CHƯƠNG BA (tiếp theo)
GIAI ĐOẠN MỚI
Bẩy
năm qua, bẩy năm đã lôi cuốn biết bao nhiêu tiền và máu, tất cả những
nỗ lực, cố gắng của chính phủ Pháp đã vượt bực mà chưa một viễn tượng
hòa bình nào le lói ở chân trời Việt Nam.
Về
quân sự, nước Pháp không thể thua trên chiến trường Việt Nam nhưng cũng
không thể nắm chắc phần thắng. Cộng sản Việt Nam ngày nay không phải
chỉ là những toán du kích quân lén lút những nhóm người chiến đấu đơn
độc lẻ loi, mà là một tổ chức quy mô vững mạnh, có hàng sư đoàn chính
quy quân tinh nhuệ có nhiều căn địa rộng lớn và có liên lạc mật thiết
với toàn bộ thế giới cộng sản.
Về
chính trị, nước Pháp đã noi theo một đường lối từ mấy lâu nay: Từ hình
thái Bảo Hộ đến liên kết tương hỗ, từ Bộ Thuộc Địa, Bộ Pháp Quốc Hải
Ngoại đến Bộ Quốc Gia Liên Kết, cố gắng biến hóa người dân ‘’Bản xứ
thuộc địa’’ nâng họ thành ‘’công dân’’ trong Khối Liên Hiệp Pháp.
Nhưng
trên thực tế, người dân Việt Nam hình như vẫn chưa cảm thấy một thay
đổi nào đáng kể, chưa nhận thấy điểm bộc phát mặc nhiên của tình thế và
thời gian.
Nói
đến Liên Hiệp Pháp, người ta chưa có một hiểu biết rõ ràng và ngay cả
những người hữu trách cũng chưa xác định được minh bạch (hay chưa muốn
xác định ?) quan niệm về Pháp Lý công dân tình của Liên Hiệp Pháp.
Tình trạng ấy đã kéo dài hết năm này qua năm khác, tốn giấy mực, tốn thời giờ, hại người, hại của.
Bẩy
năm qua, biết bao biến chuyển dồn dập đã thúc đẩy chính phủ Pháp phải
khêu một điểm sáng mới trong cuộc giao thiệp Pháp-Việt-Mên-Lào: Bản
Tuyên Ngôn ngày 3 tháng 7.1953.
Bản
Tuyên Ngôn đó là khởi điểm cho một cuộc đàm phán tương lai với mục đích
hoàn tất nền Độc Lập của Việt Nam của các Quốc Gia Liên Kết, xác định
sự liên lạc, đặt nền tảng cho một hợp tác lâu bền giữa Pháp và Việt.
Chính
phủ Pháp muốn dân chúng Việt Nam thành thực hợp tác với Pháp trong cuộc
chiến đấu chống kẻ thù chung của toàn thể những người tự do tư sản.
Để
đạt mong ước đó, chính phủ Pháp long trọng tỏ rõ chính sách và ý chí
muốn trả Độc Lập hoàn toàn cho các nước Liên Kết và cũng đồng thời tìm
kế hoạch quân sự mới để hy vọng chấm dứt chiến tranh.
Lập trường của chính phủ Pháp tóm tắt:
Một Cuộc Liên Minh Mới.
Đặt
trên căn bản bình đẳng và hỗ tương. Pháp và các nước ở Đông Dương sẽ
bắt tay kiến tạo một căn nhà mới, xây dựng và phát triển một tình hữu
nghị vững bền.
Một Bước Tiến Thẳng Và Mau.
Con
đường Liên Hiệp Pháp sẽ không còn bị che lấp bởi những khóm bụi quanh
co, cây cành trở ngại. Đường đi tương lai sẽ thẳng tắp, ai cũng có thể
nhìn rõ và chính phủ Pháp sẽ đem hết tâm lực thúc đẩy cuộc tiến triển đã
phát khởi, bước nhanh đến một Liên Hiệp Pháp hoàn toàn bình đẳng, tự
do.
Trao Trả Nhưng Không Bỏ Mặc.
Nước
Pháp muốn có một ý nghĩa phân minh về trận chiến tranh ở Việt Nam, một
trận chiến tranh rắc rối đến nỗi người ta thật khó mà giải nghĩa cho
đúng đắn.
Mắc
vào chiến cuộc ở Việt Nam nước Pháp không thể bỏ mặc hoặc cứ cố bám
riết. Nước Pháp có thể tao trả Việt Nam cho chính phủ Việt Nam, một cuộc
trao trả mà nước Pháp chỉ còn tồn tại những quan hệ tinh thần.
Một Nền Tảng Bang Giao Tương Hỗ, Cộng Đồng Quyền Lợi.
Khi
Việt Nam đã độc lập hoàn toàn, mối bang giao Việt-Pháp sẽ đặt trên nền
tảng tương thân, tương hỗ. Chính phủ Pháp sẽ theo những khế ước để thực
hiện nhiệm vụ của mình ở Đông Dương. Khế ước ? Đó là sự tiếp tục công
cuộc giúp đỡ tối cần thiết cho Việt Nam bằng mọi phương tiện sẵn có của
Pháp.
Luật
cung cầu và tất cả những sự lựa chọn cung cầu cân xứng sẽ được đặt ra,
tiến tới điều hòa và cộng đồng quyền lợi của các nước hội viên Liên Hiệp
Pháp.
MỘT LIÊN HIỆP PHÁP MỀM DẺO VÀ LINH ĐỘNG
Về
quân sự chính phủ Pháp mong muốn các nước Liên Kết dành địa vị Tổng Tư
Lệnh cho một vị Tướng Pháp cũng như Tây Âu dành địa vị đó cho một Đại
Tướng Hoa Kỳ.
Đó là vấn đề cốt cán, nếu không thì ‘’không thể có Liên Hiệp Pháp’’.
Giữa
thời đại liên minh, các lực lượng dồn xu hướng tất nhiên tự tìm nhau
kết hợp để tồn tại. Như vậy, các nước hội viên trong Liên Hiệp Pháp phải
liên kết với nhau, phải ‘’dung hòa một cách tin tưởng và bền vững các
chính sách ngoại giao’’. Nói cách khác, trong Liên Hiệp Pháp, chính sách
ngoại giao chỉ có một.
Về kinh tế, Pháp mong muốn những quyền lợi nhường nhau phải đủ để ‘’quân bình’’ sự hấp dẫn của thị trường ngoại quốc.
Tiếng
Pháp, một thứ tiếng, theo Pháp, đã từng làm ‘’lợi khí cho cấp ưu tú của
các Quốc Gia Liên Kết để học hỏi về chính trị và giải phóng quốc gia’’
phải được một địa vị ưu đãi ở các cấp Trung Học…
Nói
chung, vấn đề Đông Dương theo chính phủ Pháp sau ngày 3 tháng 7 là
‘’không phải thanh toán mà chỉ sửa đổi lại các quy chế, hùn vốn thêm và
phân phối lại trách nhiệm’’.
Tình
thế khách quan và chủ quan đã bó buộc chính phủ Pháp phải tỏ ra lập
trường mình, phải thành thực và mau chóng hoàn bị nền Độc Lập của các
quốc gia trên Bán Đảo Đông Dương.
Cuộc chiến nóng tại Cao Ly đến ngày tàn, chẳng lẽ còn riêng nước Pháp phải chịu đổ máu mãi ở vùng Đông Nam Á ?
Hành
động bỏ nước ra đi của Mên Hoàng Shihanouk, những thúc dục của chính
phủ Việt Nam, trận đánh xứ Lào của Việt Minh tháng 4.1953, tất cả là
những yếu tố phát sinh nhanh chóng ra Bản Tuyên Ngôn 3 tháng 7.
Vấn
đề Việt Nam, quanh co khúc khuỷu, tổng hợp trên hai phương diện chính
trị và quân sự, trước kia thuộc quyền cố Thống Chế De Lattre de Tassigny
nay lại ủy nhiệm cho hai người Đại Sứ M. Dejcan và Đại Tướng Navarre.
Chính phủ Pháp phải đứng trước hai việc ảnh hưởng lẫn lộn như bóng với hình:
-
Đàm phán, trao trả Việt Nam Độc Lập để chính phủ Quốc Gia Việt Nam đủ
khả năng và phương tiện lao mình vào cuộc chiến đấu chống việt cộng.
Đó
là nhiệm vụ chính của ông Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Liên Kết, của Đại Sứ
Dejcan, một nhiệm vụ thực ra chẳng rắc rối khó khăn tí nào nếu mọi người
đều tín nhiệm nhau và đều ngay thẳng.
Hành
động quân sự, tấn công đánh đuổi Việt Minh để giúp chính nghĩa quốc gia
để đặng phát triển khỏi bị lý tưởng quốc tế xâm phạm, đè nén. Đó là bổn
phận Tổng Tư Lệnh Quân Đội Đại Tướng Navarre, vị Tướng ít tuyên bố,
nhũn nhặn, sắc cạnh.
Trong khi cuộc chờ đợi đàm phán, chờ đợi hành động dứt khoát về chính trị, biện pháp quân sự được phát triển mạnh mẽ.
Đặt chân đến chiến trường Việt Nam, Tân Tổng Tư Lệnh quân đội viễn chinh đã nhận rõ chân tình trạng:
-
Vấn đề uy tín của Pháp: ‘’Từ hai năm nay, nhìn vào bản đồ quân sự, phải
nhận rằng chúng ta đã lùi rõ rệt, những vết đỏ đánh dấu cuộc tiến của
Việt Minh đã lan rộng ở Trung Châu, ở xứ Lào hay xứ Thái, chỗ nào họ
cũng len lõi được vào rất nhiều trừ một vài vùng quanh những pháo lũy cố
thủ. Tại Trung Việt, đối phương cũng kiểm soát được nhiều vùng và đã có
những sự len lõi về phía sông Cửu Long…Toàn thể không cho ta lạc quan
lắm…’’
-
Nhận xét của Đại Tướng Navarre đã chứng minh khả năng của Việt Minh,
quyền chủ động của họ trên chiến trường nói chung. Việt Minh có thể khởi
thế công ở bất cứ chỗ nào, thời gian nào và đối lại, quân đội Pháp phần
lớn phải ở trong thế phòng ngự, thụ động về chiến lược.
- Đã lúng túng trong sự kém thế, quân đội viễn chinh lại còn bị thiếu cả cán bộ.
Biết
rõ giá trị quan trọng thường xuyên của các cấp chỉ huy, Việt Minh huấn
luyện cho bộ đội họ khi xung trận chỉ nhằm cấp chỉ huy đối phương mà
khai hỏa trước tiên. Chính sách nguy hiểm ấy đã làm cho quân đội Pháp bị
một lỗ hổng trong hàng ngũ cán bộ. Trước khi mỗi tiểu đoàn có thể có 28
sĩ quan, 110 hạ sĩ quan người Pháp, ngày nay những con số đó chỉ còn là
những con số mong mỏi.
Khủng hoảng về nhân số gây ra khủng hoảng tinh thần.
Thường
khi có những cán bộ phải đóng dai dẳng ở những đồn lẻ xa xăm không được
thay thế đúng kỳ hạn. Tình trạng đó làm tinh thần họ sút kém, uể oải,
chễnh mãng, và đấy là tất cả của lý do thất bại, của mất Đồn trước tinh
thần xung phong cuồng nhiệt hung hãm của đối phương.
- Điểm thứ ba là giá trị quan trọng về kinh tế, chính trị, chiến lược của đồng bằng Bắc Việt.
Kinh
Tế: Đồng Bắc Bắc Việt là một vựa lúa, giầu người, giầu của. Để lọt vựa
lúa đó vào tay Việt Minh tức là giúp họ thêm phương tiện kéo dài cuộc
chiến tranh trường kỳ tàn khốc. Từ 1947, quân đội Võ nguyên Giáp chỉ
trông cậy vào sức sản xuất nghèo nàn của nông dân Việt Bắc, của miền đất
sỏi Trung Du và Thượng Du. Đến 1950, tuy nhờ thêm được gạo Trung Cộng
tiếp tế, Vệ Quốc Quân vẫn phải ngày hai bữa cơm mắm muối trắng, chẳng
hơn được chút nào. Nay nếu cướp được Đồng Bằng Bắc Việt, Việt Minh sẽ có
ngay tại chỗ một kho lương thực đầy ‘’gạo trắng, cá tươi’’, họ sẽ thêm
hơi thêm sức để gây thêm nguy hại.
Chính
Trị: Nói đến Đồng Bằng Bắc Việt là phải nói đến Thủ Đô Hà Nội, Cố Đô
của các triều vua chúa, là Thăng Long Thành, là nơi phát sinh ra lịch sử
của Tổ Quốc Việt Nam.
Hà
Nội , bên bờ sông Nhị Hà, nằm giữa Đồng Bằng Bắc Việt có một giá trị về
tinh thần cũng như về chính trị rất quan trọng đối với Quốc Gia Việt
Nam, cũng như Ba Lê đối với nước Pháp.
Về
phương diện chiến lược, nếu việt cộng chiếm được Đồng Bằng Bắc Việt,
trước hết căn cứ địa của nọ sẽ liền được với miền Bắc Trung Việt vào tận
Kinh Thành Huế, điểm thứ nhì, cả vùng Bắc Ai Lao sẽ mất theo, hợp với
Bắc Việt thành một căn cứ địa tròn chĩnh, chắc chắn, đủ ưu điểm để phục
vụ một trận chiến tranh rộng lớn, uy hiếp Miến Điện, Thái Lan…điểm thứ
ba, hải phận quan trọng của miền Bắc Đông Dương sẽ lọt vào tay việt
cộng. Sự chuyên chở tiện lợi, rẻ tiền bằng đường thủy sẽ giúp Việt Minh
thêm nhiều vũ khí và việc mất hải phận miền Bắc sẽ nguy hại trực tiếp
đến hải phận miền Nam.
Nói
tóm lại, nếu quân đội Pháp không giữ được Đồng Bằng Bắc Việt là đã vô
tình tạo một viên trái phá để bắn vỡ vùng Đông Nam Á sau này.
Muốn dành lại quyền chủ động đã mất qua tay Việt Minh từ Thu-Đông 1950, Đại Tướng Navarre chuẩn bị áp dụng một kế hoạch mới:
A.- Quật khởi và giữ vững tinh thần quân đội.
Nếu
chiến trường Việt Nam từ vài năm nay không làm tổn hại được giá trị
truyền thống vững chắc của đoàn quân viễn chinh thì ít nhất cũng đã làm
chút ít oai hùng và khiến một số binh sĩ phải uể oải, chán nản. Tình
trạng tâm lý đó không thể nào tránh khỏi trước lối đánh trường kỳ du
kích chiến trong rừng rũ, trong bùn lầy, quân đội viễn chinh phải uể oải
vì hai lý do căn bản:
-
Chiến trường Việt Nam tượng trưng một lối đánh đặc biệt, chuyên dùng
mưu kế thâm sâu và ác độc khác hẳn luật lệ nguyên tắc nói chung của mọi
chiến lược cổ điển hay tối tân. Từ lối đánh mìn, giao thông chiến đến
những đơn vị bạch binh sử dụng mã tấu, mác ‘’búp da’’, từ đơn vị ‘’độn
thổ, độn thủy’’ đến lối đánh ‘’bàn chông’’ v.v…tất cả đều do những mưu
mẹo hiểm độc kiểu Á Đông mà xuất hiện. Quân đội Pháp gần như phải đánh
nhau với bóng, ít khi tìm thấy đúng địch thủ của mình.
-
Lý do thứ hai thuộc phạm vi chính trị. Tất cả các cuộc cãi vã trên báo
chí, sách truyện, tất cả những mâu thuẫn về ý kiến của các chính trị gia
Pháp trong vấn đề Việt Nam đã lủng củng, dài dặc, rườm rà hình như
không bao giờ có thể chấm rứt quanh tấm thảm xanh…
Để giữ vững tin thần và những đức tính tốt đẹp của binh sĩ, kế hoạch mới nhằm những nhiệm vụ chủ quan:
-
Xác định ý nghĩa của mọi cuộc hành binh của mọi kết quả đã thu lượm
được. Làm như vậy, từng binh sĩ sẽ có một nhận định tổng quát về tác
dụng và hành động của mình trên chiến trường, trong cuộc hành binh. Họ
sẽ tự ước lượng giá trị những cố gắng của chính họ. Do đó, binh sĩ tự
tăng phần hoạt động, vui vẻ hăng hái ở tuyền tuyến. Họ sẽ hiểu rằng
những cố gắng cá nhân có thể quyết định phần lớn tương lai cuộc chiến
tranh, tương lai hòa bình, tương lai của chính bản thân họ.
-
Phân nhiệm dứt khoát. Sự lộn xộn trong vấn đề chỉ huy thường không đem
lại trách nhiệm hẳn hoi rõ rệt cho cán bộ. Đó là một khuyết điểm do nạn
thiếu cán bộ đề ra. Muốn thanh toán nạn ‘’vá víu’’ cán bộ quân sự, kế
hoạch mới nhằm việc đòi hỏi thêm ở chính quốc một nghìn sĩ quan ngoài
việc thực hiện tại chỗ chương trình phân nhiệm thật rõ rệt.
-
Nhiệm vụ chủ quan thứ ba là vấn đề lực lượng dự trữ. Lực lượng dự trữ
đòi hỏi thêm một ngân khoản mới. Nhờ viện trợ Mỹ, việc đó có thể dễ dàng
thực hiện.
Quân
đội viễn chinh còn được thêm sự phụ lực của quân đội ba Quốc Gia Liên
Kết (Nói riêng Quân Đội Việt Nam với con số 200.000 người trong năm 1953
và tương lai 1954 có thể có 300.000, nếu được huấn luyện kỹ càng sẽ có
thể dần dần thay thế quân đội Pháp).
B.- Giành dật lại quyền chủ động chiến trường.
Thời
gian đã làm mất phần giá trị của hệ thống pháo đài bê tông bao quanh
Đồng Bằng Bắc Việt. Nếu các chiến lũy xây dựng từ thời cố Thống Chế De
Lattre có tác dụng ngăn cản đợt sóng xung phong của bộ đội Võ nguyên
Giáp thì ngược lại cũng đã khiến quân đội Pháp phải tập trung, mất tính
chất lưu động lanh lẹ trong phạm vi chiến thuật.
Kế hoạch của Đại Tướng Navarre chủ trương:
-
Không một đồn vô ích: Một đồn binh, một pháo lũy, chỉ lợi ích khi nào
tự nó có một giá trị chủ động chiến trường, tự nó lăn mình vào cuộc
chiến đấu. Nếu chỉ giữ riêng vị trí thụ động và tinh thần ngăn ngừa
phòng ngự thì đồn đó không góp được phần kết quả của mình trong chính
sách mới nhằm giành lại thế chủ động toàn diện.
-
Không một mục tiêu cho bộ đội Việt Minh: Tất cả những đồn lẻ loi kém
tác dụng cần thiết đều triệt bỏ để thu hẹp mục tiêu tấn công của Việt
Minh và thanh toán được những chuyển giao thông chuyển vận giữa các đồn,
tránh được nạn phục kích, giao thông chiến của đối phương.
-
Không thụ động trong pháo lũy: Quân đội sẽ tiến ra khỏi pháo lũy, đi
sâu vào đất địch, tìm địch và đánh địch ở căn cứ họ. Từ việc chiếm lại
quyền của động chiến thuật tiến đến giữ quyền chủ động chiến lược, bắt
buộc đối phương phải hoạch định lại kế hoạch của họ.
-
Không hành binh cố định trong phạm vi thời gian: Từ trước, mọi cuộc
xuất binh đều dựa theo thời gian cố định, tiến quân lúc mờ sáng để nghỉ
chân khi trời xẫm tối. Ngày là của quân đội viễn chinh, đêm là du kích
đối phương. Không bên nào bàn luận với bên nào mà thời gian như đã được
thỏa thuận quy định như vậy.
Kế
hoạch mới nhằm mục đích tấn công hoặc phản công trên khắp chiến trường,
tiến quân liên tiếp vào căn cứ Việt Minh không để cho họ kịp sửa soạn
hay chuẩn bị ứng đối.
Kế hoạch của Đại Tướng Navarre còn gắn liền hoạt động quân sự với tiến triển chính trị: Nền Độc Lập của các nước Liên Kết.
Nền
Độc Lập Việt Nam bảo đảm vấn đề phát triển Quân Đội Quốc Gia và chỉ có
Quân Đội Quốc Gia Việt Nam mới có đủ yếu tố chính trị cần thiết trong
trận chiến tranh chống việt cộng. Đó là một điển tương quan căn bản mà
Đại Tướng Navarre đã chú ý nhấn mạnh:
‘’Trận
chiến tranh Đông Dương không phải là một trận chiến tranh Tây phương mà
người ta cần điều khiển với những tiếp liệu khổng lồ về chiến cụ và
tiền bạc. Nó cũng không phải là trận chiến tranh thực dân. Đó chỉ là một
trận nội chiến có tính cách quốc gia. Vậy trận chiến tranh ấy chỉ có
thể thắng được bởi dân tộc Việt Nam chứ không phải bởi một ai khác’’.
Lời
giải thích trên đây của Trung Tướng Chassin nguyên Tư Lệnh Không Quân
Viễn Đông mới chỉ đúng một phần nào về phương diện lý thuyết nhưng thực
ra điều đó chưa được toàn thể dân chúng Việt Nam nhận thấy rõ rệt khi
hãy còn ‘’cảm giác’’ sống trong nền ‘’Độc Lập thiếu thốn’’. Chừng nào
‘’cảm giác’’ đó còn tồn tại, chừng đó nhiệm vụ quân sự của đoàn quân
viễn chinh còn nặng nề và vẫn ‘’cảm’’ thấy phải đơn thương độc mã đối
phó với quân đội Việt Minh.
Lỗi đó tất nhiên riêng ở những người làm chính trị, những người lãnh đạo đường lối chính trị Pháp sống trong nền Đệ Tứ Cộng Hòa.
CHIẾN TRƯỜNG ĐÔNG DƯƠNG VỚI BA THẮNG LỢI
Tháng
7.1953 mở đầu hai cuộc hành binh lớn của ‘’Thời Navarre’’, hai cuộc
hành binh quật khởi bắt buộc quân đội Võ nguyên Giáp phải tăng thêm ý
thức chuẩn bị và không được khinh địch, đó là trận Hirondelle tại vùng
Ải Nam Quan và trận Camargue trên chiến khu Quảng Trị.
Trận
Hirondelle bắt đầu sớm ngày 18 tháng 7 dưới quyền điều khiển trực tiếp
của Thiếu Tướng Gilles, 5.000 quân với sự chỉ huy của Đại Tá Ducourneau
bất thần rơi từ không trung xuống các động chứa đầy vũ khí bên giòng
sông Kỳ Cùng, nơi cách đây hơn hai năm, quân đội Pháp đã từng làm chủ.
Để
bảo vệ đường về cho bộ đội nhảy dù ở Lạng Sơn, binh sĩ Liên Hiệp Pháp
một mặt nhảy dù xuống Lộc Bình cách Lạng Sơn 27 cây số trên khúc đường
số 4 Lạng Sơn-Khe Tù, một mặt tiến quân từ Hải Phòng đến Tiên Yên đón
tiếp.
Cuộc
hành binh chớp nhoáng đã đem lại ngạc nhiên cho Việt Minh vì họ chắc đã
khinh thường lực lượng quân Pháp từ sau Thu-Đông 1950.
Trận Hirondelle nêu rõ:
-
Quân đội Pháp đã cụ thể hóa được nhanh chóng kế hoạch Navarre áp dụng
chiến thuật lưu động trong cuộc tấn công chủ động vào hậu địch. Nửa vạn
quân bất tình lình đánh phá hậu tuyến địch và rút lui một cách cực kỳ
nhanh chóng (Rút khỏi Lạng Sơn ngay đêm 17).
-
Trận đánh xứ Lạng còn có một giá trị về thời gian vô cùng quan trọng.
Thế giới tự do đột nhiên nhìn vào trận Lạng Sơn, phấn khởi và tin tưởng.
Đó là một hành động thực tế thức tỉnh lại lòng tin của mọi người đang
bị tinh thần chiến bại ám ảnh.
-
Ngoài những kết quả về phương diện quân nhu vũ khí (Việt Minh mất
18.000 lít ét-săng, 250 lốp xe vận tải 6 xe vận tải, 57 động cơ xe hơi, 8
chiếc máy làm dụng cụ, 1 máy phát điện, một ổ điện thoại, 1.000 thước
khối đạn dược, 1.000 súng liên thanh các cỡ…) trận Lạng Sơn còn đem lại
cho binh sĩ Pháp chí phấn khởi chiến thắng, thêm tự tin ở năng lực của
mình.
Trận đánh lớn thứ hai phát động ngày 29.7.53.
Cuộc hành binh Camargue cách cuộc hành binh Hirondelle 11 ngày, xảy ra trên ‘’Dãy phố buồn thiu’’ miền Nam Quảng Trị.
‘’Dãy
phố buồn thiu’’ là căn cứ địa của một số tiểu đoàn thuộc sư đoàn 325,
sư đoàn giữ Bình-Trị-Thiên, khu hắc búa nhất trên chiến trường Việt Nam.
Một năm trước, tháng 7 và 8.1952, những cuộc hành binh Quadrille,
Sauterelle đã từng làm mưa gió trên khu Mỹ Lợi, Phú Vang, gây tổn thất
nặng cho trung đoàn 101 (thuộc sư đoàn 352).
Trước
khi khởi trận Camargue, không quân Pháp đã luôn luôn đánh phá các cuộc
chuyển dịch khả nghi trong khu vực, trái với tính chất tuyệt đối bí mật
của trận nhảy dù Lạng Sơn, quân đội Việt Minh ở ‘’Dãy phố buồn thiu’’ đã
được báo hiệu trước bằng những trận oanh tạc của nhóm không quân chiến
thuật miền Trung Việt. Những phi đội khu trục oanh tạc cơ B-26 và
Bearcat liên tiếp tưới bom xuống khu Tam Giác, một giải làng mạc chạy
dài từ Tây-Bắc sang Đông-Nam miền Nam Quảng Trị, dựa vào cồn cát đối
diện với biển xanh, nơi trung đoàn 95 đã phải thay thế cho trung đoàn
101.
Sáng
ngày 29 tháng 7, từng đợt phi cơ xuất phát từ căn cứ Bắc Việt chở hàng
ngàn quân nhảy dù dưới quyền Đại Tá Grandremy rầm rộ bay đến khu vực
hành binh. Rồi từ mặt bể, binh sĩ ào ạt đổ bộ lên phía Bắc, vùng An Hội.
Từ căn cứ Huế, những xe lội nước, xe thiết giáp tiến quân bao vây chận
vùng Tây. Khu Tam Giác bị quây tròn, chặt chẽ.
Trung
Tướng G. Leblanc, Tư Lệnh Lục Quân Trung Việt, người điều khiển hơn một
vạn quân trong trận Camargue đã thu được những kết quả gì ?
Trước
hết: ‘’2 tiểu đoàn Việt Minh bị thất tán và bị tiêu diệt một phần’’,
‘’Tất cả các căn cứ Việt Minh trong khu vực Tam Giác của dãy phố buồn
thiu, mối hăm dọa cho Quốc Lộ số 1 và Thành Phố Huế, đã bị phá hủy…’’
Thế
là trong vòng nửa tháng, hai cuộc hành binh chủ động đã phát hiện cách
xa nhau hằng trăm, sáu trăm cây số, nhanh và mạnh. Quân đội Việt Minh bị
đánh bất ngờ chỉ còn kịp chạy và để lại hàng kho vũ khí.
Chiến tranh Đông Dương đã tiến vào một bước ngoặc mới, hy vọng cho quân đội Pháp.
Vừa
lúc Hoa Kỳ ký kết ngưng bắn ở Cao Ly và có dư luận xôn xao rằng như vậy
là Mỹ ‘’đầu hàng’’ cộng sản, thì ở Việt Nam, Đại Tướng Navarre cố gắng
dùng những miếng đòn táo bạo: Hai ‘’trái đấm’’ dương Đông kích Tây mục
đích buộc Đại Tướng Việt Minh phải thay đổi chiến thuật của mình.
Trận
Camargue đã chứng tỏ khả năng liên hợp những tiểu đoàn miền Bắc Việt
với những đơn vị miền Trung Việt. Phương tiện và phương pháp di chuyển
nhanh chóng của quân đội Pháp đã được khôi phục sẽ làm cho Việt Minh
phải chú trọng nhiều về phòng thủ, tự vệ, bỏ lỡ mọi cơ hội tấn công
trong những mùa chiến dịch của họ.
Mùa chiến dịch!
Danh
từ quân sự ấy phát sinh từ 1947 sau cuộc hành binh LEA trên chiến khu
Việt Bắc, đã ẩn ý nghĩa dài rộng của cuộc chiến tranh trên phạm vi chiến
lược.
Nguyên
tắc ‘’không nên hành binh vào mùa Hạ’’ do Tướng Lyautey nêu lên hàng
bao chục năm về trước vẫn thường được các Tướng lĩnh Pháp noi theo ở Bắc
Việt.
Từ
1947, cứ đến Thu-Đông là Việt Minh phải sửa soạn, chuẩn bị chờ đợi
những cuộc tiến quân của bộ đội Pháp. Để ngăn ngừa những cuộc hành binh
trong mùa Thu-Đông khô ráo, Việt Minh cố gắng mở những trận đánh chận
đầu và từ Thu Đông 1950, sau trận ác liệt Cao Bằng, Lạng Sơn, ‘’quyền’’
mở chiến dịch trong ‘’mùa’’ đã chuyển qua tay bộ tư lệnh Việt Minh.
Hai
năm rưỡi trôi qua…Ngày nay Đại Tướng Navarre quyết ý lấy lại quyền chủ
động. Những cuộc hành binh mới đều tiềm tàng một tính chất ‘’muôn thuở’’
trong chiến cuộc Đông Dương: Ngăn ngừa đối phương, chận họ trước mùa
chiến dịch.
MỘT CUỘC RÚT QUÂN CHIẾN THẮNG
Quân
đội Pháp bất thần rút khỏi Nà Sản, một pháo lũy được xây dựng sau cuộc
lui quân ở xứ Thái hồi cuối tháng 10 năm 1952. Rời bỏ Nà Sản, một
‘’thắng lợi rút lui’’ theo chiến thuật ‘’con dím thu hình’’.
Pháo
lũy Nà Sản tuy đã gây nhiều thiệt hại cho Việt Minh nhưng Nà Sản đã
không ngăn nổi Việt Minh trên đường tiến quân sang Lào. Nà Sản chưa cắt
đứt hoặc làm xáo lộn được hậu quân của Việt Minh. Nà Sản chưa làm phân
tán được các lực lượng đối phương trong xứ Thái…Hơn nữa Nà Sản cách quá
xa Đồng Bằng Bắc Việt, cách xa căn cứ địa của Liên Quân Việt-Pháp nên đã
gây vô cùng tốn kém về phương diện tiếp tế, chuyển vận.
Rút
lui Nà Sản, một cuộc rút lui quy mô lành lặn chưa từng thấy. Ngàn rưởi
tấn vũ khí, chiến cụ, ngót 2000 dân chúng và hàng ngàn binh sĩ.
Từ
9 tháng 8, mặc dầu thời thiết xấu, một số lớn các phi cơ vận tải Dakota
và Bristol đã bí mật chuyển dần quân dân và dụng cụ vũ khí từ pháo lũy
Nà Sản về Hà Nội. Cuộc rút lui bằng đường hàng không do sáng kiến của
Trung Tướng Cogny Tư Lệnh miền Bắc Việt, ‘’trận rút lui’’ còn nguy hiển
gấp bội phần trận Hirondelle (Lạng Sơn).
Cuộc rút lui được áp dụng theo nhiều chiến thuật nghi binh:
-
Hành quân quanh điểm tựa. Trong vùng ngoại vi phòng thủ Nà Sản, từ điểm
dựa nọ đến điểm dựa kia, một hai đơn vị chia nhau hành quân và canh gác
trong khi các binh sĩ ở các đồn xa nhất lục tục kéo về sân bay.
-
Tấn công phòng ngự. Trung Tướng Cogny điều động binh sĩ và thả một tiểu
đoàn quân nhảy dù xuống Nà Sản mục đích đánh lừa Việt Minh khiến họ lầm
tưởng quân đội Pháp sửa soạn tấn công xứ Thái. Lực lượng Việt Minh
quanh đấy sẽ luôn luôn trong tình trạng báo động.
-
Tập hợp giữa hệ thống phòng thủ. Từng toán nhỏ binh sĩ trên đường về
sân bay tập hợp ở giữa hệ thống phòng thủ theo chính sách của ‘’kẻ chạy
đi còn quay trở lại’’ khiến Việt Minh có thể suy luận lầm lẫn lối lui
của địch thủ.
- Từ những đồn tập hợp quân nói trên, binh sĩ bí mật rút lui dần.
-
Phút báo hiệu sau chót, những binh sĩ trừ một đơn vị ở lại phòng giữ
‘’khắc cuối cùng của Nà Sản’’, từ từ về sân bay lên những chuyến phi cơ
sau rốt.
Trưa
ngày 12 tháng 8, đơn vị cuối cùng của pháo lũy Nà Sản, một Tiểu Đoàn
Thái dưới quyền Đại Úy Archambault, Thiếu Úy Marcowiak đã về tới Phi
Trường Bạch Mai, hoàn tất một cuộc thành công vĩ đại: Rút lui không phí
một viên đạn và không bị một vết thương truy kích.
Cuộc
lui quân kỳ diệu ở Nà Sản đã giúp Bộ Tư Lệnh Pháp thu hồi được lực
lượng cần thiết để tăng cường các đơn vị lưu động, sử dụng trong những
cuộc hành binh tương lai.
‘’…Ba
cuộc hành binh để tỏ cho địch cũng như cho toàn thế giới biết rằng các
lực lượng Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương lại làm chủ động…’’
Đó là lời tuyên bố của Đại Tướng Navarre trong một bức thư gửi các lực lượng chiến đấu.
Ba cuộc hành binh:
- Hirondelle 18.7.1053 đối phương bị đánh vào hệ thống tiếp tế mà không gây được một phản ứng nào quan trọng.
-
Camrgue 29.7.1953 ‘’Dãy phố buồn thiu’’ đã bị quân đội Pháp tảo thanh,
kiển soát và quân đội Việt Minh ở vùng đó đã phải thất tán.
Nà Sản 9.8.1953 các Tiểu Đoàn của Liên Hiệp Pháp đã rút khỏi đồn cố thủ một cách yên ổn bằng không vận.
Tuy là những cuộc hành binh khác nhau về hình thức nhưng vẫn đồng một tính chất, chủ động hoàn toàn.
‘’…Tôi biết rằng tại các nơi tập trung của Việt Minh, họ đang sửa soạn cuộc phản công và cuộc phục thù.
Tôi biết rằng chiến dịch mùa Thu này gay go lắm.
Cũng
chỉ vì muốn dự phòng chiến dịch đó mà Bộ Tư Lệnh đã tấn công trước các
lực lượng Việt Minh để ngăn ngừa không cho họ tổ chức…’’
Đó là lời kết luận của Đại Tướng Navarre về tính chất của những cuộc hành binh mới mẻ.
ĐỒNG BẰNG BẮC VIỆT
Đồng
Bằng Bắc Việt là nơi hai bên quân đội đối thủ luôn luôn rình mò tìm
kiếm nhau, nhằm những chỗ chông chênh sơ hở của nhau để đánh úp bất nhờ.
Muốn
chấm dứt trò chơi ‘’ú tim’’ đó, Bộ Tư Lệnh Pháp mở một loạt những trận
đánh lớn cùng chung một tính chất tảo thanh, diễn ra ngay sau ba cuộc
hành binh Lạng Sơn-Quảng Trị và Nà Sản:
-
Trận Tarentaise, vùng Bùi Chu, dưới quyền điều khiển của Đại Tá
Galibert. Trận Tarentaise khởi xuất ngày 5 tháng 8.1953, đã đem lại kết
quả tiêu diệt được phần lớn tổ chức hành chính kháng chiến của địch
trong vùng. Bộ Tư Lệnh Pháp đã chuyển giao lại quyền chỉ huy khu Bùi Chu
cho Đại Tá Phạm Văn Đồng với các Tiểu Đoàn Khinh Quân, ngày 1.9.53, sau
khi đánh bật Việt Minh ra khỏi địa phận.
- Trận Claude, vùng Tiên Lãng (Kiến An).
Tiên
Lãng là một Huyện, một ‘’hòn đảo’’ ở đất liền xung quanh có sông nước
bao bọc. Biển cả ở phía Nam, sông Văn Cừ chảy phía Đông, sông Thái Bình ở
phía Tây và con kênh Khuôn Ngàn phía Bắc với khu vực ‘’đầu rắn độc’’
(Tête de vipère, Ninh Giang).
Tiên
Lãng rộng khoảng 120 cây số vuông với dân cư chừng 70.000 người là một
vùng chuyên trồng thuốc lào, rất giầu có Việt Minh đã khai thác được ở
đấy, nhân lực, tiền bạc và đặc biệt sử dụng được địa hình địa vật để tạo
nên những làng kháng chiến kiểu mẫu.
Cuộc hành binh Claude dưới quyền Đại Tá Nemo, Tư Lệnh Duyên Hải, khởi xuất ngày 28.8 và chấm dứt ngày 18.9.1953.
Thanh
toán căn cứ vững chắc của Việt Minh miền bể thiết lập từ tháng 9 năm
1952, mối hy vọng của Đại Tá Nemo, là chấm dứt các cuộc phục kích giao
thông chiến trên đường số 10, chấm dứt các cuộc đột kích vào đô thị lân
cận mà hai vụ mới nhất là trận phá khó đạn Kiến An và trận phá kho
ét-săng Hải Phòng.
Đối
phó với Việt Minh vùng Tiên Lãng, với các chiến thuật ‘’độn thổ, độn
thủy’’, du kích chiến, mìn chiến, chống với những chiến đấu viên cuồng
tín ‘’muốn chết hơn là muốn hàng’’, chống với những chiến đấu viên tí
hon 12-13 tuổi, quân đội Liên Hiệp Pháp thật cũng đã phải lao đao khó
nhọc mới đạt được kết quả đầu tiên mong muốn. Chiếm lại lãnh thổ.
-
Cuộc hành binh Flandre tại Tri Lễ (Hà Nội-Hà Đông) dưới quyền Đại Tá
Vanuxem với mục đích tảo thanh một căn cứ địa của ủy ban kháng chiến
hành chính Lưỡng Hà không đem lại được kết quả khả quan lắm.
- Cuộc hành binh Brochet, một trận tảo thanh lớn nhất trên Đồng Bằng Bắc Việt.
Giữa
vùng ruộng lầy thuộc Hưng Yên, Việt Minh đã thiết lập được một căn cứ
địa rất vững chắc và từ địa điểm đó Việt Minh luôn luôn mở những cuộc
đột kích, phục kích, ẩn hiện chập chờn như ma trơi.
Một
số lớn thôn xóm sau lũy tre xanh giữa khu đồng chiêm bùn lội được Việt
Minh biến thành những ổ kháng chiến kiên cố, có hàng rào bảo vệ phòng
thủ gồm những hầm trú ẩn, canh gác xây bằng bê tông, rồi nhà nọ thông
sang nhà kia, xóm này liền qua xóm khác do những giao thông hào đào ngầm
dưới đất lại có cả những đường hầm chạy dài xa ra ngoài đồng ruộng, bờ
ao để dễ dàng tháo lui hay xuất hiện.
Tất cả mỗi cơ cấu phòng ngự lại được bao bọc bởi hệ thống ‘’Ba không’’ (Không nghe, không biết, không thấy).
Phát
khởi ngày 23 tháng 9, cuộc hành binh Brochet đã sử dụng một quân số rất
lớn đánh vào phía Bắc Hưng Yên cả phá sào huyệt của trung đoàn 42,
trung đoàn thiện chiến số một của Việt Minh trong vùng Đồng Bằng Bắc
Việt.
Nói
đến trung đoàn 42, phải nhắc tới tiền thân của đơn vị chính quy ấy:
Trung đoàn 41 và ít nhiều phần tử của trung đoàn 58 trên bờ sông Luộc,
những cuộc giao tranh nảy lửa, đẫm máu của đơn vị 41 và 58 với Trung
Đoàn Pháo Binh thuộc địa thứ IV (IV.R.A.C.M), với Trung Đoàn Bộ Binh
thuộc địa thứ 23 (23e R.I.C.) dưới thời Tư Lệnh Dèbes năm 1947, trên đường số 5, số 10, trên giòng sông Luộc.
Đối
với địa hình địa vật nguy hiểm của vùng Bãi Sậy Hưng Yên, đối với quá
trình chiến đấu mãnh liệt quả cảm của trung đoàn 42, một trung đoàn có
tương lai tiến tới sư đoàn (như sư đoàn Bình-Trị-Thiên tiền thân cũng
chỉ là một trung đoàn của ba Tỉnh Quảng Bình-Quảng Trị-Thừa Thiên, và
như sư đoàn 316, tiền thân là trung đoàn Sông Lô), Trung Tướng Cogny
quyết tâm thanh toán dứt khoát món nợ dây dưa từ những trận Citron,
Manderine, Nice 1, Nice 2 v.v…
Tấn
công trung đoàn 42, một việc khó khăn ghê gớm vì đối phương ẩn hiện
xuất quỷ nhập thần, lẩn tránh như lươn trạch, không thể mỗi lúc dễ dàng
áp đảo.
Dùng
mẹo đối mẹo, Tướng Cogny áp dụng chiến thuật ‘’điệu hổ ly sơn’’ cố gắng
dử bộ đội Việt Minh phải nhoai mình ra khỏi nơi ẩn nấp của họ.
Thoạt
tiên, một số các cuộc hành binh nho nhỏ, lẻ loi và sơ hở, tiếp diễn
lung tung quanh khu vực Hưng Yên, Hải Dương. Đó là những ‘’miếng mồi’’
có vẻ ngon lành khiến quân đội Việt Minh thi nhau nổ súng, vô tình để lộ
mục tiêu toan diện.
Sau
một cuộc suy luận tính toán kỹ càng về hỏa lực rải rác của Việt Minh,
Tướng Cogny đã nắm được chóp, đâu là quân lực chính và phụ đồng thời
phác họa được hệ thống dàn quân của trung đoàn 42 trong vùng để rồi, bất
thình lình, ngày 23.9.53, 24.000 quân Pháp-Việt nhảy sổ thẳng vào tận
hang cọp dữ, bắt buộc đối phương phải nhận giao chiến.
Từng thước đất trong khu vực gồm 3-4 trăm làng thuộc Hưng Yên bị cày xới lên như ruộng nương trước ngày gieo mạ.
Tuy
phải chịu đựng nào mìn, nào bẫy, nào bàn chông, nào những viên đạn lẻ
tẻ, bí mật, quân đội Pháp-Việt cũng đã khiến trung đoàn thiện chiến của
Việt Minh phải sức mẻ nặng nề, thiệt hại kể hàng ngàn người.
Ngoài
những trận tảo thanh lớn ở miền Đồng Bằng Bắc Việt, quân đội Liên Hiệp
Pháp còn mở nhiều cuộc hành binh khác trên khắp lãnh thổ Đông Dương như:
Trận
Savoie giữa vùng sông Bé và Hậu Giang. Nào phi đội Grunman Goose, nào
phi đội Bearcat, nào thủy đội Dinassaut, Hải-Lục-Không Quân Pháp đã tấn
công Việt Minh miền Nam nước Việt, gây được tổn thất khá nặng nề trong
hàng ngũ đối phương.
- Trận Bearn, thượng tuần tháng 9, của Tướng Cardet bên Ai Lao.
Từ
tháng 5.1953, giữa các vùng Ban Ban-Nòng Hét, dựa vào giải Hoành Sơn,
Việt Minh đã kiến tạo được nhiều ổ kháng chiến quan trọng. Cuộc hành
binh Bearh của Liên Quân Pháp-Việt-Lào đã lấy lại được kiểm soát trên
một khu vực rộng lớn, xua đuổi các đơn vị địa phương quân của đối phương
ra khỏi biên giới Trung Việt-Ai Lao và giải phóng dân chúng thoát ảnh
hưởng của cộng sản.
- Cuộc hành binh Dampierre với kết quả thu lại hai Thị Trấn Pakseng và Mường Sung (Ai Lao).
Trận
Dampiere do nhiều lực lượng bộ binh quan trọng tham dự đã phải tiến
hành một cách cực kỳ khổ nhọc trong vùng địa thế hiểm trở bên bờ Cửu
Long Giang.
Trận đánh đã diệt trừ được nạn hăm dọa thường trực của đại đội 98 Việt Minh bao quanh Thủ Đô Luang Prabang.
Tóm
lại, từ khi Đại Tướng Navarre giữ quyền Tổng Tư Lệnh, trong 3 tháng
liền, một loạt tấn công giành chủ động đã được thực hiện trên khắp chiến
trường Đông Dương.
Ý
tưởng lạc quan đó, Đại Tướng Navarre đã nêu lên rõ ràng trong bức thư
thứ hai, ngày 20,9.1953, gửi cho toàn thể binh sĩ dưới quyền.
PHẢI CHIẾM LẤY QUYỀN CHỦ ĐỘNG
‘’Ngày
hôm nay tôi có thể cho các bạn biết rõ một ý kiến. Về phương diện quân
số và dụng cụ, tôi đã được thêm những tăng viện để tôi thành lập nhiều
toán lưu động mới nữa và tăng thêm các khả năng của tôi về việc chuyên
chở bằng không vận và thủ vận. Rồi đây có thể sẽ có nhiều cuộc hành quân
bộ quan trọng bằng đường sông và đường biển hoặc bằng đường hàng không.
Về phương diện tài chính, tôi sẽ có các phương tiện để duy dưỡng đoàn
quân viễn chinh và phát triển các quân đội liên kết một cách khả quan.
Chỉ mấy tháng nữa sẽ thấy rõ tương lai.
Từ nay đến ngày ấy, chúng ta sắp phải vượt qua một giai đoạn mà lúc này tôi nói với các bạn.
Chúng
ta sắp bước vào thời kỳ của những cuộc hành binh lớn. Tôi nói cho các
bạn biết rõ ý tôi muốn. Những cuộc hành binh đó phải được điều khiển như
thế nào và ban cho các bạn ở tất cả mọi cấp bậc ‘’khẩu hiệu’’ của tôi.
Về
chiến dịch mùa Thu năm 1950, Thống Chế De Lattre đã ban cho các bạn câu
châm ngôn của Thống Chế để làm khẩu hiệu. Câu châm ngôn đó là ‘’Không
cam chịu’’. Năm nay, 1953, trước khi một chiến dịch mới bắt đầu, tôi
cũng cảm hứng về khẩu hiệu của Thống Chế mà ban cho các bạn một khẩu
hiệu, cũng như Thống Chế, tôi bảo với các bạn phải ra tay trước, phải
hành động nhanh hơn đối phưng, phải điều khiển chiến trận.
Khẩu hiệu đó là: Quyền chủ động.
Cũng
như mọi năm, chắc chắn là đối phương đợi hết mùa mưa để phóng ra những
cuộc hành binh lớn. Họ trông mong vào ảnh hưởng của một đòn ồ ạt và đột
ngột như thường lệ để nắm và giữ vững lấy quyền chủ động.
Ở
cấp bực nào chúng ta cũng phải chống lại đòn đó. Ở cấp bực tôi, tôi sẽ
nắm lấy quyền chủ động bằng cách phóng ra những cuộc hành binh lớn vào
lúc và vào nơi mà tôi sẽ lựa chọn.
Ở
cấp bực phụ trách một lãnh thổ, một khu, một tiểu khu, các bạn sẽ nắm
lấy quyền chủ động bằng những cuộc hành binh điều động tất cả các lực
lượng trừ bị địa phương, thi hành điều động tất cả các lực lượng trừ bị
địa phương, thi hành theo cùng một nguyên tắc nhưng mau chóng và kịp
thời hơn bởi vì những cuộc hành binh đó sẽ được phóng ra theo các tin
tức, tài liệu mà ta có thể lợi dụng ngay được liền đó.
Ở
cấp bực trung, khi nào hành động của các bạn được, liền liền không một
lúc nào ngưng, hình thức hành động đó được luôn luôn thay đổi, toàn có
tính cách tấn công cho đến khi Việt Minh cảm thấy thật sự là bị săn
đuổi, khi mà trong lúc giáp chiến các bạn đã biết đả kích đối phương
bằng chuyển dịch bằng hành binh của các bạn hơn là bằng hỏa lực các
trọng pháo của các bạn, ấy là các bạn đã nắm quyền chủ động rồi đó.
Nắm
lấy quyền chủ động, tương đối rất dễ. Nhưng muốn giữ được nó thì phải
luôn luôn cố gắng vì đối phương sẽ huy động hết mọi phương tiện của họ,
tìm hết mọi mưu kế để đạt lại nó khỏi tay chúng ta.
Tôi
không cho rằng ở địa vị tôi, tôi sẽ không có lúc nào phải cam chịu
quyền chủ động của đối phương. Tôi tin chắc rằng có lúc tôi sẽ phải chịu
những miếng đòn của họ, sẽ phải chống đỡ những hành động của họ, phải
bồi đắp nhiều chỗ khuyết. Nhưng lúc nào tôi cũng tìm cách và càng mau
chóng càng hay, phóng ra những cuộc trả đòn khiến cho tôi lại điều khiển
được chiến cuộc.
Ngay
ở cấp bực các bạn, thường thường các bạn cũng sẽ phải ‘’chịu đựng’’ đối
phương. Đối phương sẽ cướp mất của các bạn nhiều đồn, sẽ phục kích các
bạn nhiều trận, sẽ tấn công các đoàn vận tải của các bạn, sẽ phá hủy các
đường giao thông của các bạn. Chúng sẽ tìm cách phân tán sự hoạt động
của các bạn cho đến khi nào trong đầu óc các bạn chỉ còn có một tư
tưởng: Phải đỡ đòn. Các bạn sẽ phải lâm vào thế thủ. Nhưng dù có gặp
những trường hợp đó, nhất là trong trường hợp đó, các bạn cũng vẫn phải
giữ vững thế công, vì đó là phương sách duy nhất để nắm lấy quyền chủ
động.
Những
phương thức ấy thật giản dị, tôi muốn nói: Thật là đúng với nguyên tắc,
nhưng nhắc lại những phương thức ấy không phải là vô ích.
Nếu
trong khi chiến đấu, các bạn được lệnh phải giữ vững thì các bạn phải
giũ vững nhưng chỉ giữ với một phần các phương tiện của các bạn mà thôi.
Phần đó sẽ dùng hỏa lực kìm đối phương tại chỗ trong hệ thống bố trí,
phần đó là khối bất động.
Bao
nhiêu phương tiện của các bạn còn lại phải giữ tính cách lưu động và
tập trung sẵn sàng đánh vào nhược điểm của đối phương, sẵn sàng phản
công hoặc vào sườn chúng hoặc vào hậu vệ trực tiếp của chúng.
Lực
lượng trừ bị lưu động đó, ở cấp bực nào, trung đội, đại đội, tiểu đoàn,
trung đoàn v.v…cũng đều phải có và xuất hiện bằng những hành động ác
liệt, những cuộc di chuyển mau lẹ.
Như
vậy các bạn sẽ phải vừa đánh, vừa lui để chịu đựng một cuộc va chạm cực
mạnh mà không bị tan rã (lấy mềm trị cứng). Trong trường hợp đó, các
bạn sẽ áp dụng những phương pháp như trên. Ngay cả trong lúc rút về, các
bạn vẫn cứ giữ thế công. Một phần các phương tiện chiến đấu của các bạn
vừa đánh vừa lui nhưng phần còn lại sẽ hoạt động, hành động trong sự
chuyển dịch tiến thoái của mình, đánh những đòn thật lẹ và thật mạnh, nó
sẽ chận đứng được đà tiến của đối phương và làm đảo lộn được sự bố trí
tấn công đối phương. Họ sẽ mất nhuệ khí và mất cái thế lợi hại của họ.
Lúc Đó là lúc có thể phản công được họ và đánh bại được họ.
Bất
cứ lúc nào và bất cứ trong hoàn cảnh nào cũng cần phải hoạt động. Ở
Đông Dương, người ta đánh giá một đơn vị theo tinh thần lưu động của nó.
Tính cách ấy chứng tỏ rằng đơn vị ấy đã thiện chiến (theo ý nghĩa đầy
đủ của danh từ này) nghĩa là đã rũ sạch những hành lý không cần thiết,
chỉ giữ lại cái gì cần để có đủ sức mạnh thôi.
Điều
kiện thứ nhì để giữ vững vai chủ động là phải hành động trong sự vững
chắc. Một đơn vị trong bất cứ trường hợp nào cũng phải đề phòng.
Lúc
đóng binh, ngoài những phương pháp tĩnh động thông dụng, một đơn vị còn
cần phải tỏ ra có óc suy tính cho những toán tuần thám nhẹ và mai phục
gần hay xa chỗ đóng binh tùy theo địa thế, phải tìm ra những mưu chước
mới mẻ.
Khi
đóng binh, đề phòng tức là lập lại cách bố trí tiền phong, trắc vệ và
hậu tập, mà phải làm sao cho hợp với tính cách riêng biệt của trận chiến
tranh này. Ở đây cũng vậy, cần phải biết suy tính.
Nói tóm lại, muốn chiếm và giữ vai chủ động cần phải có gan dạ, biết suy tính, có ý chí.
Có
gan dạ để bỏ những thói quen cũ rích, những cách dàn binh quen thuộc
(người ta cho là đã đem dùng có hiệu quả rồi) mà nếu đem ra dùng lâu thì
sẽ bị tai hại.
Biết suy tính để thay thế những cách bố trí cũa bằng những phương thức mới giúp cho ta bắt trọn quân địch và sẽ được thắng lợi.
Và có ý chí để cố gắng mãi mãi.
Sau hết xin các bạn đừng quên rằng sáng kiến là một đức tính của người Pháp’’.
Đại
Tướng Navarre, khi phác họa kế hoạch, đã không quên vạch rõ từ những
nét lớn đến những nét nhỏ chi tiết trong nghệ thuật trong nghệ thuật
dùng binh, từ chiến thuật cần phải áp dụng ở cấp Tướng đến chiến thuật
cần phải theo ở cấp hạ sĩ trong các tiểu khu, lúc công lúc thủ…tất cả để
đạt mục tiêu chiến lược giành lại quyền chủ động.
Ngày
3 tháng 10.1953, một trận nhảy dù đánh úp vô cùng táo bạo của 46 binh
sĩ Mèo, Thái xuống Cóc Lếu-Lào Kay đã phá sập được chiếc cầu chiến lược
của Việt Minh dùng trong việc chuyên chở quân nhu vũ khí do Trung Cộng
tiếp viện.
Mặc
dầu đơn vị nhảy dù Mèo, Thái chỉ chiếm đóng được ở Cốc Lếu có 3 tiếng
đồng hồ, trận đánh úp đó cũng đã chứng tỏ rằng hậu tuyến của quân đội họ
Võ còn mỏng manh, vẫn thường có mặt những ổ du kích quan trọng của dân
tộc Mèo, Thái…
Với
Đại Tướng Navarre, cựu chỉ huy du kích quân của nước Pháp, Việt Minh
bắt đầu thấy mất độc quyền về phương diện chuyên môn sở trường của họ:
Du kích chiến và tình báo chiến.
TỪ TRẬN MOUETTE ĐẾN PHÁO LŨY ĐIỆN BIÊN PHỦ
Cuộc
tấn công mãnh liệt của Hải-Lục-Không Quân Pháp sau trận Hòa Bình: Hành
binh Mouette đánh Thanh Hóa, đã là một hành động cụ thể và quyết liệt
sau những lời tuyên bố giải thích đầy hứa hẹn của Đại Tướng Navarre về
quyền chủ động chiến trường.
Thanh Hóa một vùng gạo trắng nước trong, một địa điểm vô cùng trọng yếu của bộ tư lệnh Việt Minh Liên Khu 4.
Trong một khoảng 255.000 mẫu tây đất rộng, dân chúng ở Thanh Hóa, với số lượng gần 1.000.000 người đã chia làm ba loại:
- Giáo dân miền Duyên Hải.
- Dân thiểu số miền rừng núi Thượng Thanh.
- Dân tiểu thương, nông gia (chừng nửa triệu) sống ở khu vực trung tâm tỉnh.
Mùa
Đông năm 1948, những đơn vị Liên Hiệp Pháp đã một lần đổ bộ lên vùng
Cầu Giát (cách Thanh Hóa 70 cây số về phía Nam). Trận Cầu Giát đã làm
tỉnh đội bộ Việt Minh Thanh Hóa phải chịu đựng nhiều tổn thất.
Mùa
Đông năm 1949, một đầu cầu của Liên Quân Pháp-Việt được thiết lập phía
cực Nam Giáo Khu Phát Diệm. Phản ứng của bộ tư lệnh Liên Khu 4 là việc
cấp tốc phái hai tiểu đoàn chủ lực khu ra chặn giữ danh giới Thanh Hóa
đối diện với vùng Phát Diệm.
Để chuẩn bị đề phòng, bộ tư lệnh Liên Khu 4 đã phát triển tăng cường canh gác suốt dọc duyên hải và miền ruộng muối Quỳnh Lưu.
Muốn
toàn thiện hệ thống phòng ngự miền Duyên Hải, Việt Minh tổ chức một cơ
quan đặc vụ chuyên môn thu thập tin tức về các sự đi lại của những chiến
hạm Pháp ngoài khơi và ngăn ngừa phản động lực của những làng theo
Gia-Tô-Giáo.
Ngoài công an đặc vụ còn có dân quân, du kích quân và các đơn vị địa phương quân luôn luôn hoạt động kiểm soát chặt chẽ.
Việt
Minh bỏ lỏng bờ biển (không có các tiểu đoàn thiện chiến và pháo binh
đóng giữ), một là để tránh thiệt hại có thể gây nên do pháo lực của
chiến hạm Pháp, hai là có ý muốn giữ Liên Quân Pháp-Việt vào sâu trong
đất liền rồi mới nói chuyện sau.
Thanh
Hóa của Liên Khu 4 với hàng vạn quân chính quy thuộc những sư đoàn tinh
nhuệ 304, 320 với hàng vạn địa phương quân chủ lực tỉnh, chủ lực huyện
v.v…đã chịu đựng trận tấn công vĩ đại của quân đội Pháp: Hành binh
Mouette.
Nào
Hải Quân của Đô Đốc Querville rập rình đổ bộ ngoài khơi Thanh Hóa (hành
quân Pélican). Nào Lục Quân của Tướng Gilles xuất phát từ Đồng Bằng Bắc
Việt tiến vào Bỉm Sơn, Yên Xá, vào dẫy núi đá vôi bên giòng sông
Đáy…Nào Không Quân của Tướng Dechaux yểm hộ, tiếp tế dẫn đường…Tất cả
đều dưới quyền điều khiển trực tiếp của Trung Tướng Cogny, một vị Tướng
đã có nhiều thành tích oanh liệt.
Sau 23 ngày hành binh, từ 15 tháng 10 đến 8 tháng 11.1953, Liên Quân Pháp-Việt đã đạt được những kết quả gì ?
Đây là bản nhận định của những nhà chỉ huy quân sự Pháp:
‘’Cuộc
hành binh Mouette không hề nhằm mục đích chiếm đóng vĩnh viễn đất đai.
Vùng Phủ Nho Quan không có lợi gì cho chúng ta cả. Việc chiếm đóng Thanh
Hóa chưa được đề cập tuy rằng nó quan trọng hiển nhiên nhưng sau này
việc chiếm đóng ấy vẫn có thể tính đến. Chúng ta đã dùng thủy quân đánh
nghi binh vào miền Duyên Hải Thanh Hóa để đánh lừa Việt Minh, quả nhiên
Việt Minh đã bị lừa và ta đã đạt được mục đích.
Mục
tiêu chính của cuộc hành quân Mouette là làm ngăn trở mọi kế hoạch của
đối phương bằng cách ta nắm quyền chủ động khởi tác chính lúc Việt Minh
sắp sửa ra tay tấn công. Mục tiêu này đã thực hiện được.
Ngày
15 tháng 10 là ngày tấn công, sư đoàn 320 đã sẵn sàng ở điểm khởi cứ.
Thế rồi họ phải bỏ cuộc tấn công mà lui về thế thủ. Điểm khởi cứ của họ
bị rối loạn, sư đoàn 320 bị tổn thất lớn lao và lâu lắm họ mới có thể có
sức tấn công được. Nên nhớ là tất cả kế hoạch của Việt Minh đều trông
cậy ở cuộc tấn công của sư đoàn 320 là hàng ngũ tiên phong cho sức tấn
công của họ.
Mục
đích thứ hai của hành binh Mouette là ngăn chận Việt Minh không cho
tiếp tế vào phía Nam, mục tiêu này cũng đã đạt được vì các đường giao
thông bị cắt đứt ở Lai Các đã buộc đối phương phải sửa soạn một con
đường khác để tiếp tế Thanh Hóa và Trung Việt. Con đường này phải tuần
lễ nữa mới làm xong.
Mục
tiêu thứ ba là gây thật nhiều tổn thất cho toán quân đối phương uy hiếp
cả mặt Nam-Trung-Châu. Về phương diện này, ta chỉ đạt được một phần kết
quả. Sư đoàn 304 không chịu ra mặt. Nhưng sư đoàn 320 sau khi không
chịu ra mặt đã tấn công nhiều lần. Những trận đánh này rất kịch liệt, có
khi giáp la-cà, nhưng đều có lợi cho chúng ta.
Việt
Minh tổn thất cả thẩy 1141 người bị giết, 179 bị bắt tù binh, tịch thu
450 vũ khí tự động, bách kích pháo, đại bác 75, đại bác 57…Theo lời khai
của tù binh và không quân Liên Hiệp Pháp, Việt Minh có thể tổn thất
tổng số đến 1.500 người. Chúng ta không biết rõ số các binh sĩ Việt Minh
bị thương nhưng theo mức xuất tỷ lệ thông thường thì cứ một tử sĩ là có
ba thương binh, vậy số thương binh Việt Minh có thể ước ít nhất vào
khoảng 4.000 người.
Số tổn thất về phía chúng ta tuy khá quan trọng song so với đối phương thì rất ít ỏi.
Trận
Mouette mở đầu một chiến thuật phản công mới, đã hoàn toàn có kết quả.
Tiếp diễn trong những hoàn cảnh đã định đoạt từ trước và đã mang lại
những kết quả mà Bộ Tư Lệnh trù đợi. Trong số 2 sư đoàn Việt Minh mà
chúng ta dòm ngó đó, thì một không chịu ra mặt, một đã bị thiệt hại nặng
nề. Cả hai sư đoàn đã bị đứng ngoài vòng chiến trong một thời gian khá
lâu còn một sư đoàn thì bị chúng ta cầm chân ở Thanh Hóa.
Về phía hậu tuyến của chúng ta, tình hình gần hoàn toàn yên tĩnh. Được thế là nhờ một phần lớn các trận tảo thanh trước đây.
Đối
phương lại một lần nữa phải đổi lại hết kế hoạch, bây giờ ta đã gần đến
trung tuần tháng 11 mà Việt Minh vẫn chưa khởi công. Năm ngoái mới cuối
tháng 9 họ đã bắt đầu tấn công và độ khoảng 8 tháng 10 họ đã đạt được
những kết quả hẳn hoi nhờ được cuộc chiếm đóng Nghĩa Lộ.
Do
cuộc hành binh Mouette này, người ta nhận thấy những hậu tuyến, những
đường giao thông cũng như những điểm khởi cứ của Việt Minh đều không
phải là bất khả xâm phạm. Chiến thuật đột kích tấn công của chúng ta
khởi từ những căn cứ vững chắc đã khiến đối phương phải xuất trận. Còn
như trước kia trận Hòa Bình và Nà Sản cũng như trận tấn công thứ nhất
của quân đội lưu động chúng ta trong giai đoạn đầu tiên của cuộc hành
binh Mouette lại làm cho họ nhất định không chịu xuất trận.
Tuy
vậy những kết quả vừa kể không có nghĩa là chúng ta từ nay sẽ bớt phần
khó khăn. Đối phương sẽ huy động tất cả để báo thù. Trừ sư đoàn 320, các
lực lượng khác của Việt Minh đều gần nguyên vẹn. Chiến sự Thu-Đông sắp
gay go lắm nhưng chúng ta rất vững lòng tin tưởng. Chúng ta đã bắt đầu
một các tốt đẹp và thời gian hiện đang có lợi cho chúng ta’’.
Sau
hành binh Mouette lại tiếp đến trận Castor, ‘’ván bài thứ hai’’ của Đại
Tướng Navarre tái chiếm Điện Biên Phủ, một thị trấn cách Tỉnh lỵ Lai
Châu độ 100 cây số về phía Nam và cách Hà Nội 300 cây số về phía Tây.
Điện
Biên Phủ, vùng lòng chảo đầy ngô và lúa lốc thuộc xứ Thái trước đây đã
phải rút lui trước những cuộc tấn công đe dọa của Việt Minh (tháng
4.1953).
Ngày
20 tháng 11.1953, Tướng Cogny, Tư Lệnh Bắc Việt lại mở một cuộc hành
binh to lớn, với hàng mấy ngàn binh sĩ nhảy dù chiếm lại Điện Biên Phủ.
Là một cuộc hành binh táo bạo, trận Castor đã được chia ta thành từng chặng:
-
Chặng thứ nhất hành động bất thần của hàng ngàn quân nhảy dù để kiểm
soát và làm chủ chiến trường trong khu vực lòng chảo của Thị Trấn.
-
Chặng thứ hai, thiết lập một trung tâm hấp dẫn về phương diện chính trị
và bình trị thay thế cho Thị Trấn Lai Châu bị đe dọa. (cuộc hành quân
Pollux rút bộ đội từ Lai Châu về Điện Biên Phủ ngày 9.12.53).
Trận Castor được tiếp tục bằng nỗ lực chuyển Điện Biên Phủ thành một pháo lũy cố thủ mạnh mẽ, một thủ đô mới của xứ Thái.
Nhìn chung trên chiến trường toàn diện, những cuộc hành binh mới đã nhằm mục đích gì ?
Trước hết ai cũng nhận thấy quân đội Liên Hiệp Pháp đang cố gắng theo đuổi mục đích chính: Giành quyền chủ động đã mất từ lâu.
Giành
quyền chủ động! Kế hoạch nhằm mục đích đó tiến từ
Hirondelle-Camargue-Nà Sản đến Mouette, Castor…Liên Quân Pháp-Việt đã
nắm được quyền chủ động về chiến thuật.
Nhưng sự thật, trận Mouette và Castor ngoài ra còn ẩn mục đích gì khác?
Trước
hết, về mặt chiến lược, Liên Quân Pháp-Việt muốn ngăn cản Việt Minh
không cho họ tiếp tục mở chiến dịch Ai Lao. Mất Ai Lao, vùng Đông Nam Á
sẽ bị lũng đoạt. Ý định thôn tính Ai Lao của Việt Minh đã được báo hiệu
bằng trận đánh bỏ dở nửa chừng hồi tháng 4 năm 1953.
Muốn gìn giữ Ai Lao, Đại Tướng Navarre đã áp dụng một kế hoạch gồm hai trận lớn:
-
Trận thứ nhất, Mouette, một hành động, hai mục đích: Một là để ngăn
chặn những sư đoàn 304, 325 tái diễn cuộc tiến quân trên đường Hoàng Hậu
Astrid tràn sang Lào. Như vậy trận Mouette đã có tính chất của cuộc
hành binh Hautes Alpes hồi đầu mùa Hạ 1952 và có thể nói là Mouette
giống hệt trận Hautes Alpes nhưng to lớn hơn. Hai là phá kế hoạch xâm
nhập Đồng Bằng Bắc Việt của các sư đoàn 320, 316. Như vậy, trận Mouette
đã có tính chất của những cuộc hành binh tảo thanh Amphibie, Mercure hồi
tháng 3 và 4 năm 1952 tại vùng ven bể Thái Bình, Nam Định…
Trận
thứ hai, Castor, cùng một hành động hai mục đích. Một là việc thiết lập
một trung tâm hấp dẫn chính trị và quân sự mới trong xứ Thái (như đã
nói ở trên). Như vậy trận Castor đã có tính chất một cuộc hành binh
chiếm đất. Hai là tạo thành một bức bình phong cố thủ, hy vọng ngăn chặn
đường tiến quân của Việt Minh sang phía Thượng Lào.
Cuộc
hành binh Ardèche của Đại Tá Boucher de Crèva Coeur đã tảo thanh và đẩy
lui việt cộng từ Luang Prabang lên phía Bắc, dồn họ đến chân tường
‘’Castor’’ ở biên giới Việt-Lào. Như vậy, trận Castor rõ ràng đã nằm
trong khuôn khổ của chiến thuật tảo thanh lớn trong xứ Lào (Ardèche càn
quét miền Bắc Lào và Jura, cùng một thời gian, càn quét miền Trung Lào).
Tóm
lại, những cuộc hành binh lớn dù sao vẫn còn do thế chủ động chiến lược
của Việt Minh mà phát khởi. Thế chủ dộng nói chung chưa được ngang
bằng, hãy còn ngã về phía Việt Minh. Liên Quân Pháp-Việt còn phải cố
gắng nhiều.
Trong
khi chủ lực quân đội tham dự những trận đánh lớn thì những đơn vị địa
phương Pháp-Việt cũng mở nhiều trận tảo thanh có kết quả như trận
Auvergne, Querey ở Nam Việt, trận Văn Cốc (tháng 11) và trận Gerfaut (hạ
tuần tháng 12) ở khu vực Thái Bình-Bắc Việt.
Chiến
tranh Đông Dương đang ở trong một giai đoạn khốc liệt. Cả hai bên đã
cùng sử dụng hàng vạn người đủ vũ khí tối tân trong những trận đánh dữ
dội kinh hồn.
Lên
tiếng trong cuộc tranh luận về vấn đề Đông Dương tại Hội Đồng Cộng Hòa
ngày 13 tháng 11 năm 1953, Thủ Tướng Pháp J. Laniel đã nhấn mạnh:
‘’Bản
Tuyên Ngôn 3 tháng 7, kế hoạch Navarre, những sự xáo động trong nền
chính trị Việt Nam đánh dấu một giai đoạn trong cuộc chiến tranh Đông
Dương.
Nước
Pháp phải bước vào giai đoạn này mà không có gì lo ngại, trong tay nắm
đủ tất cả các phương tiện của mình và với một sự tin tưởng chắc chắn về
chính nghĩa của mình…
…Cuộc hành binh Mouette là một cuộc hành binh có kết quả.
Đó
là một điều có thật và tại sao lại không nói rõ được sự thật ấy ? Nếu
cuộc hành binh này thất bại thì người ta đã phải nghe biết bao nhiêu lời
bình luận. Nhưng trái lại phải chăng đấy là một cách tốt đẹp hơn hết để
dưng kính ý đối với những người đã hy sinh, là không im lặng về giá trị
của sự hy sinh của các người ấy ?
Từ
15 tháng 10 cho đến những ngày đầu tháng 1, cuộc hành binh đã làm cho
sư đoàn Việt Minh thiệt hại nặng nề về người và về võ khí.
Kế
hoạch của đối phương đã bị đảo lộn. Sư đoàn 320 đã phải gọi những tiểu
đoàn của họ về trong khi tiểu đoàn này đang len lõi. Các căn cứ, những
kho dự trữ của đối phương đã bị phá hủy một phần. Đối phương đã phải tái
lập trực tiếp tế khác bằng những đơn vị khác.
Chúng
ta có thể biết điều ấy mà khỏi cần phải biết rõ về số người bị thương
và những sự thiệt hại nặng nề mà chúng ta biết đã gây nên cho đối phương
bằng pháo binh và không quân.
Chúng
ta dễ hiểu tỷ lệ giữa số thiệt hại của Việt Minh và của chúng ta vì giá
trị của các chiến sĩ chúng ta và giá trị những khí cụ của chúng ta. Đó
là vì Nghị Viện chưa bao giờ từ chối, những ngân khoản cần thiết để tiếp
tục nỗ lực quân sự của Pháp ở Đông Dương và ưu thế của chúng ta cũng đã
được tăng gia nhờ phần đóng góp quan trọng của Mỹ khiến cho tinh thần
của các chiến sĩ chúng ta đã được bảo vệ và nâng cao cho đến ngày hôm
nay.
Tôi
có bổn phận nhắc lại một cách hết sức rõ ràng và cương quyết rằng chính
phủ Pháp không coi vấn đề Đông Dương như là tất nhiên phải có một giải
pháp quân sự. Cũng như người Mỹ ở Cao Ly, lúc lâm sự chúng ta sẽ không
buộc đối phương phải đầu hàng rồi mới thương thuyết với họ. Cũng như
nước Mỹ, nước Pháp không theo đuổi chiến tranh chỉ vì mục đích chiến
tranh, và nếu có thể có một giải pháp vinh dự trong khuôn khổ địa phương
hoặc quốc tế thì tôi xin nhắc lại một lần nữa rằng cũng như người Mỹ ở
Cao Ly, Pháp sẽ hoan hỷ tiếp đón một giải pháp ngoại giao cho chiến cuộc
này.
Từ
khi tôi tuyến bố công khai những lời ấy trên diễn đàn Quốc Hội ngày 27
tháng 10 vừa qua, ông Hồ chí Minh cũng như chính phủ Trung Cộng đều
không hề trả lời gì cả.
Tuy
nhiên, tỷ dụ xứ Cao Ly mà tôi đã dẫn ra hai lần chứng tỏ rằng chính phủ
Pháp không hề tuyên bố một cách khinh xuất, và cũng như ở Cao Ly, chỉ
cần đối phương thay đổi tâm trạng để cho những ý định của chúng ta thực
hiện được.
Chính
vào dịp tổ chức việc thương thuyết ở Cao Ly mà ông John Foster Dulles
đã chủ trương việc tìm cách giải quyết ôn hòa vấn đề Đông Dương.
Chúng
tôi cũng hy vọng như vậy. Chúng tôi cũng mong ước theo thể thức ấy. Tôi
yêu cầu tất cả những người nỗ lực khuyến khích thực hiện hòa bình lập
tức đừng lầm nữa. Bây giờ chỉ còn phải thuyết phục ông Hồ chí Minh.
Nhưng không nên giải thích sai ý muốn hòa bình của tôi vừa phát biểu.
Tại
Ba Lê có vài người nói và viết như là họ sẽ được ông Hồ chí Minh nghe
lời, như là họ không nhận định những điều hy vọng mà những lời ấy đem
lại cho đối phương sự tự do chỉ có Pháp mà thôi.
Bởi
vậy tôi ngỏ lời kêu gọi khẩn khoản những người thường dùng những lời
nói ấy nhất là trên mặt báo hay tại các hội nghị chính trị, bởi vì các
người ấy giúp cho đối phương của chúng ta được thấy rõ một gương mẫu về
tâm trạng của chúng ta, việc ấy rút cục giúp cho cuộc tranh chấp kéo dài
mãi.
Trong
lúc này, chúng ta đừng lầm tưởng trong cuộc chiến tranh này, những lợi
khí của cuộc chiến tranh và những cuộc thương thuyết chỉ là một. Chúng
ta càng mạnh mẽ càng có thể đương đầu mà không nao núng và những hy vọng
giải quyết cuộc chiến tranh bằng đường lối ngoại giao sẽ trở nên lớn
lao hơn.
Vì
đó chúng ta có thể tán thành triệt để phần đóng góp thêm của Hoa Kỳ cho
Đông Dương. Số tiền 135 tỷ phụ thêm này gồm hai ý nghĩa tượng trưng: Sự
đồng ý của Tây phương về ý nghĩa của một cuộc chiến tranh đã bị các
giới Anh Mỹ hiểu lầm và sự duy trì một mặt trận phòng thủ chung cho
những quyền lợi của thế giới tự do.
Nguyên
do chính làm cho đối phương mất tinh thần chính là việc Đồng Minh cũng
quyết tân không để cho cộng sản mặc sức làn chủ miền xung yếu về mặt
chiến lược ở Đông Nam Á.
Tôi quả quyết rằng đối phương hoàn toàn mất tinh thần và điều này làm tôi hoan hỷ.
Những nước bạn Việt-Mên-Lào chẳng nên giải thích một cách sai lầm ý chí hòa bình của chúng ta.
Đối với những nước này, một cử chỉ bỏ rơi của Pháp sẽ gây những kết quả bi thảm mà hiện nay không ai nhận lãnh trách nhiệm.
Nếu
chính phủ Pháp phải chấp thuận một sự hòa hoãn để nghiên cứu một giải
pháp hòa bình thì thế nào cũng phải có sự tham gia của các quốc gia liên
kết mà chúng ta đã khiến cho 33 nước tự do nhìn nhận nền Độc Lập của
các Quốc Gia ấy.
Nếu
Đông Dương lọt vào tay Trung Hoa cộng sản, việc ấy sẽ gây nên sự xụp đổ
của Thái Lan, làm tăng gia những trận đánh du kích ở Mã Lai, Tân Gia Ba
bị hăm dọa. Ấn Độ và các nước Á Rập sẽ tới lượt phải lung lay rồi cả
thế giới tự do sẽ bị dồn vào những căn cứ sau chót ở Úc Đại Lợi và Suez.
Đó
là ý nghĩa cuộc chiến tranh của Pháp ở Đông Dương vì thế giới tự do.
Chính phủ đề nghị với các ông theo một chính sách duy nhất có thể dung
hòa phẩm giá của nước Pháp, sự tôn trọng những điều đã cam kết và sự cần
thiết phải bảo đảm những gánh nặng trên nền tài chính và quân đội của
chúng ta.
Nhưng,
chính sách này phải là một điều có tính cách liên tục. Chính sách ấy
ràng buộc các nước liên kết với chúng ta cũng như ràng buộc chính chúng
ta.
Mỗi
một phần tử phải nhìn thấy với nỗ lực của xứ lân cận, phần thưởng cho
nỗ lực của chính mình. Chúng ta phải làm sao cho những nước Liên Kết với
chúng ta được bảo đảm về một quyết định khích thích không co thể sửa
chữa lại được.
Chúng
ta phải rộng rãi ban nền Độc Lập mà chúng ta đã hứa. Chúng ta phải tỏ
ra tha thiết với nền Độc Lập này cũng như những nước liên kết với chúng
ta, vì nền độc lập ấy cần thiết cho chúng ta cũng như cho những nước
liên kết, nhưng chúng ta có lý mà mong chờ những nước này nỗ lực ít nhất
cũng như chúng ta.
Nếu
trong những tháng tới, Việt-Miên Lào không tận lực lao mình vào một
cuộc chiến tranh, ngày nay là cuộc chiến tranh của chính nước đó không
biết làm cho quân đội của mình có một giá trị chiến đấu, nếu những nước
đó không muốn tự cung cấp tài chính cho quân đội của mình, nếu vì một sự
lỗi lầm mà tôi không chịu tin là có, những âm mưu bí mật hoặc hành động
mị dân công khai làm cho những nỗ lực chung không đưa đến kết quả gì,
thì lúc đó nước Pháp sẽ tự xét là không phải ràng buộc với những nghĩa
vụ của mình nữa. Chính phủ sẽ rút ra những kết luận thích đáng và sẽ
duyệt lại hết thẩy chính sách của mình’’.
Hai
chữ Hòa Bình đã thấy được nhắc tới sau 7 năm trời đầy máu, lửa và nước
mắt, 7 năm trời đầy tang tóc và chia ly, 7 năm tượng trưng cho giải pháp
quân sự của cả hai bên đối thủ.
Đến
nay, chiến tranh bước sang một giai đoạn mới, ác liệt hơn, dữ dội hơn
và gần như tổng lực, nhưng để…có thể tiến đến một giải pháp Hòa Bình!
Dù sao, người Pháp cũng như người Việt vẫn đang phải tiếp tục đổ máu và còn phải đổ máu nhiều hơn nữa trong năm tới.
No comments:
Post a Comment