CHƯƠNG VI
MIỀN BẮC DƯỚI MẮT MỘT NGƯỜI MIỀN NAM
(Qua tập ký Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi 1876 của Trương Vĩnh Ký)
Từ nhan đề chúng ta đã biết được rõ thời gian tác giả viết bản văn. Tác giả cho in lần đầu năm 1881 tại nhà hàng Guilland et Martinon bằng quốc ngữ (32 trang) 0,20. Văn bản hiện có là "Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises" (Nouvelle Série. Tome IV, No 3, Saigon, 1929). Trong tập san này, hồi ký "Chuyến đi Bắc Kỳ" được đăng lại nguyên văn bằng quốc ngữ, kế đó là bản dịch Pháp ngữ của N. Trương Vĩnh Tống, con trai tác giả.
Xét về phương diện ngôn ngữ, hồi ký này không phải là văn bản văn học viết bằng quốc ngữ cổ nhất. Nhưng nó vẫn cho ta một mẫu điển hình về tiếng nói và chữ quốc ngữ giữa thế kỷ 19. Phần mở đầu như sau:
"Năm Ất Hợi (1876), bãi trường tham biện vừa xong, vùng muốn tính đi ra Bắc chơi một chuyến cho biết. Trong bụng muốn cũng đã lâu, nên xin với quan trên, nhơn diệp chiếc tàu Duchaffaud đi mà đi. Về sấm hòm rương áo quần. Rủ thầy ba Hớn với ông Sáu Thìn, nguyên một người ở tỉnh Bắc Ninh, một người ở Sơn Tây mà vào trong Nam Kỳ đã lâu, đi theo trước là cho có bạn, sau nữa là cho họ về thăm quê quán.
Qua ngày 18 tháng chạp đề huề xuống tàu. Sớm mai giờ thú 9 rưỡi nhổ neo. Vợ con đi đưa, ngồi xe đi rảo trên bờ cho đến tàu quày trở rồi riu ríu chạy xuống đồn Cá Trê, mới về. Xế giờ thứ hai ra cửa Cần Giờ, chỉ mũi chạy ra Mũi Né".
Đoạn văn trên, chúng tôi đã chép nguyên văn, chính xác từng dấu và gạch nối. Khảo sát đoạn văn, chúng ta thấy:
- Tác giả viết chính tả đúng gần như hiện nay: về hỏi ngã, chỉ khác ở một từ (của viết là cũa) về dấu chỉ khác một từ (sắm viết thành sấm), về từ cũng chỉ khác có một lần (dịp viết thành diệp). Đọc toàn thể bài ký, cũng thấy tương tự.
Trương Vĩnh Ký viết theo cách phát âm thời đó.
Về sử dụng gạch nối cho các từ ghép và danh từ chỉ nhân danh địa danh, tác giả đã theo quy luật mà hiện nay thấy khá phổ biến, Trương Vĩnh Ký đã:
* Chỉ dùng gạch nối cho từ ghép thực sự: tham-biện, áo-quần.
* Chỉ dùng gạch nối với từ chỉ nhân danh địa danh: Cá-trê, Cần-giờ.
Điểm cần ghi thêm là về nhân danh, tác giả đã viết không gạch nối cho ba Hớn, sáu Thìn, ông chỉ dùng gạch nối cho nhân danh chính cống: Lê-Lợi, Hồ-Quí-Ly. Về địa danh, thường chỉ viết hoa chữ đầu: Sơn-tây, Cần-giờ, Cá-trê.
Xét chung, nếu ta che kín tên tác giả và nhan đề đi rồi đưa cho một người học vấn trung bình hiện nay thì người ấy chắc chỉ có thể nhận xét là "văn hơi cổ đấy", nhưng khó mà đoán được là văn Nam Kỳ 1876 của Trương Vĩnh Ký.
- Xét về cách đặt câu, tác giả đặt câu tương đối ngắn, theo ngữ pháp Tây phương. Đó là lối đặt câu như chúng ta ngày nay. Sự kiện này nêu vấn đề suy nghĩ thêm vì ở miền Bắc, tới tận 1925, Hoàng Ngọc Phách viết Tố Tâm. Nhất Linh viết "Nho phong", cách đặt câu còn biền ngẫu, dùng nhiều sáo ngữ của văn phong thời Nho học. Văn học sử cho tới nay thường ghi rằng phải đợi tới Hoàng Tích Chu đi du học từ Pháp, mới du nhập lối đặt câu ngắn và theo cấu trúc Tây phương. Khẳng định này sở dĩ có, có lẽ tại trước đây ít ai biết tới những bài văn như "Chuyến đi Bắc kỳ" của Trương Vĩnh Ký.
- Trong một ký dài như thế, Trương Vĩnh Ký chỉ ghi lại có 3 bài thơ. Nhưng thể loại thơ làm chúng ta phân vân. Chúng không phải lục bát, thất ngôn bát cú, cũng không phải tứ tuyệt, hay nói... và dĩ nhiên cũng chưa ra thơ mới...
Thí dụ:
TRẦN THIỆT
Sục xem thấy nhà-thờ Phát-diệm
Thật nguy-nga cung-điện hẳn-hòi
Đọc kinh rồi đứng đó mà coi,
Hồ sơn thủy lầu-đài như tạc,
Sách có chữ rằng: Thị chu lưu bàn-bạc, (1)
Bất dĩ Tần nhi bất dĩ Hán, (2)
Nhờ đội ơn trên ra sức phù-trì,
Cho người thế biết đường giữ đạo,
Sách có chữ: hữu công vi văn giáo, (3)
Thị thánh-hiền vi vạn thế sanh dân, (4)
Chữ rằng: đức dũ nhật tân, (5)
Bài trên, nếu xét rộng rãi, có thể coi như hát nói biến thể. (Trong hồi ký này, tác giả có ghi lại đã tham dự rất nhiều buổi hát "nhà trò" (hát cô đầu). Nhưng bài kế tiếp thì khó giải đoán hơn:
HIẾU SƠN CAO ĐÌNH (6)
Ngoài hồ trong lại có hang,
Rõ-ràng thay, hà xú bất giang-san, (7)
Ấy mới biết: Thiên chi hạ, mạc phi vương thổ, (8)
Thơ rằng: hòa khí dũ xuân phong, (9)
Nhớ có câu: đạo vị vô cùng, (10)
Sách có chữ: địa dĩ nhân nhi thắng, (11)
Tú phương giai ngã cảnh, (12)
Nhân dĩ dục nhi long, (13)
Hữu thiên hà xú bất, (14)
(Ghi chú ngoài lề: Cả hai bài đều chấm dứt bằng dấu phẩy: Tại sao vậy?)
Chú giải mấy câu thơ Hán Việt:
1. Dứt khoát là nổi danh khắp xứ sở
2. Không cần đến Tần đến Hán
3. Phải kiên trì mới có được kiến thức, khôn ngoan
4. Chính nhờ kiến thức, sự khôn ngoan mà thánh hiền sống xuyên vạn đời
5. Chính nhờ thực hiện đạo đức mà con người đổi mới hàng ngày.
6. Trên núi Hiếu Sơn
7. Có xứ nào lại không có sông có núi.
8. Dưới bầu trời này, đâu chẳng là đất nhà vua.
9. Mùa ôn hòa trở thành đẹp hơn dưới gió xuân
10. Ý nghĩa của đạo là vô cùng (không thể dò tới đáy).
11. Đất đai phải nhờ bàn tay người lao động mới trở thành đẹp.
12. Trong bốn cõi, con người có thể sống trong bất cứ cảnh nào.
13. Con người muốn sống lâu phải bảo vệ đạo đức mình.
14. Ngày nào còn trời thì còn xứ sở.
- Lối viết ký hoàn toàn theo Tây phương nhằm ghi người thực việc thực thuộc đời sống hàng ngày của dân chúng. Trương Vĩnh Ký ít chú ý đến làm văn nên cuốn du ký này đúng ra là một du khảo.
Về cách trình bày bài hồi ký:
- Điểm đầu tiên đáng chú ý là tác giả trình bày theo thứ tự thời gian, đi tới đâu ghi, tả tới đó.
- Về lộ trình, dù tác giả không nói ra, người đọc cũng thấy Trương Vĩnh Ký đi Bắc kỳ không phải là du lịch, và cũng không chỉ là du khảo đơn thuần. Những chỗ đến và nghỉ của ông đều có đặc điểm: ăn nghỉ ở nhà, cơ sở của Thiên chúa giáo, tiếp xúc (và được đón tiếp như sứ giả) với các quan lại cao cấp Việt Pháp tại mỗi nơi.
- Giữa các dòng hồi ký đang xuôi chảy, ông xen vào các tài liệu sưu khảo phong phú như một địa phương chí hiện nay với các mục: vị trí tỉnh, tổ chức hành chính, nguồn gốc lịch sử và tên đặt qua thời gian, hình thể (núi sông...), khí hậu, thành trì, hộ khẩu (dân số), điền phú. Mỗi mục đó ông đều ghi kỹ và chính xác. Thí dụ điền phú tỉnh Nam Định, ông ghi: "Ruộng đất được 524, 977 mẫu, thuế: lúa được 478,712 đấu, tiền 229,637 quan, bạc được 175 lượng".
- Vì bài ký không có mục lục nên chúng tôi ghi lại các đề mục của tác giả như sau:
- Phần mở: Tới cửa Hàn - Tới Hải phòng - Lên Hải Dương - Đi lên Hà nội - Tới Hà nội.
- Ở tại thành Hà nội: Đi thăm Lãnh sự - Coi chùa Nguyễn Đáng Giai - Hồ Hoàn Gươm - Đền Kính Thiên - Cột cờ - Đền Công - Ông thánh đồng đen - Chùa Một cột - Hồ Tây - Văn Thánh miếu.
- Tỉnh Hà Nội: - Giáp giới - Danh tích và tổ chức hành chánh. Hình thể - Khí hậu - Phong tục - Nhà trò - Hội - Hát dúm - Cỗ nhắm - Thành trì - Chợ - Cầu - Thổ sản đất Hà nội - Hộ khẩu - Điền phú.
- Tỉnh Hải dương: Giáp giới (lịch sử và tổ chức hành chánh) - Hình thể - Khí hậu - Phong tục - Thành trì - Hộ khẩu - Điền phú.
- Tỉnh Nam định: Như trên - (sau đó tác giả kể tiếp đến thăm Phát Diệm, gặp cụ Sáu làm thơ, rồi đi tiếp về Thanh hóa) LÃ VỌNG, HANG THỊ - ĐỘNG TỪ THỨC - HANG DƠI - CỤ ĐỆ.
- Tỉnh Thanh hóa: Các mục như trên, rồi hồi ký tiếp tục kể tác giả tới Tam Diệp như thế nào, trước khi tới.
- Tỉnh Ninh Bình: Các mục như trên. Nhưng sau mục "điền phú", thêm mục: Nhà chung Kẻ Sở - Lên Hà Nội lại (đi qua Hưng Yên, ông cho tài liệu luôn về Hưng Yên).
- Tỉnh Hưng yên: Ghi sơ lược về giáp giới - lịch sử - tổ chức hành chính rồi tới HỘ KHẨU - ĐIỀN PHÚ - TỚI HÀ NỘI - XUỐNG HẢI PHÒNG.
Những điểm đáng chú ý về nội dung:
Năm 1876, một chức vị cao cấp như Trương Vĩnh Ký, khi tới Hải Phòng, rồi thì lên Hà Nội như thế nào: Xin ghi lại bốn đoạn ở phần đầu:
TỚI HẢI PHÒNG
Lên bờ đi tham quan Lãnh sự (M.Rurc), rồi qua bên kia sông tới trọ nhà chú khách Wan-sing. Sáng bữa sau lại qua ăn cơm nơi quán lãnh sự, rồi đi thăm các thầy làm việc ở đó cho luôn.
LÊN HẢI DƯƠNG
Tối lại, đi theo thuyền ông thương-biện Lương quen khi đi sứ bên Tây năm 1863 mà lên tỉnh Hải Dương, 27 tới tỉnh. Vào thành ra mắt quan lớn là ông Phạm Phú Thứ làm Thương chánh đại thần kiêm tổng đốc tỉnh Hải Dương và tỉnh Quảng Yên, có quen thuở đi sứ bên Tây. Người mầng rỏ lắm. Nội ngày cũng tới viếng ông Tuần phủ Nguyễn Doãn, nguyên trước có quen khi người vô giáo hòa lần sau tại Gia Định.
ĐI LÊN HÀ NỘI
Các quan cầm ở lại đó chơi ăn Tết rồi hãy lên Hà Nội, khi ấy là mùa đông, trời rét lạnh nên ăn ngon cơm lắm. Mấy bữa ấy, hội các quan lớn nhỏ đủ mặt, khi ăn khi uống chuyện vãn cả đêm cả ngày. Quan đại lại bày làm rạp hát cho ba bữa luôn, coi hát bội cho no, rồi lại hát nhà trò. Vui vầy với nhau thể ấy cho tới mùng 6 tết, chiều giờ thứ nhứt mới lên võng lên cáng mà đi đường bộ lên thành Hà Nội. Trước hết nghỉ chân tại cái chùa kia. Qua cung sau, nghỉ Ngạt-kéo, mặt trời chen lặn tới huyện Cẩm-giàng. Ông huyện tên là Dương Xuân ra rước vô nhà ngủ đó. Sáng, cơm nước rồi, giờ thứ tám từ giã ra đi.
TỚI HÀ NỘI
Từ Cẩm Giàng lên cho tới Hà Nội nghỉ bốn chặng:
1. Quán Cầu-đất (giờ thứ 10)
2. Tại Đồng-súng (giờ thứ 12 trưa)
3. Ngã tư Dầu (giờ thứ nhứt rưỡi)
4. Chợ Bún Hoa (giờ thứ 3 rưỡi)
Giờ thứ tư rưỡi chiều ra tới bờ đê, đi trên đường quai xuống mé sông Bồ-đề, mướn đò đưa qua cữa Phố-mới. Giờ thứ 6 tối tới nhà Hương-công là khách thương Gia-định ra mua hoa-chi nha phiến đó".
- Về phong tục, vốn là một học giả có trí nhớ tốt, óc quan sát cao, cái gì cũng muốn biết tận mắt nghe tận tai nên Trương Vĩnh Ký đã ghi lại cho hậu thế nhiều điều đáng chú ý.
- Ghi về Hà Nội, ông nhận xét kỹ về y phục thời đó như sau:
"Đờn ông ăn-mặc cũng thường, điều áo vắn tới đầu gối, đầu hay đội nón ngựa, bịt khăn đen.
Đờn bà mặc áo có thắt lưng làm bìu (bọc), yếm đỏ, không gài nút nịt, nút vai thả không ra mà thôi, đầu đội nón giâu (ba tầm), lớn gần bằng cái nia, hai bên có hai quai tụi vấn toòng teng, lấy lượt nhiều vấn tóc mà khoanh vần theo đầu. (Có một làng Kẻ-lỏi có đàn bà bới tóc). Dưới mặc váy, chơn đi dép sơn, nước da mịn-màng trắng-trẻo, má hồng, da ủng, gót son, phốp pháp người, răng nhuộm đen cánh gián.
Thói trật áo thắt lưng là nhơn bởi trời đồng-thiên rét lạnh, đờn bà có con, cho bú một lần phải mở nhiều áo khó lòng, hay de (1) luôn như vậy cũng bắt chước làm theo, mùa nào mùa nấy cũng de luôn như vậy mà thành tục".
<<(1) Tác giả ghi thiếu một số chữ Việt hay tại thợ xếp chữ quên?>>>>
- Về hát ả đào, hậu sinh thường chỉ biết về lối giải trí này qua thời kỳ thoái trào của bộ môn này, nên tưởng các cô đào chỉ có hát thôi. Sự thực không phải vậy. Trương Vĩnh Ký đã tham dự nhiều buổi hát ả đào trong chuyến đi này (ông ghi nhớ cả tên các cô đào trong các buổi hát) và đúc kết lại trong mục sau:
NHÀ TRÒ
Khi đám-tiệc, hội-hữu, hôn-tế, kỳ-yên, chạp-miễu, thường hay dựng nhà-trò. Nhà trò là con gái đương xuân-sắc chuyên-tập nghề ca xướng, tục kêu là cô-đào. Có đám tiệc, thì người ta rước tới hát, thường hát theo ca-trù, giặm Túy Kiều, câu hát, thơ phú, hoặc ke (1) truyện. Hát cũng khi ngồi khi đứng, tay nhịp canh, miệng hát nhiều cung bậc giọng thấp giọng cao ngân-nga hay và êm tai lắm, có chú kép ngồi một bên gảy (khảy) cái đờn đáy, lại có người đánh trống nhỏ cầm chầu. Có khi lại đứng bắt bớ và múa và hát. Có khách thì chủ đám lại bắt phải quỳnh-tương rượu, Tay bâng chén rượu, miệng hát câu chi, hoặc tình ái, hoặc nhân ngãi, để mời cho khách uống đi. (Câu hát là giọng quỳnh, chén rượu là chén quỳnh-tương), tích chén nước Vân-anh đem dua Bùi-hàn uống...
<<(1) Tác giả ghi thiếu một số chữ Việt hay tại thợ xếp chữ quên?>>
Giọng nhà trò thường là những giọng sau này: mấu-dụng, thiệt nhạc, ngâm vọng, tì-bà, tắt-phản, hát nói, gỏi thơ, huỳnh hãm, cung bắc, của quyền, non-mai, nường-hạnh, chữ-khi, thơ, thống v.v...".
- Cũng vấn đề phong tục, tác giả đã ghi chép khá kỹ, có những điều hậu sinh đã biết, nhưng cũng có những điều hiện nay nếu không nhờ tác giả thì không hiểu rõ hoặc không ngờ là có. Thí dụ như khi ghi về các trò vui chơi mùa hè, tháng tám âm lịch, tác giả viết: "Dịp ấy thường coi hát nhà trò, đánh gậy (đánh quờn, nghề võ), vật, múa rối cạn (hát hình), múa rối nước, leo dây, bài điếm, cờ người, nấu cơm thi, dệt củi thi, bắt chạch, tạc tượng, dục (giục) tượng, thảy đều có ăn cuộc ăn đãi cả".
Dệt củi thi không phải là thi dệt nhanh hay khéo mà là:
"Bòn dệt củi thì làm sàn ra ngoài ao vừa để cái không củi, ả-chức (1) ra đò ngồi lên dệt, đâm thoi bắt thoi cho liền cho lẹ, nếu trật thoi văng rớt xuống ao thì thua".
<<(1) Ả chức: cô gái dệt củi (điển: Ngưu Lang Chức Nữ).>>
Còn tạc tượng thì ly kỳ hơn nhiều, đáng tiếc tác giả lại không ghi rõ tục này có ở làng nào vùng nào:
"Tạc tượng là bắt một cô đào có nhan sắc có duyên đẹp đẽ mặc áo lượt thua rêu, quần lảnh buổi có người ngồi ra tại giũa giàn làm trên ao hồ. Trai lãnh chàng đục, đóng khố giấy (1) ra đó, làm bộ đẽo chạm, hễ giũ không được thì tâm hoa động, dương vật dậy rách khố mất ăn, khi ấy đâm đầu xuống ao lặn đi dõ xấu".
<<(1) Khổ giấy: giấy bản, rất dễ rách.>>
- Về địa lý cũng có lúc tác giả làm chúng ta ngạc nhiên. Thí dụ như vào năm 1867, Hà Nội không phải "ba mươi sáu phố phường" như một bài ca dao phổ thông đã miêu tả. Theo Trương Vĩnh Ký thì:
Thuở xưa còn Đô-thành (4) thì có 36 cửa ô phường phố, đời nay ra tỉnh thành, phía ĐN có 21 đường phố tinh nhà ngói cả:
<<(4) Đô thành: kinh đô >>
1. Hàng buồm, Ngõ khách bán sách vở, đồ tàu, thuốc bắc.
2. Quảng đông, Minh Hương Khách-bộ ở.
3. Hàng-mã, bán minh y minh khí.
4. Hàng-mâm
5. Báo-thiên-phố, bán vải đen vải xanh.
6. Phố nam hay Hàng-bè, gần đó có chợ hòm, hai bên dân làm thùng cây, thùng tre.
7. Phố Hàng-bồ.
8. Hàng bạc
9. Hàng giày, hia
10. Hàng-mây-choại
11. Đồng lạc phố
12. Thái dục phố (phố Hàng đào)
13. Đông hà phố (Hàng hát)
14. Phước-kiến-phố, bán đồ đồng, đồ thiếc.
15. Phố hàng muối.
16. Đồng-xuân phố
17. Thanh hà phố
18. Hàng gai
19. Hà-bao phố
20. Hàng trà
21. Quảng-minh-đình phố.
- Về dân số những tỉnh Trương Vĩnh Ký đi qua đều là tỉnh đông dân. Chúng ta cũng thử ghi lại, để có một ý niệm về miền Bắc trước khi bị Pháp chiếm. (Nên ghi nhận: từ "hộ khẩu" thông dụng hiện nay, đã có từ thời đó).
Hộ khẩu:
Hà Nội: 60.257 tên
Hải Dương: 43.900 tên
Nam Định: 70.898 tên
Thanh hóa: 51.379 tên
Ninh Bình: 3192 tên
Hưng Yên: 16.730 tên
Về ruộng đất và thuế má:
Dân số ít quá - so với hiện nay. Bởi thế, về ruộng và thuế má cũng không đáng kể. Trương Vĩnh Ký ghi nhận:
Ruộng Thuế/lúa Tiền Bạc
Hà Nội Hải Dương Nam Định Thanh Hóa Ninh Bình Hưng Yên 393.066 mẫu 425.547 524.977 292.129 132.655 200.796 245.650 đấu 260.319 470.712 147.252 99.044 145.517 20.775 quan 54.417 229.637 133.679 58.339 119.600 1.276 lượng 1.840 175 515 7 1.036
Về địa danh: tác giả rất kỹ về lịch sử mỗi miền.
Thí dụ như Hà Nội: Trương Vĩnh Ký cho biết tên gọi qua các thời đại như sau:
Hùng Vương, Hán, Tùy: bộ Giao Chỉ
Đường: An Nam đô-hộ-phủ (xây Đại la thành)
Dinh phân làm đạo
Tiền Lê phân làm lộ
Lý lập đô thành tại đó, gọi là Nam Kinh, sau đổi là Thăng Long
Trần: Trung-kinh
Minh (trong thời tạm chiếm): Đông quan thành
Hậu Lê: Đông Kinh rồi Trung đô rồi Đông Đô.
Tây Sơn: Bắc thành
Về tỉnh, tác giả kỹ như vậy chưa cho là đủ. Đối với phủ, ông cũng tìm hiểu lịch sử như thế. Thí dụ: Với phủ Hoài Đức (tỉnh Hà Nội), tên gọi qua các thời đại như sau:
Lê: Phụng Thiên
Hán: Lâng Biện
Tống: Tổng Bình
Minh: Đông Quan
Hậu Lê: Vĩnh Xương
Minh Mạng chia làm hai huyện: Vĩnh Thuận và Từ Liêm
Về tổ chức hành chánh, ông ghi đủ chi tiết: Tỉnh có bao nhiêu phủ, phủ bao nhiêu huyện, huyện bao nhiêu tổng, tổng bao nhiêu xã, thôn, phường...
Thí dụ như về Hà Nội: có 4 phủ, 15 huyện (căn cứ triều Minh Mạng):
1. Hoài Đức phủ:
1 - Vĩnh Thuận
2 - Từ Liêm
2. Thương Tín phủ
3 - Thượng Phước
4 - Thanh Trì
5 - Phú Xuyên
3. Ưng Hòa phủ:
6 - Sơn Minh
7 - Hoài An
8 - Chương Đức
9 - Thanh Oai
4. Lý Nhơn Phủ:
10 - Kim bảng
11 - Duy Tiên
12 - Thanh Liêm
13 - Nam Xang
14 - Bình Lục
Liệt kê trên có 14 huyện. Huyện 15 có lẽ là chính thành phố Hà Nội (huyện Hoàn Long?)
NHỮNG NHÂN VẬT XUẤT HIỆN TRONG DU KÝ CỦA TRƯƠNG VĨNH KÝ
- Những người lính vô danh:
Ngày 16 tháng giêng âm lịch (1876), khi qua tỉnh Bắc Ninh. Trương Vĩnh Ký tình cờ chứng kiến cảnh mộ đoàn quân Việt kéo vô thành. Tác giả chỉ ghi nhận giản dị có một câu:
"Vừa đâu thấy quân gia kéo đỏ đường vô thành, ấy là quân đội nhập thành".
Không ai hiểu tình trạng hiểm nghèo của Bắc Kỳ hơn Trương Vĩnh Ký, không ai hiểu hơn Trương Vĩnh Ký là nếu đoàn quân mà ông nhìn thấy hôm đó mà thất trận trước Soái phủ Pháp Nam kỳ - mà ông đang phục vụ như một viên chức - thì Bắc Kỳ sẽ mất, kéo theo sự mất nước của toàn thể Việt Nam... Vậy trong lòng ông, thực sự ông cảm thấy gì? "Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi" không có ghi gì thêm ngoài câu đó, và bá cáo mật ông gởi Soái phủ Pháp ở Nam kỳ cũng không nhắc thêm...
- Ba người con gái vô danh:
Trong lúc chờ đợi có chuyến tàu vô Nam, tham biện Cù hay vắng mặt khỏi nhiệm sở để đi săn hoặc cấm phòng, nên nhờ Trương Vĩnh Ký thay quyền lúc vắng mặt. Nhờ đó, tác giả đã có thể chấm dứt du ký của mình bằng một hành động rất là LỤC VÂN TIÊN mô tả trong đoạn văn kết thúc như sau:
"Có bữa cụ Thông là cụ địa phận Iphanho đi qua đò vắng nghe có tiếng con gái nhỏ ở sau bổng lái tàu kêu cứu. Cụ biết nó bị quân Ngô bắt, chạy qua tham biện báo. Ta liền chạy lạy thương chánh nói với quan Võ-túc cho triệt cái tàu ấy lại. Nó không muốn ghé, cho theo bắt. Cho lính xuống soát, nó cự không cho, gặp tây làm chưởng dình-dính kêu cậy xuống với lính mà đem ba đứa con gái lên. Nó khai rõ ràng Ngô bỏ thuốc bắt nó, còn một đứa nhỏ còn mê thuốc chưa dã. Đạy núm có các chú Ngô đem lên đóng gông lại, tịch tàu nó đi. Mướn hai tên lính tây canh tàu. Sau giải về tỉnh Hải Dương trị tội. Lại có gặp chiếc tàu Hồng-mao có quan khâm phái lãnh sự tới đó, lên thăm trên thương chánh, sau có mời xuống coi tàu (tàu tên là Egeria).
Sau hết từ giã quan quyền tây nam và kẻ quen biết hết cả, ngày thứ 7, 21 tháng 3 (le 15 Avril), giờ thứ 1 xuống tàu, qua giờ thứ ba chạy ra ngã cửa Cấm, chạy luôn qua ngày thứ hai giờ thứ 10 vô Vũng Hàn bỏ neo đậu lại; trên thủ-ngũ đem ông trạm xuống, giờ thứ 1 lấy neo chạy ngay về Gia Định, giờ thứ 5 sáng ngày thứ 5 là 26 tháng 3 (20 Avril) vào cửa Cần Giờ. Giờ thứ 11 lên tới Sài Gòn gieo neo đậu lại. Mướn đò chở đồ và người về thẳng nhà. Trong nhà không ai dè, vô tới bến mới hay".
Trong tập ký du khảo này, Trương Vĩnh Ký đã chỉ làm việc quan sát, ghi nhận một cách khách quan, trung thực những nơi đã thăm viếng về các mặt: địa danh, số liệu, bút tích, như các câu đối, ca dao, tích truyện, liên quan đến các thắng cảnh, di tích lịch sử. Nhưng những điều đã viết ra trong tập này không phải là tất cả những gì ông đã sưu tầm ghi chép được trong chuyến đi. Trong những tác phẩm in về sau và bản thảo chép tay chưa in, có những câu, bài văn học nói chung, văn học dân gian nói riêng, xuất xứ từ miền Bắc. Chẳng hạn những chuyện tiếu lâm về Tú Xuất, về các nhà tu Thiên chúa giáo in trong "Chuyện khôi hài" xuất bản năm 1882 hoặc một số bài thơ, bài vè mà chúng tôi chép lại các bản thảo của Trương Vĩnh Ký để ở Thư viện đường Gia Long cũ, Sài Gòn, những bài thơ mà có lẽ chưa được ai ghi chép lại, đặc biệt các bài tục mà Trương Vĩnh Ký không bỏ qua như: Gái chửa hoang, Gái lỡ thì, Gái trách phận, Gái đi tiểu; Học trò ve con thầy, Hồ Xuân Hương khi đã giá chồng, Gái hư, Trai với gái đánh cờ ban đêm, Thợ đúc bà góa, Bà Nữ Oa vá lỗ, Bối Cung, Mất chồng nhảy quanh, Thợ hàn lỗ đàn bà, Lấy dao chộc gái, Lo bông lông, Tú nhi hậu dỉ v.v... Thực ra Trương Vĩnh Ký đã đi khắp cả ba miền Nam Trung Bắc và đã ghi rất nhiều các truyện, bút tích, văn học dân gian theo đúng phát âm của từng địa phương, nhất là những truyện khôi hài, tiếu lâm. Chẳng hạn trong "Chuyện khôi hài" ông đã chép đúng lời nói nặng của Nghệ Tĩnh, Thừa Thiên, những chuyện tiếu lâm ghi được ở miền này.
Dù Trương Vĩnh Ký không nói là mình đi công tác đặc biệt quan trọng, nhưng qua bài ký, cứ xét các nhân vật Trương Vĩnh Ký đã gặp và thái độ đối xử của họ - viên chức Pháp, quan lại Việt, các linh mục Thiên chúa giáo... và cả giới thương gia giàu có Hoa kiều nữa - chúng ta cũng có thể đoán ra.
- Về phía Việt, ta thấy những nhân vật có tên trong lịch sử Việt Nam hậu bán thế kỷ 19: Nguyễn Hữu Độ, Phạm Phú Thứ, Trần Đình Túc (quan đại thần)... Ai cũng đón tiếp Trương Vĩnh Ký như một sứ giả đặc biệt.
- Về phía Pháp và hàng linh mục Thiên chúa giáo Pháp cũng vậy: Lãnh sự Pháp tại Hải Phòng M.Turc, Lãnh sự Pháp tại Hà Nội M.De Kergaradec, điều lộ Jardon, Giám mục Puginier, các cha Landais, Bonfils của Hà Nội, Ravier, Thorol, Rousein của Ninh Bình... Đến Nhà Chung Kẻ Sở thì "Về phòng, có các cố tới mầng. Các cố ở đó là: các cha Methevon, Dumoulin, Bon, Yerreau, Godard, Poligné, Le Page".
Quan lại cao cấp Việt đón tác giả một cách ân cần, long trọng, coi Trương Vĩnh Ký cũng là đại thần như họ; Thương chánh đại thần kiêm tổng đốc Hải Dương - Quảng Yên Phạm Phú Thứ giữ lại ăn Tết linh đình thì dễ hiểu vì tác giả có mặt trong phái bộ đi pháp do Phan Thanh Giản cầm đầu. Nhưng tổng đốc Hà Nội, Trần Đình Túc, đã ngoài 70, cũng "trong thành ra, đi tiền hô hậu ủng" đến nơi tác giả tạm trú. Khi đến Nam Định thì: "Trong tỉnh quan tổng đốc là Nguyễn Trọng Hiệp đã đi hồi khuya có việc gấp đi rồi. Còn ông Nguyễn Đức Trạch là quan bổ chánh, và ông Nguyễn Tải là quan án sát ở nhà. Các quan cứ lời ông Tổng đốc dặn, cho một ông đội, một ông thông phán và 10 tên lính ra hầu".
Còn các chức sắc thiên chúa giáo Pháp xôn xao và đến đông gặp Trương Vĩnh Ký trong khi Trương Vĩnh Ký chỉ là một tín đồ Thiên chúa giáo và viên chức người Việt của Soái phủ Nam kỳ Pháp, thì hẳn là họ phải có lý do.
Tất cả các điều ấy phải có lý do xuất phát từ nhiệm vụ không chính thức Soái phủ Sài Gòn đã trao cho Trương Vĩnh Ký. Nhiệm vụ này có tính chất mật đến mức độ những người Pháp còn không rõ, họ phải dùng cách gián tiếp để tìm hiểu. Ngay chính một người Pháp viết tiểu sử Trương Vĩnh Ký, ông Jean Bouchot (Un savant et un patriote cochinchinoise PETRUS J.B. TRUONG VINH KY (1837 - 1898), Sài gòn, Editions Nguyen Van Cua 1927 - troisième edition) cũng phải mở sổ lương bổng ra, thấy Trương Vĩnh Ký là viên chức đi công tác, chứ không phải đi chơi mà thôi.
Ông Jean Bouchot đã tìm ra và đăng nguyên văn trong cuốn sách đã dẫn bản bá cáo Trương Vĩnh Ký gửi Đề đốc Thống đốc Nam kỳ ngay sau khi đi Bắc kỳ về.
Chính bản bá cáo này cho thấy Trương Vĩnh Ký đưa ra những nhận xét về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở miền Bắc. Bản bá cáo đề ngày 28-4-1876 gửi cho Đề đốc Duperré qua ông Reynault de Premesnil, Tham mưu trưởng.
Mở đầu Trương Vĩnh Ký nhắc tới mục đích yêu cầu của chuyến đi là tường trình tình hình chính trị ở Bắc Kỳ. Trước khi làm việc này, ông xin phép lược tóm chuyến đi đã qua những nơi nào, gặp những ai, được đón tiếp thế nào, và không quên lưu ý tầm quan trọng của mỗi địa phương. Chẳng hạn, Thanh Hóa là cái nôi của Triều đình hiện nay và của Triều đình trước đó, hoặc dãy núi Ninh Bình có thể có mỏ kẽm.
Sau đó ông cũng xin phép được bày tỏ thái độ trí thức của mình: nói thẳng, nói thực trong việc trình bày các sự kiện và cảm tưởng của mình vì tôn trọng phẩm cách của người cầm quyền yêu cầu mình và tôn trọng phẩm cách của chính ông là người thực hiện yêu cầu trên.
Đi vào nội dung vấn đề, trước hết ông đề cập đến tình hình tôn giáo, ông nói ông không muốn dài dòng về những căng thẳng giữa giáo sĩ bản xứ và giáo quyền (ám chỉ các linh mục, giám mục người Pháp, chú thích NVT) vì ông ít được thông báo về điểm này. Nhưng ông nói ông rất khổ tâm trước các thảm hại của những đố kỵ tôn giáo. Người công giáo và không công giáo thù ghét nhau một cách trầm trọng và trong những biến cố vừa qua, nếu các nho sĩ và người lương đã phạm những tội ác kinh hoàng thì sự thật là những người công giáo không thua gì họ trong việc trả thù. "Trong những buổi thăm viếng giáo quyền, tôi đã nói với họ những lo ngại của tôi bằng cách làm cho họ hiểu những tác hại do hành động thiếu khôn ngoan của một số người công giáo gây ra. Tôi còn nghĩ rằng hàng giáo sĩ đã đi quá xa, để bảo vệ quyền lợi của mình trong việc cứ nhất định đòi những bồi thường thiệt hại trước một thái độ rất đúng đắn, và vô vị lợi của nhà cầm quyền không công giáo đòi khi bị đau khổ vì những bạo hành do những người công giáo xấu gây ra. Ở đây tôi chỉ kể ra trường hợp quan đầu tỉnh Nam Định đã chứng kiến cảnh làng sinh quán của ông bị cướp phá đốt cháy và nhiều người trong gia đình bị chết vì những bạo hành của người công giáo. Nhưng thôi tôi xin phép không nói đến nữa cái cảnh thảm hại những chiến tranh tôn giáo".
Sau đó, ông thu nhận tình hình mà ông sắp trình bày, thật đáng buồn và lòng ông nổi lên một nỗi buồn sâu xa khi thấy cảnh lầm than của dân chúng xứ Bắc kỳ. Ông nói ông đã nghiên cứu cẩn thận xã hội miền Bắc ở nhiều cấp bậc và ông cảm thấy một nỗi niềm thương xót vô cùng.
Ông đã trao đổi nhiều với những viên chức chính và nhận thấy hầu hết đều chán chường vị trí, chức vụ của họ vì họ buộc phải tuân giữ một cách nô lệ, những phong tục, nề nếp cổ hủ đi ngược lại đà tiến bộ của tư tưởng và yêu cầu cởi mở trong các quan hệ với người nước ngoài. Tóm lại, các viên chức này đều thiên cải tổ, tiến bộ. Trương Vĩnh Ký nhận xét:
"Không thiếu những quan lại thông minh, có tài cai trị đã hiểu rằng lối thoát nằm ở một cuộc thay đổi toàn diện chính sách của triều đình. Họ đã chiến đấu bằng tất cả niềm tin và khả năng mình để xoay đổi hướng chính trị của triều đình, nhưng cho tới nay họ là phe yếu. Chính vì những tư tưởng chính trị tiến bộ của Phạm Phú Thứ mà phe bảo thủ đã đẩy ông này từ trong triều ra Bắc kỳ. Phạm Phú Thứ, như tôi được biết, và các quan khác đã dâng biểu về triều, đề nghị các biện pháp và các cải tổ thích ứng với nhu cầu hơn là các sai lầm cố cựu của nền hành chính cũ. Ngay cả các vị thượng thư cũng nhấn mạnh theo chiều hướng này. Nhưng nhà vua, bị khống chế bởi triều đình và sợ đi xa các nguyên tắc tổ chức cổ truyền của vương quốc, đã mới đầu ngần ngừ rồi sau cũng bỏ qua không xét. Các thượng thư muốn từ chức nhưng nhà vua đã yêu cầu ở lại tại chức.
Nhưng về phương diện hành chính, tệ tham nhũng hối lộ khá trầm trọng lý do chính là vì các quan lại không đủ sống bằng đồng lương, nên họ bắt buộc phải nhận quà cáp, đặc biệt trong những việc cấp giấy phép cho buôn bán, thuyên chuyển, đi lại v.v... và Trương Vĩnh Ký ghi nhận chính những thương gia người Hoa nuôi dưỡng quan lại.
Còn tình hình dân chúng gồm những người thợ, làm ruộng thì sao?
Họ nghèo cực khốn cùng vì không có gì ăn, cũng như không có việc làm. Sự lầm than này ở khắp mọi nơi và đâu đâu cũng vang lên những đòi hỏi cải tổ để có một nền hành chánh có khả năng bảo đảm trật tự, tài sản, làm cho thương mại kỹ nghệ phát đạt và do đó lôi kéo dân chúng ra khỏi vực sâu đói nghèo mà họ đang cảm thấy đưa họ đến chỗ chết.
Nguyên nhân tại sao, có phải vì thiên nhiên bạc đãi? Theo Trương Vĩnh Ký không phải như vậy, miền Bắc không thiếu gì tài nguyên, có thể so sánh với nước Pháp hay ít ra với Algérie, đủ làm cho xứ sở giàu có phồn thịnh. Đất rất thuận lợi cho việc trồng trọt nhiều loại. Những thí nghiệm trồng nho và lúa mì rất có hứa hẹn. Do đó Trương Vĩnh Ký kết luận: dân chúng xứ này chết đói trên một giường vàng.
Nhưng xét về phong tục, tính tình, thì có lẽ dân chúng đáng chịu những khổ hạnh. Người dân hiền lành, chăm chỉ nhưng lúc nào cũng lo sợ, sống trong tình trạng bất an vì sự ức hiếp, hay vì chiến tranh, nên không tin tưởng và trung thành với những người lãnh đạo mà họ cho rằng không thể binh vực họ được. Tuy nhiên họ vẫn mong đợi có một lãnh đạo mới và vì thế dễ tin theo những người nổi lên kêu gọi họ, những người này thực ra chỉ là bọn phiêu lưu, nên cuối cùng thất bại, họ lại tin ở những người khác mặc dầu đã bị lừa bịp. So sánh tình hình miền Bắc với miền Nam, thật dễ hiểu dân chúng miền Bắc thèm muốn được có số phận của dân chúng Nam kỳ. Thái độ đối với nước Pháp thì sao? Trương Vĩnh Ký ghi nhận: các quan thường hỏi ông nước Pháp có định xâm chiếm Việt Nam không? Ông trả lời không gì đã ký những thỏa hiệp về thương mại có lợi cho cả đôi bên. Sự có mặt của các lãnh sự quán Pháp với các đồn canh ở Bắc kỳ đã là một bảo đảm an ninh cho chính phủ và dân chúng trong vùng do đó có thể vững tâm buôn bán làm ăn vì không sợ bị bọn tàu ô cướp biển hoành hành dọc duyên hải.
Các quan cũng hỏi nên xử trí thế nào đối với người Pháp để có lợi tối đa? Trương Vĩnh Ký trả lời: các vị đều biết rõ nếu người Pháp muốn chiếm xứ này thì họ đã làm từ lâu và thật dễ dàng vì các vị cũng thấy rõ mình yếu do đó nên có thái độ cộng tác thẳng thắn, chứ không nên chỉ chìa một tay ra bắt, còn tay kia thì dấu đi để chọc người ta.
Trương Vĩnh Ký kết luận: nói chung hầu hết các viên chức đều ưng theo những tư tưởng mới, mong muốn cải tổ, nhưng tập tục truyền thống còn chi phối nặng nề, Trương Vĩnh Ký cũng xác tín triều đình Huế thật bất lực không thể cải tổ được nếu không có sự tiếp tay của nước Pháp.
Một vài nhận xét:
Trong chuyến đi thăm và quan sát miền Bắc, điều trước hết đập vào mắt ông là tình hình đố kỵ, chiến tranh tôn giáo, một điều ông không thấy ở miền Nam. Các sách sử do người công giáo miền Nam chép đều cho thấy ngay cả trong thời kỳ cấm đạo nghiêm ngặt, người lương thường che dấu, đùm bọc người công giáo, còn các quan cũng không muốn xét xử, tìm cách giảm tội hay tha tội người công giáo bị bắt vì theo đạo. Những vụ đối xử tàn bạo như vụ thảm sát ở Bà Rịa đều do quan quân gốc ở Bắc, Trung vào gây ra. Những người công giáo gốc Trung, Bắc bị Văn thân khủng bố, chạy vào nam đều được đón tiếp chăm lo.
Về tình hình chính trị, Trương Vĩnh Ký nhận xét:
Dân chúng đói khổ, bị bóc lột, áp bức, lầm than cơ cực không phải vì thiên nhiên không ưu đãi mà vì một chế độ chính trị. Chính chế độ bất lực không cải tổ được guồng máy hành chánh quan liêu đã làm hư hỏng tầng lớp quan lại, vì tự bản thân họ đều chán ngán vai trò của họ, tha thiết muốn có cải tổ, tiến bộ nhưng vì sự bất lực từ trên, và vì nhu cầu sinh sống, họ đành cam phận để khỏi mất địa vị và bị đẩy vào sa đọa, tham nhũng, hối lộ vì đồng lương không đủ sống, đôi khi còn phải đợi hai ba năm mới được trả lương. Giới Hoa thương, giới trung gian nuôi sống giới quan lại bằng cách đóng góp, chia chác lợi nhuận với các quan lại đưa tới tình hình như Trương Vĩnh Ký mô tả:
"Kẻ có lợi nhuận thì run sợ cho số tiền mình cất giấu, thương gia thì lo lắng cho công cuộc làm ăn gần như che giấu của mình, kỹ nghệ gia thì lo cho các cơ sở sản xuất của mình vì tất cả các tài sản đều là miếng mồi cho cả một hệ thống viên chức tham tàn".
Dân chúng bị áp bức bóc lột, mong muốn có một chính quyền đảm bảo an ninh để làm ăn, nhưng chịu cam phận vì bị lừa dối quá nhiều từ những kẻ nổi dậy làm khởi nghĩa thực sự chỉ là bọn phiêu lưu cơ hội.
Đối với người Pháp, họ biết rất rõ không thể chống lại bằng quân sự, nhưng con đường hợp tác cũng không phải dễ vì đụng độ với thế lực bảo thủ cố chấp của một số quan lại có thần thế trong triều đình làm tê liệt ngay cả ý muốn thay đổi của nhà vua và các cận thần cởi mở khác. Bức tranh miền Bắc mà Trương Vĩnh Ký phác họa trong bản báo cáo khá trung thực, chính xác. Những nhận định phê phán của ông vượt khỏi lãnh vực hành động các cá nhân, cho thấy những yếu tố chính cấu tạo tình hình đen tối là: một thế lực chính trị, một truyền thống thủ cựu nặng nề và một tâm lý dân chúng thụ động, cam phận....
Ở đây, chưa phải chỗ trình bày đầy đủ và nhận định về thái độ chính trị của Trương Vĩnh Ký, mà chúng tôi sẽ nói trong một tập biên khảo về Trương Vĩnh Ký, một thái độ xuất phát từ chỗ xác nhận không thể chống được Pháp bằng vũ lực, nên tạm thời hòa hoãn cộng tác, thỏa hiệp ngay từ đầu khi người Pháp chưa có ý định xâm chiếm hẳn, thì chỉ phải nhượng bộ ít hơn là về sau, cứ vừa đánh vừa đàm, một tay chìa ra bắt, còn tay kia ngấm ngầm phá như Trương Vĩnh Ký đã ghi, cho đến khi Tây định xâm chiếm thực sự, thì phải nhượng bộ nhiều hơn và hầu như là mất tất cả. Vì lúc đó cũng vẫn không thể chống cự được bằng vũ lực. Nhưng vai trò trung gian của Trương Vĩnh Ký cũng chấm dứt rất nhanh chóng vì ông bị những người có thế lực ở cả hai phía chống lại đường lối trên và vì ông không phải là nhà chính trị, nên chán nản, tự ý rút lui ngay, trở về với việc làm văn hóa.
No comments:
Post a Comment