Wednesday, February 25, 2015

NGUYỄN CHÍ THIỆP * TRẠI KIÊN GIAM II

 CHƯƠNG 5 

Tuần lễ đầu tiên ngay sau khi chiếm miền Nam Việt Nam, Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam được nhiều quốc gia công nhận. Khởi đầu là Tây Đức đến Anh Quốc và đa số các nước Tây phương, các nước công nhận chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam lên đến 76 nước, nhiều hơn số quốc gia công nhận chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và dĩ nhiên hơn số quốc gia công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Sự kiện ngoại giao này làm cho những người lãnh đạo Hà Nội lúng túng, vì Phạm Văn Đồng đã tuyên bố hai miền Nam Bắc Việt Nam chưa thống nhất.

 Miền Bắc tiếp tục cách mạng xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa và miền Nam Cách Mạng Dân Chủ Nhân Dân – cụ thể là về kinh tế miền Bắc có hai thành phần kinh tế và miền Nam năm thành phần kinh tế, còn công nhận hợp doanh, cá thể và tư sản dân tộc. Thời gian chuyển tiếp dự trù 5 năm . Chính phủ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam không hiện diện tại Saigon, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát chỉ xuất hiện với tính cách cá nhân trong Ủy Ban Quân Quản thành phố Saigon-Gia Định (đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh).

Không có trụ sở văn phòng của chính phủ này. Bàn giấy của Huỳnh Tấn Phát đặt tại phủ Thủ Tướng cũ, cùng với Văn phòng đại diện của Đảng tại miền Nam. Có thể người lãnh đạo Hà Nội sợ chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam xuất hiện công khai tại Saigon, rồi với việc 76 quốc gia thừa nhận sẽ đưa tới việc bang giao, lập Tòa Đại Sứ sẽ trở thành một thực tế chính trị, biến miền Nam trở lại thành một nước ngoài sự kiểm soát của họ.

Hội Nghị Hiệp Thương hai miền Nam Bắc để “thống nhất đất nước về mặt nhà nước” được tổ chức vào cuối năm 1975. Trường Chinh, Trưởng phái đoàn đại diện miền Bắc, Phạm Hùng, Trưởng phái đoàn đại diện miền Nam.

Hai Ủy viên của Chính trị bộ đảng Lao Động Việt Nam (sau đổi là đảng Cộng Sản) đại diện hai miền để nói chuyện thống nhất, thực chất là họ đã thống nhất rồi, vì chính phủ Cộng Hòa Miền Nam và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chỉ là một bộ mặt lừa bịp, những người lãnh đạo chính thức của hai tổ chức này đều là đảng viên cao cấp của Cộng Sản Hà Nội.


Trên bàn Hội Nghị Hiệp Thương được chiếu trên màn ảnh TV, bài diễn văn của Phạm Hùng biết ơn đối với Đảng và nhân dân miền Bắc giúp miền Nam giải phóng và nhân dân miền Nam mong được thống nhất đối với miền Bắc. Bài diễn văn của Trường Chinh ca ngợi tính anh hùng của người miền Nam và hoan hỉ đón nhận miền Nam vào sự thống nhất với miền Bắc. Để kết thúc hiệp thương bằng câu hỏi của Trường Chinh “Có ai phản đối đề nghị thống nhất hay không?”


Thế là đất nước Việt Nam đã thống nhất về mặt nhà nước. Bầu cử Quốc Hội thống nhất vào tháng 4-1976. Phiên họp đầu tiên của Quốc Hội thống nhất vào tháng 6-1976 đổi tên nước là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, dùng quốc kỳ, quốc ca và quốc huy của Bắc Việt làm quốc kỳ, quốc ca và quốc huy của đất nước thống nhất.

Sự hiện diện và hình thức cùng cá nhân của những người dự Hội Nghị Hiệp Thương là câu trả lời minh bạch và lần cuối cùng, có thể là thừa, cho những ai từng có ảo tưởng là có người quốc gia trong hàng ngũ Mặt Trận Giải Phóng miền Nam. Nếu người ta chịu khó nghiên cứu lý lịch của những người lãnh đạo mặt trận và chính phủ thì: Trần Văn Trà vào đảng Cộng Sản lúc 17 tuổi, năm 1945 được cử vào Nam cùng với Lê Duẫn để chỉ huy Quân khu 7.

Trần Nam Trung, tướng lãnh Bắc Việt, Trần Độ, tướng Bắc Việt chỉ huy tiếp vận chiến trường Điện Biên Phủ; Nguyễn Thị Bình, Bí thư của Nguyễn Thị Thập, Chủ Tịch Liên Hiệp Phụ Nữ; Nguyễn Thị Định cán bộ nằm vùng, Bí thư Tỉnh Ủy Bến Tre. Huỳnh Tấn Phát, đảng viên đảng Tân Dân Chủ, nhưng đảng này đã sát nhập vào đảng Cộng Sản năm 1945 gồm một số người trí thức miền Nam như Huỳnh Tấn Phát, Mai Văn Bộ, Ung Văn Khiêm, Trần Bạch Đằng, Lưu Hữu Phước. Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch bù nhìn. Thọ được kết nạp đảng Cộng Sản vào thập niên 60.

Chưa kể toàn bộ Trung Ương Cục Miền Nam do Nguyễn Chí Thanh điều động, sau khi Thanh chết, Lê Đức Thọ thay thế. Phạm Hùng là nhân vật thứ tư trong Bộ Chính Trị của đảng Lao Động. Những bộ mặt khác như Trịnh Đình Thảo, Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa chỉ làm bù nhìn tô điểm cho chủ trương lừa bịp của Mặt trận và Chính Phủ Lâm Thời do Hà Nội lập ra.


Ai có kinh nghiệm đều biết trong bất cứ cuộc đấu tranh nào, ở bất cứ nước nào đảng viên Cộng Sản là người có lãnh đạo và rèn luyện nên họ có thể làm xoay chuyển hướng đấu tranh hoặc lãnh đạo tập thể đấu tranh đông đảo người nhưng ô hợp. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hay Chính Phủ Lâm Thời được lãnh đạo bởi một số lượng đông đảo đảng viên Cộng Sản cao cấp, người ngoài đảng chỉ là thiểu số.

Trước năm 1975, người trong và ngoài nước tin tưởng rằng có thành phần quốc gia trong Mặt Trận có thể vì hai lý lẽ, thứ nhất họ bị đánh lừa vì sự ngây thơ, thứ hai họ cố tình đưa ra một luận cứ để vấn đề chiến tranh Việt Nam giải quyết bằng một hình thức đòi hỏi Chính Phủ Liên Hiệp giữa hai phe tham chiến.


Ngày nay sau khi Cộng Sản đã chiếm miền Nam, thống nhất Việt Nam thành một quốc gia Cộng Sản trong khối Đệ Tam Quốc Tế do Liên Xô lãnh đạo, đáng lẽ vấn đề Mặt Trận Giải Phóng miền Nam không còn cần đặt ra nữa. Nhưng trong các lập trường chính trị của người Việt chống Cộng trong và ngoài nước vẫn còn nhiều người ảo tưởng liên hiệp với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để chống lại Cộng Sản. Vấn đề này cần được nhận rõ là:

– Có một số ít người trí thức miền Nam bị Cộng Sản lôi kéo và đưa làm bù nhìn trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Những người này không có quyền hạn quyết định bất cứ việc gì từ chính trị đến quân sự.


– Có khuynh hướng tranh chấp quyền hành và quyền lợi của những tên lãnh đạo cao cấp Cộng Sản. Tranh chấp, mâu thuẫn là điều rất thông thường trong bất cứ đảng Cộng Sản nào, khi lực lượng đối kháng chính yếu của họ đã bị tiêu diệt. Nếu có sự tranh chấp của những tên trùm Cộng Sản trước ở trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam với những tên ở Trung Ương phải được xem là sự tương tranh nội bộ, không phải là sự tranh đấu của nhân dân miền Nam chống Cộng Sản. Việc những đảng viên Cộng Sản cấp tiến dù ở Bắc, Trung hay Nam đứng lên đòi thay đổi chính sách đưa tới sự sụp đỗ chế độ Cộng Sản thì đó là một vận động lịch sử khác.

Để chuẩn bị cho Hội Nghị Hiệp Thương và bầu cử Quốc Hội cả nước. Từ tháng 10-1975, cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hai màu xanh đỏ có sao vàng không còn kéo lên tại các cơ quan của Việt Nam ở miền Nam. Hiện tượng này dân miền Nam lại giải thích theo ước muốn chủ quan của mình là Việt cộng đã rút dần để thi hành Hiệp Định Paris. Người ta đồn đãi rồi rủ nhau đến trụ sở Ủy Ban Quân Quản ở Tòa Đô Chính cũ, Văn phòng đại diện Đảng miền Nam ở Phủ Thủ Tướng, Bộ Tư lệnh quân khu 7 ở Tổng Tham Mưu để chứng kiến tận mắt những cột cờ trống trơn.


Đồn đãi, ước đoán chủ quan, phấn khởi rủ nhau đến các quán cà phê chuyện gẫu, rồi hy vọng, đó là lối sống của đàn ông Saigon; còn phụ nữ, xuống đường nhập vào sinh hoạt chợ trời, len lỏi những chuyến xe miền Tây, tuyến miền Trung để buôn hàng chuyến, buôn hàng xách, buôn lậu nông sản (trà, cà phê, hồ tiêu, tỏi, gạo, thịt, cá đều vào quy hoạch nhà nước, cấm tư nhân buôn bán) để tìm kế nuôi gia đình, nuôi người chồng đang thất cơ lỡ vận hoặc chờ đợi chồng con đi trình diện học tập cải tạo mà chưa có tin tức.

Sau khi Hội Nghị Hiệp Thương Nam Bắc “thành công vĩ đại”, cờ đỏ sao vàng biểu tượng cho khủng bố, giết chóc, hận thù đấu tranh, máu lửa tung bay khắp miền Nam, phủ một không khí đe dọa, đè nặng trong lòng mọi người.
Kiểm tra dân số, lập danh sách cử tri, học tập bình nghị trả quyền công dân cho những người có giấy cải tạo 3 ngày để chuẩn bị bầu cử Quốc Hội.

Mỗi quận huyện là một đơn vị tuyển cử, các ứng viên đều do đảng Cộng Sản đề cử đúng theo luật bầu cử ấn định. Người dân không khó khăn chọn vì lá phiếu bầu đã in rõ mỗi đơn vị tuyển cử một hay hai tên ứng cử viên cuối cùng sẽ được gạch đi theo hướng dẫn của cán bộ. Đảng đã phân biệt rõ ràng, những đảng viên Cộng Sản là người phải được lựa chọn, còn những người từng theo đóm ăn tàn tranh đấu, xuống đường tại miền Nam cũ như Ni sư Huỳnh Liên, Ngô Bá Thành, Huỳnh Tấn Mẫm, Kiều Mộng Thu, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ, Hoàng Phủ Ngọc Tường thì nằm ở thành phần gạch bỏ. Những người này sau được trả công rẻ hơn, được bầu vào Hội Đồng nhân dân các tỉnh. Rồi khóa sau mới có người được bầu vào Quốc Hội theo công lao đóng góp và được kết nạp vào Đảng.


Chính sách nhân sự của Cộng Sản rất rõ rệt, nếu vì một nhu cầu tuyên truyền một tên A, tên B nào đó được thổi phồng lên, rồi đề cử làm vai trò bù nhìn ở các tổ chức, ngay cả những chức vụ Chủ tịch bên trong có đảng viên Cộng Sản giật giây. Chính sách trả công của đảng Cộng Sản cũng được quy định rõ ràng tùy ở mức độ đóng góp, những Dân biểu, Nghị sĩ, Sĩ quan, Viên chức có móc nối cộng tác với Cộng Sản trước ngày 30-4-75 đều được trả công bằng nhiều hình thức tùy theo công lao, được miễn đi học tập cải tạo (Lý Quý Chung, Phan Xuân Huy, Ngô Công Đức, cựu Đổng lý Phan Đăng Lân …), hoặc đi học tập ngắn ngày 3,4 tháng đến trên dưới một năm. Điều này rõ rệt nhất là số sĩ quan, viên chức đi cải tạo được thả về đợt Tết Bính Thìn, tức là chỉ học tập khoảng 4, 5 tháng, được Cộng Sản công khai công bố đó là những thân nhân gia đình liệt sĩ, đảng viên cao cấp hoặc là những người “từng đóng góp cho cách mạng”.


Trước khi thả những người này, các phường khóm ở Saigon được học tập chính sách đối với những người “có công với cách mạng” và Việt Cộng tổ chức đón rước những người học tập trở về tại vườn Tao Đàn. Cuộc tiếp đón chỉ lưa thưa gồm thân nhân của họ, dân chúng né tránh không đi đón. Người dân miền Nam rất sòng phẳng và thẳng thắn, họ khinh bỉ những người “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản”, đứng trong hàng ngũ quốc gia mà bí mật cộng tác với địch.

Những tên Cộng Sản nằm vùng được đãi ngộ xứng đáng hơn. Được đắc cử Dân biểu, được tuyển dụng vào ngành Công an, Tình báo, những tên này biết rõ xã hội miền Nam, phong tục tập quán của miền Nam, nên hoạt động đắc lực trong việc phá vỡ những tổ chức Phục quốc và bắt bớ những người trốn lánh học tập.
Trò hề bầu cử Quốc Hội được tuyên bố là “thắng lợi vĩ đại” của nhân dân cả nước, bầu Quốc Hội thống nhất đất nước lần thứ hai, sau khóa I Quốc Hội cả nước bầu năm 1946.


Dân miền Nam lại thêm một lần nữa đóng vai trò trình diễn dân chủ giả hiệu. Mấy chục năm ròng rã người dân được dạy cho những từ ngữ dân chủ tự do và những bài học tập sơ khởi về những chuyện bầu cử. Nhưng tất cả chính quyền Cộng Hòa hay Cộng Sản đều làm chuyện bịp bợm, những cuộc bầu cử từ năm 1946 đến nay cũng chỉ là những màn kịch dở, những trò hề, các chính quyền (Cộng Sản hay Cộng Hòa) đều “dạy” cho dân biết những ý niệm tự do dân chủ rồi chính những chính quyền đó tráo trở đi ngược lại điều họ nói, thực hiện trò chơi xảo trá. Chính trong hoàn cảnh đó, mà người dân Việt Nam tiến bộ nhanh chóng nhận thức về chánh trị, họ tiến nhanh hơn những người đi làm chính trị đã “dạy” cho họ. Những thế lực chính trị đều vì đặc quyền đặc lợi riêng tư, đảng phái phe nhóm đi ngược lại những điều dân biết, dân thích và dân mong muốn.


Đi ngược lại lòng dân, sự tiến bộ của dân tộc và trào lưu tiến hóa chung, những chính quyền lạc hậu dần dần bị loại bỏ, tạo ra các bất ổn xã hội, và trong đó chính quyền Cộng Sản là chánh quyền lạc hậu nhất, không thể nào bền vững nếu không có sức mạnh của bạo lực. Sự ổn định của bạo lực chỉ là tạm thời, một khi bạo lực không còn dùng được về sự tiến bộ của tư tưởng con người hay sự rã nát từ trong tổ chức bạo lực đó, thì chính quyền Cộng Sản phải tan rã.

 Trong niềm tin đó nhân dân miền Nam tiếp tục đứng lên, hết tổ chức này đến tổ chức khác, dù còn non nớt bị phá vỡ từ trong trứng nước, nhưng dân miền Nam không sợ, không nản chí, vẫn tiếp tục đứng lên. Hết đợt bắt bớ khủng bố này đến đợt khác. Cộng Sản dùng mọi hình thức trừng phạt nghiêm khắc, tử hình, chung thân, dân chúng vẫn không sờn lòng, vẫn xem án tù như trò đùa, nhà tù như nơi tạm nghỉ, vì sức đề kháng của miền Nam, âm thầm nhưng bền bỉ. Tiếp tục bắt, nhà tù, trại cải tạo chật ních người vì xây dựng nhà tù mới không kịp, chỉ trong vòng hơn một năm từ mùa Hè 1975 đến cuối năm 1976, tù trình diện cải tạo, tù phản động mới đến cả triệu người. 


Sức mạnh tiềm tàng của dân tộc Việt Nam ở đó, dân tộc Việt Nam tồn tại nhờ sự hy sinh của những người vô danh trong mọi giai tầng xã hội. Dân tộc Việt Nam không tồn tại do những người trí thức, vì quyền lợi, vì đê hèn, sợ sệt đầu hàng, lập Hội trí thức yêu nước, đem trí óc nặn ra những lý luận để biện minh cho chế độ Cộng Sản, để ru ngủ những người dân trong sự chịu đựng mà họ gọi là hành động khôn ngoan hoặc nhằm triệt tiêu sức đề kháng, dập tắt niềm hy vọng và ngọn lửa đấu tranh của toàn dân bằng lập luận “một đất nước bị Cộng Sản hóa rồi không quay trở lại được nữa”. Dân miền Nam đã bằng hành động đáp lại lập luận đó.


Trước 1975, Hà Nội nhận viện trợ quân sự và kinh tế của Trung Quốc-Liên Xô và khối Đông Âu. Mâu thuẫn Trung-Xô không ảnh hưởng đến Hà Nội. Càng mâu thuẫn nhau Trung Quốc và Liên Xô đều tăng cường viện trợ lôi kéo Bắc Việt về với họ. Cộng Sản Việt Nam được kể như đảng lớn và mạnh thứ ba trong khối Cộng Sản.
Sau cuộc chiến Việt Nam, Việt Cộng không thể tiếp tục đu đây giữa hai đàn anh, tình thế bắt buộc họ phải chọn và họ đã đứng hẳn với Liên Xô. Sự lựa chọn đó đã làm cho Trung Quốc tức giận nên có những biện pháp trả đũa.


Khởi đầu bằng những hình thức đòi nợ .Trung Quốc đòi Việt Cộng trả tất cả số gạo họ đã cho vay trong vòng hai tháng. Sau đó cắt giảm các hàng mục viện trợ, gây ra vụ nạn kiều và chiến tranh vùng biên giới.

Mâu thuẫn giữa Hà Nội và Bắc Kinh có hai điểm rõ rệt trước hết về truyền thống lịch sử, dân Việt Nam dù bất cứ thời nào, đều biết Trung Hoa là mối đe đọa thường xuyên đến nền độc lập của Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh, Việt Cộng vận dụng dân chúng bằng chiêu bài chống ngoại xâm, họ lập cả Viện Sử Học đề làm công tác đề cao tinh thần yêu nước. Lịch sử Việt Nam gần 100 năm thuộc Pháp, 1000 lệ thuộc Trung Hoa.


 Đối với người Việt Nam, kẻ ngoại xâm truyền thống không ai khác hơn là Trung Hoa. Dù cho cơ quan tuyên truyền của Bắc Việt phân biệt sự xâm lăng từ miền Bắc là do các thời đại phong kiến Trung Quốc, hiện tại Trung Quốc và Việt Nam là quan hệ anh em núi liền núi, sông liền sông. Trong hai cuộc chiến từ l945-l954 và l960–l975, Trung Quốc đã giúp Việt Cộng từ người lẫn của để đi đến chiến thắng. Nhưng tình thế chính trị thế giới xoay chuyển – mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô không hàn gắn được như lời tuyển bố của LýTiên Niệm “Hai chính phủ Liên Xô-Trung Quốc có thể nói chuyện về những vấn đề chưa giải quyết như vấn đề biên giới, nhưng quan hệ giữa hai đảng Cộng Sản Trung Quốc và Liên Xô phải 800 năm nữa mới nói chuyện”.

Nếu Hồ Chí Minh còn sống chắc chắn cũng từ bỏ nguyện vọng cao nhất của ông ta là đứng trung gian hòa giải hai đảng đàn anh vì sự tuyên bố có tính quyết liệt đó.
Trong sự chọn lựa bắt buộc giữa hai đàn anh. Việt Cộng phải chọn Liên Xô vì ít ra Liên Xô cũng ở xa hơn. Lệ thuộc một nước sát biên giới vẫn nguy hiểm hơn, và Liên Xô dầu sao cũng già có hơn Trung Quốc.

Sau khi chiếm miền Nam, những mâu thuẫn bắt đầu không giải quyết được. Họ bắt tất cả cán bộ tình báo Hoa Liên của Trung Quốc. Cán bộ cao cấp nhốt ở nhà giam Bộ Nội vụ (TNCSQG), nhà giam Sở Công An, Phan Đăng Lưu, Chí Hòa, cán bộ hạ tầng và thân nhân của họ bị tập trung vào một trung tâm ở Gò Dầu Hạ.


Ngay từ cuối năm 1975 và đầu năm l976, những bài học tập, thái độ của cán bộ Cộng Sản đối với người Hoa v.v… là dữ kiện cho những người có quan tâm về tình hình chính trị nhận định là mâu thuẫn Hà Nội và Bắc Kinh khó tránh khỏi chiến tranh, nhất là mâu thuẫn giữa Hà Nội và Nam Vang. Khmer Đỏ là tay sai của Bắc Kinh đã đưa tới những đụng độ quân sự ở biên giới Việt-Miên. Hầu hết người Việt Nam đều không ưa thích người Trung Hoa, người Việt Nam sợ Trung Quốc, sợ bịTrung Quốc chiếm, lịch sử dân tộc Việt Nam và lịch sử của những cuộc chiến tranh chống Bắc xâm để bảo vệ tổ quốc.

 Hiện tại, đã đứng giữa những cái xấu, người dân Việt Nam còn e sợ mô thức xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa của Trung Quốc, vì mô thức đó đẫm máu hơn tại các nước Cộng Sản Âu châu. Người miền Nam trông mong chiến tranh xảy ra để hy vọng có sự chuyển đổi nào đó.


Những người Cộng Sản đặt quyền lời của đảng tùy theo mỗi giai đoạn, cho nên họ nhanh chóng chuyện đổi từ địch ra bạn hay từ bạn ra địch. Đối với họ chỉ có kẻ thù giai cấp là vĩnh viễn và kẻ nội thù được xem nguy hiểm nhất của họ để họ cần triệt tiêu. Họ từng khom lung cúi đầu xưng tụng Trung Quốc là anh em vĩ dại, rồi vì quyền lợi họ xem Trung Quốc là thù nghịch rồi có lúc vì quyền lợi họ lại sẽ quỳ mọp xưng thần.


Người Việt Nam chân chính, theo truyền thống dân tộc, không hiểu chiến, không tự cao, luôn luôn giữ mối giao hảo tốt với lân bang, không xem Trung Quốc là kẻ thù, nhưng cũng không ôm đồm làm bạn, luôn luôn gìữ hoa hiếu nhưng cũng luôn luôn đề phòng và sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ tổ quốc.

Về mặt tư tưởng trong khối Cộng Sản cũng có nhiều chuyển biến. Trước hết Đại Hội lần thứ 22 các đảng Cộng Sản Đông Âu có khuynh hướng đòi độc lập với Liên Xô. Các nước Đông Âu là nơi bị áp đặt chế độ Cộng Sản. Tương quan giữa Đông Âu và Liên Xô là tương quan giữa nước bị trị và nước xâm chiếm. Tương quan kinh tế là sự lệ thuộc có tính cách gia công mà Hiến Pháp Liên Xô ghi nhận một cách mỹ miều là sự phân công lao động quốc tế.


Mất viện trợ Trung Quốc, Việt Cộng trông cậy vào sự giúp đỡ của Liên Xô và Đông Âu – chỉ có Liên Xô tiếp tục viện trợ cho Việt Cộng để nhằm độc quyền khai thác về phương diện quân sự một điểm chiến lược của Liên Xô ở Thái Bình Dương, về chính trị lôi kéo một quốc gia đông dân thứ 2 trong khối Cộng Sản, có một đảng Cộng Sản mạnh nhất vào với Liên Xô và về kinh tế khai thác nguồn lợi sản phẩm vùng nhiệt đới mà khối Cộng Sản đang thiếu.


Các nước Đông Âu từ chối thẳng thừng sự trợ giúp. Trong một phiên họp của khối Commecon năm l976, lúc đó Việt Cộng còn là quan sát viên, kế hoạch phát triển kinh tế Việt Nam do Lê Thanh Nghị trình bày bị bác khước phần tài trợ. Sau này Việt Cộng gia nhập Commecon cũng không được giúp đỡ nhiều vì ngay bản thân các nước Đông Âu cũng khó khăn về kinh tế, họ không sản xuất đủ tiêu dùng và tài sản xuất cảng không đủ trả tiền lời khoản nợ quốc tế đến hàng chục tỷ đô la.


Mặt khác các đảng Cộng Sản lớn ở Tây Âu như Cộng Sản Pháp, Cộng Sản Ý và Cộng Sản Nhật Bản phê phán và từ bỏ chủ trương chuyên chính vô sản. Trong lý thuyết Cộng Sản nếu chuyên chính vô sản và tập trung dân chủ bị phê phán tức là lý thuyết Cộng Sản bị đánh vào tận cốt lõi.


Định ước Helsinski ký vào năm 1976, giữa hai khối Nato và Varsovie buộc các nước Cộng Sản tôn trọng nhân quyền mở đầu cho sự cởi mở trong khối Cộng Sản và kỷ nguyên chính trị mới.
Một thay đổi quan trọng trong đường lối của Mỹ đã làm thay đổi sâu xa bộ mặt thế giới là thuyết 4 thế giới của Brezinski thay thế cho thuyết Domino trong chiến lược toàn cầu Mỹ.

Thuyết Domino buộc Hoa Kỳ phải viện trợ kinh tế và quân sự và còn can thiệp quân sự bằng chiến tranh cục bộ để bảo vệ các nước nhược tiểu, để các nước này không lọt vào tay Cộng Sản làm sụp đồ hệ thống các quốc gia tự do trên thế giới.


Chiến lược này làm cho Hoa Kỳ tốn nhiều tiền nhưng chỉ đem lại sự chỉ trích ngay tại các nước nhận viện trợ. Thuyết Domino làm Mỹ trở thành “sen đình quốc tế” hay “tên can thiệp” như luận điệu của khối Cộng Sản và làm cho Liên Xô trở nên mạnh với lý thuyết “ba dòng thác cách mạng” (sự hình thành của các quốc gia Cộng Sản, phong trào giải phóng dân tộc, và phong trào đấu tranh đòi dân chủ dân sinh ở trong các nước Tư Bản). Sự sa lầy trong cuộc chiến tranh địa phương làm cho Hoa Kỳ mất uy tín trên thế giới, mâu thuẫn với đồng minh, và làm cho dân chúng Hoa Kỳ không ủng hộ chính phủ của họ


Tình thế của Hoa Kỳ khi tham chiến ở Việt Nam là một ví dụ rõ ràng nhất.
Thuyết 4 thế giới, khiến Hoa Kỳ rảnh tay trong các cam kết, không cần can thiệp hay bảo vệ quốc gia nhỏ, viện cớ là các quốc gia này tự quyết định lấy vận mang của dân tộc họ, rất hợp với tư tưởng chính trị thời đại. Hoa Kỳ lại rảnh tay làm hai công việc quan trọng. 


Thứ nhất là tập hợp các quốc gia phát triển (gọi là loại quốc gia số l – thế giới thứ 1) để có một sự thống nhất, và đoàn kết tương đối giữa các nước tư bản. Hội nghị Nassau năm 1976 khai sinh ra Hiệp Hội 7 Quốc Gia Phát Triển ( Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản). Thứ hai, Hoa Kỳ và các quốc gia phát triển thống nhất chính sách đối ngoài để “đẩy mạnh sự chia rẽ trong khối Cộng Sản” trong khi các quốc gia Cộng Sản đã có mầm chia rẽ (thế giới thứ 4), cũng như bảo vệ những quốc gia có tiềm nàng kinh tế (thế giới thứ 2) có quan hệ sống còn với nền kinh tế của các nước tư bản.


Khối Cộng Sản đã ước tính sai, khi dự trù đối đầu với Hoa Kỳ tại một chiến trường tiêu hao sau Việt Nam là Angola. “Sau Việt Nam” từ ngữ chính trị mà Cộng Sản thường rêu rao để chỉ thời kỳ hưng thịnh của họ, nhưng thực tế sau Việt Nam là thời kỳ suy sụp của khố Cộng Sản.

Liên Xô giúp đỡ vũ khí và đem 12 ngàn quân Cuba giúp mặt trận MPLA đánh bại hai đối thủ PNLA và UNITA chiếm trọn xứ Angola và dự trù Hoa Kỳ sẽ đương đầu ở đó để ngăn chặn Liên Xô chiếm Phi châu là nơi có những tài nguyên và điều kiện dân chúng thấp kém dễ truyền bá thuyết Cộng Sản. 

Trong những ngày đầu sau khi chiếm miền Nam, Bắc Việt đã vội đưa quân qua Angola, một tiểu đoàn đầu tiên Bắc Việt xuống tàu Liên Xô vào tháng 6-75 (Đài VOA và BBC). Nhưng Hoa Kỳ đã không can thiệp hay chỉ can thiệp qua trung gian của Nam Phi giúp UNITA duy trì cuộc chiến tranh du kích tiêu hao. Sau đó Ethiopia, Afganistan, Nicaragua tiếp tục lọt vào tay Cộng Sản vẫn không có sự can thiệp của Hoa Kỳ và Tây Phương. Trái lại Liên Xô đem 60 ngàn quân xâm lăng Afganistan cũng như Việt Nam xâm lăng Kampuchia làm cho các nước Cộng Sản sa lấy trong cuộc chiến phi nghĩa, tiêu hao, bị mất uy tín chính trị, và cái cớ cho Hoa Kỳ và Tây phương mở cuộc chiến tranh mới về chính trị và kinh tế, tức cấm vận để bao vây kinh tế và cô lập chính trị vì sự vi phạm nhân quyền.


Một điểm quan trọng về chính trị nữa là thuyết 4 thế giới chủ trương thả nổi các nước nhược tiểu (thế giới thứ 3) thúc đẩy tham vọng của Trung Quốc muốn trở thành môt siêu cường lãnh đạo thế giới thứ 3 – Đặng Tiếu Bình chủ trương thuyết thế giới, và muốn cải cách có giới hạn Trung Quốc để chứng tỏ rằng các nước trong thế giới thứ 3 không thể đi theo con đường Cộng Sản vì xây dựng xã hội chủ nghĩa không phát triển được đất nước, và cũng không theo được mô thức Tư bản chủ nghĩa vì chưa có điều kiện. Vậy Đặng Tiếu Bình vạch ra một mô thức mới, đó là con đường phát triển kiểu Trung Quốc, chính trị mạnh, và kinh tế cởi mở, nhưng đây cũng chỉ là một mơ ước vì không thể nào thành công khi cởi mở kinh tế mà vẫn cứng rắn về chính trị.


Việc tương tranh quyền lãnh đạo giữa hai khuynh hướng “thực dụng” do Đặng Tiểu Bình lãnh đạo (với tư tưởng mèo trắng mèo đen cũng được quí hồ bắt được chuột thì thôi) và khuynh hướng “giáo điều” do Giang Thanh đứng đầu. Dù đang nắm quyền xử lý Quốc vụ viện Trung Hoa (Thủ tướng) Đặng Tiểu Bình vẫn bị đài Bắc Kinh gọi là ‘kẻ cầm quyền lớn nhất trong Đảng đi con đường Tư bản chủ nghĩa mà không biết hối cải”. 


Cái chết của Chu Ân Laỉ năm 1976 làm Đặng Tiểu Bình mất chỗ dựa, bị loại ra khỏi 6 chức vụ từ Đảng, Quân ủy và Nhà nước chỉ còn giữ đảng tịch. Nhưng dù phe nào thắng thế ở Trung quốc cũng đưa đến việc chống Liên Xô quyết liệt vì tư tưởng chống Liên Xô phát khởi từ Mao Trạch Đông mà hai phái “thực dụng” và “phàm là” (giáo điềm của Trung quốc đều phải đưa vào Mao Trạch Đông để chứng minh tinh thần chính thống của họ và đều phục vụ cho nhu cầu biến Trung Quốc thành một siêu cường giữa hai siêu cường đã có là Mỹ và Liên Xô.


 Trong tình thế đó, một khi một bên loại bên kia ra khỏi chính quyền, thì về phương diện đối ngoại họ phải giải quyết vấn đề Việt Nam, vì Việt Nam đang tự biến mình thành đồng minh thân thiết của Liên Xô, một mũi đao đâm vào cạnh sườn Trung Hoa đồng thời cũng là nút chận sự bành trướng của Trung Quốc vào vùng Nam Thái Bình Dương. Do đó, chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam không tránh khỏi. 


Những nhà lãnh đạo Hà Nội cũng nhận thấy điều đó, nhưng cái thế đi với Liên Xô không thể khác được, và sự lôi kéo của Liên Xô đối với Hà Nội rất dứt khoát. Một chi tiết nhỏ phản ảnh điều đó, khi Võ Nguyên Giáp đại diện cho Hà Nội đi thăm Mạc Tư Khoa, họ Võ đọc diễn văn có đề cập Việt Nam là nước đông dân thứ ba trong khối XHCN đã bị Suslov sửa lại trong bài diễn văn của ông ta sau đó là nước Việt Nam là nước đông dân thứ hai trong khối XHCN sau Liên XÔ. Hà Nội cứ nhiều phái đoàn qua Trung Quốc mong cải thiện mối giao hảo trong thế đu dây của mình nhưng hoàn toàn thất vọng vì sự dứt khoát của hai phía Liên Xô và Trung Quốc. Tố Hữu đã làm 4 câu thơ đăng trên báo Nhân Dân:


Tình bạn ngày nay đã khác xưa
Chỉ e sớm nắng lại chiều mưa
Chợ trời nhân nghĩa e thừa thiếu
Hàng hóa lương tâm vẫn thiếu thừa
Nhận định đúng thời cuôc. Hà Nội chuẩn bị để đối phó với Trung Quốc và Đại hội kỳ IV của đảng Cộng Sản Việt Nam vài tháng 11-1976 thảo luận chủ yếu về đề tài đó.


Trong tình thế toàn dân bất mãn với chế độ Cộng Sản, mong muốn sự tác động từ bên ngoài thúc đẩy những cuộc nổi dậy từ bên trong để lật đổ bạo quyền. Nhiều tổ chức chống đối vừa mới nhen nhúm đã bị công an bắt sạch, vì một bên kỹ thuật nắm chính quyền của công an Cộng Sản quá tinh vi, một bên dân chúng thiếu lãnh đạo và rèn luyện nên thực tế chưa đủ sức đối đầu –

Những tổ chức đối kháng chưa làm nên những thành tích để làm hại chính quyền Cộng Sản về vật chất rõ rệt, nhưng những lực lượng đối kháng có giá trị lịch sử, chứng tỏ hùng hồn là chính quyền Cộng Sản không được lòng dân, không phải là một nhu cầu của xã hội Việt Nam. Chính quyền Cộng Sản dùng bạo lực để đàn áp càng lộ mặt thật giả nhân giả nghĩa ngụy tạo thế đứng lịch sử của Cộng Sản trước sự nhận định của nhân loại và người dân trong nước. Nhân dân thế giới thấy rõ ràng tại sao Đảng Cộng Sản Việt Nam mới được đa số dân Việt Nam ủng hộ trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, chỉ một thời gian quá ngắn ngủi sau khi chiếm trọn quyền đã bị dân Việt Nam đối kháng mạnh bạo như vậy.


Cùng lúc đó để triệt tiêu tư tưởng chống đối, Cộng Sản xây dựng trí thức và nhà báo miền Nam đầu hàng như các ông Lê Văn Thới, Trần Thúc Linh, Trần Kim Thạch, Phạm Hoàng Hộ, Lý Quý Chung, Chu Phạm Ngọc Sơn tung ra một luận điệu hồ đồ là “một nước bị Cộng Sản cai trị không bao giờ lập lại được”. Luận điệu này cũng có tác dụng làm cho một số người tiêu cực trong hàng ngũ trí thức miền Nam tham gia sinh hoạt Hội trí thức yêu nước. 


Có nhiều người có trình độ học vấn, có công trình nghiên cứu khoa học, nhưng thiếu tâm hồn thiết tha với sự tồn vong của dân tộc, thiếu lòng yêu nước, thiếu một niềm tin, họ đã đầu hàng và làm công một cách rẻ tiền cho chế độ, đem hiểu biết của mình phục vụ cho nhu cầu trấn áp của bạo quyền. Trong suốt bao nhiêu năm tháng đầu tiên Cộng Sản xâm chiếm miền Nam, nhà khoa học – nhà giáo Phạm Hoàng Hộ – đã viết hàng loạt bài ca tụng rau muống là bíp-tết xanh, khoai mì là một thức ăn quý, cần phải ăn từ củ cho tới lá mới hợp cách; hạt bột khoai mì là hạt trân châu cả thế giới tư bản đang làm giả mạo để bán ở các tiệm ăn lớn..v..v.. 


Nhà báo Lý Quý Chung kiên trì phân tích “tính ưu việt của xã hội chủ nghĩa”, cứ mỗi huy chương vàng của các lực sĩ Liên Xô, Đông Đức, Ba Lan từ Thế Vận Hội Montréal đều được nhà báo Lý Quý Chung phân tích thành những giá trị siêu việt của tư tưởng, phong cách thể thao Mác-Lê. Không biết khi “đặt hàng” Việt Cộng có đủ khả năng để đi vào các điểm chi tiết hay không, nhưng những nhà trí thức miền Nam đầu hàng giai cấp muộn màng đó (nếu đầu hàng giai cấp sớm đã trở thành đảng viên Cộng Sản) ra sức dùng ngòi bút ca tụng và tô hồng chế độ đến người đọc phải ngượng ngùng cho giá trị của chữ nghĩa.


 Nhưng người dân Việt Nam thực tế, người ta hiểu rõ giá trị của thịt bò là thịt bò, rau muống là rau muống, rau muống không thể là thịt bò xanh (bíp-tết xanh). Có người ao ước một lúc nào đó có dịp để đói với nhà trí thức Phạm Hoàng Hộ dăm ba ngày, rồi dọn mâm cơm với thịt bò và mâm khoai mì với rau muống để nhà trí thức chọn lựa món ăn. 

Dân Saigon và dân miền Nam cũng đã thực tế trước mắt được xem những đội bóng đá với tác phong XHCN tại sân Cộng Hòa (đổi là Thống Nhất) và dân Sài Gòn cũng như các cầu thủ luôn luôn ấm ức vì trước trận đấu là Đảng chỉ thị cho sở Thanh Niên buộc cầu thủ miền Nam phải thua, phải để cho “miền Bắc ưu việt” thắng. Tuyên truyền và thực tế đối chiếu, thật giản dị. Việt Cộng và bọn văn nô càng cố gắng tuyên truyền càng tỏ ra lố bịch trước sự nhận định sáng suốt trưởng thành của người dân miền Nam. Người miền Nam tiếc rẻ những cái gì đã mất, có mất rồi mới biết quý, mới ân hận là mình không biết giữ gìn… rồi có người buột miệng “Đ.M thằng cha Thiệu, cái gì cũng bậy, mà cuối cùng nó nói được cái câu đúng quá xá: “Đất nước mất thì mất tất cả” và “đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm”.


Chánh sách giãn dân cưỡng bách những gia đình đông con nghèo khổ, những gia đình thân nhân đi cải tạo phải đi vùng kinh tế mới, phong trào Thanh niên xung phong đưa những nam nữ thanh niên đi khai thác những vùng núi non rừng thiêng nước độc. Kế hoạch đào kinh vét mương thủy lợi huy động hết mọi tầng lớp dân chúng Saigon. Tập thể dục buổi sáng 8 động tác cơ bản, học tập chính sách nhà nước, họp tổ, đọc báo từng tổ dân phố, động viên thanh niên, lạc quyên, đóng góp… không lúc nào cách mạng hết việc làm. Các tổ trưởng đoàn kết, tổ dân phố, tổ trưởng thanh niên, phụ nữ đi lại như mắc cửi.

Mặt khác Saigon vẫn tiếp tục những tin đồn đãi và chợ trời nhộn nhịp, công an đi tảo thanh, bắt bớ, bắt tại nhà, bắt trong quán cà phê, chặn xe bus, đón trên đường xét giấy tờ, Saigon náo nhiệt, hỗn độn và nhiều đe dọa như thế suốt cả năm 1976. Không còn chỗ đứng cho người đàn ông của miền Nam. Chỉ còn hai con đường lựa chọn hoặc tham gia một tổ chức Phục quốc hoặc tìm đường ra nước ngoài.

  CHƯƠNG 6


Đang ngồi uống cà phê ở quán ngay dưới nhà tôi trú ngụ. Nhìn quanh thấy nhiều khách lạ, tôi thấy không yên, đứng dậy định đi ngay ra đường Trương Minh Giảng nơi chợ trời đông đảo để thoát qua bên khu Kiến Thiết. Tôi trả tiền dượm bước đi thì ngay sau lưng tôi có tiếng gọi:
– Anh Nguyễn Chí Thiệp đứng lại, nếu chạy tôi bắn.
Chưa kịp có phản ứng thì đã thấy chung quanh có bốn năm người chĩa K-54 vào tôi. Ngay cổng vào nhà hai tên xuất hiện với hai khẩu AK-47, và sau nhà tôi đi ra hai tên khác với hai khẩu AK-47. Một tên bước đến bên tôi móc còng khóa hai tay tôi về sau lưng, tôi biết hắn là Đỗ Hữu Cảnh, Luật sư.

Chúng dẫn tôi vào phòng khách, đọc lệnh bắt và xét nhà với tội danh là “trốn học tập cải tạo”. Tôi đưa giấy chứng nhận cải tạo tại cơ sở 3 ngày. Cảnh sửa lại “tham gia tổ chức phản cách mạng”. Tôi phản đối rằng không thể bắt tôi với một lý do mơ hồ như vậy, hắn bảo tôi trả lời tại Sở Công An Thành Phố, hắn chỉ làm nhiệm vụ. Tôi thấy không cần phải đối chất thêm vì biết Cộng Sản khi đã bắt người thì không cần oan hay ưng. Tôi chỉ phản đối trên lý lẽ thôi. Còn việc chúng bắt tôi là điều tôi đã nghĩ tới từ lâu nếu tôi không đi thoát được. Chúng khám nhà rất tỉ mỉ. Giường nệm bị tháo bung, chúng nạy cả những viên gạch bông trên sàn nếu thấy có vết tích gì khiến chúng nghi ngờ, những cuốn sách tôi đọc hầu như chúng lật từng trang kể cả sách của Hà Nội xuất bản.


Cảnh ném các sách tôi đọc ra hai bên phân biệt hai loại sách, một bên gồm các bản dịch các tác phẩm “Giai Cấp Mới” của Mildovan Dijlas, “Quần Đảo Ngục Tù” của Solzhenitsyn, “Những Người Con Gái Của Lưu Phu Nhân” của Pearls Buck… và một bên gồm mấy cuốn “Dưới Bóng Cờ Vẻ Vang Của Đảng, Vì Sự Nghiệp Giải Phóng Dân Tộc, Vì Chủ Nghĩa Xã Hội” của Lê Duẫn, “Đại Thắng Mùa Xuân” của Văn Tiến Dũng, “Thuyết Mácxít và Văn Hóa Việt Nam” của Trường Chinh. “Bộ Sử Ký Tư Mã Thiên” do nhà xuất bản Khoa Học Hà Nội xuất bản. Cảnh chỉ những cuốn sách xuất bản ở miền Bắc hỏi tôi:
– À anh cũng đọc sách này à?
– Vâng tôi đọc để tìm hiểu cách mạng.
– Tìm hiểu để chống lại hả? Hắn hỏi tiếp.
– Anh nói gì tôi không hiểu? Tôi đáp.
– À anh không hiểu hay vờ không hiểu?
Tôi không nói gì.
Hắn chỉ qua một ba lô nhà binh hỏi tôi:
– Anh dùng vật dụng quân sự này để làm gì?
Tôi đáp:
– Đồ này bán ngoài chợ trời, thấy rẻ mua để đựng áo quần khi cần di chuyển. Các loại va li được giá tôi đã bán cả rồi.
Hắn hằn học:
– Anh bôi bác chế độ hả, anh nói thế để chỉ là Cách mạng vào anh phải bán hết đồ phải không?
– Đó là ý của anh, không phải tôi bôi bác, tại các anh hỏi, tôi trả lời đúng sự thật.
Xét xong tất cả phòng – tên cán bộ lục xoát nãy giờ hỏi tôi:
– Anh làm Phó tỉnh trưởng ngụy quyền mà tài sản chỉ chừng này thôi sao?
Tôi không trả lời câu hỏi của hắn. Cảnh làm biên bản xét nhà, hắn tịch thu cái xắc nhà binh, mấy cuốn sách gọi là phản động. Khi hắn ghi cái radio cassette là vật tịch thu, tôi phản đối:
– Anh chỉ được tịch thu những cái gì bị cấm sử dụng. Cái radio cassette là vật được sử dụng. Từ ngày 30-4-75 đến nay không có thông cáo nào cấm sử dụng radio, trái lại radio bán đầy chợ trời và cán bộ cũng mua rất nhiều.
Chúng hội ý nhau một lúc, xong bỏ cái radio lại, nhưng tịch thu các cuốn băng nhạc. Hắn nói các cuốn băng cần được kiểm tra, vợ tôi yêu cầu kiểm tra tại chỗ. Nàng nói:
– Nhỡ đem về các ông thu vào đó những gì bất hợp pháp rồi đổ tội cho chồng tôi.

Cảnh đáp:
– Bà cứ yên tâm, chúng tôi không làm chuyện như vậy, việc khám nhà tốn nhiều thì giờ, chúng tôi không có thì giờ kiểm tra tại chỗ.
Tôi yêu cầu ghi biên bản đó là băng nhạc vàng, và bảo vợ tôi không cần phản đối chi tiết đó. Cuối cùng biên bản hắn ghi “Khi bị bắt can phạm và gia đình tỏ ra bình tĩnh và có thái độ ngoan cố”.
Vợ tôi lo sợ và không bằng lòng hai chữ ngoan cố, nàng phản đối, tôi nói: “Họ bắt mình họ muốn ghi gì cũng được”.

Chúng tôi vừa ký vào biên bản, tôi người bị bắt, vợ tôi, chủ nhà, Cảnh, nhân viên Sở Công An Thành Phố và tên đại diện Công an phường – tất cả 4 chữ ký theo thủ tục.
Hắn bảo vợ tôi soạn cho tôi ít quần áo, và cái mùng vào trong túi xách.

Nghe tiếng chân nhảy trên cầu thang, tôi biết là tiếng chân của Vũ, đứa con đầu lòng năm đó 7 tuổi. Vũ đi học từ sáng, mỗi khi về nhà nó thường nhảy từng hai bậc thang từ dưới lên phòng. Tôi đau nhói ở tim, khi nghĩ đến con – Vũ chạy vào phòng thấy tôi bị còng hai tay, nhà đầy công an và đồ vật vất tung – nó trợn mắt kinh ngạc xong chạy lại ôm tôi, nó chỉ nói lên một tiếng Ba, rồi ôm tôi khóc. Hai tay tôi bị còng quặp về sau lưng, tôi không vuốt được tóc Vũ, không sờ được con, chỉ lặng thinh cho nó ôm ngang lưng, tôi cố kìm nước mắt không khóc theo nó.

Bề nào tôi cũng cố giữ sự bình tĩnh trước mặt bọn công an. Từ lúc bị bắt đến giờ tôi không cảm thấy lo sợ, chỉ thấy là những điều mình lo lắng lâu nay đã tới, như một cái bóng căng lên, bây giờ bị xì hơi thế thôi, hết còn hồi hộp lo âu, nên tôi bình tĩnh. Nhưng bây giờ trước mặt đứa con trai thương yêu của tôi, con tôi khóc, tôi thật đau lòng, thật xúc động, tôi cảm thấy ngay cái lỗi lầm, ngay cái quyết định sai lầm, bây giờ hậu quả đã hiển nhiên trầm trọng. Tôi phải chịu sự tù đày mà vợ con tôi chắc chắn sẽ phải khổ đau suốt rất nhiều. Lúc tôi quyết định ở lại dường như tôi quên nghĩ đến con, đến tương lai của những đứa nhỏ – nếu tôi đi dù sao thì mấy đứa nhỏ cũng còn được học hành.


Bây giờ thì tương lai đen tối đã phủ xuống gia đình tôi. Bọn công an dẫn tôi xuống nhà, vợ tôi đi theo, những người ở cùng trong một khu nhà tôi đứng xem rất đông, có người nói: “Bé Trang đâu, gọi bé Trang về cho anh”. Tôi nói: “Thôi đừng gọi bé Trang”. Tôi biết nếu tôi thấy bé Trang khóc, tôi sẽ không cầm được nước mắt. Tôi không muốn khóc trước mặt bọn cán bộ. Tôi biết nếu tôi nhìn thấy bé Trang, lúc đó tôi sẽ khóc.


Tôi nói với Tuyết:
– Lúc nào đi thăm anh được phải đem bé Trang cho anh thăm ngay nhé.
Bé Trang là con gái út của tôi – năm đó 3 tuổi – Hơn một năm qua suốt ngày trong phòng tôi chơi với nó – mỗi lần có việc cần đi xa vài ngày nói với nó: “Con ở nhà ba đi rồi ba về”, lúc nào bé Trang cũng nói với tôi: “Ba đi về liền nghe. Ba đi đâu ba đi hoài”. Lần ra đi này biết bao giờ ba mới về với bé Trang. Tôi nghĩ thương con vô hạn – Bước ra khỏi nhà, cố nén tất cả xúc động để cho dáng đi của tôi khoan thai, không thảm não trước mặt bọn công an.


Ngồi ở băng sai chiếc xe Toyota Corolla trắng ngà, giữa hai tên công an Tên Công an phường bắt tay giã từ cùng với 4 tên công an võ trang xách AK về Phường 11 cách nhà tôi khoảng 100m. Hai tên công an khác lên một chiếc xe Honda. Tôi nhìn lại mọi người thân quen ở nhà. Những người buôn bán chợ trời trên hè đường đều ngừng lại nhìn theo tôi. Tôi khẽ gật đầu chào khi chiếc xe lăn bánh, mọi người nhìn theo. Lúc đó tên ngồi bên phải tôi đẩy tôi chồm về phía trước, hắn rút ra miếng vải đen bịt mắt tôi lại. Hắn nói “Đây là thủ tục, anh đừng sợ”.

Tôi không thấy sợ. Từ khi trốn lánh đến giờ lúc nào tôi cũng sợ bị bắt, đi ra đường thì lựa những đường hẻm mà băng, ra tới lộ thì sợ công an đón xét giấy, nằm ở nhà nghe tiếng xôn xao dưới nhà là hồi hộp sợ người đến bắt. Bây giờ mới biết tụi công an đến nhà bắt thật êm, và tôi cũng hết còn sợ nữa. Trái lại còn thấy nhẹ nhõm như trút một gánh nặng.

Tôi ước lượng tốc độ và khoảng đường để thử đoán xe chạy về đâu, đường vắng xe chạy nhanh, tôi đoán xe đã chạy tới đường Trần Quốc Toản, sau khi xe chạy một vòng tròn từ đường Hiền Vương ra, sau đó xe chạy quanh co nhiều lần tôi không còn biết phương hướng. Tôi không biết tụi nó sẽ ghép tôi vào tội gì, lúc đến bắt lịnh ghi là trốn học tập cải tạo rồi sửa lại là tham gia tổ chức phản cách mạng, tổ chức nào? Có người móc nối tôi vào tổ chức Phục Quốc, nhưng tôi từ chối vì biết không thể hoạt động ở nội thành – vào bưng để chiến đấu thì không có tổ chức nào có mật khu. Có lần tôi lên Dốc Mơ, để được đưa vào mật khu, không thành, chắc chắn vụ này tụi nó không biết.

Bước ra khỏi xe tên ngồi bên cạnh nhét cái túi hành trang vào tay tôi rồi cầm tay tôi dẫn đi khoảng 50m, bước lên bậc thềm bước vào nhà. Khi tấm vải bịt mặt mở ra tôi chóa mắt vì ánh sáng.
Làm thủ tục nhập trại, Cảnh giao tôi cho một tên công an đứng tuổi, hắn trạc 50, tóc hớt ngắn, trán thấp, mặc sơ mi trắng cháo lòng bỏ ra ngoài cái quân công an màu hỏa hoàng cũng đã cũ, miệng đầy răng vàng. Hắn nói giọng Nam lai giọng Bắc – tôi đoán là tên bộ đội tập kết miền Nam chuyển ngành Công An.

Hắn hỏi lý lịch tôi: Tên, ngày tháng năm sinh, nơi sinh và địa chỉ để một cô gái mặc đồng phục công an viết vào sổ cái. Tôi vừa trả lời vừa liếc nhìn vào trang giấy ghi Lê Đình Thảo ngày nhập trại 24/9 – Ngô Văn Vinh 22/9 – Vĩnh Hầu 22/9 – Hồ Công Lộ 22/9… tôi cố liếc nhanh để tìm xem tên Trần Đình Sào, không thấy.

Tôi phân vân, đáng lẽ mình bị bắt chung với những người trên đây. Thảo là bạn học, Thảo, Sào và tôi chuẩn bị vượt biên bằng đường bộ, Hồ Công Lộ, Luật sư ở Đà Nẵng, cũng là bạn cũ từ lâu lắm tôi không gặp – Ngô Văn Vinh và Vĩnh Hậu nhờ Trần Đình Sào móc nối tôi vào tổ chức nhưng tôi đã từ chối. Sào nói với tôi họ hẹn tôi tại cà phê Ngọc, tôi không đến sao lại bị bắt chung với họ. Còn Sào đâu? Hoàng đâu? Hai người này có bị bắt hay không? Tôi nghĩ thật nhanh, Cảnh và tên trưởng khu giam nói chuyện gì với nhau tôi không để ý, cô gái nữ công an nói như an ủi:
– Chú đừng lo, ở không có lâu đâu.


Thật thì tôi đang lo, còn ở không lâu chắc tôi không tin nổi, vì tôi đã nghĩ là nếu bị bắt không tránh khỏi ở tù lâu.
Nhưng dù sao câu nói của cô gái lúc đó cũng thấy dễ chịu. Thủ tục xét hành trang, số tiền đủ loại vợ tôi nhét vào túi quần cho tôi trước khi tôi rời nhà ra xe được đếm $184 – Tên trưởng trại bảo cô ghi đăng ký $170 – hắn đưa $14 cho tôi nói:
– Giữ phần này để xuống đó mua thuốc hút đỡ buồn. Tôi không hút thuốc nhưng cũng nhận tiền bỏ túi.


Tôi được dẫn xuyên qua hành lang có 3 phòng trống đó là nơi hỏi cung, cuối dãy nhà có một phòng giam, nhìn vào thấy toàn đàn bà. Trời nóng, có người chỉ mặc quần cụt và nịt ngực, người nào cũng cầm chiếc quạt phe phẩy, cuối dãy là một ngả ba, hành lang bên phải dẫn vào hai phòng giam. Rẽ theo hành lang trái, gặp ngay phòng giam thật kín, qua khoảng hở nhỏ trên tấm cửa tôi cũng thấy lúc nhúc những người đàn ông trong ánh sáng lờ mờ, người nào cũng ở trần trụi, tay cầm quạt làm thành một hoạt cảnh như một phim câm vì không ai nói chuyện. Họ sợ tên cán bộ đang dẫn tôi đến trước một cửa sắt. Hắn bảo tôi đứng lại, xong lấy chìa khóa mở một ống khóa Viro to chắc chắn.


 Bên trong cửa sắt là hai dãy phòng cửa đóng kín, ánh sáng từ hai lỗ trống bằng hai viên gạch trên nóc tường chiếu xuống lờ mờ thành hai vệt sáng dài. Hai ngọn đèn bóng treo lơ lửng từ trên nóc nhà xuống không đong đưa vì trong phòng kín gió. Cả phòng im phăng phắc. Tôi tưởng tượng như được dẫn vào một nhà mồ. Tên công an dẫn tôi, vừa đi hắn vừa đập vào những cửa sắt vừa gắt: “Nhìn gì, muốn còng không thì bảo. Đây là xà lim, hắn mở cửa phòng số 13, bảo tôi đứng ngoài hắn bước vào trong phòng lom khom ở cuối phòng, tôi nghe tiếng xích sắt loảng xoảng.

 Chưa kịp nghĩ ngợi thì hắn gọi tôi vào – bảo tôi bỏ dép ra, và đưa chân phải cho hắn. Lúc đó tôi mới nhìn thấy hắn lôi ra một thanh sắt to bằng bắp tay dài khoảng gần 1m, giữa có hai vòng sắt và thanh sắt được hàn dính vào một xích sắt dài và xích sắt được gắn chặt vào tường bằng một vòng sắt khác, cọng sắt to bằng ngón tay.


Tôi bị còng một chân. Hắn bảo tôi đứng thẳng dậy, tôi đứng hơi khó vì chưa quen lối còng với thanh sắt nặng. Hắn nói:
– Vào đây phải chấp hành nội quy trại, thành thật khai báo tội lỗi của mình và đồng bọn để nhận được sự khoan hồng của đảng và nhà nước, đảng và nhân dân đánh kẻ chạy đi chứ không đánh kẻ chạy lại, khai báo tốt sẽ được viết thư, nhận quà. Không được nói chuyện với phạm nhân khác, nếu bắt gặp tôi sẽ còng chéo hai chân anh lại, không được khua dây xích làm ồn ào – không được đứng ngay cửa nhìn ra ngoài. Anh nghe rõ chưa?


Tôi đáp:
– Rõ.
Hắn nói một thôi thuộc lòng theo đúng nghề nghiệp và việc làm hàng ngày mỗi khi đưa tù vào xà lim, xong đứng nhìn quanh cái phòng chật hẹp khoảng 2m bề sâu và kém 2m bề ngang, dường như muốn xem trong phòng có chỗ nào để tôi có thể thoát ra không.
Hắn bước ra khóa cửa lại lẩm bẩm:
– Xem thử ngoan cố đến độ nào?

Thì ra đây là món đầu tiên tôi phải chịu vì thái độ dửng dưng của tôi khi bị bắt, mà tên Cảnh đã ghi vào biên bản là “thái độbình tĩnh và ngoan cố”. Bọn công an đi bắt người chúng nó muốn nạn nhân phải tỏ ra sợ sệt, chúng nó không chịu thái độ dửng dưng của người bị bắt, thảo nào khi chúng đi bắt một người không có sức kháng cự như tôi cũng võ trang đến tận răng, súng ngắn, súng dài đủ loại cả chục khẩu.


Tôi ngồi xuống cái bục xi măng cao khoảng 2 tấc, chia căn phòng làm 2 phần, cái bục là chỗ cho tù nằm nghỉ, phần nền nhà thấp từ cửa vào, tù gọi đó là phi đạo, cuối phi đạo là cầu tiểu, cái vòi nước cũ khóa không kín nhểu nước tí tách đều đều.

Tôi nhấc thanh sắt xoay chiều dọc để ngồi thoải mái từ trên bục, thanh sắt khá nặng, độ dài của xích sắt giới hạn khoảng cách di chuyển đến nửa căn phòng, không thể ra đến cửa để nhìn ra ngoài những 1ỗ tròn nhỏ trên cửa sắt. Tôi đếm 49 lỗ tròn bằng đầu ngón tay cái, đục thành 7 hàng đều đặn. Bên dưới là một ô nhỏ mỗi bề khoảng 10 cm được đóng lại, qua cửa ô này bên ngoài chuyển cơm vào cho từ trong xà lim.

Tôi đang quan sát chung quanh căn phòng – nghe tiếng gọi bên ngoài.
– Angola, làm việc “em” mới vào đi.
Có tiếng từ người khác:
– Em mới vào bị còng còn sợ để cho em lấy lại bình tĩnh đã.
Tiếng người lúc đầu tiếp theo:
– Đ.M. sợ cái gì, đã chịu chơi bị bắt đừng sợ, hỏi em bên ngoài có gì lạ chưa?
Ở trong xã lim tôi chưa nhân biệt hướng phát ra những tiếng nói của những người ở xà lim khác. Tôi vẫn lặng thinh để tiếp tục nghe và hiểu sinh hoạt ở chung quanh.


Có tiếng gọi:
– Mười ba, mười ba bị bắt về tội gì? Ở đâu? Cho biết tên.
Tôi đáp:
– Tôi phản cách mạng, ở Trương Minh Giảng – tôi tên là Thu ( tôi thấy nói tên mình ra không cần thiết và cũng không có ích lợi gì nên chọn một tên để trả lời những câu hỏi tò mò).
Tiếng người khác hỏi:
– Phản cách mạng, nhưng ở tổ chức nào, bị bắt đông không?

Tôi trả lời:
– Tôi chưa rõ.
Có tiếng một người nói với tôi:
– 13 chọn một cái tên để anh em nói chuyện với nhau, đừng lo sợ gì, anh em ở đây tốt cả, vài ngày rồi quen.
Lúc đó tôi mới để ý, mọi người đều chọn một cái tên gọi riêng để khi gọi nhau bọn cán bộ nghe không biết phòng nào nào chuyện, chúng chỉ đập cánh cửa thình lình đe dọa, nếu chúng bắt được người nào nói chuyện sẽ bị còng kỷ luật. Các tù nhân ở xà lim dùng những tên các quốc gia để gọi nhau như Angola, Nicaragua, Somalia v.v… Tôi cũng bắt đầu nhập vào sinh hoạt chung của họ, tôi nói:


– Gọi tôi là Việt.
Ngày đầu tham dự vào sinh hoạt chung như vậy tạm đủ, nên tôi không tiếp tục trả lời các câu hỏi tiếp theo của họ nữa.
Quan sát quanh phòng giam – trên tường có nhiều vết bẩn do người tù giết muỗi hay rệp, trây kéo máu thành từng vệt. Tôi thấy hơi lo ở trong lòng, muỗi và rệp nhiều chắc là khó ngủ, làm sao giăng được chiếc mùng trong trường hợp 4 bức tường trơn trợt ít nhất là để ngăn muỗi, rệp thì không có cách gì cản chúng được ngoài giải pháp chờ cho chúng bò ra rồi giết từng con. Những người tù ở trước đã khắc tên và ngày ở của họ trên tường và những dấu gạch ghi ngày họ ở.


Tò mò tôi tìm đọc hết, đã có 5 người ở trong xà lim này sau 1975, người ở ít nhất là 27 ngày và người lâu nhất là 4 tháng 23 ngày, người này còn làm cả một bài thơ, lời thơ mạnh và phóng khoáng. Dưới bài thơ khắc tên Huệ Nhật, tôi nghĩ không chừng đó là một nhà sư. Nghĩ đến ở 4 tháng trong xà lim tôi thấy hơi ngán, không biết tôi sẽ ở bao lâu trong này chắc chắn buồn lắm.


Tôi phải làm sao tìm ra cách sống cho thích hợp với hoàn cảnh này, để có thể chịu đựng và sống được với không khí ẩm thấp, thiếu ánh nắng, tôi sợ cho bệnh phổi của tôi có thể tái phát. Như vậy vấn đề giữ sức khỏe để chịu đựng trong những ngày tù dài là một thách thức lớn mà tôi phải cố vượt qua. Đả bị tù Cộng sản hoặc là chết thật sớm cho khỏe thân; đời người ai cũng phải chết, tôi không bao giờ nghĩ là phải tự tìm cái chết dù ở hoàn cảnh nào. Từ ngày Cộng Sản chiếm miền Nam, có nhiều người tự tử chết, có người đã giết tất cả vợ con trước khi tự tử, có lúc tôi cũng nghĩ là chết là giải thoát. 


Lúc đó tôi mới thấy tự tìm cái chết cho mình không phải dễ và đó là một hình thức can đảm. Tôi không có can đảm để làm chuyện đó. Rồi từ khi nhận được những dấu hiệu cho thấy tình hình đất nước không phải tuyệt vọng, Việt cộng chiếm miền Nam không phải đã kết thức một cuộc chiến tranh, nó chỉ kết thúc một giai đoạn lịch sử và nó khởi đầu một giai đoạn lịch sử mới. Những biến chuyển chính trị mới trên thế giới sẽ có ảnh hưởng mạnh đến tình hình ở Việt Nam, và Cộng sản chắc không thể độc tôn đặt nền cai trị lâu dài trên đất nước.


 Từ đó tôi bắt đầu hy vọng, và cố phải sống, trong hoàn cảnh tệ hại nhất cũng phải sống, dù không để làm gì, chỉ để nhìn thấy những chuyển vận của lịch sử dân tộc và Cộng sản phải tiêu vong là sung sướng lắm. Tuy tôi đã bị bắt, nhưng tôi đã có nhiều hy vọng là tương lai sẽ biến đối, nên phải sống được cho đến ngày ra khỏi tù. Nếu ra khỏi tù với một thân thể tàn tạ cũng là một sự thua cuộc, và nếu chết trong nhà tù lại càng thua nặng hơn.


“Lịch sử thế giới đã chứng minh một nước đã được Cộng sản hóa thì không bao giờ trở ngược lại được”, chú em Luật sư của tôi, và mấy người Luật sư trẻ bạn của chú ấy sau khi đi sinh hoạt ở Hội Trí Thức Yêu Nước về, buồn bã thuật lại lý luận đó với tôi, đồng thời họ lại cam phận. Giới trí thức ở miền Nam đa số bắt đầu xem lý luận đó như là để biện minh cho thái độ chịu đựng và đầu hàng. Dập tắt đóm lửa lương tâm của họ trước những chướng tai gai mắt đang mỗi ngày mỗi gia tăng do chính quyền mới và lớp giai cấp mới chủ nhân ông của xã hội mới đem lại.



Trong những trường hợp đó, tôi đã nhiều lần giải thích cho một số bạn bè thân quen. Tôi nói với họ rằng lối giải thích của Hội Trí Thức Yêu Nước là lối giải thích lịch sử một cách tiêu cực, một cách “chết” dựa trên những hiện tượng quá khứ. Còn lịch sử một nước là những diễn biến sinh động khởi nguồn từ thực tại đời sống của người dân, do đó chưa có nước Cộng sản xoay chuyển trở lai chứ không phải là không có.


Dựa vào sự chuyển động trong khối Cộng sản từ các quốc gia Đông Âu đòi độc tập hoạch định chính sách đôi với Liên Xô, từ mâu thuẫn Liên Sô – Trung Quốc, và phong trào “thực dụng” của Đặng Tiểu Bình, từ sách lược mới của Hoa Kỳ và các nước Tư bản với chủ thuyết 4 thế giới của Brezinski – tôi nói với họ là phải hy vọng tình thế đảo ngược – với lòng dân miền Nam nhất là từ những người nông dân, công nhân miền Nam không dễ dàng chấp nhận chế độ xã Hội Chủ Nghĩa, thì phải hy vọng là sẽ có đảo ngược lại.


Sức mạnh của dân tộc là do sự đòan kết của mọi tầng lớp người dân nhưng muốn biến tiềm năng thành một lực lượng phải có một lớp người tiên phong đứng lên, tạo cơ hội để kết hợp. Tầng lớp người đó trong lịch sử dựng nước và giữ nước Việt Nam là lớp sĩ phu; lớp người trí thức luôn luôn hiểu rõ và mạnh đạn nắm trách nhiệm lịch sử, dù không phải lúc nào họ cũng thành công. 


Nhưng tinh thần yêu nước của lớp sĩ phu nếu nhất thời chưa đánh đuổi được ngoại xâm, thì họ cũng ẩn tàn trong quần chúng để duy trì sức sống của dân tộc. Từ khi tiếp xúc với nền văn minh mới con người trong xã hội bị phân công triệt để theo sự phát triển kinh tế và xã hội theo mô thức Tây phương. Người trí thức được chuyên môn hóa hầu như tách rời nhiệm vu tinh thần của họ đối với đất nước, nên họ dễ thỏa hiệp với ngoại bang cũng như với kẻ thù xâm chiếm đất nước, một trong những lý do họ biện luận là người kỹ thuật phi chính trị.


Phần nữa có một thời mà lịch sử Việt Nam không được giảng dạy tại các trường học, học sinh chỉ cần học lịch sử mẫu quốc, do đó sự gắn bó của trí thức và tổ quốc không được vững chắc.
Tự ý lẩn tránh trách nhiệm đối với lịch sử dân tộc, đương nhiên tầng lớp trí thức mất sự kính trọng của dân chúng; dẫn tới sự khủng hoàng triền miên về lãnh đạo.

Trước l975, miền Nam chiến đấu chống Cộng Sản, nhưng hầu như mọi người giao khoán nhiệm vụ chống Cộng cho người lính tại chiến trường, để người lính trực diện chống Cộng sản – còn người trí thức hoặc né tránh, hoặc thỏa hiệp ngầm với Cộng sản – hoặc tự coi mình như không dính líu tới cuộc chiến. 


Nói về nhiệm vụ chống Cộng tôi hổ thẹn với cái vốn học hỏi của mình Xuất thân từ một trường huấn luyện cán bộ chính quyền cao cấp mà chúng tôi chỉ được dạy về lý thuyết Cộng sản một cách lờ mờ rồi ra đi làm việc thì làm quen với những khẩu hiệu chiến tranh tâm lý thật nhàm và thật rẻ tiền. Người ta chỉ dạy cho mọi người biết là Cộng sản tàn ác, Cộng sản độc tài, nhưng người ta không nói rõ là chế độ Cộng săn nó làm thay đổi mọi cơ cấu xã hội như thế nào. Trong cuộc cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa thì các định chế xã hội được tố chức làm sao. Trong cách tổ chức đó thì mọi tầng lớp dân chúng phải thiệt hại đến mức nào.


Một Tổng thống tự xưng là chống Cộng nhất như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thì chính quyền của ông không có cơ quan nghiên cứu chính trị để chống Cộng – Văn phòng phụ tá chính trị chỉ nhằm mục đích triệt hạ các phe phái đối lập (là những thành phần chính trị Quốc gia khác) và tổ chức mua chuộc các Dân biểu Quốc Hội để buôn bán lá phiếu có lợi cho cá nhân ông Tổng thống.
Nằm trong xà lim đầu óc nghĩ miên man hết chuyện này sang chuyện khác. Tôi xấu hổ khi nghĩ đến cái hôm tham dự học tập tại Bộ Nội Vụ cũ để lấy cái giấy cải tạo 3 ngày, tôi cũng làm theo mọi người viết lời buộc tội mình có lỗi với nhân dân vì theo đế quốc Mỹ chống lại cách mạng.



Các xà lim khác bỗng nhiên im lặng, tôi nghe tiếng dép lẹp xẹp của tên cán bộ sáng nay dẫn tôi vào xà lim, rồi tiếng mở khóa cửa chính, và nhiều tiếng lách cách mở ra, và một người tù lao động đưa vào cho tôi một chén cơm và một chén nước muối. Giờ cơm chiều, các phòng khác chỉ mở cửa ô đưa cơm vào; tôi bị còng không đi được đến cửa để nhận cơm nên phải mở cả cửa để mang cơm vào cho tôi.

Từ sáng tôi chưa ăn mà không thấy đói, nhưng tôi muốn ăn cho xong bữa, làm bổn phận đối với cơ thể. Mùi com hẩm lại đầy cả thóc, ngay miếng đầu tiên tôi đã thấy nghẹn và đắng ở cổ không nuốt nổi. Tôi cố gắng ăn ba muỗng cơm, rồi nuốt không trôi tôi bỏ không ăn bữa đó.


Khi cửa sắt được kéo 1ại, và tiếng một người tù ở xà lim nào đó bên ngoài vang lên “Thái lai, thái lai” thì khu xà lim lại bắt đầu ồn ào, người ta kêu nhau, hỏi thăm sức khỏe, hỏi thăm người đi “làm việc” về có gì lạ không? – và tôi nghe một giọng thật ấm trầm hỏi tôi:
– Việt ơi, Việt khỏe không, ăn cơm chưa – ráng mà ăn để giữ sức khỏe, rồi thì quen thôi, phải ở trong này lâu đó, gắng chịu đựng.
Tôi trả lời:
– Ráng ăn mà không nổi.
– Cố nuốt đi, vài ba bữa thì thấy đói, cơm ăn không đủ đâu, đứng bỏ uống lắm.


Tôi hỏi:
– Anh ở xà lim lâu chưa?
– Từ ngày bị bắt đến nay hơn 4 tháng rồi.
Tôi hỏi:
– Hơn 4 tháng, lâu quá vậy.
Người kia đáp:
– Không lâu đâu, số 15 từ ngày bị bắt đến giờ hơn l5 tháng rồi đó – muốn nói chuyện với bên cạnh cứ gõ tường rồi nói, khi nghe thì áp tai vào tường mà nghe. Cứ nói chuyện thoải mái, đừng sợ gì cả…
Bên ngoài có tiếng nói lớn:
– Im lặng nghe báo.
Cả khu xà lim đều yêu lặng tôi cố lắng tai nghe nhưng không nghe thấy gì hết.


Một lúc có tiếng lúc nãy nói lên:
– Điểm báo.
Xong anh ta tường hình tin tức báo chí có hai điểm quan trọng là “Việt cộng bị bác đơn xin vào quỹ Tiền Tệ Quốc Tế”, trong đó có nhắc là Việt cộng đã được gia nhập Ngân hàng Á Châu – và tin thứ hai liên quan đến việc tranh chấp trong nội bộ
Trung Quốc sau khi Mao Trạch Đông qua đời.



Sau khi người điểm báo trình bày các chi tiết khu xà lim bắt đầu thảo 1uận, ai cũng sung sướng vì tin tức Hà Nội không được nhận vào Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và họ không tin là Hà Nội được gia nhập Ngân hàng Á châu thay thế vị trí của Việt Nam Cộng Hòa cũ. Tất cả mọi người đều suy luận và diễn dịch tin tức hoàn toàn chủ quan theo ước muốn của họ và theo chiều hướng suy nghĩ bất lợi cho chính quyền Hà Nội. Rất ít người chú trọng đến các tin tức ở Trung Hoa, người ta vẫn theo một nếp suy nghĩ đã thành nếp là nếu đã bị Cộng sản chiếm đóng, thì mô thức Cộng sản Liên Sô vẫn khá hơn Cộng sản Trung Quốc.


 Phần lớn người ở trong khu xà lim bị bắt từ 1975 chưa biết đến những diễn biến chính trị ở Trung Quốc từ khi Đặng Tiểu Bình xử lý Quốc Vụ Viện vì Chu Ân Lai bị bịnh nặng và khuynh hướng thực dụng của Đặng Tiểu Bình có thể đem lại một hy vọng thay đổi ở Trung Quốc sẽ có ảnh hưởng đến tình hình chính trị ở Việt Nam. Anh em đang thảo luận thì có tiếng hát: “Ở tận sông Hồng em có biết, quê hương anh có dòng sông, Vàm Cỏ Đông, ôi Vàm Cỏ Đông…” thì mọi người nín bặt, lúc đó tôi nghe tiếng dép của tên trưởng khu đi vào, tiếng rổn rảng tra chìa khóa vào ổ khóa của hắn và tiếng chửi của hắn:


– Đ.M. thằng nào báo động, tao bắt được tao còng chéo cả hai chân cho biết thân.
Vài tiếng cười khúc khích vang lên, làm tên trưởng khu càng tức giận – hắn đi vào đạp cửa rầm rầm vừa chửi rủa tục tĩu.

Ở vài ngày tôi biết được sinh hoạt của khu xà lim này, ở các xà lim bên ngoài có người canh, khi tên cán bộ đi ra ngoài xa, anh sẽ hô lên “đã đến hồi thái lai”, nếu bên trong anh em không nghe tiếng dép của tên cán bộ mà không nghe anh báo, có người sốt ruột thường hỏi “thái lai chưa?”, lúc đó thường là tên cán bộ đứng lại rình bắt người nói chuyện.


Trong khi anh em nói chuyện nếu thấy bóng đáng tên cán bộ đi vào anh em sẽ hát lên một câu trong bài hát “Trường Sơn Đông” hay bài “Vàm Cỏ Đông” là mọi người nằm im. Các xà lim đều kín vì xây trong nhà, nên âm thanh vang, đứng bên ngoài chỉ nghe tiếng nói mà không phân biệt được xà lim nào nói nếu không đứng gần. Do đó, ít anh em bị bắt lúc nói chuyện.


Mỗi chiều sau giờ cơm, các phòng tập thể sinh hoạt học tập, họ được phát báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân để đọc, một anh trước là chủ báo, ở xà lim số 4 sát vách với tập thể l – nên khi phòng l sinh hoạt, anh áp tai vào tường để nghe, sau đó có mục điểm báo. Khi anh áp tai nghe thì khu xà lim phải giữ im lặng.
Đó là sinh hoạt thường ngày của khu xà lim, trong giờ hành chánh thường là nằm ngủ hay chờ đợi đi làm việc – tức là gọi đi hỏi cung – mỗi ngày được phát hai lần cơm – mỗi lần một chén ăn với nước muối.


Khu xà lim im lặng, tôi nằm suy nghĩ vẫn vơ rồi ngủ lúc nào không biết. Tiếng đập của rầm rầm của tên cán bộ làm tôi thức đậy, hắn đi kiểm soát lần chót và báo giờ giới nghiêm 9 giờ tối, mọi người phải giữ yên lặng – nếu không có báo giới nghiêm chắc tôi không đoán được giờ giấc – vì khu xà lim ban đêm được thắp sáng bởi hai ngọn đèn trên xà nhà, chiếu ánh sáng vào xà lim do lỗ thông hơi trên trần.


Sau thời gian căng thẳng vì sợ bị bắt, đến chung bị bắt dường như trút được cái mối ưu tư, giấc ngủ vừa qua tuy ngắn nhưng thật ngon. Tôi cảm thấy nhẹ nhàng và bình thản. Đáng lẽ ra bị bát, còng một chân vào xà lim tôi phải lo sợ nhiều lắm. Nhưng tôi không thấy cái cảm giác lo sợ đó. Từ lâu lắm rồi tôi đã yên trí là nếu tôi không tìm cách thoát được thì thế nào cũng bị bắt.


Ở với nhau lâu, dường như mọi người cũng hết chuyện để nói, có lúc khu xà lim thật yên tĩnh – năm nghe rõ cả tiếng muỗi vo ve, bị muỗi đốt không khó chịu bằng nghe tiếng muỗi ở bên tai. Thấy bị ngứa ở nhiều nơi trên thân thể, lần tay ở những nơi bị ngứa bắt những con rệp đã cắn no máu đưa lên tường giết, lấy đầu ngón tay kéo một vệt dài, lúc đầu máu trong thân con rệp màu đỏ, một chốc nó biến thành màu đen, nhiều lúc tự nhiên đưa tay lên mũi ngửi cái mùi hôi của rệp. Trò bắt giết và ngửi máu rệp cũng kéo dài được cả tiếng đồng hồ. Thời gian nhiều quá, ngủ không được, phải làm một cái gì đó cho có sự chú tâm; nếu không thì đầu óc nhức buốt vì những mối ân hận, sự lo âu về gia đình. 

Nghĩ đến ba mẹ và mấy em ở Đà Nẵng không biết sẽ làm ăn sinh sống như thế nào. Chỉ còn hai đứa út đi học vì còn học cấp Hai, những đứa leo lên cấp Ba và Đại Học đều phải nghỉ vì lý do lý lịch có anh là “ngụy quyền”. Việc học hay nghỉ cũng không quan trọng lắm, nhưng việc mấy chú đó phải đi nghĩa vũ thì đau lắm. Làm sao ba mẹ tôi yên lòng tình trạng mấy anh em tôi đứa lớn đi tù, đứa nhỏ lại đi lính bảo vệ chế độ, mà cả hai trường hợp đều có thể bỏ mạng, bỏ mạng môt cách vô ích cho một chế độ đi ngược lại quyền lợi dân tộc như chế độ Cộng sản tồi tệ này.


Vợ và hai con tôi sống ra sao? Trong hoàn cảnh rất khó khăn, không nghề nghiệp, không vốn liếng, nhà cửa. Rồi áp lực phải đi kinh tế mới, một người đàn bà với hai đứa con nhỏ làm sao sống nổi nếu bị cưỡng bức đưa lên những vùng núi non chưa khai phá, nước độc. Những suy nghĩ làm tôi càng ân hận vì quyết định không di tản, cái quyết định ở lại thật ngu xuẩn, chỉ vì nhất thời bức xúc, tức tối những người lãnh đạo đê hèn bỏ chạy trước địch quân mà không chiến đấu. 


Tâm trạng rối bời phức tạp của tôi những ngày trước khi Saigon sụp đổ là vậy, có lúc tôi nghĩ thà chết còn hơn chạy theo các lãnh tụ đê hèn, những tướng lãnh tham những tồi bại bỏ thuộc cấp mang của cải chạy trốn, tôi cảm thấy nhục khi nghe đài VOA tường thuật lại lời tuyên bố của Thị trưởng Los Angeles ràng “nước Mỹ và nhân dân Mỹ không muốn nhận những người đồng minh hèn hạ, tham nhũng, buôn lậu ma túy”. Đài VOA loan tin một ngân hàng ở Mỹ phải đóng cửa để đếm tiền của ông Trang Sĩ Tấn. Ông Trang Sĩ Tấn nhà giáo, rồi đi làm thẩm phán, rồi Cảnh sát. Ông đã giàu như vậy Tôi cứ nghĩ một người chọn nghề nhà giáo, làm Thẩm phán, ít ra lúc trẻ cũng có chút tâm hồn, hiểu rõ dân chúng Việt Nam đang nghèo đói khổ sở, dân nghèo thì trí thức cũng có trách nhiệm chứ đâu người trí thức nào lúc nghèo thì đứng với dân, lúc làm quan lại trở nên kẻ vơ vét, đối nghịch lại với dân. Tình trạng trí thức như vậy thì đất nước làm sao không suy vong.


Đài VOA và BBC cũng loan tin tướng Đặng Văn Quang không được Mỹ, Canada nhận cho cư trú vì là kẻ buôn lậu ma túy. Lúc đó tôi vô cùng xót xa.
Đại đa số các viên chức, cán bộ, sĩ quan cấp dưới ở tuổi trung niên mang tiếng ở trong một chính quyền tham nhũng mà giờ đây mất nước, bản thân phải đi tù, vợ con đói khổ trước hơn cả mọi người dân.


Người ta, nhất là các đài ngoại quốc chữi chính quyền miền Nam tham nhũng, tôi thấy đau đớn và sĩ nhục vô cùng.Tôi không muốn nhục khi chạy trốn, tôi ở lại nhưng không can đám để tự tìm cái chết thì tôi lại phải chịu một cái khác. Làm thân một người mất nước, mà lại là đàn ông ở lứa tuổi trách nhiệm mất nước như tôi thì đàng nào cũng phải nhục nhã ê chề, nhưng lúc đó tôi chỉ nghĩ đến cá nhân tôi, nên đã quyết định sai lầm – đến khi tôi nghĩ được rằng đáng lẽ tôi phải ra đi, ra đi vì sự sống còn của gia đình và các em nhỏ, vì những đứa con, thì đã muộn. 


Và càng thấy ân hận hơn nữa khi đã nhận định được là Cộng sản dù nhất thời chiếm miền Nam thì lịch sử đấu tranh của dân tộc vẫn chưa kết thúc, lịch sử đã qua một trang khác, mà ngày 30-4-l975 là thời điểm đánh dấu một đỉnh cao, nói như ngôn từ của Cộng sản, nhưng qua cái đỉnh cao đó thì lịch sử của đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu đi xuống khi họ chuyển từ ngọn cờ Giải Phóng Dân Tộc sang ngọn cờ Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa (nói theo thuật ngữ của họ).


Tôi mơ ước bạn bè của tôi và cả những người có trách nhiệm làm mất miền Nam sau khi chạy trốn thoát thân, biết kiểm điểm lại tội lỗi của mình, rút ưu khuyết điếm của cuộc chiến đấu vừa qua, gạt bỏ đi những tàn tích cũ, những thói hư tật xấu do hậu quả của lịch sử một trăm năm bị nô lệ Pháp để làm lại cuộc chiến đấu mới. Người chiến sĩ không phải một lần thua trận là hết – đã là chiến sĩ phải đứng lên chiến đấu sau một lần bị ngã. Phải chiến đầu trở lại. Nếu sau lần ngã rồi nằm im luôn thì không xứng đáng là một chiến sĩ, không xứng đáng là một quân nhân.


Tôi mong Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, các Tướng lãnh đã chạy ra ngoại quốc không nằm hưởng những của cái thu góp – sống cuộc sống xa hoa ngoại quốc. Tôi mong họ tiếp tục tập họp lại những người đã chạy, nhận rõ những lỗi làm của mình với dân với nước — nếu họ không làm được như vậy, họ không xứng đáng mang danh dự là một chiến sĩ. Tôi tin tưởng vào sức sống của dân tộc, vào tinh thân chống Cộng của toàn đàn đang biểu lộ rất nồng nhiệt chỉ thời gian ngắn sau khi Cộng sản chiếm hoàn toàn nước Việt Nam, thật nhạy bén khi họ nhận rõ Xã Hội Chủ Nghĩa không phải là một mô thức cần thiết để xây dựng đất nước, sự từ khước văn hóa Cộng sản ở mọi người dân Việt Nam kể cả những người nông dân trước kia đội gạo nuôi kháng chiến và kể cả tiềm tăng những người đảng viên Cộng sản tâm huyết với sự tồn tại và phát triển của dân tộc và đất nước như chú Bình và theo như lời chú Bình, thành phần này không ít trong hàng ngũ đảng viên Cộng sản họ chỉ chờ thời cơ làm một cuộc chiến đấu mới.


Từ suy nghĩ này đến suy nghĩ khác, tôi đã chìm vào một giấc ngủ chập chờn lúc trời gần sáng, tôi biết sáng vì có tiếng xe chạy ngoài đường sau giờ giới nghiêm. Trong giấc ngủ tôi nằm mơ thấy lại thời thơ ấu an bình khi tôi là một học sinh mới vào những lớp đầu Trung học, nơi tôi có những người bạn học nam cũng như nữ mà suốt đời tôi không quên. Cuối cùng hình ảnh vợ và hai con tôi hiện ra rất rõ trong giấc mơ của tội…


Đến ngày thứ tư ở xà lim tôi mới ăn hết được phần cơm và kể từ đó tôi bắt đầu thấy đoi. Cách sống rồi cũng quen dần, để qua thời giờ khỏi suy nghĩ đến đau đầu, tôi tập thể dục, rồi tắm, cái còng ở chân có làm vướng khó chịu, nhưng xoay xở một lúc cũng quen dần.


Theo lời chỉ dẫn của người tù trước, mỗi ngày tôi đều xoa bóp khắp thân thể, nhất là cái chân phải bị còng để khỏi bị liêt. Phương pháp điều thân, điều túc và ngồi trầm tư kiểu Yoga tôi đã tập từ hơn 10 năm nay giúp ích cho tôi rất nhiều. Chỉ vài ngày là tôi có thể ngủ được mà không còn thao thức – ngủ không giờ giấc, lúc nào ngủ được thì ngủ, thức thì tập, tắm, ngồi trầm tư. Biết ban ngày với hai lần đưa cơm vào khoảng 9 giờ sáng và 4 giờ chiều. Thời gian nghe và điểm báo của khu xà lim tôi không tham dự tích cực vì tin tức đã không có gì mà anh em tù thì bình luận theo chủ quan của họ. Ai cũng muốn và mơ ước chế độ Cộng sạn đổ ngay, để người tù về trong huy hoàng, nhưng không hề nghĩ làm thế lực nào và bằng cách nào để lật đổ chúng. 


Ai cũng nghĩ là Mỹ sẽ trở lại, nhưng không nghĩ là điều gì khiến Mỹ trở lại và trở lại bằng cách nào. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng hình như người ta không dám nghĩ tới thực tế vì thực tế nhiều khi thê thảm và phũ phàng cho thân phận của họ. Họ bám víu vào những hy vọng bọt bèo để làm thứ thuốc an thần mà sống. Tôi cũng mơ ngày Cộng Sản đổ và tôi tin là chế đô Cộng sản không tồn tại vĩnh viễn, nhưng ngày nào sụp đổ hẳn còn lâu và phải tùy vào sức mạnh của toàn dân, sức đề kháng hiện có tiềm tàng nhưng chưa làm sao tập họp được một lực lượng đối kháng mạnh mẽ. Phải làm sao để có tổ chức làm tất cả công chuyện cần thiết để lật đổ Cộng sản khi thời cơ đến thì mới có hy vọng.




Sinh hoạt khu xà lim theo nếp hàng tuấn ít thay đổi. Hai tuần một lần nhận quà vào thứ năm thứ năm tuần còn lại thì tên cán bộ xuống ghi tên mua hộ thuốc lá. Hắn nhớ là đưa tôi giữ l4 đồng để mua thuốc khi đang ký tiền và tư trang khi nhập trại. Tôi không thường hút thuốc, nhưng tôi cũng nhờ hắn mua một gói Bastos xanh và một hộp diêm. Thuốc lá đen lúc đầu cảm thấy đắng, hút một lần không hết một điếu, dụi tắt, lần sau hôi và khai khai. Nhưng chỉ vài ngày sau đã thấy thuốc lá ngon và thật cần khi thấy đầu óc trống rỗng mà không ngủ được.


 Mỗi tuần vào sáng thứ bảy có chuyển trại, nhiều người chuyển tới lui nhiều lần từ xà lim ở Sở Công An này qua lại Lê Văn Duyệt tức đề lao Gia Định cũ. Ngày chủ nhật không làm việc, những anh em mới đến hoặc chuyển trại tới lại thông tin tức cho nhau. Một số người ở xà lim từ khi bị bắt đến nay đã hơn l6 tháng chưa được ra tập thể. Trong đó tôi biết có thầy Vũ Quốc Thông đang ở số l0. Thầy bị bắt tháng 6-1975 sau hạn trình diện học tập 10 ngày.


Lúc đầu nôn nao chờ đợi để biết mình bị ghép tội gì cụ thể ngoài tội danh chung là phản cách mạng. Cũng để biết thử chúng nó biết mình đến đâu. Sào có bị bắt không, và kế hoạch đi đường bộ của Thảo, Sào và tôi có bể không. Những thắc mắc suy nghĩ của tôi xoay quanh những vấn đề đó. Anh Tống Đình Bắc ở phòng 15 bên cạnh nói cho tôi biết theo kinh nghiệm của anh bị giam ở xà lim từ tháng 5-l975 thì trường hợp mới bị bắt mà “tồn kho” ở xà lim nhiều tháng không được hỏi tới thường là: Công an đã nắm hồ sơ tội trạng của mình, và vụ án không còn bắt thêm người khác – 


Anh khuyên tôi đừng nôn nóng trông chờ, việc gì đến nó đã đến rồi. Nhiều anh em thiếu kiên nhân vội xin đi làm việc. Bọn Chấp pháp rất rành tâm lý và có thì giờ để nhận xét phạm nhân để áp dụng phương pháp hỏi cung, từ hăm dọa, đánh đập, hứa hẹn, nói chuyện tâm tình để khai thác cung từ. Thời gian tạm giam là vô hạn định. Trừ trường hợp vụ án có nhiều người và cần khai thác để biết thêm thì chúng hỏi cung ngay – Ngoài ra chúng giam thật lâu trước khi hỏi. Người tù bị giam lâu rất dễ sơ hở, phần vì lo sợ, cô đơn và muốn biết số phận mình được định đoạt như thế nào? Kinh nghiệm về vụ án Hồ Con Rùa – vụ án bị bắt nguội.


Anh em người Thái và Nùng bị bắt rất kiên cường không chịu khai, không nhận tội – thời gian kéo dài mấy tháng – không may, trong số anh em có người bị đau ruột thừa được đưa đi bệnh viện Nguyễn văn Học chữa trị Chấp pháp đã nghiên cứu lai lịch người thanh niên đó, cha mẹ mất sớm ở vói bà cô suốt đời sống cô độc. Tên Chấp pháp đã đến tận giường bệnh săn sóc an ủi – Một đàng có âm mưu thuyết phục, một đàng vô tình mắc bẫy. Đến khi hết bịnh nạn nhân “cảm mến chấp pháp”, anh đã nhận mình là người đặt mìn tại Hồ Con Rùa và khai ra tất cả đường dây tổ chức anh biết.



Anh Bắc khuyên tôi thật kiên nhẫn – suy nghĩ kỹ những điều có thể nhận và những điều không nên nhận dù đã làm và khai trước sau như một. Bọn Chấp pháp khai thác từ điểm sơ hở của can phạm để truy phăng dần – Thực tế chúng biết rất ít vì kém khả năng thâu lượm tin, trừ trường hợp tố chức móc nối nhằm công an.
Tôi may mắn đã học được kinh nghiệm của anh Tống Đình Bắc ngay những ngày đầu vào tù.

Càng ngày tôi càng vững tâm và thoải mái sống trong xà lim vì biết tôi sẽ ở lâu đài trong đó. Những hôm đầu thấy dấu khắc tên Huệ Nhật và thời gian ở hơn 4 tháng tôi đã sợ – Bây giờ biết anh Tống Đình Bắc, thầy Vũ Quốc Thông đều đã ở xà lim 15 tháng tôi phải chuẩn bị tư tưởng và sự chịu đựng. Có người đã từng ra ở tập thể cho biết ở xà lim sướng hơn ngoài tập thể. 

Phòng tập thể thiếu nước, chật chội, đụng chạm nhau, mỗi ngày sinh hoạt học tập, không được “tự do” như ở trong xà lim. Lần đầu tiên tôi được nghe những người tù gọi chốn xà lim là “thiên đường” khi so sánh tương đối giữa xà lim và tập thể. Trung tuần tháng 10 khu xà lim nhiều thay đổi, nhiều phòng được chuyển ra tập thể nhường chỗ cho người mới bị bắt. Có khi chuyển trong ban đêm. Hai mươi sáu phòng xà lim chỉ còn Bạch Mã số 7 bị cùi và tôi ở số l3. Các phòng khác đều là dân mới. Không còn người điểm báo ở phòng số 4, buổi chiều sau bữa ăn khu xà lim yên lặng hơn trước. Tôi đã biết người điểm báo đó là anh Ngô Công Minh, chủ báo Lẽ Sống mới được bổ nhiệm Phụ Tá Bộ trưởng Thông Tin thời cuối của chính phủ Trần Thiện Khiêm. Những người mới đa số thuộc “Mặt Trận Giải Phóng” do ông Trần Trung Đình hiệu trưởng trường Nhân Chủ lãnh đạo. Tổ chức chưa có hoat động cụ thể, bị bể trong giai đoạn kết nạp – số người bị bắt ước tính gần 500; kết nạp ồ ạt không chọn lựa nên kết nạp cả trinh sát chính trị của Sở Công An thành phố.


Hơn 20 năm chống Cộng mà người miền Nam biết rất ít về Cộng sản kể cả viên chức cao cấp của chính quyền. Những tài liệu tuyên truyền ở cấp thấp nhất chỉ đem đến kết luận Cộng sản tàn ác, giết người bừa bãi. Cộng sản là nghèo khó chịu đựng. Hình ảnh tuyên truyền đơn điệu nhàm chán về người Cộng sản mắt ốc nhồi, răng vổ, nón cối, dép râu, áo đen ăn sâu vào đầu óc người dân thành phố miền Nam, đến nỗi nếu có hình ảnh khác đi thì người ta không nghĩ là Cộng sản.

 Trước l975, các trạm gác cảnh sát chỉ xét những người đi bộ và đi xe đạp, nên Cộng sản tha hồ xâm nhập vào thành phố bằng xe du lịch bóng lộn. Cái thiên kiến đó, vẫn còn cho đến sau tháng 1-1975. Cộng sản biết điều đó nên tuyển dụng hàng chục người thanh niên con của cán bộ tập kết huấn luyện ăn chơi, nhảy đầm, để tóc dài, ăn nói tự do vung vít, đi xe Honda la cà các nơi đông đảo để làm trinh sát chính trị và nhiều tổ chức đối kháng đã kết nạp những tên trinh sát đó, nên chưa hoạt động đã bị bắt. Vào đến tù người ta mới biết ra thì đã muộn, chỉ thêm mâu thuẫn đổ lỗi cho nhau.



Anh em mới vào bị đưa đi làm việc dồn dập, có người mới chỉ một tuần đã được chuyển đi nơi khác và xà lim lại có khách mới. Tôi biết là tổ chức này còn bị bắt nhiều nữa vì công an đang khai thác khẩn cấp những người bị bắt, không để tồn kho như trường hợp của tôi.
Một hôm số l4 trước xà lim tôi đi làm việc về bị còng kiểu “bên trời bẻ kiếm”, tù xà lim đặt cho cách còng một tay quặt sau lưng qua ngang hông và tay kia quặt ngược qua vai – và số 9 bị còng theo thế “vịt quay” – theo thế này dùng ba cái còng, một còng hai chân, một còng hai tay quặt sau lưng, còn cái còng thứ ba nối hai bên còng lại làm cho người bị còng rút ngược về sau ưỡn ngực ra trước. 

Đó là những thế còng để ép cung – khi hỏi cung Chấp pháp ít đánh hay tra khảo, chúng chỉ dùng hình thức còng để tù nhân chịu đựng không nổi phải nhận khai thêm đồng bọn. Hình thức điều tra này nhẹ nhàng hơn kiểu đánh đập hay quay điện thời cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa nhưng hiệu quả hơn. Người bị đánh thì đau đớn hơn, nhưng chịu đánh một lúc thì tê dại người đi không cảm giác, vì thế chịu đựng được lâu hơn và lúc bị đánh đầu óc dồn vào việc tránh né chịu đựng hoặc cắn răng căm thù, nên không thấy khổ sở. Ngược lại với những thế còng chân tay rồi bỏ cho tội nhân nằm yên tĩnh. Người tù thấy khó chịu rồi đau đớn rã rời, ngồi thế nào cũng không yên, cuối cùng phải kêu xin nhận khai.
Anh em khuyến khích l4 và 9 chịu đựng. Nhưng rồi sức người có hạn, kẻ trước người sau số 9 và l4 xin đi làm việc.
Mặt trận Quốc Gia Giải Phóng đã bị bắt sạch. Sau này chuyển trại nhiều nơi, tôi nghe nói anh Trần Trung Đình và Ban Tham Mưu bị giam ở xà lim Chí Hòa, kết quả vụ án ra tòa, Trần Trung Đình và một số người bị án tử hình.


Bên cạnh tôi, số 11 lúc đó là Thăng, một Thú Y sĩ, Ủy viên Trung Ương của Mặt Trận, chức vụ như là Tư lệnh quân đã tố chức được 4 Sư trưởng 4 Sư phó và chứng ăn tổ chức hơn 10 Trung đoàn trưởng. Cách thức tổ chức hệ thống quân sự là tổ chức khung, người nhận Sư trưởng phải tổ chức được 4 Trung đoàn trưởng và 4 Trung đoàn phó – Trung đoàn trưởng phải tổ chức 4 Tiểu đoàn trưởng và 4 Tiểu đoàn phó và cứ thế đến cấp Đại đội trưởng và Đại đội phó. 

Về chính trị tôi được giải thích qua thuyết Dân Tộc Nhân Bản và Kinh Tế Bình Sản. Đây là mặt trận đối kháng do các chính trị gia Duy Tân tổ chức. Anh em trao đổi tin tức, phần lớn là những tin không có căn cứ được đồn đãi từ bên ngoài; như tin Tướng Khang và Ngoại trưởng Lắm về họp ở Camp David để thi hành Hiệp Định Paris. 


Tin về các Mặt Trận Phục Quốc như tin Tướng Mã Sanh Nhơn chiếm núi Bà Đen, Tướng Nguyễn Văn Tự chiếm mật khu Lê Hồng Phong ở Phan Rang, Phan Thiết, Tướng Bùi Thế Lân chiếm Thất Sơn, Tướng Dương Hiếu Nghĩa chiếm bờ biển Vĩnh Bình. Các Đại tá cũ đều được anh em nâng lên hàng tướng lãnh, tôi biết những tin tức đó không xác thực, những Đại tá được nếu tên theo tôi biết một số đã chạy ra nước ngoài và một số đã đi trình diện Ngoài Đại tá Dương Hiếu Nghĩa là người có bản lãnh, rất tiếc ông đã đi trình diện và giờ đây chắc đã ở ngoài Bắc. 


Những Đại tá khác, tôi nghĩ họ không có bản lãnh và ý chí để làm chuyện lớn. Tổ chức đối kháng mới thường mượn tên những nhân vật chế độ cũ để tuyên truyền, để hư trượng thân thế. Đó là một phương thức thông thường nghìn đời trong lịch sử – nhưng nhiều thí dụ lịch sử thành công khi người cầm đầu kháng chiến một mặt mượn danh nghĩa hoặc một nhân vật để làm chuẩn tập hợp, đó là hư, nhưng đồng thời củng cố thực lực để lớn mạnh dần trong đấu tranh. Các tổ chức đối kháng mới từ đây cho tới sau 10 năm tù tôi gặp rất nhiều khuyết điểm là họ chỉ mượn tiếng để hư trương, rồi tổ chức khung, không củng cố được thực lực. Đa số chờ Mỹ đánh đổ Việt Cộng và họ chỉ nắm cơ hội mà thôi.

 CHƯƠNG 7


Tôi đã thèm ăn từ 1âu, khởi đầu là thêm đường, rồi thèm mỡ, giờ thèm đủ thứ, chén com hẩm với nước muối bây giờ quá ngon, không đủ no, ăn vào lưng lửng nhưng ngày nào cũng mong tới giờ ăn cơm, mỗi bữa ăn tôi cố ngồi nhai từng muỗng, nhai thật kỹ, miếng cơm thành ngọt hơn, phải chú ý và kềm để cái lưỡi không cuốn nuốt miếng cơm xuống, lơ đãng một tí là miếng cơm mới đưa vào mồm đã chạy tuột xuống cuống họng một cách tự nhiên và nhanh chóng.


Cái còng nơi chân tôi hơi lỏng ra, tôi đã gầy đi nhiều. Tôi không còn cái thú tắm hàng ngày nữa vì lạnh, nhiệt lượng trong người không đủ giữ ấm cho thân thể bị giữ lâu trong phòng không có ánh sáng mặt trời và thiếu dinh dưỡng. Nhưng tôi vẫn cố tập thể đục đều, phải thắng bản thân mới tập được, nếu không mỗi lần thức dậy chỉ muốn nằm vì cơ thể bải hoải rã rời. Mỗi lần ngồi tập, lắng nghe chuyển động khắp cơ thể thấy như thiếu cái gì, hình như sinh lực từ những tế bào bị rút dần qua ngày tháng. Tôi tập cho quen, và tập quên. Nhưng khó mà quên được. Khó mà đạt được tình trạng hư không.


Cho nên sau mỗi lần tập, lại trở lại thực tế thấy đói nhiều hơn. Và cứ phải uống thật nhiều nước bao tử đầy mới ngủ được. Có hôm thấy hai mí mắt nặng nặng cảm giác thụng hai bên má, bóp vào chân thấy vết lõm sâu xuống không căng trở lại, biết bị phù. Tôi lại cố gắng dằn cơn đói, tôi không uống nước. Bản thân chống chỏi với đòi hỏi của cơ thể đã vô cùng vất vả. Nhưng cuối cùng rồi tôi cũng quen và chịu đựng được. Những giờ tập thể dục và tập Yoga vẫn có lợi, giúp tôi dễ tìm được giấc ngủ. Ngủ là tự do cuối cùng mà tôi đang có. Và ngủ cũng là hạnh phúc duy nhất đang có. Trong giấc ngủ có thể thấy được những điều ước muốn.

Lần đầu tiên được gọi “đi làm việc” (hỏi cung) vào ngày 18-11-1976 tức là kém một tuần đầy hai tháng sau ngày bị bắt.
Khi cái còng được mở ra, tôi cảm thấy nhẹ nhõm bước đi vài bước tôi đã quỵ xuống. Thường ngày tôi vẫn đứng dậy để tập, để xoa bóp tay chân; vậy mà tôi vẫn không đứng vững – tên trưởng khu bảo tôi làm cử động đứng lên ngồi xuống một lúc cho quen rồi nó mới dẫn tôi ra khỏi xà lim, đi ngược lại dãy hành lang về một phòng chấp cung.

Tôi thấy thầy Vũ Quốc Thông đang ngồi phơi nắng ở một góc sân. Cả người thầy đầy cả ghẻ, thầy ngồi chồm hổm chỉ vỏn vẹn chiếc quần đùi bê bêt màu mủ ghẻ, bất giác tôi giơ tay ra trước ánh nắng, da tôi trắng và xanh mét. Nhớ lại lúc mới vào trường hành chánh, thầy Vũ Quốc Thông là viện trưởng, thân hình tròn thấp mập đẩy đà, cái trán cao bóng lưỡng thông minh, bây giờ thành một ông lão tiều tụy ghẻ lở, cái lớp da bụng xệ xuống nhăn nheo như cái bụng con voi già trong sở thú.

Tên trưởng khu bàn giao tôi cho một tên khác, người Bắc, trung niên. Hắn mặc áo sơ mi trắng đã cũ chuyển qua mầu xám, cái quần ka ki màu hỏa hoàng công an may hai pli xếp theo kiểu cũ. Hắn chào hỏi tôi giới thiệu tên là Đắc, chấp pháp, có bổn phận làm việc với tôi.

Thủ tục thẩm cung được chỉ dẫn kỹ càng, tôi ngồi ngay ngắn trên ghế hai chân buông thõng, hai tay đặt trên hai đầu gối không được chéo chân thành chữ ngũ. Trước khi trả lời phải khởi lời bằng câu “báo cáo cán bộ” và xưng hô là tôi.

Hắn giải thích với tôi là chính sách của đảng và nhà nước vẫn giữ phẩm giá cho con người bị bắt, không có hình thức tra tấn đánh đập, hắn không quên so sánh và nhắc nhớ tôi ở chế độ cũ nhân viên thẩm cung đã đánh đập và tra tấn tàn nhẫn nạn nhân, hắn dằn mạnh là tôi là nhân viên Bộ Nội Vụ thì tôi biết rõ điều đó. Tôi ngồi nghe không đáp. Tôi biết là trước kia ngành điều tra của cảnh sát thường đánh can phạm. Tôi không bao giờ chấp nhận lối điều tra man rợ và ấu trĩ của công an mật thám thời Pháp thuộc còn lại đó.

 Nhưng tôi cũng hiểu nhu cầu của cảnh sát thời Việt Nam Cộng Hòa khó tránh sự tra tấn đánh đập vì thời gian tạm giam luật định quá ngắn vả lại đang lúc chiến tranh, địch hoạt động khắp nơi, nên cần kết thúc càng sớm càng tốt để kịp thời phá vỡ âm mưu phá hoại có ảnh hưởng đến sinh mạng nhiều người. Giờ đây Cộng sản có quyền tạm giam vô thời hạn, chúng không cần thiết sử dụng hình thức tra tấn, nhưng đó là nguyên tắc, anh em ở xà lim cũ cũng đã cho tôi biết là khi hỏi cung chúng cũng đánh và biện pháp hay nhất là la lên càng to càng tốt vì ít nhiều, bọn chấp pháp cũng không muốn vi phạm nguyên tắc của chúng đặt ra.


Đắc không chú ý đến thái độ hờ hững suy nghĩ vẩn vơ của tôi, hắn tiếp tục thuyết hình về chính sách khoan hồng nhân đạo của đảng và nhà nước. Hắn nói đều đặn như một người học trò ngoan trả bài thầy giáo. Cuối cùng hắn bảo tôi phải thành thật khai báo vì theo hắn “nhân dân” đã biết cả tội lỗi của tôi. Muốn tôi khai là đo mức độ tự giác để áp dụng sự khoan hồng; nếu ngược lại tôi cố tình giấu giếm, bao biện, quanh co tôi sẽ bị trừng phạt đích đáng.

Xong hắn giao cho tôi một xấp giấy và một bản in khai lý lịch gồm 43 khoản đầy các chi tiết liên hệ bản thân, gia đình, xã hội từ lúc mới sinh ra cho đến ngày “giải phóng” và từ ngày “giải phóng” cho tới khi tôi bị bắt.

Trước khi bước ra khỏi phòng để tôi thoải mái viết tờ khai hắn mời tôi một điếu thuốc President và một trà nóng. Thường ngày thuốc lá và trà tôi chỉ sử dụng qua loa, không thích thú mấy. Bây giờ tôi hút điếu thuốc và uống trà thấy ngon. Tôi thong thả hút thuốc và uống trà, tận hưởng sự thoải mái và suy nghĩ những điều cần khai theo đúng các chi tiết.

Bản khai cung thật hóc búa, chi tiết, đến cả ghi ngày đầu tiên vào trường học và cảm tưởng lúc đó, những môn học, những môn ưa thích, những thầy giáo và cô giáo mình cảm mến. Cảm tưởng từng ngày vào quân trường cho đến cảm tưởng lần đầu tiên đi làm việc và những quan hệ bạn bè thân sơ.

Nhớ lời dặn của anh Tống Đình Bắc, tôi suy nghĩ thật kỹ, để khai thật gọn và dễ nhớ để những lần khai sau này vẫn trùng hợp, trước sau như một. Tôi ngồi viết thật chậm. Buối trưa Đắc vào cho tôi một tô cơm, trên có hai miếng đậu hũ bằng ngón tay, chan nước mắm có ớt, miếng đậu hũ có mỡ trôi tuột vào trong cổ họng. Tôi cố gìữ bình tĩnh để khỏi ăn hỗn, nhai kỹ miếng đậu hũ còn lại. Tôỉ thấy mùi vị ngọt, béo, vị cay của ớt the cả đầu lưỡi, thơm nồng cả miệng. Tôi không ngờ chưa đầy hai tháng ăn muối tôi đã hư hỏng thèm ăn. Suốt ngày tôi mới viết được năm trang giấy, ghi xong phần lý lịch, vào phần hai các chi tiết của cuộc đời tôi mới viết qua ở thời trung học.

Buổi chiều về lại xà lim tên trưởng phòng không còn còng tôi nữa – tôi tắm rửa và ăn cơm chiều xong nằm nghỉ thấy thoải mái. Kiểm điểm lại những gì đã viết tạm đủ không có gì sơ hở; tôi quyết định kéo dài bản viết trong vài ngày để được ra làm việc đổi không khí.
Đêm đó nằm ngủ thật yên, tôi mơ thấy Thu Hà, bạn gái thời bé nhỏ của tôi. Hình ảnh Thu Hà thật rõ. Tôi đã yêu Thu Hà và luôn luôn nhớ đến nàng; tình yêu của đứa con trai lúc l5 tuổi, mà tôi không bao giờ dám bày tỏ. Lần chia tay cuối cùng


tôi rời tỉnh nhỏ để về Saigon học, tôi tưởng sẽ còn gặp lại nàng. Cuộc đời đưa đẩy xa nhau mãi đến nay tôi không gặp lại. Nàng đã có chồng con và đã theo gia đình di tản – có gặp lại là chỉ trong giấc mơ như đêm nay.

Tôi viết đến ba ngày mới xong bản kiểm điểm tóm tắt cuộc đời. Trong mục nhận tội, tôi nhớ lại lần đầu tiên viết kiểm điểm sau ba ngày học tập tôi đã nhận lỗi, việc nhận đó làm tôi xấu hổ mỗi khi nhớ lại, nên lần này tôi chỉ lướt qua là tôi đã đi học và tham gia chính quyền miền Nam và trong thời gian làm việc tôi đã làm hết sức của tôi với thiện chí của tuổi trẻ nhằm phục vụ công ích. Tôi không hạ mình nhận tội vô cớ một lần nữa, nhưng tôi cố tránh dùng những từ ngữ không thuận lợi.

Một tuần sau tôi mới được gọi lên làm việc trở lại.
Tôi vừa ngồi xuống ghế để hai tay ngay ngắn trên hai đầu gối đúng thủ tục thì tên Đắc mở hộc bàn lấy xấp giấy ném ngay trước mặt tôi. Hắn nói:
– Tôi đã đọc xong bản kiểm điểm của anh, anh chưa thành thật khai báo, điều đó không có lợi cho anh, anh vẫn còn quanh co không nhận tội với nhân dân. Anh bảo anh phục vụ công ích là phục vụ cho ai? Anh đã theo ngụy quyền chống lại cách mạng, mà anh không nhận tội lỗi của anh.

Tôi định trả lời thì hắn nói tiếp:
– Anh không cần trả lời, chúng tôi đủ bằng cớ để buộc tội anh, không cần anh nhận tội. Chúng tôi để anh viết xem thái độ của anh mà thôi. Ngay từ lúc bị bắt anh đã ngoan cố và thái độ bây giờ vẫn tiếp tục. Cũng như anh đã lợi dụng được kẽ hở của thông cáo Ủy Ban Quân Quản để trốn trình điện học tập.

Nghe hắn nói tôi trốn trình diện học tập, tôi trả lời:
– Báo cáo, tôi có đi trình diện học tập nhưng Ủy Ban Tiếp Nhận cho là tôi không thuộc diện tập trung. Tôi đã được Ban Quân Quản tiếp thu Bộ Nội Vụ cho học tập tại cơ sở vì theo đúng thông cáo, thời gian cuối cùng tôi không giữ nhiệm vụ chỉ huy.

– Anh khéo tránh né, anh từng làm Phó Tỉnh trưởng mà không học tập trung sao?
– Báo cáo, tôi đã thôi làm Phó Tỉnh trưởng trên hai năm nay rồi. Cuối cùng tôi chỉ là một nhân viên hành chánh không chỉ huy ai.
– Sao anh không trình diện học tập tháng 8.
– Báo cáo đợt học tập đó theo thông cáo đã dành cho nhân viên tình báo và chiêu hồi. Tôi nghĩ là sẽ còn nhiều đợt học tập tiếp theo, nên tôi chờ đợi cho đúng diện quy định cho khỏi nhầm lẫn.

Đắc nhắc 1ại:
– Không cần anh phải nhận tội, tôi nhắc lại nhận tội để tỏ ra thái độ thành thật mà thôi. Dù anh không nhận tôi chúng tôi cũng có lý do để đưa anh đi tập trung. Anh khéo lợi dụng được khe hở của luật pháp lắm.

Tôi biết hắn nói đúng, chắc chắn là tôi phải đi tập trung, nên tôi không phát biểu thêm. Bất chợt hắn hỏi tôi:
– Anh làm gì trong Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Việt Nam Tự Do của Ngô Văn Vinh và Vĩnh Hầu.
– Tôi chưa bao giờ nghe đến tên tổ chức như vậy và tôi chưa hề gặp Ngô Văn Vinh và Vĩnh Hầu.

Đắc chỉ hừ một tiếng rồi im lặng. Tôi cũng chờ đợi những câu hỏi tiếp theo của hắn. Hắn hỏi tiếp:
– Anh đến quán cà phê Ngọc mấy lần và gặp ai ớ đó.
– Tôi đến cà phê Ngọc một lần để tìm Trần Đình Sào, không có Sào ở đó tôi đi ngay. Những người ngồi ở quán cà phê tôi không quen ai.

– Anh có quen chủ quán Ngọc không?
– Tôi biết đó là Hoàng, bạn của Sào.
– Anh biết Sào hiện ở đâu không?
– Tôi không biết.
– Thôi anh về xà lim để tiếp tục suy nghĩ. Tôi mong anh sẽ khôn hơn. Tôi nhắc lại sự tự giác có lợi cho anh nhiều. Anh có điều gì đề xuất hay không?
– Tôi muốn được báo tin cho gia đình biết là tôi đang ở đây và khỏe mạnh.
– Gia đình anh đã biết anh ở đây, nhưng anh chưa được nhận thơ và nhận quà vì anh chưa thành khẩn. Ở đây anh em biết anh nhiều lắm.
Như để chứng minh lời nói hắn đi ra, một lúc đi vào với một thanh niên khoảng 27, 28 tuổi người nhỏ, ốm, ăn mặc gọn gàng, tươm tất, tôi đoán ngay là người miền Nam, vì cán bộ miền Bắc ăn mặc còn luộm thuộm áo quần, giây thắt lưng đều kiểu thời trang 1950 rất dể nhận diện.
Người thanh niên nhìn tôi rồi hỏi:
– Anh Nguyễn Chí Thiệp trước làm ở Bộ Nội Vụ phải không?
Tôi đáp:
– Phải.
Hắn tiếp:
– Lúc nhỏ anh học ở Phan Chu Trinh phải không?
Tôi đáp:
– Phải.

Hắn nói:
– Anh không biết tôi, chứ tôi biết anh nhiều lắm, lúc anh học đệ nhị tôi học đệ lục, tôi là em chị Liên Hương vợ anh Trần Huỳnh Châu – Anh biết chị Liên Hương không?
Tôi không trả lời câu hỏi của hắn. Hắn đứng nhìn tôi từ trên đầu xuống dưới chân rồi nhìn lên trở lại như vừa trêu chọc vừa như thách thức, vừa muốn chứng tỏ hắn là con người chiến thắng muốn đánh giá một kẻ chiến bại trước mặt hắn.

Sau ngày 30-4-l975, tôi mới được biết ông Nguyễn Hữu Dậu làm trưởng ty Bưu Điện Quảng Nam, rồi trưởng ty Bưu Điện Đà Nẵng có con cái đều hoạt động cho Việt cộng. Tên thanh niên đang nói chuyện với tôi là Nguyễn Hữu Khánh Duy tốt nghiệp bác sĩ trưng lập trong binh chủng Thủy quân Lục Chiến, nhưng bây giờ làm bác sĩ cho sở Công An Thành Phố, và người con gái khác là Nguyễn Diệu Liên Tâm đi đu học ở Úc về làm ở bộ Dân Vận Chiêu Hồi, bây giờ là cán bộ nồng cốt của Sở Công An Thành Phố.
Thấy tôi không chú ý trả lời câu hỏi của Duy, tên Đắc nói tiếp:
– Ở sở còn nhiều người là bạn cũ của anh, người ta nói rất đúng về anh, anh bướng lắm.
Tôi đáp một cách chung chung:

– Nếu có nhiều anh em biết tôi thì vụ án của tôi dễ kết thúc.
Tôi nghĩ hắn ám chỉ Huỳnh Bá Thành, Nguyễn Đăng Trừng… là những người biết tôi từ trước 1975 hiện đang làm chấp pháp tại Sở Công An này.
Trở về xà lim tôi càng thấy rõ số phận của tôi, dù tôi có nhận hay không nhận tội gì thì chúng cũng sẽ đưa tôi đi cải tạo, chúng nó biết tôi quá rõ rồi. Do đó, tôi quyết định đi làm việc không nhận tội gì hết.
Tôi thắc mắc tại sao hắn lại ghép tôi vào tổ chức của Ngô Văn Vinh và Vĩnh Hầu, như vậy Sào có bị bắt không? Vì chỉ có Trần Đình Sào nhờ tôi viết một cương lĩnh cho tổ chức của Vinh nhưng tôi từ chối. Và tôi cũng không gặp Hầu và Vinh.


Tôi không phán xét việc làm của hai người này. Họ có quyền và có trách nhiệm về việc làm của họ, vả lại dám tổ chức đối kháng là điều tôi cũng quí họ; họ phải phô trương thân thế để tạo niềm tin cho người khác. Tôi không tham gia vì tôi biết rằng tôi không thể hoạt động tại thành phố được trong khi tôi đang trốn lánh. Giấy chứng nhận học tập cải tạo ba ngày là giải pháp tạm thời để thay đổi chỗ ở và qua mặt chính quyền phường khóm thôi. Đối với Sở Công An Thành Phố và Đoàn Công An Liên Khu 5 vào Saigon để điều tra từng viên chức sĩ quan từng làm việc ở các tỉnh miền Trung thì giấy cải tạo ba ngày không thể chứng minh cho lý lịch của tôi miễn đi trình diện tập trung.


Ngày hôm sau tôi lại tiếp tục đi làm việc. Chấp pháp không phải là Đắc, mà là hai tên khác trong đó có một tên cùng với Đỗ Hữu Cảnh đến nhà bắt tôi.

Bằng một giọng Quảng Nam nhẹ của người Đà Nẵng hắn hỏi tôi:
– Chắc anh không biết tôi chứ tôi biết anh rõ lắm, tôi là Lưỡng cũng học sinh Phan Chu Trinh, năm anh học đệ nhị tôi học đệ lục.
Thêm một người muốn chứng tỏ đã nắm được lý lịch của tôi, không biết chúng định làm gì mà dàn ra toàn những anh học sinh Phan Chu Trinh cũ. Tại sao những người quen hoặc biết tôi như Huỳnh Bá Thành, Nguyễn Đăng Trừng không gặp mà để Lưỡng, Khánh Duy gặp, nhắc nhớ tôi về trường Phan Chu Trinh ở Đà Nẵng.

Trường Phan Chu Trinh mới được thành lập do chính phủ Quốc gia từ 1952, so với trường Quốc Học hay Đồng Khánh thì quá non trẻ. Tôi là thế hệ học sinh đầu của trường, vừa học trường mới phát triển, đến khi tôi xong tú tài I thì trường vẩn chưa có lớp đệ nhất. Tôi đã thành lập hội cựu sinh viên của trường.


Chưa hoạt động được rộng rãi thì đã mất nước. Bây giờ những người Cộng sản này muốn gặp tôi có lẽ để chứng tỏ với tôi là họ biết tôi rõ, tôi phải khai hết sự thực họ cần khai thác và cũng để cho tôi biết họ là kẻ chiến thắng, trường Phan Chu Trinh đó thuộc về họ. Tôi nghĩ đến điều này vì ngay thời gian đầu tiên, những người cựu học sinh Phan Chu Trinh theo Cộng sản đã tổ chức họp mặt ở Đà Nẵng và Saigon, và họ đã ghép lịch sử trường Phan Chu Trinh với trường Phan Chu Trinh nào đó trong vùng Việt Minh đánh Pháp làm một, để chứng tỏ trường Phan Chu Trinh là của họ.

Đó là sự liên kết có gian ý, có sự trùng tên trường, cụ Phan Chu Trinh là một chí sĩ người Quảng Nam ai cũng tôn trọng nên lấy tên cụ đặt cho tên trường, không có sự liên hệ nào giữa hai trường, trường Phan Chu Trinh ở Đà Nẵng thành lập năm 1952 hoàn toàn mới, lúc đó chỉ có một lớp đệ thất học tạm tại trường nữ tiểu học.

Ăn gian những sự kiện lịch sử là nghề của những người Cộng sản.
Tôi cũng trả lời vừa đủ với Lưỡng:
– Vâng, tôi không biết anh, trường đông quá, tôi chỉ biết những người học cùng lớp gần nhau thôi.
– Lúc anh về thành lập Hội Cựu Học Sinh Phan Chu Trinh tôi có đi dự.
Tôi đáp “vâng” cho qua chuyện rồi ngồi im chờ hắn nói tiếp.
– Chúng tôi đã biết rõ về anh, điều đó rất lợi cho anh nếu anh thành khẩn khai báo. Bây giờ chúng ta làm việc nghiêm túc. Anh giữ nhiệm vụ gì trong Quốc Dân Đảng và Đảng Dân Chủ tỉnh Quảng Nam ?

Tôi thấy sự hiểu biết của hắn có giới hạn, chỉ đoán mò, ai đời hỏi một lúc hai đảng.
Tôi đáp:
– Tôi không là đảng viên Đảng Dân Chủ hay Quốc Dân Đảng, tôi chỉ là một công chức.
Hắn gằn giọng:
– Vô lý, nếu anh không là Quốc Dân Đảng sao anh làm Phó tỉnh trưởng Quảng Nam.

– Vâng, cả hai vấn đề Quốc Dân Đảng và Phó tỉnh trưởng Quảng Nam không liên hệ gì với nhau. Tôi là công chức chính phủ VNCH tôi làm nhiệm vụ. Tôi không tham gia đảng chính trị.
– Anh trả lời con nít mới nghe được.
– Tôi trả lời đúng sự thật, cán bộ cứ điều tra.
– Trong ngụy quyền các anh, nếu không có phe cánh thì làm sao anh lên chức được, ở các tỉnh miền Trung các anh không là Quốc Dân Đảng thì là Đại Việt. Thằng Ngô Văn Vinh là đảng viên Đại Việt, anh biết chứ?

– Tôi chỉ biết Ngô Văn Vinh là Trưởng ty Xã Hội, còn lý lịch chính trị của anh ta tôi thật không biết. Người ta luôn luôn có thiên kiến nếu người miền Trung không Quốc Dân Đảng thì là Đại Việt hoặc Cộng Sản.
– Đúng thanh niên miền Trung mình phải có lập trường chính trị, không bên này thì bên kia.
– Lập trường của tôi rất rõ, tôi là công chức, là nhân viên của chính phủ VNCH, tôi học trường hành chánh để làm công việc đó.
– Anh là công chức, anh khỏi nói chúng tôi cũng rõ. Tôi muốn anh khai về hậu thuẫn chính trị của anh. Đảng viên Quốc Dân Đảng thì cũng đi trình diện học tập và nhà nước cũng khoan hồng.

– Tôi cũng đã rõ điều đó.
Hắn hỏi tôi:
– Anh làm gì trong đảng Dân Chủ, lúc ở Đà Nẵng tôi biết anh tổ chức Đảng Dân Chủ rầm rộ ở Quảng Nam, sao anh không khai về đảng Dân Chủ.
– Tôi là công chức chính quyền, đảng Dân Chủ là đảng do chính quyền tổ chức, tôi được lệnh giúp đỡ cho những người khác đứng ra lập tỉnh đảng bộ, tổ chức ra mắt cho họ, và yểm trợ cho họ làm việc đến khi họ độc lập thì nhiệm vụ tôi hết. Tôi không khai vì tôi cũng không là đảng viên đảng Dân Chủ vả lại đảng Dân Chủ đã được giải tán vào năm 1974 do người lập ra nó là ông Nguyễn Văn Thiệu.

Hắn nói:
– Anh thật không biết điều tí nào cả, cái gì anh cũng không nhận hết, anh cần suy nghĩ để trả lời tôi.
– Vâng, tôi đã suy nghĩ kỹ khi trả lời, cán bộ cứ điều tra. Tôi nghĩ là khi mất miền Nam, tất cả các cơ quan còn giữ lại đủ hồ sơ, mỗi tỉnh bộ đều có danh sách đảng viên đảng Dân Chủ hay đảng nào khác tôi chịu trách nhiệm. Tôi xác nhận tôi là công chức có nhiệm vụ giúp đỡ tổ chức ra tỉnh bộ đảng Dân Chủ để rồi họ hoạt động lấy. Hiến pháp thời đó cấm quân nhân và công chức làm chính trị nên tôi phải tôn trọng.

– Anh bỏ cái hiến pháp vô giá trị đó đi, không cần nhắc tới.
– Dĩ nhiên đối với cán bộ nó vô giá trị, nhưng tôi ở trong chính quyền đó tôi phải tuân theo.
– Thôi để anh suy nghĩ, muốn anh tỏ ra biết điều để hồ sơ hoàn tất mau có lợi cho anh mà anh không cộng tác.
Tôi trở lại xà lim nhớ lại những điều đã trả lời vừa qua, như vậy cũng ổn. Tôi cứ giữ đúng nguyên tắc đã đặt ra, chỉ nhận công chức thôi, chừng đó cũng đủ đi cải tạo mút mùa, sự hiểu biết của tụi công an cũng có giới hạn kể cả bọn nằm vùng. Tụi nó chỉ chú trọng khai thác về các đảng các phái, còn đảng Dân Chủ chúng cũng không mấy quan tâm, chúng cũng đánh giá đúng, đó là đảng chưa có thực lực chính trị.

Người ta luôn bị thiên kiến làm sai lạc, luôn luôn trong đầu họ nghĩ là người Quảng Nam không Quốc Dân Đảng thì là Cộng Sản. Điều đó đúng trên một khía cạnh là dân Quảng Nam hay nói chung các tỉnh liên khu 5 thường có hai chiến tuyến rõ rệt, một là Quốc gia, hai là Cộng sản, không lẫn lộn. Nhưng ở phe Quốc gia chống Cộng không hẳn là đảng viên Việt Quốc. Đành rằng lực lượng người Quốc gia chống Cộng mạnh nhất ở các tỉnh Nam Ngãi là Việt Quốc, ở Trị Thiên là Đại Việt. Hai chính đảng này có lịch sử đấu tranh chống thực dân Pháp, chống Cộng sản và các chính quyền bù nhìn tay sai của Pháp.

Họ hợp tác với chính quyền Ngô Đình Diệm lúc đầu, rồi chống lại vì bất đồng chính kiến. Thời đệ nhị Cộng Hòa họ được tự do hoạt động nhưng chưa có chỗ đứng xứng đáng với lịch sử đấu tranh của họ. Có thể họ cũng có những khuyết điểm nào đó, nhưng rõ ràng thân phận của những người đảng viên Đại Việt và Việt Quốc là thân phận thua thiệt của thành phần chính của lực lượng Quốc gia chân chính trong giai đoạn lịch sử phức tạp của Việt Nam trong đó người Việt Nam chưa tự quyết định được vận mệnh của mình.

Thuở nhỏ tôi học trong một trường tiểu học do thầy Trịnh Thể làm hiệu trưởng và hầu hết các giáo viên đều là đảng viên Việt Quốc. Tôi kính trọng các thầy không những là một học sinh đối với một thầy giáo như mọi trường hợp khác, tôi còn ngưỡng mộ thầy Trịnh Thể và các thầy như những anh hùng khi mật thám Pháp đến tận lớp học để bắt các thầy đi trước cặp mắt phẫn uất của tôi.

Có quan hệ tình cảm như vậy nhưng tôi không thích làm chính trị. Tôi không thích bị mọi ràng buộc, thích được tự do, thấy gì đúng, phải thì làm. Khi làm một viên chức chính quyền địa phương, trong phạm vi cho phép tôi đã cố gắng để giúp đỡ các hoạt động hữu ích của tất cả các chính đảng Quốc gia, bao gồm cả các hệ phái Quốc Dân Đảng Thống Nhất đối lập với chính phủ. Tôi quan niệm muốn có dân chủ phải có đối lập thật sự. Sinh hoạt chính đảng ở miền Nam Việt Nam có những nhược điểm:

– Xuất phát từ chính đảng Cách Mạng và luôn luôn có nguy cơ bị tiêu diệt bởi các chính quyền thực dân Pháp, Việt Minh, Ngô Đình Diệm và âm mưu chia rẽ làm suy yếu của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, nên các chính đảng quen thể thức hoạt động kiểu hội kín và sử dụng bạo lực, không quen sinh hoạt dân chủ.
– Không có sinh hoạt dân chủ, nên không đào tạo lãnh tụ chính đảng. Những lãnh tụ già cỗi hết thời, không chuẩn bị người thay thế và không chịu rời bỏ địa vị, nên đưa đến tình trạng khủng hoảng lãnh đạo đảng (và khủng hoảng chính trị cho cả nước) và tình trạng phân chia hệ phái mỗi khi có bất đồng.

– Bị co cụm lại một số địa phương, nên khi có cơ hội hoạt động (sau thời 1963) không có chính đảng nào có tầm vóc quốc gia. Hậu quả của tình trạng này làm tăng thêm tính chia rẽ trong sinh hoạt chính trị miền Nam Việt Nam gần như trở thành một tập quán. Dân tộc Việt Nam nói chung rất đoàn kết, nhưng những người làm chính trị luôn luôn chia rẽ, người nắm chính quyền thì học thủ đoạn chia để trị, người chưa nắm chính quyền thì tìm hậu thuẫn ở tôn giáo hay địa phương càng làm cho các dị biệt nhỏ trầm trọng hơn lên.

– Với những lý do đó, nên hầu hết các chính đảng không thu hút được thành phần trí thức trẻ, tự nhiên trở thành già cỗi. Kết quả là họ tham gia chính trị thì không có cán bộ có đủ khả năng để làm việc, một cán bộ có khả năng ở cấp xã, cấp quận thì phải làm việc cấp tỉnh, cấp quốc gia, đưa đến tình trạng chênh lệch về trình độ giữa một chính trị gia với một chuyên viên hành chính, kinh tế hay kỹ thuật, hay với sĩ quan quân đội. Tình trạng này càng ngày càng làm cho chính đảng suy thoái. Đó là mới đề cập đến vấn đề tổ chức và nhân sự, chưa nói đến phương diện tư tưởng tức là các chủ thuyết chính trị được viết ra từ thời kỳ lập đảng ở thập niên 20, 30 cần phải duyệt xét lại.

Sau một thời gian làm việc ở chính quyền, tôi nghĩ hệ thống chính quyền cần có sự lãnh đạo chính trị để thống nhất từ nhân sự đến phương thức hành động. Có thể nói chưa có một chính quyền nào viên chức bị xem nhẹ như thời đệ nhị Cộng Hòa. Ngoài hệ cấp trong chính quyền họ còn bị chi phối bởi chính đảng, đoàn thể áp lực, tôn giáo, báo chí và luôn luôn bị thượng cấp hy sinh vì những áp lực đó dù cho họ làm đúng luật, đúng nhiệm vụ và thật sự có ích cho dân chúng.

Tôi tham gia đảng Dân Chủ cuối năm 1971, nhận lãnh trách nhiệm tổ chức ra mắt tỉnh đảng bộ đầu tiên của cả nước. Tôi tin tưởng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu muốn làm một công tác chính trị lớn cho đất nước, ông tổ chức một chính đảng có tầm hoạt động toàn quốc để đoàn kết toàn dân chuẩn bị cho việc đấu tranh chính trị với Cộng sản khi Hiệp định Đình Chiến được ký kết. Thời gian làm việc tôi tiếp xúc với ông Nguyễn Văn Ngân phụ tá chính trị, thì càng tin tưởng ở ông Nguyễn Văn Thiệu muốn mình trở thành Tổng Thống mạnh và vì dân vì nước như Tổng Thống Phác Chính Hy tại Đại Hàn, như ông Ngân và một số người trong trung ương đảng Dân Chủ muốn hướng trọng tâm của đảng vào đó.

Tổ chức một đảng từ chính quyền có những thuận lợi và bất lợi, thuận lợi là có thể kết nạp ồ ạt, nhưng bất lợi là thiếu phẩm chất vì những người có tính tự trọng, họ rất e dè khi gia nhập đảng cầm quyền, trái lại những phần tử có tham vọng riêng thì nhanh chóng chạy theo. Tôi không tin tưởng vào các công chức và sĩ quan địa phương quân được kết nạp ồ ạt thời gian đầu, nhưng hy vọng vào thành phần trí thức trẻ như các nhà giáo, thanh niên, học sinh tự nguyện gia nhập đảng và mong tạo cho họ sinh hoạt học tập để kiện toàn dần đảng tính.

Trong một phiên họp Trung Ương tại Vũng Tàu, tôi nêu nhiều thắc mắc với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chủ tịch đảng. Về sự kết nạp đảng viên ở các tỉnh, có tỉnh chỉ thu căn cước người dân lập thành danh sách đảng viên, ông Nguyễn Văn Thiệu giải thích:
– Chúng ta sắp ký hiệp định ngưng chiến và chuyển qua thời kỳ đấu tranh chính trị, Cộng sản nó nhuộm đỏ người dân, thì mình nhuộm vàng họ, đảng Dân Chủ làm nhiệm vụ nhuộm vàng đó, tức là cứ ghi tên họ vào để một mặt đối với người dân xác nhận vị thế của họ, tách họ ra khỏi Cộng sản, làm cho Cộng sản nghi ngờ họ, đẩy họ về phía mình. Trong khi đó đảng cứ hoạt động và kiện toàn thành phần trung kiên nòng cốt.

Tôi tin vào sự giải thích đó, ít ra cũng là một phương cách lôi kéo người dân trong thời gian cấp bách. Tôi có trực tiếp làm việc với ông Nguyễn Văn Ngân, người phụ trách tổ chức đảng Dân Chủ, tôi thấy ông Ngân tuy ít kinh nghiệm trong nhiệm vụ quá lớn đối với ông là phụ tá chính trị của Tổng thống nhưng ít ra cũng nhận thấy ông là người thanh liêm và có tinh thần với quốc gia. Lúc ông có nhiều quyền hành sắp xếp các việc bầu bán ở Quốc Hội, đặt người ở các cơ quan hiến định, bổ nhiệm viên chức cao cấp trong chính quyền – ông không hề lợi dụng để mưu lợi riêng. Thời buổi những năm 1970 được một người thanh liêm và có lòng như ông Ngân rất hiếm.

Mọi quyền hành của ông Ngân phát xuất từ quyền hành của Tổng Thống, ngoài ra ông Ngân không có một thế lực nào khác để củng cố quyền hành và địa vị đó, ông làm việc hoàn toàn có lợi cho Tổng Thống trong mục đích hỗ trợ để cho Tổng Thống mạnh không bị chi phối bởi các trung tâm quyền lực khác, để ông Tổng Thống làm việc nước. Nhưng quyền lực của ông Ngân lại bị nhiều người ganh tị, nhất là trong gia đình của ông Nguyễn Văn Thiệu.

Khởi đầu việc lập đảng Dân Chủ ông Hoàng Đức Nhã yểm trợ, nhưng sau ông Nhã thấy ông không nắm được đảng Dân Chủ, ông Nhã phá, ông Nhã chỉ thị các Trưởng ty Thông Tin không được vào đảng Dân Chủ, trong khi hầu hết các tỉnh đều giao chức vụ tuyên huấn tỉnh đảng bộ Dân Chủ cho Trưởng ty Thông Tin (ông Nhã đổi là Trưởng Cơ Sở Dân Vận). Các Ty trưởng Dân Vận về Saigon công tác trong đảng Dân Chủ, ông Nhã chỉ thị không cấp phương tiện chuyên chở trong khi tổ chức đảng Dân Chủ dựa vào chính quyền còn đảng không làm kinh tài, các tỉnh đảng bộ không có một khoản tài chánh nào.


Là tỉnh tổ chức tỉnh bộ đầu tiên, tôi nhắm về phía các giáo chức là thành phần trẻ, có học, có uy tín với phụ huynh học sinh và dân chúng, nhưng từ lâu họ vẫn như đứng ngoài chính quyền dù ăn lương từ ngân sách quốc gia. Cộng sản tổ chức được nhiều cơ sở hoạt động tích cực trong hàng ngũ giáo chức, trong khi các chính đảng Quốc gia không thu hút được giới này. Dĩ nhiên giáo chức thì không quen sinh hoạt chính trị và đấu tranh. Nhưng sinh hoạt dân chủ mục đích là tranh thủ sự ủng hộ quần chúng nhân dân không cần đến hành động bạo lực. Vả lại đa số nhà giáo tự tách rời ra khỏi hoạt động chính trị vì một phần các chính đảng Quốc gia trở thành cằn cỗi, đa số cán bộ kém trí thức và thường sử dụng bạo lực để tranh giành phe nhóm và quyền lợi nên không thu hút được họ.


Tôi đã trình bày kinh nghiệm về sự thuyết phục và kết nạp hàng ngũ giáo chức vào tỉnh đảng bộ Dân Chủ Quảng Nam về phòng phụ tá chính trị và phổ biến để các tỉnh bộ khác rút kinh nghiệm. Do đó đa số chủ tịch đảng bộ Dân Chủ là các Trưởng ty Học Chánh tỉnh. Công thức này đã được ông Ngô Khắc Tỉnh, Tổng trưởng Giáo Dục ủng hộ.

Nhưng về sau, chính ông Ngô Khắc Tỉnh cũng là một người chống lại đảng Dân Chủ khi thấy ông không có ảnh hưởng gì trong đảng. Sau này ở tù chung với hai anh em ông Ngô Khắc Tỉnh và Ngô Khắc Tịnh, nhắc lại chuyện cũ, ông Tỉnh xác nhận là ông chống lại việc ông Thiệu giao cho ông Ngân quá nhiều quyền và chính ông Tỉnh đã thúc đẩy ông Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm loại trừ ông Ngân ra khỏi ông Thiệu.

Ông Ngân sửa Hiếp Pháp để ông Thiệu ứng cử Tổng Thống thêm, làm mất cơ hội ứng cử Tổng Thống của ông Khiêm nên ông Khiêm không những tìm cách loại trừ ông Ngân, ông Nhã ra khỏi thế lực ông Thiệu mà còn yểm trợ 303 Linh mục và Dân biểu Nguyễn Đức Cung tố cáo ông Thiệu tham nhũng và Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi có 40 ngàn lính ma ở vùng 4 chiến thuật.

Riêng ông Ngô Khắc Tịnh, Thượng nghị sĩ trong liên danh đảng Dân Chủ, nói với tôi rằng ông không hề biết gì về đảng nên thường biểu quyết theo ý riêng ngược lại với những điều sắp xếp của Chủ tịch Thượng Viện Trần Văn Lắm, một trong hai người thụ ủy, liên danh Thượng nghị sĩ của đảng Dân Chủ.

Nhắc lại chuyện hai ông Ngô Khắc Tỉnh và Ngô Khắc Tịnh để làm sáng tỏ những uẩn khúc của đảng Dân Chủ, ngoài ra tôi không có ý không tôn trọng hai ông. Tôi đã từng ở tù chung cùng một đội với hai ông Tỉnh và Tịnh, cũng như các ông Hồ Văn Châm, Trần Thanh Bền, Cao Văn Khanh là những người cao cấp nhất trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa còn ở tù trong các trại miền Nam, tôi rất mến về tư cách, tác phong, và đạo đức của hai anh em ông Tỉnh và ông Tịnh.

Cũng chính vì luôn luôn giữ tác phong đúng đắn, không nịnh bợ cán bộ Cộng sản, hài hòa với bạn tù, nên hai ông Tỉnh và ông Tịnh khổ không ít vì các bạn đồng liêu, đồng triều của các ông.
Đảng Dân Chủ được thành lập và hoạt động như vậy. Ông Thiệu đã bỏ mất một cơ hội tập hợp lực lượng dân chúng để chống Cộng sản. Ông không hiểu so với thời kỳ Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì thời đệ nhị Cộng Hòa trình độ dân chúng và cán bộ cao hơn về chuyên môn cũng như chính trị.

 Lớp các bộ có khả năng được huấn luyện đông đảo hơn. Qua nhiều cuộc biến động chính trị sau năm 1963, làm cho chính quyền suy yếu nhưng tiềm lực chống Cộng sản của toàn dân lại mạnh hơn. Từ đó người ta lại muốn có lãnh đạo chính trị để chống Cộng hữu hiệu hơn. Quân nhân lãnh đạo đất nước không phải là điều tốt – vì quân nhân dễ trở thành độc tài quân phiệt. Nhưng hoàn cảnh chính trị tại miền Nam Việt Nam lúc đó các chính đảng không đủ tầm vóc để đảm nhận vai trò lãnh đạo. Từ sau năm 1963, các biến cố chính trị liên tiếp là cho người Mỹ càng ngày càng ảnh hưởng đến nhiều hơn, đến lúc họ nắm quyền quyết định về người đứng đầu chính phủ VNCH, nên chọn một quân nhân phù hợp với ý muốn của người Mỹ hơn. Vì quân nhân có truyền thống dễ bị điều khiển.

Phải chấp nhận một quân nhân nắm chính quyền thì Tướng Thiệu là người tương đối có khả năng hơn các tướng lãnh khác. So với ông Khánh và ông Kỳ thì ông Thiệu chững chạc hơn nhiều.
Đó là ưu thế của ông Thiệu, nhưng tiếc rằng ông không phải là người có tâm huyết để làm việc cho dân cho nước. Ông chỉ biết lo cho quyền lợi của ông, của thân tộc hai bên họ hàng của ông, của vợ ông và có xa hơn nữa thì bạn bè, của những người bám vào ông để thủ lợi bằng mọi cách.

Có lúc tôi xúc động về những khó khăn mà ông gặp phải. Năm 1974, Đại tá Lê Trí Tín và tôi được Trung tá Trần Trung Nghĩa, Tỉnh trưởng Gò Công kể chuyện xảy ra tại vùng 4 dưới quyền của Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi.

Trung tá Nghĩa là người rất tin tưởng vào sự lãnh đạo của ông Thiệu, ông tổ chức đảng Dân Chủ đầu tiên tại vùng 4 chiến thuật và ông cũng tin những điều ông Nguyễn Văn Ngân phổ biến cho chúng tôi là Tổng Thống Thiệu muốn dùng đảng Dân Chủ như là một áp lực để cải tổ hành chánh, chống tham nhũng, làm sạch chính quyền. Trong nhiệm vụ, Trung tá Nghĩa đã thu thập hồ sơ tham nhũng của hai ông Quận trưởng Hòa Bình và Hòa Tân thuộc tỉnh Gò Công. Hồ sơ đã giao lên ông Nguyễn Văn Ngân để chuyển qua Giám sát viện. Trong lúc đó, Trung tá Nghĩa cũng được tin hai ông Quận trưởng sắp được Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi cử đi làm Tỉnh trưởng hai tỉnh Kiến Phong và Kiên Giang kiêm Thị trưởng Rạch Giá.

Ở vùng 4 chiến thuật muốn được cử đi làm Tỉnh trưởng phải qua trung gian Đại tá Chung Văn Bông, Tỉnh trưởng Định Tường là cậu của Tướng Nghi.
Trung tá Nghĩa có trình tin tức lên ông Ngân, nhưng ông Ngân vẫn tin vào lời hứa của Tổng Thống Thiệu dùng đảng Dân Chủ để thanh lọc chính quyền.
Cuối năm 1974, đúng như tin của Trung tá Nghĩa, ở Bộ Nội Vụ chúng tôi nhận được lệnh làm nghị định hợp thức hóa chức vụ Tỉnh trưởng Kiên Giang (kiêm Thị trưởng Rạch Giá) cho Trung tá Nguyễn Tấn Hưng đương kiêm Quận trưởng Hòa Tân, Gò Công và chức vụ Tỉnh trưởng Kiến Phong cho một Trung tá khác (tôi quên tên). Điện ở văn phòng Tổng Thống đánh cho Quân đoàn 4 sao gửi Bộ Nội Vụ đã ấn định cả ngày bàn giao hai chức vụ Tỉnh trưởng.


Ông Ngân đã trình lại sự việc buôn bán chức Tỉnh trưởng lấy từ 25 triệu tới 30 triệu ở Quân đoàn 4, Trung tá Trần Trung Nghĩa là một nhân chứng. Tổng Thống Thiệu đã cho mời Trung tá Nghĩa điện trình. Trung tá đã trình bày hết sự việc. Tổng Thống tin vào những điều Trung tá Nghĩa trình bày nên chỉ thị ngưng bàn giao chức Tỉnh trưởng Kiến Phong và Kiên Giang (Rạch Giá). Đến lượt Trung tá Nghĩa gặp khó khăn – từ Saigon về đến tỉnh Gò Công, Trung tá nhận được lệnh trình diện Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 4, bị xài xể đủ điều.

 Từ khi về lại tỉnh, Trung tá Nghĩa phải nhận liên tiếp các đoàn thanh tra quân đoàn vạch lá tìm sâu. Có ngày phái đoàn thanh tra 40 sĩ quan đến Gò Công công tác, Đại tá Tín khuyên Trung tá Nghĩa cố gắng chịu đựng hoặc từ chức để bảo vệ phẩm giá. Cuối cùng sau một tháng chịu đựng, Trung tá Nghĩa phải từ chức. Không dám trở về quân đội, sợ bị trả thù. Đại tá Tín phải giới thiệu Trung tá Nghĩa làm Chánh văn phòng cho Trung tướng Trần Văn Đôn lúc đó làm Phó Thủ Tướng.


Lúc đầu ông Thiệu muốn có một vài hành động hữu ích, nhưng sau gặp sự chống đối mãnh liệt của những người thân trong gia đình ông như ông Ngô Khắc Tỉnh, Hoàng Đức Nhã, Hoàng Đức Ninh, và các bạn bè của ông như Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Nguyễn Vĩnh Nghi. Cuối cùng nhân ông Nguyễn Văn Ngân đi quá xa trong việc soạn bản điều trần phê phán chính phủ dày 30 trang đánh máy, do ông Trần Trung Dung đại diện đảng Dân Chủ đọc trước phiên họp đông đảo nhân viên chính phủ, nội các, quân đội và các nhân viên định chế quốc hiến định như Quốc Hội, Tối Cao Pháp Viện, Giám Sát Viện, ông Thiệu đã lựa chọn quyết định, ông Ngân đã làm xong nhiệm vụ sửa đổi Hiến Pháp để ông có thể ứng cử Tổng Thống thêm nhiệm kỳ nữa.

 Ông Thiệu giải tán đảng Dân Chủ và cách chức ông Nguyễn Văn Ngân. Đặt quyền lợi cá nhân trên quyền lợi dân tộc, quyền lợi đất nước, trong lúc đất nước cực kỳ khó khăn, ông Thiệu đã phản bội lại bao nhiêu người.

Ông Thiệu có biết là bao nhiêu người đã bị bỏ tù và chết trong trại cải tạo vì họ là đảng viên đảng Dân Chủ. Có một số người ra nhập đảng vì quyền lợi – phần lớn là những người muốn bảo vệ chức vụ hoặc muốn tiến hơn lên. Nhưng cũng có rất nhiều người ủng hộ ông Thiệu vì họ muốn có thêm sức mạnh để chống Cộng, có căn bản chính trị từ quần chúng để nói chuyện với Mỹ trong sự bảo vệ miền Nam không bị Kissinger hy sinh quá nhiều ở bàn Hội Nghị. Cũng có người muốn có một đảng chính quyền, để chính phủ Việt Nam Cộng Hòa có thêm sức mạnh để không bị khuynh loát bởi các lực lượng chính trị và tôn giáo.


Người ta không trách ông Thiệu về sự thua trận, mà trách vì sự bỏ chạy không chiến đấu. Ông Thiệu quá tin vào người Mỹ để rồi khi có nguy cơ bị Mỹ bỏ rơi ông chỉ lo tạo áp lực với người Mỹ. Ông bỏ đồn Lực Lượng Đặc Biệt Lệ Minh để chứng minh là Việt Cộng vi phạm Hiệp Định Ngưng Chiến để xin Mỹ can thiệp bằng không quân như Nixon hứa. Mỹ làm ngơ. Ông tiếp tục bỏ Tống Lê Chân, cho tuyên truyền rầm rộ việc vi phạm của Việt Cộng. Người Mỹ tiếp tục làm ngơ.


Ông Thiệu tiếp tục bỏ đất và quyết định bỏ Ban Mê Thuột và rút quân khỏi Pleiku là một sự sai lầm vô cùng quan trọng. Bỏ Quân đoàn Hai, quyết định rút quân bằng liên tỉnh lộ 7 càng bầy ra sự kém cỏi về khả năng quân sự của ông Thiệu. Nhiều người thất vọng, một ông Tổng Thống là một Tướng lãnh tiến thân từ dưới lên đã chỉ huy mọi cấp của quân đội từ Tiểu đoàn lên đến Quân đoàn. Thế mà ông Thiệu quyết định đưa Quân đoàn Hai về miền duyên hải qua con đường liên tỉnh 7, con đường Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã không sử dụng từ năm 1964 tức là đã 11 năm.

Nếu sau này có viết về lịch sử chiến tranh Việt Nam – có lẽ rút quân khỏi cao nguyên và rút quân bằng con đường liên tỉnh lộ 7 là những quyết định quân sự tồi tệ nhất.
Hôm sau tôi tiếp tục bị gọi ra làm việc. Vẫn hai tên hôm qua hỏi tôi. Tên Lưỡng chỉ tôi ngồi xuống ghế trước mặt y; tên kia đặt ghế ngồi phía đầu bàn cạnh ghế tôi ngồi. Tôi vừa ngồi xuống hắn đã hỏi:
– Anh đã suy nghĩ kỹ và thành thật khai báo chưa?
– Báo cáo tôi đã nghĩ kỹ ngay từ hôm đầu. Tôi đã thành thật trả lời tất cả rồi.
Tên ngồi cạnh từ hôm qua vẫn không nói gì, bây giờ hắn mới nói:
– Mày vẫn ngoan cố, mày giữ chức vụ gì trong tổ chức thằng Ngô Văn Vinh và thằng Vĩnh Hầu? Thằng Vinh đã nhận tội và đã khai hết rồi.

Nghe thấy giọng Quảng Trị rất nặng của hắn, tôi xoay qua để nhìn rõ hơn, với cặp môi thâm sì không che hết hàm răng hô ám khói thuốc lờ lờ gớm ghiếc. Tôi ngạc nhiên vì lối xưng hô mày tao, cán bộ hỏi cung lúc nào củng cố giữ bình tĩnh gọi tù bằng anh. Tôi hơi khựng một tí mới trả lời:

– Báo cáo tôi không hề tham gia tổ chức của Ngô Văn Vinh hay tổ chức chính trị nào cả, nếu ông Vinh khai cho tôi ở trong tổ chức, tôi xin đối chất.
– Mày có biết thằng Vinh và thằng Hầu không? Chúng mày hẹn gặp nhau ở quán cà phê Ngọc mấy lần rồi?
– Tôi có biết họ từ trước năm 1975 và từ lâu không hề gặp. Tôi có đến quán cà phê Ngọc để tìm một người bạn là Sào, không có tôi về ngay, không gặp nói chuyện với bất cứ ai ở đó.

– Mày viết cương lĩnh cho tổ chức của thằng Vinh?
Tôi nhớ Sào có nhờ tôi viết cương lĩnh cho tổ chức của Vinh, tôi đã từ khước; tôi không muốn khai Sào vào đây thêm rắc rối, vả lại tôi chưa biết tình trạng Sào ra sao, có bị bắt không, và từ khi hỏi cung đến nay bọn chúng không hề nhắc đến Sào. Tôi không muốn biện minh chuyện từ khước với Sào, nên trả lời:

– Tôi không viết cương lĩnh chính trị cho ai cả.
– Mày đến quán cà phê Ngọc mấy lần – hắn hỏi lại.
– Một lần duy nhất.
– Không gặp Sào mày gặp ai ở đó?
– Tôi thấy có nhiều người ngồi tại nhiều bàn cà phê, tôi không chú ý đến ai, hỏi không có Sào tôi về ngay, không biết ai ở đó cả.
Hắn gằn giọng:
– Không nghe, không biết, không thấy hả, chúng mày cứ gặp nhau là nói xấu chế độ, chúng mày họp nhau là tìm cách chống chế độ…
Tới đó bất ngờ hắn tát mạnh vào mặt tôi và nói:
– Mày hèn lắm, đã dám làm mà không dám nhận.


Vừa nói hắn vừa đánh tôi liên tiếp, phản ứng tự nhiên tôi đưa tay lên đỡ và né tránh, Lưỡng ôm quặt hai tay tôi ra sau để tên kia đánh đá, tôi cố đưa đầu gối và khom xuống để tránh những cái đá vào ngực nhưng không được.
Tôi la lớn lên:
– Cán bộ không được đánh tôi, cán bộ vi phạm chính sách nhà nước.
Hắn càng đánh tôi càng la lớn, miệng tôi đã dập, tôi cảm thấy hơi mặn của máu trong nước miếng. Tôi càng la hắn càng đánh. Một lúc tôi lả đi thì có nhiều tiếng người chạy lại, hắn ngưng tay và tên Lưỡng xô tôi xuống đất. Tôi ngồi nguyên không đứng dậy, khi thấy một tên đứng tuổi, tướng bệ vệ đi vào tôi đứng lên nói với hắn:

– Báo cáo cán bộ, ngay lần làm việc đầu tiên cán bộ chấp pháp đã nói với tôi đảng và nhà nước tôn trọng nhân cách người bị bắt. Chúng tôi không bị đánh đập. Bây giờ tôi bị hai cán bộ đánh tôi.
Hắn nói:
– Anh nói đúng, chính sách nhà nước bảo vệ nhân phẩm con người. Phạm nhân không bị đánh đập như trong chế độ Mỹ ngụy của các anh, cán bộ đánh anh là cán bộ có lỗi. Nhưng chính vì anh khiêu khích cán bộ làm cho cán bộ không giữ được bình tĩnh nên cán bộ đã vi phạm chính sách, anh hiểu không?

Tôi ngớ người, thiệt một đồng một cốt của chúng, tôi trả lời đúng các câu hỏi của hắn không hề có ý định khiêu khích dù mới vào đầu hắn đã mày tao. Bây giờ tên này lại ghép tôi tội khiêu khích cán bộ để cán bộ mất bình tĩnh vi phạm chính sách. Tôi biết có nói cũng vô ích.

Trở về phòng suy nghĩ, có lẽ bọn này muốn đánh tôi vì chúng cho là tôi bướng bỉnh không tỏ ra sợ sệt uy quyền của chúng nó từ khi mới bị bắt, hôm nay không phải là buổi hỏi cung thường lệ. Anh em khu xà lim biết là tôi bị đánh, họ bảo tôi cố gắng uống hết phần nước muối để đề phòng bệnh hậu. Nhờ nước muối vừa uống vừa đắp lên những nơi bị đánh đau, rồi tôi bớt đau dần dần.

Chúng lại để tôi tồn kho hơn một tháng không hỏi đến, và tôi cũng chưa được nhận quà của gia đình. Lúc này trại chuyển qua ăn bột, mỗi bữa ăn là một cục bột bằng nắm tay với dăm ba hột muối trắng chưa rang, ăn bột có cái tiện là vừa nằm vừa ăn. Lúc nào cũng thấy đói, nhất là lúc nằm ngủ, bao tử trải ra, nghe óc ách toàn là nước. Đói quá tôi lại phải uống nước thật nhiều để đầy bao tử cho dễ nằm. Đến khi nhớ lại lần trước uống nước nhiều bị phù lại cố gắng đè cơn đói xuống – chịu đựng không uống nước nhiều nữa.

Không còn cái còng nơi chân, tôi đã đi lại khắp phòng, nằm dưới phi đạo nhìn qua khe hở của cánh cửa nhìn đàn kiến tha mồi lên bức tường xà lim, có hôm nằm hàng nhiều giờ để xem đàn kiến tha xác một con dán; giai đoạn khó khăn là đưa xác dán qua khỏi bực ngạnh, mồi quá lớn so với thân thể những con kiến, chưa kéo lên, con mồi lại tuột xuống, cứ nhiều lần chúng thay đổi thế kéo, nhiều con ôm hai sợi râu dán kéo nó ra hai bên để tạo thế thăng bằng, những con khác bám vào chân, vào cánh cùng nhau căng kéo ra nhiều phía, cuối cùng rồi con dán cũng được kéo lên. Có khi nằm hằng giờ để xem con thạch sùng bò lên phần ăn – gặp lúc ăn bột con vật cứ bò quanh cục bột cố đưa mồm cắn cho được miếng bột, nhưng cục bột vừa cứng vừa trơn, con vật ngoạm hụt mãi.


Nhiều lần nó ngẩng đầu mổ xuống cục bột có vẻ tức giận. Nhìn con vật bò trên phần ăn của mình, tôi muốn đuổi nó đi nhưng không có gì làm nó sợ, lấy tay gõ lên cửa làm tiếng động. Con thạch sùng chỉ ngẩng đầu lên nghe ngóng rồi tiếp tục tìm cách gặm cục bột. Con vật đã ở lâu ngày ở ngạnh cửa nó biết người tù trong xà lim không làm gì được nó.


Ngày 24 tháng chạp xét phòng. Chúng tôi nghe tiếng nói rộn ràng của khu tập thể mang hành lý ra hành lang xét suốt từ sáng.
Khu xà lim xét từng phòng một, hai tên cán bộ làm việc thật kỹ, không những xét tư trang mà còn kiểm tra phòng. Chúng sợ tù giấu những vật làm lễ Giáng sinh. Đêm Giáng sinh, dù bọn cán bộ đi lại kiểm soát liền liền, các anh Công giáo vẫn đọc kinh và hát Thánh ca.

Không khắc ngày bị giam vào tường, tôi bắt đầu quên không biết đã ở bao nhiêu ngày. Hôm ra làm việc nhìn lịch mới biết là 20 tháng 1 năm 1977, như vậy tôi đã ở gần bốn tháng, tôi đã gầy nhiều lắm vì cái quần tây đã trở nên rộng thùng thình phải vận ngược lưng lại mới khỏi tuột xuống.

Lần này làm việc ở một phòng trên lầu, tôi gặp tên lớn tuổi hôm tôi bị đánh, hắn tự giới thiệu mình là Năm Thành, Trưởng ban công an chấp pháp Sở Công An Thành Phố.

Khởi đầu hắn cũng nói về chính sách khoan hồng nhân đạo của đảng và nhà nước. Về chính sách bảo vệ nhân phẩm của người tù – khi hắn nói đến bảo vệ nhân phẩm – tôi nhướng mắt nhìn hắn tỏ ra ngạc nhiên nhưng hắn cứ tỉnh bơ như là không biết tôi từng bị đánh đập và hắn đã buộc tôi tội khiêu khích làm cán bộ mất bình tĩnh vi phạm chính sách.
Sau khi rao giảng bài thuộc lòng xong, hắn hỏi tôi:
– Anh có ý kiến thế nào nếu anh được đưa đi học tập cải tạo?
Tôi đáp:
– Tôi luôn luôn chấp hành đúng những lệnh của nhà nước.
Hắn nói:

– Đúng như vậy là tốt, bạn bè anh đều đã đi hết, lý lịch của anh đáng để được đi học tập, anh ở bên ngoài bây giờ không có lợi cho anh. Nhân dân căm thù các anh lắm, họ sẽ hành động có hại cho anh, giữ các anh trong trại cải tạo là chính sách của đảng và nhà nước bảo vệ các anh khỏi bị nhân dân trả thù – anh hiểu chưa?
Tôi không muốn nói chuyện dông dài nên không có ý kiến gì, vấn đề của tôi như vậy là đã giải quyết, bề nào cũng phải đi tập trung, không cần phải làm đúng thủ tục cung từ hỏi đáp và ký cung.



Không cần tôi có nhận tội hay không nhận tội, và có lẽ cũng không cần tôi có thực sự tham gia tổ chức đối kháng hay không – khi bắt người tội danh chỉ là cái cớ để bắt, rồi không có tội thì xử theo lý lịch; thật là đơn giản. Đó là chuyên chính của giai cấp, người khác giai cấp đương nhiên là kẻ thù đối kháng, cần phải tiêu diệt hay vô hiệu hóa, có đủ bằng chứng buộc tội thì đưa ra tòa kết án, không có bằng chứng buộc tội thì công an xử theo án tập trung cải tạo, rồi tất cả đều được đưa ra trại tập trung làm lao động khổ sai để tự nuôi bản thân và nuôi luôn cán bộ quản lý và làm lợi cho ngân sách nhà nước, khai phá những vùng núi non độc địa nguy hiểm mà những người dân thường không tới được.

Tôi đã học và hiểu, nhờ vào những người lao động tập trung mà khai phá vùng Siberie lạnh giá, nhờ vào các trại tập trung sản xuất nông nghiệp sau thời nội chiến. Nhờ lực lượng tập trung mà Mao Trạch Đông san bằng núi để biểu dương sức mạnh bằng tay chân của nhân dân Trung Quốc.

Tôi giả như chăm chú ngồi nghe, để hắn hứng thú nói huyên thuyên mà tôi khỏi phải nói gì hết. Hình như mỗi tên Cộng sản có cái bịnh ưa nói, nói dài, nói dai, nói dở, nói dóc, nếu một người nào kém hiểu biết nghe chúng nói có thể phục chúng là nói thao thao bất tuyệt, nhưng đa số dân miền Nam trình độ hiểu biết khá, đọc sách, nghe tin tức nhiều, khi ngồi nghe cán bộ Cộng sản nói, thấy chúng nói không đâu, lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia.

Tôi chú ý đoạn hắn nói:
– “Các anh trước kia sợ Mỹ, phục Mỹ rồi làm tay sai cho Mỹ, bây giờ Mỹ bị nhân dân ta đánh bại, mà các anh vẫn còn mong Mỹ trở lại… Tôi nói cho anh biết, Mỹ cũng sẽ trở lại, nhưng trở lại với chúng tôi, với những điều kiện chúng tôi đặt ra, Trung ương và chúng tôi cũng biết là kẻ thù cũ của chúng tôi, có thể giúp cho chúng tôi xây dựng kinh tế. Chúng tôi đang nắm trong tay những thứ mà Mỹ rất cần – nói tóm lại, Mỹ sẽ năn nỉ để được trở lại Việt Nam. Không phải tới để làm tên xâm lược như cũ…”


Hắn nói một thôi dài rồi nhìn tôi như là muốn nghe tôi nói gì, hắn hỏi:
– Anh có ý kiến gì không?
Tôi đáp:
– Không.
Hắn có vẻ cụt hứng, chừng như hắn thích được nói, được thấy người nghe và phát biểu để có dịp hắn nói tiếp, biểu diễn cái tài nghệ của mình; nên khi tôi đáp một tiếng cụt ngủn, hắn như bị hẫng, nên có vẻ lúng túng một tí xong nói:
– Anh nên trở về suy nghĩ cho đúng và hành động cho tốt để rồi khi trở về đời sống xã hội khỏi bỡ ngỡ, bây giờ xã hội tiến bộ lắm, tiến bộ từng ngày, chứ không nói là từng năm. Từ ngày anh bị bắt đến nay xã hội cũng thay đổi nhiều rồi đó.


Kể từ thứ năm tuần đó tôi được nhận quà gia đình lần đầu tiên. Ngồi ăn vội vàng những món nhà gửi, chỉ mới bốn tháng ăn cơm với muối mà tôi như con ma đói, cái gì cũng thèm, cũng ăn qua từ ngọt đến mặn, cắn vào miệng chưa kịp nhai đã vội nuốt, ăn bụng đã no mà mắt vẫn thèm, miệng vẫn chảy nước dãi và muốn ăn nữa. Thân thể con người nó tệ thật, tôi nghĩ rồi đây ra đến trại tập trung xa gia đình sẽ còn nhiều phen đói nữa, biết phải chịu đựng như thế nào.


Nghĩ đến gia đình càng thương vợ con, càng giận mình sai lầm. Trong đời người nhiều khi ngu dại, cái lần ngu dại này của tôi quá lớn, khi tôi quyết định ở lại, tưởng sẽ được ở gần với gia đình, gần cha mẹ, anh em. Chia xẻ những nỗi khổ cực cùng vợ con, ngờ đâu tôi trở thành mối lo âu và gánh nặng của người thân, từ đây mỗi tháng hai lần phải gửi quà thăm, rồi đi trại cải tạo không biết đến bao giờ, thì chắc chắn là tôi sẽ là món nợ của gia đình cho đến khi chết cũng không chừng. Cố gạt tất cả âu lo mà sống, nếu không càng nghĩ càng buốt óc.

Những ngày gần Tết khu xà lim vắng hơn. Bọn công an ăn Tết ít bắt thêm người và cũng không gọi ai ra làm việc. Gần Tết càng buồn càng nhớ nhà, bài ca “Tết này con không về” được anh em tù hát đi hát lại nghe buồn thấm thía. Đã nhiều lần xa gia đình trong dịp Tết nhưng chưa lần nào như lần này. Ngày Tết đến với người Việt Nam là thời điểm thiêng liêng, lúc nhỏ mong Tết đến để được vui chơi, nhận quà từ cha mẹ và người thân. Lớn lên tưởng không cần nhớ đến Tết, thế rồi không khí dìu dịu buồn buồn của những ngày giáp Tết làm cho mình nhớ nhà, và vội vã xếp công việc lại để trở về. Bây giờ nằm trong xà lim vắng càng nhớ gia đình, nhớ cha mẹ, anh em, thương vợ con; không biết Tết đến các em nhỏ và hai con tôi có được gia đình sắm cho áo mới hay không?


Tôi biết là tình hình kinh tế rất khó khăn và càng khó khăn hơn cho gia đình có thân nhân đi cải tạo, làm một công dân hạng tư trong một nước Cộng sản thì chịu biết bao cay đắng vì sự kỳ thị. Cộng sản phân biệt bốn loại gia đình: gia đình liệt sĩ, gia đình đảng viên, gia đình lý lịch trong sạch và “ngụy dân” (thân nhân “ngụy quân, ngụy quyền”), “ngụy quân, ngụy quyền” đi tập trung cải tạo, “ngụy dân” phải đi kinh tế mới, hoặc phải chịu mọi thiệt thòi nếu cố bám lấy thành phố.


Con em của “ngụy dân” không được tiếp tục học lên lớp cao, hoặc có được học phải qua một kỳ thi thật gay go, bị phân biệt vì lý lịch mà còn phân biệt về thang điểm. Có 14 định cấp lý lịch, mà con em của một Đại úy hay Trung úy An Ninh và viên chức cấp quận trở lên đã liệt vào lý lịch cấp 10. Lý lịch từ cấp 10 đến cấp 14 không được học quá lớp 10. Thang điểm thi còn là cái sàng gạn lọc thật gay go – có 4 thang điểm: con ngụy phải đạt ít nhất từ 24 điểm trở lên, con của dân lý lịch trong sạch 18 điểm, con của đảng viên 12 điểm, và con của đảng viên là liệt sĩ thì chỉ 9 điểm là đậu. Trong lịch sử chưa có một chế độ, một triều đình nào trả thù kẻ chiến bại cay độc hơn chế độ Cộng sản.


Người ta cứ tưởng lầm là chúng sẽ giết nhiều, gây ra biển máu tại miền Nam. Người ta không thấy được tất cả sự độc ác của chúng. Giết làm gì, không có lợi lại bị mang tiếng như bọn Pol Pot ở Kampuchia, vì thời đại ngày nay không thể bảo vệ được bí mật những cuộc tàn sát tập thể như thời Staline. Cộng sản Việt Nam thâm độc hơn. Chúng giữ kẻ thù của chúng lại để làm nô lệ, làm con vật sản xuất trong các trại tập trung mà chúng không tốn kém gì vì người tù phải tự làm lấy ăn và còn phải nuôi bọn cai tù và đóng góp cho ngân sách nhà nước.


 Thân nhân của những người tù chúng đẩy đến tận cùng của cực khổ, để gia đình tan vỡ, vợ phải bỏ chồng vì sinh kế và tuyệt vọng, con của người tù thì dìm trong sự ngu dốt, không cho học tập để lớn lên cũng chỉ làm nô lệ hoặc có nuôi căm hờn cũng không đủ trí óc mà vùng lên, chống lại.

Thời gian đã qua nhanh và bao nhiêu sự thay đổi trong lúc đó, phải chấp nhận những gì xấu xảy đến, trách nhiệm của người dân đối với đất nước, trách nhiệm của người chủ gia đình, cả hai tôi không làm tròn. Nước mất, nhà tan nằm nghĩ mãi cũng không ngủ được trong đêm giao thừa, cả xà lim thật im lặng, chốc chốc nghe tiếng thở dài, tôi biết các bạn tù khác cũng đang nằm nhớ về gia đình như tôi.
Bên ngoài pháo đã nổ đều, người Việt Nam nghèo đến đâu cũng trang trọng đón Tết, giao thừa đốt pháo thật nhiều.

Tên trưởng khu mở cửa sắt vào, hắn chúc Tết mọi người trong xà lim, mong mọi người khai báo thành thật để hưởng lượng khoan hồng. Nghe mãi những từ ngữ thành thật, khoan hồng cũng thấy chán cả tai. Không biết tôi có nghe lầm không, nhưng thấy giọng nói của hắn cũng cảm động khác ngày thường. Phải chăng dịp Tết, giờ giao thừa thiêng liêng, con người không còn thù hận nhau nữa. Ước gì cái tình cảm đó được kéo dài ra vĩnh viễn trong cả nước để người ta không còn hận thù giết chóc, chuyên chính bóc lột với nhau.

Xong màn chúc Tết, mỗi người trong xà lim được phát 2 viên thèo lèo và một điếu thuốc. Tất cả cửa ô đều được mở. Chúng tôi ngậm thuốc để tên trưởng khu đốt thuốc cho mọi người. Dù đó chỉ là một việc làm chiếu lệ hay là một màn kịch, nhưng tôi tự nhủ giờ giao thừa thiêng liêng không nên đào sâu hận thù và suy nghĩ gai góc cho khổ mình, cứ tin là thật và để cho kẻ xấu tập làm việc tốt. Đừng suy nghĩ gì khác, cứ nhận hiện tượng xảy ra trước mắt cho tâm hồn được bình yên.

No comments: