Friday, April 21, 2017

SƠN TRUNG * NHỮNG TRUYỆN QUỐC CẤM

 

 
NHỮNG TRUYỆN QUỐC CẤM
SƠN TRUNG  
Sưu tầm


Trong kháng chiến, người văn nghệ sĩ vì yêu nước mà lầm đường theo cộng sảbn và bị cộng sản kièm chế, bóc lột và khủng bố. Năm 1954, về Hà Nội, họ đứng lại bên nhau  đòi tự do, nhất là tự do ngôn luận. Do đó, Nhân Văn Giai Phẩm ra đời.Họ đã lên tiếng, họ đã viết rồi  bị bắt bớ , bị phải trải qua những đợt chỉnh huấn, tự kiểm điểm và cải tạo tư tưởng hoặc học tập lao động nếu không thú nhận tội vì không chịu sự chỉ huy của Đảng. Sau đó dông bão vẫn tiếp tục đổ xuống trong vụ Xét lại hiện đại.  Các nhà văn bị trừng phạt, bị uy hiếp. Năm 1961 Nguyễn Đình Thi cho ra mắt vở kịch Con nai đen nhưng chỉ diễn được ít hôm ở Hà Nội năm 1962 thì có lệnh phải ngừng vì bị cho là "phản động". Vở kịch cũng bị chỉ trích là lập trường nêu ra không rõ ràng. Vở Cơ sở trắng của Hoài Giao năm 1964 cũng bị cấm. Cùng thời gian này tiểu thuyết Vào đời của Hà Minh Tuân cũng bị cấm vì tư tưởng không vui, không tích cực. Năm 1970 tập thơ Cửa mở của Việt Phương in ra nhưng không bao lâu thì có lệnh thu hồi.

 Trong kho tàng văn học hiện đại có nhiều tác phẩm hiện thực, đã bị cộng sản kết án, nhưng có một số được thoát lưới . Những tác phẩm đó đã nói lên những đau khổ của nhân dân dưới ach thống trị bạo tàn của cường quyền. Chúng tôi sưu tập những truyện ngắn để làm tài liệu. Xin các tác giả rộng lượng cho phép phổ biến.
SƠN TRUNG
Ottawa ngày 20-4-2017


I.
Cuộc phiêu lưu của văn ngan tướng công
Vũ Tú Nam


Các bạn thử ngắm kỹ loài ngan mà xem. Chẳng biết tôi có khe khắt quá không, chứ cái giống ấy nom ít dễ thương quá. Chú ngan nào cũng vênh vênh váo váo, không mấy lúc là không gật gù cái đầu. Nếu chỉ nhìn cái mào đỏ tía của chú ngan và cái vẻ dương dương tự đắc của chú, chắc hẳn có người lầm tưởng ngan ta có nhiều tài lắm. Hắn ta đi bộ được, lội nước được, thậm chí còn biết cả bay nữa. Nhưng ngan đi bộ thì đủng đỉnh chậm chạp như rùa, lội nước thì lờ đờ như thuyền không lái, và cái tài bay của ngan thì giỏi lắm chỉ có thể ăn được điểm hai.
Cũng cần nói thêm là ngan ta kêu không biết kêu, hót không biết hót, chỉ nói bằng cái giọng phì phò khào khào, giống hệt anh chàng say rượu trúng phong vậy. Tầm vóc của ngan không cao không thấp, lông lá thường đốm trắng đốm đen, màu sắc cứ lộn phèo đi. Theo ý riêng tôi nhận xét, ngan chỉ có mấy cái “giỏi” là: làm biếng, ăn tục và phóng uế bậy.

Vốn đánh giá thấp loài ngan như thế, nhưng tôi vẫn gắng tìm hiểu nguồn gốc những tật xấu của ngan, mong sao mình có thể nhận xét một cách công bằng hơn. Tôi chịu khó đọc sách khoa học lắm, xem chuyện cổ cũng khá nhiều, nhưng tìm mãi vẫn chưa ra tung tích cỗi rễ của loài ngan. May sao mùa xuân năm ngoái, nhân ngày Tết rỗi rãi, một ông cụ ở tỉnh Nam kể cho tôi nghe câu chuyện vui về thuỷ tổ loài ngan. Tôi thấy câu chuyện khó có thể tin là thực, nhưng nghe ngồ ngộ và có ích. Nay xin phép chép ra đây để giới thiệu với các bạn.
1. Bé cái lầm!
Theo ông cụ ở tỉnh Nam kể cho tôi nghe thì ngày xửa ngày xưa, chú Ngan (thuỷ tổ của loài ngan) lớn lên, khoẻ mạnh và khá đẹp trai. Nhưng vì tham ăn quá và không cùng giống với bầy ngỗng, bầy vịt – có lẽ vì ăn tham là chính – nên Ngan luôn luôn bị lũ vịt và ngỗng xua đuổi.
Thấy Ngan bơ vơ như thế, Gà Thiến động lòng thương dắt Ngan đi theo mình kiếm ăn. Hàng ngày, tìm được con giun, con dế, con sâu, con bọ, Gà Thiến thường nhường cho em nuôi một nửa. Tối đến, Gà lại dẫn Ngan về chuồng thu xếp cho chỗ ngủ đàng hoàng.
Một hôm, xế chiều không thấy Ngan đâu, Gà Thiến đi tìm. Thì ra Ngan ta xì xụp lặn hụp dưới ao, ăn hến ăn ốc căng cứng cả diều. No say phè phỡn, Ngan ậm ạch bước lên bờ, rũ cánh, nghễn đầu, cái mào đỏ tía, cất giọng khàn khàn nói với Gà”
– Thưa quý nương. Bấy lâu nay tôi không dám ngỏ lòng tôi với quý nương, bởi vì quý nương là một người rất mực đoan trang, hiền hậu. Quý nương muốn giấu kín tung tích của mình, nhưng ngọc kia dù phủ bùn vẫn sáng, hoa kia dù khép cánh vẫn thơm …
Gà Thiến nghe Ngan nói, vừa ngạc nhiên vừa bực mình. Giá phỏng còn thời trai tráng, chưa tu chí hiền từ như bây giờ, chắc chắn Gà đã đá cho Ngan vài đá. Thì ra chú Ngan thấy Gà Thiến nhu mì ít nói, có bộ cánh sặc sỡ thướt tha, dáng điệu lại từ tốn, dịu dàng bèn cho đó là một nàng công chúa, nên chú đã rắp tâm tán tỉnh từ lâu.
Hôm ấy, Gà Thiến giận lắm nhưng không nói gì, cái mào chỉ hơi tái lại, và đêm đó, Gà đóng cửa không cho Ngan về chuồng. Ngan ta vơ vẩn thức suốt đêm ngoài trời trăng sáng, trong bụng lấy làm hãnh diện vì “công chúa” đã giận dỗi với mình. Và Ngan sung sướng mường tượng ra cái cảnh Ngan cùng “công chúa” khoác tay nhau đi dạo dưới trăng … Nghĩ ngợi lan man, Ngan bỗng sực nhớ bộ cánh của mình đen quá, xấu quá, lẽ vì thế mà “công chúa” chê. Thế rồi phần vì hậm hực làm dỗi với đời, phần vì nóng lòng muốn có ngay một bộ cánh khác, Ngan ta vừa kêu khóc vừa giậm chân bạch bạch, vừa dùng mỏ vặt trụi lông mình đi.
Sớm sau, Gà Thiến mới thức giấc, đã thấy Ngan đứng trước cửa chuồng, mình quấn đầy rơm rạ, Ngan bắc chéo chân, nghẹo cổ lim dim mắt, cất giọng hát ồ ề:
– Tôi chờ cô tối qua. Suốt canh chầy chẳng thấy cô ra …
Gà Thiến nóng tiết quá, không nén được giận, quên cả việc tu nhân tích đức của mình, bèn nhảy phốc ra vừa đá vừa mổ túi bụi lên đầu lên lưng Ngan. Ngan ta được “công chúa” đánh, vừa khóc vừa cười, cứ đứng yên chịu đòn không hề kháng cự. Đến khi mình Ngan trụi cả rơm rạ, còn ít lông nào rụng nốt, toé máu, toạc da, bấy giờ Gà Thiến mới ân hận là quá lỡ tay. Gà nói:
– Thôi thì bây giờ chú cứ gọi ta là “Quý nương” cũng được. Nhưng muốn được ta yêu, chú phải thành thạo một nghề gì đó, phải tỏ ra là kẻ có tài. Nào, chú đi theo ta.
Gà Thiến nói vậy, cốt dùng mưu kế để nuôi chí lớn cho Ngan, may ra chú ta có thể trở thành người tốt. Được lời như cởi tấm lòng, Ngan quên cả đau, cúi cái đầu trụi tóc xuống sát đất mà rằng:
– Muôn lời đa tạ quý nương! Em xin vì quý nương mà đi khắp bốn phương trời mười phương đất, rắp tâm đoạt lấy một chữ Tài!
2. Một chuyến lên trời
Ông cụ ở tỉnh Nam kể rằng:
Sau đó, Ngan được Gà Thiến chiều chuộng, kiếm mồi cho ăn rất nhiều. Chẳng bao lâu, mình Ngan lại mọc đủ lông, nhưng lông cứ nham nhở trắng đen như ta thường thấy ở loài Ngan bây giờ.
Đến một ngày kia, Gà Thiến dành dụm cho Ngan được hai túi giun khô, năm bao bột ốc (toàn những món ăn rất sang của loài gà vịt), Gà đem đến trước mặt Ngan mà nói:
– Bây giờ ta với chú tạm chia tay. Chú tự đi lập lấy thân, rồi ngày về sẽ sum họp cùng ta. Để có một chút làm tin, ta tặng chú cái lông đuôi này; chú giữ lấy làm kỷ niệm, luôn nhớ đến ta mà dốc lòng rèn luyện thành tài.
Ngan ta cảm động quá, ngậm lấy cái lông đuôi của Gà, ngọng cả lưỡi không nói lên lời. Ngan vác bao vác túi lên vai, quay phắt đi, rảo bước, nhất định không ngoái cổ lại nhìn “nàng”, để tỏ ra là mình cứng cỏi.
Đi được hai ngày hai đêm, một buổi sáng kia Ngan tới trước gốc cây xoan cao vút, trên cành có một đôi chim gáy đang “cục cù … cục cù …”. Ngan ngồi nghỉ, giở túi giun khô ra ăn, kính cẩn đặt nhẹ nhàng cái lông đuôi “công chúa” xuống cỏ, vừa ăn vừa nhìn lên đôi chim. Bất giác Ngan nhớ nàng “công chúa” vô cùng – xin nhắc lại bạn đọc: “công chúa” của Ngan tức là Gà Thiến vậy – Ngan không thể kìm lòng, bèn lim dim mắt ứng khẩu đọc mấy câu thơ.
Bỗng nhiên con chim mái bay vút đi như chạy trốn, chỉ còn chim trốn đậu lại ở cành xoan. Thì ra phần vì giọng ngâm của Ngan khàn khàn dễ sợ quá, phần vì lời thơ cọc cạch khó nghe, nên đôi chim ấy đã không thể gần nhau nữa vậy.
Ngan ngửa cổ hỏi chim:
– Chẳng hay công tử thấy tài thơ của ta ra sao?
 Chim đáp:
– Tôi vốn không am hiểu về thơ, tôi chỉ là kẻ ngày ngày bay lượn; cuối biển chân trời, nơi nào tôi cũng đến …
Ngan vỗ cánh cả cười:
– Ha ha! Vậy thì ta sẽ nhờ công tử mang đến tặng Nàng một móng chân ta, để Nàng biết cho ta tấm lòng son sắt.
Nói đoạn, Ngan cặp mở nhổ phắt ngay móng chân giữa bên phải, máu tuôn ra đầm đìa. Kẻ si tình ấy đau quá, nằm giãy đành đạch, kêu khóc rầm trời. Chim Gáy vội vàng bay xuống, kiếm lá rịt cho. Chim hỏi han đầu đuôi câu chuyện, Ngan ta nước mắt ròng ròng (vì đau quá), sự tình như thế như thế thuật lại ngọn ngành. Chim Gáy cảm động thấy con người có tình thắm thiết, lại có chí như vậy, vội kiếm lời an ủi:
– Tôi sẽ giúp tráng sĩ mang cái móng chân này tới cho Công chúa. Tiếc rằng tôi tài hèn sức mọn, không có nghề gì giỏi để bày cho tráng sĩ theo, chỉ thạo mỗi một môn bay lượn, nếu tráng sĩ không chê là kém, tôi sẽ chỉ bảo cho.
Ngan nín khóc nghĩ bụng:
“Ta nhất định sẽ lợi dụng anh chàng chim sốt sắng này để học cái nghề bay bổng. Hừ, cái lũ ngỗng, vịt, gà mọi rợ kia ơi! Chúng bay muôn đời là loài trần tục, sống lẹt đẹt ở sát mặt đất, còn ta đây sắp sửa là thiên thần mọc cánh bay cao. Biết đâu ta chẳng lên tới mặt trăng đánh bạn với chị Hằng!”
Sau đó, Ngan quay sang nói với chim Gáy:
– Cám ơn công tử, ta chính tên là Hiệp sĩ áo đen. Ta vốn có tài bay rất giỏi, vượt năm châu bốn biển cánh không chồn. Nhưng cách đây hai mươi ba năm (ngày đó chắc chắn là Ngan chưa ra đời!), để giải nguy cho một nữ chúa gặp nạn, ta đã giao chiến với con sư tử ở núi Kỳ Cùng (đây lại là tên một con sông!) trên đất Lạng Sơn, và sư tử đã cắn ta gãy cánh. Do vậy, đã mấy chục năm ta mất thói quen bay lượn. Nay công tử nhắc lại cho ta, chắc là ta nhớ được ngay nghề cũ.
Chim Gáy nghe chiến công lừng lẫy của Ngan như thế, càng thêm mến phục, có bao nhiêu ngón bay đem ra chỉ bảo hết để giúp chàng Hiệp sĩ áo đen. Hiệp sĩ đã trót nói khoác, lại vốn có thói giấu dốt ít ai bì, nên học chưa xong mấy động tác chính đã vội la to lên:
– Khoan! Khoan! Công tử! Ta muốn bay thi với công tử một phen, xem ai lên tới ngọn xoan kia trước. Nhưng để tỏ ra là có thực tài, xin công tử cùng ta đứng ở mô đất này, cùng nhắm mắt cả lại, khi nào nghe ta hô “khởi sự” thì bắt đầu bay.
Chim Gáy cả tin, làm đúng như lời Ngan bảo, đứng trên mô đất, nhắm hai mắt lại. Còn Ngan thì không những không nhắm mắt, lại len lén trèn lên ngọn đống rạ gần đó, rắp tâm lập mẹo thắng Chim Gáy phen này. Đứng sẵn trên đống rạ cao, nghển cổ, kiễng chân, giang hai cánh chuẩn bị bay, Ngan mới hô lên: “khởi sự!”.
Vút một cái, Chim Gáy nhắm mắt bay vọt lên ngọn xoan. Ngan ta to đầu, nặng bụng, vỗ cánh phạch phạch loạng choạng bay lên được một tí, rồi rơi bịch xuống hòn đá tảng bên đường. Chim Gáy vội vàng lướt xuống đỡ Ngan dậy. Ngan ta nhăn mặt cố nén đau, nói giọng thiểu não:
– Công tử ơi! Thật là muôn đời tôi còn nguyền rủa con sư tử ở núi Kỳ Cùng! Nào ngờ mấy chục năm trời vết thương vẫn còn nhức buốt, không sao cất cánh lên được! …
Nói đoạn, Ngan từ biệt Chim Gáy để đi ngao du phương khác, nghĩ bụng: “Nghề bay này học đau mình đau mẩy quá, tội gì theo đuổi cho khổ thân!”. Chim Gáy dọn tiễn Hiệp sĩ một bữa tiệc linh đình. Hiệp sĩ ăn uống không hề khách khí, lại lấy trộm vài đôi bát đĩa giấu trong cánh “để làm kỷ niệm”.
3. Đi thăm hoàng tử thứ sáu con vua thuỷ tề
Đi tới một cái hồ rộng bát ngát thì Ngan hết lương ăn; giun khô, bột ốc của Gà Thiến cho, đã chén sạch cả. Ngan phải mò xuống ven hồ kiếm con tôm cái hến. Lặn lội bì bõm mãi, chỉ vớ được mấy con xin cơm, con niềng niễng, ăn chẳng ra sao. Phần vì mỏi mệt, phần ngại ướt mình, Ngan trèo lên bờ lim dim mắt nằm ngủ thiu thiu. Bỗng đâu Ngan thấy có ai đè xấn lên lưng. Thì ra bác Cốc quê ở ven hồ, nom Ngan xù xì lấm bẩn, bác ngỡ là tảng đá, bác đã đậu xuống lưng Ngan, giang cánh ra phơi nắng.
Ngan giật mình tỉnh dậy, run như cầy sấy, miệng lắp bắp kêu van:
– Muôn lạy tướng công! Ngàn lạy tướng công! Kẻ hèn mọn này không biết đây là nơi nghỉ mát của tướng công, nên đã trót giẫm đôi chân phàm tục lên thảm cỏ xanh thơm của ngài …
Bác Cốc vừa ngạc nhiên vừa buồn cười, bước từ trên lưng Ngan xuống phân trần:
– Khốn khổ, nào tôi có phải là công là phượng gì! Tên tôi là Cốc, sống bằng nghề lặn lội kiếm tôm kiếm cá ở hồ này. Vậy thế bác là ai, sao lại đến đây nằm như hòn đá thế?
Ngan ta mở to mắt, nhìn từ đầu đến chân cái thân hình đen trùi trũi của Cốc, bèn đổi giọng nạt nộ ngay:
– Ủa, tưởng ai, té ra là gã nhà quê kiếm cá ở hồ này! Ngươi giỏng tai lên nghe ta xưng danh … Ta đây là Văn Ngan tướng công, thái tử thiếu bảo hiệp tá đại học sĩ, nhất nhị tam tứ ngũ lục thất phẩm triều đình … Ta đang đói bụng, ngươi có cơm nguội, cho ta một bát!
Bác Cốc vốn thật thà, mến khách, không hiểu tràng chữ nho kia nghĩa là gì, chỉ biết khách đang đói bụng, bèn bay đi lấy số cá cất dành ở nhà đến cho khách ăn. Văn Ngan tướng công nuốt chửng một lúc hết ba con mài mại, sáu con săn sắt, bốn diếc, hai ngao và năm chú rô con. Diều đã căng như quả bóng, tướng công còn tiếc rẻ một con cá ngạnh, vội vàng há mỏ đớp nốt. Nào ngờ ngạnh cá đâm xọc vào họng, tướng công cứ ngoác mồm ra mà kêu mà khóc, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng:
– Ôi Cốc tiên sinh! Xin tiên sinh cất giùm tôi con cá ngạnh này đi. Vì rằng mỗi lần ngửi mùi cá ngạnh là tôi không nén được đau lòng … Ối anh ơi, xưa kia anh đã ăn phải thứ cá hôi tanh này để đến nỗi anh lâm bệnh từ trần, anh bỏ em anh đi anh ôi! …
Quả nhiên mưu mẹo của Ngan đánh lừa được bác Cốc. Bác vội vàng thò mỏ vào gỡ con cá ngạnh trong họng Ngan ra, và xin lỗi:
– Ông bỏ quá cho. Tôi không biết ông có chuyện buồn. Chẳng hay anh ông chết vì ăn thứ cá này đã lâu chưa ạ?
Ngan khỏi hóc, hoàn hồn, vội quay ra hồ đánh trống lảng:
– Ôi cảnh hồ đẹp quá, non nước hữu tình, giá có hoa sen nữa thì thật là thần tiên chi cảnh …
Nói đoạn Ngan rút cái lông đuôi Gà Thiến kẹp trong cánh ra gài lên đỉnh đầu, ưỡn ngực vươn cổ, đứng chạng chân làm ra dáng bệ vệ:
– Ta vốn quen biết hoàng tử thứ sáu con vua Thuỷ Tề dưới hồ này. Vật quý ta giắt trên tóc chính là của hoàng tử tặng ta. Nay ta muốn đi thăm bạn quý, mà ngươi thì thạo đường lặn lội, ngươi có thể dẫn ta đi được chăng?
Bác Cốc đứng ngẩn người, không hiểu ra sao cả. Ngan nói tiếp:
– Ta cũng biết bơi tàm tạm, nhưng bơi không nhanh. Ta cũng biết lặn tàm tạm, nhưng lặn không sâu. Thực tình ta muốn nhờ ngươi dắt ta vùng vẫy trên hồ, sau đó ta sẽ thưởng ngươi mấy cái bát đĩa cổ từ đời vua Nghiêu vua Thuấn này.
Vừa nói Ngan vừa rút trong nách ra ba đôi bát đĩa Ngan ăn trộm của Chim Gáy hôm trước. Bác Cốc hỏi:
– Vậy thì ông muốn đi thăm hoàng tử thứ sáu con vua Thuỷ Tề, hay ông muốn tập bơi?
Ngan ngắc ngứ không trả lời được. Bấy giờ bác Cốc mới thấy Ngan vừa hèn vừa láo, vừa ăn tham vừa nói quanh co, hẳn là một tay đại bợm, bác bèn tính kế cho hắn một vố. Bác nói:
– Vợ chồng tôi biết cung vua Thuỷ Tề, chúng tôi sẽ dẫn ông đến chơi.
Ngan nghĩ bụng:
– Chết rồi, nó dắt mình đi đâu bây giờ? … Nhưng mà không sợ, thằng cha này ngốc lắm. Mình chỉ cốt học cái ngón lặn của nó, để trước nhất mò cá ăn cho sướng, sau nữa thành tài về đoàn tụ với Nàng …
Ngan quay sang phía Cốc, làm ra vẻ tươi cười nói:
– Có thế chứ! Tốt quá! Hoàng tử thứ sáu chắc đang mong ta mòn con mắt!
Cốc bảo Ngan đứng đợi để Cốc về gọi vợ ra dẫn đường. Ngan đi đi lại lại trên bờ hồ, nghĩ bụng lát nữa mình không lặn được thì còn gì là danh tiếng “tướng công”. Nhìn trước nhìn sau không thấy ai, Ngan đớp vội đớp vàng mấy chục viên sỏi chật ních cả diều. Thế là yên chí có đủ sức nặng để lặn.
Một lát sau, vợ chồng Cốc bay tới. Vợ Cốc nói:
– Nào, mời ông ta đi.
Họ cùng bơi ra giữa hồ. Ngan ta ì ạch chậm chạp quá, vừa bơi vừa thở phì phò, khiến vợ chồng bác Cốc phải dừng lại mấy chục lần để đợi. Tới một chỗ sâu nhất, Cốc bảo:
– Thưa ông, hình như đây là ngõ vào nhà hoàng tử rồi thì phải.
Ngan ậm ừ:
– Có lẽ thế. Ta cũng nhớ mang máng đâu đây.
Cốc nói:
– Nào, ta bắt đầu lặn đi.
Ngan vừa chúi đầu xuống thì vợ chồng Cốc hụp theo rất nhanh, hai anh chị cùng túm chặt lấy cổ Ngan lôi tuột xuống đáy hồ.
4. Hai anh em kết nghĩa
Lại nói về Gà Thiến từ hôm Ngan ra đi, Gà thấy nhẹ cả mình. Nhưng Gà cũng có phần thương hại cái chú Ngan lười biếng, si tình và xấc láo ấy. Dù sao, Gà vẫn mong cho Ngan trở nên người tốt.
Một hôm, Gà đang rỉa lông rỉa cánh thì chàng Chim Gáy tới đậu bên rào hỏi:
– Thưa bác Gà, cho cháu hỏi thăm đây có phải là nơi ở của chàng Hiệp sĩ áo đen không?
Gà Thiến ngạc nhiên đáp:
– Không. Đây chả có hiệp sĩ hiệp siếc nào. Anh ta người ngợm ra sao chứ?
Chim Gáy cứ theo hình dáng của Ngan mà tả lại tỉ mỉ, không quên kể thêm cả những món bột ốc, giun khô mà Hiệp sĩ mang theo.
Gà bình tĩnh đáp:
– Nếu vậy thì có đấy. Nhưng Hiệp sĩ đi chu du thiên hạ đã lâu rồi cơ mà?
Chim Gáy lấy trong bọc ra cái móng chân của Ngan cảm động nói:
– Cháu có hứa với Hiệp sĩ đưa vật kỷ niệm này tới tay Công Chúa vị hôn thê của chàng. Không rõ lâu đài Công chúa ở nơi nào, thưa bác …
Gà Thiến cầm lấy cái móng chân Ngan, gật gù bảo:
– Được, được. Ta biết nơi Công chúa ở, ta sẽ đem tới giúp cho. Chú ở đây ăn cơm nghỉ chân cái đã.
Nói đoạn, Gà dọn cơm cho Chim Gáy ăn. Trong lúc Chim Gáy vì đi xa đói bụng ăn uống rất ngon lành, Gà Thiến ra bờ ao ngắt một cái lá khoai ngứa, đặt xuống đất dùng mỏ mổ thủng lá viết thư cho Ngan. Xong xuôi đâu đó, Gà trở về bảo Chim Gáy:
– Ta đã trao vật kỷ niệm của Hiệp sĩ tới tay Công Chúa. Đây là bức thư Nàng gửi cho Chàng. Có dịp nào gặp Hiệp sĩ, nhờ chú đưa hộ ngay cho.
Vốn là kẻ rất sốt sắng giúp đỡ người khác, Chim Gáy lập tức mang thư cất cánh bay ngay, không kịp cả xỉa răng uống nước. Chim lượn qua đồi, qua núi, qua đồng rộng sông dài, chẳng thấy vết tích Hiệp sĩ áo đen đâu cả. Tới giữa cái hồ lớn phía tây, Chim Gáy giật mình thấy dáng ai như Hiệp sĩ nghẹo cổ nổi bập bềnh trên nước. Chim vội vàng sà xuống. Đúng rồi, đúng là Hiệp sĩ áo đen rồi! Chàng làm sao mà sặc cả máu mồm, nằm thoi thóp ở giữa hồ này?
Chim Gáy bay vội vào bờ, tri hô làng nước lên:
– Có người chết đuối! Cứu người chết đuối! Bà con ơi! Người chết đuối!
Khốn thay quanh hồ chẳng có xóm làng nào cả.
May sao có gã Ngỗng Kều đi đánh bạc ở nhà Quạ về ngang qua đó, nghe tiếng Chim Gáy hô hoán, gã đứng lại hỏi:
– Cái gì thế?
– Người chết đuối! Người chết đuối!
– Ai? Người nào?
– Hiệp sĩ áo đen!
– Hiệp sĩ à? Đã chết chưa? Có nhiều tiền không?
Nom thấy Ngỗng Kều cao to lộc ngộc, mình trần trùi trũi (vì Ngỗng mới thua bạc, bị anh em nhà Cú nhà Quạ lột áo), đầu trọc, chân dài, cổ dài, Chim Gáy phát khiếp lên, không nói được nữa. Ngỗng Kều vốn là một tay du thủ du thực, gã há cái mồm sặc mùi rượu vào tận mũi Chim Gáy mà quát:
– Dẫn ta đi cứu Hiệp sĩ, mau lên!
Chim Gáy cuống quít bay đi chỉ đường cho Ngỗng. Ngỗng Kều bơi tới nơi, dìu cái xác Ngan vào bờ. Việc đầu tiên là Ngỗng móc túi Hiệp sĩ xem có xu nào không. Thấy chẳng có đồng nào, Ngỗng đá vào đít Ngan một cái (rất may cho Ngan là ba bộ bát đĩa đã chìm mất khi Ngan bị vợ chồng Cốc kéo xuống hồ, nếu còn mà Ngỗng lục ra được thì Hiệp sĩ sẽ lộ chân tướng trước mặt Chim Gáy là một thằng ăn trộm).
Chim Gáy áp tai vào ngực Ngan, thấy tim còn đập. Chim vội vàng hà hơi cho Ngan, lay đầu Ngan mà gọi:
– Hiệp sĩ lai tỉnh! Hiệp sĩ lai tỉnh! Tôi đây mà! Tôi đây mà! Tôi mang thư của Công Chúa gửi cho Hiệp sĩ đây!
Không biết vì nước trong gan ruột đã dốc ra hết, hay vì tình yêu cao cả của Công Chúa có sức mạnh lớn lao mà Văn Ngan tướng công từ từ mở mắt ra được. Chim Gáy chưa kịp reo lên sung sướng thì tướng công lại méo mồm trợn mắt nằm thẳng cẳng ra. Số là cái sợ “đi chầu vua Thuỷ tề” chưa hết, lại mở mắt thấy ngay Ngỗng Kều gớm guốc, tướng công vội vã ngất đi một lần nữa, tưởng chết luôn lúc ấy.
Nhờ có sự tận tâm cứu chữa của Chim Gáy, cuối cùng Ngan lấy lại được sức khoẻ bình thường, Ngỗng Kều ngắm kỹ bộ áo đen của Hiệp sĩ, thấy không lấy gì làm đẹp nhưng cũng lành lặn dễ coi, bèn nảy ra trong óc một mưu thâm. Gã nghĩ bụng: mình thua bạc trần trụi thế này, tội gì có thằng sẵn áo lại không mượn tạm mà dùng.
Ngan cố gượng dậy, ngồi nghe Chim Gáy thuật chuyện gặp bác Gà Thiến và nhờ bác chuyển giúp cái móng chân kỷ niệm cho Công Chúa, Ngan vỗ cánh kêu lên:
– Ôi Nàng hiền hậu của ta! Ta hiểu tính Nàng vốn hay
vốn hay e thẹn. Sao có con người kín đáo đến thế!
Và quay sang Chim Gáy, Ngan nói:
– Công tử ơi! Thật công tử có mắt cũng như mù! Cái người mà công tử đặt tên là “bác Gà Thiến” chính là Công Chúa của ta đó! … Nào, thư của Nàng đâu, công tử mau mau đưa ta đọc!
Chim Gáy nghe Ngan nói, cứ đứng ngẩn ra, hồi lâu mới móc túi đưa lá thư gói kỹ cho Ngan. Hiệp sĩ áo đen trịnh trọng giở cái lá khoai ngứa soi lên trời, những vết thủng lỗ chỗ hiện thành hình chữ:
Chú Ngan yêu dấu.
Một yêu chăm chỉ học hành
Hai yêu chú sẽ trở thành người ngoan
Ba yêu bỏ hết ăn tham
Bốn yêu chịu khó ham làm lập thân
Thì tôi vui thích bội phần
Chú về tôi sẽ ân cần hơn xưa
Công chúa của chú.
Thiên Nga.
Đọc thư, Ngan vừa phân vân vừa cảm động. Phân vân vì trong các thứ tiểu thuyết Ngan đã được đọc, chưa thấy người con gái nào – dù là Công Chúa đi nữa – lại gọi vị hôn phu của mình là “chú” và xưng “tôi” như thế. Nhưng Ngan cũng bồi hồi cảm động, vì trong lá thư, Công Chúa đã dùng hai chữ “yêu dấu’ và lại ký tên là Thiên Nga. Ồ, cái tên của Nàng đẹp làm sao! Thiên Nga! Thiên Nga! Đọc lên êm như tiếng sáo, dịu như nhung lụa, lại phảng phất như có hương thơm quanh quất đâu đây!…
Hiệp sĩ áo đen ngây ngất vì sung sướng, quên cả cám ơn Chim Gáy.
Chim Gáy vốn là một kẻ hào hiệp, nhưng không phải là không có lòng tự ái, bèn lẳng lặng cất cánh bay đi.
Còn lại một mình Ngỗng Kều. Ngỗng vỗ vào lưng Ngan nói quang quác:
– Ngài Hiệp sĩ mơ mộng ơi! Kẻ này đã cứu cho Ngài thoát cảnh chết đuối đấy. Phải có chút gì tạ ơn chứ?
Ngan quay lại, thấy Ngỗng lực lưỡng quá, vội rối rít cảm ơn, kể lể, và cuối cùng xun xoe tôn Ngỗng làm đại ca. Ngỗng phổng mũi nói:






  Được, chú em đã coi ta như anh, thì ta cũng vui lòng nhận vậy. Nhưng liệu ta có thể giúp chú em được gì?
Ngan nói:
– Huynh có cặp giò rất khỏe, mà đệ thì đang muốn luyện thành tài. Vậy nếu huynh dạy cho môn chạy dai sức, ắt là có ích cho đệ lắm.
Ngỗng kều gật gật cái đầu trọc:
– Phải, phải. Kẻ nào chạy giỏi nghĩa là khi thắng khả dĩ tiến, khi bại khả dĩ thoái. Như anh em ta đây rất cần cặp giò cho tốt. Vớ món nào kiếm chác được, ta phóng tới như bay. Rủi gặp phải cơn đen, ta lại tẩu như ngựa chạy. Có đúng thế không chú em?
Ngỗng và Ngan trò chuyện hồi lâu tâm đầu ý hợp quá, từ đó coi nhau là anh em kết nghĩa.
5. Một cuộc đua tài hiếm có
Ngỗng Kều bắt Ngan vào khuôn khổ tập luyện khá khắt khe. Hai anh em đóng “doanh trại” ngay ở bờ hồ.
Cứ mờ mờ sáng, đã thấy Ngỗng hô “ắc ê” cho Ngan bước đều rồi chạy đều. Khi chạy nhanh, khi chạy chậm Ngan vã cả mồ hôi. Một lần Ngỗng hô “gạc đa vu” (nghiêm), Ngan nhìn Ngỗng mình trần trùng trục, cái đầu lại ngấc ngáo như đầu rắn ráo. Ngan không chịu được bật lên cười, thế là tướng công bị cấp trên bợp tai cho túi bụi. Nhưng Ngan tướng công vốn giàu đức tính nhịn nhục, nên không hề tỏ ra một chút nào tự ái.
Một buổi tối sáng trăng, Ngan đang mơ màng nhìn nước hồ long lanh như trăm ngàn con rắn vàng uốn khúc (câu tả cảnh này dựa theo “văn chương” các tiểu thuyết mà Ngan đọc say mê) thì bỗng nhiên Ngan đập cánh kêu lên:
– Ngỗng đại ca ơi! Ôi huynh ơi! Khổ cho đệ rồi! Đệ đã đánh mất vật báu nhất đời của đệ rồi!…
Ngỗng kều đang tắm dưới hồ, bước lên bờ hỏi:
– Chú mất cái gì?
Ngan buồn rầu nói:
– Anh ơi! Khi chia tay, Công chúa Thiên Nga có trao tặng em một món tóc thề làm tin, dặn khi nào thành tài sẽ mang món tóc đó về để cùng Nàng đoàn tụ. Rủi thay bữa trước em mải đi chơi thuyền rồng với hoàng tử con trai thứ sáu vua Thuỷ Tề, gió thổi bay món tóc xuống hồ lúc nào không biết … Thật là tai hại quá anh ơi!…
Ngỗng kều gật gù ngẫm nghĩ, ngoài mặt làm ra vẻ thương xót chú em kết nghĩa, nhưng trong bụng đã rắp tâm thực hiện mưu sâu.
Sáng hôm sau, Ngỗng bảo Ngan:
– Chú luyện tập đã nhiều, nay đến lúc có thể thử sức được rồi đó.
Ngan hỏi:
– Thử sức thế nào, thưa anh?
– Chú chạy thi với ta. Hôm nay ta giẫm phải gai, chân sưng đau, nhưng ta vẫn dư lực đua tài với chú.
Vừa nói, Ngỗng vừa giơ bàn chân buộc cỏ chằng chịt lên, xuýt xoa như bị nhức buốt lắm. Ngan thấy được chỗ yếu của Ngỗng, cái tính cơ hội hiếu thắng bỗng nổi lên đùng đùng. Ngan bèn ra ngay điều kiện:
– Nếu đệ thắng cuộc, huynh phải tìm bằng được cho đệ món tóc thề của Công chúa Thiên Nga!
Ngỗng Kều đắc ý vì Ngan đã trúng kế, nhẹ nhàng đáp:
– Khó gì đâu, việc ấy ta sẽ chỉ giúp không cho chú. Nhưng nếu chú thua cuộc, chú phải tặng ta bộ áo đen này, khác nào chú trả công ta rèn dạy chú vậy.
Ngan yên chí nắm chắc phần thắng, lập tức trả lời:
– Được lắm! Được lắm!
Thế là một cuộc thi tài giữa hai lực sĩ chạy đua – hai anh em kết nghĩa – được chuẩn bị tiến hành ngay. Ngan vươn vai hít thở, cúi xuống nắm bóp bộ giò. Ngỗng kều khập khễnh lấy que vạch đường đua thẳng tắp. Và mặc dầu chẳng có ai xem, Ngỗng vẫn không quên dùng mỏ quệt bùn ghi số 1 lên lưng Ngan và nhờ Ngan viết số 2 lên lưng Ngỗng.
Cuộc đua bắt đầu!
Sau một tiếng hô rất mực oai nghiêm hùng dũng của lực sĩ kiêm trọng tài Văn Ngỗng (anh em kết nghĩa phải lấy họ giống nhau), hai lực sĩ cùng lạch bạch xuất phát. Hai phút đầu, mặc dầu thấp bé hơn đối thủ, lực sĩ số 1 (tức Văn Ngan) chiếm ưu thế rõ rệt. Còn lực sĩ số 2 thì đuối sức quá, chân đau khập khiễng. Bốn phút sau, đột nhiên lực sĩ số 2 (tức Văn Ngỗng) dứt hết băng buộc chân, không khập khiễng tí nào nữa, mở tốc lực dẫn đầu. Lực sĩ số 1, tuy đua rất tận tình, nhưng vì thể lực kém và kỹ thuật còn vụng, nên chạy chậm đi trông thấy. Kết quả: lực sĩ số 2 về nhất, lực sĩ số 1 chiếm giải nhì. Cuộc đua đã diễn ra trong bầu không khí thân ái và trần đầy tinh thần thượng võ.
Đến lễ nhận phần thưởng, giun dế ở đâu bỗng cử lên một bản nhạc trầm hùng. Lực sĩ Văn Ngỗng (người đoạt chức vô địch) vẻ mặt tươi như hoa, trịnh trọng lột bộ áo đen đang mặc trên mình của lực sĩ chiếm giải hai. Lực sĩ Văn Ngan ( người giữ giải nhì) có phần hơi kém vui, cứ gườm gườm cúi nhìn bàn chân không đau tí nào nữa của nhà chạy đua bậc thầy Văn Ngỗng, và khắp mình lực sĩ nổi gai ốc khi tấm áo đen đã bị lột … Cuối cuộc lễ, giun dế chơi một bài hoà tấu du dương trầm bổng, ca ngợi tình yêu thương bác ái ở trên đời.
Suốt một tuần sau, hai anh em kết nghĩa không hề trò chuyện với nhau, chia bát đũa ra ăn riêng. Từ hôm lột được áo của Ngan, Ngỗng không lúc nào rời áo khỏi mình. Hắn ta người cao to ngộc nghệch, mặc cái áo đen ngắn cũn cỡn, nom vừa buồn cười vừa lố. Còn Văn Ngan tướng công, tất nhiên không thể ở truồng được, tướng công phải giở cái lá khoai ngứa – thư của Công chúa Thiên Nga – ra che thân.
Văn Ngan, từ khi bị mất bộ áo, phải che thân bằng cái lá khoai ngứa, chẳng những không buồn phiền chút nào mà lại cảm thấy yêu đời gấp đôi. Ôi Nàng hiền hậu của ta! Ôi lá thư đầy tình đầy nghĩa! Ôi Thiên Nga! Thiên Nga!… Ôi cái tên mới đẹp làm sao! Đọc lên êm như tiếng sáo, dịu như nhung lụa, lại phảng phất như có hương thơm quanh quât đâu đây … (Đây là “văn chương” rất “rẻ tiền” trong cuốn tiểu thuyết Bẽ Bàng mà Ngan đã học thuộc lòng).
Trong những ngày Ngan tỉnh tỉnh mơ mơ, khi ngâm thơ, khi huýt sáo, thì Ngỗng lặn lội ra giữa hồ tìm được mớ tóc thề của Công chúa Thiên Nga (tức là cái lông đuôi Gà Thiến, Ngan đã đánh mất hôm bị vợ chồng nhà Cốc dìm cho suýt chết). Ngỗng giấu mớ tóc thề rất kín, định bụng sẽ dùng vào một việc riêng.
Câu chuyện còn diễn biến ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
6. Nhạc sư thượng hạng và ca sĩ trứ danh
Ông cụ ở tỉnh Nam vì đã quá già nên không nhớ rõ nửa tháng hay một tháng sau thì Ngan và Ngỗng làm lành với nhau.
Một hôm, Ngan đang cao giọng ngâm những lời dặn dò quý báu của Thiên Nga “Một yêu chăm chỉ học hành …” thì Ngỗng Kều bước tới vỗ vào vai Ngan nói:
– Chú có cái giọng tốt quá, nghe vừa trong vừa ấm, nếu chú chịu khó khổ luyện nhất định sẽ trở thành ca sĩ trứ danh.
Nói đoạn Ngỗng vươn cái cổ dài ngoẵng, há mỏ thật to lên giọng:
– La, la, la, la, la … Đồ mi son đố … Đồ … Tôi như thế này là giọng nam trầm, còn chú có thể luyện thành giọng nam cao đấy.
Văn Ngan, dù có mang danh là tướng công chăng nữa, thật từ thưở bé chưa nghe thấy ai “đồ đố” như thế bao giờ, nên trong bụng lấy làm khâm phục, mặt khác, vốn tính Ngan ưa phỉnh, nghe nói nhất định mình sẽ trở thành “ca sĩ trứ danh” thì khác nào Ngan ta đang được bay lơ lửng trên mây rồi vậy.
Ngan nói:
– Vậy thế đại ca có thể giúp em học hát thành tài được chăng?
– Được chứ! Đối với chú, xưa nay ta có tiếc điều gì. Nhưng cần nhất là phải dày công khổ luyện.
Thế là ngay từ hôm sau, Ngỗng bắt Ngan nhịn tôm nhịn cá, chỉ cho ăn “nhè nhẹ” vài con ốc mà thôi, và theo đúng lời “thầy”, tối tối Ngan phải ngâm sỏi trong miệng luyện giọng liền mấy tiếng đồng hồ. Sang ngày thứ bảy, Ngỗng nói:
– Tốt lắm. Bây giờ ta bóc lưỡi cho chú. Con sáo nó nói được tiếng người là nhờ bóc lưỡi mà thành tài. Ta đây lưỡi cũng đã do giáo sư âm nhạc Lu-ma-nhi-ni ở thành Mạc-xây nước Ý (tên một hải cảng Pháp, chứ không phải Ý) bóc giúp (vừa nói Ngỗng vừa há mỏ ra), giọng hát mới hay đến thế.
Ngan gật đầu, bằng lòng bóc lưỡi. Tất nhiên Ngỗng Kều, tên du côn kiêm cờ bạc bịp, kiêm lực sĩ chạy đua, kiêm giáo sư thanh nhạc, lại kiêm cả bác sĩ phẫu thuật nữa, nhất định làm cái việc mổ xẻ rất ẩu và kém vệ sinh. Sau khi bóc lưỡi, Ngan tướng công bị mất rất nhiều máu, ốm lao đao tưởng chết. Trong những phút mê man, Ngan nhắm mắt nói thều thào:
– Ôi Thiên Nga… Thiên Nga… cái tên đẹp làm sao… êm như tiếng sáo…
Ngỗng Kều săn sóc Ngan rất kém, lại lợi dụng lúc bạn ốm, chép trộm bức thư của Thiên Nga viết trên lá khoai ngứa để học thuộc lòng (Ngỗng đọc bức thư ấy làm gì, đọc đến cuối chuyện sẽ rõ).
Chẳng bao lâu Ngan lại khoẻ mạnh như thường. Một buổi sớm mùa xuân, sau một thời gian học tập, Ngỗng ra bài cho Ngan thi tốt nghiệp. Ngỗng cất tiếng hát trước, nghe đinh tai nhức óc chẳng khác gì tù và thổi. Ngan gật gù khen:
– Mê ly! Mê ly! Không trách gọi là đệ tử của nhạc sư Lu-ma-nhi-ni nước Ý!
Đến lượt Ngan hát, nghe rè rè như tiếng chuông vỡ, phì phò tựa bễ lò rèn. Vậy mà Ngỗng lim dim mắt tấm tắc:
– Tuyệt! Tuyệt! Thật là độc nhất vô song! Tiếng khoan như gió thoảng ngoài, tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa… Nay ta công nhận chú là ca sĩ trứ danh, có thể ngao du khắp nơi vét bạc của thiên hạ, từ đây trở đi không phải dầm mình trong nước tanh bùn thối kiếm tôm kiếm cá nữa.
Văn Ngỗng tâng bốc Ngan, phỉnh nịnh Ngan, khiến mũi tướng công phổng lên bằng quả ổi. Sau đó, Ngỗng bàn bạc với Ngan, quyết định lập thành ban hát đi bốn phương khua môi múa lưỡi để kiếm tiền. Muốn quảng cáo rầm rộ cho ban hát, Ngỗng kều tự xưng là nhạc sư thượng hạng Ba-gai-chi-chi thành Mạc-xây nước Ý, và phong cho Văn Ngan là ca sĩ trứ danh Ba-que-mô-tô thành Rôm nước Nhật (Ngỗng Kều lú lẫn quá! Rôm chính lại là thủ đô nước Ý).
Hai anh em – hay gọi là hai thầy trò cũng thế – sửa soạn để khai trương ban hát. Ngỗng kiếm sậy về khoét sáo, kiếm vỏ trai về làm chũm choẹ. Nhạc sư Ba-gai-chi-chi mặc áo “rơ-đanh-gốt” (cái áo đen ngắn cũn cỡn Ngỗng đã lột của Ngan), nom ra vẻ con nhà quý phái thành Mạc-xây nước Ý lắm rồi. Còn Văn Ngan mình trần trùng trục, khoác cái lá khoai ngứa thủng lỗ chỗ, nom cũng khá yểu điệu giống cô thiếu nữ mặc áo the, nhưng chưa ra vẻ gì là ca sĩ Ba-que-mô-tô nước Nhật cả. Ngỗng kều bèn bắt Ngan húi trọng đầu đi và đeo một đôi kính trắng bện bằng cỏ gà.
Thật là hồi hộp! Ngày trổ tài đã tới!
Ngỗng bơi vòng quanh hồ, mỗi quãng lại cất tiếng rao:
– Xin chớ bỏ qua! Xin chớ bỏ qua! Ca nhạc đặc sắc! Tiết mục diễm huyền! Do nhạc sư thượng hạng Ba-gai-chi-chi thành Mạc-xây nước Ý và ca sĩ trứ danh Ba-que-mô-tô thành Rôm nước Nhật trình diễn. Ba xu một vé! Ba xu một vé! Rất rẻ, rất rẻ, xin chớ bỏ qua!…
Trong lúc Ngỗng Kều tận tình làm công việc quảng cáo như thế, thì Văn Ngan chỉ luẩn quẩn trên bờ, cấm dám thò chân xuống nước. Chả là tướng công vẫn lo vợ chồng nhà Cốc cho tướng công đi chơi với hoàng tử thứ sáu con vua Thuỷ Tề chuyến nữa.
Thấy có kẻ khua chiêng gióng trống rùm beng như vậy, dân chúng vùng quanh hồ – vốn rất khát khao giải trí – tò mò kéo tới khá đông. Này, là đàn lũ họ hàng nhà Le Le, Mòng, Ngỗng Trời, Vịt Trời ào ào đậu xuống mặt hồ, tranh nhau chỗ ngồi quàng quạc. Kia là các cụ Cò, cụ Vạc, Giang Giang, Bồ Nông đứng cao lênh khênh, trong số đó có mấy cụ là nhà nho nổi tiếng hay chữ. Đây nữa là các nhạc sĩ có tài của địa phương: Sáo, Vàng Anh, Chích Choè, đến dự cốt nhằm học tập nghệ thuật các bậc danh ca. Và cả vợ chồng bác Cốc cũng dắt con cái đi xem, đứng cạnh gia đình nhà Xít, nhà Kếu (bởi vì vợ chồng Cốc không biết ca sĩ Ba-que-mô-tô chính là Văn Ngan tướng công sống lại). Trên mấy bụi dứa dại, cây si, cây bàng bao quanh gò đất dùng làm sân khấu, những Niềng Niễng, Cà Cuống, Châu Chấu, Cào Cào, Bò Dừa, Cánh Cam … bậu kín cả cành cây, lá cây, nghển cổ đợi xem nhạc sư và ca sĩ trứ danh biểu diễn. Tiếng tăm của ban hát lẫy lừng đến nỗi bà vãi Quốc Quốc và sư cụ Tu Hú vốn quanh năm chỉ lo việc tụng kinh niệm phật, không màng gì đến nghệ thuật văn chương, hôm nay cũng dự xem cả.
Phút long trọng đã tới!
Chuông rung. Màn mở. Ngỗng Kều, trong bộ cánh đen ngắn cũn cỡn, bước ra sân khấu nghiêng đầu nói bằng giọng mũi:
– Nhân danh giới trí thượng lưu trí thức thành Mạc-xây nước Ý, tôi là nhạc sư thượng hạng Ba-gai-chi-chi xin cúi chào quý vị thính giả …
Cụ Cò giương mục kỉnh nhìn, rồi nghển cổ nói thầm vào tai cụ Bồ Nông:
– Tôi nom giống như thằng Ngỗng Kều hay đánh bạc ở nhà Cú nhà Quạ ấy bác ạ!
Cụ Bồ Nông gạt phắt đi:
– Hừ! Bác thật đa nghi như Tào Tháo! Người ta lặn lội từ nước Ý sang đây…
Nhạc sư Ba-gai-chi-chi nói tiếp:
– Theo phong tục của một nước văn minh như nước Ý chúng tôi, cái gì cũng phải trả tiền trước. Xin quý vị chi cho ba xu một xuất, ba xu một xuất, bản ban chúng tôi mới có thể trình diễn được.
Lập tức, các khán giả rộng rãi và cởi mở ném tới tấp lên sân khấu nào ốc, nào hến, nào cua, nào trai, nào tôm, nào cá… Nhạc sư căng vạt áo ra hứng, vừa hứng vừa ăn lấy ăn để. Ăn đã cứng diều, nhạc sư chùi mép, đứng nghiêm, nói dõng dạc:
– Xin mời ca sĩ trứ danh Ba-que-mô-tô thành Rôm nước Nhật ra trình diễn.
Văn Ngan, từ lúc nghe khán giả ném tôm cá lên rào rào, thèm quá, lại thấy nhạc sư thượng hạng ngốn ngấu nghiến như vậy, trong bụng thật không yên chút nào. Ca sĩ trịnh trọng bước ra sân khấu, nhưng gan ruột vẫn để vào sự ăn uống.
Tiết mục thứ nhất bắt đầu. Nhạc sư nước Ý đệm chũm chọe, ca sĩ nước Nhật ca bài Tôi chờ cô tối qua. Dưới hàng khán giả, Chích Choè bịt mũi rủ Vàng Anh và Sáo ra về. Các cụ Cò, Giang Giang, Bồ Nông cũng lắc đầu chép miệng bỏ đi cả. Tiết mục thứ hai: nhạc sư thượng hạng và ca sĩ trứ danh song ca bài Nay ta thấy hai con sum họp một nhà ta thật vui lòng… Các ả Ngỗng Trời, Vịt Trời vỗ tay hoan hô, nhưng nhiều khán giả khác thất vọng bỏ cuộc. Tiết mục thứ ba: nhạc sư Ba-gai-chi-chi đệm sáo, ca sĩ Ba-que-mô-tô đơn ca bài Thôi tôi van cô nương. Sư cụ Tu Hú dắt tay bà vãi Quốc Quốc, hai người rủ nhau bỏ về. Tiết mục thứ tư: Nhạc sư nước Ý đệm chũm chọe, ca sĩ nước Nhật độc ca bài Tình duyên đôi ta bẽ bàng. Tiết mục thứ năm, thứ sáu, thứ bảy… Trong đám đông, có nhiều tiếng xì xào.
Bỗng bác Cốc trai, vẻ mặt tức giận, nhảy xổ lên sân khấu nói to:
– Thưa tất cả bà con! Đây không phải là ban hát nước Ý nước Nhật gì đâu. Đây chính là hai thằng ba que nó đánh lừa ta lấy tiền, hát toàn những bài đểu giả!
Rồi trỏ vào nhạc sư và ca sĩ đang đứng sững ra như bị sét đánh, bác Cốc nói tiếp:
– Thằng này là Ngỗng Kều, du côn có tiếng. Còn thằng này là vua bịp tên gọi Văn Ngan, tôi với nhà tôi đã cho nó uống nước hồ một lần. Chúng nó trá hình đã giỏi, tôi nhận mãi mới ra!
Đám đông gào thét ầm ầm như sấm:
– Đánh chết quân lừa đảo đi!
– Trói chúng nó lại!
– Giả tiền chúng tao đây!
Đám đông ùa lên sân khấu, người lấy lại tôm cua ốc, kẻ xông vào đấm đá nhạc sư và ca sĩ túi bụi, nếu không có bác Cốc can ngăn thì mình mẩy hai thầy trò Ba-gai, Ba-que nước Ý nước Nhật ấy chắc chắn đã nát như tương rồi.
7. Cuộc phiêu lưu chấm dứt
Theo ông cụ tỉnh Nam cho biết, trong chuyến làm ca sĩ thất bại này, Ngan bị rách tan mất cái áo the (tức là bức thư lá khoai của Thiên Nga Công chúa) – điều này khiến gã rất đau lòng. Còn Ngỗng Kều thì tinh ma cứ chúi đầu rúc xuống bụng Ngan, nên chẳng những hắn không bị đòn đau, lại vẫn giữ được bộ áo đen lành lặn.
Một hôm Ngỗng bảo Ngan:
– Anh em ta ở xứ này lộ mặt mất rồi, thật khó làm ăn quá. Tôi vẫn nghe chú kể có vị hôn thê là Công chúa Thiên Nga. Chẳng hay Công chúa có giàu không, nhà ở nơi nào?
Ngan đáp:
– Thôi huynh ơi, nhắc tới thêm rầu lòng đệ! Nhận lời hứa với Nàng, đệ đi chu du tứ xứ thấm thoắt đã bảy tuần trăng. Vậy mà tài không thành, chí không đạt, tấm thân Văn Ngan này ngày đêm tiều tụy võ vàng. Đệ lại để mất món tóc thề Nàng trao cho đệ làm của tin, mất cả lá thư yêu dấu. Ôi, ta còn trở về chốn cũ làm gì?
Vừa nói Ngan vừa đấm ngực mà khóc, nước mắt nước mũi tuôn ra đầm đìa.
Ngỗng Kều, mặc dầu trong bụng mừng rơn vì nó đã nắm được bản sao bức thư và món tóc thề của Thiên Nga Công chúa, nó vẫn cố làm ra dáng ái ngại:
– Tội nghiệp chú em! Thôi, chú em cứ bảo cho ta nơi ở của Nàng, ta sẽ giúp chú em nối lại mối duyên xưa; ta đây vốn có tài hùng biện, chắc thế nào Công chúa cũng xiêu lòng.
Ngan cảm động khóc sụt sịt, bày cho Ngỗng đường đi đến chuồng Gà Thiến. Ngỗng vỗ vào vai Ngan an ủi:
– Thôi, chú tạm đến ngôi chùa của sư cụ Tu Hú mà ẩn mình. Ta sẽ rước Công chúa đến tìm chú về nhà đoàn tụ.
Văn Ngan hỉ hả nhất nhất vâng lời.
Một buổi sớm kia, Gà Thiến đang uống nước ở bờ ai, bỗng thấy tiếng ai quàng quạc gọi:
– Ôi Nàng Thiên Nga yêu dấu!
Gà giật mình quay lại, thấy một gã cao lớn, đầu trọc, chân dài, cổ dài, nom không giống chú Ngan chút nào cả, nhưng sao bộ áo đen hắn mặc lại đúng là của Ngan, và tay hắn lại cầm cái lông đuôi Gà tặng?… Gà đang phân vân chưa biết trả lời thế nào, thì gã cao lớn lại nói:
– Ôi Công chúa thượng hạng của hoàn cầu! Chẳng lẽ Nàng quên anh rồi sao? Anh là Văn Ngan đã thành tài, trở về đoàn tụ với Nàng đây. Anh đã sang nước Ý du học, trở thành nhạc sư Ba-gai-chi-chi nổi tiếng…
Nói đoạn, Ngỗng Kều vươn cổ cất giọng ống bơ gỉ hát bức thư của Thiên Nga gửi cho Ngan theo điệu cò lả:
– Một yêu yêu chăm chỉ… chỉ học hành… Hai yêu yêu anh đã… đã trở thành thành người ngoan…
Vừa hát, Ngỗng vừa liếc mắt. Gà Thiến nóng gáy quá, muốn nện cho anh chàng mất dạy này một trận, nhưng vẫn còn do dự, chẳng biết hắn ta có phải là chú Ngan ngày trước hay không. Gà nén giận, bước đến gần Ngỗng nói:
– Chàng cho ta ngắm bàn chân xinh xắn của chàng, xem có đúng chàng đã chu du thiên hạ rèn luyện thành tài không đã.
Ngỗng Kều hãnh diện lần lượt giơ hai bàn chân thô kệch cho Công chúa xem. Gà Thiến ngắm kỹ từng ngón một. Gà đã nhận ra sự lừa dối: anh chàng này móng chân còn nguyên cả, nhất định không phải là Ngan, vì Ngan đã bẻ một móng gửi Chim Gáy mang về tặng Gà.
Lập tức Gà Thiến vỗ cánh nổi hiệu báo động. Một đội quân túc trực toàn nòi Gà Cưỡng, mỏ và cựa sắc hơn dao, xông ra trói chặt Ngỗng Kều lại, nhốt vào trại giam.
Ngay chiều hôm đó, một cuộc hỏi cung bắt đầu. Trước sự thẩm vấn nhẹ nhàng mà đanh thép, đầy lý lẽ của chánh án Bồ Câu, Ngỗng Kều phải khai hết tất cả. Toà cho người mang giấy đến ngôi chùa của sư cụ Tu Hú gọi Ngan về. Ngan ta không có quần áo, một lần nữa lại phải mình quấn bằng cỏ khô, đi qua đường gặp các ả Vịt Trời, lấy làm thẹn quá.
Sau khi đối chất giữa Ngan và Ngỗng. Toà tuyên án phạt Ngỗng ba năm tù về tội nhiều lần lừa đảo, bắt Ngỗng trả lại cho Ngan chiếc áo đen.
Bác Gà Thiến xin Toà tha tội cho Ngan, vì dù sao Ngan cũng chỉ là kẻ a tòng, không chủ mưu làm điều ác. Chánh án Bồ Câu cân nhắc rất kỹ về trường hợp của Ngan, cuối cùng tuyên bố cảnh cáo Ngan nghiêm khắc về tội tham lam, lười biếng và đã theo gã Ngỗng Kều làm bậy.
Phiên toà kết thúc, Gà Thiến kéo Ngan ra chỗ vắng, nói:
– Tôi rất thương chú. Nhưng tôi cũng đã phạm lỗi nói dối chú. Tôi chẳng phải Thiên Nga thiên ngung gì đâu; chẳng qua muốn giúp chú trừ bỏ thói hư mà lập mẹo đó thôi… Từ nay anh em ta lại chung sống với nhau. Chú phải chịu khó sửa mình. Còn phần tôi, tôi hứa sẽ tận tâm giúp đỡ chú hơn trước.
Văn Ngan cúi đầu đứng nghe Gà nói, vừa xấu hổ vừa cảm động, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng.
8. Lời bàn cuối truyện
Bình luận về cuộc phiêu lưu của Văn Ngan tướng công, ông cụ ở tỉnh Nam nhận xét:
Văn Ngan – thuỷ tổ của loài Ngan – trong vòng không đầy một năm, ba lần bị trụi lông mất áo, hai lần suýt chết, và đã trở thành… một con ngan hoàn chỉnh. Hiệp sĩ áo đen, Văn Ngan tướng công, thái tử thiếu bảo hiệp tá đại học sĩ, bạn thân của hoàng tử thứ sáu con vua Thuỷ Tề, anh em kết nghĩa với lựa sĩ chạy đua Văn Ngỗng, ca sĩ trứ danh Ba-que-mô-tô thành Rôm nước Nhật, tất cả những chức vụ đó đã giúp Ngan biết bay một tí, biết bơi một tí, biết chạy bộ một tí, lại biết cả hát ồ ề một tí. Nhưng nghề nào của Ngan cũng dối trá, dang dở, chẳng đâu vào đâu. Mặt dầu có nhiều người muốn giúp đỡ Ngan như bác Gà Thiến, bác Cốc, Chim Gáy vân vân… nhưng Ngan vẫn không trở nên tốt được, bởi vì Ngan lười biếng, hám danh hám lợi, chỉ muốn ăn to làm tắt, lại đi đánh bạn với kẻ xấu như gã Ngỗng Kều.
Ông cụ ở tỉnh Nam còn nói thêm là nếu trí nhớ của cụ tốt hơn và nếu có thì giờ rỗi rãi, cụ sẽ kể tiếp về chuyện Văn Ngan sau đó trốn Gà Thiến đi dạy học ở nhà Ễnh Ương, đi buôn vôi đánh lừa Cóc Già, đánh nhau đổ máu với Lợn Ỉn, chạm trán lần thứ ba với bác Cốc, và được Cốc rèn dạy cho thành người lương thiện.
Tiếc thay, ông cụ chỉ mới kể đến đấy, nên tôi chỉ chép lại được ngần này. Bây giờ xin nhường các bạn nhận xét về đời sống, tính nết của loài ngan hiện nay, xem có đúng giống vật ấy là cháu chắt của Văn Ngan tướng công hay không.

II

Con chó xấu xí

Kim Lân

Thực ra khi viết tôi cũng không nghĩ rằng lấy mình ra để viết, mà chỉ nghĩ trong đầu là viết về cái đói nhưng con người vẫn yêu đời, tin ở con người dù cái đói bao vây xung quanh, vẫn tin yêu, đùm bọc nhau và vẫn tràn đầy khát vọng sống. Nhưng sau khi viết xong, nghĩ lại thì hóa ra lại là viết mình. 

– Thế còn truyện ngắn “Con chó xấu xí”?
– Tôi viết Con chó xấu xí là viết sau khi xảy ra chuyện Nhân văn Giai phẩm. Tuy tôi không bị liệt vào nhóm Nhân văn Giai phẩm nhưng lúc bấy giờ người ta xướng ra việc đấu tranh với Nhân văn Giai phẩm thì có 5 người không tham gia “đánh”, gồm có: Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Hồng và tôi.
Chúng tôi không tham gia hội họp, không viết bài “đánh”… vì chúng tôi cho rằng đó đều là anh em mình cả. Chúng tôi chỉ muốn, nếu thực sự họ sai thì phải thuyết phục họ, vì tất cả đều mới ở trong kháng chiến mà ra cả (Hoàng Cầm, Trần Dần, Hoàng Tích Linh, Lê Đạt…). Nhưng chính vì không tham gia, nên người ta cũng ghét chúng tôi.
– “Con chó xấu xí” là ông viết để tự bạch tâm trạng của mình với mọi người lúc bấy giờ?
– Đúng thế! Tôi chỉ muốn nói rằng, tuy tôi có là con chó xấu xí nhưng vẫn trung thành với chủ. Nguyễn Công Hoan đọc xong bảo “thằng này ngu bỏ mẹ, tự nhận mình là con chó!”. Ông Văn Cao thì nhận xét “gớm cậu viết võ kín quá!” làm tôi sợ.
– Nhưng ông đâu có bị “đánh” mà kêu oan?
– Cũng bị đánh chứ, vì khi đó tôi có viết một truyện ngắn Ông lão hàng xóm, ngày ấy cũng là chuyện nói về sai lầm trong cải cách ruộng đất. Lúc bấy giờ in ra, nhiều người thích vì cho rằng viết thế là dữ dội. Cộng với mình lại thêm tội “không chịu viết bài để đánh Nhân văn Giai phẩm” thế là người ta cũng không ưa chúng tôi luôn…
(…trích “Cuộc trò chuyện cuối cùng với nhà văn Kim Lân” – Bá Kiên)

***

Nó là một con chó xấu xí! Xấu đến nỗi trong nhà chẳng ai buồn đặt cho nó một cái tên. Nó không được là tôtô, kiki, cũng chẳng là quýt, là cún, là gì gì cả. Gọi nó người ta chỉ việc “êu, êu…” như gọi bất cứ một con chó nào là nó đến. Mãi đến lúc nó chết, đại khi nhắc đến, vợ tôi mới gọi nó bằng cái tên nghe rất đỗi thương yêu: “Con Mực nhà ta… Ngày Tây nhảy dù Việt Bắc, con Mực nhà ta… Ngày con Hiền mới chập chững biết đi, con Mực nhà ta…” Khốn nạn, cái “con Mực nhà ta” ấy, thực ra từ lúc mua, đến lúc chết, nó phải chịu sự ghét bỏ, hắt hủi của mọi người trong nhà tôi y như đứa trẻ, con một người làm lẽ thứ năm, thứ bảy trong một gia đình giàu có, đông con mà bố mẹ chết rồi phải ở với anh, chị con bà cả vậy. Ngày ấy con bé đầu lòng của tôi chưa đầy tuổi tôi, vợ tôi cần có một con chó nhép để cho nó “dọn”. Cái trò đàn bà hay tham rẻ, chỉ tính đến chuyện được việc. Nhà tôi mua nó đâu có ba hào chỉ. Tôi bực mình lắm. Cứ thoáng trông thấy nó, tôi đã lộn ruột lên rồi. “Chó gày khổ mắt người nuôi!” ừ thì trong lúc kháng chiến này cũng chẳng nên kén chọn, cầu kỳ đến những giống chó đồ, chó kiểu làm gì, nhưng đã nuôi cái của giống má trong nhà, ít ra cũng phải sạch mắt thì mới coi được. Đằng này, con chó nhà tôi mua, nom nó thảm hại quá. Nó không còn thể gọi là con chó được nữa. Nó bằng cái nắm đấm thế này, vừa bé, vừa lường, còm dóm như con chuột trù ốm ấy. Nhất là những hôm đang lạnh bỗng dưng trở nắng, con chó nhà tôi ra sân ngồi sưởi thì, giời đất cha mẹ ơi, không còn thể sao khươm được. Bẩn mắt quá! Nó ngồi gù gù ngoài bóng nắng như anh nghiện thiếu thuốc. Cái mặt gục xuống, rớt rãi chảy ra, hai con mắt ướt nhoèn hai cục nhử trắng nhã. Cái lưng khòm khòm nổi lên từng đốt, từng đốt xương sống. Cái con chó khốn khổ ấy nó không còn đủ cả lông để che kín thân thể nữa. Lông nó lường ăn rụng từng đám lơ phơ, nham nhở và đỏ bẻm như đám cỏ ấy. Da lưng, da bụng, da cổ trật ra sần sùi, cóc cáy, đến cả cái đuôi cũng không đủ lông. Đuôi nó thun lủn một mẩu xám xịt như đuôi con chuột cống già. Dưới ánh nắng mùa hanh rát ràn rạt, lớp da răn rúm bọc ngoài cái thân hình gầy gùa, lủng củng những xương của nó, lúc lúc lại thấy rùng lên. Nó khẽ rên ư ử một cách sung sướng và thê thảm… Tôi bảo nhà tôi đem mà vứt mẹ nó đi, không có cho ai thì cho. Nhà tôi chỉ cười:
-Cho là thế nào? Để tăng gia đấy. Nhà tôi cũng biết chót mua phải con chó xấu quá, nên mỗi bạn tôi kỳ kèo chỉ cười, nói quấy quá cho xong lần. Còn con chó thì hình như nó cũng biết thân phận nó, biết tôi ghét nó, mỗi lần thấy bóng tôi từ xa, cu cậu đã lui lủi lỉnh đi chỗ khác.

Nó cúi gằm mặt xuống, mắt lấm lét nhìn trộm, cái đuôi thun lủn một mẩu thịt cháy thì khẽ ngoáy ngoáy mừng nịnh. Tôi càng ghét. Cho mãi đến hôm có Đặng ở đoàn kịch của tỉnh đi qua tạt vào thăm, con chó ấy mới được yên thân với số phận Đặng quyết định cho nó và, từ đấy tôi cũng thôi không kỳ kèo nhà tôi nữa. Đặng là một tay bợm rượu. Anh em bạn chơi vẫn gọi anh ta là Đặng cồn. Người anh ta lúc nào nom cũng ủ dột. Mặt trắng bự, mắt ướt nhoèn, lưng gù, cặp kính trắng thõng xuống đến cánh mũi. Cái miệng chảy thễu ra lúc nào cũng thấy đánh tóp ta, tóp tép như cóc thèm muỗi. Thường khi cả ngày chẳng thấy anh ta nói một câu, ấy hễ mà ngồi vào mâm rượu là cả người anh ta bỗng tỉnh táo, linh hoạt và cái khuôn mặt bệch bạc, rụng hết lông mày của anh phút chốc rạng rỡ hẳn lên. Lúc ấy sao mà anh ta nói chuyện có duyên đến thế! Anh gọi chó là “hươu thềm”, là “nàng thơ của cụ Lỗ Trí Thâm”. Chó vàng anh gọi là “ka ki”, chó đen anh gọi là “nhung Thượng Hải”. Những con chó thui nhoáng mỡ treo lủng lẳng trước quán hàng anh gọi là “leo coóc” v. v… Hôm Đặng vào chơi tôi, con chó ấy đang ngồi phơi nắng ở giữa sân. Cũng như mọi bận, vừa thấy động bóng người, cu cậu đã lử khử đứng dậy, cúi đầu lặng lẽ lui lủi xuống bếp. Nhưng mà Đặng đã nhìn thấy nó rồi. Anh ta tiếng rằng hấp him, cặp bà lời nhưng lắm cái lại tinh ra phết. Vừa thoáng thấy con nhãi nhép ấy, anh ta bỗng reo lên:
-A ha, nhà này vừa sắm được của quý!

Nhà tôi ngồi trong bếp nhìn ra chưa hiểu nhà mình sắm được cái của quý gì, Đặng đã ngồi sà xuống đất, nheo mắt khẽ gọi:
-u, chậc, chậc chậc!… Tiếng gọi nghe thật dịu dàng, âu yếm. Con chó đứng lại lưỡng lự, nghi ngờ. Từ ngày về nhà này có bao giờ nó được nghe cái tiếng gọi thương yêu đến như thế.
-u, chậc chậc chậc!… Con chó sướng quá, ngoáy tít cái đuôi trụi, dặt dẹo trên bốn cái khoeo gày quay trở lại. Đến gần Đặng, nó nằm rạp xuống, thè lưỡi ra liếm liếm, và khẽ rít lên ư ử. Đặng cúi xuống nghiêng nghé cặp kính nhìn con chó hồi lâu, anh gật gù, tấm tắc khen:
-Hay! Hay lắm! Sáng kiến của bà Hiền phải không? Nhà tôi thấy Đặng chú ý đến con chó mình mua một cách đặc biệt như vậy cũng hởi lòng hởi dạ. Nhà tôi cười bảo anh ta:
-Vâng tôi mua đấy anh ạ. Thế mà nhà tôi cứ bảo đem cho…
-Cho là thế nào!
-Đặng trợn mắt lên cướp lời

-Chị cứ để đấy cho tôi. Ba tháng nữa tôi giở lại, được vô khối là việc. Đặng nháy tôi một cái, làm dáng điệu đang thủ một cái chầy sau lưng, miệng ngọt ngào gọi “êu, chậc…” rồi thình lình anh trợn mắt, mím môi bổ xuống không khí một cái thật mạnh:
-A lê hấp! Cho một chầy, chị biết chửa? Đặng cười ré lên một hồi ròn khanh khách. Con chó dưới chân Đặng cồn giật thót người, cúp đuôi chạy vút đi. Đặng càng cười đắc ý. Đi với Đặng cồn còn có Nhược Dự. Bận nào Đặng đến nhà tôi, Nhược Dự cũng đi theo. Anh ta là người khó hiểu, khôn ngoan và kín đáo. Ngồi nói chuyện với anh ta khó mà biết được ý thật của anh ta như thế nào. Bao giờ anh ta cũng nói theo ý của người khác và nếu gặp một ý nào đối chọi lại lập tức anh ta rụt lại ngay.

Lúc nào anh ta cũng khoác bên ngoài cái vẻ lờ mờ, rụt rè như một người lạc lõng, hiểu rất ít về thời cục. Hồi mới chạy lên trên này, Nhược Dự còn để cái đầu trọc. Cái đầu sinh ra từ ngày còn Nhật chưa có dịp chuyển sang đầu thường, nhưng chỉ mấy tháng sau tóc anh đã mọc rất dài, không những thế anh còn để cả bộ râu dài lượt mượt như một ông cụ nữa. Bộ râu lạc lõng trên cái mặt non choẹt, trắng nhẫy nom như râu đóng kịch. Có bộ râu ấy, anh có thể rền rĩ, than thở với mấy ông xã đội trưởng rằng mình già yếu không thể đi canh gác, hay đi phá đường được; hoặc từ chối một vài việc gì đấy mà ủy ban muốn nhờ anh ta giúp đỡ. Trước ngày, Nhược Dự cũng có viết văn. Anh ta viết những truyện “ái tình” lâm lá, sướt mướt với một thứ văn chương uốn éo, quen thuộc, rẻ tiền. Anh ta làm văn chẳng khác gì người thợ kim hoàn quen tay làm đồ Mỹ ký. Vì thế, từ ngày khởi nghĩa anh không viết gì được nữa, mà anh ta cũng chẳng nghĩ gì đến chuyện tiếp tục viết văn. Tuy vậy, cả nhà anh ta, từ bà cả già mõ bán bún riêu ngoài quán đình Bùi, đến cô vợ hai còn trẻ măng chuyên việc bếp núc, hầu hạ chồng và con chồng ở nhà đều như còn luẩn quẩn, mê luyến với cái không khí của một thời “oanh liệt” của ông chồng trước kia… Trước mặt người lạ, họ đối đãi, nói năng với nhau hoa mỹ, kiểu cách như người trong truyện cả. Nghĩa là nghe nó ngớ ngẩn, giả dối rất chướng tai!

Người như vậy, kháng chiến cũng không bỏ. Biết Nhược Dự trước kia có viết văn, cơ quan tôi mấy bận cử người về đón anh đi công tác. Bận nào Nhược Dự cũng có bộ mặt rầu rĩ, băn khoăn vì nỗi hoàn cảnh anh ta bó buộc, vì anh ta nặng gánh gia đình, vì anh ta bệnh tật, đau yếu luôn. Phải loanh quanh ở nhà như vậy anh ta lấy làm xấu hổ và khổ tâm lắm lắm.

Người địa phương vì thế ghét vợ chồng anh ta thậm tệ. Giữa cuộc kháng chiến bùng nổ, không ai có thể ưa một anh đàn ông sức dài vai rộng mà chỉ thấy cập kè với hai bà vợ và nhởn nhơ với một ngôi hàng. Người ta làm vợ chồng anh khó chịu, tức tối ngấm ngầm, có khi phải tủi hổ. Mỗi lần Đặng có việc đi qua tạt vào chơi, vợ chồng Nhược Dự rất mừng. Trong số bè bạn ngày trước chỉ cóĐá Đặng là chịu chuyện được vợ chồng nhà này. Nhược Dự vớ được Đặng như người chết đuối vớ được cọc. Mỗi lần gặp nhau lại rượu. Trên mâm rượu “tha hương ngộ cố”… ít ra anh ta cũng nói được đại ba câu cảm khái vụn, ngâm ngợi một vài bài thơ than thở cho thân, cho thì. Có lần rượu vào anh ta rũ xuống mà khóc. Hôm Nhược Dự theo Đặng đến nhà tôi chơi, thấy Đặng có ý kiến về con chó ghẻ như vậy, anh ta liền “bốc” ngay. Anh ta ca tụng các món thịt cầy, ca tụng cái đạo của những ai biết thưởng thức thịt cầy, cuối cùng anh ta hẹn ba tháng nữa, Đặng trở lại sẽ hội ẩm một chầu thịt cầy có thể gọi là “phanh dương, tể ngựu…”

-Cô hai nhà moa sẽ đội sang một cái quả sơn đầy bún với hai cây rượu đặt thật trứ danh. Các toa sẽ thưởng thức của bà cả nhà moa món giò chó, món thịt chó hầm cách thủy, món thịt chó hấp… à, các toa đã được nghe bà cả nhà moa ngâm “Hồ trường” chưa? Này “en” mà ngà ngà mấy chén vào, ngâm “Hồ trường” thì lạ lùng hết sức… Buồn mà thấm vô cùng…
Thực tình trong lúc này, tôi chẳng thấy hay ho gì những cái trò ấy. Nhưng thôi, con chó như thế, nó cũng yên với cái phận của nó rồi. Tôi cũng thôi không còn phải băn khoăn, kỳ kèo, ca thán gì về nó nữa. Trong những ngày chờ đợi nó béo, lớn lên, tôi như đã quên nó, coi như không có nó trong gia đình. Đôi lần gặp Đặng, anh ta có nhắc nhở, tôi mới nhớ ra và trả lời một cách mù mờ rằng: con chó ấy có dễ nó cũng kha khá lên rồi.

Thật ra tôi có biết bây giờ con chó nó gầy, béo ra sao đâu. Một phần vì độ ấy cơ quan tôi đã chuyển sâu vào rừng, tôi ít khi về nhà; một phần vì con chó ấy cứ thoáng thấy bóng tôi, nó đã lui lủi lỉnh đi, nằm bẹp ở xó xỉnh nào rồi. Một buổi chiều, tôi vừa ở cơ quan ra thì gặp Đặng khoác ba lô, chống cái gậy hèo khật khưỡng đi tới. Thấy tôi, anh ta mừng quá, phì cả hơi rượu vào mũi tôi, nói choang choang giữa rừng:
-à, mày… Thằng Hiền! Thế nào, to chưa? To rồi chứ còn gì? Tôi đứng ngây ra không hiểu Đặng hỏi tôi cái gì to chửa. Anh ta phì cười, phát đen đét vào vai tôi:
-Bố khỉ, bố đần!… Con chó ốm nhà mày ấy, to chửa? Khử được rồi chứ còn gì? Tôi gật đầu cười “à à…”. Ra cái tay bợm rượu này không lúc nào nó quên được con chó!
-Tao đã bảo vợ chồng nhà Nhược Dự rồi. Hai chai bố trong suốt như nước suối… Anh nháy tôi một cái, ngấp ngó cặp kính thõng xuống tận mũi, nhìn tôi:
-Kể ra vợ chồng chúng nó cũng có khí… nhạt đấy. Mặc mẹ, được việc cho mình thì thôi, hả? Anh ta cười khá lên một dịp ròn tan.


-Chủ nhật hả! Chủ nhật này mày về, ta làm một chầu văn hóa cao! Đặng bắt tay tôi, hỉ hả chống gậy lên đường. Nhưng sự đời có mấy khi chiều những ý muốn đã định trước. Đặng vừa đi hôm trước thì hôm sau có tin giặc nhảy dù Thái Nguyên, rồi có tin giặc từ Bắc Giang đánh lên, Bắc Ninh đánh sang. Lối Kim Tràng, Cầu Xim, Cầu Đồng; bên núi Hia, núi Đót; dưới chợ Lữ, bến Lủi, bến Phà, đâu đâu cũng có giặc cả rồi. Người các mạn dưới đánh trâu, bò, bồng bế, gồng gánh chạy giặc dạt lên đen kín cả ngoài cánh đồng. Cơ quan tôi đã chuẩn bị từ trước, vừa có tin giặc nhảy dù Thái Nguyên, lập tức chuyển sâu thêm nữa vào rừng, sang một địa điểm tỉnh khác. Tôi được anh em đồng ý cho về thu xếp gia đình rồi sẽ theo cơ quan sau. Anh em ai cũng biết cảnh nhà tôi neo bấn, chỉ có một mình vợ tôi với đứa con gái nhỏ, lại ở vào giữa vùng giặc đang đánh lên, một mình vợ tôi sẽ không biết xoay xỏa như thế nào trong cái tình thế khó khăn, bối rối ấy được. Tôi về chuyến ấy, có ý định sẽ đưa gia đình theo cơ quan, ở một trại ấp hẻo lánh nào đấy cách cơ quan tôi chừng độ dăm bảy cây số cho tiện sự đi về thăm nom. Con chó của tôi như thế không thể “làm một chầu văn hóa cao” như Đặng hẹn nữa, và cái số phận của nó cũng vì cuộc chạy giặc ấy mà thay đổi.

Đêm ấy tôi từ cơ quan về đến nhà thì vợ con tôi đã chạy cả rồi. Hàng ấp cũng không còn nhà nào ở lại. Xóm ngõ vắng tanh, súng giặc nghe rền từng chập. Nghe rõ tiếng liên thanh ùng ục và, từng phát súng trường lẻ tẻ rít vào không khí. Tôi biết vợ con tôi đã chạy vào đồng Kĩnh. Từ mấy tháng nay, mỗi bận tôi về nhà, hay viết thư về cho nhà, tôi đều căn dặn vợ tôi lúc nào cũng phải hết sức gọn gàng, phòng giặc đánh lên, hoặc nhảy dù là có thể bế con chạy ngay được. Trường hợp tôi chưa về kịp, mẹ con hãy chạy vào nhà cụ bếp Móm trong đồng Kĩnh làm chỗ liên lạc, tôi sẽ về đón. ở trong ấy gần rừng, hẻo lánh dễ chạy, mà cụ bếp Móm lại là chỗ đi lại quen biết từ trước, nhỡ xảy gặp khó khăn có thể nhờ cậy được. Tôi đảo về qua nhà, đi vẩn vơ ngoài cái sân bỏ vắng mấy lượt, rồi cắm đầu đi thẳng vào đồng Kĩnh. Bấy giờ đã khuya lắm.

 Đêm tối vẫn rùng rùng bóng người, bóng trâu bò chạy giặc. Người ở vùng dưới chạy lên đây, người ở đây lại chạy mãi vào những mạn ven rừng. Trong các búi cây, bờ ruộng, khe suối, rệ đồi, trong các lều quán ven đường, chỗ nào cũng thấy nhan nhản những người. Chỗ nào cũng nghe tiếng trẻ khóc, tiếng gọi thưa, tiếng than thở, chửi rủa. Ruột gan tôi càng rối lên. Vào đến nhà cụ bếp Móm, tôi giục nhà tôi thổi cơm ăn, chuẩn bị đi ngay đêm nay. Bây giờ tôi mới chợt nghĩ đến con chó. Tôi thấy nó vương vướng. Đem nó theo gia đình lúc này thật chẳng được tích sự gì, rất phiền, mà rất có thể nguy hiểm.


Mà bỏ nó lại thì… thật ra trong lòng tôi cũng áy náy. Trong cái lúc chạy giặc này, trong cái lúc con người ta đang phấn đấu giành lấy sự sống, sự đoàn tụ, yên vui, phải bỏ lại bất cứ một vật gì đã có trong gia đình mình cũng đều thấy xót xa như phải bỏ lại một con người và có cảm giác như đấy là một cuộc chiA Ly phũ phàng giữa cái sống và cái chết. Con chó ấy, từ trước vẫn sợ tôi, thoáng thấy bóng tôi là tránh cho thật xa, đêm nay hình như nó cũng thấy có những cái gì khác hẳn, cái gì như là tan nát, thấy tôi về, nó mừng quá, nó quên cả cái thói quen sợ tôi của nó, nó chạy bổ ra với tôi, mừng rối rít. Nó quấn lấy tôi, dều dễu theo tôi, nằm phục dưới chân tôi mà hít hít, ngửi ngửi rên lên những tiếng ư ử sung sướng, thân thiết. Thì ra những lúc gian nguy, chẳng những con người, đến con vật cũng quên hết những ghét bỏ, hiềm khích cũ mà gần gũi, thương yêu nhau, thấy cần phải nương tựa vào nhau mà sống. Tôi bỗng đâm ra lưỡng lự không biết đối xử với con chó này như thế nào, bỏ nó lại, hay là mang nó đi?… Người chạy giặc vẫn kéo lên mỗi lúc một đông. Có tốp tiếp tục đi mãi vào trong mạn rừng, có tốp nghỉ lại ở đây. Cái túp nhà ông cụ bếp Móm chặt nèn những người.


Trong số những người mới đến tôi thấy có cả ba vợ chồng Nhược Dự, tôi mừng quá, chạy ra hỏi tin giặc. Nhược Dự với cô vợ hai không nói gì. Đêm nay anh ta thay đổi hẳn, gặp tôi anh ta cũng chẳng thấy nhích lên được một nét vui nào. Anh ta chỉ lầm lầm cái mặt và thở dài. Sự lo lắng, chán nản, oán trách hiện lên đầy mặt. Anh ta đối với tôi lúc này lại như có vẻ hờ hững, khó chịu. Trái lại chị vợ cả lại nói rất nhiều, cặp môi ăn trầu thuốc thâm đen của chị cuốn lên. Chị nói bằng mắt, bằng tay, bằng nét mặt, bằng tất cả cái sắc sảo của một tay buôn lọc lõi. Có lúc chị nói liên liến một hồi như cái máy khâu đạp cố rồi đột nhiên ngừng lại, đưa mắt dò la đánh giá người nghe, có lúc chị nói khoan thai thẽ thọt như thể giọng mẹ chồng ngồi kể xấu nàng dâu. Có lúc chị giả giọng ba bốn người trò chuyện đối đáp với nhau. Chị vừa nói vừa cười ròn khanh khách. Kể chuyện giặc đánh lên, giặc đốt làng mà giọng chị nghe hồ hởi như chuyện vừa kiếm được món hời.


-Tại anh Nhược Dự đấy, kêu là chiều tối rồi, nó không lên nữa, để sáng sớm mai hẵng chạy còn kịp chán. Thế mà ai ngờ nó đi đêm anh ạ. Nó đốt cái quán ở đình Bùi của tôi rồi. Tiếc quá.
-Nó lên đình Bùi rồi chị? Chị bổ cái mặt chị vào mặt tôi:
-Chả có hai lần đình Bùi! Nó đến Nhã Nam rồi anh ạ. Thật cả là một sự điêu linh. Cũng chỉ tại mấy bố du kích nhà ta thôi anh ạ. Súng ống chẳng có, có mấy khẩu súng kíp còm cũng đậm đọp bắn nó. Nó mấy cáu, nó mấy đốt cho. Nó đốt đình Bùi, đốt Cao Thượng, bây giờ nó đang đốt Nhã Nam đấy. Vợ chồng tôi vừa chạy giặc, vừa ngoảnh lại nhìn ngọn lửa quân xâm lăng tàn bạo nó đốt nhà, đốt cửa của đồng bào mà trái tim của vợ chồng tôi tưởng chừng như sắp sửa tan vỡ ra từng mảnh… hé, hé, hé…

Chị ngửa cổ, bưng miệng cười khé lên. Mặt anh chồng cứ nhăn như bị. Nhược Dự vốn là người kín đáo, giữ gìn, có điều gì hậm hực, không được như ý, anh ta chỉ hậm hực riêng với mình, hoặc quá lắm thì anh hậm hực với hai bà vợ của anh. Cái lối văn hoa giả khôn, giả dại của bà vợ anh, thường ngày làm cho cái cửa hàng bún riêu của vợ chồng anh đông khách, người ta ngồi ăn hàng và xem một người ăn nói lạ tai như vậy cũng thấy hay hay, nhưng hôm nay, nghe vợ nói năng như vậy Nhược Dự ta khổ tâm quá, khổ tâm lắm. Anh khổ tâm không phải cái lối nói ba hoa, giả dối của vợ mà có lẽ anh khổ tâm vì bà vợ của anh không biết giữ mồm giữ miệng, nói những điều mà anh chỉ dám nói trong cổ họng. Anh ta vội hỏi tôi một câu, có ý lái khéo câu chuyện sang hướng khác:
-Lâu nay toa có sáng tác được cái gì mới không? Hình như thấy câu nói của mình lạc lõng không hợp với tình thế lúc này, anh ta hỏi thêm:

-Lâu nay toa có gặp Đặng không? Toa có biết lúy chạy đâu không? Tôi chưa kịp trả lời, Nhược Dự đã quay ra nói gì nho nhỏ với bà cả. Hình như anh không cần thiết câu trả lời của tôi cho lắm. Tình hình lúc ấy đột nhiên lại thấy lộn xộn. Người ở ngoài chạy dồn vào, người ở đây lại nhốn nháo kéo nhau đi. Tin người tản cư nghe mỗi lúc một khác, những tin không biết từ đâu truyền đi rất nhanh. Lúc có tin giặc đã đến Nhã Nam, lúc có tin giặc ở Thái Nguyên đánh sâu vào rừng lùng các cơ quan, lúc lại có tin giặc ở Thái Nguyên đốt phá Thác Huống, Đá Gân. Mạn Vĩnh Yên, Phúc Yên cũng có tin giặc vào đến chân Tam Đảo. Con đường tôi và vợ con tôi phải đi qua đêm nay cũng có tin giặc đánh đến nơi rồi. Đằng nào cũng phải vượt thôi!
-Này mình ạ…
-Tôi nhìn nhà tôi đắn đo một lúc
-Cái con chó nhà ta ấy, tôi thấy, tôi nghĩ không thể đem nó đi được đâu.
-Sao, mình bảo gì cơ? Nhà tôi ngồi nắm nắm cơm bằng chiếc khăn tay trên mặt cái sàng, ngẩng lên nhìn tôi sửng sốt. Tôi ngập ngừng nói thêm:
-Cái con chó nhà ta ấy, tôi thấy không thể đem nó đi theo mình đêm nay được đâu.


-Sao lại không đem nó đi được! Mình nói tôi chẳng hiểu ra sao cả. Nhà tôi cau mặt lại một cách khó chịu:
-Nuôi nó ngần ấy ngày giời, gặp lúc như thế này lại định bỏ nó! Mình nghĩ thế nào, lại tính thế? Chả thà là thịt nó đi như anh Đặng nói lại đi một nhẽ. Tôi nín lặng chẳng biết nói với nhà tôi như thế nào, trong lòng thật cũng thấy hổ thẹn với những ý nghĩ của mình. Ngoài kia, ba bốn đám lửa đốt làng, đốt phố rừng rực trong đêm tối. Những đám lửa nom gần lắm rồi. Tôi càng nôn nao, bối rối, tôi nói với nhà tôi như dỗ dành, như phân trần:
-Có phải rằng tôi muốn để lại nó đâu, nhưng mà giặc thì nó đánh đến nơi rồi, xung quanh mình chỗ nào cũng có tin giặc, mình đem nó đi làm sao được… Thôi, đành nhẽ là phải gửi nó lại… Sau này giặc yên, về ta lại đem nó về… Nhà tôi cắm cúi nắm nắm cơm không trả lời. Nắm xong, nhà tôi lẳng lặng thu xếp, bỏ vào quang gánh, rồi đi vào trong nhà. Nét mặt nhà tôi lúc ấy nom lầm lì và buồn bã vô cùng. Lát sau nhà tôi và cụ bếp Móm từ trong nhà đi ra. ông lão bước nhanh về phía tôi, xăm xắm:
-Thôi được, hai bác không đem được nó đi thì để lại, tôi trông nom cho, anh em mình, lo gì. à hà, con chó này đang ngon thịt đây…


“Quái thật, làm sao ai nhìn đến con chó cũng nghĩ đến chuyện thịt?” Tôi thấy hơi khó chịu. ông lão chắp hai tay sau đít, cười gật gật ngắm nghía con chó. Chừng như con chó ấy nó cũng thấy có điều gì khác ý, nó vội rúc vào chân tôi liếm liếm, ngửi ngửi, hai chân nó đập đập vào chân tôi, ngoáy đuôi mừng mừng. Nhà tôi chẳng nói chẳng rằng, một tay cầm cái xích, một tay nắm gáy lôi tuột nó ra, xích nghiến lại. Con chó giật mình, hoảng quá nó chồm lên và càng cố lăn vào chân tôi, trốn tránh, giẫy giụa, kêu ăng ẳng. ông cụ bếp vui tính thấy thế cứ nhe bộ lợi ra cười kha khá, còn nhà tôi thì hai mắt càu cạu, môi mím chặt lôi sềnh sệch con chó ra một cách phũ phàng. Nhà tôi buộc nó vào gốc mít gần đấy. Con chó lăn lộn trong cái xích căng thẳng, cái xích vít cổ nó lại, nó cố nhoai về phía tôi mà không được, nó tru lên từng hồi. Trong ánh lửa cháy bập bùng ở bếp hắt ra, tôi thấy mắt nó có hai đốm lửa nhỏ tý. Hai đốm lửa ấy nhìn vào tôi oán trách, cầu khẩn lúc lại thấy như thù hằn, giận dữ. Tôi cúi mặt xuống, không dám nhìn vào con chó ấy nữa.

 Khốn nạn thân nó, bây giờ chắc nó biết chủ nó bỏ nó. “Thôi, để chuyến này chạy giặc về, tao sẽ nuôi mày, tao không dám phụ mày, tao không thịt mày nữa đâu”… Nhà tôi đã thu xếp quang gánh, đồ đạc xong. Đứa con gái nhỏ của chúng tôi ngồi gọn bên một thúng, xung quanh nó quây chăn, tã cho ấm, phía trên che một cái chiếu cuộn khum khum như cái mái lều. Một bên là nồi niêu bát đĩa, tương muối và các thức cần dùng khác. Bây giờ nhà tôi mới cầm một bọc gạo vừa mới san ở trong bị ra, đi đến trước mặt cụ bếp Móm:
-Thôi, chúng cháu đi đây… Nước mắt nhà tôi bỗng giàn ra, nhà tôi đứng im trước mặt cụ bếp nghẹn ngào không nói được. Tiếng con chó vẫn kêu ăng ẳng và, tiếng cái xích căng ra xoắn vào thân cây mít lục cục.
-Cháu… gửi lại cụ một ít gạo đây, nhờ cụ trông nom nó giúp cháu… Sau này thiếu đủ như thế nào, về cháu sẽ xin thưa lại với cụ…
-Được! Được! Chỗ tôi với hai bác ấy mà. ông cụ bếp cười, sua sua tay, gạt đi. Nhà tôi khẽ chào ông cụ, bước vội về phía quang gánh. Tôi cũng đứng dậy khoác ba lô, ôm bọc chăn màn chào cụ bếp, bước theo nhà tôi. Từng chặp súng máy nổ rền ngoài đêm tối. Và, đám lửa đốt làng, đốt phố ở mé Cao Thượng càng khuya nom càng rừng rực ngất trời. Bao giờ cho giặc rút? Bao giờ cho vợ con tôi được sống yên ổn dưới một mái nhà? Tôi thèm một cái mái nhà… “ắng!… ắng! ắng!…”


Tiếng con chó lồng lộn, cuống quít đằng sau bước chân tôi. Nó như gọi tôi, nó như kêu cứu, như than khóc, oán trách. Tôi lẳng lặng bước qua chỗ vợ chồng Nhược Dự đang đứng. Rõ ràng anh ta biết tôi đi nhưng lại lờ đi như không nhìn thấy. Ra khỏi ngõ tôi thoảng nghe tiếng chị vợ cả nói với chồng:
-Vợ chồng nhà ấy họ đi đấy à? Này, họ bỏ lại con chó cậu ạ. Và tiếng anh chồng dấm dẳn:
-Đến người cũng chả chắc giữ được nữa là con chó!… Tôi xóc lại cái quai ba lô, bước theo hút cái bóng nhà tôi đang đi xăm xắm xuống đồi. Đêm “thu đông” lạnh buốt. Rải rắc trong những búi sim, mua rậm, bóng những người chạy giặc nằm ngả ngốn, chụm đầu vào nhau nói chuyện rì rầm. Trâu bò hàng đàn sồn sột gậm cỏ thầm trong tối.
Tiếng con chó tự trong nhà cụ bếp Móm đưa ra vẫn nghe rõ mồn một “ắng!… ắng! ắng!…”. Tiếng con chó da diết, nhọn hoắt xói vào ruột gan tôi. “Thôi để chuyến này về tao nuôi. Tao sẽ nuôi mày, tao không bỏ mày đâu…”. Tôi nhủ thầm với tôi một lần nữa như vậy.

* * *
Hai tháng sau tôi về. Giặc rút lâu rồi. Cuộc tấn công rầm rộ của chúng nó ngày ấy ai ngờ lại là cuộc đánh tháo cho đám quân mắc nghẽn ở giữa rừng già trong thị xã Bắc Cạn. Chúng nó tràn lên đâu trong vòng chỉ có nửa tháng thì rút hết. Vợ con tôi cũng đã dọn về nhà cả rồi. Dọc đường từ cơ quan về thăm gia đình hôm ấy tôi rất vui. Bao nhiêu nỗi vui dồn đến chen chúc rộn ràng trong ý nghĩ. Mấy tháng ở cơ quan, ngày lại ngày trông ra chỉ thấy cây già và núi thẳm bưng bít xung quanh, bây giờ về xuôi, tôi lại được thấy trời rộng, sông dài và những cánh đồng bát ngát. Tôi lại sắp được gặp vợ, gặp con tôi. Mỗi bước chân, bao nhiêu vui sướng. Nhưng mà tôi đã quên mất con chó khốn khổ ấy. Nhà tôi thấy tôi về, mừng quá cũng không kịp nhắc đến nó. Sau một trận giặc đánh lên, cái sống cái chết kề bên bây giờ mới được đoàn tụ, ai mà còn kịp nghĩ đến một con chó xấu xí!

Một hôm tôi chợt thấy cặp kính trắng lấp loáng của Đặng cồn từ đầu ngõ đi vào, bấy giờ tôi mới giật mình, sực nhớ đến con chó. Tôi quay lại hỏi nhà tôi:
-à, mình này! Con chó nhà ta đâu nhỉ? Mình chưa vào trong cụ bếp dắt nó về à? Nhà tôi đứng ngẩn ra một lúc. Có lẽ nhà tôi cũng không ngờ rằng tôi đã về bằng ấy ngày giời rồi vẫn không nói chuyện con chó ấy với tôi.
-Nó chết rồi!…
-Nhà tôi nói khe khẽ.
-Chết rồi? Làm sao mà chết được?… Tôi trố mắt lên hỏi lại. Nhà tôi cúi mặt xuống, thở dài:
-Nó chết thương lắm cơ mình ạ. Không phải nó chết trong cụ bếp Móm đâu. Nó về nhà ta nó chết đấy. Nhà tôi ngừng lại, cắn môi chớp chớp hai mắt nhìn ra ngoài sân. Lát sau, nhà tôi đứng dậy mời Đặng vào trong nhà, rót nước mời anh rồi mới tiếp tục câu chuyện.

Chao ôi! Con chó xấu xí ấy, của tôi! Con chó từ lúc mua, đến lúc chết không được một lần vuốt ve! Nó đã chết một cách thảm thương và trung hậu quá. Từ hôm vợ chồng tôi gửi lại nó cho ông cụ bếp Móm, con chó không chịu ăn uống gì. Nó chỉ kêu. Nó kêu suốt ngày, suốt đêm. Một đêm, ông cụ bếp không thấy con chó kêu nữa, thì ra nó đã xổng xích đi đâu mất rồi. Hôm nghe tin giặc rút, ở trong khe đồn Khau Vắt dọn về, nhà tôi tạt vào nhà cụ bếp Móm định đem con chó về nhân thể, nhưng vào đến nơi thì nó không còn đấy nữa. Lúc ấy nhà tôi cũng yên trí là con chó mất rồi. Chắc chắn nó sẽ lạc vào một trại ấp nào đấy và người ta làm thịt nó. Nhưng khi nhà tôi về đến nhà. Bà con xóm giềng vừa chạy sang láo quáo thăm hỏi thì, ở ngoài vườn sau, có mấy tiếng chó hú lên thảm thương và ghê rợn. Từ sau bụi dứa rậm rạp, con chó khốn khổ ấy lảo đảo đi ra. Người nó run lên bần bật. Nó gầy quá, chỉ còn một dúm xương da sộc sệch, rụng hết lông.

Nó đói quá, đi không vững nữa. Nó đi ngã rụi bên này, rụi bên kia. Rồi nó không còn đủ sức mà đi nữa. Nó nằm bệt trên đất, rúm người lại, lết lết lê dần về phía nhà tôi. Lúc ấy cả người nó chỉ còn có cái đuôi là còn ngó ngoáy được để mừng chủ và, cái lưỡi liếm liếm vào tay chủ. Khốn nạn con chó! Được gặp chủ nó mừng quá. Từ trong hai con mắt đờ đẫn của nó mấy giọt nước chảy ra. Lát sau thì nó không liếm được nữa, cái đuôi ngoáy yếu dần, yếu dần rồi im hẳn. Nó chết. Tôi tối xầm mặt lại, vừa thương xót con chó, vừa thấy xấu hổ. Quả thật tôi chỉ là một thằng tồi. Một thằng ích kỷ. Tôi chỉ nghĩ đến mình và vợ con mình. Đến như con chó mình nuôi, mình đối xử với nó có được như cái tình nghĩa của nó đối xử với mình đâu? Đặng vẫn ngồi im. Từ lúc đến, đến lúc nghe xong câu chuyện, Đặng vẫn ngồi im. Hình như câu chuyện con chó ấy của nhà tôi kể làm anh có điều gì áy náy, nghĩ ngợi.
 
-Này, lâu nay cậu có được tin gì về vợ chồng Nhược Dự không? Lúc lâu sau Đặng chợt ngẩng lên nhìn tôi hỏi. Cặp môi mỏng dính của anh kéo sệch một bên lên thành một nụ cười. Anh tự trả lời câu anh vừa hỏi:
-Nó dinh tê rồi! Nghe nói vào trong ấy nó viết báo, viết truyện chửi kháng chiến, chửi bọn mình đểu lắm. Cả hai chúng tôi cùng im lặng. Cái im lặng trang nghiêm ghẻ lạnh, thật khó chịu.

 
Đọc lại “con chó xấu xí”
Sau một thời kỳ dài bị phê phán, Văn Nghệ Trẻ đăng lại truyện ngắn “Con Chó Xấu Xí” của Kim Lân. Đọc lời bình của Bảo Ninh, tự nhiên tôi muốn đọc lại một truyện ngắn đã gây ra nhiều rắc rối cho tác giả và cũng là một chuyện chứng minh rằng có những điều mà ở thời buổi ấy thật bình thường, xảy ra hàng ngày thì về sau lại rất lạ lùng tưởng chuyện xảy ra một nơi chốn nào khác như trên cung trăng chẳng hạn… Thời nào có đặc thù riêng của thời ấy. Trên mọi phương diện khác, các sự kiện có thể bị bôi xóa đi. Nhưng, ở văn chương thì không như vậy. Những sự kiện đã được ghi chép, không bị xóa nhòa mà trái lại còn là những chứng tích cho một thời. Mà, những chứng tích ấy, càng về sau, lại càng làm rõ nét hơn một xã hội, một thời thế nữa…

Tác phẩm của Kim Lân có hai tập truyện ngắn : Nên Vợ Nên Chồng và Con Chó Xấu Xí. Trong tập “Nên Vợ Nên Chồng” có truyện “Ông Lão Hàng Xóm”, một truyện mà Xuân Sách đã hạ một câu thật tuyệt “chết vì ông lão bên hàng xóm kia”. Nhân vật của truyện là một ông lão, tuy muốn sống một đời bình thường nhưng lại mang nặng vết thương cải cách ruộng đất. Với tâm cảm ấy ông nhìn hàng xóm làng mạc khác hẳn thuở xưa. Cái tình lân lý tương thân tương trợ ngày trước đã hết, mà thay vào đó là sự ngờ vực của những người đã trải qua những thay đổi của nhân tâm, của tâm lý những con chim bị tên nhìn cây cong tưởng cây cung nhắm bắn. Truyện ấy còn có một nhân vật khác, cô đội trưởng đội cải cách non choẹt đã từng làm chánh án những buổi đấu tố và xử tử biết bao nhiêu địa chủ trong vùng. Ông tả lại cái hoạt cảnh cô đội trưởng tập lái xe đạp, một chiến lợi phẩm tịch thu được của một gia đình địa chủ, ở sân đình, với tất cả sự mỉa mai và trào lộng : “Cô đội trưởng lùn tè tè, hai bàn chân không đạp tới pê-đan… cặp mông mập xoắn lấy chiếc yên xe khi chân cô đạp lên đạp xuống..”. Nhân vật cốt cán, là chủ lực của chế độ mà mô tả như thế thì làm sao những quan cán bộ “lãnh đạo” văn hóa như Trường Chinh, Tố Hữu,.. chấp nhận cho được. Thế là, sách in ra, bị tịch thu. Nhưng, mọi chuyện đã muộn, mọi người đã đọc, và, trong sổ đen công an văn hóa, Kim Lân bị ghi thêm một điểm xấu….

Trong lời bình của Bảo Ninh, viết sau hơn bốn chục năm tập truyện ngắn “Con Chó Xấu Xí” ra đời, tôi thấy hình như tác giả Nỗi Buồn Chiến Tranh muốn diễn tả một tâm tư nào, có khác với thời ấy nhưng cũng giống với thời ấy. Tuy bây giờ, là thời của đổi mới, cũng như có một thời là “sửa sai”. “Đổi” hay “sửa”, có làm mất đi được cái chất phi nhân vong thân không?

Bảo Ninh viết:
“Con Chó Xấu Xí hồi mới ra đời bị phê dữ lắm. Cụ thể bị phán những gì qui kết ra làm sao chẳng ai còn nhớ, chỉ nhớ là rất kịch liệt. Cái thời đến lạ. Độc giả thời nay chịu không hiểu được. Đành rằng ở ta, và có lẽ chẳng riêng gì ở ta, cái sự truyện ngắn mà lại lấy loài vật, nào hợi, nào sửu, nào thân nào tuất ra làm “nhân vật” thể nào tác giả cũng phải chuốc lấy phiền toái, song trong Con Chó Xấu Xí thì quả thật đọc kỹ và soi mãi vẫn không thể lọc ra một đoạn một câu một chữ có thể làm cho thiên hạ chạnh lòng. Vậy mà…
Hay là bởi vì ở “con Mực nhà ta”, ở cái con êu êu thảm hại này với sự xấu xí phát ghê, sự thống khổ bi hài, và nhất là với sự tận nghĩa kinh hồn, mù lòa và điên dại của nó, có toát lên một cái gì đặc biệt con người chăng? ít nhất là so với vợ chồng Nhược Dự?…”

 Không phải như Bảo Ninh viết: “Cái thời đến lạ. Độc giả thời nay chịu không hiểu được” đâu. Mà tôi nghĩ. Bảo Ninh biết thừa ra đấy. Bởi, thời trước với thời bây giờ có gì xa lạ với nhau đâu. Dù đã đổi mới, dù đã bị áp lực của cả thế giới để buộc phải cải tổ. Tôi nghĩ, về phương diện văn học, cái giây buộc trói vẫn còn chứ không phải đã cởi ra với nhà văn như tổng bí thư đảng Nguyễn Văn Linh đã tuyên bố. Hồi trước đã có nhiều vụ án văn tự như những nhà văn trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm hay nhóm nhà văn trí thức bị chụp tội “xét lại”. Thì bây giờ, cũng có nhiều nhà văn nhà thơ bị truy bức bị đày ải bị treo bút bị theo dõi bị làm những công việc không liên quan đến chữ nghĩa.


Còn nhân vật vợ chồng Nhược Dự trong Con Chó Xấu Xí là hai nhân vật mà tác gỉa cố ý phác họa cho giời trí thức tiểu tư sản với tất cả những tật xấu gán cho. Ở một cực độ, ông cho thấy chủ tâm muốn so sánh nhân vật này với con chó xấu xí kia. Cũng cùng vô dụng, cũng cùng có bộ dạng không giống ai, cũng cùng bị những người chung quanh khinh ghét:
“Trước ngày, Nhược Dư cũng có viết văn. Anh ta viết những truyện “ái tình” lâm ly, sướt mướt với một thứ văn chương uốn éo quen thuộc rẻ tiền. Anh ta làm văn chẳng khác gì người thợ kim hoàn quen tay làm đồ Mỹ khí. Vì thế, từ ngày khởi nghĩa anh không viết gì được nữa mà anh ta cũng chẳng nghĩ gì đến chuyện tiếp tục viết văn.


Tuy vậy, cả nhà anh ta, từ bà cô già mõ bán bún riêu ngoài quán đình Bùi đến cô vợ hai còn trẻ măng chuyên việc bêp núc, hầu hạ chồng và con chồng ở nhà đều như còn lẩn quẩn mê luyến với cái không khí của một thời “oanh liệt” của ông chồng trước kia… Trước mặt người lạ họ đối đãi nói năng với nhau hoa mỹ kiểu cách như người trong truyện cả. Nghĩa là nghe nó ngớ ngẩn, giả dối rất chướng tai! Người như vậy kháng chiến cũng không bỏ. Biết Nhược Dư trước kia có viết văn cơ quan tôi mấy bận cử người về đón anh đi công tác. Bận nào Nhược Dự cũng có bộ mặt rầu rĩ băn khoăn vì nỗi hoàn cảnh anh ta bó buộc vì anh ta nặng gánh gia đình vì anh ta bệnh tật đau yếu luôn. Phải loanh quanh ở nhà như vậy anh ta lấy làm xấu hổ và khổ tâm lắm lắm. Người địa phương vì thế ghét vợ chồng anh ta thậm tệ. Giữa cuộc kháng chiến bùng nổ không ai có thể ưa một anh đàn ông sức dài vai rộng mà chỉ thấy cặp kè với hai bà vợ và nhởn nhơ với một ngôi hàng. Người ta làm vợ chồng anh ta khó chịu tức tối ngấm ngầm có khi phải tủi hổ…”

So sánh một con chó với một con người, hình như tác giả muốn làm chất nhân bản bị giảm sút đi trong đời sống ấy. Con chó dù bị bỏ đói bạc đãi đủ điều nhưng vẫn trung nghĩa, trong mọi hoàn cảnh dù tối tăm đến đâu cũng không bỏ chủ. Suốt đời sống nó, toàn là cảnh nằm nhóc mõm chờ cơm, dù mẩu xương thừa hay miếng cơm ôi cũng không có. Thế mà mỗi khi chủ về vẫn chạy tới vẫy đuôi mừng rỡ. Nhà cửa bị Tây vào ruồng bố đốt phá tan hoang, chủ phải chạy tản cư khi trở về vẫn thấy chú chó xấu xí nhưng có nghĩa ở đó dù sức tàn nhưng vẫn vẫy đuôi mừng rỡ. Có phải ông chủ bạc ác ấy, không biết quý trọng nhân nghĩa ấy, là tượng hình của những người lãnh đạo mà nhà văn Xuân Vũ ví von gọi là “dì ghẻ văn nghệ”?

Ví von vợ chồng Nhược Dư với chú chó, tác giả đã theo đúng những chỉ đạo được “trên” đề ra chưa? Hạ giá thấp giới tiểu tư sản, có gì mà rõ ràng cho bằng gọi bằng loài chó. Thế mà, trong cái nhận xét ấy, có một chút gì bất nhẫn, có một chút gì ngầm chứa từ liên tưởng xa xôi. Và, cái mục đích viết để gây căm thù giai cấp, viết để phân biệt ta địch, viết để minh họa chế độ, dường như không phải là chủ đích của Kim Lân. Mà, ngược lại có khi là những cái ngầm hiểu rất dễ gây ấn tượng đối nghịch…
Bảo Ninh nhận định: “Ngày nay chẳng biết phê gì biết bình gì hơn ngoài một chữ Hay, Truyện hay. Tuyệt hay. Mới ngẫm ra rằng nhà văn rất khác nhà khoa học, không chỉ khoa học tự nhiên mà cả khoa học xã hội. Nhà nghiên cứu thì thế hệ sau nhất định phải cao tầm hơn thế hệ trước, trò phải giỏi hơn chí ít là kiến thức phải đầy hơn thầy. Nhà văn thì không nhất thiết như thế. Nhà văn Kim Lân mà nói rộng ra là lớp nhà văn thế hệ ông, cho đến nay, và có thể sẽ mãi mãi, vẫn là những nhà văn bậc thầy, tác phẩm mãi mãi vẫn là hay mãi mãi vẫn vượt trội…”

Riêng tôi, trong cảm thức của mình, truyện Con Chó Xấu Xí đáng nói hơn từ cái chủ tâm hơn là cái tài nghệ văn chương. Làm người kể chuyện, ông viết kiểu khề khà và ít thấy chất sống động trong văn mạch. Nhưng, ở cái trầm lắng ấy, lại càng rõ hơn cái tâm thâm thúy và gợi lại nhiều suy tưởng. Không phải chỉ giản dị là tác giả mượn con vật để ví von với con người, mà phức tạp hơn, là biểu tượng của những đặc tính của một thời thế đã qua nhưng vẫn còn sức sống và là niềm nuối tiếc của nhiều người. Không gian, thời gian của Con Chó Xấu Xí là của một thời đã qua, của khó khăn vật chất, của hy sinh tinh thần. Nhưng, sau đó, khi phần nào đạt được những thành quả, thì có những người, như những chú chó cứ chờ hoài một hạt cơm rơi, một mẫu xương thừa nhưng chẳng bao giờ có. Những nhà văn, lưng còn thẳng, chân còn đứng chưa quì, trở về Hà nội, ngỡ ngàng với chiến thắng nhưng lại thầm tiếc thời gian khổ, lúc mà “dì ghẻ” (lãnh đạo văn nghệ) và “con chồng” (quần chúng văn nghệ) chịu chung thiếu thốn. Bây giờ, kẻ thì nhà cao cửa rộng lên xe xuống ngựa tem phiếu thượng hạng của ngon vật lạ không thiếu một món gì trong khi có người luôn thiếu, đói, vợ con nheo nhóc, chỗ ở chật hẹp.

Có lần nhà văn Kim Lân tâm sự :
“Tôi viết không chỉ vì nhuận bút. Viết được thì viết. Không viết được thì thôi. Những cái cố gượng viết đều giả, đều khô khan đọc lại thấy xấu hổ lắm.
Tôi nghĩ muốn theo đuổi nghề văn thì người viết phải là người tử tế trước đã. Dĩ nhiên không phải hễ là người tử tế ắt hẳn viết văn hay được. Viết văn phải có tài. Cái tài đến với nhà văn thật tự nhiên, mất đi cũng rất tự nhiên. Tôi thấy nhiều nhà văn lúc chưa biết nghề nếp tẻ ra sao, hồn nhiên thoải mái viết cái mình yêu, mình thích thì viết lại rất hay, đến lúc hiểu kỹ về nghề thì viết lại tồi đi rất nhiều. Hay chăng cái mình biết đã gò bó cái tự nhiên của mình? Những hiểu biết về nghề văn là rất cần. Nó nâng tầm nhà văn lên, nhưng nếu để nó khống chế mình, làm mất cái thiên bẩm của mình đi thì nhà văn ấy không còn là chính mình nữa..”
Tôi vẫn chưa hiểu được tại sao “lúc hiểu kỹ về nghề thì lại viết tồi đi rất nhiều” như Kim Lân bày tỏ. Hay, nếu nghĩ rằng “hiểu kỹ về nghề ” có thể là hiểu biết những mục tiêu mà cấp trên cần hoặc luồn lách khéo léo qua những kẽ hở để nói lên được điều mình muốn nói?

Theo Xuân Sách, trong những lời tâm sự khi viết về tập thơ “Chân Dung Nhà Văn” thì nhà văn phải học tập rất nhiều và rất nghiêm túc về những vấn đề chính trị, những yêu cầu cần thiết để văn học phục vụ chính quyền. Những giây phút học hành ấy là cả một cực hình cho những người nghệ sĩ. Và không biết có phải vì những hiểu biết thu lượm được để “hiểu kỹ về nghề” và làm ngọn bút tồi đi, kém đi.

Thế mà, sau khi Kim Lân viết Con Chó Xấu Xí, hơn bốn chục năm, thì Bảo Ninh lại xám hối và ca tụng một tác phẩm đã bị chế độ vùi dập và đẩy tác giả của nó vào cùn nhụt lãng quên:
“… nhà văn Kim Lân viết không nhiều, tự đùa mình là lão ông, vậy mà chúng ta hỡi ôi, chúng ta tràng giang đại hải, chúng ta hì hục sản xuất văn chương, nhưng một chút gì của “con chó xấu xí” thôi chúng ta cũng không thể có. Chúng ta ráo riết làm mới, làm lạ, mắm môi mắm lợi tự cao tự đại phô trương sự tối tân và thời thượng của những kiệt tác chúng ta sản xuất ra, nhưng chúng ta vẫn cứ vô cùng cũ và nhạt, hoàn toàn không thể nào bì được với văn chương chậm rãi, khề khà, nhà que, â mà vừa xiết bao chân thực vừa vô cùng thâm thúy lại thiết tha và sâu đậm lòng nhân, tình yêu thương con người và đất nước, tình yêu ngôn ngữ Việt của một nhà văn thực tài như Kim Lân.

Trong tập truyện ngắn đầu tiên “Nên Vợ nên Chồng”, có truyện ngắn “Cu”, một truyện tuy viết theo đúng chính sách nhưng không làm cho “lãnh đạo” vừa lòng. Chuyện kể về một anh chàng trước đây nghèo đói nợ nần lại xấu xí nên vô duyên chẳng có cô nào thèm để mắt xanh đến. Những chàng trai cùng trang lứa đều thành vợ thành chồng hết mà chỉ có riêng anh vẫn sống cu ky một mình nên anh mới được gọi tên là “Cu”. Nhưng đến khi đội cải cách về làng, anh được bắt rễ để làm việc tố cáo. Và, anh đã thấy được ánh sáng do Đảng mang tới cho đời mình. Cu Ế vươn lên và đấu tranh giai cấp một cách kịch liệt. Anh sắm được một cô vợ và người ta bây giờ không ai còn dám gọi anh là Cu Ế nữa. Truyện viết mạch lạc, kể một hơi, đọc dòng đầu đã ngờ ngợ dòng sau, lai viết đúng bài bản, không bắt bẻ chê bai chỗ nào được. Nhưng cái hình ảnh anh bần cố nông như thế kể ra mà đại diện cho những người đang đấu tranh để xóa bỏ giai cấp thì cũng hơi…đẹp mặt cho Đảng. Cái thâm thúy của nhà văn là mang cái chính sách đang được đề cao để so sánh với một câu chuyện có thể gọi là vụn vặt, chuyện lấy vợ cụa một anh chàng kiết xác. Thời Cải cách ruộng đất khi mà những đội cải cách là thượng đế, ai chết ai sống mặc tình tùy thuộc vào quyền hạn của họ, thì cái chiến lợi phẩm như cô vợ của anh Cu Ế hay chiếc xe đạp của cô đội trưởng nhãi ranh đang vẹo mình tập đạp kể ra cũng chẳng vinh quang mấy. Nó chỉ là một nét trào lộng thoáng qua thôi, nhưng mà thâm trầm sâu sắc…

Một truyện ngắn khác của Kim Lân được nhiều người cùng thời nhắc tới là truyện “Làng”. Một truyện viết về nông thôn thời kháng chiến chống Pháp ở Việt bắc có những dấu ấn văn chương khá đậm. Cái tâm cảm của một người đi vào chiến đấu để mong có ngày trở về Hà Nội để nhìn thấy được những vinh quang mong đợi. Hình ảnh mà Kim Lân mô tả về cái gánh gồng của một gia đình tản cư có lẽ chỉ còn là chuyện rất cũ. Cái gánh này một đầu thì đầy những nồi niêu soong chảo đồ tuế nhuyễn lặt vặt cần thiết cho một gia đình còn đầu kia là một đứa bé. Nó ngồi trong thúng đầu đội chiếc nón lá che úp mặt hai bàn tay nắm chặt lấy quang giây dù bố nó đã cẩn thận chèn chung quanh những chăn màn vá chằng vá đụp. Cái hình ảnh ấy, nghèo nàn tang thương và nhẫn nhục làm sao…
Đọc lại truyện về chó, một con chó xấu xí, ghẻ lở vô dụng nhưng có nghĩa, tôi lại chạnh lòng khi nghĩ đến câu thơ của nhà thơ Nguyễn Vỹ “Nhà văn An Nam khổ như chó”. ấy là thời của đế quốc, phong kiến, nô lệ. Còn thời đại của văn nghệ “hiện thực xã hội chủ nghĩa” thì sao? Có còn người chủ bạc ác đối đãi tệ hại với một loài vật có tình với mình không? Dù, đã qua mấy thời sửa sai, đổi mới..?


Vợ nhặt

– Đọc những tác phẩm của ông, người ta nhận thấy đó đều là những cái ông rút ruột ra mà viết?
– Tôi xuất phát từ anh nông dân nghèo, nên khi viết về chính những người đó thì mình lại dốc mình ra mà viết. Ví dụ như Lão Hai (trong truyện Lão Hai) là tôi, anh cu Tràng trong Vợ nhặt cũng là tôi và thậm chí con chó xấu xí (trong truyện Con chó xấu xí) cũng là tôi…
Nhìn lại một số tác phẩm của mình, nhiều truyện tôi viết về tôi: Một con chó cũng là tôi, thằng Tràng lấy vợ nhặt, tưởng như là không phải tôi, vì tôi có cưới đàng hoàng và cũng không bao giờ nhặt được ai cả. Nhưng nó cũng là tôi, vì khi viết truyện ngắn đó tôi cũng vừa mới lấy vợ (có cưới xin hẳn hoi, không phải nhặt), nhưng lấy vợ được ít ngày thì gặp đói.
Trong gia đình tôi cũng chỉ có ba người: tôi, vợ tôi và bà mẹ. Thì cái cảnh của tôi khi đó cũng không khác gì là cảnh mới nhặt được vợ trong truyện. Hai nữa là chính những ngày đói kém đó, vợ tôi cũng đi buôn cám, đã thế bà mẹ tôi tên là bà Tam, thì trong truyện tôi gọi là bà Tứ.

(…trích “Cuộc trò chuyện cuối cùng với nhà văn Kim Lân” – Bá Kiên)
***

Trước kia mỗi chiều, cứ vào lúc chạng vạng mặt người(1) thì Tràng đi làm về. Hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư(2) vào trong bến.
Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mất nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạch ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ gì vừa lí thú vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm
nhảm than thở những điều hắn nghĩ.
Trẻ con trong xóm, cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn từ dốc chợ đi xuống là ùa cả ra vây lấy hắn, reo cười váng lên:
– A a a… Anh Tràng ! Anh Tràng đã về chúng mày ơi !
– Anh Tràng ơi bế em mấy…
– Anh Tràng ơi đã uống rượu chưa?
– Anh Tràng ơi !…
Đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch.
Cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc.
Nhưng độ này thì trẻ con không đứa nào buồn ra đón Tràng nữa, chúng nó ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích. Trong bóng chiều nhá nhem, Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng(3) vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc
nhẵn chúi về đằng trước. Hình như những lo lắng, chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn.
Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu(4) lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.

Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Người đàn bà đi sau
hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem. Sợ chúng nó đùa như trước, Tràng vội vàng nghiêm
nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng.
Mấy đứa trẻ đứng dừng lại, nhìn Tràng, đột nhiên có đứa gào
lên:
– Anh Tràng ơi ! – Tràng quay đầu lại. Nó cong cổ gào lên lần nữa
– Chồng vợ hài.
Tràng bật cười:
– Bố ranh !

Người đàn bà có vẻ khó chịu lắm. Thị nhíu đôi lông mày lại, đưa tay lên xóc xóc lại tà áo. Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai
bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết.
Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ lắm. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Hình như họ cũng hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì

lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ. Một người thở dài. Người khác khẽ thì thầm hỏi:
– Ai đấy nhỉ? … Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên?
– Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ(5) có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.
– Quái nhỉ?
Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc:
– Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để.
– Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?
Họ cùng nín lặng.
Người đàn bà như cũng biết xung quanh người ta đang nhìn dồn cả về phía mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Hắn cũng biết thế, nhưng hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình. Người đàn bà
càu nhàu câu gì trong miệng. Hắn quay lại hỏi:
– Gì hả?
– Không.
Hắn cũng càu nhàu:
– Làm gì mà họ khỏe nhìn thế không biết? – Hắn bỗng đứng dừng lại nhìn ngang nhìn ngửa.
– Này bác Tràng ! Bác Tràng ! …


Sau một khuôn cửa tối, một cái đầu trọc thò ra gọi giật giọng.
Tràng lật đật quay lại.
– Về muộn mấy? Hẵng vào chơi cái đã nào.
Tràng đứng lại thoái thác:
– Thôi ông để cho đến hôm khác.
Cái đầu trọc nháy nháy một con mắt, hất hất về phía người đàn bà hóm hỉnh:
– Cánh nào đấy?
– à hà… người quen. Thôi để hôm khác ông nhá.
Hắn quay ngoắt trở ra, lật đật chạy theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn. Người đàn bà đã đi đến trước cái miếu cũ. Tràng gọi với:
– ấy rẽ lối này cơ mà.
– Đằng này à?
– ừ.

Hai người lặng lẽ rẽ xuống một con đường nhỏ. Con đường sâu thăm thẳm, luồn giữa hai bờ tre cao vút. ở đây vắng vẻ, thoải mái. Hắn định nói với thị một vài câu rõ tình tứ mà chẳng biết nói
thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia đi bên người đàn bà. Thị cũng không nói gì, hai con mắt tư lự(6) nhìn ra phía trước. Tiếng gió trên bờ tre rì rào và tiếng lá khô kêu sào sạc dưới bàn chân.
Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ
chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.
– Sắp đến chưa? – Người đàn bà chợt hỏi.
– Sắp
– Nhà có ai không?
– Có một mình tôi mấy u.
Thị tủm tỉm cười:
– Đã một mình lại còn mấy u. Bé lắm đấy!

Hắn bật cười:
– à nhỉ.
Câu chuyện xem chừng đã thân thân. Hắn đi sát gần bên thị hơn, ngẫm nghĩ một lúc, chợt hắn giơ cái chai con vẫn cầm lăm lăm một bên tay lên khoe:
– Dầu tối thắp đây này.
– Sang nhỉ.
– Khá thôi. Hai hào đấy, đắt quá, cơ mà thôi chả cần.
– Hoang nó vừa vừa chứ.
Hắn chặc lưỡi:
– Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ chưa tối đã rúc vào ngay, hì hì…
– Khỉ gió.
Thị phát đánh đét vào lưng hắn, khoặm mặt lại.
Hắn thích chí ngửa cổ cười khanh khách.


Mấy con chó giật mình chạy thọt vào trong lũy thò mõm ra sủa váng lên. Tràng nhặt một hòn gạch vung tay ném mạnh một cái:
– Mẹ bố chúng mày cắn gì thế!
– Vẫn chưa đến à?
– Còn chán.
– Khiếp.
Thị cau mặt lại, giẫy lên. Hắn phì ra cười, cúi xuống nhấc cành dong dấp cổng ra reo lên:
– Đây rồồ- ồi !…
Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài. Tràng xăm xăm bước vào trong nhà, nhấc tấm
phên rách sang một bên, thu dọn những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Hắn quay lại nhìn thị cười cười:
– Không có người đàn bà, nhà cửa thế đấy!
Thị nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng vỗ vỗ xuống giường đon đả:
– Ngồi đây!… Ngồi xuống đây, tự nhiên…
Người đàn bà theo lời hắn ngồi mớm xuống mép giường. Cả hai bỗng cùng ngượng nghịu. Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ. Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ, hắn lấm lét bước vội mấy bước ra sân gắt lên:
– Sao hôm nay bà lão về muộn thế không biết!


Hắn loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng, lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà. Thị vẫn ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần.
Hắn nghĩ bụng: “Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?… ồ sao nó lại buồn thế nhỉ?…”. Hắn nhổ vu vơ một bãi nước bọt, tủm tỉm cười một mình. Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ
ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà ! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm phơ tầm phào(7) đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng…
ít lâu nay hắn xe thóc Liên đoàn (8) lên tỉnh. Mỗi bận qua cửa nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đây. Hắn đoán họ ngồi đấy nhặt hạt rơi vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì
làm. Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc.

Hắn hò rằng:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”
Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:
– Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!
Thị cong cớn:
– Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?
Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:
– Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
– Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ ! – Thị liếc mắt, cười tít.
Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế.
Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:
– Điêu ! Người thế mà điêu !


Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ
còn thấy hai con mắt.
– Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
à, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười:
– Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
– Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
– Đây, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi:
– Rích bố cu(9), hở!
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:
– ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
– Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
– Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.


Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn(10), nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng(11). Sau không
biết nghĩ thế nào hắn chặc lưỡi một cái:
– Chặc, kệ!
Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về…
Tràng chợt đứng dừng lại, lắng tai nghe. Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng.
Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ, và gọi với vào trong nhà:
– U đã về đấy!
Hắn lật đật chạy ra đón:
– Hôm nay sao u về muộn thế ! Làm tôi đợi nóng cả ruột. Bà cụ Tứ nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi:
– Có việc gì thế vậy?
– Thì u hẵng cứ vào trong nhà đã nào.


Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận
ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.
Tràng tươi cười:
– Thì u hẵng vào ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện cái đã nào.
Bà lão lập cập bước vào. Người đàn bà tưởng bà lão già cả, điếc lác, thị cất tiếng chào lần nữa:
– U đã về ạ!
Ô hay, thế là thế nào nhỉ? Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường.
Tràng nhắc mẹ:
– Kìa nhà tôi nó chào u.
Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp:
– Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả…


Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong
sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?
Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này(12) thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?


Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
– ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
– Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm(13) ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ
đến ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?…
– Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.


Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật:
– Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy.
Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…
Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Tràng đứng ngoài thấy vậy, hắn bực mình quá hầm hầm bước vào trong nhà, đánh diêm đốt đèn. Thấy sáng, bà lão vội vàng lau nước mắt ngửng lên:
– Có đèn đấy à? ừ thắp lên một tí cho sáng sủa… Dầu bây giờ đắt gớm lên ấy mày ạ.
Bà lão đứng dậy uể oải sang giường bên kia nằm. Tràng làu bàu trong miệng: “Chán quá, chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc!”
Tiếng bà cụ Tứ bên kia nói với sang:
– Hôm nào nghỉ ở nhà kiếm lấy ít nứa về đan cái phên mà ngăn ra mày ạ.
– Vâng.
Tràng ngoan ngoãn đáp lời mẹ. Hắn toan quay lại bảo thị cởi áo đi nằm, nhưng thấy thị ngồi bần thần dưới chân giường tự nhiên hắn lại không dám. Hắn lẳng lặng ngồi xuống cái ghế bên cạnh, cả hai cùng sượng sùng chả biết nói gì. ánh đèn vàng đục ở góc nhà tỏa ra ấm áp và kéo dài hai cái bóng trên vách. Bên ngoài gió từ mặt sông thổi lên rì rào như tiếng người thầm thì nói chuyện. Giữa sự im lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai hờ khóc(14) ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ.

Người đàn bà bỗng thở dài. Tràng quay lại khẽ hỏi:
– Buồn à?
– Không.
– Gớm sao lúc này nói chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột.
Thị lườm hắn không trả lời. Hắn xích lại cười cười:
– Thôi khuya rồi đấy, ngủ đi.
Thị giơ tay củng vào trán hắn:
– Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!
Hắn cười khì khì, vươn cổ thổi tắt phụt ngọn đèn. Trong đêm khuya tiếng hờ khóc tỉ tê nghe càng rõ…


Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà
cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên (15) ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước (16) vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ămắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch.


Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.


Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu:
-Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn.-Vâng.
Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn(17) như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu chí làm
ăn không? Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn(18) thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.


Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:
-Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn.


Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
-Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
-Chè đây. – Bà lão múc ra một bát – Chè khoán(19) đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vãn tươi cười, đon đả:
-Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy.
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa com từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người.

Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hôt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.
Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:
-Trống gì đấy, u nhỉ?
-Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ… – Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc.
Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm:
– ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?
Im lặng một lúc thị lại tiếp:
-Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lặi, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít… Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật.


Tràng hỏi vội trong miếng ăn:
-Việt Minh phải không?
-ừ, sao nhà biết?
Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đàng trước có lá cờ đỏ to lắm.
Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh động đi lối khác.
à ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu.
Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy.
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
________________
(1) Lúc chạng vạng mặt người: Lúc chiều muộn, nhìn không rõ
mặt người.
(2) Ngụ cư: người quê ở nơi khác đến ngụ trú ngụ.
(3) Tàng: cũ
(4) Đội chiếu: Lấy cái chiếu, cuộn lại, buộc túm một đầu, chụp lấy đầu và cuộn quanh người mà đi để chống rét. Đây là hình ảnh rất phổ biến ở miền Bắc nước ta thời kỳ có nạn đói khủng khiếp giết hại hơn hai triệu người vào mùa đông 1944 và mùa
xuân 1945.
(5) Còn mồ ma ông cụ Tứ: lúc cụ Tứ còn sống.
(6) Tư lự: suy nghĩ và lo lắng.
(7) Chỉ tầm phơ tầm phào: chỉ nói chơi, nói đùa.
(8) Thóc liên đoàn: Liên đoàn là một tổ chức chuyên thu mua thóc cho Nhật hồi trước Cách mạng Tháng Tám 1945.
(9) Rích bố cu: tiền nhiều lắm (Tiếng Pháp phát âm theo lối bình dân).
(10) Chợn: sợ.
(11) Đèo bòng: mang thêm, vướng bận thêm vào một cái gì khó gỡ ra được. “Vì cam cho quýt đèo bòng. Vì em nhan sắc nên lòng nhớ thương…” (Ca dao). “Đôi ta chút nghĩa đèo bòng. Đến nhà, trước liệu nói sòng cho minh” (Truyện Kiều).
(12) Tao đoạn này: Thời buổi này, giai đoạn này.
(13) Đốt đống rấm: đốt cháy âm ỉ (thường là một đống chấu) cốt có khói để xua bớt tử khí.
(14) Hờ khóc: khóc to, vừa khóc vừa kể lể.
(15) Khươm mươi niên: rất lâu rồi.
(16) Cái ang nước: dụng cụ đựng nước bằng gốm, thân tròn, miệng rộng giống như cái vại.
(17)Chỏng lỏn: nói năng đanh
đá, xấc xược; trái nghĩa với dịu dàng, lễ phép.
(18) Xăm xắn: mau mắn, hăng hái.
(19) Chè khoán: một thứ chè ngon nấu bằng đỗ xanh đãi sạch vỏ, nấu nhuyễn và đặc, đổ ra đĩa và xắt thành từng miếng. Có lẽ đây là tiếng địa phương vùng quê tác giả (giống như chè khó ở nơi khác).

Kim Lân, người bị treo bút trong chế độ đỏ…

Nguyễn Mạnh Trinh
 Có một người đã hỏi nhà văn Kim Lân:” Ông không viết văn lâu rồi nhưng những gì ông viết của mấy chục năm về trước vẫn được không ít độc giả tìm đọc với những lý do khác nhau. Sao ông lại im lặng mấy chục năm nayvà im lặng đếnn hết cuộc đời?”
Nhà văn Kim Lân đã trả lời, chân thực, chua chát:
“Có nhiều lý do khiến tôi im lặng. Có những điều tôi muốn viết nhưng ngại nên không viết ra được, không vượt qua được ngưỡng cửa của chính mình. Vì sự im lặng ấy mà giờ đây tôi cũng im lặng không viết ra.

Cái mốc tôi ngưng viết văn là từ khi truyện Con Chó Xấu Xí ra đời. Khi người ta đã nhận mình là Con Chó Xấu Xí thì biết làm gì nữa đây. Đôi khi tôi viết về một người bạn văn chương nào đó đã khuất. Đó là những dòng của người còn sống trên dương gian nhớ người đã vắng bóng.
Truyện ngắn cuối cùng trong đời, tôi đã chuẩn bị đầy dủ nhưng rồi lại không viết!”
Và ông nói sơ lược về truyện ngắn cuối đời ấy, bình thản nhưng chứa một thông điệp nào của những điều khó nói”
“Truyện này đại khái là về một người đàn ông câm. Ông câm này nuôi một con chó. Tất cả những người chung quanh anh ta chẳng hiểu anh ta nói gì nghĩ gì kể cả mẹ của anh. Chỉ có con chó hiểu được anh. Cả hai đều không nói được cái tiếng mà người quanh họ đã nói.
Khi người ta mở chiến dịch giết chó, con chó của người này bị đuổi bắt. Nó chạy đến mép rừng. Chỉ dăm bước nữa là nó thoát chết. Đúng lúc đó người câm cất tiếng kêu như một tiếng tru. Con chó dừng lại. Nó quay lại và bị giết chết. Nó không thể bỏ đi trước tiếng kêu đau khổ của bạn mình”.

Sẽ có người trong nước kêu lên rằng viết như vậy là thú vật hóa loài người như của một cây bút “quốc doanh” nào đó kết tội tiểu thuyết của Dương Nghiễm Mậu. Và Kim Lân cũng đã tiên đoán trước nên không viết. Nhưng thử hỏi, người đã mang cái nghiệp văn chương mà tự mình treo bút thì não nề đến bực nào. Cứ âm thầm suy tư, cứ âm thầm nuôi trong lòng những điều muốn ngỏ mà không ngỏ được.
Kim Lân, cho đến cuối đời. Viết, để rồi bị phê phán, bị kiểm thảo, tác phẩm bị vùi dập thì viết làm chi …
Trước khi mất hai tháng, nhà văn Kim Lân có nói đến trường hợp sáng tác của mình:
” Tôi viết Con Chó Xấu Xí là viết sau khi xảy ra chuyện Nhân Văn Giai Phẩm. Tuy tôi không bị liệt vào nhóm Nhân Văn Giai Phẩm nhưng lúc bấy giờ người ta lại xướng ra việc đấu tranh với Nhân Văn Giai Phẩm trong đó có 5 người không tham gia đám Nhân văn Giai Phẩm gồm có Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Hồng và tôi. Chúng tôi không tham gia hội họp, không viết bài “đánh”.. vì chúng tôi cho rằng đó là anh em mình cả, chúng tôi chỉ muốn nếu thật sự họ sai thì phải thuyết phục họ, vì tất cả đều mới ở trong kháng chiến mà ra cả (Hoàng Cầm, Trần Dần, Hoàng Tích Linh, Lê Đạt…). Nhưng chính vì không tham gia nên người ta cũng ghét chúng tôi.”

Sau một thời kỳ dài bị phê phán, Văn Nghệ Trẻ đăng lại truyện ngắn “Con Chó Xấu Xí“ của Kim Lân. Đọc lời bình của Bảo Ninh, tự nhiên tôi muốn đọc lại một truyện ngắn đã gây ra nhiều rắc rối cho tác giả và cũng là một chuyện chứng minh rằng có những điều mà ở thời buổi ấy thật bình thường, xảy ra hàng ngày thì về sau lại rất lạ lùng tưởng chuyện xảy ra một nơi chốn nào khác như trên cung trăng chẳng hạn…Thời nào có đặc thù riêng của thời ấy. Trên mọi phương diện khác, các sự kiện có thể bị bôi xóa đi. Nhưng, ở văn chương thì không như vậy. Những sự kiện đã được ghi chép, không bị xóa nhòa mà trái lại còn là những chứng tích cho một thời. Mà, những chứng tích ấy, càng về sau, lại càng làm rõ nét hơn một xã hội, một thời thế nữa…

Viết về Kim Lân, Xuân Sách trong “Chân Dung Nhà Văn” đã phác họa như sau :
“ Nên danh nên giá ở làng
chết vì ông lão bên hàng xóm kia
làm thân con chó xá gì
phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn”
Tác phẩm của Kim Lân có hai tập truyện ngắn : Nên Vợ Nên Chồng và Con Chó Xấu Xí. Trong tập “Nên Vợ Nên Chồng” có truyện“Ông Lão Hàng Xóm” một truyện mà Xuân Sách đã hạ một câu thật tuyệt ”chết vì ông lão bên hàng xóm kia“. Nhân vật của truyện là một ông lão, tuy muốn sống một đời bình thường nhưng lại mang nặng vết thương cải cách ruộng đất. Với tâm cảm ấy ông nhìn hàng xóm làng mạc khác hẳn thuở xưa.

Cái tình lân lý tương thân tương trợ ngày trước đã hết, mà thay vào đó là sự ngờ vực của những người đã trải qua những thay đổi của nhân tâm, của tâm lý những con chim bị tên nhìn cây cong tưởng cây cung nhắm bắn. Truyện ấy còn có một nhân vật khác, cô đội trưởng đội cải cách non choẹt đã từng làm chánh án những buổi đấu tố và xử tử biết bao nhiêu địa chủ trong vùng. Ông tả lại cái hoạt cảnh cô đội trưởng tập lái xe đạp, một chiến lợi phẩm tịch thu được của một gia đình địa chủ, ở sân đình, với tất cả sự mỉa mai và trào lộng : ”Cô đội trưởng lùn tè tè, hai bàn chân không đạp tới pê-đan… cặp mông mập xoắn lấy chiếc yên xe khi chân cô đạp lên đạp xuống…”. Nhân vật cốt cán, là chủ lực của chế độ mà mô tả như thế thì làm sao những quan cán bộ “lãnh đạo“ văn hóa như Trường Chinh, Tố Hữu,.. chấp nhận cho được. Thế là, sách in ra, bị tịch thu. Nhưng, mọi chuyện đã muộn, mọi người đã đọc, và, trong sổ đen công an văn hóa, Kim Lân bị ghi thêm một điểm xấu….

Trong lời bình của Bảo Ninh, viết sau hơn bốn chục năm tập truyện ngắn “Con Chó Xấu Xí“ ra đời, tôi thấy hình như tác giả Nỗi Buồn Chiến Tranh muốn diễn tả một tâm tư nào, có khác với thời ấy nhưng cũng giống với thời ấy. Tuy bây giờ, là thời của đổi mới, cũng như có một thời là “sửa sai”. “Đổi“ hay ”sửa“, có làm mất đi được cái phi nhân vong thân không? Bảo Ninh viết:
“Con Chó Xấu Xí hồi mời ra đời bị phê dữ lắm. Cụ thể bị phán những gì qui kết ra làm sao chẳng ai còn nhớ, chỉ nhớ là rất kịch liệt. Cái thời đến lạ. Độc giả thời nay chịu không hiểu được.
Đành rằng ở ta, và có lẽ chẳng riêng gì ở ta, cái sự truyện ngắn mà lại lấy loài vật, nào hợi, nào sửu, nào thân nào tuất ra làm “nhân vật“ thể nào tác giả cũng phải chuốc lấy phiền toái, song trong Con Chó Xấu Xí thì quả thật đọc kỹ và soi mãi vẫn không thể lọc ra một đoạn một câu một chữ có thể làm cho thiên hạ chạnh lòng. Vậy mà…


Hay là bởi vì ở “con Mực nhà ta”, ở cái con êu êu thảm hại này với sự xấu xí phát ghê, sự thống khổ bi hài, và nhất là với sự tận nghĩa kinh hồn, mù lòa và điên dại của nó, có toát lên một cái gì đặc biệt con người chăng?ít nhất là so với vợ chồng Nhược Dự?…”
Không phải như Bảo Ninh viết: “Cái thời đến lạ. Độc giả thời nay chịu không hiểu được“ đâu. Mà tôi nghĩ. Bảo Ninh biết thừa ra đấy. Bởi, thời trước với thời bây giờ có gì xa lạ với nhau đâu. Dù đã đổi mới, dù đã bị áp lực của cả thế giới để buộc phải cải tổ. Tôi nghĩ, về phương diện văn học, cái giây buộc trói vẫn còn chứ không phải đã cởi ra với nhà văn như tổng bí thư đảng Nguyễn Văn Linh đã tuyên bố. Hồi trước đã có nhiều vụ án văn tự như những nhà văn trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm hay nhóm nhà văn trí thức bị chụp tội “xét lại“. Thì bây giờ, cũng có nhiều nhà văn nhà thơ bị truy bức bị đày ải bị treo bút bị theo dõi bị làm những công việc không liên quan đến chữ nghĩa.


Còn nhân vật vợ chồng Nhược Dự trong Con Chó Xấu Xí là hai nhân vật mà tác gỉa cố ý phác họa cho một đại diện của giời trí thức tiểu tư sản với tất cả những tật xấu gán cho. Ở một cực độ, ông cho thấy chủ tâm muốn so sánh nhân vật này với con chó xấu xí kia. Cũng cùng vô dụng, cũng cùng có bộ dạng không giống ai, bị những người chung quanh khinh ghét:
“Trước ngày, Nhược Dư cũng có viết văn. Anh ta viết những truyện “ái tình” lâm ly, sướt mướt với một thứ văn chương uốn éo quen thuộc rẻ tiền. Anh ta làm văn chẳng khác gì người thợ kim hoàn quen tay làm đồ Mỹ khí. Vì thế, từ ngày khởi nghĩa anh không viết gì được nữa mà anh ta cũng chẳng nghĩ gì đến chuyện tiếp tục viết văn.


Tuy vậy, cả nhà anh ta, từ bà cô già mõ bán bún riêu ngoài quán đình Bùi đến cô vợ hai còn trẻ măng chuyên việc bêp núc, hầu hạ chồng và con chồng ở nhà đều như còn lẩn quẩn mê luyến với cái không khí của một thời “oanh liệt” của ông chồng trước kia… Trước mặt người lạ họ đối đãi nói năng với nhau hoa mỹ kiểu cách như người trong truyện cả. Nghĩa là nghe nó ngớ ngẩn, giả dối rất chướng tai!
Người như vậy kháng chiến cũng không bỏ. Biết Nhược Dư trước kia có viết văn cơ quan tôi mấy bận cử người về đón anh đi công tác. Bận nào Nhược Dự cũng có bộ mặt rầu rĩ băn khoăn vì nỗi hoàn cảnh anh ta bó buộc vì anh ta nặng gánh gia đình vì anh ta bệnh tật đau yếu luôn. Phải loanh quanh ở nhà như vậy anh ta lấy làm xấu hổ và khổ tâm lắm lắm. Người địa phương vì thế ghét vợ chồng anh ta thậm tệ. Giữa cuộc kháng chiến bùng nổ không ai có thể ưa một anh đàn ông sức dài vai rộng mà chỉ thấy cặp kè với hai bà vợ và nhởn nhơ với một ngôi hàng. Người ta làm vợ chồng anh ta khó chịu tức tối ngấm ngầm có khi phải tủi hổ…”


So sánh một con chó với một con người, hình như tác giả muốn làm chất nhân bản bị giảm sút đi trong đời sống ấy. Con chó dù bị bỏ đói bạc đãi đủ điều nhưng vẫn trung nghĩa, trong mọi hoàn cảnh dù tối tăm đến đâu cũng không bỏ chủ. Suốt đời sống nó, toàn là cảnh nằm nhóc mõm chờ cơm, dù mẩu xương thừa hay miếng cơm ôi cũng không có. Thế mà mỗi khi chủ về vẫn chạy tới vẫy đuôi mừng rỡ. Nhà cửa bị Tây vào ruồng bố đốt phá tan hoang, chủ phải chạy tản cư khi trở về vẫn thấy chú chó xấu xí nhưng có nghĩa ở đó dù sức tàn nhưng vẫn vẫy đuôi mừng rỡ. Có phải ông chủ bạc ác ấy, không biết quý trọng nhân nghĩa ấy, là tượng hình của những người lãnh đạo mà nhà văn Xuân Vũ ví von gọi là “dì ghẻ văn nghệ”?
Ví von vợ chồng Nhược Dư với chú chó, tác giả đã theo đúng những chỉ đạo được “trên” đề ra chưa? Hạ giá thấp giới tiểu tư sản, có gì mà rõ ràng cho bằng gọi bằng loài chó. Thế mà, trong cái nhận xét ấy, có một chút gì bất nhẫn, có một chút gì ngầm chứa từ liên tưởng xa xôi. Và, cái mục đích viết để gây căm thù giai cấp, viết để phân biệt ta địch, viết để minh họa chế độ, dường như không phải là chủ đích của Kim Lân. Mà, ngược lại có khi là những cái ngầm hiểu rất dễ gây ấn tượng đối nghịch…
Bảo Ninh nhận định: ”Ngày nay chẳng biết phê gì biết bình gì hơn ngoài một chữ Hay, Truyện hay. Tuyệt hay.
Mới ngẫm ra rằng nhà văn rất khác nhà khoa học, không chỉ khoa học tự nhiên mà cả khoa học xã hội. Nhà nghiên cứu thì thế hệ sau nhất định phải cao tầm hơn thế hệ trước, trò phải giỏi hơn chí ít là kiến thức phải đầy hơn thầy. Nhà văn thì không nhất thiết như thế. Nhà văn Kim Lân mà nói rộng ra là lớp nhà văn thế hệ ông, cho đến nay, và có thể sẽ mãi mãi, vẫn là những nhà văn bậc thầy, tác phẩm mãi mãi vẫn là hay mãi mãi vẫn vượt trội…”


Riêng tôi, trong cảm thức của mình, truyện Con Chó Xấu Xí đáng nói hơn từ cái cái chủ tâm hơn là cái tài nghệ văn chương. Làm người kể chuyện, ông viết kiểu khề khà và ít thấy chất sống động trong văn mạch. Nhưng, ở cái trầm lắng ấy, lại càng rõ hơn cái tâm thâm thúy và gợi lại nhiều suy tưởng. Không phải chỉ giản dị là tác giả mượn con vật để ví von với con người, mà phức tạp hơn, là biểu tượng của những đặc tính của một thời thế đã qua nhưng vẫn còn sức sống và là niềm nuối tiếc của nhiều người. Không gian, thời gian của Con Chó Xấu Xí là của một thời đã qua, của khó khăn vật chất, của hy sinh tinh thần. Nhưng, sau đó, khi phần nào đạt được những thành quả, thì có những người, như những chú chó cứ chờ hoài một hạt cơm rơi, một mẫu xương thừa nhưng chẳng bao giờ có. Những nhà văn, lưng còn thẳng, chân còn đứng chưa quì, trở về Hà nội, ngỡ ngàng với chiến thắng nhưng lại thầm tiếc thời gian khổ, lúc mà “dì ghẻ“ (lãnh đạo văn nghệ) và ”con chồng” (quần chúng văn nghệ) chịu chung thiếu thốn. Bây giờ, kẻ thì nhà cao cửa rộng lên xe xuống ngựa tem phiếu thượng hạng của ngon vật lạ không thiếu một món gì trong khi có người luôn thiếu, đói, vợ con nheo nhóc, chỗ ở chật hẹp.


Có lần nhà văn Kim Lân tâm sự :
”Tôi viết không chỉ vì nhuận bút. Viết được thì viết. Không viết được thì thôi. Những cái cố gượng viết đều giả, đều khô khan đọc lại thấy xấu hổ lắm.
Tôi nghĩ muốn theo đuổi nghề văn thì người viết phải là người tử tế trước đã. Dĩ nhiên không phải hễ là người tử tế ắt hẳn viết văn hay được. Viết văn phải có tài. Cái tài đến với nhà văn thật tự nhiên, mất đi cũng rất tự nhiên. Tôi thấy nhiều nhà văn lúc chưa biết nghề nếp tẻ ra sao, hồn nhiên thoải mái viết cái mình yêu, mình thích thì viết lại rất hay, đến lúc hiểu kỹ về nghề thì viết lại tồi đi rất nhiều. Hay chăng cái mình biết đã gò bó cái tự nhiên của mình? Những hiểu biết về nghề văn là rất cần. Nó nâng tầm nhà văn lên, nhưng nếu để nó khống chế mình, làm mất cái thiên bẩm của mình đi thì nhà văn ấy không còn là chính mình nữa..”
Tôi vẫn chưa hiểu được tại sao “lúc hiểu kỹ về nghề thì lại viết tồi đi rất nhiều” như Kim Lân bày tỏ. Hay, nếu nghĩ rằng “hiểu kỹ về nghề“ có thể là hiểu biết những mục tiêu mà cấp trên cần hoặc luồn lách khéo léo qua những kẽ hở để nói lên được điều mình muốn nói?
Theo Xuân Sách, trong những lời tâm sự khi viết về tập thơ “Chân Dung Nhà Văn” thì nhà văn phải học tập rất nhiều và rất nghiêm túc về những vấn đề chính trị, những yêu cầu cần thiết để văn học phục vụ chính quyền. Những giây phút học hành ấy là cả một cực hình cho những người nghệ sĩ. Và không biết có phải vì những hiểu biết thu lượm được để “hiểu kỹ về nghề” và làm ngọn bút tồi đi, kém đi.


Thế mà, sau khi Kim Lân viết Con Chó Xấu Xí, hơn bốn chục năm, thì Bảo Ninh lại xám hối và ca tụng một tác phẩm đã bị chế độ vùi dập và đẩy tác giả của nó vào cùn nhụt lãng quên:
“… nhà văn Kim Lân viết không nhiều, tự đùa mình là lão ông, vậy mà chúng ta hỡi ôi, chúng ta tràng giang đại hải, chúng ta hì hục sản xuất văn chương, nhưng một chút gì của“con chó xấu xí” thôi chúng ta cũng không thể có. Chúng ta ráo riết làm mới, làm lạ, mắm môi mắm lợi tự cao tự đại phô trương sự tối tân và thời thượng của những kiệt tác chúng ta sản xuất ra, nhưng chúng ta vẫn cứ vô cùng cũ và nhạt, hoàn toàn không thể nào bì được với văn chương chậm rãi, khề khà, nhà quê, mà vừa xiết bao chân thực vừa vô cùng thâm thúy lại thiết tha và sâu đậm lòng nhân, tình yêu thương con người và đất nước, tình yêu ngôn ngữ Việt của một nhà văn thực tài như Kim Lân.


Trong tập truyện ngắn đầu tiên “Nên Vợ nên Chồng”, có truyện ngắn “Cu Ế”, một truyện tuy viết theo đúng chính sách nhưng không làm cho “lãnh đạo“vừa lòng. Chuyện kể về một anh chàng trước đây nghèo đói nợ nần lại xấu xí nên vô duyên chẳng có cô nào thèm để mắt xanh đến. Những chàng trai cùng trang lứa đều thành vợ thành chồng hết mà chỉ có riêng anh vẫn sống cu ky một mình nên anh mới được gọi tên là “Cu Ế”. Nhưng đến khi đội cải cách về làng, anh được bắt rễ để làm việc tố cáo. Và, anh đã thấy được ánh sáng do Đảng mang tới cho đời mình. Cu Ế vươn lên và đấu tranh giai cấp một cách kịch liệt. Anh sắm được một cô vợ và người ta bây giờ không ai còn dám gọi anh là Cu Ế nữa.


Truyện viết mạch lạc, kể một hơi, đọc dòng đầu đã ngờ ngợ dòng sau, lai viết đúng bài bản, không bắt bẻ chê bai chỗ nào được. Nhưng cái hình ảnh anh bần cố nông như thế kể ra mà đại diện cho những người đang đấu tranh để xóa bỏ giai cấp thì cũng hơi… đẹp mặt cho Đảng. Cái thâm thúy của nhà văn là mang cái chính sách đang được đề cao để so sánh với một câu chuyện có thể gọi là vụn vặt, chuyện lấy vợ cụa một anh chàng kiết xác. Thời Cải cách ruộng đất khi mà những đội cải cách là thượng đế, ai chết ai sống mặc tình tùy thuộc vào quyền hạn của họ, thì cái chiến lợi phẩm như cô vợ của anh Cu Ế hay chiếc xe đạp của cô đội trưởng nhãi ranh đang vẹo mình tập đạp kể ra cũng chẳng vinh quang mấy. Nó chỉ là một nét trào lộng thoáng qua thôi, nhưng mà thâm trầm sâu sắc…


Một truyện ngắn khác của Kim Lân được nhiều người cùng thời nhắc tới là truyện “Làng”. Một truyện viết về nông thôn thời kháng chiến chống Pháp ở Việt bắc có những dấu ấn văn chương khá đậm. Cái tâm cảm của một người đi vào chiến đấu để mong có ngày trở về Hà Nội để nhìn thấy được những vinh quang mong đợi. Hình ảnh mà Kim Lân mô tả về cái gánh gồng của một gia đình tản cư có lẽ chỉ còn là chuyện rất cũ. Cái gánh này một đầu thì đầy những nồi niêu soong chảo đồ tuế nhuyễn lặt vặt cần thiết cho một gia đình còn đầu kia là một đứa bé. Nó ngồi trong thúng đầu đội chiếc nón lá che úp mặt hai bàn tay nắm chặt lấy quang giây dù bố nó đã cẩn thận chèn chung quanh những chăn màn vá chằng vá đụp. Cái hình ảnh ấy, nghèo nàn tang thương và nhẫn nhục làm sao…


Nhưng, cái truyện ngắn ấy lại có những đoạn tuyên truyền hơi ngô nghê. Nhân vật trong truyện, ông Hai làng Dầu đã có những thay đổi theo thời rất nhanh. Trước, ông rất hãnh diện về làng của ông có những lăng mộ hùng vĩ thì sau này ông lại ghét đến độ căm thù vì những lăng tẩm phong kiến ấy bắt cả làng ông phục dịch. Rồi vì tin đồn làng Dầu đã theo tây nên dân chúng ở đây cũng ghét lây gia đinh ông. Nhưng sự thực làng Dầu không theo Pháp và vẫn tôn sùng Hồ Chí Minh nên cả làng nơi tản cư cũng đổi thái độ với gia đình ông… Viết đúng đường lối như thế mà khi in Con Chó Xấu Xí vẫn bị đấu đá tơi bời…


Đọc lại truyện về chó, một con chó xấu xí, ghẻ lở vô dụng nhưng có nghĩa, tôi lại chạnh lòng khi nghĩ đến câu thơ của nhà thơ Nguyễn Vỹ “Nhà văn An Nam khổ như chó“. Ấy là thời của đế quốc, phong kiến, nô lệ. Còn thời đại của văn nghệ “hiện thực xã hội chủ nghĩa“ thì sao? Có còn người chủ bạc ác đối đãi tệ hại với một loài vật có tình với mình không ? Dù, đã qua mấy thời sửa sai, đổi mới..?
Trước khi mất, trong cuộc phỏng vấn của báo Đời Sống và Pháp Luật, nhà văn Kim Lân có nhận xét:
“Tôi có cảm giác văn ngày nay mất đi tưởng tượng lãng mạn mơ mộng và nhiệt huyết sống, Nó trở nên thưc dụng ê chề oái oăm hơn. Đó là những điều cần khắc phục để nước nhà có một nền văn học ngày càng hoàn thiện..”


Nhà văn Kim Lân đã từ trần vào ngày 20 tháng 7 năm 2007, thọ 87 tuổi. Là một nhà văn tiền chiến đã đi theo Đảng từ ngày còn kháng chiến thế mà suốt cả cuộc đời chỉ in được có 2 tập truyện ngắn và cũng suốt đời chỉ thai nghén mà không viết được những truyện xứng ý với mình. Đó có phải là một trường hợp khi chính trị chỉ đạo văn hoc, thì thơ thành vè và văn chương chỉ là lớp son cho những điều giả trá,…

Làng
Tối nào cũng vậy, cứ đến lúc con bé lớn ông Hai thu thủ que đóm cháy lập lòe trong chiếc nón rách tất tả đi từ nhà bếp lên, và bà Hai ngồi ngây thuỗn cái mặt trước đĩa đèn dầu lạc, lầm bầm tính toán những tiền cua, tiền bún, tiền chuối, tiền kẹo… thì ông Hai vùng dậy, sang bên bác Thứ nói chuyện. Không hiểu sao cứ đến lúc ấy ông Hai lại thấy buồn. Nằm nghe tiếng súng dội trong đêm tối và nhất là cái tiếng rì rầm tính toán tiền nong của mụ vợ, tự nhiên ông sinh ra nghĩ ngợi vẩn vơ, nó bực dọc làm sao ấy. Mà ông, thì không thích nghĩ ngợi như thế một tý nào. ông vốn là người hay làm, ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân ngơi tay. Không đi cày đi cuốc, không gánh phân tát nước thì ông cũng phải bày vẽ ra công việc gì để làm: đan rổ, đan rá hay chữa cái chuồng gà, cạp lại tấm liếp. Từ ngày tản cư lên đây, suốt ngày mấy bố con nhong nhóng ngồi ăn, tối đến lại nghe những tiếng rì rầm tính toán ấy, ruột gan ông cứ nóng lên như lửa đốt. ông phải đi chơi cho khuây khỏa. Lần nào cũng như lần nào, cứ vừa nhô đầu qua cái mái lá bên gian bác Thứ là ông lão hỏi ngay:
-Thế nào, hôm nay có gì không bác? Không đợi trả lời, ông lão nói luôn:

-Này Đácgiăngliơ nó lại về Pháp đấy nhé. Hừ, chơi vào! Còn là đi đi về về! Hoặc:
-Báo Cứu quốc hôm nay nghe sướng quá. Cụ Hồ đối đáp với các nhà báo ngoại quốc đâu vào đấy. Cứng rắn mà lại mềm mỏng lắm. Cụ bảo rằng thì là dân ta chỉ muốn Độc lập và Thống nhất thôi, không thì dân ta đánh đến cùng. Thật đấy, chuyến này không được Độc lập thì chết cả đi chứ sống làm gì cho nó nhục. Mà có khi nào mình lại không Thống nhất, Độc lập được hở bác? Rồi ông nói đến chuyện tản cư, chuyện Tây khủng bố, chuyện Việt gian, chuyện thổ phỉ… những chuyện ông lượm được hồi trưa, ở ngoài điếm. Cả chuyện chính trị, quân sự nữa. Ta bố trí nó thế này, ta bố trí nó thế kia. Ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế khác. Rất trơn tru, rất thành thạo mà chẳng đâu vào đâu cả. ông lão kéo dài một bên ria mép ra, tủm tỉm:
-Cũng là học lỏm cả thôi đấy bác ạ… Chả là tôi cũng là phụ lão cứu quốc mà… Và cuối cùng, khi câu chuyện tin tức hàng ngày đã nhạt rồi, thì ông xoay đến chuyện cái làng của ông. ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động. ông khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh.


Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. ông Hai vẫn có tính khoe làng như thế xưa nay. Hồi còn đế quốc Pháp, mỗi bận đi đâu xa, khoe làng ông chỉ khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông. ông có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm: “Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi.
Có lăm lắm là của. Vườn hoa, cây cảnh nom như động ấy. Thấy bảo còn hơn cái lăng cụ thiếu(*) Hà Đông nhiều cơ mà!” Mỗi bận có khách bên họ ngoại ở dưới tỉnh Nam lên chơi, thế nào ông lão cũng phải dắt ra xem lăng cho kỳ được. ông mê man giảng giải cho họ: cái tượng đá này là ông Hoàng Thạch Công đánh rơi giày. Những người bằng sứ kia là bát tiên quá hải. Cái ông đắp bằng xi măng lù lù ở giữa hồ bát giác kia là là… lấy kiểu tận xa lắm, đâu như tận bên chùa Đế Thích. Còn như cái cọc sắt nhọn hoắt cắm vào cái bầu rượu có đắp bốn con giơi quét vôi vàng mãi tít trên ngọn sinh phần kia là máy thu lôi. Khiếp lắm! Sấm sét là thu tất cả vào trong ấy.


-Chả nguyên là “cụ tôi” phòng sau này nằm xuống bất hạnh sét có đánh phải cũng không việc gì mà. Xem! Trí lực của người ta có khiếp không?
ông lão vừa nói vừa nhìn vào cái bộ mặt lì xì của người bà con họ bên ngoại giãn ra vì kinh ngạc ấy mà ông lão hả hê cả lòng. ông thấy cái lăng tẩm ấy một phần như có ông. Nhưng từ ngày khởi nghĩa thì người ta không còn thấy ông đả động gì đến cái lăng ấy nữa. ông đã bảo ông thù nó cơ mà. Cái lăng ấy nó làm khổ ông, nó còn làm khổ bao nhiêu người làng này nữa. Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. Có người ốm, có người chết, có người làm mấy tháng trời không được đồng công nào. Cái chân ông đi khập khễnh bây giờ cũng vì cái lăng ấy. ông bị một chồng gạch đổ vào bại một bên hông. Bây giờ khoe làng, ông lão lại khoe khác. ông khoe những ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ thời kỳ còn bóng tối. Những buổi tập quân sự. Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai.


Mỗi lần hô động tác, anh huấn luyện viên lại phải đệm tiếng ạ… thườn thượt đằng sau: “Nghiêm ạ!… Nghỉ ạ!… Vác súng lên vai ạ!…”. Nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thì làm công trình không để đâu hết. ông lão kể rành rọt từng cái một. Cái thì đắp ở đầu xóm Ba Khu, cái thì xây ở Ngõ Mái, cái thì xẻ thông từ đầu phố trên đến tận đầu phố dưới. Cửa mạch nhà nào cũng đục, có thể đi suốt làng không phải ra đến đường cái. Cũng có khi ông lão lại ngậm ngùi kể lại những chuyện ngày xửa ngày xưa nào không biết, ông bị bọn hương lý trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thang hết nơi này đến nơi khác, lần mò vào đến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm bảy nổi mười mấy năm trời mới lại được trở về quê hương bản quán. Cứ như vậy, suốt cả buổi tối, ông lão ngồi vén quần lên tận bẹn trên chiếc chõng tre nhà bác Thứ mà nói liên miên hết cái đường xóm kia tốt, cái giếng xóm kia trong với những chuyện đẩu chuyện đâu về cái làng của ông lão, làm như bác Thứ cũng quen biết và bận tâm đến những thứ ấy lắm. Thực ra ông lão chỉ nói cho sướng miệng và đỡ nhớ cái làng của ông chứ cũng chẳng chú ý gì đến người nghe có thích nghe lắm không.

Đôi khi thấy mình mải nói quá, mà bác Thứ hình như lơ đễnh những đâu đâu, ông lão lại nhắc:
-Cậu vẫn nghe đấy chứ? Thì bác Thứ giật mình, trả lời vội vàng:
-Có! Có! Tôi vẫn nghe đây, ông kể nốt đi… Thế là ông lão lại kể. Nhưng cũng có nhiều bận đang ngồi nói mải mê như vậy bỗng dưng ông ngắc lại, mặt ông thần ra, ông nghĩ ngợi một lúc lâu rồi thủ thỉ:
-Chuyến này bước chân ra đi… Năm năm, ba năm hay mươi mười lăm năm, không biết có còn về được đến làng đến nước nữa không đây. ông lão im lặng, thở dài:
-Nó chết một cái nhà tôi neo người quá, phải đi, chứ những như một mình tôi, thì tôi ở lại làng với anh em cơ đấy. Quê cha đất tổ một lúc rứt ruột bỏ đi làm gì mà không đau xót hả bác?…


* * *
Thực tình ông Hai không muốn tản cư lên trên này một tí nào. Trong làng còn có một số anh em ở lại, họ quây quần với nhau khoảng chừng năm, sáu nóc nhà giữa làng. Ngày ngày cùng anh em đi đào đường đắp ụ, công việc bề bộn, ông chẳng còn kịp nghĩ gì đến vợ con, nhà cửa nữa. Năm bảy lần bà Hai nhắn về thúc phải lên ngay, ông chỉ nhăn mặt kêu: “Công việc đang như lửa đốt thế này đã lên thế nào được”. Hôm bà Hai về đón, ông lão lại toan không đi. ông nghĩ: mình sinh sống ở cái làng này từ tấm bé đến giờ. ông cha cụ kỵ mình xưa kia cũng sinh sống ở cái làng này đã từ bao nhiêu đời nay rồi. Bây giờ gặp phải cái lúc hữu sự như thế này mình lại đâm đầu bỏ đi còn ra thế nào nữa.

Công việc là công việc chung chứ của riêng mình ai? ông lão bảo vợ:
-Tôi thì tôi không đi được đâu. Mẹ con mày trên ấy liệu bảo nhau xoay xỏa mà làm ăn. ở nhà rồi tôi cũng cố cày cấy, thêm thắt vào tôi gửi lên cho, tản cư thì cũng phải thiếu thốn một tý chứ, lại như ngày trước thì có đâu. Nhưng bà Hai khóc lóc, bà năn nỉ bắt ông phải đi, bà bảo:
-Thế ông định bỏ mẹ con tôi chết đói à? ông phải lên trông nom chúng nó cho tôi xoay xỏa chứ. Rồi bà khẩn khoản nói với mọi người, khẩn khoản với đồng chí thôn đội trưởng, mọi người đồng ý để ông Hai đi, ông Hai đành phải nghe theo. ông buồn khổ lắm, nhưng cũng không biết làm thế nào. Tình cảnh mẹ con chúng nó quả là có gieo neo thật. Một nách ba đứa con dại, vốn liếng lại chẳng có, cứ nhong nhóng ôm con ở nhà thì lấy gì mà ăn? Nhà có người đàn ông nó như nhà có nóc ấy. ông lên rồi làm thuê làm mướn thêm cặp vào cũng đỡ vực được ít nhiều. “Thôi thì chẳng ở lại làng cùng anh em được, thì tản cư âu cũng là kháng chiến”. …


Những ngày đầu ở trên này công việc không có, trong người ông lão lúc nào cũng bực bội. ông ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm. Xin được miếng đất sau nhà, ông hậm hụi cuốc xới suốt ngày, vừa được mấy luống rau cải, bén chân thì đàn gà nhà chủ ra vặt trụi tiệt. ông lão cáu lắm. Không thể cáu được với ai ông quay ra cáu với vợ con. Hơi một tý là gắt, hơi một tý là chửi, lắm khi chuyện chẳng đâu vào đâu, ông cũng khơi ra cho to để gây sự. “Chúng mày làm khổ ông! Chúng mày làm khổ ông vừa vừa chứ! ông thì giết hết, ông thì giết hết!”. Mỗi lần ông lão bước chân ra khỏi cái gian nhà tối thấp bề bộn những bồ, bị, nồi, niêu, và những dây quần áo ẩm sì ấy là mặt ông lão nhẹ nhõm, tươi tỉnh hẳn lên.

Sao mà ông lão sợ cái gian nhà ấy thế! Nhất là những buổi trưa im ắng, oi ả, có tiếng mụ chủ nhà nói nheo nhéo ở bên ngoài, thì ông lão không sao chịu được. ông lão phải đi cho nó khuất. ông Hai chưa thấy người đàn bà nào tham lam, tinh quái như mụ ta. Người thì gầy đét như thanh củi khô. Cái miệng mỏng lèo lèo, nói cứ liến đi, mà chúa thần là gian. Không vào nhà thì thôi, động vào nhà là nhòm.


Mụ nhòm xó này một tí, nhòm xó kia một tí, rồi lục. Mụ giơ lọ tương lên ngắm rồi đặt xuống, mụ mở thạp gạo ra xem, lại đậy vào, mụ lục bồ moi chiếc áo ra ướm thử vào người, rồi ném trả. Hình như trong ý mụ, mụ nghĩ: chúng mày ở nhà tao, thì những thứ của chúng mày cũng như của tao. Đồ ăn thức đựng của mụ, mụ cất kỹ đi. Con dao, cái chậu, bó củi của người ta mụ dùng tự nhiên, hồ cất đi, mụ lại lôi ra. Không tìm thấy thì mụ nói móc, nói máy như chính mụ bị người ta hà hiếp. Đến cả cái ăn, cái uống mụ cũng rây phần vào. Có cái nồi nước giải mua để tăng gia một tí, mụ cũng lấy hết. Trong nhà động có thức gì mụ đã biết rồi. Không một hôm nào bà Hai ở quán về mụ không sấn đến vạch thúng ra xem.
-ái chà! Nhà này có mớ cá ngon gớm, chiều tớ phải xin một bát mấy được. Thế là chiều mụ sai con bưng bát đến xin. Mụ đẩy lưng thằng bé:
-Con cứ xuống mà xin, tội gì. Có cái gì ăn giấu, mà mụ biết thì mụ đánh hơi. Mụ đứng giữa nhà, hếch cái mũi lên hít hít:
-Có cái gì mà thơm gớm, y như mùi bánh rán ấy anh em ạ. Mẹ kiếp nhà này nó giấu. Cứ lâu lâu, mụ lại vay tiền. Lúc mua trầu vỏ, lúc mua diêm thuốc, mớ rau, con cá… Có đòi thì mụ chủng chẳng:
-Tớ trừ vào tiền thuê nhà đấy. Mụ cười rất nhạt:
-Nói đùa đấy chứ, mai tớ cuốc mẻ sắn tớ bán tớ khắc trả. Và mụ tiếp luôn:
-Này, nói thì bảo là tham, cái nhà ông Hai này, với bác Thứ bên kia ở, thật tớ đếch được cái gì, ở xóm dưới, cánh hàng xáo họ ở, họ nuôi lợn được vô khối là “khuẩn”. Nói thật, tớ cho ở nhờ chỉ chủ có mỗi cái “khuẩn” thôi…
Ngay từ dạo mới lên, ông Hai đã bực mình với mụ ấy lắm rồi. Nghe xóm giềng ở đây người ta nói, ông biết mụ không phải là người đứng đắn. Mụ lấy đến người chồng này là đời chồng thứ ba rồi; hai người trước, người thì người ta bỏ mụ, người thì mụ bỏ người ta. Tính nết lành chanh lành chói, chỉ bắt nạt chồng. Người chồng thì lại hiền lành quá, cả ngày cặm cụi làm. Vợ nói, có tức lắm thì cũng chỉ đỏ mặt lên văng tục văng giác mấy câu rồi thôi. ông Hai ghét mụ chủ lắm. ông không muốn ở chung ở chạ với những người như thế. Năm lần bảy lượt ông bảo vợ dọn nhà đi nơi khác. Nhưng bà Hai cứ lần chần. Bà bảo:
-Biết rằng đâu hơn đâu, hay là lại quá tội. Trong làng ngoài phố nhà nào cũng ba bốn bếp tản cư cả. Có được chỗ chui ra chui vào như thế này là may mắn lắm rồi còn gì nữa. ông lão đành phải dùi dắng chờ vậy.
* * *

Buổi trưa hôm ấy ông Hai ở nhà một mình. Con bé lớn gánh hàng ra quán cho mẹ chưa thấy về. Hai đứa bé thì ông cắt chúng nó ra vườn trông mấy luống rau mới cấy lại chẳng gà vặt hết. ông Hai hì hục vỡ một vạt đất rậm, ngoài bờ suối từ sáng đến giờ, ông tính để trồng thêm vài trăm gốc sắn ăn vào những tháng đói sang năm. Có một mình, ông phải làm cố, hai vai mỏi nhừ. ông nằm vật lên giường vắt tay lên trán nghĩ ngợi vẩn vơ. ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm với anh em. ạ, sao mà độ ấy vui thế. ông thấy mình như trẻ ra. Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày. Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên. ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá… Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc là còn khướt lắm.


Chao ôi! ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá. Bên ngoài, ánh nắng rọi xuống mặt sân sáng lóa, có mấy tiếng gà trưa cất lên eo óc. Gian nhà càng như lịm đi, mờ mờ hơi đất. Giờ này là mụ chủ sắp đi làm đồng về đây. ông lại sắp phải nằm trong này mà nghe mụ chửi con mắng cái, kêu vẽi nước chóng cạn, cái bếp bừa bộn nheo nhéo lên đây. Tấm liếp che cửa bỗng kêu lạch xạch, gian nhà sáng bừng lên. ông Hai giật mình, ngóc đầu nhìn ra. Đứa con gái lớn gồng đại thúng không bước vào. ông cất tiếng hỏi:
-ở ngoài ấy làm gì mà lâu thế mày?
Không để đứa con kịp trả lời, ông lão nhỏm dậy vơ lấy cái nón:
-ở nhà trông em nhá! Đừng có đi đâu đấy. ông lão giơ tay chỉ lên nhà trên:
-Nó thì rút ruột ra, biết chửa! Dứt lời ông bước vội ra ngoài. Trời xanh lồng lộng, có những tảng mây sáng chói, lừ đừ. Đường vắng hẳn người qua lại. Họ rạt cả vào các khoảnh bóng cây tránh nắng. Một vài tiếng động nhẹ khẽ gợn lên, oi ả. ông Hai đi nghênh ngang giữa đường vắng, cái đầu cung cúc lao về phía trước. Hai tay vung vẩy, nhấp nhổm. Gặp ai quen ông Hai cũng níu lại cười cười:
-Nắng này là bỏ mẹ chúng nó! Có người bỡ ngỡ hỏi lại: “Chúng nó nào?”. Thì ông lão bật cười, giơ tay trỏ về phía tiếng súng:
-Tây ấy chứ còn chúng nó nào nữa. Ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù. Dứt lời, ông lão lại đi, làm như đang bận nhiều công việc lắm. Cũng như mọi hôm, việc đầu tiên là ông vào phòng thông tin nghe đọc báo. ông cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm.

Điều này ông khổ tâm hết sức. ông cũng đã có học được một khóa bình dân học vụ ở làng, cũng đã biết đọc, biết viết. Nhưng chữ in khó nhận mặt chữ, ông đọc nó cứ bập bõm, câu được câu chăng, mà chả lẽ cứ nghếch cổ lên giữ chịt lấy tờ báo không cho người khác xem nữa? ông ghét thậm những anh cậy ta đây lắm chữ đọc báo lại cứ đọc thầm một mình, không đọc ra thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy. Hôm nay may quá, vớ được anh dân quân đọc rất to, dõng dạc, rành rọt từng tiếng một, cơ chừng anh ta cũng mới học, đánh vần được chữ nào anh ta đọc luôn chữ ấy. ông lão nghe chẳng sót một câu nào. Bao nhiêu là tin hay.


-Một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kỳ lên Tháp Rùa.
“Đấy, cứ kêu chúng nó trẻ con mãi đi, liệu đã bằng chúng nó chưa?” Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng một quả lựu đạn cuối cùng. Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ. “Khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả”. Lại còn bao nhiêu tin đột kích nữa, chỗ này giết được năm Pháp với hai Việt gian; chỗ kia phá đổ được một xe tăng và một xe díp. “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng ống cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm”.


Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá! ông lão náo nức bước ra khỏi phòng thông tin, rẽ vào quán dặn vợ mấy việc rồi đi thẳng ra lối huyện cũ. ở đây, những tốp người tản cư mới ở dưới xuôi lên đứng ngồi lố nhố cả ở dưới mấy gốc đa sù sì, cành lá rườm rà ken vào nhau, rải xuống mặt đường và bãi cỏ một vùng bóng mát rộng. ông lão ngồi vào một cái quán gần đấy. Hút một điếu thuốc lào, uống một hụm chè tươi nóng, ông chóp chép cái miệng ngẫm nghĩ: bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc. Tiếng quạt, tiếng thở, tiếng trẻ con khóc, cùng với tiếng cười nói của cánh đi phá đường về râm ran một góc đường. Dưới chân đồi, những thửa ruộng lúa xanh mượt, uốn quanh co dưới trời nắng, lấp loáng như một khúc sông. Có mấy bóng cò trắng bay dật dờ…


-Các ông các bà ở đâu ta lên đấy ạ? ông Hai đặt bát nước xuống chõng hỏi. Một người đàn bà mau miệng trả lời:
-Thưa ông chúng cháu ở Gia Lâm lên đấy ạ. Đi bốn năm hôm mới lên đến đây vất vả quá!
-ở Gia Lâm lên ạ? Lúa má dưới ta thế nào, liệu có cấy được không bác?
-Chả cấy thì lấy gì mà ăn. Cấy tất ông ạ. Chân ruộng dưới chúng cháu còn tốt hơn trên này nhiều.
-Thì vưỡn! Lúa dưới ta vưỡn tốt nhiều chứ.
-ông lão rít một hơi thuốc lào nữa, gật gù cái đầu:
-Hừ, đánh nhau cứ đánh nhau, cày cấy cứ cày cấy, tản cư cứ tản cư… Hay đáo để.
-Này bác có biết mấy hôm nay súng nó bắn ở đâu mà nghe rát thế không? Một người đàn bà cho con bú mé bên kia nói xen vào:
-Nó rút ở Bắc Ninh về qua chợ Dầu nó khủng bố ông ạ. ông Hai quay phắt lại lắp bắp hỏi:
-Nó… Nó vào chợ Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng? Người đàn bà ẵm con cong môi lên đỏng đảnh:
-Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa. Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi:
-Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…
-Thì chúng tôi vừa ở dưới ấy lên đây mà lại. Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ. Tây vào làng chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô. Thằng chánh Bệu thì khuân cả tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe cam nhông, đưa vợ con lên vị trí với giặc ở ngoài tỉnh mà lại.

Có người hỏi:
-Sao bảo làng chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?…
-ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy! ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to:
-Hà, nắng gớm, về nào… ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo. ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú:
-Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì có cho mỗi đứa một nhát! ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi. ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà. Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ khác, len lén đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau. Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra… Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… ông lão nắm chặt hai tay lại và rít lên:
-Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này! ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình nói không được đúng lắm.


Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được. ông kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng. Quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại can tâm làm điều nhục nhã ấy!… Nhưng sao lại nẩy ra cái tin như vậy được? Mà thằng chánh Bệu thì đích thị là người làng không sai rồi. Không có lửa thì sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì.
Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước… Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?… Chiều hôm ấy bà Hai về cũng có vẻ khác. Bà bước uể oải, cái mặt cúi xuống bần thần.


Đôi quang thúng thõng thẹo trên hai mấu đòn gánh. Bà đi thẳng vào trong nhà lúi húi xếp hàng vào một xó, rồi lẳng lặng ra bậc cửa ngồi ôm má nghĩ ngợi. Trẻ con cũng không đứa nào dám vòi quà. Trong nhà có cái im lặng thật là khó chịu, không ai dám cất tiếng lên nói, cả đến nhìn nhau họ cũng không dám nhìn nhau nữa. Mãi khuya, bà Hai mới chống gối đứng dậy. Bà lẳng lặng xuống bếp châm lửa ngồi tính tiền hàng. Vẫn những tiền cua, tiền bún, tiền đỗ, tiền kẹo… Vẫn cái giọng rì rầm, rì rầm thường ngày.
-Này thày nó ạ. ông Hai nằm rũ ra trên giường không nói gì.
-Thày nó ngủ rồi à?
-Gì? ông lão khẽ nhúc nhích:
-Tôi thấy người ta đồn… ông lão gắt lên:
-Biết rồi!
Bà Hai nín bặt. Gian nhà lặng đi, hiu hắt. ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà.
-Thế nhưng người ta đồn trên này người ta không chứa những người chợ Dầu nữa thầy nó ạ. Nghe ngóng một chút, không thấy chồng trả lời, bà lão lại cúi xuống lầm bầm tính. Nét mặt bà lặng đi, chịu đựng và nhẫn nhục. Bên gian bác Thứ đã ngủ từ lâu, chung quanh đều im lặng… Một vài tiếng chó nhúc nhắc sủa phía xa, và có tiếng trẻ khóc văng vẳng trong tiếng gió. ông Hai vẫn trằn trọc không sao ngủ được. ông hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài. Chợt ông lão lặng hẳn đi, chân tay nhủn ra, tưởng chừng như không cất lên được… Có tiếng nói léo xéo ở gian trên. Tiếng mụ chủ… Mụ nói cái gì vậy? Mụ nói cái gì mà lào xào thế? Trống ngực ông lão đập thình thịch. lão nín thở, lắng tai nghe ra bên ngoài… Bà Hai bỗng lại cất tiếng:
-Thày nó ngủ rồi ư? Dậy tôi bảo cái này đã. ông Hai bật ngóc đầu dậy, giơ tay trỏ lên nhà trên, ông sít hai hàm răng lại mà nghiến:
-Im! Khổ lắm! Nó mà nghe thấy lại không ra cái gì bây giờ. ông lão lại ngả mình nằm xuống, không nhúc nhích.

* * *
Đã ba bốn hôm nay, ông Hai không bước chân ra đến ngoài, cả đến bên bác Thứ ông cũng không dám sang. Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng. Nghe ngóng xem binh tình bên ngoài ra sao? Một đám đông xúm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”.
Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi! Nhưng còn cái này nữa mà ông sợ, có lẽ còn ghê hơn cả những tiếng kia nhiều. ấy là mụ chủ nhà. Từ ngày xảy ra chuyện ấy, hình như mụ ta lấy điều làm cho vợ chồng ông khổ ngấm khổ ngầm là mụ thích. Sáng chiều bốn buổi đi làm đồng về, mụ kéo lê cái nạo cỏ quèn quẹt dưới đất, qua cửa, mụ nhòm vào nói những câu bóng gió xa xôi, như khía vào thịt ông lão. Thôi thì bây giờ thế nào mà chả phải chịu. Có được chỗ chui ra chui vào là may lắm rồi.

Mỗi lần mụ nói, ông lão chỉ cười gượng làm như không biết chuyện gì. ông thì muốn lặng đi như thế, nhưng mụ chủ nhà có để cho ông yên đâu. Sáng hôm nay lúc bà Hai sắp sửa quang gánh ra hàng thì mụ chủ nhà không biết đi đâu về, mụ đứng dạng háng ở ngoài sân nói chõ vào:
-Bà lão chưa đi hàng cơ à? Muộn mấy?…
-Chưa bà ạ. Mời bà vào chơi trong này!
-Vâng bà để mặc em… à bà Hai này!… Mụ chạy sát vào bực cửa, thân mật:
-Trên này họ đồn giăng giăng ra rằng thì là làng dưới nhà ta đi Việt gian theo Tây đấy, ông bà đã biết chưa nhỉ? … Nghe nói, bảo có lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu khỏi vùng này không cho ở nữa. Mụ chủ chép miệng, giọng ngọt xớt:
-Em cứ khó nghĩ quá… ông bà cũng là người làm ăn tử tế cả. Nhưng mà có lệnh biết làm thế nào. Đành nhẽ là ông bà kiếm chỗ khác vậy… Này, ở với nhau đang vui vẻ, ông bà dọn đi, em lại cứ nhớ đáo để đấy nhớ. Bà Hai cúi mặt xuống rân rấn nước mắt, bà nói:
-Vâng… thôi thì dân làng đã chả cho ở nữa, chúng tôi cũng đành phải đi nơi khác chứ biết làm thế nào. Nhưng xin ông bà trên ấy nghĩ lại thư thư cho vợ chồng chúng tôi vài ba hôm nữa. Bây giờ bảo đi, vợ chồng chúng tôi cũng không biết là đi đâu…


Mụ chủ đi rồi, bà Hai và con bé lớn nước mắt ròng ròng, lẳng lặng gánh hàng ra quán. Vợ chồng cũng chẳng dám nói với nhau câu gì. ông Hai ngồi lặng trên một góc giường, bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn, nối tiếp bời bời trong đầu óc ông lão. Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ?… Thật là tuyệt đường sinh sống! Mà không gì cái đất Thắng này. ở Đài, ở Nhã Nam, ở Bố Hạ, Cao Thượng… đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu. “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…” cái câu nói của người đàn bà tản cư hôm trước lại dội lên trong tâm trí ông. Hay là quay về làng ?… Vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức ông lão phản đối ngay. Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ…


Nước mắt ông giàn ra, về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây. ông lão nghĩ đến mấy thằng kỳ lý chuyên môn khua khoét như thế lại ra vào hống hách ở trong cái đình. Và cái đình lại như của riêng chúng nó, lại thâm nghiêm ghê gớm, chứa toàn những sự ức hiếp, đè nén. Ngày ngày chúng dong ra, dong vào, đánh tổ tôm mà bàn tư việc làng với nhau ở trong ấy. Những hạng khố rách áo ôm như ông có đi qua cũng chỉ dám liếc trộm vào, rồi cắm đầu xuống mà lủi đi. Anh nào ho he, hóc hách một tí thì chúng nó tìm hết cách để hại, cất phần ruộng, truất ngôi, tống ra khỏi làng… ông Hai nghĩ rợn cả người. Cả cuộc đời đen tối, lầm than cũ nổi lên trong ý nghĩ ông. ông không thể về cái làng ấy được nữa. Về bây giờ ra ông chịu mất hết à? Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi:
-Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?
-Là con thầy mấy lỵ con u.
-Thế nhà con ở đâu?
-Nhà ta ở làng chợ Dầu.
-Thế con có thích về làng chợ Dầu không? Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
-Có. ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
-à thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai? Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
-ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm! Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. ông nói thủ thỉ:
-ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ. Mấy hôm nay ru rú ở xó nhà, những lúc buồn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lão lại thủ thỉ với con như vậy. ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa. Anh em đồng chí biết cho bố con ông.


Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai. Mỗi lần nói ra được đại câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vơi đi được đại phần. Khoảng ba giờ chiều hôm ấy, có một người đàn ông đến chơi nhà ông Hai. Hắn cũng là người chợ Dầu. Hai người thì thầm ở góc nhà một lúc lâu rồi thấy ông Hai đóng khăn áo chỉnh tề tất tả theo hắn đi. ông vội vã đến quên cả dặn trẻ coi nhà. ông Hai đi mãi đến xẩm tối mới về. Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung đỏ, hấp háy… Vừa đến ngõ ông lão đã lên tiếng:
-Chúng mày đâu rồi, ra thầy chia quà cho nào. Lũ trẻ ở trong nhà ùa ra, ông lão vội rút cái gói bọc lá chuối khô cho con bé lớn:
-Bánh rán đường đây, chia cho em mỗi đứa một cái. Dứt lời ông lão lại lật đật đi thẳng sang bên gian bác Thứ. Chưa đến bực cửa, ông lão đã bô bô:
-Bác Thứ đâu rồi? Bác Thứ làm gì đấy! Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết… Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi là Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả. Bác Thứ chưa nghe thủng câu chuyện ra sao, ông lão đã lại lật đật bỏ lên nhà trên.


-Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính… Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. RA Lyo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả! Cũng chỉ được bằng ấy câu, ông lão lại lật đật bỏ đi nơi khác. Còn phải kể cho người khác biết chứ. ông lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người. Ai cũng mừng cho ông lão. Đến ngay cả mụ chủ nhà là người ông lão yên trí, nghe tin này thế nào mặt mụ cũng sa sầm xuống mà nói tức nói xóc, thì trái lại, mụ lại tỏ vẻ rất vui sướng. Mụ giương tròn cả hai mắt lên mà reo:
-A, thế chứ! Thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét ghê ấy… Thôi, bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên chả ai bảo sao. n hết nhiều chứ ở hết là bao nhiêu. Mụ cười khi khí:
-Này, rồi cũng phải nuôi lấy con lợn… mà ăn mừng đấy! ông Hai gật gật:
-Được, được, chuyến này rồi phải nuôi chứ… Tối hôm ấy ông Hai lại sang bên gian bác Thứ, lại ngồi trên chiếc chõng tre vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông. ông kể lại hôm Tây vào khủng bố. Chúng nó có bao thằng, bao nhiêu Tây, bao nhiêu Việt gian, đi những đường nào, đốt phá những đâu đâu, và dân quân, tự vệ làng ông bố trí, cầm cự ra sao; rành rọt tỉ mỉ như chính ông lão vừa dự trận đánh giặc ấy xong thật…


Ông Cản Ngũ
Năm ấy hội vật đền Đô vào đám to, tiếng đồn bay dậy khắp mọi miền xứ Bắc, chính vì có tin ông Cản Ngũ về phá giải. Các sân vật, các tay đô vật, những người ham thích xem vật, đâu đâu cũng nghe bàn bạc, sôi nổi về ông Cản Ngũ. Cản Ngũ là cản ngũ tỉnh. Năm tỉnh đường ngoài xứ Bắc, ông là vô địch. Vì vậy ông Cản Ngũ còn có tên là ông Cản Bắc. Năm ấy ông Cản Ngũ đã đứng tuổi rồi. Người ta xì xào bảo nhau rằng ông là một ông tướng thân cận của quan Tán Bãi Sậy lâu nay vẫn giả dạng đi vật, chu du khắp chốn thiên hạ để tuyển mộ những người tài, mạnh, nghĩa khí, kết làm anh em đồng sinh, đồng tử, xung vào đội nghĩa binh đánh giặc, cứu nước. Từ hôm có tin ông Cản Ngũ về phá giải hội vật đền Đô, nhà cụ Cả Lẫm ở thôn Đình Tràng ngày nào cũng dập dìu ba bốn chục người khách lạ. Họ toàn những tay đô lão luyện, anh tài của các sân vật nổi tiếng quanh vùng đến hội tụ, bàn bạc cách đối phó với ông Cản Ngũ. Ai cũng biết, người vào vật đầu tiên với ông Cản Ngũ nhất định là Quắm Đen rồi. Sức mạnh và tài đởm của Quắm Đen không còn phải bàn gì nữa. Mấy năm liền Quắm Đen vẫn chiếm giải nhất ở vùng này. Các đô đều vì nể. Quắm Đen to trùi trũi như con trâu mộng. Anh ta khỏe lắm. Gánh lúa của anh bao giờ cũng to, nhiều gấp đại ba lần người khác.

Anh có thể vật suốt ngày không biết mệt. Anh là học trò yêu của cụ Cả Lẫm, được cụ truyền dạy cho nhiều thế đánh bí truyền và những đức tính cần thiết của một người đô vật đàn anh khi giao đấu với những địch thủ lợi hại. Thế nhưng, Quắm Đen thua ông Cản Ngũ thì ai sẽ vào “theo keo”? Cái khó của các ông đô vật vùng này là chỗ ấy. Mấy gian nhà khách, mấy ngày đêm liền, lúc nào cũng nghe ồm ồm tiếng bàn cãi. Các tay đô vừa uống rượu, vừa nói. Mặt người nào cũng đỏ phừng phừng. Người nào nom cũng to lớn dữ tợn. Những lúc bí quá, đã có người bàn đến nước cố cùng là, nếu Quắm Đen bị ông Cản Ngũ đánh ngã thì tất cả các đô trong hàng tỉnh, mỗi anh một chiếc đòn gánh mấu liền cứ thế xông vào mà đánh. Đánh cho bàn dân thiên hạ không thể xem thường đô vật tỉnh Bắc được. Đánh cho ông Cản Ngũ cũng phải kiềng mặt. Cái ý xằng bậy ấy bị cụ Cả Lẫm nghiêm khắc gạt bỏ đi ngay. Cụ bảo rằng: ông Cản Ngũ không phải là người dễ đánh! Mà gia dĩ có đánh được người ta, cũng không hay ho gì, đẹp đẽ gì cho các sân vật tỉnh mình. Tý Trâu là con trai út cụ Cả Lẫm. Mấy hôm nay, nhà đông khách, chàng ta được bố phân cho các việc lặt vặt, nước nôi, điếu đóm. Suốt ngày chàng ta chỉ quanh quẩn trên nhà khách hóng chuyện.


Tuy chưa được tập luyện thực sự, nhưng xem các bác, các chú “tắm vật” hàng ngày, Tý Trâu học được khối miếng. Tý Trâu vật rất giỏi, rất khỏe. Tất cả bọn chăn trâu đều bị nó vật ngã. Nó vật ngã cả bò, vật ngã cả trâu, làm gì không vật ngã ông Cản Ngũ! Nó nghĩ bụng, đến hôm này ra xới không ai dám vào theo keo nó sẽ vào vật ông Cản Ngũ cho mà xem. Phục thì phục quý thì quý, nhưng lúc này ông Cản Ngũ là đối thủ của tỉnh mình thì cũng phải vật ngã ông ấy một keo cái đã.

* * *
Tiếng trống vật nổi lên dồn dập. Người tứ xứ đổ về đông như nước chảy. Ai ai cũng náo nức muốn được xem mặt, xem tài ông Cản Ngũ. Người ta chen lấn nhau, quây kín quanh xới vật; nhiều người phải trèo lên những cây trôi, cây nhội gần đấy xem cho rõ. Dưới mái tam quan đền, những vuông nhiễu điều bay đỏ rực. Các đô trong tỉnh cởi trần, đóng khố ngồi hai bên xới. Trên thềm cao, ông Cản Ngũ ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu đậu trắng, cạp điều. ông ngồi một mình một chiếu; người ông đỏ như đồng tụ, to lớn, lẫm liệt, nhác trông không khác gì tượng hai ông tướng Đá Rãi ở trong đền. Đầu ông buộc một vuông khăn màu xanh lục giữ tóc, mình trần, đóng khố bao khăn vát. ông ngồi ung dung ăn trầu uống nước, nói chuyện với mấy ông đàn anh trong dân xã các ông đô sở tại. Sau những keo vật thờ múa lộn thật đẹp mắt và sau những keo “khảo lèo” những đô khố bẹ; Quắm Đen bước ra xới, xốc lại mảnh khố nhiễu xanh, tiến lên thềm tam quan đền, giơ bàn tay thô, vụng vuốt dài lên mấy vuông nhiễu giải nhất, miệng cười rất tươi. Đó là dấu hiệu riêng của các đô trước khi vào đấu. Dấu hiệu tỏ ra cho mọi người biết, giải này mình vào phá và sẽ thuộc về mình. Nó là dấu hiệu thách thức, quyết đánh.


ông đô già người sở tại, khăn chùng, áo dài ngồi cầm trịch, giơ cao chiếc dùi trống sơn son gõ mạnh xuống mặt trống ba tiếng thật đanh, thật giòn tỏ ý nhận lời. Quắm Đen quay ra đứng giữa xới. Ngay lúc ấy, ông Cản Ngũ cũng từ trên thềm cao bước xuống. Tiếng reo hò bốn phía tức thì nổi lên ầm ầm. Ngay nhịp trống đầu, Quắm Đen đã lăn xả vào ông Cản Ngũ đánh ráo riết. Rõ ràng là anh muốn dùng cái sức lực đương trai của mình lấn lướt ông ta và muốn hạ ông ta rất nhanh bằng những thế đánh thật lắt léo, hóc hiểm. Anh vờn tả, đánh hữu, dứ trên, đánh dưới, thoắt biến, thoắt hóa khôn lường. Trái lại, ông Cản Ngũ thì xem ra có vẻ lại lờ ngờ, chậm chạp; dường như ông lúng túng trước những đòn đánh liên tiếp của Quắm Đen. Hai tay ông lúc nào cũng thấy dang rộng ra, để sát xuống mặt đất, xoay xoay chống đỡ. Keo vật xem chán ngắt. Cứ nghĩ tưởng Cản Ngũ thì phải thế nào chứ, đánh chác thế kia. “Chẹp!” Chán quá. ông Cản Ngũ bỗng bước hụt, mất đà chúi xuống. Quắm Đen đã như con cắt luồn qua hai cánh tay ông Cản Ngũ ôm lấy một bên chân ông, bốc lên. Người xem bốn phía xung quanh reo ồ cả lên. Thôi thế là ông Cản Ngũ ngã rồi, nhất định ngã rồi. Có khỏe bằng voi thì cũng phải ngã. Tiếng trống vật dồn lên, gấp rút, giục giã. ông Cản Ngũ vẫn chưa ngã. ông đứng như cây trồng giữa xới trước những cặp mắt kinh dị của người xem.

Còn Quắm Đen thì đang loay hoay gò lưng lại, không sao bê nổi chân ông Cản Ngũ lên. Cái chân tựa như bằng cây cột sắt chứ không phải là chân người nữa. ông Cản Ngũ vẫn đứng nghiêng mình nhìn Quắm Đen mồ hôi mồ kê nhễ nhại dưới chân. Lúc lâu, ông mới thò tay xuống nắm lấy khố Quắm Đen nhấc bổng anh ta lên, coi nhẹ như ta giơ con ếch có buộc sợi rơm ngang bụng vậy. Các đô ngồi quanh xới đều lặng đi trước thần lực ghê gớm của ông Cản Ngũ. Thôi thế là Quắm Đen bại rồi. Keo vật bị đánh bại một cách nhục nhã, cay đắng quá chừng. Người ta đánh mình, co không bằng đánh với một đứa trẻ con! Quắm Đen, một tay đô tài mạnh bậc nhất trong hàng tỉnh mà còn bị đánh thua như vậy thì còn ai là người theo keo đánh nổi được ông Cản Ngũ? Họ đều cắn chặt môi lại mà thở dài. Buổi tối hôm ấy, trong mấy gian nhà khách nhà cụ Cả Lẫm lại ồn ồn tiếng các đô bàn cãi. Tiếng bàn cãi cùng lúc càng xô xát, dữ tợn. Một ông đô già móm mém đứng lên, xin nói. ông lão nói nhỏ nhẻ, đà đận như một ông quan viên, đứng nói giữa ngày hội làng.


-Thưa… có đông anh em các đô hàng tỉnh, tôi xin có một đại nhời… ông lão ngừng lại, đằng hắng một tiếng.
-ông Cản Ngũ tuy thị là tay đô kỳ tài thật. Nhưng tài là tài ở đâu kia, ở ta đây không phải là không có người đánh được ông ấy. Nhất định là đánh được ạ. Tôi xin cam đoan với các chư vị hàng đô ta như thế. ông lão tủm tỉm, móm mém liếc nhìn mọi người. Cánh đô trẻ sốt ruột giục ầm ầm:
-Ai? Nhưng mà ai mới được chứ?
-Ai thì cụ cứ nói tosc móng heo ra! Tôi xin hỏi: ai đánh nổi ông Cản Ngũ nào? ông cụ đô móm hể hả đưa một bàn tay ra chặn người vừa nói:
-ấy, ấy… Thong thả, cứ để thong thả cái đã nào… Việc này tuy thị cũng dễ thôi, nhưng lại cũng rất ư là khó khăn cơ đấy…
Một tay đô nóng nẩy đứng phắt lên, gạt đi:
-Thôi, chúng tôi biết rồi. Đánh ngã ông Cản Ngũ tỉnh này phi tay cụ Cả Lẫm ra, còn ai vào đây nữa!
-Đúng! Đúng! Ngoài cụ Cả Lẫm ra không còn ai đánh nổi ông Cản Ngũ! Chúng tôi đã nghĩ ngay từ hôm có tin ông Cản Ngũ về phá giải rồi kia. Nhưng thực tình chúng tôi cũng ngại. Không biết cụ Cả Lẫm có nhận lời không? Cụ Cả Lẫm tủm tỉm cười, lắc đầu nói nước đại với mọi người:
-Tôi bây giờ như con trâu đã về già rồi, biết rằng gân cốt có còn được như trước nữa không? Nói vậy nhưng cụ Cả Lẫm cũng đã nghĩ như mọi người. Trong hàng tỉnh, ngoài cụ ra, không còn ai có thể địch lại với ông Cản Ngũ được. Keo vật đánh ngã Quắm Đen khi chiều cụ càng thấy rõ điều ấy. Cụ Cả Lẫm trước kia vốn là một tay đô mà các đô thời ấy đều gọi là ông trạng vật.


 Cụ đã từng đánh ngã hàng loạt các ông đô được xếp vào hàng đô ngự. Cụ có những ngón bí truyền như “tiện xương”, “rút gáy”, “chặt chân voi” v.v… là những miếng vật đến con cháu trong nhà, cụ cũng không muốn truyền lại, sợ tổn âm đức về sau. Tuy đã hơn mười năm không ra xới, tiếng tăm cụ vẫn lẫy lừng, các đô trong tỉnh đều kính nể, coi cụ như bậc thầy. Keo vật cuối cùng trong đời; cụ đánh ngã một ông đô già. ông lão cũng là một tay đô tài mạnh lẫy lừng một thời, chỉ vì thanh danh của sân vật mình mà phải ra xới. Đánh ngã ông đô già keo vật ấy, về nhà không hiểu sao cụ Cả Lẫm thấy trong lòng áy náy không yên, vừa thương thương, vừa tội tội. Từ đấy cụ không ra xới vật nữa. Nhưng lúc này, cái cảnh ngộ của cụ có khác gì cảnh người đô già cụ đánh ngã trước kia? Quắm Đen, anh học trò yêu của cụ đã bị ông Cản Ngũ đánh ngã rồi. Cụ không ra xới thì tai tiếng; còn hàng huyện hàng tỉnh. Mà ra xới thì… “Lưỡng hổ tương tranh”. Hai con hổ dữ tranh tài, một sống, một mái…


Vả nữa, ông Cản Ngũ vốn là một ông tướng nghĩa binh dưới cờ quan Tán, mượn danh đi vật để thu phục nhân tâm, lo toan việc nước. Đối với một người như thế, sự thắng bại, mất còn trong một keo vật, phỏng có nên chăng? Đêm ấy khách khứa trong nhà ngủ yên đã lâu, cụ Cả Lẫm vẫn chắp hai tay sau lưng, đi lại một mình băn khoăn nghĩ ngợi dưới bóng trăng. Keo vật ông Cản Ngũ đánh ngã Quắm Đen vẫn không thể xóa khỏi được trong ý nghĩ của ông cụ. Nó là một keo vật lạ lắm, không thể coi là một keo vật bình thường được. Tư cách người đô vật đàn anh như ông Cản Ngũ, sao có thể nỡ đánh ngã một anh đô mới trỗi như Quắm Đen một cách tầm thường, bỉ thử như thế được. Nó là cách muốn làm nhục nhau! Không, trong ý tứ keo vật này tất có điều gì bí ẩn đây. ông Cản Ngũ về tỉnh này, nhất định không lạ gì cụ Cả Lẫm. Keo vật này là keo vật khiêu khích đây. Keo vật thách thức, keo vật gọi Cả Lẫm ra xới thi tài đây. Đã là một người đô vật, không ai có thể từ chối sự thách thức như vậy được. Trong người ông cụ Cả Lẫm lại rạo rực bầu máu nóng của một anh đô tài ba và dày dạn, lọc lõi. Một ông đô, đã ra đến xới chỉ có quật ngã địch thủ. Mặt trăng đã ngả chênh chếch về phía tây, ông cụ Cả Lẫm lẳng lặng đi ra vườn sau, thử lại gân sức. Cụ tiến lại bên bụi chuối, giơ một bàn tay chặt liền mấy cái, những cây chuối, bị tiện đại ra, đổ rạp xuống. ông lão đứng tần ngần ngắm những cây chuối gãy một lúc, rồi lững thững đi lại phía những chiếc cối đá đại, thủng trôn vẫn dùng làm cối đập lúa để ở góc vườn. ông lão xỏ vào mỗi bên tay một cái cối đá, thong thả đi quanh vườn cây. ông lão đi như thế đủ ba vòng, rồi ung dung trở vào nhà đi nghỉ.

Nhưng, ông cụ Cả Lẫm vừa đi khỏi thì, từ trong một bụi cây tối, Tý Trâu đã chạy vút ra. Nó cũng chạy đến bên một bụi chuối, cũng giơ tay hăm hở chặt liền một lúc hàng chục cây chuối đổ xuống. Nó cũng xỏ cối đá vào hai cánh tay, mắm môi mắm lợi, cắm cổ chạy quanh vườn hàng chục lượt. Từ lúc Quắm Đen bị ông Cản Ngũ đánh ngã, Tý Trâu cũng bồn chồn không yên. Nó cũng thấy uất ức, xấu hổ và lo lắng cho sân vật của vùng mình. Đêm ấy cu cậu lục sục không sao ngủ được. Cứ chợp mắt đi, đã thấy vật nhau với ông Cản Ngũ… Hôm nay là ngày giã đám rồi. Sau Quắm Đen vẫn chưa có người vào vật với ông Cản Ngũ. Chỉ còn từ giờ đến chiều là các sân vật tỉnh Bắc mất giải. Dưới mái tam quan, các bô lão, các ông quan viên, quan đám, các ông đô sở tại, chạy vào chạy ra thờ thẫn. Hội đám nhạt thếch. Trống vật thập thùng rời rạc, cầm chừng. Thôi, giải vật năm nay cầm chắc về tay người ngoài rồi. ông đô già cầm trịch đã đứng lên sửa sosn đánh một hồi ba tiếng trống hạ giải thì, một ông già từ ngoài xới, rẽ đám đông bước vào. Cụ Cả Lẫm! Cả xới vật cùng reo lên. Các ông quan đám, quan viên, các ông chức dịch trong xã đều đứng cả dậy. Đúng là keo vật mà tất cả mọi người đang chờ đợi. Cụ Cả Lẫm hôm nay nom oai phong, lẫm liệt như một lão tướng sắp ra trận. ông cụ đứng giữa xới, râu tóc bạc phơ, mình trần, đóng một cái khố bao nhồi trấu bằng vóc vàng, xung quanh vắt hai tấm nhiễu xanh và nhiễu đỏ lòa xòa đến gối.


Cả người ông lão chắc nịch, xù xì, gân guốc như một gốc đa cổ thụ. Lên đài xong, hai ông đô già vào “bá tay tư”. Chỉ mới vào “bá tay tư” thôi, cả xới bỗng đều như ngộp thở trước cuộc giao tranh sắp tới. Biết rằng gặp tay đối thủ lợi hại, ông Cản Ngũ đánh rất dè dặt. Hai ông đô vừa đánh vừa thăm dò ý tứ của nhau. Họ không bỏ sót ở nhau từng cử động nhỏ nào. Họ đề phòng nhau từng cái liếc mắt, cái rùng mình… Tiếng trống vật bỗng dồn lên, càng lúc càng dồn lên mạnh mẽ. Keo vật đang từ thế thăm dò, dè dặt bỗng chuyển sang những thế đánh quyết liệt. Dồn lên, du xuống, quay tít quanh xới. Thực ra đấy vẫn chỉ là đánh để thăm dò. Chưa bên nào dám đánh đến hết miếng đánh của mình, vừa đánh vừa giữ thế thủ. Cụ Cả Lẫm quả là một tay đô lão luyện, dầy dạn. Bao nhiêu đòn ông Cản Ngũ đánh sang, ông cụ đều đỡ gạt, tránh né, gỡ thoát một cách hết sức nhẹ nhàng. Cụ vẫn chưa đánh trả ông Cản Ngũ một đòn nào. Đột nhiên, cụ Cả Lẫm bỗng chao người đi, khuỵu một bên gối xuống, cả người cụ như một con thoi lao vút qua nách ông Cản Ngũ gánh lên. Nhưng ông Cản Ngũ đã kịp lùi lại một bước, thót người lại, vòng hai cánh tay to khỏe như hai con trăn đất, khóa chặt lấy gáy, lấy lưng ông cụ Cả Lẫm, lắc mạnh…


Keo vật đã đến lúc hư, thực khôn lường. Cả hai ông đô đều trổ hết tài nghề ra để hạ nhau. Bốn bề chỉ nghe tiếng trống dồn dập, tiếng chân hai ông đô tranh tài dỗ thình thịch trên mặt xới. Hai ông đô cứ thế xoắn chặt lấy nhau, quần nhau, xoay như chong chóng. Cả xới ngồi xem đều lặng đi trước một cuộc tranh tài ghê gớm từ xưa chưa từng thấy. Bỗng có một người nào đó hét lên: Bá tay tư: Một tay vít gáy, tay kia nắm cánh hoặc bá vai. Trước khi đánh các đô đều vào bá tay tư để dò xét sức lực nhau.
-ông Cản Ngũ bị rồi!
Cả xới vật tức thì xao động, nhốn nháo. ông Cản Ngũ đã bị năm đầu ngón tay cứng như năm cái vuốt của cụ Cả Lẫm quặp chặt lấy xương quai xanh. Đó là một miếng vật bí truyền. Khi mà cụ Cả Lẫm đã hạ đến miếng “móc quai xanh” ấy thì kẻ địch chỉ: một là thua, hai là gẫy quai xanh mà chết. Miếng vật các đô mới chỉ được nghe cụ nói lúc vui chuyện, chưa được xem cụ đánh bao giờ. Toàn thân ông Cản Ngũ đã run lên bần bật. Mặt ông lúc đỏ tía lên, lúc lại tái nhợt đi, đại chân mềm oặt. Lúc này, hai con mắt cụ Cả Lẫm sáng quắc như hai ngọn lửa chiếu thẳng vào mặt ông Cản Ngũ. Cụ đẩy ông ra xa, cụ kéo xích ông lại gần, cụ thong thả dắt ông đi từng bước diễu quanh xới. ông Cản Ngũ hoàn toàn lệ thuộc vào sự điều khiển theo ý muốn của cụ Cả Lẫm. Cả xới tưởng chừng như không ai dám thở mạnh nữa. Ai cũng thấy rõ nếu ông Cản Ngũ cưỡng lại sẽ bị gãy xương ngay. Chỉ có các tay đô trong tỉnh xem ra người nào cũng sướng. Mặt mũi người nào cũng rạng rỡ, phớn phở hẳn lên. ông cụ đô móm không ăn được trầu, nhưng cũng mang sẵn một phong từ nhà, lúc này mới mở ra, đưa truyền mời mỗi ông đô một miếng. ông lão tủm tỉm, móm mém, nói nhỏ với mấy ông đô ngồi bên cạnh:
-Cụ Cả nhà mình, tuy thị cũng là tay thâm nho đáo để. Hôm trước ông Cản Ngũ xách Quắm Đen như con nhái, thì hôm nay ông cụ dắt ông Cản Ngũ khác gì xỏ sẹo dắt con trâu… Đô vật tỉnh Bắc Ninh chứ có phải…


Chợt thoáng vừa có cái gì khác lạ xảy ra. Có những tiếng reo hò và tiếng dùi đập vào tang trống cắc cắc… Cái gì lạnh toát vừa chạy suốt sống lưng ông lão đô già móm mém. ông Cản Ngũ vừa ngã đổ người xuống ngực cụ Cả Lẫm. Và, như một tia chớp, ông đã thoát khỏi năm đầu ngón tay ghê gớm của cụ Cả Lẫm, xuất kỳ bất ý “sang sườn” đánh một miếng “gồng vai” đội lên. ông lão đô móm không còn kịp nói hết câu nữa. Không còn tin ở mắt, ở tai mình nữa. Keo vật đã chuyển bại thành thắng như ở trong một cơn mê. Cụ Cả Lẫm lảo đảo bước ra khỏi xới. Mấy tay đô đàn em vội chạy vội theo. Không ai nói được một lời nào. Keo vật cụ Cả Lẫm thua đau quá. Cầm bát nước bà hàng đưa cho mà ông lão không thể sao nuốt đi được. Nó cũng giống như keo vật cụ đánh ngã người ta cách đây mười mấy năm về trước. Giống quá! Giống quá!… ông cụ lắc đầu thở dài sườn sượt. Trời đã xế chiều. Trống vật nghe vẫn còn rộn rã. Quái lạ, còn ai vào đánh với ông Cản Ngũ nữa nhỉ? Một tay đô từ xa hấp tấp chạy lại. Anh ta vừa thở, vừa nói:
-Thưa cụ, thằng Tý Trâu… Cụ Cả Lẫm đặt vội bát nước xuống chõng hỏi lại:
-Sao? Thằng Tý Trâu làm sao, bác?
-Thưa cụ… Thằng Tý Trâu đang vật với ông Cản Ngũ.
-Chết thôi! Con cái nhà, ra xới mau lên thôi bác! Quên cả nỗi buồn bực, uất ức, cụ Cả Lẫm lật đật chạy theo anh đô vật ra xới. Trên xới vật, Tý Trâu đang giao đấu với ông Cản Ngũ. Nó đánh rất hăng. Đúng là con nhà nòi, có tài, có sức và gan dạ. Nó bám riết lấy ông Cản Ngũ đánh liên tiếp hết miếng này qua miếng khác. Nhìn miếng nó đánh hóc hiểm đến các ông đô ngồi xem bên ngoài cũng lấy làm lạ. ông Cản Ngũ chỉ lùi, tránh, đỡ, gạt, ông không có ý đánh ngã thằng bé.


Từ lúc biết Tý Trâu là con trai cụ Cả Lẫm và đánh với nó vài nhịp trống, ông Cản Ngũ bỗng yêu quý thằng bé đến lạ lùng. Trong đời đô vật, ông chưa thấy tay đô nào quyết đánh bại địch thủ dũng mãnh như thế. Có lúc ông đã thử bóp gân, xương cho đến tái người đi, nhưng vừa buông ra, nó đã lăn xả vào đánh liền. Có lúc ông đánh dồn dập năm, bẩy miếng liền; nó vẫn tỉnh táo chống lại không hề nao núng. Càng đánh, ông càng thấy yêu, ông có ý muốn thu phục thằng bé. Cụ Cả Lẫm đứng ngoài theo dõi keo vật, ông lão đã thấy rõ hết cái ý ấy của ông Cản Ngũ. Nước mắt ông lão bỗng trào ra, cảm kích vô cùng. Ngay giữa keo vật đang đánh giở, ông lão xông vào giữa xới xin cho được ngừng lại và bắt Tý Trâu nhận ông Cản Ngũ là thầy học. ông Cản Ngũ sung sướng nắm chặt lấy tay ông đô già, nhận lời.
* * *
Đêm ấy, trong nhà cụ Cả Lẫm vẫn đông đủ khắp mặt các tay đô vật trong tỉnh. Bình thường những lần mất giải về tay người, và sau những keo vật như Quắm Đen, cụ Cả Lẫm bị đánh ngã, thế nào cũng xảy ra những cuộc xô xát. Có khi đến đổ máu. Nếu không xông vào giữa xới đánh nhau thì, cũng tìm cách đón đường, chặn lối không cho đối thủ của mình về. Cái cảnh thua đau như chiều nay, ai còn mặt mũi, lòng dạ nào mà hội họp, mà ăn uống! Thế nhưng cụ Cả Lẫm đã có lời mời. Hôm nay ông Cản Ngũ ở lại chơi nhà cụ, ý cụ muốn có mặt đông đủ anh em hàng đô trong tỉnh. Họ nể lòng quá, phải ở lại. Những người đô vật to lớn, ngang tàng nhưng lại rất biết phục thiện các bậc đàn anh; và nữa, đối với một ông đô tài mạnh, lẫy lừng như ông Cản Ngũ, trên 129 130 Prev Page 4 Next xới vật họ coi là đối thủ, là thù địch, thực ra trong lòng họ vẫn rất lấy làm hâm mộ.


 Trong ánh sáng của những ngọn đuốc nhựa trám cháy rừng rực cắm quanh nhà, các ông đô ăn uống, nói năng từ tốn, chậm rãi. Hôm nay, nom họ rất hiền, chất phác, thuần hậu như những ông thợ cày. Rượu được vài tuần, ông Cản Ngũ chắp hai tay vào nhau, từ từ đứng lên. ông hướng ra bốn phía các ông đô ngồi quanh, ngập ngừng lên tiếng:
-Thưa… Các bạn hàng đô… tôi xin có vài lời… Tất cả mọi người đều ngừng đũa, hướng về phía ông Cản Ngũ.
-…Tôi đi vật cho đến nay, kể như gần hết một đời người rồi. Đông, Nam, Đoài, Bắc không thiếu đâu tôi không có mặt. Gần hết đời người rồi tôi mới thấy được buổi hôm nay. Thật là một sự hạnh ngộ quý hóa vô cùng… ông Cản Ngũ mím chặt môi lại, cúi đầu xuống. Đôi vai to lớn của ông rung lên. Lúc lâu ông mới lại ngửng lên nói tiếp:
-Các bạn hàng đô ở đây không những đã không coi tôi như thù địch, mà còn đãi tôi vào hàng khách quý, thân thiết như một người đô cùng trong một sân vật mình. Điều ấy thật là hiếm có. Điều ấy khiến tôi phải bộc bạch trước các bạn hàng đô tỉnh nhà về keo vật hôm nay. ông ngừng lại, nhìn vào cụ Cả Lẫm rất lâu.
-Keo vật tôi với cụ giao đấu lúc ban chiều thật khó hiểu quá. Tôi không bao giờ dám nghĩ rằng mình có thể thoát được năm ngón tay cứng như thép ấy của cụ. Lúc ở ngoài xới, còn đang say đấu, thực tình tôi chửa thấy được điều ấy. Về dây, càng nghĩ tôi càng lấy làm lạ. Một ông đô vật dày dạn, lỗi lạc như cụ, không khi nào để tôi thoát khỏi miếng vật hiểm nghèo ấy một cách dễ dàng quá như thế được…


Đúng là cụ tha cho tôi keo vật ấy. Đúng là cụ không muốn đánh tôi gẫy xương, không muốn tôi thành một người tàn phế. Đã được coi như người thân trong nhà, trước có đông anh em hàng đô hôm nay, tôi muốn hỏi cụ cho rõ điều ấy? Tất cả các mâm rượu đều xôn xao cả lên. Không ai ngờ keo vật lại là như thế. Người ta ngạc nhiên, khó hiểu. Vì sao ông cụ lại không đánh ông Cản Ngũ nhỉ? Có đúng thật là cụ Cả Lẫm đã tha cho ông Cản Ngũ không? Cụ Cả Lẫm vẫn ngồi im trước mâm rượu. Những lời ông Cản Ngũ nói đúng vào ruột gan ông lão. Đúng là keo vật đến lúc cụ phải đánh đến miếng “móc quai xanh” thì ông cụ có phân vân, suy nghĩ. Người đô vật khi phải đánh đến những miếng hiểm độc đã là hạ sách rồi. Đấy là nước cùng, của một anh tầm thường, xấu chơi. Huống chi, ông Cản Ngũ tiếng là đi vật, nhưng ông lại là một ông tướng nghĩa quân của quan Tán, có nên vì một keo vật mà làm hại một người bấy lâu vì dân, vì nước được không? Chính lúc cụ Cả Lẫm còn đang phân vân như thế, thì chợt đã thấy mình bị ông Cản Ngũ đánh ngã rồi. Lúc sau, cụ Cả Lẫm mới đứng lên từ tạ. ông lão có vẻ miễn cưỡng mà phải nói:
-… Keo vật được, thua đã định ở ngoài xới rồi. Đúng ra cũng chả nên nhắc lại làm gì. Nhưng ông bác đã hỏi, thì tôi phải xin thưa… ông lão ngập ngừng một lúc, rồi tiếp:
-Tôi cứ nghĩ rằng, đã là người đô vật mình, dù ở đâu, ở xứ Đông hay ở xứ Đoài, xứ Nam hay xứ Bắc, ở đâu cũng là người dân Việt ta cả. Cũng là máu đỏ da vàng với nhau; trong cái buổi còn đang nước mất nhà tan này, có nên vì hơn, thua một keo vật mà đánh một người nghĩa khí, một người vì dân, vì nước như ông bác đây thành một người tàn phế, bỏ đi được không? Được như vậy, có thể gọi là được, được không?…

Tất cả mọi người đều ngồi lặng đi. Có một cái gì to lớn, thiêng liêng lắm đang choán lấy hồn những ông đô vật. Quắm Đen ngồi dưới ngọn đuốc đang cháy rừng rực, anh ta cúi gằm mặt xuống. Từ hôm bị ông Cản Ngũ đánh ngã không thấy Quắm Đen hé răng nói một lời nào. Anh ta vẫn ngầm nuôi cái ý phục thù. Lúc này, nghe những lời cụ Cả Lẫm nói, anh ta bỗng thấy xấu hổ… Ngay đêm ấy, Quắm Đen đến gặp cụ Cả Lẫm, xin cụ nói cho anh được cùng Tý Trâu theo ông Cản Ngũ…
Mấy hôm sau, Tý Trâu, Quắm Đen theo ông Cản Ngũ xuôi về vùng Văn Giang, Gia Bình. Cụ Cả Lẫm tiễn chân đến tận bến Sải. ông lão đứng trên bờ nhìn theo mấy thầy trò ông Cản Ngũ qua sông một lúc rồi mới quay về. Từ dưới cũng không thấy cụ nói với ai rằng họ đi đâu… Mãi mấy năm về sau mới có người nghe tin Tý Trâu và Quắm Đen ở trong đội nghĩa quân của ông Tán Thuật đánh Tây, nhiều mưu mẹo và gan dạ lắm.


Năm ấy hội vật đền Đô vào đám to, tiếntiếng đồn bay dậy khắp mọi miền xứ Bắc, chính vì có tin ông Cản Ngũ về phá giải. Các sân vật, các tay đô vật, những người ham thích xem vật, đâu đâu cũng nghe bàn bạc, sôi nổi về ông Cản Ngũ. Cản Ngũ là cản ngũ tỉnh. Năm tỉnh đường ngoài xứ Bắc, ông là vô địch. Vì vậy ông Cản Ngũ còn có tên là ông Cản Bắc. Năm ấy ông Cản Ngũ đã đứng tuổi rồi. Người ta xì xào bảo nhau rằng ông là một ông tướng thân cận của quan Tán Bãi Sậy lâu nay vẫn giả dạng đi vật, chu du khắp chốn thiên hạ để tuyển mộ những người tài, mạnh, nghĩa khí, kết làm anh em đồng sinh, đồng tử, xung vào đội nghĩa binh đánh giặc, cứu nước. Từ hôm có tin ông Cản Ngũ về phá giải hội vật đền Đô, nhà cụ Cả Lẫm ở thôn Đình Tràng ngày nào cũng dập dìu ba bốn chục người khách lạ. Họ toàn những tay đô lão luyện, anh tài của các sân vật nổi tiếng quanh vùng đến hội tụ, bàn bạc cách đối phó với ông Cản Ngũ. Ai cũng biết, người vào vật đầu tiên với ông Cản Ngũ nhất định là Quắm Đen rồi. Sức mạnh và tài đởm của Quắm Đen không còn phải bàn gì nữa. Mấy năm liền Quắm Đen vẫn chiếm giải nhất ở vùng này. Các đô đều vì nể. Quắm Đen to trùi trũi như con trâu mộng. Anh ta khỏe lắm. Gánh lúa của anh bao giờ cũng to, nhiều gấp đại ba lần người khác. Anh có thể vật suốt ngày không biết mệt. Anh là học trò yêu của cụ Cả Lẫm, được cụ truyền dạy cho nhiều thế đánh bí truyền và những đức tính cần thiết của một người đô vật đàn anh khi giao đấu với những địch thủ lợi hại. Thế nhưng, Quắm Đen thua ông Cản Ngũ thì ai sẽ vào “theo keo”?

Cái khó của các ông đô vật vùng này là chỗ ấy. Mấy gian nhà khách, mấy ngày đêm liền, lúc nào cũng nghe ồm ồm tiếng bàn cãi. Các tay đô vừa uống rượu, vừa nói. Mặt người nào cũng đỏ phừng phừng. Người nào nom cũng to lớn dữ tợn. Những lúc bí quá, đã có người bàn đến nước cố cùng là, nếu Quắm Đen bị ông Cản Ngũ đánh ngã thì tất cả các đô trong hàng tỉnh, mỗi anh một chiếc đòn gánh mấu liền cứ thế xông vào mà đánh. Đánh cho bàn dân thiên hạ không thể xem thường đô vật tỉnh Bắc được. Đánh cho ông Cản Ngũ cũng phải kiềng mặt. Cái ý xằng bậy ấy bị cụ Cả Lẫm nghiêm khắc gạt bỏ đi ngay. Cụ bảo rằng: ông Cản Ngũ không phải là người dễ đánh! Mà gia dĩ có đánh được người ta, cũng không hay ho gì, đẹp đẽ gì cho các sân vật tỉnh mình. Tý Trâu là con trai út cụ Cả Lẫm. Mấy hôm nay, nhà đông khách, chàng ta được bố phân cho các việc lặt vặt, nước nôi, điếu đóm. Suốt ngày chàng ta chỉ quanh quẩn trên nhà khách hóng chuyện.


Tuy chưa được tập luyện thực sự, nhưng xem các bác, các chú “tắm vật” hàng ngày, Tý Trâu học được khối miếng. Tý Trâu vật rất giỏi, rất khỏe. Tất cả bọn chăn trâu đều bị nó vật ngã. Nó vật ngã cả bò, vật ngã cả trâu, làm gì không vật ngã ông Cản Ngũ! Nó nghĩ bụng, đến hôm này ra xới không ai dám vào theo keo nó sẽ vào vật ông Cản Ngũ cho mà xem. Phục thì phục quý thì quý, nhưng lúc này ông Cản Ngũ là đối thủ của tỉnh mình thì cũng phải vật ngã ông ấy một keo cái đã.


* * *
Tiếng trống vật nổi lên dồn dập. Người tứ xứ đổ về đông như nước chảy. Ai ai cũng náo nức muốn được xem mặt, xem tài ông Cản Ngũ. Người ta chen lấn nhau, quây kín quanh xới vật; nhiều người phải trèo lên những cây trôi, cây nhội gần đấy xem cho rõ. Dưới mái tam quan đền, những vuông nhiễu điều bay đỏ rực. Các đô trong tỉnh cởi trần, đóng khố ngồi hai bên xới. Trên thềm cao, ông Cản Ngũ ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu đậu trắng, cạp điều. ông ngồi một mình một chiếu; người ông đỏ như đồng tụ, to lớn, lẫm liệt, nhác trông không khác gì tượng hai ông tướng Đá Rãi ở trong đền. Đầu ông buộc một vuông khăn màu xanh lục giữ tóc, mình trần, đóng khố bao khăn vát. ông ngồi ung dung ăn trầu uống nước, nói chuyện với mấy ông đàn anh trong dân xã các ông đô sở tại. Sau những keo vật thờ múa lộn thật đẹp mắt và sau những keo “khảo lèo” những đô khố bẹ; Quắm Đen bước ra xới, xốc lại mảnh khố nhiễu xanh, tiến lên thềm tam quan đền, giơ bàn tay thô, vụng vuốt dài lên mấy vuông nhiễu giải nhất, miệng cười rất tươi. Đó là dấu hiệu riêng của các đô trước khi vào đấu. Dấu hiệu tỏ ra cho mọi người biết, giải này mình vào phá và sẽ thuộc về mình. Nó là dấu hiệu thách thức, quyết đánh.

ông đô già người sở tại, khăn chùng, áo dài ngồi cầm trịch, giơ cao chiếc dùi trống sơn son gõ mạnh xuống mặt trống ba tiếng thật đanh, thật giòn tỏ ý nhận lời. Quắm Đen quay ra đứng giữa xới. Ngay lúc ấy, ông Cản Ngũ cũng từ trên thềm cao bước xuống. Tiếng reo hò bốn phía tức thì nổi lên ầm ầm. Ngay nhịp trống đầu, Quắm Đen đã lăn xả vào ông Cản Ngũ đánh ráo riết. Rõ ràng là anh muốn dùng cái sức lực đương trai của mình lấn lướt ông ta và muốn hạ ông ta rất nhanh bằng những thế đánh thật lắt léo, hóc hiểm. Anh vờn tả, đánh hữu, dứ trên, đánh dưới, thoắt biến, thoắt hóa khôn lường. Trái lại, ông Cản Ngũ thì xem ra có vẻ lại lờ ngờ, chậm chạp; dường như ông lúng túng trước những đòn đánh liên tiếp của Quắm Đen. Hai tay ông lúc nào cũng thấy dang rộng ra, để sát xuống mặt đất, xoay xoay chống đỡ. Keo vật xem chán ngắt.

Cứ nghĩ tưởng Cản Ngũ thì phải thế nào chứ, đánh chác thế kia. “Chẹp!” Chán quá. ông Cản Ngũ bỗng bước hụt, mất đà chúi xuống. Quắm Đen đã như con cắt luồn qua hai cánh tay ông Cản Ngũ ôm lấy một bên chân ông, bốc lên. Người xem bốn phía xung quanh reo ồ cả lên. Thôi thế là ông Cản Ngũ ngã rồi, nhất định ngã rồi. Có khỏe bằng voi thì cũng phải ngã. Tiếng trống vật dồn lên, gấp rút, giục giã. ông Cản Ngũ vẫn chưa ngã. ông đứng như cây trồng giữa xới trước những cặp mắt kinh dị của người xem. Còn Quắm Đen thì đang loay hoay gò lưng lại, không sao bê nổi chân ông Cản Ngũ lên. Cái chân tựa như bằng cây cột sắt chứ không phải là chân người nữa. ông Cản Ngũ vẫn đứng nghiêng mình nhìn Quắm Đen mồ hôi mồ kê nhễ nhại dưới chân.

Lúc lâu, ông mới thò tay xuống nắm lấy khố Quắm Đen nhấc bổng anh ta lên, coi nhẹ như ta giơ con ếch có buộc sợi rơm ngang bụng vậy. Các đô ngồi quanh xới đều lặng đi trước thần lực ghê gớm của ông Cản Ngũ. Thôi thế là Quắm Đen bại rồi. Keo vật bị đánh bại một cách nhục nhã, cay đắng quá chừng. Người ta đánh mình, co không bằng đánh với một đứa trẻ con! Quắm Đen, một tay đô tài mạnh bậc nhất trong hàng tỉnh mà còn bị đánh thua như vậy thì còn ai là người theo keo đánh nổi được ông Cản Ngũ? Họ đều cắn chặt môi lại mà thở dài. Buổi tối hôm ấy, trong mấy gian nhà khách nhà cụ Cả Lẫm lại ồn ồn tiếng các đô bàn cãi. Tiếng bàn cãi cùng lúc càng xô xát, dữ tợn. Một ông đô già móm mém đứng lên, xin nói. ông lão nói nhỏ nhẻ, đà đận như một ông quan viên, đứng nói giữa ngày hội làng.

-Thưa… có đông anh em các đô hàng tỉnh, tôi xin có một đại nhời… ông lão ngừng lại, đằng hắng một tiếng.
-ông Cản Ngũ tuy thị là tay đô kỳ tài thật. Nhưng tài là tài ở đâu kia, ở ta đây không phải là không có người đánh được ông ấy. Nhất định là đánh được ạ. Tôi xin cam đoan với các chư vị hàng đô ta như thế. ông lão tủm tỉm, móm mém liếc nhìn mọi người. Cánh đô trẻ sốt ruột giục ầm ầm:
-Ai? Nhưng mà ai mới được chứ?
-Ai thì cụ cứ nói tosc móng heo ra! Tôi xin hỏi: ai đánh nổi ông Cản Ngũ nào? ông cụ đô móm hể hả đưa một bàn tay ra chặn người vừa nói:
-ấy, ấy… Thong thả, cứ để thong thả cái đã nào… Việc này tuy thị cũng dễ thôi, nhưng lại cũng rất ư là khó khăn cơ đấy…


Một tay đô nóng nẩy đứng phắt lên, gạt đi:
-Thôi, chúng tôi biết rồi. Đánh ngã ông Cản Ngũ tỉnh này phi tay cụ Cả Lẫm ra, còn ai vào đây nữa!
-Đúng! Đúng! Ngoài cụ Cả Lẫm ra không còn ai đánh nổi ông Cản Ngũ! Chúng tôi đã nghĩ ngay từ hôm có tin ông Cản Ngũ về phá giải rồi kia. Nhưng thực tình chúng tôi cũng ngại. Không biết cụ Cả Lẫm có nhận lời không? Cụ Cả Lẫm tủm tỉm cười, lắc đầu nói nước đại với mọi người:
-Tôi bây giờ như con trâu đã về già rồi, biết rằng gân cốt có còn được như trước nữa không? Nói vậy nhưng cụ Cả Lẫm cũng đã nghĩ như mọi người. Trong hàng tỉnh, ngoài cụ ra, không còn ai có thể địch lại với ông Cản Ngũ được. Keo vật đánh ngã Quắm Đen khi chiều cụ càng thấy rõ điều ấy.


 Cụ Cả Lẫm trước kia vốn là một tay đô mà các đô thời ấy đều gọi là ông trạng vật. Cụ đã từng đánh ngã hàng loạt các ông đô được xếp vào hàng đô ngự. Cụ có những ngón bí truyền như “tiện xương”, “rút gáy”, “chặt chân voi” v.v… là những miếng vật đến con cháu trong nhà, cụ cũng không muốn truyền lại, sợ tổn âm đức về sau. Tuy đã hơn mười năm không ra xới, tiếng tăm cụ vẫn lẫy lừng, các đô trong tỉnh đều kính nể, coi cụ như bậc thầy. Keo vật cuối cùng trong đời; cụ đánh ngã một ông đô già. ông lão cũng là một tay đô tài mạnh lẫy lừng một thời, chỉ vì thanh danh của sân vật mình mà phải ra xới. Đánh ngã ông đô già keo vật ấy, về nhà không hiểu sao cụ Cả Lẫm thấy trong lòng áy náy không yên, vừa thương thương, vừa tội tội. Từ đấy cụ không ra xới vật nữa. Nhưng lúc này, cái cảnh ngộ của cụ có khác gì cảnh người đô già cụ đánh ngã trước kia? Quắm Đen, anh học trò yêu của cụ đã bị ông Cản Ngũ đánh ngã rồi. Cụ không ra xới thì tai tiếng; còn hàng huyện hàng tỉnh. Mà ra xới thì… “Lưỡng hổ tương tranh”. Hai con hổ dữ tranh tài, một sống, một mái…


Vả nữa, ông Cản Ngũ vốn là một ông tướng nghĩa binh dưới cờ quan Tán, mượn danh đi vật để thu phục nhân tâm, lo toan việc nước. Đối với một người như thế, sự thắng bại, mất còn trong một keo vật, phỏng có nên chăng? Đêm ấy khách khứa trong nhà ngủ yên đã lâu, cụ Cả Lẫm vẫn chắp hai tay sau lưng, đi lại một mình băn khoăn nghĩ ngợi dưới bóng trăng. Keo vật ông Cản Ngũ đánh ngã Quắm Đen vẫn không thể xóa khỏi được trong ý nghĩ của ông cụ. Nó là một keo vật lạ lắm, không thể coi là một keo vật bình thường được. Tư cách người đô vật đàn anh như ông Cản Ngũ, sao có thể nỡ đánh ngã một anh đô mới trỗi như Quắm Đen một cách tầm thường, bỉ thử như thế được. Nó là cách muốn làm nhục nhau! Không, trong ý tứ keo vật này tất có điều gì bí ẩn đây. ông Cản Ngũ về tỉnh này, nhất định không lạ gì cụ Cả Lẫm. Keo vật này là keo vật khiêu khích đây.

Keo vật thách thức, keo vật gọi Cả Lẫm ra xới thi tài đây. Đã là một người đô vật, không ai có thể từ chối sự thách thức như vậy được. Trong người ông cụ Cả Lẫm lại rạo rực bầu máu nóng của một anh đô tài ba và dày dạn, lọc lõi. Một ông đô, đã ra đến xới chỉ có quật ngã địch thủ. Mặt trăng đã ngả chênh chếch về phía tây, ông cụ Cả Lẫm lẳng lặng đi ra vườn sau, thử lại gân sức. Cụ tiến lại bên bụi chuối, giơ một bàn tay chặt liền mấy cái, những cây chuối, bị tiện đại ra, đổ rạp xuống. ông lão đứng tần ngần ngắm những cây chuối gãy một lúc, rồi lững thững đi lại phía những chiếc cối đá đại, thủng trôn vẫn dùng làm cối đập lúa để ở góc vườn. ông lão xỏ vào mỗi bên tay một cái cối đá, thong thả đi quanh vườn cây. ông lão đi như thế đủ ba vòng, rồi ung dung trở vào nhà đi nghỉ. Nhưng, ông cụ Cả Lẫm vừa đi khỏi thì, từ trong một bụi cây tối, Tý Trâu đã chạy vút ra. Nó cũng chạy đến bên một bụi chuối, cũng giơ tay hăm hở chặt liền một lúc hàng chục cây chuối đổ xuống. Nó cũng xỏ cối đá vào hai cánh tay, mắm môi mắm lợi, cắm cổ chạy quanh vườn hàng chục lượt. Từ lúc Quắm Đen bị ông Cản Ngũ đánh ngã, Tý Trâu cũng bồn chồn không yên. Nó cũng thấy uất ức, xấu hổ và lo lắng cho sân vật của vùng mình. Đêm ấy cu cậu lục sục không sao ngủ được.

Cứ chợp mắt đi, đã thấy vật nhau với ông Cản Ngũ… Hôm nay là ngày giã đám rồi. Sau Quắm Đen vẫn chưa có người vào vật với ông Cản Ngũ. Chỉ còn từ giờ đến chiều là các sân vật tỉnh Bắc mất giải. Dưới mái tam quan, các bô lão, các ông quan viên, quan đám, các ông đô sở tại, chạy vào chạy ra thờ thẫn. Hội đám nhạt thếch. Trống vật thập thùng rời rạc, cầm chừng. Thôi, giải vật năm nay cầm chắc về tay người ngoài rồi. ông đô già cầm trịch đã đứng lên sửa sosn đánh một hồi ba tiếng trống hạ giải thì, một ông già từ ngoài xới, rẽ đám đông bước vào. Cụ Cả Lẫm! Cả xới vật cùng reo lên. Các ông quan đám, quan viên, các ông chức dịch trong xã đều đứng cả dậy. Đúng là keo vật mà tất cả mọi người đang chờ đợi. Cụ Cả Lẫm hôm nay nom oai phong, lẫm liệt như một lão tướng sắp ra trận. ông cụ đứng giữa xới, râu tóc bạc phơ, mình trần, đóng một cái khố bao nhồi trấu bằng vóc vàng, xung quanh vắt hai tấm nhiễu xanh và nhiễu đỏ lòa xòa đến gối.


Cả người ông lão chắc nịch, xù xì, gân guốc như một gốc đa cổ thụ. Lên đài xong, hai ông đô già vào “bá tay tư”. Chỉ mới vào “bá tay tư” thôi, cả xới bỗng đều như ngộp thở trước cuộc giao tranh sắp tới. Biết rằng gặp tay đối thủ lợi hại, ông Cản Ngũ đánh rất dè dặt. Hai ông đô vừa đánh vừa thăm dò ý tứ của nhau. Họ không bỏ sót ở nhau từng cử động nhỏ nào. Họ đề phòng nhau từng cái liếc mắt, cái rùng mình… Tiếng trống vật bỗng dồn lên, càng lúc càng dồn lên mạnh mẽ. Keo vật đang từ thế thăm dò, dè dặt bỗng chuyển sang những thế đánh quyết liệt. Dồn lên, du xuống, quay tít quanh xới. Thực ra đấy vẫn chỉ là đánh để thăm dò. Chưa bên nào dám đánh đến hết miếng đánh của mình, vừa đánh vừa giữ thế thủ. Cụ Cả Lẫm quả là một tay đô lão luyện, dầy dạn. Bao nhiêu đòn ông Cản Ngũ đánh sang, ông cụ đều đỡ gạt, tránh né, gỡ thoát một cách hết sức nhẹ nhàng. Cụ vẫn chưa đánh trả ông Cản Ngũ một đòn nào. Đột nhiên, cụ Cả Lẫm bỗng chao người đi, khuỵu một bên gối xuống, cả người cụ như một con thoi lao vút qua nách ông Cản Ngũ gánh lên. Nhưng ông Cản Ngũ đã kịp lùi lại một bước, thót người lại, vòng hai cánh tay to khỏe như hai con trăn đất, khóa chặt lấy gáy, lấy lưng ông cụ Cả Lẫm, lắc mạnh…


Keo vật đã đến lúc hư, thực khôn lường. Cả hai ông đô đều trổ hết tài nghề ra để hạ nhau. Bốn bề chỉ nghe tiếng trống dồn dập, tiếng chân hai ông đô tranh tài dỗ thình thịch trên mặt xới. Hai ông đô cứ thế xoắn chặt lấy nhau, quần nhau, xoay như chong chóng. Cả xới ngồi xem đều lặng đi trước một cuộc tranh tài ghê gớm từ xưa chưa từng thấy. Bỗng có một người nào đó hét lên: Bá tay tư: Một tay vít gáy, tay kia nắm cánh hoặc bá vai. Trước khi đánh các đô đều vào bá tay tư để dò xét sức lực nhau.
-ông Cản Ngũ bị rồi!
Cả xới vật tức thì xao động, nhốn nháo. ông Cản Ngũ đã bị năm đầu ngón tay cứng như năm cái vuốt của cụ Cả Lẫm quặp chặt lấy xương quai xanh. Đó là một miếng vật bí truyền. Khi mà cụ Cả Lẫm đã hạ đến miếng “móc quai xanh” ấy thì kẻ địch chỉ: một là thua, hai là gẫy quai xanh mà chết. Miếng vật các đô mới chỉ được nghe cụ nói lúc vui chuyện, chưa được xem cụ đánh bao giờ. Toàn thân ông Cản Ngũ đã run lên bần bật. Mặt ông lúc đỏ tía lên, lúc lại tái nhợt đi, đại chân mềm oặt. Lúc này, hai con mắt cụ Cả Lẫm sáng quắc như hai ngọn lửa chiếu thẳng vào mặt ông Cản Ngũ. Cụ đẩy ông ra xa, cụ kéo xích ông lại gần, cụ thong thả dắt ông đi từng bước diễu quanh xới. ông Cản Ngũ hoàn toàn lệ thuộc vào sự điều khiển theo ý muốn của cụ Cả Lẫm.

 Cả xới tưởng chừng như không ai dám thở mạnh nữa. Ai cũng thấy rõ nếu ông Cản Ngũ cưỡng lại sẽ bị gãy xương ngay. Chỉ có các tay đô trong tỉnh xem ra người nào cũng sướng. Mặt mũi người nào cũng rạng rỡ, phớn phở hẳn lên. ông cụ đô móm không ăn được trầu, nhưng cũng mang sẵn một phong từ nhà, lúc này mới mở ra, đưa truyền mời mỗi ông đô một miếng. ông lão tủm tỉm, móm mém, nói nhỏ với mấy ông đô ngồi bên cạnh:
-Cụ Cả nhà mình, tuy thị cũng là tay thâm nho đáo để. Hôm trước ông Cản Ngũ xách Quắm Đen như con nhái, thì hôm nay ông cụ dắt ông Cản Ngũ khác gì xỏ sẹo dắt con trâu… Đô vật tỉnh Bắc Ninh chứ có phải…


Chợt thoáng vừa có cái gì khác lạ xảy ra. Có những tiếng reo hò và tiếng dùi đập vào tang trống cắc cắc… Cái gì lạnh toát vừa chạy suốt sống lưng ông lão đô già móm mém. ông Cản Ngũ vừa ngã đổ người xuống ngực cụ Cả Lẫm. Và, như một tia chớp, ông đã thoát khỏi năm đầu ngón tay ghê gớm của cụ Cả Lẫm, xuất kỳ bất ý “sang sườn” đánh một miếng “gồng vai” đội lên. ông lão đô móm không còn kịp nói hết câu nữa. Không còn tin ở mắt, ở tai mình nữa. Keo vật đã chuyển bại thành thắng như ở trong một cơn mê. Cụ Cả Lẫm lảo đảo bước ra khỏi xới. Mấy tay đô đàn em vội chạy vội theo. Không ai nói được một lời nào. Keo vật cụ Cả Lẫm thua đau quá. Cầm bát nước bà hàng đưa cho mà ông lão không thể sao nuốt đi được. Nó cũng giống như keo vật cụ đánh ngã người ta cách đây mười mấy năm về trước. Giống quá! Giống quá!… ông cụ lắc đầu thở dài sườn sượt. Trời đã xế chiều. Trống vật nghe vẫn còn rộn rã. Quái lạ, còn ai vào đánh với ông Cản Ngũ nữa nhỉ? Một tay đô từ xa hấp tấp chạy lại. Anh ta vừa thở, vừa nói:
-Thưa cụ, thằng Tý Trâu… Cụ Cả Lẫm đặt vội bát nước xuống chõng hỏi lại:
-Sao? Thằng Tý Trâu làm sao, bác?
-Thưa cụ… Thằng Tý Trâu đang vật với ông Cản Ngũ.
-Chết thôi! Con cái nhà, ra xới mau lên thôi bác! Quên cả nỗi buồn bực, uất ức, cụ Cả Lẫm lật đật chạy theo anh đô vật ra xới. Trên xới vật, Tý Trâu đang giao đấu với ông Cản Ngũ. Nó đánh rất hăng. Đúng là con nhà nòi, có tài, có sức và gan dạ. Nó bám riết lấy ông Cản Ngũ đánh liên tiếp hết miếng này qua miếng khác. Nhìn miếng nó đánh hóc hiểm đến các ông đô ngồi xem bên ngoài cũng lấy làm lạ. ông Cản Ngũ chỉ lùi, tránh, đỡ, gạt, ông không có ý đánh ngã thằng bé.


Từ lúc biết Tý Trâu là con trai cụ Cả Lẫm và đánh với nó vài nhịp trống, ông Cản Ngũ bỗng yêu quý thằng bé đến lạ lùng. Trong đời đô vật, ông chưa thấy tay đô nào quyết đánh bại địch thủ dũng mãnh như thế. Có lúc ông đã thử bóp gân, xương cho đến tái người đi, nhưng vừa buông ra, nó đã lăn xả vào đánh liền. Có lúc ông đánh dồn dập năm, bẩy miếng liền; nó vẫn tỉnh táo chống lại không hề nao núng. Càng đánh, ông càng thấy yêu, ông có ý muốn thu phục thằng bé. Cụ Cả Lẫm đứng ngoài theo dõi keo vật, ông lão đã thấy rõ hết cái ý ấy của ông Cản Ngũ. Nước mắt ông lão bỗng trào ra, cảm kích vô cùng. Ngay giữa keo vật đang đánh giở, ông lão xông vào giữa xới xin cho được ngừng lại và bắt Tý Trâu nhận ông Cản Ngũ là thầy học. ông Cản Ngũ sung sướng nắm chặt lấy tay ông đô già, nhận lời.

* * *
 
Đêm ấy, trong nhà cụ Cả Lẫm vẫn đông đủ khắp mặt các tay đô vật trong tỉnh. Bình thường những lần mất giải về tay người, và sau những keo vật như Quắm Đen, cụ Cả Lẫm bị đánh ngã, thế nào cũng xảy ra những cuộc xô xát. Có khi đến đổ máu. Nếu không xông vào giữa xới đánh nhau thì, cũng tìm cách đón đường, chặn lối không cho đối thủ của mình về. Cái cảnh thua đau như chiều nay, ai còn mặt mũi, lòng dạ nào mà hội họp, mà ăn uống! Thế nhưng cụ Cả Lẫm đã có lời mời. Hôm nay ông Cản Ngũ ở lại chơi nhà cụ, ý cụ muốn có mặt đông đủ anh em hàng đô trong tỉnh. Họ nể lòng quá, phải ở lại. Những người đô vật to lớn, ngang tàng nhưng lại rất biết phục thiện các bậc đàn anh; và nữa, đối với một ông đô tài mạnh, lẫy lừng như ông Cản Ngũ, trên 129 130 Prev Page 4 Next xới vật họ coi là đối thủ, là thù địch, thực ra trong lòng họ vẫn rất lấy làm hâm mộ. Trong ánh sáng của những ngọn đuốc nhựa trám cháy rừng rực cắm quanh nhà, các ông đô ăn uống, nói năng từ tốn, chậm rãi. Hôm nay, nom họ rất hiền, chất phác, thuần hậu như những ông thợ cày. Rượu được vài tuần, ông Cản Ngũ chắp hai tay vào nhau, từ từ đứng lên. ông hướng ra bốn phía các ông đô ngồi quanh, ngập ngừng lên tiếng:
-Thưa… Các bạn hàng đô… tôi xin có vài lời… Tất cả mọi người đều ngừng đũa, hướng về phía ông Cản Ngũ.
-…Tôi đi vật cho đến nay, kể như gần hết một đời người rồi. Đông, Nam, Đoài, Bắc không thiếu đâu tôi không có mặt. Gần hết đời người rồi tôi mới thấy được buổi hôm nay. Thật là một sự hạnh ngộ quý hóa vô cùng… ông Cản Ngũ mím chặt môi lại, cúi đầu xuống. Đôi vai to lớn của ông rung lên. Lúc lâu ông mới lại ngửng lên nói tiếp:
-Các bạn hàng đô ở đây không những đã không coi tôi như thù địch, mà còn đãi tôi vào hàng khách quý, thân thiết như một người đô cùng trong một sân vật mình. Điều ấy thật là hiếm có. Điều ấy khiến tôi phải bộc bạch trước các bạn hàng đô tỉnh nhà về keo vật hôm nay. ông ngừng lại, nhìn vào cụ Cả Lẫm rất lâu.
-Keo vật tôi với cụ giao đấu lúc ban chiều thật khó hiểu quá. Tôi không bao giờ dám nghĩ rằng mình có thể thoát được năm ngón tay cứng như thép ấy của cụ. Lúc ở ngoài xới, còn đang say đấu, thực tình tôi chửa thấy được điều ấy. Về dây, càng nghĩ tôi càng lấy làm lạ. Một ông đô vật dày dạn, lỗi lạc như cụ, không khi nào để tôi thoát khỏi miếng vật hiểm nghèo ấy một cách dễ dàng quá như thế được…


Đúng là cụ tha cho tôi keo vật ấy. Đúng là cụ không muốn đánh tôi gẫy xương, không muốn tôi thành một người tàn phế. Đã được coi như người thân trong nhà, trước có đông anh em hàng đô hôm nay, tôi muốn hỏi cụ cho rõ điều ấy? Tất cả các mâm rượu đều xôn xao cả lên. Không ai ngờ keo vật lại là như thế. Người ta ngạc nhiên, khó hiểu. Vì sao ông cụ lại không đánh ông Cản Ngũ nhỉ? Có đúng thật là cụ Cả Lẫm đã tha cho ông Cản Ngũ không? Cụ Cả Lẫm vẫn ngồi im trước mâm rượu. Những lời ông Cản Ngũ nói đúng vào ruột gan ông lão. Đúng là keo vật đến lúc cụ phải đánh đến miếng “móc quai xanh” thì ông cụ có phân vân, suy nghĩ. Người đô vật khi phải đánh đến những miếng hiểm độc đã là hạ sách rồi. Đấy là nước cùng, của một anh tầm thường, xấu chơi. Huống chi, ông Cản Ngũ tiếng là đi vật, nhưng ông lại là một ông tướng nghĩa quân của quan Tán, có nên vì một keo vật mà làm hại một người bấy lâu vì dân, vì nước được không?


 Chính lúc cụ Cả Lẫm còn đang phân vân như thế, thì chợt đã thấy mình bị ông Cản Ngũ đánh ngã rồi. Lúc sau, cụ Cả Lẫm mới đứng lên từ tạ. ông lão có vẻ miễn cưỡng mà phải nói:
-… Keo vật được, thua đã định ở ngoài xới rồi. Đúng ra cũng chả nên nhắc lại làm gì. Nhưng ông bác đã hỏi, thì tôi phải xin thưa… ông lão ngập ngừng một lúc, rồi tiếp:
-Tôi cứ nghĩ rằng, đã là người đô vật mình, dù ở đâu, ở xứ Đông hay ở xứ Đoài, xứ Nam hay xứ Bắc, ở đâu cũng là người dân Việt ta cả. Cũng là máu đỏ da vàng với nhau; trong cái buổi còn đang nước mất nhà tan này, có nên vì hơn, thua một keo vật mà đánh một người nghĩa khí, một người vì dân, vì nước như ông bác đây thành một người tàn phế, bỏ đi được không? Được như vậy, có thể gọi là được, được không?… Tất cả mọi người đều ngồi lặng đi. Có một cái gì to lớn, thiêng liêng lắm đang choán lấy hồn những ông đô vật. Quắm Đen ngồi dưới ngọn đuốc đang cháy rừng rực, anh ta cúi gằm mặt xuống. Từ hôm bị ông Cản Ngũ đánh ngã không thấy Quắm Đen hé răng nói một lời nào. Anh ta vẫn ngầm nuôi cái ý phục thù. Lúc này, nghe những lời cụ Cả Lẫm nói, anh ta bỗng thấy xấu hổ… Ngay đêm ấy, Quắm Đen đến gặp cụ Cả Lẫm, xin cụ nói cho anh được cùng Tý Trâu theo ông Cản Ngũ…


Mấy hôm sau, Tý Trâu, Quắm Đen theo ông Cản Ngũ xuôi về vùng Văn Giang, Gia Bình. Cụ Cả Lẫm tiễn chân đến tận bến Sải. ông lão đứng trên bờ nhìn theo mấy thầy trò ông Cản Ngũ qua sông một lúc rồi mới quay về. Từ dưới cũng không thấy cụ nói với ai rằng họ đi đâu… Mãi mấy năm về sau mới có người nghe tin Tý Trâu và Quắm Đen ở trong đội nghĩa quân của ông Tán Thuật đánh Tây, nhiều mưu mẹo và gan dạ lắm.

Con mã mái

Mảnh sân đất nhỏ hẹp chạy dài trước ba gian nhà tranh lụp xụp. Bề ngang không đầy hai thước; bề dài chỉ đến tám bước chân là quá. Vậy mà Cả Chuẩn cũng cố bày biện cho nó ra vẻ một cái vườn cảnh. Giàn thiên lí, chính giữa, thấp lè tè, cành lá xum xuê che chiếc bể cạn thả cá vàng và bốn chậu lan đặt trên đôn sứ cũ kĩ, sứt mẻ: hai chậu bạch ngọc và hai chậu nhất điểm. Trong bể, kê một hòn non bộ sần sùi gân guốc; cỏ tóc tiên mọc um tùm giữ một vẻ hoang vu bí mật đối với bọn người sành bé nhỏ, đặt theo điển tích. Nào chùa, tháp, cầu, quán chênh vênh hiểm trở; nào ngư, tiều, canh, độc; nào cầm, kì, thi, tửu; nào Bá Nha ngộ Tử Kì; nào Sào Phủ tẩy nhĩ… Tất cả ngụ một vẻ an nhàn thư thái, gác đường danh lợi ra ngoài như thời Nghiêu Thuấn. Che tất cả hòn non bộ là một cái tán si. Gốc si xù xì, thân uốn éo theo một kiểu nhất định.


Mỗi lần có khách lạ, ông Cả không quên giảng giải kĩ lưỡng về chiếc bể này:
– Có người trả năm chục bạc rồi, tôi không bán đấy nhé. Những người sành này tôi gửi mua tận chợ Đồng Xuân ngoài Hà Nội, toàn sứ tàu cả; lại còn cây si này nữa. Ông thử để ý ngắm kĩ mà xem: kiểu long cuốn thuỷ đấy!… Này nhé, cái gốc là cái đầu vục xuống uống nước này. Hai vấu này là hai con mắt này. Cái thân uốn éo như hình con rồng cuộn khúc này. Cái tán ở trên xoè là cái đuôi này. Còn cây nhỏ dưới gốc là cây tử này. Chơi cây phải có mẫu, có tử mới không sái ông ạ.
Cả Chuẩn khoe khoang hòn non bộ cũng như ông vẫn thường khoe hai cây cau lợn cọ trồng hai bên vại sói trắng. Mấy khóm lan, hai chậu bạch trà hay bất cứ một thứ gì trong sân cảnh đều mang một lịch sử cầu kì, khó khăn.
Khi người ta là một nhà nho – mặc dầu không hay chữ – nhất lại là nhà nho kiết nữa, thì càng sính chơi cái thú thanh tao này. Cả Chuẩn cũng vậy. Ông chơi cây cảnh chẳng qua để đôi lúc rượu say, tức đời đem câu “danh lợi bất như nhàn” hay “bần thanh còn hơn phú trọc” ra mà an ủi mình và để lên mặt khinh đời, nghĩa là khinh mấy bác giàu có trong làng, mà ông cha là những hạng người keo bẩn, thô tục, không bao giờ hiểu biết được cái thú nhàn nhã như ông. Ông thường dè bỉu:
– Hứ! Sống ở trên đời mà bo bo đồng tiền, chẳng biết ăn chơi là cái gì, chết thì cũng hai tay buông xuôi, dễ mang được của đi chắc!
Rồi ông cất giọng sang sảng ngâm:
Ngoài vòng cương toả chân cao thấp,
Trong thú yên hà mặt tỉnh say.


Chính ra, Cả Chuẩn cũng không tha thiết gì với cái vườn cảnh cho lắm. Sở dĩ có nó, chẳng qua vì ông rỗi rãi quá và cũng vì những lẽ trên kia. Thật tâm, ông chỉ thích gà chọi thôi.
Trong cái vườn cảnh bề bộn, nhỏ hẹp ấy, ông cố chen thêm vào một chuồng gà và hai chiếc bu thửa, cao lớn lênh khênh coi rất chướng mắt.
Cả Chuẩn mê thích gà chọi lắm. Suốt ngày chỉ lăn lóc với gà. Ngay từ tờ mờ sáng, chưa dậy được, nằm trên giường, ông đã để ý nghe xem hôm nay con Chuối gáy mấy tiếng, con Bạch Nhạn gáy mấy tiếng. Có được mạnh mẽ không? Ông mê đến nỗi chẳng thiết làm ăn gì cả. Chỉ khổ bà Cả và cô Tưởng. Hai mẹ con đầu tắt mặt tối, ngược xuôi, tần tảo lấy tiền về nuôi gia đình. Thằng cu Trạm lớn rồi vẫn không được đi học. Phải ở nhà hầu hạ bố, nói là hầu hạ gà mới đúng. Lúc nào nó cũng la cà ở ngoài bờ ruộng bắt nhái, hoặc cào cào, châu chấu đem về cho gà ăn. Thằng bé đày nắng đen sạm hẳn đi.

Ông Cả để cu Trạm sống theo vết cũ của mình. Cũng như phần đông trai làng: lớn lên lấy vợ, rồi nhờ vợ sống một cuộc đời ỷ lại vô lo vô lự. Nếu nhờ trời khấm khá có đồng ra đồng vào một chút, ra hương chính, cai đám; hơn nữa, lí, phó tổng chưa biết chừng. Thế là danh phận chán rồi.
Hiện giờ, trong nhà có hai con gà đá được. Cả Chuẩn vẫn chưa vừa ý con nào. Cái Chuối chân vàng “chịu buộc bắt tảng” (1). Dầu hay, mau đòn, nhưng phải cái đá nhẹ. Cái Bạch Nhạn “Cần lập trụ” (2) đòn nặng, gan lì, thì lại chậm chạp; mặt bành xe, dại đần lắm.
Cho nên Cả Chuẩn vẫn để ý tìm tòi một tông gà hay nuôi cho bõ công vần vỗ. Ông thường phàn nàn:
– Nuôi được con gà đi đám, công phu lắm, chứ có phải dễ đâu. Hạng táp nham thì vô thiên lủng ra đấy. Nhưng không bõ.

Một bận, ông sang Tư Méo bên Bính Hạ chơi. Gớm! Ông cứ mê lên về gà của hắn. Ông thuật lại với anh em bằng một giọng vô cùng thèm muốn:
– Chết! Chết! Chơi như người ta mới là chơi, chứ như mình ấy à! Một tay lão ta nuôi hai mươi nhăm con gà, ở trong một cái trại bát ngát. Mà con nào cũng như công như phượng ấy!
Cả Chuẩn còn sang bên Tư Méo bốn năm bận nữa. Ông mày mò muốn mua một con gà mái. Cho rằng: “Chó giống cha, gà giống mẹ”. Gà mẹ có hay, gà con mới đá được. Tư Méo có cái Mái Ô sô mặt tông siếc, ông mê thích quá: “Chân tay mặt mỏ ấy, nó đá như vũ như bão chứ chẳng không”.
Nhưng khẩn khoản thế nào, Tư Méo vẫn không bán, mà hỏi mượn về “đúc” một lứa, hắn cũng không cho. Càng thế, Cả Chuẩn càng mê mẩn con mái xồm. Ông nhất quyết phải chiếm cho kì được mới yên lòng, nhưng vẫn băn khoăn chưa tìm ra cách nào.

Một buổi tối, người hàng xóm ông mất gà. Mụ xắn váy quá đầu gối, dạo khắp ngõ trong, ngõ ngoài, quai xanh vành mỏ ra sa sả rủa đứa nào đã chấp chiếm con gà mái của mụ.
Nghe vậy, Cả Chuẩn bỗng nảy ra một ý kiến. Ông mỉm cười gật gù khoan khoái, lấy làm đắc sách lắm. Sáng hôm sau, mặc dầu trời lạnh, ông đã lọ mọ xuống xóm dưới vào nhà Cả Cúi chơi. Đôi bên thì thầm bàn tán với nhau có vẻ bí mật lắm. Lúc ra về, ông còn cặn kẽ dặn đi dặn lại:
– Thế nào anh cũng cố lưu tâm giúp tôi nhé!… Nhớ con gà đen và xồm mặt ấy. Tôi không để anh thiệt đâu.
Cả Cúi gật đầu:
– Được! Được! Con nhớ kĩ rồi, ông cứ yên tâm.
Thỉnh thoảng, Cả Cúi lại lên nhà Cả Chuẩn chơi. Có lần hắn còn ở lại uống rượu nữa. Ông cũng chẳng nề hà tai tiếng chơi bời với quân câu gà với làng nước nữa.
Nửa tháng sau. Một đêm tối trời. Cả Chuẩn đã đi nằm từ lâu. Ông đang mơ mơ màng màng đến con gà mái của Tư Méo. Chợt có tiếng Cả Cúi gõ cửa rất gấp, giọng nhỏ và có vẻ sợ sệt:
– Ông Cả ơi! Ông Cả! Ông Cả ơi! Ông Cả!
Đoán chắc thế nào cũng có kết quả tốt đẹp, Cả Chuẩn sướng rơn lên. Ông vùng trở dậy, hấp tấp không kịp thắp đèn, bước thấp bước cao ra mở cửa. Ông hổn hển hỏi bóng người trước mặt:
– Cúi đấy à? Thế nào?
Hắn lách người qua cửa ngõ hé mở, thì thào:
– Được rồi.
Ông Cả vội vã đi thắp đèn, rồi ngồi ngẩn người ra ngắm con gà nghiêng nghé trong ánh sáng vàng kệch, tần ngần chẳng nói chẳng rằng. Cả Cúi sốt ruột cất giọng lè nhè đói thuốc nhắc:
– Ông cho con xin… con về chẳng khuya.
Ông Cả giật mình tỉnh mộng:
– À, nhỉ!
Rồi cứ cầm cả gà trên tay đi vào buồng, nâng đầu vợ gọi:
– Này! Này! Đưa mượn tạm năm đồng.
Bà Cả oặn oại, ậm ờ, giọng khê nồng nặc:
– Bây giờ còn lấy tiền làm gì?
Ông phát bẳn:
– Có việc chứ còn làm gì nữa? Hỏi lẩn thẩn mãi!


Bà Cả đành phải đấu dịu. Bao giờ ông gắt, bà cũng phải đấu dịu như thế:
– Ở cái bao trong bồ hàng ấy. Lấy đúng năm đồng thôi nhé.
Trả tiền Cả Cúi, đưa hắn ra về rồi, ông Cả vẫn còn ngồi mê man ngắm gà đến mãi khuya.
Đêm ấy, Cả Chuẩn trằn trọc không sao ngủ được. Ông cứ nghĩ luẩn quẩn về con gà mới mua, và tưởng tượng đến bao nhiêu chiến công rực rỡ của đàn con nó sau này Mãi gần sáng, mới chợp đi được một lúc. Trong giấc mơ, ông chập chờn thấy toàn những gà là gà.
Hôm sau, ông đi khắp mặt làng chơi trong làng khoe mình mới mua được con gà mái ô đẹp lắm, của anh bán củi gánh qua. Và nhân thể ông đặt luôn nó là cái Mái Củi Tạ.


Con Củi Tạ đá nặng đòn lắm. Ai xem cũng phải thán phục nó có đôi quản đẹp. Cả Chuẩn đã cho thử tài đến năm sáu bận. Không con nào chịu nổi nó đến ba hồ. Lần nào cũng chỉ hai hồ, hai hồ rưỡi đảo về là nó đánh con địch một đòn cứ biệng siệng như người say. Cho đến hết hồ thứ ba là phải chạy. Duy có con Mái Xám của phó Tiệm trên phố phủ, gan liền mới chịu được năm hồ, thì hôm sau ngã gục xuống chuồng lợn chết.
*
* *

 
Độ rầy, con Củi Tạ mới đổi lông, óng ả, mượt mã và béo tốt ra. Cái mặt đỏ gay lên. Nó dạo hết nhà trước vườn sau, thẫn thờ gọi trống: “Coóc!… Coóc!… Coóc!… Coóc!… Coóc!…”.
Cả Chuẩn càng băn khoăn lo nghĩ. Từ ngày có con Củi Tạ, ông vẫn để ý tìm ở vùng này một con gà hay “đúc” (3) một lứa. Ông đem ý này bàn soạn với các bạn:
– Ở ta bây giờ, tôi xem không có một mái gà nào gọi là đá được để “rầy” con mái Củi Tạ, các ông ạ.
– Thiếu gì? Cái Tía khuỳnh ba kì của đồ Thảo thế nào?
– Cái ấy đá thì có gì, ông bảo! Dễ cứ ăn ba kì là gà hay chắc? Chả cứ, ông ạ!
Hương Chế biểu đồng tình:
– Phải! Ông Cả nói phải, có cứ gì ăn giải là gà hay đâu. Chẳng qua là hợp “vở” (4) thì ăn thôi chứ khó gì. Chẳng hạn như gà mình chui, gặp phải con đấm, cứ mạng sườn nó thúc thì hỏi “ông” chui vào đâu? Chỉ ba hồ hương là “ông” sễ cánh buồm xuống, “ông” bước. Nếu biết kháp (5) ra, gặp con đè cần bắt tảng (6) thì ông đã lại tiền bỏ túi.


Con Tía khuỳnh chân sương (7), ông Tư vừa nói, có đòn gì? Tôi chả thấy nó đánh cần cáo bao giờ gọi là có. Độc vị “thông vỉa hai mang” (8), gặp phải con đấm hay, cu cậu đâm ra tháo chái.
“Cần chạy vài nhì” (9) lắm khi còn đánh “sà leo” (10) ngã quật mình xuống đất như trời giáng nữa mới chết chứ.
Gà hay vùng này bây giờ tôi chỉ thấy có ba con thôi: Củi Tía Nồi của Tư Méo là một. Nó đá thì không phải bàn cãi nữa rồi. Cái Ô Chuốt gan liền tướng quân của lang Mão Đồng Kỵ là hai. Với lại cái Bịp Tầm đại (11) của đồ Đán bên Đình Bảng là ba. Thế thôi đấy. Còn ngoại giả tôi không còn ưng ý một con nào nữa.
Hương chế nói rất chí lí. Cả Chuẩn cũng nhận thấy thế. Vùng này xem ra chỉ có ba con gà ấy là xứng đáng rầy (12) cái Mái Củi Tạ thôi. Con Tía Nồi của Tư Méo thì ông Cả không dám màng đến rồi. Con Bịp được cái phủ đòn và cũng có cần cáo đấy. Nhưng ông ghét nó phải cái lớn quá. Chơi gà tầm đại ra đám khó kén được con “đồng cân đồng lạng” mà đá.


Cả Chuẩn nghĩ chán rồi. Ông nhất định lên Đồng Kỵ mượn cái Ô Chuốt. Con này tầm trung vừa chơi. Nó đá nhiều cần cáo lắm; lắm đòn đánh con địch kêu quang quác, bay vù ra ngoài sới. Khốn nỗi lang Mão không cho mượn. Cả Chuẩn cố nàì nẫm khẩn khoản mãi. Nể lời quá, và là chỗ bạn bè thân thiết, lang Mão đành bàn khéo:
– Thật tình tôi không dám tiếc anh em đâu. Ở nhà tôi cũng đang cho rầy mái. Khó nghĩ quá! Hay là thế này. Ông đem con Củi Tạ đế trên này đúc một thể?
Cả Chuẩn không bằng lòng. Ông cười gượng gạo bàn ra cách khác:
– Ừ! Thế cũng được. Nhưng mà… Nhưng mà… Hay thế này tiện hơn. Mỗi hôm tôi sai cháu nó đem lên đây. Ông cho cái Ô Chuốt đạp một lần, có nhẽ tiện hơn.
– Vâng! Thôi thế cũng được. Chỉ khí vất vả cậu em một tí.
Hôm ấy ra về, Cả Chuẩn nghĩ lung lắm. Ông tự nhủ: “Cho đem lên như thế này, ngộ nhỡ gặp Tư Méo thì sao”. Trí óc rối ren lên không biết bao nhiêu là ý định. Ông tìm cách này, cách nọ, chưa bề nào ổn cả. Không lẽ cho vào lồng rồi phủ giấy ra ngoài? Hay nhét vào cái bị? Ừ, nhét vào cái bị có nhẽ là tiện. “Nhưng lang Mão thấy mình giấu giấu, giếm giếm như vậy thì có phải lòi cái gian ra không?”.
Sau cùng, Cả Chuẩn chặc lưỡi quyết định như thế này: “Cứ đem tự nhiên. Nhưng phải đi vòng cánh đồng. Khí xa thực đấy. Nhưng thôi, chịu khó một tí vậy, cho chắc chắn”.


Thế là ngay hôm sau, cơm nước xong, cu Trạm lệch thệch ôm con gà vòng cánh đồng lên Đồng Kỵ lấy giống. Cứ ròng rã như thế hơn nửa tháng trời, cho đến ngày con Củi Tạ rạo rực tìm ổ mới thôi.
Rồi con Củi Tạ đẻ. Mỗi lần nghe nó “cục ta cục tác” hoà với hai con gà trống kêu inh nhà lên, ông Cả lại sung sướng rộn rã. Có bận, chừng chếnh choáng say, ông liếc bà, tủm tỉm nói lỡm:
– Đấy bà mày nghe xem. Có phải con gà mái kêu: “Vừa đau vừa rát! Vừa đau vừa rát!” thì con gà trống ở đâu te tái chạy lại dỗ dành: “Ai cũng thế! Ai cũng thế!” không?
Dứt lời, ông cười ha hả.
Bà Cả nguýt chồng, nguẩy xuống nhà bếp, lẩm bẩm:
– Người đâu khổ là người! Vài ba hớp rượu vào là như trẻ con ấy.
Cả Chuẩn cũng chẳng để ý đến lời vợ: ông còn mải lấy thóc cho gà ăn và đi cất trứng cho cẩn thận. Chẳng nữa chuột tha hoặc rắn nuốt mất. Cái trứng nào ông cũng đánh số nhất, nhị, tam, tứ, thứ tự trước sau.


Thấm thoắt, con Củi Tạ đã ấp. Những lúc nó rời ổ đi ăn, uống, Cả Chuẩn lại vào nhòm xem ổ trứng thiếu đủ ra sao. Ông đoán cái nào tròn là nở ra con đực, cái nào dài là nở ra con mái. Và để ý từ màu sắc thay đổi, từ màu hồng hồng đổi dần sang màu xám. Những công việc tỉ mẩn không đâu ấy cũng đủ khiến ông vui thích mà bận rộn suốt ngày.
Ấp được hai mươi hôm thì nở. Hôm ấy, Cả Chuẩn ở luôn bên ổ săn sóc. Mỗi con gà ráo lông, ông lại bắt ra bấm cái mỏ chấu (13) đi. Việc ấy đối với ông quan hệ lắm. Chả thế mà trứng chưa nở hết, ông phải ngồi chờ quá nửa đêm vẫn chưa đi ngủ. Bà Cả thương chồng vất vả, mấy lần nhắc nhỏm:
– Thì mặc nó có được không? Việc gì mà thức cho mệt người!
Ông bực mình, gắt lên:
– Bà thì có biết cái gì nữa mà cũng cứ nói mãi! Không chờ bóc vỏ chấu về sau này đá độ vài ba hồ đã tuột mỏ của người ta đi à?
Vả lại ông cũng không muốn ngủ, cứ thích ngồi rù trong chăn bông bên ngọn đèn hút thuốc lào vặt và chú trọng nghe tiếng gà con chiêm chiếp, xao xác đến vui tai.

*
* *
 
Lứa gà ấy của Cả Chuẩn chỉ để lại có hai con: một cái Ô Mã Mái và một cái “nảy nòi” Sám Miến Hồng. Đôi gà này mỗi con đều có một đặc biệt riêng. Ngay từ khi hãy còn lông tơ, con Sám Hồng đã bỏ đàn đi bới sâu ăn riêng một mình rất xa đàn. Còn con Mã Mái ăn no lại nằm chầu hẫu ngay mỏ mẹ, đúng với câu: “Thứ nhất ăn sâu, thứ nhì chầu mỏ”. Ông tin chắc thế nào đôi gà ấy cũng có tài xuất chúng.
Bảy, tám tháng sau, đôi gà ấy đã qua thời kì “bóc dò”; rồi gáy căng. Cả Chuẩn đem sửa sang cắt tai, cắt mào; và gọt lông ở bụng ở đùi cho dễ om bóp vần vỗ. Bây giờ, chúng có vẻ con nhà tướng lắm. Mỗi khi nhác thấy nhau là nghển cao cái đầu đỏ chót lên, “cục téc” một tiếng lớn. Rồi vỗ cánh phành phạch, cất tiếng gáy khiêu khích. Chúng nghiêng mình đứng kình, dữ tợn nhìn nhau và bước lên những bước đi đĩnh đạc, chắc chắn, quả quyết cùng nhau một trận thư hùng. Ông Cả phải nhốt riêng mỗi con một nơi.

Tuy rằng cùng đàn với nhau mà đôi gà ấy mỗi con một vẻ, mỗi con đánh một đòn. Con Ô Mã Mái tảng dày, mí trờm làm cho đôi mắt ếch sâu hoắm vào. Mỏ tam sơn, ba múi, quăm quắm như mỏ diếu hâu. Mình củ đậu (14), đuôi lá vả, tỏ ra có sức bền bỉ, gan góc. Nhất là đôi quản đen bóng, rắn cứng như thép nguội. Hai hàng vẩy một song song chạy từ kheo đến bàn. Quản bên phải, sóng ngang với cựa có một chiếc vẩy rất nhỏ cài vào nữa. Theo những tay chơi, đó là chiếc vẩy cáo, lợi hại lắm. Nó chuyên “hầu dọc” (15) rất nhiều cần, cáo (16). Ai cũng phải chịu là con gà hay.

Nhưng đến con Sám Miến Hồng thì mới thực là tài ba có một. Với đôi quản đầy vẩy “khâu dao” (17), chỉ buông không cũng thành cần, cáo. Và nhất là hai ngón “thái” (18) vênh vênh kì quái. Nó đã lấy vừa đúng mười hai con mắt trong mười hai trận đá. Sám Hồng khét tiếng là con gà kì tài. Đến nỗi vần khấu mỏ (19) lấy giẻ quấn chân lại, nó còn “buông” (20) một đòn khiến con Mã Mái giãy lên đành đạch.
Từ đấy táng kệch, không ai còn dám cho gà vần với nó nữa, Vì thế, con Sám Hồng chưa bao giờ đá đến quá hồ rưỡi. Cả Chuẩn vẫn sợ sau này, ra hội, nó không đủ hơi, nên ông đành phải cho vần lồng với con Mã Mái vậy.
Sầy-khách-lai ngoài Hà Nội về đã trả con Sám Hồng tới năm chục bạc. Nhưng Cả Chuẩn nhất định không bán. Ông cười chậm rãi:
– Vâng! Cứ kể ra năm chục thời cũng to đấy! Nhưng cái lòng thích với cái công phu nuôi nó thì nhiều chứ! Ai lại đem bán đi!


Thường thường, Cả Chuẩn vẫn ngâm câu: “Chân chì mắt ếch đếch sợ ai. Quản ngắn đùi dài đá chẳng sai” tả cái gan góc của con Mã Mái và câu: “Đầu công, mình cốc, cánh vỏ chai. Quản ngắn đùi dài đá chẳng sai” tả cái gọn gàng nhanh nhẹn của con Sám Miến Hồng.
Bỗng một hôm tiết trời đổi khác. Gío heo may lạnh lẽo vi vút từng cơn. Cả Chuẩn sổ suýt nói tiếng đằng tai. Ông thấy trơn trởn người; gây gấy sốt, da nổi gai ốc lên. Cái đĩ Biểu cũng ươn người, quấy mẹ suốt đêm. Ông Cả cất giọng ngàn ngạt bảo vợ:
– Trở trời đây mà! Khí tiết này độc lắm đấy, bà nó ạ.
Sáng hôm sau, Cả Chuẩn nằm nghe đôi gà gáy, thấy kém mọi ngày đến mươi mười lăm tiếng và giọng không được mạnh mẽ, xói vào tai như trước.
Đôi gà hôm nay mất hết vẻ hùng dũng. Chúng xù lông ra, rụt đầu vào, thu gọn trong đôi vai cánh nhô lên. Mắt nhắm nghiền, cái mỏ se sẽ vẩy. Thấy động, chúng giật mình te hé cặp mắt đỏ đục nhìn ra, rồi lại từ từ nhắm lại.
Cả Chuẩn như mê sảng, chạy hết đầu hồi bên nọ lại sang đầu hồi bên kia sờ nắn gà. Cuối cùng, ông ngồi thần ra bên bu úp con Sám Hồng. Hai tay ôm má, nâng cái đầu hoa râm rũ rượi. Ông chép miệng nói qua tiếng thở dài ảo não:
– Ối chào ôi! Nuôi với nấng.


Con Mã Mái vốn có sức, không đến nỗi nào. Con Sám Hồng thật hết gỡ. Mới có một đêm mà thịt nhão rào rào, nhẹ thọp hẳn đi. Cái diều đầy cơm không tiêu, rắn chắc. Da dẻ xám ngoẹt và lạnh ngắt. Đờm vướng trong cuống họng, nó khò khè thở. Chốc chốc bị tắc hơi, nó lại vẩy mạnh cái mỏ kêu “quéc” lên một tiếng lớn.
Cả ngày hôm ấy, ruột gan Cả Chuẩn rối bời lên để chạy thuốc cho hai con gà. Đứng không yên, ngồi không yên. Ai mách lối nào ông cũng làm. Giã gừng cho uống, nướng tỏi cho ăn, xoa dầu Nhị Thiên Đường, đốt bồ kết, xương truật, thôi thì đủ thứ. Trong đời ông, từ cha sinh mẹ đẻ đến vợ con đầu gối tay ấp, ông chưa phải hầu hạ ai khổ sở lo lắng đến như thế này. Cả Chuẩn như mất hồn, trông người sút hẳn đi, phờ phạc, xanh xao. Suốt đêm không ngủ, hai mắt cứ chang chang; và đôi tai rất thính nghe không sót một tiếng quéc nào của hai con gà quý báu theo gió lạnh đưa vào.


Thế rồi con Sám Miến Hồng chết rũ ngay đêm hôm thứ hai. Cái mỏ há rộng, đờm rãi xộc cả ra mũi. Một đàn kiến nhỏ tung tăng ở đó kiếm mồi. Cả Chuẩn lặng người đi. Ông trân trân nhìn gà. Nét mặt trơ trơ như chẳng hề mảy may buồn tiếc. Có lẽ ông biết trước số phận con gà ấy rồi. Ông thở dài, từ từ nhấc xác con vật lên ngắm nghía một hồi lâu. Nửa cười nửa mếu, ông nghiến răng cay đắng:
– Rõ công cốc!…
Dứt lời, ông ném phịch xác con gà quý báu xuống đất, đoạn vỗ tay phủi bụi, thong thả đi lên nhà trên, cất tiếng gọi:
– Cu Trạm đâu rồi!… Vứt cổ nó ra Cầu Bò đi cho ông.
Thằng bé ngơ ngẩn hỏi:
– Vứt gì cơ ạ?
Ông chỉ con Sám Hồng, trợn mắt nghiến răng, quát:
– Mù à? Vứt đi. Hỏi mãi!… Hỏi mãi!…
Từ hôm đó, Cả Chuẩn sinh ra khó tính và nóng nảy. Hơi một tí là thét lác inh hàng xóm lên. Thằng cu Trạm sợ len lét không dám dàn mặt bố. Nó lỉnh đi chơi suốt ngày.


Con Mâ Mãi bỏ dài, ông cũng chẳng thiết trông nom. Con Bạch Nhạn và con Chuối cũ, một người em họ và Tư Chuyên mỗi người bắt một. Giá cái Ô Mã Mãi khoẻ khoắn ra thì cũng chẳng còn. Ai cũng như ai, tưởng thế nào nó chẳng chết! Thế mà trái lại, Ô Mã Mái cứ tỉnh dần, rồi khoẻ khoắn bằng cũ. Trong nhà bây giờ không còn con gà nào, cái kiêu hùng của Mã Mãi càng nổi bật lên. Lúc nào nó cũng nghênh ngang đi sóng đôi với một cái cần đỏ chót vươn cao lên đôi cánh phệnh phạng, nhô lên thụt xuống theo bước đi, trông đặc du côn.
Rồi con mẹ nó ấp. Ô Mã Mái sinh ra chơi bời lêu lổng, đi lang thang hết nhà này, nhà khác trong xóm. Đến đâu là đánh bạt gà trống ở đấy để chiếm những con mái tơ giống Ri, giống Pha bé bằng nửa làm vợ. Chán rồi, nó lại đi và đánh nhau như thế mãi… mãi… Lúc nào nó cũng lén lút ở bờ tre, bờ giậu hay bên những đống rơm ve gái. Bộ lông mỡ màng đen láy của nó xơ xác và đỏ kệch ra.


Từ ngày con Sám Hồng chết, Cả Chuẩn chẳng còn thiết nhìn nhõ gì đến gà qué nữa, thì cái vườn cảnh lại được ông săn sóc đến luôn. Cái vườn cảnh có lẽ chỉ để giải buồn cho những người sính là nhà nho trong lúc chán chường thất vọng bất cứ vì lẽ gì.
Một buổi chiều kia, rượu đã ngà ngà, Cả Chuẩn tha thẩn bên vườn cảnh ngắm hòn non bộ, tỉa vài chiếc lá lan, nắn lại cành si cho đúng kiểu. Chốc chốc lại khe khẽ ngâm một vài câu thơ cổ, giọng trầm trầm như len lỏi trong đám lá xanh thì thầm với bóng chiều tàn tạ. Một vẻ buồn cổ kính vương trên nét mặt ưu tư.


Bỗng tiếng gọi choang choang của Tư Chuyên bên hàng xóm phá tan sự tĩnh mịch, êm ả, thơ mộng ấy:
– Ông Cả! Thế này có chết không…
Vừa nói ông vừa giơ con Bạch Nhạn, rũ rượi trên tay cho Cả Chuẩn xem:
– Ông có cho nhốt cái Mã Mái lại không. Hôm nay nó sang đá hỏng cái Bạch Nhạn này rồi.
Cả Chuẩn thong thả hỏi:
– Sao? Chạy à?
– Nào đã chạy ở đâu. Thế này: tôi đi thăm đồng vắng, hai con ở nhà đánh nhau, mãi lúc về mới biết. Bắt ra thì con Bạch Nhạn gãy cần và tuột mỏ.
– À! Hỏng thì thịt! Làm chết gì! Nếu phải gà hay thì đã đánh được con Mã Mái. Ấy, tôi vẫn bỏ dài cho rầy mái hoang đấy.
– Chớ! Chớ! Ông không biết, chớ cái Mã Mái nó đánh như vũ bão ấy. Tôi dám nối quyết rằng cả vùng này từ con Chuối của lang Mão đến con Bịp của đồ Đản, không con nào ăn đứt được nó.
– Đành thế! Nhưng nói cho cùng: hay mấy thì hay cũng không thể bằng cái Sám Miến Hồng được.
– Chuyện! Bì thế nào được với con Sám Miến Hồng. Con Sám Miến Hồng nó là thần gà, thánh gà, đâu có phải gà thường.
Tư Chuyên hắn nói rất phải: con Mã Mái cũng không phải gà thường thật. Cả Chuẩn nhủ thầm: “Giả thử không có con Sám Hồng, xem mình có quý nó không nào?” Càng nghĩ, ông càng thấy hối vì đã bỏ phí cho con Mã Mái rầy mái hoang, không chịu săn sóc.
Hôm sau, xem xét gà, thì tai hại, con Mã Mái bị kén mép và gãy hết cà lông cánh. Cả Chuẩn cắn cảu gắt mình:
– Thế này còn đá đấm gì nữa!


Cà ngày hôm ấy, hai bố con loay hoay cấy cánh cho Mã Mái. Cu Trạm ôm gà, Cả Chuẩn khâu những lông cánh tích được vào những cuống lông gãy. Ông cẩn thận chọn lọc lông vế nào phải hợp vế ấy. Khâu xong, chấm vào chỗ chỉ vàng một ít sơn sống, ông đắc ý mỉm cười:
– Thôi, thế là tha hồ mà chắc!
Còn cái kén ở mép, Cả Chuẩn đã mổ mấy lần mà không khỏi. Sau cùng, ông đành mặc nó vậy. Và lại, cho đá thử mấy trận, Mã Mái vẫn không sao. Thế là ông đặt cho nó danh hiệu Ô Kén Mép.
Dăm tháng nữa thì hội Nhân Thọ. Cả Chuẩn ra công vần vỗ cho Ô Kén Mép. Cứ cách nửa tháng, ông đem đến nhà Hương Chế vần khâu mỏ một lần. Lối vần này không hại gà. Một miếng da khâu tròn, lồng vào mỏ, hơi rộng một chút cho dễ thở. Có hai sợi dây buộc lên mào. Cứ thế, mỗi bên không thể mổ nhau được để đá. Con nọ chen con kia, thỉnh thoảng có buông được đòn nào thì buông thôi.
Trước còn cho vần ba bốn hồ, sau dần năm, sáu hồ, rồi bảy tám hồ. Mỗi bận vần xong, ông lại đem giã nghệ hoà với ngải cứu và một ít củ tam thất đun sôi với nước giải om bóp khắp thân thể. Thịt Mã Mái sắt lại và da dày lên. Dăm bữa nửa tháng, ông lại cho nó ăn một bữa lươn sống. Ăn cái này khoẻ gà lắm.
Các tay chơi gà sành sỏi trong làng, đều tin chắc chắn con Mã Mái ra hội chỉ có phần ăn với hoà chứ không thể nào thua được.

*
* *
 
Cu Trạm ăn mặc chỉnh tề, sắp sửa phải ôm gà đi hội. Chiếc khăn xếp mốc điểm thêm vài chỗ gián nhấm lốm đốm trắng của bố thải cho rộng sụp xuống gần lông mày, như nuốt bộ mặt choắt chéo, đen sạm. Cái áo dài vải thâm ngắn cẫng, đỏ kệch, may từ năm lên mười. Và chiếc quần vải to hẹp ống, xoăn xoe mặc cao quá bụng chân. Tất cà bộ y phục đầu Ngô mình Sở, cũn cỡn đó làm cho nó thêm ngớ ngẩn.
Nghĩ đến việc được đi hội, cu Trạm lại vui sướng rộn ràng. Nó nóng lòng sốt ruột vì mấy ông khách. “Chuyện đâu mà lắm thế! Đến bực!”. Nó đi thung thăng ngoài thềm, chán rồi ra dựa vào bu gà, bần thần ngắm con Mã Mái.
Khách mỗi lúc một thêm đông. Gian nhà vừa lụp xụp vừa chật chội bộn lên những người. Tiếng cười, tiếng nói xôn xao, ầm ĩ. Ánh sáng cửa giữa lọt qua giàn thiên lí xum xuê hắt vào xanh ngắt. Ngọn đèn ăn thuốc bé nhỏ tù mù không đủ làm cho gian nhà sáng sủa lên chút nào. Người nhà quê vẫn quen sống với sự tối tăm như thế.
Vừa uống nước, Hương Chế vừa hỏi:
– Ông Cả đã xem xét gà cẩn thận rồi chứ?
– Đã.
– Thôi, ta đi thôi chứ?
– Hãy thong thả, còn sớm chán. Để kiểm lại tiền đã nào. Ông Tư năm đồng này. Ông Hương mười hai đồng. Ông Đồ mấy nhỉ?… À tám đồng. Tôi mười hai đồng này. Còn ai nữa.
Thơ Bỉnh vội vã:
– Ấy, còn tôi sáu đồng với chú Tư Vo nó bốn đồng nữa.
Cả Chuẩn lẩm nhẩm một lúc, rồi thong thả gói tiền, cẩn thận bỏ vào túi, giao hẹn:
– Thế vị chi là bốn mươi nhăm đồng cả thảy. Sau này đánh chác thế nào, ta sẽ lại tính.
Giữa lúc đó, có tiếng xe tay đổ ngoài cổng ngõ. Hai người khách ăn mặc sang trọng bước xuống, một người mặc ta, một người mặc tây. Họ thong thả đi vào. Đến thềm, người mặc ta cất tiếng gióng giả:
– Thế nào? Ông Cả năm nay có mấy cái ra hội?
Cả Chuẩn trông ra, vội vàng đứng dậy vồn vã:
– A! Ông Hương! Một cái thôi, ông ạ.
Người mặc tây đi sau hấp tấp tiến lên hỏi:
– Sao? Sao lại có một?
– Ồ! Lại cả ông Sầy nữa này! Có một, chứ còn sao nữa? Cái Sám Miến Hồng chết toi rồi.
Sầy sửng sốt kêu:
– Ối trời ôi! Chết toi à? Hoài của! Ngày ấy đã bảo ông để cho tôi thì không để.
Cả Chuẩn cười:
– Chết thì thôi, chứ để thế nào được? Mời hai ông vào trong nhà xơi nước đã.


Hương Thân khôi hài:
– Mặc nước với nôi ấy. Bắt gà xem cái đã.
Cả Chuẩn vội bắt con Ô Mã Mái lại. Vừa nhấc gà lên, Hương Thân đã tấm tắc khen.
– Ái chà! Da thịt rắn đanh này thì phải biết là vần vỗ kĩ càng.
Rồi ông cẩn thận xem cấn, xem tảng, xem mắt; rối xem đến mỏ.
Hương Thân kinh hoàng hỏi:
– Ô, thôi! Chết! Có kén mép hở, ông Cả?
Cả Chuẩn chậm rãi:
– Vâng! Nhưng chả hề gì ông ạ. Đá thử mãi rồi.
Sầy hoạ theo:
– Chân ấy nó vụt thì mấy con chịu nổi ba hồ mà lo!
– Đành rằng thế. Nhưng giá vô bệnh tật vẫn hơn.


Dứt lời, ông lại cúi xuống nâng quản xem, thận trọng ngắm nghía từng li từng tí. Cả mặt trước, lẫn đằng sau quản. Một lúc lâu, ông mới thở nhẹ ra ý tiếc rẻ:
– Ác, thì có đòn ác lắm đấy. Chỉ phải ở hàng vẩy độ (21) có chiếc “chung thân đái tật”.
Đồ Thảo lên mặt biết nhiều sách nho bắt bẻ:
– Ông nói vậy thôi, chứ biết đích làm sao được? Ông Đào Công chi phú ngày xưa chỉ làm có Mã Kinh và Khuyển Kinh. Có làm Kê Kinh bao giờ đâu?
Hương Thân tủm tỉm trả lời:
– Không! Kinh nghiệm nhiều, nó quen đi chứ, cứ quen xem mắt gà như các ông, ai cũng bảo con nào đồng tử nhỏ là gan. Như thế là nhầm. Tôi đã nuôi nhiều, tôi biết: mắt con gà nào cũng vậy, sáng ngày ra đồng tử to, càng về trưa đồng tử càng nhỏ dần, nhỏ dâầ rồi chỉ còn bằng một cái chấm đen. Đến chiều lại to. Thế thì các ông bảo tin làm sao được đồng tử nhỏ là gan… Có cứ gì đâu, trăm nghìn lối xem, mỗi người mỗi khác.


Sầy cười lên hềnh hệch:
– Ồ! Thật à, ông Hương? Nếu thế thì y như cách xem giờ bằng mắt mèo của các báo đã đăng. Thần tình nhỉ!
– Chậc! Mắt mèo thế nào thì tôi không biết. Chớ mắt gà, nghiệm ra, hễ cứ râm trời thì đồng tử to mà càng nắng thì đồng tử càng bé. Có thể thôi!
Cả Chuẩn ôn tồn bảo mọi người:
– Ông Hương nói đúng đấy. Cái Mã Mái này thật bệnh tật suốt đời thật. Ngày còn bóc dò thì ốm mốc; khỏi ốm mốc lại bị trận ốm giây “thập tử nhất sinh”. Đến lúc khỏi chết giây; thì đâm ra kén mép, chữa thế nào cũng không khỏi.
Rồi như chợt nhớ ra, ông tươi cười bông lơn:
– Ô chết chửa! Mải chuyện gà quá, quên cả uống nước.


Mọi người cất tiếng vui vẻ, kéo nhau vào cả trong nhà. Sau tuần nước, câu chuyện càng thêm giòn giã, nở nang. Hương Thân tấm tắc khen:
– Đẹp! Trông sướng cả mắt.
Sầy trợn trừng trợn trạc:
– Đã thấm đâu. Con Sám Miến Hồng mới thích chứ. Nó đá mười hai con mất mắt trong mười hai trận đá. Chính tôi đã được xem một lần. Chết! Nó đã cứ vun vút “liên chi thanh nguyệt chi công”. Nhắc chân lên là thành cần cáo. Đầu công thon thon lé đòn rất tài… Chao bên này!… Chao bên này!… (vừa nói Sầy vừa dựng hai canh tay lên chao bên nọ, bên kia giả làm cổ gà) cứ thoăn thoắt, thoăn thoắt! Coi sướng lạ!


– Hoài của, thế mà chết mất.
Tư Chuyên từ nãy vẫn ngồi lì xì không nói, nghe chừng đã nóng ruột ruột, nhắc nhỏm:
– Dễ thường trưa rồi đấy.
Cả Chuẩn sai cu Trạm cầm gà đi trước. Hương Thân lại gần thân mật hỏi:
– Cánh nhà định đánh bao nhiêu đấy?
– Độ năm chục đổ về thôi, ông ạ.
– Thế nào cũng cho chúng tôi ké với nhé. Đem con gà đi hội, ta phải đánh to to một chút, mới bõ công vần vỗ ông ạ.
Thế là cả bọn lục tục kéo đi.
*
* *

Dưới mái đình những chiếc giải gà buộc lòng thòng. Ba chiếc giải: nhất, nhì, ba; và năm sáu chiếc giải lèo. Những vuông lụa điều uốn éo nhẹ nhàng trong cánh gió. Cu Trạm say sưa nhìn. Nó mơ ước một chiếc thắt lưng, trong khi mọi người chàng màng tìm gà kháp đá. Năm nay rất nhiều gà. Nhưng con thì nhỏ quá, con thì to quá. Hạng bằng trang (22) thì lại hơn xương (23), hơn cựa. Kháp gà phải thận trọng cân nhắc suy bì từng li từng tí. “Hơn một cái lông không chọi” cơ mà!


Cả hội xem ra chỉ có con Hoa Mơ của bác nhà quê ôm khư khư trên tay ngồi thu hình một xó đình là “đồng cân đồng lạng”. Nhưng ngữ ấy còn làm gì ra nhiều tiền mà chơi. Vả lại Hương Thân, Cả Chuẩn cũng đã so sánh chán rồi. Chân tay mặt mỏ cái gà ấy cũng không phải vừa. Tuy rằng không có đòn linh (24) bằng Mã Mái, nhưng lại hơn ở cái không có kén mép. Vì thế các ông cũng chẳng thiết.
Họ chán nản ra hàng trầu nước làm vài khói giải buồn. Tư Méo cũng ngồi đấy, ông đon đả hỏi:
– Thế nào cái Mã Mái ông Cả định cho đá với cái nào chưa?


Cả Chuẩn ngửa cổ, thở khói thuốc lào, lắc đầu:
– Chưa, ông ạ. Có mỗi cái Hoa Mơ xem ra cũng lợi hại lắm. Mà gà của tôi thì kén mép.
Hương Thân nói xen:
– Chả chơi được với nó!
Tư Méo xích lại gần thì thầm:
– Được! Đá được mà! Cái gà ấy ở Trung Mầu tôi biết. Nó thì hay lắm đấy. Nhưng gặp phải anh chàng không biết chơi cho đi với gà già “vỡ” rồi (25). Chỉ đánh đến hồ thứ ba là chạy. Các ông có đá cho tôi ké ít nhiều với.
Cả Chuẩn, Hương Thân sung sướng reo khẽ:
– Thật à?


Thế là họ đem Mã Mái sát với Hoa Mơ. Gã nhà quê không dám cho gà đá. Nhất định kêu con Mã Mái to hơn, tuy rằng đôi gà rất bằng phân. Về sau, Lý Khản Trang Liệt phát bực mình gắt:
– Sợ gì mà sợ! Cái nhà bác này! Ta đánh cái kén mép của họ.
Gã nhà quê e dè:
– Đành rằng thế! “Cơ mờ” cháu không có tiền.
Lý Khản cười kha khá. Chừng ông say. Ông hùng hổ nói:
– Bác đánh bao nhiêu thì đánh. Còn mặc tôi. Bao nhiêu cũng cân.
Đôi bên thoả thuận đem gà vào sở tại, xin đánh giải nhất. Mỗi bên cược năm chục bạc. Còn sau này gọi thêm.


Hai ông chủ kê đem gà ra sới. Mọi người xúm đông quây vòng quanh bên ngoài vạch vôi. Hương Thân cầm con Mã Mái. Ông bắt gà, thả gà, chữa gà khéo léo và nhiều mánh lới có tiếng.
Hết giao vào díu (26), Hoa Mơ đánh Mã Mái một đòn cong hẳn cần lại, quay liệng đi nửa vòng, Lý Khản gọi liền:



  Mười đồng ăn tám Hoa Mơ đây.
Sầy giơ tay:
– Bắt!
Hai người vừa trao tiền cho nhau xong, Mã Mái trả một đòn hầu dọc, Hoa Mơ ngằn ra, và tiếp thêm mấy chiếc nữa. Sầy sung sướng reo:
– Tin!… Tin!… Mã Mái năm đồng nữa! Ai bắt không?
Đôi gà cùng lọt quản, mau đòn nên sát phạt nhau dữ lắm. Người xem đểu xuýt xoa khen là “kì phùng địch thủ”. Mới nửa hồ đầu mà quản con nào con ấy như trát máu.


Những lúc thả gà, Hương Thân đã để ý bao giờ Mã Mái cũng buông trước một đòn. Cho nên ông thả “lơi” cho đúng tầm chân đá. Người ta thận trọng từng đòn một, trong lúc ăn thua này.
Đôi gà vẫn tranh hùng trả đòn nhau kịch liệt, xô đi đẩy lại sát vào vòng người. Hai ông chủ kê bắt gà của mình ra. Họ xoa nắn chà xát đùi vế và cho uống dấp giọng một tí nước, thấm vào khăn mặt cho tỉnh táo. Rồi cùng lừa lừa xem lối thả của người kia thế nào. Lý Khản cũng sợ cái đòn buông của Mã Mái. Ông đặt giúi Hoa Mơ vào sát. Nhanh nhẹn, Hương Thân nhắc lùi gà mình về phía sau. Được thế rộng, đúng “võ”, con Mã Mái buông liền. Hoa Mơ bị đòn rung chuyển cả người, mấp máy cả đuôi tôm. Mã Mái tiếp liền. Nó đánh một đòn rất nặng. Cái đòn di truyền của mẹ nó – con Mái Củi Tạ – khiến Hoa Mơ hoang mang, biệng siệng như say. Chân thấp, chân cao tấp tểnh và bối rối quay “tháo chái”(27).


Lập tức, gã nhà quê lúc nãy ôm phắt gà lên nhất định kêu quản con Mã Mái bôi thuốc độc, nếu không, sao vừa mới thả vào, gà của hắn đã hoa mắt như thế được?
Sầy sừng sộ:
– Anh định cãi bây phỏng? Anh định cãi bây phỏng?
Cả Chuẩn đứng giang tay, phân bua với công chúng:
– Các ông đứng quanh đây thử xem xem! Hai con vẫn ở đây, nào đã đi đâu xa mà bảo cho thuốc với cho men được? Chẳng qua là cái đòn nó như thế. Vậy xin phép các ông hàng hội cho chúng tôi vào lấy giải.
Gã nhà quê nhất định không nghe. Đôi bên cãi nhau ồn ào. Mấy ông sở tại phải ra dàn xếp khéo với Cả Chuẩn:
– Thôi ông ạ! Ta lại cứ cho vào đánh. Gà của mình hay vẫn được. Phải cái người họ quê mùa không biết gì.
Hương Thân cười nhạt:
– Không biết gì! Không biết gì ăn người! Không biết gì đời! Ông bảo bao giờ cái Mã Mái lại đánh được một đòn như thế?
– Thôi! Xin các ông. Chơi vui với nhau ấy mà!
Bàn đi tính lại một lúc lâu nữa, Cả Chuẩn mới bằng lòng. Ông nói với mọi người:
– Tôi chơi thế này là chơi “lép vế” đấy.


Đến lúc cho gà vào đánh, mọi người đều kinh ngạc thấy Tư Méo cầm, thả con Hoa Mơ. Ông cười nháy Hương Thân chống thẹn:
– Gớm! Chơi với bời! Ai lại thả “nhà nghề” thế bao giờ! Mình đành phải cầm giúp Lý Khàn vậy.
Hương Thân giận tím mặt. Bây giờ mới vỡ nhẽ. Thì ra con Hoa Mơ của Tư Méo. Hắn mưu mô quỷ quyệt cho gã nhà quê cầm rồi lại để Lý Khản vờ đánh tiền. Gớm thật. Hương Thân cười khẩy:
– Hừ! Bây giờ ông Tư mới chịu “ra mặt”. Màu mãi.


Đồ Thảo thâm hiểm, nói xa xôi:
– Vừa rồi có đám cháy ở đàng kia các ông ạ.
Ông có ý nói xỏ: “Cháy nhà mới ra mặt chuột”. Tư Méo gằm mặt không dám nói gì.
Mấy viên thiết đả con Hoa Mơ ăn trong lúc nhếu nháo đã ngấm. Nó đã lại người, tỉnh táo mạnh mẽ như trước. Hương Thân thấy hơi lo lo. Tuy rằng Mã Mái hơn đòn một chút, nhưng cái lối đòn cũng đã “hầu dọc” và “khoá mỏ” ấy rất nguy hiểm cho cái kén mép.
Quả như Hương Thân đoán thật. Sang hồ tư, Mã Mái bị vỡ kén, máu chày rất nhiều, và kém dần dần.
Tư Méo tủm tỉm nói khích:
– Nào đã chắc mèo nào cắn mỉu nào.
Hương Thân cười gằn, nhắc lại:
– Thật đấy, đã chắc mèo nào cắn mỉu nào. Chỉ một đòn lấy giải là thường.


Nói cứng vậy, chứ thật ra Mã Mái nao núng lắm rồi.
Cuối hồ năm, cái kén cương lên đau quá, mổ không được chắc để đá nữa. Đầu Mã Mái dại đi, sưng vù, mọng lên những máu, chúi vào hai đùi Hoa Mơ tránh đòn.
Đồng tiền liền với ruột. Hương Thân chẳng còn nghĩ đến bẩn thỉu, mỗi lần bắt gà ra chữa, ông cho mồm vào hút máu, hút mũi cho nhẹ bớt mặt.
Hồ sáu, hồ bảy, Hoa Mơ đánh toàn đòn riêng (28). Nó nhắc đầu “trao chuông” đánh như gõ vào tảng Mã Mái. Mỗi lần bị đòn, Mã Mái lại lao đao, ngật ngưỡng cái cổ, mổ vu vơ rồi lả dần… lả dần, gục đầu xuống đất. Mỏ tóp tép, máu ở kén chảy ròng ròng đỏ lòm cả sới. Những người đi xem xì xào bàn tán:
– Con Mã Mái ai ngờ bị “ba chân” các ông nhỉ!
Cả Chuẩn thương gà, nói khó với Tư Méo:
– Này, ông Tư này! Xin thua năm phân đấy.
– Thôi, cứ đá cho đến “kì tẩu kì tử”.


Hương Thân bĩu môi:
– Ăn lắm mấy! Cặp này hoà cho mà xem. Nếu chạy, con Mã Mái đã chạy rồi. Tôi dám chắc…
Ông vội ngừng bặt và Mã Mái bị một đòn ngã ngửa ra đằng sau. Biệng siệng, giật lùi… giật lùi… Những người đánh con Hoa Mơ reo:
– A chạy! Chạy rồi!
Và mở một đường chờ đón. Con Hoa Mơ được thể đá tiếp dồn dập, thốc tháo. Bỗng con Mã Mái cáu tiết phóng liền một đòn. Hoa Mơ rụt hẳn đầu lại, ngây mặt ra, đuôi phập phổng, người chuyển rung rung. Hăng máu, Mã Mái ngoặp lấy hầu Hoa Mơ đá liền hai chiếc nữa. Hoa Mơ há mỏ kêu “quác” một tiếng lớn, ngã chúi xuống, nằm thẳng cẳng, chân cánh giãy lên đành đạch. Một lúc lâu rồi yếu dần… dần… Máu ở mũi, ở mồm xoẻ ra chan hoà.


Cu Trạm lách qua vòng người chạy ra gọi Đồ Thào khoe rối rít trong khi ông này tưởng Mã Mái thua mười mươi, chán nản ra ngồi hàng nước chẳng buồn nhìn nhỏi đến gà nữa.
– A! Ha! Ha! Ông Đồ ơi! Con Hoa Mơ bị gà nhà đánh chết rồi, ông Đồ ạ.
Đồ Thảo không kịp uống bát nước mới rót, hấp tấp chạy lại sới gà, lắp bắp hỏi:
– Thật không? Thật không?
Vòng người xô hẹp lại. Cả Chuẩn, Sầy vội gạt ra ngoài nói:
– Các ông dẹp xa xa ra một tí, chẳng nữa người ta lại ôm gà lên kêu chúng tôi bỏ thuốc độc.
Con Hoa Mơ bị đánh chết thật. Mà Mã Mái cũng hết gân, không đá được nữa. Nó chỉ lấy chân cào cào, bới bới.
Tư Méo chịu thua. Mặt tái mét, ông run rẩy nhấc gà lên. Hương Thân mát mẻ:
– Đã chắc mèo nào cắn mỉu nào, ông Tư nhỉ!
Tư Méo tức tối, cười nhạt:
– Hừ! Chúng mình còn gặp gỡ nhau nhiều. Đã vội gì…
Hương Thân cười ha hả không trả lời. Ông ôm Mã Mái vào lấy giải.


Chú thích

(1) Chịu buộc bắt tảng: chui qua bụng, đợi con địch lên mổ vào đầu rồi đá.
(2) Cần lập trụ: cổ to rất cứng, đánh bao giờ cũng đứng thẳng.
(3) Đúc: cho đạp mái, lấy gà con.
(4) Vở: lối đánh
(5) Kháp: gán, ghép
(6) Tảng: đầu phía trên
(7) Chân sương: chân trắng
(8) Thông vỉa: chui qua cánh rồi ngoái cổ lại mổ đầu mà đá. Hai mang: hai bên cùng thuận.
(9) Cần: cổ. Chạy vài nhì: là thấp đầu nữa với chúi đòn.
(10) Sà leo: ngoái cổ lại mổ đá lung tung. Con nào bị đè nhiều tức quá cũng đá sà leo. Đá như thế bao giờ cũng quật mình xuống đất.
(11) Tầm đại: sức rất to.
(12) Rầy mái: đạp mái.
(13) Mỏ chấu: con gà mới nở, đầu mỏ có một cái chấm nổi lên bằng hạt tấm tức là mỏ chấu.
(14) Mình củ đậu: tròn mà to, trái với mình “công” thon.
(15) Hầu dọc: mổ vào yết hầu, đá thẳng vào cổ.
(16) Cần: đá con địch cong cổ, gãy cổ tức là đòn cần. Cáo: đá con địch kêu quang quác lên, hoặc mang liệng siệng, có khi bay vù hẳn lên, tức là đòn cáo.
(17) Vẩy khâu dao: tức là chiếc vẩy chạy từ mặt quản bên này sang mặt quản bên kia.
(18) Ngón thái: ngón chân đằng sau.
(19) Khấu mỏ: bịt mỏ.
(20) Buông: không cần mổ mà đá.
(21) Vẩy độ: hàng vẩy phía sau quản, thẳng với cựa.
(22) Bằng trang: bằng nhau.
(23) Hơn xương: già hơn.
(24) Đòn linh: đòn linh thiêng, rất tài và rất bất thình lình.
(25) Vỡ: hỏng, đánh một lát chờn đòn, rồi chạy theo thói quen.
(26) Giao: đứng xa đá phóng. Díu: vào gần sát nhau mà đá.
(27) Tháo chái: quay ngược đầu đi một vòng.

(28) Đòn riêng: lối đòn sở trường của một con nào. Khi địch bị kém thế, giở ra đá một mình, con kia không trả lại đòn được

Anh chàng hiệp sĩ gỗ

Những năm cách đây rất xa, xa lắm. ở thị trấn Bến Cam, mỗi năm cứ đến ngày gần Tết người ta lại thấy ông lão già ấy. Không ai biết quê quán ông lão ở đâu, họ tên ông lão là gì. Nhưng mỗi năm vào dịp Tết người ta lại thấy ông lão đẩy cái xe bánh gỗ lọc khọc đến, ăn mấy phiên chợ Tết, qua giêng, ngày rộng tháng dài lại đẩy cái xe bánh gỗ lọc khọc đi… Cũng chẳng ai để ý hỏi xem ông lão đi đâu? Đến những vùng sơn cùng thủy tận nào? Chỉ biết cuối năm người ta lại thấy ông lão. … Một buổi sáng đẹp trời nào đó, sương mù và nắng sớm bay rực rỡ trên mặt sông. Gồng gánh, hàng họ từ trên các ngả đường kĩu kịt gánh về, và thuyền bè dưới bến đổ lên những kiện hàng, những bồ, những sọt, cam, bưởi, nấm hương, mộc nhĩ… Cả cái thị trấn nhỏ bé ấy đang tấp nập mua bán, mọi người bỗng nghe tiếng thanh la từ phía sau mấy lớp đồi núi ngổn ngang trước mặt nổi lên. “Pe è… èng!… Phè è… èng!… Phèeng!…” Tiếng thanh la mỗi lúc một gần, rồi ông già hiện ra trên đầu dốc Đỏ. ông lão đẩy cái xe hăm hở đi xuống. “Phèeng! Phèng! Phèng!…” Cái xe lọc khọc nghiêng ngả lăn giữa hai dãy bàng trụi lá, vào phố. Trẻ con không biết từ những ngõ ngách nào đã thấy tuốn ra đầy đường, nhông nhông chạy theo ông lão mà reo hò.


-A ha!… Ra mà xem! Múa rối! Múa rối đã về chúng mày ơi!…
-Cụ ơi! … A ha ha! Cụ múa rối ơi! Vẫn có anh chàng hiệp sĩ đấy chứ?… ông lão vừa đẩy xe vừa gật gật đầu cười với đám trẻ con chạy theo. Đó là một ông già cao lớn, khỏe mạnh, có nước da đỏ cháy như đồng hun và bộ râu bạc trắng bay lòa xòa trước ngực. ông lão vận chiếc áo bông cũ, buộc ra ngoài một sợi dây chuối ngang bụng cho gọn. Chiếc nón mất vành thì tụt xuống, lắc lư đằng sau gáy. ông lão bước từng bước dài, hăm hở, vững chãi trên hai cái bàn chân to sù sì dính đầy đất bụi. ông lão ấy làm nghề múa rối rong. Trong con mắt trẻ con ở cái thị trấn nhỏ này, chúng nó cho ông lão là một người kỳ dị. Một tay giang hồ lão luyện, biết nhiều, hiểu nhiều, có nhiều tài lạ. Và, cái xe ọp ẹp ông lão vẫn đẩy ấy là một thứ thế giới bí mật của những con rối bằng gỗ. ông cụ già, cái xe gỗ, và đám trẻ con đã dừng lại dưới một gốc cây thông trước cổng chợ. Tiếng thanh la lại khua ánh ỏi lên một hồi nữa rồi im hẳn. Bây giờ ông lão mới quay ra, rút cái khăn vải vàng ố vẫn vắt trên vai xuống, lau mặt, lau cổ, toét miệng cười với đám trẻ con.


-E hèm! Xem nhá! Năm nay nhiều tích mới lắm. Đám cưới chuột, cô công chúa ăn vụng phải đòn, thằng Quậy ngồi gốc cây đa, anh chàng đánh hổ, ối chà chà lý thú lắm! Đám trẻ con đứng xung quanh ngẩn mặt ra nghe toét miệng cười theo.
Cuộc biểu diễn bắt đầu. ông lão dẫn các tích trò xong chui vào trong cái hòm gỗ ngồi. Tiếng đàn sáo tức thì bay ra réo rắt, một lúc, hai cánh màn nhiễu đỏ ở một bên thùng xe từ từ cuốn lên. Trong cái hòm gỗ ọp ẹp ấy bỗng hiện ra những cảnh hoa cỏ, núi sông rực rỡ. Có những cụ già chống gậy lụ khụ đi lại. Có những em bé nhảy múa tung tăng. Có người đi cày, có người dạy học. Có rắn biết nói, có yêu ma hiện thành người đánh lừa những kẻ qua đường. ở trong cái hòm gỗ, ông già lúc bấy giờ bỗng như người bị ốp đồng, ông lão không còn biết gì đến xung quanh nữa. Giữa cái đám chợ đương lúc ồn ào mua bán, dành dật nhau miếng sống với tất cả những mánh khóe lọc lừa gian dối của con buôn, ông lão không nghe thấy gì hết. Tất cả tâm lực của ông dồn vào những con rối. Mặt ông co vào, giãn ra, răn rúm một cách khổ sở đau đớn, như người đang bị kìm cặp, và hai con mắt thì long lên, sáng quắc. ông lão hát, ông lão đánh đàn thổi sáo. ông lão làm tiếng gió thổi, suối reo. ông lão cười. ông lão khóc.

Một mình ông lão nói đủ các loại tiếng người. Tiếng kẻ gian tham, tiếng người trung hậu, tiếng ông già, tiếng em nhỏ. Tiếng rên xiết của người nghèo khổ, cũng như tiếng nanh ác của những kẻ giết người… ông lão lúc bấy giờ như một vị chúa tể của loài rối, có nhiều phép lạ sai khiến chúng nó hoạt động, đi đứng, nói cười, vui buồn, yêu ghét… Theo ý muốn của mình bằng mười đầu ngón tay ảo thuật có buộc những sợi dây chỉ nhỏ. ông lão biến những hình người bằng gỗ ấy thành những con người có linh hồn như những con người sống thực. Đám trẻ con ngồi xem cứ mê tít đi. Các em không còn thấy là diễn trò nữa. Trước mặt các em đó là những cảnh đời đang biến đổi dồn dập làm các em hồi hộp, lo lắng, mong đợi… Mỗi tích các em thấy mỗi lạ, mỗi con rối có một tính cách đặc biệt riêng làm các em phải ghi nhớ! Nhưng trong tất cả các con rối của ông lão, có một con được trẻ con thị trấn Bến Cam yêu thích, mến phục nhất. Các em đã biết nó từ mấy năm trước và luôn luôn nhắc đến. ấy là con rối chuyên đóng vai hiệp sĩ cứu đời.

Con rối ấy rất đẹp. Hình dáng giống như hình dáng những trang anh hùng, nghĩa sĩ trong các truyện cổ của Trung Quốc. Mặt trắng, môi đỏ, cằm vuông, mắt xếch. Đầu đội mũ võ sinh màu nguyệt bạch, sau gáy đeo đại vòng kim tuyến phủ, mình bận chiến bào lụa màu lục anh vũ, lưng thắt dây văn võ màu xanh, chân dận ủng tía. Trên vai lúc nào cũng dắt một thanh bảo kiếm, có thắt giải lụa hồng ở chuôi. Nó đi đứng oai nghiêm, nói năng dõng dạc, rõ ra là một trang thiếu niên anh tuấn. Mỗi lần anh chàng hiệp sĩ ấy hiện ra trên sân khấu, vung cái thanh gươm báu ấy lên thì bao nhiêu sự bất công, ngang trái ở trên đời đều được san bằng hết. Người ngay lành được cứu giúp, đứa hung ác phải trừng trị. Sau buổi diễn trò hôm ấy, trẻ con thị trấn Bến Cam nhớ mãi tích Anh chàng hiệp sĩ đánh hổ cứu một em bé lên rừng hái thuốc cho mẹ. Các em đặt cho anh ta đủ các thứ tên mà các em mến phục. Có em gọi anh là Võ Tòng đả hổ, có em gọi là Báo tử đầu Lâm Xung, là Phương Thế Ngọc, Tiêu Đại Bàng, Nhất Chi Mai… Lại có những em về nhà lấy củi hì hụi đẽo một thanh kiếm gỗ mơ ước trở thành một trang anh hùng hiệp sĩ kiểu như Anh chàng hiệp sĩ bằng gỗ của ông lão làm nghề múa rối dong ấy…


Nhưng chuyện Anh chàng hiệp sĩ gỗ không phải chỉ có thế, nó còn nhiều điều bí ẩn không thể ai biết được. Các em nhỏ ở thị trấn Bến Cam không biết đã đành, mà ngay cả đến ông lão múa rối là người sinh ra nó cũng không thể ai biết được. Đó là cuộc sống và những tâm sự riêng của con rối hiệp sĩ ấy. Mỗi đêm, khi những tiếng động của cuộc sống loài người lắng xuống, ông lão múa rối sau một ngày làm việc mệt nhọc đã uống hết một cút rượu, nằm ôm đầu ngáy như sấm trong một góc buồng trọ tồi tàn ngoài bến sông. Giờ này là của những con chuột rúc rích trong các khe tường kiếm ăn. Giun dế ti tỉ tìm nhau than thở dưới những búi cỏ… Bóng tối đã bò ra chùm lên mọi vật tấm màn đen bí mật của mình. Trong thanh vắng, những vật ban ngày không có linh hồn bỗng như sống dậy, hoạt động âm thầm trong cái thế giới riêng biệt của chúng nó. Mấy cây đa trên cái bờ đê cao như vui mừng hơn, chúng nó vươn dài những cành lá ra, khoác vai nhau thủ thỉ kể lại những chuyện đời xửa, đời xưa của khúc sông này. Mặt sông thì yên lặng suy nghĩ, lúc tối lúc sáng, mỗi bận có một trận gió thổi qua lại thở “à” lên một tiếng não nùng. ở trong góc cái hòm xe của ông già múa rối, anh chàng hiệp sĩ bằng gỗ lúc bấy giờ đã được ông lão treo cẩn thận lên một cái đinh sắt.

Trông nó lủng lẳng như người bị treo cổ, các bạn xung quanh nó đều được treo lên như thế cả. Loài rối treo lên như vậy lại là lúc được nghỉ ngơi, thanh thản. Đêm khuya, trong cái thùng gỗ tịch mịch, những con rối treo lơ lửng trên những chiếc đinh. Mùi băng phiến thơm hắc từ xó tối tỏa ra, đuổi mấy con gián hung dữ tìm mồi chạy lạo xạo bên ngoài những khe ván hở. Một trận gió đêm thoảng qua, bay lọt vào khẽ lay động những con rối. Chúng nó chợt rùng mình bàng hoàng tỉnh dậy và bắt đầu sống theo cái đời sống riêng của loài rối. Mụ ba giai gầy rạc ngáp một tiếng thật dài lên tiếng. Đêm nào mụ cũng nói trước tiên. Mụ ngoác cái mồm rộng ra đến tận mang tai xoe xóe như lúc cãi nhau:
-Thế nào các người! Tết nhất năm nay tôi phải réo nợ những nhà ai? Ai thuê tôi đi réo nợ chứ hả? Hả…
-Nợ nan cái đếch gì! Thối chửa.
-Anh cả kiết bĩu môi lầu bầu bảo mụ ba giai:
-ở trong cái hòm rối này anh đếch nào nợ anh nào mà nhặng cả lên. Không biết đường thối!… Cô công chúa khăn vàng mau miệng vội gạt đi. Cô ta bàn nên quay về việc chuẩn bị tổ chức ngày tết cho thật vui. Theo ý cô nên tổ chức theo hình thức mới, đàn sáo, múa hát cho vui. ông lão say, mặt lúc nào cũng đỏ như gấc chín. Một tay vẫn cầm xâu thịt, một tay cầm bầu rượu, tức thì phản đối. Lão lắc đầu quầy quậy, kè nhè giọng rượu:
-Phải say! Tết nhất phải say túy lúy cung thang thì mấy thích. Lão cất tiếng ồ ề ngâm: “Nêu cao ư ư… pháo đỏ, bánh ứ ứ chưng xanh… ư ư… Thịt mỡ ứ… dưa a… hành, câu đối đỏ…” Họ nhà rối chẳng ai buồn nghe lão, bởi vì mỗi người mỗi ý. Theo mẹ con bà lão gấu già thì ăn tết phải có mật ong. Chị chàng mãn tam thể lại thích ăn tết bằng chuột nhắt. Lão hổ xám tức mình gầm lên, lão gạt hết cả mọi ý kiến. Lão bảo tết năm nay lão phải xơi ít nhất là ba anh chàng bò mộng.


Thế là ồn cả lên, bò, lợn, hươu, thỏ nhao nhao phản đối lão hổ. Họ bảo hổ như thế là không tốt, là quân hung dữ. Bò vàng thì tức lắm, anh ta vừa run vừa cãi lại hổ. Mấy bà gái góa chẳng nói gì, cứ thấy hai tay ôm má buồn rười rượi, cô tiểu thơ áo xanh lại trách móc anh chàng công tử bột là khô khan. ở ngoài sân khấu thì mắt la mày lét, bây giờ lại làm bộ, lầm lầm cái mặt. “Thiếu cảm tình”! Anh chàng hiệp sĩ gỗ vẫn âm thầm trong một góc tối: Đêm nay anh ta bỗng thấy lòng buồn một cách lạ lùng. Không phải vì sự quạnh vắng của đêm tối, cũng không phải vì các bạn anh cãi nhau. Chuyện cãi vã nhau như vậy, họ nhà rối của anh là chuyện rất thường vì thật ra, tiếng rằng cũng là rối cả đấy, nhưng có ai giống ai đâu. Họ mỗi người mang một hình thù, mỗi hình thù có một tính nết riêng. Vậy thì có điều gì đáng cho anh phải buồn? Anh tìm mãi không ra duyên cớ. Mọi đêm, vào giờ này, trong khi các bạn anh cãi vã nhau thì anh nghĩ lại những việc anh đã làm trong một ngày đã qua.

Anh nghĩ: ngày hôm ấy anh đã trừ được mấy tên gian ác, đuổi được mấy lần thú dữ. Anh đã cứu được bao nhiêu người gặp tai nạn hiểm nghèo. Anh còn lan man nghĩ đến những công việc ngày tới sẽ phải làm những gì nữa cho xứng đáng với những nét mặt, những ánh mắt, miệng cười của các bạn nhỏ đã xem anh. Nhưng đêm nay, không hiểu vì lẽ gì, đầu óc anh chàng hiệp sĩ ấy vẩn lên những ý nghĩ vu vơ, day dứt trong người, những ý nghĩ làm anh bực dọc khó chịu, có lúc anh như muốn khóc, có lúc lại như muốn gào thét lên. Xung quanh các bạn anh cãi nhau đến chán miệng đã quay ra ngủ cả rồi. Cô công chúa khăn vàng đầu ngoẹo sang một bên, hai tay buông thõng xuống, rũ rượi như một cái xác. Lão hổ xám vẫn ngồi mở hai mắt trừng trừng ra mà ngáy… Ngoài sông sương xuống trắng xóa. Không biết anh gà nào ở dưới bến đang ráng sức gáy gọi ông mặt trời. Gần sáng rồi. Anh chàng hiệp sĩ gỗ bỗng thấy rùng mình. Theo hơi gió từ ngoài sông thoảng vào, anh chợt nghe có tiếng người đang nức nở khóc trong bóng tối. Tiếng khóc xói vào mặt anh, kể lể những đau khổ, cùng cực của một ông lão ăn mày mù. ông lão có một con chó vàng rất khôn. Ngày ngày con chó dắt ông lão đi khắp chợ ăn xin, đêm về hai “thầy trò” lại ôm nhau ngủ ở dưới gốc đa ngoài quán trọ. Cuộc đời nghèo khổ đã cướp đi của ông lão hai con mắt. ông lão chỉ còn trông vào con chó nuôi sống tuổi già. Vậy mà không biết đứa ác tâm nào lại đánh bả con chó của ông lão chết, cướp đi cái nguồn sống, và tình thương yêu cuối cùng của con người tàng tật ấy. Người anh chàng hiệp sĩ bỗng sôi lên. Anh lại gặp cảnh bất công như anh vẫn gặp thường ngày trên sân khấu đây. Anh phải xông ra, đem hết tài lực của mình cứu giúp ông lão. Anh phải tìm kiếm bằng được đại mắt chữa cho ông lão khỏi mù. Anh phải trừng trị kẻ đã cướp đi con chó khôn ngoan, chung thủy của ông lão. Anh phải xông ra! Và anh xông ra đây!… Trong người anh chàng hiệp sĩ ấy tức thì dội lên một nỗi đau buồn chưa từng thấy có trong đời. Khốn nạn! Anh chỉ là một con múa rối. Xương cốt anh chẳng qua cũng chỉ là một mẩu gỗ. Anh cũng như con bò vàng, mẹ con bác gấu, hay cô tiểu thư áo xanh v.v… các bạn rối treo quanh đây. Anh có hơn gì ai, thanh gươm vẫn đeo rất oai nghiêm trên lưng bây giờ anh có rút ra được đâu. “Thanh gươm của mình, đeo trên lưng mình mà không rút ra được!”

Chao ôi! Thì ra từ trước đến nay anh chỉ múa may quay cuồng được ở trong cái thùng gỗ mọt bé nhỏ này, và anh hùng hảo hán bằng mười đầu ngón tay điều khiển của ông lão làm nghề múa rối. Anh chàng hiệp sĩ ấy thương thân quá. Anh muốn khóc, anh muốn khóc cho rõ thảm thiết. Nhưng, khốn nạn thân anh, đến một giọt nước mắt cũng không có ở một người gỗ như anh để mà chảy ra cho hợp với nỗi ai oán của lòng mình lúc này. Bên ngoài, tất cả những anh gà trống bỗng cùng thi nhau cong cổ réo ông lão mặt trời dậy. Dưới bến đã nghe tiếng người í ới gọi nhau, tiếng vo gạo sàn sạt. Bấy giờ ông mặt trời mới uể oải chống tay vào sườn núi ngồi lên. Sáng rõ mặt người rồi…


Từ đêm nghe tiếng khóc của ông lão ăn mày mù lòa ấy, anh chàng hiệp sĩ gỗ bỗng sinh ra nghĩ ngợi. Tiếng khóc khơi ra trong cái đời sống tù hãm của anh những khát vọng kỳ lạ. Anh muốn hóa thành người thực, và thanh gươm của anh thành một thanh gươm thực. Anh sẽ mang thanh gươm báu ấy ra khỏi cái hòm gỗ bé nhỏ này bước vào cuộc sống đầy khổ cực, bất công của xã hội bên ngoài kia. Anh sẽ vung thanh gươm ấy lên như khi anh vung gươm diễn trò trên sân khấu, san bằng mọi bất công, oan trái ở trên đời. Anh sẽ làm cho trên mặt đất này không còn có tiếng khóc thảm thiết như tiếng khóc của ông lão ăn mày mù mất chó. Những mơ ước viển vông ấy làm cho anh chàng hiệp sĩ ấy hăng hái, vui sướng, anh nuôi những ý nghĩ ấy trong lòng. Mấy hôm nay anh chàng hiệp sĩ còn nhận ra ở dưới gốc cây đa đen ngòm và lạnh lẽo kia không phải chỉ có một ông lão ăn mày khóc. ở đấy còn có nhiều tiếng khóc, tiếng rên rỉ, than thở khác nữa. Càng gần ngày giáp tết tiếng rên rỉ từ trong bóng tối cây đa đưa ra càng nhiều. Đó là những người ăn mày, những đứa trẻ vô thừa nhận, những người già ốm yếu không có con cái, cửa nhà; ban ngày lang thang đầu đường xó chợ kiếm ăn, ban đêm lại kéo nhau về nằm vạ nằm vật dưới bóng cây đa này.


ý muốn hóa thành người thật lại càng nung nấu, day dứt trong người anh chàng hiệp sĩ gỗ. Một đêm anh đem cái ý nghĩ ấy ra trình bày với các bạn trong họ nhà rối của anh. Anh nói với tất cả tấm lòng tha thiết chân thành của mình. Nhưng bạn rối lúc ấy đang mải cãi nhau về chuyện ngày Tết. Vẫn lại cô công chúa khăn vàng cãi nhau với ông lão say. Mẹ con bà gấu đòi ăn tết mật ong, chị chàng tam thể lại thích tết nhất phải có món thịt chuột, còn anh bò vàng thì run rẩy cãi lại lão hổ xám. Anh chàng hiệp sĩ phải nói đến lần thứ ba, đám rối mới ngừng cãi nhau để nghe. Và, khi họ nghe thủng cái ý muốn của anh chàng hiệp sĩ rồi thì cả bọn đều lăn ra mà cười. Họ bảo anh ta là đồ dở hơi, đồ gàn, đồ điên… Cái thứ bằng một mẩu gỗ mọt ấy mà dám nghĩ đến chuyện làm người. Gã công tử bột chun mũi lại, mà cười:


-Này anh chàng hiệp sĩ của tôi ơi! Anh đừng tưởng rằng anh tài giỏi gì lắm đâu. Nhà em xin mời ông anh cứ thử bước ra ngoài kia, khỏi cái vòng thơm hắc của mùi băng phiến này xem, mấy cái thằng gián hung tợn ở ngoài ấy nó lại không leo ngay lên mặt anh mà nhấm hết cả hồ dán trên tóc, trên mũ, trên áo quần của anh ấy à. Hừ, tưởng bở!…
Anh chàng hiệp sĩ lặng thinh không nói. Họ không hiểu nổi anh thật. Làm sao mà những con gấu, con bò, lão say rượu với gã công tử bột… hiểu nổi tâm sự của một chàng hiệp sĩ! Anh ngao ngán nhìn qua khe thùng gỗ thở dài. Trong đêm tối, những ánh đèn đỏ úa đang lừ đừ qua lại dưới mấy cái xóm nghèo ngoài bến sông. Đêm nay là đêm ba mươi tết rồi, những ánh đèn ấy là những ánh đèn đi đòi nợ. Từ những ánh đèn quỷ quái ấy tiếng chửi bới cứ rú lên những tiếng nanh ác, sắc nhọn như mũi dao đâm vào da thịt. Và, ở dưới gốc cây đa tối, mỗi lần tiếng chửi rủa vẳng đến thì những tiếng than thở, rên rỉ, lại đưa ra thê thảm, ai oán hơn.


-Mẹ ơi!… Sao lại không ngủ ở nhà hả mẹ? Có tiếng một em bé nào nói khe khẽ ở dưới gốc đa. Tiếng em thanh thanh, run rẩy như tiếng chim non:
-Thôi ngủ đi con. Đừng hỏi nữa, khổ mẹ lắm con ơi!…
-Cơ mà con rét lắm mẹ ạ. Tiếng người mẹ lại thều thào vẳng lên:
-Đây, mẹ vẫn ôm con vào lòng đây. Mẹ đã cởi hết áo của mẹ ủ cho con rồi… Con ngủ đi chóng ngoan… Con tôi.. Một trận gió ào lên thổi bạt tiếng người mẹ đi. Đêm tối thăm thẳm, và lạnh buốt. Bóng những ngọn đèn nhập nhòe vẫn đi lại trong mấy cái xóm nghèo dưới bến. Các bạn rối đã quên hết những chuyện cãi nhau, ngủ im cả rồi. ông lão múa rối, đêm nay không biết lang thang ở đâu vẫn chưa thấy về. Có lẽ ông lão buồn. Năm cùng tháng tận, một mình thân già tha phương cầu thực… Tiếng em bé lại cất lên hỏi mẹ. Tiếng em nghe ngoan quá.


-Mẹ ơi! Bao giờ thì mẹ con ta được về nhà hả mẹ?
-Đến giao thừa con ạ. Năm mới về thì người ta không đòi nợ nữa… à thì ra đó là hai mẹ con nhà ai đêm ba mươi tết trốn nợ ra đây. Anh chàng hiệp sĩ nghe mà tối sầm cả tâm trí. Sắp qua một năm rồi, anh càng bồn chồn, nóng ruột. Anh Anh muốn thành người ngay. Anh phải là người thật, thanh gươm của anh phải là thanh gươm thật, anh mới thực sự giúp ích cho đời. Nhưng tiếng em bé ngoài gốc đa bỗng reo lên, cắt ngang ý nghĩ của anh chàng hiệp sĩ gỗ.
-Năm mới người ta không đòi nợ nữa à. A, thế thì thích quá mẹ nhỉ. Năm mới mẹ phải may áo mới cho con nhá. Mẹ gói cả bánh chưng nữa nhá, mẹ mua cả tranh tết nữa nhá. Con thích tranh lắm cơ. Tiếng em bé trong sáng và vui tươi lạ lùng. Ngừng một lúc
-chắc là em đang tưởng tượng cái năm mới đầy hạnh phúc của em
-em tiếp:
-à mẹ này! Năm mới bố con có về không mẹ nhỉ? Những đứa bạn con, chúng nó cứ bảo: bố mày chết rồi. Chúng nó nói dối đấy mẹ ạ, không phải đâu, năm nay thế nào bố cũng về… bố về thì mẹ phải mua rượu cho bố uống nữa nhé!…
-ừ, thôi ngủ đi con!
-Không, con không ngủ nữa. Con phải thức chờ năm mới chứ. Bao giờ năm mới hả mẹ?
-Chốc nữa, bao giờ có nhiều pháo nổ thì là năm mới.
-Thế ư? Thế thì sướng quá. Con sướng quá. Lạy giời pháo nổ mau lên! Pháo nổ mau lên, cho chóng đến năm mới… Em bé bỗng nín bặt. Từ dưới bến sông
Tiếng em thanh thanh, run rẩy như tiếng chim non:
-Thôi ngủ đi con. Đừng hỏi nữa, khổ mẹ lắm con ơi!…
-Cơ mà con rét lắm mẹ ạ. Tiếng người mẹ lại thều thào vẳng lên:
-Đây, mẹ vẫn ôm con vào lòng đây. Mẹ đã cởi hết áo của mẹ ủ cho con rồi… Con ngủ đi chóng ngoan… Con tôi.. Một trận gió ào lên thổi bạt tiếng người mẹ đi. Đêm tối thăm thẳm, và lạnh buốt. Bóng những ngọn đèn nhập nhòe vẫn đi lại trong mấy cái xóm nghèo dưới bến. Các bạn rối đã quên hết những chuyện cãi nhau, ngủ im cả rồi. ông lão múa rối, đêm nay không biết lang thang ở đâu vẫn chưa thấy về. Có lẽ ông lão buồn. Năm cùng tháng tận, một mình thân già tha phương cầu thực… Tiếng em bé lại cất lên hỏi mẹ. Tiếng em nghe ngoan quá.


-Mẹ ơi! Bao giờ thì mẹ con ta được về nhà hả mẹ?
-Đến giao thừa con ạ. Năm mới về thì người ta không đòi nợ nữa… à thì ra đó là hai mẹ con nhà ai đêm ba mươi tết trốn nợ ra đây. Anh chàng hiệp sĩ nghe mà tối sầm cả tâm trí. Sắp qua một năm rồi, anh càng bồn chồn, nóng ruột. Anh muốn thành người ngay. Anh phải là người thật, thanh gươm của anh phải là thanh gươm thật, anh mới thực sự giúp ích cho đời. Nhưng tiếng em bé ngoài gốc đa bỗng reo lên, cắt ngang ý nghĩ của anh chàng hiệp sĩ gỗ.
-Năm mới người ta không đòi nợ nữa à. A, thế thì thích quá mẹ nhỉ. Năm mới mẹ phải may áo mới cho con nhá. Mẹ gói cả bánh chưng nữa nhá, mẹ mua cả tranh tết nữa nhá. Con thích tranh lắm cơ. Tiếng em bé trong sáng và vui tươi lạ lùng. Ngừng một lúc
-chắc là em đang tưởng tượng cái năm mới đầy hạnh phúc của em
-em tiếp:
-à mẹ này! Năm mới bố con có về không mẹ nhỉ? Những đứa bạn con, chúng nó cứ bảo: bố mày chết rồi. Chúng nó nói dối đấy mẹ ạ, không phải đâu, năm nay thế nào bố cũng về… bố về thì mẹ phải mua rượu cho bố uống nữa nhé!…
-ừ, thôi ngủ đi con!
-Không, con không ngủ nữa. Con phải thức chờ năm mới chứ. Bao giờ năm mới hả mẹ?
-Chốc nữa, bao giờ có nhiều pháo nổ thì là năm mới.
-Thế ư? Thế thì sướng quá. Con sướng quá. Lạy giời pháo nổ mau lên! Pháo nổ mau lên, cho chóng đến năm mới… Em bé bỗng nín bặt. Từ dưới bến sông, một ngọn đèn đỏ quạch lừ đừ đi lên.
-Người ta đến bắt nợ, mẹ ơi!…
-Im con. Ngọn đèn lẳng lặng đi qua gốc đa, rồi rẽ vào trong nhà trọ của ông lão múa rối. Anh chàng hiệp sĩ bỗng thấy một cái đầu người đàn bà thò vào trong thùng gỗ. Một tay mụ cầm ngọn đèn nhỏ giơ ra phía trước, một tay cầm cái quạt giấy che kín nửa mặt. Hai con mắt nhỏ sáng, hau háu lấc láo đảo nhìn quanh hòm xe. Mụ cất tiếng khàn khàn hỏi:
-Ngủ cả rồi à?… có ai còn thức không?…
-Tôi. Tôi còn thức đây.
-Anh chàng hiệp sĩ lên tiếng.
-Bà đến đòi nợ ai đấy? Bà nhầm nhà rồi.
-Không. Tao đi tìm thằng hiệp sĩ gỗ. Mày có biết nó đâu không?
-Tôi đây. Tôi là hiệp sĩ gỗ đây.
-à… Mụ đàn bà giơ ngọn đèn soi lên mặt anh chàng hiệp sĩ gỗ, khẽ reo lên:
-Mày là hiệp sĩ… Anh là hiệp sĩ đấy.
-Vâng.
-Tôi đi tìm anh từ chập tối… Ai biết ông lão lại trọ mãi tận đây… Anh có biết đêm nay tôi tìm anh có việc gì không?… Mụ yên lặng nhìn anh chàng hiệp sĩ, những nếp răn ở đuôi hai con mắt nheo lại. Mụ cười:
-Mày thì biết thế nào được, tao là bà tiên đây. Cuối năm tao xuống trần gian để giúp đỡ muôn loài. Tao biết mày vẫn thích thành người. Cho nên hôm nay tao đến đây phù phép cho mày thành người thật. Anh chàng hiệp sĩ bàng hoàng cả người. Anh không biết trả lời thế nào. Sự việc đến với anh đột ngột quá, anh bối rối, ngờ vực. Anh không dám tin lời mụ già nói là thật.


Mụ già ấy lại hỏi:
-Thế nào mày nói lên chứ. Mày có… anh có muốn làm người không? Ta là bà tiên thật đây mà, ta không nói dối đâu.
-Bà là bà tiên thật ư?… Anh chàng hiệp sĩ gỗ khe khẽ hỏi lại, giọng anh run lên vì cảm động.
-Thưa bà tiên, vâng, từ lâu tôi vẫn ao ước thành người…
-Thế thì ta sẽ cho anh thành người. Ta sẽ cho cả thanh gươm gỗ của anh thành thanh gươm thật. Một thanh gươm quý chém sắt như bùn, chém rụng đầu người không kịp dây máu. Ha ha anh sẽ ở với ta. Ta sẽ cho anh một con ngựa hồng. Anh cưỡi con ngựa hồng, đeo thanh gươm báu đi suốt dọc hai bờ con sông thị trấn này: chỗ nào có vườn cam, vườn quýt ấy là của ta, anh sẽ thu về cho ta. Anh muốn bạc vàng, có bạc vàng, anh muốn có châu báu được châu báu…
-Không! Không, thưa bà…
-Anh chàng hiệp sĩ vội ngắt lời mụ già.
-Tôi muốn làm người không phải để cưỡi ngựa hồng, đeo gươm quý, không phải để có được nhiều châu báu. Bà tiên ơi! Bà hãy quay đầu lại nhìn ra gốc cây đa ngoài kia mà coi… Đấy!


ở trong cái hốc tối như miệng một cái cửa ngục ấy đêm đêm tiếng rền rỉ, khóc than đưa ra ai oán, thê thảm lắm. ở dưới có ông già mù cả hai mắt, có những người què quặt, đói rét, có bà mẹ trốn nợ đêm ba mươi, phải cởi trần lấy áo ủ cho con, và đứa con thì chờ tết để được về nhà, được ăn bánh, chơi tranh và mặc áo mới… Bà ơi! Bà tiên ơi… Tôi làm người, tôi sẽ mang thanh gươm của tôi đi, tôi sẽ diệt trừ hết những quân cường bạo, những đứa gian tham. Tôi sẽ diệt trừ chúng nó như ông lão chủ tôi diệt trừ những con gián, con mọt ghê tởm làm hại loài rối chúng tôi. Bà tiên ơi! Tôi muốn rằng trên mặt đất sẽ không còn có người mù lòa tàng tật, không còn có tiếng than vãn, khóc lóc. Không có người ốm, không có người chết. Trẻ em có áo mới mặc ngày tết, người già mùa rét có chăn đắp, mẹ con được thương yêu nhau ở dưới mái nhà ấm cúng của mình… Thưa bà tôi sẽ… Anh chàng hiệp sĩ gỗ nói rất say sưa. Anh nói với tất cả những mong mỏi, khao khát bấy lâu của lòng mình. Còn mụ già lại rũ xuống mà cười, mụ cười khành khạch, khành khạch. Dứt cơn cười, mụ nhìn anh chàng hiệp sĩ lắc lắc cái đầu, có vẻ thương hại:
-Mày!… Mày, cái thứ bằng một mẩu gỗ mọt ấy cũng dám có những ý nghĩ ngông cuồng đến thế ư?… Nhưng thôi cũng được. Tao cũng cho mày làm người. úi chao ơi! Sao cái bọn trẻ ranh chúng mày đứa nào cũng giống nhau thế. Đứa nào cũng mơ tưởng những là thế này thế nọ… Rồi đấy! Mày sẽ biết. Tao cũng cầu giời khấn phật mong cho mày giữ được những lời mày nói… Thôi bây giờ thì tao hóa cho mày thành người thật biết không. Nhưng mày phải hứa với tao, phải thề trước mặt tao rằng thành người rồi, việc trước tiên là mày phải giết một người…


-Phải giết một người?
-ừ. Phải giết một đứa con gái. Mụ già nhìn chằm chặp vào mặt anh hiệp sĩ. Hai mắt mụ nhỏ lại, trong suốt.
-Thưa bà, vì sao tôi lại phải giết người?
-Vì sao à?
-Mụ già hỏi lại.
-Vì… vì có giết một người thì tao mới lấy hồn nó cho mày được. Nếu không mày chỉ sống được đến gà gáy thứ nhất mày sẽ trở lại kiếp gỗ. Vì tao là bà tiên. Mày nhớ tao là tiên chứ? Tao thấy đứa con gái ấy là một đứa gian ngoan ghê gớm. Nó đã giết mẹ nó đấy, cho nên phải trừng trị nó. Thế nào? Mày có dám giết nó không? Mụ cười khẩy:
-Tao nghe mày nói làm người, mày sẽ mang thanh gươm của mày đi làm những cái gì gì ghê gớm lắm, thế mà giết một đứa con gái cũng không dám kia à?… Thôi, đây này. Một đằng làm người thật, và một đằng làm người giả, người gỗ thì…
-Thưa bà…
-Anh chàng hiệp sĩ vội lắp bắp hỏi.
-Thưa bà đứa con gái ấy nó giết mẹ nó?…
-ừ. Nó giết mẹ nó. Nó còn đang định giết cả em nó nữa kia đấy.
-Nó định giết cả em nó nữa?… Vâng. Tôi xin nhận.
-Thế thì mày phải thề trước mặt tao, mày thề đi. Mày phải thề rằng nếu mày không giết đứa con gái ấy thì sấm sét sẽ đánh chết mày. Mày sẽ lại trở về kiếp gỗ, muôn đời nghìn kiếp chỉ là một khúc gỗ mọt. Mày thề đi!
-Vâng. Tôi xin thề như vậy. Mụ già gật gù cái đầu, mụ đặt cây đèn lên nóc hòm xe, nhắc anh chàng hiệp sĩ gỗ ấy ra khỏi cái đinh sắt, giơ lên. Tay kia mụ cầm chiếc quạt phẩy nhẹ vào mặt anh ba cái liền. Một luồng gió thơm ngát bay ra, tức thì hai con mắt khô cứng vẫn mở trân trân của anh chàng hiệp sĩ nhấp nháy, đảo qua đảo lại, môi mấp máy, và hai cánh mũi phập phồng thở ra những làn hơi ấm. Chân tay anh đã biết cựa quậy. Mụ già đặt anh hiệp sĩ đứng xuống đất. Anh lảo đảo trên đại chân còn run rẩy của mình. Từ đất bỗng chuyển lên một sức mới, anh rùng mình vươn lên, thở ra một tiếng thật dài, biến thành một người bằng xương bằng thịt cao lớn, vững chãi. Mụ già cầm lấy tay chàng hiệp sĩ kéo đi. Mụ nói như ra lệnh:
-Thôi, đi theo ta, mau!…


Mụ già ấy không phải là bà tiên. Mụ chính là một con mẹ phù thủy tai ác, nanh độc khét tiếng ở vùng này. Trong cái khu vực cây cối um tùm như rừng mụ ở, ít lâu nay lúc nào người ta cũng thấy có tiếng người kêu khóc thảm thiết đưa ra. Không ai biết mụ làm gì trong ấy, cũng không ai dám tò mò lại gần xem. Người ta sợ mụ thù, sợ như sợ một con rắn độc. Từ lâu, mụ phù thủy vẫn có ý định giết một cô gái con chồng để chiếm đoạt gia tài. Mỗi năm mùa xuân đến, cô gái nhớn lên thêm một tuổi, thì cái ý nghĩ giết con chồng lại càng quyết liệt thêm trong người mụ. Mụ đã sai một người vú già đánh thuốc độc cho cô gái ấy chết. Nhưng người vú già trung hậu đã không giết cô, bà lão báo cái tin ghê gớm ấy cho cô biết, và trốn đi. Từ đấy, mụ phù thủy giam cô gái vào cái lẫm thóc ở cuối vườn. Những tiếng kêu khóc thảm thiết mà người ta vẫn nghe thấy chính là tiếng khóc của cô gái tội nghiệp ấy. Đêm nay là đêm ba mươi tết rồi, chỉ còn có một lúc nữa thì bắt đầu một năm mới. Bao nhiêu há vọng, bao nhiêu tin tưởng của bao nhiêu con người trên mặt đất này đều đặt ra trong cái phút thiêng liêng ấy. ở trong lẫm thóc, cô gái cũng thôi không khóc nữa.

Cô khóc đã nhiều rồi, nước mắt không thể cứu cô ra khỏi chốn này. Và trong bóng tối chờ đợi của đêm giao thừa, cô bỗng nẩy ra nhiều ý nghĩ lạ lùng. Cô nghĩ rằng: trong mênh mông của đất trời, mùa xuân đang lần lần bước tới. Mùa xuân đến sẽ mang lại hạnh phúc cho muôn loài. Cây cối khô cằn sẽ đâm chồi nẩy lộc. Hoa nở, chim hót, bướm bay và người người vui mừng hớn hở đón mùa xuân vào cuộc đời của mình. Mùa xuân đến hạnh phúc tràn đầy như vậy, cô không thể chết héo trong cái lẫm thóc tối tăm, lạnh lẽo này được. Cô nghĩ, có lẽ lúc ấy sẽ có người đến để cứu cô. Một bà tiên nhiều phép nhiệm màu. Một ông bụt…
-Ngày xưa, trong truyện Tấm Cám bụt đã hiện lên cứu cô Tấm vì bị mẹ ghẻ hành hạ, thì cảnh cô bây giờ bụt cũng hiện lên cứu cô ra khỏi chốn này
-một ông bụt hiền từ, chống gậy tầm sích đến với cô, làm sáng rực cả lẫm thóc. Cô sẽ quỳ xuống dưới chân bụt kể lể hết nỗi oan khổ của mình. Bụt sẽ dịu dàng nói: “Con ơi! Ta đã biết hết nỗi khổ của con rồi. Đêm nay ta đến cứu con đây”.


Và Bụt chống mạnh cây gậy tầm sích xuống đất, tức thì muôn đạo hào quang từ cây gậy thần phát ra phá tan cả cái lẫm thóc vẫn giam hãm cô. Cô gái bỗng hốt hoảng vùng dậy. Từ phía cửa, không biết vì sao, khóa và xích bỗng rơi xuống loảng soảng, rồi cánh cửa bật tung ra. ánh sáng từ ngoài rọi vào trong cái lẫm thóc tối. Trong ánh sáng của cây đèn, bóng một người hiện ra. Không phải là một bà tiên, cũng không phải là bụt, mà là một chàng trai trẻ mắt sáng như sao, mũi thẳng, cằm vuông. Đầu đội khăn võ sinh màu nguyệt bạch, mình bận chiến bào lục anh vũ, chân đi ủng tía. Trên lưng cài một thanh kiếm có thắt giải lụa hồng bay phơ phất. Trong cái cảnh tăm tối ở đây, những áo quần màu sắc ấy, rỡ ràng hẳn lên. Cô gái sững sờ nhìn chàng trai trẻ cầm cây đèn đĩnh đạc bước vào, cô bàng hoàng tưởng như đang ở một giấc mộng đẹp đẽ nào. Người đời làm gì có người ăn mặc rực rỡ, kỳ lạ như thế kia. Đi đứng oai nghiêm đĩnh đạc như thế kia. Có lẽ đây là người mà tiên, bụt cho xuống cứu mình? Cô vội sửa lại mái tóc chạy ra đón.
-Anh! Anh là ai?
-Tôi là hiệp sĩ.
-Anh là hiệp sĩ? Trời ơi… Trong lòng cô gái bỗng sáng rực lên những niềm vui tin.
-Anh là hiệp sĩ? Có phải anh đến cứu tôi đấy không?
-Không, tôi đến giết cô. Mặt anh chàng hiệp sĩ nghiêm lại. Anh nói rành rọt từng tiếng.
-Không! Không! Tôi không thể tin được anh lại giết tôi. Anh chàng hiệp sĩ đặt cây đèn lên bệ, rút thanh gươm ra, tiến lên một bước, dằn giọng:
-Vì sao cô lại tin tôi không giết cô? Có phải rắn rết ở trong lòng cô đang hiện ra trong những lời nói khôn ngoan ấy không?


-Không! Không phải thế đâu. Tôi không thể nào tin anh lại giết tôi được vì rằng tôi trông anh… Người con gái ngước mắt lên nhìn chằm chằm vào anh chàng hiệp sĩ. Hai mắt cô gái to và đen láy. Hai con mắt ấy bỗng vụt sáng lên, như chợt nhận thấy một điều gì vui sướng. Cô vội chạy lại gần anh chàng hiệp sĩ, mừng rỡ nói:
-Tôi trông anh quen lắm… Phải rồi, tôi quen anh đã chín mười năm nay, từ hồi tôi hãy còn để chỏm. Tôi trông anh giống như một con rối của ông lão múa rối rong, cứ đến cuối năm lại về đây diễn trò. Một con rối chuyên đóng vai hiệp sĩ cứu đời. Anh cũng là hiệp sĩ. Đây này, cái khăn đội cũng màu nguyệt bạch. Cũng áo chiến bào lục, đại ủng tía. Và, thanh gươm. Thanh gươm cũng có giải lụa hồng buộc ở chuôi, như thanh gươm anh đang cầm ở tay kia. Trời ơi! Sao anh giống con rối ấy thế. Từ bé xem múa rối, tôi đã yêu thích, mến phục con rối ấy lắm. Thật là một con rối anh hùng, mỗi khi nó vung thanh gươm của nó lên thì mọi sự bất công, ngang trái đều được san bằng, người ngay thẳng trung hậu được giúp đỡ, đứa hung ác, gian tham phải trị tội. Tôi chưa từng thấy con rối ấy giết người hiền lành ngay thẳng bao giờ. Vì vậy tôi không thể nào tin anh lại giết tôi. Anh hiệp sĩ ơi!…

Tôi không thể nào tin được. Anh chàng hiệp sĩ thấy bối rối. Những lời nói chân thành của cô gái làm xúc động lòng anh. Trong óc anh bỗng hiện lên rất nhanh quãng đời còn làm con rối của anh khi trước. Anh nhớ từng tích, từng việc rất rõ. Anh nhớ anh đã giết những loại gian ác, hùm beo, yêu quái; và anh đã cứu được bao nhiêu cô bé, bao nhiêu ông già, bao nhiêu chú thỏ hiền lành ngây thơ… Giọng nói và nét mặt còn trẻ măng của cô gái đứng trước mặt anh kia, không phải là giọng nói và nét mặt kẻ có tội. Những đứa có tội thì tội ác đeo trên mặt nó. Nó không thể giấu được. Đúng rồi, trong quãng đời còn làm con rối, anh chưa giết một người nào như thế này. Thanh gươm anh đã giơ lên, bỗng lại từ từ hạ xuống. Anh hỏi cô gái:


-Nhưng sao có người lại nói với tôi rằng cô đã giết người.
-Có người bảo rằng tôi giết người? Hai mắt cô gái tròn lên, kinh sợ.
-Phải, một bà tiên bảo tôi rằng cô đã giết mẹ. Cô còn định giết cả em cô nữa.
-Tôi mà giết mẹ tôi? Trời ơi! Sao lại có chuyện lạ như vậy? Một bà tiên bảo anh?… Thôi, thôi anh nhầm rồi. Anh mắc lừa rồi. Không phải là tiên đâu. Mẹ ghẻ tôi đấy… Nước mắt người con gái tràn ra chảy dòng dòng trên má. Anh chàng hiệp sĩ bỗng rùng mình, có một cảm giác rất lạ. Một cảm giác mà khi là gỗ anh không thấy. Một cảm giác làm anh bồi hồi, lo lắng đang chạy rồn rập trong lồng ngực anh. Anh trông thấy nước mắt. Lần đầu tiên anh trông thấy nước mắt, mà lại là nước mắt của một cô gái hiền hậu chảy ra. Anh thấy hình như yếu đuối, hình như những ý chí chiến đấu trong người bấy lâu bị hụt đi. Anh bỗng quát lên để trấn áp lòng mình:
-Mẹ ghẻ cô?…
-Vâng, mẹ ghẻ tôi. Bà ấy là một mụ phù thủy. Bà ấy vẫn có cái quạt phép che nửa mặt… Bà ấy đã giết mẹ tôi, và còn đang định giết tôi để chiếm đoạt cái gia tài này… Anh hiệp sĩ ơi! Anh có biết vì sao tôi bị giam hãm ở đây không? Anh thử nghĩ xem ở cảnh đời này, một người làm nên tội ác, có bao giờ giữa đêm ba mươi tết này lại bị giam cầm trong cái lẫm thóc bỏ hoang tăm tối này không? Anh chàng hiệp sĩ nín lặng, cúi đầu suy nghĩ. Những lời cô gái nói, anh thấy là có lý. Phải rồi, những kẻ làm nên tội ác nhất định không ở cái chốn tối tăm tồi tàn này, cũng như những người rên rỉ ở dưới gốc đa trước nhà anh trọ, những người ấy nhất định không làm nên tội ác. Vậy thì anh nên xử trí thế nào? Nên giết, hay nên tha cho cô gái? Chao ôi! Việc của người đời, anh mới bước chân vào, sao lắm nỗi éo le, khó hiểu làm vậy? Bỗng anh quay người chạy vút ra ngoài bóng tối. ở trong một cái miếu nhỏ gần đấy, mụ phù thủy đang ngồi thu mình dưới ngọn đèn xanh như hạt đỗ. Nghe tiếng chân người thình thịch đi ra, mụ đằng hắng hỏi:


-Xong rồi chứ? Anh chàng hiệp sĩ đã đứng trước mặt mụ phù thủy, anh nói:
-Tôi không thể giết người con gái ấy được!
-Vì sao không giết? Mụ vặn to ngọn đèn lên, nhìn anh chàng hiệp sĩ một cách dữ tợn.
-Tôi không giết, vì tôi không thể nghe lời một mụ phù thủy độc ác… Mặt mụ phù thủy tức thì xám đen lại, rồi trắng bệch ra. Hai con mắt mụ xanh lè chiếu thẳng vào mắt anh chàng hiệp sĩ. Mụ nhìn anh rất lâu, bỗng mụ cười lên khành khạch, khành khạch. Mụ cười nghe như hai miếng xương khô cọ vào nhau.
-Mày không giết nó? Mày còn nhớ những lời mày thề trước mặt tao chứ? Mặt mụ sắt lại và tất cả những nếp răn đều co rúm vào nhau như miếng vỏ cây khô.
-Phải, tao là phù thủy đây. Một con mụ phù thủy độc ác giết người đây. ừ, phải rồi. Tao mượn tay mày giết nó đấy! Mày có giết nó không? Nếu mày không giết nó tao sẽ bắt mày trở về kiếp gỗ. Mày sẽ mục nát ra ngay ở trong cái miếu này, mày không về nổi cái hòm gỗ của mày mà múa may quay cuồng nữa đâu! Tiếng mụ phù thủy nanh ác, tàn nhẫn. Mụ không cần giấu diếm việc mụ làm. Mụ nhận mụ là đứa gian ác. Anh chàng hiệp sĩ rùng mình. Đầu óc anh quằn lên những ý nghĩ đen tối, không dứt khoát. Bên tai anh vẫn nghe văng vẳng tiếng khóc của ông lão mất chó. Tiếng mẹ con em bé trốn nợ trong gốc đa. Anh giết cô gái hay trở về kiếp gỗ?


-Mày ngu dại lắm. Mày tưởng mày không giết thì con bé ấy nó sống được à? Mày không giết thì đứa khác giết. Tao giết, nó cũng phải chết. Còn mày, mày làm được cái gì lúc ấy? Mày cũng đã tự chết tám đời rồi, mày là khúc gỗ, biết chưa. Mụ bỗng thở hắt ra một tiếng dài ngao ngán:
-Chao ôi! Tao vẫn tưởng mày là đứa chí khí kia đấy. Ai ngờ chỉ vì một đứa con gái mà mày bỏ lão ăn mày mất chó, mày bỏ mẹ con cái đứa trốn nợ, mày bỏ hết cả chí khí của mày. Mụ ngừng lại nhìn anh chàng hiệp sĩ một giây, lại tiếp. Giọng mụ bỗng dịu hẳn xuống, khuyên lơn, ve vuốt:
-Mày tưởng rằng con bé ấy đã khổ sở lắm hay sao! ở trên đời này những đứa như nó kể có hàng trăm hàng nghìn. Mày phải có can đảm bỏ qua cái khổ này đi, thì mới cứu được hàng trăm hàng ngàn cái khổ khác. Thôi vào đi! Vào giết nó đi! Tao đợi ngoài này… Anh chàng hiệp sĩ càng bối rối, sợ hãi. Anh biết đấy là những lời ma quái cám dỗ, vậy mà dường như anh không cưỡng lại được, dường như có lý. Anh biết rằng mình không trấn tĩnh nổi lòng mình nữa rồi. Tiếng mụ phù thủy bỗng quát lên:
-Vào! Đi vào! Chần chừ gì nữa!… Tiếng quát đàn áp tinh thần anh chàng hiệp sĩ. Anh như bị đẩy đi bởi một áp lực ma quái. Anh đi thất thểu vào trong cái lẫm thóc. Hai mắt đỏ ngầu ngầu. Anh nắm lấy tay cô gái, nghiến răng rút thanh kiếm ra. Cô gái bỗng quỳ xuống, khóc rưng rức:
-Vâng, tôi xin chết. Tôi xin vui lòng chết dưới lưỡi gươm của anh. ở trong này tôi đã nghe hết những lời mẹ ghẻ tôi nói với anh rồi. Thì ra anh chính là con rối mà tôi mến phục từ hồi còn bé. Anh hiệp sĩ ơi!


Anh muốn làm người để cứu giúp những người nghèo khổ, hoạn nạn, như anh đã từng cứu giúp ở trong hòm múa rối khi xưa. Vâng, tôi xin vui lòng chết, để anh sống, anh làm những việc lớn lao, đẹp đẽ mà tôi thường mơ ước. Anh chém tôi đi! Vâng. Anh chém tôi đi… Anh chàng hiệp sĩ bỗng thở dài buông thõng tay xuống. Anh xấu hổ. Anh thấy anh không xứng đáng với tấm lòng tin cậy, cao cả của cô gái. Trong một lúc anh vụt nghĩ đến những con mắt của những người bạn trẻ vẫn xem anh diễn trò ở các chợ. Những con mắt lay láy, tin cậy, mến phục anh. Những con mắt ấy nếu chúng nhìn thấy anh vung gươm lên giết cô gái trong trắng, hiền hậu này thì sẽ như thế nào? Những con mắt mãi mãi dõi theo việc làm của anh. Đầu óc anh chàng hiệp sĩ bỗng vụt sáng lên một cách kỳ lạ. Anh cúi xuống, nâng cô gái dậy:
-Tôi không thể giết cô được. Thanh gươm của tôi chỉ để cứu người ngay thẳng trung hậu. Đêm nay tôi sẽ đưa cô ra khỏi cái lẫm thóc tối tăm này…
-Không! Anh hiệp sĩ ơi! Anh đưa tôi ra khỏi cái lẫm thóc sao được. Mụ phù thủy sẽ thu hồn anh.
-Mụ không thể thu được hồn tôi. Tôi chỉ mất hồn khi tôi làm những điều trái với lương tâm tôi… Thôi ta ra khỏi chốn này, mùa xuân đang chờ chúng ta ở ngoài kia. Anh chàng hiệp sĩ cầm tay cô gái dắt ra khỏi lẫm thóc. Tiếng pháo giao thừa bỗng nổ ran lên. Rồi tiếng trống động thổ ở các đền, các chùa cũng ầm ầm nổi theo. Trong tiếng pháo, tiếng trống, tiếng mụ phù thủy rống rít lên:
-Thằng hiệp sĩ kia! Thằng vong ơn bội nghĩa kia! Mày dám phản tao à? Mày phải chết! Mụ xòe cái quạt đánh phạch:


-Tao sẽ thu hồn mày vào trong cái quạt này. Anh chàng hiệp sĩ cũng rút gươm, tiến lên. Anh nhìn thẳng vào mặt mụ phù thủy dõng dạc nói:
-Thanh gươm này chưa bao giờ biết sợ những lời dọa nạt của những kẻ gian ác. Mụ phù thủy cười gằn, mụ giơ chiếc quạt phẩy nhẹ một cái. Một luồng gió bay ra thổi vào mặt anh chàng hiệp sĩ lạnh buốt. Anh chàng hiệp sĩ vung gươm lên đón đỡ. Nhưng hơi gió từ cái quạt thổi ra mỗi lúc một dữ dội. Tiếng gió cứ rít lên quấn lấy người anh chàng hiệp sĩ. Anh bỗng rùng mình, tiếng mụ phù thủy vừa cất lên quái gở:
-Ba hồn bẩy vía thằng hiệp sĩ ở đâu thì về mà chịu tô ộ ội!… Về ngay… Ba hồn bẩy vía… Mặt anh chàng hiệp sĩ tối sầm lại. Tay chân anh bủn rủn. Anh thấy hình như sức sống trong người anh bị rút đi. Và anh ngã khuỵu xuống, một bên chân anh liệt hẳn, giá lạnh, bấm không biết đau nữa. Hình như nó đã thành gỗ rồi. Anh chàng hiệp sĩ gỗ hốt hoảng vùng đứng lên, nhưng anh lại ngã khuỵu xuống.

 Đúng cái chân anh thành gỗ rồi. Mụ phù thủy đã tiến lại gần anh. Mụ vẫn hú lên những tiếng hú ghê rợn:
-Ba hồn bẩy vía thằng hiệp sĩ… ở đâu thì về mà chịu tội… nhá á á … Người anh chàng hiệp sĩ như nhẹ đi, mệt mỏi rã rời, anh đỡ gạt luống cuống. Thôi con mụ phù thủy sắp hại anh rồi. Anh sắp lại trở về kiếp gỗ và chết mục trên miếng đất này. Xung quanh tiếng pháo mừng đón mùa xuân vẫn nổ liên tiếp. Tiếng pháo như không bao giờ ngừng. Anh chàng hiệp sĩ bỗng nhớ lại những lúc anh đánh nhau với kẻ thù ở trong cái hòm gỗ trước kia. Anh nhớ lại những tiếng hát của ông lão múa rối khuyên lơn, khích lệ anh những khi anh chán nản, yếu đuối: “Khi ta thấy tinh thần ta yếu đuối, thì chính sự yếu đuối ấy sẽ đè chết ta; vượt qua được, ta sẽ thắng được quân thù…” Mụ phù thủy đã đứng trước mặt anh chàng hiệp sĩ, mụ trỏ ngược cái giáo quạt vào mặt anh, nheo một bên mắt cười:
-Mày thử đứng lên tao xem nào. Mày không đứng lên được nữa đâu. Chân mày thành gỗ rồi. Hừ, trứng chọi sao lại được với đá! Tao chỉ phẩy nhẹ một cái nữa thì cả người mày trở về kiếp gỗ, thanh gươm mày đang cầm ở tay kia cũng thành gỗ nốt. Mụ ngừng lại, nhìn anh dằn giọng:
-Nhưng tao cũng rộng phép cho mày nghĩ lại. Nếu mày quay gươm giết con bé khốn kiếp kia, thì tao sẽ tha cho mày.

-Tha cho tao à? Ha ha ha ha… Anh chàng hiệp sĩ cười lớn. Lòng khinh thị và căm tức làm anh bật cười. Tiếng cười đầu tiên của một con rối bằng gỗ đã thành người. Tiếng cười của một con người thực có mặt ở cuộc đời. Tiếng cười cứ rung lên sang sảng như tiếng nhạc đồng, và làm sáng sủa cả cái không khí u uất ghê rợn lúc bấy giờ. Tiếng cười tự đáy lòng anh chàng hiệp sĩ phát ra, chuyển cho anh một sức sống mới, tan biến mọi sự yếu đuối đang đè trĩu trên người anh.

Con mẹ phù thủy bỗng lùi lại, lùi lại… Tiếng cười đuổi theo làm mụ hoảng sợ. Mụ đã từng giết nhiều người. Mụ chưa thấy một người nào như vậy. Trước cái chết mụ chỉ thấy người ta khóc lóc van xin. Anh chàng hiệp sĩ này đứng trước cái chết lại cười. Thật là ghê rợn đối với con mẹ phù thủy. “Thắng được sự yếu đuối, ta sẽ thắng được quân thù”. Tiếng cười đã thắng được sự yếu đuối trong người anh chàng hiệp sĩ. Anh hét lên một tiếng, chuyển hết gân cốt vung gươm, đứng dậy. Những chỗ tê bại trên người anh vụt biến đi. Anh vũ động thanh gươm cuốn lên, lấp loáng như một cơn lốc. Anh đã dùng đến những đường gươm bí hiểm nhất mà trước kia chỉ khi nào đánh nhau với yêu ma, hổ báo anh mới dùng đến. Trong tiếng pháo giao thừa và tiếng trống động thổ như tiếng trống trận, một đường gươm loáng lên như một ánh chớp cắt ngang những ý muốn độc ác của con mụ phù thủy. Cả người mụ đổ xuống. Xung quanh tiếng pháo vẫn nổ ran trong các xóm làng, ấp trại. Lẫn có cả tiếng gà kéc ke gáy gọi ông mặt trời năm mới…


Một buổi sáng đầu năm, mưa phùn bay trắng trên thị trấn Bến Cam. Trên con đường đỏ sẫm lầy lội, ông lão múa rối rong ung dung đẩy cái xe bánh gỗ cọt kẹt từ trong phố đi ra. Mấy đứa trẻ đang đánh đáo trong lều chợ nhìn ra trông thấy, chúng nó cùng reo lên, à à chạy ra đón. Một đứa cong cổ gọi:
-Cụ ơi! Cụ múa rối ơi! Cụ đã đi đấy à? ông lão múa rối ngửng mặt lên, toét miệng cười:
-Phải đi chứ! ở đây mãi ai nuôi? Hì…


-Này cụ ơi! Cháu hỏi… ông lão dừng xe lại, và đám trẻ con tíu tít vây xung quanh.
-Cháu hỏi, sao mấy hôm hội chùa diễn trò rối không tích nào có anh hiệp sĩ?
-Anh ấy đâu? Anh ấy đâu hở cụ? Dám trẻ con nhao nhao tranh nhau hỏi.
-Anh hiệp sĩ ấy à… Anh hiệp sĩ thì thì để sang năm làm con khác các cháu nhá. Sang năm làm một anh mới rõ thật đẹp…


-Sao lại làm anh mới? Làm mới còn kể gì nữa, chúng cháu không thích. Thế anh ấy đâu? Cụ bỏ anh ấy đâu rồi?… Bị hỏi dồn, ông lão đâm ra lúng túng. ông lão chặc lưỡi nói liều:
-Chậc, anh ấy hóa thành người rồi.
-Thành người à? Đám trẻ con tròn cả miệng, cả mắt kêu lên:
-Thế anh ấy có đem thanh gươm đi không?
-Có chứ. Có đem thanh gươm đi chứ.
-Thích nhỉ. Tao gặp anh ấy tao đi theo ngay.
-Lũ trẻ xuýt xoa. ông lão múa rối lại đẩy cái xe đi. Cái xe cút kít in trên đường đất đỏ hai vệt bánh xe sâu hoẳm Đám trẻ con đứng nhìn theo hút bóng ông lão đẩy cái xe trên con đường xa tít trước mặt. Trước mắt các em lại hiện lên bóng dáng hùng dũng của anh chàng hiệp sĩ gỗ đầu đội mũ võ sinh màu nguyệt bạch, mình bận chiến bào lụa màu lục anh vũ, lưng thắt dây văn võ màu xanh, chân giậm ủng tía, trên lưng cài một thanh kiếm phơ phất giải lụa hồng.
Nhà xuất bản Kim Đồng Hà Nội, 1958

Kim Lân

Tô Hoài
– (…trích Cát Bụi Chân Ai )
Kháng chiến, Nguyên Hồng và Kim Lân đưa gia đình tản cư lên ấp Cầu Đen trên Nhã Nam. Các họa sĩ Trần Văn Cẩn, Tạ Thúc Bình, cả nhà bác Ngô Tất Tố cũng lên quây quần trên cái đồi thấp bấy giờ còn hoang vắng. Những vùng ở Xuân Láng (Phú Thọ) hay Quần Tín (Thanh Hoá) cũng tụ hội lại những làng văn nghệ sĩ kháng chiến. Nghe kể hoạ sĩ Trần Văn Cẩn được xã cấp cả ruộng, anh đi cày đã thạo. Tên cúng cơm ấp Cầu Đen, Nguyên Hồng đặt lại là ấp Đồi Cháy.
Lại trước đấy, sau đấy, truyện ngắn Ông lão hàng xóm của Kim Lân nghi ngờ thành tựu cải cách ruộng đất, những bài bút ký yếu đuối tinh thần đấu tranh thống nhất, như Thao thức của Đoàn Giỏi, Một ngày chủ nhật của Nguyễn Huy Tưởng (*) (*Trong Nhà văn Việt Nam hiện đại in năm 1992, kỷ yếu kỷ niệm 35 năm thành lập Hội Nhà Văn (1957-1992), tuần báo Văn xuất bản 1957/1958 không được nêu tên kể tên là tờ báo đầu tiên của Hội Nhà Văn Việt Nam)
Nhân Văn vẫn sờ sờ ra đấy, chứ đâu. Những người đã đánh Nhân Văn vừa qua khẳng định thế, cộng với những rì rào sang tai nhau, không khí nặng nề, ngao ngán, triền miên, thường hiện ra ở những chỗ này. Cái chuyện nuôi ông ba mươi trong nhà, cụ thân sinh ra Nguyên Hồng nghe được ở đâu từ đời thuở nào. Người đọc tha hồ nghi, nhưng mà sáng tác không có ước ao được người đọc nghĩ ra mênh mông thì cầm bút để làm gì? Một vòng người họp tổ, như các cụ trong làng ngày trước ngồi xếp bằng quanh chiếu tổ tôm. Những lời đao búa truy dồn. Thế là Nguyên Hồng khùng lên, khóc oà.

Năm trước đã nghiên cứu cả tháng rồi, bây giờ báo Văn lại sa vào hữu khuynh tệ hại như thế. Báo Văn phải ngừng xuất bản. Hội nghị bất thường Hội Nhà Văn – nhiệm kỳ mở đầu ngoi ngóp được hơn một năm, tất cả các cơ quan của Hội được chấn chỉnh lại, tuần báo Văn của Hội thay người phụ trách và đổi tên mới là tuần báo Văn Học. Chuẩn bị cho đại hội bất thường, nhờ địa điểm trường tuyên giáo dưới ấp Thái Hà, làm một cuộc thảo luận và kiểm điểm dài ngày. Cái tổ 18 của chúng tôi có Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Kim Lân… với một số nhà văn vững vàng làm nòng cốt. Trêu ngươi ai, Kim Lân lại mới in truyện ngắn Con chó xấu xí. Con chó cũng như con hổ hiền lành, không ai tin con chó chỉ là con chó, lại xấu xí nữa, có khi tác giả ám chỉ con người nào cũng nên. Nguyễn Huy Tưởng đã về làm nhà xuất bản Kim Đồng. Đương bị tơi bời kiểm tra nhau mấy cái bản thảo, trong có một truyện đồng thoại ao cá ao rùa chi chi đó của Sao Mai – lại con cá, con rùa, con ba ba, lắm con quá. Cũng chẳng ai bảo đảm người vào tổ 18 ấy là một bọn hay một cánh, nhưng cứ ang áng biết thế, và cái kiểu hiểu như bên Trung Quốc kiểm thảo nhóm Đinh Linh đã xuất hiện cụm từ đầu mày cuối mắt thì dù chẳng nói một câu, cũng là cánh, cũng cho được vào xiếc một bọn rồi.

Ngổn ngang tâm sự và tâm trạng chua chát, mỉa mai, lại hài hước. Có người quen thân, có người chỉ sơ sơ, bây giờ moi móc những việc, những lời đã nói, bất kể nói lúc nghiêm trang hay khi vui chén bông đùa, được dẫn chứng bằng cớ ra, phân tích cho nhau rõ ranh giới địch ta. Chỉ Nguyễn Tuân mới nhớ lâu và để bụng những câu góp ý ấy. Có những người rồi Nguyễn Tuân không bao giờ dàn mặt nữa. Đến lượt, ai cũng phải suốt buổi ngồi chịu trận nghe cả tổ mắng xa xả, vi vút. Kim Lân kể dạo ở trên chợ Chu, trong một cuộc kiểm điểm, Ngô Tất Tố bị một anh xưa nay bác Ngô vẫn không coi ra gì, bây giờ phải nghe anh ấy sát phạt lên lớp cho. Ngô Tất Tố quệt nước mũi vào gốc cây, sụt sùi nói với Kim Lân:
– Làm người khó lắm, bác ạ.

Khổ một nỗi, có người nghe phê bình, cứ tiếp thu thun thút, còn minh hoạ thêm lỗi mình cho to ra thêm nữa. Thế mà cũng không được tin, lại bị tố cáo là hời hợt, trốn đấu tranh. Có người bỗng thật thấy mình sai, nhận ngay cũng lại bị cho là nông cạn, con vẹt, thiếu đào sâu suy nghĩ. Đến lượt Nguyên Hồng trình bày, lại đặt chồng báo Văn ra trước mặt, giở từng số, vừa nói vừa ứa nước mắt. Chịu chẳng ai phân tích ra thế là kể công hay nhận tội. Tôi dự các cuộc chỉnh huấn đã nhiều, có người lo quá, cả tháng không chợp mắt, như ở báo Cứu Quốc, một cậu còn trẻ, đã vào rừng thắt cổ.
Phương châm trị bệnh cứu người là ngồi nghe không được nói lại, đợi đến lúc phát biểu thì tiếp thu. Dao kéo chỉnh huấn của tôi cũng đã hăng hái mổ xẻ nhiều người lắm. Mùa đông 1951, ở rừng Chiêm Hoá, hai tháng dự lớp đầu tiên chỉnh huấn gọi là theo phương pháp Hoa Nam. Lớp ấy nòng cốt các ngành các giới và địa phương học xong về toả ra rộng khắp. Trần Dần và Tử Phác phụ trách chỉnh huấn trong văn nghệ quân đội. Đặng Đình Hưng và Lê Đạt là cán bộ trên ban tuyên nghiên huấn Trung ương về mở các lớp cho giới văn nghệ. Đoàn cán bộ giáo vụ đi học chỉnh huấn ở Hoa Nam về mặc áo bông xanh Sỹ Lâm. Lớp tôi bế mạc, một số cán bộ vượt Trường Sơn vào làm chỉnh huấn và cải cách ruộng đất trong khu Năm. Đoàn còn được lệnh vào sâu hơn, nhưng mới tới miền Đông Nam Bộ thì hiệp định Giơnevơ 1954 được ký kết.

Nửa đêm trở dậy, giữa rừng đất hàng trăm bó đuốc lên, lấp loáng băng khẩu hiệu vải đen chữ trắng… Bộc lộ khuyết điểm… Thước đo lòng trung thành… Trời rét cắt ruột. Rừng đêm tối như mực. Con người bẩn thỉu lỗi lầm đầy rẫy… Chưa… Chưa đủ thành khẩn, làm lại… lại làm lại. Mỗi lần làm lại, viết lại càng ngày càng áy náy lo. Cái chờ đợi được tổ thông qua cứ xa vời vợi.

 Chỉ có bộc lộ tội hủ hoá ngủ bậy thì cơ chừng nói ra dễ nhất, không có cũng đấm ngực bảo có, nhất là nam giới. Chết rồi còn bị khai trừ, vì tội trốn đấu tranh. Hoạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm tham gia một đợt giảm tô ở Thái Nguyên. Công tác dưới xã xiết chặt phăm phắp từng buổi, từng ngày, cả đội như một đơn vị ra trận. Hai ngày bắt rễ, một ngày xâu chuỗi rồi họp rễ chuỗi, rồi trưởng thôn mới ở xóm ra mắt… Đội viên giảm tô Nguyễn Tư Nghiêm loay hoay cả tuần không bắt được rễ, không xâu chuỗi được một cố nông nào. Nguyễn Tư Nghiêm hoảng quá phát dại, đi không nhớ đường về xóm. Suốt ngày vơ vẩn ngoài đồng, bắt cào cào, châu chấu ăn. Hoạ sĩ Tạ Thúc Bình được cơ quan cho xuống đoàn xin Nguyễn Tư Nghiêm về. Chưa bao giờ tôi hỏi lại xem ngày ấy Nguyễn Tư Nghiêm điên thật hay sợ phải ngồi chuồng trâu kiểm thảo đã sáng tác ra trò Vân dại ấy.

Chỉnh huấn xong ở Chiêm Hoá, về tổ chức chỉnh huấn trí thức và văn nghệ sĩ. Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Nguyễn Minh Tấn làm cán bộ giáo vụ chủ chốt của lớp. Anh em chúng tôi ai đợt trước chưa dự đợt ấy thì làm nốt. Tôi chỉnh huấn rồi lại dự nữa không làm giáo vụ nhưng được làm tổ trưởng. Tổ tôi có nhiều nhân vật lạ khác nhau: Phan Khôi, Tú Mỡ, Văn Cao, Nguyễn Công Hoan, nhà triết học Trần Đức Thảo, bác sĩ Đặng Vũ Hỉ… Người khó góp ý kiến, khó đánh đổ không phải bác Phan Khôi ương bướng như tôi tưởng mà lại là Kim Lân và bác Tú Mỡ hiền lành, củ mỉ, ít nói.


Kim Lân – Lặng nằm xuống khi đôi chân đã mỏi

Lưu Hà

Kim Lân ra đi vào một ngày Hà Nội oi bức và ngột ngạt. Trái tim trong sáng yêu thương nhẹ nhàng ngừng đập để thân hình nhỏ bé và nụ cười hồn hậu thanh thản trôi vào giấc ngủ dài. Bạn bè và hậu thế, biết bệnh tình của ông, đã chuẩn bị tâm thế cho một cuộc chia tay vĩnh viễn.

Dẫu không bị đường đột nhưng mất mát quá lớn vẫn khiến họ sững sờ. Dưới đây là chia sẻ của các nhà văn về những kỷ niệm vui buồn với Kim Lân.
Nhà thơ Bảo Sinh: Cụ tinh tường, giỏi quan sát và ưa chiêm nghiệm
Những năm gần đây, tôi không có điều kiện tiếp xúc nhiều với nhà văn Kim Lân. Nhưng vào khoảng thập kỷ 80, tôi gặp gỡ cụ vài lần, vì chúng tôi có cùng thú nuôi chó. Thật ra, lúc bấy giờ, xã hội Việt Nam còn rất khó khăn. Chúng tôi nuôi chó phần vì thú chơi và tình yêu với loài vật, phần vì còn phục vụ mục đích cải thiện kinh tế. Tôi nhớ mãi một kỷ niệm vui và xúc động về cụ Kim Lân. Một lần, đến nhà tôi chơi, cụ tâm sự rất thành thực: “Cậu làm thế nào giúp tôi. Chứ tôi viết về chó thì rất được, nhưng cứ nuôi con nào là hỏng con ấy”. Thời đó có phong trào nuôi chó Nhật. Quả thực, loài này khó nuôi, hễ nó nhức đầu, sổ mũi thì chủ nó cũng phải đau đầu, sốt ruột.
Mà Kim Lân viết hay về chó là điều dễ hiểu thôi. Con người cụ rất tinh tường, rất hòa đồng với thiên nhiên và loài vật, cụ giỏi quan sát và ưa chiêm nghiệm. Mỗi lần nghe cụ nói chuyện, tôi ấn tượng mãi với gương mặt hóm hỉnh, đầy cảm xúc và rất đỗi thân thiện của cụ.
Nhà văn Kim Lân.
Nhà văn Kim Lân. Ảnh: Tiền Phong.
 
Nhà thơ Hoàng Cầm: Trong đám nhà văn, ít ai có được duyên kể chuyện như Kim Lân
Kim Lân chỉ học đến bậc tiểu học nhưng rất thông minh và có trí nhớ tuyệt vời. Mà ông lại còn có duyên kể chuyện nữa. Ông kể rất hóm hỉnh, từ chuyện sử Tàu, sử ta đến những thú chơi đồng ruộng như chọi gà, chọi chim… Bạn bè cùng lứa cùng tác rất thích nghe ông tán chuyện. Mà ở đâu có ông, ở đó có chuyện để nghe và có cái để cười. Trong đám nhà văn, tôi thấy ít ai có được cái tài đó. Hồi cải cách ruộng đất, Kim Lân có làm đội phó hay đội viên gì đó. Mỗi bận đi làm về, chỉ cần nghe ông kể chuyện, người ở nhà cũng có thể viết được cả cuốn tiểu thuyết. Vì ông dí dỏm, mắt mũi tay chân diễn đạt sống động lắm.
Tôi và Kim Lân không ở cùng làng, cùng tỉnh. Tôi dân Bắc Giang còn Kim Lân người làng Phù Lưu, Bắc Ninh, nhưng chúng tôi rất quý nhau, vì hai anh em có cùng niềm đam mê đóng phim và diễn kịch. Mà ở phương diện này, ông ấy là bậc kỳ tài. Kim Lân làm diễn viên sáng tạo lắm chứ không rập khuôn theo một lối nào cả. Tôi nhớ nhất cái lần ông tham gia vở hài kịch Cái tủ chè của Vũ Trọng Can. Vở kịch kể chuyện một ông nhà giàu rất mê tủ chè. Nên khi kén rể cho đứa con gái xinh đẹp, ông cũng đòi lễ vật là cái tủ chè. Rồi có hai chàng trai đến cầu hôn: Kim Lân đóng anh chàng nhà quê Cả Khiết, còn ông Trần Hoạt đóng vai ông Ký Phong… Chuyện chỉ có thể nhưng họ diễn hay đến nỗi người dân Bắc Giang cười nghiêng ngả, đến đổ cả rạp. Tất nhiên, hồi đó chỉ có rạp tranh nứa chứ không phải bê tông cốt thép như bây giờ. Ngay đến cả tôi, từng nằm chuyện trò với ông, từng quen thuộc với từng cử chỉ của ông cũng phải cười lăn ra. Đến bây giờ, nếu dựng lại vở đấy, chắc cũng không ai vượt qua được Kim Lân và Trần Hoạt.
Hồi năm 1946, tôi và Kim Lân cùng tham gia vở Kiều Loan. Kim Lân vào vai một ông già say rượu. Lúc tập thì bình thường lắm. Kim Lân ngồi sẵn trên sân khấu, trong một quán rượu, miệng uống, tay chân làm vài động tác của người say. Nhưng khi diễn thật, ông khiến chúng tôi vô cùng ngạc nhiên. Từ trong hậu trường, ông lảo đảo đi ra, quay mông lại với khán giả. Nhân vật chưa phải nói một lời thoại nào, nhưng cái dáng điệu lẻo khoẻo và những cử chỉ bất cần của ông khiến người xem vỗ tay phải đến 2 phút. Khán giả kịch hồi đó tinh lắm. Sự sáng tạo của Kim Lân diễn tả rất tinh tế tâm trạng của một ông già trí thức, ngán ngẩm và quay lưng hoàn toàn với cuộc đời. Tôi phục và quý ông từ đó.

 
Chân dung Kim Lân dưới nét vẽ của con gái cả Nguyễn Thị Hiền.
Trung Trung Đỉnh: Kim Lân cầu toàn nên lắm trăn trở
Kim Lân là nhà văn viết ít. Ông có một sự nghiệp "quý hồ tinh bất quý hồ đa". Nhưng gần Kim Lân mới biết, ông vẫn luôn dằn vặt, trăn trở vì cái sự viết ít của mình. Ông cầu toàn lắm và luôn muốn được đóng góp nhiều hơn trong văn học. Một lần hai ông con tôi đi chơi Buôn Mê Thuột. Đến tận cái nơi xa lắc đấy mà người ta vẫn biết ông. Họ gọi ông là Lão Hạc. Tôi chắc mẩm nhà văn phải hạnh phúc lắm. Nhưng khi về đến khách sạn, ông nằm vật ra, than: “Chán, chán mớ đời”. Hỏi tại sao, ông bảo: “Có đóng phim, người ta mới biết đến mình. Còn mấy cái truyện ngắn, chắc chả ai để ý”. Tôi nhắc: “Nhưng cũng có nhiều người nói đến truyện của ông đấy thôi”. Ông thở hắt ra: “Úi dào, đấy là mấy cô giáo. Có vài cái truyện giảng đi giảng lại trong sách giáo khoa, sao lại không biết”.
Trong cuộc sống riêng, Kim Lân là người rất xuề xòa, tuế tóa, nhưng ông lại rất kỹ, rất nghiêm túc trước những vấn đề về văn hóa và đạo đức. Đặc biệt, Kim Lân là người rất khắt khe với bản thân mình.
Những năm gần đây, ông yếu đi nhiều. Bệnh tật khiến cho ông lắm lúc cũng trầm lại. Nhưng cơ bản, ông vẫn là người lạc quan, hay đùa cợt cái sự ốm đi ốm lại của mình. Chỉ có điều, ông sốt ruột vì phải mất thời gian chống chọi với bệnh tật. Ông ấp ủ viết nhiều thứ nữa, kể đi kể lại những cốt truyện đã dự định từ lâu nhưng tuổi tác, sức khỏe đã không cho phép ông hoàn thành chúng.
Hữu Thỉnh: Thành tựu chính của Kim Lân vẫn là văn học
Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Sở trường của ông là truyện ngắn, với đề tài quen thuộc là nông thôn và đồng quê. Ông viết về những người nông dân lao động thuần khiết, thô mộc nhưng rất giàu tình nghĩa và biết quý trọng đạo lý làm người.
Kim Lân cũng là một nhà văn sớm tham gia xây dựng nền văn hóa cứu quốc và có đóng góp lớn cho văn học cách mạng. Sau này, ông lại dành nhiều thời gian đào tạo, dìu dắt các nhà văn thế hệ trẻ ở Trường viết văn Quảng Bá. Ông viết báo, diễn kịch và vẽ… Nói chung, ở lĩnh vực nào, Kim Lân cũng tỏ rõ mình là một con người tài hoa, thông minh và tinh tế. Nhưng dù sao, thành tựu chính trong cuộc đời Kim Lân vẫn là văn học.
Tôi có khá nhiều kỷ niệm với Kim Lân, vì khi làm Trưởng ban nhà văn trẻ, tôi hay kéo ông đi hết nơi này nơi khác. Nhưng sức khỏe ông yếu, nên nhiều bận làm tôi lo đứng tim. Một lần, trên đường từ Cao Bằng về Hà Nội, do đường xấu, hành trình lại dài nên ông say xe, nôn khủng khiếp và nằm lả đi. Lần đó, tôi lo lắng vô cùng…
III

Cái Đêm Hôm Ấy...Đêm Gì ?
PHÙNG GIA LỘC



Phùng Gia Lộc (1939 - 1992) là một nhà văn, nhà báo Việt Nam.
Ông nổi tiếng với bài bút ký Cái đêm hôm ấy...đêm gì được đăng trên báo Văn nghệ năm 1988 về thực trạng nông thôn và những người nông dân quê ông.

Nhà văn, nhà báo Phùng Gia Lộc sinh năm 1939 tại làng Láng, xã Phú Yên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Phùng Gia Lộc có lúc làm thầy giáo tiểu học. Vốn được nhiều người hâm mộ nên có khi ông cũng bị tai tiếng với những chuyện tình cảm phong lưu đến phải chuyển công tác.
Thời làm văn nghệ ở phòng văn hóa huyện Thọ Xuân, ông sáng tác rất nhiều: viết văn, làm thơ, viết kịch, cải lương, chèo, trong đó có rất nhiều vở do ông viết và dàn dựng cho các đội văn nghệ cấp xã. Thời gian này ông là hội viên Hội văn nghệ Thanh Hóa1.

Năm 1983, Phùng Gia Lộc về nghỉ hưu trước tuổi, cùng vợ con vui thú ruộng vườn, vẫn tham gia hội văn nghệ của tỉnh và giúp vực dậy phong trào văn nghệ ở địa phương.
Đó là thời gian trước đổi mới 1986, ở Thanh Hóa quê ông và sau này được biết là khắp nông thôn miền Bắc, nạn "cường hào mới" nổi lên khắp nơi. Một số cán bộ vốn là "đầy tớ của nhân dân", thời chiến tranh được nhân dân nuôi nấng, che chở, bây giờ thành "người có công" lên nắm quyền hành, lợi dụng quyền thế ức hiếp dân lành gây nhiều bức xúc. Chính sách thuế khóa từ trên áp đặt xuống, các địa phương phải tận thu để đủ chỉ tiêu cùng với nhiều chính sách đường lối thời bao cấp khác làm cho người dân ngày càng nghèo mạt, người nông dân trực tiếp làm ra lúa gạo vẫn phải đói thiếu.
Người anh họ của ông, Phùng Gia Phan bị giết hại, được cho là có liên quan tới truyện ngắn trước đó của ông "Được vật báu" đăng trên báo Văn nghệ. Sự kiện này tác động mạnh tới Phùng Gia Lộc, cũng là tột cùng của đêm tối trong đời ông. Ông ra Hà Nội, để tìm câu trả lời cho sự công bằng cho ông và những người xung quanh mình. Lúc đó sự kiện cởi trói văn nghệ bắt đầu. Phùng Gia Lộc viết lại những trải nghiệm của ông về thực trạng nông thôn và những người nông dân quê ông trong bài bút ký Cái đêm hôm ấy... đêm gì[1], sau này gắn liền với tên tuổi của ông.

Cái đêm hôm ấy...đêm gì (Báo Văn Nghệ - 23/01/1988)

Kể từ khi đánh máy ở tòa soạn báo Văn nghệ cho đến khi bài báo được in ra, bao nhiêu cảm xúc chấn động trong lòng người đọc, suốt nhiều tháng sau đó thư bạn đọc gửi về tới tấp, có nhiều người không thể tin nổi dưới chế độ mới đời sống người nông dân cơ cực như thế, có ý kiến so sánh với câu chuyện trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Báo Văn nghệ lúc bấy giờ cho đăng ý kiến của một người đọc phê phán kịch liệt tác giả Cái đêm hôm ấy... đêm gì, gây nên một cuộc bút chiến sôi nổi suốt nhiều số báo. Bạn đọc bảo vệ ông, ủng hộ ông, muốn giúp đỡ gia đình ông, tôn vinh và gọi ông là Người anh hùng nông dân nổi dậy. Thời gian này chính là buổi hoàng kim của tuần báo Văn Nghệ, cũng gắn liền với tên tuổi nhà văn Nguyên Ngọc - tổng biên tập lúc bấy giờ. Bạn đọc cả nước xếp hàng, háo hức chờ đợi báo mới mỗi tuần, bàn luận sôi nổi về những bài viết trên báo.
Như nhà thơ Bế Kiến Quốc từng viết: "Người ta không thể "bất ngờ" viết ra được Cái đêm hôm ấy...đêm gì? nếu không gắn bó, từng trải tất cả những buồn vui sướng khổ của người nông dân đích thực như Lôc"3. Giá trị của bài bút ký chính là sự thật của câu chuyện làm thức tỉnh nhận thức cả xã hội trong đêm dài tăm tối trước đổi mới (Xem thêm sách và loạt bài Đêm trước đổi mới) [2]. Một gía trị khác chính là nhân cách, lương tri của người viết, một người cầm bút dũng cảm trước thời cuộc, trước đồng bào của mình. Đây là yếu tố làm nên tên tuổi Phùng Gia Lộc và sẽ khiến người ta còn nhắc tới ông, cũng là "thiên chức của người cầm bút" như ông thường nói, dám nói thẳng nói thật, nói đúng lúc cần thiết để xã hội tiến bộ.

Tư tưởng

Các sáng tác của ông thể hiện sự không khoan nhượng với những thói tiêu cực trong đời sống nơi thôn quê: tham nhũng, cửa quyền (Các truyện ngắn Chỗ rỉ, Con bò thải, bút ký Nam Giang vực xoáy...). Bài ký Chìm thuyền trên cạn là tâm đắc của ông với tư tưởng an dân qua câu thơ của Nguyễn Trãi: Lật thuyền mới biết dân như nước, rằng làm quan, làm cán bộ phải cẩn trọng lắm, như thuyền nổi trên nước, cẩn thận đừng để nước dậy sóng, nên thấy được sức mạnh, uy quyền của nước trước khi để bị lật thuyền.
Sinh thời, ông thường ngâm ngợi và gửi gắm triết lý về một bậc vương giả trong nhân gian qua những câu ca dao4 như: Núi cao bởi có đất bồi, núi chê đất thấp núi ngồi ở đâu? hay triết lý nhân sinh qua những câu như: Con ong làm mật yêu hoa, con cá bơi yêu nước con chim ca yêu trời...
Bài thơ Vô đề ông viết lúc cuối đời là những trăn trở, nỗi niềm đau đáu của ông trước những phận đời thấp bé luôn muốn vươn lên, đằng sau đó là mong muốn cứu khốn phò nguy âm ỉ trong ông chưa bao giờ tắt.
Thương con thú ở thảo cầm viên
Cũng trời cũng đất cũng thiên nhiên 
Ăn ở thoáng nhìn êm ả thật
Tháng ngày lồng lưới dám sai quên.
Thương cho cây cỏ mọc hang sâu
Leo lét xanh xao vẫn dãi dầu
Vẫn cố vươn tìm ra phía sáng.
Mặt trời soi chiếu những nơi đâu.
Tác phẩm:
  • Con gái ông giám đốc - Tập truyện và ký, 116 trang, Nhà xuất bản Thanh Hóa, 1987.
  • Bút ký Cái đêm hôm ấy...đêm gì, báo Văn nghệ, 1987
  • Bút ký Chìm thuyền trên cạn, 1989
và nhiều truyện ngắn, bút ký đăng trên báo, tạp chí T.Ư và địa phương


Cuối năm 1983, tôi được ở nhà chờ quyết định về nghỉ chế độ. Chiều Chủ Nhật, thằng Học con tôi rủ rỉ nói:
- Con bắt được bác Quang ăn bánh cuốn ở hàng anh Minh. Bác đi thồ sắn ở chợ Phúc Địa về. Bác cho mấy bó nhưng con không lấy. Bác dặn con về đừng nói với bố mẹ là đã gặp bác. Nói, hôm nào sang bác đánh chết.
- Hừ! Lại thế nữa...
Tôi buột miệng bảo với con thế, rồi thừ ra. Bạn bè anh em cùng một phòng với nhau mà đi qua không vào. Có điều gì nhỉ?
Sáng thứ Hai tôi sang cơ quan ứng mấy cân gạo và định bụng sẽ gặp, trút sấm sét lên đầu anh ấy. Nghe tôi trách, Lê Trung Quang, trưởng phòng tổ chức Ủy ban huyện Thọ Xuân, cười hà hà làm lành thật đôn hậu, dễ yêu:
- Giá có một mình thì tôi vào. Đằng này những bốn binh, khao được, anh cũng liệt. Vả lại, bốn cái xe nặng è, sợ tối.
Là trưởng phòng tổ chức ủy ban huyện, anh cũng để gia đình vợ con đói thiếu. Ra anh còn kém cỏi hơn cả tôi, một kẻ chân chim trần trụi, một tay sắp trở thành "phó thường dân". "Nhà mình cũng bí. Nộp sản đi rồi, lúa đã cạn. Khó mà ăn thấu tết được". Quang lắc đầu bảo thế.
Anh gạn tôi:
- Ông ở đây với tôi đêm nay cho vui. Tôi buồn quá.Tôi chỉ vào mấy cân gạo đã bó buộc sau xe, bảo anh Quang:
- Phải mang "hàng chiến lược" này về chứ.
Nếu nghe lời Lê Quang Trung nằm lại với anh một đêm, thì tôi đã không thể nào hình dung nổi ở Phú Yên xã tôi Cái đêm hôm ấy là đêm gì...
Có cái "các" quá giang của Lê Trung Quang cho mượn, tôi không phải mất ba đồng tiền đò. Qua sông Chu gió vù vù bên tai, tôi phải kéo vành mũ len, trùm thấp cho đỡ run. Tôi về đến nhà, trời đã sẩm tối, con mực xông ra í a í ẳng vờn chân lên hông. Vợ tôi bế thằng Văn ngủ khì trong lòng, ngồi bên bếp than vỏ cao su um khói. Bên cạnh, thằng cu Thức bốn tuổi đang liến láu. Còn Học - thằng con nhớn đang học bài ở nhà trên.
Thấy tôi về thằng Thức reo lên:
- A bố! Bố về là bố về! Có chi không bố?
- Có cái rét cóng đây này!
Tôi nói rồi dắt xe vào nhà, mở túi gạo, vác xuống bếp khoe:
- Ứng được năm cân gạo.
Bà cụ thân sinh ra tôi mệt đã lâu, thấy tôi về, cũng gượng chống gậy xuống bếp sưởi. Cụ bảo:
- Mẹ Học đi nấu cơm cho bố va ăn!
Tôi hỏi:
- Nhà ăn rồi hả mẹ?
Cái thằng Thức đến là hở miệng, cấm có giấu nó được tí gì. Nó nói:
- Chỉ nấu cơm cho bà với em thôi! Mẹ với anh Học, với con ăn cháo rau má rồi. Bữa nay mẹ luộc rõ nhiều rau cải.
Tôi thấy cay sè trong mắt.
- Thế thì nấu thêm vào. Hết thì tao đi bới đất, nhặt cỏ, van ông vái bà. Làm con người mà miếng cơm chín vào bụng vẫn không đủ thì sống thế nào?
Vợ tôi định cãi câu gì đó, nhưng lại thôi, vội trao thằng Văn cho bà rồi lại mở túi gạo đi vo. Bà cụ nói:
- Rau cải ế nhăn! Đói, chả mấy người mua. Hôm nay mẹ va không đong được gạo. May lấy được đấy, không thì mai gác con lên...
Ngoài cửa gió ào ào, tiếng chó sủa ổng oảng ở đầu ngõ. Có tiếng ai hỏi mua rau cải nhà tôi. Cô Hoa vợ chú Được. Hoa cũng người họ Phùng, gọi tôi bằng bác. Chồng cô ấy là đội trưởng đội sản xuất cũ, nay vừa được rút lên làm trưởng ban định mức, rồi phó chủ nhiệm. Cô vào bếp vừa nói, vừa run:
- Sao năm nay rét sớm thế này? Bác bán cho cháu mấy bó rau cải xào.

Vợ tôi bắc nồi cơm lên bếp, mấy bà cháu phải dồn chỗ cho hai người đàn bà tê cóng này ngồi cạnh bếp hơ tay, ngó chẳng khác những viên đạn bị nén trong cái băng lò xo tròn. Tuy gần bằng tuổi vợ tôi, nhưng là hàng cháu họ, nên Hoa vẫn bác bác, cháu cháu ngon ơ.
- Bác có ngan, gà gì để cho cháu vài cân. Giá mấy cũng được, cháu không quản.
- Còn có vài ba con, phải để hôm sau bà...

Tôi lừ mắt chặn lại câu nói hớ, khiến vợ tôi im bặt. Chả là vì mẹ đẻ ra tôi yếu lắm rồi. Cụ đã bảy mươi lăm tuổi, lại phù nề mặt mũi vàng ủng như quả thị rụng. Ai cũng bảo khó qua cái đầu mùa Đông này. Vì vậy gia đình tôi đã lo chuẩn bị ngầm, phòng sau khi cụ về cõi. Cái gì vợ tôi cũng bảo dành để hôm sau bà...thành quen miệng. Cau cũng phơi kỹ bỏ be để hôm sau, thậm chí bọt bẹt được đồng rau nào cũng dồn mua ván đóng sẵn áo quan để hôm sau... Ấy nhưng nói đến cái chết, cụ lại giận và làm nau:
Bay trông tao chết à? Tao phải sống để nhìn con cháu được đến lúc sung sướng chứ. Khổ mãi rồi.
Tôi hỏi Hoa để lấp láp câu hớ rồi cho bà cụ khỏi giận:
- Mua đồ nhậu làm gì tối thế này?
- À... mua cho mấy thằng về đội ta thu sản, khuya các hắn đớp. Đội và quản trị thuê khoán cháu nấu.
Vì có chồng ở ban quản trị, cô ấy cũng là loại biết nhiều chuyện "bí mật nội bộ". Hoa thì thò cho vợ tôi biết đêm nay là đêm "đồng khởi" thu sản, tổng vét cả xã. Họ sẽ đổi chéo, công an và dân quân đội này về đội kia, vét bằng hết. Vì đội 12 này là nặng gánh nhất, nên họ sẽ điều về đây những tay cứng cựa. Hoa khuyên:
- Bác có thiếu sản, thì liệu mà xoay đi
- Thế thì tao đét bán rau cho mi nữa.

Vợ tôi toan từ chối, nhưng Hoa nài mãi và có tôi nói vào nên chị chàng mới chịu nghe. Hoa cầm đèn ra vườn soi cho vợ tôi hái. Cô ấy cầm rau, rồi còn đi các nhà bên cạnh hỏi mua gà. Cơm cạn, tôi vần cạnh bếp. Vì không phải ghế độn khoai độn sắn gì nên chín rất mau. Thấy chỉ nấu mình cơm tôi, lòng tôi lại buồn nổi gai. Vợ tôi bế thằng út vào lót cho nó ngủ trong buồng, rồi lấy cho tôi cái bát, đôi đũa. Cuộc chào mời đùn đẩy, nhường nhịn nhau rõ bực.Tôi lùa hai bát cơm với nước dưa chua, rồi bỏ đấy. Bà cụ nài, rồi tôi dỗ thằng Thức cũng lắc đầu không dám ăn chỗ cơm còn lại. Hắn sợ mẹ. Nhà này, mẹ chúng nó có quyền uy tối thượng. Biết vậy, nhưng tôi cũng sắp trở thành kẻ sống nhờ...
Ngồi ở bếp, tôi hỏi vợ:
- Nhà mình còn thiếu của hợp tác xã bao nhiêu thóc nữa em?Cô ấy không trả lời tôi mà nói rất vô lễ:
- Có biết thế này, đái tòe tòe vào, chứ tội gì lôi về. Cha đời! Bữa trước thì tuyên bố vớt được nấy ăn nấy, người ta mới hụp lặn xuống nước lụt mà khở (gở) từng bông lúa. Nay lại giở trò giảm tỷ lệ!
Tôi vỗ về:
- Thôi! Lụt thì lụt cả làng, em ạ! Em nói xem, so với tổng sản phải nộp, nhà ta thiếu bao nhiêu?
- Một tạ mười hai cân, em đã trình bày với anh Nhà đội trưởng rồi. Thực tế mò được hạt nào đã ăn hết hạt nấy. Mấy lâu nay bán được đồng rau nào mua ăn, không bán được thì nhịn. Đã nói khất rồi. Không cho khất, thì nhà đấy có dỡ được, đến mà dỡ.
- Phải mềm mỏng, em ạ! Khéo bán khéo mua thua người khéo nói! Gia đình mình, con cái mình còn ăn đời ở kiếp nơi đây.
Vợ tôi rền rĩ như sắp khóc:
- Chả nhẽ kiếm liều thuốc chuột, cho vào nồi cháo, ăn hết cả nhà cho sướng cái đời...


Ngồi sưởi ở bếp rất lâu, vỏ cao su cháy tàn, đã vạc hai ba đống than, mà chẳng ai muốn nói với ai câu nào nữa. Bà cụ ngồi lâu, mỏi và chán chuyện bỏ đi nằm. Thằng Học làm toán xong, lấy cho bà nồi than, rồi cũng rúc xuống bếp. Hắn đi bốc rơm lót ổ ngay cạnh bếp, lấy ván chắn rồi trải chiếu, ôm chăn ra nằm.
- Ngủ đây mà ấm, bố ạ!Trong giường thằng Út Văn khóc í óe. Hắn lại đái lạnh đít rồi. Mẹ nó vào quả không sai. Nó được ôm ra bếp sưởi, nằm gọn trong lòng mẹ. Gần một tuổi mà nó còn bắt nhá cơm bón và bú thì hơn con bê non. Lại nhai tòm tọp thế đó! Tôi đùa với con để nó cười sằng sặc cho dịu cơn lo buồn.
Gần mười hai giờ khuya, cả nhà đi nằm. Tôi ngủ với hai thằng oắt trong ổ rơm dưới bếp.Có điều gì đó bồn chồn và nơm nớp...


Bỗng tiếng kẻng gõ giục giã liên hồi. Kẻng khắp xã: từ đội 1 đến đội 15, như một sự bùng nổ dây chuyền. Tiếng loa phóng thanh mở hết cỡ đọc bản tin, kế hoạch huy động lương thực của tỉnh và chỉ thị của tỉnh ủy về công tác lương thực. Hoàng Văn Nhân, đội trưởng đội 12, đọc trên loa danh sách những nhà thiếu thóc chưa giao nộp cho hợp tác xã. Đèn đóm soi rừng rực ở các ngã đường. Chó sủa ơi là chó sủa. Cũng cái loa phóng thanh ấy, có tiếng ông chủ tịch xã gọi cán bộ về đội 12 hội ý. Ông trưởng công an xã Nguyễn Đình Định gào rát cổ trên loa, giọng giật giội gọi lực lượng dân quân, công an tăng cường về chi viện cho đội 12, tạo đà cho đội hoàn thành chỉ tiêu huy động. Tôi rùng mình nghĩ đội tôi là đội trọng điểm, nên cán bộ xã, hợp tác xã, vón cục cả về đây. Họ sẽ gõ cho ra chục tấn thóc còn tồn sổ.


Gần một giờ sáng, công an, dân quân đã ập đến các nhà nợ thóc. Tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu èng ẹch như bị chọc tiết ở các nhà gần quanh, làm thằng Út Văn khóc thét lên, ôm riết lấy mẹ. Thằng Thức cũng im thin thít, nằm co trong lòng tôi không dám cựa. Bên nhà ông Ái, láng giềng cách vườn nhà tôi một hàng rào, công an và dân quân đang lùng sục. Tiếng ông bà Ái kêu xin và tiếng quát lác, tôi nghe rõ mồn một.
- Cứ bắt lấy cái xe đạp! Phích, xô, bắt ráo!
Ở cổng nhà tôi đã có bước chân rình rịch, con chó mực đang có chửa bị quất, kêu ử ử.
Cạch cạch cạch.
- Chị cò Lộc, mở cửa ra!
Tiếng thằng bé trong buồng khóc thét. Thằng Thức đang ôm tôi, nghe em khóc cũng òa khóc toáng lên. Thằng Học mười hai tuổi đã học lớp tám rồi, mà cũng níu lưng tôi run bắn. Nghe tiếng quát lần thứ hai, từ nhà bếp, tôi chạy lên. Một luồng đèn pin soi giữa mặt làm tôi lóa mắt, phải lấy tay che.
- Có chuyện gì đấy, các bạn trẻ ơi?
- Thu thóc, thu thóc chứ còn gì, ông đừng hỏi vờ.
Vợ tôi đã mở toang cửa, tay ôm thằng bé ngất lịm. Một anh, hai anh... bốn anh bạn trẻ ùa vào nhà. Anh đi đầu cao to, tóc cắt tăng gô, mặc áo bông thùng thình, soi đèn pin rồi đánh diêm châm cái đèn hoa kỳ ở bàn thờ. Có lẽ Tâm "hộ pháp" là người này. Phải, tôi đã thấy anh ta đứng chân hộ vệ giữa, trong một cuộc đá bóng với xã khác. Tay anh cầm cái choòng sắt cỡ ngón tay cái. Vợ tôi mời họ ngồi ghế. Bà cụ đang ốm ở giường bên cũng cố ngóc dậy, run rẩy chào.


Theo danh sách đội báo, chị còn thiếu hơn tạ thóc. Yêu cầu chị đem nộp ngay!
Bà cụ tôi đáp thay con dâu:
- Các bác các anh ơi! Có còn cái gì mà nộp. Các anh và các bác không thấy đàn con hắn đói xanh đói trong đi à? Các bác không thấy tôi cũng phát phù phát nề, vàng cây úa lá đây à?
- Chúng tôi không hỏi mụ nghe chưa?Cả bốn người cùng soi đèn pin khắp nhà trong, nhà ngoài, dưới bếp, bên chái. Hai người tuông soi cả trong vườn rau. Vợ tôi mếu máo:
- Làm gì có lúa để ngoài ấy. Các anh xéo nát cả rau.
Tôi chạy ra trụ sở đội, định tìm cán bộ trình bày. Chủ tịch Phê, bạn dạy học với tôi ngày trước, đi bộ đội về giải nghệ, vào cấp ủy, đang đứng đấy. Thấy thế tôi mừng quýnh. Lại thấy cả Phùng Gia Miện anh họ tôi, làm bí thư đảng ủy cũng có mặt, tôi càng yên trí. Nhưng thấy tôi họ quay đi lảng tránh.
Anh Miện bảo nhỏ tôi:
- Chú về động viên gia đình thanh toán bằng đủ, nhà mình là cán bộ. Không có thóc thì nộp bằng tiền. Lãnh đạo đã nhất trí cho nộp cả bằng tiền rồi đó.
Tôi đang định nói: "Đã không có thóc thì làm cóc gì có tiền", nhưng anh họ tôi đã dịu giọng:
- Ở đội trên, hắn bắt cả anh Thiện, anh ruột tôi, mà tôi cũng phải điếc đi..."Mất mùa màng, lợi ích thứ ba của người lao động phải hy sinh cho lợi ích của nhà nước". Đồng chí bí thư tỉnh ủy đã chỉ thị thế, chú biết rồi đó.Lúc ấy ở trụ sở, công an, dân quân đã khuân về nào xe đạp, bàn ghế, tủ, chum vại, thùng tôn, lợn gà... để ngổn ngang ra tận ngõ. Tên chủ nhà thiếu thóc đề chữ bằng phấn trắng vào các đồ vật: Ông Ất, ông Do Khả, ông Hưng, ông Hồng, ông Khính (mẹ đẻ cô Hoa, mẹ vợ chú Được phó chủ nhiệm)... Mấy con bò bị bắt cột gần đó sợ đèn, sợ đám đông cứ lồng lên, chực bút mũi. Chúng xoay vòng quanh, mgửa lên mặt kêu "hấp bồ", "hấp bồ"...
Tôi loạng choạng đi về nhà, thấy người ta đang còn soi đèn tìm rất kỹ. Tôi nói:
- Các người anh em soi tìm gì cho mất công. Nhà tôi xin khất đến mai, tìm cái bán chác, nộp tiền bằng đủ.Anh đầu tốp nháy nháy mắt ra hiệu.


- Đêm nay là đêm nay! Mai chúng tôi mất thưởng ai chịu cho?
- Bắt cái xe đạp ni, bay!Hai ba anh chạy lại. Tôi từ tốn ngăn họ:
- Các đàn anh ơi! Tôi không làm ruộng sản mà. Đây là xe đạp nhà nước cấp cho tôi để tôi đi công tác. Các vị bắt cái này không được đâu.
- Nếu chúng tôi cứ bắt thì sao?Tôi loáng nghĩ được một mẹo. Rút cái "thẻ hội viên Hội văn nghệ tỉnh" ra, tôi nói:
- Tôi phản đối! Tôi là "nhà báo"! Tôi sẽ kiện lên tận ông Đồng.
Nước cờ của tôi không ngờ lại có hiệu quả. Họ im lặng. Hẳn họ đã biết tên tôi dưới những bài đăng nào chăng.
Chợt vị "hộ pháp" nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài để dưới gầm bàn thờ, rồi đi lại, vừa gõ vừa hỏi:
- Cái gì trong này, chị Lộc?
Im lặng...
- Cái gì trong này, chị nói mau?
Vợ tôi ấp úng. Tôi muốn tắc thở.
- Có cái gì đâu...


Mấy vị hăm hở lại, đạp lật nghiêng một cái. Nắp văn thiên bung ra, lúa chảy rào rào. Cả toán reo lên như một hiệp đào vàng trúng vỉa:
- A! Lúa! A lúa! Lúa! Anh em ơi. Ghê thật! Thế mà giả nghèo giả khổ.
Mẹ tôi chống gậy vái dài:
- Van các anh! Cắn rơm cắn cỏ tôi lạy các anh! Lúa của tôi. Đó là tạ lúa hai đứa con gái hắn mua góp lại cho, để hôm sau tôi chết, bà con thương mà chạy đến để ăn lưng cơm sốt.Thực ra là của hai bà chị trong đó mỗi người có mười cân thôi. Ba mươi chín cân tiêu chuẩn hai tháng vừa qua tôi lấy về, còn lại là hơn bốn mươi cân, vợ tôi đong để dành "hôm sau" cho bà.


Bà cụ nói như rên rẩm:
- Đã bảo xay phứa đi cho con nó ăn không nghe. Cứ bóp mồm bóp miệng, để dành làm chi. Sống chả thấy đâu nữa là!
Một tay râu tóc lồm xồm hỏi:
- Chị có gánh đi hay không thì bảo?
Một tay khác tôi hơi quen mặt, đến trước vợ tôi lạy lia lịa:
- Thôi em xin bà chị. Em đi làm ở đây thế này, nhưng lại có bọn khác đến chỗ em làm ác y hệt. Nhà em cũng thiếu mà. Chị không gánh, để cánh này bê cả hòm ra, chị phải chịu hai chục công là ít, chưa nói phạt tiền.
Họ xúm vào khiêng bàn thờ ra, để lôi hòm lúa. Bất đồ hai thằng Học và Thức từ bếp tuôn lên, ôm lấy tay chân chư vị, van rối rít.
- Cháu van các chú! Các chú đừng lấy lúa này đi. Lâu nay các cháu phải nhịn để dành bữa sau cúng cỗ bà, làm ma bà!
- Buông ra đi! Ô hay, đồ con nít!
Bà cụ loạng choạng đi lại, giơ gậy cản:
- Các ông không thương trẻ, thì các ông thương lấy thân già, để lấy phúc đức cho con cháu.
Vì họ đá vấp gậy, lại yếu như con căng cắc lột, bà cụ ngã chỏng queo như chiếc ghế đổ.
- Ối Đảng ôi là Đảng ôi! Chính phủ ôi... Trông xuống mà coi...
Tôi xốc mẹ lên giường, bịt mồm cụ lại:
- Mẹ! Mẹ không được la như thế! Đây không phải Đảng! Đảng ta không làm thế. Đảng không chủ trương thế này!


Tôi nói vậy và ngoặp hai hàm răng vào cổ tay mình để kìm giữ cái gì cứ chực tung ra. Hai vợ chồng xúc hết lúa ra thúng bì. Dặn thằng Học trông em, ngó bà, tôi cùng vợ hì hục gánh thóc ra trụ sở nộp...
Đoạn cuối này tôi dành cho anh Quang.
Lê Trung Quang ơi! Anh có thể giấu cái bi kịch của gia đình anh, nhưng tôi không còn có thể che giấu nỗi đau của nhân dân bất hạnh. Dù sự tiết lộ này có làm mất cái chức huyện ủy viên của anh, thì tôi cũng thấy cứ phải nói ra. Chuyện thật của nhà anh đây: lúa vay ăn còn nợ bảy tạ, con Lâm, thằng Sơn phải đi mò hến từng bữa, chị ấy nấu bánh đúc đi các làng đổi lúa. Anh mà nói ra, người ta cho là anh bêu riếu. Việc thật ở nhà tôi đêm 26 tháng 11 năm 1983, người ngoài cuộc hẳn cho là mình bịa. Cho đến nay, mỗi khi nghĩ đến, tôi cứ thảng thốt hỏi mình: "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?"
 Phùng Gia Lộc - Cuối năm 1987


IV


NGUYỄN THỊ VĨNH PHƯỚC 
 NGÀY ẤY NGẬM NGÙI 

alt
 
NGÀY ẤY NGẬM NGÙI 

NGUYỄN THỊ VĨNH PHƯỚC

Nguyễn Thị Vĩnh Phước,
cựu học sinh Nguyễn Hoàng, Quảng Trị
 

Tháng 5 năm 1976 - mùa gặt chính. Đây cũng là thời điểm đầu tiên tôi bỏ lại sau lưng tất cả những mộng ước một thuở áo trắng học trò để bước chân vào đời trong vai trò mới. Tôi trở thành lao động chính. Nghề nghiệp: Trồng cây lương thực. Nơi làm việc: Hợp I - tên gọi tắt từ mấy chữ Hợp tác xã Nông Nghiệp số I của đội sản xuất quê nhà Lam Thuỷ - nơi mà mẹ con tôi dắt díu nhau trở về sau ngày 30/4/1975. Ngày đầu tiên tôi tham gia lao động đúng vào mùa gặt. Đó là một ngày mùa hạ đầy nắng gió.

Những cơn gió Lào quăng quật rát bỏng vào mặt, vào những bước chân non nớt của tôi đang cùng đoàn người tay cầm đòn xóc, tay cầm vằng (lưỡi hái) hướng về phía ruộng trũng có tên là Bàu, Đội. Ruộng ở đây sâu nhất làng, quanh năm ngập nước. Bao năm rồi chiến tranh, ruộng đồng bỏ hoang. Nghe đâu thời giao tranh ác liệt đã có không ít xác người nằm lại nơi đây mà chẳng được mai táng. Có lẽ đó là lý do để Bàu là nơi tích tụ nhiều thứ ô nhiễm nên bất cứ ai một lần lội xuống đó đều bị ngứa, gãi trầy da tróc vảy đến tận xương mà chưa “đã” ngứa.
.

Tôi theo mọi người lội bì bõm trong ruộng để gặt lúa, lúc đầu còn lớ ngớ lắm nhưng sau một lúc để ý các thao tác của người bên cạnh, tôi cũng huơ vằng, cũng xoay xoay cho nắm lúa thật chặt tay rồi mới vung chiếc vằng cắt đánh soạt như bao người khác. Đáng sợ nhất là bầy đỉa, con nào con nấy dài thượt, mình trơn tuột đầy vệt ngang dọc rằn ri cứ lượn lờ chực bám vào chân người. Tôi vừa gặt vừa “cảnh giác cao độ” lũ đỉa đói. Vậy mà lâu lâu cũng có một con đeo tòn ten ở bắp chân. May có chị Thương gặt kế bên bảo tôi nhắm mắt lại - đừng nhìn - để chị bốc nó vứt ra xa.

 
Buổi sáng đầu tham gia lao động sản xuất của tôi trôi qua trót lọt nhờ có mấy người bà con hàng xóm tốt bụng, thương đứa học trò vừa tập lội ruộng nên đã tận tình giúp đỡ, coi như tập sự xong. Đến trưa gánh lúa về mới là điều nan giải; coi mọi người xóc lúa, gánh lúa nhịp nhàng thế chứ không dễ gì đâu. Xóc lúa không đúng cách khi đưa lên vai chạy một quãng là lúa sẽ rơi khỏi đòn xóc ngay; không biết đi theo nhịp, lúa cũng sẽ bị “trơi”; mà việc xóc lại gánh lúa đã bị trơi thì càng khó hơn… Ôi thôi! Từ một đứa học trò chỉ biết sách vở, giờ bắt tay vào những công việc đồng áng mới thấy khổ làm sao! Tôi còn nhớ như in lúc đi qua con mương Thiên Trung, gánh lúa trên vai quá nặng so với vóc dáng bé nhỏ của tôi.


Nhìn xuống dưới mương nước đang chảy tôi thấy một con đỉa trâu - loại đỉa rất lớn hay bám hút máu trâu bò - to đùng nổi lềnh bềnh trên mặt nước làm tôi bủn rủn cả tay chân. Thế là“uỵch”, tôi té nhào xuống bờ mương. Chưa hết, cho dù bị té đau điếng, cái đòn xóc mang nặng hai bó lúa đè ngang cổ đến nghẹt thở, tôi cứ vẫn co cao hai chân, quyết không để chân đụng mặt nước dưới mương vì sợ con đỉa đánh hơi bám vào. Tôi cất giọng khàn khàn kêu cứu “Quốc … Quốc …ơi…!” Quốc là cháu họ của tôi, một thanh niên hơn tôi chừng vài tuổi. Quốc có làn da ngăm đen, mạnh khỏe và rất vui tính. Hắn luôn đi sát bên tôi trong những ngày đầu tập sự công việc đồng áng, hầu kịp thời giúp đỡ cho o học trò vừa chân ướt chân ráo vào nghề.



Nghe tiếng kêu, Quốc quay lại. Thấy cảnh ấy hắn trách liền “ Đã nói rồi, để cháu đi sau o mà không chịu. Lỡ o có bị té thì cháu đỡ cho mà không nghe. Cứ kêu cháu về trước uống nước kẻo khát, may mà cháu đi chầm chậm chơ không thì o làm răng đây?” Dứt bài ca cẩm, Quốc nhẹ nhàng đặt gánh lúa trên vai xuống bờ ruộng rồi bước lại chỗ tôi. Bỗng dưng hắn ngó tôi đăm đăm rồi ôm bụng cười lăn lộn. Trời ơi! Tôi vừa sợ chân mỏi sẽ rớt xuống nước vừa mệt vì ngạt thở, hắn chưa chịu cứu tôi mà cứ đứng đó ôm bụng cười còn chỉ chỉ vào chân tôi nữa là sao? Tôi tức đến chảy nước mắt. Thấy thế, hắn hoảng hốt “O… o răng rứa?

Thôi đừng khóc... đừng khóc, để cháu đỡ cho”. Nói xong hắn đỡ gánh lúa đang đè trên cổ tôi rồi vội vàng nắm chặt tay cho tôi bước qua bờ mương đất mềm nhão nhoẹt đầy cỏ lác. Quốc đặt gánh lúa của hắn lên vai tôi nói “O gánh gánh ni, để cháu bó lại gánh lúa tê rồi cùng về kẻo trưa rồi”. Nghĩ lại thấy tội hắn ghê nhưng cũng tức nữa, hắn đã cứu tôi nhưng từ đó hắn có một đề tài ưa thích để chọc ghẹo tôi. Cứ mỗi lần cùng đoàn người ra ruộng, ngang bất cứ con mương nào, hắn lại diễn cái màn tôi té bên bờ mương rồi cất tiếng vịt mái kêu Quốc … Quốc ơi! làm tôi mắc cỡ muốn chết còn mọi người thì được dịp cười đau cả ruột.

Xong mùa gặt, chúng tôi lại tiếp tục làm đất ruộng, nào cày, nào cuốc… rồi gieo hạt, nhổ mạ và cấy lúa cho vụ trái. Cuốc đất ruộng được gọi là cuốc đất ải. Mấy ngày đầu, da tay tôi bong lên, sưng mọng nước rồi dập ra đau thấu xương. Thế nhưng cũng phải ráng cho kịp người ta. Cứ một hàng ngang đưa cuốc lên phặp… phặp, mình dừng lại xoa tay là bị tụt hậu liền, chuyện công điểm bình bầu cuối ngày có thể không cần thiết nhưng sợ cuối ngày lại nghe “phê bình” rằng ...thì là... là... là... là… là…thanh niên 17 bẻ gãy sừng trâu mà mà… mà… mà…cuốc đất giống... giống ông thầy phùy thủy hươ cây làm phép thì nhục lắm.

Cũng may Quốc luôn cố ý đứng gần để “vớt “ cho tôi. Qua một vụ mùa đã quen với công việc đồng áng, hai bàn tay đã đầy vết chai, tôi tự tin hơn, không còn sợ sệt và lớ ngớ như trước nữa. Vừa làm việc, tôi cũng vừa hò vè đối đáp với mấy o, mấy chị lớn tuổi những câu hò mái nhì dặt dìu hoặc hò khoan hò hụi … để quên đi phần nào sự vất vả trên cánh đồng một nắng hai sương. Một lần, đội sản xuất của tôi xuống cấy ở ruộng Bàu. Nhìn qua đám ruộng bên cạnh, tôi thấy Hùng đang dắt trâu. Cũng như mấy anh chàng học trò vừa làm quen với ruộng đồng, Hùng chưa biết cày nên cầm sợi dây xỏ mũi con trâu to bự chảng đi trước để người đi sau cày hoặc bừa làm đất cho ruộng cấy, việc làm đó có tên là “dắt trâu”.

Dắt trâu coi vậy chứ không dễ đâu, gặp con trâu chứng, hay lồng lên không chịu đi là người dắt trâu bị thợ cày nạt nộ cho tối tăm mặt mũi. Hùng là thằng bạn học lớp vỡ lòng với tôi ngày trước. Hồi đó chúng tôi học vừa xong lớp Một thì trường làng bị pháo kích đổ nát, nhà tôi cũng tan tành trong một trận đánh. Thế là tôi theo gia đình ra tỉnh học còn Hùng là con nhà lính nên theo cha vào tận Sài Gòn, mãi đến cuối hè năm 1975 hai đứa tôi mới gặp lại. Một ngày, anh Lam - con ông bác họ đồng thời là bạn học cùng lớp với tôi - đã đưa Hùng đến gặp tôi. Lam nheo nheo mắt hỏi tôi “Nhớ ai đây không?”


Tôi thấy Hùng rất quen nhưng nhìn cái bảng tên trường thì lạ hoắc nên chỉ cười không nói. Hùng nhắc “Hồi đó hai đứa mình cùng ngồi chung bàn đầu ở lớp Một trường làng Lam Thuỷ đó”. À thì ra là hắn, đứa con trai ở xóm Sông ngồi bên cạnh tôi suốt năm học lớp Một của ngày xưa ấy. Trong lũ học trò nhà quê hắn nổi bật nhất lớp nhờ làn da trắng trẻo và áo quần sạch sẽ tươm tất.

Gặp lại bạn tôi vui lắm, hỏi thăm nhau về gia đình và việc học hành mới biết ba Hùng đã tử trận nên mẹ hắn đưa con cái về quê. Để rồi bây giờ chúng tôi cùng dứt áo thư sinh để bước vào đời nông dân. Một thoáng nghèn nghẹn bất chợt kéo đến khiến tôi cay cay mắt. Hùng cũng thấy tôi, hắn hơi ngẫn người ra một chút rồi cười cười vội vã bước đi trong đám bùn ộp oạp. Tôi cũng chăm chú cùng mọi người cật lực cấy cho xong đám ruộng vì sợ chiều nước dâng khó cấy, dù đôi chân ngâm trong ruộng nước dơ ngứa ơi là ngứa.

Dĩa trâu.jpg



Buổi trưa vừa về đến nhà là tôi vội rửa sạch hai ống chân, lau thật khô rồi xát cả cối gừng tươi trộn muối hột mạ tôi vừa giã nát chờ sẵn. Sáng nay, biết tôi đi làm ở Bàu nên mạ tôi đã làm sẵn món thuốc tự chế ấy trước khi con trở về. Nhờ thoa “bửu bối” của mạ vừa rát, vừa nóng nên chỉ làm chân tôi sưng tấy lên và đau nhức nhưng cũng bớt ngứa, không phải cào lòi cả da non như mọi người. Chiều đó, khi tập trung trên đường xóm để chuẩn bị xuống cấy ruộng Thiên Tả, nhìn chân của những người khác mới kinh khiếp làm sao!...





Trời ạ! Đôi chân của họ không những bị trầy vi tróc vảy mà còn đủ màu sắc: chỗ thì xanh lè, chỗ thì tím ngắt, chỗ thì vàng vàng... Hỏi ra mới biết vì ngứa quá không chịu nổi nên ai cũng cào rách da rồi lấy khế chua hoặc ớt trái xát vô cho bớt ngứa. Khi da ngấm khế và ớt rồi lội xuống bùn thì chân họ biến thành màu sắc thập cẩm vậy đó. Mọi người tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy chân tôi không như họ, tôi liền truyền “bí kíp” của mạ tôi và ai cũng làm theo, nhờ thế lần sau dù vẫn ngứa nhưng chân cẳng mọi người cũng dễ coi hơn.



Hôm sau vào giờ nghỉ trưa Hùng đến thăm tôi, hai đứa vừa ngồi nói chuyện trên trời dưới đất vừa thi nhau đàn tơ-rưng vì ngày qua lội Bàu. Ai xuống Bàu về mà không thành "nhạc sĩ" thì chắc chắn không phải là người trần thế! Lúc về hắn ra trước hàng rào nhà tôi xách vô một nón ổi, từng chùm hai trái chín trắng bóc thơm lừng dúi vô tay tôi nói “Có người ở xóm Sông tặng bạn…” rồi đi thật nhanh ra cổng. Tôi ngơ ngác chưa kịp hỏi gì thì hắn đã biến mất tăm sau luỹ tre làm tôi cứ thắc mắc Ai rứa hè? Ai dấu ổi chín vào hàng dâm bụt nhà tôi rứa hè?



Lạ thiệt! Tháng ngày qua mau, mùa gặt vụ trái đến rất nhanh. Ở quê tôi để gặt hái kịp thời người ta thường có câu Mười bốn hơi xanh, rằm quá chín. Đó là câu nói lo sợ việc thu hoạch không sớm thì bị trễ vì thời tiết khắc nghiệt. Về mùa gặt tháng mười, nông dân ra thăm ruộng vào ngày mười bốn thấy lúa chín chưa đều lắm, tính toán chừng vài hôm nữa thu hoạch để khi xay giã hạt gạo không nát. Nào ngờ vào đêm đó trời mưa lớn, những trận mưa kéo dài ngày nầy qua ngày nọ không dứt, nước dâng mênh mông rồi thành lụt, cả đồng lúa chìm ngập trong biển nước. Thế là lúa chín trên cây lớp bị thối, lớp lên mộng, thôi thì vớt được chừng nào hay chừng đó chứ biết làm sao được? Rằm quá chín là vậy.



 

Từ đó nhà nông quê tôi lưu truyền câu nhắc nhở xanh trong nhà còn hơn tra ngoài đồng, vì thế nên mùa trái mọi người thường lo gặt sớm, đề phòng mưa lụt dù lúa mới chín vang vang. Con đường xuống ruộng Bàu mùa nầy nước lênh láng không đi được, chúng tôi phải ngồi trên ghe lấy đòn xóc chống xuống nước để lần vào ruộng
.

gat-lua-3-080915.jpg

Chuyện nông dân ăn cắp lúa là chuyện dài nhiều tập, nói như mạ tôi là Bần cùng sinh đạo tặc. Thật là tội nghiệp cho người nông dân thuở đó, vì mỗi công lao động xuất sắc đến mùa chỉ được chia 3 lạng lúa ướt (lúa tươi, chưa phơi khén), còn công lao động học trò như tôi thì may ra còn một nửa. Được mùa. Lúa vàng cả đồng, vàng cả sân đội nhưng phơi khô xong là đóng bao chờ "trên" về chở đi. Ngày mùa mà người nông dân vẫn phải ăn độn. Đói.





Thế là sinh ra ăn cắp. Họ ăn cắp chính cái họ làm ra. Một lần tôi có đọc đâu đó người ta viết mỗi buổi tối họp ở sân đội xong là đống lúa vơi đi, vì bà con ngồi họp bốc lúa cho vào túi. Sao mà nơi đó dễ dãi thế nhỉ? Ở Hợp I của tôi làm gì có chuyện đó. Ngồi họp: lúa một nơi, người một nơi; vô phận sự miễn đến gần. Làm sao mà bốc lúa bỏ túi được? Và thế là có ngàn lẻ một cách ăn cắp khác, cái khó ló cái khôn mà. Tôi nhớ lần gặt lúa ở ruộng Thiên Tả.

Ngày hè ruộng khô ráo, những chẽn lúa no tròn nặng trĩu dập dềnh theo gió tạo thành một tấm thảm vàng thơm ngát mênh mông đến tận chân trời, chỉ nhìn thôi cũng đã thấy no. Nhưng lúa tốt mặc lúa, công lao động của xã viên hợp tác xã đã được ấn định rồi, không phải vì được mùa là chia nhiều lúa hơn đâu dù ai cũng thấm nhuần câu Làm tùy sức, hưởng theo lao động (!). Sau một ngày làm việc vất vả, tối về người nông dân còn ngồi nghe cán bộ thuyết giáo để mơ về một xã hội Làm tùy sức hưởng theo nhu cầu.
Trong khi chờ ngày được hưởng theo nhu cầu một cách quang minh chính đại, họ cần đáp ứng một nhu cầu cấp thiết trước mắt là ăn. Có lẽ vì thế nên không ai hẹn ai mà họ vừa gặt, vừa suốt lúa cho vào túi. Và sau từng chuyến đưa lúa về sân đội những chị, những thím … vội vội vàng vàng đặt gánh lúa xuống là nhanh chân về nhà uống miếng nước, phơi lại nắm rơm hoặc cho heo ăn,… để trút nắm lúa chắc mẫm từ túi áo ra. Thu hoạch một ngày như thế gấp mấy lần lúa được chia từ ngày công lao động chứ chẳng chơi.

Tôi thì không thể học tập điều ấy vì... chẳng có gan..., bởi thế tôi chẳng tranh thủ được gì. Anh Thanh thấy vậy nhìn tôi cười cười “Eng tam miềng có cách khác, mần rứa chi cho mệt!". (Bây giờ nhớ lại, tôi vừa thương vừa buồn cười chuyện lấy trộm lúa của mình thời ấy). Chiều đó anh Thanh bảo “Vĩnh Phước từ từ rồi về với eng, đừng chạy tót về trước như mọi ngày đó. Mà phải theo bén gót eng nghe chưa?”.



Vào thời điểm đó tôi đã biết xóc lúa cho mình và còn xóc lúa dùm cho chị Dàn, chị Vân, … nữa. Tôi hay chạy về trước thật nhanh để nghỉ ngơi, mặc ai làm gì thì làm, không thèm bận tâm. Chiều xuống. Chờ mọi người rời ruộng hết, anh Thanh mới nháy mắt ra hiệu cho tôi và chị Dàn thủng thẳng xóc lúa gánh về. Anh Thanh đi trước, tôi và chị Dàn theo sau. Lạ chưa! Anh không đi đường ngoài xóm như mọi lần mà băng qua hàng tre để rẽ vào vườn nhà tôi. Dù thắc mắc nhưng tôi vẫn lặng lẽ gánh lúa chạy theo. Đến nơi, anh bảo tôi và chị Dàn đặt lúa xuống để xóc lại. Không nhìn hai chị em, anh vừa xóc lúa vừa cười cười nói “Chừ anh xóc 4 bó lúa thành 3 gánh, còn phần em 1 bó, Dàn 1 bó nghe chưa?”.


Tôi hoảng hồn “Rứa làm răng mà gánh?”, Thanh cười “Yên tâm!” Nói xong, anh chỉ cách để ba anh em nối nhau gánh 3 gánh lúa chỉ có 4 bó về sân đội - nghĩa là gánh lúa đi trước và gánh lúa đi sau của anh Thanh và chị Dàn; tôi đi giữa: cái đòn xóc chỉ ké vào bó sau và bó trước của hai người kia thôi. Trong bóng hoàng hôn, người ngoài nhìn vào cứ tưởng ba người gánh lúa chạy lóc xóc nối đuôi nhau - chúng tôi phải chạy thật nhanh mới đánh lừa mắt thiên hạ được - về đến sân đội, cả ba anh em cùng quăng cái ào một lượt xuống đống lúa nên chẳng ai nhận ra.


Thế là xong. Thật siêu đẳng! Chuyến làm ăn trót lọt nhưng tôi sợ muốn đứng tim. Sợ nhất là lỡ bị phát hiện thì các buổi tối họp thanh niên, tôi sẽ bị bêu danh dài dài từ làng nầy đến xã nọ. Mà tôi đang là thanh niên rộng rãi, tiêu cực như thế thì làm sao “phấn đấu” vào thanh niên tiền phong được nhỉ? * Tối đó, khi đem chuyện khoe với mạ tôi, tưởng bà bất ngờ lắm, ai dè mạ tôi cười: "Hồi trước, đến mùa gặt nhà ông nội con đã bị đám thợ gặt ăn cắp lúa bằng cách ấy đấy". Trời! Thì ra chuyện ăn cắp nầy đã có từ xưa, vậy mà tôi cứ tưởng đó là sáng kiến của anh Thanh nên phục lăn. Chuyện ăn cắp lúa ở ruộng Bàu mới là bi hài.

Ngày mưa, những bông lúa vàng óng nặng trĩu ngã rạp mình trên mặt nước. Mọi người gặt lúa tuy hăng hái nhưng vẫn nghe đâu đây tiếng thở dài não nuột vì những “giã” lúa tốt như thế nầy thường đem đi nộp hết. Lần đó, mấy người có nhiệm vụ chuyển lúa từ ruộng về sân đội bằng ghe, thấy bà con gặt hái quá vất vả mà công cán chẳng được bao lăm, họ đã lén ông đội trưởng vùi mấy ghe lúa xuống cống Đạc Nhứt để chia nhau.

Tối đó đi gặt về muộn, theo mật lệnh truyền tai, tôi cùng mấy người trong xóm dò dẫm ra cống lấy lúa. Khi ngang qua ngõ nhà bác Cối, trong bóng tối dày đặc tôi loáng thoáng thấy dáng người cao lỏng khỏng của đội trưởng, hình như đang rình rập gì đó. Thôi kệ! Tôi nín thở rão bước ra cánh đồng trước mặt, vì quen đường nên tôi tránh được những chỗ lầy lội trên đường xóm. Nghe bước chân, chú Sinh lên tiếng bảo tôi lại gần rồi chất một bó lúa ướt, nước còn chảy ròng ròng vừa vớt từ dưới cống lên cho tôi mang về. Đêm đó tôi mang về nhà đâu chừng ba bốn bó lúa ướt như thế. Mạ tôi mừng vì được “chia lúa” nhưng thương con đứt ruột, mạ xót tôi là đứa rất sợ đỉa mà phải đội những bó lúa như thế



Hồi ấy Hội thanh niên chia làm 2 thành phần: Thanh niên tiền phong là những thanh niên tiên tiến, gương mẫu - có cơ may được kết nạp vào đoàn thanh niên CS.HCM - nên họ làm lãnh đạo trong Hội thanh niên địa phương. Số còn lại gọi là thanh niên rộng rãi, ai phấn đấu tốt mới được kết nạp vào Thanh niên tiền phong. Khi tôi về làng, tất cả những thanh niên như tôi đều thuộc thành phần thanh niên rộng rãi, còn số thanh niên "kẹt cầu dài" đa số là thanh niên tiền phong. Mỗi lần Hội thanh niên họp xong, những thanh niên tiền phong đều ở lại để họp riêng, oai lắm! về nhà sau cả buổi chiều lội bùn chưa kịp ăn uống gì.


Tôi nghĩ chịu cực một chút mà có thêm thúng lúa là tốt rồi, sức thanh niên mà, cái gì người ta làm được thì tôi cũng làm được, thế thôi. Mà trời thương hay sao nên bọn đỉa lúc nhúc dưới cống Đạc Nhứt bữa đó lại chê tôi, tôi đội lúa ướt mấy chuyến thế mà không dính con nào chứ thiên hạ không ai tránh khỏi. Đặc biệt có một người… thật là cười ra nước mắt! Hôm sau đi làm, một chị hạ giọng kể cho lũ đàn bà con gái nghe rằng tối qua đội lúa về xong, chồng của chị ra sân múc nước tắm, vừa tắm vừa kêu “Mạ mi ơi! Lạ thiệt! Răng mà tau có đến hai con chim ri?”. Chị vợ mắng “Làm mệt gần chết mà còn đùa dai?”. Anh chồng nhăn nhó “Tau nói thiệt! Không tin thì mạ mi bưng đèn ra đây soi thử coi”. Và khi chị vợ bưng đèn ra soi thì…

Trời ạ! Một con đỉa to tổ chảng đang đeo lủng lẳng song song với … Nó hút máu no lắc lư nên phồng to như thế mà cũng chưa chịu buông. Ha ha ha… Đám phụ nữ cười lăn lộn nhưng vừa cười vừa xót xa. Thường sau tết là mùa nông nhàn. Thế là “trên” lên kế hoạch đi khai hoang trồng khoai, trồng sắn. Câu ca dao "Tháng giêng là tháng ăn chơi" của nhà nông lưu truyền bao đời đến đây xem như... bế mạc. Tôi nhớ lần đi khai hoang ở núi Trâu Trằn (eo ơi nghe cái tên đã thấy khủng khiếp!) để mừng hai huyện Hải Lăng và Triệu Phong hợp thành huyện Triệu Hải. Nghe nói vùng đất ấy ngày xưa là nơi lũ trâu rừng chọn làm chiến trường. Ngày ngày, có hàng đàn trâu rừng kéo đến để chọi nhau tranh ngôi bá chủ (?) làm cho cây cối ngã rạp cả vùng đồi núi.


Vì thế khi ngang qua vùng nầy, những người đi rừng đã gọi là núi Trâu Trằn - gọi riết thành địa danh luôn. Trời vừa mờ sáng, tiếng kẻng đã vang lên khắp xóm đánh thức người đi khai hoang. Những người có trong danh sách đi Trâu Trằn vội tập trung đầy đủ trước cổng chào của xóm. Ai nấy cơm đùm gạo bới, chăn mền, áo quần được xếp gọn vào chiếc balô và một cái cuốc “lưỡi gà” sắc bén vác trên vai. Từ xóm Bắc Tả, chúng tôi đi bộ vào xóm Sông, sang sông Vĩnh Định trên chiếc đò ngang của làng Lam Thuỷ khi sương còn giăng kín mặt nước.

Con đường làng lên xóm Rú lầy lội qua đám ruộng Thượng Điền nhung nhúc đỉa, những bước chân vẫn lầm lũi đi tiếp. Trời sáng dần trên lối mòn đất cát quanh co, những bia mộ thấp thoáng trong lùm cây đã hiện rõ. Đâu đây mùi hoa dẻ thơm ngát ẩn khuất sau những ngôi mộ cổ. Đoàn người vẫn lặng lẽ hướng về phía phía chợ Diên Sanh.







Qua chợ, chúng tôi lại tiếp tục đi lên ngã ba Hải Lăng rồi theo con đường đất đỏ, như một đoàn quân ra trận mọi người nối nhau cùng thẳng tiến Trâu Trằn. Rời nhà từ sáng sớm, lại phải vượt qua quãng đường dài nên bụng đứa nào đứa nấy thi nhau réo ùng ục... biểu tình. May sao khi nhóm chúng tôi đang cố vượt qua một con dốc cheo leo bên vách núi, bỗng nhiên cả mấy đứa đều hướng mắt nhìn về một cái gì trăng trắng nổi bật bên lề đường đất bazan đỏ quạch.


A! thì ra là một khúc sắn chín khá lớn ai đó đi trước (hay hôm qua cũng không chừng) đã làm rơi. Thế là không thể bỏ qua, mấy đứa đều dừng lại. Anh Mỹ nhặt khúc sắn, lột hết lớp vỏ chang bên ngoài - cũng may nhờ lớp vỏ chang bao bọc mà lõi sắn bên trong vẫn trắng tinh, thơm phức. Lột chang xong, Mỹ bẻ chia cho mỗi đứa một khúc ngắn, chúng tôi ăn thật ngon lành. Tôi vô tư phát biểu Sắn chang mà ngon dữ hè? làm anh Mỹ thở dài tiếp lời Bụng đói thì ăn gì mà không ngon? Lần đầu tiên lên núi, tôi thấy gì cũng lạ, con đường chênh vênh men theo triền núi đầy lau sậy, bên dưới là những thung lũng mù sương.

Thỉnh thoảng một con chim rừng lẻ loi chao cánh cất tiếng hót lảnh hót rồi bay vút lên tận tầng không, để lại âm vang rung động cả núi rừng. Hai bên đường từng cụm hoa dại cánh nhỏ li ti đủ màu sắc chen lẫn với những cọng dương xỉ vươn ra từ vách núi trông như những bức tranh thêu sống động. Đến lưng chừng núi thì đã quá trưa, tôi cùng chị Dàn, Thuỷ, Hoa, Thạnh, … tìm một bóng mát bên đường để nghỉ chân và mở gói cơm mang theo ra dùng bữa.


Xong, chúng tôi hối hả đi tiếp cho kịp mọi người dù đôi chân đã rã rời khi vượt qua mấy chục cây số đường bộ. Cũng may, lần nào đi Trâu Trằn tôi cũng không phải mang vác gì cả. Cây cuốc thì có anh Mỹ hoặc Văn vác dùm; còn Lành - cô bé cùng xóm kém tôi chừng hai tuổi - cứ đòi gánh ba lô của tôi cho bằng được. Lành nói “Chị cho em gánh luôn chơ em gánh một cái ba lô của em không cân, khó đi lắm”. Thấy Lành dùng cán cuốc gánh hai chiếc ba lô chạy băng băng, miệng cười toe toét vì đã giúp được chị, tôi thương làm sao! Trong chuyến đi đó có một chuyện tuy nhỏ nhưng tôi không thể nào quên được, mỗi lần nhớ lại tôi lại nghĩ thầm "Phải chi mình nán lại dăm phút...".


Sự đời mấy ai ngờ được, nay còn mai mất cứ như là giấc mộng vậy. Lần ấy trên đường đi, khi đội xóm Tả của tôi đang leo lên con dốc thật cao thì thấy Phúc - đội xóm Rú - ngồi dưới gốc cây bên vách núi cùng mấy đứa bạn. Thấy chúng tôi, Phúc vừa ngoắc vừa gọi “Phước ơi! Mỹ ơi! Phúc có chuyện bí mật muốn nói với hai bạn nì. Dừng lại đây chút đi”. Tôi thấy trời chiều rồi, sợ không theo kịp đội nên vừa đi vừa ngoái đầu nói “Chiều rồi...
Thôi, để lên trại Phúc qua gặp bọn mình hi!”. Nghe thế anh Mỹ cũng bước theo. Phúc đứng lên nói vói theo câu gì đó tôi không nghe rõ vì đang vội. Ai ngờ chưa kịp gặp lại nhau thì đêm đó vì đói, Phúc cùng mấy người bạn bên đội hắn rủ nhau đi nhổ mấy bụi sắn của xã Hải Trường thì bị bắn chết tại chỗ. Buổi sáng nghe tin Phúc chết, chúng tôi bàng hoàng thương tiếc một đứa con trai tuổi xuân còn phơi phới, một mạng người chết oan uổng chỉ vì mấy củ sắn non. Nhưng rồi mọi chuyện trôi êm, không ai truy cứu và chuyện bí mật mà hắn định nói với hai đứa tôi cũng theo hắn mãi mãi nằm yên trong lòng đất lạnh.…

Vượt qua bao đèo dốc, cuối cùng chúng tôi cũng dừng lại giữa một vùng núi đồi bao la khi bóng cây trong nắng chiều đã ngã dài bên vách núi. Mệt thế mà chẳng ai dám nghỉ ngơi. Mọi người phải nhanh chóng túa vô rừng tìm vật liệu để dựng trại liền, nếu không khi đêm xuống đành ngồi giữa núi rừng hoang vu giá buốt nầy thôi.

Đám đàn ông, con trai thì đi chặt cây: cây nào to dùng để làm cột làm kèo; cây nào nhỏ thì róc vỏ và gai góc sơ sơ rồi làm vạc giường để ngủ. Bọn đàn bà, con gái mỗi đứa một cái liềm, từng nhóm đi tìm và cắt cỏ tranh tươi về đan thành tấm, lợp mái nhà cho kịp trước khi trời tối. Xen lẫn trong đám cỏ tranh là những bụi cỏ lác bén như dao, khi đưa tay nắm lọn tranh để cắt, bọn tôi đứa nào cũng bị lá cây lác cắt đứt tay, máu chảy ròng ròng mà không dám than. Nghe nói ở rừng mọi thứ đều thiêng nên phải kiêng, bị đứt tay mà la đứt tay là cứ bị đứt liên tục nên đành cắn răng chịu đau.


Những người lớn có kinh nghiệm mách nước rằng muốn cầm máu thì quơ đại vài cọng lá cây mắc cỡ non hoặc vài lá rừng, nhai nhai rồi đắp lên vết thương là cầm liền. Tôi làm theo và đúng như thế. Hay thiệt! Khi hoàng hôn lan tím cả núi đồi thì lán trại cũng vừa dựng xong. Chúng tôi vội vàng kiếm củi nấu cơm, khói bếp hoà với sương núi ôm trọn mái nhà tạm thơm mùi lá rừng ngai ngái. Giấc ngủ ở rừng chập chờn bởi những tiếng chân, tiếng hú của thú hoang cùng những đợt gió rừng thét gào trên ngàn cây vi vút.


Trong màn sương đêm dày đặc, những ánh lân tinh lập loè khắp đồi núi. Người ta nói mấy năm trước nơi đây người chết vô số, có lẽ vì thế mà oan khí của họ đêm về lại chấp chới qua ánh lân tinh. Buổi sáng, sau khi ăn vội vàng vài miếng, tôi cùng mọi người rời trại để đi khai hoang. Trên đường đi, chúng tôi gặp những đồi sim bát ngát, hoa tím đẹp đến não nùng. Có ai đó không cầm lòng đã cất tiếng hát Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt. Vào chuyện ngày xưa…Câu hát bỗng đứt nửa chừng, có lẻ vì ai đó thúc cùi chỏ nhắc nhở hoặc tay ca sĩ ngẫu hứng chợt nhớ ra.


Trời! Dám hát nhạc vàng sao? Dù là nơi núi rừng hoang vắng. Nghe nói thời chiến tranh, vùng đất có tên Trâu Trằn này từng là nơi diễn ra giao tranh ác liệt của đôi bên. Những đồi núi trập trùng hiểm trở mang tên Động Ông Đô có hàng rào điện tử McNamara đã trở thành vùng đất chết trong hàng chục năm. Chính vì thế nên khi đến đây khai hoang và tháo gỡ bom mìn, chúng tôi không còn thấy bóng dáng một con trâu nào mà lại nghe mọi người kháo nhau về ông cọp ba móng.


Đó là một con hổ hung tợn đã bị lính đóng ở Động Ông Đô bắn què một cẳng vào đầu thập niên 70. Núi rừng bom đạn trải thảm thế nhưng chẳng diệt được cọp ba móng mà khiến nó ngày càng hung dữ và khôn lanh hơn. Nghe đâu khi đêm về, con cọp thành tinh ấy thường lởn vởn quanh trại những người đi rừng. Một lần có ông “thợ cội” * ghé trại tôi ngủ nhờ qua đêm, ông ta kêu mọi người đốt một đống lửa thật to giữa trại để ngăn cọp rình mồi vì nó rất sợ lửa?

Mọi người lại kháo nhau rằng hình như con cọp ấy theo rình để bắt người thợ cội, vì lúc ông ta rời khỏi trại thì không còn nghe những tiếng kêu bép! bép!... vang vọng trong đêm khuya nữa. Tuy vậy chúng tôi vẫn nơm nớp sợ, vì không biết ông ba mươi ghé lại lúc nào và sẽ lượm ai đi. Suốt 45 ngày trên núi đồi đầy bom đạn, Mỗi lần tập trung khai hoang là các cán bộ xã vác loa rao thật to Cách xa ra, cách xa ra mỗi người 2 mét. Không được đứng sát nhau! Cách xa ra, cách xa ra mỗi người 2 mét. Không được đứng sát nhau!...

Đó là vì họ sợ trúng đạn nổ sẽ chết hoặc bị thương nhiều người. Tôi, Như Ý, Châu và chị Dàn cứ đứng sát sạt nhau mà cuốc. Chúng tôi thường nói hễ cuốc trúng thì mấy đứa cùng chết luôn chứ sống mà tàn tật khổ lắm. Thấy bọn tôi cứ xáp vô nhau, xã đội trưởng Khuynh chạy tới nạt “ Mấy o ni có nghe chi không? Xức ra, xức ra mà cuốc chơ, lỡ bị trúng đạn chết hết răng?”. Bọn tôi cười cười đứng dang ra nhưng khi xã đội trưởng quay lưng đi là lại xáp vô như cũ.
 


Hồi đó đâu có nhiều lễ hội như bây giờ nên mỗi lần đi khai hoang, đi phá gỡ bom mìn hoặc đi thuỷ lợi, … bọn tôi xem như đi hội vậy. Hội khai hoang ở Trâu Trằn “hoành tráng” lắm. Bên đồi ni cuốc và hát hò, đồi bên tê cũng hát hò và cuốc. Đang hăng say cuốc, bỗng bên đồi xã Câu Nhi đang khai hoang nghe một tiếng nổ long trời, tiếng khóc la vang dậy, cáng võng chạy rầm rập… Ngay lúc đó, loa phóng thanh xã tôi cũng vang to không kém Tiến lên! Tiến lên! Tiếng hát át tiếng bom. Biến đau thương thành hành động. Tiến lên! Tiến lên! Chúng tôi cứ cuốc và cuốc, cứ vài nhát cuốc lại gặp mấy quả đạn mắc trong vỏ lon đồ hộp treo lủng lẳng trên vòng thép gai hoặc đạn 105 li, bom bi thì vô số.



Tôi cuốc trúng một quả gì màu vàng sáng, to bằng nắm tay rất đẹp, hồi đó tôi vừa rời ghế nhà trường nên khờ lắm, đến nỗi hình thù các loại đạn và sức công phá của chúng ra sao cũng chẳng hề biết. Mấy đứa con gái tranh nhau cầm lên xem, trầm trồ khen đẹp rồi tôi kêu Quốc “Quốc ới ời ơi …! O tặng cháu nè…!” Quả vàng đẹp đó xoay xoay trên cao bay về phía Quốc. Hắn dòm lên rồi vất cuốc phóng như điên, vừa chạy vừa la “Ui o ơi! Quả đạn 79 đó, hắn nổ là chết a”. Tôi sợ hết cả hồn, may sao nó chưa nổ. Mấy người du kích đến cắm cạnh nó một nhánh cây báo hiệu để mọi người đừng đến gần. Tới trưa thì nó nổ, cát bụi bay mù mịt.


Tôi tiếp tục cùng bà con vỡ đất khai hoang trong sự thiếu thốn mọi mặt về những sinh hoạt hàng ngày. Cái chết luôn rình rập dù người ta bảo đất nầy đã được tháo gỡ bom mìn song thực tế thì bom mìn vẫn thỉnh thoảng cười để dậy trời tiếng kêu khóc. Mỗi ngày chúng tôi cuốc đất rừng, chặt sát gốc những cây gỗ cứng ơi là cứng. Có khi cuốc trúng vào gốc cây làm quăn cả lưỡi cuốc bằng thép. Để khai phá xong một vạt đất rừng chúng tôi phải đổ không biết bao nhiêu là mồ hôi và nước mắt, có khi đánh đổi cả sinh mệnh con người.

Những làn da xạm nắng, những bàn tay cầm cuốc rướm máu đau buốt và những cơn sốt rét rừng nghiệt ngã cũng không tha cả những thanh niên trai tráng, lực lưỡng. Những người đi khai hoang Trâu Trằn thường đi theo đội - nghĩa là dân ở cùng xóm nên thường là bà con thân thích cả. Đội nào cũng có người lớn tuổi đi theo, họ không chỉ là tay nhiều kinh nghiệm, dày dạn trong lao động mà còn là bậc phụ huynh vừa bảo vệ, vừa quản lý bọn trẻ chặt _ Thợ cội: Là người đi rừng chuyên nghiệp nên họ thuộc hết mọi ngõ ngách của rừng. Họ vào rừng sâu để săn lùng những cây gỗ quý. Họ thường kín đáo, lầm lì và ít nói. Trông họ rất bí hiểm. Theo truyền thuyết, thợ cội thường đi rừng một mình và hầu như suốt đời họ sống với rừng già. Đêm về, ông ta đốt một đống lửa to, dùng một khúc cây khoét rỗng ruột úp xuống đất để ngủ và khi nào bên cạnh cũng có một khúc cây để tự vệ. Rừng đêm lạnh, cọp thường đến hơ lửa cho ấm. Có khi con nầy đến rồi con khác đến, ông thợ cội từ trong chiếc giường ngủ đặc biệt lén thò tay ra cầm khúc cây hất nhẹ một cục than hồng vào một con cọp.


Con cọp bị than nóng gầm lên tấn công con kia, chúng kéo nhau ra rừng để thanh toán nhau. Thế là ông thợ cội ngủ ngon. chặt chẽ trong thời gian sống xa nhà. Chúng tôi rất đoàn kết và lo lắng cho nhau, đám phụ nữ luân phiên lo việc bếp núc ăn uống cho mọi người. Mỗi lần đến phiên mình làm chị nuôi, tôi về chợ Diên Sanh mua thức ăn cho cả đội, một mình tôi phải vượt qua hết núi nầy tới đồi kia với gánh thực phẩm kĩu kịt trên vai, có khi cả đi lẫn về cũng gần hết một ngày trời. Có lẽ những gian khổ đó đã ghi sâu vào ký ức tôi không thể phai mờ nên cho đến nay, thỉnh thoảng trong giấc mơ, tôi lại thấy mình đi trên con đường đồi núi chênh vênh đó.

Thức ăn mua về chỉ dùng được trong vòng hai ngày nên muối và rau rừng là thức ăn chính của đội. Có hôm mãi lần theo những cọng rau rừng xanh mướt, tôi đi lạc lúc nào không hay. Chỉ biết khi ngẫng đầu lên thì thấy chung quanh lạ hoắc. Tay chân run lẩy bẩy nhưng tôi vẫn khu khư ôm chặt chiếc nón đựng đầy rau rừng. Tìm bóng râm, tôi ngồi phệt xuống, định thần lại cho tâm bình tĩnh để tìm lối ra. Tôi nhớ những người lớn tuổi có dặn rằng nếu lạc ở rừng thì cứ tìm suối hoặc sông, rồi men theo bờ mà đi thì sẽ tìm được đường về.



Cảnh đẹp của thiên nhiên vừa thơ mộng vừa hùng vĩ nhưng tôi không dám nán lại để thưởng thức mà nhanh chóng men theo bờ sông. Sau một hồi quanh co, tôi tìm lối về trại không mấy khó khăn. Hôm đó ai cũng vui vì được ăn một nồi canh rau tươi thơm ngon nhưng họ đâu biết rằng vì ham hái rau mà tôi suýt lạc mất lối về. Khi đã quen nơi quen chốn, vào giờ nghỉ trưa chị Thương thường hẹn tôi lội dọc theo con suối nhỏ lên tận đầu nguồn, đến chỗ có một vòm cây che kín và mấy tảng đá nhỏ nằm ven suối tròn trịa rất đẹp. Hai chị em nghĩ nơi đây có lẽ chưa ai biết đến nên đã cùng nhau tắm giặt thật vô tư, chúng tôi còn cất tiếng ca những bài hát mình yêu thích giữa núi rừng hoang vắng mà không sợ bị ai nghe nữa chứ.




Những khoảnh khắc ấy mới tuyệt vời làm sao! Sau khi khai hoang xong, mọi người lại tiếp tục làm đất. Trong công việc chúng tôi cũng có những trò ma giáo, ăn gian vui đáo để. Đó là khi ban đo đạc của xã đến kiểm tra số đất khai hoang của từng đội để tính điểm. Đội của tôi do cậu Lộc - đội phó sản xuất - chỉ huy. Lần nào cũng thế, khi có “ông đo đạc” tới là cậu Lộc kêu tôi cùng làm việc. Tôi cầm cây sào dài 5 mét trên tay, cứ thế vừa gợi chuyện vừa đo đất. Biết đôi mắt “ông đo đạc” không nhìn xuống cây sào trên đất mà cứ mãi nhìn mặt tôi để kịp góp chuyện nên cậu Lộc cứ nháy nháy mắt ra dấu. Tôi hiểu ý nên cứ đo được một cây sào tôi lại lùi chừng nửa mét.


Nhờ thế đội tôi lời quá trời luôn, đúng là làm chơi ăn thiệt! Người của đội tôi đa số là con gái yếu đuối, làm việc cành khơi vậy mà một ngày có khi tới ba, bốn chục điểm, gấp mấy lần công điểm lao động ở làng. (10 điểm/ngày là công điểm cao nhất ở làng). Thấy đội chúng tôi khi nào điểm cũng cao, các đội kia ức lắm mà không hiểu được lý do, họ cũng không dám nói ông đo đạc của xã thiên vị. Thấy họ tức, thím Thẩm xỏ tay vô túi áo, đứng ưỡn ngực khoe đội ta phần lớn là dân chiêu chang mà lao động giỏi hơn đội họ toàn cá trê (cứng cựa, mạnh).



Nói xong thím còn cười cười ra vẻ đắc thắng làm thiên hạ tức lộn ruột. Khi đất đã lên vồng, chúng tôi bắt đầu trồng khoai và sắn trên đất mới. “Trồng khoai bén tay, trồng sắn bay bụi”, đó là những kinh nghiệm của nhà nông: những ngày mưa chúng tôi trồng khoai và ngày nắng thì trồng sắn. Buồn cười nhất là Trà, hắn cao lớn lênh khênh mà lại lười biếng. Cuốc chừng vài nhát là hắn mang cuốc đi “tra” lại, vì cán đi đường cán, lưỡi văng đường lưỡi.


Cậu Lộc bực lắm nên cứ la hắn bằng những câu nói thật nhanh “ Tau... tau là cái thằng hay la mà mi răng cứ nhác nhớn dữ rứa? Rứa chơ khi bình bầu thì cứ đòi xếp loại A vì to con đó”. Còn tội nhất là chú Học, thấy Hoa và Thạnh nhỏ con lại ốm yếu cuốc không kịp, chú thường chạy lui cuốc dùm cho mấy đứa mà không tính toán gì cả. Khi vạt đất của đội đã phủ đầy thì chúng tôi nghỉ tay.. .



May mà số sắn trời cho ấy xắt nhằm mấy ngày nắng lớn nên khi phơi khô lát sắn trắng bóc, thơm tho. Còn những lần sau gặp ngày mưa, chúng tôi đành ngâm cả bao sắn xuống suối cho khỏi bị hư, đợi có nắng mới đem phơi để gánh về cho nhẹ. Mà sắn xắt nhằm ngày mưa dù phơi có khô nó cũng không ngon, lát sắn bị thâm xỉn. Nhờ mấy bao sắn mót từ rừng đem về nhà, bà con trong đội đã chống đói được một thời gian đáng kể.
Tuy việc làm vất vả, nhưng ngày tháng sống ở rừng đôi khi cũng thú vị. Vào những trưa nắng gắt mặt trời như rọi sát trên đầu, thừa lúc người lớn nghỉ trưa, bọn trẻ lại hẹn nhau phơi nắng rảo khắp đồi núi rồi lội dọc con suối nhỏ tìm kiếm những điều mới lạ.

Có khi bắt gặp cả một khu rừng đầy hoa sim, hoa mua tím ngát hay lạc vào những vùng đất hoang sơ đầy cây cao bóng cả như chưa từng có dấu chân người. Tôi nghe người ta kể xưa những người đi rừng có khi ngang qua một khu rừng đầy chuối, đầy mít hay đầy cam trái chín vàng ửng. Họ đánh dấu định ngày về sẽ ghé hái một ít nhưng khi trở về thì không bao giờ gặp nữa, hầu như họ đã đi lạc qua một vùng đất khác. Người ta bảo đấy chính là của rừng, hái ăn tại chỗ thì được chứ đừng hòng mang về. Chúng tôi muốn đi sâu vào rừng già để tìm những khu rừng trong chuyện kể đó nhưng làm gì có thì giờ, đành phải trở về thôi vì tiếng kẻng báo ca chiều đã vang lên.


Chiều ở rừng thường đến sớm, mới thấy mặt trời hoe hoét đó mà chỉ một lúc là sương mờ đã giăng bủa khắp nơi. Những ngày mưa chiều xuống càng nhanh hơn. Trời sầm sập tối, nhìn ra ngoài bìa rừng chỉ thấy một không gian mịt mờ ảm đạm. Những lúc như thế, tôi lại nhớ đến những ngày còn ở nhà, mỗi chiều đi làm đồng về muộn, khi ánh hoàng hôn đang nhuộm màu bóng tối trên con đường đất quanh co phủ bóng tre xanh dẫn lối vào nhà, tôi thích nhìn bóng mình in trên con đường thân thuộc dưới ánh trăng non đầu tháng. Vào mùa trăng, khi bước đi trên con đường đầy trăng lấp loáng sau những bóng tre, tôi vu vơ nhẩm lại bài tập đọc từ hồi còn nhỏ Ngày chưa tắt hẳn trăng đã lên rồi. Mặt trăng tròn, to và đỏ…

Khi đêm xuống, rừng bao phủ trong một màn đêm huyền bí đầy đe dọa, đâu đây tiếng thú hoang gầm gừ từ xa vọng về; tiếng vạc kêu sương nghe khắc khoải và cả tiếng vượn hú càng tăng vẻ thê lương. Nhưng đến mùa trăng thì lại khác, trăng ở rừng như gần gũi với chúng tôi hơn. Rừng núi trong đêm trăng không còn dễ sợ, những cây lá, cảnh vật lấp loáng dưới ánh trăng trông thật thơ mộng, huyền ảo. Trăng tỏa bóng mát êm dịu xuống cả một vùng đồi núi bao la. Mấy đứa tuổi thanh niên như tôi thường cùng nhau thả bộ ngắm trăng.

Chúng tôi đi từ con dốc nầy qua con dốc khác, vừa đi vừa ca hát, chuyện trò. Khi dừng lại ở một đỉnh dốc cao nhất, cả bọn bày trò chơi. Đề tài: Bạn thích nhất đêm trăng nào trong tháng. Tại sao? Trò chơi nầy lúc nào cũng mới mẻ và đầy hấp dẫn, nhất là với mấy đứa mới nhập hội “chơi trăng”. Những lúc như thế, chúng tôi gần như quên hết mọi gian lao, vất vả; chỉ còn người và trăng bàng bạc cả núi rừng và bàng bạc cả những tâm hồn non trẻ. Có lúc mãi chơi quên cả thời gian, khi chúng tôi chia tay nhau về trại nghỉ thì tóc tai, áo quần đứa nào cũng ướt đẫm sương đêm.



Ngày ngày công việc cứ đuổi theo chúng tôi không ngơi nghỉ, vừa thu hoạch khoai, sắn ở rừng xong là lúa ở làng đã vàng rực cả đồng. Vụ mùa năm sau vui hơn vì có bà con ở Trung Du về giúp sức. Tôi còn nhớ có chú Tùng, trước khi đi xây dựng vùng kinh tế mới Trung Du có nhà ở bên kia sông. Chú thường lấy đòn xóc của tôi làm điểm tựa để bó lúa. Khi thấy lúa đã đủ chuyến, chú xóc cho tôi một gánh lúa thật gọn và chắc đặt trên bờ ruộng rồi hô to V…ề …ề ….



Thế là mọi người ùa nhau chạy đi tìm những bó lúa vừa ý để xóc và gánh về, trong khi đó tôi đã được chú đặt lên vai gánh lúa sau khi gọi “Bé con, lại đây…” Với gánh lúa vừa ý trên vai, con đường về sân đội đối với tôi dường như ngắn lại, vừa thả hai bó lúa thơm tho xuống là tôi quày quả về nhà ngay. Ở nhà, mạ tôi lúc nào cũng nấu một nồi chè hoặc cháo đậu múc sẵn từng chén đặt trên bàn cho con gái. Cháo mạ nấu thật ngon, hạt gạo chín mềm quyện với đậu đỏ bùi bùi thơm phức. Khi ăn, tôi thường đồ cháo ra lòng bàn tay, chén cháo đông lại gọn gàng trông thật thích mắt, cắn một miếng cháo rồi lại cắn một miếng đường đen. Tuyệt! Có ai đã từng ăn cháo kiểu như tôi không nhỉ? Hãy thử một lần để cảm nhận nhé!



Với tôi trong miếng ăn giản dị ấy sao mà ăm ắp tình mẹ bao la quyện lẫn với hương vị quê nhà thật là đậm đà, tha thiết. Cũng có khi là mấy khúc mía cơm rượu ngọt lừ - loại mía da tím, mềm và dòn - đã róc vỏ sạch sẽ hoặc chùm ổi chín thơm phức; đó là những thứ mạ tôi trồng lại trong vườn nhà sau ngày hồi hương. Tôi là chúa lười ăn nên mạ phải nấu đủ thứ để trên bàn như thế, mỗi chuyến lúa về nghỉ giải lao, tôi thường rủ chị Dàn và mấy đứa trong xóm ghé nhà ăn bữa lỡ của mạ để dành cho tôi. Những trưa hè nắng gắt đi làm đồng về, tôi thường dừng lại một lát trước cổng nhà mình để nghỉ ngơi; để tận hưởng cái mát mẻ từ bóng tre tỏa xuống.

Cổng nhà tôi là một mái vòm mát rượi được uốn chụm đầu nhau từ hai bụi bông kiểng thật to, hàng rào trên lối vào cổng luôn được cắt xén thẳng tắp. Ngày nào cũng thế, từ những cành xanh vòng cung thành cái cổng xinh xinh ấy đong đưa những đoá hoa cánh mỏng đỏ tươi mới nở như những chiếc lồng đèn rực rỡ. Ngày hè hoa càng nở nhiều hơn, có khi những chiếc lồng đèn bằng hoa ấy thi nhau nở, xúm xít từ cổng đến mặt đất.

Hai bên đường vào sân là hai hàng huệ tây nở đầy hoa hồng tím, những đoá hoa có màu sắc thật ngọt pha lẫn mùi hương nồng nàn của các loại hoa khác trước sân nhà tạo cho tôi một cảm giác thật dễ chịu. Có khi tôi chưa vội vào nhà mà dừng lại ở bậc thềm chái nhà đầu hè để ngắm những chùm hoa lựu lập lòe, lòng lại mơ hồ về một câu thơ của cụ Tiên Điền ngày trước. Những lúc rảnh rỗi, tôi thường chăm chút cho từng gốc cây, bụi hoa và việc làm đó đối với tôi thật là thú vị!



Thời đi học tiếp sau ngày 30/4/75, tôi nhớ có học một bài thơ ca ngợi lao động ở miền Bắc gì đó mà có câu "Không cho đất nghỉ, không ngừng tay ta". Câu đó thật đúng với cuộc sống của người dân ở quê tôi ngày ấy. Việc làm luôn tay, kể cả ngày mồng một tết cũng tiếng kẻng vang xóm kêu gọi bà con tập trung để "ra quân" trồng cây đầu năm.


Làm cực thế mà có đủ ăn đâu, những lúc đi làm đồng xa phải đem bữa trưa theo, tôi nhìn bà con nhai khoai sắn thay cơm mà lòng xót xa quá đổi. Tôi thì khá hơn vì mạ tôi không còn tuổi lao động nên bà có quyền làm ăn cá thể. Những tưởng con gái đang tuổi lao động chính đi làm nuôi mẹ già, đằng này nhờ mẹ già chắt chiu nuôi con gà, trồng cây rau, cây cải mà con mới có bữa ăn đầy đủ; còn những gia đình như “chị Dậu” thì không thiếu đâu, dù họ làm quần quật quanh năm suốt tháng không nghỉ ngày nào như nhà văn hiện thực phê phán Ngô Tất Tố đã viết.



Vừa xong việc trên đồng cạn, tôi lại cùng mọi người tham gia khai hoang đồng sâu ở Đồng Dương. Hình như bất cứ lúc nào có chuyến đi dài thì đêm trước ngày xuất phát, chúng tôi cũng phải họp nghe triển khai kế hoạch để mọi người quán triệt vấn đề rất khuya, dù cán bộ phổ biến gì bà con cũng nhất trí cao hết. Gà gáy eo oóc mới họp xong, mỗi người về nhà lục đục lo sửa soạn gạo muối, vật dụng xếp vào ba lô chuẩn bị cho chuyến đi ngày mai.


Xong xuôi, lên giường nằm chưa nóng chiếu thì kẻng báo thức đã vang lên. Tôi mắt nhắm mắt mở vừa thức dậy thì mạ đã nấu cơm chín từ lúc nào. Trong khói bếp thơm mùi rơm mới, mạ vừa giục tôi gắng ăn để có sức mà đi, vừa hơ mấy ngọn lá chuối non trên lửa cho mểm để gói cơm cho tôi mang theo.


Đường vào ruộng sâu rất xa, có khi chúng tôi đi bằng thuyền, có khi đi bộ phải lội qua không biết bao nhiêu là con mương rộng và sâu, nước ngang ngực. Tôi thích đi bằng thuyền hơn vì vừa đỡ mỏi chân, vừa khỏi sợ bị đỉa đeo khi băng qua đồng; lại được nhìn cảnh vật lạ mắt hai bên bờ sông. Thuyền trôi qua những bến nước vang vang tiếng cười đùa của đám con nít tập bơi. Cánh đàn ông, con trai cứ nhắm vào mấy o đang chao thùng múc nước hay mấy chị giặt giũ đưa bàn tay đập vải thành tiếng bồm bộp lan xa trên mặt nước, để cất tiếng hò trêu ghẹo.


Lắm khi mấy o, mấy chị cũng hò trả treo đáo để không kém. Thích nhất là khi thuyền qua vùng Lương Chánh - Thượng An, nhìn những bãi bắp xanh mướt trên đất bồi ven sông bạt ngàn thật là trù phú. Từ con sông Vĩnh Định, thuyền rẽ vào một nhánh khác về phía Vân Trình để vào ruộng sâu.
Đoạn sông này vừa nông vừa hẹp nên có những khúc sông không cần dùng mái chèo mà chỉ dùng sào để chống. Khi đến ruộng thì mặt trời đã đứng bóng, tôi cùng bà con rời thuyền, bờ sông ở đây nhỏ như bờ đê ở làng tôi vậy. Trên bờ sông, chúng tôi ăn vội bữa trưa mang theo, vừa ăn xong là phải xuống ruộng ngay kẻo chiều nước dâng không làm được lại mất một ngày.

Vì suốt ngày lội ruộng nên chúng tôi chả cần dựng lán trại, đêm về chỉ cần vác cái mui thuyền lên úp trên đê để làm chỗ ngủ. Vì đông người nên mấy đứa con gái như tôi, Hoa, và các chị Dàn, Ba, Vân, Thương, … nhường cái mui ghe cho cánh đàn ông. Phía nữ chúng tôi lấy cuốc của mình cuốc mạnh xuống đất cho lưỡi cuốc dính cứng vào đất rồi cứ hai đầu cán cuốc bắt chéo lại với nhau thành điểm tựa. Từ các điểm tựa ấy, chúng tôi lấy nilong treo lên làm mái che, thế là có ngay cái trại tạm thời để ngủ. Khi trời sáng thì "dỡ trại": nilong mang vào người; cuốc vác trên vai. Thế là xong! Có khi ngủ nửa đêm nước sông dâng cao tràn lên bờ, chúng tôi ai nấy ướt lói ngói, rơm và củi đem theo để nấu ăn cũng vắt ra nước, những cái bếp Hoàng Cầm ướt nhẹp nên cơm sống và khê là chuyện bình thường.


Buổi sáng mùa đông rét buốt, gió lạnh thấu xương. Tôi cùng mọi người chuẩn bị đi làm. Từ trên bờ sông nhìn đoạn đường phải lội qua thấy mà ngao ngán. Xa xa, trên những mô đất nhô lên giữa mặt nước mênh mông có những con chim to xù cất tiếng kêu nghe sao mà thảm thiết. Tôi hỏi chú Học "Loài chim chi kêu mà nghe thảm rứa chú hè?”. Chú Học mím mím môi, nhìn trời nhìn nước một lúc rồi tỉnh bơ trả lời “Chim nớ có tên là Ui chao ôi! Ui chao ôi!…”. Tôi và mọi người cười chảy nước mắt, nhưng lắng nghe thì tiếng chim kêu như thế thật! Có lẽ nơi đây đồng không mông quạnh, quanh năm nước ngập, ruộng đồng bao la vắng vẻ quá nên những con chim đó mới cất tiếng kêu buồn da diết vậy. Trời mưa, mưa không ngớt.


Chúng tôi rét cóng tay; môi tím tái; răng va vào nhau lập cập. Lạnh thế nhưng ai nấy đều phải vác cuốc trên vai rồi cùng ào xuống ruộng, lội vào tận chỗ khai hoang của đội mình để làm việc. Đến nơi, mấy đứa con gái có nhiệm vụ lội trước, dùng liềm cắt dọn cỏ để cho nhóm đàn ông theo sau cuốc ruộng. Từng nhát cuốc vung lên, phập xuống. Đất đâu chẳng thấy mà chỉ thấy vấy lên từng mảng bùn phèn tan vào nước hoặc quánh lại trôi lềnh bềnh cùng đám cỏ lác. Chúng tôi nhìn nhau, đứa nào đứa nấy mặt mũi lấm bùn. Thỉnh thoảng, Hoa hét lên một tiếng kinh hoàng và vọt chạy té sấp té ngữa khi quơ phải một con rắn trong đám cỏ lác. Còn đỉa ở đây thì nhiều vô kể, những con đỉa to chi mà to lạ! Có con bằng con lươn chứ chẳng chơi, con thì cuộn tròn như con ốc, con thì lượn tới lượn lui dài lằng ngoằng thấy mà nổi gai ốc cùng mình.

Nghe đau và khó chịu ở chân, tôi kéo chân lên và quay lại nhìn thì ôi thôi: một con đỉa dài thượt đã "đo" hết ống chân tôi. Vừa sợ vừa ghê, tôi bặm môi nghĩ Một là mi chết, hai là tau chết rồi cố hết sức dùng cái cuốc lưỡi gà sắc bén gạt một phát từ trên xuống, không biết chết hay không chứ tôi thì bị nhát cuốc kéo rách một mảng da máu chảy ròng ròng. Dù đau lắm nhưng vì quá kinh hãi nên tôi không dám nhìn lui nữa. May mà rớt đằng nào không biết.


A! đây rồi,
ai cũng quay sang nhìn thì... Trời ạ! Chú lại đưa lên một c
on cá to bằng điếu thuốc, những tràng cười hi, ha… lại vang vang trên mặt nước. Mới qua buổi trưa mà mọi người đã bắt được gần đầy thùng cá.Chiều đó lúc trở về, tôi cùng chị Dàn, Hách, Sinh, Học, Quốc chèo thuyền qua chợ Vân Trình mua gia vị về kho cá.



Chú Hách hồi đó để ý chị Dàn nên cứ nằn nì o bán hàng thêm cho một khoanh đường táng để tặng chị Dàn (Ôi! Một mối tình đơn phương chỉ dám nhìn và trao… táng đường…). Đến bữa cơm tối, mọi người ăn cá nhiều hơn cơm. Còn tôi có một nồi cá đặc biệt do ông bác cùng xóm - mà sau nầy là ba chồng tôi - kho riêng trong cái nắp cà-mèn. Bác biết tôi không ăn cá trê, cá lóc nên đã lựa mấy con cá rô, cá trắng nhỏ xíu để kho riêng cho tôi. Thật là cảm động!
Hết chuyện ăn đến chuyện ngủ. Buồn cười nhất là lúc bắt đầu đi ngủ, thấy chú Trụ bước ra đổ hết nước uống trong nồi rồi úp luôn cái nồi xuống đất, ai nấy nhao nhao “Chú đổ hết nước, đến khuya khát lấy chi mà uống?” Chú Trụ cười đáp tỉnh queo “Chơ lúc tối ai cũng ăn mặn cá mần răng không khát? Mà khát thì phải uống nước,mà uống vô thì mắc tè, mà mắc thì phải đi chơ nín răng được? Rứa có phải tau tra, bây cho nằm ngoài làm ranh giới mà cứ hết đứa ni lại đến đứa tê đi vô đi ra, bước qua bước lại trên người tau cả đêm. Rứa thì mần răng tau ngủ? Đổ nước đi là thượng sách!”. Nghe chú nói, dù bị khát khô cổ nhưng ai nấy cũng không nín được cười.
Sau mấy ngày, ruộng làm xong đã đến lúc cấy lúa.

Mạ non ở làng được chất đầy từng thuyền đưa vào ruộng, tất cả mọi người đều cắm cúi cấy thật nhanh vì cứ khoảng ba giờ chiều là nước dâng mênh mông, không thể cấy được. Mang thân đàn bà con gái luôn khổ hơn đám đàn ông. Khi xuống ruộng, mấy ông chỉ đánh một cái quần cộc, tối về tắm chỉ cần nhúng nước rồi vắt cái vèo phơi lên là xong. Còn phụ nữ thì khác, những chiếc quần chéo đen từ miền Bắc đưa vào phân phối cho giới nữ lao động rất chi là đặc biệt.

Cái thứ vải chi mà chỉ cần giặt một nước là phai màu, khi lội ruộng, nước phèn ngấm vào trở nên mốc thếch. Thứ vải chéo* đó, chỉ cần ngấm nước là nặng chịch, trời nắng phơi cả ngày chưa chắc khô chứ nói chi là trời mưa? Bởi thế, khi đi làm chúng tôi thường mặc những chiếc quần còn ỉn ỉn - chưa khô; lại thiếu xà bông giặt nên chuyện bốc mùi là chuyện bình thường. Thiệt khổ hết biết!
Rồi cũng đến lúc thu hoạch, việc gặt lúa ruộng sâu vất vả hơn ruộng cạn nhiều. Cũng may ruộng ở đây mỗi năm chỉ làm được một vụ. Mỗi lúc gặt hái xong là chúng tôi thở phào, mừng trút bớt một gánh nặng của năm nay.
Mùa gặt vừa xong cũng là lúc thanh niên đi làm thuỷ lợi Đồng Dương. Trên sông Vĩnh Định, từng đoàn thuyền chở thanh niên các xã của huyện Hải Lăng cờ xí rợp trời, phèng la đánh inh ỏi đổ về Đồng Dương. Vì tôi thuộc loại sợ đỉa ác chiến nên được đội phân công lo hậu cần. Với cái bếp là một hố đất nhỏ vừa đặt được cái soong nấu khoảng 20 long gạo và một đống rơm luôn bị ướt vì trời mưa. Mỗi ngày đêm tôi phải nhóm lửa, nước mắt chảy tèm lem để nấu khoảng năm bữa ăn cho mấy chục người trong đội. Này nhé: Suất cơm đầu tiên trong ngày lúc nấu lúc ba giờ sang
 

Vải chéo đen: Loại vải thô nhuộm đen bán phân phối cho người lao động tay chân. Còn người lao động trí óc thì được bán “quần xi áo lon”(những thứ vải nhẹ và tốt hơn do Trung Quốc sản xuất). Hồi đó mỗi người lao động được bán phân phối vải mỗi năm đủ may một bộ áo quần. Khi nào hợp tác xã nộp lúa nghĩa vụ vượt mới được bán thưởng cho cả đội một khúc vải đủ may một cái quần chéo. Vì thế bà con thường nói đùa chia nhau mỗi người mặc một ngày. Nhưng thường chúng tôi nhường cho người nào nhà đông người lao động.cho số thanh niên đi tát nước về ăn khuya. Nấu cơm xong, hôm nào tôi cũng cầm đèn ra sau bếp soi cho mấy đứa mới về nhìn cho rõ mà bắt đỉa bu vô người vì phải dầm chân dưới ruộng để tát nước. Sau đó tôi nấu tiếp suất cơm thứ hai vào lúc sáu giờ sáng.

Mười một giờ nấu bữa trưa xong là lên thuyền để đưa cơm ra tận công trường. Khoảng bốn giờ chiều lo cơm tối rồi tám giờ tối nấu bữa cuối ngày cho số người đi trực đê ban đêm ăn. Có hôm nước lên mạnh quá khiến kè đê bị vỡ, mọi người phải nhảy xuống dòng nước đang chảy xiết như thác đổ để giữ đê. Hàng chục người cả nam lẫn nữ đứng sát vào nhau, tay siết chặt tay làm thành một bức tường người mặc cho con nước hung hăng cuồn cuộn chảy. Trên bờ, những người còn lại ra sức cuốc, gánh và đổ từng thúng đất xuống để ngăn dòng nước. Trên khúc đê vừa được đắp cao, tiếng đờn, tiếng hát của đám văn nghệ tuyên truyền thuộc phòng Văn hoá thông tin huyện cũng thi nhau hét Đôi bồ câu đang bay về hướng.



Anh cùng em đi ra nơi công trường. Gió lộng trời mây chim hót hoa đưa hương... vang trời. Lâu lâu chiếc loa phóng thanh lại hô hào Hải Vĩnh đang là con chim đầu đàn của huyện Hải Lăng ta, đã đắp được .... mét đê thuỷ lợi…, các xã khác cố lên! cố lên!... Một lát, tiếng loa lại vang lên nhưng lần này là xã khác… Kiểu "bắc loa" đó được gọi là động viên tinh thần để mọi người hồ hởi, phấn khởi ra sức lập công trong lao động. Mà quả thật! Tự dưng nghe tiếng loa thúc giục, tôi cũng thấy tim mình đập rầm rầm. Tiếng loa cũng làm cho không khí công trường thuỷ lợi thêm phần rộn ràng, nhộn nhịp. Nhóm cuốc cho đất vào trạc sắt; nhóm gánh đất lên đổ trên đê; nhóm đứng trên đê ngước đất để nện xuống cho chặt, nhóm nầy toàn là nam giới. Đây là dịp để các anh chàng ga-lăng ra tay, các chàng thấy cô nào ưng ý là luôn ngước sớm - nghĩa là cô gái gánh đất chưa tới nơi chàng đã chạy vội đến ngước dùm một quãng. Các cô dù đôi khi bụng chẳng có tình ý gì nhưng cũng chớp mắt cưòi duyên để hắn mở lòng bao tạ làm dùm cho đỡ mệt.

Ngoài việc lo bếp núc, có lúc tôi cũng đi theo nhóm lấy đất cỏ về trồng cho những khúc đê mới để giữ đất. Việc trồng cỏ nầy đỡ tốn công chăm sóc và cỏ cũng dễ sống hơn. Hai ba người cùng chèo thuyền đi thật xa để tìm những thảm cỏ đan kín trên mặt đất, người muốn lấy đất cỏ phải cuốc thật khéo để làm sao mảng đất khi được dỡ lên vẫn còn nguyên cỏ.

Chúng tôi nhẹ nhàng xếp chúng lên thuyền, khi đã đầy thì chèo thuyền về trồng lên đê rồi lại đi tiếp. Công đoạn này không đơn giản đâu nhé! Trồng cỏ phải có kỹ thuật và mang tính thẩm mỹ cao mới được ghi điểm ngày công lao động cho từng mét đê thuỷ lợi đấy.

Ngoài thủy lợi Đồng Dương, tôi đã từng cùng mọi người đi làm thuỷ lợi nhiều nơi như ở Hội Yên, Hải Ba, Lam Thuỷ, Thi Ông, Triệu Sơn, … mà chẳng nơi nào dễ, dù rằng những cái khó ấy không hề giống nhau, nhưng nhờ sức trẻ nên chúng tôi đã vượt qua tất cả. Và vào một ngày tôi tham gia công trình thuỷ lợi Nam sông Thạch Hãn (đắp Trấm).

Thực hiện chủ trương Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước trên con đường tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa, khi hơi xuân năm 1978 chưa tàn thì công trình thủy lợi có tên là Trấm ở phía Nam sông Thạch Hãn khởi công. Thế là thanh niên nam nữ của 3 tỉnh Thừa Thiên - Quảng Trị - Quảng Bình được điều động về Trấm để xây dựng công trình. Trước tình hình đó, người già thì lo lắng đủ thứ - nhất là con gái chưa chồng xa nhà trong điều kiện như thế; nhưng đám trẻ thì vô tư khi nghe tên mình trong danh sách đi làm thủy lợi đắp Trấm, mãi đến khi rời làng mới nghe lòng nao nao.
Mấy ngày trước khi lên Trấm, tôi và Liễu - nhỏ em cùng xóm kém tôi hai tuổi - đã hì hục chặt một vác tre, ngồi chẻ và vót đến chảy máu tay. Hai đứa định làm một cái giường đem theo lên Trấm để ngủ. Nhưng đến ngày đi thì giường vẫn chưa làm xong mà nếu có xong thì làm sao hai đứa tôi vác đi bộ từ nhà lên Trấm - một chặng đường trên hai chục cây số? Vậy là hai đứa đành cõng hai chiếc ba lô trên lưng.

Chúng tôi ra đi, bỏ lại sau lưng ruộng vườn xanh ngát với những bông lúa vừa trổ đòng đòng; bỏ lại cả nỗi nhớ thương và lo lắng của mẹ già cùng những thanh tre làm giường ngỗn ngang sau hè nhà. Lên Trấm làm xong mọi thủ tục trời đã tối thui, tôi đem cất những dụng cụ làm việc vào phía sau lán trại. Lạ quá! Sao cứ một bước thấp lại một bước cao hụt chân suýt té thế nầy? Tôi nhủ thầm Ở đây họ trồng khoai mà răng lại lên vôồng tròn tròn ri hè?

Đêm đầu tiên ở Trấm nhớ nhà quá tôi không sao ngủ được dù chỗ nằm cũng khá êm: đó là một chiếc giường đơn nhỏ của anh Mỹ - ông xã của tôi bây giờ. Thấy tôi lên, Mỹ nhường lại cái giường tre tự tay anh trau chuốt rất đẹp cho tôi dùng riêng. Liễu vì không có giường nên phải ngủ chung với mấy đứa khác, hắn buồn thiu.

Sáng sớm hôm sau, khi sương mù còn giăng kín tiếng kẻng đã vang rền khắp các trại. Tôi thức dậy cùng mọi người ra sân của Đại đội Hải Vĩnh để tập thể dục. Nhìn quanh, thấy có mấy người trùm kín mền từ đầu đến chân. Nếu không biết mà bất ngờ gặp những cái mền phết đất ấy ngọ nguậy theo động tác thể dục trong sương mờ, có lẽ tôi sẽ chết khiếp vì chúng cứ y như là hình ma vẽ trong truyện tranh vậy. Có người vừa tập vừa ngoác mồm ngáp dài không dứt, hai mắt thì nhắm trít lại trông thật buồn cười.


Trời ơi! Tập thể dục cho có sức khoẻ mà như thế nầy thì hại sức khoẻ thêm thôi. Trời sáng dần, tôi đi vòng quanh lán trại để xem mình đang ở chỗ nào vì từ nhỏ đến giờ tôi chưa hề đến nơi này. Thì ra đây là bãi tha ma của vùng Như Lệ.


Ngoài các con vật thân mềm tôi cũng sợ ma không kém, vậy mà tối qua tôi đã bước lên bước xuống trên các ngôi mộ quanh trại, còn nghĩ đó là vồng khoai nữa chứ! Tôi sợ đến bủn rủn cả tay chân. Nơi đây là một nghĩa địa lớn của vùng đất Quảng Trị gần La Vang. Phần đất lán trại chúng tôi ở được dựng trên các ngôi mộ vừa được xe ủi đất san bằng, còn chung quanh vẫn đầy những nấm mộ tròn tròn sát nhau chen lẫn với lau lách hoang vu. Thật là khiếp! Ngày nào cũng thế, chúng tôi ăn sáng bằng một loại hạt có tên là bobo. Bobo có sức đàn hồi như cao su vậy, ngâm từ đầu hôm để sáng đun nấu hết củi mà khi ăn vẫn nhai trệu trạo vì nó không chịu mềm. Sau này nhiều đứa đau bao tử chắc cũng bởi di chứng bobo. Bữa trưa có món đặc biệt hơn: A trưởng Lành xuống nhận phần ăn cho 10 đứa là hai thau sắn với một nhúm muối sống nguyên hột nằm bên góc thau. Nhìn phần ăn sau một buổi sáng gánh đá “thuỷ quân lục chiến” bọn tôi chỉ biết thở dài đánh sượt.

(À! Chúng tôi đặt tên loại đá xanh, rất rắn, cục nào cục nấy to tổ chảng là đá thủy quân lục chiến đấy. Những người lính từng theo binh chủng nầy chắc cũng hãnh diện (!)). Thuỷ lấy chân đá thau sắn lăn tròn xuống gầm giường rồi cả bọn lên giường đắp chăn nằm khóc, trong nước mắt chỉ nghe bập bệu mỗi hai tiếng Mạ ơi! Khóc và ngủ cho quên cơn đói, khi nghe tiếng kẻng báo đã đến giờ làm mấy đứa lại hè nhau lôi thau sắn dính cứng dưới giường ra, phủi phủi đất cát, mỗi đứa cạy một miếng nhăn nhăn với hột muối cho có rồi đi làm ca chiều. Bữa cơm tối thịnh soạn gồm một thau nhỏ lưng lửng cơm cho mỗi phần năm người ăn với thau canh gì không biết, chỉ thấy trong nước đùng đục dài ngoằng một miếng dưa chua.

Nghe nói là canh nấu với cá lóc nên tôi nhịn luôn dù không thấy miếng cá nào cả. Đặc biệt trên mỗi thau cơm có thêm năm lát mì nhỏ được làm từ bột mì trắng, nhưng chúng tôi chưa hề được nếm vị ngon của lát mì đó bao giờ. Lý do: bọn con trai cứ đi làm về là chạy qua bên lán nữ bốc hết những lát mì nằm hớ hênh trên mỗi thau cơm xơi hết, chúng nó không cần điệu đàng kỳ cọ rửa ráy tay chân như lũ con gái đâu.

Trong lán nam có mấy đứa con trai "trời đánh". Không hiểu sao mà chúng ác ơi là ác! Có lẽ vì cuộc sống lúc đó quá cực khổ nên chúng cần xả stress? Hay tại nghịch ngợm và phá phách là bản chất? Bọn chúng cứ như là dân đại ca vậy. Có sáng thức dậy bọn con gái bị mất hết quai nón nhung, có đứa mất tấm nilong, … Thủ phạm là mấy cái bụng đói meo của bọn con trai, đêm qua chúng lén lấy rồi đem đi đổi bánh bột lọc và bánh bèo hết rồi. Nhiều đêm đói mà chẳng kiếm chác được gì, bụng rỗng khó ngủ bọn chúng lại bày trò. Mấy đứa Hoàng, Bưởi, Thúc, Minh, Lãng, … diễn lại Mùa hè đỏ lửa trên Đại lộ kinh hoàng.

Tụi nó phân vai: đứa nào nhỏ làm con đeo cứng trên lưng mẹ, giả giọng con nít kêu mạ ơi mạ ơi… nheo nhéo. Đứa nào mập mạp thì làm mẹ vừa cõng con chạy vừa luôn miệng trả lời mạ đay, mạ đay…Mạ đang tìm coi cha con rớt chỗ mô rồi… Mấy đứa khác lại giả bộ tật nguyền chống nạng; còng lưng làm người già và cả làm con nít níu nhau chạy, khóc la inh ỏi. Chúng còn chia làm hai phe đánh nhau rất hăng: đứa làm lính bắn đạn chíu chíu; đứa lái xe tăng ầm ì bắn pháo ùng oàng; đứa dang tay làm máy bay liệng tới liệng lui thả bom miệng ầm ầm; đứa đội nón tai bèo hô tấn công khản hơi; đứa vờ trúng đạn bị thương bò la bò lết kêu van hay bị chết nằm vắt vẻo... Thôi thì chẳng thiếu cảnh nào.

Những âm thanh khốc liệt một thời được tái hiện thật sống động nhưng cách diễn lại cố ý chọc cười. Diễn bên lán con trai riết ít khán giả cũng chán, thế là chúng kéo qua luôn lán bên nữ để diễn tuồng khiến bọn con gái cũng mất ngủ theo.

Có một buổi chiều vừa đi làm về, Hoàng liền chạy qua nói với tôi “Đêm ni có chi xảy ra thì VP cũng đừng sợ nghe chưa? Cứ ngủ đi, đừng mở mắt ra dòm làm chi” Hắn còn nói thêm “Tụi tau bàn với nhau phải nói cho mi biết, vì nếu mi sợ mà chết thiệt thì không ai đẻ kịp mà đền cho mụ Khoá mô”. (Khóa không phải là tên mà là cách bà con trong làng gọi tránh tên tục, vì ngày trước ba tôi có theo học chữ Nho). Nghe hắn nói, tôi không yên tâm chút nào nên vặn vẹo hỏi mãi, cuối cùng Hoàng phải nói ra điều bí mật.
Thì ra, bọn hắn kiếm đâu được mấy khúc xương và chiếc đầu lâu nên định bày trò. Kế hoạch của tụi hắn là tối nay sẽ bắt đom đóm lén thả vào mùng của mấy đứa con gái sợ ma, chắc chắn mấy o ni sẽ tốc mùng mà chạy ra ngoài và khi chạy sẽ đụng phải xương và đầu lâu chúng treo sẵn ở cửa ra vào.

Ôi thôi! Con gái sợ ma mà gặp thế thì chắc chắn là la hét, kêu khóc rền trời. Khi đó các yêng hùng mới xuất hiện cứu mỹ nhơn trong tiếng cười thỏa thích. Nghe kế hoạch thất đức của tụi hắn tôi tá hỏa tam tinh nhưng cũng chẳng dám ho he, vì tụi hắn mà thù là khó sống. Tuy đã biết trước tối nay lũ ác nhơn sẽ hù ma, nhưng khi liên tưởng tới xương và đầu lâu cùng đom đóm lập lòe tôi vẫn nghe rờn rợn.


Tôi không dám bật mí mà tối đó chỉ khuyên mấy đứa con gái nên túm lại ngủ chung với nhau một đêm dù chật chội, còn mấy cái giường trống vẫn cứ giăng mùng rồi đặt mền gối như có người đang ngủ. Mấy đứa trong lán không biết chuyện gì nhưng vẫn làm theo răm rắp, vì chúng rất tin tôi. Khoảng 9 giờ đêm, Lãng với chức vụ trưởng ban bảo vệ (người có quyền đi kiểm tra đột xuất các lán) chạy vô lán nữ kêu “Có một cái bóng áo quần trắng xóa, tóc dài phết đất vừa vô trại nữ, ai mô ở đó để ban bảo vệ kiểm tra!” Rùng rùng sau Lãng là bọn con trai quái ác vừa chạy vừa la Bắt con ma. Bắt con ma.

Đứa hô đứa "tranh thủ" thả đom đóm vào mùng, đứa treo vội các vật hiếm lên cửa ra vào rồi dông tuốt ra ngoài, hí hửng ngồi chờ kết quả. Bọn tôi ngó qua thấy bên giường của Huệ, Liễu và Niềm, Thuỷ đom đóm lập loè bay đầy trong mùng, có con to đỏ lòm đến khiếp. Trên các cửa ra vào, ở khoảng lưng chừng một cái đầu lâu trắng hếu đu đưa với mấy khúc xương dài ngắn đang tòn ten trước gió thật dễ sợ. Bọn tôi rụt cổ và kéo chăn trùm kín mít. Một lúc thấy không có động tĩnh gì, tụi nó quay lại để xem thử thì thấy cả lán nữ im re nên đành thu dọn hiện vật rồi ra về tiu nghỉu như mèo bị cắt tai. Tuy thất vọng vì kế hoạch phá hoại đã chuẩn bị chu đáo bất thành nhưng bọn chúng cũng chẳng có lý do gì để trách tôi được.

Công việc nặng nhọc lại thiếu đói nên bất cứ lúc nào trêu chọc được bọn con gái là bọn con trai ra tay liền. Hình như đó là liệu pháp kích thích lòng vui sống của chúng vậy. Có lần thằng Minh bắt một con rết to bự chảng, thằng Một thì quấn một con rắn đen thùi lùi còn ngo ngoe quanh cổ, lâu lâu hắn thè lưỡi liếm vô mình con rắn một phát rối nuốt ực trông phát khiếp. Hai thằng phát-xít cứ làm như vô tình lang thang qua lán nữ, đi tới đi lui, xáp vô đứa ni xáp vô đứa tê làm bọn con gái chạy tơi tả còn hơn chạy giặc.

Tôi cũng rất sợ nhưng cố bình tĩnh nhẹ nhàng kéo Cúc lảng dần ra ngoài cổng trại của đại đội rồi núp sau một chiếc xe Jeep bị hỏng. Tưởng được yên thân, không ngờ mới được một lát thì Võ Công Diên và Hồng Lam cũng vác đờn ra đó ngồi đờn hát. Hai đứa tôi ngó trốn không yên nên lò dò đứng dậy định đi chỗ khác, ai dè Lam cười nói “Hai o tưởng trốn ở đây là khỏi sợ à? Có ba người bị chết cháy trên xe đó!” Trời ơi! Đúng là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa.

Một hôm vào giờ giải lao trên công trường, chúng tôi đang ngồi nghỉ thì Bưởi tới hỏi “Trong mấy đứa, đứa mô sợ rắn thì giơ tay lên!” Tôi thiệt thà giơ tay lên liền. Huệ, Chủng, Lành ngó tôi nói “ Mi nói sợ là hắn chọc đó, phải nói không sợ”. Lam bước tới hỏi dồn “Còn đứa mô sợ nữa không?”. Ba đứa còn lại đều nói không sợ, không sợ... Nghe thế Lam chỉ tay ra lệnh “VP qua bên tê ngồi, để mấy đứa không sợ ngồi đây coi có sợ không cho biết”.
Tôi ngoan ngoãn làm theo, bò lên mặt đê thay vì ngồi ở triền đê với mấy đứa bạn. Tôi sợ lắm, đụng vô con rắn chắc tôi chết ngất. Chờ tôi đi rồi, Bưởi huýt sáo miệng một tiếng nghe thật du côn, Thúc ở đâu liền xuất hiện với một con rắn rất to toàn thân vằn vện thấy ớn. Hắn đung đưa con rắn rồi thình lình tung vào ba đứa con gái. Cả Chủng, Huệ, Lành cùng thét lên rồi lăn tròn xuống lòng đê thuỷ lợi lởm chởm những đá nhọn hoắt.

Tôi hoãng hồn nhìn theo, dưới lòng đê cả ba đứa nằm sóng soài, ba cái nón bài thơ mới tinh gãy gọng, con rắn cuộn chặt vào Chủng làm nó hét váng trời. Thật là hãi hùng! Sau lần đó, đêm nào cũng nghe tiếng hét của Chủng trong giấc ngủ. Có lẽ ám ảnh hôm đó đã trở thành những cơn ác mộng hành hạ nó. Thật là tội nghiệp!
Mấy đứa con trai ác nhơn cứ tiếp tục hành lũ con gái chúng tôi để giải khuây - dù chúng chẳng thù hằn hay ghét bỏ gì. Đến giờ tôi cũng không hiểu sao chúng ác như thế? Sáng nào cũng vậy, bọn con trai quỷ quái làm vệ sinh xong là đổ hết nước trong thùng. Số nước mà bọn con gái chúng tôi phải vượt quãng đường xa lởm chởm đá mới gánh về được. Có khi nước gánh về gần đến lán chợt bị vướng chân té nhào, thế là công cốc.

Trò chơi ác khiến ai cũng phải dậy sớm, nếu dậy trễ một chút là không có nước để rửa mặt. Trong nhóm nữ, có 2 cô dành nhiều cảm tình cho chàng Mỹ nên sáng nào cũng thi nhau dậy thật sớm lấy nước để dành trong lon sữa guigô cho chàng rửa mặt. Mỹ biết ý mấy đứa mà cứ giả lơ và đem chia cho tôi một lon nước. Thiếu ăn đã khổ, thiếu nước càng khổ hơn nên nước ở đây quý lắm. Ai tình nghĩa lắm mới để dành một ít nước tặng nhau đấy.


Công việc đắp Trấm hàng ngày vẫn thế, từng tảng đá xanh nổ tung lên cao ầm ầm bởi công suất của bộc phá; rồi cuốc, xúc, gánh và đổ. Chúng tôi chạy đi chạy lại từ dưới lòng đê qua triền đê đầy đá sắc nhọn để lên tới mặt đê thuỷ lợi. Tiếng hát “Con kênh ta đào chưa có nước chảy qua. Chỉ có nắng mùa hè nóng bỏng. Mồ hôi muối lưng áo em bạc trắng...” xuyên suốt một vùng đồi núi mênh mông như mang nỗi buồn tuổi mới lớn của chúng tôi.
Một buổi sáng trong lúc chuẩn bị đi làm, Mỹ qua lán nữ nói với tôi “Sáng ni tui đi tháo gỡ bom mìn theo phân công của ban chỉ huy…”. Câu nói ngưng lại nửa chừng nhưng tôi đọc được nỗi buồn và sự lo âu trong mắt anh. Tôi không nói gì được, chỉ lặng lẽ gói cho anh một cái bánh mì và vài táng đường. Khi anh quay đi, tôi nhìn theo mà lòng phấp phỏng vì việc làm ấy lành ít dữ nhiều. Cũng may lần đó Mỹ trở về an toàn làm tôi mừng muốn khóc dù lúc ấy chúng tôi chưa là gì của nhau cả. Có lẽ những chăm sóc nho nhỏ trong cuộc sống gian khổ đó đã kéo chúng tôi lại với nhau.
Hồi đó, tuy khó khăn vậy nhưng riêng tôi vẫn dồi dào thức ăn. Cứ mỗi lần có người lên Trấm là mạ tôi gởi cho tôi rất nhiều thức ăn như khoai luộc, đường, bánh kẹo, …

Mạ còn gởi cả gạo để tôi đổi gạo lấy bánh mì, cứ một long gạo là đổi được hai ổ mì để chống đói. Hồi đó bánh mì thuộc loại thực phẩm cao cấp đó nghe. Nhưng số thực phẩm dự trữ của tôi thỉnh thoảng cũng bị ... chia phần. Chia cho các bạn đồng cảnh ngộ thì do tôi tự nguyện rồi nhưng… tôi bị chia phần mới tức chứ. Không phải người đâu nghe, mà là các loại động vật nho nhỏ quanh đây, có lẽ chúng cũng đói nên lặn lội tìm kiếm.

Chuột, gián thì chạy hà rầm khỏi nói rồi, tối nào nằm ngủ tôi cũng chùm kín mền dù trời nóng hay lạnh vì cứ sợ chúng xơi nhằm chân mình. Một lần đi làm về tối, tôi mò mẫm tìm cục đường đưa lên miệng cắn cho đỡ mệt.
Chưa kịp nhai thì sao tóc đâu mà vướng vào miệng mình quá chừng vậy nè? Tôi đưa tay phủi phủi mới phát hiện ra. Trời ạ! Không phải tóc mà là lũ kiến đen - còn gọi là kiến hôi - chúng đang tranh nhau ăn vụng cục đường tôi để dành, bây giờ tôi ăn chúng. Thế là tôi nôn thốc nôn tháo. Sau lần đó rút kinh nghiệm xương máu, muốn ăn gì tôi phải vỗ vỗ kiểm tra trước khi đưa vào miệng.

Song, tuổi thanh xuân thường biết tìm vui trong gian khó, có như thế chúng tôi mới sống được chứ? Có những đêm khó ngủ chúng tôi lại cùng nhau hò đối đáp, những câu hò đâm bắt tuỳ hứng đôi khi cũng vui đáo để và khiến cho các đội khác có phần kiêng nể cái lán toàn con gái của Hợp I vốn nỗi danh với câu hò “Ai về Hợp I mà coi. Con gái Hợp I cầm roi dọi chồng”. Hi hi… chúng tôi còn chua thêm là … nếu chồng cùng Hợp I thì không thèm sắm roi (!). Điều đó làm mấy anh chàng Hợp I nở mũi nhưng cũng thắc mắc Tụi hắn nói không thèm sắm roi thì sắm cái chi hè???

Chuyện dài của ngày ấy càng nhớ lại càng ngậm ngùi. Thương cho mình một thời mới lớn đã phải chịu quá nhiều thiệt thòi, gian khổ. Hai năm sau, gia đình tổ chức đám cưới cho anh Mỹ và tôi. Rồi tôi cùng gia đình chồng dắt díu nhau đi tìm miền đất mới, bỏ lại sau lưng một miền quê đầy nhớ thương và gian khổ. Đất phương Nam mênh mông đãi người khách lạ. Cũng như bao người dân Quảng Trị bỏ xứ mà đi thuở ấy, gia đình tôi đã chọn được đất lành để an cư lạc nghiệp.

Dù cũng phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có cái ăn, cái để nhưng đời sống của chúng tôi dễ thở hơn. Gia đình tôi sống bằng nghề nương rẫy nên tôi thoát khỏi nạn sợ đỉa. Ngày làm việc vất vả thì ban đêm chúng tôi ngủ thẳng giấc, không phải dự những buổi họp hành dài lê thê đến khi gà gáy nữa. Còn khi trời mưa hay nghe người thấm mệt là chúng tôi ngủ ngon.

 

Hinh là con trai thứ ba trong một gia đình nông dân, không nghèo nhưng cũng chẳng giàu có gì lắm. Cha anh ta có đỗ đạt, đã từng làm quan nhưng tính khí thất thường, lòng đầy ham hố nên quan trên không mặn mà gì nên đã bỏ quan, khi đi dạy học ở chốn kinh kỳ, khi ngồi bốc thuốc ở vùng sơn


cước. Hinh thừa hưởng ở dòng họ và khí chất của vùng chôn rau cắt rốn cái nết cơ bản cần cho kẻ có hoài bão tham chính là tính đa mưu túc kế, lòng dạ thật không bao giờ lộ ra mặt, bạn bè cùng lứa không ai dám kết làm bằng hữu. Hinh sáng dạ, lại có chí, học đâu biết đó, hai mươi tuổi làm thơ chữ Hán, đọc Rút-xô, Mông-tét-ski-ơ…bằng nguyên bản, nhưng Hinh chán học, chỉ nhăm nhăm một dạ xuất ngoại. Đạo học không có đường tắt, mà lập thân bằng con đường học vấn thì mù mịt, xa vời quá. Bằng văn chương thì chỉ khi thế cùng lực tận, bất đắc dĩ mà thôi.


Hằng ngày Hinh sống như người nuốt phải quả chuỳ gai vào bụng, buốt nhói, nhăn nhó, bồn chồn, vừa ngồi đã đứng lên, mới ngủ đã vùng dậy, trán nhăn tối, mắt xa xăm. Như đang phải lòng một tiểu thư khuê các. Nhưng Hinh đâu phải là người dại dột, không bao giờ để phí chí khí, sức lực vào chuyện đàn bà. Vớ vẩn ! Chiếm mười trái tim đàn bà đâu có khó nhưng một trái tim nhân loại thì phải vượt trùng dương. Hinh ngước cái đầu mong đợi lên bầu trời, hoài vọng bóng dáng một con tàu, tìm kiếm một phép thần thông, mong đợi một dấu vết của cõi Thiên hoặc hơi hướng của miền Cực lạc để đưa về cho chúng sinh.


Tháng ngày như sợi chỉ căng mà lòng khao khát làm trai hải hồ, khắc khoải mong một phút được quỳ dưới chân bậc Chí Thánh và nói :"Ơn người. Người là nguồn ánh sáng dẫn dắt chúng con…Lũ chúng sinh con khao khát được gặp Người…"


Thế rồi, như sự linh nghiệm của lời nguyện cầu, một đêm giông tố bão bùng đất trời như trong cơn đau sinh nở, Hinh đã lên chín tầng Thánh địa để được gặp đấng Chí linh.


Bắt đầu là một ngọn nến, ánh lửa dịu ấm, toả một quầng sáng hình nón. Vầng sáng ấy toả hào quang, tia hào quang không thẳng mà có hình gấp khúc. Cuối cùng ở trung tâm vầng sáng ấy hiện ra khuôn mặt kiều diễm của một cô gái tóc vàng.


- Kính thưa…Hinh bàng hoàng thốt lên.


- Không phải ! – cô gái mỉm cười độ lượng – Tôi chỉ là sứ giả của đấng Lập đạo. Anh có lời thỉnh cầu gì gấp lắm không ? Người đang bận, việc hành đạo chỉ ở bước khởi đầu.


- Kính thưa, tôi là người của xứ Nhọc nhằn tăm tối…


- Thôi, anh không cần phải nói, chàng trai ạ, người xứ Nhọc nhằn có khát khao ánh sáng thì việc hành đạo mới càng được dễ dàng. Đây anh cầm lấy, theo Đạo thư này, anh sẽ tìm được chân lý.


Vị sứ giả trao cho Hinh Đạo thư quý giá ấy rồi nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi chỉ còn như một cái chấm chính giữa vầng hào quang rồi biến mất giữa bao la. Hai tay đỡ cuốn sách trước trán, Hinh vẫn quỳ và thành kính đặt lên đó một cái hôn, rồi anh run run dở ra đọc :


"Hãy đi về phía Nam theo con đường một bên là cây và một bên là nước, cuối con đường có quán bia hơi và thịt chó ; đừng nhìn vào chốn đam mê ấy và đi thật chậm. Dọc đường sẽ có người hỏi :"Có đi không ?" thì đừng đi. Đó cũng là người cần lao chứ không phải ma quỷ cám dỗ, nhưng phải đành từ chối. Đi tiếp, sẽ gặp một ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt đã là vườn hoa nhỏ. Bây giờ anh phải khom người xuống, đi chậm bước từng bước một, mắt nhìn xuống mặt đất để "tìm cái này". Cứ thế…chỉ cần một lúc sau,anh sẽ có được thiên hạ."


Hinh ấp cuốn Đạo thư vào ngực tức tưởi : "Trời ơi,bảo bối, bảo bối…". Hinh sung sướng hét toáng lên. Tiếng anh vang rất to trong đêm và lúc ấy Hinh mới biết mình vừa qua một giấc mơ. Nhưng trời ơi, tại sao những điều anh nung nấu trong tâm can bấy lâu nay lại được giải đáp trong mơ. Anh sung sướng và cảm động đến mức nước mắt giàn giụa. "Ôi chúng sinh nhọc nhằn và tăm tối của ta, bảo bối này sẽ soi sáng đường chúng ta đi…"


Sáng hôm sau, Hinh thành kính chuẩn bị lên đường. Quần áo tươm tất ,mũ miện đàng hoàng. Trước nhà anh có một đại lộ chính Nam, có lẽ đúng là con đường này nên anh dấn bước ra đi. Một bên cây và một bên nước, hay một bên rừng một bên biển. Anh cứ đi, qua vài đoạn phố nữa thì anh thấy mình đi đúng con đường men theo cái hồ. Và giữa phố có hàng bia hơi thịt chó mà vài lần anh cũng đã bị cuốn vào đó. Ôi sự linh nghiệm không sai một dấu phẩy. Đường phố trong veo, lui cui mấy chiếc xe đạp chở kẹo bánh, than tổ ong đi bỏ mối cho các hàng nước vỉa hè, lọc cọc đôi chiếc xích-lô cà tàng đi tìm khách. Vài cô gái điếm vật vờ.


- Có đi không ?


Một cô gái điếm rủ rê. Hinh nhớ đến giấc mơ mà thấy lạnh xương sống ; trong mơ cũng ba chữ ấy. Đến cuối phố, Hinh thấy một ki-ốt sách báo thật ; chủ quán vừa mở cửa. Tại sao có sự kỳ diệu thế này, khi tỉnh anh nào có biết chỗ này có một quán sách ? Đi tiếp gặp một ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt là vườn hoa nhỏ. Hinh liền rẽ trái, đi một đoạn qua các cửa hàng bách hoá đã thấy vườn hoa Mùa Xuân.


Kẻ hành đạo không chần chừ đắn đo, đi tới giữa vườn hoa, lòng ngây ngất hơi men, một nửa muốn bay lên, một nửa trì xuống. Mắt Hinh hoa lên, đâu Thiên Thần, đâu Địa Thánh, không biết con đang đứng giữa Địa đàng hay mặt đất. Rồi anh chợt tỉnh lại..."Tìm cái này" là tìm cái gì , anh không hiểu nhưng không dám nghi ngờ lời vàng ngọc của đấng Tiên tri. Vườn hoa nằm cạnh đại lộ, lúc này đang vắng hoa, chỉ có mấy ông già tập thể dục muộn, dăm chàng thanh niên đá bóng và một tốp học sinh cấp ba đi học sắp qua. Bây giờ anh phải khom người xuống, đi chậm từng bước một, mắt nhìn xuống mặt đất… Hinh vừa cúi lom khom chăm chú tìm kiếm vừa lẩm nhẩm đọc. Anh như bị thôi miên, không biết mình đang tìm cái gì, nhưng anh cứ trung thành với lời chỉ gíáo, người cúi lom khom, mắt dán xuống đất và bước từng bước một chậm rãi.


Những người đang qua đường lấy làm lạ. Bắt đầu là nhóm học sinh cấp ba, mấy đứa con trai vốn hiếu kỳ đi đến và tự hỏi, không biết ông kia tìm cái gì nhỉ ? Chúng không thể tự giải đáp được.

- Anh ơi, anh tìm cái gì đấy ?

Hinh mải mê không hề nhìn lên, chỉ buột miệng trả lời :

- Tìm cái này.

Đối với chúng, câu trả lời ấy, làm ngứa ngáy chân tay. Nhất định cha này mất nhẫn, dây chuyền hay hạt xoàn gì đó thôi, chúng mình mà vớ được thì hay lắm.


Thế là cả bọn, cặp sách dồn lại một đống, nhảy vào cuộc tìm kiếm. Khi cả một đám người bò ra sục sạo tìm kiếm thì sự lạ càng tăng lên hàng chục lần. Người đi qua vườn hoa không bao giờ hết, dân lang thang thất nghiệp, dân nhà quê bỏ ra thành phố kiếm cơm…đang đói rách hy vọng vớ được một chút may mắn, những người này đi đến và không thể không hỏi:

- Tìm cái gì đấy ?

Lần này thì tụi trẻ con đã mau miệng trả lời :

- Tìm cái này !

Câu này đối với người lớn làm ngứa ngáy đầu óc. Thế là họ bỏ cả gồng gánh, xe cộ, nhảy vào quảng trường.

Rồi tiếp đến... Bây giờ là dân xích-lô, ba gác, dân ăn xin, trẻ mồ côi bán báo, dăm cô điếm, đám bụi đời móc túi nghe tin cũng tìm đến.

- Tìm cái gì đấy ?

- Tìm cái này.


Mả mẹ chúng nó, giấu như mèo giấu cứt. Nhất định là hạt xoàn, ru-bi, có lẽ tối qua tụi đào đá đỏ qua đây đánh nhau đổ ra một bị đá đỏ không chừng. Mẹ chúng nó, ông mà biết trước, ông rào lại, ông đuổi tất. Ông kia được một viên rồi hả , bắt nộp phạt, chúng mày !

Cứ thế...


Và số người hy vọng có một chút no ấm bò lê trên vườn hoa để tìm vật báu, đến lúc này đã đông như đàn kiến.

Hinh chợt nhận ra tiếng ồn của đám đông và anh ngạc nhiên đứng nhìn họ. Hoá ra thiên hạ đang bu lại xung quanh mình. Một lúc sau anh sẽ có được thiên hạ. Hinh sung sướng đến rơm rớm nước mắt và mãn nguyện ra về.


Cái đám đông ấy cứ như dòng nước trong lòng sông, trôi đi chứ không cạn. Người đến trước thất vọng ra về trước, người đến sau thất vọng ra về sau. "Tìm cái này" là cái gì thì không ai biết, nhưng cứ hy vọng có chút no ấm mờ mờ phía trước cũng đã hấp dẫn lắm, để họ trở thành một dòng nước.


Trưa.

Rồi chiều.
Và... vẫn còn đám đông xúm xít giữa vườn hoa Mùa Xuân. v

Trần Huy Quang
(Truyện ngắn này được đăng trên tuần báo Văn Nghệ, số 27 ra ngày 04.7.1992. Bị thu hồi và có lệnh hủy sau khi phát hành 4 ngày, nhưng càng được tìm đọc. Tác giả Trần Huy Quang bị treo bút 3 năm. Tổng biên tập lúc ấy là Hữu Thỉnh, tuy đi vắng, vẫn bị nghiêm khắc khiển trách. Tác giả cho biết phải suy nghĩ hơn 10 năm mới viết được truyện ngắn cô đọng này ; anh phải suy nghĩ chọn từng câu, từng chữ, từng ý, từng hình ảnh...)                

VI

 

HOÀNG CÁT VÀ TRUYỆN NGẮN CÂY TÁO ÔNG LÀNH

Thứ tư ngày 22 tháng tư năm 2009


NTT: Hoàng Cát nổi tiếng bởi truyện ngắn "Cây táo ông Lành" đăng trên báo Văn Nghệ năm 1973. Nổi tiếng vì "bị đánh". Một cái truyện hiền lành viết về tình cảm tốt đẹp ông Lành dành cho trẻ con đã bị giới "phê bình quan phương" suy diễn nâng thành quan điểm chống lại CNXH. Thời đó người ta còn bảo nhân vật ông Lành là ám chỉ Tố Hữu vì Tố Hữu thường gọi là anh Lành và đầu nhà có trồng cây táo - "Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt" "Xuân về táo rụng nhớ đàn em"... Nhưng sau này Hoàng Cát kể chuyện gặp Tố Hữu thì Tố Hữu nói tớ có biết gì đâu. Vì vậy nên khi làm cái Blog cho Hoàng Cát ghi chú về tác giả dưới ảnh Avatare tôi liền ghi dòng này: Hoàng Cát gần cây táo ông Lành.

Mới biết sự suy diễn của giới "phê bình quan phương" vô cùng nguy hiểm làm khổ Hoàng Cát bao năm "mang án không án" không được đăng cả tên mình dưới những bài viêt. Để nhớ lại thời kỳ kinh hãi đó mời các bạn đọc lại truyện ngắn này cùng với lời "qui tội" của Tạp chí CỘNG SẢN thời đó. 

TCCS: "... Một truyện ngắn về thiếu nhi đăng trên tuần báo Văn nghệ trong thời gian qua thuộc loại nấm độc nguy hiểm. Với lối viết kiểu "biểu tượng hai mặt" truyện này gieo rắc hoài nghi trong quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng ta gieo rắc tư tưởng chống lại đường lối cách mạng chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền chuyên chính vô sản của chúng ta. Miêu tả cuộc sống heo hút tâm trạng u buồn của một ông già người vợ chết vì bom người con trai độc nhất "vô bộ đội đợt đầu tiên kể từ sau khi có lệnh hoà bình" truyện này không những bộc lộ quan điểm sai lầm của chủ nghĩa nhân đạo tư sản trong vấn đề chiến tranh mà còn có tác dụng như một lời kêu gọi phản đối chiến trânh cách mạng có hại cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước của nhân dân ta. Trong điều kiện chuyên chính vô sản cuộc đấu tranh giữa hai con đường ở miền Bắc tiếp tục diễn ra gay go phức tạp tác giả truyện ngắn này đưa ra hình ảnh cái đầu lâu khủng khiếp và nói về việc " từ bỏ con đường này đi theo con đường khác" là có dụng ý gì? Phải chăng đây là sự phản ứng giai cấp trước một số biện pháp như kiểm tra hành chính thu lại ruộng đất bị lấn chiếm chống bọn ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và bọn làm ăn trái phép bọn đầu cơ móc ngoặc vv...mà nhà nước dân chủ nhân dân đã áp dụng để bảo đảm thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong việc giải quyết vấn đề "ai thắng ai"  ở miền Bắc? Cùng với lối viết bóng gió xuyên tạc "nhà mới mà đã dột vì chuột bọ" tác giả đe doạ "bỏ" con đường mà tác giả cho là "con đường tắt" để đi con đường khác! Đó là một sự thách thức chế độ ta. Chuyện đã không chân thật chủ đề lại lấp lửng chi tiết lại đáng ngờ gieo rắc những quan điểm tư tưởng sai trái đây rõ ràng là một truyện xấu và có hại. Vì tính chất độc hại của nó truyện ngắn này đã bị đông đảo bạn đọc kịch liệt phản đối..."

 


CÂY TÁO ÔNG LÀNH
Truyện ngắn của HOÀNG CÁT

Tên thật ông là gì nhiều người không biết. Đã từ lâu người ta vẫn quen gọi ông là ông Lành. Vì tính ông hiền lành và rất yêu lũ trẻ trong làng. Lâu dần nó thành ra tên của ông.
Vườn nhà ông khá rộng có nhiều cây ăn quả như chuối mãng cầu vú sữa táo... Ông Lành thú nhất là cây táo lai. Nó đứng ở góc vườn trùm cái tán khum khum lên một vạt đất chừng dăm tấm chiếu. Cạnh cây táo quý ấy ông đã cất lên một căn nhà ba gian hai chái; chung quanh tường xây gạch mái còn tạm lợp tranh. Ấy là căn nhà ông làm chuẩn bị cho cậu con trai duy nhất của ông lấy vợ ở riêng. Nhưng nhà vừa làm xong thì thằng Sửu lại xung phong vô bộ đội đợt đầu tiên kể từ sau khi có lệnh hoà bình của Chánh phủ cách mạng lâm thời.Thế là ngôi nhà đành tạm để không. Và nó được mang mãi cái tên "Nhà mới". Mặc dù cho đến nay mái tranh của nó đã có đôi chỗ dột vì chuột bọ vì thiếu hơi người ở.
Cây táo quý đứng ngay góc sân ngôi nhà mới ấy. Cây táo càng đẹp thêm và ngôi nhà cũng đẹp thêm.

Mé dậu vườn là con đường ống chạy xuyên qua làng. Sáng sáng lũ trẻ học trò lớp Một đi tắt qua đấy để đến trường. Bao giờ chúng cũng đi thật sớm tíu tít như một đàn chim vồ lượm những quả táo rụng.
Vốn là một ông già yêu trẻ ông Lành lấy thế làm niềm vui. Nhiều khi đứng trong cửa sổ nhìn ra ông thấy lũ trẻ lấy gạch ngói đất đá hoặc que khăng ném cho táo rụng xuống để lượm được nhiều. Ông cũng chẳng la mắng chúng nó làm chi. Ông hiểu lũ trẻ thích ăn táo lắm. Chỉ những đứa trẻ nào nghịch quá ném vung đất đá vào sân hay làm rơi hỏng mái tranh ngôi nhà mới của ông thì ông mới nhẹ nhàng bảo chúng đừng ném nữa. Lũ trẻ cũng biết nể ông ông chỉ cần nhắc một lần là chúng ngoan ngoãn rủ nhau kéo đi. Chúng vừa đi vừa ăn táo và "nhồm nhoàm" trêu chọc lẫn nhau. Rồi chúng đuổi nhau chạy. Rồi chúng cười. Rồi chúng hát nghêu ngao...
Những lúc thảnh thơi ông Lành nhìn lũ trẻ hò nhau nhặt táo rụng mà càng thêm ao ước một ngày gần đây thằng Sửu về cưới vợ; rồi ông sẽ có những đứa cháu cũng líu lo như thế. Ước mơ ấy luôn cho ông niềm vui ngầm trong bụng.

Bà vợ ông đã chết vì bom toạ độ Mỹ từ mùa gặt năm 1967 đúng vào kỳ cây táo sai quả nhất. Thằng Sửu của ông cũng đã đi thoát ly vào quân chủ lực. Chỉ còn lại mình ông. Nỗi thèm khát có đứa cháu bên cạnh cho ấm áp tuổi già càng lúc càng âm ỉ trong lòng ông Lành. Những đêm sương nặng hạt nằm không ngủ được lắng nghe tiếng táo rụng lộp bộp ngoài vườn lẫn với tiếng sương rơi ông Lành chỉ mong chóng sáng để được thấy lũ học trò đi qua nhặt táo...

Nhưng một buổi sáng ông đang ngồi hí húi vót lạt mây để buộc cái nạng chống cho cây táo đỡ ngả xuống vườn vì nặng quá thì bỗng "bịch rộp!" - một hòn đất rơi trúng đầu ông tung toé cả lên vai lên gáy! May mà hòn đất bở không to lắm chứ không thì có lẽ ông đã té xỉu xuống rồi. Thế mà cũng choáng váng mất một lúc. Vừa ngẩng lên ông Lành thấy thằng Thìn đang trân trân nhìn ông vẻ hối hận lắm. Nó lắp bắp:
-Cháu...cháu lỡ!... Ông tha...
Đang cơn bực mình ông Lành ném cây rựa xuống sân đánh "phựt" đứng phắt lên:
-Ông ông cái con khỉ!...
Hoảng quá thằng Thìn co giò bỏ chạy.
Cũng vừa lúc ấy nó gặp lũ bạn ngoài ngã ba cây bông điệp. Nó cản các bạn lại làm ra vẻ bí mật:
-Nè chúng bay à! Tao đi qua cây táo ông Lành vừa nãy mà sợ quá phải chạy lui đó nghe!
-Sao?
-Gì thế? Cái gì thế?
Lũ bạn nhao nhao lên hỏi đầy vẻ băn khoăn và sợ hãi.

Thằng Thìn cậu bé lên tám mắt tròn ấy bấy giờ mới một tay kéo quần một tay vừa ôm vở vừa vung lên làm hiệu và nói như thật:
-Tao đi qua cây táo ông Lành tưởng như mọi khi tao vô lượm trái rụng. Bất chợt có tiếng "ư hừm!"rõ to! Mà giọng nó ồ ồ kỳ lắm! Tao tưởng là ông Lành đùa. Nào ngờ nhìn khắp mà chẳng có ai hết. Tao lại nghe "ư hừm" thiệt to và kéo dài lượt nữa; chừng như có người nào ngồi trên cây táo. Tao mới nhìn lên thì eo ôi! Một cái sọ dừa đen ngòm trên ấy nó trêu tao! Tao sợ hết hồn co cẳng vùng chạy một mạch tới đây. Hú vía!


Thìn kể say sưa và hồi hộp thật. Các bạn nó ngơ ngác nhìn nhau giọng se sẽ thì thào; có đứa tái mét cả mặt:
-Vậy làm sao mà tới lớp bây giờ?
Thìn liền láu lỉnh:
-Đây có phải là đường chính của chúng mình tới Trường đâu. Đường chính là đường to vòng quanh làng chứ. Đường qua vườn ông Lành là đường tắt cho nhanh!
Lâu nay lũ trẻ quen đi đường tắt này vừa nhanh lại vừa được lượm táo. Bây giờ nghe Thìn nói vậy cả lũ réo lên:
-Thôi! Bỏ đường cây táo ông Lành!
-Bỏ thôi!
-Bỏ! Bỏ!

Vậy là lũ trẻ quay ùa ra đường cái vòng quanh làng.
Riêng có thằng Tỵ và thằng Ngọ chưa tin hẳn lời thằng Thìn bèn rủ nhau bò tới rình xem. Chỉ một lát sau hai đứa vội vàng co giò chạy trở lại; càng làm cho lũ trẻ tin chuyện cái sọ dừa đen trên cây táo là có thật.
Từ đó đường qua vườn ông Lành vắng hẳn.
Những quả táo chín rơi vàng cả một góc sân ngôi nhà mới rơi cả ra đường...
Ông Lành nhìn táo rụng vàng ối mà chẳng có trẻ nhặt lòng dạ không đành.
Đêm nằm nghe tiếng táo rụng với tiếng sương rơi lộp bộp ngoài vườn ông thắc thỏm đoán ngày mai thế nào lũ trẻ cũng đến lượm hò reo hí hửng với những túi táo đầy. Nhưng đã hết năm ngày năm đêm rồi mà vẫn không nghe tiếng chân lũ trẻ đi qua nhà ông để đến trường nữa chứ đừng nói là chúng vào lượm táo


Ông Lành ân hận. Hay là thằng nhóc ấy đã nói với lũ bạn nó thế nào để tất cả lũ chúng giận ông? Mà ông đã làm gì nó kia chứ! Một cục đất rơi thẳng vào đầu chứ có phải chuyện chơi đâu.
Chưa biết căn nguyên vì sao lũ học trò lớp Một trong làng lại không đi qua nhặt táo rụng nữa nhưng ông Lành cũng mang cái rổ ra lượm tất cả táo trên sân trên vườn rửa sạch sẽ. Thế nào rồi cũng có lúc chúng nhớ mà đi qua chứ.
Ông vừa làm xong việc đó được một lúc thì chợt thấy thằng Mùi hớt hơ hớt hải cắp sách chạy qua. Nhưng nó không đoái hoài đến cây táo. Ông Lành liền gọi giật nó lại:
-Nè con!
Thằng Mùi ngoái đầu "dạ" một tiếng rõ to rồi định quay đi chạy thẳng. Nhưng ông Lành đã kịp bưng rổ táo chín múp chạy tới giữ nó lại. Thằng Mùi tròn mắt không dám lấy:
-Táo có ma đầu-lâu-đen cháu không ăn đâu ông ạ!
Ông Lành ngạc nhiên:
-Ai bảo mày thế?
-Thằng Thìn! Hôm kia nó đi sớm vào lượm táo một mình bị ma đầu-lâu-đen doạ "ưm hừm" đấy!
-Ở đâu? - Ông Lành càng ngạc nhiên.
-Nó bảo có đầu-lâu-đen trên cây táo của ông! - Thằng Mùi vừa thở vừa nói rồi quay mặt đi chỗ khác đưa tay chỉ lên cây táo.


Ông Lành mới vỡ lẽ! Ông chửi yêu thằng Mùi chửi yêu cả lũ bạn nó:
-Cha mẹ chúng bay nghe! chỉ bày trò dại mà doạ nhau thôi. Tổ kiến đen đấy cháu ạ! Ông nuôi tổ kiến trên ấy cho nó ăn sâu đi để táo khỏi bị sâu ăn chứ.
Rồi ông Lành ngồi vậy ôm hẳn thằng Mùi đứng vào giữa hai đùi ông:
-Cháu đến lớp nói với các bạn là không có ma nào hết nghe! Đây nè để ông đi chọc tổ kiến cho cháu xem.
Rồi ông Lành cười thoả thuê dắt tay thằng Mùi đến bên cây táo lấy sào nứa đâm vào tổ kiến. Lập tức đàn kiến bò ra bu đen cả đầu sào. Thằng Mùi vỗ tay reo lên cười khanh khách. Rồi nó quay vội sang nói với ông Lành:
-Bữa nay vì cháu ngủ quên sợ đến trễ cô giáo la nên mới liều chạy tắt qua đường này đó ông ạ! Bây giờ cháu phải đến lớp kẻo trễ nghe ông!
- Ờ! Mà cháu phải mang chỗ táo ông nhặt đây cho cả lớp ăn với chứ.


Trước đây cô giáo Hà đến xin ông Lành cho mượn căn nhà mới để làm trường cho học sinh lớp Một. Suy đi tính lại rồi ông không cho. Lắm lúc ông cũng thấy có cái gì đó không đành. Hoá ra như thế mình không nghĩ đến tình làng nước nữa sao? Nhưng mà ái chà chà! Cái lũ trẻ ấy cũng nghịch quá lắm! Nếu để cho chúng nó học ở đấy rồi đến tường nhà cũng lở lói hoặc bị bôi vẽ bẩn thỉu những gà mẹ gà con lợn nái mèo hoa lên thôi Và tất nhiên là cây táo quý hoá của ông cũng sẽ trụi thụi lụi cả quả lẫn cành mất.


Nhưng chỉ mấy ngày vắng bặt tiếng trẻ hò reo lượm táo vắng bặt tiếng rậm rịch bước chân của lũ chúng qua trước nhà ông để đến lớp học ông Lành mới thấy hết thế nào là hạnh phúc của một người ông. Ông nhớ lũ trẻ hơn hớn kia quá. Và ông càng đâm ra nghĩ ngợi nhớ lây sang thắng Sửu nhà ông với niềm hy vọng một ngày gần đây ông sẽ có cháu nội . Rồi chúng cũng đi học lớp Một cũng nhặt táo rụng trên vườn kia...


Thế là ông Lành quyết định đến lớp gặp cô giáo Hà. Và tất nhiên ông sẽ được gặp tất cả lũ trẻ nữa. Thứ nhất ông sẽ nói để cô giáo biết chuyện thằng Thìn bịa ra trên cây táo quý của ông có cái đầu lâu đen làm cho lũ trẻ khiếp vía sợ lây cả ông. Thứ hai ông sẽ bảo cô giáo chuyển cho lũ nhỏ về ngôi nhà mới của ông mà học. Chả là ông đã nghe phong thanh đâu cái chỗ lớp học hiện giờ chật chội quá cô giáo Hà định dời lớp sang một làng khác.
Ông Lành đến lớp học của lũ trẻ lớp Một.

Vừa thấy ông từ xa lũ trẻ đã cầm mỗi đứa một vài quả táo trên tay chạy ùa ra hò reo đón ông.
Riêng có thằng Thìn vội ngồi sụp xuống dưới chân bàn mồm đang ngậm một quả táo mỉm cười tinh nghịch. Nó đỏ dừ hai tai...
Mùa táo chín 1973

 

VII

 

Thằng Người Có Đuôi

Thế Giang

- Tên chị là gì?
- Thưa em tên Mơ.
- Mơ gì? Mộng mơ hay quả mơ?
- Tùy, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu...
- Quê quán ở đâu vậy?
- Em ở Thạch Thất, Hà Tây.
- Chị công tác ở cơ quan nào?
- Thưa, ở ty Văn Hóa Thông Tin Hà Sơn Bình.
- Chắc chưa vào Đảng...?
- Vâng, em mới phấn đấu ở cương vị đoàn...
- Chị lập gia đình chưa?
- Em chưa lập, nhưng đối tượng thì có rồi!
- Các cụ nhà ta còn cả chứ?
- Vâng, thầy u em vẫn còn.
- Gia đình được mấy anh chị em nhỉ?
- Thưa, được tám cả thảy...
-  ...
Một bản sơ yếu lý lịch? Một cuộc hỏi cung ngắn?
Tôi thò đầu ra khỏi gầm ghế, hé mắt nhìn về cuối toa xe lửa. Cửa vẫn còn mở có nghĩa là đội công an, thuế vụ trên tàu chưa làm việc, nếu không họ đã đóng chặt hai đầu toa cho hành khách không có đường đi lại hoặc tẩu tán hàng hóa.
- Chị đi đâu mà hành lý cồng kềnh thế này?
-   ...
Bỏ mẹ rồi, đội kiểm tra cơ động đặc biệt! Tôi rụt đầu vào gầm ghế, cay đắng lo cho số phận hai bịch thuốc lá sợi của mình. Hôm nay thứ sáu, nhưng 15 tây, 8 âm lịch: ngày lành. Tử vi tôi tháng này không xung với tuổi, trong năm không có sao Địa Không, Địa Kiếp ghé thăm để mà lãnh tai họa, trộm cắp.

Chuyến tàu khởi hành chậm hai tiếng đồng hồ như lệ thường. Nếu chả may nó chạy đúng giờ thì người ta còn coi như báo trước một điềm gở... Khổ quá, tôi đã tham lam đóng hết hàng, chỉ chừa lại số tiền vừa đủ ăn đường và nộp hụi chết cho cánh công an thuế vụ thường trực trên tàu, đám đột xuất này mà sờ đến thì chỉ còn nước bỏ của chạy lấy người.

Tàu lắc lư chạy trong đêm. Hành khách ba miền của bao nhiêu âm ngữ đã đồng tiếng ngáy. Ngay sát mặt tôi, dưới gầm ghế là hai bàn chân giao chỉ với ngón cái xòe ra, dính đầy bùn đất của anh nông dân vừa lên tắt hai bao sắn qua cửa sổ. Trên ghế đối diện, thuộc về giai cấp khác, mấy ông cán bộ đi công tác với cặp táp, điếu cày đang ép nhau ngồi. Thỉnh thoảng, những khi tàu lắc mạnh, các vị lại xón cho giai cấp dưới cùng tí nước điếu. Hai con bé con tóc khét nằng, áo bà ba đen, quần đùi, đang ôm lấy bao than củi ngủ, chả hay biết nước thánh cam lồ chảy tong tỏng trên lưng mình. Trên đâu tất cả là mấy ông con trời bộ đội đang nhịp nhàng kẽo kẹt thượng tọa trong võng. Chú lính treo gần tôi nhất đầu ngoẹo ra khỏi võng ngủ, môi trề ra, nước dãi nhểu nhảo chảy xuống bụng chị có con mọn đang tốc áo cho con bú ngáy khò khò trên ghế.

Trời ơi, muốn ra được cũng thật khó, tôi gồng sức đẩy hai bàn chân chắn ngang mặt mình mà không được. Sau mỗi cố gắng, anh nông dân lại cho tôi một cái đạp hoa cả mắt. Đau vì bị đạp thì ít, mà ức vì bị đèn nén thì nhiều, tôi nghiệm thấy, quy luật đấu tranh của xã hội cũng đúng cả dưới gầm ghế này. Nhưng thôi, tất cả đều đã mệt, cần được ngủ để có sức chiến đấu cho lúc xuống tàu.

Tỏng tỏng... róc rách... Tàu chạy vào khúc xuôi gió thì vẳng lên tiếng nước chảy, rồi âm ấm ở đầu. Nghiến răng chịu cho cái chân ghế cứa vào cổ, tôi ngỏng đầu lên để nhìn. Trời đất, suối nguồn thiên thai được bắt từ cái cần câu cong vút của thằng bé đang nằm nghiêng trên ghế ngậm ti mẹ. Xung quanh không ai để ý. Tôi rút tay, vuốt vuốt tóc rồi đưa lên mũi ngửi. Cũng may, trẻ nhỏ nó chưa ăn mặn nên tè ra không khai lắm, chứ như cái mùi thường trực bốc lên từ cầu tiêu đầu toa thì bỏ mẹ. Hành khách đi xe lửa Thống Nhất chả bao giờ bị cảm mạo, trúng gió cũng là nhờ cái mùi này chủng ngừa trước.
- Chị có tranh thủ mang ít hàng để cải thiện không ?
-  ...
Cái giọng lấy cung kia lại quái ác nổi lên, tôi đã tỉnh ngủ, nghe rất gần, ngay khoang bên cạnh. Khổ nổi không làm sao chui người ra đuợc để còn biết đường mà chuồn. Thôi thì trăm sự đành cậy nhờ cây đèn bão tù mù này. Giá có ngọn gió nào thổi tắt nó đi thì đỡ biết mấy.

Lúc vừa nhảy lên tàu tôi đã chọn ngay cái toa toàn các khuôn mặt hao hao đói của cán bộ, ngô nghê chất phác của nông dân này để trao thân. Tôi định mập mờ đánh lận con đen giữa đám người lương thiện hòng trốn tránh các toán kiểm tra bất ngờ. Tôi đã mừng rơn khi những «thành phần cơ bản», chủ nhân của toa tàu giương cặp mắt tò mò, đố kỵ, sợ bóng sợ gió nhìn mấy bà «ngụy» đi thăm nuôi chồng con cải tạo ở miền Bắc về rồi từ chối không cho họ ngồi ké.

Tuy đã đuợc thực tế phũ phàng của những trại tù, cuộc sống đầy tương lai của miền Bắc XHCN nhuộm xanh lè cả mặt, nhưng mớ áo quần bằng vải tốt, đống guốc dép, đầu tóc khác lạ, nhất là thói quen nhìn lại chỗ ngồi, phủi phủi vài cái rồi mới e dè đặt mông xuống của mấy bà khiến cho hai miền không thể lại gần nhau được. Tôi tiếc rẻ vận cổ nhìn tiễn theo mấy cái gót chân thon nhỏ, dính chút bùn đi tìm bến đậu khác. Nhưng đời là một cuộc chiến đấu lớn, phải biết tiêu diệt những tình cảm phù phiếm trong mình để đi tới đích. Than ôi, những hy sinh lẻ tẻ đó cũng không cứu được hai bao hàng, đám con chiên hiền lành kia cũng không giúp tôi được chút gì, cái mánh mung của tôi đã hại tôi, chuyến này thì tiền mất tật mang rồi. Không còn cách nào hơn, tôi đành dọn mình, chuẩn bị đón tai họa sắp tới. Trong bóng tối, dưới gầm ghế, bên cạnh hai bàn chân chỉ chực đạp vào mặt với mùi khai của nước tiểu, tôi chợt nhớ đến bài hát của Trịnh Công Sơn «Nơi đây tôi chờ... nơi kia anh chờ... » để được ngồi trên «...chuyến xe qua ba miền...». Phải rồi, bên đây tôi nằm, bên kia em nằm, cũng chuyến xe qua ba miền. Cái bậc nghệ sĩ họ thật giàu tưởng tượng và lãng mạn.
- Rụt chân lại !
Tôi hét to, cấu mạnh vào chân anh nông dân. Một cái đạp tương xứng với cái cấu tung vào mặt tôi nhanh nhạy như phản xạ co giật của con ếch khi bị truyền điện. Anh ta cằn nhằn trong miệng rồi tiếp tục ngáy.
- Xê ra cho người ta đi... tiểu !
Không dám cấu nữa, tôi chỉ biết, cũng cốt ý cho đám công an bên cạnh nghe thấy để hợp pháp hóa việc bỏ đi của mình. May làm sao anh chàng nông dân trở mình đổi thế nằm, hai hòn đá chắn cửa hang rụt lại, tôi vội nhoài người ra, đứng dậy leo trèo qua đống thịt ngổn ngang nằm kín lối đi để ra ngoài. Đứng trong cầu tiêu một lúc cho vừa đủ thời gian tiểu tiện, tôi hé cửa nhìn ra. Toa tàu hoàn toàn yên tĩnh, chỉ có gió lùa ở hai bên cửa sổ, tiếng bánh sắt nghiến xuống đường rầy. Quái lạ, công an biến đâu hết rồi ? Đánh bạo, tôi mò lại gần. Hai bên thành toa võng giăng kín thành hàng, đưa đẩy. Hành khách trên ghế gật gù ngủ. Chả có bóng áo vàng nào hết! Tôi nằm mơ chăng ? Rất có thể vì dân chạy hàng bọn tôi suốt ngày đêm bị rình rập, phải đề phòng, trốn chạy nên riết rồi méo mó nghề nghiệp, nó theo cả vào giấc ngủ. Cứ sống với cái nghề này có  ngày vỡ tim mà chết. Tôi đứng tựa lưng vào thành ghế, định thần lại. Chị có con mọn đã ngã choãi lên người tay thiếu úy trẻ để ngủ, vú vê bày thõng thượt. Đứa con lọt vào kẽ nách mẹ, ngỏng cổ mân mê cái đầu tí. Chả biết họ có chồng vợ gì không, nom chị ta vẫn còn trẻ, già độ hai ba năm về trước có ai động đến tí của «trời cho» đó sẽ bị nhảy lên đùng đùng tru tréo chửi. Người thứ tư trên ghế, một ông cụ già râu tóc lưa thưa, nghiêng người cho đủ chỗ ngồi, tay bám với lên thành ghế, đầu cúi gục xuống gần ngực chị có con mọn gật gù ngủ. Bao nhiêu mật ngọt lòng thòng rỉ từ miệng chú lính trên võng, cái đầu ông hứng hết. Ba ông cán bộ tóc điểm muối tiêu, áo sơ mi trắng cọc tay, khư khư ôm cặp táp trong lòng đang nhịp nhàng lắc lư trên ghế đối diện. Ngay trong giấc ngủ họ cũng có cái vẻ «nhất trí» như khi làm việc. Tàu sắp đến ga Nha Trang, vùng đất bão lửa đối với dân buôn chuyến. Chỉ còn một ngày đường nữa những sứ giả nguyên thủy của CNXH sẽ đổ bộ vào Sài Gòn, thành phố đang trên đường cải tạo để trở về với miền Bắc, với CNXH. Tôi cúi xuống nhìn vào gầm ghế. Hai bao hàng vẫn ngủ yên trong đó. Cái bào thai đã đi được chín tháng chín ngày. Cầu trời cho nó được mẹ tròn con vuông. Khoang bên cạnh cũng toàn các khuôn mặt trong biên chế, những lá bùa dán đè lên bản mặt «bất chính» của tôi. Đừng rẻ xuống ga lẻ dọc đường, bỏ tôi côi cút một mình nhé, hỡi các bạn yêu dấu. Tôi sẽ chi viện cho miền Nam ruột thịt ít sợi thuốc lá vàng, do chính tay vợ con các bạn trồng. Những ông ba tàu chợ lớn với kỹ nghệ làm giả tuyệt hảo, hơn hẳn nền đại công nghiệp XHCN sẽ vấn thành những điếu thuốc CAPSTAN thẳng thớm, đẹp đẽ trong hộp carton giấy bóng kính để các bạn trầm tư, đắn đo, quyết định tốn kém, mang ngược về miền Bắc làm quà cho anh em bè bạn.

Một cặp trai gái vẫn còn thức, họ ngồi nép vào nhau, thỉnh thoảng trao đổi những cái nhìn. Gã trai với cây đàn ghi ta treo trên đầu, tóc dợn sóng, có dáng dấp của một vĩ nhân tỉnh lẻ, ông chủ hiệu may, hiệu chụp ảnh, một bậc văn hóa lớn ở phố huyện (?) không ; gã có vẻ là anh đội trưởng đội chiếu bóng huyện hơn là những vị kinh doanh thẩm mỹ vì cái kính râm nội hóa cài khéo ở ngực, áo sơ mi trắng loại vải không pha ny lông, quần kaki xanh mua phân phối, ở cổ tay thiếu cái đồng hồ. Cô gái ngồi bên cạnh tuổi chừng đôi mươi, tóc dài, hoe màu nắng cháy. Khi cô ngước mặt lên nhìn tôi thì trời đất ơi, một trang tuyệt sắc giai nhân. Đôi mắt có đuôi, mở lớn hiêng hiếng xếch đang cười lăn tăn. Mũi cô thon nhỏ, thường tìm thấy nơi tượng Đức Mẹ hoặc trong hình thiếu nữ e lệ in trên băng, đĩa vọng cổ. Cặp môi cũng chúm chím cười như mắt, phơn phớt hồng, nổi trên miền da trắng. Những đường nét, màu sắc đó được ướp trong vẻ hồn nhiên tươi tắn của cô gái mới mập mờ linh cảm về nhan sắc của mình. Toa tàu như tỏa mát hương sen, tôi ngó vội xuống quần áo của mình, lúng túng dấu mấy ngón tay dắt kín đất đen ở kẽ móng. Trong phút chốc tôi quên bẵng hai bịch thuốc lá, mũi tôi điếc với mùi khai, mắt tôi mù với thân thể nếu được phơi bày ra hết sẽ diệt dục trai tráng của thiếu phụ có con mọn bên cạnh, tôi ngây người như đười ươi giữ ống chiêm ngưỡng cô gái. Gã trai cảm thấy bị hao mòn mất mát bởi đống tình si chảy nhão nhoẹt trước mắt mình bèn đưa tay kéo cái vạt áo hở của cô gái, ra điều hoa đã có chủ. Gạt nhẹ tay gã ra, cô sửa lại thế ngồi rồi thẹn thò liếc tôi. Gã trai húng hắng ho. Như để chạy đua vũ trang với tôi, khẳng định với cô gái, gã xoay hẳn người lại, cặp mắt nhừa nhựa la liếm lần trên gò má hồng, bò quanh miệng, rồi chui xuống cổ cô. Cảm thấy gã sắp trườn vào lòng người đẹp đến nơi, tôi «e hèm» đánh tiếng, quay mặt đi chỗ khác. Sự buồn giận vô cớ chợt xâm chiếm lòng tôi. Hương hoa thế kia dãi gió dầm mưa làm chi trên chuyến tàu này. Vẻ đẹp mong manh bên cạnh sự lố bịch. Vâng, người là hoa của đất, là bà chúa của thiên nhiên, bao nhiêu cuộc đời mới dâng hiến một khuôn mặt đẹp, cũng chỉ đẹp trong tích tắc, một lần phát hương rồi trơ mình ra cho cuộc sống chìa hàm răng vẫu thô lậu nghiền nát. Chỉ sau lời tuyên bố ngắn ngủi của đồng chí chủ tịch xã kiêm chủ hôn, sau ba năm sống không có ca nhạc, ti vi chiếu bóng đêm, người đẹp ngồi kia sẽ biến thành cái máy đẻ, con đường đi đến thiếu phụ sau lưng tôi sao mà gần. Quần xanh, áo trắng mới tinh khôi, tôi nổi giận với cả sự ăn diện của cô gái. Ở xã hội này mỗi khi muốn chứng tỏ «Tôi đi chơi », «Tôi làm đẹp », người ta không có chọn lựa nào khác ngoài màu trắng để tách mình ra khỏi màu nâu lam lũ với đất, màu tím than đánh lẫn với dầu máy, màu áo lính nhuộm xanh cả đất nước. Từ đồng chí Tổng Bí Thư trên diễn đàn đại hội đảng, chú cai ngục hỏa lò Hà nội hai tay đút túi quần bước vào quán phở, cho đến cặp trai gái đi dạo quanh hồ Hoàn Kiếm, ai ai cũng chỉ một màu áo trắng. Cái màu trắng đẹp đẽ thanh khiết bị lạm dụng, bị cưỡng hiếp trở nên nhàm chán, làm nhòe nhoẹt các khuôn mắt đời vốn đa dạng, biến nó thành một thứ đồng phục ngớ ngẩn.
- Mặt mũi không đến nỗi nào mà ăn mặc bẩn thỉu như mọi rợ...
Gã trai thì thầm với cô gái. Cô ngước mắt nhìn tôi. Họ cùng cười với nhau.
- Chị đã mệt chưa ? Cứ ngả lên người tôi mà nghỉ... ?
Gã đề nghị, ngồi lấn vào cụ già đang ôm cái tay nải bên cạnh để nhường chỗ. Tôi ngờ ngợ, dỏng tai chờ đợi
- Không. Cảm ơn anh em còn ngồi được.

Cái giọng «lấy cung» khi nãy ? Tôi nhìn chăm chăm vào mặt họ. Cô gái ngượng ngùng quay mặt đi chỗ khác. Gã trai nghĩ tôi là chướng ngại cản trở dịp may chờ đợi đã lâu nên lừ mắt hằn hộc xua đuổi. Thấy địch thủ vẫn không nhụt chí, chả cần bóng gió xa xôi, gã ném thẳng vào mặt tôi câu chửi :
- Chỉ có đồ vô văn hóa mới thò mõm vào việc người khác! Thôi đúng rồi, chả có Công An nào hết, tôi cũng không nằm mơ, cũng không có ma quỉ gì quấy phá, anh bạn trẻ ngồi trước mặt chính là tác giả bản «hỏi cung» khi nãy. Tôi sờ lên túi áo ngực. Trong cuốn chứng minh thư (cũ) của Công An cấp, ngoài tên tuổi, địa chỉ, quê quán, đã can án lần nào chưa, còn những mục về cha mẹ, vợ con, còn sống hay đã chết... Tôi nhớ đến những lúc mới làm quen, người ta cũng hỏi và trả lời đầy đủ những điều cần thiết trong một bản sơ yếu lý lịch. Hỏi như một thói quen, nhiều khi chả để làm gì và sau đó ai đi đường nấy. Thói quen méo mó đó ngấm sang cả địa hạt yêu đương.

«Nơi em về trời xanh không em... » Bên này vĩ tuyến 17 không có một câu hỏi thơ mộng, lãng mạn như vậy, còn các Vũ Hoàng Chương, Khái Hưng, Hàn Mặc Tử... đã bị đánh bật rễ khỏi người đọc, gom lại trong cái nghĩa địa văn hóa cổ, le lói trong ký ức người già. Các tay «yêu» lừng lẫy một thời vẫn còn đấy, nhưng đã biến thành Xuân Diệu Xuân Xang Xuân... Tóc đỏ. Người ta đã tiêu thổ kháng chiến đến cả yêu đương. Nói đến «yêu» cũng phạm húy, phải gọi là «tìm hiểu», người yêu là «đối tượng tình cảm» (đối tượng đoàn, đối tượng đảng, đối tượng của pháp luật ). Hôn nhân được xây hào đắp lũy thành «lập gia đình». Chữ «chàng» và «nàng» được cách mạng hóa thành những chữ «anh», những chữ «chị», những «gã», những «hắn» trong văn học hiện hành. Người ta lập pháp hóa cả tình yêu, vớ vẩn có thể bị qui là «quan hệ bất chính», «tác phong thiếu lành mạnh». Đa sầu đa cảm, yêu lăn yêu lóc cả trong nhạc lẫn ngoài đời như ông Phạm Duy dám đi cải tạo không có ngay về.

Tình yêu không được thi ca ấp ủ, dẫn dắt, hướng thượng, thè lè đi ngoài đường trong những dịp quốc khánh, hội hè đông người để sờ mó, gỡ gạc lẫn nhau, «hủ hóa» với nhau trong nhà kho công sở, hoặc nếu đúng đắn nghiêm chỉnh hơn thì đặt ra tiêu chuẩn «3B» (Bôn sê vích, buồng ở, bia cung cấp) để «tìm hiểu». Vì vậy những lời yêu đương được mở đầu bằng «Đồng chí công tác ở cơ quan nào ?...»
Tôi cười rú lên giữa toa tàu. Gã trai giật mình rụt vội bàn tay có mắt về. Một vài hành khách luống tuổi tỉnh giấc, khó chịu nhìn thằng điên đang sắp ngửa leo qua đống người nằm giữa lối đi để ra ngoài. Ông bạn trẻ cay cú tiễn với theo...
- Thật đúng là đồ quái dị!

*
Chuyến tàu đó đã dừng lại ở Việt Nam. Hai năm sau, trên chuyến tàu ở xứ tị nạn, tôi lủi thủi đi lại một mình giữa toa tàu trống vắng. Lác đác vài cặp mắt xanh sợ gió máy đóng kín cửa sổ, khụt khịt mũi nhìn con người dị hợm cuồng cẳng. Không được chen chúc, hằm hè chửi bới nhau, không sợ cảnh sát bằng mấy con chó cảnh chạy lăng xăng bên cạnh mấy bà già, buồn, tôi lẩn thẩn ước lượng số ghế trống rồi nao lòng nhớ về những anh em bè bạn ở quê nhà. Xót xa với máu mủ mình chưa hết, tôi còn thương lấy cả cái ngành hỏa xa của xứ người. Làm ăn như thế này thì lỗ chết. Tôi quên béng đi mất, rằng tiền vé chém rất nặng, cuốc đường ngắn như thế này nếu gửi quà về Việt Nam thì «chúng nó» lai rai quán cóc cả tháng trời. Tôi nhớ về bên nhà như một kẻ thiếu nợ. Con thú hoang dã đã được thuần giống bằng trợ cấp thất nghiệp (cho mày đủ ăn để tự giam mình trong chuồng, đừng có nhìn sang túi khác). Tôi đã «quên» chưa trả lời gần chục cái thư, thư nào cũng giống nhau một điểm là ngắn (đỡ tiền tem). Chữ nghĩa tiết kiệm rồi, lại còn bóng gió xa xôi,  nhưng cái bóng gió xa xôi tài tình đến độ lồ lộ hiện ra khuôn mặt dài ngoẳng vì đói vì chờ của ông bạn. Trước khi đi, tôi đã dại dột bốc đồng «Tụi mày yên tâm đi, tao mà...» Cái «tao mà...» ấy cho đến giờ này cũng chỉ tiến thêm được một bước thành «tao sẽ...» nhưng tôi cũng không ân hận là đã cho họ ăn bánh thánh. Có vị bác sĩ nào đủ can đảm nói với người bệnh đang hấp hối của mình «Xin thưa, tôi bất lực, tôi không có thuốc...?» Những con tin của lương tâm ở bên nhà hiện đang sống bằng hy vọng. Tôi lừa họ chưa đủ, họ còn phải tự lừa mình nữa thì mới sống nỗi. Méo mặt trả xong tiền tem, cầm bằng mua xấp vé số, họ xoa tay yên tâm chờ đợi. Nhưng mấy chục cái đơn xin việc của tôi mất hút không về, sổ vẫn chưa mở, lại tiếp tục «quên».

Xuống tàu phải mua ngay mấy tấm vé số! Tôi hạ quyết tâm cho lòng yên ổn (lại tự lừa mình?) để còn nghĩ sang chuyện khác. Đúng lúc đó thì có tiếng «hèm» sau lưng. Lại một cụ ông, cụ bà bản xứ với những câu hỏi đầy bác ái như cho kẹo trẻ con về cảnh ngộ, sự hội nhập, phong cảnh quê hương? Tôi gắn vội nụ cười ba phải lên môi, chuẩn bị sẳn mấy câu thuộc lòng để trả lời.
-  Xin lỗi, anh là người Việt Nam?
Trời ơi tiếng Việt! Tôi quay phắt lại ngó sững người bắt chuyện.
-  ...
- Xin lỗi ông tôi lầm lẫn...
Người đàn ông tuổi trạc bốn mươi, mắt sáng, ăn mặc buông thả lúng túng xin lỗi bằng tiếng bản xứ, vẻ mặt đầy thắc mắc. Tôi hiểu ngay sự thắc mắc đó. Người Việt gặp gỡ tình cờ ở ngoài đường ít khi nhìn nhận nhau vì họ không nói được tiếng Việt.
- Không, tôi là người Việt!
Tôi vội vã xác quyết.
- Anh đi từ miền Bắc?
Người đàn ông vồ vập. Tôi cũng nhận ra ngay cái giọng Bắc toang toác của ông ta.
- Dân tỉnh nào đấy?
- Hà Nội đây!
- Đây cũng Hà Nội!

Khỏi cần nói về nỗi mừng. Chúng tôi xoắn xuýt ôm lấy nhau mà hỏi chuyện. Chuyện bên nhà, chuyện đi đứng, chuyện ổn định đời sống bên này... Khi đã cạn những vấn đề thời sự (miếng trầu của đầu câu chuyện) trong tiếng xe xé gió, chúng tôi ôn lại những ngày tháng xa xưa của Hà Nội. Như hai anh lính trẻ đi giữa Sài Gòn, cái phố huyện hẻo lánh giáp vùng thượng du Bắc Bộ của họ là nhất thì Hà Nội đối với chúng tôi là vô địch. Bát phở Quyền ở ngã tư Phú Nhuận (té ra anh cũng đã nếm) thịt thà hùng hậu, nước độc đáo thật, nhưng độc đáo trên cái nền nhòe nhoẹt đánh lẫn với nước hủ tiếu ở Sài Gòn, không «ác ôn» bằng phở Thìn đối diện đền Ngọc Sơn ngoài Hà Nội.
- Cậu thử tưởng tượng xem, về khuya đi ngược gió đông, cách cả trăm thước mà cái thằng phù thủy ấy nó dở nắp thùng phở lên có sởn gai ốc không hả...? Trong túi không có tiền thì bỏ mẹ!
Tôi cảm thấy hơi phở nóng phả ra từ mặt anh nên gật gù.
- Thế mới là phở chứ những chỗ cậu kể đi sắp ngã vào nồi cũng không hay, bát phở bưng đến trước mặt, mở mắt ra mới biết thì còn gì là phở?

Sau khi đi một vòng các hàng quà Hà Nội, anh dắt tôi đến quán cà phê. Cà phê Hà Nội cũng lại nhất. Anh kể ra tên mấy cái quán ít ỏi của đất Thăng Long với từng «gu» của nó. Quán «Moka» phố Bùi Thị Xuân có cô con gái đẹp như Kiều, nhưng không át được mùi thơm của cà phê ông bố. Quán «Nhỉ» phố Hàng Cá đậm đà chút nước mắm nhỉ (nên mới gọi là ông Nhỉ). Quán «Nhân»  đầu Hàng Gai có hương vị huyền ảo khó tả, người không biết, tưởng ông đánh thuốc phiện khách... Anh thừa nhận không gì sánh nổi hạt cà phê Ban Mê Thuột, nhưng Sài Gòn có vẻ chưa để ý đến nghệ thuật pha trộn. Cà phê nó có nhiều loại. Vối cho vị chát, mít cho vị chua, và chè cho vị đắng. Nếu nhiều chè một chút, tí vối, tí mít thì thành gu « Moka», hoặc đổi lại thì thành Nhân thành Nhỉ... Rốt cục tròn trịa, óng ả, no đủ như hạt cà phê Ban Mê Thuột chỉ cho được mùi thơm choáng ngợp khi mở nắp phin. Hết!
- Nhưng hình như các ông Nhân, Nhỉ, Moka bây giờ pha hơi nhiều muồng muồng trong đó thì phải...?
Tôi rụt rè phát biểu. Anh xìu người, gãi đầu rồi cười. Dù sao cũng phải công nhận anh là bậc thượng tọa trong cái đạo ăn uống này.

Hết chuyện ẩm thực, chúng tôi xoay sang chuyện người đẹp. Trong địa hạt này anh không dám cục bộ địa phương nữa vì biết tôi cũng đã chui qua cái xã hội lấy chiêu bài «bình đẳng, giải phóng» để đẩy người phụ nữ xuống bùn, chui rúc trong hầm mỏ, lẫn lộn ngoài chiến trường như nam giới. Bên cạnh đó là hệ thống tuyên truyền đồ sộ, ăn ý như dàn nhạc giao hưởng luôn gõ trống thúc dục cho bắp thịt nở nang của phái yếu trong bức tranh «ai nhanh tay cuốc bằng tay em...» trong nhịp nhạc «niềm vui cô gái mở đường Trường Sơn» trong văn học. Gái Bắc Hà đã bị déformée biến dạng thành cái vai nở, thân hình trùng trục vì lao động nặng.
- Cứ nhìn thấy gái Sài Gòn là tớ nghĩ đến chuyện ly dị...
Anh đốt điếu thuốc, phả khói lên trần toa lim dim mắt cười. Tôi nói đến gái Cần Thơ, Vĩnh Long, đất gạo trắng nước trong da thịt mơn mởn như xoài. Anh kể về mấy chị Huế nhu mì e ấp dưới mái tóc thề, ẩn dật kín đáo với làn da trắng xanh, nhưng con mắt thì đi nhiều hơn chân, làm nhiều hơn tay, nói nhiều hơn miệng, quả tim như núi lửa chỉ chực bất tử phun nham thạch.
- Ờ lạ thật... Sài Gòn là đất tứ xứ, nhưng bất cứ người ở đâu hễ nhập vào nó ba bốn năm là thay da đổi thịt, biến thành dân Sài Gòn. Đâu như Hà Nội mình, anh từ Hải Phòng lên, sống cả hai chục năm, đẻ con ra vẫn lơ lớ giọng nước lợ, tính tình tềnh toàng của dân thành phố cảng. Chị ở chiến khu về, sống đến mấy đời hộ khẩu vẫn không tẩy được cái cách nhấm nước bọt đếm tiền. Sức cảm hóa, khả năng hội nhập ở Sài Gòn nó khác...

Tôi lấy Huế để giải thích hiện tượng đó cho anh. Nếu chính anh có dời cư về đó ở, không phải hai chục năm mà bốn-sáu chục năm, cho đến chết, chất Huế cũng không thắm vào anh được. Vùng đất nào đã được chọn làm kinh đô trên một thế kỷ tự nó sẽ tạo nên bản sắc riêng biệt cho mình, hội nhập sẽ rất khó...

Chúng tôi cãi nhau như mổ bò (dấu hiệu đã thân thiện) về những vấn đề cả hai đều không nắm vững, hoặc chả có gì đối nghịch nhau. Để đừng đập vào đầu nhau trong lần gặp gỡ đầu, tôi lái câu chuyện trở về người đẹp Hà Nội. Thế là lại một màn truy tìm các bóng dáng xưa. Để chứng tỏ mình cũng là tay cung kiếm một thời, những con nhà nọ, em gái thằng kia... Câu chuyện trở nên gần gũi, tôi râm ran bồi hồi với tên tuổi một vài người đẹp đã làm mình điêu đứng. Lần mò một lúc, anh dẫm trúng phải cô em vợ tôi ở phố Hàng Ngang. Người đồng hành, đồng hương càng trở nên thân thiết. Tôi như thấy cả Hà Nội đang thở nóng bên tai mình.

Đêm đó tôi không ngủ được. Khi chia tay chúng tôi cho nhau địa chỉ, hẹn nhất định phải gặp lại. Tôi sắp xếp thời gian rãnh rỗi trong đầu rồi sốt ruột mong sớm được ăn tục nói phét với ông bạn còn quí hơn vàng ở cái xứ buồn hiu này. Cũng nhờ anh mà ký ức vốn trí tuệ vì mưu sinh của tôi được khai thông. Tôi trằn trọc nhớ Hà Nội, tưởng tượng rõ ràng từng quán cà phê, góc phố, cô láng giềng với từng tiết xuân, hạ, thu, đông. Thơ thẩn đi hết một vòng thành phố, bắt đầu mỏi mệt với ký ức, tôi trở về với con người anh. Lứa tuổi ấy, nghề nghiệp ấy, số nhà ấy, la cà ở quán cà phê ấy với những người quen ấy... Tôi cười tủm trong bóng tối vì sự trùng lặp những ham hố, thói hư tật xấu của mình với anh bạn. Ờ, tại sao không biết anh từ trước nhỉ? Tôi lần mò những mối quan hệ trong đầu, vẫn không lòi ra con người ấy. Khuôn mặt này cũng chưa nhác thấy ngoài phố một lần. Tôi lay vai vợ để hỏi xem có biết anh nào tên Q. hồi trước có đến tán em gái không. Nàng đang ngủ, sẳng giọng trả lời là không cho xong chuyện.

Tôi lại trằn trọc hâm nóng trí nhớ sét rỉ để tìm kiếm. Cái phố nhỏ ấy, với số nhà, không nhớ chính xác, nhưng tôi có thể mường tượng được anh ở đâu gần quán phở mậu dịch, nơi thôi thường đến tán tỉnh mấy cô bán hàng để được mua bia hơi không kèm đồ ăn. Mắt mày cũng là bợm nhậu, sau chưa tặng nhau mũ cối vào đầu trong những lần chén nhỉ? Hay ít nhất cũng hối lộ vài điếu thuốc để được nhường khéo đứng trước mình với lý do gửi chỗ? Lạ thật, Hà Nội nó nhỏ như cái túi vải dắt trong cạp quấn của bà bán rau, đồng xu cắc bạc cọ xát nhau luôn xoành xoạch mà sao không bật ra khuôn mặt này. Tôi điểm lại trường hợp ra đi của anh. Theo như lời kể thì lẫn trong làn sóng người Hoa năm 79, vợ chồng anh không đủ tiền, phải sang lại căn buồng cho người khác để lấy tiền hoa hồng. Đồ đạc trong nhà bán sạch từ quạt bàn, giường tủ, xoong nồi, chổi cùn, rế rách.v.v... Anh là người Việt, để che mắt mọi người về chuyện bất thường này, hai vợ chồng phải đóng kịch, cứ tối tối đóng cửa chửi nhau toáng lên ở trong nhà, ra cái điều cơm không lành, canh không ngọt. Đước hôn một tuần, ngó chừng màn kịch đã ngấm sang hàng xóm, họ mới mở cửa đi rêu rao với mọi người rằng không thể sống với nhau được nữa, phải bán nhà, bán đồ chia đều tiền rồi ai đi đường nấy. Cũng có thể đúng vì ngoài Bắc rất nghèo, ở những chốn nghèo nhất cử nhất động đều bị để ý. Tuy mỗi xuất đi thời đó chỉ ba ngàn đồng (một lạng vàng) nhưng không sang lại nhà thì tiền đâu mà đóng. Tất cả mọi chuyến táu ra đi từ Hải Phòng đều cặp bến Hồng Kông, tôi cũng ở đó cả năm trời mà sao không thấy mặt anh? Có điều gì bất ổn rồi! Tôi khựng người như húc phải bức tường, ngồi bật dậy đi tìm thuốc hút. Mường tượng lại khuôn mặt anh, thái độ vồ vập của anh khi bắt chuyện, tôi đưa lên kính hiển vi rọi chiếu, phân tích từng câu nói rồi ráp những dữ kiện rời rạc lại với nhau để tìm sự mâu thuẫn của chúng. Không lòi ra một kẻ hở vô lý nào. Anh không hề vờn dứ, dò dẫm tôi về thái độ chính trị. Những chuyện anh đã nói với tôi được toát ra từ lỗ chân lông của con người, không có sự nhào nặn, gửi gắm của mưu tính, thậm chí còn có phần luông tuồng phàm tục thái quá của con người bị ức chế, đè nén lâu ngày mới được giải phóng.

Tôi mừng như chính mình được minh oan đốt thêm điếu thuốc tự thưởng. Có thế chứ, chưa gì đã để cho thói đa nghi hàm hồ của mình giết chết một người bạn, một con người! Ra đi từng vùng đất nghi kỵ, tỵ hiềm, vô tình tôi đã mang theo thói quen của ông bác sĩ sống trong thế giới bệnh tật, nhìn đâu cũng thấy vi trùng.

Nhưng niềm lạc quan đó không kéo dài, điếu thuốc chưa kịp tàn thì từ bên trong cất lên tiếng nói ma quái «mày vẫn còn phổi bò, nhẹ dạ như đàn bà. Kết luận một cách dễ dãi về con người là khởi đầu một tai họa!»

Tôi dụi vội điếu thuốc, vò nát mớ tóc, bực bội với thằng người ma quỷ trong mình. «Tao nói không sai đâu, đời mày vẫn bao lần vấp ngã, hộc máu mồm củng chỉ vì tính cả tin đó. » Tôi thù ghét thằng người này. Nó luôn canh chừng nhắc nhở tôi, nó đông lạnh con mắt nhìn đời của tôi, đục đẽo khuôn mặt tôi, xoá nhoà bóng mát trên mặt người khác. Nhưng tôi nể sợ nó, vì chính nó đã cứu tôi bao lần thoát khỏi tai họa, đưa tôi đến được bến bờ tự do. Sao lại không nhỉ, với những thằng nằm vùng thì lần sơ kiến nào cũng bao bọc mình cẩn thận, nó chuẩn bị lương khô cho cả quãng đường dài mười, hai mươi năm, nó chống Cộng hơn ai hết, nó kháng chiến hơn ai hết để sau khi «hoàn toàn nhiệm vụ cách mạng» nó được tha bổng bên cạnh những án tử hình khác với lý do «thành khẩn» rồi thay áo ngồi viết bản báo cáo thành tích. Đã vậy thì việc đội lốt, hoá thân vào một mẫu người có thật ngoài đời chỉ là trò vặt. Tôi rùng mình vì những điều vừa phát hiện. Chế độ chỉ dạy cho tôi vài thủ thuật điều tra sơ đẳng của thói quen, một thứ Công An theo bản năng, đụng đến vấn đề phức tạp có tính phản gián này thì ôm đầu chịu thua.

Đốt hết nửa gói thuốc, đầu óc tôi càng thêm rối. Vợ tôi bị ngợp khói, tỉnh ngủ. Nhìn bóng chồng in nghiêng trên tường, sau ánh đèn mờ, im lặng hút thuốc, nàng bực mình cằn nhằn rồi với tay tắt cái đèn ngủ.
- Khuya rồi không đi ngủ còn ngồi sừng sững như ma hiện hình!
- Tôi không trả lời, đầu thuốc lá vẫn lập loè cháy sáng. Nàng ngạc nhiên bật lại đèn, tung chăn vùng dậy.
- Có chuyện gì thế anh?
- Không... Anh nghĩ chuyện kiếm việc làm...
Tôi trấn an, ấn nhẹ nàng xuống giường, phủ chăn lên người.
- Anh nói đi, em thấy có chuyện gì không thường thì phải...?
Nàng nhỏm dậy, lo âu hỏi. Tôi thấy khó trả lời, nấn ná hút thuốc câu giờ. Từ lo âu chuyển sang hoảng sợ, nàng bấu mạnh lấy tay chồng tìm sự che chở. Phụ nữ thường có linh cảm bén nhạy trước tai họa. Khi còn ở Việt Nam, mỗi lần bị mối nguy hiểm đe doạ, biết nói với vợ mình cũng không ích gì, tôi lặng lẽ hút thuốc trong đêm một mình để nghĩ cách thoát hiểm. Nàng đánh hơi được, không dám hỏi, chỉ rón rén đến bên cạnh sửa lại cổ áo cho chồng, tìm hộ bao diêm, tay cũng bấu chặt lấy vai chồng như để truyền thêm sức. Từ ngày sang đây cuộc sống của chúng tôi đã an toàn, những khó khăn về mưu sinh được bạch nhật hoá giữa hai vợ chồng, tôi không còn trầm ngâm trong bóng tối một mình để tìm kẻ hở lách qua tù đày nữa, và nàng cũng mất đi thói quen đánh hơi tai hoạ trên mặt chồng, hồn nhiên sống với tiền trợ cấp thất nghiệp. Thật không ngờ đằng sau vẻ mơn mởn hồi sinh đó sự lo sợ vẫn tìm ẩn trong nàng, nó như cuốn phim lắp sẵn trong máy, chỉ đợi chồng bật đèn là hiện hình ra mặt mũi, cử chỉ hành động. Tôi chợt hiểu nàng đã lo hơn tôi lo, đã sợ hơn tôi sợ trong những ngày còn ở Việt Nam.
- Không có gì đâu em ạ.

Tôi ôm chặt bờ vai nhỏ của vợ, kéo vào lòng mình. Biết không dấu được nàng, mà bịa ra chuyện khác chỉ làm nàng nghi ngờ lo sợ thêm, tôi kể lại đầu đuôi chuyến gặp gỡ trên tàu của mình. Vẻ mặt nàng biến đổi dần theo câu chuyện. Cặp mắt lạc thần bình tĩnh trở lại, nàng đứng dậy mở cửa sổ cho  loãng bớt khói thuốc trong nhà, vừa làm vừa nói:
- Con Quyên nhà mình không có ai là bạn tên Q. cả, nhưng có thể anh ta lẫn trong đám bạn trai từng tới nhà, hoặc đứng từ xa phải lòng thì sao?
- Không, nghe cách kể qua tay này thì có vẻ thân thiết lắm, những chi tiết về gia đình em anh ta còn biết cơ mà?
Nàng cười, vẻ mặt rạng rỡ như thơm lấy với nhan sắc của cô em gái mình được người khác để ý.
- Thì cũng như anh đấy. Khi em chưa biết mỗi tối trời mưa có thằng trộm khoác áo đứng ngóng trước cửa sổ nhà mình thì anh đã kể vanh vách với cô em gái về em rồi cơ mà?
Tôi cười ngượng ngịu, nhưng cố vớt vát:
- Anh vẫn thấy có gì bất ổn em à...
Nàng gạt phắt đi:
- Anh chỉ vớ vẩn, sang đến đây rồi còn sợ. Cứ mời tay đó đến đây chơi, thật giả trắng đen gì rồi mình kết luận vẫn còn chưa muộn!

Tôi không đồng ý cách giải quyết của nàng, nó có vẻ thụ động theo cảm tính đồng bóng của phụ nữ. Tôi cũng không muốn mời khách vào nhà để rồi đóng cửa vĩnh viễn những lần gõ sau. Còn dung dưỡng một quái thai trong bụng mình thì chả khoái chút nào.

Tôi bỏ dự định đến thăm anh ta. Q. gọi điện thoại tới hai lần, mời đến nhà anh chơi. Nại cớ con ốm, tôi từ chối khéo. Đến lần thứ ba thì anh ngỏ ý muốn lên tôi chơi thay vì tôi xuống. Thật khó trả lời, tôi ậm ừ cho xong chuyện rồi cầu mong anh lạc đường kiếm không ra nhà.

Q. mò đến được, vẫn cái áo khoát lần trước, trên tay ôm đồm mấy gói quà cho vợ con chủ nhà. Tôi đứng trước cửa ra vào, lúng túng không biết nên chọn thái độ đón tiếp nào cho thích hợp. Còn anh thì tự nhiên như người trong nhà, thấy chủ nhân ngần ngại đứng sau cửa, tưởng bị nhắc khéo đôi giày dính tuyết nên vội quẹt quệt vào miếng thảm nhỏ rồi cảnh cáo nhẹ:
- Ở Hà Nội người ta không bắt khách cởi giày khi vào nhà đâu...

Tôi cười gượng gạo, đỡ giúp mấy gói quà cho anh cởi áo khoác. Đống đồ của nợ này khiến tôi thêm khó chịu, nó có vẻ “gài” cho mối quan hệ mới mở đầu. Q. tinh ý nhận ra ngay thái độ đó, cười hềnh hệch:
- Thủ tục bắt buộc khi đi hỏi vợ, tớ cũng giả vờ làm cho xong chuyện. Nhưng xuống nhà tớ cậu đừng dở lại trò này nhé, một lần là đủ.
Tôi phì cười vì lối giải thích ba bứa, đi treo giúp anh chiếc áo khoát nặng chình chịch.
- Ấy, nhẹ tay thôi... – Q. nhắc nhở rồi chạy theo – Có cái nhày cho tụi mình...
Anh moi từ cái túi to tổ bố khâu bằng tay ở mặt trong chiếc áo ra nào thuốc sợi, tẩu, khăn giấy hỉ mũi dở, rồi một chai rượu mạnh.
- Dân “quốc lủi” tụi mình thì phải “chơi” cái này. Uống khắp mặt rượu ở đây tớ chỉ thấy mỗi nó là gần gủi với rượu lậu Hà Nội.

Anh nháy mắt cười với tôi. Tôi thì e ngại với đống đồ nghề anh mang tới, nó chứng tỏ anh không dừng lại ở mức xã giao. Vợ tôi biết khách sẽ đến từ hôm trước nên chuẩn bị sẵn sàng để tiếp. Khi thấy chúng tôi đã yên vị trên ghế, nàng kín đáo nhìn qua khe cửa bếp, quan sát khách. Q. không hay biết gì, đảo mắt nhìn quanh nhà rồi hỏi thăm vợ con tôi. Lúc đó nàng mới bưng cà phê ra để chào khách. Anh nói chuyện ồn ào, về đủ các vấn đề mà phụ nữ quan tâm tới ở xứ này. Vợ tôi khép nép nghe ầu luôn luôn gật, thỉnh thoảng mới thêm vài ý kiến nhỏ. Thật oái ăm, khách thì ăn nói hoạt bát tự nhiên như chủ nhà, còn chúng tôi thì rụt rè giữ ý như làm khách vậy. Q. không nhận thấy điều đó, chiều đến, vợ tôi nhấp nhổm đắn đo hai ba lần rồi mới mời khách ở lại ăn cơm, giọng thăm dò. Anh sốt sắng nhận lời rồi buộc miệng kêu đói. Tuy chỉ định bụng mời rơi, nhưng nàng chuẩn bị khá kỹ càng. Thịt, rau được thái ướp từ sáng sớm, đống đồ biển này mới lấy khỏi ngăn đá từ lúc khách nhấn chuông cho nó tươi. Chuyện vãn giữa hai gã đàn ông trở nên uể oải, anh xắn tay áo đòi vào bếp giúp bà chủ nhà làm cơm. Tôi cản cho có lệ rồi nằm dài ra ghế, vớ bừa một cuốn sách để đọc. Nếu ở Việt Nam thì tôi không ngạc nhiên với thái độ tự nhiên thoải mái của anh, nhưng ở đây, nhất là sau những thắc mắc tôi thấy nó có vẻ đi đúng bài bản “hoà mình xâm nhập quần chúng” nên những nghi ngờ càng có điểm tựa.

Ngoài tài ăn tục nói phét, ông khách còn chứng tỏ khả năng nấu bếp có hạng. Ngồi trên phòng khách nghe tiếng dầu sôi lửa cháy phừng phừng một cách hết sức đàn ông, tôi biết vợ tôi đã bị gạt ra ngoài. Tài năng của nàng chỉ riu riu ở món kho, sình sịch ở món hầm. Cái rón rén của phụ nữ khi dùng lửa khác với sự phóng khoáng của đàn ông nên món ăn không bao giờ lên tới cỡ, chỉ lưng chừng ở ngang dốc rồi nhoè nhoẹt giống nhau ở trong tất cả các món xào nát nhũn.

Mặt đỏ bừng, chiếc khăn bàn làm bếp trên vai, hai tay bưng đĩa cá đút lò bốc khói. Q. nghiêng mặt như mấy ông bồi bàn có ngạch bước lên phòng khách. Tôi luống cuống nhỏm dậy thu dọn đĩa tách cà phê cho anh có chỗ bày. Tưới một chút rượu mạnh trong chai mình mang tới lên đĩa cá. Q. bật diêm cho lửa bùng cháy rồi hãnh diện nhìn chủ nhà. Tôi trố mắt như trẻ xem trò ảo thuật. Vợ tôi đứng sau lưng Q. cười ngượng ngùng như muốn đổ lỗi sự vụng về cho thái độ sốt săáng của khách. Anh rút chiếc khăn trên vai thấm mồ hôi gáy rồi chả hiểu sao lại lau bừa lên mặt, bất kể mùi đồ ăn ngấm lưu cửu trong đó.

Phong cách giang hồ của mấy món ăn quyến rũ tôi ăn, uống nhiều. Có chút hơi men Q. nói càng hoạt bát, mà ăn cũng không kém. Anh kháo chuyện Hà Nội, tự diễu mình về những bỡ ngỡ khi mới đặt chân lên xứ văn minh. Những câu chuyện bình thường được anh diễn tả bằng thứ ngôn ngữ giang hồ như món ăn trở nên có duyên đến tức cười. Lũ trẻ ngồi quanh bàn cứ há hốc mồm nghe ông khách lạ, quên cả ăn. Tôi bị cuốn vào câu chuyện hồi nào không hay, vừa nhồm nhoàm nhai vừa kình cãi với khách. Vợ tôi ăn ít, nàng chống hai khuỷu tay lên bàn, xoa xoa hai bàn tay vào nhau nghe chúng tôi nói chuyện và tiếp thức ăn cho mọi người. Q. gắp cho nàng một khúc cá, khi đưa đến gần chén của nàng thì nó trượt khỏi đôi đũa rơi tòm xuống chén nước sốt.
- Đấy, chết rồi mà vật lộn với nó còn khó. Tôi luôn luôn chỉ bắt được vẩy cá trong những lần tát ao.
Anh chữa thẹn rồi thản nhiên lấy tay chùi nước sốt văng trên áo mình, đưa lên miệng liếm .

Tối đó anh ngủ lại nhà tôi. Cơm nước xong thì đã chín giờ rưỡi, chuyến xe lửa cuối cùng hai giờ sáng mới chạy, tôi buộc lòng phải giữ anh lại. Q. thấy đó là điều đương nhiên, không một câu từ chối khuôn sáo, anh hăng hái giúp chủ nhà dọn dẹp để lấy chỗ ngủ. Nhà chật nên chúng tôi dùng chiếc ghế sa lông lớn kéo ra làm giường cho khách. Ngồi trên đống chăn gối mới mang ra, anh nạp một mẩu thuốc, nhìn vợ tôi và mấy cháu nhỏ như dò hỏi rồi tự cho phép mình mồi lửa hút.

Nằm trong phòng ngủ tôi sốt ruột đợi vợ vào để nghe nàng đưa ra những nhận xét về ông khách mới. Nàng còn lịch kịch rửa chén dưới bếp, chuẩn bị nồi cháo gà cho bữa điểm tâm sáng mai. Tôi ngủ quên lúc nào không hay.

Nửa đêm tôi tỉnh giấc vì khát nước. Uống xong ly nước lạnh thì tỉnh ngủ hẳn, tôi lần ra phòng khách kiếm thuốc lá hút. Cả nhà đã ngủ say, tiếng Q. ngáy rền cả phòng khách. Anh đã uống khá nhiều rượu, hơi thở nặng nề, nồng nặc mùi men. Tôi định vào phòng ngủ hút, nhưng sợ nàng thức gậy lại phát hoảng lên như lần trước nên lộn trở ra ban công. Tuyết rơi nhiều, lún phún rắc trong ánh đèn đường, bay cả vào nhà. Đứng một lúc người đã thấm lạnh, tôi lập cập mở cửa bước vào phòng khách. Q. vẫn ngáy như sấm, thỉnh thoảng nói lảm nhảm điều gì không rõ rồi cười khì khì trong mơ. Tôi nảy ra ý định quan sát anh khi đang ngủ. Phải rồi, con người không thể dấu mình được trong trạng thái này. Những nét nhuần nhuyễn của kịch cợm lúc tỉnh sẽ bị lột sạch, cái ưu cái khuyết, những hang hốc mối mọt của cái tủ cũ sẽ bị cạo mất lớp son lẫn ghét phủ ngoài, trơ ra chất gỗ thật của mình dưới vòi nước xịt mạnh. Không cưỡng lại được ý định ngắm anh, tôi dò dẫm lần đến cây đèn mờ đứng ở phòng, bật nhẹ. Ánh sáng vừa đủ rọi tới mặt Q., anh hơi nhíu mày, rồi mặt dãn nở lại, ngáy tiếp. Mớ tóc cứng, bồng bềnh những nếp quăn tự nhiên lúc này bết mồ hôi bám quanh sọ. Chân mũi vuông, vun đọng thịt ở chóp của con người thiên về hành động, ăn nhậu. Những chân rễ chằn chịt như dây võng bắt nguồn từ đuôi mắt toả rộng ra hai bên thái dương hằn rõ mồn một. Lúc tỉnh, cặp mắt sáng tia điện nghịch ngợm đã toả lấp phần nào cái nhàu nát ở vùng mắt anh. Trán anh cao, gồ, sần sùi những nếp nhăn xếp sóng. Quai hàm vuông, ngay trong giấc ngủ cũng bạnh ra như đang ngấm ngầm chịu đựng cơn đau bụng. Khuôn mặt đó là dương bản của bộ não sau khi trải qua thuở thiếu thời cơ cực, tuổi thanh niên lận đận với mắm muối củi lửa bám rêu trong đầu.

Không thấy quen, cũng chả phát hiện ra điều gì bất thường khi đưa khuôn mặt này rọi chiếu trước quang tuyến, tôi tắt đèn ngồi hút thuốc. Con người thật thảm hại, đáng thương trong giấc ngủ, nếu đẹp có chăng chỉ là nàng công chúa được tạo hóa sàng lọc những đường nét thanh tú từ đời ông bà cha mẹ, ướp mình trong nhung lụa rồi nằm mơ bị con sâu bò đến gần đe dọa. Không biết vợ tôi có thường ngắm chồng trong giấc ngủ? Hôm nay rõ ràng Q. đã kiếm được nhiều điểm của mẹ con nàng. Cứ nhìn con mắt, nụ cười trong trẽo của nàng thì rõ, những điều cảnh giác trước của tôi tan biến ngay khi con người xù xì này lướt vào nhà. Thật đúng là đàn bà với con nít. Giá họ có ác cảm với anh ta thì ngược lại, tôi sẽ chú tâm tìm kiếm những điểm dễ thương để biện hộ trước vợ con, xác tín với mình. Tôi ngồi trong bóng tối hàng giờ, nghi ngờ phủ nhận, đốt sạch gói thuốc Q. vẫn say sưa ngủ, không hay biết chủ nhà đang trăn trở thắc mắc về mình, thỉnh thoảng lại đưa tay quệt nước dãi ở miệng.

Sau đó đều đều mỗi tháng anh vẫn đến nhà tôi chơi, còn dắt theo cả vợ con (để làm tin?) Tôi bị xô đẩy vào mối quan hệ như ép duyên, rồi cũng quen dần với nó. Hai người đã làm tốn khá nhiều thời giờ và rượu bia của nhau. Mặc dù vậy, sau mỗi lần trò chuyện, chi bộ nhỏ trong tơi vẫn họp lại để kiểm thảo, đào bới xem anh có mặc áo giấy đi đêm không. Một nửa con người tôi phải lòng anh, chấp nhận anh, đi với anh trên bề nổi cuộc sống, nhưng phần chìm, khuất trong bóng tối vẫn nhắc nhở, cảnh tỉnh khiến tôi khổ sở như ăn hộp cá ngon mà không biết date, xuất xứ của nó.

Hai bà vợ thân thiết với nhau hơn cả chị em ruột. Họ đã tìm lại Hà Nội thuở ấu thời, hàng quà hàng bánh, chợ Đồng Xuân, chợ Cửa Nam trong nhau. Lũ trẻ mất dần đi những câu “con bác Q.”, “tụi nó...” mà thành “anh R...”, “chị H...”. Chúng xóa nhoà ranh giới giữa hai nhà, ôm tất cả vào lòng rồi chia đều theo thứ tự tuổi tác.

Không được phép đầu độc cuộc sống của vợ con bằng những nghi ngờ, tôi thu mình lại bên cạnh những mối quan hệ cởi mở đó. Những lời tâm sự giữa hai vợ chồng tắt dần, thỉnh thoảng buột miệng đưa ra một nhận xét lạc lõng về Q. làm cả nhà ngạc nhiên, khó hiểu, tôi vội xoá nó bằng nụ cười gượng gạo rồi giải thích sang hướng khác. Mỗi lần bị qủy ám, nửa đêm tôi không dám ngồi trong phòng ngủ, ngoài phòng khách mà chui vào toilette khoá cửa lại đốt thuốc trong đó. Tôi cố gắng chặt lìa con ma nghi ngờ ra khỏi người  mà không được, sau mỗi nhát dao chém nó càng bấu chặt lấy ruột gan tôi hơn, xác nhận tính cấu thành vững chắc trong tôi. Tôi kinh hoàng nhận ra mình là kẻ tàn tật đi trên cõi đời này. Tôi không phải đoàn viên, chả phải đảng viên, chưa một ngày đứng trong cơ chế Cộng Sản, trong tôi không có những cuộc đấu tố rùng rợn, không có bội phản, giả trá, nhưng thói đa nghi, đề phòng cảnh giác luôn bắt tôi phải soi mói, phân tích và phê bình con người. Tôi không hài lòng với thời trang, tôi bực bội với đầu tóc của kẻ khác, tôi tuyên chiến với những cặp nhân tình ôm hôn nhau ở ngoài đường, tôi nhìn vạn vật với con mắt cần cải tạo. Tôi trở thành kẻ thù của con người lúc nào không hay. Những cố gắng đẽo gọt, cạo rửa bản thân mình trở nên vô ích, tôi là viên gạch vô tình nằm trong lò sát sinh và đã bị ám khói lửa thiêu người.

Jean Paul Sartre sau khi phản tỉnh đã thổ lộ “Tôi ly khai chủ nghĩa ..., có nghĩa đã ghê tởm, phỉ nhổ nó, đoạn tuyệt hẳn với nó, nhưng mỗi sáng ngủ dậy đứng trước bồn tắm rửa mặt tôi vẫn thấy một thằng cán bộ đang rình mò, xoi mói nhìn mình trong gương...” Không biết ông đã đập vỡ bao nhiêu miếng gương, còn tôi, tôi luôn sống với cảm giác sau lưng mình có mọc một cái đuôi./.


Dortmund, tháng 6-1986
Trích tập truyện cùng tên, Người Việt xuất bản tại California năm 1988.




VIII

Nợ cứt

Ngày đó hợp tác xã ra một chiến dịch thu gom phân bắc (cứt người), mỗi gia đình một tháng phải đóng đủ mười cân, nếu không đóng đủ thì bị cắt gạo. Thật là một chiến dịch có một không hai trong xã hội loài người. Vậy nên, khi chiến dịch ra đời, cái cầu tiêu trở nên vô cùng quan trọng và cấp thiết. Người người, nhà nhà mua xi măng mua gạch về xây cầu tiêu. Cầu tiêu phải làm bằng xi măng thì cứt mới không bị phân huỷ, chứ ỉa xuống đất vài ngày là bọ hung ăn hết, lấy gì mà đóng cho nhà nước. Vậy nên, cái cầu tiêu quan trọng hơn cái nhà. Chuyện ỉa đái lúc này cũng cực kỳ quan trọng, dù ai đó có bị tào tháo rượt ở đâu thì cũng phải nhanh nhanh ba chân bốn cẳng chạy thẳng về cầu tiêu nhà mình mà giải quyết chứ để mất đi một cục là mất đi lon gạo chứ chẳng chơi. Nhiều người đi làm ngoài đồng, ngày trước, khi mắc ỉa thì chạy vô bờ, vô bụi làm đại cho xong, nhưng bây giờ, làm như vậy có mà đói chết. Vậy nên, phải tìm cách, có người làm đại vào bao ni lông, có người cuộn trong lá chuối, có người cẩn thận hơn đi vào trong cái càmèn đựng cơm để mang về cho an toàn mà đổ xuống cầu. Có nhiều chuyện dở khóc dở cười trong chiến dịch này lắm, ai sống thời đó chắc biết. Khi chiến dịch ra đời thì cũng là lúc không biết bao nhiêu con chó phải chết. Chó chết vì đói, cơm khoai đã không có ăn, đến cục cứt cũng bị nhà nước dành mất thì lấy gì mà sống. Nhà tôi có bốn người, một người lớn và ba đứa con nít, cố gắng lắm không để thất thoát cục nào, vậy mà đến tháng vẫn không đủ cân nộp, má tôi sai anh em chúng tôi đi tìm đá sỏi bỏ vào cho đủ. Khi mang lên cân người ta kiểm tra và phát hiện nhà tôi gian lận nên lập biên bản và làm kiểm điểm. Họ còn ghi rõ ràng trong biên bản gian lận như thế nào, có bao nhiêu cục cứt và bao nhiêu cục đá sỏi. Quả đúng không sai, cái đời người nông dân u tối làm sao mà lừa được mấy ông nhà nước, mấy ông tinh vi vô cùng. Kết quả là nhà tôi bị cấm không cho nhận gạo một tháng. Trong một buổi họp người ta đưa tên má tôi ra kiểm điểm trước dân về việc gian lận lấy đá sỏi trộn với cứt để nộp cho nhà nước. Họ không cho má tôi phân bua gì hết. Nhưng không đành lòng nhìn cảnh con đói, bà đứng dậy thẳng thừng, dứt khoát. Bà nói: Việc tôi làm gian lận tôi chịu trách nhiệm trước toàn thể mọi người, nhưng các người nhìn đi thì cũng phải nhìn lại, nhìn ngược thì cũng phải nhìn xuôi, các người có nhìn vào nhà tôi không, nhà tôi có bốn người, một người lớn và ba đứa con nít, tôi thì suốt ngày đi làm ngoài hợp tác xã, có cục nào tôi đã ỉa ngoài hợp tác xã hết rồi, còn con tôi ở nhà, nó là con nít nó ăn bao nhiêu, ỉa bao nhiêu, nó ỉa ra cục nào chó lủm cục đó thì lấy đâu đủ cứt để mà nộp cho mấy ông. Vậy mà bây giờ mấy ông kiểm điểm tôi, cắt gạo thì lấy gì tôi nuôi con, lấy gì ăn để mà ỉa mà đem cứt nộp cho mấy ông. Nói gì thì nói, la gì thì la, nhà tôi vẫn bị cắt gạo tháng đó. Không còn gì khốn nạn hơn thế. Nói thiệt, đến bây giờ trong hồ sơ giấy tờ ở kho lưu trữ quốc gia thì nhà tôi vẫn còn một món nợ lớn với nhà nước mà không thể nào trả nổi, đó là nợ cứt.




No comments: