Saturday, April 12, 2014

HO CHI MINH A LIFE III



HO CHI MINH A LIFE

  WILLIAM DUIKER



 Trong khi Quốc bận rộn “đỡ đẻ” cho các đảng mới, tình hình Việt nam nhanh chóng trở nên căng thẳng. Đầu tiên là cuộc khởi nghĩa của Vietnam Quốc Dân Đảng vào đầu tháng 2. Bỏ qua những nguyên tắc của Lenin về việc vận động quần chúng, xây dựng cơ sở, Vietnam Quốc Dân Đảng dựa vào một lớp các nhà cách mạng tinh túy, dự kiến sử dụng khởi nghĩa vũ trang để lật đổ Pháp, với sự hậu thuẫn của các binh sĩ phản chiến. Quân đội viễn chinh Pháp, do Toàn quyền Ly Myre thành lập từ năm 1879, có khoảng 30,000 quân, với khoảng 2/3 là dân địa phương. Đội quân này được chia thành 31 tiểu đoàn do các sĩ quan Pháp chỉ huy. Ngoài ra còn khoảng 15,000 dân quân do hạ sĩ quan Pháp chỉ huy. Đa phần lính Việt nam là do các chức sắc trong làng bắt đi, chẳng có cảm tình gì với Pháp. Đến cuối những năm 20, tâm lý ghét Pháp trong binh sĩ dâng cao, là mảnh đất màu mỡ để gieo tinh thần dân tộc chủ nghĩa. Từ năm 1929, Quốc Dân Đảng đã bắt đầu tàng trữ vũ khí tại nhiều địa điểm trên cả nước. Đáng tiếc là Pháp đã phát hiện và tiêu hủy phần lớn. Sau đó vấn đề thêm căng thẳng. Một chủ đồn điền Pháp bị ám sát trên đường phố Hà nội khi vừa bước ra cửa nhà người tình. Chính quyền nghi ngờ Quốc Dân Đảng đứng đằng sau, lập tức vây bắt hàng trăm lãnh đạo đảng và những người ủng hộ. Lo ngại trước nguy cơ bị tiêu diệt,Quốc Dân Đảng quyết định ra tay nhanh. Lúc đó, họ đã có khoảng 1000 cơ sở trong các trại lính ở Bắc bộ. Đầu tháng 2, cuộc binh biến nổ ra ở một số đồn ở trung du Bắc bộ, quan trọng nhất là ở Yên bái. Kế hoạch đầu độc các sĩ quan Pháp bị một tên chỉ điểm tuồn cho Pháp. Viên chỉ huy trại lính đã đề phòng và khi cuộc bạo động nổ ra vào giữa đêm, quân Pháp đã được chuẩn bị. Đến đầu giờ sáng thì Pháp đã kiểm soát được tình hình. Cuộc nổi dậy ở một số địa điểm khác cũng nhanh chóng bị dập tắt. Rất nhiều lãnh đạo bị bắt. Ngày 17/6, 13 kẻ cầm đầu bị xử tử tại Yên bái.

Cuộc khởi nghĩa đã thất bại ngay từ đầu về nguyên tắc, khi không có những biện pháp kích động dân chúng tham gia, cũng không có phương án “tẩu vi” khi gặp sự cố. Liên lạc cũng bị cắt đứt ở phút cuối, dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong hành động. Quan trọng hơn nữa là cuộc khởi nghĩa không được sự ủng hộ của dân chúng trong toàn quốc. Các lãnh đạo thoát chết chạy trốn sang Trung quốc và bị phân rã thành 2 nhánh: một nhánh vẫn trung thành với chủ trương khởi nghĩa vũ trang, nhánh kia thì nghiêng về cải cách hòa hoãn.

Trên thực tế thì tình hình Đông dương đang chứa đựng nhiều dấu hiệu bất ổn. Đầu tiên là trong giới học trò. Mặc dù số lượng học sinh liên tục tăng (đầu năm 1930, cả nước có 7000 trường công với gần 340,000 học sinh), bất mãn vẫn không ngừng gia tăng do thiếu điều kiện học lên. Chỉ có khoảng 5000 học sinh ở cấp trung học và khoảng 500 được vào học tại đại học duy nhất ở Hà nội. Việc làm sau khi học xong càng không có, lương thì thấp hơn hẳn các đồng cấp châu Âu, làm tăng thêm tinh thần chống sự thống trị của ngoại quốc. Khi phong trào học sinh tạm lắng xuống cuối những năm 20, đến lượt công nhân nổi dậy. Công nghiệp phát triển mạnh kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhưng chỉ có giới chủ được hưởng lợi. Cuối những năm 20, giai cấp công nhân Việt nam có 200,000 người, trong đó đã có 50,000 làm việc trong các khu mỏ ở miền Đông bắc. Tình cảnh của công nhân làm việc tại các đồn điền chè và cao su ở Tây nguyên và dọc biên giới Campuchia, hết sức khốn khổ:

Tất cả đều phải dậy từ 4h sáng mà nhiều người vẫn chưa kịp ăn sáng. Kẻng tập trung lúc 5h và không ai được muộn. 20 phút tập trung là một cực hình vì bọn chủ tìm mọi cớ để đánh đập, chửi bới. Sau đó tất cả phải ra đồn điền, mỗi người phải cạo mủ từ khoảng 280 đến 350 gốc. Ai không đủ tiêu chuẩn sẽ bị đánh, nếu không có tiền nộp chuộc. Chiều về, phải phục dịch chủ, dọn dẹp nhà cửa. Cuộc sống đúng là: “con không biết mặt cha, chó không biết mặt chủ”. 

 Thực tế châu Âu cho thấy điều kiện trong xã hội tiền công nghiệp không bao giờ dễ chịu. Việt nam cũng không phải là ngoại lệ. Công nhân các “nhà hàng mồ hôi” ở Nam định, Hải phòng, hầm mỏ Quảng ninh hay các đồn điền miền Nam đều cùng khổ như nhau. Việc tuyển dụng cũng không hẳn là tự nguyện. Các băng nhóm tội phạm nhiều khi rình bắt người trên đường rồi tống thẳng đến các nhà máy. Một số nông dân không đủ tiền nộp tô cho địa chủ trốn ra thành phố. Nhưng cũng chẳng hơn gì. Đồng lương thì chết đói. Bạo lực tràn lan. Charles Dickens mà còn sống hẳn sẽ rất hiểu cuộc sống này.

Rồi cuộc đại khủng hoảng xảy ra. Tư bản Pháp bỏ chạy. Hơn một nửa số nhân viên phải ra đường. Có người chạy về quê cuống quít tìm đường sống. Nhiều người biểu tình phản đối. Bãi công nổ ra tràn lan. Có trường hợp là do Tân Việt hoặc Thanh niên Hội xúi giục, nhưng đa số là tự phát. Tháng ba/1930, công nhân đồn điền Phú riềng nổi loạn. Vài tuần sau đến lượt nhà máy dệt Nam định, rồi Diêm Bến thủy. Pháp thẳng tay dẹp loạn. Đã có nngười chết, nhiều người bị thương. Tình hình đặc biệt nghiêm trọng ở Vinh. Rất nhiều công nhân có nguồn gốc từ những địa phương lân cận, dẫn đến sự bất mãn cao độ ở nông thôn. Hàng ngàn nông dân Thanh chương đã tràn vào đập phá đồn điền và treo cờ đỏ búa liềm. Lính lê dương Pháp đàn áp giết hàng chục người.

Từ cuối năm 1929, Đông Dương CS Đảng đã cử một đảng viên kỳ cựu của mình là Nguyễn Phong Sắc về nằm vùng ở nhà máy Diêm Bến thủy. Vài tuần ngay sau Hội nghị thành lập tháng 2/1930, Tỉnh ủy Nghệ an rồi các chi bộ địa phương liên tiếp được thành lập và hầu như hoạt động tự do vì Pháp không để ý, còn quan lại địa phương thì sợ. Các cán bộ địa phương tự chủ hoạt động mà không cần bất cứ sự lãnh đạo nào từ TƯ, tiếp tục thổi ngọn lửa cách mạng.

Đến đầu tháng 9, tình hình bắt đầu vượt khỏi tầm kiểm soát. Nông dân các huyện dọc sông Cả nổi dậy cướp chính quyền, tổ chức theo kiểu Liên xô thành các Xô-viết, chủ yếu là từ thành phần nông dân nghèo. Chính quyền mới lập tức xóa bỏ các loại sưu thuế, lấy lại ruộng đất từ tay địa chủ để chia cho dân nghèo. Công nhân Bến thủy và học sinh Huế đồng loạt biểu tình ủng hộ. Lo sợ, Pháp lập tức tăng cường quân lê dương để hỗ trợ quân triều đình. Ngày 12/9 khi hàng ngàn người từ Yên Xuyên đổ về Vinh để chiếm trụ sở ngân hàng Đông dương, máy bay Pháp đã ném bom thẳng vào đoàn người. Con đường từ Yên xuyên về Vinh đẫm máu và xác người.

Trong lúc Nghệ Tĩnh đang bạo loạn, Đảng bộ địa phương đang bối rối không biết phải hành động thế nào, tại Hongkong, những lãnh đạo cao cấp ráo riết chuẩn bị cho Hội nghị toàn thể trung ương lần thứ nhất. Cuối tháng 9, đoàn Nam bộ đến nơi nhưng chẳng thấy dấu hiệu gì của đoàn Bắc và Trung bộ. Được sự đồng ý của Quốc, anh em định bỏ về, thì thật may mắn có mấy đại biểu của Bắc kỳ đến từ Hải phòng ngay trước giờ lên đường. Tất cả quyết định vẫn tiếp tục hội nghị. Quốc và Trần Phú đi Thượng hải để tư vấn với Noulens. Đầu tháng 10, Phú quay về. Quốc ở lại thêm vài ngày rồi trở về HongKong trên một con tàu Mỹ.

Ngày 20/10, Hội nghị khai mạc tại một căn hộ nhỏ ở phố Khai Y, đảo HongKong. Nhờ trời, đến lúc này, đại biểu 3 miền đều có mặt, trừ một đại biểu đã đến được HongKong nhưng lại bị lạc vì không tìm được địa điểm . Quốc vừa là chủ tịch vừa là đại diện của QTCS. Trong số đại biểu, có một thiếu nữ da nâu, hấp dẫn. Đó chính là Nguyễn Thị Minh Khai, được cử sang giúp cho Quốc tại Văn phòng miền Nam từ tháng 4/1930. Chủ đề chủ yếu của Hội nghị là thảo luận cương lĩnh chính trị chính thức thay thế đề cương tạm thời do Quốc soạn thảo tại Hội nghị thống nhất hồi tháng 2. Đề cương của Quốc thừa hưởng từ cương lĩnh của Thanh niên Hội nên hiển nhiên là có một số điểm không trùng với quan điểm chính thống của Matxcova tại thời điểm này, tỷ như vai trò chính thống của giai cấp công nhân hoặc kế hoạch cách mạng 2 giai đoạn của Lênin. Đa số các đại biểu đã chấp nhận quan điểm của Matxcova, thay thế cho những “khiếm khuyết” của đề cương tạm thời của Quốc. Ngày 9/12, Ban chấp hành TƯ mới ra thông tư (chắc là do Phú thảo), đả kích quan điểm mặt trận thống nhất bao gồm cả những phần tử tư sản của hội nghị tháng 2. Thông tư cũng phê phán chủ trương hợp nhất bình đẳng, cho rằng lẽ ra phải chọn những thành phần ưu tú nhất của mỗi phái.

Cương lĩnh chính trị mới đề nghị thành lập mặt trận phản đế, do công nhân lãnh đạo, kết hợp với bần nông và trung nông. Mặt trận không cấm các phần tử tư sản, nhưng cương lĩnh cảnh báo, phải hết sức cẩn thận với bọn này. Đảng có thể hợp tác với các đảng dân tộc khác, nhưng phải chống lại quan điểm “dân tộc hẹp hòi” của các đảng này, và tiêu diệt ảnh hưởng của chúng đến quần chúng. Cương lĩnh cũng đề xuất khai trừ những phần tử chủ trương khủng bố, ám sát, coi thường quần chúng. Chủ trương này chắc chắn được sự ủng hộ của Quốc, vì ông đã phát biểu tương tự khi nhận xét cuộc khởi nghĩa Yên bái. Một kết quả nữa của hội nghị tháng 10 là việc đổi tên đảng từ đảng cộng sản Việt nam thành đảng cộng sản Đông dương do sức ép của Liên xô. Rõ ràng là Matxcova cho rằng chữ “Việt nam” quá “dân tộc chủ nghĩa” không phù hợp với “cách mạng thế giới”. QTCS cũng đang kêu gọi những nước nhỏ thành lập những đảng khu vực.

 Tình hình bạo loạn ở miền Trung cũng đã gây chú ý. Đến lúc đó gần như mọi sự ngã ngũ, cuộc nổi dậy chỉ diễn ra lẻ tẻ ở vài huyện. Nông dân, công nhân, tầng lớp thị dân, thậm chí cả dân nghèo miền Bắc cũng tỏ thái độ thờ ơ, không nổi dậy hưởng ứng. Nghị quyết hội nghị kêu gọi các lãnh đạo địa phương tìm mọi cách để mở rộng phạm vi ảnh hưởng trong cả nước, và chỉ thị không được manh động, sử dụng bạo lực mù quáng. Một thông điệp gửi riêng cho đảng bộ Nghệ tĩnh nêu rõ:

Nếu quần chúng đứng lên tự phát, đảng đương nhiên phải lãnh đạo. Trường hợp này, có bằng chứng cho thấy đảng bộ địa phương đã chủ động “giật dây”, và đấy là một sai lầm chết người:
1/ Tình hình cách mạng và nhận thức quần chúng chưa chín muồi ở nhiều địa phương.
2/ Tại một số xã, phong trào mạnh thì lại quá thiếu vũ khí.

Hội nghị đã bầu Ban chấp hành TƯ và Ban thường vụ gồm Trần Phú, Nguyễn Trọng Nghĩa và Nguyễn Phong Sắc (mặc dù ông này không dự). Trần Phú còn được bầu làm Tổng bí thư. Quốc tiếp tục là đại diện cho QTCS. Ban đầu Ban thường vụ định đóng ở Hải phòng, nhưng sau chyển vào Sài gòn do lý do an ninh. Quốc không thể không biết rằng những quyết định của Hội nghị lần này đã mâu thuẫn rõ ràng và thậm chí trắng trợn với những tư tưởng và phong cách lãnh đạo của mình. Nhiều chỉ trích hoàn toàn không có cơ sở. Từ thời lãnh đạo Thanh niên Hội, Quốc đã cố gắng nâng cao trình độ nhận thức tư tưởng của các thành viên. Bây giờ khi các thành viên trẻ hơn cáo buộc về tội yếu kém về tư tưởng, chắc Quốc rất đau. Trên thực tế, quan điểm mới của QTCS không những không phù hợp với Quốc mà còn là bước lùi so với những tư tưởng của Lenin đầu những năm 20. Quốc đã chấp nhận tất cả với một thái độ nhã nhặn: “lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác” và viết báo cáo gửi cho Noulens sau khi hội nghị kết thúc.

Vào cuối thu và mùa đông năm 1930-1931, Pháp tăng cường đàn áp. Biểu tình bị dập tắt ngay lập tức, quân đội tràn vào chiếm đóng những làng xã ủng hộ biểu tình. Đảng bộ các tỉnh miền Trung báo cáo tinh thần dân chúng xuống thấp. Những phần tử tích cực cuống quýt quay sang các biện pháp như ám sát hoặc khủng bố để trấn áp dân chúng. Pháp càng đàn áp dữ hơn. Ban thường vụ cũng lúng túng, chỉ thị: ”chúng ta không có máy bay,không có quân đội để ứng cứu. Nhưng tuyệt đối không được hoảng loạn”. Tại Hongkong, Quốc cũng hết sức cố gắng để lôi kéo sự chú ý của thế giới. Trong báo cáo gửi cho Moscow, Quốc nói suốt ngày gõ cửa các đồng chí ở văn phòng FEB tại Thượng hải, để kêu gọi các đảng khác ủng hộ phong trào tại Việt nam. Trong một bài báo viết năm 1931, có tên “Nghệ Tĩnh đỏ”, Quốc ca ngợi sự kết hợp của công nhân với nông dân và kết luận, cuộc nổi dậy xứng đáng được tô màu “đỏ”.

Quốc cũng hết sức băn khoăn về khả năng của mình có thể tham gia tích cực vào việc lãnh đạo phong trào. Mâu thuẫn với Trần Phú ngày càng căng thẳng. Phú thẳng cánh chỉ trích quan điểm “dân tộc” của Quốc, phản bội lại những tư tưởng của QTCS. Phú cũng không dấu diếm tham vọng kiểm soát đảng trong tương lai. Trong một lá thư gửi Quốc tháng Giêng năm 1931, Phú kêu ca về sự mất liên lạc với văn phòng FEB tại Thượng hải và cho rằng Quốc chính là thủ phạm. Phú viết, nếu Quốc không thể đảm bảo được liên lạc, thì văn phòng ở Hongkong có vai trò gì? Mặc dù rất khó chịu với giọng điệu “bề trên” của Phú, Quốc vẫn tìm cách bắt liên lạc với Thượng hải và thúc giục Noulens nhanh chóng có những chỉ thị cho phong trào ở Việt nam.

*********************
FEB - Cục Viễn đông


 Đầu tháng 3, Joseph Ducroux, điệp vụ của QTCS dưới tên gọi Serge Lefranc đến HongKong để gặp Quốc trong chuyến đi thị sát khu vực. Quốc và Lefranc quen nhau từ đầu những năm 1920 khi cùng tham gia Liên đoàn cộng sản trẻ tại Paris. Lefranc cho rằng sử dụng Quốc chỉ với mục đích liên lạc và phiên dịch thì quá phí và đề nghị chuyển Quốc về văn phòng Thượng hải, trực tiếp chỉ đạo Đông dương. Hai tuần sau, Lefranc đến Sài gòn. Ngày 23, Ngô Đức Trí, thành viên Ban thường vụ mới, từng gặp Lefranc khi học tại trường Stalin, gặp Lefranc tại khách sạn Sài gòn Palace. Ngày hôm sau, Lefranc gặp 2 thành viên còn lại tại nhà Phú, chuyển tiền và hứa Noulens sẽ sớm gặp ban lãnh đạo Đảng CS Đông Dương. Lefranc cũng thông báo việc chuyển Quốc về Thượng hải. Sau khi gửi bưu thiếp cho Quốc, Lefranc rời Sài gòn ngày 27.

Cảnh sát Pháp bắt đầu thành công trong việc truy quét, bắt bớ những phần tử cộng sản đầu sỏ, từ đó tra khảo ra những đầu mối khác. Nội bộ phong trào bắt đầu có hiện tượng rối loạn, nghi kỵ lẫn nhau. Thậm chí khi Nguyễn Đức Cảnh bị bắt năm 1929, đảng bộ miền Trung đã quyết định ám sát ông này trong nhà tù để khỏi khai lung tung. Cuối tháng 3/1931, Trần Phú triệu tập hội nghị trung ương lần thứ hai tại Sài Gòn.Không rõ là hội nghị bàn về vấn đề gì nhưng thấy nghị quyết dũng cảm tuyên bố nhờ tình hình thế giới
thuận lợi và những cố gắng của đảng, phong trào vẫn phát triển mạnh mẽ. Hội nghị cũng thừa nhận những vấn đề nghiêm trọng đang tồn tại. Vai trò lãnh đạo của đảng tại Bắc kỳ rất yếu, do tư tưởng “tiểu tư sản” bị thừa hưởng từ Thanh niên Hội, không thâm nhập được vào giai cấp nông dân và công nhân. Vài ngày sau hội nghị, cảnh sát bất thình ***h ập vào ngôi nhà Ban thường vụ đang họp kín với đại diện các địa phương ở Nam bộ. Tất cả đều bị bắt, trừ Trần Phú đúng lúc đó đang ra vườn đi vệ sinh nên đã kịp thoát ra cổng sau. Trong tù, Ngô Đức Trí không chịu được tra tấn đã khai ra tuốt tuột. Đến ngày 17/4, trong ban lãnh đạo đảng, chỉ còn Trần Phú tự do.

Cùng ngày, Phú viết thư cho văn phòng FEB - Cục Viễn đông , buộc tội những đảng viên nòng cốt Bắc kỳ và Trung kỳ, vẫn bị ảnh hưởng của giới lãnh đạo cũ, chống đối lại đường lối mới, dẫn đến thảm họa hiện tại. Tuy nhiên Phú vẫn lạc quan thông báo, hiện tại đảng đã có tới 2400 đảng viên so với 1500 hồi tháng 10; hơn 63000 nông dân đã tham gia cách mạng, so với chỉ có 2800 mùa thu năm trước. Đảng sẽ phát triển và cần tiền, Phú kết luận. Trước đó vài ngày, Noulens đã viết thư phê phán Quốc ở HongKong không cung cấp đầy đủ các thông tin về tình hình ở Đông dương, chẳng hạn tại sao lãnh đạo bị bắt và trong hoàn cảnh nào? Để FEB có thể rút ra những kinh nghiệm và bài học. Noulens cho rằng việc chuyển Quốc về Thượng hải tại thời điểm này là không hiện thực và cần chuẩn bị kỹ lưỡng hơn nữa. Ngày 20/4, Quốc viết cho Ban thường vụ ở Sài gòn, chuyển tải những yêu cầu của Noulens. Ngày 24/4 Quốc viết cho Phú, kêu ca về vai trò của mình chẳng khác gì “hộp thư”, và sẵn sàng làm nhiệm vụ khác. Trong mọi trường hợp Quốc nhấn mạnh vai trò của việc bảo đảm thông tin đầy đủ. Nhưng Phú không bao giờ nhận được những bức thư này. Ngày 18/4 Phú bị bắt. Mấy tháng sau, Phú chết trong tù. Có nguồn tin nói là do lao phổi, nguồn khác lại cho rằng do tra tấn. Ngô Đức Trí và Nguyễn Trọng Nghĩa đang ngồi tù. Nguyễn Phong Sắc bị hành hình trong tháng 4. Ban lãnh đạo đảng trong Đông dương hoàn toàn bị tan rã.


 Theo báo cáo của Surête, cuối mùa xuân năm 1931, hơn 2000 người đã bị hành hình, 51000 thành viên của phong trào bị bắt. Thêm vào đó là hạn hán trong các tỉnh miền Trung dẫn đến mất mùa. Hơn 90% dân Nam đàn, Nghệ an có nguy cơ chết đói. Ngay cả những người ôn hòa như Bùi Quang Chiêu cũng phải viết trên tờ La Tribune Indochinoise: miền Trung đang yên tĩnh, nhưng đó là sự im lặng của chết chóc.

Ngày 12/5/1931, Noulens gửi cho Quốc bản đánh giá có tính phê phán tình hình Đông dương. Noulens phê phán lãnh đạo đảng đã không tuân thủ nghiêm ngặt những chỉ dẫn của QTCS. Đặc biệt là chủ nghĩa “anh hùng quá khích”, nổi dậy vội vã, bắn cảnh sát hay những hành động khủng bộ khác đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến phong trào. Họp hành thì dài dòng và thoải mái, không có những biện pháp bảo mật. Thiếu những biện pháp giáo dục và tổ chức quần chúng. Cuối cùng Noulens hứa sẽ báo cáo tình hình Đông dương cho phong trào cách mạng thế giới và dặn “Tìm mọi cách viết cho chúng tôi về hoạt động, thành tích và thất bại của các bạn”

Trong lúc chờ đợi phân công công tác mới, Quốc sống trong một căn hộ nhỏ ở bán đảo Cửu long và sa vào quan hệ tình ái với Nguyễn Thị Minh Khai.????? Cũng như Quốc, Duy (tên hoạt động của Nguyễn Thị Minh Khai) là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Cô sinh năm 1910 tại một gia đình danh giá ở Hà đông. Ông nội Duy là một quan chức triều đình ở Bắc giang, đã đậu đến Phó bảng. Bố Duy, ông Nguyễn Văn Bình, sau khi thi trượt, chấp nhận làm một nhân viên hỏa xa ở Vinh năm 1907. 14 tuổi, khi vào trường trung học, Duy được Trần Phú truyền bá những tư tưởng cách mạng. Năng nổ và xinh xắn, cô lập tức được Quốc chú ý ngay khi đến Hong kong. Không có nhiều tài liệu viết về mối tình Quốc-Khai và cũng không rõ họ có cưới nhau chính thức hay không?

Cuộc hôn nhân của Quốc với Tăng Tuyết Minh coi như tan vỡ sau khi Quốc bỏ trốn năm 1927, mặc dù có một số chứng cớ cho thấy Minh đã gặp Quốc tại HongKong đầu những năm 1930. Lâm Đức Thụ đã khai với mật thám Pháp là Minh chê Quốc già, và đồng ý lấy Quốc chỉ vì tiền???? Trong một bức thư nhờ Thụ chuyển cho Minh, Quốc viết: “Mặc dù chúng ta xa nhau và không nói ra nhưng tình cảm vẫn nguyên vẹn. Cho anh gửi lời hỏi thăm tới mẹ em”. Mùa xuân năm 1931, Quốc xin phép văn phòng FEB được cưới Nguyễn Thị Minh Khai. Noulens trả lời phải báo trước cho ông ta hai tháng trước khi làm đám cưới. Không may, ngay sau đó Khai bị cảnh sát HongKong bắt vì nghi ngờ hoạt động chống phá. Nhờ tự khai là công dân Trung Quốc dưới cái tên Trần Thái Lan, Khai bị di lý về Quảng đông, tống giam vài tháng rồi được thả ra vì thiếu chứng cớ. Khoảng cuối tháng 4, đầu tháng 5, Quốc viết thư cho Noulens thông báo vắn tắt một đồng chí trong đội liên lạc bị bắt. Sau đó lại nhắc lại đề nghị được chuyển công tác.

Cùng thời điểm, Lefranc vẫn tiếp tục chuyến đi của mình đến Singapore để tiếp xúc và thu nhập thông tin với các thành viên của đảng cộng sản Malayan - MCP. Cả Quốc lẫn Noulens đều đang rất cần những thông tin này. Do được Quốc báo trước, một lãnh đạo của MCP là Phú Đại Thanh, chiến hữu của Quốc khi thành lập đảng ở Xiêm, đã hẹn gặp Lefrance tại Collier’s Quay. Cảnh sát Anh đã theo dõi Lefranc từ lâu và mất dấu ông này ở Ấn và Xrilanca. Lần này thì chúng gặp may. Phú đang bị cảnh sát bám sát vì quan hệ với một đảng viên người Indonexia Tan Malaka. Khi được biết là Phú sẽ gặp một điệp viên từ châu Âu sang có tên là Lefranc, cảnh sát nghi ngờ ngay đó chính là Joseph Ducroux, đã được London báo từ trước. Sau khi bắt giữ cả hai, cảnh sát đã lục soát phòng ngủ và thu tất cả các giấy tờ của Lefranc, trong đó có cả bưu thiếp của Quốc (dưới tên T.V. Wong) và Noulens. Lefranc và đồng phạm bị xét xử và tống giam tại Sing, còn thông tin về Quốc và Noulens ngay lập tức được báo về Thượng hải và Hong kong.

2:00 giờ sáng ngày 6/6, cảnh sát HongKong ập vào một căn hộ trên bán đảo Cửu long, bắt đi trên tầng 2 một người đàn ông có tên là Tống và một phụ nữ trẻ tự xưng là cháu của ông ta và có tên là Lý Sâm. Dựa trên những tài liệu, truyền đơn thu được, cảnh sát đã xâc định đó chính là điệp vụ của QTCS Nguyễn Ái Quốc, còn người phụ nữ là Lý ưng Thuận, vợ của Hồ Tùng Mậu. Cuộc sống phút chốc bị đảo lộn. Mọi quan hệ với trong nước bị cắt đứt. Đe dọa nhãn tiền là bị dẫn độ cho Pháp và triều đình Annam. Tương lai vô cùng bất định!

 7.Mất hút


Năm 1931 là năm các chính quyền thuộc địa tại Đông Á ra tay ngăn chặn làn sóng cộng sản đang dấy lên. Tháng 6, cảnh sát Singapore bắt Serge Lefranc, đặc vụ của QTCS đang đi tour khu vực Đông Nam A theo chỉ thị của văn phòng Thượng hải. Ngày 5/6, phái viên của Đảng CS Đông Dương tại FEB Lê Quang Đạt bị bắt tại nhượng địa Pháp ở Thượng hải. Sáng hôm sau, Nguyến Ái Quốc và đồng chí của mình là Lý Sâm bị bắt tại Hồng kông. Vài ngày sau đến lượt Hilaire Noulens và vợ. Ông này tự khai là công dân Bỉ nhưng đã bị nhanh chóng vạch trần khi lận theo người đến mấy quyển hộ chiếu khác nhau và lãnh sự Bỉ từ chối xác nhận. Mặc dù chẳng có thể gán được cho Noulens tội gì rõ ràng, các quan chức thuộc địa tin chắc rằng ông này là cộng sản gộc và chuyển giao cho chính quyền Quốc dân đảng tại Giang tây. Tại đây Noulens bị kết án chung thân, sau Liên xô thông qua tổ chức Chữ thập đỏ quốc tế đã can thiệp để đưa về Matxcova.

Nguyến Ái Quốc (dưới bí danh là phóng viên Trung quốc Tống Mãn Châu) bị bắt mà không có trát của toà do cảnh sát nghi ngờ là có những hoạt động liên quan đến QTCS. Mặc dù Quốc chẳng phạm tội gì của HongKong, chính sách của Anh lúc đó là không cho phép sử dụng lãnh thổ mình để tiến hành các hoạt động lật đổ. Chính quyền sở tại tin chắc ông là Nguyến Ái Quốc và hy vọng có thể tìm cách để trục xuất Quốc sang Đông dương. Tuy nhiên do lúc đó giữa Pháp và Anh chưa có thoả thuận về dẫn độ tội phạm chính trị, cách duy nhất mà chính quyền có thể làm là đề nghị toà ra lệnh trục xuất Quốc ra khỏi HongKong trên một con tàu và đến một địa điểm đã chỉ định sẵn.


Do không có hộ chiếu và Quốc kiên quyết khẳng định mình là người Hoa chứ không phải người Việt nam, toà phải mở phiên điều trần vào ngày 10/7/1931. Tại phiên điều trần này, Quốc chỉ dùng tiếng Anh, khai mình sinh ở Đông hưng (thành phố thuộc Quảng đông gần biên giới với Đông dương). Ông thừa nhận mình đã sang Pháp, nhưng chưa hề tới Nga và càng không liên quan gì đến QTCS. Ông cũng phủ nhận mình có quen biết Lefranc mặc dù công nhận là mình đã ký vào bưu thiếp tìm thấy trong túi của Lefranc. Cuối cùng Quốc đề nghị được dẫn độ sang Anh chứ không phải trục xuất sang Đông dương. Gần cuối phiên điều trần, Quốc bất ngờ nhận được sự trợ giúp về pháp luật từ bên ngoài.

Cho đến nay vẫn chưa rõ là làm thế nào mà luật sư Frank Loseby lại trở thành một nhân vật quan trọng của vụ án này? Có nguồn tin cho rằng ông ta có một trợ lý người Việt, anh này đã kể lại với ông chủ về Quốc. Hồ Chí Minh thì nói rằng mình và Loseby có chung một người bạn giấu tên ở HongKong. Theo thông tin chính thức của Hà nội, Loseby được Tổ chức cứu trợ Đỏ quốc tế và Mặt trận phản đế (một công cụ của Moscow để cứu giúp các đồng chí của mình bị sa cơ) thuê. Loseby lập tức phản đối việc trục xuất Quốc theo những thủ tục bình thường vì điều đó sẽ gây nguy hiểm cho Quốc và Lý Sâm (cô gái cùng bị bắt với Quốc). Lý do đơn giản là chính quyền Pháp ở Đông dương đang theo dõi sát sao vụ này và đã đề nghị chinh quyền HongKong thông báo địa điểm và thời gian trục xuất. Loseby muốn các thân chủ của mình phải được rời HongKong theo sự sắp xếp của chính họ. Thống đốc HongKong lưỡng lự nhưng cũng đồng ý. Ngày 24/7 ông này điện cho Bộ Thuộc địa ở London đề nghị thả tự do cho Quốc và buộc phải rời HongKong trong 7 ngày. Theo ông nếu trục xuất Quốc sang Đông dương thì chẳng khác gì dẫn độ và “mâu thuẫn với những nguyên tắc của nước Anh”.

Tuy nhiên, sự việc diễn ra không đơn giản. Jules Cambon, đại sứ Pháp tại London chính thức lên tiếng phản đối quyết định thả Quốc. Ông ta cho rằng Quốc là một sự nguy hiểm quốc tế và cần phải bị kiềm chế. Mặc dù Pháp không có đủ thẩm quyền pháp lý để đòi hỏi dẫn độ Quốc, chính phủ Pháp muốn chính phủ Anh hiểu rõ quan điểm của mình. Ông này cũng nhắc lại đề nghị của tổng lãnh sự Pháp tại HongKong đề nghị trục xuất Quốc sang Đông dương. Bộ Ngoại giao Anh, muốn lấy lòng Pháp trong việc chung sức chống lại các hoạt động lật đổ đã đồng ý với quan điểm này



Yêu cầu của Bộ ngoại giao đã gây ra cãi nhau to trong Bộ thuộc địa. Mặc dù có nhiều quan chức phản đối cho rằng làm thế khác gì dí cổ Quốc vào lưỡi dao của Pháp, cũng có những quan chức đồng tình với Bộ ngoại giao. Bài phát biểu sau có thể làm rõ quan điểm đó:

Cá nhân tôi nhất trí với quan điểm của Bộ ngoại giao là trả lại tay này về Đông dương. Hắn là một tay kích động xấu xa bị bắt cùng một rọ với Le Franc ở Thượng hải. Chúng ta quả là không may vì không tìm được đủ chứng cớ để tống cổ hắn vào tù ở HongKong. Có vẻ các vị cảm thấy là nhân đạo khi cho hắn sang Nga thay vì đẩy vào tay kẻ thù của hắn. Nhưng hãy để ý rằng, các hoạt động cách mạng ở Đông dương là bẩn thỉu, phần nhiều liên quan đến giết người, đốt nhà hoặc tra tấn dã man. Tuy không trực tiếp nhúng tay, nhưng đa phần các vụ này đều do Nguyễn chịu trách nhiệm. Nếu hắn ta được tự do, hắn lại tiếp tục những hành động như vậy. Bởi thế tôi đồng ý quan điểm của chính phủ Pháp là các thế lực Thuộc địa cần đoàn kết với nhau để dập tắt những ổ dịch cách mạng lây lan nhanh chóng này bảo vệ lợi ích của văn minh ở phương Đông.

Trước sức ép của Bộ ngoại giao, cuối cùng thống đốc HongKong đã ra lệnh trục xuất Quốc sang Đông dương. Đoán trước được ý định đó, Loseby đã sử dụng lên đình quyền giam giữ yêu cầu mở phiên toà công khai để xem xét tính pháp lý của vấn đề. Ngày 14/8, toà tối cao HongKong đã mở phiên xét xử kéo dài trong mấy tuần. Tại phiên toà, Loseby đã chứng minh là chính quyền đã vi phạm pháp luật khi đặt những câu hỏi có nội dung chính trị, không liên quan gì đến vụ việc, trong lần thẩm vấn Quốc trước đó. Cảm thấy quan toà Ngài Joseph Kemp có thể huỷ bỏ lệnh trục xuất hiện tại, các quan chức HongKong vội vàng thảo một lệnh theo một chương khác của Pháp lệnh về trục xuất năm 1917. Toà đã chấp nhận lệnh mới, nhấn mạnh rằng mặc dù việc trục xuất có thể dẫn đến những hậu quả tương đương như dẫn độ, nhưng cũng chẳng có gì trái với luật pháp nước Anh cả. Lý Sâm được trả tự do, còn Quốc lại đối mặt với nguy cơ bị đưa về Đông dương.

Ngay lập tức Loseby chống án lên Hội đồng cơ mật tại London, cho rằng chính quyền đã lạm dụng quyền lực. Được Hội đồng chấp nhận đơn, Quốc có cơ hội thay đổi không khí vì ít nhất là cũng vài tháng sau vụ việc mới được xem xét. Ông được chuyển sang bệnh viện Đường Bowen vì lý do sức khỏe. Mặc dù không có biểu hiện bệnh tật rõ ràng, Quốc bị kiệt sức và trông hốc hác. Trong hồi ký của mình, Quốc miêu tả giai đoạn này khá tăm tối, bị ngược đãi, ăn cơm hẩm, cá thiu và thú vui duy nhất là săn rận. Tuy nhiên một số nguồn thông tin khác cho rằng, trong thời gian ở bệnh viện, Quốc sống khá thoải mái, thường xuyên được vợ chồng một quan chức thuộc địa (bạn Loseby) và một số người châu Âu khác viếng thăm. Loseby cũng bố trí cơm nước cho Quốc từ một nhà hàng cạnh bệnh viện. Quốc dành thời gian rỗi để đọc và thậm chí đã hoàn thành một cuốn sách bằng tiếng Anh. Đáng tiếc là Loseby đã đánh mất nó trong chiến tranh thế giới thứ hai.

Như thường lệ, Quốc cũng không bỏ lỡ cơ hội để tiến hành tuyên truyền cho những tư tưởng cách mạng của mình. Trong một câu chuyện của mình, Quốc kể: Một hôm, có một cô hộ lý Trung Quốc thì thầm hỏi: “Bác ơi, chủ nghĩa cộng sản là gi ạ, bác có phải là người cộng sản không, bác đã làm gì mà bị bắt?” Cô ấy biết rằng, những người cộng sản không phải là trộm cướp, buôn lậu, giết người, cho nên không hiểu vì sao họ lại bị bắt. “Thế này, cháu ạ, nói một cách đơn giản, những người cộng sản muốn xây dựng một chế độ mà các hộ lý Trung quốc không phải phục tùng các quan lớn người Anh nữa”


Bức thư đầu tiên mà Quốc gửi từ trong tù là cho Lâm Đức Thụ, thông báo đã ở tù 3 tuần. Quốc nói “rất xấu hổ và không có ai để chứng thực cho sự vô tội” của mình. Quốc đề nghị Thụ làm hết sức mình để được tự do và hứa sẽ biết ơn đời đời. Tất nhiên là chẳng có ích gì. Mặc dù biết rõ quan hệ tay đôi của người đồng chí cũ của mình, Quốc vẫn giữ liên lạc và đề nghị Thụ đừng đến thăm vì sợ bị liên luỵ. Sau đó vài tháng Thụ đã báo cho chỉ huy người Pháp của mình là Quốc đã xin 1000 đô HongKong để được đưa sang châu Âu. Khi Thụ nói không có tiền, Quốc đã đề nghị vợ Thụ bán đi một số đồ trang sức.??????

Đây chắc cũng là một giai đoạn cô đơn của Quốc. Người tình mới Nguyễn Thị Minh Khai thì ở trong tù???? cha mới chết trước đó 2 năm tại Nam bộ, không một xu dính túi. Thỉnh thoảng Quốc mới có liên lạc với các anh chị. Anh Khiêm, từng bị bắt vì tạo phản năm 1914, được tha năm 20, sống ở Huế, chủ yếu làm thuốc và xem địa lý để tiếp tục hoạt động nhưng cũng rất túng thiếu. Năm 1926, Quốc đã nhờ Phan Bội Châu gửi cho anh mình một ít tiền. Chị Thanh cũng đầy tai tiếng với chính quyền, bị bắt năm 1918 vì tội tàng trữ vũ khí, được tha năm 22, cũng sống và làm thuốc ở Huế, sau khi cha chết năm 1929, chị có về Kim liên để thắp hương cho bà con.
Trong lúc đó, các cơ quan chức năng tiếp tục tranh cãi. Bộ thuộc địa thì đồng ý với chính quyền HongKong về việc trục xuất và để cho Quốc tuỳ nghi di tản. Bộ ngoại giao thì sợ Pháp phật ý, lại muốn tham khảo chính quyền Pháp về các hình phạt có thể áp dụng với Quốc. Tuy nhiên cả hai đều đồng ý chưa có hành động nào trứơc khi Hội đồng cơ mật ở London đưa ra quyết định cuối cùng. Ngày 22/12, Đại sứ Pháp tại London, Jaques Truelle đã trả lời yêu cầu của Anh về các tội Quốc đang bị xử ở Đông dương. Theo ông này, Quốc đích thị là đặc vụ của QTCS tại Đông Nam Á trong đó có nhiệm vụ trợ giúp cả Đảng cộng sản Malay, đang là thuộc địa của Anh. Truelle cũng xác nhận toà án Nam triều đã kết án Quốc tử hình về tội mưu toan lật đổ. Tháng 10/1929, bản án này đã được xem xét lại và hạ xuống khổ sai chung thân. Truelle thông báo là Quốc sẽ được xét xử lại, bản án sẽ được Toàn quyền Đông dương phê duyệt, và mặc dù tội danh vẫn không thay đổi, Pháp bảo đảm sẽ không kết án tử hình Quốc.

Cuối năm 1931, đơn khiếu kiện của Quốc được Hội đồng cơ mật đưa ra xem xét. Quyền lợi của Quốc được luật sư D.N Pritt (hãng Light và Futon) bảo vệ. Đảng viên Đảng Lao động Stafford Cripps đại diện cho chính quyền Hongkong. Ông này, một mặt sợ mất mặt chính quyền HongKong, mặt khác được mấy người bạn ở Bộ thuộc địa có tư tưởng thân cách mạng khuyên bảo, đã đề nghị thoả hiệp. Ngày 27/6/1932, chính phủ Anh đồng ý trả tiền khiếu nại và hỗ trợ Quốc đi đến bất cứ nơi nào Quốc muốn. Cũng có tin đồn là Quốc được tha vì đồng ý nhận làm điệp viên cho Anh???

Đầu tiên Quốc được thông báo là chính phủ Anh đồng ý cho tị nạn chính trị, tuy nhiên chẳng có đường nào đến Anh mà lại tránh được cảnh sát Pháp. Nếu qua kênh Suez, Quốc có thể bị bắt ở Port Said (Ai cập). Qua Nam Phi hoặc Úc thì các chính phủ này lại không đồng ý. Buồn cười nhất là cuối cùng hoá ra chính phủ Anh cũng không đồng ý nhận. Không hiểu sao chữ “không” trong từ “không đồng ý” trong bức điện của London gửi HongKong lại bị ai đó xoá đi mất.

Chính quyền đã bắt đầu sốt ruột với vị khách rắc rối này. Ngày 28/12/1932, Quốc được thả ra khỏi bệnh viện và phải rời HongKong trong vòng 21 ngày. Trước đó, để đánh lừa Pháp, ông Loseby đã tung tin Quốc bị chết vì lao phổi. Tờ “Công nhân hàng ngày” của QTCS tại London đã đưa tin về cái chết của ông trong số ngày 11/8/1932. Quốc phải đóng giả một ông đồ nho, sống tại khách sạn YMCA tại Cửu long vài ngày rồi lên tàu đi Singapore. Rủi thay, cơ quan nhập cảnh Sing lại tống cổ Quốc trở lại HongKong trên tàu Ho Sang. Đến HongKong, cảnh sát lại bắt Quốc vì tội thiếu giấy tờ. Tuy nhiên chính quyền HongKong đã can thiệp, trả tự do cho Quốc ngày 22/1 và cho 3 ngày để tìm đường thoát khỏi thuộc địa. Nhờ sự giúp đỡ của Loseby, tối ngày 25, cảnh sát mặc thường phục đã dùng xuồng máy đưa Quốc ra ngoài khơi đến một con tàu Trung quốc đang nhổ neo đi Hạ môn.

Quốc và người phiên dịch xuống Hạ môn vào sáng hôm sau (thành phố này lúc đó được phương Tây gọi là Amoy) và nhận phòng tại YMCA ở khu Trung quốc. Nhờ một người Hoa địa phương giàu có, bạn của Loseby chu cấp, Quốc chơi bời nghỉ ngơi vài tuần qua Tết ở Hạ môn trước khi lên tàu đi Thượng Hải trong vai một thương nhân người Hoa. Lúc này cảnh sát Pháp đã đánh hơi được Quốc đang ở đâu đó Nam Trung quốc và tăng cường truy nã. Các đảng viên CS Trung Quốc thì đã phải rút hết vào bí mật từ sau vụ tàn sát 1927. May mắn cho Quốc, đúng lúc đó có đoàn đại biểu chống chiến tranh của Quốc hội Pháp do bạn ông từ thời FCP- Đảng CS Pháp, Paul Couturier dẫn đầu đang ở thăm Thượng hải. Quốc quyết định dùng con bài cuối cùng: vợ goá của Tôn Trung Sơn, bà Tống Khánh Linh. Anh thuê một xe taxi, liều mạng phi đến biệt thự của bà này tại Rue Moliere nhượng địa Pháp để bỏ một bức thư vào hộp thư. Trên đường về, nhờ chiếc xe trông quá xịn, Quốc đã thoát được một cuộc vây bắt của cảnh sát Pháp. Madam Tống đã giúp Quốc gặp được Couturier, ông này liên lạc với Đảng CS Trung Quốc và bố trí đưa Quốc lên một chiếc tàu Liên xô chuẩn bị đến Vladivostok. 


 Quốc đến Matxcova mùa xuân năm 1934. Nước Nga xô viết đang ở trong ánh hào quang của giai đoạn công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Đối với các khách du lịch ngắn ngày và không đi quá xa ra khỏi Matxcova, Leningrat và các thành phố lớn, tình hình quả là được cải thiện đáng kể so với thập kỷ trước. Nhà viết kịch Bernard Shaw đã miêu tả những điều nhìn thấy như một “Cuộc thử nghiệm xã hội vĩ đại”. Tuy nhiên đối với nhiều triệu người dân Xô viết tình hình lại không được khả quan như vậy. Giai cấp trung nông, tiếng Nga gọi là Culac (có nghĩa là nắm đấm) bị tiêu diệt trong công cuộc tập thể hoá nông nghiệp. Của cải của nông dân bị tước đoạt để trang hoàng cho các quầy tạp hoá ở đô thị. Những kẻ chống đối hoặc bị giết hoặc bị đưa đi đày ở Siberia. Hàng ngàn người bị bắt lao động khổ sai tại những công trình thế kỷ như kênh đào Kareli nối vịnh Phần lan với Bạch hải. Nạn đói đã nổ ra tại Ucrain năm 1932, trong 2 năm sau đó, ước tính đã có từ 5-7 triệu người chết đói. Khoảng giữa những năm 30, phong trào chống đối kế hoạch hoang tưởng của Stalin trong đảng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên Stalin đã ra tay, Trosky bị đẩy đi lưu vong. Kamenev và Zinoviev bị cô lập. Ngôi sao đang lên Kirov bị ám sát. Một cuộc thanh trừng tập thể được tiến hành nhằm vào tầng lớp Bolsevic cũ đã từng cùng với Lenin tiến hành khởi nghĩa. Trong năm 1935, hơn 100,000 người đã bị bắt với tội danh “kẻ thù của quốc gia” chỉ riêng ở Leningrat.

Trên danh nghĩa, những biến động đó chẳng ảnh hưởng đến cá nhân Quốc. Anh được tiếp đón trọng vọng ở văn phòng Dalburo (lúc đó đang do một người cộng sản Phần lan Otto Kuusinen lãnh đạo). Quốc lập tức được phân quản lý 144 sinh viên Việt nam đang học tại học viện Stalin (lúc đó đã được đổi tên thành Học viện các vấn đề Dân tộc và Thuộc địa). Cần phải nhắc lại rằng, các sinh viên VN ở đây đã từng tổ chức lễ truy điệu Quốc và Trần Phú trước đó. Ông Nguyễn Khánh Toàn, một cựu sinh viên kể lại về giai đoạn này: Bác Hồ cực kỳ gần gũi với các sinh viên Việt nam. Thông thường Bác hay đến buổi tối để chia sẻ các kinh nghiệm hoạt động của mình liên quan đến đạo đức của người cách mạng và tình đoàn kết. Có một số học viên trẻ kiêu ngạo hoặc tự ái hay cãi nhau những chuyện lặt vặt, Bác lại là người đứng ra phân xử. Bác nói: “Nếu chúng ta không giữ được đoàn kết trong một nhóm nhỏ thế này, làm sao có thể nghĩ đến chuyện thống nhất quần chúng để lật đổ chế độ thuộc địa khi về nước”

Quốc cũng như các học viên học viện được sống khá dễ thở trong chế độ bao cấp: ăn, ở và dịch vụ y tế miến phí. Hè được đi nghỉ ở Crum. Mỗi tháng lĩnh 140 rub tiêu vặt. Bởi thế cũng dễ hiểu là Quốc có thể chẳng biết gì về những bi kịch đang diễn ra trong xã hội xô-viết. Sức khỏe Quốc không được tốt. Tháng 9/1934, Quốc đi dưỡng bệnh vài tuần ở Crưm, sau đó anh nhập học một khoá 6 tháng ở Trường Đại học Lenin, chuyên việc đào tạo cán bộ cho các Đảng cộng sản anh em. Không có nhiều thông tin lắm về những tháng đầu tiên Quốc tới Nga. Chỉ biết rằng, Quốc rất tích cực tham gia các hoạt động xã hội, tranh cãi bảo vệ quyền lợi cho các đồng chí Việt nam và cách mạng Việt nam. Ở nhà, anh chịu khó tập thể dục để phục hồi sức khoẻ.

Quan điểm trước đây của các nhà sử học là Quốc may mắn đứng ngoài rìa những cuộc thanh trừng tập thể đang diễn ra lúc đó. Những thông tin mới được tiết lộ gần đây nhất ở Moscow cho thấy thực tế không phải như vậy. Có vẻ như Quốc đã bị một toà án gồm có ông bạn cũ Manuilsky, chiến binh đa mưu của Đảng CS Trung Quốc - Khang Sinh và bà Valeria Vasilieva xét hỏi. Không rõ tội danh của Quốc là gì, tuy nhiên chỉ riêng việc ông có những quan điểm trái ngược với đường lối của Đại hội QTCS lần 6 về cách mạng dân tộc, thêm vào đó lại là bạn thân của Borodin đang bị xét xử cũng đã quá đủ để Stalin nghi ngờ. Việc Anh thả Quốc tháng 12/1932 cũng làm dấy lên một số nghi vấn là ông đã nhận làm gián điệp để đổi lấy tự do. Chắc là nhờ sự bảo trợ của Manuilsky và đặc biệt là Vasilieva, Quốc đã thoát tội. Bà này đại diện cho bộ máy của QTCS trong việc tiếp xúc với các sinh viên Việt nam và rất nhiệt tình bảo vệ Quốc cho rằng lỗi duy nhất của ông là thiếu kinh nghiệm. Trong một bức thư gửi cho lãnh đạo của Đảng CS Đông Dương tại Nam Trung quốc, bà đã viết:
liên quan đến Nguyễn Ái Quốc, anh ta cần phải học thật tốt trong 2 năm tới và không làm gì khác. Sau khi anh ta học xong, chúng tôi sẽ có kế hoạch sử dụng” 


 Trong khi Quốc đang ở Moscow, các chiến hữu ở trong nước đang ra sức khôi phục lại bộ máy của Đảng sau khi các lãnh đạo cao cấp bị bắt từ tháng 4/1931 tại Nam bộ. Để giúp đỡ , Đảng CS Đông Dương, QTCS đã kêu gọi tất cả các đảng CS lên tiếng ủng hộ cuộc “khởi nghĩa” của công nhân ở Đông dương. Hơn 30 học sinh VN tại Moscow được lệnh hồi hương để giúp đỡ các đồng chí của mình. Mặc dù đa số bị Pháp bắt hoặc đào ngũ (một nguồn tin nói 22 trong số 35 người đã bị vô hiệu hoá), một số cũng đến được đích. Trong đó có Lê Hồng Phong, đệ tử cũ của Quốc ở Tâm tâm xã. Phong học lái máy bay ở Leningrad, sau đó chuyển đến trường Stalin năm 1929, rời Liên xô năm 1931. Tháng 4/1932, Phong về đến Long châu, một thành phố nhỏ ở biên giới Quảng tây và VN. Sau đó cùng với 2 đồng môn Phùng Chí Kiên và Hà Huy Tập, Phong chuyển đến Nam ninh và lập ra Ban chỉ huy hải ngoại có nhiệm vụ làm cầu nối giữa QTCS và bộ máy đảng ở trong nước.

Đảng cũng chia ra theo các vùng để dễ bề khôi phục. Đến giữa những năm 30, dân số Việt nam vào khoảng 18 triệu, trong đó 4 triệu ở Nam bộ, 5 triệu ở Trung bộ, còn lại ở Bắc bộ. Một cựu học viên của trường Stalin, ông Trần Văn Giàu, chịu trách nhiệm khôi phục lại bộ máy ở Nam bộ. ông này về Sài gòn đầu năm 1933. Đường lối của Moscow lúc đó là chỉ chiêu nạp đảng viên trong tầng lớp công nhân thành thị. Tuy nhiên mặc dù thất nghiệp tràn lan do cuộc đại khủng hoảng, công nhân vẫn có vẻ thờ ơ với chính trị.

Đảng có ảnh hưởng sâu rộng hơn nhiều trong nông dân ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu long vốn chẳng ưa gì tầng lớp địa chủ và quan lại tham nhũng. Lợi dụng chính sách có vẻ “thoáng” hơn của chính quyền, một số thành viên theo trường phái Trosky đã xuất bản tạp chí La Lutte. Thậm chí có cán bộ Đảng còn đăng ký chạy đua vào hội đồng thành phố. Giữa năm 1933, xứ ủy Nam kỳ được thành lập với 2 tiểu ban phụ trách các tỉnh miền đông và miền tây và một trường đào tạo cán bộ. Phòng Nhì Pháp bất lực vì không được lệnh ra tay. Trần Văn Giàu đã bị bắt nhưng lại được tha vì không có chứng cớ. Chỉ có tay ám sát chuyên nghiệp Lê Hồng Sơn, sau một hồi lẩn trốn, cuối cùng cũng bị bắt tại nhượng địa Pháp ở Thượng hải. Sau đó Sơn bị dẫn độ về VN và bị triều đình xử tử vào tháng 2/1933 tại Vinh.

Tình hình ở các vùng khác không được khả quan lắm. Tại Annam, một số đảng viên từ Xiêm về tìm cách kết hợp với các đảng viên bị bắt trong đợt Xô viết Nghệ tĩnh mới được tha để phục hồi lại cơ sở đảng. Tuy nhiên có sự nghi kỵ đối với các đảng viên đã từng ở tù. Tỉnh uỷ Nghệ an còn ra tuyên bố: “trong 100 đảng viên cộng sản cũ, chỉ có một có khả năng trung thành với các học thuyết của đảng”. Dù sao, đến giữa năm 1934, ba khu uỷ đã được thành lập, mỗi uỷ ban phụ trách từ 5-7 tỉnh. Tonkin là vùng trắng cho đến năm 1934 khi một số đảng viên bắt đầu hoạt động lại ở Việt bắc. Sau đó nhờ có sự móc nối của Lê Hồng Phong, xứ uỷ Bắc kỳ mới được thành lập lại. Cũng vào khoảng thời gian đó, một số đảng viên do Quốc gây dựng từ những năm trước đã thành lập ủy ban trung ương lâm thời tại cao nguyên Khorat để tuyển mộ và đào tạo thành viên cho các hoạt động trong nước. Uỷ ban này sau đó đã tự xưng là văn phòng liên lạc của xứ uỷ Nam kỳ và Trung kỳ với thế giới bên ngoài. Các uỷ ban tương tự cũng được thành lập ở Lào và Campuchia.

Vấn đề quan trọng của đảng là xem xét lại chiến lược của mình sau những tổn thất lớn lao trong Xô Viết Nghệ Tĩnh. Khoảng giữa năm 1932, Lê Hồng Phong cùng với một số đồng chí nữa đã dự thảo cương lĩnh mới. Cương lĩnh này hiển nhiên chịu ảnh hưởng của xu thế chính trị lúc đó tại Matxcova nên mang nặng tính bè phái và thiên tả. Cương lĩnh nhấn mạnh tầm quan trọng của cách mạng phản phong so với cuộc đấu tranh phản đế và hết sức nghi ngờ các đảng phái có tính dân tộc. Tờ Bolsevic, cơ quan của uỷ ban hải ngoại cũng tập trung vào những luận điểm tương tự. Các bài báo được cho là của Hà Huy Tập đã phê phán những quan điểm “tiểu tư sản” như “cách mạng dân tộc phải xảy ra trước cách mạng XHCN”. Tập cũng chỉ trích các cơ sở đảng trong nước quá chú trọng trong việc huy động nông dân và yêu cầu họ tuyển mộ nhiều công nhân hơn nữa. Theo Tập, nông dân “tham lam sở hữu, không chính kiến, không đoàn kết, chậm hiểu biết các tư tưởng mới và không thể trở thành lực lượng cách mạng”. Tuy những lời phê phán không nhằm vào ai cụ thể, rõ ràng mục tiêu của ban biên tập là những luận điểm và chính sách của Nguyễn Ái Quốc. Một bài báo, sau khi đề cập việc “một số đồng chí trong nước cho rằng địa chủ và tư sản dân tộc cũng có tinh thần chống đế quốc và như vậy có thể trở thành một phần của cách mạng” đã nói toẹt rằng đó chính là những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc tại đại hội thống nhất tháng 2/1930, nhưng sau đó đã bị các lãnh đạo mới của đảng loại bỏ. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân chứ không phải của tất cả quần chúng. Bài báo viết: “Đảng cộng sản lánh đạo cuộc đấu tranh giai cấp chứ không phải đấu tranh dân tộc. Bởi vì đây là đảng của giai cấp công nhân, trên tinh thần vô sản quốc tế, đảng phải kiên quyết chống lại những tư tưởng dân tộc và những tuyên truyền sáo rỗng kiểu: khôi phục đất nước của những con rồng, cháu tiên. Chúng ta chống lại thực dân Pháp, nhưng không có nghĩa là chúng ta ủng hộ các tư tưởng dân tộc.”

Hà Huy Tập còn chỉ trích gay gắt hơn “Chúng ta chịu ơn Nguyễn Ái Quốc, nhưng các đồng chí không được quên bản chất dân tộc của Nguyễn Ái Quốc và những chỉ đạo sai lầm của ông về các vấn đề cách mạng tư sản dân tộc, cũng như những lý thuyết có tính cơ hội mà ông đã gieo rắc trong các thành viên Thanh niên Hội và Tân Việt...Ông không chịu tuân theo những chỉ thị của QTCS trong việc sát nhập. Bản cương lĩnh chính trị tháng 2/30 cũng như đảng thống nhất mới đã không tuân thủ những nguyên tắc của QTCS. Nguyễn Ái Quốc còn lớn tiếng ửng hộ những chiến thuật sai lầm và thoả hiệp như “trung lập với giai cấp tư sản và địa chủ, liên kết với các trung nông và nông dân”. Do đó từ tháng 1 đến 10/30, Đảng CS Đông Dương đã tiến hành một đường lối đối lập với QTCS. Mặc dù đảng đã hăng hái lãnh đạo quần chúng vùng lên, các xô viết trong Xô Viết Nghệ Tĩnh cũng đã không làm theo các đường lối chính trị đúng đắn”


Tháng 6/1934 Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập đã triệu tập hội nghị tại Makao để bàn về đường lối tương lai cũng như chuẩn bị cho Đại hội đảng lần thứ nhất. Nghị quyết của hội nghị này đã phê phán các nhà cải lương dân tộc như Bùi Quang Chiêu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh. Nghị quyết cho rằng hội này rất nguy hiểm vì “giả danh bảo vệ các tầng lớp lao động, chống lại chính quyền, đòi hỏi các cải cách hiến pháp, thống nhất giai cấp chỉ nhằm mục đích đưa nhân dân khỏi con đường cách mạng”. Bởi thế nhiệm vụ quan trọng của đảng là chống lại sự ảnh hưởng của những nhóm tương tự, cũng như những tư tưởng rơi rớt từ Thanh niên Hội và Tân Việt.

Hội nghị cũng quyết định triệu tập Đại hội lần thứ nhất tại Hồng kông vào tháng Giêng 1935. Tuy nhiên theo nguồn của mật thám Pháp, QTCS đã đề nghị chuyển sang tháng 3. Địa điểm cũng được quyết định lại là Macao. Từ cuối mùa hè năm 34, các lãnh đạo đảng đã dự thảo những văn kiện sẽ thảo luận tại đại hội. Giấy mời cũng được gửi đi các nơi, yêu cầu tập trung vào ngày 15/3. Ban lãnh đạo rất hy vọng là Moscow sẽ cử đoàn đại biểu chính thức tham dự. Khoảng đầu tháng 8, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai (mới được thả ở Quảng châu, lấy tên là Vân) và Hoàng Văn Nón (đảng viên từ Cao bằng) lên đường đi dự đại hội 7 QTCS dự kiến sẽ tổ chức ở Moscow hè năm sau.

Hà Huy Tập đương nhiên nhận trách nhiệm chuẩn bị đại hội Đảng. Tập sinh ở Nghệ an, đầu tiên tham gia Tân việt, sau đó trốn sang Thanh niên Hội. Khi học ở trường Stalin, Tập tỏ ra rất nhạy bén về lý thuyết và lớn tiếng phê phán những thiếu sót về tư tưởng của Hội. Trong con mắt của mật thám Pháp, Tập là người kiêu ngạo, gian giảo và đa nghi đến cực điểm. Tập thường xuyên gây vấn đề với các đồng chí của mình và được gọi là “Ông Lùn” vì tầm vóc thấp bé của mình. Quan hệ căng thẳng nhất là với Trần Văn Giàu. Ông này đến Macao từ Nam bộ vào tháng 9/1934, một mặt để báo cáo tình hình, mặt khác tham gia vào quá trình chuẩn bị đại hội. Giàu chắc chắn coi Tập là chíp hôi. Còn Tập thì nghi ngờ vì sự ngạo mạn và độc lập của Giàu. Thậm chí Tập còn nghi Giàu là mật thám Pháp và viết thư mách về Moscow. Mãi sau này, khi có tin về việc Pháp lục soát khám xét nhà Giàu, Tập mới thừa nhận là mình không có cơ sở.

Kẻ phá hoại hoá ra nằm ở chỗ khác. Ngay trước thềm đại hội, một đảng viên kiêm nấu bếp tên là Nguyễn Văn Trâm đã cuỗm toàn bộ tiền quỹ của đảng và trốn sang HongKong. Vì Trầm nằm trong thành phần đi chọn địa điểm đại hội, ban lãnh đạo quyết định phải thay đổi địa điểm. Tập còn nghi một thành viên nữa là Nguyễn Hữu Cần có thể đã báo tin cho cảnh sát Pháp. Tập định lừa mật thám bằng cách ngầm cho Cần này biết là do khó khăn nên đại hội đảng có thể không tổ chức được. Trần Văn Giàu được phái về Nam bộ để xây dựng bộ máy. Cuối cùng thì đại hội cũng được tổ chức vào 27/3. Có Tập, Hoàng Đình Gióng, Phùng Chí Kiên và độ mươi đại biểu khác. Không có đoàn nào từ QTCS và cũng chẳng có đại diện của đảng cộng sản nào. Thời điểm đó, đảng có khoảng 800 đảng viên ở Đông dương và Xiêm. Đa số là người Kinh và ở quãng tuổi 20-30. Sự có mặt của Minh Khai, người tình một thời của Nguyễn Ái Quốc trong bộ máy lãnh đạo chứng tỏ không có sự phân biệt nam nữ đáng kể. Mặc dù ở Moscow, gió đã có vẻ đổi chiều, đại hội vẫn thông qua nghị quyết giữ nguyên đường lối cũ, xây dựng mặt trận thống nhất trong phạm vi hẹp, thâm nhập các đảng dân tộc để lùa các thành viên sang bên ta. Uỷ ban trung ương gồm 9 thành viên do Hà Huy Tập làm tổng bí thư sẽ đóng trụ sở tại Sài gòn. Ban liên lạc hải ngoại của Phong được chuyển sang Thượng hải. Trong báo cáo gửi QTCS ngày 31/3, Tập còn tranh thủ đả Nguyễn Ái Quốc mấy phát nữa. Tập viết: toàn đảng đang tiến hành cuộc chiến chống lại những tư tưởng “cách mạng dân tộc rơi rớt từ thời Thanh niên Hội dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc. Những tư tưởng đó là trở ngại chính cho chủ nghĩa cộng sản”. Tập còn đề xuất Nguyễn Ái Quốc phải viết bản tự kiểm điểm. Vài tuần sau, Tập lại tấn công tiếp, dẫn lời một số đại biểu đại hội đã quy một phần trách nhiệm cho Quốc trong việc hàng trăm đảng viên Đảng CS Đông Dương bị bắt. Tập buộc tội Quốc đã tiếp tục dùng Lâm Đức Thụ mặc dù biết rõ tay này là mật thám Pháp, Quốc còn bắt các học viên trường thanh niên Quảng châu nộp ảnh và khai tên tuổi họ hàng. Những thông tin này sau bị rơi vào tay Pháp. Cuối cùng Tập kết luận “Nguyễn Ái Quốc không thể chối bỏ trách nhiệm trong những vụ việc này”

Quốc chắc chắn là được đọc hết những bài viết này của Tập. Không rõ ông nghĩ gì về các phê phán của Tập đối với mình. Chỉ thấy Quốc phàn nàn trong thư gửi Dalburo thâng 1/1935 là trình độ lý luận của một số sinh viên Việt nam trong trường Stalin quá thấp: nhiều người không hiểu thế nào là cách mạng dân chủ tư sản, cũng chẳng hiểu cách mạng ruộng đất có liên quan gì đến sự nghiệp chống đế quốc. Quốc cho rằng mặc dù các vấn đề này có từ những năm 1930-31 nhưng gần đây đã trở nên đặc biệt nghiêm trọng do các đồng chí lãnh đạo còn quá trẻ. Không hiểu là ông định ám chỉ Tập hay kẻ đã chết là Trần Phú.

Đại hội lần thứ 7 của QTCS được khai mạc ngày 25/7/1935 tại Nhà Công đoàn đầy ngóc ngách. Trong khi khẩu hiệu trên hội trường thông báo về chiến thắng đang đến gần của giai cấp vô sản, bên ngoài đại hội là không khi rất căng thẳng của vụ xử tử hai lãnh tụ cũ là Kamenev và Zinoviev. Các đại biểu bị tập trung cả vào khách sạn Lux và bị cấm ra vào điện Kremlin. Đoàn Việt nam có ba đại biểu: Lê Hồng Phong (còn có các tên khác là Litvinov, Hải An, Chajan, Chayan); Nguyễn Thị Minh Khai (Vân hay Phan Lan) và Hoàng Văn Nón. Hai đại biểu nữa cũng đã xuất phát từ Việt nam nhưng không bao giờ đến nơi. Cả ba đều đã đăng đàn phát biểu. Minh Khai nói về sự bóc lột phụ nữ và tầm quan trọng của phụ nữ trong cách mạng; Nón phát biểu về các phương pháp huy động quần chúng. Bài phát biểu chính của Phong nói về những sai lầm đã qua và nhiệm vụ hiện tại của Đảng. Các bài phát biểu đều đã không “gãi” đúng vào mục đích của đại hội 7, nhằm xác định chiến lược mới cho các đảng cộng sản. Chiến lược này gần với các ý tưởng của Quốc thời Thanh niên hội hơn là chiến lược cực tả của đại hội Sáu. Nguyên nhân chính dẫn đến thay đổi là sự lớn mạnh nhanh chóng và nguy hiểm của Hitler và chủ nghĩa phát xít. Stalin đã tin rằng sự lên ngôi của Hitler tại Đức năm 1933 đã phản ánh giai đoạn sụp đổ của chủ nghĩa tư bản dẫn đến chính quyền của đảng CS. Tuy nhiên sau đó ông đã thay đổi quan điểm và coi chủ nghĩa phát xít như hiểm hoạ trực tiếp và quan trọng nhất của Liên xô. Thư ký mới của QTCS, ông Dimitrov, đã lờ đi nhiệm vụ cách mạng vô sản và chính quyền xô viết do đại hội Sáu đề ra. Ông nhấn mạnh sự nguy hiểm của chủ nghĩa phát xít và kêu gọi các đảng CS huy động hoặc tham gia vào các phong trào tiến bộ, nhằm thành lập mặt trận rộng rãi chống chủ nghĩa phát xít Đức và quân phiệt Nhật. Cuối đại hội, Đảng CS Đông Dương được kết nạp vào QTCS và Phong được bầu lên chủ tịch đoàn.

Quốc tham gia đại hội với tư cách quan sát viên từ Dalburo với mật danh là Linov. Mặc dù không phát biểu chính thức nhưng chắc chắn là Quốc rất tích cực sau hậu trường, la cà trò chuyện. Quốc cũng tham gia vào bữa tiệc chào mừng việc kết nạp Đảng CS Đông Dương do Maurice Thorez, một lãnh đạo đảng CS Pháp tổ chức. Tuy chiến lược mới làm Quốc hài lòng vì nó phù hợp với tư tưởng mặt trận rộng rãi mà ông đã đặt ra cho Thanh niên Hội và vẫn giữ vai trò là người phát ngôn chủ yếu cho Đông Nam á tại Ban chấp hành QTCS, chắc hẳn là Quốc không dễ chịu khi phải ngồi ngoài lề đại hội và nhìn Lê Hồng Phong xuất hiện trong hào quang như một nhà lãnh đạo của Đảng CS Đông Dương mới. Tệ hơn nữa, mối tình với Minh Khai cũng đi đên hồi kết. Chẳng mấy chốc sau khi đại hội kết thúc Minh Khai và Phong làm lễ kết hôn tại Matxcova.

Trong khi đó, tất cả các tài liệu của lãnh đạo Đảng CS Đông Dương gửi đi từ Makao cho QTCS trước đại hội đều nhấn mạnh là “vợ đ/c Quốc” (Le femme de Quoc) tức Minh Khai (MK) sẽ có mặt trong thành phần đoàn. Chỉ có khả năng là Phong đã cưa đổ MK trên đường đi dự đại hội. Sao lại đến nông nỗi vậy? Có nguồn cho rằng chẳng qua Quốc và MK đã bị xa nhau quá lâu. Cũng có nguồn cho rằng QTCS đã cấp cho Quốc “một người vợ tạm thời”. Lại có tin đồn là Quốc đã có con gái với một cô bạn người Nga.

Quan hệ giữa Quốc và MK là một trong những vấn đề gây bối rối nhất trong cuộc đời ông. Mặc dù Quốc không bao giờ nhắc đến chuyện này, các nguồn tin chính thức của đảng đều phủ nhận, tuy nhiên các bằng chứng cho thấy họ đã có quan hệ khá khăng khít. Ít nhất là các đồng chí của họ đều coi họ là vợ chồng. Tuy nhiên nếu nói như một nhà sử học nào đó là Quốc đã bị “thất bại kép”: mất cả vợ và chức lãnh đạo đảng vào tay Lê Hồng Phong thì cũng chưa thực sự ổn lắm. Thực tế cuộc đời Quốc đã cho thấy ông ưa chuộng những mối quan hệ ngẫu hứng để khỏi ảnh hưởng đến các mục đích chính trị của mình. Có thể ngay từ đầu Quốc đã coi mối quan hệ với MK là tạm thời.

Sau khi cưới xong, Phong ngay lập tức trở về Trung Quốc để báo cáo tình hình. Mãi đến hè năm 1936, Minh Khai và Hoàng Văn Nón mới rời Matxcova đi Pháp trong vai một cặp vợ chồng nhà buôn người Hoa giàu có đi nghỉ mát. Sau đó hai người qua Hồng kông, Thượng hải. Tại đây Minh Khai tái ngộ Lê Hồng Phong và cùng trở về Sài gòn. Minh Khai được bầu làm uỷ viên trung ương xứ uỷ Nam kỳ. Minh Khai và Phong chắc không biết được rằng số mệnh đã giao cho họ trở thành cặp liệt sĩ quan trọng nhất của cách mạng Việt nam. Trước khi rời Moscow, Minh Khai và Nón có đến gặp Quốc.

Tình hình lúc đó đã có một số thay đổi theo đường lối mới của đại hội 7. Tại Pháp, Mặt trận bình dân thắng cử và thành lập chính phủ mới được Đảng CS Pháp ủng hộ. Chính phủ kêu gọi chống phát xít, hỗ trợ Liên xô, cải cách tại các thuộc địa. Quốc viết cho các đồng chí mình:

Thắng lợi của Mặt trận bình dân tại Pháp là cơ hội hiếm có mà chúng ta phải sử dụng. Vấn đề quan trọng nhất bây giờ là sự thống nhất của Đảng, đặc biệt giữa các cơ sở trong và ngoài nước. Khi về đến Sài gòn, hãy nói với đồng chí Lê Hồng Phong 3 điều:
1. Uỷ ban hải ngoại phải ngay lập tức trở về Việt nam để đảm nhận vai trò lãnh đạo phong trào, chỉ để lại vài đồng chí giữ quan hệ với thế giới bên ngoài.
2. Đảng phải kiên quyết tách xa khỏi bọn Troskist đang phản bội lợi ích của cách mạng
3. Tập trung hết sức lực để xây dựng mặt trận rộng rãi chống phát xít và chiến tranh. Đoàn kết các lực lượng yêu nước cứu nước nhưng kiên quyết duy trì sự lãnh đạo của đảng và giai cấp lao động 



 Chiến lược xây dựng mặt trận rộng rãi nhưng kiên quyết giữ vững sự lãnh đạo đã từng được Quốc áp dụng trong việc xây dựng Thanh niên Hội. Q chắc bị áp lực khi chỉ đạo bài xích các phần tử Troskist. Lúc đó Stalin đang phải vất vả chiến đấu với các thế lực theo Troski trong phong trào cách mạng thế giới. Mặc dù Quốc không đồng tình với lý thuyết phi thực tế “cách mạng liên tục và khắp nơi” của Troski, hẳn là ông thừa hiểu rằng những người Troskist còn tốt hơn khối lần các kẻ thù thực sự của cách mạng. Nếu được tự do lựa chọn, Quốc sẽ tìm cách thuyết phục họ chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng CS Đông Dương.

Sau khi các đồng chí về hết, Quốc càng cảm thấy vô dụng. Từ năm 1935, Quốc đã nói với nhà báo xô viết Ilia Erenburg rằng ước muốn duy nhất của mình là được về nước hoạt động càng sớm càng tốt. Sau khi đại hội 7 kết thúc, Quốc đã chính thức xin phép về nước nhưng bị từ chối với lý do là tình hình Đông dương rất phức tạp. Mùa hè năm 1936, Quốc lại xin phép hồi hương qua đường Berlin và Paris. Giấy tờ đang được chuẩn bị thì chuyến đi bị huỷ do cuộc nội chiến Tây ban nha và sự khủng bố ở Pháp. Trong lúc chờ đợi, Quốc đăng ký vào học tại Học viện các vấn đề dân tộc và thuộc địa (trường Stalin cũ) và chuyển đến một căn hộ độc thân ở phố Bolsaia Bronaia. Trong lúc rảnh rỗi Quốc dịch các tác phẩm: Tuyên ngôn đảng cộng sản của Marx và Bệnh ấu trí tả khuynh của Lenin ra tiếng Việt. Ông còn viết bản khoá luận về “Cách mạng ruộng đất ở Đông Nam á”. Đối với một nhà hoạt động tích cực và ít quan tâm đến các lý thuyết giáo điều như Quốc, phải ngồi nhai giáo án khô khốc, dịch tác phẩm lý luận của những danh nhân hẳn phải là một cực hình. Tháng 6/1938 Quốc viết một lá thư tuyệt vọng cho Trung ương QTCS: “Làm gì với tôi thì làm, cho tôi ở đâu thì ở, nhưng đừng bắt tôi bất lực và ở ngoài đảng” . Với sự giúp đỡ của Vassilieva, cuối cùng Quốc được cho phép về Trung quốc qua Trung Á. Ngày 29/9/1938, Quốc ra khỏi trường. Hồ sơ của trường ngày 30/9 chính thức xác nhận sinh viên số 19 mang tên Lin được giải phóng.

Nếu không có thêm hồ sơ mật giai đoạn những năm 30 được Matxcova cho phép sử dụng, rất khó lý giải tại sao cuối cùng Matxcova lại giải phóng Quốc khỏi giai đoạn cải tạo nhiều năm vì bị nghi ngờ là đồng ý cung cấp thông tin cho Anh để đổi lấy tự do trong phiên toà ở HongKong. Cũng có vẻ như không phải là Stalin không ưa chuộng những quan điểm dị giáo của Quốc trước đây. Bởi nếu vậy, sau đại hội 7, Quốc đã bị phái đi ngay để thực thi những chiến lược mới. Tình hình Trung Quốc lúc đó đang thay đổi nhanh chóng: trước sức ép to lớn của Tưởng, Mao phải từ bỏ căn cứ phía nam sông Dương tử tiến hành cuộc Trường chinh đến Di An. Có thể dự đoán Matxcova cần người nắm vững thông tin về Trung Quốc. Đối với Quốc đây là cơ hội để ông chung sức cùng các đồng chí của mình bước vào giai đoạn mới của cách mạng Việt nam.

 8.Trong hang Pacbo

Năm 1938 Trung quốc đang trong tình trạng chiến tranh. Cuộc chiến khởi nguồn từ năm 1931 khi bọn quân phiệt Nhật bất ngờ chiếm Mãn châu và thành lập chế độ bù nhìn Mãn châu quốc. Trong những năm sau đó, chúng tiến dần xuống phía nam, chiếm đóng các tỉnh Đông bắc quanh kinh đô cũ là Bắc kinh. Ban đầu Tưởng Giới Thạch chẳng quan tâm lắm đến điều đó. Bỏ qua sự quân sư của các đồng sự, Tưởng tiếp tục chiến dịch quét sạch cộng sản ở bờ nam sông Dương tử làm Mao phải bỏ chạy lên Di an. Năm 1937, Tưởng bị các đồng chí của mình bắt cóc khi đang đi thăm Tây an và buộc phải thay đổi thái độ. Lần thứ hai, liên minh Quốc-Cộng được thành lập nhằm chống lại sự xâm lược của Nhật. Cuộc chiến bùng nổ sau đó vài tháng sau trận đánh trên cầu Marco Polo. Cuộc xâm lược của Nhật mang đến sự thống khổ cùng cực cho nhân dân Trung Quốc nhưng lại mở ra một cơ hội mới cho Nguyễn Ái Quốc. Nhờ có liên minh Quốc-Cộng mới, Quốc có thể di chuyển tự do để liên lạc với các đồng chí của mình. Cuộc chiến cũng đe doạ sẽ lan đến các vùng khác của châu á, có thể kết liễu sự thống trị của Pháp tại Đông dương.

Quốc rời Matxcova đầu thu 1938, đi tàu hoả qua những thảo nguyên Trung á bát ngát. Sau vài ngày nghỉ ngơi ở Alma-Ata, Quốc theo một đoàn xe qua Urumgi đến Lan châu, thành phố phía đông của con đường tơ lụa nổi tiếng thời Trung cổ. Đại diện của Đảng CS Trung Quốc tại Lan châu đã giúp Quốc đến Tây an. Tại đó tư lệnh quân giải phóng Trung quốc (PLA) Vũ Thiếu Quân đã được lệnh của thượng cấp “phải tiếp đón một vị khách châu á quan trọng, chăm sóc cẩn thận và hộ tống ông ta đến Di an”. Đường đến Di an phải qua vô số những trạm kiểm soát của Quốc dân Đảng. Quốc phải đóng vai một anh đánh xe chở quần áo và thực phẩm cho các bộ tộc trên núi và hầu như phải đi bộ suốt chặng đường 200 dặm này.]


Vũ Anh giới thiệu về mạng lưới ngầm của Đảng ở Côn minh dưới vỏ bọc của một hãng buôn, sau đó dẫn Quốc đi gặp Phùng Chí Kiên. Họ cũng gặp Hoàng Văn Hoan, người đã từng dự lớp huấn luyện cua Thanh niên Hội, sau đó đã công tác nhiều năm ở Xiêm, hiện đang làm thợ may ở Côn minh. Quốc ở trong một hiệu sách và tham gia các hoạt động cách mạng. Như thường lệ lúc nào ông cũng kè kè cáI máy chứ bên cạnh và viết rất nhiều bài báo cho báo Đồng Thanh của đảng. Tháng 4/1940, Quốc & Phùng Chí Kiên đi thăm các cơ sơ dọc theo tuyến đường sắt Côn minh - Hà nội mới được Pháp xây dựng. Cuối tháng 5, Quốc trở về Côn minh.

Điều kiện hoạt động của đảng tại Đông dương càng ngày càng trở nên khó khăn. Chính phủ Dadalier đang đặt dấu chấm hết cho Mặt trận Bình dân tại Pháp. Chính quyền tại thuộc địa được thể đặt thêm nhiều kìm cặp với hoạt động của đảng. Tháng 8 năm đó, nước Đức phát xít ký hiệp ước không xâm lược với Liên xô. Một tuần sau quân Đức vượt biên giới Balan. Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Diễn biến này ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của đảng. Toàn quyền Castraux ra lệnh triệt phá tất cả những hoạt động chống đối của Đảng CS Đông Dương và các đảng cánh tả khác. Lê Hồng Phong bị bắt lại vào tháng 9 tại Sài gòn. Hà Huy Tập thì đang ở tù sau những cuộc biểu tình tháng Năm từ năm ngoái. Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ vội vã triệu tập hội nghị TW tại ngoại ô Sài gòn để bàn biện pháp đối phó. Dưới sự truy đuổi gắt gao, chỉ có 4 thành viên có mặt trong đó không có đại diện Bắc bộ. Hội nghị nhận định, mặc dù sự đàn áp của Pháp bắt đảng phải rút vào hoạt động bí mật, thế chiến thứ hai bùng nổ sẽ là cơ hội tốt cho các mạng Việt nam giành độc lập như Lê nin đã từng chỉ ra. Lần đầu tiên từ khi Thanh niên Hội tan rã, vấn đề độc lập dân tộc được đặt lên hàng đầu. Hội nghị cũng quyết định chấm dứt chiến lược Mặt trận bình dân, thảo ra những chính sách mới chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Hai tháng sau, Nguyễn Văn Cừ cùng một uỷ viên TW trẻ mới là Lê Duẩn bị bắt và tống vào nhà lao Sài gòn.

Sau khi Quốc quay về Côn minh, Ban Chấp Hành TƯ đã cử hai đồng chí trẻ để tham gia huấn luyện: đó là Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp. Đồng sinh năm 1908 tại Quảng ngãI trong gia đình mà bố làm đến chức thượng thư dưới thời Duy Tân. Tốt nghiệp Quốc học Huế, Đồng trốn sang Quảng châu và học tại trường quân sự Hoàng Phố. Năm 1929, Đồng đã từng tham gia đại hội của Thanh niên Hội tại Hồng kông. Gò má cao, mắt sâu, phong cách nhẹ nhàng nhưng kiên quyết, Đồng được anh em tôn làm thủ lĩnh. Sau khi bị bắt năm 1931 tại Sài gòn, Đồng được nếm mùi “chuồng cọp” Côn đảo và chỉ được ân xá năm 1937 trong thời kỳ Mặt trận bình dân.

Giáp sinh năm 1910 tại Quảng bình cũng trong một gia đình quan lại. Tuy nhiên cha Giáp tham gia kháng chiến từ những năm 1880s. Năm 1924, Giáp vào học viện quốc gia tại Huế. Tính dữ dội và mãnh liệt, sau vụ đám tang Phan Chu Trinh, Giáp bị cuốn vào các hoạt động cách mạnh và bị đuổi khỏi trường năm 1927. Giáp gia nhập Tân Việt nhưng sau đó nhanh chóng chuyển sang Đảng CS Đông Dương. Bị bắt tại Huế vì tham gia các hoạt động ủng hộ
Xô viết nghệ tĩnh, năm 1933 Giáp được tha và tiếp tục đi học. Sau khi lấy bằng Luật tại đại học Hà nội, Giáp dạy sử tại một trường tư. Tại đây, ông đã gặp Nguyễn Thị Minh Thái, em gáI của Nguyễn Thị Minh Khai (được cho là vợ Quốc?) và có một con gái. Giáp thường viết bài cho báo đảng Notre Voix và hợp tác với Trường Chinh trong việc xuất bản các cuốn sách mỏng về tình hình nông thôn. Lúc rảnh rỗi, Giáp thích được đọc về lịch sử quân sự trong thư viện thành phố Hà nội. Người giới thiệu Giáp đi Côn minh là Hoàng Văn Thụ, một người dân tộc Thổ, uỷ viên TƯ từ năm 1938 và là bí thư chi bộ Bắc bộ. Thụ cũng hay nói chuyện với Giáp về các vấn đề quân sự. Một ngày đầu tháng Năm, sau khi tan lớp, Giáp chia tay với người vợ trẻ và đứa con thơ tại Hồ Tây mà không biết đó là cuộc gặp gỡ cuối cùng của họ. Giáp nhập nhóm với Đồng và theo tàu lên Lào cai vượt biên giới đi Côn minh.

Tại Côn minh, Giáp và Đồng được Kiên & Vũ Anh dẫn đi gặp ông Vương (chính là Nguyễn Ái Quốc) tại một địa điểm thơ mộng là Hồ Xanh. Vương khuyên hai thanh niên đi Diên an để theo học trường quân sự của Đảng CS Trung Quốc tại đó. Giáp & Đồng đến Quế dương để xin cấp các giấy tờ đi Diên an. Tại đây họ được lệnh chưa đi vội mà đợi ô Vương đến cùng đi.

Quốc có lý do để thay đổi kế hoạch. Ngày 20/6 Đức buộc Pháp đầu hàng và dựng lên một chính quyền bù nhìn. “Chắc chắn tình hình ở Đông dương sẽ thay đổi”. Mấy ngày sau, Kiên và Anh cũng đến Quế dương, sau đó cả hội đi Quế lâm và Quốc tổ chức cuộc họp ban biên tập tạp chí Đ.T. Quốc nhận định “Thất bại của Pháp là cơ hội to lớn của cách mạng Việt nam, chúng ta phải ngay lập tức tìm đường về nước để lợi dụng cơ hội này”. Khi ai đó hỏi “vũ khí ở đâu?”, Quốc trả lời: "Đây là vấn đề quan trọng nhất của cách mạng. Nếu chúng ta có vũ khí bây giờ, ai sẽ là người cầm vũ khí. Vì vậy chúng ta phải về nước và động viên quần chúng. Khi nhân dân đứng dậy, họ sẽ có vũ khí "


 Quốc chỉ thị cho Kiên & Anh cùng với Đồng Giáp chuẩn bị chuyển trụ sở hải ngoại của đảng về Đông dương. Một đ/c khác được phái đi liên lạc với Diên an, Quốc thì đi Trùng Khánh tư vấn với Chu Ân Lai và một số lãnh đạo Trung Quốc khác. Cuối tháng 7, Quốc trở về Côn minh. Tại đây ông nhận được một lá thư của Hồ Học Lâm, đảng viên Quốc dân Đảng nhưng có cảm tình với cách mạng Việt Nam từ những năm 20. Lấm thông báo: tướng Trương Bội Công, gốc Việt, khét tiếng chống cộng đã được lệnh chuyển về biên giới phía bắc Cao bằng để tập hợp lực lượng yêu nước từ Việt nam. Lâm khuyên Quốc nên cử các đồng chí của mình về khu vực này để bảo vệ quyền lợi của Đảng.

Sở dĩ Trung Quốc đột nhiên quan tâm đến Đông dương thuộc Pháp là vì sự xuất hiện của quân đội Nhật tại vùng này. Từ đầu năm 40, Nhật đã tiến dần xuống phía nam, chiếm đảo Hải nam và quần đảo Paracel (Qđ Hoàng Sa). Cuối mùa xuân, Tokyo gây sức ép đòi Castreaux phải đóng cửa biên giới không cho các đoàn tàu ngược sông Hồng tiếp tế cho quân Trung Quốc. Không được sự hỗ trợ của Paris, Mỹ thì đang lo bảo vệ những quyền lợi của mình, Castreaux phải nhượng bộ và vì thế bị mất chức. Toàn quyền mới Decoux lập tức phải đối diện với những đòi hỏi ngang ngược hơn của Tokyo: được đóng quân và sử dụng các sân bay tại Bắc bộ. Chưa biết tính sao, thì ngày 22/9, quân Nhật tấn công khiêu khích dọc biên giới Lạng sơn.

Cùng chiến đấu với quân Nhật có các đồng minh Việt nam từ Quang phục Hội do Cường Để lãnh đạo. Đảng CS Đông Dương đã may mắn có được ảnh hưởng ở khu vực gồm toàn các dân tộc Tày, Nùng, Thổ này từ đầu những năm 30. Năm 1935, một lãnh tụ người Tày là Hoàng Đình Gióng đã được bầu vào ban chấp hành TƯ tại Makao. Vài năm sau lại đến lượt Hoàng Văn Thụ. Các đảng viên đã thu phục đồng bào dân tộc bằng lời hứa quyền tự trị trong nước Việt
nam cách mạng tương lai. Chớp thời cơ các đồn binh Pháp đang hoang mang sau cuộc tấn công của Nhật, ngày 27/9 cơ sơ đảng địa phương đã xúi giục các bộ tộc tấn công và chiếm huyện lỵ Bắc sơn và một số xã, thu vũ khí. Tuy nhiên sau khi đạt được thoả thuận với Nhật, quân Pháp đã quay lại đàn áp. Quân khởi nghĩa phải chia thành từng nhóm nhỏ rút vào núi và vượt biên giới hy vọng tìm sự giúp đỡ của Trương Bội Công.

Trong khi đó, Quốc suy nghĩ kế hoạch thành lập một mặt trận đồng minh mới để lôi kéo các thành phần yêu nước ngoài đảng và được sự công nhận của Quốc dân đảng ở phía nam lúc đó do tướng Lí Jishen, khét tiếng về vụ tàn sát cộng sản ở Thượng hải năm 1927 lãnh đạo. Sau khi cân nhắc, Quốc đã quyết định lựa chọn cái tên là Việt nam Độc lập đồng minh Hội, gọi tắt là Việt minh. Tên này đã được Hồ Học Lâm dùng để liên kết các đảng viên cộng sản và quốc dân đảng Việt nam tại Nam ninh trước đó vài năm. Quốc cũng mời luôn Lâm làm chủ tịch, còn Phạm Văn Đồng làm phó dưới cái tên Lâm Bá Kiệt. Dưới vỏ bọc mới, đoàn đã tiếp cận tướng Lí nhờ giúp đỡ trong việc huy động nhân dân cho cuộc chiến đấu tương lai ở Đông dương. Tuy còn nghi ngờ, Lí đã đồng ý công nhận Việt minh với điều kiện không để cho Đảng cộng sản thống trị

 Trong thời gian này, hoạt động của UBTƯ tại Sài gòn bị rối loạn, trừ Phan Đăng Lưu tất cả các thành viên đều vào tù. Trần Văn Giàu được tha tháng 5/1940 nhưng sau đó 5 ngày lại bị bắt lại. Liên lạc với các xứ uỷ khác cũng như với uỷ ban Hải ngoại bị cắt đứt. Mặc dù tình hình mùa màng tại Nam bộ có khá hơn các vùng khác của cả nước, thuế quá cao làm nông dân không hài lòng, ước tính có tới 30% nhân dân có cảm tình với đảng cộng sản. Mùa xuân năm ấy, Pháp quyết định tuyển mộ quân tại địa phương để tham chiến ở châu Âu và đặc biệt đưa đi Cambodia chuẩn bị cho cuộc đụng độ với Xiêm, đang nhân cơ hội đòi lại phần đất bị Pháp chiếm năm 1907. Các đảng viên đã nhanh chóng lợi dùng tình hình đưa ra khẩu hiệu “đừng chết cho bọn Colons (gọi người Pháp ở Đông Dương) tại Cambodia” kích động sự chống đối của nông dân. Tháng 7, xứ uỷ Nam kỳ dưới sự lãnh đạo của Tạ Uyên quyết định tiến hành khởi nghĩa theo nghị quyết của hội nghị TW6 (11/1939). Phan Đăng Lưu được cử đi tư vấn với các đồng chí ở Bắc kỳ. Lưu chưa kịp trở về thì hàng ngàn binh sĩ nổi lên làm binh biến chống việc gửi sang biên giới Xiêm. Uyên vội vàng ra lệnh khởi nghĩa vào cuối tháng 11/1940.

Trên thực tế, Lưu đã họp với các đồng chí của mình tại ngoại ô Hà nội. Rút kinh nghiệm từ thất bại ở Bắc sơn, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt và Hoàng Văn Thụ đều phản đối kế hoạch vội vã của Uyên, cho rằng phải chuẩn bị từ từ và đợi thời cơ chín muồi. Cuộc họp cũng cử Hoàng Văn Thụ tổ chức lại các lực lượng bị tan rã ở Bắc sơn để tiến hành chiến tranh du kích. Xét thấy BCHTƯ thực chất đã bị bắt hết, xứ uỷ Bắc kỳ qưyết định chuyển mình thành UBTƯ lâm thời và cử Trường Chinh làm bí thư. Hội nghị cử Lưu quay về ngay mang theo lệnh tạm hoạn cuộc khởi nghĩa. Lưu về đến Sài gòn ngày 23/11 và bị bắt ngay khi vừa xuống ga. Mọi sự đã quá muộn, cuộc khởi nghĩa đã bùng phát ở nông thôn trước đó một ngày, một số huyện ở tây nam Sài gòn đã bị quân khởi nghĩa chiếm. Khởi nghĩa cũng nổ ra ở nội đô Sài gòn nhưng do được báo trước nên chính quyền đã đàn áp một cách dễ dàng. 4 ngày sau, quân Pháp phản công và dìm cuộc khởi nghĩa vào biển máu. Hàng trăm người chết, hàng ngàn người bị bắt. Trong đó có vợ cũ của Quốc: Nguyễn Thị Minh Khai. Tháng 3/1941, toà án binh Pháp xử tử hình Minh Khai, Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Cừ. Tạ Uyên bị giết trong cuộc khởi nghĩa. Trước khi chết Minh Khai được gặp lại chồng mình đã bị giam từ 6/1939. Lê Hồng Phong sau đó chết vì bị tra tấn dã man vào tháng 9/1942 tại Côn đảo.

Tại Quế lâm, Quốc nghe tin Bội Công đang tích cực chiêu mộ quân ở Jingxi bèn gửi Giáp và Vũ Anh đến xem xét tình hình. Tại đó 2 anh này đã thuyết phục được Công mời chủ tịch Việt minh là Học Lâm đến để cùng hợp tác. Biết chuyện khởi nghĩa Nam kỳ thất bại, Quốc căn dặn các đồng nghiệp “Tình hình trong nước và quốc tế đang có lợi cho ta. Tuy vậy giờ khởi nghĩa vẫn chưa điểm. Đã chót vùng lên rồi thì bây giờ phải tìm đường lui càng nhanh càng tốt để bảo toàn lực lượng”.

Trên thực tế tình hình thế giới đang biến đổi rất khó lường. Sau khi chiếm nước Pháp, Đức chuẩn bị làm cỏ nước Anh bằng không quân. Mặc dù hiệp định Xô-Đức vẫn còn hiệu lực, việc Đức đưa quân vào Bankan rất gây căng thẳng. Tại Trung Quốc, Nhật tiếp tục tiến sâu vào trung nguyên và đưa quân vào Đông dương. Để tận dụng đội ngũ cách mạng sẵn có ở Jingxi, Quốc quyết định chuyển trụ sở hải ngoại về đó. Đồng thời cử Vũ Anh vượt biên về nước thăm dò để tìm địa điểm cho hội nghị TƯ sắp tới. Tại Jingxi, Quốc cùng với Kiên, Đồng, Giáp tổ chức các khoá học 2 tuần cho thanh niên, dạy về tình hình thế giới, vận động quần chúng và các phương pháp tổ chức tuyên truyền. Như thường lệ, Quốc chuẩn bị tài liệu dưới dạng tờ rơi gọi là “Con đường giải phóng”. Quốc thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đối xử với dân địa phương, yêu cầu các học viên học tiếng và ăn mặc như người địa phương. Tại lễ tốt nghiệp, các học viên hôn biểu tượng của đất nước độc lập trong tương lai: lá cờ đỏ sao vàng trước khi trở về nước. Để xây dựng quan hệ tốt với Công, Quốc đề xuất thành lập Việt nam Dân tộc giải phóng Uỷ viên Hội gồm thành viên của cả Quốc Dân Đảng và Đảng CS Đông Dương, đồng thời đứng luôn chân chủ tịch thường vụ với bí danh Hoàng Quojun.



Tuy nhiên đa số thời gian Quốc dành cho việc chuẩn bị cho hội nghị TƯ sắp tới, sẽ được ghi nhận trong lịch sử đảng như Hội nghị 8 nổi tiếng. Đầu tháng Giêng 1941, BCH lâm thời gồm Chinh, Thụ, Việt cũng đã có mặt ở Jingxi. Vũ Anh cũng đã trở về báo cáo tìm được địa điểm thích hợp ở hang Cốc bó (Nguồn) cạnh làng Pacbó. Ngày 28/1, sau khi ăn Tết âm lịch, Quốc cùng với Vũ Anh, Kiên và Lê Quảng Ba và một số đồng chí khác lên đường về nước. Chặng đường có chừng 40 dặm nhưng khá vất vả vì luồn rừng lội suối. Đầu tháng 2, họ đến biên giới và từ đó xuôi về Pacbó cách biên giới khoảng hơn nửa dặm. Sau này, Quốc và các đồng chí của mình luôn nhớ lại những ngày ở Pacbo là những kỷ niệm khó quên nhất. Đốt lửa sưởi ấm, bắt cá, tắm suối, dịch sách, viết báo... Giáp kể lại: “Hàng đêm chúng tôi ngôi quây quanh bếp lửa nghe Quốc kể chuyện lịch sử thế giới và cách mạng như những đứa trẻ nghe chuyện thần thoại”

Trong vòng 3 tháng sau đó, Quốc xuất bản tờ báo Việt nam độc lập (bán hẳn hoi để có giá) và thành lập Hội cứu quốc. Hội nghị 8 được tiến hành ngày 10/5/1941 tại Pacbó. Quốc chủ trì hội nghị với tư cách đại diện của QTCS. Đây là lần đầu tiên Quốc chủ tri một cuộc họp của đảng kể từ hội nghị thống nhất tháng 2/1930. Tham dự có Vũ Anh, Chinh, Thụ, Việt, Kiên và một số đồng chí khác từ các vùng của Đông dương. Hoan, Giáp, Đồng vẫn ở Jingxi để cùng với Công chuẩn bị hoạt động cho Giải phóng Uỷ viên Hội. Mục tiêu chủ yếu của hội nghị là chính thức tuyên bố thành lập Việt minh (Việt nam độc lập đồng minh Hội). Tên gọi của tổ chức mới cho thấy trọng tâm chủ yếu của đảng là Độc lập và cho Việt nam, chính thức từ bỏ quan điểm của hội nghị tháng 10/30 về việc thành lập liên bang Đông dương, tiến tới tiến hành cách mạng thế giới. Nhiệm vụ của Việt minh là chuẩn bị để giành chính quyền vào thời điểm thích hợp. Hai cương lĩnh chính của Việt minh là độc lập dân tộc và công bằng xã hội. Bằng việc thành lập Việt minh, Quốc đã chơi một canh bài đánh cược vào việc Nhật sẽ làm Pháp suy yếu và thắng lợi cuối cùng của đồng minh. Không thể áp dụng chính sách khởi nghĩa thành thị của Nga, không có được nông thôn rộng lớn của Mao, Quốc cho rằng vấn đề không phải là phương pháp mà thời cơ. Trong lúc thời cơ chưa đến, đảng phải kiên trì chờ đợi, xây dựng cơ sở chính trị rộng rãi, chuẩn bị lực lượng quân sự nhỏ để có thể chớp lấy thời cơ tiến hành khởi nghĩa. Nhiệm vụ cuối cùng của hội nghị 8 là bầu ban chấp hành mới. Do Quốc kiên quyết từ chối, chức Tổng bí thư được trao cho Chinh người đang tạm thời giữ cương vị này từ mùa thu 1940.

Chinh (tên thật là Đặng Xuân Khu) sinh năm 1907 trong một gia đình nhà giáo ở đồng bằng bắc bộ. Chinh đã tốt nghiệp trường Albert Sarraut nổi tiếng ở Hà nội. Tham gia Thanh niên Hội vào cuối những năm 20, bị bắt giam cho đến tận năm 1936, sau đó Chinh trở thành phóng viên đồng thời cũng là thành viên quan trọng của xứ uỷ Bắc kỳ. Kiêu hãnh trong thái độ, thận trọng và chu đáo trong suy nghĩ, mô phạm trong quan hệ với đồng chí, Chinh không có được sự hấp dẫn cá nhân như Quốc. Nhưng rõ ràng là trong giai đoạn mới này, đảng cần có tiếng nói chín chắn của Chinh. Sau khi hội nghị kết thúc ngày 19/5, Chinh trở về Hà nội để tìm trụ sở cho UBTƯ mới.





Bị mất 1 trang, sẽ kiếm rùi post lên sau.

đảng viên tăng lên vài lần. Các tổ chức “hội phản đế” mọc ra khắp nơi, trở thành những trung tâm đào tạo và tuyển mộ. Một số gương mặt trẻ, ôn hoà xuất hiện như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Trần Huy Liệu. Chính sách mới cũng là một liều thuốc đắng cho những người chủ trương cứng rắn và giáo điều như Hà Huy Tập. Tại hội nghị TW 1938, Hà Huy Tập và Lê Hồng Phong đã cãi vã kịch liệt về Mặt trận Bình dân và chính sách liên minh với các đảng nhỏ khác. Cuối cùng, Nguyễn Văn Cừ, đảng viên từ Bắc bộ, theo chủ trương cân bằng giữa công khai và bí mật đã được bầu làm Tổng bí thư thay Tập vốn chẳng được mấy người ưa.

Quốc quan sát những thay đổi trên từ căn cứ tạm thời của mình ở phía nam Trung quốc. Ông hy vọng các đồng chí của mình sẽ nhận ra mình qua phong cách và nội dung các bài báo trong Notre Voix được viết dưới bút danh Lin (mà ông đã từng dùng ở Matxcova). Tháng 7/1939 Quốc đã liều hơn, gửi thẳng thư tay có địa chỉ của mình qua người quen cho các uỷ viên trung ương. Bức thư là bản tuyên ngôn ủng hộ chính sách mặt trận rộng rãi đã được đại hội 7 của QTCS thông qua.

1. Vào thời điểm này đảng cần phải kiềm chế không đòi hỏi như độc lập dân tộc, lập nghị viện... Điều đó chỉ có lợi cho bọn phát xít Nhật. Cần tập trung vào việc đòi các quyền dân chủ như tự do hội họp, tự do báo chí, tự do tổ chức, tự do ngôn luận và đưa đảng ra công khai.
2.Muốn đạt được điều đó, phải thành lập mặt trận liên minh rộng rãi bao gồm cả những người Pháp tiến bộ ở Đông dương và giai cấp tư sản dân tộc.
3. Đảng phải bằng mọi cách lôi kéo được những tầng lớp tư sản có thể lôi kéo được, trung lập hóa những phần tử có thể trung lập được. Kiên quyết không để họ rơi vào tay bọn phản động kẻ thù của cách mạng.
4. Không thoả hiệp với bọn Troskist đang trở thành chó săn của chủ nghĩa phát xít.
5, Mặt trận dân tộc Đông dương cần phải có quan hệ chặt chẽ với Mặt trận Bình dân của Pháp để đấu tranh cho tự do và dân chủ.
6. Đảng không được phép đòi hỏi quyền lãnh đạo mặt trận. Ngược lại phải thể hiện đảng là lực lượng tích cực nhất, trung thành nhất và hy sinh nhiều nhất. Chỉ có qua cuộc chiến đấu hàng ngày, nhân dân mới có thể hiểu được những chính sách đúng đắn của đảng và thừa nhận vai trò lãnh đạo của đảng.
7. Đảng phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa bè phái, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và chính trị của đảng viên và giúp đỡ những người chưa phải là đảng viên nâng cao trình độ. Đảng cũng phải duy trì những quan hệ mật thiết với đảng cộng sản Pháp

Nguyễn Ái Quốc gửi kèm bức thư này trong báo cáo chính thức đầu tiên cho QTCS. Quốc giải thích về sự chậm trễ này là do tình hình thực tế xấu đi. Quốc cũng xin lỗi và nhờ (có thể có chút châm biếm ở đây) các đồng chí tại Matxcova xem hộ liệu có sai sót gì về tư tưởng trong bức thư gửi Đảng CS Đông Dương. Quốc nói đã mất hết tài liệu chính thức của đại hội 7 và chỉ dựa vào trí nhớ. Quốc cũng thông bâo, mặc dù Mặt trận bình dân Pháp đã mang lại một số cải cách tại Đông dương, chính sách thiên hữu của chính phủ Daladier từ năm 1938 đang có nguy cơ xoá sách những cải cách đó. Một số cuộc đấu tranh của công nhân đã bùng phát trở lại và được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng.

Tháng hai năm 1939, Quốc - Cộng liên minh mở trường đào tạo quân sự tại Hằng dương, 200km về phía đông bắc Quế lâm. Khoá học đầu tiên bắt đầu từ 15/2 và kết thúc vào giữa tháng 5. Tưởng chỉ thị tướng Gia Gian Anh tìm một vài cán bộ cộng sản để giúp đỡ. Nguyễn Ái Quốc lúc đó vẫn với tên là Hồ Quang những đã mang hàm thiếu tá, được phân về làm quản lý, kiêm luôn phụ trách liên lạc vô tuyến. Sau khi kết thúc nhiệm vụ vào tháng 9, Quốc trở về Quế lâm, vài ngày sau lên đường đi Long châu để bắt liên lạc với hai đồng chí được Đảng CS Đông Dương cử sang. Đáng tiếc là khi Quốc đến nơi, hai đồng chí nọ đã tiêu hết tiền đành phải quay về. Thất bại, Quốc lại trở về Quế lâm tìm cách khác. Ông quyết định đi Trùng Khánh, thủ đô kháng chiến của Quốc dân đảng sau khi Nhật chiếm lưu vực sông Dương tử. Trên đường đi, Quốc nghỉ lại tại tầng thượng của văn phòng Bát lộ quân ở Quế dương, thủ phủ Quế châu cho đến tháng 7/11. Tại Trùng Khánh, Quốc nối lại quan hệ với Chu Ân Lai lúc đó đang phụ trách văn phòng đại diện của Đảng cộng sản. Quốc đã quen Chu từ thời Paris, sau đó là thời gian Chu làm chính uỷ của học viện Hoàng Phố. Sau này Chu kể lại, Quốc sống rất đơn giản như một ông nông dân và lúc nào cũng cặp kè cái máy chữ bên mình.

Rất ít người trong văn phòng biết nhân thân của Quốc. Thật trớ trêu, Phùng Chí Kiên và Đặng Văn Cáp, đại diện cho chi nhánh Côn minh của Đảng CS Đông Dương (cùng với Hoàng Văn Hoan và Vũ Anh) đã đến Quế dương để gặp Quốc vào ngày 11/11. Biết Quốc đã đi Trùng Khánh Kiên quay lại và để Cáp ở lại đợi. Ngày 18/11, Quốc trở về Quế dương, nhưng Cáp lại bị lạc trong những ngõ hẻm gần văn phòng và không gặp được Quốc. Dù sao, Quốc cũng đã biết được sự tồn tại của Đảng CS Đông Dương tại Côn minh. Tháng 2/1940, Quốc lên đường đi gặp Phùng Chí Kiên và các đồng chí khác. Vũ Anh (lúc đó có bí danh là Trịnh Đông Hải) hồi tưởng lại: Một người đàn ông trung niên, cổ cồn cà vạt tiến tới hỏi tôI :ở đây có ai tên là Trịnh Đồng Hải. Khi được biết đó chính là tôi, ông ta xưng danh là Trần và hạ giọng mời tôI ra quảng trường thành phố nói chuyện. Trên đường tôI đặc biệt ấn tượng về tác phong nhanh nhẹn và đôi mắt sáng ngời của ông. TôI lờ mờ đoán ra đó chính là Nguyễn Ái Quốc, người mà Đảng đã cất công tìm kiếm lâu nay. Điều đó đem lại cho tôi sự tự tin.



Quốc rất vui được trở lại quê hương sau 30 năm. Khi trốn lên tàu đi Hạ môn ở HongKong, vai trò lãnh đạo của Quốc rất mờ nhạt. Chiến lược được Quốc xác định từ thời Thanh niên Hội đang bị Matxcova xem xét lại, các đồng nghiệp trẻ phần đông tốt nghiệp từ trường Stalin cũng liên tục tấn công những quan điểm tư tưởng của ông. Vậy mà lần này quay lại, xem ra vai trò lãnh đạo của Quốc được tất cả chấp nhận một cách không do dự. Một phần chắc chắn là những thay đổi về trong chiến lược của đại hội QTCS lần thứ 7 trùng với những quan điểm của Quốc cho rằng cách mạng châu á có những đặc thù riêng và không thể copy mù quáng mô hình bolsevic. Quốc cũng phải cám ơn phòng Nhì Pháp đã hoạt động quá tốt và loại bỏ tất cả những đối thủ chính trị của ông như Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong. Tại thời điểm này không ai có thể thách thức được vai trò lãnh đạo của Quốc trong đảng. Vậy thì vì cớ gì mà ông không chịu nhận chức vụ Tổng Bí Thư? Phải chăng Quốc vẫn tự cho mình là chiến sĩ quốc tế một ngày nào đó sẽ lại lãnh đạo cách mạng tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc khắp vùng Đông Nam Á. Cũng có thể Quốc đã ngắm đến trong tương lai chức chủ tịch sẽ giúp ông đứng trên đấu tranh giai cấp để đại diện cho tất cả nhân dân đấu tranh cho một Việt nam độc lập và giàu mạnh.


9.Triều dâng


Sau hội nghị trung ương 5/41, các thành viên tản ra khắp nơi. Chinh cùng với Việt, Thụ trở về xây dựng trụ sở TƯ tại ngoại ô Hà nội. Một số khác chạy ra các tỉnh lân cận xây dựng các đội du kích, mở rộng căn cứ tại Việt bắc. Một số vượt biên tiếp tục củng cố quan hệ đồng minh lỏng lẻo với các phần tử dân tộc không cộng sản. Quốc vẫn ở lại Pacbo, chuẩn bị cho công cuộc nam tiến. Cũng như ở thời gian ở Thái, không để phí thời gian Quốc liền biến mình thành người thầy và người cha cho đám quần chúng - con chiên. Quốc tổ chức các khoá học ngắn ngày về chủ nghĩa Max-Lê và các kỹ năng quân sự biến các cán bộ địa phương vừa là chiến binh vừa là tông đồ. Quốc đích thân giảng dạy các khoá này, giải thích về tình hình và tương quan lực lượng trên thế giới. Giáo trình về cách thức tổ chức chiến tranh du kích cũng do Quốc chuẩn bị, chắc là nhờ những kinh nghiệm học được trong thời gian ở trong bát lộ quân. Quốc cũng thường xuyên viết bài cho tờ Việt nam độc lập in trên giấy được chế từ bột tre. Để cho dân chúng có thể đọc được báo, chương trình xoá mù chữ được tiến hành trong vùng. Các bài báo của Quốc đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau, bao gồm cả lịch sử đảng và phong trào cách mạng thế giới nhưng tựu trung là đều kêu gọi quần chúng chuẩn bị cho cuộc chiến đấu không khoan nhượng với kẻ thù.
( bị mất mấy dòng........)
Trong các bài viết của mình, Quốc luôn nhắc đến việc dành độc lập cho đất nước như một nghĩa vụ thiêng liêng. Trong bài thơ “Lịch sử nước ta”, ngay trang đầu Quốc đã viết: “Dân ta phải biết sử ta, Cho tường gốc tích nước nhà Việt nam” và kết luận: ”Dân ta xin nhớ chữ đồng, Đồng lòng, đồng sức, đồng tình, đồng minh”. Cuối bài này, Quốc đã liệt kê ra một loạt những mốc thời gian quan trọng của Việt nam. Thời điểm cuối cùng là năm 1945, Việt nam độc lập. Khi các đồng chí hỏi tại sao ông lại biết trước là năm 45 nước ta sẽ được độc lập, Quốc chỉ trả lời: để rồi xem.

Trong lúc đó, Phùng Chí Kiên được chỉ thị đi tìm địa điểm cho căn cứ cách mạng đã quyết định dừng chân tại một vùng núi giữa hai huyện Nguyên Bình và Hoà An phía tây tỉnh lỵ Cao bằng. Căn cứ này nằm trong thung lũng nhỏ bao quanh bằng những tảng đá đỏ nên được Võ Nguyên Giáp gọi là Lô cốt đỏ. Bản thân trụ sở thì chỉ là một túp lều nhưng so với hang Pacbo thì quả là đã quá sang trọng. Tháng 1/42, trong bộ quần áo người Nùng mang theo chiếc máy chữ và những dụng cụ luyện tập thể dục, Quốc cùng với một vài đồng chí nữa rời Pác bó đi bộ đến căn cứ mới. Trên đường có lúc cả đoàn bị lạc nhưng Quốc chỉ cười to “Thế này đâm ra hay, biết đâu sau này lại dùng được đường này để chạy trốn”. Quốc đặt tên cho căn cứ mới là Lam sơn và lại bắt tay vào công việc đào tạo và khích lệ một số đồng chí sốt ruột vì cuộc đấu tranh không có hồi kết. Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ nòng cốt. Ông nói: “cách mạng như nước thuỷ triều, có lúc lên lúc xuống. Cán bộ nòng cốt chính là những cột cừ giữ đất khi nước xuống”. Tuy điều kiện ở tốt hơn nhưng căn cứ mới dễ bị Pháp truy quét. Thỉnh thoảng cả bọn lại phải trốn vào rừng rậm hoang sơ rất vất vả. Quốc luôn sẵn sàng chia sẻ những điều kiện khó khăn nhất với các đồng chí của mình. Khi tinh thần xuống, ông động viên: "người cách mạng cần nhất 3 tính cách: kiên trì, bình tĩnh và cảnh giác”

Từ những năm 30, Đảng đã chủ trương chọn Việt bắc để xây dựng căn cứ hỗ trợ cho mình. Đại hội I năm 1935 đã hứa sẽ dành cho tất cả các dân tộc sống ở trong khu vực này quyền tự trị trong liên bang Đông dương độc lập trong tương lai. Được Quốc khuyến khích, rất nhiều cán bộ đã học tiếng cũng như các phong tục địa phương, tham gia vào các hoạt động cộng đồng, một số lập gia đình tại chỗ. Quốc luôn nhắc các đồng chí của mình:"Tuyên truyền là công tác quan trọng nhất của cách mạng, và là bảo đảm cho thành công".

7/12/1941, Nhật bất ngờ tấn công Mỹ ở Trân Châu Cảng. Ngay lập tức trên báo Độc lập, Quốc có bài phân tích tình hình, nhận định cuộc chiến trên Thái Bình Dương đã trở thành cuộc xung đột có tính toàn cầu, và cách mạng Việt nam cần có những điều chỉnh để có thể tập hợp lực lượng sẵn sàng cho những thách thức mới. Quốc cho rằng từ Cao bằng phải mở rộng liên kết với những đội du kích đang hoạt động ở Bắc sơn, Võ nhai do Chu Văn Tấn chỉ huy, tiến tới mở hành lang xuống đồng bằng Bắc bộ. Cũng trong thời gian này, quân Pháp tăng cường càn quét, lùng sục. Phùng Chí Kiên bị giết trong một trận càn. Tháng 6 năm 1942, Quốc quyết định rời Lam sơn về lại Pacbo trong vai một thầy cúng đi chữa bệnh cho vợ.

Ngày 13/8/1942 Q cùng Lê Quảng Ba lên đường sang Tàu để tìm kiếm thêm sự hỗ trợ quốc tế. Họ đi bộ, ngày nghỉ, đêm đi để tránh mật thám Pháp, đến được thị trấn biên giới nhỏ Bamong ngày 25/8. Sau khi nghỉ 2 ngày tại nhà một nông dân có cảm tình với cách mạng Việt nam Xu Weisan, cùng với một liên lạc viên trẻ Trung Quốc, Quốc lên đường tới kinh đô cách mạng Trùng khánh, để Lê Quảng Ba lại ở Bamong. Chưa đi được bao xa thì cả hai đã bị cảnh sát Trung Quốc bắt tại làng Teyuan, gần thị trấn Debao, 20 dặm về phía Đông bắc của Giang tây. Chính quyền địa phương nghi họ là gián điệp của Nhật vì cả giấy chứng nhận của Hội Chống xâm lăng, thẻ nhà báo mang tên Hồ Chí Minh của Tân xã quốc tế, lẫn chứng minh thư của Quân đoàn 4 mà Quốc mang theo người đều đã hết hạn. Mục tiêu chuyến đi Trung Quốc này của Quốc cũng là một câu hỏi được nhiều người quan tâm. Trong hồi ký của mình, Quốc tự nhận là nhằm tìm kiếm mối quan hệ với Tưởng và nhờ chính phủ Quốc dân đảng giúp đỡ đuổi Nhật. Một số nhà sử học thì cho rằng chẳng qua Quốc muốn bắt liên lạc với các đồng chí của mình ở Đảng CS Trung Quốc. Sự thật thì chắc là cả hai. Hiển nhiên là Quốc muốn gặp lại Chu Ân Lai và những người quen cũ mà ông đã không gặp từ năm 1938 tại ở Diên An, nhưng mục đích chính của Quốc chắc là tìm sự ủng hộ của Tưởng. Quốc thừa biết sau chiến thắng Midway, quân đồng minh đang chiếm ưu thế và chính phủ Tưởng được đồng minh ủng hộ, có nhiều khả năng sống sót sau hậu chiến. Quốc cũng cần chính phủ Tưởng làm ngơ cho các hoạt động của Việt minh ở phía Nam Trung Quốc. Người mà Quốc muốn liên lạc để giới thiệu nhiều khả năng là Tống Khánh Linh, đang phụ trách chi nhánh Trung Quốc của Hội Chống xâm lăng.

Hoa mắt với đống giấy tờ giả, chính quyền địa phương cho rằng kẻ bị bắt chắc phải có tầm quan trọng lớn. Họ đã liên lạc với toà án quân sự ở Quế lâm, thủ phủ Quảng tây. Toà này yêu cầu dẫn giải Quốc đến để xét xử. Mặc dù Xu Weisan có người quen trong chính quyền nhưng vẫn không can thiệp được. Ngày 29/8, Quốc bị tống vào nhà giam Quốc dân đảng ở Jingxi, để tiếp tục đợi lệnh trên. Chính trong điều kiện tù ngục khó khăn này, tập thơ nổi tiếng của Quốc “Nhật ký trong tù” đã ra đời.

Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng ngồi trong ngục biết làm chi đây
Ngồi buồn ngâm vịnh cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do 



 Ngày 10/10, kỷ niệm 31 năm cách mạng tư sản Trung Quốc, Quốc bị chuyển sang Debao. Trong thời gian này, được tin Wendell Willkie, đặc phái viên của Rusevelt cũng đến Trùng khánh và được tiếp đón nồng nhiệt, Quốc đã cám cảnh làm bài thơ:
Tôi với ông... ( mất mấy dòng...)

Từ Debao, Quốc bị chuyển qua Tiandong và Lungan tới Nam ninh. Tình hình có vẻ như cũng được cải thiện. Ngày 9/12, Quốc được đưa lên tàu chuyển về Liễu Châu, trụ sở của quân khu 4. Tư lệnh vùng là tướng Trương Phát Khuê, cũng không chia sẻ quan điểm chống cộng điên cuồng của Tưởng và ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt nam. Quốc hy vọng là vụ việc sẽ được báo cáo lên ông này. Tuy nhiên, chẳng có gì xảy ra cả, ngày hôm sau Quốc bị đưa đi Quế lâm. Tại đây Quốc khai trước thẩm phán toà quân sự là có quan hệ với phong trào cộng sản ở Đông dương nhưng không liên quan gì đến Đảng CS Trung Quốc cả. Thẩm phán tuyên bố Quốc là tù chính trị và được trả lại Liễu châu cho Phòng chính trị quân khu xử. Quốc về lại đến Liễu châu đầu tháng 2 năm 1943.

Tin Quốc bị bắt về đến Pacbo vào cuối tháng 10. Các đồng chí của ông đã gửi thư phản đối khắp nơi cho các hãng thông tấn như AP, Reuters, UPI, Tass. Trong điện gửi Tass, họ khoe rằng Hội Chống xâm lăng Việt nam có đến 200,000 thành viên và Quốc là nhân vật chủ chốt của Hội. Một cán bộ của Đảng là Hoàng Đình Gióng đã được cử đi đưa một bức thư đến tận tay Tôn Kế, con trai Tôn Trung Sơn, hiện là chủ tịch Nghị viện. Bức thư viết:

Kính thưa Tôn Chủ tịch
Đại diện của chúng tôi, ông Hồ Chí Minh đã bị bắt trên đường đến diện kiến Tưởng Nguyên soái. Chúng tôi khẩn thiết yêu cầu ngài can thiệp để thả ông ấy ra càng sớm càng tốt


Mặc dù chẳng biết Hồ Chí Minh là ai, Tôn chuyển vụ việc cho Vũ Thế Chương (Wu Tiecheng), tổng thư ký của Ban thường vụ TƯ Quốc dân đảng. Ngày 9/11, ông này điện xuống Quế lâm và Liễu châu đề nghị nghiên cứu vụ việc và nếu được thì thả Quốc ra. Đáng tiếc là lúc đó Quốc vẫn còn đang ở trên đường từ Debao đến Nam ninh.


 Khoảng mùa đông năm 1942-1943, một cán bộ Đảng được cử đi tìm gặp Quốc mới trở về thông báo là Quốc đã chết tại nhà tù ở Liễu châu. Các lãnh đạo ở Việt bắc vội báo ngay tin cho các đồng chí của mình đang đóng gần Hà nội và cử Phạm Văn Đồng phụ trách việc tang lễ. Vài tuần sau, khi sự việc còn đang tù mù, bỗng có tờ báo đến từ Trung Quốc, trên đó có mấy dòng viết tay nét chữ của Quốc: “Gửi các chíên hữu. Chúc khoẻ và dũng cảm trong công việc” kèm theo là bài thơ:

Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
Lòng sông gương sáng bụi không mờ
Bòi hồi dạo bước Tây phong lĩnh
Trông lại trời Nam nhớ bạn xưa

Anh em mừng hú, mới gọi tay cán bộ kia ra tra hỏi. Tay này khẳng định là chính Tỉnh trưởng thông báo tin này. Vặn vẹo kỹ mới vỡ lẽ là tay này kém tiếng Tàu, nghe nhầm chữ "Shi" tức là OK thành "Xi" tức là chết

Trong tập Nhật ký trong tù, Quốc ví mình như quả bóng bị đá đi đá lại giữa các nhà tù. Trong 5 tháng cuối, ông đã từng qua đến 18 nhà tù của 13 huyện nam Trung hoa. Cuộc sống đã dễ thở hơn. Thức ăn đã tạm được, tối ngủ không bị xiềng, thỉnh thoảng ban ngày còn được đi dạo, thậm chí còn được đọc sách báo. Quốc thường tận dụng cơ hội liên lạc với các đồng chí của mình bằng cách viết bằng nước cơm lên mép của các quyển tạp chí. Để giết thời gian, Quốc đã dịch cuốn Nguyên tắc Tam dân của Tôn Trung Sơn sang tiếng Việt.

Khoảng mùa xuân năm 1943, Trương Phát Khuê cũng hiểu ra rằng tay tù chính trị của mình là ai, hay ít nhất cũng nắm được rằng tay này là cộng sản. Theo Hoàng Văn Hoan, chính một thành viên quốc dân đảng Việt nam tên là Trần Bao đã khai ra Quốc chính là đặc vụ của QTCS. Tuy nhiên trong hồi ký của mình sau này, trưởng phòng chính trị QK 4, tướng Lương Hoa Sinh kể rằng khi thẩm vấn Quốc, ông đã hiểu ngay tay này là cộng sản và đề nghị thủ tiêu. Không hiểu sao, Trùng khánh lại phản đối và yêu cầu Lương “cải tạo” tay tù này.

Quan điểm của chính phủ TW có thể bị Chu Ân Lai, lúc đó là trưởng đại diện của Đảng CS Trung Quốc làm cho ảnh hưởng. Nghe tin Quốc bị bắt, Chu đã liên hệ với tướng Phương Yuxiang, một trong những đối thủ của Tưởng những năm 20-30, giúp đỡ. Phương đã tư vấn với đại điện Xô viết ở Chính quyền, rồi cùng với Phó chủ tịch chính phủ là Lý Trung Nhân đến gặp Tưởng. Phương nói với Tưởng, việc Quốc là cộng sản VN chẳng ảnh hưởng gi đến QD đảng, Trung cộng rồi Xô cộng đều có đại diện tại Chính quyền, đâu có ai bị bắt bớ gì? Chưa nói đến VN đang đứng cùng bên với Tưởng trong cuộc chiến chống Nhật, xử Quốc như tội phạm sẽ làm mất uy tín chính phủ, có thể ảnh hưởng đến sự ủng hộ của thế giới. Lý cũng hùa vào, đề nghị giao cho vụ việc cho địa phương xử lý. Tưởng miễn cưỡng đồng ý, điện cho QK 4 thả Quốc ra dưới sự giám sát và tìm cách lợi dụng Quốc cho các mục đích của Quốc Dân Đảng.


Không rõ bức điện này có tác dụng gì không! Trong một cuộc phỏng vấn sau này ở Mỹ, Trương Phát khuê cho rằng mình chưa bao giờ hành động theo lệnh trên trong vụ giam giữ Hồ Chí Minh. Khi biết được Quốc là đại diện của phong trào cộng sản VN, Trương đã giao cho trưởng phòng chính trị mới là tướng Hầu Chí minh nhiệm vụ dụ dỗ Quốc hợp tác để đổi lấy tự do. Trương cho biết ông đã trực tiếp thẩm vấn và bị thuyết phục bởi năng lực tổ chức và nhiệt huyết chống Pháp của Quốc. Quốc thông báo đảng CS VN đặt mục tiêu hàng đầu là độc lập và tự do của dân tộc mình. Quốc đề nghị giúp đỡ Trương trong việc tổ chức lại các lực lượng VN yêu nước ở Nam Trung hoa và cam kết sẽ không xây dựng xã hội cộng sản tại VN trong ít nhất là 50 năm.

Trương hiển nhiên là có những mưu đồ chính trị dài hạn riêng trong việc thả Quốc. Xuất thân từ Quảng đông, đã từng tham gia cuộc hành quân Bắc phạt, Trương lại bị cho ra rìa trong các quan hệ chính trị Quốc - Cộng. Trương ghét cả Nhật và Pháp và không loại trừ có cảm tình với tham vọng dành độc lập của nhân dân Việt nam. Là tư lệnh QK4, Trương cần phải chuẩn bị lực lượng để có thể tấn công quân Nhật ở Đông dương khi cần thiết. Kế hoạch tập hợp lực lượng Việt nam của Trương đang bị nhiều vấn đề nghiêm trọng. Cuối năm 1941, Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt nam, liên minh giữa Quốc dân đảng và Đảng Cs Đông Dương tan vỡ do các lãnh tụ Quốc Dân Đảng phát hiện ra mưu đồ của Giáp và Đồng. Sau đó thì chính Tường Tam, Hải Thần và Nghiêm Kế Tộ hục hặc lẫn nhau, Nhà tài trợ chính Trương Bội Công bị bắt vì tội hối lộ. Mùa hè 1942, Trương quyết định tổ chức lại, thành lập Việt nam cách mạng đồng minh Hội, do tướng Hau Chiminh làm cố vấn. Tuy nhiên Hội này cũng chẳng hơn gì Uỷ ban trước do các lãnh đạo suốt ngày đấu đá. Có lẽ Trương hy vọng là Quốc sẽ mang lại được nguồn sinh khí mới cho đám tay chân VN của mình. Ngày 10/9/1943, Quốc được trả tự do. Một thành viên phòng chính trị kể rằng, ông ta đang ăn thì bỗng thấy tay tù bước vào sà xuống tán phét với tướng Hầu Chiminh và các cộng sự khác.

Mùa thu 43, Trương tuyên bố sẽ quan tâm trực tiếp đến Đồng minh Hội và cử phó của mình là tướng Tiêu Văn làm cố vấn. Hồ Chí Minh được bổ nhiệm làm phó chủ tịch. Chủ tịch hội lúc đó là Nguyễn Hải Thần chắc chắn là rất khó chịu nhưng không dám làm mất lòng người đỡ đầu của mình. Trong một bữa chiêu đãi, Hải Thần đã đưa ra câu đối: “Hồ Chí Minh, Hầu Chí Minh, hai đồng chí cùng quyết chí minh”. Hồ Chí Minh đã trả lời: “Anh cách mạng, tôi cách mạng, chúng ta sẽ cùng nhau cách mạng” . Được sự ưu ái của Trương, Quốc càng ngày càng hoạt động tích cực trong Đồng minh Hội. Ông chuyển đến sống ở trụ sở Hội và thường xuyên tham gia giảng dạy về các vấn đề quốc tế và địa phương. Quốc thường nói với các học viên là Trung hoa là động lực hòa bình, Nhật sẽ thất bại trước Đồng minh trong khoảng 1 năm nữa và Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam trở thành một quốc gia thống nhất, hòa bình,
độc lập và dân chủ ỏ Đông Nam á.

 Cảm thấy yên tâm, Trương đề nghị Quốc giúp đỡ để tổ chức đại hội lần 2 của Đồng Minh Hội. Quốc đồng ý và đề xuất hội nghị trù bị vào cuối tháng 2 năm 1944. Tại hội nghị này, Quốc kêu gọi Đồng Minh Hội mở rộng cửa cho Việt minh cũng như tất cả các tổ chức Việt nam yêu nước và chống phát xít khác. Đề cập đến nỗi sợ cộng sản của các đại biểu, Quốc nhấn mạnh Đảng Cs Đông Dương hiện là tổ chức có ảnh hưởng lớn nhất và “nhân dân Việt nam không có gì phảI sợ chủ nghĩa cộng sản”. Chủ nghĩa cộng sản sẽ lan tỏa tư tưởng bình đẳng kinh tế trên toàn thế giới, như sự bình đẳng chính trị do Cách mạng Pháp khởi xướng năm 1789 được dân chủ gieo rắc khắp châu Âu. Theo ông, các đảng phái chính trị phải đoàn kết vì mục tiêu chung như nước Trung hoa tam dân đã liên kết với đế quốc Anh, cộng sản Nga và tư bản Mỹ để chống lại chủ nghĩa phát xít. Trương Phát Khuê nghe rất sướng tai, đề nghị Hồ tổ chức đại hội vào cuối tháng 3.

Mặc dù một số phần tử không cộng sản chẳng thích thú gì với ý tưởng mở rộng phong trào của Hồ ra sức chống đối, tuy nhiên do Trương “đại ca” đích thân đứng ra đốc thúc và bảo kê, đại hội vẫn được tổ chức vào ngày 24/3/1944 với 15 đại biểu từ Đảng Cs Đông Dương, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt. 2 đại diện của Việt minh là Phạm Văn Đồng và Lê Tống Sơn. Đại hội đã bầu ra ban chấp hành 7 thành viên trong đó có Hồ. Sau đại hội, Trương hoàn toàn tin tưởng rằng là Hồ mới là người có thể đứng ra lãnh đạo được các họat động của Đồng minh hội (ĐMH) và ủy quyền cho Hồ toàn quyền hành động với lời hứa sẽ gửi Hồ trở lại Việt nam. Để chứng minh sự “trung thành” của mình, Hồ lập kế hoạch mở rộng ĐMH (kêu gọi cả những đảng được coi là bù nhìn như đảng Hiến pháp), tuyên truyền thiện chí của Trung Quốc với nền độc lập của Việt Nam, tăng cường các hoạt động vũ trang để chuẩn bị cơ sở để đón quân đội Trung Quốc vào Việt nam đánh Nhật... và đề nghị Trương cung cấp tài chính, vũ khí. Trương đã khôn khéo “né” và hứa chỉ cung cấp hộ chiếu, tiền bạc cũng như các phương tiện đi lại cho Hồ, còn giúp đỡ trực tiếp những hoạt động kháng Nhật bên trong Đông dương thì còn phải xem xét.

Trước khi rời Lưu châu, Hồ tới thăm tướng Tiêu Văn, cố vấn của Trương cho ĐMH và là người đã giúp Hồ chuẩn bị cho chuyến trở lại Việt Nam. Trong lúc trà dư tửu hậu, Hồ đã thề với Tiêu: “99% những điều tôi nói về cách mạng Việt Nam là đúng, chỉ có 1% chưa nói với tướng quân thôi”. Có lẽ Hồ ám chỉ lời hứa với Trương về việc không xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam trong 50 năm. Cuối tháng 8, Hồ cùng 18 học sinh Việt Nam từ trường đào tạo của Trương, trong quân phục Tưởng, qua Long châu, Jingxi lên đường về Việt nam. Sau khi nghỉ lại vài ngày ở thị trấn biên giới Pingmeng để dưỡng sức và đảm bảo an toàn, cả đoàn về đến Pacbo vào ngày 20/9






Trong thời gian Quốc vắng mặt, tình hình Việt Nam đã có nhiều biến đổi. Cuộc chiến Thái bình dương bùng nổ đã mang lại cơ hội cũng như thách thức mới cho Việt nam với sự có mặt của Anh, Mỹ và Tàu Tưởng. Sau một số thắng lợi ban đầu của phong trào cách mạng, Pháp đã xiết chặt kiểm soát và bố ráp trong năm 1943, Hoàng Văn Thụ bị bắt và tử hình. Trường Chinh thoát chết vì kịp thời cải trang thành nông dân. Tuy nhiên từ giữa 1944, các nhóm cách mạng nhỏ bị Pháp truy quét lại có cơ hội tập hợp lực lượng lại, tình hình kinh tế tiếp tục bi đát dẫn đến sự bất bình của dân chúng ở thành thị và nông thôn tạo thành môi trường lý tưởng để nuôi dưỡng những hạt nhân cách mạng. Trong hội nghị tháng 7/1944 có đại diện của Đảng CS Đông Dương tại 3 tỉnh biên giới, các đại biểu đã cãi nhau kịch liệt về đề nghị của Giáp về việc phát động chiến tranh du kích để thành lập khu giải phóng và xây dựng quân đội chính quy. Hội nghị tạm thời đồng ý với Giáp về chiến tranh du kích nhưng chưa xác định được thời điểm khởi động. Hội nghị cũng không thống nhất được về việc thành lập quân đội. Trong chuyến đi cùng Vũ Anh đón Hồ về Pacbo, Giáp đã trình bày về kế hoạch của mình cũng như những nghị quyết của hội nghị tháng 7. Hồ đã không đồng ý với Giáp và chỉ rõ: “quyết định mở cuộc tấn công ở Việt bắc là chỉ dựa vào tình hình địa phương và chưa đánh giá tình hình cả nước. Do chưa có nơi nào có phong trào mạnh, nên sẽ không thể cùng đứng lên ủng hộ. Pháp sẽ dễ dàng có điều kiện tập trung lực lượng và đàn áp. Giai đoạn cách mạng hòa bình đã qua, nhưng thời khắc tổng tiến công vẫn chưa tới. Trước mắt các hoạt động tuyên truyền chính trị vẫn phải được ưu tiên”. Để bù lại cho nỗi thất vọng của người đồng chí trẻ, Hồ đề nghị Giáp bắt tay vào xây dựng những đơn vị đầu tiên của quân đội và đặt tên là đội “Việt nam tuyên truyền giải phóng quân”. Hồ còn căn dặn tiêu chí đầu tiên của đội là “bí mật, luôn luôn bí mật. Địch nghĩ ta ở tây thì ta đang ở đông. Đánh bất ngờ, rút ngay khi địch chưa kịp trở tay”. Ngày 22/12, Giáp đã tập hợp 34 thành viên trong một khu rừng Việt bắc, khởi đầu cho một đội quân huyền thoại. 2 ngày sau khi chào đời, đội quân mới thành lập đánh chiếm 2 đồn Na ngần, Phai khắt. Ngoài vô khối vũ khí thu được, tin thắng trận lan như lửa cháy rừng trong toàn Việt bắc.

Ngày 11/11/1944, máy bay trinh sát của trung úy Rudolph Shaw bị trục trặc động cơ và Shaw phải nhảy dù xuống những cánh rừng Việt bắc. Việt minh là những người đầu tiên tìm ra anh ta. Shaw kêu lên: “Viet minh, Viet minh”, những người còn lại hét “America, Roosevelt!” và đó cũng là cuộc nói chuyện duy nhất của họ. Việt minh quyết định đưa viên phi công đến chỗ Hồ Chí Minh . Đêm đi, ngày nghỉ để tránh quân Nhật, trèo đèo, lội suối, họ đã mất gần một tháng để vượt qua quãng đường có 40 dặm. Hồ chào đón Shaw bằng thứ tiếng Anh thông dụng: “how do you do, pilot! Where are you from?”. Viên phi công ứa nước mắt ôm chầm lấy Hồ và nói “tôi nghe giọng ông mà như nghe tiếng bố tôi ở US”.

Hồ đã không chờ đợi cuộc gặp gỡ bất ngờ này với viên phi công Mỹ. Mặc dù khi Mỹ bắt đầu tham chiến, Hồ đã coi sự ủng hộ của Mỹ là quân chủ bài mà mình phải có để đánh Pháp, đuổi Nhật để dành độc lập. Trong thời gian ở Lưu châu, Hồ đã dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu các tài liệu của thư viện Văn phòng Thông tin chiến tranh Mỹ (OWI). Hiển nhiên là Hồ biết Roosevelt không có cảm tình với chủ nghĩa thực dân châu Âu và ủng hộ việc trao trả lại độc lập cho các thuộc địa ở châu á sau chiến tranh. Về Đông dương, Roosevelt đã từng nói: “Pháp đã vắt kiệt mảnh đất này trong 100 năm, các dân tộc Đông dương xứng đáng một số phận tốt hơn thế”. Mặc dù thừa biết chế độ Mỹ là một chế độ tư bản, Hồ khâm phục cam kết của nước Mỹ với những nguyên tắc dân chủ và tin tưởng Roosevelt sẽ dẫn dắt nước Mỹ tiến tới bình đẳng hơn về kinh tế và xã hội.
Các viên chức Mỹ ở Nam Trung hoa cũng đã biết đến Hồ từ lâu trước khi Hồ được phóng thích. Từ mùa thu năm 1942, báo chí địa phương đã đưa tin về một tù nhân chính trị tên là Ho Chih Chi vì những quan hệ với một chính phủ Việt nam lâm thời thân Đồng minh. Khi các nhân viên đại sứ quán Mỹ liên lạc với đại diện của phong trào Nước Pháp tự do, tay này đã phủ nhận những tin này. Tuy nhiên, đại sứ Clarence Gauss cũng vẫn điện báo cho bộ ngoại giao ngày 31/12/1942 tin về vụ bắt bớ, và ra lệnh cho các nhân viên của mình tìm hiểu thêm. Vì không có sự hợp tác từ phía chính phủ Trùng khánh, họ chẳng tìm được gì và cho rằng cái phong trào nào đó ở Đông dương chẳng có tí ý nghĩa nào với nước Mỹ. Nhưng có những người Mỹ khác không nghĩ như vậy. Mùa hè năm 1943, Chu ân Lai tiếp cận các quan chức OSS để nhờ thả H đổi lấy sự ủng hộ quân đội Đồng minh tại Đông dương. OSS đã trao đổi với một viên chức OWI mà Hồ đã từng đến xin làm phiên dịch và một nhân viên sứ quán để tìm cách can thiệp với chính phủ Trung Quốc thả Hồ và thảo luận sự cộng tác. Không rõ kế hoạch này có ảnh hưởng gì đến quyết định của Trương Phát Khuê nhưng ít nhất là cũng không thấy Hồ hợp tác ngay với quân Mỹ, ngoài việc sứ quán Mỹ nhận được điện của Phân hội Việt nam của Hội quốc tế chống xâm lược nhờ xin thả Hồ để tham gia vào các hoạt động chống Nhật tháng 11/1943. Một viên chức sứ quán tên là Philip Sprouse nhận ra ngay tên của người tù từ năm ngoái. Tuy nhiên đại diện của phong trào Nước Pháp Tự do đã thuyết phục Sprouse rằng chẳng qua các Hội, đoàn này chỉ là trò chính trị vớ vẩn phục vụ mục đích của Trung quốc và không nên bận tâm làm gì. Đại sứ Gauss đã gửi cả bức thư xin cũng như lời giải thích của ông về việc “Không trả lời” cho bộ Ngoại giao và vụ việc “chim nghỉm” ở Washington.

Mùa xuân 1944, đại diện Vietminh tại Nam Trung hoa lại tiếp tục gửi thư đến văn phòng OSS, OWI và Sứ quán Mỹ đề nghị chiến đấu cùng Đồng minh chống Nhật tại Đông dương và nhờ Mỹ giúp đỡ giành độc lập. Ngày 18/8, đại diện OSS đã chuyển thư đến tùy viên sứ quán William Langdon kèm theo lời bình: “Đông dương hậu chiến sẽ đại loạn nếu chúng ta không dựng lên một cơ chế tự trị trước đó”. Ngày 8/9 Langdon tiếp đoàn Việt minh, hứa sẽ chuyển thư cho Đại sứ, nhắc lại sự ủng hộ độc lập cho các dân tộc phương đông, trong đó có Việt nam. Ông này cũng khôn khéo lờ đi việc giúp đỡ trực tiếp :”các bạn đang là công dân Pháp mà chúng tôi lại đang sát cánh với Pháp để đánh lại phe Trục. Không có lý gì Mỹ lại cùng lúc vừa tốn xương máu, tiền bạc để cứu nước Pháp vừa giúp đỡ người khác lật đổ đế chế Pháp”. Đại diện Việt minh là Phạm Việt Tú ra sức thuyết phục là Việt Minh chỉ đánh Nhật chứ không đánh Pháp, và mong được sự độc lập. Langdon không lay chuyển, viện cớ tướng Đờ Gôn đã tuyên bố ở Wasinhton là sẽ trao cho các nước thuộc đế quốc Pháp những quyền tự trị, và nếu Việt MInh không hài lòng, có thể nói chuyện trực tiếp với người Pháp. Mặc dù OSS báo cáo tương đối lạc quan về cuộc gặp gỡ, Langdon và OWI cho rằng các phần tử dân tộc chủ nghĩa Việt Nam tại Nam Trung hoa chưa có đủ kinh nghiệm để điều hành đất nước và những hội, nhóm của họ không có ý nghĩa nào cả trong Đông dương. Các nguồn Pháp còn tung tin Việt minh chỉ là bộ mặt cho vài trí thức bất mãn và không được dân chúng hưởng ứng.


Hồ Chí Minh không liên quan trực tiếp đến vụ này, nhưng có vẻ như Hồ đã có liên lạc với Tú và các đồng chí của anh ta để đề xuất cuộc gặp với các viên chức Mỹ tại Côn minh. Sau khi ra tù tháng 9 năm 1943, Hồ đã lân la làm quen, tạo niềm tin và giữ quan hệ tốt với các nhân viên OWI tại Lưu châu. Văn phòng OWI tại đây chính là người đã tìm cách sắp xếp để Hồ đi San Francisco tháng 8/1944. Lãnh sự quán tại Côn minh đã xin ý kiến chỉ đạo của Bộ ngoại giao trước yêu cầu của OWI cấp visa cho một người có tên là Ho Tinh-ching (được miêu tả là người Việt gốc Hoa) sang Mỹ để cung cấp một số tin tức về Việt nam. Viên chức bộ ngoại giao xử lý yêu cầu này lại chính là Sprouse. Anh này nhận ra Mr. Ho và viết thư giới thiệu, ghi nhận thành tích của Hồ giúp quốc dân đảng tuyên truyền trong Việt nam. Vụ Viễn đông đồng ý cấp visa nhưng Vụ châu Âu phản đối vì sợ những rắc rối với Pháp. Mặc dù OWI ra sức bảo vệ rằng những hoạt động của Hồ trên đất Mỹ sẽ được kiểm soát chặt chẽ, cuối cùng bộ ngoại giao đã từ chối cấp visa cho Hồ.

Tại sao Hồ lại muốn đi Mỹ vào lúc này? Tình hình mặt trận Thái bình dương đang biến chuyển có lợi cho Đồng minh và chiến thắng rất có thể đến vào năm sau. Hồ thừa biết phải có mặt ở Việt nam vào thời điểm đó để lãnh đạo cuộc đấu tranh. Có thể tại thời điểm tháng 8/44, Trương Phát Khuê vẫn chưa đồng ý cho Hồ quay về Việt nam, và Hồ định xin sang Mỹ để trực tiếp nhờ các quan chức cao cấp Mỹ can thiệp cho ông được trở về Việt Nam.

*****************
OSS: Tổ chức Tình báo Chiến lược (tiền thân của CIA)
OWI: Phòng Thông tin chiến tranh 
Vụ trung uý Shaw tự nhiên dẫn xác đến trước cửa đã tạo cơ hội vàng để Hồ có thể đề nghị Mỹ giúp đỡ Việt minh. Ngay lập tức, lấy cớ phải đi công tác cùng, Hồ đã cùng 2 chiến sĩ trẻ nữa hộ tống Shaw sang Côn minh. Sang bên kia biên giới, Shaw bắt được liên lạc với tổ chức cứu trợ phi công Mỹ (AGAS) và được đưa ngay về Côn minh (CM) bằng máy bay. Không nản chí, Hồ quyết định đi bộ đến Côn Minh, trong vai người tuần đường trên tuyến đường sắt Hà Nội-Côn Minh. Nếu gặp người có lòng, họ nghỉ đêm nhờ, còn không thì ngủ ngoài trời. Lúc qua Y lương, một thành phố nhỏ trên đường, cả đoàn đã gặp Hoàng Quảng Bình, một người quen cũ cách đây 4 năm của Hồ ở Côn Minh, hiện đang hành nghề cắt tóc. Theo lời Bình, trông Hồ rất ốm yếu và trầm uất, ăn ít, quần áo thì rách rưới, giầy thủng lỗ chỗ, lại đang sốt do lây của những người đi đường. Vậy mà khi Bình nhắc đến chuyện từ chối sự lôi kéo của Đồng Minh Hội, mắt Hồ sáng lên. Hồ khuyên Bình phải gia nhập ngay Đồng minh Hội rồi tuyên truyền kéo người từ đó sang với Đảng.

Sau khi ở lại Y lương vài ngày cho khỏe, cả đoàn lại lên đường và đến Côn minh trong những tuần đầu tiên của năm 1945. Đáng tiếc là khi đến nơi thì Shaw đã bay về Mỹ. Hồ ở cùng với Tống Minh Phương, đại diện Việt minh tại địa phương, một sinh viên Hà nội sang đây từ năm 1943, mở quán ngay cạnh trụ sở OSS. Hồ quyết định liên lạc với AGAS, hy vọng có thể nhờ họ dàn xếp gặp mặt với tướng Chennault, tư lệnh Sư đoàn không quân số 14. Đồng thời Hồ cũng liên lạc với văn phòng OSS, những người đã giúp Phương gửi lá thư cho đại sứ Gauss.


Hồ đã cực kỳ gặp may và đến Côn Minh đúng thời điểm. Cách đây vài tháng AGAS được chỉ thị ngoài việc cứu phi công còn phải tăng cường thu nhập thông tin tình báo về quân Nhật trong Đông dương. Nguồn chính của AGAS là nhóm được gọi là GBT (do tên đầu của 3 người: Canada LL Gordon, Mỹ: Harry Bernard và một người Mỹ gốc Tàu: Frank Tan). Nhóm này làm việc trong một hãng dầu và sử dụng các nguồn địa phương để thu nhập tin tức. Ngày 9/3/1945, Nhật chính thức truất quyền Pháp ở Đông dương, những người nước ngoài bị thuyên chuyển, theo dõi, thậm chí bắt giữ. Nhóm GBT tháo chạy sang Nam Trung hoa. AGAS mất một nguồn tin quan trọng. Các quan chức Mỹ ở Wasinhton tháo dỡ lệnh cấm, cho phép liên lạc với các nhóm kháng chiến chống Pháp để thu nhập tin tình báo (trước đây Mỹ từ chối liên lạc với các nhóm này vì sợ mất lòng Pháp).

Khoảng giữa tháng 3, người chịu trách nhiệm về GBT ở AGAS - trung úy thủy quân lục chiến Charles Fen, được thông báo là có một cụ già đã từng cứu sống một phi công Mỹ, hiện đang ở Côn minh và có thể có những quan hệ trong nước để thu thập tin tình báo. Trung úy Fen vốn là một phóng viên sinh ra tại Ailen, được chuyển đến Tung Quốc vì biết tiếng Hoa và am hiểu châu á. Fen liền đề nghị sắp xếp cuộc gặp với Hồ, lúc đó đang suốt ngày ngồi tại thư viện OWI đọc từ tờ Thời báo đến Từ điến bách khoa Mỹ. Cuộc gặp đã diễn ra ngày 17/3/1945 và được Fen ghi lại trong hồi ký của mình như sau:

Hồ đi cùng với một thanh niên tên la Fam. Không hoàn toàn như tôi tưởng. Nhất là Hồ không “già”, tuy bộ râu bạc có dấu hiệu tuổi tác nhưng khuôn mặt đầy sức sống, đôi mắt tinh tường và ánh lên những tia sáng. Chúng tôi nói bằng tiếng Pháp. Hồ đã gặp Hall, Blass và Sibours (những sĩ quan OSS khác) nhưng có vẻ như chẳng đi đến đâu.. Tôi hỏi ông muốn gì khi gặp bọn họ, Hồ nói: chỉ cần sự công nhận tổ chức của ông ta (Việt minh). Đã từng nghe đến tổ chức này có xu hướng cộng sản, tôi liền hỏi luôn Hồ. Ông ta trả lời: người Pháp gọi tất cả những người muốn độc lập là cộng sản. Tôi giải thích những yêu cầu của AGAS và hỏi không biết ông có giúp được không?Hồ đồng ý ngay nhưng nói rằng ông ta không có điện đài viên cũng như các phương tiện kỹ thuật. Chúng tôi bàn với nhau về điện đài, máy phát và điện đài viên. Hồ đề nghị dùng pin thay cho máy phát vì sợ ồn dễ bị quân Nhật phát hiện. Tôi nói, pin không dùng được vì không đủ công suất. Khi được hỏi muốn được chúng tôi giúp gì để trao đổi, Ho nói ngay: thuốc men và vũ khí. Tôi từ chối ngay vũ khí vì rất rách việc với Pháp. Chúng tôi lại thảo luận về Pháp. Hồ khẳng định lại Việt minh là một tổ chức chống Nhật. Tôi rất ấn tượng về cách ăn nói gãy gọn của Hồ. Nếu không để ý đến những ngón tay nhăn nheo luôn động đậy, dáng ngồi của ông ta rất giống Đức Phật. Fam ghi lại nội dung cuộc gặp và chúng tôi thống nhất sẽ gặp nhau nữa. Khi ra về cả hai để lại tên của họ viết bằng chữ Hán, có thể đọc phiên âm là Pham Phuc Pao và Ho Tchi Ming


***************
AGAS: Tổ chức cứu trợ phi công Mỹ
OSS: Tổ chức Tình báo Chiến lược (tiền thân của CIA)
OWI: Phòng Thông tin chiến tranh  



Fenn trao đổi với các đồng nghiệp của mình và quyết định chuẩn bị gửi Già Hồ (mặc dù mật hiệu của Hồ là Lucius, hội này vẫn thích gọi là Già Hồ) về Đông dương cùng với một điện đài viên người Trung Quốc. Ba ngày sau, chúng tôi gặp những người Việt Nam lần thứ hai tại một quán cafe trên đường Chin Pi. Có vẻ như chủ quán là bạn họ. Chúng tôi ngồi trên tầng 2, uống cafe fin, kiểu Pháp, rất đặc và ngon. Xung quanh chẳng có ai nhưng Hồ bảo cứ phải cẩn thận. Chúng tôi gọi người Trung Quốc là “bạn”, Mỹ là “anh em”, Pháp là “trung lập”, Nhật là “chiếm đóng” còn người Việt nam là “bản xứ”. Hồ nói rằng mang cả hai điện đài viên người Hoa đi rất dễ lộ đặc biệt là anh người Mỹ gốc Hoa. Nhóm của Hồ thi lại hay nghi ngờ người Hoa. Tốt hết là để Frank Tan lại, sau đó gửi cho ông một sĩ quan Mỹ. Hồ hỏi tôi có đi được không và tôi sẽ rất được hoan nghênh. Sau đó chúng tôi bàn về những đồ tiếp tế khác. Fam nhắc đến loại “thuốc nổ cao cấp” nào đó mà Hall đã hứa, làm tôi phải lờ ngay đi. Tuy nhiên chúng tôi thống nhất là có thể thả một số vũ khí nhẹ, thuốc men và một bộ điện đài nữa. Người của tôi sẽ huấn luyện quân Hồ sử dụng điện đài. Hồ còn muốn gặp Chennault. Tôi đồng ý thu xếp nhưng bắt Hồ phải hứa không được mè nheo Chennault giúp đỡ bất cứ thứ gì. Già Hồ mặc quần bông, áo kaki cài cúc cổ màu cát, chòm râu bạc, thưa. Đôi mày nâu chuyển sang xám ở đuôi, tóc vẫn đen nhưng đã hơi rụng. Fạm còn trẻ, mặc đồ âu, xương gò má cao, cằm bự. Cả hai nói chuyện thì thầm nhưng thỉnh thoảng như bị nén lại. Tóm lại là chúng tôi đã có cuộc gặp gỡ thú vị.

Sau cuộc gặp, Fenn kiểm tra lại thì biết rằng mặc dù Pháp dán cho Việt minh cái nhãn cộng sản, Trung hoa quốc dân đảng chỉ coi đây là một tổ chức cơ hội. Khi Fenn hỏi về chỉ huy sở ở Trùng khánh thì được lệnh: “cứ cái gì có lợi thì làm, có điều đừng can thiệp vao chuyện chính trị giữa Pháp và dân bản xứ”. Mấy ngày sau, Fenn thu xếp Hồ gặp tướng Chennault tại chỉ huy sở của sư đoàn 14, sau khi đã nhắc lại Hồ không được chính thức đề nghị giúp đỡ gì. Hồ đến cuộc gặp vẫn trong bộ kaki cũ, có điều một chiếc cúc cổ bị mất đã được đơm lại. .Chennault là người đặc biệt thích phô trương bề ngoài của mình nên diện bộ đại lễ phục nhà binh. Viên tướng này nổi tiếng ở Trung hoa nhờ chỉ huy phi đội “Phi Hổ” giúp Hoa kháng Nhật trong những năm 30. Trong cuộc gặp, Chennault cảm ơn Hồ đã cứu phi công Shaw và không đả động gì đến chính trị. Hồ cũng làm đúng như lời hứa, không đòi hỏi giúp đỡ gì, lại còn tỏ ra tâng bốc đội Phi Hổ. Đến cuối buổi gặp, bỗng nhiên Hồ ngỏ ý xin một tấm ảnh có chữ ký.

Chennault đặc biệt thích cho ảnh. Bởi vậy ông ta ấn nút gọi ngay thư ký riêng Doreen. Một cô gái mang vào một anbum dày 8x6. “Lấy một cái đi” Chennault nói. Hồ chọn một tấm và nhờ Channault ký tặng. Doreen đưa ra chiếc Parker 51 và Channault viết vào tấm ảnh “Bạn chân thành của anh, Clair L. Chennault”. Và chúng tôi chui ra khỏi căn phòng để hoà với không khí rộn ràng của Côn minh.
Thế là Hồ Chí Minh đã xây dựng được quan hệ với những quan chức Mỹ chủ chốt ở Côn minh. Tuy nhiên, Việt minh vẫn không được Mỹ chính thức thừa nhận và Hồ phải bằng lòng với những sự trợ giúp hết sức khiêm tốn. Trước khi lên đường, Hồ được Fenn cấp cho 6 khẩu Colt 45 mới cóng nguyên hộp. Cuối tháng 3.45, Hồ và một điện đài viên nữa được máy bay Mỹ chở đến thành phố Paise, 60 dặm phía bắc Jingxi. Sau chiến dịch “Số 1” ở nam Trung hoa, tháng 11 năm ngoái, Nhật chiếm Lưu Châu, Trương Phát Khuê phải chuyển chỉ huy sở của quân đoàn 4 đến thành phố Paise này. Mục đích đến Paise của Hồ là bắt liên lạc với Đồng minh Hội để biến hội này thành phương tiện phục vụ các mục tiêu của Việt minh. Hội này hầu như đã tan rã sau khi Hồ rời Lưu châu tháng 8 năm ngoái, vì Tàu tưởng không quan tâm, một số thành viên không cộng sản chủ chốt thì lại quyết định quay về Vân nam. Thông qua đại diện của Việt minh là Lê Tống Sơn, Hồ thành lập “Uỷ ban hành động” gồm toàn tay chân của mình. Để trấn an một số phần tử còn nghi hoặc, Hồ xem ảnh có chữ ký của Chennault và phát cho mỗi thành viên một khẩu Colt. Tuy nhiên, vài ngày sau, Tiêu Văn, vốn rất nghi ngờ Việt minh, đã ra lệnh giải tán uỷ ban hành động để thành lập một uỷ ban khác có đông đảo đại diện hơn, bao gồm cả Hồ. Không còn gì để làm, Hồ lên đường về Pắc bó.


Tháng tư 1945, đại uý Archimes ‘Al’ Patti tới Côn minh với chức vụ trợ lý cho đại tá Paul Helliwell phụ trách công tác của OSS tại Đông dương. Patti chiến đấu ở châu Âu đến 1/1944 thì được chuyển về phòng Đông dương tại trụ sở OSS ở Washinhton. Patti rất tôn trọng lịch sử và coi thường chế độ thực dân của Pháp. Trong thời gian lục lọi đống tài liệu, Patti đã được biết về các hoạt động của Việt minh và vị lãnh đạo huyền bí của họ “Già Hồ”. Trong một cuộc họp ngay sau khi Patti nhậm chức, AGAS đã thông báo việc Hồ đồng ý hợp tác tổ chức mạng lưới tình báo ở Đông dương. Một sĩ quan khác cũng cho biết Hồ tham gia vào một chiến dịch tâm lý cùng với cơ quan tuyên truyền của Tưởng và sự hỗ trợ của văn phòng OWI. Rõ ràng là tổ chức của Hồ là công cụ hợp lý nhất để Patti thực hiện các nhiệm vụ của mình, mặc dù có thể có những trở ngại trong quan hệ với Tưởng và phong trào nước Pháp Tự do. Có trong tay chỉ thị của Washington về việc thu nhập thông tin tình báo bằng mọi giá, Patti yêu cầu được gặp Hồ lúc đó đã rời Côn minh. Cũng may là ngay sau khi mới đến Patti có được tiếp Phương, đại diện Việt minh ở Côn Minh. Anh này cho biết có thể gặp Hồ lúc đó đang ở Jingxi. Xếp của Patti ở Trùng khánh là Heppner hơi do dự vì lúc đó đại sứ mới của Mỹ là Hurley rất thân Tưởng và không thích những hoạt động của OSS nhằm xây dựng liên minh Quốc-Cộng. Hurley cảnh báo là Tưởng và Pháp sẽ rất không hài lòng nếu Mỹ liên lạc với Việt minh vì phòng nhì Pháp đã xác định chính xác Hồ là Nguyễn ái Quốc. Tuy nhiên, ngày 26/4, Heppner nhận được công điện của tướng Albert Wedemayer, tư lệnh quân đội Mỹ ở Trung hoa cho phép tiến hành các hoạt động của OSS ở Đông dương. Heppner bật đèn xanh cho Patti, không quên dặn ông này đừng làm mất lòng Tưởng và Pháp.


Ngày hôm sau Patti bay đến Jingxi và được đại diện Việt minh dẫn đi gặp Hồ tại một ngôi làng cách thành phố chừng 10km. Sau khi thăm dò danh tính và quan điểm của đối tác, Hồ nhanh chóng miêu tả tình hình Đông dương, thông báo rằng Việt minh có thể tiến hành rất nhiều hoạt động chiến tranh và tình báo có hiệu quả nếu được cung cấp thuốc men, vũ khí và phương tiện liên lạc. Patti không cam kết nhưng hứa sẽ xem xét. Theo như hồi ký, có vẻ Patti rất hài lòng. Một tuần sau đó, Hồ trở về Pacbo với đoàn tháp tùng hơn 40 người, trong đó có điện đài viên Mỹ, anh Mac Shin và Frank Tan, thành viên cũ của nhóm GBT. Hồ bắt đầu cung cấp những thông tin bổ ích, trong đó có cả thời tiết, cứu sống một số phi công Mỹ. OSS cũng thả dù thêm một bộ điện đài, vũ khí và thuốc men. Việt Minh đã chính thức chiến đấu cùng với lực lượng đồng minh.

*******************

AGAS: Tổ chức cứu trợ phi công Mỹ
OSS: Tổ chức Tình báo Chiến lược (tiền thân của CIA)
OWI: Phòng Thông tin chiến tranh









No comments: