Wednesday, February 25, 2015

NGUYỄN CHÍ THIỆP * TRẠI KIÊN GIAM III





CHƯƠNG 9
 
Tổ chức phục quốc những năm 1975, 1976, 1977 thu hút nhóm học sinh, sinh viên ở các tỉnh miền Nam, nhất là tại Sài Gòn, đa số các anh em ở các khu Công Giáo như Bùi Phát, Chí Linh, Tân Sa Châu, Tân Hiệp, Tân Phú, Tam Hà, Cái Sắn. Các em bị loại ra khỏi trường học vì lý lịch có cha anh đi cải tạo. Vì những khuyết điểm trong khi móc nối tổ chức, các em bị bắt rất nhiều và rất sớm, tổ chức mới hình thành đã bị trinh sát chính trị xâm nhập. Do đó hầu hết các tổ chức đều chưa có tài liệu học tập hoặc rèn luyện cho các em ý thức chống cộng, sự hiểu biết chính trị căn bản.

Chúng tôi được khích lệ để làm việc nguy hiểm đó trong nhà tù, vì quả tình các em thấy thích thú và hăng say trong khi được giải thích các điểm các em cần hiểu.
Chúng tôi quan niệm giúp đỡ các em có được sự hiểu biết chừng nào tốt chừng đó để rồi trong nhà tù và trong cuộc đời các em học hỏi thêm và tùy khả năng và lý tưởng các em sẽ đóng góp hữu ích cho xã hội mai sau.


Tháng 5 năm 1977, chúng tôi được chuyển về trại Phan Đăng Lưu tức T-20, là Đề Lao Gia Định bên cạnh trường tiểu học Gia Định và trường Hồ Ngọc Cẩn.
Trại Phan Đăng Lưu có bốn khu, khu A nằm phía trong cùng phạm vi đề lao cũ. Cộng sản xây cất thêm ba khu để giam người. Khu B gồm phòng giam cho phụ nữ và những người bị bịnh truyền nhiễm như lao, cùi, khu C-1 và C-2 được xây trên khoảng sân trống bên cạnh dinh Tỉnh trưởng Gia Định.

 Mỗi khu có 9 phòng giam và 25 nhà biệt giam. Ngoài ra có một khu gồm các phòng nhỏ để hỏi cung tức là phòng chấp pháp. Vào trong tù mới biết những nhà vách xây lợp tôle đó là nhà tù. Có nhiều lần đi ngang qua tôi cứ ngỡ đó là nhà kho. Nhà xây thấp và kín mít, không có cửa sổ, mỗi phòng chỉ có một cửa ra vào bề ngang khoảng một thước. Cửa có nhiều chấn song sắt vững chắc bị che khuất một nửa phía dưới. Không khí không luân lưu được trong phòng. Phòng lúc nào cũng hầm hập nóng.


Người tù bị giam ở đâu tùy theo cơ quan bắt. Qua giai đoạn hỏi cung sơ khởi thì sẽ được chuyển về trại giam Chí Hòa và trại Phan Đăng Lưu. Những chuyến đi lao động cải tạo xuất phát từ trại giam này. Đó là diễn trình chính thức của một người tù bị bắt, tạm giam để hỏi cung đến khi ra trại Lao Cải. Trước khi phân tán những người cùng vụ án đi tới những phòng khác nhau, lúc đó tôi mới biết bị bắt chung với Ngô Văn Vinh và Vĩnh Hầu. Ngô Văn Vinh trước kia làm Ty trưởng Xã Hội Quảng Trị là ủy viên chính phủ tòa án mặt trận vùng 2 – Vĩnh Hầu thông dịch viên Juspao, Nguyễn Đình Hòe – nghị viên thành phố Đà Nẵng.



Ba người này tổ chức một mặt trận chính trị chủ yếu dựa vào số bạn là thân hữu của họ trong hai đảng Đại Việt và Quốc Dân Đảng – Vinh là ủy viên thanh niên của đảng Đại Việt hệ phái Hà Thúc Ký, Hòe là ủy viên thanh niên của Quốc Dân Đảng hệ phái Quốc Dân Đảng tiến bộ của Trung tá Duy Lam. Vinh đã móc nối với Trần Văn Hoàng, Dự thẩm Tòa án Thừa Thiên và Trần Đình Sào, Đốc sự Hành Chánh, Tổng thơ ký Hội Đồng Tỉnh Thừa Thiên.


 Sau khi bị bắt Vinh và Hầu không chịu nổi tra tấn đã khai tất cả những người họ tiếp xúc móc nối vào tổ chức. Vinh khai là qua trung gian của Sào nhờ tôi viết Cương Lĩnh cho tổ chức. Sào có nhờ tôi làm việc đó nhưng tôi đã từ chối vì nghĩ là chưa có thể làm gì được, nhất là trong khi chúng tôi là những người không tuân lệnh trình diện đi học tập cải tạo, đang bị Công an ở thành phố và Công an các tỉnh miền Trung truy tầm. Đối với tôi, chỉ có hai con đường lựa chọn, một là vượt biên trốn ra nước ngoài – hai là tham gia một tổ chức nào có mật khu.


Đã có vài tổ chức khác quan hệ với tôi, họ trình bày đầy đủ từ mật khu đến thành phố. Nhưng khi tôi xin vào mật khu thì họ hoãn, viện lý do này khác để từ chối. Tôi quyết định cùng Thảo, Sào tổ chức vượt biên – ở lại Sài Gòn sớm muộn gì cũng bị bắt. Tổ chức Vinh phạm một sai lầm là móc nối Trần Văn Hoàng, Vinh tưởng Hoàng là người trốn trình diện học tập. Thực sự Hoàng là học trò của luật sư Nguyễn Long trong cánh luật sư Trần Ngọc Liễng tự xưng là thành phần thứ ba.

Nguyễn Long là cán bộ cộng sản điều khiển hoạt động của Trần Ngọc Liễng. Thời gian làm dự thẩm ở Huế, Trần Văn Hoàng tìm cách che chở cho những cán bộ cộng sản. Hoàng đã được trả công cho miễn học tập. Hưởng một ân huệ đối với cộng sản không phải là dễ. Những viên chức, chính trị gia, sĩ quan của chế độ cũ, được miễn học tập hay học tập ngắn ngày năm bảy tháng một năm đều có cộng tác với cộng sản khi họ làm việc với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Đối với những sĩ quan cao cấp bị bắt hay đi trình diện nếu không vì nhu cầu điều tra thì việc ở lại miền Nam của họ cũng là một ân huệ trả giá cho sự cộng tác hay có thân nhân bảo lãnh. Nếu không ở trong hai trường hợp này họ bị tập trung ở các trại miền Bắc hay miền Trung.


Sau khi miền Nam sụp đổ, nhận diện một người phản bội rất dễ. Cộng sản là một tổ chức chặt chẽ và có tính thư lại. Một cá nhân dù là cao cấp không thể tự ý có quyết định ngoài quy tắc, không thể tự ý ban phát một ân huệ cho người khác. Những người được hưởng ân huệ phải nằm trong chính sách, hoặc phải được sự bảo đảm của thân nhân, Kỹ sư Dương Kích Nhưỡng,

Tổng trưởng Công Chánh, Phó Thủ tướng chỉ ở bốn tháng tại Long Thành được về tiếp tục làm trong Ủy Ban Sông Cửu Long, cựu Phó Chủ Tịch Quốc Hội, Đổng lý văn phòng Bộ Thông Tin, tức Đổng Lân chồng đào cải lương Thanh Nga được miễn học tập vì có công nuôi đám nghệ sĩ cải lương Việt Cộng trong nhà, Nguyễn Xuân Oánh Phó thủ tướng có cha là bạn của Hồ Chí Minh, và Thẩm Thúy Hằng là cháu của Tôn Đức Thắng, Phạm Hoàng Hộ, Tổng Trưởng Giáo Dục có công phá hoại kinh tế miền Nam.


 Ông Phạm Hoàng Hộ viết báo kể công rằng chính ông đã viết bài về sự nguy hại của chất độc khai quang, nên tôm cá ở khu vực sông Cửu Long và bờ biển Việt Nam có nhiễm chất dioxine. Sau bài viết của ông Phạm Hoàng Hộ các khế ước xuất cảng tôm cá qua Nhật và Tân Gia Ba bị bãi bỏ, ông Hộ tiếp tục làm công tác tuyên truyền bằng cách đưa ra lý luận “một nước đã bị Cộng sản hóa rồi không quay trở lại!”.

Ông còn viết những bài chứng minh khoai mì, rau muống là những chất bổ dưỡng – ba ký rau muống bằng một ký thịt bò – rau muống là bíp tết xanh. Trần Kim Thạch kể công đã viết bài báo chứng minh thềm lục địa Việt Nam không có dầu hỏa để đánh tan hy vọng của người miền Nam về một nguồn tài nguyên mới trong khi Mỹ giảm viện trợ. 

Phó thủ tướng Nguyễn Văn Hảo được trả công cho hành động giữ lại 16 tấn vàng và một trong những người thúc đẩy Dương Văn Minh đầu hàng và đưa Nguyễn Văn Diệp, đảng viên Cộng sản làm Bộ trưởng Kinh tế. Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Lý Quí Chung trả công cho sự đầu hàng vô điều kiện và gây rối giới chính trị tại miền Nam được khỏi đi học tập.


Ngô Công Đức trả công đối lập miễn đi học tập và sau này y tạo điều kiện cho Việt Cộng tịch thu cơ sở nhà in Nguyễn Bá Tòng của giáo hội Công Giáo nên được cho xuất ngoại. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh trả công nằm vùng bằng cách cho đắc cử Hội Đồng Nhân Dân Thành Phố. Đại tá Nguyễn Văn Lộc, chỉ huy trưởng Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ, tỉnh trưởng Vĩnh Bình đi trình diện 4 tháng về tiếp tục đi xe hơi có người bộ đội lái. 


Trung tá Đinh Văn Đệ, Tỉnh trưởng Tuyên Đức Đà Lạt, Chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện, nay mang cấp Đại úy Công An làm chấp pháp ở Sở Công An Thành Phố. Hôm bị gọi đi hỏi cung, nhìn thấy ông Đệ đang hỏi cung anh Ngô Công Minh, chủ báo Lẽ Sống, tôi tưởng là nhìn lầm người. Đến khi về phòng hỏi lại anh Minh xác nhận là đúng. Sự hiểu biết của tôi có giới hạn, nên tôi chỉ biết chừng đó.


Chắc là còn nhiều, nhất là ở các chức vụ trung cấp – không ai biết hết được. Nhưng có một điều chắc chắn là Cộng sản bắt bỏ tù từ người cán bộ thấp nhất như viên chức trong xã ấp, đến những người đã thôi làm việc trong chính quyền và quân đội hàng chục năm. Vậy những người được miễn đi học tập hay chỉ đi học tập ngắn ngày đều hưởng ân huệ của Cộng sản. Được Cộng sản trả công cho sự hợp tác trước ngày 30-4-75 hay trả công cho gia đình thân nhân là đảng viên cao cấp hay liệt sĩ.


Lúc này tôi mới xác nhận được là Sào không bị bắt. Tại sao Sào đưa Cương Lĩnh tổ chức cho Vinh nói là của tôi viết trong khi tôi từ chối? Thảo, Sào và tôi chuẩn bị vượt biên, giờ đây Thảo, tôi và Lộ không dính dáng gì đến tổ chức của Vinh, Hầu và Hòe, cả ba chúng tôi đều bị bắt chung nhóm, thật là vô lý. Riêng Hoàng thì đã rõ ràng là tay hợp tác với Công an; nhưng tại sao Sào lại đưa tôi và Thảo vào trong đó?


 Qua biến chuyển của xã hội, con người thay đổi thật nhanh. Những con người thật thà thì chới với trong hoàn cảnh mới, những con người tráo trở, lật lường thì lộ ra trong hành động. Lòng ích kỷ, sự mưu sống cho cá nhân họ đã đạp lên tất cả tình cảm, đạo lý thông thường của xã hội. Nếu người ta còn hy vọng cho tương lai, người ta đóng đủ mọi bộ mặt anh hùng, đạo đức, mỗi khi thấy không cần đóng trò nữa thì ai lộ ra bản tính của người ấy. Người ta không ngạc nhiên trước năm 1975, một người sang quý, nay trở thành kẻ lật lường, mánh mung.


Bảy tháng ở trại Phan Đăng Lưu được chuyển qua nhiều phòng, tôi được tiếp xúc làm quen với nhiều bạn tù mới ở nhiều thành phần xã hội và lứa tuổi khác nhau. Tại phòng 9 khu C-2 ở chung với nhà Cách Mạng lão thành từng chống Pháp và chống Cộng như Tạ Nguyên Minh, Thái Nam, Hạng Văn Giai, Phan Vô Kỵ. Những nhà cách mạng lão thành này thật điềm đạm chững chạc, hòa nhã và bình tĩnh. Cung cách đối xử với mọi người trong phòng không tự cao, và đối với Cộng sản không khúm núm.

Một hôm tên Trung tá Tuấn, trại trưởng Phan Đăng Lưu, đích thân đến phòng số 9 gọi cụ Minh đi làm việc. Hắn gọi:
– Thằng Tạ Nguyên Minh đâu, chuẩn bị đi làm việc.
Nghe tiếng gọi xấc xược, anh em chúng tôi nổi nóng. Cụ Minh vẫn bình thản mặc quần áo xong Cụ ra đứng ngay cửa chờ tên cán bộ giám thị mở cửa. Ra đến ngoài Cụ chỉ vào tên Tuấn, Cụ nói:
– Chú còn trẻ tuổi, ăn nói mất dạy, kêu ai thằng này thằng nọ, tôi tiếc là ông Hồ Chí Minh đào tạo ra lớp người như chú thì làm sao xây dựng đất nước. Chúng tôi chống cộng sản nhưng chúng tôi vẫn gọi ông Hồ Chí Minh là “Ông Hồ” hay “Cụ Hồ”, chúng tôi tôn trọng người lớn tuổi.


Tên Tuấn thật ngượng ngùng không nói gì quay đi thật nhanh sau khi bảo tên giám thị dẫn Cụ Minh đi.
Một hôm khác, trưởng khu C-2, Mười Thăng gọi Cụ Hạng Văn Giai đi làm việc, hắn nói:
– Anh bán nước theo Tưởng Giới Thạch làm đến Thiếu tướng hả?
Cụ Giai đáp:
– Chú còn nhỏ biết gì, tôi Trung tướng chứ không phải Thiếu tướng. Việc chúng tôi làm ông Hồ Chí Minh biết, còn ai bán nước sau này lịch sử sẽ xét.

Tôi thấy những người thành đạt trong xã hội cũ – có người lên đến cấp Tướng, học đến Bác sĩ, Luật sư, làm đến Thủ tướng, Tổng trưởng, Bộ trưởng đa số không có được cái dũng khí như những bậc tiền bối cách mạng tôi đã gặp. Đa số những người sau này đều có những tính chung là sợ đói, sợ chết, tham vọng, kiêu căng, ích kỷ và dễ khuất phục trước bạo lực. Các cụ Thái Nam và Tạ Nguyên Minh đã bị chết trong trại Phan Đăng Lưu, các cụ Hạng Văn Giai, Phan Vô Kỵ không biết sau này còn sống được trong các trại lưu đày không, nhưng hình ảnh của các Cụ vẫn sống mãi trong lòng của những người trẻ có dịp gần gũi – những hình ảnh rất thực – các Cụ sống bằng bản lãnh và tâm hồn mình. Dù cuộc đời chính trị của các Cụ có thất bại, nhưng ai lấy thành bại luận anh hùng.


Tôi nghĩ lịch sử Việt Nam đã có những gương sáng như Trần Bình Trọng, Nguyễn Biểu bất khuất trước bạo lực của ngoại xâm – những cái chết của các bậc anh hùng đó làm cho dân tộc sống. Và giờ đây dù Cộng sản có bạo ngược, thâm độc đến đâu, dân tộc vẫn sống, vẫn tồn tại từ sức sống tiềm tàng của người nông dân, thái độ bỏ tổ chức của những đảng viên, đến tinh thần anh hùng của những người tù. Tôi không thể nào ghi hết được những tấm gương oanh liệt đó vì trí nhớ của tôi kém, mà sự hiểu biết cũng bị giới hạn, tôi chỉ ở trong một góc của toàn trại giam Phan Đăng Lưu, trong khi trại Phan Đăng Lưu có bốn khu và chỉ trong Sài Gòn Việt Cộng đã có hàng mấy chục trại giam như Phan Đăng Lưu, Sở Công An Thành Phố, Chí Hòa.



Ai ở trong thời gian 1977 không nhớ tiếng hát của Ali Hùng, binh sĩ Người Nhái, đã bắn chết Công An Cộng Sản trong vụ tấn công nhà thờ Vinh Sơn. Ali Hùng bị án tử hình, thời gian chờ đợi ngày đi ra pháp trường Thủ Đức, mỗi ngày Ali Hùng vẫn ca hát, tù cùng khu không thấy mặt vì chân anh bị còng, nhưng tiếng hát của Ali Hùng vẫn trong và rõ ở mọi bài hát chứng tỏ sự bình thản của anh khi chờ đợi cái chết.


Anh em tù chỉ nghe được lời nghẹn ngào cảm xúc của Ali Hùng khi hát bản “Đường Xưa Lối Cũ”. Anh cảm xúc khi nhắc đến mẹ, đến vợ; người phụ nữ Việt Nam qua gương lịch sử dân tộc luôn luôn đau khổ từ khi làm vợ và làm mẹ, người chồng, người con đi chinh chiến xa, hay bị tù đày làm nặng nỗi nhớ thương của người vợ trẻ và mẹ già ở nhà, rồi người đàn bà chờ mong không bao giờ thấy người ra đi trở về, hoặc khi người trở về thì không còn vợ hay mẹ ra khỏi nhà chờ đón. Và chính thời kỳ Cộng sản chiếm miền Nam này là thời kỳ ly tán nhiều nhất, đau đớn nhất mà sự khổ đau vẫn là người mẹ và người vợ phải gánh nặng nhất.


Anh em cũng còn nhớ người tù tên Lộc ở xà lim tử hình số 2 khu C-2, người bị còng hai chân, hai vế bị siết chặt bởi hai sợi dây kẽm vì anh đã cướp súng giết 8 tên Công an bót Lê Văn Ken, tử thủ trên nhà hàng Olympic cũ trước khi bị bắt. Anh Lộc vẫn ca hát và tôi nhớ mãi cái giọng hùng hồn của anh khi ngâm bản “Hồ Trường”. Một ngày trong tháng 8-1977 cả khu C-2 yên lặng để tiễn đưa người bạn vĩnh viễn ra đi; tù nhân biết người tử tội bị đi hành quyết vì ngày hôm trước, cán bộ mở còng bắt anh tắm rửa sạch sẽ và sáng hôm đó anh được nhận một dĩa xôi gà và một điếu thuốc. Dĩa xôi gà và điếu thuốc đầu bằng, tiêu chuẩn cộng sản dành cho tử tội trước khi hành quyết.


Nếu tôi không bị kỷ luật ở xà lim Chí Hòa ở cầu thang lầu ba thì tôi không biết được ở lầu ba có phòng giam phạm nhân án tử hình. Suốt ngày bị còng hai chân hai tay, chỉ mở ra khi giờ ăn, các anh vẫn chuyện trò râm ran, vẫn ca hát ngâm thơ, tôi vẫn ngạc nhiên về thái độ bình tĩnh trước cái chết đó. Bình thường tôi thấy hầu như ai cũng như ai, thất tình lục dục đủ cả, cũng có người ưu tư lo lắng sợ nữa, nhưng tại sao trước khi chết họ bình tĩnh như vậy được. Tôi không nghĩ đó là sự liều lĩnh hay bất cần cuối cùng của con người nhưng đó là thái độ chấp nhận một cách có ý thức. Thái độ liều lĩnh chỉ xảy ra cho con người trong một lúc nào đó, đằng này các tử tội cái chết rõ trước mặt và họ biết trước hàng nhiều tháng.

Nhưng một ý thức do mệnh lệnh từ lý trí và quả tim đã khiến cho những người tử tù có thái độ ung dung đón nhận, tất cả có thể gọi là một tinh thần chống Cộng và yêu nước cao độ của những người tù tử hình đó.


Những buổi nói chuyện với nhau quanh điếu thuốc lào của những anh đã có nhiều kinh nghiệm trong mọi ngành nghề giúp cho các bạn trẻ thu thập hiểu biết và tạo niềm tin. Chúng tôi sống trong tù nhưng thoải mái tinh thần. Những người bị nghi ngờ là an ten báo cáo đều bị canh chừng và cô lập. Sự hăng hái của các anh em trẻ khiến những người này phải sợ không giở trò gì được. Vả lại anh em trẻ họ chấp nhận đấu tranh, họ không sợ bị giam, bị cùm trong xà lim, kỷ luật trở thành quen và không đáng kể, anh em chịu đựng được. Ngay cả các em hoạt động chống đối có chứng cớ bị đưa ra tòa cũng không sợ. Tháng 7 năm 1979 trong phòng tôi có em Đoan, Tuấn, Hùng, tổ chức phục quốc, các em bị bắt có súng, dù chưa sử dụng. Ra tòa, các em lãnh án từ 20 năm đến chung thân, các em vẫn tỉnh bơ.


Khi tòa kêu án các em Đoan 20 năm, Đoan nói: “Các ông kêu án tôi 20 năm rồi các ông ở chứ tôi không ở đâu”. Tòa bị xúc phạm, liền nghị án ngay tại chỗ và nâng thành bản án chung thân. Em Thắng trước là lính, hoạt động phục quốc, ra tòa kêu án 18 năm, em xin án chẵn, 18 năm lẻ buồn lắm, tòa cũng nghị án thành chung thân ngay tại chỗ. Thắng về lại phòng “tỉnh như không”.


Ở cùng với Thắng từ tháng 4-1978 tại Sở Công An Thành Phố, nhớ ngày nào em mới vào, chân phải đầm đìa những máu vì em chạy khi Công an đến nhà bắt, bị bắn vào chân em vẫn cố chạy đến khi bị bắt, vào trại Công an ghét không chữa vết thương, viên đạn còn nằm trong chân vài ngày sưng tấy lên, em vẫn không rên, nhờ Huệ Nhật săn sóc mỗi ngày rửa bằng nước muối, từ sưng, mưng mủ rồi xẹp vết thương, dù viên đạn vẫn còn nằm trong bắp thịt, chỉ toàn rửa bằng nước muối.


Kể cung cách những người tù trẻ ở Saigon sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến người tù chính trị trẻ nhất thời đó. Tôn, mới 12 tuổi. Con của một Đại-úy đi học tập cải tạo, nhớ cha và oán Cộng sản, tự ý em viết hai khẩu hiệu “đả đảo Cộng sản” và “đả đảo Hồ Chí Minh” rồi đem dán ở cổng trường Lý Thường Kiệt Tân Bình. Công an bắt hỏi em làm gì, Tôn xưng là “Đại tướng Tổng Tham Mưu QLVNCH”, hỏi ai xúi viết truyền đơn, em trả lời: “Làm Đại tướng thì tự ý làm còn nghe ai xúi”. Hỏi đồng bọn có những ai thì em trả lời: “đã bắt được Tướng còn hỏi quân làm gì?”. Việt Cộng tức lắm, đánh đập, dụ dỗ thế nào em cũng chỉ trả lời như vậy.


Trong phòng sống với các anh, chú, bác rất lễ phép nên ai cũng thương em. Bọn cán bộ thấy em còn bé, cho ra ngoài để lao động trong trại, em từ chối không nhận. Công việc lao động trong trại giam là một ân huệ mà những nhà tư sản, sĩ quan, viên chức cao cấp nhiều người đã làm an ten báo cáo để hy vọng được chọn. Tôn không thèm làm.

Việt Cộng đưa Tôn đi các trại tập trung, quản lý trại không nhận vì em ít tuổi, chúng lại đưa em về nhốt ở trại Chí Hòa hay Phan Đăng Lưu (trụ sở Công an, Phan Đăng Lưu, Chí Hòa, tù thuộc Sở Công An thuyên chuyển thường xuyên từ trại này qua trại kia cho đến khi đi trại tập trung, ít có người ở nguyên một trại). Đầu năm 1979, tôi ở trại Long Khánh, Tôn còn được đưa lên đó một lần, trại tập trung vẫn không nhận em. Sau này không biết chúng giam ở đâu và đến bao giờ mới cho về.


Tôi cũng đã gặp một số các Thượng-tọa, Đại-đức như thầy Quảng Độ, Huyền Quang, Thông Bửu, các thầy bị bắt trong vụ Việt Cộng tiếp thu Cô Nhi Viện Quách Thị Trang. Cuối năm 1976, Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất mở Đại Hội, Việt Cộng đã cho cán bộ giả làm sư từ các tỉnh về dự Đại Hội để mong khuynh loát toàn thể Giáo Hội; nhưng thầy Đức Nghiệp đã tổ chức thành công Đại Hội. Ban lãnh đạo Giáo Hội ngoài Hòa-thượng Trí Thủ còn các Thượng-tọa, Đại-đức chân chính đều được bầu vào những chức vụ then chốt.


Không có một tên VC hay tay sai nào được chấp nhận vào Ban lãnh đạo của Giáo Hội. Việt Cộng đòi tiếp thu Cô Nhi Viện Quách Thị Trang, các Đại-đức và Ni-sư chống lại; lấy cớ đó Mai Chí Thọ cho bắt toàn thể Ban lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất, trừ Hòa-thượng Trí Thủ chúng cô lập tại chùa Già Lam, Gia Định. Thái độ chịu đựng những ngày đói khổ ở xà lim, tác phong đúng đắn, tư cách bình tĩnh của các thầy làm nhiều người rất kính phục.

Một hôm tôi đang ngồi viết bản lý lịch trong phòng hỏi cung, bên cạnh có tiếng đập bàn và tiếng người hét, tôi để ý nghe mẫu đối thoại:
– Bọn thầy tu các anh thật ngoan cố, tội lỗi không chịu nhận – các anh chỉ quen thói truyền bá mê tín để lợi dụng nhân dân hưởng thụ mà không lao động.
Có tiếng trả lời gọn gàng dứt khoát:
– Cán bộ không biết gì về tôn giáo và tín ngưỡng, cán bộ không nên nói, tôi đã được biết chính sách của nhà nước và Bác Hồ tuyên bố tự do tín ngưỡng.


Tiếng tên chấp pháp vẫn hằn học, gằn từng tiếng:
– Anh đừng nói đến Bác Hồ và tự do tín ngưỡng, tự do tín ngưỡng là quyền của người công dân, còn anh là người đã bị bắt, đã phạm tội thì không được tự do tín ngưỡng nữa.
-Tôi bị bắt, nhưng chưa phạm tội, cán bộ không chứng minh tôi phạm tội gì, cán bộ chỉ buộc tôi nhận tội, thì tôi không có tội gì để nhận – như vậy làm sao buộc tội tôi không còn tự do tín ngưỡng.
– Tôi đã bảo anh ngoan cố có sai đâu, bị bắt mà anh bảo không có tội có phải là anh bảo chúng tôi bắt sai, bắt lầm anh. Đảng không bao giờ lầm lẫn, chúng tôi là những người đại diện cho Đảng để thi hành pháp luật.

– Con người thì không thể nào bảo là không sai lầm, mà Đảng là tập thể của con người thì làm sao bảo là không sai lầm…
Tiếng đập bàn:
– Anh im ngay, anh nói thế là chống lại Đảng, thế mà anh bảo không có tội. Anh chống lại Đảng, anh chống lại chế độ vô sản, anh chống lại nhân dân.
– Trước kia tôi có hành động chống lại chính quyền miền Nam, mà tôi chưa bao giờ bị buộc tội và không ai nói là chúng tôi có tội với nhân dân. Từ ngày miền Nam giải phóng, tôi chưa làm một hành động và lời nói nào chống lại chính quyền, chúng tôi thi hành mọi chỉ thị của chính quyền thì làm sao gọi là chống lại chính quyền.
– Các anh tổ chức Đại Hội Toàn Quốc, có người đến dự Đại Hội các anh không chấp nhận có đúng hay không?

– Chúng tôi có tổ chức Đại Hội, các vị lãnh đạo Giáo Hội có xin phép chính quyền mới có Đại Hội, còn có những phái đoàn ở tỉnh lên họp không được tham dự vào ứng cử và bầu cử vì họ không có giấy chứng nhận của Giáo Hội, họ không có tư cách đại diện cho Giáo Hội ở địa phương.

– Nhưng họ có giấy chứng nhận của chính quyền cách mạng địa phương, sao các anh không công nhận – không công nhận chính quyền cách mạng địa phương là chống lại cách mạng.
– Nếu họ là tu sĩ đại diện các tỉnh Giáo Hội thì phải có công nhận của Giáo Hội, còn giấy chứng nhận của chính quyền họ là người của chính quyền, họ là tu sĩ quốc doanh.
Lại có tiếng đập bàn:
– Anh ngoan cố, anh bảo tu sĩ quốc doanh là có ý gì? Nhà nước chúng tôi là nhà nước chuyên chính vô sản, ngoài nhà nước ra thì không có một tổ chức nào khác có đầy đủ thẩm quyền hơn, anh biết chưa?
Tiếng trả lời vẫn ôn tồn:


– Đây không nói về thẩm quyền, nhà nước có thẩm quyền của nhà nước, nhưng Giáo Hội Phật Giáo chúng tôi đã tổ chức từ lâu, nên cũng biết rõ những người không nằm trong Giáo Hội thì những người đó dù có giấy chứng nhận của chính quyền là tu sĩ, thì họ có quyền tu của họ, và ai cũng tu được, nhưng không phải ai cũng tự xưng là đại diện ở địa phương để đi dự Đại Hội Toàn Quốc. Nãy giờ cán bộ nói nhiều đến chính quyền của nhân dân và tôi là người có tội với nhân dân, tôi đề nghị chúng ta làm một cuộc thử nghiệm.


Cán bộ cùng tôi làm một cuộc đi bộ xuyên qua nước Việt Nam, chúng ta không mang theo món vật gì để chứng tỏ cán bộ là vô sản, tôi không dám nhận tôi là người vô sản, cán bộ mặc đồng phục, mang phù hiệu để mọi người biết cán bộ là đảng viên, là công nhân viên nhà nước. Tôi chỉ mặc bộ áo nâu của người tu hành. Chúng ta sẽ nhờ vào sự giúp đỡ của người dân trong đoạn đường mà chúng ta đi qua để xem ai là người sẽ được dân chúng giúp đỡ và xem tôi có tội với nhân dân không?


Tiếng đập bàn và tiếng quát của chấp pháp:
– Anh thật láo, tôi không cần anh nhận tội. Anh cần có thì giờ để suy nghĩ nhiều hơn.
Người tu sĩ được dẫn trở lại xà lim. Về sau tôi biết người bị hỏi cung là thầy Thông Bửu.
Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất đối lập với chính quyền miền Nam. Giáo Hội đấu tranh trên lập trường dân tộc độc lập, không lệ thuộc ngoại bang.


Trong khi chiêu bài dân tộc của cộng sản là “ngụy danh dân tộc”, cộng sản nhìn thấy thế mạnh của Phật giáo, chúng cho cán bộ nằm vùng giả làm tu sĩ hay cư sĩ, những tên này luôn luôn xúi giục những cuộc đấu tranh của Phật giáo từ sau năm 1963 trở nên quá khích. Cộng sản đã có lợi nhiều trong phong trào Phật giáo. Những người lãnh đạo chân chính của Phật giáo đứng trước những khó khăn đó, không có những vận động chính trị, thì miền Nam Việt Nam cứ lún sâu vào ảnh hưởng ngoại quốc và phi dân chủ. Làm cuộc vận động mạnh mẽ thì không kiểm soát được, cộng sản sẽ lợi dụng. Cũng từ đó bên ngoài có người nghĩ Phật giáo là cộng sản.


Sau ngày 30-4-75, những cán bộ cộng sản đội lốt tu sĩ, những cán bộ nằm vùng trong hàng ngũ cư sĩ đã được nhận diện, chúng được đảng đền công, ban phát ân huệ trong các cuộc bầu cử Quốc Hội, đến các hội đồng địa phương, hoặc Mặt Trận Tổ Quốc hay chức vụ trong Giáo Hội Phật Giáo Yêu Nước, mà dân chúng gọi là Giáo Hội Quốc Doanh. Bọn ngụy danh dân tộc, không để cho giáo hội có lập trường dân tộc chân chính được đứng vững. 


Những nhà lãnh đạo Phật giáo cũng thấy sự nguy hại của một chủ nghĩa phi dân tộc vong bản đang nô lệ đất nước. Chính quyền cộng sản không để cho những nhà lãnh đạo Phật giáo được yên vì chúng sợ Giáo Hội cũng vận động dân chúng chống lại như Giáo Hội đã từng chống lại chính quyền thực dân Pháp và các chính quyền lệ thuộc ngoại quốc.


Từ sau khi chiếm miền Nam, Phật giáo là đối tượng cộng sản cần triệt hạ. Dĩ nhiên Thiên Chúa giáo luôn luôn là kẻ thù chính của cộng sản, nhưng đối với Việt Cộng, thì Giáo Hội Thiên Chúa Giáo Việt Nam và các Giáo Hội Cơ Đốc khác, là kẻ thù đã được nhận diện rõ, ngay cả đặc tính phân bố dân cư tập trung trong vùng của giáo dân Thiên Chúa giáo, Việt Cộng dễ kiểm soát, chúng bắt tức khắc những Linh-mục ở giáo xứ nào có manh nha chống đối.


Trên lý luận sử học, Việt Cộng xem Giáo Hội Thiên Chúa Giáo là lực lượng từ bên ngoài, do phong trào chiếm thuộc địa từ Tây phương đem lại. Ngược lại, Phật giáo vẫn là kẻ thù tiềm ẩn, chưa nhận diện hết, cộng sản không thể dùng lý luận dân tộc (ngụy danh) để chống phá Phật giáo, nên Phật giáo là mối bận tâm rất sâu sắc của cộng sản.


Cộng sản đã giam Thượng-tọa Thích Thiện Minh đến chết và kết án các Thượng-tọa khác, và đày một số Thượng-tọa ra khỏi số tín đồ đông đảo ở các tỉnh miền Nam. Sống chung với một số Thượng-tọa, Đại-đức, học được thái độ an nhiên tự tại, tôi khám phá ra đó là phương thức sống hay nhất trong nhà tù cộng sản và sau này suốt thời gian dài hơn, khổ hơn, nhục hơn ở các trại cải tạo lao động, càng thấy điều đó rất đúng. 


Cắt được mọi ray rứt, ân hận, tiếc nuối, mong ước, giữ cho tinh thần thật thảnh thơi càng có sức để chống lại âm mưu hủy diệt của cộng sản bằng những thủ đoạn bỏ đói, bỏ khát, cùm kẹp trong xà lim. Cộng sản chủ trương dùng vật chất để chế ngự con người, thì những người được nuôi dưỡng quen trong các môi trường vật chất, những con người còn nhiều lòng ham muốn, còn nhiều tham vọng càng mau bị đánh gục. Bọn cán bộ cộng sản được giáo dục hận thù, chúng càng thấy người tù khổ sở, đau đớn chúng càng thích thú. Chỉ có giữ cho tinh thần vững mạnh là một phương thức chống cộng sản căn bản nhất trong nhà tù. Chịu sự hành hạ mà không tỏ ra khổ sở, vẫn dửng dưng càng làm cho bọn cán bộ cộng sản tức tối.



Khoảng tháng 8-1977, Mặt Trận Liên Tôn tức Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng 2 do Linh-mục Nguyễn Văn Vàng lãnh đạo bị bể. Cha Vàng và người em là Thiếu-tá Nguyễn Văn Viên cùng tất cả bộ phận đầu não và những người tham gia tổ chức bị bắt gần 100 người. Thiếu-tá Nguyễn Văn Viên là một trong những người Tiểu Đoàn Trưởng kỳ cựu của Lữ Đoàn Dù VNCH. Cha Vàng bị giam ở xà lim 25 khu C-1 và ông Viên giam ở xà lim 11 khu C-2 tại Phan Đăng Lưu.


Thời gian hỏi cung, Cha Vàng và ông Viên được đối xử rất đặc biệt làm ngạc nhiên tất cả tù ở khu C-1 và C-2. Chúng tôi ăn tiêu chuẩn mỗi ngày một khúc khoai mì buổi trưa và 1 chén cơm với nước muối vào buổi chiều, thì Cha Vàng và ông Viên được một tô cơm với thịt hoặc cá và một trái chuối tráng miệng, mỗi ngày trại trưởng đều xuống tận xà lim hỏi han sức khỏe.

Tù nhân xì xào bàn tán, người lạc quan thì giải thích là tình hình sắp có chuyển biến nên đối với những người có tên tuổi như Cha Vàng, Việt Cộng phải đối xử đặc biệt – đa số người tù có bệnh lạc quan tếu, ai cũng nghĩ là Việt Cộng sắp phải rút về Bắc và Mỹ sẽ trở lại miền Nam Việt Nam, một tin tưởng rất mơ hồ nhưng đa số tù đã sống với ảo tưởng đó. Họ chỉ tin mà không lý luận. Ai nói ngược lại với niềm tin đó sẽ bị họ kết án là phản lại niềm tin của anh em, đầu hàng và đâm sau lưng chiến sĩ.



Sự biệt đãi hai anh em Cha Vàng kéo dài hơn hai tháng cho đến khi kết thúc hỏi cung. Vụ án ra tòa, ông Nguyễn Văn Viên bị tử hình, Cha Vàng và ông Nguyễn Quốc Bảo, Ủy-viên Quân Sự của tổ chức bị kết án chung thân, những người khác trong Bộ Tham Mưu lãnh án 20 năm. Những người không ra tòa bị đưa đi tập trung cải tạo lao động.


Năm 1982, gặp Cha Vàng ở trại Xuân Phước, tôi hỏi Cha vì sao Cha và ông Viên được “ưu đãi”, Cha Vàng giải thích đó là một thủ đoạn dụ cung rẻ tiền của chấp pháp. Công an đã bắt trọn ổ Mặt Trận Liên Tôn khi Mặt Trận mới ở giai đoạn tổ chức và chỉ mới truyền bá nội san – chúng nghĩ Cha Vàng là một Linh-mục có uy tín và ông Viên là một sĩ quan kỳ cựu, chúng sợ chưa nắm hết được tổ chức. Thay vì đánh đập tra tấn, áp dụng ít có kết quả ở nhiều người bị bắt. Chúng xoay qua dụ dỗ – chấp pháp đề cao Cha Vàng và ông Viên là người có uy tín, nên trước hết xin Cha Vàng và ông Viên cộng tác. 


Chúng giải thích là vì những khó khăn kinh tế do chế độ cũ để lại, nhiều vấn đề xã hội chưa giải quyết được – có nhiều người chưa hiểu nên đã có những tổ chức chống đối. Chúng giả vờ nói yêu cầu Cha Vàng hợp tác trình bày rõ quan điểm và tổ chức Mặt Trận Liên Tôn. Cha Vàng biết đó là một thủ đoạn dụ cung nên Cha không khai gì hơn những điều chấp pháp đã biết. Hầu hết các tổ chức chống đối đều đưa ra hoạt động cụ thể, mới ở trong giai đoạn tổ chức. 


Nhóm của Cha Vàng có phổ biến một tờ nội san trong các khu giáo dân Công giáo quanh Saigon. Tổ chức nào có hoạt động thì đều phải ra tòa, những người chủ chốt đều lãnh án chung thân hay tử hình. Đối với sĩ quan hay viên chức chế độ cũ, nếu có hoạt động chống đối có bằng chứng cụ thể, ra tòa hầu hết đều bị kêu án tử hình vì cộng sản xem đó là một trường hợp “tái phạm nguy hiểm”. Pháp chế cộng sản quan niệm luật pháp của họ áp dụng cho cả nước dù là họ không cai trị miền Nam trước 30-4-75 nên người tham gia vào chế độ miền Nam đều là có tội và người không bị xử án hay cầm tù ở các trại tập trung như binh sĩ và nhân viên thuộc cấp đó là trường hợp khoan hồng. Đó là cách giải thích luật pháp cưỡng từ đoạt lý, che đậy chủ trương đấu tranh giai cấp.



Thời gian ở trại giam tôi có được tiếp xúc với một số người trong những tổ chức thành lập sau ngày 30-4-75.
Đây chỉ là một phần nhỏ trong hàng ngàn tổ chức chống Cộng lớn nhỏ đã bị bắt như:
– Phạm Văn Mậu, Nguyễn Văn Chính, vụ nhà thờ Vinh Sơn. Trong tất cả những vụ chống Cộng sau năm 75, cho đến thời gian tôi gặp trong trại, vụ Linh Sơn là tương đối có tổ chức nhất. Nhóm Phục Quốc này có tổ chức một số buổi phát thanh vào khoảng tháng 8 đến tháng 9 năm 1975. Họ dùng danh nghĩa Thiếu-tướng Nguyễn Cao Kỳ để tuyên truyền kết hợp, tổ chức có in tiền giả để sử dụng. Lúc bị vây bắt ở nhà thờ Vinh Sơn, có kháng cự bắn chết một công an. Vụ Vinh Sơn bị bắt 13 người. Thiếu-tá Nguyễn Duy Tiếp bị bịnh chết trước khi xử án chung thẩm. Ali Hùng án tử hình vì bắn chết công an, những người còn lại án từ 20 năm đến chung thân.


Sau vụ Vinh Sơn, Việt Cộng bắt rất nhiều Linh-mục ở các giáo xứ Saigon đến Biên Hòa, Long Khánh và Bà Rịa, tất cả đều bị giam ở Chí Hòa đến năm 1982 mới đưa ra trại lao động cải tạo Xuân Phước, tức A-20 ở tỉnh Phú Yên, và đến năm 1986 mới có người được cho về. Đa số về đợt cuối năm 1987 và đầu năm 1988.


Tôi gặp anh Dương Trung Can, Trương Quốc Bảo, Mục-sư Phan Tần, tổ chức Việt Tiến. Anh Dương Trung Can là một nghiệp chủ ở Long Xuyên nên kết nạp người từ Saigon đến Long Xuyên và Cần Thơ. Tổ chức bị bắt có cương lĩnh, bài ca, khí tài để lập đài phát thanh. Trừ một người Việt gốc Hoa là Nhiêu Tô đã phản bội cung khai tất cả, được tập trung cải tạo. Những người khác ra tòa, anh Dương Trung Can, Đỗ Vang Lý, Mục sư Phan Tần bị án tử hình, anh Trương Quốc Bảo án chung thân, Linh mục Huyền Linh tác giả bài ca Việt Tiến án hai mươi năm.


Tôi gặp các Luật sư Trần Danh San, Triệu Bá Thiệp, Nguyễn Hữu Giao trong tổ chức “Ủy Ban Nhân Quyền”. Tổ chức này còn có Luật sư Nguyễn Hữu Doãn và nhà báo Huỳnh Thanh Vị. Tổ chức mới hội họp, ủy cho anh Trần Danh San soạn tuyên ngôn nhân quyền và tuyên cáo sự vi phạm nhân quyền của Cộng Sản Việt Nam. Tổ chức chưa được hoạt động gì thì bị bắt. Trừ Luật sư Nguyễn Hữu Doãn được bạn thân là Hoàng Phủ Ngọc Phan bảo lãnh cho về từ trại tạm giam – những người khác đều bị đưa đi trại lao động cải tạo.


Các anh Phạm Văn Tường, Nguyễn Văn Tân, Trương Văn Quới, tổ chức Mặt Trận Toàn Dân Chống Cộng. Anh Tường Thượng sĩ Cảnh Sát, hai anh Tân và Quới là Thượng sĩ Quân Cụ. Anh Tường có nói về mật khu ở Phương Lâm nhưng tôi không tin điều đó có thật.


Các anh Nguyễn Văn Lạc, Lê Văn Thương, Thiếu tá Lê Văn Bằng, Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia – anh Bằng sĩ quan nên bị đưa ra khỏi trại tạm giam 1977, tôi không còn gặp. Các anh Lạc, Thương đưa đi cải tạo án tập trung, anh Lê Văn Thương chết ở trại Xuân Phước năm 1983.
Các anh Huỳnh Ngọc Diệp, Nguyễn Trung Thạch, Mặt Trận Dân Tộc Tự Quyết. Đặc biệt Mặt Trận Dân Tộc Tự Quyết chủ trương cộng tác với những người của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để chống lại Cộng Sản Bắc Việt. Trong khi tổ chức của các anh đã “móc nối” với Đại tá Nam Thành, Trưởng Ban Chấp Pháp Sở Công An Thành Phố nên bị bắt gọn.

Tôi gặp các anh Nguyễn Văn Ninh và Trần Văn Phương trong Binh Đoàn Lê Văn Duyệt, Thủ lãnh Binh Đoàn Lê Văn Duyệt là ông Khổng Trung Lộ. Binh đoàn chủ trương tổ chức lực lượng quân sự nòng cốt là các khu công giáo để đấu tranh lật đổ chính quyền. Ông Khổng Trung Lộ bị án tử hình.

Tổ chức thành phần thứ ba của ông Bùi Ngọc Phương gồm các ông Vũ Đăng Dung, Thủ-lãnh Luật Sư Đoàn Miền Trung; Nguyễn Văn Hiếu, thông dịch viên làm Tòa Đại Sứ Mỹ; Kỹ-sư Phạm Tá, chủ tiệm nhuộm ở đường Lê Thánh Tôn; ông Bùi Minh Đức tức Ôn Hòa Hiệp; Nguyễn Cao Thanh, Giáo-sư Đại Học Phương Nam; Lương Thiện, Giáo sư Hoa ngữ; Đoàn Công Lập, cựu Trưởng-ty Cảnh Sát Thừa Thiên. Do sự thúc đẩy của Đoàn Công Lập, ông Bùi Ngọc Phương tự xưng là thành phần thứ ba đánh điện tín ra Hà Nội đòi Phạm Văn Đồng thi hành Hiệp Định Paris hòa hợp hòa giải dân tộc.

Đoàn Công Lập cán bộ cộng sản hồi chánh, gia nhập Đảng Đại Việt hệ phái Hà Thúc Ký, được làm Ty trưởng Cảnh Sát Thừa Thiên Huế thời kỳ miền Trung tranh đấu. Lập không đi cải tạo và được Sở Công An Thành Phố giao phó tổ chức chống Cộng giả để bắt nhiều người. Lập và con trai là Đoàn Công Việt“bị bắt” và được thả ra khỏi trại giam nhiều lần trong những tổ chức phản động khác nhau. Những người trong tổ chức Bùi Ngọc Phương đi lao động cải tạo. Ông Lương Thiện chết năm 1981 và ông Bùi Ngọc Phương chết năm 1984 ở trại Xuân Phước.

Việt Cộng triệt tiêu kẻ thù bằng nhiều mức độ, hoặc tiêu diệt nếu bị đánh giá là nguy hiểm cho chế độ, hoặc vô hiệu bằng cách cầm tù, hoặc khuất phục những thành phần ít nguy hiểm hơn phải đầu hàng không còn hành động chống đối nữa.
Sau khi chiếm miền Nam, cộng sản tập trung những sĩ quan viên chức chế độ cũ, các đảng phái chính trị, xong chúng mở chiến dịch nhắm vào các nhà văn, nhà báo, các lãnh đạo tôn giáo và các nhà tư sản.

Vấn đề an ninh chính trị là số một của cộng sản. Lực lượng công an là sức mạnh chính, là cánh tay bạo lực để trấn áp. Mai Chí Thọ chỉ huy khoảng 100 ngàn công an rải khắp mọi nơi tại Saigon-Gia Định.
Các phong trào Phục Quốc thời gian đầu đều xuất phát từ Thủ Đô Saigon cũ. Hầu hết đều bị bắt ngay trong giai đoạn đầu tiên, tức giai đoạn mới tổ chức.

Ngoài ra, Mai Chí Thọ còn cho nhân viên công an đứng ra tổ chức những Mặt Trận chống đối giả hiệu, nhân viên công an chìm cũng đi rỉ tai móc nối. Những ai nghe theo chúng bắt nhốt hết, người nào dè dặt không nhận lời tham gia, cũng bị bắt vì không tố cáo người chống chính quyền. Theo luân lý và luật pháp của cộng sản, một người dân được xem là tốt khi người đó biết đấu tranh với kẻ khác để bảo vệ chế độ cộng sản; biết rình mò hay tố cáo hành động hay tư tưởng người khác với công an. Ai cũng có thể bị bắt vì tội danh phản động. Phản động là một từ ngữ mơ hồ cộng sản dùng để chỉ người khác giai cấp kể cả nhân vật lịch sử sống trước thời Karl Marx. Người nào bị bắt cũng đều có tội, vì “đảng và nhà nước không bắt lầm”.

Mục đích của những tổ chức phản động ma do công an lập ra để:
– Bắt tất cả những người dám chống đối và còn tư tưởng chống đối.
– Làm cho những người không thích chế độ phải khuất phục, mất sức đề kháng.
– Làm cho những phong trào chống đối trở thành kém nghiêm túc như một trò khôi hài để người dân không còn ngóng trông gì ở lực lượng đối kháng.

Trong một chế độ dân chủ thực sự, chính quyền tạo mọi cơ hội để người dân tham gia chính trị, trực tiếp là ứng cử viên các chức vụ hiến định, hoặc đi bầu cử để lựa chọn người đại diện, hoặc phát biểu ý kiến công khai trên báo chí, trực tiếp đề nghị ý kiến với viên chức chính quyền kể cả Tổng Thống là chức vụ dân cử cao nhất, tự do biểu tình để bày tỏ thái độ, lập trường v.v…

Các chế độ phản dân chủ đều không muốn người dân tham gia vào sinh hoạt chính trị. Chế độ quân chủ, chế độ thuộc địa tổ chức những trò chơi, cờ bạc, rượu chè, hút xách để người dân thụ hưởng. Chế độ độc tài qui định sự tham gia chính trị của người dân vào một hành động duy nhất là hoan hô lãnh tụ và ca tụng chế độ. Có dân chủ hay không là tùy mức độ tham gia chính trị của người dân. Phi chính trị là một thái độ tiêu cực mà chính quyền độc tài mong muốn. Xã hội Việt Nam trải qua quá nhiều biến cố trong một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, mọi người dân ở bất cứ tuổi tác nào cũng bị chính trị chi phối; nhưng càng ngày thái độ phi chính trị càng phổ biến.

Có một thời đi làm cách mạng, làm chính trị là một hành động cao cả được ngưỡng mộ. Rồi từ ngữ cách mạng bị lạm dụng, một hành động lừa thầy phản bạn, tranh giành quyền lợi cá nhân cũng tự xưng là cách mạng. Một tổ chức lừa đảo, trấn áp, câu thúc, bóc lột toàn dân, biến đảng viên thành những con người đầy thú tính, đê tiện giành độc quyền từ ngữ cách mạng.

Ý nghĩa tốt đẹp của hai chữ chính trị cũng biến mất. Chính trị trở thành một hành động thủ đoạn lừa lọc. Người ta không còn nghĩ là làm chính trị là để đem khả năng ra phục vụ đất nước, phục vụ xã hội. Người ta chỉ nghĩ đến chính trị có nghĩa là tiêu diệt nhau để nắm quyền lực, gom góp quyền lợi, chính trị trở thành đáng sợ đáng ghét.

Năm 1977, cộng sản ban hành nghị quyết 228 nhằm càn quét tất cả những lực lượng đối kháng ở Saigon và các thành phố miền Nam. Nhà tù không có chỗ nhốt người, các trại tập trung mọc lên như nấm ở khắp nơi – chúng đã thành công ở giai đoạn đầu trong mục tiêu trấn áp.
Thái độ phi chính trị của người dân là một mục tiêu mà cộng sản đã đạt được. Không tham gia, không ủng hộ, người làm chính trị trở thành một hành động đồng lõa với cộng sản.

Dân chúng đã mất niềm tin, các cuộc vận động chính trị trở nên rất khó khăn. Người dân đã chán ghét chế độ cộng sản, muốn nó bị lật đổ, nhưng lại nghi ngờ đối với những thành phần đối kháng. Đây là một nguy cơ cho tương lai của Việt Nam – một khó khăn cho những người có hoài bão chống cộng xây dựng đất nước. Làm thế nào có thể lấy lại niềm tin của toàn dân?

Trước hết phải quan niệm lại việc làm chính trị, nếu không lấy lại được tính cao thượng của hành động này thì ít nhất phải xem đó là một đối tượng của người làm chính trị cần phải được tôn trọng không bị đánh lừa, ít ra người làm chính trị phải thấy là người dân Việt Nam hiện nay đã rất trưởng thành, ngoài việc giáo dục văn hóa được phổ cập nâng trình độ nhận thức của họ lên. Những diễn biến chính trị trong suốt mấy chục năm qua, nạn nhân chính là người dân, nên họ rất có nhiều kinh nghiệm, có nhận thức sắc bén và không để cho tiếp tục bị lừa.


Hồ Chí Minh thành công nhờ lừa lọc, thủ đoạn gian trá. Ông ta chết rồi, ông ta cũng mang theo những thủ đoạn chính trị xuống mồ.
Bài học Hồ Chí Minh gian manh lừa lọc những lãnh tụ quốc gia cứ ám ảnh các người làm chính trị – nên ai bước chân vào con đường chính trị cũng nghĩ là chính trị cần có thủ đoạn.

Thủ đoạn, mưu lược rất cần thiết, nhưng phải đặt trên quan niệm là để đạt được mục tiêu cao thượng là phục vụ dân tộc. Hãy trả lại cho chính trị ý nghĩa nghiêm túc của nó. Làm chính trị phải từ tấm lòng yêu nước, thương dân, muốn phục vụ cho sự tiến bộ và hạnh phúc của con người. Hiện nay, sau một lần thua đau, chúng ta có thì giờ để chuẩn bị ngay từ đầu, không phải vá víu và không còn phải đứng giữa nhiều kẻ thù. Hiện tại, chúng ta chỉ còn có kẻ thù trước mặt là cộng sản độc tài – nghèo đói và lạc hậu. Nghèo đói và lạc hậu cũng chỉ là hậu quả của chế độ cộng sản đem lại.

Tổ chức đối kháng bị bắt thật nhiều, nhưng những đặc điểm chung là:
1- Chỉ mới giai đoạn tổ chức kết nạp, chưa có hành động chống đối cụ thể.
2- Không có phát động đồng đều trong một vùng rộng lớn, chỉ mới ở giai đoạn lẻ tẻ.
3- Không có kế hoạch bảo mật nên bị cộng sản phát hiện từ trong trứng nước – thường là kết nạp phải trinh sát của công an vào tổ chức.
4- Chỉ tổ chức ở thành phố, không nghĩ đến tổ chức mật khu an toàn để chiến đấu. Một số người nói về số quân trong rừng hay mật khu chỉ là sự khoa trương để gây uy tín, cũng như mượn danh một số tướng lãnh cũ đều nhằm mục đích đó mà không có thực.

Sở dĩ Saigon thường nhắc các mật khu vì sau 1975, ở vùng núi non có một số tàn quân còn hoạt động trước khi bị tiêu diệt. Vùng Bàu Cá có một số tàn quân do Linh mục Hiệu ở Long Khánh chỉ huy. Khởi đầu trú quân tại vùng Bàu Cá, sau rút về đông bắc Long Khánh, trên đường di chuyển vào dịp Tết Bính Thìn đã tấn công vào huyện Kiệm Tân, đốt kho lương thực gây chấn động Saigon; trên đường rút lui về Long Khánh đã bị Việt Cộng hành quân vùng Phương Lâm tiêu diệt. Linh mục Hiệu bị bắt, lãnh án tử hình, số tàn quân còn lại cải tạo tại Z-30A.

– Vùng Dốc Mơ Gia Kiệm và Phương Lâm, có đơn vị tàn quân do Thiếu-tá Tài chỉ huy hoạt động từ năm 1975. Trong năm 1976, Việt Cộng dùng cả sư đoàn hành quân càn quét tiêu diệt.


– Một số anh em binh sĩ không chịu đầu hàng rút vào hoạt động tại khu Thị Vãi, Long Lễ ở Phước Tuy sau cũng bị tiêu diệt.
Để lập công, tên Luật sư Cảnh dựng nên vụ án Sông Vĩnh, hắn cho tổ chức những đường dây đưa người vào mật khu. Ở Saigon, nhiều thanh niên nóng lòng chống Cộng tham gia. Đầu tháng 6 năm 1976, trong ba ngày liên tiếp, công an thành phố chặn tất cả xe đò, xe lam đưa người từ Saigon đến Sông Vĩnh Phước Tuy, bắt gần 200 người.
Tháng 12, chúng tôi được chuyển trại về Chí Hòa. So với trại giam ở Sở Công An Thành Phố và Phan Đăng Lưu, trại Chí Hòa cũng thoải mái hơn nhiều. Phòng được xây cao, những chấn song sắt và các hành lang rộng, gió vào lồng lộng, ban đêm nằm chật ních người vẫn lạnh.

Trại giam Chí Hòa cũng phân biệt nhiều loại tù, đối xử khác nhau. Các sĩ quan trình diện từ các trại lao động đưa về ở khu DE, mỗi ngày được xuống ô đánh bóng chuyền một lần, sau đó được tắm rửa. Tù mới bị bắt, mỗi tuần được tắm hai lần, mỗi lần mười lăm phút. Tù bị án tử hình bị cùm chân tay suốt ngày đêm trên tầng thứ ba dãy khu FG. Vào ngày thứ ba, trong khi xách nước để dự trữ vệ sinh và dọn phòng, một số anh em trẻ dùng nước vừa tắm dội thật nhanh trên người để lấy nước rửa phòng một thể. Nhưng sáng kiến đó không được chấp nhận; tên Châu, tù thường phạm, làm trật tự báo cáo trực trại nên phòng bị phạt cấm lấy nước. Phòng nhốt hơn 40 người chỉ có một nhà cầu mà không được cấp nước giội rửa mỗi ngày thì thật là tai hại. Chỉ qua ngày thứ hai là phân và nước tiểu tràn ra hôi thối nồng nặc.

Cả phòng xôn xao, mỗi người một tiếng ồn ào ô hợp, cuối cùng những anh tù trẻ hăng lên la lối đòi trại phải cấp nước. Cộng sản cho đó là một cuộc đấu tranh, điều tối kỵ trong tù của cộng sản. Cán bộ cộng sản có nhiều kinh nghiệm về ở tù. Trong tù họ luôn tìm dịp để đấu tranh. Đấu tranh là một hình thức để rèn luyện cán bộ, tạo gắn bó và tinh thần kỷ luật của cán bộ trong tù. Đấu tranh để nuôi dưỡng ý chí không bị đời sống khổ cực, buồn tẻ, chán nản trong thời gian ở tù hủy hoại.


 Từ kinh nghiệm đó, khi giam giữ tù, cộng sản triệt hạ tất cả những mầm mống đấu tranh, nhất là những cuộc đấu tranh có tổ chức. Anh em la lối làm cả ban giám thị, gồm cả trưởng khu tên Trung-úy Trạc chạy xuống với súng ống để đàn áp. Anh em trình bày sự việc, và trước sự kiện hiển nhiên chúng cũng thấy rõ là phòng giam bốc mùi hôi thối ra đến bên ngoài. Tên Trạc hứa cho mở phòng đi lấy nước đặc biệt. Vấn đề tưởng như vậy là đã được giải quyết một cách bình thường. Phòng chuẩn bị những người để chờ mở cửa đi xách nước. Nhưng đến khi mở cửa không những để đi lấy nước, tên trưởng khu còn gọi tôi đi làm việc. Mới ra khỏi cửa phòng, hắn đã ra lệnh cho tên trật tự còng tôi lại, dẫn về đầu cầu thang lên xuống của khu, xong tên Châu đẩy tôi vào trong góc tường và đánh đá túi bụi.

Tôi la to để các phòng ở cạnh nghe biết tên Châu đánh tôi, tên Trung-úy Trạc giả như không biết sự việc tôi bị đánh, ra lệnh cho tên Châu đưa tôi lên nhốt ở xà lim kỷ luật ở phòng trên.
Ngoài dãy xà lim ở trước khu DE và dãy xà lim ở dưới ô, tại mỗi chân cầu thang ở Chí Hòa có ba xà lim kỷ luật. Đã bị cùm ở xà lim các trại giam tưởng đó là địa ngục nhưng so với xà lim kỷ luật, xà lim tạm giam là thiên đường vì ở đó mỗi phòng đều có cầu tiêu và vòi nước, có nước uống, có một bục xi măng để nằm cao ráo. Xà lim kỷ luật bốn bề vuông vức khoảng 2m, tối tăm bẩn thỉu. Phòng giam nồng nặc mùi phân và nước tiểu.


Tên Châu loay hoay mở khóa để còng chân tôi, cánh cửa được mở rộng có ánh sáng, tôi thấy cái thùng đựng phân ngay giữa phòng, đầy tràn ra ngoài nhớp nháp. Cố ém hơi để mùi hôi thúi hết xông vào mũi, vào mồm, tôi đảo mắt để có thể tìm một chỗ có thể nằm được, để khỏi dùng tay mò mẫm khi cửa đóng tối lại. Thời gian ở tù cũng đã hơn một năm, tôi rút được kinh nghiệm, phải chấp nhận những gì xảy đến, có oán than cũng không ích lợi gì, vì ở trong tù, nhất là bị giam kín trong xà lim, người tù hết còn làm gì được, mọi phương tiện đều tối thiểu, mọi khả năng đều bị tước đoạt – chỉ còn có chịu đựng không trách móc, than thở là điều tốt nhất. Cái cùm sống, tức là không đóng chặt một chỗ nên tôi có thể mang cùm đi lại trong phòng.


Không chỗ nào có thể nằm được, phân và nước tiểu tràn ra cả lớp ướt nhão nhoẹt, chỉ còn ở sát bên tường xà lim là hơi khô, có thể ngồi thu mình dựa lưng vào để nghỉ ngơi hoặc là có thể ngủ. Cố gắng trấn áp cơn buồn nôn dâng lên tận cổ, cuối cùng đành chịu thua, mùi thối cứt lâu ngày, nó lợm trong cuống cổ, khi không kềm được nữa phải mửa thốc tháo, mửa đến hết tất cả những gì còn ở trong bụng ra đến khi miệng đã hết lớp chua đến đắng, biết là đã ói mửa đến mật. Hết còn gì để ói nữa, cái bao tử vẫn trạo trực dâng lên những cơn co thắt và cái cổ nấc cụt. Tôi nghe tiếng la lối ở dưới nhà. Cố phân biệt tiếng la của Đoàn Kế Tường, Trần Nhật Tân, Dương Đức Dũng. Không phải chỉ mình tôi bị đánh ghép tội sách động mà cả số bạn trẻ trong phòng cũng bị bắt đánh sau tôi.

Tên trưởng khu Trạc muốn đánh chúng tôi, nhưng hắn sai tên Châu trật tự đánh để chối trách nhiệm. Tuy là công an với nhau, nhưng bọn cán bộ cũng chia ra nhiều ngành có nhiều mâu thuẫn vì quyền lợi không đồng đều. Bọn cai tù không ưa bọn chấp pháp, vì chấp pháp làm việc ít và nhiều quyền hơn, cũng như bọn vệ binh ít quyền lợi nhất nên không ưa bọn khác. Nhưng tổ chức của Cộng Sản chặt chẽ, qui định trách nhiệm nặng, nên tên nào cũng phải thủ nguyên tắc.

Ở xà lim gần nhau, tôi và Tường đều mệt mỏi và thấm đòn, chúng tôi chỉ dặn nhau dứt khoát không nhận tội gì cả, và phản ứng chuyện bị đánh bằng cách xin làm việc với chấp pháp. Chúng cho gặp thì chính thức phản đối, nếu không cho gặp thì cũng hy vọng là với phản ứng mạnh mẽ, sau này chúng sẽ bớt đánh thêm. Chúng tôi không muốn để chúng đối xử như một người tù thường phạm muốn đánh đập lúc nào thì đánh, dù phản ứng có thiệt hại nhiều cho cá nhân, hồ sơ cải tạo có bị ghi thêm nhiều nốt đen bởi những lời phê thái độ cải tạo xấu.

Suốt đêm không ngủ được. Những con gián bò nhột nhạt ở hai chân, bò lên cả mặt. Tôi suy nghĩ về trường hợp của chúng tôi. Rõ ràng là tên giám thị Trại cố tình bắt chúng tôi ra mà đánh. Sự việc vừa xảy ra, tên Trạc xuống đã bắt tôi đi. Như vậy có thể là do hồ sơ của tôi lúc mới bị bắt, tên Đỗ Hữu Cảnh ghi vào cuối biên bản, thái độ của tôi lúc bị bắt là bình tĩnh và tỏ ra ngoan cố. Lời ghi chú đó đã làm cho tôi bị cùm mấy tháng trong xà lim sở công an, bây giờ đến trại mới, cái lời ghi đó tiếp tục có tác dụng. Chỉ có lời ghi thái độ ngoan cố lúc bị bắt mà tôi phải nhiều lần bị giam cùm trong xà lim, có những lúc tôi thật sự không làm gì cả, nhưng trại có lộn xộn, y như rằng nếu không tìm ra thủ phạm thì tôi phải nằm trong số những người bị bọn giám thị còng đầu tiên.

Ngày hôm sau tôi lại được gọi ra làm việc. Mở còng cho tôi là một người trật tự khác, cũng thường phạm. Vừa mở còng hắn nói nhỏ:
– Em tên Minh, lính không quân cũ, hôm qua thằng Châu đánh các anh, tụi em về có chửi nó, thằng đó ngu nhưng biết hối hận, anh thông cảm.
Qua giọng nói, tôi biết Minh nói thật, đa số người tù thường phạm rất xốc nổi, họ sống theo bản năng nhiều hơn lý trí, ngoài đời hay đối với nhau rất hung bạo, nhưng vào tù rất sợ bị đánh cùm và sẵn sàng làm tay sai cho cán bộ, bọn Cộng Sản rất kinh nghiệm, trong các trại tù, nhốt chung giữa chính trị và thường phạm, chúng rất nâng đỡ tù thường phạm để sử dụng làm tay sai. Tù chính trị ít người chịu làm công việc đê hèn đó.

Tôi nói với Minh:
– Tôi hiểu các anh làm nhiệm vụ.
– Anh hiểu vậy tụi em mừng rồi, nhưng đáng lẽ thằng Châu được lịnh, nó chỉ nên đánh nhẹ, đằng này em biết nó đánh mấy anh đau lắm. Anh nhớ uống nước muối để tránh bịnh hậu.
– Thôi đừng áy náy Minh, tôi biết phải làm gì.
Ra khỏi xà lim, tôi thấy tên Trạc đứng ở xa nhìn lại, hắn dùng cái khăn bịt mũi vì thối quá.
Làm việc với tôi là một tên Thiếu úy người miền Nam, hắn tự giới thiệu là Thành. Cán bộ miền Nam rất hiếm trong hàng ngũ công an.
Vừa chỉ ghế cho tôi, hắn nói:
– Tôi làm việc với anh vì việc anh sách động đấu tranh. Chống lại trại giam tức là anh đã chống lại cách mạng.

Thấy hắn cả vú lấp miệng em, tôi đáp:
– Báo cáo cán bộ, tôi không đấu tranh và cũng không sách động ai cả. Chúng tôi không ai sách động hay thúc đẩy người khác được – mỗi người đều tự ý hành động. Tôi phản đối là tôi đã bị đánh đập, cán bộ chấp pháp đã xác nhận nhiều lần là chúng tôi được tôn trọng phẩm giá, không bị đánh.

Hắn vẫn ràng buộc lời nói:
– Anh khỏi phản đối, người đánh anh là trật tự, cũng là tù, chúng tôi đã thay đổi công tác, cán bộ thi hành đúng chính sách không đánh đập ai hết. Đó là tù đánh tù. Anh không sách động mà khi bắt anh đi rồi, có bọn thằng Tân, thằng Tường, thằng Dũng la đòi thả anh ra, chúng tôi bắt bọn đó, thì bọn thằng Quách Diệu Định, Vũ Hùng Cương tuyệt thực.

Chuyện thành lớn. Việt Cộng thiện nghệ về tổ chức nên rất ghét hành động có tổ chức. Tự phát chúng không sợ nên xử phạt nhẹ, hành động chứng tỏ có tổ chức chúng phạt rất nặng. Nhưng dù sao, chuyện cũng đã xảy ra rồi. Và anh em làm như vậy cũng hay, vừa có tình với nhau, dù ở nhiều nơi họp lại sống chung với nhau có hai ngày. Vừa chứng tỏ khí thế đề kháng sẵn có trong mọi người.

Tôi vừa suy nghĩ vừa trả lời tên cán bộ Thành:
– Báo cáo cán bộ, chúng tôi mới ở chung với nhau hai ngày, có người chưa kịp nói chuyện với nhau. Việc xảy ra vì phòng thối quá không chịu được, và anh em làm theo phản ứng tự nhiên.
– Các anh lợi dụng sơ hở là đấu tranh, việc của phòng phải để cho trưởng phòng trình lên cán bộ, đằng này các anh đã gây náo loạn cả trại. Anh biết gây náo loạn trại, các anh đã phạm tội gì không?
Tôi tránh né:
– Báo cáo, tôi không gây náo loạn, trong phòng đã đề nghị trưởng phòng làm nhiệm vụ, trưởng phòng từ chối, nên mới xảy ra sự việc.
– Anh biết những người nào la to nhất không?

– Báo cáo, tôi không biết gì cả, lúc đó phòng đông, ai cũng nhao nhao lên tiếng, chỉ có một vài người lớn tuổi ngồi im lặng, thế mà tôi bị bắt ra trước tiên hết.
Hắn lại bắt câu nói của tôi để bẻ quặt câu hỏi:
– Thế là anh bảo anh oan à, cán bộ bắt oan anh à, cán bộ là đại diện cho đảng, đảng không bao giờ sai lầm cả. Anh trả lời không biết, không biết, không nghe, không thấy à, tôi biết chủ trương bao che của các anh… làm như vậy làm sao học tập tiến bộ, làm sao anh về được.
Lại nghe điệp khúc cán bộ là đại diện của đảng, chống cán bộ là chống đảng, hay là đảng không bao giờ sai lầm nên cán bộ không bao giờ sai, không bắt người sai. Lý luận một chiều ngu xuẩn đó cứ hết tên này nhắc, tên khác nhắc như vẹt.

Sau khi viết lý lịch của tôi vào biên bản, đến mục can tội ghi “sách động chống đối” tôi không ký vào biên bản. Nên hắn tức giận nói:
– Anh vẫn một mực ngoan cố, không tiến bộ, anh cần phải suy nghĩ nhiều nữa.
Hắn giao tôi lại cho cán bộ Trạc đem tôi về xà lim. Xà lim đang được dọn vệ sinh nên hắn đưa tôi vào cùng phòng với Đoàn Kế Tường. Tôi nằm được một lúc thì Đoàn Kế Tường cũng được đưa về phòng. Tường cũng bị ghép tội sách động đấu tranh và cũng không ký biên bản.
Anh em đã tuyệt thực, vụ này thành lớn chuyện, chắc chắn chúng tôi sẽ bị giam lâu. Có những việc muốn tránh cũng không được, tốt hơn là chấp nhận nó với thái độ tự nhiên, còn hơn là than trách.

CHƯƠNG 10


Sáu mươi bảy người tập trung một phòng dưới ô để làm các thủ tục cần thiết để đi trại lao cải. Mọi người lo âu, băn khoăn vì sắp bước qua một giai đoạn mới trong cuộc đời tù tội. Căn phòng chật chội vẫn yên lặng, mỗi người ngồi thừ ra bên cạnh gói hành trang gồm ít áo quần và thức ăn còn lại của đợt thăm nuôi vừa qua.

Cơm chiều xong đa số đã đi nằm, chỉ có những người hút thuốc lào tụm lại với nhau thay phiên kéo chiếc điếu cầy, tiếng nước sôi sùng sục nghe rõ mồn một. Tôi lại nghĩ đến gia đình tôi, không biết thân nhân của tôi sống bằng cách nào trong hoàn cảnh càng lúc càng khó khăn. Qua gói quà gửi tôi hiểu gia đình đã sa sút lắm. Tôi không xin quà, để gia đình gửi cho tùy ý theo khả năng, đỡ cảm tưởng mình là gánh nặng cho thân nhân, vừa để có thể đo lường mức độ sinh sống ở nhà. Đã hơn mười sáu tháng rồi, tôi chưa gặp mặt vợ con. Nhớ lắm.

Hai phòng hình sự tập trung cũng chuẩn bị ra đi, anh em trẻ họ ca hát suốt đêm, hát giã từ thành phố để đi đến một nơi nào chưa ai biết, nhưng chắc chắn nhiều cam go. Có chịu đựng được không? Nghĩ đến ngày về xa vời vợi. Án tập trung là án dây thun, nó cứ dài ra mãi vì có tăng mà không có giảm án. Ngày về có thể ngày mai, mà có thể chục năm nữa, và có thể chẳng bao giờ.
Sáng sớm chúng tôi được gọi dậy ra ngồi ngoài sân, gần Tết trời lạnh se sắt, lạnh ngấm từ bên ngoài và cũng thoát ra từ bên trong, từ nỗi cô đơn và sự lo lắng.


Trại trưởng đến đọc lệnh tập trung, sơ yếu lý lịch và tội danh mỗi người để kiểm điểm lại lần cuối. Tôi bị ghi là tham gia tổ chức phản cách mạng, đúng như trưởng ban chấp pháp Năm Thành nói với tôi, không cần tôi nhận tội, không cần phải làm cung theo đúng thủ tục, không cần chứng minh tội trạng, công an giải thích “Đảng không bao giờ nhầm lẫn”, bị bắt là đương nhiên có tội, không tội này thì tội khác.

Không ai thắc mắc khiếu nại, chỉ uổng công, cán bộ không có thẩm quyền giải quyết. Chúng tôi được phát mỗi người một nắm cơm bằng quả bưởi và nhúm muối trắng cho một ngày ăn đường. Nhiều người thở ra nhẹ nhõm, ít ra cũng đỡ được một phần, chúng tôi đi cải tạo ở một trại gần Saigon.

Hai chiếc xe hàng chạy chầm chậm, buổi trưa mới tới trại Xuân Lộc. Trại nằm phía đông bắc núi Chứa Chan, từ ngã ba Ông Đồn trên quốc lộ 1 đi vào khoảng 4 cây số. Trại lập tại Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 53 Bộ Binh, bộ chỉ huy trại và phân trại A nằm ngay trên đồi Phượng Vĩ, phân trại B sâu vào rừng 2 km, và Việt Cộng đang xây thêm một trung tâm kiên cố gồm nhà xây tường đúc lợp tôle và có tường bao quanh.

Thời gian “Trăng mật” cũng qua nhanh. Tụi VC coi trại tù rất tâm lý, tù mới ở trại giam ra chúng cho làm việc nhẹ khoảng một tháng, ai cũng muốn được vận động, phơi nắng vì tù túng quá lâu trong phòng tạm giam nóng bức và ngộp thở. Chừng lao động được một tháng, chúng đưa vào những công tác chính như cuốc đất, xẻ núi làm đường đào ao, lúc đó tù nhân mới bắt đầu thấm mệt và hiểu thế nào là lao động cải tạo và chỉ mong được trở lại phòng tạm giam. Mỗi ngày làm việc quần quật, trên đất núi cứng như đá vôi, dụng cụ thô sơ, dưới trời nắng chang chang.

Trưa và tối mỗi bữa một chén cơm độn khoai mì với nước muối, nên mới có hơn hai năm cải tạo mà những người trình diện trông đã tiều tụy lắm. Lương thực mỗi ngày cắt dần phần gạo, thời gian đầu ăn toàn cơm nhưng gạo hẩm, sau nửa cơm nửa ngô, rồi ngô được thay bằng khoai mì khô.


Mức độ độn tăng dần theo thời gian, 50% độn, rồi 75%, 80% rồi đến cuối năm 1978 mỗi tuần trại Long Khánh chỉ ăn 2 bữa cơm, 12 bữa ăn còn lại chỉ ăn khoai mì khô. Phần gạo ít quá, không thể nấu chung với thức độn, anh em nhà bếp cũng kinh nghiệm hễ nấu chung với độn tên quản giáo nhà bếp ăn cắp nhiều gạo, nên họ đã nấu thành hai bữa cơm nguyên mỗi tuần còn ăn độn riêng để đảm bảo phần gạo ít ỏi của tiêu chuẩn. Cũng may là trại ở gần Saigon nên nhiều gia đình đi thăm nuôi đều đặn hàng tháng, nên kẻ có người không bạn bè còn chia sớt cho nhau để sống chung, thử thách với thời gian và gánh nặng gian khổ.

Sau 10 ngày ở trại lao động tôi được gia đình thăm. Chỉ mới xa cách 16 tháng mà vợ tôi trông già hẳn đi đến mấy tuổi và Thụy Vũ, đứa con trai mạnh khỏe bụ bẫm của tôi bây giờ trở thành đứa bé khẳng kheo. Mười mấy phút gặp mặt không đủ để hỏi thăm tin tức gia đình. Lần đầu được thăm nuôi, anh em đã có dặn trước, chuẩn bị trước những câu hỏi, khi gặp gia đình vẫn cứ lúng túng, có việc hỏi tới hai ba lần, còn có điều muốn hỏi lại quên đi, đến khi vào trại mới sực nhớ lại.


Ba mẹ tôi ở Đà Nẵng đều khỏe mạnh, những đứa em trai tôi đều nghỉ học, đứa thì bị đại học gạt ra biên chế, đứa thì không được dự thi lớp 10. Học sinh thi theo lý lịch, mấy anh em tôi có 3 anh ở trong chính quyền và quân đội VNCH đương nhiên là lý lịch xấu, không được cấp giấy cho thi. Đời sống vợ con tôi đã rất bi đát; không còn cách gì để đủ ăn ngoài việc bán lần hồi những gì đang có kể cả quần áo cũ. Mong muốn con được đi học chắc không thành.

Vợ tôi xác nhận Sào không bị bắt, hắn vẫn nhởn nhơ đi lại tại Saigon. Hắn đến nhà nói với vợ tôi là tôi sẽ không bao giờ về được vì tôi đã trốn trình diện mà còn tham gia tổ chức phản động.
Thành phần tù cải tạo ở trại Xuân Lộc lúc đó, phân biệt khá rõ, sĩ quan trình diện đa số là cảnh sát và sĩ quan biệt phái từ cấp Trung úy trở xuống. Tù chính trị mới đa số là thanh niên trẻ trong tổ chức Phục Quốc, một số rất ít tội vượt biên.

Cách biên chế đội, cách bố trí phòng ở và khu vực làm việc cũng nói lên sự phân biệt đó. Tù phản động biên chế từ đội 4 đến đội 10, ở trong các dãy nhà trung tâm phân trại, các đội trình diện ở các dãy nhà gần hàng rào hơn. Tại hiện trường lao động các đội trình diện làm gần bìa rừng, đội bị bắt làm khu vực giữa đồng.

Sự phối trí như vậy cho các anh sĩ quan trình diện cảm tưởng là họ nhẹ tội hơn và có thể được về sớm nên họ làm lao động rất hăng và kiểm soát lỏng lẻo vẫn không trốn trại. Cán bộ Việt Cộng giải thích sở dĩ các sĩ quan trình diện chậm được thả ra vì tình hình nội chính bên ngoài chưa ổn định, vẫn còn những tổ chức chống đối. Việt Cộng đã rất giảo hoạt khi chúng dồn sự oán thán chúng về phía những người đối kháng. Nhiều người đã dễ dàng tin sự giải thích đó, nên trong trại họ ít tiếp xúc với tù nhân bị bắt. Họ nghĩ là những người tù mới bị bắt là những người manh động, và tham vọng quyền lực mơ hồ.


Về phía tù nhân bị bắt thì họ có sự kiêu hãnh riêng đối với hành động đối kháng của họ dù chưa làm cho Cộng Sản thiệt hại về người và vật chất, nhưng họ cũng chứng tỏ được tinh thần bất khuất của nhân dân miền Nam. Trong trại tù, họ thể hiện tinh thần đó qua cách lao động miễn cưỡng, lề mề. Lập trường của họ về lao động khác với bên tù nhân trình diện, họ không làm lao động tích cực như tù trình diện, xem sự tích cực lao động là hình thức đầu hàng. Họ không chịu ở trong các đội phục vụ cá nhân cán bộ. Xem đó là sự sỉ nhục.


Họ ngấm ngầm phá hoại hoa mầu một cách có ý thức, vì hoa mầu là phục vụ trước hết đời sống cán bộ, còn lại mới cho tù. Trại trồng ngô, khi hái bắp, hái một bắp bỏ lại một hai bắp để đến khi đội có nhiệm vụ dọn cây lá có cái ăn. Tù trình diện coi việc làm của tù bị bắt là manh động, là “ruồi bu”, họ chưa thấy hành động chống đối nhỏ nhưng nó thể hiện được tính đối kháng hơn là thái độ phục vụ ngoan ngoãn làm đẹp trại theo khẩu hiệu và sự thúc đẩy của bọn cai tù.

Tập trung cải tạo là chính sách thực hiện chủ trương đấu tranh giai cấp của Cộng Sản để tiêu diệt và vô hiệu hóa thành phần khác giai cấp dù có đối kháng hay không. Về phương diện kinh tế, tập trung cải tạo để khai thác sức lao động; Việt Cộng không giết hàng loạt để tạo biển máu ở Saigon như hệ thống tuyên truyền của Mỹ và VNCH loan ra trước khi Saigon sụp đổ. Nhưng Cộng Sản vắt từ giọt máu của người tù ở trong trại cải tạo. Người tù đem sức ra làm lao động đến kiệt sức và chết ở đó. Lénine đã viết rất rõ để hướng dẫn chính sách lao động.


Hắn viết “Tập trung chúng lại để làm công tác lao động, tạo cho chúng luôn luôn nuôi hy vọng chúng được thả, đổi trại thường xuyên để chúng nuôi hy vọng đó, cuối cùng chúng gặp nhau và chết ở Sibéria”. Trong thời khủng hoảng kinh tế cuối thập niên 1920, Staline đã sử dụng các trại tập trung như những nông trường sản xuất nông nghiệp năng suất cao hơn những nông trường quốc doanh.


 Cộng sản Việt Nam rập khuôn theo đúng mô thức của Liên Xô. Cũng xây dựng nhiều trại tập trung, dùng sức tù làm công cụ sản xuất. Khi chiếm miền Nam, chính sách cải tạo đã có sẵn và Việt Cộng có chương trình đưa tất cả sĩ quan, nhân viên và các thành phần xã hội cần được “cải tạo” khác ra miền Bắc ở trong các trại tù, sau đó, nếu được thả cũng phải cư trú trên vùng rừng thiêng, nước độc miền Bắc không cho về miền Nam. Vì có sự mâu thuẫn trầm trọng với Trung Quốc, nên chương trình đưa cải tạo ra miền Bắc tạm ngưng từ tháng 4 năm 1977.


Do đó các lực lượng đối kháng của nhân dân miền Nam có tạo tình trạng bất ổn về chính trị cho Việt Cộng nhưng không có ảnh hưởng nhiều đến quyết định thả hay không thả tù cải tạo. Bọn Việt Cộng rất gian manh và chúng thường tìm mọi cách để giải thích các hiện tượng xã hội cũng như các quyết định để tuyên truyền. Đối với các gia đình thân nhân của người tù cải tạo, chúng giải thích là người tù học tập chưa tốt.

Số người được cho về sớm, đầu tiên là những người có quan hệ gia đình với bọn cán bộ Cộng Sản, có nằm vùng lập công trước 1975, sau đó đến các chuyên viên các ngành kỹ thuật. Trong những đợt xét tha có cả những người cấp bậc chức vụ lớn để tuyên truyền cho chính sách nhân đạo. Nhưng bên ngoài biết đâu những người này trước 75 có móc nối làm việc hai bên, hoặc những người có quan hệ gia đình với cán bộ cao cấp, hoặc những người quá già yếu cho về để chết ở nhà, những người hết sức đề kháng. Việt Cộng có thể thả một Đại Tá già vào thời điểm 1978. Nhưng mấy Thiếu Úy trẻ bị đánh giá là ngoan cố phải đến 1988 mới được thả. Việt Cộng quan tâm đến những người còn sức chống đối hơn là địa vị của tù nhân.
Tổ chức Phục Quốc tuy chưa gây được thiệt hại về vật chất cho Việt Cộng, nhưng sự nổi dậy của họ có nhiều giá trị:

– Về phương diện chính trị: cho thấy Việt Cộng không hoàn toàn chinh phục được nhân dân miền Nam, không phải chỉ có những người liên hệ đến chính quyền VNCH chống lại chúng như chúng đã tuyên truyền, mà những nông dân, công nhân là những người trước đây ủng hộ chúng đã chống lại.
– Về phương diện lịch sử: toàn dân Việt Nam đều mong mỏi đất nước độc lập thanh bình, người dân đã tham gia các phong trào yêu nước đánh thực dân Pháp, và Việt Cộng đã lợi dụng hoàn cảnh lịch sử đó để cướp đoạt quyền lãnh đạo kháng chiến.
Sau ngày 30-4-1975, các chiêu bài giải phóng dân tộc đã hết hiệu lực – Sự xây dựng xã hội chủ nghĩa không được dân chúng ủng hộ, nên phong trào chống đối nổi lên khắp nơi.

Tôi gặp Phố trong số anh em tù Phục Quốc đầu tiên tới trại Xuân Lộc. Tốt nghiệp Sĩ Quan Võ Bị Đà Lạt, vô binh chủng Biệt Động Quân, bị thương giải ngũ với cấp bậc Trung Úy. Phố hoạt động Phục Quốc bị bắt. Trong trại, Phố quy tụ được một số anh em cựu sĩ quan Võ Bị Đà Lạt, có người trốn trình diện, có người đã là thương phế binh, và có cả những em còn là sinh viên sĩ quan khi Việt Cộng chiếm miền Nam. Hơn 10 anh em họ sống với nhau rất thân thiết, chia sẻ cho nhau từ món ăn nhỏ, đến những sự vui buồn trong những ngày tù tội đầy ải. Truyền thống Võ Bị Đà Lạt gắn bó họ sống thân thiết và có kỷ luật, giữ tinh thần huynh trưởng. Họ được các anh em trẻ quí mến, mỗi người tập họp được một số bạn khác.

Nhóm anh em đó thường tụ họp với nhau để trao đổi sự hiểu biết, kinh nghiệm, những nhận định về chế độ Cộng Sản, và họ cũng muốn duy trì một tinh thần chung cho những người tù bị bắt, dù nhiệt tâm chống cộng nhưng ô hợp không tổ chức. Những anh em sĩ quan trẻ này, cũng có những nhu cầu như Hoạt, như tôi khi sống chung với những tù nhân thế hệ trẻ, những người đối kháng sau 1975. Không nhiều thì ít chúng tôi đã có trách nhiệm trong việc làm mất nước, nên chúng tôi cũng phải có trách nhiệm với những người tù trẻ này.


Chúng tôi không thể vô tình để mặc họ trước bao nhiêu những vấn nạn. Không thể tự tìm lấy lối sống khôn ngoan để tự bảo vệ lấy mình, làm Hàn Tín chịu luồn trôn hay Câu Tiễn nếm phân. Thực tế trong lịch sử Trung Hoa cũng như Việt Nam cũng không mấy ai đủ bản lãnh làm được như Hàn Tín và Câu Tiễn, nên những sự khôn ngoan lúc đầu nó là cái vỏ bảo vệ bản thân, nhưng rồi với thời gian chịu đựng, cái vỏ đó càng lúc càng biến thành một thứ xơ cứng đến khi muốn vùng lên cũng không còn đủ sức


. Con người nhẫn nhục chịu đựng mãi qua thời gian lâu dài, sức phản ứng cũng bị tiêu tan như một cái lò xo bị nén lại lúc bung ra thì rất mạnh, nhưng nếu nén mãi không bung, sức đàn hồi bị tiêu diệt; khi sức đè nén bị cất đi cái lò so chỉ còn là một khoanh bẹp dí. Nhẫn nhục chịu đựng là một đức tính vô cùng quí báu của con người có đảm lược, nhưng với người bình thường trở thành sự nhu nhược.


 Chủ trương của Cộng Sản là tiêu diệt sức đề kháng của người bị chúng cai trị, chúng lấy thí nghiệm Pavlov với con chó cắt thực quản làm kinh nghiệm, làm cho người ta sợ hãi, làm cho con người phản xạ có điều kiện, lúc đầu là ý thức chịu đựng, nhưng dần dần thành thói quen. Chúng bắt một người tù gặp cán bộ phải giở nón chào, đi qua cổng gác phải giở nón cúi đầu, lúc đầu người tù làm vì bảo vệ an toàn cá nhân, nhưng nếu cứ làm mãi, làm mãi, trở thành thói quen, thấy cán bộ Cộng Sản là cúi đầu sợ hãi, không còn ý thức chống đối nữa. Không phải chỉ có những bài học tuyên truyền, bằng luận cứ một chiều, bằng những từ ngữ khuôn mẫu để tẩy não người tù; mà bằng cách sống hàng ngày, tạo sự sợ hãi và tuân phục cũng là một biện pháp tẩy não.

Chúng tôi thấy cần phải chống lại biện pháp cải tạo đó, để duy trì sức đề kháng, và chút hơi nóng còn sót lại trong bản thân của mình và truyền nhau giữ chung cái hơi ấm mỏng manh đó trong những người tù với nhau. Có nhiều anh em khác biết việc làm của chúng tôi, thương thì khuyên răn, ghét thì kê kích; họ gọi chúng tôi là những người ngu – nhưng chúng tôi cam chịu làm những người ngu. Có thể đất nước được xây dựng bằng những bộ óc khôn ngoan nhưng đất nước được bảo vệ bằng cả bàn tay của những người ngu lẫn người khôn. Dù có thể chịu nhiều nguy hiểm và thiệt hại, bản thân chúng tôi vẫn cố duy trì một hình thức chiến đấu trong tù, chiến đấu không phải để thắng, mà chiến đấu với bản thân, chiến đấu với những mưu toan của địch để duy trì sức đề kháng cần thiết.



Dịp Tết, gia đình thăm nuôi tấp nập, tù nhân qua lại thăm viếng nhau, tổ chức những bữa cơm bạn bè tập thể từ chiều 30 được nghỉ lao động. Anh em bên trình diện có nhiều phấn khởi vì họ nghĩ ra Tết chỉ khoảng hơn 4 tháng là hết hạn ba năm cải tạo, họ có thể được về. Khi các cửa nhà giam khóa lại sau buổi cơm chiều mọi người đều muốn giữ yên lặng để suy tư, nhớ về gia đình; không phải chỉ có mình họ ngồi trong tù tưởng nhớ mà giờ này gia đình cha mẹ vợ con cũng đang thổn thức nhớ thương. Một người nào đó như không chịu được không khí ngột ngạt nặng nề cất tiếng hát bài “Xuân này con không về”. Bài hát thật tầm thường, lời lẽ giản dị sao mỗi lần có người hát lên nghe buồn thúi ruột….


“Con biết bây giờ mẹ chờ mong con, khi pháo giao thừa rộn ràng nơi nơi… nếu con không về chắc mẹ buồn lắm… đàn trẻ thơ ngây chờ mong anh trai sẽ mang về cho tà áo mới, ba ngày xuân đi khoe xóm giềng…”. Tâm sự của người lính nơi chiến trường vì trách nhiệm không thể bỏ bạn bè để về thăm nhà mà nó da diết như vậy, huống hồ tâm sự của người tù, của những người đã mất nước không còn chiến trường để chiến đấu, không còn chiến tuyến để giữ, trở thành những người đói khổ, lếch thếch.


 Gia đình người tù không những buồn vì thương nhớ người thân mà còn phải lo chạy gạo hàng bữa nuôi con ở các chợ trời không đủ còn phải đem bán dần tài sản trong nhà từ cái áo quần, cho tới miếng gạch bông trong bếp hay miếng tôle đang lợp trên mái, cái gì cũng bán nếu thấy nó còn có thể bán được, nó không quá cần thiết cho sự sống bấp bênh hàng ngày.

Tiếng hát mới kết thúc là đã có tiếng phản đối:
– Hát buồn thúi ruột, hát bài khác cho vui không được sao. “Ly Rượu Mừng” đi, tiếng nói không có người hưởng ứng, người đó nói tiếp:
– Tết mà không có bài “Ly Rượu Mừng” là thiếu.
– “Ly Rượu Mừng” à, vô duyên quá, khung cảnh này mà mừng nỗi gì, mà chúc ai đây?
Một tiếng khác:
– Phải đó, hát bài nào cho hợp cảnh; “Ly Rượu Mừng” lạc lõng quá.


Người hát không chú ý đến những tán đồng hay phản đối chung quanh, với giọng thật buồn, anh chuyển qua ngâm thơ, anh thuộc gần như cả cuốn Chinh Phụ Ngâm lúc đọc lúc ngâm những câu thơ được anh diễn tả lúc hùng hồn, lúc tha thiết. Cả phòng không ai nói lời nào, mọi người đều lắng nghe. Nhiều tiếng thổn thức chứng tỏ có người đã khóc vì xúc động. Nhớ vợ con, nhớ cha mẹ anh em ở nhà. Hoàn cảnh giống nhau, tâm trạng giống nhau, cũng câu thơ, bài hát như xoáy vào trong lòng của người tù vào đêm 30 Tết chuẩn bị đón giao thừa. Người đàn ông nằm trong tù đày, những đàn ông đang bị đày đọa vì đã thua cuộc chiến, vì đã bỏ súng xuống mà không chiến đấu.


Những người đàn ông không làm tròn bổn phận đối với tổ quốc và đối với gia đình, chỉ tội nghiệp cho những người đàn bà, khi trao thân ai cũng muốn cùng chồng sống hạnh phúc tới đầu bạc răng long, chỉ có tình yêu tổ quốc mới có thể đặt trên tình gia đình. Khi người chồng đi chinh chiến để bảo vệ tổ quốc, người vợ mới cam lòng làm kiếp chinh phụ nhưng ngày ra đi của người chinh phu thật đẹp đẽ và hào hùng (… giã nhà đeo bức chiến bào, thét roi cầu vị ào ào gió thu, … áo chàng đỏ tựa ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in…) và nhiều người vợ hiện tại cũng đã từng làm kiếp chinh phụ. Quảng Trị, Kontum, Bình Long, An Lộc… bao nhiêu địa danh bao nhiêu chờ đợi, người chinh phụ thời đại vẫn không sờn lòng.


Nhưng rồi người chiến sĩ bỏ chiến trường, không chiến đấu. Ngày đi trình diện hay bị giặc bắt tận nhà đều thiểu não, còn đâu hình bóng hào hùng lúc chia tay, nếu không phải là một kẻ chiến bại ngơ ngác, thúc thủ gục đầu, còn đâu là hy vọng tương lai mong khúc khải hoàn về chốn triều trung hay chỉ là một kẻ đói rách còm cõi thân tàn ma dại, mà tháng tháng người vợ phải nhịn ăn, nhịn mặc mang thức ăn lên trại tù tiếp tế.
Tội nghiệp cho những người vợ ở nhà chờ chồng đi cải tạo, tiếng gì để gọi tên họ cho xứng đáng, vinh quang nào cho họ trong hoàn cảnh này.

Người mẹ, không có cái văn chương nào đủ để diễn tả được người mẹ Việt Nam, ngoài cái vinh dự cao quí nhất là đã đồng hóa mẹ với đất nước, “Mẹ Việt Nam” ai đã dùng ba chữ ngắn ngủi đó mà giá trị hơn cả ngàn bài thơ. Chỉ như thế mới xứng đáng với cái hy sinh của mẹ đối với con, của tình mẹ đối với con từ khi con lọt lòng đến khi con trưởng thành và kể cả con đã già. Ai mà không cảm động khi bà mẹ gần chín mươi tuổi lặn lội chống gậy mang đồ ăn từ Long Xuyên lên thăm con ở tù ở trại Xuân Lộc. “Ngoại đi thăm ai vậy ngoại?” “À, ngoại đi thăm thằng Hai,” thằng Hai tiếng gọi thật âu yếm của mẹ dành cho đứa con mà thằng Hai năm đó đã 64 tuổi.


Mẹ thương con, mẹ thương từ đứa con nên đến đứa con hư, đứa con thành công cũng như đứa con thất bại, vì tâm của mẹ không giới hạn, đứa nào mẹ cũng thương. Người cha cũng thương con, nhưng người cha vẫn thương đứa con thành công là ước vọng của người cha, hoài bão của người cha nhiều khi ông không đạt được. Cái trí của người cha nhiều khi làm cho tình thương của ông giới hạn, người cha cũng xót xa cho đứa con thất bại, nhưng không quí mến nó, và cũng có nhiều người cha ghét những đứa con hư; nhưng mẹ thì không vậy, vì mẹ sống với Tâm không giới hạn mà cha thường sống với Trí luôn luôn bị giới hạn.

Đêm giao thừa nằm nhớ nhà, người tù muốn dùng giây phút yên lặng thiêng liêng đó để trầm tư cho rõ lại thân phận mình và những lỗi lầm của mình trong thời gian qua, vì cuốn hút bởi cuộc sống, với những thành công cũng như thất bại, vui sướng hạnh phúc hoặc chán nản thất chí, người tù đều không có dịp để suy tư. Người tù đã thấy được cái tội lỗi của mình với nhân dân, cái tội buông súng không chiến đấu để bảo vệ cuộc sống tự do no ấm cho toàn dân, và người tù ước mơ, ước mơ có dịp chiến đấu trở lại.

Gặp gỡ đều đặn các anh em trong nhóm của Phố, trước tiên tôi khuyên họ nên đọc sách, trong nhà văn hóa có nhiều sách. Nếu anh em thấy cuốn “Tư Bản Luận” khó đọc thì đọc cuốn sách do Lénine viết, đọc để tìm hiểu thêm về Cộng Sản, cần đọc và chỉ đọc Lénine cũng đủ vì sách của Hồ Chí Minh hay các tác giả miền Bắc chỉ là những sách lập lại những gì Lénine đã viết. Cộng Sản Việt Nam muốn thần thánh hóa Hồ Chí Minh, ông ta có viết sách, làm thơ, nhưng tất cả ý kiến đều là lập lại, cóp nhặt; Hồ là một người đạo văn, đạo thơ trắng trợn nhất. Ở tù có 40 ngày ông ta viết tập thơ “Ngục Trung Nhật Ký”, khi đọc Đường Thi mới biết ông ta cóp Đường Thi, có bài cóp nguyên chỉ sửa lại vài chữ, ý của ông chỉ lập lại ý của người xưa mà không ghi xuất xứ.


Anh em trẻ hầu hết đều chống việc đọc sách của Cộng Sản.
Cách thức tuyên truyền cái gì của địch cũng xấu, cũng dở và ngăn cấm tiếp xúc, tìm hiểu địch là cách thức của Đảng Cộng Sản đối với đảng viên và dân chúng của vùng họ cai trị, luôn luôn buộc đảng viên và người dân tin vào lãnh tụ và chỉ biết lý luận một chiều. Nhưng phía VNCH, các chính phủ trước cũng có sai lầm là cấm đọc sách Cộng Sản, nên sự hiểu biết về Cộng Sản quá ít.

Chúng ta đã theo chính sách giáo dục khai phóng, dân chúng có thể sử dụng mọi phương tiện truyền thông để tìm hiểu, thì không thể ngăn cấm bất cứ điều gì. Trong hoàn cảnh giao thời tranh tối tranh sáng của lịch sử, dân chưa đủ kiến thức và kinh nghiệm để học hỏi, họ có thể nhận định chưa chính xác, thì chính quyền cũng không nên ngăn cấm mà chỉ bổ khuyết bằng sự giải thích. Trong nhà tù những người có ý thức chống Cộng càng phải đọc sách của họ và vừa đọc vừa đối chiếu với thực tế, rất dễ tìm ra những sai lầm của họ, và hệ thống hóa những điều hiểu biết đó để chia sẻ với nhau. Chúng tôi đã lợi dụng được những bữa cơm, những buổi trưa nghỉ để trao đổi với nhau một số đề tài:

1- Các lý luận của Karl Marx trong tập Tư Bản Luận dựa trên sự đơn giản quá mức của sinh hoạt kinh tế vốn phức tạp và sinh động. Do đó, khám phá về “thặng dư giá trị” không đứng vững đưa đến kết luận về giai cấp bóc lột và bị bóc lột cũng sai, vì hiện tại đã cho thấy trong sự giao dịch giữa hai con người, hai tổ chức, hai quốc gia có thể đạt được lợi ích cho cả hai bên không cứ phải một bên có lợi và một bên bị bất lợi. Khối lượng tư bản được sử dụng trong quá trình sản xuất không phải để bóc lột giá trị thặng dư mà chính yếu là tái đầu tư tạo điều kiện để đẩy mạnh guồng máy sản xuất.

2- Chế độ Cộng sản chỉ phát triển tại các nước chậm tiến nghèo đói, mà không thể phát triển được ở các nước Tư Bản như Marx và Engels tiên đoán. Tại các nước Tư Bản, chủ thuyết Cộng Sản là một tư tưởng đối lập, để xã hội Tư Bản điều chỉnh những nhược điểm của họ nên các nước Tư Bản tổ chức xã hội càng ngày càng hoàn chỉnh hơn, trái với sự tiên đoán của Marx là “Tư Bản Sẽ Giẫy Chết”.

3- Lợi dụng được hoàn cảnh lịch sử và xã hội đầy bất công của chế độ Sa Hoàng. Lénine thành lập và phát triển Đảng Cộng Sản thành công để cướp chính quyền. Đảng Cộng Sản và chủ trương bạo lực là phương tiện để các nhà lãnh đạo củng cố chính quyền độc tài của mình, biến người dân thành một công cụ sản xuất. Tập trung Dân Chủ là một thuật ngữ để biện minh cho tính độc tài, đấu tranh giai cấp là một đường lối để tiêu diệt kẻ đối lập. Chính quyền Cộng sản trở nên lạc hậu hơn chính quyền quân chủ và phong kiến, không giải phóng giai cấp bị bóc lột mà họ biến đảng viên cộng sản thành một giai cấp mới bóc lột nhiều hơn bất cứ nhân viên các chính quyền từ trước đến nay.

4- Tôn sùng thần thánh hóa lãnh tụ. Đảng viên tin tưởng cuồng tín vào lãnh tụ. Đảng Cộng sản trở thành một tôn giáo xây dựng trên lòng thù hận. Mọi tôn giáo đều xây dựng trên tình thương đã tồn tại. Tôn giáo xây dựng trên thù hận không thể tồn tại được vì trái thiên nhiên, đi ngược lại tính người và ước vọng của con người. Chủ trương đấu tranh giai cấp từ 1976 đã bị một số đảng cộng sản ở Tây Phương như cộng sản Ý, cộng sản Pháp, cộng sản Nhật, là ba đảng cộng sản lớn ở các nước tư bản từ bỏ.

5- Phong trào chống cộng đang âm ỉ không dứt tại các nước Đông Âu, và định ước Helsinki năm 1976 sẽ tạo điều kiện để các phong trào đó lớn mạnh.
6- Mâu thuẫn Trung Quốc – Liên Xô không thể hàn gắn được. Trung Quốc đang đi tìm một đường hướng mới và muốn chứng tỏ mình là một mẫu mực phát triển cho các nước thế giới thứ ba, một chính quyền mạnh và một chủ trương kinh tế cởi mở.
7- Thuyết 4 thế giới của Brezinski nhằm đẩy mạnh sự chia rẽ của khối Cộng sản. Ba Lan là một điểm quan trọng để thực thi học thuyết đó vì Brezinski là người Ba Lan di cư.

8- Tại Việt Nam, Cộng Sản dùng chiến tranh giải phóng để ngụy trang cho cuộc xâm lăng của Cộng Sản Quốc Tế. Lénine đã viết rõ hai sách lược cách mạng, trong đó, cuộc cách mạng dân chủ nhân dân là bước một để đi tới Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa – chiến tranh giải phóng dân tộc là áp dụng linh động chiến lược đó.

9- Các lý thuyết gia Cộng sản đang truyền bá và cổ vũ cho lý luận về ba dòng thác Cách Mạng, sự tin tưởng này không còn vững vì “dòng thác số 1”, khối cộng sản thế giới chỉ là một đế quốc do Liên Xô chi phối đang có nguy cơ tan vỡ vì tinh thần quốc gia của nhân dân Đông Âu luôn luôn muốn nước họ độc lập với Liên Xô, gây ra một sự chia rẽ mà thế giới Tây Phương đang đẩy mạnh; ngoài sự chia rẽ đã có giữa Liên Xô và Trung Quốc. “Dòng thác 2” phong trào giải phóng dân tộc sẽ kết thúc khi các nước nhược tiểu độc lập. Thuyết 4 thế giới của Brezinski cũng giải tỏa không còn tương quan thuộc địa và mẫu quốc. Do đó, các nhà lãnh đạo ở các quốc gia này có tự do chọn lựa mô thức phát triển của họ, họ không có nguy cơ bị lệ thuộc trở lại mẫu quốc nên không bị đẩy một cách tự nhiên về phía Cộng Sản, “Dòng thác thức 3”,


Cộng sản mong đợi là các phong trào đòi dân sinh ở các nước Tư bản, hệ thống an ninh xã hội ở các nước Tư bản giải quyết hầu hết mâu thuẫn chủ nhân và công nhân, tạo sự gắn bó quyền lợi của công nhân vào nhà máy (ưu điểm quản trị của Nhật Bản) – nếu có đấu tranh chỉ là những phản ứng và đòi hỏi nhỏ sẽ được giải quyết thỏa đáng với sự trọng tài của chính quyền. Do đó, những vận động đó không thể là phong trào làm sụp đổ chế độ Tư bản như Cộng sản mong đợi.

10- Chế độ Tư bản không phải là mẫu mực lý tưởng nhưng so với chế độ Cộng sản thì vẫn hơn. Người công nhân trong chế độ tư bản cũng phải làm để phục vụ quyền lợi chủ nhân nhưng họ được tự do và no ấm. Trái lại, công nhân trong chế độ Cộng sản được gọi là làm chủ xã hội nhưng không có tự do và bị nhà nước và Đảng Cộng sản bóc lột.


11- Các tác giả Cộng sản thường chỉ trích nạn thất nghiệp trong xã hội Tư bản. Điều này đúng; nhưng Tư bản đã giải quyết một phần nhờ quỹ thất nghiệp và chế độ an sinh xã hội. Chế độ Cộng sản tự hào là mọi người có việc làm không bị thất nghiệp. Nhưng thực tế, nhân công bị bóc lột, lương không đủ sống, làm việc không năng suất, tạo tình trạng thất nghiệp trá hình cho cả xã hội. Trong khi đó, đảng và nhà nước tập trung thành phần ăn bám không sản xuất quá đông đảo.

12- Vì hoàn cảnh lịch sử Việt Nam, Việt Cộng sử dụng hữu hiệu lá bài dành độc lập dân tộc và họ dùng cả Viện Sử học để lý luận cho tính dân tộc, và tự nhận là thành phần yêu nước trong lúc họ miệt thị các thành phần dân chúng khác. Càng dùng lịch sử để ngụy chứng dân tộc, Cộng sản càng đi xa căn bản của họ là chính sách quốc tế. Khi nhu cầu giải phóng dân tộc không còn nữa, tuyên bố xây dựng xã hội chủ nghĩa họ đã đi ngược lại, tự mâu thuẫn với quá khứ.

13- Lịch sử Việt Nam không cần thiết phải qua giai đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa. Và Marxism không thích hợp với văn hóa Việt Nam. Văn hóa Việt Nam là một văn hóa hội nhập và lọc lựa của Nho Thích Lão, và Ki Tô, văn hóa Việt Nam không chủ trương độc tôn như Marxism, dân tộc Việt Nam là một dân tộc thống nhất, sự chia rẽ là do các âm mưu của nhà cầm quyền, nên chủ trương phân chia giai cấp, đấu tranh tiêu diệt thành phần dân tộc khác là sai lầm. Xã hội Việt Nam không có giai cấp tính những thứ bực trong xã hội thay đổi rất nhanh qua cố gắng của mỗi người.

14- Hồ Chí Minh là con người Cộng sản quốc tế. Cũng từ một người yêu nước đi tìm đường giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ Pháp. Hồ Chí Minh quá tin vào chủ nghĩa Cộng sản, và nhờ sự giúp đỡ của Cộng Sản Quốc Tế ông đã đoạt được chính quyền trong tay thực dân Pháp lại đưa dân tộc vào con đường nô lệ mới, nô lệ tư tưởng Marxism và nô lệ cho đế quốc Liên Xô và Trung Quốc.
Vì Hồ Chí Minh là đảng viên cộng sản quốc tế, nên trong cuộc chiến tranh ý thức hệ sau Đệ Nhị Thế Chiến, Việt Nam trở thành một chiến trường tranh chấp và thử nghiệm của hai thế lực quốc tế. Dân tộc Việt Nam phải điêu linh và chết chóc hàng chục triệu người.

Nếu ông Hồ Chí Minh là người quốc gia, việc thu hồi độc lập ở Việt Nam dễ dàng hơn, không tốn xương máu, vì phù hợp với phong trào giải thực, kinh nghiệm các nước Indonesia, Malaysia, Miến Điện thu hồi độc lập dễ dàng là một minh chứng.
Sau năm 1975, nhiều nhà trí thức đã lập thuyết nhằm chống lại thuyết Cộng Sản, ai cũng nghĩ là một trong những khuyết điểm của chính quyền cũ là họ điều hành chống Cộng không có lý thuyết. Việc lập thuyết là việc của những bậc trí thức, triết gia, chúng tôi cũng chờ đợi để có lý thuyết hướng dẫn tư tưởng và có người lãnh đạo.


Ở vị trí một người kém hiểu biết về triết học; chúng tôi chỉ đọc và suy nghiệm một số ý kiến để trao đổi với nhau để cùng nhau giữ một niềm tin và một chút hơi nóng để chống lại âm mưu hủy diệt của địch và để làm cho thời gian ở tù bớt vô ích. Tạo điều kiện cho đầu óc làm việc. Trí óc không làm việc con người trở nên yếu hèn và mụ mẫm đi, trong lâu dài con người sẽ trở nên đờ đẫn hết sinh khí, đó là chủ trương tiêu diệt sức đề kháng của Cộng sản. Cần phải chống lại chủ trương đó bằng cách giữ cho được sức đề kháng dù phải trả những giá đắt trong xà lim.


Suy nghĩ về tổ chức đảng và chính quyền Cộng sản, chúng tôi nhận thấy Cộng sản là một tổ chức đồ sộ gồm hai hệ thống Đảng và Chính quyền, bên cạnh đó còn có những đoàn thể ngoại vi, Đoàn, Đội. Một tổ chức phải có qui luật của nó, nên muốn hiểu Cộng sản phải tìm cho ra các qui luật điều hành bộ máy đó. Khuynh hướng phát triển tự nhiên của các guồng máy là càng ngày càng bành trướng đưa đến sự phí phạm nhân lực và tài chánh bởi những khu vực vô ích hoặc không hợp thời.


Tính nguyên tắc và sự bó buộc tôn trọng nguyên tắc đưa đến tính thư lại bàn giấy, kém hiệu năng. Cán bộ trong một hệ thống tổ chức vừa nặng nề, thư lại vừa độc đoán tàn nhẫn như vậy không thể nào có sáng kiến vì rõ ràng là sáng kiến nếu đúng không đem cho họ một lợi ích nào hoặc rất ít – ngược lại nếu sai họ sẽ bị trừng phạt một cách rất nặng. Từ đó, thái độ đương nhiên là họ phải tìm cách bảo vệ bản thân bằng cách dựa vào luật lệ cứng nhắc và sự trình báo tốn thì giờ.


Kết lại, trong một tổ chức như vậy, nếu người lãnh đạo muốn phục vụ dân thì tổ chức cũng không phục vụ được, muốn sửa đổi không thể sửa đổi được. Đảng Cộng sản chỉ có thể là phương tiện tranh đoạt chính quyền mà không thể làm cách mạng xã hội.
Trường hợp ở nhà tù, cán bộ quản lý ở trại trình gia hạn bản án tập trung để Bộ Nội Vụ sẽ thuận đề nghị một cách rất dễ dàng – nhưng ngược lại nếu trình xin thả một người tù rất khó khăn và có thể đưa đến cho người đề nghị nhiều phiền toái nếu người tù được tha lại tái phạm.

Chính sách của Cộng sản đã phi nhân, tàn nhẫn mà tổ chức chính quyền còn làm cho sự tàn nhẫn đó tăng thêm nữa.
Hệ quả khác của tính tổ chức là Cộng sản nhằm tiêu diệt các tổ chức đối kháng một cách triệt để. Lénine đã phân biệt một hành động có tính tự giác và tính tự phát. Họ đánh giá cao tính tự giác do đó kinh nghiệm rút ra là đừng để Cộng sản phát hiện tính cách tổ chức khi hoạt động, nếu bị phát giác làm cho họ tin đó là hành động cá nhân lẻ tẻ.

Về sau vì số các em càng đông, không thể ngồi nói chuyện được, anh em đề nghị làm tài liệu viết. Thể thức này rất khó khăn và tốn thì giờ, nguy hiểm và dễ bị khám phá, và khi khám phá thì không chối được yếu tố buộc tội. Tuy nhiên nó có lợi là có thể phổ biến được rộng rãi hơn; công việc làm cũng trở nên quan trọng hơn, tập đức tính cẩn thận cho anh em khi làm việc, khi đọc và có thể càng làm việc khó anh em trở nên gắn bó hơn.

Chúng tôi bắt đầu phổ biến tài liệu viết, đặt tên là tập “Rèn Luyện”. Thể thức phổ biến là lập các địa điểm hộp thư tại sân khấu hội trường, anh em thân thiết tin cậy được chỉ những hộp thư đó, đọc xong để lại và thống nhất cách khai nếu bị bắt, khai là lượm được tò mò đọc chơi không biết của ai. Những anh em có nhiệm vụ “lên khuôn” cố gắng viết chữ in và tránh nét chữ quen thuộc của mình để tránh điều tra phát hiện. Tài liệu “Rèn Luyện” được duy trì cho tới tháng 3-1979, đa số anh em chuyển trại vào khu nhà xây mới chấm dứt.

Đến giữa năm 1978, tù bên phía trình diện bắt đầu thất vọng vì hết hạn ba năm họ không được thả theo chính sách qui định. Cái buồn của anh em trình diện nhưng là sự thuận lợi chung của trại tù. Anh em trình diện bắt đầu hiểu Cộng sản hơn, sự cách biệt giữa hai thành phần tù được xóa đi và tù sống thông cảm nhau hơn; anh em tham gia nếp sống chung ở trại hơn là tìm cách đi riêng để tìm thuận lợi do bọn cán bộ Cộng sản ban phát.


Chúng tôi được anh em đội nhà bếp thông báo trong lần chở bắp đi đổi khoai mì, cán bộ hậu cần và cán bộ quản giáo nhà bếp thông đồng nhau chở về 10 tấn khoai mì thối của kho thực phẩm huyện Xuân Lộc. Trại sản xuất chính là ngô trắng, ngô dùng ăn độn là phần tự túc của trại cùng với phần tiêu chuẩn gạo của Bộ Nội Vụ. Theo công thức đổi các loại lương thực của nhà nước Việt Cộng đề ra là gạo = 2 ngô = 3 khoai lang = 4 khoai mì tức 1kg đổi 4kg khoai mì. Như vậy tiêu chuẩn phần ăn là 15kg gạo cho mỗi người tù trong một tháng; nếu độn 50% thì đáng lẽ phải ăn 7.5kg gạo + 15kg ngô hoặc 7.5kg gạo + 22.5kg khoai lang hay 30 kg khoai mì (sắn). Nhưng quản lý trại đã ăn gian chỉ cho ăn 7.5kg gạo + 7.5kg ngô, hoặc 7.5kg khoai các loại – tức là giảm lược tiêu chuẩn tổng cộng chỉ 15kg dù ăn loại lương thực nào. Đó là bước gian lận thứ nhất. Bước thứ hai là chúng đem ngô trắng chúng tôi sản xuất ra kho huyện đổi thành ngô đỏ. Giá ngô trắng gấp đôi giá ngô đỏ.

Đến năm 1978 thì mức độn càng cao, chúng càng ăn gian qua bước thứ ba là đem ngô đổi khoai mì khô. Tù nhân vẫn chịu đựng. Họ sống nhờ vào quà gia đình thăm, người không có gia đình tiếp tế thì nhờ anh em khác hay là phải… khắc phục. Tù càng chịu đựng chúng càng tăng thêm sự bóc lột. Ban quản lý ăn gian từ ngô ra sắn, hai thằng cán bộ lẻ tẻ lại ăn gian bằng cách nhận sắn mục thối của kho hợp tác xã để lấy tiền riêng.


Nhà bếp lưu ý nếu anh em không có ý kiến thì sẽ ăn khoai mì thối dài dài vì ngoài huyện cả kho hàng mấy trăm tấn bị hư hỏng vì quản lý kém ngoài việc đẩy cho tù chịu họ không có cách giải quyết khác.
Hội ý chớp nhoáng nhiều anh em, các đội đưa đến quyết định là lần phát khoai thối đầu tiên sẽ trả lại không nhận.
Kết quả 23 đội tù ở phân trại, trừ “đội 1 hoàng gia” toàn anh em tù có thân thế đi làm các công tác lẻ tức công tác phục dịch cán bộ và giữ an ninh trật tự, các chức vụ tự quản coi nhà thăm nuôi, văn hóa, y tế, chăn nuôi, đội 1 “xe be” là đội được tin tưởng đi làm xa lấy gỗ trong rừng sâu làm lợi cho giám thị trại và đội 23 của đội trưởng thiếu úy cảnh sát Nghĩa – còn 20 đội gồm cả 2 thành phần trình diện và bị bắt đều không nhận khoai mì thối.


Thiếu úy Nghĩa, người đã “cương quyết giúp đỡ”, cho anh em cải tạo tức là báo cáo rất kỹ hành động của các bạn tù trong đội anh, đồng thời anh đã góp ý kiến rất nổi danh để xây dựng trại, xin cho tù đi làm ngày mưa vì theo anh “mưa lớn, xem như mưa nhỏ, mưa nhỏ xem như không mưa.” Ban chỉ huy không chấp nhận. Cho tù nghỉ mưa không phải chúng thương tù phải lao động dưới mưa ướt mà chúng sợ nhân trời mưa tù trốn.

Hai mươi đội trả phần ăn để phản đối, lần đầu tiên xảy ra trong trại tù Xuân Lộc. Cộng sản luôn luôn đấu tranh trong nhà tù mục đích để đạt được điều chúng đòi hỏi nhưng đồng thời là kỹ thuật rèn luyện cán bộ, cán bộ được tổ chức, học tập, luôn luôn phải có hành động cụ thể như là học tập.

Cái gì Cộng sản thường làm thì chúng ngăn cấm người khác làm. Chúng học văn hóa trong trại tù, chúng ngăn cấm tù học văn hóa, chúng thường đấu tranh trong nhà tù chúng quyết liệt tiêu diệt đấu tranh.
Thượng úy Vinh, trại phó kiêm phân trại trưởng họp các đội trưởng và đích thân xem xét lại thức ăn. Các đội trưởng hoan hỉ khi nghe hắn nói: “Đúng là khoai thối, lợn cũng không ăn được,” hắn chỉ thị nhà bếp ra kho cán bộ đem gạo về nấu ngay phần cơm bù thế, và ngày mai chở khoai mì thối ra lấy gạo. Anh em được một bữa bàn tán và khỏi sinh hoạt trước giờ ngủ – 9 giờ tối nhận bữa cơm trắng ngon lành.

Quyết định của tên phân trại trưởng quá dễ dàng và “quá dễ thương” nên chúng tôi rất nghi ngờ, thông báo anh em cẩn thận để tránh sự điều tra và thu lượm tin tức của hệ thống an ten (tù nhân làm tay sai báo cáo).

Quá phấn khởi trước sự đồng lòng của anh em tù không nhận khoai mì thối, anh Trần Danh San họp nhóm anh em trẻ mới gia nhập tổ chức nhân quyền của anh để biểu dương thành tích. Việc làm của anh San đem lại cho anh hai điều hại, anh bị bọn an ten phát hiện báo cáo đồng thời gây ra một sự mất đoàn kết. Các nhóm chính trị khác chỉ trích anh là người “cướp công”, vì việc trả khoai là hành động chung của toàn thể người tù không riêng gì của tổ chức chính trị nào.

Anh Trần Danh San là một luật sư tại Đà Nẵng – một người có kiến thức rất uyên bác và nhiều ý kiến sâu sắc. Anh là mẫu người trí thức dám dấn thân để đấu tranh, dám làm, dám chịu. Trong thời gian ở trại tạm giam và sau này ở trại lao động lúc nào Anh San cũng tuyên truyền các lý luận chống Cộng, tổ chức và thúc đẩy đấu tranh. Anh San có ưu điểm là sự chịu đựng bền bỉ, tính kiên trì đáng phục.



Ngay khi bị cùm chân trong xà lim tối, Anh San vẫn đều đặn tập thể dục để giữ cho thân thể không hủy hoại, tê liệt, và luôn luôn suy nghĩ và trao đổi ý kiến và lý luận chống Cộng Sản với người khác. Sinh hoạt và tập thể dục trong xà lim để chống lại sự hủy hoại và sự chết là một kinh nghiệm quí báu của Anh San đã giúp chúng tôi tồn tại sau những thời gian bị giam cầm kỷ luật có những lần kéo dài hơn cả hai năm.


Trần Danh San bị bắt giam vào xà lim vì bị xem như là người cầm đầu xúi giục đấu tranh trả khoai mì thối. Tinh thần anh em lung lay, sợ hãi; nên tên Thượng úy Vinh cho chở lại 10 tấn khoai mì thối. Anh em không ăn được thì lấy đổ đi không trả lại nữa. Qua kinh nghiệm này, chúng tôi rút được một kết luận là Cộng sản quan niệm mọi hành động đều phải có người cầm đầu xúi giục; và khi chúng tìm ra người lãnh đạo hay gán cho một người nào đó trách nhiệm lãnh đạo thì công việc xem như đã giải quyết phần lớn, chúng cũng không truy cứu tiếp tục.

Chúng tôi khẳng định đấu tranh trong nhà tù Cộng sản chỉ nhằm mục đích duy nhất là duy trì sự phản kháng để nhà tù không phải chỉ là nơi người tù cam chịu một cách tồi tệ, nhục nhã. Cuộc đấu tranh trong nhà tù hoàn toàn đơn độc – khác với trường hợp tù nhân Cộng sản trước kia – họ đấu tranh có tổ chức, có lãnh đạo và liên hợp với bên ngoài và còn đạt được sự ủng hộ của dư luận quốc tế do mặt trận ngoại giao của họ đem lại. Họ đấu tranh để thắng, tù nhân chúng tôi đấu tranh chỉ để truyền cho nhau chút hơi ấm và một niềm tin tương đối mỏng manh, đấu tranh để giữ danh dự.


Sau thời hạn 3 năm anh em không được về, đã làm nhiều người thức tỉnh và họ chịu hiểu hơn về Cộng sản. Cán bộ trại chính thức giải thích ba năm chỉ là một mốc thời gian; như vậy người tù cải tạo có thể ở 3 năm, 6 năm, 9 năm, 12 năm hay 15 năm…
Thuật ngữ “tập trung cải tạo” đã đánh lừa được nhiều người, rất nhiều người kể cả người Việt Nam cũng lầm tưởng là “tập trung cải tạo” không phải là tù, hoặc nhẹ hơn tù có án. Khởi đầu mức độ tội phạm của họ là nhẹ, nhưng khi thụ hình cũng cùng một qui chế như người có án, từ việc mặc quần áo có đóng dấu, mức lao động, chế độ ăn uống hoàn toàn như nhau.


Sự khác biệt chỉ ở vấn đề quản lý hồ sơ; một người tù có án do tòa phán quyết, khi thụ hình, công an quản lý họ, trách nhiệm công an phải theo dõi và ghi hồ sơ cải tạo, nhưng thực tế, công an quản lý không bị gắn chặt vào trách nhiệm với người tù, nên nếu người tù không phạm một tội nặng khác họ sẽ được thả ra khi hết án. Ngoài ra luật pháp của Cộng sản cũng có cơ hội đặc xá, giảm án hàng năm cho tù có án.

Ngược lại, đối với tù cải tạo tập trung, khởi đầu mức độ tội phạm nhẹ, tòa án không thụ lý, giao quyền cho công an xử trên quan điểm bảo vệ an ninh xã hội. Công an có quyền xử tập trung mọi người trong thời hạn ba năm, có tái hạn. Sự tàn nhẫn nhất là quyền tái hạn tập trung trong ba năm và không có giới hạn, tức là hết ba năm gia hạn thêm ba năm khác nếu họ kết luận người tù chưa cải tạo tốt.

Từ cơ quan công an xử lý tội tức các ty sở công an, giao qua công an quản lý tức cục quản lý trại giam mà đại diện là bộ chỉ huy các trại tù. Công an ở trại cải tạo có trách nhiệm quản lý và theo dõi thái độ cải tạo của người tù tập trung cải tạo và họ có quyền đề nghị gia hạn hay xét tha sau suốt các mốc cải tạo ba năm; nguyên tắc thì không khác với sự quản lý tù có án, nhưng đối với cơ quan công an, tội trạng của tù có án đã được tòa án quyết định rồi, trách nhiệm của họ với người tù có án không quan trọng. Trái lại trách nhiệm của công an quản lý với người tù tập trung rất nặng nề.

Trong một hệ thống chính quyền đầy tính thư lại, nặng nề và tàn nhẫn, cơ quan công an quản lý phải tự bảo vệ họ trước nên họ không dám đề nghị xét tha rộng rãi cho tù cải tạo. Họ phê xấu để gia hạn tập trung là một việc thông thường, nhẹ nhàng nhưng rất tàn nhẫn. Ngoài ra cũng từ tính thư lại, tắc trách của hệ thống chính quyền quản lý đó, những đề nghị xấu tức đề nghị gia hạn tập trung lại được chấp thuận dễ dàng ở Bộ Nội Vụ, mà đề nghị xét tha thì rất khó được chấp thuận vì qua mỗi cấp độ quyền hành họ cắt bớt. Sợ trách nhiệm là đặc tính của chính quyền Cộng sản làm họ giải quyết chậm chạp mọi việc


. Do đó, trên thực tế, vận mạng của người tù cải tạo tập trung được quyết định tăng án ở cấp thấp nhất và được quyết định thả ra ở cấp cao nhất. Một lỗi nhỏ trong thời gian thụ hình như ăn cắp một củ khoai bị phạt 7 ngày giam xà lim sẽ không ảnh hưởng đến việc tha ra trại khi mãn án đối với người tù có án. Nhưng cũng với lỗi lầm nhỏ đó, là một yếu tố chắc chắn để gia hạn tập trung ba năm khác.

Một phường trưởng, một công an khu vực có thể đề nghị tập trung cải tạo một người dân, nhưng khi thả ra cấp quyết định thấp nhất phải là Thứ trưởng Bộ Nội Vụ chiếu đề nghị của Cục trưởng quản lý trại giam.

Về phía tập trung cải tạo hình sự, có nhiều trường hợp điển hình cụ thể, thời gian 1975, 1976 khi người dân miền Nam chưa hiểu ý nghĩa của sự học tập cải tạo, có nhiều gia đình có con ngỗ nghịch hay bỏ học, khuyên răn không được, đưa lên phường nhờ giáo dục, phường đề nghị đưa đi tập trung cải tạo, sau thời gian gia đình thấy đủ để phạt con em mình, làm đơn xin cho con được tha, phường không có thẩm quyền tha, đưa lên quận cũng không có quyền tha, sở cũng không có quyền; vì quyết định tha phải từ bộ, sở chỉ làm đề nghị và chuyển đơn của gia đình lên bộ. Bộ chưa cứu xét thì đứa con đã chết trong trại cải tạo vì sốt rét.

Đó là phân tích trên ý kiến là các cán bộ ở mọi cấp của Cộng sản có thiện chí giúp người dân mà họ cũng đành bất lực trước nguyên tắc của tổ chức. Trong khi thực tế, người cán bộ Cộng sản không “dễ thương” như vậy, tuyệt đại đa số là những người rất ác, vì Đảng dạy cho họ hận thù mà không dạy cho họ tình thương. Con người bản chất có tính ác và tính thiện, nhưng tính ác dễ phát triển hơn tính thiện; điều kiện xã hội tốt tính thiện phát triển, cô lập tính ác; điều kiện xã hội xấu tính ác phát triển tiêu diệt tính thiện. Xã hội Cộng sản, con người chỉ phát triển tính ác.


Tóm lại, chế độ Cộng sản được xây dựng trên một lý thuyết sai lầm, dùng hận thù làm một động lực kết hợp và phát triển, khai thác tính ác, tính xấu và tính đố kỵ bần tiện của con người; tổ chức nặng nề và thư lại nên chế độ Cộng sản là một chế độ cực kỳ xấu xa, con người Cộng sản hầu hết là những người độc ác và đê tiện. Dân chúng sống trong chế độ Cộng sản cực kỳ nghèo đói, khổ sở.

Năm 1978, Việt Cộng lại đổi tiền, mở chiến dịch đánh tư sản. Sau lần đánh tư sản thứ hai, người dân lại nghèo hơn nữa – phải ăn bo bo thay gạo. Bo bo là nông sản dùng cho ngựa ăn, hạt tròn tròn bằng đầu mút đũa, có vỏ dầy, dẻo như cao su, ăn vào không tiêu, hôm sau bài tiết ra nguyên hột. Bo bo, Việt Cộng gọi là cao lương, một trong những tài của Cộng sản là sự giải thích và sử dụng từ ngữ, việc tệ hại đều có những giải thích nghe hợp lý, có những nhà trí thức được trả lương để làm công việc giải thích. Trong xã hội Cộng sản, có nhiều từ ngữ được sáng tạo để phục vụ chủ trương đường lối giải thích tô hồng chế độ, suy tôn lãnh tụ mà không cần biết thực chất.

Trại tổ chức học tập nói về thắng lợi to lớn của Thủ tướng Phạm Văn Đồng qua thăm viếng Ấn Độ. Bà Thủ tướng Indira Gandhi đã trải thảm đỏ từ phi trường về đến nhà quốc khách. Bà quả phụ Nehru nhận ông Phạm Văn Đồng là em nuôi. Trong chuyến công du “thắng lợi vĩ đại” đó, có hai văn kiện được ký kết. Thứ nhất sự trao đổi hàng hóa Việt Nam đổi gạo lấy bo bo của Ấn. Một tấn gạo đổi lấy 4 tấn bo bo và văn kiện thứ hai là Ấn Độ viện trợ cho Việt Nam 4 con trâu Murat để lấy sữa và gây giống – nhà nước làm lễ thật lớn để nhận 4 con trâu và đem về nuôi ở trại nông nghiệp Tam Đảo.

Chuyện về kinh tế của một nước mà như chuyện diễu, thắng lợi thật vĩ đại với 4 con trâu sữa, trong lúc toàn dân đang đói, nền kinh tế đang xuống dốc.
Cán bộ giáo dục cũng giải thích sự khôn ngoan ưu việt của các lãnh đạo Đảng qua việc Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký với Thủ tướng Ấn Độ hiệp ước giao thương đổi một tấn gạo lấy 4 tấn bo bo của Ấn Độ.


Cuối buổi thuyết trình tài liệu học tập, cán bộ giáo dục còn khoe uy tín của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Hắn nói: “Bây giờ nước ta là một cường quốc chính trị, ta sẽ làm cố vấn cho mọi phong trào chống đế quốc trên thế giới, những nhà lãnh đạo của Đảng ta đi tới đâu cũng được đón tiếp long trọng; trong hội nghị các nước phi liên kết ở Colombo, các nhà lãnh đạo trên thế giới không ai dám phát biểu, phải đợi Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát biểu trước rồi họ mới phát biểu tiếp theo sau”. Hắn nói rất thành thật. Tội nghiệp cán bộ Cộng sản khi họ nói họ tin lời nói của họ là thật nên nói không ngượng miệng. Trình độ hiểu biết cán bộ quá thấp, họ nói theo bài học cho Đảng viết ra. Họ tin vào tài liệu dối trá của Đảng.

Chính sách ngu dân của Đảng Cộng sản có kết quả khi trình độ dân trí còn thấp, giờ đây trước nhóm người nghe là tù nhưng có trình độ hiểu biết khá, nên cảnh học tập thật buồn cười. Người nghe bị buộc phải ngồi nghe, nên miễn cưỡng, còn người nói dóc lại tin là mình nói thật, nên giảng viên không biết mình trở thành tên hề diễu dở.
Chế độ Cộng sản có thể phát triển trong xã hội nghèo đói, bất công, trình độ dân trí thấp kém. Khi dân trí đã cao, đời sống kinh tế sung túc, không ai tin được những lý luận của Cộng sản nữa.


Hoàn cảnh kinh tế càng ngày càng xuống dốc thê thảm ảnh hưởng cả nước không riêng gì trong trại cải tạo. Gia đình bên ngoài dù thiếu ăn vẫn tìm mọi cách để thăm nuôi tiếp tế, người trong tù cũng hiểu hoàn cảnh ở nhà, nhưng vẫn chờ đợi giỏ đồ thăm vì nếu không có thăm nuôi hàng tháng hay vài tháng một lần không ai chịu đựng nổi. Đi làm lao động kiếm thêm ngọn rau dại, củ sắn, khoai mì còn sót, bắt con dế, cào cào, châu chấu, chuột, nhái, bất cứ vật gì có thể ăn được. Nhưng người đông, phạm vi lao động đi lại trong đám ruộng nhỏ bé, đâu dễ gì tìm ra cọng rau hay sinh vật ăn được, chỉ những anh em được làm ruộng, làm tự giác, chăn nuôi, làm rừng mới có thể tìm thêm miếng ăn bằng cách đó thôi. Còn các đội đào ao, làm đường, đập đá thì cứ tiêu chuẩn nhà nước chén cơm, chén khoai mì và muỗng nước muối mỗi ngày và chờ gia đình.


Hình ảnh của khu kinh tế mới Xuân Trường bên cạnh trại làm cho anh em tù càng lo nghĩ về gia đình nhiều hơn. Họ là những người dân nghèo ở Saigon trong những ngày đầu sau 30-4-1975, họ được cấp phát gạo cứu đói, sau đó lãnh gạo cứu đói là một lý do vững chắc để phải đi vùng kinh tế mới, họ cũng còn là gia đình của những sĩ quan viên chức đi cải tạo vì sợ nên sớm chấp hành chính sách giãn dân; những người đi sớm nên còn được đến vùng Long Khánh này không có nước độc.

Những người bị cưỡng bức về sau bị đưa lên các vùng Bình Long, Sông Bé, Tây Ninh, nước độc và sốt rét chết bao nhiêu người. Làm ngoài bãi lao động gặp những trẻ em, phụ nữ đi tìm rau dại, đi mót ngô, khoai mì còn sót trong các ruộng của trại cải tạo. Khu kinh tế mới nghèo lắm, nhà cửa được làm sơ sài không che nổi nắng. Trời mưa thì dột như xối, đó là công trình của thanh niên xung phong đi xây dựng vùng kinh tế mới cho dân. Chế độ Cộng sản người ta làm gì cũng giả dối, cái gì rồi người dân cũng phải chịu không ai dám phê bình phản đối. Nếu đọc báo những bài phóng sự về công tác của thanh niên xung phong, người ta có cảm tưởng đó là hiệp sĩ của thời đại Hồ Chí Minh. Nhưng có ở vùng kinh tế mới, có biết một vùng kinh tế mới, thì sẽ thấy cái tinh thần tắc trách của đám “hiệp sĩ” đó.


Tin về một vụ tự tử ngoài khu kinh tế mới làm trong trại xôn xao. Hai chị em gái đang tuổi thanh niên, cha là một sĩ quan đi cải tạo, mẹ ở nhà đi mất biệt theo tình nhân mới, bỏ lại 5 đứa con, hai gái lớn và 3 con trai. Cô chị 18, cô em 16 phải bỏ học ở nhà bán chợ trời nuôi em. Vừa buôn bán chợ trời, vừa bán đồ nhà tưởng đắp đổi qua ngày chờ cha cải tạo hoặc mẹ hồi tâm trở về. Không may nhan sắc cô gái 18 tuổi lọt vào mắt xanh của tên bí thư phường ủy, tuổi đã gần 40, thuyết phục giúp đỡ để dụ dỗ không xong, đến đe dọa cô gái vẫn không chấp thuận. Tên bí thư phường đã trả thù bằng cách đưa cả gia đình đi kinh tế mới. Năm chị em mới ngày nào sống dưới sự che chở của cha mẹ êm đềm hạnh phúc; thời thế đổi thay, xáo trộn đời sống nhưng trời xanh cay nghiệt lại bắt các em chịu sự thay đổi nặng nề quá.


Không tiền, không sức khỏe, không biết làm nông, nhận một căn nhà lụp xụp trên đồi tranh, các em không biết cách gì để sống ngoài đi làm lặt vặt như mót củi, hái rau. Chịu đựng không nổi hoàn cảnh đó, hai chị em gái đã tự tử chết để lại bức thơ, hai em cho biết mua thuốc độc về định giết chết cả 5 chị em, cuối cùng nhìn các em còn thơ ngây hai chị lại không nỡ nên nhờ bà con trong khu thương tình nuôi giúp ba em, chờ ba mẹ về nhận. Bà con khu kinh tế mới đem xác hai em chôn trên một ngọn đồi nhìn vào trại cải tạo như để hai em trông chờ một người cha trong đó.


Thảm kịch làm bàng hoàng mọi người tù, ai cũng thương cảm các em và trách người mẹ – người nào cũng liên tưởng đến bản thân mình, đến vợ con ở nhà, qua ba năm cải tạo bao nhiêu là cay đắng. Nhiều người vợ vẫn kiên trì nuôi con chờ chồng, nhưng thời gian còn dài, hoàn cảnh kinh tế càng khó khăn, sức người có hạn, mỏi mòn trông ngóng và chịu đựng không biết đến bao giờ.

Thảm kịch của hai em nhỏ vùng kinh tế mới chưa hết xúc động thì thêm một chuyện đau lòng khác lại được truyền lan trong trại. Chuyện riêng của một người nhưng cũng thành cái đau chung của mọi người. Kỳ thăm gặp vừa qua, vợ bác sĩ T lên thăm để từ giã anh, chị báo tin là thăm lần cuối cùng. Bác sĩ T còn trẻ, anh là một Đại úy Bác sĩ trưng tập. Chị T đẹp lắm, “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, ông trời thật đa đoan, không cho ai hạnh phúc trọn vẹn; nhất là ông trời cay nghiệt với phái yếu, người con gái sinh ra không có nhan sắc đã là cái khổ cho họ và nếu có nhan sắc rồi cũng chịu cái khổ do đời đưa đến.


Chồng đi cải tạo, chị T dấn thân đi buôn bán để nuôi gia đình – chị đi buôn hàng lậu từ Nha Trang về. Nói là hàng lậu nghe ly kỳ nhưng sự thật chị đã đi buôn cà phê; cà phê dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là một thứ quốc cấm. Khối xã hội chủ nghĩa chỉ mới có Việt Nam là xứ nhiệt đới, nên sản phẩm nhiệt đới như trà, cà phê, hồ tiêu, quế, trầm hương đều trở thành món hàng hiếm có trong khối các nước anh em. Việt Nam là con nợ, bán hàng trả nợ, nợ súng đạn mà lúc sinh tiền ông Hồ đã cả quyết là con cháu sẽ trả được.


Ông đâu có biết được khi ông quyết định dùng súng đạn đánh miền Nam rồi con cháu sẽ trả nợ súng đạn đó, sẽ đem lại sự đau khổ cho dân chúng đến bao giờ không? Khi chiến tranh thì khổ sở chết chóc vì bom đạn; hết chiến tranh thì phải dồn nỗ lực để trả nợ. Ông đày ải dân chúng từ thế hệ này qua thế hệ khác để thỏa mộng giải phóng của ông.

Miền Nam trước 1975, người ta chỉ sợ chết vì chiến tranh mà không sợ đói, không có người tự tử vì đói, không có cán bộ hạ tầng cưỡng bức dân, không được ép dân đi kinh tế mới. Không có tình trạng người đàn bà vừa phải nuôi con, vừa phải nuôi chồng trong tù. Miền Nam trước đây có trại tù, nhưng tù được nuôi no đủ. Ông có biết cán bộ của ông ở tù đấu tranh vì mỗi ngày phải ăn cá khô, mà là cá khô sặc, Hoàng Quốc Việt viết: “Bọn ngụy quyền tàn ác bắt tù phải ăn cơm với cá khô mỗi ngày.”


Ông có biết là những người cán bộ thấy bị ăn cơm với cá khô mỗi ngày là một việc không chấp nhận được. Khi họ nắm chính quyền, họ cho tù ăn gì không? Gạo hẩm với nước muối đã là một ân huệ, phải ăn độn đến 80%; mỗi tuần chỉ có hai buổi cơm, còn 12 buổi khác phải ăn khoai mì mục. Cá khô không bao giờ có trong nhà tù của chế độ ưu việt do ông lập ra, nếu có cá khô đó là một bữa đại tiệc của tù trong chế độ Cộng sản. Miền Nam trong thời chiến tranh bị xem là lệ thuộc kinh tế, nhưng người dân được đầy đủ tất cả, cà phê, trà, tiêu, là những sản phẩm tự do, ai muốn mua bán cũng được, lúc nào cũng có, không phải là thứ qui hoạch nhà nước và bị xem là hàng quốc cấm.

Trước kia người dân miền Nam buôn bán gạo, nông sản người ta kể hàng trăm tấn, hàng ngàn tấn. Theo lời kể của cán bộ đó là phồn vinh giả tạo, nhưng đến khi “đất nước ta hòa bình, đất nước ta giàu đẹp, tiền rừng bạc bể do những đỉnh cao trí tuệ của loài người, lương tâm của thời đại, do Bác muôn vàn kính yêu của đảng Cộng sản bách chiến bách thắng và chủ nghĩa Mác Lê Nin vô địch” thì buôn bán gạo trên giỏ hàng vài ký, nông sản khác cũng buôn lậu tính theo đơn vị hàng ký lô. Người dân được cho ăn nhiều từ ngữ đẹp để thay cho gạo cơm.


Chị T đã đi buôn lậu cà phê từ Nha Trang về Saigon. Đi buôn lậu nhờ sự che chở của những bọn tài xế và lơ xe đò hoặc phải móc ngoặc với bọn công an. Chị đã kể lại với anh T là chị đi nhiều chuyến qua cũng kiếm được ít tiền để nuôi gia đình, lúc đem hàng lên xe nhờ tài xế cất giấu cán bộ, chị góp vốn buôn càng ngày càng nhiều hơn. Sự đời đâu có trôi êm ả cho một người đàn bà trẻ cô thế mà lại đẹp não nùng. Tài xế xe đò là tên gian ác, nó lừa hôm chị mua nhiều cà phê, nó chạy xe đến trạm nghỉ buổi tối, trắng trợn đề nghị chị phải ăn nằm với hắn, nếu không đến trạm gác công an, hắn sẽ chỉ để công an bắt.


Khó khăn nào bằng khó khăn của chị T lúc đó, phải chọn một bên là tiết hạnh, danh dự một bên là cái ăn của gia đình. Cuối cùng chị đã đành nhắm mắt để bảo vệ món hàng. Chị quá đau khổ, thấy không còn xứng đáng với chồng nên chị quyết định lên thăm anh và nói sự thật với anh T lần cuối cùng rồi đem con ra khỏi gia đình chồng. Tai nạn của chị T không phải chỉ một mình chị mà là một trường hợp khá phổ biến – nhiều người đàn bà đi buôn hàng chuyến trên xe đò, xe lửa đã phải trao đổi thân xác với bọn công an, với bọn tài xế, bọn lơ xe là những thành phần ưu thế của xã hội mới, nhưng nhiều chị đã giấu giếm rồi trở thành quen. Chỉ có chị T là dám nói sự thật với chồng. Còn đau khổ nào cho người đàn bà Việt Nam nữa không?

Sự an nguy bền vững của gia đình bây giờ là mối quan tâm chính của người cải tạo, hầu hết đều có vợ, có con. Có người trách chị T là đầu hàng hoàn cảnh dễ dàng. Làm sao trách một người đàn bà khi người đàn ông không bảo vệ được họ. Đến tuổi lấy chồng, cô gái nào cũng muốn được trao thân cho người đàn ông họ tin tưởng sẽ bảo vệ và đem hạnh phúc suốt đời cho họ. Những đổ vỡ nếu không trực tiếp cũng gián tiếp là cái lỗi của người chồng. Người đàn ông không bảo vệ được đất nước làm sao giữ được sự bình an cho gia đình. Từ xưa đến nay, kẻ xâm lăng nào cũng chiếm đoạt của cải, tài sản và phụ nữ, giết chóc và nô dịch đàn ông.


Cộng sản miền Bắc cũng vậy, họ đã chiếm của cải của miền Nam đem về miền Bắc, tài sản của dân họ không trực tiếp cướp đoạt thì bằng cách đổi tiền, đánh tư sản họ làm cho dân miền Nam nghèo đi phải đem đồ vật ra bán, rồi họ tung tiền, thứ giấy lộn được in không bảo chứng ra vơ vét mua hết.


 Đàn bà họ không trực tiếp chiếm đoạt như kiểu quân Hung Nô thời trước, thì họ bằng nhiều cách làm cho gia đình người miền Nam ly tán, người đàn bà miền Nam trước khó khăn về đời sống, cán bộ của họ giả nhân giả nghĩa giúp đỡ, dụ dỗ, gây tình cảm hoặc mạnh hơn là ép buộc đe dọa, cuối cùng nếu không tự ý hoặc gượng ép kết hôn với cán bộ thì phải đi vùng kinh tế mới hoặc phải chịu đối xử như là một loại dân hạng bét bị mọi thứ kỳ thị bất công. Họ ban hành luật gia đình qui định việc ly dị dễ dàng phá vỡ hệ thống gia đình theo tập tục cổ truyền, trong đó chồng đi cải tạo là lý do luật pháp xem là chính đáng để người vợ ly dị.

Hoàn cảnh xã hội như vậy làm sao trách người đàn bà tội nghiệp. Hãy tôn vinh những người đàn bà vượt qua mọi khó khăn để thủ tiết chờ chồng cải tạo, và yên lặng thông cảm cho những người đàn bà có những quyết định khác. Cảm thông chứ không phải tha thứ vì người đàn ông làm mất nước, lỗi lầm còn nặng hơn nhiều thì còn tư cách gì để nói chuyện tha thứ cho người khác.

Sau đợt cho về đông đảo dịp Tết 1978 dành cho những người cải tạo ngắn hạn dưới ba năm, từ giữa năm 1978 hầu như không có đợt về nữa, chỉ có trường hợp lẻ tẻ. Cán bộ trại giải thích rằng do tình hình bên ngoài chưa thuận tiện hoặc là cải tạo bước qua mốc khác. Nếu bình tĩnh thì thấy rõ ràng là thời gian cải tạo của anh em trình diện kéo dài, nhưng Việt Cộng vẫn tiếp tục mánh lới giảo hoạt lừa đảo, chúng không cho người tù thất vọng, nên bằng mọi cách tung ra nhiều tin tức thất thiệt về những đợt sắp thả. Chúng không nói hay hứa hẹn công khai trong các buổi học tập như trước: “chuyện về của các anh tính hàng giờ, hàng ngày không tính hàng tháng, hàng năm”.


Chúng gián tiếp tung tin qua người bán hàng rong cho gia đình thăm nuôi để gia đình nói lại, hoặc hai cán bộ đứng nói chuyện với nhau: “ kỳ lễ tới cải tạo về hết rồi lấy ai làm đây.” Chúng nói với nhau nhưng biết có người tù đứng gần đó nghe lén. Người này nghe được tin phấn khởi về trại nói ra. Chúng nhờ người tù khéo tay may quần áo, hẹn 10 ngày lấy, rồi đột nhiên sau vài ngày đến lấy, cán bộ giục: “anh may gấp giùm tôi kẻo sợ không kịp”.


Người tù hỏi tôi còn ở lâu làm sao không kịp? Hắn úp mở: “Biết đâu đấy, gần đến lễ các anh về hết thì sao?” Người tù nghe như mở cờ trong bụng. “Lễ có lịnh về hở cán bộ?” Hắn làm ra vẻ bí mật: “Làm sao nói được, anh phải tự nghĩ ra chứ…” Ban giám thị bảo một vài đội bỏ bớt một khoảnh đất canh tác – tù nghi ngờ bàn tán, rồi có người tù thân tín với cán bộ quản giáo hỏi vì sao thu hẹp hoạt động, cán bộ quản giáo trả lời: “Nay mai các anh về hết lấy ai làm” v.v…


Đủ mọi cách, cán bộ thì tiếp tục bịp và tù tiếp tục tin và ngoan ngoãn chấp hành vì e nếu mình không chấp hành vi phạm lỗi gì khi có tên sẽ bị giữ lại. Việt Cộng quản lý tù rất nhiều kinh nghiệm, người tù không có án mong đợi ngày về, ngày mai có thể về, đợi mãi, đợi mãi và ngoan ngoãn chấp hành mãi, không bao giờ để cho tù nhân quá thất vọng – thất vọng tù có thể trốn trại, chống đối hoặc không làm lao động.
Những anh em tù bị bắt ít hy vọng ngày về hơn nên không tin vào những sự hứa hẹn và những tin đồn, anh em gọi đó là “thuốc an thần” – anh em cứ chuẩn bị những cơ hội thoát thân.

Những lần có người trốn trại, anh em phấn khởi, bạn bè thoát thân được xem như mình thoát. Hình như ai cũng như ai, khi nghe ba phát súng báo động mọi người đều ngước mắt lên sáng rỡ và thầm cầu xin cho bạn mình thoát khỏi sự truy lùng vì nếu bị bắt lại thì sẽ bị cắt gân chân hoặc đánh hội đồng cho đến chết, nếu không bị đánh chết thì bị cùm vào xà lim thiếu ăn, bị bệnh hoạn như ho lao rồi cũng sẽ bị chết.

Thấy tù có nhiều hành động chống đối, bọn chỉ huy một mặt trấn áp, đe dọa nhưng mặt khác lại tìm cách xoa dịu, ban ân, chúng làm thêm nhà thăm gặp để gia đình có thể ngủ lại, gọi đó là nhà hạnh phúc và ban qui chế hưởng ân huệ về nhà hạnh phúc. Những trại viên thực hiện tốt 4 chỉ tiêu cải tạo và được cán bộ quản giáo đề nghị. Bốn chỉ tiêu cải tạo là:

– An tâm tin tưởng vào chính sách của Đảng và nhà nước.
– Lao động học tập tốt.
– Phê và tự phê, để giúp đỡ người khác tiến bộ.
– Phát hiện hành vi sai trái của người khác và báo cáo.
Hai mục trước liên hệ đến thái độ chấp hành và hai mục sau tức là làm tay sai báo cáo bạn bè. Ngoài ra phải làm vừa lòng cán bộ quản giáo, tức phục dịch bản thân của hắn để được hắn chấp thuận phê tốt.


Phần thưởng cho việc này là được ở lại đêm với vợ tại “nhà hạnh phúc”. Qui chế ban hành, nhiều anh em phấn khởi chấp hành, đa số bên thành phần trình diện, xa gia đình, xa vợ đã ba năm nay được gần gũi một đêm, đề nghị quá hấp dẫn, ai trách được sự thèm muốn rất người đó. Nhưng muốn được cái “hạnh phúc” nhỏ nhoi đó phả bước qua sự đau khổ của bạn bè. Đa số anh em trẻ bên thành phần bị bắt họ chống đối, bài xích những người được phần thưởng này. Tôi nhớ mãi câu nói của Nam, cậu bé ở tù từ năm 1976 lúc 16 tuổi vì đã hát bản Thu Vàng trong lớp học ở trường Đạt Đức, Nam hỏi một người sĩ quan được hưởng nhà hạnh phúc: “Người ta đem vợ anh ra làm giải thưởng mà anh cũng nhận sao?”


Dĩ nhiên là người bạn sĩ quan rất khó trả lời. Ai bảo tuổi trẻ không sâu sắc. Hưởng một ân huệ của Việt Cộng không phải dễ và phải trả một giá đắt, nhiều khi cái giá của lương tâm. Còn ân huệ thì chính Việt Cộng không bỏ ra, nó lấy của chính người tù để cho họ hoặc lấy của bạn bè cho họ. Những anh em đi làm lẻ, đi làm các công tác đặc biệt như trật tự, thi đua, thăm nuôi, văn hóa, nấu bếp, chăn nuôi đều được cho tiêu chuẩn ăn cao hơn tù khác, nhưng phần ăn của họ cũng lấy trong tiêu chuẩn chung của tù ở nhà bếp, Việt Cộng không bỏ thêm ra một hột gạo. Do đó, trong trại tù, những anh em tự trọng biết suy nghĩ đều từ chối tất cả ân huệ của Cộng sản cho họ và từ chối tất cả công tác riêng rẽ. Họ xem như là ăn trên mồ hôi và sống trên sự an nguy của anh em.

Nói đến tốt hay xấu cũng tùy quan niệm, luân lý Cộng sản người nào báo cáo người khác, rình mò đời sống người khác họ cho đó là cá nhân tốt, người tù tiến bộ. Nếu không làm những hành động đó là thành phần xấu.

Khi người ta thuần tính là một con thú người ta bảo con thú ngoan, nuôi một con chim, thả ra chim không bay vào bầu trời bao la mà quanh quẩn bên chiếc lồng, gọi con chim đó khôn. Người tù ngoan ngoãn chấp hành, có cơ hội không đào thoát, gọi đó là người tù tốt, người tù tiến bộ. Con thú sống với rừng xanh, con chim bay trong bầu trời và con người phải có tự do, người cai tù quên điều đó, nhưng tù không thể quên được. Sự chống đối trong nhà tù để duy trì mức đề kháng và giữ ý thức tự do.

 CHƯƠNG 11

Đối với tù ở trại cải tạo lao động thì giờ qua nhanh lắm, quần quật suốt ngày ngoài đồng, buổi tối còn phải ngồi sinh hoạt hai giờ trước khi ngủ, chương trình đều đặn ngày nào cũng giống như ngày nào, cuối tuần chỉ trông mong được nghỉ trọn ngày chủ nhật mà không được vì cứ hai tuần một lần, buổi sáng chủ nhật làm lao động xã hội chủ nghĩa. Chỉ có những ngày mưa là được nghỉ, nhưng miền đông mưa ít, mà chỉ có mưa ban đêm, hoặc mưa ngoài giờ hành chính.


Trông mong một ngày nghỉ, trông mong một ngày mưa, người tù chỉ mong đợi chừng đó, còn thì ngoài tầm tay. Biết quên càng khỏe, còn dễ sống. Nếu cứ ân hận, tiếc nuối, bực tức chỉ thêm khổ thân. Mới hơn 30 tuổi nhiều người tóc đã bạc, trán đã hằn ngang những nếp nhăn. Gặp gia đình cũng lại đếm thời gian ở nếp nhăn trên khóe mắt vợ. Gạt hết tất cả để an tâm mà sống chờ ngày về, dặn dò nhau và dặn chính mình, nhưng đâu phải ai cũng làm được, hoặc là lúc nào cũng quên được. Cứ mỗi lần gặp gia đình là thêm bao đêm không ngủ được. Thời gian qua mau quá, vợ đã khắc khoải mỏi mòn trông chờ – con lớn lên không có người dạy dỗ.

Giá như chết được thì đã giải quyết hết mọi chuyện cho người chết lẫn người sống; chết chỉ làm cho người thân buồn khổ một lần, rồi thời gian làm họ quên đi. Chết thì 3 năm vợ đã mãn tang, có thể lập gia đình khác mà không sợ bị dị nghị. Người tù không chết, vẫn sống mà lại không có ngày về, người tù như người đã chết mà chưa chôn, nên mọi việc cứ dùng dằng không giải quyết. Trở thành gánh nặng cho gia đình.

Vợ phải chờ đợi, con cái, người thân phải trông mong… Không nỡ dứt tình, một người khổ kéo theo hàng chục người đau khổ – ân hận biết bao, sao không chiến đấu đến phút cuối cùng rồi chết, chết là hết. Tại sao đã không dám chết mà không chạy ra ngoại quốc. Chạy là hèn nhưng còn giúp được cho kinh tế gia đình. Ray rứt từ ngày đầu tiên vào tù, cứ xoáy đi xoáy lại trong đầu làm cho cằn cỗi đi, sự hành hạ đó còn khổ hơn là sự hành hạ thân thể, sự sỉ nhục của bọn cán bộ.


Tết đến càng nhớ càng thương và càng thấy mỗi ngày mỗi xa. Năm Mậu Ngọ tháng chạp thiếu, trại nghỉ từ ngày 29 để chuẩn bị Tết Kỷ Mùi. Sáng sớm Thượng Tọa Trí Không đến gặp tôi, Thượng Tọa nói với tôi là có cuộc họp để “anh em ngồi lại với nhau”. “Chúng ta ngồi lại với nhau” hay “anh em ngồi lại với nhau” cũng là nhóm từ ngữ được dùng quá nhiều trong giới chính trị, cứ kêu gọi ngồi với nhau mà không bao giờ đoàn kết được vì người nào cũng muốn người khác đoàn kết sau lưng mình, nếu không đạt được mục đích đó thì tách riêng. Có rất nhiều buổi tiệc tổ chức để anh em ngồi với nhau, nhưng ngồi cãi nhau, để chỉ trích người vắng mặt hay để nói suông rồi sau đó ai về nhà nấy không ai làm gì hết. Trong tù, dù bị kiểm soát thật chặt nhưng anh em vẫn có thể “ngồi lại với nhau”, nghĩa là cũng giống như bao lần khác ngồi lại để nói cho vui thôi.


Người ta thường phê phán người Việt Nam không đoàn kết, hoặc là người Việt Nam có truyền thống chia rẽ. Người ta kêu gọi đoàn kết vì ai cũng biết đoàn kết là sức mạnh.


Thực tế người Việt Nam có truyền thống đoàn kết. Chỉ có âm mưu chia rẽ của những người cầm quyền và những người làm chính trị. Dân tộc Việt Nam là một khối thống nhất từ Bắc tới Nam và gần như thuần nhất vĩ đại đa số là dân Việt và nói cùng tiếng nói, có nhiều sắc dân khác và ngôn ngữ khác nhưng là thiểu số. Một người dân từ miền Bắc hay miền Trung dễ dàng di cư đến sinh cơ lập nghiệp tại miền Nam và được ngay sự giúp đỡ của dân địa phương để an cư lập nghiệp xây dựng gia đình với người hôn phối tại địa phương đó.


Thời Pháp thuộc, người Pháp phân chia 3 miền Nam, Bắc, Trung với ba thể chế chính trị và hành chánh khác nhau, nhưng người Việt Nam vẫn sống thống nhất; người dân miền Nam luôn luôn ủng hộ và che chở cho những người yêu nước từ Bắc và Trung vào hoạt động tại miền Nam và ngược lại. Chính Cộng sản cũng đã đưa cán bộ từ miền Bắc vào Nam tổ chức Đảng và mặt trận chống Pháp và đã được dân miền Nam ủng hộ.



Dân Việt Nam không chia rẽ, nhưng các chính quyền nỗ lực phân chia để mưu cầu lợi ích của triều đình hoặc phe nhóm:
– Từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh – Đào Duy Từ giúp chúa Nguyễn, chế ra nhiều sự khác biệt trong phong tục tập quán miền Nam so với miền Bắc vì lúc đó, miền Nam của chúa Nguyễn là vùng mới khai phá còn thua kém miền Bắc nhiều. Đào Duy Từ tạo sự phân cách hai bên vì nhu cầu tồn tại của đàng trong.


– Vua Gia Long thống nhất đất nước, nhưng chính sách cai trị chủ trương chia rẽ, phân biệt đối xử. Triều đình nhà Nguyễn nâng đỡ dân Thanh Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên vì là đất tổ của nhà Nguyễn cũng như nâng đỡ người miền Nam vì là đất phục nghiệp và quê ngoại của các vị vua (nhà Nguyễn có tập tục là hoàng hậu người miền Nam ở các tỉnh Gia Định – Gò Công).


Ngược lại, nhà Nguyễn kỳ thị miền Bắc vì là đất của Vua Lê Chúa Trịnh; sĩ phu miền Bắc còn hoài Lê. Nhà Nguyễn chèn ép dân chúng các tỉnh Nam Ngãi Bình Phú vì dân Nam Ngãi Bình Phú là dân của Tây Sơn, chính sách nhà Nguyễn trả thù Tây Sơn rất thâm độc, đa số quan lại và lính tinh nhuệ của Tây Sơn là dân Nam Ngãi Bình Phú, do đó suốt triều đình nhà Nguyễn mở mang học hành rất ít ở các tỉnh này để kềm hãm dân địa phương luôn luôn thua kém các tỉnh miền Bắc đèo Hải Vân.


Thời Pháp thuộc, ngoài lý do lịch sử, các hòa ước với triều đình nhà Nguyễn chia ba miền Nam, Bắc, Trung với ba chế độ thuộc địa, giám hộ và bảo hộ thì ngay trong phần đất miền Trung bảo hộ chính quyền Pháp cũng theo chính sách nhà Nguyễn kỳ thị các tỉnh miền Nam Hải Vân và họ tiếp tục nhận chìm dân chúng vùng này trong sự thất học. Trong khi Huế có trường học Quốc Học, Đồng Khánh, Vinh có trường College de Vinh thì các tỉnh miền Nam đèo Hải Vân chỉ có các lớp sơ học và mỗi tỉnh lị chỉ có một trường tiểu học.


Khi đất nước phân chia Nam Bắc ở vĩ tuyến 17, chính quyền Ngô Đình Diệm tiếp tục nâng đỡ người Thanh Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên sống ở miền Nam vĩ tuyến 17, họ nắm mọi chức vụ then chốt và người dân các tỉnh miền Nam Hải Vân thì bị nghi ngờ. Sự nghi ngờ đó đẩy dân các tỉnh miền Nam đèo Hải Vân vào thế chống lại chính quyền. Liên khu 5 trở thành vùng kháng chiến mạnh mẽ nhất. Cũng từ đó thành ra vùng có nhiều ảnh hưởng của Cộng sản nhất miền Nam vĩ tuyến 17.


 Dĩ nhiên trong các chính sách phân biệt, triều đình nào cũng dùng một ít người ở địa phương bị kỳ thị để che lấp âm mưu của mình. Đến thời Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu thì sự phân chia do ảnh hưởng trầm trọng các thời khác để lại: phân chia địa phương, phân chia tôn giáo, đảng phái, xuất thân các trường học khác nhau… và để thủ lợi, Nguyễn Văn Thiệu đẩy mạnh sự chia rẽ đó làm các tôn giáo, đảng phái phân chia đến độ như mảnh vụn.


– Cộng sản cũng chủ trương chia rẽ dân chúng trong đường lối đấu tranh giai cấp. Chỉ có đảng viên và gia đình mới được hưởng các quyền lợi. Tuyệt đại dân chúng thì bị đàn áp bóc lột.
Các chính quyền nhắm chia rẽ dân chúng để dễ cai trị. Sau thời kỳ đảo chánh Ngô Đình Diệm, sinh hoạt chính trị miền Nam chịu hậu quả của chính sách phân chia và hoàn cảnh lịch sử khắc nghiệt để lại. Các tổ chức chính trị luôn luôn bị đánh phá, bắt bớ nên không có hoạt động công khai, càng ngày càng bị già cỗi tiêu hao.


 Khi có dịp sinh hoạt trở lại, họ không có tầm cỡ toàn quốc nên phải dựa vào những ưu điểm nhất thời như tôn giáo, địa phương. Ví như Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến được thành lập với cốt lõi là Đại Việt xứ bộ Nam Kỳ, và Phong Trào Phục Hưng miền Nam hậu thân của Hội Liên Trường. Hội Liên Trường và Phong Trào Phục Hưng Miền Nam là phản ứng nhất thời của các chính trị gia người Nam khi thấy chính quyền hầu như hoàn toàn do người miền Bắc điều khiển và người miền Nam bị gạt ra khỏi các chức vụ then chốt, dưới thời chính phủ Nguyễn Cao Kỳ.




Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến lợi dụng ưu thế địa phương phát triển nhanh chóng tại miền Nam, nhưng bắt đầu khựng lại không ra khỏi tỉnh Phan Thiết. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy rất cố gắng ra tận đại học Huế để dạy học và tổ chức tỉnh đảng bộ Thừa Thiên gồm một vài người ít ỏi không uy tín và không phát triển được, vì người miền Trung thấy rõ đặc tính phân ly trong Phong Trào Phục Hưng Miền Nam tiền thân của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến. Tóm lại sự chia rẽ mà người ta gọi là tập quán của người Việt là không đúng. Dân tộc Việt Nam thống nhất và đoàn kết – chỉ có chia rẽ từ các hoạt động chính trị và của những người làm chính trị. Cũng như các người cầm quyền chủ trương chia rẽ dân chúng để cai trị và thủ lợi.


Muốn chấm dứt tình trạng chia rẽ đó là nhiệm vụ của người làm chính trị. Họ phải ý thức trước hết giai đoạn lịch sử phân chia đã qua, và họ cũng thấy bao nhiêu chính quyền và chính trị gia chủ trương dùng các ưu thế tạm thời về địa phương, tôn giáo cuối cùng bị bế tắc; cũng như thuật chính trị hay thủ đoạn chính trị chỉ nhất thời – và người dân càng ngày càng tiến bộ, càng khó lừa bịp như trước. Con đường chính trị rõ ràng trước mắt sau thời đại của Cộng sản phải là dân chủ tự do, người dân sẽ được tự do chọn lựa bằng lá phiếu của mình, tuy không hoàn hảo nhưng chắc chắn là tốt hơn là các chế độ độc tài. Những hình thức chủ trương phân ly địa phương chia rẽ đều hoàn toàn lỗi thời. Việc trước mắt để đoàn kết tức là nên chấm dứt sự chỉ trích bôi nhọ chụp mũ lẫn nhau.

Vì người dân sẽ là một trọng tài đúng đắn, hãy nên làm việc và giá trị của việc làm, của sự đóng góp cho quốc gia, của bản lãnh và tài năng sẽ được nhận định rõ. Đất nước là của toàn dân, việc nước là việc chung, đất nước cần sự đóng góp của nhiều người không phải của riêng ai và không nên sợ không có chỗ đứng chỉ sợ không có đủ sức để đảm trách công việc. Chỉ có thực tế công việc làm sẽ giải quyết rất nhiều bế tắc vì sự chia rẽ, cũng như tư thế của các người làm chính trị. Sự đào thải một cách tự nhiên qua công việc, sẽ hình thành nên những người lãnh đạo. Thời đại ngày nay người ta không thể chờ đợi một bậc vĩ nhân từ trên trời sai xuống. Quần chúng sẽ lựa chọn người lãnh đạo. Con đường dân chủ không thể không tới, dân chúng đã trưởng thành, không còn điều gì có thể che dấu sự phán xét của dân chúng ở thời đại này.


Đêm giao thừa sau khi nhận thùng nước chè cho cả đội và một điếu thuốc lá tiêu chuẩn cho mỗi người tù, trong phòng từng nhóm ngồi lại với nhau uống nước, hút thuốc; giở bánh mứt gia đình gửi lên ngồi nói chuyện cho đỡ nhớ nhà. Rồi anh em cất tiếng hát, lúc đầu còn sợ, còn ngại. Nhưng cái không khí là lạ của đêm giao thừa làm mọi người quên sợ; anh em bắt đầu hát nhạc vàng khởi đầu từ nhạc tiền chiến.


Khi nghe nhà bên cạnh có người hát bản “Đường Xưa Lối Cũ”, tôi nhớ Ali Hùng ở trại Phan Đăng Lưu, mỗi lần Hùng hát bản nhạc này thì giọng nghẹn ngào vì nhớ mẹ. Tôi bùi ngùi kể lại thời gian ở Phan Đăng Lưu, hôm Ali Hùng bị dẫn đi hành quyết; Hùng rất bình tĩnh đưa tay chào chúng tôi ở phòng tập thể. Ali Hùng là người tù thuộc tổ chức nhà thờ Vinh Sơn. Anh em tù tập họp lại từng nhóm ca hát. Lúc đầu thì nhạc tiền chiến, chuyển qua nhạc tình yêu rồi ai đó bắt đầu hát nhạc chính huấn. Phòng này hát, rồi các phòng khác cũng hát. Anh em hát cả nhạc đấu tranh.


Ngày Mồng Một Tết, trại thật vui, anh em đi chúc Tết nhau, rồi tụm lại từng nhóm để hát nhạc vàng, hát nhạc chính huấn, nhạc XDNT, nhạc Trịnh Công Sơn; nhớ bài nào hát bài nấy, rồi nhiều nhóm gặp nhau “nối vòng tay lớn” ra cả ngoài sân.


Đó là sinh hoạt của đám đông bộc phát, không có tổ chức, sự duy trì tương đối dễ khi đã có một số anh em có ý thức tham gia. Họ chỉ có nhiệm vụ “châm lửa” khi thấy không khí loãng đi. Anh em đội văn nghệ hóa trang đi chúc Tết các nhà được anh em hoan hô. Long thương phế binh có sáng kiến hay. Anh nhờ tôi mượn son phấn và y phục của đội văn nghệ để trình diễn một hoạt cảnh cảm động bản “Ngày Trở Về” của Phạm Duy, mẹ Việt Nam đón đứa con thương phế binh trở về, sau đó hoạt cảnh Mẹ Việt Nam được đưa đi chúc Tết tất cả các nhà trong trại.


Từ đó gần như mọi người đều say với tiếng hát. Người ta kéo nhau đi từng đoàn, từng nhóm tiếp tục ca, và rồi không ai còn kiểm soát nữa, tự ý anh em cứ có ai bắt lời ca là có người ca theo và có nhiều nơi anh em đã hát quốc ca. Khi bài Quốc Ca Việt Nam cất lên, mọi người đều đứng im phăng phắc, cảm động, nhiều người đã khóc. Bọn công an một phần vì đi vắng, những tên còn lại xách súng chạy bên ngoài hàng rào, chĩa súng và đe dọa bắt anh em giải tán, nhưng đám đông cứ mặc, chẳng ai nghe.


Chiều xuống, trước khi vào nhà, một cuộc gặp mặt chớp nhoáng với các “trưởng nhóm”, chúng tôi quyết định tiếp tục hát trong mỗi nhà nhưng phải thật cẩn thận, vẫn giữ cho được tính chất bộc phát của đám đông, phải tác động một cách tự nhiên và tế nhị không có người chủ động và không có tính tổ chức.



Lê Phước Thọ, một Thiếu úy Cảnh sát thông báo với tôi rằng một số đông anh em sĩ quan cảnh sát sẽ hát quốc ca tại hội trường trong buổi lễ đầu năm vào sáng Mồng Hai. Theo kế hoạch là họ sẽ hát lúc người quản ca bắt nhịp hát bài “Ngày Vui Đại Thắng” khi tên trại trưởng khai mạc buổi lễ, Thọ hỏi tôi liệu có phát động cả hội trường được không, tôi nghĩ sẽ được, nếu có một nhóm anh em bắt giọng trước. Tôi thảo luận với những anh “trưởng nhóm” khác và phối trí anh em chủ lực tản ra len lỏi vào tất cả các đội, để khi giọng hát bắt lên thì tất cả đám đông nơi đâu cũng có tiếng hát để cán bộ không thể kiểm soát được.


Dự tính không thành, khi người quản ca bắt tiếng hát bài “Ngày Vui Đại Thắng” , Thọ và số anh em bạn bè của anh không ai dám bắt qua bài quốc ca. Nhiệt tâm của anh em làm đến đâu cũng tốt, không thể đòi hỏi họ làm quá khả năng.
Dù thất bại không hát được bản quốc ca của VNCH tại hội trường nhưng bản “Ngày Vui Đại Thắng” chỉ có quản ca và ban văn nghệ ca, anh em tù chỉ có vài người ca theo lẻ tẻ rồi im. Chính trị viên trại Thượng úy Vinh khai mạc buổi lễ, sau bài diễn văn dài dòng về chính sách khoan hồng và những hứa hẹn cứu xét thả tù trong năm tới. Vinh đã nói:


“Trong đêm giao thừa và ngày hôm qua, tôi đã nghe các anh ca hát mừng xuân thật là vui. Đáng lẽ trại có bổn phận phải lo cho các anh, nhưng chúng tôi không thể làm hết được mọi chuyện, các anh ca hát để đỡ nhớ nhà, tôi khuyến khích việc đó. Các anh nên tiếp tục.” Anh em tù hoan hô, trở về trại họ tiếp tục ca.


Để bù vào sự thất bại tại hội trường. Thọ và Linh tổ chức họp mặt ở phòng 4 để chào cờ và hát quốc ca.
Buổi họp mặt ở nhà 4 thành công, anh em dự rất đông và mở đầu Thọ và Linh đã đứng ra điều khiển chào cờ hát quốc ca. Anh em đã tìm được gần 10 vỏ chai bia quân tiếp vụ cũ, khi hát quốc ca các anh xếp hàng giơ vỏ chai có in hình quốc kỳ VNCH lên. Như vậy cũng đã quá tốt trong hoàn cảnh một trại tù.
Mọi người đều phấn khởi và tham gia tích cực ca hát.



Tối mồng Hai chương trình văn nghệ mừng Xuân. Đại úy Phát trưởng ban nhạc, đã không chơi các bản “Nhạc Cách Mạng”, anh đệm và hòa tấu theo hòa âm của miền Nam không theo hòa âm của miền Bắc rất khó nghe. Những bản nhạc bị bỏ quên được anh Phát làm sống lại với tiếng kèn Saxo thật điêu luyện. Người nghe càng hoan hô, các nhạc công trên sân khấu càng hứng khởi biểu diễn – các anh đã chơi một đêm văn nghệ đầy cảm hứng như ngoài đời trước 1975.


Triệu Bá Thiệp nói với tôi là nên dấn thêm nữa vào hôm sau nhưng tôi suy nghĩ mãi về lời tên Thượng úy Vinh, hắn khuyến khích nhạc vàng? Thực không? Tôi bàn với Phố nên lặn đi để tránh tai mắt của ăng ten, vả lại đã đến lúc đám đông bộc phát và nhiều anh em trước kia dè dặt đã tham gia tích cực.
Tối Mùng Hai sau buổi văn nghệ, anh em mệt mỏi đều nghỉ, chỉ có một vài nhà anh em tiếp tục hát trong đó có đội 10 của Nguyễn Hữu Trí làm đội trưởng là hát nhiều nhất vì các đêm trước Trí đã kềm chế không cho đội hát, và chuyện đã đến là tụi cán bộ đã mở cửa ập vào đội 10 bắt Trí và một vài người đem đi giam ở nhà kỷ luật.



Ngày Mồng Ba, trại trở lại yên tĩnh, anh em đã xao xuyến nhiều. Nhóm trẻ quyết định làm tới, họ vạch kế hoạch đấu tranh đòi thả người bị bắt, với lý do cán bộ Vinh chính thức khuyến khích hát để đỡ nhớ nhà. Chương trình phân công để làm trong buổi xuất trại đầu năm ngày Mồng 4:
– Đội 10 viết biểu ngữ đòi thả người bị bắt.
– Đội 4 là đội xuất trại đầu sẽ không đi lao động. Huề sẽ đứng lên ngay đầu hàng để thực hiện kế hoạch. Tôi liên lạc với các anh đứng đầu tổ chức phản động, yêu cầu họ thông báo các thành viên của họ hưởng ứng không xuất trại.
Đúng 6 giờ 30 sáng xuất trại. Khi trực trại gọi đến đội 4, Huề đứng lên ngay trước hàng hô mấy tiếng thật to: “Không đi, không đi, không đi”. Tức thì anh em thuộc đội 10 ngồi hàng đầu rút ra một cuộn giấy thành một biểu ngữ: “Yêu cầu ban giám thị thả những người bị bắt.”


Việc xảy ra thật bất ngờ cho cán bộ, trung đội trưởng võ trang ra lệnh trung đội võ trang bao quanh vòng rào chĩa súng vào trong. Trực trại tiếp tục gọi đội 4. Huề vẫn đứng thẳng dõng dạc la lên: “không đi, không đi, không đi, yêu cầu thả người bị bắt.” Bọn cán bộ súng ống túa ra đầy cả sân ngoài trung tâm, trung đội võ trang Hà Lớn vào lôi Huề ra khỏi hàng, đội 4 anh em giằng lại, nhiều tiếng hô:

 “Không được đánh người, không được đánh người”, rồi cả sân tập họp cũng hô lên như vậy. Lớn thả Huề ra, lúc đó phân trại trưởng Vinh xuất hiện, hắn nói: “Tối hôm qua, tôi đã ra lệnh bắt một số anh em ở đội 10, vì các anh đó đã hát ồn ào trong khi cả trại cần ngủ để đảm bảo sức khỏe sau hai ngày tự do ca hát. Tôi hứa sẽ cứu xét trường hợp đó. Trong trại có những tên xấu lợi dụng gây rối loạn sẽ bị nghiêm trị, còn những người vô tình bị xúi giục sẽ được khoan hồng. Các anh phải xuất trại đi lao động đầu năm, hôm nay xuất trại lấy ngày tốt, tôi đã nhất trí với các đồng chí quản giáo, các anh chỉ làm một giờ rồi đi tắm giặt, bốn ngày nghỉ Tết của các anh đã không có nước tắm.”


Tên Vinh khôn ngoan tách ra hai thành phần, xúi giục và vô tình – anh em làm theo sự sôi nổi của đám đông nhưng đều sợ – Hắn lại nhắc chuyện đi tắm, sau bốn ngày Tết, ở trong trại không có nước tắm là đòn cuối cùng đánh vào nhu cầu thiết yếu hàng ngày, chắc chắn đám đông sẽ ngã.
Nói xong Vinh đọc lệnh bắt giam anh Trần Danh San, Nguyễn Văn Hoàng (tức Thượng Tọa Trí Không) và Huề, và gọi chung tất cả những ai có dự phiên họp sáng ngày 29 phải lên trình diện. Vinh cầm sổ gọi đội 23 xuất trại trước, hắn đã biết rõ tình hình tù ở trại. Đội 23 là đội do Nghĩa làm đội trưởng,
Nghĩa đã tích cực trấn áp nên đội rất ngoan ngoãn. Lần lượt các đội xuất trại.


Suốt cả tháng Giêng, hầu như ngày nào cũng có người bị bắt nhốt xà lim, an ninh ra tại hiện trường bắt trói tay bằng dây thừng dẫn về trại, tình hình rất đe dọa căng thẳng. Nhưng rồi nhiều người cũng được thả ra sau khi làm kiểm điểm hứa không tái phạm, chỉ còn lại hai anh San và Hoàng và những người quan hệ thân thiết với hai anh là bị nhốt lâu ngày như Tân, Biên, Duyên, Tòng, Thành, Bằng, Huề, Dục.


Ngày 7-2-1978, chúng tôi được chính thức thông báo là quân đội Việt Cộng đã giúp “những người Khmer yêu nước” lật đổ chính quyền “diệt chủng Pol Pot”. Người thông báo là Trung tá Thích, trưởng trại, hắn mới đi phép về. Khi thông báo tin này, hắn đã phân tích sự căng thẳng giữa Hà Nội và Bắc Kinh mà hắn gọi là tên “Bành Trướng Trung Quốc”. Mười ngày sau, chúng tôi được thông báo tiếp về chiến tranh Việt – Trung bùng nổ ở sáu tỉnh biên giới. Tin tức làm cho không khí đe dọa ở trại sau vụ náo loạn Tết trở nên loãng đi. Cả cán bộ và tù đều chờ đợi những diễn biến quan trọng xảy ra, dĩ nhiên là mỗi bên đều chờ đợi khác nhau. Anh em tù phấn khởi vì mong mỏi tình hình sẽ biến chuyển, dù không ai biết là sẽ biến chuyển ra sao.


Trung Cộng là kẻ thù của Bắc Việt, vẫn là một kẻ đáng sợ. Nhưng dù sao có diễn biến, rồi ra thế nào thì ra. Việt Cộng tồn tại thì công việc lao động mỗi ngày ở trại tù sẽ giết dần giết mòn mọi người. Hầu hết các đội tù bị bắt được chuyển vào khu nhà gạch mới xây, có tường rào kín hơn ở khu B. Được ở khu nhà gạch mới sạch sẽ khang trang hơn, như tên trực trại Phong giải thích: “Các anh là người có tội với Đảng và nhà nước mà được Đảng và nhà nước quan tâm cho ở nhà xây sạch sẽ, mát mẻ đã nói lên chính sách khoan hồng ưu việt của Đảng và Bác Hồ muôn vàn kính yêu đã dạy. Chúng tôi là “con em của kẻ chiến thắng” mà chúng tôi còn phải hy sinh phương tiện tốt cho các anh, các anh thấy đó, cán bộ chúng tôi vẫn phải ở nhà gỗ.”


 Cán bộ Cộng sản lớn nhỏ, tên nào cũng giống nhau, có dịp là nhắc tới Đảng, tới Bác Hồ như một lời kinh. Lời kinh đó chúng biết là không thuyết phục gì đối với những người chúng nói với, nhưng có giá trị bảo vệ cái vị trí và con đường tiến thân của chúng. Sự giải thích dù có vô lý cũng mặc, cứ giải thích cho có. Giai đoạn đầu của cuộc cách mạng chống Pháp, dân chúng còn yêu kháng chiến, còn tin vào sự lãnh đạo của Việt Minh, còn tin Bác Hồ, sự giải thích thế nào cũng được tin; rồi thành thói quen, nhưng bây giời niềm tin không còn nữa, sự giải thích của cán bộ Cộng Sản trở thành trơ trẽn, chúng vẫn cứ làm. Điều này không còn là ưu điểm trong chính sách tuyên truyền nữa mà trở thành một khuyết điểm trầm trọng mà chế độ Cộng sản không sửa được hoặc chẳng còn cấp nào muốn sửa.


Không phải chỉ tên Phong trực trại mở miệng lếu láo tù được ở nhà xây là đãi ngộ hơn cán bộ ở nhà gỗ mà chính tên trưởng trại Trung-tá Thích cũng đã giải thích như một minh chứng hùng hồn của chính sách khoan hồn nhân vụ cán bộ bắn chết một người vượt trại. Có hai người tù nhân đêm tối cạy cửa ra, băng qua rào trốn. Một người thoát vào rừng, một người rủi ro bị vướng áo vào cọc rào treo tòn ten. Từ trạm gác, tên võ trang đã bắn 13 phát mới trúng, giết chết người tù bất hạnh đó. Hôm sau chúng tôi được nghỉ lao động, lên hội trường nghe giảng về chính sách khoan hồng. Sau một hồi huyên thuyên nhàm chán, Thích cụ thể giải thích là “Đêm qua cán bộ đã thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo, khi cán bộ phát hiện tù trốn trại, cán bộ đã bắn 12 phát cảnh cáo, nhưng cải tạo viên vẫn ngoan cố không quay lại (vì bị treo tòn ten trên cọc) nên đến phát thứ 13 đành phải bắn chết…”
Phân trại A bị cấm nấu ăn, chỉ được thực phẩm ăn ngay và hạn chế cân lượng, mỗi người được nhận nhiều hay ít tùy theo thái độ cải tạo. Cán bộ quản giáo, cán bộ giáo dục và cán bộ an ninh sẽ đánh giá mức độ chấp hành cải tạo.
Chúng đã biết rõ thành phần tù bị bắt là những người chủ động gây ra những “lộn xộn” trong trại nên chúng đưa vào khu nhà mới để siết chặt hơn và biện pháp hữu hiệu nhất đối với Cộng sản là thắt chặt bao tử. Làm việc nặng nhọc và hạn chế phần ăn kể cả phần chính của gia đình mang đến để nuôi tù.
Ở trong tù sống chung với một đội trẻ tuổi ô hợp có nhiều điều tế nhị. Những người trẻ tuổi thường có lý tưởng, nóng nảy và quá khích. Họ hay đòi hỏi ở những thế hệ đàn anh có thái độ mà họ cho là “coi được” trong đời sống hàng ngày từ cung cách đối với bạn tù cũng như đối với bọn cai tù. Những người trẻ tuổi họ cũng rất nhạy bén để nhanh chóng nhìn ra thực chất – nếu ai đánh lừa họ thì chỉ trong thời gian ngắn, còn sống lâu ngày trong môi trường vừa đói khổ, đầy thử thách, sự đóng kịch không được lâu. Mỗi khi họ thất vọng về một người nào, họ thường có thái độ dứt khoát và tàn nhẫn từ lời ăn tiếng nói cho đến cách đối xử.


 Từ đó ở trong tù thường có những hiện tượng sĩ quan trẻ tuổi cấp nhỏ khinh thường những sĩ quan cấp cao về những thái độ mà họ cho là hèn nhát; người trẻ tuổi khinh người lớn mà họ cho là không còn đáng được cho họ kính trọng. Sự đòi hỏi của thế hệ trẻ dù có hơi khó khăn, nhưng cũng rất hợp lý. Do đó, muốn bảo vệ một chút gì còn sót lại của một con người tự trọng, với thời gian lâu dài trong nhà tù là cả một sự đấu tranh không nhỏ và không ngừng đối với bản thân người tù, để có thể tạo cho những người tù trẻ tuổi một chút tin tưởng nào đó ở lời nói của mình để có thể chia sẻ với nhau một vài ý nghĩ giữa hai thế hệ.


Gần đến ngày 30-4-1979, anh em nhà bếp thông báo là bữa ăn có phần thịt được tổ chức vào ngày 30-4 thay vì 1-5 như những năm trước. Tiêu chuẩn ăn thịt vào ngày lễ ở trong tù thật quan trọng – vì mỗi năm chỉ có 4 lần được tiêu chuẩn đó. Dịp Tết được 3 bữa ăn, một bữa chiều 30, bữa trưa Mồng Một và bữa trưa Mồng 3. Dịp lễ Quốc Tế Lao Động 1/5 và sinh nhật Hồ Chí Minh 19/5 ăn lễ vào buổi trưa 1/5. Lễ 2/9 ăn vào trưa và dịp tổng kết thành tích cuối năm thường là đầu tháng Giêng năm sau. Một năm 4 dịp được ăn cơm trắng có thịt; những buổi ăn khác là ăn cơm độn và nước muối.
Anh em thắc mắc không biết trại có hậu ý gì mà đổi ngày ăn lễ từ 1/5 ra 30/4. Những chuyện rất nhỏ ở trong trại khi được nhắc tới cũng thành ra một luồng dư luận bàn tán. Qua trao đổi anh em quyết định không cần biết trại vô tình hay cố ý đổi ngày ăn lễ, nhưng đã chú ý bàn tán thì cũng cần một cái gì đáp ứng.
Cuộc vận động thành công. Buổi trưa hôm đó, các đội đều trả lại phần thịt chỉ nhận cơm trắng với nước mắm. Đối với cán bộ đó là chuyện bất ngờ, nên ngay hôm 1/5, thay vì nghỉ lễ chúng tôi lại được lên hội trường để nghe đe dọa là sẽ nghiêm trị các phần tử sách động. Khi được hỏi lý do tại sao “cải tạo viên” không nhận phần thịt. Anh Thanh, một sĩ quan trẻ trong nhóm Vườn Đào mới chuyển về đã thẳng thắn phát biểu: “30-4 là ngày chiến bại của chúng tôi, cán bộ ăn mừng chiến thắng, nhưng chúng tôi không thể ăn mừng chiến bại.” Sau đó Thanh bị đem cùm trong xà lim kỷ luật.
Sau thời gian học tập chính trị, anh em sĩ quan mới chuyển về được tham gia một buổi đóng phim trình diễn nhân phái đoàn báo chí của ba Đảng Cộng sản Nhật Bản, Ấn Độ và Pháp đến thăm trại. Tuy là đón phái đoàn báo chí của các “Đảng Cộng sản anh em”, trại cũng tổ chức trình diễn rất ngoạn mục.


Toàn trại được nghỉ lao động, mỗi người tù được phát khẩu phần ăn một cục bột. Quản giáo cùng hai cảnh vệ dẫn đội vào trong rừng làm công tác lao động chờ đến khi có kẻng báo thì dẫn đội về.
Nhà bếp mang về 4 con lợn đã làm sẵn, hai con móc treo trên giá, một con được chặt thịt dang dở, và một con đã chặt xong bỏ vào chảo nấu. Số 400 tù trại Vườn Đào được tuyển chọn còn 200 người trẻ và khỏe mạnh, một số đưa lên nằm trạm xá, tại mỗi giường bệnh bày một phích nước sôi, một hộp sữa đã đục sẵn và một hộp sữa còn nguyên, một bao thuốc lá đã mở. Trước khi đưa lên nằm đã được dặn dò kỹ là không ai được quyền động đến những đồ vật quí giá đó. Số còn lại chia ra ở các nhà, mỗi nhà hơn 10 người, người thì quét tước, người khác ngồi đánh cờ tướng. Đến bữa cơm, những người diễn viên này ngồi vào bàn ăn khẩu phần 4 người ăn cơm trắng với rau và thịt hai món kho và luộc.


Các diễn viên đã được học tập trước và đã được răn đe rằng họ phải hạn chế sự phát biểu, và nếu được hỏi đến phải phát biểu theo đúng chính sách, để tránh sự phiền toái không có lợi cho bản thân. Anh em dù bị răn đe, phải đóng tuồng nhưng khi được hỏi trả lời rất hay. Bác sĩ Quí được hỏi, nếu được thả ra sẽ làm gì, anh đáp là sẽ đem gia đình đi kinh tế mới. Được hỏi là sao không tiếp tục hành nghề bác sĩ, anh trả lời đi kinh tế mới là chính sách của nhà nước đối với tù cải tạo.


Nhà bếp được hỏi là mỗi ngày ăn mấy bữa, anh em trả lời là tù ăn sáu bữa cơm với thịt, được hỏi là tại sao được ăn nhiều như vậy, thì anh em trả lời là cán bộ dặn trả lời như vậy. Những lối trả lời theo cách chống đối tiêu cực, trả lời mà người hỏi không thể tin được, hoặc câu trả lời nói lên được tính cưỡng chế mà Cộng sản có biết cũng không trừng phạt được. Thêm vào đó, anh em tìm mọi cách dùng than và gạch viết 3 chữ SOS ở mọi nơi có thể viết được. Có ký giả đã dùng máy quay phim để quay chữ SOS đó. Dĩ nhiên, cũng không có giá trị gì nhiều, nhưng làm cách gì tỏ sự chống đối được càng nhiều càng tốt.


Một số anh em bị kỷ luật ra không được về đội cũ, biên chế về các đội vượt biên ở Chí Hòa chuyển lên. Anh em đến nơi nào phổ biến tinh thần chống đối đến nơi đó, kỷ luật không làm cho anh em chùn mà càng làm cho tinh thần chống đối cao hơn. Đúng là càng có áp bức càng có đấu tranh. Trong hoàn cảnh đó, theo yêu cầu, anh em phải tập trung cố viết tài liệu lý luận một lần nữa để chuyển cho các anh em phổ biến cho người tù mới đến.



Lê Phước Thọ làm ở nhà bếp đã lập được một hệ thống tiếp tế thức ăn và thuốc men cho anh em bị kỷ luật qua các anh trật tự có nhiệm vụ đưa cơm. Từ đó chúng tôi có thể chuyển những thức thiết yếu như đường, thuốc rê, thuốc bổ như Vitamine B1 và C cho anh em bị kỷ luật để anh em có thể chịu đựng dài ngày sự đày ải trong địa ngục trần gian. Thọ cũng lập được đường dây chuyển những bài viết đến khu B cho Định ở đội văn nghệ. Chúng tôi nhận được báo chí từ khu B sang. Khu B thuộc sĩ quan trình diện chưa xảy ra việc gì đáng nghi ngờ về chính trị trừ những vụ trốn trại. Giám thị trại cấm khu A nhận báo từ gia đình đưa lên dù đó là Báo Nhân Dân của Đảng Cộng sản.


Đã có nhiều anh em chết vì bị cùm đến kiệt sức trong các nhà kiên giam kỷ luật, những cái chết đó cũng góp thêm sức sống, góp thêm sức ấm cho ngọn lửa đấu tranh của những người còn sống.



Hớn vẫn liên lạc với tôi để dự trù một cuộc đào thoát; ở trong tù tôi gặp nhiều người thanh niên có nhiều tài năng. Hớn là một trong những người đó. Hớn là một Thượng sĩ Biệt Kích còn trẻ tuổi, có thể hướng dẫn đi đường rừng qua Thái Lan – mọi chuẩn bị đang tiến hành thì Hớn bị kỷ luật dịp Tết và khi được thả ra lại, đưa về biên chế tù vượt biên. Hớn muốn được về khu tù chính trị của chúng tôi để anh em cùng tính chuyện đào thoát. Một hôm anh đã cố tình cãi lại Thượng úy Hưởng để bị nhốt kỷ luật. Trong khi ở kỷ luật, Hớn đã mở được còng để ra khỏi xà lim và mở luôn hai xà lim khác để dẫn Lân và Thành cùng trốn. Hớn có khả năng mở được nhiều loại khóa với một que thép luôn luôn được dấu trong người. Việc trốn trại của Hớn làm cho bọn Cộng sản thêm tức bực nên chúng buộc chúng tôi phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ hơn. Nhiều người bị cắt không cho gặp gia đình trong nhiều tháng liên tiếp.


Trong tù đã có nhiều anh em can đảm hơn, đấu tranh trực tiếp với cán bộ, luôn luôn nêu cao tinh thần bất khuất, thà bị chết, thà bị giam cùm trong xà lim kỷ luật, như trường hợp anh Điệp, dứt khoát chống đối không chịu lao động.


Nguyễn Đức Điệp đến trại tháng 5/1978 trong đợt tù chuyển từ trại giam Long Xuyên đến. Hầu hết số tù nhân hơn 500 người này là những chiến sĩ trước thuộc các tiểu đoàn Địa Phương Quân Giáo phái, các Trung Đội Nghĩa Quân hoặc Nhân Dân Tự Vệ sau khi tan hàng họ không chịu nộp vũ khí, kéo nhau vào các vùng núi Thất Sơn hoặc đồng bằng biên giới để chiến đấu thành từng nhóm. Khi bị bắt, họ bị ghép tội tàn quân, những người cầm đầu là sĩ quan QLVNCH, hoặc chức sắc thuộc Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo hoặc đã bị tử hình, hoặc xử án từ hai mươi năm đến chung thân còn bị giam ở các đề lao Long Xuyên, Châu Đốc hoặc Chí Hòa. Những chiến sĩ cấp dưới đồng loạt bị kêu án tập trung cải tạo. Anh Điệp là một người Thiên Chúa Giáo trong tổ chức Phục Quốc Long Xuyên, liên hệ trong đường dây phục quốc từ Saigon đến các tỉnh miền Tây mà trung tâm là vùng Cái Sắn.


Từ ngày bị bắt anh Điệp không bao giờ nhận tội; lời khai duy nhất của anh là “không thể sống dưới chế độ Cộng sản, không chấp nhận chế độ đó, vì Cộng sản chỉ làm khổ dân.” Điệp sinh tại Nghệ An, gia đình cha mẹ là nạn nhân trong cuộc đấu tố về cải cách ruộng đất. Điệp một mình vượt tuyến vào Nam năm 1955 lúc chưa được 20 tuổi.
Học dang dở trường Mỹ Thuật Gia Định, mưu sinh luân lạc đến lập gia đình ở Long Xuyên hành nghề điêu khắc.


Thái độ chống Cộng công khai và dứt khoát của Điệp khiến anh nhiều lần bị đánh đập tàn nhẫn. Từ một người khỏe mạnh, chỉ hơn một năm bị giam ở Long Xuyên anh đã bị lao phổi. Đi trại lao động cải tạo địa phương, Điệp không chịu lao động, bị đánh, bị giam xà lim Điệp vẫn không hề thay đổi. Đánh đập giam cùm mãi chán, Điệp lại bị chuyển trại về thị xã Long Xuyên rồi chuyển ra Xuân Lộc. Tại đây, vẫn không chịu lao động, vẫn chỉ một lời khai không chấp nhận chế độ Cộng sản, Điệp lại bị đánh, bị cùm.


Khi bệnh lao nặng, Điệp về đội già yếu bịnh tật, Điệp có thì giờ để khắc tượng gỗ, bằng những dụng cụ thật thô sơ làm từ cái đinh hay cọng thép. Điệp đã khắc cho anh em nhiều tượng Chúa Jesus Christ hay tượng Phật. Một hôm tên trực trại bắt gặp Điệp mang một tượng đức Chúa Jésus và cây thánh giá lớn cả tấc, hắn bảo Điệp vất bỏ, anh không chịu, hắn giật, anh giữ lại, nhất định bảo vệ tượng không thả ra, bị nhiều tên cán bộ xúm vào đánh, Điệp bị ngã xuống đất hai tay vẫn bảo vệ tượng. Nhìn Điệp bị đánh hộc ra cả chén máu, chúng tôi đau xót lắm nhưng chỉ biết nhìn nhau mà không biết làm gì được. Thật hổ thẹn, có những lúc thấy mình thật hèn. Đêm đến chỉ biết nằm khóc cho bạn. Hình ảnh Điệp nằm quằn quại ôm tượng Chúa Jésus miệng bê bết máu ám ảnh mãi trong tôi không bao giờ quên được.


Một buổi sáng chúa nhật lao động xã hội chủ nghĩa, chuyển gỗ từ rừng về trại để làm củi đốt. Những cây gỗ bị sử dụng thật phí phạm, xài phí tài nguyên trong khi đất nước và mọi người nghèo đói là một đặc tính của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hai hay bốn người khiêng chuyển một cây gỗ tùy lớn nhỏ. Đội trưởng và cán bộ đứng kiểm soát rải rác trên đường. Khi chuyển xong hai đợt, chúng tôi đi trở lại địa điểm tập trung thì tên quản giáo gọi tôi ra khỏi hàng, chỉ tôi ngồi xuống bên lề, hắn hỏi:


– Trong chuyến chuyển gỗ trước, anh biết trong đội có người nói gì không?
Câu hỏi thật bất ngờ, khó trả lời vì trong khi khiêng gỗ di chuyển tù nói chuyện, đùa giỡn với nhau là chuyện bình thường làm sao để ý biết ai nói gì. Nghĩ vậy nên tôi trả lời rất tự nhiên và thật tình:
– Báo cáo cán bộ, đang lúc lao động anh em nói chuyện cười đùa với nhau, tôi đâu có để ý để biết ai nói gì.
Tên quản giáo nhìn tôi cười gằn, nói:
– Nói cười cho vui thì tôi hỏi anh làm gì, trong đội có người xúi giục chống đối lao động, anh có biết là ai không?
Tôi thấy hắn bắt đầu chuyển cuộc nói chuyện qua ý chụp mũ nên tôi dè dặt hơn:
– Báo cáo, tôi không nghe ai nói gì có tính cách chống đối sách động.
Hắn “hừ” nhẹ một tiếng, rồi nói:
– Anh thực sự không biết hả, anh lúc nào cũng nói không biết nhưng có người nói là anh biết nhiều.


Tôi đáp:
– Đó là ý của họ, tôi chỉ biết làm lao động và chấp hành.
– Nói chuyện để đo lường ý thức tự giác của anh, vừa rồi anh nói: “Không có hắn thì nghỉ”, anh nói vậy có phải là xúi giục chống đối lao động không? Anh đã trây lười lao động mà còn xúi giục chống đối lao động. Tôi biết trong đội những người kia nghe anh nhiều hơn là đội trưởng.


Hắn gán tôi vào tội chống đối lao động, tôi hơi ngạc nhiên, vì thường ngày tên quản giáo này không bao giờ kiếm chuyện để khó dễ với tù. Khi lao động tôi vẫn giữ ở mức độ vừa sức, không làm nhiều lắm nhưng cũng không làm ít. Đã đi tù, đến trại lao động, bắt buộc phải làm không tránh né được, mình tránh né thì bạn phải làm, không khác đi được. Tôi vẫn quan niệm như vậy, nhưng không làm nhiều quá vì làm nhiều quá sức là dại. Thời kỳ đầu nhiều người tù vẫn tin là làm lao động nhiều để được cứu xét cho về sớm. Đã qua 3 năm tù rồi thì không còn mấy ai tin ở điều đó nữa. Nếu lao động quá sức là một cực hình, nhưng giữ được mức vừa phải, cũng có lợi cho việc duy trì sức khỏe chịu đựng lâu dài, không làm lao động cũng hủy hoại thể xác.


– Báo cáo cán bộ, tôi không trây lười lao động, từ ngày cán bộ làm quản giáo đội, cán bộ chưa hề chỉ trích tôi về kết quả lao động, còn chuyện xúi giục thì tôi nghĩ trong tù này không có ai xúi giục được ai cả, người tù nào cũng trưởng thành và họ có ý thức việc làm của họ.
Hắn có vẻ lúng túng vì câu trả lời đúng sự thực của tôi nên tôi càng tin vào sự suy luận của tôi là chúng đang tìm cách nhốt tôi để dằn mặt vì những sự kiện liên tiếp xảy ra trong trại tù, mà tôi thuộc thành phần bị nghi ngờ mà an ninh chưa có chứng cớ cụ thể. Công an làm việc có bài bản, muốn bắt giam kỷ luật phải có bằng cớ, nếu không có thì phải tạo ra cớ để bắt. Tù nằm trong tay muốn làm gì thì làm, không phải chúng e ngại gì, không nhốt khi chưa có cớ, không phải chúng sợ hay thương người tù, nhưng đó là công việc của chúng nó; mỗi sự việc chúng còn phải báo cáo với cấp trên để lập thành tích, phải tạo sự việc có bài bản, thì sự khám phá hay triệt hạ của chúng mới có công lao để tiến thân, cá nhân hay tập thể mới được tuyên dương thành tích. Trong khi tôi đang nghĩ ngợi, tên quản giáo lấy giấy viết ra, tôi trả lời cho hắn ghi xong phần lý lịch, ngày bị bắt, ngày vào trại xong, đến khi nghe bị ghép tội xúi giục chống đối lao động, tôi nói:


– Cán bộ muốn nhốt tôi là quyền của cán bộ, còn tôi không xúi giục ai cả, tôi không ký biên bản.
Hắn giận dữ:
– Anh nói cán bộ muốn nhốt ai thì nhốt là anh xuyên tạc chính sách của Đảng và nhà nước. Đảng chỉ muốn giáo dục các anh, không phải đảng muốn trừng trị, nếu đảng trừng trị thì các anh đều đáng tội chết. Chính sách các anh đã học rồi. Đảng không bắt lầm, không xử phạt oan, đã bị bắt là có tội với Đảng với nhân dân, anh hiểu chưa? Anh nói “không có hắn thì nghỉ” tức là không có tôi kiểm soát thì cả đội ngưng lao động có phải là xúi giục không?


– Tôi nói lúc nào, có ai nghe thấy, cán bộ không ở đó thì làm sao cán bộ biết được?
– Dĩ nhiên không có tôi anh mới dám nói. Các anh bỏ gỗ ở sau nhà cán bộ võ trang, anh nói, cán bộ võ trang trong phòng nghe thấy.
– Cán bộ võ trang ở trong phòng, nếu có ai nói, cán bộ nghe làm sao cán bộ biết tôi nói mà không phải người khác?
Đuối lý vì câu hỏi của tôi, hắn đứng dậy và nói:
– Tôi hỏi anh chứ không phải anh hỏi tôi, anh không ký biên bản thì theo tôi về phòng an ninh giải quyết.



Vừa đi tôi vừa đoán chắc đây là một vụ xếp đặt từ phòng an ninh để lấy cớ nhốt tôi mà tên cán bộ quản giáo thực hiện màn kịch dở, không đầu đuôi, không tìm được một bằng cớ gì buộc tội tôi cho dù đã làm việc với hầu hết những đội viên trong đội mong tìm được lời tố cáo. Tôi quyết định là cho dù bị nhốt bao lâu cũng không nhận bất cứ tội gì bị gán cho. Vào phòng an ninh, tội gặp Long, trưởng ban an ninh, tên cán bộ nổi tiếng ác, hắn có cặp mắt nhỏ ti hí và bộ răng vàng lúc nào cũng chìa ra hai môi tím ngắt trên khuôn mặt quắt queo, da tái vàng vì bệnh sốt rét.


Long chỉ tôi ngồi vào chiếc ghế vuông đặt trong góc phòng cách xa bàn giấy. Cách thức này để đàn áp tinh thần người bị hỏi. Dưới cặp mắt soi mói và khoảng không gian như vậy, con người sẽ cảm thấy nhỏ bé hơn và lúng túng hơn là được ngồi vào ghế trước mép bàn như thường lệ. Tôi cố trấn tĩnh để ngồi thật ngay ngắn và giữ thoải mái để không tỏ ra sợ và cũng không sai phạm gì để bị bắt bẻ. Công an thường buộc người bị hỏi ngồi thật ngay, hai chân buông thõng, hai tay đặt ngay ngắn trên hai đầu gối, chờ nghe từng câu hỏi. Nếu ngồi khác đi hoặc có cử chỉ bằng tay khi trả lời sẽ bị bắt bẻ, nhiều khi là cớ để bị đập bàn chửi bới.


Nhìn tôi từ đầu đến chân như kiểu con thú muốn vờn mồi làm cho con mồi sợ hãi trước khi vồ cắn, Long chậm rãi hỏi:
– Mày làm gì trong tổ chức của thằng Trần Danh San. Tụi mày chuyên xúi giục chống phá trong trại.
Biết hắn hỏi chuyện trong trại nhưng tôi đánh trống lảng:
– Báo cáo, tôi bị bắt trước anh San và không có liên hệ gì với tổ chức nhân quyền của anh San.
– Mày đừng giả vờ, tao muốn hỏi mày về những hành động của chúng mày chống đối trong trại.
– Báo cáo, tôi không hề phạm nội qui, tôi không chống đối, và không biết gì về hành động chống đối trong trại.


– Những chuyện sờ sờ ra từ Tết đến bây giờ mà mày bảo mày không biết.
– Báo cáo, những chuyện gì trong trại xảy ra mọi người đều thấy, tôi cũng như mọi người, tôi có thấy, còn do đâu và ai làm thì tôi không biết. Tôi không bao giờ muốn biết đến việc làm của người khác.
– Mày đã học nội qui chưa, cải tạo phải phát giác những âm mưu chống phá và thành thật khai báo.
– Báo cáo, tôi đã thành thật khai báo những gì về cá nhân tôi, còn chuyện của người khác, tôi chưa làm được, xin cán bộ thông cảm, tôi không có thói quen nhìn vào đời sống kẻ khác.


– Mày đã xúi giục đội nghỉ làm lúc không có cán bộ quản giáo mà mày vẫn chối là không xúi giục, mày hèn lắm, đã làm mà không dám nhận.
Ngay lúc đó tên trực trại Hoạt bước vào, hắn đặt lên bàn hai tượng Phật nhỏ. Tôi chợt thấy lạnh người. Trong khi tôi bị hỏi cung. Hoạt đã xét tư trang của tôi, hắn đã tìm ra hai tượng Phật bằng gỗ mà Nguyễn Đức Điệp đã khắc cho tôi. Tôi dự định khi nhà lên thăm nuôi sẽ gửi về cho hai đứa con làm quà, gởi về cho mấy đứa con một niềm tin vào Phật. Tôi đi tù lúc con tôi còn nhỏ, tôi không dạy dỗ gì được chúng.


Tôi sợ nền giáo dục của Cộng sản và xã hội Cộng sản sẽ làm cho con tôi trở thành những con người độc ác ti tiện, tôi muốn con tôi tin vào lòng từ bi, bác ái của giáo lý nhà Phật để chúng vẫn còn là một con người Việt Nam, không bị nhuộm đỏ. Với dụng cụ thô sơ làm bằng những chiếc đinh, Điệp đã khắc rất đẹp, rất sống. Mỗi ngày khi rảnh rỗi, tôi vẫn đưa hai tượng Phật ra để ngắm nét hiền lành từ bi của Phật để giúp củng cố thêm niềm tin. Tôi quí hai tượng gỗ đó vì giá trị tinh thần của nó và vì tình bạn quí mới có với Điệp và sự khâm phục của tôi dành cho sự can đảm của Điệp. Tôi đang suy nghĩ miên man, khi tên Long đang cầm hai pho tượng trong lòng bàn tay. Hắn ném mạnh hai pho tượng xuống đất rồi nhìn tôi cười gằn, hắn nói:


– Chúng mày cấu kết với nhau để chống đối, mày, thằng San kết với thằng Điệp. Thế là mày hết chối cãi nhé. Mày âm mưu gì với thằng Điệp?
Hắn vừa nói vừa bước ra khỏi bàn, tiến về phía chỗ tôi ngồi. Thấy hắn hỏi nhưng không chờ câu trả lời của tôi, tôi biết là hắn sắp đánh tôi nhưng tôi không biết cách gì đối phó chỉ ngồi chịu trận, cố nhìn về hai tượng Phật đang nằm dưới chân của tên Hoạt. Long lôi ngực áo tôi đứng dậy, hắn tát vào mặt tôi, tôi đỡ nhưng không được, sau đó, cả Long và Hoạt cùng đánh tôi.


 Tôi thu người để chịu đòn, tôi nhìn hai tượng Phật bị giẫm gãy, thấy uất hận và thấy mình hèn, tôi nhớ hôm Điệp bị đánh, anh đã ôm lấy tượng Chúa. Tôi nhoài người đến định chộp lấy hai tượng Phật. Nhưng Hoạt đã đá tôi thối lui trong khi Long dùng chân giẫm gãy nát tượng và đá ra ngoài khung cửa. Tôi đã thua kém Điệp. Tôi không bảo vệ được tượng – tôi hèn quá. Tôi chỉ cố gắng nuốt uất hận cùng với máu mồm máu mũi bị đánh giập ra.


Tôi gặp Thọ trong xà lim. Thọ nói cho tôi biết khi đưa tài liệu cho Định, bị bắt, anh đã nhanh tay bỏ vào miệng nhai, sau đó khai là tờ giấy viết bản Thu Vàng, từ đó anh không bị hỏi cung lại. Chúng tôi ước tính là chúng đã tin lời khai của Thọ và hy vọng là Thọ sắp được ra.


Bị nhốt kỷ luật thường có biên bản và quyết định thời hạn nhất định, mỗi lịnh phạt là hai tuần lễ, nếu gia hạn thì sau hạn hai tuần có quyết định khác. Theo thủ tục lịnh phạt được đọc trước sân tập họp vào mỗi buổi sáng trước khi xuất trại lao động. Trường hợp không có đọc lịnh phạt bị nhốt thời gian lâu dài, không biết thả ra lúc nào.
Kiểm điểm lại với Thọ thì hệ thống chuyển đường và thuốc tây cho anh em trong xà lim có làm việc tốt, tuy chuyển không đầy đủ những gì chúng tôi đã giao, nhưng việc làm đó của các anh đi đưa cơm cũng đáng được mang ơn .


Được làm nhà bếp và đi đưa cơm kỷ luật là đã được tín nhiệm của trực trại, ở trong tư thế đó mà các anh vẫn giúp đỡ nhận quà chuyển vào trong xà lim là một hành động đáng quí. Một cục đường, một viên thuốc hay chỉ một điếu thuốc lá được chuyển đến cho người nằm trong kỷ luật quí hơn bên ngoài cả trăm lần.


Khu kỷ luật trại Xuân Lộc có 4 nhà, mỗi nhà bên trong chia làm 4 phòng, mỗi phòng có 3 bệ gỗ để nằm. Người bị kỷ luật bị còng 1 hay 2 chân tùy mức độ nặng nhẹ, khi còng hai chân cũng tùy mức độ mà bị còng chéo hay còng thẳng, còng chéo cả hai chân là mức độ nặng nhất. Vòng sắt đánh thành hình chữ U bó sát vào ống chân có hai khoen ở cuối còng để xuyên một cây sắt từ ngoài tường, qua các trụ ciment xây cạnh mỗi bệ nằm, nên khi bị còng, chân của phạm nhân bị giơ cao hơn mặt bệ nằm gần hai tấc.


Cuối cùng đầu cây sắt xuyên qua tường ở bên trong và cái khóa giữ cây xuyên qua đó. Bên ngoài đầu cuối của thanh xuyên đánh vòng sắt tròn đường kính khoảng hai tấc. Ban đêm, cứ mỗi giờ đổi gác, những tên cán bộ võ trang điểm danh xà lim bằng cách đạp vào vòng tròn này. Người bị còng chân bị nghiến giữa vòng sắt chữ U và thanh sắt xuyên đau điếng phải hô đáp có. Nếu không, sẽ bị đá cái thứ hai. Do đó, cứ đêm tối, tù xà lim phải chờ điểm danh lắc còng. Một đôi khi có tên võ trang ác độc cầm vòng sắt lay nhiều lần, bên trong chân bị siết đau đến tận óc, chảy cả nước mắt, nước mũi. Thời gian đầu, chân còn mập bị còng siết, ai cũng một lần bị sưng ống chân thành mụn lở thành cái sẹo to tướng.


Từ ngày Hớn giở nóc xà lim trốn trại, trần nhà đã bị đổ mạt cưa che kín, nên ngay ban ngày ánh sáng lờ mờ chỉ lọt vào qua khe cửa và khe hở những tấm gỗ đóng chèn khung cửa sổ, cái khung hở bằng bàn tay nơi cửa sổ cũng đóng kín chỉ mở vào ban đêm, để cán bộ tuần tra thỉnh thoảng rọi đèn pin vào. Cái khung mở vào ban đêm đó rất tai hại vì đàn muỗi từ rừng bay vào, muỗi nhiều quá nên cứ bám khắp cả mặt mũi tay chân tha hồ đốt, đập cũng không hết. Ở xà lim, khổ nhất là ban đêm, vừa muỗi, vừa lạnh, vừa bị đá còng không thể nào ngủ được.


Tôi ở xà lim một tuần thì Thọ được thả ra. Thọ gởi vào cho tôi một cục đường. Hệ thống gởi quà vào xà lim chỉ có tôi và Thọ liên lạc được với người bạn đưa cơm. Trong tuần lễ ở chung, tôi đã dặn dò Thọ những điều cần thiết chuẩn bị khi được ra, thông báo cho những anh em thân thiết được biết mà an tâm, tôi chỉ bị nhốt vì chúng nghi ngờ, không có yếu tố chính xác. Thọ cho anh em bên ngoài biết để tiếp tục, tùy hoàn cảnh làm được cái gì thì làm. Hệ thống an ninh của trại rất kém, chúng không nắm được gì cụ thể. Chúng chỉ biết được hoạt động trong tù một cách lờ mờ qua báo cáo của an ten tức là những người tù hèn hạ làm tay sai.


Sống lâu với nhau, những tên tay sai cũng bị anh em nhận diện xa lánh nên cũng không lượm được tin tức. Do đó, an ninh còn có cách khác là làm bài toán trừ. Chúng nghi ngờ ai hay thành phần nào thì cứ đổi đội, đổi phân trại, khi cá nhân hay số người bị tình nghi được đổi đi, nếu đội và trại yên tĩnh thì bao nhiêu tội lỗi đổ lên đầu những người bị tình nghi đó. Phương pháp làm việc đó tắc trách nhưng cũng hữu hiệu, vì tù cũng còn e sợ, thiếu tổ chức lãnh đạo nên khi có người bị bắt là hầu hết những người khác đều thu lại sợ sệt, lắng tạm yên nên bao nhiêu tội lỗi, nghi vấn đều đổ lên những người bị bắt nhốt kỷ luật, dĩ nhiên nhiều khi cũng nhốt đúng người, nhưng trong đó cũng có người bị tình nghi oan. Số an ten làm việc, không sưu tầm tin tức báo cáo chính xác mà cũng chỉ dựa trên tình cảm thương ghét, giận hờn, thù oán mà báo cáo, vừa lập công vừa trả thù hay mượn tay cán bộ để triệt hạ nhau.


Chúng tôi luôn luôn cố gắng duy trì đối kháng liên tục một phần cũng để cho an ninh không kết luận chính xác ai là người hướng dẫn tổ chức đối kháng, làm cho những lần bộc phát đối kháng trở thành những hành động của đám đông, tự phát.


Năm 1979, tiêu chuẩn ăn có lúc đã bị độn đến 90%, mỗi tuần chỉ có hai bữa cơm còn thì ăn ngô, bo bo và khoai mì khô. Trong các thứ độn, ngô được xem là quí nhất, bo bo ăn vào không tiêu, ăn vào thế nào là bài tiết ra nguyên cả hột như thế đó. Về sau, tù mới sáng kiến ra phần ăn trước dành lại nghiền dập rồi bỏ vào cái lon nhôm đựng sữa Guigoz ra bãi gửi nấu lại. Khoai mì khô thì rất thê thảm, vừa nặng vừa mục, nên tiêu chuẩn ăn còn lại rất ít. Cái lon nhôm hiệu sữa bột Guigoz được gọi vắn tắt là cái Gô, là bạn đồng hành thân thiết của tù, người tù nào cũng kè kè bên mình một cái, vừa đựng nước uống ra bãi, vừa dùng để nấu canh tại bãi lao động. Những loại rau cỏ dại ăn được tìm thấy ngay hiện trường, lén nhổ cho vào gô rồi nhờ nhà bếp nấu.


Nấu chín xong để bụi cát lắng xuống phần dưới, ăn phần rau cũng đỡ cái bao tử rỗng một lúc. Hôm nào bắt được con cóc, con nhái thì “canh có người lái”, tù gọi là Protéin; con gì cũng quí vì có chất thịt, chất protéin bổ dưỡng; tù có câu: “con gì nhúc nhích là ăn được”, “rau gì không chết thì ăn”, rau cỏ không có tên, ăn được là may mắn, nếu cần đặt cho một cái tên trước rồi ăn sau, do đó cây cỏ ngoài những loại rau dại thông thường như dền, sam, tàu bay, cải trời, chua lẻ, trong tù còn có rau bột ngọt, rau cà ri, và củ gì ăn được nếu chưa có cái tên đều gọi là sâm, sâm đại hành, sâm nam, sâm gòn, sâm tím v.v…


Nằm xà lim lắng nghe tiếng kẻng để biết thì giờ, từ sáng đến tối đi ngủ 13 lần tiếng kẻng; biết lúc anh em thức dậy, tập họp, xuất trại, lao động, giải lao, vào lao, thu dụng cụ… Sinh hoạt buổi tối, đi ngủ. Tiêu chuẩn kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, 9 kg mỗi tháng, mỗi ngày chia hai bữa hai chén nhỏ xíu. Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai cái lưỡi đã đưa cơm vào cổ. Đến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm, khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng cho con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một lần, vì đại, tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó.


Hôm nào ăn ngô là tốt nhất, bốc từng hạt ngô vừa nhai vừa đếm, mỗi hạt ngô nhai thành 50 hay 100 lần thật kỹ, nhai kỹ hơn cả kiểu ăn Ozawa gạo lức muối mè. Nhai nhiều lần không nuốt thì hạt ngô cũng biến vào cổ lúc nào không hay. Lại tiếp tục nhai đến hạt khác. Thường thường mỗi bữa ăn từ hơn 250 đến 260 hạt, lần nhiều nhất được 267 hạt và có lần ít chỉ được 187 hạt. Nhận được của Thọ một lần đường thì người đưa cơm bị thay thế.


Người đưa cơm mới bây giờ tôi nhìn mặt quen, mãi mấy ngày mới nhớ nhận ra anh là Cải, trung úy cảnh sát, trước làm tùy phái cho văn phòng đại tá Huỳnh Ngọc Diệp, Đổng Lý Văn Phòng Bộ Nội Vụ. Tôi nhớ mãi anh này vì trong đời tù ít gặp ai được như Cải, con người thật độc ác và phục vụ cho quan thầy thật đắc lực. Tiêu chuẩn nước cho xà lim mỗi ngày một ca bị Cải rút xuống còn hơn 1/2 ca, tôi nhớ rất rõ lời nói của anh với tên trực trại Hoạt: “Xin cán bộ bớt nước tụi nó xuống, cho nhiều tụi nó uống đái ra nhiều quá không đổ cầu kịp”. Một ca nước để dùng đủ thứ cho một ngày mà anh Cải gọi là nhiều, còn đề nghị bớt xuống.


Chế độ tù đã khắc nghiệt, bọn cai tù đã độc ác mà không nghĩ cách rút bớt nước, mà anh Cải cũng là một người tù nỡ đề nghị bớt nước. Còn 1/2 ca nước cho mỗi ngày thì chỉ còn để uống, không còn khoản rửa hai con mắt kèm nhèm vào buổi sáng và rửa hậu môn khi đi đại tiện. Tốt nhất là bất cứ hoàn cảnh nào cũng chấp nhận và biến nó thành hữu ích để mà sống, vì sự sống và cái chết đối với những người tù bị cùm trong xà lim lâu ngày nó gần gũi nhau, chỉ cách nhau là cái hơi thở, tắt hơi thở là chết, còn thân xác khi đã ở xà lim trên ba tháng rồi còn gì nữa ngoài bộ xương bọc da. Nằm nắn bóp thân thể hằng này, sờ rõ những khoản lồi lõm trên đầu, trên mặt, ở cổ tay, cổ chăn, khuỷu tay, đầu gối, chỗ nào cũng lòi ra, hai cái mông đã teo hết thịt, xương mông lồi ra chạm vào bệ nằm đau điếng khi chuyển trở mình.


Mỗi ngày tôi vẫn cố đứng vài lần để tập thể dục, để phụ cùng cách xoa bóp để hy vọng cho hai chân khỏi bị tê liệt, để ngồi ngay ngắn điều tức hơi thở để cái phổi cho chắc chắn ngăn chận sự gậm nhấm của vi trùng lao, và để xoa bóp hai bên thận để cho thận được khỏe. Đó là những kinh nghiệm mà anh em tù đã dạy cho tôi từ khi mới vào nằm xà lim, mỗi người dạy thêm cho một kinh nghiệm, xoa bóp là một phương pháp chữa bệnh và đề phòng bệnh rất tốt. Ở trong tù bị kỷ luật cùm trong xà lim lâu ngày thường bị các chứng rụng răng, mù mắt, ho lao, bại liệt cả hai chân, suy gan, bao tử và suy thận; nói chung là bị suy tất cả bộ phận trong cơ thể nếu không bị kiệt sức đến chết.


Bộ áo quần mỏng manh trên người không đủ chống trả cái lạnh tấn công từ trong ra ngoài và từ mọi phía, trước hết từ cái bao tử trống rỗng lúc nào cũng nôn nao và nóng: có đói và lạnh mới hiểu được thế nào là “lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da”. Đói quá, nằm không được. Khi nằm bao tử trải rộng nó càng cồn cào, càng nóng. Từ đói đến lạnh từ trong tủy sống lạnh ra, lúc nào cũng cố kềm để khỏi run lên vì run lên rồi hai hàm lại chạm nhau cầm cập rồi cả người lên cơn rét run muốn dừng lại không được. Chỉ muốn xỉu. Lạnh phát ra từ cái bệ nằm càng về đêm cái bệ càng tiết ra hơi lạnh. Ban đêm chỉ có ngồi lên mới chịu đựng nổi.


Thành ra ở xà lim phải cố gắng tập giấc ngủ ban ngày. Còn ban đêm phải thức đối phó với lạnh, với đàn muỗi rừng đói máu, bám vào đốt khắp cả mặt mũi tay chân ngứa ngáy khó chịu. Muỗi rừng rất độc, vết ngứa cào xước thành ghẻ có mủ. Trong đêm tối thanh vắng tiếng muỗi vo ve bên tai nghe rất rõ, hòa với tiếng dế ri rỉ, nỉ non làm thành bản nhạc đêm buồn vời vợi. Bên ngoài thỉnh thoảng tiếng mang tác đâu đó, con chim heo đi ăn đêm bay qua kêu ùng ục, trong tiếng gió xua những tàn cây rừng ào ào. Người ngồi lắng nghe tưởng như thấy được những tàng cây lao xao ngã rạp về một phía, đứng dựng lên rồi ngả sang phía khác. Bóng đêm dày đặc như trùm hết cả trong phòng xà lim, chỉ có tưởng tượng, dùng sức tưởng tượng để cho đầu óc làm việc, để cho có ánh sáng lóe lên trong óc, để đầu óc khỏi mù lòa vì đôi mắt không còn nhìn thấy gì trong bóng đêm dày đặc.


Lê Phước Thọ dặn dò tôi cách thức dùng hai bàn tay che cái mặt, đôi cánh tay che thân thể và khom xuống mỗi khi bị tên Hoạt trực trại vào đánh. Hoạt là tên trực trại rất ác, cứ mỗi buổi chiều đi uống rượu về mặt mày đỏ gay là vào mở xà lim ra đánh người bị giam kỷ luật. Có khi hắn còn dẫn thêm vệ binh nữa để hai tên cùng đánh. Thọ bảo tôi phải cắn răng chịu, đừng phản ứng đỡ, gạt, vì càng đỡ gạt chúng càng đánh nhiều hơn. Ở xà lim bị đánh cũng không la được, la không có ai nghe thấy, anh em tập thể ở xa quá, giờ vào phòng rồi ai nấy đều bận rộn với những chuyện lỉnh kỉnh, không ai còn quan tâm đến những người bị cùm cách biệt trong các xà lim kín ở góc cuối trại. Các bạn nằm xà lim bên cạnh có nghe bạn bị đánh cũng không ai làm gì được. Chỉ có chịu đựng.

Cách duy nhất mà người tù phải làm là chịu đựng. Lần đầu tôi vừa bị đánh vừa bị chửi là ngoan cố, sách động. Tôi cố gắng chịu những cái thoi, cái đánh cái tát vào người cố không để trúng mặt và ngực. Lúc đó mới thấy rõ được sự hèn hạ của những cán bộ Cộng sản. Những người tuổi trẻ nhưng trong lòng đầy thù hận, sự thù hận mà Đảng và Bác của họ dạy cho họ, hận thù những người họ không quen biết, vì thù giai cấp. Người miền Nam đối với họ là kẻ thù, nên khi họ đánh, tất cả những hận thù họ học được đều phát ra bằng sức mạnh ở cánh tay họ một cách không thương tiếc, không ngượng ngùng. Chỉ có nền giáo dục hận thù của Cộng sản mới tạo nên con người đê tiện. Những người thanh niên sung sướng hả hê khi đánh đập một người bị còng hai chân không còn khả năng và quyền tự vệ.


Tôi cảm thấy thật nhục nhã khi phải cong người lại để cho những cái thoi cái đấm nó vào lưng mà không vào ngực. Sau những lần bị đánh thấy hận thù chồng chất, có lúc ước ao có quyền lực thì đem thằng Hoạt ra lột da đầu mới hả giận.
Nhưng nhiều lần bị đánh rồi cũng thấy quen, thấy không cần phải cong người để né, tôi cứ thẳng người cho hắn đánh và cố gắng mở to đôi mắt nhìn thẳng vào hắn. Nhìn khuôn mặt đỏ gay, đôi môi mỏng dính và con mắt nẩy lửa của hắn tôi bỗng thấy mình lớn hơn, và thương hại cho hắn.


Quả tình hắn là nạn nhân của một đường lối giáo dục, hắn đánh tôi là thực hành những điều người ta dạy cho hắn. Giữa tôi và hắn không có hận thù cá nhân. Tôi thật thương cho người tuổi trẻ này; tôi thầm nghĩ tha thứ cho hắn. Hắn chỉ là nạn nhân của một chính sách biến người thành thú mà thôi.


Tôi vẫn không chịu ký biên bản kết tội xúi giục chống lao động, nên tiếp tục bị giam không được hỏi han đến. Bị giam trong xà lim như trong đáy tầng địa ngục. Nằm nghe tiếng kẻng lao động, tiếng người nói chuyện xôn xao bên ngoài, thấy đi lao động cũng còn sướng, đôi lúc thèm được đi lao động cho thoải mái hơn. Chợt thấy như vậy là sự thỏa hiệp mau chóng với hoàn cảnh, con người nhiều khi chỉ muốn được cái thật gần, ở tù muốn được ra ngoài, ở trong xà lim thấy ở ngoài lao động sướng hơn, muốn được lao động mà không nghĩ thêm nữa. Tôi chống lại sự ước muốn thật gần đó của tôi, tôi không ký biên bản.


Vả lại tôi vẫn giữ lấy sự suy đoán về cách làm việc của công an, rằng nếu tôi ký biên bản là giúp cho bọn an ninh hoàn tất một vụ án, hoàn thành một công lao của chúng để báo cáo thành tích, để thăng cấp. Tôi phải chịu đựng. Không dễ gì tự hại mình để giúp bọn đê tiện có cơ hội thành công. Không ký biên bản thỉnh thoảng được kêu đi “làm việc”. Một buổi xả còng đi lên để được hỏi cung, trả lời dấm dớ ba câu, nghe những lời “giáo dục” ngọt ngào về chính sách khoan hồng nhân đạo, hoặc là nhìn thấy bộ mặt giận dữ đập bàn chửi mắng, để rồi có thể được uống một ly nước trà hay được hút một điếu thuốc lá. Đó cũng là cách giải trí của chúng tôi, những người tù bị giam nhiều lần ở xà lim.


Không phải lúc nào mình cùng nghĩ đúng, không phải lúc nào sự suy tính cũng trôi chảy. Tôi bị thêm một hình phạt, cúp phần muối trong bữa ăn. Bữa ăn của tù thường xuyên là cơm hoặc ngô, bo bo, khoai mì với muối, ăn muối mãi ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác nên thấy muối muốn sợ, cảm tưởng chát ở miệng và khô đắng ở cuống cổ. Chỉ có khi bị cúp muối, phải ăn nhạt mới thấy khó nuốt, bữa nào ăn ngô còn đỡ vì ngô nhai nhuyễn có vị ngọt, ăn khoai mì lát không có muối thì khổ hơn. Nằm mãi xà lim, kiểm lại thân thể và những nhu cầu đòi hỏi, tôi tưởng mỡ với đường là quan trọng; nhưng khi thèm muối mới thấy muối còn quan trọng hơn cả đường mỡ.


Không có muối con người cứ mỏi mệt dần dần, mỏi từ thớ thịt đến từng khớp xương. Tôi vẫn cố gắng nhiều hơn để mỗi ngày xoa bóp từng bộ phận cơ thể, nhờ hai bàn tay hoạt động để làm cho các phần cơ thể khác được hoạt động đều, nhưng rồi cả cánh tay và bàn tay cũng mỏi nhừ ra không muốn làm việc vì thiếu muối. Mỗi ngày chân bị cùm tôi vẫn cố gắng ngồi tư thế thẳng mình để điều tức hơi thở và tập các thế Yoga, tập Yoga mỗi sáng thức dậy trở thành thói quen, nên hôm nào mệt mỏi hay ở nơi lạ không tiện tập là thấy khó chịu. Ở xà lim có thì giờ tôi tập thật đều và tập cả trước giờ ngủ, trước khi ngồi tĩnh tâm.


Nhưng từ ngày thiếu muối có nhiều hôm tôi đã đầu hàng, trí óc bảo ngồi dậy mà thân thể mỏi nhừ không muốn ngồi lên. Tôi phải cố gắng và trách móc bản thân của tôi. Tôi biết đó là thử thách của tôi trước sự sống và sự chết. Nếu tôi còn gắng gượng duy trì được sự tập và xoa bóp, điều hơi thở mỗi ngày, tôi có thể kéo dài sự sống, nếu tôi đầu hàng nằm bẹp dí xuống, chắc chắn tôi sẽ mau chết hơn. Tôi phải sống thật đàng hoàng trong tù, để cho đến ngày về với một thân thể khỏe mạnh, một tinh thần vững chắc và một tâm hồn trong sáng, đó là mục tiêu của tôi phải phấn đấu với chính tôi. Ngày 2-9 là một lễ lớn, tù được nghỉ lao động, nằm nghe tiếng anh em nói chuyện ngoài sân râm ran và tiếng loa phóng thanh trên hội trường chuẩn bị làm lễ. Lễ lạt quan trọng gì không cần biết, đối với tù quan trọng là được nghỉ lao động và được ăn no.


Ăn một bữa cơm trắng có thịt và nghỉ lao động một ngày, bù lại phải ngồi nghe tên trưởng trại lải nhải về chính sách nhân đạo, về sự giàu có tiền rừng bạc biển của đất nước. Nói dở, nói dai, nói dài, nói dóc là nghề của Cộng sản. Cán bộ Cộng sản cứ nói, tù cứ nghe, nhưng nghe tai này ra tai kia, không có gì để lại trong óc thì không còn bực tức nữa. Kể từ sau khi chiếm miền Nam, cán bộ Cộng sản chỉ kể lại toàn chuyện láu cá vặt và họ hãnh diện vì những chuyện đó.


Họ kể chuyện tại hội nghị Paris mỗi lần Lê Đức Thọ gặp Kissinger, Thọ luôn bước lên trên một bậc cấp mới chìa tay ra bắt để tỏ ra mình ở vị trí cao hơn, họ kể chuyện phái đoàn nông nghiệp Hà Nội đi thăm Nhật Bản, được Nhật Bản dẫn đi thăm cánh đồng lúa năng suất cao. Trưởng phái đoàn Việt Cộng giả bộ lỡ chân bước xuống ruộng để cho giày vấy bùn, đem bùn về Hà Nội nghiên cứu phẩm chất phân bón của Nhật… nhiều nữa, toàn chuyện mánh mung, toàn chuyện khôn vặt, láu cá. Tạo niềm kiêu hãnh, tạo niềm tin vào lãnh đạo. Dân miền Bắc bị dồn trong bóng tối, kiến thức hẹp hòi, tác phong làng xã mới còn có thể hãnh diện vì những hành động vừa mặc cảm vừa nhà quê đó. Dân miền Nam trình độ nhận thức cao, không ai tin những điều cán bộ Cộng sản nói ra.


Viện dẫn sử học để ngụy chứng vai trò lịch sử yêu nước giải phóng dân tộc, để che dấu con đường đưa đất nước vào vòng nô lệ cho khối đệ tam quốc tế. Người Cộng sản đã thúc đẩy niềm tự hào quá đáng của người Việt Nam về đất nước anh hùng với tài nguyên tiền rừng bạc bể, cái nôi văn minh của nhân loại và đỉnh cao của trí tuệ loài người.


Dân tộc Việt Nam có rất nhiều điểm đáng tự hào, đáng cho con cháu hãnh diện, ra sức bảo vệ và xây dựng đất nước.
Niềm tự hào là sức sống mãnh liệt của dân tộc, là sự tồn tại của dân Việt trong lịch sử chống lại âm mưu thôn tính và đồng hóa của Hán tộc phương Bắc. Lịch sử Việt Nam ghi lại bao nhiêu chiến công hiển hách của tiền nhân trong cuộc chiến đấu tự vệ, bẻ gãy tất cả các cuộc tấn công của Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Thanh, đánh đuổi bao lần chính quyền thuộc địa để tồn tại, trong khi có rất nhiều dân tộc bị người Hán đồng hóa thành một nước Trung Hoa to lớn ngày nay.


Sau khi thắng những cuộc chiến tự vệ, tổ tiên ta đã áp dụng chính sách ngoại giao khôn khéo, nêu cao tính hiếu hòa và nhân bản của người Việt Nam. Chiến thắng nhưng không kiêu căng, cầu hòa và xưng thần với nước lớn Trung Quốc, triều cống để giữ độc lập. Học đạo Khổng, du nhập định chế chính trị và ảnh hưởng văn hóa của Trung Quốc nhưng xây dựng một lối sống riêng.


Trong khi xã hội Trung Hoa là một xã hội phong kiến gia tộc, thì Việt Nam xây dựng một xã hội tương đối dân chủ trên nền tảng gia đình và xã thôn. Trong đó con người bình đẳng và không có giai cấp.
Từ thế kỷ thứ 10 nhà Lý đã ban hành đạo luật bãi bỏ chế độ nô lệ, đó là đạo luật giải phóng con người sớm nhất thế giới. Trong khi ở Trung Quốc chế độ nô lệ vẫn duy trì cho đến khi có cách mạng vô sản. Sự phân biệt đối xử sắc dân vẫn còn tồn tại trên thế giới văn minh ngày nay. Mỗi dân tộc đều có những niềm tin và tự hào riêng về dân tộc mình, nhưng không nên tự hào một cách quá đáng. Đất nước Việt Nam tươi đẹp, có đủ tài nguyên nếu được khai thác đúng mức và quản lý đúng đắn có thể nuôi sống một dân số trung bình đủ sung túc, nhưng không phải tài nguyên của nước ta vô hạn.


So với những nước được thiên nhiên ưu đãi, Việt Nam chúng ta thua kém hơn nhiều. Chúng ta lại chưa thăm dò, thống kê để chắc chắn được đất nước chúng ta có được những nguồn tài nguyên cụ thể như thế nào để lập kế hoạch khả thi xây dựng đất nước. Trên một kiến thức phổ thông về địa lý kinh tế, chúng ta biết là nước ta có đồng bằng lưu vực sông Hồng Hà và đồng bằng sông Cửu Long có thể đủ nuôi sống dân chúng, và nếu phát triển đúng mức kỹ thuật nông nghiệp hiện đại, gạo có thể dư dùng xuất cảng, chúng ta có những cánh rừng chưa khai thác, và một bờ biển dài hơn 2200 km có thể phát triển ngư nghiệp và hy vọng thềm lục địa có dầu lửa; miền Trung và thượng du Bắc Việt, cũng như dọc dãy Trường Sơn miền Trung hy vọng có mỏ khoáng sản nhưng chỉ mới tìm và khai thác được những mỏ trữ lượng ít và phẩm chất kém. Đó là những điều mà hầu hết đa số người Việt đã biết và có thể chỉ có như vậy.


 Trong khi dân số Việt Nam đã cao, với diện tích hơn 300 ngàn kílô mét vuông, chúng ta có hơn 70 triệu dân, mật độ dân số đã cao hơn Trung Hoa là nước đông dân nhất thế giới. Trong khi đó các hệ thống hạ tầng cơ sở về kinh tế chưa có, hệ thống giao thông còn nhiều trở ngại, trình độ kỹ thuật không cao và tích lũy tư bản không có. Trong những điều kiện như vậy bất cứ ai cũng thấy nhiều khó khăn để lập kế hoạch phát triển kinh tế, nếu chỉ nhằm mục đích đem lại đủ cơm no áo ấm, chưa nói đến hoài bão phát triển kỹ nghệ.


Chính quyền Cộng sản không nhìn vào thực tế những khó khăn đó, ngược lại họ chỉ tiếp tục đánh lừa dân chúng bằng những khẩu hiệu rỗng tuếch, về chính trị họ cho là Việt Nam là một “cường quốc chính trị”, về quân sự thì tự hào là đã đánh thắng liên tiếp các đế quốc Pháp, Nhật, Mỹ và bành trướng Trung Quốc, về kinh tế thì nước Việt Nam tiền rừng bạc bể. Toàn là những điều giả dối, muốn tiếp tục ru ngủ dân chúng và cán bộ binh sĩ của họp trong tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc để tiếp tục kêu gọi dân chúng hy sinh và chịu đựng đói khổ, để dân chúng không nhìn thấy sự bất lực của họ.



Nhưng những khẩu hiệu rỗng tuếch để tuyên truyền, lòng tự hào quá đáng về dân tộc và “đảng quang vinh” sau ngày 30-4-1975 chỉ còn một số ít người tin hay là chỉ tin vì nhiệm vụ và quyền lợi, đó là một số trong những đảng viên của họ, còn dân chúng miền Nam trình độ hiểu biết đã cao, nhờ nhiều năm được tự do tìm hiểu qua hệ thống truyền thông phổ quát nhanh chóng của thế giới và dân chúng miền Bắc đã bừng tỉnh sau ngày giao lưu với miền Nam.



Một lầm lẫn to lớn của những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam, là họ đánh giá tình trạng dân chúng quá thấp, họ tưởng là họ vẫn còn bịt mắt được toàn dân, nên tiếp tục tuyên truyền dối trá và dùng xảo thuật để cai trị, họ không lường được sự tiến bộ của người dân Việt Nam về trình độ nhận thức đã tiến quá xa trong 30 năm chinh chiến, nhận thức của người dân đã bỏ xa những lãnh tụ lạc hậu. Không còn thời kỳ bịp bợm được nữa – Bất cứ người làm chính trị nào không nhất thiết là những lãnh tụ Cộng sản hiện tại, nếu tiếp tục dùng xảo thuật đánh lừa dân chúng sẽ bị đào thải.


Ngày nay người dân Việt Nam đại đa số đã hiểu là họ không thể tìm ra một nhà lãnh đạo thần thánh, một đấng minh quân khác thường từ cách sinh ra cho đến cách sống hàng ngày, có tài năng siêu quần, xuất quỷ nhập thần.


Đại đa số người dân đã hiểu người lãnh đạo chính trị cũng chỉ là một người bình thường có lòng yêu nước, thương người, biết xúc động vì cái khổ của người dân, và biết dung hòa quyền lợi của mình cho quyền lợi chung, một người có trình độ hiểu biết, khả năng phối hợp công tác và giải quyết công việc, biết kết hợp được đội ngũ trí thức đông đảo để duyệt lại các ưu khuyết điểm của một dân tộc đã bị điêu linh sau gần một trăm năm lệ thuộc và gần nửa thế kỷ bị tàn phá vì chiến tranh và tàn phá vì lý thuyết ngoại lai, duyệt lại những tiềm năng của đất nước một cách thực tế và tương đối chính xác để lập kế hoạch cụ thể đưa đất nước tiến dần từng bước từ nghèo đói đến tiến bộ.


Người lãnh đạo biết sử dụng lòng yêu nước chân thật động viên toàn dân, để mọi người trên dưới cùng hiểu thế đứng và vị trí của dân tộc trong cộng đồng thế giới hiện tại. Không cần phải kích động lòng yêu nước cực đoan, sự tự hào quá đáng, không tưởng về tiềm năng đất nước, người dân Việt Nam xứng đáng tồn tại, chúng ta không phải là cái nôi của văn minh nhân loại, cũng không phải là nơi phát xuất các trào lưu tư tưởng của loài người. Chúng ta trải qua một môi trường thử thách, dân tộc Việt Nam đã chịu đựng và tồn tại trong môi trường thử thách của sự xung đột của các dòng lịch sử và các trào lưu tư tưởng và văn hóa Việt Nam được hình thành trong tinh thần hội nhập.


 Trong hơn 30 năm làm chiến trường cho cuộc chiến ý thức hệ giữa Cộng sản và Tư bản, từ đó từ bỏ những sự thái quá của mình và Cộng sản cũng sẽ tàn rụi. Cộng sản thường dùng thuật ngữ “thời kỳ sau Việt Nam” để nói lên sự chiến thắng của họ và Breznev đã kiêu căng thách đố “ai thắng ai”, nhưng họ không ngờ là tư tưởng Cộng sản không thể phát triển được ở miền Nam Việt Nam dù họ đã chiến thắng về quân sự, nên thời kỳ sau Việt Nam phải hiểu là thời kỳ suy thoái của Cộng sản.



 Không một người chính trị gia Việt Nam nào làm được chuyện đó, không một lực lượng chính trị hay tôn giáo nào làm chuyện đó, nhưng toàn dân Việt Nam đã làm, sức sống và sự sống Việt Nam, văn hóa Việt Nam đã làm nên chuyện đó, một cách tự nhiên. Bạo lực, tà thuyết rồi sẽ đi qua và Việt Nam vẫn tồn tại, đó là niềm tin của mọi người dân Việt Nam. Sức sống tiềm tàng và mãnh liệt đó đã giải thích được sự tồn tại của dân tộc Việt Nam sau 1000 năm lệ thuộc Trung Hoa, thì ngày nay sự tồn tại của dân tộc Việt Nam sau sự xâm lăng của Cộng sản quốc tế là điều tin tưởng được.



Ngày lễ Quốc Khánh được hai em Tiều và Tài ở hai xà lim gần tôi nhắc từ mấy ngày trước. Tiều và Tài trong nhóm 18 người ở đội 4 đánh cán bộ cướp súng đào thoát cuối năm ngoái, họ lần lượt bị bắt trở lại hoặc bị bắn chết trên đường đào thoát. Hùng và Tí đã bị cắt gân chân, di chuyển về Chí Hòa để truy tố tội chủ mưu. Châu Pâu đã được ra khỏi xà lim tháng trước vì bị liệt cả hai chân sau thời gian bị cùm.


Tiều mới bị bắt cách đây 4 tháng, là người bị bắt cuối cùng. Bốn tháng bị giam không có được một chút chất béo. Tiều thèm thịt, nên suốt ngày chỉ gọi Tài để hỏi về bữa ăn lễ 30-4, bữa cơm có thịt. Tài đã xác nhận là lễ ăn cơm trắng với thịt. Tiều vẫn cứ hỏi mãi, để cho chắc chắn, củng cố sự hy vọng của em. Suốt ngày nằm một mình trong xà lim buồn không có gì để nói, không biết suy nghĩ gì, nên trí óc cứ bị quanh quẩn trong sự thèm muốn của một thể xác ốm đói từ lâu.


Nhắc tới thịt tôi cũng rỏ nước miếng, nuốt liền mấy lần nước miếng vẫn ứa ra đầy mồm. Tôi đang thèm mọi thứ, đã 38 ngày ăn lạt, không có tí muối, người đã rã rượi, mỏi nhừ, chỉ cần một muỗng nước muối đã là hạnh phúc lắm đừng nói đến đường hay một miếng thịt, nhất là miếng mỡ heo.



Cố xua đi sự thèm muốn và ý nghĩ về những món ăn đó vẫn không xua đi được, quanh quẩn lại vẫn cứ nghĩ đến và mong đợi giờ cơm, bên kia thì Tiều nó cứ nhắc cứ hỏi mãi, tôi có muốn quên cũng không quên nổi. Muốn ngồi lên để tập trung tư tưởng, ngồi lên một lúc thì đầu óc loạn, khắp người mỏi rã rời tôi phải nằm xuống. Tôi không biết tình trạng này tôi có thể chịu được bao lâu nữa, nếu kéo dài thêm thời gian nữa không biết ra sao, tôi chết? Tôi liệt? Tôi mù? không biết việc gì sẽ xảy đến; không biết bao giờ mới chấm dứt hình phạt ăn không có muối, thả ra thì không hy vọng, nếu thả tù đã thả trước ngày lễ. Tôi chỉ còn mong hai bữa ăn ngày lễ này, cơm nhiều một tí, có phần thịt buổi trưa và phần nước mắm pha mỡ vào buổi chiều.


Bị cùm giam xà lim phải dùng mọi nghị lực để chịu đựng, nếu không chịu đựng thì kiệt lực mà chết. Chịu đựng cho đến ngày được thả ra sẽ hồi phục, sẽ được anh em giúp đỡ bồi dưỡng trước khi được gia đình tiếp tế thăm nuôi trở lại. Chết và Sống đối với người tù kỷ luật tính hàng ngày, hàng giờ. Một món thức ăn vô cùng quan trọng, có thể kéo dài thêm sự sống một thời gian ngắn, không chừng trong thời gian đó lại được thả ra, lúc đó thì lại sống trở lại, giá trị miếng thịt, cục đường nó ngang với sự sống trong hoàn cảnh này.



Cuộc đấu bóng chuyền đã kết thúc, tôi biết rất rõ vì nghe tiếng dội của bóng rơi, cũng may là thân thể rũ liệt nhưng trí óc vẫn còn sáng. Anh em chắc đã về nhà chuẩn bị bữa cơm trưa. Xà lim chúng tôi sắp được phát cơm. Tiếng chân bước của anh Cải tôi nghe rất rõ. Anh Cải đến ngồi trước cửa xà lim tôi, qua khe hở cánh cửa tôi nhìn thấy Cải có vẻ sốt ruột mong mở cửa để làm xong công tác. Những ngày lễ có ăn uống, những tên trực trại hay mở xà lim trễ, có khi chúng mải ăn nhậu quên mở cửa, làm mất cả bữa ăn của tù bị giam trong xà lim.


Một bữa cơm có thịt vào ngày lễ đối với người tù nào cũng quan trọng. Cứ mãi lẩn quẩn nghĩ đến miếng thịt vừa béo, vừa mặn, vừa ngọt, đủ thứ mùi vị, dù chỉ là thịt heo kho với muối, tôi nuốt nước miếng ừng ực, đầu óc không kềm chế được cái bao tử cồn cào réo gọi các hạch nước miếng. Đã lâu quá không được chất béo, chất ngọt, chất mặn, các tế bào cứ muốn nổi loạn. Phần cơm thịt đã ở trước mắt chỉ chờ mở cửa.


Cải đã ngồi hàng giờ trước cửa, nhiều lần anh đi ra đi vào nôn nóng; anh không biết trong xà lim chúng tôi cũng nôn nóng không ít, từ lúc có người bên ngoài Tiều không dám gọi nên khu xà lim vắng ngắt, và toàn trại cũng thật vắng, mọi người đã ăn xong đi nghỉ trưa.
Tiếng trực trại đi vào, tôi thở dài thoải mái vì sự chờ đợi đã đến, khi phần cơm được anh Cải đưa vào, tôi tưởng mình hoa mắt, cố trấn tĩnh để nhìn lại, trên ca cơm còn cái vết màu nâu cơm dính thịt kho, phần thịt không còn nữa. Ngồi chờ đợi mở của anh Cải đã ăn hết phần thịt tiêu chuẩn lễ của tôi.


Khi các xà lim được phát đủ và tiếng chân của người đưa cơm đã ra ngoài xa, thì tiếng Tiều lại vọng lên, em hỏi Tài có thịt hay không. Tài đáp không có, em hỏi qua tôi, tôi cũng đáp không có, tôi nói với Tiều có lẽ nhà bếp làm không kịp, khuyên Tiều nên chờ buổi chiều. Tôi ngồi ăn thật chậm, bữa ăn đã bị Cải ăn mất phần thịt nhưng đối với tôi lúc đó cũng ngon như một đại tiệc, một phần cơm đầy hơn nửa ca, gấp ba tiêu chuẩn ngày thường, có nước mắm mặn và có mùi mỡ phảng phất. Cái mũi tôi phân biệt có mùi mắm và mùi hơi mỡ và cái lưỡi của tôi giúp tôi thưởng thức trọn vẹn cái ngon của nước mắm và hơi mỡ thơm béo lờ mờ trên đầu lưỡi. Kể từ hôm đó tôi được phát muối trở lại.


Sáng ngày 4-9 tôi được gọi ra làm việc; lúc mở còng tôi vội vàng đứng lên, chưa đứng thẳng người tôi đã khụy xuống vì chân đứng không vững, hai đầu gối nhũn ra, liếc nhìn tên cán bộ Hoạt sợ hắn lấy cớ chửi, nhưng tôi hơi ngạc nhiên, không thấy hắn khó chịu, hắn sai Cải đỡ tôi dậy, dìu tôi ra ngoài, hắn bảo tôi ngồi xuống một lúc cho đỡ tê, sau đó bảo tôi làm động tác đứng lên ngồi xuống một lúc cho quen rồi mới bảo tôi theo hắn đi ra văn phòng trại. Đối với Hoạt như vậy được xem là đã quá tử tế với tù kỷ luật.


Tôi ngạc nhiên lần này tôi gặp Thích, trại trưởng, hắn chỉ tôi ngồi xuống ghế, xong hỏi han sức khỏe của tôi. Hỏi han sức khỏe tù và thăm tin tức gia đình tù là việc làm công thức của những tên cai tù cao cấp, lúc nào cũng đóng vai trò hiền lành dễ thương để thi hành chính sách khoan hồng nhân đạo của Đảng và nhà nước. Bọn này làm như chúng không biết là chúng tôi đang đói, không biết là chúng tôi thường hay bị chửi bới đánh đập tàn nhẫn, không biết chúng tôi bị hành hạ ngày đêm ở khu xà lim và làm cho cổ chân tôi đã bị cây xuyên và chiếc vòng nghiến trợt da làm độc, từ làm độc sưng tấy lên, nở mủ thành mụn, rồi lành lại thành vết sẹo mà không hề được một viên thuốc.


Những tên giám thị cao cấp như phân trại trưởng, chính trị viên, trại trưởng chỉ đóng vai người hiền, còn ác độc thì bọn giám thị cấp dưới làm – một đồng một bóng đóng trò. Tôi rất yếu nhưng phải trả lời với Thích là tôi khỏe mạnh, trả lời đau yếu cũng vô ích, nó cũng không tốt gì cho tôi hơn lúc đó, tôi đã hiểu nhiều rồi. Sau đó là một màn độc thoại của Thích cho tôi nghe:


– Sao anh không nhận thức được thực tế, chống đối làm gì và vào trong tù anh còn chống đối, anh phải biết chính quyền bù nhìn của ngụy với triệu lính, hai trăm ngàn cảnh sát và hơn 500 ngàn lính Mỹ và chư hầu mà cách mạng và nhân dân cũng đánh tan. Bây giờ hệ thống chính quyền cách mạng đã vững chắc từ dưới lên trên, tai mắt của nhân dân ở khắp mọi nơi, hành động chống đối bị triệt tiêu từ trong trứng nước. Toàn dân đã an cư lạc nghiệp và đứng về phía cách mạng rồi, không còn có một thế lực đế quốc nào có thể xoay đổi tình thế, sau khi tên đế quốc đầu sỏ là Hoa Kỳ đã bị đánh tan tành… là nhân viên ngụy quyền anh cũng phải biết chính sách cải tạo của chúng tôi nhân đạo hơn chế độ tù của ngụy quyền các anh chứ?


 Anh có biết thằng Đại tá Hải và thằng Trung tá Vệ, giám đốc nhà giam Chí Hòa và trại tù Côn Đảo không, chính hai thằng đó đã xác nhận chính sách cải tạo nhân đạo của cách mạng là ưu điểm của chúng tôi khi so sánh trại cải tạo với nhà tù của các anh… chúng tôi đã thành công trong chính sách cải tạo. 70% cải tạo viên chấp hành chính sách, họ sẽ lần lượt được xét tha khỏi trại, 20% lừng khừng dễ bị xúi giục manh động, còn 10% thì không cải tạo được, còn tiếp tục chống đối, số này sẽ bị nghiêm trị, đảng sẽ kiên trì với họ, 10% này trong đó có anh… anh nói anh không chống đối, chúng tôi biết hết, anh thấy tôi đã biên chế các đội theo thành phần tuổi tác.


 Số người trên 50 tuổi biết nói mà không dám làm, chúng tôi không sợ, thành phần dưới 30 tuổi không biết suy nghĩ, manh động nghe theo sự xúi giục, chúng tôi cũng không sợ, chỉ có thành phần từ 30 đến 50 tuổi của các anh vừa biết suy nghĩ vừa dám làm là thành phần chúng tôi cần giam giữ lâu dài… Trại này không thuận lợi cho anh cải tạo, chúng tôi sẽ đưa anh đến một trại khác, nơi đó có đủ điều kiện cải tạo hơn, trước khi anh đi tôi thành thật khuyên anh, không làm gì được đâu, anh nên yên thân đi.


Ngồi nghe Thích nói chuyện, tôi hiểu được thêm về cách làm việc của công an và quan niệm của Cộng sản về người tù, không những nhốt tù vì sự vi phạm, vì giai cấp, vì trình độ học vấn, mà còn vì tuổi tác nữa. Thảo nào có những vị Đại tá hay Tổng trưởng đã được tha mà sĩ quan cấp Úy vẫn còn bị giam giữ. Nghe Thích nói cũng có ích cho tôi và lời khuyên của hắn cũng có vẻ thành thật dù trong đó hàm ẩn sự tự kiêu, thái độ của kẻ tiểu nhân đắc chí; tôi không thấy cần phải nói gì nhiều hơn vì Thích đã nói rõ là tôi sẽ được chuyển trại. Tôi nói trước khi được thả ra khỏi phòng về trại để chuẩn bị di chuyển:


– Cám ơn Trung tá về lời khuyên nên yên thân, lần đầu tiên tôi được nghe một lời nói thành thật.
Tôi biết Thích không bằng lòng lời nói của tôi, cần gì, sẽ chuyển trại và kinh nghiệm cho biết chuyển trại thì càng khổ hơn, vả lại Thích đã nói rất rõ, hắn ghép tôi vào thành phần không cải tạo được để đưa đến một trại có điều kiện cải tạo hơn, ngây thơ lắm chắc cũng biết là điều kiện sẽ gay go hơn trại Xuân Lộc này.

 

CHƯƠNG 12


Tôi được ra khỏi xà lim. Thời điểm này ở trại có nhiều tin đồn sẽ đưa tù nhân cải tạo đi ngoại quốc do kết quả Hội Nghị Quốc Tế Nhân Quyền Genève năm 1979.
Sau buổi lao động, bạn bè đến mừng, cho thức ăn để bồi dưỡng. Anh em giữ được tình cảm với nhau, dù ở trong điều kiện khó khăn về vật chất, anh em vẫn thương người bị giam cầm trong kỷ luật. Bất cứ ai từ trong xà lim được thả ra, ít nhiều anh em cũng tìm cách giúp đỡ thức ăn và thuốc men.
Có nhiều anh em quá lạc quan, họ suy đoán chúng tôi là nhóm đầu tiên được chuyển ra nước ngoài.
Tôi đã được trại trưởng thông báo chuyển trại, và hắn còn nói rõ là sẽ đưa đến nơi có điều kiện cải tạo hơn, tức là điều kiện giam giữ và lao động sẽ khắt khe hơn. Tôi nói điều đó nhưng nhiều bạn vẫn không tin. Họ vẫn đoan chắc là chúng tôi được tống xuất.
Tù thường mơ ước, những ước mơ dựa trên những tin tức không chính xác được diễn dịch qua sự suy luận chủ quan. Ngày nào trong tù cũng có tin tức lạ, nhất là sau giờ thăm nuôi. Những tin tức loại “xịn” đó được chế đi chế lại qua nhiều người. Thăm gặp gia đình vào, đem biếu thức ăn cũng không quý bằng đưa ra một “hot news”. Nếu không có “hot news” không chừng bị anh em nóng tính mắng là người nhà chỉ biết lo ăn không lo nghe tin của đài BBC. Tin tức phải được xác nhận do đài BBC loan mới được xem là có giá trị cao. 

Người loan tin xịn được tù quí trọng. Tù mặc tình chế tạo tin, tin nào cũng xác nhận hoặc là sắp sửa được Mỹ rước, hoặc tin quân sự như các địa điểm chiến lược, hay rừng núi đều được quân ta ở trong rừng chiếm gần hết, những tên Nguyễn Cao Kỳ, Bùi Thế Lân, Ngô Quang Trưởng được nhắc đến hàng ngày. 


Không phải tù hoàn toàn tin vào những tin tức sốt dẻo đó, họ thích nghe thì đúng hơn, vì những tin đó hợp với sự mong đợi của họ hơn là những loại tin tức tuy hợp lý nhưng ngược lại, và khó nuốt như tin tức về việc gia hạn tập trung cải tạo, hoặc có người nào dám nói là không có lực lượng quân đội trong rừng sẽ gặp phản ứng dữ dội, bị buộc tội đâm sau lưng chiến sĩ, làm nản lòng anh em hay tay sai cho Cộng sản.


Quần quật làm lao động, nghe và bình luận “hot news”, ăn khoai mì, hút thuốc lào, kể và nghe chuyện kiếm hiệp, đa số tù nhân bị hủy hoại từ thể xác đến tinh thần trong đời sống hàng ngày ở trại cải tạo như vậy. Có nhiều người cần những loại tin tức lạc quan giúp họ sống và hy vọng như một loại thuốc ngủ để cho người bịnh an tâm ngủ quên khỏi sợ hãi cơn bịnh trầm kha trong đêm dài vô tận.


Tôi quí những anh em trẻ trong nhóm Phố vì họ biết dùng thì giờ rảnh rỗi thật hiếm ở trong tù để tìm hiểu học hỏi thêm, biết hướng sự suy nghĩ để phân tích những đề tài ích lợi, làm cho đầu óc sắc bén và phong phú thêm, không hủy hoại bởi những trăn trở vô ích. Xa họ tôi rất buồn đồng thời cũng mừng cho họ, vì không ai phải chuyển trại cùng với tôi lần này. Dù khổ cực đến đâu các trại ở Saigon cũng đỡ hơn vì gần gia đình, có thể thăm gặp đều đặn. Mỗi lần có chuyển trại xa về hướng Bắc chừng nào càng khổ chừng đó.


Khoảng 4 giờ sáng ngày 5-9-79 chúng tôi bị đánh thức chuẩn bị rời trại, nghị sĩ Phan Thông nhờ bị thương từ trước, đi đứng khó khăn được cho ở lại cùng với hai người có án 18 năm được xem là án nhẹ. Tổng số bị chuyển tròn 30 người, 8 người có án từ 20 năm đến chung thân. Trong 22 người tập trung cải tạo chỉ có anh Tăng Ngọc Hiếu là sĩ quan trình diện – còn 21 người còn lại thuộc thành phần bị bắt.


Chiếc xe vận tải bít bùng không cho phép chúng tôi nhìn ra bên ngoài, nhưng chúng tôi cũng biết đến ngã ba ông Đồn xe rẽ trái, xe di chuyển về hướng Bắc, rõ ràng đã làm tiêu tan hy vọng của người “lạc quan tếu” nhất là anh Nguyễn Văn Hiếu. Đến lúc được còng tay đẩy lên xe, anh Hiếu vẫn thầm thì nói với người đồng còng là về Saigon để lên máy bay ra ngoại quốc.


Quốc lộ 1 đã hư hỏng nhiều nên xe di chuyển thật chậm. Mới hơn 4 năm, hệ thống giao thông đã lùi lại bằng thời kỳ những năm 50. Quá trưa xe tạm dừng nghỉ ven quốc lộ nơi đồng vắng ngoài tỉnh lỵ Phan Rang. Mỗi lần di chuyển tù bọn công an vũ trang bảo vệ rất chặt chẽ, chúng nói là sợ dân chúng phẫn nộ hành hung tù nhân. Anh em từ các tỉnh miền Tây kể lại họ di chuyển bằng xe đò, cứ mỗi lần dừng nghỉ ở thành phố hay vùng đông dân, đồng bào thấy tù chuyển trại, họ không phẫn nộ, trái lại còn ném thức ăn, trái cây hay tất cả những gì họ đang có lên xe cho tù. Để tránh tình trạng đó, nên chúng tôi được ngồi xe thùng kín mít và khi dừng nghỉ ăn trưa ở nơi đồng trống.

Buổi chiều xe nghỉ lần thứ hai tại dốc quận Tuy An tỉnh Phú Yên, để chúng tôi ăn nốt phần cơm còn lại. Đầm Ô Loan vẫn đẹp, nước xanh biếc in rõ bầu trời cao, lác đác vài cụm mây mỏng bồng bềnh di chuyển chậm chạp. Từ Phú Yên trở vào là vùng khí hậu khô và ít mưa, tháng chín vẫn còn là mùa nắng. Mười bốn năm trước tôi làm ở quận Đồng Xuân, gặp thời kỳ chiến tranh gia tăng ác liệt, nhiều vùng bị Việt Cộng tạm chiếm, quốc lộ di chuyển không an toàn, từ Tuy Hòa về quận phải đi bằng trực thăng, mỗi lần trực thăng từ bờ biển rẽ trái bay qua đầm Ô Loan tôi nhoài người để nhìn ngắm khắp cái cảnh đẹp bên dưới và mong có ngày hết chiến tranh trở lại sống nơi đây một thời gian để những lúc rảnh rỗi bơi thuyền khắp vũng đầm thỏa thích.

Chiến tranh đã kết thúc, nhưng tôi đã ghé lại đây trong hoàn cảnh của người tù. Ngước nhìn về phương Nam, núi Vọng Phu ẩn hiện mờ nhạt, chạnh lòng nhớ vợ con ở nhà, mỗi lần di chuyển càng xa gia đình hơn, biết có bao giờ được trở về, vừa thương gia đình, vừa thấy mình có lỗi. Tôi đã không làm trọn vẹn trách nhiệm của người chủ gia đình, một quyết định sai lầm bao nhiêu người phải khổ lụy theo. Hơn 5 tháng bị giam trong xà lim kỷ luật, vợ con tôi tháng nào cũng lên trại để xin gởi quà thăm gặp nhưng đều bị từ chối, hiểu rõ hoàn cảnh gia đình, tôi không biết là vợ con tôi còn có thể chịu đựng được bao lâu nữa với cuộc sống càng ngày càng bị thắt chặt lại.

Chỉ có một ngày ăn di chuyển, buổi tối chúng tôi đến trại Xuân Phước. Đó là một trại ở vùng nước độc chuyên giam giữ tù hình sự. Ở tù chung với tù hình sự là một điều không may mắn, một thành phần quá ô hợp và phức tạp, đa số chỉ sống theo bản năng, mặt khác cán bộ coi tù hình sự quen thói xử tàn bạo hơn là đối với tù chính trị.

Chúng tôi được “chào đón” tận tình ở trại, chỉ có 30 người tù được hơn một chục cán bộ xét kiểm đồ vật trước khi nhập trại, thuốc men, thức ăn đều bị tịch thu. Cán bộ giải thích, ở trại tổ chức ăn uống tập thể, không phân chia vì phân chia thức ăn là vết tích của tư sản, nặng đầu óc tư hữu và trại sẽ lo cho “đầy đủ”. Vấn đề gia đình thăm gặp, thời gian đầu tạm ngưng, trại sẽ cứu xét tùy thái độ chấp hành cải tạo.

Về ở trong phòng mới xây bằng gạch kiên cố còn nồng mùi vôi mới quét. Đầu hôm hơi rừng đã tràn về lạnh ngắt qua những cửa sổ chắn song sắt trống trơn để cán bộ đi bên ngoài có thể kiểm soát được bên trong. Tiếp xúc lần đầu với cán bộ trại, ai nấy đều lo âu, bởi ai cũng hiểu là sự hứa hẹn lo đầy đủ nó sẽ như thế nào, không được gia đình tiếp tế thuốc men và thức ăn không biết sẽ ra sao.


Nằm bên cạnh tôi là hai ông Võ Văn Hải và Lý Thành Cầu trằn trọc và thở dài suốt đêm, tội nghiệp hai người đã trên 60 tuổi. Tôi nhớ đầu năm 1978 ông Hải vẫn còn khỏe mạnh, nhanh nhẹn, làm lao động không thua một thanh niên, chỉ mới hơn một năm đã tiều tụy hẳn, nhất là cặp mắt không còn tinh anh. Muốn an ủi hai người, nhưng nghĩ là quá khách sáo nên thôi, vì bản thân tôi âu lo không kém. Còn trẻ nên tôi không để lộ ra và dễ dỗ giấc ngủ hơn.


 Ông Võ Văn Hải là con một người bạn đồng liêu của ông Ngô Đình Diệm. Thời gian ông Diệm ở Mỹ, ông Hải ở Pháp học tốt nghiệp trường kinh tế – trở về nước cùng với ông Ngô Đình Diệm từ ngày đầu tiên ông được kể như là một người thân tín nhất của ông Diệm ngoài những người anh em trong gia đình. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, ông Hải lúc đó là chánh văn phòng Tổng Thống, không hề bị làm khó dễ cũng như không bị chê trách đủ nói lên đức tính của ông. Sống cạnh ông Hải từ ngày đầu tiên ở trại lao động cải tạo, cho đến khi ông chết năm 1983, tôi biết rõ những tính tốt của ông. Biết thương và chia xẻ của riêng cho những bạn tù nghèo khó là điều tôi ít tìm thấy trong những người lớn tuổi và từng giữ chức vụ quan trọng ở chế độ cũ, đa số đều ích kỷ. Hài hòa với mọi người nhưng khắc kỷ với bản thân và nghiêm khắc với thân nhân trong gia đình là bản tính của ông.

Đây là lần thứ hai tôi thấy ông Võ Văn Hải mất tinh thần. Lần đầu ông hơi mất tinh thần khi đọc xong truyện trinh thám “X-30 phá lưới” của một nhà văn Cộng sản trong đó nhân vật Võ Văn Hải được mô tả như là một người chống Cộng sản mạnh mẽ nhất trong những người thân cận của Tổng Thống Diệm.

Ông Lý Thành Cầu là người thứ hai tôi hết lòng yêu mến trong những người đi cùng đến trại Xuân Lộc. Chuyến đi này cũng có ông, dù là trong một năm rưỡi ở trại, ông Lý Thành Cầu không vi phạm điều gì. Trường hợp ông Lý chứng tỏ sự trả thù dai dẳng của Cộng sản. Ông Lý là Đại tá của quân đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa, được cử theo cụ Nguyễn Hải Thần về Việt Nam, ông Lý biết rất rõ từng nhân vật cũng như biến chuyển nhanh chóng của lịch sử Việt Nam trong những ngày tháng trước và sau ngày Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập. Sau khi cụ Nguyễn Hải Thần thất bại, ông Lý trở về Trung Hoa thời gian ngắn, rồi trở lại Hải Phòng nơi ông được sinh và lớn lên trước khi về học ở đại học Bắc Kinh. Từ khi di cư vào Saigon ông Lý lấy vợ Việt Nam và lập xưởng làm nước tương, không còn tham gia hoạt động chính trị. Sau khi miền Nam sụp đổ ông Lý bị Việt Cộng bắt nhốt từ những ngày đầu tiên.

Ông Lý hiểu rõ phong tục tập quán của người Việt, ông thuộc rất nhiều thơ văn Việt Nam, lúc đầu gặp ông Lý tôi đã có cảm tình khi nghe ông đọc nhiều đoạn thơ trong Chinh Phụ Ngâm cũng như thơ Kiều. Học lịch sử Việt Nam, nhớ lại một ngàn năm đất nước bị Trung Hoa đô hộ, từ nhỏ tôi vốn không thích người Tàu, nhất là những người tài phú thương mãi. Từ ngày gặp một số người Hoa có trình độ học vấn cao như ông Lầu, một nhà báo Đài Loan, Trần Tỷ một nhà tư sản, Trương Dĩ Nhiên, nhà tư sản, ông Lý, chúng tôi có thể trao đổi những vấn đề của đời sống và con người. Tôi thấy có thể thông cảm với nhau được. Có nhiều vấn đề, ngoài tinh thần quốc gia cần suy nghĩ trên bình diện con người và tình cảm của con người.


 Chủ nghĩa Cộng sản muốn đặt quan hệ quốc tế tức ra ngoài biên giới quốc gia, nhưng lại không tôn trọng đến con người và hạnh phúc của con người nên nó không phục vụ được cho quốc gia và cũng không phục vụ con người; nó chỉ phục vụ cho một tập đoàn cấu kết nhau để nhằm cướp đoạt hạnh phúc của người khác. Đó là một tư tưởng quái dị và thoái hóa. Thời đại ngày nay mọi tiến bộ kỹ thuật đã làm cho con người gần gũi nhau hơn, dễ thông cảm nhau hơn, nên sự kiện con người tiêu diệt lẫn nhau không còn có thể chấp nhận được.


 Thực tế đời sống đã chứng minh được tương quan giữa con người với nhau không còn là tương quan tước đoạt và bóc lột nhau, mà ngày nay có thể hình thành tương quan tương nhượng để cả hai bên cùng có lợi, cùng hòa hợp với nhau. Từ đó rõ ràng là chế độ Cộng sản không còn lý do để tồn tại nữa vì nó không phục vụ cho sự tiến bộ của đất nước cũng như hạnh phúc của con người. Do đó việc chống lại Cộng sản dưới mọi hình thức là một việc làm đúng đắn, cho dù có thiệt hại, có bị tù đầy khi chế độ đó chưa bị tiêu diệt hẳn thì không có gì là đáng ân hận. Khi đất nước bị Cộng sản xâm lăng, một con người biết tự trọng hoặc là ở chiến trường để chiến đấu, hoặc là ở trong tù.

Ngày hôm sau chúng tôi lên hội trường để nghe trại trưởng nói chuyện, 30 người tù ngồi trong một hội trường quá lạc lõng và ít ỏi so với số cán bộ ngồi trên bục sân khấu. Sau khi giới thiệu qua thành phần cán bộ chỉ huy gồm chính trị viên, phân trại trưởng, cán bộ an ninh và trực trại hắn tự giới thiệu là Trung tá Thân Yên. Nhìn qua thành phần cán bộ vừa được giới thiệu tôi đã có nghĩ đến những khó khăn chúng tôi phải chịu đựng trong những ngày sắp tới, không hẹn mà tập trung những tên có hình dáng dị dạng, lộ rõ sự hung ác nham hiểm.


Trại trưởng Thân Yên người nhỏ thó, mặt dơi, tai chuột, quắt queo; phân trại trưởng Lê Đồng Vũ, mắt trắng, môi thâm, mặt đỏ lừ như người vừa uống rượu; chính trị viên Nghị mắt lúc nào cũng láo liên mặt vác lên kênh kiệu; trưởng ban an ninh Nguyễn Minh Lý mắt lé, mặt lấm tấm rỗ hoa mè xanh nhợt; hai trực trại Luật mụn và Thái đen mắt lúc nào cũng trừng trừng đanh ác.


Bằng giọng Bình Định, Thân Yên nói: “Đáng lẽ ra tôi phải nói chuyện trước hàng trăm, hàng ngàn người, các anh chỉ có 30 người mà tôi đến nói với các anh đó là điều hân hạnh cho các anh. Các anh phần lớn vi phạm kỷ luật ở trại cũ, tôi có thể nhốt các anh trở lại, nhưng tôi xóa hết để các anh bắt đầu lại. Đến trại này các anh chỉ có hai con đường để chọn, một là sống, hai là chết. Muốn sống các anh phải chấp hành nghiêm chỉnh nội qui trại, còn muốn chết là do thái độ của các anh, mà các anh có sống cũng bằng thừa, có chết cũng không thiếu. Đây là trại Kiên Giam, nhà nước kiên trì cải tạo phạm nhân, chúng tôi có thì giờ để làm việc đó, thời gian có thể là 10 năm, 20 năm, chúng tôi cũng có thể làm được…

Chính sách của Đảng và nhà nước trước sau như một, Đảng luôn luôn khoan hồng nhưng cũng sẵn sàng nghiêm trị, khoan hồng với những ai, với người nào, và nghiêm trị với kẻ nào, tên nào, thằng nào…” Hắn nhấn mạnh từng chữ tên, thằng, kẻ. Đắc ý với lời nói hăm dọa, mặt vênh vênh nghiêng lên biểu lộ sự thích thú xong hắn gọi: “Thiệp đâu, San đâu, đứng lên”.


San và tôi đứng lên. Thân Yên ngắm chúng tôi một lúc, đầu gật gù đắc thắng, và như ước lượng kẻ địch mà hắn có quyền dày vò cho thỏa thú tính. Rõ ràng là một buổi nói chuyện để dằn mặt chúng tôi, lần đầu tiên mới nghe đến trại Kiên Giam – tức là trại giam tù lâu dài không có thời hạn. Ngay sau buổi nói chuyện, cán bộ Lý, trưởng ban an ninh gọi tôi ở lại làm việc, hắn bảo tôi khai việc làm và lý do tôi bị giam kỷ luật ở trại cũ. Trước khi cho tôi về đội, hắn nhắc đi nhắc lại là có thể giam tôi trở lại bất cứ lúc nào vì thời hạn kỷ luật của tôi ở trại cũ chưa kết thúc. Hắn nhấn mạnh là khi hắn quyết định giam thì không ai ngoài hắn ra có thể thả.

Đây là trại Kiên Giam có qui chế giam giữ riêng cho tù nhân từng bị kỷ luật, bị ghi nhận là không chấp hành chế độ cải tạo, có hành động chống đối. Trại Xuân Phước tự nhiên đã là trại tù khắc nghiệt. Trại tù cộng sản đều giống nhau, người tù phải chấp hành nội quy 38 điểm quy định khai báo, chế độ lao động, tương quan với cán bộ, tương quan với người tù với nhau, chế độ thăm gặp gia đình, viết thư, chế độ kỷ luật v.v…


 Người tù phải làm để nuôi sống cán bộ, đóng góp và sản xuất chung cho ngân sách của bộ nội vụ hay tỉnh, và nuôi sống mình. Có hai loại trại cải tạo, trại thuộc trung ương và trại thuộc địa phương; trại thuộc bộ nội vụ để giam người có án từ 10 năm trở lên và tù tập trung không có án thời hạn lâu dài, và trại ở tỉnh giam tù có án dưới mười năm và tù tập trung cải tạo ngắn hạn.

Trên thực tế các trại tù có những điểm khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và cán bộ quản lý. Các trại tù ở tỉnh tương đối dễ chịu hơn vì hai điều kiện, thứ nhất trại tù phải tự túc kinh tế nên khi lập trại, tỉnh thường chọn những nơi đất đai tương đối tốt có điều kiện sản xuất hơn. Trái lại trại thuộc bộ nội vụ thường ở những vùng đất đai cằn cỗi hơn. Lúc mới chiếm miền Nam, tù cải tạo là viên chức sĩ quan chế độ cũ, do quân đội quản lý, họ sử dụng các căn cứ quân sự cũ làm trại cải tạo; sau dần dà chuyển về cho công an. Việc chuyển giao hoàn tất đầu năm 1979, tù nhân được chuyển về các trại thuộc bộ Xuân Lộc (Z-30A), Gia Trung, Xuyên Mộc, các trại khác thuộc các tỉnh quản lý. Do đó ở tù các tỉnh đồng bằng Cửu Long tương đối dễ chịu vì vừa gần gia đình tiếp tế dễ, khi lao động có thể tìm thức ăn như cá, rắn, chuột, ếch, nhái và rau cỏ dại, cán bộ quản lý cũng no đủ nên tính tình dễ chịu cởi mở hơn.

Trái lại nếu ở các trại tù từ vùng Ba trở ra, đồng khô cỏ cháy, và nhất là chuyển trại ra miền Bắc hoặc miền Trung thì điều kiện ở các trại tù cam go hơn nhiều.
Trại Xuân Phước nằm cách trại Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Tre cũ khoảng ba cây số về hướng Tây. Trước năm 1975 là vùng giao tranh giữa trại Đồng Tre và mật khu Kỳ Lộ. Bộ chỉ huy trại nằm tại ngã ba đường Tây Bắc, lên Suối Cối, Kỳ Lộ. Từ Kỳ Lộ có thể ra miền núi Bình Định nay được thành lập huyện Tây Sơn; và đường lên Pleiku. Mật khu Kỳ Lộ là vùng du kích VC chiếm từ năm 1958. Quân đội VNCH chỉ đánh vào hai lần, một lần năm 1960 và một lần cuối năm 1964. Kỳ Lộ là một khu dưỡng quân và tiếp tế cho chiến trường Tây Nguyên của Việt Cộng trước năm 1975. Đường thứ hai từ Xuân Phước đi về hướng Tây Nam, đến vùng người đồng bào sắc tộc H’roi ở xã Xuân Định, lên thượng nguồn sông Đà Rằng, phần sông này được gọi là sông Hinh, nay Việt Cộng lập nên huyện Sông Hinh.


Trại Xuân Phước có nhiều phân trại nằm ở những đồi trên con đường này.
Phân trại A nằm ở gần bộ chỉ huy là trại tù giam giữ những người từ Guam về trên tàu Việt Nam Thương Tín, phân trại B giam tù hình sự có án và tù chính trị, phân trại C tù hình sự tập trung, phân trại D tù hình sự tập trung, phân trại E là khu trại nhà ngói tường gạch mới xây dựng ở bên cạnh phân trại A. Chúng tôi là toán tù thứ hai được chuyển đến, toán thứ nhất là tù chính trị có án từ các trại Mê Van Ban Mê Thuột và Rạch Giá.

Tù từ tàu Việt Nam Thương Tín, là những người xây nên trại tù Xuân Phước vào tháng 10 năm 1976. Những người đã di tản qua đến đảo Guam, rồi đấu tranh tình nguyện để “về xây dựng quê hương”. Họ kể lại, số người đấu tranh đòi được trở về lúc đầu khá đông, gần 10 ngàn người.


Sau có sự thuyết phục và khuyên nhủ của người Mỹ và viên chức chính quyền VNCH ở trại, số người muốn trở về dần dần rút xuống, cuối cùng số người về nước theo tàu Việt Nam Thương Tín hơn 1600 người, thời gian đi trên tàu họ được tàu hải quân Mỹ hộ tống, và tàu này mỗi ngày đều nhắc nhở là họ có thể đổi ý quay trở lại, nhưng mọi người đều quyết định đi về, nhất là một ban lãnh đạo được hình thành do một số người tự nhận là họ được liên lạc với Nguyễn Thị Bình từ trước; những người này hứa sẽ được đón tiếp bằng những vòng hoa tươi thắm tại Vũng Tàu hay Saigon vì sự trở về nước lúc đó với họ là một hành động chứng tỏ lòng yêu nước hoặc là nếu không được đón tiếp nồng hậu thì họ cũng không gặp trở ngại gì vì họ tình nguyện trở về không chạy theo “Mỹ Ngụy”.


Tàu không được cặp bến Vũng Tàu như họ nghĩ, sau hai ngày chờ đợi ngoài khơi, được tàu hải quân Việt Cộng hướng dẫn ra Nha Trang. Lúc lên bến họ được đón tiếp nồng hậu, bằng một lực lượng đông đảo công an võ trang AK. Còng chung hai người một chiếc còng số 8. Chuyển về trại Đồng Đế, làm thủ tục khai báo lý lịch và khám xét. Họ được khám xét thật kỹ từ bộ răng đến những nơi kín đáo nhất trong người để tìm máy móc gián điệp do CIA gài; những người cầm đầu và những sĩ quan cao cấp VNCH đưa về Chí Hòa để tiếp tục làm thủ tục khai báo, điều tra, sau đó được chuyển đi các trại tù cải tạo ở miền Bắc hoặc miền Trung.


 Đàn bà trẻ con được cho về, số người còn lại khoảng 1300, hầu hết là sĩ quan VNCH hoặc sĩ quan cảnh sát từ Trung Úy trở xuống, được đưa lên trại Xuân Phước, nơi đây họ phá rừng xây dựng trại tù. Những người tù tàu Việt Nam Thương Tín, có công lao xây dựng trại, chấp hành ngoan ngoãn nội qui trại, thái độ sợ sệt, tuân phục cán bộ; bù lại họ được tin cậy làm những công tác rộng như phá rừng, chăn nuôi, bốc dỡ hàng hóa, và mặc quần áo không có đóng số tù và dấu cải tạo. Anh em tù Việt Nam Thương Tín đều ân hận về việc làm của họ.

Những người tù VNTT ở trại Xuân Phước dần dần được tha ra khỏi từ năm 1979 và những người cuối cùng được về vào tháng 5/1982.
Năm ngày sau khi chúng tôi rời trại Z-30A đến, thì toán 78 người từ Z-30D đến. Vài ngày sau thì 118 người từ trại Z-30C ở Hàm Tân cũng được chuyển đến. Đa số là những người tù bị bắt vì mới tổ chức chống đối, hoặc sĩ quan không chấp hành lệnh tập trung, một số sĩ quan trình diện bị tình nghi là sách động trong những vụ lộn xộn trong trại vào dịp Tết Kỷ Mùi.


Tháng 10 và tháng 11 hai đợt tù từ trại Suối Máu đến, nâng tổng số tù phân trại E lên hơn 700 và toàn Xuân Phước 5 phân trại lên hơn 10 ngàn người đủ tất cả các diện từ chính trị, hình sự và quân phạm của Việt Cộng. Ngoài ra trại Xuân Phước còn có một trại Hốc Kè nằm về phía đông bắc bộ chỉ huy, nơi đó là trại kỷ luật của công an, và nơi những người tù được lệnh tha ở thời gian thử thách. Chế độ thử thách trước khi về chỉ là một sáng kiến riêng biệt của trại Xuân Phước để bóc lột sức lao động của tù nhân đã được lệnh thả, thay vì đọc lệnh tha, bọn chỉ huy cho đọc “lệnh thử thách”. Đến Hốc Kè tù được quản lý rộng rãi hơn nhưng buộc làm lao động nặng hơn. Mỗi ngày họ được giao khoán hai thước khối củi, họ được tự do đi vào rừng để đốn củi cho đủ số. Thời gian thử thách là một đến hai tháng. Sau đó họ mới được thả.

Tù nhân nhiều trại tập trung về tại Xuân Phước, mới biết là trong năm 1978 và 1979 các trại tù miền Nam đều có những vụ chống đối. Lớn nhất là vụ khởi loạn mồng hai Tết Mậu Ngọ ở trại tù Kiến Hòa. Tù đã nổi loạn cướp súng giết cán bộ thoát ra khỏi trại. Nhưng chỉ số ít người trốn được, vì ra khỏi trại không biết đi đâu, bị truy lùng bắn chết hoặc bị bắt xử án, những người cầm đầu bị tử hình, những người khác đều bị xử 20 năm đến chung thân.

Âm mưu trốn trại bị phát giác ở trại giam Phan Thiết năm 1978, do sự phản bội của tên Nguyễn Văn Quyền cựu xã trưởng, những người cầm đầu đều bị án tử hình, số người còn lại bị tù từ 20 năm đến chung thân, tên Quyền được trả công cho về trại Xuân Lộc. Tết Kỷ Mùi các trại Suối Máu, Hàm Tân, Thủ Đức, Xuân Lộc đều có những vụ náo loạn, khởi đầu bằng những việc tập trung ca nhạc vàng, rồi đưa đến việc rải truyền đơn đả đảo cộng sản, đánh an ten hoặc chống đối không chịu đi lao động. Ở trại Z-30C còn có vụ tù nhân tên Hiếu (tù chính trị bị bắt trong tổ chức phản động của nhóm người Quảng Nam di dân ở các trại định cư vùng Rừng Lá) sau khi trốn trại đem súng về hoạt động quanh trại đón giết nhiều cán bộ Z-30C trước khi anh bị phục kích giết chết.

Trại Xuân Phước ở một vùng thung lũng khô cằn, đất núi chỉ trồng được một loại khoai mì kỹ nghệ có nhiều chất độc gọi là khoai mì H-34 và loại đậu cua. Đậu cua là một loại đậu hạt gầy dài cong cong và mầu nâu như cặp mắt cua. Loại đậu cua có sức sống rất mạnh, nên có thể sinh sản được trong vùng đất núi khô cằn Bình Định, Phú Yên. Cây đậu lúc còn bé mảnh khảnh, lá xanh có ba chia, thân lá có lông thành ra lá rám cứng. Khi cây đậu lên cao ngang một tấc thì tỉa bớt cho cây còn lại lớn mạnh, những cây tỉa ra đó giúp cho tù được một bữa canh.


 Ở trại rau xanh rất hiếm, không đủ đưa vào bếp của cán bộ, tù không có phần. Cây đậu được tỉa xong, lên rất mạnh, cây sinh nhiều cành nhiều nhánh phủ lên cả cỏ dại và những bụi cây rừng nhỏ, qua xong mùa mưa tháng mười thì đậu trổ bông chen qua các kẽ lá xanh, những bông tím man man vươn cao mạnh mẽ để đón đoàn bướm nhiều màu sắc làm cho cảnh núi rừng bớt đi vẻ hoang dại thê lương. Cuốc đất, dọn cỏ quần quật suốt ngày, nhưng có một lúc nào đó người tù chống cuốc đứng nhìn thấy cảnh hoa bướm tự nhiên vô tư này cũng cảm thấy lòng lâng lâng, muốn quên hết quá khứ cũng như muốn quên cái hiện tại đang đau khổ, rồi lẩm bẩm đọc lại vài câu thơ còn sót lại trong óc mình sau khi đã quên gần hết những gì đã học từ thời thơ ấu.

Hạt đậu cua ăn không ngon, có lẽ ít chất bổ dưỡng, lúc đầu ăn chưa quen thường sình bụng, nó là món thu hoạch của trại nên cán bộ cũng bớt giữ gìn; mùa thu hoạch người tù có thể ăn cắp một vài nắm về phụ cho bữa ăn ít ỏi vào dịp Tết. Dân miền núi Bình Định Phú Yên cũng đói quanh năm, họ cũng nhờ đậu cua ăn phụ vì vùng này không bao giờ đủ gạo ăn vì lúa gạo trồng ra thì đã nộp thuế cho nhà nước hơn 2/3 số thu hoạch.

Điều kiện khó khăn, tù nhân bị ghép vào tội chống đối, được quản lý bởi một người trại trưởng người Bình Định và cán bộ người miền Trung và miền Bắc. Ba yếu tố đó để trại Xuân Phước trở thành một trại kham khổ nhất và phân trại E, phân trại giam những người chống đối, bị kỷ luật, bị chế độ Kiên Giam trừng giới.
Nước Việt Nam nhỏ bé, nhưng điều kiện giao thông liên lạc dân chúng của các miền khó khăn vì cả lý do chính trị lẫn địa lý, thêm vào chịu ảnh hưởng của chính sách chia rẽ liên tục của các chính quyền hàng mấy trăm năm, nên tính tình và đời sống dân Việt Nam có nhiều khác biệt tùy theo địa phương họ sinh và lớn lên.


Miền Nam nhất là vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long đất đai phì nhiêu, đời sống kinh tế dễ dàng nên người miền Nam hiền hòa dễ tính. Sau ngày 30-4-1975, điều kiện sống có nhiều khó khăn, nhưng miền Nam vẫn dễ sống hơn các miền khác, và cũng vì tính hiền hòa, phóng khoáng của người miền Nam nên họ không thích hợp với chủ trương đấu tranh giai cấp, sống trong sự ganh tị, xoi mói nhau giữa người này và người khác, nên họ không chấp nhận chế độ Cộng sản và các chủ trương cai trị của chính quyền Cộng sản. Ngay cả cán bộ Cộng sản miền Nam dù là cán bộ hồi kết hay cán bộ nằm vùng cũng dễ dàng quay lại lối sống phóng khoáng, thoải mái của miền Nam.


Đó cũng là sự thất bại của chế độ Cộng sản khi thi hành ở miền Nam Việt Nam sau ngày 30-4-1975. Bị từ khước và tiềm tàng chống đối, ngay cả từ những người nông dân hay gia đình có thân nhân là cán bộ cộng sản. Đa số người miền Nam chấp nhận và ủng hộ kháng chiến nhưng không ủng hộ cộng sản.


Người miền Bắc và các tỉnh phía Bắc Trung Việt, đất hẹp người đông, đời sống kinh tế chật vật, truyền thống chống ngoại xâm, giữ nước, nhất là với người Trung Hoa ở phương Bắc, khả năng sinh tồn và sức sống mãnh liệt, biết bám vào những điều kiện xã hội. Các nước chậm tiến và các nước Cộng sản, chính quyền là môi trường có điều kiện sống tốt hơn hết trong xã hội.

Dân các tỉnh miền Nam, Nghĩa, Bình, Phú tức là liên khu 5 cũ, một thành trì của chế độ Cộng sản. Những đức tính của người dân vùng này cũng là kết quả của sự ảnh hưởng của một vùng địa lý khô cằn đất cày lên sỏi đá, lại bị các chính quyền kỳ thị liên tục gần hai trăm năm kể từ khi vua Gia Long thi hành chính sách trả thù nhà Nguyễn Tây Sơn. Từ đó người dân liên khu 5 đứng về phía chống chính quyền và họ tiếp tục bị đàn áp và kỳ thị của thực dân Pháp. Cuộc kháng chiến chống Pháp 1954 và chế độ Cộng sản dễ được dân chúng vùng này hưởng ứng.


Vì lâu năm bị đè nén và ngược đãi nên ý thức chống đối càng mãnh liệt nên tạo thành tính cực đoan và những tính phụ thuộc theo đó. Cho nên người dân Nam, Nghĩa, Bình, Phú nổi tiếng cực đoan và tàn nhẫn về chính trị: đã đứng về phía nào thì dứt khoát và tranh đấu quyết liệt và chấp nhận đổ máu, chấp nhận chết và sẵn sàng tiêu diệt đối thủ. Nhạy cảm và có ý thức và lập trường chính trị, nhiệt tình bảo vệ lý tưởng.


Cán bộ cộng sản tàn ác, nhưng cán bộ người miền Nam có thể dùng tình bạn và tiệc rượu mua chuộc được, cán bộ cộng sản miền Bắc dùng tiền mua chuộc được, nhưng cán bộ cộng sản miền Trung thì những sự mua chuộc khó khăn hơn nhiều và người dân sẽ bị đối xử tàn nhẫn nhiều. Những tính tình cực đoan, sự cuồng tín bảo vệ chế độ đó không phải là hoàn toàn xấu.


Vì người miền Trung nơi chiến trường ác liệt nhất, nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của các biến chuyển chính trị của đất nước, nên người dân cũng rất nhạy bén và nhận định chính trị có lập trường và lý tưởng chính trị. Họ sẽ nhanh chóng nhận được con đường đúng và sai, cũng như đặc tính cuồng nhiệt, dám làm cũng là nơi khởi diễn nên những cuộc đấu tranh chống cộng sản áp bức mãnh liệt nhất.


Điều này đã có dấu hiệu cụ thể, những người tù chính trị sau ngày 30-4-1975 được đưa từ các tỉnh miền Trung đến Xuân Phước, phần nhiều đều có tổ chức võ trang chiến đấu thực sự, dù còn lẻ tẻ và chưa có lãnh đạo. Những tổ chức chính trị tổ chức từ Saigon hay các tỉnh miền Nam phần lớn chỉ mới kết hợp và đưa đến sự chờ đợi Mỹ sẽ chủ động làm ngược lại thế cờ chính trị tại Việt Nam.

Một dấu hiệu nữa thể hiện qua hàng ngũ cán bộ. Những cán bộ gốc Nghệ Tĩnh lúc đầu rất cực đoan và sắt máu, nhưng sau thời gian ở các trại tù, tiếp xúc với tù nhân, họ thấy tù nhân không giống như những người ác ôn, ăn gan người, uống máu người và hiếp dâm phụ nữ như đảng dạy cho họ. Những cán bộ gốc Nghệ Tĩnh là những người thay đổi thái độ trước nhất. Họ tỏ ra thông cảm và dễ chịu với tù. Những người cán bộ gốc Quảng Nam, Quảng Ngãi là hay đánh đập tù nhất, nhưng đến năm thứ 8 thứ 9, họ đã bắt đầu nói rằng họ ân hận vì đã đánh đập đối xử tàn nhẫn với người cải tạo. Chỉ có cán bộ miền Bắc đa số quan liêu hách dịch khó khăn.

Nạn nhân đầu tiên của tính cực đoan của cán bộ chính trị của cán bộ cộng sản liên khu 5 là Huỳnh Cự, anh là người sĩ quan Việt Cộng hồi chánh năm 1954 làm đến Tham Nghị Bộ Chiêu Hồi (ngang hàng với Giám Đốc Bộ Chiêu Hồi). Bị bắt trong những ngày đầu sau khi Saigon bị sụp đổ, anh Cự bị giam ở các nhà giam Phan Đăng Lưu, Chí Hòa, Hàm Tân, Xuân Phước. Biết rành chế độ cộng sản và những sự tàn nhẫn của nó, cũng như đã lớn tuổi và cái thế tế nhị của một người hồi chánh, nên nơi đâu anh cũng sống dè dặt và cố gắng thu mình trong công tác lao động. Nhưng những toan tính và kinh nghiệm của Cự không giúp cho anh được nhiều vì trong nhà tù anh luôn luôn bị hai mũi dùi.


Cán bộ cộng sản xem anh như người phản bội nguy hiểm, ngoài Bắc trước năm 1975 đã có những bài học về trường hợp của Huỳnh Cự, mỗi khi cán bộ cộng sản mới đến trại, họ đi tìm để xem biết mặt anh. Phía người tù thì luôn luôn nghi ngờ Cự, xem anh là người cộng sản nguy hiểm. Thái độ lao động tích cực của Cự càng bị một số người chống đối cực đoan ghét, xem anh là phản bội người đồng cảnh. Đến trại Xuân Phước, Cự càng gặp khó khăn hơn, bởi Thân Yên trước kia là thuộc cấp của Huỳnh Cự.

Một hôm Thân Yên gặp Huỳnh Cự trong trại, để Cự nghiêm chỉnh chào mình xong, Thân Yên nói rất nhỏ nhẹ: “Anh Cự đó hả? Thấy anh còn sống tôi mừng cho anh, tôi nhớ lại thời gian sau khi anh bỏ chúng tôi về thành, ngày nào chúng tôi cũng bị B-52 đánh, bao nhiêu anh em đã chết…” Nghe Thân Yên nói, Cự tái xanh mặt. Từ đó, cứ mỗi lần lên hội trường, nói về chính sách khoan hồng, Thân Yên đều kể trường hợp của Huỳnh Cự, hắn luôn nhấn mạnh là Cự đáng tội chết nhưng đảng đã khoan hồng cho đi cải tạo.


Mặt khác Thân Yên tỏ ra tín nhiệm cho Huỳnh Cự làm đội trưởng đội mộc và làm đội trưởng những người được xem là tiến bộ được gọi đi làm ban đêm. Trong nhà tù cộng sản cũng như xã hội cộng sản cả hai thành phần tích cực làm việc cho chế độ và chống đối chế độ đều khổ theo hai cách khác nhau.


Người chống đối bị trừng phạt đày ải đến chết thì ngược lại người tích cực cũng bị thúc đẩy làm việc đến kiệt sức. Chỉ có người biết cách sống biết chịu đựng và lách né khéo là đỡ khổ. Nhưng đóng vai trò này rất khó – vì cuộc sống lôi kéo con người phải chọn hay tự nhiên sẽ bị đưa đẩy đến hoặc là bên thái độ này, hoặc là thái độ kia, không lưng chừng.

Vì ở cái thế phải đóng vai người biết hối lỗi, Huỳnh Cự thành người cải tạo tiến bộ. Nhưng Cự là người có kinh nghiệm với chế độ cộng sản, anh chỉ đem sức ra làm lao động và có thúc đẩy năng suất lao động của đội; và chỉ báo cáo những việc lặt vặt như nấu nướng trái phép, đánh lộn v.v… còn việc báo cáo và đặt điều báo cáo về hành vi chính trị và lời nói của người khác anh Cự không hề làm.


Đa số người hiểu anh, nhưng cũng có ít người không hiểu, những người đã từng ở chung trại Chí Hòa và trại Hàm Tân, có tinh thần chống cộng cực đoan trong nhóm anh Vũ Văn Ánh và anh Ngô Văn Ly và họ đã mượn tay cộng sản để hại Huỳnh Văn Cự. Một hôm Ngô Văn Ly đã dán một truyền đơn “đả đảo cộng sản và Hồ Chí Minh”, dưới tờ truyền đơn ký tên Huỳnh Văn Cự.


Dù thiệt thà đến đâu, không ai tin là Huỳnh Cự dám làm chuyện đó, nhưng đối với Thân Yên, đó là một cái cớ để đem Huỳnh Cự đi nhốt ở xà lim trên hai năm. Nếu không nhờ thân nhân bên vợ là cán bộ cao cấp của cộng sản thỉnh thoảng từ Nghệ An mang quà tiếp tế thì Huỳnh Cự chết rồi. Hơn 25 tháng bị cùm đến khi được thả Huỳnh Cự đã bò từ phòng an ninh về nhà giam tập thể.

Một trường hợp khác chứng tỏ sự tàn bạo của cán bộ liên khu 5. Trước ngày 30-4-1975, người ta tuyên truyền Saigon sẽ trở thành biển máu. Cộng sản đã biến Saigon thành biển nước mắt. Nước mắt chia ly, nước mắt chờ đợi của bao gia đình tan tác. Nhưng máu đã đỏ nhuộm ở vùng đất khô cằn ở thung lũng Xuân Phước, với núi rừng trùng điệp bao quanh.

Một hôm chúng tôi được điều đi lao động xa, dọn một nghĩa địa nằm giữa hai phân trại A và B lấy đất trồng khoai mì. Nghĩa địa rộng khoảng hai mẫu, nhiều mộ đã được bốc, chúng tôi lấp những mả bốc xong, san bằng khu đất. Lúc đó chúng tôi mới chú ý đến những nấm mộ còn lại, nấm đất đã bị lụn mòn vì thời gian không ai tu sửa, những thanh gỗ cắm trên đầu mỗi ngôi mộ còn ghi rõ tên tuổi quê quán, ngày chết. Vừa nhổ những thanh gỗ để làm củi nấu nước, chúng tôi đọc thấy những người nằm ở nghĩa địa này đã chết trong ngày 3 và 4 tháng 5 năm 1975. Họ sinh tại các làng xã vùng Tuy Hòa, Sơn Hòa, Hiếu Xương, Phú Đức.

Ngày 2 tháng 4 năm 1975 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa bị quân ta bỏ ngỏ. Đây là những nhân viên, cán bộ cấp dưới không kịp chạy khỏi địa phương, họ bị bắt và đưa lên đây để bị giết hàng loạt. Thân nhân của họ đã đến tìm lập vội vàng mộ bia ghi nhớ – nhiều người đã bốc mộ – con số còn lại đến nay thân nhân không còn cơ hội quay trở lại nên trại quyết định san bằng. Đếm số mộ bia còn lại là 73 cái, cả nghĩa địa ước lượng khoảng 500. Đó chỉ là một địa phương, còn bao nhiêu địa điểm như nghĩa địa này ở Phú Yên và bao nhiêu cái khác ở toàn lãnh thổ các tỉnh liên khu 5 nổi tiếng quá khích. Về sau, nói chuyện với một số cán bộ chúng tôi được biết là sau khi chiếm được hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, số cán bộ của hạ tầng cơ sở của VNCH bị tập trung lại khoảng 8000 người. Nguyễn Hữu, bí thư tỉnh ủy Phú Khánh chủ trương đưa lên Xuân Phước giết hết.


Trong hai ngày 3 và 4 tháng 5 năm 1975 họ mới giết hơn 1000 người thì có lệnh từ Hà Nội vào chỉ thị phải ngưng cuộc tàn sát đẫm máu lại nên nhiều người thoát chết. Thầm van vái cho người chết sớm được siêu thoát, họ đã trả nợ núi sông. Có ai còn nhớ đến chiến sĩ không tên tuổi. Gia đình xa họ cũng không còn đến được để bốc mộ. Thân xác các bạn đành làm phân cho cây khoai mì mà chúng tôi sắp trồng.

Con người là sản phẩm của xã hội, kinh tế là hoạt động căn bản của loài người. Điều phân tích của Karl Marx không sai, nhưng nó chỉ đúng ở xã hội sơ khai và được đơn giản hóa khi con người tìm lương thực, thực phẩm để mà sống, nhưng khi nhu cầu vật chất tương đối đầy đủ, xã hội phát triển đa dạng và sinh hoạt con người trong xã hội trở thành phong phú thì những nhu cầu khác sẽ trở thành quan trọng hơn.


 Con người không phải là con thú chỉ tìm cái ăn hàng ngày, mà con người tích lũy của cải, thành quả lao động của mình để tổ chức sản xuất tiến bộ, dư thừa sản phẩm, con người cần tổ chức sao cho mọi năng lực, tài nguyên và thời gian sử dụng vào việc mưu tìm sự sống thật ít, còn thì giờ để phát triển tìm sự thỏa mãn cho nhu cầu tinh thần và sự thụ hưởng hạnh phúc.


Lý thuyết của cộng sản dựa trên sự giản lược tối đa về các hiện tượng xã hội và loài người, và chế độ cộng sản thì tước đoạt mọi tư hữu của con người, để hạ thấp giá trị con người đơn giản như con thú và guồng máy chính quyền của đảng sẽ nhân danh tập thể xã hội để nắm tất cả quyền hạn, quyền lợi và phương tiện sản xuất, và làm chủ sự phân phối của cải xã hội theo ý riêng của họ. Nhưng khi nhân danh tập thể, nhân danh xã hội guồng máy khổng lồ do chính quyền cộng sản thành lập vừa gặp phải các nhược điểm tất yếu của một tổ chức quá to lớn đưa đến sự uổng dụng phí phạm tài nguyên, sự cứng ngắc do hệ thống thư lại tính tham lam của con người có quyền hành vô hạn.


Chế độ cộng sản dựa trên lý luận đơn giản của con người thì đúng, nhưng đưa ra áp dụng cho toàn thể xã hội thì sai. Chế độ cộng sản chỉ trích những sai lầm của chế độ phong kiến, quân chủ, tư bản thì đúng, nhưng khi nắm chính quyền thì chế độ cộng sản sai lầm lớn hơn tất cả mọi chế độ trước. Chế độ cộng sản không phục vụ được con người, không phát triển được xã hội. Người cộng sản thành công khi họ tranh đoạt chính quyền, họ hành động quyết liệt, đấu tranh không khoan nhượng, nhưng họ thất bại khi nắm chính quyền.

Thắt chặt bao tử để cai trị là chính sách của chính quyền cộng sản. Cùng với chính sách công an nhân dân, kiểm soát thật kỹ lưỡng hành động của người dân, tình trạng đói kém làm cho dân hết sức đề kháng, không có thực phẩm thuốc men, tài sản để tổ chức đối kháng, trong khi đó toàn dân đói; đảng viên công nhân được no đủ hơn sẽ trung thành, bám chắc và ra sức bảo vệ chính quyền.

Chính sách bao tử được triệt để thi hành trong các trại cải tạo, những người tù tương đối ngoan ngoãn được biên chế vào các đội nhà bếp, rau xanh, chăn nuôi, làm rừng gián tiếp cho phép tìm thức ăn ngoài tiêu chuẩn. Cái gì ăn được cũng quý, rau, cỏ dại, rễ cây, côn trùng mà người tù có thể tìm được, gọi là “món ăn cải thiện đời sống” cũng được cho phép công khai hay mặc nhiên, thức ăn do gia đình đưa lên cũng phải cải tạo tốt mới được nhận.


Trái lại, những người tù bị gọi là xấu dù không bị nằm trong kỷ luật cũng nhận sự phân biệt đối xử, không được viết thư, không được nhận quà của gia đình lên thăm trại hoặc gửi bằng bưu phẩm qua ngả bưu điện; không được biên chế vào các đội có thể tìm thức ăn cải thiện, thường là phải làm công tác lao động vất vả hơn như đào ao, đập đá, san đồi làm đường giao thông, làm gạch ngói. Một ân huệ được Việt Cộng ban phát phải có điều kiện, làm đội trưởng, làm trật tự thi đua phải cải tạo tốt, đa số là những người đã từng báo cáo bạn bè hay ít nhất quá trình cải tạo không bao giờ vi phạm kỷ luật.


Đa số tù nhân phân trại E Xuân Phước là thành phần cải tạo xấu – nên các biện pháp bóp chẹt thi hành triệt để. Khẩu phần ăn buổi sáng năm hoặc sáu lát khoai mì khô băm xéo còn nguyên vỏ, buổi trưa và chiều mỗi buổi một chén cơm độn độ 80% khoai mì băm nhỏ, tù chỉ được phát nước muối, tiêu chuẩn nước muối cũng phải chia vì nếu để lấy tự do sẽ không đủ cho mọi người. Gia đình tìm đến thăm bị từ chối đuổi về, dù thân nhân người tù phải tốn 3 hay 5 ngày đường mới đi từ Saigon đến ngã ba Chí Thạnh và từ ngã ba Chí Thạnh vào đến trại phải gánh quà đi bộ hơn 20km đường núi.

Tất cả lá cây ăn được ở trong trại đều được tù vặt sạch, những đội đi làm nông nghiệp mới may mắn tìm được rau trái hay bèo Nhật Bản để ăn thêm. Mùa đông năm 1979 tù nhân vừa đói vừa lạnh; nhưng hầu hết tù nhân trại E là những người từng đối kháng ở các trại nên số người bị nao núng thật ít. Trong hoàn cảnh đói rét đó, khi gia đình lên thăm, điều kiện duy nhất an ninh đòi hỏi là sự cộng tác trong việc làm người báo cáo, tù từ chối, dù rằng từ chối để bị cấm thăm gặp, bản thân bị đói, và làm cho thân nhân buồn bã lo âu. Ban ngày lao động, ban tối học tập hai giờ trước khi đi ngủ, chương trình học tập do cán bộ giáo dục đưa xuống, có thi đua trật tự đi kiểm soát, tù nhân phải ngồi ngay ngắn và phải phát biểu ý kiến chương trình học tập cho 7 ngày trong tuần như sau:

* Thứ hai phải học tập nội quy 38 điểm tóm lược thành 4 tiêu chuẩn cải tạo.
– An tâm tin tưởng vào chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước.
– Cố gắng lao động vượt chỉ tiêu đề ra và lao động là thước đo tinh thần cải tạo.
– Tham gia học tập nghiêm túc, sinh hoạt báo chí và các buổi văn nghệ chiếu phim.
– Tự phê và phê bình đồng đội để cùng nhau tiến bộ.
Thể hiện tinh thần chống đối của mình, đa số tù nhân khi phát biểu 4 tiêu chuẩn sửa lại:
– Luôn luôn tin tưởng vào tương lai huy hoàng của dân tộc.
– Cố gắng lao động tùy theo sức khỏe và khả năng vì lao động là thước đo tinh thần cải tạo.

– Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt học tập, nghe đọc báo xem văn nghệ.
– Thẳng thắn tự phê những lỗi lầm của mình, còn khuyết điểm chưa quen phê bình người khác sẽ từ từ khắc phục.

Tù nhân muốn nghe báo chí tuyên truyền có thể ghi nhận được tin tức thế giới bên ngoài – nhưng không thích đi xem văn nghệ chiếu phim vì nội dung phim ảnh và kịch nghệ nhằm bôi nhọ Việt Nam Cộng Hòa – muốn được nghỉ xem văn nghệ chiếu phim phải khai bịnh. Lúc đầu số người nghỉ ít cán bộ chưa để ý, sau số này đông, trại biết tù nhân chống đối ngầm, dùng biện pháp cưỡng bách xem văn nghệ, người nào không đi hôm sau cúp phần ăn, chỉ phát một chén nước cháo loãng nhà bếp gạt từ nước nấu cơm ra. Nhiều anh em quyết định thà ăn cháo loãng để không đi xem văn nghệ.

* Ngày thứ ba học tập 20 điều lệnh nếp sống văn hóa mới, nội dung cũng trích từ 38 điểm nội quy và nhấn mạnh điểm buộc tù phải tôn trọng cán bộ, gặp cán bộ phải giở nón chào, muốn nói chuyện với cán bộ phải đứng ra xa 5m, nghiêm chỉnh xin phép trước rồi mới được nói, v.v… Xuất trại, nhập trại qua cổng phải giở nón mũ, đi ngang qua hết hàng cán bộ võ trang mới được đội nón lên.

Tù nhân trại E xem đó là một sỉ nhục lớn, nên hầu hết đều né tránh không gặp mặt cán bộ, thấy cán bộ đến xây mặt đi chỗ khác. Một số anh em sáng kiến không đội nón đi làm để khi qua cổng và đi trước hàng công an võ trang không phải giở nón, khi đi đầu trần người tù có thể nhìn thẳng ngẩng đầu một cách bình thản, động tác giở nón thường kèm theo một động tác thứ hai một cách tự nhiên là cúi đầu xuống, trông thê thảm.

Nắng miền Trung vào những buổi trưa hè như thiêu đốt, chân đi đất lội trên cát bỏng vì phải đi chầm chậm để giữ hàng lối, giữ khoảng cách theo lệnh di chuyển của công an bảo vệ ra đến hiện trường lao động, việc làm được lập lại hàng ngày trong nhiều năm, có lẽ chỉ có thể những người tù ở phân trại E trại Xuân Phước mới hiểu hết được ý nghĩa danh dự, và cái giá phải trả như thế nào để duy trì được một số hành động nhỏ nhoi để bảo vệ danh dự đó. Những lúc đó người tù cố nuốt một sự nghẹn ngào nơi cổ, cố kìm không để nước mắt chảy ra và thấy cái nhục thế nào khi làm một người mất nước, và ân hận thế nào khi làm một chiến sĩ buông súng đầu hàng vô điều kiện không chiến đấu, trong khi sức chiến đấu hẵng còn.

* Ngày thứ tư và thứ năm đọc báo và sách vở tuyên truyền. Tôi vẫn được anh em toàn nhà đề nghị làm người đọc cho cả nhà nghe vì giọng tôi đọc to và rõ ràng, và nhiều anh em sống với tôi lâu ngày biết tôi đọc sách báo thường “nhận lớp” tức là bỏ qua những đoạn không cần thiết một cách nhanh chóng và trôi chảy. Đọc báo cho toàn nhà nghe xong, tôi có thể đọc nhanh những bài báo khác – những bài không có đánh dấu để đọc cho tù học tập. Qua những bài báo, dù là báo tuyên truyền cũng biết thêm những điều cần biết.


Ngoài ra tôi cố gắng đọc tất cả sách của Lénine hiện có trong thư viện – theo sự giới thiệu của cơ quan tuyên huấn của Cộng sản, Lénine đã viết hơn 5.000 tác phẩm. Có lẽ ông ta chỉ viết một số, còn lại cả bộ tham mưu tuyên truyền của Đảng Cộng sản viết và ký tên Lénine, vì dù là người có thiên tài đến đâu, không thể vừa điều hành một đảng Cộng sản, một chính phủ của một nước lớn trong lúc còn nhiều khó khăn, ông Lénine khó có thì giờ để viết nhiều sách, dù có nhiều tác phẩm chỉ in lại những bài nói chuyện, chỉ thị của ông ta xuống thuộc cấp


. Với vài chục tác phẩm hiện có ở thư viện, tôi đã đọc qua thì Lénine cũng đã bao trùm mọi vấn đề chính trị của một nước. Những điều Cộng Sản Việt Nam đang làm đều nằm trong tác phẩm của Lénine từ sách lược hai cuộc Cách Mạng, đến kỹ thuật cầm giữ, khai thác và đầy ải người tù cải tạo, nhất nhất đều được nói đến. Những sách ký của Hồ Chí Minh cũng đều cóp nhặt ý kiến của Lénine – Hồ Chí Minh không có khả năng trí tuệ để trước tác các tác phẩm có trình độ tư tưởng.

Trước năm 1975 các chính quyền miền Nam sợ sự chỉ trích của sách báo tuyên truyền của Cộng sản nên cấm đọc tài liệu do Cộng sản in, một phần vì sự chỉ trích của Cộng sản đúng, phần lớn vì lý thuyết Cộng sản hấp dẫn đối với những người có lương tâm muốn làm cái gì đó để góp cho sự công bằng xã hội. Nhưng bây giờ miền Nam đã mất, Cộng sản nắm toàn bộ chính quyền, lá cờ chính nghĩa giải phóng dân tộc đã kết thúc thay thế bằng lá cờ xây dựng xã hội chủ nghĩa đi ngược quyền lợi dân tộc. Cộng sản phơi bầy tất cả khuyết điểm, khiến họ thành một chính quyền tồi tệ nhất, tồi tệ hơn bất cứ chính quyền nào mà họ chỉ trích, nên những sự tuyên truyền của Cộng sản không những không tác dụng mà còn làm cho người đọc thấy rõ cái xấu xa của chế độ Cộng sản.

Một cán bộ hoạt động trong lòng địch họ rất khôn ngoan, để đạt được mục tiêu, đảng lãnh đạo cho phép họ dùng mọi phương tiện, nên họ rất dễ hoạt động về muôn mặt. Một lúc nào đó họ có thể tỏ ra chống Cộng hơn bất cứ người chống Cộng nào, muốn được tin cậy, họ có thể làm mọi hành động luồn cúi đê hèn nếu cần để được dự phần vào sự quyết định của lãnh đạo phe địch và nhận tin tức tình báo. Có đọc nhiều sách báo Cộng sản mới có thể có được cái bén nhạy để nhìn ra người Cộng sản hoạt động trong hàng ngũ của ta. Không dễ dàng tin vào lời nói của con người mà thật sự nhận xét từ hoạt động thường xuyên của họ.


Cộng sản không xây dựng cán bộ cốt lõi bằng những người có uy tín cá nhân hay học thức sâu rộng, vì những người này thường có trong giai cấp tư sản mà Cộng sản đánh giá là không có tinh thần cách mạng, hoặc chỉ “cách mạng 3 ngày rồi bỏ” (lời Mao Trạch Đông), nếu cần những người này và có thể thuyết phục thì họ chỉ cần giữ ở các tổ chức ngoại vi. Cán bộ Cộng sản là những người biết tin và trung thành với Đảng và lãnh tụ, một người tên A tên B nào đó cũng được miễn làm đúng theo lệnh Đảng và với phương pháp họ được huấn luyện, người này sẽ kiên trì hoạt động.


Lúc đầu họ không cần những chức vị phô trương mà cần nắm các vị trí làm then chốt, không tiếng tăm, không lợi lộc mà những phe chính trị khác thường bỏ lơ, rồi theo năm tháng, vượt qua các thăng trầm; những người Quốc gia không có lãnh đạo, làm việc theo tính tự phát theo tâm hồn yêu nước của mình, có lúc nản chí bỏ cuộc hoặc vì thiếu phương tiện hoạt động. Trong khi đó người cán bộ Cộng sản có lãnh đạo ngầm, có được cung cấp phương tiện, họ cứ tiếp tục làm việc và trong thời gian lâu dài họ nắm được tất cả và khi cơ hội đến cho toàn thể mọi người, thì họ dù thiểu số vẫn là người đủ điều kiện để nắm sự lãnh đạo quần chúng nhất. Trong khi đó người Quốc gia ngoài tấm lòng son sắt không có một cái gì khác để làm phương tiện chiến đấu.

* Chương trình hoạt động ngày thứ sáu là bình bầu cá nhân theo kết quả cải tạo trong tuần. Thứ sáu cuối tháng thì bình bầu kết quả cải tạo trong tháng. Từ kết quả đó qui định mức ăn:
– Hạng cải tạo xuất sắc tiêu chuẩn 18kg/tháng.
– Hạng cải tạo tốt tiêu chuẩn 16.5kg/tháng.
– Hạng cải tạo trung bình tiêu chuẩn 15kg/tháng.
– Hạng cải tạo kém tiêu chuẩn 12kg/tháng.
– Hạng cải tạo xấu tiêu chuẩn 9kg/tháng.

Tiêu chuẩn bình quân mỗi người 15kg vừa cơm vừa chất độn. Để kích thích lao động và gây mâu thuẫn, trại buộc tù phải bình bầu mức ăn, làm thế nào để lấy phần ăn của những người bị bầu kém và xấu để đập vào phần phụ trội cho người được bầu xuất sắc và tốt. Cộng sản giáo dục đấu tranh không khoan nhượng, tiêu diệt tính vị tha và lòng rộng lượng của con người, biến cán bộ Việt Cộng thành người bần tiện và hà tiện, chúng không cho ai quyền lợi mà không đòi điều kiện. Trên bình diện lớn của đất nước xã hội thì đảng Cộng sản muốn tước đoạt tóm thâu hết của cải vật chất của xã hội. Nếu nói đảng Cộng sản là một Đảng cướp lớn nhất thì không ngoa một tí nào.



Trong phạm vi một trại cải tạo, người tù không còn gì để tước đoạt nữa, ngoài phần 15kg lương thực nấu chín mỗi tháng mà chúng vẫn tước đoạt của người này cho người khác. Tiêu chuẩn 15kg lương thực nấu chín đã quá ít vì chỉ có 9 hay 10kg lương thực sống; tiêu chuẩn này còn bị trừ đi phần ăn cắp bớt của thủ kho, của cán bộ nhà bếp, phần phụ trội cho những người được ưu đãi như đội nhà bếp, toán làm lẻ, chăn nuôi. Chén cơm độn nhỏ còn phải bớt đi một muỗng vì nồi cơm chia không đủ đồng đều một chén cho mọi người. Do đó những người bị ăn phần kém và xấu bị mất phần ăn buổi sáng và bớt phần ăn trưa. Cảnh chia cơm thật khó chịu, một người chia mà hàng chục cặp mắt ở bên ngoài lom lom dòm ngó. Khi đói con người bị hạ thấp như thế đó.


 Có người nhìn người chia để canh chừng vì nghi ngờ người chia không công bình, nhưng cũng có người đứng nhìn để chia xong lấy nhanh phần ăn để nuốt nhanh cho lẹ rồi nằm nghỉ ngơi. Không có ăn no, phải dưỡng sức bằng nằm, nằm để nghe tiếng rột rạt trong bao tử để thấy cái cảm tưởng là dường như mình đã ăn. Có anh chờ chia xong để vét láng sạch những hạt cơm còn lại trong nồi. Có những đội chia xong phải bắt thăm để bảo đảm sự công bình, nhất là trong 4 dịp ăn lễ có thịt mỗi năm. Người tù cải tạo vấn đề lớn nhất là đói ăn nên nói mãi đến cái ăn dù là phần ăn để sống cầm hơi lây lất qua ngày; phần ăn không phải là cơm mà phần lớn là khoai mì, khoai mì khô, khoai mì kỹ nghệ H-34 có chất độc, ăn vào một thời gian ai nấy sưng hai hạch nước miếng, nở hai mang tai, mặt mày biến dạng trông xấu xí.

Ra bãi cuốc đất lượm được con sùng, con dế, con mối lén bỏ vào mồm dùng nước miếng rửa phun đất ra ngoài rồi nhai nuốt để có chất tươi; anh Nay Luett ngồi nấu nước cho đội đã nướng cả sâu róm ăn. Cóc, nhái, chuột, thằn lằn, rắn mối là loại protein cao cấp không dễ gì có trong các ruộng đất khô cằn miền Trung. Chỉ có ruồi, dòi, muỗi mòng, vắt là nhiều nhưng loại này không ăn được. Ở phân trại B, tù nhân hình sự tên Nhơn đã thử ăn 500 con ruồi, nhưng sau đó bị ói mửa gần chết, nên không ai dám thử nữa.

Buổi trưa mỗi người tù phải đập 500 con ruồi để nộp. Tù đói quá nên ăn mọi thứ côn trùng và có người thử ăn ruồi thật khủng khiếp và khó tin. Nói về tù Cộng sản cứ xoay quanh cái ăn vì cái ăn quá quan trọng, tù lúc nào cũng đói. Người đang no thì khó thông cảm được. Nhưng chỉ xa nhà 10 ngày đã thèm cơm, mới bịnh tuần lễ nhịn ăn đã thấy thèm đủ thứ thì thông cảm cho sự thèm ăn của tù, suốt cả chục năm chỉ ăn khoai mì và nước muối, khẩu phần tiêu chuẩn không đủ no.

Ăn uống thật kham khổ, thật ít, làm lao động thật nhiều, học tập duy trì đều đặn mỗi đêm, tập thể dục đều đặn mỗi buổi sáng, tù phải trực gác mỗi đêm, đi làm phải đi chân đất, hạn chế tắm rửa, giam kỷ luật đến chết, còng một chân, hai chân, hai chân chéo nhau, hai chân chéo có kề thêm vòng sắt giữa hai chân. Đó là những biện pháp trại Kiên Giam Xuân Phước dành cho tù nhân chính trị. Đào ao nuôi cá là công tác nặng nhọc nhất vì đất đồi cứng, dụng cụ thô sơ và chỉ tiêu cao. Một thước khối đất chìm mỗi ngày mỗi người vừa đào vừa khiêng đi đổ, cứ mỗi toán ba người làm chung nhau, một người đào hai người khiêng đất, chỉ có tù Việt Nam Thương Tín và hình sự là hoàn thành mức khoán, họ là những người tù biết tuân hành làm việc mà không suy nghĩ, họ vừa đào vừa gánh hoặc đội đất đi đổ.


Những người tù “Việt Nam Thương Tín” phải chứng tỏ mình là người sẵn sàng “về nước xây dựng quê hương”, trước khi xây dựng quê hương thì xây dựng trại. Cán bộ giáo dục đã mớm cho họ để họ có những quyết tâm như vậy, mỗi đợt thi đua họ đều làm quyết tâm thư xin vượt mức khoán. Những người hình sự thì có sắc thái khác, vào tù họ phục tùng cán bộ vì cán bộ là người có quyền uy. Tù hình sự đội viên rất khổ, họ vừa chịu đòn vọt của cán bộ, vừa chịu đòn vọt của đội trưởng của trật tự thi đua, và chịu sự xài xể của tổ trưởng.

Thân Yên thấy tù cải tạo phân trại E không hoàn tất chỉ tiêu nên tổ chức nhiều đợt thi đua, ra quân lao động có kèn trống, trình diễn âm nhạc tại hiện trường lao động. Người tốt việc tốt được đọc lên mỗi đêm trên máy phóng thanh, đội tốt được cờ đỏ, đội xấu cờ đen, người tốt được chấm điểm đỏ, người xấu điểm xanh, kết quả dồn vào chia xẻ mức ăn theo 5 hạng đã nêu trên. Mặc các đội thi đua, phân trại E chỉ lẻ tẻ xuất hiện vài cá nhân nổi bật như Phan Gi On, Phạm Quốc Bảo, Tăng Xuân Bá, Đoàn Đô, Huỳnh Cự, Nguyễn Văn Lạc, còn tất cả không ai bảo ai, không chỉ huy lãnh đạo, nhưng mọi người đều hiểu là phải làm thế nào để duy trì mức độ lao động vừa phải, chịu đựng được.

Đã đến năm thứ 4 trong tù, tù nhân đã ý thức được hoàn cảnh và thái độ đúng đắn không còn ai tin tưởng vào những hứa hẹn suông của Cộng sản. Khi cần thì chúng hứa hẹn, lúc không cần thì ném bỏ, giam cầm kỷ luật, nhiều anh em thời gian đầu tin chính sách cải tạo, thì nay họ đã sáng mắt.

Tù được chỉ định đào 3 chiếc ao, cái lớn nhất được gọi là “ao cá Bác Hồ” nuôi cá bán gây quỹ cho đoàn thanh niên, ao thứ hai trung bình để cải thiện bữa ăn cán bộ, ao thứ ba bé hơn cải thiện đời sống tù nhân.

Tiền mua cá giống là tiền ăn của tù, loại cá trắm và cá rô phi được nuôi bằng lá khoai mì, phân heo bò và ruồi. Dĩ nhiên mọi công tác đều do tù làm. Việt Cộng không hề bỏ ra một xu. Không bỏ vốn mà muốn nhiều lời đó là đặc tính của cán bộ Cộng sản, từ cấp thấp nhất đến cấp cao nhất. Cá nuôi với những loại thực phẩm đặc biệt đó rồi cũng lớn, dù chậm.


Đến ngày lưới cá thu hoạch, hai ao cá được tù tát cạn bắt sạch, cán bộ chỉ thị tù phải nộp tất cả những con cá tự sinh ra trong ao tức là ngoài loại cá giống nuôi thả, như cá lóc, cá trê, lý do được giải thích rõ ràng, tù sẽ được thụ hưởng ao cá dành riêng, thu hoạch sau. Cũng đến ngày bắt cá cho tù cải thiện nhưng lần này ao không được tát nước. Trưởng Ban Thi Đua đem lưới về rồi chọn vài người tù lặn xuống ao lưới cá. Lặn hụp cả buổi vẫn không bắt được con nào, phân trại trưởng Lê Đồng Vũ nói lớn: “Các anh trại viên kém quá, muốn tìm bao nhiêu bác sĩ, kỹ sư cũng có, mà tìm người bắt cá để ăn thì không có”. Việc bắt cá diễn ra nhiều lần vẫn không bắt được con nào mà cá thì hết dần vì mỗi khi vào phòng khóa cửa lại thì cán bộ xách lưới đến bắt.

Một hôm tôi hỏi Hiên, người tù phụ trách lặn bắt cá: “Sao cậu lặn hụp mãi mà không bắt được con cá nào vậy”. Hiên trả lời: “Đ.M., bắt cho mà chết à, tôi được lệnh lặn xuống giở lưới cá ra đấy”. Hiên là Thiếu úy Công an người Bắc, can tội bán bãi cho tổ chức vượt biên bị tòa Đồng Nai xử 12 năm. Tiêu chuẩn ăn lễ có thịt 4 lần trong năm cũng bị tước đoạt bớt. Tiền ăn của tù nhà bếp mua lợn giống nuôi ăn dịp lễ. Ăn xong dịp Tết, nuôi ăn lễ 1/5 và sinh nhật Hồ Chí Minh, ăn lễ 1/5 xong nuôi ăn lễ Quốc Khánh, ăn lễ Quốc Khánh xong, nuôi lợn ăn tổng kết cuối năm và dịp Tết. Lợn nuôi bằng rau và cơm cháy của nhà bếp tức là phần ăn của tù.


 Đến gần ngày lễ con lợn lớn và mập mạp, tù mừng và trông chóng tới lễ, nhưng gần ngày hạ thịt lợn thì bỗng nhiên tù thấy con lợn nhỏ lại. Thì ra đội chăn nuôi đã nhận lệnh nhận con lợn nhỏ của phân trại trưởng đem xuống đổi. Khi làm thịt cán bộ quản giáo đội chăn nuôi được nhận cái đầu cắt đến tận vai, đó là công của hắn đã đốc thúc việc chăn nuôi, cán bộ quản giáo nhà bếp được hai ký thịt nạc, cán bộ trực trại đều có quyền lợi chia phần – phần những người tù được ưu đãi hơn trong phận sự nấu cơm nấu nước được quản giáo nhà bếp thông cảm cho tăng tiêu chuẩn, phần của trật tự thi đua. Cuối cùng lễ nào cũng giống nhau, tiêu chuẩn của mỗi người tù còn lại một mẫu thịt bằng ngón tay cái; nhưng đối với tù có còn hơn không, lâu lâu được một tí mỡ.

Lao động, sinh hoạt học tập, đọc báo, chiếu phim, trình diễn văn nghệ được thực hiện liên tục, chiếm hết thì giờ của tù và nhồi nhét vào đầu óc những người tù những lý luận Mác-xít sơ đẳng, phim ảnh, tuồng tích bôi bác chế độ cũ nhất là hình ảnh người lính Cộng Hòa, càng làm cho tinh thần chống Cộng củng cố thêm. Phim thần thoại tuyên truyền của Liên Sô rất kém về kỹ thuật, nghèo nàn về nội dung và hình ảnh.


Không tưởng tượng được Liên Sô là một siêu cường đứng đầu thế giới Cộng sản mà sản phẩm phim ảnh họ kém cỏi như vậy, không hơn phim loại tồi của Việt Nam và kém cả phim Ba Lan, Tiệp Khắc và các nước Tây phương. Phim ảnh, văn chương nghệ thuật là sản phẩm của nền văn hóa của xã hội con người, như vậy chế độ chứng tỏ Cộng sản không những không giải quyết được nhu cầu vật chất của xã hội, mà độc tôn tư tưởng trong giáo điều Mác-xít đã hạn chế sự phát triển của con người, tiêu diệt sáng kiến và khả năng sáng tạo nghệ thuật.

 Tù nhân không thích xem các buổi trình diễn văn nghệ chiếu phim dù đời sống trong trại tù đơn điệu, buồn tẻ, thô bạo ở mức độ sơ khai; tù nhân còn tiếc vì mỗi lần có đoàn văn nghệ, chiếu phim, mọi phí tổn tiền ăn của tù phải chịu trang trải nên phần ăn ít ỏi là gạo bị cắt bớt, bữa ăn chỉ còn lại khoai mì. Nhìn thấy khoai mì đã phải sợ mà vẫn phải cố nuốt cho trôi mà sống qua ngày, làm lao động quần quật suốt tuần. Buổi sáng chủ nhật phải đi làm công tác xây dựng xã hội chủ nghĩa.


Ngoài ra những buổi lên lớp học tập, viết thu hoạch không thì giờ nào được ngơi nghỉ. Mỗi tuần chỉ còn lại buổi chiều chủ nhật. Những buổi lên lớp thì không ai lạ gì, những đề tài cũ rích được nhắc đi nhắc lại mãi, những từ ngữ nhàm chán mà cán bộ chưa nói ra tù nhân đã biết. Tù được giải nghĩa về ý nghĩa của trận du kích trên không “của quân đội và nhân dân miền Bắc anh hùng”. Trong buổi học tập toàn trại rất trang trọng tại hội trường có Thân Yên chủ tọa, chính ủy trại, cán bộ Nghị, Bí Thư Đoàn Thanh Niên đã giải thích: ”… quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng đã đánh thắng liên tục những đế quốc lớn nhất, và là kẻ thù của loài người tiến bộ trong đó đế quốc Mỹ là tên hung nô thời đại, tên đế quốc đầu sỏ hung hãn nhất.


Nghệ thuật đánh du kích của quân Việt Nam là thần thánh đã đi vào tư tưởng quân sự của thế giới, nhưng du kích trên bộ thì không còn lạ gì, mà Bác Hồ vĩ đại và Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh đã đề ra chiến thuật du kích trên không. Trận du kích trên không đã đánh thắng không lực Mỹ hùng mạnh nhất thế giới. Đánh hạ pháo đài B-52 và những phi cơ con ma của Mỹ bắt sống hàng ngàn tên giặc lái… ‘

Phi công Việt Nam anh hùng’ của ‘quân lực Việt Nam anh hùng’ đưa phi cơ lên những đám mây, tắt máy chờ sẵn phi cơ địch bay qua, bất ngờ nổ máy trở lại đè B.52 của Mỹ từ trên không xuống bắt chúng phải hạ cánh…” Tù nhân ngơ ngác nhìn nhau, ai cũng tưởng tai mình nghe nhầm, tưởng là nằm mơ, nhưng là sự thật, đang học tập ở hội trường, thuyết trình viên cán bộ Nghị vẫn thao thao thuyết giảng, trại trưởng Trung Tá Thân Yên ngồi ngay ngắn, thỉnh thoảng gật gật đầu đắc ý và cả đoàn cán bộ ngồi trên sân khấu hội trường đều nghiêm trang.


 Không phải tên cán bộ Nghị đang diễu, mà hắn đang nói thật, và cả đoàn cán bộ cũng đang tin là trận du kích trên không là thật. Chỉ có những tù nhân biết mình đang nghe con vẹt lập lại một cách ngu xuẩn tài liệu học tập ngu xuẩn của đảng đưa xuống, và những tên người máy ngu xuẩn đang ngồi nghe và tin một cách máy móc.

Chúng tôi còn được học những bài học về tiềm năng kinh tế của Việt Nam, một nước Việt Nam “tiền rừng bạc bể”, một nước Việt Nam mà cái gì cũng quí giá. Cán bộ giáo dục trại Trung Úy Hanh đọc cho chúng tôi nghe “tài liệu lịch sử” cho biết thời Pháp thuộc, người Pháp đã biết quí phân người Việt Nam nên phơi khô đóng thùng mang về nước. Hắn cũng kể cho chúng tôi nghe là hiện tại ở miền Bắc có một món vô cùng quí giá, đó là khói của nhà máy ciment Hải Phòng, nước Nhật đã thương lượng với chính phủ Việt Cộng để mua khói đó, nhưng chính trị bộ đã quyết định không bán vì biết là Nhật mua khói đó để về chế tạo bom nguyên tử. Cán bộ nói hăng say, cán bộ nghe thích thú đắc ý, tù muốn cười to lên mà không dám cười, chỉ đưa mắt nhìn nhau và cùng cảm thấy ức. Trình độ cán bộ Cộng sản như vậy mà họ đã thắng mới thật đau.

Để kích thích lòng yêu nước và tự ái dân tộc, phục vụ chiêu bài giải phóng dân tộc, đảng Cộng sản dùng Viện Sử học để viết lại lịch sử một cách bừa bãi. Họ dìm dân chúng và cán bộ của họ ở trình độ hiểu biết thấp nhất, để tài liệu tuyên truyền của họ được nghe, tin và nói lại như con vẹt. Cán bộ chính trị chỉ biết nói theo đúng tài liệu học tập. Nói mãi, học mãi và tin điều mình nói, tin điều mình học, tin vào lãnh tụ và rồi chỉ biết tiến tới chiến đấu với kẻ thù như một thứ người máy được lên dây cót, như một thú vật bị trích thuốc kích thích. Trình độ của cán bộ giáo dục ngành công an cấp sĩ quan mà tin du kích trên không là phi cơ tắt máy nấp vào trong mây, tin khói ciment là của quí chỉ Việt Nam có và có thể dùng chế tạo bom nguyên tử.


Yêu nước, hãnh diện vì lịch sử dân tộc, có một niềm tin là dân tộc trường tồn và vững mạnh trong cộng đồng thế giới là điều đúng đắn nhưng khoa trương quá đáng về tiềm năng dân tộc một cách lố bịch là điều chỉ có Cộng sản Việt Nam làm và thành công trong điều kiện người dân bị dìm trong sự dốt nát. Trình độ giáo dục được nâng cao của người dân miền Nam; sự phổ quát kiến thức và tin tức khoa học kỹ thuật, những biến chuyển nhanh chóng của chính trị kinh tế thế giới mà người dân miền Nam đã hấp thụ được, đã làm cho kế hoạch tuyên truyền và giáo dục người dân của Cộng sản hoàn toàn thất bại. Trước mắt người dân miền Nam cán bộ Cộng sản trở thành một người kỳ quái, nói dai, nói dở, nói dài, nói dối. Mọi thủ đoạn lừa bịp dân chúng Việt Nam đều sẽ thất bại. Không riêng gì Cộng sản, những chính trị gia bắt chước theo Cộng sản dùng thủ đoạn để lừa bịp dân chúng Việt Nam cũng bị dân chúng nhìn như tên hề diễu dở.

No comments: