Wednesday, February 25, 2015

NGUYỄN CHÍ THIỆP * TRẠI KIÊN GIAM I

Thiên hồi ký Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp


Thiên hồi ký Trại Kiên Giam đưa chúng ta trở về với những trang sử đau thương của dân tộc; mở đầu bằng ngày 30 tháng Tư năm 1975; ngày mà hàng triệu người phải rời xa đất Mẹ; ngày mở đầu một địa ngục cho hàng trăm ngàn chiến sĩ, quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa bất khuất. Thiên hồi ký Trại Kiên Giam trình bày tất cả những bi thảm của một trong những trại tù kiên cố cộng sản được gọi là cải tạo và những khổ đau bất hạnh trong một xã hội có nhiều tầng địa ngục được gọi là thiên đường…

Nguyễn Chí Thiệp sinh năm 1944 tại Quảng Nam, học các trường Phan Chu Trinh Ðà Nẵng và Chu Văn An Sài Gòn. Tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh 1965 – 1969, trường Bộ Binh Thủ Ðức 1966, Chính Trị Kinh Doanh Ðà Lạt 1970.
Năm 1975 không trình diện học tập, bị bắt tháng 9 năm 1976 trong khi chuẩn bị vượt biên. Bị giam tại các trại giam Sở Công An Thành Phố, Phan Ðăng Lưu và Chí Hòa. Cải tạo lao động tại các trại Z-30A Long Khánh, A-20 Xuân Phước Phú Yên. Ðược thả tháng 2 năm 1988. Vượt biên đến đảo Pulau Bidong, Mã Lai, tháng 5 năm 1988. Cư trú tại Hoa Kỳ từ tháng 10 năm 1989.


Trân trọng giới thiệu đến quý độc giả và thính giả khắp nơi thiên hồi ký Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp.

 INDEX

Chú hỏi tôi: “Cháu có biết tại sao Bác Hồ chết không?”
Tôi lắc đầu, chú nói ngay: “Vì Trận Mậu Thân”. Bác Hồ tin tưởng lần đó miền Bắc sẽ chiến thắng nên Bác ra lệnh cho dồn hết lực lượng để Tổng Tấn Công. Kết quả thảm hại, có sư đoàn bị tiêu diệt chỉ còn hơn 30 người chạy được về hậu phương. Được tin thất trận, Bác Hồ đã thổ ra huyết, từ đó Bác yếu dần cho đến chết vào mùa Thu năm 1969. .......Tướng Giáp được lệnh lên nghỉ mát sáu tháng ở Việt Trì, đó là hình thức cải tạo dành cho các nhân vật đầu não.
 Xuân Diệu tham nhũngNhà máy biếu tôi cái gì nào?”
(Ch I)









Phần Mở Đầu

Quyết định không ra đi trước ngày 30-4-75 là một quyết định sai lầm lớn nhất trong đời tôi. Tôi phải trả một cái giá đắt gồm 16 tháng trốn lánh trong lo âu hồi hộp, 12 năm đầy đọa từ nhà tù này đến nhà tù khác, một lần vượt biển và một năm rưỡi ở trại tỵ nạn.
Tôi mất hơn 15 năm, cuối cùng tôi cũng phải tìm đến Mỹ, điều tôi có thể làm được trước khi miền Nam bị Cộng sản xâm chiếm. Vừa đến nơi một người bạn đã cảnh giác tôi – Đừng xem nước Mỹ là một thiên đường – Tôi không hề xem nước Mỹ là một thiên đường – chỉ có ở nước Cộng sản mới có thiên đường vì ở đó có nhiều tầng địa ngục. Tôi đã ở tận cùng các địa ngục đi ra. Tôi không đi tìm một thiên đường, nhưng tôi đã biết là phải chọn giữa một hoàn cảnh cực kỳ xấu và một hoàn cảnh ít xấu hơn, chỉ giản dị thế thôi.


Thực tại cuộc sống đã trả lời điểm tranh luận của các nhà triết học là: vật chất hay tinh thần. – Vật chất là yếu tố cần thiết để tạo ra cuộc sống, nhưng khi vật chất đầy đủ một cách tương đối thì con người cần nhu cầu cao hơn, là sự thỏa mãn tinh thần.


 Có thể đó là sự khác nhau giữa con người và con vật. Karl Marx đã đem cả đời để đọc để viết, kiến thức của ông bao gồm cả kho tàng triết học Đức, kinh tế học Ăng Lê và xã hội học Pháp, ông đã dùng duy vật biện chứng để truyền bá duy vật sử quan. Những khám phá về thặng dư giá trị một thời tưởng như là kinh điển, tất cả đều là những lầm lẫn của bộ óc được xem là phi thường. Khi con người dùng cái trí, dù cái trí được rèn luyện, được xem là lỗi lạc vẫn bị giới hạn, và khi sự phán đoán dựa trên lý trí nếu càng sai lầm càng tai hại, chỉ có cái tâm là không giới hạn. Có thể đó là sự khác biệt giữa các tôn giáo và Cộng sản chủ nghĩa. Các tôn giáo dùng tình thương để truyền bá giáo điều. Karl Marx và Lenine muốn lập nên một tôn giáo nhưng tôn giáo dùng hận thù làm động lực chính.


Trong một hướng khác của cuộc sống, ở các trại tù Cộng sản (gọi là trại lao động cải tạo), người tù cũng chứng minh được giá trị tinh thần vượt trên giá trị về vật chất bằng chính bản thân họ, không ai tưởng tượng được có những người tù đã sống được đến hơn ba năm trong xà lim tối với một chén cơm nhỏ, chén khoai mì và nước muối mỗi ngày. Sống hay chết của những người tù trong xà lim Kiên Giam trại Xuân Phước (A-20) chỉ giải thích được là ai còn niềm tin vào giá trị tinh thần nào đó mới có thể kéo dài sự sống, ai mất niềm tin thì chết. Niềm tin đó có thể từ tôn giáo, từ một ý thức chính trị là chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ và dân tộc Việt Nam sẽ được phục hưng hay niềm tin vào sự yêu thương giữa con người và con người. Đó là những bài học đơn giản, thực nghiệm bằng máu và nước mắt để đả phá cái lý luận cốt lõi của triết học Cộng sản, triết học duy vật.


Nay, lý thuyết Cộng sản đã bị vứt vào sọt rác của lịch sử và chế độ Cộng sản đã sụp đổ. Hệ thống Cộng Sản quốc tế rã ra từng mảnh và lần lần bị xóa bỏ. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Cộng Sản Đông Âu dễ dàng và nhanh chóng đến nỗi làm cho người ta phải sửng sốt bàng hoàng, những nhà lãnh đạo các cường quốc nhiều khi còn không dấu được sự lúng túng trong việc thay đổi chính sách ngoại giao.


Thật đơn giản, chế độ Cộng sản không bị đánh sụp bằng những đạo quân hùng mạnh, với những vũ khí tối tân từ bên ngoài, mà bị đánh sụp bằng những cuộc biểu tình của dân chúng tại nước họ trong đó có cả những người từng là đảng viên Cộng sản. Chế độ Cộng sản chỉ còn là ngắc ngoải tại Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba và Việt Nam, cái đau đớn của người Việt Nam và trớ trêu của lịch sử dân tộc Việt Nam là chiến trường ác liệt nhất của cuộc chiến tranh ý thức hệ. Người quốc gia dù chỉ được lãnh đạo một cách lờ mờ, vẫn kéo dài cuộc chiến đấu nghiêng ngửa gần 30 năm, để rồi sau khi người chiến sĩ chống Cộng Việt Nam, chiến trường chống Cộng cuối cùng sụp đổ thì kẻ thù chung của nhân loại cũng từ từ bị hủy diệt trong tan rã.


Ngày 30-4-1975 Saigon sụp đổ, tôi nghĩ giải pháp đẹp nhất cho người chiến sĩ tự trọng là tự xử không đầu hàng giặc; tôi hèn, không đủ can đảm để làm một chiến sĩ tự trọng, nên tôi phải kéo lê tấm thân càng ngày càng tàn tạ từ nhà tù này đến nhà tù khác, mỗi ngày phải nuốt nhục cúi đầu. Giải pháp hào hùng nhất cho người chiến sĩ kiên cường sau một lần thất bại là tạm lui, ẩn nhẫn chờ thời, trui rèn tài đức để phục hận, tiêu diệt quân thù đem vinh quang về cho tổ quốc.


 Tôi không đủ bản lãnh để làm một chiến sĩ kiên cường nên khi ra khỏi nhà tù tôi vội vã bỏ nước ra đi. Lần ra đi không phải để chạy trốn, không phải để tìm cho mình một điều kiện vật chất mà mình thiếu. Mười hai năm tù, thiếu thốn những vật chất tối thiểu, có những lúc thèm ăn một cục muối, một cục đường, một hơi béo. Thèm, từ ngữ diễn tả cảm giác rất sơ đẳng gần như hạ tiện của con người; Tôi đã từng thèm rất nhiều thứ; nhưng rồi cũng quen, đúng quen, sự thỏa hiệp kỳ diệu với hoàn cảnh, để cho con người tù sống, và giải thích được lý do tại sao người tù trong chế độ Cộng Sản có thể sống được trong những điều kiện mà khi kể lại người bình thường rất khó tin, cứ tưởng là người tù khoa trương sự thật.

Thời gian ở tù tôi sống chung với hàng ngàn, hàng ngàn chiến sĩ bất khuất của hàng trăm tổ chức chính trị và vũ trang chống lại chính quyền Cộng sản sau tháng 4-1975. Nhiều lúc phải hổ thẹn trước tư cách của một đứa em nhỏ hay sự bình thản khi nhận lãnh án tù từ 20 năm hay chung thân của một người trước kia là nông dân, là công nhân hay là một binh sĩ, những người không từng được hưởng một ân huệ nào của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa nếu không nói là chính họ là nạn nhân của những bất công trong chế độ đó. Chính là nhờ sự hổ thẹn đó, tự thấy mình có lỗi, cũng từ đó tôi tạo được niềm tin, tin vào tương lai của dân tộc, một dân tộc Việt Nam kỳ diệu, không ai hiểu nổi tại sao tồn tại được.


Ngoại nhân không ai hiểu được dân tộc Việt Nam tại sao tồn tại khi chỉ tìm hiểu hoặc tiếp xúc một thành phần xã hội nào đó, nhất là thành phần trí thức và thành phần nắm quyền. Họ không hiểu được sức sống của dân tộc Việt Nam là sức mạnh tiềm tàng trong quảng đại dân chúng. Sức mạnh tiềm tàng đó trong điều kiện lịch sử được kết hợp lại thành một lực lượng có lãnh đạo tốt thì sẽ đánh đuổi được ngoại xâm và xây dựng đất nước phú cường; ngược lại, khi chưa có điều kiện tập hợp thì nó tiềm phục làm sức sống cho dân tộc tồn tại ươm chồi chờ điều kiện trỗi dậy thành rừng gỗ quí. Tôi vội vã ra đi vì tôi nghĩ là trong nước chưa có điều kiện tập hợp.


Tôi nghĩ đến những người ra đi trước, làm gì không có chiến sĩ kiên cường khi thất bại tạm lui ẩn nhẫn chờ thời và, sức mạnh của lòng yêu nước thiết tha của con người Việt Nam trong những người Việt Nam hải ngoại. Tôi nghĩ là thời gian gần mười lăm năm, điều kiện vật chất và gia đình được đầy đủ, tương lai con cái được bảo đảm xán lạn, mỗi người Việt Nam lưu vong hải ngoại đều xác định được rõ thế nào là tình yêu nước, và ai cũng mơ ước một ngày về xây dựng quê hương để tự chứng tỏ mình là một chiến sĩ kiên cường, không phải là kẻ trốn chạy, không tổ quốc.


Bây giờ 1990, viết về nhà tù Cộng sản hay tranh luận lý thuyết Cộng sản quá chậm. Tôi chỉ mong ghi lại đây như là một chứng tích của một đời đã qua. Bằng lời lẽ thô thiển mộc mạc, ghi lại để nhớ ơn cha mẹ, vợ, chị, các em và những người thân đã giúp cho tôi có thể sống được và làm kỷ niệm đối với bạn bè đã cùng sống với nhau những ngày gian khổ.
Nguyễn Chí Thiệp
http://www.freevietnews.com/traikiengiam/


CHƯƠNG 2

Theo quân Bắc Việt, cán bộ các ngành vào tiếp thu các cơ sở ở miền Nam, những người Cộng Sản Tập Kết được ưu tiên vào Nam thăm gia đình. Người ta đã nói nhiều đến sự nghèo đói và dốt nát của cán bộ miền Bắc, nói đến những sự giúp đỡ của bà con miền Nam đối với thân nhân miền Bắc vào thăm. Người Nam nhận họ, người Bắc nhận hàng.

Trước khi vào Nam, các cán bộ phải học tập những điều phải làm, phải nói để bà con miền Nam tin là miền Bắc là ưu việt, là xã hội phát triển tiến bộ. Những buổi sinh hoạt công khai cán bộ cứ theo chỉ thị mà nói, mà vẽ nên cái thịnh vượng của miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, còn miền Nam chỉ là phồn vinh giả tạo. Từ đó đồng bào miền Nam đã được nghe nói miền Bắc cái gì cũng có dư thừa như tủ lạnh thì chạy đầy đường, kem thì dư quá phải đem phơi khô không hết.

Cán bộ miền Bắc làm nhiệm vụ của mình đối với Đảng, đối với nhà nước, nhưng với bà con trong gia đình thì họ thì thầm nhỏ to nói hết sự thật. Họ dặn dò bà con không nên bán đồ đạc trong nhà, nếu có tiền thì mua thêm, nên mua vàng bạc nữ trang cất giấu vì tiền giấy không có giá trị và bị thay đổi thường xuyên, không nên tồn trữ cồng kềnh sẽ bị kiểm tra tịch thu. Phải bám lấy Saigon và tỉnh lỵ, không đi vùng kinh tế mới, nếu buộc phải làm thì trì hoãn. Lời dặn bám Saigon và tỉnh lỵ không đi kinh tế mới là lời dặn có ích cho dân miền Nam.


Trong buổi giao thời, lòng hoang mang lo sợ, nhiều người chuẩn bị rời thành phố về quê, bởi lẽ thay đổi cuộc sống đột ngột, hầu hết cứ tưởng ở Saigon không phương kế sinh nhai, cực khổ gì cũng phải tìm mảnh vườn, đám ruộng làm nếp sống cơ bản. Vả lại, ai cũng nghĩ lệnh của nhà nước Cộng Sản là nghiêm lệnh không thể không thi hành.
Bà con miền Bắc còn dặn không bao giờ tự giác nhận tội, tự giác nhận lãnh công tác như lời tuyên truyền khuyến dụ vì “tự giác là tự sát”. Theo bài học sơ khởi của bà con, cái hạng nhất là thái độ “ù ơ ví dầu” “nước chảy hoa trôi” dù có bị phê bình là tiêu cực, luôn luôn nhất trí, không cãi lại, vì cãi lại là phản động – “nhất trí nhưng cứ mỗi người một ý ”, nhất lý, nhì ù lì, đó là những thái độ sống thích ứng do bà con có kinh nghiệm truyền cho.


Chú Bình đến nhà tôi vào buổi chiều có mưa nhẹ, mới 5 giờ chiều mà mọi nhà đều đóng cửa. Đường Hùng Vương, Thị Nghè một trong những con đường chính từ miền Đông và miền Trung vào Saigon vắng tanh, thỉnh thoảng mới có một xe bộ đội hay công an chạy qua. Chỉ có những con chó đói của những gia đình di tản bỏ lại chạy đi bới những đống rác một cách tuyệt vọng, chỉ thời gian ngắn mà Saigon đã dè sẻn miếng ăn, không vất bừa bãi như trước.

Khi thấy bóng dáng người cán bộ Việt Cộng mặc áo mưa, đội nón cối đi lại trước nhà, ba tôi tái mặt, ông bảo tôi mở cửa sau đi ra khỏi nhà. Mấy hôm nay có nhiều trường hợp bắt bớ, nhất là những tên công an Liên Khu 5 vào Saigon bắt những viên chức phục vụ các tỉnh miền Trung. Tuy tôi đã rời Quảng Nam hơn hai năm nhưng tôi người địa phương ngoài đó, biết đâu không ở trong danh sách truy tìm của họ. Ai cũng biết tính quá khích của Việt Cộng ở các tỉnh miền Trung. Cán bộ Việt Cộng có nhiều quyền sinh sát nên họ tàn sát tùy tiện bừa bãi nhiều trường hợp chỉ là những hiềm thù cá nhân. Trong những ngày đầu tháng 4-1975, các tỉnh miền Trung từ Quảng Nam đến Phú Yên đã tắm máu, nạn nhân là viên chức cấp thấp như xã ấp, cảnh sát không chạy được về Saigon trước khi toàn miền Nam sụp đổ.


Ba tôi ra mở cửa, người khách giới thiệu lý lịch một lúc ông mới nhận ra bà con. Chú Bình là chú họ của tôi. Lúc nhỏ gia đình khá giả, chú được cho vào “vùng tự do” để học ở trường Lê Khiết – Quảng Ngãi. Năm 1954 chú tập kết ra Bắc. Ba tôi tiếp khách một cách lạnh nhạt, ông không thích “những người bên kia” dù là bà con trong thân tộc. Sợ mếch lòng khách, tôi bước ra cố gắng vồn vã chào hỏi. Câu hỏi đầu tiên của chú làm tôi ngạc nhiên:
– Tại sao cháu không đi Mỹ? Về đến Đà Nẵng, gặp chị (mẹ tôi) nói cả gia đình ở lại Saigon. Cháu không đi nước ngoài thật vô lý.
Tôi không biết nói thế nào cho phải. Chú nói tiếp:
Cháu có biết có nhiều cán bộ đi theo đoàn quân về Nam chỉ muốn mặt trận cầm cự được thời gian để họ kịp ra hồi chánh, rồi chạy đi ngoại quốc không? Thà ra ngoại quốc hốt cứt ngựa còn hơn là ở lại trong nước.
Tôi vẫn dè dặt:
– Đã có hòa bình rồi, ở lại trong nước mà sống như người dân bình thường, họ nỡ giết chết sao?



Chú xẵng giọng:
– Làm sao sống như người bình thường được, Xã Hội Chủ Nghĩa không có người dân nào là dân bình thường cả. Tất cả đều phải ở trong một bộ máy, người bị gạt ra khỏi guồng máy là phản động, phải bị chuyên chính, phải đi cải tạo thôi. Cháu là viên chức cao cấp của chính quyền, sao không hiểu gì chế độ Cộng sản hết.
Bị chê trách kém hiểu biết về Cộng Sản, tôi cảm thấy hơi tự ái nên tôi cãi lại:
– Cháu cũng có biết là Cộng Sản độc tài, tàn ác, vô nhân đạo, nhưng chạy ra ngoại quốc thấy nhục và phiêu lưu quá, vả lại chính sách 10 điểm của Mặt Trận Giải Phóng và Hiệp Định Paris có quy định là không trả thù.

– Cháu đừng nghĩ trả thù chỉ là giết chết – họ sẽ không giết nhưng họ sẽ đưa đi các trại tập trung cải tạo không có ngày về. Chú tưởng người như cháu không nên tin vào sự hứa hẹn trong chính sách hòa hợp hòa giải của chính phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam – mà chính phủ này có quyền hạn gì đâu – tất cả đều được quyết định từ ngoài Bắc. Cháu có biết là khi tin miền Nam được hoàn toàn giải phóng, dĩ nhiên ngoài Bắc người ta mừng rỡ, nhưng bên cạnh những người vui mừng chiến thắng có những người đã khóc. Những người họ mong chờ miền Nam ra giải phóng cho họ khỏi đời sống tối tăm như trong ngục tù.

Những lời trách móc của chú Bình làm cho tôi cảm thấy sững sờ và càng tăng thêm lo sợ.

Bữa cơm xoàng trong gia đình làm chú xúc động. Thấy mấy em nhỏ vào bữa cơm chào mời lễ phép chú khóc. Ngoài Bắc đã mất những hình ảnh đó từ lâu rồi. Giáo dục miền Bắc chỉ dạy trẻ con trung với Đảng, hiếu với dân, họ muốn vô hiệu hóa gia đình nên chỉ dạy trẻ con tinh thần đấu tranh, đấu tranh từ bản thân đến cha mẹ, anh em. Phần vì chủ trương đường lối, phần vì cuộc sống, cha mẹ không gần gũi con cái trong sinh hoạt của chúng nên trẻ em ngoài Bắc rất mất dạy, chúng không còn biết tôn trọng cha mẹ hay thầy cô giáo.


Nhiều đứa trẻ mới 13, 14 tuổi đã biết chọc cô giáo với những lời lẽ tục tĩu. Tình trạng nhà ở chật chội, những gia đình đông đúc sống chui rúc, nên trẻ con suốt ngày đánh lộn, chưởi bới nhau, học hành chỉ là một hình thức không có phẩm chất bao nhiêu.
Chú Bình bảo tôi ngây thơ và hiểu biết về Cộng Sản quá ít khi tôi hỏi về chủ trương một trăm năm trồng người của ông Hồ tạo dựng con người Xã Hội Chủ Nghĩa, để xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Chú nói Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa là làm cách mạng để thay đổi quan hệ sản xuất trong xã hội, cách mạng văn hóa thay đổi tương quan giữa người và người. Nên phải đả phá nếp sống cũ, thay vào tư tưởng mới, con người hy sinh cá nhân cho tập thể . Tập thể, một chủ thể mơ hồ được gọi là nhân dân, nhưng nhân dân không phải là mọi người mà là Đảng. Vì Đảng là tổ chức tiền phong của giai cấp công, nông dân – thành phần cốt lõi của nhân dân.


Đảng chủ trương phá bỏ luân lý cũ, phá vỡ trật tự xã hội, đưa trẻ con ra ngoài xã hội, nhưng Đảng lại quá tham lam, họ muốn sử dụng đứa trẻ mà không cưu mang nó, bắt gia đình phải nuôi nó, Đảng chỉ dạy cho nó hận thù và những phương pháp đấu tranh. Họ phủ nhận tình thương giữa con người với nhau.

Kết quả là tạo nên những quái thai của thời đại. Chú nói những con người Cộng Sản thế hệ kháng Pháp còn chịu ảnh hưởng của luân lý cũ nhưng họ phải giấu kín cái đức tính đó, còn người Cộng Sản ở thế hệ mới lớn lên sau Hiệp Định Genève, gọi là thế hệ trẻ thì hoàn toàn hư hỏng.


Tôi hỏi: “Sau khi chiếm được miền Nam, chính sách đối với lớp trẻ thế nào?”
Chú Bình: “May ra họ tin vào lớp trẻ dưới 10 tuổi và dĩ nhiên là con cái của gia đình trong sạch, không nằm trong giai cấp bị chuyên chính tức là những gia đình liên hệ tới chế độ cũ và gia đình trí thức, tư sản”.

Tôi thấy nhói ở tim và buốt trong óc. Những tài liệu đọc về Cộng Sản đều đúng, nhưng tôi không tin mấy, vì nó quá tàn nhẫn và dã man đến độ khó tin, nhưng là sự thật. Những đứa em nhỏ, những đứa con của tôi, chắc chắn sẽ không được tiếp tục học lên lớp cao, và sẽ bị khó dễ rất nhiều trong việc đi tìm ngành nghề cho đời sống. Lúc đó tôi mới biết hết hậu quả của một quyết định sai của tôi. Ở lại, không những tôi bị tù đầy, mà gia đình tôi cũng bị trả thù bằng chính sách phân biệt đối xử. Tôi đã nghĩ một cách sai lầm là nếu tôi có bị hoàn cảnh lịch sử bỏ rơi, thì con em tôi còn nhỏ có thể được lớn lên như là một người Việt Nam bình thường. Tôi bắt đầu thấy chính sách trả thù của Cộng Sản còn độc ác hơn là tắm máu.


Chú Bình tiếp: “Ở miền Bắc người ta đều hiểu sai về miền Nam, hệ thống tuyên truyền của Hà Nội đã mô tả xã hội miền Nam cực kỳ xấu xa, lạc hậu và nghèo đói”. Khi được phép vào Nam chú lo lắng không biết lấy gì để đem về làm quà cho bà con – vì chú không có dư dả. Chú thím bàn nhau mãi mới quyết định trích phần tiền nhỏ nhoi để dành mua được 5 khăn tay, 4 hộp sữa nhãn hiệu Liên Sô viện trợ và hai ký muối, 5 khăn tay để làm quà cho 5 người cháu ruột ở Đà Nẵng, 4 hộp sữa và 2 ký muối làm quà cho gia đình anh ruột và gia đình tôi.


Khi lên xe đò chú giữ nâng niu món quà, tưởng tượng thân nhân sẽ vô cùng sung sướng. Đường quốc lộ số 1 lồi lõm đầy hố bom Mỹ, xe chạy tung bụi mờ mịt, có đoạn xe phải băng xuống ruộng vì khoảng quốc lộ đã bị bom phá nát không đi được. Qua khỏi Thanh Hóa chú mất cái khăn tay. Đường còn xa, bụi dơ bẩn, không thể nào không dùng một cái khăn. Đầu óc chú cứ phân vân, nếu dùng một cái khăn tay thì một người cháu ở Đà Nẵng không có quà.


Chú phấn đấu với bản thân, khi xe ngừng ở Vinh để hành khách rửa mặt giải lao, chú quyết định xé ngang vạt áo sơ-mi làm khăn lau để đảm bảo đủ 5 cái khăn cho 5 đứa cháu. Một quyết định lúc đó đối với chú thật quan trọng, chú phải hy sinh một cái áo “còn tốt” của chú để bảo vệ quà đủ cho người thân ở miền Nam. Xe qua Bến Hải vào đến Quảng Trị, chú Bình thoáng chút nghi ngờ, đường quốc lộ rộng thênh thang, thẳng tắp, rồi thành phố Huế khang trang hiện ra, chú tự hỏi nếu đời sống miền Nam cơ cực làm sao nhà cửa, phố xá, quốc lộ đều to lớn, mới mẻ nói lên một cảnh ngược lại những gì chú được học từ bấy lâu nay. Về đến Đà Nẵng, chú bắt đầu thấy rõ là mình bị lừa gạt. Về đến nhà người anh, chú sững sờ trước một ngôi nhà đồ sộ hai tầng, chú sợ lầm địa chỉ, đi tới, đi lui cả buổi không dám gọi cổng. Cuối cùng chú “đánh liều” bấm chuông cửa. Hơn 20 năm chú còn nhận ra người anh ruột.


Cuộc sống của gia đình người anh, một thương gia hạng trung ở Đà Nẵng đã làm chú choáng ngộp, phương tiện vật chất, xe hơi, xe Honda của các cháu, TV, tủ lạnh, quạt máy đầy đủ tiện nghi, tương quan trong gia đình tôn ti trật tự cha con, chồng vợ, anh chị em không khác thời nhỏ chú được dạy và giờ đây chú mới lại tìm thấy. Chú Bình đã khóc ngon lành trước sự kinh ngạc của mọi người.

Các món quà lúc đầu chú không dám đưa ra, nhưng cuối cùng để cho mọi người hiểu chú đem ra tất cả để trình bày mà không cần giữ lại 2 lon sữa và 1 kg muối cho gia đình tôi. Mọi người thương chú và cười ra nước mắt. Đồng thời lúc đó gia đình còn phát giác chỉ cho chú một điểm nhỏ của sự lừa bịp có hệ thống: Những lon sữa có nhãn hiệu Liên Sô thật ra là sữa Foremost sản xuất tại miền Nam, người ta đem về Bắc bóc giấy in nhãn hiệu Liên Sô dán vào nhưng chữ F đóng nổi ở dưới đáy hộp không xóa được.



Những ngày còn ở lại Saigon, mỗi chiều chú thường tới nhà tôi để nói chuyện, để trao đổi nhau những ý nghĩ của chúng tôi những người còn trẻ, tuổi tác gần nhau, có chút quan tâm đến đất nước, dù chú và tôi đã ở hai chiến tuyến và hiện chú là kẻ chiến thắng, tôi là người chiến bại.


Tôi lần lượt nêu những thắc mắc của tôi. Chú trả lời theo những sự hiểu biết của chú, có thể chủ quan, nhưng không xa sự thật.
Tôi hỏi chú, dư luận cho là nếu Bác Hồ còn sống thì sau khi chiếm miền Nam, chính sách sẽ cởi mở hơn vì Bác Hồ là người yêu nước và thương dân.

Chú Bình đáp ngay không do dự: “Bác Hồ là người yêu nước, có thể đúng, nhưng phải là nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa. Bác Hồ là người cách mạng rất quá khích, càng về già Bác càng quá khích hơn, Bác tha thiết muốn hoàn thành giải phóng miền Nam. Bác có hai ước mong là chiến thắng miền Nam thống nhất đất nước, và giảng hòa được sự mâu thuẫn giữa Liên Sô và Trung Quốc. Bác chết thì sự ước mong của Bác là được gặp hai vị tiền bối là Karl Marx và Lénine”.


Chú hỏi tôi: “Cháu có biết tại sao Bác Hồ chết không?”
Tôi lắc đầu, chú nói ngay: “Vì Trận Mậu Thân”. Bác Hồ tin tưởng lần đó miền Bắc sẽ chiến thắng nên Bác ra lệnh cho dồn hết lực lượng để Tổng Tấn Công. Kết quả thảm hại, có sư đoàn bị tiêu diệt chỉ còn hơn 30 người chạy được về hậu phương. Được tin thất trận, Bác Hồ đã thổ ra huyết, từ đó Bác yếu dần cho đến chết vào mùa Thu năm 1969.

Sau thất bại Mậu Thân, Bộ Chính Trị họp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm bản phúc trình xin rút quân để hòa đàm, vì ông ta nhận định không thể chiến thắng quân sự ở miền Nam.
Bác Hồ gọi ông Giáp nói: “Tôi đã đọc tham luận của chú. Chú theo tôi chiến đấu đã lâu, nay chú đã mệt mỏi, chú cần được nghỉ ngơi”. Tướng Giáp được lệnh lên nghỉ mát sáu tháng ở Việt Trì, đó là hình thức cải tạo dành cho các nhân vật đầu não.

Tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú, nói chuyện với chú Bình biết được nhiều sự việc quan trọng, nếu những việc chú trình bày có chủ quan không chính xác đến 100% thì ý nghĩa của nó khiến tôi cũng có thể nắm được điểm chủ chốt của xã hội miền Bắc mà không phải tốn nhiều thì giờ tìm hiểu.


Tôi hỏi dò:
– Hình như người ta đồn Tướng Giáp không còn nhiều thực quyền.
– Không những không còn nhiều, mà đã mất hết thực quyền. Tướng Giáp có uy tín nhiều trong quân đội, dư âm của chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn còn, vì người ta mãi khoa trương, nên nếu loại bỏ Tướng Giáp lòng quân và lòng dân sẽ hoang mang. Vả lại họ đang tranh thủ dư luận thế giới ủng hộ, mặt trận ngoại giao của họ rất quan trọng và quyết định chiến thắng. Trong hàng ngũ lãnh đạo miền Bắc, Tướng Giáp được công luận Tây phương biết đến nhiều nhất. Nếu loại bỏ Tướng Giáp, báo chí Tây phương sẽ viết ầm lên – dư luận sẽ bất lợi. Tướng Giáp còn bị tố cáo liên hệ đến một âm mưu chống đảng, có nguy cơ bị tước mất đảng tịch.


Tôi ngạc nhiên hỏi:
– Miền Bắc cũng có âm mưu chống đảng hay sao?
– Chống đảng là một hiện tượng hiếm có trong Xã Hội Chủ Nghĩa. Tướng Đặng Kim Giang và một số sĩ quan cao cấp ở Bộ Quốc Phòng như Tướng Đỗ Đức Kiên Cục Trưởng Tác Chiến, Nguyễn Minh Nghĩa Cục Trưởng Quân Báo, Lê Minh Nghĩa Chánh Văn Phòng Bộ Quốc Phòng, Ung Văn Khiêm, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao bị tố là có âm mưu chống lại đảng.

Ông Khiêm không bị giam vì không có bằng chứng xác thực, nhưng bị hạ tầng công tác và bị cô lập, các Tướng thì giam ở Hỏa Lò.
Những người trên không chủ trương dùng quân sự để thôn tính miền Nam, trái với chủ trương của Bác Hồ và những người lãnh đạo cao cấp như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh. Năm 1972 Mỹ ném bom khốc liệt, miền Bắc hết sức chịu đựng, dân chúng thán oán, chính quyền đã xử tử nhiều người để trấn an dư luận. Nhưng nếu Mỹ tiếp tục ném bom, có lẽ bộ chính trị phải đầu hàng. Nhưng Mỹ ngưng đúng lúc để miền Bắc tồn tại và ngày nay chiến thắng. Ngoài Bác Hồ ra, Trường Chinh là người quá khích. Nếu Trường Chinh làm Tổng Bí Thư hay Bác Hồ còn sống, chắc miền Nam đổ máu nhiều hơn.


Tinh thần quá khích của Bác Hồ thể hiện qua chính sách dùng người. Bác ra chỉ thị “Hồng trước chuyên sau”, “Hồng” tức là lòng trung thành với Đảng, “Chuyên” là khả năng chuyên môn.
Chính sách nhân sự đó làm cho miền Bắc càng khủng hoảng quản lý. Có hai hệ thống đảng, mỗi cơ quan có một đảng ủy, và hệ thống chính quyền – mỗi cơ quan, mỗi cơ sở dầy đặc cán bộ, chưa kể những lủng củng vì tranh chấp lãnh đạo, tranh chấp quyền lực, vì kém khả năng, vì tính cách thư lại, tính cách tập trung, nặng họp hành, trình báo giấy tờ, bộ máy chính quyền cồng kềnh hao tốn tiền của mà không đạt được hiệu năng. Dân thì đói nhưng nhà nước thì lãng phí, nhà nước hô hào tiết kiệm tăng năng suất, công nhân cứ làm việc qua loa hết giờ vì làm nhiều họ vẫn không có lợi, họ vẫn đói.


Bác Hồ cũng thực hiện chính sách nhân sự như các vua chúa thời trước. Chúa Trịnh dùng lính Tam Phủ Thanh Nghệ Tĩnh làm lính tâm phúc thì Bác Hồ cũng dùng người Khu Tư để lãnh đạo, người Bắc nói “Khu Tư lãnh đạo, Khu Năm quản lý”. Lực lượng công an, Bác chỉ thị phải có 50% là người Nghệ Tĩnh.

Qua lần nói chuyện với chú Bình tôi rõ hơn về Hồ Chí Minh, khởi đầu ông là người yêu nước như những người đồng thời với ông, ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng đất nước khỏi ách thực dân Pháp. Khi ông đọc Karl Marx và Lénine, ông tin là con đường cách mạng vô sản có thể đoàn kết toàn dân đuổi Pháp và xây dựng thành công một xã hội công bằng. Ông gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp, qua Liên Sô để học ở Trường Huấn Luyện Cán Bộ Quốc Tế Cộng Sản. Ông trở thành người Cộng Sản Quốc Tế mơ một thế giới đại đồng không có cảnh người bóc lột người. Nhưng con người luôn luôn bị giới hạn, giới hạn bởi hoàn cảnh môi trường sống, giới hạn bởi trí óc và lòng ham muốn quyền lực.


Khi trở thành người Cộng Sản Quốc Tế, nhìn Chủ Nghĩa Tư Bản là kẻ thù. Ông không thấy được Chủ Nghĩa Tư Bản không giẫy chết mà có nhiều tiến bộ và biến cải. Các nước tư bản lần lần giải quyết được nhiều vấn đề xã hội, hóa giải những mâu thuẫn đối kháng trầm trọng. Nhất là sau thời Đệ II Thế Chiến, phong trào giải thực buộc các đế quốc phải trao trả thuộc địa, nhiều quốc gia độc lập không cần phải đấu tranh bằng võ trang. Tương quan giữa nước phát triển và nước chậm phát triển được cải tiến nhiều, không còn là mối tương quan bóc lột lộ liễu nữa.

Quan trọng nhất là cuộc Cách Mạng Khoa Học Kỹ Thuật trên thế giới đã thay đổi tất cả bộ mặt của nhân loại làm cho đời sống của người công nhân ở xã hội tư bản được nâng lên, hàng hóa sản xuất cần người tiêu thụ mà khách hàng quan trọng của nhà tư bản không ai khác hơn là chính công nhân của họ.

Sự cách biệt về đời sống của nhân dân và công nhân thu ngắn lại, tương quan giữa chủ và thợ không còn là tương quan đối kháng mà sự hỗ tương lưỡng lợi. Người ta tìm được công thức hợp tác hai bên cùng có lợi.

Trên bình diện các quốc gia cũng vậy, không còn tương quan giữa đế quốc và thuộc địa – mà các quốc gia tiến bộ thấy cần phải giúp cho các quốc gia kém mở mang tiến bộ, trong sự tiến bộ đó, nước phát triển cũng tìm ra nguồn lợi của họ. Từ những thay đổi đó, lý thuyết Cộng Sản trở nên lỗi thời, hết đối tượng đấu tranh, nên chế độ Cộng Sản không phát triển và bành trướng ở các quốc gia kỹ nghệ hóa nên chỉ còn đất dụng võ ở các quốc gia nghèo đói, và các quốc gia chưa được độc lập.

Độc lập dân tộc là ước vọng thiêng liêng nhất của mọi người dân ở nước bị đô hộ. Đảng Cộng Sản Việt Nam của ông Hồ nắm được cơ hội đó tại Việt Nam nên đã thành công bước đầu. Nhưng độc lập dân tộc chỉ là một bước chiến lược. Xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội mới là cứu cánh. Nhưng Xã Hội Chủ Nghĩa đã lỗi thời, nên Đảng Cộng Sản thành công trong việc đánh ngoại xâm, nhưng thất bại trong việc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở miền Bắc. Miền Bắc tồn tại trong nghèo đói vì còn chiêu bài chống ngoại xâm ở miền Nam.

Đến nay, sau khi thắng miền Nam như Lê Duẩn đã nói Đảng Cộng Sản giương cao hai ngọn cờ, ngọn cờ độc lập dân tộc và ngọn cờ xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Thực tế ngọn cờ xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội núp bóng ngọn cờ độc lập dân tộc. Chiến thắng quân sự ở miền Nam nói theo từ ngữ là đỉnh cao của ngọn cờ giải phóng thì ngọn cờ xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội chắc chắn sẽ thất bại.
Một hôm khác nói chuyện với chú Bình, tôi hỏi về tình hình các đại học.

Chú hỏi tôi: “Cháu có tưởng tượng một người lao công quyết định giáo án của giáo sư đại học không?”
Tôi lắc đầu không biết.
Chú nói: “Tụi nó (Đảng Cộng Sản) ngồi xổm trên đại học. Vấn đề là mỗi năm giáo chức phải soạn giáo án rồi trình cho Đảng Ủy duyệt xét. Khi duyệt xét giáo án, nếu người giáo viên không có đảng tịch thì phải đứng ngoài. Trong khi Đảng Ủy gồm nhiều thành phần đảng viên trong đại học, trong đó có cả những người lao công quét dọn và những chị bán căng-tin. Chương trình học kém chất lượng, học sinh được tuyển lựa trên lý lịch nhiều hơn trên trình độ học vấn. Do đó “Cái bằng cấp đại học không còn có giá trị”.
Tôi hỏi: “Nếu cần tìm hiểu về miền Bắc, cần đọc sách gì?”

Chú Bình: “Chỉ cần đọc cuốn “Dưới Bóng Cờ Vẻ Vang Của Đảng, vì sự nghiệp cách mạng, vì chủ nghĩa xã hội” do Lê Duẩn viết. Trong hệ thống Cộng Sản, lời phát biểu của Tổng Bí Thư là chỉ thị, trong có những khẩu hiệu, các tác giả khác cứ theo đó mà viết, viết khác không có lợi, nhiều khi còn bị tội phản động”.
Nhân nói về sách vở, tôi hỏi qua về vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Chú nói: “Vụ Nhân Văn Giai Phẩm là cơn ác mộng mà hiện nay không ai dám nhắc tới”. Các tác giả thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống lại quan điểm lãnh đạo văn nghệ do Trường Chinh và Tố Hữu đề xướng.

Quan điểm của Nhân Văn Giai Phẩm được đa số đảng viên ủng hộ, khi thấy cuộc tranh chấp có nguy cơ làm tan vỡ tổ chức. Bác Hồ chỉ thị cho Trường Chinh dùng hệ thống nhân dân để chống lại. Các tổ dân phố, các hội đoàn nhân dân được đảng viên công an hướng dẫn thảo luận kết tội nhóm Nhân Văn Giai Phẩm là phản đảng và lập kiến nghị lên Bác thu đảng tịch, khai trừ đảng và đưa đi học tập cải tạo.
Bác Hồ không chỉ là thần tượng, Bác là vị Hoàng đế đầy oai quyền, tên của Bác là một từ ngữ úy kị – tiếng Người (viết hoa) chỉ dành riêng cho Bác.

Tôi hỏi: “Vậy bao nhiêu phần trăm dân chúng miền Bắc ủng hộ Đảng Cộng Sản?”
Chú Bình: “Chỉ có đảng viên cấp cao, những người có đặc quyền, đặc lợi thực tâm ủng hộ đảng – còn những người khác chỉ làm nhiệm vụ. Mỗi người đảng viên Cộng Sản thường có hai con người, con người đảng viên phải làm việc, suy nghĩ, nói theo lệnh của tổ chức, và con người thực của họ, họ phải che dấu thật kỹ con người thật, nếu không khi phát hiện một dấu hiệu sai lệch sẽ bị nâng quan điểm là phản động, họ sẽ bị trừng phạt. Trong chế độ Cộng Sản cố len lỏi để khỏi sai phạm, sai phạm phải cố che dấu để khỏi bị phát hiện, bị phát hiện phải chạy chọt cho khỏi bị bắt. Nếu đã bị bắt thì hết phương cứu”.

– Tại sao người ta bất mãn mà không có chống đối tích cực?
– Không chống đối vì sức đối kháng đã bị tiêu diệt. Nghệ thuật cai trị của Cộng Sản là tiêu diệt sức đề kháng của nhân dân. Chính sách công an nhân dân, và nhân hộ khẩu nhằm thi hành mục tiêu đó. Kiểm soát người thật chặt, quản lý phân phối thực phẩm thật kỹ, cột chặt mọi người vào tổ chức đảng, tổ chức chính quyền, nếu bị gạt ra khỏi hai hệ thống đó, người dân sẽ muôn vàn đau khổ. Dân phải sợ và phải bám lấy chính quyền, bám lấy đảng, hình thức cao nhất trong sự chống đối là một câu hỏi mỉa mai kín đáo, một câu chuyện tiếu lâm. Đó là sự chống đối vô hại, nếu đi xa hơn sẽ bị tù.
Nhân tôi đề cập đến tình trạng tham nhũng làm sụp đổ miền Nam.


 Chú hỏi tôi:
– Cháu nghĩ miền Bắc có tham nhũng không?
Tôi trả lời một cách chung chung:
– Tham nhũng là một tệ hại có bất kỳ trong thời gian nào, chính quyền nào, nhưng cháu nghĩ miền Bắc có phê bình, tự phê, có đảng kiểm soát, chắc tình trạng tham nhũng sẽ ít đi.
Chú Bình:


– Chú không biết định thế nào là tham nhũng nhiều ít, chú kể một câu chuyện, sau đó cháu tự lượng định lấy. Chắc cháu biết thi sĩ Xuân Diệu, ông ta không có công tác gì nhiều, “Cái cần câu cơm” của ông là bài thuyết trình “Đạo Đức Bác Hồ” và “Tiết Kiệm Để Sản Xuất”. Hai bài thuyết trình nối với nhau bởi một đoạn kể chuyện Bác Hồ dạy người cần vụ đặt miếng xà-phòng sau khi tắm lên viên gạch để xà-phòng ráo nước, cứng, lâu hao mòn.


“Một hôm nhà máy phân bón nơi tôi làm việc, được chỉ thị đón nhà thơ Xuân Diệu đến thuyết trình. Đảng cử đồng chí giám đốc và tôi đi đón, trên đường thi sĩ Xuân Diệu nói: “Tôi nói chuyện với nhà máy thì cũng quá trưa, vậy trưa nay nhà máy cho tôi ăn gì nào? Thôi để các đồng chí dễ quyết định, tôi gợi ý các đồng chí nhé, tôi bị bệnh bao tử, các đồng chí cho tôi ăn cơm nếp nhé, mà chẳng lẽ ăn cơm nếp suông, lẽ nào các đồng chí không cho tôi ăn món mặn? Gà nhé? ừ, cơm nếp với gà, mà gà trống thiến thì nhất”. Chúng tôi hứa với thi sĩ về sẽ hội ý với các đồng chí trong ban lãnh đạo nhà máy mới quyết định, nhưng chắc là không trở ngại. Một lúc sau, thi sĩ Xuân Diệu lại lên tiếng: “Có ăn trưa rồi thì phải có uống chứ? Mà ngay lúc tôi nói cũng phải có gì cho tôi giải lao nhé, thôi để tôi gợi ý cho các đồng chí là cho tôi uống bia nhé? Uống nước lã tôi hay đau bụng”.

Bia là tiêu chuẩn cao, giám đốc trở lên mới có, cán bộ kỹ thuật như chú chưa có tiêu chuẩn bia, đồng chí giám đốc phải hứa dành phần bia tiêu chuẩn của mình để đãi khách. Thi sĩ mới yên tâm. Sau buổi nói chuyện có ăn và uống, thi sĩ Xuân Diệu nhờ nhà máy đưa về Hà Nội, về đến nhà thi sĩ mời chúng tôi vào nhà, tại phòng khách thi sĩ nói: “Tôi đã làm việc với nhà máy, vậy nhà máy phải có tình gì với tôi chứ; đây các đồng chí xem, cái tủ chè này là nhà máy dệt Nam Định biếu tôi sau buổi nói chuyện đấy, có người đã trả tôi 800 đồng chưa bán, tượng Bác Hồ bằng thạch cao do nhà máy Pin Văn Điển biếu đấy nhé, 200 đồng tôi chưa bán. Nhà máy biếu tôi cái gì nào?”

Đó không phải là hình thức tham nhũng, nhưng nó rất thê thảm. Một xã hội đói khó đến như một viên chức cao cấp, vừa là một thi sĩ nổi tiếng mà phải gạ gẫm từng bữa ăn, món quà – chắc chắn nếu có điều kiện thì vấn đề tham nhũng không thể nào ít đi được.
Sau khi phân tích nhiều khuyết điểm của chế độ, tôi hỏi rằng có thể do chiến tranh, không thể sản xuất được, kinh tế yếu kém, đời sống nhiều khó khăn v.v… Vậy theo ý chú, nếu loại bỏ hết trở lực, liệu chế độ Cộng Sản có thể mang tiến bộ gì cho đất nước, hạnh phúc cho toàn dân không?


Chú đáp: “Đừng mong đợi tụi nó (CS) làm gì cho đất nước. Chú là đảng viên, chú được đi nhiều nơi, chú có suy nghĩ – các khuyết điểm của chế độ Cộng Sản là bản chất không phải là hiện tượng, vậy nên nếu có hy sinh cũng vô ích mà thôi”.
Chú so sánh khu kỹ nghệ Thái Nguyên với khu kỹ nghệ Biên Hòa. Khu kỹ nghệ Biên Hòa máy móc hiện đại, còn khu kỹ nghệ Thái Nguyên thì vất đi. Khu kỹ nghệ Thái Nguyên trang bị máy móc cổ lỗ của Trung Quốc, máy móc từ thời Nhật chiếm Mãn Châu. Khi trang bị máy mới thay máy cũ, Mao Trạch Đông gạ bán cho miền Bắc, sợ mếch lòng đàn anh Bác Hồ phải nhận với giá 800 triệu miền Bắc thời giá năm 1958, Bác Hồ và Chính trị bộ đau lắm, nhưng không dám nói ra, ngoài việc chỉ thị cho báo Nhân Dân viết ca ngợi “Tình hữu nghị không gì lay chuyển nổi” giữa hai nước “núi liền núi, sông liền sông”.

Khu kỹ nghệ Biên Hòa – Thủ Đức cũng không có gì đặc sắc, cũng đủ làm lóa mắt cán bộ kỹ thuật miền Bắc. Đa số các xưởng đều do người Trung Hoa làm chủ, làm theo lối gia công, họ mua sản phẩm bán chế rồi làm ra thành phẩm bán ra thị trường quốc nội. Lối sản xuất như vậy là một hình thức phục vụ cho kỹ nghệ Đài Loan – Hồng Kông – Tân Gia Ba. Nhân công sử dụng đa số là người Việt gốc Hoa.


Máy móc trang bị không phải là máy mới, phần lớn là máy cũ, giúp cho Đài Loan cải tiến kỹ nghệ của họ. Nghĩa là nền kỹ nghệ Đài Loan phát triển cần phải trang bị máy mới, những máy cũ thay vì bỏ phải hao tốn, họ giúp cho người Trung Hoa Chợ Lớn đầu tư đem các máy cũ về trang bị ở Việt Nam. Người Trung Hoa lợi ba bốn mặt. Cụ thể như nhà máy cán sắt Vinacasa của Lý Long Thân, trang bị một lò hai cực cổ lỗ sĩ, các kỹ sư cũng không biết được chế tạo thời kỳ nào – chuyên nấu sắt phế thải, dùng phế liệu để đổi ra sắt cây bán trên thị trường xây dựng.


Lối đầu tư kỹ nghệ như vậy, không giúp ích nhiều cho sự phát triển của quốc gia bản xứ.
Người Trung Hoa nắm hết quyền lợi về kinh tế ở Việt Nam, điều đó ai cũng biết. Không những họ nắm chỉ vì đầu tư vào chính sách kỹ nghệ chế biến, độc quyền thu mua nông sản và phân phối nông sản, làm chủ thị trường thương mại và 18 ngành xuất nhập cảng.


Người Trung Hoa được lãnh đạo bởi một Hội Đồng Ngũ Bang Hoa Kiều (Bang Triều Châu, Hẹ, Quảng Đông, Hải Nam, Phúc Kiến). Hội Đồng Ngũ Bang ấn định các chính sách thương mại, ấn định giá cả thị trường, cử người quan hệ mua chuộc các viên chức chính quyền tới Tổng Thống. Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, có Mã Tuyên. Thời Nguyễn Văn Thiệu có Lý Long Thân. Vấn đề người Hoa ở Việt Nam là một đề tài lịch sử rất lớn, nước Việt Nam hơn ngàn năm lệ thuộc Trung Hoa mà không bị đồng hóa vì tổ tiên ta có những chính sách uyển chuyển khi giao dịch, biến đổi những điều học được của người Hoa thành một văn hóa riêng biệt. 


Sau khi lập quốc giành độc lập, luôn luôn đề phòng Bắc xâm, nhưng giao hảo trong thế tương nhượng, chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng nội trị ổn định vững mạnh. Sau mỗi lần chiến thắng, tổ tiên ta thả tù binh, dâng biểu cầu hòa, cầu phong, chịu triều cống để tránh chiến tranh. Dù sau chiến tranh ta chiến thắng cũng làm khổ nhân dân, tốn hao tài nguyên, huống gì Trung Hoa là một nước lớn, mối đe dọa ngàn đời trước và cả về tương lai. Chịu hòa hiếu với chính quyền Trung Hoa, nhưng trong nước thì giữ độc lập và không để cho người Trung Hoa xâm nhập.


 Khi bị nhà Thanh chiếm đóng, người Hoa tràn xuống các nước Đông Nam Á, họ không di cư lẻ tẻ mà thành đoàn đông đảo, có cả quân lực, họ chiếm nhiều lãnh thổ ở Đông Nam Á như Tân Gia Ba là nước Tàu ở hải ngoại, hơn 30% dân số Mã Lai là người Hoa, dòng vua đang cai trị Thái Lan là người gốc Hoa, nhưng người nhà Minh chiếm cứ lãnh thổ Việt Nam đều bị đồng hóa thành người Minh Hương, kể cả dòng họ Mạc Cửu chiếm vùng Hà Tiên định lập quốc cũng bị Chúa Nguyễn thu phục và đồng hóa. Ngày nay người Minh Hương là người Việt, dù trong cộng đồng đó họ vẫn còn giữ một số nết văn hóa Trung Quốc.


Từ khi nước Việt Nam bị Pháp đô hộ, để được Trung Quốc công nhận quyền cai trị Việt Nam, hiệp ước Pháp-Hoa ký ở Thiên Tân, người Pháp dành cho người Trung Hoa nhiều quyền lợi.
Từ đó, người Trung Hoa ở Việt Nam biến thành một cộng đồng rất mạnh, tuy dân số chưa tới 2 triệu, nhưng họ nắm tất cả quyền lợi kinh tế.
Sau Hiệp Định Genève, người Pháp rời Việt Nam, người Trung Hoa ở miền Bắc được qui định do thỏa ước giữa hai đảng Cộng Sản Trung Hoa và Việt Nam, trong đó có điểm: người Trung Hoa hoạt động trong hàng ngũ Đảng Cộng Sản Việt Nam.


Người Trung Hoa ở miền Nam khoảng hơn một triệu người được chính quyền Ngô Đình Diệm buộc phải nhập Việt tịch, để đồng hóa họ trong Cộng Đồng Việt Nam, nhưng qua thời gian thi hành quyết định đó không thành công, trái lại còn tăng thêm ưu thế cho người Trung Hoa, vì với quyền lợi nhập Việt tịch họ có quyền chính trị. Điều kiện nhập Việt tịch không làm thay đổi nếp sống của người Trung Hoa ở miền Nam, trong đời sống hàng ngày họ vẫn dùng tiếng Trung Hoa, phong tục tập quán của Trung Hoa, họ có tất cả các cơ sở xã hội riêng biệt, như trường học, bệnh viện, nghĩa trang, hội đoàn thương mại. Nếu có phải làm nghĩa vụ quân dịch thì họ bỏ tiền ra mua, tạo thêm bất công trong quân đội.


Vấn đề người Hoa cũng làm nhức óc chính quyền Cộng Sản. Những ngày mới chiếm Saigon, Việt Cộng đã triệt hạ tức khắc không cho những người Hoa treo cờ Trung Cộng và tiếp theo là những mâu thuẫn về chính trị đưa tới vụ nạn kiều, rồi chiến tranh biên giới, nhưng tất cả đều chưa giải quyết. Mỗi chế độ chính trị ở Việt Nam hay mỗi triều đại, sự lệ thuộc vào ngoại quốc ít hay nhiều là do sự nhận viện trợ nhiều hay ít khi tranh đấu đoạt quyền.


Do đó, sự tranh đấu để tồn tại, nguy cơ từ phương Bắc vẫn là mối lo tâm phúc của người Việt. Nhưng chúng ta đã có kinh nghiệm lịch sử của cha ông để lại, mỗi giai đoạn lịch sử hoàn cảnh đổi thay, phương thức thi hành có thể thay đổi nhưng tựu trung có những điểm chính:


– Củng cố một lực lượng quân sự đủ mạnh để có thể chiến đấu tự vệ, bẻ gẫy tất cả những cuộc chiến xâm lăng từ Trung Hoa đến.
– Một chính sách ngoại giao mềm dẻo, hòa hoãn để tránh chiến tranh.
– Không để người Trung Hoa nắm hết đặc quyền đặc lợi về kinh tế. Người Trung Hoa sinh sống ở Việt Nam được đối xử bình đẳng với người Việt, nhưng họ phải hội nhập vào đời sống, họ phải trở thành người Việt bằng cách nói tiếng Việt, phong tục tập quán giữa người Việt Nam và Trung Hoa không khác biệt, chỉ có tiếng nói là quan trọng, không nên để người Trung Hoa mở trường học quá bậc trung học, cộng đồng người Trung Hoa ở Việt Nam nên lấy kinh nghiệm hội nhập của người Minh Hương.


Đối với người làm chính trị và nắm quyền tại Việt Nam bất cứ thời đại nào, đem đất nước dâng cho Trung Hoa, mang quân Trung Hoa về xâm lấn hay vì quyền lợi riêng dành cho người Trung Hoa đặc quyền về kinh tế là phản quốc.


Một hôm tôi mời chú đi chơi quanh phố chợ Saigon. Chú đã đi gần hết các thủ đô các nước Cộng Sản; Prague thủ đô Tiệp Khắc, nơi hàng hóa tương đối đầy đủ cũng không bằng 1/4 hàng hóa ở chợ Bến Thành. Ở các nước Cộng Sản hàng tiêu thụ rất thiếu và kém phẩm chất. Dân chúng phải sắp hàng chờ đợi cả ngày mới tới phiên được vào mua hàng. ở Mạc Tư Khoa chờ đợi cả hai ba ngày mới mua được đôi giày, nhưng khi được nhận giày thì mang không vừa chân, phải đem bán ra chợ trời với giá rẻ rồi tìm mua một đôi khác vừa chân với giá đắt hơn.


Hàng hóa theo chế độ phân phối nên luôn luôn thiếu hụt, vì yếu tố thời gian trở thành gánh nặng và tính chất bình quân trong phân phối không hợp với nhu cầu – một người không cần lốp xe đạp vẫn được phát phiếu, người cần thì không đủ. Chợ trời là hình thức rất phổ biến tại các nước Xã Hội Chủ Nghĩa.
Tại Liên Xô, người ta có thể mua một máy cày tại chợ trời, nhưng các nông trường bị hỏng máy cày thì phải đợi hàng nhiều năm từ ngày trình báo mới được cung cấp.
Một chủ nhiệm hợp tác xã đứng trước hai sự lựa chọn khi một máy cày bị hỏng:


– Thứ nhất, báo cáo xong chờ phân phối. Thời gian chờ đợi có thể đến hai năm, Hợp tác xã không sản xuất đủ chỉ tiêu, anh ta có thể bị kết án về tội phá hoại nền kinh tế.
– Thứ hai, mau mắn dùng quỹ Hợp tác xã mua một máy cày trên thị trường ở chợ trời giá gấp 4 hay 5 lần giá phân phối, anh sẽ có nguy cơ bị truy tố về tội sử dụng quỹ Hợp tác xã không đúng nguyên tắc. Bề nào cũng có thể bị đi tù.


Chúng tôi vào quán cơm bình dân ăn cơm; khi ăn chú Bình nhìn về bàn một người đàn ông mặc áo Treillis xanh, quần đùi, trước mặt anh ta là một đống vỏ Bia 33 chừng 5 hay 6 chai.
Tôi chợt nhớ không mời chú uống bia. Tôi nói:
– Xin lỗi chú, cháu không uống được bia nên vô tình không mời chú uống bia, chú uống bia nhé?


– Bộ mình cũng có tiêu chuẩn bia sao? Có thì uống chứ.
– Chú nói gì tiêu chuẩn, mình mua uống thì trả tiền chứ tiêu chuẩn gì, chú uống bao nhiêu cũng có, miễn đủ tiền trả.
– Có thật không? Chú hỏi lại.
– Thật, mời chú uống. Tôi gọi Bia 33.
Ngồi ăn uống, chú vẫn như ngẫm nghĩ điều gì, chú hỏi tôi:
– Người đó làm gì mà uống nhiều bia quá vậy?
Nhìn lối ăn mặc của người ngồi bàn đối diện, tôi nói:
– Có lẽ một phu xích lô hay phu ba gác.
Chú vẫn không tin vào lời nói của tôi, nhân lúc người kia nhìn qua, chú chào xong bước qua bàn hỏi:
– Xin lỗi ông bạn nhé, tôi hỏi nếu không phải thì ông bạn thứ lỗi. Ông bạn làm gì mà tiêu chuẩn bia nhiều vậy?


Người kia cười ha hả nói:
– Tiêu chuẩn gì, chắc ông ở miền Bắc vào, tôi làm gì hả, tôi đạp xích lô, tôi có tiền tôi uống, không có tiêu chuẩn gì hết. Trước kia chạy xe khá, tôi uống 10 hay 12 chai, bây giờ làm ăn khó tôi chỉ uống 5 chai.
Chú vẫn chưa tin hỏi tiếp:
– Thực anh làm phu xích lô?


– Không thực thì sao tôi ngồi ung dung như thế này, nếu tôi làm quan quyền chế độ cũ, tư sản này nọ thì đang lo sốt vó, có thì giờ đâu mà thong dong nhàn hạ.
Nói xong, người kia kêu tính tiền, đứng lên, ra lề đường đẩy chiếc xích lô rồi nhảy lên đạp thẳng như để chứng minh cho chú, anh ta là phu xích lô thật.
Ở ngoài Bắc cũng như tất cả các nước Xã Hội Chủ Nghĩa đều qui định tiêu chuẩn và chế độ khẩu phần lương thực, thực phẩm và các vật dụng cần thiết.


Ở nhà ăn tập thể chế độ ăn có 3 cấp; đại táo, tức bếp lớn nấu ăn cho toàn thể nhân viên binh sĩ cấp dưới; tiểu táo, bếp nhỏ, dành cho các cấp chỉ huy, sĩ quan; đặc táo, dành cho cấp cán bộ cao cấp hoặc thủ trưởng cơ quan, mỗi chế độ nhà bếp có tiêu chuẩn lương thực thực phẩm khác nhau về số lượng cũng như về chất lượng. Chữa bệnh cũng có chế độ khác nhau, sĩ quan từ Chuẩn úy lên Thượng úy nằm ở Bệnh viện Quân Đội Nhân Dân 308, có 12 ngày thuốc miễn phí. Từ Đại úy đến Thượng tá nằm bệnh viện Việt Xô, tiêu chuẩn 30 ngày thuốc miễn phí.


 Đại tá trở lên được chữa trị ở ngoại quốc. Ngoài chiến trường, Trung đoàn trưởng có một Y sĩ và một cần vụ phục dịch, một tư lệnh Sư đoàn có một Bác sĩ và một cần vụ. Đồ dùng cũng phân biệt, binh sĩ, cán bộ cấp dưới mang dép râu (Bắc Việt gọi là dép lốp), cán bộ trung cấp mang sandale. Công an mang sandale nhựa trong – cán bộ trung ương được cấp phát giày và xà-cốt loại da tốt do nước Mông Cổ viện trợ. Marx chủ trương làm cách mạng xóa bỏ giai cấp, nhưng chế độ Cộng Sản lại dựng lên một hệ thống giai cấp thật chặt chẽ và cách biệt ngay giữa đảng viên với nhau, chưa kể giữa đảng viên và người dân được gọi là trong sạch, thành phần bị chuyên chính, tức giai cấp đối nghịch bị tiêu diệt hay làm nô lệ trong các trại tập trung cải tạo.


Giai cấp lãnh đạo ở miền Bắc là một triều đình tập hợp chung quanh vị Hoàng đế là lãnh tụ, cấu kết quyền lợi, dua nịnh lãnh tụ để bảo vệ quyền lợi hiện có và con đường tiến thân.

Người ta ca tụng lãnh tụ một cách lố bịch, lộ liễu, cả cái sai của lãnh tụ cũng được bảo vệ. Trong lối viết quốc ngữ, “Bác Hồ” đã viết sai chữ K thay vì chữ C trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh”. Bác dùng chữ F thay cho chữ Ph, thì các chữ đó được coi là đúng. Người ta còn viết cả lý luận cho là ngôn ngữ được sáng tạo do những con người ưu việt, lãnh tụ là con người ưu việt, vậy những gì lãnh tụ viết đều là khuôn mẫu đúng – thật lố bịch.
Ông Hồ làm Kách Mệnh, ông Hồ làm lãnh tụ chính trị thành công, điều đó không ai chối cãi – nhưng lãnh tụ không có nghĩa là cái gì cũng phải giỏi.


Ông Hồ làm thơ, nhưng thơ ông Hồ là loại thơ con cóc. Đọc cuốn “Ngục Trung Nhật Ký” thì ông Hồ chỉ là người “đạo thơ” vô liêm sỉ – những câu Đường Thi nổi tiếng được ông Hồ cóp nhặt lại của những người xưa. Vậy mà khi người ta viết Văn Học Sử, đưa ông Hồ thành thi sĩ vĩ đại nhất, người ta viết sách và dạy học trò “Ngoài Bác Hồ, Tố Hữu là một đại thi hào của nước ta”. Bác Hồ nhất, Tố Hữu nhì, vì Tố Hữu có công làm nhiều thơ ca tụng Bác từ hồi đảng còn trong trứng nước.


Tố Hữu được ông Hồ chọn làm người lãnh đạo văn nghệ. Từ đó Tố Hữu trở thành một cây cổ thụ che lấp cả bầu trời văn học nghệ thuật, những ai đứng ngoài cái bóng đó đều bị chặt, người khôn ngoan biết thu mình dưới bóng thì sống èo uột như cây non không ánh sáng. Người ta chỉ phổ biến thơ con cóc của các “đại thi hào” Xuân Thủy – Lê Đức Thọ – Trường Chinh.

Những thi sĩ thật như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Tế Hanh, Chế Lan Viên phải bẻ cong ngòi bút sáng tác theo đơn đặt hàng để được nhận tiêu chuẩn sống qua ngày. Những người không theo quy luật đó, bị ghép vào tội phản động hay nhẹ hơn là lệch hướng sáng tác thì phải đi cải tạo như Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm. Hoặc phải về sống nghèo khổ hơn nơi thôn quê làm ruộng, rẫy như Quang Dũng, Hữu Loan.


Đời sống của giới trí thức khoa bảng cũng buồn thảm, Trần Đức Thảo đi cải tạo, rồi giữ bò ở nông trường Ba Vì, Phạm Huy Thông, Trần Văn Giàu, Ngụy Như Kontum, Nguyễn Mạnh Tường kẻ về hưu, người làm những nhiệm vụ văn hóa giáo dục không quan trọng. Có người vì nhu cầu sống hàng ngày phải đi hầu hạ các công tử con lãnh tụ.


Con trai Văn Tiến Dũng, con trai Võ Nguyên Giáp, không hề phải vào quân đội, tụ tập thành băng đảng buôn lậu, ăn chơi đàng điếm ngay tại thủ đô Hà Nội nhiều khi gây nhiệt náo. Công an bó tay vì sợ đụng chạm thế lực. Mỗi băng các công tử lại cần một vài nhà thơ trí thức để ngụy trang làm đẹp. Thỉnh thoảng các công tử lại tổ chức cho các nhà trí thức nói chuyện văn chương, văn nghệ để có tiếng là các cậu hoạt động văn hóa. Còn các nhà trí thức thì dựa vào các cậu để có thêm ly cà phê hay “tô phở chui có người lái” mỗi ngày.


Cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, cuộc chiến đấu yêu nước chống Pháp đã tập trung bao nhiêu tinh hoa của dân tộc ở lại miền bắc. Hầu hết các trí thức khoa bảng, hầu hết các văn nghệ sĩ nổi tiếng thời tiền chiến, những người đã có công tạo dựng nên nền văn chương Việt Nam phong phú, kiến tạo ngôn ngữ Việt Nam thành trong sáng bước nhanh chóng từ giai đoạn Hán văn qua văn chương biền ngẫu và tân văn giản dị. Với nhân lực đó, suốt 24 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa không có được một tác phẩm trung bình về giá trị nghệ thuật.


Trong thời gian ngắn ngủi giao lưu Nam Bắc, người Saigon đều biết ông Cù Huy Cận, Thứ trưởng Bộ Văn Hóa, đã khóc sau khi nghe bản “Ngậm Ngùi” thơ của ông, Phạm Duy phổ nhạc. Sau đó thì ông bị kiểm điểm. Nhạc sĩ Văn Cao cũng khóc sau khi đọc tác phẩm của Tạ Tỵ viết về ông – lúc đó người miền Bắc mới thấy nếp sống hài hòa của nhân dân miền Nam, nơi mà họ tưởng là bị nô lệ, cần họ đưa cánh tay gầy guộc ra giải phóng; họ nghe người miền Nam gọi “Bác Hồ” là “Cụ Hồ”, tiếng gọi thông thường cho người lớn tuổi, không như ở miền Bắc, đảng đã chỉ thị cho nhân dân dùng những từ thô bỉ để gọi những người lãnh đạo miền Nam. 


Đời sống kinh tế miền Nam phong phú, trong chiến tranh có chết chóc, có đổ nát nhưng miền Nam vẫn lớn mạnh về mọi phương diện, trong đó có thân nhân của họ. Không phải chỉ chú Bình mới đem từ miền Bắc những món quà về cho thân nhân rồi mới thấy mình bị lường gạt mà tất cả những người Cộng Sản tập kết từ Nam đều gặp trường hợp đó. Thi sĩ Tế Hanh về làng thấy con cháu sống trong ngôi nhà gạch xây, cứ nằng nặc truy vấn con cháu làm gì cho CIA – truy vấn cho có vẻ người cách mạng thuần thành, nhưng rồi lại khóc như đứa trẻ khi biết mình bị lừa.


30 năm đem nhiệt tâm, tưởng là phục vụ cho nhân dân, rồi thấy mình bị lừa đảo. Thời gian 30 năm ngắn ngủi, nhưng hết cả cuộc đời mình. Cái đau khổ sau cuộc chiến không những chỉ có kẻ chiến bại mà còn đau đớn sâu xa ở những người được mệnh danh là chiến thắng. Tất cả đều là chiến bại – chỉ có một số ít kẻ chiến thắng ở điện Cẩm Linh, ở Trung Nam Hải và bọn tay sai chóp bu ở Hà Nội.


Bao nhiêu năm tương tàn vì cuộc chiến để cuối cùng toàn dân Việt Nam – Nam, Bắc đều là kẻ chiến bại – có cái đau khổ nào lớn hơn. Đất nước có bao giờ nhục nhã lớn như lần này. Tôi hỏi chú Bình tại sao chú là đảng viên, chú bị nhồi nhét bao nhiêu năm lý thuyết Cộng Sản, đời sống thực tế ràng buộc trong guồng máy tổ chức, sao chú vẫn còn giữ được bản chất con người.

Chú nói Đảng muốn một chuyện mà Đảng có làm được hay không là chuyện khác. Những kết quả của Đảng đối với con người chỉ là bề ngoài. Mỗi người sống trong xã hội Cộng Sản thường có hai bản thể, con người của Đảng và con người thật. Một con người của Đảng tức con người bề ngoài, con người giả dối sống theo qui luật đó vì sợ, vì miếng cơm manh áo, vì tiến thân, nhưng con người thật nó tiềm ẩn, phải giấu giếm, con người này chờ cơ hội bộc lộ, khi về miền Nam nhiều cán bộ Cộng Sản đã bộc lộ, nhưng bộc lộ riêng rẽ cá nhân. Nếu có cơ hội các sự bộc lộ đó thành bộc phát mà hệ thống bạo lực của Đảng không đàn áp nổi – thì lúc đó mới biến chuyển.


Những qui tắc luân lý xã hội, con người và gia đình đã ăn sâu vào đời sống người Việt – những người lớn tuổi đều chịu những ảnh hưởng của những giá trị xã hội đó, và nó tồn tại trong mỗi người, Đảng không cướp đi được. Chỉ có lớp trẻ sinh sống lớn lên trong xã hội chủ nghĩa, thế hệ mà Đảng Cộng Sản và Hồ Chí Minh xây dựng mới là thành phần đáng lo ngại. Đảng chỉ dạy cho họ trung với Đảng (Bác Hồ), hiếu với dân (Bác Hồ) và tinh thần đấu tranh, sự hận thù giai cấp. Đây mới là sự suy thoái của dân tộc Việt Nam.


Số người tập kết trở về hầu hết đều nhận ra sự thật đều bất mãn, mỗi người phản ứng một cách, kẻ nóng nảy xin phục viên về với gia đình, kẻ thực tế bám lấy chính quyền nhưng xoay ra thủ lợi, kiếm ăn riêng rẽ bằng mọi hình thức tùy theo vị trí của họ.


“Khôn cũng chết dại cũng chết chỉ biết là sống”, câu ngạn ngữ của đồng bào miền Bắc. Làm việc tích cực quá cũng chết, vì bị thúc đẩy làm việc tích cực hơn, đạt chỉ tiêu hay vượt chỉ tiêu thì năm sau chỉ tiêu cao hơn. Con người trong Xã Hội Chủ Nghĩa bị thúc bách làm việc mãi, hết đợt thi đua này đến đợt thi đua khác. Đảng bắt mọi người phải tiến tới, đạt chỉ tiêu. Nếu không đạt được chỉ tiêu bị kiểm điểm phê bình, hạ công điểm, rút tiêu chuẩn, nếu nặng sẽ nâng lên quan điểm vào tội phá hoại. Đằng nào cũng chết, chỉ có biết là sống, biết cách làm báo cáo cho hay, dù làm láo, biết tranh thủ người nhận báo cáo tức là phải gian dối có hệ thống – phải biết phô trương trình diễn. Đảng cũng chỉ cần có thế, còn thực tế thì dân có đói, có chết cũng mặc.



Cá nhân cũng phải sống như vậy, nhận công tác cũng không thể làm nhiều quá, mà cũng không nên làm ít quá, làm đủ. Một người thợ máy phải biết đầu cơ nghề nghiệp, thỉnh thoảng làm cho máy hỏng và chỉ anh ta mới biết sửa chữa hư hỏng đó thì anh ta sẽ có nhiều lợi, hơn là anh ta duy trì máy chạy tốt mãi.
Đó là xã hội miền Bắc, kinh tế nghèo nàn nhưng phí phạm, uổng dụng, kém hiệu năng; tương quan con người không phải bình đẳng mà có nhiều hệ cấp; con người không thể sống ngay tình, chân thật mà phải lươn lẹo, mánh mung, xảo trá.


Chú Bình có lần đến Bá Linh, chú định vượt qua Tây Bá Linh để về miền Nam, nhưng chú e ngại, không biết miền Nam thế nào. Tài liệu tuyên truyền về miền Nam quá xấu, nên chú không thể bỏ cái xấu để đi đến cái mà người ta nói nó xấu hơn trong khi phải hy sinh nhiều.

Người miền Bắc đã quá mệt mỏi không còn sức đề kháng, chỉ trông vào đồng bào miền Nam. Trước khi trở về Bắc chú nói riêng với tôi: “Nếu có cuộc tranh đấu mới để lật đổ chế độ Cộng Sản, chú sẽ không ngần ngại đứng vào chiến tuyến mới, dù có vợ hai con ở Hà Nội, là đảng viên, có công ăn việc làm và sắp được đi Liên Xô để tiếp tục học cấp Tiến Sĩ”.

Những ngày tiếp xúc với chú, đối với tôi thật ích lợi, chú đã giúp tôi hiểu chế độ Cộng Sản nhanh chóng và tôi dứt khoát chọn một thái độ.

Tôi bị bắt tù cải tạo hơn 12 năm, không liên lạc với chú Bình; năm 1988 tôi được thả, chú Bình qua Nga học rồi trốn luôn bên đó. Ở Hà Nội, thím bị tước đảng tịch, đuổi ra khỏi biên chế và hai người con của chú không được tiếp tục học lên đại học và phải đi nghĩa vụ lao động trên Hòa Bình.




CHƯƠNG 3


Chính sách học tập cải tạo ban hành cho binh sĩ và nhân viên chính quyền từ Chủ sự trở xuống là ba ngày, tổ chức ngay tại mỗi Phường, sau bài học học viên viết lý lịch, làm thu hoạch được cấp giấy chứng nhận học tập đóng dấu chữ ký của Cao Đăng Chiếm, Thứ trưởng Bộ Nội Vụ đặc trách miền Nam.


Nhiều người thở phào như trút được gánh nặng nghìn cân. Nhân viên, binh sĩ học tập xong thoải mái đã đành. Sĩ quan và các cấp chỉ huy cũng cảm thấy nhẹ gánh. “Cách mạng” đối với lính như vậy thì sĩ quan có thể cần học tập nhiều hơn, gấp 10 lần cũng không sao.


Do đó, khi thông báo học tập 1 tháng cho cấp chỉ huy từ Giám đốc trở lên đối với nhân viên trung ương và từ Phó quận trưởng, Trưởng ty các cấp chỉ huy địa phương, quân nhân từ cấp Tá trở lên, mọi người đều đi trình diện đông đủ. Sau đợt cấp Tá 1 tháng, tiếp theo sĩ quan cấp Úy, thời gian học tập là 10 ngày.
Thật là nhịp nhàng, hợp lý; Lính 3 ngày, Úy 10 ngày, Tá và Tướng 1 tháng. Thật là “nhân đạo đúng chính sách hòa hợp hòa giải, theo qui định của Hiệp Định Paris không trả thù”.


Người đi trình diện học tập ở các trường học, mang theo ít vật dụng tối cần thiết và số tiền ăn một tháng là 13 ngàn đồng. Mọi chi tiết đều thật hợp lý hợp tình. Có anh em sợ 13 ngàn không đủ vì theo vật giá hồi đó, nhưng theo thời buổi cách mạng ăn uống phải kham khổ. Vợ thương chồng bảo đem thêm tiền lỡ có cần chi thêm, chồng gạt đi, cần phải tiện tặn nuôi con, đã hơn một tháng không có lương.
Thông báo qui định ngày trình diện là 14-15-16 tháng 6. Tôi đã có ý định không đi trình diện nhưng tôi chưa nói ý định của tôi với gia đình.


Sáng dậy chuẩn bị áo quần, ít lương thực cần thiết chào cả nhà ra đi. Ba tôi tiễn tôi ra đến cửa – ông đứng không vững, phải tựa người vào cửa sắt. Vợ tôi đi theo tiễn ra đến địa điểm trình diện.
Lề đường Phan Thanh Giản hai bên trước trường Gia Long đều đông người, cả người đi trình diện lẫn thân nhân đi tiễn. Ai nấy đều không quan tâm tới nhau nên chỉ đưa tay chào lấy lệ. Khoảng 8 giờ một người bộ đội trong trường bước ra – bảo xuống địa điểm trường Trưng Vương. Địa điểm Trưng Vương đã làm việc khi tôi tới nơi. Người bộ đội đứng tuổi ngồi sau bàn đặt trên lề đường Nguyễn Bỉnh Khiêm phía sở thú. Tấm bảng đen để bên cạnh trên ghi các chi tiết ấn định thành phần đi học tập từ Phó Quận trưởng đến Tổng Thống, Ty trưởng đến Bộ trưởng,


Dân biểu, Nghị sĩ các cấp. Vòng kẽm gai kéo giăng ngang đường qua đến bờ rào trụ sở Hội Đồng Bình Định Phát Triển Trung Ương cũ. Một người lính Việt Cộng trẻ cầm khẩu AK ngồi trên ghế đẩu nhìn bâng quơ, không dấu được vẻ lúng túng trước đám đông. Những người đi trình diện sắp hàng kéo dài đến cuối ngã ba Thống Nhất-Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuần tự từng người một, bước đến khai qua chức vụ để vào học tập. Thân nhân họ đứng hai bên đường. Kẻ tiễn người đi đều lo âu, họ nhìn nhau hơn là nói chuyện. Nhiều cặp vợ chồng trẻ quyến luyến tay trong tay đứng bên lề, người chồng chưa dứt khoát ngồi xếp vào hàng.


Tôi xách túi áo quần đến ngồi dựa vào gốc me ngay cổng vào Sở Thú, vợ tôi đứng liền bên cạnh. Trời tháng 6 Saigon vẫn âm u, hơn 9 giờ sáng hơi gió còn lành lạnh, tôi có cảm tưởng từ 30-4-1975 trời buồn không có hôm nào trong sáng.


Không khí yên lặng nên nghe rõ mồn một lời đối đáp tại bàn đăng ký vào trường.
– Anh làm chức vụ gì?
– Dạ tôi là Giám đốc.
– Đi vào.
– Anh làm gì?
– Dạ tôi là Dân biểu.
– Đi vào.
– Anh làm gì?
– Tôi là Tổng trưởng.
– Tổng trưởng là gì? Có như Chánh tổng không, anh không thuộc diện học tập.
Ngần ngừ một lúc, người trình diện như nhớ ra điều gì quan trọng.
– Dạ Tổng trưởng như là Bộ trưởng ạ.
– Như Bộ trưởng à, anh làm lớn thế, đi vào.
– Anh làm gì?
– Dạ Tổng thư ký.
– Tổng thư ký à, nhìn vào bảng thông cáo, Tổng thư ký không thuộc diện học tập – đi về.
– Dạ Tổng thư ký cũng là chức vụ chỉ huy ạ.
– Anh chỉ huy hả, anh chỉ huy bao nhiêu thư ký?
– Dạ ở Bộ tôi hơn 1.000 thư ký, tôi chỉ huy cả nhiều Giám đốc nữa.
– Vậy đi vào; lẩm bẩm sao Tổng thư ký không có trong thông cáo nhỉ?
– Anh làm gì?
– Dạ Chánh sự vụ.
– Chánh cái gì hả? Không thuộc diện học tập.
– Dạ trước kia tôi có làm Quận trưởng và Phó Tỉnh trưởng.
– Quận trưởng à, thì vào.
– Anh làm gì?
– Phó Thị trưởng.
– Phó Thị trưởng là gì? Không thuộc diện học tập.
Sợ mất cơ hội người trình diện nói nhanh:
– Dạ tôi cũng đã làm Phó Quận trưởng trước khi làm Phó Thị trưởng ạ.
– Phó Quận hả, vào.
Người được vào lách nhanh qua cửa, chân nhảy tung tăng cho kịp người đi trước và như sợ không được nhận vào học.


Một chiếc xe đậu lại bên lề trái đường Thống Nhất. Một người trung niên cao dong dỏng bước xuống xe, nhìn quanh thấy bạn, ông ta đưa cuốn sách trên tay nói lớn với bạn: “Bây giờ moa học món này là hợp thời”. Người bạn của ông bắt tay cười héo hắt, không vui. Tôi nhìn lại đó là ông Phạm Minh Dưỡng, Thứ trưởng Bộ Kinh Tế đặc trách Công Kỹ Nghệ và cuốn sách trong tay ông là cuốn chữ Hán, tôi đọc được là “Quốc Ngữ Hội Thoại”. Ông Dưỡng học tiếng Bắc Kinh, trước kia ông học ở Pháp, có vợ đầm, chắc Pháp và Anh Văn đã giỏi, và cũng đã qua rồi cái thời Pháp và Mỹ ảnh hưởng ở Việt Nam, bây giờ ông thấy học tiếng Bắc Kinh là hợp thời. Đúng là người trí thức biết lo xa. Thật chua xót, thân phận nước nhược tiểu, người trí thức thức thời là người biết nắm thời cơ, cơ hội tốt đẹp nhất là những đường dây ảnh hưởng của cường quốc. Đau thật.
Việc trình diện và nhận người tiếp tục:


– Anh làm gì?
– Dạ tôi Quốc vụ khanh.
– Quốc vụ khanh là gì?
– Dạ Quốc vụ khanh như là Tổng trưởng.
– Anh vào đi. Ngụy quyền các anh nhiều chức vụ rắc rối quá.
Tôi thấy ông Nguyễn Xuân Phong, Trưởng phái đoàn hòa đàm La Celle Saint Cloud, mới được bổ chức vụ Quốc vụ khanh trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn và mới được Tổng Thống Trần Văn Hương triệu hồi để tham khảo.


Tôi nói với vợ tôi: “Em trông ông Nguyễn Xuân Phong mới ở Paris về mà đi học tập, anh đâu có oan gì”. Vợ tôi không đáp lại câu nói của tôi. Tôi biết nàng đang buồn và thầm trách tôi không quyết định ra đi trước 30-4-1975. Từ khi tôi nói với nàng tôi học tập ít ra là 5 năm mới có thể về, 5 năm thời gian suy đoán tôi cho là lâu lắm và nghĩ có thể chịu đựng được. Vợ tôi nghe và khóc, từ đó nàng không nói gì. Tối hôm qua khi nói đến 5 năm, thằng con trai tôi 7 tuổi đã ôm chầm lấy tôi mà khóc: “Ba đi học tập 5 năm hả ba?” Tôi thấy ruột quặn đau …


Một chiếc xe nhà đỗ lại, bốn năm người bước xuống, tôi nhìn ra là những Dân biểu có tiếng thuộc khối Độc Lập – những Dân biểu mà trước đây tôi rất tôn trọng; là nhân viên chính quyền nhưng tôi ghét các Dân biểu gia nô, biểu gì nghe nấy, biểu quyết lấy tiền; tôi thích những Dân biểu đối lập đúng đắn, vì có đối lập mới có dân chủ, nhưng phần lớn những người đối lập cũng không có tư cách gì hơn những gia nô, họ chống đối bừa bãi, cũng chỉ là gia nô cho một khuynh hướng chính trị khác, hoặc tôn giáo để mong kiếm phiếu bầu vào kỳ sau.

Nhưng bốn người Dân biểu đối lập trước mặt tôi là những người đối lập đúng đắn. Ông Tr. V. T. hướng dẫn bốn người đến bàn trình diện, ông nói:
– Chúng tôi là những Dân biểu đối lập chính quyền Thiệu, chúng tôi xin vào học tập trước.
Giọng nói người sĩ quan Việt Cộng rất rõ:


– Anh đối lập hả, miền Nam không thằng nào đối lập với thằng Thiệu bằng thằng Kỳ, mà thằng Kỳ đâu có yêu nước. Các anh tranh quyền với nhau, heo trắng, heo đen cũng là heo thôi.
Tôi nghe lùng bùng lỗ tai, tôi như chợt nóng lên rồi lạnh đi vì xấu hổ. Vừa buồn cho những người mình kính trọng mà có lời nói hớ hênh để thằng Việt Cộng mất dạy nó xỉ vả.


Một toán người đi bộ thành hàng từ hướng Thống Nhất đi lại. Tôi nhìn ra vài người bạn làm Bộ Xã Hội cũ.
– Chúng tôi là nhân viên Bộ Xã Hội, có giấy của bà Bộ trưởng Dương Quỳnh Hoa giới thiệu xin vào học tập trước.
Người bộ đội nhận giấy kiểm điểm nhân số và mọi người tuần tự đi vào.


Tôi buột miệng:
– Đ.M. đi tù mà cũng tranh giành, xin xỏ, ưu tiên.
Anh bạn ngồi trong hàng ngước lên nhìn tôi không nói. Tôi ngượng vì tính nóng và lời chửi tục của mình.


Mọi người tiếp tục đi vào. Mặt trời đã ngang đỉnh đầu, tôi thấy buồn ngủ, dặn vợ tôi trông túi, tôi ngủ một tí. Tôi kéo sập chiếc nón trên đầu xuống thấp để che ánh sáng, dựa lưng vào gốc me nhắm mắt ngủ. Trước khi tôi ngủ, tôi chợt ao ước tất cả chỉ là giấc mộng, giấc mộng Nam Kha. Đúng, tôi cũng làm việc đúng 10 năm như thời gian của điển tích, tại sao đây không phải là giấc mộng, ngủ dậy thấy mình vẫn là học sinh thời trung học, khoảng thời gian vui sướng nhất trong đời tôi là thời gian tôi học trung học ở trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng.


Tôi tỉnh giấc khoảng sau 15 phút ngủ. Tất cả là thực, không phải là mộng. Nhìn lại Ngô Đình Nhung và Phạm Bá Thắng, hai người bạn cũ đã vào trong trường Trưng Vương. Tôi đứng lên nói với vợ tôi đi về. Vợ tôi trố mắt ngạc nhiên nhưng không nói gì.
Đi bộ ra ngã tư Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hùng Vương, tôi dặn vợ tôi về nhà như là tôi đã đi học tập rồi – nói với ba tôi biết là tôi không đi. Tôi dặn nàng ngày mai lên nhà người em họ tôi khu Trương Minh Giảng để tôi sắp xếp việc nhà.


Tổ chức học tập xem như hợp lý, thời gian 3 ngày, 10 ngày, 30 ngày tùy theo cấp bậc, thực ra cũng là chỉ đánh lừa được một số người. Trong tình trạng hoang mang nửa tin nửa ngờ, người ta thường sợ những bất hạnh không dám nghĩ tới, cố tin vào những giải pháp ít xấu hơn cho mình. Sự việc Việt Cộng di chuyển ngay những người trình diện ra khỏi các trường học làm cho gia đình có thân nhân rúng động, người ta cũng đoán được là phải đi cải tạo lâu dài. Những người ở miền Bắc vào đã cho thân nhân của họ biết là sĩ quan từ cấp Tá trở lên khó hy vọng ngày về.


Nhưng rồi thông cáo 10 ngày học tập các sĩ quan cấp Úy cũng đi trình diện, dù không tin, mọi người không biết mình làm gì khác lúc đó.
Sau khi đã tập trung các cấp chỉ huy của chính quyền và quân đội, các ban tiếp quản các bộ phủ tổ chức học tập ngắn ngày cho tất cả nhân viên cấp dưới.


Sau nhiều lần bác khước, tôi cũng được nhận vào lớp học tập ở Bộ Nội Vụ nhờ chứng minh cái nghị định cuối cùng bổ nhiệm tôi là chuyên viên đặc nhiệm, tức là không có chỉ huy ai. Tôi phải có một cái giấy chứng nhận học tập cải tạo để có thể thay đổi chỗ ở và đi lại, vì tất cả giấy tờ của tôi đều bị thu giữ sau khi trình diện lần đầu tiên ngày 4-5-1975.


Đề tài vẫn là “Đế Quốc Mỹ và bè lũ tay sai gồm bọn tư sản mại bản, bọn phong kiến áp bức, bọn quan liêu quân phiệt là kẻ thù của dân tộc ta”.
Thuyết trình viên là bộ đội người miền Nam tập kết, trạc 50 tuổi, hắn giới thiệu cấp bậc Thượng tá, thành viên phái đoàn quân sự của Mặt Trận Giải Phóng trong ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên ở Camp Davis.

Trước khi vào bàn, hắn dài dòng về những phiên họp mà hắn có dự tại trại Davis, lời lẽ, điệu bộ, vẻ mặt hiu hiu biểu lộ sự đắc chí tự hào. Nội dung đề tài viết sẵn không thay đổi, cũng đầy các khẩu hiệu thời đại Hồ Chí Minh anh hùng, đỉnh cao trí tuệ loài người, cái nôi văn minh nhân loại… Chỉ có thêm là hắn kể một anh dân Cuba nào đó ước mơ ngủ dậy trở thành người Việt Nam. Rồi đến màn khóc “Bác Hồ”, hắn khóc tức tưởi, sụt sịt cả nước mắt lẫn nước mũi. Người nghe hơn một lần nhìn thấy cảnh đó nên không ai xúc động.


Khóc xong hắn kể lại hôm ướp xác “Bác Hồ”. Hắn nói: “Trong hội trường Ba Đình nơi quàn xác Bác ai cũng khóc, đồng chí Lê Duẩn khóc, đồng chí Trường Chinh khóc, đồng chí Phạm Văn Đồng khóc… tất cả các đồng chí lãnh đạo đều khóc, chúng tôi đại diện các đơn vị về dự đám táng ai cũng khóc. Bên ngoài dân chúng Hà Nội và các tỉnh đứng dài đến 3km5, tất cả đều khóc.


Thủ tục ướp xác phải mổ bụng Bác, mà không ai làm được, các bác sĩ khi cầm dao mổ thì khóc rất lâu rồi xin chịu tội, thà nhận khuyết điểm chứ không ai nỡ cầm dao đâm vào thi thể Bác. Đồng chí Lê Duẩn phải động viên từng đồng chí bác sĩ, nói đó là nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó, nhưng các bác sĩ đều khóc và không làm được. Mãi đến đồng chí bác sĩ thứ 139 mới lấy hết can đảm đâm một dao vào bụng Bác, lưỡi dao mổ vừa xuyên qua bụng thì đồng chí bác sĩ đó ngất xỉu luôn vì xúc động và cảm thấy mình có tội với Bác…”. Kể xong hắn khóc một hồi nữa mới vào đề tài.


Hai ngày sau khi thảo luận từng nhóm, sau đó mỗi học viên phải trình bày tội lỗi của mình cũng như tố cáo tội ác của Mỹ và bè lũ tay sai, ngày thứ ba viết lý lịch, kiểm điểm nhận tội với nhân dân và cách mạng.
Tự nhận đứng trong hàng ngũ “ngụy quyền” làm việc tích cực là có lỗi với cách mạng và nhân dân, phát biểu xong tôi cảm thấy quá xấu hổ, nhưng không làm gì khác hơn được.


Nhận tờ giấy chứng nhận cải tạo ba ngày tạm thời yên thân lo chuyển chỗ ở. Qua mười ngày học tập sĩ quan cấp Úy không ai về, mà gia đình không biết thân nhân bị giam ở đâu. Saigon như phủ khăn tang, không những gia đình có người đi cải tạo buồn mà người dân bình thường không can hệ đến chính quyền cũ cũng buồn. Các chị có chồng đi học tập kéo nhau đến các trường để nghe ngóng, trường sở vắng tanh, chỉ một người bộ đội lăm lăm khẩu AK sau vòng kẽm gai.

Đâu đâu cũng nghe bàn tán xù xì với nhau – kẻ nói đưa tù đi Côn Sơn, người nói đưa ra Hà Nội, rừng Trường Sơn, tất cả chỉ là đoán mò vì trong tháng đầu chưa có ai nhận được thư của thân nhân gởi về. Các chị hẹn nhau ở chợ Bến Thành kéo đi biểu tình đòi thân nhân, các chị kéo đến Ủy Ban Quân Quản đóng ở Tòa Đô Chính cũ, mới ra khỏi chợ tới trước rạp Vĩnh Lợi đã bị xe xịt nước giải tán, mấy chị dẫn đầu bị bắt lên xe công an đưa đi mất dạng.


Ngày 20 tháng 7 năm 1975, giáo dân Bùi Phát kéo ra đường biểu tình đòi thi hành Hiệp Định Paris bị đàn áp bằng B.40, nhiều người bị bắn chết. Mặt nổi dân Saigon chỉ nhóm lên những phản ứng như vậy rồi tắt, nhưng bên trong âm thầm nhiều hình thức chống đối bắt đầu hình thành. Tiêu cực là những tin đồn đãi, sấm ký; tích cực bằng hình thức ám sát cán bộ, bộ đội lẻ tẻ. Khởi đầu những trường hợp bắt bớ, nhiều nhà tù mới dựng lên vì các trại giam cũ không còn chỗ nhốt người.


Mẹ Việt Nam suốt đời thương xót mong ngóng những đứa con đi xa – Cụ Lợi là người Huế, đã ngoài 80 tuổi, trước năm 1975 cụ sống với gia đình người con trai là Đại-tá Biệt Động Quân với những cháu nội cũng là những sĩ quan cấp Úy, ngưòi con cả của cụ là một giám đốc cảnh sát.

 Ai cũng bảo cụ sướng, con cháu thàng công hạnh phúc một nhà, nhưng cụ vẫn buồn, vẫn như ngóng trông một hình ảnh nào đó, càng về già cái chết gần kề, cụ càng buồn. Ngày “giải phóng” cụ lanh lợi hoạt bát trở lại, cụ ra vào ngóng trông, cái ngóng trông bồn chồn, không như sự mong ngóng bâng quơ như trước. Rồi mọi người trong cư xá mới biết nguyên do, hai người con trai của cụ từ miền Bắc vào tiếp thu Saigon, một người là Cục Trưởng, một người là Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn. Ai cũng bảo cụ Lợi có phước, thời buổi nào cũng có con làm lớn trong chánh quyền.


Nỗi vui không bao lâu thì cụ buồn trở lại, lần này cụ buồn rũ rượi, hai con và ba đứa cháu của cụ đi trình diện học tập, cụ nghe nói họ đi 10 ngày hoặc một tháng sẽ trở về, một tháng trôi qua, con cháu cả thẩy 5 người không ai về. Không phải lần đầu xa con nhưng lần này cụ linh cảm điều gì hay là cụ nghĩ cụ đã quá già già, e rằng ngày nằm xuống không đủ mặt con cháu.
Cụ nhắc nhở hai người con cách mạng làm bảo lãnh cho anh cho cháu, con trai cụ cứ ậm ờ hứa hẹn.


Qua một tháng theo thông cáo, con cháu cụ không ai về, cụ vừa buồn vừa tức, thời buổi chi con người gian dối, làm vua làm quan cha mẹ dân, cần phải giữ chữ tín để dân tin cậy, đằng này chỉ lừa gạt. Đời cụ hơn 80 tuổi, đã sống trải qua nhiều thời kỳ đổi thay của lịch sử cũng như trong gia đình cụ. Cụ Lợi ông trước làm đến lãnh binh, cụ ông mất sớm để lại cho cụ 4 người con trai lúc cụ chưa đến 30 tuổi. Một bàn tay tảo tần với vài mẫu ruộng Vua ban và một cái vườn trồng cây ăn trái trong nội thành Huế, cụ đã ở vậy nuôi con – đứa nào cũng thành danh, nói không phụ, một phần nhờ người con cả đã sớm thi đậu đi làm để phụ giúp cụ nuôi dạy các em . Cụ không được đi học nhưng cụ dạy các con những điều cụ đã được dạy: Trung hiếu, tiết, nghĩa, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, những điều gia giáo cụ nhớ đến đâu nói đến đó để rèn dạy các con.


Gặp người con Thiếu tướng về thăm, cụ hỏi: “Sao con không lãnh hai anh con về để mẹ trông, không biết mẹ chết hôm mai thế nào đây, thời gian hứa hẹn một tháng qua rồi, chính quyền gì mà lạ, cái chính quyền mà dối dân e không có bền đâu”.
Dường như mỗi lần bị mẹ hối thúc là người con thiếu tướng bực mình, hôm nay mẹ lại nói cá lời có vẻ “phản động”, anh Thiếu tướng tức giận nói:
– Hai anh và tụi nhỏ đều có nợ máu, họ phải học tập lâu dài cho hết tội rồi mới lãnh được.
Cụ Lợi nghe nói nợ máu nợ mủ, cụ hơi giận nói:
– Anh nói gì nợ máu, chúng nó đi lính thì phải đánh nhau, như anh phải đánh nhau mới lên quan lên tướng – chúng nó có giết người cướp của đâu mà anh nói nợ máu.


– Nợ máu với nhân dân, với cách mạng, mẹ có biết là vì quan hệ với tụi ác ôn đó mà tôi chậm vào đảng, chậm thăng chức hay không?
– À thì ra anh sợ mất công danh, ai nợ máu với ác ôn, không có nợ máu ác ôn ai giúp tôi nuôi anh ăn học.
– Mẹ đẻ tôi ra, mẹ phải nuôi, mà mẹ có muốn đẻ tôi ra đâu, cha mẹ hưởng khoái lạc rồi đẻ ra tôi ra, cha mẹ có ý thức đẻ tôi ra đâu.
– Thôi anh đi đi, anh đi khuất mắt tôi, tôi tưởng người không học mới ăn nói như anh, ai ngờ anh nói thế.
– Bà đuổi tôi, bà có chết tôi cũng không về đâu, tôi không khóc đâu.


Lúc đó người con cục trưởng mới nói vào:
– Sao chú nói thế, rồi thì mẹ sẽ hiểu, học tập cải tạo lâu dài anh em mình không bảo lãnh được, Sao chú nói mẹ chết chú không khóc. Hồi Bác Hồ chết, chú khóc những bảy ngày, nhiều nhất đơn vị, ai cũng khen chú có hiếu với Bác, từ đó đường công danh của chú rộng mở hơn.


– Thì anh cũng khóc đến năm ngày.
Người con Thiếu tướng trả lời.
Cụ Lợi không nghe hai người con đối đáp, vì tai cụ ù lên, mắt cụ nhòa – nhưng hàng xóm nghe thấy hết cuộc cãi nhau của mẹ con cụ – người trong cư xá mới biết đượn thêm là ở ngoài Bắc khóc Bác Hồ là để thăng quan.


Cụ Lợi nằm bệnh chỉ nửa tháng qua đời, cuộc đời cụ lúc nào cũng trông ngóng những đứa con ở xa, cụ trông con suốt cả đời, nhưng lần này cụ Lợi ngã gục hẳn vì cụ quá già, quá mỏi mòn không còn đủ sức để chờ những đứa con cải tạo trở về.
Hôm đám cụ, bà con lối xóm đi thật đông, không có người con mang quân hàm Thiếu tướng Việt Cộng, lần này anh giữ đúng lời hứa, mẹ chết anh không về khóc.

CHƯƠNG 4

Có giấy chứng nhận học tập ba ngày, tôi cần phải tránh xa Saigon một thời gian, nhất là tránh sự truy tìm của Công An Liên Khu 5 vào Sài Gòn bắt những người thuộc đảng phái chính trị và nhân viên chính quyền cũ. Toán Công An Liên Khu 5 đóng ở nhà số 101 đường Trần Quốc Toản (tức Nguyễn Đình Chiểu cũ). Chúng đã bắt rất nhiều người, có người chúng nhốt vào con-nết, chở về tới Đà Nẵng thì ngất xỉu.


Tôi lên vùng Đức Lập tỉnh Quảng Đức, nơi đó một người bạn tôi có ông bố là dân Pháp làm quản lý cho một đồn điền cà phê. Ở Đức Lập tôi còn mục đích dò đường để nếu có thể sẽ vượt biên giới bằng đường bộ qua Thái Lan.


Tôi cố thích nghi hoàn cảnh để làm quen với lao động chân tay và cũng để làm quen với dân chúng quanh vùng. Tình hình dân chúng rất thuận lợi, vì dọc theo quốc lộ 13, từ Đức Lập đi Ban Mê Thuột hầu hết là dân Thiên Chúa Giáo di cư. Đồng bào cho biết dọc biên giới quân đội Bắc Việt đóng dày đặc, 5 sư đoàn quân Bắc Việt được đóng trên vùng cao nguyên, từ Kontum đến Quảng Đức, chúng đóng cả hai biên giới Việt Lào và Việt Miên.


 Chúng lập ra nông trường sản xuất. Nhiều toán vượt biên bằng đường bộ bị bắt, từ đó ở những tỉnh cao nguyên, công an Cộng Sản thường kiểm soát khách sạn, nhà ngủ đỡ ở bến xe, dân Saigon lên là chúng bắt nếu không chứng minh được việc đi lại có lý do chính đáng. Người nào có mang những loại thực phẩm như cơm xấy, lương khô Trung Quốc, thuốc ngừa rét, bản đồ, địa bàn là đủ chứng cớ để kết tội vượt biên. Chỉ ở được non một tháng, chúng tôi phải quay về Saigon. Đồn điền cà phê bị quốc hữu hóa, tôi bị công an xã gọi làm lý lịch, chúng nghi là sĩ quan trốn học tập cải tạo, giấy học tập 3 ngày không đủ sức thuyết phục bọn chúng tin là tôi học tập đủ.


Về Sài Gòn tôi tìm đường xuống miền Tây. Người quen giới thiệu cho tôi đi thẳng về vùng đất của Việt Cộng cũ, xã Minh Long, Chương Thiện. Minh Long nằm ở địa đầu U Minh Thượng, cửa ngõ ra cánh đồng Phong Dinh Rạch Giá. Vùng này trước đây, quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng ít khi hành quân tới, dân chúng là dân bám trụ sống lam lũ tay súng tay cày. Sau 1975, họ là kẻ chiến thắng, ai nấy đều lo xây dựng lại nhà cửa, mở thêm ruộng rẫy. Ngoài lúa, họ lập rẫy trồng dứa và khoai, chỉ mấy tháng sinh hoạt đã ổn định. Rời thôn quê lúc 8 tuổi ra thành phố, nhưng cốt cách nông dân vẫn còn tiềm ẩn trong tôi, không mấy chốc tôi đã làm các công việc khơi mương đắp bờ với cây cuốc rất thành thạo, trừ cái dáng dấp thành thị chưa xóa đi được nên đồng bào ai cũng gọi tôi là ông thầy giáo.


Ruộng bỏ hoang lâu ngày nên đóng nhiều phèn và đỉa lềnh mặt nước, đặt chân xuống nước một chốc là đỉa bám lại đầy chân trông thật ghê. Nông thôn miền Tây buồn đơn điệu, ruộng và kinh rạch nối tiếp nhau. Nông dân hăng say làm việc ngày đêm, len kinh tháo nước giải phèn, phát cỏ, đắp bờ làm rẫy. Cá, rùa, rắn ngày nào cũng bắt được thật nhiều, ăn không hết. Cuối năm 1975, mùa lúa đầu tiên đầy hứa hẹn, những cánh đồng lúa vàng, nặng trĩu nhánh bông. Dân Minh Long chuẩn bị ăn Tết hòa bình đầu tiên thật lớn.


Biến cố bất ngờ là mọi sinh hoạt chậm lại, đi đâu đâu cũng nghe người ta bàn tán rồi chửi thề bất mãn – xã Minh Long phổ biến chánh sách nông nghiệp, khởi đầu là mọi gia đình phải kê khai nhân khẩu, phân biệt tuổi tác rõ ràng và kê khai diện tích canh tác.


Bà con nông dân kéo đến hỏi mục đích kê khai, mấy chục năm họ đánh giặc giữ đất, nay giặc hết, đất yên, nông dân ra sức cày cấy làm ăn, làm gì phải khai báo, Xã giải thích đó là lệnh từ trên huyện, bà con đốc thúc Chủ Tịch Xã là Sáu Lự đưa họ lên huyện, Sáu Lự cũng kêu trời, anh ta cũng là một nông dân sở tại, làm Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Xã, nhưng gia đình anh cũng canh tác nhiều mẫu ruộng. Anh cũng không hiểu chính sách của nhà nước cách mạng.


Rồi các chỉ thị tiếp theo giải thích rõ thuế nông nghiệp và chánh sách thu mua, lúa thu hoạch xong phải đóng 70% vào thuế nông nghiệp nhà nước, phần còn lại thì trừ vào phần ăn của gia đình tính theo tiêu chuẩn người lớn mỗi tháng 15kg gạo, trẻ con 10kg, số còn lại nông dân phải bán cho cán bộ thu mua.


Cán bộ nông nghiệp về xã giải thích về chính sách thuế khóa, vì đất nước còn nghèo, trước kia miền Bắc phải cắn hạt gạo làm tư để tiếp tế cho chiến trường miền Nam, nay hòa bình nhân dân miền Nam phải đóng thuế để giúp miền Bắc xây dựng – ngoài ra còn phải trả nợ cho Trung Quốc, vì theo lời Bác Hồ dạy, dân Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Trung Quốc có đề nghị tiếp viện người, nhưng bác Hồ không vay sức người vì nợ máu xương trả không được, nợ vật chất người Việt Nam trả nổi.

Cán bộ có tốn lời giải thích cách gì cũng không được nông dân thuận lòng. Những người nông dân trước kia đội gạo nuôi cách mạng “kháng chiến đánh Mỹ, đánh ngụy” – giờ đây đất nước thanh bình, họ phải làm chủ ruộng vườn, giản dị như vậy thôi. Có người bắt đầu so sánh, trước kia vào thời Mỹ-Diệm, quân cách mạng chưa mạnh, Mỹ-Diệm cũng chỉ thu thuế mỗi mẫu ruộng, mỗi năm ba giạ lúa – sao bây giờ cách mạng lại thu đến 70% . Có những cuộc cãi vã đôi co giữa đám cán bộ và nông dân.


Tôi nghĩ đến cái sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, khi người nông dân họ nghĩ kháng chiến là chống lại quân ngoại xâm, họ ủng hộ hết mình, nhưng cũng chính những người đó khi họ thấy chính quyền thi hành chính sách thuế khóa nông nghiệp quá cao là họ chống đối . Họ cho rằng chính họ là người nuôi cách mạng kháng chiến đến chiến thắng mà bây giờ họ là người bị phản bội trước tiên. Kết quả chánh sách thuế nông nghiệp năm đó thất bại, người nông dân chỉ gặt một số thóc lúa đủ chi dụng trong gia đình, còn bao nhiêu họ bỏ ngoài đồng, nhà nước muốn gặt thì cứ gặt hái lấy.
Tình trạng bỏ lúa ngoài đồng xảy ra cho khắp các tỉnh miền Tây năm đó. Mà không riêng gì lúa, các nông sản khác cũng tương tự như vậy.


Xã không có thầy dạy trẻ. Sáu Lự đề nghị tôi giúp xã dạy học, tôi bằng lòng, dù tôi không muốn làm gì cho chính quyền mới, nhưng việc dạy học cho hàng chục đứa trẻ từ 7, 8 tuổi đến 14, 15 tuổi bị mù chữ là điều không thể thoái thác.
Những đứa trẻ 14, 15 tuổi được huấn luyện sử dụng súng ống, lựu đạn mà không em nào biết đọc, biết viết.
Tôi thấy thương hại chúng nó, người ta đã nhân danh cách mạng, nhân danh giải phóng để đẩy trẻ em ra chiến trường, bị thương, cụt chân tay, bị thương khi tham dự chiến đấu cũng có, bị thương khi huấn luyện cũng có. Tuổi thơ bị cướp mất không được đền bù.


Có thể các em không ý thức được nỗi bất hạnh đó nên chúng vẫn có hạnh phúc, hạnh phúc hiện ra trong đôi mắt trong sáng vui tươi của các em, nhưng tôi là người bên ngoài, tôi có điều kiện để so sánh. Tôi vẫn thấy thương các em, dù tôi đang là kẻ chiến bại, đang trốn lánh và các em là kẻ chiến thắng.


Sáu Lự, Chủ tịch UBND xã, người tính bộc trực chất phác, hắn hăng hái trong việc tổ chức lớp học. Hắn đi du kích từ năm 13 tuổi, năm nay gần 30, thuở nhỏ ao ước được đến trường, nhưng không bao giờ thực hiện được giấc mơ bình thường đó. Đến nay hắn muốn cho con hắn và những đứa trẻ trong xã được đi học. Tôi hứa với hắn là tôi sẽ cố gắng dạy cho các em biết đọc, biết viết hoặc cho đến khi nào xã có giáo viên chính.


Với sự giúp đỡ của Sáu Lự, tôi cố hoàn thành được một căn phòng lợp lá dừa, 4mx6m thành một phòng học, bàn ghế thì làm bằng tre ghép lại, chỉ có tấm bảng đen là xã phải cử người lên tận huyện mới mua được.


Cuộc đời không trôi chảy, cuối năm 1975, huyện cử người làm Bí thư xã, Sáu Lự chỉ được làm Xã đội trưởng du kích.
Ba Trà, Bí thư xã là cán bộ tập kết, sắp về hưu, y muốn về Minh Long lập vườn rẫy chuẩn bị tuổi già. Y là cán bộ biết tổ chức, y củng cố lại xã với sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, Ban Bí Thư, Ủy ban Hành Chánh, các Ủy viên, hầu hết đều là người ở huyện cử xuống, không như thời kỳ Sáu Lự, tất cả làm việc thân mật có tính cách gia đình.


Năm Hùng là Trưởng ban Giáo Dục mời tôi lên xã, y hạch hỏi lý lịch xong, hỏi tôi giấy bổ nhiệm làm giáo viên. Tôi trả lời đây chỉ là lớp học tạm tổ chức, Sáu Lự nhờ tôi dạy tạm chờ đến khi xã có trường và giáo viên.

Năm Hùng nhìn tôi thẩm định, khi tôi trả lời xong hắn không nói gì về việc giáo dục mà bất ngờ hỏi tôi: “Anh chắc là sĩ quan ngụy, sao anh không đi học tập cải tạo?”.


Tôi đưa giấy chứng nhận học tập cải tạo ba ngày, trong đó ghi “chuyên viên Bộ Nội Vụ”, hắn hỏi tôi chuyên viên là gì, tôi đáp là người lo các công việc hành chánh giấy tờ mà không có chỉ huy người khác. Tôi trả lời qua quít cho xong, nhưng hắn tiếp tục hỏi tôi giấy hoãn dịch. Thằng này chắc là cán bộ nằm vùng nên rất rành.


Vài ngày sau tôi bị mời lên gặp Ba Trà, hắn đưa giấy để tôi viết lý lịch. Hắn giải thích để công an xác nhận rồi bổ nhiệm tôi làm giáo viên chính thức.
Viết xong lý lịch tôi suy nghĩ chắc ở không xong. Bọn chúng đã nghi ngờ, thế nào cũng bị mời đến công an. Tôi nhờ Sáu Lự đưa tôi đến bến xe, ra Rạch Giá để về Saigon.


Trên đường về, những đồng lúa chín vàng bị bỏ rục ngoài đồng, tôi vừa tiếc vừa thấy khoan khoái, không có cảm giác ghen tị như ngày mới đến, ngược lại thấy nó gần gũi thân thương lạ lùng, một hy vọng nhen nhúm trong tôi khi nhìn thấy cái căn nguyên sự sụp đỗ của địch, khi những đám lúa vàng này và những nông dân chất phác mộc mạc không đứng về phía Cộng Sản nữa.



Gần Tết Bính Thìn, Saigon bỗng dưng rét ngọt ngào, buổi sáng muốn ra đường phải mặc áo ấm. Những gia đình có chồng con đi cải tạo buồn thê thiết, vừa thấy trống vắng, nhớ nhung, tủi thương, vừa hờn giận, nhiều người trách than cha, chồng mình không di tản. Những gia đình có thân nhân di tản đã gửi thư, đã đánh điện về, họ đã định cư ổn định ở Mỹ, Úc, Gia Nã Đại và hứa hẹn ngày đoàn tụ – xa xăm cách trở đại dương mà còn hy vọng ngày gặp mặt. Trong khi những người ở lại muốn gần gũi gia đình, muốn được chết cùng gia đình, để chia xẻ vui buồn khổ nhục với thân nhân, thì một lần ra đi hầu như biền biệt.

Chưa ai nhận được thư từ của người cải tạo, vợ vừa thương vừa giận chồng, con trách móc cha. Trách rồi càng thương hơn. Saigon rét ngọt ngào như thế này thì ở rừng sâu núi thẳm, nơi xó xỉnh nào đó của trại tù, không biết người đi học tập làm sao chịu nổi. Có người ra đi chỉ mang theo vài bộ quần áo mỏng manh, đi vào mùa Hè có ai nghĩ xa để phải mang theo áo lạnh, người ta nghe đồn học ở thành Ông Năm Hốc Môn, ở Long Giao, ở Katum, Trảng Lớn.

Những người vợ cải tạo rủ nhau bỏ cả những buổi chợ trời kiếm cơm độ nhật để đi tìm, nhưng đến những địa điểm chỉ đứng ngoài nhìn vào, bên trong những căn cứ quân sự cũ im lặng như tờ, chỉ có nhiều vòng rào kẽm gai được kéo thêm và những người lính Việt Cộng cầm AK mặt lạnh lùng. Họ như câm, không người nào trả lời câu hỏi, chỉ lấy mũi súng xua đuổi người tới gần.


Saigon với nhiều tin đồn đãi. Tin đồn, một hình thức phát tin, nửa hư nửa thực khi có khi không, người phát tin không có trách nhiệm về mức độ chính xác . Tin đồn phát xuất từ chợ trời, Saigon có nhiều chợ trời, nhưng phong phú nhất vẫn là chợ trời Trương Minh Giảng và chợ trời Hàm Nghi.


Tin đồn có nhiều loại, có tính cách thần kỳ như mặt trời xoay với đám mây ngũ sắc chung quanh, giây bí hóa rồng ở Bà Quẹo, trăn lấy vợ ở Long An, heo nói tiếng người ở Thị Nghè, có tin tức về quân sự như quân đội VNCH đã chiếm lại Ban Mê Thuột, chiếm Hà Tiên, giật cầu Nha Trang, đổ bộ Bình Tuy, chiếm Trảng Bom, núi Bà Đen, mật khu Hắc Dịch, mật khu Lòng Tàu với những tên tuổi cũ như Thống tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tướng Bùi Thế Lân, Tướng Mã Sanh Nhơn, Tướng Lưu Yểm. (các Đại tá đều được lên Tướng.)


Tin Bộ trưởng Ngoại Giao Trần Văn Lắm và Tướng Lê Nguyên Khang về Camp David ở Tân Sơn Nhất họp với Việt Cộng để bàn chuyện quân Bắc Việt rút lui trả miền Nam lại. Người đưa tin quả quyết là chính mắt anh ta thấy tướng Lê Nguyên Khang ngồi trên xe chạy từ Tân Sơn Nhất qua đường Công Lý (nay đổi là Nam Kỳ Khởi Nghĩa), khi qua đám đông, Tướng Khang đưa chiếc cặp vẽ hình cờ Việt Nam Cộng Hòa.



 Nhiều người đạp xe lên Tân Sơn Nhất xem. Dĩ nhiên không thấy gì khác ngoài quang cảnh buồn hiu hắt của một phi cảng trước kia nhộn nhịp phi cơ đủ loại lên xuống, lúc này chỉ thỉnh thoảng mới có một chiếc từ ngoài Bắc đưa quan chức cao cấp vào, phi đạo đã thu bớt lại vì nhiều nơi đơn vị bộ đội trú đóng đã đào nền bê tông lên để trồng thêm khoai mì.

Cái tinh thần tự túc chiến đấu của người bộ đội trong rừng Trường Sơn, mỗi khi dừng quân tại đám rừng khoai mì, nhổ củ nấu ăn rồi cắm cây xuống để trồng lại, hoặc có rãnh thì trồng thêm – kho lương thực vô tận của quân đội Bắc Việt trong chiến tranh, người Mỹ và Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng Hòa không ước tính được, trước đây người ta không hiểu sao mức dội bom khủng khiếp trên các tuyến đường xuyên Trường Sơn, quân Bắc Việt xâm nhập vẫn có đủ tiếp vận.



Thực tế họ chỉ tiếp tế súng ống, đạn dược, nhiên liệu tối thiểu để chạy xe, một phần lương thực, còn nguồn cung cấp lương thực chính họ lấy tại miền Nam qua hệ thống kinh tài và những cánh đồng khoai mì bạt ngàn dọc đường chuyển quân. Nay tinh thần tự túc đó đang được áp dụng tại thành phố, các doanh trại, phi trường, đất trống quanh các công thự, nhà ở đều được xới lên trồng khoai mì. Việc đất nước quan trọng biến thành việc bếp núc vụn vặt và trở thành một sự phá hoại tài sản quốc gia. Cái lợi nhỏ nhoi mà cái hại thì quá lớn. Đó là một trong những dấu hiệu đầu tiên cho những người có quan tâm đến đất nước nhìn thấy được nguồn gốc sự thất bại trong việc quản lý kinh tế và xã hội của chính quyền Cộng Sản.


Những tin đồn cứ mãi loan đi làm cho mọi người vừa hoang mang vừa ấp ủ hy vọng. Ngủ, sáng thức dậy thì có tin mới, người đưa tin bao giờ cũng nói thêm là chính họ nghe từ đài BBC. Người ta không tin tưởng chính quyền Cộng Sản, nên tin gì ngược lại quyền lợi chính quyền được chấp nhận một cách dễ dàng. Người ta bắt đầu loan tin những trận đánh tưởng tượng từ những vùng xa, mỗi nơi đều tưởng tượng ra những mật khu, những trận địa do các Tướng lãnh chỉ huy hoặc các Đại tá bây giờ được nâng lên hàng Tướng lãnh, dù những ông Tướng, ông Đại tá ấy đã khăn gói, chen lấn giành nhau đi trình diện và đang nằm gậm nhấm nỗi buồn của kẻ mất nước tan nhà trong trại tù.


Người ta nói cho nhau những tin tức thật là vô lý đến trẻ con cũng không tin được. Hầu như mọi người ít còn sáng suốt, lười biếng suy nghĩ. Người ta nói với nhau rằng Mỹ sẽ thả một loại bom và tất cả Việt Cộng đều bị mê, còn người không Cộng Sản vẫn tỉnh, sau khi đó, cứ việc bắt những đứa ngủ mê trói lại là xong hết.


Những loại tuyên truyền như vậy, khởi đầu nó có thể có một kết quả làm cho người dân đã chán ghét chế độ không tin vào chế độ và mong muốn nó mau sụp đổ, nhưng không có hành động gì cụ thể tiếp theo thì trở thành vô ích, chỉ tổ làm cho cho đầu óc con người mơ tưởng viễn vông, lười suy nghĩ phân tích, chỉ giết chết thì giờ và ý chí bằng sự chờ đợi vô vọng.


Trước đây, Việt Cộng dùng những tuyên truyền như vậy để gây hoang mang trong dân chúng, phá hoại sự tin tưởng vốn đã mỏng manh của dân chúng vào chính thể Cộng Hòa. Việt Cộng làm có nhiều kết quả, vì đi theo sự tuyên truyền đó, có những vận động tranh đấu chính trị ở trong các thành phố và mặt trận quân sự ngoài chiến trường.


Chính quyền Việt Cộng lúc mới chiếm miền Nam tổ chức rất chặt chẽ, cán bộ còn trung thành với đảng, việc tung tin như vậy trở thành vô ích vì sau đó không có hành động gì tiếp theo, ngoài ra nó còn có hại vì người dân lúc đầu thì họ dễ tin, nhưng cứ nghe mãi thật nhàm chán, sau đó nếu ai muốn gây dựng một lực lượng đối kháng, tổ chức tuyên truyền cũng trở thành trò đùa bỡn. Những vấn đề chính trị quan trọng cũng bị thành trò diễu cợt thì dân sẽ có thái độ phi chính trị rất tai hại cho tương lai tổ chức lực lượng chống Cộng Sản xây dựng lại đất nước.


Tháng 10-1975, có quyết định đổi tiền. Dân miền Nam không ngạc nhiên. Ai cũng biết một chế độ mới không ai sử dụng hệ thống tiền bạc chế độ cũ; nhưng người ta không biết sẽ đổi như thế nào. Rồi người ta cũng ước đoán và truyền nhau những ước đoán của mình:
– Có thể cách mạng sẽ bỏ không dùng tiền bạc như kiểu chính quyền Kampuchia.
– Có thể sẽ bỏ hết tiền cũ phát đồng đều mỗi gia đình một số tiền bằng nhau như kiểu Tiệp Khắc năm 1948.
– Có thể sẽ phát tiền dựa vào số nhân khẩu của gia đình.
Rất nhiều sự suy đoán và tin đồn, rồi người ta nghĩ ra nhiều cách đổi tiền miền Bắc để cất giữ và thị trường giao hoán tiền tệ hai miền ở Đà Nẵng và Huế trở nên mạnh mẽ.


Ngay từ đầu, Huế, Quảng Trị đã nhập vào Liên khu 4, áp dụng lối sống của miền Bắc XHCN, sử dụng tiền miền Bắc.
Người ta không giữ tiền nhiều, mua hàng và quý kim tồn trữ, nhưng có trở ngại là hàng hóa tồn trữ có nguy cơ bị kiểm kê và ghép tội tư sản hay đầu cơ. Giữ quý kim như vàng sợ bị tội.
Thông báo giới nghiêm, nhà nước chưa tuyên bố lý do, thì dân đã biết là đổi tiền. Nhiều người có tiền chạy đôn chạy đáo đi mua hàng hóa, vật giá lên thật nhanh, tiền xem như giấy lộn.


Nhà nước đổi tiền theo giá 500 đồng bạc VNCH ăn 1 đồng bạc ngân hàng và tối đa gia đình được đổi 200, số còn lại ký gởi. Ký gởi vào nhà nước cách mạng thì dân cũng hiểu là không bao giờ được lấy ra. Nếu có lấy thì những tiêu chuẩn khó khăn không ai làm được. Ký gửi là một từ ngữ đẹp để che giấu cho hành động cưỡng đoạt.


200 đồng bạc cho mỗi gia đình, phải ngồi sắp hàng cả tuần mới có. Những ngày đầu là đổi cho gia đình cách mạng, công nhân viên. Và cán bộ cách mạng bắt đầu vố làm ăn khấm khá đầu tiên. làm ăn công khai, giúp “bà con ruột thịt” miền Nam đổi hộ số tiền quá 100 ngàn tiền cũ ấn định đó. Đổi xong chia theo tiểu chuẩn cán bộ lấy 75%, 80%, 90% tùy từng vùng từng thời điểm.


Nhiều gia đình tự tử vì giữ nhiều tiền bạc quá, nay xem như mất hết. Có người ôm cả bao bạc nhạy từ lầu 3, 4 xuống, xác dập nát mềm nhũn và bạc giấy còn mới tinh bay trong gió như bươm bướm.
Chợ trời thêm đông và thêm nhiều chợ mới xuất hiện. Chợ Hàng Xanh, Bà Chiểu, chợ Bà Hạt, chợ Bảy Hiền. Người dân Saigon, sau lần đổi tiền như đã kiệt, tài sản, kể cả áo quần cũng đem ra chợ bán


. Người miền Bắc vào mua hàng đã đông đúc, bây giờ càng đông đúc hơn, tư nhân có, tập thể có, các hợp tác xã vào mua đủ mọi máy móc. Sau khi tháo gỡ các xưởng máy chở về Bắc, lập cơ quan thu mua, chính Phó thủ tướng Đổ Mười điều động việc thu mua cho nhà nước, người ta mua từ xe Honda, tủ lạnh, quạt máy, TV, máy lạnh, xe hơi. Trong khi dân không có tiền, nhà nước tung tiền giấy không bảo chứng ra mua hàng, có khác gì đem giấy đổi hàng. Tiền giấy ngân hàng đúng là chỉ giá trị hơn giấy lộn, vì mới đổi 1 đồng ăn 500 đồng, giá tô phở là 2 đồng bạc mới, dân gọi theo tiền cũ là 1000, chỉ một tháng sau giá tô phở đã lên đến 10 đồng.


Dân nghèo, bạc hạ giá, hàng hóa lên là đương nhiên. Nạn ngăn sông cấm chợ, nông phẩm các tỉnh miền Tây cấm chuyên chở lên Sài Gòn – người ta nghĩ là nhà nước cách mạng làm áp lực để dân phải hồi hương và đi kinh tế mới. Nhưng cũng do nạn sứ quân mỗi tỉnh ban hành chánh sách riêng của tỉnh họ, vì kinh tế mỗi tỉnh tự túc .


Tỉnh Biên Hòa, Long Khánh chặt cây ăn trái trồng lúa, Lâm Đồng, Đà Lạt phá vườn rau trồng lúa. Đọc báo Nhân Dân, tin gia tăng sản xuất tỉnh nào cũng đạt năng xuất cao, vượt chỉ tiêu.
Tuyến xe miền Tây toàn dân buôn chui, mỗi người đi mua bán từng 4 hay 5 kg thịt heo, 10 kg gạo, vài ba ký tôm khô. Trạm kiểm soát Ba Càng, Nha Mân ở hai tỉnh Vĩnh Long và Sa Đéc tiêu diệt ngành buôn bán lẻ tẻ theo xe đò.


Dân Saigon thiếu gạo trầm trọng, nhà nước cấp thứ gì ăn thứ đó, gạo hẩm, bo bo, bột mì, mì sợi cũng không đủ. Người dân miền Tây làm bún, bánh tráng, bánh tét, bánh ú đem lên Saigon bán – vì những loại thực phẩm nấu chín nhà nước chưa đưa vào qui hoạch. Bữa cơm của dân Sài Gòn đủ loại, cơm độn mì sợi, độn khoai, độn đậu, nhiều khi nồi đậu xanh độn một ít cơm. Mua được cái gì nấu ăn cái đó. Không chọn lựa.


Bác Hồ dạy cho cán bộ đảng viên Cộng Sản phải lo cho dân từ hũ mắm tới lọ cà. Ai cũng nghĩ đó là Bác nói cái tinh thần hy sinh của cán bộ cho hạnh phúc của dân chúng. Nhưng bây giờ người miền Nam biết Bác Hồ nói thật – nói với nghĩa đen của nhóm từ ngữ, đúng là lo hũ mắm, lọ cà, vì thịt cá không có, nếu có thì chỉ dành cho cán bộ đảng viên, còn dân thì chỉ ăn mắm, ăn cà, mà cũng không được tự lo lấy; vì mắm cà hay bất cứ lương thực, thực phẩm nào cũng đưa vào qui hoạch nhà nước.


Những cửa hàng lương thực, thực phẩm mọc lên ở các cấp với những bảng hiệu sơn màu đỏ như máu, màu đỏ của cờ cách mạng, màu đỏ biểu tượng cho tinh thần đấu tranh, màu đỏ qui ước chỉ khối Cộng Sản. Người dân thực tế họ biết rằng càng nhiều cửa hàng thì càng ít lương thực, sản phẩm nào được đưa vào qui hoạch, người dân càng khó mua.
Thỉnh thoảng lúc 2 hay 3 giờ sáng, tổ trưởng dùng loa hay đập cửa các hộ gia đình để đi nhận cá phân phối.

Khi mọi người tụ tập đầy đủ, cán bộ phòng lương thực quận bắt đầu bài học chính trị: “Dưới thời Mỹ-Ngụy nhân dân ta bị bóc lột tận xương tủy, chúng vơ vét hết của cải của nhân dân ta, thậm chí đến con cá là thực phẩm tầm thường nhất, nhân dân ta cũng không được ăn.

Ngày nay, nhờ ánh sáng cách mạng, nhờ Bác Hồ muôn vàn kính yêu và đảng Cộng Sản bách chiến bách thắng với chủ thuyết Marxism vô địch đã đánh đuổi được tên đế quốc đầu sỏ, tên sen đầm quốc tế là đế quốc Mỹ với bè lũ ngụy quyền tay sai, đem lại hòa bình và ấm no cho toàn dân. Bác Hồ dạy, đảng phải chăm lo từ hũ mắm, lọ cà cho nhân dân, hôm nay phòng lương thực quận đem cá về phân phối tận tay cho đồng bào…


 Nhưng trước khi đi vào thực tế chia chác, tôi cần thống nhất với bà con mình, là cá được đưa qua nhiều khâu nên có sự hao hụt và phí tổn chuyên chở, cán bộ nhà nước như chúng tôi là đầy tớ của nhân dân, tức là đầy tớ của bà con đây, nên cán bộ không lấy tiền công dù phải thức đêm hôm với bà con, nhưng phí tổn chuyên chở, hao hụt phải tính vào giá thành, nếu bà con thắc mắc ngày mai đề xuất lên quận …”.


Lần đầu tiên nhận phân phối cá, những con cá lóc bằng cổ tay đứa trẻ sơ sinh, đồng bào chỉ biết nhìn nhau nhún vai lắc đầu. Nhún vai, lắc đầu là động tác có tính thời đại của đồng bào miền Nam, một hình thức phản kháng mà không sợ bị bắt.


Sống trong nước chậm phát triển, sản phẩm tiêu dùng không đầy đủ, dân Việt Nam quá quen với chế độ phân phối, tùy mỗi giai đoạn chính phủ đặt các loại sản phẩm vào chế độ phân phối để bảo đảm cho mỗi người dân được mua một số lượng sản phẩm tối thiểu nào đó, để bảo đảm giá thị trường, tránh đầu cơ hay không lọt vào tay địch, nhưng các mục tiêu trên thường không đạt được.


Chế độ phân phối hàng hóa trở thành đặc quyền đặc lợi của nhân viên chánh quyền. Người ta không lạ gì chế độ phân phối gạo ở miền Trung đã sinh ra nhiều vụ tai tiếng lớn, không kể những lạm dụng cấp cò con. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa có vụ án chở gạo bán ra Bắc của Bộ trưởng Kinh Tế Trần Văn Mẹo và Ưng Bảo Toàn, có dính tới Ngô Đình Cẩn và Nguyễn Văn Bửu . Thời Đệ Nhị Cộng Hòa có vụ một Tư Lệnh Quân Đoàn 2 chở gạo bán cho Việt Cộng ở Pleiku, vụ Tài Mậu ở Quảng Ngãi của Đại tá Lợi, chở gạo bán ở Trà Bồng. Vụ độc quyền gạo ở các tỉnh Phan Rang, Phan Thiết của bà Huyết cô của Tổng Thống Thiệu.


Liên hệ đến nông nghiệp, có vụ độc quyền phân bón của Công ty Phân Bón Cửu Long do anh em cột chèo của Tổng thống Thiệu chủ trương và chính ông ta bảo trợ. Có độc quyền, có phân phối là có lạm dụng, dân chúng không hưởng được sự bảo đảm của chánh phủ, hầu hết sản phẩm mua trên thị trường chợ đen. Về sau, người ta dám can đảm gạt qua những chỉ trích để chấp nhận kinh tế thị trường, sản phẩm lưu động uyển chuyển và giá cả được điều chỉnh nhanh chóng qua thị trường cung cầu. Rõ ràng thị trường kinh tế tự do cạnh tranh cũng có những khuyết điểm nhưng nhìn chung vẫn tốt hơn chế độ phân phối.


Trong xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế chỉ huy, mọi sản phẩm đều đi vào quy hoạch nhà nước, và những ước mơ của Hồ Chí Minh, đảng lo từ hũ mắm lọ cà, nên chính quyền can thiệp thô bạo vào mọi khía cạnh của cuộc sống. Người ta mơ tưởng đảng hay nhà nước tập trung tất cả sản phẩm để phân phối thật công bình cho nhân dân, nhưng đó chỉ là ước mơ.

 Trước hết đảng và nhà nước cũng chỉ là một tổ chức của con người, những con người đầy lòng tham và được tuyệt đối quyền hạn. Sự phân phối theo nhu cầu hay bình quân đều không có cơ sở để định mức. Chế độ phân phối càng bị thiếu hụt giả tạo làm trầm trọng thêm sự khan hiếm, cộng thêm sự chậm chạp của hệ thống thư lại gồm nhiều hệ cấp trình báo. Tóm lại, càng nắm quyền phân phối sản phẩm dân càng thiếu, càng bất công. Hơn ai hết, người dân Việt Nam sống giữa những biến động xã hội, nhiều lần thay đổi chế độ, người ta càng thấy càng thay đổi người dân càng khổ hơn trước và càng nói cách mạng thì viên chức chính quyền càng tham nhũng, lộng hành hơn trước.


Tin tức từ thân nhân cán bộ Cộng Sản cho biết từ 1975 qua đến đầu 1976 Bộ Công An đã đưa thêm vào miền Nam 200 ngàn công an để lo về an ninh nội chính. Miền Nam dày đặc công an. Mỗi tổ dân phố có một Công an Khu vực, một Công an Kinh tế và một Công an Thuế vụ. Chưa kể hệ thống Công an Nhân dân gồm:
– Tổ trưởng Dân phố.
– Tổ trưởng Thanh niên.
– Tổ trưởng Thiếu nhi
– Tổ trưởng Phụ nữ.



Mỗi tuần các Tổ trưởng này phải báo cáo tình hình trong tổ theo nhận xét của họ lên Công an Khu vực và các Ủy viên ngành dọc ở trên phường. Chính sách Công an Nhân dân nhân, nhân hộ khẩu và phân phối lương thực, thực phẩm là chìa khóa cai trị nắm vững từng người dân một. Thêm vào hệ thống báo cáo trên, các chủ tiệm cà phê, tiệm ăn lớn nhỏ đều phải viết báo cáo hàng ngày về số khách đến ăn uống trong đó phải ghi nhận hai loại khách thường xuyên và khách bất thường, cũng như khách nào thường xuyên quan hệ với nhau.


Những tiệm cà phê, giải khát đông khách, vì các hàng quán này khách thường hay ngồi lâu nói chuyện; thì công an quận sẽ thay hẳn chủ quán, họ buộc chủ quán phải dời đi nơi khác. Quận cử nhân viên như công an đến bán như quán cà phê Hà Nội ở đường Nguyễn Thiện Thuật, quán Da Vàng ở Nguyễn Huỳnh Đức, người bán là nhân viên công an, người giữ xe đạp, thu ngân, dọn bàn, bưng nước đều là nhân viên công an phụ trách.


Công an mặc thường phục đi kiểm soát thường xuyên, có hai hay ba người tụ tập. Bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, công an cũng có quyền tách mỗi cá nhân riêng biệt rồi đưa giấy bắt họ khai, họ phải khai đã nói với nhau những gì, nếu lời khai không trùng lấp nhau đều bị bắt vì lý do phản cách mạng. Sự quen biết, bạn bè đối với dân Saigon bây giờ trở thành cái nạn, nhiều người ở tù vì những quan hệ sơ sài với những người bị theo dõi, bị bắt. Cách duy nhất để người dân Saigon tránh phần nào sự bắt bớ là ít ra đường hoặc trước khi nói chuyện với bạn bè phải đồng ý với nhau trước là mình nói chuyện gì đến khi bị kiểm tra khai cho thống nhất.


Nhà tù nhiều hơn trường học, mỗi quận đều có những nhà tù mới, nhà nước sử dụng các khách sạn, cao ốc để nhốt tù – và cả những biệt thự kín đáo mà dân Saigon không biết – chỉ những người bị giam trong tù mới được biết hầu hết các nhà tù ở trong Saigon, vì sự chuyển đổi trại tù gặp những người tù ở nhiều nơi.


Đại khái Bộ Nội Vụ có trại giam ở Tổng Nha Cảnh Sát, Quân khu 7 có trại Tô Hiến Thành, nhà giam của Phòng Nhì ở Tổng Tham Mưu cũ ở đường Ngô Quyền, trại tù binh cũ ở Ngã Năm Bình Hòa. Sở Công An có trại 168 Trần Hưng Đạo, trại Chí Hòa, trại Phan Đăng Lưu, trại Đại Lợi. Quận Tân Bình có trại Đại Lợi; Phú Nhuận có building đường Huỳnh Quang Tiên; Bình Thạnh có bót Hàng Keo; quận 6 có Trại Tế Bần, quận Nhà Bè có trại Nhà Bè, quận I có trại Mạc Đĩnh Chi; quận 2 có trại ở đường Trần Hưng Đạo Ty Cảnh Sát quận 2 cũ, quận 3 có trại giam Ty Cảnh Sát cũ đường Lê Văn Duyệt. Ngoài ra những nhà giam ở các Villa kín cổng cao tường không xác định được vị trí.


Tháng 11-1975, vụ Phục Quốc Vinh Sơn bị khám phá. Công an tấn công vào nhà thơ Vinh Sơn ở đường Trần Quốc Toản, bị kháng cự, 1 công an bị chết. Trong nhà thờ có tổ chức làm bạc giả và hệ thống phát thanh. Khoảng từ tháng 9 đến tháng 10 năm 1975 dân chúng Saigon có thể bắt được một số các buổi phát thanh từ 10g tối. Nhón Phục Quốc Vinh Sơn dùng hình ảnh Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ để tuyên truyền và triệu tập quần chúng. Ông Nguyễn Cao Kỳ được họ nâng lên làm Thống tướng hay Thống chế. Lời kêu gọi dân chúng nổi dây được đọc bằng giọng Bắc nhừ nhựa giống giọng Tướng Kỳ. Saigon lúc bấy giờ nhiều tin tức đồn đãi về hoạt động của Tướng Kỳ và Tướng Lân ở núi Bà Đen.



Sau vụ Vinh Sơn, các khu Công giáo và nhà thờ bị lục soát bắt bớ, Giáo dân và Giáo sĩ bị bắt rất nhiều không tính được.
Tết Bính Thìn qua trong buồn tẻ, thiếu thốn và đầy tình thương nhớ cùng luyến tiếc. Người dân Saigon không thể ngờ chỉ hơn 6 tháng mà đời sống kinh tế của họ xuống thê thảm như vậy. Hầu như đồ đạt trong nhà đều đã bán hết, có nhiều gia đình phải gỡ cả tôle và gạch hoa trong nhà đi bán. Nhà cửa ở Saigon không còn giá trị là một tài sản nữa mà đúng hơn là nơi dung thân ở thế nào cũng được. Tủ, bàn ghế, giường nệm đều bán sạch. Một căn nhà lợp tôle trong ngõ hẻm đắt giá hơn căn nhà xây ngoài đường – vì nhà xây không gỡ bán được và có thể bị chiếm bất cứ lúc nào.


Sau khi chiếm nhà các gia đình đi di tản, vượt biên, cán bộ Việt Cộng dòm ngó tới những căn nhà còn chủ ở lại. Những căn nhà rộng lớn có ddi.a điểm tốt thì chiếm làm công sở như Phường, Ấp, trạm Y tế. Quận đội, Phường nội. Gia đình bị chiếm nếu biết điều tuân hành thì được chỉ định một căn nhà xấu hơn để ở, nếu không tuân theo thì chủ nhà, nhất là người đàn ông, sẽ bị chụp mũ là phản động và bắt đi học tập. Việt Cộng biết rất rõ người đàn ông là cột trụ của gia đình ở miền Nam. Cô lập người đàn ông thì gia đình đó sụp đổ.


Trong chế độ Cộng Sản, nhất là trong giai đoạn họ còn trấn áp để trị an, bất cứ một cán bộ nào ở cấp thấp nhất như Phường, Tổ đều có thể đề nghị đưa một người dân đi cải tạo. Không cần phải chứng minh tội trạng của đương sự, vì họ chỉ cần ghi tội danh phả động một cách tổng quát và khi về đến Công an thì đã có tội, “bị bắt là có tội” vì Đảng không bao giờ sai lầm, đó là lý luận của những viên chức gọi là Chấp pháp của ngành công an.


Trong khi bắt dễ như vậy mà thả ra thì rất khó – lệnh tha thường phải do Bộ Nội Vụ hay Thành Ủy, một trong những lý do tại sao nhà tù Cộng Sản càng lúc càng đông người, ngay cả trường hợp cơ quan bắt người muốn tha cũng khó – bên diện tù Hình sự, gặp nhiều em chỉ vì ham chơi phá phách, cha mẹ quen như chế độ cũ đến Phường gửi con nhờ cải tạo cho con sợ, đến khi đứa bé bị đưa vào trại rồi, chính quyền sở tại cũng không xin tha được, lúc đó quyền tha đã thuộc cơ quan Quản lý trại giam – nhiều em đã chết trong tù vì trường hợp này.


Ngày mùng 2 Tết tiếng nổ long trời từ căn cứ Sóng Thần, tiếng nổ làm dân Saigon tỉnh dậy chạy ra đường mừng rỡ vì họ nghĩ có biến, có người la lên “quân ta về” trong khi bộ đội, công an, cán bộ cách mạng thì chạy trốn – nhưng tiếng nổ đơn độc không biết do sự phá hoại của một thành phần đối kháng hay một tai nạn do bất cẩn. Nhưng qua hiện tượng đó cho thấy chỉ mấy tháng mà người dân Saigon đã chán cách mạng và họ lại muốn có thay đổi.


Qua sự kiện này người dân Saigon cũng nhìn thấy tinh thần của cán binh Việt Cộng, nghe tiếng nổ cán bộ Việt Cộng chạy trốn như chuột, không ai còn ý nghĩ về một quân đội Cộng Sản lì lợm, kiên cường nữa, và dân Saigon càng thấy những từ ngữ tuyên truyền của Cộng Sản là láo khóet, có người thấy bộ đội, cán bộ nghe tiếng nổ chạy trốn tức tối hét lên: “ĐM, tụi nó hèn thế mà mình thua, đau quá”.


Vài tháng sau Tết Bính Thìn, xẩy ra vụ nổ ở hồ Con rùa đường Duy Tân, vụ nổ đơn độc một lần nữa làm dân Saigon mừng hụt – nhiều người bị bắt sau đó, đa số liên hệ đến vụ này là người Thái ở Tùng Nghĩa và người Tày ở Phú Lâm.


Họ dự trù một vụ đánh úp Sàigòn, hiệu lệnh là tiếng nổ ở hồ Con Rùa, nhưng khi di chuyển nhân sự và vũ khí họ bị bắt trước.
Chuẩn bị co cuộc bầu cử Quốc Hội cả nước tháng 4-1976, Việt cộng cho bắt tất cả nhà văn, nhà báo. Việt Cộng xem nhà văn nhà báo cũng là nhân viên của chính quyền, không phải là tư nhân như trong thể chế tự do.


Văn nghệ sĩ và nhà báo bị bắt không sót một người vì trong hàng ngũ này Việt cộng đã có nhiều cán bộ nằm vùng như Sơn Nam, Vũ Hạnh (nhà văn), Cung Văn, Huỳnh Bá Thành (nhà báo), Nguyễn Diệu Liên Tâm, nhân viên Bộ Dân Vận Chiêu Hồi. Nguyễn Diệu Liên Tâm là con một viên chức Bưu điện Đà Nẵng, y thị du học Úc Đại Lợi – vào đảng Cộng Sản, nằm vùng tại Bộ Dân Vận Chiêu Hồi.



Sau năm 1975 là một cán bộ nồng cốt của ngành công an, vì công an Việt cộng ít có người có đủ tiêu chuẩn như y, trẻ tuổi, du học ngoại quốc, sinh trưởng ở miền Nam – làm việc trong chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa, Nguyễn Diệu Liên Tâm và Huỳnh Bá Thành được kể như hai cán bộ xuất sắc nhất của Việt cộng trong ngành công an, không phải chỉ ở Sài Gòn mà cả nước. Hai tên này phá vỡ rất nhiều tổ chức đối kháng và bắt giam nhiều người nhất, có công nhất trong việc triệt hạ nhà văn nhà báo miền Nam. Giới văn nghệ sĩ trình diễn được yên thân hơn, nhưng hầu hết phải bỏ nghề vì cấm trình diễn, nghệ sĩ nào được trình diễn trở lại đều phải qua sự bão lãnh và giới thiệu của nữ kịch sĩ Kim Cương là cán bộ Cộng Sản nằm vùng trong giới nghệ sĩ miền Nam.


Sau khi đã cô lập sĩ quan, công chức và những người liên quan đến chế độ cũ cùng những đảng phái, tôn giáo, Cộng sản đã biết được tinh thần chống đối hay bất hợp tác của dân chúng miền Nam nên chúng chủ trương dùng bạo lực và nhà tù để trấn áp.
Cán bộ công an mặc thường phục làm công tác trinh sát hình sự và trinh sát chính trị được rải ra khắp các thành phố, tỉnh lỵ, thị trấn và nhất là Saigon đầu não của mọi sinh hoạt xã hội của miền Nam.


Nhân viên trinh sát chính trị được tuyển dụng trong thành phần sinh viên học sinh tranh đấu, con cái của các cán bộ Cộng Sản nằm vùng hay tập kết để dễ trà trộn hay xâm nhập. Đối với cán bộ từ Bắc vào, chúng huấn luyện cách sống miền Nam, kiểu cách ăn nói, sinh hoạt giống như thanh niên miền Nam, biết nhảy đầm, nghe nhạc, xem ciné, ngồi quán cà phê. Sau này có dịp ở chung với thành phần đối kháng sau ngày 30-4-75, phần lớn tổ chức của họ bị phá vỡ trong trứng nước là do họ thiếu kinh nghiệm, kết nạp cán bộ trinh sát chính trị của Việt cộng vào tổ chức, hay bị theo dõi, khám phá từ những cuộc hẹn hò ở các quán cà phê và quán giải khát.


Ngoài ra Mai Chí Thọ, Giám Đốc Sở Công An Thành Phố còn cho lập thêm những tổ chức đối kháng ma, để làm mồi câu những người có tư tưởng chống đối lộ diện. Thọ còn cho cán bộ treo cờ quốc gia. Tôi được một người dẫn đi xem một tiệm may ở đường Võ Tánh nối dài, giả làm như lén lút may cờ VNCH. Loan đồn tin thất thiệt, dựng nên hoạt động giả trá, sau đó cán bộ trinh sát chính trị được tung ra để tuyên truyền lôi kéo người vào tổ chức Phục Quốc ma. Rồi thì bắt tất cả, người đồng ý tham dự bị bắt vì tội tham gia tổ chức phản động, người không đồng ý tham gia cũng bị bắt vì tội không báo cáo. Tội danh lúc bị bắt khác nhau nhưng khi hỏi cung và kết án thì căn cứ thành phần xã hội, trình độ học vấn và tuổi tác của nạn nhân mà quyết định cải tạo lâu hay chóng.


Thời gian đầu vượt biên được kể là tội chính trị và bị xử phạt nặng, có nhiều trường hợp kêu án chung thân những người cầm đầu tổ chức. Từ cuối năm 1975, dân Saigonn và miền Nam đã vượt biển ra đi với nhịp độ đáng kể. Lúc đó tổ chức vượt biên rất khó vì chưa được sự “cộng tác” của công an biên phòng trong dịch vụ bán bãi, và những người ngư dân hay nông dân còn thử chờ đợi. Người dân bình thường nếu một chính quyền và xã hội tạm sống được họ không cần phải đối kháng hay chạy trốn.
Nhiều chuyến vượt biên thành công được kể truyền miệng từ người này đến người khác với sự khâm phục. Người nào cũng ao ước được ra đi.


Do đó công an Việt Cộng làm thêm nhiều vụ khám phá các tổ chức vượt biên. Mai Chí Thọ cho nhân viên đứng ra tổ chức móc nối rồi giả như đưa đi vượt biên, đến Phú Lân hay cầu Xa Lộ thì chận bắt. Bắt người vượt biên Sở Công An có nhiều lợi cụ thể là tịch thu vàng, quý kim người vượt biên mang theo, tịch thu nhà cửa, và giam giữ những người mà chúng cho là có tinh thần chống đối. Tóm lại vì lý luận tư tưởng là nền tảng điều hướng cho hành động, nên Cộng Sản không những bắt bớ giam cầm người có hành động phạm pháp, mà còn bắt bớ giam cầm những người chúng đánh giá có tư tưởng chống đối nên không ngần ngại tổ chức chống đối giả, tổ chức vượt biên giả để nhằm câu cho dân chúng phạm tội để chúng bắt.

Sống trong tình trạng căng thẳng bất cứ lúc nào cũng có thể bị bắt đó là tình trạng tinh thần của người dân miền Nam trong chế độ Cộng sản.

 

No comments: