Chính Nghĩa Quốc Gia!
Từ
khi Quốc Trưởng Bảo Đại trở về lãnh đạo nước nhà mọi xu hướng chính trị
thuần túy quốc gia đã được tập hợp dưới lá cờ chính nghĩa.
Chính phủ Quốc Gia Việt Nam thoát thai trong khói lửa và đã lớn trong khói lửa.
Dựa
vào uy tín Quốc Trưởng, vì hậu duệ của triều Nguyễn, tất cả các chính
phủ Quốc Gia, từ Nguyễn Văn Xuân đến Nguyễn Văn Tâm, đã dễ dàng thành
công trên sự nghiệ
Lý
tưởng Quốc Gia tự ngày xưa, thế kỷ qua thế kỷ, vẫn dồi dào đầy ắp trong
tiềm thức của dân chúng Việt Nam và đã là yếu tố chính, yếu tố căn bản,
nòng cốt trong mọi hành động cứu tổ quốc giang sơn của giòng giống Lạc
Hồng.
Từ
1950, thế giới đã công nhận Việt Nam là một quốc gia Độc Lập. Tất cả
mọi người Việt Nam, hoặc ở trong nước hoặc sống rải rác ở khắp nơi trên
trái đất, ít nhất cũng đã được hưởng nền Độc Lập đó trên phạm vi tinh
thần.
Muốn
mở rộng nền Độc Lập, muốn được thỏa mãn hoàn toàn, muốn hưởng thụ quyền
lợi như công dân Hồng Mao của Anh-cát-lợi, tất nhiên dân tộc Việt Nam
phải tự mình cố gắng, tự mình đấu tranh, phát triển nền Độc Lập hiện
hữu.
Đó là một nguyên tắc nhất định. Nền Độc Lập của quốc gia không thể do ai ‘’bán cho’’ mà phải chính tự mình nỗ lực tranh thủ lấy.
Đối
với những người Việt Nam theo cộng sản, để đấu tranh với họ, ta chẳng
nên chỉ nặng lời đả kích, nguyền rủa họ là ‘’phi quốc gia’’, là ‘’vong
bản’’.
Vì sao ?
Vì những người cộng sản chỉ đã quan niệm hai chữ ‘’quốc gia’’ theo một chiều khác.
Người
cộng sản suy luận theo Duy Vật, họ chắc chắn cá nhân chỉ tồn tại khi
nào đoàn thể cường mạnh. Muốn đoàn thể cường mạnh, cá nhân không thể chỉ
nghĩ đến lợi ích riêng tư nếu lợi ích riêng tư đó không hòa hợp với lợi
ích đoàn thể. Hy sinh lợi ích nhỏ của cá nhân đi để lợi ích cho đoàn
thể. Đoàn thể tiến bộ thì mặc nhiên cá nhân nằm trong đoàn thể cũng sẽ
tiến bộ. Bởi vì đoàn thể là gì nếu không phải là tất cả cá nhân tập hợp
lại.
Trên
trái đất, mỗi quốc gia đối với tất cả các quốc gia khác cũng như một cá
nhân sống giữa tập thể, mỗi dân tộc đối với tất cả các dân tộc khác
cũng như một cá nhân sống giữa tập thể.
Nếu
tập thể vô tổ chức, mọi cá nhân sẽ sống riêng biệt với quyền lợi riêng
biệt và đó là nguyên do chính đưa đến xung đột, đưa đến chiến tranh, một
thứ chiến tranh muôn thuở vì quyền lợi.
Chiến tranh ngàn xưa đã từng làm mất hẳn sức sống của một vài dân tộc và gần tiêu diệt một vài dân tộc trên trái đất.
Chiến
tranh ngày nay làm suy nhược dân tộc kìm sức sống của quốc gia trên
toàn diện trong một thời gian. Những tiến bộ về khoa học do chiến tranh
phát xuất không thể bù đắp được những tiêu biến khả năng, sinh lực do
chiến tranh gây nên.
Muốn khởi rơi vào tình trạng nói trên, tập thể xã hội phải được tổ chức và do đó đoàn thể có mặt, hiện hình.
Người
cộng sản quan niệm đoàn thể là một hệ thống thông suốt, đồng tình, đồng
chất, đủ khả năng thu góp các hy sinh của cá nhân để thực hiện được
nhiệm vụ xuôi chiều, phân phát quyền lợi cho cá nhân trong vòng trật tự.
Làm
được như vậy, cộng sản chắc chắn sẽ không còn xung đột, không còn chiến
tranh, và do đó mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi cá nhân sẽ vươn được sức
sống trong phạm vi trật tự, không xâm phạm nhau, không tiêu diệt nhau
nữa.
Thực hiện được công cuộc ấy người cộng sản sẽ mãn nguyện rằng mình đã là một người quốc gia chân chính.
Trong
tiềm thức những cán bộ kỳ cựu của cộng sản đã khắc sâu quan niệm yêu
quốc gia dân tộc theo suy luận của họ, suy luận mà họ cho là đúng, quan
niệm mà họ cho là độc nhất chân chính.
Tự
điểm căn bản ấy, những lãnh tụ cộng sản giải thích và huấn luyện truyền
thụ cho đảng viên để rồi các đảng viên lại đi hấp dẫn và lãnh đạo quần
chúng theo đúng đường lối đã suy luận vạch ra.
Quần
chúng (nói theo giọng cộng sản) một khi giác ngộ, lòng yêu nước chân
chính (lòng yêu nước bao giờ cũng tiềm tàng thường trực, đột nhiên được
khiêu gợi và hướng dẫn) sẽ trở nên nhiệt thành.
Sự
nhiệt thành của quần chúng được nuôi dưỡng, gìn giữ liên tục qua thời
gian sẽ trở nên cuồng tín, gần như rồ dại trước mọi vi phạm bất cứ tự
đâu đến.
Vì
đã quan niệm cố định như vậy, cộng sản không hề biết nhận và không bao
giờ nhận rằng hành động của họ là ‘’phi quốc gia’’, là ‘’vong bản’’.
Không đả kích việt cộng là ‘’phi quốc gia’’ phải chăng vô hình chung đã thỏa thuận công nhận tư tưởng hành vi của họ ?
Không phải!
Bởi
vì thời gian qua chứng tỏ rằng nếu chỉ đả kích cộng sản theo đường lối
quá giản dị và ngây thơ ấy sẽ ít thu lượm được kết quả mong muốn.
Những
người Nga chẳng đã không tiếc lời nguyền rủa đảng cộng sản Bolchevik để
rồi đảng đó vẫn thành công trên đất Nga với việc thành lập một Liên
Bang rộng lớn từ bờ Hắc Hải đến cực Đông sa mạc tuyết miền Tây Bá Lợi Á ?
Những
chính khách tự do của các quốc gia trên thế giới chẳng đã từng nguyền
rủa cộng sản là ngoại lai, vong bản, phản quốc ? Nhưng chính trong lòng
những nước đó, các đảng cộng sản địa phương đã chẳng vẫn len lõi hoạt
động, công khai hoặc bí mật phát triển để chờ ngày nào đó, một sự kiện
sẽ đem lại nỗi kinh ngạc, bàng hoàng ?
Những
người quốc gia tự do ở các tiểu quốc bên bờ sông Danube chẳng đã phỉ
báng các đảng viên của những lãnh tụ Đỏ như: Zapotocky (Tiệp Khắc),
Rakosi (Hung-gia-lợi) Gheoghiu De J (Lỗ), Bierut (Ba Lan), Tschervenkoft
(Bảo), Pietro Nenni, P.Togliatti (Ý), Otto Grotewohl, W. Pieck, W.
Ulbricht (Đông Đức), v.v…nhưng cũng không ngăn được họ thành lập các
chính phủ Dân Chủ Nhân Dân theo ý họ.
Nghiên
cứu những lý do thất bại trên, ta thấy rõ ràng: Ở nơi nào, chính quyền
quốc gia hoặc thối nát không thu phục được nhân tâm, hoặc vụng về không
tạo được một bản thân lực lượng vững chắc, đều đã vô tình giúp sức cộng
sản bành trướng hoặc chiếm phần thắng lợi.
Những người quốc gia ở Việt Nam phải chú trọng tới những kinh nghiệm đau đớn đó để tránh khỏi vết xe đổ cũ.
Chúng ta hiện đang sống giữa thời kỳ mà tình hình quốc tế không lấy gì làm lạc quan cho lắm.
Nào
chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng, nào chiến tranh trong bóng tối, nào
chiến tranh tâm lý, chiến tranh cân não, tinh thần, rồi người ta đe
nhau bằng bom nguyên tử, rồi người ta dọa nhau bằng bom khinh khí, vi
trùng.
Sự
thật ở trên trái đất đã không phải có một mà hiện nay đã chia thành
hai: Độc Lập hai kiểu, Tự Do hai kiểu, Quốc Gia hai kiểu, Dân Chủ hai
kiểu, Hòa Bình cũng hai kiểu v.v…một kiểu của thế giới cộng sản và một
kiểu của thế giới tự do.
Trước
tình thế nghiêm trọng như vậy, đã đứng về phe thế giới tự do, những
chiến sĩ Quốc Gia Việt Nam đứng đắn, tin tưởng ở khả năng tạo tác của
mình, phải tỏ rõ lòng nhiệt thành phục vụ dân chúng, phục vụ dân tộc
bằng những hành động cụ thể mới mong dành được phần thắng lợi trong công
cuộc đấu tranh với cộng sản.
Có
khả năng tạo tác, dựa trên nền tảng ái quốc chân chính, nhiệt thành,
người chiến sĩ quốc gia nhất định sẽ phục vụ được dân tộc và kết tộc và
kết quả sẽ không thể kém phe việt cộng.
Nếu nghi vấn rằng: Thế mấy năm qua, những người quốc gia vẫn thiếu khả năng tạo tác hoặc đã thiếu lòng nhiệt thành hay sao ?
Không phải thế!
Từ
trước đến nay, nếu vẫn còn một số người chưa chịu tham gia hoạt động
thì số người ấy cũng không phải là tài năng độc nhất của dân tộc Việt.
Trong chính quyền, từ Nội Các này đến Nội Các khác, ngoài chính quyền,
từ năm này sang năm khác, vẫn có thừa các chiến sĩ đủ khả năng thường
trực.
Lòng nhiệt thành cao quý của những chiến sĩ ấy đã làm tan biến mọi nghi ngờ.
Nhưng
thành thực mà nhận xét, lòng nhiệt thành từ trước đến nay, chưa được sử
dụng đúng nhịp của thời gian và khả năng tạo tác chưa hoàn toàn đúng
hướng.
Sự
sai khớp ấy đã khiến thế giới chưa thẳng thắn mạnh dạn giúp đỡ Việt Nam
và cũng do đó, các chiến sĩ quốc gia chưa nắm được đủ phương tiện, tinh
thần cũng như vật chất, để mạnh tiến trên đường phụng sự.
Công
việc nắn lại khớp sai dĩ nhiên thuộc về phần chính phủ nhưng cũng là
công việc của tất cả mọi người quốc gia tự nhận là thành thật với tiền
đồ tổ quốc.
Có
nhiều dư luận mới, dân chủ hóa chính quyền, cải tổ nền hành chính, tiếp
tục cải cách điền địa, thành lập Quốc Hội v.v…tất cả đều là những ý
kiến rất hợp thời trong khung cảnh tổ chức quốc gia.
Nhìn vào thành phần chính phủ Bửu Lộc, dân chúng Việt Nam rất tin tưởng:
-
Tin tưởng ở tài năng học thức của các vị lãnh đạo. Những cấp bằng Thạc
Sĩ, Tiến Sĩ, Bác Sĩ…bảo đảm một hiểu biết chắc chắn về chuyên môn.
Tất
cả những nhân viên trong chính phủ Bửu Lộc sẽ là những vị Bác Sĩ đủ tài
nắn lại các khúc xương sai khớp của bộ máy chính quyền.
- Tin tưởng vào đức tính vô tư của những con người trung lập trong chính phủ Bửu Lộc.
Với
tổ chức thuần nhất trí thức người ta hy vọng chính phủ Bửu Lộc sẽ dễ
dàng kết hợp được các đảng phái làm hậu thuẫn trong mọi hoạt động, hoặc
đàm phán đối ngoại, hoặc kiến thiết, đấu tranh đối nội.
Nhưng phải chăng tất cả mọi người đứng ngoài chính phủ sẽ chỉ ỷ lại vào những vị Bác Sĩ đó mà thờ ơ với vận mệnh nước nhà ?
Nhất định không !
Toàn thể chúng ta, kẻ ít người nhiều đều phải nhiệt thành gom góp phần hiểu biết, xây dựng v.v…
Giờ đây những người quốc gia muốn đề nghị gì với chính phủ để có thể duy trì thắng lợi chính nghĩa ?
Kế hoạch tổ chức chăng ?
Kế hoạch cải tổ toàn thể hệ thống công tác chăng ?
Đề nghị giai cấp hóa chính phủ ? Dân chủ hóa chính phủ ? Quân đội hóa chính phủ ?
Những
việc phải đến, sẽ đến, chúng ta không thể nhảy qua thời gian và rồi
đây, những nhà lãnh đạo với tài năng chuyên môn chắc cũng không cam chịu
thất sách, chậm chân trong bước tiến.
Chúng ta chỉ muốn đề nghị cùng chính phủ quốc gia một chính sách hoạt động gồm hai phương châm chủ yếu.
Chính sách: Phải Dứt Khoát.
Căn cứ vào tinh thần và tư tưởng của nhân dân đang sống trong vùng quốc gia chúng ta nêu lên phương châm thứ nhất: Thanh Toán Trà Trộn.
Công cuộc Thanh Toán Trà Trộn nhằm 4 mục tiêu:
- Quốc Gia
- Cơ Quan
- Cá Nhân
- Tư Tưởng
Mục Tiêu Thứ Nhất:
Trên địa hạt tâm lý, dân chúng Việt Nam hiện nay hằng nhận thấy rằng
mối liên hệ của Quốc Gia Việt Nam với Quốc Gia Pháp chưa được rõ ràng
dứt khoát.
Đã
từng có những bài diễn văn nghiên cứu tỷ mỉ rành rọt trong lời văn,
long trọng trong buổi đọc, thú vị cho người nghe, hào hứng cho kẻ diễn,
nhưng…nhưng sự thực hiện (giá trị chính của diễn văn) lại như ẩn, như
hiện, quanh co lắt léo…
Lý do vì sao ?
Có dư luận nói vì tình hình chính trị của nước Pháp.
Có dư luận nói vì tình hình thế giới ảnh hưởng đến Việt Nam cho nên mọi việc không thể tiếp nhận nhanh được.
Có dư luận nói sở dĩ chưa dứt khoát là vì chiến thuật tác chiến của Việt Minh lên bổng xuống trầm như đợt sóng.
Lại
có dư luận nói vì Quân Đội Quốc Gia Việt Nam chưa đủ mạnh để tham gia
toàn diện chiến trường, những nhà kỹ thuật Việt Nam chưa đủ tài năng già
dặn để chỉ huy chính trị, chỉ huy kinh tế v.v…
Tất cả đều đúng, không nhiều thì ít.
Từ
dăm ba năm nay, nền Độc Lập của Việt Nam vẫn còn trong tình trạng trà
trộn, từ thượng từng kiến thiết đến hạ từng cơ sở, từ thái độ đến hành
động, dân chúng đã nhận rõ được hình thái dưới con mắt vô cùng tế nhị.
Nói
như vậy có phải là để trách oán chính phủ Pháp còn có ẩn ý gì đối với
nền Độc Lập của Việt Nam không ? Những người nóng nảy, kiêu ngạo, cố
chấp có thể bảo rằng chúng ta quả đã trách oán nước Pháp, một nước có ân
tình thâm thủy với Việt Nam, nhưng chúng ta nói đây, hướng về những
người Pháp đầy thiện chí xây dựng, đứng đắn và hiểu thời.
Thật vậy, nền Độc Lập của Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng trà trộn, chưa dứt khoát trên thực tế.
Chúng
ta mong rằng, sở dĩ có tình trạng đó, không phải vì chính phủ Pháp áp
dụng ẩn ý của mình nhưng vì những thủ tục lễ nghi phiền toái, những giấy
tờ nhiêu khê, phức tạp, những quan hệ vẩn vơ vô trách nhiệm, những kỹ
thuật sai lầm trong khi áp dụng nguyên tắc đã vạch ra.
Nhiệm vụ của chính phủ trước tiên là phải chấm dứt tình trạng cũ.
Quốc dân mong chờ và tin tưởng ở những vị trí lãnh đạo đủ thiện chí, đủ nhiệt thành và nhất là đủ tài năng.
Mục Tiêu Thứ Hai: Thanh toán trà trộn giữa cơ quan với cơ quan.
Sự
trà trộn của cơ quan Pháp với cơ quan Việt Nam, phải được giải quyết
nhanh chóng, nhất là về phương diện hình thức để thức động tâm lý dân
chúng.
Việc nầy liên hệ đến mục tiêu thứ nhất vừa kể trên và có thể chính phủ sẽ thực hiện được dễ dàng.
Thanh toán sự trà trộn giữa những cơ quan có ích và cơ quan vô ích.
Cơ
quan vô ích là những cơ quan thành lập với mục đích tượng trưng, che
đậy một tác dụng hay một thủ đoạn chính trị riêng để phục vụ cho một cá
nhân hay một nhóm người.
Sự
tồn tại hoặc phát hiện của những cơ quan vô dụng như trên sẽ làm thương
tổn đến chính phủ về hai phương diện: Phương diện uy tín và phương diện
tài chính.
Mục Tiêu Thứ Ba: Hạn chế sự trà trộn giữa cá nhân với cá nhân.
Phân loại rõ ràng và cố gắng áp dụng ‘’Công bình linh động’’ trong các ngành hoạt động.
Từ
bỏ chính sách để những kẻ làm nhiều hưởng ít, làm ít hưởng nhiều đến
nỗi xảy ra khích bác nhau, mâu thuẫn nhau, do đó địch sẽ lợi dụng được.
Từ bỏ chính sách để người kém chỉ huy người tài. Lối làm việc ngược chiều này đem lại tinh thần bất mãn và tiêu cực.
Từ
bỏ cố tật hình thức và luật lệ ‘’Sống lâu lên lão làng’’ để sử dụng
được khả năng của những người trẻ tuổi hợp thời hơn. Như vậy, tức là
chính phủ chú ý đến lợi ích quốc gia dân tộc hơn lợi ích của lớp người
lỗi thời theo luật đào thải thiên nhiên (Tất nhiên chính phủ phải có
biện pháp thanh toán cho hợp lý và nhân đạo).
Từ bỏ mọi nguyên tắc cố định khiến cho kẻ kém dựa vào đấy để lẫn lộn với những người có thiện chí làm việc.
Công Bình Linh Động có phải áp dụng theo một phương châm cách mạng (‘’Làm việc theo sức khỏe. Hưởng thụ theo tài năng’’) ?
Không hẳn thế!
Công
Bình Linh Động chỉ dung hòa quyền lợi mà không cách mạng quyền lợi.
Công việc tế nhị này sẽ làm phấn khởi những tài năng non trẻ đầy thiện
chí, tránh được vàng thau lẫn lộn, tăng thêm uy tín cho chính phủ.
Mục Tiêu Thứ Tư: Dứt khoát trong tư tưởng.
Hiện
nay dân chúng Việt Nam có những người đã quyết tâm phục vụ chính nghĩa
quốc gia. Chính phủ cần chú ý khai thác cho được khả năng họ.
Những người lừng chừng hiện nay chiếm đa số ở Việt Nam:
- Lừng chừng không tham gia chính phủ.
- Lừng chừng trong khi hoạt động cho chính quyền quốc gia.
- Lừng chừng trong quân ngũ.
- Lừng chừng, thờ ơ trước thời cuộc, lãnh đạm trước mọi biến chuyển, mặc thời gian trôi v.v…
Chính
phủ đã không khai thác được sáng kiến và khả năng của họ. Họ lãnh đạm,
tắc trách cho qua ngày, hoàn toàn gạt trách nhiệm chiến tranh cho một
nhóm người mặc dầu họ đã cảm thấy rằng chính nghĩa không những đang nuôi
sống họ mà có lẽ còn đang xếp đặt cho họ một đời sống tự do, phong phú.
Tư tưởng giao động lừng chừng của họ do hai yếu tố khách quan: Một
tương quan lực lượng quốc gia-cộng sản còn chênh lệch, hai liên hệ
Pháp-Việt chưa dứt khoát hẳn hoi.
Chính phủ nên chú ý thanh toán vấn đề tư tưởng để họ được ngã ngũ phụng sự chính nghĩa.
Thanh
toán không phải là loại trừ ra khỏi hàng ngũ mà là tiêu diệt tư tưởng
ngược chiều còn dư lại trong đầu óc, làm phát triển tư tưởng đúng đắn để
mọi cá nhân sẽ trở nên quả quyết và mạnh dạn phục vụ chính nghĩa.
Có phải chăng chúng ta bắt chước cộng sản mà muốn nên lên một công tác ‘’Chỉnh Huấn’’ không ?
Không
phải. Bởi vì phong trào chỉnh huấn phải do một kết quả qua chuỗi thời
gian và hoạt động có liên hệ dính líu đến kỳ chín mõm trong tâm lý con
người, nó tự nhiên bộc lộ, chỉ cần khe khẽ thúc đẩy thôi.
Chính phủ phải có phương pháp tuyên truyền thích hợp và ráo riết. Chính phủ phải thi hành gương mẫu ở mọi phương diện.
Địa hạt tuyên truyền rất rộng rãi, không phải chỉ thu hẹp trong vài việc thông tin, giải thích, sách báo, chiếu bóng v.v…là đủ.
Tuyên
truyền kết quả nhất là thực hiện được những ước nguyện của dân là nâng
cao dược mức sống của dân, là tạo được bầu không khí tự do thực sự cho
dân dễ dàng sinh tồn, nảy nở…
Nói
tóm lại, chính phủ phải thức tỉnh lòng tín nhiệm của nhân dân để nhân
dân ủng hộ chính nghĩa một cách cụ thể hơn, phải làm cho người dân hiểu
rằng họ hoạt động cho chính nghĩa tức là họ hoạt động cho chính đời sống
riêng của họ.
Với
những người còn rụt rè, e ngại, lẽ dĩ nhiên chính phủ khó mà thúc đẩy
sự hăng hái đến mức độ mong muốn nhưng không phải vì vậy mà không thể
tiến tới đả phá tư tưởng rụt rè của họ. Kinh nghiệm chiến tranh từ 1946
đã cho biết trước mọi nguy cơ đến tính mạng, những người nhút nhát nhất
có thể trở nên vô cùng can đảm, trước mọi nguy cơ sinh kế những người e
lệ nhất có thể trở nên liều lĩnh, ranh mãnh, quả quyết. Với tài năng
tháo vát của chính phủ, chúng ta ước mong sẽ thừa dư kế hoạch để kiến
tạo và nhào nặn một tâm lý thuần nhất trong dân chúng.
Từng
nhóm hoặc từng người nhiệt thành phụng sự riêng lẻ chưa đủ, cần phải
phát huy được sáng kiến của quảng đại nhân dân, nếu không làm được như
vậy, sự thất bại sẽ đều chẳng chóng thì chầy.
Phương Châm Thứ Hai: Phát Triển Chủ Lực Quân Quốc Gia:
Những
Lenin, Stalin đã phân loại và phát triển chủ lực quân cách mạng. Chủ
lực quân cách mạng của Lenin, Stalin là đội công nhân tiền phong, loại
người đông đảo trong một quốc gia kỹ nghệ hóa. Những Mao Trạch Đông, Hồ
chí Minh cũng đã phát triển được chủ lực quân cách mạng. Chủ lực quân
của Mao Trạch Đông, Hồ chí Minh là nông dân, lớp lao công đồng ruộng
đông đảo trong các quốc gia chuyên sống về nông nghiệp lạc hậu.
Về
phía chúng ta, phát triển Chủ Lực Quân Quốc Gia phải có nghĩa là đoàn
kết, thống nhất qua giai cấp, tập hợp tất cả những lớp người, vì lý do
khác, không bằng lòng sống dưới chế độ độc tài vô sản.
Trên nguyên tắc, chúng ta có thể thực hiện được việc đó không ?
Rất có thể được vì những điểm sau đây:
- Hiện tượng hoạt động của một lực lượng thứ ba trên thế giới.
- Hiện tượng phóng khoáng của chủ nghĩa dân chủ Hoa Kỳ.
- Hiện tượng tồn tại của nền Vương chế Anh-cát-lợi.
- Hiện tượng tồn tại của chủ nghĩa tự do Pháp.
Nếu
trong phe cộng sản họ lý luận rằng những hiện tượng ấy sẽ không thể tồn
tại thì họ cũng không thể nào chối rằng hiện nay không có những hiện
tượng đó. Hơn nữa, người ta biết rằng những hiện tượng đó vẫn nảy nở
ngay giữa lúc chủ nghĩa xã hội đang thắng lợi ở Nga Sô.
Malenkov cũng như Stalin đã chẳng từng tuyên bố rằng chủ nghĩa xã hội (cộng sản) có thể chung sống với chủ nghĩa tư bản ?
Nhiều
người đã cho câu nói đó chỉ là một chiến thuật trong chiến lược đấu
tranh chính trị, nhưng người ta phải nhận thấy rằng Nga Sô đã cảm thấy
sức sống của những người tự do trong thế giới, một sức sống vẫn vươn lên
mà chưa hề tàn héo.
Những
hiện tượng trên đã khiến cho người Quốc Gia Việt Nam tin tưởng rằng tư
tưởng nhân loại luôn luôn khoáng đạt, đã tự nó phát sinh một cách thăng
bằng. Chúng ta quan niệm tư tưởng đây là con đẻ của mọi sự kiện khách
quan đã từng đem đến cho nhân loại tất cả nỗi niềm cay đắng hay vui thú,
đã từng du nhân loại đến hoàn cảnh nguy kịch, bạo động an toàn…
Người
cộng sản vẫn thường nói một cách tự cao rằng hành động của họ cốt đạt
đến mục đích hòa bình nhân loại nhưng thực ra, trên thực tế, những hành
động cũ đã đưa đến chiến tranh. Bởi vì chính cộng sản đã lãnh đạo và
thúc đẩy đấu tranh giai cấp, đề cao một giai cấp để quyết tiêu diệt các
giai tầng khác tính chất. Muốn dành quyền sống tự do, những người không
cộng sản bắt buộc phải chống lại. Do đó, chiến tranh.
Có lẽ phe cộng đã thấy rõ như vậy, nên ngày nay đã thay đổi đường lối?
Người Quốc Gia Việt Nam cần phải lợi dụng ngay sự hòa hoãn tư tưởng hiện nay trên thế giới để đặt vấn đề tại địa phương nhà.
Vấn đề đó là: Gây lực lượng bản thân.
Nước Việt Nam cần phải có một Chủ Lực Quân Quốc Gia vững trãi.
Chủ Lực Quân Quốc Gia là gì ?
- Là sự thống nhất các đảng phái thuần túy Quốc Gia.
- Là sự tập hợp tất cả những người đã tỏ thái độ dứt khoát trước thời cuộc.
- Là tuyên truyền giác ngộ chính nghĩa cho quần chúng.
Chủ
Lực Quân Quốc Gia không phải là một giai cấp riêng biệt mà là sự tập
hợp qua các giai cấp của tất cả những người đã quyết tâm phục vụ chủ
nghĩa quốc gia.
Mọi tầng lớp xã hội sẽ góp phần nhiều của mình để phụng sự chính nghĩa.
Cấu tạo Chủ Lực Quân có phải là chúng ta đã quyết chiến với việt cộng không ?
Đúng!
Nhưng,
quyết chiến không nhất thiết là phải tổ chức đạo quân ra trận tiền.
Chiến tranh mấy năm nay đã đem đến cho gia đình Việt Nam bao đau thương
tang tóc.
Chóng, chày, cuộc chiến tranh sẽ phải ngừng và máu người Việt Nam sẽ thôi không phải chảy.
Như
vậy Chủ Lực Quân Quốc Gia có nghĩa là một cơ cấu võ trang bằng chính
nghĩa, bằng lý tưởng Quốc Gia…Một ngày gần đây, khi chiến tranh hoặc
hoãn hay không hoãn trên đất Việt, đạo quân ấy sẽ gồm những người lính
tiên phong hướng dẫn làm nòng cốt cho trận đấu tranh Chính Trị và Kinh
Tế. Nếu việt cộng quả quyết rằng đường lối của họ đúng, nếu họ quả quyết
rằng họ sẽ mang lại cơm áo, sung sướng cho nhân dân, Chủ Lực Quân Quốc
Gia sẽ đi tiên phong trong công cuộc thi đua với họ.
Nếu
chúng ta phát triển được đức hạnh, nếu chúng ta duy trì được Tự Do và
Dân Chủ đúng mức, dung hòa được quyền lợi nhân dân, nếu chúng ta kiến
tạo và phát huy được nền kinh tế quốc gia, văn minh hóa được đời sống
vật chất và tinh thần dân chúng, chắc chắn chúng ta sẽ được dân chúng
mến phục và ủng hộ. Nắm được dân chúng tức là xua đuổi được chủ nghĩa
cộng sản.
Muốn
thực hiện được nhiệm vụ vĩ đại ấy và để khỏi là những người thua cuộc
cuối cùng, chúng ta phải chuẩn bị ngay một thực lực chắc chắn.
Thực hiện được Chính Sách Dứt Khoát.
Theo sát được phương châm Thanh Toán Trà Trộn.
Cấu
tạo được Chủ Lực Quân Quốc Gia vững mạnh, tức là chính phủ quốc gia đã
ném được trái cân ngang bằng với trái cân cộng sản ở Việt Nam và đó là
kết quả căn bản đầu tiên quyết định thắng lợi cuối cùng.
HOA KỲ VỚI VIỆT NAM
Việt Nam là một trong ba quốc gia nằm trên Bán Đảo Đông Dương, một vị trí chiến lược trong vùng Đông Nam Á.
Đông
Nam Á bao gồm các nước Ấn Độ, Đại Hồi, Tích Lan, Mã Lai, Thái Lan, Diến
Điện, Nam Dương, Phi Luật Tân và Việt, Mên, Lào. Dân số tổng cộng trên
năm trăm rưỡi triệu. 49% dân số toàn Châu Á.
Trước
kia, hầu hết các nước ở Đông Nam Á đều bị các đế quốc biến thành thuộc
địa hoặc bán thuộc địa. Trong trận Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, nhân
dân vùng Đông Nam Á đã hợp tác với Đồng Minh chống cường quyền Phát-xít
Nhật Bản. Sau chiến tranh, nhân dân vùng Đông Nam Á giác ngộ và vùng dậy
tranh đấu giành độc lập như Ấn Độ với Anh-cát-lợi, Nam Dương với Hòa
Lan, Đông Dương với Pháp, Phi Luật Tân với Hoa Kỳ…Tất cả đều được thắng
lợi, riêng ở Việt Nam, cho đến nay, chiến tranh vẫn còn chưa chấm dứt.
Sở
dĩ như vậy vì từ khi chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa của cụ Hồ chí Minh bị
nhận rõ chân tướng là một chính phủ cộng sản trá hình, các nước tự do
trên thế giới đã không ngần ngại bỏ rơi một cách phũ phàng và ủng hộ
những hoạt động của Cựu Hoàng Bảo Đại, người chiến sĩ quốc gia số một
của dân tộc Việt Nam.
Nếu
cộng sản chi phối được Đông Dương, họ sẽ có thể chi phối được toàn vùng
Đông Nam Á, gây họa cho thế giới tự do nhất là cho Hoa Kỳ.
Về
phương diện kinh tế, sau khi Hoa Kỳ đã mất thị trường trên lục địa
Trung Hoa. Hoa Kỳ càng không thể để cho thị trường Đông Nam Á lọt vào
tay cộng sản. Đông Nam Á, một vùng giàu của, giầu người, lắm nguyên liệu
và thóc lúa, một nguồn sống cần thiết vô tận không những riêng cho nhân
dân còn lạc hậu ở Đông Nam Á mà cho cả các cường quốc tự do, kể cả Hoa
Kỳ.
Về
phương diện quân sự, nếu mất Việt Nam, cả vùng Đông Nam Á sẽ bị mất
theo và sẽ ảnh hưởng vô cùng tới vận mệnh của toàn thế giới tự do. Đông
Nam Á quan trọng sống còn cho thế giới tự do vì Đông Nam Á nối liền
Trung Đông, Cận Đông với Thái Bình Dương chứa đựng nhiều trạm liên lạc
giữa Châu Á với Châu Úc. Đông Nam Á có Hải Cảng Tân Gia Ba thuộc Mã Lai
là trung tâm của các đường giao thông tối quan trọng nối liền Đại Tây
Dương sang Nhật Bản hải. Đông Nam Á có những quốc gia ở biên thùy tiếp
giáp khu vực Liên Bang Sô Viết như một phần biên cương Ấn Độ, tiếp giáp
với Trung Cộng như biên cương Việt Nam, Diến Điện và Ấn Độ. Thế giới dân
chủ muốn ngăn cản Liên Xô bành trướng tất phải cố gắng giữ vững Đông
Nam Á, mặt Nam của khu vực cộng sản thế giới.
Về
phương diện tinh thần và lý tưởng, Hoa Kỳ không thể khoanh tay để nhân
dân vùng Đông Nam Á chịu áp bức dưới chế độ độc tài cộng sản, Hoa Kỳ có
bổn phận phải giúp đỡ nhân dân vùng Đông Nam Á bảo tồn nền nếp cổ
truyền, bảo tồn thuần phong mỹ tục, bảo tồn phẩm cách, tự do của con
người.
Trong
chính sách chung đối với những tiểu nhược quốc vùng Đông Nam Á, một mặt
Hoa Kỳ cố gắng chuẩn bị các địa điểm quân sự để ngăn ngừa một trận
chiến tranh bất thần với lực lượng cộng sản thế giới, một mặt Hoa Kỳ
tích cực viện trợ giúp đỡ những chính phủ quốc gia để những chính phủ đó
dần dần sẽ trở nên vững chắc trên nền tảng kinh tế.
Được
giúp đỡ của Hoa Kỳ, những chính phủ quốc gia có thể tiến nhanh đến chỗ
áp dụng triệt để mọi nguyên tắc dân chủ, nâng cao mức sống cho nhân dân
một cách thật công bằng và trong sạch trên khắp phương diện. Được như
vậy, nhân dân sẽ ủng hộ chính phủ chân chính của tổ quốc họ và do đó có
thể cầm cự mãnh liệt chống lại kẻ thù chung, độc tài và phát-xít.
Tất
cả những lý do trên đã thúc đẩy Hoa Kỳ cố gắng dìu dắt Việt Nam trên
đường tự do dân chủ ngõ hầu Việt Nam có thể tự mình đứng vững trước làn
sóng đỏ đang tràn lan trên thế giới.
Đối với ba quốc gia Việt, Mên, Lào, Hoa Kỳ có những đường lối chính:
- Giúp đỡ các nước liên kết làm sao để dân chúng có thể hoàn toàn ủng hộ chính phủ quốc gia của họ.
- Góp phần chống Việt Minh cộng sản bằng giúp đỡ kinh tế cho các chính phủ quốc gia.
Làm tăng sức sản xuất nhất về nông nghiệp.
- Viện trợ những nhu cầu cần thiết.
Mùa Xuân năm 1950, nhiều yếu nhân Hoa Kỳ sang thăm Việt Nam, đã đặt nền móng cho cuộc viện trợ lâu dài.
Ngày 24 tháng Giêng, Đại Sứ đặc biệt của Hoa Kỳ Philipp Jessup cùng ông Gibbson, cựu Sứ Thần Hoa Kỳ đến Sài Gòn tuyên bố:
‘’…Yếu
tố tối cần thiết quy định sự viện trợ trong phạm vi khả năng kinh tế
của Hoa Kỳ cho các quốc gia ở Á Châu là mức độ mà nhân dân ở các nơi đó
tỏ ra ủng hộ chính phủ đã chọn lọc của họ để chống bọn cộng sản giết
người…’’
Ngày
9 tháng 2, Sứ Thần Hoa Kỳ Edmond Gullion đến Việt Nam và ngày 7 tháng
3, ông Robert A. Griffin bắt đầu ghi chú tại Sài Gòn những nhu cầu về
kinh tế của ba Quốc Gia Liên Kết.
Ngày 6 tháng 4, ông Kenneth P. Landon, giám đốc cơ quan Đông Nam Á Vụ Hoa Kỳ đến Đà Lạt hội đàm cùng Quốc Trưởng Bảo Đại.
Tháng
7 năm 1950, Đặc Sứ Donald Heath, đại diện Hoa Kỳ ở Đông Dương đặt chân
tới Việt Nam, chính thức mở đầu công cuộc viện trợ cho các Quốc Gia Liên
Kết.
- Viện trợ kinh tế và kỹ thuật.
- Viện trợ quân sự.
Ngày
16 tháng 6.1950, quân nhu vũ khí chuyến đầu tiên trong chương trình
viện trợ quân sự rời Hoa Kỳ sang Việt Nam gồm có 8 phi cơ Dakota và một
số xe cộ, vũ khí.
Ngày 7 tháng 8.1950, cũng chuyến đầu tiên tượng trưng khu vực viện trợ kinh tế, Việt Nam nhận được một số thuốc men:
- 150.000.000 đơn chất pénicilline.
- 140 ký lô thuốc sốt rét nivaquine.
- 180 chiếc ống tiêm.
1.- Viện Trợ Kinh Tế Và Kỹ Thuật:
Hoa
Kỳ cam kết viện trợ cho Việt Nam dưới hai hình thức, sau khi chính phủ
Việt Nam và các nhà đại diện Hoa Kỳ ở Việt Nam đã ký một bản hiệp ước
(Hiệp Ước Song Phương tháng 9.1051)
- Viện trợ trực tiếp bằng hàng hóa, dụng cụ, trang bị.
- Viện trợ thương mại, Hoa Kỳ sẽ giúp các nhà nhập cảng Việt Nam những chỉ tệ bằng Mỹ kim cần thiết cho việc mua hàng hóa.
Từ
năm 1951 đến cuối tháng 6 năm 1953, trong chương trình viện trợ kinh tế
của Hoa Kỳ cho ba Quốc Gia Liên Kết đã ghi con số khổng lồ là
70.330.000 Mỹ kim, chia ra như sau:
- Xã Hội: 1.200.100 Mỹ kim.
- Y Tế: 7.049.500 Mỹ kim.
- Canh Nông, Lâm, Ngư Nghiệp: 4.554.800 Mỹ kim.
- Giao Thông Công Chính: 9.840.700 Mỹ kim.
- Giáo Dục: 344.000 Mỹ kim.
- Công Kỹ Nghệ: 9.000 Mỹ kim.
- Hành Chính, Thông Tin: 1.486.300 Mỹ kim.
- Thương Mại: 45.782.500 Mỹ kim.
Riêng
Quốc Gia Việt Nam được hưởng 76,7% (562.630.000 đồng Đông Dương) trong
tổng số tiền viện trợ Kinh Tế. (Cao Mên 15,3%: 112.000 đồng Đông Dương
và Ai Lao 8%: 58.000.000 đồng Đông Dương).
Số tiền 562.630.000 đồng đã được dùng trong chương trình hoạt động kinh tế Mỹ ở Việt Nam trong khoảng ba năm:
Năm 1951
- Hoạt động về kiến thiết xã hội: 5.767.000.- Hoạt động về y tế: 12.807.000.- Nông nghiệp, lâm, ngư nghiệp: 22.817.000.- Giao thông vận tải, công chính: 79.135.000.- Công, kỹ nghệ: 5.551.000.- Giáo dục: 8.153.000.- Hành chính: 12.462.000.
Tổng cộng năm 1951 là: 146.792.000.
Năm 1952
- Hoạt động về kiến thiết xã hội: 26.345.000.- Hoạt động về y tế: 42.531.000.- Nông nghiệp, lâm, ngư nghiệp: 23.291.000.- Giao thông vận tải, công chính: 84.020.000.- Công, kỹ nghệ: 133.000.- Giáo dục: 6.285.000.- Hành chính: 25.674.000.
Tổng cộng năm 1952 là: 208.279.000.
Năm 1953
- Hoạt động về kiến thiết xã hội: 26.386.000.- Hoạt động về y tế: 40.192.000.- Nông nghiệp, lâm, ngư nghiệp: 28.027.000.- Giao thông vận tải, công chính: 65.157.000.- Công, kỹ nghệ: 120.000.- Giáo dục: 7.585.000.- Hành chính: 20.092.000.
Tổng cộng năm 1953 là: 207.559.000.
Sau
Hiệp Ước Song Phương, cơ quan Kinh Tế và Kỹ Thuật được thành lập
(S.T.E.M-Special Technieal Economic Mission to Cambodia, Laos anf
Vietnam) để trực tiếp giúp đỡ ba Quốc Gia Liên Kết.
Bộ
phận S.T.E.M chịu dưới quyền cơ quan An Ninh Hỗ Tương (Mutual Security
Ageney) trước kia là cơ quan Quản Trị và Hợp Tác Kinh Tế (E.C.A-Economie
Cooperation and Administration) và cơ quan này trực thuộc Ngoại Nghiệp
Cục ở Mỹ (F.O.A-Foreign Operation Agency).
Trong 3 năm, nhờ số tiền của Mỹ Quốc viện trợ, Quốc Gia Việt Nam đã thực hiện được trên địa hạt xã hội, kiến thiết:
-
Phát cho dân chúng nạn nhân chiến tranh hàng 5 vạn chiếu, gần 2 vạn bộ
quần áo, hơn 1 vạn chăn mền, hàng triệu thước vải trắng, vải ka ki.
Thực phẩm phân phát như sữa hộp, sữa bột kể hàng chục tấn, đồ hộp hàng trăm tấn và cả máy khâu, chỉ khâu, kim khâu v.v…
-
Nạn nhân bị bão ở Trung Việt tháng 10 năm 1952 cũng nhờ tiền viện trợ
Mỹ để xây dựng lại cơ nghiệp, nhà cửa và được phân phát thóc gạo, thực
phẩm.
-
Nhiều làng mới được thành lập để giúp nhân dân tỵ nạn chiến tranh. Phần
đông những người này đã mất hết cả gia sản, làng xóm quê quán của họ
hoặc đã bị tàn phá trơ trụi hoặc đang là trận địa. Nhờ được Mỹ Quốc viện
trợ Kinh Tế và Kỹ Thuật đã trù tính rất nhiều kế hoạch và đã thực hiện
được nhiều việc:
- Viện trợ những thứ thuốc sát trùng như Pénicilline, Auréomyeine, Terramycine, những loại Sulfa, thuốc bệnh lao bột D.D.T. v.v…
- Viện trợ nhiều xe nhà thương (Hospital Equipment) và vô vàm những dụng cụ như máy quang tuyến, kìm kéo, bông, băng…
Trừ
bệnh sốt rét rừng, mỗi tháng có tới 16 vạn bệnh nhân được chạy chữa và
45 vạn nhà cửa được bơm thuốc D.D.T. Nhờ vậy, số người bị sốt rét mỗi
ngày một rút bớt.
- Thiết lập hàng ngàn sơ sở y tế và hoàn thành nhiều giếng nước hợp vệ sinh để dân chúng được dùng nước trong sạch.
-
Khám và ngăn ngừa bệnh thời khí, dịch hạch, chấy rận, hoa liễu, đau mắt
hột. Bệnh hoa liễu đã thấy thưa thớt ở Việt Nam và số bệnh nhân đau mắt
hột cũng đã giảm rất nhiều.
- Thiết lập và mở mang các dưỡng đường, huấn luyện và chỉ bảo phương pháp gìn giữ vệ sinh ngăn ngừa bệnh tật ở thôn quê.
Về phương diện canh nông, Mỹ Quốc đã giúp Việt Nam tiến bộ trong ba khu vực:
-
Nông nghiệp.
-
Lâm nghiệp.
-
Ngư nghiệp.
Nông Nghiệp:
-
Phân bón và những máy móc dụng cụ canh tác do lối viện trợ trực tiếp đã
giúp nhà nông Việt Nam tăng số lượng sản xuất. Hàng vạn tấn phân bón
hóa học cho trên 20 mẫu tây ruộng và sức sản xuất do đó tăng được từ 25
đến 30%.
- Trâu bò dùng trong việc canh tác được tiêm thuốc ngăn ngừa bệnh dịch.
-
Năm vạn mẫu Tây ruộng được hưởng nước điều hòa do những công cuộc thủy
lợi. Đập dẫn nước khu nông giang Sơn Tây (Bắc Việt) bị phá hủy từ ngày
chiến tranh được cơ quan An Ninh Hỗ Tương sửa chữa và xây đắp thêm năm
1951.
-
Một Hợp Tác Xã sản xuất thuốc lá (Tháp Chàm Trung Việt), 4 nhà máy xay
lúa và 1 Hợp Tác Xã máy xay (Cái Răng Nam Việt) đã được thành lập.
-
Nhiều cơ sở được thiết lập với mục đích huấn luyện phương pháp canh tác
khoa học. Chừng 1.153.000 quyển sách nhỏ giảng về canh tác đã phân phát
cho nông gia, cộng thêm 50.000 tập nói về phương pháp bón xới và 500
bản đồ chỉ dẫn học hỏi. Nhiều sinh viên được đi học về kỹ thuật canh tác
tại Mỹ Quốc.
Lâm Nghiệp:
Những máy kéo gỗ tồi tân được gửi sang để ngả cây và kéo cây.
- Nhiều nhà máy cưa được thiết lập.
Ngư Nghiệp:
- Viện trợ một số tàu nhỏ dùng trong việc đánh cá và che chở dân chài lưới khỏi bị Việt Minh làm khó dễ.
- Tổ chức huấn luyện kỹ thuật đánh cá giúp được hàng vạn gia đình chài lưới trở nên sung túc.
- Viện trợ những giống cá mới lạ, để nuôi và sinh sản mau chóng (Tỉ dụ cá Tilapia mang ở Thái Lan sang).
Về
phương diện giao thông, vận tải, Hoa Kỳ gửi sang Việt Nam nhiều thứ xe
kéo, xe trục, nhựa đường và nhiều dụng cụ nguyên liệu để kiến thiết
đường xá, cầu cống. Thường xuyên mỗi năm Việt Nam nhập cảng tới 30.000
tấn nhựa đường.
- Nhiều cầu cống đã và đang được sửa chữa như ở Huế trên đường Sài Gòn-Ô Cấp (Nam Việt)
Ngót
một nghìn cây số đường đi ở vùng ngoại ô thành phố được hoàn thành tiêu
thụ mất 90.000 tấn nhựa đường, 19 tấn đá nghiền, phải sử dụng hàng trăm
thứ xe kéo, xe lăn đường với nhiều dụng cụ như máy bơm, thuốc nổ, máy
phát điện…
-
Nhiều hải cảng và sân bay được mở rộng. Thêm nhiều dụng cụ và máy móc
để đặt điện thoại nối liền giây nói nhiều tỉnh. Thêm nhiều tầu nhỏ đi
lại trên các giòng sông giúp sự giao thông được điều hòa và hàng hóa
khỏi bị bế tắc.
Trên địa hạt Công, Kỹ Nghệ:
- Mở mang việc khai thác than đá ở Bắc Việt.
- Mở mang kỹ nghệ sản xuất xi măng ở Bắc Việt.
- Thêm phương tiện và dụng cụ cho nghề dệt, nghề chế tạo các đồ dùng bằng cao su, nghề sơn, nghề diêm…
Trên địa hạt Giáo Dục:
- Mở những lớp Bình Dân Học Vụ cho những người chưa biết đọc biết viết khắp Trung, Nam, Bắc.
-
Mở những trường dậy nghề nghiệp ở Hà Nội, Sài Gòn, Biên Hòa, Gia Định,
Thủ Dầu Một. Học sinh có thể học những nghề: Kiến Trúc, Hội Họa, Điêu
Khắc…
- Trường chuyên nghiệp dậy về Hàng Hải, Kỹ Nghệ ở Sài Gòn, Hải Phòng, Hà Nội.
Trên địa hạt Hành Chính và Thông Tin:
- Thiết lập các Phòng Thông Tin, trưng bầy tranh ảnh sách báo.
- Sở Thông Tin về khắp vùng quê, chiếu phim, ca nhạc.
- Giúp đỡ mày móc dụng cụ về ấn loát, quay phim, giúp máy phóng thanh, xe hơi.
Trong
tổng số tiền viện trợ Kinh Tế Mỹ (70.330.000 Mỹ kim), ngân khoản dàng
riêng để mua hàng hóa nhập cảng là: 45.782.000 Mỹ kim. Từ 1951 đến tháng
6.1953 đã có 58% của ngân khoản đó được tiêu dùng (26.380.000 Mỹ kim).
Số còn lại được ghi trên khế ước và hàng hóa sẽ dần dần được chuyển tới
ba Quốc Gia Liên Kết.
Về
niên khóa 1954, mục tiêu của chương trình nhập cảng (16.000.000 Mỹ kim)
là cung cấp thêm số Mỹ kim cho Đông Dương để mua hàng hóa cần thiết. Do
đó nạn khan ngoại tệ sẽ đỡ dần. Có ngoại tệ, các thương gia Việt Nam có
thể gửi mua hàng hóa ở Hoa Kỳ hoặc ở các nước khác nếu giá hàng rẻ hơn ở
Hoa Kỳ.
Đặt
dưới quyền quản trị của một tổ chức tư với tên là Ủy Ban Nhập Cảng Lâm
Thời, chương trình nhập cảng mới sẽ là một cố gắng chung của cả
Pháp-Việt-Mên-Lào, nhằm mục tiêu tăng cường tài chính để mua các hàng
hóa, vật liệu cần thiết cho các Quốc Gia Liên Kết.
Những
hàng hóa, vật liệu đó là dầu hỏa, đầu chạy máy, bông, xe hơi, máy móc
kỹ nghệ, dụng cụ nông nghiệp, phi cơ, những bộ phận máy tháo rơi, tầu
thủy dụng cụ làm mỏ và những toa tầu hạng nặng để cơ khí hóa việc khai
thác hầm mỏ…
Nói
tóm lại, nhờ viện trợ của Hoa Kỳ, chính phủ Quốc Gia Việt Nam tương đối
đã gây lại được mức điều hòa trong đời sống quá lệch lạc của dân chúng
nạn nhân chiến tranh. Và cũng nhờ đó chính phủ đã có thể dễ dàng tiếp
tục phát triển mở mang nền kinh tế quốc gia ngõ hầu đủ sức chịu đựng
trong cuộc chiến đấu chống cộng sản.
2.- Viện Trợ Quân Sự:
Riêng
một mình nước Pháp không thể nào chịu đựng nổi mãi cuộc chiến tranh
trường kỳ ở Đông Phương. Số quân lính, vũ khí và chi phí chiến trường
của Pháp ở Đông Dương chỉ có hạn. Tuy Hoa Kỳ đã dành cho ba Quốc Gia
Liên Kết một ngân khoản là 30.500.000 Mỹ kim riêng viện trợ về quân sự
năm 1953 nhưng sự thực số tiền đó chả là bao trong khi chiến tranh dữ
dội ở Đông Dương cần thiết mỗi ngày tới 3.000.000 Mỹ kim.
Chiến
sự giảm bớt ở Triều Tiên (tháng 6.1953) thì áp lực quân sự của Việt
Minh lại có vẻ tăng lên và cộng sản thế giới chú mục vào khu Thái
Lan-Miến Điện. Trận đánh Ai Lao của quân đội Việt Minh đã thúc đẩy Hoa
Kỳ phải để ý hơn nữa đến vấn đề viện trợ quân sự cho Đông Dương.
Từ tháng 6 năm 1953, rất nhiều chính khách và Tướng lĩnh Hoa Kỳ sang thăm Việt Nam.
Thống
Đốc Adlai Stevenson, ứng cử viên Tổng Thống của Đảng Dân Chủ Mỹ đã công
nhận chiến tranh Đông Dương là ‘’một trận lôi cuốn máu và tiền’’.
Ngày 20 tháng 6, một phái đoàn quân sự Mỹ do Trung Tướng Fohn Daniel điều khiển đã từ Phi Luật Tân tới Sài Gòn.
Phái
đoàn gồn có Thiếu Tướng Russel với 4 sĩ quan Tham Mưu Lục Quân Tướng
Carty với 3 sĩ quan Tham Mưu Không Quân, Đại Tá Dillon với 2 sĩ quan
Tham Mưu Thủy Quân Lục Chiến và ông Philip W. Bonsal, Trưởng Phòng Đông
Nam Á trong Bộ Ngoại Giao Mỹ.
Thành phần quan trọng trong phái đoàn đã chứng tỏ Hoa Kỳ rất chú ý đến tình hình quân sự ở Đông Dương.
Mục
đích của phái đoàn quân sự Mỹ là thảo luận với Đại Tướng Tổng Tư Lệnh
Navarre Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Nguyễn Văn Hinh về cuộc viện
trợ dụng cụ và chiến phí cho Quân Lực Pháp-Việt, đồng thời quan sát
chiến trường Đông Dương.
Trước kia Hoa Kỳ chỉ viện trợ theo một phương pháp nhỏ giọt và quá ít ỏi, như vậy đã không giúp ích được mấy cho chiến trường.
Trong khoảng thời gian từ 1951 đến mùa Thu năm 1953, Hoa Kỳ đã viện trợ cho quân đội Pháp và quân đội các Quốc Gia Liên Kết:
- 170.000.000 viên đạn.
- 16.000 xe vận tải và rờ-móoc
- 850 xe thiết giáp.
- 350 phi cơ (phóng pháo và khu trục)
- 250 phi cơ (dành cho Hải Quân)
- 10.500 máy truyền thanh.
- 9.000 vũ khí tự động, cùng nhiều vật liệu về y tế, dụng cụ công binh và đồ trang bị.
Nhưng
từ khi Đại Tướng Navarre sang giữ chức Tổng Tư Lệnh quân đội Pháp ở
Đông Dương và quyết định thay đổi chính sách quân sự trên phạm vi chiến
lược và chiến thuật, kế hoạch mới đã đòi hỏi thêm nhiều sự chú ý của Hoa
Kỳ về phương pháp và số lượng của cuộc viện trợ.
Hoa
Kỳ cũng hiểu tình thế mới và tháng 7.1953 Ngoại Trưởng Mỹ Foster Dulles
đã nhấn mạnh trong buổi họp với một nhóm Nghị Sĩ ở Hoa Thịnh Đốn về vấn
đề Đông Dương:
‘’Tình
hình hiện tại ở Đông Dương, chúng ta (Mỹ) phải coi nó như là một hiểm
họa quan trọng nhất đương đè chĩu lên thế giới tự do.
Tại
miền đó, trách nhiệm chính là ở Pháp, hiện giờ quân đội Pháp đang chiến
đấu và chịu đựng một phần lớn gánh nặng tài chính của các nỗ lực quân
sự’’.
Những
nhu cầu tối cần thiết về quân sự ở Đông Dương cũng đã được Ngoại Trưởng
Pháp Bidault nêu rõ trong tháng 7 ở Nữu Ước khi họp Hội Nghị ba Ngoại
Trưởng tam cường Tây phương:
‘’Pháp
không thể cứ theo đuổi tình trạng này mãi mãi không biết đến bao giờ.
Gánh nặng của Pháp phải được giảm bớt và Pháp cần phải được Hoa Kỳ giúp
đỡ’’.
Nói
đến tổn phí về chiến tranh ở Đông Dương, Ngoại Trưởng Pháp đã cho Ngoại
Trưởng Hoa Kỳ rõ ràng ngoài những dụng cụ không thể ước lượng được,
nước Pháp đã chi phí gần 500 tỷ Phật Lăng cho ngân sách chiến tranh ở
Đông Dương và đó là con số tối đa mà nền tài chính Pháp không tài nào
làm hơn được nữa.
Ngày 27 tháng 7.1953, một sự kiện tối quan trọng được loan báo: Ngừng bắn ở chiến trường Cao Ly.
Việc
ngừng bắn ở Cao Ly đã khiến Hoa Kỳ lo ngại tới việc ‘’chí nguyện quân
Trung Cộng’’ có thể xuất hiện ở Việt Nam. Riêng chiến đấu với Việt Minh,
Liên Quân Việt-Pháp cũng đã còn phải dằng dai ngót chục năm trời mà
chưa thu được thắng lợi nếu nay thêm Trung Cộng, Quân Đội Mỹ không thể
không trực tiếp tham gia một trận chiến tranh Cao Ly thứ hai ở Đông
Dương, nếu Mỹ không muốn để cả vùng Đông Nam Á lọt vào tay cộng sản.
Trong
kỳ họp Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ về vấn đề viện trợ cho ngoại quốc,
Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield ở Cao Ly, Trung Cộng sẽ rảnh tay để tiếp
tục tăng cường viện trợ cho Việt Minh, can thiệp vào cuộc chiến tranh
Đông Dương, ông Mansfield nói:
‘’Cuộc
viện trợ mà chúng ta bằng lòng chịu ở phần đất đó trên thế giới là để
cho cuộc phòng thủ riêng của chúng ta cũng như cho cuộc phòng thủ của
thế giới tự do. Nếu tôi tin được vào những tin tức mới đây ở Đông Dương
thì giữa các nhà cầm quyền Mỹ-Pháp và chính phủ Việt Nam có một sự đồng
quan điểm về những khả năng lớn lao của một cuộc đắc thắng quân sự trong
vòng hai năm nữa với điều kiện là chúng ta không làm chậm trễ những vụ
gửi dụng cụ chiến tranh sang Đông Dương’’
Sau
Bản Tuyên Ngôn 3.7.1953 của chính phủ Pháp, Hoa Kỳ đã hài lòng về thái
độ của Pháp đối với ba Quốc Gia Liên Kết mặc dầu sự hài lòng ấy cũng còn
phải đợi những hành động tương lai của Pháp khi thấy nước này còn áp
dụng một chính sách theo những ý thức lạc hậu đối với ba Quốc Gia Liên
Kết. Nhưng từ sau Bản Tuyên Ngôn 3 tháng 7 và nhất là sau khi ký kết
ngừng bắn ở Cao Ly, Hoa Kỳ đã tỏ ra tích cực giúp Pháp hơn vì đã nhận rõ
số phận bản thân Hoa Kỳ cũng như của thế giới tự do giờ đây bị lệ thuộc
vào trận chiến tranh trên lãnh thổ Việt-Mên-Lào.
Ngày
30 tháng 7, Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ đã thảo luận về con số Mỹ kim thêm
vào chương trình viện trợ quân sự cho những quân đội chống cộng sản ở
Đông Dương.
Vấn
đề viện trợ quân sự Mỹ cho quân lực chống cộng ở Đông Dương và vị trí
quan trọng của vùng này đã được Tổng Thống Eisenhower nhấn mạnh trong
Bản Phúc Trình về chương trình An Ninh Hỗ Tương của Mỹ Quốc gửi Quốc Hội
Hoa Kỳ trung tuần tháng 8.1953. Dưới mắt Tổng Thống Mỹ, Việt Nam và Cao
Mên, Ai Lao là một cửa ngõ mở sang những vùng rất giầu nguyên liệu miền
Nam Á Châu và cuộc phòng thủ Việt-Mên-Lào là mối thắc mắc lớn cho thế
giới tự do:
‘’…Vì
rằng Pháp không đủ sức đối phó với những điều cam kết cả ở Âu Châu lẫn Á
Châu nếu không có một sự giúp đỡ ở ngoài, Hoa Kỳ phải cung cấp cho các
lực lượng chống cộng ở Đông Dương những đồ trang bị và vũ khí mà những
lực lượng đó cần dùng. Cuộc viện trợ quân sự cho các lực lượng võ trang
Liên Hiệp Pháp và các Quốc Gia Liên Kết đã được tiếp tục trên một căn
bản nhiều quyền ưu tiên trong Đệ Nhất Lục Cá Nguyệt 1953. Nhịp gửi hàng
tháng đã được tăng lên gấp bội so với năm ngoái. Những vụ gửi dụng cụ
này và những ảnh hưởng của nó trong các cuộc hành binh đã góp một phần
lớn trong việc cải thiện tình hình quân sự nguy ngập ở Đông Dương và đã
ngăn cản được cộng sản xâm chiếm tất cả vùng Đông Nam Á.
Tuy nhiên cuộc chiến thắng chưa có thể có ngay được.
Nước
Pháp đã phải chịu những sự thiệt hại nặng nề về sĩ quan và binh lính,
chính phủ Pháp đã tiêu phí mỗi năm hơn 1.000.000.000 Mỹ kim để theo đuổi
chiến dịch khó khăn và gay go đó, nhưng không thể nào đảm đương được
tổng số phí khoản về trận chiến tranh mà không có hại cho sự góp phần
quân sự với các lực lượng ở Âu Châu. Hiện nay người ta đã chú trọng tới
sự thành lập những đạo quân quốc gia của các nước Việt-Mên-Lào. Trong
cuộc chiến đấu để ngăn cản các lực lượng cộng sản tràn ngập Đông Dương
cuộc viện trợ cho các lực lượng Liên Hiệp Pháp bằng người, bằng đồ trang
bị và trong địa hạt huấn luyện tỏ ra rất cần thiết để lập những đạo
quân quốc gia ấy.
Tuy
nhiên khi cần đến, các lực lượng Đông Dương phải đủ sức để gánh vác một
phần lớn hơn trong việc bảo vệ dân chúng chống các cuộc tấn công của
cộng sản. Khi nào các lực lượng địa phương trở nên mạnh mẽ, Pháp có thể
chuyển dần từ Đông Dương về Âu Châu những sĩ quan và binh lính thiện
chiến cần thiết để thành lập những lực lượng của tổ chức Bắc Đại Tây
Dương.
Nay
mặc dầu có cuộc viện trợ cụ thể của Pháp và của Hoa Kỳ, các Quốc Gia
Việt, Miên, Lào cũng bị bắt buộc phải lấy số tối đa trong số dự trữ của
mình cho mọi nỗ lực quân sự.
Riêng nước Việt Nam đã dành 70% ngân sách cho các lực lượng võ trang của nước đó…’’
Hoa
Kỳ coi trận chiến tranh ở Đông Dương là một đe dọa lớn lao cho hòa bình
và để tâm nghiên cứu viện trợ thêm về quân sự. Đồng thời với những cuộc
thỏa luận gấp rút ở Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ quanh vấn đề viện trợ quân
sự cho các chính phủ ở Đông Dương, Bộ Ngoại Giao Mỹ đã lên tiếng cảnh
cáo Trung Cộng mục đích ngăn ngừa một cuộc can thiếp trực tiếp có thể có
của cộng sản trên chiến trường Đông Dương.
Trên
phương diện quân sự, Việt Nam đã nắm trong một chính sách mới mẻ của
Hoa Kỳ. Chính sách mới ấy nẩy ra một tháng sau ngày 22 tháng 8.1953,
ngày mà người kế vị Stalin, Malenkov lạnh lùng tuyên bố với thế giới
rằng Liên Bang Sô Viết cũng có bom khinh khí. Ngày 22 tháng 9, Hội Đồng
An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ quyết nghị:
1.- Chiến lược quân sự: Hợp Chúng Quốc phải tích cực tấn công trong phòng ngự hơn là thụ động phòng thủ.
2.- Chiến lược tâm lý: ‘’Chiến dịch trắng’’.
Nguyên
tắc của ‘’Chiến dịch trắng’’ là thẳng thắn thúc đẩy dư luận dân chúng
Hoa Kỳ và vạch rõ cho họ biết những sự thật có thể xẩy đến trong thời
đại nguyên tử, huấn luyện cho họ quen những phương pháp phòng thủ bằng
cách thi hành liên tiếp những buổi báo động thử.
Về quân sự, Hoa Kỳ cố gắng gấp rút sản xuất hai loại phi cơ tối tân ghê gớm để đề phòng:
-
Loại phóng pháo cơ phản lực B-52 dùng để chở bom nguyên tử, có thể bay
rất nhanh đến bất luận một căn cứ nào trên thế giới, thi hành xong nhiệm
vụ, rồi lại trở về căn cứ.
- Loại khu trục cơ phản lực F-100 với tốc độ và hỏa lực vượt bực.
Kỳ
họp thứ hai của ba Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, Úc và Tân Tây Lan tại Hoa Thịnh
Đốn (9.9.53) đã ghi chú hiểm họa cộng sản ở Đông Dương. Các Quốc Gia Úc
và Tân Tây Lan đã rất để ý đến tình hình Đông Dương và tìm cách cung
cấp thêm dụng cụ.
Ngày
10 tháng 9, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ đã chấp thuận một ngân khoản
385.000.000 Mỹ kim để góp phần đặc biệt của Hoa Kỳ vào kế hoạch tăng nỗ
lực quân sự Pháp-Việt ở Đông Dương.
Theo
lời ông Tổng Trưởng phụ trách việc liên lạc với ba Quốc Gia Liên Kết,
số viện trợ Mỹ này sẽ không có mục đích để kéo dài chiến tranh mà để
chấm dứt nó. Sự tăng thêm 385 triệu Mỹ kim vào chiến phí Đông Dương sẽ
làm tăng tiến Quân Lực Việt-Mên-Lào và giúp Pháp được rảnh tay chú ý tới
các việc quan trọng khác.
Quyết
nghị ghi chú hiểm họa cộng sản ở Đông Dương của Hội Nghị ba Ngoại
Trưởng Hoa Kỳ-Úc-Tân Tay Lan cùng quyết nghị của Hội Đồng An Ninh Quốc
Gia Hoa Kỳ về 385 triệu Mỹ kim viện trợ đã phù hợp với lời tuyên bố của
Ngoại Trưởng Mỹ Foster Dulles ở Saint Louis trước Đại Hội của Hiệp Hội
Lao Động A.F.L.:
‘’…Ở
Đông Dương, một trận chiến tranh khác đương tiếp tục và mối hiểm họa
khi nhận thấy sức kháng cự có thể bị tan rã trước các lực lượng xâm lăng
của cộng sản hiện vẫn có. Nếu sức kháng cự tan rã, do ở đó có lẽ nó sẽ
là một đe dọa cho quyền lợi trọng yếu của chúng ta ở Tây Thái Bình
Dương.
Rất
nhiều người ở Đông Dương cũng đã từng tin tưởng từ lâu rằng họ đã phải
lựa chọn giữa chủ nghĩa thuộc địa và chủ nghĩa cộng sản. Một sự lựa chọn
như vậy không bao giờ làm cho người ta hết sức hăng hái hoặc có nhiều
thiện chí để hy sinh và liều chết, đích tối cao của sự hy sinh.
Hiện
giờ, Pháp đã cho biết rõ rệt ý định của mình qua Bản Tuyên Ngôn ngày 3
tháng 7, thỏa thuận dành cho các Quốc Gia Liên Kết ở Đông Dương một nền
độc lập hoàn toàn, theo như các nước đó đã muốn.
Pháp và các Quốc Gia Liên Kết hiện đương xét đến Bản Tuyên Ngôn đó và chắc chắn là họ sẽ hoạt động với tất cả thiện chí.
Như vậy, tính cách của trận chiến tranh sẽ biến chuyển.
Theo
đúng với lương tâm, Hoa Kỳ có thể góp sức rõ rệt bằng tiền và bằng dụng
cụ để đi tới một kết luận khả quan cho cuộc xung đột nầy, nó bắt đầu
thuộc đúng kiểu chiến tranh độc lập trong khi tính cách xâm lăng của
chiến tranh cộng sản cũng bắt đầu bị phô bày ra’’.
Ngày
30 tháng 9, chính phủ Hoa Kỳ đã chính thức chuẩn y ngân khoản 385 triệu
Mỹ kim viện trợ quân sự cho chính phủ Pháp để sử dụng trong các cuộc
hành binh chống Việt Minh ở Đông Dương. Bộ Ngoại Giao Pháp đã công bố
một bản thông cáo vể việc viện trợ đó:
‘’Các
lực lượng võ trang của Pháp và của các Quốc Gia Liên Kết đã tham dự từ 8
năm nay một cuộc chiến đấu gay go để ngăn chặn cộng sản tràn vào Đông
Nam Á. Những nỗ lực anh dũng của các lực lượng đó để bảo vệ nền độc lập
của các Quốc Gia Việt-Mên-Lào đang được thế giới tự do khâm phục và giúp
đỡ.
Chính
phủ Hoa Kỳ nhận thấy nỗ lực của Khối Liên Hiệp Pháp đã viện trợ chính
phủ Pháp và các Quốc Gia Liên Kết dưới những hình thức khác nhau để góp
phần vào việc chấm dứt một cách nhanh chóng nhất và đắc thắng cuộc chiến
đấu dài dăng dẳng này.
Với
Bản Tuyên Ngôn ngày 3.7.53, chính phủ Pháp đã quyết định hoàn thành nền
độc lập của ba Quốc Gia Liên Kết Đông Dương bằng những cuộc thương
thuyết với các chính phủ đó.
Một
thỏa ước vừa được ký kết giữa hai chính phủ Pháp và Hoa Kỳ theo đó
chính phủ Hoa Kỳ đã đặt dưới quyền sử dụng của Pháp trước ngày 31.12.54
một ngân khoản phụ nhiều nhất là 385 triệu đô la để đài thọ những kế
hoạch mà chính phủ Pháp đã quan niệm hầu bành trướng những cuộc hành
quân chống Việt Minh.
Số
tiền này phải được coi như là thêm vào những số tiền mà chính phủ Hoa
Kỳ đã dành để viện trợ về quân sự và kinh tế cho Pháp và các Quốc Gia
Liên Kết.
Chính
phủ Pháp đã quyết định mang hết nỗ lực của mình để làm tan rã và tiêu
diệt những lực lượng chính quy của địch ở Đông Dương. Với mục đích đó,
chính phủ Pháp có ý định hoàn thành những kế hoạch tăng cường các lực
lượng võ trang của các Quốc Gia Liên Kết, hợp tác với Việt-Miên-Lào và
tạm thời thích ứng phần quan trọng của các quân số riêng của mình vào
những điều kiện cần thiết để bảo đảm thắng lợi cho những kế hoạch quân
sự hiện tại.
Sự viện trợ thêm này của Hoa Kỳ nhằm việc cho phép đạt tới những mục tiêu đó một cách nhanh chóng và có hiệu quả hơn hết.
Việc
tăng cường sự nỗ lực của Pháp ở Đông Dương sẽ không phương hại tới căn
bản những kế hoạch hay chương trình của chính phủ Pháp về lực lượng Bắc
Đại Tây Dương của Pháp và cũng không phương hại gì một cách vĩnh viễn’’
Việt Nam, vị trí trọng yêu trong mặt trận kháng chiến chống cộng, đã kích thích nhiều lãnh tụ Hoa Kỳ phải qua thăm.
Ngày
11 tháng 9.1953, Thượng Nghị Sĩ Knowland Chủ Tịch đa số Cộng Hòa tại
Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ từ Hương Cảng tới Việt Nam. Sau vài ngày xem
xét, nhận định. Thượng Nghị Sĩ đã tuyên bố trước khi rời Việt Nam đi
Thái Lan rằng:
‘’…Căn
cứ vào những điều tôi được thấy, tôi hy vọng rằng những lực lượng của
ba tân quốc gia độc lập này có thể được tăng cường nhanh chóng chừng nào
hay chừng ấy, được trang bị và huấn luyện cả về phương diện viện trợ
hợp lệ cho lực lượng quân sự của chính họ cũng như cho những lực lượng
cộng tác với họ trong công cuộc phòng thủ chung.
Tôi
còn hy vọng rằng những kỹ nghệ phục hưng như những công xưởng sửa xe
hơi hoặc những loại máy móc khác sẽ được thực hiện ở Việt Nam, Ai Lao và
Cao Mên, không những để giúp cho vấn đề chuyên chở mà còn để khi cuộc
chiến đấu dành tự do đã thắng lợi và quốc gia đã được thống nhất thì dân
chúng địa phương đã được huấn luyện trong công việc này sẽ có đủ khả
năng để củng cố nền kinh tế quốc gia và đồng thời khiến cho nền kinh tế
được dồi dào.
Tôi
cần phải kết luận rằng tôi rất tin tưởng tự do, vào khả năng quân sự,
vào sự phát triển tương lai về kinh tế và sự trưởng thành của dân tộc tự
do Việt-Mên-Lào.
Tôi
không những chỉ muốn thấy họ duy trì tự do của họ bên ngoài bức màn sắt
để tự giải thoát nhưng bởi vì tôi tin rằng bất cứ những quốc gia nào để
mất tự do vào tay cộng sản họ cũng làm nguy hại đến tự do của các dân
tộc khác trên thế giới’’.
Tuy
Thượng Nghị Sĩ Knowland vẫn tuyên bố rằng ông lấy tư cách riêng tới
thăm Đông Dương và chuyến đi của ông qua vùng Đông Nam Á không có tính
cách chính thức nhưng với địa vị lãnh tụ nhóm đa số Cộng Hòa tại Thượng
Nghị Viện Hoa Kỳ, lời nói và ý nghĩ của ông không phải là xuông và kém
tính cách quyết định.
Ông
Knowland đã phải nhận thấy rằng người lính Quốc Gia Việt Nam sẽ cũng
thiện chiến và cũng không kém bất cứ người lính nào khác trên thế giới
nếu họ được võ trang đầy đủ, được huấn luyện và chỉ huy một cách khéo
léo.
Tiếp
theo cuộc thăm viếng của Thượng Nghị Sĩ Cộng Hòa Knowland, đầu tháng
11.1953, Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon cũng đặt chân tới Việt Nam.
Cuộc
kinh lý của Phó Tổng Thống Hoa Kỳ bao gồm những xứ: Hạ-uy-di, Tân Tây
Lan, Úc Đại Lợi, Nam Dương, Tân Gia Ba, Thái Lan, Việt Nam, Cao Mên, Ai
Lao, Đài Loan, Nam Cao Ly, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Tích Lan, Ấn Độ, Bắc
Phi, quần đảo Acores.
Theo Phó Tổng Thống Hoa Kỳ, cuộc tuần du này sẽ tỏ cho quốc gia ở Á Châu rõ rằng nước Mỹ coi Á Châu cũng quan trọng như Âu Châu.
Khi ở Việt Nam, Phó Tổng Thống Nixon đã nhấn mạnh:
‘’Mọi
sự xẩy ra ở Việt Nam đều có một ảnh hưởng lớn lao đến tương lai của cả
Đông Nam Á. Nếu cộng sản thắng thế thì tự do sẽ tận số. Để chống sự đó,
các bạn đã chiến đấu và chúng tôi đã tình nguyện và hãnh diện giúp các
bạn.
Những
người biết tương trợ nhau thì chắc chắn là sẽ thắng thế trong những
nguồn đen tối nhất, chúng ta chắc chắn sẽ có đủ lực để thắng vì chính
nghĩa của chúng ta hợp lẽ và công bằng. Chúng ta đứng về phía công lý
của nghĩa độc lập, còn về phía bên kia, họ chỉ có sự nô lệ’’.
Cuộc
viếng thăm của vị đại diện cường quốc dân chủ Hoa Kỳ đã là một sự kiện
rất quan trọng, một bảo đảm chắc chắn về thái độ và sự ủng hộ của Hoa
Kỳ. Sự viếng thăm ấy là kết quả của những tiến triển xâu xa và rộng rãi
của Hoa Kỳ trong vai trò lãnh đạo phòng thủ thế giới tự do chống độc tài
cộng sản.
Trung tuần tháng 11.1953, một số nhân vật quan trọng nữa của Hoa Kỳ cũng ghé thăm Việt Nam.
-
Tướng O’Daniel, Tổng Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ vùng Thái Bình Dương, lưu
lại Việt Nam một tuần lễ rồi rời Sài Gòn ngày 15 tháng 11.
-
Ngày 17 tháng 11, Đô Đốc Felix B. Stump, Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ vùng
Thái Bình Dương, Phó Đô Đốc Phillips, Thượng Nghị Sĩ Alexander Smith,
Đại Tá Hải Quân Frankel, Rivero, Trung Tá Hải Quân Gage, Lederer…
Những
vị Tướng lĩnh Lục và Hải Quân Hoa Kỳ đi thăm các căn cứ quân sự, các
phi trường, hải cảng ở Việt Nam tuy không ngoài khuôn khổ của những cuộc
tiếp xúc thường xuyên giữa các Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đồng Minh trong
vùng Thái Bình Dương nhưng cũng đã chứng tỏ rằng sau Bản Tuyên Ngôn của
Pháp ngày 3 tháng 7, sau ký kết đình chiến ở Cao Ly, Hoa Kỳ thật đã ra
mặt thẳng thắn bênh vực bằng quân sự các quốc gia tự do miền Đông Nam Á.
Số tiền viện trợ 385 triệu Mỹ kim mới chỉ là mào đầu cho một cuộc Liên
Quân Mỹ-Pháp-Việt-Mên-Lào.
Lập trường của Hoa Kỳ trong cuộc viện trợ rất rõ rệt, như lời tuyên bố của Đặc Sứ Donald Heath ở Sài Gòn hồi đầu tháng 10.1953:
‘’…Tôi
cho rằng điều sau đây cũng xác đáng khi nói về chính sách của chúng tôi
đối với ba quốc gia tự do Việt-Mên-Lào và nỗ lực quân sự và tài chánh
vô biên của ba nước cùng chung với Pháp để bảo tồn nền độc lập mới tranh
thủ được và những viễn ảnh tương lai tự do phát triển của họ.
Võ
khí và viện trợ kinh tế do Hoa Kỳ cung cấp phụ thêm vào phần gánh vác
tài chính vô cùng quan trọng hơn của Pháp, đó là chưa nói tới những sự
hy sinh của con dân nước Pháp, đó là chưa nói tới những hy sinh của con
dân nước Pháp trên chiến trường.
Chúng
tôi sẵn lòng cung cấp sự viện trợ đó để bảo vệ nền độc lập của ba quốc
gia. Hoa Kỳ không đòi hỏi những đặc quyền để đền bù lại và cũng không ẩn
ý gì khi cung cấp sự viện trợ đó. Mục tiêu của chúng tôi là ủng hộ các
cố gắng chung của những lực lượng Liên Hiệp Pháp và những lực lượng
Việt-Mên-Lào nếu bảo đảm cho họ các phương tiện cần thiết để chiến thắng
kẻ thù chung là Việt Minh, không phải gì khác hơn là đạo quân xung
phong của trục cộng sản Bắc Kinh-Mốt-cu.
Tôi
tin chắc rằng kẻ thù cộng sản, chỉ tìm cách gây mầm chia rẽ và bất hòa
giữa các quốc gia trong thế giới tự do, một lần nữa sẽ vấp phải một sự
thống nhất cố gắng của ba Quốc Gia Liên Kết và nước Pháp.
Tôi
hiểu rõ những nỗi lo ngại và khó khăn mà dân tộc Việt Nam mới thâu được
chủ quyền phải đương đầu và phải chịu đựng một cách nhẫn nại. Dầu sao
cũng có một niềm an ủi vô tận. Lịch sử dậy chúng ta rằng các dân tộc
mạnh đứng trước một tai họa lớn lao càng được rèn luyện mạnh mẽ thêm bởi
những nỗi đau của chính mình.
Trong
ba năm trời lưu trú tại đây, tôi đã tìm hiểu được sẵn có của dân tộc
Việt Nam và tôi tin chắc rằng, sau khi ra khỏi cuộc chiến tranh dai dẳng
và đau thương này, nước Việt Nam chắc chắn sẽ là một quốc gia mạnh mẽ
hơn và tự tin ở mình hơn…’’
Nhận
rõ lập trường đứng đắn và mục tiêu không vụ lợi của Hoa Kỳ trong công
cuộc viện trợ. Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm, trong bức thư ngày 11.10.54 gửi
Đặc Sứ Donald Heath, đã thay mặt chính phủ Việt Nam và nhân danh tất cả
các chiến sĩ Quốc Gia Việt Nam, tỏ lòng hoan nghênh và cảm ơn nồng hậu
chính phủ Hoa Kỳ.
Nếu
dưới mắt những người Quốc Gia Việt Nam, viện trợ Mỹ là một hành động
quý báu để giúp nước nhà dành lại tự do, dân chủ thì đối với Việt Minh,
viện trợ của Hoa Kỳ lại là một hành động mà họ không tiếc lời nguyền
rủa.
Trong một bản tài liệu giải thích cho các đảng viên cộng sản, Việt Minh đã kết án Mỹ Quốc như sau:
‘’…Ngay
sau Đại Chiến Thứ Hai, nhất là từ lúc chúng (Hoa Kỳ) bị bật khỏi Trung
Quốc và đã nắm trong tay nền kinh tế chiến tranh ở Nhật, đế quốc Mỹ càng
chú ý đến Đông Nam Á nơi đông dân, giầu của (nguyên liệu và thóc lúa),
nông nghiệp lạc hậu. Một mặt chúng dùng mọi cách để trực tiếp đầu cơ,
bán hàng, khai thác nguyên liệu v.v…ở các nước Đông Nam Á, mặt khác,
chúng thúc đẩy và ủng hộ bè lũ tài phiện Nhật, tay sai của chúng, mở
rộng việc xâm lược kinh tế Đông Nam Á, dần dần đánh lui thế lực kinh tế
của Anh, Pháp, Hà Lan ở các nước đó. Ngoài ra trong con mắt Đế Quốc Mỹ
Đông Nam Á còn là một nguồn nhân lực vô tận, cần thiết cho việc gây
chiến tranh xâm lược Châu Á và Thái Bình Dương.
Để thực hiện đã tâm gây chiến tranh đó. Đế quốc Mỹ mưu mô gì ở Đông Nam Á ?
Chúng
cấu kết và giúp đỡ đế quốc Anh, Pháp, Hà Lan hòng dập tắt ngọn lửa đấu
tranh giải phóng đang hừng hực khắp Đông Nam Á. Chúng xây dựng nhiều căn
sứ quân sự, đồng thời tìm cách dần dần chen lấn bọn Anh, Pháp, Hà Lan
để giành quyền bá chủ ở Đông Nam Á về mọi mặt chính trị, kinh tế, quân
sự, văn hóa và lôi kéo các nước Đông Nam Á vào cuộc chiến tranh thế giới
mới.
Đế
quốc Mỹ đã cùng bè lũ bù nhìn Quyrinô thẳng tay đán áp phong trào giải
phóng Phi Luật Tân. Chúng ‘’viện trợ’’ vũ khí và tiền của cho thực dân
Anh, Pháp để kéo dài chiến tranh xâm lược ở Việt-Mên-Lào, đẩy mạnh việc
khủng bố phong trào Mã Lai. Chúng tìm đủ cách mua chuộc bọn phản động Ấn
Độ, Nam Dương, Xiêm, Diến v.v…Hội Nghị Tân Gia Ba tháng 5. 1951, Hội
Nghị Hoa Thịnh Đốn đầu năm nay (1952) những cuộc gặp gỡ gần đây giữa bọn
Tướng Tá Mỹ, Anh, Pháp ở Đông Nam Á hoặc giữa Mỹ với bè lũ tay sai của
chúng ở Hawaii chứng tỏ bọn chúng ngày càng đi sâu vào mưu mô cấu kết
với nhau để chống lại nhân dân các nước Đông Nam Á.
Nêu
cao chiêu bài ‘’chống cộng’’, mượn cớ ‘’phòng thủ chung’’ nhưng thực tế
cốt để chuẩn bị xâm lược Trung Quốc, phá hoại hòa bình Châu Á và Thái
Bình Dương. Đế quốc Mỹ đã bắt bù nhìn Phi Luật Tân nhường cho chúng 21
căn cứ quân sự, đã xây dựng nhiều căn cứ và đắp đường giao thông quân sự
dọc biên giới: Xiêm-Trung Quốc, Xiên-Diến, Xiên-Miên, Xiêm-Lào, sửa
sang sân bay Băng Cốc ở Xiêm thành sân bay lớn nhất Đông Nam Á, mở rộng
sân bay Răng Gun ở Diến Điện, lập thêm sân bay ở Nam Dương, gấp rút huấn
luyện và trang bị vũ khí tối tân cho 18 Tiểu Đoàn Xiêm, tiếp tế vũ khí
đạn dược cho tàn quân Quốc Dân Đảng quấy rối biên giới Diến Điện-Trung
Quốc và đặt nhiều cơ quan gián điệp ở Phi Luật Tân, Việt Nam, Diến Điện,
Ấn Độ v.v…
Chúng
trân tráo tự xưng là ‘’bạn tốt’’ (!) của nhân dân Đông Nam Á, nỏ mồm
‘’công kích’’ chế độ thực dân mà Anh, Pháp cố duy trì ở Việt-Mên-Lào và
Mã Lai, gióng trống khua chiêng quảng cáo ầm ỹ cho lý tưởng ‘’tự do’’
của Mỹ và điểm 4 của chương trình Tờ-ru-man vênh mặt ‘’bênh vực’’ cho
cái mà chúng gọi là ‘’chủ nghĩa dân tộc Châu Á’’. Chúng làm ra vẻ quan
tâm đến đời sống của nhân dân Đông Nam Á, tuyên bố sẵn sàng ‘’viện trợ’’
nhân dân Đông Nam Á về nông cụ, thuốc men v.v…Nhưng nhân dân Đông Nam Á
thừa hiểu đó chỉ là những trò bịp. Sự thật thì đế quốc Mỹ đang cố kìm
hãm nhân dân Đông Nam Á trong tình trạng lạc hậu để tha hồ bán hàng, đầu
tư, bóc lột, vơ vét nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp chiến tranh ở
Mỹ và Nhật. Đồng thời chúng mưu dùng nhân dân Đông Nam Á làm bia đỡ đạn
cho chúng. Chúng tuyên truyền văn hóa nô dịch, tâng bốc đời sống đồi
trụy và dâm ô để đầu độc tinh thần nam nữ thanh niên.
Bọn
đế quốc Anh, Pháp, Hà Lan cũng biết đế quốc Mỹ đang tìm cách và cũng đã
bắt đầu hất cẳng mình để đoạt quyền bá chủ ở Đông Nam Á. Nhưng vì cổ đã
mắc vào tròng Mỹ và hoảng sợ trước phong trào đấu tranh ngày càng lên
mạnh của nhân dân Đông Nam Á nên chúng phải bám lấy đế quốc Mỹ để cố duy
trì phần nào địa vị của chúng ở Đông Nam Á. Chúng phải bấm bụng nhận
những điều kiện thắt cổ của Mỹ về việc ‘’viện trợ’’. Ở Việt Nam, Pháp
phải để cho Mỹ khai thác những khoáng sản quý như Thiếc, Than, Đá phốt
phát v.v…ở Nam Dương, công ty độc quyền Mỹ chiếm của Anh và Hà Lan hơn
100 giếng dầu và hàng chục nhà máy lọc dầu. Hơn một triệu mẫu cao su ở
Nam Dương và Tân Chi Nê lọt vào tay Mỹ, Hà Lan phải bấm bụng bán rẻ lại
cho chúng nhiều khu mỏ chì, thiếc và rất nhiều vườn canh-ki-na và cà
phê. Mỹ đoạt quyền lợi của Anh ở Xiêm về các ngành mậu dịch, xuất cảng
và nắm lấy độc quyền khai thác cao su và thiếc. Chúng khống chế thị
trường cao su và thiếc ở Mã Lai và lấy dần vào quyền khai thác dầu hỏa
và cao su của Anh ở Ấn Độ.
Những trở ngại lớn trên con đường xâm lược của Mỹ:
Trên
con đường xâm lược Đông Nam Á cũng như ở nhiều nơi khác trên thế giới,
đế quốc Mỹ đang gặp nhiều trở ngại đó sẽ ngày càng lớn. Bọn đế quốc Mỹ
và bè lũ tay sai Anh-Pháp-Hà Lan v.v…về căn bản thì nhất trí với nhau để
khủng bố và nô dịch nhân dân Đông Nam Á, nhưng những mâu thuẫn trong
nội bộ chúng càng ngày càng gay go. Đế quốc Anh đang cố lôi kéo bọn phản
động các nước Đông Nam Á vào khối ‘’thịnh vượng chung’’ của Anh, ra sức
chống lại sự cạnh tranh của Mỹ-Nhật trên thị trường Đông Nam Á và gần
đây, vận động Úc và Tân Tây Lan phản đối Mỹ về việc dự định cho Nhật
chính thức tham dự khối xâm lược Thái Bình Dương. Thực dân Pháp thì tỏ ý
bất mãn về chính sách ‘’viện trợ’’ nhỏ gọt của Mỹ, mặt khác lại muốn
được quyền sử dụng ‘’viện trợ’’ Mỹ để nắm chắc bọn bù nhìn Việt-Mên-Lào,
nhưng Mỹ vẫn duy trì chính sách đó, đồng thời lại chỉ ‘’viện trợ’’ cho
Pháp một phần, còn một phần thì ‘’viện trợ’’ thẳng cho bọn bù nhìn…’’
Luận điệu hằn học của Việt Minh, sự thực chỉ nằm trong chương trình
chung gây tâm lý ‘’chống Mỹ’’ của cộng sản quốc tế. Dù hành động của Mỹ
tốt đẹp thế nào, dưới mắt nhìn thiên lệch của những người cộng sản cũng
biến thành xấu xa, vụ lợi cả.
Nhưng
thực tế đã chứng tỏ rằng viện trợ của Hoa Kỳ đã theo đúng chánh sách
đúng đắn và tinh thần tương hỗ không vụ lợi, như lời nói của Đặc Sứ
Denald Heath ngày 23.12.50 tại Sài Gòn trong ngày ký kết Hiệp Ước quân
sự giữa Pháp và Việt-Mên-Lào:
‘’…Cuộc
viện trợ của Hoa Kỳ không đòi hỏi một chút quyền hành nào về việc sử
dụng các căn cứ quân sự hay việc kiểm soát tài nguyên hoặc kinh tế,
không đòi hỏi một chút quyền lãnh đạo chỉ huy trên lãnh thổ hoặc trong
chiến dịch và cũng không có cả một đòi hỏi đặc biệt nào…
Sự
thật, dân tộc Hoa Kỳ, dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc ham chuộng
tự do khác trên thế giới chỉ muốn hòa bình, hòa bình tự do và dân chủ.
AI LAO
Ai
Lao là nước thứ nhì trong Khối các Quốc Gia Liên Kết và cũng chịu chung
ảnh hưởng của trận chiến tranh khốc liệt đang tàn phá Bán Đảo Đông
Dương.
Với
diện tích rộng 231.000 cây số vuông, Ai Lao chỉ có được một tổng số dân
chúng gần hai triệu người, kể cả những nhóm dân tộc thiểu số (hơn 30
nhóm) ở rải rác khắp miền đồi núi như dân Thái, Khạ, Mèo, Lu Yaa v.v…
Cương
giới Ai Lao, phía Bắc giáp Diến Điện, Trung Hoa và miền Bắc Việt Nam,
phía Nam Giáp Cao Mên, phía Đông giáp miền Trung Việt Nam và phía Tây là
con sông Cửu Long (Mékong), biên thùy thiên nhiên ngăn cách Ai Lao với
Thái Lan.
Ai
Lao sản xuất được nhiều gỗ quý, cánh kiến trắng để dùng chế nước hoa,
xà phòng thơm và có nhiều thung lũng trồng toàn thuốc phiện.
Đất
đai Ai Lao chưa hề bị khai thác, các nguyên liệu quý giá còn ẩn mình
nguyên vẹn dưới chân những khu rừng núi hoang dại mênh mông.
Vì
dân số quá ít ỏi và hiếu tĩnh nên xưa kia Ai Lao thường bị các nước lân
bang thèm thuồng nhòm ngó, nhất là Thái Lan họ chỉ vượt qua sông Mékong
là đe dọa ngay được Kinh Thành Luang Prabang, nơi chứa đụng nhiều bạc
vàng châu báu.
Năm
1778, Ai Lao bị một Tướng Xiêm, Chao Mahak Rassad Souk, kéo quân vượt
qua Mékong tàn phá Kinh Thành và cướp mất tượng Phật bằng ngọc xanh.
Không
chịu được cảnh áp bức, nhà ái quốc Lào Chao Anon cùng dân chúng nổi dậy
đuổi quân xâm lăng, và dân Lào dầm mình trong khói lửa (1828).
Rồi
lại đến lượt quân Vân Nam vượt biên giới (1873) tràn đánh Thát Luồng.
Quân chiếm đóng đi tới đâu đều để lại cảnh tượng hãi hùng, người bị
phanh thây, xé xác, cung điện đền chùa đổ nát tan hoang. Kinh Thành Thát
Luồng cũng chung số phận bị dày xéo. Những ngôi chùa đẹp nhất nước Lào
(Vat Phra Leo, Vat Phra Vat) bị đốt phá trơ trụi điêu tàn.
Thời Trung Cổ, nước Lào gọi là Lan Xang vẫn do một dòng họ kế tiếp nhau trị vì.
Đầu
thế kỷ thứ 17 (1711-1713) nước Lan Xang tách ra làm đôi, đứng đầu có
hai vị vua cùng chung một dòng họ cũ. Vua Oun Kham ở Luang Prabang và
Vua Kham Souk ở Champassak.
Năm 1807, phái bộ Auguste Pavie đặt chân lên đất Lào và chuẩn bị việc xâm chiếm.
Năm
1893, một Hiệp Ước Pháp-Lào được ký kết và từ đó Lào cũng như Cao Mên,
Việt Nam, phải ép mình vào khuôn khổ xứ Đông Pháp, chịu quyền cai trị
của Phủ Toàn Quyền Pháp.
Nước
Ai Lao được hợp nhất và Hoàng Tử Sisavang Vong lên ngôi vua (Vua
Sisavang Vong là con Hoàng Tử Nhouy và là cháu Vua Kham Souk).
Tổ
chức chính quyền của Lào mới chỉ nằm vỏn vẹn trong một Hội Đồng tý hon
gọi là Hosanam Luang có vài công chức cao cấp với địa vị Giám Đốc.
Rồi chiến tranh Thế Giới Lần Thứ Hai bùng nổ.
Dựa
uy lực quân đội Nhật Bản, Thái Lan gây hấn với ‘’xứ Đông Pháp’’
(1940-1941) và đòi Lào phải hoàn lại mấy Tỉnh thuộc hữu ngạn sông
Mékong.
Chịu nhún nhường vì yếu thế, Pháp phải ‘’trả’’ cho Thái Lan hai Tỉnh Bassac và Paklay của Lào.
Đền bù lại sự mất đất, Pháp nới thêm quyền hành cho Lào (Hiệp Ước Bảo Hộ chính thức giữa Pétain-Sisavang Vong ngày 29.8.1941).
Tổ chức Hosanam Luang mở rộng thành Nội Các, gồm một vị Thủ Tướng với bốn bộ:
- Bộ Nội Vụ và Quốc Phòng.
- Bộ Tài Chính Hoàng Gia và Giáo Dục Xã Hội.
- Bộ Kinh Tế và Công Chính.
- Bộ Tư Pháp và Bộ Lễ.
Ngày
9 tháng 3 năm 1954, quân đội Nhật trở mặt lật đổ chính quyền Pháp. Việc
đó đã lôi cuốn theo cả xứ Lào vào ảnh hưởng của mọi biến chuyển chung ở
Đông Dương.
Trước binh lực hùng mạnh của Nhật Bản, quân đội Pháp đồn trú ở Lào bị tan vỡ.
- Số quân đội đóng ở Bắc Lào chạy sang Trung Hoa thoát khỏi bàn tay Nhật.
- Ở Trung Lào, một số công chức trốn được vào rừng.
-
Riêng ở Nam Lào, đại đội đầu tiên và độc nhất của quân đội Lào, thành
lập tại Đồng Hến từ ngày xẩy ra chuyện xung đột với Thái Lan, đã bảo tồn
được lực lượng vì đóng lẩn xa quân đội Nhật. Đại Đội đó (1cre Cie des
Chasseurs Laotiens) đã kết nạp thêm và tăng quân số được gấp đôi để luôn
luôn phục kích, du kích quân đội Nhật.
Ngày
8 tháng 4 năm 1945, Nhật Bản yêu cầu Quốc Vương Sisavang Vong tuyên bố
Ai Lao Độc Lập và ‘’tình nguyện’’ gia nhập Khối Đại Đông Á do Nhật Bản
đứng đầu. Một chính phủ được nhào nặn do bàn tay Nhật Bản.
Bốn tháng sau (8.1945) quân đội Phù Tang đầu hàng Đồng Minh không điều kiện.
Chính
phủ Pháp vội ủy nhiệm Đại Tá Imfeld làm Cao Ủy ở Lào (28.8.45) Đại Tá
Imfeld cùng quân đội vẫn ẩn núp trong rừng núi Bắc Lào từ sau ngày
9.3.1945.
Chính phủ Pháp-Lào lục tục từ các nơi đổ về thành thị:
- Bộ đội du kích Pháp-Lào về Vientiane (5.9.45).
- Bộ đội du kích của Hoàng Thân Boun Oum về Paksé (14.9.45).
An
ninh chưa kịp tái hiện thì quân đội thuộc Sư Đoàn 93 của Thống Chế
Tưởng Giới Thạch đã đặt chân lên Thủ Đô đất Lào (15.9.45) do sự thỏa
thuận của Đồng Minh để giải giáp quân đội Nhật.
Trong thời gian có mặt quân đội Trung Hoa, nội tình Lào lại thêm lắm chuyện rắc rối:
- Quân Đội Trung Hoa áp dụng chính sách tuyên truyền bài Pháp làm một số người trở nên có ác cảm với Pháp.
- Thành Phố Vientiane vì quá lộn sộn nên dân chúng phải lũ lượt tản cư.
- Quốc Vương Ai Lao bị mất quyền và bị giữ.
- Đại Tá Tư Lệnh (kiêm Cao Ủy Pháp) Imfed bị tước khí giới ở Luang Prabang.
- Một chính phủ mới thành lập ở Vientiane do Hoàng Thân Pethsarath lãnh đạo.
- Phong trào Lào Issara (Lào Tự Do Độc Lập) liên lạc với Việt Minh, mạnh mẽ hoạt động, gây cơ sở tổ chức.
Nhưng sau khi quân đội Trung Hoa rút khỏi Ai Lao tình thế lại biến đổi.
Tháng Giêng năm 1946, Phủ Cao Ủy Pháp tới đóng Paksé (Hạ Lào) rồi quân đội Pháp tiến binh dần dần chiếm lại từng thị trấn.
- Ngày 17 tháng 3.1946, quân đội Pháp chiếm đóng Savanakhet.
-
Ngày 21.3.46, trong khi tiến đánh Tỉnh Thakkhet quân đội Pháp phải giao
chiến kịch liệt với quân đội Lào-Việt Minh và đuổi xa được họ.
- Ngày 25.4.46, chiếm lại Vientiane.
- Ngày 13.5.46, chiếm lại Luang Prabang.
- Ngày 4.6.46, chiếm lại Sầm Nứa.
- Ngày 21.6.46, chiếm lại Phong Saly trên miền biên thùy sát Diến Điện.
Trong Bản Tạm Ước ký kết với Quốc Vương Sisavang Vong, tháng 8.1946, Pháp công nhận Lào là quốc gia tự trị, thống nhất.
Do
áp lực của Pháp, chính phủ Thái Lan đã phải trả lại cho Quốc Vương Ai
Lao hai nhượng địa bắt bí được hồi 1941. Quân đội Lào-Issara-Việt Minh
cũng bị đánh đuổi thất tán và các lãnh tụ của phong trào phải lánh sang
Bangkok.
Qua một giai đoạn đầy rối ren, lủng củng, ai Lao bắt đầu được bước sang thời tạm ổn định.
Dân
tộc Lào nói chung, phần đông chỉ thích an phận bình dị, yên tĩnh và
không muốn thấy xẩy ra những xáo lộn, đụng chạm tới đời sống thanh nhàn,
phẳng lặng của họ.
Nhưng những biến cố dồn dập đến với Việt Nam từ 1945 đã lôi kéo lây cả nước Vạn Tượng vào vòng luẩn quẩn.
Sở
dĩ như vậy vì trên mọi phạm vi chính trị, địa dư, kinh tài, quân sự, Ai
Lao đã phải có những liên hệ ràng buộc chặt chẽ với Việt Nam.
Về
phương diện chính trị, không kể tới những đụng chạm lịch sử cũ kỹ giữa
các triều vua Việt Nam-Vạn Tượng thời trước, mối liên hệ Ai Lao-Việt Nam
cũng như Cao Mên-Việt Nam đã bắt nguồn mạnh mẽ từ khi cả ba nước cùng
phải chịu chung sống dưới một chế độ cai trị của Phủ Toàn Quyền Pháp.
Và từ ngày chinh chiến, những tai họa xẩy đến với Việt Nam cũng bao trùm cả Ai Lao:
- Quân đội Phù Tang chiếm đóng với chiêu bài Đại Đông Á.
- Bánh vẽ Độc Lập Nhật Bản với bom đạn Đồng Minh, Quân đội Trung Hoa đồn trú để tước khí giới quân đội Nhật Bản.
- Phong trào Việt Minh rồi phong trào Lào Issara xuất hiện.
Về phương diện địa dư quân sự, cả Pháp lẫn Việt Minh đều rõ rằng đất Lào là một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng.
Nếu Pháp giữ được Ai Lao, Việt Minh sẽ khó có thể mặc sức vùng vẫy tung hoành vì luôn luôn có một mũi dùi vướng ở cạnh sườn.
Ngược
lại, nếu Việt Minh chiếm được xứ Lào, không những riêng số phận Đông
Dương sẽ nguy khốn mà cả vùng Đông Nam Á phì nhiêu sẽ bị đe dọa nặng nề.
Sau
Tạm Ước ký kết (cuối 1946) giữa Đông Cung Thái Tử Savang Vong với các
nhà cầm quyền Pháp, một Hội Nghị Lập Hiến được thành lập.
Ngày 11.5.11947, Bản Hiến Pháp của Quốc Gia Lào được Vua Sisavang Vong thông qua và công bố cho toàn dân.
Những điểm chính trong Bản Hiến Pháp Lào đại khái như sau:
‘’Đang
lúc Khối Liên Hiệp Pháp được xây dựng trên một nền tảng mới, hiểu rõ
địa vị nước nhà qua những bảo đảm của lịch sử, tin chắc rằng tương lai
Quốc Gia chỉ có thể vững bền do sự phối hợp của tất cả các đất đai trong
nước, Quốc Gia Lào long trọng tuyên bố lãnh thổ Lào từ nay hoàn toàn
thống nhất.
Dân
chúng Lào đều tỏ lòng trung thuận với nền Quân Chủ, tỏ ý ham chuộng
những nguyên tắc dân chủ và đồng thanh xuy tôn lên ngôi Quốc Vương Ai
Lao, Đức Vua Sisavang Vong.
Lào sẽ thành một quốc gia tự trị trong Khối Liên Hiệp Pháp.’’
Bản
Hiến Pháp Lào còn quy định quyền hành của Quốc Vương. vạch rõ quyền
công dân và bổn phận công dân, giao phó quyền lập pháp cho một Quốc Hội
dân cử và quyền hành pháp cho một chính phủ đã được Quốc Hội đó chấp
thuận.
Thế là từ chính thể quân chủ chuyên chế, Quốc Gia Ai Lao đã chuyển một cách nhẹ nhàng sang chính thể quân chủ lập hiến.
Sau
một thời gian cầm quyền chính lâu dài, từ 24.12.1947 đến 2.3.1949,
chính phủ Hoàng Thân Souvannarath từ chức nhường chỗ cho Hoàng Thân Boun
Oum với Nội Các mới.
Nội
Các Boun Oum tiếp tục việc thương thuyết với các đại diện của Pháp ở
Đông Dương và kết quả là ngày 19.7.49 tại Paris, Tổng Thống Vincent
Auriol đã ký kết với Quốc Vương Sisavang Vong một Hiệp Ước tương tự như
Bản Hiệp Ước Élysée của Pháp với Việt Nam.
Ngày
23.1.1950, hai phái đoàn Pháp, Lào với những ông Pignon, Schneider,
Boun Oum, Thao Nhouy, Aphay v.v…lại đi tới thêm một tỏa thuận: Pháp sẽ
giúp đỡ Lào đủ vật liệu, kỹ thuật để nâng cao nền kinh tế quốc gia, cải
tổ phương pháp hành chính trong nước để Lào có thể trở nên hùng mạnh.
Lãnh
tụ phe đối lập Phya Khammao tuyên bố giải tán đảng Lào Issara vì nước
nhà đã độc lập và ủng hộ chính phủ do Quốc Vương Sisavang Vong lãnh đạo.
Những
người Lào thân Việt Minh vội tổ chức một mặt trận mới với tên Neo Lao
Issara và một chính phủ lưu vong Lào được thành lập ở miền Bắc Việt Nam
để tiếp tục chiến đấu chống lại quân đội Pháp và Quốc Vương Ai Lao:
Chính phủ Sophanuvong của nước Pathét Lào (Quốc Gia Lào).
Ngày 17.2.1950, Nội Các của Hoàng Thân Boun Oum từ chức nhường chỗ cho một chính phủ Liên Hiệp Pháp mạnh mẽ hơn.
Từ Hiệp Ước Auriol-Sisavang Vong Tháng 9.1949 đến Hiệp Ước Auriol Sisavang Vong tháng 10.1953.
Ngày 23 tháng 2.1950 một vị Cao Ủy Pháp mới được cử sang Ai Lao: Cao Ủy Miguel de Pereyra.
Cao Ủy Pháp đến Vientiane vừa kịp để dự lễ Nội Các mới thành lập ra mắt quốc Vương. (24.2.50)
Thành phần Nội Các gồm có:
-
Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Quốc Phòng: Phouy Sananikone.
-
Bộ Trưởng Bộ Tài Chính: Phao Panya.
-
Bộ Trưởng Bộ Kinh Tế: Thao Lenam.
-
Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ-Bộ Lễ, Thanh Niên: Voravong.
-
Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp kiêm Y Tế: Phya Khammao.
-
Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao kiêm Giáo Dục và Thông Tin: Quthong Souvannavong.
-
Bộ Trưởng Bộ Giao Thông Công Chính kiêm Bộ Kế Hoạch: Souvanna Phouma.
Chính
phủ mới đã tỏ rõ tính cách một chính phủ Quốc Gia Liên Hiệp. Người ta
nhận thấy ngoài những Bộ Trưởng vẫn ở cạnh Quốc Vương từ lâu còn có
những Bộ Trưởng mới: Ông Outhong Souvannavong, một người đối lập với
những chính phủ trước và các ông Souvnna Phouma, Phya Khammao, lãnh tụ
của đảng Lào Issara.
Ở
Quốc Hội, Hoàng Thân Pheul Panya, Phó Chủ Tịch đã được bầu lên làm Chủ
Tịch thay Hoàng Thân Phouy Sananikone (lên ghế Thủ Tướng chính phủ).
Ngày
13.4.1950, một buổi lễ được long trọng cử hành tại Thành Phố Vientiane
để đánh dấu ngày nước Pháp trao trả lại quyền hành cho chính phủ Ai Lao.
Mười bản văn kiện chuyển giao cơ quan đã được ký kết giữa Cao Ủy Pháp
với Thủ Tướng Lào.
Các cơ quan được chuyển giao:
- Thông tin tuyên truyền báo chí.
- Xã hội cứu tế.
- Thanh tra lao động.
- Cảnh sát công an.
- Kiểm soát giá cả.
- Thống kê.
- Công chính.
- Hầm mỏ.
- Giáo dục.
- Thủy lâm.
Những công thự của Pháp ở những Tỉnh Paksé, Thakkhet và Saravane cũng được giao trả lại cho các nhà cầm quyền Lào.
Đại diện địa phương của Pháp chỉ còn lại hai nơi, một ở Luang Prabang, một ở Savannakhet.
Qua
lễ chuyển giao quyền hành tiếp ngay đến ngay đến ngày Tết tưng bừng
nhất của dân tộc Lào: Tết Nguyên Đán (14.4.50) theo lịch Nhà Phật.
Nhưng
trong khi đó những người Lào thân Việt Minh cũng không ngừng hoạt động.
Chính phủ lưu vong của Souphanuvong đã gia nhập mặt trận liên dân tộc
Việt-Mên-Lào do Việt Minh lãnh đạo.
Để
đối phó với những hoạt động du kích đang phát triển của nhóm Lào Việt
Minh (Neo Lao Issara), chính phủ Ai Lao một mặt cấp tốc xây dựng quân
đội, một mặt đề nghị với Pháp trực tiếp giúp đỡ về quân sự.
Vì
bản tính dân tộc Lào không hiếu chiến nên từ xưa nghề binh vẫn không
được coi trọng. Trước năm 1941, ở Lào chỉ có một vài cơ lính dõng canh
gác, tuần phòng (Như kiểu lính Khố Xanh (1940-1941) người Pháp vội thành
lập thêm một Đại Đội mới (1ere Cie Chasseurs Laotiens) ở Đồng Hến, cách
Savannakhet 65 cây số. Một đơn vị khác toàn quân tình nguyện cũng được
kết hợp ở Tỉnh Vientiane, và sau ngày Nhật Bản đảo chính, những toán
quân đó rút vào rừng hoạt động du kích chống lại quân đội Nhật.
Được
thêm những đơn vị nhảy dù của Pháp từ Calcutta tới giúp sức, quân đội
du kích mỗi ngày thêm lớn mạnh. Lúc Nhật Bản đầu hàng, quân số du kích
Pháp-Lào đã lên tới 8 Tiểu Đoàn.
Cuối năm 1949, sau Hiệp Ước ký kết với Pháp, chính phủ Lào quyết định thành lập Quân Đội Quốc Gia.
Tiểu
Đoàn Bộ Binh thứ nhất bắt đầu được mộ và huấn luyện hồi tháng 7 năm
1950 ở Chinaimo (cách Vientiane 6 cây số). Cuối năm 1950, Tiểu Đoàn đó
được phân phối đi đóng ở các đồn bao quanh Thành Phố Vientiane, đồng
thời một Tiểu Đoàn Bộ Binh thứ hai cũng được thành hình ở Hạ Lào.
Quân số Lào tiến triển theo thời gian.
Năm 1951 thêm:
- Hai Tiểu Đoàn Bộ Binh bảo vệ Luang Prabang.
- Một Tiểu Đoàn quân nhẩy dù.
- 25 đội Lưu Động dưới quyền chỉ huy của các Châu khouẻng (Châu Trưởng hay Tỉnh Trưởng) với nhiệm vụ bình định trong vùng.
Năm 1952 thêm:
- Hai Tiểu Đoàn Bộ Binh.
- Các Đại Đội công binh và vận tải.
- Một đơn vị giang thuyền tuần thám.
- 10 đội lưu động.
Khởi
đầu từ cuối 1949 với độ hơn một ngàn binh sĩ, Quân Đội Quốc Gia Lào
trong ba năm đã tăng được gấp mười lần. Tính đến mùa Thu năm 1952, số
lượng đã lên tới 12.000.
Và còn phải kể thêm 10.000 binh sĩ Lào đang tiếp tục chiến đấu trong hàng ngũ quân đội Pháp.
Để đủ số cán bộ chỉ huy, một trung tâm huấn luyện sĩ quan đã được mở cửa ở Đồng Hến (1950).
Khóa ‘’Tổ Quốc Lào năm 1951 khóa ‘’Thiếu Úy Bon Akham’’ năm 1952 đã đào tạo được chừng 150 sĩ quan.
Những
sinh viên sĩ quan đó, sau một năm chịu huấn luyện, được mãn khóa với
chức Chuẩn Úy. Sau đó lại phải thực hành thêm 6 tháng nữa trong đơn vị
bộ đội rồi mới được chính thức lên ngạch sĩ quan.
Trong
30 đại đội bộ binh đã có 15 đại đội được dưới sự chỉ huy của sĩ quan
Lào. Những cán bộ chỉ huy Trung Đội (Section) trong Quân Đội Quốc Gia
hoàn toàn đã do người Lào đảm nhiệm lấy.
Một Trường Hạ Sĩ Quan được thành lập ở Chinaimo. Học sinh quân chịu huấn luyện trong 5 tháng.
Cuối 1952, ba khóa hạ sĩ quan đã tốt nghiệp (có chừng 120 Trung Sĩ).
Quân Đội Quốc Gia Lào ngày một tăng cường đã góp sức chiến đấu cạnh quân đội Pháp để diệt trừ những ổ phục kích Lào-Việt Minh.
Những cuộc chạm súng ngày càng thêm nhiều, ngày càng tăng phần gay go, ác liệt.
Hoa
Kỳ cũng rất chú ý tới tình hình Ai Lao, đã dành riêng cho Ai Lao một
ngân khoản viện trợ kinh tế và quân sự để kiến thiết xứ sở, tăng cường
quân lực.
Trong
những tháng cuối 1950 và đầu 1951, Hoàng Thân Outhong Souvannavong, Bộ
Trưởng Ngoại Giao kiêm Thông Tin và Giáo Dục đã lãnh đạo phái đoàn Ai
Lao sang Pháp để dự Hội Nghị Liên Quốc Pháp-Mên-Việt-Lào (Hội Nghị Pau).
Kết
quả là về phương diện tài chính, đồng bạc của Ai Lao cũng như đồng bạc
Việt Nam, Cao Mên đều nằm trong một Viện Phát Hành chung và lệ thuộc
đồng Phật Lăng (Và tất nhiên cũng chịu chung ảnh hưởng của vụ phá giá
đồng bạc Đông Dương năm 1953 do chính phủ Mayer quyết định).
Tình
hình Ai Lao qua nhiều năm tương đối yên tĩnh bỗng trở nên nghiêm trọng.
Sau việc thành lập một chính phủ Thái của Trung Cộng ở Hải Nam gián
tiếp đe dọa Lào tiếp luôn đến việc Việt Minh trực tiếp trận đánh xâm
chiếm Bắc Lào hồi đầu mùa Hạ 1953. Nước Ai Lao nhỏ bé, may mắn hay không
may mắn, đã được toàn thể thế giới phải chú trọng để ý.
Những
biến cố chính trị và quân sự ở Đông Dương đã ảnh hưởng sâu sắc tới vận
mệnh Ai Lao và do đó phát sinh một cách dễ dàng mau chóng cuộc gặp gỡ
giữa Tổng Thống Vincent Auriol với Quốc Vương Sissavang Vong, tháng 10
năm 1953.
Lễ ký kết các Bản Phụ Ước Pháp-Lào đã diễn ra tại Phủ Thủ Tướng Pháp.
Phía
Pháp có sự hiện diện của Tổng Thống Vincent Auriol, Thủ Tướng J.
Laniel, Phó Thủ Tướng P. Reynaud, Bộ Trưởng Ngoại Giao G. Bidault, Bộ
Trưởng Quốc Phòng R. Pleven, Bộ Trưởng phụ trách các Quốc Gia Liên Kết
Marc Jacquet, Tổng Thư Ký Hội Đồng Liên Hiệp Pháp Mecheri, Đại Tướng
Không Quân Bodet phụ tá của Tổng Tư Lệnh H. Navarre.
Phía
Lào có mặt Quốc Vương Sisavang Vong, Hoàng Tử Savang Vathana, Thủ Tướng
Souvanna Phouma, Ngoại Trưởng Nhouy Abhay, Đại Biểu Hoàng Gia Hoàng
Thân Khammao, Bộ Trưởng Tài Chính Thao Katay, Bí Thư Quốc Vương Hoàng
Thân Thong Soik.
Nói đúng Bản Hiệp Ước ‘’Thân thiện và liên kết giữa nước Cộng Hòa Pháp và Quốc Gia Ai Lao’’ như sau:
‘’Ông Vincent Auriol, Tổng Thống Cộng Hòa Pháp kiêm Chủ Tịch Liên Pháp và Quốc Vương Sisavang Vong, Vua nước Ai Lao.
-
Nhận thấy rằng nước Pháp đã dữ trọn các lời đã hứa để bảo đảm cho Ai
Lao chủ quyền hoàn toàn và nền độc lập hoàn toàn, được xác nhận bởi Bản
Tuyên Cáo ngày 3 tháng 7 năm 1953.
-
Cùng chung một ý muốn duy trì và cũng có những giây liên lạc thân hữu
có truyện kết chặt hai nước, được củng cố bởi sự gia nhập của Vương Quốc
Ai Lao vào Liên Hiệp Pháp.
- Đã thỏa thuận với nhau như dưới đây:
Điều
1: Nước Cộng Hòa Pháp thừa nhận và tuyên bố rằng Vương Quốc Ai Lao là
một quốc gia hoàn toàn độc lập và có chủ quyền. Bởi vậy cho nên thay thế
cho nước Cộng Hòa Pháp trong tất cả các quyền hành và trách vụ đó ở tất
cả các hiệp ước quốc tế hoặc quy ước đặc biệt đã ký kết bởi nước Cộng
Hòa Pháp nhân danh Vương Quốc Ai Lao hoặc Đông Dương trước khi có quy
ước này.
Điều
2: Vương Quốc Ai Lao lại xác nhận tự do gia nhập Liên Hiệp Pháp, một tổ
chức liên kết của các dân tộc độc lập, có chủ quyền, tự do và bình đẳng
về quyền hành và bổn phận, ở đó tất cả các nước hội viên góp chung với
nhau những phương tiện của mình để bảo đảm cuộc phòng thủ chung của toàn
thể Khối Liên Hiệp. Vương Quốc Ai Lao lại xác nhận quyết định dự vào
Thượng Hội Đồng, nơi phụ trách sự phối hợp các phương tiện đó và sự điều
khiển chung Khối Liên Hiệp dưới quyền chủ tọa của Chủ Tịch Liên Hiệp
Pháp.
Điều 3: Nước Pháp cam kết bênh vực và ủng hộ chủ quyền và nền độc lập của Ai Lao trước các tụng đình quốc tế.
Điều
4: Nước Pháp và Ai Lao cam kết tham dự chung tất cả các cuộc thương
thuyết có thể xẩy ra có mục đích sửa đổi những quy ước hiện ràng buộc
các Quốc Gia Liên Kết với nhau.
Điều
5: Mỗi bên cam kết trên lãnh thổ chính của mình, bảo đảm cho những kiều
dân của bên kia sự đối đãi giống như sự đối đãi đã dành cho những người
dân ở chính nước mình.
Điều
6: Đôi bên, trong trường hợp mà các Hiệp Ước đang quy định các liên lạc
kinh tế giữa hai nước phải sửa đổi, cam đoan với nhau sẽ dành cho nhau
những quyền lợi, nhất là dưới hình thức ưu đãi về thuế xuất.
Điều
7: Những quy ước riêng biệt ấn định những thể thức về liên kết giữa
nước Cộng Hòa Pháp và Vương Quốc Ai Lao. hiệp ước và những quy ước riêng
biệt thủ tiêu và thay thế tất cả những văn kiện cùng tính chất được ký
kết trước đây giữa hai quốc gia.
Hiệp
Ước này và những quy ước riêng biệt, trừ những quy định trái lẽ cho
những quy định này, sẽ có hiệu lực vào ngày ký kết. Các văn kiện phê
chuẩn Hiệp Ước này sẽ được trao đổi khi được các cơ quan Lập Hiến Pháp
và Lào chuẩn y’’.
Hiệp
Ước ngày 22 tháng 10 năm 1953 đã đánh dấu một giai đoạn trong lịch sử
bang giao Pháp-Lào. Nó xiết chặt thêm những giây liên lạc đã có từ hơn
nửa thế kỷ giữa hai nước.
Thủ Tướng Ai Lao Souvanna Phouma hân hoan tuyên bố:
‘’…Chúng
tôi còn cần phải có sự giúp đỡ của Pháp để phát triển tài sản của chúng
tôi và trang bị nước chúng tôi. Đó là những công cuộc cần thiết cho tất
cả các quốc gia tân tiến.
Chúng
tôi sẽ khó mà đạt được mục đích đó bằng những phương tiện riêng của
chúng tôi vì Ai Lao, về phương diện kinh tế rất yếu ớt trước năm 1945,
lại bị suy nhược thêm từ khi chiến tranh lan đến biên thùy. Một vài
thành phố của chúng tôi bị phá hủy. Phần lớn các đường giao thông của
tôi không được săn sóc.
Vậy
cần phải hàn gắn những vết thương của chúng tôi do chiến tranh gây ra,
mở mang nước chúng tôi và đồng thời phải bảo vệ nền độc lập.
Nhiệm
vụ thật là nặng nề cho một quốc gia mới trưởng thành đã phải động viên
triệt để tất cả những sinh lực của mình để chiến đấu cạnh các đồng minh
chống một kẻ thù từ ngoài tới muốn bắt phải theo một lý tưởng trái với
những tập quán của mình.
Bởi vậy tôi yêu cầu nước Pháp tiếp tục giúp đỡ để cho Ai Lao giữ được địa vị trong Liên Hiệp Pháp và thế giới’’.
Về
phía Pháp, Tổng Thống Vincent Auriol cũng đọc một bài diễn văn phân
tách giá trị Hiệp Ước và trong đó còn ẩn thêm nhiều ý nghĩa xa xôi, bóng
gió.
‘’…Nó
làm hồi sinh mà không làm đứt đoạn những giây liên lạc kết chặt Vương
Quốc Ai Lao và nước Cộng Hòa Pháp trong một cuộc liên kết tự do và thân
thiện.
Những
ai vì nhẹ dạ, vì có óc kèn cựa và vô ơn, hiểu nhầm Pháp và Liên Hiệp
Pháp sẽ nhận được sự cải chính của các sự kiện vì không những Liên Hiệp
Pháp không phải là một sự kiện trở ngại cho nền độc lập quốc gia nhưng
nó có mục đích bảo đảm và bảo vệ nền độc lập đó.
Thật
là vô sỉ những ai trong lúc này quên những công ơn của Liên Hiệp Pháp
và không biết họ dẽ thiếu cái gì để tự vệ khi mà không có Liên Hiệp Pháp
?’’
Bài
diễn văn của Tổng Thống Pháp được đánh dấu bằng việc trao trả Quốc
Vương Ai Lao chiếc Ấn của Quốc Vương Luang Prabang mà từ 1887, lãnh tụ
Thái Đèo Văn Tri chiếm được đã đem biếu Auguste Pavie (sau Auguste Pavie
lại tặng Bộ Ngoại Giao Pháp.
Tháng
11.1957, dưới sự hướng dẫn của Thủ Tướng Souvanna Phouma, phái đoàn Ai
Lao lên đường đi Ba Lê dự khóa họp của Hội Đồng Liên Hiệp Pháp.
Phái
đoàn Lào gồm những vị: Phoui Sananikone Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng
Nội Vụ, Quốc Phòng. Outhong Souvannavong, Tổng Trưởng Y Tế, Hoàng Thân
Khammao. Đại diện tối cao của Ai Lao, Chao Say Kham, Tỉnh Trưởng Xieng
Khouang.
Quốc
Vương Ai Lao đã thành công về chính trị nhưng xứ xở Ai Lao, một lần
nữa, đã lại biến thành chiến trường quan trọng. Nào những cuộc hành binh
Mouette, Castor sát cạnh biên giới, nào những cuộc tảo thanh Jura,
Ardeche, Dampierre, Bearn v.v…, rồi tiếp đến những trận long trời lở đất
ở quanh khu vực Séno, Thakkhet…
Thế
giới lại một lần nữa hồi hộp trông cho kết quả của chiến trường Ai Lao,
kết quả có ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của toàn cõi Đông Nam Á và
của thế giới tự do.
CAO MÊN
Với
cảnh Chùa Đế Thiên Đế Thích, Chùa Vàng, Chùa Bạc với biển hồ Tonlésap,
xứ Cao Mên, tanh ngòm mùi cá, Quốc Gia của dân tộc Khmer khỏe, giầu đã
từng qua một thời văn minh tưng bừng dưới vòm trời Đông Nam Á.
Giáp
Thái Lan, Hạ Lào, Việt Nam và biển cả, Cao Miên nằm tròn chặn trong Bán
Đảo Đông Dương đã bổng trầm cùng với Việt Nam trong cơn sóng gió.
Từ
sự liên lạc của Quốc Vương Ang Dương với phái bộ Pháp tại Singapour năm
1854 đến Hiệp Ước Bảo Hộ 1863 ký kết giữa Mên Hoàng Norodom và các Đô
Đốc Pháp, (Đô Đốc Charner tiếp xúc với Norodom từ tháng 3.1861 và tháng
6.1864, Đô Đốc Doudart de Lagrée dâng Norodom ấn tín Quốc Vương). Dân
tộc Khmer bắt đầu yên định cuộc đời giống như hai dân tộc bạn: Việt Nam
và Ai Lao.
Hoàng
Đế ngày nay là cháu Mên Hoàng Norodom, tượng trưng cả 2 họ dòng dõi của
những triều vua thời Đế Thiên Đế Thích, dòng Norodom và dòng Sisowath,
Quốc Vương Cao Mên ngày nay (lên ngôi năm 1941, 20 tuổi) có một tên dài
dặc: Prean Bat Samdach Préah Norodom Sihanouk Varman Reach Harivong
Uphato Sucheat Visothipong Akamohaboras Rat Nikarodor
Moharesecheathireach Baromaneat Préah Chan Anacbak Kampuchea.
Biến
cố năm 1845 giúp Quốc Vương Sihanouk thoát ly hệ thống Bảo Hộ để tuyên
bố một Cao Mên độc lập và khi Việt Minh bùng lên ở Việt Nam lại đã lôi
cả dân tộc Khmer trộn lẫn với phong trào cách mệnh giải phóng. Chính phủ
Khmer độc lập đầu tiên do lãnh tụ Sơn Ngọc Thành lãnh đạo (1945). Lợi
dụng chức vị cao cấp trong chính phủ, Thủ Tướng Sơn Ngọc Thành lãnh đạo
tuyên truyền chống Pháp. Lãnh tụ Sơn Ngọc Thành đã từng phải trốn tránh
Pháp (1942) ở Thái Lan và trở lại Cao Mên 1945 sau khi đã đi Tokyo.
Tuyên
truyền chống người Pháp, võ trang cho đám thuyền thợ và ‘’cu ly’’ đất
đỏ (đồn điền cao su) Sơn Ngọc Thành đã chuẩn bị một sự hợp tác chặt chẽ
với ‘’ủy ban nhân dân Nam Bộ’’ sau ngày Việt Minh cướp chính quyền ở
Việt Nam.
Khi
quân đội của Tướng Leclerc xâm nhập trung tâm Cao Mên (10.1945) Thủ
Tướng Sơn Ngọc Thành bị bắt và kết án 20 năm khổ sai, đầy sang Vence rồi
Poitiers (Pháp).
Trong
chuỗi ngày mất Thủ Tướng, Miên Hoàng Sihonouk đã tiếp nhận Đại Tá Huard
làm Thượng Sứ Pháp, đồng thời ủy nhiệm Hoàng Thân Monireth thành lập
Nội Các (15.10.45). Tức khắc, xứ Cao Mên bị phân chia ảnh hưởng:
Một, Nội Các Monireth tuyên bố cuộc tái hợp cần thiết giữa Cao Mên và Pháp.
Hai,
một số lãnh tụ cách mạng phe cánh của Sơn Ngọc Thành ‘’xuất ngoại’’ về
phía biên giới Nam Việt (Sóc Trăng) liên kết với Việt Minh, thành lập
tiểu tổ kháng chiến đầu tiên dưới tên: Khmer Issarak.
Mùa
Xuân năm 1946, chính phủ Pháp ký với chính phủ Monireth tạm ước Modus
Vivendi. Dựa vào đó xứ Cao Mên hy vọng cải cách hệ thống chính trị cũ
rích để sửa soạn tiến bước theo dân chủ.
Tháng
9 năm 1946 Đảng Dân Chủ lấn bước và chiếm quyền điều khiển chính phủ.
Nội Các mới dưới sự lãnh đạo của Thủ Tướng Youtevong (đảng viên dân
chủ). Đòi lại của Thái Lan vùng đất đai bị nhượng từ tháng 7.1941 (vùng
Battambang). Nhưng, xứ Cao Mên mới không yên ổn và luôn luôn biến động.
Quân giải phóng Khmer Issarak nhất định chống lại chính phủ của Mên
Hoàng. Trong mạn rừng miền Tây Nam xát vùng biển cả, cố gắng tổ chức cơ
sở kháng chiến theo kiểu Việt Minh. Họ đột kích, phục kích, đón đường
cướp súng ống của quân đội Pháp.
Tháng 7.1947 Thủ Tướng Youtevong từ trần. Watchayavong lên thay (27.7.47) đã tổ chức cuộc bầu cử hội đồng lập pháp (21.12.47).
Năm
1948, tình hình xứ Cao Mên trở nên hỗn loạn. Trong khu vực Kandal miền
Nam, quân kháng chiến Khmer Issarak đã hợp tác mật thiết với Việt Minh.
Tổ chức quân sự quy mô phát triển: ‘’Liên Quân Mên-Việt’’. Thành phần
chỉ huy quân đội này là một số người Việt Nam và Cao Mên nguyên tù chính
trị ở Côn Đảo (được thể ra sau ngày Nhật-Pháp 9.3.45). Từ những căn cứ
địa loáng thoáng trong rừng sâu ‘’Liên Quân Mên-Việt’’ phóng ra những
trận đột kích phục kích giao thông chiến trên các Quốc Lộ Cao Mên, trên
những nhánh sông có thuyền bè vận chuyển ngăn cản đường giao thông tiếp
tế từ mọi hướng về Nam Vang, Thủ Đô chính trị dân tộc Khmer.
Tình
hình mỗi ngày một quan trọng khiến Nội Các Watchayavong lại đổ (7.48).
Ông Chean Vam được đứng ra lập Nội Các mới nhưng chưa được bao lâu ông
Penn Nouth lại thế chân (8.48). Đầu tháng 2.49 Penn Nouth phải nhường
ghế Thủ Tướng Yem Sambaur để thành lập chính phủ Liên Hiệp. Sự lủng củng
mâu thuẫn luôn luôn xảy ra trong nội bộ khiến cho Yem Sambaur giải tán
Nội Các cũ (15.9.49) và thành lập Nội Các khác (30.9.49). Tân Nội Các có
nhiệm vụ tổ chức cuộc đàm phán với Pháp gồm có những nhân vật như sau:
Yem
Sambaur, Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Nội Vụ và Quốc Phòng. Sum Hieng,
Phó Thủ Tướng kiêm Lễ Nghi và Kinh Tế, Kosal, Tư Pháp. Auchhoenn, Tài
Chính. Phick Phoeun, Canh Nông Công Chính. Ray Lamouth, Thương Mại Kỹ
Nghệ Tiếp Tế. Neal Phleng, Y Tế. Kouth Khoeun, Thông Tin. Mess Saen,
Giáo Dục. Pho Proeung, Phụ Tá Quốc Phòng.
Ngày
8.11 một Hiệp Ước Pháp-Miên ra đời, đại khái thuộc loại Hiệp Ước
Pháp-Việt, Pháp-Lào (1949). Nào Quốc Gia Cao Mên Độc Lập trong Liên Hiệp
Pháp, nào tinh thần tương hỗ, nào Cao Mên sẽ được ủng hộ gia nhập Liên
Hiệp Pháp v.v…và v.v…tất cả gồm 20 khoản.
Cao
Mên càng lộn xộn. Nhóm Việt Minh-Khmer Issarsk bất tình lình đã tuyên
bố thành lập mặt trận giải phóng Cao Mên (10.49). Từ lén lút, Việt
Minh-Khmer Issarak trở nên công khai khủng bố, mạnh bạo hoạt động. Lãnh
tụ Nguyễn thành Sơn (người Việt Nam) điều khiển mặt trận Cao Mên đã tập
hợp tất cả các lực lượng Khmer và lập thành một tổ chức: Mặt trận
Issarak thống nhất. Mặt trận này trao cho Sơn ngọc Minh (người Cao Mên)
lãnh đạo. Lãnh tụ Sơn ngọc Minh cho ra đời một chính phủ mệnh danh là
‘’chính phủ lâm thời Cao Mên tự do’’. Thế là chuối năm 1949 xứ Cao Mên
phì nhiều đã có 2 chính phủ.
Đầu
năm 1950 Cao Mên cũng như Ai Lao và Việt Nam được quốc tế công nhận
(2.1950). Những cuộc tiếp xúc với Hoa Kỳ (Sihanouk-Quillon-Abott,
Sihanouk-Giffin) là khởi đầu cho cuộc viện trợ (giống Việt Nam) quân sự
và kinh tế.
Tháng
3.1950, Mên Hoàng tiếp xúc với các lãnh tụ chính trị, tỏ ý muốn thành
lập một chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia rộng rãi. Đảng Dân Chủ, Đảng Tự Do,
Đảng Dân Chủ Tiến Bộ, Đảng Dân Chủ Ly Khai, Đảng Cải Lương… mâu thuẫn ý
kiến và bất đồng quan điểm quanh chức vị Thủ Tướng chính phủ. Sự mâu
thuẫn khiến Mên Hoàng phải đích thân cầm quyền chính (1.5.1950). Một Nội
Các ra đời như sau:
Quốc Vương: Norodom Sihanouk.
Thủ Tướng chính phủ tạm thời giữ ghế Quốc Phòng: Penn Nouth.
Ngoại Giao-Giao Thông-Công Chính: Ponn Nam.
Nội Vụ: Yit Stronn.
Tài Chính: Au Chloeun.
Kinh Tế: Khuon Nay.
Tư Pháp: Chan Nak.
Giáo Dục: Pitou de Monteiro.
Y Tế-Lao Động-Xã Hội: Neal Phleng.
Nghi Lễ-Mỹ Thuật: In Nginn.
Quốc Vụ Khanh: Tau Mau.
1.6.1950
Hoàng Thân Monipong thay Mên Hoàng giữ ghế Thủ Tướng để ký kết với
Thượng Sứ Pignon (15.6) những điều khoản áp dụng Hiệp Ước Pháp-Mên và tổ
chức phái đoàn đi họp Hội Nghị Pau (1950). (Outhong Sovannakong Tổng
Trưởng Ngoại Giao kiêm Giáo Dục, Thông Tin, thay Sonn Nam làm Trưởng
Đoàn). Tháng 2.1951 chính phủ Cao Mên lại đổ vì vấn đề thảo Hiến Pháp.
Tháng 3 ông Oum Chheangoun được chỉ định thành lập Nội Các Lâm Thời, đến
13.6 thành chính thức và Đảng Dân Chủ bắt đầu bị loại. Danh sách mới
như sau:
Thủ Tướng kiêm Quốc Phòng: Oum Chheangsun.
Phó Thủ Tướng kiêm Y Tế, Xã Hội, Lao Động: Sonn Nam.
Tư Pháp: Pitou de Monteiro.
Tài Chính: Au Chheun.
Ngoại Giao: Neal Phleng.
Nội Vụ: Prak Sariun.
Công Chính, Kế Hoạch, Giao Thông, Bưu Điện: Kosal
Giáo Dục, Mỹ Thuật: Poc Thuon.
Nghi Lễ: Sam Nhean.
Thương Mại Kỹ Nghệ Tep Phan.
Canh Nông, Chăn Nuôi: Chuop Hell.
Tuy
đã có chính phủ chính thức nhưng một số dân Cao Mên vẫn hướng về Đảng
Dân Chủ và nhất là lãnh tụ Sơn Ngọc Thành của họ. Tháng 10, hàng vạn
người tụ họp đòi chính phủ Pháp trả lại tự do cho Sơn Ngọc Thành nhờ đó
tháng 12 họ Sơn đã trở về nước.
Lợi
dụng lòng tín nghiệm của dân chúng Sơn Ngọc Thành cho ra đời tờ báo
Khmer Krok để tuyên truyền tranh đấu và phỉ báng như sau:
- Nền độc lập của quốc gia là giả dối.
- Nếu quốc gia được độc lập thật sự, Việt Minh sẽ tự lui ngay.
- Quân đội Pháp hồi hương ngay để đem lại an ninh cho quốc gia.
- Xé bỏ Hiệp Ước Pháp-Mên ký kết 1949.
Luận
điệu quá khích của tờ Khmer Krok khiến tờ báo đó phải đóng cửa (2.1952)
và việc đó làm Sơn Ngọc Thành bất mãn chạy sang hàng ngũ Việt
Minh-Khmer Issarak. Liên lạc được với một ủy viên trong ủy ban giải
phóng Cao Mên (Siêu -Heng) ngày 21.6.1952 Sơn Ngọc Thành bỏ vùng quốc
gia ra bưng biền hợp tác với Sơn ngọc Minh chủ tịch quân cách mạng.
Thế
là từ 1945 đến tháng 5.1952, xứ Cao Mên với vài triệu dạn còm đã thay
đổi đến 10 Nội Các với 8 vị Thủ Tướng, chiếm kỷ lục ‘’linh tinh’’ trong
ba quốc gia đau khổ ở miền Đông Nam Á.
Tháng
11.1950 khi đảng lao động Việt Nam ra mắt dân chúng (vùng Việt Minh) ở
bên nước bạn thì dân Khmer cũng bắt đầu thấy mọc lên ở nước mình đảng
lao động Cao Mên (cũng như dân Lào thấy đảng lao động Lào).
Trên
mặt trận quân sự Liên Quân Mên-Việt tăng cường hoạt động và được vũ
trang do việc đổi chác thổ sản như Kapok, hạt tiêu, nhựa thông, cá phơi
v.v…với Thái Lan, tổ chức cơ sở kháng chiến vùng Kandal và những khu
rừng rậm miền Bắc Battambang. Với quân số chừng 1,2 vạn, Việt Minh-Khmer
Issarak áp dụng du kích chiến đánh úp các đoàn tiếp tế vận tải quân
lương vũ khí của Pháp trên Thủy, Bộ, tiêu hao đối phương khắp chiến
trường. Lợi dụng đức tín ngưỡng của dân tộc Khmer, Việt Minh-Issarak tổ
chức huấn luyện những nhà sư giả mạo phái đi tuyên truyền ‘’đạo lý’’ gây
cơ sở. Thường khi các nhà đương cục Pháp-Mên không thể nào phân biệt
được thật hay giả để loại trừ hoạt động của Việt Minh. Đấy là một ưu
điểm của Việt Minh-Khmer Issarak mà cũng là một nhược điểm của chính phủ
Cao Mên và Pháp.
Những đối tượng của Việt Minh nhằm chia ra như sau:
-
Hàng chục vạn người Việt Nam sống bằng nghề chài lưới, buôn bán trên
các triền sông và nông nghiệp ở khắp lãnh thổ Cao Mên bị khai thác.
- 100.000 người Việt Nam ở Thủ Đô Nam Vang được tổ chức thành lập: ‘’Mặt trận Việt kiều ái quốc’’.
- Hàng vạn công nhân Việt Nam sống trong vùng đất đỏ bạc ngàn đã bí mật tổ chức chuyện phá hoại kinh tế Pháp.
-
300.000 Hoa kiều sống ở Cao Mên bị tuyên truyền và một tổ chức đã mọc
ra. ‘’Hội giải phóng Hoa kiều hải ngoại’’, Hội này đã giúp Việt Minh nào
tiền bạc, nào nông sản, nhiều nhất là trong vùng Kampot.
Từ
ngày Sơn ngọc Thành bỏ ra bưng biền, tình hình chính trị xứ Cao Mên
nhạt nhẽo hững hờ trôi. Cuộc bang giao Pháp-Mên tiến bộ chậm chạp ngắc
ngoải khiến cho trên đất Cao Mên xảy ra một chuyện làm ầm ỹ cả thế giới,
việc Quốc Vương Sihanouk vùng vằng bỏ nước lánh sang Thái Lan
(14.6.1953). Sau Mên Hoàng trở lại Battambang và về đóng đô tại Siem
Reap (30.6.53). Siem Reap là một Tỉnh phía Bắc Biển Hồ Tonlésap, gần Đế
Thiên Đế Thích, là quê hương ấp trại của Trung Tướng Dap Chuôn, vị Tướng
lãnh đã từ bưng về quy thuận 1949. Đóng ở Siem Reap, hành động của Quốc
Vương thật đã làm căng thẳng sự bang giao Mên-Pháp. Nhưng dù sao bao
giờ phút nghiêm trọng cũng đã dần trôi qua và những trách móc ngoại lai
cũng bớt dịu dần dần. Tháng 7, chính phủ Pháp cho ra đời Bản Tuyên Ngôn
chung cho cả 3 quốc gia Việt-Mên-Lào. Ta hãy nghe phản ứng:
Từ Siem Reap Mên Hoàng tuyên bố:
‘’Tôi
mong rằng lời phúc đáp của chính phủ Cao Mên sẽ đúng với nguyện vọng
chung của dân tộc Cao Mên và sẽ được nước Pháp tiếp nhận không đến nỗi
khó khăn…’’
Để phúc đáp Bản Tuyên Ngôn 3.7, Mên Hoàng Sihanouk trước hết đã tỏ thái độ của mình:
- Hài lòng về sự bổ nhiệm ông Maurice Dejean làm Tổng Ủy Viên,,,
- Áp dụng một chương trình động viên toàn quốc.
-
Thi hành kế hoạch Sihanouk, Mên Hoàng ủy nhiệm Hoàng Thân Essaro tổ
chức những đơn vị xung phong với mục đích tiêu trừ ‘’tam loạn’’ loạn
Việt Minh, loạn Issarak và loạn ‘’xâm lăng của ngoại quốc’’ (?).
Trong
khi ấy, Quốc Vương và Tổng Trưởng Quốc Phòng Sirik Matak kiểm tra quân
đội, từ Siem Reap đi Battambang (16.7) rồi lại từ Battambang về Siem
Reap (22.7), rồi lại từ Siem Reap đi Battambang (27.7), bá quan văn võ
rầm rầm rộ rộ v.v…và Thủ Tướng Penn Nouth bỗng nhiên biến thành ủy viên
giao thông liên lạc giữa Siem Reap với Nam Vang…
Những
yêu sách chính được nêu lên, nào yêu cầu Cao Mên tách ra khỏi Viện phát
hành giấy bạc, tách khỏi Hối Đoái Cục Việt, Mên, Lào, đòi thiết lập tự
do một Viện phát hành riêng và một Hối Đoái Cục Pháp-Mên độc lập nào yêu
cầu tòa án Cao Mên sẽ nhân danh Quốc Vương xét xử các án tù và bãi bỏ
Tòa Án Hỗn Hợp, nào đòi Pháp quyền Tổng Tư Lệnh cho Quốc Vương Cao Mên
v.v…
Hạ
tuần tháng 7, Thủ Tướng Penn Nouth cải tổ chính phủ, ông đã ghép Bộ Tài
Chính, Bộ Thể Thao, Bộ Giáo Dục vào với trọng trách Thủ Tướng, Sirik
Matak nhường ghế Quốc Phòng cho Sim Var nguyên Tổng Trưởng Kinh Tế và
Công Chính, Sam Sary từ chức phụ trách các cuộc hội nghị ở Ba Lê về giữ
Bộ Quốc Gia Giáo Dục thay Công Chúa Yukanthor (Yukanthor sang giữ Y Tế),
Tiou Long nguyên Tổng Trưởng Thông Tin giữ Bộ Công Chính, Samson
Fernandez nguyên Tổng Trưởng Y Tế đảm nhận Thông Tin và Prak Sarim giữ
Nội Vụ.
Trong
khi Quốc Vương và Thủ Tướng đưa yêu sách này nọ thì các nghị sĩ Cao Mên
cũng nêu lên thêm nhiều câu chất vấn Bộ Liên Quốc (Versailles 2.8.53)
để biểu dương tinh thần và ý chí dân tộc.
Mở
một trận đánh tâm lý cốt tạo nên một thực lực bản thân, Mên Hoàng
Sihanouk cố gắng thu phục dân tâm và đòi Pháp phải đối với Cao Mên như
Anh-cát-lợi đã đối với Ấn Độ (quy chế Liên Hiệp Anh).
Hành động tích cực của Quốc Vương Cao Mên đem đến kết quả tháng 10, hai bên Pháp-Mên đã cùng nhau thỏa thuận sơ bộ:
- Để ba tiểu đoàn Mên cho Bộ Tư Lệnh Pháp sử dụng.
-
Thiết lập ’’Khu hành binh Cao Mên’’ dưới quyền chỉ huy duy nhất của Cao
Mên (4 tiểu đoàn và 16 đại đội) gồm 3 vùng Battambang, Reap, Kompong
Thom.
-
11 Tỉnh còn lại của xứ Cao Mên sẽ do Pháp kiểm soát (ngoài những đơn vị
Liên Hiệp Pháp, còn có 5 tiểu đoàn Pháp-Mên, 29 đại đội bổ túc, 2 tiểu
đoàn Phi Châu, 5 tiểu đoàn Mên ’’cho mượn’’).
- Bộ Tham Mưu Pháp giữ quyền chủ động, tự do hành binh trên tả ngạn Cửu Long Giang, từ Bắc Kompong Cham đến danh giới Ai Lao Hạ.
Bộ
Tham Mưu Cao Mên nhận lại tất cả những đơn vị Cao Mên đặt dưới quyền
chỉ huy của người Pháp ngoại trừ 3 trong 5 tiểu đoàn Cao Mên thuộc quân
đội Liên Hiệp Pháp và 9 trong 29 đại đội bổ túc (3 tiểu đoàn và 9 đại
đội này sẽ họp lại thành ‘’toán hành binh Pháp’’ để phòng thủ đường giao
thông Sài Gòn-Vientiane (khúc Cao Mên).
Lực lượng Cao Mên sẽ có sau thỏa hiệp trên là 11 tiểu đoàn chính quy, 14 đại đội bộ binh địa phương và 20 đại đội bổ túc…
Mọi việc tạm ổn định, Mên Hoàng Shihanouk ‘’hồi loan’’ sau 5 tháng lênh đênh trong đất nước.
Ngày 8.11.53 tiếng còi, tiếng chuông nhà thờ, tiếng đại bác đón mừng tại Thủ Đô Nam Vang, Quốc Vương tuyên bố:
‘’Tôi
sẽ cố gắng trong phạm vi phương tiện của tôi, giúp nhiều vũ khí cho mọi
sinh lực của quốc gia để họ bảo vệ các gia đình, đất đai và tài nguyên
trong đồng quê chống lại lòng ganh tỵ, trục lợi, hành vi xâm lăng và độc
ác của đám Mên Issarak và Việt Minh’’.
Ít ngày sau Thủ Tướng Penn Nouth từ chức nhường chỗ cho ông Chan Nak (23.11) cựu cố vấn của Mên Hoàng.
Tân
chính phủ gồm ba đảng viên Dân Chủ, 2 Tự Do và 5 của các Đảng phái như:
Đảng Đông Bắc Chiến Thắng, Đảng Nhân Dân, Đảng Cải Lương, Đảng Dân Chủ
Ly Khai và Đảng Dân Chủ Tiến Bộ (Kah Mongseng giữ Ngoại Giao, Khim Tit
giữ Quốc Phòng, Yem Sambaur giữ Kinh Tế).
Về
nội bộ, chính phủ Chan Nak thảo xong dự án ngân sách, một ngân sách tuy
ít ỏi (2.000.000.000 bạc) nhưng thu chi phiền phức khó khăn như mọi
quốc gia rộng lớn khác, quyết định giảm bới 30% công phí, thực hiện tiết
kiệm trong chính phủ…
Đối
với Pháp, Thủ Tướng Chan Nak đã ra lịnh cho các ký giả Cao Mên tránh
công kích hoặc ám chỉ không hại tới chính sách của Pháp. Sự thân ái đón
tiếp Cao Ủy Risterucci của Mên Hoàng Sihanouk đã như chấm dứt sự ngưng
trễ xẩy ra từ sau khi Pháp giao trả những thẩm quyền cuối cùng để khởi
đầu một cuộc bang giao mới.
Đối với cộng sản, Tổng Trưởng Quốc Phòng tuyên bố (17.12.53):
‘’Cộng
sản Cao Mên không mở trận chiến tranh nóng như ở Bắc Việt hay như Cao
Ly mà là một cuộc tác chiến tinh thần cốt làm cho dân chúng Cao Mên nổi
dậy đòi độc lập.
Sau khi hiệp ước Pháp-Mên ký kết, cái lợi khí tâm lý của Việt Minh đã bị mất, bị đánh bại trên địa hạt tuyên truyền.
Việt
Minh phải xoay chiều, chọn lấy hoặc đi khỏi đây, hoặc giàn mặt đưa ra
một trận chiến tranh công khai. Tôi tin chắc họ sẽ chọn điều thứ hai vì
vậy nên chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng. Ta phải mở mắt xem mấy tuần tới
đây các ông sẽ nhận thấy Cao Mên nỗ lực giải cứu nước mình khỏi cuộc xâm
lăng của Việt Minh’’.
Để
tỏ vẻ cương quyết, Tổng Trưởng Quốc Phòng Khim Tít hứa hẹn một đạo quân
tương lai hùng mạnh với một ngân sách ‘’10.000.000.000 Quan’’ sử dụng
trong việc quốc phòng…
Nhưng…trên trang báo chí ngày 11 tháng 12 người ta lại được tin. Mên Hoàng bỏ Thủ Đô Nam Vang đi Siem Reap:
Quốc
Vương có ra đi, Quốc Vương lại về, về về đi đi, đi về, thế giới cũng
thôi xôn xao, các lân bang cũng thôi sốt ruột bởi vì, xứ Cao Mên, một
quốc gia bé bỏng tại một miền Đông Nam Á Châu lạc hậu, chỉ vài năm đã
từng có thành tích thay đổi chính phủ hàng chục lần, đảng phái cũng
nhiều không kém và những chuyện lạ xẩy ra nhiều đến nỗi hóa thành chuyện
thường. Thế giới còn lắm chuyện kỳ lạ hơn trong thời đại.
Vận
mệnh, dân tộc Khmer dính líu đến vận mệnh dân tộc Việt Nam, Ai Lao. Từ
bao nhiêu năm nay không một giải quyết chính trị hay quân sự nào lại có
thể thi hành có kết quả riêng biệt trong 3 nước. Người Pháp đã dùng một
thứ ‘’xi măng đặc biệt’’ từ đầu thế kỷ thứ 19 để gắn liền ba xứ
Việt-Mên-Lào. Ngày nay tách riêng ra thật là khó lắm.
Trong
khi những người tự do sống trên Bán Đảo Đông Dương hoạt động riêng rẽ
thì Việt Minh, Khmer Issarak, Neo Lao Issarak đã kết hợp lại một khối
thống nhất dưới một mặt trận thống nhất (Liên Minh Việt-Mên-Lào). Họ
được bao bọc bởi một thứ xi măng mới, dai và chắc hơn ‘’xi măng lạc
hậu’’ ngày xưa của người Pháp ở Đông Dương, đó là ‘’xi măng cộng sản’’.
Dưới chiếc bay lành nghề của tay thợ, đầy kinh nghiệm, Hồ chí Minh, lâu
đài cộng sản trên Bán Đảo Đông Dương mỗi ngày một thêm to, mỗi ngày một
thêm vững.
Rồi
ngày mai đây, nếu nhà kiến trúc sư kiêm thợ nề Hồ chí Minh thành công
trong việc xây dựng lâu đài cộng sản ở Việt-Mên-Lào, chúng ta sẽ thấy cả
một vùng Đông Nam Á bị tòa lâu đài ấy chi phối theo thường lệ.
Từ
11.1950 thế giới đã thấy nảy ra một phong trào: ‘’Giải phóng các người
Hồi Giáo bị áp bức’’ (Libération des Féres musulmans opprimés). Sau Hội
Nghị liên Hồi Giáo ở Karichi (Congrés Pan Islamique) và chính Việt Minh
đã thành lập và lãnh đạo ‘’Mặt trận Mã Lai độc lập’’. Thúc đẩy dân tộc
Chàm, Mã Lai, Thái nổi dậy, thúc đẩy binh sĩ quốc gia đào ngũ, tuyển mộ
một đạo quân chống lại mọi lực lượng tự do vùng Đông Nam Á, Việt Minh đã
đích thân chủ động mọi phong trào bởi vì hiện nay tại khu vực Đông Nam Á
Châu chỉ có cộng sản Việt Nam là cốt trụ. (Lãnh tụ Mã Lai Toun Slès đã
từng ký truyền đơn, tài liệu dưới sự chỉ đạo của Việt Minh mục đích
tuyên truyền dân tộc Mã Lai. Tháng 6.1951 Toun Slès đã tách khỏi được
khối cộng sản về với thế giới tự do dân chủ).
Dân
tộc Khmer có lẽ được may mắn như lời tiên trị của tờ báo Ponnakar (ra
trong quãng ngày hồi loan của Mên Hoàng Sihanouk, 11.53) Tờ Pounakar
đoán rằng:
‘’Trong
4 năm nữa, chúng ta sẽ sống đúng giữa kỷ nguyên Nhà Phật, năm 2.500.
Các vị tinh tú đã báo hiệu ngày ấy Quốc Gia Cao Mên sẽ cường thịnh và
rộng lớn như dưới những triều Đế Thiên Đế Thích…’’
Sự tin tưởng thần bí ấy phải chăng là cả của dân tộc Khmer một dân tộc đã văn minh một thời tiền sử ?
No comments:
Post a Comment