Wednesday, February 25, 2015

NGUYỄN CHÍ THIỆP * TRẠI KIÊN GIAM IV

NGUYỄN CHÍ THIỆP  * TRẠI KIÊN GIAM

 CHƯƠNG 13



Dùng biện pháp phân biệt thức ăn tùy thành tích cải tạo, hạn chế nhận quà và thăm gặp gia đình để buộc tù nhân trại E tăng năng suất không thành công. Đem các đội tù Việt Nam Thương Tín, tù hình sự từ các phân trại A, B, C đến đào ao để phát động cuộc thi đua, tù nhân trại E vẫn tiếp tục giữ vững thái độ. Ra đến bãi lao động anh em đồng lòng làm thật chậm, năng suất dưới mức chỉ tiêu ấn định, thà bị phạt cả đội về trễ hay làm thêm buổi sáng chủ nhật.
Anh em toàn trại không ai chỉ huy ai, nhưng sống đồng lòng, vì cùng có kinh nghiệm, cố gắng duy trì các hành động tập thể, không chống đối cá nhân để riêng rẽ bị kỷ luật.


Trại trưởng Thân Yên cho chuyển Trung tá BĐQ Dương Đức Mai từ phân trại B làm trưởng ban trật tự để làm công tác đưa trại đi lên. Trung tá Mai, người sĩ quan QLVNCH khởi đầu binh nghiệp từ năm 1943 đi lính cho quân đội Pháp. Trở thành Thiếu úy Nhảy Dù Pháp từ 1951, luôn luôn hãnh diện với quá khứ đã từng chỉ huy những sĩ quan Nhảy Dù trẻ tuổi hơn, sau này đã là tướng lãnh. Đơn vị cuối cùng của Trung tá Mai là Liên Đoàn 22 Biệt Động Quân đóng tại Ban Mê Thuột. Vào tù Trung tá Mai sớm đầu hàng, trở thành một tay sai đắc lực. Chính ông ta đã hãnh diện điều đó, ông tự hào là đã sắp xếp trại tù A-30 (Củng Sơn) vào trật tự nề nếp. Thành tích đó được giới thiệu khi ông chuyển qua trại A-20 Xuân Phước. Ông Mai đã đem kỷ luật quân trường vào đời sống nhà tù. Trước khi đi lao động, mỗi người phải xếp mền gối thật vuông vức như lúc học ở trường huấn luyện. Đi tập họp phải xếp hàng từ nhà ra đến bãi, hai bên đường luôn luôn có trật tự thi đua kiểm soát.
Cá nhân nào vi phạm việc xếp mền gối hay trật tự lúc di chuyển phải bị đánh điểm xanh, bị ba điểm xanh trong một tháng đương nhiên bị xếp hạng cải tạo kém và hạ mức ăn xuống 12kg. Đội có nhiều người không giữ trật tự di chuyển, buổi trưa lên hội trường học nội quy và tập cơ bản thao diễn đi đứng cho thuần thục.
Nhưng mặc dù các biện pháp của trại và mọi cố gắng của những người tù cải tạo tốt như Dương Đức Mai, Phạm Quốc Bảo, Đoàn Đô, Phan Gi On, Nguyễn Văn Lịch, Lê Quang Minh, tù phân trại E vẫn ù lì không tăng năng suất, không báo cáo, không đấu tranh. Các buổi học tập mỗi đêm vẫn phát biểu theo đúng “bài bản và sách vở” rồi thôi. Kết quả thu hoạch năm đó ba mẫu ruộng được 700kg thóc, đậu cua chỉ bằng nửa dự tính và đậu phộng không đủ số giống phát ra vì khi thâu hoạch anh em bỏ lại hoa màu cho người dân đi mót nhặt. Thấy tình thế căng thẳng, tinh thần đoàn kết chống đối của phân trại E cao, Thân Yên cho mở đợt học tập viết lý lịch nguyên cả tháng, đồng thời thi hành hai biện pháp cùng một lúc, thứ nhất quyết định cho nhận quà thăm nuôi đầy đủ, biện pháp thứ hai ngược lại cho bắt giam một loạt hơn 30 người không cần vi phạm cụ thể. Xà lim khu E không đủ chỗ giam, nhiều anh em bị đưa vào xà lim các khu B và C. Những người bị giam đều hơn một lần bị kỷ luật nên cùm một hay hai chân không đáng ngại lắm và chúng tôi cũng có kinh nghiệm là tiêu chuẩn ăn 9kg một tháng với nước muối chúng tôi có thể chịu đựng hơn 5 tháng mà không bị chết, được trở ra rồi dần dà sẽ hồi phục trở lại. Nhưng lần này, tiêu chuẩn cơm không phải 9kg như thường lệ mà mỗi bữa chỉ được phát 2 muỗng cơm, đổ vào thật nhiều nước muối đồng thời hạn chế nước uống mỗi bữa chỉ còn một vá.
Mỗi lần phát cơm, hai trực trại Thái và Luật lấy muỗng đong lường từng muỗng cơm và lấy vá lường từng vá nước. Nhất là Luật, mỗi lần múc xong vá nước muối hắn chậm rãi đưa lên ngang tầm mắt nhìn rồi trịnh trọng đổ vào phần cơm, làm đều đặn mỗi ngày như là một trò chơi thích thú của hắn. Chúng tôi gạn nước muối ra, rồi đái vào, dùng nước tiểu rửa cơm cho bớt mặn. Nhưng chỉ vài ngày sau là nước tiểu cũng cạn khô không đái ra được nữa. Đói đã là điều dễ sợ nhưng khát thì khủng khiếp, cổ cứng lại và nước miếng dẻo lại như ngậm keo. Những hôm trời mưa nghe tiếng mưa kêu rào rào trên mái, tưởng tượng như thấy những giọt nước mát đang tràn ngập ra từ mái nhà xuống đất, đầu óc càng căng thẳng, người muốn căng lên, muốn vỡ ra, môi khô lại và cổ cứng nghẹn vì thèm nước, mỗi tế bào trong người như rộn ràng lên đòi nước. Nước tràn bên ngoài mà trong xà lim chúng tôi không có lấy một giọt, vẫn phải nhận một vá mỗi ngày do hai tên trực trại Thái và Luật đong cho.


Nguyễn Tú Cường đi làm việc có một sáng kiến uống thật nhiều nước rồi về đái cho Vũ Hùng Cương uống. Phương thức này phổ biến ra cho mọi người, nhưng bọn công an lại rất ít gọi chúng tôi ra hỏi cung vì đây là một lần giam kỷ luật để trấn áp, chúng cũng biết là chúng tôi không khai và không có điều gì để khai cả. Không nhận tội sách động chống đối mà an ninh gán cho. Phải nằm chịu đựng cả đói lẫn khát, tất cả chúng tôi kiệt lực nhanh chóng. Chỉ qua một tháng là ai nấy chỉ còn da bọc xương, cái đầu giống hệt như cái sọ người chết, hai hốc mắt trũng sâu xuống, dường như không còn một chút thịt nào.



Tôi nằm cùng phòng với Lâm, người Phật Giáo, ngoan đạo, mỗi ngày anh cầu nguyện Quan Thế Âm Bồ Tát. Tôi thấy sau những lần ngồi cầu nguyện, Lâm trở nên thoải mái và tự tin. Tôi cũng thuộc gia đình thờ Phật, nhưng từ nhỏ tôi không đi chùa và không có đức tin; tôi chỉ ngồi tập theo kiểu Yoga và điều tức hơi thở để duy trì sức khỏe. Tự nhiên tôi thấy trong hoàn cảnh gần kề cái chết này một niềm tin thật cần thiết, tôi không biết anh Lâm cầu nguyện, anh có hy vọng và thấy một điều gì không; nhưng với tôi, tôi chỉ thấy một khoảng không trống rỗng và nếu chết có lẽ chỉ là một bóng đen úp xuống. Thời gian đầu chúng tôi vẫn cố duy trì tập thể dục để giữ sức khỏe. Một cái chân bị còng chúng tôi vẫn khập khiễng đứng lên để làm một vài động tác cho thân thể có hoạt động cùng với sự xoa bóp. Bụng đói nên thân thể rã rời nhiều lúc không muốn ngồi lên, phải tranh đấu ngay với thân thể mình, không cử động thân thể, nằm bẹp dí chúng tôi sẽ mau chết hơn, nhưng đầu óc muốn ngồi dậy mà thân thể như bất tuân, rã rời từng khớp xương, mỗi thớ thịt. Khoảng sau một tháng thì hầu như không ai còn có thể đứng lên để làm cử động được dù chỉ để đánh hai bàn tay về sau theo thế anh em gọi là dịch cân kinh. Rồi những người chịu đựng không nổi phải ngất xỉu. Họ được cho về đội. Lần giam kỷ luật này để trấn áp và dằn mặt cả trại, thúc đẩy lao động có năng suất hơn.
Gần Tết Canh Tuất tất cả đều được thả ra, thời gian kỷ luật lần này chưa tới hai tháng, nhưng ảnh hưởng tới sức khỏe trầm trọng hơn những lần khác. Bên ngoài anh em đã có người được gia đình lên thăm, nhiều người đã nhịn bớt phần khoai mì để giúp chúng tôi bồi dưỡng lấy lại sức. Sau đợt trấn áp đó sự chống đối lắng xuống.


Cứ mỗi lần đông đến càng nhiều mối lo, trước hết sự đi lại của thân nhân khó khăn, quà gửi bưu phẩm cũng không nhận được. Trại cho gia đình lên thăm hai tháng một lần, nhưng không mấy gia đình đủ tiền nong và rảnh rang để đi thăm đúng hẹn, thường là 3 tháng hay 4 tháng một lần cho những gia đình còn khả năng thăm nuôi đều đặn. Mùa đông miền Trung bão lụt, từ ngã ba Chí Thạnh từ quốc lộ 1 vào trại là đường núi nhưng phải qua sông La Hai và nhiều con suối. Suối miền Trung mùa khô, chỉ trơ toàn đá, nhưng đến mùa đông thì nước lũ như thác, các cầu cống thường trôi sụp.



Mùa đông cái lạnh của núi rừng, sương lam chướng khí xông ra ngùn ngụt phủ màu trắng tang thương trên trại cải tạo. Lạnh cắt da thịt, lạnh từ xương tủy lạnh ra cộng thêm với những cơn gió lùa qua những cửa sổ vào ban đêm phải mở toang ra để bên ngoài cán bộ tuần tra kiểm soát bên trong. Trại vẫn sợ người tù túm tụm bàn tán chống đối, cho dù người tù có muốn được yên thân nhưng kẻ quản lý vẫn không muốn để yên. Quân đội đông như kiến, du kích dầy đặc, công an vũ trang đến tận răng, Cộng sản vẫn không yên tâm, chúng vẫn sợ sự chống đối, dù sự chống đối chỉ biểu lộ qua lời than trong nhà tù, trong hơi thuốc lào chống lạnh. 


Cán bộ tuần tra, trật tự thi đua kiểm soát giấc ngủ chưa đủ, chúng còn buộc người tù phải thay phiên nhau gác, mỗi người mỗi đêm gác một giờ. Không có đồng hồ, tù nhân bàn giao giờ gác bằng cách ước lượng thời gian, trong bóng tối mò chân bạn đồng cảnh để bàn giao giờ gác. Trong cảnh khổ đó, càng thêm mâu thuẫn, người đứng đắn kéo dài thêm giờ gác trước khi bàn giao, thiểu số giảo hoạt mới nhận gác năm mười phút đã gọi người hạ phiên. Người tù có ý thức ngoài chống đói, chống lạnh, còn phải tranh đấu với bản thân mình để khỏi vì những hoàn cảnh đó mà bất hòa mâu thuẫn với bạn bè. Mọi điều xấu đều được cố tình sắp đặt để người tù càng đói khổ càng cấu xé nhau. Mùa đông năm 1980 sau một năm chịu đựng, những người tù bệnh tật lần lượt chết, khởi đầu là các anh Lương Thiện, Quách Văn Trung, Trần Văn Sáng, Lê Văn Kéo, Phan Văn Cải, Bùi Nguyên Nghĩa. Cái chết của người tù có thể để lại tiếc thương cho thân nhân, nhưng là một giải thoát, giải thoát cho bản thân người tù khỏi kiếp đọa đầy và cũng giải thoát cho gia đình người tù một trách nhiệm, một bổn phận. Tù còn sống là gánh nặng cho gia đình, bỏ thì không đành mà gánh vác thì không kham nổi. Mỗi năm số người chết càng đông hơn, vì càng ngày sức lực càng kiệt, tuổi càng già sức chịu đựng càng suy giảm; tù hình sự chết càng nhiều vì hầu hết đều không được gia đình thăm nuôi. Có ngày chết hai, ba người, toán trật tự đi chôn có lúc phải bỏ xác lên một chiếc xe cải tiến để đẩy. Người chết được cuốn lại trong chiếc mền của họ, không có gỗ để đóng hòm. Những cái chết không hương khói đầu tiên còn làm cho người tù thương cảm chạnh nghĩ thân phận mình, không biết nằm xuống lúc nào. 


Người bệnh chết, người khỏe ngã bệnh, bệnh lao phổi lan tràn nhanh chóng. Lúc đầu chỉ ở những người bị đánh đập nhiều, hay những người bị giam cầm kỷ luật, rồi đến những người do thiếu ăn. Đến năm 1981 chỉ riêng phân hạt E có hơn 100 người mắc bệnh lao phổi. Còn nhiều người khác bị bệnh bao tử và bệnh gan do chất độc từ khoai mì H-34 tàn phá. Trại phải cho tập trung số hơn trăm người mắc bệnh lao ở cách ly trong một nhà để bớt truyền nhiễm. Trại lại không có thuốc, tính trên mỗi người tù được cấp mỗi tháng là $0.4. Mỗi tháng trạm y tế chỉ mua trên khoảng 50 lọ Streptpmycine nên những ngươi bịnh nặng ho ra máu mỗi kỳ nhận thuốc được chích nửa lọ. Bác sĩ Trần Quí Nhiếp nghĩ ra cách chích thuốc trực tiếp vào huyệt phế du để hy vọng thuốc tác dụng hiệu quả hơn.



Thuốc sử dụng hàng ngày là thuốc viên xuyên tâm liên, bệnh gì cũng được cấp phát mỗi lần hai viên xuyên tâm liên. Nếu không có thuốc gia đình gửi lên thì đành phải khắc phục. Khắc phục là tiếng đầu môi để giải quyết những khó khăn trong chế độ xã hội chủ nghĩa, anh em tù gọi là KP-mycine, nếu không khắc phục nổi thì nhận chiếc mền, hay may mắn lúc nào gỗ thừa thì được 6 tấm gỗ thơ sơ đóng thành chiếc hòm. Số người chết mỗi ngày một nhiều hơn. Khu nghĩa địa trên ngọn đồi nằm giữa hai khu A và B không còn chỗ chôn. Khu A phải lập thêm nghĩa địa mới trên đường đi Hốc Kè.



Đến năm 1982, một số lớn tù nhân trình diện đã được cho về, đa số là tù đến từ trại Suối Máu kể cả sĩ quan cấp tá. Sĩ quan trình diện từ các trại Z-30, Z-30D chỉ về lẻ tẻ và những người bị bắt chưa ai được tha. Nhiều đợt tù có án từ các tỉnh chuyển đến, chiếm đa số trong trại, cả khu A tù Việt Nam Thương Tín về hết đã phá ra xây dựng lại nhà gạch nhập vào khu E biến thành trại A. Dù hoạt động chưa có thành tích, tổ chức không sâu rộng, nhưng tinh thần chống đối của người dân mỗi lúc càng cao, những năm đầu thành phần phục quốc chỉ ở Saigon và những khu công giáo ngoại ô thành phố, bây giờ các đợt tù mới được đưa đến từ các tỉnh miền Trung, và miền Đông, thành phần dân chúng thuần túy.


 Những tổ chức đối kháng ở miền Trung đều có võ trang, hoạt động cụ thể nên họ bị ra tòa lãnh án. Phong trào đối kháng không bị tiêu diệt mà lại gia tăng, người đối kháng không dính dáng đến chế độ cũ. Phạm Văn Đồng có lần tuyên bố với ký giả ngoại quốc là “những người chống đối là những người trước kia bóc lột dân chúng, những người ngồi mát ăn bát vàng, ngại lao động, ngại gian khổ, bị mất quyền lợi nên điên cuồng chống lại chính quyền cách mạng”, không biết Phạm Văn Đồng phải trả lời thế nào nếu có ký giả ngoại quốc nào am hiểu tình hình Việt Nam, hỏi rằng y nghĩ thế nào khi người nông dân Việt Nam, những người không có quyền lợi dính dáng đến chế độ cũ, những người trước kia có cảm tình với VC hoặc có giúp đỡ VC nay đứng lên cầm súng chống lại chính quyền Cộng sản? Có phải chăng chế độ Cộng sản không còn lý do tồn tại nữa?


Trại Xuân Phước là nơi tập trung thành phần chống đối của các trại cải tạo miền Nam, cũng là nơi tập trung của các người lãnh đạo các tổ chức phản động ở khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam, Nghĩa Bình chuyển vào, từ cao nguyên Ban Mê Thuột đến và cả những người ở tận Rạch Giá, Long Xuyên, Cần Thơ.


Về phần các sĩ quan trình diện, là những sĩ quan trẻ tinh thần chống đối cao, nhưng họ chưa quen nhìn các vấn đề chính trị, họ chỉ mơ tưởng một ngày trở lại hoàn cảnh huy hoàng ngày trước, ở trong tù họ giữ danh dự, không làm lao động tích cực. Sau giờ sinh hoạt, giải trí bằng cách kể chuyện kiếm hiệp, hút thuốc lào, chờ đợi “tin hấp dẫn” (hot news).


Trao đổi ý kiến với Trần Danh San và Vũ Văn Ánh, chúng tôi đồng ý với nhau cần phổ biến rộng rãi hơn những hiểu biết ít ỏi về chế độ Cộng sản, về những vấn đề trọng đại của thế giới, để cùng nhau có những cái nhìn xa hơn và sẵn sàng chấp nhận một thời gian tù đày lâu dài, có một niềm tin là chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ. Theo cách thức chúng tôi làm tập Rèn Luyện ở trại Xuân Lộc, tập Hợp Đoàn được hình thành. Hợp Đoàn là tên của Vũ Văn Ánh đặt, anh San phụ trách viết bài về dân tộc và nhân bản, nhân quyền dựa trên lý thuyết Duy Dân của Lý Đông A, vì San là một đảng viên Duy Dân. 


Tôi viết những đề tài về các thực tế chính trị thế giới và Việt Nam, phân tích lý thuyết Bốn Thế Giới của Brezinski xem đó là sách lược mới của Mỹ, và thuyết Ba Thế Giới của Đặng Tiểu Bình để đưa đến kết luận là tình hình thế giới sẽ có nhiều thay đổi. Những sự thay đổi hoàn toàn bất lợi cho chế độ Cộng sản. Điều này tạo niềm tin cho anh em, xóa bỏ đi trong đầu óc họ ý niệm là chế độ Cộng sản không bị đánh bại. Cái ý kiến tiêu cực rằng là “một quốc gia đã bị Cộng sản hóa không bao giờ xoay ngược lại” làm cho nhiều người cạn suy nghĩ muốn cam phận, vì thực tế cho đến thời gian đó, khối Cộng sản đang bành trướng mà chưa bị đẩy lui.


Dựa trên những hiện tượng chính trị như hội nghị các đảng Cộng Sản Đông Âu lần thứ 22 trong đó Tito cổ động sự đòi hỏi độc lập cho các đảng Cộng Sản Đông Âu, kết quả là Cộng sản Rumania tách xa quĩ đạo Liên Sô, cộng tác với Anh Mỹ, được hưởng tối huệ quốc. Sự việc Rumania bỏ phiếu trắng tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc trong khi các nước CS khác đòi công nhận chính quyền Hunsen; sự việc Đức Giáo Hoàng Jean Paul II là Đức Hồng Y người Ba Lan duy nhất được bầu làm Giáo Hoàng, Ngài lại là một cựu tù nhân của Cộng sản Ba Lan; sự việc Brezinski là người gốc Ba Lan di cư trốn chế độ Cộng sản; sự việc báo chí Cộng sản luôn luôn chỉ trích đài phát thanh Âu Châu Tự Do, cho rằng đài đó cổ động phong trào nổi dậy ở Đông Âu. 



Sự việc nhà bác học Amelik người Nga tiên đoán chế độ Cộng sản sụp đổ trong thập niên 80 sau chiến tranh không thể tránh được giữa Liên Sô và Trung Quốc. Dựa trên những tài liệu ít ỏi đó, tôi viết những bài nhận định rằng chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ từ sự đấu tranh của các nước Đông Âu, khởi đầu đòi độc lập thoát khỏi sự đô hộ của đế quốc Nga. Tôi phân tích sự hình thành Liên Bang Sô Viết là một quốc gia Nga La Tư và thuộc địa, do đó nó sẽ không bền vững khi thực tế các nước Cộng Hòa khác trong Liên Bang Sô Viết sau khi được phát triển tiến bộ sẽ đòi độc lập và không chịu sự cai trị của người Nga trên đất nước của họ, đưa đến kết luận là Liên Sô sẽ làm vỡ khẩu hiệu vô sản thế giới đoàn kết của Karl Marx. 


Lúc tôi viết những bài trên tôi không nệ vào kiến thức hẹp hòi, bài viết không có giá trị như bài khảo cứu, nhưng trong phạm vi tờ báo chui trong nhà tù, thì cũng tạm ổn vì nhằm thuyết phục anh em đọc để họ có ý nghĩ là chế độ Cộng sản không vững bền được. Tờ Hợp Đoàn thứ hai có bài viết về Đông Âu của tôi được phổ biến thì may mắn đọc báo Nhân Dân cho thấy Ba Lan sôi động, 


Công Đoàn Đoàn Kết được thành lập đấu tranh đòi dân chủ như có sự thỏa hiệp của các lãnh tụ đảng Cộng Sản Ba Lan là hai Tổng Bí Thư Kania và Gireh về việc dân chúng Ba Lan đòi triệt hạ nghĩa trang quân đội Hồng Quân Liên Sô chết tại Ba Lan trong Đệ Nhị Thế Chiến. Báo Nhân Dân cũng loan tin các trường học ở Ba Lan dạy lịch sử Ba Lan rằng Liên Sô là một quân đội chiếm đóng Ba Lan và là thủ phạm giết chết hàng chục ngàn sĩ quan của Ba Lan. Sửa đổi lại sử chứng, vì trước đây Liên Sô đổ tội cho Đức Quốc Xã làm công việc tàn ác đó. Tôi nhớ lại năm 1973, tiếp phái đoàn ICCS, kiểm soát đình chiến tại cửa khẩu Hội An, một Đại-tá Hải Quân đã nói với tôi rằng: “Thông cảm trường hợp Việt Nam, vì nước Ba Lan của chúng tôi cũng đang bị ngoại nhân chiếm đóng.”


Trường hợp Ba Lan có thể xem như một phong trào Quốc gia đòi độc lập dân tộc, chống lại sự chiếm đóng của Đế quốc Liên Sô; Cộng sản có dùng từ ngữ đẹp thế nào thì tinh thần quốc tế vô sản, hay nghĩa vụ quốc tế thực chất chỉ vẫn là trường hợp một quốc gia mạnh chiếm đóng và khai thác một quốc gia nhỏ.


 Như vậy, khi Liên Sô còn duy trì được sự đô hộ trên các nước Đông Âu thì khối Cộng sản đệ tam còn, một khi Liên Sô suy yếu, các phong trào quốc gia sẽ nổi lên tại Đông Âu và khối Đệ tam quốc tế tan vỡ. Sự dàn xếp của các cường quốc tại hội nghị Postdam và Yalta công nhận quyền chiếm đóng của Liên Sô tại Đông Âu, rõ ràng các nước Đông Âu bị áp đặt chế độ Cộng sản. Không gì vô lý và là một hành động phản quốc của những người lãnh đạo gia nhập Đệ tam quốc tế. 


Vì điểm cốt yếu của Hiến Chương Đệ Tam Quốc Tế là chủ trương chuyên chính vô sản thực hiện đấu tranh giai cấp và công nhận Mạc Tư Khoa là trung tâm Cộng sản. Liên Sô lãnh đạo khối Đệ Tam Quốc Tế. Từ điểm này rõ ràng Hồ Chí Minh là một tội đồ phản quốc; ông ta đi đến Âu châu để tìm đường cứu nước, thời điểm đó có thể ông ta là người yêu nước, gặp thời ở Âu châu phong trào thực dân còn mạnh, ông không thể đấu tranh tại bản quốc để đòi độc lập cho đất nước, điều đó không trách ông được, cũng như bao nhiêu nhà ái quốc khác đã gặp phải sự khó khăn đó. 


Khi gặp thuyết Cộng sản và ông tin vào đường lối Cộng sản có thể giải phóng dân tộc thì có thể là lầm lẫn, nhưng khi gia nhập Đệ Tam Quốc Tế, công nhận Liên Sô là đất thánh, làm đảng viên tiên phong về phương Đông truyền bá thuyết Cộng sản và xây dựng đạo quân tiền phương thôn tính đất nước, biến đất nước thành một bàn đạp của Cộng Sản Quốc Tế tiến về Đông Nam Á, Hồ Chí Minh là một người phản quốc. 


Sau này ông chết đi, đám đệ tử Lê Duẩn, Trường Chinh lại vỗ ngực làm “mũi tên nhọn” của khối Xã Hội Chủ Nghĩa, nhai đi nhai lại lời thách thức “ai thắng ai” của Breznev là một hành động nô lệ cực kỳ thô bỉ. Từ Castro ở Cuba, Lê Duẩn ở Hà Nội đến một tên cán bộ hạng bét quản lý trại tù đọc diễn văn cũng lặp lại khẩu hiệu đó với vẻ vênh vang tự đắc. Các lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam tự hào quá đáng, xem mình là cường quốc chính trị, mà không biết rằng Liên Sô đang lúng túng với cái sân sau là Đông Âu đang rục rịch đứng lên.


Trong cuộc tranh chấp ý thức hệ, thế giới đang giằng co trong cuộc chiến tranh lạnh, những điểm nóng chỉ là một bộ phận nhỏ trong toàn cuộc chiến đó. Việt Nam không may mắn, bị lãnh đạo bởi những tay sai ngoại nhân vỗ ngực tự nhận là tiền đồn của thế giới tự do hay mũi tên nhọn của xã hội chủ nghĩa.


 Người lãnh đạo thực tâm yêu nước, phải khéo léo lợi dụng được sự tranh chấp quốc tế để độc lập, lèo lái tổ quốc tránh chiến tranh, đằng này tự nguyện làm tên lính xung kích, làm sao dân tộc Việt Nam không đau khổ triền miên. Việt Cộng chuyên sử dụng sử liệu giả để ngụy chứng tính yêu nước của Đảng Cộng Sản, và kích thích lòng yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc, nhưng bọn lãnh đạo là những người xuất thân ngu dốt nên không nắm vững con đường xây dựng bảo vệ đất nước của tiền nhân. Các triều đại Việt Nam xưa kia sau khi thắng ngoại xâm phương Bắc rồi cầu hòa, cầu hòa để tránh can qua, cho dù có thắng cũng đổ nát điêu tàn vì Việt Nam luôn luôn phải chiến đấu tự vệ trên đất nước. 


Các triều đại ngày xưa cầu hòa, triều cống nhưng không lệ thuộc. Trái lại, ngày nay từ Hồ Chí Minh đến Lê Duẩn tình nguyện làm tay sai cho Liên Sô, đem dân tộc nô lệ từ tư tưởng đến chính trị, mọi hình thức đều rập khuôn, mọi kế hoạch đều được Liên Sô duyệt, cứ mỗi lần sắp đại hội Đảng, các Đảng Cộng Sản phải chờ Liên Sô đại hội rồi mới soạn thảo chương trình đại hội đem qua Liên Sô duyệt xét trước. Mỗi năm, tên bí thư phụ trách về tư tưởng, tuyên huấn phải họp ở Mạc Tư Khoa để nghe Soulov Bí thư Đảng Cộng Sản Liên Sô được xem là lý thuyết gia ban hành các chỉ thị. Hiến pháp Liên Sô lại ghi rõ là Đảng Cộng Sản chủ trương phân công lao động quốc tế. 


Một hình thức bóc lột rất thâm độc về kinh tế của Liên Sô đối với các chư hầu. Trong tinh thần đó, các nước chư hầu Liên Sô chỉ làm công tác gia công kỹ nghệ cho mẫu quốc. Điều này chính các kinh tế gia khối Commecon đưa ra chỉ trích và đòi hỏi Liên Sô để họ tự do hoạch định chính sách phát triển cho phù hợp với tiềm năng kinh tế của họ. Chỉ có những tên lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam xem Liên Sô là thiên đường. Sau khi chiếm miền Nam thống nhất đất nước, Cộng Sản Việt Nam tình nguyện đứng hẳn với Liên Sô trong khi các nước cộng sản khác đang tìm cách tách rời. Mâu thuẫn Liên Sô – Trung Cộng, cuộc vận động độc lập của các nước Âu châu chia rẽ khối cộng sản và sẽ làm cho cộng sản tan vỡ.


Tin tức tình hình Ba Lan làm cho anh em đọc Hợp Đoàn càng phấn khởi hơn và Phạm Đức Nhì đã viết bài “Ngọn Lửa Ba Lan” đóng góp cho chúng tôi đăng ở Hợp Đoàn 3. Cũng trong số Hợp Đoàn này tôi viết bài “Sự Quản Lý Sai Lầm Về Kinh Tế”. Sau tờ Hợp Đoàn 3, Vũ Văn Ánh bị bắt giam vì liên hệ trong vụ Ngô Văn Ly rải truyền đơn. Tôi và Nhì ra số Hợp Đoàn 4, tôi viết bài: “Truyền Thống Dân Chủ ở Việt Nam” chứng minh xã hội Việt Nam không có giai cấp, truyền thống dân chủ có từ thời chế độ quân chủ. Do đó, đấu tranh giai cấp là một đường lối không phù hợp với văn hóa dân tộc.


 Cuối năm 1981, tôi bị bịnh nặng, Ngọc, Nhì, Nhàn, Dũng và Tú Cường ra Hợp Đoàn 5. Sau đó những mâu thuẫn trong nội bộ anh em trẻ, đồng thời nhóm khác trong trại noi theo Hợp Đoàn ra nhiều tờ báo chuyền tay, nên tôi bàn với anh em tạm nghỉ, vì theo kinh nghiệm, khi có nhiều người làm cùng một việc dễ đưa đến tranh chấp. Bất cứ một sự tranh chấp nào trong nhà tù đều không có lợi, những mâu thuẫn nhỏ đưa đến những tai hại vô cùng lớn lao. Đúng như tên Hợp Đoàn do anh Vũ Văn Ánh đặt cho tờ báo, Hợp Đoàn thể hiện được phần nào sự đoàn kết, nó không thuộc tổ chức chính trị nào. Ánh, tôi và các em sĩ quan trẻ như Nhì, Ngọc, Cường, Hải… và hai em sinh viên Vũ Văn Dũng và Nguyễn Thanh Nhàn trên lập trường Quốc gia chống Cộng sản. 


Không ai tham gia một tổ chức chính trị nào, chỉ có anh Trần Danh San, Chủ tịch Ủy Ban Nhân Quyền, đảng viên Duy Dân, những bài viết của anh trên lập trường chính trị đó, Ánh và tôi đồng ý là tờ Hợp Đoàn sẽ đăng tất cả các bài vở của tất cả các quan điểm chính trị Quốc gia nếu họ đóng góp, dĩ nhiên là trên lập trường chống Cộng. Anh em có thể gửi thơ và nhạc tù ca phổ biến trong Hợp Đoàn, những bài thơ của Nhì và nhạc của Khuất Duy Trác, Phạm Văn Hải, Trần Đắc Thắng được anh em tán thưởng. Trên thực tế những bài nhạc, bài thơ có tác dụng sâu rộng hơn những bài lý luận vì thơ nhạc đi sâu vào tình cảm con người hơn. 


Hợp Đoàn xem như là một thành công, anh em tiếp nhận đọc rất thận trọng và nghiêm túc. Thực chất nội dung vẫn chưa hẳn là một tờ báo đáng giá gì nhưng vì ở trong tù vừa khó khăn vừa nguy hiểm, mỗi lần Ánh hay Cường viết và lên khuôn tờ báo, những anh em thân thiết đều phải canh chừng và tổ chức đánh cờ chung quanh để tránh sự dòm ngó của an-ten, nên công một người thành công của nhiều người. Anh em đọc củng cố bảo vệ nó như người phát hành, vì nếu đổ bể ra thì tất cả đều bị chịu thiệt hại. Cũng như tờ Rèn Luyện ở Xuân Lộc, tờ Hợp Đoàn tạo sự gắn bó giữa chúng tôi và những người có tham dự vào cuộc chơi nguy hiểm.

Vũ Văn Ánh đến từ trại Hàm Tân Z-30C, nguyên là một công chức cao cấp của Bộ Thông Tin, anh có học báo chí ở Hoa Kỳ và giáo sư ngành truyền thông Đại học Cửu Long, sau tháng 4 năm 1975, anh học tập ba ngày tại cơ sở rồi trốn trình diện. Ánh và số bạn bè như Đại-úy Cảnh sát Vũ Trọng Khải, Trung-úy Dù Đoàn Bá Phụ, Đại-úy An Ninh Quân Đội Nguyễn Đại Thuật, những người trốn học tập. Các anh được móc nối tham gia tổ chức của Bác-sĩ Phan Huy Quát, người móc nối đưa các anh vào bưng vùng Biên Hòa thì bị bắt. 


Lúc đó mới hay tổ chức đã bị Cộng sản xâm nhập, và người lập bưng ở Tân Uyên và móc nối đưa vào bưng là cán bộ công an, đây là một tổ chức giả mượn danh Bác-sĩ Phan Huy Quát để bắt người, do Sở Công An Thành Phố dựng lên. Ở các trại Ánh sống đứng đắn, trọng danh dự nên được rất nhiều sĩ quan trẻ mến, trong đó có Trần Bửu Ngọc sĩ quan Biệt Kích và Ngô Văn Ly sĩ quan Biệt Động Quân. 


Ở đâu Ánh cũng là một cá nhân có sức thu hút và thuyết phục. Chính điểm son này, ở trại giam nào anh cũng bị giam cùm trong kỷ luật, Ánh thường chống đối bọn Cộng sản ra mặt. Gặp Ánh tại trại Xuân Phước, Trần Danh San và tôi thuyết phục Ánh bớt chống đối công khai, vì chống đối công khai là tranh chấp với tên cán bộ cấp nhỏ. Những người này quản lý tù, có thẩm quyền đối với tù nhân nhưng thực chất không có gì đáng kể, họ chỉ thi hành một cách máy móc chỉ thị của thượng cấp, họ được dậy lòng căm thù để thi hành các chính sách độc ác của Đảng mà thôi.


Vấn đề Cộng sản cần nghiên cứu từ lý thuyết đến thực tế, trường hợp Cộng Sản Việt Nam cần nghiên cứu kỹ lịch sử để nhìn nó không có thế đứng trong dân tộc Việt Nam. Từ đó có thể tóm lược một số lý luận cần thiết để chia xẻ với bạn đồng tù. Ánh đã đồng ý với San và tôi, nên tờ Hợp Đoàn được khai sinh như trình bày ở trên. Khuyết điểm duy nhất của Ánh là hợp tác với Ngô văn Ly quá sâu, Ly là người chống Cộng cực đoan và “vô chính phủ”, muốn làm gì thì làm, bất chấp tai họa cho người khác. 


Ly lại có cái nhìn khắc nghiệt và ác độc với những người không đồng ý kiến với Ly, Ly thường kết tội những người khác là phản bội chiến sĩ, là đầu hàng Cộng sản, sau đó hắn rải truyền đơn ký tên họ để mượn tay Cộng sản triệt hạ. Trường hợp Huỳnh Cự cũng là việc làm của Ngô văn Ly. Lần này y rải truyền đơn, bị bắt, hắn khai Bùi Lượng, Khúc Thừa Văn, Trần Công Linh và Lê Quang Minh là những người đã xúi giục và cộng tác với hắn để hại họ. Những người này đều có mâu thuẫn với nhóm Ly và Ánh từ Hàm Tân. Việc làm của Ly thường xuyên giống nhau từ Z-30C nên an ninh trại phát giác ra ngay. 


Nhưng bọn Cộng sản không cần biết ai mâu thuẫn ai, nên có duyên cớ là chúng bắt nhốt hết; và sẽ biến thành ra quan trọng để báo cáo lên cấp trên lập công thăng tiến chức vụ. An ninh đã nhốt Ly, Ánh, Đoàn Bá Phụ, Trần Công Linh, Bùi Lượng, Khúc Thừa Văn và Lê Quang Minh. Sau ba tháng Lê Quang Minh đã chết trong xà lim, Bùi Lượng và Khúc Thừa Văn chết hai năm sau đó. Thảm kịch tù hại nhau là một vết nhơ trong hàng ngũ tù nhân chính trị, hại nhau bằng cách làm an-ten báo cáo hay mượn tay địch để giết người bất đồng ý kiến đều là những hành động tàn ác, xuẩn ngốc. 


Anh em tích cực tham gia các hoạt động chống đối trong trại, nhưng đặc tính là không chịu đựng những thất bại. Sau mỗi lần bị giam thường hay trách cứ, đổ lỗi, nghi ngờ nhau – nên hoạt động này đưa đến sự liên kết cũng có, mà đưa đến chia rẽ hơn cũng có. Sau này Ly lại mâu thuẫn với Ngọc và Ánh, đem tố cáo tờ Hợp Đoàn tại sở Công An Thành Phố khiến tất cả chúng tôi đều bị đưa về Sài Gòn để thụ lý ra tòa. 


Đời sống trong tù chật hẹp, căng thẳng, con người rất dễ mất bình tĩnh và mâu thuẫn cãi cọ nhau. Chính Cộng sản tạo ra điều kiện đó để triệt hạ người chống đối. Tôi nhớ hôm trình diện ở trường Trưng Vương, một chính trị gia xưng đối lập với chính quyền Thiệu để xin vào học tập trước, tên cán bộ đã nói: “các anh đều là bọn phản động như nhau, heo trắng heo đen đều là heo cả”. Mỗi lần nhớ câu đó tôi đều thấy đau và nhục, nên cố gắng nhịn nhục và chịu đựng những bất công hay hiểu lầm của bạn đồng tù khi tôi thường dùng thì giờ rảnh để đọc nhiều sách Cộng sản.


Bắt đầu bịnh nặng từ tháng 8-1981, tôi thường bị xỉu ngay tại bãi lao động, lúc đầu vài ngày một lần. Cơn choáng xảy ra, đầu óc quay cuồng, nằm ngay trên sạp mà thấy cảm giác như bị hút vào khoảng không vô tận, lưng không thấy chạm sàn nằm và cảm thấy cô đơn. Bác sĩ Nhiếp nói với Biên, bạn thân tôi, là tôi bị loạn tim và có thể chết bất cứ lúc nào. 

Thoạt đầu nghe mình bịnh nặng có thể chết, tôi buồn vô hạn, uất ức lẫn hối tiếc, nhớ mọi người thân và thương vợ con, càng thấy mình có lỗi; một sai lầm là mất cả cuộc đời, di lụy cho bao nhiêu người. Ý nghĩ càng dày vò tôi từ những ngày đầu sau khi Sài Gòn sụp đổ làm tôi nhức buốt cả đầu. Hôm tối 24 tháng Chạp trời thật lạnh, được lệnh ngủ sớm vì an ninh sợ tín đồ Thiên Chúa Giáo làm lễ Giáng Sinh, ngồi riêng rẽ cầu nguyện cũng bị cấm. 


Cơn lạnh làm tôi không kềm nổi nên run lên, tôi choáng váng, muốn nghẹt thở, rồi đầu óc lại tỉnh táo, nhớ nhanh tất cả mọi người thân. Tôi bỗng sợ và nghĩ chắc là chết, Khổng Hữu Diệu nằm bên cạnh tôi dặn tôi nếu lên cơn đau cố gắng lay động để anh kêu cấp cứu, nhưng tôi nghĩ nên buông luôn, kêu cứu làm gì, quá lắm thì được cho vài giọt thuốc Long Não, chưa chắc có ích lợi mà lại phiền hà bạn bè. 


Mỗi lần tôi lên cơn xỉu, bạn bè kêu cấp cứu, cả nhà mất ngủ, tôi làm phiền họ nhiều lần rồi, lần này tôi đinh ninh sẽ chết nên không muốn làm phiền nữa. Đến sáng ra thì mọi người thấy tôi chết cứng rồi, thế cũng xong. Đã nhiều anh em chết như vậy, tối vào mùng nằm ngủ, chết lúc nào không ai hay biết, sáng ra không dậy điểm danh, lúc đó bạn bè mới hay. Nghĩ đến đó tôi không còn hay biết gì nữa.


Trong giấc ngủ tôi thấy khô cổ, khát nước, tôi đến một cái giếng, mực nước cạn gần đáy, khi tôi đưa tay vớt, mực nước dâng tràn lên đến miệng giếng, tôi chợt thức, biết mình vừa nằm mơ, cảm thấy người dễ chịu, hình như có một luồng khí mát chạy khắp người tôi ra đến môi. Lần mơ này khác với những lần mơ trước, tôi vẫn thường nằm mơ thấy khát nước, đến giếng múc nước thì nước cạn, lúc đến sông thì mạch nước rút ra xa hay thấy thác nước trắng xóa đến gần thì là tảng đá trắng. Những lần mơ như vậy thì ngày hôm sau thế nào tôi cũng bị một lần ngất xỉu, lần nằm mơ này ngược lại, nước đang cạn lại đầy; tôi bắt đầu có hy vọng. 


Từ đó bịnh tôi thuyên giảm tự nhiên không thuốc men. Thân thể con người thật kỳ diệu, và những giấc mơ cũng hay, báo trước tình trạng sức khỏe của tôi, sau lần đó tôi khỏe dần, khoảng cách những lần ngất xỉu cũng giãn ra. Tôi nghĩ là chết rồi lại sống trở lại, thấy con người thật mỏng manh, sự sống và cái chết thật gần gũi và chết chỉ là một bóng đen trùm xuống và không còn biết gì nữa, là hết. Thành công hay thất bại ở đời rồi cũng một lần kết thúc, ân hận tiếc nuối rồi cũng qua đi. Quả thực con người như có mà như không, đúng như lời Phật, giải tỏa được lòng uất ức và sự khắc khoải đúng là một sự giải thoát, từ đó tôi mạnh dần dần và lúc nào cũng vui vẻ, không giận hờn, không oán thù, không tiếc nuối, con người thoải mái và nhẹ nhàng hơn.


Cuối năm 1980 Hà Nội ban hành Hiến pháp. Tôi không hiểu lý do gì một bản Hiến pháp phải đợi thời gian hơn 4 năm mới hoàn thành, trong khi Việt Cộng có thể làm Hiến pháp trong một tháng và biểu quyết trong một ngày. Đối với Cộng sản, Hiến pháp chỉ là một hình thức dân chủ bịp bợm, vì Hiến pháp và luật pháp của nước Cộng sản đâu có nhằm bảo vệ người dân mà chỉ nhằm xác định tính độc tài của Đảng, tự nhận cho Đảng quyền lãnh đạo toàn dân và làm chủ đất nước. 


Nếu được nhìn thấy một lần cảnh biểu quyết tại Quốc hội của Việt Cộng chiếu trên màn ảnh thời sự, là thấy rõ trò bịp một cách bỉ ổi. Cả Quốc hội họp, khi biểu quyết, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh sau khi đọc xong một khoản, hỏi: “Có đồng chí nào phản đối không?”, thế là thông qua – Quốc hội bù nhìn thì làm sao dám phản đối ý kiến của Chủ tịch là người số 2 trong Chính Trị Bộ.


Bản Hiến pháp có nhiều thay đổi so với Hiến pháp 1959 vì lại phải mô phỏng theo Hiến pháp mới năm 1977 của Liên Sô, một Hội Đồng Nhà Nước được thành lập với một số quyền hạn rộng rãi hơn Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội cũ, Thủ Tướng đổi danh xưng là Chủ Tịch Hội Đồng Chính Phủ, một chức Đệ Nhất Phó Thủ Tướng được xác định. 


Trước kia Việt Cộng có đến 8 Phó thủ tướng quyền hạn như nhau, một Ủy Ban Thường Vụ của Hội Đồng Bộ Trưởng chỉ gồm có Chủ Tịch và Phó Chủ Tịch và Bộ Trưởng Phủ Chủ Tịch là thư ký; các Bộ trưởng không được họp ở ủy ban này, nói chung sự đổi mới chỉ tăng thêm sự rườm rà. 


Sự mô phỏng Hiến pháp 1977 của Liên Sô cũng nói lên sự kém cỏi và tinh thần nô lệ của Bộ Chính Trị ở Hà Nội. Trong khi Liên Sô tuyên bố đã thành công trong việc xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa, nên Hiến pháp 1977 nằm trong bước quá độ từ Xã Hội Chủ Nghĩa lên Cộng Sản Chủ Nghĩa. Trong khi Việt Nam còn trong thời kỳ đầu của xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, theo họ là xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa không qua con đường phát triển Tư Bản Chủ Nghĩa.


Đại hội đảng lần thứ năm được chuẩn bị khá lâu nhưng đình hoãn mãi, vì theo tin tức từ bên ngoài cho biết lý do đình hoãn đại hội vì Lê Duẩn chưa chuẩn bị được đa số đại biểu được bầu vào Ủy Viên Trung Ương thuộc phe cánh của y. 

Võ Nguyên Giáp từng bị thất sủng từ hồi Hồ chí Minh còn sống, nhờ có tên tuổi trong và ngoài nước biết đến nên vẫn còn được giữ chân Bộ Chính Trị và phụ trách một công tác kém quyền hành là Phó Thủ Tướng đặc trách cách mạng khoa học kỹ thuật. Trước đại hội kỳ 5, Võ Nguyên Giáp lại được nhắc nhở đến nhiều, và đó là mối lo ngại của Lê Duẩn dù Lê Duẩn đã dành nhiều quyền hạn cho Lê Đức Thọ thuộc cánh ông ta trong chức vụ Trưởng Ban Tổ Chức Đảng. Lê Đức Thọ cùng với Lê Duẩn được cử vào miền Nam để lãnh đạo Xứ Ủy Nam Kỳ và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Lê Duẩn là Bí thư Xứ Ủy, thì Lê Đức Thọ là Phó bí thư Xứ Ủy.


Chiến thắng miền Nam năm 1975 củng cố thế mạnh của cánh Xứ Ủy Nam Kỳ, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt cùng với cánh liên khu 5 Võ Chí Công, Chu Huy Mân thành đa số ở Chính Trị Bộ, chiến thắng này lại củng cố thêm thế mạnh cho cá nhân Lê Đức Thọ. Từ năm 1957 Lê Đức Thọ thay thế Lê Duẩn điều khiển bộ phận Đảng Miền Nam, và là người chỉ huy chính thức cuộc nổi dậy của Cộng sản tại miền Nam.


 Đến khi chiến thắng, Lê Đức Thọ là người ký kết hòa đàm Paris, nhưng cũng là người quyết định cuộc tổng tấn công mùa Xuân 1975. Ở vị trí thứ 5 trong Bộ Chính Trị nhưng là Bí Thư thứ 2 trong Ban Bí Thư, Lê Đức Thọ với nhiệm vụ ủy viên Tổ Chức Đảng, đã trở thành một thế lực lấn lướt cả Lê Duẩn. Lê Đức Thọ có hai em là Đinh Đức Thiện, Bộ trưởng Bộ Dầu Khí (trước đó là Cục trưởng Tổng Cục Hậu Cần) và Mai Chí Thọ, Giám đốc Sở Công An Sài Gòn kiêm Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố. 


Chức vụ Giám đốc Sở Công An, nhưng thế lực của Mai Chí Thọ thật lớn, vì nắm trọn lực lượng Công an Sài Gòn. Thọ đã lập được nhiều công trạng phá vỡ tất cả các tổ chức chống đối tại Sài Gòn, trong đó có rất nhiều tổ chức do y lập ra. Làm việc này Thọ có được hai cái lợi cho cá nhân y, thứ nhất các tổ chức phản động của y lập ra làm mồi bắt được nhiều người yêu nước chống Cộng.
Thứ hai y càng tô vẽ các tổ chức phản động càng quan trọng, công lao của y càng lớn. Thành phố Sài Gòn tuy trên tổ chức hành chánh chính trị đứng sau Hà Nội là thủ đô, nhưng thực tế thế lực chính trị của thành ủy Sài Gòn lớn hơn thành ủy Hà Nội nhiều vì Sài Gòn đảng viên đông tức là số đại biểu tham dự đại hội đông.


 Kinh tế Sài Gòn bao trùm cả nước, nắm được Sài Gòn là có thế đứng mạnh nhất. Theo tổ chức của Cộng sản, Giám đốc Sở Công An Thành hay Tỉnh là Phó bí thư thứ 2 của thành ủy hay tỉnh ủy đó. Từ lúc Nguyễn Văn Linh làm Bí thư Thành ủy, Võ Văn Kiệt Phó bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố, Mai Chí Thọ, Giám đốc Sở Công An, là Phó bí thư thứ 2 Thành ủy. Nguyễn Văn Linh trở thành ủy viên chính trị sau đại hội 4, Võ Văn Kiệt ủy viên dự khuyết trở thành Bí thư Thành ủy, Vũ Đình Liệu Phó bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố. Mai Chí Thọ vẫn giữ vững thế nắm giữ ngành công an.



Lúc này quản giáo Tích thường tìm dịp nói chuyện với Ánh và tôi. Chú bé này là quản giáo đội 5 chúng tôi từ ngày mới lên trại 1979. Đội 5 là đội quản thúc, hơn một năm chỉ làm lao động trong trại, cuối năm 1980 mới được đi lao động bên ngoài. Tích người Bắc, nổi tiếng ác ôn nhất trong hàng ngũ quản giáo, hắn không bao giờ rời đội, suốt giờ lao động hắn bắc ghế ngồi tại chỗ để trông từng người tù một, chờ dịp tù sơ hở là chửi bới. Bộ mặt kênh kiệu làm cao không bao giờ nói chuyện với tù, điều này đỡ cho chúng tôi vì chúng tôi cũng không muốn nói chuyện với cán bộ. Có những người lăng xăng chuyện vãn với cán bộ trông không giống ai, đa số tù không thích thái độ nịnh bợ đó, nên số này cũng rất ít. Từ khi đi phép về, hắn có vẻ buồn và suy nghĩ và thường bỏ đội đi chơi. Một hôm tôi nghe một màn đối thoại của Tích và bạn hắn:


– “Mầy có biết Sài Gòn hiện đại lắm không? Ngoài đường lúc nào cũng đông người chứ không như ở Xuân Phước của mình đâu. Còn chợ Sài Gòn thì hàng hóa thật là nhiều, thứ gì cũng có chứ không như chợ Đồng Xuân của mình. Mầy biết không, đường nào cũng có hàng quán, mình có tiền thì cái gì cũng có, cũng mua được, không phải xếp hàng. Mầy biết không, tiệm ăn nào cũng sạch sẽ, có cả khăn bàn và khăn tay trắng muốt, không như tiệm ăn ở ngoài Hà Nội đâu… Mầy biết không, gia đình của bà cô tao ở ngã ba Ông Tạ giầu lắm, cô tao theo chồng di cư năm 1954, nhà cô tao đứa nào cũng có đồng hồ, mỗi đứa một cái Honda; mà ở Sài Gòn họ ăn nhiều thế, bữa nào cũng có thịt, trong nhà người nào về lúc nào ăn lúc đó. Cô tao nói, sau giải phóng cô tao không mua bán được nên gia đình cô tao nghèo đi. Nghèo gì, tao vẫn thấy vương giả chán. Cô tao dặn tao đi ra ngoài đừng mặc áo Công an, mặc áo Công an dân họ ghét, mà tao cũng thấy như vậy, mình mặc đồ Công an dân họ khinh lắm.”


Tích thường hỏi chuyện Ánh và tôi về việc học hành, về đại học, có lẽ hắn có xem hồ sơ biết chúng tôi có học đại học. Chú bé có lẽ mê hai chữ đại học và ước mơ đi học ở đại học Công an. Tích nói với tôi hắn học xong lớp 9 thì vào Công an vì cha chết trong chiến trường B (tức chiến trường miền Nam), thảo nào hắn căm thù tù chúng tôi. Lúc đầu chúng tôi không thích nói chuyện, từ khi nghe câu chuyện Tích kể về Sài Gòn cho bạn, Ánh và tôi biết tinh thần thằng bé lung lay, không còn mơ mộng những giáo điều, sáo ngữ. Hắn có thay đổi thái độ với tù, không còn tìm cách chửi bới như trước, nhưng lao động hắn vẫn kiểm chỉ tiêu và luôn luôn bắt đội chúng tôi vượt hơn chỉ tiêu các đội khác. Một hôm ra đến bãi đào ao, hắn cầm thước đo chỉ tiêu cho từng tổ. Tính tham lam vẫn không chừa, mỗi lần hắn đo một thước lại gạch quá thành một thước hai ba phân, để ba thước có thể trở thành 3 thước 1. Tôi chợt nẩy ra ý định.


Tôi nói:
– Cán bộ cho tôi mượn cái thước.
Tích hơi ngạc nhiên đưa mắt nhìn tôi một lúc, nhưng rồi cũng đưa thước cho tôi. Tôi cầm thước đo một thước lùi vào ba phân, đến ba thước thì lùi lại khoảng 2 thước 9, tôi gạch điểm của tôi lùi sau điểm gạch của Tích 2 tấc rồi đưa thước cho hắn. Tích cầm cây thước gõ vào gạch của tôi hỏi:


– Sao lại chỗ này?
Tôi chỉ vào gạch của hắn nói:
– Sao lại chỗ này?
Tích xẵng giọng:
– Có tí xíu mà anh cũng kèo nài.
Tôi trả lời:
– Cán bộ không đổ mồ hôi mà cán bộ cũng kèo nài chúng tôi 3 thước thành 3 thước 1; chúng tôi đổ mồ hôi, 3 thước còn lại 2 thước 9 cán bộ cũng không chịu.
Tôi thấy mắt hắn trợn lên nhìn tôi, nhưng rồi dịu xuống và nói:
– Thôi các anh làm đi.


Tôi biết tôi đã suy đoán đúng, chú bé đã thay đổi nhiều, nếu việc này mà xảy ra trước khi hắn đi phép chắc chắn là sẽ chửi bới tôi một hồi rồi làm biên bản cùm tôi trong phòng kỷ luật. Ngày hôm sau làm lao động một lúc thì Tích tới đội gọi tôi đi theo hắn. Tôi đinh ninh là hắn đem tôi đi nhốt, anh em bạn bè ai cũng nhìn tôi tỏ ra thông cảm, họ cũng quen cái tính của tôi, hay chịu đựng nhưng nhiều lúc hơi bướng, anh em nói tôi nóng sảng.


Lên mặt ao tôi ngạc nhiên không thấy Tích đi về hướng trại mà dẫn tôi vào một bóng cây, chỉ vào gốc cây Tích nói:
– Anh ngồi xuống đi.
Tôi ngồi xuống xong, hắn ngồi lên chiếc ghế (ở trong tù mỗi lần nói chuyện với cán bộ là một điều sỉ nhục, cán bộ ngồi trên ghế còn tù ngồi dưới đất), Tích hỏi tôi:
– Ngày hôm qua anh không sợ tôi kỷ luật anh?
– Cán bộ kỷ luật tôi thì tôi chịu, tôi trả lời.
– Anh biết hồ sơ cải tạo của anh không tốt, anh cứ bướng thế làm sao về được.
Thấy hắn có vẻ dịu giọng, tôi nói:
– Bao giờ nhà nước cho về thì về, ở tù 5 năm rồi riết cũng quen.
– Anh có nhớ Sài Gòn không?
– Nhớ chứ cán bộ, đi xa lâu rồi phải nhớ nhà, nhớ Sài Gòn lắm.
– Anh biết tôi đi Sài Gòn về không, Sài Gòn lúc này vui lắm.
Giả bộ không biết hắn đi Sài Gòn, tôi nói:
– Cán bộ mới đi Sài Gòn à, chắc là vui lắm nhỉ, tôi tưởng cán bộ đi Hà Nội chứ.


Tích bắt đầu kể chuyện:
– Chuyến đi phép này tôi ghé Điện Bàn, quê của anh đó, tôi có bà chị về làm dâu ở làng Phong Thử, anh rể tôi tập kết ra Bắc, anh có nhớ làng Phong Thử không? Làng Phong Thử đi từ ngã ba Điện Bàn từ quốc lộ 1 rẽ lên Đại Lộc. Làng mới xây dựng lại toàn nhà ngói, chị tôi nói trước đây là chiến trường Mỹ ném bom B-52 san bằng, dân làng đi ra thành phố.



 Sau ngày giải phóng trở về nên ai cũng giàu có, nhà nào cũng có đài tốt (radio). Tôi thấy làng trù phú lắm, người ta làm cả nghề dệt vải. Trước khi đến đó, tôi đã đọc tài liệu về hợp tác xã Điện Quang đứng đầu toàn tỉnh với năng suất 9 tấn. Tôi vừa muốn thăm anh chị vừa muốn xem hợp tác xã gương mẫu.
Tôi có vẻ chán khi nghe Tích tuyên truyền, nhưng bất ngờ hắn tiếp câu chuyện:
– Chị tôi nói bà con nông dân họ than oán lắm.
Thấy Tích ngưng lại tôi hỏi dò:
– Phong Thử gần quốc lộ nhưng trước kia toàn dân theo kháng chiến.


– Đúng đó, toàn dân là cơ sở, dân kinh tài của cách mạng ở thành phố về nên họ không sợ, họ nói tùm lum, chứ dân ngụy các anh có bất mãn cũng đâu dám nói. Tôi về Hà Nội bằng phi cơ, anh đã đi phi cơ lần nào chưa, đi phi cơ nhanh thật. Về Hà Nội mẹ tôi mừng lắm, hai năm rồi tôi mới gặp mẹ, mẹ tôi bán một con lợn được hơn hai ngàn, mẹ cho tôi hai ngàn để mua xe đạp.


 Tôi muốn có một chiếc xe đạp từ lâu rồi mà chưa có tiền mua. Lúc bé đi học cứ chạy theo sau mấy người đạp xe cho tới trường và nghĩ đến lúc mình có một chiếc xe thì sướng lắm. Nhưng tôi vào đến Sài Gòn tôi may áo quần và tiêu hết, mua xe đạp làm gì, như các anh trước kia nhà cao cửa rộng, xe cộ đủ thứ bây giờ thay đổi rồi cũng hết.
Đang nói chuyện với tôi thì có tên Tiên cán bộ tài xế lái xe chở hàng đi ngang qua, Tích hỏi với:
– Ê Tiên, cậu đi đâu đó, tối nay có chuẩn bị họp chi đoàn không?
– Các cậu họp đi, tớ ra chợ Xuân Phước uống cà phê “cái nồi ngồi trên cái cốc”, nghe nhạc xập xình (cà phê phin và nghe nhạc vàng). Rồi dẫn con Hà ra bờ suối tìm chỗ nào vắng mà cưa cho nó sướng không cần họp.


Nói xong hắn bỏ đi. Tích có vẻ ngượng với tôi về lối ăn nói thô tục của Tiên về chuyện trai gái. Tiên là tên cán bộ lái xe nên có tiền, luôn luôn tỏ ra ăn chơi và sống trội hơn các cán bộ khác. Tôi thấy nói đến họp nên bắt ý hỏi Tích để dò chơi:
– Hình như sắp có tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc?
– Đấy, họp chi đoàn cơ sở để bầu đại diện về dự Đại hội Huyện, bầu đại diện Huyện đi dự Đại hội Tỉnh. Đại hội Tỉnh bầu đại diện đi dự Đại hội Toàn quốc.
Tôi tiếp tục hỏi tới:
– Theo Hiến pháp có Chủ tịch Hội Đồng Nhà nước, không biết chuyến này ai làm Chủ tịch?


– Thì ông Trường Chinh chứ ai, ông Nguyễn Hữu Thọ xử lý Chủ tịch nhà nước khi bác Tôn chết, nhưng mới vào Đảng hồi sáu mươi mấy thì sức mấy mà được. Không chừng chuyến này ông Võ Nguyên Giáp làm Tổng bí thư hay Thủ tướng.
Tôi ngạc nhiên vì cách nói của Tích và những điều hắn nói về Võ Nguyên Giáp. Tôi tưởng một cán bộ cấp nhỏ không thể nói chuyện thay đổi Tổng bí thư, càng tò mò hơn nên tôi hỏi tiếp:


– Nghe nói ông Võ Nguyên Giáp bị bịnh nên lâu nay làm Phó Thủ tướng đặc trách khoa học kỹ thuật.
– Uy tín ông Giáp lúc này lên, người ta hay nhắc đến ông Giáp lắm, có thể làm Tổng Bí thư.
– Nhưng Tổng Bí thư bao giờ cũng làm suốt đời mà?
Tích làm vẻ thông thạo trước sự “khờ khạo” của tôi, hắn nói:
– Thì các anh không biết nên nói như vậy. Tổng bí thư cũng do đại hội bầu chứ, thành ra họ phải tranh thủ đại biểu nhất là các ông được bầu vào trung ương. Trung ương Đảng bầu ra Chính trị Bộ và Tổng Bí thư.


Buổi nói chuyện với Tích tôi thấy hữu ích, trước hết xác nhận được một số điểm. Thằng bé quả thực thay đổi nhiều sau chuyến đi phép. Đối với một cán bộ ở chỗ đồng khô cỏ cháy Xuân Phước này cũng như sinh và lớn lên ở Hà Nội thiếu thốn trong chiến tranh, sự phong phú và đời sống thoải mái của Sài Gòn có thể cảm hóa được. Điều này tôi xác nhận rất rõ qua nhiều cán bộ Xuân Phước những năm về sau, như cán bộ Tuyến, cán bộ Hải, cán bộ Uy, cán bộ Cường tên nào cũng về trường công an học vài năm trở ra trại đều thay đổi, trở thành rất dễ tính. 


Đặc biệt là trường hợp cán bộ Hải, hắn mang lon thượng sĩ nhưng phải làm vệ binh vì hay đánh tù khi hắn làm quản giáo ở đội hình sự. Làm quản chế (vệ binh) tù chính trị Hải thường có nhiều hành động độc ác. Hắn đi quản chế đội nào thì hôm đó tù không được đi tắm và múc nước, kể cả việc làm dơ bẩn như bốc phân. Coi đội làm rẫy hắn buộc tù phải dùng tay bốc phân bón cây, không được dùng xẻng xúc. Phân bón rau là phân người trộn với cát rồi phơi nắng, lần đầu tiên bốc vào phải nôn đến mấy lần, thấy tù nôn thì hắn chửi thậm tệ là quen thói hút máu nhân dân, không biết lao động, ngồi mát ăn bát vàng v.v…


Hải cũng thay đổi sau lần đi học Công an ở Thủ Đức về, lúc nào hắn cũng ngồi thừ ra, và rất dễ dãi, cho đi tắm sớm. Một hôm ngoài bãi lao động, hắn gọi tôi lại đưa tôi đọc một bài báo tường thuật về nữ bác sĩ Phượng ở bệnh viện Từ Dũ (Viện Bảo Vệ Bà Mẹ và Trẻ Em Thành Phố) đem hai đứa bé song sinh dính liền vào nhau qua Nhật để mổ – Hai đứa bé được đặt tên là Nguyễn Việt Đức.
Bài báo ca ngợi thành quả sáng tạo khoa học của nhân dân Nhật Bản và tính nhân đạo của đảng Cộng Sản. Tôi đọc xong thì Hải hỏi tôi:


– Anh suy nghĩ thế nào?
Tôi không biết Hải hỏi với ý gì – nên trả lời chung chung:
– Khoa học tiến bộ quá, dính liền nhau mà mổ được.
Hải hỏi tôi:
– Thật sự anh không nghĩ gì sao?
– Vâng, tôi không nghĩ gì cả, tôi thấy tội nghiệp những đứa trẻ quái thai.
Hải buông một câu nói ngoài tưởng tượng của tôi:
– Bao nhiêu người khỏe mạnh, bao nhiêu nhân tài đem đi nhốt rồi đem cứu một quái thai làm gì?
Tôi chỉ biết nhìn Hải ngạc nhiên, có thể nào khi người ta nhìn ra sự thực thì sự thay đổi lớn vậy sao? Tôi tin là Hải nói thực, với tâm hồn và sự suy nghĩ của hắn, đưa ra một nhận xét rất đúng đắn. Trước khi bảo tôi về đội, Hải nói:
– Đối với tôi anh còn ngại không muốn nói chuyện phải không? Anh dè dặt cũng đúng, giữa anh với tôi vẫn là một khoảng cách.


 CHƯƠNG 14



Lần nói chuyện với Tích thấy sự rạn nứt trong nội bộ các lãnh tụ đảng Cộng sản là có thực, và trong hàng ngũ đảng viên không còn tình trạng bưng bít và nói theo một chiều như những năm đầu nữa; bây giờ cán bộ có thể phát biểu những ý nghĩ riêng tư của họ, tôi nghĩ đó là một sự tiến bộ nếu nhìn chung trên quyền lợi đất nước, đối với đảng Cộng sản đó là một sự suy thoái đến độ trầm trọng. Một lời nói của một cán bộ cấp thấp chưa phải có giá trị hoàn toàn đúng nhưng nó phản ảnh một hiện tượng, về sự đồn đãi bàn bạc giữa cán bộ với nhau về các sự tranh chấp nội bộ, điều này trước kia không hề có trong nội bộ của một đảng Cộng sản. Tính chất của những đảng độc tài, cán bộ được huấn luyện có niềm tin tuyệt đối vào lãnh tụ và những điều lãnh tụ nói ra, đảng độc tài dùng động lực căm thù làm phương tiện đấu tranh và củng cố nội bộ nếu còn đối tượng tranh đấu, còn đối tượng căm thù tức là còn kẻ địch thì tất cả họ hướng về kẻ địch để tiêu diệt. 

Nhưng khi không còn địch thủ thì sự tranh đấu đó không thể nào hết đi được nên nó hướng vào bên trong tức là hướng vào sự tranh chấp nội bộ. Tôi hiểu thêm được một khía cạnh của vấn đề, những nhà lãnh tụ độc tài họ luôn luôn tìm ra đối tượng căm thù một phần để giữ vững tổ chức. Trường hợp Trung Hoa sau khi tiêu diệt hết kẻ thù giai cấp, không còn đối tượng cho đám đảng viên và đoàn viên trẻ tuổi đã được dạy tư tưởng Mao Trạch Đông, ông ta phải tạo ra cuộc Cách mạng Văn hóa để hướng tuổi trẻ Trung Hoa đấu tranh tiêu diệt những đồng chí thân thiết của ông đã trở thành những đối thủ, đó là những nguyên soái Tư lệnh các Quân khu và những người đang nắm giữ các chức vụ có thể tranh chấp quyền hành với Mao.


 Như vậy có thể tin tưởng được rằng sau khi Cộng sản hết kẻ thù trong nước và mối đe dọa từ bên ngoài, thì những cuộc đấu tranh nội bộ sẽ xảy ra và có thể làm đổ vỡ tổ chức Đảng. Một điều ghi nhận nữa là dù cho Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản cố tiêu diệt tính người trong cán bộ của họ, muốn đào tạo nên “con người xã hội chủ nghĩa để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”, họ dùng lối tuyên truyền bịp bợm để đánh lừa đảng viên, biến đảng viên thành ra cái máy chỉ biết căm thù. Họ đã thành công khi bưng bít tất cả sự thật, nhưng khi sự thật bị phơi bày, thì tính người của đảng viên Cộng sản lâu nay bị che khuất sẽ trỗi dậy và trong trường hợp có điều kiện nó sẽ gây nên những phản ứng có thể làm đổ vỡ tổ chức Đảng.


Như vậy chúng tôi có thể nói chuyện được với những cán bộ đó để tìm hiểu thêm tâm trạng của họ và qua họ biết thêm được những tin tức cần thiết dù là họ nói không hoàn toàn chính xác, những lời nói của họ có thể tìm thấy được những sự việc qua sự suy diễn hợp lý và khách quan. Những năm đầu trong tù, cán bộ chưa chịu nhìn ra sự thật, còn nhìn tù nhân như những kẻ thù nguy hiểm nên tù nhân cũng giữ thái độ đối nghịch, nhưng một khi họ thay đổi, chúng tôi cũng có thể trao đổi nói chuyện với họ và cuối cùng để xem “ai cải tạo ai”.


Kết quả đại hội kỳ 5 nhiều Ủy viên Bộ Chính trị bị loại trong đó có Võ Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Văn Linh, Chu Huy Mân. Trường Chinh được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Lê Thanh Nghị làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội đồng, Phạm Văn Đồng làm chủ tịch Hội Đồng Bộ trưởng tức Thủ tướng. Tố Hữu được lên hàng thứ 8 Ủy viên Bộ Chính trị và được chỉ định đệ nhất Phó chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng. Chức Đệ nhất Phó chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng mới được quy định, trước kia Việt Cộng có nhiều Phó Thủ tướng (khoảng từ 8 đến 10) ngang hàng nhau, bây giờ rập theo Liên Sô quy định trong số Phó chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng chỉ có một người thay Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng khi vắng mặt. Tố Hữu tên thật là Nguyễn Văn Lành là người tỉnh Thừa Thiên, thuộc cánh Lê Duẩn, một lá bài đang lên, Lê Duẩn chuẩn bị cho Tố Hữu thay thế Phạm Văn Đồng. 

Sự tranh chấp nội bộ của lãnh đạo Cộng sản Việt Nam càng ngày càng rõ rệt. Nguyễn Văn Linh trở lại làm Bí thư Thành ủy Sàigon, lúc từ Hà Nội vào Sàigon báo Tuổi Trẻ, tiếng nói của Đoàn Thanh niên đã phỏng vấn Linh rằng đại hội có thành công hay không, Linh cười trả lời “thành công, thành công lắm” và câu hỏi tiếp, cuộc bầu cử có công bình hay không thì Linh trả lời là rất công bình. Tại sao có những câu hỏi như vậy của những người ủng hộ Nguyễn Văn Linh khi Linh bị loại khỏi Chính Trị Bộ. Rõ ràng là mức xào xáo nội bộ đến độ công khai.


Dịp Tết 1982, trại cho bắc loa vào trong trại để đêm Giao thừa nghe các lãnh tụ chúc Tết, chúng tôi bị bắt ngồi chờ đến gần sáng cũng không có chương trình chúc Tết thường lệ. Sau biết được là Hà Nội không sắp xếp được giữa Trường Chinh Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Lê Duẩn Tổng Bí thư ai đọc trước. Sự mâu thuẫn đến độ chi tiết.


Nhìn ra sự mâu thuẫn về tranh chấp quyền hạn trong nội bộ của Đảng Cộng Sản Việt Nam, bơm lại chút phấn khởi và tin tưởng trong tù nhân. Lòng háo hức về biến động ở Ba Lan vừa mới tắt sau vụ Liên Sô dùng các tướng lãnh Ba Lan tay sai để đảo chánh loại trừ chính phủ và những người lãnh đạo Đảng Cộng sản đã ủng hộ Cộng đoàn Đoàn kết.


Tâm lý chung của đám đông mau chán nản, muốn có kết quả ngay. Thành kiến về một chế độ Cộng sản không thể bị lật đổ rất khó xóa đi được. Do đó nếu muốn vận động được một phong trào chống Cộng trước tiên phải chứng minh cho quần chúng là chế độ Cộng sản cũng như mọi chế độ chính trị khác cũng sẽ bị đánh đổ loại trừ khi nó không còn được nhân dân ủng hộ. Dĩ nhiên chế độ Cộng sản có cả một đảng tổ chức làm hậu thuẫn, một hệ thống bạo lực sẵn sàng đàn áp và có tương quan chặt chẽ giữa các đảng và các quốc gia Cộng sản với nhau. Chống lại một chế độ Cộng sản là một điều khó khăn, nhưng không phải chế độ Cộng sản là vô địch. Trước kia chiến đấu với Cộng sản nhưng đa số người Quốc gia nghĩ về Cộng sản là một cái gì bí hiểm, tàn bạo, đáng sợ nhưng cũng đáng nể.

 Chế độ Cộng sản buông bức màn sắt cô lập với thế giới bên ngoài, không giao thương và không tôn trọng quy luật quốc tế. ít người kể cả những chính trị gia hiểu rõ về lý thuyết Cộng sản một cách đầy đủ, chỉ biết nó qua những khẩu hiệu tuyên truyền của cơ quan tâm lý chiến đơn điệu và hời hợt, ít người đọc Tư Bản Luận vì nó vừa dày vừa khó hiểu. Không ai đọc nhiều về Lénine và Staline để nắm vững qui luật đấu tranh của họ. Người có thể đọc là những viên chức cao cấp vừa có đủ trình độ ngoại ngữ, kiến thức và có thể giữ tài liệu mà không bị cảnh sát bắt thì bận làm quan và hưởng thụ. Những người muốn đọc thì bị cấm đoán. 

Người có thẩm quyền và trách nhiệm vạch đường lối chống Cộng thì không có kinh nghiệm sống thực tế vì trước khi “làm quan” họ chỉ sống và học ở ngoại quốc hay ít ra là ở các thành phố nên đối với Cộng sản thì chỉ sợ mà không gần. Trái lại những người có kinh nghiệm sống với Cộng sản, có thể nhìn rõ những khuyết điểm của nó thì hoặc là không có cơ hội hoặc không đủ trình độ để trình bày và thuyết phục người khác. 


Những cán bộ Cộng sản miền Bắc dù với nhu cầu phải tô hồng tâng bốc lãnh tụ, đưa Hồ Chí Minh lên hàng lãnh tụ lớn nhưng có lẽ trong tận cùng của họ, họ cũng biết Hồ Chí Minh không “vĩ đại” như họ phải hô hào nên họ phải viết “học tập lý thuyết Marx Lénine tư tưởng Mao trạch Đông và tác phong Hồ chí Minh”. 

Rõ ràng lãnh tụ có thuyết, có tư tưởng thì đầu óc to lớn, lãnh tụ chỉ có tác phong thì đúng là người bình thường, chưa kể tác phong của Hồ chí Minh chỉ là một người giả dối, lừa bịp rẻ tiền, đắc thời làm nên sự nghiệp. Khi đã tìm hiểu từ lý thuyết đến thực tế thì trong xã hội Cộng sản còn dễ suy đoán những gì xảy ra trong tương lai vì Cộng sản là một tổ chức thì phải có quy luật, một bộ máy phải có cơ hành vận chuyển, tổ chức càng lớn, bộ máy càng to thì quy luật phải rõ ràng. Chìa khóa để tìm đường lối của Cộng sản trong thời gian sắp tới là đại hội Đảng. Bản phúc trình của Tổng bí thư, các khẩu hiệu chiến lược được thông qua tại Đại Hội Đảng, là những điều hướng cho chính sách áp dụng sau Đại Hội Đảng, nếu có thay đổi hay bổ túc thì qua các hội nghị Trung Ương Đảng và hướng dẫn thi hành chính sách là nghị quyết của Chính trị Bộ và Ban bí Thư.


Khuynh hướng của người lãnh đạo cao cấp phải thống nhất rập khuôn theo Tổng bí Thư khi họ trình bày tham luận của họ, nếu có người đọc tham luận khác thì đó là những sự kiện đáng kể. Trong đại hội kỳ IV, Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc là Kim Ngọc đã chỉ trích chính sách bình công chấm điểm và đề nghị khoán sản phẩm đã bị phê phán, cách chức và bị cầm tù. Đại hội kỳ V, Nguyễn Lam, bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ban Kế Hoạch Nhà Nước, xác nhận quản lý sai lầm kinh tế, Lê Duẩn và Phạm văn Đồng cũng tuyên bố nhận lãnh trách nhiệm. Chế độ bình công chấm điểm được thay thế bằng khoán sản phẩm. Trong đại hội kỳ V, Nguyễn văn Linh bị ra khỏi Chính trị Bộ vì tham luận của Linh đưa ra những điểm cởi mở về kinh tế không được đại hội chấp nhận. Đó là điểm đáng lưu ý.


Các quy luật điều hành chế độ Cộng sản đã được Lénine đề cập trong các tác phẩm của ông, và các đảng Cộng sản từ Liên Sô đến Việt Nam coi đó là cẩm nang hướng dẫn cho nên họ luôn luôn bị cứng nhắc và lỗi thời. Lénine có bộ óc lớn vẫn bị giới hạn, vì thời đại ngày nay khoa học kỹ thuật tiến bộ quá nhanh, điện tử được áp dụng trong mọi địa hạt, nhất là địa hạt quản lý xã hội thì trí óc của con người không lường trước hết được. Đây là một điều thất bại của chế độ cộng sản nói chung.


Phong trào Cộng sản quốc tế và khối Xã hội chủ nghĩa do Liên Sô lãnh đạo là một trào lưu tư tưởng, một định chế và một thực tế chính trị thời đại, được hình thành từ một lý thuyết đến tổ chức rất chặt chẽ nhằm chinh phục và thống nhất cả toàn thế giới.


Từ sự phê phán đúng các khuyết điểm các chế độ chính trị trong lịch sử loài người nhất là chế độ tư bản và phong trào đế quốc chiếm thuộc địa và thị trường tiêu thụ của các quốc gia Tây phương. Ý niệm giải phóng con người khỏi áp bức bất công và giải phóng các dân tộc khỏi nô lệ là lý tưởng của con người có lương tâm. Từ đó lý thuyết Cộng sản trở thành một hấp dẫn. Dùng bạo lực để đoạt và củng cố chính quyền vô sản, tập trung quyền hành và tài nguyên trong tay.

 Khởi đầu các nước Cộng sản giải quyết những khó khăn đưa xã hội đến ổn định và phát triển, dù giai đoạn này đòi hỏi phải hy sinh cả chục triệu người dân. Nhưng sau khi qua giai đoạn cần thiết để ổn định lúc ban đầu, đưa một nước ra khỏi sự trì trệ của một nước bị lệ thuộc hay còn ở trong chế độ phong kiến, đến giai đoạn các quốc gia ổn định. Cộng sản phải chứng tỏ sự hữu hiệu trong việc thực thi lời hứa đem lại công bình xã hội và hạnh phúc cho con người thì chế độ Cộng sản hoàn toàn thất bại, chỉ sau 70 năm nắm chính quyền, chế độ Cộng sản đi vào bế tắc vì giữa tổ chức chính quyền Cộng sản và những ước mơ đầu tiên của Karl Marx trở thành mâu thuẫn.


1- Ước mơ giải phóng con người công nhân khỏi các bất công, áp bức và bóc lột, chế độ Cộng sản câu thúc con người áp bức và bất công nhất. Người công nhân là đối tượng để giải phóng cũng thành một thành phần bị bóc lột bởi tư bản nhà nước, bởi hệ thống cán bộ quản lý và bởi các khuyết điểm trong tổ chức quản lý.


2- Ước mơ một xã hội không có giai cấp, chế độ Cộng sản tổ chức thành một xã hội nặng nề nhất, đảng viên Cộng sản thành một giai cấp bóc lột mới và chính trong nội bộ Đảng hệ thống đẳng trật cũng rất nặng nề mà con đường thăng tiến của đảng viên cũng chỉ dựa trên tính xu phụ, tâng bốc, bợ đỡ và kéo bè kết cánh tiêu diệt loại trừ nhau. Biến xã hội Cộng sản thành một môi trường đào tạo những con người đê tiện, nơi mà con người phải che dấu nhân tính để được sống bình an.


3- Ước mơ giải phóng cho các dân tộc bị áp bức nhưng kết quả lại hình thành một đế quốc nô lệ nhiều dân tộc.
4- Ước mơ hình thức nhà nước quản lý xã hội tự thủ tiêu, con người tự quản lý đời sống, nhưng lại thành lập một chính quyền mà bộ máy nhà nước quá nặng nề, buộc nhân dân đóng góp để bọn quan lại tiêu xài xa xỉ, nhũng lạm, và uổng phí; một hệ thống chính quyền dùng vũ lực để can thiệp thô bạo vào đời sống cá nhân của mọi người.
5- Ước mơ một nền sản xuất vững mạnh, mọi người đều tự giác bảo vệ của công nên hàng hóa sản xuất như nước để con người “làm việc theo năng suất và hưởng theo nhu cầu”, nhưng lại tổ chức một nền kinh tế què quặt, không đáp ứng được nhu cầu. Chế độ kiểm soát và phân phối nặng nề, trì trệ nên dân chúng phải làm quá sức mà phải xếp hàng cả ngày mua hàng hóa phẩm chất kém mà số lượng không đủ nhu cầu.
Lý thuyết không tưởng nên áp dụng vào thực tế lộ rõ ra những sai lầm. Chủ nghĩa Cộng sản không còn giá trị, nó hiện còn tồn tại nhờ tổ chức và bạo lực.


Một khi bạo lực không thể áp dụng thì chế độ Cộng sản đương nhiên tan rã, sự tan rã từ chính nó. Nhưng đã nhiều lần đề cập ở trên, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thắng lợi vì nhờ vào chiêu bài giải phóng dân tộc, chống ngoại xâm giành độc lập. Đảng không thắng nhờ chiêu bài xây dựng xã hội chủ nghĩa trong đó đấu tranh giai cấp là điều kiện cốt yếu. Sau khi thống nhất cả nước; lá cờ giải phóng dân tộc chấm dứt sứ mệnh. Đảng lộ rõ bản chất là một thành phần của đệ tam quốc tế theo con đường Liên Sô tổ chức lại xã hội Việt Nam theo đúng khuôn mẫu Sô Viết. Đảng Cộng Sản Việt Nam đi dần vào thất bại. Nguyên do:


1- Việt Cộng đã phá bỏ mọi giá trị tư tưởng của dân tộc Việt để áp đặt tư tưởng Marx Lénine trên toàn dân. Điều 4 hiến pháp (1980) Việt Cộng ghi rõ: “Đảng Cộng Sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Marx Lénine, là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội, là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.


Trên phương diện thế giới, Cộng Sản Việt Nam đã đi một bước quá chậm chạp, trong khi tư tưởng Marx Lénine đã lỗi thời bị phê phán ngay cả trong hàng ngũ các nước Cộng sản. Liên Sô đang bế tắc vì dùng độc tôn một hệ tư tưởng Xã hội không tiến bộ và không lối thoát – thì Việt Cộng sau khi chiến thắng quân sự vội vã xem việc áp đặt hệ tư tưởng độc tôn đó như là con đường không thể khác.


Về phương diện quốc nội: Việt Nam có truyền thống văn hóa hội nhập sâu sắc các tư tưởng Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo và Ki Tô giáo, hình thành tinh thần dân tộc, lòng nhân ái và tình yêu nước.
Trong căn bản tư tưởng đó, người Việt Nam không thể nào chấp nhận một hệ tư tưởng xây dựng trên hận thù đấu tranh. Việt Cộng nhờ vào tổ chức Đảng và hệ thống bạo lực xây dựng một định chế và tổ chức chính trị, nhưng không thể đi sâu vào tư tưởng dân chúng. Khi không còn yếu tố hướng dẫn của nhu cầu giành độc lập, chính quyền Cộng sản trở nên đơn độc và đối nghịch với toàn dân.


Đảng Cộng sản kể công bằng hai cuộc chiến thắng chống Pháp và chống Mỹ để biện minh cho quyền lãnh đạo đất nước. Điều này thật vô lý và lạc hậu, chế độ quân chủ dùng thuyết thiên mệnh để biện minh cho quyền lãnh đạo chính thống. Nhưng chế độ quân chủ cũng chỉ biện minh cho sự tồn tại của triều đại với điều kiện triều đại đó hợp với thiên mệnh – tức là hợp với lòng dân và phục vụ cho hạnh phúc của nhân dân.



Đảng Cộng sản dùng công lao (cướp công) để biện minh không những cho sự cầm quyền mà còn đòi hỏi quyền bất khả thay thế và quyền tiêu diệt thành phần dân chúng khác. Hiến pháp Cộng sản viết: “Đảng là người lãnh đạo duy nhất… Đảng lãnh đạo là thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và của dân tộc… đó là con đường tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội…” Chủ nghĩa chỉ là một định chế chính trị do con người đặt ra tùy hoàn cảnh xã hội. Xã hội loài người luôn luôn tiến bộ thì chủ nghĩa chính trị cũng phải thay đổi. Không thể nào như Cộng sản nói chủ nghĩa Cộng sản là định chế xã hội cuối cùng tốt đẹp nhất của loài người.


2- Lénine nói chế độ Cộng sản dân chủ triệu lần hơn dân chủ kiểu tư sản. Nhưng Cộng sản chủ trương tập trung dân chủ, đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đây là một lối chơi chữ. Đảng tự nhận mình là người lãnh đạo, là bản thân của quần chúng dù Đảng không được dân chúng bầu lên, không đại diện cho nhân dân. Nghị quyết Đại Hội kỳ 4 năm 1976 của Việt Nam viết: “Thông qua nhà nước, đường lối chính sách của Đảng biến thành quyết định của bản thân quần chúng. Đảng bắt buộc tất cả các tổ chức, các cán bộ, đảng viên của Đảng tôn trọng quyền lực của cơ quan nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và quyết định chỉ thị của cơ quan nhà nước, coi đó là kỷ luật của Đảng.”


Rõ ràng quyền làm chủ của nhân dân chỉ là một điều mơ hồ và nhân dân chỉ là một điều nhân danh. Bao nhiêu quyền hành đều nằm trong tay Đảng, dĩ nhiên quyền lợi cũng do Đảng nắm giữ hết. Như vậy thì làm sao có dân chủ được. “Đảng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Đảng chủ trương dân chủ với nhân dân và chuyên chính với kẻ thù của nhân dân.”


Hai chữ nhân dân đã mơ hồ, mà những kẻ thù của nhân dân lại càng hồ đồ hơn. Không có luật pháp nào bảo vệ cho quyền cụ thể của nhân dân, và bất cứ người nào bị công an hỏi đến cũng sẽ mất quyền công dân và tức khắc trở thành kẻ thù của nhân dân và kẻ đó sẽ bị chuyên chính. Công an là tổ chức để phán quyết “tính nhân dân và kẻ thù của nhân dân”, lại là tổ chức bạo lực chuyên quyền, dốt nát và được dạy tinh thần hận thù.
3- Ba cuộc cách mạng chủ yếu của cách mạng Cộng sản đem ra thi hành đều bế tắc


. Cuộc cách mạng tư tưởng không thể thành công. Cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, thực tế không đem lại đầy đủ sản phẩm và công bằng cho con người trong xã hội. Trong quan hệ sản xuất tư bản, không kể tương quan chủ và thợ ngày nay đã được cải tiến giảm bớt tình trạng bóc lột mà trở thành tương quan lưỡng lợi. Quan hệ sản xuất mới tập trung tư bản vào nhà nước, gọi mỹ miều là sản xuất toàn dân, trở thành vừa là một hệ thống bóc lột nặng nề, vừa là một tổ chức thư lại, trì trệ. Thất bại trong việc quản lý sản xuất là một trong những nguyên do chính làm cho hệ thống Cộng Sản Quốc Tế sụp đổ.


Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, được Đảng Cộng Sản Việt Nam xem là then chốt nhất trong ba cuộc cách mạng trở thành không tưởng vì hệ thống giáo dục kém cỏi, sự độc tài tư tưởng, sự chuyên quyền của hệ thống Đảng, làm cho động lực chính của cách mạng khoa học kỹ thuật tức là đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa trở thành dốt nát, lý luận một chiều, không sáng kiến. Riêng khẩu hiệu “hồng trước chuyên sau” và chủ trương khinh miệt trí thức cũng là một nghịch lý đối với chủ trương cách mạng khoa học kỹ thuật


4- Khẩu hiệu chiến lược của Đảng Cộng Sản Việt Nam là “xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa không qua con đường phát triển Tư Bản Chủ Nghĩa.” Theo lý thuyết Marx, Cộng sản chủ nghĩa là sự phát triển tất yếu của con người sau Tư bản chủ nghĩa. Người công nhân làm cuộc cách mạng thay đổi quan hệ sản xuất, thủ tiêu mâu thuẫn giữa chủ thợ, xóa bỏ được tình trạng người bóc lột người, cải biến phương thức sản xuất. 


Cộng sản chủ nghĩa đến thời Lénin, ông ta thấy không thể tiến lên Cộng sản chủ nghĩa nên đã khai sinh ra thuật ngữ “Xã Hội Chủ Nghĩa” để chỉ một giai đoạn phát triển trong lịch trình cách mạng vô sản. Sau đó các lý thuyết gia Cộng sản khai sinh thêm hai giai đoạn là “bước quá độ từ Tư bản chủ nghĩa qua Xã hội chủ nghĩa” và “bước quá độ từ Chủ nghĩa xã hội sang Cộng sản chủ nghĩa.” Liên Sô tuyên bố đã thành công trong giai đoạn xây dựng Xã hội chủ nghĩa và Hiến pháp năm 1977 là chuẩn bị bước quá độ tiến từ Chủ nghĩa xã hội lên Chủ nghĩa cộng sản. 


Các nước Cộng sản Đông Âu còn trong giai đoạn quá độ tiến qua Chủ nghĩa xã hội. Việt Nam là một nước cựu thuộc địa, nông nghiệp là sản xuất chính yếu của nền kinh tế. Các hệ thống ít ỏi của kỹ nghệ nhẹ gồm các ngành chế biến hàng tiêu dùng.


Trước tình hình thực tế đó, những người lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam thường nói là họ áp dụng nhuần nhuyễn lý thuyết Marxism vào thực tế Việt Nam; họ sẽ tiến thẳng từ tình trạng nông nghiệp lên Chủ nghĩa xã hội. Với một tham vọng tạo ra một mô thức phát triển mới làm đàn anh các nước thứ ba như là họ tự hào là một cường quốc chính trị, một mẫu mực để các nước chiến đấu giành độc lập noi theo. Họ thường nói nước Việt Nam là nước nhỏ người không đông đã đánh thắng liên tiếp ba đế quốc lớn, “điều mà trước khi Việt Nam thành công không ai tin được.”


Nhưng tham vọng của Việt Cộng vượt quá khả năng thực tế của họ, thành phần chủ lực của đảng viên không phải là công nhân mà là quân đội và công an, lực lượng bạo lực, đoàn thanh niên và nông dân, nên họ vội vàng quốc hữu hóa tất cả nhà máy đưa vào quản lý nhà nước, cải tạo công thương nghiệp, tiêu diệt thành phần sản xuất. Phát triển kỹ nghệ trong điều kiện thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, thiếu kiến thức và mù tịt về quản lý.Học đòi theo Staline, vội vàng công nghiệp hóa đất nước trong khi chưa đủ các điều kiện về vốn, người và kỹ thuật làm cho họ thất bại nặng nề, giết chết cả nền tảng công nghiệp non nớt, làm cho nền kinh tế càng tồi tệ hơn.


Do đó tham vọng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa thành ra “xuống hố cả nước”, và kế hoạch phát triển 5 năm từ 1976-1981 thành ra một sư phá hoại tất cả vốn liếng của đất nước. Giấc mơ công bằng xã hội thành “cào bằng xã hội”, biến Việt Nam thành một trong những nước nghèo nhất thế giới. Đại hội kỳ 5, Đảng chưa nhìn thấy rõ. Đại hội kỳ 6, Cộng sản đã nhìn thấy những bế tắc. Trước mắt muốn theo chân Liên Sô đổi mới nhưng lại tham vọng và mơ tưởng chỉ cải cách kinh tế, áp dụng cơ chế kinh tế thị trường có kiểm soát mà không thay đổi chính trị. Một điều rõ ràng nhất trong lịch sử tư tưởng chính trị thế giới hiện nay là Chủ nghĩa tư bản không giẫy chết như Karl Marx tiên đoán, mà trái lại Chủ nghĩa cộng sản đang diệt vong.


Nằm cạnh tôi là Khổng Hữu Diệu, Chủ tịch Mặt Trận Dân Quyền và Đoàn Phan Trí thuộc Đảng Tân Quốc Xã, chúng tôi trao đổi với nhau nhiều điều suy nghĩ. Những người bạn này cho biết sau 1975 họ quá nóng lòng trước cảnh nước mất nhà tan, trước sự bóc lột trắng trợn của chính quyền và cán bộ Cộng sản đối với dân miền Nam, nên cùng số bạn bè lập nên những Mặt Trận để kêu gọi nhân dân nổi lên chống Cộng; nhưng thiếu lãnh đạo, thiếu chuẩn bị và phương tiện nên họ thất bại. Không ai có đủ khả năng tập hợp được lực lượng mạnh để hành động đáng kể. Nhiều người cho là chúng ta thiếu một lý thuyết chống lại thuyết Marxism nên đã thua trận, nên họ đã nghiên cứu để lập thuyết. Có người phổ biến thuyết Dân Tộc Nhân Bản và Kinh Tế Bình Sản của Lý Đông A, Đảng Trưởng Đảng Duy Dân. Thiển nghĩ Karl Marx là con người đọc sách nhiều, suy nghĩ nhiều, đầu óc được xem như hơn người bình thường nhưng một khi sai lầm thì tai hại cũng thật lớn. 


Lénine một đời người viết 5000 cuốn sách lớn nhỏ đề cập thảo luận giải thích đến hầu hết những vấn đề xã hội, nhưng một khi sai lầm cũng làm khổ biết bao thế hệ, câu thúc hàng tỉ và làm chết hàng trăm triệu con người trên quả đất. Chỉ có các giáo chủ và các tôn giáo có lòng bác ái đem tình thương và sự xả thân để phục vụ con người. Khi con người chung sống đã hình thành xã hội, khi đã có xã hội, phải có quản lý xã hội đó, xã hội vì con người mà thành lập, con người phải tự chế bớt quyền lợi cá nhân vì quyền lợi của người khác thì xã hội mới ổn định. Vậy con người phải bảo vệ xã hội nhưng xã hội tồn tại trên căn bản vì hạnh phúc của con người. Hệ thống quản lý xã hội do nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội mà có. Do đó không thể nhân danh bất cứ điều gì để tiêu diệt và nô lệ con người.


Con người là chủ thể của xã hội nên tổ chức các định chế xã hội như thế nào cũng phải vì hạnh phúc con người, nếu đi trái với qui luật đó là ngược lại với thiên nhiên không thể tồn tại được. Chế độ Cộng sản nhân danh xã hội mà chối bỏ hạnh phúc con người, chế độ đó không có lý do tồn tại, thì sau chế độ Cộng sản, một chế độ mới phải đặt trên căn bản vì hạnh phúc của con người. 


Quốc gia cũng có một định chế xã hội hình thành do tập hợp của quyền lợi của một số con người có cùng truyền thống lịch sử và cùng hướng về một tương lai, hình thức một quốc gia thay đổi qua các diễn biến của lịch sử nhưng định chế quốc gia không thể thay đổi được. Khi đã công nhận con người là chủ thể của xã hội thì chế độ dân chủ không thể nào thay thế bằng một thứ “dân chủ tập trung” vì đã tập trung là độc tài không thể dân chủ được. Lénine chỉ trích dân chủ Tây Phương là dân chủ của người giàu, vì người giầu mới có khả năng ứng cử. Điều này không sai, nhưng những người giầu muốn đắc cử họ phải có điều kiện để cử tri lựa chọn, tức là không nhiều thì ít họ phải có chương trình phục vụ công ích. Không thể có dân chủ hoàn toàn cho mọi người, nhưng có tự do ứng cử và tự do lựa người đại diện là tương đối tốt. Lénine nói dân chủ tập trung kiểu Cộng sản, dân chủ triệu lần hơn dân chủ tư sản là ngụy biện hàm hồ.


Ở miền Nam Việt Nam trước 30-4-75 những người nắm chính quyền thường viện lý do dân trí còn thấp, các điều kiện dân chủ chưa chín mùi, để từ khước áp dụng dân chủ, điều đó cũng không đúng. Mở mang dân trí, phát triển kinh tế là trách nhiệm của chính quyền. Dù lúc đầu có khó khăn trở ngại để một nước từ thuộc địa qua độc lập, từ nông nghiệp lạc hậu qua phát triển, từ tư tưởng quân chủ, tác phong cường hào qua dân chủ, nhưng chính quyền phải đặt cứu cánh xây dựng dân chủ, từ pháp chế tổ chức giáo dục và tuyển chọn nhân sự phải hướng vào mục đích đó. Âm mưu thủ tiêu dân chủ hay từ khước thực hiện dân chủ là đi ngược lại xu thế tiến hóa chung.
Người Mỹ đến Việt Nam không lâu, nhưng ảnh hưởng của Mỹ về phương diện chính trị khá sâu. Trước kia ở miền Nam, Mỹ trực tiếp ảnh hưởng đến quyết định chính trị bằng cách sử dụng các quân nhân và chính trị gia theo kiểu nuôi gà đá, nghĩa là, bên ngoài thì Mỹ giúp đỡ quân sự để chống nhau với Cộng sản, còn nội bộ, mỗi chính trị gia hay một viên chức Mỹ ủng hộ cho một con gà, nội bộ mặc tình tranh đấu chọi nhau, ai thắng thì người nuôi gà thắng. Ngược lại trên cuộc chạy đua chính trị ở nước Mỹ thì người nuôi gà nào thắng, thì con gà của họ nuôi trở thành vô địch ở trường đấu đá. Thành ra các chính trị gia Việt Nam làm chánh trị với Mỹ để được cai trị dân Việt Nam như tác phong một ông vua quan, họ trở thành những kẻ đấu thầu chính trị. Trương một bảng hiệu lên, có vài hoạt động tối thiểu, để khi nào được trúng thầu mới đi tìm sản phẩm. Do đó, một công việc rất tầm thường là một nước trải qua nhiều chính biến, mà các tổ chức chính trị khi nắm được chính quyền không tổ chức nào đủ nhân lực để nắm toàn bộ chính quyền.


Đành rằng thế giới ngày nay các nước đều quan hệ chặt chẽ với nhau, nhất là các nước nhược tiểu, và cũng là một thực tế là trong sự nghiệp chính trị chống Cộng của người quốc gia nếu không có Mỹ ủng hộ cũng khó tiếp tục được. Nhưng từ chỗ cần thiết đến sự lệ thuộc hoàn toàn là chuyện khác, từ chỗ cần thiết phải có Mỹ ủng hộ đến sự chờ đợi cũng là một chuyện khác. Người ta chưa rút tỉa kinh nghiệm tại sao, cũng cùng trường hợp những nước chia đôi, tại sao Mỹ không bỏ rơi Đức quốc, không bỏ rơi Nam Hàn, thậm chí Đài Loan cũng không bị bỏ rơi khi Mỹ công nhận Trung Cộng. Đó là một vấn đề chính trị quan trọng, nó có nhiều lý do, nhưng một lý do chính là Tây Đức mạnh hơn Đông Đức, Nam Hàn mạnh hơn Bắc Hàn hoặc ít ra như Đài Loan cũng tự đứng vững được với một chính quyền và một nền kinh tế vững mạnh và những nước này có những hoạt động ảnh hưởng lại chính trường nước Mỹ. 


Người ta tin vào Mỹ là nước tư bản chống Cộng sản nên không thể bỏ rơi một vị trí chiến lược quan trọng như Việt Nam, nhưng người ta không nghĩ là Mỹ vẫn chống Cộng nhưng chiến lược thay đổi, học thuyết Domino đã bị bỏ qua để theo học thuyết 4 thế giới của Brezinski không vây chặn Cộng sản mà chia rẽ khối Cộng sản, và Mỹ cần đẩy mạnh sự chia rẽ đó. Sự hiện diện của Đảng Cộng Sản Việt Nam là một động lực để đẩy mạnh sự chia rẽ giữa Trung Quốc và Liên Sô đến độ không hàn gắn được. Người ta không nghĩ rằng dù nâng đỡ Trung Quốc trong chương trình cải cách của Đặng Tiểu Bình, nhưng Mỹ vẫn muốn có sự cản trở về sự phát triển của Trung Quốc mà trong cuộc chiến biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam, Mỹ đã nhìn thấy Cộng Sản Việt Nam có đủ sức ngăn cản sự bành trướng của Trung Quốc về phương Nam. Người ta quá tin tưởng vào Mỹ, trước kia tin vào Mỹ sẽ không bỏ miền Nam nên không chuẩn bị sức mạnh cho riêng mình, nên khi Mỹ bỏ rơi miền Nam, từ chính quyền đến các lực lượng chính trị không ai dám đương đầu với Cộng sản. Ngày nay người ta thấy Mỹ còn bao vây Việt Cộng, còn cấm vận, không có quan hệ ngoại giao, người ta tin là Mỹ sẽ trở lại bằng một hình thức nào đó loại bỏ Việt Cộng nên không ai chuẩn bị lâu dài để đấu tranh với Cộng sản, không ai chịu nhìn thấy Cộng sản sẽ sụp đổ ví lý thuyết lỗi thời và nội bộ suy thoái, thất bại trong việc quản trị xã hội, cho dù Mỹ có bang giao thì người Việt chống Cộng cũng còn lý tưởng để chống Cộng sản. Người chống Cộng Việt Nam hiện tại ở trong tình trạng không nhìn cái yếu căn bản của Cộng sản, nên vừa chống vừa sợ, chống vì căm thù, và vừa trông chừng người Mỹ. 


Nếu một lúc nào đó Mỹ đạt đến sự tương nhượng của Cộng sản, nhìn nhận và bang giao với Việt Cộng thì người Việt Nam quốc gia chống Cộng sẽ mất đi một số người. Căm thù là một động lực để chống Cộng, nhưng căm thù thực sự mạnh mẽ nơi chiến trường của một người lính chiến. Phải chống Cộng vì lòng yêu nước và niềm tin – chống Cộng và hiểu rõ rằng còn Cộng sản là đất nước không tiến bộ, con người Việt Nam không thể yên thân và hạnh phúc được, chống sự tồn tại của lý thuyết và tổ chức Cộng sản, không phải chống vì tên Việt Cộng A, tên Việt Cộng B tàn ác dã man. Phải chống Cộng cho dù Cộng sản “tỏ ra dễ thương” cũng cần đòi hỏi họ phải từ bỏ lý thuyết và phương thức xây dựng xã hội theo kiểu Cộng sản.


 Khi người cộng sản đã từ bỏ những điều căn bản đó thì họ không phải là kẻ thù nữa – hận thù là động lực đấu tranh, nhưng hận thù không giải quyết được những vấn đề thuộc con người mà chỉ có tình thương mới làm cho đời sống con người có ý nghĩa.


  CHƯƠNG 15


Trại cải tạo có nhiều tù các nơi chuyển đến thì những hoạt động của các tổ chức chính trị ồn ào nhộn nhịp và hậu quả không tránh khỏi sự khám phá của an ninh qua sự báo cáo của hệ thống tù nhân làm tay sai vẫn lén lút cung cấp tin tức. An ninh biên chế những tù nhân bị liệt vào thành phần cứng đầu vào phân trại B, để thi hành chế độ cải tạo nặng nề và đồng thời chuyển một số người chúng nghi là có ảnh hưởng đến đám đông vào phân trại C để giam vào xà lim và cách ly. Tôi theo toán người vào phân trại B, ở vài ngày chưa yên chỗ thì được lệnh chuyển trại vào C. Phân trại C nằm trong một thung lũng hẹp cách phân trại B khoảng 3 km, theo đường núi ngoằn ngoèo vào xã Xuân Định, đa số là đồng bào sắc dân H’Roi, một sắc dân thiểu số chưa được khai hóa vì từ chiến tranh chống Pháp đến nay vùng rừng núi này thuộc Việt Cộng kiểm soát. Cán bộ chế độ Cộng Hòa chỉ hoạt động từ năm 1956 đến đầu năm 1958 rồi rút từ khi Việt Cộng bắt đầu có những hoạt động ám sát.

Qua một con suối cạn, một cánh rừng nhỏ, đến trảng tranh đầu thung lũng, nhìn lại tứ bề vách núi dựng đứng. Thung lũng trở thành như cái giếng cạn khổng lồ. Bề mặt thung lũng được san bằng phẳng, khu trại được xây hai bên con đường băng ngang, bên tay phải là trại tù, bốn bề có dây kẽm gai, hào sâu trồng cây xương rồng dầy đặc, bên tay trái cách cái ao nuôi cá là dãy nhà chỉ huy và nhà ở của cán bộ. Bấy nhiêu đó đã nói lên bao công trình của tù đã để lại, bao nhiêu mồ hôi đã đổ ra, và bao nhiêu tuổi trẻ đã nằm xuống, còn ghi lại bởi những nấm mồ nằm chi chít trên một ngọn đồi đầy cỏ tranh đất khô cằn không trồng được cả loại khoai mì H-34. Sau tù tàu Việt Nam Thương Tín xây dựng trại A, tù hình sự đến Xuân Phước xây dựng trại B, trại C và trại D. Họ phải chống lại nước độc và sương lam chướng khí và phải đẵn cây, san đất, xẻ đường với dụng cụ thật thô sơ và sức con người còm cõi vì thiếu ăn.

Họ phải kéo cày thay cho trâu bò. Không thể tưởng tượng được đã cuối thế kỷ 20, người Việt còn làm công việc thay súc vật, ở các nước văn minh, con vật cũng không làm việc nặng nhọc đó. Hình ảnh người kéo cày thay trâu trước đây chỉ đọc trong sách, không ngờ sau 1975 trở thành một hiện tượng phổ biến. Người cộng sản hãnh diện họ là người tiến bộ, trong khi họ kéo đất nước lùi hàng mấy chục năm. Phân trại C tù hình sự tập trung không có án, đa số các em là dân Sài Gòn, con em của sĩ quan viên chức, cha đi cải tạo, các em bị đuổi ra khỏi trường vì lý lịch, có em cũng phạm lỗi nhưng có em chỉ có một tội không công ăn việc làm, không được đi học, công an phường khóm bắt đi cải tạo. Dân Sài Gòn không chịu nổi gian khổ, các em bỏ xác ở trại Bù Gia Mập,

trại Bù Đớp, để phát hoang cho thanh niên xung phong xây dựng khu kinh tế mới, rồi các em được đưa ra trại Xuân Phước, mười em từ khi bắt đầu lao động đến lúc về, chết hết 3. Vào đến trại chúng tôi được đưa vào khu nhà tập thể, ở đây những người đi ngày hôm trước đã có mặt, đa số là nhóm viên chức cao cấp và các tu sĩ từ Chí Hòa mới lên. Một số những người khác thì bị đưa vào giam ở xà lim.

Lần này không ai suy đoán được lý do vì sao lại cách ly hàng loạt người, kể cả những người mới đến. Những người bị cách ly lại phân ra hai trường hợp, trường hợp cùm chân ở xà lim và trường hợp ở ngoài. Trại tương đối yên tĩnh, không có sự kiện gì để phải trấn áp như những lần trước. Trong trại tù nhiều trường hợp rất phức tạp, đa số tù nhân đều tốt nhưng cũng có thiểu số ngu xuẩn dựng nên chuyện báo cáo để lập công. Bọn an ninh thì như lũ kên kên chỉ chờ có báo cáo là có dịp hành hạ tù để lập thành tích nhận lẵng hoa hay cờ thi đua của trung ương.

Dù sao 5 tháng bị cách ly cũng là thời gian sung sướng ở trong tù, khỏi phải đi lao động ở ngoài, tới bữa ăn nhà bếp đem cơm nước đến tận cửa nhà, tù cách ly được gọi là tù quí tộc, cơm bưng nước rót. Gia đình lên thăm, tôi nhận được hai tin vui buồn lẫn lộn, mẹ tôi bị bịnh nặng, bà muốn lên thăm tôi mà không đi được, và tin con trai tôi, Thụy Vũ, đã vượt biên qua đến Hongkong. Cho đứa con trai duy nhất mới 14 tuổi một thân một mình đi tìm tự do mà tôi mừng. Biết rằng tuổi Vũ còn nhỏ dại, cuộc ra đi là một phiêu lưu, nhưng dù sao hy vọng con còn biết lo lắng học hành để có một tương lai cho nó, ở lại Việt Nam nó sẽ không được đi học tiếp hết bậc trung học. Chính sách kỳ thị đã làm hại bao nhiêu đứa trẻ có cha anh đi học tập cải tạo.

 Không biết ngày tôi được về, mẹ tôi còn sống hay đã mất. Tôi còn được may mắn hơn nhiều anh em là thời gian ở tù tất cả những người thân trong nhà đều lần lượt lên thăm tôi tại trại. Bà nội tôi chết, tôi không có ở nhà và bây giờ mẹ tôi bịnh, tôi thật lo. Lúc nước sắp mất, cha mẹ muốn tôi ở lại để gần gũi gia đình, vì tôi là đứa con đi xa nhà sớm nhất, có ngờ đâu tôi ở lại đã không gần gũi được ai mà còn là gánh nặng và mối lo âu cho người thân.


Nhớ đến mẹ, lòng tôi nặng trĩu, tôi đã hơn 40 tuổi, mẹ còn lo từng thức ăn, từng món đồ dùng cần thiết cho tôi trong tù. Mẹ thật chu đáo, cứ tuần tự mỗi lần thăm, đồ dùng sắm đủ, mỗi kỳ một vật khác nhau, mẹ nhớ không thiếu món nào, cái khăn mặt chớm rách là có cái khác, ống kem đánh răng sắp hết là có cái khác, cái bàn chải, quần lót, bí tất, khăn quàng cổ cho mùa lạnh. Tôi chưa bao giờ phải viết thư xin một thứ gì, thư bị giới hạn khổ giấy, nên còn để viết lời thăm hỏi những người thân thương.


Những bà mẹ của tù cải tạo, những tấm lòng bao la vĩ đại, có mẹ nhờ con dâu đã có chồng khác, tháng tháng mang quà thăm, để con khỏi buồn, vì mẹ không muốn cho đứa con lúc còn ở tù biết mình mất vợ; có những mẹ vợ buộc con gái của mẹ phải tiếp tục đi thăm con rể dù đã lấy chồng khác. Tuổi trẻ năm tháng cô đơn, phải thông cảm cho những người vợ trẻ. Người đàn bà Việt Nam làm vợ còn nhiều lỗi lầm nhưng làm mẹ thì tuyệt vời. Mười năm ra đời, nghĩ mà hổ thẹn vì tôi chưa có một món quà cho ba mẹ, cứ miệt mài làm việc, mong có công danh cho cha mẹ vui lòng. Công danh, sự nghiệp có những lúc tôi nghĩ thật dại dột và buồn cười. Vì ảo ảnh hư danh mà con người cứ phải khổ. Thành công hay thất bại rồi có tồn tại hay không?

Tháng chạp 1982, trời quá lạnh, phân trại C trong thung lũng sâu càng lạnh hơn, có đêm tất cả mọi người không nằm ngủ được, cái sàn xi-măng càng thấm và bốc hơi lạnh vào xương sống, bao nhiêu cái áo quần mặc vào hết, rồi choàng cái mền hút thuốc lào chống lạnh. Nghĩ đến Đoàn Phan Trí, người bạn nhỏ, bị bệnh lao phổi, đến Vũ Văn Ánh, Lê Văn Sanh, Trần Danh San, Hà Mạnh Phan đang nằm trong xà lim lòng tôi xót xa.

Qua một vài anh em bị kỷ luật ngắn ngày trong xà lim nhắn ra cho tôi là họ bị hỏi về âm mưu tổ chức đánh phá trại để đào thoát, cụ Lê Sáng và Trương Quốc Bảo bị cáo là tổ chức dạy võ và nhóm võ sinh sẽ là mũi xung kích trong vụ đánh tháo thân, đồng thời trong trại có cuộc bầu cử Tổng thống. Cụ Lê Sáng là chưởng môn võ Vô Vi Nam bị Việt Cộng bắt vì những công việc tham gia tổ chức chống Cộng từ thời trước năm 1954 ngoài miền Bắc. Trong tù, cụ là một mẫu người chính trực không khuất phục. Cụ không làm một hành động gì chống đối, nhưng mỗi khi bọn cán bộ lên mặt giáo huấn, cụ đem đạo lý làm người ra nói với chúng nên chúng ghét tìm dịp để nhốt cụ vào kỷ luật.


Chuyện bầu cử Tổng thống thì có người gán cho Linh mục Nguyễn Văn Vàng. Nhân dịp Tết Tân Dậu, gia đình thăm gặp, cha có mời một số thân hữu đến ngồi ăn cơm. Những chuyện vặt vãnh như vậy, rồi do hiềm khích thêu dệt để báo cáo hại nhau. Trong cảnh khổ thường tạo sự gần gũi những người đồng cảnh với nhau, nhưng cảnh khổ cũng sinh ra những con người không có nhân tính, chỉ vì tư lợi nhỏ nhen sẵn sàng đạp lên xác người đồng cảnh để sống. Mà chưa chắc họ nhận được sự ưu đãi gì của bọn cai tù, chỉ giúp cho chúng cơ hội để tăng thêm sự hành hạ đối với những người tù chúng không khuất phục được. Có người học bài học thủ đoạn của Cộng sản, vội xem nhau là nội thù, thi hành kế tá đáo diệt địch.

Tôi đã kể về trường hợp mâu thuẫn giữa một bên gồm các anh Khúc Thừa Văn, Bùi Lượng, Trần Công Linh và một bên bao gồm nhóm của anh Vũ Văn Ánh và Ngô Văn Ly mà giờ đây trừ Ngô Văn Ly được thả ra còn tất cả đều bị cùm chân đã gần hai năm rồi. Ngô Văn Ly rải truyền đơn, lại được thả ra trước, anh em tỏ ra nghi ngờ, và biết được hắn đã “bán cái” cho người khác việc làm của hắn, nên từ sự thán phục, nhiều người đã quay lưng và Ngô Văn Ly bị dồn đến thế cô lập. Đây là một phản ứng đúng đắn của tập thể nhưng là một nguy hiểm, vì con người quá khích, cực đoan và tham vọng như Ly, thường chỉ biết oán trách người khác và thù hận mà không bao giờ tự biết lỗi của mình.

Việt Cộng đã là một tập thể bán nước hại dân, không ra gì cũng đang đi đến chỗ mâu thuẫn sụp đổ, nhưng người Quốc gia thì chưa hình thành được gì hết. Trại Xuân Phước tập trung những người cầm đầu những vụ phản động, phục quốc lớn nhất, bị những bản án dài nhất, nhưng cũng mới tỏ ra là những tổ chức lẻ tẻ, nhân sự ô hợp, đầy mâu thuẫn, mà cũng chỉ là những mâu thuẫn do những sai biệt nhỏ nhặt trong đời sống, chưa tìm ra được những người nào có ý kiến sâu sắc, nhìn khắp những vấn đề quan trọng, chưa có ai tỏ ra là một chính trị gia có tầm cỡ kể cả những người từng thành công ở chế độ cũ làm nên đến hàng lãnh đạo là các ông cựu tổng trưởng. Những người tù có thiện chí, nhưng xét mình không đủ tài năng, không đủ phương tiện, sẵn sàng tham gia vào những lực lượng chống Cộng như là một người lính chiến chỉ còn biết chờ đợi, và không biết chờ đợi đến bao giờ.


Đa số nhân tài đã ra đi, nhưng đa số này thường là những người tham lợi, tâm hồn bạc nhược, biết có ai thức tỉnh, để lãnh đạo dấy lên một phong trào để qui tụ đủ sức mạnh chống Cộng hay không? Hay là cũng tan nát vì chia rẽ? Miền Nam trước kia không thiếu nhân tài, bao nhiêu người đi học ngoại quốc đỗ đạt cao, nhưng nhiều người đã thiếu vốn liếng tinh thần, nên họ chỉ là những chuyên viên, và chỉ biết mưu cầu quyền lợi cá nhân, khi đất nước gần sụp đổ họ ra đi không thương tiếc. Một trăm năm nô lệ, hơn hai mươi năm chiến tranh, lòng người ly tán, biết bao giờ tổ quốc mới có cơ hội phục hưng?

Thời gian trước 1975, trong khi xã hội băng hoại vì vật chất, đa số con người nắm chính quyền đều chạy theo quyền lợi cá nhân và vơ vét, nhưng tôi biết vẫn có nhiều người thanh liêm trong sạch, người ta từng nói tới tướng Thắng, tướng Trưởng, tướng Chinh, tướng Hiếu, dù tôi không có cơ hội gần gũi những người nổi tiếng đó, nhưng tôi tin là dư luận đúng, vì tôi gặp được nhiều người cũng có tinh thần đó, nhưng họ không giữ địa vị quan trọng nên không được nhắc đến, nên tôi cũng thường ca ngợi những người được dư luận ngợi ca đã đóng góp vào sự xây dựng những huyền hoại, vì xã hội còn nửa cổ kính, nửa văn minh, nửa nông nghiệp, nửa thành thị như xã hội Việt Nam, người dân cần người lãnh đạo có huyền thoại.


 Tôi không hiểu những người được ca ngợi đó, có người đã chết, nhưng những người còn sống có chuẩn bị để làm nên nghiệp lớn cho dân tộc, chuẩn bị đánh đổ Cộng sản, một chế độ đang sụp đổ hay không? Tên tuổi những người đó được những người nổi dậy trong nước sử dụng như một lời hiệu triệu tập hợp cũng là điều rất ích lợi. Trong cái hư đó, nếu có cái thực chuẩn bị tiếp theo thì rất là hay. Nhưng e rằng những tên tuổi lớn đó cuối cùng cũng chỉ là hư danh.

Thời gian ở tù, tôi cũng có nhiều dịp để khâm phục những người tù bất khuất, tôi đã có dịp nêu tên tuổi ở những phần đầu khi tôi gặp họ ở trại tạm giam. Ở phân trại C này, tôi tiếp tục khâm phục một người khác, Linh mục Phan Thanh Luân; cha Luân sinh quán Phan Rang, cha còn trẻ, khoảng 37 tuổi, bị kết án chung thân vì tổ chức phong trào chống Cộng ở địa phương, vào trong tù cha vẫn tiếp tục chống đối, bao nhiêu lần viết kiểm điểm, cha đều viết vỏn vẹn có mấy chữ “Chế độ Cộng sản độc tài tàn bạo, nặng trừng phạt trả thù, không có khoan hồng”, cha Luân đã bị nhốt xà lim nhiều lần, các cha khác khuyên cha nên nhẫn nhục hơn, nhưng cha đã dứt khoát trả lời cha muốn làm một viên gạch lót đường cho người yêu nước bước lên đi tới. Trong đợt kiểm điểm cuối năm 1982, cha Luân lại chỉ viết như cũ.


 Cha Luân bị nhốt từ tháng 12-1982 đến khi tôi rời Xuân Phước tháng 10 năm 1986, nhiều người khác đã chết nhưng cha vẫn còn sống, cha đã yếu lắm, lần cuối cùng khoảng giữa tháng năm 1986, an ninh gọi cha ra để viết kiểm điểm. Cha Luân trả lời cha không biết viết. Cha Luân đã quyết chết. Ý nguyện của cha là làm viên gạch lót đường, nhưng không biết có người nào bước lên viên gạch tên Luân để đi được bước vững chắc trong sứ mạng chống Cộng hay không? Có lẽ giờ đây cha Luân đã chết, cha sống được cho tới ngày tôi rời trại tháng 10-1986 đã lạ lùng – đã từng nhiều lần ở xà lim, tôi biết sức chịu đựng của con người cũng giới hạn, trước đây San, Ánh chịu hơn hai năm, chúng tôi khâm phục lắm.


 Chế độ kỷ luật chỉ ăn 9kg lương thực mỗi tháng trên lý thuyết, trên thực tế có thể ít hơn, có nhiều người như Lê Quang Minh rất khỏe mạnh đã chết sau 3 tháng, thiếu tá Bùi Nguyên Nghĩa chỉ chịu được có 2 tháng là chết. Xà lim trại cải tạo nơi chứng nghiệm sức mạnh của tinh thần và niềm tin, nếu bình tâm, thoải mái, tự tin có thể kéo dài được sự sống hàng nhiều năm, nếu lo âu bứt rứt, tiếc nuối, ân hận thì sẽ chết trong thời gian ngắn.

Tháng 3 năm 1983, chúng tôi được chuyển trại ra khu B, những anh bị kỷ luật vẫn tiếp tục bị giam giữ. Bọn chỉ huy đã xin cả một đại đội địa phương từ trên tỉnh xuống bảo vệ trại sau khi đã bắt giam và cô lập một số người bị nghi ngờ. Bọn chúng tin là tù có thể nổi loạn thì ít, mà muốn làm lớn chuyện, dựng chuyện để báo công, lập công thì nhiều. Vì chúng hy vọng giam một số người đông đảo trong tù sẽ có người chịu không nổi sẽ nhận tội, và đối với pháp chế Cộng sản chỉ cần một số ít nhận tội là chúng có thể đưa một đám đông ra tòa, tạo thành một vụ án to lớn để báo cáo lên bộ Nội Vụ, lúc đó trại Xuân Phước lại được thưởng lẵng hoa, bọn chỉ huy và an ninh sẽ được thăng cấp. May mắn là không ai chịu nhận những cáo buộc tày trời mà tội danh đó trong trại có thể bị xử tử hình. 


Không kể các anh Vũ Văn Ánh, Khúc Thừa Văn, Bùi Lượng bị giam đã gần 2 năm, nhân vụ Ngô Văn Ly rải truyền đơn, những người khác mới bị giam hơn 5 tháng mà ai nấy đều chỉ còn da bọc xương. Những lúc tù trong xà lim được dẫn đi tắm, nhìn thân thể tàn tạ của họ không ai khỏi xúc động. 


Thất thểu dắt díu nhau để đi, người còn khỏe dìu người yếu hơn. Được đi tắm là một đặc ân với người bị kỷ luật, có khi mỗi tháng một lần, có khi ba tháng chưa được nhắc tới. Tắm đối với người ở xà lim là một hạnh phúc lớn lắm, được rút chân ra khỏi còng một lúc, được đi ra ngoài trời, được nhìn và sưởi trong nắng, được nghe và hưởng gió mát, được hít không khí trong lành, được tạm quên mùi hôi thúi do nước tiểu và phân của chính mình bài tiết ra trong cái thùng đạn đại liên đầy đến tận miệng mà trật tự cũng không đổ đi, được ngâm mình trong nước một lúc. Do đó, dù có gần chết đến nơi, được tắm cũng ráng mà dìu nhau đi. 



Tắm đối với phân trại B không những quí đối với tù giam ở xà lim, mà còn quan trọng với ngay cả tù được đi lao động. Đó là một chính sách của trại đối với những người tù cải tạo không tiến bộ, hệ thống bơm nước vào những hố chứa trong trại bị cắt, trại không có giếng vì nằm trên đồi đầy đá. Nước lấy từ con suối Trà Bương. Suối nước ở rừng núi miền Trung mùa mưa nước lũ tràn bờ chảy như thác, nước suối mùa mưa rất độc, vì nước cuốn theo bao nhiêu rác rến lá cây độc, nhất là lá cây sơn, thân cây sơn mục, mùa mưa nào đem về lòng suối càng nhiều lá cây mục thì năm đó có nhiều người chết vì những chứng bịnh lạ, sốt lên rồi chết nhanh chóng, kể cả ngoài khu dân cư bên kia suối.


Mùa nắng suối dần dần cạn, khô lại, chỉ còn nước ở những nơi trũng không thông được. Khoảng nước ao tù đó dùng nhiều công việc, tưới rau cho đội rau xanh, đội vệ sinh, đội rửa thùng phân và thùng nước tiểu, đội chăn nuôi cho bò uống nước, cán bộ giặt áo quần và tắm, giặt, nấu, ăn, uống. Nhưng được lặn hụp trong khoảng nước đục ngầu, chứa đựng đủ thứ rác rến, phân người, phân súc vật, băng vệ sinh phụ nữ, không phải là dễ, vì phải lao động tốt. Qui chế mới được ban hành, tù chỉ được tắm mỗi tuần hai lần theo tiêu chuẩn. Còn những lần tắm khác nếu có là do sự thông cảm của cán bộ nhận xét qua thành tích lao động của mỗi buổi. Lịnh ban ra thật nhẹ nhàng và gọn gàng. 

Không lao động tốt không được tắm và lấy nước về nấu rửa. Tới gần cuối giờ lao động mỗi buổi, tất cả tù trong đội đều hồi hộp chờ một lịnh ban ra thu dụng cụ đi tắm, hay là thu dụng cụ về trại, kèm theo chỉ thị kiểm điểm anh A, anh B vì lao động lề mề, vì cải thiện linh tinh. Một người làm sai cả đội chịu trách nhiệm lây, do đó tập thể phải thúc đẩy, xây dựng lẫn nhau, nghĩa là phải đấu tranh tố cáo nhau kịch liệt. 


Người tù ngây thơ nào cũng biết đó là mưu kế của Việt Cộng để gây mâu thuẫn và hiềm khích. Tình đồng cảnh cũng mạnh nên thảo luận qua quít, phê bình đại khái rồi cười thông cảm. Nhưng chuyện không xảy ra một ngày, một buổi, mà sự việc xảy ra đều đều mỗi ngày trong nhiều năm, mùa hạ nắng chang chang như đổ lửa, mồ hôi quyện với tro than vì cuốc gốc mía mới đốt, mặt mày lấm tèm lem như mọi, thì một phút nhảy ùm xuống nước cũng rất cần, đừng nói khẩn trương trong năm phút tắm. Trường hợp đó mà phải vác cuốc về trại vì anh A, B nào đó làm lao động lề mề, dựa dẫm. Dù có biết là âm mưu của Cộng sản gây nên hiềm khích vẫn cứ tố nhau, phê bình nhau, đấu tranh thực tình, đề nghị biện pháp xử phạt lên cán bộ quản giáo. 


Cán bộ quản giáo có cùm một người tù, có hạn chế thức ăn, cấm viết thư thăm gặp cũng do đề nghị của đội, của tập thể, không phải là ý riêng của cán bộ. Nhờ những biện pháp như tù phải đi chân đất đi làm, ăn uống theo các tiêu chuẩn bình bầu, chế độ tắm rửa, chế độ giam cầm kỷ luật, trại Xuân Phước (tức trại A-20) nổi tiếng toàn quốc là trại trừng giới ác liệt, là địa ngục trần gian.


Đối với anh em kỷ luật, chúng tôi nghĩ phải làm cái gì cho họ. Một viên thuốc, một cục đường trong xà lim giá trị gấp trăm gấp ngàn lần ở ngoài.
Móc nối được hai trật tự Dũng và Cảnh, anh Phạm văn Đồng đã tổ chức được hai hình sự Sơn và Thuận sẵn sàng “bay” tức là nhảy tường đem đồ tiếp tế vào khu xà lim. Giờ bay là những giờ trưa phiên trực của Dũng và Cảnh.


Đường dây tiếp tế kéo dài được ba tháng, đến ngày 9 tháng 6 thì bể. Nguyên do trong một phòng giam anh Trần Quí Phong và ông Bùi Ngọc Phương – anh Phong nhận tiếp tế, chia không đều, ông Phương đòi thêm, anh Phong đã nặng lời, ông Phương tức giận tố cáo, tai hại là khi bị xét anh Trần Quí Phong còn giữ số quà chưa ăn hết. Sơn, Thuận, Đồng và Ngô Ly bị bắt, vài ngày sau các anh Nguyễn Chí Hiền, Nguyễn Hữu Giao và tôi bị bắt – chúng tôi nhận là có cho Đồng và Ly quà, các anh Giao, Hiền được thả ra sau một tuần kỷ luật và tôi tiếp tục bị giam. Nguyễn Minh Lý tức Lý lé, trưởng ban an ninh tổng trại làm việc với tôi. Hắn nói đáng lẽ giam tôi cùng đợt đưa vào trong C năm ngoái vì tôi đã tổ chức một đảng chính trị trong trại, tên là Lực Lượng Dân Tộc Việt và chính tôi đã tổ chức vụ tiếp tế cho đồng bọn ở trong xà lim.


Tôi nghĩ hắn nói dóc, chắc là hắn mới nhận được báo cáo của một tên đặt điều nào đó vì nếu tôi bị báo cáo từ trước làm sao hắn chừa tôi ra không nhốt. Tôi nhất định khai là tôi chỉ cho quà do em Đồng xin, chúng tôi đã thỏa thuận với nhau về những lời khai từ khi mới bắt đầu làm công việc nguy hiểm. Còn tổ chức đảng chính trị là một điều không thể có, vả lại cái tên “Lực Lượng Dân Tộc Việt” là một tên của tổ chức chính trị có từ trước năm 1975, nếu tôi có tổ chức đảng chính trị tôi không đặt trùng hợp như vậy. Lý cho bắt nhốt thêm những người bạn thân của tôi là Khổng Hữu Diệu, Trịnh Đình Lâm, Koksorl Bien, Nguyễn Tú Cường.


Hai chân tôi bị còng chéo để bức cung. Còng chéo hai chân bị đóng cứng chặt giữa hai cái còng hình chữ U và thanh sắt xuyên. Vì độ cao của thanh sắt giở hổng hai chân lên thành ra không thể nằm thẳng lưng, vì nằm thân mình căng ra hai chân bị siết chặt vào sắt đau buốt tận tủy óc, đau đớn liên tục. Người bị còng phải dùng hai khuỷu tay để chống hoặc cởi tất cả cáo quần ra chêm ngang thắt lưng mới chịu được một thời gian, chờ một vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp lại thì hai chân sẽ thẳng ra nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ trong vài ngày chân đã sưng húp vì ban đêm bị lắc còng điểm danh. Cách bức cung này không ai có thể chịu được phải khai và nhận.


Đoán hắn dựa vào báo cáo mù mờ và không có sự thật nên phải khai như thế nào để hắn có thể chấp nhận được. Sau một tuần bị cùm chéo, tôi khai rằng tôi được chỉ định đọc báo cho toàn nhà nghe. Thỉnh thoảng thì giờ rảnh rỗi ngồi với nhau cũng bàn với các bạn hữu những điều đăng trong báo, đó là bài tham luận của Nguyễn Lam trong đại hội kỳ 5, xác nhận những sai lầm về kinh tế. Trong khi nói chuyện với bạn bè tôi có đưa ý kiến riêng là khi đã nhận là sai lầm kinh tế tất phải có những biện pháp đổi thay mà đã thay đổi kinh tế thì phải thay đổi chính trị ở mức độ nào đó. Phải đến lúc chính phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cần đến sự trợ giúp của người Mỹ và phải có những thay đổi cần thiết. Những điều tôi nói đó không xa sự thật, không mới mẻ gì vì từ đầu khi tôi bị bắt, tên trưởng ban chấp pháp, Đại tá Nam Thành ở Sở Công An Thành Phố nói với tôi là hắn và thượng cấp của hắn biết là chỉ có Mỹ mới giúp cho Việt Cộng thoát khỏi những khó khăn kinh tế, nhưng theo hắn, Mỹ sẽ đến Việt Nam với những điều kiện Việt Cộng đặt ra.



Tôi cũng nghĩ Mỹ sẽ trở lại Việt Nam nhưng với điều kiện của Mỹ đặt ra sau khi đã cô lập đến độ làm Việt Cộng phải ngã quỵ, quỳ xuống van xin. Dĩ nhiên tôi không nói điều tôi nghĩ ra, tôi giả nghe Nam Thành nói như nghe một điều mới lạ. Bây giờ tôi cũng lý luận đó để nói với tên Lý, một cán bộ cấp thấp, để nó thấy điều tôi nói hợp lý, không buộc tội tôi càng tốt, còn nếu làm hồ sơ tôi sẽ viện dẫn những điều tôi nói là tài liệu tôi đọc được của Nguyễn Lam. Tôi đã đối phó đúng, các người bạn tôi được thả ra trong thời gian ngắn và tôi được thả ra sau ba tháng bị giam xà lim.

Không thể tiếp tế được cho các bạn bè còn bị nhốt và hậu quả trầm trọng đã đến, tháng 11 năm đó, ông Bùi Ngọc Phương chết, tội nghiệp một con người được tiếng là tỉ phú, mà đến lúc chết thèm một ít hơi béo, một hơi ngọt mà không có. Rồi lần lượt Linh mục Nguyễn Huy Chương, ông Bùi Lượng, anh Đức, Khúc Thừa Văn và Linh mục Nguyễn Văn Vàng chết trước, sau, tùy sức chịu đựng của mỗi người. Khúc Thừa Văn khi quá kiệt lực được đưa ra trạm xá, gặp lúc gia đình có thân nhân là Việt Cộng xin phép Bộ Nội Vụ đến thăm, nhưng quà đến quá trễ không đủ phục hồi được một thân thể đã kiệt sức hơn ba năm bị giam kỷ luật.


Trước khi chết, anh Văn còn đủ tỉnh táo để mời những người bịnh nằm chung mỗi người một điều thuốc và gởi cho một em hình sự hai điếu để ngày hôm sau chuyển lại cho Mai Văn Hoàng và tôi, là hai người mà anh Văn cho rằng đã hiểu anh không phải là người hèn nhát. Những người khác như anh Lê Văn Sanh, Trần Danh San, Đoàn Phan Trí, Vũ Văn Ánh, Nguyễn Minh Hoàng, Châu Sáng Thế, Nguyễn Hữu Nghĩa, cụ Lê Sáng nhờ được lệnh chuyển trại của Bộ Nội Vụ cuối năm 1984 đến trại mới họ được ra khỏi kỷ luật nên thoát chết thảm vì đói và kiệt lực trong xà lim.

Đây là những người tù bất khuất, nếu không công khai chống đối thì cũng là người luôn luôn giữ tư cách đúng đắn, để lại trong lòng anh em sống chung những tình cảm tốt đẹp.
Ra khỏi kỷ luật, tôi ở trong một đội mà hầu hết những người đều là viên chức cao cấp từ hàng Tổng trưởng đến Tổng giám đốc, hoặc cấp bực từ Trung tá trở lên, tôi trở thành người nhỏ tuổi nhất và có chức vụ tầm thường. Nhưng ở đội này nhiều khi không được thoải mái bằng ở những đội toàn những anh em sĩ quan trẻ tuổi.

Nhớ lại những anh Ngô Khắc Tỉnh bị tên cán bộ Ninh tuổi chưa đáng con của anh mắng mỏ, anh không hề vi phạm một điều gì lớn, chỉ một sơ suất lao động nhỏ cũng là cái cớ. Đại tá Trần Thanh Bền, Trung tá Hồ Văn Nho và anh Hồ Văn Châm thường xuyên báo cáo. Anh Tỉnh là người luôn luôn giữ danh dự và tư cách của một con người từng nắm giữ nhiệm vụ quan trọng. Tôi cũng nhiều lần bị mắng chửi vì tình nguyện gánh nước tưới rau thay cho anh Ngô Khắc Tịnh, anh Tịnh bị bại hai chân. Tên quản giáo Ninh muốn tìm cớ chửi mắng anh nên giao cho anh canh tác một miếng đất nhỏ ở trong trại. Tôi giúp anh Tịnh săn sóc miếng đất mỗi khi đi làm về. Họ báo cáo anh Tịnh mua chuộc và điều khiển tôi.


Tên Ninh buộc tôi không được giúp anh Tịnh, tôi cứ lờ đi tiếp tục giúp anh Tịnh ngoài giờ làm, tôi không ăn gian giờ lao động của trại, vả lại giúp một người tàn tật thì không có nền luân lý và luật pháp nào cấm. Kết quả là anh Tịnh bị đổi đi đội khác, để rồi anh phải chống gậy đi lếch thếch, theo đội xuất trại rất khổ. Tôi không biết nhiều về anh Ngô Khắc Tỉnh và Ngô Khắc Tịnh, nhưng tôi biết hai anh xuất thân từ một gia đình có đạo đức tại tỉnh Phan Rang. Giáo dục gia đình là căn bản quan trọng để đào tạo tính tình và đạo đức, tác phong của con người.

Giáo dục học đường có thể đào tạo con người giỏi, nhưng nếu thiếu đạo đức, ở trong hoàn cảnh khó, họ có thể dễ dàng trở thành con người tồi tệ. Nhà trường cũng có dạy đức dục, nhưng nhiều khi không có căn bản của gia đình, học sinh không hấp thụ được điều tốt thầy dạy. Có lần anh Nguyễn Tú, ký giả báo Chính Luận, chỉ phê bình qua loa về một bài thơ của anh Cao Văn Khanh ca tụng chế độ, sẵn ghét anh Tú không chịu viết báo tường; tên cán bộ Hùng, phụ trách giáo dục bắt anh viết một bài kiểm điểm rất cay đắng để đọc trước toàn trại trước khi nhốt anh Tú vào kỷ luật. Các anh Hồ Văn Châm, Trần Thanh Bền, Hồ Văn Nho đổi sự thoải mái trong chức đội phó, đứng thúc đẩy lao động và công tác riêng rẽ phục vụ cán bộ bằng mồ hôi và danh dự của người đồng cảnh.

Mẹ tôi chết vào tháng 5 năm 1984, mẹ định đi thăm tôi từ cuối năm 1982 mà không đi được. Tết năm 1983, vợ tôi đưa bé Đoan Trang lên thăm. Mẹ đã chuẩn bị đầy đủ, gọi vợ con tôi từ Sàigon về Đà Nẵng để cùng đi thăm, cuối cùng mẹ không đi được. Từ đó, bệnh mỗi ngày mỗi nặng và mẹ không bao giờ còn gặp tôi nữa. Được tin mẹ bịnh, mỗi lần gia đình lên thăm là mỗi lần tôi hồi hộp, sợ nhận tin xấu về mẹ. Lần đó, khi gọi tên thăm gặp, tôi thẫn thờ, linh tính báo cho tôi việc không hay nên tôi đã bồn chồn từ mấy ngày trước, quả thật khi ra gần đến nhà thăm, em trai tôi đứng trông nơi cửa, tôi đã nhìn thấy miếng vải tang chế nơi ngực của Khoa.


 Hai anh em ôm nhau khóc, em chỉ nói với tôi “trước khi mẹ chết, trối với em lên dặn anh cố giữ sức khỏe và đừng vi phạm kỷ luật để ở nhà có lên thì được thăm và mẹ trối với ba tôi là dù hoàn cảnh nào gia đình cũng phải thăm và nuôi tôi, mẹ nói từ nhỏ tôi vẫn ốm yếu, nếu không nuôi tôi, tôi sẽ chết trong tù”. Tôi không thể viết gì dài hơn để nói tình cảm mẹ đối với tôi và cái lỗi của tôi đối với mẹ, suốt đời chỉ làm khổ mẹ cha, chưa bao giờ có được một hành động để biểu lộ lòng hiếu thảo.

Bất ngờ đến với tôi và có lẽ đối với tất cả trại là danh sách tha về hôm 26 tháng 7 năm 1984 có tên tôi. Vỏn vẹn chỉ có 7 người, tên tôi cuối cùng. Đọc đến lần thứ hai tôi mới nghe vì tôi không bao giờ có hy vọng được tha nên không để ý. Đội xuất trại xong, chúng tôi mới được dẫn về trại chính làm thủ tục.

Để lại tất cả đồ đạc cho bạn bè, tôi đi tay không về trại. Hai chân đi đất đã lâu nên đường có gồ ghề lồi lõm cũng quen. Hàng dừa hai bên đường đi đã cao quá đầu người, trĩu nặng những buồng trái. Mau thật, mới ngày nào chúng tôi đào đất trồng dừa. Khi đào hố trồng những cây dừa con xuống, tôi nói đùa “khi nào dừa có trái thì mới về”, anh em giẫy nẩy.

 Thế mà dừa đã có trái mấy mùa rồi tôi mới ra khỏi trại. Còn nhiều anh em ở lại. Các bạn bị nhốt trong xà lim vẫn còn bị cùm, có người cùm đã ba năm rồi chưa được thả ra.
Những ruộng lúa xanh tươi rạp trong nắng sớm, những cơn gió nồm đùa ngọn mía lao xao gợn sóng chạy về hướng đông bắc, đụng phải vách núi cuộn vòng về hướng đông.

Cứ mỗi cơn gió, một đợt sóng lá xôn xao đẹp mắt. Những ruộng mía này tưới biết bao nhiêu mồ hôi của tù, những ngày đứng dưới nắng gắt cuốc những ruộng mía mới đốt, tro than bay lấm lem luốc, nếu hôm nào cán bộ Hải đi quản chế đội thì không được tắm, buổi trưa buổi chiều, anh em kéo nhau về, mặt mày đen thui; bụi tro và mồ hôi nhễ nhại – lòng hậm hực. Làm mía có khổ, nhưng mùa thu hoạch cũng bù đắp; chỉ tiêu mỗi ngày 500 cây mía vừa chặt, vừa bó, dọn lá và vác ra địa điểm; chỉ tiêu có nặng nhưng làm mía có thể ăn được mía.


Có chất ngọt vào đỡ mệt và bồi dưỡng. Khi thâu hoạch, đội phải cử ra hai người lựa và róc mía cho cán bộ quản giáo và quản chế ăn, còn phần họ mang về nhà. Cán bộ mải bận lo ăn thì tù cũng bớt bị kiểm soát, đi sâu vào trong ruộng mía, có cây lá che khuất, tù cũng có thể ăn một vài cây mà không bị phát giác.

Lưng chừng đồi là những ruộng khoai mì; khoai mì bạt ngàn, nhìn đâu cũng thấy. Những năm đầu, chúng tôi còn trồng khoai dưới thung lũng. Bây giờ khoai đã trồng cả lưng chừng núi, mỗi năm phá đất trồng thêm. Trồng cây khoai mì vùng đất xấu phải đào thành hố lập phân, mỗi bề 40cm. Xong bỏ các loại lá cây rừng làm phân xanh; cây khoai mì cứ thế mà lớn. Qua một năm củ đầy cả hố. 


Nhổ cây khoai mì, đất cứng thật vất vả. Hai tay cầm thân cây, chân đứng dạng ra lấy sức kéo lên. Nhiều khi cảm thấy như xương sống giãn ra mà cây không nhúc nhích. Làm khoai, chế biến khoai trắng sạch; trại đem đổi ở hợp tác xã huyện Đồng Xuân lấy khoai khô của dân đen mục rẻ hơn cho tù ăn. Làm như vậy cho trại có lợi. Chế độ cái gì cũng tính toán phân chia thật kỹ; chỉ có không khí là Đảng không phân chia quy hoạch vào sự quản lý của nhà nước được, nên dân và tù chỉ còn hít thở được tự do mà thôi.
Tấn nói với tôi:
– Ra đến nơi lấy giấy xong, ông và tôi ra về ngay, không có xe mình đi bộ, phải đi ra khỏi trại ngay.
Tôi nói với Tấn:
– Đi ngay chớ chờ cái gì, sao ông nghĩ vậy?


Tấn nói:
– Tôi lo cho ông.
Ra tới văn phòng trại, thấy tên cán bộ quản giáo Ninh và tên cán bộ giáo dục Hùng ra theo tới nơi, tôi hơi ngại. Nhớ hôm sinh hoạt đội, các anh Hồ Văn Châm và Trần Thanh Bền khiếu nại rằng họ cải tạo tốt mà không được về trong khi những người bị kỷ luật như anh Phạm Chí Thành, Tăng Ngọc Hiếu, Phạm Đức Nhì được tha. Sự phát biểu hơi kỳ cục, kỳ cục như lần anh Châm nói rằng anh không còn trách nhiệm vì đã rời chức Tổng Trưởng trước khi miền Nam giải phóng và anh Bền ví von anh đã rời canh bạc trước 30-4-1975. Các anh chỉ nghĩ một chiều khi làm một sự so sánh đó.

Những người được về là Trung úy mà họ đã ở đến năm 1983. Còn các anh là những người lãnh đạo miền Nam Việt Nam. Cải tạo tuy không có án nhưng mỗi người cải tạo đều có những mức án ngầm căn cứ vào chức vụ, quá trình hoạt động, gia thế v.v… riêng của mỗi người, còn việc cải tạo ở trại nó chỉ ảnh hưởng cho sự tăng án hơn là giảm án; vì trong chế độ quá máy móc, thư lại, và sợ trách nhiệm như chế độ Cộng sản thì đề nghị xấu thì dễ mà đề nghị tốt thì khó.


Chế độ mà người buộc là cấp dưới mà người cởi buộc là cấp thật cao ở trên. Đó là hậu quả không thể tránh được trong tổ chức độc tài. Có người nghi ngờ, cho là chế độ cộng sản tốt chỉ có người thừa hành làm sai. Lý luận như vậy chứng tỏ họ không có kinh nghiệm sống trong chế độ cộng sản, chế độ cộng sản nó chỉ phát triển được tính xấu, tính ác cho dù trong đó con người còn nhân tính, họ cũng phải giấu đi vì nếu họ sống khác họ sẽ bị guồng máy tức tổ chức của họ nghiền nát.


Chế độ cộng sản cần phải loại trừ hẳn từ lý thuyết đến tổ chức, nó không phải vì con người xấu – có nhiều người không xấu hẳn nhưng sống trong chế độ đó họ phải ác, phải xấu – chỉ khi nào chủ thuyết và tổ chức cộng sản bị dẹp bỏ thì con người cộng sản không còn nguy hiểm mà một số đông người cởi bỏ được áp lực và sự trói buộc họ sẽ phát triển trở lại nhân tính. Vậy chống Cộng sản cốt yếu là chống chủ nghĩa, chống tổ chức hơn là chống từng con người cộng sản.


Khi còn chủ nghĩa, còn tổ chức thì bất cứ một người cộng sản nào cũng nguy hiểm – khi chủ nghĩa đổ, tổ chức tan, con người cộng sản không còn nguy hiểm.
Phải viết lý lịch và bản cam kết rằng lúc ra về đến địa phương phải tuân hành luật pháp và khai báo những phần tử xấu đến móc nối trong các tổ chức phản động. Tôi viết xong thì tên cán bộ Lâm an ninh vào gọi tôi ra, vào phòng an ninh gặp Hùng và Ninh ở đó. Lâm bảo tôi chuẩn bị trở về trại, trường hợp của tôi hắn còn đề nghị hỏi ý kiến Bộ Nội Vụ trở lại vì tôi là thành phần xấu.


Cán bộ quản giáo Ninh nói nếu để thành phần xấu như tôi được về thì những người cải tạo tốt sẽ nản chí. Một lần nữa trong đời, đầu tôi nhói đau lên và chân tôi muốn nhũn xuống như khi nghe tin thành phố Đà Nẵng thân yêu lọt vào tay cộng sản và lần nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Không hiểu sao lần bị bắt thì tôi bình tĩnh được, mà lần quay lại trại tôi lại mềm yếu đến nhũn ra, quả thật tôi đã mệt mỏi, hơn 7 năm tù tôi đã mỏi mòn, sự vui mừng khi được gọi tên ra về giờ trước, bây giờ thất vọng như quả bóng căng phồng lên rồi bất ngờ bị nổ tan ra.

Trước khi chia tay để Tấn ra về, bạn còn nhắn tôi: “Cố gắng lên đừng xỉu nhé.” Tôi buồn thật, nhưng chưa đến nỗi phải xỉu như bạn lo lắng. Mệt mỏi theo tên cán bộ Hùng trở về phân trại, tôi lầm lũi bước. Con đường dốc lởm chởm đá đâm vào chân đau điếng giờ đây tôi thấy rất rõ, trái với lần ra đi tôi quá vui nên quên đi. Tôi biết là tôi sẽ bị ở lại lâu. Họ muốn phản đề nghị để Bộ Nội Vụ bỏ lịnh tha của tôi, thì họ phải làm tờ trình rất xấu về tôi. Với một tờ trình xấu thì ủy ban xét tha nào dám cho tôi về lần thứ hai nếu không có sự thay đổi quan trọng. Tôi kể như ở tù lại lần thứ hai – chiều hôm đó trở ra bãi lao động.
Sự tai hại tiếp theo cho nhiều người là sau khi đề nghị bỏ lịnh tha của tôi có kết quả – trại Xuân Phước tiếp tục lệ đó để giữ lại nhiều người mãn án. Linh mục Nguyễn Tiến Khẩu mãn án 10 năm tù chuyển qua tập trung cải tạo, anh Châu mãn án 10 năm tù chuyển qua tập trung cải tạo, trung úy phi công Nguyễn Hương tập trung, trốn trại bị án 10 năm tù, mãn án 10 năm tù, bị chuyển án tập trung vì tình nghi trốn trại lần thứ hai. Chắc là các anh Hồ Văn Châm, Trần Thanh Bền không hối hận về sự khiếu nại ngu xuẩn của họ.
Giữa năm 1984, có một chuyến tù đặc biệt được chuyển đến trại, đặc biệt vì họ không thuộc diện tù nào dù vẫn được gọi là tù chính trị tội danh là “tay sai chế độ cũ đàn áp cách mạng”, đó là những cựu quân phạm của Việt Nam Cộng Hòa bị giam ở Côn Đảo trước ngày 30-4-1975.


Ngày 2-5-1975, tù nhân phiến cộng ở Côn Đảo phá ngục tiếp thu đảo, bầu chỉ huy, và nhốt tất cả tù và nhân viên binh sĩ còn lại vào nhà giam. Các viên chức và sĩ quan địa phương phục vụ tại đảo họ bỏ vào bao bố thả xuống mũi Cá Mập. Trong đó có Tôn Thất Sỹ bạn tôi, đặc phái viên hành chánh Côn Sơn. Hơn 10 ngàn tù được dần dần cho về, còn khoảng hơn 1,500 bị cho là “có nợ máu với nhân dân” được đưa về trại tù Kinh 5 ở Chương Thiện năm 1979. Số này lần lượt thả ra và 112 người cuối cùng không thể cho về được họ chuyển lên trại Xuân Phước.


Trong số 112 người này, Nguyễn Văn Nhung tức Tư Nhung ở tù lúc 18 tuổi vào năm 1952 khi đến trại năm 1984 đã ở tù 32 năm qua ba chế độ từ thời Pháp, tù Việt Nam Cộng Hòa và tù Việt Cộng. Khởi đầu, Nhung can tội đánh cướp hãng Caric giết chết một người Pháp bị án tử hình, không bị hành quyết đưa giam ở Côn Đảo, giảm dần án lẽ ra đến tháng 7 năm 1975 là mãn án, nhưng không ngờ đến 30-4-1975, thời cuộc biến đổi – Nhung ở tù tiếp vì tội làm trật tự ở trại Côn Sơn, đàn áp tù Cộng Sản mỗi khi họ đấu tranh.


Tất cả những người còn lại đều là những binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa bị thường tội – có người án tử hình giam từ năm 1960. Người bị giam mới nhất là Trương Văn Giàu năm 1970 đến năm 1984 đã ở tổng cộng 14 năm tù. Những người tù này trình độ họ thấp không có một ý thức chính trị; chỉ là những người khi thừa hành nhiệm vụ họ không có tự do lựa chọn. Vậy mà họ bị chế độ trả thù dã man tàn nhẫn. Tàn nhẫn vì họ là nạn nhân của một nhu cầu. Những người Cộng sản bị tù ở Côn Sơn cần khoa trương những khổ nhọc khi họ ở tù tại Côn Sơn, nên cần có những chứng tích sống là những người đã đàn áp họ để chứng tỏ địa vị xứng đáng của họ trong Đảng. 


Thực ra ở nhà tù không bao giờ là sung sướng, nhưng tù dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa họ được ăn no, được học hành, không phải lao động cực khổ, khi họ ăn cá khô thì họ đã gọi là tàn ác và đấu tranh. Người cộng sản đê hèn ở chỗ khi cần thiết họ có thể đi lạy lục ngoại bang như Phạm Văn Đồng phải đi qua Pháp lạy lục để xin viện trợ, nhưng họ không buông tha cho những người lính trọng tội phải chấp hành lịnh của những giám thị ở nhà tù. Tên Đại tá Bình, cựu tù Côn Đảo, một hôm đến thuyết trình khẳng định là những người tù Côn Đảo sẽ không được thả ra và y còn hăm he là những người lỡ cho về sẽ bị bắt lại. Tù Côn Sơn, những người không may nạn nhân âm thầm của lịch sử, cùng nằm trong một nhà tù nhưng tôi biết tù cải tạo đang được thế giới tự do can thiệp. Còn những bạn tù Côn Sơn không ai biết đến họ, đến năm 1988 số này vẫn chưa ai được giải quyết – Tư Nhung ở tù đã 36 năm, người ít nhất Trương Văn Giàu cũng đã 18 năm. Họ đã ở tù liên tiếp từ chế độ này sang chế độ khác. Một người bị nhốt suốt cả đời trong tù là một hình phạt khủng khiếp. Thời gian trước 1975, họ bị mất tự do nhưng không đói, về ở Kinh 5 Chương Thiện có thể tìm được thức ăn cải thiện trong cánh đồng mầu mỡ, nhưng ra đến Xuân Phước lần lượt họ bị chết dần, có người đã không còn thân nhân. 


Nguyễn Hồng Anh là người đầu tiên trong nhóm này bị chết, hôm đó gặp ngày nhiều người tù được thăm, Anh xin được 4 lon gạo, anh nấu ăn hết một lần rồi đi vào chỗ nằm, đến giờ sinh hoạt mới biết Anh đã chết rồi, chết nhanh chóng vì được ăn một bữa quá no. Xác chết được mang ra cửa, phòng tiếp tục sinh hoạt, bạn bè mừng cho anh vì khi còn sống bị đói triền miên chỉ có lúc chết là được no. Cuối năm 1984, hơn 100 người được chuyển trại về Xuân Lộc, phần lớn là những người mới đến trại năm 1982 và 1983. Anh em còn ở lại hy vọng chờ đợt thả nhân dịp Tết đầu năm 1985; ở lâu tù nhiều kinh nghiệm, cứ có một đợt chuyển trại đông đủ, số còn lại sẽ có người về, vả lại đã qua 9 năm rồi, về trong dịp Tết là được cứu xét trong lễ 2 tháng 9. Nếu ai không về được thì bắt đầu yên trí cải tạo mốc thứ 4 chờ dịp thả lúc đủ 12 năm.


Trại Xuân Phước bây giờ chỉ chuyên nhốt những người tù chính trị có án nặng ở khu nhà ngói tường xây ở phân trại A đang càng ngày càng được mở rộng. Thường phạm án nặng về Gia Trung.

Sau đợt thả tù cải tạo vào tháng 1 năm 1985, số tù không án trong trại chỉ còn khoảng 200 ở lại cùng với một số tù thường phạm để khai thác khu canh tác phân trại B. Đã không được về, không được chuyển trại về Nam, những người ở lại xem như không được may mắn. Mức độ lao động mỗi ngày mỗi tăng, số tù giảm mà diện tích canh tác vẫn mở rộng. Chỉ tiêu chế biến khoai mì bình quân 70kg mỗi người năm 1984 đến năm 1986 phải lên đến 170kg.


Chỉ tiêu nhổ gánh khoai mì về trại trước 400kg mỗi ngày nay đã lên 600kg, đào hốc trồng khoai trước 150 hốc một ngày lên 240 hốc. Tất cả chỉ tiêu đều phải làm xong, vì có làm xong mới được tắm mỗi ngày. Đất núi sau khi trồng một năm cây khoai mì bám đất thật chắc. Ôm cây khoai mì nhổ lên nhiều khi muốn thắt cả ruột. Nhổ xong xếp gánh cho đủ 60kg mỗi gánh, còn thì giờ phải dọn cho sạch cây lá. Con đường từ đồi thoai thoải về đến trại gần 3km phải đi qua hai cái dốc. Những người khỏe mạnh nhổ nhanh, gánh trước, còn thì giờ lên dóc ngồi nghỉ.


Người gầy yếu làm chậm đi sau, mới leo tới đỉnh dốc thì cán bộ đã hô đội đi. Từ chuyến di chuyển thứ ba thứ tư trở đi, cặp chân không theo sự điều khiển của cái đầu, lúc xuống dốc chỉ cố giữ kềm làm sao cho khỏi vấp ngã, còn thì cứ để cho gánh khoai trên vai lôi thân người chạy xuống. Riết rồi thấy cây khoai mì là sợ.Giờ đây tôi cũng không hiểu sao lúc đó tôi gánh được mỗi ngày 10 gánh khoai mì về trại, mỗi gánh nặng 60kg, trong khi tôi chỉ cân nặng 38kg.

Thấm thoát đã qua 10 năm, sau lần hụt về năm 1984, tôi không còn hy vọng được tha. Không trông mong được ra khỏi trại một cách bình thường – nhưng tôi vẫn hy vọng có một biến chuyển quan trọng để được ra về. Tuy tài liệu báo chí không đầy đủ, nhưng tôi vẫn theo dõi được biến chuyển thay đổi ở Liên Sô kể từ 1985 khi Gorbachev lên làm Tổng bí thư với chương trình Glasnost và Perestroika. Ở Việt Nam, Lê Duẩn chết, Phạm Văn Đồng đã giới thiệu để Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam bầu Trường Chinh làm Tổng Bí thư thay Lê Duẩn. Nhưng việc Nguyễn Văn Linh đặc biệt trở lại Chính Trị Bộ và giữ chức Thường trực Ban Bí Thư – đây là một chức vụ mới trong Ban Bí Thư. Con đường lên Tổng Bí thư của Linh đã rộng mở. Đại hội kỳ 5,


Linh ra khỏi Bộ Chính trị vì y có chủ trương cởi mở. Trở lại thành ủy Sài Gòn, y thực hiện sự cải cách, Sài Gòn đã có phần dễ thở hơn. Linh đã đi đúng theo con đường Gorbachev đang đi ở Liên Sô. Thân phận nước nhược tiểu, chế độ nào cũng vậy. Chế độ Cộng sản nói độc lập nhưng thực chất bị lệ thuộc nhiều hơn hết bởi vì mỗi khi nhận là thành phần đệ tam quốc tế tức phải nhận sự lãnh đạo của Liên Sô.

Gia đình vẫn gửi báo Tuổi Trẻ, báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật, báo Thanh Niên lên cho tôi xem. Muốn có đủ các số báo đó, phải kèm theo báo thể thao và báo công an để khi xét, bọn cán bộ “mượn” báo thể thao và báo công an thôi. Ở núi rừng nên cách trở giao thông, ngay cán bộ cũng không đủ báo đọc. Những anh em sĩ quan trẻ còn nhiệt tâm đã về gần hết. Số tù cải tạo còn lại quá ít, chỉ tiêu lao động quá cao, sức khỏe gần như đã suy kiệt; ai nấy thu người lại chịu đựng, không còn những sinh hoạt ồn ào vui vẻ như trước. Càng khổ sở thì càng mâu thuẫn nhau, đụng chạm nhỏ cũng biến thành cãi cọ xô xát lớn.


Thật cô đơn. Ngày về xa. Hy vọng chuyển trại càng không thấy. Đã hơn 7 năm ở trại Kiên Giam Xuân Phước, bao nhiêu người cùng đến trại từ 1979, đã về hoặc chuyển trại gần hết, bao nhiêu người đã chết rồi. Số phận vẫn xui xẻo, khi tôi nằm trong số 10 người ở lại lâu nhất trại này. Chiều ngày 13 tháng 10 năm 1986, đang làm ngoài bãi, anh Trần Danh San và tôi được an ninh gọi về để chuyển trại. Anh em cũng nghĩ như chúng tôi, một khi tôi và San cùng đi thì sự không may đến với chúng tôi nhiều hơn vì hai chúng tôi được ghi là thành phần xấu. San mới bị chuyển từ trại Long Khánh lên trở lại. Anh em nhìn chúng tôi ái ngại. Nhưng tôi vẫn thích một chuyến thay đổi ra sao thì ra “phận bèo đâu quản nước trôi, lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.”

Đến văn phòng phân trại, phân trại trưởng Huy đứng chờ đưa hai chúng tôi lên xe về tổng trại, y chúc chúng tôi đi đường may mắn. Tôi bỗng bàng hoàng, không khi nào trại trưởng đưa tù lên xe, trước đây chỉ có một lần duy nhất khi Nay Luett được xe du lịch đến đón tại trại để ra Nha Trang đi máy bay về Hà Nội – vài tháng sau được tin Nay Luett chết tại Phú Bổn. Đến bộ chỉ huy Tổng trại, trại trưởng Bàng, cán bộ an ninh Lâm, cán bộ giáo dục đều có mặt ngay tại sân. Họ làm việc nhanh tại đó, soát xét hành trang, trả tiền lưu ký do gia đình chúng tôi gửi khi đến thăm nuôi, bàn giao hai chúng tôi cho toán 4 người cán bộ từ Sở Công An Thành Phố ra. San và tôi được còng tay vào hai bên chiếc xe Jeep. Chúng tôi rời trại Xuân Phước khoảng 4 giờ chiều.


 

 CHƯƠNG 16



Phải trải qua một giai đoạn khó khăn hơn nữa trong đời tù nhưng tôi thật dửng dưng – không còn lo lắng như những lần chuyển trại khác, cũng không còn sợ gì nữa, đã hơn 11 năm trong tù, bẩy năm hai tháng ở trại Kiên Giam Xuân Phước. Trong đời tôi chưa bao giờ ở một nơi lâu như vậy; di chuyển đến một nơi khác cũng là một sự thay đổi cần thiết. Tôi cố nhìn tất cả cảnh vật hai bên đường đi qua, lần đi đến trại năm 1979 ngồi trong xe bít bùng không thấy gì.

Con đường này trước đây tôi đã từng đi lại lúc làm Phó Quận trưởng Đồng Xuân này. Dân chúng làm nhà ở san sát hai bên lộ, xen lẫn đám nhà tranh lụp xụp là những ngôi nhà ngói kiểu bánh ích hai mái ngói và hai chái gần bằng nhau, đó là nhà của những cán bộ Cộng sản địa phương, được đãi ngộ ưu tiên mua vật liệu để làm nhà ngói; ngói và gạch mua của trại cải tạo do chúng tôi làm ra. Cộng sản đãi ngộ đảng viên và cán bộ của họ tận tình, dành mọi ưu tiên nên mức sống cán bộ và đảng viên cách biệt với nếp sống của dân chúng rất xa. Họ chủ trương làm cách mạng để xóa bỏ giai cấp, nhưng thật sự là tiêu diệt thành phần đối lập và tạo nên một giai cấp đảng viên, giai cấp của người cầm quyền, bất công hơn bất cứ xã hội nào khác trong lịch sử từ trước đến nay, kể cả chế độ phong kiến.

Trước kia con đường từ Chí Thạnh lên quận lỵ La Hai và con đường từ quận lỵ La Hai lên đến trại Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Tre thường mất an ninh, mỗi lần di chuyển vào trong các ấp chiến lược mới cảm thấy được an toàn.

Cảnh vật đã thay đổi nhiều lắm, không còn vết tích gì của thời chinh chiến. Nắng buổi chiều chiếu nghiêng nghiêng trên những sườn đồi xã Xuân Quang đã phủ màu xanh, nổi bật lên những đoàn người đi làm việc đồng áng trở về. Khuôn mặt người nông dân Việt Nam lúc nào cũng khắc khổ, chiến tranh đã chấm dứt hơn 12 năm rồi, dân chúng chưa có niềm vui, mọi người không dấu được nét ưu tư lo lắng. Chỉ có những đứa bé chăn trâu, bò, chưa biết nghĩ là còn vui được.


 Có đứa đứng hẳn lên lưng con trâu giang hai cánh tay khẳng khiu ra để làm thế thăng bằng, thân hình trần trụi hiện rõ những chiếc xương sườn và xương vai trên nền da mốc thếch, những đứa khác thấp lè tè dưới cái mông của con bò chúng chăn. Thỉnh thoảng chuyền cho nhau điếu thuốc quấn nguyên lá to bằng ngón tay cái. Những đứa nhỏ này không đi học, mỗi ngày đi giữ trâu bò cho hợp tác xã để nhận 5 điểm công. Lúc nhỏ tôi cũng ở nhà quê, nhà tôi cũng không khá giả lắm nhưng tôi cũng không phải cực khổ lăn lộn với cuộc sống lúc tuổi trẻ thơ, làng quê trong thời chiến không có trường học, suốt ngày tôi chỉ câu cá, bắt chim, đá dế. Sau tôi hơn 30 năm, đất nước thanh bình, đám trẻ này vẫn không được đến trường học, tôi cảm thấy xót xa.


Tôi nhớ trong một cuốn sách, Lenine bàn về tuổi thơ, ông ta nói là cách mạng vô sản sẽ làm cho những đứa trẻ thành những Hoàng tử và Công chúa. Tôi cũng nhớ là ông Hồ Chí Minh cũng cóp lại ý đó và viết trong bút ký của ông; nhưng kết quả hoàng tử và công chúa đâu không thấy, chỉ thấy những em bé xơ xác, thân thể gầy guộc phải bỏ học đi làm kiếm ăn ở tuổi lên mười. Ở Sài Gòn có cung thiếu nhi ở phủ Phó Tổng Thống cũ. Cung thiếu nhi để cho các hoàng tử và công chúa đến vui chơi, nhưng chắc những hoàng tử và công chúa đó phải là con của những đảng viên cao cấp, Ủy viên Trung Ương Đảng trở lên.

Đời sống nông dân quanh trại tù Xuân Phước cũng bày ra bao nhiêu cảnh thê thảm.
Những nông dân bám trụ trong chiến tranh là những người nuôi sống “kháng chiến quân”, những du kích quân tay súng tay cầy chống lại quân đội Cộng Hòa, họ là những người chịu đựng gian khổ nhất, bom đạn trút lên đầu họ ngày đêm, không có gia đình nào không có người chết trong cuộc chiến. Có những gia đình con cái trẻ trung chết hết chỉ còn người mẹ già. Mẹ chịu đựng gian khổ trong chiến tranh, hòa bình trở lại mẹ vui không được bao nhiêu ngày, rồi mẹ vẫn tiếp tục sống quãng đời còn lại trong tăm tối

Tù bị cấm tiếp xúc với dân chúng chung quanh vùng, dù dân vùng quanh trại là dân được chế độ tín nhiệm, dân vùng mật khu Kỳ Lộ đã ở trong vòng Việt Cộng kiểm soát từ năm 1965 không có hoạt động của chính quyền Cộng Hòa. Họa hoằn một vài lần gặp các người đi làm rừng băng qua trại, tù mới trao đổi một vài câu chuyện ngắn ngủi. Một lần, một mẹ già nói với chúng tôi: “Gia đình mẹ có ba đứa con bị lính Cộng Hòa bắn chết, nhà của mẹ bị đại bác bắn sập, nhưng mẹ không giận các con, chỉ tại chiến tranh, mẹ tưởng hòa bình rồi mọi người bớt khổ, mẹ không ngờ hòa bình rồi các con lại đi cải tạo, mẹ thì vẫn khổ, ai sướng đâu thì mẹ không có thấy, trước kia mẹ đã đau đớn khi con mẹ chết, mẹ hiểu cha mẹ các con hiện tại đau khổ như thế nào khi các con ở tù mãi không có ngày về.”
Tình cảm con người Việt Nam chan hòa, mọi người biết thông cảm tha thứ cho nhau. Người Việt Nam không có hận thù sâu đậm. Chỉ có những người vong bản đem lý thuyết hận thù ngoại lai áp đặt, gán ghép truyền bá trong dân chúng. Lòng hận thù đó không tồn tại lâu dài trong con người Việt Nam.

Những người mẹ già cô độc mỗi ngày phải cầm dao vào rừng đẵn cây, chặt củi kiếm ăn. Những đứa trẻ đi thọc ổ kiến vàng lấy trứng nấu canh cho bữa ăn sắn, khoai của gia đình. Những thiếu nữ đi cắt rau dại đổi một lần giao hợp với tù hình sự trong nhà lô vào buổi trưa để lấy một bánh xà phòng 72% dầu, một bộ quần áo tù đổi hai lần giao hợp và 10 đồng bù thêm.


Tôi đã thấy nhiều cảnh cơ cực của người dân quê Việt Nam thời chinh chiến, bom đạn dội trên đầu hàng ngày, chết chóc như cơm bữa, nhưng họ không bị cái đói đè nặng ám ảnh như hiện tại. Vừa công tác lao động tập thể vừa tranh thủ giờ làm việc riêng mà không đủ sống. Những nhà hai bên đường đi còn có những đứa trẻ bụng ỏng đít teo, mũi lòng thòng, mắt toét không đủ áo quần mặc giống như thời kỳ trước năm 1950 khi các làng mới hồi cư. Xã hội quay trở lại 40 năm, ai chịu trách nhiệm, nếu không phải là ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam? Bao nhiêu chục triệu người chết, bao nhiêu triệu gia đình tan nát để đổi lấy một đất nước thê thảm như vậy sao?

Ngã ba Chí Thạnh đã trở thành khu thị trấn của huyện Tuy An, trời nhá nhem tối, xe ngừng lại để ăn cơm. Lần đầu tiên sau hơn 11 năm tù mới được uống một ly trà đá. Ngon tuyệt vời. Nước lạnh đến đâu thấm mát cả cơ thể đến đó. Tỉnh Phú Yên vẫn dư thừa lúa gạo bán ra các tỉnh khác mà không cần nhập lúa gạo miền Nam. Khởi đầu sau khi chiếm miền Nam, Việt Cộng thi hành chế độ kiểm soát lương thực, thu mua lúa và thuế nông nghiệp.

 Thuế đánh trên 70% trị giá sản xuất, nhà nước chỉ cho phép mỗi nhân khẩu giữ lại 15 kg thóc mỗi tháng. Còn bao nhiêu phải bán với giá quy định, mười lăm ki lô thóc mỗi đầu người mỗi tháng, qui ra chưa được 10 kg gạo nên nông dân đói và ăn độn quanh năm. Sau khi tất cả phải vào hợp tác thì nhà nước qui định chế độ bình công chấm điểm, đời sống nông dân càng tồi tệ hơn, nông dân quần quật làm suốt ngày công điểm cũng không được qui định cao bằng cán bộ quản lý, mỗi hợp tác xã nông nghiệp phải gánh một số cán bộ đảng viên không sản xuất. Sản phẩm sau khi thu hoạch trừ các khoản phí tổn, thuế khóa, đóng góp nghĩa vụ, những khoản giao tế, lễ lạt đón tiếp phái đoàn. Cuối cùng người nông dân không còn được chia bao nhiêu trên sản phẩm chính họ làm ra.


Sau đại hội kỳ 5, chế độ khoán sản phẩm được áp dụng, phần ruộng cấy giao về cho mỗi gia đình dựa trên nhân số lao động. Trên lý thuyết người nông dân đáng lẽ khá hơn, nhưng thực tế họ vẫn đói, nông phẩm thu hoạch cũng vẫn chạy vào túi của cán bộ bằng nhiều cách. Ngoài việc phải trả tiền thuế, tiền thuê đất, nông dân phải trả tiền thuốc trừ sâu, phân bón, tiền công dẫn nước tưới ruộng.


Người nông dân phải trả tiền mua các loại thuốc không đúng giá qui định. Được mua 10 bao phân giá 20 ngàn một bao, lãnh phiếu cung cấp đến kho nhận chỉ nhận 8 bao với giá 22 ngàn một bao, nếu không chịu thì có khi phải chờ đến mùa sau. Thuốc sát trùng chưa được cấp phát, vì thủ kho cũng có quyền vô giới hạn, mua thuốc sát trùng cũng phải hối lộ mới có, nếu không phải chờ đợi. Chưa kể phân bón và thuốc sát trùng đã quá hạn không còn phẩm chất, vì hệ thống phân phối quan liêu dầy đặc, luôn luôn trễ nải, hệ thống kho vựa yếu kém, không bảo vệ được sản phẩm tốt, nhưng trời mưa đất chịu, các cơ quan làm theo giấy tờ, các cơ quan của nhà nước độc quyền, có đảng lãnh đạo, dân chúng kêu ca vào đâu được.

Nếu không hiểu tường tận đời sống của nông dân và những gì họ phải chịu đựng, thì không thể nào một người ở ngoài có thể hiểu được tại sao nông dân Việt Nam đói, khi họ đi dọc theo quốc lộ số 1 vào đến Sài Gòn, nơi đâu cũng thấy những đoàn nông dân chăm lo cầy sâu quốc bẩm, nơi đâu cũng thấy hai bên đường cây xanh bóng mát và những ruộng lúa xanh đến tận chân đồi núi phía xa. Xe lên đỉnh đồi Cả khoảng hơn 8 giờ tối, trăng lung linh phủ lên vạn vật một mầu tím nhạt, lưng núi đá Vọng Phu mờ ảo hiện sừng sững trên nền trời trong. Bầu trời thật cao và xanh vắt, tinh khiết, thỉnh thoảng có một vài đám mây mỏng như tơ trôi chầm chậm thản nhiên, mặt trăng cao và nhỏ lại, ánh sáng làm mờ những hạt sao lưa thưa. Biển phẳng lặng trong xanh biên biếc in rõ những vùng có đá ngầm đen thẫm. Tôi rùng mình vì lạnh, cái lạnh se se thấm người, trăng càng sáng càng lạnh. Hơn 11 năm trong nhà giam, đêm nay mới được nhìn thấy một đêm trăng sáng bao la trọn vẹn.


Trong tù nằm cạnh cửa sổ mới được nhìn thấy một mảnh trời đêm qua lưới cửa đan bằng dây kẽm gai dây thành ô, cạnh chưa quá 5 phân. Cứ mỗi lần trăng sáng là tôi rạo rực muốn đi. Thuở nhỏ cứ mỗi đêm trăng, sau giờ học tối, chúng tôi vài đứa bạn rủ nhau đi lang thang hết những con đường vắng trong thành phố ra đến bãi biển Thanh Bình Đà Nẵng ngồi ngắm cảnh trăng sáng và mầu nước xanh trắng loang loáng. Lớn lên một tý, thấy ngọn núi Tiên Sa và đèo Hải Vân chắn ngang tầm nhìn của mình, chúng tôi rủ nhau đạp xe qua bãi biển Mỹ Khê để nhìn hết cái bao la huyền hoặc của biển cả những đêm trăng sáng, mơ ước lớn lên sống đời lãng mạn của một thuyền trưởng của một tầu viễn dương. Thuở đó, mỗi đứa đều ôm ấp trong lòng hình ảnh một cô bạn học cùng trường, ngồi nhắc về người con gái mà mỗi đứa thầm yêu, đứa nào cũng muốn bạn mình nói về người con gái mình thương mến, cứ thế mỗi đứa chúng tôi nuôi một tình yêu đơn phương và làm thơ, không bao giờ tìm hiểu là cô bạn có yêu mình không, và cũng không tìm cách thổ lộ tình yêu.


Lớn lên mỗi đứa mỗi hoàn cảnh rồi lập gia đình với những người con gái khác, nhưng mỗi lần gặp lại nhau là một lần nhắc lại với nhau về những người con gái thời bé và nhiều khi thấy tức vì không có một đứa nào tìm cách tiến xa hơn trong tình yêu đầu đời. Mới đó mà đã gần 30 năm, từ khi rời Đà Nẵng, xa bạn bè, lần ra đi xa nhà đầu tiên, tưởng về sẽ gặp lại tất cả, nhưng cuộc đời cứ trôi theo dòng, chúng tôi cứ xa mãi biền biệt, mà cho dù có dịp về thì cũng không bao giờ gặp đủ bạn bè của thời trẻ thơ ước mơ. Tôi bỗng nhớ bạn, Giao, Dũng đã chết, Thu, Phụng, Sử,


Côn đã đi xa, đứa du học, đứa chạy di tản, có đứa nào phải chết trong tù không? Tôi nhớ Thu Hà, người con gái thuở bé thơ đó, nhớ thật tha thiết. Những buổi đi học về cùng đường, những buổi chào cờ đứng trong hàng nhìn nhau không nói. Đi xa rồi không có dịp gặp lại. Mỗi lần nhớ thấy lòng rưng rưng. Nàng đã theo gia đình di tản ra nước ngoài. May mắn cho nàng thoát được cảnh làm vợ người đi cải tạo. Bất giác quên thực tại là một người tù bị còng tay vào thành xe đang di chuyển, tôi nói:

– Trăng đẹp quá, nên ngừng lại một lát để nhìn cảnh đẹp, mấy khi được qua đèo Cả vào một đêm trăng như thế này.
Tên cán bộ hướng dẫn nói như châm chọc tôi:
– Anh có tâm hồn thi sĩ quá, chắc anh làm thơ nhiều lắm.
Tôi rất thật thà đáp:
– Tôi yêu thơ, tôi thuộc nhiều thơ kể cả thơ chữ Hán và thơ Việt Nam, lúc nhỏ tôi có làm thơ, nhưng thơ của tôi dở hạng bét nên tôi không tiếp tục.
Hắn tiếp theo như không nghe lời tôi nói:
– Tôi nghĩ là anh còn làm nhiều thơ, vào trại anh còn làm thơ mà?
Tôi vẫn thành thật nói:
– Đó là điều tôi rất tiếc, sống trong cảnh tù đầy như tôi mà không làm được thơ là một sự uổng phí lớn, giá như làm được một vài bài thơ hay thì cũng đủ trả giá cho một đời người.
Hắn tiếp tục theo ý hắn:
– Anh còn làm báo nữa phải không?
Tôi đáp:
– Những bộ môn về văn tôi đều thích nhưng không làm được gì, lúc nhỏ học môn gì cũng khá trừ ra Văn là kém.

Tên cán bộ ngồi cạnh nói theo:
– Sợ anh chưa thành khẩn trong lời nói.
Tôi thấy từ ngữ thành khẩn quá vô duyên trong lúc này, nó kéo tôi trở lại thực tại tôi là một người tù đang bị xích một tay vào thành chiếc xe jeep đang di chuyển với 4 tên công an, trong đó hai tên cầm hai khẩu AK sắt thép đen sì. Tôi tiếc đã đối thoại với những tên Cộng sản để làm mất đi cái cảm giác êm đềm như được hòa mình với cảnh thiên nhiên của một đêm trăng sáng tuyệt vời. Không tranh luận vô ích, tôi ngước nhìn trời cao và biển xa. Trăng vẫn sáng, trên bầu trời trong xanh và biển vẫn lặng, loang loáng ánh sáng trên những lượn sóng bạc đầu, in rõ đậm nhũng hòn đảo ngoài bờ biển tỉnh Khánh Hòa. Tôi nghĩ cuộc đối thoại vừa qua thật vô ích, những lời nói làm hoen ố cái đẹp, như một bức danh họa bị một tên vô lại ném một cục bùn vào.

Chúng tôi được đưa về trại giam Nha Trang ở đỡ 2 ngày, hôm đó là tối thứ sáu. San và tôi ở hai phòng khác nhau. Người giám thị, một trung úy công an bảo chúng tôi để hành trang ở văn phòng, hắn nói nếu đưa vào phòng sẽ bị tù cũ lột sạch và không chừng còn bị đánh. Mỗi phòng đều có một người tù cầm đầu gọi là Đại Bàng và một đám em út phục dịch và bóc lột người khác.


Tôi ngạc nhiên vì tôi từng ở những trại tạm giam của Cộng sản, trước kia không hề có tình trạng này. Thời đó, tù rất sợ cán bộ, nhất là tù hình sự. Công an coi tù làm việc rất nghiêm túc. Sự thay đổi này nói lên là tù hình sự đã không còn sợ công an nữa, hoặc là khinh nhờn, hoặc là cấu kết bè cánh với nhau như ở nhà tù thường phạm trong chế độ cũ. Mặt khác chứng tỏ bọn công an không còn làm việc nghiêm chỉnh nữa, họ biết có nạn đại bàng, có nạn tù cũ hiếp đáp tù mới vẫn không giải quyết, chứng tỏ tinh thần làm việc sút kém và không còn tin tưởng vào tổ chức hay lý tưởng như trước. Sự suy sụp tinh thần của cán bộ là điều suy thoái đáng kể của một chính quyền được gọi là Cách Mạng, và kỷ luật sắt như chính quyền và đảng Cộng sản.


Thời kỳ những năm đầu, ở các trại giam, mỗi ngày hai lần điểm danh, người giám thị đi vào phòng xem xét từng khoảng chấn song, từng khoảng tường như sợ tù nhân chui lọt ra ngoài bằng những lỗ kim, lúc đó tôi vẫn thường nghĩ, nếu người công chức, cán bộ của chính phủ VNCH làm việc cần mẫn như vậy thì không làm sao mất nước. Bây giờ cán bộ Cộng sản chỉ mở cửa phòng, trong nhà tù giao khoán cho đại bàng, tự do đánh đập bóc lột tù và phân phối mọi việc. Ở đâu cũng diễn ra những dấu hiệu báo chế độ Cộng sản đã suy tàn có thể bị đánh bại được, do đó vấn đề trở lại là làm thế nào để kiện toàn lực lượng đối kháng.

Bước chân vào phòng, cửa sắt vừa đóng lại, mới dợm bước thêm vào bên trong thì một người thanh niên nằm ngay cửa ngồi dậy chận tôi lại, hắn nói với một người nằm xây mặt vào: “Thưa anh hai, có khách mới”, người đó không cần quay ra, chỉ nói: “Làm việc đi”. Thêm một người thanh niên nằm giường phía đối diện nhảy lên, nắm cổ áo tôi lôi, tôi phản ứng tự nhiên ghịt lại, thì hắn đẩy tôi ngã sấp xuống cái giường đầu tiên. Lúc đó người thanh niên thứ nhất la lên: “Anh hai, ông này là tù ở trại Xuân Phước về”. Tiếng la đó làm nhiều người nhỏm dậy, người thanh niên được gọi là anh Hai cũng chống tay ngồi lên.

Tôi nhìn cánh tay thật lực lưỡng, khuôn mặt thật trắng của người thanh niên xoay ra, tôi đoán hắn chưa đến ba mươi. Khi hắn bắt đầu di chuyển qua cái giường đến bên cạnh tôi, tôi mới thấy hai cái chân khẳng khiu. Di chuyển đi lại nhờ vào hai cánh tay nở nang quá khổ. Hắn dịu giọng: “Mời chú ngồi, chú ở trại Xuân Phước là tù có án hay tập trung cải tạo.”

Tôi không ngờ cái dấu trại Xuân Phước đóng sau cái áo tù của tôi có ảnh hưởng quan trọng trong đám tù nhân ở trại giam Nha Trang này. Tôi đáp:
– Chú tập trung cải tạo.
Hắn hỏi tiếp:
– Chú cấp bậc gì mà chưa được về?
Để dễ hiểu và khỏi dài dòng về cấp bậc hành chính, tôi nói cấp bậc quân đội.
– Chú là Trung úy biệt phái.
– Chú nói dối, chắc chú Trung tá mới lâu như vậy, tụi cháu tưởng sĩ quan ngụy về hết rồi.
– Còn nhiều lắm, còn nhiều người Thiếu úy vẫn chưa về.
Có nhiều tiếng nhao nhao lên:
– Thiệt hả chú, bên ngoài ai cũng nói cải tạo về hết rồi, chỉ có những người ác ôn mới không về, chú có ác ôn không?

Tôi cười nói thân mật.
– Các cháu thấy chú có ác ôn không?
Một người nói:
– Trông chú hiền quá, sao chú ở tù lâu vậy?
Tôi nói đùa:
– Hiền lành mới ở tù lâu. Tù không thích hợp với người hiền.
Người thanh niên đại bàng la lên:
– Tụi bay hỏi nhiều quá, để từ từ chú nói chuyện có được không, chú uống cà phê hay uống trà, chú ăn mì nhé?
Tôi chưa kịp trả lời thì hắn đập vào người thanh niên ngồi bên cạnh:
– Đ.M., có nghe tao nói không mà ngồi đó, đi nấu nước pha cà phê và làm mì nghe chưa.

Hai ba người thanh niên đứng lên, kẻ đi lấy một cái đèn làm bằng lon nhôm nấu bằng dầu hỏa, người đi soạn lấy mì gói và cà phê. Trong nhà tù mà họ sống đầy đủ, nấu nướng bằng đèn dầu hỏa. Trước kia chúng tôi cũng có nấu lén bằng cách đốt bao plastic gói đồ thăm nuôi. Trong lúc tôi ăn mì, uống cà phê cố giữ cho khỏi phải ăn uống hỗn như người đói, nhưng họ cũng nhìn ra tôi ăn quá ngon và quá nhanh, hơn 11 năm mới uống lại ly cà phê nóng – Ngon lắm.


– Trại đói lắm hả chú, ăn toàn khoai mì phải không, trại A-20 không được mang giày dép đi làm phải không và chỉ được tắm có hai lần một tuần hả chú, làm sao sống được hả chú?
Tôi đáp:
– Các cháu biết cả rồi, còn làm sao sống, thì chú vẫn còn sống đây.
– Tụi cháu ở ngoài đời nghe nói mà không tin, nhưng tụi cháu sợ lên trại A-20 lắm, tụi cháu đang chờ đợi đi trại lao động, không biết đi đâu, nghe nói trại A-30 dễ chịu hơn.

Tôi nói với họ đi trại A-20 hay A-30 tùy mức án. Trại A-30 là trại thuộc tỉnh, chỉ giam tù án dưới 10 năm và tù vượt biên nên chế độ quản lý dễ dãi hơn, trại ở giữa đồng bằng Tuy Hòa nên được tương đối no đủ vì canh tác được lúa gạo. Người thanh niên đại bàng kể cho tôi nghe hắn bị án 20 năm tù vì tội đâm chết một người bạn khi cãi nhau trong một ván cờ tướng, hắn đã ở tù 7 năm, được đưa đến nhiều trại cải tạo nhưng không được nhận vì tàn tật teo hai chân từ nhỏ. Hắn nghe đồn về trại Xuân Phước nên sợ phải đến đó. Hắn hỏi:

– Chú ở trại A-20 có thấy ai bị tàn tật như cháu bị đến đó không?
Tôi đáp:
– Bị tàn tật khi tới thì không có, nhưng ở lâu rồi bị tai nạn lao động, hay bị cùm chân sinh ra tàn tật thì có.
Biết hắn lo phải đến Xuân Phước nên tôi mới an ủi rằng có lẽ trại Xuân Phước sẽ không nhận người tàn tật. Hắn nói:
– Ở trong phòng lâu quá, cháu buồn chán lắm, muốn đi trại cho khoảng khoát thoải mái. Đi đâu cũng được, đừng đến trại Xuân Phước cháu sợ quá.

Hai ngày ở trại giam Nha Trang tôi được đãi như thượng khách, một phần vì tôi lớn tuổi, một phần có lẽ vì tôi là tù cải tạo ở trại Xuân Phước về. Đa số tù trong phòng là tội vượt biên hay tổ chức đưa người vượt biên, một số ít là trốn nghĩa vụ quân sự, còn lại là tù kinh tế, nhiều nhất là tội buôn trầm hương. Trầm hương là thứ quốc cấm, như các loại cà phê, tiêu. Chuyên chở không giấy phép bị bắt. Sản phẩm nào đưa vào qui hoạch nhà nước đều cấm tư nhân buôn bán, người ta phải buôn chui, trên đường di chuyển qua nhiều chặng kiểm soát, nếu dấu không kỹ bị bắt, bị bắt phải hối lộ, hối lộ không được thì phải đi tù.


Tôi hỏi một thanh niên ngư phủ lý do vượt biên, tôi nói làm ngư phủ được trả lương cao hơn các nghề khác. Em nói lương có cao nhưng không đủ ăn – cá tôm đánh được công ty hải sản quản lý, mỗi tàu quốc doanh đều có nhân viên nhà nước đi theo. Bọn này gian lận đem cá tôm đi bán ở ngoài khơi trước khi vào bến công ty. Ngư phủ không được chia phần đó. Tất cả đều là lợi tức của nhân viên nhà nước có thế lực – có hệ thống ăn chia. Ngư phủ chỉ được trả lương theo mỗi chuyến đi.


Tôi giả ngây thơ nói: “Trong chế độ xã hội chủ nghĩa công bình làm gì có tham nhũng”. Các em tỏ ra tức giận vì những lời nói đúng sách vở của tôi:
– Chú cải tạo tốt quá sao chưa được về, chú tin là công bình chứ ai mà tin.
Tôi cảm thấy vui vì phản ứng hồn nhiên bộc trực đó. Tôi hỏi tiếp một em nông dân trẻ tại sao vượt biên trong khi em là lực lượng nòng cốt của chế độ, chỉ sau có người công nhân thôi. Lối hỏi theo bài vở của tôi lại làm cho người được hỏi tức giận. Em nói:
– Xin lỗi chú, làm mà không ăn ở thì làm làm gì chú?

Tôi hỏi tiếp:
– Trên đường đi chú thấy lúa tốt quá, sao không đủ ăn?
– Lúa tốt, thu hoạch có, nhưng trừ vào tiền phân, tiền giống, tiền thuốc trừ sâu, tiền nước, tiền đóng thuế nông nghiệp hết sạch chú ơi. Chú có biết đất còn đẻ nữa đó.

– Đất đẻ là thế nào? Tôi ngạc nhiên hỏi lại.
– Thực chú ở tù lâu quá rồi cái gì cũng không biết. Bây giờ là thời kỳ khoán sản phẩm. Xã giao ruộng đất cho gia đình cầy cấy, rồi gia đình đóng lại tùy theo diện tích và hạng đất như là mình thuê đất của điền chủ. Có 7 loại hạng đất từ 1 đến 7 theo tình trạng màu mỡ. Nhà em 5 người được giao 1 mẫu rưỡi đất hạng 4, ra công sức mà làm, năm đầu có khá, trừ hết các khoản giống, phân, thuốc, nước, máy cầy còn dư được hơn 400kg thóc. Qua năm sau cũng miếng đất đó, nhưng xã giao mẫu bảy và là đất hạng 3, tình trạng đất đẻ và đổi hạng như vậy đó chú.

Một em quê ở Đà Nẵng tên là Trung, cầu thủ giữ vai trung vệ tự do cho đội tuyển bóng đá Đà Nẵng đi vào Sàigòn để dự giải vô địch bóng đá hạng A toàn quốc. Xe chở cầu thủ về Sàigòn có mang theo trầm hương để bán lấy lời cho đội tuyển ăn thêm. Khi bị công an Phú Khánh bắt, em phải đứng ra nhận lãnh.

Theo sự sắp xếp của nhà dìu dắt khi mang trầm đi thì khi bị bắt phải có người nhận, trưởng đoàn phân công mỗi ngày trực, tới phiên ngày trực của người nào, nếu bị khám phá thì người đó phải nhận món hàng đó là của mình. Trung giải thích, cầu thủ hạng A lương mỗi tháng 500 đồng, mỗi lần đi đá và đi tập được ăn tiêu chuẩn 300 đồng một ngày nên hầu hết cầu thủ phải tiêu tiền nhà, người có trách nhiệm phải nghĩ cách làm ăn để duy trì sự tồn tại của đội.

Tôi hỏi:
– Mỗi ngày ăn 300 đồng làm sao mà đủ sức đá, trong khi ly cà phê giá 50 đồng.
Trung nói:
– Đó là đội Đà Nẵng có tiếng giầu, các đội khác có đội chỉ có 200 đồng tiền ăn mỗi ngày.
Tôi hỏi tiếp:
– Vậy vào đội làm gì khi không đủ ăn, tiền thu bán vé để đâu, bây giờ nhiều người xem bóng đá.

Trung giải thích:
– Phải vào đội bóng để được ở lại thành phố, nếu không em phải vào nghĩa vụ quân sự, hoặc kinh tế mới hay nghĩa vụ lao động. Tiền bán vé nhiều, nhưng đó là phần quản lý của Ty Thể Dục Thể Thao – không ai được quyền biết ngoài Tỉnh ủy.
Một em khác không đợi tôi hỏi, kể chuyện là gia đình em có người em trai là vận động viên xe đạp, trong chuyến đua “về nguồn” khởi hành từ Sàigòn về Hà Nội, người em trai được về hạng nhì và được giải thưởng một bằng ban khen và một ảnh bác Hồ. Trong khi gia đình em phải mua sắm chiếc xe đạp hết hai cây vàng và tốn chi phí tập dượt. Vào đoàn đua được có hộ khẩu ở lại thành phố khỏi phải làm nghĩa vụ quân sự hoặc đi kinh tế mới. “Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa” cái gì cũng thiếu, chỉ có thừa bằng khen và ảnh “bác Hồ”, em kết luận như vậy.
Chỉ hai ngày ở trong trại giam Nha Trang tôi được biết thêm nhiều thực tế ngoài đời. Sáng thứ hai, xe tiếp tục về Sàigòn, ra khỏi nhà giam xe chạy vòng qua nhiều đường phố Nha Trang để đến Ty Công An đón đủ 4 nhân viên áp tải, tôi được nhìn Nha Trang sau hơn 12 năm chưa thấy lại. Công viên bờ biển xơ xác tiêu điều, cây cối không được cắt xén tu sửa, trên đường phố người qua lại đông đúc, hầu hết là đi xe đạp và đi bộ, kể cả sĩ quan hải quân Việt Cộng trong đồng phục quần xanh áo trắng nón cối xấu xí. Sau 12 năm “giải phóng”, Nha Trang biến đổi nhiều quá. Không tìm đâu ra một tà áo trắng thướt tha của nữ sinh ngày trước, ngày nay những thiếu nữ chỉ mặc áo cụt đơn sơ, có nhiều thiếu nữ đi xe đạp đàn ông, áo quần mặc nhiều màu xanh, màu đỏ hay xanh lá cây. Tôi nghe nói ngoài dân, vải được bán theo tiêu chuẩn, được phân phối màu nào may mặc màu ấy không lựa chọn, có những người đàn bà hơi đứng tuổi mặc một chiếc quần hai ống màu xanh và vàng đối chọi nhau. Trước 75, một phụ nữ miền Nam dù ở thôn quê cũng không ai mặc như vậy, không người phụ nữ nào đạp xe đàn ông tự nhiên như bây giờ.
Đoạn quốc lộ từ Cam Ranh đến huyện lỵ Tuy Phong Phan Thiết hư hỏng, đầy bụi bặm. Xe ngừng lại một quán ăn, bọn công an áp tải sau khi mua hộ San và tôi hai đĩa cơm, chúng tôi vào ngồi ăn trong quán. Một em bé trạc 12 tuổi, gương mặt xanh xao gầy ốm đến gần mời chúng tôi mua trứng gà luộc.
– Chú mua trứng gà đi chú, cháu bán rẻ mà.
Tôi trả lời:
– Chú không có tiền.
– Xí, chú là công an mà không có tiền, công an giàu lắm à.
– Chú không phải công ăn đâu cháu, chú đi nhờ xe, mấy chú công an vào tiệm ăn kia kìa.
Khi cháu gái đến sát bên đuôi xe, San cựa mình nhấc tay lên, cháu gái thấy chiếc còng nơi tay, phản ứng tự nhiên á lên một tiếng rồi lùi ra xa, giương mắt to lên nói:
– Á, hai chú là tù, chú có phải là ngụy quân cải tạo không?
– Vâng, chú là cải tạo, nhưng không phải là ngụy.
– Chú không phải là ngụy sao chú lại cải tạo – bộ chú là phản động à?
Tôi không muốn các em nhỏ gọi người tù cải tạo là ngụy, nhưng giải thích thì em cũng không hiểu, người ta quen gọi rồi. Các em nhỏ không hề biết gì về chính quyền cũ. Tôi nói tiếp:
– Sao cháu biết cải tạo là phản động?
– Ba cháu nói, ba cháu cũng là sĩ quan ngụy cải tạo, ba cháu là thiếu úy, ba cải tạo năm năm mới về. Sao chú chưa về? Những người đi qua đường tò mò đứng xem. Em bé gái lấy ra hai quả trứng cho tôi và hai quả cho San. Tôi muốn trả tiền cũng không được vì tiền công an áp tải giữ. Gọi em trả lại thì em bé đã chạy qua bên kia đường. Vài người cho chúng tôi các loại nào thuốc lá, bánh mì, chuối và nước uống, chúng tôi cảm ơn không nhận, họ cứ tự động bỏ vào chỗ ngồi rồi dang ra xa nhìn. Bọn áp tải chạy ra xua, đám đông chỉ dang ra xa, không giải tán.
Tôi nghĩ đến em bé bán trứng gà, 4 cái trứng trong số vốn cỏn con, mười trứng gà đựng trong một cái rổ nhỏ, cơ nghiệp thương mại của bé, mới từng ấy tuổi em đã phải bỏ học, buôn bán để nuôi gia đình, em đã quyết định cho chúng tôi một phần tài sản của em.
Cộng sản đang ra sức tiêu diệt mọi truyền thống của dân tộc Việt Nam, để dựng lên một xã hội theo ý chúng muốn, trong đó con người luôn luôn rình mò hận thù nhau, đấu tranh với nhau không khoan nhượng. Chúng đã giết hàng triệu người, triệt phá các công trình xây cất, đốt hết sách vở tài liệu văn hóa, làm thay đổi đời sống kinh tế của cả nước, làm cho mọi người phải nghèo khổ để cho bọn cán bộ đảng viên được độc quyền no ấm.
Nhưng chúng không tiêu diệt nổi tâm hồn người Việt, tấm lòng luôn luôn thương người nghèo và binh vực kẻ yếu, phát xuất tự nhiên từ tâm hồn con người không cần ai nhắc nhở. Em bé gái ở cái tuổi lên mười, sinh ra và lớn lên ở xã hội mới, được dạy cho tiếng ngụy để gọi chính quyền cũ, được xem bao nhiêu lần những phim ảnh tuồng tích nói xấu, bôi bác sĩ quan chính quyền cũ, nhưng thấy chúng tôi bị tù em vẫn thương xót xúc động.

Tôi nhận hai quả trứng, những điếu thuốc lá, mòn quà nhỏ người đi đường ném cho là nhận cả tấm lòng của người dân đối với chúng tôi. Tôi không tủi thân khi bị thương hại, trái lại tôi rất sung sướng vì qua sự biểu lộ đó, tôi thấy tâm hồn người Việt Nam vẫn còn, chính tâm hồn trong sáng đượm thắm tình người đó làm cho đất nước Việt Nam tồn tại. Cộng sản không tiêu diệt được tâm hồn con người. Trái lại, chính tâm hồn người Việt đang dần dần tiêu diệt chúng; tổ chức, bạo lực chỉ là sức mạnh bên ngoài. Tình cảm của con người là sức mạnh bên trong. Bao giờ bạo lực không còn sử dụng được, tổ chức không còn bền vững, lúc đó tình yêu con người sẽ thắng và Cộng sản sẽ bị tiêu diệt.

Gần tối xe về đến đầu xa lộ Biên Hòa, hàng bạc hà dầy trồng hai bên bờ làm phong cảnh ít nhiều thay đổi tươi mát. Sàigòn bây giờ người đi lại tấp nập hơn những năm đầu sau khi Cộng sản chiếm miền Nam.
Tôi đảo mắt nhìn quanh, trong một lúc muốn thấy hết chung quanh một cách tham lam.
Lòng tôi nôn nao như người đi xa trở về quê cũ. Trước kia tôi không hề có cảm giác đó một khi ra đi rồi trở về Sàigòn. Sàigòn đối với tôi là đất khách, là nhà trọ. Quê tôi ở Quảng Nam, gia đình tôi ở Đà Nẵng, tôi chỉ thấy nao nao mỗi khi từ xe lửa hay trên máy bay nhìn thấy đỉnh núi Két, trái núi đứng thẳng có hình cong như mỏ két nằm về phía tây nam Đà Nẵng, hay màu biển xanh thẫm bầy ra phía dưới thân phi cơ đang giảm cao độ để đáp xuống. Tôi là đứa con hay đi xa, nhưng lại nhớ quê nhà, không đi dứt, luôn luôn tìm dịp để trở về với quê hương, với gia đình, nơi in dấu trong đời tôi những kỷ niệm.
Giờ đây cảm giác đó tôi dành cho Sàigòn, xa cách rồi mới thấy Sàigòn là quê hương thứ hai của mình.
Xe vào đến trại Phan Đăng Lưu – trời nhá nhem tối, người cán bộ ra nhận chúng tôi là Ba Phận, hắn mang lon Trung tá Giám thị Trưởng trại giam, lúc tôi rời trại đầu năm 1978 hắn là Thượng úy Trưởng khu.
Thủ tục xét nhập trại xong. Tôi được đưa vào xà lim số 23 khu C-2. Trên đường đi vào khu trại giam, hai bên những người tù mới từ khu xà lim và tập thể đang nhìn tôi một cách tò mò. Họ nhìn ra tôi khác lạ với những người tù mới bị bắt vào.
Xà lim số 23, phân trại C-2. Người ở trước mới di chuyển nên vẫn còn phảng phất hơi người và sự ấm cúng sạch sẽ.
Soạn đồ đạc chuẩn bị tắm, mặc cho những tiếng gọi từ hai bên và phòng tập thể trước mặt. Họ đang ngạc nhiên vì tôi là người tù mới đến trại giam mà hành trang đầy đủ, mặc quần áo có đánh số, hình dáng lôi thôi lếch thếch. Trong trại tạm giam rảnh rỗi nóng lòng muốn nghe tin tức bên ngoài, ai cũng nghĩ là từ ngày họ bị bắt sẽ có những điều mới mẻ, họ cần biết qua những người tù mới vào sau.
Tôi hoàn toàn thoải mái vì được tắm mát sau cuộc hành trình mệt mỏi cả ngày trong nắng nóng và đường đầy bụi bặm. Có đủ thì giờ để kỳ cọ. Tiếc là không có một miếng xà phòng thơm. Từ ngày đến trại lao động, tắm nước ao, nước suối, lúc nào cũng phải gấp nên không cần đến xà phòng. Tôi tắm thật lâu để tận hưởng lần đầu tắm lại nước máy sau hơn 9 năm rời trại tạm giam đi lao động cải tạo.

Trong chế độ cộng sản có nhiều thiên đường vì nó có nhiều tầng địa ngục, đối với người tù ở trại cải tạo lao động xà lim trại tạm giam là một thiên đường với chỗ nằm riêng biệt rộng gần một mét, một cầu tiêu và một vòi nước riêng để tắm giặt. Xà lim tạm giam khác với xà lim kỷ luật, xà lim kỷ luật là tầng đáy của địa ngục chốn trần gian. Xem xét dưới khung cửa ra vào, khoảng hở có thể thò lọt bàn tay ra ngoài.

 Thật may mắn, với khoảng trống đó, xà lim này rất thuận lợi, nếu hai xà lim bên cạnh cũng trống như vậy thì có thể trao thức ăn cho nhau, có thể nhận quà tập thể ném sang và có thể nằm nói chuyện với nhau mà không sợ bị bắt. Buổi trưa trời nóng nực, khe hở đó thành một cửa gió rất tốt, nằm dưới nền xoay đầu ra ngoài, gió lọt vào khe hở dỗ giấc ngủ tuyệt vời. Đến giờ giới nghiêm, các cửa gió được mở ra, cửa sắt được kéo lại, đó là giờ ngủ, nhưng là giờ sinh hoạt của khu xà lim, không ai ngủ được lúc 9 giờ tối. Ở xà lim thì muốn ngủ lúc nào cũng được, nhưng nói chuyện với nhau là một nhu cầu vì suốt ngày bị đóng cửa, cấm quan hệ hai bên, cán bộ đi lại thường xuyên, tù không nói với nhau công khai được, trừ cách nói qua khe hở dưới cửa và gõ nói xuyên qua tường.

Tôi chưa kịp liên lạc thì Nguyễn Tú Cường từ số 10 cho biết Vũ Văn Ánh, Trần Bửu Ngọc và Nguyễn Tú Cường đã từ Xuân Lộc bị đưa về hơn một tuần và những anh em đã về trước bị bắt lại như Phạm Đức Nhì, Trần Đắc Thắng, Bùi Đạt Trung, Nguyễn Văn Hiếu, Phạm Chí Thành, Trần Kim Hải (tức Hải Bầu). Trần Đức Long và Nguyễn Văn Tiên về từ 1981 cũng bị bắt lại. Cường cho biết tờ Hợp Đoàn đã bị lộ. Đa số những người bị bắt đều liên hệ đến tờ Hợp Đoàn hoặc là những người có sáng tác thơ nhạc như Trần Đức Long, Trần Đắc Thắng.

Trên đường di chuyển, tôi có nghĩ đến trường hợp tờ Hợp Đoàn bị tố cáo nhưng tôi vẫn hy vọng tình cảm khắng khít giữa Vũ Văn Ánh và Ngô Văn Ly khiến cho Ly không nỡ khui ra. Từ khi ra khỏi Kiên Giam, Ngô Văn Ly bị anh em tù tẩy chay về hành động độc ác của hắn, bị cô lập và xấu hổ, y đã thù tất cả mọi người. Ly là một người cực đoan và độc ác lại nhiều tham vọng, y tưởng là y làm hại được Lê Quang Minh, một tay an ten lợi hại, y sẽ được nhiều bạn tù xem như là người có công; ở trại ai cũng oán ghét Minh và nhiều người là nạn nhân của hắn, nhưng Ly còn hại cả Bùi Lượng và Khúc Thừa Văn nên không ai chấp nhận được.

 Dù những người bạn thân của y cố thuyết phục là các anh Bùi Lượng và Khúc Thừa Văn cũng làm an ten nhưng không ai tin điều đó. Giữa năm 1985, Ly được thả ra khỏi trại với danh sách đặc biệt một mình y. Người tù được tha ra mừng rỡ – nhưng trường hợp Ly được thả lại càng tăng thêm mối nhục, Việt Cộng rất độc ác, lợi dụng an ten một thời gian rồi sau đó cách này hay cách khác, chúng cũng làm cho người làm tay sai lộ diện để những người này không còn con đường nào khác hơn là phải bám lấy chúng một cách nhục nhã. Khi Ngô Ly ra về đến bộ chỉ huy trại, cán bộ an ninh Lý, người xây dựng cho Ly nhiều vụ đã giữ Ly lại một tháng ở phân trại A.


Nơi đây, anh em tù có án vẫn tưởng y còn lập trường chống Cộng như trước, họ đã chôn giấu thư và những tài liệu, thơ nhạc viết có nội dung chống Cộng trên đường đi làm để nhờ Ngô Văn Ly lấy chuyển về gia đình. Ngô Văn Ly trao tất cả cho Lý. Số người bị nhốt có đến 30 người, linh mục Nguyễn Quang Minh trong vụ Linh Sơn và dược sĩ Thơ đã chịu không nổi phải chết trong xà lim. Vụ này cho tới khi tôi rời trại đã hơn một năm, các anh Phạm Trần Anh, bác sĩ Long, luật sư Lý Văn Hiệp, kỹ sư Nguyệt vẫn còn bị giam cùm trong xà lim, không biết bây giờ số phận họ ra sao?

Đến lúc này những người bị bắt có cả Nguyễn Văn Tiên, người đã được về từ năm 1981 thì chắc chắn là Ngô Văn Ly không còn gì nghi ngờ nữa – vì Tiên và tôi là hai người biết nhiều về việc làm của Ngô Văn Ly trong trại như các vụ vẽ cờ, rải truyền đơn đều do một tay y làm. Có lẽ trong sự thù hận điên cuồng, Ngô Văn Ly muốn mượn bàn tay cộng sản để triệt hạ hết chúng tôi.

Theo lời Cường thì những người được đưa về đã được hỏi cung và họ đều không nhận. Đây là một việc khó nuốt trôi vì kinh nghiệm vụ án liên hệ nhiều người rất khó có thể phủ nhận. Việt Cộng có thì giờ để thẩm tra án và chúng thường đối chiếu tất cả những lời khai để tìm sơ hở của từng người ở những điểm bất đồng rồi truy dần ra. Một điều may mắn là dù chúng nhốt chúng tôi ở nhiều xà lim khác nhau nhưng các xà lim khu tập thể, hai khu C-1 và C-2, chúng tôi có thể thông cung cho nhau.

Ngày hôm sau, Trần Kim Hải đi hỏi cung về trước phòng 9, tôi nói chuyện được với Hải vì xà lim 23 chỉ cách phòng 9 có 2 xà lim 24 và 25. May mắn nữa là Hải về ngồi chờ mở cửa trong một thời gian khá lâu. Hải đã nói với tôi như sau:
“Năm 1985, em về đến nhà mới biết mẹ em đã chết từ hai năm trước, chị em đã bán nhà dọn đi nơi khác không để lại địa chỉ. Em bơ vơ, nay ở nhà người này, mai ở nhà người khác, đi làm đủ mọi công việc để nuôi thân và nuôi Tuấn (bạn tù của Hải) bị ho lao. Một hôm tình cờ gặp Ngô Văn Ly, hắn hỏi hoàn cảnh của em, hắn đã mời về nhà hắn ở. Không còn cách nào khác vì kinh tế quá khó khăn, Tuấn phải về quê và em dọn về với Ngô Văn Ly.


 Câu chuyện bắt đầu hôm đám cưới Hùng Cơm (trong tù có nhiều tên Hùng nên anh em tùy từng tính tình hay một sự cớ gì đó để phân biệt Hùng Cơm, Hùng Gà, Hùng Thuốc v.v…). Hùng mời tất cả anh em cựu tù Xuân Phước đang có mặt ở Sài Gòn đến dự, Hùng đến nhà Ly mời em mà không mời Ly, hôm đó Ly giận và buồn lắm. Rồi hôm đám nhà Nhàn (ở tù về ba tháng thì chết) anh em cựu tù Xuân Phước đi đưa rất đông, Ly mới về cũng đến đưa đám, nhưng hầu như mọi người đều tẩy chay không ai nói chuyện với hắn. Ngô Văn Ly giận lắm, cả em ở trong nhà hắn, hắn cũng không nói chuyện. Rồi thời gian trôi qua mấy tháng, hắn nói đã tiếp xúc với ông Của, cũng là tù nhân ở Xuân Phước về đang ở chùa Hòa Hảo đường Bùi Thị Xuân, thúc đẩy ông Của lập một tổ chức phục quốc nòng cốt là tín đồ Hòa Hảo từ Sài Gòn đến Sa Đéc và Long Xuyên. Ông Của là Chủ Tịch Mặt Trận, Ly là Tổng Thư Ký và hắn mời em là Ủy viên tuyên huấn, em cũng nóng lòng muốn làm cái gì để chống lại cộng sản nên em đã nhận lời. Ly đưa em xem một danh sách hơn 100 người trong tổ chức. Một hôm Ly bàn với em về tài liệu học tập trong tổ chức, em làm gì viết nổi tài liệu học tập, nên để giải quyết khó khăn đó, Ly nói với em, lúc đó em ở trại là người chuyền và lên khuôn báo Hợp Đoàn, chắc em còn nhớ nên viết lại để phổ biến cho tổ chức học tập.


Em nhớ được 18 bản nhạc và những bài thơ nên em đã viết hết cho Ngô Văn Ly và những bài lý luận chính trị thì em không nhớ, Ngô Văn Ly bảo em cố nhớ, em chỉ viết đại khái một vài ý thôi. Nhạc và thơ em viết trao cho Ngô Văn Ly, chấp pháp nó giữ hết, lúc đầu em nhận bừa là của em làm, tụi nó không tin vì em đâu có làm được thơ và nhạc nên nó càng đánh em nhiều hơn nữa, cuối cùng em phải khai ra tác giả. Em cũng khai anh là người chủ chốt trong báo Hợp Đoàn và em đã nhận báo Hợp Đoàn từ tay của anh để phổ biến cho người khác. Anh nên nhận đi cho đỡ khổ vì Nhì, Thắng và Long tụi nó cũng bị bắt hết rồi. Vụ này có bàn tay của Lý Lé trưởng ban an ninh Xuân Phước, hắn đổi về Sài Gòn làm công an phường Cầu Ông Lãnh, và mãi khi gần bị bắt em mới biết Ngô Văn Ly thường xuyên gặp Lý Lé. Vụ này bên ông Của bị bắt hơn 100 người, ông Của tự tử chết ở khu xà lim C-1 rồi.

Tôi đã hiểu tất cả mọi chuyện, Hải đã bị sa vào kế của Ngô Văn Ly để tiết lộ nội dung của tờ Hợp Đoàn, và hắn vì nể Ánh nên khai tôi là người chủ chốt, Ánh chỉ tham gia thôi và hắn quả quyết là tôi phải nhận không có cách nào chối được. Cả đêm hôm đó và những ngày tiếp theo tôi suy nghĩ làm thế nào để cắt vụ án cho gọn và nhẹ, càng ít người dính dáng càng tốt, tôi đã bị Hải và Ly khai quá rõ, chừng đó đối với pháp chế của Việt Cộng cũng đủ buộc tội, dù tôi không nhận.


Vậy tốt hơn là tôi theo đúng như lời Hải khai, tôi nhận là chủ trương tờ báo. Phần thơ và nhạc đã có đủ bằng chứng, tác giả đã bị bắt. Phần lý luận tôi viết, tôi sẽ nhận; điểm này có lợi thế vì không ai còn nhớ tôi viết gì, chắc chắn khi hỏi cung nó sẽ buộc tôi viết lại, tôi sẽ tìm cách viết cho nhẹ hơn để bản án không nghiêm trọng. Tôi sẽ cắt phần đóng góp của anh Trần Danh San vì có thêm anh San vào không có ích lợi – kể cả phần của Ánh cũng vậy, tôi sẽ khai giống như Hải, Ánh chỉ là người cộng tác mà thôi. Thực ra, Ánh là người chủ chốt.

Tình hình chính trị bên ngoài tương đối thuận lợi. Từ năm 1985, chúng tôi đã đọc được trên báo Nhân Dân về phong trào Glasnost và Peretroika ở Liên Sô do Gorbachev chủ xướng. Về phương diện tư tưởng, đó là sự thay đổi quan trọng và rất sâu sắc trong chế độ cộng sản vì trước đó, cộng sản không bao giờ nhìn nhận mình sai lầm và không bao giờ chấp nhận phê phán lãnh tụ và phê phán Đảng. Ai phê phán Đảng đều bị cầm tù.

Đảng chỉ cho nêu ra hiện tượng sai lầm nhỏ của viên chức cấp dưới theo kiểu cuốn truyện “Những Câu Chuyện ở Huyện” của Liên Sô và ở Việt Nam, Nguyễn Mạnh Tuấn dựa theo để viết cuốn “Cù Lao Tràm”. Họ lý luận bản chất của Đảng luôn luôn trong sáng – có sai lầm chút đỉnh là do đảng viên cấp thấp. Giờ đây ở Liên Sô đã cho phê bình vào hệ thống tổ chức và quản lý. Sai lầm tổ chức và quản lý không phải là sai lầm hiện tượng nữa. Vì theo đường lối tập trung dân chủ, tức chế độ độc tài đảng trị, hệ quả tất yếu là tổ chức sẽ cồng kềnh nặng nề quan liêu, uổng phí tài nguyên và quản lý luộm thuộm quá nhiều hệ cấp. Trong hệ thống đó, một viên chức cao cấp muốn giải quyết vấn đề kinh tế, xã hội có lợi ích cho nhân dân cũng không làm được.

Việc làm ở Liên Sô đã ảnh hưởng đến Việt Nam, Nguyễn Văn Linh từ khi ra khỏi Chính Trị Bộ trở lại bí thư thành ủy Sài Gòn, năm 1985 kỷ niệm 10 năm “giải phóng” Sài Gòn, Linh đã đưa ra nhiều nhận xét tiến bộ. Tôi nhớ điểm y phê bình về chính sách đã chỉ nhận vào đại học những học sinh kém con của đảng viên, y đã viết: “Tại sao sau 10 năm, chúng ta vẫn còn tiếp tục kỳ thị với con em của những người chế độ cũ” và hứa sẽ đẩy mạnh việc bỏ lý lịch trong các kỳ thi tại Sài Gòn là nơi y chịu trách nhiệm. Linh cũng đề cập đến những sai lầm trong việc quản lý kinh tế trong nền kinh tế chỉ huy.

Y chưa dám nói đến chủ trương một nền kinh tế thị trường nhưng thành ủy Sài Gòn đã tổ chức một số cơ sở kinh tế dựa trên thị trường và luôn luôn được báo Tuổi Trẻ đề cao như là một sự thành công lớn, điều này ngược với chủ trương của Hà Nội. Báo Tuổi Trẻ của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Sài Gòn, báo Thanh Niên của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh được xem như tiếng nói của thành ủy và của cá nhân Nguyễn Văn Linh, chứng tỏ Linh chưa đủ mạnh và muốn dùng báo chí là một hình thức chuẩn bị ủng hộ đường lối của y.

Cộng sản càng thất bại, người dân càng khổ và càng đói nhiều hơn; nhưng muốn đánh bại cộng sản, phải có một lực lượng có tổ chức hùng hậu. Lực lượng đó chưa có, thực tế người quốc gia chưa hình thành được với chính sức mạnh tập hợp của mình. Thời đại hiện tại, muốn tổ chức một lực lượng quân sự mạnh phải có nhiều tiền và phải được các cường quốc giúp đỡ và chắc chắn là các cường quốc kể cả Mỹ đã không còn sử dụng lá bài quân sự.


Với lá bài kinh tế và chính trị, Mỹ và Tây Phương đang thắng lớn trong chiến tranh lạnh với khối cộng sản. Do đó, mơ tưởng một giải pháp quân sự đánh đổ chính quyền cộng sản Việt Nam chỉ là một ước mơ không thành sự thực. Thực tế hơn 10 năm qua cũng cho thấy tất cả những tổ chức nổi dậy đều bị cộng sản tiêu diệt trong trứng nước bởi hệ thống công an và chính sách nhân hộ khẩu hữu hiệu.
Tóm lại, tình hình Việt Nam được diễn tả như là một bên cộng sản cầm quyền đã bất lực và bế tắc nhưng đối lực chưa có. Đối lực tuyệt đối của người quốc gia chưa hình thành đáng kể.


Do đó, những sự hình thành đối lực trong nội bộ của cộng sản, dù đối lực này phát xuất từ bất cứ động lực nào cũng đáng kể. Những đối lực đó có thể từ sự bất mãn của các Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị hất cẳng mất quyền lợi. Từ sự tranh chấp quyền lãnh đạo chóp bu. Từ mâu thuẫn do tính cách địa phương, bởi cán bộ người miền Bắc tràn ngập hết các tỉnh miền Nam, khiến cán bộ miền Nam và cán bộ miền Nam tập kết bất mãn. Từ sự thức tỉnh của những người thực sự muốn phục vụ xã hội trước kia họ tưởng là mô thức cộng sản chủ nghĩa là mô thức tốt để xây dựng một xã hội không có bất công.

Trong hoàn cảnh đó tôi nghĩ nếu tôi phải nhận những điều đã làm và phải viết lại những điều mình viết cũng không có gì đáng sợ hay đáng buồn. Tôi không chủ trương trực tiếp đối đầu như những người can đảm hơn như Cha Luân, như Nguyễn Đức Điệp, tôi vừa linh động đối kháng vừa cố tránh né thiệt hại, xem đó như một trò chơi có tính nguy hiểm mà hấp dẫn, cũng có thể xem đó là một cuộc du kích.


Nhưng khi đã bể ra, cũng có thể nhận vì những điều đã làm, những điều đã viết không sai. Chắc chắn nhận sẽ ra tòa án lãnh án, điều đó dĩ nhiên không tốt đẹp gì, nhưng đã ở tù khá lâu, rồi cũng quen. Những gì mất mát đã mất mát rồi, những gì lo âu cũng đã vượt quá tầm tay. Gia đình không có tôi thì các em tôi vẫn đảm trách được. Các con tôi không có tôi thì cũng đã khôn lớn. Vả lại còn chế độ cộng sản thì ở ngoài cũng như ở trong tù, mỗi nơi đều có những khó khăn và sự nhục nhã.
Năm ngày sau khi về đến trại thì tôi được gọi lên để trả lời cung, chấp pháp là người trưởng toán áp tải San và tôi từ trại Xuân Phước về, tên Ẩn, người miền Nam, tự giới thiệu là sinh viên luật khoa trước năm 1975.

Mở đầu Ẩn hỏi tôi:
– Chắc mấy hôm nay, anh đã được biết lý do đưa anh về đây.
Tôi trực tiếp ngay vào:
– Tôi biết, chắc là cán bộ cần hỏi tôi về tờ báo Hợp Đoàn trong trại Xuân Phước.
Ẩn hơi ngạc nhiên về sự trả lời trực tiếp vào vấn đề của tôi. Hắn hỏi tiếp:
– Anh thật thông minh và dứt khoát, nhưng ngoài tờ Hợp Đoàn còn tổ chức Dân Tộc Việt của anh như thế nào?
– Tờ Hợp Đoàn tôi nhận có, tôi chỉ có làm công việc đó trong trại – còn tổ chức “Lực Lượng Dân Tộc Việt” tôi đã trả lời an ninh trại Xuân Phước đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng của Ngô Văn Ly, hắn dựng lên để báo cáo.

Càng ngạc nhiên khi tôi nói thẳng ra là Ngô Văn Ly báo cáo, Ẩn nói tránh:
– Anh đừng đề cập đến Ngô Văn Ly, mấy hôm nay chắc anh thấy Hải Bầu đi làm việc, hắn đã nhận tội và khai tất cả rồi. Ngoài ra tất cả đồng bọn của anh: San, Ánh, Cường, Ngọc đều đã nhận tội, anh là người cuối cùng.

Ẩn đưa ra một xấp bản cung của những người bạn kể trên.
Tôi tiếp tục ý kiến của tôi
– Tôi phải nhắc đến Ngô Văn Ly, đó là người trực tiếp báo cáo tất cả những chuyện này, cán bộ cần lưu ý đây là một việc xảy ra trong trại tù, và người báo cáo cũng là một người tù, chúng tôi sống với nhau quá lâu trong một hoàn cảnh cực kỳ khổ sở nên tâm lý con người thay đổi thường xuyên. Những đụng chạm cá nhân xảy ra hàng ngày, nên những chuyện họ báo cáo có cái thực cái không, có người dựa trên sự thực nhỏ để dựng nên chuyện lớn để làm hại người khác.

Ẩn hỏi lại:
– Anh trả lời tôi “Lực Lượng Dân Tộc Việt” thành lập như thế nào và có những ai trong tổ chức?
– Tôi đã trả lời cán bộ, cũng như đã trả lời tại Xuân Phước không có tổ chức đó, ngay tên tổ chức cũng là tên của một tổ chức chính trị có trước năm 75. Nếu tôi có tổ chức chính trị thì không có lý do gì lại lấy tên một tổ chức có sẵn.
Ẩn nhắc lại:
– Anh không có tổ chức “Lực Lượng Dân Tộc Việt”?
Tôi đáp:
– Đúng.
Và hắn ghi vào biên bản ở mục hỏi đáp theo đúng thủ tục, xong hắn hỏi:
– Ở trong trại anh có chơi thân với những ai?
– Tôi chơi với nhiều người, nhưng không có ai thân, tính của tôi như vậy, tôi không muốn bất cứ sự thân thiết nào gắn bó riêng tư.
– Quan hệ giữa anh và Koksorl Biên,

 Trịnh Đình Lâm, Đoàn Phan Trí và Nguyễn Tú Cường ra sao?
– Đó là những người bạn thường trò chuyện với nhau vì ở cùng đội, nếu ở đội khác, tôi lại nói chuyện với những người khác.
Ẩn hỏi tiếp:

– Quan hệ của Trần Danh San, Vũ Văn Ánh và anh thế nào?
– Cũng là những người bạn trong tù, chúng tôi ở cùng một đội nhiều năm liên tiếp với nhau nên dù không có thân thiết thì cũng hay trò chuyện với nhau.
– Anh có từng vào Ủy Ban Nhân Quyền của Trần Danh San?
– Đó là một sự sai lầm của những người báo cáo không nắm rõ vấn đề, trong Ủy Ban Nhân Quyền có Triệu Bá Thiệp, trùng tên với tôi, vả lại Ủy Ban Nhân Quyền của anh San tổ chức ngoài đời sau khi tôi đã bị bắt.

Ẩn ghi vào bản cung tôi không thuộc Ủy Ban Nhân Quyền, rồi hỏi tiếp:
– Còn Lực Lượng Việt Nam Tự Do thì sao?
Tôi đáp:
– Lực Lượng Việt Nam Tự Do là tổ chức của Vĩnh Hầu và Ngô Văn Vinh, tôi cũng không tham gia, điều này tôi đã trả lời với chấp pháp khi mới bị bắt hơn 10 năm trước.
Ẩn hỏi vặn lại:
– Cái gì anh cũng không tham gia sao anh bị bắt?
– Tôi không biết, tôi nghĩ là tôi là viên chức chế độ cũ và tôi chỉ yên trí ở tù vì tội đó.

Ẩn nói:
– Sao anh cứ hay dùng tiếng tù, trong khi anh là người cải tạo?
Tôi hỏi hắn:
– Cán bộ tin là tù khác với cải tạo sao, đối với tôi như nhau, cùng bị giam giữ một nơi, cùng làm lao động, cùng ăn tiêu chuẩn giống nhau, cùng mặc quần áo có đóng dấu và số như nhau, có khi cùng ở một đội, chỉ khác là một bên là tù có thời hạn, một bên là tù không có thời hạn nên không biết ngày về.

Tôi đã quen với lối hỏi vòng vo của chấp pháp, đó là phương pháp khai thác cá nhân người tù, để kết tội nặng nhẹ một phần trên hành động vi phạm và một phần trên cá nhân người tù. Lúc mới bị bắt tôi dè dặt không trả lời nhiều, nhưng bây giờ đã hơn 11 năm rồi, tôi thấy không cần thiết phải dè dặt. Tôi biết một phần nó hỏi vòng vo để người tù miên man trong sự trả lời, rồi quặt vào đề tài chính để đo lường sự lúng túng của người tù mà đánh giá sự trả lời xác thực đến mức độ nào. Ẩn quay lại hỏi:

– Anh nói rõ cho tôi biết về nhóm Hợp Đoàn của anh.
– Tôi có viết một số bài cho tờ Hợp Đoàn, ngoài ra không có nhóm Hợp Đoàn.
– Tôi hỏi ai chủ trương, ai làm chủ nhiệm, chủ bút, tôn chỉ mục đích tờ báo. Ý nghĩa của tên tờ báo, anh trả lời từng chi tiết.

Tôi đáp theo thứ tự ngược lại của câu hỏi:
– Tên Hợp Đoàn do tôi đặt, sau khi tập trung một số bài nhạc anh em hát thấy hay, tôi viết thêm một bài nữa thì hình thành một tờ báo, cần có cái tên, tôi đặt tên Hợp Đoàn, ý nghĩa của nó chắc cán bộ cũng hiểu là kêu gọi sự đoàn kết – việc này thông thường thôi, ai cũng muốn kêu gọi đoàn kết cả – còn tên thì không tên này thì tên khác. Dù tên nào thì đối với cán bộ đều là phản động. Không có qui định chủ nhiệm chủ bút gì cả.

Ẩn cắt ngang:
– Anh nói vô lý, tờ báo mà không có chủ nhiệm chủ bút?
Tôi trả lời:
– Gọi là tờ báo cũng được, gọi là một tập bài viết cũng được, hoàn cảnh trong tù đâu có phải ngoài đời mà cái gì cũng phải chính danh. Nếu tôi gọi là người chủ trương cũng được.
Hắn nói:
– Anh xác nhận rõ ràng, có là có, không là không, không thể mù mờ.
Tôi đáp:
– Vâng, tôi chủ trương Hợp Đoàn.
Hắn ghi vào biên bản cung tôi là chủ nhiệm kiêm chủ bút. Xong hắn hỏi tiếp.
– Mục đích anh kêu gọi đoàn kết để làm?

Tôi trả lời chung chung:
– Vì chia rẽ quá nhiều, nên kêu gọi đoàn kết, còn để làm gì thì chúng tôi chưa nghĩ tới vì có làm gì được khi chúng tôi ở trong tù.
– Các bài viết của các anh, nhạc, thơ đều nhằm chống lại chế độ, nói xấu chế độ. Anh kêu gọi đoàn kết để chống chế độ phải không?
– Cán bộ nghĩ, cán bộ sẽ làm gì khi bị nhốt hàng chục năm trong tù, cán bộ có tin là người bị nhốt sẽ ca tụng chế độ đã nhốt mình. Những năm đầu cán bộ ở trại cũng đòi hỏi chúng tôi mỗi lần phát biểu ca tụng chế độ, chúng tôi có sợ mà nói thì cũng không phải là sự thật, khi nói thì thật ngượng, và có lẽ về phía cán bộ cũng thấy điều đó. Những thơ và nhạc làm trong tù đương nhiên là làm lén và nó đúng tâm trạng, ý nghĩ và hoàn cảnh của người tù.

Ẩn không ghi những lời nói của tôi vào biên bản, hắn hỏi tiếp:
– Anh có nhớ những bài anh viết không?
– Lâu rồi, tôi chỉ còn nhớ đại ý thôi, không thể nào nhớ đúng hết được.
Hắn xếp hồ sơ lại và nói:
– Bây giờ anh về suy nghĩ để lần khác lên đây lần lượt viết lại.
Trở về lại xà lim, tôi nhớ lại những câu trả lời, yên trí bề nào cũng một lần công khai đến đâu thì đến đó. Bảy ngày sau tôi lại được gọi ra hỏi cung, chấp pháp mới, hắn giới thiệu hắn tên là Khang, người Bình Định, trước kia học Văn Khoa. Sau phần thủ tục, Khang đi thẳng vào câu hỏi:
– Anh đã đọc tập thơ của Phạm Đức Nhì chưa, tôi là thi sĩ, tôi thấy thơ cũng hay lắm nhưng dĩ nhiên là lập trường không đúng.


Tôi nghĩ ngay, đã nhận là thơ hay thì đương nhiên hắn phải thấy những điều mà người làm thơ viết lên là đúng, còn lập trường thì chắc chắn là không hợp với quan điểm chính trị của chế độ.
Tôi đáp:
– Tôi chỉ đọc của Nhì một vài bài thôi, Nhì làm thơ hay, còn nguyên cả tập thơ thì tôi chưa đọc qua và cũng không nghe nói tới.
Khang nói tiếp:
– Nhì vượt biên mang theo cả tập thơ, khi bị bắt các đồng chí ở Long An tịch thu được, sau đó mới biết được Nhì đã là chủ trương làm báo Hợp Đoàn trong trại cải tạo. Chúng tôi đã đưa hắn về đây, anh biết chưa?

– Tôi chưa biết.
– Anh có nhớ “Long Bô” và “Bà Già Trầu” không? Khang hỏi tiếp.
Tôi vừa ngạc nhiên vì Long và Tùng là hai người bạn tù đã về từ năm 1981, anh Tùng là một Thiếu tá Biệt Kích, có cha là một Đại tá Công an Việt Cộng, ông này trước kia là một công chức quan thuế của Pháp, theo kháng chiến từ 1945. Nhờ có cha là công an và nhiều thân nhân bên cộng sản nên Tùng khỏi đi Bắc. Trong trại tù, Tùng là người tù rất tốt với anh em đồng cảnh và rất đứng đắn, giữ tư cách và danh dự. Làm đội trưởng nhưng không báo cáo và xu nịnh như các đội trưởng khác. Anh Tùng hiền lành nên Ngô Văn Ly đặt cho cái tên là “Bà Già Trầu”.


Tôi không hiểu Ly nó báo cáo những gì mà lôi cả những người cùng đội của chúng tôi từ năm 1981 và lại báo cáo cho công an cả những cái tên gọi hằng ngày của họ như Long Bô, Bà Già Trầu, Hải Bầu. Chi tiết này càng khẳng định sự trở mặt của Ngô Văn Ly đối với anh em chúng tôi. Lúc đầu Ly chống Cộng ồn ào và quá khích nhưng không có lập trường và lý tưởng; chống đối để khoa trương đến khi bị bạn đồng cảnh hết tin tưởng, quay ra thù hận và cam tâm xoay cờ làm hại bạn bè. Giống như trường hợp của Đoàn Kế Tường, chống Cộng nhưng ở tù đụng chạm anh em tù nhân khác sinh ra thù hằn nhau. Khi ra về bị Huỳnh Bá Thành xây dựng để viết phóng sự bôi bác tù nhân chính trị.

Tôi đáp:
– Long và Tùng là những người cùng đội, họ về từ năm 1981, tôi không biết họ ở đâu và làm gì, ở trong tù gần gũi thân mật, ra ngoài đời mỗi người đều gặp những hoàn cảnh khó khăn riêng không ai còn nhớ đến bạn.

Khang đánh vào tình cảm của tôi, hắn nói:
– Anh biết ngoài đời khó khăn sao không cố gắng để về, tôi biết gia đình anh cũng khó khăn lắm. Khi nhận vụ án của anh tôi rất khó nghĩ, anh đã ở tù 11 năm rồi, bây giờ thêm án mới nữa, bao giờ anh mới về?
Qua hai lần hỏi cung của Ẩn và Khang, tôi thấy khác xa với thời kỳ đầu mới bị bắt, lúc đó, cán bộ chấp pháp chỉ hỏi và không bao giờ chịu nghe một lời biện bạch của người bị bắt, lúc nào cũng giữ một lập luận – bị bắt đương nhiên có tội, vì Đảng không bao giờ sai lầm. Đó là lý luận cố hữu của Cộng sản. Lúc đó những lời nói “tâm tình” của chấp pháp với bị can là một mánh lới hỏi cung.


Giờ đây tôi thấy sự thay đổi rõ rệt trong cung cách nói và ý nghĩ của Ẩn và Khang, tôi rất tin là con người ít nhiều có lương tâm thì đều thấy sự sai lầm của chế độ cộng sản, nhất là những thanh niên sinh trưởng ở miền Nam lúc trước, họ theo cộng sản có người vì không thích chính quyền miền Nam, đi tìm một con đường phục vụ, họ tin là cộng sản đúng, họ tin cộng sản là phương thức tốt nhất để phục vụ đất nước. Những người đó ngày nay chắc chắn đa số đã nhìn ra sự thật, nếu họ được nói một cách công bằng đúng với lương tâm của họ thì chế độ Cộng Sản còn tệ hơn những điều họ thấy từ các chế độ thuộc địa và chế độ Cộng Hòa.


Nhưng mỗi người lại phản ứng một cách khác, trừ những kẻ tiến sâu vào con đường danh vọng và quyền lợi phải bám lấy, bảo vệ và ca tụng chế độ. Đại đa số đều muốn có sự thay đổi, nhưng hoàn cảnh chưa có ai đứng ra tập hợp thành sức mạnh để đẩy mạnh sự thay đổi và từ sự thay đổi mạnh mẽ mới có cơ bùng nổ luôn một cuộc đấu tranh ít đổ máu để loại bỏ chế độ cộng sản một cách hoàn toàn. Tôi nghĩ là cần nêu lên một số ý kiến nên không viết lại những gì tôi đã viết trong Hợp Đoàn mà viết về các điểm sau:


1.Trong kinh tế chỉ huy, chính sách quản lý kinh tế được tóm gọn trong cuộc cách mạng quan hệ sản xuất, thực chất là nhằm để nhà nước nắm tất cả tài sản quốc gia, và vô sản hóa toàn dân. Nền kinh tế qua 60 năm thử nghiệm ở Liên Sô đã thất bại. Thất bại chính là hệ thống quản lý và sự cứng nhắc trong các thủ tục điều hành. Chính quyền Cộng Sản Việt Nam cũng đi vào con đường thất bại đó. Ngày nay, các nhà lãnh đạo cộng sản đã nhìn thấy, muốn có sự thay đổi quan trọng, sự thay đổi kinh tế phải đi kèm với sự thay đổi chính trị. Không thể có một nền kinh tế uyển chuyển linh động trong một cơ chế chính trị độc tài cứng nhắc và thư lại.

2. Tập trung dân chủ đi ngược lại luận lý thông thường, đó chỉ là một chế độ độc tài vì không thể nào có dân chủ khi tập trung quyền hành và quyền lợi vào một nhóm người, dân chủ thể hiện qua sự bình đẳng của mọi người dân và được luật pháp bảo vệ quyền bình đẳng đó, dân chủ không có khi nào người dân được hướng dẫn và được ban phát dân chủ từ thượng tầng chỉ huy.

3. Đấu tranh giai cấp là một quan niệm lỗi thời, nhiều đảng cộng sản Tây phương đã phê phán – và không hợp với truyền thống dân tộc Việt Nam. Thời đại ngày nay, sự tiêu diệt lẫn nhau là một chủ trương lạc hậu và bị lên án.

4. Trong cuộc chiến tranh ý thức hệ, thời kỳ chiến tranh lạnh, những nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã tự đặt mình vào sự lệ thuộc với Liên Sô và tự nhận là mũi tên nhọn của xã hội chủ nghĩa là một sự sai lầm lớn lao. Quan niệm đó chỉ đem chiến tranh về cho tổ quốc và nhân dân phải chịu đi ngược lại truyền thống yêu chuộng hòa bình và chỉ duy trì sức mạnh tự vệ của lịch sử dân tộc Việt Nam.

Tôi viết ngắn gọn những ý kiến của tôi, mỗi đề tài khoản một trang giấy, tôi muốn người cán bộ cộng sản họ bình tĩnh đọc và nghĩ. Tôi nhận tôi là người chủ chốt trong tờ Hợp Đoàn, Nhì và Ánh cộng tác, còn San tôi phủ nhận. Tôi thấy tinh thần làm việc của chấp pháp cũng kém hơn trước, miễn sao trình bày hợp lý là được chấp nhận, không truy cứu, đào sâu để buộc tội nhiều người như trước đây.

Trước khi kết cung, Khang có nói với tôi là hắn rất băn khoăn khi phải làm nhiệm vụ để buộc tội tôi, vì không thể nào án của tôi dưới 20 năm. Tôi đáp lời Khang là tôi chấp nhận hậu quả tôi đã làm, và tôi nghĩ những điều tôi suy nghĩ là không sai, và buộc tội tôi là buộc tội những việc sẽ xảy ra trong tương lai.

Tôi trở lại xà lim tiếp tục hưởng sự an nhàn và thoải mái sau thời gian quá vất vả ở trong trại cải tạo lao động. Ngày ngày ăn ngủ, tắm đầy đủ. Đã 11 năm chưa bao giờ tôi được thoải mái như lần này. Tôi nhớ lại khi lần đầu bị bắt, bị đẩy vào xà lim, thấy bóng tối lờ mờ đã nhợn và sự đơn độc làm cho buồn. Lần này cảm tưởng khác trước rất xa.

Từ năm 1985, để đối phó với tình trạng vật giá gia tăng, áp dụng chế độ giá lương tiền, công nhân viên, cán bộ không còn lãnh tem phiếu lương thực thực phẩm và hàng tiêu dùng. Cán bộ công nhân viên cấp thấp của cộng sản bị ảnh hưởng nặng, qui luật giá cả tăng vọt của thị trường chợ đen khan hiếm. Chỉ có những cán bộ cao cấp và những tên may mắn giữ những vị trí có quyền lợi thì mặc sức vơ vét. Việt Cộng không bảo đảm được đời sống tối thiểu cho cán bộ, điều mà tất cả các chính quyền cộng sản cố duy trì để đổi lấy sự trung thành.

Cố gắng tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên có thêm lợi tức. Chính quyền Việt Cộng ban hành chính sách “ba lợi ích kinh tế” cho phép mỗi đơn vị, mỗi cơ quan tùy khả năng và hoàn cảnh thiết lập cơ sở kinh tài, các địa phương và đơn vị đua nhau mở cơ sở kinh doanh. Các quận và thành phố tập trung các ngành dịch vụ giải trí như nhà hát, sân khấu ca nhạc, phòng khiêu vũ và cả nhà tắm hơi.

Việt Cộng giải thích trơn tru những việc trước kia chúng chỉ trích, như khiêu vũ chúng gọi là “múa đôi”, nhà tắm hơi có đấm bóp thì được gọi là “nhà tắm dưỡng sinh”. Các phường và đơn vị nhỏ mở phòng chiếu video. Sân khấu ca nhạc được trình diễn nhạc tiền chiến, những bản nhạc tình yêu trước năm 1975 được duyệt lại để cho trình diễn. Phòng chiếu video được “thông cảm” chiếu những phim Trung Hoa, Hồng Kông nhập cảng lậu. Cộng sản đã chấp nhận một bước lùi quá nặng.


Ở trại giam công an cũng có chương trình ba lợi ích kinh tế, khai thác bán thức ăn cho tù. Tù mới bị bắt cũng được thông báo cho gia đình thăm, và gia đình được khuyến khích gửi nhiều tiền để mua thức ăn tươi, nóng hàng ngày. Buổi sáng trại bán cà phê, xôi bánh, nửa trưa bán chè, trưa bán bánh canh, thức ăn mặn, xế chiều bán chè hoặc bán hột vịt lộn.


Cán bộ muốn có nhiều lời, phải dễ dãi với tù. Cô công an tên Lài, năm 1977 hách xì xằng có tiếng, chỉ có nhiệm vụ dẫn tù đi chụp hình lăn tay, cũng tìm mọi cách để la mắng, người thì ngồi chưa nghiêm túc, kẻ thì tay không đặt đúng vị trí đầu gối. Sau hơn 9 năm, trở lại nhà giam Phan Đăng Lưu, tôi thấy cô Lài ngày ngày gánh canh đi bán, múc canh thâu tiền, ăn nói nhã nhặn. Khi làm thương mại, cô công an Lài đã quên mất quyền hạn của cô. Tù gọi mua canh cô lên tiếng dạ, gọi tù bằng chú.

Thật buồn cười ông Karl Marx đem kinh tế làm nền tảng lý luận, đảng cộng sản dùng qui luật bao tử để cai trị, giờ đây, đảng viên cộng sản đang bị qui luật bao tử hành cho điêu đứng. Sự thay đổi đó làm cho Ba Phận, Mười Thăng, Cô Lài ở trại Phan Đăng Lưu không khỏi suy nghĩ và làm sao họ còn giữ được lòng son sắt với Đảng. Làm sao họ còn đem thân ra bảo vệ Đảng như trước kia họ còn tin vào Đảng, vào lãnh tụ.

Tháng 12-1986, xà lim 23 tôi tiếp nhận thêm một người tù, hắn tên Lưu, người quê Quảng Ngãi, gần 60 tuổi. Mới đẩy vào xà lim hắn than bị bắt oan, than khổ, đập đầu mấy cái vào xà lim đòi tự vận. Tôi đã quen với những hành động này của người mới bị bắt, chỉ vài ngày sau thì đâu vào đấy. Muốn sống cũng khó mà muốn chết cũng đâu có dễ.

Tôi chỉ khuyên hắn vài lời lấy lệ rằng nên bình tĩnh chuẩn bị cuộc sống trong xà lim cả năm hay ít ra năm bẩy tháng. Nghe tôi nói phải ở xà lim thời gian đó, hắn càng hoảng hơn. Vài ngày sau, không cần gợi chuyện hắn cũng bắt đầu kể. Nói chuyện cũng là một nhu cầu để tránh cô đơn. Lưu kể, thuở nhỏ hắn sinh trong một gia đình khá giả ở Quảng Ngãi, được đi học ở trường Khải Định Huế. Chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, trở về học trường sĩ quan Trần Quốc Tuấn, ra trường chỉ huy đại đội, rồi được chuyển làm chính trị viên sau khi kết nạp Đảng. Năm 1954 ở lại không tập kết, đổi địa bàn vào hoạt động tại Sài Gòn, trở thành nhà thầu cung cấp cho quân đội. Nhờ việc làm ăn, trước năm 75 Lưu quen với nhiều sĩ quan từ cấp Tá tới cấp Tướng.


Kiểm chứng lời hắn nói, Lưu không nói dối, những đặc tính của các tướng lãnh VNCH hắn kể rất đúng. Vả lại, một cán bộ hoạt động nội thành, có tiền của quen biết tướng lãnh VNCH không phải là hiếm. Ở Đà Nẵng, sau ngày 29-3-1975, ai cũng biết chủ garage Hoàng Hữu Kiên ở đường Hoàng Diệu là một ủy viên trung ương Đảng. Hoàng Hữu Kiên là người quê Quảng Trị, là Việt Kiều từ Thái Lan về nước năm 1958, nhưng Hoàng Hữu Kiên được Tướng Hoàng Xuân Lãm che chở vì là đồng hương, bà con trong họ, có tiền của. Đà Nẵng bị cộng sản chiếm, nhà của Kiên là nơi tụ hội các lãnh tụ cộng sản ngoài Bắc, từ Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ trở xuống, và Thượng tướng Nguyễn Chánh chủ tịch Ủy Ban Quân Quản thành phố Đà Nẵng đã ở nhà của Kiên từ trước, và từ đó xuất phát nhiều lệnh tấn công quân VNCH tại vùng I chiến thuật. Hoàng Hữu Kiên về sau làm bí thư tỉnh ủy Nghĩa Bình.


Ở trong chế độ mà các ông Tổng thống nuôi cán bộ cộng sản như Vũ Ngọc Nhạ làm cố vấn từ Tổng Thống Diệm đến Tổng Thống Thiệu, nên ông Tướng vùng vì tiền và tình cảm bảo bọc cho những tên chỉ huy cộng sản nằm trong thành phố cũng không đáng ngạc nhiên. Chế độ không sớm mất là nhờ bên ngoài có Hoa Kỳ giúp tận tình, bên trong có những sĩ quan, cán bộ cấp dưới chiến đấu hăng hái mới đứng vững được hơn 20 năm. Đến khi Hoa Kỳ không giúp đỡ nữa thì chế độ sụp là đương nhiên.

Lưu nằm vùng thu thập nhiều tin tức quân sự, nên có công lớn, ngày lễ mừng chiến thắng tại Sài Gòn, y và Đinh Xáng được Trần Văn Trà trao tặng cờ Mặt Trận Giải Phóng, đó là vinh dự lớn của tên cộng sản nằm vùng trà trộn trong hàng ngũ quốc gia. Đinh Xáng từ thời đệ nhất đến thời đệ nhị Cộng Hòa đều có địa vị quyền thế và tiền của. Đệ nhất Cộng Hòa làm Dân biểu. Đệ nhị Cộng Hòa làm Chủ tịch Tổng công đoàn Công Kỹ Nghệ. Lưu lần lượt được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, được cung cấp nhiều nhà cửa, xe hơi, sống một đời sống huy hoàng không thiếu bất cứ thứ gì, giải trí, săn bắn, bơi lội, câu cá, đánh tennis, uống champagne, martel giống như người thượng lưu trong chế độ tư bản. Con cái đều tốt nghiệp đại học và có việc làm ở những cơ quan hái ra tiền như ngân hàng hoặc cơ sở ngoại thương.


Trước khi bị bắt, Lưu làm Cục phó khai thác Lâm Sản, Cục Trưởng là một cán bộ miền Bắc vào. Y đã kết tình thông gia với Cục Trưởng đó, và cùng được chia hai căn nhà ở cư xá sĩ quan Không Quân Tân Sơn Nhất. Nhà được tu sửa đầy đủ tiện nghi hơn trước. Hai gia đình thông gia ở cạnh nhau, cùng làm một cơ quan, bên trên còn Đảng nên gắn bó keo sơn. Bên ngoài, những cuộc tranh chấp quyền hành và quyền lợi bắt đầu âm ỉ, cán bộ miền Nam và cán bộ thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam lần lượt bị cán bộ miền Bắc thay thế.


 Y và người thông gia cũng vậy, lúc đầu tiên Cục Trưởng chưa nắm hết đường đi nước bước nên nhờ ông đồng chí miền Nam, hai bên làm ăn khắng khít. Khi Cục Trưởng nắm vững mọi ngõ ngách và mánh lới thì sự nghi ngờ bắt đầu nảy sinh và đồng chí thông gia Cục Phó trở thành một cái gai cần phải nhổ. Kết quả là Lưu bị Cục Bảo Vệ Chính Trị bắt nhốt bằng những tài liệu do “đồng chí thông gia” cung cấp. Đảng viên cộng sản, nếu bị công an bắt thì công an phải chứng minh tội trạng và phải có thủ tục tước đảng tịch, sau đó mới được nhốt; nhưng nếu bị Cục Bảo Vệ Chính Trị bắt thì không ai can thiệp được.

Mỗi lần kể chuyện với tôi, Lưu thường hay khóc, tôi cũng không ngờ một cán bộ cộng sản cũng đã từng chiến đấu mà sợ hãi cái xà lim và tiếc rẻ công lao mấy chục năm theo Đảng trở thành công cốc. Tôi không xúc động chút nào vì những giọt nước mắt đó, vì bạn bè của tôi và dân chúng đang cực khổ nhiều lắm. Lưu kể cho tôi nghe, vào trong tù mới thấy chế độ cộng sản của y có nhiều bất công mà trước đó y không biết. Tôi không xem đó là một lời thú nhận thành thật. Vì Lưu là một người được ưu đãi của chế độ mới, thời gian nằm vùng của y cũng sung túc giàu có, nên cố tình không nhìn thấy cái khổ của người chung quanh.


 Lưu kể cho tôi nghe rằng tại trại giam Thủ Đức, y biết một cô gái bị bắt giam vì tội mãi dâm, trong khi thực tế là vì cô gái con nhà đàng hoàng đó không chấp nhận lời tán tỉnh của tên trung úy Trưởng công an phường nên tên này trả thù chụp mũ bắt khi cô gái đi chơi với bạn về đến nhà lúc quá giờ giới nghiêm. Sự bất công quá thông thường ở ngoài xã hội, vì đảng viên cộng sản ở địa phương, nhất là bọn công an là một bọn cường hào ác bá. Lưu nói cho tôi biết Trần Văn Trà viết một bộ hồi ký gồm có 5 tập, nhưng lại viết tập 5 trước. Tập 5 khởi đầu từ thời gian sau hiệp định Paris, trong đó Trà nhấn mạnh đến công lao chiến thắng miền Nam năm 1975 là công của các Tư lệnh chiến trường ở miền Nam năm 1975 hơn là Chính Trị Bộ ở Hà Nội.


 Trà có chỉ trích những sai lầm của Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đi xa quần chúng. Trong lời nói đầu, Trà viết: “Chúng ta vì nhân dân chiến đấu và nhờ nhân dân chiến thắng nên chúng ta không thể đi ngược lại quyền lợi của nhân dân.” Sau khi xuất bản tập 5 bộ hồi ký đó, Trà đã bị hạ tầng công tác, tập sách bị thâu hồi không cho phổ biến. Sự mâu thuẫn trong bất kỳ tổ chức nào cũng là điều tự nhiên không có gì quan trọng lắm. Quan trọng là mức độ mâu thuẫn có đưa đến đổ vỡ và sự thay đổi tận gốc rễ hay không.

Karl Marx phân tích sự mâu thuẫn của xã hội và xem đó là qui luật tất yếu và là động lực để tiến bộ. Đảng Cộng Sản sử dụng qui luật mâu thuẫn xã hội và luôn luôn chủ trương đấu tranh không khoan nhượng, tiêu diệt thành phần đối lập.


Do đó, khi Đảng Cộng Sản còn đối tượng để đấu tranh thì họ thống nhất và đoàn kết – nhưng khi hết đối lực thì họ sẽ đấu tranh mạnh mẽ trong nội bộ và trở thành cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo. Lịch sử của các Đảng Cộng Sản đã cho thấy rõ điều đó. Sau khi lật đổ Sa Hoàng thì Cộng Sản đoàn kết để tiêu diệt thành phần Cách Mạng Dân Chủ để đoạt quyền lãnh đạo Cách Mạng ở Nga.

 Các lực lượng dân chủ bị tiêu diệt thì Đảng Cộng Sản phân chia thành Menchevik và Bolchevik. Sau khi Lénine chết thì có sự tranh giành quyền lực giữa đám đệ tam và đệ tứ và cứ như thế Đảng Cộng Sản Liên Sô mỗi lần thay đổi lãnh tụ là mỗi lần thanh trừng nội bộ. Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng tương tự, sau khi nắm được trị an toàn cõi Trung Quốc, Mao Trạch Đông củng cố quyền lực, dùng Lâm Bưu và Hồng Vệ Binh để loại trừ Lưu Thiếu Kỳ và các nguyên soái nhiều quyền hành, sau đó sử dụng lãnh tụ trẻ của Hồng Vệ Binh để loại trừ Lâm Bưu. Đặng Tiểu Bình dùng Hoa Quốc Phong loại trừ Tứ Nhân Bang (Giang Thanh, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên) sau đó loại trừ Hoa Quốc Phong để nắm trọn quyền hành.

Đảng Cộng Sản Việt Nam có truyền thống đoàn kết lâu dài hơn nhờ phải liên tục đấu tranh chống Pháp và cuộc chiến thôn tính miền Nam. Bây giờ chính quyền miền Nam đã bị tiêu diệt, đảng cộng sản hoàn toàn làm chủ đất nước thì sự tranh chấp nội bộ để giành quyền lãnh đạo là một sự đương nhiên.

Nói về mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, trước đây, Cộng Sản Miền Bắc tạo dựng lên để đánh lừa dư luận trong và ngoài nước Việt Nam. Nhiều người vì ngây thơ bị đánh lừa, nhưng cũng có nhiều người muốn vấn đề Việt Nam được giải quyết nên làm như tin là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là một thực thể độc lập với miền Bắc. Nhìn vào thành phần lãnh đạo của Mặt Trận, chúng ta thấy rõ nó là một bộ phận của Đảng Cộng Sản Việt Nam (trước 75 gọi là Đảng Lao Động) do Lê Đức Thọ và Phạm Hùng là hai Ủy Viên Bộ Chính Trị lãnh đạo, ngoài ra, các tướng lãnh mấu chốt đều là đảng viên trung ương như Trần Văn Trà, Trần Độ, Trần Nam Trung. Trần Văn Trà người quận Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, vào đảng cộng sản lúc 17 tuổi, năm 1945 được Hồ Chí Minh cử vào miền Nam để làm tư lệnh khu 7, Nguyễn Thị Định, cán bộ nằm vùng tại miền Nam, đã thăng tiến từ bí thư huyện ủy, lên đến bí thư tỉnh ủy Kiến Hòa và ủy viên của Trung Ương Cục. Nguyễn Thị Bình, nguyên thư ký riêng của Nguyễn Thị Thập, chủ tịch Liên Hiệp Phụ Nữ.

Năm 1960, trong một cuộc bầu cử nội bộ Liên Hiệp Phụ Nữ, Nguyễn Thị Bình đã được bầu nhiều phiếu hơn Nguyễn Thị Thập. Kết quả bầu cử không được Hồ Chí Minh chấp thuận vì Hồ Chí Minh bênh vực Nguyễn Thị Thập nên Nguyễn Thị Bình được thay đổi công tác vào miền Nam. Huỳnh Tấn Phát, nguyên đảng viên Tân Dân Chủ ở miền Nam gồm một số trí thức yêu nước, đảng này đã bị cộng sản thôn tính và gia nhập đảng cộng sản từ sau 1945, ngoài Huỳnh Tấn Phát còn những khuôn mặt miền Nam như Mai Văn Bộ, Ung Văn Khiêm, Lưu Hữu Phước, Trần Bạch Đằng. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ cũng đã được kết nạp vào Đảng thời kỳ thập niên 60 nhưng Thọ và Phát đảng tịch kém nên dù làm Chủ Tịch Mặt Trận và Chính Phủ Cộng Hòa Miền Nam vẫn giữ vai trò bù nhìn. Những người khác như Trịnh Đình Thảo, Trương Như Tảng là những bộ mặt bên ngoài trong lá bài lường gạt.


Ý kiến về một Mặt Trận Miền Nam độc lập với đảng cộng sản ở miền Bắc là một ý kiến không chính xác, tin tưởng là trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam có người quốc gia là một sự mơ hồ và ngây thơ. Sau năm 1975, nhiều người còn mong đợi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam sẽ giữ độc lập và Miền Nam trung lập là quá chậm tiến và ngây thơ, muốn tìm một giải pháp dễ không bao giờ có được.

Sự kiện Trần Văn Trà và những đảng viên cộng sản miền Nam tập kết trở về bất mãn, nếu đưa đến tranh chấp phải được xem như là sự tranh chấp về quyền lợi của những người cộng sản và sự tranh chấp đó sẽ còn xảy ra giữa những lãnh tụ cộng sản với nhau, kết thành nhiều phe nhóm tiêu diệt nhau, chỉ khác nhau chút ít, một khi họ chưa thực sự nhìn rõ là chế độ cộng sản không thể phục vụ dân tộc, chế độ cộng sản là một chế độ kỳ cục đi ngược lại sự tiến hóa của con người. Nhưng trong sự tranh chấp nội bộ của cộng sản, chúng ta có thể rút ra được những lợi điểm:

– Trước hết, nó đánh tan được một thiên kiến vốn khâm phục và sợ cộng sản là một tổ chức đoàn kết thống nhất và không thể bị đánh bại.
– Khi cần loại trừ chế độ cộng sản thì mọi động lực đều cần thiết.
– Sự tranh chấp quyền lực nội bộ làm nản lòng một số đảng viên trẻ có học vấn, có lý tưởng phục vụ con người và tâm hồn yêu nước, họ có thể hình thành một thành phần đối kháng thực sự có ích trong nội bộ đảng cộng sản. Chúng ta quí trọng thành phần này vì họ đã đi đến kết luận là chế độ cộng sản không cần thiết cho dân tộc.
Lưu ở cùng xà lim với tôi non tháng thì hắn chuyển đi nơi khác. Tôi lại tiếp tục đời sống thoải mái chờ ngày ra tòa.

Xà lim số 24 bên cạnh là anh Doãn Quốc Sỹ và số 23 khu C-1 đối lưng là anh Dương Hùng Cường. Tôi thường nói chuyện với anh Sỹ qua khe hở dưới cửa và nói chuyện với anh Dương Hùng Cường qua vách ngăn hai xà lim đâu lưng nhau.
Những gì Hải Bầu nói với tôi, anh Sỹ đều nghe cả, một hôm anh hỏi tôi:
– Thiệp không đứng đầu một vụ án, nhưng tình thế anh em thúc đẩy đến như vậy, ra tòa phải gánh tội án nặng, Thiệp có buồn, có giận và có sợ không?

Tôi trả lời anh Sỹ:
– Dĩ nhiên là không muốn như vậy, nhưng em nhận vụ án sẽ gọn hơn, không kéo dài, vì bề nào cũng có người bị gán cho cầm đầu tổ chức, em không nhận, rồi nó khai thác mãi, lời khai của nhiều người sẽ mâu thuẫn nhau, thành bất lợi hơn. Anh Sỹ cho biết trường hợp của anh cũng vậy, nhóm của anh sau khi Hoàng Hải Thủy móc nối được cô Nhan, nhân viên bưu điện, chịu chuyển văn thơ ra ngoại quốc, thì mạnh ai nấy làm, không ai là trưởng nhóm; khi vụ án vỡ ra chấp pháp cũng ghép anh Sỹ là người cầm đầu và anh cũng nhận. Anh Sỹ nói: “Đặc tính của người quốc gia hay người tiểu tư sản mình là không bao giờ chịu ghép mình trong tổ chức, làm việc tùy hứng, mạnh ai nấy làm.”


Nhận xét của anh Sỹ rất đúng, người tiểu tư sản có nhiều tài năng, nhưng làm việc không bao giờ chịu chấp nhận một khuôn mẫu kỷ luật, nên không thể làm việc với nhau lâu dài trong cuộc đấu tranh trường kỳ được. Tính này Lénine đã phân biệt là tính tự giác (có tổ chức, có ý thức) và hoạt động có tính tự phát (tùy hứng, tùy sự xúc động nhất thời.)

Anh Doãn Quốc Sỹ là một nhà văn nổi tiếng thuộc nhóm Sáng Tạo. Thời còn học sinh trung học, tôi rất thích đọc tạp chí Sáng Tạo; tôi mê đọc truyện ngắn của Thảo Trường, Thanh Tâm Tuyền, Thạch Chương, Duy Thanh, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Lôi Tam; thích những bức vẽ của Duy Thanh, Ngọc Dũng; thơ của Nguyên Sa và Tô Thùy Yên. Những tác giả trên có những người không thuộc nhóm Sáng Tạo mà chỉ có văn thơ đăng báo. Trí óc của tôi giới hạn, có lẽ tôi không hiểu hết những gì họ viết, nên tôi chỉ thích qua sự cảm nhận của mình. Trừ những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ là dễ hiểu, dễ nhớ vì anh viết thật thà, đôn hậu giống như người của anh.


Nhắc đến anh Sỹ là phải nhớ đến bộ trường thiên Khu Rừng Lau, truyện dài Hồ Thùy Dương và truyện vừa Dòng Sông Định Mệnh. Thuở 16, 17 tuổi đọc Dòng Sông Định Mệnh, tôi mê lối tả cảnh, tả tình lãng mạn của anh Doãn Quốc Sỹ. Trước năm 1954, văn học Việt Nam tập trung ở Hà Nội và do người sinh trưởng ở ngoài Bắc viết.


Huế và Sàigon cũng có xuất bản sách và báo nhưng ít, vì các nhà văn miền Trung và miền Nam vừa ít về số lượng và kém về phẩm chất. Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam gốc gác là người Quảng Nam nhưng tất cả đều sinh trưởng tại miền Bắc. Văn học Việt Nam tiến rất nhanh từ văn chương biền ngẫu qua tân văn gọn gàng sáng sủa do công lao đóng góp của nhiều người viết nhưng ai cũng phải công nhận là nhóm Tự Lực Văn Đoàn đóng góp nhiều nhất kể về lượng và phẩm.

Thời kỳ sau 1954, miền Bắc đã giữ được hầu hết văn sĩ và thi sĩ nổi tiếng – yếu tố này đã được cán bộ nằm vùng cộng sản ở miền Nam khai thác để tuyên truyền cho thế đứng của cộng sản miền Bắc trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Có lần đọc tập san của nhóm sử địa đại học Văn Khoa Sàigon xuất bản năm 1974, Nguyễn Ngọc Văn đã viết: “Văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ là tinh hoa của một dân tộc, họ rất nhạy bén trong sự cảm nhận tình yêu nước, hầu hết những văn nghệ sĩ đều theo kháng chiến và ở lại miền Bắc, vậy trong cuộc chiến tranh hiện nay, tình yêu nước nằm ở miền Bắc.”

Đối với người lớn tuổi có kinh nghiệm, lời tuyên truyền của Nguyễn Ngọc Văn không ảnh hưởng mấy, nhưng đối với những người trẻ tuổi, những sinh viên, lời tuyên truyền đó chắc chắn có nhiều kết quả, lôi kéo sinh viên về phía cộng sản.


Ngày nay thì câu trả lời cho lý luận của Nguyễn Ngọc Văn càng đã sáng tỏ ai yêu nước. Với một lực lượng văn nghệ sĩ hùng hậu như vậy, suốt 21 năm chia cách, ở miền Bắc không có một tác phẩm nào, không có một bản nhạc, một bài thơ nào có được chút giá trị; trừ những tác phẩm của những văn nghệ sĩ chống đối chế độ trong nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”.


 Những cán bộ có học ở miền Bắc, sau ngày 30-4-75 vào miền Nam đi sưu tầm lại những tác phẩm thời tiền chiến và những tác phẩm thời kháng chiến để đọc vì thời gian ở miền Bắc họ có “nghe nhắc qua” những tác phẩm đó. Như vậy rõ ràng “kháng chiến chống Pháp” hợp với tình cảm của toàn dân tạo hứng khởi cho văn nghệ sĩ sáng tác, còn xây dựng chủ nghĩa xã hội tại miền Bắc đã tiêu diệt mọi cảm hứng, không sinh ra được văn nghệ sĩ mới mà còn làm mất khả năng sáng tác của khối lượng thật đông đảo văn nghệ sĩ tài hoa đã vì tinh thần kháng chiến chống ngoại xâm mà ở lại miền Bắc. Điều này dễ nhận thấy, nếu chịu khó đọc một số tác phẩm sáng tác ở miền Bắc trong thời gian trước 1955-1975, chỉ thấy được những tác phẩm tuyên truyền ngô nghê, non nớt, những tình tiết hư cấu lố bịch.

Rất ít văn nghệ sĩ tài hoa di cư vào miền Nam, nhưng văn học miền Nam đã phát triển nhanh chóng; khi di cư những nhà văn thuộc nhóm Sáng Tạo còn là những sinh viên hay học sinh. Họ bắt đầu làm công tác văn học, có thể nói Sáng Tạo đã đóng góp rất nhiều, làm cho văn học miền Nam bừng sáng lên, và sau đó đã có những văn thi sĩ có tầm cỡ sinh trưởng tại miền Trung và miền Nam như Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư và vô số những văn nghệ sĩ khác mà tác phẩm của họ đã làm cho văn học nghệ thuật miền Nam hơn hẳn miền Bắc. Thời gian 20 năm với đời người là quá dài nhưng lịch sử dân tộc thì chỉ như một cái chớp mắt. Trong chớp mắt đó khoảng cách văn học giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam là điều minh chứng rõ rệt là dòng văn hóa dân tộc đã chuyển về miền Nam cùng với tình yêu nước, hoài bão xây dựng quê hương.

Nhưng tôi vẫn chưa thỏa mãn, không hiểu tại sao trong vận động lịch sử dân tộc lớn lao như vậy, xã hội miền Nam Việt Nam biến chuyển và tiến bộ rất nhanh trong bối cảnh một cuộc chiến tranh thật tàn khốc, miền Nam Việt Nam vẫn không có một tác phẩm lớn như bộ “Chiến Tranh và Hòa Bình” của Léon Tolstoi, hay “Cuốn Theo Chiều Gió” của Margaret Mitchel hay “Sông Don Êm Đềm” của Cholokov. Tôi đem điều thắc mắc đó hỏi anh Doãn Quốc Sỹ, anh giải thích: “Léon Tolstoi, Margaret Mitchel, Cholokov viết về một xã hội đã qua, họ thâu thập chất liệu được xem là chính xác để xây dựng tác phẩm, tư tưởng của tác giả và độc giả thống nhất, vì độc giả không phải là nhân chứng của hoàn cảnh lịch sử xã hội. Trái lại, những nhà văn Việt Nam phải viết tác phẩm trong xã hội đang sống, độc giả là chứng nhân của xã hội, nên khi đọc sách họ hòa nhập vào tác phẩm và tác giả.


 Do đó, tác giả không sống thực dễ bị độc giả nhận xét. Đơn cử thí dụ, nhiều nhà văn viết về chiến tranh, nhưng phần lớn chỉ ở Sàigon nghe bạn bè kể lại rồi viết, nên khi tác phẩm thành hình, độc giả đọc không thấy sự thật, tác giả không cảm nhận được các diễn biến tình cảm như độc giả họ sống thực với xã hội. Chính trong thí dụ về bút ký và truyện dài về chiến tranh, chỉ có hai tác giả Phan Nhật Nam và Nguyên Vũ là nổi tiếng hơn hết vì ngoài văn tài của mỗi người, họ sống thật với cuộc chiến hơn ai hết.”

Tôi hỏi về cách thức thâu thập chất liệu để xây dựng tác phẩm, anh Doãn Quốc Sỹ nói anh cũng nằm trong khuyết điểm là anh chỉ ở Sàigon và có thời gian ngắn đi dạy học tại Hà Tiên, nên ngoài Sàigon ra, những diễn biến xã hội ở các nơi khác nhất là nông thôn và chiến trường anh chỉ nghe kể lại.

Cũng như trước kia, trong kháng chiến chống Pháp, anh có theo gia đình đi tản cư, rồi hồi cư về Hà Nội sớm, các chất liệu anh xây dựng tác phẩm cũng do người khác kể lại, tôi hỏi tiếp theo anh sự “lấn cấn trong tư tưởng”, sự thắc mắc về lịch sử, ví dụ trước 30-4-75, có nhiều người thắc mắc là mình đứng trong chiến tuyến miền Nam chống lại miền Bắc có phải là yêu nước hay không, điều này có trở ngại cho sự sáng tác hay hình thành tác phẩm lớn hay không.

Anh Sỹ nói: “Nếu còn lấn cấn tư tưởng thì khó sáng tác, có thể trước đây, nhiều người ở miền Nam chưa sáng tác được vì vấn đề này, như vậy cũng hy vọng là sau này Việt Nam có tác phẩm lớn vì vấn đề lịch sử ngày nay đã sáng tỏ sau khi cộng sản chiếm miền Nam, nhưng riêng cá nhân tôi (anh Sỹ), tôi đã dứt khoát tư tưởng từ lúc đầu tiên bỏ vào miền Nam”.

Qua sự giải thích của anh Sỹ, tôi hiểu thêm phần nào rằng tại sao những nhà văn trong Sáng Tạo, viết truyện ngắn rất hay, nhưng truyện dài, trừ anh Doãn Quốc Sỹ, có một số tác phẩm cũng còn giới hạn, còn những tác giả khác, tác phẩm của họ chưa được độc giả ngưỡng mộ. Nể mích lòng anh Sỹ, tôi không dám đưa so sánh trong hai giai đoạn lịch sử văn học, không kể những nhà văn độc lập, nhóm Sáng Tạo hay nhóm văn nào khác vẫn chưa so sánh được ảnh hưởng của nhóm “Tự Lực Văn Đoàn”, dĩ nhiên là chỉ so sánh về ảnh hưởng của tác phẩm với độc giả, còn các khía cạnh khác như kỹ thuật sáng tác, lối hành văn v.v… ở thời điểm khác nhau không thể so sánh được.
Tôi nhớ lúc nhỏ, đọc một tờ Báo Xuân, tác giả một thiên phóng sự đi xông đất các nhà văn nhà báo (tôi quên tên tác giả), viết là khi đến tòa soạn Sáng Tạo, ông ta thấy có nhiều bàn thờ, trên mỗi bàn thờ có hình của mỗi người nhóm Sáng Tạo, ông ta ngạc nhiên tưởng có tai nạn làm nhiều người chết, nhưng khi nhìn kỹ thì những người quì trước bàn thờ đang quì lạy bức ảnh của mình. Người ta phê phán nhóm Sáng Tạo là đã quá tự mãn, chỉ biết tôn thờ cá nhân của mình và xem thường hết mọi người. Tôi xin lỗi anh Doãn Quốc Sỹ trước, hỏi ý kiến anh về sự phê phán đó đúng hay sai. Anh Sỹ đáp: “Phê phán hay móc nhau, thậm chí có khi chửi nhau của nhà văn nhà báo là hiện tượng thông thường, có khi chỉ là bạn bè đùa nhau nhưng cũng có khi sự phê phán có tính thù nghịch triệt hạ nhau. Cũng như lòng tự mãn cũng là một tính của con người, ai cũng có, chỉ có khuyết điểm là không chịu lắng nghe để tu sửa mình, bất cứ ai, không kể là nhà văn nghệ, tính khiêm tốn cũng là điều tốt.
Tôi biết anh Doãn Quốc Sỹ, ngoài viết văn, dạy học, anh còn nghiên cứu về Thiền. Hai tác phẩm bán được nhiều nhất là “Dòng Sông Định Mệnh” và “Về Thiền”. Người có nghiên cứu và thực hành về thiền mỗi ngày thì đạt được sự bình tâm, tính hòa ái, khiêm tốn. Tôi không hiểu các tác giả khác trong nhóm Sáng Tạo thế nào, nhưng lời chỉ trích về “tự sùng bái cá nhân” và “kiêu ngạo” coi thường mọi người mà người ta gán cho nhóm này, đối với cá nhân anh Doãn Quốc Sỹ không đúng một mảy may. Tôi cũng thường nói chuyện với anh Dương Hùng Cường ở xà lim phía sau, hai phòng đều số 23 ở hai khu đối lưng nhau, tôi không biết mặt anh Dương Hùng Cường, chỉ biết anh qua bút hiệu “Dê Húc Càn” viết báo công kích nhân vật chính quyền trước 1975, và chỉ đọc một ít tác phẩm của anh về đời sống của những người lính không quân và trại gia binh không quân. Anh Cường nói với tôi về gia đình, anh có 8 người con gái và sau lần cải tạo về chị Cường mới sinh thêm một cậu út, mà anh xem là “tác phẩm” lớn của anh. Tôi đùa tại sao là nhà văn phóng khoáng, anh vẫn còn phân biệt con trai hay con gái, anh Cường nói “cái chất” của người Việt Nam trong con người, nên vẫn biết con trai con gái vẫn là con, nhưng gia đình không có con trai thì vẫn thấy thiếu. Đời sống trong xà lim, tủn mủn như vậy, có lúc cũng có thể nói chuyện trao đổi với nhau những điều quan trọng, có khi chỉ nói những chuyện vặt vãnh, những thèm muốn tầm thường nhất của con người, hay có khi nằm hằng buổi để nhìn một vết loang lổ trên trần nhà rồi tưởng tượng ra bao nhiêu hình ảnh khác nhau. Cái vết ciment tô nhám nhúa trên tường mà tôi tưởng tượng ra cảnh cô ca sĩ đang hát tại một buổi dạ vũ nhiều cặp trai gái đang nhảy, cảnh Napoléon đánh trận ở Waterloo, cảnh lụt lội nước ngập đồng bằng miền Trung quê tôi. Nằm tưởng tượng như vậy thú vị và sớm hết giờ hơn là nằm nhìn đàn kiến tha con dán lên trần nhà qua khe hở của cánh cửa của xà lim.
Anh Dương Hùng Cường nhờ tôi chuyển đọc đến anh Doãn Quốc Sỹ 4 câu thơ anh làm nhân ngày giỗ của ông Hiếu Chân. Anh Cường chỉ viết văn mà chưa hề làm thơ, tôi đã đọc chuyển qua cho anh Sỹ, thơ không hay nên tôi không thuộc, vả lại trí nhớ đã kém lắm nên không nhớ được lâu. Sau này, ra trại lao động được tin Dương Hùng Cường chết ở xà lim tôi thấy có lỗi với anh quá nhiều. Tôi cũng được tin anh Doãn Quốc Sỹ bị xử án 10 năm đưa trở lại trại lao động. Anh Sỹ đã trên 60 tuổi, không biết anh có còn chịu đựng được những ngày gian khổ, nhục nhằn ở trại cải tạo lần thứ hai không? Lần trước anh bị tù hơn 6 năm rồi. Không biết lịch sử có biến chuyển nhanh để anh Sỹ và những người tù chính trị được ra khỏi tù trước khi kiệt lực gục ngã hay không. Anh Sỹ có hứa là nếu có hoàn cảnh anh sẽ đi cùng tôi ra Quảng Nam để sống với tôi một thời gian. Tôi sẽ đưa anh đến tận các nơi đã xảy ra cuộc chiến tranh của cả hai thời kỳ chiến tranh 1945-1954 và 1960-1975, ở đó, người dân Quảng Nam đã chịu đựng và xã hội Việt Nam trưởng thành như thế nào, tôi hy vọng với tài năng có sẵn và với chất liệu phong phú, anh Sỹ sẽ viết được một tác phẩm thật lớn cho văn học Việt Nam. Mơ ước đó có thành sự thực không, khi anh Sỹ đã già và còn ở trong nhà tù Cộng sản?

Ra ở tập thể được đúng một tháng, tôi được gọi đi làm việc. Khang báo cho tôi biết là theo chính sách mới, tôi không bị truy tố ra tòa, tất cả chúng tôi được đưa trở lại trại lao động cải tạo. Cuộc đời may rủi bất ngờ, tên công an Lý Lé và Ngô Văn Ly dàn xếp gài vụ Hợp Đoàn vào tổ chức phục quốc của ông Nguyễn Văn Của và liên hệ với vụ văn nghệ của nhóm anh Khuất Duy Trác, định cho chúng tôi chết trong tù, nhưng kết quả là chúng tôi được về nghỉ ngơi thoải mái gần 9 tháng tại xà lim Phan Đăng Lưu. Trở lại trại Xuân Lộc, San, Ánh, Ngọc và tôi ai nấy đều mập mạp, trắng trẻo và khỏe trở lại.

Về đến trại Xuân Lộc, an ninh tiếp tục cùm chúng tôi trong xà lim kỷ luật hơn tháng, sau cùng phải thả ra vì chính sách mới đối xử dễ dãi hơn với tù cải tạo.


 

No comments: