NGUYỄN HỮU KIỆT dịch
HỒI KÝ
CỦA H. S. OLCOTT
CỐ HỘI TRƯỞNG
HỘI THÔNG THIÊN HỌC THẾ GIỚI (THEOSOPHICAL SOCIETY)
LỜI NÓI ĐẦU
Trong lịch sử những tổ chức công ích và cơ quan tinh thần, phần nói về nguồn gốc và những bước thăng trầm của Hội Thông Thiên Học quả thật là độc đáo. Dù xét theo quan điểm thiện cảm hay thù nghịch, vẫn phải thừa nhận một điều thật lạ lùng là một tổ chức như thế đã có thể xuất hiện và tồn tại, và chẳng những có thể chịu đựng được những đòn va chạm công kích như nó đã tiếp nhận, mà lại càng phát triển mạnh mẽ hơn theo hướng tỷ lệ thuận với những hành vi bất chính và những đòn hiểm ác của những kẻ đối nghịch.
Một số nhà phê bình cho rằng sự kiện ấy chứng tỏ một sự gia tăng lòng tin của con người, và một trạng thái tín ngưỡng bất an mở màn cho sự suy thoái rốt ráo của đức tin theo những đường lối bảo thủ của phương Tây.
Một số người khác nhìn thấy nơi sự tiến bộ của phong trào Thông Thiên Học dấu hiệu của sự chấp nhận trên quy mô rộng lớn toàn cầu những tư tưởng triết học phương Đông, có tác dụng tăng cường và nới rộng lòng ưu ái, thông cảm của nhân loại trên phương diện tinh thần.
Một sự thật hiển nhiên không thể chối cãi là, cho đến cuối năm 1894, sau chỉ có 19 năm hoạt động, Hội đã cấp chứng thư chánh thức cho 394 Phân hội hoạt động ở rất nhiều nước trên thế giới.
Theo các tài liệu thống kê chánh thức, sự tấn công liên tục và bất chính của Hội Khảo cứu tâm linh (Society for Psychical Research) và của các nhà truyền giáo Tô Cách Lan nhằm vào Hội trong năm 1884, mà người ta nghĩ là sẽ tiêu diệt Hội Thông Thiên Học, nhưng chỉ đem lại kết quả là làm cho Hội càng tăng thêm sự thịnh vượng và công dụng hữu ích lên gấp bội phần. Lý do giản dị là, dù cho những điều sai sót, lầm lỗi của cá nhân các nhà lãnh đạo có thể bị phơi bày, nhưng mục đích tốt lành của Hội vẫn không thể mảy may bị bài bác hay phản đối.
Muốn tiêu diệt Hội Thông Thiên Học, trước hết người ta phải chứng minh rằng những mục đích của Hội là có hại cho nền hạnh phúc cộng đồng, hay những giáo lý do các nhà lãnh đạo Hội phổ biến là tai hại và nguy hiểm. Nhưng vì không thể chứng minh được những điều đó, nên thế giới phải nhìn nhận Hội Thông Thiên Học như một sự kiện lớn, một tổ chức vĩ đại, không thể lên án hay tuyên dương chỉ vì những giá trị hay điều lầm lỗi của cá nhân những người đại diện cho Hội.
Những người ngoài Hội đã bắt đầu nhận xét một sự thật. Một trong những ký giả tên tuổi đương thời là ông W. T. Stead có viết trong tạp chí Borderland rằng, bây giờ không ai cần biết những tố giác giả trá lừa bịp của bọn Coulomb và Hội Khảo cứu tâm linh đưa ra chống lại bà Blavatsky có thật hay không, nhưng những kẻ thù ác hiểm nhất cũng không thể phủ nhận ưu điểm của bà là đã ảnh hưởng đến tư tưởng triết học cận đại đến một mức độ phi thường, bằng cách phổ biến những triết thuyết cao siêu của phương Đông. Điều này cũng đúng với nhiều vị lãnh đạo của Hội, vì họ cũng như bà, đã truyền bá những giáo lý cổ truyền của phương Đông qua sự trung gian của Hội Thông Thiên Học.
Tổ chức siêu việt này, được khai sinh từ một cuộc họp mặt thông thường nơi một phòng khách ở New York vào năm 1875, đã tự tạo cho mình một thành tích lớn lao đến mức phải được bao gồm trong mọi sử liệu chân thật của thời đại chúng ta.
Sự phát triển của Hội đã được tạo ra bởi một nội lực xuất phát từ bên trong hơn là do kết quả của một khả năng quản trị và tiên kiến khôn ngoan sắc sảo. Và vì nó có liên hệ chặt chẽ với những cố gắng cá nhân của hai nhà sáng lập là bà Blavatsky và tôi, nên tập hồi ký này có thể là một điều hữu ích cho các sử gia tương lai, vì nó ghi lại một cách chính xác và ngắn gọn những sự kiện lịch sử cần thiết cho thế hệ mai sau.
“Gulistan”
Otacamund, 1895.
H. S. OLCOTT
ĐẠI TÁ H. S. OLCOTT
CỐ HỘI TRƯỞNG
HỘI THÔNG THIÊN HỌC THẾ GIỚI
CHƯƠNG MỘT -
CUỘC GẶP GỠ ĐẦU TIÊN
GIỮA HAI NHÀ SÁNG LẬP
I.
Vì tập hồi ký này ghi lại lịch sử của Hội Thông Thiên Học Thế Giới, nên tôi phải kể lại từ đầu, và tường thuật cuộc gặp gỡ giữa hai nhà sáng lập Hội.
Câu chuyện cũng rất bình thường, tôi đã mở lời: “Xin bà cho phép,” và quẹt một cây diêm cho bà Blavatsky hút thuốc để mượn dịp làm quen. Cuộc gặp gỡ của chúng tôi bắt đầu bằng một làn khói thuốc, nhưng nó đã bùng cháy lên thành một ngọn lửa thiêng trường cửu muôn đời.
Những sự việc đưa đến cuộc gặp gỡ này cũng khá ly kỳ, như tôi sẽ trình bày sau đây. Một ngày vào tháng 7 năm 1874, tôi đang ngồi tại văn phòng luật sư để nghiên cứu một vụ kiện quan trọng, liên quan đến Tòa Đô chính New York. Bỗng nhiên tôi chợt nghĩ rằng từ nhiều năm nay tôi đã không chú ý đến phong trào Thần linh học. Tôi không hiểu tại sao trí óc tôi lại liên tưởng từ vụ kiện nọ đến phong trào này. Dù sao, tôi cũng đã bước ra phố để mua một tờ nhật báo “Banner of Light”. Trong đó tôi thấy có bài tường thuật về hiện tượng hồn ma hiện hình xảy ra tại một nông trại gần thị trấn Chittenden, thuộc tiểu bang Vermont, cách New York khoảng vài trăm dặm.
Tôi liền nghĩ rằng, nếu quả thật người ta có thể nhìn thấy, sờ mó và nói chuyện được với những thân nhân đã chết nhưng bằng cách nào đó đã hiện hình tạm thời trước mắt người thế gian, thì đây quả là một sự kiện tối quan trọng đối với khoa vật lý học hiện đại.
Tôi bèn quyết định đến quan sát ngay tại chỗ. Tôi đã đến tận nơi xem xét các hiện tượng, và thấy rằng câu chuyện quả là có thật, tôi bèn ở lại đó thêm ba ngày.
Khi trở về New York, tôi viết một bài tường thuật sự kiện và nêu những nhận xét của mình, rồi gửi cho tờ báo New York Sun1. Bài báo của tôi được các báo trên thế giới in lại và phổ biến khắp nơi, vì tính cách hấp dẫn và quan trọng của những việc đã xảy ra.
Kế đó, vị chủ bút báo Daily Graphic đề nghị tôi hãy trở lại Chittenden để viết phóng sự với một họa sĩ cùng đi để vẽ hình ảnh, và mở một cuộc điều tra quan sát tường tận vấn đề này. Việc này làm cho tôi thích thú đến mức tôi thu xếp ngay mọi việc của văn phòng, và ngày 17 tháng 9 năm đó tôi trở lại nông trại của gia đình Eddy một lần nữa.
Tôi lưu trú tại ngôi nhà đầy bí ẩn đó trong ba tháng, và hằng ngày tôi thu thập được những kinh nghiệm vô cùng kỳ dị. Trong thời gian đó, tôi viết bài đăng trên báo Daily Graphic mỗi tuần hai lần, có kèm theo những bức vẽ các hồn ma hiện hình do tôi và người họa sĩ, ông Kappes, đã nhìn thấy tận mắt cùng với khoảng 40 quan khách đến viếng. Chính những bài tường thuật của tôi trên báo đã lôi cuốn bà Blavatsky đến Chittenden, và do đó chúng tôi mới quen biết nhau.
Tôi còn nhớ rõ ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau, dường như chỉ mới hôm qua. Đến bữa ăn trưa tại nông trại Eddy, tôi và họa sĩ Kappes vừa bước vào phòng ăn thì thấy nơi bàn ăn đã có hai người phụ nữ. Đó là bà Blavatsky và bạn của bà, một phụ nữ người Canada. Hôm ấy bà mặc một cái áo màu đỏ, nổi bật giữa những y phục tầm thường của người chung quanh. Khuôn mặt vuông và rộng với đôi mắt tinh anh biểu lộ một tinh thần cương nghị và dũng cảm, đầy hào khí, biểu lộ nam tính nhiều hơn là nữ tính làm cho bà có một phong độ, cốt cách khác thường so với những gương mặt bình dị của số đông du khách đến viếng, những người thuộc đủ mọi thành phần luôn luôn tới lui không ngớt để xem các hiện tượng dị kỳ.
Đứng trước ngưỡng cửa, tôi nói nhỏ vào tai ông Kappes: “Này, anh hãy nhìn bà kia xem, có lạ không?”
Kế đó, tôi đi thẳng lại chỗ bàn ăn, chọn một ghế ngồi đối diện với bà để có dịp thực tập về khoa tướng số, như tôi vẫn có thói quen xem tướng diện mỗi khi gặp những nhân vật mà tôi chú ý.
Hai bà khách lạ nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp. Nghe giọng nói sành âm điệu và ngôn ngữ lưu loát trôi chảy của bà, tôi đoán ngay rằng nếu bà không phải là một người Pháp chính cống ở Paris thì ít nhất cũng phải là một học giả uyên thâm Pháp ngữ.
Sau bữa ăn trưa, hai bà bước ra ngoài. Bà Blavatsky vấn một điếu thuốc lá, tôi bèn bật diêm quẹt cho bà đốt thuốc để lấy cớ mở đầu câu chuyện. Vì tôi mở lời bằng một câu tiếng Pháp: “Vous permettez, Madame” nên chúng tôi liền nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp luôn. Bà hỏi tôi đến đây từ bao giờ, và tôi có cảm tưởng ra sao về việc này? Bà nói chính bà cũng rất thích thú về những hiện tượng đó và đã đến Chittenden do những bài báo bà đã đọc trong tờ Daily Graphic. Dân chúng thích những loạt bài phóng sự đó đến nỗi chỉ một giờ sau khi phát hành báo đã bán hết sạch, và bà đã phải trả một đô-la để mua lại một tờ từ người khác.
Bà nói: “Tôi rất do dự trước khi đến đây, vì tôi sợ sẽ gặp Đại tá Olcott.”
Tôi hỏi: “Thưa bà, tại sao bà lại sợ gặp ông ta?” “Bởi vì tôi sợ ông ta sẽ viết về tôi trên mặt báo!” Tôi liền bảo bà hãy yên lòng về việc đó, vì tôi chắc rằng Đại tá Olcott sẽ không nói gì đến bà trong các bài báo nếu bà không muốn như vậy. Rồi tôi tự giới thiệu.
Ngay tức khắc chúng tôi trở nên hai người bạn thân. Mỗi người trong chúng tôi đều cảm thấy dường như chúng tôi cùng chung một thành phần xã hội, cùng thuộc về thế giới tự do tư tưởng và gần gũi với nhau hơn so với những người khác trong số quan khách. Đó chính là sự đồng thanh đồng khí về phương diện tâm linh, một sự thông cảm giữa hai tâm hồn chứ không phải sự hấp dẫn giữa nam và nữ tính.
Kể từ lúc mới quen cho đến mãi về sau, không một người nào trong chúng tôi có ý nghĩ rằng bạn mình là một người khác phái. Chúng tôi chỉ xem nhau như bạn, và chỉ có thế thôi, không hơn không kém. Thảng hoặc một đôi khi cũng có những kẻ xấu miệng nói rằng giữa chúng tôi chắc có một cảm tình sâu đậm hơn, cũng như họ đã từng vu khống bà Blavatsky là tình nhân của những người đàn ông khác. Nhưng không một người quang minh chính đại nào có thể tin như thế sau khi đã được gần gũi quen biết bà một thời gian để có dịp nhận xét tính chất và tác phong đặc biệt vô nữ tính của bà.
Sau cuộc gặp gỡ và làm quen, chúng tôi nói chuyện về những hiện tượng quái gở ở nông trại Eddy và ở những nơi khác. Tôi được biết bà đã từng đi du lịch nhiều nơi, thấy biết nhiều điều bí ẩn, huyền diệu và gặp gỡ nhiều bậc danh sư trong giới Huyền môn. Nhưng lúc đầu bà tuyệt nhiên không nói gì đến các vị chân sư bên Tây Tạng và những quyền năng của bà.
Bà nói về về khuynh hướng duy vật của phong trào Thần linh học bên Mỹ, vốn quá chú trọng đến những hiện tượng vật chất hữu hình mà không biết gì đến những khía cạnh triết lý siêu hình.
Bà có một phong độ, tư cách rất duyên dáng và hấp dẫn, những sự bình phẩm chỉ trích của bà về người và vật rất độc đáo và linh hoạt. Bà tìm cách biết những ý nghĩ, quan niệm của tôi về các vấn đề tâm linh, và lấy làm thích thú mà nhận thấy rằng tôi có những tư tưởng phù hợp theo khuynh hướng Huyền môn mà bà đang theo đuổi.
Bà nói chuyện không phải với tư cách một đạo gia thấm nhuần đạo lý phương Đông, mà với tư cách của một nhà Thần linh học uyên bác. Về phần tôi, hồi ấy tôi chưa biết hay hầu như không biết gì về triết học Đông phương, và lúc đầu bà rất tế nhị giữ im lặng không nói gì đến vấn đề ấy.
Những buổi lên đàn của William Eddy, đồng tử chính của gia đình này, diễn ra hằng đêm trong một căn phòng rộng trên lầu. Ông William và người em trai là Horatia đều là những nông dân siêng năng cần cù làm việc; người em lo việc đồng áng, còn người anh lo việc bếp núc, dọn bữa ăn cho các quan khách hằng ngày tấp nập đến từ khắp nơi trên đất nước Hoa Kỳ. Họ là những nông dân nghèo, thất học, và có nhiều thành kiến, đôi khi lại cau có, gắt gỏng đối với những du khách tự nhiên không mời mà đến.
Mỗi buổi chiều, đồng tử William Eddy ngồi trong phòng tối để đợi các hiện tượng xảy ra. Khi y vừa bước vào phòng, người ta kéo tấm màn che qua một bên thì từ bên trong bước ra một bóng ma hiện hình một người đàn ông, đàn bà hoặc trẻ con, như một pho tượng biết cử động, tạm thời đông đặc và chắc nịch, nhưng trong giây phút liền tan biến mất dạng trước mắt mọi người.
Trước ngày bà Blavatsky đến đây, những bóng ma hiện hình đều là những người da đỏ, người Mỹ hay người Âu, họ hàng thân thuộc của những khách đến viếng. Nhưng kể từ buổi đầu tiên khi bà vừa đến, thì những bóng ma thuộc nhiều quốc tịch khác đã xuất hiện trước mắt chúng tôi. Trong số đó, có một thanh niên người xứ Causase, một người lái buôn Hồi giáo ở Tiflis, một cô thôn nữ Nga, và nhiều hình bóng khác.
Một buổi tối, chúng tôi được thấy một người kỵ mã Thổ Nhĩ Kỳ đeo gươm cong, súng ngắn và cầm giáo dài; rồi một nhà phù thủy châu Phi hình thù dị hợm, gớm ghiếc, đầu đội chiếc mũ cắm bốn cái sừng dê có gắn lục lạc đồng; và một nhà quý tộc châu Âu mặc triều phục với huy hiệu Nữ thánh Anna. Bà Blavatsky nhận ra được ông này là người chú của bà.
Sự hiện hình của những vong linh ấy trong phòng lên đàn của những người nông dân nghèo và thất học, không hề có đủ tiền bạc để mua sắm những trang phục sân khấu, và dù có mua sắm được cũng không có sự hiểu biết, kinh nghiệm để sử dụng những thứ trang phục đó, là một bằng chứng rõ rệt trước mắt người xem, rằng những hiện tượng ấy là có thật. Đồng thời, những buổi lên đàn này cho thấy rằng sự có mặt của bà Blavatsky toát ra một sức hấp dẫn lạ lùng làm cho những nhân vật kỳ lạ xuất hiện từ các cõi vô hình.
Mãi rất lâu về sau này tôi mới được biết rằng bà đã sử dụng quyền năng phương thuật sai khiến các linh hồn để tạo nên những hiện tượng đó.
Trong thời gian ở Chittenden, bà Blavatsky có kể cho tôi nghe nhiều chuyện về cuộc đời dĩ vãng của bà, trong đó có việc bà đã từng gia nhập nhóm phụ nữ chí nguyện tùng chinh theo Garibaldi2 trong trận đánh đẫm máu ở Mentana.3
Để chứng minh chuyện này, bà cho tôi xem cánh tay trái của bà bị những vết gươm chém gãy xương ở hai chỗ, vai phải có một viên đạn vẫn còn nằm nguyên trong thịt, và một viên đạn nữa trong bắp chân. Bà cũng chỉ cho tôi xem một cái thẹo ngay phía dưới trái tim, do một nhát đâm bằng vũ khí nhọn. Vết thương này hơi nứt ra một ít trong khi bà ở tại Chittenden và sở dĩ bà cho tôi xem là để hỏi ý kiến tôi về cách chữa trị sao cho mau lành.
Bà còn kể cho tôi nghe nhiều chuyện phiêu lưu mạo hiểm đầy thú vị khác nữa, trong số đó có chuyện nhà phù thủy Phi Châu đội mũ cắm sừng dê có gắn lục lạc đồng mà bà đã từng gặp khi ông ta trổ tài nghệ ở miền thượng du Ai Cập nhiều năm về trước.
Bà Blavatsky cố gắng giải thích cho tôi hiểu rằng những hiện tượng vừa kể không phải là bằng chứng về sự kiềm chế đồng tử bởi các vong linh người chết. Bà nói rằng, nếu những hiện tượng đó có thật, thì điều đó phải hiểu là vía của người đồng tử đã xuất ra ngoài thể xác và khoác lấy mọi hình thể đa hình đa dạng, nhưng tôi không tin như thế. Tôi lý luận rằng những hình bóng xuất hiện ra đó thật khác biệt nhau quá xa về vóc dáng, bề cao, tác phong và điệu bộ, nên không thể nói đó là vía của người đồng tử, và như vậy đó phải là vong linh những người chết hiện hình thật sự như mọi người đều thấy.
Sự tranh luận của chúng tôi đôi khi rất sôi nổi, vì hồi đó tôi chưa được biết nhiều về tính chất co giãn của thể vía con người để hiểu được lập luận chính xác của bà, còn về lý thuyết Ảo ảnh ảo giác (Maya) của phương Đông thì hồi đó tôi không biết gì cả. Tuy nhiên, nhờ vậy mà bà mới biết rõ bản chất của tôi là không chấp nhận bất cứ điều gì nếu chỉ căn cứ trên niềm tin mà không có đủ lý do vững chắc.
Chúng tôi càng hiểu nhau hơn với thời gian qua, và đến lúc chia tay, chúng tôi tạm biệt nhau như hai người bạn tốt sẵn sàng tiếp tục tình thân hữu đã bắt đầu một cách vui vẻ tốt đẹp trong những ngày vừa qua.
II.
Tháng 11 năm 1874, sau khi đã hoàn tất cuộc khảo sát về những hiện tượng tâm linh ở nông trại Eddy, tôi trở về New York và đến viếng bà Blavatsky tại địa chỉ mà bà đã cho tôi trước khi chia tay. Tại đây, bà đã cho tôi xem vài hiện tượng cơ bút, gõ nhịp, xoay bàn, phần nhiều là do tác động của một vong linh khuất mặt tự xưng danh là “John King”.
Đó là một cái tên quen thuộc với những người thường đi tham dự những buổi lên đàn hồi giữa thế kỷ 18 ở khắp nơi trên thế giới. Vong linh ấy tự giới thiệu mình là Sir Henry Morgan, một hiệp sĩ kiêm hải tặc sống ở Anh quốc cách đây vài thế kỷ. Y đã hiện hình một phần cho tôi xem mặt và đầu có quấn khăn, trong khi tôi xúc tiến cuộc điều tra về những đồng tử Holmes ở Philadelphia cùng với bà Blavatsky và vài nhân vật khác ít lâu sau đó. Y có một lối viết dị kỳ và sử dụng lối văn Anh cổ xưa cũng rất lạ.
Hồi đó, tôi tin chắc đó là John King thật, vì mọi sự đã được chứng minh rõ ràng về thành tích và con người của y. Nhưng bây giờ, sau khi thấy rõ quyền năng của bà Blavatsky trong việc tạo nên ảo giác và sai khiến âm binh, tôi mới biết rằng John King chỉ là một vong linh mạo danh và lừa phỉnh mà bà sử dụng như một hình nộm để sai khiến và dùng làm một phương tiện để chỉ dẫn cho tôi học hỏi thêm về khoa Huyền môn.
Nói tóm lại, các hiện tượng đều có thật, nhưng không phải do vong linh người chết thực hiện, mà chỉ là do sự trợ giúp của một tinh linh ngũ hành.4
Bà vẫn duy trì cái ảo giác đó đối với tôi trong nhiều tháng, và tôi đã chứng kiến nhiều hiện tượng huyền linh khác được cho là do tác động của John King, chẳng hạn như một loạt các hiện tượng xảy ra tại tư gia của các đồng tử Holmes và của chính bà Blavatsky như đã kể trên.
Trước hết, y là một cá tính riêng biệt có tên John King. Kế đó, y là John King như một người đưa tin và nhận lệnh của các vị chân sư hiện sống trên thế gian. Và sau cùng, đó chỉ là một tinh linh do bà Blavatsky sử dụng để thực hiện các phép thuật lạ kỳ.
Không ai phủ nhận rằng trong thời gian đầu tiên ở Mỹ, bà Blavatsky tự xưng là một nhà Thần linh học, nhiệt liệt bênh vực khoa Thần linh học và các đồng tử, chống lại những kẻ đả kích gồm các giới học giả nông cạn, nửa mùa. Những thư từ và bài viết của bà đăng trên các báo chí Anh và Mỹ chứa đựng nhiều bằng chứng về việc ấy. Trong một bức thư gửi đăng trên tạp chí Spiritualist ngày 13 tháng 12 năm 1874, bà viết như sau:
“Như tình trạng hiện nay, tôi chỉ làm bổn phận trước hết đối với khoa Thần linh học mà tôi bênh vực đến mức tối đa, chống lại những đòn công kích xuyên tạc của các giới thiển cận đội lốt khoa học; và kế đó là đối với hai đồng tử cô thế bị vu khống...
“Nhưng tôi phải thú nhận rằng thật sự tôi không tin là mình đã giúp ích được gì cho khoa Thần linh học... Tôi cảm thấy một nỗi buồn thấm thía mà nhìn nhận điều ấy, vì tôi bắt đầu nghĩ rằng sự việc thật là vô phương cứu vãn. Tôi đã chiến đấu cho chân lý từ hơn mười lăm năm nay; vì mục đích sưu tầm và phổ biến chân lý, tôi đã đi khắp mọi nơi, từ các vùng núi non tuyết phủ của xứ Caucase đến những vùng đồng cát ở lưu vực sông Nil. Vì mục đích đó, tôi đã rời khỏi gia đình, từ bỏ cuộc đời ấm êm nhung lụa trong một xã hội văn minh để đi lang thang khắp nơi trên thế giới.v.v...
“Hai đồng tử cô thế” mà bà nói trong thư tức là hai ông bà Holmes, mà tôi vẫn đánh giá rất thấp về hạnh kiểm cũng như về thành tích bất hảo. Tuy nhiên, trước sự có mặt của bà Blavatsky, và dưới những điều kiện thử thách gắt gao do tôi thực hiện tại nhà ông bà Holmes, tôi đã chứng kiến tận mắt một loạt những hiện tượng đồng tử thỏa đáng và chân thật nhất không thể chối cãi.
Hồi đó, tôi đã ngờ rằng cái quyền năng tạo ra những hiện tượng đó là của bà Blavatsky, chứ nếu chỉ có hai ông bà Holmes thì có lẽ tôi đã thấy những trò giả mạo, hoặc là không có gì. Bây giờ, lục soát lại những tài liệu cũ, tôi tìm thấy bản văn kiện sau đây do chính tay bà viết và hiển nhiên là với ý định sẽ được công bố sau khi bà từ trần:
THÔNG ĐIỆP QUAN TRỌNG
“Tôi rất tiếc mà nói rằng tôi phải đứng về phe các nhà Thần linh học trong vụ tố giác hai nhà đồng tử Holmes. Tôi phải cứu vãn tình thế, vì tôi được biệt phái từ Paris sang Mỹ để chứng minh sự thật của những hiện tượng thông linh, và vạch rõ sự sai lầm của giả thuyết cho rằng tất cả những hiện tượng thông linh chỉ là do tác động của vong hồn người chết. Nhưng tôi có thể làm gì tốt nhất? Tôi không muốn cho người ta biết rằng tôi có thể tạo ra các hiện tượng tùy ý muốn. Tôi được lịnh phải làm trái lại. Tuy nhiên, tôi phải duy trì đức tin nơi các hiện tượng đó trong lòng của những người từ óc duy vật để trở thành duy linh, nhưng nay vì có sự tố giác nhiều nhà đồng tử, nên họ đã quay trở về với thái độ hoài nghi của họ trước kia.
“Bởi vậy, tôi đã chọn lựa vài tín hữu cùng đi với tôi đến nhà ông bà Holmes, và với sự trợ giúp của chân sư M. và quyền năng của ngài, tôi đã làm cho những tinh linh John King và Katie King xuất hiện từ cõi vô hình, tạo nên những hiện tượng “hiện hình,” và làm cho các giới thông linh ở khắp nơi tưởng rằng đó là do khả năng đồng tử của bà Holmes tạo nên. Bà này đã trải qua một cơn hoảng sợ khủng khiếp, vì bà biết rằng lần này các vong linh đã hiện hình thật sự!
Tôi đã làm đúng hay sai? Thế gian chưa đủ chuẩn bị để hiểu rõ triết lý của khoa Huyền môn. Trước hết, họ hãy nhận định rằng có những sinh vật trong cõi vô hình, dù đó là tinh linh ngũ hành hay vong linh người chết; và con người có những quyền năng ẩn tàng khả dĩ làm cho họ trở thành một đấng thần tiên bất tử.
Sau khi tôi qua đời, có lẽ người ta sẽ nhận thức tấm lòng vô tư của tôi. Tôi đã phát nguyện nêu cao chân lý để giúp đỡ người đời trên đường tìm Đạo, và tôi sẽ giữ vẹn lời nguyền. Mặc cho người thế gian vu khống và phỉ báng tôi, họ có thể gọi tôi là đồng bóng, phù thủy, bịp bợm, hay là gì tùy ý. Một ngày kia, hậu thế sẽ có dịp biết tôi rõ hơn. Ôi! Thế gian đau khổ và tội lỗi, tôi biết làm sao hơn!”
Toàn thể vấn đề đã được giải bày một cách rõ ràng: khoa Pháp môn mà bà được lịnh đem truyền bá sang Mỹ để thay thế khoa Thần linh học Tây phương vốn nặng về phần hiện tượng cơ bút, là khoa Huyền môn của Đông phương, tức là nền Minh triết thiêng liêng, hay Brahma Vidya. Vì Tây phương chưa sẵn sàng chấp nhận khoa này, nên công việc đầu tiên được giao phó cho bà là bênh vực sự thật về các hiện tượng thông linh chống lại những thành kiến của khoa học duy vật và các giới liên hệ. Vấn đề cần thiết duy nhất của thời đại là chận đứng, đánh đổ óc hoài nghi duy vật và củng cố nền tảng tâm linh của mọi sinh hoạt tinh thần. Bởi vậy, khi bước vào vòng chiến, bà đứng về phe các nhà Thần linh học ở Mỹ, và tạm thời phất ngọn cờ duy linh và nêu cao một lý tưởng chung với họ. Phải, hậu thế sẽ xét đoán bà một cách công bình!
III.
Tôi còn nhớ rõ phép thuật đầu tiên mà bà đã làm bằng cách sử dụng ý chí, ngay sau khi bà bắt đầu viết bộ sách “Vén Màn Isis”.5 Trong số những quan khách đến viếng nhà bà, có một nghệ sĩ người Ý, tạm gọi là ông B. (Signor B.).
Tôi đang ngồi với bà nơi phòng khách thì ông B. đến viếng. Trong câu chuyện trao đổi qua lại về các vấn đề của nước Ý, thình lình y thốt ra tên của một vị chân sư trong số những đấng cao cả nhất. Bà Blavatsky giật mình dường như bị điện giật, nhìn thẳng vào đôi mắt người khách lạ và nói bằng tiếng Ý:
“Có chuyện gì vậy? Tôi sẵn sàng.”
Người kia thản nhiên nói qua chuyện khác, và thảo luận về các vấn đề phương thuật, các nhà thuật sĩ và các đấng chân sư.
Khi ấy, ông B. đứng dậy mở cửa sổ, đưa tay khoát vài cái trên không khí bên ngoài, thì một con bướm trắng liền bay vào phòng và bay lượn trên trần nhà. Bà Blavatsky cười thoải mái vui vẻ và nói: “Khá đấy, nhưng tôi cũng làm được như vậy!”
Bà cũng đến chỗ cửa sổ, khoát tay vài cái tương tự, thì một con bướm trắng thứ nhì cũng liền bay vào phòng. Nó bay lên trần nhà, đuổi theo con bướm kia khắp quanh phòng, thỉnh thoảng hai con bướm lại đùa giỡn với nhau, rồi cùng bay đến một góc phòng thì cả hai đều biến mất ngay trước mắt chúng tôi.
Tôi hỏi việc ấy nghĩa là thế nào thì bà đáp: “Điều đó có nghĩa là ông B. có thể làm cho một tinh linh biến thành con bướm, và tôi cũng có thể làm y như vậy. Chỉ có thế thôi.”
Thì ra, hai con bướm chỉ là những vật giả tạo chứ vốn không có thật.
Tôi cũng nhớ những hiện tượng thần thông khác của bà, do việc sử dụng khả năng sai khiến âm binh.
Một đêm nọ chúng tôi làm việc soạn quyển sách của bà mãi đến khuya. Bữa cơm chiều hôm đó, tôi đã ăn vài món mặn, nên lúc một giờ khuya cảm thấy rất khát nước, tôi nói:
“Chà! Bây giờ nếu có một chùm nho tươi mà ăn thì hay quá nhỉ?”
Bà đáp: “À, phải đấy. Ta hãy ăn nho đi.”
“Nhưng các tiệm đã đóng cửa từ lâu, làm sao mua được vào giờ này?”
“Không sao. Chúng ta cũng vẫn có nho ăn như thường.”
“Làm sao có, và lấy đâu ra?”
“Rồi ông sẽ thấy. Bây giờ ông hãy vặn bấc đèn thấp xuống.”
Tôi vặn thấp ngọn đèn hơi, nhưng lỡ tay vặn quá trớn làm đèn tắt. Bà nói: “Ông không cần làm vậy. Tôi chỉ muốn ông vặn nhỏ lại thôi! Ông hãy thắp lại đi.”
Tôi thắp đèn sáng trở lại và hạ bấc đèn thấp xuống chỉ còn ánh sáng lờ mờ. Bà kêu lên: “Kia kìa! Ông hãy nhìn xem!”
Và bà đưa tay chỉ cái kệ đựng sách trên vách trước mặt chúng tôi. Tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy treo lủng lẳng nơi hai đầu cái kệ có hai chùm nho tươi lớn, loại nho đen đã chín muồi, và chúng tôi lấy xuống ăn.
Tôi hỏi bà đã dùng phương pháp nào, thì bà nói đó là do tác động của vài loại tinh linh dưới quyền sai khiến của bà.
Về sau, bà còn có dịp tái diễn phép thuật ấy hai lần khác nữa để đem trái cây về cho chúng tôi ăn giải khát giữa đêm khuya, trong khi chúng tôi soạn bộ sách “Vén Màn Isis”.
IV.
Dần dần, bà Blavaltsky nói cho tôi biết về sự hiện diện của các chân sư cùng những quyền năng của các ngài; và bằng vô số các hiện tượng huyền linh, bà cho tôi thấy bằng chứng về quyền năng của bà đối với những sức mạnh huyền bí trong thiên nhiên.
Trước hết, như đã nói ở trên, bà gán cho âm binh “John King” vai trò tác động lên các hiện tượng ấy, và chính nhờ sự trợ giúp của y mà lần đầu tiên tôi được tiếp xúc bằng thư từ với các chân sư. Tôi đã gìn giữ nhiều bức thư của các ngài, và ghi rõ ngày tháng nhận được những bức thư ấy.
Trong nhiều năm, cho đến ngày tôi rời New York để sang Ấn Độ, tôi được kết nạp vào hàng đệ tử dưới quyền của phân hội châu Phi trong Quần Tiên Hội.
Về sau, khi bà Blavatsky có một sự biến đổi huyền diệu về tâm linh và thể chất mà tôi không tiện nói ra, và cho đến nay vẫn không ai ngờ mặc dù họ được sự đối xử thân mật và hoàn toàn tin cẩn của bà (như họ vẫn tưởng), tôi được thuyên chuyển sang phân hội Ấn Độ, dưới sự chăm sóc điều hành của một nhóm chân sư khác.
Từ xưa đến nay, trên khắp thế giới bao giờ cũng có một tổ chức vĩ đại và bí ẩn gồm các vị chân sư chăm lo dìu dắt sự tiến hóa của nhân loại. Tổ chức ấy được chia làm nhiều phần nhỏ, tùy theo nhu cầu của nhân loại trong những giai đoạn tuần tự tiến hóa khác nhau.
Trong một thế hệ, trung tâm điều hành của Quần Tiên Hội được đặt ở một nơi nhất định; vào một thế hệ khác, trung tâm ấy lại được đặt ở một nơi khác. Tuy vô hình nhưng tổ chức ấy cần thiết cho sự tiến bộ tâm linh của nhân loại, và quyền năng phối hợp của tổ chức ấy được duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác để trợ giúp những hành giả chiến đấu không ngừng trên con đường Đạo xa xôi diệu vợi đưa đến chân lý thiêng liêng.
Kẻ hoài nghi phủ nhận sự hiện diện của các đấng chân sư bởi vì họ không nhìn thấy hay nói chuyện được với các ngài, cũng không hề thấy lịch sử nói về sự can thiệp hữu vi của các ngài trong những biến cố của các quốc gia. Nhưng sự hiện diện của các ngài đã được nhìn nhận bởi hàng nghìn những bậc đạo gia chân tu của nhiều thế hệ liên tục, đã giải thoát khỏi sự ô nhiễm của thế gian để bước vào cảnh giới tâm linh huyền diệu.
Trong nhiều thời kỳ, các ngài đã từng giao tiếp thân mật với những người chỉ nguyện xả thân cầu Đạo, hoặc dành trọn cuộc đời phụng sự hiến dâng để đem lại hạnh phúc và tình thương cho muôn loài.
Vài người trong số đó, rất mực khiêm tốn và bề ngoài có vẻ kém hèn như chúng tôi là những người lãnh đạo phong trào Thông Thiên Học, đã có diễm phúc được sự ưu ái và chỉ giáo của các ngài. Vài người như bà Blavatsky và sư đệ Damodar đã được nhìn thấy các ngài trong những linh ảnh từ khi còn nhỏ. Những người khác đã gặp các ngài dưới những hình dáng ngụy trang lạ lùng ở những nơi thật bất ngờ.
Tôi được bà Blavatsky giới thiệu cho các ngài qua nhân vật trung gian quen thuộc trong những kinh nghiệm trước đây: đó là vong linh mệnh danh “John King.” Y giúp tôi giao tiếp bằng phương tiện vô vi với bốn vị chân sư, trong số đó có một vị chân sư Ai Cập, một vị là đại diện của môn phái Alexandrie, một vị là chân sư Venitien, và một vị là hậu thân của một triết gia người Anh, tuy đã qua đời nhưng vẫn bất tử.
Chân Sư Sérapis (Ai Cập) là vị Sư Phụ đầu tiên của tôi. Ngài có một tác phong hào hùng, dũng cảm và đầy vẻ cương nghị của một người trội hẳn phần nam tính. Về sau, tôi được các chân sư cho biết rằng bà Blavatsky là một đệ tử trung kiên của các ngài, tuy rằng bà có những tính chất bất thường, làm cho bà khó dung hòa được với vài vị chân sư để có thể làm việc chung với các ngài. Điều này không lạ gì khi ta biết rằng mỗi người đều tiến hóa theo một Cung nhất định trong Thiên cơ. Họ có sự hòa hợp tâm linh với những linh hồn đồng Cung với mình, và có thể đối nghịch với những linh hồn thuộc về một Cung khác khi khoác lấy xác phàm để hoạt động trên cõi trần. Đó có lẽ cũng là lý do căn bản của mọi sự hòa hợp hay xung khắc giữa người này với người khác trên thế gian.
Dù sao, sự thật là có vài vị chân sư vẫn không thể làm việc với bà Blavatsky. Bà chỉ hợp tác được với những vị khác, mà tôi có liên hệ mật thiết trong những năm đầu của phong trào Thông Thiên Học thế giới.
Trong những chuyện tâm sự với nhau khi tôi đã đi khá sâu vào vấn đề để biết về Quần Tiên Hội và mối liên hệ của bà với tổ chức ấy, bà Blavatsky nói cho tôi biết rằng bà đã đến Paris từ năm trước (1873) với ý định ở lại đó ít lâu dưới sự bảo trợ của một người thân. Nhưng một ngày nọ bà nhận được mật lệnh của chân sư truyền cho bà phải đi ngay sang New York để chờ lệnh mới.
Qua ngày hôm sau, bà liền vượt biển với chỉ vừa đủ số tiền để mua vé tàu. Bà viết thư cho cha bà ở Nga, yêu cầu ông gửi tiền cho bà qua Lãnh sự quán Nga ở New York, nhưng vì phải chờ đợi một thời gian, và vì viên lãnh sự Nga từ chối không cho bà mượn trước, nên bà phải tìm việc làm để sống qua ngày.
Bà ngụ ở một trong những khu phố nghèo nàn nhất, là khu Madison của thành phố New York, và sống bằng nghề may thuê vá mướn cho một lão chủ tiệm tạp hóa người Do Thái rất tốt bụng. Bà luôn luôn nhắc đến người này với lòng biết ơn. Bà sống như vậy lây lất qua ngày, nhưng vẫn chưa nhận được tin gì và tương lai hoàn toàn mờ mịt. Nhưng năm sau, tháng 10 năm 1874, bà được mật lệnh đi đến Chittenden để gặp một người đồng môn sẽ cùng cộng tác với bà trong một công việc vĩ đại trong tương lai. Người ấy, ai ngờ đâu lại chính là... tôi!
Những bạn bè thân hữu của bà đều nhớ rõ câu chuyện mà bà đã kể cho họ nghe về sự lên đường ra đi bất ngờ của bà từ Paris sang New York theo mật lệnh của chân sư. Nhưng những người bạn ấy chỉ về sau mới được nghe bà kể lại, và những kẻ thù nghịch với bà có thể nói rằng đó chỉ là một việc mà bà mới nghĩ ra sau này; một chuyện giả dối được bịa đặt ra để cho ăn khớp với cái trò đùa ngộ nghĩnh mà bà ngụy tạo ra sau đó!
Tuy nhiên, trong khi tôi viết những trang này tại Adyar thì một việc tình cờ ( hay ít ra cũng có vẻ như tình cờ) đã mang đến cho tôi một bằng chứng xác nhận sự việc trên.
Vừa đến lưu trú tại Adyar, tôi gặp bà Anna Ballard, một nữ ký giả lão thành người Mỹ và là hội viên kỳ cựu của Câu lạc bộ Báo chí New York. Do hoạt động nghề nghiệp, bà này đã từng đến phỏng vấn bà Blavatsky trong tuần lễđầu tiên sau khi bà Blavatsky vừa đến đất Mỹ. Trong khi tiếp xúc với chúng tôi, giữa những câu chuyện mạn đàm khác kém quan trọng hơn, bà Ballard ngẫu nhiên nói cho tôi nghe hai chuyện, và tôi đã yêu cầu bà ghi chép lại cụ thể để làm tài liệu. Chuyện thứ nhất là khi bà đến viếng bà Blavatsky ở một ngôi nhà trọ nghèo nàn tại New York, bà Blavatsky có nói rằng bà từ giã Paris thình lình và không có dự tính trước, do một quyết định đột xuất chỉ báo trước có một ngày; và chuyện thứ hai là bà Blavatsky đã từng viếng xứ Tây Tạng.
Dưới đây là lời tường thuật của bà Anna Ballard:
Adyar, 17 tháng 1, 1892
Kính gửi Đại tá Olcott,
Sự quen biết của tôi với bà Blavatsky lâu hơn là ông tưởng. Tôi gặp bà hồi tháng 7 năm 1873 tại New York, độ một tuần lễsau khi bà vừa đến Mỹ. Hồi đó, tôi là phóng viên của nhật báo New York Sun, được chỉ định viết bài về một đề tài Nga. Khi tôi còn đang tìm tài liệu thì một người bạn cho tôi hay rằng có một phụ nữ Nga vừa nhập cảnh do chuyến tàu mới đến.
Tôi bèn tìm đến gặp bà, và từ đó bắt đầu một sự quen biết thân hữu kéo dài nhiều năm sau. Trong cuộc phỏng vấn đầu tiên của tôi, bà Blavatsky cho tôi biết rằng bà không hề có ý định rời Paris để sang Mỹ cho đến ngày cuối cùng trước khi bà xuống tàu, nhưng vì lý do gì bà ra đi và ai thúc hối bà đi gấp như vậy, thì bà không nói.
Tôi còn nhớ rõ bà nói với một vẻ sung sướng thích thú lộ ra mặt: “Tôi có ở bên Tây Tạng.” Hồi đó, tôi không hiểu tại sao bà lại cho đó là một vấn đề quan trọng, còn đặc biệt hơn những chuyến du hành ở Ai Cập, Ấn Độ và những nước khác mà bà đã kể chuyện cho tôi nghe, nhưng bà lại nói câu ấy với một vẻ mặt nghiêm trọng lạ thường. Bây giờ thì lẽ tất nhiên tôi hiểu ý bà muốn nói gì.
Ký tên: Anna Ballard
Độc giả sẽ nhận thấy rằng những sự việc mà bà Blavatsky đã kể cho người bạn đầu tiên này ở New York hồi 20 năm về trước đã xác nhận đúng đắn những gì mà từ đó về sau bà cũng đã thuật lại với một số đông người, về hai vấn đề quan trọng nhất trong lịch sử liên hệ giữa bà với hội Thông Thiên Học. Một là giai đoạn chuẩn bị của bà bên xứ Tây Tạng dưới sự chăm sóc của các đấng chân sư; và hai là cuộc hành trình đột xuất của bà sang Mỹ để tìm người bạn đồng môn có nghiệp duyên cùng hợp tác với bà để phát động phong trào Thông Thiên Học trên thế giới.
Hồi năm 1871, bà đã một lần thất bại khi dự tính thành lập một Tổ chức Tinh Thần tại Cairo, thủ đô Ai Cập, dựa trên nền tảng các hiện tượng thần linh. Vì không tìm được người có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo nên việc ấy không thành, thậm chí còn làm cho bà phải chịu nhiều sự chỉ trích và bực mình. Tuy nhiên, những phép thuật thần thông mà bà đã biểu diễn với sự trợ giúp của các vị chân sư Ai Cập và một vị chân sư khác mà về sau tôi có dịp tiếp xúc, đều là những hiện tượng vô cùng độc đáo. Việc ấy có vẻ như một sự hoang phí thần lực một cách vô ích, và cho thấy công trình nầy dường như thiếu sự hướng dẫn của thiêng liêng. Tôi không thể hiểu tại sao sự việc lại xảy ra như vậy.
Nói về hội Thông Thiên Học thì mọi sự diễn biến đều chỉ ra rằng có một lịch trình tiến hóa tuần tự, và bị chi phối bởi hoàn cảnh do tác động của những sức mạnh tương phản. Khi thì Hội sinh hoạt êm ái, điều hòa, khi thì phải trải qua những cơn sóng gió ồ ạt. Hội được thịnh vượng hay bị trầm trệ đều tùy nơi sự quản trị thông minh sáng suốt hay kém khôn ngoan của các nhà lãnh đạo. Tuy đường lối đại cương của Hội vẫn luôn được gìn giữ, phương châm hướng dẫn bao giờ cũng đồng nhất, nhưng chương trình sinh hoạt của Hội đôi khi được sửa đổi, nới rộng hay cải tiến một cách linh động, uyển chuyển tùy theo kiến thức và kinh nghiệm của mọi người.
Mọi sự đều chứng minh cho tôi thấy rằng phong trào Thông Thiên Học nói chung đã được các bậc chân sư chuẩn bị từ trước, nhưng mọi chi tiết đều để cho chúng ta thực hiện với sự cố gắng tối đa. Nếu chúng ta thất bại thì cái cơ hội quý báu mà nghiệp quả đã dành cho chúng ta sẽ rơi vào tay người khác, cũng như hiện nay tôi là người thừa kế những cơ hội lỡ làng mà nhóm tín hữu của bà Blavatsky đã bỏ dở không thực hiện được tại Cairo hồi năm 1871.
Thuở ban đầu, tôi không hề nghe bà Blavatsky nói gì ngụ ý rằng bà đã được cho biết trước, cho đến khi bà được lịnh đi đến Chittenden để gặp tôi, về việc chúng tôi sẽ cùng cộng tác với nhau trong tương lai, hay là về việc thành lập Hội Thông Thiên Học Thế giới. Chúng tôi chỉ nghe bà nói, như đã kể trên, rằng bà được phái từ Paris đi New York với mục đích truyền bá giáo lý Huyền môn, và trước khi chúng tôi gặp nhau, bà đã từng tham dự những buổi lên đàn và tiếp xúc với các đồng tử, nhưng vẫn còn ẩn mặt chứ chưa hề được công chúng biết đến.
Tháng 5 năm 1875, với sự đồng ý của bà Blavatsky, tôi bắt tay vào việc tổ chức một nhóm thân hữu chuyên khảo cứu về khoa học huyền bí, lấy tên là Câu lạc bộ Huyền linh (Miracle Club). Trong một đoạn hồi ký về việc này, bà viết như sau:
“Đó là một dự tính theo lời dạy của chân sư T.B., được truyền đạt qua trung gian của tinh linh P., mệnh danh là John King. Chân sư dạy rằng phải bắt đầu cho công chúng biết sự thật về các hiện tượng và các đồng tử. Thế là cuộc pháp nạn của tôi sẽ bắt đầu! Tôi sẽ gặp phải sự chống đối của các nhà Thần linh học, thêm vào đó là sự thù nghịch của người Cơ đốc giáo và những kẻ hoài nghi. Ôi! Chân Sư M., ý muốn của sư phụ sẽ phải được thực hiện.
Blavatsky.”
Câu lạc bộ này được dự định sẽ hoạt động kín đáo giữa các thành viên, không thâu nhận người ngoài, và thành viên cũng được yêu cầu không tiết lộ nơi hội họp. Bà viết thêm:
“Tất cả những hiện tượng thần linh, gồm cả các sự hiện hình, đều sẽ diễn ra dưới ánh sáng, và sẽ không sử dụng phòng tối.”
Theo lời bà nói như trên, thì dường như sẽ không có Hội Thông Thiên Học, nếu không có sự kiện là người đồng tử của Câu lạc bộ Huyền linh hoàn toàn suy thoái rồi rút lui và tôi đành bỏ dở không thể hoàn thành công việc ấy!
CHƯƠNG HAI -
VÀI NÉT ĐẶC THÙ
CỦA BÀ BLAVATSKY
I.
Trong Chương Một, chúng tôi có nói rằng bà Blavatsky được lệnh của chân sư phải rời Paris đi New York một cách đột ngột, do tin báo trước chỉ có một ngày, và khi đó bà chỉ có vừa đủ tiền để mua vé tàu.
Tôi còn nhớ một việc liên hệ đến chuyến đi ấy do bà thuật lại, việc ấy cũng biểu lộ một nét đặc biệt trong tính chất đa dạng của bà, ấy là tính hào sảng tự nhiên. Bà đã mua một vé tàu hạng nhất từ Havre đến New York, và khi ra bến, bà nhìn thấy một phụ nữ nhà quê ngồi bên vỉa hè ôm con khóc rất thảm thiết. Bà bước đến gạn hỏi thì được biết rằng đó là một phụ nữ Đức định xuống tàu để sang gặp chồng bên Mỹ, nhưng bị một kẻ gian đã bán vé giả cho bà ta ở Hambourg. Thế là khi đến đây, bà ấy bị bơ vơ, lạc lõng, không tiền bạc và tứ cố vô thân nơi đất khách. Lẽ tự nhiên, công ty hàng hải cũng không giúp gì được.
Động lòng trắc ẩn, bà Blavatsky nói: “Chị hãy yên tâm, để tôi xem có cách nào giúp chị được không?” Kế đó, bà vận dụng tất cả mọi khả năng hùng biện, hết thuyết phục rồi đến quở trách người đại diện công ty, nhưng rốt cuộc vẫn không có kết quả. Sau cùng, vì bà không có đủ tiền để trợ giúp người phụ nữ bất hạnh ấy nên bà phải dùng đến hạ sách duy nhất là đổi vé “cabin” hạng nhất của bà thành vé hạng chót, nằm dưới hầm tàu, và dùng số tiền chênh lệch để mua vé hạng chót cho cả hai mẹ con người đàn bà tội nghiệp kia!
Những người thuộc loại “nề nếp,” “mực thước,” thường tỏ ra hoang mang kinh ngạc vì những cử chỉ ngang tàng ngáo ngổ và thậm chí là cả những điều sống sượng, bất nhã của bà Blavatsky, nhưng tôi nghĩ rằng một cử chỉ hy sinh hào phóng như vậy cũng đủ làm nghiêng lệch đòn cân, và quét sạch tất cả những gì gọi là bất lịch sự trong phép xã giao của người đời! Ai không tin, hãy thử xuống nằm dưới hầm tàu chở dân di trú một lần thì biết!
Trên đây có kể về trường hợp nữ ký giả Ballard đến gặp bà Blavatsky tại một ngôi nhà trọ nghèo nàn ở một khu phố bình dân của thành phố New York trong khi bà còn chờ đợi tiền nhà và phải làm việc may thuê vá mướn để sống tạm qua ngày. Đó là vào tháng 7 năm 1873. Tháng 10 năm ấy, bà nhận được một bức điện tín từ Stavropol (Nga) của cô em gái là Elise, báo tin phụ thân bà từ trần và có để lại cho bà một phần gia tài. Cô em cho biết rằng ngân phiếu một ngàn đồng rúp6 đã được gửi cho bà. Sau đó ít lâu, bà nhận được tiền và dời đến một khu phố khang trang lịch sự hơn, ở đường East 16th, công trường Irving, New York.
Chính ở địa chỉ này mà tôi đến gặp bà sau khi từ nông trại Eddy trở về. Tuy nhiên, số tiền ấy không ở với bà được lâu, vì như ông Sinuett đã nhận xét và ghi lại trong quyển sách của ông về tiểu sử của bà Blavatsky thì một mặt bà có thể chịu đựng một cách vô cùng nhẫn nhục những cơn nghèo túng và nghịch cảnh khó khăn, nhưng khi tiền bạc vừa đến tay bà, thì bà dường như lấy làm băn khoăn khổ sở trừ phi bà đem vứt quăng đi với cả hai tay bằng những phương tiện dại dột nhất.
Đó là một cuộc chung vốn làm ăn có ký hợp đồng để khai thác nông trại của một người tên là C. G. trong một kỳ hạn là ba năm. Trong bản hợp đồng có điều khoản qui định rằng bà Blavatsky sẽ bỏ ra số tiền một ngàn đô-la để chung vốn, tất cả những lợi tức thâu hoạch được về hoa màu, rau trái, gà vịt, và những hoa lợi linh tinh khác sẽ được chia đều và mọi phí tổn cũng sẽ cùng gánh chịu đều nhau, v.v...
Điều mà người ta có thể tiên liệu trước đã xảy ra: bà Blavatsky đến ở tại nông trại, lợi tức đâu chẳng thấy, đâm ra tranh chấp, cãi lẫy, rồi mắc nợ và vướng vào một vụ kiện mà rất lâu về sau các bạn bè thân hữu của bà mới giúp bà giải quyết xong. Thế là tan tành cái giấc mộng lợi tức của bà về rau trái, hoa màu, nuôi bò sữa, gà đẻ trứng, v.v...
Ba tháng sau đó, tôi mới gặp bà tại ngôi nhà có hồn ma hiện hình ở tại Vermont, Chittenden, và bánh xe nghiệp quả của chúng tôi mới bắt đầu chuyển động. Những bài phóng sự của tôi đăng trên nhật báo Daily Graphic đã lôi cuốn đến Chittenden một vị lương y danh tiếng của thành phố New York, bác sĩ Beard. Khi trở về, ông ta đã viết một bài bình phẩm ngu xuẩn và khoác lác đăng trên báo, nói rằng những chuyện hồn ma hiện hình ở nông trại Eddy chỉ là những trò giả mạo, và y đã bị bà Blavatsky “cạo sát da” trong một bức thư trả lời nẩy lửa gửi đến tòa soạn báo Graphic.
Bức thư của bà là một sự biện hộ can đảm và độc đáo bênh vực cho những đồng tử Eddy và sự thật của những hiện tượng xảy ra, làm cho bà đột nhiên vang dội tên tuổi khắp các giới kể từ đó trở về sau. Đây là lần đầu tiên mà quần chúng Mỹ được nghe tên tuổi bà liên quan đến những vấn đề huyền linh, và cuộc tranh luận với một bác sĩ nổi tiếng ở New York thời ấy là nguyên nhân chính làm cho bà được nổi danh một cách bất ngờ.
Hồi đó, bà luôn luôn phát ngôn với một giọng sôi nổi, hào hùng và vui nhộn trong tất cả mọi cuộc đàm thoại và trên diễn đàn ngôn luận, báo chí. Bà thu hút mọi người bằng cách nói chuyện linh động và ý nhị; xem thường những nghi thức xã giao giả dối của người đời, và gây ngạc nhiên trong các giới bằng những quyền năng thần bí của bà.
Bà thường rút trong cái kho tàng ký ức vô cùng dồi dào phong phú về những chuyện phiêu lưu mạo hiểm mà bà đã trải qua do kinh nghiệm bản thân, và trong kho kiến thức thâm sâu về khoa Huyền môn, mà theo chỗ tôi biết thì không ai có thể bì kịp trong số các nhân vật xuất hiện ở Mỹ thời bấy giờ.
Khi tôi đã kết thúc loạt bài phóng sự đăng trên báo Daily Graphic về các hiện tượng thần linh ở Chittenden, tôi bèn chuẩn bị in ra thành sách. Vào lúc này, bà Blavatsky cũng dời chỗ ở đến Philadelphia. Hồi đó, khoa Thần linh học đang trải qua một giai đoạn xuống dốc do hậu quả của việc đồng tử Holmes bị nhà bác học Dale Owen7 công khai tố giác là dối trá, bịp bợm. Những cơ quan ngôn luận của phong trào bị mất độc giả rất nhiều, những sách vở Thần linh học sáng giá nhất cũng không ai thèm đọc nên nằm mãi trong các nhà sách, không ai mua. Nhà xuất bản quyển sách của tôi bị dao động tinh thần đến nỗi tôi phải đề nghị với ông Dale Owen và bà đồng tử Holmes mở một cuộc trắc nghiệm dài hạn dưới những điều kiện của tôi đưa ra để chúng tôi thực hiện những cuộc thử thách này tại nhà ông bà Holmes.
Sau đó, tôi đến Havana, tiểu bang New York, và chứng kiến những hiện tượng đồng tử thật kỳ diệu của bà Compton. Tất cả những cuộc khảo sát trên đây đều được tường thuật lại đầy đủ trong quyển sách của tôi nhan đề “Người về từ cõi âm” và sau cùng cũng được phát hành rộng rãi.
II.
Trong khi bà Blavatsky ở Philadelphia, tôi nhận lời mời của bà đến đó nghỉ vài ngày sau một thời gian làm việc mệt nhọc. Tôi định vắng nhà chỉ vài ngày thôi nên không dặn người nhà và văn phòng Luật chuyển thư từ cho tôi. Nhưng khi đến nơi tôi mới biết bà không muốn để tôi về sớm như vậy. Qua ngày hôm sau, tôi đến Bưu điện và yêu cầu họ đem chuyển thư từ của tôi đến địa chỉ của tôi đang ở, nếu có.
Khi đó, đã xảy ra một việc làm tôi ngạc nhiên, vì hồi đó tôi chưa được biết nhiều về những quyền năng thần thông của các chân sư và bà Blavatsky. Thậm chí cho đến bây giờ thì đối với tôi, những điều đó vẫn còn là một kỳ quan lạ lùng, dẫu rằng tôi đã từng trải qua một thời kỳ kinh nghiệm lâu dài về các hiện tượng huyền linh.
Ngay chiều hôm đó, người đưa thư mang đến cho tôi vài bức thư gửi từ nước ngoài, trên phong bì ghi địa chỉ của tôi ở New York, có đóng dấu các trạm bưu điện xuất xứ nhưng không có con dấu của Bưu điện thành phố New York!
Bất chấp mọi nguyên tắc của ngành bưu điện, những bức thư đó đã được chuyển thẳng đến tay tôi ở Philadelphia mà không đi qua Bưu điện thành phố New York! Trong khi ở New York không ai có thể biết địa chỉ của tôi tại Philadelphia vì chính tôi cũng không biết khi tôi rời nhà ra đi!
Khi mở các phong thư, tôi thấy trong những lá thư đều có thêm những giòng chữ viết giống nhau, đúng là tuồng chữ trên những bức thư của các chân sư mà tôi đã nhận được ở New York trước đây. Những giòng chữ này được viết ở ngoài lề, hoặc ở những khoảng trống trong thư của những người đang giao dịch với tôi. Những giòng chữ đó hoặc bình phẩm về tính hạnh hay ý đồ của các đương sự, hoặc là những lời khuyên có liên quan đến vấn đề học Đạo của tôi.
Sự việc kỳ lạ này mở màn cho một loạt những hiện tượng kỳ diệu khác nữa trong khoảng thời gian độ hai tuần tôi lưu lại Philadelphia. Phân tích những hiện tượng thần thông của bà Blavatsky, hoặc có liên quan đến bà, chúng tôi nhận thấy chúng có thể được chia làm nhiều loại, mà khả năng tạo nên những hiện tượng đó đòi hỏi một sự hiểu biết về những điều sau đây:
° Biết rõ những công năng rốt ráo của vật chất, mãnh lực kết cấu các nguyên tử, nhất là sự hiểu biết về tiềm năng của chất tinh quang hay khí tiên thiên (Aksha).
° Khả năng tác động của các tinh linh ngũ hành khi đặt dưới ý chí điều khiển của con người.
° Quyền năng sáng tạo của tư tưởng, có thể dùng thuật thôi miên tạo ra những ảo giác mắt thấy, tai nghe và xúc cảm những điều mà thật ra vốn không có.
° Khả năng phóng xuất hình ảnh hay chữ viết bằng sức mạnh của ý chí.
° Khả năng đọc được tư tưởng của người khác và thần nhãn nhìn thấy quá khứ vị lai.
° Khả năng thần giao cách cảm tùy ý với những nhân vật ngang hàng hoặc cao hơn mình về trình độ phát triển tâm linh.
° Khả năng đọc được ký ức của thiên nhiên, ẩn tàng trong chất tinh quang hay khí tiên thiên, trong đó chứa đựng tất cả những kho tàng hiểu biết của con người.
Hồi tưởng lại những nhận xét của tôi trong hai mươi năm qua, tôi nghĩ rằng tất cả những chuyện mà tôi đã từng kể, hay sẽ thuật lại trong quyển sách này, sẽ thuộc về một trong những loại kể trên.
Những kẻ hoài nghi chắc sẽ nói rằng sự phân loại như trên có vẻ độc đoán và những giả thuyết của tôi là hão huyền. Họ sẽ yêu cầu tôi chứng minh sự thật về các tinh linh ngũ hành; về hiện tượng thần nhãn; về sự chuyển di đồ vật xuyên qua không gian; về sức mạnh hấp dẫn và kết cấu các nguyên tử, v.v...
Nhưng tôi chỉ có thể thuật lại những điều mà tôi và nhiều người khác đã nhìn thấy, và thách đố những ai hoài nghi hãy tìm ra trong thiên nhiên bất cứ một định luật nào nằm ngoài những điều đã nêu trên để giải thích các sự kiện hiển nhiên không thể chối cãi. Còn nếu người ta cho rằng đó là phép lạ, hay ma thuật, thì tôi sẽ ngậm miệng, vì điều đó chận đứng mọi cuộc tranh luận.
Tôi không tự hào có thể giải thích tất cả những hiện tượng thần thông của bà Blavatsky, vì việc ấy đòi hỏi một trình độ hiểu biết ít nhất cũng tương đương với bà, là điều mà tôi chưa bao giờ có được.
III.
Những ngày tôi trải qua ở Philadelphia đều bận rộn với việc học Đạo và chứng kiến những hiện tượng thần thông của bà Blavatsky. Ngoài ra, tôi còn có một số bạn bè thân hữu, và bà đã làm những phép thuật huyền linh này trước mặt những người ấy.
Trong số những phép thuật đó, tôi còn nhớ có lần bà làm cho một bức ảnh trên tường thình lình biến mất khỏi cái khung, và thay vào đó là bức chân dung hoạt họa của John King, trong khi một người trong số quan khách đang nhìn vào bức ảnh.
Dần dần, tôi được bà giảng giải cho nghe những lý thuyết của Huyền môn Đông phương về tinh thần và vật chất và về những vong linh trong cõi vô hình. Bà không bảo tôi từ bỏ giả thuyết Thần linh học mà chỉ ra cho tôi thấy và nhận định rằng, như một khoa học chân chính, khoa Thần linh học thật sự chỉ có thể có ở phương Đông, và những người tinh thông về khoa này chỉ có thể là những bậc đạo sư và đệ tử của các đạo phái Huyền môn Đông phương.
Với tấm lòng thành thật khách quan đối với các nhà Thần linh học, tôi phải nói rằng cho đến nay chưa có một lý thuyết khoa học nào được đưa ra về những hiện tượng đồng tử mà phần đông họ đã chấp nhận. Và tôi cũng không thấy bằng chứng cụ thể nào chỉ ra rằng trong số những tín hữu Tây phương của phong trào này, có ai đã từng khám phá một phương pháp nào để có thể kêu gọi các vong linh xuất hiện hoặc tạo ra các hiện tượng tùy ý muốn. Không một người đồng tử nào mà tôi đã từng gặp hoặc nghe nói đến có được một bí quyết hay chân ngôn để thực hiện được những việc đó, vốn là những điều rất thông thường và quen thuộc từ nhiều thế hệ ở các xứ phương Đông.
Trong khi bà Blavatsky làm cho tôi và các bạn hữu tin rằng những hiện tượng xảy ra hầu như mỗi ngày đều là do tác động của vong linh John King, mạo nhận là vong hồn một hải tặc lừng danh khi xưa tên là Sir H. Morgan, và bà chỉ trợ giúp y với tư cách là một người trung gian hay phụ tá, bà Blavatsky đã làm nhiều hiện tượng chứng tỏ là bà có một bản lĩnh cao cường về phương thuật (magic).
Tôi xin kể một thí dụ, đồng thời cũng nói thêm rằng những phát minh khoa học lớn lao thường bắt nguồn từ việc tình cờ nhận xét những sự việc rất đỗi thông thường, chẳng hạn như một trái táo rụng xuống đất đã giúp Newton khám phá luật hấp dẫn (gravitation); và việc nhìn thấy cái nắp thiếc nẩy lên trên ấm nước đang sôi đã giúp Denis Papin tìm ra năng lực của hơi nước để phát minh động cơ hơi nước.
Ngày nọ, nhận thấy trong nhà thiếu khăn mặt để dùng, tôi mua vài cái khăn lớn đem về, và cắt ra làm độ một chục cái khăn nhỏ. Khi thấy bà Blavatsky định lấy ra dùng ngay mà không chịu viền các cạnh khăn lại cẩn thận, tôi mới phản đối lối sống thiếu ngăn nắp đó, và bà liền lấy kim chỉ ra may. Chưa kịp bắt đầu thì bỗng nhiên bà đá một cái dưới gầm bàn và nói với giọng giận dữ: “Đồ láo, đi ra!”
Tôi hỏi: “Cái gì vậy?”
Bà đáp: “Có gì đâu! Chỉ có một tinh linh nó kéo vạt áo tôi và muốn có một việc gì để làm!”
Tôi nói: “À, hay quá! Sao bà không đưa khăn cho nó may. Bà cần gì phải làm cho nhọc, vả lại bà cũng chẳng khéo tay gì lắm trong đường kim mũi chỉ?”
Bà cười và mắng tôi chê bà may dở, nhưng cũng chưa chịu làm theo sự thỉnh cầu của kẻ khuất mặt ở dưới gầm bàn, sẵn sàng trợ giúp một tay nếu có dịp. Sau cùng, nghe lời thuyết phục của tôi, bà bảo tôi hãy để khăn mặt và kim chỉ trong một cái tủ kiếng có khóa, và che màn lụa xanh ở phía tường bên kia. Tôi làm theo và trở lại tiếp tục ngồi nói chuyện với bà về đề tài lý thú duy nhất và bất tận của chúng tôi, là vấn đề khoa học huyền bí.
Sau độ mười lăm hay hai mươi phút, tôi nghe một tiếng động nhỏ giống như tiếng chuột kêu ở dưới gầm bàn, khi đó bà Blavatsky cho tôi biết rằng “nó” đã viền xong mấy cái khăn. Tôi bèn lại mở tủ và thấy mười hai cái khăn mặt đã viền xong, tuy rằng hơi vụng về, giống như của trẻ em mới tập may trong các lớp may nhi đồng. Thế là mấy cái khăn mặt đã được viền bìa thật sự không thể nghi ngờ, trong khi tủ đã khóa kín và bà Blavatsky không hề bén mảng đến gần trong suốt thời gian đó. Lúc ấy vào độ bốn giờ chiều, giữa ánh sáng ban ngày. Chúng tôi chỉ có hai người trong phòng, không có người nào khác bước vào cho đến khi mọi việc đã xong!
Có lần trong khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện ở phòng khách, bà Blavatsky thình lình biến mất. Tôi đã từng trải nhiều kinh nghiệm về các hiện tượng huyền linh, nhưng việc này làm tôi ngạc nhiên và lo lắng. Sau khi đi lục soát khắp trong nhà mà không thấy gì, tôi trở lại phòng khách châm thuốc hút, và thử tìm hiểu điều bí mật này. Hồi đó là năm 1875, tức là nhiều năm trước khi khoa thôi miên được thí nghiệm và phổ biến, cho nên tôi không hề biết rằng lúc ấy tôi chỉ là một đối tượng thụ cảm, và bà Blavatsky chỉ làm che lấp thị giác của tôi để tôi không nhìn thấy bà trong khi bà vẫn có mặt tại chỗ!
Một lúc sau, bà xuất hiện trở lại nơi phòng khách, tôi mới hỏi nãy giờ bà đi đâu, thì bà cười và nói rằng vì bà có việc phải làm về phần “vô vi” nên bà đã tàng hình trong chốc lát. Nhưng tàng hình bằng cách nào thì bà không nói.
Bà cũng làm phép thuật đó trước mặt tôi và những người khác nhiều lần nữa, trước và sau khi chúng tôi sang Ấn Độ, nhưng tất cả những lần đó đều xảy ra nhiều năm trước khi tôi được biết về khoa thôi miên, vốn là cách giải thích dễdàng cho thuật tàng hình.
Như tôi đã có lần giải thích, thuật thôi miên của phương Đông còn vượt trội hơn nhiều so với phương Tây, vì trong trường hợp này, sự dẫn khởi để che lấp giác quan của người thụ cảm được thực hiện bằng tư tưởng trong âm thầm, chứ không cần phải truyền lệnh bằng giọng nói hay nhìn vào mắt. Vì thế, người thụ cảm không thể cảnh giác để chống lại sự thôi miên, và sự việc xảy ra tự nhiên trong khi y không hay biết gì cả.
Bà Blavatsky còn biểu diễn nhiều hiện tượng thần thông lạ lùng khác nữa. Tôi chỉ thuật lại vài sự việc đáng kể đã làm thỏa mãn lý trí và óc phê bình của tôi về sự thật của khoa huyền thuật phương Đông. Đó là thời kỳ mà tôi được biết bà Blavatsky như một bạn đồng môn, nên mối liên hệ giữa bà với tôi được thiết lập trên một cương vị hoàn toàn bình đẳng và mật thiết. Nhờ đó, tôi mới có thể nhận xét bà như một người thường, trước khi bà được các bạn đạo suy tôn gần như thần thánh. Những người này không được biết gì về những sở trường, sở đoản và tính chất rất cận nhân tình của bà.
Như tôi sẽ trình bày một cách trung thực, hình ảnh lý tưởng đã phai mờ của tác giả các bộ sách “Vén màn Isis” và “Giáo lý bí truyền” sẽ là hình ảnh của một người bằng xương bằng thịt; một người phụ nữ thật sự tuy có trội hẳn về phần nam tính, vẫn sống bình thường như mọi người khi thức tỉnh, nhưng lại đi vào một thế giới khác và giao tiếp với những nhân vật cao cả hơn trong giấc ngủ hay khi sử dụng nhãn quang siêu phàm; một cá tính đặc biệt hiện hữu trong một xác thân phụ nữ yếu đuối, “trong đó... một cơn giông tố luôn luôn gầm thét hầu như bất cứ lúc nào”. Đó là theo lời của một vị chân sư đã miêu tả tình trạng tâm linh và khí chất của bà. Một khí chất thật bất thường, biến đổi, đa dạng, nóng nảy, ồ ạt như giông bão, nó đòi hỏi ở kẻ đối diện một sự nhịn nhục và tự chủ đến mức độ anh hùng nếu họ muốn sống chung và cộng tác với bà trên một tinh thần vô kỷ vị tha.
Nhưng dù sao người ta cũng không thể quên được bản lĩnh phương thuật cao cường và những phép thuật thần thông mà bà đã thực hiện, những bằng chứng dồn dập mà bà đã cho thấy về sự hiện diện của các đấng chân sư mà bà tuyệt đối phục tùng đến mức tự cảm thấy không xứng đáng để lau bụi trên bàn chân các ngài, và công trình phụng sự hiến dâng khi người phụ nữ ngáo ngổ và ngang tàng ấy trở thành một bậc đạo sư phổ biến đạo lý cho đời và một nhà tiền phong cầm đuốc soi đường cho người tầm Đạo.
Tất cả những điều đó, và những bộ sách Đạo mà bà để lại cho hậu thế, càng kết hợp để chứng minh tính chất vĩ đại của bà và làm cho tính khí ngang ngạnh bất thường của bà được xóa nhòa trong quên lãng, thậm chí bởi những người đã từng bị những điều ấy làm cho điêu đứng khổ sở nhiều nhất về phương diện tinh thần.
Bằng cách vạch rõ con đường Đạo cho hậu thế, bà đặt tất cả chúng ta dưới một gánh nặng nghĩa vụ đến mức người ta không thể có cảm nghĩ nào khác hơn là một sự biết ơn sâu xa đối với bà.
BÀ H. P. BLAVATSKY (1831 - 1891)
SÁNG LẬP VIÊN VÀ NHÀ LÃNH ĐẠO HỘI THÔNG THIÊN HỌC THẾ GIỚI
CHƯƠNG BA -
THỬ THÁCH
I.
Với ý định tường thuật theo thứ tự thời gian những sự việc từ thuở ban đầu của Hội Thông Thiên Học, gồm cả những ngày liên hệ ban sơ giữa bà Blavatsky với tôi, tôi thấy cần nói qua vài hiện tượng phóng bút của bà, mà tôi có ghi chép trong quyển “Người về từ cõi âm” như đã nói trước đây. Những hiện tượng của bà Blavatsky dường như do tác động của một vong linh mệnh danh là John King, vốn là linh hồn đã thoát xác của một tay hải tặc lừng danh xưa kia tên là Henry de Morgan, đã từng được Anh hoàng Charles II tấn phong tước hiệp sĩ.
Nhưng thật ra đó chỉ là một cái tên giả để tạm gọi những âm binh hay tinh linh dưới quyền sai khiến của bà Blavatsky. Trong một buổi họp nơi bà trú ngụ tại một khách sạn ở Philadelphia vào buổi tối 6 tháng 1 năm 1875, nhân dịp John King đang làm các hiện tượng lạ, tôi nói: “Nếu quả thật anh là một vong linh tốt lành như anh tự nhận, anh hãy thi thố một vài quyền năng của anh cho tôi xem. Chẳng hạn, anh hãy làm ra một bản sao bức thư tôi đang cất trong ví của tôi.”
Không ai để ý đến lời yêu cầu của tôi chiều hôm ấy, nhưng qua buổi tối sau hôm đó hai ngày, trong khi bà Blavatsky và tôi đang ngồi ở cạnh bàn làm việc, có những tiếng nhịp gõ rất lớn vang lên. Theo tiếng nhịp, tôi liền viết ra những nguyên âm chữ cái và đọc: “Ông vui lòng đưa cho tôi cuốn tự điển xuống dưới gầm bàn.”
Trên bàn lúc ấy có quyển tự điển Nga-Anh của bà Blavatsky, tôi bèn cầm lấy và đưa xuống gầm bàn theo lời yêu cầu. (Tôi chỉ đưa chứ không phải bỏ rơi xuống đất, dường như đưa cho một người khuất mặt nào đó ở dưới gầm bàn cầm lấy quyển tự điển dầy cộm ấy.)
Kế đó, những tiếng nhịp gõ yêu cầu tôi đưa xuống một lọ keo dán và một con dao nhỏ chuốt viết chì. Những vật liệu này cũng được đưa xuống gầm bàn, và sau một quãng im lặng kéo dài độ một lúc, tiếng nhịp gõ báo hiệu “Đã xong!”
Chúng tôi thâu hồi cuốn tự điển, con dao và lọ keo, và nhận thấy trên một trang giấy rời trong quyển tự điển là một bản sao phóng bút của bức thư nói trên.
Bà Blavatsky giải thích tác dụng của con dao như sau: “Một phần rất nhỏ chất kim khí của lưỡi dao được chuyển thể thành chất khí và dùng để phóng ra những hàng chữ màu đen. Keo dán cũng được chuyển thành trạng thái chất khí, và có tác dụng gắn kết các nguyên tử kim khí trong cuộc thí nghiệm. Cái ví đựng bức thư vẫn ở trong túi áo của tôi từ khi tôi đến thành phố này cho đến đêm xảy ra sự việc. Độ nửa giờ trước đó, tôi có đặt nó lên cái kệ phía trên lò sưởi, ngay trước tầm mắt của tôi mỗi khi tôi ngẩng mặt nhìn lên từ quyển sách tôi đang đọc. Bà Blavatsky vẫn ngồi gần bên tôi ở cạnh bàn và đang chăm chú viết. Ngoài hai chúng tôi ra, không có một người nào khác trong phòng!
Khi tôi so sánh bức thư và bản sao, bằng cách đặt chồng hai tờ giấy lên nhau, thì thấy tuy chúng giống nhau nhưng không phải rập theo nhau từng chi tiết. Điều này lại càng làm cho hiện tượng phóng bút thêm phần thú vị.
II.
Trong thời gian ở Philadelphia, bà Blavatsky rất bận rộn công việc viết bài vở cho báo chí, trước hết nói về Thần linh học, và sau đó là về khoa Huyền môn của Đông phương. Việc phát hành quyển sách của tôi cũng đưa đến những kết quả quan trọng là gây nên những cuộc bình luận kéo dài trong báo giới Anh-Mỹ, trong đó bà Blavatsky và tôi đều có đóng góp nhiều bài viết và thiết lập những mối tình thân hữu thêm bền chặt với nhiều bạn Đạo. Qua giao dịch thư từ, chúng tôi đã giải bày với họ toàn bộ các vấn đề huyền học Đông phương và Tây phương.
Không bao lâu, chúng tôi đã nhận được rất nhiều thư từ khắp nơi trên thế giới, trong số đó có những người tìm hiểu nhờ giải đáp thắc mắc; cũng có những kẻ đối nghịch gửi thư để chống báng, đả kích; và những cảm tình viên gửi lời khen tặng và khích lệ.
Ông Alexandre Aksakof, thành viên Hội đồng Cố vấn của Nga hoàng và là một nhà Thần linh học rất hăng say, đã yêu cầu bà Blavatsky dịch quyển sách của tôi sang tiếng Nga, và chịu chi trả mọi phí tổn ấn loát, phát hành. Bà nhận lời. Sau khi bản dịch tiếng Nga này ra đời, tại St. Petersburg đã lưu hành một cuốn văn thư khen tặng với lời lẽ rất khả ái của giáo sư N. A. Wagner, một chuyên gia khoa học hàng đầu của trường Đại học Hoàng gia. Trong đó, giáo sư nhận xét rằng công việc điều tra sưu tầm của tôi về các hiện tượng thần linh đã được thực hiện “đúng theo tất cả những điều kiện cần thiết của một cuộc khảo sát khoa học nghiêm chỉnh và thận trọng”.
Đó là một chứng thư mà đương nhiên tôi cảm thấy rất lấy làm hãnh diện. Các nhà bác học William Crookes,8 Alfred Wallace9 của Anh và Camille Flammarion10 của Pháp cũng đã bày tỏ những cảm tình ưu ái rất nồng hậu và thân hữu.
Vài tháng sau đó, ông C. C. Massey, một người Anh, từ London sang Mỹ để kiểm chứng những lời tường thuật của tôi về các hiện tượng hồn ma hiện hình ở nông trại Eddy bằng cách đích thân quan sát tại chỗ. Chúng tôi thường xuyên tiếp xúc với nhau và đã thông cảm nhau đến mức nảy sinh một tình thân hữu đậm đà, một tình bạn thâm giao vẫn kéo dài mãi đến sau này.
Ngoài ra, tôi cũng có giao dịch bằng thư từ và kết thân với một người bạn khác là ông Stainton Moses, Tiến sĩ Văn khoa tốt nghiệp Đại Học Oxford, giáo sư văn chương và Anh ngữ tại trường Đại học London.11
Tôi có gửi cho ông một quyển sách của tôi và chúng tôi đã trao đổi thư từ qua lại hầu như hằng tuần trong nhiều năm liên tiếp. Bức thư đầu tiên của ông ta thảo luận về những điều kiện và kết quả của hiện tượng đồng tử trong những buổi lên đàn. Ông lưu ý tôi đến sự kiện này, là:
“Sự có mặt của vài hạng người trong những buổi lên đàn gây chướng ngại trầm trọng và có khi làm tê liệt các hiện tượng. Nguyên nhân không phải lỗi tại họ hay là do một thái độ tinh thần gì đó (chẳng hạn như thiếu đức tin, v.v...), mà là do bầu không khí chung quanh họ gây nên. Người đồng tử càng nhạy cảm bao nhiêu thì điều đó càng rõ rệt bấy nhiêu.”
Ông Stainton Moses còn viết tiếp:
“Sự có mặt của nhiều người bạn tôi làm cho mọi hiện tượng của tôi đều ngưng trệ, điều đó làm tôi rất bực mình nhưng tôi không làm sao sửa đổi được.”
Bàn về hiện tượng biến mất thể xác của người đồng tử (như trường hợp của bà Compton, được mô tả lại trong quyển sách của tôi), ông cho rằng đó là hiện tượng lạ kỳ nhất, mà ông không thể giải thích, nhưng ông tin rằng điều đó không lạ gì đối với các nhà thuật sĩ phương Đông.
Những gì tôi đã trình bày trong một chương trước về quyền năng che lấp thị giác của người khác bằng thuật thôi miên làm thay đổi thị giác của họ có thể giải thích được điều bí ẩn này và loại trừ nhiều quan niệm mê tín dị đoan khác, kể cả việc cho đó là ma thuật.
Thật không uổng công tôi đã viết quyển sách đó, vì nhờ nó mà tôi có được hai người bạn tâm giao trọn đời như Stainton Moses và Massey. Nhưng còn hơn thế nữa, nó đã thay đổi cuộc đời tôi và đánh dấu một giai đoạn lịch sử. Trong thời gian ông Massey lưu trú tại Mỹ, chúng tôi đã cùng nhau viếng thăm nhiều nhà đồng tử, và ông là một trong những người đầu tiên đã cùng bà Blavatsky và tôi thành lập Hội Thông Thiên Học Thế Giới vào khoảng cuối năm ấy (1875).
III.
Trước đây tôi có nói về Signor B., một nghệ sĩ người Ý có phép thuật, đã có lần đến viếng bà Blavatsky tại New York. Một buổi tối mùa thu năm 1875, ngay sau khi thành lập Hội Thông Thiên Học, tôi đã chứng kiến hiện tượng lạ lùng của y, làm mưa bằng cách sai khiến những tinh linh trong không gian.
Đó là một đêm trăng tròn, bầu trời xanh biếc không có một cụm mây che. Y gọi bà Blavatsky và tôi ra ngoài lan-can, dặn tôi hãy bình tĩnh và hoàn toàn im lặng, dù bất cứ việc gì xảy ra. Kế đó, y lấy trong túi áo một tờ giấy cứng độ bằng khổ tập học trò và đưa về phía mặt trăng. Trên một mặt giấy có vẽ bằng màu nước một số hình vuông vức, trong mỗi ô vuông có một con số dị kỳ, nhưng y không cho tôi cầm lấy hoặc xem xét.
Tôi đứng gần sau lưng y và có thể cảm thấy thân mình y cứng đơ như trong một cơn tập trung ý chí mãnh liệt. Độ một lát, y chỉ vào mặt trăng, rồi chúng tôi thấy những luồng mây đen từ vành trăng tuôn ra và bay về phía chân trời.
Tôi bất giác thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc, nhưng nhà phù thủy nắm chặt tay tôi với bàn tay cứng như sắt và ra hiệu cho tôi hãy im lặng. Luồng mây đen bay ra càng lúc càng nhanh và kéo ra càng dài. Nó lan dần thành hình rẽ quạt, và trong chốc lát đã có những đám mây đen khác xuất hiện rải rác trên nền trời mỗi chỗ một ít, rồi hợp thành khối và di chuyển rất nhanh. Nền trời đã trở nên u ám vì mây đen bao phủ, mặt trăng mất dạng và một cơn mưa đổ xuống khiến chúng tôi phải lui vào nhà. Không có sấm sét, cũng không có gió, mà chỉ có một cơn mưa rào được tạo nên trong vòng một khắc đồng hồ bởi con người kỳ bí ấy.
Khi chúng tôi đến gần ánh sáng của ngọn đèn, tôi nhận thấy gương mặt nhà phù thủy biểu lộ những nét rắn rỏi cương nghị như sắt thép và hai hàm răng nghiến chặt, giống như sắc thái người ta nhìn thấy trên gương mặt của những binh sĩ tác chiến ngoài mặt trận.
Quả thật vậy, y vừa mới chiến đấu và chinh phục những đạo binh tinh linh ngũ hành, một kỳ công đòi hỏi sự tận dụng tất cả nghị lực trong con người.
Signor B. không ở lại với chúng tôi lâu, mà hối hả cáo từ ra về. Và vì đêm đã khuya nên tôi cũng lui về phòng riêng vài phút sau đó. Nền đá trên đường lộ đã trơn ướt vì mưa, không khí lạnh và ẩm.
Tôi vừa vào phòng ngồi hút thuốc thì nghe tiếng chuông reo, và khi ra mở cửa trước, tôi thấy Signor B. đứng trên ngưỡng cửa, gương mặt tái xanh và một phần đã kiệt sức. Y xin lỗi vì đã làm phiền tôi và xin một ly nước uống. Tôi mời y bước vào nhà.
Sau khi y đã uống nước và ngồi nghỉ một lát, chúng tôi mới nói chuyện về những vấn đề huyền học và câu chuyện kéo dài trong một lúc khá lâu. Tôi nhận thấy y sẵn sàng thảo luận về các vấn đề văn chương, nghệ thuật hay khoa học, nhưng lại vô cùng dè dặt khi nói về khoa Huyền môn và kinh nghiệm cá nhân của y trong việc phát triển tâm linh.
Tuy nhiên, y giải thích rằng tất cả những giống tinh linh ngũ hành đều có thể chịu sự kiềm chế của con người khi phát triển được những tiềm năng thiên phú của mình. Chừng đó, ý chí sẽ trở thành một sức mạnh vô địch làm cho tất cả những giống sinh vật thấp kém hơn, gồm cả các loại tinh linh ngũ hành, đều phải chịu khuất phục.
Signor B. nói rằng, sự thật là không hề có những luồng khói đen từ vầng trăng bay ra, đó chỉ là một ảo giác được tạo ra bởi sự tập trung tư tưởng của y trên mặt trăng. Nhưng quả thật tôi có nhìn thấy những đám mây đen xuất hiện trên nền trời trong sáng và nhìn thấy mưa rơi. Y lưu ý tôi sự kiện ấy để tôi suy gẫm.
Nhưng rồi y lại đưa ra một lời khuyên làm tôi rất ngạc nhiên. Tôi đã thấy y rất hòa thuận với bà Blavatsky, họ đã từng nói chuyện rất cởi mở và đầy tình thân hữu với nhau về các vấn đề thế sự cũng như về khoa học Huyền môn, và đã cùng so tài trong việc thực hiện các hiện tượng như hiện tượng hai con bướm trắng. Bởi vậy, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy y làm ra vẻ bí mật và cảnh giác tôi nên đoạn tuyệt mọi sự giao du thân mật với bà.Edit
Y nói, bà là một phụ nữ độc ác, rất nguy hiểm, và sẽ đem tai họa đến cho tôi nếu tôi cứ tiếp tục mối liên hệ giữa tôi với bà. Y nói rằng y phải đến cảnh giác tôi điều ấy theo lệnh của một vị chân sư mà tôi đã từng nghe y nhắc đến thánh danh trong những câu chuyện với bà Blavatsky và tôi.
Tôi nhìn thẳng vào mặt y để thử dò xem có một ý nghĩa ẩn giấu gì chăng trong những lời khuyên vô lý đó, và sau cùng tôi nói: “Thưa ông, tôi biết rằng đấng cao cả mà ông vừa nhắc đến quả có thật. Sau khi đã nhìn thấy ông thực hiện phép thuật vừa rồi. Tôi có đủ lý do để ngờ rằng ông có liên hệ với ngài hay với Quần tiên hội. Tôi cũng sẵn sàng tuân lịnh ngài cho dù phải hy sinh tính mạng tôi. Nhưng tôi yêu cầu ông hãy đưa ra một bằng chứng cụ thể để chứng minh một cách rõ ràng, tích cực và không thể nghi ngờ, rằng bà Blavatsky là người phụ nữ ác độc như ông diễn tả, và chân sư muốn tôi phải chấm dứt mọi sự liên hệ với bà.”
Người phù thủy Ý do dự, nói lắp bắp vài lời vô nghĩa, và chuyển đề tài sang chuyện khác. Tuy y có thể kéo mây đen ra khỏi mặt trăng, y vẫn không thể gieo sự ngờ vực hắc ám vào lòng tôi đối với người bạn Đạo và người hướng dẫn tôi đi xuyên qua những ngõ ngách bí hiểm của khoa Huyền môn.
Sau đó tôi có kể lại sự việc này cho bà Blavatsky nghe! Bà mỉm cười nói rằng tôi đã vượt qua cuộc thử thách sơ đẳng đó một cách tốt đẹp, và viết vài chữ cho Signor B. khuyên ông ta hãy “quên đi con đường đến nhà bà”.
CHƯƠNG
BỐN -
CHƯƠNG
NĂM -
CHƯƠNG
SÁU -
CHƯƠNG
BỐN -
NHẢY VÀO VÒNG CHIẾN
I.
Những cuộc tranh luận và bút chiến mà các bài
phóng sự và quyển sách của tôi đã gây ra trong các giới, trong đó bà Blavatsky và tôi đều có
dự phần; sự tố giác và bênh vực các đồng tử Holmes; và những cuộc bình
luận sôi nổi kéo dài về khoa Thần Linh Học trong báo giới Âu-Mỹ, đã đưa đến vài
hậu quả thuận lợi, trong đó có hai điều quan trọng là:
1. Việc trình bày những quan niệm Huyền môn của
Đông phương làm cho thế giới Tây phương phải chú ý;
2. Việc khai sinh ra Hội Thông Thiên Học thế
giới. Sự thành lập Hội Thông Thiên Học không phải do phép mầu của các chân sư
theo những chuyện bịa đặt láo lếu, mà là kết quả tự nhiên của những giai đoạn
diễn biến tuần tự, như độc giả sẽ thấy trong những thư từ mà chúng tôi viết cho
các báo trong giai đoạn ban đầu, và có trích lục vài đoạn dưới đây. Những chi tiết có vẻ khô
khan, nhưng có tầm mức quan trọng như những tài liệu lịch sử.
Như đã nói trước đây, sự công kích nhằm vào các
đồng tử Eddy có tánh cách tự quảng cáo của Bác sĩ Beard, một
lương y chuyên khoa chữa trị bằng điện ở New York, và sự tuyên bố dối
trá rằng ông ta có thể tạo ra những hiện tượng đó “với những trang phục rẻ
tiền chừng ba đô-la”, đã làm cho bà Blavatsky phẫn nộ đến mức đã “lột
da sống” ông ta trong một bức thư trả lời nẩy lửa đăng trên nhật báo Graphic,
và thách đố ông ta đánh cuộc năm ngàn đô-la ăn thua với bà về sự việc trên.
Chính sự việc ấy đã làm cho quần chúng Mỹ lần
đầu tiên biết đến tên tuổi bà. Lẽ tự nhiên đã có sự liên kết thành hai nhóm đối
lập nhau: nhóm Thần linh học và các đồng tử theo về phe bà Blavatsky.
Còn những kẻ chống đối, nhất là các nhà bác học có khuynh hướng duy vật, thì
đứng về phía những người ủng hộ Bác sĩ Beard.
Kẻ thủ lợi trong cuộc tranh chấp này lại chính
là ông Beard, vì đó là một mánh khóe có tác dụng quảng cáo cho tên tuổi
ông và khoa điện y của ông với kết quả vượt hơn mong đợi.
Các nhật báo Mỹ đều bình luận về bức thơ khiêu
khích nẩy lửa của bà Blavatsky chống lại Bác sĩ Beard. Bà cũng đã
trả lời phỏng vấn của các báo, do đó tên tuổi của bà càng vang dội khắp nơi khi
cuộc tranh luận càng kéo dài.
Như đã nói trước đây, bà đứng trên lập trường
của một nhà Thần linh học, không những tin tưởng mà còn biết rõ rằng
những trí lực “nhiếp” vào các đồng tử để giáng ngôn hoặc giáng bút, thực
hiện các hiện tượng hữu hình, và hiện hình toàn diện hoặc cục bộ, chẳng hạn như
chỉ hiện có những gương mặt, bàn tay hoặc bàn chân, hay những phần khác trong
thân mình, tất cả đều là do tác động của những vong hồn người chết, không hơn
không kém.
Về sau, bà Blavatsky cho tôi biết rằng
sự bộc phát của những hiện tượng thông linh ở khắp nơi chính là do Quần tiên
hội phát động như một phương tiện để trợ giúp cơ tiến hóa. Như vậy, những hoạt
động cơ bút, đồng tử, không thể bị xem là tuyệt đối bất hảo như vài nhà Thông
thiên học cực đoan đã tuyên bố, vì theo chỗ tôi biết về các đấng chân sư thì
người ta không thể quan niệm rằng các ngài lại dùng một phương tiện hoàn toàn
bất hảo, cho dù là vì lợi ích nhân loại.
Trong số báo Daily Graphic mà bà Blavatsky
gửi đăng bức thư phản bác Bác sĩ Beard, cũng có đăng tiểu sử của bà
do chính bà cung cấp theo yêu cầu của tòa soạn. Bà viết:
... “Năm 1858, tôi trở về Paris và có dịp làm
quen với nhà Thần linh học Daniel Home... Ông này đã cải hóa tôi theo Thần linh
học... Sau đó tôi trở về Nga và cải hóa cha tôi theo Thần linh học.”
Trong một bài báo bênh vực các nhà đồng tử Holmes
chống lại những kẻ đả kích, bà nói về Thần linh học như “tín ngưỡng của
chúng tôi” hay “lý tưởng của chúng tôi”; và ở một chỗ khác, bà viết:
“Nếu những người theo Thần linh học chúng tôi
bị người ta chê cười, nhạo báng, chế giễu, châm chọc, thì ít nhất chúng tôi
cũng phải được biết lý do tại sao?”
Trong số báo Spiritual Scientist (Khoa
học Tâm linh) ra ngày 8 tháng 3 năm 1875, bà nói có vài khuynh hướng cho rằng
mặc dầu tính cách chân thật thiêng liêng của khoa Thần linh học và giáo lý của
những vị bảo trợ vô hình (những vong linh khuất mặt của những lên đàn), một số
nhà Thần Linh Học đã không biết tận dụng cơ hội đó để học lấy bài học vô tư và
công bằng.
Đó là một việc làm rất can đảm, đầy hào khí,
hoàn toàn biểu lộ cá tính của bà khi bà nhảy vào vòng chiến vì bất cứ lý tưởng
nào mà bà đảm nhận như chánh nghĩa của mình. Như đã nói trước đây, chính vì
lòng yêu tự do và chánh nghĩa mà bà đã cùng với một nhóm phụ nữ chiến đấu trong
hàng ngũ của nhà ái quốc Garibaldi và mạo hiểm lao mình vào trận đánh ác
liệt ở Mentana. Bây giờ, khi thấy cần phải bênh vực lý tưởng tâm linh để
chiến đấu chống lại khuynh hướng duy vật cực đoan thì bà chấp nhận cả sự ô
nhiễm khi phải tiếp xúc với bọn đồng tử giả mạo, với những loại âm binh bất
hảo, hay với phe vô luân trong giới Thần linh học chủ trương tự do luyến ái và
thoát ly gia đình.
Không một điều bất lợi nào trong những sự việc
kể trên làm cho bà do dự, dù chỉ trong thoáng chốc, khi bà thấy cần đứng vào
hàng ngũ của phái Thần linh học để chống lại những kẻ duy vật cực đoan. Đường
lối của bà có thể bị một số người lên án, ngôn ngữ của bà có thể bị xem là hoàn
toàn đồng ý và chấp nhận khuynh hướng Thần linh học mà về sau chính bà sẽ lên
tiếng công kích thậm tệ không tiếc lời. Nhưng nếu lấy công tâm mà xét đoán,
người ta phải nhận định rõ tình trạng xã hội của thời bấy giờ.
Người ta phải nhận định rõ kiến thức sâu rộng
của bà, trên lý thuyết lẫn cả thực hành, về những hiện tượng huyền linh mà
người đời cần phải biết trước khi bị lôi cuốn theo cái trào lưu độc hại của
những người duy vật cực đoan. Nhiều người trong chúng ta có lẽ đã dùng một ngôn
ngữ dè dặt cẩn thận hơn để tránh rơi vào quá nhiều những mâu thuẫn và rối rắm
về sau này. Nhưng trường hợp của bà lại hoàn toàn khác hẳn. Bà là một nhân vật
độc đáo trên tất cả mọi phương diện, về trí lực và quyền năng thần bí, cũng như
về khí chất và về phương pháp tranh luận.
Một trong những mục đích của tập Hồi Ký này là
chỉ ra rằng, với tất cả những sự thiếu sót rất cận nhân tính và cái cố tật ngáo
ngổ mà người ta có thể gán cho bà, bà vẫn là một nhân vật đặc biệt, phi phàm,
một người dành trọn cuộc đời để làm một công việc vĩ đại phụng sự thế gian,
nhưng lại bị người đời phê phán một cách mù quáng và vô ơn bạc nghĩa.
II.
Trong những cuộc thử nghiệm riêng tư giữa chúng
tôi về các hiện tượng thần linh, bà Blavatsky đã chỉ dẫn cho tôi biết về
sự hiện hữu của giới tinh linh ngũ hành. Nhờ đó tôi mới biết phân biệt
hai loại sinh vật khác nhau trong việc tạo nên các hiện tượng, là những tinh linh ngũ hành và những
vong hồn người chết.
Vào khoảng cuối năm 1874, nhờ một dịp may hiếm
có được đọc qua những quyển sách quý về khoa học Huyền môn tại thư viện Watkinson
nên tôi được chuẩn bị khá nhiều về phần kiến thức để có thể hiểu những lời
giải thích khẩu truyền của bà và những hiện tượng thông linh kỳ diệu do bà tạo
ra để chứng minh cho những lời giải thích đó.
Thời kỳ học hỏi của tôi lúc ấy qua sách vở, qua
lời dẫn giải khẩu truyền và sự quan sát các hiện tượng, cũng đủ chuẩn bị cho
tôi một bản lĩnh khá vững vàng về khoa học Huyền môn cho đến khi bà bắt đầu
công việc soạn bộ sách “Vén màn Isis” và mời tôi cộng tác.
Khoảng đầu năm 1875, chúng tôi bắt đầu lưu ý
đến tờ “Khoa học Tâm linh”, một tạp chí tiến bộ và độc lập tại Boston
do ông Gerry Brown làm Chủ bút kiêm Chủ nhiệm.
Nhu cầu cấp bách của thời bấy giờ là một tờ báo
vừa được xem như cơ quan ngôn luận của Thần linh học, vừa có thể khuyến khích
các nhà Thần linh học hãy quan sát chặt chẽ hơn tác phong, hạnh kiểm và khả
năng thông linh của những đồng tử, và hãy kiên nhẫn lắng nghe những lý thuyết về các vong linh
ở cõi âm cùng sự giao tiếp của họ với người sống.
Những tạp chí khác cũ kỹ hơn thuộc loại này lại
quá bảo thủ, còn tờ báo của ông Brown dường như đang tiến bước bằng cách
mạnh dạn chỉ trích những sự lạm dụng đương thời.
Bức thư chúng tôi gửi cho ông Brown đăng
trên tạp chí ấy vào ngày 8 tháng 3 năm 1875 đã khởi đầu những mối liên hệ giữa
chúng tôi, và trong vòng một tháng sau, y đã được đặt dưới sự chăm sóc biệt đãi
của những thế lực hỗ trợ đứng sau bà Blavatsky.
Trong số tạp chí tháng 4 năm ấy, tôi có đăng
một bản thông tư đặc biệt với tựa đề: “Thông tư quan trọng cho các nhà Thần
linh học”. Điều quan trọng của nó đối với ông Gerry Brown là lời hứa trợ
giúp bài vở và tài chánh, còn đối với công chúng hâm mộ phong trào Thần linh
học thì nó cho biết rằng tạp chí ấy sẽ được sử dụng như cơ quan của một phong
trào mới, nhằm mục đích đặt khoa Thần linh học ở Mỹ trên một nền tảng triết học
và trí thức vững chãi hơn trước, thay vì chỉ chú trọng đến những thông điệp cơ
bút và những hiện tượng tầm thường, không đủ thỏa mãn những bộ óc khoa học.
Chính tôi đã tự thảo ra bản thông tư đó, tự sửa
chữa bản kẽm trước khi in và tự chi trả phí tổn ấn loát. Nói thế có nghĩa
là ngoài tôi ra, không một ai nhúng tay vào công việc này, hoặc thêm bớt một
chữ nào trong bản thảo, hoặc điều khiển hành động của tôi bằng bất cứ cách nào.
Tôi viết bản thông tư ấy để thi hành ý định của
chân sư. Ngài dạy chúng tôi hãy trợ giúp vị Chủ nhiệm tờ tạp chí ấy trong giai đoạn
khó khăn hiện tại bằng đủ mọi cách, về phương diện tài chánh cũng như đóng góp
bài vở. Khi bản thông tư đã soạn thảo xong và đưa in, tôi viết thư hỏi bà Blavatsky
rằng theo ý bà thì tôi có nên ký tên vào bản thông tư ấy không. Bà trả lời
rằng theo ý muốn của các chân sư thì nó phải được ký tên như sau: “Thay mặt Hội
Đồng Tiên Thánh, phân hội Luxor (Ai Cập)”. Tôi làm y theo lời bà, và bản
thông tư được công bố.
Sau đó, bà giải thích rằng công việc của chúng
tôi được giám sát bởi một ủy ban gồm bảy vị chân sư thuộc phân hội Ai Cập của
Quần tiên hội.
Vì bà chưa đọc qua bản thông tư lần nào, lúc ấy
tôi mới đưa cho bà một bản và bà bắt đầu đọc một cách chăm chú. Đọc xong, bà
bất giác cười lớn, và bảo tôi nhìn xem những chữ cái ở đầu câu của mỗi đoạn văn
trong đó. Tôi lấy làm ngạc nhiên vô cùng mà nhận thấy rằng những chữ cái đó nếu
đem ghép lại thì hợp thành thánh
danh của vị chân sư Ai Cập, sư phụ của tôi lúc ấy!
Sau đó ít lâu, tôi nhận được một chứng thư viết
bằng mực vàng trên một tờ giấy xanh, dày, cho biết rằng tôi được chính thức
liên hệ đến cơ quan này, và đặt dưới sự giám sát của ba vị chân sư.
Trong những kinh nghiệm huyền linh của tôi lúc
ban đầu, không có gì gây ấn tượng sâu xa trong trí óc tôi hơn là những sự việc
trên. Điều ấy chứng minh cho tôi thấy rằng sự chuyển di tư tưởng giữa vị chân
sư và đệ tử vẫn là một việc xảy ra thường xuyên, mà không gian không hề làm
ngăn cách, chướng ngại. Nó cũng chứng tỏ rằng trong công việc phụng sự thế
gian, người đệ tử thường được các đấng cao cả dìu dắt, hướng dẫn để làm những
công tác mà các ngài muốn được thực hiện, trong khi đó người đệ tử vẫn không hề
hay biết chi cả.
Trong toàn bộ lịch sử hội Thông Thiên Học thế
giới, ai đã biết được có bao nhiêu trường hợp mà mỗi người trong chúng ta vô
tình đã làm những gì cần phải làm, nhưng những việc đó có lẽ đã không được thi
hành nếu không có một ảnh hưởng nào từ bên ngoài đến thúc đẩy chúng ta? Và có
bao nhiêu lỗi lầm tai hại mà mỗi người trong chúng ta đã làm, bởi vì chúng ta
được tự do hành động theo những dục vọng cá nhân, kết quả của sự vô minh, hèn kém, hay thành
kiến hẹp hòi riêng tư của chính mình?
Người ta thường tự hỏi tại sao những vụ tranh
chấp, xung đột, những cơn biến động gây ra bao nhiêu tai tiếng, xúc phạm đến
thanh danh của Hội, lại không được các chân sư tiên liệu trước và ngăn chặn?
Tại sao bà Blavatsky không được cho biết trước về những hành động của
những kẻ phản bội, và trong những cơn khủng hoảng nghiêm trọng nhất của Hội
Thông Thiên Học, không hề thấy có sự trợ giúp nào, và không có một vị hướng dẫn
tâm linh nào xuất hiện?
Lẽ tất nhiên, những câu hỏi đó thật rất vô lý.
Các chân sư vốn đã nắm vững luật nhân quả, không thể sử dụng chúng ta như những
hình nộm để cho các ngài giật dây, hoặc như những con thú nhà đã được tập luyện
làm theo ý chủ. Các ngài không thể sử dụng chúng ta một cách máy móc theo những
đường lối đã định sẵn, can thiệp vào nghiệp quả của mỗi người, và xâm phạm đến
quyền tự do hành động của chúng ta.
Vào một thời kỳ nhất định, trong cơ tiến hóa
của nhân loại, có lẽ cần có một người nào đó phải làm, phải viết hoặc nói ra
một điều gì đó, mà những điều này, khi thực hiện xong sẽ đưa đến cả một loạt
những hậu quả mong muốn. Nếu điều đó không tạo nên nghiệp quả bất lợi cho đương sự, thì sự
thúc đẩy vô vi để làm công việc cần thiết đó sẽ được đưa đến cho y. Thí dụ, vận
mạng của thế giới nằm trong tay của vài ba vị lãnh tụ hay nguyên thủ quốc gia
của một vài siêu cường quốc. Nếu một biến cố nhỏ nhặt nào đó xảy ra, một quốc
gia có thể bị tiêu diệt, hoặc một triều đại trở thành tai họa cho cả một dân
tộc, hoặc một thời kỳ hòa bình và tiến bộ cho nhân loại có thể được mở màn. Nếu
trong giai đoạn lịch sử đó, một trong những điều kể trên cần phải xảy ra vì sự
lợi ích chung của toàn thể nhân loại, và nếu không có một cách nào khác để gây
nên cơn khủng hoảng cần thiết, thì chừng đó sự khiến xui cho một vị lãnh tụ ra
tay hành động có thể đến từ bên ngoài.
Đây là một trường hợp đơn giản hơn, đã xảy ra
trong lịch sử. Trong khoa cổ học Ai Cập, người ta đã đạt tới một trình độ mà sự
tiến bộ của thế giới đòi hỏi một chìa khóa tinh vi hơn để đọc những cổ tự bí
mật trong các Kim tự tháp. Giờ đã điểm để tiết lộ thêm những chân lý thâm sâu
và vô cùng quan trọng hàm chứa trong khoa cổ tự của nền văn minh cổ Ai Cập. Vì
không có cách nào khác, một người nông dân Ả Rập được xui khiến đến đào xới một
khoảnh đất nào đó, hoặc khai quật một ngôi mộ đá và cạy bật lên một nắp hòm
đựng xác ướp. Người ta tìm thấy một bia đá hoặc một mớ lá chỉ-thảo có khắc cổ
tự.
Người nông dân này sau đó đem bán cho một nhà
khảo cổ, rồi sau đó được chuyển đến tay các nhà Ai Cập học uyên bác như Champollion12 hay Ebers.13 Các ông này mới tìm
thấy cái chìa khóa đã mất, và nhờ đó mới đọc được nhiều bản văn cổ xưa vô cùng
quan trọng. Sự xui khiến tưởng chừng như tình cờ làm cho người nông dân thất
học đào xới lên được những tài liệu cổ đã bị chôn lấp từ lâu, lại do chính sự
trợ giúp của các đấng vô hình, tuy ẩn tàng nhưng luôn luôn dìu dắt sự tiến bộ
của nhân loại.
Xin kể ra đây một trường hợp cá nhân gần gũi
với chúng ta hơn: Một ngày nọ tôi bỗng dưng cảm thấy một sự thôi thúc phải đi
mua một tờ báo; trong đó tôi đọc thấy một chuyện gì đó và điều đó thúc đẩy tôi
có một hành động tự nhiên; việc ấy lại làm cho tôi tiếp xúc với bà Blavatsky
và bởi đó mới có hội Thông Thiên Học ra đời và những hậu quả do Hội này đem
đến. Khi thực hiện việc đầu tiên, tôi không tạo ra được lợi ích gì cả. Nhưng
nếu việc ấy dẫn đến một kết quả tốt lành, và nếu tôi đóng góp công sức để làm
việc với một tinh thần hiến dâng nhiệt thành và vị tha, thì khi ấy tôi cũng
được chia sẻ những nghiệp quả tốt mà việc làm ấy mang lại cho nhân loại.
Có lần tôi thấy những người dân Tích Lan (Sri
Lanka) ở tỉnh Galle tranh nhau đưa tay sờ vào những rổ thúng đựng
vật thực của những nhà giàu có mang đi cúng dường cho các sư tăng. Hỏi ra mới
biết là họ tin tưởng rằng, do lòng ưu ái chân thành đối với hành động bố thí
của kẻ khác, họ cũng được chia sẻ một phần công đức của các thí chủ. Tôi nghiệm
thấy điều ấy rất đúng, và có ghi lại ý tưởng đó trong quyển “Phật giáo vấn
đáp” do tôi biên soạn.
CHƯƠNG
NĂM -
SỰ LỢI HẠI CỦA VẤN ĐỀ ĐỒNG CỐT
I.
Mọi người đều đồng ý rằng, những người đồng cốt
chuyên nghiệp, mà vấn đề cơm áo hằng ngày tùy thuộc vào khả năng tạo ra các hiện tượng thông
linh khi có thân chủ đến viếng, trong những cơn nguy cấp, túng thiếu, thường
buộc làm những hiện tượng giả trá để thay thế khi những hiện tượng thật không
thực sự xuất hiện.
Hầu hết những người hành nghề đồng cốt đều
nghèo, thường là những người phế tật, nhưng phải nuôi nấng con cái hay cha mẹ
già yếu. Vấn đề sinh kế của họ thật vô cùng bấp bênh, bởi vì trạng thái đồng
cốt tùy thuộc những điều kiện tâm sinh lý cũng như những điều kiện thời tiết
ngoài khả năng kiểm soát của họ. Bởi vậy, không có gì lạ nếu trong những cơn
túng quẩn, dưới sự thúc đẩy của những nhu cầu cấp bách, họ không còn đặt nặng
vấn đề lương tâm. Lẽ tự nhiên, họ dễbị lung lạc trước sự cám dỗ mà những thân chủ mê tín
bày ra trước mắt họ. Những người này thường không đòi hỏi gì khác hơn là trả
tiền để bị gạt!
Dù sao, đó là những điều mà các đồng tử chuyên
nghiệp giải thích cho tôi nghe. Họ đã kể lại cho tôi nghe cuộc đời khốn khổ của
họ, việc họ “có đồng” đã tác hại như thế nào trong thời thơ ấu, làm cho
họ bị lẩn tránh và ngược đãi bởi những bạn học cùng lớp, bị theo dõi và chọc
ghẹo bởi những kẻ tò mò, bị dùng làm một hiện tượng lạ mắt bởi những “gánh
xiếc” lưu động trả tiền cho cha mẹ họ thụ hưởng, và mang lấy những chứng
bệnh thần kinh, bệnh lao phổi, hay tràng nhạc... tàn phá sức khỏe của họ.
Bà Hardinge Britten, một nhà chuyên môn
khảo cứu về vấn đề thông linh và có nhiều kinh nghiệm về giới đồng cốt, có nói
rằng bà ít khi thấy một đồng tử nào mà không có một khí chất bệnh hoạn, thường
là có bệnh tràng nhạc hay bệnh lao và sự khám nghiệm cơ thể cho thấy rằng họ
cũng thường hay có những ám tật nơi cơ quan sinh dục. Trong quyển “Art Magic”,
bà viết:
“Một sự việc có ý nghĩa cần lưu ý các nhà sinh
lý và tâm lý học là dường như những người mắc bệnh tràng nhạc và bệnh sưng hạch
tuyến, thường là những môi trường thuận lợi để cho các vong linh tác động
trên phương diện vật chất hữu hình. Những phụ nữ hình vóc mảnh mai, yếu đuối,
và những người có tính chất khiết bạch, ngây thơ, vô tội, nhưng hệ thống hạch
tuyến của họ đã bị gậm nhấm bởi chứng bệnh tràng nhạc, thường dễ trở thành
những khí cụ hữu hiệu cho sự tác động của các vong linh.”
Những hoạt động đồng cốt diễn ra ở những nơi
công cộng là một hiểm họa trầm trọng trên phương diện sức khỏe về thể chất cũng
như tinh thần. Tất cả y sĩ đều nói rằng việc ngủ trong một gian phòng không
thoáng khí, chung lộn với một số đông người hèn tạp, trong số đó có những người
bệnh tật, là một điều vô cùng nguy hiểm và có thể là một tai họa chết người.
Nhưng nguy cơ này không đáng vào đâu khi so với
hiểm họa rình rập người đồng cốt hành nghề công cộng, phải chấp nhận sự có mặt
và chịu sự xâm nhập điện từ của hết thảy mọi người, đủ các giới và đủ mọi thành
phần. Trong số đó, đương nhiên có cả người tốt lẫn kẻ xấu, gồm cả những người
bệnh tật về thể xác cũng như tinh thần, những kẻ thô bạo, dâm ác, tham lam, ô
trược, vô đạo, vô tín ngưỡng, sa đọa, tội lỗi trong tư tưởng, lời nói, hay việc
làm và trái ngược lại.
Thật tội nghiệp thay cho những người đồng cốt
bất hạnh ấy; chẳng khác nào những gái làng chơi vì tiền mà cung hiến thể xác
cho mọi người, để cho phần tâm linh phải chịu sự ô nhiễm, dày vò của khách bốn
phương! Thật hạnh phúc thay cho những người nào có thể phát triển và thực hành
khả năng thông linh của mình trong những hoàn cảnh tịnh khiết và lành mạnh,
giữa một tập thể có chọn lọc gồm những người ưu tú, tốt lành. Đó là trường hợp
của những nữ đồng tử và linh thị thời cổ xưa, được giữ gìn, bảo dưỡng và chăm
sóc cẩn thận trong các đền thờ...
II.
Mùa hè năm 1875, có một phụ nữ tên Youngs hành nghề đồng tử tại New
York. Hiện tượng chính của bà này là sai khiến âm binh nâng cao lên một cây
đàn dương cầm lớn, nặng, và làm cho nó nghiêng qua nghiêng lại hai đầu theo
nhịp chơi đàn của bà ấy.
Khi tôi biết được điều này liền mời bà Blavatsky
cùng đi với tôi đến nơi để xem hiện tượng lạ ấy. Tôi mang theo ba vật đựng
trong túi để thử khả năng đồng tử của bà kia. Một quả trứng gà còn sống và hai
hạt hồ đào. Tôi không cần phải sử dụng trí nhớ, vì tôi còn cất giữ bài
tường thuật chính xác về sự việc này đăng trên báo New York Sun ra ngày
4 tháng 9 năm 1875.
Hôm ấy có tất cả 15 người đến dự buổi lên đàn.
Phóng viên nhật báo ấy tường thuật lại như sau:
“Cuộc biểu diễn bắt đầu bằng việc nhấc bổng cây
đàn dương cầm (piano) bằng sức mạnh vô hình, trong khi bà đồng tử Youngs đặt
nhẹ hai bàn tay lên mặt đàn. Các vong linh sẽ gõ nhịp ba cái hoặc một cái trên
cây đàn để tỏ ý thuận hay không thuận làm cuộc biểu diễn. Khi đã sẵn sàng, bà
ngồi xuống ghế và bắt đầu chơi vài bản nhạc, trong khi đó cây đàn tự động lên
cao xuống thấp theo nhịp đàn. Kế đó, bà đứng qua một bên và gọi Đại tá Olcott
cùng những người có mặt muốn làm cuộc thử nghiệm, mỗi người hãy đặt bàn tay
trái của mình phía dưới cây đàn, còn bà cũng đặt nhẹ một bàn tay y như vậy.
Xong, theo lời yêu cầu của bà đồng tử, một đầu của cây đàn dương cầm rất nặng
được nhấc bổng lên khỏi sàn gạch mà không có sự dùng sức của một người nào. Đến
đây, Đại tá Olcott yêu cầu bà đồng tử cho ông làm một thử nghiệm khác. Bà này
vui lòng, Đại tá liền đưa ra một quả trứng gà đựng sẵn trong một cái hộp, và yêu cầu bà đặt quả
trứng giữa bàn tay bà và mặt dưới của cây đàn, rồi yêu cầu các vong linh nâng
cây đàn lên. Bà đồng tử nói rằng trong thời gian hành nghề đồng tử, bà chưa
từng làm cuộc thử nghiệm như vậy bao giờ, và bà không chắc sẽ thành công, nhưng
bà cũng bằng lòng làm thử. Bà cầm lấy quả trứng áp vào mặt dưới cây đàn theo
lời dặn, với bàn tay kia bà vỗ vào thùng đàn và yêu cầu các vong linh hãy thử
ra sức. Ngay tức khắc, cây đàn lại nâng cao lên như trước và treo lơ lửng một
lúc trên không trung. Cuộc thí nghiệm độc đáo và mới lạ này đã thành công trọn
vẹn. Kế đó, bà Youngs yêu cầu những vị nào mập mạp nặng cân nhất trong cử tọa
hãy ngồi lên mặt đàn dương cầm, và sau khi có bảy người thân hình đồ sộ vừa nam
vừa nữ đã ngồi lên, bà chơi một bản nhạc hành khúc, và tất cả mọi người cùng
với cây đàn đều được nhấc bổng lên một cách dễ dàng.
Đến đây, Đại tá Olcott đưa ra hai hạt hồ đào
(walnut) và yêu cầu các vong linh hãy làm bể những cái vỏ cứng bên ngoài dưới
chân cây đàn mà không làm giập cái nhân ở bên trong. Mục đích là để chứng minh
rằng có sự tác động của một sức mạnh khác hơn là của bà đồng tử và sức mạnh ấy có sự điều
khiển của một trí lực thông minh. Những vong linh tỏ ý bằng lòng, nhưng vì
những chân đàn dương cầm đều đặt trên các bánh xe lăn, nên đành phải bỏ cuộc
thí nghiệm vì không thể thực hiện được.
Kế đó, Đại tá Olcott yêu cầu bà đồng tử để cho
ông cầm quả trứng và đặt ở mặt dưới cây đàn, còn bà đặt bàn tay dưới bàn tay
ông, để chứng minh một cách tuyệt đối sự kiện rằng không có một sự dùng sức nào
của bà đồng tử. Cuộc thí nghiệm này cũng được chấp thuận và thi hành ngay tức
khắc. Cây đàn cũng được nâng nhẹ lên như trước.
Sau cùng, buổi lên đàn chiều hôm ấy kết thúc
bằng việc nâng nhẹ cây đàn dương cầm lên không trung mà không có việc đụng chạm
hay đặt nhẹ bàn tay của bà đồng tử.”
Đây hẳn là một sự biểu lộ rất độc đáo của một
sức mạnh vô hình. Không những một cây đàn dương cầm cỡ lớn và rất nặng, sức một
người không thể dở nổi một đầu lại được nâng nhẹ lên dễ dàng mà không có sự
dùng sức của người đồng tử hay bất cứ ai, trong một gian phòng thắp đèn sáng,
mà còn có sự tác động của một trí
lực thông minh, hiểu biết và làm đúng theo mọi yêu cầu.
Việc này tuy không có bao nhiêu giá trị tâm
linh, nhưng nó hàm chứa một ý nghĩa làm đảo lộn những lý thuyết của khoa vật lý
học hiện đại.
III.
Một hiện tượng đồng tử khác có tính chất thi vị
và hứng thú hơn nữa là của bà Mary Baker Thayer, ở Boston, mà tôi
đã dành trọn 5 tuần lễ để theo dõi, cũng trong mùa hè năm ấy.
Bà này có khả năng đặc biệt là làm cho các thứ
cỏ cây hoa lá rơi rụng như mưa quanh bà trong khi lên đàn, những cành lá và
bông hoa này đều còn tươi tốt, dường như mới vừa được hái từ các cây lớn, có
khi là những loại cây cỏ rất lạ từ phương xa đem về trồng ở xứ này.
Trong các buổi lên đàn, khi quan khách đã tụ
họp đông đủ, một vị khách khả kính được mọi người đồng ý yêu cầu đứng ra xem
xét các phòng và bàn ghế trong nhà, khép kín các cửa sổ và khóa chặt cửa chính
rồi cất giữ chìa khóa. Người đồng tử cũng chịu để cho tôi khám xét kỹ lưỡng để
biết chắc là bà không
có giấu bông hoa hay bất cứ vật gì khác trong người. Có khi, bà còn để cho tôi
trói và nhốt bà vào một cái bao bố để bà không thể cử động hoặc sử dụng tay
chân làm bất cứ một động tác nào.
Kế đó, mọi người ngồi quanh một bàn ăn lớn, nắm
tay nhau thành vòng (kể cả bà đồng tử), tắt hết đèn để trong phòng tối om và
chờ đợi hiện tượng xảy ra.
Sau một lát, người ta nghe có tiếng động nhẹ
của vật gì rơi trên mặt bàn trống trơn, và mùi thơm tỏa ra khắp phòng. Khi đó
bà Thayer mới yêu cầu thắp đèn lên, thì người ta thấy trên bàn có đầy
những hoa thơm cỏ lạ, đôi khi lại thấy những cành hoa cắm vào áo hay gài trên
tóc của các quan khách ngồi tham dự. Thỉnh thoảng có vài con bươm bướm, hoặc
một con chim quyên, chim yến, hay chim hoàng anh, hay vài loại chim nhỏ vừa kêu
ríu rít vừa bay lượn khắp phòng; hoặc một con cá vàng hãy còn ướt nhảy trên mặt
bàn, dường như vừa mới bắt ra từ hồ nước.
Đôi khi, những người có mặt cũng thốt lên những
tiếng kêu ngạc nhiên khi họ nhận thấy trong tay họ một bông hoa hay một cành
cây kiểng mà họ đã nghĩ thầm trong trí và yêu cầu mang đến cho họ.
Trong một buổi lên đàn khác, có một cây thạch thảo
xuất hiện trước quan khách, còn nguyên những rễ cây và đất bám vào như vừa mới được bứng lên, lại
có cả ba con giun đất còn đang ngo ngoe quằn mình giữa đám rễ!
Nhưng tôi còn chứng kiến một việc lạ hơn nữa.
Một buổi trưa hè, tôi đến viếng một nghĩa địa ở ngoại ô thành phố Boston,
và khi đi qua một vườn kiểng, tôi chú ý đến một giống cây lạ với những lá hẹp
và dài, có sọc trắng và xanh nhạt. Ngành thực vật học gọi đây là cây long huyết
(Dracaena Regina). Tôi lấy bút chì xanh vẽ ở mặt dưới một cái lá hình
ngôi sao sáu góc và âm thầm kêu gọi bằng tư tưởng các âm binh hãy đem cái lá ấy
đến cho tôi tại nhà bà Thayer trong buổi lên đàn tối hôm sau.
Tối hôm đó, tôi ngồi bên cạnh bà đồng tử, và
nắm hai bàn tay bà để chắc chắn rằng bà vẫn trung thực. Trong bóng tối, tôi cảm
giác được một vật gì mát lạnh và ướt rơi trên một bàn tay tôi, và khi đèn được
thắp sáng trở lại, thì thấy vật ấy chính là cái lá cây long huyết mà tôi đã làm
dấu ngày hôm qua!
Để phối kiểm lại cho chắc chắn, tôi đã trở lại
vườn kiểng và nhận thấy cái lá tôi làm dấu đã thật sự bị ngắt ra khỏi cành và
khi tôi đem cái lá vừa nhận được ráp vào thì đúng khớp với chỗ bị ngắt!
Nhiều sự kiện tương tự cũng đã làm cho tôi tin
chắc rằng bà Thayer là một người đồng tử chân chính.
Ngoài ra, còn có một hiện tượng sinh lý không
những đã làm tăng thêm lòng tin của tôi, mà còn làm sáng tỏ thêm toàn bộ vấn đề
đồng tử. Khi tôi nắm hai bàn tay bà đồng tử trong tay tôi, tôi nhận thấy đúng
vào lúc mà những cỏ cây hoa lá bắt đầu rơi trên mặt bàn thì bà đồng tử chợt rùng
mình, thở dài, và hai bàn tay bà trở nên lạnh ngắt như đồng. Một lúc sau đó,
hai bàn tay bà mới trở lại nhiệt độ bình thường. Điều đó chỉ ra rằng, dường như
có một sự hoàn toàn biến đổi về nhiệt độ trong cơ thể người đồng tử trong khi
thực hành các hiện tượng.
Khi bà Blavatsky kêu gọi một vong linh
hiện nguyên hình trong phòng của bà đồng tử Holmes trong một cuộc biểu
diễn trước đây, bà nắm chặt lấy bàn tay tôi một cách xúc động, và bàn tay bà
trở nên lạnh như nước đá. Bàn tay của Signor B., nhà phù thủy Ý, cũng lạnh ngắt
sau hiện tượng làm mưa; và sự chuyển biến từ trạng thái lên đồng qua trạng thái
xuất thần nhập hóa và những giai đoạn thâm sâu hơn của trạng thái vô thức đều
đi kèm với hiện tượng hạ thấp nhiệt độ của cơ thể một cách bình thường.
IV.
Trong một buổi lên đàn khác chỉ có 3 người tham
dự là bà Houghton (vợ của một vị luật Boston), một phụ nữ khác và
tôi. Chúng tôi ngồi lại một bàn,
tôi nắm hai bàn tay bà đồng tử, một bà khách đi đóng các cửa trong nhà, còn một
bà coi việc đèn đuốc.
Khi đèn đã tắt, chúng tôi ngồi đợi ít lâu trong
bóng tối, nhưng không nghe có tiếng hoa rơi trên bàn. Bỗng nhiên, tôi có cảm
giác một cánh hoa mát và ướt rơi nhẹ trên lưng bàn tay tôi. Khi đèn thắp sáng
thì thấy đó là một đóa hoa hồng rất đẹp, vừa mới nở được một nửa, hãy còn đượm
những giọt sương lung linh ướt.
Bà đồng tử vừa giật mình dường như có người
khuất mặt nói chuyện với bà từ đằng sau, và nói: “Thưa Đại tá, những âm binh
nói rằng cánh hoa này là quà tặng cho bà Blavatsky”.
Tôi bèn trao đóa hoa cho bà Houghton,
rồi bà này trao lại cho bà Blavatsky khi chúng tôi về đến nhà. Tại đây
chúng tôi thấy bà Blavatsky đang vừa hút thuốc lá vừa nói chuyện với
luật sư Houghton. Bà Blavatsky cầm lấy đóa hoa đưa lên mũi để
thưởng thức mùi thơm của nó,
gương mặt đăm chiêu với một cái nhìn xa vắng trong cặp mắt, mà những bạn thân
của bà thường thấy mỗi khi bà làm các hiện tượng thần thông. Cơn mộng mơ của bà
bị gián đoạn bởi luật sư Houghton khi ông nói: “Thưa bà, đóa hoa này
thật đẹp, bà hãy cho tôi xem một chút”.
Bà trao đóa hoa cho ông cũng vẫn với vẻ mặt đăm
chiêu và với một cử chỉ hoàn toàn máy móc. Vị luật sư ngửi hoa, rồi thình lình
kêu lên: “Ủa! Sao hoa nặng quá vậy? Tôi chưa hề thấy đóa hoa nào như đóa hoa
này. Quí vị hãy xem, sức nặng của nó làm cong cả cuống hoa!”
Tôi mới cầm lấy đóa hoa để xem lại, vì mới lúc
nãy khi nó còn ở trên tay tôi, không thấy có gì khác thường. Nhưng bây giờ thì
lạ thật, nó lại rất nặng. Lúc ấy, bà Blavatsky mới nói: “Hãy cẩn thận,
đừng làm nó gãy.”
Tôi gượng nhẹ nâng đóa hoa lên giữa ngón tay
cái và ngón trỏ của bàn tay mặt và nhìn xem cho kỹ, nhưng không thấy lý do gì
làm cho nó có sức nặng. Bỗng nhiên, tôi thấy có một chấm sáng nhỏ màu vàng nơi
trung tâm đóa hoa, và trước khi tôi có thời giờ nhìn lại lần nữa thì một cái
nhẫn vàng nặng lớn bản và trơn bóng từ trong nụ hoa nhảy vọt ra, dường như do
sức đẩy của một cái lò xo, và rơi xuống đất ngay dưới chân tôi. Đóa hoa liền đứng ngay trở lại trên
cuống, không còn nặng như lúc nãy mà trở lại trạng thái bình thường.
Ông Houghton và tôi đều là luật sư, vốn
có bản năng thận trọng của nghề nghiệp, chúng tôi bèn xem xét kỹ lại bên trong
đóa hoa, nhưng không thấy có dấu vết gì khả nghi cho thấy rằng có bàn tay người
sờ mó vào. Những cánh hoa được xếp lên nhau một cách đều đặn và chặt chẽ, và
người ta không thể nào nhét cái nhẫn vàng vào bên trong mà không làm hỏng nụ
non ở giữa. Vả lại, làm sao bà Blavatsky có thể giở trò giả trá ấy ngay
trước mắt chúng tôi, dưới ánh sáng của ba ngọn đèn, trong khi bà cầm cái hoa
trong bàn tay mặt chỉ độ hai phút trước khi đưa nó cho ông Houghton?
Hiện tượng này có thể giải thích bằng khoa
Huyền môn: vật chất trong chiếc nhẫn và vật chất trong những cánh hoa có thể đã
được nâng cao từ chiều đo thứ ba lên chiều đo thứ tư, và phục hồi trở lại chiều
đo thứ ba vào lúc chiếc nhẫn nhảy vọt ra ngoài đóa hoa.
Quả thật sự việc đã xảy ra đúng y như vậy. Cái
nhẫn ấy cân nặng ba chỉ, và hiện giờ tôi vẫn đang còn đeo nó. Nó không phải
được tạo ra từ hư không, mà chỉ là một vật được di chuyển xuyên qua không gian.
Một năm rưỡi sau đó, sau khi Hội Thông Thiên
Học Thế Giới được thành lập được khoảng một năm, bà Blavatsky và tôi cư
trú tại New York trong hai gian phòng khác nhau trong cùng một căn nhà.
Một ngày nọ, cô em gái tôi là W. H. Mitchell đi cùng với chồng đến viếng
chúng tôi, và trong câu chuyện hàn huyên tâm sự, cô yêu cầu tôi cho xem chiếc
nhẫn và nói cho cô nghe câu chuyện lịch sử của nó.
Khi xem xong, cô em tôi đeo thử vào ngón tay
rồi tháo ra đặt nằm trong lòng bàn tay để trả lại cho bà Blavatsky. Bà Blavatsky
cứ để nó nằm y như thế mà không động đến, khép các ngón tay cô em tôi trên
chiếc nhẫn, nắm bàn tay ấy trong một lúc, rồi buông ra và bảo em tôi hãy nhìn
lại xem. Thì ra nó không còn là một chiếc nhẫn trơn nữa, mà chúng tôi thấy trên
cái khoen vàng có đính ba hạt kim cương nhỏ xếp thành hình tam giác.
Việc ấy được thực hiện bằng cách nào? Giả
thuyết ít huyền diệu nhất là bà Blavatsky đã cho một thợ kim hoàn đính
ba hạt kim cương trên chiếc nhẫn từ trước, và dùng thuật thôi miên che mắt để
chúng tôi không nhìn thấy, cho đến khi thị giác của chúng tôi được giải tỏa vào
lúc cô em tôi mở bàn tay ra.
Điều này có thể hiểu như một phép thuật thôi
miên; tôi đã từng thấy những hiện tượng đó, và chính tôi cũng có thể làm được như vậy. Người
ta có thể làm thay đổi nhãn quang của kẻ khác, không những đối với vài hạt kim
cương, mà còn có thể làm che giấu một con người, một cử tọa đông đảo, một căn
nhà, một cái cây, một quả núi, hay bất cứ vật gì. Thuật thôi miên dường như có
khả năng tác động vô giới hạn. Hiện tượng chiếc nhẫn đính kim cương có thể được
mỗi người giải thích như thế nào tùy ý, nhưng dù sao thì đó vẫn là một sự thành
công hoàn toàn.
V.
Những sự việc kể trên sẽ giúp cho độc giả có
một ý niệm về những hiện tượng lạ lùng vẫn thường xảy ra vào thời đó ở các xứ phương Tây. Ở phương
Đông, thỉnh thoảng người ta cũng nghe nói về những sự di chuyển đồ vật tương tự
xuyên qua không gian, nhưng luôn luôn với một sự kinh khiếp, sợ hãi, và những
người chứng kiến không hề nghĩ đến việc đem các hiện tượng ấy ra làm đề tài
khảo cứu khoa học. Trái lại, chúng bị xem như những việc chẳng lành, do tác
động của những vong linh bất hảo, thường là vong hồn đọa lạc của những bạn bè,
thân quyến hãy còn bám víu cõi trần, và người ta chỉ muốn tảo trừ những sự
việc ấy như những chuyện quấy rầy, phiền nhiễu.
Đối với người phương Đông, vốn có một truyền
thống tâm linh vững chắc từ lâu đời, thì sự giao tiếp giữa người sống với vong
linh người chết là một bằng chứng chỉ ra rằng người chết vẫn chưa đoạn tuyệt
một cách thoải mái, nhẹ nhàng với cuộc sống thế gian, và như vậy họ bị ngăn trở
trên con đường tiến hóa tự nhiên để vượt lên trong cảnh giới tinh thần.
Người Á Đông xem việc biểu diễn những hiện
tượng thuộc loại kể trên như những bằng chứng chỉ ra rằng các người biểu diễn
ấy chỉ có những quyền năng thuộc loại thấp kém. Trong thời gian ở Ấn Độ, tôi đã
từng nghe nhiều người bản xứ nói rằng, thật là một điều đáng tiếc mà thấy bà Blavatsky
biểu diễn các hiện tượng thần thông, bởi vì việc ấy chỉ ra rằng bà chưa đạt
tới trình độ cao siêu trong pháp môn Yoga.
Thật vậy, đạo sư Patanjali, cũng như đức
Phật Thích-ca đã từng cảnh cáo các môn đồ không nên biểu diễn phép thuật
thần thông khi họ phát triển được những quyền năng thần bí trong quá trình tiến
hóa tâm linh của họ. Mặc dù chính đức Phật đôi khi cũng thực hiện các hiện
tượng thần thông, nhưng ngài
chỉ làm điều đó khi thấy là thật sự cần thiết cho việc giáo hóa chúng sinh.
Phần nhiều các bậc giáo chủ khác cũng áp dụng phương pháp đó.
Phải chăng bà Blavatsky cũng làm giống
như vậy? Trong khi thực hiện các phép thần thông, phải chăng bà đã có cảnh giác
tất cả mọi người rằng đó chỉ là những điều phụ thuộc nhỏ mọn, không đáng kể
trên đường Đạo? Không ai có thể phủ nhận điều ấy; mọi người đều nhìn nhận là bà
vẫn luôn luôn dạy rằng các hiện tượng thần thông chỉ có tác dụng là để thực
nghiệm khoa triết học tâm linh, cũng như những cuộc thí nghiệm hóa chất đối với
khoa hóa học vậy.
Bà hẳn là đã sai lầm mà phung phí thần lực
trong các hiện tượng huyền linh để làm ngạc nhiên những quan khách tầm thường,
không quan trọng, thần lực ấy có thể dùng một cách hữu hiệu hơn nhiều để phá
hủy bức tường rào vô tín ngưỡng và độc đoán của những người duy vật phương Tây.
Tuy nhiên, nhờ đó mà bà đã thuyết phục được một số người, do ảnh hưởng của bà
mà đã đóng góp công lao tích cực vào phong trào Thông Thiên Học vĩ đại của
chúng ta, và vài người trung kiên nhất trong số đó đã từ bỏ khoa Thần linh học
của phương Tây để bước vào Huyền môn Đông phương qua chiếc cầu trung gian của
những hiện tượng diệu huyền.
Về phần tôi, sự thật là những hiện tượng thần
thông đa dạng mà bà Blavatsky thực hiện cho tôi xem đã làm cho tôi hiểu
được dễ dàng những triết lý cổ truyền trong khoa học tâm linh của phương Đông.
Tôi rất tiếc rằng những người khác, nhất là những bạn Đạo phương Đông của tôi,
vốn có một tâm hồn đã từng được chuẩn bị hoàn toàn chu đáo, lại không có được
một cơ hội may mắn như tôi.
HỌA ẢNH ĐẠI TÁ H. S.
OLCOTT
THỰC HIỆN NĂM 1891
CHƯƠNG
SÁU -
SỰ THÀNH LẬP HỘI THÔNG THIÊN HỌC THẾ GIỚI
I.
Tất cả những hội viên nhiệt thành của Hội Thông
Thiên Học sẽ thích thú khi biết rằng kể từ tháng 7 năm 1875, bà Blavatsky đã
khẳng định sự hiện diện của các đấng chân sư, tuyên bố sự thật về Quần tiên
hội, về kho tàng minh triết thiêng liêng do các ngài gìn giữ, và về mối liên hệ
cá nhân của bà với các ngài.
Bà nêu lên vấn đề quan trọng là:
“Khoa Thần linh học trong tay của một chân sư
sẽ trở thành khoa phương thuật, vì ngài đã tinh thông lão luyện về bí thuật sử
dụng những định luật trong càn khôn vũ trụ mà không vi phạm một định luật nào
và không hành động trái nghịch với thiên nhiên. Trong tay của một đồng tử thiếu
kinh nghiệm, khoa ấy sẽ trở thành bàng môn tả đạo một cách vô ý thức, vì người ấy sẽ vô tình mở rộng
cánh cửa giao thông giữa thế giới hữu hình và vô hình, giải tỏa những sức mạnh
mù quáng của thiên nhiên cùng những loại âm binh và vong linh bất hảo.”
Kể từ nay, tư tưởng Huyền môn được phát động
một cách rõ rệt và thường xuyên được nhắc đến trong những sách vở, báo chí và
thư tín riêng tư của chúng tôi. Trong một bài báo nhan đề “Đời sống bất tử”
đăng trên báo Diễn Đàn New York ngày 3 tháng 8 năm 1875, tôi có nói rõ
rằng tôi đã từng tin vào các hiện tượng đồng tử từ một phần tư thế kỷ nay,
nhưng tôi không bao giờ tin rằng những trí lực phía sau các hiện tượng đó quả
thật là những ông nọ, bà kia như họ giả danh hay mạo nhận.
Tôi khẳng định sự tin tưởng của tôi về sự thật
của khoa Huyền môn thời cổ, và nói lên sự kiện rằng tôi tình cờ được giao tiếp với
những người còn sống, họ đã từng thực hiện ngay trước mặt tôi những pháp thuật
diệu huyền xứng đáng với bản lĩnh của các nhà phương thuật trứ danh thời xưa.
Khi tôi nói lên điều ấy, tôi không chỉ đề cập
đến những hiện tượng thần thông của bà Blavatsky hay sự giao tiếp của
tôi với các chân sư, mà còn muốn nhắc đến sự việc này: Đó là việc một người lạ
mặt mà tôi tình cờ gặp tại New
York đã làm cho những “tinh linh ngũ hành” xuất hiện ngay trước mắt
tôi và trong phòng ngủ của tôi, chỉ một ngày trước khi tôi viết bài báo trên.
Người lạ mặt đến nhà tôi do một sự hẹn trước.
Chúng tôi mở những cửa ngăn phòng khách với buồng ngủ, ngồi trên ghế đối diện
với cửa ra vào, và thình lình, dưới ảnh hưởng của một phương pháp huyền diệu để
tạo ra ảo giác (Mya), tôi nhìn thấy phòng ngủ của tôi biến thành một khoảng
không gian vuông vức. Những giường tủ, bàn ghế đã biến mất khỏi tầm mắt của
tôi, và dần dần xuất hiện những cảnh trời nước mênh mông, mây mù bao phủ không
gian, hang động dưới lòng đất, và một hỏa diệm sơn phun lửa. Mỗi loại trong ngũ
hành đều loi ngoi như những sinh vật sống động với những hình thể, những gương
mặt, ẩn hiện chập chờn khi mờ khi tỏ. Vài hình thể sinh vật đó trông thật xinh
đẹp, hiền hòa; những loại khác lại có hình dạng bất hảo, dữ tợn, có loại rất
hung ác và trông thật rùng rợn.
Chúng xuất hiện trước mắt tôi một cách nhẹ
nhàng giống như những bọt nước trên một giòng suối, hoặc phóng nhanh xuyên qua
không gian và biến mất, hoặc chơi giỡn nô đùa với nhau trong ánh lửa hồng hay
trên giòng nước.
Lát sau, một quái vật hình thù dị hợm trợn mắt
nhìn tôi và phóng tới trước, dường như muốn vồ lấy tôi cũng như một con cọp vồ
mồi, nhưng rồi lại biến mất khi nó vừa chạm tới ranh giới của khoảng không gian
vuông vức, là nơi mà hai gian phòng nối liền với nhau.
Việc ấy làm cho thần kinh tôi bị căng thẳng tột
độ, nhưng sau những kinh nghiệm về hồn ma hiện hình mà tôi đã từng trải qua ở
nông trại Eddy, tôi cố gắng giữ vững tinh thần, lòng không rúng động.
Đến đây, người lạ mặt tuyên bố hài lòng về kết
quả cuộc thử thách tâm linh này, và khi chia tay từ giã, còn nói thêm rằng
chúng tôi có thể sẽ gặp lại nhau.
Nhưng cho đến nay chúng tôi không hề gặp lại
nhau. Người ấy có hình dáng giống như một người Đông phương, màu da nhạt, nhưng
tôi không thể nhận ra được là người nước nào, tuy hồi đó tôi nghĩ có lẽ ông ta
là người Ấn Độ. Người ấy nói tiếng Anh rất thông thạo cũng như tôi.
II.
Sự dọn đường cho việc thành lập Hội Thông Thiên
Học Thế Giới đã được chuẩn bị bằng sự tranh luận sôi nổi trong các giới, trước
nhất là về Thần linh học và sau đó là về một vài quan niệm của Huyền môn Đông
phương. Cuộc tranh luận vẫn tiếp diễn kể từ khi những bài tường thuật của tôi
về các hiện tượng thần linh ở nông trại Eddy bắt đầu xuất hiện trên nhật
báo New York Sun vào tháng 8 năm 1874. Nó càng trở nên sôi động thêm gấp
bội phần từ khi tôi và bà Blavatsky gặp nhau tại Chittenden và sử
dụng báo chí để trình bày những quan điểm mới mẻ của chúng tôi.
Những bài báo châm biếm của bà, những chuyện
đồn đãi về phép thuật của bà, và sự quả quyết của chúng tôi về sự hiện diện của
những chủng loại sinh vật trong cõi vô hình, đã thu hút đến với chúng tôi nhiều
nhân vật có đạo tâm, trí thức, thông minh lỗi lạc. Trong số này có cả những nhà
bác học, ngôn ngữ học, nhà văn, nhà khảo cổ, một vài vị linh mục có tinh thần
phóng khoáng, cởi mở, các luật gia, y sĩ, vài nhà Thần linh học tên tuổi và một
số nhà báo tò mò muốn tìm đề tài hấp dẫn để viết bài.
Thật là táo bạo khi dám đứng ra công khai tuyên
bố nền tảng khoa học của khoa Huyền môn cổ xưa, bất chấp mọi dư luận thành kiến
của người đời vào thời đại hoài nghi của khoa học vật chất ngày nay. Nhưng
chính hành động táo bạo đó đã thu hút sự chú ý của quần chúng và đưa đến hậu
quả tất nhiên là sau một thời gian, những người đồng quan điểm sẽ họp lại với nhau
thành một Hội để khảo cứu về các vấn đề Huyền môn.
Dự tính thành lập một Câu lạc bộ Huyền linh đã
thất bại vào tháng 5 năm 1875, thì nay một cơ hội khác đã đến khi một học giả
chuyên ngành Ai Cập học là ông George Felt thuyết trình trước một nhóm
bạn hữu của chúng tôi tại nhà bà Blavatsky vào ngày 7 tháng 9 năm 1875.
Đó là một sự thành công mỹ mãn: hạt giống của
cây đại thọ bao trùm khắp thế giới đã được gieo trên mảnh đất tốt và đã nẩy
mầm. Tối hôm 7 tháng 9, ông Felt thuyết trình về đề tài “Qui tắc tỷ lệ
của người Ai Cập thời cổ”. Ông là một nhà kiến trúc đồ họa rất tài tình và đã
vẽ một số họa đồ rất khéo để mô tả lý thuyết của ông, cho rằng những qui tắc tỷ
lệ kiến trúc của người Ai Cập thời cổ cũng như của các đại kiến trúc gia Hy Lạp
hiện được gìn giữ trong những chữ viết bí mật khắc trên các đền thờ cổ của xứ
Ai Cập. Ông nói rằng, bằng cách sử dụng một vài loại mật mã, người ta có thể thiết lập một đồ hình
mà ông gọi là “ngôi sao toàn mỹ” trên vách một ngôi đền, rồi đọc trong
đó toàn bộ các bí quyết của vấn đề tỷ lệ kiến trúc và hình học. Những chữ viết
bí mật ở ngoài vòng cái đồ hình đặt trên vách chỉ là những chữ giả tạo để đánh
lạc hướng những kẻ tò mò, bởi vì nếu ghép với những chữ ở phía trong đồ hình
thì đó chỉ là những câu vô nghĩa, hoặc chỉ là một câu chuyện vô vị, tầm thường.
Đồ hình này gồm một vòng tròn với một hình vuông ở trong và một ở ngoài, chứa
đựng một hình tam giác thường, hai hình tam giác Ai Cập và một hình năm góc.
Ông Felt áp dụng đồ hình ấy vào những hình ảnh, tượng điêu khắc, cổng
đền, hình vẽ chữ viết bí mật, Kim Tự Tháp, lăng tẩm và dinh thự lâu đài của xứ
cổ Ai Cập, và thấy rằng chúng hoàn toàn khớp với những tỷ lệ của đồ hình đến
mức biểu lộ một qui tắc kiến trúc chung cho tất cả các công trình xây dựng của
thời xưa. Quả thật, đó chính là qui tắc kiến trúc thật sự của thiên nhiên.
Tiến sĩ Pancoast, một nhà huyền học ưu
tú có mặt trong buổi họp, lúc ấy mới hỏi ông Felt có thể chứng minh cụ
thể sự hiểu biết của ông về những quyền năng thần bí của các nhà đạo sĩ thời
xưa hay không, chẳng hạn như việc kêu gọi các vong linh khuất mặt trong cõi vô
hình.
Ông Felt trả lời rằng: “Ông có thể làm
cho xuất hiện hàng trăm những hình bóng vong linh giống như hình người, nhưng
ông không thấy những dấu hiệu cho thấy rằng chúng có trí khôn.”
Trong buổi thuyết trình, ông Felt cho
chúng tôi biết rằng trong khi khảo cứu về môn cổ học Ai Cập, ông đã phát hiện
rằng những vị giáo sĩ Ai Cập thời xưa đều là những pháp sư lão luyện, tinh
thông về khoa phương thuật. Họ có quyền năng kêu gọi và sai khiến những tinh
linh ngũ hành và có để lại những chân ngôn thần chú để sử dụng âm binh. Ông có
khám phá ra ý nghĩa ẩn giấu của những chân ngôn này, đã đem dùng thử và đã kêu
gọi được các loại âm binh. Ông sẵn lòng chỉ dẫn bí thuật này cho những người có
thiện chí và hứa sẽ làm cho các loại tinh linh xuất hiện trước mắt chúng tôi
trong một loạt các bài diễn thuyết.
Buổi thuyết trình vô cùng hấp dẫn và lý thú hôm
đó được nối tiếp bằng một cuộc thảo luận sôi nổi. Trong khi cuộc bàn cãi đang
tiếp diễn, tôi bỗng có ý nghĩ rằng, có lẽ là một điều hay nếu chúng tôi thành
lập một hội để khuyến khích sự học hỏi, khảo cứu về khoa huyền môn. Và sau khi
đắn đo suy nghĩ, tôi mới viết trên một mảnh giấy dòng chữ sau đây:
“Phải chăng là một điều tốt nếu chúng ta thành
lập một hội để khảo cứu những vấn đề này?”
Tôi đưa mảnh giấy cho ông W. Judge, một
luật sư lúc ấy đang đứng giữa tôi và bà Blavatsky ngồi ở một ghế đối
diện, nhờ ông chuyển cho bà. Bà đọc xong, liền gật đầu tỏ ý bằng lòng. Tôi bèn
đứng dậy, và sau vài lời mở đầu, tôi đưa ra đề nghị trên.
Cử tọa lấy làm thích thú, và khi ông Felt,
nhân dịp trả lời một câu hỏi, nói rằng ông sẵn lòng chỉ dẫn cho chúng tôi
phương pháp kêu gọi và kiềm chế các loại tinh linh ngũ hành, thì toàn
thể hội trường đều đồng thanh chấp thuận việc thành lập Hội nói trên.
Theo lời đề nghị của ông Judge, tôi được
bầu làm Hội trưởng, và với đề nghị của tôi, ông Judge được bầu làm Thư
ký buổi họp. Vì lúc ấy đêm đã khuya, buổi họp được đình lại đến tối hôm sau để
có một quyết định chính thức. Những quan khách tối hôm đó được yêu cầu đem theo
những bạn bè thân hữu và cảm tình viên vào đêm sau để họ có thể gia nhập Hội
nếu họ muốn.
Một tờ nhật báo ở New York có tường
thuật buổi họp tối hôm đó, tóm tắt nội dung như sau:
“Một phong trào rất quan trọng vừa được khai
trương tại New York dưới sự lãnh đạo của Đại Tá Henry S. Olcott, thành lập một
hội gọi là Hội Thông Thiên Học Thế Giới. Đề nghị khởi xướng việc này là một
điều hoàn toàn không có dự tính trước, và được phát động vào tối hôm mồng 7 tại
phòng khách nhà bà Blavatsky. Cử tọa gồm 17 vị quan khách nam nữ trong giới
thượng lưu trí thức, đã hội họp để nghe ông George Henry Felt thuyết trình về
một vài khía cạnh của huyền môn Ai Cập vô cùng lý thú và hấp dẫn...
“Trong cuộc thảo luận sau đó, thừa dịp thuận tiện,
Đại tá Olcott đứng lên phát biểu ý kiến. Sau khi phác họa tình trạng của phong
trào Thần linh học đương thời cùng sự xung đột ý kiến giữa khoa học và tôn
giáo, ông nói về tính cách triết học của nền đạo lý cổ truyền và khả năng có
thể dung hòa tất cả mọi lý thuyết tương phản hiện hữu; và công trình siêu việt
của ông Felt đã khám ph được bí quyết cấu tạo của thiên nhiên ẩn chứa trong
những tàn tích cổ xưa của khoa huyền môn Ai Cập. Ông đề nghị thành lập một hội
tinh thần để qui tụ tất cả những người có khuynh hướng tâm linh, sẵn sàng làm
việc chung với nhau để sưu
tập và truyền bá những kiến thức Huyền môn.
“Chương trình của ông là tổ chức một Hội các
nhà huyền học và bắt đầu lập ngay một thư viện, kế đó là phổ biến những giáo lý
về những định luật huyền bí trong thiên nhiên mà người Ai Cập và Trung Đông
thời cổ đều biết rõ, nhưng lại hoàn toàn xa lạ đối với thế giới khoa học của
chúng ta hiện nay, v.v...”
Tài liệu này cho thấy tâm trạng của tôi khi đề
nghị thành lập Hội Thông Thiên Học Thế Giới. Quan niệm về tình huynh đệ đại
đồng trong nhân loại chưa được nêu ra và chúng tôi cũng chưa kịp nghĩ đến, bởi
vì đề nghị thành lập Hội chỉ đột xuất khởi lên từ đề tài đang thảo luận. Tuy
nhiên, khi vòng ảnh hưởng của Hội nới rộng để bao gồm cả những dân tộc phương Đông
cùng những tôn giáo và chế độ xã hội của họ, thì tình huynh đệ đại đồng trở nên
một điều cần thiết, và trên thực tế là nền tảng cho toàn thể cơ cấu xây dựng
Hội.
Hội Thông Thiên Học là một công trình tuần tự
phát triển và tiến hóa, chứ không phải là một sự tạo dựng có mưu tính trước
(trên cõi giới hữu hình). Khi Hội đã được chấp thuận trên nguyên tắc, một phiên
họp sau đó được tổ chức để soạn thảo bản điều lệ, nội quy, và bầu một Ban chấp hành để quản trị
công việc Hội.
Ngày 30 tháng 10 năm 1875, bản Điều lệ và Nội
quy được thông qua, và Ban chấp hành được chính thức bầu cử. Kết quả bầu cử Ban
chấp hành được công bố như sau:
Hội Trưởng: Henry S. Olcott
Phó Hội Trưởng: B. S. Pancoast và G. H. Felt
Tổng thư ký Ngoại vụ: H. P. Blavatsky Tổng thư
ký Nội vụ: John S. Cobb Thủ quỹ: Henry Newton
Quản lý Thư viện: Charles Sotheran
Luật sư nhiệm cách: William Q. Judge
Ngoài ra còn có 5 vị Cố vấn.
Phiên họp tiếp theo vào ngày 17 tháng 11 năm
1875 đã công bố bản Tuyên ngôn của Hội, và Hội trưởng đọc diễn văn chính thức
khai trương hoạt động của Hội.
Thế là Hội Thông Thiên Học Thế Giới được chính
thức thành lập vào ngày 17 tháng 11 năm 1875.
III.
Khi đoạn hồi ký này của tôi được đăng trong tạp
chí “The Theosophist” tháng 11 năm 1892, số tạp chí ấy cũng có đăng
tiểu sử hay lý lịch của nhiều vị trong Ban chấp hành của Hội. Trong số đó có
một chuyện lạ về kinh nghiệm huyền linh của ông W. L. Alden.
Ông Alden hồi đó là một biên tập viên
của tờ New York Times, rất nổi tiếng với những bài phê bình hài hước và
sắc sảo của ông về những vấn đề thời sự hằng ngày. Khi chúng tôi mới quen nhau,
ông ấy có gặp một chuyện khá thú vị. Lúc ấy ông viết bài xã luận cho báo Graphic,
còn tôi viết phóng sự về các hiện tượng huyền linh ở Chittenden cũng cho
tờ nhật báo này.
Những chuyện hồn ma hiện hình ở nông trại Eddy
đã hấp dẫn một số đông người hiếu kỳ hằng ngày đến tòa soạn để hỏi những
chuyện bâng quơ vô lý. Họ làm quấy rầy vị Chủ bút, ông Groly, đến mức
ông này phải công bố một tấm hình lớn vẽ ông ta đứng chặn cửa vào tòa soạn, với
một khẩu súng lục và một cặp kéo lớn trong tay, để tự vệ chống lại sự đột nhập
của những kẻ vô tích sự làm phiền nhiễu và mất thời giờ.
Một ngày nọ, có một vị trưởng lão mặc y phục
theo lối Đông phương bước vào tòa soạn, tay cầm một quyển sách hình dáng lạ kỳ,
và có vẻ rất cũ. Ông ta chào các nhân viên tòa soạn một cách trang trọng, rồi
bắt đầu nói chuyện về những bài phóng sự của tôi, và về khoa Thần linh học Tây
phương và Đông phương. Tất cả mọi người đều rời khỏi bàn viết đến vây quanh ông
lão. Khi nói về khoa phương thuật, ông lão lẳng lặng quay về phía ông Alden,
mà cho đến khi đó không ai biết gì về những sở thích Huyền môn của ông ta, và
hỏi:
“Thưa ông, ông có tin sự thật của khoa phương
thuật không?”
Vô cùng ngạc nhiên vì câu hỏi đột ngột này, ông
Alden đáp:
Đáp lại yêu cầu của vài người, ông lão đưa
quyển sách dị kỳ của ông ta cho mọi người xem. Thì ra đó là một quyển cổ thư
dạy về khoa phương thuật, viết bằng chữ Ả Rập hay một thứ chữ Đông phương, có
rất nhiều hình ảnh xen lẫn với chữ viết.
Tất cả mọi người đều rất thích thú, nhất là ông
Alden, và khi chia tay từ giã, ông này hỏi vị trưởng lão có thể nào họ
sẽ gặp lại nhau để nói chuyện thêm. Ông lão gật đầu mỉm cười, và đưa cho ông Alden
một địa chỉ.
Nhưng khi ông Alden tìm đến nơi thì đó
chỉ là một địa chỉ ma, một cửa hàng bán hình tượng và kinh sách đạo Gia Tô.
Nhưng ông bạn tôi vẫn không thất vọng, và nhiều
tháng sau đó, để mắt theo dõi những người mà ông tiếp xúc hay gặp gỡ ngoài
đường với niềm hy vọng sẽ gặp lại ông lão bí mật.
Ông Groly cho tôi biết rằng người lạ mặt
cũng không hề trở lại viếng thăm tòa soạn một lần nào nữa, dường như ông ta đã
biến mất vào trong ruột quả địa cầu! Sự xuất hiện bất ngờ và thình lình biến
mất của những người bí mật để mang những quyển sách quí đến cho người có căn
duyên; hoặc để đưa ra những lời khuyên hữu ích, hoặc để chỉ đường dẫn lối cho
những người tầm đạo giữa những khó khăn chướng ngại mà họ đang cố gắng vượt qua
để đi đến chân lý, vốn không phải là một kinh nghiệm lạ thường.
Có nhiều trường hợp như vậy đã được ghi nhận
trong lịch sử tôn giáo. Sự xuất hiện đó đôi khi xảy ra trong khi thức tỉnh,
hoặc đôi khi trong những cơn linh ảnh vào những giờ ban đêm. Sự mách bảo có khi
đến như những “tia sáng” xẹt qua trong trí óc, những tia sáng trực giác (Buddhi)
rọi vào cái trí suy luận (Manas) đem lại những phát minh lớn lao về khoa
học, chẳng hạn như ý niệm về kiếng quang phổ (Spectroscope) xẹt qua trí
óc của Fraunhofer,15 ý niệm về tính chất của
sấm sét và cột thu lôi trong trí của Franklin,16 ý niệm về máy điện
thoại trong trí của Edison,17 và còn muôn nghìn sự việc
vĩ đại hay định luật lớn lao khác nữa vẫn thường chiếu rọi ánh sáng vào tâm hồn
những người thụ cảm sẵn sàng tiếp nhận nguồn cảm hứng thiêng liêng.
Có thể là hơi quá đáng khi nói rằng mỗi người
tầm đạo đều có cơ duyên đạt tới sự hiểu biết chân lý một lần trong đời, nhưng
tôi tin chắc rằng số người may mắn có được cơ duyên đó là gấp trăm lần nhiều
hơn người ta vẫn tưởng. Thật là một điều bất hạnh cho ai đó nếu vì quan niệm
sai lầm mà tưởng rằng vị sứ giả đem cơ duyên tới cho mình phải có một hình dạng
hay cốt cách đặc biệt thế nào đó, hoặc rằng bức thông điệp gửi cho anh ta phải
đi kèm với những hiện tượng huyền bí thuộc loại nào. Rồi do những thành kiến đó
che lấp nên có khi anh ta giao tiếp với một vị thiên thần mà không hề hay biết,
hoặc chạm trán với quý nhân ngay trên đường mà không hề cảm thấy một rung động
khác lạ nào để phải chú ý. Thay vì vậy, anh ta chỉ mải mê chăm chú nhìn xem
cảnh vật chung quanh! Đó là tôi nói theo những gì tôi biết.
IV.
Theo chương trình đã định, tối hôm 18 tháng 9,
ông George H. Felt tiếp tục cuộc thuyết trình lý thú về huyền môn Ai
Cập và trình bày những đồ hình có màu để mô tả những sự khám phá của ông. Vài
thính giả sau đó cho biết rằng họ nhìn thấy ánh sáng chập chờn trên những đồ
hình, nhưng tôi nghĩ điều đó có lẽ một phần do sự tự kỷ ám thị, còn một phần,
có thể như ông Felt nói, là do những đặc tính huyền diệu của các đồ
hình.
Riêng tôi không nhìn thấy gì có tính chất huyền
linh, cũng như những người khác trong cử tọa, trừ ra một số rất ít. Trong buổi
thuyết trình, ông Felt khẳng định không chút do dự về sự hiện hữu của
các giới tinh linh ngũ hành, về ảnh hưởng của chúng đối với loài vật và
sự liên hệ của chúng đối với loài người.
Trong một bài báo gửi đăng trên tạp chí “London
Spiritualist” ngày 19 tháng 6 năm 1878, ông Felt viết:
“...Tôi được biết chắc chắn rằng các loại tinh
linh ngũ hành quả có thật, nhờ những cuộc sưu tầm của tôi về môn khảo cổ Ai
Cập. Trong khi tôi vẽ họa đồ những vòng hoàng đạo Ai Cập để cố gắng tìm ra
những điểm tương quan về số học giữa chúng với nhau, tôi nhận thấy đôi khi có
những hiện tượng rất lạ lùng không thể giải thích. Người nhà tôi nhận thấy rằng
có những lúc con chó và con mèo của tôi biểu lộ những phản ứng rất dị kỳ, và họ
lưu ý tôi về chúng. Khi đó tôi mới thấy rằng mỗi khi tôi bắt đầu làm những cuộc
khảo cứu về loại nào đó, thì con mèo trước hết lộ vẻ băn khoăn ray rứt, và
trong một lúc con chó lại gần để trấn an nó, nhưng không bao lâu con chó cũng
tỏ vẻ sợ hãi một vật gì đang đột nhiên xuất hiện trong phòng.
“Dường như con mèo có những giác quan tinh vi
bén nhạy hơn, khi đó cả hai con đều muốn được tôi đưa ra khỏi phòng, và chính
chúng nó cũng tự thoát ra bằng cách lao qua cửa sổ. Khi đã được thả ra ngoài,
chúng còn kêu và sủa trở lại, dường như muốn gọi tôi hãy đi ra. Chúng vẫn tiếp
tục kêu như thế một hồi lâu, và sau cùng tôi bắt buộc phải đi đến kết luận rằng
chúng đã cảm nhận được những sự vật hay ảnh hưởng vô hình nào đó mà tôi không
nhận thấy.
“Thoạt tiên, tôi cho rằng những hình thù gớm
ghiếc được vẽ trên các vòng hoàng đạo chỉ là do “sự tưởng tượng vô lý của những
đầu óc bệnh hoạn”, nhưng về sau tôi mới nghĩ rằng đó là cách trình bày những sự
vật tự nhiên theo một công thức nhất định. Sau khi đã thực hiện một loạt những
cuộc thí nghiệm về vấn đề này, tôi mới biết chắc rằng những hình vẽ trên các
vòng hoàng đạo và các ngôi kiến trúc, đền đài cổ Ai Cập là sự miêu tả những
chủng loại sinh vật vô hình trong cơ sáng tạo, được trình bày dưới những nét
khá chính xác, và xen lẫn với hình ảnh của những sự vật tự nhiên khác. Tôi phát
hiện rằng những sinh vật đó là những thực thể có trí khôn, vài loại có vẻ hung
ác và gây sợ hãi cho những thú nhà, còn những loại khác, trái lại, có vẻ hiền
lành mà những thú nhà rất ưa
thích và lấy làm thỏa mãn khi chúng xuất hiện.
“Tôi tin rằng chúng gồm thành phần những chủng
loại sinh vật trong một hệ thống tiến hóa bắt đầu từ những hình thể vô tri bất
động trong thiên nhiên, đi xuyên qua loài động vật rồi đến các cấp đẳng thiên
thần là trình độ phát triển cao tột. Vài loại khôn ngoan có thể được kiềm chế khi
con người dần dần quen thuộc hơn với chúng, hay khi con người sinh hoạt điều
hòa hơn với thiên nhiên.
“Sự tinh khiết của tâm hồn và thể xác là yếu tố
rất hữu hiệu, và tôi thấy rằng chúng đặc biệt ghê tởm sự hút thuốc, nhai thuốc
lá và những thói quen bất hảo khác. Tôi nhận thấy rằng khi những tinh linh ngũ
hành không bị hoàn toàn chế ngự hoàn toàn, chúng trở nên tinh quái, nguy hiểm,
và có thể gây thương tổn, tác hại cho loài người...”
G. H. Felt
(London Spiritualist, 19-6-1878)
Tuy bài diễn văn khai trương của tôi được toàn
thể cử tọa vỗ tay hoan nghênh, nhưng nó hơi có vẻ dại dột sau 17 năm kinh
nghiệm phũ phàng. Một phần lớn những kết quả tiên liệu đã được thực hiện, nhưng
nhiều dự liệu đã biến chất.
Điều mà chúng tôi tin tưởng như cái nền tảng
thực nghiệm tốt đẹp cho mọi dự tính về sau, tức là sự chứng minh của ông Felt
về sự hiện hữu của các chủng loại tinh linh ngũ hành, đã trở nên một
sự thất vọng đau đớn hoàn toàn. Với tất cả những gì ông ta đã làm theo chiều
hướng đó, ông ta vẫn không chỉ cho chúng tôi thấy được gì cả, chí đến cái chót
đuôi của một tinh linh nhỏ bé nhất. Ông ta làm cho chúng tôi trở thành trò cười
cho giới Thần linh học và những người duy vật hoài nghi. Ông ta là người có
những sở đắc phi thường, và đã thực hiện những khám phá đáng kể. Tôi tin rằng
ông đã thực hiện những gì ông nói, và nếu ông bền chí theo đuổi đến cùng những
gì đã khởi đầu thì có lẽ ông đã vang dội tên tuổi trong số những người nổi
tiếng nhất của thời đại chúng ta.
Vì đã thường thấy bà Blavatsky sử dụng
tinh linh ngũ hành để làm các hiện tượng, và Signor B. cũng đã nhiều lần
làm như vậy; rồi người khách kỳ lạ làm cho chúng xuất hiện ngay trong phòng
tôi, thì tại sao tôi lại không tin rằng ông Felt cũng có thể làm giống
như thế, nhất là khi bà Blavatsky nói với tôi rằng ông ấy có thể?
Bởi vậy, với sự táo bạo của nhà khai sáng và sự
nhiệt thành của một người lạc quan, lòng đầy hứng khởi, tôi đã để cho óc tưởng tượng của tôi tự
do hoạt động, và tiên liệu trong bài diễn văn của tôi những kết quả có thể thực
hiện nếu ông Felt làm đúng như lời hứa.
Vì nhu cầu tài chánh, ông Felt đã yêu
cầu thủ quỹ Newton ứng trước cho ông một trăm đô-la để đài thọ phí tổn
trong các cuộc thí nghiệm, nhưng rốt cuộc vẫn không làm xuất hiện được tinh
linh ngũ hành!
Các hội viên lấy làm bất mãn. Sau cùng, ông ta
ra khỏi Hội; và vì thấy không còn trông cậy được gì nữa ở nơi ông ta, một số
hội viên cũng biến mất luôn, chỉ có chúng tôi còn ở lại để nỗ lực làm việc với
sức cố gắng tối đa.
Đó quả là một công việc nặng nhọc, như tất cả
những hội viên hoạt động vào thời kỳ đó đều nhớ rõ. Mục tiêu của chúng tôi là
học hỏi, bằng cách thực nghiệm, bất cứ những gì có thể học được về những thành
phần cấu tạo của con người, và vị trí của con người trong thiên nhiên. Nhất là
phần trí lực hoạt động tích cực ở cương vị ý chí vẫn là một sự bí
hiểm lớn đối với chúng tôi!
Nhà thuật sĩ của phương Đông cho đến nhà truyền
nhân điện của phương Tây đều dùng nó. Người khai triển được nó sẽ trở thành một
vị anh hùng; người khác làm tê liệt nó, và trở thành một người đồng bóng. Công
năng vô địch của nó làm cho tất cả mọi sinh vật ở các cõi giới vật chất đều phải chịu khuất phục,
và khi có cả óc tưởng tượng cùng hoạt động đi kèm, thì nó sáng tạo bằng
cách phóng ra ngoại giới những hình thù tư tưởng mới tạo nên.
Như vậy, mặc dầu ông Felt đã bội ước và
chúng tôi không thể trông đợi một cuộc hành trình trên biển lặng sóng êm, nhưng
chúng tôi vẫn còn nhiều lãnh vực cần khảo sát, và chúng tôi cũng đã thăm dò,
thám hiểm những lãnh vực đó ít nhiều. Những văn khố cũ còn ghi nhận việc chúng
tôi có trắc nghiệm những đồng tử, thử làm những cuộc thí nghiệm về các môn cảm
xạ, đọc tư tưởng, truyền nhân điện, và trao đổi thư từ với các báo chí...
Nhưng chúng tôi đã tiến bước rất chậm, vì cho
dù tất cả mọi người đều đồng ý phải giữ vững tinh thần, nhưng trong thâm tâm
mỗi người đều không khỏi chán nản về sự thất bại của ông Felt, và dường
như không có triển vọng tìm người thay thế. Nhà phù thủy làm mưa, Signor B.,
đã bị bà Blavatsky cấm cửa từ sau vụ mưu toan gây chia rẽ giữa chúng
tôi. Người khách kỳ lạ đã kêu gọi âm binh xuất hiện trước mắt tôi không còn trở
lại nữa; và bà Blavatsky, mà từ nay tất cả mọi người đều trông đợi sự
giúp đỡ, lại từ chối không thực hiện bất cứ hiện tượng kỳ bí nhỏ nhặt nào trong
những buổi họp.
Thế là số hội viên cứ thưa thớt dần cho đến
khi, khoảng một năm sau đó, Hội chúng tôi rơi vào tình trạng mang hình thức của
một tổ chức tốt đẹp với chương trình hoạt động phong phú và lành mạnh, có tiếng
tăm vang dội gần xa, với một vài hội viên hững hờ tiêu cực và một trung tâm
sinh khí dồi dào bất tận trong niềm hứng khởi cuồng nhiệt của hai người bạn
đồng môn, một nam một nữ.
Chúng tôi không bao giờ có một chút mảy may
nghi ngờ, dù chỉ trong chốc lát, về sự hiện hữu của các đấng chân sư, và về
tính chất thiêng liêng cao quí của công việc mình được giao phó, cũng như sự
thành công hoàn toàn và tối hậu của công việc ấy.
Ông Judge là một người bạn trung thành
và sẵn sàng trợ giúp, nhưng lại quá non nớt về trình độ tâm linh để có thể được
xem như một người thứ ba trên cương vị bình đẳng với chúng tôi. Sau khi chúng
tôi đã thiết lập Trụ sở Hội và ổn định nơi cư trú, mỗi buổi tối khi quan khách
đã ra về, bà Blavatsky và tôi có thói quen ngồi mạn đàm và hút thuốc,
nghỉ ngơi một lúc trước khi chia tay.
Nhiều khi chúng tôi phải bật cười mà nghĩ rằng,
thật hiếm thay những người mà chúng tôi có thể trông cậy để cùng sát cánh hợp
tác qua tất cả những bước thăng trầm, chìm nổi của cuộc đời. Điều duy nhất mà chúng tôi càng
lúc càng cảm thấy rõ rệt hơn là hai chúng tôi tuyệt đối có thể tùy thuộc lẫn
nhau vì lý tưởng phô diễn đạo lý, dẫu cho trời long đất lở hay đến ngày tận
thế.
Những kẻ thù nghịch nói rằng khi chúng tôi từ
giã Hoa Kỳ lên đường sang Ấn Độ thì Hội Thông Thiên Học ở Mỹ cũng không còn.
Điều này cũng có phần nào đúng, vì do nhiều nguyên nhân, Hội đã không làm được
gì đáng kể trong suốt khoảng thời gian sáu năm sau đó. Thành phần nòng cốt, vốn
luôn luôn là yếu tố hữu hiệu nhất trong những phong trào tương tự, đã bị phân
tán; không ai có thể thiết lập một thành phần cốt cán mới; người ta không thể
tạo nên một Blavatsky thứ nhì; và ông Judge, lúc ấy là triển vọng
tương lai duy nhất để đóng vai trò lãnh đạo và tổ chức, lại phải lên đường sang
các xứ Nam Mỹ vì hoạt động nghề nghiệp.
Tuy nhiên, suốt thời gian những năm ấy, những
bức thư của ông Judge gửi cho chúng tôi cho thấy rằng sự nhiệt thành của
ông đối với Thông Thiên Học và các vấn đề Huyền môn vẫn không suy giảm. Sự mong
ước lớn nhất của ông là trong tương lai ông sẽ được tự do dành hết thời giờ và
sức lực vào công việc của Hội Thông Thiên Học.
Nhưng, cũng ví như hạt giống cây xa trục thảo
bị vùi sâu trong lòng đất chỉ bắt đầu nảy mầm khi những người đào giếng đưa nó lên khỏi mặt đất,
thì hạt giống mà chúng tôi gieo vào tâm hồn dân chúng Mỹ trong khoảng thời gian
từ năm 1874 đến năm 1878 cũng bắt đầu nảy mầm khi thời giờ của nó đã điểm; và
ông Judge chính là người có cơ duyên tiền định để gặt hái kết quả. Như
vậy, luật nhân quả vẫn luôn luôn tác động âm thầm để chỉ định mỗi vai trò khai
phá, gieo giống và gặt hái.
Khả năng sinh tồn của Hội Thông Thiên Học được
ủy thác cho chúng tôi là những nhà sáng lập trên phương diện hữu hình, nhưng về
phương diện vô vi huyền diệu thì sự sống còn của Hội vốn đã định sẵn nơi cái lý
tưởng căn bản của nó và nơi các đấng cao cả thể hiện lý tưởng ấy. Các ngài đã
giáo hóa chúng tôi và gieo vào tâm trí chúng tôi ánh sáng thiện chí của các
ngài.
Vì cả hai chúng tôi đã nhận thức rõ điều ấy, và
vì chúng tôi được ân sủng làm việc cho Hội và hợp tác với các ngài, nên giữa
hai chúng tôi có một sợi dây liên lạc chặt chẽ, mật thiết hơn bất cứ mối liên
hệ thường tình nào khác của người thế gian. Điều ấy làm cho chúng tôi dung hòa
với những khuyết điểm của nhau và chịu đựng tất cả những sự va chạm khổ đau đi
liền với sự cộng tác giữa hai cá tính hoàn toàn tương phản, trái ngược.
Riêng phần tôi, lý tưởng này đã khiến tôi gạt
bỏ tất cả những mối liên hệ trói buộc thường tình cùng những điều mong ước và
tham vọng trần gian như những vật vô giá trị. Thật vậy, trong thâm tâm tôi luôn
cảm thấy thà làm một người lao công giữ cửa, hay thậm chí giữ một vai trò ti
tiện thấp hèn hơn nữa trong sự theo đuổi lý tưởng, còn hơn là sống vô nghĩa
trên nhung lụa giữa chốn xa hoa đài các mà cuộc đời có thể cung phụng cho tôi.
Bà Blavatsky cũng chia sẻ những quan
niệm của tôi và niềm hăng say phấn khởi vô tận của bà trong công việc đạo là
một tấm gương khích lệ cho bất cứ người nào đến tiếp xúc với bà. Khi đã cảm
nghĩ như thế, và sẵn sàng làm tất cả mọi sự hy sinh cho lý tưởng như trường hợp
của chúng tôi, thì sự phá sản của Hội Thông Thiên Học chắc chắn là một điều
không thể xảy ra.
HỌA ẢNH BÀ H. P.
BLAVATSKY (1831 - 1891)
CHƯƠNG BẢY
VÉN MÀN ISIS18
I.
Nếu một bộ sách có thể được xem là đánh dấu một giai đoạn lịch sử, thì đó hẳn là bộ sách này. Xét về một phương diện, nó đã gây những ảnh hưởng lớn lao cũng như bộ sách đầu tiên của Darwin.19
Trên một phương diện khác, cả hai đều là những dòng thủy triều lên cao trong trào lưu tư tưởng cận đại. Mỗi bộ sách này đều có tác dụng tảo trừ những điều dị đoan sống sượng của khoa thần học và thay thế đức tin nơi phép lạ bằng sự tin vào định luật thiên nhiên.
Tuy vậy, trường hợp khởi đầu viết bộ sách này cũng rất đơn giản và bình thường chứ không có gì đặc biệt. Một ngày nọ, vào mùa hè năm 1875, bà Blavatsky đưa cho tôi xem vài tờ bản thảo và nói: “Tôi viết cái này đêm hôm qua, do một sự thôi thúc kỳ bí, nhưng dùng để làm gì thì tôi không biết. Có thể là một bài báo, có thể là một quyển sách, nhưng cũng có thể chẳng để làm gì cả. Tuy nhiên, tôi chỉ viết theo sự thôi thúc trong lòng tôi mà thôi.”
Rồi bà cất bản thảo đó vào một hộc tủ và không nói gì đến nó nữa trong một thời gian. Nhưng ít tháng sau đó, bà đi Syracuse20 thăm hai người bạn mới là ông bà Corson, giáo sư trường Đại học Cornell, và tiếp tục công việc viết lách. Bà viết thư cho tôi biết rằng đó sẽ là quyển sách nói về lịch sử và triết học của các đạo phái phương Đông, và những mối tương quan giữa các đạo phái ấy với những môn phái của thời đại bấy giờ. Bà cho biết rằng bà viết về những vấn đề mà bà chưa bao giờ học, và chú thích bằng những quyển sách mà bà chưa từng đọc qua.
Bà cho biết thêm rằng, để kiểm chứng những điều bà viết, Giáo sư Corson đã so sánh những đoạn chú thích của bà với những bộ sách cổ điển trong thư viện của trường đại học thì thấy chúng hoàn toàn chính xác!
Khi bà trở về thành phố New York, bà không chăm chú lắm vào công việc này, mà chỉ viết một cách rời rạc, không liên tục. Nhưng độ một hay hai tháng sau việc thành lập Hội Thông Thiên Học, bà và tôi cùng thuê một ngôi nhà hai tầng ở đường 34th West. Bà ở tầng dưới, tôi ở lầu trên, và từ đó trở đi công việc viết bộ Vén màn Isis mới được thực hiện liên tục không gián đoạn cho đến khi hoàn thành vào năm 1877.
Trong suốt cuộc đời bà, bà chưa từng viết văn viết sách bao giờ. Tuy thế, tôi không thấy một nhà văn hay nhà báo nào có thể làm việc một cách dẻo dai bền bỉ và hăng say như bà. Mỗi ngày, bà ngồi vào bàn viết từ sáng sớm cho đến khuya. Cả tôi và bà, không ai đi ngủ trước hai giờ sáng.
Ban ngày tôi phải làm công việc nghề nghiệp riêng của tôi, nhưng sau bữa cơm chiều là chúng tôi luôn ngồi chung lại một bàn và làm việc chẳng khác nào như người ta làm tăng giờ để kiếm sống. Cho đến khi thân xác quá mỏi mệt buộc chúng tôi phải nghỉ.
Thật là một kinh nghiệm quí báu cho tôi. Trong khoảng gần hai năm đó, tôi đã học hỏi được rất nhiều điều mà đáng lẽ người ta phải dành trọn cả một đời người để đọc sách và suy gẫm mới có thể đạt được.
Tôi không chỉ làm công việc của một người ghi chép hay sửa bài, mà bà đã biến tôi thành một cộng tác viên. Bà làm cho tôi phải sử dụng tất cả những gì tôi đã đọc và suy tư, và kích thích bộ óc của tôi làm việc để tìm lời giải đáp cho những vấn đề mới mà bà đặt ra trên địa hạt huyền môn và siêu hình. Những vấn đề này hoàn toàn vượt ngoài sự học hỏi và tầm kiến thức của tôi, và tôi chỉ có thể dần dần hiểu được khi trực giác của tôi được khai mở và phát triển trong chính thời gian làm việc đó.
Bà không viết theo một chương trình hay kế hoạch định sẵn, mà những ý tưởng cứ như từ đâu tuôn trào xuyên qua trí óc bà như một dòng suối chảy mãi không ngừng. Có khi bà đang viết về đấng Phạm Thiên (Brahma), một lát sau lại xoay qua vấn đề hiện tượng điện khí của Babinet. Trong một lúc, bà trịnh trọng chú thích lời của đạo sư Porphyry,21 kế đó bà lại trích dẫn một đoạn văn rút trong một tờ báo hằng ngày, hay trong một tập văn thư mới in mà tôi vừa mang về. Có khi bà đang ca tụng những đặc tính toàn thiện của một chân sư, nhưng một lúc sau đã chuyển hết toàn lực để công kích nặng nề giáo sư Tyndall22 hay vài nhà học giả nào đó mà bà ghét nhất, bằng một luận điệu nảy lửa!
Nếu bà không có một kế hoạch nhất định, phải chăng điều ấy chứng tỏ rằng công việc soạn sách này không phải do bà dự định từ trước, mà bà chỉ là một phương tiện được chọn để làm cho trào lưu tư tưởng mới mẻ độc đáo này bắt đầu gây ảnh hưởng đến tình trạng ứ đọng của sinh hoạt tâm linh trong xã hội đương thời? Như một phần việc huấn luyện cho tôi, thỉnh thoảng bà yêu cầu tôi viết một đoạn về đề tài đặc biệt nào đó, và gợi ý cho tôi về những điểm quan trọng cần khai triển. Hoặc bà để cho tôi tự viết lấy với sự cố gắng tối đa để phát triển năng khiếu trực giác của tôi. Khi tôi đã viết xong, nếu đoạn văn ấy không được bà vừa lòng, bà thường tỏ dấu bất mãn bằng cách nói nặng lời, và gọi tôi bằng những danh từ không đẹp để khích động lòng tự ái của tôi đến mức tưởng như tôi có thể làm bất cứ điều gì! Nhưng khi tôi định xé bỏ đoạn văn vô phước ấy, thì bà liền giật ngay lấy từ trên tay tôi để dùng ở một chương khác sau khi đã sửa chữa lại vài chỗ, và tôi lại bắt tay vào việc.
Kể từ ngày tên tuổi bà xuất hiện lần đầu tiên trên mặt báo Daily Graphic năm 1874 và suốt thời gian lưu trú tại Hoa Kỳ, bà luôn luôn có khách đến viếng. Nếu trong số quan khách ngẫu nhiên có người nào hiểu biết tinh tường về một vấn đề nào đó liên quan đến ngành hoạt động của bà, bà liền tiếp xúc riêng với người ấy và nếu có thể được, bà nhờ y viết lại những quan điểm hay ký ức của y trên giấy trắng mực đen để dùng trong quyển sách của bà.
Trong số những trường hợp thuộc về loại này, có bài tường thuật của ông O’Sullivan23 về cuộc biểu diễn phương thuật trong một buổi lên đàn tại Paris; sự diễn tả lý thú những cuộc lễ nhập môn huyền bí của thổ dân Druses xứ Liban, cùng những bài vở hấp dẫn của Bác sĩ A. Wilder và nhiều người khác nữa đã đóng góp vào, làm cho bộ sách này càng tăng thêm phần giá trị với những tài liệu vô cùng dồi dào, phong phú.
Tôi biết một vị mục sư Do Thái đã từng trải qua nhiều giờ và nhiều đêm thảo luận về Huyền môn Kabala với bà, và nghe chính y thú nhận rằng tuy y đã từng khảo cứu phần bí truyền của tôn giáo y trong ba mươi năm, nhưng bà đã dạy y những điều mà y chưa từng nghĩ đến, và đã làm sáng tỏ những đoạn kinh mà chính những bậc thầy của y cũng không hiểu nổi!
Vậy những kiến thức thâm sâu huyền diệu đó bà đã học được ở đâu, lúc nào, và do đâu mà có? Tất nhiên không phải do các bà quản gia đã dạy bà học hồi còn thơ ấu ở nước Nga; cũng không phải do một vị giáo sĩ hay thầy học nào quen thuộc trong gia đình; cũng không phải bà đã học trên những chuyến tàu hay xe lửa trong khi bà đi chu du thiên hạ kể từ năm mười lăm tuổi; cũng không phải ở một trường trung học hay đại học nào, vì bà không hề thi tốt nghiệp ở một trường học nào cả; cũng không phải ở những thư viện lớn trên thế giới... Nhận xét qua những cuộc đàm thoại và những thói quen của bà trước khi bà bắt tay vào công việc trước tác khổng lồ này, thì bà không hề học hỏi qua những vấn đề ấy bao giờ, dù ở bất cứ nơi đâu. Nhưng khi bà cần đến những tài liệu đó, thì bà có sẵn, và trong những lúc cảm hứng dồi dào nhất, thì bà làm cho những nhà thông thái phải khâm phục về kiến thức sâu rộng, cũng như bà làm cho cử tọa quan khách phải ngạc nhiên về tài hùng biện lưu loát cùng sự châm biếm hài hước và trí thông minh tế nhị của bà.
Trong khi chúng tôi cùng làm việc chung, tôi sửa chữa mỗi trang bản thảo viết tay của bà nhiều lần, và mỗi trang sắp chữ in; tôi viết giúp bà nhiều đoạn văn, thường là viết lại những ý tưởng của bà cho đúng văn phạm Anh ngữ; tôi giúp bà tìm những lời trích dẫn trong các sách, và làm những việc phụ khác. Còn nhìn chung thì quyển sách là công trình của bà, và bà phải nhận lãnh mọi sự khen chê về những ưu điểm hay khuyết điểm của nó.
Bộ sách “Vén màn Isis” đã ghi dấu một thế hệ lịch sử, và khi viết bộ sách ấy bà Blavatsky cũng giúp tôi học hỏi được rất nhiều giáo lý Huyền môn và chuẩn bị cho tôi có đủ khả năng để hoạt động truyền bá giáo lý Thông Thiên Học trong trên hai mươi năm.
Vậy bà Blavatsky đã lấy tài liệu ở đâu để viết bộ sách đó, mà phần nhiều người ta không thể tìm thấy trong những sách vở ở các thư viện? Xin nói ngay rằng đó là do sự hỗ trợ của phần vô vi, một phần do sự giao cảm huyền diệu với các đấng chân sư, và một phần là do bà tra cứu tài liệu trong cõi vô hình, được phản ảnh trên chất Tinh quang (Aksha) hay Tiên thiên khí ảnh, tức là kho ký ức của thiên nhiên trong càn khôn vũ trụ.
Làm sao tôi biết được điều này? Đó là nhờ tôi đã cộng tác với bà trong hai năm để viết bộ “Vén màn Isis”, và nhiều năm sau nữa để soạn những bộ sách khác như “Giáo lý bí truyền”,24 v.v... Theo dõi mọi động tác của bà trong khi làm việc là một kinh nghiệm hiếm có và khó quên. Chúng tôi thường ngồi đối diện nhau bên một cái bàn lớn, và tôi có thể thấy rõ mọi cử chỉ của bà. Bà viết thao thao trên một trang giấy, rồi bỗng nhiên ngừng lại, ngước mặt nhìn vào không gian với đôi mắt trống không của nhà linh thị sử dụng cặp mắt thần, rồi bà thâu ngắn tầm nhãn quang như để nhìn vào một vật vô hình trong khoảng không trước mặt, và bắt đầu ghi chép những gì bà đã thấy. Khi đã chép xong đoạn văn chú thích, đôi mắt bà trở lại khí sắc bình thường, và bà tiếp tục viết cho đến khi bà lại ngừng một lần nữa giống như trước.
Tôi còn nhớ rõ hai lần tôi được nhìn thấy và cầm trên tay những quyển sách lạ mà bà làm cho hiện hình trước mắt tôi để tôi kiểm chứng bản thảo, khi tôi từ chối không chịu phê nhận để đưa lên máy in vì có chỗ tôi còn nghi ngờ là không đúng. Tôi nói: “Tôi không thể phê nhận câu chú thích này, vì tôi chắc là bà đã chép sai.”
Bà nói: “Không sao, như vậy là đúng; hãy cứ để nguyên như thế.”
Tôi từ chối.
Sau cùng, bà nói: “Vậy ông hãy ngồi yên trong một phút, để tôi tra lại.”
Khi đó, cái nhìn trống không lại xuất hiện trên cặp mắt bà; độ một lát, bà chỉ về phía cái kệ đặt nơi góc phòng, và nói bằng một giọng trống rỗng: “Kìa, nhìn xem.”
Kế đó, bà trở lại khí sắc bình thường: “Đấy, ở chỗ ấy đấy. Ông hãy tra lại xem!”
Tôi bước lại chỗ cái kệ và thấy hai quyển sách lạ mà tôi biết chắc là trước đó không hề có trong nhà. Tôi phối kiểm câu chú thích của bà Blavatsky với đoạn văn trong sách, chỉ cho bà thấy chỗ chép sai, sửa lại bản thảo, và theo lời bà yêu cầu, đem hai quyển sách để lại chỗ cũ. Tôi trở lại bàn ngồi làm việc, và sau đó một lúc, tôi quay lại nhìn ngay chỗ cái kệ, thì thấy hai quyển sách đã biến mất!
Sau khi tôi kể lại chuyện này, những kẻ hoài nghi ngu dốt có thể nghi ngờ sự sáng suốt lành mạnh của tôi, nhưng tôi hy vọng điều đó sẽ hữu ích cho họ.
Sự việc này lại tái diễn một lần thứ hai trong trường hợp tương tự, nhưng lần này quyển sách không biến mất mà vẫn còn ở lại với chúng tôi cho đến ngày nay.
II.
Bản nháp viết tay của bà Blavatsky có nhiều khi rất khác biệt nhau một cách rõ rệt. Tuồng chữ của bà có một tính cách lạ lùng đặc biệt mà người nào đã từng quen đọc tuồng chữ ấy luôn luôn có thể nhận ra ngay là chữ viết của bà. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ lưỡng, người ta sẽ phát hiện ra ít nhất ba hay bốn lối viết khác nhau tuy rằng của một tuồng chữ, và mỗi lối viết như thế kéo dài trên nhiều trang giấy, trước khi đổi qua lối viết khác.
Một lối viết đó của bà Blavatsky có nét chữ rất nhỏ nhưng đều đặn; một lối khác nét đậm và tự do phóng túng; một lối khác nữa nét vừa phải và dễ đọc; và một lối khác nữa chữ viết rất tháu và khó đọc. Về cách hành văn cũng vậy, những lối chữ khác biệt như trên cũng kèm theo với sự sai biệt về văn phạm Anh ngữ. Có khi tôi phải sửa chữa nhiều chỗ trong một dòng chữ, nhưng lại có khi tôi có thể thông qua suốt nhiều trang mà không cần sửa chữa một chữ nào. Hoàn hảo nhất là những trang bản thảo được viết thay cho bà trong khi bà ngủ.
Một thí dụ điển hình là đoạn đầu của chương nói về nền văn minh cổ Ai Cập (Quyển I, Chương 14). Đêm đó, như thường lệ chúng tôi làm việc đến hai giờ sáng và cả hai đều mệt nhoài, bèn ngưng công việc để vừa hút thuốc vừa mạn đàm trước khi chia tay. Bà thì hầu như ngủ gật ngay trên ghế bành, còn tôi chúc bà yên giấc và lui về phòng tôi trên lầu. Sáng hôm sau, khi tôi ăn điểm tâm xong và bước xuống phòng khách, bà đưa cho tôi xem một chồng bản thảo độ ba mươi đến bốn mươi trang giấy viết tay bằng tuồng chữ của bà, mà bà nói rằng đó là của vị chân sư X... viết giúp bà đêm qua.
Tập bản thảo đó hoàn hảo về tất cả mọi phương diện, và được đưa lên khuôn mà không cần phải duyệt xét lại. Có điều lạ là mỗi lần có sự khác biệt những tuồng chữ viết như thế đều xảy ra sau khi bà Blavatsky rời khỏi phòng độ một lúc, hay bước vào trạng thái xuất thần. Khi đó, đôi mắt trống rỗng của bà nhìn vào cõi xa xăm nào đó và lại trở về trạng thái bình thường ngay sau đó.
Ngoài ra, còn có một sự thay đổi rõ rệt về cá tính, tác phong, giọng nói, cử chỉ, và trên hết mọi sự, về tính khí thất thường. Khi rời khỏi phòng, bà là một nhân vật như thế nào đó; một lát sau khi trở lại chỗ ngồi, bà lại là một nhân vật khác. Khác ở đây không phải nói là bà thay đổi thể xác hữu hình, mà là khác về cử chỉ, tác phong, ngôn ngữ, cung cách; cũng khác cả về sự linh mẫn của trí óc, về quan điểm đối với sự việc, cũng như khác về cách sử dụng Anh ngữ.
Và có điều này rất đặc biệt là khác hẳn về khí chất. Khi sáng sủa lành mạnh bà có vẻ từ bi, khả ái như thiên thần; và trong những cơn khủng hoảng thịnh nộ, thì lại trái ngược hẳn. Có khi tôi viết lại thành câu không đúng như ý bà muốn trình bày, bà kiên nhẫn bỏ qua một cách ưu ái, vô tư; những lúc khác, vì một lỗi lầm nhỏ nhặt không đáng kể, bà dường như nổi cơn thịnh nộ và muốn thủ tiêu tôi ngay tại chỗ! Những cơn bạo khí đó đôi khi có thể giải thích bởi tình trạng sức khỏe của bà, và đó chỉ là sự thường tình, nhưng lý do đó cũng không đủ vững để giải thích vài cơn giận dữ khác.
Bình phẩm về tính khí bất thường này của bà Blavatsky, ông Sinnett (Phó Hội trưởng) viết:
“Bà hẳn là không có những đức tính mà người ta trông đợi nơi một vị đạo sư. Làm sao bà lại vừa có tinh thần của một triết gia, từ bỏ cuộc sống thế gian để dốc lòng tầm đạo, nhưng đồng thời lại có thể rơi vào những cơn nóng giận vì những sự bực mình nhỏ nhặt không đâu? Đó là một điều bí hiểm rất khó hiểu đối với chúng ta, v.v...”
Tuy nhiên, hãy giả thiết rằng khi mà xác thân của bà được một bậc hiền giả thánh đức sử dụng, thì nó bắt buộc phải hành động với sự bình tĩnh, điềm nhiên của nhà hiền giả, còn nếu không thì không phải. Chừng đó, điều bí hiểm kia đã được giải đáp.
Chính bà đã diễn tả kinh nghiệm huyền linh này khi viết bộ “Vén màn Isis” trong một bức thư gửi về cho gia đình như sau:
“Khi tôi viết bộ Isis, tôi viết rất dễ dàng đến nỗi đó không phải là một sự khó nhọc nữa, mà là một điều vui thích thật sự. Có gì đâu mà người ta khen tặng tôi? Khi được lệnh dạy tôi viết, tôi ngồi xuống và vâng theo lời, và khi đó tôi có thể viết dễ dàng về bất cứ vấn đề gì: siêu hình học, tâm lý học, triết học, tôn giáo, vạn vật học, tự nhiên học, và v.v... Tôi không hề tự đặt nghi vấn: “Tôi có thể viết về vấn đề này chăng?”, hay là: “Tôi có đủ sức viết chăng?”, mà tôi chỉ ngồi xuống và viết, vậy thôi. Bởi vì có một đấng Toàn Thông, biết hết cả mọi sự, đọc cho tôi viết. Đó là Sư Phụ tôi, và đôi khi cũng có những vị chân sư khác nữa mà tôi được biết trong những chuyến đi ngao du thiên hạ từ nhiều năm về trước... Mỗi khi tôi viết về một đề tài mà tôi chỉ biết ít, hoặc không biết gì cả, tôi bèn kêu gọi đến các ngài, và một vị chân sư giúp nguồn cảm hứng cho tôi, nghĩa là ngài để cho tôi chép những gì tôi nhìn thấy trong các bộ sách cổ tự hay chữ in hiện ra trước mắt tôi trong không gian, trong khi đó tôi hoàn toàn thức tỉnh, và không hề mê muội, dầu chỉ trong chốc lát.”
Có lần bà viết thư cho người chị ruột ở Nga là bà Vera cũng về vấn đề ấy như sau:
“...Chị có thể không tin tôi, nhưng tôi cho chị biết rằng khi tôi nói điều này, tôi chỉ nói sự thật. Tôi chỉ bận rộn, không phải với bộ “Vén Màn Isis”, mà chính là với nữ thần Isis vậy. Tôi sống trong một cảnh giới mê ly trường cửu, một cuộc sống trong cảnh giới linh ảnh thường xuyên luôn luôn thức tỉnh với đôi mắt mở lớn và tuyệt nhiên không có gì làm phỉnh lừa những giác quan của tôi! Tôi ngồi và theo dõi thường xuyên vị nữ thần Ai Cập. Và trong khi nữ thần phô bày trước mắt tôi cái ý nghĩa ẩn giấu của những điều bí nhiệm đã bị mất đi từ lâu đời, và bức màn che giấu càng trở nên mỏng dần, thưa dần với giờ phút trôi qua, rồi từ từ rơi xuống trước mắt tôi. Tôi nín thở trong cơn kinh ngạc và không còn tin nơi những giác quan của tôi!...
“...Trong nhiều năm liên tiếp, để cho tôi không quên những gì tôi đã học, tôi được làm cho thấy thường xuyên ngay trước mắt tôi tất cả những gì tôi cần thấy.
“Bằng cách đó, bất cứ ngày đêm, những hình ảnh của quá khứ luôn luôn được trình diễn linh động trước nhãn quang tâm linh của tôi. Từ từ, chậm rãi và nối tiếp nhau trong im lặng, giống như những hình ảnh của một cuốn phim diệu huyền, những biến cố lịch sử từ thế kỷ này đến thế kỷ khác xuất hiện ngay trước mắt tôi... Tôi được khuyến khích nối liền những thế hệ đó với vài biến cố quan trọng khác, và tôi biết rằng không thể có sự sai lầm. Các chủng tộc và quốc gia, những xứ sở và thành phố của một thế kỷ quá khứ nào đó xuất hiện, rồi lu mờ dần và biệt tích trong một thế kỷ khác mà thời điểm chính xác được chân sư cho tôi biết...
“Dĩ vãng mập mờ của thời cổ xưa biến thành những thời kỳ lịch sử, những huyền thoại được giải thích bằng những biến cố và nhân vật thật sự đã từng sống trong các thời kỳ đó; mỗi biến cố quan trọng và thường là không quan trọng; mỗi cuộc cách mạng, một trang mới lật qua trong quyển sách của đời người và của các quốc gia trên thế giới, đều lưu lại dấu vết như chụp ảnh và dường như được khắc in trong trí tôi với những màu sắc rõ rệt không thể phai mờ...
“... Tôi nói một cách nghiêm chỉnh cho chị biết rằng, tôi được trợ giúp. Và người trợ giúp tôi chính là Sư Phụ của tôi.”
Trong một bức thư gửi về nhà cho người cô ruột, bà cho biết rằng:
“Khi Sư Phụ tôi vắng mặt vì bận rộn với những công việc khác, Ngài làm thức động chân ngã của tôi để viết thay cho Ngài... Những lúc đó, không phải là tôi viết nữa, mà chân ngã của tôi suy tư và viết thay cho tôi. Cô thử nghĩ xem, tôi đâu có học lực uyên thâm bao giờ mà viết được những vấn đề ấy. Vậy thì những kiến thức đó của tôi do đâu mà ra?...”
Trong những thư khác gửi về cho gia đình, bà cũng nhìn nhận rằng có những lúc bà được các chân sư mượn xác để viết giúp bà. Các Ngài cũng dùng phương pháp đó để dạy đạo cho tôi qua lời của bà, và đưa ra những giáo lý thâm sâu mà bà không hề biết được mảy may trong trạng thái bình thường.
Chúng tôi đã cùng nhau làm việc trong nhiều tháng và đã hoàn tất được trên 870 trang bản thảo, thì một ngày nọ bà Blavatsky hỏi tôi rằng, để thi hành ý muốn của chân sư, tôi có sẵn lòng bắt đầu làm lại tất cả hay chăng? Tôi còn nhớ rõ cơn xúc động mạnh mà việc ấy đã gây cho tôi, khi nghĩ rằng tất cả những tuần lễnhọc nhằn lao khổ, thức đêm làm việc, với bao nhiêu cơn sóng gió ồ ạt trên phương diện tinh thần, rốt cuộc chỉ là con số không! Tuy nhiên, vì lòng kính yêu và biết ơn của tôi đối với các đấng chân sư vốn tuyệt đối và vô biên; vì các ngài đã cho tôi đặc ân cùng chia sẻ công việc của các ngài, nên tôi vui lòng chấp nhận và chúng tôi bắt đầu làm lại tất cả.
Quyết định ấy rất thuận lợi cho tôi, vì nó chứng tỏ lòng trung kiên và nhất trí của tôi với bà Blavatsky, nên tôi được thọ lãnh một phần thưởng tâm linh dồi dào. Những nguyên tắc Huyền môn được các ngài giải thích cho tôi biết, vô số những thí dụ điển hình được trình bày cho tôi thấy bằng những hiện tượng thần bí; tôi được trợ giúp để tự mình chứng nghiệm những điều đã học hỏi, được giao tiếp với nhiều vị chân sư; và nói chung, tôi được chuẩn bị đầy đủ cho một công việc truyền đạo lớn lao trong tương lai mà hồi ấy tôi không thể ngờ trước được, nhưng về sau đã trở thành một vấn đề lịch sử.
Người ta thường nói, thật là một điều rất lạ lùng và rất khó hiểu khi trong số tất cả những người đã trợ giúp phong trào Thông Thiên Học, thường là với những hy sinh lớn lao nhất, tôi lại là người duy nhất được ân sủng có những mối liên hệ và tiếp xúc cá nhân với các đấng chân sư, đến nỗi sự hiện diện của các ngài vốn là một vấn đề mà tôi biết rõ một cách thật sự chẳng khác nào sự hiện hữu của những người trong gia đình hay bạn bè thân quyến. Chính tôi cũng không giải thích được điều đó. Tôi biết những gì tôi biết, chứ không biết rằng tại sao nhiều bạn đồng môn của tôi lại không được như vậy.
Nhiều người nói với tôi rằng họ đặt đức tin vào các đấng chân sư qua sự chứng minh chắc chắn và không thể nghi ngờ bằng kinh nghiệm bản thân của tôi. Điều đó cũng bổ sung cho những lời tuyên bố của bà Blavatsky. Có lẽ tôi được đặc ân đó bởi vì tôi phải phóng con thuyền Thông Thiên Học cùng với bà Blavatsky cho các đấng chân sư của bà, và lái con thuyền ấy xuyên qua bao nhiêu cơn giông tố bão bùng. Trong thực tế, chỉ có một sự hiểu biết chắc chắn về căn bản lành mạnh của phong trào này mới có thể làm cho tôi bám sát lấy nhiệm sở và giữ vững vai trò đến cùng.
ÔNG A. P. SINNETT
PHÓ HỘI TRƯỞNG HỘI THÔNG THIÊN HỌC NGƯỜI VIẾT TIỂU SỬ BÀ H. P. BLAVATSKY
CHƯƠNG TÁM -
MỘT VÀI GIẢ THUYẾT
Chúng ta hãy thử phân tích trạng thái tinh thần của bà Blavatsky khi bà viết bộ sách “Vén màn Isis” để tìm ra cách giải thích cho những sự khác biệt rõ rệt về cá tính, tuồng chữ và tâm trạng của bà như đã tường thuật ở trên.
Tôi không thể chứng minh đến mức độ nào, bà Blavatsky đã viết bộ sách trên qua cá tính phức tạp của bà, nhưng tôi nghĩ rằng có điều hiển nhiên và không thể chối cãi là bà đã nghiền ngẫm và tiêu hóa tất cả những tài liệu trong đó, cũng như nó là của chính bà viết ra, chứ không phải chỉ là những kiến thức vay mượn từ bên ngoài. Thật không gì dễbằng tránh né toàn bộ việc phân tích để tìm hiểu và đồng tình với những người cho rằng bà Blavatsky dựa vào nguồn cảm hứng thiêng liêng nên không hề có sự lỗi lầm, mâu thuẫn, sai sót hay sơ hở nào. Nhưng tôi không thể làm như vậy, vì tôi biết bà quá rõ, và tôi chỉ muốn trình bày sự thật.
Sau khi khảo sát về trường hợp này, người ta không khỏi nhận thấy một số tối thiểu những giả thuyết sau đây được nêu ra:
1.- Bộ sách Vén màn Isis phải chăng được một vị chân sư đọc cho bà viết như một người thư ký ghi chép lại một cách tỉ mỉ, cẩn thận và công phu?
2.- Do chân ngã của bà viết ra trong khi cơ thể bà hoàn toàn bị chế ngự?
3.- Bà viết trong trạng thái một người đồng tử được các đấng chân sư mượn xác?
4.- Dưới ảnh hưởng một phần của những trạng thái kể trên?
5.- Như một đồng tử thông thường, chịu ảnh hưởng kiểm soát và chế ngự của những vong linh?
6.- Do nhiều cá tính tiềm ẩn và tác động luân phiên nhau của bà viết ra?
7.- Bà chỉ là một phụ nữ bình thường như mọi người, không chịu một ảnh hưởng chế ngự, ám ảnh hay một nguồn cảm hứng tâm linh nào đến từ bên ngoài, trong trạng thái tỉnh táo thông thường và không có gì khác biệt với bất cứ một nhà văn nào làm một công việc biên soạn.
I.
GIẢ THUYẾT THỨ BẢY
Chúng ta hãy bắt đầu với giả thuyết sau cùng. Mọi người sẽ thấy ngay rằng, xét về trình độ Blavatsky học thức và văn hóa của bà thì bà không bao giờ có thể là một học giả uyên bác, hay một “con mọt sách”. Những tập hồi ký về cuộc đời bà, do gia đình bà trao lại cho nhà viết tiểu sử bà là ông A. P. Sinnett và tôi, cho thấy rằng thuở thiếu thời bà là một người học trò khó dạy, không hề thích đọc những loại sách vở đứng đắn, khô khan, không thích giao du với những người học rộng, cũng không hề bước chân đến các thư viện; bà là mối hoang mang kinh khủng cho các bà quản gia, mối thất vọng cho họ hàng thân quyến, thích nổi loạn chống lại tất cả những sự gò bó chật hẹp của phong tục hay qui ước xã hội thông thường.
Trong thời thơ ấu, bà thích làm bạn với những tinh linh ngũ hành và những vong linh ở cõi âm. Bà trải qua nhiều ngày và nhiều tuần để giao tiếp với họ. Bà cũng thường hay chơi những trò ngỗ nghịch, rắn mắt đối với người lớn, và nhờ có những năng khiếu thần bí ngay từ thuở nhỏ, nên có khi bà cũng nói phăng ra những điều bí mật riêng tư của họ làm cho họ phải giật mình.
Bà không hề gia nhập một hội nghiên cứu khoa học hay khảo cứu bất cứ một ngành học thuật nào, và chưa từng viết sách. Bà chỉ đi tìm các vị pháp sư, phù thủy ở những xứ chậm tiến và bán khai, không phải để đọc sách vở (không hề có) của họ, mà để học hỏi về ngành tâm lý thực tiễn. Nói tóm lại, trước khi viết bộ Vén màn Isis thì bà không phải là người ưa thích văn chương.
Những sự khác biệt và tương phản rõ rệt giữa những đoạn văn có khi vụng về lủng củng và có khi hầu như tuyệt tác của bà, chứng minh rằng không phải chỉ có một trí lực duy nhất tác động để viết bộ sách này. Những tuồng chữ khác nhau, sự sai biệt về cách suy luận, cách hành văn và những sắc thái khác biệt nhau của mỗi đoạn văn đều xác nhận điều đó.
II.
GIẢ THUYẾT THỨ SÁU
Bây giờ chúng ta hãy xét đến giả thuyết thứ sáu, cho rằng quyển sách ấy được viết ra bởi Blavatsky nhiều cá tính khác nhau của bà, hay nhiều tầng lớp tâm thức cá nhân của bà, có thể luân phiên nhau xuất hiện từ trạng thái tiềm ẩn để bước vào trạng thái hoạt động.
Về vấn đề này, những sự khảo sát tìm tòi của các ngành khoa học có liên quan đương thời vẫn chưa tiến bộ đến mức giúp chúng ta có thể kết luận dứt khoát. Trong quyển “Những giai thoại trong cuộc đời bà Blavatsky”, ông Sinnett có trích dẫn một đoạn văn của bà diễn tả một “đời sống song đôi” mà bà đã trải qua trong một cơn bệnh sốt khi bà còn là một thiếu nữ ở Mingrelia:
“Mỗi khi có người gọi tên tôi, tôi mở mắt ra và trở lại bản thể hay cá tính của chính tôi, trong từng chi tiết. Tuy nhiên, sau đó khi tôi được để yên một mình, tôi lại rơi vào trạng thái mộng mơ thường nhật của tôi, và tôi trở thành một người khác (bà Blavatsky không nói người ấy là ai)... Những khi tôi đang nói chuyện trong cuộc sống mộng mơ nói trên, nếu tôi bị gián đoạn nửa chừng vì có người gọi tên tôi, vào lúc mà tôi hay những người khuất mặt trong lúc đó mới nói được nửa câu, và tôi mở mắt ra để đáp lời kêu gọi, thì tôi thường trả lời một cách rất sáng suốt và hiểu biết tất cả mọi sự, vì tôi không hề mê muội. Nhưng khi tôi vừa nhắm mắt lại, thì câu nói bị gián đoạn nửa chừng khi nãy, được tiếp tục bởi “cái ngã thứ nhì” của tôi, đúng vào chữ hay thậm chí đến nửa chữ mà câu nói bị ngắt ngang. Khi tôi thức tỉnh và trở về bản thể, tôi nhớ rõ rằng tôi là ai trong cái bản ngã thứ nhì, cùng tất cả những sự việc xảy ra và tôi đang làm gì lúc ấy. Khi tôi là một người khác trong trạng thái mộng mơ, thì tôi là cái nhân vật mà tôi trở thành, và tôi không hề biết H.P. Blavatsky là ai! Khi ấy tôi ở một xứ hoàn toàn xa lạ, có một cá tính hoàn toàn khác hẳn, và không có liên hệ gì đến đời sống của tôi trong hiện tại.”
Xét từ những sự việc trên, người ta có thể nói rằng nhân vật Blavatsky duy nhất, chính là cái thực thể tâm linh ngự trong thể xác của bà, còn cái “người khác” kia vốn không phải bà Blavatsky, mà chỉ là một thực thể khác có một mối liên quan bí ẩn không giải thích được với bà và thể xác của bà.
Thật vậy, người ta được biết có những trường hợp mà cái ngã thứ nhì biểu lộ những sở thích và tài năng hoàn toàn xa lạ đối với cái ngã bình thường của đương sự. Giáo sư Barrett có thuật chuyện người con trai của một vị linh mục ở khu vực bắc London, sau một cơn bệnh nặng, bèn trở nên hai nhân vật khác nhau. Cái “ngã thứ nhì” không biết đến cha mẹ của y, không nhớ những việc quá khứ, tự gọi mình bằng một cái tên khác, và điều đáng kể hơn nữa, là y phát triển tài năng về âm nhạc mà trước đó y không hề biết gì cả.
Có nhiều trường hợp mà cái ngã thứ nhì thay chân cái ngã bình thường, tự gọi bằng một cái tên khác và có một trí nhớ đặc biệt về những kinh nghiệm riêng của nó. Trong trường hợp cô Lurancy Vennum mà mọi người đều biết, thể xác cô hoàn toàn bị chế ngự bởi linh hồn của một thiếu nữ khác tên Mary Roff. Cô này đã chết từ 12 năm trước. Dưới sự thay hồn đổi xác này, cá tính của cô Vennum hoàn toàn khác hẳn khi xưa. Cô nhớ rõ tất cả những gì đã xảy ra trong đời của cô Mary Roff trước khi cô này qua đời, nhưng còn chính những cha mẹ, thân quyến và bạn bè của cô lại trở nên những người hoàn toàn xa lạ. Hiện tượng này kéo dài gần bốn tháng.
Việc nhập xác này đối với cô Mary Roff lại rất tự nhiên đến nỗi cô không thấy gì khác biệt với cái thể xác của chính cô khi cô sinh ra gần ba mươi năm về trước.
Ngoài ra, người ta còn thuật chuyện cái “ngã thứ nhì” của một cô gái tên Mary Reynold, xuất hiện từ năm cô 18 tuổi và kéo dài đến 43 năm, khi cô trở thành bà lão 61 tuổi, trong thời gian đó có xen với những giai đoạn trung gian khi cô trở về trạng thái bình thường. Trong khoảng 25 năm cuối đời, cô hoàn toàn ở trong trạng thái bất thường của cái “ngã thứ nhì”, trong khi đó cái ngã bình thường, tức con người thật của cô, đã bị xóa bỏ. Có điều lạ lùng là tất cả những gì cô biết trong cái “ngã thứ nhì”, đều đã sở đắc được trong trạng thái đó. Cô bắt đầu đời sống thứ nhì này vào năm cô 18 tuổi (tuổi của thể xác), không hề biết tới Mary Reynold là ai và quên hết tất cả quá khứ; trạng thái thứ nhì của cô chính là trạng thái của một trẻ sơ sinh. Tất cả những gì còn sót lại của dĩ vãng, là cô chỉ biết thốt ra một vài tiếng, mà cô không hiểu ý nghĩa gì cả cho đến khi cô được dạy cho biết ý nghĩa của những chữ đó.
Tôi có đọc sách và biết được ít nhiều về sự đa dạng trong con người, nhưng không thấy có trường hợp nào mà cái ngã hay nhân vật thứ nhì có thể chú thích những đoạn văn trong các sách, hay nói được những ngoại ngữ mà chính đương sự không hề biết trong trạng thái bình thường.
Tôi có biết một nhà bác học ở Anh quốc đã quên hẳn tiếng mẹ đẻ vì sống ở nước ngoài từ năm 11 tuổi mà không được nói hay nghe ai nói thứ tiếng ấy. Đến năm 29 tuổi, ông ta mới bắt đầu học lại tiếng mẹ đẻ qua sách và tự điển. Tuy nhiên, trong khi ông phải cố gắng vật lộn với những nguyên tắc sơ đẳng của ngôn ngữ ấy, thì ông lại nói được trôi chảy trong giấc ngủ. Nhưng trong trường hợp này, sự thông hiểu ngôn ngữ của ông chỉ đắm chìm trong tiềm thức, hay ký ức ẩn tàng.
Có trường hợp được nhiều người biết đến là của một người nữ tỳ ngâm thơ bằng ngoại ngữ trong trạng thái mộng du (đi trong giấc ngủ) và thốt lên những câu văn Do Thái mà cô đã nghe người chủ cũ đọc từ nhiều năm trước.
Nhưng không ai có thể đưa ra bằng chứng nào chỉ rằng bà Blavatsky đã từng khảo cứu về những vấn đề bà viết trong bộ sách Vén màn Isis. Nếu bà không cố ý “đạo văn” một cách có ý thức và cũng không hề học hỏi những vấn đề ấy bao giờ thì làm sao những kiến thức đó có thể đến với bà trên giả thuyết rằng bộ sách ấy được viết bởi một Blavatsky thứ nhì hay Blavatsky thứ ba?
Ở đây, tôi chỉ muốn tạm cứu xét sự đa dạng của con người trên giả thuyết rằng bà Blavatsky có thể viết bộ sách Vén màn Isis mà không có sự trợ giúp nào khác hơn là những cá tính riêng của bà. Bởi đó, chúng ta không cần phải đi sâu hơn vào một vấn đề mà muốn hiểu rõ người ta phải tham khảo những giáo lý Huyền môn của Ấn Độ.
Giáo lý cổ truyền của Ấn Độ dạy rằng chân ngã con người có khả năng thấy và biết tất cả khi người ta đã trút bỏ được gánh nặng của bức màn che ám cuối cùng thuộc tâm thức vật chất hồng trần. Và kiến thức đó sẽ đến với y một cách tuần tự khi những lớp màn xác thịt ô trược nặng nề ngày càng được vén lên.
Trường hợp giáo chủ Hồi giáo Mahomet vốn là một người thất học, lại có thể viết bộ Thánh kinh Koran bằng chữ Ả Rập thuần túy là một phép lạ lớn nhất chưa từng thấy. Đó là một bằng chứng chỉ rằng chân ngã tâm linh của ông đã biểu lộ xuyên qua những chướng ngại của thể xác vật chất và trực tiếp thu nhận những kiến thức siêu việt từ nguồn gốc huyền diệu thuộc về cõi trên.
Nếu bà Blavatsky là một tu sĩ khổ hạnh chế phục được cái phàm ngã và bộ óc suy luận của bà, nếu bà có thể viết Anh ngữ thuần túy mà không hề sở đắc nó từ trước, nếu bà soạn bộ Vén màn Isis theo một kế hoạch rõ ràng nhất định thay vì sắp đặt các tài liệu một cách lộn xộn thiếu trật tự như bà đã làm, thì tôi đã có thể nghĩ như trên và coi bộ sách quý giá ấy như một công trình sáng tạo bởi chân ngã siêu việt của bà. Nhưng trên thực tế, tôi không thể làm như vậy, và tôi phải loại trừ vấn đề ấy để xét đến những giả thuyết khác.
III.
GIẢ THUYẾT THỨ NĂM
Giả thuyết kế đó là, phải chăng bà Blavatsky viết bộ Vén màn Isis với tư cách một người đồng tử thông thường, nghĩa là dưới sự chế ngự của những vong linh?
Tôi quả quyết rằng không. Nếu quả như vậy, thì cái vong linh chế ngự thể xác của bà hẳn đã tác động một cách khác hẳn với mọi thứ quyền năng được ghi nhận trong các sách vở, mà tôi đã từng chứng kiến trong nhiều năm kinh nghiệm và khảo cứu về Thần linh học.
Tôi đã được biết nhiều đồng tử thuộc đủ mọi loại: đồng tử giáng ngôn, giáng bút, xuất thần, chữa bệnh, linh thị, làm các hiện tượng v.v... Tôi đã theo dõi cách làm việc của họ, tham dự các buổi lên đàn và quan sát những triệu chứng nhập đồng của họ. Nhưng trường hợp của bà Blavatsky hoàn toàn khác hẳn. Hầu hết tất cả những gì họ đã làm, bà đều có thể làm được tùy ý muốn, bất cứ ngày đêm, không cần phải lên đàn, chọn thành phần tham dự, hay áp đặt những điều kiện thông thường.
Ngoài ra, tôi còn có bằng chứng rằng ít nhất vài nhân vật hợp tác với chúng tôi là những người còn sống, vì tôi đã nhìn thấy các ngài trong thể xác phàm ở Ấn Độ, sau khi đã nhìn thấy các Ngài trong thể vía ở những nơi khác bên Âu Mỹ, và tôi cũng đã nói chuyện với các Ngài. Các Ngài cho tôi biết rằng các Ngài không phải là những vong linh, mà là những người sống cũng như tôi, và mỗi vị trong các Ngài đều có những đặc tính và khả năng riêng, nói tóm lại là có cá tính riêng. Những quyền năng mà các Ngài đã sở đắc được, có ngày tôi cũng sẽ có; sớm hay muộn là tùy ở nơi tôi. Tôi không nên trông đợi một đặc ân nào, mà cũng như các Ngài, tôi phải tiến từng bước bằng sự cố gắng cá nhân.
Một trong những vị cao cả nhất là bậc thầy của hai vị chân sư mà quần chúng đã có dịp nghe nói đến, đã dạy tôi trong một bức thư đề ngày 22 tháng 6 năm 1875 như sau:
“Thời giờ đã đến để cho con biết Ta là ai. Ta không phải là một linh hồn đã thoát xác, hỡi đệ tử, mà là một người sống, có những quyền năng mà có ngày con cũng sẽ đạt tới. Ta không thể tiếp xúc với con bằng cách nào khác hơn là bằng tinh thần, vì hiện thời chúng ta ở cách xa nhau đến hàng ngàn dặm. Hãy kiên nhẫn và lạc quan, hỡi người phụng sự trung kiên của Quần Tiên Hội thiêng liêng! Con hãy tiếp tục cố gắng làm việc, vì đức tự tin là yếu tố mạnh mẽ nhất đưa đến sự thành công. Hãy giúp đỡ những kẻ thiếu thốn rồi chính con sẽ được giúp đỡ, theo sự tác động trường kỳ và bất biến của Luật Nhân Quả.”
Như độc giả nhận thấy, luật nhân quả được dạy cho tôi hầu như ngay từ lúc bắt đầu sự liên hệ giữa tôi với bà Blavatsky và với các đấng chân sư.
Dù vậy, trong thực tế thì chúng tôi cũng đã được sự hợp tác của ít nhất một người khuất mặt, vốn là linh hồn của một trong những triết gia lỗi lạc nhất của thời cận đại, đã từng làm vẻ vang cho xứ sở ông và là một bông hoa ưu tú của nhân loại.
Ông ta là một tín hữu của triết phái Platon và tôi nghe nói rằng ông ta say mê học hỏi đến nỗi không thể tách rời khỏi quả địa cầu, mà ngồi trong một thư viện do ông tạo ra bằng tư tưởng trên cõi Trung giới, đắm chìm trong những cơn suy gẫm triết lý, quên hẳn dòng trôi chảy của thời gian, và chỉ nghĩ đến việc xoay chuyển trí óc con người theo chiều hướng đạo đức tâm linh. Nguyện vọng ấy không thu hút ông ta tái sinh trở lại cõi trần, mà thúc đẩy ông đi tìm những người có chí nguyện giống như các chân sư và đệ tử, muốn làm việc để truyền bá chân lý và bài trừ mê tín dị đoan.
Tôi được ông cho biết rằng ông là một người tinh khiết và vô kỷ đến nỗi ông được sự kính nể của tất cả các vị chân sư. Vì không can thiệp vào nghiệp quả của ông, nên các ngài chỉ có thể để cho ông tự lực công phu để tự giải thoát khỏi những ảo ảnh của cõi Trung giới, hầu tiến bước lên cõi tinh thần và tâm linh thuần túy theo đà tiến hóa tự nhiên. Phần trí tuệ của ông được vận dụng mãnh liệt vào việc suy luận triết lý đến nỗi phần tâm linh đã tạm thời bị tê liệt.
Ông ta đã xuất hiện, sẵn sàng cộng tác với bà Blavatsky để viết bộ sách lịch sử này, và đã đóng góp rất nhiều công lao vào những tiết mục có liên quan đến vấn đề triết học. Ông ta không hiện hình để ngồi vào bàn viết với chúng tôi, cũng không mượn xác bà Blavatsky như một đồng tử, mà chỉ nói chuyện với bà trên phương diện huyền linh, suốt nhiều giờ liên tiếp. Trong những cuộc giao tiếp đó, ông đọc cho bà viết, nhắc nhở bà về những loại sách nào cần phải chú thích, trả lời những câu hỏi của tôi về các vấn đề chi tiết, huấn dụ cho tôi về những vấn đề nguyên tắc, và đóng vai trò của một người thứ ba trong nhóm chúng tôi.
Có lần ông ta cho tôi bức chân dung của ông, một bức họa thô sơ vẽ bằng bút chì màu trên một tờ giấy mỏng, và đôi khi ông cũng gửi cho tôi một thông điệp ngắn để nhắn nhủ tôi về vài việc riêng tư.
Nói chung thì mối liên hệ giữa ông với hai chúng tôi là một sự giao tiếp rất dịu dàng, thân mật như một người anh cả hay một người thầy vô cùng uyên bác. Ông không hề nói một lời nào chỉ ra rằng ông tự xem mình như một vong linh khuất mặt, khác hơn một người sống và tôi nghe nói rằng ông ta vẫn không biết rằng mình đã chết!
Mặc dầu bác bỏ giả thuyết cho rằng bà Blavatsky viết bộ Vén màn Isis với tư cách một đồng tử “bị chế ngự”, nhưng chúng ta đã thấy rằng vài đoạn trong sách ấy thật sự đã được một vong linh khuất mặt đọc cho bà viết. Đó là một nhân vật lạ kỳ và độc đáo, nhưng vẫn là một linh hồn đã thoát xác. Phương pháp làm việc với ông ta như đã nói trên thật đúng như bà đã diễn tả trong một bức thư gửi về cho gia đình, để giải thích bằng cách nào bà viết bộ sách ấy mà không hề có sự học hỏi, đào luyện trí óc từ trước.
“Khi tôi ‘được lịnh’ phải viết, tôi ngồi xuống và tuân lịnh. Khi đó, tôi có thể viết dễ dàng về bất cứ vấn đề gì: siêu hình, tâm lý, triết, tôn giáo, vạn vật, v.v... Tại sao? Bởi vì có một vị biết tất cả đọc cho tôi viết. Đó là Sư Phụ tôi, và thỉnh thoảng cũng có những vị khác nữa mà tôi được biết trong những chuyến du hành từ nhiều năm về trước.”
Đó chính là những gì đã xảy ra giữa bà và vị triết gia của phái Platon, nhưng ông ta không phải là “sư phụ” bà, mà cũng không phải bà đã gặp ông ta trong những chuyến du hành trước đây, vì ông ta đã chết trước khi bà sinh ra. Như vậy, vấn đề được nêu ra là phải chăng vị triết gia nói trên quả thật là một linh hồn thoát xác, hay là một vị chân sư đã sống trong cái thể xác đó và dường như đã chết vào ngày 1 tháng 9 năm 1687 nhưng thật ra thì không?
Đó hẳn là một vấn đề khó giải đáp. Vì hoàn toàn không có những triệu chứng thông thường của sự mượn xác đồng tử và vì bà Blavatsky chỉ đóng vai trò của người ghi chép những gì vị triết gia đọc cho bà viết, chẳng khác nào quan hệ giữa một cô thư ký với ông chủ, trừ ra việc tôi không nhìn thấy ông chủ ấy mà chỉ có riêng bà nhìn thấy, nên có vẻ như chúng tôi đang tiếp xúc với một người sống hơn là với một linh hồn đã thoát xác.
Ông ta không hẳn là một vị chân sư, nhưng gần như thế hơn là bất cứ một vai trò nào khác. Còn nói về công việc viết sách Vén màn Isis thì phần việc của ông cũng giống như những phần khác khi mà người đọc, hay người viết tùy trường hợp, là một vị chân sư (giả thuyết số một).
Tôi nói người đọc, hay người viết, và điều này cần được giải thích thêm. Trên đây có nói rằng tuồng chữ của bà Blavatsky có nhiều khi khác biệt nhau, và cũng có nhiều lối viết khác nhau của một tuồng chữ duy nhất. Mỗi lần thay đổi tuồng chữ như thế đều đi kèm với một sự khác biệt rõ rệt về cử chỉ, tác phong, sắc diện và khả năng văn chương của bà Blavatsky.
Khi bà tự lực cố gắng làm việc với khả năng của chính mình, thì điều đó rất dễnhận thấy, vì nó biểu lộ qua cách hành văn lúng túng, vụng về của một người mới tập sự viết lách, chưa được huấn luyện thuần thục trong công việc này. Những khi đó thì bản thảo của bà đưa qua cho tôi duyệt xét lạiđầy dẫy những lỗi lầm sai sót, và sau khi nó được biến thành những trang có đầy những chỗ gạch xóa, thêm bớt, những giòng xen kẽ, sửa chữa về chính tả và văn phạm, tôi phải đọc cho bà viết lại từ đầu (giả thuyết số bảy).
Không bao lâu, tôi được biết rằng thỉnh thoảng những đấng cao cả khác cũng sử dụng thể xác của bà Blavatsky để giáng ngôn, giáng bút. Mỗi lần mượn xác bà như vậy, các Ngài không hề nói rõ rằng: “Tôi là vị nọ... hay vị kia”, hay “Đây là chân sư A... hay B...”.
Điều đó không cần thiết, vì sau khi chúng tôi đã làm việc chung với nhau trong một thời gian khá lâu dài để tôi có thể trở thành quen thuộc với mỗi cử chỉ, động tác, ngôn ngữ, khí chất và xúc cảm của bà. Mỗi lần các vị luân phiên nhập xác của bà, là có sự thay đổi rõ rệt về tính khí, cử chỉ, thái độ, v.v... của bà như vừa kể trên. Mỗi lần bà rời khỏi phòng đi ra ngoài một lát rồi trở vào, tôi chỉ cần quan sát sơ qua nét mặt và tác phong, cử chỉ của bà một chút để có thể tự nhủ thầm rằng: “Đây là chân sư X..., hay A..., hay Z...”, và sự phỏng đoán của tôi được xác nhận bởi những sự việc xảy ra sau đó.
Một trong những vị chân sư ấy mà tôi đã có lần gặp gỡ trong xác phàm, có bộ râu cằm và râu mép dài xoắn lại với bộ ria ở hai bên má theo lối người Rajput.25 Ngài có thói quen vuốt râu mép mỗi khi suy tư. Ngài làm như vậy một cách tự nhiên và vô ý thức.
Có những khi bà Blavatsky để cho cá tính của bà tan biến dần và trở thành một nhân vật khác. Khi đó, tôi ngồi trước mặt bà và nhận thấy bà đưa tay lên cằm rồi từ từ làm những động tác dường như kéo bộ râu mép (không có thật) và xoắn tới xoắn lui trong những ngón tay của bà, với đôi mắt đăm chiêu và cái nhìn xa vắng. Một lát sau đó, đôi mắt ấy mới thâu ngắn tầm nhãn quang để lưu ý đến sự vật chung quanh. Nhân vật có râu mép ngước mặt lên, nhận thấy tôi đang chăm chú theo dõi động tác của ngài, bèn vội vàng bỏ tay xuống và tiếp tục viết.
Một nhân vật khác lại rất ghét tiếng Anh đến nỗi ngài chỉ nói chuyện với tôi bằng tiếng Pháp. Ngài có năng khiếu về nghệ thuật và rất thích thú say mê những phát minh cơ khí.
Một nhân vật khác nữa thỉnh thoảng cũng xuất hiện (qua thể xác bà Blavatsky), vẽ nguệch ngoạc những hình ảnh bằng bút chì, và giáng bút thành những bài thơ hàm súc đạo vị thanh cao.
Mỗi nhân vật đó đều có những đặc tính riêng biệt rõ rệt, và người ta có thể nhận ra ngay là vị nào mượn xác bà Blavatsky vào một lúc nhất định, cũng như ta có thể phân biệt những bạn bè quen thuộc của ta trong đời sống hằng ngày. Một vị hay cười nói vui vẻ, ưa thích nói những chuyện vui và hay châm biếm hài hước. Một vị khác nói năng dè dặt, nghiêm chỉnh và rất lịch lãm, uyên bác. Một vị khác có tác phong trầm tĩnh, kiên nhẫn và sẵn sàng giúp đỡ một cách đầy hảo ý. Một vị khác nữa luôn luôn thử thách và đôi khi rất khó tính.
Một nhân vật khuất mặt luôn luôn sẵn lòng đưa ra những giải thích triết lý và khoa học về những vấn đề mà tôi phải viết bằng cách làm những hiện tượng lạ lùng để chứng minh, còn đối với một nhân vật khác nữa thì thậm chí tôi không dám nêu những vấn đề ấy ra để hỏi ngài.
Một đêm nọ, tôi bị “chỉnh” một cách đau đớn. Trước đó mấy hôm, tôi có đem về hai cây bút chì loại mềm và tốt để dùng, tôi đưa một cây cho bà Blavatsky và giữ lại một cây. Bà Blavatsky có cái tật rất xấu là hay mượn những đồ dụng cụ văn phòng như bút mực, bút chì, tẩy (gôm), dao, kéo, v.v... mà quên trả lại!
Một khi bà đã dùng xong, bà bỏ vào hộc tủ của bà rồi chúng cứ nằm yên trong đó, bất chấp những lời phản đối của “nạn nhân”!
Đêm đó, nhân vật có tâm hồn nghệ sĩ “giáng lâm”. Ngài vừa ngồi vẽ một đầu người trên một tờ giấy vừa nói chuyện với tôi về một đề tài nào đó, rồi ngài bảo tôi đưa cho ngài mượn một cây bút chì khác. Khi ấy, một tư tưởng liền thoáng qua trong đầu tôi: “Nếu mình cho mượn cây bút chì, nó sẽ nằm gọn trong hộc tủ của bà, rồi mình sẽ không còn cây bút chì nào khác để dùng”.
Tôi không nói ra, mà chỉ nghĩ trong trí thôi, nhưng nhân vật giáng lâm nhìn tôi bằng một cái nhìn châm biếm, đưa tay vói lấy cái giỏ đựng bút trên bàn, để cây bút chì của ngài trong đó, dùng ngón tay mâm mê nó một lúc, rồi thì... ô kìa, lạ thay, đột nhiên xuất hiện trong giỏ một chục cây bút chì cùng một hiệu và cùng một phẩm chất với cây kia!
Ngài không nói một lời, cũng không thèm nhìn vào mặt tôi, nhưng việc ấy làm cho máu trong người tôi như dồn cả lên hai bên thái dương và tôi cảm thấy một trạng thái hổ thẹn chưa từng có! Dù sao đi nữa, tôi không nghĩ rằng tôi đáng bị “chơi” một vố nặng như thế, xét vì cái tật hay chiếm đoạt văn phòng phẩm bất trị của bà Blavatsky!
Mỗi khi một trong những nhân vật ấy “giáng lâm”, thì tuồng chữ viết của bà Blavatsky lại biểu lộ những nét đặc thù giống y như tuồng chữ của lần trước, khi mà chính nhân vật ấy đã xuống bút để góp phần vào công trình vĩ đại này. Những lần đó, khi ngài viết những tiết mục đặc biệt thuộc về những đề tài sở trường của ngài, và thay vì bà Blavatsky đóng vai trò một cô thư ký ghi chép thì bà lại trở nên chính nhân vật ấy (giả thuyết số ba).
Hồi đó, nếu có ai cầm đưa cho tôi bất cứ một trang bản thảo viết tay nào của bộ Vén màn Isis, tôi có thể nói ngay một cách quả quyết rằng đó là do vị nào viết ra.
Như vậy thì linh hồn bà Blavatsky đi đâu trong những lúc đó các ngài thay phiên nhau mượn xác của bà? Đó là một vấn đề bí ẩn mà không phải ai cũng được nói cho biết. Khoảng gần hai năm sau khi bộ sách được phát hành, bà Blavatsky có giải thích cho những người thân quyến trong gia đình bà biết điều bí mật ấy: những khi đó linh hồn bà không còn ở trong xác phàm, mà dường như chỉ quanh quẩn ở gần bên, hoàn toàn ý thức được mọi việc xảy ra, và theo dõi mọi động tác của các nhân vật khuất mặt đang sử dụng thể xác của bà. Theo chỗ tôi hiểu, thì bà cho các vị mượn xác cũng giống như người ta cho mượn một cái máy đánh chữ, và xuất hồn đi làm công việc ở cõi trên về phần vô vi, trong khi đó một nhóm các vị chân sư luân phiên nhau sử dụng thể xác của bà để làm việc.
Khi biết rằng tôi có thể phân biệt các ngài (xuyên qua xác phàm của bà Blavatsky) và nhận ra tính chất riêng của mỗi vị, đến mức tôi đã đặt cho mỗi vị một biệt danh để dễ kêu gọi trong những cuộc nói chuyện riêng giữa chúng tôi, các ngài thường trịnh trọng nghiêng đầu hoặc thân mật vẫy tay từ giã tôi mỗi khi sắp rời khỏi phòng và nhường chỗ cho vị kế tiếp.
Đôi khi các ngài cũng nói chuyện với tôi về mỗi vị chân sư cũng giống như bạn bè nói chuyện với nhau về những người vắng mặt. Nhờ đó tôi được biết ít nhiều về đời tư của các ngài. Tôi cũng xin nói rõ là ngay cả những đấng chân sư cao cả nhất cũng không bao giờ muốn được suy tôn như những bậc toàn trí, toàn năng hay không có lầm lỗi. Các ngài không hề biểu lộ mảy may ý muốn được tôi tôn sùng, thờ kính, hay xem như thiêng liêng những gì các ngài viết qua thể xác bà Blavatsky, hoặc đọc cho bà viết. Tôi được khuyến khích chỉ nên xem các ngài như những người bình thường, những người tuy minh triết hơn và tiến hóa hơn tôi bội phần, nhưng đó chỉ là bởi vì các ngài đã đi trước tôi trên con đường tiến hóa tự nhiên.
Trước đây, tôi có nói về những đoạn trong bộ sách Vén màn Isis do chính bà Blavatsky tự viết ra. Những đoạn ấy đương nhiên là không xuất sắc bằng những trang do các chân sư viết thay cho bà. Điều ấy rất dễ hiểu, vì trước đó bà Blavatsky không hề có sự hiểu biết về các vấn đề này, làm sao bà có thể viết một cách chính xác về những vấn đề siêu hình, huyền bí, đòi hỏi một học lực uyên thâm và những kiến thức Huyền môn siêu đẳng?
Trong trạng thái bình thường, có khi bà đọc một quyển sách nào đó, đánh dấu những phần làm cho bà chú ý, viết về những đề tài tham khảo, viết sai, sửa chữa, thảo luận về những vấn đề đó với tôi, nhờ tôi viết lại, trợ giúp phần trực giác của tôi, nhờ các bạn đạo cung cấp tài liệu, và tiếp tục viết với sự cố gắng tối đa, khi mà không có một vị chân sư nào xuất hiện để đáp ứng những kêu gọi trợ giúp tâm linh của bà.
Lẽ tất nhiên, các chân sư không phải lúc nào cũng đến với chúng tôi. Bà viết rất nhiều và đưa ra nhiều tài liệu quý giá, vì bà có một khả năng văn chương thiên phú; những trang sách bà viết không bao giờ nhàm chán hay vô vị, và bà cũng giỏi tuyệt luân về ba thứ sinh ngữ khi nào có sự trợ giúp quyền năng đầy đủ về phần thiêng liêng.
Bà viết thư cho một thân nhân biết rằng khi Sư Phụ bận rộn công việc khác, ngài để lại cho bà một vật để thay thế, và khi đó chính chân ngã sáng suốt của bà suy tư và viết cho bà (giả thuyết số hai).
Tôi không thể có ý kiến gì về vấn đề này, vì tôi chưa từng quan sát bà trong trạng thái đó. Tôi chỉ biết rõ bà dưới ba khía cạnh, tức là:
1. Trong trạng thái phàm ngã như một phụ nữ bình thường,
2. Khi thể xác của bà được các chân sư sử dụng;
3. Như một người ghi chép những gì các chân sư đọc cho bà viết.
Có nhiều khi bà không hề bị mượn xác, chế ngự hay được một vị chân sư nào đọc cho viết, mà chỉ là một Blavatsky trong trạng thái bình thường, vẫn cố gắng đến mức tối đa để thực hiện công tác được giao phó và thi hành sứ mạng.
Tuy nhiên, mặc dù có sự trợ giúp của những trí lực khác nhau tác động từ bên ngoài, bộ sách Vén màn Isis và những công trình khác của bà Blavatsky vẫn phảng phất những nét đặc thù độc đáo biểu lộ cá tính đặc biệt của bà.
No comments:
Post a Comment