Saturday, April 12, 2014

HO CHI MINH A LIFE VI



HO CHI MINH A LIFE

  WILLIAM DUIKER






13. Giữa hai cuộc chiến

Ngày 9/10/1954 , những đơn vị quân Pháp cuối cùng do đại tá D'Argence chỉ huy lầm lũi bước qua cầu Paul Dumer ( nay là cầu Long Biên), nhường lại quyền quản lý Hà Nội cho TRung đoàn Thủ Đô của Tướng Giáp. Suốt 2 tuần trước đó, thành phố như đã chết. Dòng người di tản để lại những đường phố vắng lặng, các cửa hàng, cửa hiệu đóng cửa im lìm. Ngày hôm sau , cả thành phố bừng tỉnh đón chào những người quản lý mới. Các đoàn diễu hành mang theo cờ hoa đi trên phố. Ngày 10/10, các đơn vị bộ đội Việt Minh tiến vào thành phố đc đám đông đón chào bằng các khẩu hiệu :" Độc lập", " Độc lập". Đối với nhiều thành viên Chính phủ, đây là lần đầu tiên sau 8 năm họ trở về Hà Nội. Hồ Chí Minh trở lại thành phố khi nào người ta không rõ, cho đến khi ông xuất hiện trong lễ đón Thủ Tướng Ấn độ Nehru ngày 17/10. Trong xã luận trên báo Nhân Dân ngày 18/10, Hồ Chí Minh giải thích :" Hiện tại việc phát triển kinh tế và tiến tới thống nhất đất nc quan trọng hơn các nghi lễ chào đón.". Hồ kêu gọi các cán bộ đối xử đúnh mực và nhân dân sẵn sàng để phê phán Chính phủ, sinh viên, thầy giáo hãy tiếp tục tới giảng đường, các thương gia hãy tiếp tục buôn bán, người ngoại quốc hãy tiếp tục ở lại làm việc. Hồ từ chối ở trong Dinh Thống Sứ, cho rằng nó quá sang trọng với mình và quyết định ở một ngôi nhà nhỏ trong vườn. Mặc dù vậy, Chính phủ vẫn đổi tên Dinh này thành Phủ Chủ tịch.


Trong quan hệ đối ngoại, Hồ tiếp tục thể hiện một đường lối ngoại giao hòa giải. Ông ủng hộ nguyên tắc " Chung sống hòa bình" và hứa với Nehru sẽ thiết lập quan hệ hữu hảo với Chính phủ Hoàng gia Lào và Cambodia. Ngày 18/10, trong cuộc gặp với đại diện chính phủ Pháp tai VNDCCH, Jean Sainteny, Hồ bày tỏ nguyện vọng bảo vệ sự có mặt của văn hóa và kinh tế của Pháp, thông báo với Sainteny rằng VNDCCH sẽ thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước không cộng sản khác trên thế giới. Tuy nhiên ông nhấn mạnh quan hệ Pháp- Việt giờ đây phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng.


Ngược lại với phong thái ung dung của Hồ, các đồng chí của ông bận rộn suốt ngày với việc " ...tổ chức meeting, diễu hành, tuyên truyền, hò hét các khẩu hiệu yêu nước....". Cộng đồng người nước ngoài , đặc biệt là người Mỹ bị theo dõi chặt chẽ và chịu nhiều hạn chế. Báo chí suốt ngày đả kích Mỹ, Ủy ban Việt Minh địa phương ra tuyên bố không thừa nhận cơ quan Lãnh sự quan Mỹ tại Hà Nội. Hồ cũng đổ thêm dầu vào lửa bằng những bài viết châm biếm ký tên C.B. Cuối cùng tòa lãnh sự quán Mỹ cũng phải đóng cửa vào cuối năm, sau khi tổ chức lễ Tạ ơn lần cuối cho 1 nhóm nhỏ các nhà ngoai giao phương Tây và thành viên của Ủy ban giám sát quốc tế. 


 Ngày 3/11, Hồ triệu tập phiên họp đầu tiên của Chính phủ với những vấn đề nghị sự vô cùng cấp bách. VNDCCH sẽ nhanh chóng cải cách phong kiến và xây dựng nền móng XHCN hay sẽ tiến hành từ từ, tập trung cho việc phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân, vừa đc lòng dân nghèo lại không làm phật ý tầng lớp Tư sản??? Chính phủ cũng sẽ làm như thế nào để hiệp định Geneva được thực thi , nước nhà đc thống nhất.

Để trả lời câu hỏi đầu tiên, Việt nam có thể hoc hỏi các đồng chí của mình. Ngay sau cuộc nội chiến ở Nga, Lenin đã thực thi chính sách kinh tế mới, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, cho đến tân 1928, khi Stalin bắt đầu công cuộc công nghiệp hóa của mình. Tại Trung quốc, sau khi giành chính quyền, Đảng cũng áp dụng chính sách "dân chủ mới", tìm kiếm sự ủng hộ của tầng lớp trung gian, chuẩn bị cho cuộc cải cách xa hội chủ nghĩa vào giữa những năm 1950. Vài ngày trc khi hiệp định Geneva đc ký kết, tại Việt bắc, chính phủ cũng đã công bố nghị định 8 điểm cho thời hậu chiến. Nghị định này nói rõ, chính phủ chỉ quốc hữu hóa những tài sản của bọn thực dân, bán nước và tôn trọng sở hữu cá nhân của tất cả các thành phần khác. Những nhân viên của chế độ cũ sẽ được tiếp tục công việc của mình, trừ những kẻ trực tiếp dùng vũ khí chống lại kháng chiến hoặc có hành động phá hoại. Binh lính thuộc quân đội quốc gia (của Bảo đại) phải ra trình diện. Bảo đảm tự do tín ngưỡng cũng như an ninh của các công dân nước ngoài. Trong lời kêu gọi gửi nhân dân hồi tháng 9, Hồ viết: “ Chúng ta sẵn sàng thống nhất với tất cả những người chấp nhận hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ, bất kể trước đó họ đã hợp tác với ai. Bảo đảm quyền của các nhà tư bản trong nước và ngoại quốc được tiếp tục công việc hợp pháp của mình, và chào đón tất cả những nhân viên của chế độ cũ mong muốn làm việc cho nhân dân”


Đảng cũng có nhiều lý do để hòa giải với kẻ thù cũ. Đã có tổng cộng hơn 800,000 người di cư vào phía Nam. Trong đó có rất nhiều gia đình công giáo đi theo tiếng gọi của Đức mẹ đồng trinh, nghe đồn là cũng đã “chuyển vào Nam”. Số dân di cư này đã giảm đáng kể cho Đảng những tiềm năng chống đối, tuy nhiên cũng làm mất đi một lực lượng lớn các nhà sản xuất, nhà buôn, thợ lành nghề và trí thức của các tỉnh phía Bắc. Một nhà quan sát đánh giá rằng vào tháng 10, cả chính phủ VNDCCH chỉ có 50 người có bằng đại học và khoảng 200 có bằng tú tài. 29/30 nhà máy của Pháp ở Hải phòng bị đóng cửa. Xăng dầu khan hiếm và đường sắt không hoạt động. Đa số các hệ thống thủy lợi đã bị Pháp phá hoại, trên 10% đất canh tác của đồng bằng sông Hồng bị bỏ hoang do chính sách “Vùng được bắn tự do” của quân đội Pháp trước đó. Tháng 12 lại có một trận lụt lớn ở miền Trung đẩy vùng này đến bờ nạn đói. 


Trong vài tháng sau khi cầm quyền, Đảng tập trung củng cố hệ thống hành chính cách mạng. Các ủy ban hành chính kháng chiến tại nông thôn được sửa đổi để tiếp tục công việc của mình (bỏ chữ kháng chiến) cho đến khi tổ chức bầu cử ra hội đồng nhân dân các cấp. Trong cuộc họp đầu tháng 9, Bộ chính trị bắt đầu tính đến chuyện dài hơi sau khi đã củng cố được quyền lực. Ngày 2/9, Hồ Chí Minh tuyên bố VNDCCH là thể chế dân chủ tư sản về hình thức nhưng dân chủ nhân dân trên thực tế.


Một trong những lý do chính để Đảng chưa vội vã xây dựng CNXH tại phía Bắc là mong muốn thống nhất đất nước thông qua bầu cử như quy định trong Tuyên bố chính trị của hiệp định Geneva. Mặc dù các đồng chí phía Nam tỏ ra không thỏa mãn với thắng lợi nửa vời tại hội nghị, họ được thuyết phục là nếu bầu cử tự do, Hồ Chí Minh sẽ dễ dàng thắng Bảo đại, vốn chẳng được nhiều người ưa. Để bảo đảm thắng cử, Đảng phải thể hiện một khuôn mặt ôn hòa, tránh gây phản cảm với các phần tử không cộng sản ở phía Nam và các quan sát viên trên thế giới. Theo một số cán bộ thân cận, Hồ Chí Minh tỏ vẻ lạc quan về khả năng sức ép của dư luận thế giới sẽ buộc miền Nam phải thực thi hiệp định và bầu cử sẽ diễn ra. Nhưng không phải tất cả các đồng chí của Hồ đều nghĩ như vậy. Ngay cả một người ôn hòa như Phạm Văn Đồng, cũng đã thừa nhận riêng tư với một quan sát viên: “anh cũng biết như tôi là sẽ không có bầu cử mà”. Nếu như vậy, Đảng có thể sẽ lại phải quay về với chiến lược đấu tranh cách mạng. Tạm thời Hồ cố gắng dùng tài năng của mình để thuyết phục các đồng chí dành cơ hội để thực thi hiệp định. Theo một số báo cáo, có khoảng từ 50 đến 90 nghìn cán bộ ủng hộ Việt minh (bao gồm cả con cái các nhà cách mạng) tập kết ra Bắc. Khoảng 10.000-15.000 ở lại và tham gia vào các hoạt động công khai, để ủng hộ bầu cử. Một số khác đi vào bí mật, chuẩn bị sẵn cơ sở, bộ máy để nếu cần có thể tái lập lại phong trào. 




Trở ngại lớn nhất đối với kế hoạch của Đảng chính là thái độ của chính phủ Nam Việt Nam. Ngay từ khi hiệp định Geneva còn đang diễn ra, Bảo đại đã chỉ định Ngô Đình Diệm làm thủ tướng chính phủ của mình. Bảo đại hy vọng là thái độ chống cộng điên cuồng của Diệm sẽ làm vừa lòng một số “diều hâu” ở Washington. Diệm đã từng bị Việt minh bắt hồi tháng 8/1945, phải chạy trốn vào sứ quán Canada tại Hà nội. Sau đó ông này sang Mỹ và cố tìm cách lấy lòng chính phủ Eisenhower để quay lại với chính trị. Là kẻ sùng đạo, Diệm đã ở hàng tháng tại một tu viện ở New Jersey và tự lãnh lấy sứ mệnh cứu các đồng bào khỏi sự đe dọa của bọn cộng sản vô thần. Nhiều quan chức Mỹ không thích Diệm vì hay hoang tưởng và thiếu sự nghiêm túc cần thiết cho một lãnh đạo quốc gia. Một nhà quan sát Mỹ (Robert McClintock) còn ví von Diệm như “một thiên sứ thiếu thông điệp”. Không chán nản, Diệm vẫn sấn đến các nhà ngoại giao và những bậc chức sắc trong giáo hội Mỹ, trong số đó có giáo chủ Spellman và cựu đại sứ Mỹ tại London Joseph Kennedy. Mặc dù có tin đồn là chính Mỹ gợi ý Bảo Đại bổ nhiệm Diệm, Washington chẳng biểu hiện thái độ gì về vụ việc này. Tại Sài gòn cũng ít người hào hứng. Các trí thức miền Nam e ngại một vị lãnh đạo Công giáo cuồng tín lại vốn có quan hệ chặt chẽ với triều đình Huế. Diệm cũng không ưa gì dân Nam bộ, nói họ quá dễ dãi để có thể chống được cộng sản. Bởi vậy chính phủ mới gồm đa số thành phần là dân Bắc và Trung.


Từ khi mới được bầu, Diệm đã bày tỏ sự không hài lòng với những điều khoản của hiệp định Geneva. Ngay sau khi hội nghị kết thúc, Diệm công khai tuyên bố không có ý định đàm phán với cộng sản. Cảnh sát Sài gòn bắt đầu truy bắt những phần tử cảm tình với Việt minh, đóng cửa những điểm tuyên truyền cho bầu cử, đàn áp hai giáo phái Cao đài và Hòa hảo, thanh lọc những phần tử trung thành với Bảo đại vì Diệm cho ông này là tay chân của bọn thực dân Pháp. Thái độ hiếu chiến của Diệm làm nhiều quan chức Mỹ lúng túng. Tuy vậy, trên thực tế, Mỹ đã quyết định giữ một Nam Việt nam không cộng sản là quan trọng với những lợi ích an ninh của Mỹ ở khu vực. Mùa thu 1954, tổng thống Eisenhower gửi tướng J. Lawton Collins (có biệt danh là Joe “ánh chớp” nhờ tính quyết đoán từ trong chiến tranh thế giới thứ 2) sang làm cố vấn tổng thống điều phối các hoạt động của Mỹ tại Nam VN. Từ Sài gòn, Collins đã nhiều lần đề xuất thay Diệm bằng một nhân vật ôn hòa hơn để lấy lòng Pháp và người dân. Nhà trắng đã bắt đầu xem xét đề nghị này. Nhưng đến tháng 4/1955, Diệm đã thành công trong việc thanh lọc tất cả các đối thủ, đẩy Washington vào thế phải hết lòng ủng hộ Diệm. Eisenhower nói với Collins, cơ hội thành công của Mỹ tại Nam VN đã từ 10% lên đến 50%. Ngay sau đó, Diệm tuyên bố từ chối đề nghị của Hà nội tiến hành bầu cử.


Một báo cáo của CIA lúc đó đã khẳng định, nếu tiến hành bầu cử thì Việt minh sẽ thắng, không chỉ vì uy tín rộng lớn của Hồ trong dân chúng mà VNDCCH có kỹ thuật vận động chính trị tốt hơn hẳn chính quyền Diệm. Quan điểm quần chúng tại Mỹ cũng bắt đầu cho rằng Việt minh không chỉ là một nhóm yêu nước đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân mà là những đặc vụ cộng sản chính hiệu, nhất là sau khi được xem những thước phim hãi hùng về hàng ngàn người bỏ chạy vào Nam. Tuy nhiên Washington cũng cảm thấy bất tiện khi để Diệm công khai từ chối bầu cử, coi thường hiệp định. Họ đề nghị Diệm cứ đàm phán và đặt ra những điều kiện mà Việt minh chắc chắn sẽ không chấp nhận ví dụ như giám sát bầu cử quốc tế, sau đó đổ lỗi cho Hà nội. Tuy nhiên, được sự hậu thuẫn của một số quan chức Mỹ ở Sài gòn, Diệm đã bỏ ngoài tai những “góp ý” này. Mỹ đâm ra rơi vào thế khó xử, vì chính họ đã tuyên bố tại Geneva rằng: “Bất cứ việc xâm phạm hiệp định nào cũng có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường”. Liệu Mỹ có coi việc cộng sản tràn vào Nam là vi phạm nếu bản thân Diệm đã từ chối tuân thủ hiệp định? Nhưng cuối cùng Mỹ cũng phải nghe theo Diệm, ngoại trưởng Mỹ Dulles tuyên bố trong một cuộc họp báo, rằng mặc dù Mỹ không phản đối bầu cử tuy nhiên tại thời điểm này, các điều kiện là chưa chín muồi. 


 Hà nội hết sức ngạc nhiên trước việc Diệm nhanh chóng củng cố được quyền lực và được Mỹ ủng hộ, vì xưa nay vẫn đánh giá thấp những phần tử dân tộc không cộng sản. Trong cuộc họp Bộ chính trị cuối năm 54, Hồ đã kêu gọi các đồng chí kiên trì, tìm cách hợp tác với Pháp, cô lập Mỹ và tay sai. Hội nghị trung ương tháng 3/1955 công bố sách lược chú trọng xây dựng miền Bắc và giải quyết vấn đề miền Nam thông qua con đường ngoại giao. Tháng 6/1955 Hồ cùng với Trường Chinh đi thăm Bắc kinh và Matxcơva để kêu gọi các đồng minh gây sức ép lên Mỹ và Diệm. Tuy nhiên kết quả chuyến đi không được khả quan lắm. Cả L.Xô và Trung Quốc đều đang tìm cách giảm căng thẳng với Mỹ và không muốn để Việt nam trở thành trở ngại. Để bù lại, cả hai hứa sẽ tăng viện trợ kinh tế ( Trung Quốc viện trợ cho 200 triệu $ còn L.Xô cho 100 triệu $), đồng thời cung cấp ngay lương thực chống lại nạn đói đang đe dọa miền Bắc. Ngày 22/7, trong bài phát biểu về nước, Hồ đã cảm ơn sự giúp đỡ của L.Xô và Trung Quốc, tuy nhiên cũng cảnh báo nhân dân rằng Việt nam sẽ phải dựa vào chính sức mình để thống nhất đất nước. Hội nghị trung ương tháng 8 khẳng định lại chính sách thống nhất đất nước bằng con đường hòa bình với khẩu hiệu “Xây dựng miền Bắc, hướng về miền Nam”.


Quyết định này của Hà nội không giúp được gì mấy cho các đồng chí của mình ở phía Nam. Hè năm đó, Diệm tuyên bố mở chiến dịch “Diệt cộng” nhằm tiêu diệt hoàn toàn những lực lượng còn lại của Việt minh. Hàng ngàn người bị bắt giữ, đưa vào các trại tập trung, chuồng cọp và bị thủ tiêu. Một lão thành là Nguyễn Văn Linh nhớ lại đó là thời ác liệt nhất và họ phải chiến đấu cho sự sống còn của mình. Chính sách hòa hoãn của Hà nội đã làm nhiều cán bộ phía Nam không đồng tình. Một số xin ly khai. Số khác gia nhập các phe phái như Hòa Hảo, Cao Đài cùng chống lại Diệm.


Để tranh thủ sự hỗ trợ của đông đảo dân chúng, tháng 9/1955 Mặt trận Tổ quốc Việt nam được thành lập “liên kết tất cả mọi người Việt nam, không phân biệt tôn giáo, đảng phái,... thành tâm ủng hộ độc lập và thống nhất đất nước”. Trong lĩnh vực kinh tế, Đảng theo đuổi chính sách “kinh tế mới” chấp nhận kinh tế tư nhân và các “chuyên gia tư sản”, với mục tiêu trong một năm khôi phục kinh tế trở lại mức năm 1939. Nhà nước có can thiệp vào chính sách giá cả và phân phối hàng tiêu dùng chỉ với mục đích chống lạm phát và đầu cơ. Đường lối ôn hòa này không được các phần tử cấp tiến do Trung quốc đứng đằng sau ủng hộ. Một vũ khí của hội này là tìm cách đưa cuộc đấu tranh giai cấp vào nông thôn dưới danh nghĩa cải cách ruộng đất. Trong chiến tranh với Pháp, Hồ đã luôn chống lại những biện pháp cực đoan, tuy nhiên cuối năm 1953, dưới sức ép của Trung Quốc, ông đã phải nhân nhượng để có thể động viên được dân nghèo cho chiến dịch Điện biên phủ. Bây giờ chiến tranh đã kết thúc, Đảng quyết tâm hoàn tất chương trình, chuẩn bị cho việc tập thể hóa tất cả ruộng đất ở nông thôn. Tháng 9/1954, Hồ tuyên bố chính sách “người cày có ruộng”. Tuy nhiên, ông cũng thổ lộ với một số cộng sự tin cậy là bản thân ông không thấy “cấp bách”, chẳng qua là muốn làm vừa lòng Bắc kinh và các đồng chí quá khích như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt. Đảng muốn áp dụng mô hình tương tự như Mao đã làm tại Trung Quốc với các tòa án lưu động, xử những phần tử có “nợ máu” với dân. Từ năm 1952, Lê Đức Thọ đã phát biểu: “muốn nông dân đứng lên, phải khơi dậy lòng căm thù và giải quyết những quyền lợi thực tế của họ” 


 Chiến dịch bắt đầu từ mùa hè 1954, trong khoảng 50 xã ở Thái nguyên do Hoàng Quốc Việt trực tiếp lãnh đạo. Mặc dù diễn ra tương đối ôn hòa và chỉ có vài trường hợp bạo lực, một cơn sốc đã lan khắp nước, đe dọa chính sách hòa hợp của Hồ Chí Minh công bố mùa thu 1954. Những đợt sóng cải cách liên tiếp diễn ra vào mùa đông và mùa xuân năm 1955. Mặc dù xã luận báo Nhân dân trong tháng hai đã cảnh cáo về bệnh “tả khuynh”, rất nhiều các đội viên cải cách được chuyên gia Trung quốc tập huấn và gửi về nông thôn 3 cùng với nông dân. Các đội viên thường kích động dân làng phê phán những phần tử bóc lột. Rất nhiều người bị kết tội “chống lại nhân dân” và bị thủ tiêu.Trong một số trường hợp, dân làng đã lợi dụng để trả thù riêng. Hàng ngàn người đã từng hỗ trợ Việt minh, giờ bị quy là phản bội và xử lý. Các cán bộ “nòng cốt” tấn công những cựu binh vừa hoàn thành nhiệm vụ về quê. Kể cả những người có mối quan hệ cấp cao cũng không thoát. Có trường hợp, đích thân Hồ Chí Minh đã can thiệp với địa phương mà gia đình cán bộ vẫn bị dân làng cô lập, đánh đập, mất hết cả nhà cửa đất đai, phải dựng một túp lều ngoài rìa làng, cầm cự qua ngày. Một người cháu của ông này tên là Dương Vân Mai Elliot đã kể lại: "Mỗi khi bác tôi ra ngoài là bị trẻ con xúm vào ném đá, người lớn thì chửi rủa. Bác tôi cứ phải cúi đầu nhẫn nhục: “Con lạy các ông các bà tha cho...”. Địa chủ trở thành chỗ cho dân nghèo trút cơn giận dữ vì cuộc sống khó khăn của họ. Một số thì muốn lấy lòng các đội viên cải cách đang nắm quyền, số khác thì chẳng qua vì ghen tức với tài sản của địa chủ”


Tất nhiên một phần bạo lực có nguồn gốc bột phát từ hận thù giai cấp và cá nhân đã được tích lũy bao đời nay trên những cánh đồng lúa. Hậu quả của những hành động này nhiều khi rất bi thảm, nhưng có thể nhìn nhận như những sản phẩm phụ không thể tránh khỏi của bất cứ cuộc cách mạng nào. Nhưng cũng có nhiều bằng chứng cho thấy các lãnh đạo Đảng đã trực tiếp cổ vũ cho bạo lực. Trường Chinh, một người thân Mao, đã công khai quan điểm ủng hộ “cuộc chiến tranh giai cấp tại nông thôn”. Cùng ban lãnh đạo cải cách, ngoài Hoàng Quốc Việt, thứ trưởng bộ nông nghiệp Hồ Việt Thắng còn có Lê Văn Lương, trưởng ban bí thư. Lương thường xuyên kêu gọi nhân dịp này làm trong sạch Đảng. Cũng chính các vị này đã đặt ra chỉ số 5% dân số tại mỗi làng là kẻ thù giai cấp, bất chấp trên thực tế tại nhiều làng quê, ngay cả những người được coi là khá giả nhất cũng chỉ tạm sống được.


Hồ Chí Minh có thể đã bị bất ngờ về mức độ bạo lực của cuộc cải cách ruộng đất. Mặc dù trên thực tế có vẻ như ông chia sẻ quan điểm phải tiến hành đấu tranh giai cấp tại nông thôn. Trên hội nghị cán bộ ở Thái nguyên vào cuối năm 1954, ông đã tuyên bố:

Cần phải củng cố lại bộ máy tại làng xã: ủy ban hành chính, dân quân, hội nông dân, thanh niên, phụ nữ... Nếu còn những phần tử xấu trong các tổ chức đó, sẽ rất khó tiến hành cải cách như giảm thuế nông nghiệp. Phải có những biện pháp thích hợp với các phần tử này. Nếu giáo dục được, hãy giáo dục. Nếu cần cũng phải khai trừ, cách ly. Đó là nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay.

Tuy nhiên Hồ chống lại việc sử dụng cách đối xử không chọn lọc và phản đối các biện pháp bạo lực:" Không thể nói cả một nhóm người hoặc đều tốt hoặc đều xấu. Ơ đâu cũng có người tốt, người xấu và phải dựa vào dân để xác định... . Một số đồng chí vẫn sai lầm ưa thích dùng tra tấn, biện pháp mà bọn thực dân, đế quốc đã làm. Chúng ta có chính nghĩa, tại sao phải làm như vậy? "


Quan điểm của H không được hưởng ứng rộng rãi. Ngay tại Thái nguyên, một địa chủ đã từng che dấu Hoàng Quốc Việt và Trường Chinh trong kháng chiến, đã bị xử tội chết. Khi dân làng kéo đến phản đối, họ liền bị quy là tay sai của kẻ thù. Mãi đến khi Hồ biết chuyện, rỉ tai Chinh, ông này mới được giảm tội chết. Nhưng đấy là trường hợp hiếm.

Đến cuối năm 1956, đã có hàng ngàn người bị thủ tiêu và vô khối những người khác bị đánh đập, giam cầm, làm nhục. Chắc chắn là Hồ biết về bạo lực tràn lan, nhưng bất lực vì sợ làm mất lòng Mao và các cán bộ Trung quốc lúc đó đang ỏ Việt nam. 


Tháng 3/1955, hội nghị trung ương họp tại Hà nội với chủ đề chính là cải cách ruộng đất. Mặc dù Hồ và các đồng chí đã được báo cáo về tình trạng bạo lực, tại thời điểm đó, việc Mỹ thành lập khối SEATO, rồi thả các toán biệt kích ra quấy rối ở miền Bắc đang làm nhức đầu lãnh đạo và càng làm cho họ tin rằng cách mạng ở nông thôn là cần thiết. Hội nghị đã kêu gọi phải tiến hành cải cách một cách thận trọng, nhưng cũng đã ra tuyên bố là “hữu khuynh” (coi nhẹ việc cải cách XHCN, tập trung thống nhất đất nước) là nguy hiểm hơn “tả khuynh”. Hồ tỏ ra không hài lòng với sự chuẩn bị không cẩn thận của hội nghị và kêu gọi các đồng chí phải đoàn kết. Những làn sóng cải cách liên tiếp diễn ra sau đó. Hơn 20 ngàn cán bộ được gửi thêm về nông thôn. Đến giữa mùa hè thì việc Diệm sẽ không tham gia bầu cử đã trở nên quá rõ ràng, xóa bỏ mọi cố gắng thuyết phục hoãn cải cách cho đến khi nước nhà được thống nhất. Tháng 8, báo Nhân dân đăng xã luận đả kích quan điểm “của một số đồng chí cho rằng cần tập trung nỗ lực thống nhất đất nước và việc củng cố quyền lực ở miền Bắc là mâu thuẫn với cuộc đấu tranh thống nhất”. Tại hội nghị toàn thể lần thứ 8, ủy ban Trung ương kêu gọi đẩy mạnh cải cách ruộng đất như một công cụ để tiêu diệt các phần tử phản cách mạng ở nông thôn. Giữa đỉnh cao của cuộc cải cách vào cuối năm, Hồ vẫn tìm cách “giảm nhiệt”, trong cuộc gặp mặt các cán bộ cải cách tại Hà Bắc ngày 17/12, Hồ đã ví Cải cách ruộng đất (CCRĐ) như một bát súp nóng, chỉ có thể ngon nếu húp từ từ. Tuy nhiên những cố gắng của Hồ lọt thỏm trong khí thế sôi sục lúc đó. UB đoàn kết nông dân gửi thư, liên kết trực tiếp những người có đất với những hành động phản cách mạng tại nông thôn. Ngày 14/12, UBTƯ đã gọi CCRĐ là “trận Điện biên phủ chống lại bọn phong kiến ở miền Bắc”.


Đến đầu xuân năm 1956 thì đã có rất nhiều quan chức đảng và chính phủ tại Hà nội có người thân và gia đình bị ảnh hưởng tại quê. Trên báo chí lác đác xuất hiện những bài bào phê phán. Thư ký riêng của Hồ, ông Vũ Đình Huỳnh (người mà Trường Chinh luôn nghi ngờ và gọi là tay chân của bọn phản động) đã dũng cảm nhắc: “Máu của các đồng chí ta đang đổ, lẽ nào Bác lại ngồi yên?” Hồ lại kêu gọi các đồng chí của mình thận trọng khi phân loại các địa chủ và gán cho họ mác phản cách mạng. Tháng 4, khi thăm một xóm chài, Hồ nhấn mạnh không phải chủ thuyền nào cũng bóc lột và gian xảo. Con thuyền không những chỉ cần những tay chèo mà còn cần cả những người cầm lái. Giữa tháng 5, báo Nhân dân phê phán việc đối xử bất công với con em các địa chủ. Vài tuần sau, một bài báo khác chỉ trích một số cán bộ đã “thổi phồng nguy cơ về kẻ thù, quy kết vội vã từ một vài hiện tượng riêng biệt”.


Gió có vẻ đã đổi chiều. Ngoài lý do có quá nhiều quan chức Việt minh không hài lòng vì trở thành nạn nhân, có một sự kiện xảy ra cách Hà nội hàng chục ngàn dặm đã ảnh hưởng đến cuộc CCRĐ. Tháng 2/1956, tại đại hội 20, đảng CS L.Xô, Nikita Khrutsop bất ngờ lên án mạnh mẽ lãnh tụ cũ là Stalin. Khrutsop kết tội Stalin tạo nên sự “sùng bái cá nhân”, mâu thuẫn với những quan điểm dân chủ của Lê nin, và đàn áp dã man các đồng chí trong đảng không có cùng quan điểm. Thêm vào đó, ông này đã có một loạt những quyết định đối ngoại sai lầm trong Chiến tranh thế giới thứ Hai dẫn đến những hậu quả nặng nề. Khrutsop kêu gọi các đại biểu “tự kiểm điểm” để không bao giờ lặp lại những sai lầm đó. Bài phát biểu của Khrutsop làm Bắc kinh cảnh giác vì sợ liên lụy đến Mao và uy tín của Đảng. Hà nội không có phản ứng gì cụ thể. Trường Chinh và Lê Đức Thọ dự đại hội cũng không có bình luận gì. Báo Nhân dân kêu gọi “ Nghiên cứu kỹ chủ nghĩa Mác-Lenin và áp dụng một cách sáng tạo vào điều kiện Việt nam”. Một số lãnh đạo Đảng, không hài lòng với sự tràn ngập hình ảnh của “Bác Hồ” trong công chúng, đương nhiên cảm thấy khoái trá thầm vì những phê phán sùng bái cá nhân tại Liên xô. Trường Chinh đã viết “ Chủ nghĩa xã hội và sự ca tụng cá nhân khác nhau như nước với lửa”. Những sự kiện diễn ra ở Liên xô chắc chắn đã có ảnh hưởng tới Việt nam.  



Tại hội nghị mở rộng của Ban Chấp hành TW tháng 4, Đảng đã thừa nhận chưa có được sự dũng cảm thừa nhận khuyết điểm và tinh thần tự phê bình như đảng CS L.Xô. Phát biểu tại hội nghị, Hồ cho rằng những ảnh hưởng của thực dân và phong kiến trong các tổ chức đảng, có thể được khắc phục thông qua phê và tự phê. Hồ cũng nhắc đến tệ sùng bái cá nhân, tuy chưa gây ảnh hưởng nghiêm trọng nhưng cản trở sự nhiệt tình và hết mình của các đảng viên khác. Hồ kêu gọi tinh thần lãnh đạo tập thể tại tất cả các cấp của Đảng. Rõ ràng là bài phát biểu của Khrutsop đã giúp Hồ một công cụ thuyết phục các đồng chí mình đánh giá lại sách lược CCRĐ. Ngay sau hội nghị, nhiều cuộc họp tiếp theo được tổ chức khắp nơi để thảo luận các nghị quyết. Một số cá nhân bị bắt giam vì tội phản cách mạng được thả. Ngày 1/7, Hồ gửi thư cho hội nghị cán bộ cải cách ruộng đất nêu rõ, cuộc cải cách đã cơ bản thành công nhưng những sai lầm nặng nề đã hạn chế kết quả của nó.

Nhiều người trực tiếp tham gia chưa hoàn toàn nhất trí về độ nghiêm trọng của vấn đề. Trong một bài báo, Lê Văn Lương thừa nhận là có những sai lầm nhưng cho đó là cần thiết vì nhiều nơi chính quyền thực chất đã bị các phần tử cách mạng chiếm giữ. Ngày 17/8, Hồ tuyên bố: “ Lãnh đạo cao cấp của đảng và Nhà nước đã có những sai lầm nghiêm trọng dẫn đến sự thất bại của CCRĐ trong việc tạo nên khối đoàn kết tại nông thôn”. Đây cũng là chủ đề chính của hội nghị TƯ 10, tháng 9/1956. Tuyên bố của hội nghị nghiêm khắc một cách khác thường Giai đoạn vừa qua có nhiều sai lầm và khuyết điểm. Đặc biệt là trong cuộc cải cách nông nghiệp và điều chỉnh tổ chức. Hội nghị TƯ lần thứ 10 đã phân tích chi tiết các khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân và thống nhất những biện pháp khắc phục. Hội nghị thừa nhận
nguyên nhân của những khuyết điểm là sự yếu kém của bộ máy lãnh đạo. Vì thế Ban chấp hành TƯ nhận khuyết điểm của mình. Các ủy viên tham gia trực tiếp đã kiểm điểm trước TƯ theo tinh thần tự phê, và chấp nhận những hình thức kỷ luật nghiêm khắc. Ban chấp hành TƯ đã cho thôi chức một loạt những nhân vật quan trọng trong đó có 4 thành viên chủ chốt của CCRĐ. Trường Chinh thôi giữ chức Tổng bí thư, Hồ Việt Thắng ra khỏi Ban chấp hành, Lê Văn Lương bị loại khỏi bộ chính trị và ban bí thư, Hoàng Quốc Việt cũng bị cách chức ủy viên Bộ chính trị. Vài ngày sau, Hội đồng bộ trưởng ra quyết định hủy các tòa án nhân dân tại mức xã, chuyển các ủy ban cải cách sang nhiệm vụ cố vấn, không có quyền thực thi. Những ai bị xử oan được ân xá, tài sản tịch thu một cách bất hợp pháp được trả lại.


Việc Tổng bí thư bị cách chức là một sự kiện vô tiền khoáng hậu với một đảng luôn tìm cách xoa dịu những cuộc đấu đá phe phái vốn rất đặc trưng cho đảng CS L.Xô và Trung Quốc. Các đồng chí của Chinh vội vàng tìm người thay. Ứng cử viên số 1 hiển nhiên là Võ Nguyên Giáp, vốn đứng thứ 3 trong nấc thang quyền lực (sau Hồ và Chinh), lại đang rất nổi bật sau chiến thắng Điện biên phủ. Tuy nhiên cũng có lẽ vì Giáp quá nổi tiếng nên một số đồng chí tỏ ra e ngại, vả lại đảng cũng không ưa việc tập trung quyền lực đảng với quyền lực quân đội. Bởi thế Hồ tạm thời giữ chức Tổng bí thư.

 Hồ Chí Minh không trực tiếp tham gia thiết kế và triển khai chương trình CCRĐ, tuy nhiên cũng khó có thể nói là hoàn toàn vô can. Chính Hồ đã phê duyệt sự ra đời của chương trình và đã tuyên bố là cuộc cải cách đã “thành công” mặc cho những sai lầm rành rành. Trong những lúc nói chuyện thân mật với các đồng chí của mình, Hồ cũng đã thừa nhận: “Bác đã thiếu dân chủ, không nghe, không thấy. Bởi thế tất cả chúng ta phải tiến hành dân chủ. Bác thừa nhận khuyết điểm trong vụ này. Từ nay tất cả các lãnh đạo trung ương phải nghe, quan sát, suy nghĩ và hành động. Bài học này phải trở thành nguồn cổ vũ mới cho chúng ta”


Đối với Chinh, vụ việc là một thất bại nặng nề. Hơi xa lạ, ông này không được các đồng chí yêu quý không phải vì sự tàn bạo mà vì sự lạnh lùng và hơi thiếu tình người. Khi thực hiện chương trình theo gợi ý của các chuyên gia Trung Quốc, Chinh không hề nghi ngờ sự đúng đắn của nó, theo các tiêu chuẩn về ý thức hệ của mình. Chinh đủ kiêu ngạo để không bao giờ tỏ ra thất bại trước công chúng, cũng không bao giờ nhắc đến chuyện này khi nói chuyện với các đồng chí. Chinh cũng sẵn sàng bảo vệ những quan điểm của mình. Vài tuần sau hội nghị 10, Chinh còn tuyên bố, mặc dù có những sai lầm, CCRĐ là một cuộc cách mạng và “chuyển giao quyền sử dụng đất một cách hòa bình chỉ có thể là ảo tưởng” Đảng đã phản ứng quá chậm để tránh được một cuộc bạo động đầu tiên của dân chúng kể từ khi chiến tranh kết thúc. Đáng buồn hơn nữa là vụ việc lại xảy ra tại Quỳnh Lưu, cách quê của Hồ không bao xa. Đa số dân ở đây theo Thiên chúa và ủng hộ Việt minh chống Pháp, tuy nhiên quan hệ với chính quyền chưa bao giờ được coi là hoàn toàn tin cậy.

Sau đình chiến, khoảng 600,000 tín đồ Thiên chúa giáo đã chạy vào Nam nhưng cũng còn khoảng 900,000 ở lại. Chính quyền cố gắng thuyết phục số này tin là họ sẽ không bị đối xử tàn tệ. Ủy ban công giáo yêu nước và yêu hòa bình được thành lập. Hồ cũng thường xuyên tìm cơ hội phát biểu trước công chúng về quan điểm của chính phủ với tôn giáo. Các giám mục mới được bổ nhiệm, các trường dòng mở cửa trở lại và 6/1955 chính phủ chính thức công nhận quyền lực của Vatican mặc dù vẫn cấm các hoạt động tuyên truyền chống phá chính phủ. Tuy nhiên, CCRĐ đã phá hỏng tất cả. Các cán bộ cải cách với cái nhìn đầy nghi ngờ, thường quy cho các tín đồ công giáo là phản động. Trên thực tế, những người này cũng là những người có uy tín ở địa phương và hay phát biểu chống lại cải cách. Bản thân Nhà thờ, sở hữu khoảng 1.3% đất canh tác, cũng chẳng ưa gì cải cách. Vấn đề ở Quỳnh Lưu âm ỉ từ năm 1955 khi nhiều dân làng cho rằng chính quyền tìm cách ngăn cản họ vào Nam. Đến hè 1956 thì bùng lên do những cáo buộc về phân biệt tôn giáo và đàn áp trong CCRĐ. Tháng 11, phái đoàn của UB Kiểm tra Quốc tế đến thanh sát, bạo lực đã nổ ra khi đám đông dân làng xô xát với cảnh sát địa phương để đưa bản tố cáo cho ủy ban. Ngày 13/11, hàng ngàn người trang bị vũ khí thô sơ tràn vào thị trấn của Quỳnh lưu. Quân đội đã ra tay làm vài người thiệt mạng. Hôm sau, một sư đoàn quân chính quy được phái đến chiếm đóng toàn bộ khu vực, bắt giữ một số chủ mưu. Khi đoàn thanh tra của chính phủ đến, đa số những người này được thả và trả lại tài sản. Tuy nhiên quan điểm của Đảng chưa phải đã thống nhất, Trường Chinh, lúc đó là chủ tịch ủy ban CCRĐ, khi báo cáo về vụ việc đã cho rằng, “một số phần tử” nguy hiểm đã được tha một cách vô lý, Chinh còn kêu gọi tìm mọi cách để “bọn địa chủ” không thể trở lại thống trị nông thôn.


Sự kiện Quỳnh Lưu, tuy có hơi hướng tôn giáo, và không phải là phổ biến trong CCRĐ đã là dấu hiệu rõ ràng cho thấy CCRĐ đã chia rẽ sâu sắc nội bộ lãnh đạo Đảng, làm giảm nghiêm trọng sự tin tưởng của nhân dân miền Bắc vào tính chất của Đảng. Vào cuối tháng 10/1956, Giáp đã phát biểu thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng, trước đám đông thân quyến của những gia đình bị hại, tụ tập trước cửa trụ sở ủy ban TƯ. Theo Giáp, Đảng đã thổi phồng số lượng địa chủ, đánh đồng tất cả họ là phản cách mạng vì thế đã phá vỡ khối đoàn kết dân tộc. Đảng cũng đã vi phạm những nguyên tắc tự do tôn giáo, và không đánh giá xứng đáng sự đóng góp của nhiều cựu chiến binh khi trở về làng. Hồ giữ im lặng cho đến khi phát biểu trước cuộc họp quốc hội tháng 2/1957. Mặc dù xác nhận những sai lầm, Hồ vẫn bảo vệ mục đích của chương trình nhằm giải phóng nông dân khỏi nghèo đói và sự bóc lột của địa chủ. Hồ đã khóc khi nhắc đến những người phải chịu nhiều đau khổ trong chương trình. 



 Hồ không phải không có lý. Khoảng hơn 2 triệu mẫu ruộng đã được chia cho khoảng 2 triệu gia đình nông dân nghèo, bằng một nửa lao động tại nông thôn thời đó. Tại các làng xã, sự thống trị đời đời của giai cấp địa chủ bị phá vỡ, nhường chỗ cho một chính quyền mới của người nghèo và trung nông. Nhưng cái giá phải trả cũng rất đắt. Theo những thống kê ưu ái nhất, cũng phải có đến 3000-5000 người bị xử bắn, thường là ngay sau khi bị tòa án xã kết tội. Khoảng 12.000-15.000 bị tống giam oan ức, và không biết bao nhiêu người nữa bị đàn áp, xua đuổi vì có quan hệ với nạn nhân. Tổ chức đảng tại địa phương cũng chịu tổn thất nặng nề. Một nghiên cứu vào năm 1980 cho rằng, hơn 30% số chi bộ tại địa phương đã phải giải tán vì mất người. Tại Bắc ninh, chỉ còn 21 bí thư chi bộ trong số 76 xã còn tại vị khi cơn bão cải cách lắng xuống.


Tại thành thị cũng cảm nhận rõ ràng hậu quả xã hội của CCRĐ đối với các thành phần trí thức, những người đã hết lòng ủng hộ chương trình của Việt minh gắn chặt độc lập dân tộc với những cải cách ôn hòa. Uy tín của Đảng đối với những phần tử này thực chất đã bắt đầu giảm sút từ những năm 1951, khi Trung Quốc khuyến khích phong trào chỉnh huấn. Nhhiều người trong số họ cảm thấy bị sỉ nhục khi bị bắt buộc dung hòa tinh thần yêu nước với những tiêu chuẩn đạo đức cách mạng của Mao. Một số đã rời bỏ hàng ngũ, số khác thì tìm cách biện minh rằng cuộc kháng chiến gian khổ đòi hỏi sự hy sinh của cá nhân. Nhà văn Phan Khôi đã nhận xét, vị ngọt của tinh thần yêu nước, như đường trong cafe, đã pha nhạt vị đắng của lãnh đạo Đảng và cứu rỗi nhân cách của người trí thức.


Sau hiệp định Geneva, những ngụy biện như vậy bắt đầu bị lung lay, khi vấn đề độc lập dân tộc bị lấn lướt bởi nhu cầu xác định vai trò của Đảng. Câu chuyện về nhà văn trẻ Trần Dần có thể nói rất đặc trưng cho nhiều trí thức trong giai đoạn đó. Là cựu binh tại Điện biên phủ, Dần đã viết một truyện ngắn về chiến trường theo phong cách thời thượng lúc đó là hiện thực xã hội chủ nghĩa. Hòa bình lập lại, Dần được cử sang Trung Quốc tu nghiệp và viết kịch bản phim dựa trên truyện của mình. Tại đây Dần gặp Hồ Phong, một nhà văn luôn kêu gọi tự do sáng tác. Trở về nước, Dần viết lại câu chuyện của mình, thay thế việc miêu tả chủ nghĩa anh hùng và tinh thần hy sinh bằng một câu chuyện thực hơn về những gian khổ của người lính trong cuộc chiến tranh ác liệt. Mùa đông 1954-1955, Dần và một số đồng nghiệp cùng chí hướng trong ban tuyên huấn quân đội soạn thảo một bức thư dự kiến gửi Ban chấp hành TƯ có tiêu đề: “Những đề xuất về văn hóa chính trị”, kêu gọi tự do hơn cho các nghệ sĩ khi phản ánh sự thật về cuộc chiến đã qua. Đầu tiên có vẻ như bức thư được sự tán đồng của một số quan chức chính trị. Sau đó, các chiến sĩ tư tưởng cảm thấy có vấn đề không ổn và ra tayhành động. Lãnh đạo cuộc chiến làm trong sạch hóa tư tưởng là Tố Hữu, người rất nổi tiếng vì những bài thơ phổ biến thời trước cách mạng và trong kháng chiến, bây giờ được giao trách nhiệm canh gác tâm hồn cho Đảng.


Từ năm 1949, như nhà cổ súy cho “nghệ thuật vị nhân sinh”, Tố Hữu đã kêu gọi loại bỏ những ảnh hưởng phản động của phong kiến và tư bản trong nền văn hóa cách mạng Việt nam non trẻ. Ngoài việc bị kết tội đòi thoát khỏi sự kiểm soát về tư tưởng của Đảng, Dần còn bị cáo buộc là có “cách sống tư sản” và bị tống giam trong thành. Trong tù, Dần viết: “Tôi chẳng thấy gì, ngoài mưa rơi trên cờ đỏ”. Nhưng những men thay đổi từ bức thư của Dần, với việc bạo lực của CCRĐ gây bất mãn nặng nề, cộng thêm ảnh hưởng của bài phát biểu của Khrutxop đã kích động các trí thức khác. Mùa xuân năm 1956, tạp chí Giai phẩm ra đời, có một số bài phê phán đường lối của chính phủ. Tuy có ý kiến phản đối, nhưng Giai phẩm vẫn ra được những số tiếp theo trong mùa hè, khuyến khích sự ra đời của tạp chí nữa có tên là Nhân văn. Các nhà văn Việt nam được tiếp sức bởi phong trào Trăm hoa đua nở tuy ngắn ngủi nhưng đã kêu gọi toàn dân góp ý cho Đảng CS Trung Quốc. Hoàng Cầm đã viết một bài tố cáo chính quyền đàn áp Trần Dần và bảo vệ những quan điểm của Dần. Nhiều bài khác nói về những đau khổ của nhân dân trong cải cách ruộng đất cũng như đả kích chính quyền quan liêu. Các phần tử tả khuynh nghe ngóng tình hình, chưa vội hành động ngay. Thậm chí hội nghị TƯ lần thứ 10 hồi tháng 9 còn kêu gọi mở rộng quyền tự do dân chủ. Tháng 12, chủ tịch nước ra sắc lệnh xác nhận quyền tự do (tuy còn hạn chế) của báo chí. 


Những sự kiện ở Quỳnh lưu đã đánh động Đảng. Trường Chinh đăng đàn diễn thuyết về văn hóa mới của Việt nam mang nội dung xã hội chủ nghĩa trong hình thức dân tộc. Mặc dù chẳng ai hiểu Chinh nói thế nghĩa là gì. Khi một trí thức kêu ca vì không được tự do ngôn luận, Chinh đã “ngạc nhiên” trả lời:“ Thế à, nhưng các anh chẳng được thoải mái phê phán chủ nghĩa đế quốc sao?” Cuối tháng 12, cả Nhân văn lẫn Giai phẩm đều bị đóng cửa. Một số trí thức được đưa đi học lại về Max-Lenin. Lão thành Phan Khôi bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn, tống giam và chết trong tù trước khi bị xét xử. Trần Dần bị khai trừ khỏi Đảng, mặc dù Dần vẫn trung thành với những tư tưởng không tưởng của mình, Dần tuyên bố mình là “người cộng sản không đảng”.


Không dễ dàng đánh giá vai trò của Hồ trong cả hai vụ CCRĐ và đàn áp trí thức. Những người ủng hộ cho rằng Hồ không trực tiếp tham gia và thường xuyên nhắc nhở các đồng chí của mình không nóng vội và phải biết phân biệt đâu là những phần tử phản cách mạng đích thực. Phe đả kích thì cho rằng, dù không trực tiếp cầm dao thì ít ra Hồ cũng đã tạo điều kiện cho những đao phủ. Thêm nữa, khi sự việc đã xảy ra, Hồ đã không dùng uy tín tuyệt đối của mình để hạn chế hậu quả của nó. Rõ ràng là mặc dù cá nhân không ưa dùng những biện pháp bạo lực đối với đối thủ, Hồ sẵn sàng chấp nhận (theo thời gian) để các trợ thủ của mình hành động vì những lợi ích lớn hơn của sự nghiệp. Trong một số trường hợp, do Hồ quen biết cá nhân với rất nhiều nhà trí thức, Hồ có can thiệp nhưng thường là không có kết quả. Người trong gia đình của một nạn nhân đã trực tiếp nói với tác giả (W. Duiker) rằng, Hồ đã cố gắng thay đổi chế độ đối xử trong tù của vị trí thức đó. Có thể nói Hồ trở thành tù binh của chính hệ thống do mình dựng nên, một con ruồi ở trong chai, không có khả năng thoát khỏi logic nghiệt ngã của hệ thống sẵn sàng “hy sinh” cá nhân cho “những mục đích cao cả” của kế hoạch lớn.


Mặc dù Hà nội chỉ quan tâm nhiều đến bài phát biểu chống Stalin của Khrutxop, đại hội 20 Đảng CS L.Xô còn có những nghị quyết quan trọng về chiến lược “chung sống hòa bình”. Kh cho rằng đó là cách duy nhất để tránh một cuộc chiến tranh hạt nhân có thể làm thiệt mạng hàng triệu người ở hai bên chiến tuyến tư tưởng. Vì vậy Moscow có thể sẽ không hứng thú lắm với việc Hà nội tiếp tục cuộc đấu tranh cách mạng để thống nhất đất nước. Tại thời điểm đó, chiến lược này phù hợp với quan điểm của Đảng Lao động Việt Nam cũng là tìm kiếm thống nhất đất nước qua con đường hòa bình. Tuy nhiên tình hình có thể thay đổi. Cuối đông năm 1956, Văn Tiến Dũng được cử vào Nam để thảo luận với Lê Duẩn, bí thư Trung ương cục từ 1951 (thay Nguyễn Bính), bàn cách xây dựng lại các căn cứ cách mạng và liên kết với hai phái chống đối khác.


Khác với đa số các lãnh đạo khác của đảng, vốn xuất thân từ tầng lớp nho giáo, Duẩn là con trai của một thợ mộc ở Quảng trị. Không có học vấn và truyền thống gia đình, dáng vẻ mảnh khảnh, điệu bộ cứng nhắc, nhưng Duẩn lại thừa tự tin. Ông được coi là nhà tổ chức tài và người phát ngôn cho quyền lợi của miền Nam. Trong anh em, nhiều người không thích Duẩn vì ít khi chịu lắng nghe ý kiến người khác. Duẩn là người toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp thống nhất đất nước, nhưng ông cũng rất thực tế và sẵn sàng kỳ công thuyết phục các đồng chí miền Nam cần phải tính đến các điều kiện quốc tế để có được những sách lược khả thi. Duẩn cho rằng các lực lượng vũ trang chưa sẵn sàng để tiến hành chiến tranh như hồi chống Pháp, nhưng cũng rất bi quan về giải pháp hòa bình. Theo ông, những động thái chính trị phải được hỗ trợ bằng các chiến thắng quân sự “ Của một quân đội đã từng thắng trận Điện biên phủ” . Tháng 3/1956, Duẩn trình bày với Dũng kế hoạch chuẩn bị để quay trở lại cuộc đấu tranh vũ trang. Sau khi các vị khách ra về, Trung ương Cục quyết định thành lập 20 tiểu đoàn quân chính quy và các đội du kích địa phương.  


Tháng 4/1956, lần đầu tiên một quan chức cao cấp của Liên xô, phó thủ tướng Mikoan sang thăm Việt nam và được đón tiếp nồng nhiệt. Hai tuần sau khi ông này về nước, Hội nghị TW 9 đã ra nghị quyết ủng hộ những quyết định của Đại hội 20 Đảng CS L.Xô, bao gồm cả chiến lược chung sống hòa bình. Tuy nhiên, không phải tất cả lãnh đạo Đảng Lao Động Việt nam đều chia sẻ quan điểm này. Trường Chinh, khi đó vẫn là Tổng bí thư đã viết:“ Nhiều đồng chí không tin vào cương lĩnh chính trị mới cũng như việc thống nhất đất nước bằng phương pháp hòa bình, cho rằng đó là ảo tưởng và cải lương”.


Không biết có phải Chinh ám chỉ Lê Duẩn không nhưng Hồ cũng có vẻ có chung quan điểm. Mặc dù thường xuyên công khai kêu gọi các đồng chí của mình quan tâm đến giải pháp hòa bình, chưa bao giờ Hồ từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc là quan trong nhất và sẵn sàng sử dụng bạo lực cách mạng nếu cần thiết để thống nhất đất nước. Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị 9, Hồ nêu rõ “tầm quan trọng” của những nghị quyết tại Moscow và sự lớn mạnh của các lực lượng hòa bình thế giới, nhưng kết luận: “Chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc thì còn nguy cơ chiến tranh” . Hội nghị 9 có thể đã tạm thời làm chậm lại đề xuất quân sự hóa của Duẩn, nhưng không thể kết thúc được những tranh luận trong Đảng về sách lược đối với miền Nam. Giữa tháng 7/1956, báo Nhân dân đăng xã luận dài nhận xét nhiều người vẫn còn “ảo tưởng”. Một số thì đơn giản hóa, nghĩ rằng sẽ có bầu cử, bây giờ đâm ra bi quan chán nản. Số khác “e ngại đấu tranh trường kỳ gian khổ” vẫn hy vọng có thể thống nhất bằng con đường hòa bình. Những người thất vọng nhất chính là những cán bộ tập kết. Để xoa dịu số này, Hồ đã gửi một lá thư ngỏ tháng 6/1956 giải thích lý do chưa thể chuyển sang đấu tranh vũ trang. Hồ viết, cuộc đấu tranh sẽ kéo dài và rất gian khổ, chỉ có thể thắng lợi nếu miền Bắc mạnh lên để có thể đảm nhận vai trò hậu phương lớn. “Cuộc đấu tranh của chúng ta là chính nghĩa và sẽ nhất định thắng lợi. Nhưng để xây được một ngôi nhà tốt, cần phải xây một nền móng tốt”.


Quan điểm của Hồ về tập trung xây dựng kinh tế tại miền Bắc có vẻ phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Miền Bắc đang thiếu lương thực và đội ngũ thợ lành nghề một cách trầm trọng. Trung quốc hứa giúp đỡ xây dựng công nghiệp nhẹ, nhưng trước tiên phải kiếm cái ăn đã. Một nhà thơ thời đó đã viết:

Tôi đã đi qua bao làng mạc Kiến An và Hồng Quảng
Nơi biển rút đi chỉ để lại muối trắng
Nơi đã hai năm không có hạt lúa nào mọc lên
Và tay người đỏ vì móc rễ khoai
Tôi đã gặp bao trẻ còi xương
Ăn rễ cây nhiều hơn gạo



Tháng 6/1956, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị “Tình hình và Nhiệm vụ cách mạng miền Nam”. Văn bản này nêu rõ, trên thực tế Nam Việt nam đã trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, bởi thế phải sẵn sàng đấu tranh vũ trang để tự bảo vệ. Tuy nhiên hiện tại, cần tập trung cho đấu tranh chính trị. Là thành viên của bộ chính trị, chắc chắn Duẩn phải tuyên truyền chỉ thị này cho các đồng chí phía Nam. Không lâu sau đó, Duẩn viết tập sách “Con đường cách mạng miền Nam”, trình bày quan điểm riêng của mình. Trên bề mặt có vẻ như Duẩn đồng ý với chính sách hòa bình trong Đảng. Duẩn tuyên bố hiện tại Đảng có hai nhiệm vụ quan trọng: "xây dựng CNXH ở miền Bắc và giải phóng miền Nam". Chiến lược đấu tranh chính trị hiện nay là phù hợp với tình hình thực tế khi cơ sở Đảng tại chỗ còn quá yếu, cũng như phù hợp với tình hình chính trị thế giới. Tuy nhiên Duẩn nêu rõ sự khác nhau căn bản trong các hiểu “đấu tranh chính trị”. Có một số kẻ cố tình hiểu đó là “đấu tranh pháp lý và nghị trường”, trong khi đó nhiệm vụ chủ yếu phải là xây dựng lực lượng quần chúng cả về chính trị và quân sự, chuẩn bị sẵn sàng để dành chính quyền, như kinh nghiệm Cách mạng tháng Tám đã chỉ ra.


Đến cuối năm 56, quan điểm của Trung Quốc và Liên xô bắt đầu chia rẽ. Trung Quốc cảm thấy rất khó chịu khi L.Xô mạnh tay đưa quân vào Hungary và Ba lan, vi phạm nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các đảng anh em. Bắc kinh còn cho rằng, chính bài phát biểu xét lại của Khrutxop đã cổ vũ trực tiếp cho những cuộc nổi dậy đó. Ngày 18/11 Chu Ân Lai đến Hà nội thăm chính thức Việt nam. Chu hứa hẹn sẽ ủng hộ cuộc đấu tranh thống nhất đất nước nhưng khá tù mù trước đòi hỏi của Việt nam về việc gây sức ép để thực hiện hiệp định Geneva. Chu tìm kiếm sự ủng hộ của Vietnam trong cuộc đấu khẩu với L.Xô, phê phán chủ nghĩa “Sô vanh nước lớn” và nhấn mạnh 5 nguyên tắc cùng tồn tại. Quan điểm của Chu được một số lãnh đạo VNDCCH đồng điệu nhưng Hồ đã can thiệp để giữ vững cân bằng. Trong tuyên bố cuối cùng, không có nội dung nào đả kích trực tiếp các chính sách của L.Xô.  



Hội nghị 11 họp ngay trong tháng 12, sau chuyến thăm của Chu Ân Lai. Quan điểm gần đây của Hà nội là “Con đường cách mạng miền Nam” được coi là có ý nghĩa then chốt lúc đó. Bởi thế chắc văn bản này đã gây ra thảo luận sôi nổi tại Hội nghị và Lê Duẩn đã phải vất vả bảo vệ những quan điểm của mình. Tuy nhiên Hội nghị không đưa ra thay đổi đường lối chính thức nào. Xã luận của tạp chí Học tập ra vài ngày sau hội nghị vẫn nhấn mạnh tầm quan trọng của xây dựng miền Bắc. Quan điểm của Hồ trong cuộc tranh luận này không rõ ràng. Tháng giêng 1957, phát biểu trước Quốc hội, Hồ nhắc lại lời kêu gọi tập trung xây dựng để biến miền Bắc thành hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng đất nước tuy gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Mặc dù Hồ không bao giờ ủng hộ khủng bố, Ban chấp hành TƯ đã chấp thuận một chiến dịch trừ gian có chọn lọc. Mặc dù đối tượng của chiến dịch này được coi là bọn quan lại tham nhũng, địa chủ bóc lột hoặc phản bội, cũng có khá nhiều nhân vật có uy tín được lòng dân chúng bị tiêu diệt. Có vẻ Đảng đã cảm thấy nguy hiểm khi chính phủ Sài gòn càng ngày càng củng cố được quyền lực.


Dấu hiệu rõ ràng nhất về một thời đại mới là việc Lê Duẩn được bầu làm quyền Tổng bí thư Ban chấp hành TƯ Đảng. Sau khi Chinh bị hạ bệ, Hồ tạm thời nắm chức này, tuy nhiên Hồ chưa bao giờ quan tâm đến điều hành công việc hàng ngày mà chỉ tập trung vào chính sách đối ngoại cũng như các vấn đề thống nhất đất nước. Có rất nhiều cuộc tranh luận xung quanh lý do Duẩn được thăng chức. Có thể là vì những phẩm chất của Duẩn như tính tổ chức, tận tụy và tầm nhìn chiến lược, nhờ nó mà có khi Duẩn được gọi là “Cụ Hồ miền Nam”. Một số khác coi đó là biểu hiện của việc thừa nhận tầm quan trọng của cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Như một người miền Nam, Duẩn đại diện cho tất cả nhân dân sống phía Nam khu phi quân sự. Có ý kiến nhận xét Duẩn ở xa khó có thể đe dọa ảnh hưởng quyền lực trong bộ chính trị của những người như Hồ và Chinh. Lại có ý kiến Duẩn được ưu tiên hơn Giáp vì đã có vài năm trong nhà tù Pháp, vốn được coi là “trường học lớn” của Đảng, trong khi đó Giáp không những thoát cảnh tù tội mà lại còn xin được học bổng đi học ở Pháp. Vì lý do gì đi chăng nữa thì chắc chắn Duẩn cũng phải được sự ủng hộ của Hồ, người bây giờ đã có thể yên tâm là học trò của mình sẽ toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Sau 12 năm, cuối cùng Hồ quyết định chính thức tiết lộ danh tính mình là Nguyễn Ái Quốc. Tháng 6/1957, Hồ về thăm quê sau hơn 50 năm lưu lạc. 


 Trong lúc các nhà lãnh đạo Hà nội đang cố gắng ngăn cản sự chia cách vĩnh viễn đất nước thì Sài gòn lại làm tất cả để biến điều đó thành sự đã rồi. Đầu năm 1957, Liên xô, không tham khảo ý kiến Hà nội, bất ngờ đưa ra đề xuất kết nạp cả hai miền Việt nam vào Liên Hợp Quốc. VNDCCH phản ứng kịch liệt. Không lâu sau đó, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc bỏ phiếu kết nạp Nam Việt nam. Phạm Văn Đồng viết thư phản đối đến đồng chủ tịch của Hội nghị Genevơ là L.Xô và Anh. Vụ việc được “kính chuyển” sang Hội đồng Bảo an và chưa ngã ngũ thì giữa tháng Năm, chủ tịch Xô viết tối cao,bạn cũ của Lenin là Vorosilop đến thăm Hà nội sau khi dừng chân ở Trung quốc và Indonexia. Có nhiều đồn đại về lý do của chuyến đi này. Hà nội chắc là muốn tìm hiểu quan điểm của L.Xô về việc thống nhất đất nước, còn L.Xô rõ ràng là muốn thuyết phục Hà nội không manh động, đi theo chính sách “thống nhất trong hòa bình”, tránh cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai. Trong tình hình như vậy, dễ hiểu là Voroshilop không được chào đón trọng thể lắm. Một loạt các sự kiện được hủy để tránh lộ sự bất đồng trước công chúng. Để làm yên lòng chủ nhà, L.Xô hứa sẽ tăng viện trợ kinh tế và không ủng hộ Nam Việt nam đơn phương gia nhập Liên Hợp Quốc (tháng 9 cùng năm, L.Xô đã dùng quyền phủ quyết để thực hiện việc này). Báo chí Hà nội tỏ ý hoan nghênh “thái độ đúng mực” này.


Hà nội không thể đánh mất sự hỗ trợ ngoại giao và tài chính của Moscow. Tháng 7, Hồ đi thăm L.Xô. Trên đường, Hồ có ghé vào tư vấn với Mao và được khuyên hãy từ từ trong việc thống nhất. Sau đó Hồ đi thăm một số nước Đông Âu và Bắc Triều. Lúc về, Hồ tuyên bố đã đạt được “quan điểm thống nhất” của khối các nước XHCN. Nhưng tình hình có vẻ không hoàn toàn như vậy. Tháng 11, Hồ lại dẫn đoàn gồm cả Lê Duẩn và Phạm Hùng đi Moscow, lần này là để tham gia Hội nghị các Đảng CS. Việc cả Duẩn và cấp phó là Hùng cùng đi chứng tỏ vấn đề miền Nam được rất coi trọng. Mục tiêu của hội nghị là thống nhất quan điểm tiến lên XHCN bằng con đường hòa bình. Trung Quốc phản đối quan điểm này vì muốn giải quyết vấn đề Đài loan. Trung Quốc sợ L.Xô sẽ phản bội lại lợi ích của cách mạng thế giới dưới chiêu bài “cùng tồn tại hòa bình”, vì thế đích thân Mao dẫn đầu đoàn Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên Mao rời đất nước kể từ năm 1949. Theo Mao, những thành tựu công nghệ của L.Xô chứng tỏ sự ưu việt của CNXH (“gió đông thổi bạt gió tây”) và L.Xô cần phải tích cực hơn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc toàn cầu. Cuối cùng hội nghị đã thỏa hiệp đưa ra tuyên bố: “trong trường hợp giai cấp bóc lột sử dụng bạo lực chống lại nhân dân, cần
phải xem xét con đường không hòa bình. Lenin đã dạy và lịch sử xác nhận, giai cấp thống trị không bao giờ tự nguyện rời bỏ quyền lực của mình”. Các báo cáo của đoàn Italia và Đức cho rằng, chủ yếu là L.Xô và Trung Quốc cãi nhau, các đảng khác không tham gia được gì. Tuy nhiên, câu trích trên quá giống với bài phát biểu của Hồ tại hội nghị TƯ 9, nên có thể giả thiết là Hồ đã đóng vai trò quan trọng trong việc thỏa hiệp giữa hai ông anh lớn. Các nguồn Việt nam khẳng định đoàn Việt nam đã làm rõ với Moscow quan điểm của mình là “bạo lực cách mạng” là phổ biến và chỉ có vài trường hợp cá biệt mới có thể tiến lên CNXH bằng con đường hòa bình. Sau hội nghị, Hồ còn ở lại thêm một thời gian, chắc là để tìm cách hàn gắn sự bất đồng quan điểm cũng như tranh chấp quyền lãnh đạo giữa L.Xô và Trung Quốc bởi điều này sẽ có ảnh hưởng hết sức tiêu cực đến tình hình cách mạng ở Việt nam


 Hội nghị TW mở rộng lần thứ 13 họp vào tháng 12/1957 có hai nhiệm vụ: đánh giá kết quả của Hội nghị Matxcova và thảo luận kế hoạch 3 năm tại miền Bắc. Sau khi nghe Duẩn báo cáo, các lãnh đạo Đảng bày tỏ tin tưởng vào sự đoàn kết của các nước XHCN. Không rõ các nước anh em có đoàn kết thật hay không, nhưng mâu thuẫn trong lãnh đạo Đảng tại Việt nam xung quanh ưu tiên của hai nhiệm vụ thống nhất và xây dựng CNXH là sự thật. Suốt 3 năm qua, Đảng đã duy trì một sự đồng thuận mong manh về việc tạm hoãn những cải cách XHCN để củng cố quyền lực và đợi tình hình thống nhất đất nước trở nên rõ ràng hơn. Giờ đây khi vấn đề thống nhất bị hoãn vô thời hạn, phe Trường Chinh yêu cầu tiến hành ngay các cuộc cách mạng XHCN ở cả nông thôn và thành thị miền Bắc trước cuối thập kỷ. Hội nghị đã thông qua kế hoạch 3 năm nhưng rõ ràng là không phải “hoàn toàn nhất trí”. Vài tuần sau đó, một số lãnh đạo tiến hành chiến dịch giải thích để chấm dứt: “những tư tưởng rắm rối về mối quan hệ gần gũi giữa cuộc cách mạng XHCN ở miền Bắc và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam”. Nguyên nhân chính của các cuộc tranh luận là vai trò mới của Duẩn. So với người tiền nhiệm của mình là Hồ thì Duẩn chỉ như cậu học trò mới lớn. Có thể Chinh quyết tâm thông qua kế hoạch 3 năm để dằn mặt Duẩn. Giáp cũng không thích thú gì vì Duẩn “qua mặt” khi trực tiếp đưa ra sách lược chiến tại tranh miền Nam. Giáp cũng e ngại với khát vọng sôi sục đẩy nhanh chiến tranh ở miền Nam, có thể buộc Quân đội Nhân dân Việt nam (PAVN) phải trực tiếp tham chiến khi chưa được chuẩn bị cẩn thận. Có tin đồn là Duẩn cho đăng xã luận báo Nhân dân đầu tháng 11: “ Một số đồng chí cần phải hiểu rằng Đảng lãnh đạo quân đội một cách toàn diện” chủ yếu là để “nhắn nhủ” Giáp. Không thấy Hồ đóng vai trò gì trong cuộc tranh luận này. Thậm chí Hồ còn không dự Hội nghị, trên đường trở về từ Matxcova, Hồ đã ở lại Bắc kinh nghỉ ngơi và chữa bệnh. Thật đáng ngạc nhiên là Hồ cố tình không dự Hội nghị 13 vào thời điểm dự kiến là sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến VNDCCH. Một số đồn rằng Hồ bị sốc sau những sự kiện vừa qua, thậm chí đã chết ở L.Xô. Số khác cho rằng đó là cách để Hồ buộc các đồng chí phải nghe lời khuyên của mình. Ngay sau khi trở về ngày 24/12, Hồ đã phê duyệt các nghị quyết của Hội nghị, kết thúc giai đoạn phục hồi kinh tế ở miền Bắc để chuyển sang phát triển một cách có kế hoạch. Năm ngày sau, báo Nhân dân tuyên bố, Việt nam hiện có 2 cuộc cách mạng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân chủ dân tộc ở miền Nam.


Để xóa tan mọi nghi ngờ, tháng 3/1958 tại cuộc gặp đại diện Mặt trận tổ quốc, Trường Chinh phàn nàn là một số đồng chí không chịu hiểu tầm quan trọng của xây dựng CNXH ở miền Bắc là một bước chuẩn bị giải phóng miền Nam. Phạm Văn Đồng, khi đó là vây cánh của Chinh cũng khẳng định: “Miền Bắc mạnh hơn sẽ làm cho Việt nam mạnh hơn trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Và con đường làm cho miền Bắc mạnh hơn chính là con đường XHCN”.


Mặc dù hơi bị Chinh qua mặt trong cuộc tranh luận về chính sách tại Hội nghị 13, Duẩn cũng đã lợi dụng thời gian để củng cố ảnh hưởng của mình trong bộ máy Đảng và thay thế các nhân vật bị coi là thân Chinh và Hồ. Cấp phó của Duẩn là Lê Đức Thọ được bầu làm trưởng Ban tổ chức Trung ương, một công cụ hữu hiệu để điều tra và kiểm soát các đảng viên. Thọ (tên thật là Phan Đình Khải) sinh năm 1911 tại ngoại ô Hà nội trong một gia đình nhà nho. Tham gia cách mạng vào cuối những năm 1920, sau đó bị bắt và mất gần 20 năm trong tù. Được tha năm 1945, Thọ được cử vào Nam với bí danh là Sáu, làm phó cho Duẩn. Suy nghĩ nhỏ nhặt, phong cách ranh mãnh và hình ảnh khắc khổ trong con mắt người ngoài, Thọ nhanh chóng được tặng biệt danh là “Sáu Búa” vì cách xử rắn với các đồng chí.


Một người khác có thể so sánh được với Thọ về cách làm cho các đồng chí phải run sợ là Trần Quốc Hoàn. Sinh năm 1910 tại Quảng ngãi, thăng tiến trong cuộc chiến với Pháp, Hoàn trở thành Bộ trưởng an ninh DRV năm 1953. Vừa thiếu văn hóa vừa thiếu trí tuệ, lúc nào cũng làm ra vẻ bí mật, xun xoe với cấp trên, Hoàn nổi lên như “Beria của Việt nam”. Hoàn là nhân vật chính trong một câu chuyện lâm ly bi thương nhất của VNDCCH. Năm 1955, có một cô gái Cao bằng tên là Xuân đến Hà nội. Lúc nào cũng tươi như hoa, cô lọt vào mắt xanh của vị chủ tịch già và được cho vào làm phục vụ. Sau đó cô gái này có một đứa con trai, được thư ký của Hồ là Vũ Kỳ nhận làm con nuôi. Một ngày đẹp trời năm 1957, người ta tìm thấy thi thể của Xuân bên đường, trông như nạn nhân của một vụ tai nạn giao thông. Hai cô gái ở cùng phòng với Xuân ngay sau đó cũng mất tích một cách khó hiểu. Đầu tiên, cũng chẳng ai chú ý. Nhưng vài năm sau, chồng chưa cưới của một cô gái đã tố cáo với Quốc hội là Xuân bị Hoàn hiếp và thủ tiêu. Hai cô bạn cũng bị cùng chung một số phận để bịt đầu mối. Mặc dù vụ việc bị cho “chìm xuồng” và Hoàn không bị hình phạt nào, tất cả các đảng viên hiểu biết của Hà nội đều biết chuyện này. Không rõ Hồ có nắm được chi tiết của bi kịch không, nhưng không bao giờ thấy Hồ nhắc đến. 
 Những bước cải cách nông nghiệp đầu tiên được tiến hành từ thời Đại Nhảy Vọt của Trung quốc. Sau vài năm đầu tập thể hóa dần dần không thực sự thành công, Mao quyết định đánh bài lớn, thành lập những “công xã nhân dân” hàng chục ngàn người với đủ các cấu trúc hành chính và kinh tế. Theo luận thuyết của Mác -Lenin, đây là mô hình lý tưởng, tuy nhiên ngay cả L.Xô cũng chưa dám thử nghiệm. Khi ở Bắc kinh cuối năm 1957, Hồ cũng viết một số bài ca ngợi Đại Nhảy Vọt đăng trên các báo của Trung Quốc với bút danh TL. Tuy nhiên ý đồ chắc chỉ để làm vừa lòng mấy ông bạn lớn vì ngay khi về nước Hồ đã căn dặn các đồng chí phải cẩn trọng, tuyệt đối không sao chép mù quáng mô hình các nước anh em. Duẩn là đồng minh của Hồ trong vụ này, cảnh cáo những hành động phiêu lưu, lo sợ tập trung cải cách miền Bắc sẽ chiếm mất những nguồn lực của đảng lẽ ra có thể dành cho giải phóng miền Nam. Duẩn hay trích lời Lưu Thiếu Kỳ, hãy dùng những gợn sóng nhỏ thay cho những cơn sóng dữ, để mang đến thay đổi. Phạm Văn Đồng cũng phát biểu nhấn mạnh mục đích của kế hoạch 3 năm là nâng cao sản lượng lương thực chứ không phải thay đổi ý thức hệ tại nông thôn theo quan điểm của Mao. Ngay cả Trường Chinh cũng phải thừa nhận là cải cách nông nghiệp cần được tiến hành từng bước. Các đồng chí Việt nam đã học được cách không nhập khẩu nguyên kiện mô hình Trung Quốc, qua những thất bại cay đắng trong quá khứ.


Trong suốt năm 1958, chủ đề thống nhất đất nước không được nhắc đến nhiều. Phần lớn là do tập trung chú ý vào những vấn đề nội bộ của miền Bắc. Nhưng cũng có phần không nhỏ phụ thuộc vào thái độ của hai nhà bảo trợ cho VNDCCH. Quan điểm của Khrutxop thì đã rõ như ở trên đã nhắc đến. Mao cũng giữ thái độ tương tự. Mao khuyên các đồng chí Việt nam cần chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh trường kỳ “Nếu 10 năm không đủ, thì sẵn sàng mất
100 năm” . VNDCCH cần tìm kiếm thêm sự ủng hộ ngoại giao cho sự nghiệp của mình. Tháng 2/1958, Hồ dẫn đoàn đại biểu đi thăm India và Miến điện. Mục tiêu của chuyến đi là cân bằng cán cân sau khi India công nhận ngoại giao chính phủ Nam Việt Nam. Trong những cuộc hội đàm cá nhân, Hồ đã thuyết phục được Nehru ủng hộ cho quan điểm Việt nam thống nhất, nhưng Nehru từ chối công kích công khai Nam Việt nam và Mỹ trong việc phá hoại bầu cử. Rangoon cũng giữ lập trường tương tự. 


  1. Đến lúc này, vai trò của Hồ càng ngày càng bị hạn chế trong việc hoạch định các chính sách đối ngoại cũng như xây dựng hình ảnh vị “Cha già dân tộc”, linh hồn của cách mạng Việt nam. Hình ảnh “Bác Hồ” giản dị được Hồ xây dựng đến mức hoàn hảo. Hồ tiếp tục tránh xa những cạm bẫy xa hoa của chức Chủ tịch. Năm 1958, Hồ chuyển vào ở trong căn nhà sàn bằng gỗ gợi nhớ đến những ngày ở Việt bắc, chỉ cách khu biệt thự vườn của Phủ Chủ tịch có vài bước chân.


    Không lâu sau khi kết thúc Hội nghị 14, Duẩn lên đường vào Nam để trực tiếp đánh giá tình hình. Giữa tháng Giêng 1959, Duẩn trở ra và báo cáo trước Bộ chính trị. Duẩn tuyên bố:" tình hình đang nguy cấp, kẻ thù quyết tâm dìm cách mạng vào biển máu. Tính mạng của các đồng chí và quần chúng miền Nam bị đe dọa. Nhân dân đang căm ghét chế độ đến cùng cực". Tất nhiên là Duẩn cũng có cường điệu thêm đôi chút vì mục đích chính trị của mình, nhưng tình hình thực tế ở miền Nam lúc đó là hết sức căng thẳng. Để đáp lại chiến dịch khủng bố, ám sát của VNDCCH năm 1957, Diệm thực thi chính sách “làng nông nghiệp”, thực chất là dồn dân vào những khu tập trung, có hào bao quanh, trên đắp thành đất, cắm dây thép gai. Dân làng được tổ chức thành những đội tự vệ có vũ trang để chống thâm nhập. Đội ngũ mật vụ, chỉ điểm lục tìm những gia đình có cảm tình với Việt minh, chẳng may để lộ ra trong và sau hiệp định Geneva. Một tài liệu bí mật của Đảng đã thừa nhận rằng Diệm đã thành công trong việc ổn định tình hình và hạn chế tối đa hiệu quả của những hoạt động cách mạng:

    Kẻ thù đã hoàn thiện bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương, xây dựng mạng lưới gián điệp và lực lượng dân phòng đến tận từng xã. Chúng còn kiểm soát đến từng gia đình thông qua cơ chế “tự quản” theo từng đơn vị 5 gia đình, trong đó mỗi hộ phải chịu trách nhiệm về sự trung thành của những gia đình hàng xóm. Phong trào xuống thấp đến mức, ngay cả những phản kháng nhỏ như đòi cho vay để trồng trọt cũng bị gán cho là “hoạt động Việt cộng” và bị tra tấn, đe dọa. Cùng lúc đó, chính sách “làng nông nghiệp” dồn dân đến gần những trung tâm thương mại hoặc nơi thuận tiện giao thông thủy bộ để dễ bề kiểm soát. Mặc dù vẫn tin vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng, nhưng nhân dân vẫn hoang mang giao động. Càng ngày càng xuất hiện nhiều nghi ngờ về phương pháp đấu tranh hòa bình và những quan điểm cũ. “Đòi dân chủ và dân quyền chỉ dẫn đến nhà tù hoặc nghĩa địa”, “Đấu tranh thế này thì cuối cùng sẽ chết hết”. Tại nhiều nơi, nhân dân đòi hỏi đảng phải đứng lên cầm vũ khí để bảo vệ mình.


    Từ năm 1957 đến 1959 hơn 2000 nghi can cộng sản bị tử hình trên những chiếc máy chém được kéo lê qua khắp các làng xã. Hàng chục nghìn người khác bị tình nghi có cảm tình với cách mạng bị bắt và tống giam. Theo một thống kê, số đảng viên đã giảm từ hơn 5000 đầu năm 1957 xuống còn chưa đến 1/3 vào cuối năm. Trần Văn Giàu, nhà sử học của đảng đã viết: “đó là những giờ phút đen tối nhất của sự nghiệp cách mạng”


    Cũng may, ngoài Việt cộng, chế độ Diệm còn tự tạo ra những kẻ thù cho chính mình. Theo đòi hỏi của Mỹ, Diệm phải thông qua hiến pháp năm 1956, thừa nhận chính phủ do tổng thống và nghị viện bầu ra, bảo vệ các quyền tối thiểu của con người. Tuy nhiên Diệm chưa bao giờ là nhà dân chủ. Thô kệch trong xử sự, rất sợ xuất hiện trước đám đông, Diệm không thể hòa đồng với các công dân của mình. Vốn rất nghi ngờ người miền Nam, Diệm lựa chọn tay chân toàn những kẻ tị nạn từ miền Trung, theo công giáo và ghét cộng sản. Diệm để em là Nhu lập ra Đảng cần lao nhân vị. Các đảng đối lập bị đóng cửa, những kẻ lên tiếng phê phán chế độ bị trừng trị thẳng tay.


    Thất bại lớn nhất của Diệm là không đáp ứng được nhu cầu thực sự của nông dân, chiếm đến hơn 80% dân số. Sau hiệp định, có đến hơn một nửa diện tích đất canh tác chỉ do khoảng 1% dân số sở hữu. Bị Mỹ thúc ép, Diệm phải tiến hành cải cách ruộng đất. Tuy nhiên để làm vừa lòng những nhà địa chủ ủng hộ chính quyền, thực tế chỉ có chưa đến 10% nông dân nhận được dù chỉ là một mảnh đất. Thậm chí trong các vùng Việt minh cũ, nông dân còn bị ép buộc phải trả lại đất đã được chia trong kháng chiến. Đối với nông dân, cuộc sống mới chẳng hơn gì so với thời thực dân. Có thể nói, đến cuối những năm 1950, nông thôn miền Nam đã sẵn sàng cho những thay đổi lớn.

    Sau cuộc họp của Duẩn cho Bộ chính trị, Trung ưong triệu tập hội nghị lần thứ 15. Duẩn đọc báo cáo, chỉ rõ sự bất mãn dâng cao với chính quyền Diệm đang tạo ra một cơ hội vàng để tiến tới thống nhất đất nước. Tất nhiên là lãnh đạo đảng không quyết định được dễ dàng. Theo một tài liệu của Nam Việt nam thu được sau đó, có rất nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau trong hội nghị 15. Một số cho rằng đương nhiên là phải cứu phong trào và các đồng chí ở miền Nam, trên thực tế là đang đấu tranh cho sự sống còn của mình. Số khác e ngại việc đẩy mạnh hoạt động vũ trang sẽ làm các đàn anh L.Xô, Trung Quốc tức giận và quan trọng nhất là có thể dẫn đến Mỹ trực tiếp can thiệp. Phe của Chinh thì cho rằng làm như thế thì lấy sức đâu mà xây dựng CNXH ở miền Bắc để hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất miền Nam.


    H là người phát biểu mạnh mẽ nhất cho quan điểm thận trọng. Hồ cho rằng không thể chỉ sử dụng đấu tranh vũ trang, chắc chắn sẽ tạo cớ cho Mỹ can thiệp. Theo Hồ, cách mạng Việt nam phải được xét trong quan hệ với cách mạng thế giới. Đế quốc Mỹ đang mạnh nhưng sẽ suy yếu, bởi thế chúng ta phải có chiến lược từng bước. Các lực lượng cách mạng ở miền Nam chắc chắn sẽ giành được những thắng lợi to lớn, nhưng trước mắt cần phải thỏa mãn với những thắng lợi nhỏ. Với sự can thiệp của Hồ, hội nghị đã đạt được thỏa hiệp, phê chuẩn chiến lược chiến tranh cách mạng để thống nhất đất nước. Tuy nhiên mức độ kết hợp giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị được để ngỏ. Nghị quyết nêu rõ: "Con đường đấu tranh cơ bản của cách mạng miền Nam là bạo lực cách mạng. Tùy theo rình hình cụ thể và những nhu cầu hiện tại của cách mạng mà phối hợp giữa sức mạnh chính trị của quần chúng và sức mạnh quân sự để lật đổ quyền lực của phong kiến và đế quốc thiết lập chính quyền của nhân dân. "


    Cuộc tranh luận về quyết định của Hội nghị 15 không chỉ có ý nghĩa học thuật. Nếu quyết định leo thang bạo lực ở miền Nam chỉ là do những đồng chí miền Nam quyết tâm đề xuất, cuộc chiến về cơ bản có thể coi là một phong trào kháng chiến nội bộ chống lại một chính quyền thối nát và Bắc Việt có thể được coi như một nhà quan sát bị động. Ngược lại, nếu các lãnh đạo miền Bắc khởi xướng, cuộc chiến chứng tỏ tham vọng thống trị toàn đất nước của Hà nội. Thực tế chắc là nằm đâu đó ở giữa. Hồ Chí Minh và các đồng chí của mình đã quyết định phải tổ chức lại sự bất bình ầm ĩ nhưng thiếu tập trung chống lại chính quyền miền Nam.


    Nghị quyết của Hội nghị 15 không được phổ biến ngay. Trong vài tháng sau đó, Giáp được giao nhiệm vụ đánh giá lại tình hình một cách toàn diện, trong khi Hồ Chí Minh được cử ra nước ngoài để thăm dò ý kiến các đồng minh. Đã gần 70 tuổi, Hồ vẫn miệt mài thực hiện ước mơ thống nhất đất nước dưới chế độ XHCN của mình. Hồ đến Bắc kinh vào giữa tháng 1/1959, sau đó đi dự đại hội ĐCS L.Xô tại Moscow. Trên đường về, Hồ lại ghé qua Bắc kinh và về đến Việt nam vào ngày 14/2/1959. Không rõ Hồ đã thảo luận gì với các đồng minh của mình trong chuyến đi này. Tháng 5/1959, nghị quyết hội nghị 15 được chính thức phê chuẩn.

    14. Tất cả cho tiền tuyến



    Hội nghị 15 đã xác nhận Đảng từ bỏ thái độ theo dõi đợi thời và đặt mục tiêu thống nhất đất nước lên ưu tiên cao nhất. Tuy nhiên chiến lược thực hiện thế nào thì chưa rõ ràng. Một số đề nghị kết hợp đấu tranh vũ trang và nổi dậy như thời cách mạng tháng Tám. Số khác lại tiên đoán, có lẽ phải chấp nhận đụng độ quân sự trực tiếp như giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp. Có nhiều câu hỏi đặt ra chưa được giải đáp: "liệu chế độ Diệm có tự sụp đổ vì tham nhũng và dốt nát? Liệu Mỹ có thể can thiệp trực tiếp để tiến hành một cuộc chiến tranh ở Đông dương? Liệu các đồng minh của Hà nội có sẵn lòng giúp đỡ?". Tạm thời, các nhà lãnh đạo Đảng thống nhất dùng thuật ngữ của Duẩn: “cuộc chiến tranh cách mạng”, theo đó, các lực lượng cách mạng miền Nam trước mắt phải dựa chủ yếu vào đấu tranh chính trị, dần dần xây dựng các vùng giải phóng và sức mạnh quân sự để đẩy phong trào tiến lên. Mao cũng đã khuyên Hồ cẩn thận trong chuyến nghỉ mát ở Bắc Đại Hải mùa hè năm 1958. Mỹ thì công khai bày tỏ thái độ kiên quyết phá bỏ hiệp định Geneva, quyết tâm xây dựng chính quyền không cộng sản tại Nam Việt nam. Trong hiến chương thành lập khối SEATO năm 1954, Mỹ còn thêm vào: “Trong trường hợp Nam VN, Lào, Campuchia bị tấn công, các nước thành viên cần phải coi như đó là một hiểm họa chung và phối hợp hành động trong khuôn khổ hiến pháp nước mình cho phép”


    Trong suốt năm 1959, từng nhóm nhỏ trong số hơn 90,000 các cán bộ tập kết được tập trung huấn luyện ở Xuân Mai và được đưa trở lại miền Nam. Mỗi nhóm có khoảng từ 40-50 người được xe tải chở theo đường núi ở Nam Lào và đi bộ qua giới tuyến để vào Nam. Đoàn 559 (tháng 5 năm 1959) được thành lập và giao nhiệm vụ xây dựng hệ thống đường mòn để vận chuyển vũ khí, lương thực và quân đội. Hệ thống này dựa trên các tuyến đường được hình thành trong kháng chiến, sau này sẽ được cả thế giới biết đến dưới cái tên: “đường mòn Hồ Chí Minh”. Một đơn vị khác, được gọi là đoàn 759, chịu trách nhiệm mở tuyến đường biển. Các đơn vị hoạt động vận tải được đặt tên là “Bộ đội Trường sơn”. Đầu tiên, họ vận chuyển đồ tiếp tế bằng tay, bằng xe đạp, sau này mới có xe tải. Các chuyến đi thường cực kỳ gian khổ. Một người kể lại: “ Càng đi về phía Nam, tình hình càng xấu đi. Cuối cùng mỗi người chỉ còn một nhúm gạo để dành cho những lúc khẩn cấp nhất. Trong hai tháng liền, chúng tôi ăn tất cả cây, củ, chim thú tìm thấy trong rừng”. Người khác kể: "Đầu tiên, chúng tôi đi 8 tiếng/ngày. Gặp rừng núi hiểm trở, càng ngày càng chậm đi. Chỉ khi nào giao liên và trưởng đoàn cho nghỉ mới được nghỉ. Những trạm tiếp đón thường là chỗ quang đãng và an toàn. Ngoài ra cũng không có gì khác. Với một chiếc võng, chúng tôi tự chống chọi với mưa gió. Thực phẩm và nước uống cũng không đủ. Mọi người tự học cách tiết kiệm. Càng đi xa càng đói. Khi thức ăn trở nên khan hiếm, tình đồng chí cũng bị mòn theo. Ai cũng chỉ lo cứu mạng sống của mình."

  1. Tình hình miền Nam tiếp tục diễn biến phức tạp. Diệm thực thi luật 10/59 cho phép các lực lượng an ninh được tự do buộc tội, đánh đập và xử tử những phần tử bị nghi là có quan hệ với Hà nội. Tại đồng bằng sông Cửu long, dân chúng bị dồn vào các khu làng nông nghiệp làm du kích mất chỗ ẩn náu. Các lãnh đạo Đảng tìm cách đánh trả. Cuối tháng 8, dân chúng được sự hỗ trợ của Việt minh trong vùng đã nổi dậy chiếm 16 thôn thuộc huyện miền núi Trà bồng, tỉnh Quảng ngãi, lập nên vùng giải phóng với khoảng hơn 1000 dân. Năm tháng sau, một cuộc khởi nghĩa nữa nổi lên ở Kiến hòa (Việt minh gọi là Bến tre), nằm giữa châu thổ sông Cửu long. Dân chúng vùng này có cảm tình với Việt minh vì được chia đất, sau đó Diệm đã buộc họ phải trả lại cho chủ cũ. Các cán bộ Đảng đã khéo léo kích động dân chúng nổi dậy, cầm theo giáo mác và gậy tầm vông, hỗ trợ cho các đơn vị đóng giả là lính Sài gòn xông vào chiếm các cơ quan hành chính xã. Một thành viên tham gia khởi nghĩa đã kể lại: "Lúc đó khoảng sau 9h tối. Tôi mới về đến căn cứ thì nghe thấy tiếng trống và mõ, hòa theo tiếng reo hò lan hết từ làng này sang làng khác. Đêm càng khuya, tiếng trống càng thôi thúc kêu gọi tất cả mọi người vùng lên. Bỗng có tiếng reo: “Cháy rồi, bốt cháy rồi. Cháy nhanh quá”. Các lực lượng bao vây được lệnh đốt tất cả các đồn bốt mà họ chiếm được. Nhân dân xé cờ ba que, đốt biển nhà và thẻ căn cước, chặt cây dựng chướng ngại vật trên đường."


    Với nhịp độ chống đối ngày càng tăng, các nhà lãnh đạo Đảng quan ngại là tình hình sẽ dẫn đến cuộc chiến lan rộng. Tháng 4/1960, Duẩn phải phát biểu kiên quyết giới hạn bạo lực chỉ trong miền Nam. Duẩn thừa nhận, việc giữ ổn định hòa bình quốc tế và xây dựng CNXH ở miền Bắc, trước mắt sẽ tạo thêm khó khăn cho cách mạng miền Nam, nhưng cho rằng về lâu dài sẽ trở thành những nhân tố có lợi cho thống nhất.


    Trên trường quốc tế, mâu thuẫn giữa L.Xô và Trung Quốc về chiến lược toàn cầu ngày càng sâu sắc. Giận dữ vì thái độ không hợp tác của Trung Quốc, Liên xô rút lại lời hứa cung cấp bom nguyên tử đã được thỏa thuận từ mấy năm trước. Sau này, Việt nam mới học được miếng võ lợi dụng mâu thuẫn để thủ lợi, còn hiện tại họ chỉ biết cầu xin hai ông anh làm lành với nhau. Hồ tiếp tục đóng vai trò nhà ngoại giao chiến lược. Tháng 7/1959, Hồ đi Moscow. Trước khi đi, Hồ dặn lại cuộc chiến ở miền Nam sẽ rất khốc liệt và phức tạp, các đồng chí tuyệt đối phải tránh manh động. Thời điểm này hoàn toàn không phù hợp cho việc bàn chiến lược gia tăng xung đột ở miền Nam. Khrutxop đang chuẩn bị cho chuyến đi thăm Mỹ vào tháng 9 và hiển nhiên không muốn làm mất lòng Mỹ về vụ Việt nam. L.Xô cam kết viện trợ kinh tế cho VNDCCH nhưng đều nhấn mạnh tầm quan trọng việc thực thi các điều khoản của hiệp định Geneva trong hòa bình.


    Sau khi hội đàm với Khrutxop, do Trung ương Đảng CS Trung Quốc đang họp, chưa tiếp được, Hồ thong thả dạo qua các nước cộng hòa châu Âu của L.Xô như Ukraina, Crưm và Capcazơ. Cuối tháng 7, Hồ đi tàu qua Trung á đến Alma Ata và từ đó mới bay đi Urumqi, thủ phủ của tỉnh Tân cương Trung quốc. Hội nghị TƯ của ĐCS Trung Quốc lần này họp tại Lư sơn, một khu nghỉ mát tại miền Nam Trung Quốc, nhằm mục tiêu giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ lãnh đạo về chính sách Đại Nhảy Vọt. Tổng chỉ huy quân đội trong chiến tranh Triều tiên, nguyên soái Bành Đức Hoài đã lớn tiếng chỉ trích Đại nhảy vọt làm cho nhân dân đói khổ. Bành cũng bảo vệ mối quan hệ chặt chẽ với Hồng quân, chống lại chính sách tự lực của Mao. Kết quả, Bành bị cách chức và Lâm Bưu lên thay. Hồ ở lại Urumqi vài ngày rồi đi tàu đến Tây An, nơi ông đã từng đến năm 1938 như một người tham quan, và đến Bắc kinh hôm 13/8. Do Mao vẫn chưa về, Hồ đàm phán với Chu và Lưu Thiếu Kỳ. Hội này thông báo chấp nhận chiến lược “chiến tranh cách mạng” nhưng hạn chế ở đấu tranh chính trị và các hoạt động vũ trang ở mức thấp. Hồ quay về Hà nội ngày 26/8.

    Có thể nói Hồ không thu thập được gì nhiều qua chuyến đi này ngoài những lời hứa giúp đỡ một cách lịch sự. Mao thậm chí còn không tiếp. Nhưng Hồ đã quá quen với thái độ ngạo mạn của mấy ông bạn Trung Quốc, trong lúc thân mật với anh em, Hồ gọi Mao là “Hoàng đế Vũ trụ”. Mấy tháng sau, lại có dịp tu bổ lại quan hệ, khi dẫn đoàn Việt nam sang dự lễ kỷ niệm 10 năm ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa. Sau khi gặp lại người bạn cũ thân thiết là Tống Khánh Linh, Hồ đã hội đàm với Mao ngày 3/10. Khi về nước, Hồ viết bài đăng trên báo Nhân dân, kêu gọi các đồng chí nghiên cứu kinh nghiệm Trung quốc và bày tỏ sự biết ơn “đời đời” của nhân dân Việt Nam với sự giúp đỡ của Trung Quốc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.


    Trong lúc Hồ bận rộn trên mặt trận ngoại giao, thì các đồng chí của ông tập trung vào kế hoạch 3 năm xây dựng nền móng của CNXH ở miền Bắc. Nhờ Hồ luôn cảnh cáo việc dùng vũ lực và chỉ được phép dùng “các biện pháp dân chủ” để thuyết phục nhân dân, việc tập thể hóa ở nông thôn cũng như quốc hữu hóa công thương tại thành phố đã diễn ra tương đối thuận lợi, tránh được cảnh bạo lực và bất hòa của cải cách ruộng đất. Đến cuối năm 1959, lãnh đạo Đảng bắt đầu nghĩ đến kế hoạch công nghiệp hóa 5 năm kiểu Xô viết. Vì việc thực hiện kế hoạch này sẽ ngốn nhiều nguồn lực và ảnh hưởng đến cuộc đấu tranh ở miền Nam, đảng muốn triệu tập Đại hội vào hè hoặc mùa thu năm 1960 để thảo luận và thông qua.


    Tình hình thế giới tiếp tục phức tạp. Mâu thuẫn giữa L.Xô và Trung Quốc đã lên đến đỉnh điểm tại Đại hội đảng cộng sản Rumani tháng 6/1960 khi hai đoàn công khai đả kích nhau về chiến lược của phe XHCN trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Sau vụ việc, L.Xô đã quyết định gọi tất cả các chuyên gia ở Trung Quốc về nước. Đoàn Việt nam do Lê Duẩn dẫn đầu đã làm lơ, không đứng về bên nào, mặc dù Duẩn ủng hộ quan điểm của Trung Quốc là Mỹ đang tìm cách gây chiến. Xã luận báo Nhân dân cũng không nhắc gì đến vụ này chỉ nói rằng sự bất hòa giữa các đảng cộng sản có thể ảnh hưởng to lớn đến cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân Việt nam. Hồ đã làm mọi việc để không làm mất lòng bên nào. Tháng 5, Hồ bay sang Trung Quốc để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70 và nghỉ ngơi vài ngày. Ngay sau đó, trên báo Nhân dân lại xuất hiện bài của Hồ ca ngợi “chính sách đúng đắn” của L.Xô. Tháng 8, Hồ lặng lẽ viếng thăm cả Bắc kinh và Moscow vừa để thông báo chính sách của VNDCCH tại miền Nam vừa tìm cách hàn gắn sự bất hòa giữa hai đồng minh lớn.

    Đại hội đảng lần thứ 3 được tổ chức tại Hà nội ngày 5/9/1960 lần đầu tiên từ năm 1951. Có 576 đại biểu đại diện cho hơn nửa triệu đảng viên từ hai miền tham dự. Hồ Chí Minh phát biểu khai mạc với tư cách là chủ tịch Đảng. Tuy có dành một chút thời gian nói về những sai lầm trong quá khứ mà Đảng đang tích cực sửa chữa, bài phát biểu chủ yếu nói về tương lai xây dựng XHCN ở miền Bắc. Về vấn đề thống nhất, Hồ gọi miền Nam là “thành đồng tổ quốc” và khẳng định Đảng tìm kiếm thống nhất bằng con đường hòa bình. Có vẻ như lãnh đạo Đảng chưa thống nhất được chiến lược với miền Nam, nên trong báo cáo chính trị của mình, Lê Duẩn cũng chỉ kêu gọi chung chung, cho rằng đó sẽ là cuộc đấu tranh “gian khổ và lâu dài, bao gồm nhiều hình thức và sử dụng sức mạnh của quần chúng”. Duẩn cũng không nhắc đến khả năng VNDCCH phải can thiệp trực tiếp. Bởi thế kế hoạch 5 năm được thông qua với sự nhất trí cao. Đại hội cũng chính thức bổ nhiệm Duẩn làm bí thư thứ nhất (thay thế chức Tổng bí thư). Bộ chính trị cũng được bổ sung thêm 2 thành viên miền Nam là Phạm Hùng và Nguyễn Chí Thanh. Thanh mới được phong hàm đại tướng ngang với Giáp, nhưng xuất thân từ tổng cục Chính trị. Lê Đức Thọ tuy là người bắc nhưng đã làm phó cho Duẩn ở miền Nam trong thời gian kháng chiến chống Pháp.


    Đại hội III không phát biểu gì về quan hệ Xô - Trung. Cả hai nước đều cử đoàn đại biểu đến dự. Không có cãi vã gì trên diễn đàn, trước công chúng. Hồ đích thân đứng ra làm phiên dịch cho 2 đoàn. Nghị quyết của đại hội vẫn nêu rõ Liên xô là đầu tàu của phe xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cả hai đoàn đều không mặn mà lắm với việc đẩy cao xung đột ở miền Nam Việt nam. Đảng vẫn tích cực tìm kiếm cách lật đổ Diệm mà không tạo cớ cho Mỹ nhảy vào can thiệp trực tiếp. Một phương pháp cổ điển là thành lập một mặt trận rộng rãi kiểu Việt minh, làm ngọn cờ để tập hợp moi lực lượng có thể , nhưng vẫn chịu sự chi phối của Đảng. Mặt trận này phải có 1 cương lĩnh đủ để hấp dẫn những trí thức đấu tranh cho một nước Việt Nam thống nhất nhưng e ngại sự thống trị của Miền Bắc, những người không ưa thích chủ nghĩa Cộng Sản nhưng luôn ủng hộ nhân dân lao động. Mặt trận phải làm các thành viên tin tưởng là có thể lật đổ được chính quyền độc tài thối nát của Diệm mà không sợ phải ngay lập tức dâng Miền Nam cho Cộng sản. Ngay trong Đại hội III, Tôn Đức Thắng đã nhắc tới ý tưởng này. Theo ông mặt trận này theo nguyên tắc 4 của Lenin, bao gồm cả các phần tử tôn giáo và dân tộc ít người. Nguyên tắc tổ chức là thành phần rộng rãi, chia thành nhiều cấp từ TW đến địa phương. Mặt trận sẽ thành lập Chính phủ lâm thời bao gồm các thành phần tiến bộ, tiến hành đàm phán nhằm tiến tới thống nhất đất nước. Chủ nghĩa Cộng sản tuyệt nhiên không đc nhắc đến. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt nam , gọi tắt là NLF đc thành lập ngày 20/12/1960 trong một khu rừng cao su dọc biên giới với Kampuchia, sau này trở thành nơi đóng quân của TW Cục. Theo Trương Như Tảng, một thành viên tham gia buổi thành lập :" tất cả những người có mặt trong gian nhà đơn sơ đều hiểu rằng mình đang tham dự 1 sự kiện có ý nghĩa lịch sử." Trên đường về Sài Gòn, Tảng cảm thấy lâng lâng " một hy vọng dù nhỏ nhoi"

    Mấy tuần sau, John.F.Kennedy nhậm chức tổng thống Mỹ. Trong buổi lễ bàn giao, tuyệt nhiên không thấy Eisenhower đả động gì đến sự phản kháng ngày càng tăng ở miền Nam Việt nam. Nông dân bất nãm vì tham nhũng và thuế cao. Phật tử phản kháng vì chính quyền đàn áp, chỉ ủng hộ Công giáo. Các dân tộc ít người , người Hoa ....bị phân biệt đối xử. Giới trí thức không chấp nhận một chính quyền độc tài, gia đình trị. Hiến pháp 1956 đc Mỹ giúp phác thảo trở thành 1 tờ giấy chết. Khoảng giữa tháng 1/1961, ngay sau 1 cuộc đảo chính bất thành ở miền Nam Việt Nam, Bộ Chính trị đã họp để đánh giá tình hình. Bộ Chính Trị nhận định không còn một cơ hội nào cho việc thống nhất đất nc bằng con đường hòa bình và cần đẩy mạnh đấu tranh chính trị và vũ trang để chuẩn bị Tổng khởi nghĩa có thể đến bắt cứ lúc nào. Hồ đồng ý nhưng không quên nhắc các đồng chí của mình phải cẩn thận. Đảng quay lại với cách tổ chức thời chống Pháp, có đảng ủy mìên ở tạ 5 vùng và các chi bộ Đảng tại Tỉnh, Huyện, xã. Tháng 2/1961, tại hội nghị ở chiến khu D, các đơn vị vũ trang của đồng bằng SCL và Tây Nguyên đc sát nhập thành Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ( PLAF) chịu sự quản lý thống nhất . Chính quyền Sài gòn bắt đầu gọi họ là Việt Cộng.


    Trong lúc các nhà lãnh đạo kháng chiến bận rộn với việc tổ chức lại cơ sở cách mạng, Hồ tiếp tục tập trung vào mặt trận ngoại giao. Với mâu thuẫn Xô- Trung đã trở nên công khai, vấn đề lập trường của khối XHCN với các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đã trở thành chủ đề bàn luận gay gắt trong các hội nghị. Tháng 11/1960, Hồ, Duẩn, Thanh tham dự hội nghĩ 81 Đảng CS và công nhân tại Moscow. Khrutsev chắc cũng hy vọng sử dụng diễn đàn hội nghĩ để ép Trung Quốc theo các chính sách của mình nhưng không đc các đoàn khác ủng hộ. Đoàn VN tuy không phát biểu nhưng tích cực hoạt động trong hậu trường để soạn thảo nghị quyết của hội nghị, khẳng định qan điển từ Tuyên bố 1957 về quyền lựa chọn các phương phap tiến lên CNXH của các nc có điều kiện khác nhau. Hồ đóng vai trò cá nhân rất quan trọng. Tại một phiên họp, khi trưởng đoàn Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ tức giận bỏ về sứ quán, Khrusev đã phải nhờ Hồ đứng ra hòa giải mời Lưu trở lại.


    Những người thân cận với Hồ đều nói Hồ rất buồn về sự chia rẽ , làm uy tín của khối XHCN trong các nc thứ 3 bị suy giảm nghiêm trọng. Trong khi các thành viên khác của đoàn Việt nam đều có vẻ ủng hộ quan điểm của Trung Quốc, Hồ nghi ngờ sâu sắc về tham vọng của Mao cũng như chính sách “Tọa sơn quan hổ đấu” của ông này. Bởi thế Hồ thường ủng hộ quan điểm của L.Xô trong những phiên họp đinh. Quen với việc “làm theo ý Cụ” nên Duẩn, Thanh không nói gì. Tuy nhiên khi về Hà nội, chắc họ cũng đã thì thầm với các thành viên khác của Bộ chính trị dẫn bất mãn về quan điểm “ba phải” của Hồ tại hội nghị. Đại hội 22 Đảng cộng sản L.Xô mùa thu năm 1961 lại một dịp cãi vã to. Lần này Hồ đi cùng với Duẩn và vẫn quyết tâm giữ thái độ trung lập. Tuy nhiên khi Chu Ân Lai đùng đùng bỏ về Bắc kinh giữa chừng thì đoàn Việt nam bị buộc phải hành động. Hồ và Duẩn cũng rời hội nghị, nhưng thay vì về nước, lại đi tham quan các tỉnh miền Tây Liên xô để chứng tỏ là mình không bất mãn gì.

    Việc thành lập NLF và PLAF đã tiếp thêm sức mạnh cho phong trào chống Diệm. Đến cuối năm 1961, PLAF đã có đến 15.000 người, gấp 5 lần so với năm 1959. Họ cũng đã bắt đầu chủ động tấn công các căn cứ của đối phương, thiết lập các vùng giải phóng ở Tây nguyên để làm bàn đạp xuống đồng bằng. Sự lớn mạnh nhanh chóng có hai lý do: tiếp viện từ phía bắc, đến năm 1961 đã đạt khoảng 5000 người, và ảnh hưởng rộng rãi của NLF trong dân chúng. Trước khi nhậm chức, Kenedy đã được thông báo về tình hình xấu đi ở Lào do Pathet Lào quyết tâm lật đổ chính phủ liên hiệp, nay lại phải đối mặt với nguy cơ ngày càng tăng ở Nam Việt nam. Một phái đoàn đặc biệt đã được phái đến nghiên cứu tình hình và khuyến cáo tổng thống nhanh chóng tăng số lượng cố vấn quân sự tại Nam Việt nam, đồng thời tìm kiếm một giải pháp thương lượng ở Lào (vì rất khó lý giải cho sự can thiệp quân sự của Mỹ ở đây)


    Mặc dù là người cho rằng chế độ của Diệm chứa đựng những mâu thuẫn nội tại trầm trọng và sẽ tự sụp đổ, Hồ luôn dặn các đồng chí không được đánh giá thấp Diệm, bởi Diệm là một nhà lãnh đạo kiên định và có đội ngũ cộng sự rất trung thành. Hà nội cũng phải cảnh giác với Mỹ. Nước này có vẻ như đã quyết rằng quyền lợi của Mỹ sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nếu thất bại ở Nam Việt nam. Tại hội nghị chiến lược của Bộ chính trị tháng 10/1961, Hồ đã chỉ ra rằng Mỹ mạnh hơn rất nhiều Pháp về mặt quân sự và bất cứ ý tưởng nào lấy vũ lực để chọi vũ lực trong cuộc chiến mới sẽ thất bại. Sức mạnh của các lực lượng cách mạng nằm trong lĩnh vực chính trị, vì thế Hồ đã đề ra sách lược gồm 3 thành tố: chiến tranh du kích, phát động quần chúng, và đặc biệt quan trọng là dành được sự ủng hộ của dư luận thế giới. Nghị quyết gửi cho các lãnh đạo miền Nam nhấn mạnh: “cao trào cách mạng chưa tới và chúng ta chỉ có thể dành thắng lợi bằng từng bước vững chắc”


    Tháng 7/1962, chính quyền Kennedy ký hiệp định thành lập chính phủ liên hiệp 3 bên tại Lào (cánh hữu, Pathet Lào và các phần tử trung lập). Trong thư gửi các đồng chí của mình ở miền Nam, Duẩn nhắc đến khả năng Mỹ có thể chấp nhận một giải pháp tương tự ở miền Nam Việt nam. Hồ đặc biệt hứng thú với ý tưởng này. VNDCCH tích cực xúc tiến việc tìm kiếm những phần tử trí thức trung gian ở miền Nam Viẹt Nam và Pháp ủng hộ mình để chuẩn bị cho việc thành lập chính phủ 3 bên ở Sài gòn. Kennedy chấp nhận giải pháp thỏa hiệp ở Lào trên cơ sở nhận định là Hà nội sẽ tuân thủ hiệp định Geneva và ngừng việc tiếp tế qua đường mòn Hồ Chí Minh mà một phần lớn chạy qua lãnh thổ Lào. Bởi thế, khi những báo cáo tình báo cho thấy Hà nội vẫn tiếp tục tăng cường tiếp tế, Mỹ quyết định từ bỏ phương án thỏa hiệp ở Nam Việt Nam. Dù vậy, Hồ vẫn hy vọng vào một giải pháp chính trị với sự tham gia mạnh mẽ của NLF. Hồ hiểu rằng Mỹ đang lúng túng và không phải tìm kiếm chiến thắng mà một đường rút lui trong danh dự.


    Các phần tử bi quan trong Đảng không tin vào quan điểm của Hồ là có thể dành thắng lợi mà không phải đổ máu nhiều. Và họ có lý. Có nhiều dấu hiệu cho thấy Washington quyết tâm dành chiến thắng ở Việt nam. Năm 1962, Mỹ giúp Diệm xây dựng chương trình ấp chiến lược, vốn được người Anh sử dụng khá hiệu quả trong cuộc chiến chống nổi loạn ở Mã lai. Hàng ngàn ấp chiến lược được xây dựng như những cộng đồng dân cư độc lập, có khả năng tự bảo vệ chống Việt Cộng thâm nhập để tuyển dụng và kiếm thực phẩm. Lúc đầu chương trình này đã gây được một số khó khăn nghiêm trọng cho Việt Cộng, tuy nhiên do sự yếu kém và quan liêu của chính phủ, cuối cùng hơn một nửa số ấp bị Việt Cộng phá hủy hoặc trà trộn vào.

    *************
    NLF : Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt nam
    PLAF : Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam

    Vào đầu những năm 60, Hà nội tiếp tục gặp khó khăn hơn trong việc duy trì quan hệ cân bằng với hai ông bạn lớn. Mặc dù không muốn mang tiếng là không ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhưng rõ ràng là Khrutsov không muốn đối chọi trực tiếp với Mỹ và không hài lòng khi tình hình Đông Nam Á ngày càng căng thẳng. Thái độ này rất vừa ý Bắc kinh, đang muốn thay thế Moscow ở vị trí "anh Cả" của các dân tộc bị áp bức. Mao cho rằng Mỹ đâm đầu vào thòng lọng khi tăng cường can thiệp quân sự ở Việt nam. Kinh nghiệm trong cuộc chiến Đông dương lần đầu cho thấy, Mỹ sẽ không phản ứng mạnh khi Trung Quốc giúp đỡ vũ khí cho Việt nam, vì vậy khi Hồ Chí Minh và Nguyễn Chí Thanh sang thăm Bắc kinh hè năm 1962 và đề nghị giúp đỡ, Bắc Kinh đã không ngần ngại đồng ý tăng cường viện trợ quân sự, hy vọng Hà nội sẽ đoạn tuyệt với Moscow. Tháng 5/1963, Lưu Thiếu Kỳ dẫn đoàn sang thăm Việt nam để đánh giá tình hình. Lưu nhắc lại quan hệ lịch sử giữa hai nước, phê phán công khai thái độ “lưng chừng” của bọn xét lại (ngụ ý Liên xô), và thề sẽ là “hậu phương lớn” của nhân dân Việt nam. Các nhà lãnh đạo Việt nam đã đón tiếp Lưu rất nồng hậu. Có điều là mấy ngày trước đó, họ cũng hết sức vồn vã với một phái đoàn thương mại của Liên xô. Trong tiệc chiêu đãi Lưu, Hồ cũng tránh chỉ trích L.Xô mà chỉ kêu gọi phe XHCN phải đoàn kết hơn nữa.


    Mùa xuân năm 1963, chính quyền Diệm tự kết án tử hình mình bằng cách đàn áp Phật giáo. Ngày 11/6, hình ảnh một nhà sư tự thiêu trên đường phố Sài gòn được truyền đi khắp thế giới và gây xúc động sâu sắc. Khi Kennedy chỉ trích Diệm đã đàn áp phật tử, Ngô Đình Nhu tức giận tuyên bố đã đàm phán với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt nam để đuổi tất cả các cố vấn Mỹ ra khỏi Việtnam. Có báo cáo cho rằng cuối hè năm 1963, Hồ đã gửi thư riêng cho Diệm đề nghị đàm phán. Không rõ Diệm trả lời thế nào, nhưng khi trả lời câu hỏi của Mieczyslaw Maneli, đại biểu Balan ở VNDCCH về điều kiện đàm phán của Bắc Việt, Phạm Văn Đồng đã nêu rõ: "Người Mỹ phải rút đi. Không có căn cứ quân sự và quân đội nước ngoài ở Việt nam. Chúng tôi có thể đạt được thỏa thuận với bất cứ người Việt nam nào ”. Theo Maneli, Hồ cũng có mặt trong cuộc gặp, nhưng không bình luận gì. Mặc dù tình thế của Diệm đã xấu đi nhiều, nhưng Hồ vẫn thừa nhận Diệm là một đối thủ đáng nể, và cần phải thỏa thuận để có thể giảm thiểu quyền lực của ông này. Hồ kêu gọi các đồng chí của mình ở miền Nam tìm mọi cách tìm kiếm sự ủng hộ của dân chúng, trong khi đợi Mỹ tỉnh ngộ. Trả lời một phóng viên Nhật bản tháng 7/1963, Hồ nhận định, qua kinh nghiệm bản thân, ông thấy dân Mỹ rất yêu công lý và hòa bình. Bởi thế chỉ có một giải pháp là Mỹ phải rút và người Việt Nam sẽ tự giải quyết lấy vấn đề theo các nguyên tắc của hiệp định Geneva.


    Quan điểm lạc quan thận trọng của Hồ về một giải pháp chính trị không được sự ủng hộ hoàn toàn trong Đảng. Tại hội nghị Bộ chính trị tháng 12/1962, Đảng đã nhận định cuộc chiến tranh ở miền Nam là cuộc chiến tranh chống đế quốc và cần phải tăng cường cả đấu tranh chính trị lẫn đấu tranh vũ trang. Một nghị quyết bí mật được gửi vào Nam, khẳng định cuộc chiến rồi sẽ được giải quyết bằng vũ lực từ nhỏ đến lớn. Tài liệu này không công khai phủ nhận tầm quan trọng của đấu tranh chính trị, và không chấp nhận quan điểm quân sự được dùng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng cho rằng làn sóng cách mạng ở Việt Nam đã đạt đến cao trào, và vấn đề chỉ còn là khi nào sẽ áp dụng vũ lực. Cuộc chiến sẽ kết thúc bằng nổi dậy và tổng tiến công của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt nam, một kiểu kết hợp giữa Cách mạng Tháng 8 và mô hình chiến tranh 3 giai đoạn của Mao. Quan điểm này rõ ràng phản ánh cách nhìn của Duẩn, người luôn tin vào một thắng lợi quân sự rõ ràng. Duẩn cho rằng quan điểm của Hồ dựa vào đấu tranh ngoại giao là ngây thơ, ông này nói “Bác Hồ lưỡng lự, còn tôi đã chuẩn bị tất cả khi rời miền Nam ra đây. Tôi chỉ có một mục đích: thắng lợi cuối cùng”

    Đầu tháng 11/1953, cuộc đảo chính quân sự được Mỹ bật đèn xanh đã lật đổ Diệm. Cả Diệm và Nhu, mặc dù đã đầu hàng, đều bị thủ tiêu. Mất Diệm, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt nam mất khả năng lợi dụng cảm tính chống Diệm để mở rộng lực lượng. Tại các thành phố, phe đảo chính do Dương Văn Minh tức Minh Lớn cầm đầu được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng đang bất mãn. Mặt khác, Đảng cũng đoán trước được rằng giới lãnh đạo mới không thể nào có được sự kiên định và ý chí của Diệm. Đã quá kinh nghiệm về tính bè phái của các phần tử dân tộc, trong cuộc họp Bộ chính trị ngày 10/12, Hồ tiên đoán (và hóa ra là đúng như vậy) đây sẽ là không phải là cuộc đảo chính cuối cùng.


    Vài tuần sau, bản thân Kennedy cũng bị ám sát tại Dallas, Lindon Jonson lên thay. Tình hình thay đổi nhanh chóng, buộc Đảng phải xem xét lại sách lược của mình. Liệu có đẩy mạnh đấu tranh để lợi dụng tình trạng hỗn loạn ở Sài gòn? Liệu tổng thống Mỹ mới lên có hiếu chiến hơn? Hay hòa hoãn để tìm một giải pháp chính trị? Theo các bằng chứng rải rác còn sót lại, Hội nghị TƯ lần thứ 9 tháng 12/1963 là cuộc hội nghị nóng bỏng nhất trong lịch sử Đảng. Lần đầu tiên, TƯ không chỉ là cơ chế đóng dấu cho các quyết định đã được Bộ chính trị dàn xếp. Một số thành viên lớn tiến đề nghị nhanh chóng đưa ngay quân đội miền Bắc tham chiến để giải quyết vấn đề trước khi Mỹ có thể can thiệp. Số khác e ngại làm vậy sẽ dẫn đến Mỹ can thiệp trực tiếp, làm mất lòng Liên xô đang tìm cách tránh căng thẳng với Mỹ, đẩy Việt nam vào thế phải dựa hẳn vào ông bạn Trung Quốc không mấy tin cậy. Nghị quyết cuối cùng thỏa hiệp, chính thức thừa nhận đấu tranh vũ trang là hình thức đấu tranh chủ yếu, kêu gọi các lực lượng miền Nam tìm cách giành thắng lợi trong thời gian ngắn nhất, nhưng không đưa quân miền Bắc vào trực tiếp tham chiến. Các nhà chiến lược của Đảng đặt cược vào việc có thể đánh đổ Sài gòn mà không tạo cớ cho Mỹ nhảy vào.


    Mặc dù luôn luôn tìm cách cân bằng trong quan hệ Xô - Trung, trong thời gian cuối, có nhiều lãnh đạo không giữ được bình tĩnh. Thanh đã từng phát biểu: “Chúng tôi không ảo tưởng và không đánh giá thấp Mỹ, có điều chúng tôi không sợ. Nếu ai đó cứ cho rằng kiên quyết chống Mỹ là sẽ thất bại và dẫn đến chiến tranh hạt nhân, thì chỉ còn có cách đầu hàng chủ nghĩa đế quốc”, rõ ràng là nhằm vào Kremlin. Quan điểm của Thanh được Duẩn và các đồng sự như Hoàn, Thọ ủng hộ. Phạm Văn Đồng là một nhà tổ chức và thường không có ý kiến trong những vụ này. Chinh cũng không muốn thách thức giới lãnh đạo mới. Giáp không nhất trí với chiến lược chiến tranh du kích tích cực của Duẩn, nhưng cũng không đồng ý với Thanh về việc tiến hành chiến tranh “thông thường” vào thời điểm hiện tại khi quân đội nhân dân Việt nam chưa được huấn luyện và trang bị đầy đủ. Theo Giáp, căng thẳng với Liên xô vào thời điểm này là tự sát vì chỉ có Moscow mới có thể cung cấp những kỹ thuật mà quân đội đang cần. Tuy nhiên, kỳ lạ là Giáp đã ngồi im, không phát biểu. Vai trò của Hồ trong vụ này không rõ ràng. Duẩn cho rằng gần đây Hồ không còn sự sắc sảo trong suy nghĩ và đánh giá tình hình, thậm chí có tin đồn là Duẩn đã đề nghị Hồ nghỉ hưu, chuyển sang lãnh đạo Viện Max-Lenin, Thanh sẽ giữ chức chủ tịch nước còn Duẩn lãnh đạo Đảng.


    Nhưng tất nhiên Hồ không thể không quan tâm đến chiến lược mới. Hồ thường xuyên nêu rõ đây là một cuộc chiến mưu mẹo, chứ không phải là đối đầu trực tiếp nhất là với Mỹ. Hồ cũng luôn luôn tìm cách cân bằng quan hệ giữa L.Xô và Trung Quốc. Khi Lê Liêm, một tướng có công lớn trong trận Điện biên phủ, báo với Hồ là dự thảo nghị quyết hội nghị có thể có những điểm đả kích L.Xô trực tiếp, Hồ nói làm thế khác gì tát vào mặt người ta, và khuyên Liêm chống lại. Tuy nhiên khi Liêm đứng lên phát biểu thì Hồ lại ngồi im. Những lúc tinh thần bài L.Xô trở nên quá nóng, Hồ bỏ ra ngoài hút thuốc. Cuối cùng những điểm đả kích Liên xô trực tiếp cũng được Duẩn gạt ra vì không muốn đốt cầu quan hệ với L.Xô. 10 thành viên đã bỏ phiếu chống lại bản nghị quyết cuối cùng.

    Không muốn làm mất lòng L.Xô, sau hội nghị, Lê Duẩn,Lê Đức Thọ và Tố Hữu đã sang Moscow để trình bày quan điểm. Tố Hữu - nhà thơ, đã xuất hiện trên chính trường nhờ những phát biểu chống L.Xô ầm ĩ trong hội nghị 9. Trên đường đi cả đoàn đã dừng lại ở Bắc kinh để thảo luận. Kết quả làm việc ở Moscow không nhiều, thông cáo chung rất chung chung, chứa đựng sự không thống nhất về quan điểm ở miền Nam Việt Nam. Sau khi đoàn trở về, báo chí chính thống lại tiếp tục đả kích tràn lan “chủ nghĩa xét lại”. Tư tưởng bài Liên Xô lan rộng. Bộ chính trị bật đèn xanh thành lập một tòa án để xét xử và đưa ra khỏi đảng những thành phần xét lại, bao gồm cả những cán bộ cao cấp như Viện trưởng Viện Max- Lenin Hoàng Minh Chính, cánh tay phải của Giáp là Lê Liêm. Thậm chí Giáp cũng bị tấn công, bị buộc tội là có thư từ bí mật trực tiếp với Khorutxov. Cuối cùng Hồ phải can thiệp và xác nhận là chính mình đã cho phép Giáp làm việc đấy.


    Hồ chắc chắn là đã rất nhức đầu với những sự kiện xung quanh hội nghị 9. Việc phế bỏ Diệm cho thấy Mỹ có thể đã từ bỏ đường lối không can thiệp trực tiếp vào Việt nam. Mặc dù phê duyệt chiến lược leo thang vũ trang ở miền Nam, Hồ không thể không lo lắng vì thái độ hấp tấp của một số cái đầu nóng trong Đảng, đặc biệt là việc đánh L.Xô và những đồng minh của L.Xô ở Hà nội. Sau một thời gian im tiếng, Hồ đã xuất hiện trong ghế chủ tịch Hội nghị chính trị đặc biệt tháng 3/1964, được tổ chức để bàn về những bất đồng trong lãnh đạo Đảng. Hồ phát biểu, nhấn mạnh Việt nam tiếp tục tìm kiếm việc thống nhất bằng con đường hòa bình trên cơ sở những điều khoản của hiệp định Geneva, nhưng cũng khẳng định, nhân dân miền Bắc sẽ quyết tâm ủng hộ cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam. Hồ kêu gọi nhân dân Mỹ hãy hành động để buộc chính phủ Mỹ chấm dứt cuộc chiến tranh phi nghĩa và bẩn thỉu, đang làm ô danh nước Mỹ. Cuối cùng, Hồ kêu gọi sự thống nhất mục đích trong VNDCCH và trong khối xã hội chủ nghĩa.


    Trong mấy tháng sau, các lực lượng cách mạng ráo riết hoạt động ở miền Nam. Lợi dụng sự yếu kém về chính trị và bè phái lục đục của chính quyền Sài gòn, NLF và PLAF liên tục tấn công khuếch trương thanh thế ở vùng nông thôn. Mục đích của Đảng là đánh đổ chính quyền Sài gòn, thành lập chính phủ 3 bên gồm một số quan chức Sài gòn cũ, NLF và thành phần thứ trung gian gồm các trí thức trong và ngoài nước. Các phần tử này đã được đảng làm việc trước, vì thế đảng tin tưởng là chính phủ mới sẽ là điểm khởi đầu để tiến tới thống nhất với miền Bắc theo đường lối của đảng. Nhưng Mỹ không nghĩ vậy. Hà nội không hề hay biết là chính quyền Johnson đã quyết chí ở lại miền Nam Việt nam và đang ráo riết kiếm cớ để thể hiện cho Hà nội biết ý chí của mình. Đầu tháng 8/1964, các xuồng máy của hải quân Việt nam tấn công một chiến hạm Mỹ. Vài ngày sau, khi “hình như” lại xảy ra một vũ tấn công mới, Johnson liền lập tức hạ lệnh ném bom miền Bắc để trả đũa. Mặc dù McNamara tuyên bố các tàu chiến Mỹ chỉ đang thực hiện việc tuần tra thường xuyên của mình, nhưng chứng cớ sau đó, cho thấy chúng đang tiến hành một chiến dịch trinh sát, nhằm thăm dò khả năng theo dõi của rada Bắc Việt. Cùng thời điểm, một chiến dịch đổ bộ biệt kích được tiến hành. Các chỉ huy địa phương Bắc Việt rõ ràng là đã có lý khi quyết định tấn công cảnh cáo.

    **************
    NLF : Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt nam
    PLAF : Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam

    Sự kiện vịnh Bắc bộ thuyết phục các nhà lãnh đạo Đảng rằng Washington quyết tâm leo thang chiến tranh. Vài ngày sau, Bộ chính trị quyết định gửi những đơn vị chủ lực chiến đấu đầu tiên vào Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh. Đến cuối năm, sư đoàn quân chủ lực đầu tiên đã vào đến chiến trường miền Nam, chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công cuối cùng mùa xuân năm 1965. Lãnh đạo đảng vẫn hy vọng có thể lật đổ chính quyền Sài gòn trước khi Mỹ có thể can thiệp. Sau cuộc họp bộ chính trị, Lê Duẩn đã bay sang Bắc kinh để tham khảo ý kiến về quyết định của mình. Mao cũng cho rằng tình hình miền Nam chưa thuận lợi cho một giải pháp chính trị và có thể phải tiến hành một cuộc chiến tranh du kích kéo dài. Chính quyền Trung Quốc cũng kích động những cuộc biểu tình chống Mỹ rộng rãi. Quân đội Trung Quốc ở miền Nam được đặt trong tình trạng báo động. Mao và các quan chức khác công khai phát biểu sẽ giúp đỡ Việt nam, cho dù cuộc chiến có thể kéo dài 100 năm, “Rừng xanh còn đây, lo gì thiếu củi”.. Tuy nhiên Việt nam cũng đã khéo léo từ chối đề nghị của phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình sẽ giúp đỡ mạnh mẽ hơn nữa nếu Việt Nam chấm dứt quan hệ với Liên xô.


    Ngược lại với Trung Quốc, sự kiện vịnh Bắc bộ làm xấu đi mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên xô. Khi Duẩn đến thăm Moscow vào giữa tháng 8, sau khi thăm Bắc kinh, L.Xô đã chỉ lập lờ lên tiếng lên án Mỹ, đồng thời kêu gọi đàm phán hòa bình và trì hoãn việc công nhận NFL là đại diện chính thức của miền Nam Việt nam. May mắn, tình hình lại thay đổi. Mùa thu năm đó, phái Breznhev đã lật đổ Khrutxov, đưa Breznhev lên làm Tổng bí thư. Ngày 16/10, Hà nội gửi điện chúc mừng Breznhev, ngay ngày sau đó lại khéo léo gửi điện chúc mừng Trung Quốc thử thành công vũ khí hạt nhân. Hồ và các đồng chí hy vọng Ban lãnh đạo mới của L.Xô có thể trợ giúp về mặt quân sự và giúp Việt nam duy trì được mối quan hệ cân bằng giữa hai cường quốc. Tháng 11, Phạm Văn Đồng sang thăm Moscow để đánh giá tình hình. Chuyến thăm được đánh giá tốt. L.Xô hứa sẽ tăng viện trợ và hỗ trợ nếu Mỹ mở rộng chiến tranh ra phía Bắc, cho phép NLF được mở văn phòng đại diện tại Moscow. Việt nam đã có được sự ủng hộ của cả hai đồng minh quan trọng nhất của mình cho cuộc chiến mới.


    Mùa thu năm 1964, tình hình Sài gòn rất không ổn định. Các phe phái đua nhau đấu đá dành quyền lực mặc cho Mỹ hết sức tức giận. Thiếu sự chỉ đạo từ phía trên, quân đội Sài gòn ở địa phương chẳng buồn tác chiến, một số thậm chí còn lén lút thỏa thuận với lực lượng Việt Cộng hoạt động trong vùng. Báo cáo của CIA khẳng định nếu không có những hành động kiên quyết từ phía Mỹ, Sài gòn sẽ sụp đổ trong vòng từ 3 đến 6 tháng. Hà nội cũng có vẻ đồng quan điểm, kêu gọi các đồng chí miền Nam tập trung nỗ lực để dành thắng lợi cuối cùng. Để cảnh báo Mỹ về những thiệt hại nếu liều lĩnh tham chiến, Việt Cộng đã tấn công căn cứ không quân Biên hòa, giết 4 lính Mỹ, làm bị thương hơn 30. Trong dịp Noel, khách sạn Caravel bị đánh bom. Bom cũng nổ tại Brink’s BBQ bên kia phố, giết chết 2 lính Mỹ. COSVN không lạc quan lắm vì cho rằng PALF chưa đủ sức đánh lớn. Tháng 12, Việt Cộng đánh trận Bình Giã, chứng tỏ khả năng PALF có thể tiêu diệt một lực lượng lớn quân chủ lực của Sài gòn. Ngay cả cẩn thận như Hồ cũng phải thốt lên: “Bình Giã là trận Điện biên phủ thu nhỏ”. Trong thư gửi Thanh tháng 2, Duẩn thúc giục tấn công trước khi Mỹ quyết định có gửi quân bộ hay không. Khi đó Việt Cộng sẽ có thế mạnh để đàm phán về việc Mỹ rút quân. Mặc dù không bảo đảm thắng lợi, Duẩn dẫn lời Lênin: “Hãy hành động sẽ biết”.

    ****************
    NLF : Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt nam
    PLAF : Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
    COSVN: Văn phòng Trung ương Cục miền Nam

    Hà nội đã hành động hơi muộn. Ngày 7/2, Việt Cộng tấn công trại lính đặc nhiệm tại Pleiku, giết 8 lính Mỹ và làm bị thương gần 100. Sáu ngày sau, Johnson hạ lệnh cho máy bay ném bom trả đũa trên khắp miền Bắc, kể cả một số thành phố. Tháng 3, hai tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ đổ bộ vào Đà nẵng. Ngay sau đó, 2 tiểu đoàn nữa được tiếp viện. Tướng W.Oetmolen, tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt nam kêu gọi nhanh chóng tăng quân để ngăn chặn Việt Cộng chiếm đóng miền Nam.


    Đầu tháng 2, Kosugin thăm Hà nội, hứa sẽ tăng cường viện trợ quân sự, bao gồm cả tên lửa đất đối không và pháo cao xạ. Việt nam hứa sẽ kiềm chế chiến tranh trong phạm vi miền Nam và tìm kiếm các giải pháp hòa bình. Trung Quốc có vẻ không hài lòng và từ chối ra tuyên bố chung cùng với L.Xô ủng hộ Việt nam, khiến Hà nội rất tức giận. Tháng 3, Chu Ân Lai sang Việt nam giải thích, sở dĩ Trung Quốc từ chối vì chính sách của Liên xô chẳng qua là “xét lại” được ngụy trang. Chu cũng khuyên Việt Nam không nên nhận viện trợ quân sự của L.Xô, nói bóng gió rằng điều đó có thể ảnh hưởng đến quan hệ Trung - Việt.


    Ngày 26/3, Hội nghị trung ương lần thứ 11 được nhóm họp. Đến lúc này, quy mô can thiệp của Mỹ đã rõ, tuy nhiên Hà nội vẫn chưa nắm được mục tiêu cuối cùng của Mỹ. Một số cho rằng Mỹ muốn diễu võ giương oai để có thể đàm phán trên thế mạnh. Theo Hồ, tình hình nguy hiểm hơn nhiều vì cho rằng có thể Mỹ đã quyết định chấp nhận cứng rắn ở miền Nam Việt Nam. Hội nghị ra nghị quyết hăm dò khả năng đàm phán của Mỹ. Ngày 22/3, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt nam thông báo trên đài phát thanh Giải phóng về đề nghị 5 điểm, mấy ngày sau đài Hà nội đưa lại, có thay đổi đôi chút không đòi hỏi Mỹ phải rút hết mới đàm phán mà chỉ cần Mỹ hứa. Ngày 8/4, Phạm Văn Đồng đưa ra tuyên bố 4 điểm: rút hết quân đội nước ngoài, tuân thủ các điều khoản của hiệp định Geneva, giải quyết vấn đề miền Nam theo cương lĩnh của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt nam, tiến tới thống nhất đất nước một cách hòa bình. Washington tỏ ra cứng rắn. Trong lúc Đồng con đang chuẩn bị bản tuyên bố của mình, Johnson đã ra lệnh đưa thêm 2 sư đoàn vào Việt nam. Ngày 7/4, tại trường Đại học John Hopkins, L.B.Johnson tuyên bố chỉ đàm phán mà không có bất cứ một nhượng bộ nào. Thái độ của Mỹ càng làm cho phe chủ chiến trong Đảng tin rằng vấn đề sẽ được giải quyết trên chiến trường chứ không ở trên bàn đàm phán như Hồ hy vọng. Trong thư gửi cho Thanh, Duẩn nêu rõ: “Chỉ khi nào nổi dậy thành công mới có thể đặt lại vấn đề một chính phủ trung lập”


    Vai trò của Trung Quốc trở nên đặc biệt quan trọng khi cuộc chiến bắt đầu leo thang đầu năm 1965. Không những cung cấp viện trợ quân sự và kinh tế với tư cách là “hậu phương lớn”, Trung Quốc nhiều lần tuyên bố sẽ trực tiếp tham chiến nếu Mỹ xâm lược miền Bắc, mang lửa chiến tranh trực tiếp đến Trung Quốc. Mao lúc này đang bận rộn chuẩn bị cho cuộc thanh trừng nội bộ lớn, lợi dụng Việt nam như cái cớ để kích động tinh thần cách mạng trong nước, đồng thời dúi Mỹ sa lầy vào một cuộc chiến “unwinable”. Khi tiếp Hồ tại Bắc kinh tháng 5/1965, Mao hứa “sẽ giúp tất cả những gì có thể”, gửi các đội xây dựng thiết lập mạng lưới giao thông từ biên giới Trung Quốc, thậm chí cả đường mòn Hồ Chí Minh và hệ thống đường từ Bắc Lào (để “chuẩn bị cho những trận đánh lớn sau này”, như Mao nói). Hồ đã hết lòng
    cám ơn “tình anh em đồng chí của Trung Quốc”, hứa Việt Nam sẽ tự lực chiến đấu.


    Cùng lúc đó, Bắc kinh cũng không tìm cách đối đầu trực tiếp với Mỹ. Trong cuộc phỏng vấn của nhà báo Mỹ Edga Snow hồi tháng Giêng, Mao đã tuyên bố không tham gia chiến tranh nếu không bị tấn công trực tiếp, qua đó gián tiếp không phản đối việc Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự chỉ ở miền Nam. Tháng 4, Chu Ân Lai cũng gửi điện riêng cho tổng thống Pakistan Abu Khan, thông báo rằng Trung Quốc sẽ không tìm cách gây chiến với Mỹ mà chỉ hoàn thành nghĩa vụ quốc tế với VNDCH. Tháng sau, tướng Dũng ký hiệp ước quân sự tại Bắc kinh, theo đó, nếu tình hình không đổi, Việt Nam sẽ phải tự chiến đấu. Nếu Mỹ yểm trợ không quân và hải quân cho quân đội Sài gòn tấn công miền Bắc, Trung Quốc cũng sẽ yểm trợ không quân và hải quân. Nếu Mỹ tiến công trực tiếp miền Bắc, Trung Quốc sẽ đưa bộ binh tham chiến tuy theo yêu cầu của chiến trường. Tháng 7, Lâm Bưu từ chối cung cấp phi công chiến đấu cho Việt nam, làm Duẩn rất giận, liền đi thăm Moscow và gọi Liên xô là “tổ quốc thứ hai”


No comments: