Saturday, April 12, 2014

HO CHI MINH A LIFE VII



  1. HO CHI MINH A LIFE

      WILLIAM DUIKER

    Cuối năm 1965, quân Mỹ đóng tại Việt nam đã lên tới 200.000, chính thức leo thang từ “chiến tranh đặc biệt” sang “chiến tranh cục bộ” với sự tham gia toàn diện của các đơn vị chiến đấu Mỹ. Trung ương Đảng cũng quyết định ồ ạt đưa quân chủ lực vào Nam để cân bằng lực lượng. Được sự ủng hộ của Duẩn, Thanh đã chỉ đạo quân đội giao chiến trực tiếp với Mỹ tại một số địa điểm chọn trước, nhằm chứng minh khả năng đối đầu trên chiến trường của Quân đội nhân dân Việt Nam, mặc dù không được Giáp đồng tình. Duẩn còn gọi Giáp là “con thỏ hèn nhát”.


    Hồ không tham gia trực tiếp vào việp lập chiến lược chiến tranh do sức khỏe càng ngày càng suy giảm. Tuy nhiên, những khi có thể, Hồ vẫn tham gia ý kiến chỉ đạo trong các cuộc họp Bộ chính trị. Mặc dù trước đây luôn tìm những biện pháp đấu tranh để tránh Mỹ có cớ can thiệp trực tiếp, bây giờ Hồ hoàn toàn ủng hộ việc tăng cường chiến tranh tại miền Nam, để chứng minh cho Mỹ sự quyết tâm của Việt nam. “Chúng ta sẽ chiến đấu bằng bất cứ cách nào kẻ thù muốn, và chúng ta sẽ thắng”. Hồ cũng đồng ý rằng thời điểm hiện tại không chín mùôi cho đàm phán vì Mỹ đang quyết tâm gây chiến để đàm phán trên thế mạnh. Nhận thức được phong trào phản chiến thế giới và tại Mỹ đang lớn mạnh, Hồ nhắc các đồng chí phải trình bày quan điểm đàm phán của mình rõ ràng để thế giới thấy được bản chất giả dối trong những đề nghị của Mỹ. Hồ cũng nhấn mạnh, những cuộc tấn công trực tiếp vào quân Mỹ và tay sai sẽ tạo điều kiện cho phe bồ câu tăng thêm sức mạnh trong cuộc hội và công chúng Mỹ.


    Chiến tranh tiếp tục khốc liệt, làm Việt Nam phải dựa thêm vào vũ khí của L.Xô, khiến Trung Quốc rất thấy khó chịu, thường xuyên cảnh cáo các nhà lãnh đạo Việt nam về bọn phản bội L.Xô. Những lời khuyên của Trung Quốc về cách thức tiến hành chiến tranh, dựa trên quan điểm của Chu là Trung Quốc có nhiều kinh nghiệm “dealing” với Mỹ hơn, gợi lại những kỷ niệm cay đắng của Việt Nam trong hội nghị Geneva. Hồng vệ binh Trung Quốc “tình nguyện” sang giúp đỡ Việt Nam hồi đầu cách mạng văn hóa gây khó chịu cho dân chúng địa phương, chẳng khác gì những cố vấn Trung Quốc hô hào khẩu hiệu của Mao thời cải cách ruộng đất tại Việt Nam. Đến mùa xuân năm 1966, quan hệ trở nên khá căng thẳng. Trong một bài phát biểu hồi tháng 5, đáp lại bài báo của Lâm Bưu về việc Việt Nam phải có thói quen “tự lực”, Duẩn đã tuyên bố Việt Nam nghiên cứu kỹ kinh nghiệm của các nước anh em nhưng không áp dụng một cách mù quáng. Duẩn còn đi xa hơn nữa khi nhắc lại lịch sử: “Không phải ngẫu nhiên mà trong lịch sử dân tộc ta, mỗi khi đứng lên chống giặc ngoại xâm, chúng ta đều quyết chiến đấu”. Báo chí Việt nam cũng bóng gió nói về sự đe dọa từ phía Bắc từ thời phong kiến.


    Bắc kinh cũng nhanh chóng nhận ra vấn đề này. Giữa tháng 4, khi tiếp Đồng, Mao đã xin lỗi về thái độ của bọn hồng vệ binh, “Nếu chúng nó phá, các đồng chí cứ bắt giao lại cho chúng tôi”. Ngay sau đó, về bài phát biểu của Duẩn, Chu tuyên bố Trung Quốc không có ý định áp đặt ý chí cho Việt nam và nếu các đồng chí Việt nam thấy khó chịu, Trung Quốc sẽ rút các đơn vị xây dựng tại miền Bắc (khoảng 100,000 người) và rút quân đội ra khỏi vùng biên giới. Duẩn cũng nhượng bộ, cám ơn Trung Quốc đã giúp đỡ to lớn. Tuy nhiên Duẩn vẫn bảo vệ quyền được quan hệ với L.Xô vì những mục đích thực tế, cho rằng ngay cả Trung Quốc hồi xưa cũng đã sử dụng sự giúp đỡ của L.Xô. Về quan điểm L.Xô phản bội, Duẩn đề nghị thái độ hòa giải với “các nước xét lại” để thuyết phục họ quay về những nguyên tắc cách mạng cơ bản. Hồ cũng can thiệp trực tiếp. Trong cuộc gặp giữa Hồ với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, khi Chu nhắc lại quan điểm đề nghị rút quân ra khỏi biên giới, Đặng đã ngắt lời, cho rằng cần phải giữ quân để đề phòng Mỹ tấn công. Hồ ngay lập tức khẳng định là Việt Nam hoàn toàn ủng hộ và cảm thấy thoải mái với sự có mặt của quân đội Trung Quốc ở biên giới phía Bắc. Tình hình có dịu đi, nhưng những hạt giống nghi ngờ đã được ươm cho tương lai.

    Trong năm 1966, quyết tâm tránh thất bại bẽ mặt ở miền Nam, Mỹ tiếp tục tăng cường sức mạnh quân sự. Quân đội Mỹ trực tiếp tiến hành các chiến dịch “tìm và diệt” để đẩy các lực lượng cách mạng lên vùng cao nguyên và biên giới xa dân chúng và nguồn tiếp tế. Quân đội Sài gòn chủ yếu làm nhiệm vụ bình định và hoạt động trong đô thị và các tỉnh duyên hải. Tướng Thanh tiếp tục chiến lược đối đầu trực tiếp, nhằm gây sức ép buộc Mỹ đàm phàn và giữ tinh thần cho các lực lượng cách mạng. Chiến lược này cực kỳ hao người. Mặc dù con số 300.00thương vong của PAVN và PALF do Mỹ đưa ra rõ ràng là nói quá lên nhưng quân đội phía Việt nam chắc chắn phải chịu những tổn thất rất lớn, và phải buộc liên tục bổ sung từ ngoài Bắc, hàng năm lên tới hơn 50.000 quân. Chiến lược của Thanh chưa mang lại lợi ích rõ ràng gì. Chính quyền Sài gòn vẫn lung lay nhưng chẳng có vẻ gì là sắp đổ, nhất là khi “nhoms sỹ quan trẻ” Thiệu - Kỳ lên nắm quyền. Dưới sức ép của Mỹ, một dự thảo hiến pháp được thông qua. Sài gòn chuẩn bị bầu cử tổng thống. Tại Mỹ, phong trào phản chiến lan rộng nhưng chưa đủ để được Nhà Trắng chú ý. Trong Đảng, bắt đầu có sự bàn tán xì xào về chiến lược “vá trời” của Thanh. Như thường lệ, Hồ đứng về phe ôn hòa, ủng hộ chiến tranh kéo dài, nhiều giai đoạn, kết hợp giữa đấu tranh chính trị, tuyên truyền và chiến tranh du kích. Để thuyết phục những người nóng vội muốn đạt thắng lợi nhanh, Hồ sử dụng hình ảnh nấu cơm. Rút lửa sớm, cơm sẽ sống. Để lửa to quá cơm sẽ cháy. Hồ tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng, dự đoán những mâu thuẫn nội bộ trong nước Mỹ dâng cao và sẽ đạt được đỉnh vào cuộc bầu cử tổng thống tới. Tháng 12/1966, Hồ viết thư ngỏ gửi nhân dân Mỹ, nêu rõ những mất mát của nhân dân Việt nam, cũng như uy tín của nước Mỹ, do cuộc chiến gây ra. Hồ viết bức thư này khi đại sứ quán Italia ở Sài gòn đang môi giới một số sáng kiến hòa bình. Tuy nhiên ngay sau đó, không quân Mỹ oanh kích một số vùng ngay sát thủ đô và Hà nội đã hủy bỏ cuộc gặp dự kiến được tiến hành ở Vacsavac


    Hồ cũng đã tỏ rõ thái độ rất cương quyết khi gặp lại ông bạn cũ là Jean Sainteny, tháng 7/1966 để thăm dò khả năng trung gian hòa giải của Pháp. Cũng như tổng thống Pháp Charle de Gaulle, Sainteny cho rằng Mỹ không thể đạt được mục đích của mình ở Đông Dương, tốt nhất là một giải pháp thỏa hiệp tạo nên một chính phủ trung lập ở Sài gòn. Trong cuộc thảo luận, Hồ nói biết rất rõ khả năng của Mỹ có thể tiêu diệt tất cả các thành phố Bắc Việt, nhưng nhân dân Việt nam sẽ sẵn sàng chiến đấu đến cùng và sẽ chiến thắng. Việt nam mong muốn tìm một giải pháp rút lui trong danh dự cho Mỹ, nhưng kết quả là quân Mỹ vẫn phải rút hết. Lúc đó mọi vấn đề sẽ được giải quyết.
    **********************
    PAVN: Quân đội nhân dân Việt Nam
    PLAF : Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam

    Tháng 5/1965, Hồ sinh nhật lần thứ 75. Trong suốt thập kỷ cuối cùng, Hồ vẫn điều hành Hội đồng chính phủ, Bộ chính trị và Ủy ban TW, nhưng càng ngày càng ủy quyền cho các đồng chí của mình. Mặc dù vẫn lắng nghe những kinh nghiệm của Hồ trong quan hệ quốc tế và các vấn đề chiến lược chiến tranh, từ giữa những năm 1960, vai trò chính của Hồ là trở thành hình ảnh “Bác Hồ” yêu quý, thăm dân chúng, trường học, nhà máy để cổ vũ cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng CNXH.


    Đó là những năm tháng cực kỳ gian khổ. Cuộc chiến leo thang ở miền Nam đòi hỏi sự tăng viện không ngừng. Từ năm 1965 đến cuối thập kỷ, quân số Quân đội nhân dân Việt Nam tại miền Nam đã tăng từ 240,000 người lên hơn 400,000 người. Hầu như tất cả nam giới từ 18 đến 45 bị động viên nhập ngũ. Phụ nữ thay thế họ trong các nhà máy, đồng ruộng. Phụ nữ còn tham gia các đội thanh niên xung phong, tự vệ địa phương, lực lượng phá bom và phòng không tầm thấp. Sản lượng lương thực giảm sút trầm trọng và chỉ có viện trợ của Trung Quốc mới ngăn được nạn đói lan rộng. Các cuộc không kích của không quân Mỹ phá hủy nhiều thành phố trong đó có Vinh. Nhân dân thành phố được sơ tán về các vùng nông thôn. Dân chúng cũng đã đào hơn 300,000 km giao thông hào và 20 triệu hầm trú ẩn. Nhưng có vẻ vẫn chưa đủ. Dù không có con số dân thường thương vong chính thức của miền Bắc, ước tính có đến hàng triệu người Việt nam chết ở cả hai miền đất nước. Nhân dân đã phải trả giá đắt cho quyết tâm thực hiện giấc mơ thống nhất đất nước của Bác Hồ.


    Hồ cũng chia sẻ cùng những khó khăn chung của nhân dân và sống rất giản dị trong căn nhà sàn, đầy những kỷ niệm lãng mạn của những ngày đầu kháng chiến. Thời gian bắt đầu in dấu ấn của mình. Các phóng viên nước ngoài đều nhận thấy Hồ có những lúc khó thở, chuyển động chậm chạp, và thỉnh thoảng mất tập trung. Hồ bắt đầu viết di chúc lần đầu tiên vào dịp sinh nhật lần thứ 75. Cũng trong tháng 5/1965, Hồ cùng với thư ký riêng Vũ Kỳ đi Trung Quốc 3 tuần, vừa để tránh bom, vừa để tư vấn chiến lược với Trung Quốc, đồng thời tranh thủ nghỉ ngơi. Sau khi gặp Mao ở Trường Sa, Hồ tiếp tục đến Bắc kinh để thảo luận với các lãnh đạo Trung Quốc khác. Khi có người quan ngại về sức khỏe và hỏi Hồ có ngủ ngon không, ông đã trả lời: “Hỏi chú Kỳ thì biết”. Mặc cho Hồ phản đối, Trung Quốc vẫn tổ chức sinh nhật Hồ rầm rộ với vô số khách mời là các cô gái trẻ (Vũ Kỳ cho biết là Hồ rất “tôn trọng” họ). Kết thúc đàm phán, Hồ đi Sơn đông thăm quê hương của Khổng tử. Trước miếu thờ , Hồ nhắc lại sự cam kết sâu sắc của Khổng giáo với những giá trị nhân đạo. Hồ giải thích nguyên tắc Đại Đồng (Great Unity), chính là nền móng của quan điểm xã hội công bằng hiện tại. Hòa bình vĩnh viễn chỉ có được khi thế giới trở nên đại đồng. Trên máy bay về nước, Hồ đã làm thơ ghi lại những cảm xúc của mình khi được thăm quê hương của người con vĩ đại của Trung hoa.

    Sau khi đi về, sức khỏe của Hồ tiếp tục giảm sút, mặc dù có lúc có những phút lóe sáng bất thường. Trong một chuyến viếng thăm của Tào Trư đến Hà nội, Hồ đột ngột nhờ Tào kiếm cho một cô gái trẻ Quảng đông để đỡ đần trong cuộc sống. Khi Tào hỏi lại, sao Hồ không kiếm một cô gái Việt nam, Hồ nói: “ở Việt nam, ai cũng gọi tôi là Bác”. Về đến Trung Quốc, Tào báo cáo lại với Chu Ân Lai, vì sự việc tế nhị, Chu tư vấn với ban lãnh đạo Việt Nam và vụ việc bị cho chìm xuồng


    Tháng 5/1966, Hồ lại sang Trung Quốc kỷ niệm sinh nhật lần thứ 76. Sau khi được các lãnh đạo Trung Quốc cam kết sẽ ủng hộ Việt Nam đến thắng lợi cuối cùng, bất kể nguy cơ Mỹ có thể tấn công Trung Quốc trực tiếp, Hồ đi nghỉ mấy ngày tại Trung nguyên, sau đó đi Sơn đông, Mãn châu và về nước và tháng 6. Ngày 17 tháng 7, Hồ gửi lời kêu gọi đến toàn thể nhân dân Việt nam, cám ơn những hy sinh cao cả của họ và tuyên bố “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Tại Bắc kinh, hàng trăm ngàn dân Trung Quốc biểu tình trên quảng trường Thiên An Môn ủng hộ sự nghiệp thống nhất đất nước của Việt nam.


    Mặc dù sức khỏe yếu đi, Hồ vẫn tuân thủ chặt chẽ việc tập thể dục buổi sáng và một nếp sống lành mạnh: làm vườn, cho cá ăn và tiếp khách. Hồ tiếp tất cả từ phóng viên phương Tây, các chính khách nước ngoài, đại biểu miền Nam cho đến nhân dân khắp nơi, dưới một rặng cây ngay gần nhà. Bộ chính trị họp ngay dưới nhà sàn, trừ những khi Mỹ ném bom quá gần. Tuy nhiên không phải lúc nào Hồ cũng tham dự họp. Khi có những vấn đề rắc rối, Duẩn dặn các đồng chí: “Đừng làm Bác phải suy nghĩ nhiều”. Vào dịp sinh nhật lần thứ 77, khi Hồ đang đi Quảng đông, Bộ chính trị đã họp về sức khỏe của Hồ và cử Nguyễn Lương Bằng trực tiếp theo dõi sức khỏe của Cụ. Lê Thanh Nghị được phân công dẫn đầu một đoàn sang L.Xô để tư vấn và tìm hiểu cách thức giữ gìn thân thể của Hồ sau khi chết.


    Đầu năm 1967, Hồ tiếp hai nhà hoạt động hòa bình Mỹ là Harry Ashmore và William Baggs, gợi ý có thể đàm phán hòa bình nếu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc. Sau khi vụ việc được báo cáo lại cho bộ ngoại giao Mỹ, Johnson gửi thư cho Hồ, đề nghị chấm dứt ném bom nếu miền Bắc chấm dứt tiếp tế vào Nam. Dĩ nhiên là Hà nội, dự kiến lợi dụng chấm dứt ném bom để tăng viện, không thể chấp nhận đề nghị đó. Tháng 7, khi ông bạn cũ là Raymond Aubrac đến Hà nội để thăm dò triển vọng hòa bình, Hồ đã nêu rõ, Mỹ phải chấm dứt ném bom miền Bắc một cách vô điều kiện thì mới có thể đàm phán. Tháng 9, Hồ đi dưỡng bệnh dài ngày tại một vùng núi gần Bắc kinh.

    ******************
    Câu chuyện này được kể lại trong cuốn “Những điều bí ẩn của Tao Trư” (Tao Zhu Ji mi), tác giả Quan Yan, Xinan Military Literature (Chengdu), No 72 (1995). Tào là bí thư Quảng đông trước khi bị thanh trừng trong cách mạng văn hóa. Tôi (tác giả) đoán rằng sự việc diễn ra vào mùa xuân hoặc đầu hè năm 1966. Bài báo cho rằng Hồ muốn một cô gái Quảng đông vì nhớ đến những kỷ niệm về người vợ đầu tiên Tăng Tuyết Minh. Chính phủ Trung Quốc đã cất công tìm 3 ứng viên trước khi ý tưởng bị dẹp. Chu Ân Lai e ngại rằng điều này sẽ dấy lên tinh thần chống Trung quốc tại Việt nam.

    Trong lúc Hồ đi vắng, Bộ chính trị tích cực thảo luận về tiến hành “Cuộc tổng tiến công và nổi dậy” được dự kiến từ đầu thập kỷ. Mặc dù quân giải phóng và quân Bắc Việt vẫn hoạt động tương đối hiệu quả trên toàn chiến trường, nhưng với sự có mặt của gần 500.000 quân Mỹ, Việt Cộng và Bắc Việt đang phải gánh chịu những thương vong nặng nề, tinh thần quân sĩ giảm sút, tỷ lệ đào ngũ tăng nhanh. Washington không chấp nhận thất bại làm cho nhiều người nghi ngờ cách mạng sẽ tất yếu thắng lợi. Các nhà lãnh đạo Đảng cần phải có hành động để giành lại quyền chủ động và chiếm lại những vị trí đã mất. Trong một thời gian dài, Hồ luôn dặn các đồng chí của mình, cuộc tiến công phải được tổ chức vào năm bầu cử tổng thống để gây sức ép tối đa lên hệ thống chính trị của Mỹ. Những cuộc tiến công quân sự phải được kết hợp với sự nổi dậy của dân chúng trong thành phố. Mục tiêu tối thiểu là làm Sài gòn hoảng loạn và buộc Mỹ phải đàm phàn trên thế yếu. Kế hoạch tấn công Tết Mậu thân chỉ được phê duyệt vào tháng 12 khi Hồ từ Trung Quốc trở về. Ngay sau đó Hồ lại quay lại Trung Quốc.


    Cuộc tổng tiến công được tiến hành đồng loạt ngày 31/1/1968 trên tất cả các thành phố lớn, thị xã, thị trấn và nông thôn. Tại Sài gòn, những đơn vị đặc công cảm tử đánh chiếm các cơ sở chính quyền, thậm chí chiếm tầng dưới của tòa nhà Đại sứ quán Mỹ. Tại Huế, Việt Cộng chỉ chịu rút lui sau những trận đánh giáp lá cà với lính thủy đánh bộ Mỹ, sau 3 tuần chiếm giữ thành phố. Cuộc tiến công đã thất bại về mặt quân sự, hơn 30.000 thương vong làm cho Việt cộng hầu như không gượng dậy lại được trong những năm tiếp theo. Chính quyền Thiệu vẫn đứng vững. Tuy nhiên những hiệu quả chính trị lại hết sức khả quan. Hơn 2.000 lính Mỹ chết, 3.000 bị thương, cùng với những trận đánh được ghi hình trực tiếp từ trung tâm Sài gòn đã đẩy phong trào phản chiến Mỹ lên đỉnh cao. Nhà Trắng buộc phải nhượng bộ để tìm giải pháp hòa bình. Cuối tháng 3, Johnson tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở lên và không ra tranh cử nhiệm kỳ tiếp.


    Trong khi Nhà Trắng đang nhằn quả đắng, Lê Đức Thọ đi Bắc kinh để báo cáo kết quả với Hồ. Mặc dù sau này thừa nhận thành công vừa phải của chiến dịch, chắc chắn là Thọ đã miêu tả với Hồ một thắng lợi vĩ đại. Khi Thọ báo cáo là sẽ đi miền Nam để đánh giá tình hình, Hồ một mực đòi đi theo. Thọ tìm cách thoái thác, kêu rằng khi đi qua cảng Sihanoukville - Campuchia, mọi người sẽ nhận ra bộ râu của Hồ ngay. Hồ liền đồng ý cạo đi, Thọ lại cho rằng nếu thế thì nhân dân miền Nam sẽ không nhận ra Bác. Hồ cam kết sẵn lòng làm bất cứ việc gì, kể cả phải đóng giả thủy thủ hoặc nấp trong hầm tàu. Cuối cùng Thọ phải hứa sẽ báo cáo với bộ chính trị để xem xét sự việc. Khi Thọ đứng lên ra về Hồ ôm hôn và khóc. Sau này Thọ kể lại ông có cảm giác không bao giờ gặp lại người đồng chí già của mình nữa.

  2. Có lẽ Hồ cũng đoán được là Bộ chính trị sẽ không thỏa mãn yêu cầu của ông vì lý do sức khỏe. Hồ viết thư cho Duẩn, cho rằng nếu được thay đổi không khí, sức khỏe của ông sẽ khá hơn. Chuyến đi của ông cũng sẽ cổ vũ tinh thần của đồng bào chiến sĩ miền Nam đang hết lòng chiến đấu cho sự nghiệp. Ngày 19/3, Hồ viết thư nhờ Chu can thiệp, nhưng cũng chẳng đi đến đâu


    Hồ về nước ngày 21/4 và tuy sức khỏe còn rất yếu, vẫn tham gia vào cuộc họp Bộ chính trị đánh giá kết quả của cuộc tổng tiến công. Hồ hài lòng khi biết McNamara phải tuyên bố từ chức và Johnson không ra tranh cử nhiệm kỳ 2. Tháng 6, sau khi Robert Kennedy, một Thượng Nghị Sỹ chống chiến tranh bị ám sát, Hồ viết trên báo Nhân dân rằng sẽ còn nhiều người Mỹ vô tội nữa bị giết vì chiến tranh. Tháng 5, Johnson tuyên bố ngừng ném bom dưới vĩ tuyến 20 và chấp nhận ngồi vào bàn thương lượng. Không rõ Hồ có trực tiếp tham gia quyết định chấp nhận đàm phán hay không? Tuy hài lòng, Hồ cảnh báo các đồng chí của mình, công việc sau khi thắng lợi sẽ “rất phức tạp và khó khăn”. Để tránh sai lầm, Đảng phải tái tổ chức, xác định lại vị trí của đảng viên. Hồ căn dặn tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, nâng cao đời sống dân chúng, cải tạo những phần tử chậm tiến như hút xách, đĩ điếm trong xã hội miền Nam.


    Hồ còn tư vấn về chiến lược đàm phán trong tương lai với Mỹ, khi tình hình vẫn đang rất phức tạp. Mỹ từ chối đưa ra văn bản về việc chấm dứt ném bom vĩnh viễn. Trung Quốc lúc đó đang vật lộn với cách mạng văn hóa, chỉ trích các đồng chí Việt nam qua vội vã đàm phán với bọn đế quốc. Chu tư vấn Đồng bắt Mỹ chấp nhận “Bốn điểm” trước khi thương lượng và chỉ đàm phán trên thế mạnh. Đồng vặn lại, đương nhiên Việt Nam sẽ không thỏa hiệp và đàm phán trong những điều kiện bất lợi, nhưng suy cho cùng, Việt nam mới là người tiến hành chiến tranh. Trong các nhận xét của mình về vấn đề đàm phán, Hồ thường xuyên tỏ ra là người thực tế, cân nhắc kỹ lưỡng được và mất. Hồ cảnh báo, không được chủ quan, có thể rơi vào bẫy của Mỹ, ngừng bắn ở miền Nam nhưng Mỹ vẫn có cơ hội ném bom trở lại miền Bắc. Tháng 11/1968, đàm phán hòa bình được mở ra ở Paris. Mỹ cam kết chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc (mặc dù Johnson vẫn kiên quyết không chịu viết thành văn bản), mặc dù không có ngừng bắn, Hà nội hứa sẽ không tiến hành những cuộc tiến công quy mô lớn như Tết. Những đột phá hòa bình đã quá muộn để giúp ứng cử viên dân chủ Humphrey thắng cử. Humphrey có quan điểm chống chiến tranh, nhưng không được công khai quan điểm vì bị ràng buộc bởi vị trí phó tổng thống, được đảng dân chủ đề cử sau một Đại hội cực kỳ sóng gió tại Chicago. Richard Nixon, người tuyên bố đã có “kế hoạch bí mật” để chấm dứt chiến tranh, đã đưa đảng Cộng hòa trở lại chính trường sau 8 năm.

    Trong những năm cuối đời, Hồ đã sửa lại di chúc nhiều lần, nhưng lần nào ông cũng nêu rõ nguyện vọng được hỏa táng. Trong bản cuối cùng, Hồ muốn tro của mình sẽ được rải tại 3 địa danh ở miền Bắc, miền Nam và miền Trung, biểu tượng cho sự cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Hồ viết, ông sẽ vui lòng đi gặp Karl Max, Vladimir Lenin và các nhà cách mạng khác. Hồ dặn miễn thuế nông nghiệp 1 năm để khoan sức dân và bày tỏ lòng biết ơn của Đảng. Trong dịp Tết năm 1969, Hồ lần cuối cùng ra khỏi Hà nội, đi thăm nhân dân ở thị xã Sơn tây. Tháng 4, H tham gia họp Bộ chính trị, khuyên các đồng chí, nếu Mỹ đã quyết định rút, phải để cho họ rút trong danh dự. Tại hội nghị Trung ương tháng 5, Hồ căn dặn không nên chủ quan vội vã trong đánh giá, mặc dù Mỹ đã quyết định rút quân, tình hình vẫn rất nguy hiểm.


    Cuối cùng Hồ cũng được thỏa mãn nguyện vọng gặp gỡ với đoàn đại biểu các chiến sĩ miền Nam tại Hồ Tây. Tại lễ sinh nhật lần thứ 79, các cộng sự của ông đã thề sẽ giành chiến thắng và đưa Hồ vào thăm miền Nam. Cũng trong tháng đó, Hồ sửa lại lần cuối cùng bản di chúc, viết thêm trên lề. Sức khỏe Hồ đã yếu đi rất nhiều và các bác sĩ quyết định theo dõi nhịp tim của ông thường xuyên. Mặc dù ngôi nhà sàn rợp bóng cây, Hồ vẫn rất mệt trong mùa hè nóng nực. Ông vẫn cố gắng duy trì tập thể dục buổi sáng, tưới cây và cho cá ăn. Nguyễn Lương Bằng và Trường Chinh hàng ngày sang ăn cơm với Hồ.


    Một ngày giữa tháng 8, sức khỏe Hồ xấu đi đột ngột, phổi bị xung huyết. Mặc dù được tiêm kháng sinh, Hồ vẫn thấy đau ở ngực. Ngày 28/8, tim bắt đầu loạn nhịp. Tuy nhiên khi Bộ chính trị đến báo cáo tình hình, Hồ nói đã đỡ rất nhiều. Hai ngày sau, khi Đồng đến thăm, Hồ hỏi han về tình hình chuẩn bị cho ngày lễ Độc lập. Sáng hôm sau, Hồ dậy sớm, ăn một bát cháo và tiếp một đoàn cựu chiến binh đến thăm. 9h45 sáng ngày 2/9, 24 năm sau ngày khôi phục nền độc lập của Việt nam, trái tim Hồ Chí Minh đã ngừng đập

    15. Con người trở thành huyền thoại (From Man to Myth )


    Cái chết của Hồ Chí Minh tạo nên một tiếng vang rộng lớn trên khắp thế giới. Hà nội nhận được hơn 22000 điện chia buồn từ 121 nước. Các nước XHCN đều tổ chức lễ viếng trọng thể. Tuyên bố chính thức từ Matxcova: “Hồ Chí Minh là người con vĩ đại của nhân dân Việt nam anh hùng, nhà lãnh đạo nổi bật của phong trào cộng sản và giải phóng dân tộc, người bạn của nhân dân Xô viết”. Các nước thứ ba ca ngợi Hồ Chí Minh như người bảo vệ cho các dân tộc bị áp bức. Một bài báo Ấn độ viết: “Hồ Chí Minh là tinh hoa của dân tộc, hiện thân của khát vọng cháy bỏng cho tự do và tranh đấu”. Bài xã luận trên một tờ báo Uruguay viết: “Người có trái tim bao la như vũ trụ, tình yêu vô bờ bến với con trẻ, là mẫu mực của sự giản dị trên tất cả các lĩnh vực”.


    Phản ứng chính thống của các chính phủ phương Tây lặng lẽ hơn. Chính phủ Nixon từ chối bình luận. Nhưng các phương tiện thông tin đại chúng bày tỏ quan điểm quyết liệt. Các báo chống chiến tranh miêu tả Hồ Chí Minh như một địch thủ đáng kính trọng, người bảo vệ cho kẻ yếu và các dân tộc bị áp bức. Ngay cả những kẻ chống đối chế độ Hà nội cũng bày tỏ sự kính trọng Hồ Chí Minh như người suốt đời chiến đấu cho độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.


    Điều mà các nhà bình luận khắp thế giới quan tâm là ảnh hưởng của cái chết của ông tới cuộc chiến tranh Đông dương. Mặc dù những lời đồn đại về Hồ Chí Minh như một đặc vụ cộng sản, và một nhà cách mạng tàn bạo, dư luận đều thống nhất Hồ Chí Minh là một người thực dụng. Ông hiểu được sự phức tạp của tình hình thế giới và luôn có những quyết sách phù hợp. Ngay cả Lindon Johnson, đối thủ chính của Hồ trong suốt thập kỷ 60 đã phải nhiều lúc bực mình quát lên: "Giá như mà tôi có thể ngồi với “ Uncle Hồ”, chúng tôi chắc chắn sẽ đạt được thoả thuận". Những người kế tục Hồ không có được ảnh hưởng như vậy. Ngoài Hồ, chẳng ai trong ban lãnh đạo Đảng chu du trên thế giới, đặc biệt là Pháp, chưa kể đến các nước phương Tây khác. Một số được đi học nước ngoài thì tầm nhìn cũng bị hạn chế bởi quan điểm chính thống của Matxcova và Bắckinh. Chẳng ai ở phương Tây biết đến Lê Duẩn. Thậm chí, Matxcova và Bắc Kinh cũng không có nhiều hiểu biết về ông này.


    Lần đầu tiên Hồ khởi thảo bản di chúc vào năm 1965, sau đó chỉnh sửa vào các năm 1968, 1969. Cũng như trong cuộc đời mình, trong bản di chúc, ông cố gắng cân bằng sự cống hiến cho độc lập của dân tộc Việt nam và phong trào cách mạng thế giới. Ông coi trọng cả chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhưng nhấn mạnh đến việc hàn gắn vết thương chiến tranh và nâng cao đời sống nhân dân như nhiệm vụ hậu chiến quan trọng nhất của Đảng. Ông đặc biệt căn dặn việc dân chủ hoá tổ chức và nâng cao tiêu chuẩn đạo đức của đảng viên sau chiến tranh. Cuối cùng ông tha thiết đề nghị sự thống nhất của phong trào cộng sản quốc tế.



    Lễ viếng Hồ Chí Minh được cử hành tại quảng trường Ba đình với hơn 100,000 người tham dự. Lê Duẩn đọc điếu văn thề đánh bại xâm lược Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Duẩn còn hứa sẽ hiến dâng hết sức mình để xây dựng CNXH ở Việt nam và hàn gắn những rạn nứt trong phong trào cộng sản quốc tế.

    Lê Duẩn đã phần nào thực hiện được lời hứa của mình. Dưới sự lãnh đạo của ông, Hà nội kiên trì tăng cường lực lượng tại miền Nam, chuẩn bị cho cuộc tiến công vào năm bầu cử tổng thống Mỹ. Hai bên cũng đã ngồi vào bàn đàm phán tại Paris nhưng chẳng mấy kết quả bởi đều chờ đợi những thắng lợi tại chiến trường để mặc cả. Mặc dù bị những tổn thất nặng nề nhưng Đảng vẫn lạc quan vì phong trào phản chiến đặc biệt lên cao ở Mỹ. Tổng thống Nixon đã buộc phải tuyên bố rút hết quân Mỹ về nước vào cuối nhiệm kỳ của mình. Mùa hè 1972, khi Mỹ chỉ còn khoảng 50.000 lính Mỹ ở Việt nam, Hà nội mở chiến dịch Phục sinh. Cũng như Tết 1968, chiến dịch không đạt được kết quả như ý nhưng đã tạo một động lực quan trọng trên bàn đàm phán. Tháng 1/1973, hai bên ký hiệp định Paris, bảo đảm rút hết quân Mỹ về nước. Không lời nào đả động đến các đơn vị chủ lực Bắc Việt đang đóng ở miền Nam. Một cơ quan được thành lập là Hội đồng Hoà giải và Hoà hợp dân tộc nhằm xác định ranh giới chiếm đóng giữa chính quyền Sài gòn và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt nam. Hội đồng này sau đó sẽ lãnh trách nhiệm tổ chức tổng tuyển cử. Cũng như hiệp định Genevo 2 thập kỷ trước đây, hiệp định Paris không kết thúc được chiến tranh Việt nam. Nó chỉ mở đường cho Mỹ rút quân dễ hơn và đưa miền Nam trở lại tình hình đầu những năm 1960. Và cả hai bên chẳng ai có ý định tôn trọng hiệp định. Năm 1975, Hà nội mở cuộc tổng tiến công. Chính quyền Mỹ, (đã yếu đi nhiều sau vụ scandan của Nixon dẫn đến ông này từ chức và đưa Ford lên cầm quyền) quyết định không can thiệp và sơ tán các nhân viên của mình khỏi Việt nam. Ngày 30-4, cuộc vật lộn đẫm máu làm hơn 1 triệu người Việt nam thiệt mạng đã trở thành “Cuộc chiến giờ đã chấm dứt” (lời tổng thống Ford). Khome đỏ cũng đã tiến vào Phompenh trước đó 2 tuần. Chính quyền cách mạng cũng được thành lập ở Lào trong cùng năm. Tháng 7/1976, hai miền Việt nam thống nhất trở thành nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt nam.

    Nhưng trong các lĩnh vực khác, Duẩn đã không thành công lắm trong việc thực thi lời hứa của mình. Từ những năm 1968, chuyên gia Xô viết đã đến để bàn về việc ướp xác Hồ Chí Minh. Tuy nhiên kế hoạch này được giữ kín vì chắc chắn Hồ mong muốn mình được hoả thiêu. Khi Hồ mất, trung ương cũng tỏ ra khá lúng túng. Sau khi tư vấn với Liên xô, một chuyên gia được cấp tốc cử sang vào giữa tháng 9 để tiến hành bảo tồn cơ thể Hồ. Ngày 29/11, Bộ chính trị quyết định xây Lăng. Theo kế hoạch do Bộ xây dựng và Quốc phòng đề xuất, lăng phải hiện đại và có tính dân tộc, nghiêm túc nhưng giản dị như phong cách của Hồ Chí Minh. Dự án được phê duyệt tháng 12/1971 và khởi công ngay sau khi hiệp định Paris được ký kết. Ngày 29/8/1975, Lăng Hồ Chí Minh được khánh thành tại địa điểm linh thiêng nhất của cách mạng Việt nam: "quảng trường Ba đình". Theo ý tưởng, nó thể hiện bông sen vươn lên từ bùn đen, một đối âm của chùa Một cột gần đó. Tuy nhiên theo nhiều nhà quan sát, toà nhà này quá nặng nề và buồn tẻ, hoàn toàn đối lập với tính cách không phô trương và sự hài hước tinh quái của chủ nhân của nó. Nhà sử học Huế - Hồ Tài Tâm cho rằng, người ta muốn xây dựng Hồ Chí Minh như một lãnh tụ của phong trào cộng sản quốc tế chứ không phải là "Bác Hồ" được hàng triệu người Việt nam yêu quý. Tuy nhiên hàng tuần cũng có đến hơn 15.000 người viếng lăng. Ban lãnh đạo Đảng rõ ràng đã cố tình lờ đi mong muốn của Hồ Chí Minh được tổ chức tang lễ một cách bình dị và hoả thiêu. Sinh thời Hồ luôn ghét sự xa hoa và đã từng phủ quyết một kế hoạch xây dựng bảo tàng của mình tại Kim liên năm 1959. Để tránh sự dị nghị của dư luận, ban lãnh đạo Đảng đã xoá đi đoạn này trong di chúc của Hồ. Họ còn tiện thể xoá luôn ý nguyện của Hồ miễn thuế nông nghiệp 1 năm và dự báo của ông rằng cuộc chiến tranh sẽ kéo dài thêm vài năm nữa.


    Sau đại hội IV vào tháng 12/1976, lãnh đạo Đảng tuyên bố sẽ xây dựng căn bản chủ nghĩa xã hội trên toàn quốc vào cuối thập kỷ. Để thể hiện quyết tâm, Đảng đổi tên từ Đảng lao động Việt nam thành Đảng cộng sản Việt nam. Hình ảnh Hồ Chí Minh được triệt để lợi dụng để kêu gọi sự hỗ trợ của dân chúng. Ảnh Hồ Chí Minh treo khắp nơi. Sách, báo về Hồ Chí Minh xuất bản liên tục. Thanh niên được tổ chức học tập cách sống Hồ Chí Minh. Các học trò như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đua nhau viết hồi ký về Hồ, nhấn mạnh “tư tưởng Hồ Chí Minh” như một công cụ chính để xây dựng đất nước. Một bảo tàng đồ sộ về Hồ Chí Minh được khánh thành vào năm 1990 cạnh quảng trường Ba đình. Các nhà thiết kế phủ một lớp đá trắng với ý đồ biến bảo tàng thành một đoá hoa sen, tuy nhiên toà nhà trông vẫn giống một cái mũi tàu hơn.

  3. Mặc dù Hồ Chí Minh được trình diễn như hiện thân của nước Việt nam mới, các nhà quan sát đã thấy rõ sự khác nhau trời vực giữa phong cách lãnh đạo của Lê Duẩn và người tiền nhiệm lẫy lừng của mình.Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh sự kiên trì và phát triển từng bước của cách mạng Việt nam và tranh thủ sự thống nhất ủng hộ trong toàn xã hội, Duẩn thì ưa dùng những chiến thuật quá tham vọng dẫn đến sự chia rẽ trong nội bộ lãnh đạo Đảng, gạt một bộ phận không nhỏ dân chúng ra ngoài cuộc. Hồ Chí Minh luôn tìm cách điều chỉnh những chiến lược của mình cho phù hợp thực tế quốc tế. Duẩn thì hùng hổ trong lĩnh vực đối ngoại, không những biến các láng giềng Đông Nam Á thành thù địch mà còn chọc tức đồng minh quan trọng nhất của mình là Trung quốc. Những người chống đối bị đưa ra khỏi Ban lãnh đạo như Võ Nguyên Giáp hoặc phải chuồn ra nước ngoài như Hoàng Văn Hoan.

    Kết quả thật là bi thảm. Cuộc cải tạo công thương nghiệp tháng 3/1978 làm hàng vạn người vượt biên. Chương trình hợp tác hoá gây nên sự thù địch của đa số nông dân miền Nam. Đến cuối những năm 70, nền kinh tế bị xáo động bởi việc “xây dựng nền móng của CNXH trước cuối thập kỷ” đã trở thành thảm hoạ. Tình hình đối ngoại cũng chẳng khá khẩm gì hơn. Sau khi không thuần phục được chế độ cuồng tín và diệt chủng Pol Pot, tháng 12/1978 Việt nam tấn công Cambodia và dựng nên chính phủ bù nhìn ở Phnompenh. Để trả thù, Trung quốc đưa quân qua biên giới phía Bắc. Một cuộc chiến ngắn ngủi nhưng đã ngốn nốt những nguồn lực quý báu còn sót lại của đất nước. Giữa những năm 80, dân chúng công khai bày tỏ sự tức giận đối với Ban lãnh đạo đã cố tình không theo đuổi những lời khuyên của Hồ Chí Minh là bảo đảm cho nhân dân được hưởng những thành quả của thắng lợi. Sau khi Duẩn chết năm 1986, Đảng thừa nhận sai lầm (được gọi là chủ nghĩa “thắng lợi”) và quyết tâm cải tổ. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, một người kháng chiến miền Nam cũ, chấp nhận kinh tế thị trường XHCN, mở cửa cho đầu tư nước ngoài, khuyến khích những tư tưởng tự do trong dân chúng. Chính sách này được gọi là “đổi mới” và tỏ ra rất giống chiến lược perestroika của Gorbachev. Tuy nhiên Hà nội cho rằng chính sách của họ được đẻ ra bởi đòi hỏi bức bách của tình hình Việt nam.


    Cuối thập kỷ 80, những thế lực bảo thủ trong Đảng giành lại thế chủ động. Họ cho rằng, những tư tưởng ngoại lai tuy có tác dụng kích thích kinh tế tăng trưởng nhưng lại đẻ ra những tệ nạn xã hội như nghiện hút, SIDA, mại dâm và chủ nghĩa hưởng thụ. Người thay thế Nguyễn Văn Linh, cán bộ đảng chuyên nghiệp Đỗ Mười thắng tay trừng trị những phần tử chống đối dưới khẩu hiệu “cải tổ kinh tế, ổn định chính trị”. Mặc dù tự do hoá kinh tế mới có những thành công khiêm tốn, Đảng tái xác nhận quyền lãnh đạo xã hội duy nhất của mình trong hiến pháp 1991. Những nhà cải cách nhanh chóng sử dụng di sản của Hồ Chí Minh để hậu thuẫn cho đường lối của mình. Họ cho rằng với cách suy nghĩ thực dụng, Cụ sẽ ủng hộ việc nâng cao mức sống nhân dân trước khi xây dựng CNXH. Như một nhà nhân văn, dám chấp nhận nhiều tư tưởng trái ngược, chắc chắn Cụ cũng không để xảy ra sự phân rã trong hàng ngũ lãnh đạo và có nhiều biện pháp để huy động tối đa sự ủng hộ của dân chúng. Cuối những năm 80, những người cải cách được cổ vũ bởi Vũ Kỳ, thư ký riêng cuối cùng của Hồ Chí Minh. Ông này tố cáo Lê Duẩn và các đồng chí đã xoá đi một số đoạn trong di chúc của Cụ, đặc biệt là về thuế nông nghiệp và đám tang đơn giản. Bộ chính trị buộc phải nhận lỗi, nhưng chống chế là họ hành động như vậy duy nhất chỉ vì mục đích làm lợi cho đất nước và nhân dân Việt nam như mục tiêu của cuộc đời Cụ.

    Không chỉ ở Việt nam, tính cách và di sản thực sự của Hồ Chí Minh'cũng được nhìn nhận hết sức mập mờ ở nước ngoài. Vị thánh giải phóng các dân tộc khỏi ách áp bức của phương Tây? Thủ phạm gieo rắc chủ nghĩa cộng sản? Hay tệ hơn, một kẻ cơ hội lợi dụng giả vờ giản dị để tìm kiếm những hào quang cá nhân? Tại hội nghị của UNESCO nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh, những lời ca tụng cũng phần nào bị lu mờ bởi làn sóng những chỉ trích chống lại việc tôn sùng một con người, suy cho cùng phải chịu trách nhiệm về cái chết của rất nhiều đồng bào mình.


    Đối với nhiều nhà quan sát, cái nút của vấn đề là ở chỗ xác định Hồ Chí Minh' là ai, một chiến binh cộng sản hay một nhà dân tộc chủ nghĩa. Những người ngoại quốc đã từng tiếp xúc với Hồ đều khẳng định Hồ giống một người yêu nước hơn một nhà cách mạng Maxist. Bản thân Hồ cũng đã nhiều lần khẳng định chính khát vọng giải phóng dân tộc đã dẫn ông đến với chủ nghĩa Max chứ không phải ngược lại. Hãy đọc trả lời của Hồ cho sĩ quan tình báo Mỹ Charles Fenn: "Đầu tiên, hãy hiểu rằng, để đánh thắng một kẻ thù hùng mạnh như Pháp là một nhiệm vụ bất khả thi nếu không có sự giúp đỡ từ bên ngoài. Sự trợ giúp đó không chỉ bằng vũ khí, mà có thể là các quan hệ, lời khuyên. Người ta không thể giành độc lập bằng cách đánh bom hoặc các hành động tương tự. Các nhà cách mạng tiền bối thường phạm sai lầm này. Cần phải có tổ chức, tuyên truyền, đào tạo và kỷ luật. Cũng cần phải có những niềm tin, cẩm nang, phân tích, thậm chí có thể nói tương tự như Kinh Thánh. Chủ nghĩa Max-Lenin đã cho tôi những khuôn khổ đấy".


    Khi được hỏi, tại sao ông lại không chọn dân chủ hoặc một hình thức chính trị nào đấy mà lại chọn một hệ tư tưởng rõ ràng gây phản cảm cho Mỹ, đất nước mà ông hết sức ngưỡng mộ, Hồ đã trả lời: ông nhận được sự giúp đỡ thực tế chỉ khi đến Matxcova và Liên xô đã là “người bạn thực sự trong lúc khó khăn”. Chung thuỷ đổi lấy sự thủy chung.


    Rõ ràng là sự tồn vong của Việt Nam luôn là mối quan tâm đầu tiên và cao nhất của Hồ Chí Minh. Quan điểm này đã từng làm cho không ít các đồng chí của ông tại Hànội, Bắc kinh và Matxcova nghi ngờ liệu ông có phải là nhà Marxist chân chính? Nhưng cũng chắc chắn là trong ông có một trái tim của nhà cách mạng thế giới. Khuynh hướng này nhiều khả năng xuất phát từ những kinh nghiệm của ông trong những năm lênh đênh trên biển, tận mắt chứng kiến sự cùng cực mà các dân tộc thuộc địa phải gánh chịu. Thời gian sống ở Pari càng làm cho Hồ thất vọng về thói đạo đức giả của chủ nghĩa thực dân Pháp, từ chối áp dụng những lý tưởng sống cao đẹp cho các nước thuộc địa. Hai năm nằm trong giai đoạn cao trào của cách mạng Nga đã tiếp cho Hồ niềm tin lãng mạn vào tương lai của chủ nghĩa cộng sản, khi mà theo Lê nin, chủ nghĩa yêu nước sẽ được thay thế bằng quan điểm thế giới cộng đồng. Những cuộc tàn sát đẫm máu diễn ra sau đó ở Matxcova cũng như sự thờ ơ của phong trào cách mạng vô sản với các vấn đề thuộc địa đã phần nào ảnh hưởng nhiều đến thái độ của Hồ. Tuy vậy, đến cuối đời, Hồ vẫn trung thành với một chế độ xã hội mà ông cho là tốt đẹp hơn chế độ tư bản đã mang lại những đau khổ không kể xiết cho các dân tộc bị áp bức ở Á, Phi và Mỹ la tinh.

    Suy cho cùng, trong Hồ Chí Minh có cả hai: nhà dân tộc chủ nghĩa và một chiến binh cộng sản. Vấn đề ở đây chỉ là vấn đề chiến thuật trong từng thời điểm. Cụ là tín đồ của của nghệ thuật “quyền biến”, luôn biết cách điều chỉnh những lý tưởng của mình theo những điều kiện của thời đại. Ngay cả ở đối với các đồng chí trong đảng, hành động của Cụ có vẻ như rất “vô nguyên tắc”. Nhưng Hồ Chí Minh chia sẻ quan điểm của nhà khoa học xã hội Anh Walter Bagehot: “the best was sometimes the enemy of the good”- ( cái tốt nhất đôi khi lại là kẻ thù của những cái tốt), Cụ tin rằng có thể đạt được mục tiêu tốt nhất thông qua hàng loạt những bước vô cùng nhỏ. Trên thực tế năm 1945 và 1954, Hồ Chí Minh đã thoả hiệp trên mặt trận ngoại giao thay vì tiếp tục cuộc chiến trong những điều kiện bất lợi. Trong nước, Cụ luôn nhấn mạnh rằng việc tiến lên mô hình CNXH phải được thực hiện hết sức từ tốn để chiếm được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng.


    Cũng như tổng thống Mỹ L.B.Johnson, Hồ Chí Minh tự coi mình là Nhà Tuyên Truyền, kiểu mẫu lãnh đạo luôn tin mình có thể đạt được mục tiêu không phải bằng sức mạnh mà bằng lẽ phải. Trong chừng mực nào đó, có thể nói ông đã thành công. Trong nhiều trường hợp, bằng việc thoả hiệp Cụ đã giải giáp kẻ thù, biến yếu điểm về quân sự thành lợi thế chính trị. Thêm vào đó, hình ảnh của Cụ: "giản dị, hào hiệp, quên mình" đã mang lại sự ủng hộ to lớn cho cuộc đấu tranh dành độc lập dân tộc của Việt nam. Khó có thể tưởng tượng cao trào phản chiến toàn cầu chống chiến tranh ở Việt nam những năm 60 lại có thể xảy ra nếu cuộc chiến đó được gắn với Lê Duẩn hoặc Trường Chinh chứ không phải Hồ Chí Minh.


    Liệu hình ảnh của Hồ Chí Minh là chân thật? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời. Có vẻ như không nghi ngờ gì là Cụ cảm giác hết sức không thoải mái trong một môi trường sang trọng và thích sống một lối sống không phô trương. Tuy nhiên một số người quen “không mù quáng” cũng nhận thấy những yếu tố kỹ xảo trong hình ảnh một nhà nho khổ hạnh trở thành nhà cách mạng Marxist. Năm 1946, khi sang Pháp, cùng với Hồ Chí Minh, ông Vũ Đình Huỳnh thư ký của cụ có kể lại lời tâm sự của Cụ: ”nhiều khi vài giọt nước mắt cũng góp phần giải quyết được vấn đề”. Một nhà ngoại giao Balan trong ủy ban đình chiến cũng đã quan sát thấy tuy cực lực phản đối nhưng thực ra Cụ cũng “khoái” sự tán tụng mà dân chúng dành cho. Cái “Tôi” cũng góp phần đáng kể khi Hồ Chí Minh cho ra đời hai cuốn tiểu sử tự viết những năm 1940 và 1950. Hình ảnh Hồ Chí Minh như một vị thánh không chỉ là kết quả của sự xưng tụng của người khác mà còn được nuôi dưỡng cẩn thận bằng chính Hồ Chí Minh.


    Tất nhiên là Cụ có những lý do chính trị chính đáng để làm việc đó. Năm 1947, khi một phóng viên Mỹ hỏi tại sao Cụ lại được tâng bốc nhiều thế, Hồ Chí Minh đã trả lời, có thể phần nào nhân dân tìm thấy trong Cụ một biểu tượng thể hiện khát vọng của chính họ. Khi còn trẻ, Hồ Chí Minh đã nhận thấy thanh niên Việt nam luôn sùng kính những tư tưởng nhân đạo bất tử của Khổng tử được thể hiện và truyền đạt bởi các ông giáo làng quê mùa. Trong điều kiện đất nước bị nô lệ, văn hoá và bản thân sự tồn vong của dân tộc bị đe doạ, dễ hiểu tại sao Hồ Chí Minh đã chọn cá tính đó như biểu tượng của sự cứu nước và phục hưng.

    Đương nhiên là Cụ cũng phải trả giá cho hình ảnh của sự hy sinh và thực dụng của mình. Khác với phương pháp lãnh đạo bằng thống trị cá nhân của Lenin, Mao, Stalin, Hồ Chí Minh là người hoà giải luôn tin tưởng vào việc thuyết phục chứ không phải đàn áp để lãnh đạo Đảng CS Việt Nam từ những ngày trứng nước. Trong những năm 30,40, nhờ uy tín và kinh nghiệm ở QTCS, Cụ rất thành công. Nhưng từ những năm 50 trở đi, một số nhà lãnh đạo khác bắt đầu đòi quyền được hoạch định chiến lược và tỏ ra nghi ngờ những lời khuyên của Cụ. Giữa những năm 60, trong những năm cuối đời, Hồ Chí Minh hầu như bị biến thành một kẻ bất lực. Các tư tưởng của Cụ được các đồng chí - học trò “chào đón” nhưng sau đó bị cho ra rìa vì “không phù hợp”.


    Có phải là Hồ Chí Minh thực sự ngây thơ khi tin vào học thuyết của Tôn Tử:"chiến thắng vĩ đại nhất là chiến thắng không cần bạo lực". Nếu nhìn lại, có lẽ Cụ cũng đã quá cả tin khi tin rằng có thể thuyết phục người Pháp rời bỏ Đông Dương sau WWII. Vài năm sau Hồ Chí Minh cũng đã tính lầm khi cho rằng nếu có thể tìm được một lối thoát danh dự, Mỹ có thể chấp nhận một chính phủ do cộng sản chiếm ưu thế ở Việt nam. Nhưng mọi bằng chứng đều cho thấy Hồ Chí Minh luôn tỏ ra sáng suốt trong việc đánh giá tương quan lực lượng trên trường thế giới và luôn mềm dẻo để tìm được quyết sách phù hợp với những khả năng thay đổi. Mặc dù tìm mọi cách để tránh bạo lực, khi cần thiết Cụ sẵn sàng “rút kiếm”. Đáng tiếc là các học trò của Cụ đa phần là không có được sự mềm dẻo như vậy.

    Rất nhiều nhà phê bình đã cho rằng chính Truman đã châm lửa cho cuộc chiến Việt nam khi không trả lời những “ve vãn” từ Hồ Chí Minh sau khi thế chiến II kết thúc. Là người thực dụng, Hồ Chí Minh thừa hiểu là đất nước ông dễ nhận được sự giúp đỡ thiết thực từ Washington hơn từ Moscow. Ông cũng thường công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình với nền dân chủ Mỹ và đã gắn những tư tưởng đó vào bản Tuyên ngôn độc lập của Việt nam. Mặc dù những quan điểm này mới nghe có vẻ hấp dẫn, nhưng phần nào nó nói lên người Mỹ cũng có những “huyền thoại” về Hồ Chí Minh. Bằng chứng cho thấy, những động thái ngoại giao có tính mời chào của Hồ Chí Minh với Mỹ là kết quả của một sự tính toán hơn là sự nhận thức về tư tưởng. Trên thực tế Hồ Chí Minh thường xuyên rộng rãi những lời tán dương cho đồng minh và cả những kẻ thù tiềm năng của mình để tìm kiếm những lợi ích chiến thuật. Mặc dù luôn để ngỏ khả năng thuyết phục những nhà lãnh đạo Mỹ bỏ cuộc ở Đông Dương, Cụ cũng không nghi ngờ về việc Mỹ, kẻ đại diện cho chủ nghĩa tư bản bóc lột, trước sau cũng sẽ xung đột với phe XHCN.


    Cũng chưa chắc là Hồ Chí Minh đã hoàn toàn rảnh tay trong việc xây dựng chiến lược. Nhiều đồng chí của ông (như Trường Chinh và Lê Duẩn chẳng hạn) không hoàn toàn chia sẻ cách tiếp cận hoà giải của Hồ Chí Minh, thậm chí họ còn cho đó là thái độ thoả hiệp vô nguyên tắc với kẻ thù giai cấp. Và có thể Cụ cũng phải tính đến các vấn đề nội bộ đó. Cũng khó tin là một cử chỉ thân thiện của Nhà Trắng cũng đủ đưa Hồ Chí Minh và các đồng chí của mình vào con đường tư bản. Như sau này Hà nội tìm cách lợi dụng mâu thuẫn giữa Moscow và Bắckinh, nhiều khả năng là Washington cũng chỉ trở thành công cụ để họ đạt được mục tiêu của mình. Nhà Trắng chắc cũng chẳng ngồi yên nhìn Hà nội xây dựng phong trào cách mạng tại Lào và Campuchia.


    Tuy nhiên, từ chối bàn tay thân thiện của Hồ Chí Minh, Paris và Washington đã để lại những hậu quả bi thương cho dân tộc Việt nam. Cho dù Hồ Chí Minh theo tư tưởng gì đi chăng nữa, bây giờ nhìn lại cũng phải công nhận rằng Hồ Chí Minh và các đồng chí Việt minh của mình là những người xứng đáng nhất được lãnh đạo đất nước. Chính sự ủng hộ sâu sắc của nhân dân cho chính phủ Việt nam dân chủ cộng hoà qua nhiều thế hệ đã giúp họ đứng vững trong hai cuộc chiến với Pháp và Mỹ.

    Ngày nay sự tôn sùng Hồ Chí Minh vẫn còn khá sâu sắc ở Việt nam, đặc biệt là phía Bắc. Phía Nam, tình hình không được khả quan lắm do nhân dân vốn quen nhìn chính phủ trung ương đầy nghi ngờ. Tuy nhiên, những ảo tưởng của Cụ về một Đảng cách mạng trong sáng và vì dân đang bị tan vỡ. Chẳng có gì ngăn chặn được nạn tham nhũng trong các quan chức đang đe doạ tạo nên một làn sóng giận dữ trong dân chúng có thể dìm cách mạng xuống bùn. Lớp trẻ cũng đang dần lãng quên, họ vẫn kính trọng Hồ Chí Minh nhưng không còn coi hình ảnh Cụ là quan trọng trong đời sống của họ. Ảnh hưởng của Hồ Chí Minh đối với thanh niên Việt nam trong thế kỷ 21 cũng sẽ không khác nhiều Abraham Lincon đối với một người Mỹ bình thường.


    Kể cả trong những người ủng hộ sự sùng kính với Hồ Chí Minh, nhiều người cho rằng nó như một thứ thuốc phiện cho nhân dân. Một trí thức Việt nam nói với tôi: “Tất cả các dân tộc trong chiến tranh đều cần những huyền thoại về những người sáng lập”. Nhiều người muốn thay thế hình ảnh Hồ Chí Minh trong sáng như một vị thánh bằng một hình ảnh khác gần gũi với con người hơn. Những năm gần đây, có nhiều tin đồn về những cuộc phiêu lưu tình ái cũng như những đứa con ngoài giá thú của cụ. Tháng 4/2000, Nông Đức Mạnh, một quan chức vô danh, được đồn là con của Hồ Chí Minh, đã được bầu làm tổng bí thư Đảng CS Việt Nam*.

    *****************************
    *. Mạnh luôn phủ nhận tin đồn này mặc dù thừa nhận mẹ mình đã có một thời gian phục vụ Hồ đầu những năm 1940. Ngẫu nhiên, phong cách lãnh đạo của Mạnh cũng có phần giống Hồ Chí Minh:" hoà giải, luôn thuyết phục các đồng chí của mình thoả hiệp". Xem thêm Olivier Todd : “Huyền thoại về HCM: đỉnh cao về thông tin sai lệch”, Vietnam Commentary (5-6/1990) pp 13-14.

    Trên bình diện thế giới, hình ảnh Hồ Chí Minh như một nhân vật tinh tuý của thế kỷ 20, cũng không còn gây được nhiều xúc động như vài thế hệ trước (mặc dù, một cửa hàng ở quận Cam - Califonia đã bị Việt kiều đập phá vì đã treo ảnh Hồ Chí Minh trước cửa). Vài chục năm trước, khi cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc nổ ra khắp nơi, và nên văn minh Hoa kỳ có vẻ như đang xuống dốc, Hồ Chí Minh tượng trưng cho tiếng nói của tương lai. Ngày nay, khi chủ nghĩa cộng sản mang đầy tai tiếng còn chủ nghĩa tư bản đang lên, Lòng yêu nước và CNXH của Hồ Chí Minh, cũng như cách mạng văn hoá của Mao hay những tư tưởng thần thánh của Ghandi trở nên kỳ quặc. Nhiều người cho rằng Hồ chỉ là một nhà chiến thuật lắm mưu mẹo, các bài viết thì tầm thường và thiếu tính tư tưởng, tầm nhìn thì chẳng khác gì giấc mơ của Max thấy giai cấp công nhân giận dữ đập cửa các ông chủ tư bản bóc lột. Những cách nhìn phiến diện như vậy đã không thấy được tầm quan trọng của Hồ Chí Minh với thời đại của chúng ta. Có thể tầm nhìn của ông về một xã hội cộng sản đại đồng là khiếm khuyết (hay ít nhất là như vậy với cách nhìn tại thời điểm này), không thể phủ nhận sự nghiệp mà ông lãnh đạo và cổ vũ là quyết định của thế kỷ 20, là đỉnh cao của phong trào giải phóng dân tộc và là dấu hiệu rõ ràng đầu tiên minh chứng sự giới hạn quyền lực của thế giới tự do do Mỹ lãnh đạo nhằm chặn đứng chủ nghĩa cộng sản. Thế giới sau Việt nam đã không bao giờ như xưa nữa.


    Khó mà hình dung cách mạng Việt nam mà không có Hồ Chí Minh. Tuy các nhà sử học thường lý luận rằng thời thế sẽ tạo nên anh hùng, rõ ràng trong nhiều trường hợp như cách mạng Nga, cuộc nội chiến Trung hoa, vai trò của cá nhân là vô cùng to lớn. Việt nam cũng là trường hợp như vậy. Hồ Chí Minh là người khởi xướng, sáng lập và là biểu tượng đầy cảm hứng của cách mạng Việt nam. Như một nhà tổ chức tài năng, một nhà chiến lược sắc sảo, một nhà lãnh đạo lôi cuốn, Hồ Chí Minh là hình ảnh của Lenin và Gandhi được gạch nối bằng Khổng tử. Mặc dù cuộc chiến tranh Việt nam vượt quá số phận của bất cứ một cá nhân nào, không có Hồ Chí Minh, nó sẽ là một cuộc chiến hoàn toàn khác với những hậu quả hoàn toàn khác.

    Nhiều nhà quan sát lấy làm tiếc là một tài năng như Hồ Chí Minh mà lại chọn nhầm ý thức hệ, và liệu có một sự thay đổi nào của điều kiện lịch sử có thể làm cho cậu thanh niên Nguyễn Tất Thành cải đạo theo những tư tưởng của văn minh phương Tây hiện đại? Vào thời đó, phương Tây tượng trưng cho sự bóc lột các thuộc địa, và cũng như nhiều nhà lãnh đạo châu Á khác, các cảnh tượng man rợ của chủ nghĩa thực dân đã in dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn mẫn cảm của Nguyễn Tất Thành. Tuy nhiên, rất nhiều những niềm tin của Hồ Chí Minh xem ra gần gũi với lý tưởng phương Tây hơn là với Max và Lenin. Mặc dù thường nhận là nhà Marxist chính thống, Hồ Chí Minh không quan tâm nhiều đến những học thuyết giáo điều và thường xuyên làm dịu đi những khía cạnh cứng nhắc của chủ nghĩa cộng sản khi áp dụng ở Việt nam.


    Tại sao Hồ Chí Minh, một con người cả cuộc đời ngưỡng mộ những giá trị nhân văn của Nho giáo và các tín ngưỡng phương Tây, lại tiếp tục truyền bá cho chủ nghĩa Max-Lenin, kể cả khi đã thấy rõ những thất bại của nó trong việc bảo vệ những giá trị ấy? Một số nhà phê bình cho rằng, bộ mặt nhân văn của Hồ Chí Minh là chỉ để đánh lừa những kẻ cả tin. Tuy nhiên câu trả lời thuyết phục hơn là có vẻ như Hồ Chí Minh tin rằng ông có thể tránh được những cạm bẫy của chủ nghĩa Stalin và sẽ thành công trong việc kết hợp những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa Max cổ điển với những giá trị nhân văn trong một nước Việt nam tương lai. Đến khi sự việc vỡ lở rằng Việt nam cũng sẽ lặp lại đúng những sai lầm như người anh Soviet của mình, Hồ Chí Minh mất phương hướng và không đủ nghị lực chính trị để công khai chống lại.


    Dù sao, như từ của nhà triết học Mỹ Sidney Hook’s, Hồ Chí Minh xứng đàng là “con người làm nên lịch sử”, “con đẻ của khủng hoảng”, người kết hợp trong mình hai động lực chính của nước Việt nam hiện đại: ước mơ độc lập dân tộc và khát vọng tìm kiếm bình đẳng kinh tế - xã hội. Những động lực đó vượt qua biên giới Việt nam, mang hình ảnh Hồ Chí Minh đến thôi thúc các dân tộc bị áp bức đứng lên đòi lại phẩm giá và tự do. Hồ Chí Minh đã trở thành huyền thoại trong đền thờ các vị anh hùng cách mạng suốt đời đấu tranh để mang tiếng nói của những người cùng khổ đến với thế giới!



    Hết

  4. http://lichsuvn.net/forum/showthread.php?t=9344&page=17

No comments: