựt Bổn tràn qua xâm chiếm đánh nhau với Đồng Minh, bom nổ ầm ầm, ban đêm súng bắn đạn lửa tua tủa như pháo bông ngày Tết đan quyện sáng rực trời, tao lại đóng góp vét lần nữa. Bây giờ là lần thứ ba chớ phải chơi sao. Tao chắc cũng là lần chót trong đời vì tao đã gần đất xa trời rồi. Tao cũng chán ngán trò đời nên ước ao sớm được về với ông bà tổ tiên, an phận ấm cúng hơn.
Tiếng thằng Xê lảnh lót:
- Bà Tư ơi! Bà đừng có lo. Mười lăm, hai mươi năm nữa, nếu ao mình có lở có sạt, chừng đó còn có tụi tui.
Mấy đứa nhỏ ào ào lên:
- Xê ơi! Tụi tao không bỏ mầy đâu.
Thằng Heo đứng cạnh bà Tư Quán, khều nhẹ tay má nó:
- Má à! Thằng Xê định làm lãnh tụ thay thế má ở xóm này đó. Thôi má cho nó làm lãnh tụ... hàm ngay bây giờ đi.
Đoàn người cười ầm:
- Phải! Phải đó chị Tư...
***
Chiều nghiêng. Mặt trời đỏ choét tròn xoe vẫn còn mắc lửng như trồng ở chân trời và cái ao vừa vét xong, sâu, sâu lắm. Bờ ao được mấy đứa nhóc con, lũ thằng Heo thằng Xê gia công bo láng, trông đẹp mắt. Sau khi ngắm nghía kết quả mỹ mãn một ngày công ích để đời, đoàn người bắt đầu tẻ xuống bờ mẫu. Quần áo họ lem luốc, hăn hắc mùi bùn non xà xịn nhưng vốn đã quen hơi nên không đến đỗi khó chịu.Thỉnh thoảng họ dừng chân, ngoái nhìn từ xa hình ảnh toàn bộ cái ao mới vét của mình. Rồi sau đó họ trao đổi với nhau vài câu thân mật, đôi lời phê bình phơn phớt nhẹ nhàng để cùng nhau cười vang đắc ý. Họ đã lần lượt, kẻ trước người sau tách rời xa nhau trên những đường mòn ngoằn ngoèo dẫn vào thôn ấp nhưng không quên nói vói theo. Họ vẫy tay hứa hẹn tối nay thế nào cũng phải có mặt ở nhà ông bà Bảy Sô. Đã hứa, phải giữ lời, không thể vắng mặt được. Đứa nào hoặc vô tình hay cố ý xé lẻ không đi, ông Thần đình Phú Thứ sẽ vặn lọi cổ nó. Tuy đình đã sập từ lâu nhưng ổng còn đâu đấy, linh thiêng lắm.
Riêng bà Tư Quán vẫn lui cui thu dọn đệm, chiếu, tìm mấy cái rá để lăn lóc mỗi nơi một cái. Xong, bà phân công các cô gánh về hoàn trả chủ cũ. Bà rời ao sau cùng như còn quấn quít, quyến luyến không khí chung lưng đâu cật của xóm bà lúc cần thiết hữu sự. Bà cũng sung sướng xúc động từ nay ao nhà đẹp đẽ, trong trẻo, tinh khiết như thuở xa xưa mới đào lần thứ nhứt lúc bà ở tuổi thanh xuân mơ mộng. Bà thở phào lâng lâng khoan khoái. Chân bước nhanh hướng về phía quán đã bắt đầu lên đèn le lói. Lòng bà rộn rả vì tai bà hãy còn nghe vang dội rõ ràng trong hoàng hôn hấp hối, lời nói bộc trực của thằng Xê:
- Mười lăm, hai mươi năm tới, nếu ao xóm mình sạt nữa, chừng đó sẽ có tụi tui.
Võ Phước Hiếu
Phá sơn lâm, đâm Hà Bá
(Truyện đồng quê Nam Kỳ Lục Tỉnh)
(Truyện đồng quê Nam Kỳ Lục Tỉnh)
3. Trâu già chẳng nệ dao phay
Xóm tôi nếu không có chú Năm Nghê chắc buồn não nuột. Mọi người lớn nhỏ
đều nhìn nhận như thế. Chú độc thân, vui tánh, thương mến bà con, quý
trọng bạn bè thân hữu. Nhà chú lúc nào cũng có tiếng tăm, hơi hướm tri
âm tri kỷ. Người ra kẻ vào không ngớt. Ai có dịp tiếp xúc với chú một
lần, nhứt định hẹn sẽ có ngày trở lại, không bao giờ quên chú được. Chú
nói chuyện rất có duyên, lôi cuốn người đối thoại. Chuyện kể, chú đầy
nhóc một bụng, ứng khẩu thành văn. Đề tài hấp dẫn, lạ lùng, lại thay đổi
luôn. Chuyện bên Tây, bên Tàu, chuyện Chà Và Ma Ní, Ả Rập “ngàn lẻ một
đêm”, chuyện người da đen, da đỏ, da trắng, da mơn mởn ngà ngà ở các xứ
Phi Châu sa mạc khô cằn... chỉ cần ai đó khợi đến, dù vô tình hay cố ý,
kể như chú độc diễn cả ngày cả buổi. Lắm lúc chú quên giờ giấc, bỏ cả
cơm nước dễ dàng. Dường như chú không bận tâm đến. Nghe chú kể chuyện
xưa tích cũ, nói thơ chàng Lía, thơ Thầy Thông Chánh, cậu Hai Miêng...
nhứt là thuật chuyện tiếu lâm châm biếm, mọi người đều cười nôn ruột. Họ
lăn cù, nước mắt ràng rụa đầm đìa. Chiều nào cũng như chiều nấy, nhà
chú đều đông người ra vào rộn rịp, xôm tụ nhứt vào những đêm trăng sáng.
Kẻ ngồi trên ván ngựa, loại ván mỏng te, mỗi lần trở mình nhúc nhích
hoặc rung đùi nghe lụp cụp… lụp cụp. Bộ ván nơi nhà chú quả thực tượng
trưng đầy đủ và đúng mức phong cách sống của bà con, chuộng người mến
khách, quý trọng bạn bè. Ai đến cứ tự tiện nhảy thốc lên ngồi chơi thoải
mái. Ai lỡ bước, không ngần ngại cứ ngã lưng ra nghỉ đêm. Bao đêm mà
chẳng được. Chú hay nói:- Ở xứ khỉ ho cò gáy, quạnh hiu buồn tênh này,
có thêm người càng vui càng quý. Muỗi mòng có nhiều đối tượng nên tha hồ
chọn lựa. Mình đỡ bị cắn chích.
Người khác ngồi tòn ten lắc lư trên võng. Loại võng đan bằng lác mịn màng, được chú cẩn thận buột chặt ở hai đầu gốc cột của chái nhà trước nhờ hai con găng bằng tre già vừa hơn một tấc tây. Chẳng những trông cái võng có vẻ thô kệch lại còn chằng khíu đó đây khi được phình rộng ra. Chú bác trọng tuổi hay các cụ thuộc hàng trượng triều trượng quốc có bàn cây bằng ván tạp nhạp để ở chính giữa nhà. Tuy không tốt đẹp chắc chắn gì lắm nhưng dù sao cũng là nơi danh dự. Thêm ưu tiên có bình trà lúc nào cũng nóng ấm, thơm phưng phức mùi bông lài do chủ nhân tự ướp, để có hương vị quê hương đặc thù. Hầu như tục ướp trà bông lài là thói quen lâu đời của bà con xóm tôi, nay qua bàn tay của chú đạt đến mức tuyệt kỷ. Mấy đứa quỷ sứ, lục lăn lục lửa, chằn ăn trăn quấn chúng tôi thoải mái trên những tấm đệm phơi lúa được chú trải ở sàn đất. Có chỗ rách to cỡ bàn tay xoè con nít, ngồi lâu nghe lành lạnh bàn tọa. Dù vậy, chúng tôi vẫn tỉnh bơ, quá ưng ý bằng lòng khi cảm thấy được chú tiếp đón ân cần trọng hậu như những người lớn. Sang lắm có mấy chiếc ghế đẩu cũ kỹ xiêu vẹo, vô tình ngồi nhích qua nhích lại nghiến da non bầm tím, đau thấu mây xanh.
Hôm nào bận việc không đến nhà chú được, bà con cảm thấy mất mác, thiếu thốn một cái gì, cứ nao nao trong lòng. Họ nhớ chú, nhớ mùi hương trà bông lài, nhớ chuyện tào lao thao thao bất tận chú kể. Thói quen giải trí lành mạnh theo nhu cầu tự nhiên của con người, sống theo đoàn lũ, có người có ta, có bà con thân quyến ruột rà, có lân bang bạn bè chòm xóm. Tất cả những cái đó không thể thiếu vắng được trong sinh hoạt hằng ngày. Đề tài của chú lúc nào cũng phong phú, mới lạ. Ít khi nghe chú soạn lại bổn cũ. Chính nhờ vậy mà chú quyến rủ người nghe. Họ không hề cảm thấy nhàm chán. Có bữa chú cao hứng thuật lại một câu chuyện cũ mèm, xưa từ đời ông Nhược ỉa cứt su, nhưng bà con vẫn chăm chú theo dõi, hồi hộp với những cảm giác chưa từng có. Chú khéo léo thêm thắc, bày vẽ nhiều tình tiết éo le gay cấn, cải sửa nội dung sao cho phù hợp hoàn cảnh đang sống hoặc đúng khớp thời sự mới tinh khôi vừa xảy ra nóng hổi ở xóm làng. Hoặc chú dậm mắm thêm muối bằng vài chi tiết lạ hoắt lạ huơ, người nghe chưa bao giờ nghĩ và tưởng tượng đến, nhờ ba mớ kinh nghiệm sống thực, rất dồi dào trong cuộc đời phiêu lưu bất đắc dĩ của chú trước đây. Và chính cuộc đời phiêu bạt giang hồ đó của chú khiến cho chất lãng mạn bay bướm, phảng phất hơi hướm ngoại lai, cứ tuôn trào ngọt ngào trong câu chuyện. Chú cười thoải mái, hãnh diện nói trước khi chú vào câu chuyện:
- “Bổn cũ soạn lại” nha! Nhưng cam đoan có phần phụ thêm hấp dẫn gấp bội.
Có một điều là bà con tôi cũng không cần tìm hiểu hoặc hỏi xem những câu chuyện của chú thuật đó có thực hay không? Hoặc do trí tưởng tượng trời ban cho, khiến chú vẽ vời, cường điệu có duyên đến thế? Dù thực hư hay hư thực ra sao, bà con tôi rất bằng lòng và mãn nguyện lắng tai nghe. Còn đối với những bậc hiểu biết cao kiến, họ vuốt râu hề hà cho rằng chú có lối nói dóc thần sầu quỷ khóc nhưng có căn cơ dẫn tích, dù không một ai kiểm chứng được. Chú được bà con xóm tôi thương mến, nể nang. Nhà chú trở thành nơi hò hẹn họp mặt thân tình của bà con khi mặt trời phụp hẳn xuống chân trời sẫm đục xa xa. Sự thân tình này thể hiện đậm nét qua phong cách hồn nhiên mộc mạc của bà con và anh em chúng tôi. Hễ gặp việc, chúng tôi xáp lại xăng tay áo khỏi cùi chỏ, nhảy xỏm vào tham gia không chờ chú cất lời nhờ vã. Hễ gặp ăn uống đánh chén, chẳng đợi mời mọc dong dài, đói trúng bữa cơm, chúng tôi tự tiện lên bàn cầm đũa xem như người trong nhà, trong tộc. Nhờ vậy chú quên đi cảnh lẻ loi quạnh quẽ sau bao nhiêu năm chìm nổi, lắm lúc thất vọng chán chường. Và bà con tôi cũng được những dịp vỗ về, xoa dịu phần nào những lao nhọc khó khăn trong cuộc sống hằng ngày. Chú tự tạo niềm vui, tự tạo những ngày tháng hạnh phúc cho chính bản thân mình. Vì chú quả quyết, niềm vui và hạnh phúc chỉ do chính mình tạo dựng ra, chính mình suy nghĩ phát kiến mà có, chớ không ai vào chéo đất hoang vu này ban bố cho bao giờ. Nhứt là chẳng ai mang tiền mang của, dù tiền rừng bạc biển ra mà hòng mua được. Nhưng cái ưu điểm quý hiếm tuyệt vời ở chú Năm Nghê là biết chia xẻ niềm vui và hạnh phúc đó cho mọi người xung quanh. Như vậy cuộc sống chung đụng hằng ngày thêm dễ chịu, hào hứng và có ý nghĩa hơn.
Cuộc đời chú Năm Nghê rất éo le, cay đắng trắc trở. Nó khởi sự bằng một chuỗi biến cố lịch sử trên đất nước nhà. Chú nhổ giò không mấy chốc, tưởng chừng như cuộc đời chú sẽ gắn bó vĩnh viễn với cảnh thổ khẩn rừng lập rẫy còn hăn hắc mùi đất tân lập thì tình hình Âu Châu căng thẳng cực độ. Các nước kình chống nhau, kéo bè chia phái nhằm bảo vệ quyền lợi riêng tư. Thế chiến không sao tránh khỏi. Chính quyền thuộc địa ráo riết lùng sục khắp nơi, nhứt là ở những làng mạc xa xôi hẻo lánh để tuyển chọn tráng đinh mạnh khoẻ, thành lập Binh đoàn Công nhân Không chuyên nghiệp gởi về Pháp chuẩn bị chiến tranh chống Đức Quốc Xã. Bà con bình dân chân quê lúc bấy giờ gọi là «lính thợ». Mỗi gia đình phải cung cấp cho nhà nước thuộc địa một đứa con trai lớn, tuổi phải trên hai mươi. Nhưng giới quan lại bản xứ tròng tréo làm áp lực phân công làng xã phải tích cực chọn người và có nhiệm vụ thực hiện cho bằng được cấp số tuyển mộ theo nhu cầu ấn định của cấp trên. Phong trào “bắt thăm đi lính” rầm rộ khắp nơi, gây nhiều xáo trộn buồn lo trong mọi gia đình có con em ở lớp tuổi chẳng may được gọi. Các giới chức có thẩm quyền trong Ban Hội Tề làng xã một mặt tỏ ra kiêu căng hóng hách với dân tình, một dịp để họ ra oai tác quái, mặt khác khúm núm quỳ mọp làm thân khuyển mã. Họ sắp bày để thỏa mãn quyền lợi riêng tư. Bà con tôi phần lớn sinh trưởng và lớn lên quanh quẩn ở vùng đèo heo hút gió, chó ăn đá gà ăn đất buồn tênh, suốt đời cột chặt với thửa mạ luống cày, lúc thúc sau lũy tre xóm làng. Có người từ cha sanh mẹ đẻ tới giờ chưa ra tỉnh ra quận một lần để học khôn. Cái thủ đô Sài Gòn Chợ Lớn sát bên, lớn nhỏ ra sao, tròn méo, đông đúc thế nào còn chưa biết, nói chi đi đó đi đây vạn dặm làm gì.
Nói đến đi Tây, họ tưởng tượng một thế giới xa mút chỉ cà tha, một cách ngăn nghìn trùng diệu vợi. Họ sẽ xa làng lìa xóm, biết thuở nào gặp lại đông đủ bà con ruột thịt? Có người viễn mơ nghĩ đến ngày về xóm cũ làng xưa sau bao nhiêu năm vắng mặt. Họ sẽ bùi ngùi ngỡ ngàng, nửa lạ nửa quen. Quen vì cảnh thổ mến yêu vẫn mãi mãi còn đó. Bất diệt. Lạ vì những đổi thay dâu biển. Cỏ dại, năn sậy... chắc sẽ làm mất hẳn lối mòn thân thương quen thuộc. Mấy cây cầu dừa no tròn, nặng trĩu bất động ở mỗi mương ranh hay những cây cầu tre cầu khỉ lắc lẻo, gập ghềnh ở đầu ngõ hay cuối bến chắc cũng đã rả mục gục đầu dưới lòng mương lòng rạch. Hoặc chúng đã mất hẳn dấu vết để họ buông lời nuối tiếc. Còn đâu những ngày thơ mộng, khập kha khập khiển, chao đảo rắn rồng lúc “qua cầu gió bay” mong tìm về “nhà anh nhà em đôi bờ chia cắt, tuy gần mà xa”. Chú chỉ hy vọng còn đây cây dương duy nhứt, cao ngất nghểu đầu đình, mỗi tết nhứt về lại thêm một tuổi để trở thành cổ thụ. Dù da dẻ có sần sùi nhưng nó vẫn là chứng tích thời ấu thơ của chú. Trong khi bà con chú trước sau đã quá vãng, mãi mãi yên mồ yên mả, nằm nơi gò hoang hay vạt đất nơi góc vườn góc xóm. Hơn nữa, chiến tranh với thảm cảnh chết chóc chia lìa là nỗi ám ảnh trĩu đè tâm hồn mộc mạc dung dị của họ. Rồi đây, họ sẽ đương đầu với cảnh lạ, với người không quen, không cùng ngôn ngữ, không chung phong tục tập quán và tâm tư tình cảm nữa. Tuy quê mùa cục mịch, họ thừa biết cảnh lính thú ngày xưa:
Và câu thơ cổ bất hủ luôn cứ lãng đãng bên tai:
Gia đình nào cũng thấp thỏm lo âu. Họ ngóng chờ trông đợi cái ngày “bắt thăm” định số nghiệt ngã ấy. Nó như kéo dài lê thê, ngăn ngắt trong không khí tẽ nhạt buồn tênh, nặng nề còn hơn tang khó. Chú Năm Nghê không có ảo tưởng mông lung xa vời. Con người chú xưa nay rất mực thực tế. Đôi chân rắng chắc của chú luôn bám níu, đứng vững vàng trên đồng chua nước mặn, trên thửa ruộng luống cày, trên vườn liếp quê hương. Chú mộc mạc như củ khoai hòn đất, như con cá con cua, nghĩ sao nói vậy. Bù lại, chú có trực tính. Trực tính đó báo cho chú biết, với tấm thân cường tráng, vặm vỡ nhờ bao năm lao lực cấy cày, ngày ngày vận động thường xuyên, chú khó thoát khỏi âm mưu đen tối, những cạm bẫy mắc giăng của các chức dịch làng tổng. Người dân thấp cổ bé miệng lúc nào cũng chịu thiệt thòi lép vế. Hơn nữa, chú thuộc hàng nghèo mạt rệp từ đường, một cục đất sở hữu tròn vo cỡ đầu ngón tay cái còn không có để rình liệng đuổi chim chóc phá hại vườn tược, hà huống một tấc đất cấm dùi. Cho nên sự lép vế thiệt thòi nơi chú còn trầm trọng hơn. Chú thừa biết như vậy. Xưa nay, dù thời cuộc có thay đổi sang trang, triều đại này tiếp nối triều đại khác, vẫn thế thôi. Chẳng có gì khác cả. Cũng vẫn thế lực đồng tiền. Cũng vẫn sức mạnh uy quyền!
Đầu óc chú không sao đánh đuổi, lùa xa những lời kêu ca tuyệt vọng của đám dân lành cần cù thủ phận. Chú rất bất mãn về những vụ úp bộ ruộng vườn thấu hoàng thiên, cứ xảy ra luôn trên vùng đất bà con bạn bè chú đã bỏ cả một đời để khai khẩn, lên liếp lên vồng. Đất đai hoang vu ngút ngàn không ai thừa nhận sở hữu chủ. Mạnh ai nấy vóc tâm gắng sức đổ mồ hôi làm thành khoảnh, theo sự cổ võ khuyến khích của làng xã, đã chính thức cấp giấy phép tạm thời cho vỡ hoang, cày cấy trồng trọt sinh sống. Họ đến đây, “đất nước lạ lùng”, «chim kêu vượn hú», không một bóng người, đôi khi đơn độc một mình. Tứ cố vô thân. Hành trang mang theo chỉ vỏn vẹn vài dụng cụ cần thiết cho cuộc sống và nhu cầu làm việc hằng ngày. Đại khái một nóp bàng để ngủ đêm, cuốn tròn gọn lỏn quải trên vai. Một chiếc áo tơi lá chầm, người bạn đời không bao giờ rời, như bóng với hình mùa mưa dầm rả rích, gió lạnh thấu xương. Rồi ít dao rựa, vài cái phảng cổ cò cổ diệc để phác cỏ hoang, năn sậy. Và quan trọng hơn hết, một cái cà ràng dễ di chuyển, đặt nơi nào cũng được, trong chòi vào mùa khô, trên bè hay trên xuồng ba lá nhằm mùa lũ lụt. Quanh năm nó giúp ấm lòng ấm dạ để an tâm trong hiện tại và phấn khởi ở những ngày dài trước mắt. Thêm chiếc xuồng con thon thon làm chưn làm cẳng, xê dịch đó đây hoặc dùng chuyên chở mạ non, thóc lúa. Không có nó kể như bị chặt tiện mất hai chân. Không còn khả năng làm ăn ra trò trống gì cả ở vùng sông rạch với những đường nước mà trời cao lồng lộng, rộng rãi ban cho thừa thải khắp nơi. Những năm sau có chút ít hoa màu, chẳng bán buôn gì được, chỉ để tiêu dùng trong gia đình, hy vọng cầm hơi tiếp tục đốt rừng phá rẫy lấn chiếm đất hoang. Nhưng đến chừng ra quận, lên tỉnh xin hợp thức hóa, họ mới tá hỏa tam tinh, té ngữa, kêu trời không thấu. Phần đất khai khẩn bấy nay là sở hữu của thầy Cai tổng này, ông Hội đồng nọ, hoặc của ông lớn ông nhỏ, bà thứ bà bé các quan ở quận ở tỉnh. Đôi khi còn ở xa mút tí tè tận Sài Gòn Chợ Lớn hoa lệ nữa. Họ ngồi không, chưa hề động đến móng tay, chẳng nhễu một giọt mồ hôi công khó, chỉ chờ đến thời điểm thuận lợi cấu kết nhau chia phần từ thuở nào rồi.
Chú không sao quên được câu nói thoát ra từ cửa miệng của người dân xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh mà chú đã từng nghe không biết bao nhiêu lần trong đời: «Nhứt Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định». Những ông huyện hàm Lê Phát Đạt thường gọi là Huyện Sĩ, bá hộ, ông bang hay đại điền chủ có những cái tên Minh Hương Đỗ Hữu Phương, Lý Tường Quan, Trần Hữu Định, nếu không âm mưu cấu kết chặt chẽ với thực dân, làm gì được chúng cho đặt ân giúp mua úp bộ rẻ rề, hoặc ban cấp cho khẩn trưng mỗi người năm bảy ngàn, đôi khi cả mười ngàn mẫu ruộng rừng rải rác đó đây. Báo hại bà con chú gạt lệ nuốt hận. Công lao họ từ bao nhiêu năm tháng dài quần thảo trên đồng không mông quạnh, nắng cháy bỏng da, bỗng tiêu tan thành mây khói. Họ tắt ngấm hy vọng để sau này trở thành tá điền muôn năm vạn thuở của những người họ không bao giờ biết mặt. May mắn lắm họ chỉ nghe được vài cái tên man mán, tiếng Tây, tiếng Tàu, tiếng Việt lẫn lộn, đọc trật vuột khó khăn. Chú Năm Nghê không lạ gì về những việc sắp xếp lươn lẹo, trồng tréo mờ ám đó. Khổ nỗi, người dân hiền lành lương thiện luôn là những nạn nhân khốn khổ truyền kiếp. Mà thật vậy. Những suy đoán lo âu của chú không sai xuyển chút nào. Hôm “bắt thăm” ở làng, tiêu chuẩn cấp trên ấn định là ba người tính theo tỷ lệ đầu nhân mạng. Rốt cuộc ba thanh niên thuộc hàng nghèo rớt mồng tơi, mờ đôi mắt trong xóm được “vinh dự trúng thăm”. Trong khi đó, các con cháu ông cả, ông chủ, ông bang biện cùng chủ điền giàu sụ chẳng may bị loại. Tất cả những quý tử quý tôn này đều lọt sổ gọn hơ. Đút lót… Chạy chọt… Gian lận… Chú Năm mỉm cười thấm thía cho tình đời. Chú nhớ đến lời người xưa: “Muốn nói gian, làm quan mà nói”!
Nhứt là câu ca dao quen tai:
***
Ngày xưa, người ta đánh trống khua chiêng tiễn đưa những chàng trai lính thú đi làm phân sự. Phần nhiều ở tận nơi xa xôi hẻo lánh, cách ngăn thăm thẳm, khiến tâm trạng người đi thêm thê lương áo não:
Chẳng mấy chốc, chú Năm Nghê gạt lệ như người xưa, giã từ gia đình, bạn bè thân yêu, giã từ xóm làng thôn ổ. Không phải chú sẽ “bước chân xuống thuyền” mà để được chuyển thẳng đến bến Nhà Rồng xuống tàu viễn dương, trực chỉ trời Âu. Chú đi Tây phục vụ mẫu quốc! Chú còn nhớ rõ năm đó là năm 1939 mà ngày tháng nào chú quên mất rồi. Duy chú chỉ biết con tàu mang cái tên «Giăng Xê» (Yang Tsé), to lớn và đầy đủ tiện nghi quá tầm tưởng tượng của chú. Và chú lại nhớ man mán đâu đó có người nói với chú cái tên «Giang Xê » này chẳng qua là tên con sông Dương Tử bênTàu? Nhưng thực tình, lúc bấy giờ lòng chú hoang mang, chú nào có màng để ý tới. Từ dạo đó, từ dạo con tàu nghiệt ngã “xúp lê một... xúp lê hai...” chẳng chờ chẳng đợi, chẳng nuối chẳng kéo, chầm chậm tách bến Nhà Rồng, phun khói đen ngòm để sau đó uốn éo theo sông Sài Gòn, vượt Ô Cấp, chú Năm Nghê bắt đầu một cuộc đời mới. Tâm trạng chú dàu dàu thương thương nhớ nhớ. Chú khắc khoải nhiều câu hỏi thầm kín trong lòng, đến giờ khắc đó vẫn chưa bao giờ có đáp số thích nghi. Chuyến đi thì có, cũng rầm rầm rộ rộ trong không khí nô nức tiễn đưa của chính quyền thuộc địa, nhưng ngày về lại mù mờ đến biết thuở nào? Chú không bi quan. Thái độ này không trái ngược với tánh tình chú. Chú vốn yêu đời, yêu người, yêu vạn vật, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống... Nhưng không vì vậy chú không ái ngại cho tương lai. Chú không lo lắng cho những ngày trước mắt. Có thể một viên đạn vô tình bất chợt nào đó sẽ cướp mất phũ phàng đời son trẻ của chú. Nỗi buồn của chú là chết bơ vơ cô độc, tứ cố vô thân trên mảnh đất xa lạ, xa hẳn cái chéo mạ, vồng khoai nơi quê hương chú. Chú chết cho ai đây? Vì ai chú chết?
Chuyến tàu xuyên đại dương hơn cả tháng trường diệu vợi, lắm lúc sóng gió hãi hùng tới tắp không thôi, ghé Tân Gia Ba, cảng Djibouti, vượt kinh đào Suez Ai Cập với kim tự tháp, kỳ quan thế giới. Sau cùng nó đến neo ở cảng Marseille, một hải cảng thương mãi quan trọng ở miền Nam nước Pháp, rất phồn thịnh thời bấy giờ. Vì là cửa ngõ yết hầu buôn bán với các nước vùng Địa Trung Hải, Trung Đông, Phi Châu và Đông Nam Á Châu. Chú Năm Nghê được chuyển ngay về miền Bắc Pháp, nổi tiếng là xứ khoai lang tây và củ cải đường. Chú được bố trí phục vụ ở quân cảng Dunkerque. Chiến tranh bùng nổ ác liệt trước đó không lâu. Chế độ phân phối lương thực được áp dụng rất khắc khe. Cũng như các bạn đồng hội đồng thuyền lính thợ Việt Nam, chú thuộc hàng phó công dân ở xứ thuộc địa xa xôi, được xếp hạng bét trong thang ưu tiên phân phối. Ăn uống thiếu thốn. Thời tiết lạnh buốt làm cho cơn đói càng thêm khó chịu. Ai có lâm vào cảnh này mới biết cái đói khát nó dằn xé mình đến mức độ nào! Không lời nói, không chữ nghĩa nào, dù có chọn lựa cân nhắc đến đâu có thể diễn tả đúng mức và đầy đủ được. Thêm vào đó còn phải làm việc cực nhọc, liền tay, không một ngày ngơi nghỉ. Vì lúc ấy tất cả đều tranh thủ thì giờ phục vụ guồng máy chiến tranh vào cao độ. Chú cứ cười bất mãn tự nhủ:
- Mình đầu den, da vàng, mũi tẹt, con dân xứ thuộc địa mất tự do, số phận hẩm hiu chẳng có gì là lạ cả.
Bấy giờ chú mới nhớ, hơn bao giờ hết. Nhớ cồn cào trong tủi hận... Chú nhớ khoảng không gian thênh thang trước nhà mình, lung linh ánh nắng sớm chiều với tiếng chim nô đùa hợp chợ ríu ra ríu rít không thôi trên những tàn ổi, tàn mãn cầu... đâm tượt non mướt mùa mưa. Chú nhớ những bữa cơm đạm bạc với cá tép tôm cua, rau cỏ vườn nhà chú thường ăn, tuy không thịnh soạn, nhưng lúc nào cũng no bụng ấm lòng. Chú nhớ những con cá rô to bằng bàn tay phóng nhảy rèn rẹt rèn rẹt rất cao khỏi mặt nước ở những đám lúa trổ đòng đòng để táp bông lúa non thơm ngon, mà chú thường câu nhấp đem về nướng lửa rơm căn phồng tươm mở. Chú nhớ những ngày ra giêng gió lành lạnh, những trái xoài con thon thon nho nhỏ, một màu xanh mơn mởn đong đưa đồng loạt với những bông xoài nở muộn, màu trắng vàng giữa những lá non tim tím, báo hiệu một mùa trái ngon ngọt hứa hẹn. Chú nhớ mấy bầy ròng ròng lớn nhỏ, màu đỏ hoe, quấn quít sát vào nhau, ganh đua trườn lên mặt nước ngớp thở, bên cạnh cá lóc mẹ, thỉnh thoảng táp mống bụp bụp bảo vệ con, xua đuổi ếch nhái khuấy rầy. Chú nhớ vào những mùa gió chướng bắt đầu thổi, mấy cây so đũa suông đuột trước nhà chú trồng cốt để về sau lấy thân ủ làm núm mèo, trổ bông trắng ngần lòng thòng, phất phới lay chuyển theo chiều gió. Chú đang thèm một nồi canh chua cá trào, cá chốt bụng trứng nặng kè kè nấu với bông so đũa, ăn mệt nghỉ. Nhứt là phải để sót chút ít nhụy bông so đũa để có mùi đăng đắng nhân nhẩn. Giờ đây, nơi xa xôi có lúc bất chợt nghĩ đến, chú càng thêm nhớ thêm thương quê hương khổ hạnh của chú. Và cái mùi nhân nhẩn đăng đắng của bông so đũa ngày xưa càng làm cho chú thêm thấm thía với cuộc sống giăng mắc đắng cay hiện tại... Mới hay ở mỗi con người, dù giàu sang phú quý hay nghèo khó khốn đốn đến đâu, trong sâu thẳm tâm hồn của họ đều có một chỗ trang trọng giành cho những kỷ niệm vui buồn trong đời. Những kỷ niệm này đôi khi mang đến cho họ một ước mơ, một hoài vọng nào đó mà trong mơ hồ của ảo tưởng, nó càng đặc thù bao nhiêu càng tốt đẹp bấy nhiêu. Và chính đó mới là nền tảng đưa đến những thành công trọng đại trong hành động của con người.
Những năm đó, thời tiết trở lạnh khủng khiếp. Súng đạn lại đì đùng khắp nơi không dứt. Người địa phương rất lo sợ và luôn bị ám ảnh bởi thần chết. Chết trận, thương vong, lạc đạn đã đành, họ còn phập phồng về nạn chết đói, chết lạnh vì thiếu than củi và nhiên liệu sưởi ấm. Một cái chết dằn dai đau đớn mới thê thảm hơn. Tiền của chỉ lo vào miếng ăn cầm hơi hằng ngày, có đâu dư thừa để chi vào việc sưởi nhà cửa. Bạn bè chú chịu lạnh không thấu, thêm vào đó ăn uống thất thường, thiếu dinh dưỡng trầm trọng nên bệnh hoạn, chết rất nhiều. Bệnh nhân được nhập quân y viện hay bệnh xá, vừa qua khỏi cổng trước. Một ngày sau, xe “bù ệch” đẩy thây ma ra cổng sau vào nhà xác trước khi trực chỉ nghĩa trang. Cũng chính bạn bè chú mỗi lần thấy một bạn đồng hành nhập viện đều đến quấn quít cạnh bên hỏi han có muốn nhắn gởi những lời cuối cùng gì về gia đình hay không? Một di chúc đối với người đoán trước sắp bước vào cõi vĩnh hằng huyền bí. Rõ thật thê thảm biết dường nào! Nhờ phúc đức ông bà cha mẹ thuở trước khéo tu tâm dưỡng tánh, có thiện duyên bố thí giúp người sa cơ lỡ bước hay sao mà chú được bổ nhiệm giúp việc vợ chồng viên Quan Năm chỉ huy đơn vị để sai vặt. Vất vả khổ cực, chú thấm thía lắm, so đi tính lại còn gấp bội lúc chú quần quật sớm tối ngày mùa nơi quê nhà. Nhiều lúc chú thở dài:
- Ăn lương bằng đồng quan Pháp không phải dễ. Trần ai lai khổ. Quả thật là “đồng lương ói máu”.
Tuy vậy, đối với chú còn một chút an ủi cứu rổi. Mỗi sáng, chú có nhiệm vụ thức dậy thật sớm, đốt lò sưởi. Đây là giây phút sung sướng nhứt đời chú trong suốt chuỗi ngày lưu lạc ở xứ Phú Lang Sa. Chú trì hưởn kéo dài thì giờ, nấn ná chọn lựa, tâng tiu từng khúc củi. Chú nán ở lại lâu chừng nào tốt chừng nấy để được hưởng thêm một chút ấm áp hiếm hoi đó. Bà vợ vị Quan Năm còn quá trẻ nhưng tỏ ra thông cảm hoàn cảnh của chú. Bà dư biết người gốc gác các xứ Đông Dương, quanh năm nóng nực không sao chịu nổi cái lạnh khắc nghiệt của trời Âu. Bà làm ngơ để chú tự do hưởng vài phút quý báu và cần thiết này. Có lẽ nhờ hoàn cảnh hi hữu ấy, chú Năm may mắn sống sót trong chiến tranh, dù ngắn ngủi vài năm nhưng khốc liệt vô cùng. Cứ nhìn hình ảnh chú mang về nước làm kỷ niệm, với hải cảng Dunkerque hầu như bình địa mới ý thức đúng mức sự tàn phá của chiến tranh thời đại văn minh khoa học tân tiến.
Sau khi Đức Quốc Xã bại trận, chú Năm Nghê thuộc nhóm lính thợ đầu tiên đăng ký hồi hương. Chú nôn nao trong lòng nhưng nước Pháp thời hậu chiến tả tơi xơ xác, đổ vỡ hoang tàn nên không giải quyết ngay được. Dù sao chú cũng được về trên chuyến tàu hồi hương sớm nhứt so với bạn bè chú có người phải chờ đến chuyến tàu cuối vào năm 1952. Chú thương cái xóm Rạch Rít của tôi. Chú nhớ quê hương, bà con lối xóm. Chú không chần chừ rời khỏi mảnh đất xa lạ bị tàn phá với nhiều kỷ niệm chú cố gắng quên mau, xem như một vấp váp trong đời mình. Sau này, chú có thố lộ tâm trạng của chú lúc đó như những chú cá lóc, cá trê, cá rô… ưa thích sống trên đồng ruộng, bưng biền hay đầm vũng, nơi chúng được sinh trưởng và lớn lên. Về sau nên hình nên vóc, dù cho đồng ruộng có cạn khô mùa nắng, dù cho bưng biền có hết nước đi nữa, nhưng chúng nó không bao giờ phiêu lưu thoát ra sông cái đầy cạm bẫy. Trái lại, chúng nó lần mò cố tìm mọi cách rút xuống ao sâu đầm vắng, như chúng quyến luyến không rời bỏ được vùng đất dưỡng nuôi bảo bọc chúng trước đây. Cũng như chú, chú không thể bỏ được quê hương Rạch Rít của chú. Khốn nỗi, chú muốn quên nhưng sao những kỷ niệm đó vẫn đeo đẳng chú không thôi. Chú nhất quyết hồi hương không một phút giây do dự. Chú càng thêm thương một số ít bạn bè trong đơn vị chú. Trong thời gian lưu lạc, chúng lỡ đụng một cô đầm mắt xanh mũi lỏ, đã có con cái lóc nhóc vài đứa tóc hoe da bánh mật, nên đành bị cột chưn cột cẳng ở lại, buông xuôi đời mình theo định mệnh đẩy đưa.
Phần chú, sau mấy năm trôi nổi ở Pháp, chú trở nên lỡ thầy lỡ thợ. Thầy không ra thầy. Thợ không ra thợ. Chú hồi hương trong tay không một nghề ngỗng đảm bảo nào, trừ cái bệnh nghiện rượu mới chết. Thời chiến tranh, ai thiếu rượu thì có, chớ nhà Quan Năm chỉ huy trưởng đơn vị thì dư giả, tha hồ mà uống. Rượu nhà quan thường là thứ rượu ngon. Không uống cũng uổng. Vả lại, có rượu vào chú cảm thấy đỡ lạnh hơn và cũng để được ấm lòng những lúc nhớ nhung. Uống riết trở thành thói quen. Bỏ không được nữa. Lúc ở tàu thủy lênh đênh trở về quê cũ, ngồi một mình trên boong tàu ngắm nhìn mặt nước trong xanh với những con hải âu thỉnh thoảng chập chờn xa xa, chú tự an ủi mình. Chú nhại theo câu “văn chương phú lục chẳng hay....” thuở còn đi học trường làng. Chú ngâm nga khe khẽ qua nỗi buồn man mác cứ chực xâm chiếm tâm hồn lạc loài xa xứ của chú:
Bọn chúng tôi xem như thường xuyên có mặt ở nhà chú Năm Nghê. Lúc nào cũng vui nhộn lắm. Chú độc thân nên chúng tôi rất tự do thoải mái bày biện. Chúng tôi thơi thới không lo có bóng dáng đàn bà lãi nhãi tối ngày, hò hét, ong óng rầy la để nhà cửa được ngăn nắp sạch sẽ, giữ trật tự nề nếp trong ngoài. Người lớn thường tụ năm tụ bảy ngồi nghe chú kể chuyện đi Tây, đi Phi Châu, những nơi chú từng để chân đến. Tha hồ chú vẽ vời mê hoặc chúng tôi. Có nhiều đoạn chú day qua nhếch mép bảo nhỏ chúng tôi:
- Tụi bây còn nhỏ quá, con nít con nôi, chưa tới tuổi để có quyền nghe đoạn này. Đợi lớn chút nữa đã...
Nhưng bên vách ngoài, chúng tôi nghe loáng thoáng những trận vui chơi “trả thù dân tộc” gì đó với những tiếng cười ầm vang như muốn vỡ cả mái chòi của chú. Chú bảo đầm “phẹt” (ferme), nhiều cô trắng bạch nhưng khổ nỗi lại to con, dình dàng như voi. Người mình trái lại như con cá lẹp, như con mực khô trúng nắng, đứng kế bên bắt ớn lạnh rùng mình. Chú tắc lưỡi:
- Tội nghiệp! Tao có mấy thằng bạn cùng đơn vị lấy vợ đầm. Ban đầu coi cũng được đến. Chúng nó cũng hạnh phúc đáo để, mặc dầu không xứng lứa vừa đôi dưới con mắt quê mùa của tao. Nhưng về lâu về dài, tình cờ gặp lại tụi nó, trông chúng nó thảm não xác xơ làm sao! Chúng nó ốm tong ốm teo như con cắc kè phơi khô, xanh xao hết xíu quách. Nhiều đứa chắc để làm cảnh mà chơi… chớ làm ăn gì nổi. Còn đa số bị mấy mụ vợ đầm sung sức, chẳng ngần ngại đạp đít, lôi ra tòa xin ly dị cả.
Rồi chú kết luận như đã tìm ra chân lý:
- Người Á Đông mình làm sao bì được với người Âu Châu. Sức khoẻ họ như trâu cui trâu cổ trong khi mình là con nhái oé mà!
Riêng chúng tôi, chúng tôi miệng mồm há hóc, rất thích nghe chú bật tiếng Tây tiếng u. Chúng tôi chẳng đứa nào hiểu một tiếng nhứt một nhưng khoái lắm. Lúc chú nhậu ba mớ, cứ thoải mái “mẹt, mẹt”, “xà lồ”, “phuốt mỏa lơ căng”, “quì mông xừ”, “măng phú”... Chúng tôi phục chú quá cỡ thợ mộc. Nghe chú nói chú còn “xạc cà rây” mấy thằng Tây, ngang ngửa với chúng. Chúng tôi chẳng những ngưỡng mộ mà còn thầm bái phục chú dài dài hơn ai hết. Nhứt là khi chú cam đoan quả quyết mấy ông Tây này thuộc hàng Tây “chính cống con nai vàng”, chứ không phải loại Tây «lô can» thuộc địa. Có đứa hít hà thốt những lời khen chú tận mây xanh, không lời lẽ văn chương bình dân nào có thể so sánh được. Khen là khen sự đương đầu can đảm của chú trực diện với Tây mẫu quốc. Thay vì nhan nhản trước mặt chúng tôi, những ông Hương chức Hội tề đều khom lưng xá xá, thập thò bẩm dạ vâng vâng với mấy tên Tây lai, lai cả ba bốn đời từ khi có mấy ông Tây đầu tiên phiêu lưu đến đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, hoặc ngay cả với mấy tên Tây Đen ngòm ngòm, Chà và Ma ní tào cáo. Chú trở thành thần tượng của lớp trẻ chúng tôi vì chú thường cao giọng xác nhận, ở xứ tự do dân chủ như Pháp, chú không sợ, chẳng ngán ai cả. Có pháp luật đàng hoàng che chở và có đủ thứ tự do. Sự hà hiếp bất công dẫu có đi nữa cũng có chừng mực, không đến đỗi hà lạm lộng hành như bên mình. Chú Năm Nghê ở một mình nhưng không vì thế cuộc đời chú mất vui. Đối với chú, niềm vui là một cái gì thiêng liêng cao cả. Thiếu nó không thể được. Nó hướng dẫn cuộc sống hài hòa và quân bình của chú. Có hôm chú nghiêm nghị trúc bầu tâm sự. Và chúng tôi nhớ mãi cái triết lý sống lành mạnh và thực tế của chú:
- Thật tình, tao hiện sống một mình, không cha mẹ anh em, không vợ không con, nhưng tụi bây tưởng tao cô đơn hà? Không đâu.
Chú khẳng quyết:
- Tao không hề cô đơn chút nào. Đối với tao, cô đơn làm sao được và hai chữ cô đơn chẳng có nghĩa lý gì cả. Bây chẳng thấy, chính tao đã tạo ra bạn bè không thiếu gì, hằng hà lũ khũ, trong đó có cả lũ chúng bây.
Ngừng một chút, chú như người tìm ra được một lẽ sống tuyệt vời nên nói tiếp cho hả hơi:
- Cô độc chẳng có gì đáng lưu ý cả. Cô độc vì chính bản thân mình chọn lấy làm phương cách sống riêng của mình mà. Một sự tự nguyện trong tự do. Đâu có ai làm áp lực bắt buộc mình chọn lựa bao giờ đâu? Nhưng khổ nhất chính là sự cô đơn. Tao nghĩ cho cùng, sống cô đơn mới buồn tẽ thê thảm nhứt trong đời người. Cho nên nhiều người không chịu nổi cảnh cô đơn, không còn thích sống nữa!Chú giải thích thêm:
- Cô đơn là vì mình chẳng có người đồng hành đồng điệu chung quanh để cảm thông, chia xẻ buồn vui. Không có người đồng tâm cùng chí hướng để nương tựa những lúc trợt chân vấp ngã. Chẳng có bạn bè thân hữu, chẳng có tri âm tri kỷ đỡ nâng tinh thần khi xuống chó chán chường. Sống như vậy tức là sống bơ vơ lạc lõng ngay giữa chợ đời, trong khi cô độc chẳng hề bơ vơ chút nào cả.
Hít một hơi thuốc dài, đôi mắt rõi theo hai làn khói thuốc lững lờ bay lên hướng trần nhà, chú tiếp:
- Tụi bây hiện còn nhỏ. Sau này lớn lên lỡ trong đám tụi bây có đứa nào bất hạnh sa trong cảnh cô đơn thì thiết tưởng chừng đó tụi bây cũng không nên trách ai cả. Đừng trách đời. Đừng trách người. Đừng trách thiên hạ hay kẻ bàn quan. Trong trường hợp đó, trước hết bây nên thành thật xét mình và tự trách mình cái đã. Vì sao? Bây biết không?
Chú nhìn chúng tôi với đôi mắt thiết tha trìu mến:- Kinh nghiệm cho tao thấy đời sống hằng ngày vô cùng tươi đẹp với muôn màu muôn sắc và ý nghĩa. Tha hồ mà chọn lựa. Đời rất hấp dẫn, chất chứa bao nhiêu lôi cuốn quyến rủ gọi mời. Đời lại muôn hình vạn trạng. Mỗi người nhìn một góc cạnh nào đó của cuộc đời để qua cái đẹp mình vừa khám phá, đón nhận đời với niềm vui hạnh phúc tự tạo. Từ đó dẫn dắt mình thêm thương yêu cuộc sống, thêm thương yêu những gì chung quanh mình như yêu người, yêu thiên nhiên, yêu nội tâm, yêu ngoại cảnh… Tất cả đều bao la không biên giới. Đời luôn luôn mở rộng cửa nẻo thênh thang để vẫy mời đón đợi, mở rộng những ngõ ngách lối đi niềm nỡ tiếp rước mình. Chỉ có những ai bi quan chán chường, những tâm hồn bịnh hoạn, trật đường rầy mới lạnh lùng quay lưng lại đời. Những hạng người đó mới thực sự cô đơn thôi.
Như ngoái nhìn lại thân phận mình, chú nở nụ cười mê hoặc chúng tôi:
- Tao quả tình cô độc thật đấy nhưng chưa bao giờ tao thấy cô đơn bao giờ, dù cô đơn trong tâm tưởng. Bầu bạn tao vây quanh, không lúc nào vắng. Cả đến mấy đứa nhóc con chúng bây, có đứa miệng còn hôi sữa nữa nên tao vui đáo để. Tao đã nói nhiều lần rồi, niềm vui và bạn bè là lẽ sống của tao mà! Hạnh phúc do chính mình tạo ra mà có.
Những năm về sống nơi quê nhà, chú Năm Nghê có nuôi một con chó cỏ làm bạn hủ hỉ những lúc chúng tôi vắng mặt và bè bạn chú bận việc đồng áng, nhứt là vào ngày mùa, công việc thúc hối như chạy Tết. Nhu cầu xô đuổi cảnh lẻ loi cô đơn chăng? Dù sao, chúng tôi thấy chú thân mật và thương mến nó lắm. Đi đâu, nó tò tò đi theo sát một bên quyến luyến. Nhớ lại lúc còn giúp việc nơi nhà Quan Năm ở miền Bắc Pháp, chú săn sóc, cho ăn uống, chải lông, chiều chiều bách bộ dẫn đi dạo quanh đường phố Dunkerque con chó “bẹc giê” Đức của bà vợ. Con chó được huấn luyện đàng hoàng, cho thụ huấn ở trường chuyên nghiệp với những huấn luyện viên lão luyện đầy kinh nghiệm nên rất dễ dạy bảo và sai khiến. Nhờ ba mớ kinh nghiệm học lóm đó, nay chú áp dụng cho con chó cỏ của chú. Nó gốc Việt Nam rặc nòi nhưng khôn ngoan thông minh không kém. Nó biết nghe và hiểu rõ tiếng Tây trong khi lũ chúng tôi bù trơ bù trớt, không một chữ nhứt một làm vốn để lên mặt khoe khoan với xóm làng. Chú Năm bảo “át xi”, nó lật đật ngồi cạnh bên, chăm chú hướng thẳng về phía trước như trong tư thế đứng nghiêm chờ lệnh. Chú búng tróc tróc chỉ xuống đất nói khe khẽ: “cút sê, cút sê”, nó vội mọp xuống nằm yên bất động, đôi mắt tinh ranh lấm lét, trông nó ngoan hiền dễ thuơng làm sao. Nó lỡ làm chuyện bê bối, chú Năm không vừa ý, thét to dằn mặt nó: “pờ pa, pờ pa”, “ố là là, ố là là”. Con chó hoảng hồn, vừa đi vừa cúi xuống biết lỗi, đuôi nó cúp dài thòng xuống sàn đất. Chú khen nó đáo để: “bi en, bi en”... Chúng tôi thuộc hàng Uất Trì Cung, nghe chú nói tiếng Tây như vịt nghe sấm trong khi con chó cỏ của chú lại tỏ ra thông minh ngoại hạng. Chúng tôi phục con chó cỏ đã đành, còn phục người khéo dạy nó, tức chú Năm Nghê, một nhân vật quả đặc biệt của xóm tôi.
***
30/04/1975. Chú Năm Nghê quay về sinh sống ở xóm Rạch Rít sau thời gian khá lâu lánh nạn ở chợ quận do chiến tranh vùng ven đô sôi động từng lúc, đè nặng áp lực uy hiếp thủ đô. Chú trở lại ngôi vườn xưa, cất một mái tranh ọp ẹp hẹp té, vừa đủ tránh mưa che nắng. Con chó cỏ vẫn trung thành, quấn quít theo gót chân phiêu lưu lang bạt của chú. Nay có nơi có chốn ấm cúng, vào ra tự do thông thả, quẩn quanh hủ hỉ với chú. Nó vẫn tuân hành răm rắp lệnh của chú qua mấy tiếng Tây chú học lóm trật vuột lúc được biệt phái làm việc vặt nơi nhà ông bà Quan Năm. Chú kiểm điểm và quá xúc động nhận thấy bà con trong xóm không còn bao nhiêu người. Phần lớn đã thành người thiên cổ trong những hoàn cảnh bi ai trầm thống. Lai rai còn lại vài người lân cận sát cạnh hè. Mấy đứa trẻ chồng nhộng, ngu ngơ khờ khạo, ngày nào bị chú xô đuổi mỗi khi chú kể chuyện “nhứt dạ đế vương”, những cảnh ăn chơi cụp lạc, hưởng thụ ở Phú Lang Sa cho người lớn nghe, nay già trước tuổi vì quá dày dạng gió sương. Tất cả đều dốc lòng bắt tay xây dựng lại trên đổ vỡ, hoang phế. Chiều chiều, họ vẫn còn nhớ thói quen đến chòi lá của chú. Không phải để nghe chú kể tiếp chuyện bên Tây bên Tàu hay Phi Châu như thuở nào, mà để thở vắn than dài, để trút bớt phần nào tâm sự ngổn ngang hay bao nhiêu u ẩn uất ức trong lòng.
Ruộng nương mênh mông bát ngát giờ đây không còn là sở hữu của họ nữa, để trở thành tài sản chung của đảng và nhà nước. Ủy ban nhân dân xã quản lý hết đất đai ruộng vườn, không sót một tấc đất. Họ xét theo tiêu chuẩn nhân mạng trong mỗi hộ, mỗi gia đình để phân phối nghĩa vụ sản xuất đối với quốc gia theo phương hướng hợp tác hóa. Bước đầu là vậy. Sau này dần dà sẽ tiến tới làm ăn sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, tập thể hóa nông thôn như họ không ngớt lớn tiếng khoát lát rêu rao, lập đi lập lại nhàm tai. Chú Năm Nghê đã quá xa cái tuổi “thất thập cổ lai hi” mà ngày xưa thi bá Đỗ Phủ mơ ước. Chú không còn trong tuổi lao động, xem như ngồi chơi xơi nước, như Ông Táo bỏ xó gốc đa đầu làng. Chú không có quyền cày sâu cuốc bẩm để thực hiện giấc mơ “Trở về làng cũ học cày nuôi thân” theo sự thôi thúc réo gọi thầm kín của quê hương, lúc chú mãn hợp đồng lính thợ không chuyên ở miền Bắc Pháp. Ngôi nhà của chú lúc này vắng vẻ buồn tênh. Lệnh của Ủy ban nhân dân cấm tụ tập đông người ngoài trụ sở xã. Phần chú bị ghép vào thành phần phản động chống chế với lý lịch tèm nhèm do quá khứ làm tay sai cho thực dân đế quốc. Nhứt là trong ngôn ngữ hằng ngày, chú vẫn có thói quen không cải sửa được. Chú cứ tiếp tục xổ từng loạt, tràng giang đại hải tiếng Tây tiếng u, không ai hiểu chú nói gì. Các đồng chí ở Ủy ban hay chi bộ với niềm tự hào “tam đại bần cố”, chữ nghĩa mẹ đẻ không đầy lá me lá mít. Họ nghe chú phát ngôn như nước đổ lá môn, đâm ra nghi kỵ, âm thầm theo dõi từng bước đi của chú.
Bỗng nhiên, từ dạo đó, chú vốn đã cô độc nay thật sự trở thành cô đơn. Một tâm trạng oái oăm đau đớn, chú từng cực lực không hết lời lên án những năm trước đây. Chú chỉ còn cách mai mỉa, ưng khuây khỏa qua ngày làm bạn với con chó cỏ một mực trung thành. Con đường duy nhứt để chú tìm nguồn hạnh phúc và một chút niềm vui đã mất. Hằng ngày, chú chăm sóc vườn tược, trồng trọt hoa màu độ nhựt. Chú cải thiện bữa cơm với cá tôm câu được lẩn quẩn bên nhà. Chú sống ẩn dật, thầm lặng như các tiên ông ẩn sĩ thiền môn ngày xưa. Họp hè ở Ủy ban, kẻ réo gọi, người thúc hối, chú “xăn phú”. Chú có đi tham dự lần nào đâu. Chú thích ở nhà, nằm tréo ngoảy đọc chuyện đời xưa của nhà bác học Trương Vĩnh Ký, mấy pho chuyện chương hồi của Tàu: Tam Quốc Diễn Nghĩa, Phong Thần, Thủy Hử... do danh sĩ Nguyễn An Khương dịch thuật, Chung Vô Diệm, Tây Hớn, Mạnh Lệ Quân... của dịch giả nổi tiếng một thời ở Miền Nam, Nguyễn Chánh Sắt hoặc Phong Thần Diễn Nghĩa, Vạn Huê Lầu... của cụ Trần Phong Sắc mà chú còn giấu giữ được qua bao nhiêu phong ba bão táp của lịch sử. Dù nay các pho truyện này đã cũ mèm, lại mất trang mất chữ. Có quyển nói nghe xôm tụ lắm nhưng không còn bao nhiêu trang do quốc nạn giấy quyến khang hiếm khó tìm, chú lần lượt xé vấn thuốc rê hút hằng ngày. Lâu lâu, chú “mẹt, mẹt”, “xà lồ” rùm lên. Con cho cỏ ngớ ngẩn vội chạy lại liếm tay chú một cách trìu mến. Chú dịu lại, âu yếm lấy tay xoa nhẹ đầu nó như để quên đời, quên thế sự, quên tất cả. Chú tự vỗ về qua chút hơi men chắt mót, loại hàng tiêu dùng cấm kỵ ở những ngày đầu tiếp quản theo quan điểm đạo đức cách mạng trong khí thế đang lên.
Tôi gặp lại chú Năm Nghê hai ba năm sau ngày bộ đội cụ Hồ cưỡng chiếm thủ đô. Lúc bấy giờ có chiến dịch giải tỏa thành phố, giản dân, đưa dân đi vùng kinh tế mới. Nói “đưa” cho hợp với mỹ từ đầu môi chót lưỡi đường mật của cộng sản, chứ thực ra là bức bách, làm áp lực ép uổng nặng nề đuổi nhà cướp của. Còn vùng kinh tế mới chẳng qua là vùng đất khô cằn sỏi đá, hỗn mang hoang vu, nơi người dân lương thiện bị khống chế lưu đày mãn đời trọn kiếp. Gia đình tôi được Ủy ban phường thương yêu chiếu cố đặc biệt. Tên ủy viên phụ trách kinh tế mới của phường và tổ trưởng tổ liên phố thay phiên nhau “làm việc”, liên tiếp động viên ngày này qua ngày nọ. Sau cùng họ lên danh sách những người ưu tiên được hưởng biện pháp giúp đỡ của nhà nước cách mạng. Dồn dập, thúc bách lắm. Hộ khẩu sẽ bị thu hồi và chế độ phân phối nhu yếu phẩm đương nhiên sẽ bị cắt hẳn, nếu những đối tượng không tuyệt đối chấp hành chủ trương và đường lối cách mạng. Nhưng trớ trêu, oái oăm thay. Tôi chưa lên đường đi kinh tế mới, thì trái lại ông ủy viên phụ trách kinh tế mới bỗng nhiên đứt mạch máu não, ngã chết bất đắc kỳ tử. Tên «cách mạng ba mươi» này nổi tiếng hắc ám, trơ trẻn trở mặt với bà con. Vì vậy cả phường đồn rùm, ông ủy viên, cán bộ giờ chót vốn rất tích cực lấy điểm trong nhiệm vụ lùa dân giải tỏa phường khóm, đã “giã từ gác trọ” đi kinh tế mới rồi! Tiếng đồn thấu tai khiến Ủy ban phường ra lệnh trong những đêm họp tổ liên miên, cấm không cho phổ biến những lời mai mỉa nhạo báng, lập luận phản động đó. Chúng còn chụp mũ là do bọn CIA và tàn dư Mỹ Ngụy còn sót lại tuyên truyền chống phá cách mạng. Như vậy có nghĩa người nào vẫn tiếp tục phổ biến xem như là thành phần chống đối, bất hảo.
Tôi bàn với tiện nội hồi hương, thử trở về xóm cũ “học cày nuôi thân”. Thật ra trong thâm tâm là để có hộ khẩu đảm bảo cuộc sống hằng ngày, dù vất vưởng không ngày mai, chẳng ra hồn ra xác gì cả. Tôi được chú Năm Nghê dang tay đón rước nhiệt tình như thuở nào. Chỉ có khác là nay chú phong trần quá đỗi, còn tôi cũng lận đận gió sương không kém. Tuy vậy, cả hai chúng tôi vẫn hưởng những giờ phút thoải mái tuyệt vời, thực sự tin cẩn, thực sự thương yêu nhau. Bên ánh đèn con cóc yếu ớt, phựt phựt thiếu dầu, hằng đêm chú tiếp kể những chuyện bên Tây bên Đức đến khuya lơ để nhớ nhung một thời khoảng xa xưa và cũng để vỗ về giấc ngủ hiện tại. Chú có chõng tre, mỗi lần lăn lộn nghe như nó vặn mình răn rắc, đau đớn lắm. Tôi tòn ten như ngày xưa trên chiếc võng bắt ngang hai cây cột chòi bếp. Con chó cỏ của chú cứ đeo theo cọ sát vào võng tìm nơi nương tựa. Quả sút vật cũng sợ cảnh lẻ loi cô đơn. Đêm đêm cả hai chú cháu chui vào nóp bằng lác trùm phủ kín đáo tránh muỗi mòng đâm chích rồi ngủ say sưa bất biết lúc nào không hay. Dự tính của tôi thất bại đau thương. Không phải vì tôi sợ khó khăn lao nhọc, chân lấm tay bùn. Những năm lặn hụp nơi cái chéo quê hương ruộng rẫy, ít nhiều tôi cũng có nhúng tay vào việc đồng áng và cũng thật sự có đổ mồ hôi trên thửa mạ luống cày. Kỳ thực, Ủy ban xã vốn đa nghi còn hơn Tào Tháo. Bản tính cố hữu của họ không tin một ai cả, trừ đồng bọn đảng viên mà đôi khi chúng còn nghi ngờ. Họ nhìn tôi như một tên tội đồ, thành phần ngụy, kẻ phản động của chế độ cũ, đổi vùng tránh né mạn lưới trừng trị bũa vây của địa phương nơi tôi thường trú trước đây. Họ đâu ưng cấp phát ruộng đất để tôi có cơ hội cạp mà ăn. Còn việc hợp thức hóa hộ khẩu là chuyện mông lung xa vời. Cán bộ xã được uốn nắn nhồi nhét trong một khuôn mẫu tiền chế cố định, bất di bất dịch. Chúng không bao giờ từ chối lời yêu cầu chánh đáng của tôi cũng như của bà con khác một cách thẳng thừng dứt khoát. Chúng cố viện lý do này nọ để thả nổi, kéo dài cù cưa cù nhầy, tránh né lấy quyết định cụ thể chung thẩm. Mỗi lần đối mặt, chúng vòng vo Tam Quốc, áp dụng chính sách câu giờ, «cứt trâu để lâu hóa bùn » hầu nhận chìm xuồng luôn. Bất cứ việc gì cũng thế. Chúng làm cho người dân cứ bám đeo theo một chút ánh sáng hy vọng hão huyền, không bao giờ có, chẳng bao giờ là sự thật. Người dân đành phải bấm bụng, cắn răng chịu đựng.
Ông trời cứ chập chập gầm gừ gào thét. Hằng ngày mây đen mỗi lúc thêm vần vũ. Mùa mưa sắp đến nơi rồi. Ruộng nương không ngơ. Tôi thất vọng. Chú Năm Nghê thở dài não nề. Nhiều hôm chú bất mãn, phản ứng lớn tiếng. Tôi hết lời khuyên can, nhắc lại chuyện Hàn Tín lòn trôn giữa chợ, lúc thanh thiên bạch nhựt đông người mà mấy năm trước chú có kể cho chúng tôi nghe. Những bài học ẩn nhẫn, giả điên giả dại đó giúp mình qua những truông nguy hiểm. Dù vậy, chú vẫn bực dọc cau có:
- Tao đâu ham sống, nhứt là thời buổi này. Nói như vậy thật tình nghe trái tai quá! Ở đời ai mà không ham sống? Người giàu có đã đành, nhưng đứa khổ nghèo gian khó cũng vậy thôi. Trong những lúc vui, tao đã từng mơ ước sống đến trăm tuổi để xem đời chơi. Nhưng thú thật bây giờ tao thích đời tao được kết thúc sớm chừng nào tốt chừng nấy.
Chú chậm rãi:
- Ông bà viễn tổ mình nói đúng lắm: “Chết trẻ khỏe ma, chết già nhọc xác”. Sống lâu trong chế độ này thêm nhục nhã. Tao cầu nguyện ông Trời thương, ngủ một đêm đi luôn, khỏe ru bà rù, không phiền hà ai, ngay cả cái bản thân của mình nữa. Sống thoi thóp, cơm ngày hai buổi, chạy túi bụi, mệt cầm canh mà còn bữa đói bữa no. Chết đói cà dựt cà dựt như vầy thêm đau đớn, tội cho xác thân.
Chú được nước thao thao:
- Cái đám lãnh đạo lãnh địa, chỉ đường chỉ ngõ này, toàn là bọn dốt đặc cán mai, một lũ i tờ. Bây cứ coi chữ viết của tụi nó như cua bò, quọt quẹt chấm phết như ở thời phong kiến La Mã. Nhiều tay vua chúa, tướng tá chém giết không ngừng tay, oai phong lẫm liệt hò hét thét ra lửa, nhưng khi ký tên chỉ có hai sổ ngang và đứng làm dấu thánh giá. Làm sao bà con và chú cháu mình ngóc đầu dậy nổi? Họp hè thúc réo, tao đếch có đi. Tao “măn phú”. Tới đâu thì tới. Đường cùng rồi! Tụi nó có muốn làm gì thì làm. Sao cũng được. Đầu tao đã bạc trắng! “Trâu già chẳng nệ dao phay” mà!
Tội nghiệp chú Năm Nghê. Chú “xăn phú”, “mẹt, mẹt”, “ố là là, ố là là”... tối ngày. Chú nhậu đế dài dài, tìm niềm vui trong nội tâm, tìm an ủi trong trí nhớ. Nếp men còn đâu bày bán tự do cùng khắp như ngày xưa hầu nấu rượu tại gia. Rượu bị kiểm soát chặt chẽ. Nguồn lợi của nhà nước mới, thay thế hệ thống đại lý độc quyền cũ R.A. còn hơn Tây thực dân gấp bội. Chú đành gởi mua rượu quốc doanh nấu bằng đủ thứ thập cẩm xà bần theo đà phát huy sáng kiến làm giàu xã hội chủ nghĩa của những nhà khoa bảng “nhảy dù” cù lần lữa, con cưng của chế độ. Uống vào nóng rát phổi. Mỗi lần chú muốn quên đời, quên cuộc sống phũ phàng, nghiệt ngã hiện tại, chú đành “chữa cháy” với chút ít nước dừa tươi hoặc nước trời mưa chứa ở khạp da bò ngoài hiên nhà. Còn đâu những loại rượu thuốc, loại tam xà thập xà đại hội ngày xưa gọi mời nhan nhản đầu hẻm cuối phố. Có tiền cứ mua uống thả cửa. Dù sao, đối với chú cũng là một giải pháp tạm qua ngày, chờ giờ phút trở về nước Phật.
Riêng đối với tôi, những ngày về quê cư ngụ nơi nhà chú Năm Nghê, tôi cũng tìm được một chút bình ổn trong tâm hồn. Tôi xa lánh thị thành, đỡ nhức đầu vì cuộc sống xô bồ, tạm thời đỡ hồi họp lo âu đêm ngày. Tôi viện lý do về quê sản xuất nhưng giấy tờ cư trú còn trục trặc nên cứ phải xin gia hạng giấy phép di chuyển luôn. Khốn nỗi, thằng công an phường, mặt mày hắc ám, cứ dở cái giọng Miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa “đỉnh cao trí tuệ”, “bách chiến bách thắng” để hống hách, làm eo làm xách người thua cuộc. Nhưng kỳ thực để kiếm chút cháo trong lúc giao thời tranh tối tranh sáng. Đám con cháu Bác Hồ nghèo xơ nghèo xác đang hồ hởi tập tành đổi đời qua những tiện nghi phồn vinh giả tạo của Miền Nam. Thỉnh thoảng tôi đáo về nhà vài ngày nửa tháng rồi lại xin vắng mặt, tiếp lo thủ tục hồi hương. Cứ tái diễn mãi cảnh bấp bênh không ngày mai ấy. Thực tình mà nói, đây là cách “thực tập chiến lược” để phường khóm và tổ dân phố quen dần với sự vắng mặt thường xuyên của tôi. May ra một ngày quang đãng tốt trời nào đó, tôi có vượt biên, công an khu vực và tổ phó an ninh không kịp thời khám phá. Một hôm, tôi đang đong đưa trên võng như mọi ngày, vừa mới thiu thiu thả hồn phiêu dạt nơi cõi mông lung mơ hồ, chập chờn thời vàng son hun hút, thằng Bảy Bèo, con chú Năm Điều ở xóm trên, vừa đi sanh hoạt thanh niên ở xã về ngang. Tôi giựt mình choàng nhỏm dậy. Vì khi nghe tiếng con chó cỏ sủa thúc lắm, rồi nó hực hực mấy tiếng nhè nhẹ như đã nhận diện được người quen. Bảy Bèo ghé vào đấu chuyện tào lao cho vui giây lát. Trong lúc ấy, chú Năm Nghê cũng trở vô nhà, bỏ nửa chừng việc dỡ vòng khoai mỡ đầu ngõ. Chú lấy giọng đàn chú đàn bác, dõng dạc gọi lớn:
- Thằng Bảy đó hả? Vô đây. Có chú Ba bây ở trổng. Tao đang rửa tay rửa chưn nè. Không lâu đâu.
Thằng Bảy Bèo chào hỏi tíu líu thân mật, làm như đã từng xa cách nhau lâu ngày mới gặp lại nhau. Nó tía lia còn hơn cái loa phóng thanh ong óng mỗi buổi sáng và chập tối ở các trụ sở quận huyện. Tay nó ôm kè kè bên mình mấy quyển sách mới tinh, bìa cáu cạnh, còn thơm phức mùi giấy mực. Nó vui miệng bảo:
- Tôi vừa sanh hoạt ở Ban Thông tin Văn hóa về đây. Nhớ ông Năm và chú Ba nên tạt vào thăm.
Rồi nó tắc lưỡi phiền hà ngay:
- Mình làm việc quần quật tối tăm mặt mày vẫn trỏm lơ, đói dài dài, âu lo thấp thỏm, cái chết đói chập chờn tới nơi ngay trước mặt. Vậy mà cán bộ trưởng ban khuyến khích phải lấy sách cách mạng về đọc. Nó cười ruồi:
- Họ nói phải biết trao dồi kiến thức kiến ngủ gì đó để được xứng đáng là con người mới xã hội chủ nghĩa. Dĩ nhiên là dưới sự lãnh đạo «thần thánh» của đảng. Họ làm như chữ nghĩa giúp mình no bụng hằng ngày vậy.
Nó gãy gãy đầu, đưa tay vuốt lại mớ tóc bùm xùm lâu nay chẳng được hớt, rồi khoan thai nói tiếp:
- Hồi xưa, lúc ba tôi còn sõi, không biết để an ủi về hoàn cảnh khó khăn của mình hay không hoặc thanh minh thanh nga bào chữa mà ổng hay hóm hỉnh nói, ở đời người ta lấy thúng đong lúa bán cho lái để có tiền nộp chủ điền hay mua sấm chút ít trong nhà chớ có thấy ai lấy thúng đong chữ nghĩa bao giờ đâu? Ổng cũng hay ví von, “văn hay chữ tốt” mà làm gì, khi ổng bắt tôi nghỉ học sớm, phụ giúp ổng làm ruộng. Ổng đoan quyết người trước có lý cho rằng “văn hay chữ tốt, không bằng thằng dốt có tiền”. Rồi ổng bảo “có tiền mua tiên cũng được”.
Bảy Bèo tỏ vẻ suy nghĩ hung lắm:
- Tuy ổng dốt thật đó, nhưng được một cái là ổng lại thêm mấy câu chí lý đáng đồng tiền bát gạo lắm: tiền ở đây không phải giấy con công hoặc giấy bộ lư bỗng dưng từ trên trời rớt xuống, mà tiền nằm trong hai bàn tay của mình. Đôi lúc ổng chê tôi còn trẻ chẳng hiểu gì, nhìn đời chỉ có nửa con mắt thôi. Còn nửa con kia khổ nỗi ổng chê tôi nhìn không quá hai bờ bao ngạn trong xóm mình. Nhưng thật tình mà nói, do hoàn cảnh nghèo túng của gia đình cũng khó giúp tôi học xa được, nên từ dạo ấy, tôi sống nhờ hai bàn tay cũng không đến đỗi nào.
Nó đâm nghĩ ngợi thêm, thoáng một nỗi buồn nằng nặng:
- Họ bây giờ đang sống tận mây xanh. Tôi mang sách về chắc sẽ vứt vào một xó nào đó. Thời giờ có đâu rổi rảnh trong khi vạt áo lai quần vẫn ướt mem suốt ngày. Không lấy đem về, người ta nói mình không hợp tác, thiếu thiện chí trao dồi cải tiến hay nặng hơn nữa là chống đối cách mạng. Học tập bỏ mẹ đời!
Nó bỗng cười ngất, giọng châm chọc:
- Mấy chú nghĩ xem, họ bảo đọc sách lúc đói lên đói xuống này cầm bằng chặt đứt hai bàn tay làm ra tiền của mình. Có đâu mua gạo, đừng nói đến mua tiên?
Thằng Bảy Bèo ngồi trên chõng tre nơi chú Năm Nghê nằm ngủ mỗi đêm. Hai chân nó thòng xuống đất, lắc lư, đánh tới đánh lui liên hồi. Chõng tre nghe cọt kẹt không dứt. Nó thái mái dở một quyển thơ, lấy tay thấm nước miếng lật lật nhanh lẹ mấy tờ liền. Hai con ngươi nó đảo tới đảo lui, chạy qua chạy lại nhịp nhàng như con thoi. Trình độ học vấn của nó cũng không đến đỗi nào nơi thôn làng đèo heo cách trở. Nó học hết cấp tiểu học ở quận lỵ Bến Lức nhưng không thi tuyển vào đệ thất, bỏ hẳn nghiệp “văn chương phú lục” từ dạo đó. Vì nó ưng làm bạn với cán cuốc chuôi cày. Có lúc nó được đề nghị làm giáo làng. Nhưng nó cương quyết từ chối. Nó quyết chí noi theo cái triết lý sống của ba nó: lấy đôi tay làm ra tiền của, tạo lập sự sản. Nó chê rậm rề bà chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã dốt đặc. Nó bảo bà ta nắm cây viết cứng đơ, sượng trân. Bả viết trật lất văn phạm. Nó trông tuồng chữ ngả nghiêng xiêu vẹo của bà ta, không ngay hàng thẳng lối chi cả, giống hệt như gà bới rác không bằng. Nó liệng gọn lỏn quyển thơ dày cui trên mặt bàn trà:
- Thơ gì đọc nghe chỏi tai quá trời. Hồi xưa ở trường tiểu học, tôi có đọc những bài thơ như “Qua Đèo Ngang Tức Cảnh” của bà Huyện Thanh Quan hay “Mùa Thu Ngồi Câu Cá” của cụ Tam nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến, nghe êm tai, chan chứa tình cảm, vần điệu rung động khiến tâm hồn tôi lâng lâng man mác. Nói lén với ông Năm và chú Ba nghe cho vui rồi bỏ qua chớ “thơ con cóc” còn hơn một bực. Ấy vậy mà họ ca tụng tận mây xanh.
Nó bỗng nhìn dáo dác rồi xuống giọng cảnh giác:- Tôi thật tình nghĩ sao nói vậy. Không khéo có người léo hánh dòm hành nghe lén, đồ tới đồ lui thấu tai bà chủ tịch, tôi đi học tập “mút mùa lệ thủy”. Vì tôi vốn là lính ngụy, mới được trả quyền công dân mùa trước.
Nó rất hãnh diện, tự đắc biểu lộ ra mặt, sau bao nhiêu năm dài rời khỏi mái trường Bến Lức thân yêu, nó vẫn còn nhớ vanh vách khoa danh Tam Nguyên và cố thổ Yên Đỗ của cụ Nguyễn Khuyến. Nó hướng về ông Năm đang cầm cái tô sành nước mát giải khát:
- Ông Năm ơi! Ông nghĩ xem coi có cà chớn không? Mình thì nghèo, vất vả quanh năm vẫn đói rách. Ủy ban cứ rang rảng bảo khó khăn chỉ tạm thời. Nào là gia tài, nào là di sản, nào là hậu quả của Mỹ Ngụy để lại. Tiếp tục làm việc sẽ khấm khá hơn. Thôi thế nghe cũng tạm được. Nhưng mấy năm nay làm hoài chẳng thấy gì, càng thêm đói rách.
Bảy Bèo tỏ ra bực tức:
- Ông Năm và chú Ba thấy đó. Mình đọc thơ mong tìm một chút an ủi vỗ về, một chút thơ mộng làm vui. Mình mong bắt gặp một cái gì mình thiếu thốn hoặc những thứ mình ước mơ nhưng trong thực tế lại thiếu vắng trốn chạy mình. Như hồi xưa đi xem hát cải lương hay hát bội, bà con nghèo của mình có màng chi để ý đến tình tiết trạng huống tuồng tích. Chẳng qua họ chỉ cần nhìn xiêm y lộng lẫy, tranh cảnh thần tiên sắc màu, đào kép son phấn sặc sỡ, những thứ đó đủ cho họ quên cảnh rách bương rám nắng hằng ngày của họ.
Nó bất mãn:
- Đằng này, thơ gì cộc lốc, cứ xúi giục chém giết thù hận, cứ nhè đồng bào máu mũ ruột thịt của mình mà nguyền rủa sỉ vả nặng lời. Thơ gì cứ đòi diệt tận gốc bốc tận rễ. Sự việc này khiến tôi rùng mình hồi nhớ lại những cảnh chặt cổ sởn đầu, mổ bụng dồn trấu, thọc huyết cho mò tôm hay bắn tét gáy ở những năm khủng bố... Thơ gì mà nhạt nhẻo lỏng lẻo, sượng sùng thua xa câu hò đối đáp, câu hát huê tình của bà con xóm mình quá.
Nó quay về phía chú Năm Nghê:
- Đâu ông Năm thử bắt giọng hát vài câu nghe chơi cho đỡ buồn nghe ông Năm! Tôi cam đoan chắc chắn thế nào mấy câu du dương nhão nhè nhão nhẹt của ông Năm nghe sẽ đứt ruột, thấu tim thấu phổi. Lâu quá rồi, tôi ghiền nghe lại ông Năm ơi!
Chú Năm Nghê bèn dát đát:
- Mấy thứ đó bây giờ thuộc về văn hóa đồi trụy. Lỗi thời rồi. Tụi bây muốn, tao cũng chẳng sợ gì. Trâu già mà! Chết là hết. Sự nghiệp tao chỉ có bây nhiêu thôi: cái chòi nhỏ hếu này với cái giường tre ọp ẹp. Đủ chán.
Dù nói thế nhưng đôi mắt ông bỗng buồn buồn:- Chết phủi sạch nợ. Lúc đó, ai cũng như ai. Giàu có cách mấy cũng xuôi tay, quan quyền cỡ nào cũng chẳng nắm níu được gì. Cát bụi trở về với cát bụi thôi. Chú choàng qua nắm tay thằng Bảy Bèo âu yếm:- Nhưng tao thương tụi bây còn nhỏ, tương lai còn dài. Không khéo, người ta quy cho bây tội này tội nọ, khổ lây mà mang họa. Nhứt là mầy đó, Bảy Bèo, liệu hồn. Mầy còn cái thẹo gốc “lính ngụy”, không bao giờ lành lặn hẳn. Tao chẳng sợ, chẳng ngán ai. Tao chết, tụi nó có ghét không cho chôn, để thúi cũng vậy thôi. Nhưng liệu chúng có dám không?
Chú Năm Nghê lộ vẻ dàu dàu:
- Hồi xưa, Tây tà, Tây đen Tây trắng, tao vô vài ly ngà ngà, thằng nào làn chàn cà chớn, tao “xạt cà rây” bỏ ghét. Huống hồ gì đám đồ tể, đá cá lăn dưa, mặt mày đần độn bây giờ, chữ nghĩa - nói xin lỗi tụi bây - tao nheo một cái bỏ tụi nó lẹt đẹt phía sau cả dặm đường.
Chú vói lấy tập thơ thằng Bảy Bèo vừa để trên bàn lò dò dở ra xem. Quả sách vừa xuất bản ở thành phố mang cái tên nguyền rủa Hồ Chí Minh. Ngày tháng năm in còn mới ràng ràng nhờ phương tiện hào nhoáng của Mỹ Ngụy để lại. Cách mạng ở R đói nhăn răng, xanh xao vàng vọt làm gì có tiền để in. Chú cười mai mỉa:
- Chúng nó vào đây tiếp thu với cái đít không. Trên răng dưới... tụi bây muốn thêm cái gì cũng được. Hùn hạp, làm ăn chung tập thể, hợp doanh quốc doanh chỉ với hai bàn tay trắng, ngoài ba mớ nước bọt với cái mặt mo không biết liêm sỉ và tình thương là gì.
Chú Năm lật qua lật lại, đọc lướt nên chẳng mấy chốc đã được quá nửa. Bỗng chú lấy tay chận lại một trang, cười ruồi:
- Cứ theo giới thiệu thì thi phẩm “Ta Đi Tới” này được sáng tác ngay sau kết thúc trận đánh Điện Biên Phủ, trong khí thế sục sôi chiến thắng với thành quả xương máu vĩ đại của cách mạng. Tao thì ít chữ lại thiển cận nhưng tao nghĩ nhà thơ hạng nhất của chế độ hồ hởi dự phóng con đường đi tới trước mặt, con đường thênh thang ở tương lai mà chỉ rộng có tám thước, không ổn chút nào hết. Chú ngừng một chút như để moi móc trong trí nhớ:
- Hồi lâu ở bên Tây, tận vùng phía Bắc nước Pháp, tức xa thủ đô ánh sáng Ba Lê vài trăm cây số, những con đường rộng rãi na ná như thế không hiếm gì, nhan nhản khắp nơi, ngay ở những thị trấn nhỏ. Đàng này, xây dựng tương lai chế độ với những con đường chỉ rộng có tám thước mà đã huênh hoang hãnh diện, đã thỏa mãn mừng húm, tao cho đó là đầu óc nông dân hạng bét. Loại đầu óc cục bộ thiển cận đó, tao nghĩ còn thua hẳn bà con khai rừng phá rẫy của mình ngày xưa quá cỡ thợ mộc. Rồi chú kết luận:
- Thật đúng y chan các ông bí thư, các bà chủ tịch bù trơ bù trớt, nhìn xa không quá mũi của xã mình. Đất nước Việt Nam để cho những hạng người như thế lãnh đạo, chỉ lối chỉ đường bạt mạng như vậy làm sao trở thành rồng? Tao dám nói không sợ lầm, tụi nó sẽ biến xứ sở mình sẽ trở thành tôm thành tép, thành lươn thành lịch, hoặc thành rắn ráo hay liu điu thôi.
Thằng Bảy Bèo để ý chú Năm Nghê hơi lớn tiếng. Nó sợ thiên hạ đi ngang qua nhà tò mò nghe trộm. Thời buổi bây giờ con người độc địa lắm, tráo trở như bánh phồng nướng lửa rơm. Nó lấp ló nhìn chừng bên ngoài xem có ai núp ở hàng bông bụp hay không? Chú Năm dịu giọng:
- Tao quên phức. Tao cứ tưởng mình đang là công dân của nước Việt Nam Cộng Hòa hay ở bên Pháp tự do. Nào dè... Buồn quá! Tao chẳng sợ
dao phay đã đành. Nhưng tao cứ tội nghiệp cho tụi bây. Tụi bây hãy còn cái búa cái liềm lòng thòng đe dọa trước mặt. Cho dù tụi bây đều “sợ trước mặt” còn “sau lưng” tụi bây có thái độ nào tùy ý. Tao là người lớn, tao không xúi biểu tụi bây thốt ra những điều thô tục.
Tôi vã lã khen chú Năm Nghê có những nhận xét tinh tường và sắc bén. Chú dõng dạc không đồng ý.
Chú cực lực cãi lại như một phản xạ tự nhiên:
- Sắc bén, tinh tường cái quái gì? Nó đập ngay vào mắt, vào trí mình mà!
Chú lật tiếp mấy trang, xem bộ ưng ý hay sao rồi ngưng lại một đỗi. Chú nhíu mày ra tuồng chăm chú. Gian nhà im lặng. Giữa tôi và thằng Bảy Bèo chẳng có gì đáng nói. Bỗng chú lắc đầu, tắc lưỡi tỏ vẻ thất vọng:
- Ô là là, là là. Hết nước nói. Tao đọc đoạn này bây nghe rồi bây có ý kiến.
Chú quên câu thơ ở đoạn nào, lấy ngón tay rà từng hàng, nhướng chân mày bạc phau, mở rộng tròng mắt bực bội rồi tự ên một mình lẩm bẩm:
- Già lẩm cẩm, quên trước quên sau. Ông Trời để sống làm chi thêm chật đất, tốn cơm tốn gạo, chẳng làm gì ra trò trống. Để chỗ cho tụi trẻ tấn lên làm ăn.
Mắt chú bỗng sáng lên:
- Đây rồi. Đây rồi. Bây nghe đây:
Ông ở đây là ông Xít Ta Lin, trùm đỏ uy quyền ở điện Cẩm Linh của Nga Sô đã về chầu hai ông Các Mác và Lê Nin mà nhà thơ không hết lời tâng bốc:
Hoặc:
Chú nói tiếp không ngưng:
- Thật tình tao không tưởng tượng được. Một người lạ hoắc lạ huơ ở tận vùng đất xa mút chỉ mà nhà thơ vĩ đại khóc nức nở, thương gấp mười lần cha mẹ ruột thịt mình, những người có công sanh thành, dưỡng dục, dạy dỗ, trông nom dìu dắt mình đến khôn lớn trưởng thành, tao nghĩ họ “nâng bi” quá lời. Chớ thật tình như vậy thì đáng nên tránh xa.
Như chưa bằng lòng, chú giải thích cho rõ thêm:
- “Công cha như núi Thái Sơn”... tụi bây đứa nào làm sao quên được. Cha mẹ như trời biển. Xem nhẹ cha mẹ mình là phường bất hiếu, hết xài. Bỏ giỏ rác không tiếc tay. Con người phải biết kính trọng, thương yêu cha mẹ mình trước rồi từ đó mới lan tỏa ra người ngoài. Bây mà gặp những hạng người như vậy nên quay lưng, đừng có gần gũi mang hại.
Chú Năm Nghê thẫn thờ trút hết bất mãn trong lòng:
- Thương yêu kiểu đó chỉ ở đầu môi chót lưỡi. Tình thương bốc đồng, nhứt thời. Nó đâu có thấm thía, chân thật. Nó sẽ đổi màu, phai nhạt bạch chản bây coi. Tao gọi loại tình thương đó là tình thương có ý đồ quyền lợi cá nhân, tình thương nhắm một mục đích riêng tư ích kỷ, nhỏ nhoi hẹp hòi. Mà hễ dính vào quyền lợi thì có gì vĩnh viễn đâu? Đụng chuyện là họ chuyển hướng trở cờ ngay.
Tôi thấy nơi gương mặt xương xương gầy ốm của chú Năm thoáng một nét buồn, khi đôi mắt chú mơ mơ màng màng hướng về phía chúng tôi như chú muốn tâm tình để gởi gấm một chuyện gì:
- Từ trước đến giờ tao có đọc thơ cách mạng cách miết bao giờ đâu. Nay bỗng dưng thằng Bảy mầy làm tao thêm buồn bực. Bây biết không? Giá nếu cách đây mấy mươi năm về trước, tao thương mấy ông Tây - hạng Tây chính cống con nai vàng, chớ không phải đám Tây thực dân râu xòm bụng bự ở xứ mình đâu - hơn cha ông viễn tổ bên nhà thì tao đã ở lại luôn bên Phú Lang Sa rồi. Tao đâu có nôn nóng trở về xứ mình làm chi như bây thấy đó. Hạng người như vậy là bọn mất gốc quên nguồn, bán nước hại dân dễ như chơi, còn hơn trở bàn tay.
Chú cười bí hiểm:
- Nói cho vui chớ đường đời khúc khuỷu quanh co lắm. Bây giờ họ ăn trên ngồi trước, lãnh tụ lãnh tội mà. Còn tao là tay sai thực dân đế quốc. Lý lịch tao khai từ đời cha mẹ, ông bà viễn tổ tao cho những đứa hậu sanh non chèo. Chúng biết khỉ khô gì. Cả cha mẹ chúng nó còn chưa đáng tuổi con tao. Dù sao, tao vẫn sung sướng vì tao vẫn là tao.
Câu chuyện còn kéo dài trong chòi lá. Bên ngoài chim vịt đập cánh kêu chiều. Thằng Bảy Bèo vội kiếu từ, hứa hẹn sẽ trở lại một ngày gần để nghe chú Năm Nghê nói chuyện về “thơ cách mạng”. Nó khom lưng cúi đầu xuống tránh cái phênh tre che cửa chánh rồi quay lại:
- Nhưng lần sau ông Năm nói nho nhỏ vừa đủ nghe thôi nhé. Tai vách mạch rừng, nguy hiểm, ớn xương sống quá.
***
Rạch Rít, ngày 6/6/199...
Cậu Mợ Ba thương mến. Tôi đã nhận được thơ và quà của cậu mợ. Phải mất mấy tháng trường, quà mới đến được. Nhưng không biết đủ thiếu ra sao vì cậu mợ không có kèm theo bảng liệt kê. Tôi nghĩ chắc thế nào chúng nó cũng xơi tái phần nào khi bày đặt bày điều kiểm tra này nọ. Làm như chúng nó thương yêu, lo lắng bảo vệ sức khỏe và an ninh của người dân vậy. Xóm mình rõ ràng nhiêu khê cách trở quá. Tôi xin cám ơn sự lưu tâm giúp đỡ của cậu mợ vào dịp này rất đúng lúc. Riêng số tiền cậu nhờ người quen mang về trao tận tay, giúp tôi củng cố thêm diện tích trồng trọt vốn hạn hẹp, thường hay thất mùa. Tôi ở quê thời buổi này là điều thua thiệt vô cùng. Lợi nhuận do trồng lúa hay chăn nuôi dù trong thời buổi có nới rộng đôi chút cũng chẳng được bao nhiêu. Mình làm lụng khổ cực vất vả lại thiếu ăn triền miên, đói rách mãn đời trọn kiếp. Người khác ngồi không hưởng trọn. Bọn con buôn, con Trời ở Đài Loan, Hương Cảng, Tân Gia Ba qua Việt Nam làm ăn bây giờ mạnh lắm. Chúng được che chở có hệ thống, tha hồ bắt nạt làm mưa làm gió. May là chúng còn chút nhân đạo cho đám dân nghèo sống cầm hơi để suốt đời làm tôi mọi. Hoan hô độc lập tự do. Hoan hô làm chủ tập thể đất nước. Nhưng nói là nói như vậy chớ còn sống ngày nào thì phải làm việc ngày nấy, dù tương lai mù mịt đen tối.
Như cậu mợ biết, tôi gốc “ngụy”. Tôi được anh bạn Mỹ chấp thuận cho tôi sang xứ cờ hoa nhờ có lúc tôi làm công trong một sở Mỹ ở Sài Gòn. Nhưng ác thay, họ chỉ chấp thuận cho tôi đi cùng với vợ tôi và đứa con gái út mà hồi cậu mợ chưa vượt biên, cậu mợ thường hay ẵm bồng khen nó ngoan ngoản dễ thương. Còn ba đứa lớn đã trưởng thành phải ở lại vì đã lập gia đình và có con cái. Tôi thấy không ổn. Một cảnh hai ba quê, khó lòng.Tôi lại nghĩ, qua Mỹ phải có công ăn việc làm, chẳng lẽ ngồi không ngửa tay xin người ta cứu trợ dài dài sao? Tủi thân tủi phận lắm. Thà mình nghèo ở quê nhà, đóng cửa có gì ăn nấy, qua bữa qua ngày.
Tôi cũng biết thân phận mình. Nay tuổi đã cao, tài lại hèn mà còn đi những chuyến tàu cuối mùa nhiều thua thiệt. Khó khăn thì nhiều, thuận lợi mong manh quá nên tôi suy nghĩ đắn đo, cân phân quyết định ở lại, mơ hồ hy vọng với ngày tháng lấy bàn tay làm ra của tiền như ba tôi thường nói ngày xưa. Ở nước ngoài, nói là cực nhưng chí tình mà nói, ở đâu sướng cậu mợ? Cực mà chịu làm là có tiền. Cũng có nhà cửa, xe cộ như ai, hằng năm tà tà dẫn vợ con đi nghỉ hè giải trí tăng cường sức khoẻ. Còn ở Việt Nam mình, ở quê khổ lắm, vất vả khổ cực quanh năm nhưng đói trơ xương, thiếu thốn đủ điều. Ở thành thị nhờ mánh mung, gạt gẫm, mình bóp cổ chẹn họng mình để làm giàu riêng. Không mánh mung, chèn ép chà đạp nhau thì phải có quyền thế hoặc a dua hào mé, nịnh bợ tâng bốc đám đảng viên lạm quyền và tham nhũng hết thuốc chữa mới có tiền nhanh. Nơi quê mình, bà con hiền lành mộc mạc như củ khoai cục đất, thương yêu nhau không hết, đâu có ai bôi mặt làm những việc thất nhân tâm như ở thị thành được bao giờ. Mình là con người có lương tâm và cốt cách mà!
Thời đại mở cửa, người Việt chỉ có làm ăn nhỏ theo kiểu cò con lặn lội ở đầm, ở bưng. Làm lớn thua lỗ lớn, đưa đến phá sản rồi treo vòng cổ đút đầu vào. Chế độ này muốn cho ai giàu thì cho, muốn không cho thì bóp mũi cho ngủm cù đeo tức khắc. Chỉ có mấy tay xì thẩu Ba Tàu ở nước ngoài như Tân Gia Ba, Hồng Kông, Đài Loan... bây giờ rần rần đổ vào làm ăn là mạnh nhứt. Lại uy quyền nhứt xứ. Họ nhờ móc ngoặc, cấu kết với giới chức quyền đảng viên các cấp, “mua tiên” còn được, huống hồ chi nhà cửa đất đai... Mà không khéo, vài năm tới đây họ mua luôn cả nước Việt Nam mình nữa! Đó là chuyện chung chung, chuyện thiên hạ ngoài đời mà mình lại là nạn nhân khốn đốn mới chết. Bây giờ xin trở lại chuyện bà con thân quyến trong xã nhà.
Tôi báo cậu mợ hay một tin buồn. Buồn lắm cậu mợ ơi! Tới nay tôi vẫn còn ngặt mình thương nhớ. Chú Năm Nghê đã mất hôm hai mươi ba tháng chạp vừa qua, đúng ngày đưa ông Táo về chầu Ngọc Hoàng. Chú đi rất êm. Chẳng một ngày đau đớn ho hen. Cậu mợ chắc còn nhớ ông Hai Khỏe, có một thời làm từ đình xóm mình ngày trước. Nay ổng cũng trọng tuổi rồi, nhỏ hơn ông Năm chắc hơn một kỷ. Thấy vắng, không nghe tiếng ông Năm bật tiếng Tây bên kia liếp mía như mọi hôm, ông Hai bước tréo qua chòi. Ông khám phá ông Năm nằm bất tỉnh ở thềm nhà sau, kế cái võng cậu lắc lư mỗi đêm hồi cậu về quê lánh nạn. Chú đi êm ái chắc cũng mới đó thôi. Mình mẫy ông Năm còn ấm hỉm. Cái cần câu cắm với con cá trê vàng núc ních mắc câu còn hoi hóp. Ông Năm vẫn nắm chặt trong tay. Tri hô, bà con xúm lại phụ đưa lên chõng tre, ông Năm nhắm mắt đi luôn không một lời trăn trối vướng bận, gương mặt rất phấn chấn vui vẻ, như thanh thản hỉ xả. Buồn quá cậu mợ ơi!
Một đời người cũng đi Tây đi u lại kết thúc như thế đó, trong cảnh nghèo khó tẽ nhạt. Ổng không có một bộ ván ngựa để ghép chôn. Bộ ván ngựa mỏng tanh để tiếp bà con chòm xóm ngày xưa ổng đã bán từ khuya để đong gạo ngày gạo bữa. Tôi còn nhớ rõ mấy năm trước đây ổng hay nói:
“Chết là hết. Có đứa nào chôn tao cám ơn. Không chôn cứ để thúi”.
Nói vậy chớ tụi này đâu để tồi tệ như vậy. Thương ổng quá mà! Trại hòm lớn nhỏ trong tổng trong quận đều bị quốc doanh cả. Xứ mình cái gì bây giờ cũng quốc doanh hết trọi cậu mợ à. Đã chết mà họ còn kết cấu với nhau làm ăn trong cảnh đớn đau tang khó. Hòm làm bằng dênh dênh, loại hạng bét mỏng te, nhẹ như tờ giấy quyến cũng mắc thắc họng. Nghèo mạt từ đường như ông Năm làm sao mua nổi. Ông Ba Kỷ nặng lòng biếu bộ ngựa tuổi đời hơn cả thế kỷ nhưng xem còn được đến. Tụi này phụ nhau đóng cái hộp tàm tạm, trông không đến đỗi nào. Mấy thằng cháu trong xóm hì hục tận lực đào huyệt mả ở cái gò đầu xóm. Tôi căn dặn đào sâu một chút để ông Năm được ấm áp trong lòng đất quê hương.
Cậu mợ cũng biết, ông Năm thương quê hương mình lắm. Thiếu gì bạn bè ông lụy mấy bà đầm rồi bỏ thây bên Tây. Riêng ổng, ổng nhứt quyết trở về xóm cũ nhà xưa. Do vậy mà thương ổng thêm. Hôm an táng buồn thảm não. Lưa thưa vài bà con ngày xưa lân la qua lại, hiểu ổng nên thương mến tiễn đưa một đoạn đường cuối cùng. Làm gì có giá triệu rình ran của thời vàng son ngày xưa! Nhưng thằng Ba Nô ở cuối thôn, nhớ tình nhớ nghĩa, cho thằng con trai bịt khăn tang xem như cháu đích tôn. Thằng nhỏ lầm lũi thui thủi bưng cái ly hương vừa cấp bách làm bằng gáo dừa khô. Riêng Ba Nô, nó trịnh trọng phò khuôn ảnh, tấm ảnh duy nhứt còn sót lại hơn nửa thế kỷ dằn dặc, chụp cảnh ông Năm lúc ở Dunkerque hồi thế chiến vào một buổi sương mờ nhàn nhạt. Ông đứng chống nạnh trong bộ đồ nhà binh, đầu đội ca lô chệch một bên, đôi mắt đâm chiêu nhìn ra biển khơi tận bên kia bờ đại dương, tìm về quê hương diệu viễn. Thấy cảnh đó, mọi người đều sục sùi xúc động biết dường nào. Buồn quá! Không ai cầm được nước mắt! Tôi thẫn thờ mãi. Thôi cũng xong một kiếp người! Nói nữa cậu mợ buồn lây.
Thơ đã dài mấy trang giấy nhưng sao tôi vẫn muốn tâm sự thêm với cậu mợ. Xin chờ dịp khác vậy. Tôi rất mong gặp lại cậu mợ trong tương lai rất gần. Chẳng lẽ cậu cháu mình lại bất hạnh sao? Ấy vậy, tôi vẫn hy vọng và càng ngày hy vọng của tôi càng sáng tỏ thêm. Cuối thơ, chúc cậu mợ sức khỏe và mấy cháu học hành đỗ đạt.
Kính thơ
Bảy Bèo
(Thằng cháu nuôi của cậu mợ)
***
Tôi buông bức thơ ra, lòng buồn thương nhớ. Nhớ chú Năm Nghê, tôi nhớ nhiều kỷ niệm. Kỷ niệm nào với chú cũng đáng nhớ, cũng rực sáng trong tâm trí tôi. Nhưng kỷ niệm nên thơ nhứt, ý nghĩa nhứt đối với tôi có lẽ là hôm thằng Bảy Bèo tạt ngang ghé nhà chú, để chú có dịp đọc và bình thơ Tố Hữu, “nhà thơ vĩ đại” trong thi đàn quốc doanh. Nay con trâu già đã lìa đồng cỏ năm xưa để lưu trong lòng người ở lại bao nhiêu hình ảnh tốt đẹp của một thời khó phai, mãi mãi ẩn hiện đậm đà không thôi. Tôi trực nhớ một đoạn tin thời sự nóng hổi vừa mới đọc cách đây vài hôm trên báo chí Việt ngữ hải ngoại. Tôi lật đật dở chồng báo, cố tìm đọc lại. Nhà thơ Tố Hữu vừa được giải thưởng Đông Nam Á Seawrite do Thái Lan tổ chức hằng năm, nhằm tưởng thưởng vinh danh những văn nhân thi sĩ xuất sắc khắp vùng Đông Nam Á châu. Trong trí tôi hiện rõ sáng trưng con người chú Năm Nghê, từ cử chỉ, thái độ đến lời lẽ đanh thép, trong ấm, không lúc nào lạc giọng của chú về Tố Hữu.
Tôi bỗng đổi buồn thành vui. Vui vì nghĩ rằng nếu chú Năm không bất hạnh sớm ra đi, chú sống thêm năm ba năm nữa để có dịp đọc bản tin
văn học quốc tế này thì chắc chắn chú sẽ đau đớn biết dường nào. Chú sẽ thất vọng cho tình đời biết mấy. Chỉ vì một chút quyền lợi thấp hèn, con người đã trắng trợn quay mặt chà đạp chữ nghĩa, bôi bẩn thi ca, hạ thấp nền văn học và xúc phạm trầm trọng con người Việt Nam muôn thuở. Cũng như chú, tôi nghe đau nhói trong tim mình!
Người khác ngồi tòn ten lắc lư trên võng. Loại võng đan bằng lác mịn màng, được chú cẩn thận buột chặt ở hai đầu gốc cột của chái nhà trước nhờ hai con găng bằng tre già vừa hơn một tấc tây. Chẳng những trông cái võng có vẻ thô kệch lại còn chằng khíu đó đây khi được phình rộng ra. Chú bác trọng tuổi hay các cụ thuộc hàng trượng triều trượng quốc có bàn cây bằng ván tạp nhạp để ở chính giữa nhà. Tuy không tốt đẹp chắc chắn gì lắm nhưng dù sao cũng là nơi danh dự. Thêm ưu tiên có bình trà lúc nào cũng nóng ấm, thơm phưng phức mùi bông lài do chủ nhân tự ướp, để có hương vị quê hương đặc thù. Hầu như tục ướp trà bông lài là thói quen lâu đời của bà con xóm tôi, nay qua bàn tay của chú đạt đến mức tuyệt kỷ. Mấy đứa quỷ sứ, lục lăn lục lửa, chằn ăn trăn quấn chúng tôi thoải mái trên những tấm đệm phơi lúa được chú trải ở sàn đất. Có chỗ rách to cỡ bàn tay xoè con nít, ngồi lâu nghe lành lạnh bàn tọa. Dù vậy, chúng tôi vẫn tỉnh bơ, quá ưng ý bằng lòng khi cảm thấy được chú tiếp đón ân cần trọng hậu như những người lớn. Sang lắm có mấy chiếc ghế đẩu cũ kỹ xiêu vẹo, vô tình ngồi nhích qua nhích lại nghiến da non bầm tím, đau thấu mây xanh.
Hôm nào bận việc không đến nhà chú được, bà con cảm thấy mất mác, thiếu thốn một cái gì, cứ nao nao trong lòng. Họ nhớ chú, nhớ mùi hương trà bông lài, nhớ chuyện tào lao thao thao bất tận chú kể. Thói quen giải trí lành mạnh theo nhu cầu tự nhiên của con người, sống theo đoàn lũ, có người có ta, có bà con thân quyến ruột rà, có lân bang bạn bè chòm xóm. Tất cả những cái đó không thể thiếu vắng được trong sinh hoạt hằng ngày. Đề tài của chú lúc nào cũng phong phú, mới lạ. Ít khi nghe chú soạn lại bổn cũ. Chính nhờ vậy mà chú quyến rủ người nghe. Họ không hề cảm thấy nhàm chán. Có bữa chú cao hứng thuật lại một câu chuyện cũ mèm, xưa từ đời ông Nhược ỉa cứt su, nhưng bà con vẫn chăm chú theo dõi, hồi hộp với những cảm giác chưa từng có. Chú khéo léo thêm thắc, bày vẽ nhiều tình tiết éo le gay cấn, cải sửa nội dung sao cho phù hợp hoàn cảnh đang sống hoặc đúng khớp thời sự mới tinh khôi vừa xảy ra nóng hổi ở xóm làng. Hoặc chú dậm mắm thêm muối bằng vài chi tiết lạ hoắt lạ huơ, người nghe chưa bao giờ nghĩ và tưởng tượng đến, nhờ ba mớ kinh nghiệm sống thực, rất dồi dào trong cuộc đời phiêu lưu bất đắc dĩ của chú trước đây. Và chính cuộc đời phiêu bạt giang hồ đó của chú khiến cho chất lãng mạn bay bướm, phảng phất hơi hướm ngoại lai, cứ tuôn trào ngọt ngào trong câu chuyện. Chú cười thoải mái, hãnh diện nói trước khi chú vào câu chuyện:
- “Bổn cũ soạn lại” nha! Nhưng cam đoan có phần phụ thêm hấp dẫn gấp bội.
Có một điều là bà con tôi cũng không cần tìm hiểu hoặc hỏi xem những câu chuyện của chú thuật đó có thực hay không? Hoặc do trí tưởng tượng trời ban cho, khiến chú vẽ vời, cường điệu có duyên đến thế? Dù thực hư hay hư thực ra sao, bà con tôi rất bằng lòng và mãn nguyện lắng tai nghe. Còn đối với những bậc hiểu biết cao kiến, họ vuốt râu hề hà cho rằng chú có lối nói dóc thần sầu quỷ khóc nhưng có căn cơ dẫn tích, dù không một ai kiểm chứng được. Chú được bà con xóm tôi thương mến, nể nang. Nhà chú trở thành nơi hò hẹn họp mặt thân tình của bà con khi mặt trời phụp hẳn xuống chân trời sẫm đục xa xa. Sự thân tình này thể hiện đậm nét qua phong cách hồn nhiên mộc mạc của bà con và anh em chúng tôi. Hễ gặp việc, chúng tôi xáp lại xăng tay áo khỏi cùi chỏ, nhảy xỏm vào tham gia không chờ chú cất lời nhờ vã. Hễ gặp ăn uống đánh chén, chẳng đợi mời mọc dong dài, đói trúng bữa cơm, chúng tôi tự tiện lên bàn cầm đũa xem như người trong nhà, trong tộc. Nhờ vậy chú quên đi cảnh lẻ loi quạnh quẽ sau bao nhiêu năm chìm nổi, lắm lúc thất vọng chán chường. Và bà con tôi cũng được những dịp vỗ về, xoa dịu phần nào những lao nhọc khó khăn trong cuộc sống hằng ngày. Chú tự tạo niềm vui, tự tạo những ngày tháng hạnh phúc cho chính bản thân mình. Vì chú quả quyết, niềm vui và hạnh phúc chỉ do chính mình tạo dựng ra, chính mình suy nghĩ phát kiến mà có, chớ không ai vào chéo đất hoang vu này ban bố cho bao giờ. Nhứt là chẳng ai mang tiền mang của, dù tiền rừng bạc biển ra mà hòng mua được. Nhưng cái ưu điểm quý hiếm tuyệt vời ở chú Năm Nghê là biết chia xẻ niềm vui và hạnh phúc đó cho mọi người xung quanh. Như vậy cuộc sống chung đụng hằng ngày thêm dễ chịu, hào hứng và có ý nghĩa hơn.
Cuộc đời chú Năm Nghê rất éo le, cay đắng trắc trở. Nó khởi sự bằng một chuỗi biến cố lịch sử trên đất nước nhà. Chú nhổ giò không mấy chốc, tưởng chừng như cuộc đời chú sẽ gắn bó vĩnh viễn với cảnh thổ khẩn rừng lập rẫy còn hăn hắc mùi đất tân lập thì tình hình Âu Châu căng thẳng cực độ. Các nước kình chống nhau, kéo bè chia phái nhằm bảo vệ quyền lợi riêng tư. Thế chiến không sao tránh khỏi. Chính quyền thuộc địa ráo riết lùng sục khắp nơi, nhứt là ở những làng mạc xa xôi hẻo lánh để tuyển chọn tráng đinh mạnh khoẻ, thành lập Binh đoàn Công nhân Không chuyên nghiệp gởi về Pháp chuẩn bị chiến tranh chống Đức Quốc Xã. Bà con bình dân chân quê lúc bấy giờ gọi là «lính thợ». Mỗi gia đình phải cung cấp cho nhà nước thuộc địa một đứa con trai lớn, tuổi phải trên hai mươi. Nhưng giới quan lại bản xứ tròng tréo làm áp lực phân công làng xã phải tích cực chọn người và có nhiệm vụ thực hiện cho bằng được cấp số tuyển mộ theo nhu cầu ấn định của cấp trên. Phong trào “bắt thăm đi lính” rầm rộ khắp nơi, gây nhiều xáo trộn buồn lo trong mọi gia đình có con em ở lớp tuổi chẳng may được gọi. Các giới chức có thẩm quyền trong Ban Hội Tề làng xã một mặt tỏ ra kiêu căng hóng hách với dân tình, một dịp để họ ra oai tác quái, mặt khác khúm núm quỳ mọp làm thân khuyển mã. Họ sắp bày để thỏa mãn quyền lợi riêng tư. Bà con tôi phần lớn sinh trưởng và lớn lên quanh quẩn ở vùng đèo heo hút gió, chó ăn đá gà ăn đất buồn tênh, suốt đời cột chặt với thửa mạ luống cày, lúc thúc sau lũy tre xóm làng. Có người từ cha sanh mẹ đẻ tới giờ chưa ra tỉnh ra quận một lần để học khôn. Cái thủ đô Sài Gòn Chợ Lớn sát bên, lớn nhỏ ra sao, tròn méo, đông đúc thế nào còn chưa biết, nói chi đi đó đi đây vạn dặm làm gì.
Nói đến đi Tây, họ tưởng tượng một thế giới xa mút chỉ cà tha, một cách ngăn nghìn trùng diệu vợi. Họ sẽ xa làng lìa xóm, biết thuở nào gặp lại đông đủ bà con ruột thịt? Có người viễn mơ nghĩ đến ngày về xóm cũ làng xưa sau bao nhiêu năm vắng mặt. Họ sẽ bùi ngùi ngỡ ngàng, nửa lạ nửa quen. Quen vì cảnh thổ mến yêu vẫn mãi mãi còn đó. Bất diệt. Lạ vì những đổi thay dâu biển. Cỏ dại, năn sậy... chắc sẽ làm mất hẳn lối mòn thân thương quen thuộc. Mấy cây cầu dừa no tròn, nặng trĩu bất động ở mỗi mương ranh hay những cây cầu tre cầu khỉ lắc lẻo, gập ghềnh ở đầu ngõ hay cuối bến chắc cũng đã rả mục gục đầu dưới lòng mương lòng rạch. Hoặc chúng đã mất hẳn dấu vết để họ buông lời nuối tiếc. Còn đâu những ngày thơ mộng, khập kha khập khiển, chao đảo rắn rồng lúc “qua cầu gió bay” mong tìm về “nhà anh nhà em đôi bờ chia cắt, tuy gần mà xa”. Chú chỉ hy vọng còn đây cây dương duy nhứt, cao ngất nghểu đầu đình, mỗi tết nhứt về lại thêm một tuổi để trở thành cổ thụ. Dù da dẻ có sần sùi nhưng nó vẫn là chứng tích thời ấu thơ của chú. Trong khi bà con chú trước sau đã quá vãng, mãi mãi yên mồ yên mả, nằm nơi gò hoang hay vạt đất nơi góc vườn góc xóm. Hơn nữa, chiến tranh với thảm cảnh chết chóc chia lìa là nỗi ám ảnh trĩu đè tâm hồn mộc mạc dung dị của họ. Rồi đây, họ sẽ đương đầu với cảnh lạ, với người không quen, không cùng ngôn ngữ, không chung phong tục tập quán và tâm tư tình cảm nữa. Tuy quê mùa cục mịch, họ thừa biết cảnh lính thú ngày xưa:
... Một tay thì cắp quả mai
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa
Và câu thơ cổ bất hủ luôn cứ lãng đãng bên tai:
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Gia đình nào cũng thấp thỏm lo âu. Họ ngóng chờ trông đợi cái ngày “bắt thăm” định số nghiệt ngã ấy. Nó như kéo dài lê thê, ngăn ngắt trong không khí tẽ nhạt buồn tênh, nặng nề còn hơn tang khó. Chú Năm Nghê không có ảo tưởng mông lung xa vời. Con người chú xưa nay rất mực thực tế. Đôi chân rắng chắc của chú luôn bám níu, đứng vững vàng trên đồng chua nước mặn, trên thửa ruộng luống cày, trên vườn liếp quê hương. Chú mộc mạc như củ khoai hòn đất, như con cá con cua, nghĩ sao nói vậy. Bù lại, chú có trực tính. Trực tính đó báo cho chú biết, với tấm thân cường tráng, vặm vỡ nhờ bao năm lao lực cấy cày, ngày ngày vận động thường xuyên, chú khó thoát khỏi âm mưu đen tối, những cạm bẫy mắc giăng của các chức dịch làng tổng. Người dân thấp cổ bé miệng lúc nào cũng chịu thiệt thòi lép vế. Hơn nữa, chú thuộc hàng nghèo mạt rệp từ đường, một cục đất sở hữu tròn vo cỡ đầu ngón tay cái còn không có để rình liệng đuổi chim chóc phá hại vườn tược, hà huống một tấc đất cấm dùi. Cho nên sự lép vế thiệt thòi nơi chú còn trầm trọng hơn. Chú thừa biết như vậy. Xưa nay, dù thời cuộc có thay đổi sang trang, triều đại này tiếp nối triều đại khác, vẫn thế thôi. Chẳng có gì khác cả. Cũng vẫn thế lực đồng tiền. Cũng vẫn sức mạnh uy quyền!
Đầu óc chú không sao đánh đuổi, lùa xa những lời kêu ca tuyệt vọng của đám dân lành cần cù thủ phận. Chú rất bất mãn về những vụ úp bộ ruộng vườn thấu hoàng thiên, cứ xảy ra luôn trên vùng đất bà con bạn bè chú đã bỏ cả một đời để khai khẩn, lên liếp lên vồng. Đất đai hoang vu ngút ngàn không ai thừa nhận sở hữu chủ. Mạnh ai nấy vóc tâm gắng sức đổ mồ hôi làm thành khoảnh, theo sự cổ võ khuyến khích của làng xã, đã chính thức cấp giấy phép tạm thời cho vỡ hoang, cày cấy trồng trọt sinh sống. Họ đến đây, “đất nước lạ lùng”, «chim kêu vượn hú», không một bóng người, đôi khi đơn độc một mình. Tứ cố vô thân. Hành trang mang theo chỉ vỏn vẹn vài dụng cụ cần thiết cho cuộc sống và nhu cầu làm việc hằng ngày. Đại khái một nóp bàng để ngủ đêm, cuốn tròn gọn lỏn quải trên vai. Một chiếc áo tơi lá chầm, người bạn đời không bao giờ rời, như bóng với hình mùa mưa dầm rả rích, gió lạnh thấu xương. Rồi ít dao rựa, vài cái phảng cổ cò cổ diệc để phác cỏ hoang, năn sậy. Và quan trọng hơn hết, một cái cà ràng dễ di chuyển, đặt nơi nào cũng được, trong chòi vào mùa khô, trên bè hay trên xuồng ba lá nhằm mùa lũ lụt. Quanh năm nó giúp ấm lòng ấm dạ để an tâm trong hiện tại và phấn khởi ở những ngày dài trước mắt. Thêm chiếc xuồng con thon thon làm chưn làm cẳng, xê dịch đó đây hoặc dùng chuyên chở mạ non, thóc lúa. Không có nó kể như bị chặt tiện mất hai chân. Không còn khả năng làm ăn ra trò trống gì cả ở vùng sông rạch với những đường nước mà trời cao lồng lộng, rộng rãi ban cho thừa thải khắp nơi. Những năm sau có chút ít hoa màu, chẳng bán buôn gì được, chỉ để tiêu dùng trong gia đình, hy vọng cầm hơi tiếp tục đốt rừng phá rẫy lấn chiếm đất hoang. Nhưng đến chừng ra quận, lên tỉnh xin hợp thức hóa, họ mới tá hỏa tam tinh, té ngữa, kêu trời không thấu. Phần đất khai khẩn bấy nay là sở hữu của thầy Cai tổng này, ông Hội đồng nọ, hoặc của ông lớn ông nhỏ, bà thứ bà bé các quan ở quận ở tỉnh. Đôi khi còn ở xa mút tí tè tận Sài Gòn Chợ Lớn hoa lệ nữa. Họ ngồi không, chưa hề động đến móng tay, chẳng nhễu một giọt mồ hôi công khó, chỉ chờ đến thời điểm thuận lợi cấu kết nhau chia phần từ thuở nào rồi.
Chú không sao quên được câu nói thoát ra từ cửa miệng của người dân xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh mà chú đã từng nghe không biết bao nhiêu lần trong đời: «Nhứt Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định». Những ông huyện hàm Lê Phát Đạt thường gọi là Huyện Sĩ, bá hộ, ông bang hay đại điền chủ có những cái tên Minh Hương Đỗ Hữu Phương, Lý Tường Quan, Trần Hữu Định, nếu không âm mưu cấu kết chặt chẽ với thực dân, làm gì được chúng cho đặt ân giúp mua úp bộ rẻ rề, hoặc ban cấp cho khẩn trưng mỗi người năm bảy ngàn, đôi khi cả mười ngàn mẫu ruộng rừng rải rác đó đây. Báo hại bà con chú gạt lệ nuốt hận. Công lao họ từ bao nhiêu năm tháng dài quần thảo trên đồng không mông quạnh, nắng cháy bỏng da, bỗng tiêu tan thành mây khói. Họ tắt ngấm hy vọng để sau này trở thành tá điền muôn năm vạn thuở của những người họ không bao giờ biết mặt. May mắn lắm họ chỉ nghe được vài cái tên man mán, tiếng Tây, tiếng Tàu, tiếng Việt lẫn lộn, đọc trật vuột khó khăn. Chú Năm Nghê không lạ gì về những việc sắp xếp lươn lẹo, trồng tréo mờ ám đó. Khổ nỗi, người dân hiền lành lương thiện luôn là những nạn nhân khốn khổ truyền kiếp. Mà thật vậy. Những suy đoán lo âu của chú không sai xuyển chút nào. Hôm “bắt thăm” ở làng, tiêu chuẩn cấp trên ấn định là ba người tính theo tỷ lệ đầu nhân mạng. Rốt cuộc ba thanh niên thuộc hàng nghèo rớt mồng tơi, mờ đôi mắt trong xóm được “vinh dự trúng thăm”. Trong khi đó, các con cháu ông cả, ông chủ, ông bang biện cùng chủ điền giàu sụ chẳng may bị loại. Tất cả những quý tử quý tôn này đều lọt sổ gọn hơ. Đút lót… Chạy chọt… Gian lận… Chú Năm mỉm cười thấm thía cho tình đời. Chú nhớ đến lời người xưa: “Muốn nói gian, làm quan mà nói”!
Nhứt là câu ca dao quen tai:
Con ơi nhớ lấy điều này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
Ngày xưa, người ta đánh trống khua chiêng tiễn đưa những chàng trai lính thú đi làm phân sự. Phần nhiều ở tận nơi xa xôi hẻo lánh, cách ngăn thăm thẳm, khiến tâm trạng người đi thêm thê lương áo não:
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Chẳng mấy chốc, chú Năm Nghê gạt lệ như người xưa, giã từ gia đình, bạn bè thân yêu, giã từ xóm làng thôn ổ. Không phải chú sẽ “bước chân xuống thuyền” mà để được chuyển thẳng đến bến Nhà Rồng xuống tàu viễn dương, trực chỉ trời Âu. Chú đi Tây phục vụ mẫu quốc! Chú còn nhớ rõ năm đó là năm 1939 mà ngày tháng nào chú quên mất rồi. Duy chú chỉ biết con tàu mang cái tên «Giăng Xê» (Yang Tsé), to lớn và đầy đủ tiện nghi quá tầm tưởng tượng của chú. Và chú lại nhớ man mán đâu đó có người nói với chú cái tên «Giang Xê » này chẳng qua là tên con sông Dương Tử bênTàu? Nhưng thực tình, lúc bấy giờ lòng chú hoang mang, chú nào có màng để ý tới. Từ dạo đó, từ dạo con tàu nghiệt ngã “xúp lê một... xúp lê hai...” chẳng chờ chẳng đợi, chẳng nuối chẳng kéo, chầm chậm tách bến Nhà Rồng, phun khói đen ngòm để sau đó uốn éo theo sông Sài Gòn, vượt Ô Cấp, chú Năm Nghê bắt đầu một cuộc đời mới. Tâm trạng chú dàu dàu thương thương nhớ nhớ. Chú khắc khoải nhiều câu hỏi thầm kín trong lòng, đến giờ khắc đó vẫn chưa bao giờ có đáp số thích nghi. Chuyến đi thì có, cũng rầm rầm rộ rộ trong không khí nô nức tiễn đưa của chính quyền thuộc địa, nhưng ngày về lại mù mờ đến biết thuở nào? Chú không bi quan. Thái độ này không trái ngược với tánh tình chú. Chú vốn yêu đời, yêu người, yêu vạn vật, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống... Nhưng không vì vậy chú không ái ngại cho tương lai. Chú không lo lắng cho những ngày trước mắt. Có thể một viên đạn vô tình bất chợt nào đó sẽ cướp mất phũ phàng đời son trẻ của chú. Nỗi buồn của chú là chết bơ vơ cô độc, tứ cố vô thân trên mảnh đất xa lạ, xa hẳn cái chéo mạ, vồng khoai nơi quê hương chú. Chú chết cho ai đây? Vì ai chú chết?
Chuyến tàu xuyên đại dương hơn cả tháng trường diệu vợi, lắm lúc sóng gió hãi hùng tới tắp không thôi, ghé Tân Gia Ba, cảng Djibouti, vượt kinh đào Suez Ai Cập với kim tự tháp, kỳ quan thế giới. Sau cùng nó đến neo ở cảng Marseille, một hải cảng thương mãi quan trọng ở miền Nam nước Pháp, rất phồn thịnh thời bấy giờ. Vì là cửa ngõ yết hầu buôn bán với các nước vùng Địa Trung Hải, Trung Đông, Phi Châu và Đông Nam Á Châu. Chú Năm Nghê được chuyển ngay về miền Bắc Pháp, nổi tiếng là xứ khoai lang tây và củ cải đường. Chú được bố trí phục vụ ở quân cảng Dunkerque. Chiến tranh bùng nổ ác liệt trước đó không lâu. Chế độ phân phối lương thực được áp dụng rất khắc khe. Cũng như các bạn đồng hội đồng thuyền lính thợ Việt Nam, chú thuộc hàng phó công dân ở xứ thuộc địa xa xôi, được xếp hạng bét trong thang ưu tiên phân phối. Ăn uống thiếu thốn. Thời tiết lạnh buốt làm cho cơn đói càng thêm khó chịu. Ai có lâm vào cảnh này mới biết cái đói khát nó dằn xé mình đến mức độ nào! Không lời nói, không chữ nghĩa nào, dù có chọn lựa cân nhắc đến đâu có thể diễn tả đúng mức và đầy đủ được. Thêm vào đó còn phải làm việc cực nhọc, liền tay, không một ngày ngơi nghỉ. Vì lúc ấy tất cả đều tranh thủ thì giờ phục vụ guồng máy chiến tranh vào cao độ. Chú cứ cười bất mãn tự nhủ:
- Mình đầu den, da vàng, mũi tẹt, con dân xứ thuộc địa mất tự do, số phận hẩm hiu chẳng có gì là lạ cả.
Bấy giờ chú mới nhớ, hơn bao giờ hết. Nhớ cồn cào trong tủi hận... Chú nhớ khoảng không gian thênh thang trước nhà mình, lung linh ánh nắng sớm chiều với tiếng chim nô đùa hợp chợ ríu ra ríu rít không thôi trên những tàn ổi, tàn mãn cầu... đâm tượt non mướt mùa mưa. Chú nhớ những bữa cơm đạm bạc với cá tép tôm cua, rau cỏ vườn nhà chú thường ăn, tuy không thịnh soạn, nhưng lúc nào cũng no bụng ấm lòng. Chú nhớ những con cá rô to bằng bàn tay phóng nhảy rèn rẹt rèn rẹt rất cao khỏi mặt nước ở những đám lúa trổ đòng đòng để táp bông lúa non thơm ngon, mà chú thường câu nhấp đem về nướng lửa rơm căn phồng tươm mở. Chú nhớ những ngày ra giêng gió lành lạnh, những trái xoài con thon thon nho nhỏ, một màu xanh mơn mởn đong đưa đồng loạt với những bông xoài nở muộn, màu trắng vàng giữa những lá non tim tím, báo hiệu một mùa trái ngon ngọt hứa hẹn. Chú nhớ mấy bầy ròng ròng lớn nhỏ, màu đỏ hoe, quấn quít sát vào nhau, ganh đua trườn lên mặt nước ngớp thở, bên cạnh cá lóc mẹ, thỉnh thoảng táp mống bụp bụp bảo vệ con, xua đuổi ếch nhái khuấy rầy. Chú nhớ vào những mùa gió chướng bắt đầu thổi, mấy cây so đũa suông đuột trước nhà chú trồng cốt để về sau lấy thân ủ làm núm mèo, trổ bông trắng ngần lòng thòng, phất phới lay chuyển theo chiều gió. Chú đang thèm một nồi canh chua cá trào, cá chốt bụng trứng nặng kè kè nấu với bông so đũa, ăn mệt nghỉ. Nhứt là phải để sót chút ít nhụy bông so đũa để có mùi đăng đắng nhân nhẩn. Giờ đây, nơi xa xôi có lúc bất chợt nghĩ đến, chú càng thêm nhớ thêm thương quê hương khổ hạnh của chú. Và cái mùi nhân nhẩn đăng đắng của bông so đũa ngày xưa càng làm cho chú thêm thấm thía với cuộc sống giăng mắc đắng cay hiện tại... Mới hay ở mỗi con người, dù giàu sang phú quý hay nghèo khó khốn đốn đến đâu, trong sâu thẳm tâm hồn của họ đều có một chỗ trang trọng giành cho những kỷ niệm vui buồn trong đời. Những kỷ niệm này đôi khi mang đến cho họ một ước mơ, một hoài vọng nào đó mà trong mơ hồ của ảo tưởng, nó càng đặc thù bao nhiêu càng tốt đẹp bấy nhiêu. Và chính đó mới là nền tảng đưa đến những thành công trọng đại trong hành động của con người.
Những năm đó, thời tiết trở lạnh khủng khiếp. Súng đạn lại đì đùng khắp nơi không dứt. Người địa phương rất lo sợ và luôn bị ám ảnh bởi thần chết. Chết trận, thương vong, lạc đạn đã đành, họ còn phập phồng về nạn chết đói, chết lạnh vì thiếu than củi và nhiên liệu sưởi ấm. Một cái chết dằn dai đau đớn mới thê thảm hơn. Tiền của chỉ lo vào miếng ăn cầm hơi hằng ngày, có đâu dư thừa để chi vào việc sưởi nhà cửa. Bạn bè chú chịu lạnh không thấu, thêm vào đó ăn uống thất thường, thiếu dinh dưỡng trầm trọng nên bệnh hoạn, chết rất nhiều. Bệnh nhân được nhập quân y viện hay bệnh xá, vừa qua khỏi cổng trước. Một ngày sau, xe “bù ệch” đẩy thây ma ra cổng sau vào nhà xác trước khi trực chỉ nghĩa trang. Cũng chính bạn bè chú mỗi lần thấy một bạn đồng hành nhập viện đều đến quấn quít cạnh bên hỏi han có muốn nhắn gởi những lời cuối cùng gì về gia đình hay không? Một di chúc đối với người đoán trước sắp bước vào cõi vĩnh hằng huyền bí. Rõ thật thê thảm biết dường nào! Nhờ phúc đức ông bà cha mẹ thuở trước khéo tu tâm dưỡng tánh, có thiện duyên bố thí giúp người sa cơ lỡ bước hay sao mà chú được bổ nhiệm giúp việc vợ chồng viên Quan Năm chỉ huy đơn vị để sai vặt. Vất vả khổ cực, chú thấm thía lắm, so đi tính lại còn gấp bội lúc chú quần quật sớm tối ngày mùa nơi quê nhà. Nhiều lúc chú thở dài:
- Ăn lương bằng đồng quan Pháp không phải dễ. Trần ai lai khổ. Quả thật là “đồng lương ói máu”.
Tuy vậy, đối với chú còn một chút an ủi cứu rổi. Mỗi sáng, chú có nhiệm vụ thức dậy thật sớm, đốt lò sưởi. Đây là giây phút sung sướng nhứt đời chú trong suốt chuỗi ngày lưu lạc ở xứ Phú Lang Sa. Chú trì hưởn kéo dài thì giờ, nấn ná chọn lựa, tâng tiu từng khúc củi. Chú nán ở lại lâu chừng nào tốt chừng nấy để được hưởng thêm một chút ấm áp hiếm hoi đó. Bà vợ vị Quan Năm còn quá trẻ nhưng tỏ ra thông cảm hoàn cảnh của chú. Bà dư biết người gốc gác các xứ Đông Dương, quanh năm nóng nực không sao chịu nổi cái lạnh khắc nghiệt của trời Âu. Bà làm ngơ để chú tự do hưởng vài phút quý báu và cần thiết này. Có lẽ nhờ hoàn cảnh hi hữu ấy, chú Năm may mắn sống sót trong chiến tranh, dù ngắn ngủi vài năm nhưng khốc liệt vô cùng. Cứ nhìn hình ảnh chú mang về nước làm kỷ niệm, với hải cảng Dunkerque hầu như bình địa mới ý thức đúng mức sự tàn phá của chiến tranh thời đại văn minh khoa học tân tiến.
Sau khi Đức Quốc Xã bại trận, chú Năm Nghê thuộc nhóm lính thợ đầu tiên đăng ký hồi hương. Chú nôn nao trong lòng nhưng nước Pháp thời hậu chiến tả tơi xơ xác, đổ vỡ hoang tàn nên không giải quyết ngay được. Dù sao chú cũng được về trên chuyến tàu hồi hương sớm nhứt so với bạn bè chú có người phải chờ đến chuyến tàu cuối vào năm 1952. Chú thương cái xóm Rạch Rít của tôi. Chú nhớ quê hương, bà con lối xóm. Chú không chần chừ rời khỏi mảnh đất xa lạ bị tàn phá với nhiều kỷ niệm chú cố gắng quên mau, xem như một vấp váp trong đời mình. Sau này, chú có thố lộ tâm trạng của chú lúc đó như những chú cá lóc, cá trê, cá rô… ưa thích sống trên đồng ruộng, bưng biền hay đầm vũng, nơi chúng được sinh trưởng và lớn lên. Về sau nên hình nên vóc, dù cho đồng ruộng có cạn khô mùa nắng, dù cho bưng biền có hết nước đi nữa, nhưng chúng nó không bao giờ phiêu lưu thoát ra sông cái đầy cạm bẫy. Trái lại, chúng nó lần mò cố tìm mọi cách rút xuống ao sâu đầm vắng, như chúng quyến luyến không rời bỏ được vùng đất dưỡng nuôi bảo bọc chúng trước đây. Cũng như chú, chú không thể bỏ được quê hương Rạch Rít của chú. Khốn nỗi, chú muốn quên nhưng sao những kỷ niệm đó vẫn đeo đẳng chú không thôi. Chú nhất quyết hồi hương không một phút giây do dự. Chú càng thêm thương một số ít bạn bè trong đơn vị chú. Trong thời gian lưu lạc, chúng lỡ đụng một cô đầm mắt xanh mũi lỏ, đã có con cái lóc nhóc vài đứa tóc hoe da bánh mật, nên đành bị cột chưn cột cẳng ở lại, buông xuôi đời mình theo định mệnh đẩy đưa.
Phần chú, sau mấy năm trôi nổi ở Pháp, chú trở nên lỡ thầy lỡ thợ. Thầy không ra thầy. Thợ không ra thợ. Chú hồi hương trong tay không một nghề ngỗng đảm bảo nào, trừ cái bệnh nghiện rượu mới chết. Thời chiến tranh, ai thiếu rượu thì có, chớ nhà Quan Năm chỉ huy trưởng đơn vị thì dư giả, tha hồ mà uống. Rượu nhà quan thường là thứ rượu ngon. Không uống cũng uổng. Vả lại, có rượu vào chú cảm thấy đỡ lạnh hơn và cũng để được ấm lòng những lúc nhớ nhung. Uống riết trở thành thói quen. Bỏ không được nữa. Lúc ở tàu thủy lênh đênh trở về quê cũ, ngồi một mình trên boong tàu ngắm nhìn mặt nước trong xanh với những con hải âu thỉnh thoảng chập chờn xa xa, chú tự an ủi mình. Chú nhại theo câu “văn chương phú lục chẳng hay....” thuở còn đi học trường làng. Chú ngâm nga khe khẽ qua nỗi buồn man mác cứ chực xâm chiếm tâm hồn lạc loài xa xứ của chú:
Đi Tây lỡ dỡ phận này
Trở về làng cũ học cày nuôi thân...
Trở về làng cũ học cày nuôi thân...
Bọn chúng tôi xem như thường xuyên có mặt ở nhà chú Năm Nghê. Lúc nào cũng vui nhộn lắm. Chú độc thân nên chúng tôi rất tự do thoải mái bày biện. Chúng tôi thơi thới không lo có bóng dáng đàn bà lãi nhãi tối ngày, hò hét, ong óng rầy la để nhà cửa được ngăn nắp sạch sẽ, giữ trật tự nề nếp trong ngoài. Người lớn thường tụ năm tụ bảy ngồi nghe chú kể chuyện đi Tây, đi Phi Châu, những nơi chú từng để chân đến. Tha hồ chú vẽ vời mê hoặc chúng tôi. Có nhiều đoạn chú day qua nhếch mép bảo nhỏ chúng tôi:
- Tụi bây còn nhỏ quá, con nít con nôi, chưa tới tuổi để có quyền nghe đoạn này. Đợi lớn chút nữa đã...
Nhưng bên vách ngoài, chúng tôi nghe loáng thoáng những trận vui chơi “trả thù dân tộc” gì đó với những tiếng cười ầm vang như muốn vỡ cả mái chòi của chú. Chú bảo đầm “phẹt” (ferme), nhiều cô trắng bạch nhưng khổ nỗi lại to con, dình dàng như voi. Người mình trái lại như con cá lẹp, như con mực khô trúng nắng, đứng kế bên bắt ớn lạnh rùng mình. Chú tắc lưỡi:
- Tội nghiệp! Tao có mấy thằng bạn cùng đơn vị lấy vợ đầm. Ban đầu coi cũng được đến. Chúng nó cũng hạnh phúc đáo để, mặc dầu không xứng lứa vừa đôi dưới con mắt quê mùa của tao. Nhưng về lâu về dài, tình cờ gặp lại tụi nó, trông chúng nó thảm não xác xơ làm sao! Chúng nó ốm tong ốm teo như con cắc kè phơi khô, xanh xao hết xíu quách. Nhiều đứa chắc để làm cảnh mà chơi… chớ làm ăn gì nổi. Còn đa số bị mấy mụ vợ đầm sung sức, chẳng ngần ngại đạp đít, lôi ra tòa xin ly dị cả.
Rồi chú kết luận như đã tìm ra chân lý:
- Người Á Đông mình làm sao bì được với người Âu Châu. Sức khoẻ họ như trâu cui trâu cổ trong khi mình là con nhái oé mà!
Riêng chúng tôi, chúng tôi miệng mồm há hóc, rất thích nghe chú bật tiếng Tây tiếng u. Chúng tôi chẳng đứa nào hiểu một tiếng nhứt một nhưng khoái lắm. Lúc chú nhậu ba mớ, cứ thoải mái “mẹt, mẹt”, “xà lồ”, “phuốt mỏa lơ căng”, “quì mông xừ”, “măng phú”... Chúng tôi phục chú quá cỡ thợ mộc. Nghe chú nói chú còn “xạc cà rây” mấy thằng Tây, ngang ngửa với chúng. Chúng tôi chẳng những ngưỡng mộ mà còn thầm bái phục chú dài dài hơn ai hết. Nhứt là khi chú cam đoan quả quyết mấy ông Tây này thuộc hàng Tây “chính cống con nai vàng”, chứ không phải loại Tây «lô can» thuộc địa. Có đứa hít hà thốt những lời khen chú tận mây xanh, không lời lẽ văn chương bình dân nào có thể so sánh được. Khen là khen sự đương đầu can đảm của chú trực diện với Tây mẫu quốc. Thay vì nhan nhản trước mặt chúng tôi, những ông Hương chức Hội tề đều khom lưng xá xá, thập thò bẩm dạ vâng vâng với mấy tên Tây lai, lai cả ba bốn đời từ khi có mấy ông Tây đầu tiên phiêu lưu đến đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, hoặc ngay cả với mấy tên Tây Đen ngòm ngòm, Chà và Ma ní tào cáo. Chú trở thành thần tượng của lớp trẻ chúng tôi vì chú thường cao giọng xác nhận, ở xứ tự do dân chủ như Pháp, chú không sợ, chẳng ngán ai cả. Có pháp luật đàng hoàng che chở và có đủ thứ tự do. Sự hà hiếp bất công dẫu có đi nữa cũng có chừng mực, không đến đỗi hà lạm lộng hành như bên mình. Chú Năm Nghê ở một mình nhưng không vì thế cuộc đời chú mất vui. Đối với chú, niềm vui là một cái gì thiêng liêng cao cả. Thiếu nó không thể được. Nó hướng dẫn cuộc sống hài hòa và quân bình của chú. Có hôm chú nghiêm nghị trúc bầu tâm sự. Và chúng tôi nhớ mãi cái triết lý sống lành mạnh và thực tế của chú:
- Thật tình, tao hiện sống một mình, không cha mẹ anh em, không vợ không con, nhưng tụi bây tưởng tao cô đơn hà? Không đâu.
Chú khẳng quyết:
- Tao không hề cô đơn chút nào. Đối với tao, cô đơn làm sao được và hai chữ cô đơn chẳng có nghĩa lý gì cả. Bây chẳng thấy, chính tao đã tạo ra bạn bè không thiếu gì, hằng hà lũ khũ, trong đó có cả lũ chúng bây.
Ngừng một chút, chú như người tìm ra được một lẽ sống tuyệt vời nên nói tiếp cho hả hơi:
- Cô độc chẳng có gì đáng lưu ý cả. Cô độc vì chính bản thân mình chọn lấy làm phương cách sống riêng của mình mà. Một sự tự nguyện trong tự do. Đâu có ai làm áp lực bắt buộc mình chọn lựa bao giờ đâu? Nhưng khổ nhất chính là sự cô đơn. Tao nghĩ cho cùng, sống cô đơn mới buồn tẽ thê thảm nhứt trong đời người. Cho nên nhiều người không chịu nổi cảnh cô đơn, không còn thích sống nữa!Chú giải thích thêm:
- Cô đơn là vì mình chẳng có người đồng hành đồng điệu chung quanh để cảm thông, chia xẻ buồn vui. Không có người đồng tâm cùng chí hướng để nương tựa những lúc trợt chân vấp ngã. Chẳng có bạn bè thân hữu, chẳng có tri âm tri kỷ đỡ nâng tinh thần khi xuống chó chán chường. Sống như vậy tức là sống bơ vơ lạc lõng ngay giữa chợ đời, trong khi cô độc chẳng hề bơ vơ chút nào cả.
Hít một hơi thuốc dài, đôi mắt rõi theo hai làn khói thuốc lững lờ bay lên hướng trần nhà, chú tiếp:
- Tụi bây hiện còn nhỏ. Sau này lớn lên lỡ trong đám tụi bây có đứa nào bất hạnh sa trong cảnh cô đơn thì thiết tưởng chừng đó tụi bây cũng không nên trách ai cả. Đừng trách đời. Đừng trách người. Đừng trách thiên hạ hay kẻ bàn quan. Trong trường hợp đó, trước hết bây nên thành thật xét mình và tự trách mình cái đã. Vì sao? Bây biết không?
Chú nhìn chúng tôi với đôi mắt thiết tha trìu mến:- Kinh nghiệm cho tao thấy đời sống hằng ngày vô cùng tươi đẹp với muôn màu muôn sắc và ý nghĩa. Tha hồ mà chọn lựa. Đời rất hấp dẫn, chất chứa bao nhiêu lôi cuốn quyến rủ gọi mời. Đời lại muôn hình vạn trạng. Mỗi người nhìn một góc cạnh nào đó của cuộc đời để qua cái đẹp mình vừa khám phá, đón nhận đời với niềm vui hạnh phúc tự tạo. Từ đó dẫn dắt mình thêm thương yêu cuộc sống, thêm thương yêu những gì chung quanh mình như yêu người, yêu thiên nhiên, yêu nội tâm, yêu ngoại cảnh… Tất cả đều bao la không biên giới. Đời luôn luôn mở rộng cửa nẻo thênh thang để vẫy mời đón đợi, mở rộng những ngõ ngách lối đi niềm nỡ tiếp rước mình. Chỉ có những ai bi quan chán chường, những tâm hồn bịnh hoạn, trật đường rầy mới lạnh lùng quay lưng lại đời. Những hạng người đó mới thực sự cô đơn thôi.
Như ngoái nhìn lại thân phận mình, chú nở nụ cười mê hoặc chúng tôi:
- Tao quả tình cô độc thật đấy nhưng chưa bao giờ tao thấy cô đơn bao giờ, dù cô đơn trong tâm tưởng. Bầu bạn tao vây quanh, không lúc nào vắng. Cả đến mấy đứa nhóc con chúng bây, có đứa miệng còn hôi sữa nữa nên tao vui đáo để. Tao đã nói nhiều lần rồi, niềm vui và bạn bè là lẽ sống của tao mà! Hạnh phúc do chính mình tạo ra mà có.
Những năm về sống nơi quê nhà, chú Năm Nghê có nuôi một con chó cỏ làm bạn hủ hỉ những lúc chúng tôi vắng mặt và bè bạn chú bận việc đồng áng, nhứt là vào ngày mùa, công việc thúc hối như chạy Tết. Nhu cầu xô đuổi cảnh lẻ loi cô đơn chăng? Dù sao, chúng tôi thấy chú thân mật và thương mến nó lắm. Đi đâu, nó tò tò đi theo sát một bên quyến luyến. Nhớ lại lúc còn giúp việc nơi nhà Quan Năm ở miền Bắc Pháp, chú săn sóc, cho ăn uống, chải lông, chiều chiều bách bộ dẫn đi dạo quanh đường phố Dunkerque con chó “bẹc giê” Đức của bà vợ. Con chó được huấn luyện đàng hoàng, cho thụ huấn ở trường chuyên nghiệp với những huấn luyện viên lão luyện đầy kinh nghiệm nên rất dễ dạy bảo và sai khiến. Nhờ ba mớ kinh nghiệm học lóm đó, nay chú áp dụng cho con chó cỏ của chú. Nó gốc Việt Nam rặc nòi nhưng khôn ngoan thông minh không kém. Nó biết nghe và hiểu rõ tiếng Tây trong khi lũ chúng tôi bù trơ bù trớt, không một chữ nhứt một làm vốn để lên mặt khoe khoan với xóm làng. Chú Năm bảo “át xi”, nó lật đật ngồi cạnh bên, chăm chú hướng thẳng về phía trước như trong tư thế đứng nghiêm chờ lệnh. Chú búng tróc tróc chỉ xuống đất nói khe khẽ: “cút sê, cút sê”, nó vội mọp xuống nằm yên bất động, đôi mắt tinh ranh lấm lét, trông nó ngoan hiền dễ thuơng làm sao. Nó lỡ làm chuyện bê bối, chú Năm không vừa ý, thét to dằn mặt nó: “pờ pa, pờ pa”, “ố là là, ố là là”. Con chó hoảng hồn, vừa đi vừa cúi xuống biết lỗi, đuôi nó cúp dài thòng xuống sàn đất. Chú khen nó đáo để: “bi en, bi en”... Chúng tôi thuộc hàng Uất Trì Cung, nghe chú nói tiếng Tây như vịt nghe sấm trong khi con chó cỏ của chú lại tỏ ra thông minh ngoại hạng. Chúng tôi phục con chó cỏ đã đành, còn phục người khéo dạy nó, tức chú Năm Nghê, một nhân vật quả đặc biệt của xóm tôi.
30/04/1975. Chú Năm Nghê quay về sinh sống ở xóm Rạch Rít sau thời gian khá lâu lánh nạn ở chợ quận do chiến tranh vùng ven đô sôi động từng lúc, đè nặng áp lực uy hiếp thủ đô. Chú trở lại ngôi vườn xưa, cất một mái tranh ọp ẹp hẹp té, vừa đủ tránh mưa che nắng. Con chó cỏ vẫn trung thành, quấn quít theo gót chân phiêu lưu lang bạt của chú. Nay có nơi có chốn ấm cúng, vào ra tự do thông thả, quẩn quanh hủ hỉ với chú. Nó vẫn tuân hành răm rắp lệnh của chú qua mấy tiếng Tây chú học lóm trật vuột lúc được biệt phái làm việc vặt nơi nhà ông bà Quan Năm. Chú kiểm điểm và quá xúc động nhận thấy bà con trong xóm không còn bao nhiêu người. Phần lớn đã thành người thiên cổ trong những hoàn cảnh bi ai trầm thống. Lai rai còn lại vài người lân cận sát cạnh hè. Mấy đứa trẻ chồng nhộng, ngu ngơ khờ khạo, ngày nào bị chú xô đuổi mỗi khi chú kể chuyện “nhứt dạ đế vương”, những cảnh ăn chơi cụp lạc, hưởng thụ ở Phú Lang Sa cho người lớn nghe, nay già trước tuổi vì quá dày dạng gió sương. Tất cả đều dốc lòng bắt tay xây dựng lại trên đổ vỡ, hoang phế. Chiều chiều, họ vẫn còn nhớ thói quen đến chòi lá của chú. Không phải để nghe chú kể tiếp chuyện bên Tây bên Tàu hay Phi Châu như thuở nào, mà để thở vắn than dài, để trút bớt phần nào tâm sự ngổn ngang hay bao nhiêu u ẩn uất ức trong lòng.
Ruộng nương mênh mông bát ngát giờ đây không còn là sở hữu của họ nữa, để trở thành tài sản chung của đảng và nhà nước. Ủy ban nhân dân xã quản lý hết đất đai ruộng vườn, không sót một tấc đất. Họ xét theo tiêu chuẩn nhân mạng trong mỗi hộ, mỗi gia đình để phân phối nghĩa vụ sản xuất đối với quốc gia theo phương hướng hợp tác hóa. Bước đầu là vậy. Sau này dần dà sẽ tiến tới làm ăn sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, tập thể hóa nông thôn như họ không ngớt lớn tiếng khoát lát rêu rao, lập đi lập lại nhàm tai. Chú Năm Nghê đã quá xa cái tuổi “thất thập cổ lai hi” mà ngày xưa thi bá Đỗ Phủ mơ ước. Chú không còn trong tuổi lao động, xem như ngồi chơi xơi nước, như Ông Táo bỏ xó gốc đa đầu làng. Chú không có quyền cày sâu cuốc bẩm để thực hiện giấc mơ “Trở về làng cũ học cày nuôi thân” theo sự thôi thúc réo gọi thầm kín của quê hương, lúc chú mãn hợp đồng lính thợ không chuyên ở miền Bắc Pháp. Ngôi nhà của chú lúc này vắng vẻ buồn tênh. Lệnh của Ủy ban nhân dân cấm tụ tập đông người ngoài trụ sở xã. Phần chú bị ghép vào thành phần phản động chống chế với lý lịch tèm nhèm do quá khứ làm tay sai cho thực dân đế quốc. Nhứt là trong ngôn ngữ hằng ngày, chú vẫn có thói quen không cải sửa được. Chú cứ tiếp tục xổ từng loạt, tràng giang đại hải tiếng Tây tiếng u, không ai hiểu chú nói gì. Các đồng chí ở Ủy ban hay chi bộ với niềm tự hào “tam đại bần cố”, chữ nghĩa mẹ đẻ không đầy lá me lá mít. Họ nghe chú phát ngôn như nước đổ lá môn, đâm ra nghi kỵ, âm thầm theo dõi từng bước đi của chú.
Bỗng nhiên, từ dạo đó, chú vốn đã cô độc nay thật sự trở thành cô đơn. Một tâm trạng oái oăm đau đớn, chú từng cực lực không hết lời lên án những năm trước đây. Chú chỉ còn cách mai mỉa, ưng khuây khỏa qua ngày làm bạn với con chó cỏ một mực trung thành. Con đường duy nhứt để chú tìm nguồn hạnh phúc và một chút niềm vui đã mất. Hằng ngày, chú chăm sóc vườn tược, trồng trọt hoa màu độ nhựt. Chú cải thiện bữa cơm với cá tôm câu được lẩn quẩn bên nhà. Chú sống ẩn dật, thầm lặng như các tiên ông ẩn sĩ thiền môn ngày xưa. Họp hè ở Ủy ban, kẻ réo gọi, người thúc hối, chú “xăn phú”. Chú có đi tham dự lần nào đâu. Chú thích ở nhà, nằm tréo ngoảy đọc chuyện đời xưa của nhà bác học Trương Vĩnh Ký, mấy pho chuyện chương hồi của Tàu: Tam Quốc Diễn Nghĩa, Phong Thần, Thủy Hử... do danh sĩ Nguyễn An Khương dịch thuật, Chung Vô Diệm, Tây Hớn, Mạnh Lệ Quân... của dịch giả nổi tiếng một thời ở Miền Nam, Nguyễn Chánh Sắt hoặc Phong Thần Diễn Nghĩa, Vạn Huê Lầu... của cụ Trần Phong Sắc mà chú còn giấu giữ được qua bao nhiêu phong ba bão táp của lịch sử. Dù nay các pho truyện này đã cũ mèm, lại mất trang mất chữ. Có quyển nói nghe xôm tụ lắm nhưng không còn bao nhiêu trang do quốc nạn giấy quyến khang hiếm khó tìm, chú lần lượt xé vấn thuốc rê hút hằng ngày. Lâu lâu, chú “mẹt, mẹt”, “xà lồ” rùm lên. Con cho cỏ ngớ ngẩn vội chạy lại liếm tay chú một cách trìu mến. Chú dịu lại, âu yếm lấy tay xoa nhẹ đầu nó như để quên đời, quên thế sự, quên tất cả. Chú tự vỗ về qua chút hơi men chắt mót, loại hàng tiêu dùng cấm kỵ ở những ngày đầu tiếp quản theo quan điểm đạo đức cách mạng trong khí thế đang lên.
Tôi gặp lại chú Năm Nghê hai ba năm sau ngày bộ đội cụ Hồ cưỡng chiếm thủ đô. Lúc bấy giờ có chiến dịch giải tỏa thành phố, giản dân, đưa dân đi vùng kinh tế mới. Nói “đưa” cho hợp với mỹ từ đầu môi chót lưỡi đường mật của cộng sản, chứ thực ra là bức bách, làm áp lực ép uổng nặng nề đuổi nhà cướp của. Còn vùng kinh tế mới chẳng qua là vùng đất khô cằn sỏi đá, hỗn mang hoang vu, nơi người dân lương thiện bị khống chế lưu đày mãn đời trọn kiếp. Gia đình tôi được Ủy ban phường thương yêu chiếu cố đặc biệt. Tên ủy viên phụ trách kinh tế mới của phường và tổ trưởng tổ liên phố thay phiên nhau “làm việc”, liên tiếp động viên ngày này qua ngày nọ. Sau cùng họ lên danh sách những người ưu tiên được hưởng biện pháp giúp đỡ của nhà nước cách mạng. Dồn dập, thúc bách lắm. Hộ khẩu sẽ bị thu hồi và chế độ phân phối nhu yếu phẩm đương nhiên sẽ bị cắt hẳn, nếu những đối tượng không tuyệt đối chấp hành chủ trương và đường lối cách mạng. Nhưng trớ trêu, oái oăm thay. Tôi chưa lên đường đi kinh tế mới, thì trái lại ông ủy viên phụ trách kinh tế mới bỗng nhiên đứt mạch máu não, ngã chết bất đắc kỳ tử. Tên «cách mạng ba mươi» này nổi tiếng hắc ám, trơ trẻn trở mặt với bà con. Vì vậy cả phường đồn rùm, ông ủy viên, cán bộ giờ chót vốn rất tích cực lấy điểm trong nhiệm vụ lùa dân giải tỏa phường khóm, đã “giã từ gác trọ” đi kinh tế mới rồi! Tiếng đồn thấu tai khiến Ủy ban phường ra lệnh trong những đêm họp tổ liên miên, cấm không cho phổ biến những lời mai mỉa nhạo báng, lập luận phản động đó. Chúng còn chụp mũ là do bọn CIA và tàn dư Mỹ Ngụy còn sót lại tuyên truyền chống phá cách mạng. Như vậy có nghĩa người nào vẫn tiếp tục phổ biến xem như là thành phần chống đối, bất hảo.
Tôi bàn với tiện nội hồi hương, thử trở về xóm cũ “học cày nuôi thân”. Thật ra trong thâm tâm là để có hộ khẩu đảm bảo cuộc sống hằng ngày, dù vất vưởng không ngày mai, chẳng ra hồn ra xác gì cả. Tôi được chú Năm Nghê dang tay đón rước nhiệt tình như thuở nào. Chỉ có khác là nay chú phong trần quá đỗi, còn tôi cũng lận đận gió sương không kém. Tuy vậy, cả hai chúng tôi vẫn hưởng những giờ phút thoải mái tuyệt vời, thực sự tin cẩn, thực sự thương yêu nhau. Bên ánh đèn con cóc yếu ớt, phựt phựt thiếu dầu, hằng đêm chú tiếp kể những chuyện bên Tây bên Đức đến khuya lơ để nhớ nhung một thời khoảng xa xưa và cũng để vỗ về giấc ngủ hiện tại. Chú có chõng tre, mỗi lần lăn lộn nghe như nó vặn mình răn rắc, đau đớn lắm. Tôi tòn ten như ngày xưa trên chiếc võng bắt ngang hai cây cột chòi bếp. Con chó cỏ của chú cứ đeo theo cọ sát vào võng tìm nơi nương tựa. Quả sút vật cũng sợ cảnh lẻ loi cô đơn. Đêm đêm cả hai chú cháu chui vào nóp bằng lác trùm phủ kín đáo tránh muỗi mòng đâm chích rồi ngủ say sưa bất biết lúc nào không hay. Dự tính của tôi thất bại đau thương. Không phải vì tôi sợ khó khăn lao nhọc, chân lấm tay bùn. Những năm lặn hụp nơi cái chéo quê hương ruộng rẫy, ít nhiều tôi cũng có nhúng tay vào việc đồng áng và cũng thật sự có đổ mồ hôi trên thửa mạ luống cày. Kỳ thực, Ủy ban xã vốn đa nghi còn hơn Tào Tháo. Bản tính cố hữu của họ không tin một ai cả, trừ đồng bọn đảng viên mà đôi khi chúng còn nghi ngờ. Họ nhìn tôi như một tên tội đồ, thành phần ngụy, kẻ phản động của chế độ cũ, đổi vùng tránh né mạn lưới trừng trị bũa vây của địa phương nơi tôi thường trú trước đây. Họ đâu ưng cấp phát ruộng đất để tôi có cơ hội cạp mà ăn. Còn việc hợp thức hóa hộ khẩu là chuyện mông lung xa vời. Cán bộ xã được uốn nắn nhồi nhét trong một khuôn mẫu tiền chế cố định, bất di bất dịch. Chúng không bao giờ từ chối lời yêu cầu chánh đáng của tôi cũng như của bà con khác một cách thẳng thừng dứt khoát. Chúng cố viện lý do này nọ để thả nổi, kéo dài cù cưa cù nhầy, tránh né lấy quyết định cụ thể chung thẩm. Mỗi lần đối mặt, chúng vòng vo Tam Quốc, áp dụng chính sách câu giờ, «cứt trâu để lâu hóa bùn » hầu nhận chìm xuồng luôn. Bất cứ việc gì cũng thế. Chúng làm cho người dân cứ bám đeo theo một chút ánh sáng hy vọng hão huyền, không bao giờ có, chẳng bao giờ là sự thật. Người dân đành phải bấm bụng, cắn răng chịu đựng.
Ông trời cứ chập chập gầm gừ gào thét. Hằng ngày mây đen mỗi lúc thêm vần vũ. Mùa mưa sắp đến nơi rồi. Ruộng nương không ngơ. Tôi thất vọng. Chú Năm Nghê thở dài não nề. Nhiều hôm chú bất mãn, phản ứng lớn tiếng. Tôi hết lời khuyên can, nhắc lại chuyện Hàn Tín lòn trôn giữa chợ, lúc thanh thiên bạch nhựt đông người mà mấy năm trước chú có kể cho chúng tôi nghe. Những bài học ẩn nhẫn, giả điên giả dại đó giúp mình qua những truông nguy hiểm. Dù vậy, chú vẫn bực dọc cau có:
- Tao đâu ham sống, nhứt là thời buổi này. Nói như vậy thật tình nghe trái tai quá! Ở đời ai mà không ham sống? Người giàu có đã đành, nhưng đứa khổ nghèo gian khó cũng vậy thôi. Trong những lúc vui, tao đã từng mơ ước sống đến trăm tuổi để xem đời chơi. Nhưng thú thật bây giờ tao thích đời tao được kết thúc sớm chừng nào tốt chừng nấy.
Chú chậm rãi:
- Ông bà viễn tổ mình nói đúng lắm: “Chết trẻ khỏe ma, chết già nhọc xác”. Sống lâu trong chế độ này thêm nhục nhã. Tao cầu nguyện ông Trời thương, ngủ một đêm đi luôn, khỏe ru bà rù, không phiền hà ai, ngay cả cái bản thân của mình nữa. Sống thoi thóp, cơm ngày hai buổi, chạy túi bụi, mệt cầm canh mà còn bữa đói bữa no. Chết đói cà dựt cà dựt như vầy thêm đau đớn, tội cho xác thân.
Chú được nước thao thao:
- Cái đám lãnh đạo lãnh địa, chỉ đường chỉ ngõ này, toàn là bọn dốt đặc cán mai, một lũ i tờ. Bây cứ coi chữ viết của tụi nó như cua bò, quọt quẹt chấm phết như ở thời phong kiến La Mã. Nhiều tay vua chúa, tướng tá chém giết không ngừng tay, oai phong lẫm liệt hò hét thét ra lửa, nhưng khi ký tên chỉ có hai sổ ngang và đứng làm dấu thánh giá. Làm sao bà con và chú cháu mình ngóc đầu dậy nổi? Họp hè thúc réo, tao đếch có đi. Tao “măn phú”. Tới đâu thì tới. Đường cùng rồi! Tụi nó có muốn làm gì thì làm. Sao cũng được. Đầu tao đã bạc trắng! “Trâu già chẳng nệ dao phay” mà!
Tội nghiệp chú Năm Nghê. Chú “xăn phú”, “mẹt, mẹt”, “ố là là, ố là là”... tối ngày. Chú nhậu đế dài dài, tìm niềm vui trong nội tâm, tìm an ủi trong trí nhớ. Nếp men còn đâu bày bán tự do cùng khắp như ngày xưa hầu nấu rượu tại gia. Rượu bị kiểm soát chặt chẽ. Nguồn lợi của nhà nước mới, thay thế hệ thống đại lý độc quyền cũ R.A. còn hơn Tây thực dân gấp bội. Chú đành gởi mua rượu quốc doanh nấu bằng đủ thứ thập cẩm xà bần theo đà phát huy sáng kiến làm giàu xã hội chủ nghĩa của những nhà khoa bảng “nhảy dù” cù lần lữa, con cưng của chế độ. Uống vào nóng rát phổi. Mỗi lần chú muốn quên đời, quên cuộc sống phũ phàng, nghiệt ngã hiện tại, chú đành “chữa cháy” với chút ít nước dừa tươi hoặc nước trời mưa chứa ở khạp da bò ngoài hiên nhà. Còn đâu những loại rượu thuốc, loại tam xà thập xà đại hội ngày xưa gọi mời nhan nhản đầu hẻm cuối phố. Có tiền cứ mua uống thả cửa. Dù sao, đối với chú cũng là một giải pháp tạm qua ngày, chờ giờ phút trở về nước Phật.
Riêng đối với tôi, những ngày về quê cư ngụ nơi nhà chú Năm Nghê, tôi cũng tìm được một chút bình ổn trong tâm hồn. Tôi xa lánh thị thành, đỡ nhức đầu vì cuộc sống xô bồ, tạm thời đỡ hồi họp lo âu đêm ngày. Tôi viện lý do về quê sản xuất nhưng giấy tờ cư trú còn trục trặc nên cứ phải xin gia hạng giấy phép di chuyển luôn. Khốn nỗi, thằng công an phường, mặt mày hắc ám, cứ dở cái giọng Miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa “đỉnh cao trí tuệ”, “bách chiến bách thắng” để hống hách, làm eo làm xách người thua cuộc. Nhưng kỳ thực để kiếm chút cháo trong lúc giao thời tranh tối tranh sáng. Đám con cháu Bác Hồ nghèo xơ nghèo xác đang hồ hởi tập tành đổi đời qua những tiện nghi phồn vinh giả tạo của Miền Nam. Thỉnh thoảng tôi đáo về nhà vài ngày nửa tháng rồi lại xin vắng mặt, tiếp lo thủ tục hồi hương. Cứ tái diễn mãi cảnh bấp bênh không ngày mai ấy. Thực tình mà nói, đây là cách “thực tập chiến lược” để phường khóm và tổ dân phố quen dần với sự vắng mặt thường xuyên của tôi. May ra một ngày quang đãng tốt trời nào đó, tôi có vượt biên, công an khu vực và tổ phó an ninh không kịp thời khám phá. Một hôm, tôi đang đong đưa trên võng như mọi ngày, vừa mới thiu thiu thả hồn phiêu dạt nơi cõi mông lung mơ hồ, chập chờn thời vàng son hun hút, thằng Bảy Bèo, con chú Năm Điều ở xóm trên, vừa đi sanh hoạt thanh niên ở xã về ngang. Tôi giựt mình choàng nhỏm dậy. Vì khi nghe tiếng con chó cỏ sủa thúc lắm, rồi nó hực hực mấy tiếng nhè nhẹ như đã nhận diện được người quen. Bảy Bèo ghé vào đấu chuyện tào lao cho vui giây lát. Trong lúc ấy, chú Năm Nghê cũng trở vô nhà, bỏ nửa chừng việc dỡ vòng khoai mỡ đầu ngõ. Chú lấy giọng đàn chú đàn bác, dõng dạc gọi lớn:
- Thằng Bảy đó hả? Vô đây. Có chú Ba bây ở trổng. Tao đang rửa tay rửa chưn nè. Không lâu đâu.
Thằng Bảy Bèo chào hỏi tíu líu thân mật, làm như đã từng xa cách nhau lâu ngày mới gặp lại nhau. Nó tía lia còn hơn cái loa phóng thanh ong óng mỗi buổi sáng và chập tối ở các trụ sở quận huyện. Tay nó ôm kè kè bên mình mấy quyển sách mới tinh, bìa cáu cạnh, còn thơm phức mùi giấy mực. Nó vui miệng bảo:
- Tôi vừa sanh hoạt ở Ban Thông tin Văn hóa về đây. Nhớ ông Năm và chú Ba nên tạt vào thăm.
Rồi nó tắc lưỡi phiền hà ngay:
- Mình làm việc quần quật tối tăm mặt mày vẫn trỏm lơ, đói dài dài, âu lo thấp thỏm, cái chết đói chập chờn tới nơi ngay trước mặt. Vậy mà cán bộ trưởng ban khuyến khích phải lấy sách cách mạng về đọc. Nó cười ruồi:
- Họ nói phải biết trao dồi kiến thức kiến ngủ gì đó để được xứng đáng là con người mới xã hội chủ nghĩa. Dĩ nhiên là dưới sự lãnh đạo «thần thánh» của đảng. Họ làm như chữ nghĩa giúp mình no bụng hằng ngày vậy.
Nó gãy gãy đầu, đưa tay vuốt lại mớ tóc bùm xùm lâu nay chẳng được hớt, rồi khoan thai nói tiếp:
- Hồi xưa, lúc ba tôi còn sõi, không biết để an ủi về hoàn cảnh khó khăn của mình hay không hoặc thanh minh thanh nga bào chữa mà ổng hay hóm hỉnh nói, ở đời người ta lấy thúng đong lúa bán cho lái để có tiền nộp chủ điền hay mua sấm chút ít trong nhà chớ có thấy ai lấy thúng đong chữ nghĩa bao giờ đâu? Ổng cũng hay ví von, “văn hay chữ tốt” mà làm gì, khi ổng bắt tôi nghỉ học sớm, phụ giúp ổng làm ruộng. Ổng đoan quyết người trước có lý cho rằng “văn hay chữ tốt, không bằng thằng dốt có tiền”. Rồi ổng bảo “có tiền mua tiên cũng được”.
Bảy Bèo tỏ vẻ suy nghĩ hung lắm:
- Tuy ổng dốt thật đó, nhưng được một cái là ổng lại thêm mấy câu chí lý đáng đồng tiền bát gạo lắm: tiền ở đây không phải giấy con công hoặc giấy bộ lư bỗng dưng từ trên trời rớt xuống, mà tiền nằm trong hai bàn tay của mình. Đôi lúc ổng chê tôi còn trẻ chẳng hiểu gì, nhìn đời chỉ có nửa con mắt thôi. Còn nửa con kia khổ nỗi ổng chê tôi nhìn không quá hai bờ bao ngạn trong xóm mình. Nhưng thật tình mà nói, do hoàn cảnh nghèo túng của gia đình cũng khó giúp tôi học xa được, nên từ dạo ấy, tôi sống nhờ hai bàn tay cũng không đến đỗi nào.
Nó đâm nghĩ ngợi thêm, thoáng một nỗi buồn nằng nặng:
- Họ bây giờ đang sống tận mây xanh. Tôi mang sách về chắc sẽ vứt vào một xó nào đó. Thời giờ có đâu rổi rảnh trong khi vạt áo lai quần vẫn ướt mem suốt ngày. Không lấy đem về, người ta nói mình không hợp tác, thiếu thiện chí trao dồi cải tiến hay nặng hơn nữa là chống đối cách mạng. Học tập bỏ mẹ đời!
Nó bỗng cười ngất, giọng châm chọc:
- Mấy chú nghĩ xem, họ bảo đọc sách lúc đói lên đói xuống này cầm bằng chặt đứt hai bàn tay làm ra tiền của mình. Có đâu mua gạo, đừng nói đến mua tiên?
Thằng Bảy Bèo ngồi trên chõng tre nơi chú Năm Nghê nằm ngủ mỗi đêm. Hai chân nó thòng xuống đất, lắc lư, đánh tới đánh lui liên hồi. Chõng tre nghe cọt kẹt không dứt. Nó thái mái dở một quyển thơ, lấy tay thấm nước miếng lật lật nhanh lẹ mấy tờ liền. Hai con ngươi nó đảo tới đảo lui, chạy qua chạy lại nhịp nhàng như con thoi. Trình độ học vấn của nó cũng không đến đỗi nào nơi thôn làng đèo heo cách trở. Nó học hết cấp tiểu học ở quận lỵ Bến Lức nhưng không thi tuyển vào đệ thất, bỏ hẳn nghiệp “văn chương phú lục” từ dạo đó. Vì nó ưng làm bạn với cán cuốc chuôi cày. Có lúc nó được đề nghị làm giáo làng. Nhưng nó cương quyết từ chối. Nó quyết chí noi theo cái triết lý sống của ba nó: lấy đôi tay làm ra tiền của, tạo lập sự sản. Nó chê rậm rề bà chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã dốt đặc. Nó bảo bà ta nắm cây viết cứng đơ, sượng trân. Bả viết trật lất văn phạm. Nó trông tuồng chữ ngả nghiêng xiêu vẹo của bà ta, không ngay hàng thẳng lối chi cả, giống hệt như gà bới rác không bằng. Nó liệng gọn lỏn quyển thơ dày cui trên mặt bàn trà:
- Thơ gì đọc nghe chỏi tai quá trời. Hồi xưa ở trường tiểu học, tôi có đọc những bài thơ như “Qua Đèo Ngang Tức Cảnh” của bà Huyện Thanh Quan hay “Mùa Thu Ngồi Câu Cá” của cụ Tam nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến, nghe êm tai, chan chứa tình cảm, vần điệu rung động khiến tâm hồn tôi lâng lâng man mác. Nói lén với ông Năm và chú Ba nghe cho vui rồi bỏ qua chớ “thơ con cóc” còn hơn một bực. Ấy vậy mà họ ca tụng tận mây xanh.
Nó bỗng nhìn dáo dác rồi xuống giọng cảnh giác:- Tôi thật tình nghĩ sao nói vậy. Không khéo có người léo hánh dòm hành nghe lén, đồ tới đồ lui thấu tai bà chủ tịch, tôi đi học tập “mút mùa lệ thủy”. Vì tôi vốn là lính ngụy, mới được trả quyền công dân mùa trước.
Nó rất hãnh diện, tự đắc biểu lộ ra mặt, sau bao nhiêu năm dài rời khỏi mái trường Bến Lức thân yêu, nó vẫn còn nhớ vanh vách khoa danh Tam Nguyên và cố thổ Yên Đỗ của cụ Nguyễn Khuyến. Nó hướng về ông Năm đang cầm cái tô sành nước mát giải khát:
- Ông Năm ơi! Ông nghĩ xem coi có cà chớn không? Mình thì nghèo, vất vả quanh năm vẫn đói rách. Ủy ban cứ rang rảng bảo khó khăn chỉ tạm thời. Nào là gia tài, nào là di sản, nào là hậu quả của Mỹ Ngụy để lại. Tiếp tục làm việc sẽ khấm khá hơn. Thôi thế nghe cũng tạm được. Nhưng mấy năm nay làm hoài chẳng thấy gì, càng thêm đói rách.
Bảy Bèo tỏ ra bực tức:
- Ông Năm và chú Ba thấy đó. Mình đọc thơ mong tìm một chút an ủi vỗ về, một chút thơ mộng làm vui. Mình mong bắt gặp một cái gì mình thiếu thốn hoặc những thứ mình ước mơ nhưng trong thực tế lại thiếu vắng trốn chạy mình. Như hồi xưa đi xem hát cải lương hay hát bội, bà con nghèo của mình có màng chi để ý đến tình tiết trạng huống tuồng tích. Chẳng qua họ chỉ cần nhìn xiêm y lộng lẫy, tranh cảnh thần tiên sắc màu, đào kép son phấn sặc sỡ, những thứ đó đủ cho họ quên cảnh rách bương rám nắng hằng ngày của họ.
Nó bất mãn:
- Đằng này, thơ gì cộc lốc, cứ xúi giục chém giết thù hận, cứ nhè đồng bào máu mũ ruột thịt của mình mà nguyền rủa sỉ vả nặng lời. Thơ gì cứ đòi diệt tận gốc bốc tận rễ. Sự việc này khiến tôi rùng mình hồi nhớ lại những cảnh chặt cổ sởn đầu, mổ bụng dồn trấu, thọc huyết cho mò tôm hay bắn tét gáy ở những năm khủng bố... Thơ gì mà nhạt nhẻo lỏng lẻo, sượng sùng thua xa câu hò đối đáp, câu hát huê tình của bà con xóm mình quá.
Nó quay về phía chú Năm Nghê:
- Đâu ông Năm thử bắt giọng hát vài câu nghe chơi cho đỡ buồn nghe ông Năm! Tôi cam đoan chắc chắn thế nào mấy câu du dương nhão nhè nhão nhẹt của ông Năm nghe sẽ đứt ruột, thấu tim thấu phổi. Lâu quá rồi, tôi ghiền nghe lại ông Năm ơi!
Chú Năm Nghê bèn dát đát:
- Mấy thứ đó bây giờ thuộc về văn hóa đồi trụy. Lỗi thời rồi. Tụi bây muốn, tao cũng chẳng sợ gì. Trâu già mà! Chết là hết. Sự nghiệp tao chỉ có bây nhiêu thôi: cái chòi nhỏ hếu này với cái giường tre ọp ẹp. Đủ chán.
Dù nói thế nhưng đôi mắt ông bỗng buồn buồn:- Chết phủi sạch nợ. Lúc đó, ai cũng như ai. Giàu có cách mấy cũng xuôi tay, quan quyền cỡ nào cũng chẳng nắm níu được gì. Cát bụi trở về với cát bụi thôi. Chú choàng qua nắm tay thằng Bảy Bèo âu yếm:- Nhưng tao thương tụi bây còn nhỏ, tương lai còn dài. Không khéo, người ta quy cho bây tội này tội nọ, khổ lây mà mang họa. Nhứt là mầy đó, Bảy Bèo, liệu hồn. Mầy còn cái thẹo gốc “lính ngụy”, không bao giờ lành lặn hẳn. Tao chẳng sợ, chẳng ngán ai. Tao chết, tụi nó có ghét không cho chôn, để thúi cũng vậy thôi. Nhưng liệu chúng có dám không?
Chú Năm Nghê lộ vẻ dàu dàu:
- Hồi xưa, Tây tà, Tây đen Tây trắng, tao vô vài ly ngà ngà, thằng nào làn chàn cà chớn, tao “xạt cà rây” bỏ ghét. Huống hồ gì đám đồ tể, đá cá lăn dưa, mặt mày đần độn bây giờ, chữ nghĩa - nói xin lỗi tụi bây - tao nheo một cái bỏ tụi nó lẹt đẹt phía sau cả dặm đường.
Chú vói lấy tập thơ thằng Bảy Bèo vừa để trên bàn lò dò dở ra xem. Quả sách vừa xuất bản ở thành phố mang cái tên nguyền rủa Hồ Chí Minh. Ngày tháng năm in còn mới ràng ràng nhờ phương tiện hào nhoáng của Mỹ Ngụy để lại. Cách mạng ở R đói nhăn răng, xanh xao vàng vọt làm gì có tiền để in. Chú cười mai mỉa:
- Chúng nó vào đây tiếp thu với cái đít không. Trên răng dưới... tụi bây muốn thêm cái gì cũng được. Hùn hạp, làm ăn chung tập thể, hợp doanh quốc doanh chỉ với hai bàn tay trắng, ngoài ba mớ nước bọt với cái mặt mo không biết liêm sỉ và tình thương là gì.
Chú Năm lật qua lật lại, đọc lướt nên chẳng mấy chốc đã được quá nửa. Bỗng chú lấy tay chận lại một trang, cười ruồi:
Đường ta rộng thênh thang tám thước
Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên...
Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên...
- Cứ theo giới thiệu thì thi phẩm “Ta Đi Tới” này được sáng tác ngay sau kết thúc trận đánh Điện Biên Phủ, trong khí thế sục sôi chiến thắng với thành quả xương máu vĩ đại của cách mạng. Tao thì ít chữ lại thiển cận nhưng tao nghĩ nhà thơ hạng nhất của chế độ hồ hởi dự phóng con đường đi tới trước mặt, con đường thênh thang ở tương lai mà chỉ rộng có tám thước, không ổn chút nào hết. Chú ngừng một chút như để moi móc trong trí nhớ:
- Hồi lâu ở bên Tây, tận vùng phía Bắc nước Pháp, tức xa thủ đô ánh sáng Ba Lê vài trăm cây số, những con đường rộng rãi na ná như thế không hiếm gì, nhan nhản khắp nơi, ngay ở những thị trấn nhỏ. Đàng này, xây dựng tương lai chế độ với những con đường chỉ rộng có tám thước mà đã huênh hoang hãnh diện, đã thỏa mãn mừng húm, tao cho đó là đầu óc nông dân hạng bét. Loại đầu óc cục bộ thiển cận đó, tao nghĩ còn thua hẳn bà con khai rừng phá rẫy của mình ngày xưa quá cỡ thợ mộc. Rồi chú kết luận:
- Thật đúng y chan các ông bí thư, các bà chủ tịch bù trơ bù trớt, nhìn xa không quá mũi của xã mình. Đất nước Việt Nam để cho những hạng người như thế lãnh đạo, chỉ lối chỉ đường bạt mạng như vậy làm sao trở thành rồng? Tao dám nói không sợ lầm, tụi nó sẽ biến xứ sở mình sẽ trở thành tôm thành tép, thành lươn thành lịch, hoặc thành rắn ráo hay liu điu thôi.
Thằng Bảy Bèo để ý chú Năm Nghê hơi lớn tiếng. Nó sợ thiên hạ đi ngang qua nhà tò mò nghe trộm. Thời buổi bây giờ con người độc địa lắm, tráo trở như bánh phồng nướng lửa rơm. Nó lấp ló nhìn chừng bên ngoài xem có ai núp ở hàng bông bụp hay không? Chú Năm dịu giọng:
- Tao quên phức. Tao cứ tưởng mình đang là công dân của nước Việt Nam Cộng Hòa hay ở bên Pháp tự do. Nào dè... Buồn quá! Tao chẳng sợ
dao phay đã đành. Nhưng tao cứ tội nghiệp cho tụi bây. Tụi bây hãy còn cái búa cái liềm lòng thòng đe dọa trước mặt. Cho dù tụi bây đều “sợ trước mặt” còn “sau lưng” tụi bây có thái độ nào tùy ý. Tao là người lớn, tao không xúi biểu tụi bây thốt ra những điều thô tục.
Tôi vã lã khen chú Năm Nghê có những nhận xét tinh tường và sắc bén. Chú dõng dạc không đồng ý.
Chú cực lực cãi lại như một phản xạ tự nhiên:
- Sắc bén, tinh tường cái quái gì? Nó đập ngay vào mắt, vào trí mình mà!
Chú lật tiếp mấy trang, xem bộ ưng ý hay sao rồi ngưng lại một đỗi. Chú nhíu mày ra tuồng chăm chú. Gian nhà im lặng. Giữa tôi và thằng Bảy Bèo chẳng có gì đáng nói. Bỗng chú lắc đầu, tắc lưỡi tỏ vẻ thất vọng:
- Ô là là, là là. Hết nước nói. Tao đọc đoạn này bây nghe rồi bây có ý kiến.
Chú quên câu thơ ở đoạn nào, lấy ngón tay rà từng hàng, nhướng chân mày bạc phau, mở rộng tròng mắt bực bội rồi tự ên một mình lẩm bẩm:
- Già lẩm cẩm, quên trước quên sau. Ông Trời để sống làm chi thêm chật đất, tốn cơm tốn gạo, chẳng làm gì ra trò trống. Để chỗ cho tụi trẻ tấn lên làm ăn.
Mắt chú bỗng sáng lên:
- Đây rồi. Đây rồi. Bây nghe đây:
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười.
Thương mình thương một, thương ông thương mười.
Ông ở đây là ông Xít Ta Lin, trùm đỏ uy quyền ở điện Cẩm Linh của Nga Sô đã về chầu hai ông Các Mác và Lê Nin mà nhà thơ không hết lời tâng bốc:
Yêu biết mấy lúc con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Xít Ta Lin
Tiếng đầu lòng con gọi Xít Ta Lin
Hoặc:
Giết! Giết nữa! Bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho đảng bền lâu cùng rập bước tơ lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt...
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho đảng bền lâu cùng rập bước tơ lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt...
Chú nói tiếp không ngưng:
- Thật tình tao không tưởng tượng được. Một người lạ hoắc lạ huơ ở tận vùng đất xa mút chỉ mà nhà thơ vĩ đại khóc nức nở, thương gấp mười lần cha mẹ ruột thịt mình, những người có công sanh thành, dưỡng dục, dạy dỗ, trông nom dìu dắt mình đến khôn lớn trưởng thành, tao nghĩ họ “nâng bi” quá lời. Chớ thật tình như vậy thì đáng nên tránh xa.
Như chưa bằng lòng, chú giải thích cho rõ thêm:
- “Công cha như núi Thái Sơn”... tụi bây đứa nào làm sao quên được. Cha mẹ như trời biển. Xem nhẹ cha mẹ mình là phường bất hiếu, hết xài. Bỏ giỏ rác không tiếc tay. Con người phải biết kính trọng, thương yêu cha mẹ mình trước rồi từ đó mới lan tỏa ra người ngoài. Bây mà gặp những hạng người như vậy nên quay lưng, đừng có gần gũi mang hại.
Chú Năm Nghê thẫn thờ trút hết bất mãn trong lòng:
- Thương yêu kiểu đó chỉ ở đầu môi chót lưỡi. Tình thương bốc đồng, nhứt thời. Nó đâu có thấm thía, chân thật. Nó sẽ đổi màu, phai nhạt bạch chản bây coi. Tao gọi loại tình thương đó là tình thương có ý đồ quyền lợi cá nhân, tình thương nhắm một mục đích riêng tư ích kỷ, nhỏ nhoi hẹp hòi. Mà hễ dính vào quyền lợi thì có gì vĩnh viễn đâu? Đụng chuyện là họ chuyển hướng trở cờ ngay.
Tôi thấy nơi gương mặt xương xương gầy ốm của chú Năm thoáng một nét buồn, khi đôi mắt chú mơ mơ màng màng hướng về phía chúng tôi như chú muốn tâm tình để gởi gấm một chuyện gì:
- Từ trước đến giờ tao có đọc thơ cách mạng cách miết bao giờ đâu. Nay bỗng dưng thằng Bảy mầy làm tao thêm buồn bực. Bây biết không? Giá nếu cách đây mấy mươi năm về trước, tao thương mấy ông Tây - hạng Tây chính cống con nai vàng, chớ không phải đám Tây thực dân râu xòm bụng bự ở xứ mình đâu - hơn cha ông viễn tổ bên nhà thì tao đã ở lại luôn bên Phú Lang Sa rồi. Tao đâu có nôn nóng trở về xứ mình làm chi như bây thấy đó. Hạng người như vậy là bọn mất gốc quên nguồn, bán nước hại dân dễ như chơi, còn hơn trở bàn tay.
Chú cười bí hiểm:
- Nói cho vui chớ đường đời khúc khuỷu quanh co lắm. Bây giờ họ ăn trên ngồi trước, lãnh tụ lãnh tội mà. Còn tao là tay sai thực dân đế quốc. Lý lịch tao khai từ đời cha mẹ, ông bà viễn tổ tao cho những đứa hậu sanh non chèo. Chúng biết khỉ khô gì. Cả cha mẹ chúng nó còn chưa đáng tuổi con tao. Dù sao, tao vẫn sung sướng vì tao vẫn là tao.
Câu chuyện còn kéo dài trong chòi lá. Bên ngoài chim vịt đập cánh kêu chiều. Thằng Bảy Bèo vội kiếu từ, hứa hẹn sẽ trở lại một ngày gần để nghe chú Năm Nghê nói chuyện về “thơ cách mạng”. Nó khom lưng cúi đầu xuống tránh cái phênh tre che cửa chánh rồi quay lại:
- Nhưng lần sau ông Năm nói nho nhỏ vừa đủ nghe thôi nhé. Tai vách mạch rừng, nguy hiểm, ớn xương sống quá.
Rạch Rít, ngày 6/6/199...
Cậu Mợ Ba thương mến. Tôi đã nhận được thơ và quà của cậu mợ. Phải mất mấy tháng trường, quà mới đến được. Nhưng không biết đủ thiếu ra sao vì cậu mợ không có kèm theo bảng liệt kê. Tôi nghĩ chắc thế nào chúng nó cũng xơi tái phần nào khi bày đặt bày điều kiểm tra này nọ. Làm như chúng nó thương yêu, lo lắng bảo vệ sức khỏe và an ninh của người dân vậy. Xóm mình rõ ràng nhiêu khê cách trở quá. Tôi xin cám ơn sự lưu tâm giúp đỡ của cậu mợ vào dịp này rất đúng lúc. Riêng số tiền cậu nhờ người quen mang về trao tận tay, giúp tôi củng cố thêm diện tích trồng trọt vốn hạn hẹp, thường hay thất mùa. Tôi ở quê thời buổi này là điều thua thiệt vô cùng. Lợi nhuận do trồng lúa hay chăn nuôi dù trong thời buổi có nới rộng đôi chút cũng chẳng được bao nhiêu. Mình làm lụng khổ cực vất vả lại thiếu ăn triền miên, đói rách mãn đời trọn kiếp. Người khác ngồi không hưởng trọn. Bọn con buôn, con Trời ở Đài Loan, Hương Cảng, Tân Gia Ba qua Việt Nam làm ăn bây giờ mạnh lắm. Chúng được che chở có hệ thống, tha hồ bắt nạt làm mưa làm gió. May là chúng còn chút nhân đạo cho đám dân nghèo sống cầm hơi để suốt đời làm tôi mọi. Hoan hô độc lập tự do. Hoan hô làm chủ tập thể đất nước. Nhưng nói là nói như vậy chớ còn sống ngày nào thì phải làm việc ngày nấy, dù tương lai mù mịt đen tối.
Như cậu mợ biết, tôi gốc “ngụy”. Tôi được anh bạn Mỹ chấp thuận cho tôi sang xứ cờ hoa nhờ có lúc tôi làm công trong một sở Mỹ ở Sài Gòn. Nhưng ác thay, họ chỉ chấp thuận cho tôi đi cùng với vợ tôi và đứa con gái út mà hồi cậu mợ chưa vượt biên, cậu mợ thường hay ẵm bồng khen nó ngoan ngoản dễ thương. Còn ba đứa lớn đã trưởng thành phải ở lại vì đã lập gia đình và có con cái. Tôi thấy không ổn. Một cảnh hai ba quê, khó lòng.Tôi lại nghĩ, qua Mỹ phải có công ăn việc làm, chẳng lẽ ngồi không ngửa tay xin người ta cứu trợ dài dài sao? Tủi thân tủi phận lắm. Thà mình nghèo ở quê nhà, đóng cửa có gì ăn nấy, qua bữa qua ngày.
Tôi cũng biết thân phận mình. Nay tuổi đã cao, tài lại hèn mà còn đi những chuyến tàu cuối mùa nhiều thua thiệt. Khó khăn thì nhiều, thuận lợi mong manh quá nên tôi suy nghĩ đắn đo, cân phân quyết định ở lại, mơ hồ hy vọng với ngày tháng lấy bàn tay làm ra của tiền như ba tôi thường nói ngày xưa. Ở nước ngoài, nói là cực nhưng chí tình mà nói, ở đâu sướng cậu mợ? Cực mà chịu làm là có tiền. Cũng có nhà cửa, xe cộ như ai, hằng năm tà tà dẫn vợ con đi nghỉ hè giải trí tăng cường sức khoẻ. Còn ở Việt Nam mình, ở quê khổ lắm, vất vả khổ cực quanh năm nhưng đói trơ xương, thiếu thốn đủ điều. Ở thành thị nhờ mánh mung, gạt gẫm, mình bóp cổ chẹn họng mình để làm giàu riêng. Không mánh mung, chèn ép chà đạp nhau thì phải có quyền thế hoặc a dua hào mé, nịnh bợ tâng bốc đám đảng viên lạm quyền và tham nhũng hết thuốc chữa mới có tiền nhanh. Nơi quê mình, bà con hiền lành mộc mạc như củ khoai cục đất, thương yêu nhau không hết, đâu có ai bôi mặt làm những việc thất nhân tâm như ở thị thành được bao giờ. Mình là con người có lương tâm và cốt cách mà!
Thời đại mở cửa, người Việt chỉ có làm ăn nhỏ theo kiểu cò con lặn lội ở đầm, ở bưng. Làm lớn thua lỗ lớn, đưa đến phá sản rồi treo vòng cổ đút đầu vào. Chế độ này muốn cho ai giàu thì cho, muốn không cho thì bóp mũi cho ngủm cù đeo tức khắc. Chỉ có mấy tay xì thẩu Ba Tàu ở nước ngoài như Tân Gia Ba, Hồng Kông, Đài Loan... bây giờ rần rần đổ vào làm ăn là mạnh nhứt. Lại uy quyền nhứt xứ. Họ nhờ móc ngoặc, cấu kết với giới chức quyền đảng viên các cấp, “mua tiên” còn được, huống hồ chi nhà cửa đất đai... Mà không khéo, vài năm tới đây họ mua luôn cả nước Việt Nam mình nữa! Đó là chuyện chung chung, chuyện thiên hạ ngoài đời mà mình lại là nạn nhân khốn đốn mới chết. Bây giờ xin trở lại chuyện bà con thân quyến trong xã nhà.
Tôi báo cậu mợ hay một tin buồn. Buồn lắm cậu mợ ơi! Tới nay tôi vẫn còn ngặt mình thương nhớ. Chú Năm Nghê đã mất hôm hai mươi ba tháng chạp vừa qua, đúng ngày đưa ông Táo về chầu Ngọc Hoàng. Chú đi rất êm. Chẳng một ngày đau đớn ho hen. Cậu mợ chắc còn nhớ ông Hai Khỏe, có một thời làm từ đình xóm mình ngày trước. Nay ổng cũng trọng tuổi rồi, nhỏ hơn ông Năm chắc hơn một kỷ. Thấy vắng, không nghe tiếng ông Năm bật tiếng Tây bên kia liếp mía như mọi hôm, ông Hai bước tréo qua chòi. Ông khám phá ông Năm nằm bất tỉnh ở thềm nhà sau, kế cái võng cậu lắc lư mỗi đêm hồi cậu về quê lánh nạn. Chú đi êm ái chắc cũng mới đó thôi. Mình mẫy ông Năm còn ấm hỉm. Cái cần câu cắm với con cá trê vàng núc ních mắc câu còn hoi hóp. Ông Năm vẫn nắm chặt trong tay. Tri hô, bà con xúm lại phụ đưa lên chõng tre, ông Năm nhắm mắt đi luôn không một lời trăn trối vướng bận, gương mặt rất phấn chấn vui vẻ, như thanh thản hỉ xả. Buồn quá cậu mợ ơi!
Một đời người cũng đi Tây đi u lại kết thúc như thế đó, trong cảnh nghèo khó tẽ nhạt. Ổng không có một bộ ván ngựa để ghép chôn. Bộ ván ngựa mỏng tanh để tiếp bà con chòm xóm ngày xưa ổng đã bán từ khuya để đong gạo ngày gạo bữa. Tôi còn nhớ rõ mấy năm trước đây ổng hay nói:
“Chết là hết. Có đứa nào chôn tao cám ơn. Không chôn cứ để thúi”.
Nói vậy chớ tụi này đâu để tồi tệ như vậy. Thương ổng quá mà! Trại hòm lớn nhỏ trong tổng trong quận đều bị quốc doanh cả. Xứ mình cái gì bây giờ cũng quốc doanh hết trọi cậu mợ à. Đã chết mà họ còn kết cấu với nhau làm ăn trong cảnh đớn đau tang khó. Hòm làm bằng dênh dênh, loại hạng bét mỏng te, nhẹ như tờ giấy quyến cũng mắc thắc họng. Nghèo mạt từ đường như ông Năm làm sao mua nổi. Ông Ba Kỷ nặng lòng biếu bộ ngựa tuổi đời hơn cả thế kỷ nhưng xem còn được đến. Tụi này phụ nhau đóng cái hộp tàm tạm, trông không đến đỗi nào. Mấy thằng cháu trong xóm hì hục tận lực đào huyệt mả ở cái gò đầu xóm. Tôi căn dặn đào sâu một chút để ông Năm được ấm áp trong lòng đất quê hương.
Cậu mợ cũng biết, ông Năm thương quê hương mình lắm. Thiếu gì bạn bè ông lụy mấy bà đầm rồi bỏ thây bên Tây. Riêng ổng, ổng nhứt quyết trở về xóm cũ nhà xưa. Do vậy mà thương ổng thêm. Hôm an táng buồn thảm não. Lưa thưa vài bà con ngày xưa lân la qua lại, hiểu ổng nên thương mến tiễn đưa một đoạn đường cuối cùng. Làm gì có giá triệu rình ran của thời vàng son ngày xưa! Nhưng thằng Ba Nô ở cuối thôn, nhớ tình nhớ nghĩa, cho thằng con trai bịt khăn tang xem như cháu đích tôn. Thằng nhỏ lầm lũi thui thủi bưng cái ly hương vừa cấp bách làm bằng gáo dừa khô. Riêng Ba Nô, nó trịnh trọng phò khuôn ảnh, tấm ảnh duy nhứt còn sót lại hơn nửa thế kỷ dằn dặc, chụp cảnh ông Năm lúc ở Dunkerque hồi thế chiến vào một buổi sương mờ nhàn nhạt. Ông đứng chống nạnh trong bộ đồ nhà binh, đầu đội ca lô chệch một bên, đôi mắt đâm chiêu nhìn ra biển khơi tận bên kia bờ đại dương, tìm về quê hương diệu viễn. Thấy cảnh đó, mọi người đều sục sùi xúc động biết dường nào. Buồn quá! Không ai cầm được nước mắt! Tôi thẫn thờ mãi. Thôi cũng xong một kiếp người! Nói nữa cậu mợ buồn lây.
Thơ đã dài mấy trang giấy nhưng sao tôi vẫn muốn tâm sự thêm với cậu mợ. Xin chờ dịp khác vậy. Tôi rất mong gặp lại cậu mợ trong tương lai rất gần. Chẳng lẽ cậu cháu mình lại bất hạnh sao? Ấy vậy, tôi vẫn hy vọng và càng ngày hy vọng của tôi càng sáng tỏ thêm. Cuối thơ, chúc cậu mợ sức khỏe và mấy cháu học hành đỗ đạt.
Kính thơ
Bảy Bèo
(Thằng cháu nuôi của cậu mợ)
Tôi buông bức thơ ra, lòng buồn thương nhớ. Nhớ chú Năm Nghê, tôi nhớ nhiều kỷ niệm. Kỷ niệm nào với chú cũng đáng nhớ, cũng rực sáng trong tâm trí tôi. Nhưng kỷ niệm nên thơ nhứt, ý nghĩa nhứt đối với tôi có lẽ là hôm thằng Bảy Bèo tạt ngang ghé nhà chú, để chú có dịp đọc và bình thơ Tố Hữu, “nhà thơ vĩ đại” trong thi đàn quốc doanh. Nay con trâu già đã lìa đồng cỏ năm xưa để lưu trong lòng người ở lại bao nhiêu hình ảnh tốt đẹp của một thời khó phai, mãi mãi ẩn hiện đậm đà không thôi. Tôi trực nhớ một đoạn tin thời sự nóng hổi vừa mới đọc cách đây vài hôm trên báo chí Việt ngữ hải ngoại. Tôi lật đật dở chồng báo, cố tìm đọc lại. Nhà thơ Tố Hữu vừa được giải thưởng Đông Nam Á Seawrite do Thái Lan tổ chức hằng năm, nhằm tưởng thưởng vinh danh những văn nhân thi sĩ xuất sắc khắp vùng Đông Nam Á châu. Trong trí tôi hiện rõ sáng trưng con người chú Năm Nghê, từ cử chỉ, thái độ đến lời lẽ đanh thép, trong ấm, không lúc nào lạc giọng của chú về Tố Hữu.
Tôi bỗng đổi buồn thành vui. Vui vì nghĩ rằng nếu chú Năm không bất hạnh sớm ra đi, chú sống thêm năm ba năm nữa để có dịp đọc bản tin
văn học quốc tế này thì chắc chắn chú sẽ đau đớn biết dường nào. Chú sẽ thất vọng cho tình đời biết mấy. Chỉ vì một chút quyền lợi thấp hèn, con người đã trắng trợn quay mặt chà đạp chữ nghĩa, bôi bẩn thi ca, hạ thấp nền văn học và xúc phạm trầm trọng con người Việt Nam muôn thuở. Cũng như chú, tôi nghe đau nhói trong tim mình!
Võ Phước Hiếu
Phá sơn lâm, đâm Hà Bá
4. Con quỷ gò Bướm quê tôi
Xóm tôi thuộc vùng đất mới khẩn hoang hơn thế kỷ trước. Ruộng bưng,
ruộng rừng ngút mắt chen lẫn những vùng năn sậy, cỏ dại bạt ngàn. Lưa
thưa đó đây vài cánh rừng chồi và ít rừng tràm, nghe đâu do người Tàu ở
Sài Gòn Chợ Lớn bỏ vốn trồng để khai thác kinh doanh từ những năm thanh
bình xa xưa. Mỗi thửa ruộng rộng lớn mênh mông, đa phần không bờ mẫu
ngăn chia do nhân công khan hiếm. Loại bờ mẫu nầy phải đắp thật cao, tốn
công tốn của, trong khi vốn liếng là tiền vay bạc hỏi nặng lời, gối đầu
hằng năm không bao giờ đứt đuôi. Bờ ruộng thấp lè tè, qua mùa mưa như
cầm tỉn mà đổ, không sao đủ sức ngăn chận nước vỡ lan tràn. Ruộng nương
úng nước, mùa màn thất bát tệ hại. Rải rác trên cánh đồng xanh um mơn
mởn ngày mùa hay vàng mơ lúc lúa chín, chập chùng những gò nổng, mô
đất hoang vu, dứa gai rậm rạp. Ngày xưa, những nơi này là chỗ để nông
dân tập trung thân cây khô, chà nhánh, rác rưởi, rễ cây vừa bứng gốc lúc
vỡ hoang.
Về sau, nông dân làm cỏ ruộng, hằng ngày chất lên những tấm ván mạ láng o do trâu kéo chậm chạp lướt trên ruộng nước, đem đổ đống ngùn ngụn ở đây. Đến nay trở thành gò đất cao ráo, lùm buội hỗn man, dây leo tha hồ mơn trớn quấn quít nhau khít đeo. Gò ở đầu trên xóm gọi là Gò Trên, cuối xóm Gò Dưới, lưng chừng là Gò Giữa. Mấy cái gò này chỉ cách nhau trong tầm mắt, thấy lù đù xa xa đó, nhưng từ gò này muốn sang gò khác lội bộ thiếu điều đứt hơi, mệt thụt mạng. Mỗi gò đều có một lịch sử nghĩa tình chân quê sâu đậm, keo sơn gắn chặt đậm đà với cuộc sống từ nhiều thế hệ. Một cuộc sống thấm đẫm tình gia tộc cội nguồn, nghĩa họ hàng, lân lý chòm xóm. Duy có Gò Bướm cạnh dãy bưng Bà Mụ to lớn hơn hết. Và nó được nhiều người nhắc nhớ vì mang chở bao nhiêu mẫu chuyện buồn vui còn truyền tụng mãi đến nay. Chung quanh gò, một số nóc gia san sát thành từng cụm, cách khoảng không mấy xa, réo gọi nhau vừa đủ nghe mỗi khi hữu sự khẩn cấp. Theo thời gian, gò trở thành nghĩa địa của bà con nghèo, đa số làm thuê làm mướn ngày mùa. Trong khi đó, những gia đình may mắn thành công trở nên khá giả, mai táng thân nhân nơi đất vườn sở hữu của họ.
Không mấy chốc, những gò này đầy mồ mả ngổn ngang. Do số người có chút ít máu phiêu lưu lập nghiệp vào đây khẩn hoang tăng vượt hằng năm. Mả mồ có cái được chăm sóc, giẫy sạch ngày tư ngày Tết. Số khác trở thành mả lạn, không còn trông thấy nấm mồ. Họ thuộc lớp người tiên phong đốt rừng vỡ đất, nằm xuống nơi này quá lâu. Có thể năm bảy chục năm hay hơn nữa. Lúc sanh tiền, họ là những người vô danh vô phúc qua một định mệnh khắc khe bần hèn. Đến lúc chết, họ vẫn không thoát khỏi nỗi buồn cô đơn hiu quạnh, không người sớm viếng tối thăm, không một kẻ đoái hoài. Còn gì đau khổ cho bằng một kiếp người bất hạnh đã đi trọn cuộc sống thế gian trong hãnh diện tự hào! Về sau, con cháu làm ăn khấm khá hoặc vì chán nản cảnh vất vả lao nhọc nơi xứ phèn chua muỗi mòng, quanh năm quạnh hiu buồn tênh nên bỏ tìm nơi khác mưu sinh. Họ không buồn trở về làng cũ quê xưa trùng tu mồ mả cha ông dịp tiết Thanh Minh hằng năm. Dứa gai chơm chởm tha hồ mọc loạn xạ cào cào. Bìm bìm, dây leo, dây choại mặc tình đan quyện nhau, ôm ấp trửng dỡn, bò lên tuột xuống nhỏng nha nhỏng nhảnh ở những buội rậm, giang san kiên cố bất khả xâm phạm của chồn cáo, chuột bọ và nhứt là rái cá.
Thuở nhỏ, tôi vốn có tánh hiếu kỳ rất sớm. Tôi thường lót tót chạy theo mấy chú mấy bác lớn tuổi hoặc các bậc đàn anh, xem đào huyệt, mỗi khi trong xóm có tang khó. Do đó, gò nào trong xóm, dù hoang vu cách mấy, đều có đâu đó dấu chân của tôi. Cuốc xuổng phụp xuống liên hồi đành đạch đành đạch… chỉ độ năm ba tấc, đụng phải nắp hòm cùm cụp. Mặc dầu trước khi đào, họ đã cẩn thận lựa chọn những nơi trống trải, sạch sẽ khang trang. Mấy chú mấy bác thất vọng, cằn nhằn cau có vu vơ. Họ đã phí công đào mệt đừ còn mất thì giờ đắp lại, đào nơi khác. Đôi khi đụng phải nắp hòm lần nữa. Nhiều người đã phải đào tới đào lui nhiều lần mới toại nguyện. Mới hay nơi gò mả lạn này, những người từng làm nên một thời ở đây để lưu lại cho con cháu một vùng đất sinh tồn bao la bát ngát, nay đã yên thân yên phận như một chiến sĩ vô danh. Không tên không tuổi, không một nấm mồ, không người đoái tưởng.
Người chết mai táng ở Gò Bướm đã đành. Chó chết, mèo chết, ngay cả trâu bò chết cũng đem chôn chung ở đó. Hỗn độn, không phân biệt nơi đâu dành riêng cho chỗ nằm của con người và nơi nào của thú vật. Bọn chúng tôi hầu như đều có mặt đông đủ để chứng kiến, theo dõi cảnh vòng cổ thây mèo thây chó kéo lết ra gò. Bà con đào sơ sơ vài cuốc đất, vất xuống qua loa rồi hấp tấp lắp lại bằng phẳng. Về sau, mỗi lần đi ngang qua, chúng tôi hù nhau, gọi ma chó ma mèo… rồi tha hồ thêm thắt tán dóc với nhau bao nhiêu chuyện về ma chó ma mèo. Nhưng thật sự những loại ma cỏ này chỉ có trong trí tưởng tượng phong phú của chúng tôi mà thôi.
Con trâu Dõng của ông ngoại tôi kiệt sức, chết già sau khi giúp ông tôi liên tiếp mấy thập niên gầy dựng cơ nghiệp. Ông tôi rất thương yêu người bạn đường trung thành, tận tình tích cực ấy nên từ chối, dứt khoát không xiêu lòng nghe theo lời yêu cầu khẩn thiết của bà con lối xóm muốn xẻ thịt chia phần. Ông đem chôn chu đáo nơi cái chéo hướng Tây của gò Bướm. Cũng có huyệt mả đàng hoàng. Cũng có nhang khói tươm tất. Vì ông tôi có ý mong muốn vong hồn nó sẽ siêu thoát về Tây phương, thảnh thơi nơi miền cực
lạc. Hôm chôn, ông cũng có đốt mấy nén hương nguyện cầu, nếu một mai bất hạnh phải đầu thai kiếp khác, nó sẽ không trở thành trâu nữa, quanh năm vất vả sớm khuya. Đêm đêm, từng chập, ông tôi rảo qua gò, đánh một hai vòng canh chừng. Ông sợ những người ở xóm bên, nhứt là bợm nhậu sớm trưa chiều tối như hũ chìm, chèo ghe qua lén đào lên đem về xẻ thịt. Đôi ba đêm như vậy, ông tôi mới thở phào nhẹ nhỏm.
Cái thú ở thôn quê hẻo lánh thuở thanh bình là được tham dự cảnh đạp lúa trâu những đêm trăng sáng, ngay giữa những thửa ruộng vừa mới gặt trong ngày. Trăng tròn vằng vặc mắc lửng trên không trung, tỏa ánh sáng lung linh huyền diệu xuống cánh đồng vàng mơ, thơm phưn phức mùi rạ mới. Gió mát trong lành phơn phớt từng cơn nhẹ nhàng sảng khoái. Bốn bề thanh vắng tĩnh mịch. Người ta chỉ nghe tiếng thở khìn khịt từng chập của những đôi trâu đen ngòm mập lút và tiếng nhắc nhở thúc hối thân tình của bác nông dân già phía sau. Cảnh đạp lúa đêm rộn rịp vui nhộn lắm. Ai đã một lần hân hạnh được tham dự sẽ nhớ đời. Không sao quên được niềm hạnh phúc trong sáng ấy. Nhứt là khi nó đã mất hút vào dĩ vãng theo sự đào thãi của tiến trình sinh diệt. Ít ra cũng năm bảy bãi lúa lớn đại, xây khít đeo, núm níu nhau như để gìn giữ hơi ấm giữa đêm lạnh. Mỗi bãi có một hay hai đôi trâu đen xì quầng thảo vòng vòng vòng vòng… không ngừng nghỉ. Thêm những người phụ làm việc lặt vặt như sởi lúa, vô bao chỉ xanh, kẻ khuân vác chất ngay ngắn thẳng hàng trên cộ trâu để tải về lẫm trại, dứt điểm ngay trong đêm. Gặp lúc cuối năm rắp Tết, cảnh náo nhiệt còn tưng bừng hơn. Ai ai cũng quyết tâm gắng sức, ganh đua nhau hoàn tất sớm để kịp rước ông bà, hỉ hạ ba ngày xuân. Thỉnh thoảng có những phút ngắn ngủi nghỉ giải lao với trà nước nóng, bánh trái ngon ngọt. Họ ngồi chùm nhum, phì phà thuốc rê vấn tay, đấu chuyện tào lao mùa màng, mưa nắng... không thua gì ở những đêm trẩy hội, đình đám định kỳ trong xóm.
Nhiều lần tôi theo ông tôi trông coi đạp lúa trăng, thức khuya không nổi, đành ngủ gà ngủ gật chịu trận. Tôi chọn lựa dựa lưng vào mấy bó lúa khô vừa mới cắt lúc tang tảng sáng, chất ngùn ngụt như núi. Canh hai, canh ba, nửa tỉnh nửa mơ, tôi lẩm đẩm bám theo sát chân ông tôi trở về nhà. Một phần mệt mỏi nhưng cũng đã đến lúc ông tôi phải nghỉ ngơi do tuổi già sức yếu. Đường xa diệu vợi... Đêm khuya rờn rợn lạnh tanh. Tiếng gà gáy đua nhau báo sang canh nghe lảnh lót, tiếp nối ngân nga xa xa, nơi những xóm vắng còn ngái ngủ. Ông cháu tôi đi trên bờ mẫu ngoằn ngoèo, uốn éo lăng quằng lích quỵt mút chỉ cà tha. Thỉnh thoảng ông cháu tôi băng ngang mấy gò nổng, lùm buội sẫm đen.
Những gò này quá quen thuộc với ông tôi suốt cuộc đời bầm dập của ông trên chéo đất ông cha gầy dựng để lại. Đối với chúng tôi cũng chẳng xa lạ gì. Nhưng không biết sao trong lòng tôi lúc này lại nôn nao lo sợ, nơm nớp bâng quơ một cái gì không rõ ràng lắm. Ông tôi khơi chuyện này chuyện nọ không dứt, cốt ý để tôi đối đáp cho tỉnh táo. Và ông tôi cũng an tâm vì biết tôi hãy còn lẻo đẻo theo chân ông, không bị sụp lỗ trổ lún sình hay chúi đầu xuống bưng nước.
Trăng bắt đầu lặn. Ánh sáng yếu dần. Cánh đồng trở nên mờ mờ ảo ảo, vắng lạnh rờn rợn hơn trước. Ông cháu tôi còn băng qua Gò Bướm mới tới nhà. Trong đầu óc tôi lãng đãng bao nhiêu chuyện ma tưởng tượng. Ma người, ma chó, ma mèo… Đầy đủ các loại ma không biết từ đâu bỗng dưng đến tuần tự trong đầu óc non nớt của tôi. Hầu như loại ma này chúng tôi đã từng dặm mắm thêm muối kể cho nhau nghe vào những buổi nắng gắt, dưới bóng mát rặng trâm bầu hay đùng đình đủng đỉnh. Bờ mẫu quanh co, nhiều chỗ lồi lõm lại hẹp té. Cỏ may dầy đặc. Hai người tránh nhau không khéo va chạm, có người phải lọt tuốt xuống ruộng nước. Có đoạn sạt lở tầy quầy do đám chăn trâu mải mê vui chơi, thả trâu tự do trèo lên tuột xuống. Mấy lỗ trổ bị nước đục khoét lâu ngày lở loét to thêm. Hai bên gai gốc lấn chiếm lòng bờ không cách nào đi song song nhau được.
Tôi đi theo sau ông tôi, lòng thầm nghĩ có ông đi đàng trước, mình đi phía sau vững bụng vững dạ hơn. Nhưng chẳng được bao xa, từ từ ngoái nhìn sau lưng, tôi chỉ thấy một màu đen sẫm dầy đặc, nhất là những lúc trăng lu bị che khuất bởi mây đen. Tự nhiên lúc đó tôi nghe ớn lạnh xương sống. Tôi chột dạ, chen lấn ông tôi chạy ra phía trước. Hai bóng ông cháu cứ nhấp nha nhấp nháy, co giãn trước mặt không ngưng. Bóng đen huyền như bóng ma chập chờn nhảy múa trong các chuyện kể dân gian hay những truyện liêu trai ma quái Trung Hoa cổ thời. Lúc đến Gò Bướm, lòng hồi hộp như đánh lô tô, khi nhớ ma chó ma mèo, tôi sợ hãi đi chầm chậm. Rồi tôi khựng lại, thụt lùi chạm phải chân ông tôi.
- Làm gì vậy cháu? Cứ đi đi. Sắp tới nhà rồi. Có ông ở phía sau nè.
Một đốm lửa nhỏ nhảy tới nhảy lui trong đêm đã ngã màu sẫm đục. Thỉnh thoảng nó vọt lên cao, chói sáng lòa rồi tiếp tục nhảy tới nhảy lui như trước. Tôi chăm chú, mở rộng đôi mắt nhìn, mạnh dạng bước tới theo lời trấn an thúc hối của ông tôi. Tôi nhủ thầm:
- Rõ ràng đây không phải đôm đốm bay đêm. Mà chắc có lẽ là hồn phách người chết vừa được mở cửa mả. Họ nhớ mái ấm nhà xưa, đang lần mò tìm về, như đám chăn trâu vừa kể tôi nghe cách đây không lâu?
Ông tôi vẫn tiếp tục nói chuyện này nọ nhưng tôi lặng thinh chẳng còn bụng dạ nào yên ổn để nghĩ tới. Một đỗi sau, đóm lửa đến rất gần. Hai chân tôi lọng cọng, cứ cọ xát vào nhau, khiến tôi gần chúi nhủi tới trước. Cũng may, ông tôi nhận ra ngay người đi ngược chiều, đánh tiếng chào hỏi nhau thân mật, cũng là lúc điếu thuốc khách quen đang cầm trên tay vừa tắt. Tôi hú hồn, thở phào, lòng nhẹ hêu sung sướng hơn lúc nào hết.
***
Ông Sáu Kiếm có biệt tài bắt vong. Trong nhà, nơi mấy kệ vách phía sau bàn thờ, ông chất lủ khủ nào chai lọ, nào chình hũ được ông bịt miệng kín mít bằng những tấm vải đỏ, buột chặt qua mấy nuộc lạc dừa. Cứ nhìn quang cảnh đó trong lòng chắc chắn sẽ nhói lên một cảm giác linh thiêng huyền bí khó tả. Không biết ông hành nghề này từ bao năm rồi. Chỉ biết thiên hạ quen miệng gọi ông là ông Thầy Sáu Lỗ Bang. Đúng hay sai thế nào chẳng ai để ý đến làm chi. Bà con đồng loạt đã gọi như vậy từ thuở nào. Thôi thì cứ gọi theo thói quen, cũng chẳng chết một ai.
Trong xóm ai ai cũng kính trọng nể nang, biết tên biết tiếng ông. Ông khá trọng tuổi, tròn trèm cái tuổi «cổ lai hi» mà người xưa hằng mơ ước, nhưng trông ông vẫn còn mạnh khỏe, lanh lẹ quất thước. Bộ râu lão dài thậm thượt, đen huyền như màu tóc của ông. Do đó, những lúc cạn ly đầy, đầy ly cạn với thông gia, với bằng hữu, ông cao hứng bảo máu huyết ông tốt nên tóc râu đen mượt, sức khỏe mới dồi dào sung mãn, tràn đầy sinh lực như vậy. Đầu ông để búi tó, to chừng phân nửa nắm tay người lớn. Loại búi tó này hiện nay hiếm lắm dù ở miền quê hẻo lánh. Dân gian nôm na gọi là củ nừn. Giá như ông Sáu không có biệt tài bắt vong có tầm thước để được bà con trọng vọng nể vì thì chém chết, chạy trời không khỏi nắng, ông không sao tránh khỏi hỗn danh ông Sáu Củ Nừn từ khuya rồi. Mỗi khi ra khỏi nhà đi công chuyện hoặc cúng kiến do được thỉnh mời, ông vấn cái khăn đỏ loét, lòn gọn lỏn dưới búi tó rồi lanh tay ngoái hai đầu khăn trước trán. Một cử chỉ quá quen thuộc hằng ngày. Ông chỉ làm trong nháy mắt, rất điêu luyện.
Thân chủ của ông không phải là những người xa lạ. Đa số là những gia đình sinh sống lâu đời chung quanh Gò Bướm. Đám con cháu họ thường bị quỷ ma khuấy phá. Họ bảo chúng bị người khuất mặt khuất mày quở phạt quấy rầy lúc chạng vạng tối đỏ đèn, khi chúng còn trì hưởn, lạng quạng rong chơi ngoài gò nổng. Do vậy, chúng bệnh hoạn rề rề, ốm đau không dứt. Bà con tôi tin như thế qua nhiều thế hệ khắc cốt ghi tâm. Do tập quán xưa, thâm căn cố đế tận xương tủy rồi. Khó có thể loại trừ ngay được những dị đoan mê tín ấy. Các ông các bà có thói quen rầy la, không cho con cháu nấn ná ngoài gò lúc mặt trời sắp tan biến sau những mái tranh sẫm màu tận chân trời xa. Phần lớn là những người thuộc thế hệ trước, suốt cuộc đời chưa một lần rời khỏi lũy tre làng hay bến nước thôn ấp. Thầy thuốc bắc, thuốc nam đếm trên đầu ngón tay, lại ở nơi chợ làng, chợ quận, xa thôn xóm cả ngày đường ghe xuồng. Đi và về vừa xa xôi, vừa cực nhọc trần ai lai khổ. Thỉnh mời càng thêm bất tiện. Các thầy thuốc chê xa, phí mất thời giờ quý báu của họ.Thôi thì cứ cậy ông Sáu Lỗ Bang đến bắt vong, xua đuổi ma quỷ là xong chuyện. Thật giản đơn. Không phiền hà, không làm nhọc lòng một ai cả. Ông cũng chẳng đòi hỏi thù lao gì quá đáng. Hơn nữa, tình cảm của ông đối với bà con láng giềng lúc nào cũng đằm thắm lắm.
Ông làm đồ mã rất khéo tay. Nào nhà cửa, xe cộ, nào lâu đài, ghe thuyền màu sắc sặc sỡ trông đẹp mắt. Sau khi cúng kiến thịnh soạn, vái van đủ lễ, đồ mã được ông đem đốt cháy trước sân phừng phừng, lửa ngọn bốc cao nóng ran. Quang cảnh quến con nít rạn đất. Ông lẩm rẩm khấn nguyện, từng chập tưới lên vài chum rượu đế gọi mời tưởng nhớ những người khuất mày khuất mặt. Lửa lại phừng lên cao và tro giấy bay cuồn cuộn hướng thẳng lên tầng không. Xong, ông mang thức ăn và giấy tiền vàng bạc thả trôi sông trên những bè chuối hay những bập dừa kết chặt vào nhau. Bè sẽ lênh đênh theo giòng nước, bạ đâu tắp đấy. Loại thức ăn thả lênh đênh trên sông rạch này, người đi trên ghe xuồng gặp phải thường tránh xa, không hề dám đụng đến. Họ sợ chạm vong linh những người khuất mày khuất mặt, có thể phật lòng hãm hại họ. Theo tập quán lâu đời, chỉ có đám chăn trâu mới dám vớt lên để ăn mà không hề chi.
Ông Sáu hãnh diện thuật lại tỷ mỷ từng chi tiết với bà con, một lần ông bắt được con quỷ cái, chưa tới số, chết trôi ấm ức nên hung hãn, thường xuyên lồng lộn phá phách nhiều gia đình. Nó chỉ có một mắt. Ông bảo “Voi một ngà, đàn bà một mắt”. Đủ biết sự hung hãn của nó đến mức nào, khỏi cần ông dài dòng thêm. Tuy là nghề tay trái, nhưng ông rất bận rộn, được thỉnh mời luôn. Ông vừa cúng ở nhà này, lật bật mấy tuần sau thấy ông đến nhà khác. Quanh quẩn chung quanh Gò Bướm. Trống kèn, đập bồn đập bát inh ỏi.
Mấy hôm rày, thằng con út sinh sau đẻ muộn của ông Hương thân Xéo bịnh rề rề, nóng khô môi lở mép, mắt lem nhem lờ mờ. Nó bỏ ăn bỏ uống, khóc la suốt đêm, cằn nhằn cẳn nhẳn tối ngày. Dĩ nhiên, ông Sáu Kiếm được ông Hương thân khẩn khoản chầu trà rượu, trầu cau trịnh trọng mời thỉnh. Vào nhà chưa kịp ngồi, ông đảo mắt một vòng trước sau rồi ngửa mặt lên trời cau có bực dọc: - Chà chà! Tụi quỷ ma Gò Bướm này quả tình lật lộng, dỡn mặt tui lắm nghen! Vuốt mũi phải nể mặt chớ!
Đặt tách nước trà nóng hổi lên khay, ông đằng hắng hứa hẹn phen này ông sẽ cho lũ nó biết tay ông. Nó lật lộng hung bạo bao nhiêu thì ông cũng già dặn lão luyện bấy nhiêu. Ông cao tay ấn không vừa. Ông nhất định không nhân nhượng được nữa. Cúng vái xong, nhang đèn hãy còn cháy lung linh huyền diệu, hương khói xông lên quyện tròn lan tỏa để tan biến dần. Ông phủ mảnh khăn đỏ lên đầu, thòng chí mí vai, nhậu gần cả nhạo đế, loại đế ông Hương thân tự nấu lấy với nếp men nhà vừa xong, pha chế đúng chữ, thơm phức ngọt lịm. Ông bắt đầu đọc lẩm nhẩm dồn dập, lấp chữ nuốt lời, dù có lấp ló cạnh bên cũng chỉ nghe tiếng được tiếng không, đoạn rõ ràng, đoạn mất lửng. Tay ông cầm hình vong bằng vải, đầy đủ đầu, mình, mắt môi, tay chân. Nơi thân mình có gắn một lục lạc nhỏ. Hình vong nằm gọn lỏn trong tay ông, ở tầm mức ngang ngang màng tang. Vừa đọc ông vừa lắc lắc, lay nhẹ hình vong nhịp nhàng. Lục lạc khua leng keng, leng keng… không dứt. Ba cây nhang đang cháy được ông kẹp ở vành tai hướng ngược lên phía trước, nghi ngút khói.
Cả gia đình ông Hương thân Xéo đồng thanh giữ im lặng tuyệt đối. Họ chăm chú theo dõi từng cử chỉ nhỏ nhặt của ông. Rượu vào ngà ngà. Ông Hương thân thỉnh thoảng chuốt thêm rượu vào nhạo, cẩn thận rót đầy ly, mỗi lần bọt trắng mịn màng, kết quyện vào nhau. Ông Sáu Kiếm gục gặc, thở dồn dập, ợ lên ợ xuống mấy cái liền, tay xiết mạnh hình vong. Có tiếng người lấp ló phía sau khe khẽ suỵt suỵt kín đáo. Ông Sáu cất lời, vẻ giận dữ:
- Nhà ngươi tên họ là gì? Phải khai trình cho rõ tông ty họ hàng ngay, kẻo ta nổi nóng mà mang họa.
- Ái da...! Ông nới tay một chút cho kẻ hèn này được nhờ. Tôi nghẹt thở sắp chết tới nơi rồi. Nhè cuống họng của tôi mà ông xiết mạnh quá. Không khéo bị thương tật, sau này làm sao tôi ăn uống đớp hít được?! Tôi ngự trị lâu nay ở Gò Bướm này, ai cũng biết. Họ gọi tôi là Con Quỷ Đầu Đỏ. Xin ông nhẹ tay với tôi.
- À ha! Thế ra nhà ngươi là con quỷ hung hãn, lật lộng, thường xuyên hoành hành quấy phá dân tình ở đây? Nhà ngươi muốn gì mà đang tâm hãm hại bà con lương thiện vậy? Có ai xa lạ gì đâu? Đều là ruột rà thân thuộc, cùng chung thôn xóm cả. Hãy khai rõ thêm, ta sẽ tùy nghi cứu xét xử lý. Nếu không, ta sẽ xiết họng cho nhà ngươi tắt thở luôn.
- Lạy ông. Xin ông rũ lòng thương. Tôi nghe đồn đãi ông hiền đức nhân từ, độ lượng khoan dung lắm. Ông nới tay thương người lầm lỡ, bất hạnh thọ nạn. Mấy chục năm ngự trị ở Gò Bướm này, tôi từng gây mưa gây gió. Đàn em tôi riu ríu cúi đầu phủ phục, không đứa nào dám hó hé dù là một tiếng thở dài thầm lặng, một tiếng than kín đáo. Ma mới ma cũ, già trẻ trai gái, tất cả đều răm rắp tuân lệnh tôi, không tên nào dám ọ ẹ rục rịch cãi lời. Mà cãi lời là chết với tôi. Đối với tôi chỉ có tuân phục, cúi đầu ngoan ngoản vâng dạ thôi. Nay thì...
- Quả nhà ngươi gan trời, mình đồng da sắt, dám lợi dụng cái gò hỗn mang hoang vu này để tung hoành gây giông gieo bão. Ta sẽ trừng trị nhà ngươi đích đáng. Ta sẽ bắt và oánh nhà ngươi cho bỏ thây luôn. Nhà ngươi đã tới số rồi, chạy đâu cho khỏi mệnh trời.
- Ông ơi! Tại bản tính tôi vốn hung bạo, trên đầu xem chẳng có ai. Chẳng Trời, chẳng Phật, chẳng Thánh, chẳng Thần, chẳng chi chi cả. Tất cả tôi xem như rơm như rác, cục phân không bằng. Tôi chỉ lo sung sướng bản thân cùng với đám em út khuyển mã được bao che. Kỳ dư, đối với tôi đều là thù nghịch hết, tôi phải đánh phá loại trừ. Tôi đã trình qua. Ông nương tay đôi chút cho tôi nhờ.
- Nhà ngươi quá quắt lắm. Cái Gò Bướm này đâu phải của riêng nhà ngươi mà nhà ngươi phóng tay cưỡng chiếm, tiếm đoạt rồi uy hiếp áp bức người hiền lương suốt cả đời cần cù khổ cực. Gò Bướm là tài sản của cải chung của bà con ở đây qua nhiều thế hệ góp công xây dựng nên. Không phân biệt một ai cả. Nhà ngươi chẳng hề đóng góp một xu lớn xu nhỏ nào. Chả đổ một giọt mồ hôi công sức vào sự nghiệp to lớn đó của tiền nhân. Nhà ngươi chỉ bỏ ra ba mớ nước bọt rồi dùng những lời đường mật mỹ miều đương nhiên cướp công cướp của của người dân lương thiện, chí thú làm ăn. Chẳng những nhà ngươi bức hại vong linh người chết bơ vơ cô thế còn cả gan phá phách hãm hại người sống nữa. Tội nhà ngươi quả đáng chết.
Nói xong, ông Sáu Kiếm lắc mạnh và xiết chặt hình vong. Trông ông có vẻ giận dữ chưa từng thấy. Lục lạc leng keng, leng keng liên hồi. Lúc mạnh lúc nhanh. Con quỷ thở hồng hộc…Giọng nó rung rung sợ hãi:
- Ông ơi! Xin ông mở rộng lượng hải hà. Ông vốn có truyền thống từ bi hỉ xả, đại lượng thứ tha, thương người lỡ lầm sa vào vực thẳm. Ông đã hé cho tôi thấy rõ ràng tội lỗi tầy trời bấy lâu nay của tôi. Tôi nguyện sẽ ăn năn sám hối, sửa đổi tánh tình, hoán cải cung cách đối xử trong tình huynh đệ anh em để cùng nhau sống hạnh phúc ở Gò Bướm, di sản chung của xóm. Tôi xin hứa, xin hứa...
- Nhà ngươi đã bị ta bắt hồn bao nhiêu lần rồi? Có nhớ không? Lần nào nhà ngươi cũng hứa hẹn sửa đổi, phân biệt chánh tà, đi theo đường ngay lẽ phải. Nhưng không bao lâu lại dở chứng, tật nào hoàn tật nấy, lật lộng nuốt lời trắng trợn. Nằm trong tay ta, nhà ngươi tỏ ra yếu hèn còn thua con trùn con dế, nhỏ nhẹ, dạ dạ vâng vâng, hứa tiều hứa quảng cho qua truông. Buông ra, cốt chồn hoàn cáo, còn hung hãn hơn, mưu mô quỷ quyệt hơn, gian trá ác đức hơn.
Ông Sáu Kiếm quát lớn:
- Nhà ngươi có nghe bà con ở đây nhất loạt ta thán oán hờn về những hành động đen tối bất chánh của nhà ngươi không? Nhà ngươi phải biết, con người dù sống dù chết, dù Tiên Phật quỷ ma, đều phải có chút liêm sỉ và tình thương tối thiểu. Đàng này, nhà ngươi chỉ chực chờ cơ hội hãm hại gây chết chốc khổ đau, gieo tang tóc chia lìa thôi. Ta không thể nào tin lời nhà ngươi nữa. Để ta hỏi qua gia chủ và bà con có mặt hôm nay xem phản ứng của họ ra sao? Tất cả vốn uất hận và bất mãn lắm.
- Ông ơi ông! Xin ông giúp giùm vài lời. Tôi nguyền mãi mãi tạc dạ ghi ơn. Tôi thành thật mà. Tôi sẽ giữ lời.
Ông Sáu Kiếm nóc tiếp một ly rượu đế, tỏ vẻ thấm mệt. Ông Hương thân Xéo bước tréo qua ván ngựa, lấy quạt lông gà tây máng ở vách buồng phất nhè nhẹ sau lưng ông:
- Thôi ta cũng chẳng hẹp hòi gì. Ta vốn chủ trương chuộng tình thương và không dị biệt. Ta vốn ước ao mọi người ở Gò Bướm này chung sống hạnh phúc và cảm thông với nhau, luôn cả nhà ngươi nữa. Tin lời nhà ngươi, ta thử tin thêm lần nữa xem sao. Nhưng ta buộc nhà ngươi phải mạnh dạng và thành khẩn tỏ thiện chí ngay, phải biểu lộ thiện chí đó bằng hành động cụ thể. Nói thì ai nói sao cũng được. Cứ làm đi. Ta sẽ công minh đánh giá việc làm của nhà ngươi. Nhà ngươi chắc thừa biết, ta vốn tinh thông thần phép, dư thừa thần lực. Trước sau, sớm muộn gì ta cũng khuất phục được nhà ngươi, thu gom về một mối. Dù cho có phải mất một thời gian dài đi nữa. Ta báo cho nhà ngươi biết trước để mà liệu hồn liệu thân.
Con Quỷ Đầu Đỏ thở dồn dập, lặng im thin thít. Ông Sáu quát to:
- Sao nhà ngươi lặng im không nói? Phản đối thụ động à?
- Tôi đuối sức quá rồi ông ơi! Tôi đang đói, đang khát. Tứ chi tôi bủn rủn. Hầu như tinh thần tôi đang kiệt quệ trầm trọng và niềm tin tôi sa sút đến nguy hiểm.
- Ta sẽ cung cấp thức ăn nước uống cho nhà ngươi để cầm hơi. Điều kiện tiên quyết của ta là thiện chí của nhà ngươi phải được biểu lộ lập tức và dứt khoát, không dùng dằng mà cả, không quanh co tránh né. Nhà ngươi phải để yên thằng con của gia chủ. Phải đảm bảo nó được tự do chạy nhảy vui chơi bất kỳ nơi nào ở gò Bướm, không ngoại trừ giờ giấc. Nhà ngươi phải tôn trọng các gia đình ở đây để mọi người thanh thản an tâm làm ăn, không phập phồng lo sợ, không bị ám ảnh bởi những ý đồ và hành động đen tối của nhà ngươi nữa. Ta sẽ đề nghị gia chủ và bà con trong xóm cất ngay một miễu nhỏ ven gò, cạnh dãy đùng đình đủng đỉnh ngất nghểu cuối xóm xa xa kia để nhà ngươi có nơi sám hối, có nơi tu tâm dưỡng tánh, trở về đường ngay lẽ phải, sớm đi theo chánh đạo và chánh nghĩa.
- Ông ơi! Tôi đội ơn ông biết dường nào! Có điều tôi còn băn khoăn ái ngại quá! Bấy lâu nay tôi là kẻ vô tâm vô thần. Trời Phật, Thánh Thần, Cha Thầy, Sư Vãi... tôi đều nhạo báng rẻ khinh, chưởi rủa, chà đạp xem như cỏ rác không bằng. Nay ông bảo tôi tu tâm sám hối. Các đấng linh thiêng có chấp nhận cho tôi không? Hơn nữa, tu có dễ không ông?
- Nhà ngươi quả đa nghi. Cái tính đa nghi này có lẽ đã ăn sâu vào xương tủy của nhà ngươi từ bao nhiêu năm rồi. Các đấng linh thiêng là những người siêu phàm, dĩ nhiên sẽ sẵn sàng mở rộng vòng tay thứ tha hỉ xã thôi. Mọi việc đều dễ. Nhưng mọi việc cũng đều khó. Dễ trong khó. Khó trong dễ... Nhà ngươi phải quên đi từng bước cái ngã xấu xa của mình để tan biến trong cái ngã chung của bà con chòm xóm. Nếu thật lòng, mọi người sẽ dang tay giúp nhà ngươi hoán cải. Nhà ngươi nên nhớ đây là một dịp cuối cùng trong đời của nhà ngươi đó. Ta sẽ giải thoát nhà ngươi lần sau cùng.
***
Mâm cỗ ê hề dọn trên bàn giữa, đối diện với bàn thờ chánh. Lư hương, chân đèn sáng choang óng ánh. Hoa quả sắc màu trưng đủ loại. Khói hương hãy còn nghi ngút, nhẹ nhàng quyện đều uốn éo hướng lên trần nhà, len lỏi theo mấy cành hoa huệ tốt tươi thơm ngát. Ông Thân Xéo thỉnh ông Sáu Kiếm vào ngồi trước tiên nơi đầu bàn, chỗ danh dự của hang trưởng thượng chức sắc. Giờ đây ông bệ vệ như vị khách quý. Mấy bà con trọng tuổi khác lần lượt ngồi giáp bàn dài hai bên chái nhà. Chân bàn chạm trổ hình chim công oai vệ đậu trên đầu sư tử. Mặt bàn bằng đá cẩm thạch mát lạnh.
Câu chuyện bắt vong khi nảy được tiếp tục theo hơi men nồng rượu cay. Tiên chủ hậu khách theo đúng thông lệ, tập tục xưa nơi thôn quê, người trên kẻ dưới phân minh rõ ràng. Chén anh chén em không ngớt miệng. Người lắc lư chếnh choáng. Kẻ mặt đỏ phừng phừng. Nhưng chẳng ai chịu kém ai nửa bước. Nhạo rượu được gia chủ tới lui châm thêm không biết bao nhiêu lần với lời mời mọc chí tình chí nghĩa. Đầu bàn tấm tắc khen rượu dịu ngọt giữ bọt. Cuối bàn không hết lời tâng bốc pha chế khéo tay, đúng chữ.
Ông Sáu Kiếm vuốt râu, vấn lại khăn trên đầu rồi thao thao về thành tích vừa qua, đã bắt được Con Quỷ Đầu Đỏ lợi hại. Ông quả quyết không dễ gì điều khiển được nó. Phải già tay ấn lắm. Ông đã trầy vi khổ ải, xử dụng hết thần phép chưởng lực của mình vì nó lão luyện mánh mung, đa mưu túc trí, già dặn kinh nghiệm. Giọng sành sõi, ông nói tiếp:
- Tôi không dám khoe khoang với bà con. Hồi thọ giáo với thầy tôi, người căn dặn, nhắc tới nhắc lui phải luôn luôn khiêm tốn. Mình hay nhưng trong thế gian còn có người tài giỏi hơn mình. Chí tình, tôi muốn nói với chú Hương thân và bà con ở đây biết trong mấy chục năm liên tiếp hành nghề, được mời thỉnh nhiều nơi, bắt đủ hạng vong, lớn có nhỏ có, đàn ông có đàn bà có, trai gái đủ cả, nhưng chưa lần nào tôi vất vả như hồi sáng này. Tôi đã lập đủ thế thần, dùng đủ mưu mẹo mới quật được nó. Ông tủm tỉm cười:
- Nó đa nghi còn hơn Tào Tháo. Đôi mắt láo liên. Di chuyển thận trọng. Lừa nó vào bẫy, nắm hầu nắm họng nó vuột lên vuột xuống trầy vi tróc vảy, trần ai lai khổ. Thôi cũng yên rồi. Tôi mừng. Cũng nhờ phước đức gia đình chú Hương thân đây.
Có người hoài nghi thắc mắc đặt câu hỏi liệu nó có ngóc đầu dậy, trở quẻ bội ước trắng trợn vô liêm sỉ như những lần trước không? Ông Sáu Kiếm đi nốt ly đế nghe tiếng tróc ngọt lịm, khà một hơi dài rồi nói:
- Tôi đã lo xa, ếm con dao phay sâu lút cán nơi khoảng đất trống giữa gò, chỗ chú Hương thân chọn để cất cái miễu tới đây. Chỗ đó là cái yết hầu của nó. Tôi lại chêm thêm một lá bùa tuy không độc lắm nhưng coi như tôi đã bẻ giò bẻ cẳng, nhổ bỏ một phần nanh vuốt của nó rồi. Hẳn nhiên, đám đàn em của nó thấm tháp nhằm nhò gì. Toàn là lũ ma đầu tham lam bần tiện, bản thân chết nhát, a dua xua nịnh, toa rập ăn bẩn. Đàn anh chúng nó bó tay thúc thủ, chúng nó sẽ rã đám tan hàng ngay.
Ông nhíu mày ra tuồng suy nghĩ đắn đo rồi phân giải dài dòng thêm:
- Nhưng thật tình mà nói, bà con mình cũng phải tỏ ra hiểu biết, thức thời và tích cực một chút. Mình mà thụ động buông xuôi thì ai vào đây giúp mình. Mình phải làm chủ vận mệnh của mình, của gia đình và thôn xóm mình. Mình phải đoàn kết nhứt trí lo việc chung. Nhà cửa không nên để u u tăm tăm, đêm ngày âm ỉ đen tối, đám quỷ ma mất dạy lợi dụng để lén lút quanh quẩn bên mình. Bớt việc ngày ngày cúng kiếng, xá xá vái lạy, lo lót nuôi dưỡng thường xuyên chúng nó. Dĩ nhiên, chúng nó phây phởn, nào ưng chịu buông tha dễ dàng mình đâu. Nhiều nhà để mấy gốc mướp hương leo bám lên mái, lá mướp trùm phủ tối tăm, bảo sao chúng nó không nương vào thừa cơ hội làm điều mờ ám. Mấy cây rơm sát hè cám dỗ đàn gà tối ngày bươi móc tìm trùn dế, lúa sót, qua mùa mưa xông mùi khó chịu. Nên dời ra nơi xa một chút. Đừng để buồng phòng nhà cửa tối thui kín mít.
Ông nghiêm nghị:
- Quỷ ma vốn có ý đồ đen tối, hành động đen tối, thích nơi đen tối, lợi dụng chỗ tối đen. Chúng nó rất sợ nơi sáng sủa, thanh thiên bạch nhựt để dễ làm những điều mờ ám.
Mọi người đều lắng tai nghe. Im lặng tuyệt đối. Được nước, ông lên lớp tiếp:
- Cái gò Bướm này cũng nên tẩy sạch lùm buội, đốn hết dứa gai. Nên chặt bỏ mấy cây cổ thụ, da dẻ sần sùi tróc lở, nổi u nổi cục, cành lá bệnh hoạn đèo đẹt. Bà con mình nghĩ xem có đúng không? Dưới gốc mấy cây cổ thụ đó, đâu có một cây con nào mọc ra hồn. Chúng bị che, thiếu nắng. Nếu có mọc nổi đi nữa cũng xanh xao vàng vọt, mảnh khảnh yếu ớt, thiếu hẳn sức sống, chĩa thẳng suông đuột với lá cành hiếm hoi lưa thưa. Sau này mả mồ cũng nên sắp xếp ngay hàng thẳng lối, có ranh giới đường đi rõ ràng khang trang. Được vậy, tôi tin quỷ ma sẽ không còn nơi nương tựa, sẽ bó tay phủ phục. Và Gò Bướm này nhứt định sẽ được yên ổn lâu dài.
Ngừng một chút, ông nhấn mạnh, gằn từng tiếng:
- Tôi tin chắc ở quy luật bất di bất dịch của Trời Đất, hễ mình vượng, quỷ ma nó yếu. Hễ mình mạnh, lũ nó xuống nước nhỏ quy lụy mình ngay.
Tiệc sắp tàn... Ông Sáu Kiếm bảo ẵm thằng nhỏ ra để ông làm mấy dấu trên trán nó, nựng yêu cái cằm nhọn hoắc của nó mấy lượt rồi quay qua nói với ông Hương thân Xéo:
- Chú Hương thân tiếp tục cho cháu uống thêm mấy liều thuốc do ông Tam Thiện Đường ở chợ Gò Đen cho toa hiện còn lại. Tiếp tục cho uống đến hết. Tốt lắm. Vài ngày cháu sẽ lợi nghỉnh, ăn chơi cho mà coi.
Ông Sáu Kiếm chít khăn đỏ lòn phía sau búi tó như thói quen, sửa lại quần áo, dép nón chỉnh tề. Đoạn, ông giã từ ông Hương thân và bà con quen biết nơi bàn tiệc. Có người gật gù, bịn rịn đưa tiễn ông Sáu tận sân phơi lúa trước nhà, chân mặt bắt đầu đá nhẹ chân trái. Riêng ông Thân Xéo cũng không hơn gì. Thân mình ông ngã qua ngã lại chệnh choạng. Tôi đứng ven sân cùng lũ nhỏ trang lứa, nhìn theo ông Sáu băng qua Gò Bướm biến dạng nhanh chóng theo bờ bưng xa xa. Tôi thấy lòng mình bỗng dưng nhẹ nhỏm lạ kỳ, an tâm vững dạ hơn lúc nào hết. Hai ngón tay cái nằm gọn lỏn trong lòng hai bàn tay, tôi nắm chặt lại, lòng dặn lòng từ nay không còn sợ ma chó ma mèo nữa. Bỗng dưng trong lúc đó, tôi lại tin dứt khoát ở ngày tàn đương nhiên của Con Quỷ Đầu Đỏ từng phá hại xóm làng tôi. Và tôi cũng tin tưởng tuyệt đối ở tương lai an cư lạc nghiệp của bà con chung quanh Gò Bướm. Trong niềm tự tin đó, tai tôi còn nghe văng vẳng lời đoan chắc như đinh đóng vào cột của ông Sáu Kiếm:
- Mình vượng, quỷ ma nó yếu. Mình mạnh, chúng nó xuống nước nhỏ quỳ lụy phục tùng mình ngay.
Về sau, nông dân làm cỏ ruộng, hằng ngày chất lên những tấm ván mạ láng o do trâu kéo chậm chạp lướt trên ruộng nước, đem đổ đống ngùn ngụn ở đây. Đến nay trở thành gò đất cao ráo, lùm buội hỗn man, dây leo tha hồ mơn trớn quấn quít nhau khít đeo. Gò ở đầu trên xóm gọi là Gò Trên, cuối xóm Gò Dưới, lưng chừng là Gò Giữa. Mấy cái gò này chỉ cách nhau trong tầm mắt, thấy lù đù xa xa đó, nhưng từ gò này muốn sang gò khác lội bộ thiếu điều đứt hơi, mệt thụt mạng. Mỗi gò đều có một lịch sử nghĩa tình chân quê sâu đậm, keo sơn gắn chặt đậm đà với cuộc sống từ nhiều thế hệ. Một cuộc sống thấm đẫm tình gia tộc cội nguồn, nghĩa họ hàng, lân lý chòm xóm. Duy có Gò Bướm cạnh dãy bưng Bà Mụ to lớn hơn hết. Và nó được nhiều người nhắc nhớ vì mang chở bao nhiêu mẫu chuyện buồn vui còn truyền tụng mãi đến nay. Chung quanh gò, một số nóc gia san sát thành từng cụm, cách khoảng không mấy xa, réo gọi nhau vừa đủ nghe mỗi khi hữu sự khẩn cấp. Theo thời gian, gò trở thành nghĩa địa của bà con nghèo, đa số làm thuê làm mướn ngày mùa. Trong khi đó, những gia đình may mắn thành công trở nên khá giả, mai táng thân nhân nơi đất vườn sở hữu của họ.
Không mấy chốc, những gò này đầy mồ mả ngổn ngang. Do số người có chút ít máu phiêu lưu lập nghiệp vào đây khẩn hoang tăng vượt hằng năm. Mả mồ có cái được chăm sóc, giẫy sạch ngày tư ngày Tết. Số khác trở thành mả lạn, không còn trông thấy nấm mồ. Họ thuộc lớp người tiên phong đốt rừng vỡ đất, nằm xuống nơi này quá lâu. Có thể năm bảy chục năm hay hơn nữa. Lúc sanh tiền, họ là những người vô danh vô phúc qua một định mệnh khắc khe bần hèn. Đến lúc chết, họ vẫn không thoát khỏi nỗi buồn cô đơn hiu quạnh, không người sớm viếng tối thăm, không một kẻ đoái hoài. Còn gì đau khổ cho bằng một kiếp người bất hạnh đã đi trọn cuộc sống thế gian trong hãnh diện tự hào! Về sau, con cháu làm ăn khấm khá hoặc vì chán nản cảnh vất vả lao nhọc nơi xứ phèn chua muỗi mòng, quanh năm quạnh hiu buồn tênh nên bỏ tìm nơi khác mưu sinh. Họ không buồn trở về làng cũ quê xưa trùng tu mồ mả cha ông dịp tiết Thanh Minh hằng năm. Dứa gai chơm chởm tha hồ mọc loạn xạ cào cào. Bìm bìm, dây leo, dây choại mặc tình đan quyện nhau, ôm ấp trửng dỡn, bò lên tuột xuống nhỏng nha nhỏng nhảnh ở những buội rậm, giang san kiên cố bất khả xâm phạm của chồn cáo, chuột bọ và nhứt là rái cá.
Thuở nhỏ, tôi vốn có tánh hiếu kỳ rất sớm. Tôi thường lót tót chạy theo mấy chú mấy bác lớn tuổi hoặc các bậc đàn anh, xem đào huyệt, mỗi khi trong xóm có tang khó. Do đó, gò nào trong xóm, dù hoang vu cách mấy, đều có đâu đó dấu chân của tôi. Cuốc xuổng phụp xuống liên hồi đành đạch đành đạch… chỉ độ năm ba tấc, đụng phải nắp hòm cùm cụp. Mặc dầu trước khi đào, họ đã cẩn thận lựa chọn những nơi trống trải, sạch sẽ khang trang. Mấy chú mấy bác thất vọng, cằn nhằn cau có vu vơ. Họ đã phí công đào mệt đừ còn mất thì giờ đắp lại, đào nơi khác. Đôi khi đụng phải nắp hòm lần nữa. Nhiều người đã phải đào tới đào lui nhiều lần mới toại nguyện. Mới hay nơi gò mả lạn này, những người từng làm nên một thời ở đây để lưu lại cho con cháu một vùng đất sinh tồn bao la bát ngát, nay đã yên thân yên phận như một chiến sĩ vô danh. Không tên không tuổi, không một nấm mồ, không người đoái tưởng.
Người chết mai táng ở Gò Bướm đã đành. Chó chết, mèo chết, ngay cả trâu bò chết cũng đem chôn chung ở đó. Hỗn độn, không phân biệt nơi đâu dành riêng cho chỗ nằm của con người và nơi nào của thú vật. Bọn chúng tôi hầu như đều có mặt đông đủ để chứng kiến, theo dõi cảnh vòng cổ thây mèo thây chó kéo lết ra gò. Bà con đào sơ sơ vài cuốc đất, vất xuống qua loa rồi hấp tấp lắp lại bằng phẳng. Về sau, mỗi lần đi ngang qua, chúng tôi hù nhau, gọi ma chó ma mèo… rồi tha hồ thêm thắt tán dóc với nhau bao nhiêu chuyện về ma chó ma mèo. Nhưng thật sự những loại ma cỏ này chỉ có trong trí tưởng tượng phong phú của chúng tôi mà thôi.
Con trâu Dõng của ông ngoại tôi kiệt sức, chết già sau khi giúp ông tôi liên tiếp mấy thập niên gầy dựng cơ nghiệp. Ông tôi rất thương yêu người bạn đường trung thành, tận tình tích cực ấy nên từ chối, dứt khoát không xiêu lòng nghe theo lời yêu cầu khẩn thiết của bà con lối xóm muốn xẻ thịt chia phần. Ông đem chôn chu đáo nơi cái chéo hướng Tây của gò Bướm. Cũng có huyệt mả đàng hoàng. Cũng có nhang khói tươm tất. Vì ông tôi có ý mong muốn vong hồn nó sẽ siêu thoát về Tây phương, thảnh thơi nơi miền cực
lạc. Hôm chôn, ông cũng có đốt mấy nén hương nguyện cầu, nếu một mai bất hạnh phải đầu thai kiếp khác, nó sẽ không trở thành trâu nữa, quanh năm vất vả sớm khuya. Đêm đêm, từng chập, ông tôi rảo qua gò, đánh một hai vòng canh chừng. Ông sợ những người ở xóm bên, nhứt là bợm nhậu sớm trưa chiều tối như hũ chìm, chèo ghe qua lén đào lên đem về xẻ thịt. Đôi ba đêm như vậy, ông tôi mới thở phào nhẹ nhỏm.
Cái thú ở thôn quê hẻo lánh thuở thanh bình là được tham dự cảnh đạp lúa trâu những đêm trăng sáng, ngay giữa những thửa ruộng vừa mới gặt trong ngày. Trăng tròn vằng vặc mắc lửng trên không trung, tỏa ánh sáng lung linh huyền diệu xuống cánh đồng vàng mơ, thơm phưn phức mùi rạ mới. Gió mát trong lành phơn phớt từng cơn nhẹ nhàng sảng khoái. Bốn bề thanh vắng tĩnh mịch. Người ta chỉ nghe tiếng thở khìn khịt từng chập của những đôi trâu đen ngòm mập lút và tiếng nhắc nhở thúc hối thân tình của bác nông dân già phía sau. Cảnh đạp lúa đêm rộn rịp vui nhộn lắm. Ai đã một lần hân hạnh được tham dự sẽ nhớ đời. Không sao quên được niềm hạnh phúc trong sáng ấy. Nhứt là khi nó đã mất hút vào dĩ vãng theo sự đào thãi của tiến trình sinh diệt. Ít ra cũng năm bảy bãi lúa lớn đại, xây khít đeo, núm níu nhau như để gìn giữ hơi ấm giữa đêm lạnh. Mỗi bãi có một hay hai đôi trâu đen xì quầng thảo vòng vòng vòng vòng… không ngừng nghỉ. Thêm những người phụ làm việc lặt vặt như sởi lúa, vô bao chỉ xanh, kẻ khuân vác chất ngay ngắn thẳng hàng trên cộ trâu để tải về lẫm trại, dứt điểm ngay trong đêm. Gặp lúc cuối năm rắp Tết, cảnh náo nhiệt còn tưng bừng hơn. Ai ai cũng quyết tâm gắng sức, ganh đua nhau hoàn tất sớm để kịp rước ông bà, hỉ hạ ba ngày xuân. Thỉnh thoảng có những phút ngắn ngủi nghỉ giải lao với trà nước nóng, bánh trái ngon ngọt. Họ ngồi chùm nhum, phì phà thuốc rê vấn tay, đấu chuyện tào lao mùa màng, mưa nắng... không thua gì ở những đêm trẩy hội, đình đám định kỳ trong xóm.
Nhiều lần tôi theo ông tôi trông coi đạp lúa trăng, thức khuya không nổi, đành ngủ gà ngủ gật chịu trận. Tôi chọn lựa dựa lưng vào mấy bó lúa khô vừa mới cắt lúc tang tảng sáng, chất ngùn ngụt như núi. Canh hai, canh ba, nửa tỉnh nửa mơ, tôi lẩm đẩm bám theo sát chân ông tôi trở về nhà. Một phần mệt mỏi nhưng cũng đã đến lúc ông tôi phải nghỉ ngơi do tuổi già sức yếu. Đường xa diệu vợi... Đêm khuya rờn rợn lạnh tanh. Tiếng gà gáy đua nhau báo sang canh nghe lảnh lót, tiếp nối ngân nga xa xa, nơi những xóm vắng còn ngái ngủ. Ông cháu tôi đi trên bờ mẫu ngoằn ngoèo, uốn éo lăng quằng lích quỵt mút chỉ cà tha. Thỉnh thoảng ông cháu tôi băng ngang mấy gò nổng, lùm buội sẫm đen.
Những gò này quá quen thuộc với ông tôi suốt cuộc đời bầm dập của ông trên chéo đất ông cha gầy dựng để lại. Đối với chúng tôi cũng chẳng xa lạ gì. Nhưng không biết sao trong lòng tôi lúc này lại nôn nao lo sợ, nơm nớp bâng quơ một cái gì không rõ ràng lắm. Ông tôi khơi chuyện này chuyện nọ không dứt, cốt ý để tôi đối đáp cho tỉnh táo. Và ông tôi cũng an tâm vì biết tôi hãy còn lẻo đẻo theo chân ông, không bị sụp lỗ trổ lún sình hay chúi đầu xuống bưng nước.
Trăng bắt đầu lặn. Ánh sáng yếu dần. Cánh đồng trở nên mờ mờ ảo ảo, vắng lạnh rờn rợn hơn trước. Ông cháu tôi còn băng qua Gò Bướm mới tới nhà. Trong đầu óc tôi lãng đãng bao nhiêu chuyện ma tưởng tượng. Ma người, ma chó, ma mèo… Đầy đủ các loại ma không biết từ đâu bỗng dưng đến tuần tự trong đầu óc non nớt của tôi. Hầu như loại ma này chúng tôi đã từng dặm mắm thêm muối kể cho nhau nghe vào những buổi nắng gắt, dưới bóng mát rặng trâm bầu hay đùng đình đủng đỉnh. Bờ mẫu quanh co, nhiều chỗ lồi lõm lại hẹp té. Cỏ may dầy đặc. Hai người tránh nhau không khéo va chạm, có người phải lọt tuốt xuống ruộng nước. Có đoạn sạt lở tầy quầy do đám chăn trâu mải mê vui chơi, thả trâu tự do trèo lên tuột xuống. Mấy lỗ trổ bị nước đục khoét lâu ngày lở loét to thêm. Hai bên gai gốc lấn chiếm lòng bờ không cách nào đi song song nhau được.
Tôi đi theo sau ông tôi, lòng thầm nghĩ có ông đi đàng trước, mình đi phía sau vững bụng vững dạ hơn. Nhưng chẳng được bao xa, từ từ ngoái nhìn sau lưng, tôi chỉ thấy một màu đen sẫm dầy đặc, nhất là những lúc trăng lu bị che khuất bởi mây đen. Tự nhiên lúc đó tôi nghe ớn lạnh xương sống. Tôi chột dạ, chen lấn ông tôi chạy ra phía trước. Hai bóng ông cháu cứ nhấp nha nhấp nháy, co giãn trước mặt không ngưng. Bóng đen huyền như bóng ma chập chờn nhảy múa trong các chuyện kể dân gian hay những truyện liêu trai ma quái Trung Hoa cổ thời. Lúc đến Gò Bướm, lòng hồi hộp như đánh lô tô, khi nhớ ma chó ma mèo, tôi sợ hãi đi chầm chậm. Rồi tôi khựng lại, thụt lùi chạm phải chân ông tôi.
- Làm gì vậy cháu? Cứ đi đi. Sắp tới nhà rồi. Có ông ở phía sau nè.
Một đốm lửa nhỏ nhảy tới nhảy lui trong đêm đã ngã màu sẫm đục. Thỉnh thoảng nó vọt lên cao, chói sáng lòa rồi tiếp tục nhảy tới nhảy lui như trước. Tôi chăm chú, mở rộng đôi mắt nhìn, mạnh dạng bước tới theo lời trấn an thúc hối của ông tôi. Tôi nhủ thầm:
- Rõ ràng đây không phải đôm đốm bay đêm. Mà chắc có lẽ là hồn phách người chết vừa được mở cửa mả. Họ nhớ mái ấm nhà xưa, đang lần mò tìm về, như đám chăn trâu vừa kể tôi nghe cách đây không lâu?
Ông tôi vẫn tiếp tục nói chuyện này nọ nhưng tôi lặng thinh chẳng còn bụng dạ nào yên ổn để nghĩ tới. Một đỗi sau, đóm lửa đến rất gần. Hai chân tôi lọng cọng, cứ cọ xát vào nhau, khiến tôi gần chúi nhủi tới trước. Cũng may, ông tôi nhận ra ngay người đi ngược chiều, đánh tiếng chào hỏi nhau thân mật, cũng là lúc điếu thuốc khách quen đang cầm trên tay vừa tắt. Tôi hú hồn, thở phào, lòng nhẹ hêu sung sướng hơn lúc nào hết.
Ông Sáu Kiếm có biệt tài bắt vong. Trong nhà, nơi mấy kệ vách phía sau bàn thờ, ông chất lủ khủ nào chai lọ, nào chình hũ được ông bịt miệng kín mít bằng những tấm vải đỏ, buột chặt qua mấy nuộc lạc dừa. Cứ nhìn quang cảnh đó trong lòng chắc chắn sẽ nhói lên một cảm giác linh thiêng huyền bí khó tả. Không biết ông hành nghề này từ bao năm rồi. Chỉ biết thiên hạ quen miệng gọi ông là ông Thầy Sáu Lỗ Bang. Đúng hay sai thế nào chẳng ai để ý đến làm chi. Bà con đồng loạt đã gọi như vậy từ thuở nào. Thôi thì cứ gọi theo thói quen, cũng chẳng chết một ai.
Trong xóm ai ai cũng kính trọng nể nang, biết tên biết tiếng ông. Ông khá trọng tuổi, tròn trèm cái tuổi «cổ lai hi» mà người xưa hằng mơ ước, nhưng trông ông vẫn còn mạnh khỏe, lanh lẹ quất thước. Bộ râu lão dài thậm thượt, đen huyền như màu tóc của ông. Do đó, những lúc cạn ly đầy, đầy ly cạn với thông gia, với bằng hữu, ông cao hứng bảo máu huyết ông tốt nên tóc râu đen mượt, sức khỏe mới dồi dào sung mãn, tràn đầy sinh lực như vậy. Đầu ông để búi tó, to chừng phân nửa nắm tay người lớn. Loại búi tó này hiện nay hiếm lắm dù ở miền quê hẻo lánh. Dân gian nôm na gọi là củ nừn. Giá như ông Sáu không có biệt tài bắt vong có tầm thước để được bà con trọng vọng nể vì thì chém chết, chạy trời không khỏi nắng, ông không sao tránh khỏi hỗn danh ông Sáu Củ Nừn từ khuya rồi. Mỗi khi ra khỏi nhà đi công chuyện hoặc cúng kiến do được thỉnh mời, ông vấn cái khăn đỏ loét, lòn gọn lỏn dưới búi tó rồi lanh tay ngoái hai đầu khăn trước trán. Một cử chỉ quá quen thuộc hằng ngày. Ông chỉ làm trong nháy mắt, rất điêu luyện.
Thân chủ của ông không phải là những người xa lạ. Đa số là những gia đình sinh sống lâu đời chung quanh Gò Bướm. Đám con cháu họ thường bị quỷ ma khuấy phá. Họ bảo chúng bị người khuất mặt khuất mày quở phạt quấy rầy lúc chạng vạng tối đỏ đèn, khi chúng còn trì hưởn, lạng quạng rong chơi ngoài gò nổng. Do vậy, chúng bệnh hoạn rề rề, ốm đau không dứt. Bà con tôi tin như thế qua nhiều thế hệ khắc cốt ghi tâm. Do tập quán xưa, thâm căn cố đế tận xương tủy rồi. Khó có thể loại trừ ngay được những dị đoan mê tín ấy. Các ông các bà có thói quen rầy la, không cho con cháu nấn ná ngoài gò lúc mặt trời sắp tan biến sau những mái tranh sẫm màu tận chân trời xa. Phần lớn là những người thuộc thế hệ trước, suốt cuộc đời chưa một lần rời khỏi lũy tre làng hay bến nước thôn ấp. Thầy thuốc bắc, thuốc nam đếm trên đầu ngón tay, lại ở nơi chợ làng, chợ quận, xa thôn xóm cả ngày đường ghe xuồng. Đi và về vừa xa xôi, vừa cực nhọc trần ai lai khổ. Thỉnh mời càng thêm bất tiện. Các thầy thuốc chê xa, phí mất thời giờ quý báu của họ.Thôi thì cứ cậy ông Sáu Lỗ Bang đến bắt vong, xua đuổi ma quỷ là xong chuyện. Thật giản đơn. Không phiền hà, không làm nhọc lòng một ai cả. Ông cũng chẳng đòi hỏi thù lao gì quá đáng. Hơn nữa, tình cảm của ông đối với bà con láng giềng lúc nào cũng đằm thắm lắm.
Ông làm đồ mã rất khéo tay. Nào nhà cửa, xe cộ, nào lâu đài, ghe thuyền màu sắc sặc sỡ trông đẹp mắt. Sau khi cúng kiến thịnh soạn, vái van đủ lễ, đồ mã được ông đem đốt cháy trước sân phừng phừng, lửa ngọn bốc cao nóng ran. Quang cảnh quến con nít rạn đất. Ông lẩm rẩm khấn nguyện, từng chập tưới lên vài chum rượu đế gọi mời tưởng nhớ những người khuất mày khuất mặt. Lửa lại phừng lên cao và tro giấy bay cuồn cuộn hướng thẳng lên tầng không. Xong, ông mang thức ăn và giấy tiền vàng bạc thả trôi sông trên những bè chuối hay những bập dừa kết chặt vào nhau. Bè sẽ lênh đênh theo giòng nước, bạ đâu tắp đấy. Loại thức ăn thả lênh đênh trên sông rạch này, người đi trên ghe xuồng gặp phải thường tránh xa, không hề dám đụng đến. Họ sợ chạm vong linh những người khuất mày khuất mặt, có thể phật lòng hãm hại họ. Theo tập quán lâu đời, chỉ có đám chăn trâu mới dám vớt lên để ăn mà không hề chi.
Ông Sáu hãnh diện thuật lại tỷ mỷ từng chi tiết với bà con, một lần ông bắt được con quỷ cái, chưa tới số, chết trôi ấm ức nên hung hãn, thường xuyên lồng lộn phá phách nhiều gia đình. Nó chỉ có một mắt. Ông bảo “Voi một ngà, đàn bà một mắt”. Đủ biết sự hung hãn của nó đến mức nào, khỏi cần ông dài dòng thêm. Tuy là nghề tay trái, nhưng ông rất bận rộn, được thỉnh mời luôn. Ông vừa cúng ở nhà này, lật bật mấy tuần sau thấy ông đến nhà khác. Quanh quẩn chung quanh Gò Bướm. Trống kèn, đập bồn đập bát inh ỏi.
Mấy hôm rày, thằng con út sinh sau đẻ muộn của ông Hương thân Xéo bịnh rề rề, nóng khô môi lở mép, mắt lem nhem lờ mờ. Nó bỏ ăn bỏ uống, khóc la suốt đêm, cằn nhằn cẳn nhẳn tối ngày. Dĩ nhiên, ông Sáu Kiếm được ông Hương thân khẩn khoản chầu trà rượu, trầu cau trịnh trọng mời thỉnh. Vào nhà chưa kịp ngồi, ông đảo mắt một vòng trước sau rồi ngửa mặt lên trời cau có bực dọc: - Chà chà! Tụi quỷ ma Gò Bướm này quả tình lật lộng, dỡn mặt tui lắm nghen! Vuốt mũi phải nể mặt chớ!
Đặt tách nước trà nóng hổi lên khay, ông đằng hắng hứa hẹn phen này ông sẽ cho lũ nó biết tay ông. Nó lật lộng hung bạo bao nhiêu thì ông cũng già dặn lão luyện bấy nhiêu. Ông cao tay ấn không vừa. Ông nhất định không nhân nhượng được nữa. Cúng vái xong, nhang đèn hãy còn cháy lung linh huyền diệu, hương khói xông lên quyện tròn lan tỏa để tan biến dần. Ông phủ mảnh khăn đỏ lên đầu, thòng chí mí vai, nhậu gần cả nhạo đế, loại đế ông Hương thân tự nấu lấy với nếp men nhà vừa xong, pha chế đúng chữ, thơm phức ngọt lịm. Ông bắt đầu đọc lẩm nhẩm dồn dập, lấp chữ nuốt lời, dù có lấp ló cạnh bên cũng chỉ nghe tiếng được tiếng không, đoạn rõ ràng, đoạn mất lửng. Tay ông cầm hình vong bằng vải, đầy đủ đầu, mình, mắt môi, tay chân. Nơi thân mình có gắn một lục lạc nhỏ. Hình vong nằm gọn lỏn trong tay ông, ở tầm mức ngang ngang màng tang. Vừa đọc ông vừa lắc lắc, lay nhẹ hình vong nhịp nhàng. Lục lạc khua leng keng, leng keng… không dứt. Ba cây nhang đang cháy được ông kẹp ở vành tai hướng ngược lên phía trước, nghi ngút khói.
Cả gia đình ông Hương thân Xéo đồng thanh giữ im lặng tuyệt đối. Họ chăm chú theo dõi từng cử chỉ nhỏ nhặt của ông. Rượu vào ngà ngà. Ông Hương thân thỉnh thoảng chuốt thêm rượu vào nhạo, cẩn thận rót đầy ly, mỗi lần bọt trắng mịn màng, kết quyện vào nhau. Ông Sáu Kiếm gục gặc, thở dồn dập, ợ lên ợ xuống mấy cái liền, tay xiết mạnh hình vong. Có tiếng người lấp ló phía sau khe khẽ suỵt suỵt kín đáo. Ông Sáu cất lời, vẻ giận dữ:
- Nhà ngươi tên họ là gì? Phải khai trình cho rõ tông ty họ hàng ngay, kẻo ta nổi nóng mà mang họa.
- Ái da...! Ông nới tay một chút cho kẻ hèn này được nhờ. Tôi nghẹt thở sắp chết tới nơi rồi. Nhè cuống họng của tôi mà ông xiết mạnh quá. Không khéo bị thương tật, sau này làm sao tôi ăn uống đớp hít được?! Tôi ngự trị lâu nay ở Gò Bướm này, ai cũng biết. Họ gọi tôi là Con Quỷ Đầu Đỏ. Xin ông nhẹ tay với tôi.
- À ha! Thế ra nhà ngươi là con quỷ hung hãn, lật lộng, thường xuyên hoành hành quấy phá dân tình ở đây? Nhà ngươi muốn gì mà đang tâm hãm hại bà con lương thiện vậy? Có ai xa lạ gì đâu? Đều là ruột rà thân thuộc, cùng chung thôn xóm cả. Hãy khai rõ thêm, ta sẽ tùy nghi cứu xét xử lý. Nếu không, ta sẽ xiết họng cho nhà ngươi tắt thở luôn.
- Lạy ông. Xin ông rũ lòng thương. Tôi nghe đồn đãi ông hiền đức nhân từ, độ lượng khoan dung lắm. Ông nới tay thương người lầm lỡ, bất hạnh thọ nạn. Mấy chục năm ngự trị ở Gò Bướm này, tôi từng gây mưa gây gió. Đàn em tôi riu ríu cúi đầu phủ phục, không đứa nào dám hó hé dù là một tiếng thở dài thầm lặng, một tiếng than kín đáo. Ma mới ma cũ, già trẻ trai gái, tất cả đều răm rắp tuân lệnh tôi, không tên nào dám ọ ẹ rục rịch cãi lời. Mà cãi lời là chết với tôi. Đối với tôi chỉ có tuân phục, cúi đầu ngoan ngoản vâng dạ thôi. Nay thì...
- Quả nhà ngươi gan trời, mình đồng da sắt, dám lợi dụng cái gò hỗn mang hoang vu này để tung hoành gây giông gieo bão. Ta sẽ trừng trị nhà ngươi đích đáng. Ta sẽ bắt và oánh nhà ngươi cho bỏ thây luôn. Nhà ngươi đã tới số rồi, chạy đâu cho khỏi mệnh trời.
- Ông ơi! Tại bản tính tôi vốn hung bạo, trên đầu xem chẳng có ai. Chẳng Trời, chẳng Phật, chẳng Thánh, chẳng Thần, chẳng chi chi cả. Tất cả tôi xem như rơm như rác, cục phân không bằng. Tôi chỉ lo sung sướng bản thân cùng với đám em út khuyển mã được bao che. Kỳ dư, đối với tôi đều là thù nghịch hết, tôi phải đánh phá loại trừ. Tôi đã trình qua. Ông nương tay đôi chút cho tôi nhờ.
- Nhà ngươi quá quắt lắm. Cái Gò Bướm này đâu phải của riêng nhà ngươi mà nhà ngươi phóng tay cưỡng chiếm, tiếm đoạt rồi uy hiếp áp bức người hiền lương suốt cả đời cần cù khổ cực. Gò Bướm là tài sản của cải chung của bà con ở đây qua nhiều thế hệ góp công xây dựng nên. Không phân biệt một ai cả. Nhà ngươi chẳng hề đóng góp một xu lớn xu nhỏ nào. Chả đổ một giọt mồ hôi công sức vào sự nghiệp to lớn đó của tiền nhân. Nhà ngươi chỉ bỏ ra ba mớ nước bọt rồi dùng những lời đường mật mỹ miều đương nhiên cướp công cướp của của người dân lương thiện, chí thú làm ăn. Chẳng những nhà ngươi bức hại vong linh người chết bơ vơ cô thế còn cả gan phá phách hãm hại người sống nữa. Tội nhà ngươi quả đáng chết.
Nói xong, ông Sáu Kiếm lắc mạnh và xiết chặt hình vong. Trông ông có vẻ giận dữ chưa từng thấy. Lục lạc leng keng, leng keng liên hồi. Lúc mạnh lúc nhanh. Con quỷ thở hồng hộc…Giọng nó rung rung sợ hãi:
- Ông ơi! Xin ông mở rộng lượng hải hà. Ông vốn có truyền thống từ bi hỉ xả, đại lượng thứ tha, thương người lỡ lầm sa vào vực thẳm. Ông đã hé cho tôi thấy rõ ràng tội lỗi tầy trời bấy lâu nay của tôi. Tôi nguyện sẽ ăn năn sám hối, sửa đổi tánh tình, hoán cải cung cách đối xử trong tình huynh đệ anh em để cùng nhau sống hạnh phúc ở Gò Bướm, di sản chung của xóm. Tôi xin hứa, xin hứa...
- Nhà ngươi đã bị ta bắt hồn bao nhiêu lần rồi? Có nhớ không? Lần nào nhà ngươi cũng hứa hẹn sửa đổi, phân biệt chánh tà, đi theo đường ngay lẽ phải. Nhưng không bao lâu lại dở chứng, tật nào hoàn tật nấy, lật lộng nuốt lời trắng trợn. Nằm trong tay ta, nhà ngươi tỏ ra yếu hèn còn thua con trùn con dế, nhỏ nhẹ, dạ dạ vâng vâng, hứa tiều hứa quảng cho qua truông. Buông ra, cốt chồn hoàn cáo, còn hung hãn hơn, mưu mô quỷ quyệt hơn, gian trá ác đức hơn.
Ông Sáu Kiếm quát lớn:
- Nhà ngươi có nghe bà con ở đây nhất loạt ta thán oán hờn về những hành động đen tối bất chánh của nhà ngươi không? Nhà ngươi phải biết, con người dù sống dù chết, dù Tiên Phật quỷ ma, đều phải có chút liêm sỉ và tình thương tối thiểu. Đàng này, nhà ngươi chỉ chực chờ cơ hội hãm hại gây chết chốc khổ đau, gieo tang tóc chia lìa thôi. Ta không thể nào tin lời nhà ngươi nữa. Để ta hỏi qua gia chủ và bà con có mặt hôm nay xem phản ứng của họ ra sao? Tất cả vốn uất hận và bất mãn lắm.
- Ông ơi ông! Xin ông giúp giùm vài lời. Tôi nguyền mãi mãi tạc dạ ghi ơn. Tôi thành thật mà. Tôi sẽ giữ lời.
Ông Sáu Kiếm nóc tiếp một ly rượu đế, tỏ vẻ thấm mệt. Ông Hương thân Xéo bước tréo qua ván ngựa, lấy quạt lông gà tây máng ở vách buồng phất nhè nhẹ sau lưng ông:
- Thôi ta cũng chẳng hẹp hòi gì. Ta vốn chủ trương chuộng tình thương và không dị biệt. Ta vốn ước ao mọi người ở Gò Bướm này chung sống hạnh phúc và cảm thông với nhau, luôn cả nhà ngươi nữa. Tin lời nhà ngươi, ta thử tin thêm lần nữa xem sao. Nhưng ta buộc nhà ngươi phải mạnh dạng và thành khẩn tỏ thiện chí ngay, phải biểu lộ thiện chí đó bằng hành động cụ thể. Nói thì ai nói sao cũng được. Cứ làm đi. Ta sẽ công minh đánh giá việc làm của nhà ngươi. Nhà ngươi chắc thừa biết, ta vốn tinh thông thần phép, dư thừa thần lực. Trước sau, sớm muộn gì ta cũng khuất phục được nhà ngươi, thu gom về một mối. Dù cho có phải mất một thời gian dài đi nữa. Ta báo cho nhà ngươi biết trước để mà liệu hồn liệu thân.
Con Quỷ Đầu Đỏ thở dồn dập, lặng im thin thít. Ông Sáu quát to:
- Sao nhà ngươi lặng im không nói? Phản đối thụ động à?
- Tôi đuối sức quá rồi ông ơi! Tôi đang đói, đang khát. Tứ chi tôi bủn rủn. Hầu như tinh thần tôi đang kiệt quệ trầm trọng và niềm tin tôi sa sút đến nguy hiểm.
- Ta sẽ cung cấp thức ăn nước uống cho nhà ngươi để cầm hơi. Điều kiện tiên quyết của ta là thiện chí của nhà ngươi phải được biểu lộ lập tức và dứt khoát, không dùng dằng mà cả, không quanh co tránh né. Nhà ngươi phải để yên thằng con của gia chủ. Phải đảm bảo nó được tự do chạy nhảy vui chơi bất kỳ nơi nào ở gò Bướm, không ngoại trừ giờ giấc. Nhà ngươi phải tôn trọng các gia đình ở đây để mọi người thanh thản an tâm làm ăn, không phập phồng lo sợ, không bị ám ảnh bởi những ý đồ và hành động đen tối của nhà ngươi nữa. Ta sẽ đề nghị gia chủ và bà con trong xóm cất ngay một miễu nhỏ ven gò, cạnh dãy đùng đình đủng đỉnh ngất nghểu cuối xóm xa xa kia để nhà ngươi có nơi sám hối, có nơi tu tâm dưỡng tánh, trở về đường ngay lẽ phải, sớm đi theo chánh đạo và chánh nghĩa.
- Ông ơi! Tôi đội ơn ông biết dường nào! Có điều tôi còn băn khoăn ái ngại quá! Bấy lâu nay tôi là kẻ vô tâm vô thần. Trời Phật, Thánh Thần, Cha Thầy, Sư Vãi... tôi đều nhạo báng rẻ khinh, chưởi rủa, chà đạp xem như cỏ rác không bằng. Nay ông bảo tôi tu tâm sám hối. Các đấng linh thiêng có chấp nhận cho tôi không? Hơn nữa, tu có dễ không ông?
- Nhà ngươi quả đa nghi. Cái tính đa nghi này có lẽ đã ăn sâu vào xương tủy của nhà ngươi từ bao nhiêu năm rồi. Các đấng linh thiêng là những người siêu phàm, dĩ nhiên sẽ sẵn sàng mở rộng vòng tay thứ tha hỉ xã thôi. Mọi việc đều dễ. Nhưng mọi việc cũng đều khó. Dễ trong khó. Khó trong dễ... Nhà ngươi phải quên đi từng bước cái ngã xấu xa của mình để tan biến trong cái ngã chung của bà con chòm xóm. Nếu thật lòng, mọi người sẽ dang tay giúp nhà ngươi hoán cải. Nhà ngươi nên nhớ đây là một dịp cuối cùng trong đời của nhà ngươi đó. Ta sẽ giải thoát nhà ngươi lần sau cùng.
Mâm cỗ ê hề dọn trên bàn giữa, đối diện với bàn thờ chánh. Lư hương, chân đèn sáng choang óng ánh. Hoa quả sắc màu trưng đủ loại. Khói hương hãy còn nghi ngút, nhẹ nhàng quyện đều uốn éo hướng lên trần nhà, len lỏi theo mấy cành hoa huệ tốt tươi thơm ngát. Ông Thân Xéo thỉnh ông Sáu Kiếm vào ngồi trước tiên nơi đầu bàn, chỗ danh dự của hang trưởng thượng chức sắc. Giờ đây ông bệ vệ như vị khách quý. Mấy bà con trọng tuổi khác lần lượt ngồi giáp bàn dài hai bên chái nhà. Chân bàn chạm trổ hình chim công oai vệ đậu trên đầu sư tử. Mặt bàn bằng đá cẩm thạch mát lạnh.
Câu chuyện bắt vong khi nảy được tiếp tục theo hơi men nồng rượu cay. Tiên chủ hậu khách theo đúng thông lệ, tập tục xưa nơi thôn quê, người trên kẻ dưới phân minh rõ ràng. Chén anh chén em không ngớt miệng. Người lắc lư chếnh choáng. Kẻ mặt đỏ phừng phừng. Nhưng chẳng ai chịu kém ai nửa bước. Nhạo rượu được gia chủ tới lui châm thêm không biết bao nhiêu lần với lời mời mọc chí tình chí nghĩa. Đầu bàn tấm tắc khen rượu dịu ngọt giữ bọt. Cuối bàn không hết lời tâng bốc pha chế khéo tay, đúng chữ.
Ông Sáu Kiếm vuốt râu, vấn lại khăn trên đầu rồi thao thao về thành tích vừa qua, đã bắt được Con Quỷ Đầu Đỏ lợi hại. Ông quả quyết không dễ gì điều khiển được nó. Phải già tay ấn lắm. Ông đã trầy vi khổ ải, xử dụng hết thần phép chưởng lực của mình vì nó lão luyện mánh mung, đa mưu túc trí, già dặn kinh nghiệm. Giọng sành sõi, ông nói tiếp:
- Tôi không dám khoe khoang với bà con. Hồi thọ giáo với thầy tôi, người căn dặn, nhắc tới nhắc lui phải luôn luôn khiêm tốn. Mình hay nhưng trong thế gian còn có người tài giỏi hơn mình. Chí tình, tôi muốn nói với chú Hương thân và bà con ở đây biết trong mấy chục năm liên tiếp hành nghề, được mời thỉnh nhiều nơi, bắt đủ hạng vong, lớn có nhỏ có, đàn ông có đàn bà có, trai gái đủ cả, nhưng chưa lần nào tôi vất vả như hồi sáng này. Tôi đã lập đủ thế thần, dùng đủ mưu mẹo mới quật được nó. Ông tủm tỉm cười:
- Nó đa nghi còn hơn Tào Tháo. Đôi mắt láo liên. Di chuyển thận trọng. Lừa nó vào bẫy, nắm hầu nắm họng nó vuột lên vuột xuống trầy vi tróc vảy, trần ai lai khổ. Thôi cũng yên rồi. Tôi mừng. Cũng nhờ phước đức gia đình chú Hương thân đây.
Có người hoài nghi thắc mắc đặt câu hỏi liệu nó có ngóc đầu dậy, trở quẻ bội ước trắng trợn vô liêm sỉ như những lần trước không? Ông Sáu Kiếm đi nốt ly đế nghe tiếng tróc ngọt lịm, khà một hơi dài rồi nói:
- Tôi đã lo xa, ếm con dao phay sâu lút cán nơi khoảng đất trống giữa gò, chỗ chú Hương thân chọn để cất cái miễu tới đây. Chỗ đó là cái yết hầu của nó. Tôi lại chêm thêm một lá bùa tuy không độc lắm nhưng coi như tôi đã bẻ giò bẻ cẳng, nhổ bỏ một phần nanh vuốt của nó rồi. Hẳn nhiên, đám đàn em của nó thấm tháp nhằm nhò gì. Toàn là lũ ma đầu tham lam bần tiện, bản thân chết nhát, a dua xua nịnh, toa rập ăn bẩn. Đàn anh chúng nó bó tay thúc thủ, chúng nó sẽ rã đám tan hàng ngay.
Ông nhíu mày ra tuồng suy nghĩ đắn đo rồi phân giải dài dòng thêm:
- Nhưng thật tình mà nói, bà con mình cũng phải tỏ ra hiểu biết, thức thời và tích cực một chút. Mình mà thụ động buông xuôi thì ai vào đây giúp mình. Mình phải làm chủ vận mệnh của mình, của gia đình và thôn xóm mình. Mình phải đoàn kết nhứt trí lo việc chung. Nhà cửa không nên để u u tăm tăm, đêm ngày âm ỉ đen tối, đám quỷ ma mất dạy lợi dụng để lén lút quanh quẩn bên mình. Bớt việc ngày ngày cúng kiếng, xá xá vái lạy, lo lót nuôi dưỡng thường xuyên chúng nó. Dĩ nhiên, chúng nó phây phởn, nào ưng chịu buông tha dễ dàng mình đâu. Nhiều nhà để mấy gốc mướp hương leo bám lên mái, lá mướp trùm phủ tối tăm, bảo sao chúng nó không nương vào thừa cơ hội làm điều mờ ám. Mấy cây rơm sát hè cám dỗ đàn gà tối ngày bươi móc tìm trùn dế, lúa sót, qua mùa mưa xông mùi khó chịu. Nên dời ra nơi xa một chút. Đừng để buồng phòng nhà cửa tối thui kín mít.
Ông nghiêm nghị:
- Quỷ ma vốn có ý đồ đen tối, hành động đen tối, thích nơi đen tối, lợi dụng chỗ tối đen. Chúng nó rất sợ nơi sáng sủa, thanh thiên bạch nhựt để dễ làm những điều mờ ám.
Mọi người đều lắng tai nghe. Im lặng tuyệt đối. Được nước, ông lên lớp tiếp:
- Cái gò Bướm này cũng nên tẩy sạch lùm buội, đốn hết dứa gai. Nên chặt bỏ mấy cây cổ thụ, da dẻ sần sùi tróc lở, nổi u nổi cục, cành lá bệnh hoạn đèo đẹt. Bà con mình nghĩ xem có đúng không? Dưới gốc mấy cây cổ thụ đó, đâu có một cây con nào mọc ra hồn. Chúng bị che, thiếu nắng. Nếu có mọc nổi đi nữa cũng xanh xao vàng vọt, mảnh khảnh yếu ớt, thiếu hẳn sức sống, chĩa thẳng suông đuột với lá cành hiếm hoi lưa thưa. Sau này mả mồ cũng nên sắp xếp ngay hàng thẳng lối, có ranh giới đường đi rõ ràng khang trang. Được vậy, tôi tin quỷ ma sẽ không còn nơi nương tựa, sẽ bó tay phủ phục. Và Gò Bướm này nhứt định sẽ được yên ổn lâu dài.
Ngừng một chút, ông nhấn mạnh, gằn từng tiếng:
- Tôi tin chắc ở quy luật bất di bất dịch của Trời Đất, hễ mình vượng, quỷ ma nó yếu. Hễ mình mạnh, lũ nó xuống nước nhỏ quy lụy mình ngay.
Tiệc sắp tàn... Ông Sáu Kiếm bảo ẵm thằng nhỏ ra để ông làm mấy dấu trên trán nó, nựng yêu cái cằm nhọn hoắc của nó mấy lượt rồi quay qua nói với ông Hương thân Xéo:
- Chú Hương thân tiếp tục cho cháu uống thêm mấy liều thuốc do ông Tam Thiện Đường ở chợ Gò Đen cho toa hiện còn lại. Tiếp tục cho uống đến hết. Tốt lắm. Vài ngày cháu sẽ lợi nghỉnh, ăn chơi cho mà coi.
Ông Sáu Kiếm chít khăn đỏ lòn phía sau búi tó như thói quen, sửa lại quần áo, dép nón chỉnh tề. Đoạn, ông giã từ ông Hương thân và bà con quen biết nơi bàn tiệc. Có người gật gù, bịn rịn đưa tiễn ông Sáu tận sân phơi lúa trước nhà, chân mặt bắt đầu đá nhẹ chân trái. Riêng ông Thân Xéo cũng không hơn gì. Thân mình ông ngã qua ngã lại chệnh choạng. Tôi đứng ven sân cùng lũ nhỏ trang lứa, nhìn theo ông Sáu băng qua Gò Bướm biến dạng nhanh chóng theo bờ bưng xa xa. Tôi thấy lòng mình bỗng dưng nhẹ nhỏm lạ kỳ, an tâm vững dạ hơn lúc nào hết. Hai ngón tay cái nằm gọn lỏn trong lòng hai bàn tay, tôi nắm chặt lại, lòng dặn lòng từ nay không còn sợ ma chó ma mèo nữa. Bỗng dưng trong lúc đó, tôi lại tin dứt khoát ở ngày tàn đương nhiên của Con Quỷ Đầu Đỏ từng phá hại xóm làng tôi. Và tôi cũng tin tưởng tuyệt đối ở tương lai an cư lạc nghiệp của bà con chung quanh Gò Bướm. Trong niềm tự tin đó, tai tôi còn nghe văng vẳng lời đoan chắc như đinh đóng vào cột của ông Sáu Kiếm:
- Mình vượng, quỷ ma nó yếu. Mình mạnh, chúng nó xuống nước nhỏ quỳ lụy phục tùng mình ngay.
Võ Phước Hiếu
Phá sơn lâm, đâm Hà Bá
(Truyện đồng quê Nam Kỳ Lục Tỉnh)
(Truyện đồng quê Nam Kỳ Lục Tỉnh)
No comments:
Post a Comment