Thursday, November 5, 2015

NGUYỄN HUY HÙNG * HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO VIỆT NAM IV

Bia sách Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam
Giới Thiệu Tác Giả
NGUYỄN-HUY HÙNG
Cựu Ðại Tá Quân lực Việt Nam Cộng hoà.



Chương 28
NHỮNG NGÀY THÁNG CUỐI, LƯU ĐẦY CẢI TẠO TẠI MIỀN BẮC VĨ TUYẾN 17
(Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam)
Nguyễn Huy Hùng



Kiếp sống Tù Cải tạo lao động khổ sai buồn thảm, cứ vất vưởng lặng lẽ trôi theo thời gian, giữa rừng già trong dải Trường Sơn. Nhưng các bà Vợ Tù, lại hăng hái gan dạ không ngại gian lao khổ cực, đường xa khe suối gập ghềnh, tìm đến thăm nuôi chồng tấp nập tại K2 Trại Thanh Phong. Hầu như ngày nào cũng có bốn năm Bà, thay phiên nhau chiếm ngụ Khu Nhà Thăm Nuôi đợi gặp chồng.
Riêng phần Tôi, đã biết rõ hoàn cảnh và sức khoẻ của Vợ Con, nên luôn luôn bình tâm chờ đợi những gói Bưu kiện hàng tháng, và ngày hết cơn đại nạn ra khỏi Trại Tập Trung, cùng Vợ Con đi định cư lập lại cuộc đời, ngoài cái nhà tù khổng lồ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, dưới quyền thống trị bạo tàn của Đảng Việt Cộng.
Mỗi buổi chiều đi lao động về, trong khi các Đội đứng xếp hàng trước cổng đợi đến lượt vào khu giam, không ai bảo ai, hầu như mọi người đều hướng mắt về Khu Nhà Thăm Nuôi, quan sát chờ trông một phép lạ sắp xẩy ra. Khi thấy bóng chiếc xe tải của K1 chạy tới, mọi người reo ồ lên : “Tới rồi! Tới rồi!”, làm Cán bộ Trực Trại phải giật mình xửng sốt hỏi : “-Cái gì, cái gì mà ồn ào vậy?” Sau khi được anh Trưởng Ban Thi Đua giải thích lý do, Cán bộ nhe răng cười, không nói gì.
Các Tuyên Úy Phật giáo, lẻ tẻ cũng có người được thăm nuôi. Có Vị được thân nhân thăm nuôi. Có Vị được Phật tử, nơi Chùa mình trụ trì hồi trước khi đi trình diện học tập, đến thăm nuôi. Riêng đối với Thượng Tọa Thích Thanh Long, Giám đốc Nha Tuyên úy Phật giáo, được Phật tử của Chùa Giác Ngạn nơi Ngài Trụ Trì trước 30-4-1975, đến thăm nuôi cũng như gửi Bưu kiện tiếp tế rất đều hoà.
Mỗi lần Thượng Tọa Thanh Long nhận được tiếp tế, các Đại Đức lần lượt lén tới thăm. Mỗi người tùy nhu cầu, được tự do chia nhau lấy những món quà của Thầy. Ngoại trừ thuốc lào, không ai dám động tới, vì biết đó là nhu cầu duy nhất mà Thầy cần. Rút cuộc, Thầy chẳng còn gì, y như chưa hề được thăm nuôi hay nhận Bưu kiện.
Mỗi khi có dịp cho các đệ tử đến chia nhau “xỉa” quà như vậy, Tôi quan sát thấy nét mặt của Thượng Tọa Thanh Long rạng rỡ hẳn ra. Chắc là trong tâm Ngài đang rộn rực hoan hỉ, vì đã đem lại niềm vui cho những người khác. Thật là một gương sáng về lòng Từ bi Hỉ xả, của một nhà Tu hành chân chính, làm Tôi thán phục vô cùng.
Những năm 1965, 66 và 67, Tôi làm Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Trung Ương Địa Phương Quân và Nghĩa Quân (ĐPQ & NQ) tại Saigon, Thượng Tọa Thanh Long là Tuyên Úy trưởng của các Tuyên úy ĐPQ & NQ trên toàn 4 Vùng Chiến Thuật. Trong giai đoạn Phật Giáo xuống đường đấu tranh, thời Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ Tịch Ủy ban Hành pháp Trung Ương, Thượng Tọa Thanh Long đã giúp Tôi hoàn thành một công tác vô cùng khó khăn lúc bấy giờ, ngay tại Viện Hoá Đạo ở đường Trần Quốc Toản Saigon. Từ đó về sau, Thượng Tọa và Tôi càng thêm thân thiết, y như Ngài là Thầy đỡ đầu cho Tôi Quy Y Tam Bảo vậy. Đầu đuôi câu chuyện như thế này :
“Khắp trên toàn miền Nam Việt Nam, Phật tử dưới sự lãnh đạo của một số Tăng Ni tranh đấu chống Chính phủ, xuống đường thường xuyên ngày đêm. Đặc biệt tại Saigon, Viện Hoá Đạo được coi là trụ sở Trung ương, đại diện của Phong trào. Các Đại Lão Hoà Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni, Phật tử, và quần chúng hiếu kỳ, ra vào tấp nập suốt ngày đêm.
Một buổi sáng, đúng vào lúc cao điểm, người và xe cộ đang vội vã chen nhau đi làm, đi học, đi chợ búa cho kịp giờ. Bỗng dưng, có một xe vận tải của Quân lực Hoa Kỳ chạy ngang trên đường Trần Quốc Toản. Tới gần trước cổng Viện Hoá Đạo, đồng bào Phật tử tụ tập di chuyển hỗn độn, đầy cả mặt đường và bu quanh chiếc xe. Người lính Đồng Minh Hoa Kỳ ngồi bên tài xế trên xe sợ hãi, nổ súng chỉ thiên hướng ra phía trước, với hy vọng làm cho mọi người giật mình tránh sang 2 bên đường cho xe chạy qua. Nhưng không may, một viên đạn lạc trúng nhằm người đàn ông cưỡi xe gán máy. Ông ta gục ngã ngay bên lề đường phía gần Chợ Cá. Mọi người giạt sang bên cho chiếc xe chạy qua, rồi xúm nhau khiêng người bị nạn vào bên trong Viện Hoá Đạo để cấp cứu. Nhưng không kịp, ông ta đã chết.


Một lúc sau, tin tình báo cho biết, người đàn ông ấy là một Chiến sĩ Địa Phương Quân thuộc Tỉnh Biên Hoà, mặc thường phục đi ngang gặp nạn. Bộ Tổng Tham mưu ra lệnh cho Bộ Chỉ huy Trung Ương ĐPQ và NQ đóng tại đường Hùng Vương Chợ Lớn, phải nhờ Tuyên Úy Phật Giáo của Bộ Chỉ Huy là Thượng Tọa Thích Thanh Long, giúp can thiệp đem xác Chiến hữu này ra khỏi Viện Hoá Đạo, để tránh việc Ban tranh đấu lợi dụng xác chết làm rùm beng, gây thêm chuyện khó khăn cho Chính Phủ Nguyễn Cao Kỳ. Lệnh ra, phải tức tốc thi hành và báo cáo kết quả lên Bộ Tổng Tham Mưu, trong thời gian sớm nhất.


Là Tham Mưu trưởng của Bộ Chỉ huy Trung ương ĐPQ & NQ, Tôi phải cử ngay người lên tận Biên Hoà, tiếp xúc với thân nhân của người Chiến hữu bất hạnh để trấn an, và canh chừng không cho ai có cơ hội đến mua chuộc lợi dụng. Đồng thời, Tôi phải đích thân chạy tới nơi cư ngụ của Ban Tham mưu các Thầy lãnh đạo Viện Hoá Đạo, tìm gặp Thượng Tọa Thích Thanh Long, nhờ đạo đạt cho Tôi diện kiến Thượng Tọa Thích Tâm Châu (người lãnh đạo tối cao của Phong trào tranh đấu lúc bấy giờ), trình bầy xin giúp đỡ, tránh trường hợp những phần tử quá khích lợi dụng xác chết làm lớn chuyện. Thượng Tọa Tâm Châu không có mặt tại đó. Thượng Tọa Thanh Long phải lên xe mở đường dẫn Tôi vào Viện Hoá Đạo, để tìm Thượng Tọa Tâm Châu xin diện kiến.


Thoạt đầu, chúng tôi cũng gặp nhiều khó khăn. Thượng Tọa Thanh Long phải đích thân đi gặp hết Thầy này đến Thầy kia, qua lại cả giờ đồng hồ sau mới được diện kiến Thượng Tọa Tâm Châu. Sau khi nghe trình bầy cặn kẽ mọi khía cạnh của sự việc, Ngài suy nghĩ hồi lâu rồi gật đầu thông cảm, hoan hỉ giúp đỡ chúng tôi. Nhờ thế vào lúc nửa đêm ngày hôm đó, chúng tôi đã dùng xe Quàn Mai Táng của ĐPQ & NQ, có anh em Nhẩy dù đi theo hộ tống, không mở đèn, chạy lén vào đường cổng hậu của Viện Hoá Đạo, đem xác Chiến hữu xấu số ra khỏi vòng vây của hàng ngàn người đấu tranh, lúc nào cũng tấp nập ra vào tràn ngập Viện Hoá Đạo.”


Cuối tháng 4 năm 1982, Tôi được rời Trại Thanh Phong chuyển về Nam, Thượng Tọa Thanh Long bị đưa trở ra vùng đồng bằng Bắc Việt. Ngài được tha ra khỏi trại tập trung trước Tôi, trở về tiếp tục tu tại Chùa Giác Ngạn ở Phường 10 Quận Phú Nhuận Saigon. Ngài đã qua đời ngày 22 tháng 10 năm 1991 (Tân Mùi) vì bệnh hoạn, hậu quả của mười mấy năm chịu đọa đầy trong các Trại Tập trung của Cộng sản Việt Nam.


Phần các Tuyên Úy Công giáo, việc thăm nuôi tiếp tế được các Toà Giám Mục và Tổng Giám Mục tổ chức quy củ hơn. Ngoài những Bưu kiện nhận được hàng tháng, các Ngài còn được Toà Tổng Giám Mục cử các Dì Phước đến thăm nuôi Vị Linh Mục cao niên để trao vật phẩm tiếp tế. Vị này nhận lãnh đem vào Trại chia lại cho các Linh Mục khác cùng hưởng. Các Dì Phước được tổ chức xin đi thăm nuôi dưới danh nghĩa thân nhân, chớ không nhân danh đại diện Toà Tổng Giám Mục. Do đó Cán bộ Cộng sản ác tâm xấu miệng phê phán rằng : “-Thầy Chùa, Cha Cố đi tu, mà cũng có vợ có con như mọi người thường?”


Việc thăm nuôi Tù càng tấp nập, tin tức về Chương trình Hoa Kỳ vận động giải thoát Tù Chính trị miền Nam càng được cập nhật hoá, đem lại niềm tin và tinh thần cho anh em tiếp tục chịu đựng, đợi chờ ngày được giải phóng. Mọi nét ưu tư bi quan, xưa nay hằn trên khuôn mặt mọi người tiêu tan hết, và hình như trong những giờ lao động cực nhọc, không còn ai cảm thấy là đang bị hành hạ vất vả nữa.


Cán bộ không còn kiểm soát gắt gao như những năm trước 1980. Hệ thống “ăng ten” của Trại hình như cũng được chỉ thị giảm cường độ hoạt động. Có lẽ Việt Cộng muốn tránh trường hợp sau này, các “ăng ten” của họ bị vạch mặt chỉ tên hoặc bị trả thù, bởi các Cựu Tù nhân Chính trị đi định cư lưu vong nơi hải ngoại.


Vào giờ thứ 25 này, anh em cũng chẳng còn e ngại bao nhiêu, nên trong giờ nghỉ thường lén qua lại giữa các Láng, để thăm nhau, trò chuyện, ăn uống, trao đổi tin tức. Đặc biệt vào những ngày Chủ Nhật và nghỉ Lễ, những Bạn dư giả đồ tiếp tế của gia đình, thường bầy vẽ tổ chức nấu nướng biến chế các món ăn theo sở thích, mời dăm bẩy Bạn thân tới cùng đánh chén chuyện trò vui vẻ. Lần nào cũng không quên mời một Bạn có trí nhớ tốt tham dự, để sau khi ăn bạn ấy kể những truyện kiếm hiệp của Kim Dung, hoặc truyện Đông Châu Liệt quốc, Tam quốc chí, Tây du ký... cho mọi người nghe giải trí, giết thì giờ rảnh rỗi.


Thông cảm nỗi khó khăn của các Vị Đại Đức trẻ không có quà cáp, Tôi thường lấy các thực phẩm khô do gia đình tiếp tế như : tôm khô, nước mắm khô, mứt cà chua, mì ăn liền, miến, sữa bột, bột đậu xanh và đường, góp cùng các Vị trồng được rau “cải thiện”, hoặc có sắn tươi do Cán bộ “bồi dưỡng” nhờ “lao động năng nổ”, để biến chế các món ăn đặc biệt cùng nhau thưởng thức. Những lần như vậy, chúng tôi không quên nấu miến chay có rau và mộc nhĩ nêm bột ngọt, để biếu Thầy Thanh Long chia sẻ niềm vui “bồi dưỡng”.



Thầy Thanh Long không bao giờ ăn mặn, phần thịt, cá, hoặc mắm được Nhà Nước tăng cường cho các bữa ăn trong những ngày Đại Lễ và Tết, Thầy đều cho người khác lãnh mà dùng. Nhưng đối với các Đại Đức trẻ, Thầy rộng lượng răn rằng : “-Giữ gìn ý chí cao để tiếp tục Tu hành, ngay cả trong những lúc khó khăn như thế này, mới là điều quan trọng. Nhưng trong giai đoạn hiện tại, tùy theo cái nghiệp của mỗi người, việc Trai Giới có thể tùng biến.”
Tháng 6 bắt đầu mùa mưa lũ hàng năm. Có khi mưa suốt đêm đến sáng thì tạnh. Có khi mưa kéo dài từng cơn, ròng rã 2, 3 ngày mới dứt. Con sông và các suối nhỏ hồi chiều tối còn cạn queo, qua một đêm mưa đến sáng đã tràn trề mênh mông nước lũ cuồn cuộn chảy, cuốn theo những cây rừng bật gốc, những bụi chuối rừng, những khóm khoai mì... Diện tích trồng rau bên bờ sông bị ngập hơn phân nửa, nhiều luống rau bị nước cuốn đi, chẳng còn vết tích gì.



Trong mùa mưa bão, đi lao động thật là một cực hình. Lúc phải dãi nắng chói chang oi nồng muốn ngộp thở. Lúc lại dầm mưa xối xả như thác đổ lên người, ướt sũng từ đầu đến chân lạnh cóng.
Khoảng giữa tháng 7 năm 1981, bỗng dưng Trời âm u mấy ngày liền, tiếp theo là những cơn mưa rừng tầm tả đổ xuống, nước sông dâng cao nhưng vẫn phải đi lao động. Đến nửa đêm 14 tháng 7, cơn bão nhiệt đới đầu tiên trong năm ập tới tàn phá toàn vùng. Từng đợt gió thét ù ù xé không gian, làm náo động như có những đoàn phản lực cơ đang bay ngang, khiến mọi người tỉnh giấc bàng hoàng sợ hãi.
Tôi nằm trên xạp ngủ tầng cao sát mái nhà, cảm thấy sợ hơn những người nằm ở xạp dưới gần mặt đất. Mỗi lần nghe tiếng gió gầm, ù ù nho nhỏ từ đàng xa rồi lớn dần, dẫy nhà bị xô nghiêng đi kêu răng rắc. Khi những miếng tôn trên mái nhà, bị giật kêu rầm rầm xoảng xoảng, là lúc đợt gió đang thổi qua đầu. Lúc tiếng ầm ầm ào ào xa dần và im bặt, dẫy nhà bị đẩy ngược lại, đu đưa kêu cót két như muốn xập đổ. Thật khủng khiếp.



Đợt gió đầu tiên đi qua, Láng của chúng tôi có miếng tôn trên mái bị bứt đanh bay đi mất. Đợt gió tiếp theo bóc thêm mấy miếng nữa, tạo thành một lỗ hổng khá lớn ở khúc giữa nhà. Mưa gió lùa vào trong nhà xối xả, làm ướt hết mùng mền chiếu đồ đạc. Người cũng bị ướt lạnh, lo sợ run như cầy sấy. Một số anh em gan dạ phải hiệp sức, gỡ dây kẽm cột màn dọc kệ nằm tầng trên, leo lên giàn nóc nhà tìm cách cột giữ những miếng tôn chung quanh lỗ hổng, cho những đợt gió sau không bóc thêm. Những người gan dạ tự nguyện xông xáo làm cái việc vô cùng nguy hiểm này, là các bạn Đại tá Dương Hiếu Nghĩa, Trịnh Đình Đăng, và Hoàng Trọng Trị.


Hoàn cảnh lo âu sợ xệt này, làm Tôi hồi tưởng nhớ những năm đầu Thập niên 1940. Phi cơ chiến đấu của Hoa Kỳ từ Trung Hoa lục địa bay sang Lạng Sơn, oanh kích thả bom phá các trụ sở Quân Phiệt Nhật, ở lẫn lộn trong các khu cư ngụ của dân chúng trong thành phố. Lúc đó Tôi là Hướng Đạo Sinh, đã từng đeo khăn quàng Hướng Đạo vào cổ, chạy trên đường phố băng qua các hầm trú ẩn, để băng bó tiếp cứu di tản các nạn nhân bị thương máu me bê bết đầy người. Nhưng chưa bao giờ cảm thấy sợ hãi, như trong những giây phút thịnh nộ của Thiên nhiên tại K2 Thanh Phong, trong cái đêm “cát tó duy dê (14 tháng 7) năm 1982 này”. Thật kinh hoàng, chẳng bao giờ Tôi quên được.



Chừng 3 giờ sáng, cơn bão dứt. Dưới ánh sáng tù mù của chiếc đèn chai dầu hôi, treo lửng lơ dưới khung cửa phòng vệ sinh nơi cuối Láng, anh em chúng tôi thu vén lại chỗ nằm và ngủ thiếp đi vì mệt mỏi. Sáng hôm sau được mở cửa ra đi lao động, mới thấy rõ sức mạnh tàn phá hung tàn của trận bão.
Trong khu giam Tù, những Láng nằm về phía Tây và Tây Nam, thế đất thấp, bị nước dâng ngập ngang bụng. Những người nằm xạp ngủ sát đất, phải leo lên tá túc trên xạp cao. Đồ đạc thực phẩm khô do nhà tiếp tế, chuyển lên không kịp bị ướt sũng, thấm nước phân từ các thùng chứa trong phòng vệ sinh nổi lên trôi ra, coi như hư hỏng trăm phần trăm. Cũng có đôi người tiếc, của mồ hôi nước mắt do Vợ Con chắt chiu tần tiện từng đồng mua gửi cho, nên đem phơi khô để dùng, bỏ đi sợ “phí của Trời, mười đời không có mà ăn”. Thật tội nghiệp!



Gần nhà Bếp khu giam, một cây lim cao bị bật gốc đổ nằm dài giữa 2 Láng, ngọn với cành lá um tùm choáng hết khoảng đất trống bên Hội trường, không gây thiệt hại gì cho người và của. Thật may cho Đội nhà Bếp. Hội trường, chung quanh vách trống trải, gió luồn vào bóc cuốn đi nhiều miếng tôn làm mái hư hại nặng. Có miếng bị gió cuốn băng ra ngoài hàng rào Khu giam, rớt rải rác trên đường, mắc trên các tàn cây cao. Cũng có miếng rớt ngay trong sân hoặc xuyên kẹt trên hàng rào quanh khu giam. Cách cổng khu giam Tù chừng 500 mét, khoảng giữa con đường đi tới Khu Cán bộ ở, có một cây cổ thụ gốc to cỡ 7 người dang tay ôm, cao trên 50 mét, thân chia ra 2 nhánh bị bẻ gẫy một, dính đùng đưa trên cao, ngọn gục là là mặt đất. Ai cũng sợ chẳng dám đến gần, thế mà anh em Đội Lâm Sản phải làm đủ mọi cách trèo lên, đốn cho rơi xuống. Trên suốt dọc đường ra “hiện trường lao động” của các Đội, cây đổ ngổn ngang, nhà lô tốc mái xiêu vẹo. Nước sông nước suối đục ngầu, tràn bờ cuồn cuộn chảy.


Trại làm báo cáo lên Nhà Nước, tài sản hoa mầu thiệt hại 100 phần trăm. Một đợt “thi đua khắc phục Thiên tai, đón mừng ngày Đại lễ 2 tháng 9”, lập tức được tung ra. Mọi người phải “khẩn trương” dọn dẹp tu sửa, những đổ nát hoang tàn do cơn bão để lại, và tích cực gia tăng trồng hoa mầu gấp rút trong suốt 2 tháng trời.


“Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, vừa mừng Lễ Độc Lập xong, một Thiên tai thứ 2 lại ập tới vào ngày 19 tháng 9. Lần này mưa tàn bạo hơn gió, mới chỉ có một ngày một đêm mà nước lũ đổ về mênh mông. Trong khu giam Tù, những Láng ở vùng thấp nước ngập lưng chừng nhà, mấp mé ngang xạp nằm tầng trên. Chỉ còn mấy dẫy gần sát cổng và Nhà Bếp thì nước chưa dâng tới. Mọi Tù bị giam trong các Láng bị ngập, được lệnh quăng đồ đạc lên xạp tầng cao, và tản cư tới các dẫy nhà chưa bị ngập sát bên cổng khu, cạnh sân tập họp để tá túc. Nhóm Tù Hình Sự di tản tập trung trong Hội trường.



Nước dâng thật nhanh. Lúc đó là sau giờ điểm danh tối, mọi người bị giam trong các Láng, cửa khoá trái bên ngoài. Chúng tôi nhìn qua cửa sổ và khe vách liếp, quan sát các Bạn cư ngụ tại các Láng phía Tây bị ngập tản cư ngang. Cuộc tản cư vừa dứt, nước đã theo chân họ dâng đến tận nền Láng ở của chúng tôi, và chỉ khoảng 10 phút sau tràn vào trong nhà dâng cao đến đầu gối chân. Các thùng chứa phân trong phòng vệ sinh nổi lên lềnh bềnh, trôi sang khu ngủ trong Láng.
Chúng tôi tự động tiếp tay nhau, chuyển đồ đạc của các Bạn ở xạp dưới lên xạp trên. Cán bộ Trực Trại vào mở cửa, hối “khẩn trương” quăng hết đồ đạc lên xạp ngủ tầng trên, di tản qua dẫy nhà ngay bên kia sân tập họp, khu cao nhất trong trại giam. Trời vẫn mưa tầm tã không ngớt. Láng chúng tôi gồm gần 100 người, được dồn vào tá túc trong một Láng cũng đang chứa khoảng gần 100 bạn Tù khác. Chen nhau ngồi chặt cứng như nêm, đầy cả 2 tầng xạp ngủ sát đất và trên cao.
Khoảng nửa đêm, mọi người đang thiu thiu ngủ, có tiếng loạch xoạch mở khoá cửa. Cán bộ Trực Trại, Quản Giáo Dội, và Thi Đua ập vào, chiếu đèn pin lia lịa điểm danh từng Đội trong Láng. Lúc đó mới biết là nước đã dâng ngập sân tập họp, và đang tràn vào nền nhà nơi chúng tôi tá túc. Trong khi


Cán bộ điểm danh, nước từ từ dâng cao, ngập bàn chân rồi đến nửa ống quyển chân. Chúng tôi hoang mang suy nghĩ, nhưng không giám nói ra : “-Cứ cái đà này, không biết nước sẽ còn dâng lên đến đâu? Liệu có được di tản lên vùng đất cao khu Cán bộ ở không? Cả K2 gồm khoảng 5, 6 trăm Tù, Hội trường Khu Cán bộ nhỏ xíu làm sao đủ sức chứa?” May thay, nửa giờ rồi một giờ trôi qua, nước lên gần xấp xỉ mặt xạp nằm tầng dưới, thì ngưng lại không dâng tiếp.
Kiểm tra xong, Cán bộ đi ra, cửa Láng được khoá lại, tiếng mưa tiếp tục gõ rào rào trên mái tôn. Khi ánh đèn của Cán bộ vừa khuất, từ chỗ anh Đội trưởng nằm cạnh bên cửa, bắt đầu có những tiếng thì thầm truyền tai nhau, cho biết là có một anh thuộc Đội Nhà Bếp vắng mặt, nên mới có cuộc đi các Láng kiểm tra nhân số từng Đội.



Đến giờ điểm danh sáng, Cán bộ mở khoá các Láng cho Tù ra. Nước lụt đã rút ra khỏi vòng rào Trại, để lại một lớp bùn sền sệt nâu xám ngập cổ chân. Anh em không phải ra ngoài lao động, được ở trong trại thu dọn sạch sẽ. Nhờ dấu bùn còn ghi lại trên vách phên, mới biết Láng chúng tôi bị nước ngập cao khoảng 1 mét. Trong nền nhà và trên mặt xạp ngủ tầng dưới, bị phủ một lớp bùn dầy nhão nhoẹt. Anh em tiếp tay nhau quét vét bùn khỏi mặt xạp, trên nền nhà, và sân chung quanh nhà, cho trơ nền đất cứng ra để đi lại được dễ dàng.
Lúc gần hết giờ lao động sáng, anh em Đội Nhà Bếp khênh đồ ăn tới phát, tin về anh bạn mất tích đêm qua mới được xì xầm loan truyền như sau :


“Nửa đêm, nước dâng ngập chuồng lợn (heo) “cải thiện” của Tù, ở sát bờ rào gần Nhà Bếp. Cán bộ phải vào mở cửa Láng Đội Anh Nuôi, điều động mấy người ra lội mưa di tản lợn. Làm xong việc, nhóm công tác trở vào Láng, thiếu một người. Cán bộ gạn hỏi, các bạn trong toán báo cáo, anh ta bị hụt chân nước cuốn trôi mất tích. Cán bộ bủa đi tìm quanh bờ rào không thấy, liền trở lại kiểm tra tư trang của anh mất tích, thấy thiếu một số vật dụng và thực phẩm khô cần cho nhu cầu nhiều ngày. Cán bộ nghi là trốn trại, và sợ có thể nhiều người khác cũng lợi dụng mưa lụt để đào ngạch xé vách trốn, do đó phải “khẩn trương” đi kiểm tra tất cả các Láng trong đêm.”



Anh bạn Tù mất tích là một Sĩ quan cấp úy thuộc Binh Chủng Hải quân, nên không ai nghĩ là anh ấy bị chết đuối. Nhiều ngày qua đi, Trại giam không có tin tức gì về việc vớt được xác người chết đuối ở vùng hạ lưu. Cũng không thấy có ai bị bắt đem trở lại Trại. Chúng tôi nghĩ rằng anh ấy đã trốn trại. Mọi người đều nguyện cầu, mong cho anh ấy thoát được ra khơi, và sớm có Tự do.
Trận lụt này làm dẫy nhà 3 gian Khu Thăm Nuôi bị xập. Đội chúng tôi được chỉ định đến dỡ bỏ, để Đội Xây Dựng cất lại nhà mới 5 gian, có nhiều chỗ hơn tiếp đón khách “thăm nuôi”.
Xong công tác này, Đội chúng tôi được “biên chế” lại thành Đội Gạch. Anh em được chia thành nhiều Tổ, để đảm trách nhiều Khâu khác nhau. Những người khoẻ vào các Khâu : Thái đất, Quần trâu, Lên quả, Vận chuyển đất, và Đóng gạch. Còn những người yếu như Tôi, làm trong các Khâu : Đóng than đá cám thành bánh phơi khô, hoặc Chuyển gạch mộc mới đóng xong ra phơi ở giữa sân cho khô, rồi đem xếp vào nhà chứa chờ đủ mẻ sẽ Vào Lò nung.
K2 Thanh Phong có 2 Đội Gạch, một Đội gồm toàn Tù Hình Sự, phụ trách lò nhỏ cỡ mỗi mẻ 5 ngàn viên. Đội chúng tôi toàn là dân Tù Chính trị miền Nam, gồm một số Đại tá, và Linh Mục, Đại Đức, Mục sư Tuyên úy Quân đội, phụ trách lò lớn cỡ hơn 7 ngàn viên một mẻ.
Các Vị Tuyên úy tương đối tuổi còn trẻ, khoẻ nên được chia vào các Khâu nặng. Còn nhóm Đại tá chúng tôi già yếu, được chia vào 2 Khâu nhẹ. Đến giai đoạn “Vào lò”, tức là xếp gạch mộc vào lò để nung, tất cả các Khâu phải “hợp đồng” cùng làm theo dây chuyền.



Thoạt đầu Tôi và 3 Bạn nữa được giao phó công tác đóng than đá cám, thành bánh hình chữ nhật to dầy cỡ viên gạch. Công việc tương đối không nặng nhọc nhưng vất vả, vì phải làm theo “chỉ tiêu” quy định hàng ngày hơi cao. Chúng tôi phải “hợp đồng” làm liên tục không ngơi nghỉ, thực hiện lần lượt từng công đoạn một. Trước tiên, cùng đi “thái đất” sét ở hầm, xúc lên xe chuyển về đổ bên đống than đá cám. Sau đó đập bằm cho đất nhỏ tơi, trộn đều với than đá. Phải tính sao cho mỗi mẻ, đủ đóng 10 khuôn 6 miếng than, to dầy bằng cỡ viên gạch. Rồi ban mỏng mẻ than trộn đất thành một mặt tròn đường kính cỡ 2 mét. Gánh nước đổ vào trộn đều liên tục, cho đất và than quện với nhau thành một loại hồ mầu đen, vừa sền sệt không khô mà cũng không lỏng quá. Tiếp theo là xúc vào “ky tôn” khiêng ra sân, đổ vào từng mảng khuôn 6 miếng một để phơi, và xoay trở mặt hàng ngày cho mau khô. Sau cùng đem xếp vào lô tồn trữ, chờ ngày nung gạch sẽ chuyển về xếp xen kẽ với gạch trong lò.



Hiện trường làm than của chúng tôi ở phía bên kia hồ nước, đối diện với hiện trường lao động của Đội ngay bên lò gạch. Hai tuần lễ sau, đóng xong đủ số than cần cho một lò gạch, chúng tôi được điều động về lao động chung bên Đội, phụ trách Khâu chuyển phơi gạch mộc mới đóng, xoay trở hàng ngày cho khô rồi đem xếp vào lô.
Được về làm bên anh em phụ trách các Khâu khác, Tôi mới có dịp quan sát để hiểu được thế nào là Thái đất, Quần trâu, Lên quả.
“Thái đất” là sắn đất chung quanh hầm đất sét, hất mạnh cho đất tơi rải đều trên mặt nền giữa hầm, thành một lớp dầy bằng phẳng. Hầm đất, thoạt đầu nông hẹp, lần lần rộng ra và sâu xuống thêm, sau mỗi đợt “thái đất”.
“Quần trâu” là dắt trâu đi vòng tròn trong hầm, đạp cho đất nhuyễn thành một loại bùn xệt đặc, y như chúng ta thường được xem các phim chuyện thời Phong kiến bên Âu Châu, bắt nô lệ đứng trong các bồn gỗ lớn đạp nho, cho nát nhuyễn ra để đem cất rượu vang vậy. Trước khi Quần trâu, cũng như trong khi Quần trâu, phải có những người gánh nước đổ vào đều đều đủ lượng cần thiết, sao cho đất quện vào nhau sệt quánh lại như hồ, không khô và cũng không nhão.
Khi đất đã thật nhuyễn sệt quánh vào nhau, gọi là “đất chín”. Đến phiên Khâu Lên Quả xuống, sắn, xúc “đất chín” gom thành một đống tròn, cao vồng lên như nửa quả cầu ở giữa hầm đất.



Tiếp theo là nhiệm vụ của Khâu Chuyển Vận, xén “quả đất chín” đem lần lần từ hầm đất lên giữa sân, cho Khâu Đóng Gạch làm nhiện vụ của họ. “Đất chín” được xúc đổ thành đống tròn, trên một mảnh ván dầy để trên xe cải tiến, kéo đến bên bàn đóng gạch. Khâu Chuyển Vận Đất Chín phải thường xuyên theo dõi công việc đóng gạch, để lúc nào cũng có đất tiếp tế đều hoà liên tục, cho những anh đóng gạch không phải chờ. Hai công tác Chuyển Vận Đất Chín và Đóng Gạch phải được phối hợp, làm “khẩn trương” liên tục cho mau xong, nếu không “quả đất” sẽ bị khô không dùng được, sẽ phải phá ra làm lại từ đầu.


Mỗi người đóng gạch có một bàn riêng, với 3, 4 chiếc khuôn gỗ, 1 dao cắt đất, và một thùng tro. Mỗi khuôn đúc ra 2 viên gạch một lượt. Người đóng gạch phải có đôi cánh tay rất mạnh, và sức khoẻ dồi dào dẻo dai mới cáng đáng nổi. Công việc đóng gạch coi thấy chẳng khó khăn gì, nhưng rất vất vả mệt mỏi, yếu sức không thể làm nổi. Tôi đã tập đóng thử một khuôn, kết quả là đất không nhồi được đầy lòng khuôn, 2 viên gạch lấy ra đều bị vẹt góc và cạnh dưới phía chạm mặt bàn, không đầy đặn phẳng nhẵn như mặt trên cắt bằng dao.


Các công đoạn đóng gạch được thực hiện theo tự sau : 1,- Rắc một lớp tro mỏng lên mặt bàn, đặt khuôn gỗ lên rồi tung một nắm tro khác vào trong lòng khuôn, để đất sét không dính khuôn khi đổ gạch mộc đóng xong ra sân phơi. 2.- Lấy dao cắt một viên đất thật to, vừa đủ đóng 2 viên gạch một lần theo khuôn. Dùng 2 tay bê viên đất dơ cao lên, ném xuống mặt bàn nhiều lần, để nhồi cho mịn và tròn cạnh. Sau đó bê viên đất đã nhồi lên cao, ném mạnh xuống khuôn, cho đất rập đầy lòng khuôn. Rồi dùng dao cắt sát một đường dài, từ đầu bên này sang đầu bên kia khuôn, để hớt đám đất dư ngoài khuôn bỏ đi.
3.- Đẩy khuôn gạch đóng xong sang bên, để người phụ trách phơi bê đi, đổ ra trên mặt sân thành từng hàng dài nối tiếp nhau.


Khuôn gạch đóng xong vừa được mang đi, người Đóng Gạch lấy một khuôn khác, tiếp tục làm lại từ đầu những công đoạn thực hiện việc đóng gạch của mình.
“Dao cắt đất” không phải loại ta thường thấy dùng để cắt thịt hay chặt cây. Nó là một khung gỗ hình chữ U, nơi hai đầu chữ U căng ngang một sợi dây kẽm nhỏ thật thẳng. Sợi kẽm này chính là lưỡi dao cắt đất.
Công việc làm của những người Đóng gạch, Quần trâu, Lên quả và Chuyển vận đất, được coi là loại “lao động nặng” nên lãnh phần “tiêu chuẩn” ăn hàng ngày cao hơn mọi người trong Đội. Thỉnh thoảng Quản giáo Đội còn cho lén đi lấy trộm, từng bao tải sắn của Trại về “bồi dưỡng”. Dĩ nhiên, bao giờ Quản giáo và Cảnh vệ cũng có phần “bồi dưỡng” thoả thê. Nếu chẳng may, người đi lấy trộm bị bắt, ráng mà lãnh chịu kỷ luật, không được khai là Quản giáo Đội cho phép đi.
Thấm thoát, cuộc đời Tù của chúng tôi, đếm thêm mùa Thu thứ Sáu. Mưa Ngâu và nắng Hanh làm lá rừng đổi màu, từ xanh sang vàng, đỏ, nâu, để đợi gió heo may về theo nhau lả tả trút xuống mặt đất, mặc cho cây cành trơ trụi, chịu đựng mưa Phùn gió Bấc lạnh lùng suốt mùa Đông. Tết Nhâm Tuất 1982, đến với nhiều tin dồn dập khác thường. Theo niềm vui riêng của mỗi người, cả Tù lẫn Cán bộ K2 Trại Thanh Phong đều hân hoan chuẩn bị đón Tết, nhộn nhịp khác hẳn mọi năm.


Anh bạn Đại tá Hồ Hồng Nam (gốc Chiến tranh Chính trị) nằm bên cạnh Tôi, vẫn thuộc nhân số của Đội, được tăng phái làm việc trong Ban Văn Hoá chuẩn bị Hội trường đón Tết, cho biết : “-Cán bộ Giáo dục tiết lộ tin Trại Thanh Phong sẽ đóng cửa, trao lại cho Chánh quyền địa phương quản lý tiếp tục khai khẩn, Tù Chính trị được đưa hết về Nam chờ ngày tha, Tù Hình Sự sẽ chuyển đi nơi khác.”
Anh bạn Đại tá Tô văn Vân cũng nằm bên cạnh Tôi, phụ trách nấu nước tại nhà Lô của Đội cho biết, trong một lúc vui câu chuyện, Quản giáo Đội hỏi dò : “-Thủ Đức và Hàm Tân thuộc tỉnh nào tại miền Nam?”


Thân nhân đến “thăm nuôi” đưa tin : “-Có nhiều đợt Tù Chính trị được di chuyển về Nam bằng Tầu Hoả, và nhiều đợt tha lẻ tẻ dăm bẩy người hoặc từng nhóm đông cả trăm người. Có người được tha từ miền Bắc, có người được tha sau khi về các trại trong Nam.”
Để chuẩn bị ăn Tết, Anh Đội trưởng xin Quản Giáo Đội, cho Tôi nghỉ công tác chuyển phơi gạch trong vài ngày, để thực hiện việc hớt tóc cho anh em trong giờ lao động. Quản Giáo chấp thuận. Ông ta quan sát thấy Tôi hớt được đủ kiểu cao, thấp, vừa vừa với tóc mai xanh... theo ý muốn của khách hàng. Sau khi hớt cho anh em trong Đội xong, ông ta yêu cầu Tôi đến sân sau nhà Lô, phía nhìn xuống dòng sông nơi ông ấy cư ngụ, hớt tóc cho ông ấy và mấy người Bạn Cán bộ khác từ xa có dịp đi ngang ghé thăm. Quản Giáo Đội chúng tôi là Thượng sĩ Công An, mới mua được chiếc xe đạp do Trung Cộng sản xuất. Bạn bè ai cũng trầm trồ khen đồ tốt, và tỏ vẻ thèm muốn được làm chủ một chiếc như vậy.


Trong lúc hớt tóc, ông ấy hỏi chuyện Tôi về tình trạng gia đình, và trước kia gia đình Tôi sống ra sao? Đời sống của đồng bào lao động ở trong Nam như thế nào?
Vào giờ thứ 25 này thì chẳng còn e dè gì, Tôi thủng thẳng kể cho ông ấy và các bạn của ông ấy nghe sự thật nếp sống của gia đình Tôi, và một ví dụ về nếp sống của người lao động tại Saigon trước 30-4-1975 như thế nào?


Đại để : “Dưới Chế độ cũ tại miền Nam, Vợ Con của Tôi được phép làm “kinh tế” (buôn bán tự do) như mọi người dân thường khác, dĩ nhiên là phải đóng thuế cho Chính phủ. Vợ của Tôi hùn hạp với bạn bè, lập xưởng sản xuất quần áo trẻ con và người lớn, gửi bán cho các bạn hàng trên khắp các tỉnh. Lợi nhuận kiếm được hàng tháng rất nhiều, gấp 4, 5 lần lương Chính phủ phát cho Tôi. Do đó lương của Tôi chẳng bao giờ phải dùng tới. Tôi mở cho mỗi người con một Trương mục Tiết kiệm trong Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín, để gửi tiền tích lũy và lấy lời hàng tháng. Sau này khi chúng đến tuổi trưởng thành, có sẵn một món tiền làm vốn vào đời, ngoài mớ khả năng văn hoá học được tại nhà trường trong thời niên thiếu. Nhưng bây giờ thì chẳng còn gì, vì sau ngày Cách mạng giải phóng, Ban Quân quản tiếp thu Ngân hàng, không ai trách nhiệm cứu xét hoàn trả cho chúng tôi. Tiền dành dụm bao năm nay tiêu biến hết, đúng như các Cụ ta ngày xưa thường nói : “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Số Trời đã định như vậy, đành phải chịu chớ biết sao?
Hai người con lớn của Tôi học Đại học Y khoa và 3 người học Trung học, đều được Vợ Tôi mua cho mỗi người một xe máy dầu hiệu Honda, làm phương tiện di chuyển hàng ngày. Loại xe này giống như chiếc Side-Car mà Đại úy Giám thị Trưởng Phân trại K2 mới được cấp, nhưng nhỏ hơn, và không có thùng ghế cho người ngồi bên cạnh. Sau ngày giải phóng phải bán đi để mua xe đạp dùng, vì tiền ăn còn không có, lấy đâu dư mua săng chạy xe máy dầu.”


Về phần dân lao động trong Nam, Tôi kể chuyện gia đình một bác đạp xe xích lô tại Saigon. Tôi biết rõ vì Tôi có hùn vốn kinh doanh, với người bạn làm chủ công ty nhỏ cho mướn xe xích lô đạp.
“Gia đình bác X. ở một thôn trong vùng xôi đậu thuộc Tỉnh Tây Ninh. Vì chiến tranh giữa quân Cách mạng và quân Quốc gia xẩy ra thường xuyên, sinh hoạt gặp khó khăn, mạng sống không được bảo đảm an toàn. Bác X, đã giắt gia đình gồm Vợ và 2 con nhỏ lên Saigon, tá túc tại nhà người anh bà con bên Vợ để kiếm việc làm. Xưa nay sống nơi đồng quê, chỉ biết làm ruộng vườn trồng tỉa, không thông thạo các nghề của người công nhân, Bác X. đã phải nhờ người anh bà con giới thiệu, và hướng dẫn cho làm nghề đạp xích lô đưa đón khách trong Thành phố, vừa hợp khả năng, dễ kiếm tiền lại không cần vốn nhiều.


Anh bà con Vợ của Bác X. là quân nhân, tài xế lái xe cho Tôi. Anh ấy nhờ Tôi giúp đỡ thân nhân trong cơn hoạn nạn. Tôi đã bảo lãnh cho Bác X. thuê xe tại công ty Tôi có hùn vốn, để chạy kiếm sống hàng ngày không phải đóng tiền thế chân. Sáng đến ký nhận xe, đạp quanh khắp các đường trong Thành phố kiếm khách chở lấy tiền. Tối đem xe về hoàn trả công ty, và đóng tiền thuê xe cho ngày hôm đó. Chỉ vài tháng sau, Bác X. đã dành dụm được món tiền kha khá, đủ cho Vợ Bác làm vốn sắm đồ nghề mở một gánh cháo lòng bán rong trong khu gia binh, nơi gia đình Bác X. cư ngụ chung với người anh bà con.
Đến dịp Tết, gia đình Bác X. được người anh bà con dẫn đến nhà Tôi để cám ơn, chúc Tết. Bác X. khoe mới mua được một căn phố lợp tôn để ở riêng, cuộc sống gia đình ổn định thoải mái, chờ khi nào tình hình chiến sự yên ổn sẽ trở về quê làm ăn như trước. Trong lúc vui câu chuyện, Bác X. còn cho biết, bây giờ đã có vốn đóng tiền thế chân trước khi lấy xe đi. Hàng ngày, thức dậy từ lúc tờ mờ quãng 5 giờ, ăn uống lót lòng xong, đi lãnh xe chạy chở các khách quen mang hàng ra chợ. Sau đó tiếp tục chạy đón khách trên các đường phố đi chợ và về, đến khoảng hơn 11 giờ, đã kiếm được gấp đôi số tiền cần đóng để thuê xe. Bác ghé đậu xe bên lề đường, mua một phần cơm hàng gánh rong. Ăn xong, Bác ngồi lên xe gác chân chữ ngũ hút điếu thuốc lá, rồi chợp mắt khoảng nửa tiếng đồng hồ sau mới thức dậy, tiếp tục đạp xe đi kiếm khách. Trong khi nghỉ, nếu có khách đánh thức cần thuê chở một cuốc, nhưng lại mặc cả trả giá rẻ quá, Bác nhẹ nhàng xin lỗi là đang mệt, cần nghỉ ngơi đôi chút chưa chạy được. Ngày nào Bác ấy cũng kiếm được, nhiều gấp 3 lần số tiền cần để thuê xe. Vào những ngày thứ Bẩy và Chủ Nhật đông khách đi dạo phố mua bán, bao giờ cũng kiếm được nhiều hơn ngày thường.”
Trong khi kể truyện, Tôi luôn luôn đưa mắt quan sát, thấy các Cán bộ im lặng lắng nghe một cách thích thú say sưa, y như nghe truyện kiếm hiệp, không có sắc thái phản ứng khó chịu nào. Tôi yên tâm, hứng thú vừa hớt tóc vừa kể truyện liên tục, bỏ cả giờ nghỉ giải lao giữa buổi, thanh toán cả thẩy 5 cái đầu tóc cho Cán bộ chuẩn bị ăn Tết, không mảy may mệt mỏi.
Thật là một dịp may an toàn hiếm có, Tù Chính trị được tự do làm công tác Địch vận. Khai sáng cho Công An Nhân dân trẻ miền Bắc biết, về sự thật tại miền Nam Việt Nam. Những điều mà từ nhỏ đến lớn, họ chưa bao giờ được nghe nói, cũng như không có dịp thấy tận mắt.
Hớt xong cái tóc chót, vừa đúng giờ nghỉ lao động buổi sáng, Tôi thu vén đồ nghề ra tập họp, cùng anh em trong Đội đi tắm trước khi trở vào khu giam.
Đón mừng Tết Nhâm Tuất 1982 tại K2 Thanh Phong, có vài sự việc đặc biệt đáng ghi nhớ. Nội quy trại giam, cấm Tù không được tồn trữ cũng như uống rượu. Thế mà có vài bạn Tù thuộc Đội Vôi ở chung Láng với chúng tôi, được Quản giáo Đội “chiếu cố” mua giúp rượu để đón giao thừa trong Láng. Đội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ, cũng có bạn Tù cấp Trung tá gốc Chiến tranh Chính trị, trong đêm giao thừa được Cán bộ cho phép sang Láng giam của bọn Tù Hình Sự, vui nhậu đón Xuân với chúng. Những Bạn có cơ may hưởng các đặc ân này, dĩ nhiên phải là người được Cán bộ tin tưởng, ghi nhận kết quả “học tập cải tạo tiến bộ” hơn những người khác về mọi mặt. Việc đối xử rộng rãi này chỉ dành cho các Tù “Tự giác” và “Thi đua” mà thôi. Tù “Tự giác” là những Tù được Ban Giám Thị Trại tin tưởng, giao các công tác đi lao động một mình ngoài Trại giam, không cần Cán bộ theo sát canh phòng. “Thi Đua” thuộc thành phần được lựa chọn, phụ lực cho Cán bộ Trực Trại, ban ngày được phép ra vào tất cả các Láng giam Tù, thong thả bất cứ giờ giấc nào, để thực hiện những lệnh riêng của Cán bộ Trực trại và Cán bộ An ninh, trong khi những Tù khác bị cấm không được qua lại các Láng tiếp xúc với người khác Đội.
Sau 6 cái Tết (một tại miền Nam, 5 tại miền Bắc) đau khổ tủi buồn của kiếp sống Tù, đến cái Tết thứ 7 Nhâm Tuất “Con Chó”, hình như mọi người quên hiện tại, lăng xa lăng xăng chuẩn bị đón Xuân một cách hân hoan yêu đời. Vui Tết xong, như thường lệ, một chương trình “ra quân thi đua” mới lại được phát động rềnh rang, để mọi người tiếp tục làm công cụ sản xuất ra thật nhiều của cải cho Xã hội Chủ nghĩa.
Gần cuối tháng 4 năm 1982, một sự kiện lạ đã xẩy ra vào giờ xuất Trại lao động buổi chiều. Các Đội Tù Hình Sự được gọi xuất trại xong, toàn thể Tù miền Nam ngồi tại chỗ nghe lệnh “biên chế “ lại các Đội. Sau đó là lệnh “khẩn trương” chuyển đổi phòng giam. Một vài bạn Đại tá đang trong Đội Rau Xanh được chuyển trở về chung Đội với chúng tôi. Ngược lại mấy Đại tá khác trong Đội chúng tôi được “biên chế” qua Đội Rau Xanh kiêm Văn nghệ, và Đội Rau Xanh di chuyển ra khỏi “khu cách ly” của chúng tôi.
Sáng hôm sau, toàn Khu cách ly của chúng tôi bị giữ lại trong Láng, cho đến khi tất cả các Đội xuất Trại lao động hết, mới được mở cửa Láng ra sân chờ Cán bộ “làm việc”. Đội trưởng phải lập danh sách anh em trong Đội, với đầy đủ các loại tin tức lý lịch cá nhân, gia cảnh... Loại danh sách ngang, thường phải thực hiện mỗi lần chuyển trại. Sự việc cho phép chúng tôi mừng, tin tưởng chắc chắn là trong đêm sẽ được rời khỏi cái nơi thâm sơn cùng cốc này.
Đúng như dự đoán, một lúc sau Cán bộ và anh em Ban Thi Đua vào đặt một bàn “làm việc”, sát ngay bên ngoài cổng ra vào Khu Cách ly của chúng tôi. Từng Đội một theo “biên chế” mới, lần lượt tập họp ra gặp Cán bộ, nhận lại những qúy vật tư bị Trại thu giữ bấy lâu nay, rồi vào chuẩn bị tư trang gọn ghẽ sẵn sàng “Hành quân” khi có lệnh.
Khoảng xế chiều, có mấy chiếc xe tải từ K1 vào. Chúng tôi được lệnh từng Đội một, xếp toàn bộ tư trang lên đầy trên xe. Công việc hoàn tất, xe chở đồ đi trước, người lội bộ theo sau, trực chỉ hướng K1, nơi có cơ sở làm việc của Ban Chỉ huy Trại Thanh Phong. Suốt dọc đường đi dài khoảng chục cây số, ai nấy hân hoan thoải mái, vừa đi vừa trò chuyện nổ như bắp rang. Vừa sẩm tối, chúng tôi tới K1, được hướng dẫn vào tập trung riêng từng Đội, quanh sân rộng bên Hội trường lớn, gần bên khu cơ sở của Ban Chỉ huy Trại. Nhà Bếp và Khu giam anh em Biệt Kích thuộc K1, nằm tập trung phía bên kia con đường xe hơi chạy băng qua Trại.
Đêm xuống, một đống lửa lớn được đốt lên, bập bùng cháy ở giữa sân. Anh em Biệt Kích khiêng phần ăn tối đến phát cho chúng tôi. Khuya thêm chút nữa, lại đến phát phần ăn cho cả ngày hôm sau đi đường. Nhân dịp này anh em tiết lộ cho biết : “-Đêm nay sẽ có xe đến chở ra Ga Thanh Hoá, để lên tầu hỏa vào Nam.”
Đây là đêm sau cùng nghiệt ngã, tại Thanh Phong không bao giờ quên được. Không có phòng để giam, chúng tôi phải nằm trên đất ngoài trời qua đêm, không mùng mền. Trại đốt một đống lửa lớn ở giữa sân, để vừa soi sáng vừa có khói hun xua muỗi. Mọi đồ đạc đã gói ghém gọn gàng không được mở ra. Quần áo giầy dép phải luôn luôn mặc đầy đủ trên người, sẵn sàng “hành quân”. Anh em đành chùm áo mưa phủ kín đầu và tay cho khỏi bị muỗi đốt, tựa lưng vào nhau hoặc vào đống tư trang của mình mà ngủ.



ĐÊM GIÃ BIỆT THANH PHONG.
Bâng khuâng nhìn lửa bập bùng,
Đắng cay gửi lại núi rừng Trường Sơn.
Chia tay khe thẳm, thác nguồn,
Xa lìa muỗi vắt, chim muông, khỉ già.
Quên đi lò gạch, đồi trà,
Mặc bầy ve núi reo ca nắng hè.
Nhớ chi nấm mối, măng tre,
Tiếc gì mộc nhĩ nấu chè thả sương.
Kệ cây sung đứng ven đường,
Gió rung trái chín vãi vương kiến bò.
Suối trong nương náu cá, cua,
Mặc tình sản xuất cho cò kiếm ăn.
Chẳng còn đụng rắn, gặp trăn,
Sói lang, chồn cú lăng xăng cạnh rào.
Từ mai giã biệt vùng cao,
Đồng bằng rộng mở đón chào cố nhân !


ĐÔI LỜI NHẮN NHỦ BẠN.
Thăm thẳm rừng khuya lửa bập bùng,
Màn Trời chiếu Đất, bạn đâu lưng.
Thì thầm trao đổi niềm tâm sự,
Thoát nạn, đừng quên trách nhiệm chung.


Thanh Phong, Như Xuân, Thanh Hoá, Trung Việt.
Cuối tháng 4 năm 1982.
(Chiều ngày 24-4-1982 rời K2 di chuyển sang K1, ngủ đêm tại đây để chờ xe di chuyển ra thị xã Thanh Hoá.
Hừng sáng ngày 25-4-1982 xe chở ra ga Thanh Hóa đợi đến tối lên tầu hoả đi về miền Nam.
Tới trại Hàm Tân (Z30C) Thuận Hải vào khoảng giữa đêm 26 rạng ngày 27-4-1982.)


 

Chương 29

CHUYẾN TẦU HOẢ VỀ MIỀN NAM, SAU 6 NĂM LƯU ĐẦY BIỆT XỨ
(Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam)
Nguyễn Huy Hùng


Sương đêm càng lúc càng dầy đặc. Tôi dùng miếng ni lông rộng thay áo mưa, nửa nằm nửa đắp, phủ kín toàn thân (cả đầu lẫn chân) cho muỗi không làm phiền, nghiêng mình dựa lên chiếc túi vải đựng quần áo, nằm co quắp giữa sân, vừa lạnh vừa ngột ngạt khó chịu, trằn trọc mãi không ngủ được. Đến lúc mới chợp mắt thiếp đi, tiếng động cơ của đoàn xe tải đến đón, nổ rầm rầm. Còi lệnh the thé rúc lên, đốc mọi người “khẩn trương” tập họp chuẩn bị “hành quân”.
Sau khi tiếp tay nhau chuyển chất đồ đạc lên xe xong, từng đôi Tù một, bị khoá tay chung vào sợi xích nhỏ, lần lượt dắt nhau leo lên xe. Màn đêm còn phủ trùm vạn vật. Đoàn xe lăn bánh, tiếng động cơ rên đều đều, thân xe rung rung nẩy nẩy, lúc nghiêng qua trái, lúc nghiêng qua phải, lúc nhẹ nhàng vù vù lao xuống, lúc nặng nề vo vo leo lên, từ từ nuốt con đường băng suối vượt đèo, rời núi rừng Thanh Phong xuống đồng bằng ven biển Đông. Mọi người mệt mỏi ngồi tựa vào nhau im lặng ngủ thiếp đi.


Đang ngủ ngon giấc, bỗng xe giảm tốc lực đột ngột, xô dồn mọi người chúi về phía trước bừng tỉnh. Mở mắt thấy Trời đang tờ mờ sáng. Xe đang chạy ngang khu ngã ba đi Huyện lỵ Như Xuân, nơi có trại huấn luyện bộ đội Việt Cộng. Hồi đầu năm 1980, xe chở chúng tôi đến Thanh Phong đã chạy ngang, vào lúc hoàng hôn, bị bọn trại viên đứng phía trong hàng rào ném đá, la hét om xòm. Hôm nay Trời còn sớm quá, chúng đang ngủ chưa thức giấc. Quang cảnh lưa thưa mấy dẫy nhà tôn, vắng hoe như Chùa Bà Đanh, mờ ảo ẩn hiện trong lớp sương mai dầy đặc.
Đến ngã ba, đoàn xe rẽ vào đường đi Thanh Hoá. Chạy miết tới khoảng mặt Trời lên gần tới đỉnh đầu, đoàn xe tới vùng Thị xã Thanh Hoá, chạy vòng ra phía sau ga xe hoả, đến gần khu có những toa chở hàng trống rỗng. Anh em giật mình hoảng sợ, nếu trở về Nam bằng những toa xe này, sẽ là một tai họa lớn.
Hồi ở Trại Tân Lập Vĩnh Phú, chúng tôi gặp một số anh em gốc Chiến tranh Chính trị, bị đưa ra Bắc vào giữa năm 1976 bằng tầu thủy, tới bến cảng Vinh lên bộ đi tiếp bằng xe hỏa. Họ kể lại những cực hình phải chịu đựng trên các toa chở hàng hoá, nghe mà phát lạnh xương sống sởn gai ốc cùng mình.
“Mọi người ngồi bệt xuống sàn toa, chen chúc nhau chặt ních. Lúc tầu chạy, cửa toa bị đóng kín khoá trái bên ngoài, nóng nực, ngột ngạt thiếu dưỡng khí. Vì là chuyến tầu suốt đặc biệt, chạy từng đoạn nhiều trăm cây số mới ngừng để tiếp nhiên liệu cho đầu máy, lúc đó Cán bộ áp giải tới mở cửa kiểm tra, mới được thoáng khí đôi chút. Trung tá Ngô văn Hùng trước 30-4-1975 làm việc tại Tổng Cục Chiến tranh Chính trị, Saigon, đã bị chết ngộp trong khi tầu đang di chuyển. Nhiều người khác trong cùng toa cũng ngất ngư, nhưng không có cách nào kêu cứu, phải đợi tới khi tầu ngừng, Cán bộ tới mở cửa để kiểm tra mới báo cáo được. Người ta đem xác anh Hùng xuống, không biết đem đi đâu để làm gì ?”
Thật vô cùng dã man, mạng sống của những chiến sĩ chống Cộng sản, một khi thất thế lọt vào tay Việt Cộng luôn luôn bị coi rẻ, chẳng khác nào mạng súc vật. Thế mà Bác Hồ trước kia, và các đàn em của Bác trong Đảng hiện tại, luôn luôn rêu rao là Cách mạng Vô sản đại lượng, khoan hồng, nhân đạo nhất Thế giới.
Nhiều trăm ngàn người chống Cộng tại miền Nam bị đọa đầy thập tử nhất sinh, sống vô vọng chờ chết vì bệnh tật, đói khát, kiệt lực, hàng chục năm trời trong các Trại cải tạo của Cộng sản Việt Nam. May nhờ sự can thiệp của Chính phủ Hoa Kỳ theo chương trình nhân đạo mới được giải thoát, cùng Vợ Con đi định cư tỵ nạn, tái lập cuộc đời trên đất nước xa lạ ngoài quê hương của chính mình. Thế mà bây giờ, có một số nhỏ trong tập thể Cựu Tù Chính trị và người di tản trước 30-4-1975, đang được cùng vợ con định cư tỵ nạn tại nước ngoài với cuộc sống đầy đủ hạnh phúc, lại vì danh lợi cá nhân, xiêu lòng ngả theo lời mê hoặc của Việt Cộng, quên đi quá khứ dã man của chúng, cấu kết cùng các nhóm Tài phiệt Quốc tế, dấn thân hoà hợp tiếp tay củng cố cho chúng giữ vững Bạo quyền, tiếp tục bóc lột trấn áp nhân dân ở trong nước, thay vì tiếp tay cùng Đồng bào Việt Nam tranh đấu lật đổ chúng. Thật đáng khinh miệt biết chừng nào!
May thay, đoàn xe tiếp tục chạy vượt qua khu những toa chở hàng hoá trống hốc, ngừng lại bên một dẫy nhà sườn sắt, dài cao to, mái và 3 mặt quây quanh bằng tôn, có chiếc đầu máy xe hoả đang được sửa chữa. Chúng tôi được lệnh mang đồ đạc xuống xe, ngồi tập trung theo từng Đội, trên bệ xi măng dài giữa 2 dẫy đường rầy.
Tất cả anh em ở Thanh Phong về Nam chuyến này, được khoảng 100 người. Nhóm anh em Đại tá gồm : Nguyễn ngọc Điệp, Trần văn Thăng, Phạm tài Điệt, Lại đức Nhi, Trịnh đình Đăng, Đỗ văn Sáu, Hồ hồng Nam, Dương hiếu Nghĩa, Võ hữu Bá, Nguyễn quốc Quỳnh, Tô văn Vân, Nguyễn văn Phúc, Trần kim Hoa và Tôi.
Khoảng chừng 2 tiếng đồng hồ sau khi chúng tôi xuống xe, lại thấy một đoàn xe khác đến, đổ người xuống gần chỗ chúng tôi đang ngồi. Hỏi ra mới biết anh em thuộc Trại Lam Sơn (Đầm Đùn hay Lý bá Sơ) gì đó, Tôi không nhớ rõ, cũng trong Tỉnh Thanh Hoá được đưa về Nam một chuyến với chúng tôi.
Trong suốt buổi chiều ngồi giữa trời phơi nắng chờ đợi, chúng tôi có dịp quan sát mấy chuyến tầu từ phía Nam ra Bắc đi ngang ga Thanh Hoá. Hai ba đoàn tầu chạy suốt không ngừng, gồm toàn những toa chở hàng hoá đóng kín, và những toa hàng lộ thiên chất đầy thùng gỗ hoặc thùng kim khí đồ sộ, những chồng ống sắt to dài, gỗ nguyên cây dài, những chiếc connex của Quân đội miền Nam chẳng biết chứa gì ở trong, những chiếc xe hơi kiểu nhỏ, những chiếc Mini Van, những dẫy xe máy dầu Honda, Suzuki quen thuộc tại Saigon trước 30-4-1975... Chỉ một đoàn tầu có lẫn lộn toa chở hành khách và toa chở hàng hoá, ngừng lại ga khoảng ba mươi phút, cho hành khách lên xuống, cắt bớt ra và nối thêm vào đoàn tầu, vài toa hàng hoá.
Từ ngày bị đưa ra miền Bắc học tập Cải tạo, đến nay đã được 6 năm rồi, hôm nay Tôi mới có dịp thấy tận mắt, cảnh tượng hành khách lên xuống tầu tại ga xe lửa trên đất miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa, do Nhà Nước và Đảng Cộng sản Việt Nam quản lý điều hành từ mấy chục năm qua.
Không biết việc bán vé cho khách đi tầu được tổ chức ra sao? Việc kiểm soát ra vào sân ga như thế nào? Mà trong toa không đủ chỗ chứa, người ta phải ngồi đứng đầy cả trên các bậc lên xuống ở 2 đầu toa. Có người liều lĩnh, gác đòn gánh ngang trên lan can nối giữa 2 toa, ngồi tòøng teng như đang làm xiệc biểu diễn giữ thăng bằng, cho mọi người chiêm ngưỡng sự can đảm khác thường của mình. Số người ngồi lộn xộn bừa bãi bên các đống thùng, trên các toa chở hàng hoá lộ thiên, cũng đông chẳng kém gì trên các toa dành cho hành khách. Thật không hiểu nổi!
Khi đoàn tầu vào sân ga vừa đậu lại, không biết từ đâu những người bê bình nước với đôi chiếc bát đá, xâu bánh gói bằng lá chuối khô, chiếc bao tải đựng bánh mì, hoặc rổ đầy ổi, chuối... ào ra, chạy dọc các toa mời chào rao hàng ầm ĩ. Trong lúc đó hành khách lên xuống tầu, tranh nhau ném hành lý hàng hoá qua cửa sổ toa. Các bậc thang ở 2 đầu toa nghẹt cứng người, xô đẩy giành nhau lên xuống la í ới, chửi thề tán loạn. Hình như người ta phải vội vã sợ lỡ chuyến, vì lên xuống không kịp giờ tầu chạy. Thật vô cùng hỗn độn!
Trước 30-4-1975, tại miền Nam và miền Trung Việt Nam, Tôi cũng đã từng dùng xe lửa đi công tác giữa nhiều Tỉnh, nhưng chưa bao giờ thấy cảnh hỗn loạn như vậy. Có lẽ vì hồi đó Công ty Hoả xa miền Nam tổ chức thường xuyên nhiều chuyến tầu, số toa bao giờ cũng dư để cung cấp nhiều chỗ ngồi hơn cho khách, so với số vé đã được bán ra. Hơn nữa dưới Chế độ Dân chủ, áp dụng nền Kinh tế Thị trường Tự do tại miền Nam Việt Nam trước 30-4-1975, ngoài phương tiện Hoả xa, còn có nhiều Công ty Tư nhân, cạnh tranh cung cấp các phương tiện chuyển vận khác như xe đò, tầu thủy và tầu bay, đầy đủ cho khách cần di chuyển, nên dân chúng không phải chịu đựng cái thảm cảnh, mất tiền mua vé mà vẫn phải tranh giành nhau như vậy.



Thấy cảnh trước mắt, Tôi trạnh lòng thương các bà vợ Tù, tay xách nách mang ôm đồm những bao thực phẩm khô nặng cả trăm kí lô, từ Nam ra Bắc “thăm nuôi” Chồng, chắc chắn cũng đã phải chịu đựng những cực hình mà chúng tôi đang được chứng kiến.
Sau ngày Tôi được tha về nhà, Vợ kể truyện chuyến tầu lửa, bà ấy đi từ ga Hà nội đến ga Ấm Thượng Vĩnh Phú, để “thăm nuôi” vào cuối năm 1979, còn thê thảm hơn nhiều.
“Người ta xếp hàng hoá đầy trên các ghế ngồi, chật cả lối đi ở chính giữa toa, không có chỗ mà len chân. Kiếm được một chỗ rồi, phải ngồi lên hành lý của mình mà giữ. Nếu không, tới ga tầu ngừng lại, kẻ cướp trà trộn trong đám hành khách, xách đại hàng hoá của mình chuyền tay nhau vất xuống sân ga, chẳng có cách nào mà giằng lại. Kêu cứu chẳng ai tiếp, mọi người tỉnh khô nhướng mắt nhìn không nhúc nhích, vì họ cũng đang phải lo giữ cho phần riêng của họ.
Tầu tới ga Ấm Thượng vào lúc nửa đêm, sân ga tối như bưng không đèn đóm. Hai Chị Em (Vợ tôi và bà Chị) tay xách tay khênh đồ đoàn, len ra được tới đầu toa thả hành lý rớt xuống đất trước, rồi lần mò các bậc thang bước xuống sau. Bậc cuối cùng cách mặt đất khá xa, tối không thấy gì nên bước đại xuống hụt chân té lăn nhào xuống đất. Hoàn hồn lồm ngồm ngồi lên được, vừa đúng lúc tầu xình xịch chuyển bánh đi tiếp. May mà lúc bị té lăn ra ngoài, chớ vô phúc bị lăn vào phía đường rầy, khi tầu chạy thân mình bị nghiến nát chẳng ai hay.” Thật vô cùng nguy hiểm!
Chúng tôi phải ngồi giữa trời phơi nắng, chờ mãi cho tới gần tối, mới thấy một chiếc đầu máy chạy đi dồn tới kéo lui cả tiếng đồng hồ, tập trung một số toa chở hành khách hạng nhì. Sau cùng, đến đậu ngay khu chúng tôi đang ngồi. Cán bộ phụ trách Đội đến mở khoá xích tay cho mọi người, và ra lệnh Đội trưởng điều động anh em khuân đồ đạc, chất lên một góc toa dành cho chúng tôi. Xong xuôi, toàn Đội phải tập trung 2 hàng dọc, để Cán bộ đếm đầu cho lần lượt lên toa kiếm chỗ ngồi, 2 người một ghế. Mọi người lên hết vừa ngồi yên chỗ, Cán bộ đến từng ghế khoá tay 2 người chung một sợi xích, y như lúc bắt đầu lên xe di chuyển từ Thanh Phong ra ga Thanh Hoá.
Bên trong toa, ở giữa là lối đi, 2 bên dọc theo bề dài của toa có 2 dẫy ghế gỗ có tựa lưng, mỗi ghế dành cho 2 người. Các ghế được sắp xếp đâu mặt vào nhau, thành từng nhóm 4 người ngồi đối diện, 2 người hướng về phía đầu tầu, 2 người hướng về phía đuôi tầu. Anh Trịnh Đình Đăng và Tôi bị khoá tay chung một sợi xích. Chúng tôi ngồi chiếc ghế quay lưng về phía đầu tầu, thành ra không quan sát được quang cảnh phía tầu sắp chạy tới, như những bạn ngồi đối diện. Hàng ghế chúng tôi ngồi ở bên nửa phải của toa, nên chỉ thấy toàn rừng núi của dẫy Trường Sơn, không thấy được cảnh đồng ruộng làng mạc, phần lớn tập trung bên phía ven biển.
Đến xẩm tối, có đoàn tầu gồm toàn xe chở hành khách từ Bắc vào, ngưng ngay giữa sân ga. Sau các khung cửa sổ toa thấp thoáng đầy bóng người, không thấy ai xuống, mà cũng chẳng thấy khách mới lên. Nhóm người bán hàng rong cũng không thấy xuất hiện.
Đang chú tâm quan sát, thì cảm thấy đoàn tầu chứa chúng tôi di động, tiến tới thối lui bốn năm lần cả tiếng đồng hồ, chuyển từ đường rầy này sang đường rầy khác, để nối vào đoàn tầu vừa tới. Trời tối, ga không đèn đóm, nên cũng chẳng biết được nối vào khúc nào trong đoàn tầu chính. Mãi sáng hôm sau, khi đoàn tầu chạy đến khúc vòng quanh sườn núi nơi chân đèo Hải Vân (giữa Huế và Đà Nẵng), nhìn thấy được cả đoàn tầu từ đầu đến đuôi, mới biết toa của chúng tôi nằm ở khúc giữa. Đoàn tầu có khoảng hơn chục toa, 2 đầu máy kéo ở phía đầu, và 1 đầu máy đẩy ở phía đuôi.
Suốt từ lúc lên tầu, ai nấy phải ngồi nguyên tại chỗ, không được di chuyển lộn xộn ngay cả trong toa, nên chẳng biết khách trên các toa khác là những thành phần nào. Nhưng chúng tôi đoán chắc là các bạn Tù từ miền đồng bằng Bắc Việt, được di chuyển về Nam cùng lượt với chúng tôi.
Toa xe chỉ có một phòng vệ sinh nhỏ ở khoảng giữa, dành cho một người dùng nên rất chật hẹp. Mỗi lần anh nào cần tiểu hoặc đại tiện, đều phải kéo theo anh bạn xích tay chung cùng đi. Người giải quyết ngồi làm nhiệm vụ của mình. Người đi theo phải đứng kè ngay bên cạnh chờ, hít thở mùi xú uế của bạn mình thải ra. Thật thảm não, nhưng phải ráng chịu chớ biết làm sao.
Toa xe chở cả 4, 5 chục người, thay phiên nhau đi giải quyết vệ sinh dài dài suốt ngày đêm. Chỉ có 3 Cán bộ áp giải võ trang súng AK của Liên Xô, ngồi nằm trên 4 ghế trấn thủ ở 2 đầu toa. Đời nào họ lại chịu cực đi tới đi lui, mở khoá xích cho hết người này đến người khác hoài được. Cũng may họ không buộc phải hô to báo cáo xin phép, mỗi lần rời khỏi chỗ ngồi để giải quyết vệ sinh là tốt rồi.
Đoàn tầu rời ga Thanh Hoá khoảng lúc 9 giờ tối. Anh em đăm chiêu ngồi nhìn những ngọn đèn vàng thưa thớt trong thành phố, lùi dần ngoài khung cửa sổ toa tầu. Độ chừng dăm phút sau chẳng còn thấy gì, ngoài Trời tối đen như mực. Trong toa không có đèn, mọi người mò mẫm lấy đồ ăn ra nhấm nháp cho xong bữa tối, rồi ai nấy thiu thiu ngủ.


Khoảng nửa đêm, gió lạnh lùa vào toa làm chúng tôi tỉnh giấc, nhìn ra thấy tầu đang chạy ngang một khu có lưa thưa mấy dẫy đèn điện vàng vọt sáng. Tấm bảng treo nơi hàng hiên dẫy nhà sát bên đường rầy cho biết đây là Ga Vinh. Tầu tiếp tục chạy không ngừng. Bốn anh em chúng tôi ngồi đối diện nhau, đồng thoả thuận kéo mành cửa sổ toa xuống cho khỏi lạnh để ngủ tiếp.
Lối đi giữa 2 chiếc ghế chẳng rộng rãi gì. Đầu gối chân người ngồi ghế bên này, chỉ cách đầu gối người ngồi ghế bên đối diện khoảng 10 phân. Muốn duỗi thẳng chân ra cho khởi mỏi, cả 4 người phải thoả thuận cùng duỗi tréo xen kẽ bên nhau.
Hai người bị khoá tay chung một sợi xích, một bên tay cứ phải để yên không nhúc nhích sợ làm phiền bạn, thật khó chịu. Ngủ ngồi, phải ngửa đầu tựa lưng vào ghế, 2 vai, sống lưng, hông và 2 chân tê mỏi vô cùng.


Anh Trịnh đình Đăng bị xích tay chung với Tôi, là người có nhiều sáng kiến hay, ứng phó với mọi tình huống. Không biết làm cách nào, anh ấy rút được bàn tay ra khỏi vòng xích khoá, rồi ghé miệng sát tai Tôi thì thầm đề nghị, để anh ấy chui nằm dài dưới gầm ghế, còn Tôi nằm một mình trên ghế, như vậy 2 anh em cùng được nằm ngủ thoải mái. Tôi đồng ý ngay, và để tránh không bị Cán bộ phát giác khi đi kiểm tra, Tôi phải bỏ thòng tay có xích xuống sát ngực anh ấy, y như 2 tay vẫn xích liền bên nhau. Chỉ có một điều bất tiện duy nhất là phải nằm nghiêng co chân, không duỗi thẳng được. Bề dài chiếc ghế chỉ độ 1 mét rưỡi, nếu duỗi thẳng chân sẽ cản đường đi giữa toa xe.


Hai anh bạn ngồi đối diện, thấy sáng kiến hay nên bắt chước. Nhưng các anh ấy, không ai rút được bàn tay ra khỏi vòng xích như anh Đăng. Bốn đứa chúng tôi ngủ được một giấc dài thoải mái đến sáng, bị một bạn đi giải quyết vệ sinh ngang qua, đụng vào chân mới giật mình tỉnh dậy.
Chúng tôi ngồi trở lại vị trí trên ghế, mở cửa sổ toa nhìn ra ngoài, thấy tầu đang chạy song song bên trái Quốc Lộ 1. Đường vắng hoe chẳng một bóng người. Chừng nửa giờ sau tầu băng qua cầu Hiền Lương bắc ngang sông Bến Hải, Quảng Trị. Mấy dẫy nhà tiền chế bằng tôn, dành cho anh em Công An thuộc Việt Nam Cộng Hoà, giữ an ninh vùng phi quân sự ở đầu cầu phía Nam, có từ ngày thi hành Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 vẫn còn đó. Chỉ không thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ, phất phới trên ngọn cột cờ cao dựng trước dẫy nhà, như hồi trước 30-4-1975 mà thôi.



Đi ngang khu này, Tôi nhớ lại dịp đến công tác tại Tiểu khu Quảng Trị, hồi Tết Âm lịch năm 1958. Tôi được ông Quận trưởng Quận Gio Linh, dẫn đi thăm khu phi quân sự, đặc biệt là cầu Hiền Lương trên sông Bến Hải. Chúng tôi đi bộ lên cầu, tới cách vạch sơn trắng phân ranh Nam Bắc ở giữa cầu chừng 10 mét thì ngừng lại, đứng quay lưng về phía Bắc chụp tấm hình kỷ niệm. Bên kia đầu cầu, có một viên an ninh Cộng sản Bắc Việt mặc sắc phục vàng, đội nón cối lá đứng gác. Xa hơn đầu cầu chừng vài trăm mét, là một dẫy nhà tranh 5 gian, đằng trước có một cột thật cao, treo lá cờ đỏ sao vàng to tướng phất phơ theo gió.


Vạch sơn trắng oan nghiệt, ghi trên sàn giữa cầu Hiền Lương bắc ngang sông Bến Hải, là ranh giới chia đôi đất Việt Nam thành 2 nước : Nam Việt theo Chế độ Tự do Tư bản, và Bắc Việt theo Chế độ Cộng sản, quy định bởi Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954. Tại cái vạch sơn trắng (bức tường vô hình oan nghiệt) này, cũng từng là “cửa khẩu trao đổi Tù binh” giữa 2 bên Nam Bắc, sau khi Hiệp Định Paris 27 tháng 1 năm 1973 chấm dứt cuộc chiến “huynh đệ tương tàn”, dài một phần năm Thế kỷ 20 được ký kết.


Hôm nay, Tôi được đi ngang cầu Hiền Lương bằng xe hoả, từ miền Bắc về miền Nam, với tư cách một Tù nhân Chính trị mãn hạn lưu đầy suốt 6 năm, trên đất miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa. Lòng xúc động nghẹn ngào, rưng rưng lệ sung sướng, vì không ngờ qua bao năm cay đắng lao khổ cực nhục vô vọng, mình còn sống trở về gặp lại Đồng bào miền Nam thân yêu, gặp lại Vợ Con thân quyến ruột thịt, đã tưởng chẳng bao giờ còn được thấy mặt.
Đoàn tầu chạy qua hết địa phận Quận Gio Linh, khi sắp tới chiếc cầu sắt dài, băng ngang sông Thạch Hãn ngay giữa tỉnh lỵ QuảngTrị, mới thấy lẻ tẻ xuất hiện đôi ba chiếc xe đạp, xe máy dầu, xe Lam chở hành khách, tất bật vội vã ngược xuôi trên đường cái. Không như trước kia, vào giờ này, người và xe cộ đủ loại nối đuôi nhau chạy như mắc cửi trong thành phố.


Chừng một giờ sau, tầu chạy chậm lại, xình xịch băng qua cầu Bạch Hổ trên sông Hương, đậu lại ga ngay gần đầu cầu. Bên kia sông Hương là Thành Nội Cố đô Huế, nơi mà Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng theo kế hoạch Tổng công kích toàn miền Nam, đã chiếm đóng cả tháng trời, bắt bớ sát hại chôn sống tập thể cả chục ngàn dân vô tội và Quân Cán chính Việt Nam Cộng Hoà.
Đoàn tầu vừa ngưng bánh tại sân ga, Cán bộ dẫn anh Đội trưởng và 2 người nữa xuống khỏi toa, vào nhà ga lãnh nước và thực phẩm tiếp tế ăn đường cho cả ngày.
Toa chở chúng tôi ở đoạn giữa đoàn tầu, nên may mắn ngưng đúng ngay chỗ có nhà ga, nhờ thế quan sát được đầy đủ mọi việc xẩy ra trong sân ga.
Những người bán hàng rong, nấp sau những toa xe bỏ trống trong sân ga ùa ra, rao hàng mời mua rối rít. Anh em chúng tôi dơ tay bị xích lên, cho họ biết mình là Tù làm gì có tiền để mua. Bỗng dưng, một trong những người bán hàng lên tiếng nói lớn : “-Các Anh là Chiến sĩ ra Bắc cải tạo trở về à? Vậy thì đâu cần tiền, cứ nhận lấy mà ăn, không phải trả tiền nong gì cả.” Rồi lần lượt những người bán hàng rong, đua nhau quăng bánh mì, trái cây... đủ thứ qua cửa sổ toa cho chúng tôi.
Cán bộ áp tải và Công an giữ an ninh tại ga thấy vậy, một mặt bắt chúng tôi phải kéo mành che cửa sổ toa xuống, không cho nhìn ra ngoài nữa, một mặt dồn đuổi những người bán hàng kia đi chỗ khác.
Phía ngoài hàng rào nhà ga, đàn ông đàn bà thanh niên nam nữ, chen nhau đứng đông nghẹt gọi với vào hỏi thăm : “-Có Đại úy X, có Trung úy Y, có Thiếu tá Z... trên đó không ? Từ Trại nào về vậy?...” Lạ thật! Làm sao bà con thân nhân biết, sáng nay có chuyến tầu chở Tù từ miền Bắc về, mà ra tìm gặp hỏi thăm vậy?

Đoàn tầu đậu gần hai tiếng đồng hồ tại ga Bạch Hổ, Huế, mới lại chuyển bánh tiếp tục con đường xuôi Nam. Ngừng lâu như vậy chắc là để tiếp nhiên liệu cho các đầu máy, sau quãng đường dài đã chạy cũng khoảng hơn 5 trăm cây số từ Thanh Hoá đến Huế. Rời ga Bạch Hổ, đoàn tầu lần lượt băng qua các vùng Phú Cam, An Cựu, núi Ngự Bình, Phi trường Phú Bài, Bạch Mã, Truồi, Lăng Cô, để bắt đầu quanh co bò lần lên cao vòng theo các sườn núi, chui qua hầm đèo Hải Vân dài cả chục cây số, rồi đổ xuống phố Đà Nẵng.
Hồi những năm 1948-1949 theo học khoá đầu tiên của Trường Sĩ quan Việt Nam tại Huế, Tôi và các bạn cùng khoá đã phải lặn lội ngày đêm tôi luyện chiến thuật hành quân tại vùng này, nên không quên được. Có những buổi thực tập hành quân đêm, đụng độ với các toán Việt Cộng võ trang mò về hăm doạ buộc dân chúng tiếp tế hoặc đóng thuế. Cũng có lần tập hành quân an ninh mở đường bộ và thiết lộ vào lúc sáng sớm, đã khám phá ra những quả mìn do Việt Cộng lén lút cài ban đêm, để phá hoại xe hơi hoặc tầu hoả chuyên chở dân chúng di chuyển trong ban ngày. Những cuộc hành quân thực tập này, nằm trong phần chương trình “Giai đoạn thử lửa” trước khi mãn khoá.
Từ hầm đèo Hải Vân chui ra, đoàn tầu từ từ vòng vèo trườn xuống dốc, nhìn được toàn cảnh vùng thành phố Đà Nẵng, rất đẹp và nên thơ. Đặc biệt là pho tượng Phật trắng toát, đồ xộ, cao lênh nghênh, nổi bật giữa tấm thảm rực rỡ đủ mầu sắc của các mái nhà và ngọn cây, dưới ánh nắng của mặt trời buổi sáng.
Tuốt xa xa, xừng xững dẫy Ngũ Hành Sơn um tùm cây chen đá, nối liền cảnh đồng ruộng và bầu trời xanh trong, nơi dân địa phương khai thác đá hoa mầu hồng để đẽo tượng, bình bông, lư hương...bán cho khách thập phương qua lại.
Két két, xình xình, xịch xịch, từ từ xiết bánh sắt trên đường rầy, tụt xuống hết dốc đèo Hải Vân, đoàn tầu bắt đầu tăng tốc độ, vùn vụt nuốt tuyến thiết lộ trải dài trên dải đất hẹp nằm giữa Biển Đông và Dẫy Trường Sơn (bộ xương sống của quê hương Việt Nam thân yêu hình chữ S).
Suốt cả ngày dưới trời nắng chang chang, không ngừng lại bất cứ ga lớn nhỏ nào, đoàn tầu băng băng chạy ngang các địa phận Quảng Ngãi, Bình Định, Qui Nhơn, rẽ vòng theo chân núi qua các vùng Vân Canh, La Hai xa bờ biển, rồi lại vòng trở ra An Mỹ tiếp tục chạy sát biển. Tới lúc xế chiều đến Tuy Hoà (Phú Yên), đoàn tầu chạy ngang sườn rặng núi trên đỉnh có Hòn Vọng Phu, rêu phong xừng xững đứng thi gan cùng tuế nguyệt. Theo tục truyền đây là hình người thiếu phụ bồng con, trung kiên đứng đợi chồng đi chinh chiến lâu không về, nên biến thành tượng đá.
Chừng nửa giờ sau, đoàn tầu từ từ tụt xuống Đèo Cả vùng Đại Lãnh, ranh giới Phú Yên – Khánh Hoà, rồi từ Ninh Hoà chạy dọc bờ biển, băng Đèo Rọ Tượng, vào đến ga Nha Trang lúc nhá nhem tối. Sát dọc hai bên thiết lộ dẫn vào ga Nha Trang, thấy chi chít toàn là nhà dân chúng cư ngụ. Trong khi đoàn tầu di chuyển ngang, Đồng bào ùa ra chạy dọc theo tầu, vừa nói vừa làm hiệu tay, chỉ bảo viết lời nhắn và địa chỉ gia đình ném xuống, để họ gửi đi báo tin giùm.
Thật bất ngờ. Trong số anh em chúng tôi, cũng có đôi người vội vã lấy giấy viết vứt xuống nhờ. Phần lớn còn lại, cho rằng việc làm có vẻ phiêu lưu không tin tưởng, nên không thực hiện. Nhưng ai nấy cùng tỏ lộ sắc thái hân hoan, cảm kích tấm thịnh tình của Đồng bào đối với mình. Đồng bào miền Nam không thù hận “Ngụy Quân”, như Cộng sản Bắc Việt rêu rao trong các bài học Cải tạo nhồi sọ bấy lâu nay.
Vào đến ga, Trời tối mịt chẳng còn thấy gì. Dưới những dẫy đèn điện vàng yếu ớt chiếu sáng, đoàn tầu lại được điều khiển dồn tới dồn lui cả tiếng đồng hồ, chẳng biết nối thêm hay cắt bớt toa để lại. Xong xuôi, tầu đậu thêm chừng 1 tiếng đồng hồ rồi chuyển bánh, chạy trở ra ngang khúc đường cũ có nhà dân chúng ở dọc 2 bên. Đồng bào lại cằm đuốc chạy theo vẫy tay chào, mục đích chính có lẽ để nhận thêm những mảnh thư, anh em Tù ném xuống nhờ gửi về nhà trước, nếu ai cần. Tiếc quá, chúng tôi đâu biết tầu phải chạy trở lại đoạn đường này, để nhập vào con đường chính tiếp tục xuôi Nam, mà chuẩn bị.




Sau khi ra khỏi vùng thị xã Nha Trang, đoàn tầu bắt đầu tăng tốc độ, chạy vùn vụt trong đêm tối. Anh em lo ăn uống và thu xếp chỗ ngủ để giữ sức, thức làm chi cho mệt. Tiếng bánh sắt lăn trên đường rầy, tạo ra một loạt âm thanh đều đều, rào rào rào! kịch kịch kịch! Rào rào rào! kịch kịch kịch!... liên tục. Thân toa tầu không nẩy xóc, rung nhẹ nhẹ êm êm, mọi người chìm vào giấc ngủ dễ dàng hơn cả dùng thuốc an thần.

Anh Đăng và Tôi đổi chỗ nằm. Anh Đăng lên nằm trên ghế, Tôi xuống dưới gầm ghế nằm trên mặt sàn toa. Mỗi lần nhắm mắt để ngủ, những hoạt cảnh tại ga Bạch Hổ ở Huế lúc buổi sáng, và khúc đường vào ga Nha Trang mới hồi tối, thi nhau diễn lại trong đầu, làm Tôi trằn trọc không sao ngủ được. Cũng phải khoảng cả hơn tiếng đồng hồ sau, nhờ những tiếng ngáy ro ro đều đều của các bạn nằm bên cạnh và trên ghế, hoà nhịp cùng tiếng chuyển động vượt không gian của đoàn tầu, hợp thành một điệu ru trầm trầm êm ái, mới khiến được mí mắt của Tôi nặng trĩu rồi xụp xuống, ngủ đi lúc nào không biết.

Đang say sưa ngon giấc, các tiếng xôn xao lục đục làm Tôi bừng tỉnh, mở mắt thấy tầu đã ngừng, chẳng biết tại đâu. Có lệnh chuẩn bị xuống, anh em lần lượt nối đuôi nhau ra đầu toa. Xuống đến bậc thang chót, Cán bộ áp tải đang đứng tại đó mở khoá xích tay cho anh em.

Sau khi mọi người đã xuống hết, Cán bộ leo lên toa tầu rọi đèn pin kiểm tra, để chắc chắn không còn sót ai, rồi mới ra lệnh tập trung chuyển đồ đạc, chất lên chiếc xe chuyên chở đậu gần bên. Trời tối thui, chung quanh ga chẳng có đèn đóm gì cả, ngoài mấy luồng ánh sáng đèn pin của Cán bộ quẹt qua quẹt lại, soi đường đi kiểm tra theo dõi mọi người khuân chuyển đồ đạc, từ toa tầu xuống chất lên xe.

Trong khi anh em chúng tôi làm dây chuyền, mò mẫm chuyển xếp đồ đạc, anh tài xế mặc thường phục loanh quanh lại gần hỏi nhỏ : “-Ở Bắc về hả?” Tôi trả lời cụt lủn : -Thanh Hoá về. Anh ấy nói tiếp cho biết đây là ga Gia Rai, xe thuộc nghiệp đoàn chuyển vận ở Saigon, được thuê lên chở vào Trại Hàm Tân. Tôi thì thầm hỏi : -Có thể đưa tin về nhà giúp được không? Anh ấy trả lời được. Tôi liền lấy mẩu giấy nhỏ viết vội mấy chữ “Bố đã về Hàm Tân” tiếp sau là tên người con gái của Tôi cùng địa chỉ của gia đình, rồi xếp làm tư giúi vào tay anh tài xế. Xong xuôi, Tôi lỉnh nhanh ra chỗ khác, tiếp tục khuân đồ đạc bên mọi người.

Ba tháng sau, Tôi được Vợ giắt 3 người con tới Trại Z30C Hàm Tân thăm nuôi. Tôi hỏi thăm về mẩu tin nhắn lúc mới về tới Nam. Vợ tôi xác nhận : “-Anh tài xế tốt bụng, có đem mảnh giấy nhắn tin của Tôi tới tận nhà. Gia đình biếu anh ấy chút tiền uống nước để cám ơn. Anh ấy vui vẻ nhận, và chúc cho gia đình chúng tôi sớm được đoàn tụ.”

Mọi đồ đạc chất lên xe xong, mọi người phải tập họp hàng 2, để Cán bộ đếm đầu người lên xe về Trại giam. Chạy vòng vo một hồi đoàn xe ngừng lại, rẽ qua một cổng lớn bên trái con đường, đậu tại một bãi sân rộng 2 bên có những dẫy nhà tôn. Giữa sân có một đống lửa bập bùng cháy để soi sáng thay đèn.





Anh em được lệnh xuống xe, khuân đồ đạc vào trong một dẫy nhà mái tôn, vách gỗ, chỉ có một lối vào ở đầu nhà. Xong xuôi, mọi người phải trở ra đứng xếp hàng đôi để Cán bộ đếm đầu cho lần lượt vào nhà giam, rồi khoá trái cửa bên ngoài.

Trong nhà chứa được khoảng 100 người, có 2 dẫy xạp ngủ 2 tầng bằng gỗ dọc 2 bên tường, một lối đi ở giữa nhà rộng khoảng hơn 1 mét. Một ngọn đèn dầu leo lét cháy, treo nơi khung cửa, lối vào căn phòng vệ sinh nhỏ ở cuối nhà. Nhóm anh em Đại tá chúng tôi, thuộc Đội phải nằm xạp tầng trên. Một vài bạn có quá nhiều rương, thùng, bao đựng đồ tiếp tế, không khuân lên cao được, đành để đại thành từng đống tại lối đi giữa nhà, làm nhiều người đi vệ sinh ban đêm vấp, đau chân bực mình lẩm bẩm cằn nhằn.


\

Xạp ngủ tầng trên được ghép bằng nhiều tấm ván dầy mỏng khác nhau, những miếng mỏng lâu ngày bị khô cong lên võng xuống, nằm bị cấn lưng đau khó chịu vô cùng. Nhưng cũng may, không có rệp như ở các K1, K5 thuộc Trại Tân Lập tỉnh Vĩnh Phú, ngoài miền đất Bắc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.







TRỞ VỀ MIỀN NAM.




Mây ngàn phủ kín thương đau,
Tưởng xa vĩnh viễn ngờ đâu lại về.
Mừng ôi ! mắt lệ dầm dề,
Tim rung rộn rã đê mê sóng tình.
Tầu qua Bến Hải, Gio Linh,
Băng sông Thạch Hãn, đất Bình Trị Thiên.
Long lanh bao ánh mắt hiền,
Ngóng đoàn Cải tạo bình yên trở về.
Lưng cong, dựa mái tóc thề,
Trẻ thơ hớn hở, hương quê nồng nàn.
Nắng Hè vương gió Trường Sơn,
Trời Nam rực rỡ, chứa chan tình người.
Giạt dào sóng rộn biển khơi,
Buồm trương thẳng hướng vui đời tự do.


Z30C, Rừng lá Hàm Tân, Bình Thuận.
Cuối tháng 4 năm 1982.











Chương 30


TRẠI Z30C HÀM TÂN,TIA SÁNG CUỐI ĐƯỜNG HẦM.




(Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam)


Nguyễn Huy Hùng





Sau 6 năm bị lưu đầy biệt xứ trên đất miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa, được trở về hít thở bầu không khí ôn hoà của miền Nam vào đúng cuối tháng 4 năm 1982, Tôi cảm thấy nao nao buồn vui lẫn lộn.

Vui mừng sung sướng, vì không ngờ sau thời gian dài 2,125 ngày bị đọa đầy hành hạ cực khổ đói khát bệnh hoạn, không bỏ thây trên đất miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa như dự tính của Đảng Cộng sản Việt Nam, còn sống trở về miền Nam đợi ngày được Tự do đoàn tụ với Vợ Con và thân quyến, bằng hữu.

Buồn vì, nhờ chuyến tầu hoả xuyên Việt, mới có dịp nhìn thấy tận mắt, suốt dọc con đường dài 1,456 cây số, hai bên thiết lộ từ Thanh Hoá vào tới Gia Rai Thuận Hải, cảnh quê hương tiêu điều, sinh hoạt của dân chúng không nhộn nhịp như trước ngày bị Cộng sản xâm lược, dưới chiêu bài Giải phóng miền Nam.

Không ai có thể quên được ngày 30 tháng 4 năm 1975, cái mốc thời gian lịch sử đau thương nhất của toàn dân tộc Việt Nam trong hậu bán Thế kỷ 20, do Việt Cộng tay sai Cộng sản Quốc tế đã ghi vào cuốn sử hơn bốn ngàn năm Văn Hiến, của dòng giống Tiên Rồng chúng ta. Cả triệu người cằm súng chống Cộng sản Quốc tế xâm lăng miền Nam Việt Nam, phải đau lòng nuốt hận buông súng, vì bị Đồng minh Hoa Kỳ và nhóm Lãnh đạo Chính trị hoạt đầu đón gió trở cờ phản bội.

Chế độ Cộng hoà Dân chủ Tự do tại miền Nam Việt Nam tan biến, hàng triệu người dân vô tội đang sống yên vui hạnh phúc, phải tất tưởi sợ hãi dắt díu nhau tìm đủ mọi phương tiện bỏ nước ra đi. Vì họ đã thấy tấm gương tầy liếp “tắm máu, diệt chủng” của dân tộc Cămpuchia, khi bọn Khmer Đỏ tay sai Cộng sản Quốc tế, cướp được Chính quyền tại Nam Vang, đã thực hiện hồi đầu tháng 4 năm 1975 trên đất nước xứ Chùa Tháp, Đế Thiên Đế Thích. Cả hơn 2 triệu người dân Cămpuchia bị đập đầu đến chết một cách rất man rợ. Chẳng khác nào Việt Cộng đã chém giết chôn sống gần chục ngàn đồng bào Việt Nam tại Huế, trong cuộc “Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968”.

Sau suốt mấy chục tiếng đồng hồ tù túng, ê mông đau lưng nằm ngồi trên chuyến xe lửa Thống Nhất đặc biệt, nay được nằm dài duỗi thẳng chân tay trên sàn ván, mọi người thoải mái từ từ chìm vào giấc ngủ mê mệt chẳng biết trời trăng gì. Tiếng cồng đánh thức sáng, oang oang vang trong sương mù, làm mọi người tỉnh giấc. Uể oải mắt nhắm mắt mở ngồi dậy, Tôi cứ tưởng mình đang ở Thanh Phong. Khi chống tay ngồi lên, thấy chiếc sàn nằm bằng ván cứng, mới nhớ ra mình đang ở Trại Hàm Tân, Thuận Hải trong miền Nam. Chờ hoài không thấy Cán bộ đến mở cửa nhà giam, anh em chẳng ai ngạc nhiên. Mọi người đã quá quen thuộc với cái quy luật cố hữu của Trại Cải tạo Cộng sản, Tù mới tới bao giờ cũng được ở nhà một đôi ngày, làm thủ tục khai báo lý lịch. Sau đó, Ban Chỉ huy Trại xếp loại thành phần để “biên chế” vào các Đội, rồi mới đưa ra ngoài lao động.

Tất cả Tù cũ xuất Trại lao động hết, Cán bộ mới đến mở cửa cho chúng tôi ra, làm vệ sinh cá nhân và đi lãnh phần ăn sáng về chia nhau. Được ra sân nhìn quanh giữa ban ngày, thấy Trại giam này rộng rãi hơn K2 Thanh Phong, Thanh Hoá. Trại ngự trị trên một khoảng đồi rộng lài lài, chia thành 2 khu riêng biệt, cách nhau bởi con đường đủ rộng cho 2 xe tải chạy ngược chiều, không phải ngừng để nhường nhau. Khu bên phía Đông con đường, có nhiều cây cao to tàn lá um tùm mát mẻ, với những nhà khang trang như một xóm dân cư, dành cho Cán bộ và các cơ sở Ban Chỉ huy Trại. Còn khu bên phía Tây trơ trụi không cây, với một hàng lũy đất cao 1 mét, trồng tre gai tươi dầy đặc rộng cỡ 2 mét bao quanh, để nhốt Tù.

Bên phần đất giam Tù được chia thành 2 khu, cách nhau bởi một khoảng trống rộng và hàng rào kẽm gai. Khu trên cao, nơi đang giam chúng tôi, gồm toàn nhà mái tôn, Nhà Bếp, Hội trường, Bệnh xá và một giếng nước lớn. Khu dưới thấp gồm 3 dẫy nhà gạch, 2 dẫy mái lợp ngói, và 1 dẫy lợp bằng những miếng fibro ciment sóng gợn. Anh em Tù cũ gọi là Khu Nhà Ngói, giam những Tù bị Trại coi là nguy hiểm cần cách ly. Nhà Kỷ Luật giam Tù vi phạm Nội quy Trại, ở trong Khu Cách Ly này. Mỗi dẫy nhà giam đều bị quây chung quanh, bởi một hàng rào kẽm gai đan ô vuông cao 2 mét. Nhà nọ cách nhà kia một khoảng đất trống chừng 50 mét, có một đường đi rộng 5 mét ở chính giữa. Dọc bên hàng rào phía cuối mỗi dẫy nhà, là nơi Tù được phép gây bếp để nấu nướng linh tinh, tăng cường cho 2 bữa ăn hàng ngày của mình.

Hết giờ lao động sáng, từng Đội Tù cũ lần lượt trở vào Láng giam, sau đó ùn ùn kéo nhau ra nấu nướng. Chúng tôi ra sát hàng rào bên Láng đứng quan sát, ngóng tìm bạn bè quen cũ trao đổi tin tức. Nhiều Bạn gặp người cùng đơn vị, hỏi thăm nhau rối rít. Tôi không nhận ra được ai quen, vì phần lớn anh em thuộc đơn vị tác chiến. Bỗng nhiên, có một anh cỡ hơn 3 chục tuổi, loay hoay nhóm bếp xong, đứng lên vẫy tay về phía Tôi, lớn tiếng gọi : “-Trưởng Hùng! Trưởng Hùng! Em là X. đây. Hướng đạo Quân đội Tiểu khu Định Tường đây. Trưởng có nhận ra không? Ôi chao! sao lúc này Trưởng già ốm quá vậy? Trưởng có cần gì không? Cho biết, em ném sang tiếp tế cho Trưởng.” Ngờ ngợ một lúc lâu, Tôi mới nhớ ra anh bạn X. Trung úy thuộc Khối Chiến tranh Chính trị ở Mỹ Tho, đã theo Trại huấn luyện Huynh Trưởng Hướng đạo Quân đội tại Căn Cứ Tiếp vận Long Bình, do Tôi làm Trại trưởng. Bạn ấy học Trại Ngành Thiếu, để về tổ chức hướng dẫn con em gia đình quân sĩ trong Tiểu khu, sinh hoạt trau dồi Trí, Đức, Dục, và hoạt động Giúp Ích xã hội trong những giờ nhàn rỗi ngoài học đường. Tôi lắc đầu trả lời : “-Không cần thực phẩm, chỉ cần ít củi đun thôi.” Anh bạn X. liền chạy ra góc sân, lấy một bó củi ngắn nhỏ, ném qua đỉnh 2 hàng rào sang cho. Tôi cám ơn rồi đem vào đưa cho anh bạn ăn chung, chuẩn bị nấu nướng món tăng cường cho bữa trưa của chúng tôi.

Hôm sau là mồng 1 tháng 5, Lễ Lao động Quốc tế, cả Trại nghỉ. Việc nấu nướng “cải thiện” được thực hiện cả ngày không hạn chế, anh em tha hồ đứng bên hàng rào hàn huyên thăm hỏi nhau thoải mái. Tôi đang ở trong Láng giam, viết thơ gửi về gia đình báo địa chỉ liên lạc mới. Một bạn ở chung Láng, từ khu nấu nướng chạy vào cho hay có người nhắn muốn gặp Tôi. Thủng thẳng đi ra khu nấu nướng bên hàng rào, nhìn sang coi ai kiếm mình, Tôi thấy Trung úy X. đứng bên một người cao lênh nghênh. Anh bạn cao như cò sếu, dơ tay vẫy vẫy rồi chào theo kiểu riêng của Hướng đạo sinh, và lên tiếng : “-Chào Trưởng Hùng. Em là “Hươu Lém” đây. Trưởng có nhớ ra Em không?” Bạn này thì Tôi nhớ ra ngay, vì cái dáng dấp cao đặc biệt. Hồi dự Trại huấn luyện Trưởng ngành Kha, đã được Toán Huấn luyện tổ chức cuộc săn đêm, theo lối sinh hoạt của Hướng đạo để đặt Tên Rừng Hướng Đạo Sinh cho bạn ấy, nên Tôi nhớ mãi không quên được. Tôi cười gật gật đầu nói : “-Nhớ! Nhớ! làm sao quên được kỷ niệm cuộc săn đêm ở Trại Kha ngày nào.” Bạn ấy vỗ tay cất tiếng ha hả cười, và ném qua hàng rào sang cho Tôi một túi ni lông. Tôi nhặt mở ra xem, thấy trong có bó rau muống và một chiếc mũ rộng vành đan bằng lá buông, kiểu Hướng đạo sinh thường đội.

Nghỉ Lễ Lao động xong, mọi người tiếp tục đi lao động. Nhóm anh em mới đến được ở trong trại chờ “biên chế”. Nhóm Đại tá chúng tôi được tăng cường một số Trung tá gốc Cảnh sát, Pháo binh, Công binh, Tổng quản trị, Biệt động quân, An ninh quân đội, Chiến tranh Chính trị, và 4 Đại tá từ nơi khác về (trong đó có anh Đại tá Hải quân Nguyễn văn Tấn), lập thành Đội Nông Nghiệp.

Anh Tấn nguyên là Tham mưu phó Chiến tranh Chính trị Bộ Tư lệnh Hải quân. Được “biên chế” vào chung một Tổ với Tôi. Chúng tôi chiếm chỗ nằm gần bên nhau để dễ tâm sự. Có lần Tôi hỏi anh có biết gì về tin tức Trung tướng Trần văn Trung Tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị không? Anh Tấn đã kể cho mọi người cùng nghe : “-Lúc 11 giờ sáng ngày 30-4-1975, sau khi Tướng Dương văn Minh kêu gọi Quân đội buông súng, Trung tướng Trung đến Bộ Tư lệnh Hải quân gặp anh ấy, và anh ấy đã lo thu xếp chiếc tầu thủy chót còn lại đang đậu trong Hải quân Công xưởng, chở Trung tướng Trung xuôi theo sông Lòng Tào thoát khỏi Saigon, ra ngoài khơi Vũng Tầu đi tỵ nạn. Nhưng cá nhân anh Tấn không đi theo.” Tôi không tìm hiểu lý do tại sao anh Tấn không đi, vì mỗi người có hoàn cảnh cá nhân riêng, không muốn người khác biết.

Tại Trại Hàm Tân này cũng như ở những Trại khác, các Đội được phân biệt bằng một số riêng. Đội chúng tôi mang số 6, tổng số gồm 42 người (17 Đại tá, và 25 Trung tá). Trung tá Phạm ngọc Xuyến (gốc Tổng Quản Trị làm việc tại Bộ Tổng tham mưu), được chỉ định làm Đội trưởng của chúng tôi. Trung tá Nguyễn văn Sáu (gốc Biệt động quân, làm việc tại Trung tâm thẩm vấn tù binh, thuộc Phòng Nhì Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà) làm Đội phó.

“Biên chế” xong, chúng tôi được lệnh khuân vác đồ đạc tư trang, di chuyển ngay xuống Khu Nhà Ngói. Khoảng cách giữa 2 khu cũng cỡ 1 cây số. Có người nhiều đồ tiếp tế quá, một mình vác không xuể phải nhờ bạn bè tiếp tay, đi qua đi lại 2, 3 lần mới khiêng hết được đồ đạc và tư trang. Đến nơi giam mới, chúng tôi phải mở hết tư trang và đồ tiếp tế riêng của mình, bầy mỏng trên mặt đất giữa sân, y như ngồi bán chợ trời để Cán bộ lục soát kiểm tra. Cuộc kiểm tra lần này thật là tỉ mỉ khác thường, phải phơi nắng suốt ngày đến gần chiều mới xong, để được dọn vào nhà ở.

Nghe nói các dẫy nhà giam này, được xây cất theo khuôn mẫu nhà giam bên Liên xô. Hèn chi, thấy nó thoáng rộng hơn các nhà giam xây cất ở Trại Tân Lập Vĩnh Phú, trên đất Bắc Xã hội Chủ nghĩa. Mỗi dẫy nhà được ngăn đôi, y như 2 căn phố nối dài liên tiếp, để giam 2 Đội khác nhau, nhân số mỗi Đội khoảng trên dưới 4 chục người. Cả hai bên kiến trúc giống y nhau, chia thành 3 phòng, nhưng thứ tự sắp xếp các phòng thì đối ngược lại. Trong mỗi phòng có một bóng điện thắp sáng mỗi tối từ 7 đến 9 giờ.

Phòng đầu nhà được ngăn riêng, có cửa ra vào với nhiều cửa sổ (không có cánh cửa), dành làm nơi ăn, đồng thời cũng là nơi cất các dụng cụ cần cho việc nấu nướng, và thực phẩm tiếp tế riêng của Tù. Củi đun, mỗi cá nhân được phép nhặt gom trong giờ lao động đem về, xếp đống tại khu bếp ngoài sân sát hàng rào phía cuối dẫy để dùng dần.

Phòng kế tiếp là phòng giam, bề ngang rộng 6 mét, có 2 dẫy sàn ngủ 2 tầng dọc theo chiều dài nhà. Bề rộng sàn ngủ là 2 mét. Sàn ngủ dưới thấp được xây bằng gạch láng xi măng, cao hơn mặt nền nhà 50 phân. Giàn sàn ngủ trên cao dát ván dầy chắc chắn, bằng phẳng. Mỗi người được chia một khoảng nằm bề ngang 70 phân, vừa bằng bề ngang chiếc chiếu con dành cho 1 người. Phòng giam có một cửa ra vào duy nhất ở chính giữa, với cánh cửa có cây sắt dài chặn khoá trái bên ngoài. Hai bên cửa ra vào có 2 cửa sổ cao, rộng, gắn song sắt, nhưng không cánh cửa. Những người nằm sàn ngủ trên cao cũng có thể nhìn ra ngoài được. Hàng tường mặt trước phòng giam, được xây thụt vô 1 mét làm hàng hiên cho Tù đứng xếp hàng, đợi vào phòng giam khi trời mưa lớn.

Nối liền bên phòng giam là phòng vệ sinh, có 2 lỗ hầm tiêu, 1 máng tiểu cho Tù dùng cả ngày lẫn đêm, và 1 hồ chứa nước để xối rửa cầu tiêu sau mỗi lần xử dụng. Nước chứa trong hồ, được xe bồn do Tù đi lấy từ sông nhỏ chảy ngang Trại, đem về tiếp tế mỗi ngày 1 lần vào buổi sáng. Phòng vệ sinh là phòng cuối cùng, nên bức tường của phòng này là điểm ngăn cách, tiếp giáp với phòng vệ sinh của nửa nhà thuộc phía Đội bên kia.

Dẫy nhà giam chúng tôi là dẫy thứ 2, tính từ cổng khu đi vào. Dẫy nhà thứ 3 ở phía đằng sau dẫy của chúng tôi, 1 nửa làm Nhà kỷ Luật, nửa kia giam 1 Đội cũng gồm lẫn lộn Đại tá, Trung tá. Tôi biết được, nhờ lúc ra nấu nướng vào trưa ngày hôm sau, có mấy bạn cũ cùng ngành Truyền Tin với Tôi trước kia, ra nấu nướng gọi sang hỏi thăm.







Kiểm tra tư trang xong, anh Đội trưởng đưa các Tổ trưởng vào nhà chia khu vực nằm cho từng Tổ. Sau đó mọi người mới ùa nhau vào, giành chỗ nằm tốt trong khu vực quy định cho Tổ của mình. Những chỗ nằm thường được mọi người coi là tốt, phải xa cửa vào phòng vệ sinh, gần cửa sổ. Hai chỗ nằm ở sạp ngủ dưới thấp, sát hai bên cửa chính ra vào phòng giam, phải dành cho Đội trưởng và Đội phó. Vừa ổn định xong chỗ nằm, chưa kịp ăn bữa tối, kẻng báo tập họp kiểm tra nhân số vào phòng giam đã điểm. Mọi người phải đem thức ăn vào phòng giam, thanh toán tại chỗ ngủ của mình.

Sáng hôm sau ra quân lần đầu tại Trại, Đội chúng tôi được dẫn lên Khu Nhà Tôn, dọn dẹp rác rưởi trên mấy nền nhà cháy bỏ không từ lâu ngày. Theo tin tức mấy anh em cũ cho biết, đây là vết tích của cuộc đốt phá chống đối Ban Chỉ huy Trại, của các anh em bị giam tại Trại này trong những năm cuối thập niên 1970 đầu thập niên 1980.










Sau một tuần lễ dọn dẹp khu nhà cháy cũ xong, chúng tôi được điều động ra bãi đất trống gần cổng khu giam Tù, ngồi đập đá hộc thành đá vụn. Anh em phải ngồi giữa trời nắng chang chang suốt buổi để đập, trong khi ngay gần bên đống đá có một cây cao tàn lá um tùm râm mát. Buổi lao động chiều, Tôi đề nghị anh Đội trưởng xin Quản giáo, cho anh em vần đá vào gần gốc cây có bóng mát để ngồi đập cho đỡ nắng. Đợi mãi chẳng thấy kết quả gì. Tôi bèn tự động vần đá vào bóng mát bên gốc cây ngồi đập. Anh Đội trưởng thấy nhưng không có ý kiến và cũng không bắt chước, tiếp tục ngồi giữa trời đập đá bên các bạn khác. Một lúc sau có thêm vài bạn làm theo Tôi, và chúng tôi thoải mái ngồi đập đá đến hết giờ lao động chiều, không có chuyện gì xẩy ra. Buổi sinh hoạt tối trong Láng giam, thảo luận rút ưu khuyết điểm công tác trong ngày, cũng không ai đề cập nhắc nhở tới hành động của Tôi.







Nhưng sáng hôm sau, vào lúc bắt đầu giờ giải lao, anh Đội trưởng thông báo lệnh Quản giáo, gọi Tôi vào túp nhà tranh ngay gần bên chỗ Đội lao động để “làm việc”. Tôi hơi chột dạ, nhưng vẫn bình tĩnh đi gặp Quản giáo ngay không do dự gì. Chuyện đã lỡ rồi, đành phải liều tùy cơ ứng biến, chớ biết làm sao bây giờ.

Tôi thong thả bước vào cửa, thấy Quản giáo ngồi sau một chiếc bàn, Cảnh vệ cằm súng đứng gác chân lên chiếc ghế khác gần bên. Tôi dừng lại, thẳng người làm đúng quy luật báo cáo : “Tôi là Nguyễn huy Hùng, trình diện Cán bộ”. Ông ta chỉ tay xuống đất nói : “-Anh ngồi xuống đây.” Không có ghế, Tôi ngồi chồm hổm trên nền nhà, cách phía trước bàn chừng 2 mét, ngẩng mặt lên chăm chú nhìn ông ta, chờ đợi.

Mở màn giáo dục cố hữu của các Cán bộ đối với Tù, ông ta nhắc lại những gì đã phải nghe suốt 7 năm qua, về Đế quốc Mỹ sen đầm quốc tế, Ngụy quân Ngụy quyền tay sai của Đế quốc, cặn bã của xã hội..., rồi kết thúc bằng câu hỏi : “-Anh học tập bao lâu rồi mà chưa tiến bộ, vẫn còn ngại mưa sợ nắng vậy?” Tôi bình tĩnh thủng thẳng trả lời : “-Thưa Cán bộ, từ ngày đi học tập cải tạo đến nay cũng được 7 năm rồi. Dầm mưa dãi nắng, lao động cải tạo cực nhọc trong mọi thiếu thốn, trên đất miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa, Tôi đã học được nhiều điều hay của Xã hội Chủ nghĩa. Tôi đã “nắm được” những điều răn dạy của Cách Mạng về “lao động là vinh quang”, thì có lý nào còn ngại mưa sợ nắng. Các Cán bộ đại diện Đảng và Nhà Nước cũng đã dạy cho biết “lao động là sáng tạo”, thì làm sao Tôi quên được. Muốn đạt “năng xuất cao”, phải biết “khai thác óc sáng tạo” để tạo “môi trường lao động” thích hợp. Sở dĩ Tôi lăn đá vào gần gốc cây có bóng râm mát, là để nâng cao “năng xuất” và giữ được sức bền dai để làm nhiều ngày, chớ đâu phải sợ nắng. Cán bộ cứ ra đo thử xem, khối đá do Tôi và anh em ngồi trong bóng râm sản xuất, có nhiều hơn những người ngồi ngoài nắng không? Đấy là chúng tôi “khai thác óc sáng tạo”, để “lao động với năng xuất cao”. Nếu Cán bộ không bằng lòng, thì Tôi trở ra giữa nắng ngồi như mọi người.” Ông ấy không bắt bẻ vào đâu được, đành nói trớ rằng : “-Anh đừng ngoan cố biện minh. Hãy nhớ cố gắng mà tiếp tục học tập lao động cho mau “tiến bộ”, để sớm được về “đoàn tụ” với vợ con. Lâu hay mau, là tùy ở tinh thần phấn đấu và mức tiến bộ của chính bản thân các anh.” Tôi gật đầu và đứng lên nói : “-Rõ, báo cáo Cán bộ Tôi đi ra.”

Thời gian “làm việc” với Cán bộ kéo dài hơn một tiếng đồng hồ, mất toi cả buổi giải lao. Trở ra chỗ lao động, thấy mấy anh em ngồi gần gốc cây đã di chuyển ra giữa nắng ngồi bên các người khác. Tôi đi ngang khoa tay nói nhỏ đủ cho họ nghe : “-Chuyện không có gì đừng lo”, và đi về chỗ ngồi cũ bên gốc cây, tiếp tục đập đá cho đến hết giờ lao động.

Buổi lao động chiều, khi vừa tới “hiện trường lao động”, anh Đội trưởng nói cho biết là Cán bộ bảo Tôi ra ngồi lao động chung một chỗ với anh em. Không có biện pháp kỷ luật nào đối với Tôi về vụ này. Nhưng kể từ đó trở đi, Tôi biết mình bị theo dõi thường xuyên, cả trong lẫn ngoài giờ lao động. Rút kinh nghiệm thời gian còn ở các K1, K5 Trại Tân Lập và K2 Trại Thanh Phong ngoài miền Bắc, Tôi lại phải nhẫn nhục giữ mồm giữ miệng và làm như mọi người, kẻo “tai vách mạch rừng” có thể vướng vòng kỷ luật, bị hạ mức ăn hàng ngày, không được gửi, nhận thư và tiếp tế của gia đình, sẽ làm cho gia đình lo sợ buồn lòng vì ảnh hưởng đến việc tha về “đoàn tụ”.

Đập đá chẳng được mấy ngày thì đá hết. Đội đổi công tác đi làm cỏ ruộng mạ. Nước ngập ngang bắp chân, phải vắn ống quần cao lên trên đầu gối, tay áo sát tận nách, lội xuống ruộng, cúi gập người dùng 2 tay quơ quơ dọc theo các hàng mạ để cào nhổ cỏ vứt lên bờ. Cả Đội xuống xếp hàng ngang cùng làm, liên tục suốt từ đầu này đến đầu kia của ruộng mới ngừng. Làm chậm, một mình lùi lại sau anh em thì coi không được, nên cứ phải ráng mà theo cho kịp các bạn làm nhanh. Lưng bị cúi gập lâu, bắp thịt mông và lưng như đông cứng lại đau đớn. Mỗi lần muốn đứng thẳng lên nghỉ đôi chút, phải dùng 2 mu bàn tay đập đập nhẹ vào 2 thăn lưng khúc ngang hông một hồi, cho rãn ra hết đau mới ngẩng thẳng người lên được. Hết ruộng này sang ruộng khác, cứ phải cúi lom khom như vậy, làm liên tục suốt buổi lao động, ngày này qua ngày khác. Không nặng nhọc, nhưng đau lưng mỏi gối tê chân vì ngâm nước cả ngày, đêm về nằm ê ẩm mỏi mệt, người hâm hấp nóng khó chịu vô cùng. Có điều lạ khiến Tôi ngạc nhiên, không biết tại sao ruộng ở đây đỉa nhỏ con và ít hơn ở ngoài Bắc.

Trong thời gian làm cỏ ruộng mạ, anh Đại tá Trịnh Đình Đăng và Tôi ăn chung, được dịp “cải thiện” đồ ăn tươi không mất tiền mua, lộc của Thổ Thần ban cho rất thích thú. Cá nhỏ, cua, ốc có rất nhiều trong ruộng mạ. Anh Đăng là tay rất thông thạo nghề nông, nên vào giờ giải lao giữa buổi lao động nào, cũng bắt được một số đem về nấu canh chua, hoặc rim mặn để 2 anh em cùng ăn.

Sát cạnh khu lao động của chúng tôi, có một túp nhà tranh 1 gian 2 trái, dựng bên một thửa ruộng vuông mỗi cạnh dài cỡ trăm mét, cũng đang có mạ đã cao. Hai người, một nam một nữ khoảng 40 tuổi, cặm cụi làm cỏ ngoài ruộng, còn 2 đứa nhỏ, một trai một gái cỡ 3, 4 tuổi, lăng xăng đùa rỡn với con chó vện quanh hiên nhà. Đứa chị mặc cả quần lẫn áo ngắn cũn cỡn, còn thằng em chỉ có một chiếc áo thun để chuồng lồng lộng. Theo lời Quản giáo Đội, đây là gia đình của Đại úy Bộ đội “phục viên” (đã giải ngũ), được Chính quyền địa phương cấp cho mảnh đất này để khai khẩn sinh sống.

Cả vùng ruộng chúng tôi đang lao động, chỉ có căn nhà này là khoảnh đất nổi duy nhất không ngập, nên Quản giáo cho nấu nước ở góc sân. Giờ nghỉ giải lao anh em cũng được phép tụ tập ngồi hút thuốc, ăn uống, nên có dịp lấy bánh kẹo cho 2 đứa trẻ. Cha mẹ chúng cũng lợi dụng cơ hội nghỉ giải lao, đến ngồi gần chúng tôi hút thuốc uống nước, nói chuyện với Cán bộ Cảnh vệ và Quản giáo. Qua câu chuyện trao đổi giữa họ với nhau, chúng tôi biết được : “Anh Đại úy Bộ đội “phục viên” này, người gốc địa phương Hàm Tân, trước thuộc một đơn vị trong Mặt Trận Giải phóng miền Nam, có nhiều công trạng trong “Chiến dịch hành quân Hồ Chí Minh Thần Thánh mùa Xuân năm 1975”. Anh ta bị tước Đảng tịch cho giải ngũ, vì không chịu tuân hành chỉ thị của Đảng ủy đơn vị, ngoan cố nhất định khăng khăng kết hôn với người vợ hiện tại. Chị ấy không phải là thành phần đảng viên Cộng sản.”

Mang tiếng Đội Nông Nghiệp, nhưng chúng tôi không có “hiện trường lao động” riêng, bị thường xuyên tăng phái đi làm thuê cho các Đội khác. Làm cỏ ruộng mạ vùng này xong, chúng tôi được điều động đi tăng cường phát quang cuốc đất lên luống trồng khoai lang, cho một Đội Nông Nghiệp ở vùng khác, phía gần cổng vào Trại, cách khu Nhà Thăm Nuôi khoảng 1 cây số. Lượt ra lao động tại hiện trường mới, chúng tôi được dẫn đi theo đường ra khu Nhà Thăm Nuôi, để rẽ vào. Nhưng hết giờ lao động, lại được dẫn về theo lối khác. Đi theo con đường dẫn xuống nơi có một đập đá, mặt rộng chừng 8 mét ngăn ngang sông, để tắm trước khi trở về Trại giam. Cái đập đá này, vừa dùng để ngăn dòng sông lấy nước tưới cho các khu ruộng cao của Trại Z30C, vừa làm con đường kè đá cho xe hơi chạy vào phân trại K2, cách bên kia sông chừng 5 cây số.







Đông người xuống tắm cùng một lúc, gần bờ nước bao giờ cũng bị ngầu đục. Những người biết bơi, thường bơi ra giữa dòng có một cồn đất, đứng thẳng người chỉ ngập ngang ngực, để tắm nước trong cho thoải mái. Sau khi đã tắm sạch sẽ bằng nước trong ở giữa dòng, phải bơi xuôi tới quãng giữa đập để lên, rồi đi trên mặt đập vào bờ, tránh cho khỏi bị nước đục ven bờ sông bám vào người. Tôi vẫn thường tắm như vậy. Một hôm, lúc Tôi đi trên mặt đập vào gần tới bờ, một bạn Tù cũ tốt bụng đã khuyên, không nên bơi vào cạnh đập ở khu giữa sông như vậy, nguy hiểm. Tôi ngạc nhiên hỏi tại sao, bạn ấy mới kể cho nghe một chuyện không may, đã xẩy ra một năm trước khi chúng tôi về đây, như sau :







“Thường thường, mọi người đều thấy anh Y. tắm nơi cồn đất giữa dòng sông, tắm xong bơi vào khúc giữa đập để leo lên. Nhưng một hôm vào mùa mưa, mực nước sông cao hơn bình thường, sau buổi tắm chiều, cả Đội tắm xong tập họp kiểm số về Trại, không thấy anh Y. đâu. Quần áo của anh ấy cởi ra để xuống tắm, vẫn còn nguyên bên bờ. Cán bộ đổ đi tìm khắp các nơi, 2 bên bờ đều không thấy. Cho mấy người bơi lội giỏi lặn mò tìm dọc đáy đập cũng không thấy. Ai cũng cho là anh ấy đã trốn trại. Nhưng mấy ngày sau, xác anh ấy nổi lên ở phía hạ lưu của dòng sông, cách xa đập cả mấy trăm mét. Lúc đó người ta mới suy luận, có lẽ anh ấy đã bị nước xoáy cuốn xuống lỗ cống ở gần đáy giữa đập, bị mắc kẹt không ra được, chết ngộp trong lòng ống cống.”










Lúc bình thường trong mùa khô, nước sông chẩy liên tục thủng thỉnh nhẹ nhàng, vừa tràn qua mặt đập, vừa thoát theo một ống cống ở đáy đập khoảng giữa sông, xuống phía hạ lưu, tạo nên một âm điệu rì rầm rào rào êm êm đều đều như tiếng quay của cối xay lúa. Quang cảnh mặt đập thật là hiền hoà nên thơ. Nhưng vào mùa mưa, nước lũ dâng cao hơn mặt đập gần 2 mét, tràn lan làm cho lòng sông mở rộng thêm, lấn vào 2 bên bờ khoảng vài chục mét, chẩy xiết không lưu thông được. Vì thế người ta đã dựng một chiếc cầu treo bằng tre, có sàn ván song song gần đập, cho người đi bộ và đẩy xe cải tiến chở đồ tiếp tế qua lại, giữa K2 và K1 (nơi có Ban Chỉ huy Trại Hàm Tân và khu Nhà Thăm Nuôi).







Trong thời gian tăng phái làm tại khu gần cổng trại, chúng tôi có dịp thấy các xe lô chở thân nhân “thăm nuôi” Tù, tấp nập đến vào buổi sáng từ khoảng 10 giờ trở đi. Buổi chiều vào quãng 4 giờ, xe trở lại tập trung đón các bà rời khu Nhà Thăm Nuôi. Các bạn Tù ra thăm nuôi thường được đưa ra làm 2, 3 đợt liên tiếp nhau. Đợt trước sắp rời Nhà Thăm Nuôi vào Trại, thì đợt kế theo được dẫn ra.

Từ ngày về Trại Z30C Hàm Tân, chúng tôi không được cấp phiếu gửi Bưu Kiện nữa. Nhưng gia đình được đến Trại xin “thăm nuôi” 3 tháng 1 lần, đem tiếp tế cho bao nhiêu cũng được, không hạn chế. Chừng 2 tháng sau khi về đây, các bạn trong Đội chúng tôi lần lượt có gia đình đến “thăm nuôi”. Những bạn vốn giầu đồ tiếp tế xưa nay, vẫn là những người được vợ con “thăm nuôi” sớm nhất, y như hồi còn bị giam ở ngoài Bắc. Có nhiều bà rất khôn ngoan, chưa kịp chuẩn bị đi thăm chồng, đến nhờ những bạn thân quen đem thư và chút đỉnh quà vào trại giam cho chồng. Người được “thăm nuôi” nhận như quà của mình, rồi đem vào trại đưa lại cho bạn. Quà gửi như vậy không được nhiều, khoảng dăm ba kí lô thôi. Nhưng một tuần lễ được 2, 3 bạn đem giùm như vậy, cộng chung cũng đủ dùng trong đôi tháng.










Phần Tôi, phải đợi hơn 3 tháng mới được Vợ dẫn mấy người con tới “thăm nuôi”. Lâu ngày mới gặp nhau, Vợ Chồng Cha Con mừng rỡ nghẹn ngào không nói được nên lời. Cô gái út của Tôi lớùn quá. Ngày từ biệt gia đình đi trình diện học tập cải tạo 7 năm về trước, cô ấy đứng đầu chỉ cao ngang nách Tôi, bây giờ thì đã cao ngang Mẹ, xấp xỉ bằng Bố.

Sau khi nhóm anh em được “thăm nuôi” làm thủ tục trình diện xong. Cán bộ vừa đưa tay ra hiệu cho phép mọi người vào phòng thăm nói chuyện. Cô gái út chạy ùa tới ôm Tôi hôn, tíu tít nói : “-Bố ốm quá! Bố đen quá!...”, làm Tôi xúc động rưng rưng nước mắt, ôm con hôn, cố gắng giữ cho khỏi bật ra tiếng khóc mừng ngày tái ngộ. Rồi quay qua vòng tay ôm vợ hôn, hỏi thăm sức khoẻ, và dắt nhau vào phòng thăm kiếm chỗ ngồi.

Có 2 phòng thăm sát bên nhau. Trong mỗi phòng kê 2, 3 chiếc bàn dài cho Tù và thân nhân ngồi nói chuyện. Tù ngồi một bên, thân nhân ngồi bên đối diện. Thời gian “thăm nuôi” nói chuyện ở đây, rộng rãi hơn Trại Tân Lập ngoài Bắc, được tới 30 phút, tha hồ thong thả nói đủ thứ chuyện. Chỉ có một Cán bộ phụ trách, nên ông ta đi qua đi lại các phòng để theo dõi, chớ không ngồi tại đầu bàn như ở Trại Tân Lập Vĩnh Phú ngoài Bắc. Mọi người tha hồ nhỏ to nói chuyện thoải mái, không e ngại gì cả. Nhờ vậy, Tôi được biết Vợ đang lo cho 2 người con đi vượt biên, nên không dư dả để có thể tiếp tế cho Tôi đều, và nhiều như mong muốn. Tôi cũng được biết, các con đang phải lao động vất vả để kiếm sống hàng ngày. Người làm gia công cho Tổ hợp sản xuất mành trúc, do gia đình các Cán bộ Cộng sản làm chủ. Người đạp xe đi bỏ mối nước ngọt và bia, cho các nhà hàng ăn. Vợ của Tôi phải nấu cháo vịt, bán ngay trên lề phố trước cửa nhà riêng của chúng tôi. Nghe chuyện, Tôi rất xót xa đau khổ, thương Vợ Con vô cùng. Nhất là Vợ của Tôi, từ ngày kết hôn với nhau cuối năm 1949 đến 30-4-1975, chưa bao giờ phải vất vả khổ cực như vậy, lúc nào trong nhà cũng có dư người giúp việc lo bếp núc, giặt giũ, quét dọn nhà cửa...

Từ đó trở đi, Tôi không biên thư yêu cầu gia đình tiếp tế món này món kia, như các bạn nữa. Tùy gia đình gửi cho thứ gì cũng được, có gì dùng nấy, và luôn luôn tiết kiệm. Thời hạn “thăm nuôi” cũng không cần thiết phải 3 tháng một lần, lúc nào thuận tiện thì đi. Năm sáu tháng một lần cũng được, miễn là biên thư cho biết tin gia đình thường xuyên là đủ. Cũng vì quyết định này, Tôi đã tách ra không nấu nướng ăn chung với anh Đăng nữa, sợ phần đóng góp của mình không cân xứng gây thiệt thòi cho bạn.

Thời gian tăng cường rẫy cỏ và vun đất cho các luống trồng khoai lang gần cổng Trại, Tôi được Thổ Thần thương, tặng cho món quà đặc biệt một cách thật bất ngờ. Trong một buổi lao động chiều dưới trời nắng chang chang, Tôi đang bình thản cuốc vun đất giữa hai luống khoai. Bỗng thấy anh em làm gần, tay chỉ miệng hô : “-nó kia! nó kia!”, và rầng rầng đua nhau rượt đuổi bắt con gì không rõ. Tôi định thần quan sát thấy một con thỏ rừng nhẩy qua các luống, tìm đường thoát thân. Nó chạy qua hướng nào cũng có người đuổi chặn đầu vồ, nhưng hụt. Không biết Thổ Thần xui khiến sao, nó quýnh quáng nhẩy ngay vào rãnh giữa hai luống Tôi đang làm để chạy tiếp. Tôi dựa cuốc vào sườn luống, dạng 2 chân đứng im không nhúch nhích, đợi nó chạy tới sát chân mới cúi thật nhanh xuống dùng 2 tay chộp bắt nó. May làm sao, Tôi đã hành động rất đúng lúc, nên nắm được ngay bụng và cổ nó nhấc lên, trước sự ngạc nhiên của mọi người. Con thỏ hết thời, đương nhiên thuộc quyền sở hữu của Tôi. Để yên bụng, không lo thỏ tinh khôn tìm đường trốn thoát, Tôi đập đầu nó vào lưỡi cuốc, hoá kiếp cho nó.

Thịt thỏ rừng thường dai và cứng, nên chiên, xào ăn không được. Đồ tiếp tế của Tôi không còn gia vị để ướp, trước khi đem hầm mềm. Tôi thương lượng giao thỏ cho anh bạn Đại tá Dương Hiếu Nghĩa giải quyết. Hết giờ lao động ra sông tắm, anh Nghĩa lột da, cắt đầu, lòng và 4 chân bỏ, chỉ lấy bộ gan, thân mình và 4 chiếc đùi, chặt thành 8 miếng đều nhau. Về tới khu giam, lấy gia vị ướp rồi đem đun một lửa cho chín. Trưa hôm sau, đun thêm lửa thứ hai cho thật nhừ, đến chiều mới đem ra chia nhau mỗi người một nửa. Phần của Tôi 4 miếng, đem tặng anh Đội trưởng và anh Đăng người ăn chung với Tôi hồi trước, mỗi người một miếng. Còn lại 2 miếng, Tôi thủng thẳng ngồi thưởng thức, và trước khi ăn không quên lẩm nhẩm khấn, cám ơn lòng thương của Thổ Thần.

Trong Khu Nhà Ngói, Tôi có dịp gặp rất nhiều bạn cũ thuộc Binh chủng Truyền Tin và Chiến tranh Chính trị. Đặc biệt không biết cơ duyên nào xui khiến, cả 3 người từng nối tiếp nhau giữ trách vụ Chủ Nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến của Quân đội, đều hội ngộ tại Khu Nhà Ngói này. Đó là Thiếu Tá Thạch (đã giải ngũ) Chủ Nhiệm đầu tiên điều hành tờ báo từ khi mới ra đời, Trung tá Ninh (Thi sĩ Hà Thượng Nhân, đã giải ngũ) Chủ nhiệm thứ 2, và Tôi người thay thế anh Ninh làm Chủ Nhiệm sau cùng, từ năm 1972 cho đến ngày Quốc hận 30-4-1975.

Trong những tháng cuối năm 1982 có tới 2, 3 đợt tha, mỗi đợt hàng trăm người. Các anh Thạch và Ninh được tha trong các dịp này cùng nhiều bạn bè của Tôi thuộc Binh Chủng Truyền Tin. Một đợt tha khác rất đông đã xẩy ra vào dịp trước Tết Quý Hợi-1983, trong đó có anh Trung tá Xuyến Đội trưởng của chúng tôi. Chừng mươi ngày sau Đội chúng tôi lại có thêm 2 Đại tá được tha là anh Điệp (người bị nhũn não (stroke) ở K2 Thanh Phong, Tôi đã kể trong một đoạn trước) và anh Tấn (Hải quân). Sau khi anh Xuyến được cuốn gói hành trang tạm biệt anh em trong Đội, Trung tá Cảnh sát Phan Trung Chánh được chỉ định làm Đội trưởng thay thế, anh Trung tá Sáu vẫn làm Đội phó. Mọi người hân hoan ăn Tết, vui vẻ chúc nhau y như đang sống trong trại tạm trú tỵ nạn, chớ không phải trong Tù. Sau 3 ngày Tết lại phấn khởi “ra quân thi đua” tiếp tục “lao động cải tạo năng nổ”, để chờ đợi tới phiên mình được gọi tên tha.


XUÂN TÁI NGỘ MIỀN NAM.

Rừng Lá Hàm Tân mai nở vàng,
Đoàn Tù Chính trị đón Xuân sang.
Xuân trên Xứ Bắc mây u ám,
Tết tại Miền Nam nắng dịu dàng.
Việt Cộng vong nô hành khổ nhục,
Cộng hoà chiến sĩ vẫn hiên ngang.
Trà Blao nhấm nháp hương đoàn tụ,(1)
Cẩm Lệ phì phèo khói nạn tan.(2)

K1-Z30C, Hàm Tân, Thuận Hải. Xuân Qúy Hợi-1983.

(1)-Trà sản xuất tại Bảo Lộc, Tỉnh Lâm Đồng.

(2)-Thuốc lá sản xuất tại Cẩm Lệ, Tỉnh Thừa Thiên.


























Chương 31


DÙNG CHÍNH SÁCH THÂM ĐỘC LAO ĐỘNG CẢI TẠO TƯ TƯỞNG, CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ THẤT BẠI Ê CHỀ.

(Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam)

Nguyễn Huy Hùng








Chuẩn bị mừng lần thứ 9, ngày Đại thắng mùa Xuân 30-4-1975 của Cộng sản Việt Nam, Trung Ương Đảng gửi phái đoàn hùng hậu đến Trại Z30C tổ chức học tập 2 tuần lễ liền. May mắn là trong thời gian học tập này, Đoàn Cán bộ không nhai lại như bò, những gì đã nhai liên tục suốt 8 năm qua. Họ trình chiếu một bộ phim dài cả hơn chục cuốn, phải ngồi chồm hổm trên nền đất nhà Hội trường mái tôn, chặt cứng như nêm, ngột ngạt đủ thứ mùi vị nồng nặc từ cơ thể mọi người toát ra, xem liên tục nhiều ngày mệt mỏi hơn đi lao động ngoài đồng nhiều.

Đây là bộ phim được dàn dựng theo loại phim tài liệu lịch sử, ghi lại các chiến thắng của Cộng sản Việt Nam từ năm 1945 cho tới 30-4-1975, với mục đích tuyên truyền, khoa trương những góc cạnh có lợi, nhằm đánh bóng và thần thánh hoá các hành động của Cộng sản Việt Nam.

Nhưng đối với những người có tinh thần Quốc gia Nhân bản kiên định, không những chẳng xiêu lòng thán phục, mà lại càng thấy rõ ràng hơn mặt thật xảo trá, bịp bợm tinh vi, trơ trẽn vô nhân đạo của Cộng sản Việt Nam dã man “Hại Dân Hại Nước”, chớ không phải “Vì Dân Vì Nước” suốt 30 năm qua, nay vẫn đang tiếp tục.

Người ta đưa vào phim những khuôn mặt lớn của Cộng sản, như Hồ Chí Minh, Phạm văn Đồng, Trường Chinh, Võ nguyên Giáp, Lê dức Thọ... Bên phía Quốc gia chống Cộng, họ cũng đưa vào hình ảnh của Cựu Hoàng Bảo Đại, Thủ tướng Trần văn Hữu, Nguyễn văn Tâm, Tổng thống Ngô Đình Diệm, Cố vấn Ngô Đình Nhu, một vài Tướng lãnh Việt Nam Cộng hoà..., và một số nhân vật Chính trị Quân sự của Hoa Kỳ và Pháp đã đóng vai chính yếu trong cuộc chiến Việt Nam. (Thời gian qua đi đã lâu quá rồi, hơn nữa ngồi xem trong tình trạng bị ép buộc, không quan tâm chăm chú xem những dự kiện ghi nhận một chiều, nên Tôi không nhớ các chi tiết “cụ thể” trong phim nên không ghi lại như mong muốn.)

Tất cả những người thuộc phe Quốc gia Tư bản, được cho xuất hiện trên phim trong một thời gian rất ngắn, với những trích đoạn lời phát biểu dưới góc cạnh có lợi cho Cộng sản, nhằm mục đích chứng minh nhân chứng của các sự kiện, theo mốc thời gian lịch sử đã xẩy ra trong quá khứ mà họ có dự phần.

Còn các nhân vật Lãnh tụ Cộng sản, bao giờ cũng được phô trương lâu và nói dai nói dài, theo quan điểm chỉ đạo của Cộng sản Quốc tế mà họ lệ thuộc, với những lời lẽ chải chuốt tuyên truyền, tâng bốc cái khí thế của làn sóng Cách mạng Vô sản đang cuồn cuộn dâng lên, và cái thế yếu xuy thoái, đang rẫy chết của Hoa Kỳ và phe đồng minh Tự do Tư bản.

Sau đợt học tập, các Đội lại phải thi hành cái thông lệ, họp riêng tại Láng dưới sự giám sát của Quản giáo, để mọi người thay phiên nhau phát biểu ý kiến tổng kết “thâu hoạch”, ghi biên bản trình những gì đã hấp thụ được sau các buổi học tập bằng phim ảnh.

Dĩ nhiên, kết quả bao giờ cũng mỹ mãn “đạt mục đích yêu cầu”. Mọi người đều phải “nhất trí” “Cách mạng Vô sản Việt Nam là đỉnh cao trí tuệ”, “anh hùng vô địch đã đánh thắng cả 2 Đế quốc Pháp và Mỹ giầu mà không mạnh”..., cũng như phải kết luận phần trình bầy của mình bằng câu : “...luôn luôn cố gắng cải tạo cho tốt, để sớm được trở về đoàn tụ với Vợ Con, tuân theo luật lệ của Đảng và Nhà Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng đất nước...” Không ai ngu dại gì mà nói rằng : “-Cộng sản Việt Nam là tay sai của Đế quốc Đỏ Liên Xô, Trung Cộng, được các nước Cộng sản quan thầy cung cấp vũ khí đạn dược và Cố vấn tham gia điều khiển, thi hành kế hoạch xâm lược miền Nam Việt Nam và toàn Bán đảo Đông Dương, để làm bàn đạp bành trướng xuống toàn vùng Đông Nam Á Châu...”

Kỳ Học tập chấm dứt, nhiều đợt tha Tù lại tiếp tục xẩy ra. Những tin đồn Chính phủ Hoa Kỳ đang chuẩn bị đón tiếp Tù Chính trị tới định cư, cũng dồn dập vào trại theo các đợt “thăm nuôi” hàng ngày. Các sự kiện này cho phép nhận định, mục đích chính của đợt học tập kỳ này, nhằm tuyên truyền lôi cuốn Tù Chính trị còn “nhẹ dạ cả tin” ở lại trong nước, để Việt Cộng lợi dụng làm công cụ câu tiền của Hoa Kỳ trong tương lai.

Khi lúa sắp sửa trổ đòng đòng, chúng tôi lại được tăng phái đến làm cỏ và phát bờ ruộng cho một Đội Nông Nghiệp khác, ở phía mút hướng Tây của Trại. Cây lúa cao ngang bụng, cả Đội xếp hàng ngang, dùng cuốc vừa cà cỏ nhặt vứt lên bờ vừa vun gốc lúa. Lá lúa nhỏ dài, ngọn lá nhọn, cạnh bén như lưỡi dao. Mỗi khi cúi xuống ngẩng lên, đều bị lá lúa đâm cứa vào mặt vào tay, làm rặm ngứa xót khó chịu vô cùng. Làm trong ruộng lúa dưới trời nắng, hầm nóng, bực bội, khiến cho người ta dễ nổi tính cáu bẳn một cách vô lối. Tôi đã lỡ làm một việc khiến cho anh em cả Đội, rơi vào một hoàn cảnh thật khó xử. Đầu đuôi câu chuyện như sau :

“Hàng ngày đến “hiện trường lao động”, Quản giáo Đội ra lệnh cho anh Đội trưởng cung cấp 2, 3 người để chuốt đũa bằng cuống lá buông, cho ông ấy đem bán kiếm tiền xài. Anh em trong Đội phải nỗ lực làm nhiều hơn để bao phần của các anh ấy, mới hoàn tất được chỉ tiêu quy định cho Đội phải thực hiện trong ngày. Mọi người vừa làm vừa nói chuyện bông đùa cho quên thời gian vất vả. Bỗng tôi nghe thấy anh Z. (gốc Cảnh sát) được chỉ định chuốt đũa cho Cán bộ, đến báo cáo với Cán bộ là, anh ta đến gặp thủ kho Đội chủ nhà mượn dao bén nhưng không có. Cán bộ cứ nhất định là có. Hai người nói qua nói lại, sau cùng anh Z. kết thúc bằng câu đại ý nói, nếu Cán bộ không tiếp xúc thẳng để có dao đưa cho anh ấy, thì anh ấy chịu không thể thi hành lệnh của Cán bộ được.” Tôi ngứa miệng nói đổng : “-Sao ngu quá vậy, không có dao thì lấy răng mà cạp.” Các bạn làm gần quay lại ngó, rồi từ từ lảng dần ra chỗ khác xa Tôi.

Một lúc sau, anh Đội trưởng (Trung tá Cảnh sát Phan trung Chánh) đến khu chúng tôi đang làm hỏi : “-Anh nào vừa nói gì mà lấy răng cạp?” Không ai trả lời. Anh ấy đến bên từng người hỏi có nghe ai nói không? Mọi người đều lắc đầu nói không nghe. Riêng Tôi thì anh ấy không hỏi. Đến hết giờ lao động buổi chiều, Đội tập họp đi tắm trước khi về Khu giam. Cán bộ đến đứng trước Đội, hỏi : “-Trong lúc lao động anh nào nói gì, có ai biết ai nói không?” Không ai trả lời, Tôi cũng yên lặng.













Cán bộ nói tiếp : “-Nếu không tìm ra được người đã phát biểu linh tinh lúc nãy, bắt đầu từ chiều nay Đội bị phạt không được đi tắm sau giờ lao động, cho đến khi nào tìm ra được người nói mới thôi.”

Chiều đó chúng tôi không được đi tắm, anh em trong lòng chắc phiền lắm, nhưng không ai nói gì. Mọi người yên lặng trở về Khu giam, không xì xầm hay nói một tiếng nào tỏ ý phiền hà Tôi cả. Buổi sinh hoạt Đội trong phòng giam hàng đêm, cũng không thấy ai nhắc tới chuyện đã xẩy ra. Tôi cảm thấy ân hận, suy nghĩ trằn trọc suốt đêm không ngủ được. Tôi bàn với anh Nguyễn văn Sáu Đội phó nằm bên, sáng mai Tôi sẽ nhận tội, rồi ra sao thì ra. Anh ấy gạt đi nói : “-Cứ lờ đi, rồi mọi việc sẽ qua.” Nhưng Tôi nghĩ chuyện không đơn giản như vậy. Hồi mới về đây, Tôi đã bị Quản giáo gọi “làm việc” về vụ tự động vần đá vào bóng râm ngồi đập. Chắc hẳn Quản giáo vẫn đang theo sát Tôi tìm sơ hở, để kỷ luật rằn mặt.







Sáng hôm sau, từ lúc bắt đầu lao động, anh Đội trưởng đến gọi lần lượt từng người, chiều hôm trước lao động gần bên Tôi, đến gặp Cán bộ “làm việc”. Mỗi người phải “làm việc” lâu từ 10 đến 15 phút. Khi trở ra chẳng anh nào nói năng gì, lẳng lặng tiếp tục lao động. Tôi đến gần hỏi thì các bạn cho biết là hỏi chuyện chiều hôm qua. Ai cũng nói anh em vừa làm vừa nói chuyện bông đùa với nhau, nên không nghe và cũng không biết người nào đã nói như vậy. Không muốn để anh em tiếp tục bị phiền hà vì việc làm của mình, Tôi yêu cầu anh Đội trưởng xin cho Tôi gặp Cán bộ Quản giáo trình bầy về việc chiều hôm qua. Anh ấy xửng sốt nhìn Tôi với vẻ ái ngại, nhưng cũng đi trình Quản giáo. Một lúc sau anh Đội trưởng đến cho biết, Quản giáo bằng lòng gặp Tôi vào giờ giải lao.










Lúc bắt đầu nghỉ giải lao, Tôi đem Gô nước trà và bao thuốc lá thơm tới gặp Quản giáo. Ông ta đang ngồi một mình bên gốc cây, xa chỗ anh em ngồi nghỉ khoảng 100 mét. Tôi đến cách 1 mét đứng lại báo cáo trình diện, như thường lệ mỗi khi Tù gặp Cán bộ. Ông ta nói : “-Anh ngồi xuống đây, có việc gì vậy?” Tôi thong thả ngồi xuống, đưa Gô trà nóng và bao thuốc lá thơm mời ông ta dùng, rồi chậm rãi trình bầy : “- Trước nhất Tôi xin lỗi đã làm phiền lòng Cán bộ, và anh em trong Đội từ chiều hôm qua đến giờ. Tôi là người đã nói câu “sao ngu vậy, không có dao thì lấy răng mà cạp”. Tôi nói câu này, vì trong lúc anh em vừa lao động vừa kể lại câu chuyện cũ, xẩy ra từ hồi còn ở ngoài trại Thanh Phong. Có một anh khát nước quá, muốn ăn vụng mía trong ruộng, lại không có dao nên chẳng biết làm sao. Tôi buột miệng góp chuyện bằng câu : “-Sao ngu quá vậy, không có dao thì lấy răng mà cạp”. Chắc Cán bộ cũng “nhất trí”ù với Tôi, đâu phải lúc nào ăn mía cũng cần tới dao. Mình có thể dùng răng tước vỏ, rồi cắn gẫy từng mẩu nhỏ để ăn cũng được. Như vậy, lời góp ý của Tôi vào câu chuyện anh em đang nói là thật tình, có ý gì khác đâu? Tôi không hề nghe thấy anh Z. báo cáo với Cán bộ là, không mượn được dao để chuốt đũa cho Cán bộ. Đây là sự trùng hợp đáng tiếc, Tôi không ngu dại gì mà nói anh Z. như vậy. Xin Cán bộ rộng xét bỏ qua cho. Nếu Cán bộ muốn kỷ luật thì kỷ luật Tôi, chớ anh em trong Đội không can hệ gì.”










Ông ta ngồi hút thuốc và uống trà nóng do Tôi đem tới mời, mắt nhìn về phía anh em ngồi nghỉ giải lao, yên lặng nghe trình bầy không nói gì. Khi Tôi vừa dứt lời, ông ta mới quay lại nhìn Tôi, và nói : “-Anh có tinh thần tự giác nhận sai trái của mình như vậy là tốt. Thôi được rồi, đi về Đội lao động với anh em.”










Hết giờ lao động sáng, Đội được đi tắm trước khi về trại giam, mọi người vui vẻ, không khí nặng nề không còn nữa. Thế rồi, một ngày, hai ngày, ba ngày qua đi, không thấy gì, mọi người thở phào nhẹ nhõm, mừng cho Tôi tai qua nạn khỏi không bị kỷ luật. Theo suy đoán riêng, câu Tôi nói chẳng có gì là “phản động chống đối chính sách của Nhà Nước”. Nếu trình lên, Tôi sẽ bị Cán bộ Giáo dục của Trại và Cán bộ An ninh gọi lên “làm việc”. Tôi sẽ chẳng sợ gì mà không khai sự thật, sẽ lòi ra điều sai trái của chính ông ấy, lợi dụng Tù làm việc riêng cho mình trong giờ lao động để kiếm tiền. Chắc chắn ông ta sẽ phải lãnh tai họa kỷ luật trước Tôi, nên ông ta mới phải bỏ qua, mặc dù rất căm giận.

Khi trại bắt đầu thu hoạch vụ lúa Chiêm, Đội chúng tôi được cấp cho một “hiện trường lao động” riêng, sát bên bờ sông, về hướng Tây Nam, để trồng rau, bí ngô, và bầu. Muốn tới nơi lao động mới này, phải đi vòng vèo một đoạn đường khoảng 3 cây số, xuyên ngang các khu lao động của 3 Đội khác. nằm sát bên bờ sông phía Bắc, Tây Bắc, và Tây của K1 Trại Z30C.

Như vậy, Đội chúng tôi đã được đưa đi lao động trên khắp mặt địa bàn K1 của trại Z30C. Hiện trường lao động của các Đội hướng Đông Bắc, Bắc, Tây Bắc, và Tây đều nằm sát bên sông, cho phép kết luận : “K1 là một vùng đất nằm trong khúc quanh, của con sông dài chẩy từ Trại Z30D Thủ Đức qua.”

Khúc sông chẩy sát bên khoảnh đất dành cho Đội chúng tôi, hình vòng cung, bao bọc các hướng Tây và Nam của “hiện trường lao động”. Triền bờ 2 bên sông thẳng đứng, cao hơn mặt nuớc 1 mét. Bờ này cách bờ kia khoảng chục mét. Nước chảy lừ đừ, chính giữa lòng sông chỉ sâu cỡ ngang ngực, lội qua lại dễ dàng. Chúng tôi mở 2 bến lên xuống, gánh nước tưới cho các luống rau rất tiện lợi và nhanh. Việc tắm giặt của anh em cũng rộng rãi thoải mái, không bị cảnh tắm nước đục vì đông người xuống cùng một lúc. Bên kia sông là rừng cây, không thấy bóng người qua lại. Thỉnh thoảng có vài bạn Đội Lâm Sản lội về ngang, đem theo những bó măng tre rừng. Những Tù trong Đội Lâm Sản được coi là “Tù tự giác” đi lao động một mình, không cần Cán bộ theo coi chừng như các Đội khác. Đội chúng tôi chẳng hạn, hàng ngày đi lao động, ngoài Quản giáo Đội còn có thêm 2 cảnh vệ, mang súng AK đi canh chừng.

Rau và bầu chúng tôi trồng tỉa tăng trưởng rất nhanh. Vừa tới kỳ thu hoạch, bị mất trộm một mẻ rất lớn. Chỉ qua có một đêm, kẻ trộm nhổ một loạt 4, 5 luống rau, dài 25 mét, rộng 1 mét, mơn mởn tốt nhất trong khu. Đồng thời, lựa cắt những trái bầu lớn và dài, chớ không thèm lấy trái nhỏ.

Vụ trộm được coi là có tổ chức quy mô, không phải tầm thường. Hàng đêm, luôn luôn có toán Cảnh vệ đi tuần tra canh phòng cẩn mật, trên khắp các khu vực đất canh tác, thuộc quyền sở hữu của Trại. Mấy bạn Tù “tự giác” được ở tại Nhà Lô với Quản giáo kế cận “hiện trường lao động” của Đội chúng tôi, chắc không bao giờ dám làm cái việc liều lĩnh này. Vậy thì ai? Hẳn là phải có sự mưu mô toa rập, giữa Cán bộ trong trại và dân chúng ở quanh vùng gần trại. Họ tẩu tán đem qua sông, chớ không thể chuyển vận một số lượng rau nhiều như thế, theo các đường đi bên trong trại. Cán bộ An ninh mở cuộc điều tra nhiều ngày, đi tới đi lui “làm việc” với một số anh em trong Đội chúng tôi. Chẳng ai biết kết quả sau cùng ra sao.

Ít ngày sau vụ mất trộm, Đội chúng tôi và Đội Nông Nghiệp đang gặt lúa kế cận gặp một tai họa thật hi hữu, vào một buổi chiều lúc gần giờ nghỉ lao động. Tai họa không nguy hiểm, nhưng đủ làm mọi người kể cả Quản giáo và Cảnh vệ, bị một phen tản thần không bao giờ quên được. Chuyện như thế này :

Đầu giờ lao động buổi chiều, tại “hiện trường lao động”. Anh em xuống bến sông phía Tây của Đội, gánh nước tưới rau. Thấy có một bầy ong bu đen to cỡ một bao gạo trăm kí lô, trên cành cây cao phía bên kia sông. Một số con bay lượn chung quanh như đám lính canh phòng tuần tra. Một vài con bay lượn sang tận bên này sông, kêu vo vo nhưng không làm gì ai. Anh em yên tâm lao động, không ai quan tâm đến bầy ong đang đậu nghỉ cánh này nữa.

Đến gần giờ nghỉ lao động chiều, sau khi đã tưới xong hết các luống rau, anh em xuống tắm rồi lên ngồi bên Nhà Lô nghỉ ngơi đợi giờ tập họp trở về Trại giam. Bỗng thấy anh Đại tá Nguyễn văn Phúc, từ bến tắm hớt hơ hớt hải chạy lên, tay khua quanh mặt đuổi những con ong, đang đua nhau nhào vào đốt, y như các phản lực cơ nước chim chích tấn công người khổng lồ.

Những người đứng chơi bên dọc đường anh Phúc chạy ngang, cũng bị ong bay sà sà quanh mặt, quanh đầu, quanh người, kêu vo vo như đùa rỡn làm cho nhột nhạt sợ hãi. Người nào gan dạ, đứng im không nhúc nhích không bị đốt. Người nào chịu đựng không nổi sự đùa rỡn của ong, lấy tay khua đuổi tức thì bị chúng đổi giọng kêu, gọi nhau nhào tới đốt túi bụi ngay.

Hầu như mọi người ai cũng bị đốt chạy tán loạn. Tôi và một số anh đứng ở bến tắm phía Nam, cách bến phía Tây cả 500 mét, cũng bị ong bay tới quấy nhiễu đốt cả chục mũi lên mặt, lên đầu. Có người chạy vào Nhà Lô, đứng phía sau bếp đun nước đang có khói, ong không dám tới gần. Nhưng rời khỏi khu bếp, lại bị ong bay quấn chung quanh ngay. Có người đang tắm ở bến, bị ong sán đến gần phải lặn xuống nước lỉnh ra chỗ khác. Nhưng ong vẫn bay rà theo trên mặt nước, đợi khi nhô đầu lên là sà vào chích liền.

Đội bạn đang gặt lúa gần bên Đội chúng tôi, cũng bị ong nhào tới chích tán loạn. Anh bạn Đại tá Võ hữu Bá thuộc Đội chúng tôi, bị một con ong chui vào trong lỗ tai, làm mọi người quýnh quáng chẳng biết làm sao. Thật kinh hoàng! Quản giáo phải quyết định cho Đội tập họp về ngay, để anh Bá vào Bệnh xá cho người ta lấy kẹp gắp con ong ra. Suốt dọc đường đi về, vẫn có mấy con lẽo đẽo bay theo chúng tôi đến tận Trại giam, cách xa “hiện trường lao động” cả 3 cây số. Có lẽ chúng bay theo tiếng kêu cứu, của con ong mắc kẹt trong lỗ tai anh Bá, để tìm cách cứu đồng chủng.

Người nào cũng bị tối thiểu từ năm bẩy mũi trở lên, chẳng ai thoát nạn cả. Tôi chùm khăn lông kín mặt đầu và cổ, vẫn bị chích cả thẩy chục mũi ở trán, hai bên tai và phía sau ót. Rất may, không phải loại ong độc, những chỗ bị chích trên mặt trên đầu, chỉ xưng đỏ tấy đau nhức nhối, không làm độc đến nỗi bị nóng sốt. Phải dùng 2 ngón tay, bóp nặn chiếc kim ong chích đứt lại trong da bật ra, thoa chút dầu gió lên, một lúc sau mới bớt đau nhức.

Sáng hôm sau, trên đường ra hiện trường lao động, mọi người bàn tán không biết phải làm sao giải quyết vụ bầy ong. Nếu không, lại bị chúng đuổi đốt sẽ chẳng làm được gì. May thay, lúc đến gần Nhà Lô của Đội, mọi người cùng thở phào nhẹ nhõm, bầy ong bu trên cây đã biến mất. Chúng đã cuốn gói ra đi, không còn thấy bóng dáng một con nào.










Sau vụ bị trộm rau ban đêm chừng nửa tháng, Đội chúng tôi được di đô về gần Đội Nuôi Heo, sát bờ sông phía Bắc, cũng tiếp tục trồng rau. Khu vực này chỉ cách khu giam chúng tôi có khoảng 1 cây số. Cả Đội phải xúm vào phát quang, dải đất bên đường dọc theo bờ sông, phân thành khu có đường nhỏ đi chung quanh. Xong xuôi bắt đầu vào trồng tỉa. Mỗi người được giao trách nhiệm lo toan chăm sóc 5 luống, dài 25 mét, rộng 1 mét. Phải tự cuốc đất, lên luống, xẻ rãnh reo hạt, tưới nước ngày 2 đợt, làm cỏ, bón xới, chăm sóc cho tới ngày “thu hoạch”.

Thời gian trồng mỗi đợt rau, tính từ khi reo cho tới lúc “thâu hoạch” ước chừng 4 tuần lễ. Sau khi “thâu hoạch” xong, mỗi người lại phải cuốc lật đất, lên luống... tiếp tục reo trồng đợt khác. Đặc biệt chỉ có “công đoạn” reo hạt, được anh Sáu Đội phó tiếp tay từng người, theo chương trình anh ấy quy hoạch trước.










Khu đất trồng rau dài dọc bên sông, chúng tôi phải dọn 2 bến lên xuống, để gánh nước tưới cho tiện, đỡ mất thì giờ di chuyển xa. Triền bờ sông thẳng đứng, cao hơn mặt nước 2 mét, do đó phải thực hiện đường lên xuống, khúc khuỷu theo hình chữ chi, với các nấc thang rộng 60 phân, cao 30 phân. Các bậc đất phải tu sửa luôn, vì nước trong thùng gánh từ sông lên, sóng sánh tràn ướt liên tục phá hư. Mùa mưa mới thật vất vả trần ai, lên xuống gánh nước lúc nào cũng bị trơn trợt khó khăn vô cùng.

Mỗi luống phải tưới ngày 2 lần sáng và chiều. Khi rau còn nhỏ, tưới 2 gánh nước một lần cho mỗi luống. Bắt đầu từ tuần lễ thứ 3 trở đi, rau tăng trưởng mạnh phải tưới nhiều gấp đôi. Do đó, việc gánh nước tưới rau được coi là vất vả nhất hàng ngày.










Mỗi đợt rau chỉ tưới một lần phân, do Khâu Phân đi gánh từ hồ chứa bên Đội Nuôi Heo kế cận, về tưới cho từng luống. Khâu Phân gồm anh Dương hiếu Nghĩa và 2 bạn khác phụ trách. Ngày nào đến lượt rau được tưới phân, người phụ trách luống phải vất vả hơn bình thường. Phân vừa tưới xong, phải lập tức gánh nước tưới rửa liền. Nếu không, lá và cây rau bị phân bám làm cháy hư luôn. Lượng nước tưới cũng phải nhiều gấp rưỡi bình thường.







Ngày “thâu hoạch”, cả Đội tập chung “hợp đồng” nhổ hoặc cắt rau, cột thành bó 5 kí lô. Rồi tùy theo khổ người và sức khoẻ tương đương, anh em tự động “bắt bồ” thành từng cặp khiêng rau về Nhà Bếp cân nộp. Trung bình 2 người bao giờ cũng phải khiêng, một lượng rau từ 100 đến 120 kí lô một chuyến. Mỗi ngày chỉ “thâu hoạch” từ 5 đến 7 luống, theo thứ tự reo hạt trước sau. “Thâu hoạch” liên tục hàng ngày cho tới hết cả khu, rồi bắt đầu phá đất làm luống lại, reo trồng đợt khác.







Anh Trung tá Sáu Đội phó và Tôi, cao xấp xỉ ngang nhau nên xáp thành một cặp. Anh ấy mạnh hơn Tôi, nên trong lúc khiêng, bao giờ cũng cho Tôi đi phía trước. Kiện rau khiêng, lúc nào cũng để gần phía đầu đòn của anh ấy, cho sức nặng đè trên vai Tôi giảm bớt. Đối với Tôi, hình như anh Sáu có một cảm tình đặc biệt nào đó, nên trong công tác tưới các luống rau hàng ngày, anh ấy thường xuyên tự động phụ giúp Tôi, nhất là trong giai đoạn rau phát triển mạnh cần nhiều nước. Có lẽ vì anh ấy thấy Tôi yếu, mà vẫn im lặng cáng đáng công việc bằng như mọi người, không bao giờ mở miệng than van nhờ vả gì ai. Thật là một người vô cùng tốt bụng, suốt đời Tôi không bao giờ quên.

Ngày tháng cứ tuần tự trôi đi. Đội chúng tôi nay là Đội Rau chuyên nghiệp, không còn cái cảnh tăng phái nơi này nơi khác nữa. Được ổn định tại chỗ, anh em chẳng ai bảo ai, mỗi người tự động dọn một mẩu đất nhỏ, bên bến lên xuống sông trồng ít rau thơm, rau răm, mồng tơi, đậu ván, ớt, bạc hà... để “cải thiện” riêng.







Một hôm đi lao động chiều về, tự nhiên Tôi thấy người ớn lạnh, đau sau hông. Tôi vào nhà vệ sinh đi tiểu ra máu, và cảm thấy hơi choáng váng. Người hâm hấp nóng, từ trong bụng một cơn rét run bộc phát ngày một mạnh hơn không sao kềm nổi. Phải lên xạp ngủ nằm đắp mấy tầng chăn, vẫn lạnh run bắn người lên. Sau cơn lạnh là cơn nóng hừng hực, đầu nhức như búa bổ.

Tôi có bệnh sạn thận từ năm 1965, nghi có hột sạn trong thận chui vào ống dẫn nước tiểu, làm đau đớn hành như vậy. Cần phải lên Bệnh xá để được chẩn bệnh, đưa đi nhà thương cấp cứu nếu cần. Tôi báo cáo anh Đội trưởng nhờ gọi anh Thi Đua của Khu, mở cổng cho Tôi lên Bệnh xá xin cấp cứu. Anh Sáu Đội phó dìu Tôi đi lên Bệnh xá, và đứng đợi để biết rõ kết quả, trước khi trở về khu giam.

Nằm trên bàn khám bệnh chờ Cán bộ Y tế vào, thân nhiệt của Tôi mỗi phút mỗi tăng lên tới hơn 40 độ bách phân. Người nóng hừng hực, mắt môi đỏ au, cổ khô như rang, mệt mỏi bải hoải nhưng vẫn tỉnh. Mắt mở bị ánh sáng làm nhức buốt vào óc, chịu không nổi phải nhắm nghiền lại. Tai ù ù, loáng thoáng nghe mấy anh bạn Tù làm Y tá phụ cho Cán bộ Y tế của Trại, yêu cầu anh Sáu về Láng lấy chăn mùng đem lên cho Tôi nằm lại Bệnh xá theo dõi chữa trị. Nghe được tới đó, Tôi cảm thấy người lơ mơ và lịm đi không còn biết gì nữa.

Đến khuya, nghe có tiếng cạo xoạt xoạt phía dưới gầm giường. Tôi giật mình tỉnh giấc mở mắt nhìn quanh, thấy mình đang nằm trên chiếc giường gỗ nhỏ, kê bên cạnh tường nơi góc một căn phòng vắng hoe không có ai, ngoài ngọn đèn dầu vàng vọt leo lét cháy, treo nơi khung cửa cạnh đầu giường. Tôi cảm thấy nực nội khó chịu, người đẵm mồ hôi, khát nước khô cổ khô miệng, hơi thở ra nóng hừng hực. Bỏ chăn ra thì rét buốt vì khí lạnh của mái tôn toả xuống. Chống tay muốn ngồi lên đi tìm người xin nước uống. Nhưng đầu lảo đảo, cơ bắp chân tay thân mình bải hoải nhức mỏi, như vừa bị đánh một trận đòn nhừ tử, ngồi lên không được. Nằm vật nghiêng mình xuống giường, quay mặt vào tường buồn chán nản, tự nhiên thấy nghẹn ngào nơi cổ họng, nấc nấc bật thành tiếng khóc. Nước mắt trào ra dàn dụa không cầm lại được, y như đứa con nít bị đòn oan, nức nở khóc vì không nói ra được những điều uẩn ức trong lòng. Đưa tay quờ mép chăn lau nước mắt, đụng nhằm vật gì cứng lạnh, mở mắt nhìn mới biết là Gô nước của Tôi, và Cà mèn đựng cháo. Chắc là anh Nguyễn văn Sáu Đội phó đem lên cho Tôi hồi chiều tối, theo lời yêu cầu của mấy anh bạn Tù làm Y tá, khi được biết Cán bộ cho Tôi nằm lại Bệnh xá để theo dõi cấp cứu.

Như vậy là Tôi bị sốt rét Hàm Tân vật, chớ không phải căn bệnh sạn thận hành như Tôi tưởng. Tôi cố gắng ngồi dậy, uống nước và ăn cháo cho tỉnh người. Hồi tối đi lao động về, Tôi đã kịp ăn uống gì đâu. Miệng lạt đắng, hàm răng ê mỏi không muốn nhai, nhưng vẫn phải cố gắng ăn cho hết Ga men cháo. Lỡ có chết cũng được chết no, không phải làm ma đói, như các Cụ thường khuyên mỗi khi đến thăm các người bệnh nặng.

Hồi mới về đây, anh em cũ khuyên là cần uống thuốc ngừa sốt rét. Trong thời gian qua, tại Trại này đã có một số bạn Tù bị vong mạng vì bệnh sốt rét Rừng Lá. Tôi đã xin gia đình đi chuốc mua gửi cho 6 viên Chloroquine, uống ngừa cả tháng trước rồi chớ không đâu. Thế mà vẫn bị trùng sốt rét Hàm Tân vật như thường.

Ăn uống xong, người vẫn hâm hấp nóng, Tôi cố gắng ngủ lại nhưng không được. Hễ nhắm mắt là y như thấy chập chờn hiện ra, vầng ánh sáng vân vân lẫn lộn đủ mầu sắc cùng những hình mặt người đủ loại. Lúc thì hình Quan Vân Trường, Trương Phi trong chuyện Tam quốc Chí. Lúc thì hình Phật Quan Thế Âm Bồ Tát, hình Napoleon, hình Chúa Cứu Thế Jesus. Lúc thì hình những khuôn mặt Tôi chưa hề quen biết bao giờ... Có điều lạ, hình Cha Mẹ đã qua đời, hình Vợ Con, Họ hàng thân thích thì không thấy hiện ra.

Trong khi không ngủ được như vậy, Tôi bỗng dưng nhớ ra một sự kiện đã xẩy ra vào năm 1969. Hồi đó đang giữ trách vụ Chánh Sự vụ Sở Khai thác Nha Tổng Thanh tra Quân lực Việt Nam Cộng hoà, Tôi được Đại Tướng Cao văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH, chỉ định làm Trưởng một đoàn Thanh tra Hỗn hợp Việt Mỹ, tới Quân Y Viện của Bộ Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến ở Thị Nghè Saigon, và Bộ Chỉ huy Liên đoàn Thủy quân Lục chiến đóng tại Thủ Đức, điều tra về vụ tại sao một số rất lớn Quân Sĩ trong Liên đoàn bị sốt rét vật trong khi đang hành quân tại vùng Rừng Lá Hàm Tân. Mặc dù Tiếp vận đã cung cấp thuốc phòng ngừa sốt rét, cho Quân Sĩ xử dụng hàng ngày đầy đủ. Cuộc điều tra được thực hiện theo lời yêu cầu của Phái bộ Cố vấn Hoa Kỳ, vì họ nghi là quân sĩ không chịu uống thuốc phòng ngừa nên mới bị sốt rét tấn công, gây trở ngại cho kế hoạch hành quân đã dự trù.

Sau khi điều tra, thấy rằng mọi người có uống thuốc phòng ngừa như quy định, nhưng vẫn bị sốt. Kết quả thử nghiệm phối hợp của Quân Y Việt Mỹ, phát giác ra một loại vi trùng lạ Phansiparum, thuốc Chloroquine không công hiệu, nên mới xẩy ra cớ sự. Nhờ vậy huề cả làng, các cấp Chỉ huy Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam bình chân như vại, không ai bị khiển trách. Nhưng Cố vấn Huê Kỳ hơi ngượng, vì báo cáo không đúng sự thật.

Kẻng báo thức sáng của Trại giam, chấm dứt đêm dài cơ cực mà trùng sốt rét Hàm Tân hành hạ Tôi. Cả Bệnh xá chỉ có mình Tôi nằm điều trị. Sau khi Cán bộ Y tế vào chẩn bệnh, cho thuốc khoảng vài chục bạn Tù khai bệnh buổi sáng xong, mới khám đến Tôi. Không ai trong số người đến xin khám bệnh được coi là đủø nặng, để được vào nằm Bệnh xá điều trị. Tôi được ở lại điều trị thêm vài ngày nữa.







Đến khoảng 11 giờ, tự nhiên thấy anh Nguyễn văn Sáu Đội phó vào Bệnh xá thăm Tôi. Hôm nay là ngày Đội “thâu hoạch” rau nộp cho Nhà Bếp, nên được về sớm mới có dịp ghé thăm. Theo lệ thường, hôm nào “thâu hoạch” rau, vào khoảng 9 rưỡi 10 giờ mọi việc nhổ, bó, rửa rau phải hoàn tất. Đội phó và số anh em đến lượt quy định theo thứ tự, khiêng rau về cân nộp cho Nhà Bếp. Cân nộp rau xong, anh em được về Láng giam nghỉ ngơi thong thả. Những người khác tiếp tục ở lại “hiện trường”, làm việc cho đến hết giờ lao động sáng mới được về. Nhờ thế, anh Sáu ghé thăm Tôi để biết tình hình sức khoẻ ra sao. Thấy Tôi được ở lại Bệnh xá điều trị thêm vài ngày, anh ấy rất vui mừng, và hẹn mỗi buổi chiều sau giờ lao động về, sẽ xin Thi Đua trình Cán bộ cho phép đem đồ ăn “bồi dưỡng” thêm cho mau lại sức.







Ba ngày sau, Tôi được Cán bộ Y tế cho rời Bệnh xá trở về Đội. Nhưng hằng đêm vẫn lên cơn sốt, sáng đi khám bệnh thân nhiệt vẫn còn cao, nên được nghỉ tại Láng, chưa phải đi lao động. Hàng ngày đi khám bệnh lãnh thuốc, điều trị “ngoại trú” như vậy được 1 tuần lễ, hết sốt thân nhiệt trở lại bình thường, hôm sau phải theo Đội đi lao động.

Sau 10 ngày nghỉ bệnh, tiếp tục theo Đội đi lao động, cảm thấy sức khoẻ suy nhược nhiều, trong buổi sinh hoạt Đội vào buổi tối, Tôi mở lời xin giảm “chỉ tiêu lao động” của mình. Tôi cũng biết, anh Đội trưởng sẽ bị đặt vào hoàn cảnh khó xửù, nhưng vẫn phải nói, để phòng ngừa trường hợp các luống rau của Tôi bị “năng xuất thấp”, không bị “phê bình xây dựng”. Nhất là Quản giáo Đội không thể viện cớ đó, tìm biện pháp kỷ luật trả thù Tôi. Sở dĩ Tôi phải làm như vậy, vì biết rằng trong khi Đội sinh hoạt tối trong phòng giam, bao giờ Quản giáo Đội cũng đứng bên ngoài nghe và theo dõi.

Anh em ai cũng “nhất trí”ù yêu cầu của Tôi là chính đáng, nhưng không ai đưa đề nghị nào để giải quyết. Anh Đội trưởng vướng vào thế kẹt, nếu quyết định rút bớt số luống rau Tôi đang phụ trách, biết trao lại cho ai. Không khí im lặng nặng nề đè trên buổi sinh hoạt. Quản giáo đứng ngoài cũng không lên tiếng. Anh Sáu Đội phó khẳng khái phát biểu ý kiến, “tự nguyện” phụ giúp Tôi tưới các luống rau hàng ngày. Nhờ thế, đến kỳ “thâu hoạch” các luống rau của Tôi vẫn có “năng xuất cao”, không thua gì các bạn khác. Quản giáo Đội không kiếm được lý do nào, để có thái độ khắt khe trả thù Tôi.

Một tuần lễ sau khi đi lao động trở lại, Tôi được gia đình tới “thăm nuôi”. Vợ của Tôi báo cho biết, người con gái lớn đã vượt biên trót lọt, hiện đang ở bên Phi Luật Tân chờ hoàn tất thủ tục sang Hoa Kỳ định cư, với sự bảo trợ của người con trai lớn đã ở Hoa Kỳ từ năm 1971. Tôi mừng xúc động, nước mắt trào ra không kềm nổi. Người con rể vượt biên không thoát, bị bắt giam 2 năm tại Trại Z30A mới được tha, đi theo thăm, đưa khăn tay cho Tôi chùi nước mắt, và nhắc nên cố rằn cơn xúc động giữ bình tĩnh, vì “các anh ba” này không thích như vậy, họ thấy được sẽ có điều không hay.

Lần tiếp tế này của Tôi, được coi là khá giả nhất từ xưa tới nay. “Thăm nuôi” vào, nhớ tới lòng tốt của anh Nguyễn văn Sáu Đội phó, Tôi mời anh ấy dùng cơm với Tôi, và đề nghị từ nay cho đến khi nào còn được ở chung một Đội, 2 anh em sẽ ăn chung với nhau hàng ngày. Anh ấy đồng ý ngay không suy nghĩ do dự gì cả. Hoàn cảnh tiếp tế của 2 gia đình chúng tôi, không chênh lệch nhau bao nhiêu, nên không e ngại có thể xẩy ra chuyện phân bì so sánh thiệt hơn, làm phiền lòng nhau sau này. Cũng kể từ đó, chúng tôi thu xếp để gia đình thay phiên nhau đi thăm, hễ gia đình anh Sáu đi thăm nuôi thì gia đình Tôi nhờ đem quà giùm, và ngược lại. Nhờ thế, 6 tháng gia đình mới phải đi thăm một lần, để có thì giờ ở nhà lo tần tảo kiếm ăn.

Chúng tôi trở thành bạn tri kỷ, bắt đầu từ đấy cho đến khi được tha ra khỏi Trại Z30D, vào tháng 2 năm 1988. Cũng nhờ vậy, Tôi đã giúp anh Sáu Đội phó cải tiến cách cư xử, để không làm mất cảm tình của anh em trong Đội. Anh ấy là người rất tốt bụng, thẳng thắn bộc trực, thường “nói toạc móng heo” ý nghĩ của mình, không khéo lựa lời tế nhị rào trước đón sau, khiến cho vài ba anh khó tính có thành kiến không vui lòng cho lắm.

Những năm đầu mới tới định cư tỵ nạn Cộng sản tại Hoa Kỳ, biết được gia đình anh Sáu cũng định cư tại vùng San Diego, Tôi có đưa gia đình tới thăm gia đình anh ấy. Gặp nhau mừng rỡ, ôn lại những kỷ niệm vui buồn chia sẻ ngọt bùi, trong các Trại Z30C và Z30D suốt 6 năm trời ròng rã bên nhau.


TÌNH CHIẾN HỮU TRONG CẢI TẠO.
Sa cơ lao khổ bên nhau,
Nắng mưa chia sẻ nhịp cầu đắng cay.
Một mai thoát đại hạn này,
Gặp nhau nâng chén mừng ngày Tự do.
Đấu tranh dựng lại cơ đồ,
Cho Dân tộc Việt ấm no thịnh cường.
Công bằng trải khắp quê hương,
Nhân quyền, Dân chủ, Tình thương hài hoà.
Trẻ già mọi giới hoan ca,
Chung lưng bảo vệ Sơn Hà Việt Nam.
Đập tan Cộng đảng gian tham,
Trừ loài vong bản từng làm hại Dân.
Diệt phường ác qủy vô thần,
Phục hưng Luân lý, Đạo Nhân Lạc Hồng.


Mùa Hè 1983, K1 Trại Z30C, Hàm Tân, Thuận Hải.


HOME


Chương 32
BẢN CHẤT TÀN BẠO THÂM ĐỘC CỦA VIỆT CỘNG VÔ ĐỊCH THẾ GIỚI

(Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam)

Nguyễn Huy Hùng




Vào dịp Tết Giáp Tý-1984, có một đợt tha ồ ạt rất nhiều người. Một số Trung tá thuộc Đội 6 chúng tôi, cũng may mắn có tên. Riêng anh em Đại tá, chẳng ai được dính vào danh sách. Có thể tại chúng tôi thuộc gốc Chiến tranh Chính trị, An ninh Quân đội, Tỉnh trưởng, Xây dựng nông thôn, bị Đảng Cộng sản Việt Nam quy vào thành phần có nhiều “nợ máu” với Nhân Dân, chưa được nhòm ngó tới. Nhưng cũng có thể Cấp bậc Đại tá và Tướng, đang là những con bài giá trị cần giữ lại, để nèo co thêm giá cả với Hoa Kỳ.

Sau đợt tha, nhân số lao động tại K1 và K2 Trại Hàm Tân Z30C còn lại rất ít, không đủ để tiếp tục khai thác toàn bộ các khu đất hiện hữu. Kế hoạch dồn chung tất cả Tù K2 về K1 được“khẩn trương” thực hiện. Phân trại K2 ở bên kia sông cách K1 chừng 3 cây số bị đóng cửa. Hai anh bạn Đại tá hồi ở Thanh Phong về đây cùng một lượt, bị tách ra đưa sang K2, nay lại được “biên chế” bổ xung vào Đội chúng tôi. “Biên chế” xong, Đội phải chuyển phòng giam, sang nửa bên phía Bắc của cùng dẫy nhà đang ở. Phòng ăn mới, nằm sát ngay bên khu nấu nướng cạnh hàng rào, rất tiện lợi. Nấu nướng xong, không phải bê nồi niêu đi xa cả trăm mét, như hồi còn ở bên nửa phía Nam của dẫy nhà. 
Trong những ngày mưa, cứ việc ngồi trong phòng ăn, chạy ra chạy vào canh chừng bếp lửa, không phải đội áo mưa ngồi liên tục giữa trời, chịu trận cho đến khi nấu xong. Đứng trong phòng ăn, nhìn ra khu bếp giữa trời, thấy cảnh anh em nấu nướng trong mưa thật là vui mắt. Song song bên 2 dẫy Ông Lò đâu lưng vào nhau nằm dọc bờ rào, cuồn cuộn toả khói dưới những mái ni lông đủ mầu sắc thấp lụp xụp. Có 2 hàng các anh đầu bếp, chùm áo mưa từ đầu xuống chân, nước mắt nước mũi chảy dàn dụa, chổng khu hì hà hì hục thổi, quạt lửa lúc cháy lúc tắt, cố gắng làm cho các món nấu nướng chín mau, để sớm được thoát nạn. Nhưng mưa gió nào có tha, cứ liên tục lúc mau lúc thưa, dồn tới từng cơn cho đến khi nấu xong mới dứt. Thần Mưa Thần Gió thật cắc cớ oái oăm, khéo hành hạ người trần tục. Thảo nào, ngày xưa các Cụ thường ví : “hay ăn thì lăn vào bếp, chẳng ai khen cái nết hay làm” là thế. Hồi còn nhỏ đi học, được Thầy Cô giảng dạy, nhưng chưa đủ “trình độ” hiểu được chính xác nghĩa đen nghĩa bóng của câu ví. Bây giờ, kinh nghiệm thực tiễn giúp cho thấu hiểu thật cặn kẽ, chẳng bao giờ quên được.

Tù thuộc 2 Phân trại dồn chung cả vào K1, thế mà quang cảnh trại vẫn thấy vắng vẻ lạ thường. Khu Nhà Tôn chỉ còn vài dẫy có người. Khu Nhà Ngói, dẫy 1 sát trước dẫy của chúng tôi cũng bỏ trống. Nhân số Đội chúng tôi hụt đi nhiều. Khu vực canh tác phải thâu hẹp, bỏ những luống rau gần bên đường lớn, xa bến gánh nước, tốn nhiều thời gian di chuyển vất vả. Tôi được đổi công tác, không phụ trách các luống rau riêng nữa. Làm phụ tá cho anh Sáu Đội phó, xẻ rãnh reo hạt các luống, sau khi anh em phụ trách đã cuốc tơi và lên luống xong. Đến khi rau bắt đầu mọc và trổ 2 lá lớn, tỉa bỏ những cây nhỏ yếu ớt, chỉ để lại trong mỗi rãnh chừng 7, 8 cây là tối đa. Sau đó cuốc vun gốc cho những cây còn lại, đứng thẳng vững vàng để tiếp tục phát triển, và giữ cho nước đọng lại trong rãnh giữa các hàng rau, thay vì tràn ra bên ngoài luống trong khi tưới. Vào những đợt tỉa như vậy, anh em cả Đội tha hồ chia nhau rau non để ăn ghém, hoặc nấu canh với tôm khô và mì ăn liền do gia đình tiếp tế, cũng được một món ngon khoái khẩu.

Trong một buổi giải lao giữa tầm lao động sáng, anh Sáu Đội phó và Tôi đang ngồi ăn lót dạ, Quản giáo Đội đến chỉ thị cho anh Sáu, thu xếp đi lãnh thuốc trừ sâu vào lúc xuất Trại lao động buổi chiều. Tôi lợi dụng cơ hội hỏi một câu, y như Tôi đã hỏi Quản giáo tại K2 Trại Thanh Phong hồi đầu năm 1982, trước khi được chuyển về Trại Z30C này : “-Thưa Cán bộ, anh em chúng tôi sẽ lần lần được tha hết. Trại không còn Cải tạo viên, chắc là phải đóng cửa trao đất lại cho Hợp Tác Xã địa phương. Cán bộ có chuẩn bị xin đi công tác tại đâu chưa?”

Ông ấy trả lời ngay không nghĩ ngợi, giống y như Quản giáo cũ của Tôi tại Thanh Phong đã trả lời : “-Các anh đừng lo, Nhà Nước đã tiên liệu hết cả rồi. Chỉ sợ không đủ Nhà Giam, chớ không sợ thiếu Tù. Các anh về rồi, đâu có thiếu người vào trám chỗ. Tội phạm ngoài xã hội đầy rẫy, vì chưa đến lúc cần thì chưa bắt đấy thôi.”

Thảo nào, hồi còn ở K5 Trại Tân Lập Vĩnh Phú, chúng tôi biết một trường hợp. Có anh chàng đứng tuổi đánh xe trâu cho Trại, nguyên là Tù Hình Sự được tha, nhưng tình nguyện ở lại trong Tù, phục vụ theo tiêu chuẩn Tự giác, chớ không muốn trở về địa phương quê quán cũ của mình. Theo lời anh ta kể :

“-Thuở thiếu niên anh ta bị bắt cải tạo trong trại thiếu nhi, vì tội đồng loã ăn cắp tài sản Xã hội Chủ nghĩa, tồn trữ trong kho của Hợp Tác Xã. Đến lúc đủ tuổi trưởng thành, bị chuyển qua trại người lớn. Mãn hạn tập trung được tha về địa phương, tiếp tục làm ăn sinh sống như mọi người. Anh ta đã cố gắng tuân theo luật lệ Nhà Nước và Địa phương, không làm điều sai trái nữa, để được coi là người lao động tốt trong Xã hội.

Bỗng một hôm, Hợp Tác Xã có vụ bị mất trộm rất trầm trọng. Do chính Chủ nhiệm Hợp Tác Xã liên kết với nhân viên thực hiện, ai cũng biết. Công An Huyện về điều tra, bắt một số người nghi có liên hệ. Anh ta không dính dáng gì vào vụ việc, cũng bị bắt đưa đi lãnh án tập trung cải tạo. Mấy năm sau, nhờ ân huệ khoan hồng nhân đạo của Tổng Bí Thư Đảng mới đắc cử, được tha cho về nguyên quán lập lại cuộc đời.

Chẳng được bao lâu, tự nhiên lại thấy có lệnh gọi tới Công An “làm việc”, và bị giữ luôn đưa đi tập trung cải tạo. Chẳng ai hỏi cung hay buộc khai báo gì cả. Không phải một hai lần, mà cứ dài dài như vậy suốt cả thời thanh xuân, nên chẳng lập được gia đình. Bà con thân thuộc cũng lánh xa không dám “quan hệ”.

Vì thế lần được tha sau cùng, nhân dịp Đảng và Nhà Nước cùng Nhân Dân ăn mừng 2 năm ngày Thống Nhất đất nước, anh ta xin tình nguyện ở lại trong tù luôn.”

Anh ta ở trong nhà giam chung với các Tù Hình Sự, chỉ khác là được ra vào trại giam bất cứ lúc nào y như các “Tù Tự Giác” vậy. Phần ăn hàng ngày, được Bếp Cán bộ cho, nên cũng no đủ như một lao công Hợp Tác Xã. Hàng ngày đi chạy xe trâu thong thả, không còn lo bị bắt tới bắt lui, và bị đánh đập mỗi lần giải đi giam như suốt thời niên thiếu nữa.

Hoàn cảnh của anh em Tù Chính trị miền Nam, cũng chẳng hơn gì. Theo tin tức “thăm nuôi” cho biết :

“ Ngay từ khi được tha về nhà, anh em cũng bị cơ quan Công An địa phương nơi cư ngụ quản chế, theo dõi rất kỹ trong thời gian nhiều năm, trước khi cho làm thủ tục hành chánh để trở thành công dân có giấy tờ căn cước hợp lệ.

Trong suốt thời gian bị quản chế, anh em phải đến trình diện Công An Phường theo định kỳ hàng tuần hàng tháng, để nộp sổ ghi hoạt động chi tiết hàng ngày của mình. Nếu sổ báo cáo ghi không đầy đủ chi tiết rõ ràng cặn kẽ, còn bị hạch hỏi buộc khai bổ túc, và sẽ phải nhận lãnh đủ thứ chuyện khó khăn trong cuộc sống hàng ngày.

Ngoài ra vào những ngày Lễ lớn, thường có Phái đoàn các nước Xã hội Chủ nghĩa anh em, và đông đảo phóng viên ngoại quốc đến thăm đất nước việt Nam. Những cựu Tù Chính trị đang trong thời gian bị quản chế, bị gọi tới tập trung tại Phường để học tập, hoặc làm những công tác Xã hội Chủ nghĩa, cho đến khi lễ lạc xong mới được trở về nhà.”

Như vậy, nói rằng : “Từ sau 30-4-1975, cả nước Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu, trở thành một Nhà Tù Lớn, do Đảng Cộng sản và Nhà Nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quản lý”, quả thật không sai một chút nào. Bên trong cái Nhà Tù Lớn đó, còn có cơ man nào là những Nhà Tù Nhỏ (Trại tập trung Cải tạo) do Chính quyền Địa phương và Chính phủ Trung ương chia nhau quản lý. Đặc biệt hơn nữa, bên trong mỗi Nhà Tù Nhỏ lại có một Nhà Tù Tý Hon (Nhà Kỷ Luật).

Ôi! Thật là khốn nạn thay! Sau bao năm phung phí máu xương của các thế hệ con cháu Lạc Hồng, một cách vô ích trong Hậu Bán Thế Kỷ 20, Dân tộc Việt Nam, đang phải ăn cái “bánh vẽ Độc lập Tự do Hạnh phúc”, của Đảng Cộng sản Việt Nam lừa bịp đem lại.

Một buổi chiều, vào lúc xẩm tối, sau Tết Nguyên đán Giáp Tý-1984, anh em ăn uống xong, đang chờ giờ tập họp vào phòng giam, thấy có xe tải chở một lô Tù Hình Sự cả Nam lẫn Nữ tới. Họ bị đưa vào giam trong dẫy nhà phía trước dẫy của chúng tôi, đang bỏ trống. Trong đám nữ ăn mặc quần áo bà ba mầu sắc đủ loại, nổi bật lên 2 người thật đặc biệt. Một còn rất trẻ, nhỏ nhắn cỡ 18 đôi mươi. Một xồn xồn cỡ trên dưới ba chục, tóc uốn, môi mặt thoa son phết phấn, mang kính râm, ăn mặc quần áo kiểu Âu có vẻ sang trọng đài các, tay sách chiếc ví đen vuông to. Thoạt thấy, anh em tưởng Cán bộ Nữ đi theo áp giải Tù. Nhưng khi thấy họ vào phòng giam ở lại cùng những người khác, mới vỡ lẽ rằng không phải. Vài ngày sau, mấy người Nữ được đưa đi nơi khác, chỉ còn toàn Nam tiếp tục ở lại K1.

Sau này chúng tôi bị chuyển sang Trại Z30D, lại có dịp thấy 2 Tù Nữ xinh xắn nổi bật kia, phục vụ tại Câu Lạc Bộ. Theo nguồn tin từ Cán bộ tại Z30D cho biết : “Hai người nữ Tù Hình Sự này, là thân nhân của một Chủ nhiệm Hợp Tác Xã lớn trong Tỉnh Thuận Hải, bị liên can biển thủ lường gạt tiền của Xã hội Chủ nghĩa, nên bị lãnh án Tập trung Cải tạo.”

Thấy đem Tù Hình Sự tới Trại, chúng tôi cảm thấy buồn. Những phiền hà do bọn Tù Hình Sự gây ra cho chúng tôi, tại Trại Thanh Phong Như Xuân Thanh Hoá, vẫn còn rõ nét trong chí nhớ chưa phai nhoà. Nhưng rất may, vài tuần sau ngày bọn Tù Hình Sự tới, cả Đội chúng tôi gồm Đại tá và Trung tá còn lại chưa được tha vào dịp trước Tết, bị chuyển sang Trại Thủ Đức Z30D, cách Trại Z30C chừng vài chục phút chạy xe.

Lần di chuyển này được thực hiện giữa ban ngày, vào một buổi sáng trời nắng đẹp dịu dàng của mùa Xuân miền Nam. Đoàn xe đưa chúng tôi rời Khu Nhà Ngói, chạy dọc con đường lớn chính giữa Phân trại K1. Bên phải đường là Khu Nhà Tôn giam Tù, bên trái là Khu Hành chánh, nơi cư ngụ của các Cán bộ và Ban Chỉ huy trại. Lúc xe chạy ngang Khu Nhà Thăm Nuôi, điểm ranh giới sau cùng của Trại Hàm Tân Z30C, thấy vắng hoe chẳng có ai. Chắc tài xế các xe chuyên chở gia đình “thăm nuôi” đãõ được báo cho biết trước, nên hôm nay họ không nhận khách đến Z30C.

Ra khỏi Trại Z30C, xe chạy bon bon trên Quốc lộ Saigon-Phan Thiết được chừng đôi chục phút, rẽ trái vào con đường đất dài 5 cây số, bụi cát mịt mù, rồi đậu lại trước một cổng chào lớn, có cần gỗ sơn trắng chặn ngang đường. Sau mấy phút ngừng cho Cán bộ làm thủ tục, đoàn xe chui qua cổng tiếp tục chạy. Sát ngay hai bên đường, phiá sau cổng vài chục mét, có 2 căn nhà bằng gỗ mái lợp tôn. Nhà phía bên tay phải rộng rãi vuông vắn, có hàng hiên rộng bao chung quanh, trang trí trồng cây cảnh như một quán ăn uống khang trang đẹp mắt, với tấm bảng ghi 3 chữ Câu Lạc Bộ. Căn nhà đối diện xeo xéo bên tay trái, trông có vẻ dùng để ở, được chia thành 3, 4 phòng liền nhau, với một hàng hiên dài phía trước. Sau này mới biết đó là Khu Nhà Thăm Nuôi của K1 Trại Z30D.

Qua cổng, đoàn xe chạy về hướng bờ sông. Dọc bên phải đường là Khu Hành chánh, Kho, và nơi cư ngụ của Cán bộ và gia đình. Phía bên trái đường, từ cổng vào có một khoảng đất trống dài 500 mét. Kế theo là Khu giam Tù, bao bọc bởi hàng tre gai tươi dầy đặc cỡ 2 mét. Hai bên rìa lũy tre, còn được tăng cường thêm 2 hàng rào kẽm gai, đan ô vuông cao 3 mét. Qua hết lũy tre bên hông khu giam dài 500 mét, có một tròi canh cao làm bằng gỗ mái tôn, dựng ngay chỗ góc vuông nối đầu 2 lũy tre. Đoàn xe rẽ trái, chạy tiếp trên con đường nhỏ hơn, dọc theo mặt tiền của Khu giam, và ngừng lại trước một cổng rộng, có 2 cánh cửa sắt cao luôn luôn đóng kín. Trụ cột bên trái cổng, là một điếm canh kiểm soát ra vào, xây theo lối lô cốt nóc bằng, có các bậc thang lên nóc để đặt súng chĩa vào bên trong khu giam. Bên phải cổng sát ngoài hàng rào, dựng một căn nhà gỗ 2 tầng, có lan can nhìn vào Khu giam. Các đoàn khách quan trọng không muốn vào bên trong, có thể lên đó vừa ngồi ăn uống vừa quan sát mọi hoạt động một cách an toàn.

Ngay sau cổng là một “sân tập kết” vuông rộng, có chỗ cho cả ngàn người xếp thành hàng ngũ, đứng ngồi thoải mái. Tiếp theo là một vườn cây cao bóng mát, rộng dài chẳng thua gì sân tập kết, chính giữa có đường đi thẳng tắp dẫn vào Hội Trường lớn. Khu sân tập kết, vườn hoa và hội trường là khoảng đất phân cách giữa 2 Khu giam Tù Nam và Tù Nữ.

Bên trái sân tập kết, từ cổng nhìn vào, là mấy căn nhà nhỏ dùng làm Bệnh xá, rồi đến những dẫy nhà giam tường gạch mái tôn, dành cho Tù Nam giới. Kiến trúc xây cất giống như các dẫy nhà giam trong Khu Nhà Ngói bên Trại Z30C, nhưng rộng dài hơn. Những khoảng đất chung quanh các dẫy nhà giam để trống đi thông luôn, không quây rào kẽm gai phân cách riêng từng dẫy một như bên Z30C. Mỗi dẫy cũng được chia thành 2 ngăn riêng biệt, mỗi ngăn dùng để giam 2 Đội khoảng 7, 8 chục Tù. Như vậy mỗi dẫy nhà ở Z30D, dài gấp 3 dẫy nhà trong Khu Nhà Ngói bên Z30C, có đủ chỗ giam tới 4 Đội thay vì 2.

Việc nấu nướng “cải thiện” riêng của Tù, được Trại “chiếu cố” đặc biệt hơn bên Z30C. Một dẫy nhà bếp lợp tôn dài 50 mét, được dựng trên khu đất trống giữa hàng rào và các dẫy nhà giam, để Tù tập trung vào đó đun nấu hàng ngày. Dọc theo hàng rào, dài 2 bên đầu nhà bếp “cải thiện”, còn có mấy dẫy cọc căng giây kẽm lớn, cho Tù phơi hong quần áo, chăn, mùng.

Bên phải sân tập kết, đối diện với khu giam Tù Nam, có Nhà Bếp của K1. Kế tiếp là những dẫy nhà giam Tù Nữ, cũng tường gạch mái tôn như bên khu Nam.

Ngay sau khi xuống xe, chúng tôi bị dẫn vào Khu Cách Ly, ở tuốt phía cuối khu Tù Nam, giam trong dẫy nhà nhỏ có hàng rào kẽm gai, xa cách hẳn với các dẫy khác. Cổng ra vào luôn luôn khoá trái bên ngoài. Nhờ vậy, thấy được phía sau Hội trường có một khu đất trống, chính giữa xây Nhà Kỷ Luật tường gạch mái tôn. Mấy tháng sau khi đến Trại Z30D, Tôi đã được cái vinh dự bị cùm một chân, trong căn Nhà Kỷ Luật này 1 tuần lễ. Vì tội chống lệnh “Ban” Nhu (Giám Thị, Bí thư Đảng ủy), trước đông đảo anh chị em Tù toàn Phân trại K1, đang tắm tại bến sông bên đập nước.

Chúng tôi bị giam trong Khu Cách Ly 2 ngày liền, chẳng được tiếp xúc với ai ngoài anh “Thi Đua”, đến gặp Đội trưởng chuyển lệnh của Ban Giám thị, làm thủ tục khai báo danh sách ngang, danh sách dọc. Hoàn tất việc khai báo, nhóm chúng tôi được đặt tên là Đội 23 Nông Nghiệp. Các anh Trung tá Cảnh sát Phan Trung Chánh và Trung tá Biệt Động Quân Nguyễn văn Sáu, từ Z30C sang Z30D một lượt với chúng tôi, vẫn được duy trì làm Ban Tự Quản Đội (tức là Đội trưởng và Đội phó, gạch nối giữa Cán bộ và Tù).

Đội được lệnh di chuyển đến ở chung với một Đội khác, trong nửa bên trái của dẫy nhà đầu tiên thuộc Khu Nam, tính từ cổng trại vào. Mỗi dẫy nhà đều có ghi số riêng để gọi, nhưng Tôi không nhớ. Bên kia khoảng sân rộng 50 mét, ngay phía trước dẫy nhà chúng tôi ở, có một hàng rào cây dâm bụt thưa và 3 căn nhà nhỏ dùng làm Bệnh xá của Trại. Bệnh nhân nặng thuộc tất cả các Phân trại, chưa cần di tản đi Bệnh viện Phan Thiết, đều nằm điều trị tại đây. Có 2 bạn Tù được dùng làm phụ tá cho Cán bộ Y tế, được cư ngụ thường trực tại Bệnh xá. Một làm Y tá, một phụ trách nấu thực phẩm hàng ngày, cho Tù bệnh ăn theo quy chế riêng, không lãnh tại Bếp chung của Trại như các Tù khác.

Bên cạnh đường đi phía đầu dẫy nhà chúng tôi ở, có một vòi nước máy công cộng, dựng chính giữa một nền xi măng tròn đường kính 4 mét. Hàng ngày, Tù đặt thùng xếp hàng lấy nước tích trữ, dùng riêng cho việc nấu nướng, vệ sinh, và tắm trong những ngày nghỉ lao động ở trong trại. Vòi nước này dùng chung cho cả Khu Tù Nam. Nên phải dành ưu tiên cho các bạn Tù Trực Nhà lấy trước. Khi nào họ đổ đầy hồ chứa dùng xối cầu tiểu trong các nhà giam xong, mới đến lượt anh em lấy dùng riêng. Việc giải quyết đại tiện trong phòng giam cả ngày lẫn đêm, vẫn dùng thùng chứa phân nổi. Mỗi ngày vào khoảng 9 giờ sáng có Tù đánh xe bò đến, Trực Nhà phải khênh ra cho họ đem đi, đổ vào hồ chứa ngoài hàng rào phía sau Khu giam, để Trại dùng nuôi cá và làm phân bón trồng rau gọi là Phân Bắc.

Ngày hôm sau, Đội chúng tôi bắt đầu tham gia lao động. Gặp đúng đợt K1 “ra quân thi đua sản xuất” mừng 30 tháng 4, ngày Thống nhất đất nước lần thứ 10. Toàn thể Tù Nam và Tù Nữ tập trung khai quang, trồng mía và khoai lang, dọc 2 bên đoạn đường dài 3 cây số, từ khu giam tù K1 vào đến ranh giới khu giam Tù K2. Con đường này chạy song song, cách dòng sông nhỏ chẩy ngang qua Trại chừng nửa cây số. Dọc bên phải đường ra tới gần bờ sông trồng mía, dọc bên trái trồng khoai lang. Cách cổng Khu giam Tù K1 một cây số, là “hiện trường lao động” của 2 Đội Tù Nữ. Một trồng rau, một nuôi heo. Khu vực này nằm phiá bên phải, xa đường chừng vài trăm mét ra đến ven sông.

“Chỉ tiêu lao động” và “Tiêu chuẩn ăn” hàng ngày, quy định bằng nhau cho Tù Nam, Tù Nữ, Tù già, Tù trẻ, thuộc các Đội Nông Nghiệp. Như vậy trong “xã hội cải tạo” Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, Già, Trẻ, Nam, Nữ được đối xử hoàn toàn bình đẳng. Đúng là “Công bằng Xã hội Chủ nghiã”.

Các Tù Nữ lao động rất khoẻ. Trong lúc lao động họ nói chuyện tía lia đủ thứ. Có lúc cãi cọ đánh lộn với nhau, chẳng khác nào các tay chị em bán cua bán cá, giành nhau khách mua hàng giữa chợ. Thấy cảnh đó, chúng tôi trạnh lòng thương các Sĩ quan Nữ Quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng hoà, đang bị nhốt chung với các Nữ Tù Hình Sự gốc “gái ăn sương”, trộm cắp, lừa đảo ngoài xã hội. Hàng ngày phải chịu đựng bao cảnh trái tai gai mắt, ngoài “hiện trường lao động” cũng như trong nhà giam.

Hồi còn ở K5 Trại Tân Lập ngoài Bắc, chúng tôi bị giam khác phòng, nhưng chung một dẫy nhà với các Tù Hình Sự, còn gặp biết bao phiền toái. Nữa là ở đây, các Nữ chiến hữu của chúng ta, phải sống chung với họ trong cùng Đội, cùng phòng giam, cùng chia sẻ mọi sinh hoạt hàng ngày, thì chịu làm sao nổi. Thật tội nghiệp !

Sau khi biến khu đất hoang, giữa K1 và K2 thành một cánh đồng đầy các rãnh mía luống khoai xong, các Đội Nông Nghiệp được điều động ra phát quang, trồng bắp 2 bên con đường dẫn vào Trại. Khúc đường dài khoảng 2 cây số, từ cổng Trại ra tới chỗ ngã 3, nơi có đường dẫn thẳng vào K2. Gần ngã ba, có một căn nhà tranh 3 gian thoáng mát rộng rãi. Đây là nơi các xe Lô chở thân nhân tới “đăng ký” xin “thăm nuôi” Tù hàng ngày. Làm thủ tục xong, ai đi thăm Tù ở K nào, sẽ có xe của K đó chở tới Khu Nhà Thăm Nuôi riêng của K. Lúc thăm xong, thân nhân phải đi bộ trở ra căn nhà này, tập trung ngồi đợi xe Lô quay lại đón về Thành phố.

Từ cổng Trại đi ra, trước khi tới căn Nhà dùng làm Văn phòng “đăng ký xin thăm nuôi”, cách xa đường chừng vài trăm mét, thấy một khu có nhiều nấm đất hình chữ nhật nổi lên. Anh em cũ cho biết đó là nghiã địa, nơi trôn vùi những nắm xương tàn, của các Tù đã bỏ mạng tại Trại Z30D từ khi thành lập đến nay.

Trong những đợt “Thi đua toàn Phân trại”, người ta luôn luôn cố tình chia khu vực lao động, cho các Đội Nam và Đội Nữ xen kẽ bên nhau. Đây là cao kiến thâm hiểm của “Ban” Nhu (con người rất ư là Xã hội Chủ nghiã), để kích thích máu tự ái xĩ diện rởm giữa 2 giới Nam Nữ trẻ, ganh đua vượt “chỉ tiêu lao động hàng ngày” do Trại quy định. Ngoài ra, đây còn là cái bẫy vô hình gài bắt, những Tù Nam Tù Nữ lãng mạn, lợi dụng cơ hội lén lút quan hệ trái Nội quy trại. “Ban” sẽ dựa vào đó tung những “chưởng cùm chân trong Nhà Kỷ Luật”. Đây là biện pháp dùng để thị uy rằn mặt cho mọi người sợ, im lặng ngoan ngoãn tuân hành tuyệt đối lệnh của Ban Giám Thị, mà không mang tiếng độc tài tàn bạo.

Trong những đợt “thi đua” cả trại, “Ban” Nhu luôn luôn xuất hiện bất thần tại “hiện trường lao động”, xông xáo băng ruộng, ghé Đội này Đội kia hỏi chuyện Tù. Chẳng may người nào quên không ngả nón, lễ phép chào lớn tiếng khi thấy “Ban”, hoặc trong khi nói chuyện không “Kính thưa Ban” một cách trịnh trọng, thì trước sau gì rồi cũng được dịp nếm mùi kỷ luật.

Một hôm, trong giờ giải lao giữa buổi lao động sáng, thấy 1 Tù Nữ lén đến gần anh Tù Đội kế bên đang ngồi nghỉ, để thủ thỉ nhắn nhủ gì đó. Đến buổi lao động chiều, lại thấy 2 người tìm cách đến gần nhau trong lúc lao động. Chàng móc túi quần giúi cho nàng một bọc nho nhỏ, rồi 2 người lảng ra chỗ khác. Nhưng “vách có tai, rừng có mắt”, không đầy 30 phút sau, Cán bộ An ninh đến bắt dẫn cô nàng về nhốt vào Nhà Kỷ Luật. Đồng thời Ban Nhu và mấy Cán bộ khác, dáng vẻ hùng hổ quan trọng như đi đuổi giặc cướp, xầm xầm đến khu lao động của Đội Nam, tìm bắt cái anh chàng đa tình dám “quan hệ” với Tù Nữ, giữa ban ngày tại “hiện trường lao động”. Sáng hôm sau, trước khi Cán bộ Trực Trại gọi các Đội lần lượt xuất Trại lao động, toàn thể trại viên được nghe đọc lệnh phạt đôi Tù Nam Nữ kia, mỗi người 7 ngày cùm một chân trong Nhà Kỷ Luật.

Hoàn tất khu trồng bắp trước cổng Trại xong, toàn thể các Đội lại được tập trung làm tiếp qua đám đất phía sau Khu giam Tù K1. Khu vực này rộng dài cỡ 4 cây số vuông, còn lưu nhiều dấu tích của rừng cây Buông bị chặt quang, để xây dựng Trại Thủ Đức Z30D. Nhiều gốc Buông già bị đào, đốt chưa cháy hết, nằm ngổn ngang xen giữa những cây non đang vươn lên, từ những hột già vương vãi, trôn vùi dưới lòng đất bấy lâu nay.

Cây Buông là loại trông giống như Dừa, có lá mọc thẳng từ thân cây ra, xoè tròn như những chiếc quạt lớn chung quanh thân y như lá Gồi. Lá non còn búp chưa xoè ở ngọn cây, có mầu vàng nhạt. Thường được người ta chặt đem về banh ra phơi khô, tước thành những dải mỏng dài như lá Gồi để làm nón, đan mũ hoặc các loại giỏ, bị, hay vật trang trí trong nhà. Cuống lá già được lấy để chẻ, truốt, cà bóng thành những chiếc đũa vân vân nâu rất đẹp, chẳng thua gì đũa làm bằng gỗ mun, bền không bị vênh cong theo thời tiết ẩm khô như đũa tre. Hồi còn ở bên K1 Trại Hàm Tân Z30C, ngày nào Đội chúng tôi cũng phải trích ra 2 người, ngồi trốn trong các bụi mát bên bờ sông, truốt nhiều chục đôi đũa Buông cho Quản giáo.

Gần bên hàng rào tre và kẽm gai phía sau Khu giam Tù K1, có một căn nhà 3 gian nền cao bằng đất nện. Vách khung tre, chát rơm trộn sét và bùn, mái tranh. Đàng trước có sân đất nện cứng bằng phẳng. Sát bên đầu hồi nhà có 1 căn bếp cất riêng rẽ, trông chẳng khác nào một trang trại riêng của tư nhân, hồi trước 30-4-1975. Đây là Nhà Lô cất giữ dụng cụ, và cũng là nơi cư ngụ của Quản giáo Đội Nông Nghiệp, quản lý “hiện trường lao động” này. Giữa khu Nhà Lô và con đường đất rộng 4 mét, chạy dọc theo hàng rào tre tươi tăng cường kẽm gai phía sau Khu giam Tù K1, là một dẫy 3 cái hồ nước lớn, bề ngang 50 mét bề dài cả 100 mét, đào liền bên nhau để thả cá, và một hồ chứa Phân Bắc lấy từ trong các nhà giam Tù đổ xuống hàng ngày.

Ngày đầu lao động tại đây, một trong các Đội Tù Nữ được chia khu vực làm việc sát ngay bên Đội chúng tôi. Các cô này sàn sàn ngang tuổi nhau cỡ trên dưới 30, sắc diện cũng dễ coi, dáng vóc cân đối nẩy nở, phơi bầy các đường cong rất khêu gợi, lao động rất khoẻ. Trong lúc lao động, các cô luôn luôn tìm cách gợi chuyện với anh em. Một đôi người trẻ tuổi trong Đội chúng tôi, muốn tỏ ra lịch thiệp với phái Nữ nên bắt chuyện. Được thể, các cô lân la lang bang hết chuyện này qua chuyện khác. Trước lạ sau quen, nói hoài hết chuyện lông bông tầm phào, chẳng còn biết nói gì. Bỗng nhiên, có một cô lên tiếng tỏ ý tội nghiệp cho chúng tôi, bằng những lời y chang Cán bộ Đảng và Nhà Nước Xã hội Chủ nghĩa đã xỉ nhục chúng tôi qua các bài học tập, nhai đi nhai lại suốt mấy năm qua. Cô ấy nói đại ý : “-Các Chú hồi trước oai phong lẫm liệt, kẻ hầu người hạ, chớ đâu phải cực khổ như bây giờ. Cũng tại hồi đó các Chú ham vui quá, lại chậm chân, không thì giờ này tụi cháu đâu có được gặp tại đây...”

Nghe tới đây, Tôi bực mình không rằn được cơn nóng giận, lớn tiếng dồn một hơi : “-Khen cho cô đã cải tạo tiến bộ lắm. Không quên những điều đã được Cách mạng dậy dỗ bấy lâu nay. Đúng là trong hàng ngũ Quân đội cũ, có một thiểu số người xấu lợi dụng ham chơi như cô nói. Nhưng nhóm thiểu số hèn đó đã cuốn gói chạy trốn từ 30-4-1975 rồi. Chúng tôi đây không thuộc hạng người đó, không nên vì “con sâu làm rầu nồi canh” mà vơ đũa cả nắm như vậy...”

Thấy Tôi lớn tiếng, anh Đội trưởng chạy đến hỏi đầu đuôi câu chuyện, rồi khuyên Tôi bớt nóng và dẫn Tôi ra chỗ khác làm. Bên phía các Tù Nữ, thấy Tôi nổi nóng phản ứng giữ rằn, không ậm ờ chịu chuyện như các bạn trẻ, nên chưng hửng cúi mặt im lặng lảng ra chỗ khác không nói nữa. Các Cán bộ Quản giáo và Cảnh vệ còn đang mải túm tụm trong nhà Lô, uống trà hút thuốc thơm do các Tự Quản Đội cung cấp, nên không biết. Nhờ thế, câu chuyện được chấm dứt yên ổn, không ai bị Cán bộ gọi “làm việc” phiền hà gì.

Phát quang, dọn cỏ, đắp đường chia lô, cuốc đất, lên luống, reo hạt bắp, trên toàn khu đất phía sau Khu giam Tù K1 xong. Toàn thể lại được điều động đi khai quang khu dọc 2 bên bờ sông, dài hơn cây số, từ ranh Đội Nữ nuôi Heo đến bờ Nam Đập nước. Ngày “ra quân” làm tại khu bờ sông, Đội chúng tôi bị gọi xuất trại sau cùng. Khi tới “hiện trường lao động”, các Đội khác đã bắt đầu công việc giao khoán cho họ. “Ban” Nhu cũng đang đứng bên đường, như đợi chúng tôi tới để giao việc. Thấy Đội chúng tôi tới, ông ta chỉ vào khu cây cỏ bụi gai dầy đặc nhất, xen lẫn những nùi kẽm gai rối, mảnh chai, rác rến xà bần đủ loại, mục nát, mùi rữa thối xông lên nồng nặc, và nhoẻn miệng cười nói : “-Mời các Đại tá lại đây, khu này hẹp và dễ ăn nhất để phần các Đại tá đây!”

Sau khi chỉnh đốn 2 hàng ngang, anh Đội trưởng hô lệnh cho Đội đứng nghiêm, và báo cáo nhân số trình diện Đội cho Quản giáo. Rồi anh ấy đi theo Cán bộ nhận khu lao động. Chúng tôi im lặng đứng đợi. Anh Đội trưởng chia khu cho từng Tổ xong, mọi người bắt tay vào việc ngay. Đến giờ giải lao, anh em đã dọn xong đám rác rến phía ngoài, tiến dần lên chỉ còn cách bờ sông chừng 50 mét. Từng nhóm 2, 3 người một, ngồi nghỉ ngay tại chỗ, bên gốc các bụi cây gai đang phá dở để ăn lót lòng.

“Ban” Nhu và bầy Cán bộ tùy tùng xuất hiện, “tham quan” kết quả tiến hành công tác của các Đội. Khi đi ngang qua chỗ chúng tôi đang ngồi, ông ấy lên tiếng khen : “-Già mà lao động tích cực lắm, chẳng thua gì bọn trẻ.” Rồi nói tiếp : “-Khu này cần phải khai quang thu dọn sạch sẽ. Xây dựng Khu Thăm Nuôi mới, có các phòng ngủ trang bị đầy đủ giường nằm rộng rãi, bàn ghế ngồi ăn uống đàng hoàng. Chung quanh có vườn cây cảnh mát mẻ, ngay bên bờ suối thơ mộng. Để gia đình tới thăm, ở lại được thoải mái hơn khu hiện có nơi cổng trại, có được không?”

Anh em im lặng không ai quay lại nhìn, không chào “Ban”, cũng không lên tiếng trả lời. Vì không biết ông ấy nói cho ai nghe. Nói với mình, hay nói với các Cán bộ đang lăng xăng chạy theo. Lỡ không phải nói với mình, lên tiếng sẽ mắc tội nghe lén chuyện của Cán bộ. Đặc biệt Cán bộ đó, lại là “Ban” Nhu (Giám thị kiêm Bí thư Đảng ủy của Trại) nổi tiếng nghiêm khắc, thì tránh sao khỏi kỷ luật. Do đó im lặng, như điếc không nghe thấy là hơn. Nhưng, ông ấy đứng lại không đi tiếp, quay mặt nhìn anh em chúng tôi, lộ vẻ không bằng lòng, đưa mắt nhìn quanh như đang soi mói tìm cái gì làm cho ông ấy khó chịu. Anh Đội trưởng Phan trung Chánh của chúng tôi rất tinh khôn lanh trí, đang đi theo, vội vàng lên tiếng : “-Kính thưa “Ban”, mấy bác này hơi nặng tai nên không nghe Ban nói, xin Ban thứ lỗi.” Rồi anh ấy cười cầu tài nói tiếp : “-Được Ban quan tâm “chiếu cố” như vậy thì may mắn quá rồi.”

Thấy vậy, Tôi làm như không biết có ông ấy đến gần, giật mình quay lại, nhấc nón cúi đầu cất tiếng chào thật lớn : “-Kính chào “Ban”. Anh em làm mệt được giờ giải lao lo lu bu ăn uống, không thấy “Ban” tới để chào kính, mong “Ban” miễn thứ. Khu này rác rưởi hôi hám như vầy, “Ban” chiếu cố làm chi cho nó dơ quần áo?”

“Ban” Nhu không bao giờ mặc đồng phục Công An, như Trại trưởng và các Giám thị trưởng các Phân trại. Lúc nào ông ấy cũng quần âu tây áo sơ mi sạch sẽ, hợp thời trang, là ủi thẳng nếp, đi giầy da thấp cổ bóng loáng, như một trang trại chủ. Khi đi ra ngoài Trại bao giờ cũng dùng xe hơi nhỏ, bốn cửa, có máy điều hoà không khí, có Sĩ quan tùy viên và Cảnh vệ tháp tùng chẳng khác nào các ngài Lãnh tụ cấp cao.

Thấy Tôi dở nón chào trịnh trọng như vậy, “Ban” Nhu đổi hẳn sắc diện, vui vẻ nói : “-Các Đại tá làm có mệt không? Tôi cho phép lúc nào mệt cứ ngồi nghỉ, ăn uống “bồi dưỡng” cho hết mệt rồi lại làm tiếp. Các Đại tá già rồi, không bắt buộc phải ganh đua chạy theo bọn trẻ mà sinh bệnh.” Rồi ông ta dơ tay chỉ chỉ khoảng không gian gần bờ sông nói tiếp : “-Tôi định cất căn nhà 5 gian lớn rộng rãi trên hòn đảo kia. Ba gian giữa để làm phòng khách cho gia đình “thăm nuôi” ngồi nói chuyện. Hai gian đầu nhà đặt giường gỗ rộng rãi cho 2 người nằm, có bàn ghế, ấm tách dùng trà, cho các gia đình nào được ở thăm qua đêm xử dụng. Trước sân nhà sẽ bắc một chiếc cầu gỗ đi vào bờ, như cầu Thê Húc ở Đền Ngọc Sơn tại Hồ Gươm Hà nội. Hai bên đầu cầu cũng sẽ có thêm 2 dẫy nhà, mỗi dẫy có 3, 4 phòng cho thăm nuôi ở lại qua đêm. Toàn khu đất này sẽ lập vườn hoa, có núi non bộ, có Nhà Ròng kiểu đặc biệt của sắc dân Thiểu số miền Cao nguyên, gọi là “Vườn Tao Ngộ”. Khúc quanh góc sông kia, sẽ neo một chiếc nhà gỗ nổi như chiếc thuyền rồng, có đủ mọi tiện nghi : phòng ngủ, phòng tắm và vệ sinh, phòng khách, phòng ăn, bếp, và lan can chung quanh để ngồi hóng mát câu cá. Các Đại tá có ý kiến gì không?”

Ông ấy ngưng nói cũng được đôi phút, không thấy anh em nào lên tiếng. Tôi lại nhanh nhẩu góp ý : “-Thưa “Ban”, trước nhất xin xác nhận rằng, chúng tôi là Đại tá thời Chế độ cũ. Bây giờ đang là Cải tạo viên dưới quyền quản lý của “Ban”, đại diện Đảng và Nhà Nước giáo dục cho thành người Xã hội Chủ nghĩa. Vậy xin “Ban” đừng gọi chúng tôi là Đại tá.” Tôi vừa nói vừa quan sát, thấy ông ấy gật đầu, sắc mặt tỏ lộ sự hãnh diện thoả mãn, đoán biết đã gãi đúng chỗ ngứa, nên trả bài tiếp : “-Cái kế hoạch của “Ban” rất vĩ đại đầy “tình người”. Nó sẽ giúp cho anh em “phấn khởi hồ hởi” tiếp tục cải tạo tốt hơn, để sớm được về hoà nhập với Xã hội tiếp tay xây dựng đất nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thịnh cường. Thân nhân cũng thấy được rõ hơn, “chính sách khoan hồng nhân đạo của Đảng và Nhà Nước” đối với Cải tạo viên. Đặc biệt là lòng đại lượng của “Ban”. Ông ấy gật đầu, nhếch mép cười không ra tiếng, quay lưng bước đi, kéo theo một lô Cán bộ An ninh, Hậu cần, Quản giáo đang lăng xăng chung quanh.

Hết khai quang các khu bên này sông, tiếp sang các khu khác bên kia sông. Lao động vòng quanh, vừa giáp vòng mặt địa bàn đất Phân trại K1, cũng tới mùa thu hoạch. Chủ yếu ở đây trồng mía, nhưng không thấy có lò nấu đường. Chắc để cung cấp miá cây, cho các nhà máy đường Nhà Nước, thay thế vào tổng số tiền, tính theo đầu Tù do Trại quản lý phải nộp hàng năm cho Nhà Nước, quy định từ đầu 1977 đến nay.

Đội trưởng, Đội phó, sau những kỳ họp Tự Quản Đội về nói lại cho anh em nghe : “Ban” Nhu cho biết Trại Z30D cam đoan với Nhà Nước tự túc một trăm phần trăm. Mọi chi phí điều hành, trả lương Cán bộ, nuôi Tù, duy trì cơ sở..., đều do Trại viên góp sức lao động, thực hiện các chương trình sản xuất kiếm tiền tự trang trải. Nhà Nước không phải cung cấp ngân khoản hàng năm cho Trại, mà còn được Trại đóng góp tiền vào Công quỹ Nhà Nước như đã ấn định.

Vì thế, ngoài chương trình trồng mía đại chà, Trại Z30D còn có mấy chương trình sản xuất khác cũng rất quy mô :

1.- Đốn gỗ rừng đem về xẻ thành ván, sản xuất các loại đồ gia dụng giường, bàn, ghế, tủ... hàng loạt theo đơn đặt hàng. Đã có lần bị cơ quan Kiểm Lâm Nhà Nước về điều tra rất gắt gao, nhưng nhờ tài “móc ngoặc” tuyệt vời của “Ban” Nhu, nên mọi chuyện êm thắm.

2.- Nuôi bò, nuôi heo, nuôi gà thịt, gà đẻ trứng, nuôi cá, để bán.

3.- Nhận “gia công” sản xuất quần áo may sẵn, cho một Công ty Quốc doanh “xuất khẩu” quần áo có trụ sở đặt tại Khánh Hội, Saigon.

Nhờ vậy, tại Trại Z30D Tù được cấp cơm ăn hàng ngày 2 bữa, theo “tiêu chuẩn” Nhà Nước quy định 11 kí lô gạo mỗi tháng. Không phải ăn độn, hoặc thay thế bằng bo bo, sắn (khoai mì), bắp, khoai lang như ở các Trại khác. Phần ăn sáng được Trại cho thêm ngoài tiêu chuẩn của Nhà Nước, bằng sắn, bắp, khoai mì hoặc khoai lang, do chính trại viên trồng và thâu hoạch tồn trữ trong kho của Trại. Riêng phần các Tự Quản Đội (Đội trưởng, Đội phó), mỗi Qúy (3 tháng) còn được lãnh phần “bồi dưỡng” ngoại lệ bằng cá tươi, trứng gà...

Nhiều năm liên tiếp, Trại Z30D được Nhà Nước tuyên dương là “Trại Cải tạo gương mẫu trên toàn quốc”. Thường xuyên có rất nhiều phái đoàn Trung ương và các địa phương khác, thay phiên nhau đến “tham quan học hỏi kinh nghiệm”.

Trưa cũng như chiều mỗi ngày, sau giờ lao động trước khi trở vào trại giam, những Đội không có “hiện trường lao động” riêng sát ven sông, không có bến tắm riêng, đều được dẫn tập trung đến phía trên đập nước để tắm giặt. Buổi tắm nào cũng đầy nghẹt Tù Nam, Tù Nữ, ào xuống nước tắm chung, trong khoảng không gian không dài hơn 100 mét. Có những Tù Nam Tù Nữ trẻ, quá tự nhiên, cởi bỏ hết quần áo lồng lộng chạy từ bờ xuống nước, coi như chung quanh mình chẳng có ai.

Một buổi chiều, Đội chúng tôi làm xa về đến nơi. Bến tắm sát gần mặt đập, đã bị các Tù Nữ và Tù Nam các Đội khác chiếm đặc. Quản Giáo Đội phải dắt chúng tôi đi dọc bờ sông, lên tuốt tận khúc sông cong đầu hồ đập, mới có chỗ xuống tắm. Đến nơi, chúng tôi vừa lần bước xuống nước, nhìn qua bờ bên kia thấy 4, 5 Cán bộ đứng bên “Ban” Nhu, chỉ chỉ về phía bờ bên này, nói gì với nhau không biết. Bỗng nghe “Ban” Nhu lớn tiếng thét : “-Tắm truồng, thiếu văn hoá, không cho tắm nữa, đi lên hết!” Các Cán bộ đứng gần bên “Ban” Nhu, cũng đưa tay hất hất ra hiệu, miệng hô : “-Đi lên! Đi lên! “Ban” ra lệnh đi lên hết!”

Trong khi mọi người đi lên, Tôi vẫn bơi ào ra giữa dòng sông đứng tắm cách bờ chừng 10 mét, như không hề nghe thấy lệnh đuổi lên không cho tắm. Đến khi mọi người lên hết, giữa dòng chỉ còn Tôi và anh bạn trẻ thuộc Đội khác, vẫn đứng thản nhiên vò đầu kì cọ mình tiếp tục tắm. Tôi đứng quay lưng về phía “Ban” Nhu, nghe tiếng hét lớn : “-Anh kia có lên không?” Tôi quay lại dõng dạc trả lời : “-Tôi đâu có tắm truồng”. “Ban” Nhu gằn giọng hét tiếp vẻ giữ rằn bực tức : “-Không tắm truồng, cũng phải lê.ê.ên!!!”

Tôi thủng thẳng bơi vào bờ bên này sông, trong khi anh bạn kia đi lên bờ sông bên “Ban” Nhu đang đứng. Quản giáo Đội đến gần Tôi đốc nhắc : “-Anh Hùng, mặc quần áo lẹ lên đứng vào hàng.” Các bạn cùng Đội đứng gần, xúm bao quanh như muốn che không cho ai thấy Tôi, miệng cũng nhắc : “-Lẹ lên đứng vào hàng, “Ban” Nhu đang đi tới kià.” Tôi không thấy gì, nhưng bạn bè chung quanh đều biết “Ban” Nhu và đám Cán bộ tháp tùng, đang xầm xầm chạy ngang qua cầu trên đập nước, sang đây tìm bắt Tôi.

Họ vừa lách đám đông Tù, đi tới phía Đội chúng tôi đang đứng, đảo mắt lơ láo tìm, miệng hỏi : “-Ai vừa dưới sông bơi lên đâu?” Mọi người im lặng không lên tiếng, ngay cả Cán bộ Quản giáo của Đội cũng không báo cáo chỉ điểm Tôi.

Cảm kích lòng tốt của mọi người, cũng như không muốn mọi người bị làm phiền, Tôi cương quyết dơ tay nói lớn : “-Tôi vừa ở dưới sông bơi lên đây.” Đồng thời dơ cao chiếc quần cụt còn ướt sũng lên, phân bua : “-Tôi đâu có tắm truồng, quần tắm của Tôi còn ướt sũng đây.” Cũng đúng lúc đó “Ban” Nhu tới nơi, nạt lớn : “-Đem về cùm. Đem đi! Đem đi ngay!”

Liếc thấy ông ta tỏ vẻ rất giận giữ, hình như muốn xấn tới đánh, mấy Cán bộ đang đứng bu quanh Tôi, đốc nhắc : “-Đi! Đi! Khẩn trương! Khẩn trương!” Tôi không nói gì nữa, lẳng lặng đeo bị đựng Gô nước uống và thuốc men kẹo bánh dùng trong giờ lao động, đi giữa mấy người Cán bộ xúm xít bao quanh, dẫn về Khu giam. Tới nơi, họ giao Tôi cho Cán bộ Trực Trại, và nói : “-Đưa vào Nhà Kỷ Luật cùm một chân, theo lệnh “Ban” Nhu.”

Cán bộ Trực Trại dẫn Tôi qua cổng Khu giam, qua sân tập kết, qua vườn cây trước Hội trường, đi dọc bên hông Hội trường ra khu đất trống phía sau, có Nhà Kỷ Luật ở chính giữa. Ông ấy mở khoá cửa đầu nhà, phía bên cùm Tù Nam, đưa Tôi vào. Vừa lọt qua cửa, Tôi không còn nhìn thấy gì, bên trong tối hù vì thiếu ánh sáng. Sau vài phút định thần, mới nhận thấy phiá bên phải sau cửa vào, có một hành lang rộng 1 mét rưỡi, dọc suốt theo bức tường mặt trước nhà. Ngay sau cửa vào, một khoảng trống rộng 2 mét, dài suốt đến tường phía lưng căn nhà, có đặt một chiếc bàn dài. Trên mặt bàn ngổn ngang những thứ Tù không được mặc trên người, hoặc đem theo vào phòng cùm. Phần còn lại, được chia thành 3 phòng cùm liên tiếp, ngăn cách nhau bởi tường xây bằng gạch, có cửa sắt khoá bên ngoài riêng cho từng phòng.

Tôi bị buộc bỏ túi đựng đồ riêng, bỏ thắt lưng quần, giầy, nón vải, và kính cận thị đang đeo, đặt gọn trên một góc bàn. Trên người chỉ còn 1 quần, 1 áo, đi chân đất vào nằm trên bệ xi măng trong phòng chót. Anh “Thi Đua” đi theo Cán bộ Trực Trại, bảo Tôi dơ một chân lên cho Cán bộ luồn cùm vào, khoá trái bên ngoài tường phòng giam. Rồi ông ấy khoá cửa phòng giam, và đi ra ngoài khoá cửa Nhà Kỷ Luật.

Thế là Tôi bắt đầu nếm thêm mùi “Nhà Tù Tý Hon”, trong Trại Tập trung Cải tạo Z30D, của Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.










NẾM MÙI NHÀ KỶ LUẬT Z30D







Được Ta, bầy muỗi hoan ca,

Đua nhau vồn vã ùa ra đón chào.

Thi đua thưởng thức máu đào,

Vo vo khen vị ngọt ngào không tanh.

Luân phiên hút suốt năm Canh,

Say sưa bội thực lăn kềnh ngay đơ.

Phần Ta, khua đập mệt phờ,

Trắng đêm không ngủ đợi chờ Rạng Đông.

Cổ chân kẹt cứng trong gông,

Ngồi lên nằm xuống, đau hông nhức mình.

Vuốt râu cọp, chịu nhục hình,

Mới hay Thù Bạn, nhân tình khác nhau.

K1 (Trại Thủ Đức, Hàm Tân, Thuận Hải)

Hè 1984.








Chương 32


BẢN CHẤT TÀN BẠO THÂM ĐỘC CỦA VIỆT CỘNG VÔ ĐỊCH THẾ GIỚI

(Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam)

Nguyễn Huy Hùng





Vào dịp Tết Giáp Tý-1984, có một đợt tha ồ ạt rất nhiều người. Một số Trung tá thuộc Đội 6 chúng tôi, cũng may mắn có tên. Riêng anh em Đại tá, chẳng ai được dính vào danh sách. Có thể tại chúng tôi thuộc gốc Chiến tranh Chính trị, An ninh Quân đội, Tỉnh trưởng, Xây dựng nông thôn, bị Đảng Cộng sản Việt Nam quy vào thành phần có nhiều “nợ máu” với Nhân Dân, chưa được nhòm ngó tới. Nhưng cũng có thể Cấp bậc Đại tá và Tướng, đang là những con bài giá trị cần giữ lại, để nèo co thêm giá cả với Hoa Kỳ.

Sau đợt tha, nhân số lao động tại K1 và K2 Trại Hàm Tân Z30C còn lại rất ít, không đủ để tiếp tục khai thác toàn bộ các khu đất hiện hữu. Kế hoạch dồn chung tất cả Tù K2 về K1 được“khẩn trương” thực hiện. Phân trại K2 ở bên kia sông cách K1 chừng 3 cây số bị đóng cửa. Hai anh bạn Đại tá hồi ở Thanh Phong về đây cùng một lượt, bị tách ra đưa sang K2, nay lại được “biên chế” bổ xung vào Đội chúng tôi. “Biên chế” xong, Đội phải chuyển phòng giam, sang nửa bên phía Bắc của cùng dẫy nhà đang ở. Phòng ăn mới, nằm sát ngay bên khu nấu nướng cạnh hàng rào, rất tiện lợi. Nấu nướng xong, không phải bê nồi niêu đi xa cả trăm mét, như hồi còn ở bên nửa phía Nam của dẫy nhà. Trong những ngày mưa, cứ việc ngồi trong phòng ăn, chạy ra chạy vào canh chừng bếp lửa, không phải đội áo mưa ngồi liên tục giữa trời, chịu trận cho đến khi nấu xong. Đứng trong phòng ăn, nhìn ra khu bếp giữa trời, thấy cảnh anh em nấu nướng trong mưa thật là vui mắt. Song song bên 2 dẫy Ông Lò đâu lưng vào nhau nằm dọc bờ rào, cuồn cuộn toả khói dưới những mái ni lông đủ mầu sắc thấp lụp xụp. Có 2 hàng các anh đầu bếp, chùm áo mưa từ đầu xuống chân, nước mắt nước mũi chảy dàn dụa, chổng khu hì hà hì hục thổi, quạt lửa lúc cháy lúc tắt, cố gắng làm cho các món nấu nướng chín mau, để sớm được thoát nạn. Nhưng mưa gió nào có tha, cứ liên tục lúc mau lúc thưa, dồn tới từng cơn cho đến khi nấu xong mới dứt. Thần Mưa Thần Gió thật cắc cớ oái oăm, khéo hành hạ người trần tục. Thảo nào, ngày xưa các Cụ thường ví : “hay ăn thì lăn vào bếp, chẳng ai khen cái nết hay làm” là thế. Hồi còn nhỏ đi học, được Thầy Cô giảng dạy, nhưng chưa đủ “trình độ” hiểu được chính xác nghĩa đen nghĩa bóng của câu ví. Bây giờ, kinh nghiệm thực tiễn giúp cho thấu hiểu thật cặn kẽ, chẳng bao giờ quên được.

Tù thuộc 2 Phân trại dồn chung cả vào K1, thế mà quang cảnh trại vẫn thấy vắng vẻ lạ thường. Khu Nhà Tôn chỉ còn vài dẫy có người. Khu Nhà Ngói, dẫy 1 sát trước dẫy của chúng tôi cũng bỏ trống. Nhân số Đội chúng tôi hụt đi nhiều. Khu vực canh tác phải thâu hẹp, bỏ những luống rau gần bên đường lớn, xa bến gánh nước, tốn nhiều thời gian di chuyển vất vả. Tôi được đổi công tác, không phụ trách các luống rau riêng nữa. Làm phụ tá cho anh Sáu Đội phó, xẻ rãnh reo hạt các luống, sau khi anh em phụ trách đã cuốc tơi và lên luống xong. Đến khi rau bắt đầu mọc và trổ 2 lá lớn, tỉa bỏ những cây nhỏ yếu ớt, chỉ để lại trong mỗi rãnh chừng 7, 8 cây là tối đa. Sau đó cuốc vun gốc cho những cây còn lại, đứng thẳng vững vàng để tiếp tục phát triển, và giữ cho nước đọng lại trong rãnh giữa các hàng rau, thay vì tràn ra bên ngoài luống trong khi tưới. Vào những đợt tỉa như vậy, anh em cả Đội tha hồ chia nhau rau non để ăn ghém, hoặc nấu canh với tôm khô và mì ăn liền do gia đình tiếp tế, cũng được một món ngon khoái khẩu.

Trong một buổi giải lao giữa tầm lao động sáng, anh Sáu Đội phó và Tôi đang ngồi ăn lót dạ, Quản giáo Đội đến chỉ thị cho anh Sáu, thu xếp đi lãnh thuốc trừ sâu vào lúc xuất Trại lao động buổi chiều. Tôi lợi dụng cơ hội hỏi một câu, y như Tôi đã hỏi Quản giáo tại K2 Trại Thanh Phong hồi đầu năm 1982, trước khi được chuyển về Trại Z30C này : “-Thưa Cán bộ, anh em chúng tôi sẽ lần lần được tha hết. Trại không còn Cải tạo viên, chắc là phải đóng cửa trao đất lại cho Hợp Tác Xã địa phương. Cán bộ có chuẩn bị xin đi công tác tại đâu chưa?”

Ông ấy trả lời ngay không nghĩ ngợi, giống y như Quản giáo cũ của Tôi tại Thanh Phong đã trả lời : “-Các anh đừng lo, Nhà Nước đã tiên liệu hết cả rồi. Chỉ sợ không đủ Nhà Giam, chớ không sợ thiếu Tù. Các anh về rồi, đâu có thiếu người vào trám chỗ. Tội phạm ngoài xã hội đầy rẫy, vì chưa đến lúc cần thì chưa bắt đấy thôi.”

Thảo nào, hồi còn ở K5 Trại Tân Lập Vĩnh Phú, chúng tôi biết một trường hợp. Có anh chàng đứng tuổi đánh xe trâu cho Trại, nguyên là Tù Hình Sự được tha, nhưng tình nguyện ở lại trong Tù, phục vụ theo tiêu chuẩn Tự giác, chớ không muốn trở về địa phương quê quán cũ của mình. Theo lời anh ta kể :

“-Thuở thiếu niên anh ta bị bắt cải tạo trong trại thiếu nhi, vì tội đồng loã ăn cắp tài sản Xã hội Chủ nghĩa, tồn trữ trong kho của Hợp Tác Xã. Đến lúc đủ tuổi trưởng thành, bị chuyển qua trại người lớn. Mãn hạn tập trung được tha về địa phương, tiếp tục làm ăn sinh sống như mọi người. Anh ta đã cố gắng tuân theo luật lệ Nhà Nước và Địa phương, không làm điều sai trái nữa, để được coi là người lao động tốt trong Xã hội.

Bỗng một hôm, Hợp Tác Xã có vụ bị mất trộm rất trầm trọng. Do chính Chủ nhiệm Hợp Tác Xã liên kết với nhân viên thực hiện, ai cũng biết. Công An Huyện về điều tra, bắt một số người nghi có liên hệ. Anh ta không dính dáng gì vào vụ việc, cũng bị bắt đưa đi lãnh án tập trung cải tạo. Mấy năm sau, nhờ ân huệ khoan hồng nhân đạo của Tổng Bí Thư Đảng mới đắc cử, được tha cho về nguyên quán lập lại cuộc đời.

Chẳng được bao lâu, tự nhiên lại thấy có lệnh gọi tới Công An “làm việc”, và bị giữ luôn đưa đi tập trung cải tạo. Chẳng ai hỏi cung hay buộc khai báo gì cả. Không phải một hai lần, mà cứ dài dài như vậy suốt cả thời thanh xuân, nên chẳng lập được gia đình. Bà con thân thuộc cũng lánh xa không dám “quan hệ”.

Vì thế lần được tha sau cùng, nhân dịp Đảng và Nhà Nước cùng Nhân Dân ăn mừng 2 năm ngày Thống Nhất đất nước, anh ta xin tình nguyện ở lại trong tù luôn.”

Anh ta ở trong nhà giam chung với các Tù Hình Sự, chỉ khác là được ra vào trại giam bất cứ lúc nào y như các “Tù Tự Giác” vậy. Phần ăn hàng ngày, được Bếp Cán bộ cho, nên cũng no đủ như một lao công Hợp Tác Xã. Hàng ngày đi chạy xe trâu thong thả, không còn lo bị bắt tới bắt lui, và bị đánh đập mỗi lần giải đi giam như suốt thời niên thiếu nữa.

Hoàn cảnh của anh em Tù Chính trị miền Nam, cũng chẳng hơn gì. Theo tin tức “thăm nuôi” cho biết :

“ Ngay từ khi được tha về nhà, anh em cũng bị cơ quan Công An địa phương nơi cư ngụ quản chế, theo dõi rất kỹ trong thời gian nhiều năm, trước khi cho làm thủ tục hành chánh để trở thành công dân có giấy tờ căn cước hợp lệ.

Trong suốt thời gian bị quản chế, anh em phải đến trình diện Công An Phường theo định kỳ hàng tuần hàng tháng, để nộp sổ ghi hoạt động chi tiết hàng ngày của mình. Nếu sổ báo cáo ghi không đầy đủ chi tiết rõ ràng cặn kẽ, còn bị hạch hỏi buộc khai bổ túc, và sẽ phải nhận lãnh đủ thứ chuyện khó khăn trong cuộc sống hàng ngày.

Ngoài ra vào những ngày Lễ lớn, thường có Phái đoàn các nước Xã hội Chủ nghĩa anh em, và đông đảo phóng viên ngoại quốc đến thăm đất nước việt Nam. Những cựu Tù Chính trị đang trong thời gian bị quản chế, bị gọi tới tập trung tại Phường để học tập, hoặc làm những công tác Xã hội Chủ nghĩa, cho đến khi lễ lạc xong mới được trở về nhà.”

Như vậy, nói rằng : “Từ sau 30-4-1975, cả nước Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu, trở thành một Nhà Tù Lớn, do Đảng Cộng sản và Nhà Nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quản lý”, quả thật không sai một chút nào. Bên trong cái Nhà Tù Lớn đó, còn có cơ man nào là những Nhà Tù Nhỏ (Trại tập trung Cải tạo) do Chính quyền Địa phương và Chính phủ Trung ương chia nhau quản lý. Đặc biệt hơn nữa, bên trong mỗi Nhà Tù Nhỏ lại có một Nhà Tù Tý Hon (Nhà Kỷ Luật).

Ôi! Thật là khốn nạn thay! Sau bao năm phung phí máu xương của các thế hệ con cháu Lạc Hồng, một cách vô ích trong Hậu Bán Thế Kỷ 20, Dân tộc Việt Nam, đang phải ăn cái “bánh vẽ Độc lập Tự do Hạnh phúc”, của Đảng Cộng sản Việt Nam lừa bịp đem lại.

Một buổi chiều, vào lúc xẩm tối, sau Tết Nguyên đán Giáp Tý-1984, anh em ăn uống xong, đang chờ giờ tập họp vào phòng giam, thấy có xe tải chở một lô Tù Hình Sự cả Nam lẫn Nữ tới. Họ bị đưa vào giam trong dẫy nhà phía trước dẫy của chúng tôi, đang bỏ trống. Trong đám nữ ăn mặc quần áo bà ba mầu sắc đủ loại, nổi bật lên 2 người thật đặc biệt. Một còn rất trẻ, nhỏ nhắn cỡ 18 đôi mươi. Một xồn xồn cỡ trên dưới ba chục, tóc uốn, môi mặt thoa son phết phấn, mang kính râm, ăn mặc quần áo kiểu Âu có vẻ sang trọng đài các, tay sách chiếc ví đen vuông to. Thoạt thấy, anh em tưởng Cán bộ Nữ đi theo áp giải Tù. Nhưng khi thấy họ vào phòng giam ở lại cùng những người khác, mới vỡ lẽ rằng không phải. Vài ngày sau, mấy người Nữ được đưa đi nơi khác, chỉ còn toàn Nam tiếp tục ở lại K1.

Sau này chúng tôi bị chuyển sang Trại Z30D, lại có dịp thấy 2 Tù Nữ xinh xắn nổi bật kia, phục vụ tại Câu Lạc Bộ. Theo nguồn tin từ Cán bộ tại Z30D cho biết : “Hai người nữ Tù Hình Sự này, là thân nhân của một Chủ nhiệm Hợp Tác Xã lớn trong Tỉnh Thuận Hải, bị liên can biển thủ lường gạt tiền của Xã hội Chủ nghĩa, nên bị lãnh án Tập trung Cải tạo.”

Thấy đem Tù Hình Sự tới Trại, chúng tôi cảm thấy buồn. Những phiền hà do bọn Tù Hình Sự gây ra cho chúng tôi, tại Trại Thanh Phong Như Xuân Thanh Hoá, vẫn còn rõ nét trong chí nhớ chưa phai nhoà. Nhưng rất may, vài tuần sau ngày bọn Tù Hình Sự tới, cả Đội chúng tôi gồm Đại tá và Trung tá còn lại chưa được tha vào dịp trước Tết, bị chuyển sang Trại Thủ Đức Z30D, cách Trại Z30C chừng vài chục phút chạy xe.

Lần di chuyển này được thực hiện giữa ban ngày, vào một buổi sáng trời nắng đẹp dịu dàng của mùa Xuân miền Nam. Đoàn xe đưa chúng tôi rời Khu Nhà Ngói, chạy dọc con đường lớn chính giữa Phân trại K1. Bên phải đường là Khu Nhà Tôn giam Tù, bên trái là Khu Hành chánh, nơi cư ngụ của các Cán bộ và Ban Chỉ huy trại. Lúc xe chạy ngang Khu Nhà Thăm Nuôi, điểm ranh giới sau cùng của Trại Hàm Tân Z30C, thấy vắng hoe chẳng có ai. Chắc tài xế các xe chuyên chở gia đình “thăm nuôi” đãõ được báo cho biết trước, nên hôm nay họ không nhận khách đến Z30C.

Ra khỏi Trại Z30C, xe chạy bon bon trên Quốc lộ Saigon-Phan Thiết được chừng đôi chục phút, rẽ trái vào con đường đất dài 5 cây số, bụi cát mịt mù, rồi đậu lại trước một cổng chào lớn, có cần gỗ sơn trắng chặn ngang đường. Sau mấy phút ngừng cho Cán bộ làm thủ tục, đoàn xe chui qua cổng tiếp tục chạy. Sát ngay hai bên đường, phiá sau cổng vài chục mét, có 2 căn nhà bằng gỗ mái lợp tôn. Nhà phía bên tay phải rộng rãi vuông vắn, có hàng hiên rộng bao chung quanh, trang trí trồng cây cảnh như một quán ăn uống khang trang đẹp mắt, với tấm bảng ghi 3 chữ Câu Lạc Bộ. Căn nhà đối diện xeo xéo bên tay trái, trông có vẻ dùng để ở, được chia thành 3, 4 phòng liền nhau, với một hàng hiên dài phía trước. Sau này mới biết đó là Khu Nhà Thăm Nuôi của K1 Trại Z30D.

Qua cổng, đoàn xe chạy về hướng bờ sông. Dọc bên phải đường là Khu Hành chánh, Kho, và nơi cư ngụ của Cán bộ và gia đình. Phía bên trái đường, từ cổng vào có một khoảng đất trống dài 500 mét. Kế theo là Khu giam Tù, bao bọc bởi hàng tre gai tươi dầy đặc cỡ 2 mét. Hai bên rìa lũy tre, còn được tăng cường thêm 2 hàng rào kẽm gai, đan ô vuông cao 3 mét. Qua hết lũy tre bên hông khu giam dài 500 mét, có một tròi canh cao làm bằng gỗ mái tôn, dựng ngay chỗ góc vuông nối đầu 2 lũy tre. Đoàn xe rẽ trái, chạy tiếp trên con đường nhỏ hơn, dọc theo mặt tiền của Khu giam, và ngừng lại trước một cổng rộng, có 2 cánh cửa sắt cao luôn luôn đóng kín. Trụ cột bên trái cổng, là một điếm canh kiểm soát ra vào, xây theo lối lô cốt nóc bằng, có các bậc thang lên nóc để đặt súng chĩa vào bên trong khu giam. Bên phải cổng sát ngoài hàng rào, dựng một căn nhà gỗ 2 tầng, có lan can nhìn vào Khu giam. Các đoàn khách quan trọng không muốn vào bên trong, có thể lên đó vừa ngồi ăn uống vừa quan sát mọi hoạt động một cách an toàn.

Ngay sau cổng là một “sân tập kết” vuông rộng, có chỗ cho cả ngàn người xếp thành hàng ngũ, đứng ngồi thoải mái. Tiếp theo là một vườn cây cao bóng mát, rộng dài chẳng thua gì sân tập kết, chính giữa có đường đi thẳng tắp dẫn vào Hội Trường lớn. Khu sân tập kết, vườn hoa và hội trường là khoảng đất phân cách giữa 2 Khu giam Tù Nam và Tù Nữ.

Bên trái sân tập kết, từ cổng nhìn vào, là mấy căn nhà nhỏ dùng làm Bệnh xá, rồi đến những dẫy nhà giam tường gạch mái tôn, dành cho Tù Nam giới. Kiến trúc xây cất giống như các dẫy nhà giam trong Khu Nhà Ngói bên Trại Z30C, nhưng rộng dài hơn. Những khoảng đất chung quanh các dẫy nhà giam để trống đi thông luôn, không quây rào kẽm gai phân cách riêng từng dẫy một như bên Z30C. Mỗi dẫy cũng được chia thành 2 ngăn riêng biệt, mỗi ngăn dùng để giam 2 Đội khoảng 7, 8 chục Tù. Như vậy mỗi dẫy nhà ở Z30D, dài gấp 3 dẫy nhà trong Khu Nhà Ngói bên Z30C, có đủ chỗ giam tới 4 Đội thay vì 2.

Việc nấu nướng “cải thiện” riêng của Tù, được Trại “chiếu cố” đặc biệt hơn bên Z30C. Một dẫy nhà bếp lợp tôn dài 50 mét, được dựng trên khu đất trống giữa hàng rào và các dẫy nhà giam, để Tù tập trung vào đó đun nấu hàng ngày. Dọc theo hàng rào, dài 2 bên đầu nhà bếp “cải thiện”, còn có mấy dẫy cọc căng giây kẽm lớn, cho Tù phơi hong quần áo, chăn, mùng.

Bên phải sân tập kết, đối diện với khu giam Tù Nam, có Nhà Bếp của K1. Kế tiếp là những dẫy nhà giam Tù Nữ, cũng tường gạch mái tôn như bên khu Nam.

Ngay sau khi xuống xe, chúng tôi bị dẫn vào Khu Cách Ly, ở tuốt phía cuối khu Tù Nam, giam trong dẫy nhà nhỏ có hàng rào kẽm gai, xa cách hẳn với các dẫy khác. Cổng ra vào luôn luôn khoá trái bên ngoài. Nhờ vậy, thấy được phía sau Hội trường có một khu đất trống, chính giữa xây Nhà Kỷ Luật tường gạch mái tôn. Mấy tháng sau khi đến Trại Z30D, Tôi đã được cái vinh dự bị cùm một chân, trong căn Nhà Kỷ Luật này 1 tuần lễ. Vì tội chống lệnh “Ban” Nhu (Giám Thị, Bí thư Đảng ủy), trước đông đảo anh chị em Tù toàn Phân trại K1, đang tắm tại bến sông bên đập nước.

Chúng tôi bị giam trong Khu Cách Ly 2 ngày liền, chẳng được tiếp xúc với ai ngoài anh “Thi Đua”, đến gặp Đội trưởng chuyển lệnh của Ban Giám thị, làm thủ tục khai báo danh sách ngang, danh sách dọc. Hoàn tất việc khai báo, nhóm chúng tôi được đặt tên là Đội 23 Nông Nghiệp. Các anh Trung tá Cảnh sát Phan Trung Chánh và Trung tá Biệt Động Quân Nguyễn văn Sáu, từ Z30C sang Z30D một lượt với chúng tôi, vẫn được duy trì làm Ban Tự Quản Đội (tức là Đội trưởng và Đội phó, gạch nối giữa Cán bộ và Tù).

Đội được lệnh di chuyển đến ở chung với một Đội khác, trong nửa bên trái của dẫy nhà đầu tiên thuộc Khu Nam, tính từ cổng trại vào. Mỗi dẫy nhà đều có ghi số riêng để gọi, nhưng Tôi không nhớ. Bên kia khoảng sân rộng 50 mét, ngay phía trước dẫy nhà chúng tôi ở, có một hàng rào cây dâm bụt thưa và 3 căn nhà nhỏ dùng làm Bệnh xá của Trại. Bệnh nhân nặng thuộc tất cả các Phân trại, chưa cần di tản đi Bệnh viện Phan Thiết, đều nằm điều trị tại đây. Có 2 bạn Tù được dùng làm phụ tá cho Cán bộ Y tế, được cư ngụ thường trực tại Bệnh xá. Một làm Y tá, một phụ trách nấu thực phẩm hàng ngày, cho Tù bệnh ăn theo quy chế riêng, không lãnh tại Bếp chung của Trại như các Tù khác.

Bên cạnh đường đi phía đầu dẫy nhà chúng tôi ở, có một vòi nước máy công cộng, dựng chính giữa một nền xi măng tròn đường kính 4 mét. Hàng ngày, Tù đặt thùng xếp hàng lấy nước tích trữ, dùng riêng cho việc nấu nướng, vệ sinh, và tắm trong những ngày nghỉ lao động ở trong trại. Vòi nước này dùng chung cho cả Khu Tù Nam. Nên phải dành ưu tiên cho các bạn Tù Trực Nhà lấy trước. Khi nào họ đổ đầy hồ chứa dùng xối cầu tiểu trong các nhà giam xong, mới đến lượt anh em lấy dùng riêng. Việc giải quyết đại tiện trong phòng giam cả ngày lẫn đêm, vẫn dùng thùng chứa phân nổi. Mỗi ngày vào khoảng 9 giờ sáng có Tù đánh xe bò đến, Trực Nhà phải khênh ra cho họ đem đi, đổ vào hồ chứa ngoài hàng rào phía sau Khu giam, để Trại dùng nuôi cá và làm phân bón trồng rau gọi là Phân Bắc.

Ngày hôm sau, Đội chúng tôi bắt đầu tham gia lao động. Gặp đúng đợt K1 “ra quân thi đua sản xuất” mừng 30 tháng 4, ngày Thống nhất đất nước lần thứ 10. Toàn thể Tù Nam và Tù Nữ tập trung khai quang, trồng mía và khoai lang, dọc 2 bên đoạn đường dài 3 cây số, từ khu giam tù K1 vào đến ranh giới khu giam Tù K2. Con đường này chạy song song, cách dòng sông nhỏ chẩy ngang qua Trại chừng nửa cây số. Dọc bên phải đường ra tới gần bờ sông trồng mía, dọc bên trái trồng khoai lang. Cách cổng Khu giam Tù K1 một cây số, là “hiện trường lao động” của 2 Đội Tù Nữ. Một trồng rau, một nuôi heo. Khu vực này nằm phiá bên phải, xa đường chừng vài trăm mét ra đến ven sông.

“Chỉ tiêu lao động” và “Tiêu chuẩn ăn” hàng ngày, quy định bằng nhau cho Tù Nam, Tù Nữ, Tù già, Tù trẻ, thuộc các Đội Nông Nghiệp. Như vậy trong “xã hội cải tạo” Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, Già, Trẻ, Nam, Nữ được đối xử hoàn toàn bình đẳng. Đúng là “Công bằng Xã hội Chủ nghiã”.

Các Tù Nữ lao động rất khoẻ. Trong lúc lao động họ nói chuyện tía lia đủ thứ. Có lúc cãi cọ đánh lộn với nhau, chẳng khác nào các tay chị em bán cua bán cá, giành nhau khách mua hàng giữa chợ. Thấy cảnh đó, chúng tôi trạnh lòng thương các Sĩ quan Nữ Quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng hoà, đang bị nhốt chung với các Nữ Tù Hình Sự gốc “gái ăn sương”, trộm cắp, lừa đảo ngoài xã hội. Hàng ngày phải chịu đựng bao cảnh trái tai gai mắt, ngoài “hiện trường lao động” cũng như trong nhà giam.

Hồi còn ở K5 Trại Tân Lập ngoài Bắc, chúng tôi bị giam khác phòng, nhưng chung một dẫy nhà với các Tù Hình Sự, còn gặp biết bao phiền toái. Nữa là ở đây, các Nữ chiến hữu của chúng ta, phải sống chung với họ trong cùng Đội, cùng phòng giam, cùng chia sẻ mọi sinh hoạt hàng ngày, thì chịu làm sao nổi. Thật tội nghiệp !

Sau khi biến khu đất hoang, giữa K1 và K2 thành một cánh đồng đầy các rãnh mía luống khoai xong, các Đội Nông Nghiệp được điều động ra phát quang, trồng bắp 2 bên con đường dẫn vào Trại. Khúc đường dài khoảng 2 cây số, từ cổng Trại ra tới chỗ ngã 3, nơi có đường dẫn thẳng vào K2. Gần ngã ba, có một căn nhà tranh 3 gian thoáng mát rộng rãi. Đây là nơi các xe Lô chở thân nhân tới “đăng ký” xin “thăm nuôi” Tù hàng ngày. Làm thủ tục xong, ai đi thăm Tù ở K nào, sẽ có xe của K đó chở tới Khu Nhà Thăm Nuôi riêng của K. Lúc thăm xong, thân nhân phải đi bộ trở ra căn nhà này, tập trung ngồi đợi xe Lô quay lại đón về Thành phố.

Từ cổng Trại đi ra, trước khi tới căn Nhà dùng làm Văn phòng “đăng ký xin thăm nuôi”, cách xa đường chừng vài trăm mét, thấy một khu có nhiều nấm đất hình chữ nhật nổi lên. Anh em cũ cho biết đó là nghiã địa, nơi trôn vùi những nắm xương tàn, của các Tù đã bỏ mạng tại Trại Z30D từ khi thành lập đến nay.

Trong những đợt “Thi đua toàn Phân trại”, người ta luôn luôn cố tình chia khu vực lao động, cho các Đội Nam và Đội Nữ xen kẽ bên nhau. Đây là cao kiến thâm hiểm của “Ban” Nhu (con người rất ư là Xã hội Chủ nghiã), để kích thích máu tự ái xĩ diện rởm giữa 2 giới Nam Nữ trẻ, ganh đua vượt “chỉ tiêu lao động hàng ngày” do Trại quy định. Ngoài ra, đây còn là cái bẫy vô hình gài bắt, những Tù Nam Tù Nữ lãng mạn, lợi dụng cơ hội lén lút quan hệ trái Nội quy trại. “Ban” sẽ dựa vào đó tung những “chưởng cùm chân trong Nhà Kỷ Luật”. Đây là biện pháp dùng để thị uy rằn mặt cho mọi người sợ, im lặng ngoan ngoãn tuân hành tuyệt đối lệnh của Ban Giám Thị, mà không mang tiếng độc tài tàn bạo.

Trong những đợt “thi đua” cả trại, “Ban” Nhu luôn luôn xuất hiện bất thần tại “hiện trường lao động”, xông xáo băng ruộng, ghé Đội này Đội kia hỏi chuyện Tù. Chẳng may người nào quên không ngả nón, lễ phép chào lớn tiếng khi thấy “Ban”, hoặc trong khi nói chuyện không “Kính thưa Ban” một cách trịnh trọng, thì trước sau gì rồi cũng được dịp nếm mùi kỷ luật.

Một hôm, trong giờ giải lao giữa buổi lao động sáng, thấy 1 Tù Nữ lén đến gần anh Tù Đội kế bên đang ngồi nghỉ, để thủ thỉ nhắn nhủ gì đó. Đến buổi lao động chiều, lại thấy 2 người tìm cách đến gần nhau trong lúc lao động. Chàng móc túi quần giúi cho nàng một bọc nho nhỏ, rồi 2 người lảng ra chỗ khác. Nhưng “vách có tai, rừng có mắt”, không đầy 30 phút sau, Cán bộ An ninh đến bắt dẫn cô nàng về nhốt vào Nhà Kỷ Luật. Đồng thời Ban Nhu và mấy Cán bộ khác, dáng vẻ hùng hổ quan trọng như đi đuổi giặc cướp, xầm xầm đến khu lao động của Đội Nam, tìm bắt cái anh chàng đa tình dám “quan hệ” với Tù Nữ, giữa ban ngày tại “hiện trường lao động”. Sáng hôm sau, trước khi Cán bộ Trực Trại gọi các Đội lần lượt xuất Trại lao động, toàn thể trại viên được nghe đọc lệnh phạt đôi Tù Nam Nữ kia, mỗi người 7 ngày cùm một chân trong Nhà Kỷ Luật.

Hoàn tất khu trồng bắp trước cổng Trại xong, toàn thể các Đội lại được tập trung làm tiếp qua đám đất phía sau Khu giam Tù K1. Khu vực này rộng dài cỡ 4 cây số vuông, còn lưu nhiều dấu tích của rừng cây Buông bị chặt quang, để xây dựng Trại Thủ Đức Z30D. Nhiều gốc Buông già bị đào, đốt chưa cháy hết, nằm ngổn ngang xen giữa những cây non đang vươn lên, từ những hột già vương vãi, trôn vùi dưới lòng đất bấy lâu nay.

Cây Buông là loại trông giống như Dừa, có lá mọc thẳng từ thân cây ra, xoè tròn như những chiếc quạt lớn chung quanh thân y như lá Gồi. Lá non còn búp chưa xoè ở ngọn cây, có mầu vàng nhạt. Thường được người ta chặt đem về banh ra phơi khô, tước thành những dải mỏng dài như lá Gồi để làm nón, đan mũ hoặc các loại giỏ, bị, hay vật trang trí trong nhà. Cuống lá già được lấy để chẻ, truốt, cà bóng thành những chiếc đũa vân vân nâu rất đẹp, chẳng thua gì đũa làm bằng gỗ mun, bền không bị vênh cong theo thời tiết ẩm khô như đũa tre. Hồi còn ở bên K1 Trại Hàm Tân Z30C, ngày nào Đội chúng tôi cũng phải trích ra 2 người, ngồi trốn trong các bụi mát bên bờ sông, truốt nhiều chục đôi đũa Buông cho Quản giáo.

Gần bên hàng rào tre và kẽm gai phía sau Khu giam Tù K1, có một căn nhà 3 gian nền cao bằng đất nện. Vách khung tre, chát rơm trộn sét và bùn, mái tranh. Đàng trước có sân đất nện cứng bằng phẳng. Sát bên đầu hồi nhà có 1 căn bếp cất riêng rẽ, trông chẳng khác nào một trang trại riêng của tư nhân, hồi trước 30-4-1975. Đây là Nhà Lô cất giữ dụng cụ, và cũng là nơi cư ngụ của Quản giáo Đội Nông Nghiệp, quản lý “hiện trường lao động” này. Giữa khu Nhà Lô và con đường đất rộng 4 mét, chạy dọc theo hàng rào tre tươi tăng cường kẽm gai phía sau Khu giam Tù K1, là một dẫy 3 cái hồ nước lớn, bề ngang 50 mét bề dài cả 100 mét, đào liền bên nhau để thả cá, và một hồ chứa Phân Bắc lấy từ trong các nhà giam Tù đổ xuống hàng ngày.

Ngày đầu lao động tại đây, một trong các Đội Tù Nữ được chia khu vực làm việc sát ngay bên Đội chúng tôi. Các cô này sàn sàn ngang tuổi nhau cỡ trên dưới 30, sắc diện cũng dễ coi, dáng vóc cân đối nẩy nở, phơi bầy các đường cong rất khêu gợi, lao động rất khoẻ. Trong lúc lao động, các cô luôn luôn tìm cách gợi chuyện với anh em. Một đôi người trẻ tuổi trong Đội chúng tôi, muốn tỏ ra lịch thiệp với phái Nữ nên bắt chuyện. Được thể, các cô lân la lang bang hết chuyện này qua chuyện khác. Trước lạ sau quen, nói hoài hết chuyện lông bông tầm phào, chẳng còn biết nói gì. Bỗng nhiên, có một cô lên tiếng tỏ ý tội nghiệp cho chúng tôi, bằng những lời y chang Cán bộ Đảng và Nhà Nước Xã hội Chủ nghĩa đã xỉ nhục chúng tôi qua các bài học tập, nhai đi nhai lại suốt mấy năm qua. Cô ấy nói đại ý : “-Các Chú hồi trước oai phong lẫm liệt, kẻ hầu người hạ, chớ đâu phải cực khổ như bây giờ. Cũng tại hồi đó các Chú ham vui quá, lại chậm chân, không thì giờ này tụi cháu đâu có được gặp tại đây...”

Nghe tới đây, Tôi bực mình không rằn được cơn nóng giận, lớn tiếng dồn một hơi : “-Khen cho cô đã cải tạo tiến bộ lắm. Không quên những điều đã được Cách mạng dậy dỗ bấy lâu nay. Đúng là trong hàng ngũ Quân đội cũ, có một thiểu số người xấu lợi dụng ham chơi như cô nói. Nhưng nhóm thiểu số hèn đó đã cuốn gói chạy trốn từ 30-4-1975 rồi. Chúng tôi đây không thuộc hạng người đó, không nên vì “con sâu làm rầu nồi canh” mà vơ đũa cả nắm như vậy...”

Thấy Tôi lớn tiếng, anh Đội trưởng chạy đến hỏi đầu đuôi câu chuyện, rồi khuyên Tôi bớt nóng và dẫn Tôi ra chỗ khác làm. Bên phía các Tù Nữ, thấy Tôi nổi nóng phản ứng giữ rằn, không ậm ờ chịu chuyện như các bạn trẻ, nên chưng hửng cúi mặt im lặng lảng ra chỗ khác không nói nữa. Các Cán bộ Quản giáo và Cảnh vệ còn đang mải túm tụm trong nhà Lô, uống trà hút thuốc thơm do các Tự Quản Đội cung cấp, nên không biết. Nhờ thế, câu chuyện được chấm dứt yên ổn, không ai bị Cán bộ gọi “làm việc” phiền hà gì.

Phát quang, dọn cỏ, đắp đường chia lô, cuốc đất, lên luống, reo hạt bắp, trên toàn khu đất phía sau Khu giam Tù K1 xong. Toàn thể lại được điều động đi khai quang khu dọc 2 bên bờ sông, dài hơn cây số, từ ranh Đội Nữ nuôi Heo đến bờ Nam Đập nước. Ngày “ra quân” làm tại khu bờ sông, Đội chúng tôi bị gọi xuất trại sau cùng. Khi tới “hiện trường lao động”, các Đội khác đã bắt đầu công việc giao khoán cho họ. “Ban” Nhu cũng đang đứng bên đường, như đợi chúng tôi tới để giao việc. Thấy Đội chúng tôi tới, ông ta chỉ vào khu cây cỏ bụi gai dầy đặc nhất, xen lẫn những nùi kẽm gai rối, mảnh chai, rác rến xà bần đủ loại, mục nát, mùi rữa thối xông lên nồng nặc, và nhoẻn miệng cười nói : “-Mời các Đại tá lại đây, khu này hẹp và dễ ăn nhất để phần các Đại tá đây!”

Sau khi chỉnh đốn 2 hàng ngang, anh Đội trưởng hô lệnh cho Đội đứng nghiêm, và báo cáo nhân số trình diện Đội cho Quản giáo. Rồi anh ấy đi theo Cán bộ nhận khu lao động. Chúng tôi im lặng đứng đợi. Anh Đội trưởng chia khu cho từng Tổ xong, mọi người bắt tay vào việc ngay. Đến giờ giải lao, anh em đã dọn xong đám rác rến phía ngoài, tiến dần lên chỉ còn cách bờ sông chừng 50 mét. Từng nhóm 2, 3 người một, ngồi nghỉ ngay tại chỗ, bên gốc các bụi cây gai đang phá dở để ăn lót lòng.

“Ban” Nhu và bầy Cán bộ tùy tùng xuất hiện, “tham quan” kết quả tiến hành công tác của các Đội. Khi đi ngang qua chỗ chúng tôi đang ngồi, ông ấy lên tiếng khen : “-Già mà lao động tích cực lắm, chẳng thua gì bọn trẻ.” Rồi nói tiếp : “-Khu này cần phải khai quang thu dọn sạch sẽ. Xây dựng Khu Thăm Nuôi mới, có các phòng ngủ trang bị đầy đủ giường nằm rộng rãi, bàn ghế ngồi ăn uống đàng hoàng. Chung quanh có vườn cây cảnh mát mẻ, ngay bên bờ suối thơ mộng. Để gia đình tới thăm, ở lại được thoải mái hơn khu hiện có nơi cổng trại, có được không?”

Anh em im lặng không ai quay lại nhìn, không chào “Ban”, cũng không lên tiếng trả lời. Vì không biết ông ấy nói cho ai nghe. Nói với mình, hay nói với các Cán bộ đang lăng xăng chạy theo. Lỡ không phải nói với mình, lên tiếng sẽ mắc tội nghe lén chuyện của Cán bộ. Đặc biệt Cán bộ đó, lại là “Ban” Nhu (Giám thị kiêm Bí thư Đảng ủy của Trại) nổi tiếng nghiêm khắc, thì tránh sao khỏi kỷ luật. Do đó im lặng, như điếc không nghe thấy là hơn. Nhưng, ông ấy đứng lại không đi tiếp, quay mặt nhìn anh em chúng tôi, lộ vẻ không bằng lòng, đưa mắt nhìn quanh như đang soi mói tìm cái gì làm cho ông ấy khó chịu. Anh Đội trưởng Phan trung Chánh của chúng tôi rất tinh khôn lanh trí, đang đi theo, vội vàng lên tiếng : “-Kính thưa “Ban”, mấy bác này hơi nặng tai nên không nghe Ban nói, xin Ban thứ lỗi.” Rồi anh ấy cười cầu tài nói tiếp : “-Được Ban quan tâm “chiếu cố” như vậy thì may mắn quá rồi.”

Thấy vậy, Tôi làm như không biết có ông ấy đến gần, giật mình quay lại, nhấc nón cúi đầu cất tiếng chào thật lớn : “-Kính chào “Ban”. Anh em làm mệt được giờ giải lao lo lu bu ăn uống, không thấy “Ban” tới để chào kính, mong “Ban” miễn thứ. Khu này rác rưởi hôi hám như vầy, “Ban” chiếu cố làm chi cho nó dơ quần áo?”

“Ban” Nhu không bao giờ mặc đồng phục Công An, như Trại trưởng và các Giám thị trưởng các Phân trại. Lúc nào ông ấy cũng quần âu tây áo sơ mi sạch sẽ, hợp thời trang, là ủi thẳng nếp, đi giầy da thấp cổ bóng loáng, như một trang trại chủ. Khi đi ra ngoài Trại bao giờ cũng dùng xe hơi nhỏ, bốn cửa, có máy điều hoà không khí, có Sĩ quan tùy viên và Cảnh vệ tháp tùng chẳng khác nào các ngài Lãnh tụ cấp cao.

Thấy Tôi dở nón chào trịnh trọng như vậy, “Ban” Nhu đổi hẳn sắc diện, vui vẻ nói : “-Các Đại tá làm có mệt không? Tôi cho phép lúc nào mệt cứ ngồi nghỉ, ăn uống “bồi dưỡng” cho hết mệt rồi lại làm tiếp. Các Đại tá già rồi, không bắt buộc phải ganh đua chạy theo bọn trẻ mà sinh bệnh.” Rồi ông ta dơ tay chỉ chỉ khoảng không gian gần bờ sông nói tiếp : “-Tôi định cất căn nhà 5 gian lớn rộng rãi trên hòn đảo kia. Ba gian giữa để làm phòng khách cho gia đình “thăm nuôi” ngồi nói chuyện. Hai gian đầu nhà đặt giường gỗ rộng rãi cho 2 người nằm, có bàn ghế, ấm tách dùng trà, cho các gia đình nào được ở thăm qua đêm xử dụng. Trước sân nhà sẽ bắc một chiếc cầu gỗ đi vào bờ, như cầu Thê Húc ở Đền Ngọc Sơn tại Hồ Gươm Hà nội. Hai bên đầu cầu cũng sẽ có thêm 2 dẫy nhà, mỗi dẫy có 3, 4 phòng cho thăm nuôi ở lại qua đêm. Toàn khu đất này sẽ lập vườn hoa, có núi non bộ, có Nhà Ròng kiểu đặc biệt của sắc dân Thiểu số miền Cao nguyên, gọi là “Vườn Tao Ngộ”. Khúc quanh góc sông kia, sẽ neo một chiếc nhà gỗ nổi như chiếc thuyền rồng, có đủ mọi tiện nghi : phòng ngủ, phòng tắm và vệ sinh, phòng khách, phòng ăn, bếp, và lan can chung quanh để ngồi hóng mát câu cá. Các Đại tá có ý kiến gì không?”

Ông ấy ngưng nói cũng được đôi phút, không thấy anh em nào lên tiếng. Tôi lại nhanh nhẩu góp ý : “-Thưa “Ban”, trước nhất xin xác nhận rằng, chúng tôi là Đại tá thời Chế độ cũ. Bây giờ đang là Cải tạo viên dưới quyền quản lý của “Ban”, đại diện Đảng và Nhà Nước giáo dục cho thành người Xã hội Chủ nghĩa. Vậy xin “Ban” đừng gọi chúng tôi là Đại tá.” Tôi vừa nói vừa quan sát, thấy ông ấy gật đầu, sắc mặt tỏ lộ sự hãnh diện thoả mãn, đoán biết đã gãi đúng chỗ ngứa, nên trả bài tiếp : “-Cái kế hoạch của “Ban” rất vĩ đại đầy “tình người”. Nó sẽ giúp cho anh em “phấn khởi hồ hởi” tiếp tục cải tạo tốt hơn, để sớm được về hoà nhập với Xã hội tiếp tay xây dựng đất nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thịnh cường. Thân nhân cũng thấy được rõ hơn, “chính sách khoan hồng nhân đạo của Đảng và Nhà Nước” đối với Cải tạo viên. Đặc biệt là lòng đại lượng của “Ban”. Ông ấy gật đầu, nhếch mép cười không ra tiếng, quay lưng bước đi, kéo theo một lô Cán bộ An ninh, Hậu cần, Quản giáo đang lăng xăng chung quanh.

Hết khai quang các khu bên này sông, tiếp sang các khu khác bên kia sông. Lao động vòng quanh, vừa giáp vòng mặt địa bàn đất Phân trại K1, cũng tới mùa thu hoạch. Chủ yếu ở đây trồng mía, nhưng không thấy có lò nấu đường. Chắc để cung cấp miá cây, cho các nhà máy đường Nhà Nước, thay thế vào tổng số tiền, tính theo đầu Tù do Trại quản lý phải nộp hàng năm cho Nhà Nước, quy định từ đầu 1977 đến nay.

Đội trưởng, Đội phó, sau những kỳ họp Tự Quản Đội về nói lại cho anh em nghe : “Ban” Nhu cho biết Trại Z30D cam đoan với Nhà Nước tự túc một trăm phần trăm. Mọi chi phí điều hành, trả lương Cán bộ, nuôi Tù, duy trì cơ sở..., đều do Trại viên góp sức lao động, thực hiện các chương trình sản xuất kiếm tiền tự trang trải. Nhà Nước không phải cung cấp ngân khoản hàng năm cho Trại, mà còn được Trại đóng góp tiền vào Công quỹ Nhà Nước như đã ấn định.

Vì thế, ngoài chương trình trồng mía đại chà, Trại Z30D còn có mấy chương trình sản xuất khác cũng rất quy mô :

1.- Đốn gỗ rừng đem về xẻ thành ván, sản xuất các loại đồ gia dụng giường, bàn, ghế, tủ... hàng loạt theo đơn đặt hàng. Đã có lần bị cơ quan Kiểm Lâm Nhà Nước về điều tra rất gắt gao, nhưng nhờ tài “móc ngoặc” tuyệt vời của “Ban” Nhu, nên mọi chuyện êm thắm.

2.- Nuôi bò, nuôi heo, nuôi gà thịt, gà đẻ trứng, nuôi cá, để bán.

3.- Nhận “gia công” sản xuất quần áo may sẵn, cho một Công ty Quốc doanh “xuất khẩu” quần áo có trụ sở đặt tại Khánh Hội, Saigon.

Nhờ vậy, tại Trại Z30D Tù được cấp cơm ăn hàng ngày 2 bữa, theo “tiêu chuẩn” Nhà Nước quy định 11 kí lô gạo mỗi tháng. Không phải ăn độn, hoặc thay thế bằng bo bo, sắn (khoai mì), bắp, khoai lang như ở các Trại khác. Phần ăn sáng được Trại cho thêm ngoài tiêu chuẩn của Nhà Nước, bằng sắn, bắp, khoai mì hoặc khoai lang, do chính trại viên trồng và thâu hoạch tồn trữ trong kho của Trại. Riêng phần các Tự Quản Đội (Đội trưởng, Đội phó), mỗi Qúy (3 tháng) còn được lãnh phần “bồi dưỡng” ngoại lệ bằng cá tươi, trứng gà...

Nhiều năm liên tiếp, Trại Z30D được Nhà Nước tuyên dương là “Trại Cải tạo gương mẫu trên toàn quốc”. Thường xuyên có rất nhiều phái đoàn Trung ương và các địa phương khác, thay phiên nhau đến “tham quan học hỏi kinh nghiệm”.

Trưa cũng như chiều mỗi ngày, sau giờ lao động trước khi trở vào trại giam, những Đội không có “hiện trường lao động” riêng sát ven sông, không có bến tắm riêng, đều được dẫn tập trung đến phía trên đập nước để tắm giặt. Buổi tắm nào cũng đầy nghẹt Tù Nam, Tù Nữ, ào xuống nước tắm chung, trong khoảng không gian không dài hơn 100 mét. Có những Tù Nam Tù Nữ trẻ, quá tự nhiên, cởi bỏ hết quần áo lồng lộng chạy từ bờ xuống nước, coi như chung quanh mình chẳng có ai.

Một buổi chiều, Đội chúng tôi làm xa về đến nơi. Bến tắm sát gần mặt đập, đã bị các Tù Nữ và Tù Nam các Đội khác chiếm đặc. Quản Giáo Đội phải dắt chúng tôi đi dọc bờ sông, lên tuốt tận khúc sông cong đầu hồ đập, mới có chỗ xuống tắm. Đến nơi, chúng tôi vừa lần bước xuống nước, nhìn qua bờ bên kia thấy 4, 5 Cán bộ đứng bên “Ban” Nhu, chỉ chỉ về phía bờ bên này, nói gì với nhau không biết. Bỗng nghe “Ban” Nhu lớn tiếng thét : “-Tắm truồng, thiếu văn hoá, không cho tắm nữa, đi lên hết!” Các Cán bộ đứng gần bên “Ban” Nhu, cũng đưa tay hất hất ra hiệu, miệng hô : “-Đi lên! Đi lên! “Ban” ra lệnh đi lên hết!”

Trong khi mọi người đi lên, Tôi vẫn bơi ào ra giữa dòng sông đứng tắm cách bờ chừng 10 mét, như không hề nghe thấy lệnh đuổi lên không cho tắm. Đến khi mọi người lên hết, giữa dòng chỉ còn Tôi và anh bạn trẻ thuộc Đội khác, vẫn đứng thản nhiên vò đầu kì cọ mình tiếp tục tắm. Tôi đứng quay lưng về phía “Ban” Nhu, nghe tiếng hét lớn : “-Anh kia có lên không?” Tôi quay lại dõng dạc trả lời : “-Tôi đâu có tắm truồng”. “Ban” Nhu gằn giọng hét tiếp vẻ giữ rằn bực tức : “-Không tắm truồng, cũng phải lê.ê.ên!!!”

Tôi thủng thẳng bơi vào bờ bên này sông, trong khi anh bạn kia đi lên bờ sông bên “Ban” Nhu đang đứng. Quản giáo Đội đến gần Tôi đốc nhắc : “-Anh Hùng, mặc quần áo lẹ lên đứng vào hàng.” Các bạn cùng Đội đứng gần, xúm bao quanh như muốn che không cho ai thấy Tôi, miệng cũng nhắc : “-Lẹ lên đứng vào hàng, “Ban” Nhu đang đi tới kià.” Tôi không thấy gì, nhưng bạn bè chung quanh đều biết “Ban” Nhu và đám Cán bộ tháp tùng, đang xầm xầm chạy ngang qua cầu trên đập nước, sang đây tìm bắt Tôi.

Họ vừa lách đám đông Tù, đi tới phía Đội chúng tôi đang đứng, đảo mắt lơ láo tìm, miệng hỏi : “-Ai vừa dưới sông bơi lên đâu?” Mọi người im lặng không lên tiếng, ngay cả Cán bộ Quản giáo của Đội cũng không báo cáo chỉ điểm Tôi.

Cảm kích lòng tốt của mọi người, cũng như không muốn mọi người bị làm phiền, Tôi cương quyết dơ tay nói lớn : “-Tôi vừa ở dưới sông bơi lên đây.” Đồng thời dơ cao chiếc quần cụt còn ướt sũng lên, phân bua : “-Tôi đâu có tắm truồng, quần tắm của Tôi còn ướt sũng đây.” Cũng đúng lúc đó “Ban” Nhu tới nơi, nạt lớn : “-Đem về cùm. Đem đi! Đem đi ngay!”

Liếc thấy ông ta tỏ vẻ rất giận giữ, hình như muốn xấn tới đánh, mấy Cán bộ đang đứng bu quanh Tôi, đốc nhắc : “-Đi! Đi! Khẩn trương! Khẩn trương!” Tôi không nói gì nữa, lẳng lặng đeo bị đựng Gô nước uống và thuốc men kẹo bánh dùng trong giờ lao động, đi giữa mấy người Cán bộ xúm xít bao quanh, dẫn về Khu giam. Tới nơi, họ giao Tôi cho Cán bộ Trực Trại, và nói : “-Đưa vào Nhà Kỷ Luật cùm một chân, theo lệnh “Ban” Nhu.”

Cán bộ Trực Trại dẫn Tôi qua cổng Khu giam, qua sân tập kết, qua vườn cây trước Hội trường, đi dọc bên hông Hội trường ra khu đất trống phía sau, có Nhà Kỷ Luật ở chính giữa. Ông ấy mở khoá cửa đầu nhà, phía bên cùm Tù Nam, đưa Tôi vào. Vừa lọt qua cửa, Tôi không còn nhìn thấy gì, bên trong tối hù vì thiếu ánh sáng. Sau vài phút định thần, mới nhận thấy phiá bên phải sau cửa vào, có một hành lang rộng 1 mét rưỡi, dọc suốt theo bức tường mặt trước nhà. Ngay sau cửa vào, một khoảng trống rộng 2 mét, dài suốt đến tường phía lưng căn nhà, có đặt một chiếc bàn dài. Trên mặt bàn ngổn ngang những thứ Tù không được mặc trên người, hoặc đem theo vào phòng cùm. Phần còn lại, được chia thành 3 phòng cùm liên tiếp, ngăn cách nhau bởi tường xây bằng gạch, có cửa sắt khoá bên ngoài riêng cho từng phòng.

Tôi bị buộc bỏ túi đựng đồ riêng, bỏ thắt lưng quần, giầy, nón vải, và kính cận thị đang đeo, đặt gọn trên một góc bàn. Trên người chỉ còn 1 quần, 1 áo, đi chân đất vào nằm trên bệ xi măng trong phòng chót. Anh “Thi Đua” đi theo Cán bộ Trực Trại, bảo Tôi dơ một chân lên cho Cán bộ luồn cùm vào, khoá trái bên ngoài tường phòng giam. Rồi ông ấy khoá cửa phòng giam, và đi ra ngoài khoá cửa Nhà Kỷ Luật.

Thế là Tôi bắt đầu nếm thêm mùi “Nhà Tù Tý Hon”, trong Trại Tập trung Cải tạo Z30D, của Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.







NẾM MÙI NHÀ KỶ LUẬT Z30D


Được Ta, bầy muỗi hoan ca,
Đua nhau vồn vã ùa ra đón chào.
Thi đua thưởng thức máu đào,
Vo vo khen vị ngọt ngào không tanh.
Luân phiên hút suốt năm Canh,
Say sưa bội thực lăn kềnh ngay đơ.
Phần Ta, khua đập mệt phờ,
Trắng đêm không ngủ đợi chờ Rạng Đông.
Cổ chân kẹt cứng trong gông,
Ngồi lên nằm xuống, đau hông nhức mình.
Vuốt râu cọp, chịu nhục hình,
Mới hay Thù Bạn, nhân tình khác nhau.


K1 (Trại Thủ Đức, Hàm Tân, Thuận Hải)
Hè 1984.

HOME

(Còn tiếp..)
















Chương 33


TƯ TƯỞNG ĐỘC ĐÁO CỦA BÁC HỒ : “ĐỪNG GIẾT CHÚNG NÓ,
BẮT CHÚNG NÓ LÀM, NGÀY KHÔNG ĐỦ TRANH THỦ LÀM ĐÊM..." trong

Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam

Nguyễn Huy Hùng


Mỗi ngăn cùm trong Nhà Kỷ Luật Z30D, có 2 bệ nằm bằng xi măng, dài 2 mét rưỡi suốt từ tường trước ra tường sau, rộng 70 phân, cao hơn mặt nền nhà 50 phân. Hai bệ cách nhau bởi một đường đi rộng 60 phân, dọc chính giữa phòng. Bên hông mỗi bệ nằm, vào khoảng giữa phiá cạnh lối đi, có một lỗ hổng vuông hõm sâu, vừa đủ để chiếc keo nhựa ni-lông nhỏ làm bô đựng, cho người bị cùm tiểu tiện đại tiện vào đó suốt ngày đêm.

Hai ngăn gần cửa ra vào Nhà Kỷ Luật, đang cùm 4 người. Tôi bị cùm một mình vào ngăn thứ 3, trong cùng sát vách các ngăn cùm Tù Nữ trong nửa bên kia Nhà Kỷ Luật. Đợi khi Cán bộ Trực Trại cùm Tôi xong và rời xa Nhà Kỷ Luật, mấy Bạn bị cùm trong 2 ngăn kế bên, lên tiếng hỏi thăm lý do bị kỷ luật, và thuộc Đội nào? Tôi kể cho họ biết đầu đuôi câu chuyện. Phía nửa bên kia Nhà Kỷ Luật, cũng có các Tù Nữ đang bị cùm. Họ gọi vọng sang hỏi thăm xem ai mới vào nhập bọn? Mấy bạn Tù Nam trả lời cho họ biết : “Một Bố già thuộc Đội 23, chống lệnh “Ban” Nhu ngoài bến tắm bên Đập nước.”

Mọi người im lặng, chỉ còn những tiếng vo vo của bầy muỗi, gọi nhau lăn xả vào đốt mặt, tay, nhất là bàn chân bị cùm không cựa quậy được. Tối như bưng chẳng nhìn thấy gì. Không biết muỗi ở Z30D này lớn cỡ nào? Cái vòi của chúng dài đến nỗi, đâm được qua cả quần áo, đốt vào lưng vào đùi, buốt như bị kiến lửa cắn.

Lúc xẩm tối vào cùm, trong Nhà Kỷ Luật nóng như nung, vì mặt Trời thiêu đốt mái tôn cả ngày. Ngăn cùm rộng 2 mét dài 2 mét rưỡi, chung quanh tường kín mít. Chỉ có 1 lỗ thông hơi, 20 phân vuông gắn song sắt trên cửa ra vào ngăn cùm, nên hơi nóng không thoát ra ngoài được. Mồ hôi ra nhễ nhại, ướt đẫm cả quần lẫn áo. Nhưng đến 9 giờ, kẻng lệnh Trại báo giờ ngủ, không khí trong ngăn cùm đột ngột đổi sang lạnh, như nằm trong hầm nước đá. Càng về khuya, mái tôn tích tụ khí sương đêm, toả xuống càng lạnh hơn.

Nằm ngửa trên bệ xi măng, không chiếu, không gối, không mùng, không mền, xoay người nằm nghiêng không được, đau xương sọ đầu hết sức. Hai tay bận bịu thường xuyên khua đập muỗi, đang thi nhau bâu quanh mặt, quanh mình để hút máu, chẳng rảnh để dùng đỡ thay gối. Chân trái bị cùm, treo lơ lửng 40 phân cao hơn bệ nằm, ngay đơ cứng ngắc không nhúc nhích được, máu lưu thông bị cản trở, tê mỏi đau nhức lạnh cóng. Ngồi lên vói tay khua đuổi muỗi không tới, còn thêm nạn đau hông mỏi lưng, vì dùng gân bụng co người ngồi lên nằm xuống hoài. Cởi áo ra dùng làm quạt xua, thân mình trần trụi muỗi nhào vô đốt còn tàn bạo hơn. Đành chịu để cho chúng tự do thao túng, chiếc chân vô phước bị cùm. Hút máu mãi no chán rồi chúng cũng phải thôi, đi kiếm chỗ ẩn nấp chờ tiêu hoá.

Hì hục đánh lộn với muỗi, suốt đêm chẳng ngủ được. Đã không ngủ được, lại mót tiểu hoài. Nước trong người hụt dần bằng đường tiểu, bằng mồ hôi, đâm ra khát, khô môi khô miệng. Gô nước uống mang theo, phải để lại trên bàn ngoài hành lang, làm sao lấy? Đâu có kêu “cấp cứu” để xin nước uống được. Lỡ họ không cho, còn đánh mình vì chuyện không cần “cấp cứu” mà làm phiền thì sao? Các bạn trong các ngăn kế bên, cũng bị cùm nằm một chỗ như mình, chẳng giúp gì được, cầu viện vô ích. Tôi đành cởi áo còn ẩm mồ hôi, nắm lại thành một nùi, đưa lên mồm nhấp nhấp mút mút, hy vọng chất muối trong người thoát ra theo mồ hôi, sẽ kích thích nước miếng trong miệng tiết ra cho đỡ khát. Để giữ cho áo luôn luôn ẩm có nước mút vô miệng, mỗi lần mót tiểu Tôi phải tiểu vào áo thay vì tiểu vào bô. Phải chịu đựng như vậy, cho đến lúc Cán bộ Trực Trại tới mở cửa kiểm danh sáng. Một trong các Tù được mở cùm đi đến từng bệ nằm, gom các bô phân riêng của mỗi người đem đi đổ, Tôi mới nhờ lấy giùm Gô nước vào để uống.

Bên trong Nhà Kỷ Luật nồng nặc mùi xú uế, do các Tù bị cùm tiểu đại tiện vào những chiếc bô ni lông nhỏ không nắp đậy, để ngay trong lỗ hổng dưới bệ nằm. Cán bộ Trực Trại không vào trong kiểm tra, ủy thác cho anh Trưởng Ban Trật Tự Thi Đua làm thay. Nhờ thế, anh “Thi Đua” một Sĩ quan cỡ trên 40 tuổi, Tôi không nhớ Tên và Cấp bậc, đến gần hỏi nhỏ : “-Đại tá có cần giúp đỡ hay nhắn ai ngoài Đội điều gì không?” Thấy anh “Thi Đua” tự nguyện sốt sắng. Tôi mạnh dạn nhờ tiếp xúc với anh Trung tá Sáu Đội phó Đội 23, yêu cầu mỗi buổi gói một ít đường cát và chà bông đem vào giùm cho Tôi dùng, nếu không có gì nguy hại cho anh ấy. Anh “Thi Đua” gật đầu nói là được, không khó khăn.

Buổi trưa đến phát cơm, anh “Thi Đua” cho biết, phải đợi giờ anh em đi lao động về nghỉ, mới tìm gặp anh Sáu Đội phó được. Đồng thời nói nhỏ cho biết, hồi sáng có 2 Đội anh em trẻ Biệt Kích Phục Quốc gốc Đà Nẵng, vẫn thường ghé thăm Đội chúng tôi, đình công không chịu xuất trại lao động. Hiện đang bị cô lập tại Hội trường, chờ Ban Giám Thị Phó Trại trưởng Hậu cần vào làm việc, tìm hiểu lý do và giải quyết. Tôi giật mình lo, không biết lý do nào anh em làm vậy. Nếu vì chống đối việc Tôi bị cùm, nhiều người sẽ mang vạ lây tội nghiệp. Ngoài ra, nếu không tinh khôn lái hướng đấu tranh qua mục tiêu khác, bản thân Tôi sẽ lãnh hậu họa rất trầm trọng, vì tội lãnh đạo chống đối Ban Giám Thị Trại giam.

Đến chiều, khi đem cơm nước vào tận các ngăn cùm phát cho từng Tù một, anh “Thi Đua” móc trong túi quần ra, đưa cho Tôi 2 gói nhỏ đường và chà bông. Tôi đổ ngay đường vào Gô nước, chà bông trộn lộn vào Ca cơm ăn liền. Vo viên 2 mảnh giấy, bỏ xuống cạnh bô đựng phân và nước tiểu, để dành dùng sau khi giải quyết việc nộp thuế cho Trại nuôi cá bón rau. Trong lúc múc cơm vào Ca cho Tôi, anh “Thi Đua” cho biết việc anh em Biệt Kích đã được giải quyết. Tất cả bị chuyển vào giam trong Khu Cách Ly, chờ làm việc tiếp. Khu Cách Ly là nơi chúng tôi bị giam 2 ngày liền để làm thủ tục, hồi mới tới K1 Trại Z30D này. Anh em Biệt Kích đưa ra 2 lý do để đình công, và yêu cầu Ban Giám Thị phải giải quyết xong, mới chịu đi lao động trở lại :

1.-Cán bộ Quản giáo Đội thiếu lịch sự, cư xử ăn nói tục tằn “thiếu văn hoá” với anh em, trái với Nội quy Trại. Yêu cầu Quản giáo Đội phải công khai xin lỗi anh em, và đổi Quản giáo khác.

2.-Anh em phải lao động cực nhọc vất vả, Ban Ẩm Thực Trại không bao giờ chịu dùng hết số tiền Nhà Nước cho anh em được quyền hưởng hàng ngày, nên thức ăn rất nghèo nàn. Yêu cầu Ban Giám Thị phải giải quyết và cho biết lý do tại sao?

Trong thời gian bị kỷ luật, chỉ được ăn ngày 2 bữa, theo “tiêu chuẩn” 9 kí lô gạo một tháng. Mỗi bữa chỉ được non nửa Ca cơm, chớ không được đầy Ca như ăn theo “tiêu chuẩn” bình thường 11 kí. Nhưng, không phải lao động, suốt ngày đêm nằm ngồi yên tại chỗ, không hao tổn năng lượng bao nhiêu, lại có đường và thịt chà bông tăng cường lén ngày 2 bữa, nên Tôi yên tâm hy vọng có thể chịu đựng được dài dài nhiều ngày.

Vì có vụ 2 Đội anh em trẻ đình công, Tôi bị cùm suốt 2 ngày liền, không được dẫn ra “làm việc” với Cán bộ An ninh như thông lệ. Chắc là còn chờ khai thác anh em trong các Đội đình công, kiếm kẽ hở rồi dựa vào đó buộc cho Tôi, tội lãnh đạo Tù chống đối Ban Giám Thị chăng? Tôi hồi hộp đợi chờ, và sẵn sàng gánh chịu những gì tồi tệ nhất sẽ đến với mình. Nhưng may thay, anh em rất khôn ngoan, không một chỉ dấu nào cho phép Trại kết luận, hành động của anh em có liên hệ tới Tôi. Mãi đến chiều ngày thứ 3, Cán bộ Trực Trại và anh “Thi Đua” mới vào Nhà Kỷ Luật mở khoá cùm, đưa Tôi ra Hội trường “làm việc” với Cán bộ An ninh.

Mở màn, Cán bộ An ninh hỏi : “-Anh đã nhận thấy sai trái của mình chưa?” Tôi trả lời : “-Tôi có làm gì sai trái đâu mà nhận.” Ông ta hỏi tiếp : “-Thế tại sao anh lại bị cùm?” Tôi thong thả chậm rãi kể cho ông ta nghe, câu chuyện bị “Ban” Nhu bắt đem cùm. Dĩ nhiên là phải thêm bớt cho khác sự thật đôi chút, để tránh tội “chống lệnh Ban Giám Thị Nhu”, như sau :

“-Đội chúng tôi được đưa ra bến Đập nước tắm, chung với tất cả mọi người. Nơi gần bờ đông người tắm nên nước đục ngầu. Tôi phải bơi ra giữa dòng tắm nước trong, như nhiều người vẫn làm xưa nay. Trong khi Tôi cúi đầu trong nước bơi ra giữa dòng sông. “Ban” Nhu đứng trên bờ bên kia sông, ra lệnh gì Tôi đâu có nghe thấy. Lúc vừa ngưng bơi ngẩng đầu lên, nghe thấy tiếng vọng : “-Tắm truồng, thiếu văn hoá, không được tắm, đi lên!” Bản thân Tôi có mặc quần cụt đàng hoàng, đâu có ở truồng, nên yên tâm tiếp tục đứng tắm.

Bỗng nghe tiếng “Ban” Nhu quát phía sau lưng : “-Anh kia có đi lên không?” Tôi quay lại trả lời : “-Tôi đâu có tắm truồng.”. “Ban” Nhu quát vẻ giận dữ : “-Không tắm truồng cũng phải lên.” Tôi tuân lệnh bơi vào bờ, phía Đội xuống tắm bên bờ sông đối nghịch với bờ nơi “Ban” Nhu đứng. Cả Cán bộ Quản giáo Đội và mọi người đều thấy rõ ràng, Tôi có mặc quần tắm đàng hoàng. Sở dĩ “Ban” Nhu ra lệnh các Cán bộ sang bắt Tôi, vì “Ban” tưởng Tôi bơi qua bờ bên kia để trốn tránh.

Thật tình, Tôi không nghe được đầy đủ lệnh của “Ban” Nhu, nên khi “Ban” hỏi Tôi mới trả lời như vậy. Nếu biết rõ vì mấy người tắm truồng, thiếu văn hoá, “Ban” Nhu phạt đuổi tất cả mọi người lên. Tôi đâu có ngu dại gì, dám trả lời “Ban” như vậy. Sự thực là vậy, bây giờ tùy quyền “Ban” Nhu đại lượng tha thì Tôi cám ơn, còn nếu “Ban” Nhu không bằng lòng, muốn kỷ luật thế nào Tôi cũng phải tuân hành đâu dám kêu ca gì.”

Cán bộ An ninh đưa cho Tôi mấy tờ giấy trắng, cây bút Bic và nói : “-Thôi được, anh ghi lại đầy đủ vào đây, để trình Ban Giám Thị xét.” Tôi ngồi cặm cụi viết xong ký tên và nộp. Cán bộ An ninh ngồi đọc lại kỹ lưỡng, chấp nhận, rồi đưa Tôi trở lại Nhà Kỷ Luật cùm vào chỗ cũ.

Chiều đó, có 2 bạn bị cùm ở ngăn kế bên, hết hạn phạt được tha về Đội. Trước khi ra khỏi Nhà Kỷ Luật, các bạn ấy đến cửa phòng cùm Tôi, cho biết là hàng ngày vào chiều tối, các bạn ấy sẽ đến bên ngoài tường, chỗ có lỗ thông hơi nơi hành lang ngay phía trước cửa ngăn giam Tôi, để thăm chừng xem Tôi cần gì, các bạn ấy tìm cách tiếp vào cho. Tôi trả lời cám ơn, và nói các bạn đừng làm vậy. Cán bộ bắt gặp sẽ bị phiền hà. Chắc Tôi cũng không bị kỷ luật lâu đâu.

Hai ngày sau, vào lúc nhá nhem tối, Cán bộ An ninh vào tận nơi đang cùm Tôi, đưa ra một tờ Biên bản bảo Tôi đọc đi rồi ký vào. Tôi nói : “-Tôi cận thị, chữ nhỏ như vầy không có kính cận, trong phòng cùm lại thiếu ánh sáng đâu có thấy gì mà đọc, xin Cán bộ dẫn Tôi về Đội để lấy kính cận.” Ông ta nói : “-Để Tôi đọc cho anh nghe.” Rồi ông ta đọc, đại ý nói là Tôi nhận tội trong khi cùng với Đội đi tắm tại sông, đã bơi ra nơi khác ngoài chỗ quy định của Cán bộ. Tôi lên tiếng phản đối : “-Tôi đâu có làm như vậy mà buộc Tôi phải nhận.” Ông ta nói tiếp : “-Thôi ký vào đi cho nó xong, mai trở về Đội đi làm như thường.” Rồi ông ấy nói tiếp : “-Anh thật là xui, gặp ngay lúc “Ban” đang nóng giận, cần có “đối tượng” để thị uy duy trì kỷ luật.” Tôi suy nghĩ trần trừ đôi phút, rồi cũng đành phải ký. Nhưng ký đè lên mấy dòng dưới cùng, làm như không nhìn thấy chữ trong giấy, nên ký lộn chỗ.

Sáng hôm sau, khoảng gần giờ nghỉ giải lao giữa buổi lao động sáng, Cán bộ Trực Trại và anh “Thi Đua” vào Nhà Kỷ Luật, mở cùm thả Tôi trở về Đội. Về đến phòng, anh Trực Nhà chạy ra ôm Tôi bắt tay chia vui tíu tít, và nói : “-Hên lắm, được tha sớm 2 ngày đấy Bồ ạ! Hôm nọ nghe đọc lệnh cùm một tuần lễ lận.”

Suốt 5 ngày 5 đêm bị cùm chân, ăn, uống, ngồi, nằm, tiểu tiện, đại tiện ngay tại chỗ, đâu có được đánh răng rửa mặt. Râu tóc mọc bờm xờm. Ngày đêm mồ hôi ra ướt rồi khô lại, cáu ghét đầy mình, quần áo hôi hám. Các lốt muỗi đốt ngứa ngáy gãi sứt da thành ghẻ, mần đỏ cùng mình vô cùng khó chịu. Tôi mượn thùng đi ra vòi nước công cộng, lấy nước tắm cho nó thoải mái. Ra đến nơi, Tôi để thùng xếp hàng ở phía trót như thường lệ. Mấy em Tù Hình Sự khai bệnh ở nhà không đi lao động, cũng đang chờ trực lấy nước, thấy Tôi vừa ở Nhà Kỷ Luật ra, lên tiếng : “-Bố già chịu chơi, mời Bố lấy trước đi. Phòng Bố ở Nhà nào? Để chúng con xách tới giùm cho Bố khỏi mệt.” Tôi thật không ngờ, nhân cách của Tù Hình Sự tại miền Nam Việt Nam khác hẳn Tù Hình Sự ngoài Bắc. Điều này cho thấy, kết quả chương trình Công dân giáo dục tại miền Nam theo Văn hoá Nhân bản cổ truyền của Dân tộc, khác hẳn với lối giáo dục Công dân của miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa lai căng theo Cộng sản Nga Tầu.

Ngày hôm sau, Tôi khai bệnh không đi lao động. Anh bạn Tù làm Y tá, phụ cho Cán bộ Y tế tại Bệnh xá, đo thân nhiệt và mạch tim của Tôi, trình Cán bộ cho nghỉ lao động vì sốt và cao áp huyết. Nhờ sự giúp đỡ của anh bạn Tù Y tá tốt bụng này, Tôi được nghỉ ở nhà 1 tuần lễ thoải mái. Lợi dụng thời gian tới khám bệnh lãnh thuốc, Tôi ghé thăm anh Đại tá Hồ Hồng Nam (Chiến tranh Chính trị) cùng Đội, nằm điều trị cả mấy tuần lễ vì đại tiện ra máu. Chẳng biết vì sao không được di tản đi Bệnh Viện Phan Thiết. Thấy Tôi, anh Nam nói ngay cho biết : “Anh em ở Bệnh Xá và “Thi Đua” đã bàn nhau. Nếu sau 5 ngày Tôi bị cùm không được tha, sẽ xúi Tôi kêu “cấp cứu” ban đêm, để họ trình Cán bộ Y tế cho ra Bệnh xá nằm điều trị.”

Nhân dịp này, Tôi cũng gặp một người quen thân cũ. Anh bạn Tù (Trung tá Quân Cụ) đang làm Anh Nuôi, nấu cơm, cháo, thức ăn và nước chín cho bệnh nhân tại Bệnh Xá. Vợ anh ấy là một Nữ Quân Nhân đã giải ngũ, mở trường dậy đánh máy chữ ở Saigon. Hồi những năm cuối thập niên 1950, Chị ấy làm việc chung với Tôi tại Bộ Chỉ huy Viễn Thông Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam. Nhờ thế, hàng ngày Tôi được anh ấy cho vào tắm nhờ, nơi vòi nước riêng của Bệnh Xá, thay vì phải ra vòi công cộng đứng xếp hàng chờ trực lấy nước. Mấy tháng sau, không biết vì lý do gì, anh bạn tốt bụng này bị chuyển đi Trại kiên giam Xuân Phước, tuốt ngoài miền Trung Việt Nam. Anh em Tù ai cũng buồn, thương cho sự không may đã đến với anh ấy.

Tôi nghỉ bệnh không đi lao động được 3 ngày. Quản giáo Đội và Cán bộ Trực Trại bất thần vào phòng giam, kiểm tra xem tình trạng sức khoẻ thực sự của Tôi ra sao? Các ông ấy bắt gặp lúc Tôi đang ngồi trên sàn ngủ, ba hoa oang oang nói chuyện với mấy Tù bệnh thuộc Đội bên cạnh. Ngày hôm sau Tôi vẫn nghỉ bệnh. Chiều về, anh Đội trưởng đến gặp cho biết, Cán bộ Quản giáo yêu cầu Tôi đi lao động. Tôi trả lời : “-Nhờ anh trình lại Cán bộ giùm, Tôi bị kỷ luật nên suy nhược mới bệnh. Cán bộ Y tế kiểm tra sức khoẻ hàng ngày, thấy Tôi bệnh thật mới cho nghỉ. Khi nào hết bệnh Tôi sẽ đi lao động.”

Hai ngày tiếp theo, Tôi vẫn nghỉ. Tối đến, lúc 2 anh em ngồi ăn cơm chung, anh Nguyễn văn Sáu Đội phó nhỏ nhẻ nói : “-Anh nên đi lao động trở lại đi, Quản giáo cho hay là “Ban” Nhu theo dõi biết anh đã khoẻ mà vẫn cớ bệnh nghỉ. “Ban” Nhu tỏ vẻ không bằng lòng, e sẽ có chuyện không hay, anh nên suy nghĩ lại. Lúc này Đội đang thu hoạch bắp ở khu vực gần Hồ Cá, phía sau lưng Khu giam này, không có gì vất vả. Cán bộ Quản giáo nói, anh đi làm sẽ thu xếp cho anh làm công việc nhẹ ít lâu.” Bữa đó là chiều thứ Bẩy, Tôi nói cho anh Sáu yên tâm : “-Thôi được để thứ Hai, Tôi sẽ đi lao động trở lại.”

Ngày Chúa Nhật cả trại nghỉ lao động, các bạn Tù cấp bậc nhỏ quen biết mò đến thăm chúng tôi rất đông. Chắc có “an ninh chìm” báo cáo sao đó. Bỗng dưng thấy “Ban” Nhu xuất hiện, đứng phía ngoài cửa sổ phòng ăn, quan sát hỏi : “-Bác nào mới bị kỷ luật?” Tôi lên tiếng : “-Thưa Ban, Tôi.” Ông ta hỏi tiếp : “-Bác có giận tôi không?” Tôi trả lời : “-Đâu dám, Tôi vi phạm lệnh “Ban” thì phải chịu kỷ luật, đâu có gì để phiền giận. “Ban” là người đại diện Đảng và Nhà Nước giáo dục chúng tôi cải tạo.” Ông ta nhếch miệng cười không ra tiếng, và rời phòng ăn của chúng tôi đi sang các nhà khác. Chắc cũng để quan sát hoạt động của anh em Tù, trong ngày nghỉ như thế nào.

Một tuần lễ sau, Đội chúng tôi phải di chuyển sang ở dẫy nhà cuối cùng bên Khu giam Tù Nữ. Dẫy nhà này có hàng rào kẽm gai, ngăn cách hẳn với các nhà giam Tù Nữ ở ngay phía trước, có cổng ra vào riêng, y như dẫy nhà Cách Ly bên Khu giam Tù Nam vậy. Trong phạm vi phần đất thuộc Khu giam Tù Nữ, Tù Nam bị cấm tuyệt đối không được lai vãng vào bất cứ giờ giấc nào, ngoại trừ Đội chúng tôi và Đội Đan Lát gồm toàn những người già tàn tật bệnh hoạn, bị giam trong cùng một Khu với Tù Nữ.

Dẫy nhà giam chúng tôi, có lẽ đã được xây dựng từ hồi mới khởi dựng Trại Z30D, vách gỗ mái tôn. Sàn ngủ 2 tầng làm bằng ván mỏng, lâu ngày khô cong vênh lên võng xuống. Người nào không may, bị nằm ngay chỗ giữa 2 tấm ván vênh, coi như ngày đêm phải chịu thêm một cực hình đau khổ. Nhà được ngăn thành 2 nửa có cửa ra vào riêng biệt, để giam 2 Đội khác nhau. Cả hai bên đều được kiến trúc như nhau, phía sát đầu nhà là phòng ngủ, tiếp theo là phòng vệ sinh có một kệ gỗ cho Tù cất đồ tiếp tế phẩm riêng. Ăn uống ngay nơi chỗ ngủ của mình, hoặc ngồi chồm hổm ngoài sân trước dẫy nhà.

Nửa nhà bên này giam Đội chúng tôi. Nửa nhà bên kia giam Đội Đan Lát các vật dụng bằng tre hoặc lá buông. Trong Đội Đan lát, Tôi có dịp gặp anh bạn Đại tá Tôn Thất Đông (Sĩ quan tốt nghiệp Trường Võ Bị Quốc gia Việt Nam sau Tôi một Khóa), trước 30-4-1975 anh ấy làm Dân Biểu hay Nghị Sĩ gì đó trong Quốc Hội Việt Nam Cộng Hoà.

Dọc trên tường trước và tường sau phòng ngủ, đều có những khung cửa sổ rộng cao, đặt song sắt, không cánh cửa. Bên ngoài có thể quan sát các hoạt động bên trong rất dễ dàng. Ngược lại, ở bên trong nếu ngồi sát cửa sổ, cũng có thể quan sát được những gì đang xẩy ra bên ngoài. Trước dẫy nhà giam chúng tôi, có một khoảng sân rộng 50 mét, mùa mưa lầy lội bùn ngập lên đến cổ chân. Tiếp theo là một hàng rào kẽm gai đan ô vuông, cao 3 mét. Thêm một khoảng đất trống chừng 5 mét nữa, đến dẫy nhà giam Tù Nữ, tường gạch mái tôn, cũng có dẫy cửa sổ cao rộng đặt song sắt, không cánh cửa.

Bị giam tại đây, anh em chúng tôi gặp phải hoàn cảnh thật oái oăm. Đối với những bạn coi nặng tinh thần đạo đức cách tuyệt đối, cảm thấy khó chịu bực mình. Nhưng với các bạn ưa nghệ thuật, lại thấy thích thú. Vì hàng ngày, được rửa mắt bằng những hoạt cảnh Tiên nữ Trần gian khoả thân, không mất tiền mua vé. Số là, trong dẫy nhà giam Tù Nữ ngay trước dẫy của chúng tôi, có vài ba Tù Nữ nằm sàn ngủ tầng trên. Gần mái tôn nóng nực, nên sau khi điểm danh vào nhà giam, và trong những ngày nghỉ Lễ, Chúa Nhật, các cô thường thích khoả thân cho nó mát mẻ. Độc hơn nữa, mỗi lần khoả thân như vậy, các cô lại cố tình gây tiếng động khiêu khích, để lôi cuốn sự chú ý của anh em trong nhà giam chúng tôi.

Phải chăng, đây là đòn cân não? Ban Giám Thị Đại úy Công An Nhân dân Trịnh văn Nhu, Bí thư Đảng ủy Trại giam, người gốc Thanh Hoá, nổi tiếng thủ đoạn, tàn bạo, lấn lướt cả quyền của Trại trưởng, muốn chơi khăm hành hạ tinh thần anh em Tù cấp Đại tá Quân lực Việt Nam Cộng Hoà?

Anh em ở đây lâu trước chúng tôi, cho biết : “Ban” Nhu hồi cuối năm 1975 là Thượng sĩ Công An Nhân dân, đi cùng các Tù Nữ từ Trại giam nữ tội phạm tại Quận lỵ Thủ Đức, di chuyển về đây xây dựng Trại Thủ Đức Z30D này. Đến năm 1984, ông ấy đã leo lên đến cấp bậc Đại úy, Giám Thị, Bí thư Đảng ủy, một tay thâm độc lừng danh.” Tất cả Tù lẫn Cán bộ, kể cả Trại Trưởng, Trại phó Hậu Cần và các Đại úy Giám thị các Phân trại thuộc Trại Z30D này đều ngán. Vì hình như ông ta có gốc dựa rất lớn, Cục trưởng Cục Trại giam hay Phó Bộ trưởng trong Chính phủ tại Hà Nội gì đó.

Hồi còn ở ngoài Trại Thanh Phong Thanh Hoá, có tin đồn chúng tôi sẽ về Trại Thủ Đức. Anh em cứ tưởng là Trại giam nữ tội phạm tại Quận lỵ Thủ Đức có từ hồi trước 30-4-1975, không dè lại là đây.

Nhân dịp Đại Lễ 2 tháng 9 năm 1984, có một đợt tha Tù tại Z30D. Anh Đội trưởng (Trung tá Cảnh sát Phan trung Chánh), và nhiều Trung tá trong Đội chúng tôi được tha. Nhân số Đội hụt hẳn đi, chỉ còn lại hơn chục Đại tá với nhau và anh Trung tá Nguyễn văn Sáu. Đội chúng tôi được tăng cường thêm, anh Đại tá Phạm Chí Kim người to lớn khoẻ mạnh như Âu Tây, và 2 Tù gốc Hành Chánh. Một anh gốc Huế, thuộc thành phần Quốc gia không Cộng sản, trước 30-4-1975 là Cán bộ Nghiệp đoàn Lao động tại Saigon. Một anh gốc Bắc Di cư, thuộc thành phần bỏ hàng ngũ Việt Cộng hồi chánh theo chương trình Chiêu Hồi của Việt Nam Cộng hoà, trước 30-4-1975 được xử dụng làm Cán bộ Xây dựng Nông thôn hay Thông tin Chiêu hồi gì đó trong Tỉnh Phước Tuy. Anh Cán bộ Cộng sản Chiêu hồi này, được chỉ định làm Đội trưởng thay anh Chánh Đội trưởng cũ được tha. Anh Trung tá Nguyễn văn Sáu chưa được tha, vẫn làm Đội phó Đội chúng tôi.

Hàng ngày, Đội phải đi qua cầu trên Đập nước sang bên kia sông, khai phá trồng mía suốt dọc khu vực dài 5 cây số. Từ đoạn đối diện Đội Nuôi Heo của Tù Nữ, qua Khu Nhà Thăm Nuôi mới đang xây dựng, qua Khu Đội Nuôi Gà, dài lên đến Khu nuôi Bò, vòng ra bờ sông nơi có cây cầu gỗ nhỏ dài 50 thước, băng qua Khu Nhà Tiếp Đón thân nhân đến “đăng ký xin thăm nuôi”, đang xây dựng. Khu Tiếp Đón mới này, nằm cách Quốc lộ Saigon-Phan Thiết chừng 1 cây số, sẽ thay thế khu cũ ở gần cổng Trại giam. Khu mới này cách xa Nhà Thăm Nuôi tại cổng K1 khoảng 3 cây số.

Trong suốt thời gian này, tất cả các Đội phải làm “thông tầm”. Buổi trưa, chỉ được nghỉ có 30 phút ăn tại chỗ, rồi làm tiếp đến chiều tối mới về Đập nước tắm, trước khi trở vào Khu giam. Một hôm vào đúng giờ giải lao giữa buổi lao động sáng, “Ban” Nhu đi “tham quan”, ghé chỗ Đội chúng tôi đang nghỉ, cất tiếng hỏi : “-Bác nào hôm trước bị cùm đâu?” Anh Đội trưởng (Cán bộ Chiêu hồi) chỉ vào Tôi, nói : “-Kính thưa Ban, anh Hùng.” “Ban” Nhu nhìn Tôi, nhếch miệng cười không ra tiếng, hỏi : “-Bác còn thù hận Tôi không?” Tôi trả lời : “-Tôi đâu dám. Trước kia Tôi từng chỉ huy đơn vị có cả vài ngàn nhân viên, gồm Sĩ quan, Hạ sĩ quan, Binh sĩ và Dân chính. Cũng có những lúc cần phải hành động thị uy để duy trì kỷ luật. Việc làm hôm nọ của “Ban” là cần thiết, nên Tôi rất thông cảm, đâu có thù hận gì Ban.”

Ông ấy gật đầu tỏ vẻ hài lòng, hỏi tiếp : “-Bác đã bao giờ được thăm nuôi 24 tiếng chưa?” Tôi trả lời : “-Diện của Tôi, được Ban Giám Thị cho thăm nuôi 30 phút là qúy lắm rồi, có bao giờ dám nghĩ tới thăm 24 giờ.” Ông ấy nói tiếp : “-Bác có muốn được “thăm nuôi” 24 giờ không?” Tôi trả lời : “-Nếu “Ban” cho, Tôi sẽ nhắn Vợ Tôi lên.” Ông ấy khẳng định : “-Được, bữa nào nhắn Bác gái lên, Tôi sẽ cho Bác được thăm 24 giờ.” Rồi quay lại nói với Quản giáo Đội chúng tôi, đang đứng sau lưng : “-Mày nhớ, bữa nào Vợ Bác ấy lên, cho Bác ấy làm đơn trình lên Tao sẽ cho.” Sau khi Tôi ngỏ lời cám ơn xong, ông ấy quay qua anh em cả Đội nói : “-Kể cả các Bác nữa, người nào có Bà Xã lên, muốn được “thăm nuôi” 24 giờ Tôi cũng cho, không riêng gì một mình Bác Hùng.”

Một tháng sau, vào buổi trưa, anh Sáu Đội phó và Tôi đang ăn cơm. Anh trưởng Ban Thi Đua đến báo cho Tôi biết, có Vợ và Con tới Trại xin “thăm nuôi”. Nhưng không được chấp thuận, vì theo lệnh Kỷ Luật ngoài việc cùm một chân 7 ngày trong Nhà Kỷ Luật, còn bị cấm không cho “thăm nuôi” trong vòng 3 tháng. Nhớ lời hứa của “Ban” Nhu, Tôi làm đơn chờ tới giờ xuất Trại lao động, nhờ anh Đội trưởng ra gặp Quản giáo Đội, trình bầy xin can thiệp cho Tôi.

Thật rắc rối, “Ban” Nhu đi công tác Saigon không có mặt tại Trại. Cán bộ Quản giáo Đội phải đích thân mang đơn xin của Tôi, chạy đi gặp Ban Giám Thị Trại trưởng trình bầy sự việc. Trại Trưởng chấp thuận cho Tôi được phép “thăm nuôi” 24 giờ. Tôi ra thăm trễ hơn mọi người. Thấy Tôi được ra thăm, Vợ và cô con Gái út của Tôi mừng rỡ vô cùng, nhưng rất ngạc nhiên. Hồi sáng, Cán bộ phụ trách “thăm nuôi” nói, chồng bị kỷ luật Ban Giám Thị phạt không cho gặp thân nhân trong vòng 3 tháng, sao bây giờ lại được ra thăm? Đến khi được cho ở lại thăm qua đêm, Vợ Con của Tôi còn ngạc nhiên hơn nữa. Tôi phải kể lại cho nghe đầy đủ câu chuyện bị kỷ luật, và lời hứa của “Ban” Nhu, Giám Thị, Bí thư Đảng ủy của Trại, trước mặt anh em cả Đội trong giờ lao động như thế nào. Nghe xong, Vợ của Tôi nhỏ nhẹ trách : “-Sao ông vẫn tính nào tật nấy, bướng bỉnh chống đối họ làm gì? Trong khi còn bị giam cầm trong tay họ, nên cố gắng nhẫn nhịn để sớm được tha về với Vợ Con thì hơn.” Điều khuyên này khiến Tôi suy nghĩ, và nó cứ lởn vởn hoài trong trí óc Tôi, mãi cho đến bây giờ vẫn chưa phai.

Thời gian ngày tháng cứ thờ ơ, liên tục theo nhau chồng chất lên vai lên đầu Tù. Hết Xuân đến Hạ, mãn Hạ sang Thu, Thu tàn Đông tới. Đợi hoài, đợi mãi chẳng thấy gọi tên mình được tha. Trong khi bạn bè, cứ lần lượt theo nhau hân hoan chia tay với lời hẹn : “-Mong sớm gặp lại nhau ngoài xã hội.”

Khu Nhà Thăm Nuôi mới bên bờ sông hoàn thành. Trại bắt đầu khởi công khơi hồ chứa nước phía trên đập, cho rộng và sâu hơn. Nhằm tích nước cho thật nhiều, để đặt 1 tourbine nhỏ tạo năng lượng điện, cho Đội Mộc hoạt động liên tục suốt ngày đêm, kịp thoả mãn đơn đặt hàng của các tổ chức ngoài xã hội. Vì thế, ngoài những Đội trẻ khoẻ, được chỉ định chuyên trách đào hồ ban ngày, các Đội khác được yêu cầu cung cấp người tình nguyện, làm đêm từ 7 giờ tối đến 10 giờ khuya. Ai tình nguyện làm đêm, được cấp thêm một bữa ăn khuya. Dĩ nhiên tình nguyện lao động tích cực như vậy, được coi là có “tinh thần cải tạo năng nổ tiến bộ”, sẽ được Ban Giám Thị “chiếu cố” trình Nhà Nước cho về với Vợ Con sớm hơn. Đội chúng tôi chỉ có anh Đội trưởng (Cán bộ Chiêu hồi), và vài bạn cảm thấy còn sung sức như anh Kim “đăng ký tham gia”.

Thời gian này, Đội chúng tôi được giao cho phụ trách trồng rau, bầu, đu đủ, hai bên bờ sông chung quanh Khu Nhà Thăm Nuôi mới, đến sát ranh Đội Nữ Nuôi Heo. Ngoài ra còn phải trồng hột tiêu trong khu trồng táo Thái Lan, gần Khu Nuôi Gà đẻ trứng và gà thịt. Nguyên bấy nhiêu công việc thôi, anh em làm đã mệt phờ hơi tai ra rồi. Thế mà anh Đội trưởng của chúng tôi (gốc Cán bộ Cộng sản Hồi Chánh) rất “năng nổ”, muốn chiều lòng Ban Giám Thị Trại, còn tình nguyện bao thầu hết luôn khu đất trồng hơn 10 luống rau của Đội Nữ và khu trồng đậu xanh, ngay bên cạnh khu trồng rau của chúng tôi. Anh em rất bất mãn, nhưng đành phải bậm môi chịu trận chẳng biết làm sao.

Trong lúc thâu hoạch đậu xanh, để sau đó cuốc đất lên luống biến thành khu trồng rau. Anh em bàn tán không biết ai báo cáo, việc một bạn trong Đội riễu cợt việc khai thác sức lao động của Tù, tình nguyện tham gia đào hồ ban đêm, bằng câu nói của chính Cách Mạng thường dùng : “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm”, bị “Ban” Nhu kêu lên “làm việc”. Mọi người nghĩ rằng, trong anh em chẳng ai hèn hạ làm công việc ton hót đó, ngoài Đội trưởng. Tôi góp chuyện bằng một câu chửi đổng : “-Tiên sư lủy đó, chớ ai!” Không dè gặp đúng lúc anh Đội trưởng đi ngang nghe được. Trong giờ Đội họp kiểm điểm công việc hàng đêm trong buồng giam, bao giờ Quản giáo Đội cũng đứng ngoài để theo dõi. Anh Đội trưởng đưa vấn đề ra, yêu cầu Tôi phải giải thích lý do, tại sao Tôi chửi tiên sư anh ấy?

Tôi bị bất ngờ, nhưng đã nhanh trí giải quyết bằng cách giải nghĩa từ Sir của anh ngữ, Monsieur, lui, của Pháp ngữ, và Tiên sư, Tiên sinh của Trung Hoa, để chứng minh mình không chửi anh ấy. Đại ý như sau :

“-Trước nhất Tôi thành thật nhận lỗi vi phạm Nội Quy Trại, vì dùng từ ngoại quốc xen kẽ trong câu tiếng Việt, nên đã làm cho anh hiểu lầm. Tôi xin giải nghĩa rõ ràng các từ Anh ngữ : Sir, Pháp ngữ : Monsieur, lui, và chữ Nho : Tiên sư của Trung Hoa, để anh hiểu là Tôi không hề chửi anh. Bằng tuổi chúng tôi, nếu được học qua chương trình các lớp Trung học toàn bằng Pháp ngữ, không ai lạ gì việc dùng chữ SỪ LỦY (monsieur, lui) nghiã là ông, ông ấy đó, để nói đến giáo sư mình không muốn nhắc tên ra. Còn từ Anh ngữ SIR (sơ) có nghĩa là Ngài, như người ta thường nói Sir Wilton Churchill có nghĩa là Ngài Wilton Churchill. Hoặc tiếng Trung Hoa người ta vẫn dùng chữ Tiên sư để xưng hô mỗi khi nói đến bậc Thầy, hay Tiên sinh là Ông đối với những người mình kính nể.

Sáng nay tại hiện trường lao động, Tôi đã nói : “-TIÊN SƯ, LỦY đó chớ ai!” Nhưng câu nói này liên quan tới một câu chuyện khác, xẩy ra trong quá khứ. Hồi còn đi học, thi vấn đáp gặp nhằm Giám khảo khó tánh, anh em kể lại cho nhau nghe trong khi lao động cho quên mệt, không dính dáng gì đến anh. Thật rủi ro, Tôi nói nhằm lúc anh đi ngang. Nếu anh nghĩ là Tôi ám chỉ anh, thì Tôi thành thật xin lỗi, vì đã dùng từ ngoại ngữ xen kẽ trong câu tiếng Việt, làm anh không hiểu nên đã buồn phiền từ sáng đến giờ.”

Anh Đội trưởng chẳng còn bắt bẻ vào đâu được, nên bỏ qua nói sang chuyện kế hoạch, chia phần trách nhiệm khu đất mới lãnh thêm từ tay Đội Nữ. Nhân đó, anh em lên tiếng dồn dập trách anh Đội trưởng : “-Là gạch nối giữa anh em và Ban Giám Thị. Sao anh không “thành khẩn” trình lên Ban Giám Thị rõ. Cứ tự động tình nguyện nhận đại như vậy. Nếu sau này kết quả thâu hoạch thấp, ai sẽ chịu trách nhiệm trước Ban Giám Thị. Anh biết rõ tình trạng sức khoẻ của anh em già yếu. Đâu phải anh em không chịu cố gắng lao động cải tạo…” Không khí buổi kiểm điểm trở nên rất căng thẳng, giữa Đội trưởng và anh em chúng tôi. Cán Bộ Quản Giáo Đội đứng ngoài, nghe ngóng ghi nhận đầy đủ, thấy rõ là anh em trong Đội không ai ưa anh Đội trưởng. Một tuần lễ sau, anh ta và anh bạn Tù Cán bộ Nghiệp đoàn lao động cũ, được đưa ra khỏi Đội chúng tôi, chuyển vào Phân trại K2 chuyên nuôi bò.

Đội chỉ còn lại toàn Đại tá và anh Trung tá Sáu Đội phó. Anh Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh (trước 30-4-1975, làm Chỉ huy trưởng Trường Đại học Chiến tranh Chính trị Đà Lạt) được đề cử làm Đội trưởng Đội 23 chúng tôi. Cũng kể từ đó trở đi, “Ban” Nhu thường bất thần ghé Nhà Lô của Đội chúng tôi ngồi uống trà, hút thuốc lá thơm ngoại quốc. Đôi khi còn chỉ thị Quản giáo Đội, gọi chúng tôi vào Nhà Lô nghỉ, ngồi tiếp chuyện “Ban”. Trước mặt Quản Giáo Đội và Cán bộ Giáo dục của Trại luôn luôn đi theo, “Ban” Nhu thường nhắc đi nhắc lại câu : “-Các Bác già rồi, cứ thủng thẳng mà làm. Tôi cho phép các bác, lúc nào mệt cứ vào nghỉ ăn uống cho khoẻ, rồi ra làm tiếp sau.” Nhưng, cũng kể từ đó, Đội chúng tôi phải ở ngoài “hiện trường lao động”, suốt từ giờ xuất trại sáng cho đến chiều tối, khi sắp có kẻng kiểm số Tù vào các phòng giam, mới được Quản giáo Đội dắt trở về trại. Giờ nghỉ lao động trưa, anh em ăn uống và ngủ tại Nhà Lô. Những người không thích ngủ trưa, thì trồng rau, ớt, xả, hành, tỏi...hoặc xuống sông mò trai, hến, tren trét, câu cá, nuôi gà đẻ trứng để “cải thiện” riêng. Những ngày nghỉ Lễ, Chúa Nhật, và 3 ngày Tết, Đội cũng không được ở trong Trại. Quản giáo Đội vào Trại lãnh, dẫn ra Nhà Lô nghỉ ngơi nấu nướng ăn uống cho thoải mái. Đây là nguyên văn lời giải thích của “Ban” Nhu : “-Mục đích giúp cho các bác, không bị bọn trẻ đến quấy rầy phiền hà, trong các giờ nghỉ.”

Vào tháng 11 năm 1985 Linh mục Bùi Đức Sinh, từ Trại Z30C chuyển về Z30D, được tăng cường vào Đội chúng tôi. Ngài là Linh mục giáo sư thuộc Học viện Đa Minh ở Thủ Đức, bị tập trung cải tạo vì tội “âm mưu vượt biên”, chớ không phải Tuyên úy Quân đội. Theo lời Ngài kể : “-Từ cuối tháng 1 năm 1978, Nhà Nước Cộng sản Việt Nam phát động chiến dịch, giải tán và tịch thu 5 Tu viện Công giáo lớn ở Thủ Đức (Lasan, Kitô, Chúa Cứu Thế, Salesian, và Đa Minh). Ngài bị theo dõi cho tới cuối tháng 3 năm 1978, bị bắt đi tập trung cải tạo, qua các Trại Phan Đăng Lưu, Z30C, trước khi chuyển về Z30D.”

Vì già yếu cận thị nặng, Linh Mục Sinh được anh Đội trưởng (Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh) đề nghị Quản giáo cho phụ trách trồng vạt ớt, ngay bên đầu cầu vào Nhà Thăm Nuôi. Linh mục Sinh ở trong Đội chúng tôi đến cuối tháng 6 năm 1986, được chuyển đi Trại Z30A Xuân Lộc, nơi giam các Linh mục.







ĐỘI HAI MƯƠI BA.




Quan tâm mấy Bác đội già,
Giao cho việc nhẹ phát bờ trồng rau.
Gây vườn đu đủ, giàn bầu,
Vườn tiêu, táo Thái, ớt trâu, chuối chà.
Chia nhau thành tổ chuyên lo,
Khâu phân sáng vét truồng bò tập trung.
Xe về pha lẫn phân thùng, (1)
Trộn tro, bằm nhỏ cho cung hợp cầu.
Dạng chân, khâu đất dãi dầu,
Cuốc, ban, lên luống, cao sâu tùy thời.
Khâu reo, sẻ rãnh đập tơi,
Chổng mông vãi giống, cầu trời đừng mưa.
Rau lên, tỉa, giặm cho vừa,
Sới, vun, lặt cỏ, phun ngừa sâu ăn.
Còng lưng, khâu nước luôn chân,
Xuống, lên, bờ dốc, trăm lần chửa xong.
Đôi thùng nước trĩu đòn cong,
Tưới chưa kịp thấu hết vòng đã khô.
Âm mưu thâm độc vô bờ,
Đoạ đầy vất vả gấp ba đội thường.
Sáng đi, trưa ở hiện trường,(2)
Tối về tới trại, đèn đường đã lên.
Mục tiêu, phân cách dưới trên,
Ngăn ngừa hiểm hoạ, tuyên truyền đàn em.
Đặt điều : tránh trẻ quấy phiền,
Những ngày Lễ nghỉ, Đội nên ra ngoài.
Nhà Lô bên suối thảnh thơi,
Tha hồ nấu nướng, trông Trời ngó Mây.
Mò trai, câu cá, trồng cây,
Suốt ngày Quản giáo loay hoay sát mình.
An ninh khỏi tốn người rình,
Tập trung theo dõi tình hình trại trong.
Dù cho thấy rõ ác lòng,
Cũng đành nhẫn nhịn đợi trông ngày về.
Tạo thời xây dựng lại quê,
Cứu Dân thoát cảnh thảm thê đói nghèo.


K1, Z30D, HÀM TÂN, THUẬN HẢI.

THU ĐÔNG 1986.







(1)-Phân người lấy từ các thùng chứa trong phòng giam Tù hàng đêm.

(2)-Nơi lao động hàng ngày của Đội.

HOME

















Chương 34





RẬP KHUÔN THEO QUAN THẦY LIÊN XÔ, VIỆT CỘNG CŨNG ĐỔI MỚI, CỞI TRÓI, MỞ CỬA.
trong

Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam

Nguyễn Huy Hùng



Song song với việc khởi công nới rộng hồ tích nước, làm Đập Thủy Điện, Phân trại K1, Z30D dựng thêm một căn “nhà bát giác” làm Thư viện, nơi góc sân tập kết ngay trước lối vào Bệnh xá, gần trạm kiểm soát cổng lớn Khu giam. Để chiều chiều, trong thời gian chờ kiểm danh vào phòng giam, Tù Nam Tù Nữ được phép “tranh thủ” ghé lại đọc báo, hoặc mượn sách về đọc tại phòng giam trong giờ nghỉ.

Thư viện cũng được dùng làm trạm thông tin, loan báo các tin tức sinh hoạt của trại, và khuếch âm loan truyền tin tức của đài phát thanh Nhà Nước, cho Tù biết về các sinh hoạt đang xẩy ra trên nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa. Nhờ thế, mới biết năm 1986, Gorbachev Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, chủ trương “đổi mới” để cứu vãn tình thế suy xụp của Liên Bang Xô Viết. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đưa ra khẩu hiệu “đổi mới”, và bầu Nguyễn văn Linh đang là Bí Thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, người có chủ trương “cởi mở”, vào chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung Ương Đảng.

Sau khi nắm quyền được ít lâu, trong một cuộc họp với gần 100 văn nghệ sĩ, Tổng Bí Thư Nguyễn văn Linh tuyên bố “cởi trói văn nghệ”, khuyến khích họ viết sự thật, để xây dựng củng cố Chế độ và đất nước trong thời bình. Chính Nguyễn văn Linh đã tiên phong nêu gương, viết một loạt bài “Những việc cần làm ngay” với bút hiệu viết tắt NVL, đăng trên các báo của Nhà Nước. Hai điểm chính ghi nhận là : -1, đả kích các khuyết điểm của Chính quyền. -2. Chủ trương bãi bỏ việc xét lý lịch các học sinh vào Đại học, mở đường cho học sinh ưu tú con em của các Viên chức Quân nhân chế độ cũ (Việt Nam Cộng Hoà), và con em thành phần Tư sản được nhận vào các trường Đại học.

Rút kinh nghiệm bài học vụ Nhân Văn Giai Phẩm, một thiểu số văn nghệ sĩ có Đảng tịch kỳ cựu uống thuốc liều, dùng lời lẽ và hành động của các nhân vật trong truyện của mình, thẳng thắn phê bình gắt gao đường lối lãnh đạo sai trái của chính quyền, và sự tha hoá của các cấp Lãnh đạo. Nhóm đa số bảo thủ trong Đảng không chịu, chỉ trích đòi trừng phạt nặng nề tác giả các tác phẩm loại “cởi trói” này. Vì thế, vừa “cởi trói” chưa được bao lâu, Nguyễn văn Linh phải “xét lại” và ra lệnh “trói lại” chặt chẽ hơn.

Thân nhân “thăm nuôi” Tù cho biết, nhiều sách báo ngoại ngữ được đưa vào trong nước, bằng bưu kiện công khai hoặc lén lút trong các thùng quà, cung cấp tin tức rất lạc quan về một chương trình tái định cư quy mô trên đất nước Hoa Kỳ, cho các Tù nhân chính trị miền Nam cùng gia đình vợ con ra đi cùng một lượt. Nào là, Tướng Vessy được đề cử đại diện Tổng Thống Hoa Kỳ, tiếp xúc thường xuyên với Chính quyền Cộng sản tại Hà Nội để hoàn tất chương trình nhân đạo, giải quyết nhanh chóng cho các Tù Chính trị miền Nam và Vợ Con sang định cư tại Hoa Kỳ. Nào là, Căn cứ quân sự của Sư đoàn Hoa Kỳ tại Hawaii, đang được trùng tu gấp để làm nơi cư trú tạm cho Tù Chính trị miền Nam và gia đình, hoàn tất các thủ tục hành chánh cần thiết, trước khi đưa vào định cư chính thức tại các Tiểu Bang trên Lục địa Hoa Kỳ. Nào là, mỗi gia đình Tù nhân chính trị sang định cư, sẽ được cấp nhà ở, giúp cho có công ăn việc làm, con được giúp cho tiếp tục theo học các chương trình văn hoá kỹ thuật theo ước muốn, được lãnh một số tiền bồi thường cho thời gian bị giam cầm... Trong khi những tin tức này được đồn đãi, Chính quyền Cộng sản Việt Nam cũng cấp Hộ Chiếu, cho một số Tù Chính trị được thả ra trước, có Vợ Con đang ở Pháp, Úc, bảo lãnh đi định cư theo diện đoàn tụ gia đình. Một số có Vợ Con ở Hoa Kỳ, được cho xuất cảnh theo “chương trình bảo lãnh ra đi trong vòng trật tự” (Orderly Departure Program).

Ngoài cái “quán bát giác” dùng làm Thư viện và trạm Thông tin, dựng lên bên trong cổng trại giam, K1 còn xây dựng một Câu Lạc Bộ mới, ngay bên đầu cầu Đập nước, rộng rãi khang trang. Mặt tiền Câu Lạc Bộ có một vườn bông, trang trí rất mỹ thuật, điểm thêm 2 nhà lồng nhốt một con khỉ và một con công mầu sắc sặc sỡ.

Câu Lạc Bộ là một toà nhà vách gỗ mái tôn, bên trong phân chia ra nhiều phần phục dịch riêng biệt ngăn nắp, hoạt động suốt 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần. Có phòng ăn uống rộng trông ra cảnh đập nước, bầy biện những chiếc bàn thấp (vuông, tròn) với những ghế tựa, như trong các “quán bia ôm” nơi thành thị. Có quầy bán thức ăn nóng, cà phê, trà, nước ngọt, và một loại nước trái cây để lên men nhẹ đóng trong chai giống như bia. Có các kệ trưng bầy bán các thực phẩm khô (mì ăn liền, bún khô, mì vắt, sữa, bánh, kẹo, bàn chải, thuốc đánh răng, sà bông thơm, thuốc hút...). Có phòng hớt tóc cho đàn ông, chỉ còn thiếu phòng uốn tóc sửa sắc đẹp cho phụ nữ. Có cả những phòng ngủ riêng, cho Cán bộ và các Tù Nữ phụ trách phục dịch tại Câu Lạc Bộ.

Câu Lạc Bộ được thành lập để phục vụ cho thân nhân đến “thăm nuôi” xử dụng, trong thời gian buổi trưa đợi gặp Tù vào đầu giờ lao động chiều. Những trường hợp được ở lại thăm qua đêm, vợ chồng con cái Tù cũng được phép dắt nhau tới Câu Lạc Bộ, mua thực phẩm ăn uống nếu muốn, ngồi chơi chuyện trò ngắm cảnh Đập nước, và chụp hình kỷ niệm. Các Cán bộ phục vụ trong Trại giam, cũng được tới lui xử dụng Câu Lạc Bộ thong thả như mọi người, nếu muốn và có đủ tiền để chi. Ngoài ra, Tù Nam Tù Nữ cũng được phép “đăng ký” ra Câu Lạc Bộ, vào buổi tối từ 7 đến 10 giờ, mua nước giải khát, chè, hủ tiếu, ngồi ăn uống thủ thỉ chuyện gẫu với nhau thoải mái, theo lịch trình Trại quy định trước. Những buổi như vậy, lệnh được loan báo qua loa phóng thanh của Thư viện, Tù nào muốn đi ra tập trung bên “quán bát giác”, Cán bộ phụ trách đến tập họp đếm đầu, rồi dẫn ra Câu Lạc Bộ và dẫn về khu giam. Đây là phương cách làm “kinh tế”, theo sáng kiến của “Ban” Nhu (Giám Thị, Bí thư Đảng ủy), nhằm mục đích thâu “lợi nhuận” dành cho quỹ “Phúc Lợi” của Cán bộ Trại giam.

Tù chi tiêu bằng tờ biên nhận tiền do trại cấp, dựa theo số tiền gia đình đến “thăm nuôi” cho bao nhiêu cũng được. Nhưng Tù không được giữ tiền mặt, phải nộp cho Trại đổi lấy giấy biên nhận theo hình thức chứng phiếu. Mỗi lần mua hàng tại Câu Lạc Bộ, Cán bộ phụ trách ghi trừ đi số tiền đã chi tiêu.

Đội chúng tôi cũng có vài Bạn “đăng ký”, ra giải trí buổi tối tại Câu Lạc Bộ thử một đôi lần. Riêng tôi, khả năng tài chánh gia đình cho rất hạn chế, nên chỉ ra có một lần vào ngày Chủ Nhật, dịp “Ban” Nhu cho lệnh Quản Giáo dẫn cả Đội ra “tham quan” khai trương Câu Lạc Bộ. Ngày hôm đó, “Ban” Nhu ngồi cùng bàn với chúng tôi, nói chuyện về các kế hoạch “làm ăn kinh tế” của Trại, và hỏi thăm về kinh nghiệm hoạt động kinh tế của phe Tư bản, xem có điều gì hay sẽ đem áp dụng. “Ban” Nhu gọi Cán bộ phụ trách và các Tù Nữ làm chiêu đãi viên tại Câu Lạc Bộ, săn đón phục vụ cà phê, nước ngọt, bánh quy, đậu phộng rang... cho chúng tôi (không phải trả tiền), y như đối xử với khách thân tình của “Ban” Nhu chớ không phải Tù.

Sau buổi tiếp đãi tại Câu Lạc Bộ, Đội chúng tôi được “Ban” Nhu dẫn đi “tham quan” Khu Nhà Thăm Nuôi mới, cách Câu Lạc Bộ khoảng 500 mét, cũng ngay bên bờ Nam con sông, phía hạ lưu Đập Thủy Điện.

Rời Câu Lạc Bộ bên đầu cầu Đập nước, chúng tôi đi suôi theo con đường kè đá, dọc ven sông có hàng cây mới trồng để tạo bóng mát, dài khoảng 300 mét. Tới khúc sông lượn cong vòng như bụng chữ S, có neo một nhà gỗ kiến trúc rất đẹp trên chiếc phao nổi, hình thù giống như một chiếc du thuyền sang trọng, mũi quay về hướng thượng nguồn. Từ trên bờ cao muốn xuống, phải dùng cả chục bậc thang đá uốn khúc giữa hàng cây bên bờ sông, rồi bước qua một cầu gỗ rộng 1 mét, dài 2 mét, có tay vịn 2 bên. Đầu cầu phiá bên nhà nổi, được treo dây kéo lên hạ xuống được, tùy theo mực nước cao thấp của từng mùa. Bên trong nhà, phân chia ra nhiều phòng tiếp cận nhau rất ngăn nắp, đầy đủ tiện nghi. Tất cả đồ đạc đều bằng gỗ quý (cẩm lai, vàng tâm, gõ), do Tù đốn ở rừng sát bên đất trại về thực hiện. Thoạt bước vào là phòng khách, tiếp sau là phòng ăn, bên phải là bếp, phòng vệ sinh, bên trái là các phòng ngủ. Dọc hông phao, phía ngoài phòng ăn và phòng ngủ nhìn ra giữa dòng sông, là một khoảng lan can rộng có mái che để ngồi ngắm cảnh, giải khát, câu cá. Về phía cuối có mấy bậc thang để leo lên tụt xuống sông bơi tắm.

Trong khi “tham quan”, “Ban” Nhu hỏi : “-Các Bác thấy sao? Đây là nơi các Bác sẽ được xử dụng tiếp gia đình, trong thời gian “thăm nuôi” có được không?” Không ai nói gì, Tôi cười đáp lời : “-Thưa Ban sang trọng quá, chẳng khác nào Ngự Thuyền trên sông Hương, nơi Cố đô Huế thuở xưa vậy.”

Trong suốt thời gian chưa được tha, có gia đình đến xin “thăm nuôi” nhiều lần được ở lại qua đêm, nhưng chưa bao giờ chúng tôi được dùng căn nhà nổi này. Vì nó được dành để tiếp đón các đoàn khách Nhà Nước, thuộc hàng ít quan trọng “tham quan” Trại giam. Các đoàn khách quan trọng, được đón tiếp lưu trú trên toà Nhà Thủy Tạ, dựng giữa hồ Đập Thủy Điện nơi gần biệt thự riêng của “Ban” Nhu, sang trọng và lớn gấp 3 căn nhà nổi neo tại đầu khu Vườn Tao Ngộ này. Từ bờ hồ ra toà Nhà Thủy Tạ là một cây cầu gỗ, kiến trúc và sơn y hệt kiểu cầu Thê Húc ra đền Ngọc Sơn, tại Hồ Hoàn Kiếm giữa Thủ đô Hà Nội. Dọc ven bờ hồ nước, có các bồn bông, cây cảnh, với con đường kè đá trông rất thơ mộng đẹp mắt.

Rời căn nhà nổi, chúng tôi đặt chân vào điểm khởi đầu hướng Đông của khu Vườn Tao Ngộ hình bầu dục, nằm giữa 3 kiến trúc dựng lên theo thế chân vạc. Bìa vòng cung bên phải là dòng sông, có 2 khu nhà cách nhau khoảng 200 mét. Khu ngay gần căn nhà nổi, gồm một dẫy nhà 5 gian dùng làm hội trường thăm gặp giữa Tù và thân nhân, và 1 căn nhà 3 gian đặt văn phòng cùng nơi cư trú thường xuyên của Cán bộ phụ trách điều hành công tác “thăm nuôi”, và bạn “Tù tự giác” phụ việc. Tiếp theo là một con đường nhỏ chạy dài cả trăm mét, dưới giàn nho dẫn tới Khu 3 dẫy nhà ngủ dành cho Tù và thân nhân cư trú qua đêm. Con đường được đắp với mục đích biến hòn đảo nằm giữa dòng sông có các dẫy nhà ngủ, trở thành dải đất liền vào bờ phía Nam. Các nhánh giống nho, là của thân nhân bạn Tù phụ trách lái xe chuyên trở gia đình “thăm nuôi” từ “trạm đăng ký” ngoài đường Quốc lộ vào Khu Thăm Nuôi, ương và đem từ quê miền Phan Rang đến tặng cho Trại để trồng. Bià vòng cung bên trái là ruộng mía. Đầu ruộng phía gần Đập Thủy Điện có Xưởng sản xuất đồ gỗ, xẻ cây thành ván, và nhà ở của anh em Tù Đội Mộc, chia thành “kíp” làm việc “thông tầm” suốt ngày đêm. Phía sau ruộng mía chừng nửa cây số, là Khu tập trung các nhà giam Tù thuộc Phân trại K1.

Khoảng chính giữa điểm vòng cung sát bên ruộng mía, dựng một dẫy nhà khách cao to rất đẹp, kiến trúc theo kiểu Nhà Ròng của Sắc tộc Thượng miền Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Vườn Tao Ngộ ở chính giữa, là một công viên có nhiều đường nhỏ trải đá đi vòng quanh những bồn hoa cây kiểng, và một dẫy núi đá giả với tượng đài lập thể xừng xững ngay chính giữa như Hòn Vọng Phu. Thật là một công viên lạ mắt, chưa từng thấy trên các nẻo đường Việt Nam, Âu, Á, Phi, Mỹ, Trung Đông, mà Tôi đã có dịp đi qua trước đây.

Từ ngày anh Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh được chỉ định làm Đội trưởng, anh em cảm thấy thoải mái hơn, nên gắn bó bên nhau cố gắng chu toàn công tác trồng rau, ớt, bầu và đu đủ, đạt kết quả “thâu hoạch” rất cao. “Ban” Nhu tỏ vẻ hài lòng, “đổi mới” hẳn thái độ cư xử, lời nói và cử chỉ lúc nào cũng nhẹ nhàng lịch sự đối với anh em trước mặt mọi người. Các Cán bộ cấp nhỏ thấy thế, cũng noi theo không còn xấc lấc kênh kiệu kỳ thị như trước.

Nhưng, để cô lập dễ kiểm soát hơn, ngoài việc bắt Đội ở ngoài “hiện trường lao động” suốt ngày thường và những ngày nghỉ lễ. “Ban” Nhu cho sửa sang lại căn phòng ăn phía gần hàng rào, thuộc dẫy nhà đầu bên Khu giam Tù Nam, để biến thành phòng giam Đội chúng tôi. Căn phòng có một cửa ra vào, và 4 cửa sổ được ráp cánh cửa gỗ kiểu lá sách xiên xiên để thông hơi, che nắng, cản mưa gió lùa trong mùa bão, và dĩ nhiên có gắn song sắt nơi các khung cửa sổ. Một phòng vệ sinh rộng 1 mét vuông, được xây nơi góc phòng để anh em tiểu đại tiện ban đêm. Một kệ gỗ dài 2 tầng kê dọc tường, chia cho mỗi người một ngăn để xếp tư trang và đồ tiếp tế riêng. Những người có nhiều quá, một ngăn nhỏ không đủ, phải xếp đầy ngay cả phía dưới gầm giường nằm của mình, hoặc đem ra cất tại Nhà Lô của Đội để tiêu thụ dần hàng ngày. Trong phòng giam này, mỗi người được nằm một giường gỗ riêng rộng 70 phân, dài 2 mét. Mặt bằng trong phòng không đủ chỗ kê giường đơn cho tất cả mọi người, phải dùng thêm 2 giường 2 tầng cho 4 người. Ngoài ra, 2 anh Đại tá Tô văn Vân và Dương hiếu Nghĩa được coi là “Tù tự giác”, cho ăn ở ngày đêm tại Nhà Lô của Đội bên “hiện trường lao động”, phụ với Quản Giáo Đội canh dụng cụ và hoa mầu chưa “thu hoạch”.

Chúng tôi phải dọn sang nơi giam mới này vào một ngày Chủ nhật, cả trại nghỉ lao động. Buổi chiều cùng ngày, lúc anh em vừa chia nhau ổn định xong chỗ nằm, thấy “Ban” Nhu ghé thăm. “Ban” đứng ngoài cửa sổ song sắt nhìn vào, lên tiếng : “-Thu xếp để các Bác ở đây, cho được riêng rẽ thoải mái hơn. Đối với các Bác, không cần phải đặt các song sắt ở cửa như thế này. Nhưng vì quy luật trại giam, không thể biến chế được. Từ nay các Bác không phải xếp hàng kiểm danh, vào phòng giam buổi tối như các Đội khác nữa, cứ ở ngoài thoải mái. Bác nào không ngủ sớm, có thể sang Nhà Họp ở phía bên hông Khu, xem Ti Vi đến hết chương trình thì về. Lúc đó Trực Trại mới đến khoá phòng, cho các Bác ngủ qua đêm được an toàn.”

Nhà Lô hiện tại của Đội chúng tôi, thấp nhỏ chỉ có 1 gian 1 trái, sát ngay bên bờ sông đối diện với Khu Nhà Thăm Nuôi mới. Quản giáo Đội phải nằm nhờ bên Nhà Lô của Đội Nuôi Gà gần đó, để cho 2 anh Vân và Nghiã nằm tại Nhà Lô của Đội. Vì thế, “Ban” Nhu cho xây dựng một Nhà Lô mới, 3 gian rộng rãi lợp tranh, nền đất đắp cao ráo, có sân rộng chung quanh. Sân trước lập vườn bông, sân sau cất nhà bếp, trông chẳng khác nào một biệt thự tư nhân nơi đồng quê miền Nam trước 30-4-1975. Căn giữa kê mấy chiếc bàn dài có ghế 2 bên, để vừa dùng làm nơi tiếp khách, họp Đội, và nhà ăn của anh em. Căn bên trái có một dẫy xạp ngủ để anh em nghỉ trưa. Căn bên phải, nửa phía sau là phòng ngủ của Cán bộ Quản Giáo, nửa trước là kho cất dụng cụ của Đội.

Khi dẫy nhà được dựng xong, chúng tôi phải san bằng đất làm sân trước, sân sau, vườn bông, và đường đi. Lúc đang làm, “Ban” Nhu ghé “tham quan”, vui vẻ lên tiếng hỏi : “-Mai mốt được ra về hết, các Bác có nhớ căn nhà này không?” Anh em đồng thanh trả lời : “-Thưa “Ban” nhớ chứ, quên sao được.” Quan sát thấy vẻ mặt “Ban” không hứng thú lắm, với câu trả lời gọn lỏn này. Tôi lên tiếng góp chuyện : “-Thưa Ban, căn nhà chỉ là vật chất, nó sẽ lụi tàn theo thời gian, có gì mà đáng nhớ. Có nhớ chăng, là nhớ người có sáng kiến xây dựng lên căn nhà này.” Ban Nhu tươi hẳn nét mặt, cười không ra tiếng, nói tiếp : “-Có đất rộng rãi, các Bác có thể nuôi gà đẻ trứng, trồng thêm các loại rau đậu mà tăng cường chất tươi hàng ngày “bồi dưỡng” cho nó mát ruột.”

Kể từ hôm ấy trở đi, trong Đội có vài người “tranh thủ” trồng một vạt rau riêng nho nhỏ. Anh Sáu Đội phó và Tôi cũng trồng một khoảnh có lẫn lộn mồng tơi, đay, xả, bạc hà, và rau răm, dọc bên ven đường ngay đầu dốc xuống bến sông gần Nhà Lô cũ của Đội. Chúng tôi còn làm một hốc cát nhỏ, để ủ đậu xanh làm mộng giá, đổ bánh xèo, bánh quai vạc ăn vào những ngày Chúa Nhật. Mỗi lần gia đình đến “thăm nuôi” ở qua đêm, cũng được phép đem gà, vịt sống vào làm thịt cho Tù ăn “bồi dưỡng”.

Gia đình đi “thăm nuôi” cho biết, thường trên đường đi từ Thành phố Saigon lên trại giam, bao giờ tài xế xe lô cũng ngừng giải lao đôi chục phút tại Chợ Ông Đồn, để bà con ăn uống, mua thêm các món tươi đem đi “thăm nuôi”. Đặc biệt thịt heo, gà vịt sống, và trái cây ở chợ địa phương này bán rất rẻ so với Saigon. Lần nào đi thăm Tôi, gia đình cũng mua vài ba con gà giò đem vào làm thịt luộc ăn ngay, và kho để ăn dần sau “thăm nuôi”. Mỗi lần như vậy, Tôi đều giữ lại 1 con không ăn để nuôi thả quanh Nhà Lô, chờ tới lứa gà đẻ lấy trứng tươi ăn dần. Một năm sau, Tôi đã trở thành anh Tù tiểu tư sản của Đội 23, có tới 3 con gà đẻ trứng tươi ăn hàng ngày.

Tôi làm một truồng nhỏ, sát phía sau nhà bếp để làm nơi trú ẩn cho gà ban đêm. Mấy con gà Tôi nuôi, rất khôn và rạn người. Cả ngày chúng chỉ loanh quanh bên Nhà Lô, không đi đâu xa. Hàng ngày, cứ tới giờ giải lao giữa buổi lao động sáng và chiều, chúng dắt nhau ra quanh quẩn nơi đầu dốc ở bến sông lên, đợi gặp Tôi phân phát quà giun vàø sâu đất, bắt trong các luống rau. Trong khi chúng ăn, Tôi đưa tay vuốt lưng hết con này đến con kia, y như vuốt lưng nựng mèo nựng chó, chúng không sợ không bỏ chạy.

Có một lần “Ban” Nhu dẫn đoàn Thanh tra Trung Ương ghé thăm Đội, vào đúng giờ nghỉ giải lao giữa buổi lao động sáng. Thấy cảnh mấy con gà quấn quýt bên Tôi như vậy, họ cười nói với nhau có vẻ hãnh diện thoả mãn. Họ ngỡ rằng, Chính sách Lao động Cải tạo Tư tưởng các Đại tá Việt Nam Cộng hoà, trở thành người lao động Xã hội Chủ nghĩa của họ đã thành công. Thấy vậy, Tôi lại biểu diễn thêm một màn ngoạn mục khác trong giữa Nhà Lô, ngay trước mặt mọi người, cho họ thêm hí hửng.

Sau khi ăn xong mấy con sâu đất trắng muốt, to dài bằng ngón tay út, mấy con gà đang còn đói, le te chạy theo Tôi vào Nhà Lô như thường lệ. Tôi vào chỗ để đồ tiếp tế riêng, bốc một nắm thóc trộn bắp đem ra ngồi xuống, xoè tay cho mấy con gà tranh nhau mổ ăn ngay trên lòng bàn tay. Gà ăn một lúc hết nhẵn, nhưng vẫn quanh quẩn bên tay Tôi như muốn đòi ăn thêm. Tôi phủi hai tay vào nhau rồi dơ cao lên trên đầu 2 con gà, tức khắc chúng nằm bẹp xuống đất chớ không chạy. Tôi thong thả dùng 2 tay đè nhẹ lên lưng, rồi luồn vòng xuống bụng bế chúng lên, đưa tới bàn nơi “Ban” Nhu và khách Trung Ương đang ngồi, khoe : “-Ban coi, con nào con nấy béo nặng đáo để. Chúng cho Tôi 2 lứa trứng rồi đó. Nhờ chúng, Tôi và anh Sáu Đội phó, có trứng “bồi dưỡng” hàng ngày, nên Tôi thương chúng lắm. Buổi giải lao nào cũng phải bươi đất, tìm cho chúng một ít sâu đất hoặc giun trong các luống rau, để chúng “bồi dưỡng” tiếp tục đẻ trứng to và đều.”

Thực ra, chẳng phải nhờ học tập lao động cải tạo, Tôi mới biết công việc nuôi gà. Thuở Thiếu thời, gia nhập Đoàn Hướng Đạo Sinh, Tôi đã được tập luyện quen rồi. Hơn nữa, trước 30-4-1975, gia đình Tôi cũng đã có dựng một nhà lồng lớn trong sân nhà riêng, để các con của Tôi học nuôi gà đẻ, gà thịt, và chim bồ câu theo lối công nghiệp, bỏ mối cho bạn hàng trong Chợ Lớn, nên chẳng lạ gì. Nhưng Tôi không nói ra điều này, để cho họ hí hửng, tưởng rằng Chánh sách hành hạ lao khổ thâm độc vô nhân đạo của họ đã cải tạo được Tôi theo ý muốn.

Gần mùa Giáng Sinh 1985, Linh mục Bùi đức Sinh được “thăm nuôi”, thân nhân đem cho vài kí lô nho đỏ. Ngài không ăn, đem rửa sạch cắt nhỏ bỏ vào keo thủy tinh, rắc đường đậy nắp kín rồi để vào một góc nhà. Ngài làm trước mặt chúng tôi và Quản giáo Đội. Ít ngày sau, nho tiết nước ra biến thành loại rượu nho nguyên chất không cần ủ bằng men, giống hệt loại rượu các Nhà Thờ thường dùng làm Rượu Lễ. Linh mục nói đây là loại nước trái cây ủ cho lên men, giống như rượu mà không phải rượu. Loại nước trái cây nguyên chất lên men này, dùng uống mỗi ngày một ly “bồi dưỡng”, giúp cho máu huyết lưu thông điều hoà rất tốt cho sức khoẻ. Ngài mời Cán bộ Quản giáo Đội và chúng tôi dùng thử, mỗi người một chút cho biết mùi.

Riêng Tôi, biết được mục đích không phải để “bồi dưỡng”, mà dùng cho nhu cầu mục vụ của Ngài. Sau này, nhờ sự “chiếu cố đặc biệt” của “Ban” Nhu, anh em Đội 23 chúng tôi được nhận quà “thăm nuôi”, đem thẳng ra cất tại Nhà Lô. Việc kiểm tra xét quà “thăm nuôi” của chúng tôi, cũng do Quản giáo Đội phụ trách, không phải đem vào cho Trực Trại kiểm như mọi người. Nhờ thế, anh Quỳnh Đội trưởng, được Linh mục Sinh cử làm Ông Trùm Họ Đạo Z30D, đã lợi dụng cơ hội dễ dãi này, đem được rượu nho chính cống của Nhà Thờ vào dùng. Linh mục Sinh không phải làm lấy nữa.

Muốn giúp cho việc làm rượu của Linh mục Sinh, không bị Cán bộ nghi ngờ, Tôi yêu cầu Ngài chỉ cho anh em cách thức làm, để dùng “bồi dưỡng” hàng ngày. Chúng tôi còn làm cả rượu chuối, bằng cách cắt chuối chín và tranh tươi thành những lát mỏng, xếp từng lớp chồng lên nhau, theo thứ tự chuối, đường, tranh, đường, chuối, đường...trong keo thủy tinh, rồi đậy kín lại để ủ cho thành rượu không cần men. Chúng tôi để tại Nhà Lô, không mang vào Trại giam, dùng thoải mái hàng ngày. Không bị coi là vi phạm Nội Quy Trại giam, vì Cán bộ biết rõ không phải rượu cất bằng men.

Để chuẩn bị ăn Tết Bính Dần-1986, anh Quỳnh Đội trưởng được “Ban” Nhu nhờ về Saigon, đặt mua những gì đó không rõ. “Ban” cho xe hơi nhỏ và Cán bộ đưa đi. Mọi người ở lại qua đêm tại nhà anh Quỳnh, hôm sau mới trở về Trại. Sau chuyến đi này, Đội có thêm một số hạt giống rau muống và rau cải loại tốt, năng xuất “thâu hoạch” cao hơn bình thường. Mỗi tuần lễ 2 lần “thâu hoạch” rau nộp cho Nhà Bếp Trại. Lần “thâu hoạch” nào anh em trong Đội cũng được thưởng, mỗi người một bó rau nặng 5, 6 kí lô để ăn “bồi dưỡng”. Mùa mưa trồng rau muống, đọt mập, thân dài cả 5, 60 phân. Chúng tôi cắt khúc ngọn và lá non dài cỡ 15, 20 phân xào hoặc nấu canh ăn. Khúc thân còn lại, tuốt bỏ lá đem muối dưa chua ăn dần, hoặc chẻ nhỏ ăn sống trộn dầu giấm muối tiêu tỏi. Mùa nắng trồng cải củ, kết quả cũng rất khả quan. Củ nào củ nấy to và dài cả 3, 40 phân. Chúng tôi cắt bỏ lá, xắt củ ra nhiều khoanh nhỏ nấu canh tôm khô, thái mỏng xào trứng, hoặc làm gỏi thịt gà xé phay. Một vài người còn xắt miếng nhỏ phơi khô, ướp nước mắm cô đường để làm dưa món ăn dần.

Từ ngày Đội chúng tôi về định cư bên Khu Nhà Thăm Nuôi để trồng rau, “Ban” Nhu cũng chỉ định một Thiếu úy làm Quản giáo thay Quản giáo cũ chỉ là một Hạ sĩ quan. Qua cung cách cư xử, của “Ban” Nhu đối với Quản giáo mới, trước mặt chúng tôi, cho phép nhận định ông ta là một trong nhóm Cán bộ trẻ, được “Ban” Nhu tin dùng và thương. Hàng ngày ông ta phải báo cáo thẳng với “Ban” Nhu, mọi diễn tiến sinh hoạt của Đội chúng tôi, cũng như chuyển lệnh của “Ban” thẳng đến Đội trưởng, không phải qua hệ thống Giáo dục của Trại. Ông này mặt mũi khôi ngô, đẹp trai, tính tình nhã nhặn, luôn luôn tỏ thái độ tử tế với chúng tôi, rất “văn nghệ” đối với các Cán bộ Nữ. Lúc nào cũng lịch thiệp lễ độ, với các Bà ở lại với chồng qua đêm tại Khu Nhà Thăm Nuôi. Luôn luôn dùng Nhân vật Đại danh từ “Bác” với các Bà, chớ không gọi Chị này Chị kia. Nhưng oái oăm một nỗi, hàng ngày ông ấy quen mồm gọi chúng tôi bằng “Anh”. Đến lúc có Vợ “thăm nuôi”, 3 người ngồi nói chuyện, ông ấy gọi mình là “Anh”, vợ mình là “Bác” và xưng “Cháu”. Thật khôi hài hết chỗ nói.

Thường Tết năm nào Trại cũng gói nấu bánh chưng, phát cho Tù mỗi người 1 chiếc. Không biết tại sao, Tết Bính Dần-1986 Đội chúng tôi lại được phát gạo nếp, đậu xanh, thịt heo và lá giong, để anh em tự gói bánh và nấu lấy tại Nhà Lô của Đội. Chắc là do sáng kiến “đổi mới, cởi mở” của “Ban” Nhu. Nhân đó anh em yêu cầu anh Đội trưởng, đề nghị Cán bộ Quản giáo trình “Ban”, cho phép anh em góp tiền ra chợ ngay gần Trại, mua thêm gạo, đậu, thịt heo, lá và lạt bằng tre giang, về gói cho mỗi người 4 chiếc, ăn thoải mái một lần trong mấy ngày Tết.

Ba ngày trước đêm Giao Thừa, Quản giáo Đội cho biết, “Ban” Nhu chấp thuận cho ông ta dẫn Đội trưởng ra chợ gần trại, mua gạo, thịt, đậu, lá và lạt về cho anh em gói nấu thêm bánh chưng như đề nghị. Anh Đội trưởng ngại đi một mình phải xách nặng chịu không nổi, đề nghị cho Tôi cùng đi để tiếp tay. Quản giáo “nhất trí” là sáng hôm sau, lúc Đội xuất Trại ra tới Nhà Lô, chúng tôi sẽ đi chợ ngay. Sáng hôm sau, ra tới Nhà Lô Đội, chúng tôi thấy Cán bộ Nữ Quản giáo Đội Nuôi Heo ở kế bên, đang chờ tại đó để cùng đi chợ với chúng tôi. Có thể, Quản giáo Đội chúng tôi muốn nhờ nữ giới sành việc mua bán, biết mặc cả trả giá cho được rẻ. Cũng có thể, đoạn đường đi bộ hơi xa, ông ta muốn đi bằng xe đạp cho đỡ vất vả, nên rủ Cán bộ Nữ đem xe đạp tới để 4 người đèo nhau đi cho vui vẻ.

Quản giáo Đội đạp xe đèo anh Quỳnh Đội trưởng, ngồi trên poọc ba ga (porte bagages) phía sau. Tôi phải đạp xe đèo Cán bộ Nữ, người nẩy nở cân đối, mỏng mày hay hạt, da hơi ngăm ngăm bánh mật, trông có vẻ như lai sắc tộc, người gốc Thanh Hoá, nặng khoảng 35 kí lô. Chúng tôi không đi theo đường băng qua Trại chính, đi dọc bên này sông, qua Đội Nuôi Gà, Đội Rau Nữ, Đội Nông Nghiệp, qua cầu gỗ băng sông sang Khu Nhà Tiếp Thân nhân “đăng ký thăm nuôi” mới, ra quốc lộ rẽ trái đi hướng Thuận Hải (Phan Thiết). Khúc đường đất, băng qua các Đội trong lãnh vực đất Trại, nhỏ, gập ghềnh, bề ngang vừa đủ cho một xe bò di chuyển. Đạp xe phải lách qua lách lại, giữ thăng bằng tay lái xe cũng hơi vất vả. Nhưng ra tới đoạn, từ khu Nhà Tiếp Thân nhân “đăng ký thăm nuôi” ra đến chợ, là đường nhựa, thoai thoải lần lần xuống dốc, xe chạy bon bon nhẹ nhàng thích thú.

Chuyến về, phải móc trên “ghi đông” xe, 2 giỏ chợ cỡ chục kí lô thịt gạo đậu, lại nai thêm đằng sau lưng Cán bộ Nữ nặng 35 kí lô. Tôi đã gần 6 chục tuổi đời, sau hơn chục năm lao động cực khổ trong các Trại Tù, thiếu đói bệnh hoạn, sức khoẻ suy tàn, đạp xe thấy chật vật nặng nề quá. Ra khỏi chợ đi được chừng 2 cây số, xe bắt đầu leo lên dốc thoai thoải, dài cả 5, 6 cây số. Tôi phải nhổm người lên khỏi yên xe, ráng dùng sức nặng của thân mình, nghiêng qua nghiêng lại cố gắng đạp, cho xe lăn tới từng nấc một, mà cũng hết muốn nổi. Mấy lần tay lái bị đảo qua đảo lại, tiến lên không nổi nghiêng đi như muốn đổ. Thấy vậy, Cán bộ Nữ bảo Tôi ngừng lại, xuống xách 2 giỏ chợ ra ngồi phía sau, để cô ấy đạp xe cho. Cán bộ Nữ cũng xấp xỉ 30 cái Xuân xanh rồi, nhưng chưa có đôi bạn, chưa chửa đẻ con nên còn rất mạnh, đạp xe lên giốc nhẹ nhàng như không, chẳng khác nào “con gái mười bẩy bẻ gẩy xừng trâu” như các Cụ ngày xưa thường ví. Ngồi sau lưng, mũi vừa ngang tầm nách của người ngồi trên yên xe. Gió thoảng liên tục, từ phía trước ra sau. Tôi phải nín thở, chịu đựng mùi mồ hôi người mồ hôi nách, nồng nồng như tỏi, suốt khoảng đường dài gần 7 cây số, dưới ánh nắng ban mai hiền hoà thơ mộng, của rừng núi miền Đông Nam Việt.

Đi ra chợ với chúng tôi, các Cán bộ mặc thường phục như dân chớ không mặc sắc phục Công an, thế mà dân chúng địa phương cũng biết. Họ không gọi là Cán bộ hay Đồng chí, cũng chẳng gọi là Chú Công an hay Cô Công an như dân ngoài Bắc. Họ gọi bằng anh, bằng chị, một cách đơn giản mộc mạc như đối với mọi người dân thường cùng trạc tuổi đôi ba mươi. Có điều đặc biệt là họ vồn vã săn đón mời mọc mua hàng một cách riết ráo, vì thấy có chúng tôi đi theo, chắc chắn là phải có nhu cầu mua sắm, chớ không phải chỉ đi “tham quan”.

Đây là một cái chợ nhỏ nằm trong ngõ, xen giữa những căn phố mái tôn mái ngói lẫn lộn, ngay bên cạnh Quốc lộ, y như những chợ nhỏ trong ngõ gần các khu chung cư vùng Bàn Cờ ở Saigon vậy. Chúng tôi tới vào lúc chợ đang đông, khoảng trên dưới một trăm người, cả khách mua lẫn kẻ bán. Mọi người ồn ào chen lấn nhau, giữa các quầy hàng bầy bán đủ thứ : thực phẩm khô, hàng xén, hàng vải, hàng thịt, hàng tôm cá, hàng rau, hàng quà bánh nóng... Cũng có một số khá đông không có quầy riêng, ngồi xệp dài dài hai bên đường quanh chợ, bầy bán những món hàng đựng trong thúng, trên mẹt, hoặc dăm bẩy con gà, con vịt, chân cột dính trùm với nhau, nằm dẫy dụa trên mặt đất. Đường đi trong chợ nền đất lầy lội, hôi tanh mùi cá mùi mắm. Tôi không tọc mạch hỏi, nên không biết đây có phải là chợ Quận Hàm Tân hay không.

Mang tiếng nhờ nữ giới đi theo để trả giá mua cho được rẻ. Nhưng Cán bộ Nữ này, quanh năm suốt tháng ăn cơm tập thể, chẳng hề đi mua bán nấu nướng lấy bao giờ, làm sao biết giá thị thường mà mặc cả. Ghé hàng này qua xạp kia, đâu cũng ra giá như nhau. Cô ta chỉ hỏi giá, rồi chê đắt và hỏi có bớt không? Người bán không chịu bớt, chẳng biết làm sao đành mua đại cho rồi, còn về chuẩn bị gói bánh cho kịp đưa lên bếp, khởi sự nấu trước giờ nghỉ lao động chiều. Đối với chúng tôi, giá cả rẻ đắt không thành vấn đề. Cả hơn chục năm trời chịu thiếu đói, bây giờ có cơ may “ngàn năm một thưở”, mua được thứ tươi ngon về ăn là tốt rồi, chẳng mong gì hơn.

Hôm đó là 2 ngày trước Đêm Giao Thừa, trừ mấy anh có những luống rau chưa “thâu hoạch” phải tiếp tục đi tưới. Còn lại bao nhiêu, Quản giáo Đội cho phép miễn lao động, chia thành nhóm chuẩn bị gói nấu bánh chưng. Thật là vui! Ngoài nhóm đi kiếm củi cành lớn và gốc cây, cho đủ đun ninh bánh liên tục 12 tiếng đồng hồ. Các nhóm còn lại, phải thực hiện cùng một lúc, các việc sau :

-1. Ngâm đậu xanh, cà đãi vỏ, nấu chín, giã nhuyễn, nắm thành những nắm đều cho mỗi bánh 1 nắm.

-2. Cắt thịt ba chỉ (bì, nạc, mỡ) thành miếng đều nhau, ướp gia vị hành tiêu nước mắm bột nêm cho vừa, mỗi bánh 2 miếng.

-3. Rửa lá, lau khô, tước sống và bỏ cuống lá, lựa lá nhỏ cắt lót khuôn, 4 lá cho mỗi bánh. Lá to để nguyên dùng gói bọc bên ngoài mặt bánh, mỗi bánh 3 lá.

-4. Chẻ lạt bằng tre giang, mỗi bánh cần 4 lạt. Một số đốt giang do Trại phát, một số phải mua thêm ngoài chợ.

-5. Vo gạo để róc nước. Khi bắt đầu gói, rắc thêm chút muối, trộn đều để bánh được đậm đà vừa ăn.

Khi mọi công tác chuẩn bị đã hoàn tất, những người phụ trách gói bắt đầu ra tay. Nhóm gói gồm 3 người : các anh Trịnh đình Đăng, Phạm tài Điệt và Tôi. Anh Đăng rất thiện nghệ gói tay không cần khuôn, bánh vẫn vuông vắn, đẹp với đủ 8 góc. Còn anh Điệt và Tôi phải dùng khuôn gỗ, do anh Đăng đóng, để gói cho được đều tay, vuông vắn đủ 8 góc, không méo mó góc thấp góc cao. Khoảng hơn 3 giờ chiều, tất cả số bánh dự trù cho chúng tôi, mấy cặp biếu “Ban” Nhu, Quản Giáo Đội, và Cán bộ Thăm Nuôi, đều được gói xong đầy đủ. Bánh được cột thành từng cặp, mặt trên của bánh áp vào nhau, xếp vào 2 thùng (một bằng tôn, một bằng nhôm) đã bắc sẵn trên bếp, đổ đầy nước vào thùng và khởi sự mồi lửa luộc. Các thùng nấu bánh, do anh Quỳnh nhắn gia đình gửi lên cho mượn. Chúng tôi thay phiên nhau canh, đẩy củi đun đến giờ Đội rời Nhà Lô vào Trại, giao lại cho 2 anh Tô văn Vân và Dương hiếu Nghĩa (giữ Nhà Lô) luân phiên nhau lo tiếp qua đêm. Gần hai bên hông các thùng bánh, phải vần 2 thùng nhỏ đựng nước, để châm thêm vào các thùng bánh trong suốt thời gian ninh. Lửa phải giữ cho cháy đều, và canh chừng nước hơi cạn phải châm thêm ngay. Đến nửa đêm, phải đảo bánh phía trên xuống phía dưới, để bảo đảm tất cả bánh được chín đều, không chiếc nào bị hấy (có chỗ gạo chưa kịp chín). Sáng hôm sau khoảng 9 giờ vớt bánh, xếp lên bàn ép cho nền, không còn nước ứ trong lá mới để được lâu không bị chua hư. Chiều tối, trước khi trở vào Trại giam, mỗi người lãnh phần riêng của mình, đem một chiếc vào ăn đón Giao Thừa. Mấy chiếc còn lại, cất tại Nhà Lô để thưởng thức dần trong 3 ngày Tết.

Không biết, vì trái gió trở trời cuối năm làm gà bị dịch chết. Hay muốn thanh toán lứa gà đẻ già, bằng lứa gà tơ mạnh đẻ trứng lớn bán được giá hơn. Bỗng dưng, thấy Trại bán gà làm thịt sẵn, cho Tù mua ăn Tết. Mọi người mừng rỡ vui vẻ đua nhau “đăng ký” mua. Người có nhiều tiền lưu ký tại Trại, mua nguyên con để nửa luộc, nửa kho ăn trong 3 ngày Tết cho đã thần khẩu. Kẻ ít tiền, chung nhau 2, 3 hoặc 4 người mua một con. Giá cả đồng nhất tính theo con. Ai hên gặp được con to nặng. Ai xui gặp phải con nhỏ hơn đôi chút. Gà tuy già, đẻ nhiều lứa, nhưng nuôi theo lối gà công nghiệp, đứng trong chuồng đẻ, nên thịt vẫn mềm béo, không dai cứng như gà thả. Đợt bán hôm 30 Tết, nhiều người chậm chân không mua được than phiền. Các Đội trưởng “phản ảnh” lên “Thi Đua” báo cáo Cán bộ Trực Trại. Nhờ thế, chiều ngày mồng Một Tết lại bán đợt thứ 2. Nhưng lần này, bị ế lại một số con, loa phóng thanh của Thư viện phải ra rả rao hàng nhắc nhở điếc cả lỗ tai.

Dịp Tết Nguyên đán Bính Dần-1986, “Ban” Nhu mới được thăng hàm Thiếu tá, và làm Trại Trưởng thay ông Giám Thị Trại trưởng cũ bị Nhà Nước cho “phục viên” (về hưu) sớm. Nhờ thế, “Ban” Nhu đặc biệt “chiếu cố” cho Tù K1, Z30D được hưởng những dịp vui thật là “cởi mở, đổi mới” chưa từng có, suốt thời gian cải tạo gần 11 năm qua, trên cả 3 miền đất nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Mừng đón Tân Xuân, Trại tổ chức một đêm Văn Nghệ thật đặc sắc, hấp dẫn. Ban Văn Hoá Trại tuyển lựa một số Tù Nam Tù Nữ, “biên chế” thành lập Đội Văn Nghệ, tập luyện kỹ càng, trình diễn thành thạo, chẳng khác nào đoàn Văn Công thứ thiệt Xã hội Chủ nghĩa. Một số ca, kịch sĩ, Tù Nữ duyên dáng, hấp dẫn, trình bầy rất thành thạo, khiến cử toạ (Cán bộ và Tù) vỗ tay hoan hô nồng nhiệt, hô Bis! Bis! yêu cầu hát thêm.

Đêm mồng một Tết, “Ban” Nhu lệnh cho Cán bộ Trực Trại, dẫn các Tự Quản Đội cả Nam lẫn Nữ (Đội trưởng, Đội phó), và toàn thể anh em Đội Đại tá chúng tôi, đến Tư dinh của “Ban” bên bờ sông, gần Nhà Thủy Tạ giữa hồ nước Đập Thủy Điện, đãi trà bánh. Trong cuộc vui, “Ban” Nhu bỗng dưng hứng chí cất giọng hát một bài, rồi yêu cầu mọi người có mặt, cũng phải thay phiên nhau hát hoặc kể chuyện giúp vui. Người thì hát, người thì đàn, nhạc đỏ, nhạc vàng, nhạc Dân tộc, nhạc ngoại quốc, gì cũng được hết. Ai không biết hát có thể kể chuyện vui, thanh tục gì cũng không sao, miễn làm cho mọi người được dịp vui cười thoải mái là được.

Đến lượt Linh Mục Bùi Đức Sinh, Ngài mở lời bằng một câu rào đón rất ư là khôn ngoan : “-Kính thưa Ban Giám thị, kính thưa qúy Cán bộ, kính thưa các bác Đại tá, và anh chị em. Tôi xin kể một câu truyện, nhưng xin Ban Giám thị đừng cùm Tôi vì câu truyện Tôi sắp kể.” “Ban” Nhu nói : “-Hôm nay là ngày vui. Tôi sẽ không cùm ai hết, dù câu truyện có xúc phạm đến cá nhân Tôi.” Được “Ban” Nhu xác định lập trường rõ ràng trước mặt mọi người, Linh Mục Sinh yên tâm chậm rãi nói : “-Kính thưa Ban và Qúy vị, câu truyện của Tôi nói về 4 lợi ích của việc hút thuốc. Một, không sợ chó cắn. Hai, không mất trộm ban đêm. Ba, trẻ mãi không già. Bốn, gia đình hạnh phúc. Xin hết.” Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, không vỗ tay cũng chẳng cười. Tôi ngồi bên cạnh Linh mục Sinh, hiểu ý Ngài nói khích “Ban” Nhu, vì “Ban” ghiền thuốc lá rất nặng. Hàng ngày hút liên tu bất tận, và chỉ hút toàn thuốc ngoại loại đắt tiền. Tôi lấy tay bấm tay Linh mục nói nhỏ : “-Ông già này vuốt râu hùm.” “Ban” Nhu suy nghĩ hồi lâu, mới cất tiếng : “-Yêu cầu Linh mục giải thích.” Linh mục Sinh đáp : “-Thưa “Ban”, 5 phút của Tôi đã hết.” “Ban” Nhu thủng thẳng nói : “-Tôi cho Linh mục thêm 10 phút.” Lúc đó Linh mục Sinh mới giải thích : “-Không sợ chó cắn vì chống gậy. Không mất trộm vì nằm ho suốt đêm. Trẻ mãi không già vì chết sớm. Gia đình hạnh phúc vì cô đào chê mùi thuốc.” Linh mục vừa dứt lời, mọi người ào ào vỗ tay tán thưởng. Câu truyện thật thâm thúy ý nhị, “Ban” Nhu cũng vỗ tay. Mấy bữa sau, “Ban” Nhu có dịp ghé thăm Đội vào giờ giải lao sáng tại Nhà Lô, Linh mục Sinh cũng có mặt bên anh em. Anh Quỳnh Đội trưởng lấy thuốc “555” ra mời, “Ban” Nhu khua tay nói : “-Linh mục dạy như thế, Tôi từ nay không hút nữa.” Linh mục Sinh vuốt ve : “-Thưa Ban, tiết độ, chừng mực, và làm chủ được mình. Thật đáng ca tụng.”

Từ ngày khai trương Khu Nhà Thăm Nuôi mới, anh Đại tá Hồ Hồng Nam (Chiến tranh Chính trị) thuộc Đội chúng tôi, vì lý do an ninh không được di tản ra Bệnh viện Phan Thiết, như các Tù Nữ và Tù Nam khác cấp bậc nhỏ hơn, phải nằm điều trị dài hạn tại Bệnh xá Trại, là người được gia đình đến xin “thăm nuôi” đầu tiên. “Ban” Nhu cho phép thăm nhiều ngày, và đặc biệt còn cho xe Mini Van riêng của gia đình, vào đậu tại Khu Nhà Thăm Nuôi. Sau mấy lần gia đình đến “thăm nuôi” liền liền, anh Nam nhận được lệnh tha ra khỏi Trại. Xe riêng của gia đình vào tận Khu Nhà Thăm Nuôi, đón chở anh ấy về nhà. Mấy tháng sau, chúng tôi được tin anh Nam đã qua đời, trong cuộc giải phẫu gan tại một Bệnh Viện trước kia rất nổi tiếng của Saigon.

Người thứ 2 thuộc Đội chúng tôi, được “Ban” Nhu cho phép thăm nhiều ngày tại Khu Thăm Nuôi mới này, là anh Quỳnh Đội trưởng. Chị Quỳnh được ở lại thăm 3 ngày 2 đêm. Sau ngày Chị Quỳnh “thăm nuôi” ra về, “Ban” Nhu ghé thăm anh em chúng tôi tại Nhà Lô, hỏi thăm anh Quỳnh thăm nuôi có được vui vẻ không? Rồi quay qua hỏi Tôi : “-Thế còn Bác Hùng, kỳ Bà Xã tới thăm 24 giờ, vợ chồng già đánh được mấy quả?” Tôi ngạc nhiên, không hiểu vì sao con người luôn luôn nghiêm khắc khó tính xưa nay, hôm nay lại dùng một câu hỏi bông đùa xuồng xã như vậy. Tôi chậm rãi trả lời : “-Thưa Ban, Vợ Chồng già, vấn đề sinh lý đâu có phải là nhu cầu chính yếu của tình nghĩa. Xa nhau cả hơn chục năm trời. Bao nhiêu thay đổi trong xã hội. Bao nhiêu chuyện gia đình, chuyện học hành của con cái cần phải trao đổi. Còn thời giờ rảnh đâu, mà nghĩ đến chuyện nhục dục. Nhất là tình trạng sức khoẻ của Tôi chẳng mấy khả quan, như Ban và anh em vẫn từng thấy hàng ngày.” “Ban” Nhu cười nói : “-Thôi được, hôm nào nhắn Bác gái lên. Tôi sẽ cho Bác thăm 3 ngày liền, để vợ chồng có thì giờ mà tâm sự cho nó thoải mái.” Từ đó trở đi, anh em Đội chúng tôi, ai có gia đình tới “thăm nuôi”, muốn xin ở lại 2, 3 ngày đều được “Ban” Nhu chấp thuận cho cả. Thực tình, không phải vì nhu cầu sinh lý các Bà muốn ở lại bên chồng, mà vì muốn vài tháng một lần, giúp cơ hội cho chồng có dịp được nghỉ lao động cực nhọc vài ngày cho nó khoẻ, nên mới chấp nhận ở lại vậy thôi. Trong Đội chúng tôi, cũng không phải tất cả mọi người đều xin “thăm nuôi” nhiều ngày. Phần lớn vì hoàn cảnh sinh hoạt riêng của gia đình, chỉ xin thăm nuôi 4 tiếng đồng hồ, suốt từ 12 giờ bắt đầu nghỉ lao động buổi trưa đến 4 giờ chiều mà thôi.

“Hiện trường lao động” và Nhà Lô của Đội chúng tôi, ở ngay kế bên Khu Nhà Thăm Nuôi mới, có dịp thấy hàng ngày lúc nào cũng đầy khách. Tất cả Tù Nam Tù Nữø không bị kỷ luật, khi có người phối ngẫu tới “thăm nuôi” muốn xin ở lại 24 giờ, đều được phép nộp đơn cho Cán bộ phụ trách Thăm Nuôi vào đầu giờ thăm gặp. Ông này tập trung mang đi trình Ban Giám Thị cứu xét quyết định. Nếu được chấp thuận, lúc mãn giờ “thăm nuôi” sẽ được thông báo, và Cán bộ phụ trách Thăm Nuôi dẫn đến Khu Nhà Thăm Nuôi, cấp phòng ngủ cho ở lại qua đêm.

Ăn Tết xong, mọi người lại miễn cưỡng lao đầu vào “đợt ra quân thi đua mới”, để chuẩn bị đón mừng lần thứ 12 ngày thống nhất đất nước 30-4 và ngày Quốc tế Lao động 1 tháng 5. Đặc biệt năm nay, còn để tham gia “Giải thi đua Trại Cải tạo Gương mẫu toàn quốc”.



ĐỔI MỚI, CỞI MỞ, CỞI TRÓI.


Mênh mông sóng hận dâng cao,

Căm thù sôi sục đồng bào đứng lên.

Gian manh muốn giữ vững quyền,

Bầy trò “đổi mới” cho yên tạm thời.

Cùng loài Chồn, Cáo, đổi ngôi,

Một dòng Lang, Sói, hại đời khác chi.

Tam Vô, Bất nghĩa, Bất nghì,

Mẹ Cha còn đấu, xá gì người dưng.

Thế thời căng chẳng đặng đừng,

Nới dây tơ mảnh, cột thừng chặt hơn.

Trổ nghề huýt sáo, rung đờn,

Gạt người lương thiện dâng hồn cho ma.

Hồ già xưa cũng ba hoa,

Lừa Dân, hại Nước mới ra nỗi này.

Mấy lần nhận tội, sửa sai,

Hứa nhăng hứa cuội, sửa hoài chẳng xong.

Nay còn chi nữa mà mong,

Công, Nông, Văn sĩ đồng lòng đứng lên.

Quyết đòi Dân chủ, Nhân quyền,

Đòi thay Chế độ Nhất nguyên độc tài.

Ngày tàn hẳn đến nay mai,

Đảng đành nhịn nhục luồn ngoài nịnh trong.

Hoan hô hoà hợp Tây Đông,

Theo Góc-ba-chốp kiếm đồng tiền xanh. (dollar)

Nới tay bóp cổ Dân lành,

Tuyên ngôn “đổi mới” mời Anh, Mỹ vào.

Đổi Tù Chính trị giá cao,

Giao thương kinh tế, miễn sao sống còn.

Nhún nhường phân giải thiệt hơn,

Khuyên Tù ở lại, giang sơn cậy nhờ.

Quên đi quá thứ hận thù,

Chung lưng xây dựng lại Nhà Việt Nam.

Lời tuôn dịu ngọt như cam,

Hồ ly tinh đội xác phàm rủ rê.

“Ra đi sống kiếp làm thuê,

Ở nhà, Con gửi tiền về dưỡng nuôi.

Thân già hẳn sướng như Trời,

Bôn ba thêm mệt cuộc đời ích chi.”

Ậm ừ cho qủy khỏi nghi,

Hết tù, nhất quyết phải đi nước ngoài.

Cho con cháu có tương lai,

Cho mình chuẩn bị một mai trở về.

Diệt bầy Cộâng, dựng lại quê,

Cho Dân Tộc được mọi bề Tự do.

Sống trong hạnh phúc ấm no,

Nhân quyền Dân chủ nở hoa sáng ngời.




K1, Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải.

Mùa Xuân Bính Dần-1986.






Chương 35


KHÚC QUANH SAU CÙNG CỦA ĐẠI NẠN CẢI TẠO

trong  Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam

Nguyễn Huy Hùng




Ngày “ra quân đầu năm Bính Dần-1986”, ngoại trừ mấy anh tiếp tục tưới những luống rau chưa “thâu hoạch”, toàn Đội 23 chúng tôi phải tập trung dựng 2 giàn bầu, ở 2 bên đầu cầu trước khu Nhà Thăm Nuôi mới, dài 50 mét, rộng 10 mét, để phủ kín từ bờ này sang bờ kia khúc sông cạn. Quản giáo Đội cho biết, “Ban” Nhu muốn công tác phải giải quyết “khẩn trương” trong vòng 1 tuần lễ, để kịp “hạ thổ” các cây bầu giống, do anh Dương hiếu Nghĩa (Đại tá Thiết giáp) ương từ trước Tết, nay đã đủ sức mạnh đâm rễ xuống đất và tăng trưởng ngọn leo lên giàn. Hẳn là sắp có nhu cầu trình diễn, nên “Ban” Nhu Trưởng Trại Z30D mới quy định kỳ hạn, cho Đội chúng tôi phải hoàn tất công tác như vậy.

Chiều ngày mồng 2 Tết, Đội Lâm Nghiệp đã chặt tre rừng, và xe tải của Trại đã chuyển đến, đổ xuống khoảng đất trống trước sân khu Nhà Thăm Nuôi, một đống cao lù lù, nhiều hơn nhu cầu. Ngày mồng 3 “ra quân”, Đội chúng tôi chỉ việc hiệp nhau lựa cây, sắp xếp trôn cột, ráp nối đóng khung, gác buộc giàn ô vuông cỡ 4 tấc như quy định. Ngày nào “Ban” Nhu cũng ghé qua xem tiến triển công tác, và góp ý kiến hướng dẫn cho việc thực hiện được đúng như “Ban” muốn. Chúng tôi chỉ mất có 4 ngày, đã làm xong 2 giàn bầu rất đẹp mắt, trông như 2 cánh của con chuồn chuồn. Đầu chuồn chuồn là hòn đảo có 2 dẫy Nhà Thăm Nuôi với các bồn bông, thân chuồn chuồn là chiếc cầu gỗ ở giữa 2 giàn bầu, và đuôi chuồn chuồn là con đường dài từ cầu dẫn ra Vườn Tao Ngộ.

“Ban” Nhu rất ngạc nhiên, tấm tắc khen chúng tôi giỏi, việc gì làm cũng rất thông thạo, kỹ càng, mỹ thuật. Những lời nhận xét này, được “Ban” Nhu nhắc đi nhắc lại trước các đoàn “tham quan”, như cố ý khoe cái tài của ông ấy cải tạo các Đại tá Chế độ cũ, trở nên người lao động Xã hội Chủ nghĩa thành thạo. Nhưng, các phái đoàn Trung ương và địa phương tới Trại Z30D “tham quan” đâu có biết. Những năm 1976-1977 ở Liên trại 1, xã Việt Cường, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn, do Bộ đội Cộng sản Bắc Việt quản lý, anh em chúng tôi đã phải lên rừng, chặt tre, đốn gỗ về làm nhà, làm hàng rào để giam chính bản thân mình, làm cơ sở Văn phòng cho Ban Chỉ huy trại và nhà cho Bộ đội canh gác Tù ở đã quen, nên bây giờ mọi việc mới thực hiện được dễ dàng nhanh chóng, chẳng bỡ ngỡ khó khăn gì.

Dựng giàn bầu xong, anh em chúng tôi phải cải tiến tổ chức Đội, phân công lại, để hoàn thành “chỉ tiêu thi đua” sản xuất Rau Xanh quy định cho năm 1986, cao hơn năm cũ, nhưng không tăng cường nhân số. Chúng tôi biết trong số Tù Nam giam tại K1, cũng có bạn Tù cấp bậc Đại tá trong vài Đội khác, không biết vì sao các bạn ấy không được tập trung vào cùng Đội với chúng tôi.

Nhờ mớ kinh nghiệm thực tế, học được trong thời gian trồng rau bên Z30C, tại Z30D, câu phương châm đầu môi chót lưỡi của Cách mạng Vô sản, phải nghe thường ngày như kinh nhật tụng, suốt hơn mười năm cải tạo : “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”, và dựa theo khả năng sức khoẻ của mỗi người, anh em chúng tôi đồng thoả thuận chia thành những nhóm, phụ trách các phần vụ chuyên biệt khác nhau.

Nhóm lo trồng 3 vạt ớt, săn sóc chục cây đu đủ, các bụi chuối, giàn nho, vườn hoa quanh Khu Nhà Thăm Nuôi và dọc đường 2 bên bờ sông, không cần sức nhiều, giao cho Linh mục Bùi đức Sinh và các anh Đại tá Nguyễn văn Phúc (Chiến tranh Chính trị), Lại đức Nhi (An ninh Quân đội) phụ trách. Riêng vạt ớt của Linh mục Sinh ở ngay 2 bên đầu cầu trước khu Nhà Thăm Nuôi, hàng ngày được anh Đại tá Nguyễn quốc Quỳnh (Chiến tranh Chính trị) Đội trưởng, tự nguyện phụ giúp gánh nước tưới, nên cây lúc nào cũng xanh tốt xum xuê sai trái hơn 2 vạt kia.

Hai giàn bầu gồm hơn chục gốc, trồng dài 2 bên đầu cầu, như mái che mưa nắng cho khúc sông cạn trước Khu Nhà Thăm Nuôi, do một mình anh Nghĩa chăm lo. Anh ấy tự nguyện nhận lãnh, vì được chỉ định ở cả ngày lẫn đêm ngoài Nhà Lô với anh Đại tá Tô văn Vân và Quản giáo Đội, không bị lệ thuộc vào giờ giấc ra vào Trại, nên có thể thủng thẳng chăm sóc tưới tắm lúc nào cũng tiện. Ngoài ra, anh Nghĩa còn phụ trách thêm việc phun thuốc trừ sâu cho các luống rau, một lần cho mỗi đợt mới trồng, khi tới kỳ bén rễ bốc mạnh.

Nhóm làm luống vô phân và gánh nước tưới, do các bạn Đại tá Phạm chí Kim, Đỗ văn Sáu, Trịnh đình Đăng, Trần văn Thăng, Phạm tài Điệt, Trần kim Hoa, còn tương đối khoẻ phụ trách. Đây là nhóm nỗ lực chính của công tác trồng rau. Để mọi người cùng vui vẻ, anh em được quyền tự nguyện nhận tưới một số luống rau tùy theo khả năng của mình, ít nhất cũng là 6 luống, nhiều nhất là 8 luống.

Hạt Giống, qua những mẩu chuyện trao đổi giữa Cán bộ Quản giáo Đội và “Ban” Nhu lúc ghé thăm Đội, anh em biết là anh Quỳnh Đội trưởng đã tự nguyện, nhờ gia đình đến các vựa rau quanh Saigon, mua gửi lên cho Trại 3 loại hạt Giống (rau muống, cải củ, cải bẹ xanh) nhập cảng từ Đài Loan rất tốt. Nhờ thế, kết quả sản lượng rau “thâu hoạch” của Đội bao giờ cũng cao.

Phân bón “cơ bản chủ yếu” là phân bò, đi lấy một tuần lễ 2 lần, tại chuồng nuôi bò cả trăm con trong Phân trại K2, cách “hiện trường lao động” của Đội chúng tôi khoảng hơn 3 cây số. Chúng tôi phải đánh xe bò vào, tự vét lấy đổ lên xe chuyển về, tích thành đống lớn để trộn lẫn với phân Bắc dùng dần. Vì thế, ruồi nhặng xâm lăng Khu Nhà Thăm Nuôi đông đến nỗi, các gia đình “thăm nuôi” phải giăng mùng, ngồi trong giường ngủ để ăn cơm giữa ban ngày. Phân Bắc là phân người, do một bạn tù chuyên đánh xe bò đi lấy hàng ngày, từ các phòng giam Tù trong trại giam chuyển tới, đổ cho Đội mỗi tuần lễ một xe, để bằm trộn lẫn với phân bò bón lót trong luống trước khi reo hạt rau.

Muốn cho ớt có trái lớn và hương vị thật cay, Đội được phép đi lấy mỗi tuần lễ 1 xe bò phân gàø, ở khu Đội Nuôi Gà về trộn lẫn với phân bò để bón.

Phân hoá học cũng được dùng để hoà vào nước tưới, thúc cho rau bốc nhanh sau khi đã tỉa bớt và vun gốc. Phân hoá học do Cán bộ Quản giáo dẫn Đội phó đi lãnh hàng tháng về tồn trữ tại Nhà Lô Đội, phát lần cho các bạn phụ trách tưới các luống rau xử dụng.

Anh Nguyễn văn Sáu (Trung tá Biệt động quân) Đội phó và Tôi, ngoài nhiệm vụ xẻ rãnh, vào phân, reo hạt, tỉa xới vun gốc rau, còn là nhóm lo chở phân, và chuyển vận nộp rau cho Nhà Bếp trại. Một tuần lễ 3 lần đi lấy phân và 2 lần chuyển rau. Tôi là chuyên viên đánh xe bò. Khi nào Vợ Con tới “thăm nuôi”, Tôi được nghỉ lao động, anh Quỳnh Đội trưởng phải đánh xe thay thế, vì anh Sáu không điều khiển được bò.

Vào những ngày đi lấy phân bò, anh Sáu Đội phó dẫn 3 người xuất trại trước, vào K2 để lo vét vun phân thành từng đống lớn. Sau khi Đội xuất trại ra đến Nhà Lô, Tôi đi một mình sang khu gần bên Đội Nuôi Gà, dắt bò về Đội, mắc vào xe, rồi đánh thẳng vào K2. Thoạt đầu vào nghề đánh xe bò, Tôi gặp nhiều vất vả với con bò non mới tập bắt kéo xe này. Nó vùng vằng không chịu lùi đít vào giữa 2 càng xe, để mình đặt vai kéo xe lên sống gáy cổ nó, hoặc mới đặt xong chưa kịp cột dây vòng dưới cổ để giữ,ø nó đã bước 2 chân sau ra khỏi càng xe. Đôi khi nó vùng vằng lùi lùi, đẩy cho xe quay đít tuột xuống rãnh bên lề đường... Bực mình quá đỗi, Tôi đành phải dùng bạo lực để trị bắt nó phải phục tùng mình, mặc dầu trong lòng cũng thấy áy náy bất nhẫn vô cùng. Một tay cằm chặt thừng xỏ mũi nó kéo lên, một tay cầm roi tre quất qua quất lại thật mạnh vào 2 bên má của nó túi bụi. Nó đau nhắm nghiền 2 mắt lại, cúi đầu xuống lùi lùi chịu trận không dám kháng cự. Nhờ mấy trận đòn phủ mặt như vậy, nó mới biết sợ. Mỗi lần thấy Tôi cằm dây xỏ mũi điều khiển, nó ngoan ngoãn lùi vào giữa 2 càng xe, đứng im chờ cột dây an toàn vòng dưới cổ đàng hoàng. Và chỉ khi nào, thấy Tôi đã ngồi trên xe phất cây roi hô : “-Đi!”, nó mới bắt đầu chậm rãi cất bước kéo xe tiến tới.

Để cho nó phải hoàn toàn thuần thục, bớt sinh chứng ương ngạnh dọc đường, chuyến đi bao giờ Tôi cũng ra roi bắt nó phải kéo xe không chạy như ngựa, suốt đoạn đường dài 3 cây số, thoai thoải xuống đồi rồi lại lên đồi, từ Đội chúng tôi vào gần đến chuồng bò K2 mới cho đi thong thả trở lại. Mặc dù phải làm giữ để rằn mặt nó như vậy, nhưng Tôi rất thương nó. Ngày nào phải đi kéo xe với Tôi, nó cũng được một bao cỏ thật non, cắt sẵn từ chiều hôm trước, để điểm tâm trong khi chờ kéo xe phân về Đội, hoặc chở rau vào Trại. Sau mỗi lần chuyển vận xong, nó lại được nghỉ cả buổi chiều, lang thang bên bờ sông trong khu vực lao động của Đội, để kiếm cỏ ăn no nê trước khi dẫn trả về khu giam nó. Nhờ thế chỉ 2 tuần lễ sau, nó và Tôi đã trở thành đôi bạn thân thiết. Mỗi lần thấy Tôi đến cởi dây cột bên bụi tre dắt nó đi làm, nó luôn luôn mừng rỡ cúi đầu cà cà vào người Tôi như chào hỏi, chớ không ương bướng như hồi đầu mới gặp nhau. Ngược lại, để bầy tỏ tình thương của Tôi đối với nó, thỉnh thoảng Tôi nhét vào miệng nó vài cục đường thẻ, một tay xoa xoa vỗ vỗ trên gò trán giữa 2 cái xừng của nó. Nó cúi đầu lim rim đôi mắt, ngọ nguậy 2 tai ra chiều thích thú lắm.

Những luống rau nào được “thâu hoạch” nộp Nhà Bếp xong, các anh phụ trách tưới khu rau đó, phải cuốc đảo đất làm lại các luống của mình. Mùa nắng phải làm luống chìm ngang mặt đất, đường đi chung quanh luống cao hơn độ 10 phân, để giữ cho lúc nào trong luống rau cũng ẩm nước, rau không bị chết khô hoặc èo ọt không tăng trưởng mạnh. Mùa mưa, ngược lại phải làm luống nổi cao hơn mặt đất chừng 20 phân, cho rau không bị úng nước thối gốc.

Tổ Reo Hạt Giống, gồm anh Sáu Đội phó và Tôi, tiếp tay các anh ấy sửa luống, xẻ rãnh, vào phân, reo hạt đợt mới. Sau khi chúng tôi hoàn tất nhiệm vụ, các anh ấy lại tiếp tục công việc tưới hàng ngày, cho đến khi rau “đạt tiêu chuẩn” để “thâu hoạch”.

Sau khi Hồ nước Đập Thủy Điện được khơi rộng xong. Tourbine cỡ nhỏ được đặt trong căn nhà tháp bên đầu Đập khởi sự quay, cung cấp điện cho trại. Khu “hiện trường lao động” của Đội chúng tôi, các dây bầu bắt đầu bò phủ lá xanh to dầy đặc mặt giàn, các luống rau tăng trưởng xanh mướt, đu đủ, chuối, ớt, bắt đầu đâm bông kết trái, vườn hoa trước sân khu Nhà Thăm Nuôi nở rộ mầu sắc rực rỡ, là lúc các đoàn từ Trung ương, Địa phương khác nối tiếp nhau đến “tham quan” tới tấp.

Trời vào Hè bắt đầu nắng gắt. Một hôm vào khoảng 3 giờ chiều, Tôi đang xới đất vun gốc mấy luống rau mới tỉa, tự nhiên thấy choáng váng mặt mày, mắt trái buốt nhức thốn lên tận óc, đau quặn thắt ngang lưng. Tôi phải bỏ việc đi lần qua những miếng ván dài, bắc chênh vênh nối giữa các mô đá suốt bề ngang dòng sông, về Nhà Lô Đội nằm lăn ra chiếc giường riêng của anh Nghĩa chịu đựng. Anh Sáu Đội phó thấy vậy, cũng bỏ việc chạy theo về, thoa dầu Cù Là cạo gió cho Tôi. Một lúc sau bớt đau, ngồi dậy lấy nước uống, Tôi thấy mắt trái tức tức và không nhìn thấy gì. Tôi lấy tay bịt mắt bên phải, chỉ nhìn bằng mắt trái không thôi để kiểm chứng. Quả rằng mắt trái của Tôi đã mù, chỉ thấy một màn ánh sáng mờ đục chớ không thấy hình cảnh bên ngoài nữa. Tôi hoảng hốt, Quản giáo Đội không có mặt tại Nhà Lô, đành phải báo cho anh Đội trưởng biết, rồi tức tốc rời “hiện trường lao động” vào Bệnh Xá Trại giam xin khám bệnh “đột xuất”.

Cán bộ Y tế không có mặt tại Bệnh Xá. Anh bạn Tù trẻ, Bác sĩ Tôn thất Sang, vốn thuộc Đội anh em Phục Quốc trẻ gốc Đà Nẵng, đình công không đi lao động nhân vụ Tôi bị “Ban” Nhu phạt cùm một chân trong Nhà Kỷ Luật 5 ngày 5 đêm (Tôi đã kể trong một đoạn trước), được chỉ định vào Bệnh Xá làm phụ tá cho Cán bộ Y tế Trại, khám định bệnh cho Tôi. Anh ấy cho biết là mắt trái của Tôi bị “đục thủy tinh thể” (cataract), nên không nhìn thấy hình cảnh bên ngoài. “Thủy tinh thể” mắt bên phải, cũng bắt đầu chớm đục chút đỉnh nên vẫn còn nhìn thấy. Nhưng một thời gian sau, không biết trước là bao lâu, khi “thủy tinh thể” đục hoàn toàn như mắt trái, thì cũng sẽ không nhìn thấy gì nữa. Tôi lo lắng hỏi : “-Như vậy là mắt trái của Tôi hư luôn rồi sao? Có cách nào chữa cho mắt phải không bị đục “thủy tinh thể”, để còn một mắt mà nhìn đời chớ, cả 2 mắt mù luôn thành người tàn phế thì còn gì là tương lai?”

Để cho Tôi yên lòng, anh Bác sĩ trẻ cười, nhẩn nha giải thích : “-“Thủy tinh thể” ở con ngươi mắt được ví như miếng thấu kính (lens) của máy chụp hình. Nó phải trong suốt thì ánh sáng hình cảnh bên ngoài mới thấu qua, in lên phim trong phòng tối của máy ảnh được. Có một cách giải thích cụ thể khác dễ hiểu hơn, tỉ như ta đứng sau một cửa sổ ráp kính trong vắt, có thể nhìn thấy hình cảnh bên ngoài sân rõ ràng. Nhưng nếu kính trên cửa sổ là loại đục, ta chỉ thấy ánh sáng mờ mờ chớ không thấy hình cảnh bên ngoài sân. Cũng vậy, “thủy tinh thể” trong con ngươi mắt bị chất vôi làm đục mờ đi, bộ não không còn ghi nhận được hình cảnh nữa, chỉ thấy ánh sáng mờ mờ xuyên qua cái màng đục thôi. Muốn nhìn được trở lại, người ta phải làm phẫu thuật. Mổ mắt bỏ miếng “thủy tinh thể” bị đục đi, thay thế bằng miếng “thủy tinh thể nhân tạo” trong vắt không khó khăn gì. Tại Thành phố Saigon, có một Bệnh viện rất lớn chuyên khoa về mắt, hàng ngày người ta giải phẫu thay “thủy tinh thể” cho rất đông bệnh nhân, có thể coi như trăm phần trăm ca mổ đều thành công mỹ mãn. Còn thuốc chữa cho “thủy tinh thể” không bị chất vôi trong cơ thể làm đục, hiện nay chưa có.”

Nhờ sự giải thích này, Tôi không còn cảm thấy chán nản buồn lo nữa. Chỉ cần có cơ hội xin “Ban” Nhu Trại trưởng cho đi Bệnh viện mổ mắt thay “thủy tinh thể”, là mọi chuyện lại bình thường. Nhưng, chuyện này chẳng dễ dàng gì. Tấm gương anh Đại tá Hồ hồng Nam, bị đau gan, đại tiện ra máu cả bao tháng trời, cứ phải nằm điều trị tại Bệnh xá Trại, cho đến khi bệnh nặng quá, gia đình khéo chạy chọt lắm mới được tha về, vài tháng sau thì chết.

Sáng hôm sau Tôi ghi sổ xin khám bệnh, để được Cán bộ Y tế Trại đích thân xét nghiệm ghi vào hồ sơ tại Bệnh xá, tiện dụng sau này. Mấy bữa sau, có phái đoàn thuộc Cục Trại giam Trung ương do một Tướng cầm đầu (nghe nói là quan thầy của Ban Nhu) tới “tham quan” Trại Z30D, ghé Nhà Lô Đội 23 chúng tôi, ngồi uống trà hút thuốc vào giờ giải lao giữa buổi lao động sáng. Lợi dụng trong lúc vui câu chuyện, Tôi trình bầy về con mắt trái của Tôi bị đục “thủy tinh thể” không trông thấy gì, cần phải đi Bệnh viện mổ, xin “Ban” Nhu “chiếu cố” để cứu cho khỏi bị mù. Thấy “Ban” Nhu ngồi yên lặng nhìn Tôi vẻ ngạc nhiên, Tôi trình bầy lại mọi việc đã xẩy ra, và không quên báo cáo là Cán bộ Y tế của Trại đã đích thân khám xét xác nhận như vậy. Vài phút sau, “Ban” Nhu mới lên tiếng : “-Được rồi, để tháng tới có người đang nằm điều trị tại Bệnh viện Phan Thiết về, Tôi sẽ cho Bác đi.”

Vào giờ nghỉ lao động buổi trưa, anh em quây quần trong Nhà Lô ngồi ăn cơm. Anh Điệt mới nói cho biết, lúc Tôi nói chuyện với “Ban” Nhu, anh ấy đang ngồi phía bên trái của Tôi. Thấy “Ban” Nhu lưỡng lự không quyết định, anh ấy đã nắm tay đấm dọa thẳng vào thái dương trái của Tôi. Không thấy Tôi chớp mắt hoặc giật mình phản ứng tự vệ, chứng tỏ mắt trái của Tôi không trông thấy gì thật, lúc đó “Ban” Nhu mới tin và trả lời bằng lòng cho đi Bệnh viện trong tháng tới.

Một tháng, rồi 2 tháng qua đi, không thấy “Ban” Nhu nhớ đến việc cho Tôi đi Bệnh viện. Tôi cũng chẳng tìm cơ hội để nhắc lại, vì mới có tin anh bạn Tù (cấp bậc Trung tá) nằm điều trị tại Bệnh viện Phan Thiết, được gia đình móc nối giúp đỡ sao đó, đã trốn đi biệt tích. Ban Chỉ huy Trại đang phiền lòng, điên đầu vì vụ này xẩy ra ngay trong thời gian “thi đua lập thành tích tranh giải Trại Cải tạo gương mẫu cả nước”. Tôi đành tiếp tục nhìn đời bằng một con mắt, nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của thời Đại Nạn đến đâu hay đó. Biết làm sao hơn, khi vận bí của mình chưa hết.

Gần cuối tháng 6, Linh mục Bùi đức Sinh, phụ trách trồng ớt phía trước Nhà Thăm Nuôi, được gọi “làm việc” mấy ngày liền. Sau đó Ngài được chuyển đi nơi khác. Sau này khi được tha về, gia đình Tôi ở gần nhà Thờ Ba Chuông, đường Lê văn Sĩ (Trương Minh Ký cũ), quận Phú Nhuận, có dịp ghé thăm Linh mục Sinh. Mới biết là rời Trại Z30D, Ngài được đưa về Trại Z30A tại Xuân Lộc, Long Khánh, ở chung với các vị Linh mục Tuyên Úy Quân đội.

Hết Hè vào Thu, mùa mưa lũ nước sông dâng cao, chẩy xiết làm đất 2 bên bờ lở, mở lòng sông rộng thêm cả 2, 3 mét. Một số luống rau và 2 vạt ớt trồng ven bờ bị xụt, nước cuốn trôi mất tích. Cứ sau mỗi trận nước lũ, bờ sông lở xụt thêm, diện tích canh tác của chúng tôi tự nhiên được giảm bớt đi một phần tư, nhờ vậy anh em đỡ vất vả phần nào.

Sau Lễ Độc Lập 2 tháng 9, được tin Trại Z30D chiếm giải “Trại cải tạo gương mẫu cả nước”, “Ban” Nhu hân hoan, cung cách cư xử đối với Cán bộ cũng như đối với Tù có nhiều thay đổi, rộng rãi bớt khắc nghiệt hơn trước. Cũng dịp này, Trung Ương cử một phái đoàn hùng hậu đến Trại tổ chức đợt học tập mới, với tinh thần “Dân chủ Cởi mở, nói thẳng nói thật, để Lãnh đạo ghi nhận mọi ưu khuyết điểm, nhằm chấn chỉnh Đổi mới Chính sách quản lý Tù cho tốt hơn, hữu hiệu hơn”. Anh em được nghỉ lao động cả tuần lễ để nghe thuyết giảng, và viết bài tường trình tổng kết mọi nhận xét riêng, về cách giáo dục cũng như quản lý của các Trại, suốt “quá trình cải tạo” của mình một cách “thành khẩn”. Đúng theo tinh thần “cởi mở, đổi mới” của Tổng Bí Thư Nguyễn văn Linh, đã đi tiên phong qua loạt bài “Những việc cần làm ngay” được phổ biến rộng rãi để toàn Quân toàn Dân học tập. Ngoài ra anh em Tù cũng được yêu cầu cho biết nguyện vọng cá nhân, tương lai được tha về đoàn tụ với gia đình, có muốn ở lại trong nước để cùng Nhân dân xây dựng kiến thiết đất nước, hay muốn xin đi định cư tại nước ngoài? Đặc biệt bài “thâu hoạch” kỳ này, không phải đem ra mổ sẻ trước Đội như những lần học tập trước, và do chính nhân viên phái đoàn Trung Ương thâu góp, không nộp qua hệ thống Quản Giáo của Trại như thường lệ. Làm như vậy để cho Cải tạo viên yên tâm, không sợ Ban Chỉ huy Trại trù dập, vì những điều “nói thẳng nói thật” có liên quan tới Trại đang quản lý mình.

Anh em khác không biết viết sao, phần riêng Tôi đã thẳng thắn nhận xét là :

1.-Các Trại Bộ đội đối xử với Cải tạo viên tương đối có “tình người” hơn các Trại do Công An quản lý. Cán bộ Quản giáo bên Bộ đội tháo vát, có nhiều kinh nghiệm chăn nuôi trồng tỉa cũng như xây dựng, chỉ dẫn cho Cải tạo viên cặn kẽ. Không như Quản giáo Công An lầm lầm lỳ lỳ, chỉ biết chỉ tay năm ngón và hạch xách nạt nộ, chớ chẳng biết gì để mà hướng dẫn.

2.-Về quản lý Tài chánh, các Trại Bộ đội luôn luôn công khai xòng phẳng. Nhà Nước quy định “tiêu chuẩn” cho Cải tạo viên bao nhiêu một ngày, thì lo tiếp xúc với địa phương mua các thực phẩm Trại chưa sản xuất đủ hoặc không có, để Cải tạo viên có ăn hàng ngày. Còn bên các Trại Công An, ngày nào cũng thấy ghi trên bảng Chi Thu tại Nhà Bếp tiền dư không dùng hết, trong khi thực phẩm cung cấp hàng bữa nghèo nàn không có gì, ngoài vài muổng nước muối và đôi cọng rau do chính Cải tạo viên sản xuất ra. Đôi khi rau cũng không có, phải dùng lá đọt sắn muối chua rồi đem nấu chín. Dân chúng địa phương hình như lúc nào cũng sợ, lo thủ thế không có cảm tình với Công An cho lắm, nên chẳng mua được gì để cung cấp cho Cải tạo viên.

3.-Từ năm 1985 được chuyển về Trại Z30D, thấy ngoài việc trồng lúa, khoai mì, bắp, khoai lang, còn có nhiều chương trình làm “kinh tế” khác như : gia công sản xuất quần áo, sản xuất đồ gỗ, trồng mía làm đường, nuôi bò, nuôi heo, nuôi gà đẻ trứng, được thực hiện cùng một lượt. Đồng thời Trại xây dựng được Đập Thủy Điện nhỏ, đủ cung ứng cho nhu cầu soi sáng và kéo các loại máy công nghiệp không tốn tiền xăng nhớt. Nguồn sức lao động của Cải tạo viên cả Nam lẫn Nữ, được khai thác đến mức tối đa, để làm ra nhiều của cải và tiền cho Trại. Nhờ thế, hàng ngày Cải tạo viên được ăn cơm không độn. “Chế độ thăm nuôi”, gia đình tiếp tế cho Cải tạo viên cũng được cởi mở dễ dàng hơn các Trại khác. Mọi người vui vẻ cố gắng lao động sản xuất, hoàn thành các “chỉ tiêu” Trại đề ra kịp thời đúng lúc, y như đang tham gia lao động trong Hợp tác xã thực sự vậy.”

Về nguyện vọng trong tương lai, sau khi được tha về đoàn tụ với gia đình, Tôi trả lời nước đôi một cách vô thưởng vô phạt. “Nếu Nhà Nước “chiếu cố” cho phép ra nước ngoài thì Tôi sẽ đi. Vì biết mình già yếu bệnh hoạn, mắt bên trái đã mù không thấy đường, chẳng những không làm được gì lợi ích cho Xã hội, mà lại còn ăn bám vào Xã hội là điều Tôi không muốn. Còn nếu Nhà Nước không cho đi, Tôi sẽ cùng vợ con cố gắng đóng góp sức già yếu của mình vào công việc chung của đất nước, được đến đâu hay đến đó.”

Đợt học tập chấm dứt, có 1 Đoàn Y tế Trung Ương được cử tới Trại, khám sức khoẻ tổng quát cho chúng tôi. Họ làm việc chậm rãi kỹ càng, đo chiều cao, cân mức nặng của cơ thể, đo huyết áp, nghe nhịp tim và phổi, khám mắt, tai, mũi, họng và răng, quan sát khả năng di chuyển, và sau cùng ngồi hỏi từng người để ghi nhận những loại bệnh mà mình nghĩ rằng mình đang có bấy lâu nay. Ai cũng nhân cơ hội này khai đủ thứ bệnh mãn tính, hy vọng hồ sơ sức khoẻ ghi nhiều bệnh tật, sẽ là một dự kiện giúp cho việc xét tha thuận lợi hơn những người có sức khoẻ tốt ít bệnh tật. Tôi cũng khai một lô bệnh. Nào là đau bao tử, sạn thận, huyết áp thấp, nhịp tim không đều, mắt trái bị cườm mù không trông thấy gì. Nào là thấp khớp, đau cột xương sống ở khúc ngang bả vai và thắt lưng, thỉnh thoảng buốt một bên đầu. Riêng phần răng của Tôi, sau khi khám họ nói cho nghe và ghi vào hồ sơ chỉ còn dùng được 50 phần trăm. Nhưng thực tế, chẳng ai biết việc xét tha Tù, Việt Cộng dựa vào “tiêu chuẩn” nào? Tỉ dụ, tình trạng sức khoẻ của Tôi, thua xa các anh Nguyễn quốc Quỳnh, Tô văn Vân, thế mà các anh ấy lại được tha trước Tôi cả nửa năm Trời.

Qua những lời bật mí úp mở của “Ban” Nhu và Quản giáo Đội, ghi nhận được trong câu chuyện với đoàn Cán bộ Trung Ương, mọi người “hồ hởi” tin tưởng ngày tha hàng loạt sẽ được thực hiện ngày rất gần. Nhưng niềm vui, hy vọng sắp thoát cảnh ngục tù vừa chớm nở chưa được bao lâu, 2 tin giật gân do báo chí và đài phát thanh của Nhà Nước liên tiếp tung ra cách nhau mấy tháng, làm anh em chưng hửng buồn vui lẫn lộn một thời gian. Vui vì, trong số những người bỏ nước ra đi hồi cuối tháng 4 năm 1975, cũng còn có người can đảm dám đứng ra vận động chiến hữu tiếp tục cuộc tranh đấu chống Cộng sản Việt Nam, để giải cứu quê hương dân tộc thoát ách cai trị độc tài. Buồn vì, các sự kiện này bất ngờ xẩy ra không đúng lúc, có thể gây ảnh hưởng bất lợi làm trì hoãn thời điểm mãn hạn Đại nạn, cải tạo cực khổ nhục nhằn của anh em không biết đến bao giờ.

Hai tin đó là :

“-1. Võ đại Tôn, Đại tá chế độ cũ, từ Úc Đại Lợi về Việt Nam tổ chức mưu toan xúi giục lật đổ Nhà Nước Xã hội Chủ nghĩa, đã bị bắt đưa ra Toà án Nhân dân xử tội, và đang bị câu lưu thi hành bản án.

-2, Hoàng cơ Minh, Tướng Hải quân chế độ cũ Saigon cùng nhóm phản động, từ Hoa Kỳ lén lút về nước hoạt động chống phá Chính quyền Cách mạng, đã bị bắn chết tại vùng biên giới Lào Việt. Một số đồng bọn bị bắt, đưa ra Toà án Nhân dân xử câu lưu cải tạo.”

Mỗi lần có tin tức mới, “Ban” Nhu Trưởng Trại Z30D thường tới Nhà Lô Đội, đưa tờ báo Nhân dân cho anh em coi hình, và hỏi có ai quen biết không? Anh em cầm tờ báo nhìn ảnh thật kỹ, rồi ai nấy lắc đầu trả lời chưa hề thấy bao giờ, và nói : “-Cái tên nghe cũng có vẻ lạ, trong Quân đội lúc sau này nhiều người được thăng cấp mặt trận nhanh quá, nên không biết hết được.” Mặc dù cũng có người biết, nhưng không ai dại gì mà nhận có, lúc đang còn nằm trong vòng kiềm toả của Trại cải tạo.

Nhưng theo suy nghĩ của riêng Tôi, các sự kiện này đem lại may nhiều hơn rủi cho anh em. Có thể đây là những “hư chiêu” mà Hoa Kỳ muốn tung ra để hù dọa Việt Cộng. Để buộc họ phải dứt khoát chấp nhận kế hoạch thả hết Tù Chính trị miền Nam, theo đề nghị của Hoa Kỳ, mà hưởng những gì Hoa Kỳ hứa đền bù trao đổi. Còn chậm trễ, nhiều biến cố bất ngờ khác có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, hậu quả sẽ là “xôi hỏng bỏng không”.

Theo thời gian, mọi chuyện cũng qua đi và mờ dần trong quên lãng. Ngày tháng tiếp tục lầm lũi nối đuôi nhau, chẳng mấy chốc năm lại hết, Tết lại đến. Tết con Mèo (Đinh Mão-1987) nhờ chính sách “cởi mở”, anh em Tù được chuẩn bị đón Xuân thoải mái hơn Tết năm con Hổ. Ngay từ giữa tháng Chạp, nhân một dịp ghé Nhà Lô Đội chúng tôi, để chứng tỏ sự quan tâm khích lệ tinh thần lao động cần cù của anh em, “Ban” Nhu mở lời mời mọc thân thiện : “-Tết này Bác nào muốn có dịp đón Xuân bên Bà Xã và Con Cháu, hãy nhắn Bà Xã đưa lên, Tôi sẽ cho ở lại suốt 3 ngày Tết. Vợ chồng con cái tha hồ thong thả nấu nướng ăn uống, dắt nhau rong chơi ngắm cảnh Vườn Tao Đàn, Hồ Thủy Điện, chụp hình kỷ niệm.”

Ngày 30 Tết, nhiều gia đình đến “thăm nuôi”. Nhưng phần lớn ưa kiêng cữ, không ai muốn đón Xuân trong đất có liên hệ đến Nhà Tù. Nên chỉ có vài gia đình xin ở lại, được “Ban” Nhu chấp thuận cho hết, đúng như đã nói với chúng tôi từ nửa tháng trước. Đội chúng tôi, có Anh Quỳnh Đội trưởng nhắn Bà Xã lên thăm ở lại ăn Tết bên anh ấy.

Vào đêm Mồng Một Tết, nhờ sự “chiếu cố đặc biệt” của“Ban” Nhu Trại Trưởng, Đoàn Văn Công số 1 của Thành phố Hồ Chí Minh, do Ca Nhạc sĩ Nghệ nhân Cộng sản Nguyễn trọng Cầu hướng dẫn, đã được thuê đến bao thầu một chương trình văn nghệ thật đặc sắc. Trong số Nữ Ca sĩ có Thanh Lan, nổi danh trước 30-4-1975 tại miền Nam, được toàn thể khán giả cảû Cán bộ lẫn Tù hoan hô nhiệt liệt. Cô ấy được vỗ tay yêu cầu hát liên tiếp một lúc 3, 4 bài, khán giả vẫn chưa tha cho rời sân khấu, hô Bis! Bis! yêu cầu hát nữa. Hình như lẫn lộn trong sự ngưỡng mộ, người ta muốn khích cho con thiêu thân nhuốm mầu ánh sáng đỏ, hát đến hết hơi mệt đứt ruột, chết gục trên sân khấu mới thôi.

Các gia đình được phép ở lại ăn Tết bên Tù trong khu Nhà Thăm Nuôi, cũng được “Ban” Nhu cho Cán bộ dẫn vào xem chương trình văn nghệ đầu năm rất hấp dẫn này. Các bạn ấy và thân nhân được “đặc biệt chiếu cố”, xếp chỗ ngồi ngay hàng ghế đầu sát sân khấu, khu dành cho Cán bộ.

Tết đã qua đi cả tháng rồi, dư âm “cởi mở” của Ban Giám Thị đối với Tù, vẫn tiếp tục kéo dài chưa dứt. Các Cán bộ Quản giáo và Cảnh vệ cũng dễ dãi, bớt khắt khe nên thiếu cảnh giác, đã xẩy ra một vụ cướp súng trốn Trại giam giữa ban ngày, một cách thật ly kỳ như chuyện đang xẩy ra trong phim trường Hồ Ly Vọng (Hollywood) bên Hoa Kỳ vậy. Chuyện xẩy ra trong giờ lao động chiều, tại cây cầu gỗ bắc ngang sông, chỗ có khu Nhà Tiếp Đón thân nhân Tù đến “đăng ký xin thăm nuôi”, gần Quốc lộ Saigon-Phan Thiết. Ba anh cướp súng bỏ chạy ra khỏi Trại, thuộc Đội anh em Phục Quốc trẻ gốc Đà Nẵng, đã đình công không chịu đi lao động, hồi “Ban” Nhu phạt cùm Tôi trong nhà Kỷ Luật (đã được kể trong một đoạn trước). Các bạn cùng Đội và mấy Tù phục vụ tại Khu Tiếp Đón thân nhân, mục kích sự việc lúc xẩy ra kể lại như sau :

“Vào giờ nghỉ giải lao giữa buổi lao động chiều, Cán bộ Quản giáo không mang súng, Cảnh vệ mang súng nhưng để xuống đất ngay bên cạnh chỗ ngồi, hút thuốc, uống nước, ăn quà bánh do Tù mời như thường lệ. Bỗng dưng có một bạn Tù bất thần nhào tới cướp súng lên đạn, chĩa về phía Cán bộ hô lớn : -Tất cả nằm xuống, không được nhúc nhích. Thế rồi mấy anh dự định trốn Trại, theo nhau rút qua cầu bỏ chạy vào phía rừng bên kia sông. Khi các anh ấy chạy xa ngoài tầm súng AK, các Cán bộ mới dám vùng lên chạy theo đuổi cầm chừng, miệng la bắt trốn trại. Lúc đó mới nghe bên kia sông có tiếng súng bắn 3 phát báo động. Khoảng nửa giờ sau, rất đông Cán bộ Trại được huy động, rầng rầng bủa đi tìm bắt, cho đến tối mịt không kết quả. Không biết các anh ấy còn trốn lẩn quất đâu đó trong rừng, trong nhà dân chúng quanh vùng, hay đã cao bay xa chạy thoát khỏi vùng.”

Một cuộc điều tra sâu rộng, đã làm cả Trại giam bị giao động trong nhiều ngày liền, nhất là Đội chúng tôi. Anh Quỳnh Đội trưởng của chúng tôi bị gọi “làm việc” trước nhất, vì có tin báo cáo mấy người trốn Trại đã nhiều lần tiếp xúc với anh ấy. Nhưng sau khi điều tra, anh Quỳnh và Đội chúng tôi không bị liên hệ gì. Vì mấy người kia còn trẻ, “tiêu chuẩn thực phẩm” Trại quy định hàng ngày thấp, họ bị thiếu đói nên mục đích gặp chỉ để xin thực phẩm. Y như trường hợp nhiều Tù khác, cả Nam lẫn Nữ, cũng thường tiếp xúc với chúng tôi để xin thực phẩm vậy thôi.

Hồi Linh mục Bùi đức Sinh còn ở Đội chúng tôi, Ngài cũng đã bị một lần sợ lên ruột. Một buổi trưa, lúc Ngài đang tắm một mình dưới sông, có một Tù Nữ bên Đội Nuôi Heo lặn lội từ bờ sông bên kia sang, đến gần kể lể nỗi niềm riêng với Cha tinh thần để xin thực phẩm. Linh mục Sinh hoảng hốt ôm quần áo bỏ chạy lên Nhà Lô, kể chuyện cho anh Quỳnh Đội trưởng nghe, và nhờ anh ấy với tư cách là ông Trùm Họ Đạo tiếp xúc giải quyết giùm. Ngài sợ có người trông thấy, xuyên tạc làm tổn hại đến thanh danh Linh mục thì thật khốn khổ.

Hơn tháng sau, một trong mấy anh trốn Trại bị bắt đem trở lại. Tin Cán bộ Quản giáo Đội chúng tôi cho biết, người ta bắt được anh ấy về thăm thân quyến tại vùng quê Đà Nẵng. Anh ấy bị cùm 1 chân trong Nhà Kỷ Luật, nơi mà Tôi đã từng bị cùm 5 ngày 5 đêm. Nhưng không biết làm thế nào, 2 ngày sau anh ấy gỡ được cùm thoát ra khỏi Nhà Kỷ Luật, vượt 2 lớp hàng rào kẽm gai và tre tươi, cao 3 mét dày 2 mét, phía hông sau Khu giam Tù, chạy trốn lần nữa vào lúc nửa đêm. Thật là một cuộc vượt ngục tài tình, làm mọi người kể cả Cán bộ cũng phải ngả nón chào sát đất để tỏ lòng thán phục.

Để mừng Lễ Độc Lập 2 tháng 9 năm 1987 của Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, một đợt khá đông anh em Tù được tha. Đội chúng tôi, có các anh Nguyễn quốc Quỳnh Đội trưởng, Tô văn Vân coi Nhà Lô Đội, và Nguyễn văn Phúc phụ trách chăm sóc cắt tỉa cây kiểng vườn bông quanh khu Nhà Thăm Nuôi, cũng có tên trong danh sách được tha. Lễ đọc danh sách tha, được tổ chức vào một buổi sáng đẹp trời, tại Hội trường trước giờ xuất trại lao động. Sau buổi lễ, những người được tha ở lại chuẩn bị hành trang về đoàn tụ với vợ con, còn những người vận may chưa đến ra sân tập họp đi lao động như thường lệ. Người về kẻ ở, bu lại chia tay nhau, xúc động nước mắt lưng tròng, dặn dò nhắn gửi vội vã ồn ào hỗn độn, y như buổi bãi trường đi nghỉ hè thời còn thơ ấu vậy.

Sau đợt tha, nhân số Đội chúng tôi bị giảm nhưng không được bổ xung, nên buộc phải bỏ bớt một số luống rau không trồng tiếp. Các khâu phụ trách những phần vụ chuyên biệt, vẫn tiếp tục công việc hàng ngày như bình thường, không có gì thay đổi. Anh Đại tá Trịnh đình Đăng, bạn nấu nướng ăn chung với Tôi hồi mới từ Trại Thanh Phong về bên Trại Z30C, có sức khoẻ, tháo vát, thông thạo về nhiều ngành nghề, được chỉ định làm Đội trưởng thay anh Quỳnh.

Vài tháng sau ngày được tha, anh Nguyễn quốc Quỳnh trở lại Trại thăm chào cám ơn Ban Giám Thị. Nhân dịp này “Ban” Nhu cũng cho phép ghé thăm, và đem chút quà tình nghĩa cho anh em chúng tôi tại Nhà Lô của Đội. Anh em gặp nhau vui mừng, trao đổi những câu chào hỏi xã giao, không có dịp thuận tiện tâm sự về những tin tức cần biết ngoài xã hội.

Khoảng giữa tháng 1 năm 1988, đúng lúc Tôi đang bệnh, Vợ và Cô gái út đến xin “thăm nuôi”. “Ban” Nhu cho phép ở lại 5 ngày để chăm sóc. Ngay đêm đầu, Tôi đau bụng quằn quại, mắt trái đau nhức khi thấy ánh sáng, hâm hấp sốt, đầu buốt như búa bổ, cả đêm đi ra đi vào tiểu tiện rắt không ngủ được. Hai Mẹ Con phải cực nhọc vất vả lo thuốc thang, đun nước hoà sữa cho Tôi uống từng chút từng chút, cả đêm chẳng được ngơi nghỉ. Thật tội nghiệp! Ngày hôm sau, vào lúc mãn giờ lao động chiều, Tôi ngồi dựa lưng bên giường ngủ, vừa húp xong chén cháo đường, thấy lợm giọng buồn nôn. Chỉ kịp với tay cầm chiếc thau nhôm hứng trước mặt, những gì vừa nuốt vào tuôn ra hết, cùng với một bụm máu đỏ tươi phủ trên đám cháo trắng. Cô gái út của Tôi vội vã chạy băng qua cầu gỗ, nơi khúc sông hẹp, ngay phía sau Nhà Thăm Nuôi sang Nhà Lô Đội, xin anh Đăng Đội trưởng cho anh Sáu Đội phó đến giúp đỡ. Đến nơi thấy sắc mặt và tình trạng của Tôi bất thường, anh Sáu chạy gấp đi gặp Cán bộ phụ trách Thăm Nuôi báo cáo, mời ông ấy đếân xem và xin đưa Tôi vào Bệnh xá Trại cấp cứu. Cán bộ phụ trách Thăm Nuôi và Quản giáo Đội, cùng theo anh Sáu đến phòng dành cho gia đình Tôi, quan sát và đồng ý cho anh Sáu dìu Tôi vào Bệnh Xá Trại cấp cứu.

Vào tới Bệnh xá, Tôi được yêu cầu nằm trên bàn khám, anh bạn Tù Bác sĩ Sang hỏi các triệu chứng để định bệnh. Miệng cổ khô khát, Tôi xin nước uống, nhưng vừa nuốt vào lại mửa ra ngay. Bác sĩ Sang bóp da mu bàn tay của Tôi kéo lên, lúc buông ra không thấy da tự động căng thẳng trở lại. Anh ấy nói : “-Cơ thể thiếu nước trầm trọng, cần phải tiếp nước biển (serum). Bệnh xá chỉ còn có một chai, phải chờ trình Cán bộ Y tế chấp thuận mới được dùng.” Anh Sáu Đội phó vẫn ở bên cạnh Tôi, khẩn khoản xin Bác sĩ lo “khẩn trương” giúp. Tôi bắt đầu cảm thấy người mệt nhoài không còn muốn cựa quậy, 2 tay tê tê buồn buồn phải co ruỗi các ngón tay liên tục, mi mắt nặng trĩu mở ra không muốn nổi. Anh Sáu đứng bên cạnh, phụ bóp 2 cánh tay cho Tôi đỡ mỏi. Sau này Tôi mới biết triệu chứng đó, thường được các Cụ già cho là bệnh nhân tay bắt chuồn chuồn, tức là sắp tới giờ chết.

Một lúc sau, cả Cán bộ Y tế và Quản giáo Đội của Tôi cùng vào Bệnh xá. Sau khi nghe Bác sĩ Sang trình bầy, Cán bộ Y tế chẩn bệnh kiểm tra rồi đi ra ngoài, một lúc mới quyết định chấp thuận cho xử dụng chai nước biển. Chắc là điện thoại xin lệnh “Ban” Nhu. Tôi được dìu vào nằm trên một giường trống, bên các bệnh nhân đang nằm điều trị trong Bệnh xá. Mạch máu giữa nhượng cánh tay của Tôi lặn mất không tìm ra, Bác sĩ Sang phải đâm kim chích vào tĩnh mạch nơi mu bàn tay, để truyền nước biển vào máu cho Tôi.

Hai mắt mỏi xụp xuống, Tôi ngủ thiếp đi không biết được bao lâu, thấy có vật gì lành lạnh đè lên trán làm giật mình tỉnh giấc. Mở mắt thấy Cán bộ Y tế và Quản giáo Đội đứng bên giường, và hỏi : “-Anh thấy thế nào?” Tôi chưa kịp trả lời, Cán bộ Y tế nói tiếp : “-“Ban” Nhu chấp thuận cho đưa anh đi Bệnh viện. Anh muốn đi Phan Thiết chữa bao tử hay đi Saigon chữa mắt?” Tôi trả lời : “-Nhờ Cán bộ trình “Ban” cho Tôi đi Saigon để chữa mắt, vì mắt trái của Tôi bị đục “thủy tinh thể” hơn 1 năm rưỡi nay rồi. Chắc để lâu quá không chữa trị, mới biến chứng hành đau đớn như vậy. Trong khi chữa mắt tại nhà thương, Tôi cũng có thể đồng thời xin chữa trị bao tử một thể. Như vậy chỉ một lần đi Bệnh viện, giải quyết được 2 bệnh cũng rất thuận tiện. Hơn nữa gia đình Tôi ở Saigon, có thể ghé chăm sóc Tôi thường xuyên dễ dàng hơn.”

Các Cán bộ vừa đi ra, anh Sáu Đội phó vào phòng thăm Tôi. Lúc đó Tôi mới biết trời đã sáng, anh em đang chuẩn bị đi làm. Tôi xin mảnh giấy viết mấy chữ, nhờ anh Sáu đem ra báo và dặn dò Vợ Con mấy điều :

“-1. Cán bộ Y tế vừa cho biết, “Ban” Nhu Trại trưởng chấp thuận cho di tản Tôi đi Bệnh viện tại Saigon, ngay sáng nay để “cấp cứu” chữa mắt.

-2. Đưa hết quà “thăm nuôi” cho anh Sáu giữ dùng, vì anh Sáu và Tôi ăn cơm chung, nên tháng tới Chị Sáu mới lên tiếp tế.

-3. Mẹ Con chuẩn bị hành trang sẵn sàng, về Saigon ngay trong buổi sáng nay.”

Anh Sáu cằm thơ của Tôi đi ra, thì mấy anh bạn thân trong Đội ghé thăm. Tôi cho anh em biết, “Ban” Nhu cho đi Saigon chữa bệnh vào buổi sáng hôm nay. Ai cũng tỏ vẻ mừng rỡ, chúc cho Tôi thượng lộ bình an gặp nhiều may mắn. Một lát sau, khi mọi người xuất Trại lao động hết, Bác sĩ Sang bảo Tôi về phòng giam thu vén tư trang, đem ra chỗ phòng canh tại cổng lớn, đứng chờ xe Cán bộ đến chở đi Saigon.

Tôi về phòng giam của Đội, chẳng đâu xa, ngay đầu Dẫy Nhà đầu tiên của Khu giam Tù Nam, bên kia khoảng sân rộng khoảng 2 chục mét, đối diện với Bệnh xá. Tôi thu vén chăn gối mùng, bọc thuốc trị bệnh cần dùng hàng ngày, vài gói mì ăn liền, nhét tất cả vào trong túi đeo lưng vải kaki xanh (do chính Tôi tự may lấy đem theo từ hồi trình diện Học tập Cải tạo đến nay). Xong suôi mệt toát mồ hôi, Tôi vừa tính đeo túi lên vai đi ra cửa, anh Võ hữu Bá (Đại tá) Trực Phòng chạy đến bắt tay chào chúc lên đường bình an, và giành cầm chiếc túi đồ dùng và dắt Tôi đi ra bên cổng, cùng đứng chờ cho đến khi xe Cán bộ đến chở Tôi đi, anh ấy mới quay vào. Anh Bá cũng là một người bạn tốt, đã ở chung một Đội với Tôi suốt từ hồi còn ở Trại Cốc - Liên trại 1 - Yên Bái - Hoàng Liên Sơn, qua Trại Tân Lập - Vĩnh Phú, vào K2 - Trại Thanh Phong - Thanh Hoá, về Trại Z30C, rồi sang đến Trại Z30D này.

Tôi ngồi chồm hổm bên trong cổng khu giam chờ chừng 30 phút, chiếc xe hơi du lịch loại sang của “Ban” Nhu thường dùng chạy đến. Cán bộ Y tế và 1 Cảnh vệ xuống xe vào tìm Tôi, hối đem tư trang ra cất vào thùng xe phía sau, rồi lên xe đi “khẩn trương”. Trong khi anh Bá giúp Tôi để túi đồ lên xe, Cán bộ hỏi : “-Vợ Con anh đâu?” Tôi trả lời : “-Đang ở trong Nhà Thăm Nuôi bên bờ sông.” Ông ấy hối : “-“Khẩn trương” lên xe ra đón Vợ Con anh cùng đi Saigon một lượt.” Tôi quay lại bắt tay cám ơn anh Bá và dặn thêm : “-Đồ đạc của Tôi còn lại trong phòng, nhờ anh nhắn anh Sáu thu gọn bỏ hết vào trong chiếc rương tôn giùm”, rồi lên xe ngồi vào hàng ghế phía sau. Cán bộ Y tế và Cảnh vệ theo canh gác Tôi trong thời gian nằm Nhà Thương, ngồi ở hàng ghế trước bên cạnh Cán bộ tài xế.

Xe chạy tới Vườn Tao Ngộ khu Nhà Thăm Nuôi bên bờ sông, ngừng tại ngã ba phía trước cầu gỗ. Cán bộ Y tế bảo Tôi vào gọi Vợ Con ra lên xe. Xuống xe, Tôi lảo đảo cố gắng đi từng bước một qua cầu, tới phòng đã thấy hai Mẹ Con và anh Sáu Đội phó đang ngồi đó nói chuyện chờ Tôi. Vợ Tôi cho biết anh Sáu Đội phó không chịu nhận các món quà “thăm nuôi”. Tôi biết tính anh ấy khẳng khái cố ép cũng không được, bèn nói : “-Chúng tôi đi bằng xe nhỏ của “Ban” Nhu đang đậu chờ ngoài kia, không có chỗ chứa mấy bọc đồ ăn, và gà còn sống, cồng kềnh này. Chừng mươi ngày mổ mắt xong Tôi trở lại Trại, Chị Sáu chưa tới kỳ lên tiếp tế, lấy gì cho tụi mình ăn?” Rồi Tôi hối hả thúc Vợ Con ra xe lẹ lẹ kẻo Cán bộ đợi lâu phiền lòng, để mặc anh Sáu đứng đó với đống quà “thăm nuôi” của Tôi.

Hai Vợ Chồng tôi và Cô con gái ngồi hàng ghế phía sau, 3 Cán bộ ngồi hàng ghế trước. Xe lăn bánh thong thả qua khu Vườn Tao Ngộ, đến chỗ Xưởng Mộc vàø Câu Lạc Bộ bên đầu Đập Thủy Điện rẽ phải, chạy trên con đường dọc bờ rào bên hông Khu Giam Tù, băng qua cổng lớn của Trại Z30D để ra ngã ba Quốc lộ, rẽ phải đi hướng Saigon. Đặc biệt, chuyến đi này cả 3 Cán bộ đều mặc thường phục, tay của Tôi không bị còng xích trong khi di chuyển ra ngoài Trại giam, như thường áp dụng trước đây, nên mọi người đều cảm thấy vui vẻ thoải mái. Tôi mệt mỏi lấy chiếc gối đệm sau ót, ngửa đầu tựa vào lưng ghế, chùm chiếc khăn lông che mặt cho khỏi bị ánh nắng làm chói nhức mắt, thiêm thiếp ngủ theo tiếng ru vo vo đều đều của máy xe hơi.


BẢN CHẤT KHÔNG THAY ĐỔI.
Lũ lụt non sông nước đục ngầu,
Đỏ Xanh hoà lộn biến thành Nâu.
Vàng ròng nung lửa càng tinh khiết,
Đen Trắng muôn đời đối nghịch nhau.
0+0+0+0+0.
Thời gian chồng chất mái đầu,
Nắng mưa vương tóc ngả mầu muối tiêu.
Giang sơn tan tác tiêu điều,
Toàn dân cùng cực trăm chiều đắng cay.
Thề xưa vẫn nhớ đêm ngày,
Kiên tâm nhịn nhục bấy nay đợi chờ.
Nạn tan Trời giúp thời cơ,
Mài gươm tiếp tục ước mơ thuở nào.
Chung vai sát cánh Đồng bào,
Diệt bầy qủy đỏ, trương cao cờ vàng.
Cứu Dân Việt hết lầm than,
Nhân quyền Dân chủ hân hoan mọi nhà.


Rời K1-Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải.
Ngày 17 tháng 1 năm 1988.
(sắp vào tháng giáp Tết Mậu Thìn)

HOME


Chương 36
 RỜI ỐC ĐẢO NHỎ TRẠI TÙ Z30D,
VÀO ỐC ĐẢO LỚN THÀNH HỒ.
trong

Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam

Nguyễn Huy Hùng


Mắt trái của Tôi bị đục “thủy tinh thể”, không nhìn thấy cảnh vật từ giữa năm 1986. “Ban” Nhu Trưởng trại Z30D hứa cho Tôi đi Bệnh viện mổ để cứu chữa, trước mặt ông Tướng Trưởng Phái đoàn Thanh tra Trung Ương Cục Trại giam từ Hà Nội vào. Nhưng suốt một năm rưỡi trời trôi qua, không bao giờ ông ta đả động tới việc thực hiện lời đã hứa. Mãi tới giữa tháng 1 năm 1988, nhờ có Vợ Con tới Trại “thăm nuôi”, gặp đúng lúc Tôi bị bệnh hành đau đớn thập tử nhất sinh, phải đưa từ Nhà Thăm Nuôi vào Bệnh xá Trại cấp cứu, tiếp nước biển (serum) vào máu. Qua một đêm không chết, sáng hôm sau ông ta, mới quyết định cho di tản về Saigon “cấp cứu” chữa mắt. Từ lúc có quyết định đến lúc hoàn tất thủ tục giấy tờ “di tản cấp cứu”, phải mất khoảng 2 tiếng đồng hồ. Gặp đúng ngày Chủ Nhật 17 tháng 1 năm 1988 cả trại nghỉ. Nhưng Đội 23 chúng tôi vẫn phải xuất trại, ra Nhà Lô Đội nghỉ như thường lệ.
Chiếc xe hơi du lịch xưa nay ông ta thường dùng, hôm nay được xử dụng để chở Tôi và Vợ Con đang “thăm nuôi” cùng đi Saigon “cấp cứu”. Xe rời Trại vào lúc 10 giờ sáng. Đến trưa, xe ngừng tại một khu buôn bán, nhiều nhà phố vừa trệt vừa có tầng lầu, xây xen kẽ bên nhau dọc 2 bên lề đường, để ăn uống trước khi tiếp tục đi. Tôi không biết tên Thị trấn, nhưng nhớ có một ngôi Nhà Thờ khá lớn, có cả Trụ sở Công An Nhân dân và Trường học. Mặc dù mệt không muốn ăn uống gì, Tôi vẫn phải xuống xe theo mọi người vào quán. Nhà hàng có khoảng năm sáu bàn tròn, không đông khách lắm, nhưng có thể gọi đủ loại món ăn chơi, cơm bữa, hủ tiếu, mì, bia, và nước ngọt. Thấy chúng tôi đi bằng xe hơi nhỏ loại du lịch, ai cũng quay mặt ngó, như muốn tìm hiểu xem chúng tôi thuộc hạng người nào trong xã hội đương thời. Có mấy người đứng lên, bỏ tiền trên bàn, chào chủ tiệm và đi ra ngay. Những người còn lại không nói chuyện ồn ào nữa, ăn vội cho xong để thanh toán tiền. Tôi cảm thấy hơi khó chịu, nhưng các Cán bộ thì tỉnh như không.
Các Cán bộ và chúng tôi ngồi chung một bàn, y như một gia đình gồm 2 ông bà già và 4 người con (3 trai, 1 gái). Đích thân Chủ tiệm rời quầy thu tiền đến tận bàn, đứng gần bên Vợ Chồng tôi, đợi ghi các món thực khách muốn dùng. Vợ Tôi lên tiếng : “-Ông hỏi xem các Chú muốn dùng gì lo trước đi, riêng Tôi cần 2 tô hủ tiếu mì, và một ly sữa nước sôi hột gà cho ông nhà tôi, đang bệnh không ăn được.” Các Cán bộ gọi mỗi người 1 phần cơm bữa và uống trà. Vợ Tôi nói thêm : “-Các Chú dùng bia nhé! Ông Chủ đem cho 3 chai bia và một đĩa gỏi tôm để các Chú ăn chơi trước khi dùng cơm.” Các Cán bộ im lặng không nói gì.
Lúc mọi người ăn gần xong, Vợ Tôi giả bộ đi vệ sinh, để ghé quầy hàng gọi thêm đĩa trái cây ăn tráng miệng, 3 ly cà phê đá, 1 bao thuốc lá thơm cho các Cán bộ dùng thêm, và thanh toán tiền luôn. Ăn uống xong, đồng hồ trên tường nhà hàng chỉ 1 giờ. Cán bộ kêu tính tiền, ông chủ tiệm chạy đến gần, nhỏ nhẹ : “-Thưa, tiền nong đã thanh toán xong cả rồi.” Chắc là trong lúc trả tiền, chủ tiệm có hỏi chuyện, Vợ Tôi đã giải thích cho biết về hoàn cảnh của chúng tôi, nên lúc này ông chủ tiệm mới có thái độ lịch thiệp như vậy với các Cán bộ.
Ra khỏi tiệm ăn, mọi người lên ngồi yên chỗ xong, xe chuyển bánh rẽ ra đường tiếp tục chạy hướng Saigon. Được chừng 200 mét, một chiếc xe máy dầu hiệu Honda đang đậu bên lề đường, bất thần vọt đại ra giữa lộ. Cán bộ lái xe chúng tôi vừa đạp thắng, vừa bóp còi, vừa quay vội bánh lái, lạng xe ra giữa đường để tránh. Nhưng không còn kịp, chiếc Honda vẫn bị cản hậu xe chúng tôi đụng, lạng quạng đổ văng xa cả chục mét bên lề đường. Người đàn ông trung niên lái xe Honda té lộn mấy vòng, nhưng không bị thương tích gì cả, chỉ bị lấm lem bụi đất bám đầy quần áo thôi. Thật là may!
Xe chúng tôi phải ngừng tại giữa lộ, các Cán bộ xuống xe đến gần người lái xe Honda, thương thảo giải quyết hồi lâu không xong. Hai bên cùng phải đưa xe vào sân trụ sở Công An, cách chỗ xẩy ra tại nạn không đầy 100 mét, nhờ giải quyết. Chưa tới giờ làm việc, Văn phòng đóng cửa không có ai trực. Cán bộ phải chạy đến các nhà gần bên hỏi thăm, không ai giúp được gì, đành ngồi tại chỗ đợi. Một tiếng đồng hồ sau, có một nhân viên tới trụ sở. Cán bộ xe chúng tôi tới tiếp xúc, nói chuyện qua lại cũng cả mười phút, mới thấy nhân viên kia bỏ đi. Khoảng hai mươi phút sau, y trở lại cùng một người khác đứng tuổi hơn, mở cửa trụ sở mời 2 Cán bộ và người bị nạn vào trong. Thời gian mấy người “làm việc” trong văn phòng lâu khoảng nửa tiếng đồng hồ. Xong việc các Cán bộ trở ra lên xe, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình đi Saigon.
Khi xe đến Cầu Xa Lộ nơi có Tân Cảng Saigon, Cán bộ tài xế lên tiếng nhờ Tôi chỉ đường cho xe chạy, vì ông ấy và 2 Cán bộ kia đều không thông thạo đường đi trong Thành phố. Vào tới khu Đa Kao Thành phố Saigon, lưu thông bắt đầu tắc nghẽn. Xe máy dầu đủ loại Honda, Suzuki, xe đạp, xích lô, xe ngựa, chạy hỗn độn chẳng theo luật lệ nào. Người ta tranh nhau luồn lách tiến lên trước, xe hơi chạy chậm rề rề thua cả người đi bộ. Phải mất hơn tiếng đồng hồ, xe chúng tôi mới tới được cổng Bệnh viện Điện Biên Phủ chuyên khoa mắt (Bệnh viện Saint Paul cũ, nơi có Dòng Tu Nữ của các Dì Phước Công giáo). Cán bộ vào phòng an ninh tại cổng, hỏi thăm nhân viên kiểm soát. Họ cho biết là phải tới Khu Nhận bệnh tại vùng Bàn Cờ, khám nghiệm làm các thủ tục chẩn bệnh nhập viện trước rồi mới tới đây. Thế là xe lại phải chạy vòng theo các đường một chiều, chen lấn nhau với các loại xe 2 bánh, để đến Khu Nhận Bệnh tại vùng Bàn Cờ. Đến nơi thấy trụ sở đóng cửa, đọc bảng thông cáo treo trên cửa, ghi giờ làm việc bắt đầu từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều hàng ngày, Chủ nhật nghỉ.
Không biết các Cán bộ bàn gì với nhau Tôi không nghe được, chỉ thấy Cán bộ yêu cầu Tôi chỉ đường cho xe chạy quay trở lại Bệnh viện Điện Biên Phủ. Đến nơi, xe đậu bên đường phía ngoài hàng rào mặt tiền Bệnh viện. Cán bộ Y tế xuống xe, gọi Tôi xuống và dẫn ra đứng cách xe chừng vài mét trên lề đường, nói nhỏ : “-Đêm nay chưa vào Bệnh viện được. Chúng tôi đành phải đưa anh vào gửi trong Khám Chí Hoà ngủ tạm qua đêm, sáng mai sẽ trở lại đón anh ra đi làm thủ tục nhập viện. Anh bảo Vợ Con anh xuống tại đây, thuê xe mà về nhà.”
Tôi quay lại xe gọi Vợ Con xuống, nói cho biết những gì Cán bộ vừa nói với Tôi. Vợ của tôi đưa ý kiến mời họ về ở trong nhà chúng tôi qua đêm, thay vì đưa Tôi vào gửi trong Khám Chí Hoà rồi họ cũng phải đi tìm chỗ ngủ đêm trong Thành phố, nơi mà họ không thông thạo đường lối. Tôi đồng ý và chúng tôi đến gặp Cán bộ. Tôi trình bầy : “-Nhà chúng tôi cũng ở gần đây thôi, ngay mặt tiền đường lớn, phố đông đúc hàng quán đủ loại. Nhà đúc 3 tầng lầu rất rộng, có tới 5 phòng ngủ, mỗi phòng ngủ đều có phòng tắm và vệ sinh riêng rẽ rất khang trang. Xe hơi có thể chạy vào đậu ngay trong nhà ban đêm, rất an toàn không sợ ai phá phách. Xin mời các Cán bộ cùng đến nghỉ qua đêm tại nhà chúng tôi. Qúy Vị muốn đi chơi thăm sinh hoạt ban đêm của Thành phố, hoặc muốn mua gì, 2 người Con trai của Tôi sẽ dùng xe máy dầu dẫn đi, mua sắm thoải mái.” Cán bộ có vẻ suy nghĩ lưỡng lự. Vợ của Tôi nói thêm : “-Ông nhà tôi đang bệnh yếu đuối quá, mấy ngày nay không ăn uống được gì. Xin Cán bộ thương cho về ở nhà đêm nay, cho chúng tôi lo chăm sóc lúc đêm hôm, ơn ấy không bao giờ chúng tôi quên.” Cán bộ Y tế đến bên xe bàn với 2 Cán bộ kia xong, quay lại gọi chúng tôi lên xe. Cán bộ lái xe yêu cầu Tôi chỉ đường đi về nhà. Cán bộ Y tế dặn : “-Trong khi ở nhà không được thông báo cho bạn bè người thân đến thăm, làm ồn ào đến tai Chính quyền địa phương thêm phiền phức.” Chúng tôi hứa giữ đúng lời Cán bộ dặn.
Gần 13 năm rồi, đêm nay Tôi mới lại có dịp nhìn thấy đường phố Saigon lúc ban đêm. Khu chung quanh Bệnh viện, gồm phần lớn loại nhà kiểu Villa có sân cây cối um tùm phía trước, nên ít thấy ánh sáng đèn trong các nhà, chỉ có những cột đèn đường toả ánh vàng vàng rọi sáng mặt lộ và 2 bên lề đi bộ. Nhưng bắt đầu từ ngã tư Yên Đổ-Trương Minh Giảng về đến nhà Tôi, ánh sáng bàng bạc của đèn Nê-ông, từ các nhà phố vừa trệt vừa 2, 3 tầng, xây xen kẽ nhau san sát 2 bên đường, toả ra cũng đủ soi rõ mặt lộ và lề đi cho khách bộ hành. Theo lời Vợ tôi giải thích : “-Nhờ “Chính sách cởi mở đổi mới” từ một năm nay, bây giờ phố phường mới bắt đầu có các hàng quán ăn dọc 2 bên đường, đèn đuốc sáng trưng như vậy. Hồi 1986 trở về trước, tư nhân chưa được phép kinh doanh, tối đến nhà phố 2 bên đường đóng cửa, đường phố vắng teo dưới ánh sáng vàng vọt của những trụ đèn công cộng.” Qua Nhà Thờ Ba Chuông, cái tên quen thuộc mà dân chúng Saigon thường gọi để chỉ Nhà Thờ Saint Thomas, ở góc ngã tư 2 đường Huỳnh Quang Tiên và Trương Minh Ký, là tới nhà Tôi. Nay con đường Trương Minh Ký đổi tên là đường Lê văn Sĩ.
Xe đậu ngay trước cửa nhà, Con gái tôi xuống xe bấm chuông. Con trai lớn ở trong nhà ra mở cửa, thấy chiếc xe hơi du lịch đậu trước cửa, hắn trợn tròn đôi mắt nhìn vẻ ngạc nhiên. Không chỉ riêng Con trai tôi ngạc nhiên, cả hàng xóm 2 bên đường cũng ngạc nhiên, gọi nhau ra đứng quan sát tìm hiểu sự lạ gì đang xẩy ra. Từ mười mấy năm nay, quanh khu phố này chỉ có nhà Cán bộ, ở cách nhà Tôi 5 căn phố, mới thường có xe du lịch ghé đến thăm. Tại sao hôm nay, nhà một Sĩ quan Chế độ cũ bị đi cải tạo từ sau 30-4-1975 đến giờ chưa được tha, lại có xe hơi du lịch loại sang như vậy chở Vợ Con và Tôi từ đâu về nhà vào lúc này?
Chúng tôi xuống xe, mời các Cán bộ vào nhà, và bảo các con dẹp chiếc máy may và chiếc bàn ăn dài dùng làm bàn đo cắt vải, là ủi quần áo cho thợ may vào phía trong, để lấy chỗ cho xe hơi vào đậu. Các Cán bộ được mời lên lầu đi một vòng thăm các phòng ngủ, và chỉ cho biết đêm nay Tôi sẽ nằm tại phòng nào. Các Cán bộ sẽ ngủ chung trong phòng của người Con trai lớn, đối diện ngay trước phòng của Tôi.
Trở xuống dưới nhà, chúng tôi mời các Cán bộ sang quán ăn bên kia ngã tư đường, đối diện ngay trước Nhà Thờ Ba Chuông dùng bữa tối, vì nhà không có tủ lạnh, không tích trữ sẵn thực phẩm tươi để nấu nướng. Quán ăn do thân nhân một gia đình Cách mạng đi tập kết về làm chủ, mới mở được chừng nửa năm nay, có rất nhiều món ăn nhậu nổi tiếng của miền Nam như lươn um, ếch chiên bơ, rắn hổ xào..., có cả bia và rượu Ngoại. Lúc đó đã 7 giờ tối không còn khách, quán ăn chỉ mở cửa đến 6 giờ. Nhưng vì Con trai tôi hàng ngày chở bia và nước ngọt đến bỏ mối nên quen thân, có thể yêu cầu chủ tiệm tiếp khách đặc biệt ngoại lệ như tiếp người trong nhà được. Nhờ thế các Cán bộ cũng yên tâm, bằng lòng đi ăn tiệm với chúng tôi.
Ăn xong về nhà, Con trai tôi âm thầm đưa riêng cho mỗi Cán bộ một phong bì nhỏ, và hỏi có ai muốn đi chơi thăm phố phường ban đêm, cậu ấy dùng xe Honda chở đi. Không ai muốn đi. Cán bộ Cảnh vệ có trách nhiệm đi theo canh giữ Tôi ở lại nhà qua đêm. Còn Cán bộ Y tế và Cán bộ tài xế dắt nhau đi bộ ra phố chơi, đến sáng hôm sau mới trở lại.
Tám giờ sáng, mọi người ăn điểm tâm xong, mở cửa nhà cho xe chạy ra đậu tại lề phía bên kia đường. Cán bộ Y tế, Cán bộ Cảnh vệ vàø Tôi cùng thong thả băng qua đường lên xe, trước sự nhòm ngó hiếu kỳ của bà con xóm giềng và dân chúng qua lại 2 bên lề đường. Con trai tôi phải nghỉ một buổi, nhờ em trai kế nó đi giao hàng nước uống cho các tiệm ăn. Đi theo chúng tôi, cậu ấy phải thủ sẵn trong túi một mớ tiền, để trang trải các chi phí mỗi khi cần, và biết rõ nơi Tôi được nằm điều trị.
Những con đường chúng tôi phải đi qua toàn là đường một chiều, đầy nghẹt xe đạp, xe gắn máy, xe máy dầu, xích lô đạp, giành nhau chạy lạng qua lạng lại đầy cả mặt lộ, nên hơn 9 giờ mới tới được khu Bàn Cờ. Tới nơi, xe hơi phải đậu ngoài đường lớn. Ngõ vào Cơ sở khu Chẩn bệnh, cách đường lớn chừng 50 mét, đầy nghẹt những dẫy xe 2 bánh và xích lô đợi đưa đón người khám bệnh, đi ra đi vào tấp nập như chợ Tết. Văn phòng “đăng ký” khám nghiệm nằm trên lầu một. Chúng tôi nối đuôi theo mọi người đi lên lầu, lấy số đợi, vào ghế ngồi chờ đến lượt mình. Có 2 Bác sĩ, một Nam một Nữ, làm việc liên tục không ngơi nghỉ, khám, ghi bệnh lý vào hồ sơ, và quyết định bệnh nhân phải làm những thủ tục gì tiếp theo. Có những bệnh nhân hàng ngày phải đến điều trị gọi là bệnh ngoại trú. Có những bệnh nhân sau khi khám, được chấp nhận cho vào nằm trong Bệnh viện điều trị.
Trong lúc ngồi chờ đợi, Tôi có dịp quan sát cách cư xử của 2 Bác sĩ với bệnh nhân. Ông Bác sĩ nói giọng Bắc chính cống, chắc là mới vào Nam sau 30-4-1975, khó tính, hạch hỏi bệnh nhân như Công an điều tra lấy cung người phạm tội. Còn bà Bác sĩ tính tình hiền dịu, nói năng nhẹ nhàng, giọng Bắc pha Nam, có lẽ sinh trưởng trong miền Nam sau 1954. Các Cán bộ áp giải Tôi, đi ra đi vào hoài nghe chừng sốt ruột lắm, nhưng cũng thúc thủ chẳng can thiệp được quyền ưu tiên, mặc dù giấy chuyển bệnh của Trại giam Cơ quan Đại diện Nhà Nước ghi lý do “cấp cứu”.
Đợi một giờ 30 phút mới đến lượt Tôi, may mắn làm sao gặp đúng lượt bà Bác sĩ khám. Bà ấy hỏi : “-Bác đau mắt nào?” Tôi chỉ lên mắt trái. Bà ấy hỏi : “-Bác không nhìn thấy từ bao giờ?” Tôi trả lời : “-Thưa Bác sĩ một năm rưỡi nay rồi.” Bà ấy dơ ống soi lên chiếu vào mắt Tôi, ghé sát mắt vào nhìn qua nhìn lại xong, bỏ ống rọi xuống, nhìn Tôi nói : “-Sao Bác để lâu thế bây giờ mới đi chữa?” Tôi chậm rãi trả lời : “-Thưa Bác sĩ, Tôi là Sĩ quan Chế độ Saigon cũ phải đi cải tạo. Lúc mắt trái không nhìn thấy, Tôi có tới Phòng Y tế của Trại giam khám để trình xin đi chữa, nhưng Trại trưởng không cho. Tôi đành phải chịu. Một năm rưỡi nay không sao. Nhưng trong suốt tuần lễ vừa qua, Tôi bị đau nhức mắt nhức đầu ăn uống ngủ không được. Đến tối hôm kia, Tôi ăn chút cháo cũng bị làm nôn mửa cả ra máu, nên sáng hôm qua Trại mới cho di tản đi cấp cứu.” Bà ấy ghi những gì vào hồ sơ không biết, rồi đưa cho Tôi, nói : “-Bác qua bàn giấy phía bên kia, đưa cho ông đang ngồi đó làm thủ tục nhập viện ngay.”
Tôi cám ơn và cầm hồ sơ đem sang trình, có lẽ là ông Y Tá trưởng. Ông ấy ghim thêm trên hồ sơ mấy mảnh giấy, bảo Tôi đi qua các phòng khám nghiệm phía trong, khi nào xong đem kết quả trở ra trình ông ấy. Tôi vào lần lượt qua các khu : cân mức nặng của cơ thể, đo chiều cao, đo áp huyết và nghe động mạch, đo nhãn áp, lấy máu và nước tiểu để thử nghiệm. Tại chỗ lấy máu, người ta hỏi : “-Từ sáng đến giờ đã ăn gì chưa?” Tôi trả lời : “-Không ăn nhưng có uống sữa.” Người ta nói : “-Vậy thì để sáng mai, lấy máu ngay trong bệnh viện cũng được.” Tôi đem kết quả ra trình ông Y Tá trưởng. Ông Y Tá trưởng xem rồi nói : “-Anh đi về, mai nhịn ăn sáng trở lại lấy máu thử, mấy ngày sau có kết quả rồi mới cho nhập viện được.” Tôi giải thích hoàn cảnh của mình và năn nỉ mãi, nhưng ông ấy không chịu và bỏ đi chỗ khác. Không biết làm sao, Tôi quay qua nhìn về phía bàn của bà Bác sĩ, thấy bà ta không có khách, liền đến xin gặp. Bà ấy mời ngồi và hỏi : “-Bác còn cần gì nữa?” Tôi kể lại những gì đã xẩy ra giữa Tôi và ông Y Tá trưởng, rồi nói thêm : “-Thưa Bác sĩ, nhờ bà giúp đỡ cho. Tôi đang là Tù bị giam tận Trại Z30D, vùng quận Hàm Tân tỉnh Thuận Hải. Nếu hôm nay, ở đây không chấp nhận cho Tôi được nhập viện điều trị. Cán bộ Công An đưa Tôi đến đây, sẽ áp giải Tôi trở lại Trại giam, chẳng biết bao giờ người ta mới lại cho đi nữa.” Nói đến đây tự nhiên Tôi cảm thấy nghèn nghẹn nơi cổ họng, phải ngưng lại không nói nữa, để kềm giữ cho khỏi bật tiếng khóc. Chắc bà Bác sĩ cảm thông hoàn cảnh đau khổ của Tôi, Bà ấy đứng ngay lên, bước nhanh đến bàn giấy ông Y Tá trưởng để hỏi. Ông ta vẫn một mực khăng khăng, không bằng lòng ký hồ sơ của Tôi. Bà Bác sĩ nói lớn tiếng như khiển trách : “-Vào trong bệnh viện lấy máu thử cũng được. Mấy bữa trước đã có trường hợp bệnh nhân bị cườm già quá, đổ vào phía trong làm hư võng mạc không cứu được, cũng vì việc trì hoãn như vậy, không nhớ sao mà còn tiếp tục?” Rồi bà Bác sĩ cầm lấy hồ sơ, ký tên, dẫn Tôi qua bàn giấy của Dì Phước ngồi gần bên, đưa hồ sơ và nói : “-Nhờ Ma Sơ (Ma Soeur) làm thủ tục thu tiền và hoàn tất hồ sơ chẩn bệnh, cho ông này nhập viện ngay bây giờ.” Tôi nghiêng mình kính cẩn nói lời cám ơn bà Bác sĩ. Bà ấy trả lời không có chi, và bỏ đi trở lại bàn giấy riêng.
Cán bộ Y tế và Cảnh vệ đi theo Tôi, đứng gần đó thấy rõ mọi việc, im lặng không nói gì. Con trai Tôi nộp số tiền phải đóng cho Dì Phước, khoảng 4, 5 trăm đồng bạc Cụ Hồ gì đó Tôi không nhớ rõ, và chúng tôi đứng chờ. Bà Phước hoàn tất các giấy tờ, ký giấy biên nhận, rồi nhoẻn miệng cười phúc hậu đưa hồ sơ cho Tôi, với lời chúc may mắn. Tôi cúi người xuống chào cám ơn, rồi cùng Con và các Cán bộ xuống xe đi Bệnh viện.
Lần này có giấy giới thiệu nhập viện, nhân viên phòng an ninh Bệnh viện mở cổng, cho xe chạy vào trong sân đậu. Chúng tôi tìm đến chỗ Khu Hành Chánh, Phòng Nhận Bệnh làm thủ tục. Người ta bắt đóng 5 ngàn đồng bạc Cụ Hồ, và cấp cho mảnh giấy giới thiệu vào Khu Nhãn Khoa I, trên Lầu 1, phía bên cánh phải của Bệnh viện. Người ta giải thích cho Tôi biết : “-Số tiền 5 ngàn chỉ là dự tính về phí tổn công Bác sĩ khám bệnh hàng ngày, phẫu thuật, thử nghiệm, thuốc men, và chỗ nằm tại Bệnh viện trong 7 ngày. Khi nào xuất viện, sẽ tổng kết mọi chi phí quy định cho mỗi dịch vụ đã thực hiện, nếu thừa sẽ trả lại, thiếu phải đóng thêm. Còn ăn uống bệnh nhân phải tự túc, hoặc do gia đình đem đến hàng ngày, hoặc xuống Câu Lạc Bộ trong Bệnh viện mua dùng tùy theo nhu cầu.” Tôi tự hỏi, trường hợp những Tù được di tản cấp cứu, không được may mắn có gia đình đi theo như Tôi, không có tiền, chẳng biết Cán bộ đi áp tải giải quyết ra sao? Làm cách nào cho Tù nhập viện, hay áp tải Tù quay trở về Trại giam?
Cha Con Tôi cằm giấy đi trước, 2 Cán bộ lẽo đẽo theo sau. Lên đến Khu Nhãn Khoa I, vào trình giấy cho nhân viên Y tá. Cô ấy chạy đi tìm Bác sĩ đến giải quyết. Hai Bác sĩ Nam và 1 Bác sĩ Nữ xem hồ sơ, thay phiên khám mắt của Tôi, rồi hỏi : “-Ai chỉ Bác lên đây?” Tôi trả lời : “-Phòng Nhận Bệnh dưới khu Hành chánh.” Họ tụm lại bên bàn Bác sĩ trưởng Khu, bàn luận nhỏ với nhau, rồi quay ra nói : “-Trường hợp của Bác phải lên Khu Nhãn Khoa II.” Tôi quay trở xuống Phòng Nhận Bệnh, kể lại những điều Bác sĩ tại Khu Nhãn Khoa I đã nói với Tôi, và nhờ giải quyết. Một nhân viên cằm giấy chạy vào văn phòng Bác sĩ Giám đốc Bệnh viện, một lúc sau trở ra dẫn Tôi đi lên Khu Nhãn Khoa II, trên lầu 2, phía bên cánh trái của Bệnh viện. Cô nhân viên dẫn Tôi lên, đem hồ sơ vào đưa cho Y tá trong Văn phòng, và quay ra bảo Tôi ngồi đợi, rồi cô ấy đi xuống cầu thang mất hút.
Ngồi đợi, thấy nhân viên mặc áo choàng trắng và bệnh nhân, đi ra đi vào Văn phòng hoài, cả tiếng đồng hồ không thấy ai hỏi đến mình. Tôi đến gõ cửa vào hỏi. Cô Y tá ngồi bàn giấy cho biết phải chờ, Bác sĩ còn đang bận. Các Cán bộ áp giải Tôi, thấy phải đợi lâu cũng bực mình lắm, nhưng không làm gì được. Họ đành dắt nhau đi vòng vòng “tham quan” các Khu trong Bệnh viện. Thỉnh thoảng họ quay trở lại thăm chừng xem xong chưa, chớ không đứng tại chỗ bên Tôi. Mấy phút sau khi Tôi vào hỏi cô Y tá, một Dì Phước dáng người nhỏ nhắn thấp, vẻ mặt trắng trẻo phúc hậu cỡ ngoài 30 tuổi, ở trong Văn phòng đi ra. Dì Phước thấy Tôi ngồi với người con trai, đến gần lên tiếng hỏi chuyện : “-Nhà Bác ở đâu? Bác đau lâu mau rồi? Có ai đưa Bác đến đây không?” Không có các Cán bộ đứng cạnh, Tôi mạnh dạn thong thả kể lại cho Dì Phước biết rõ về hoàn cảnh của mình. Bà đưa 2 bàn tay hiền dịu nắm tay Tôi vỗ vỗ và nói : “-Tội nghiệp! Bác chờ đây, Tôi đi tìm trình Bác sĩ lo cho Bác.”
Chừng mươi phút sau, có 2 Bác sĩ (1 nam, 1 nữ) theo Dì Phước trở về Văn phòng, kêu Tôi vào “làm việc”. Họ xem hồ sơ, khám mắt, rồi hỏi thêm nhiều chi tiết về các bệnh tật mãn tính mà Tôi có, từ năm nào? đã được điều trị như thế nào? Có cơ phận nào trong cơ thể phải giải phẫu bao giờ chưa? có bị dị ứng với loại thuốc nào không?... Sau cùng, dặn Tôi : “-Sáng sớm mai phải nhịn đừng ăn uống gì, để xuống Phòng Thí nghiệm lấy máu thử, sau đó mới được ăn. Thứ Năm sẽ mổ.”
Xong thủ tục, vừa ra khỏi văn phòng Bác sĩ, đúng lúc các Cán bộ trở lại. Tôi được dẫn đến phòng số 4. Cả 4 giường xếp dọc 2 bên tường, đều đã có bệnh nhân nằm. Chỉ còn một khoảng trống chính giữa phòng, kê một bàn vuông và 4 chiếc ghế. Dì Phước và cô Y tá dẫn Tôi đến, nói : “-Sẽ để một chiếc ghế bố thấp, cho Bác nằm đỡ giữa phòng qua đêm nay. Sáng mai, người nằm giường bên cạnh cửa kia xuất viện, Bác sẽ nằm lên chỗ đó.” Thấy Tôi được nhập viện có chỗ nằm xong xuôi, Cán bộ Y tế nói : “-Ông X. ở đây với anh. Khi nào xuất viện, ông ấy sẽ lo xe đưa anh về.” Nói xong Cán bộ Y tế ra đi, chỉ còn lại Cha Con Tôi và Cán bộ X. ở lại trong phòng, với 4 bệnh nhân cũ và thân nhân của họ.
Lúc đó cũng gần 1 giờ trưa. Tôi bảo Con đưa Cán bộ X. xuống Câu Lạc Bộ dùng bữa trưa. Ông ấy bảo Tôi cùng đi một lượt. Hiểu ý, nên dù mệt Tôi vẫn phải cố gắng, lết xuống cầu thang 2 tầng lầu, ra Câu Lạc Bộ ở góc sân sau của Bệnh viện. Đây là một dẫy nhà bếp cũø khá rộng. Một nửa có các dàn bếp nấu bằng ga, bằng điện, hiện không dùng. Nửa kia, có lẽ trước là kho chứa thực phẩm, nay được sửa sang lại thành Câu Lạc Bộ, trang trí đẹp mắt, bầy nhiều bàn ghế đủ chỗ cho 50 người ăn cùng một lúc. Thực khách phải đứng xếp hàng, tại quầy ghi nhận đơn đặt món ăn, trả tiền, lấy phiếu và đứng chờ. Nhà bếp sửa soạn món ăn theo thứ tự đặt hàng. Khi xong họ báo lớn tiếng, món ăn đặt mua. Nếu phải của mình, tới đưa phiếu đã trả tiền, nhận món ăn, tự mang ra phòng ăn kiếm chỗ ngồi. Câu Lạc Bộ mở cửa từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối. Bán đủ thứ : cơm đĩa, cơm bữa, phở, mì, hủ tiếu, bánh mì, các loại kẹo bánh ngọt, nước uống đóng chai, trái cây tươi, thuốc lá, giá cả cũng tương tự như ngoài phố.
Ngoài hàng rào trước Bệnh viện, phía bên kia đường cũng có các quán lợp mái tôn, xe đẩy, gánh hàng rong, bán đủ thứ đồ ăn và nước uống suốt ngày đêm. Ai không muốn ăn trong Câu Lạc Bộ, người nhà ở nuôi bệnh có thể ra mua đem vào phòng dùng, y như trường hợp đem từ nhà vào vậy.
Chúng tôi ăn xong trở lên phòng bệnh, đã thấy chiếc bàn giữa phòng được chuyển để nằm sát một bên tường giữa 2 đầu giường, 4 ghế để cạnh mỗi giường một chiếc. Một chiếc ghế vải bố dài 2 mét, rộng 60 phân, mền, gối, và bộ quần áo đồng phục bệnh nhân dành cho Tôi, được đặt nằm chình ình giữa phòng, ngay dưới chiếc quạt máy và bóng đèn treo lơ lửng trên trần nhà. Tôi nói nhỏ với Cán bộ : “-Ở đây không có chỗ, cho Cán bộ ở bên Tôi ngày đêm. Cán bộ đã thấy nơi cư ngụ của Vợ Con gia đình Tôi, không lý do gì Tôi lại dại dột mà trốn. Tôi đề nghị Cán bộ cứ yên tâm, đến nhà chúng tôi mà ở. Trong suốt thời gian Tôi nằm điều trị tại đây, việc ăn uống của Cán bộ hàng ngày, cũng như Cán bộ cần tiêu pha mua bán gì, gia đình Tôi sẽ lo lắng đầy đủ. Xin Cán bộ cứ tự nhiên đừng thắc mắc gì.” Ông ấy suy nghĩ một lúc rồi nói : “-Được rồi, anh cứ yên tâm nằm chữa bệnh.” Rồi ông ấy cùng Con trai Tôi rời bệnh viện.
Hai người đi rồi, Tôi vào phòng vệ sinh thay quần áo bệnh nhân, trở ra nằm dài trên ghế bố. Phủ chiếc áo sơ mi che mắt cho không bị chói, Tôi cố dỗ giấc ngủ, giữa tiếng trò chuyện ồn ào của bệnh nhân và thân nhân của họ ở cùng phòng. Đang lơ mơ chưa ngủ được, Dì Phước tới phòng lên tiếng : “-Ông Hùng, Thuận Hải, đã báo cho gia đình biết được nằm tại đây chưa?” Tôi ngồi nhỏm dậy nói : “-Thưa Sơ, sáng nay Con trai Tôi đi theo đã về nhà báo rồi, cám ơn Sơ.” Dì Phước đưa cho Tôi một tấm phiếu, và dặn sáng sớm mai xuống Phòng Thí Nghiệm để người ta lấy máu thử, rồi trở lên hãy ăn sáng. Tôi đưa tay nhận tấm giấy và nói : “-Cám ơn Sơ nhiều lắm. Xin Chúa gìn giữ và ban nhiều ơn phước cho Sơ.”
Vừa đúng lúc Dì Phước quay ra, 2 cậu Con trai đem thức ăn bữa chiều đến cho Tôi. Chúng cúi đầu chào Dì Phước. Tôi giới thiệu đôi bên với nhau. Dì Phước nói : “-Các Con biết lo lắng cho Cha như vậy là tốt lắm. Chúa sẽ đền ơn trọng bội cho các Con.” Các Con tôi chắp tay cúi mình cám ơn Dì Phước, và nói : “-Bố chúng con nằm đây có gặp khó khăn gì, xin Sơ thương tình giúp đỡ.” Dì Phước gật đầu. Một trong 2 người hỏi tiếp : “-Thưa Sơ, Bác sĩ Trưởng Khu này tên gì vậy?” Dì Phước trả lời : “-Bác sĩ Nam, một Bác sĩ Quân Y cũ.” Nói xong Dì Phước rời khỏi phòng bệnh ngay.
Cậu con nhỏ của tôi nói cho biết : “-Bác sĩ Nam có phòng mạch riêng tại Quân Phú Nhuận, là người quen thân của bà Cán bộ Tập kết trở về, đang làm Bí Thư Đảng Bộ Quận Phú Nhuận. Thân nhân của bà ấy là Chủ nhiệm Tổ hợp sản xuất mành trúc. Hiện cậu ấy đang làm công nhân trong Tổ hợp, được ông Chủ nhiệm rất thương mến. Để cậu ấy đi gặp nhờ gửi gấm giúp đỡ.” Rồi cậu ấy bỏ ra về liền cho kịp. Đến tối, cậu ấy trở lại ngủ trong Bệnh viện bên Tôi, và cho biết : “-Mọi việc đã xong. Sáng mai Bác sĩ Nam sẽ khám mắt cho Tôi, và ông ta sẽ đích thân làm phẫu thuật. Sau khi mổ, ông ấy sẽ cho nằm điều trị đủ 21 ngày, cắt chỉ rồi mới phải xuất Viện. Nhưng phải giữ kín đừng nói cho ai biết. Các bệnh nhân khác, thường là 7 ngày sau khi mổ phải xuất Viện. Rồi mỗi tuần mỗi trở lại khám một lần, cho đến khi đủ 21 ngày thì cắt chỉ.”
Trong Khu Nhãn Khoa II có 3 Bác sĩ. Hàng ngày họ thay phiên nhau khám, và cấp thuốc điều trị cho các bệnh nhân nội trú của Khu. Sáng hôm nay Tôi mới được gặp có 2 người. Bác sĩ Nam Trưởng Khu có ca mổ, nên Tôi chưa được gặp.
Sáng hôm sau Bác sĩ Nam khám mắt cho Tôi. Ông cấp phiếu giới thiệu sang Khu Tim Mạch khám bổ túc, vì Tim của Tôi đập loạn nhịp cần xác định trước khi quyết định mổ mắt. Tôi cầm giấy đi sang Khu Tim Mạch, ở bên cánh phải cùng một tầng lầu với Khu Nhãn Khoa II. Bác sĩ trưởng Khu Tim Mạch và mấy Bác sĩ phụ tá, thay phiên nhau đặt ống nghe, khám đi khám lại rất kỹ. Sau khi bàn luận với nhau, Bác sĩ trưởng Khu cấp giấy giới thiệu cho Tôi ra Trung tâm chuyên khoa, đo tim mạch bằng máy điện tử, gần bệnh viện Bình Dân tại Khu Bàn Cờ, làm ECG tức là Điện Tâm Đồ. Ngay sau bữa cơm trưa, cậu con trai chở Tôi đi bằng xe Honda đến Trung tâm đo tim mạch, đứng xếp hàng làm thủ tục đóng tiền, và chờ đến lượt vào phòng máy cho chuyên viên đo. Dân chúng bị bệnh tim mạch đến chờ đông nghẹt, chen nhau như đi lãnh đồ phát chẩn những năm đói, tại các Tỉnh miền Bắc Việt Nam, dưới thời Pháp-Nhật chiến tranh đầu thập niên 1940 mà Tôi đã thấy.
Sau khi đo xong, phải đứng ngoài sân dưới trời nắng gay gắt, đợi hai tiếng đồng mới có kết quả. Tôi đem về nộp cho Bác sĩ Khu Tim Mạch trong Bệnh viện. Sau khi xem kết quả “điện tâm đồ”, Bác sĩ kết luận Tôi bị “Suy mạch vành, ngoại tâm thu thất”. Chu kỳ đập của tim lỗi nhịp, chỉ cần điều trị hàng ngày bằng thuốc điều hoà nhịp tim, và ca mổ có thể tiến hành không trở ngại. Ông Bác sĩ trưởng Khu cấp cho Tôi toa mua thuốc Rythmodan uống. Đây là loại thuốc ngoại, giá hơi đắt, trong Bệnh viện không có, phải xuống Phòng bán thuốc riêng, ngay bên cạnh cổng Bệnh viện để mua.
Tôi nhập viện ngày Thứ Hai, đến chiều ngày Thứ Tư, trong giờ thân nhân và bạn bè cũ đến thăm đang ngồi nói chuyện, Dì Phước xuất hiện trước cửa phòng bệnh, nói : “-Ông Hùng có quen gì với Bác sĩ Trưởng Khu không? Tại sao đã sắp xếp Bác sĩ Y. mổ, mà ông lại yêu cầu Bác sĩ Trưởng Khu đích thân mổ mắt cho ông vậy?” Tôi thủng thẳng trả lời : “-Thưa Sơ, Tôi không quen biết Bác sĩ nào trong Bệnh viện này cả. Nhưng chắc Con trai Tôi làm Y sĩ tại Phường trong Quận Phú Nhuận, có thể quen biết Bác sĩ Nam. Bạn bè Y sĩ với nhau có thể họ nói chuyện nhờ vả gì nhau hay không, Tôi thật tình không biết.” Dì Phước nói tiếp : “-Ngày mai có phái đoàn Bác sĩ chuyên khoa về mắt, từ bên Pháp tới “tham quan” Bệnh viện. Tất cả mọi ca mổ dự trù, đều đình không thực hiện. Nhưng riêng phần ông, kể từ 12 giờ đêm nay không được ăn uống gì nữa. Nhịn đến 1 giờ trưa mai, Bác sĩ Trưởng Khu sẽ mổ mắt cho ông.” Tôi trả lời Dạ! Dì Phước nói tiếp : “-Chúc ông may mắn.” và rời phòng bệnh.
Thực ra, Tôi chẳng có người con nào làm Y sĩ tại Phú Nhuận cả. Cậu trai lớn hồi trước 30-4-1975 đang học Đại học Y khoa Minh Đức năm thứ 3, vào khoảng tháng 8 năm 1975 đang đi học, khi không bị bắt nhốt trong “sà lim” Khám Chí Hoà cả 2 năm, vì nghi vấn có theo Phục Quốc chống Chính quyền Cách mạng. Ốm tong ốm teo gần chết mới được tha về, còn phải tình nguyện đi làm không công tại Phòng Y tế Phường mấy năm liền, mới được cho nhập Hộ khẩu. Bây giờ, cậu ấy đang phải chạy xe chở bia và nước ngọt, đi bỏ mối cho các quán ăn trong thành phố hàng ngày để kiếm sống.
Những bệnh nhân cũ nằm cùng phòng, ai cũng có thân nhân phải đi cải tạo, nên họ rất thương mến Tôi. Nghe tin Bác sĩ trưởng Khu đích thân mổ cho Tôi, ai cũng mừng rỡ chia vui. Họ cho biết có nhiều người phải ra vào Bệnh viện 2, 3 lần mới được mổ. Tôi được đặc biệt “chiếu cố” mổ ngay vào ngày có phái đoàn “tham quan”, tất cả các ca mổ đều bị đình hoãn là hên lắm.
Đúng 12 giờ trưa ngày hôm sau, Tôi và cậu con trai được phép ở trong Nhà thương nuôi bệnh, đến phòng “Tiền giải phẫu” làm thủ tục chuẩn bị chờ giờ lên bàn mổ. Cô Y tá thực hiện các việc : cân, đo thân nhiệt, huyết áp, nhịp tim, rồi cho Tôi uống viên thuốc, chắc là thuốc ngủ. Một lúc sau, dẫn Tôi vào phòng mổ, để nằm trên một chiếc bàn phủ khăn trắng toát, phía trên có một giàn đèn. Sau đó, cô ấy dán mấy đầu dây của máy điện tử theo dõi nhịp tim và huyết áp, lên da cổ chân, đầu ngón tay và trên ngực của Tôi. Tiếp theo, Cô ấy tìm tĩnh mạch nơi nhượng tay trái, để đâm kim truyền serum (huyết thanh) vào máu cho Tôi. Sau cùng, Cô ấy nhẹ nhàng cột 2 cổ tay và 2 cổ chân Tôi dính xuống bàn, phủ lên người Tôi một tấm drap mầu xanh da trời lợt, từ cổ xuống chân, để chờ đến giờ Bác sĩ vào làm phẫu thuật.
Đúng 1 giờ, Bác sĩ Nam cùng mấy người phụ tá vào phòng mổ. Mắt Bác sĩ liếc xem hồ sơ, miệng chỉ thị người nào làm việc nào..., rồi quay lại nhìn Tôi nói : “-Bác đã sẵn sàng chưa? Chúng ta bắt đầu mổ.” Tôi mơ mơ màng màng trả lời : “-Thưa Bác sĩ, Tôi đang chờ đợi đây.” Bác sĩ nói tiếp : “-Nhẹ nhàng lắm, không đau đớn gì đâu, Bác đừng lo.” Tiếp đó, người ta phủ lên mặt Tôi một miếng vải khác, chỉ có một lỗ hở để lộ mắt trái thôi. Mắt phải bị vải che kín, Tôi chẳng còn trông thấy gì, chỉ cảm thấy mọi sự diễn ra qua ghi nhận của thính giác và xúc giác mà thôi.
Bác sĩ nói : “-Mở cả 2 mắt ra.” Tôi làm theo, và cảm thấy có những cái đầu đang cúi chụm vào nhau, phía trên mặt. Những bàn tay, ngón tay đụng vào khu chung quanh con mắt trái của Tôi. Thế rồi, có mũi kim chích đâm vào làm đau từng chỗ, nối tiếp nhau trên khung xương vòng quanh con mắt trái. Đến lúc không thấy kim chích nữa, thì vùng mặt bên trái tê đi không cảm thấy gì nữa. Rồi có một vật gì, banh 2 mí mắt trái ra sát tận khung xương lỗ chứa con ngươi. Tôi vẫn tỉnh không ngủ, nhưng lơ mơ nằm im không nói năng gì, nghe Bác sĩ vừa mổ vừa giảng giải cho các Phụ tá những gì Bác sĩ đang làm. Tôi chẳng nhớ được gì ngoài mấy câu : thấm máu đi, đưa kẹp... Họ loay hoay cũng rất lâu, những bàn tay ngón tay đụng đụng trên mặt, trên chán, trên mũi, cũng cả tiếng đồng hồ chớ không ít. Thế rồi bỗng dưng, Tôi thấy có ánh sáng làm chói mắt trái, nhưng không nhìn thấy gì. Một lúc sau, nghe thấy Bác sĩ ra lệnh đưa chỉ. Chắc là việc mổ, kẹp lấy thủy tinh thể đục ra, và đặt thủy tinh thể nhân tạo vào thay thế đã xong. Mọi người đang lo may vết mổ trên con mắt lại, rồi nhỏ thuốc mỡ và dán băng. Miếng vải phủ trên mặt được nhấc ra. Các bàn tay gỡ các dây trói chân tay, lột các miếng băng keo dán các đầu dây máy điện tử trên người, nhấc bổng Tôi lên đặt sang chiếc bàn khác và đẩy đi. Thế là ca mổ đã xong xuôi tốt đẹp. Chẳng biết khi lành có nhìn thấy bình thường như cũ không. Phải chờ ít nhất là một tuần lễ mới rõ kết quả.
Hai bữa liền không thấy Cán bộ đi canh gác Tôi ghé Bệnh viện, ông ta cũng không ở tại nhà chúng tôi, chẳng biết đi đâu. Bỗng dưng đúng vào lúc người ta đang đẩy xe đưa Tôi từ trong phòng mổ ra, thì ông ấy xuất hiện. Hai mắt của Tôi bị bịt băng kín mít không thấy gì, chỉ nghe cậu Con trai đi theo nói nhỏ : “-Anh Công An đi theo canh Bố đã đến kia.” Tôi nằm im không nói gì như mình đang ngủ.
Về đến phòng, người ta bê Tôi sang giường, chích một mũi thuốc vào bên cạnh đùi, và nghe lơ mơ có lời dặn : “-Không được kê thêm gối dưới đầu, không được làm đầu quay lắc rung chuyển mạnh, không được nằm nghiêng, không được ngồi dậy, cho đến khi nào Bác sĩ cho phép mới được. Nếu cần tiểu hay đại tiện thì lấy bô giúp cho giải quyết tại chỗ nằm.” Con trai tôi trả lời : “-Dạ! Dạ!” Tiếng bánh xe và tiếng chân người xa dần. Mũi thuốc an thần vừa mới chích, bắt đầu thấm đưa Tôi chìm vào giấc ngủ nhẹ nhàng êm đềm.
Trong 2 ngày tiếp theo, Tôi cứ phải nằm ngửa trên giường, không được quay dở lắc lư đầu mạnh, nhưng may mắn thay mình và chân tay còn được phép cựa quậy. Nệm giường bọc bằng vải nhựa, lưng nóng như nung, mồ hôi ra làm ẩm ướt, nằm lâu mình mẩy nhức mỏi ngứa ngáy khó chịu vô cùng. Đến lúc này, Tôi mới cảm thông được nỗi đau khổ của các thương binh, phải băng bó cùng mình, nằm liệt trên giường cả tháng, có khi 3, 4 tháng để điều trị.
Những ngày phải nằm liệt tại chỗ, Bác sĩ và Y tá đến tận giường khám xét, theo dõi tình trạng con mắt mới mổ, nhỏ thuốc thay băng mỗi buổi sáng. Đến ngày thứ ba sau ngày mổ, được phép ngồi lên và xuống giường đi lại nhẹ nhàng trong phòng. Mỗi sáng khoảng 9 giờ, sang phòng điều trị chung, cho Bác sĩ khám bệnh, Y tá nhỏ thuốc thay băng. Cả 2 mắt vẫn còn bịt băng kín mít, mỗi lần di chuyển phải có người dắt dẫn đường.
Cái hôm được xuống giường nhờ Con dắt sang phòng điều trị khám, là ngày sung sướng nhất của đời Tôi. Ngày hôm đó, nhằm đúng phiên Bác sĩ Nam Trưởng khu khám cho bệnh nhân nội trú. Lúc Bác sĩ gỡ băng ra để khám mắt mới mổ, Tôi thấy mờ mờ loang loáng khuôn mặt Bác sĩ hiện ra. Tôi nghẹn ngào mừng rỡ reo lên : “-Tôi đã nhìn thấy rồi, cám ơn Bác sĩ, cám ơn Bác sĩ, rất nhiều.” Ông ấy cười vui vẻ nói : “-Lần lần rồi sẽ nhìn thấy như thường. Ở đây, không có loại thủy tinh thể nhân tạo có độ điều chỉnh. Sau này khi lành hẳn, khoảng 3 tháng nữa, Bác phải trở lại đây đo mắt làm kính điều chỉnh để đeo, hơi nặng nơi sống mũi.” Tôi cười nói : “-Trước kia Tôi vẫn phải đeo kính cận thị quen rồi, bây giờ đeo kính cũng không sao.” Bác sĩ nói thêm : “-Trước kia đeo kính cận chỉ có một tròng, bây giờ phải có tới 2 tròng, một để nhìn xa đi đường, và một nhìn gần để đọc sách, vì thế kính sẽ rất dầy và nặng làm mỏi sống mũi, Bác chịu được không?” Không cần suy nghĩ, Tôi trả lời ngay : “-Đành phải chịu, lâu dần rồi cũng quen, miễn được nhìn đời bằng 2 mắt vẫn hay hơn là nhìn bằng 1 mắt.”
Đêm nào 2 cậu Con trai cũng nằm trong bệnh viện với Tôi. Vào một buổi sáng, sau 6 ngày mổ mắt, 2 cậu con vừa rời Bệnh viện về nhà được một lúc. Tôi đang nằm trên giường bệnh, bỗng thân nhân người bệnh nằm chung phòng, chạy vào báo : “-Anh Công An theo canh Bác, đang ngồi trong Văn phòng nói chuyện gì với bà Bác sĩ Bí thư Đảng ủy của Khu.” Một lát sau, Cán bộ X. vào phòng hỏi : “-Anh đã khoẻ chưa? Mai xuất viện về Trại được chưa?” Tôi trả lời : “-Tôi chưa thấy Bác sĩ nói gì, nên không biết.” Ông ấy nói tiếp : “-Chuẩn bị sẵn sàng, mai có xe của Trại đón anh về Trại.” Rồi bỏ đi. Tôi chỉ trả lời gọn lỏn một tiếng : Dạ!
Đến giờ khám bệnh, Tôi sang phòng điều trị, gặp phiên bà Bác sĩ Bí thư khám bệnh. Khám song, bà Bác sĩ nói : “-Mắt ông Hùng tốt rồi, mai có thể xuất viện về nhà. Hàng tuần trở lại khám, cho đến đủ 21 ngày cắt chỉ.” Tôi hơi xửng sốt, nhưng giữ bình tĩnh thản nhiên trả lời một tiếng cụt lủn : Dạ! Trở về phòng bệnh, Tôi nhờ ngay một trong các thân nhân bệnh nằm cùng phòng, tức tốc chạy đến nhà Tôi, nhắn người Con trai nhỏ vào gặp Tôi gấp. Một giờ sau cậu Con vào tới, Tôi kể lại mọi chuyện, cậu ấy lập tức đi ngay. Đến tối cậu ấy vào Bệnh viện ở qua đêm bên Tôi, cho biết : “-Bố yên tâm, Con đã gặp đích thân Bác sĩ Nam tại phòng mạch riêng rồi. Bố sẽ nằm tại đây cho tới ngày thứ 21 cắt chỉ. Nếu tới ngày đó chưa có lệnh tha ra khỏi tù, mình sẽ tính chuyện tiếp theo.”
Mười giờ sáng hôm sau, Cán bộ X. trở lại, thấy Tôi vẫn mặc quần áo nhà thương, chỉ còn mắt trái phải băng, mắt phải được bỏ băng để nhìn đường. Ông ta nhìn Tôi ngạc nhiên hỏi : “-Sao anh chưa chuẩn bị về, lẹ đi xe đang chờ dưới sân kia.” Tôi trả lời : “-Bệnh viện đâu có làm thủ tục cho Tôi xuất viện mà chuẩn bị. Cán bộ sang Văn phòng hỏi xem sao.” Ông ta đi về phía Văn phòng. Mấy thân nhân bệnh nằm cùng buồng, đi theo rình coi việc gì sẽ xẩy ra. Một lúc khá lâu, không thấy Cán bộ trở lại phòng. Mấy người đi rình theo dõi trở về phòng, kể lại những gì họ nghe và thấy được như sau : “Anh Công an sang Văn phòng, hỏi tại sao không cấp giấy xuất viện cho anh Hùng nằm phòng số 4? Cô Y tá nói chưa có lệnh của Bác sĩ trưởng Khu. Anh ấy đòi gặp Bác sĩ trưởng Khu. Họ để ngồi chờ một lúc lâu mới đi mời Bác sĩ đến gặp. Bác sĩ hỏi : -Ông là gì của ông Hùng? Anh ta nói là Đại diện Trại cải tạo, đưa anh Hùng về mổ mắt, muốn anh Hùng phải xuất viện hôm nay, có xe của Trại đến áp giải về, đang chờ dưới sân. Bác sĩ nói : -Mắt của ông Hùng cần phải nằm tiếp tục điều trị tại đây, để chăm sóc hàng ngày cho đến khi cắt chỉ xong mới xuất viện được. Anh ta nói : -Tại sao những người khác mổ xong, 7 ngày sau Bệnh viện cho về nhà, sao anh Hùng lại phải nằm lại đây? Bác sĩ nói : -Nhà người ta có điều kiện chăm sóc cẩn thận hàng ngày, lỡ có biến chứng thì vào Bệnh viện coi lại ngay. Còn ở Trại các anh làm sao có đầy đủ phương tiện, cứu chữa không kịp hư mắt người ta ai chịu trách nhiệm? Anh về trình với Thủ trưởng của anh, là Bệnh viện mổ mắt cho Ông Hùng, có trách nhiệm lo chăm sóc cho đến khi lành hẳn, cắt chỉ xong mới cho xuất viện được. Tôi là Bác sĩ mổ mắt cho Ông Hùng, Tôi có trách nhiệm phải thể hiện đúng chức năng “Lương y như từ mẫu” của Tôi. Nói xong Bác sĩ bỏ đi đến các phòng thăm bệnh. Anh Công An tiu nghỉu bỏ xuống lầu, lên xe đi tuốt.”
“Cẩn tắc vô ưu”, Tôi liền viết ngay một tờ đơn, gửi cho “Ban” Nhu Trưởng Trại Z30D, để cám ơn và tường trình về kết quả ca mổ mắt thành công. Tôi không quên ca ngợi, khả năng kỹ thuật ưu hạng của các Bác sĩ Xã hội Chủ nghĩa. Ngoài ra Tôi còn trình thêm, nhờ việc chẩn bệnh rất khoa học của các Bác sĩ chuyên khoa, và các máy móc điện tử tân tiến, đã phát giác ra Tôi đang mắc bệnh tim mạch trầm trọng. Song song với việc điều trị mắt, Bệnh viện cũng đang điều trị bệnh tim “Suy mạch vành, ngoại tâm thu thất” cho Tôi. Cuối đơn, Tôi xin “Ban” Nhu mở lượng hải hà, cho Tôi được phép ở lại Bệnh viện, điều trị tiếp cho bệnh tim được ổn định sẽ trở về Trại. Viết xong, Tôi nhờ Vợ Con tức tốc mang quà trả ơn lên ngay Trại gặp “Ban” Nhu, đồng thời trình nộp đơn xin cho ở lại Bệnh viện tiếp tục điều trị bệnh tim. Thật không may, ngày Vợ Con tôi lên Trại, “Ban” Nhu không có mặt tại Trại, đành phải xin gặp Cán bộ Y tế nhờ nhận đơn, trình lại giùm ngay khi “Ban” trở về.
Trong những ngày kế theo, thân nhân nuôi bệnh ở cùng phòng, lúc nào cũng canh chừng. Hễ thấy bóng anh Công An đi canh Tôi, xuất hiện nơi cổng Bệnh viện, là họ chạy lên báo cho Tôi và mọi người biết trước. Để Tôi ngưng kể truyện, về những điều cam go khổ cực nhục nhằn, anh em Tù phải chịu đựng trong các trại giam.
Ba ngày sau khi Vợ con tôi lên trại nộp đơn, Cán bộ Y tế Trại Z30D ghé Bệnh viện thăm Tôi, vào khoảng 2 giờ chiều. Ông ấy đưa cho Tôi tờ đơn có bút phê, chữ ký tên của “Ban” Nhu Trại trưởng, và dấu ấn của Trại giam. Lời phê như sau : “Ông X. (ám chỉ Cán bộ Cảnh vệ đi theo canh giữ Tôi) cho nằm điều trị đến hết bệnh mới xuất viện”. Đồng thời Cán bộ Y tế cũng nói thêm : “-“Ban” Nhu dặn anh cứ yên tâm nằm điều trị, đến khi nào khỏi hẳn hãy xuất viện. Có thể trong khi anh đang nằm điều trị, lệnh tha về tới vào dịp Tết, anh sẽ về thẳng nhà, không phải trở lại Trại.” Tôi cầm tờ đơn đọc, rồi gật đầu nói lời cám ơn, và ca ngợi lòng tốt đầy “tình người” của “Ban” Nhu và Cán bộ Y tế. Ông ấy nhoẻn miệng cười vẻ hãnh diện, chìa tay ra bắt tay Tôi rồi đi ra một cách vội vã, chắc còn phải đi nhiều việc khác trước khi trở về Trại.
Thật là một chuyện lạ, từ gần mười ba năm nay, đây là lần đầu tiên Tôi được Cán bộ Cai Tù, vui vẻ bắt tay một cách lịch thiệp như vậy.
Mười ngày sau, Tôi được chuyển sang nằm trong phòng số 2, chỉ có 2 giường bệnh, gần sát ngay bên cạnh phòng điều trị của Khu. Tại đây Tôi gặp một Bác sĩ tuổi còn rất trẻ đang nằm điều trị. Ông ta cho biết là mắt phải bị cườm không nhìn thấy mới có vài tháng nay, được Nhà Nước “chiếu cố đặc biệt” cho nhập viện, để phái đoàn Bác sĩ chuyên khoa mắt từ Pháp đến “tham quan” Bệnh viện, thực hiện việc giải phẫu mắt cho ông ấy. Chẳng biết mắt bệnh tật ra sao, mổ xong bây giờ mù luôn không trông thấy gì nữa. Ông Bác sĩ giáo sư người Pháp, có kinh nghiệm mổ cả ngàn ca rồi chớ phải tay mơ đâu. Ca mổ này được thực hiện, vào cùng một ngày Bác sĩ Nam mổ mắt cho Tôi. Giật mình hú vía, Tôi tạ ơn Trời Phật đã thương, không bắt Tôi phải tật nguyền như ông bạn trẻ này. Thật là “bôn ba chẳng qua số Trời”. Mắt của Tôi bị cườm không nhìn thấy gì một năm rưỡi trời, Trưởng Trại Cải tạo Đại diện Đảng và Nhà Nước không cho đi mổ, là muốn cho Tôi phải chịu cảnh mù trột luôn. Các Cụ thường nói “ở hiền gặp lành”, nên cuộc giải phẫu mắt cho Tôi đã thành công rất mỹ mãn. Đúng là “chỉ có Trời hại mới chết, người ta hại không bao giờ chết”.
Hai mươi ba tháng Chạp, theo tục lệ cổ truyền Việt Nam, nhà nhà lo mua sắm bánh, mứt, kẹo thèo lèo, mũ mão ông Công, tiền vàng mã, rượu, hoa trái, và đặc biệt là con cá chép sống thả trong chậu nước, để chiều tối cúng tiễn Ba Vợ Chồng Táo Quân lên Trời. Các Con tôi cũng mang vào Bệnh viện một lô quà Tết, gồm : mứt, trái cây, trứng gà tươi, và mì gói ăn liền, nhờ Dì Phước biếu toàn thể Bác sĩ và nhân viên phục vụ tại Khu Nhãn Khoa II, để tỏ lòng cám ơn đã giúp đỡ chăm sóc Tôi, suốt những ngày điều trị tại Khu này.
Một ngày trước ngày dự trù cắt chỉ mắt, Tôi đưa Dì Phước xem tờ đơn có bút phê của Trại trưởng Z30D. Rồi nhờ Dì Phước dẫn Tôi qua Khu Tim Mạch, nơi đang cấp thuốc trị tim hàng ngày cho Tôi, để xin Bác sĩ Trưởng Khu chấp nhận cho làm thủ tục đóng tiền vào nằm điều trị, kể từ ngày xuất Khu Nhãn Khoa II. Tôi thành thật trình bầy hoàn cảnh của mình, đưa tờ đơn có bút phê của Trại trưởng Z30D cho Bác sĩ Trưởng Khu Tim Mạch xem. Dì Phước tiếp lời nói giúp thêm, ông Bác sĩ già rất tốt bụng, người Bắc mới vào Nam sau 30-4-1975, bằng lòng nhận. Dì Phước dẫn Tôi trở lại Khu Nhãn Khoa II, nhờ cô Y tá làm giấy cho Tôi xuống Khu Hành chánh, nộp tiền Viện phí chuyển qua Khu Tim Mạch kể từ ngày hôm sau. Mọi việc xong xuôi êm đẹp, Tôi yên tâm ngủ một đêm ngon lành, để sáng sớm hôm sau cắt chỉ mắt.
Đúng ngày thứ 21, tính từ ngày mổ mắt, vào lúc 9 giờ sáng, Bác sĩ Nam cắt chỉ mắt cho Tôi xong, nói : “-Kể từ ngày mai, Bác sang Khu Tim Mạch điều trị, hàng ngày qua đây các cô Y tá sẽ đổi băng nhỏ thuốc cho. Một tuần lễ sau không cần phải bịt băng bảo vệ mắt nữa, nhưng phải đeo kính mát cho khỏi bị chói. Sau đó mỗi tuần một lần trở vào đây theo ngày giờ hẹn trong giấy xuất Viện, để khám và theo dõi mắt. Ba tháng sau sẽ đo mắt để đi mua kính điều chỉnh là hoàn tất mọi việc.”
Ngày hôm sau lúc 9 giờ, Dì Phước dẫn Tôi qua trình diện Khu Tim Mạch. Trước khi chia tay, Bà không quên chúc lành và cầu xin Ơn Trên đoái thương cho Tôi sớm được tha về với gia đình. Thật là một nhà tu hành nhân hậu, cả gia đình chúng tôi chẳng bao giờ quên.
Trong lúc Tôi đang ngồi trước Văn phòng Khu Tim Mạch, chờ được xếp phòng nằm, Cán bộ X. từ Khu Nhãn Khoa II chạy sang. Thấy Tôi ngồi đó, ông ta ngạc nhiên hỏi : “-Anh làm gì ngồi đây?” Tôi trả lời : “-Khu Mắt chuyển qua đây, để tiếp tục điều trị bệnh Tim.” Rồi Tôi móc túi đưa cho ông ấy tờ đơn có bút phê của “Ban” Nhu, và nói : “-Mấy bữa trước, Cán bộ Y tế đem xuống và có dặn thêm là, “Ban” Nhu nhắn Tôi cứ yên tâm nằm điều trị cho khỏi hẳn mới phải về Trại. Từ hôm đó đến nay, Cán bộ không vào đây, nên Tôi vẫn giữ chưa đưa cho Cán bộ được.” Ông ta cầm tờ đơn có bút phê của “Ban” Nhu, đọc rồi chạy vào văn phòng gặp Bác sĩ, một lúc lâu trở ra đi thẳng không nói gì với Tôi.
Ông ta đi rồi, cô Y tá văn phòng Khu Tim Mạch dẫn Tôi vào nằm trong phòng Cấp Cứu Hồi Sinh. Nơi đây toàn là bệnh nhân trong tình trạng trầm trọng, phải tiếp “huyết thanh” vào máu, tiếp dưỡng khí thường xuyên qua lỗ mũi. Người nào cũng có thân nhân ngồi bên canh chừng, để kịp thời kêu Y tá cấp cứu mỗi khi cần. Trong phòng có 10 giường, đang có 7 bệnh nhân, Tôi là người thứ 8. Cửa vào phòng Cấp Cứu Hồi Sinh lúc nào cũng khép kín, treo một bảng thông cáo ghi rõ ràng : “Những người không phận sự cấm vào”.
Sáng hôm sau, khoảng 9 giờ, lúc Bác sĩ đang khám bệnh trong phòng, không biết làm thế nào mà Cán bộ X. cũng vào được tận chỗ Tôi nằm. Ông ta nói : “-Anh phải nằm trong phòng Cấp cứu Hồi sinh, tại sao Bác sĩ không cho truyền thuốc vào máu như mọi người?” Tôi nói : “-Bác sĩ có toàn quyền quyết định việc điều trị, làm sao Tôi biết.” Ông ấy nói tiếp : “-Sao anh không xin?” Tôi nói : “-Là bệnh nhân, làm sao Tôi biết mình cần được điều bằng thuốc gì mà xin.” Ông ta ra đứng bên cửa sổ nhìn xuống đường, hồi lâu quay lại đến gần Tôi, nói : “-Chắc là bệnh của anh không trầm trọng, chiều nay có xe của Trại lên công tác, để Tôi nói Bác sĩ cho anh xuất viện về Trại, nằm điều trị trong Bệnh xá cũng được.”
Tôi nổi nóng nói lớn tiếng, cốt ý cho Bác sĩ và các người đang có mặt trong phòng cùng nghe : “-Tôi bệnh, Thủ trưởng của ông cho đi Bệnh viện điều trị. Ông chỉ có bổn phận đi canh gác Tôi không trốn Tù mà thôi. Tại sao ông cứ kiếm chuyện áp lực làm khủng hoảng tinh thần Tôi hoài vậy? Tôi nhắc cho ông nhớ một điều, tờ đơn xin nằm điều trị có bút phê của “Ban” Nhu Trại trưởng mà Tôi đưa cho ông, đã được chụp in ra nhiều bản sao. Nếu ông làm cách áp lực Bệnh viện phải cho Tôi xuất viện đi về Trại. Lỡ dọc đường hoặc sau này Tôi có mệnh hệ nào, gia đình tôi sẽ làm đơn kiện lên Ông Tổng Bí Thư Đảng, lên Viện Giám sát, lên Cục Trại giam, quy mọi tội lỗi lên đầu ông ráng mà chịu. Bác sĩ điều trị đang khám bệnh, và thân nhân các bệnh nhân đang có mặt tại đây, sẽ là nhân chứng cho Tôi, ông không thể chạy tội được đâu. Ông đi đi, muốn làm gì thì làm, đừng phiền hà Tôi nữa.”
Ông ta bỏ đi ra khỏi phòng, vừa đúng lúc Bác sĩ tới bên giường khám bệnh cho Tôi. Mặc dù biết là Bác sĩ cũng đã nghe và thấy mọi việc đã xẩy ra, nhưng Tôi vẫn trình bầy lại tỷ mỉ cho ông biết rõ ràng đầy đủ hơn. Bác sĩ ôn tồn nhỏ nhẹ khuyên : “-Liệu mà thu xếp với họ cho ổn thoả thì hơn.” Khám xong, Bác sĩ rời phòng bệnh nhân được chừng mươi phút, cô Y tá đem bịch “huyết thanh” đến truyền vào máu cho Tôi.
Khoảng 2 giờ chiều Cán bộ X. trở lại, thấy Tôi đang được truyền nước biển, ông ta hỏi : “-Anh hết nóng giận chưa?” Tôi nhếch miệng cười không trả lời. Lúc đó có Con Gái Tôi đang đứng bên giường, cô ấy cất tiếng : “-Chào Cán bộ!” Ông ấy cười, nói : “-Anh Hùng có lệnh tha rồi. Tôi có đem hồ sơ giấy tha lại đây cho Anh ký nhận, không phải trở lại Trại nữa.” Lúc đó Tôi mới lên tiếng : “-Cả tuần lễ trước, “Ban” Nhu đã cho Cán bộ Y tế lên báo cho biết là Tôi sẽ được tha vào dịp Tết, và cho tiếp tục nằm điều trị đến ngày có lệnh tha. Tôi có bệnh tim mạch nên tính tình đôi lúc thất thường. Sáng nay có hơi nặng lời với ông, xin thông cảm đừng buồn nhé. Tôi còn khoảng gần nghìn đồng lưu ký tại Trại chưa dùng, để Tôi ký giấy xin nhờ ông lãnh giùm, rồi giữ lấy mà tiêu Tết cho vui vẻ.”
Trao bản lệnh tha và nhận tờ giấy ủy quyền lấy tiền của Tôi xong, ông ta vội vã ra đi, trước sự hân hoan của Cha Con Tôi và thân nhân các bệnh nhân nằm cùng phòng. Mọi người chạy lại chia vui, và chúc Tết may mắn khoẻ mạnh. Tôi nhờ Con sang Văn phòng trình Bác sĩ Trưởng Khu rõ sự việc, và xin cho Tôi xuất viện về nhà ăn Tết. Bác sĩ chấp thuận ghi hồ sơ cho xuất viện ngay không trở ngại gì.
Lúc đó là 5 giờ chiều ngày cuối năm Âm lịch Đinh Mão (con mèo). Chỉ còn 7 tiếng đồng hồ nữa là sang đầu năm Mậu Thìn (con rồng) giữa tháng 2 năm 1988. Hai Cha Con Tôi chào chia tay, và chúc mọi người qua năm mới an khang, may mắn. Trước khi xuống lầu rời Bệnh viện, Cha Con Tôi không quên ghé sang Khu Nhãn Khoa II, báo tin mừng và chào tạm biệt Dì Phước nhân hậu giầu lòng bác ái. Bà nắm tay Tôi vỗ vỗ mừng rỡ chia vui, miệng không ngớt lời tạ ơn Chúa, đã thương ban Ơn Lành cho Tôi được tai qua nạn khỏi, về đoàn tụ với Vợ Con đúng lúc năm hết Tết đến.
Cha Con tôi thuê xe xích lô đạp chở về nhà, trong lúc thành phố Saigon đang chìm dần vào cảnh tranh tối tranh sáng, của buổi hoàng hôn cuối năm. Mọi người đang tất bật tìm về nơi mái ấm gia đình, sau một ngày lao động vất vả cam go. Nhưng cũng có những người không nhà không hộ khẩu, lang thang tìm mái hiên quen thuộc bên vỉa hè, để nằm đỡ qua đêm gió sương lạnh lẽo.
Khi xe bắt đầu đến ngã tư Yên Đổ rẽ vào đầu đường Trương Minh Giảng, một mùi chua chua hắc hắc thối thối tràn lan nồng nặc. Chạy thêm trăm mét nữa mới thấy, ngay bên trái đường, giữa mấy dẫy nhà lầu và những túp nhà sàn trên bãi sình, gần đầu cầu Trương Minh Giảng, một đống rác cao 3, 4 mét, dài chừng 50 mét. Trước 30-4-1975, vào những ngày Chủ Nhật Tôi vẫn thường lái xe chở Vợ Con qua lối này, đi tới đường Lý Thái Tổ vùng ngã Bẩy Bàn Cờ ăn sáng, chưa bao giờ thấy đống rác nào như vậy giữa thành phố.
HẾT ĐẠI NẠN CẢI TẠO.

Bệnh hoạn đem Ta khỏi Trại tù,
Giã từ lang sói chốn âm u.
Cú, diều, khỉ đột tha hồ hú,
Suối, thác, mưa rừng mặc sức ru.


Chương 36
 RỜI ỐC ĐẢO NHỎ TRẠI TÙ Z30D,
VÀO ỐC ĐẢO LỚN THÀNH HỒ.
trong
Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam
Nguyễn Huy Hùng
Mắt trái của Tôi bị đục “thủy tinh thể”, không nhìn thấy cảnh vật từ giữa năm 1986. “Ban” Nhu Trưởng trại Z30D hứa cho Tôi đi Bệnh viện mổ để cứu chữa, trước mặt ông Tướng Trưởng Phái đoàn Thanh tra Trung Ương Cục Trại giam từ Hà Nội vào. Nhưng suốt một năm rưỡi trời trôi qua, không bao giờ ông ta đả động tới việc thực hiện lời đã hứa. Mãi tới giữa tháng 1 năm 1988, nhờ có Vợ Con tới Trại “thăm nuôi”, gặp đúng lúc Tôi bị bệnh hành đau đớn thập tử nhất sinh, phải đưa từ Nhà Thăm Nuôi vào Bệnh xá Trại cấp cứu, tiếp nước biển (serum) vào máu. Qua một đêm không chết, sáng hôm sau ông ta, mới quyết định cho di tản về Saigon “cấp cứu” chữa mắt. Từ lúc có quyết định đến lúc hoàn tất thủ tục giấy tờ “di tản cấp cứu”, phải mất khoảng 2 tiếng đồng hồ. Gặp đúng ngày Chủ Nhật 17 tháng 1 năm 1988 cả trại nghỉ. Nhưng Đội 23 chúng tôi vẫn phải xuất trại, ra Nhà Lô Đội nghỉ như thường lệ.
Chiếc xe hơi du lịch xưa nay ông ta thường dùng, hôm nay được xử dụng để chở Tôi và Vợ Con đang “thăm nuôi” cùng đi Saigon “cấp cứu”. Xe rời Trại vào lúc 10 giờ sáng. Đến trưa, xe ngừng tại một khu buôn bán, nhiều nhà phố vừa trệt vừa có tầng lầu, xây xen kẽ bên nhau dọc 2 bên lề đường, để ăn uống trước khi tiếp tục đi. Tôi không biết tên Thị trấn, nhưng nhớ có một ngôi Nhà Thờ khá lớn, có cả Trụ sở Công An Nhân dân và Trường học. Mặc dù mệt không muốn ăn uống gì, Tôi vẫn phải xuống xe theo mọi người vào quán. Nhà hàng có khoảng năm sáu bàn tròn, không đông khách lắm, nhưng có thể gọi đủ loại món ăn chơi, cơm bữa, hủ tiếu, mì, bia, và nước ngọt. Thấy chúng tôi đi bằng xe hơi nhỏ loại du lịch, ai cũng quay mặt ngó, như muốn tìm hiểu xem chúng tôi thuộc hạng người nào trong xã hội đương thời. Có mấy người đứng lên, bỏ tiền trên bàn, chào chủ tiệm và đi ra ngay. Những người còn lại không nói chuyện ồn ào nữa, ăn vội cho xong để thanh toán tiền. Tôi cảm thấy hơi khó chịu, nhưng các Cán bộ thì tỉnh như không.
Các Cán bộ và chúng tôi ngồi chung một bàn, y như một gia đình gồm 2 ông bà già và 4 người con (3 trai, 1 gái). Đích thân Chủ tiệm rời quầy thu tiền đến tận bàn, đứng gần bên Vợ Chồng tôi, đợi ghi các món thực khách muốn dùng. Vợ Tôi lên tiếng : “-Ông hỏi xem các Chú muốn dùng gì lo trước đi, riêng Tôi cần 2 tô hủ tiếu mì, và một ly sữa nước sôi hột gà cho ông nhà tôi, đang bệnh không ăn được.” Các Cán bộ gọi mỗi người 1 phần cơm bữa và uống trà. Vợ Tôi nói thêm : “-Các Chú dùng bia nhé! Ông Chủ đem cho 3 chai bia và một đĩa gỏi tôm để các Chú ăn chơi trước khi dùng cơm.” Các Cán bộ im lặng không nói gì.
Lúc mọi người ăn gần xong, Vợ Tôi giả bộ đi vệ sinh, để ghé quầy hàng gọi thêm đĩa trái cây ăn tráng miệng, 3 ly cà phê đá, 1 bao thuốc lá thơm cho các Cán bộ dùng thêm, và thanh toán tiền luôn. Ăn uống xong, đồng hồ trên tường nhà hàng chỉ 1 giờ. Cán bộ kêu tính tiền, ông chủ tiệm chạy đến gần, nhỏ nhẹ : “-Thưa, tiền nong đã thanh toán xong cả rồi.” Chắc là trong lúc trả tiền, chủ tiệm có hỏi chuyện, Vợ Tôi đã giải thích cho biết về hoàn cảnh của chúng tôi, nên lúc này ông chủ tiệm mới có thái độ lịch thiệp như vậy với các Cán bộ.
Ra khỏi tiệm ăn, mọi người lên ngồi yên chỗ xong, xe chuyển bánh rẽ ra đường tiếp tục chạy hướng Saigon. Được chừng 200 mét, một chiếc xe máy dầu hiệu Honda đang đậu bên lề đường, bất thần vọt đại ra giữa lộ. Cán bộ lái xe chúng tôi vừa đạp thắng, vừa bóp còi, vừa quay vội bánh lái, lạng xe ra giữa đường để tránh. Nhưng không còn kịp, chiếc Honda vẫn bị cản hậu xe chúng tôi đụng, lạng quạng đổ văng xa cả chục mét bên lề đường. Người đàn ông trung niên lái xe Honda té lộn mấy vòng, nhưng không bị thương tích gì cả, chỉ bị lấm lem bụi đất bám đầy quần áo thôi. Thật là may!
Xe chúng tôi phải ngừng tại giữa lộ, các Cán bộ xuống xe đến gần người lái xe Honda, thương thảo giải quyết hồi lâu không xong. Hai bên cùng phải đưa xe vào sân trụ sở Công An, cách chỗ xẩy ra tại nạn không đầy 100 mét, nhờ giải quyết. Chưa tới giờ làm việc, Văn phòng đóng cửa không có ai trực. Cán bộ phải chạy đến các nhà gần bên hỏi thăm, không ai giúp được gì, đành ngồi tại chỗ đợi. Một tiếng đồng hồ sau, có một nhân viên tới trụ sở. Cán bộ xe chúng tôi tới tiếp xúc, nói chuyện qua lại cũng cả mười phút, mới thấy nhân viên kia bỏ đi. Khoảng hai mươi phút sau, y trở lại cùng một người khác đứng tuổi hơn, mở cửa trụ sở mời 2 Cán bộ và người bị nạn vào trong. Thời gian mấy người “làm việc” trong văn phòng lâu khoảng nửa tiếng đồng hồ. Xong việc các Cán bộ trở ra lên xe, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình đi Saigon.
Khi xe đến Cầu Xa Lộ nơi có Tân Cảng Saigon, Cán bộ tài xế lên tiếng nhờ Tôi chỉ đường cho xe chạy, vì ông ấy và 2 Cán bộ kia đều không thông thạo đường đi trong Thành phố. Vào tới khu Đa Kao Thành phố Saigon, lưu thông bắt đầu tắc nghẽn. Xe máy dầu đủ loại Honda, Suzuki, xe đạp, xích lô, xe ngựa, chạy hỗn độn chẳng theo luật lệ nào. Người ta tranh nhau luồn lách tiến lên trước, xe hơi chạy chậm rề rề thua cả người đi bộ. Phải mất hơn tiếng đồng hồ, xe chúng tôi mới tới được cổng Bệnh viện Điện Biên Phủ chuyên khoa mắt (Bệnh viện Saint Paul cũ, nơi có Dòng Tu Nữ của các Dì Phước Công giáo). Cán bộ vào phòng an ninh tại cổng, hỏi thăm nhân viên kiểm soát. Họ cho biết là phải tới Khu Nhận bệnh tại vùng Bàn Cờ, khám nghiệm làm các thủ tục chẩn bệnh nhập viện trước rồi mới tới đây. Thế là xe lại phải chạy vòng theo các đường một chiều, chen lấn nhau với các loại xe 2 bánh, để đến Khu Nhận Bệnh tại vùng Bàn Cờ. Đến nơi thấy trụ sở đóng cửa, đọc bảng thông cáo treo trên cửa, ghi giờ làm việc bắt đầu từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều hàng ngày, Chủ nhật nghỉ.
Không biết các Cán bộ bàn gì với nhau Tôi không nghe được, chỉ thấy Cán bộ yêu cầu Tôi chỉ đường cho xe chạy quay trở lại Bệnh viện Điện Biên Phủ. Đến nơi, xe đậu bên đường phía ngoài hàng rào mặt tiền Bệnh viện. Cán bộ Y tế xuống xe, gọi Tôi xuống và dẫn ra đứng cách xe chừng vài mét trên lề đường, nói nhỏ : “-Đêm nay chưa vào Bệnh viện được. Chúng tôi đành phải đưa anh vào gửi trong Khám Chí Hoà ngủ tạm qua đêm, sáng mai sẽ trở lại đón anh ra đi làm thủ tục nhập viện. Anh bảo Vợ Con anh xuống tại đây, thuê xe mà về nhà.”
Tôi quay lại xe gọi Vợ Con xuống, nói cho biết những gì Cán bộ vừa nói với Tôi. Vợ của tôi đưa ý kiến mời họ về ở trong nhà chúng tôi qua đêm, thay vì đưa Tôi vào gửi trong Khám Chí Hoà rồi họ cũng phải đi tìm chỗ ngủ đêm trong Thành phố, nơi mà họ không thông thạo đường lối. Tôi đồng ý và chúng tôi đến gặp Cán bộ. Tôi trình bầy : “-Nhà chúng tôi cũng ở gần đây thôi, ngay mặt tiền đường lớn, phố đông đúc hàng quán đủ loại. Nhà đúc 3 tầng lầu rất rộng, có tới 5 phòng ngủ, mỗi phòng ngủ đều có phòng tắm và vệ sinh riêng rẽ rất khang trang. Xe hơi có thể chạy vào đậu ngay trong nhà ban đêm, rất an toàn không sợ ai phá phách. Xin mời các Cán bộ cùng đến nghỉ qua đêm tại nhà chúng tôi. Qúy Vị muốn đi chơi thăm sinh hoạt ban đêm của Thành phố, hoặc muốn mua gì, 2 người Con trai của Tôi sẽ dùng xe máy dầu dẫn đi, mua sắm thoải mái.” Cán bộ có vẻ suy nghĩ lưỡng lự. Vợ của Tôi nói thêm : “-Ông nhà tôi đang bệnh yếu đuối quá, mấy ngày nay không ăn uống được gì. Xin Cán bộ thương cho về ở nhà đêm nay, cho chúng tôi lo chăm sóc lúc đêm hôm, ơn ấy không bao giờ chúng tôi quên.” Cán bộ Y tế đến bên xe bàn với 2 Cán bộ kia xong, quay lại gọi chúng tôi lên xe. Cán bộ lái xe yêu cầu Tôi chỉ đường đi về nhà. Cán bộ Y tế dặn : “-Trong khi ở nhà không được thông báo cho bạn bè người thân đến thăm, làm ồn ào đến tai Chính quyền địa phương thêm phiền phức.” Chúng tôi hứa giữ đúng lời Cán bộ dặn.
Gần 13 năm rồi, đêm nay Tôi mới lại có dịp nhìn thấy đường phố Saigon lúc ban đêm. Khu chung quanh Bệnh viện, gồm phần lớn loại nhà kiểu Villa có sân cây cối um tùm phía trước, nên ít thấy ánh sáng đèn trong các nhà, chỉ có những cột đèn đường toả ánh vàng vàng rọi sáng mặt lộ và 2 bên lề đi bộ. Nhưng bắt đầu từ ngã tư Yên Đổ-Trương Minh Giảng về đến nhà Tôi, ánh sáng bàng bạc của đèn Nê-ông, từ các nhà phố vừa trệt vừa 2, 3 tầng, xây xen kẽ nhau san sát 2 bên đường, toả ra cũng đủ soi rõ mặt lộ và lề đi cho khách bộ hành. Theo lời Vợ tôi giải thích : “-Nhờ “Chính sách cởi mở đổi mới” từ một năm nay, bây giờ phố phường mới bắt đầu có các hàng quán ăn dọc 2 bên đường, đèn đuốc sáng trưng như vậy. Hồi 1986 trở về trước, tư nhân chưa được phép kinh doanh, tối đến nhà phố 2 bên đường đóng cửa, đường phố vắng teo dưới ánh sáng vàng vọt của những trụ đèn công cộng.” Qua Nhà Thờ Ba Chuông, cái tên quen thuộc mà dân chúng Saigon thường gọi để chỉ Nhà Thờ Saint Thomas, ở góc ngã tư 2 đường Huỳnh Quang Tiên và Trương Minh Ký, là tới nhà Tôi. Nay con đường Trương Minh Ký đổi tên là đường Lê văn Sĩ.
Xe đậu ngay trước cửa nhà, Con gái tôi xuống xe bấm chuông. Con trai lớn ở trong nhà ra mở cửa, thấy chiếc xe hơi du lịch đậu trước cửa, hắn trợn tròn đôi mắt nhìn vẻ ngạc nhiên. Không chỉ riêng Con trai tôi ngạc nhiên, cả hàng xóm 2 bên đường cũng ngạc nhiên, gọi nhau ra đứng quan sát tìm hiểu sự lạ gì đang xẩy ra. Từ mười mấy năm nay, quanh khu phố này chỉ có nhà Cán bộ, ở cách nhà Tôi 5 căn phố, mới thường có xe du lịch ghé đến thăm. Tại sao hôm nay, nhà một Sĩ quan Chế độ cũ bị đi cải tạo từ sau 30-4-1975 đến giờ chưa được tha, lại có xe hơi du lịch loại sang như vậy chở Vợ Con và Tôi từ đâu về nhà vào lúc này?
Chúng tôi xuống xe, mời các Cán bộ vào nhà, và bảo các con dẹp chiếc máy may và chiếc bàn ăn dài dùng làm bàn đo cắt vải, là ủi quần áo cho thợ may vào phía trong, để lấy chỗ cho xe hơi vào đậu. Các Cán bộ được mời lên lầu đi một vòng thăm các phòng ngủ, và chỉ cho biết đêm nay Tôi sẽ nằm tại phòng nào. Các Cán bộ sẽ ngủ chung trong phòng của người Con trai lớn, đối diện ngay trước phòng của Tôi.
Trở xuống dưới nhà, chúng tôi mời các Cán bộ sang quán ăn bên kia ngã tư đường, đối diện ngay trước Nhà Thờ Ba Chuông dùng bữa tối, vì nhà không có tủ lạnh, không tích trữ sẵn thực phẩm tươi để nấu nướng. Quán ăn do thân nhân một gia đình Cách mạng đi tập kết về làm chủ, mới mở được chừng nửa năm nay, có rất nhiều món ăn nhậu nổi tiếng của miền Nam như lươn um, ếch chiên bơ, rắn hổ xào..., có cả bia và rượu Ngoại. Lúc đó đã 7 giờ tối không còn khách, quán ăn chỉ mở cửa đến 6 giờ. Nhưng vì Con trai tôi hàng ngày chở bia và nước ngọt đến bỏ mối nên quen thân, có thể yêu cầu chủ tiệm tiếp khách đặc biệt ngoại lệ như tiếp người trong nhà được. Nhờ thế các Cán bộ cũng yên tâm, bằng lòng đi ăn tiệm với chúng tôi.
Ăn xong về nhà, Con trai tôi âm thầm đưa riêng cho mỗi Cán bộ một phong bì nhỏ, và hỏi có ai muốn đi chơi thăm phố phường ban đêm, cậu ấy dùng xe Honda chở đi. Không ai muốn đi. Cán bộ Cảnh vệ có trách nhiệm đi theo canh giữ Tôi ở lại nhà qua đêm. Còn Cán bộ Y tế và Cán bộ tài xế dắt nhau đi bộ ra phố chơi, đến sáng hôm sau mới trở lại.
Tám giờ sáng, mọi người ăn điểm tâm xong, mở cửa nhà cho xe chạy ra đậu tại lề phía bên kia đường. Cán bộ Y tế, Cán bộ Cảnh vệ vàø Tôi cùng thong thả băng qua đường lên xe, trước sự nhòm ngó hiếu kỳ của bà con xóm giềng và dân chúng qua lại 2 bên lề đường. Con trai tôi phải nghỉ một buổi, nhờ em trai kế nó đi giao hàng nước uống cho các tiệm ăn. Đi theo chúng tôi, cậu ấy phải thủ sẵn trong túi một mớ tiền, để trang trải các chi phí mỗi khi cần, và biết rõ nơi Tôi được nằm điều trị.
Những con đường chúng tôi phải đi qua toàn là đường một chiều, đầy nghẹt xe đạp, xe gắn máy, xe máy dầu, xích lô đạp, giành nhau chạy lạng qua lạng lại đầy cả mặt lộ, nên hơn 9 giờ mới tới được khu Bàn Cờ. Tới nơi, xe hơi phải đậu ngoài đường lớn. Ngõ vào Cơ sở khu Chẩn bệnh, cách đường lớn chừng 50 mét, đầy nghẹt những dẫy xe 2 bánh và xích lô đợi đưa đón người khám bệnh, đi ra đi vào tấp nập như chợ Tết. Văn phòng “đăng ký” khám nghiệm nằm trên lầu một. Chúng tôi nối đuôi theo mọi người đi lên lầu, lấy số đợi, vào ghế ngồi chờ đến lượt mình. Có 2 Bác sĩ, một Nam một Nữ, làm việc liên tục không ngơi nghỉ, khám, ghi bệnh lý vào hồ sơ, và quyết định bệnh nhân phải làm những thủ tục gì tiếp theo. Có những bệnh nhân hàng ngày phải đến điều trị gọi là bệnh ngoại trú. Có những bệnh nhân sau khi khám, được chấp nhận cho vào nằm trong Bệnh viện điều trị.
Trong lúc ngồi chờ đợi, Tôi có dịp quan sát cách cư xử của 2 Bác sĩ với bệnh nhân. Ông Bác sĩ nói giọng Bắc chính cống, chắc là mới vào Nam sau 30-4-1975, khó tính, hạch hỏi bệnh nhân như Công an điều tra lấy cung người phạm tội. Còn bà Bác sĩ tính tình hiền dịu, nói năng nhẹ nhàng, giọng Bắc pha Nam, có lẽ sinh trưởng trong miền Nam sau 1954. Các Cán bộ áp giải Tôi, đi ra đi vào hoài nghe chừng sốt ruột lắm, nhưng cũng thúc thủ chẳng can thiệp được quyền ưu tiên, mặc dù giấy chuyển bệnh của Trại giam Cơ quan Đại diện Nhà Nước ghi lý do “cấp cứu”.
Đợi một giờ 30 phút mới đến lượt Tôi, may mắn làm sao gặp đúng lượt bà Bác sĩ khám. Bà ấy hỏi : “-Bác đau mắt nào?” Tôi chỉ lên mắt trái. Bà ấy hỏi : “-Bác không nhìn thấy từ bao giờ?” Tôi trả lời : “-Thưa Bác sĩ một năm rưỡi nay rồi.” Bà ấy dơ ống soi lên chiếu vào mắt Tôi, ghé sát mắt vào nhìn qua nhìn lại xong, bỏ ống rọi xuống, nhìn Tôi nói : “-Sao Bác để lâu thế bây giờ mới đi chữa?” Tôi chậm rãi trả lời : “-Thưa Bác sĩ, Tôi là Sĩ quan Chế độ Saigon cũ phải đi cải tạo. Lúc mắt trái không nhìn thấy, Tôi có tới Phòng Y tế của Trại giam khám để trình xin đi chữa, nhưng Trại trưởng không cho. Tôi đành phải chịu. Một năm rưỡi nay không sao. Nhưng trong suốt tuần lễ vừa qua, Tôi bị đau nhức mắt nhức đầu ăn uống ngủ không được. Đến tối hôm kia, Tôi ăn chút cháo cũng bị làm nôn mửa cả ra máu, nên sáng hôm qua Trại mới cho di tản đi cấp cứu.” Bà ấy ghi những gì vào hồ sơ không biết, rồi đưa cho Tôi, nói : “-Bác qua bàn giấy phía bên kia, đưa cho ông đang ngồi đó làm thủ tục nhập viện ngay.”
Tôi cám ơn và cầm hồ sơ đem sang trình, có lẽ là ông Y Tá trưởng. Ông ấy ghim thêm trên hồ sơ mấy mảnh giấy, bảo Tôi đi qua các phòng khám nghiệm phía trong, khi nào xong đem kết quả trở ra trình ông ấy. Tôi vào lần lượt qua các khu : cân mức nặng của cơ thể, đo chiều cao, đo áp huyết và nghe động mạch, đo nhãn áp, lấy máu và nước tiểu để thử nghiệm. Tại chỗ lấy máu, người ta hỏi : “-Từ sáng đến giờ đã ăn gì chưa?” Tôi trả lời : “-Không ăn nhưng có uống sữa.” Người ta nói : “-Vậy thì để sáng mai, lấy máu ngay trong bệnh viện cũng được.” Tôi đem kết quả ra trình ông Y Tá trưởng. Ông Y Tá trưởng xem rồi nói : “-Anh đi về, mai nhịn ăn sáng trở lại lấy máu thử, mấy ngày sau có kết quả rồi mới cho nhập viện được.” Tôi giải thích hoàn cảnh của mình và năn nỉ mãi, nhưng ông ấy không chịu và bỏ đi chỗ khác. Không biết làm sao, Tôi quay qua nhìn về phía bàn của bà Bác sĩ, thấy bà ta không có khách, liền đến xin gặp. Bà ấy mời ngồi và hỏi : “-Bác còn cần gì nữa?” Tôi kể lại những gì đã xẩy ra giữa Tôi và ông Y Tá trưởng, rồi nói thêm : “-Thưa Bác sĩ, nhờ bà giúp đỡ cho. Tôi đang là Tù bị giam tận Trại Z30D, vùng quận Hàm Tân tỉnh Thuận Hải. Nếu hôm nay, ở đây không chấp nhận cho Tôi được nhập viện điều trị. Cán bộ Công An đưa Tôi đến đây, sẽ áp giải Tôi trở lại Trại giam, chẳng biết bao giờ người ta mới lại cho đi nữa.” Nói đến đây tự nhiên Tôi cảm thấy nghèn nghẹn nơi cổ họng, phải ngưng lại không nói nữa, để kềm giữ cho khỏi bật tiếng khóc. Chắc bà Bác sĩ cảm thông hoàn cảnh đau khổ của Tôi, Bà ấy đứng ngay lên, bước nhanh đến bàn giấy ông Y Tá trưởng để hỏi. Ông ta vẫn một mực khăng khăng, không bằng lòng ký hồ sơ của Tôi. Bà Bác sĩ nói lớn tiếng như khiển trách : “-Vào trong bệnh viện lấy máu thử cũng được. Mấy bữa trước đã có trường hợp bệnh nhân bị cườm già quá, đổ vào phía trong làm hư võng mạc không cứu được, cũng vì việc trì hoãn như vậy, không nhớ sao mà còn tiếp tục?” Rồi bà Bác sĩ cầm lấy hồ sơ, ký tên, dẫn Tôi qua bàn giấy của Dì Phước ngồi gần bên, đưa hồ sơ và nói : “-Nhờ Ma Sơ (Ma Soeur) làm thủ tục thu tiền và hoàn tất hồ sơ chẩn bệnh, cho ông này nhập viện ngay bây giờ.” Tôi nghiêng mình kính cẩn nói lời cám ơn bà Bác sĩ. Bà ấy trả lời không có chi, và bỏ đi trở lại bàn giấy riêng.
Cán bộ Y tế và Cảnh vệ đi theo Tôi, đứng gần đó thấy rõ mọi việc, im lặng không nói gì. Con trai Tôi nộp số tiền phải đóng cho Dì Phước, khoảng 4, 5 trăm đồng bạc Cụ Hồ gì đó Tôi không nhớ rõ, và chúng tôi đứng chờ. Bà Phước hoàn tất các giấy tờ, ký giấy biên nhận, rồi nhoẻn miệng cười phúc hậu đưa hồ sơ cho Tôi, với lời chúc may mắn. Tôi cúi người xuống chào cám ơn, rồi cùng Con và các Cán bộ xuống xe đi Bệnh viện.
Lần này có giấy giới thiệu nhập viện, nhân viên phòng an ninh Bệnh viện mở cổng, cho xe chạy vào trong sân đậu. Chúng tôi tìm đến chỗ Khu Hành Chánh, Phòng Nhận Bệnh làm thủ tục. Người ta bắt đóng 5 ngàn đồng bạc Cụ Hồ, và cấp cho mảnh giấy giới thiệu vào Khu Nhãn Khoa I, trên Lầu 1, phía bên cánh phải của Bệnh viện. Người ta giải thích cho Tôi biết : “-Số tiền 5 ngàn chỉ là dự tính về phí tổn công Bác sĩ khám bệnh hàng ngày, phẫu thuật, thử nghiệm, thuốc men, và chỗ nằm tại Bệnh viện trong 7 ngày. Khi nào xuất viện, sẽ tổng kết mọi chi phí quy định cho mỗi dịch vụ đã thực hiện, nếu thừa sẽ trả lại, thiếu phải đóng thêm. Còn ăn uống bệnh nhân phải tự túc, hoặc do gia đình đem đến hàng ngày, hoặc xuống Câu Lạc Bộ trong Bệnh viện mua dùng tùy theo nhu cầu.” Tôi tự hỏi, trường hợp những Tù được di tản cấp cứu, không được may mắn có gia đình đi theo như Tôi, không có tiền, chẳng biết Cán bộ đi áp tải giải quyết ra sao? Làm cách nào cho Tù nhập viện, hay áp tải Tù quay trở về Trại giam?
Cha Con Tôi cằm giấy đi trước, 2 Cán bộ lẽo đẽo theo sau. Lên đến Khu Nhãn Khoa I, vào trình giấy cho nhân viên Y tá. Cô ấy chạy đi tìm Bác sĩ đến giải quyết. Hai Bác sĩ Nam và 1 Bác sĩ Nữ xem hồ sơ, thay phiên khám mắt của Tôi, rồi hỏi : “-Ai chỉ Bác lên đây?” Tôi trả lời : “-Phòng Nhận Bệnh dưới khu Hành chánh.” Họ tụm lại bên bàn Bác sĩ trưởng Khu, bàn luận nhỏ với nhau, rồi quay ra nói : “-Trường hợp của Bác phải lên Khu Nhãn Khoa II.” Tôi quay trở xuống Phòng Nhận Bệnh, kể lại những điều Bác sĩ tại Khu Nhãn Khoa I đã nói với Tôi, và nhờ giải quyết. Một nhân viên cằm giấy chạy vào văn phòng Bác sĩ Giám đốc Bệnh viện, một lúc sau trở ra dẫn Tôi đi lên Khu Nhãn Khoa II, trên lầu 2, phía bên cánh trái của Bệnh viện. Cô nhân viên dẫn Tôi lên, đem hồ sơ vào đưa cho Y tá trong Văn phòng, và quay ra bảo Tôi ngồi đợi, rồi cô ấy đi xuống cầu thang mất hút.
Ngồi đợi, thấy nhân viên mặc áo choàng trắng và bệnh nhân, đi ra đi vào Văn phòng hoài, cả tiếng đồng hồ không thấy ai hỏi đến mình. Tôi đến gõ cửa vào hỏi. Cô Y tá ngồi bàn giấy cho biết phải chờ, Bác sĩ còn đang bận. Các Cán bộ áp giải Tôi, thấy phải đợi lâu cũng bực mình lắm, nhưng không làm gì được. Họ đành dắt nhau đi vòng vòng “tham quan” các Khu trong Bệnh viện. Thỉnh thoảng họ quay trở lại thăm chừng xem xong chưa, chớ không đứng tại chỗ bên Tôi. Mấy phút sau khi Tôi vào hỏi cô Y tá, một Dì Phước dáng người nhỏ nhắn thấp, vẻ mặt trắng trẻo phúc hậu cỡ ngoài 30 tuổi, ở trong Văn phòng đi ra. Dì Phước thấy Tôi ngồi với người con trai, đến gần lên tiếng hỏi chuyện : “-Nhà Bác ở đâu? Bác đau lâu mau rồi? Có ai đưa Bác đến đây không?” Không có các Cán bộ đứng cạnh, Tôi mạnh dạn thong thả kể lại cho Dì Phước biết rõ về hoàn cảnh của mình. Bà đưa 2 bàn tay hiền dịu nắm tay Tôi vỗ vỗ và nói : “-Tội nghiệp! Bác chờ đây, Tôi đi tìm trình Bác sĩ lo cho Bác.”
Chừng mươi phút sau, có 2 Bác sĩ (1 nam, 1 nữ) theo Dì Phước trở về Văn phòng, kêu Tôi vào “làm việc”. Họ xem hồ sơ, khám mắt, rồi hỏi thêm nhiều chi tiết về các bệnh tật mãn tính mà Tôi có, từ năm nào? đã được điều trị như thế nào? Có cơ phận nào trong cơ thể phải giải phẫu bao giờ chưa? có bị dị ứng với loại thuốc nào không?... Sau cùng, dặn Tôi : “-Sáng sớm mai phải nhịn đừng ăn uống gì, để xuống Phòng Thí nghiệm lấy máu thử, sau đó mới được ăn. Thứ Năm sẽ mổ.”
Xong thủ tục, vừa ra khỏi văn phòng Bác sĩ, đúng lúc các Cán bộ trở lại. Tôi được dẫn đến phòng số 4. Cả 4 giường xếp dọc 2 bên tường, đều đã có bệnh nhân nằm. Chỉ còn một khoảng trống chính giữa phòng, kê một bàn vuông và 4 chiếc ghế. Dì Phước và cô Y tá dẫn Tôi đến, nói : “-Sẽ để một chiếc ghế bố thấp, cho Bác nằm đỡ giữa phòng qua đêm nay. Sáng mai, người nằm giường bên cạnh cửa kia xuất viện, Bác sẽ nằm lên chỗ đó.” Thấy Tôi được nhập viện có chỗ nằm xong xuôi, Cán bộ Y tế nói : “-Ông X. ở đây với anh. Khi nào xuất viện, ông ấy sẽ lo xe đưa anh về.” Nói xong Cán bộ Y tế ra đi, chỉ còn lại Cha Con Tôi và Cán bộ X. ở lại trong phòng, với 4 bệnh nhân cũ và thân nhân của họ.
Lúc đó cũng gần 1 giờ trưa. Tôi bảo Con đưa Cán bộ X. xuống Câu Lạc Bộ dùng bữa trưa. Ông ấy bảo Tôi cùng đi một lượt. Hiểu ý, nên dù mệt Tôi vẫn phải cố gắng, lết xuống cầu thang 2 tầng lầu, ra Câu Lạc Bộ ở góc sân sau của Bệnh viện. Đây là một dẫy nhà bếp cũø khá rộng. Một nửa có các dàn bếp nấu bằng ga, bằng điện, hiện không dùng. Nửa kia, có lẽ trước là kho chứa thực phẩm, nay được sửa sang lại thành Câu Lạc Bộ, trang trí đẹp mắt, bầy nhiều bàn ghế đủ chỗ cho 50 người ăn cùng một lúc. Thực khách phải đứng xếp hàng, tại quầy ghi nhận đơn đặt món ăn, trả tiền, lấy phiếu và đứng chờ. Nhà bếp sửa soạn món ăn theo thứ tự đặt hàng. Khi xong họ báo lớn tiếng, món ăn đặt mua. Nếu phải của mình, tới đưa phiếu đã trả tiền, nhận món ăn, tự mang ra phòng ăn kiếm chỗ ngồi. Câu Lạc Bộ mở cửa từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối. Bán đủ thứ : cơm đĩa, cơm bữa, phở, mì, hủ tiếu, bánh mì, các loại kẹo bánh ngọt, nước uống đóng chai, trái cây tươi, thuốc lá, giá cả cũng tương tự như ngoài phố.
Ngoài hàng rào trước Bệnh viện, phía bên kia đường cũng có các quán lợp mái tôn, xe đẩy, gánh hàng rong, bán đủ thứ đồ ăn và nước uống suốt ngày đêm. Ai không muốn ăn trong Câu Lạc Bộ, người nhà ở nuôi bệnh có thể ra mua đem vào phòng dùng, y như trường hợp đem từ nhà vào vậy.
Chúng tôi ăn xong trở lên phòng bệnh, đã thấy chiếc bàn giữa phòng được chuyển để nằm sát một bên tường giữa 2 đầu giường, 4 ghế để cạnh mỗi giường một chiếc. Một chiếc ghế vải bố dài 2 mét, rộng 60 phân, mền, gối, và bộ quần áo đồng phục bệnh nhân dành cho Tôi, được đặt nằm chình ình giữa phòng, ngay dưới chiếc quạt máy và bóng đèn treo lơ lửng trên trần nhà. Tôi nói nhỏ với Cán bộ : “-Ở đây không có chỗ, cho Cán bộ ở bên Tôi ngày đêm. Cán bộ đã thấy nơi cư ngụ của Vợ Con gia đình Tôi, không lý do gì Tôi lại dại dột mà trốn. Tôi đề nghị Cán bộ cứ yên tâm, đến nhà chúng tôi mà ở. Trong suốt thời gian Tôi nằm điều trị tại đây, việc ăn uống của Cán bộ hàng ngày, cũng như Cán bộ cần tiêu pha mua bán gì, gia đình Tôi sẽ lo lắng đầy đủ. Xin Cán bộ cứ tự nhiên đừng thắc mắc gì.” Ông ấy suy nghĩ một lúc rồi nói : “-Được rồi, anh cứ yên tâm nằm chữa bệnh.” Rồi ông ấy cùng Con trai Tôi rời bệnh viện.
Hai người đi rồi, Tôi vào phòng vệ sinh thay quần áo bệnh nhân, trở ra nằm dài trên ghế bố. Phủ chiếc áo sơ mi che mắt cho không bị chói, Tôi cố dỗ giấc ngủ, giữa tiếng trò chuyện ồn ào của bệnh nhân và thân nhân của họ ở cùng phòng. Đang lơ mơ chưa ngủ được, Dì Phước tới phòng lên tiếng : “-Ông Hùng, Thuận Hải, đã báo cho gia đình biết được nằm tại đây chưa?” Tôi ngồi nhỏm dậy nói : “-Thưa Sơ, sáng nay Con trai Tôi đi theo đã về nhà báo rồi, cám ơn Sơ.” Dì Phước đưa cho Tôi một tấm phiếu, và dặn sáng sớm mai xuống Phòng Thí Nghiệm để người ta lấy máu thử, rồi trở lên hãy ăn sáng. Tôi đưa tay nhận tấm giấy và nói : “-Cám ơn Sơ nhiều lắm. Xin Chúa gìn giữ và ban nhiều ơn phước cho Sơ.”
Vừa đúng lúc Dì Phước quay ra, 2 cậu Con trai đem thức ăn bữa chiều đến cho Tôi. Chúng cúi đầu chào Dì Phước. Tôi giới thiệu đôi bên với nhau. Dì Phước nói : “-Các Con biết lo lắng cho Cha như vậy là tốt lắm. Chúa sẽ đền ơn trọng bội cho các Con.” Các Con tôi chắp tay cúi mình cám ơn Dì Phước, và nói : “-Bố chúng con nằm đây có gặp khó khăn gì, xin Sơ thương tình giúp đỡ.” Dì Phước gật đầu. Một trong 2 người hỏi tiếp : “-Thưa Sơ, Bác sĩ Trưởng Khu này tên gì vậy?” Dì Phước trả lời : “-Bác sĩ Nam, một Bác sĩ Quân Y cũ.” Nói xong Dì Phước rời khỏi phòng bệnh ngay.
Cậu con nhỏ của tôi nói cho biết : “-Bác sĩ Nam có phòng mạch riêng tại Quân Phú Nhuận, là người quen thân của bà Cán bộ Tập kết trở về, đang làm Bí Thư Đảng Bộ Quận Phú Nhuận. Thân nhân của bà ấy là Chủ nhiệm Tổ hợp sản xuất mành trúc. Hiện cậu ấy đang làm công nhân trong Tổ hợp, được ông Chủ nhiệm rất thương mến. Để cậu ấy đi gặp nhờ gửi gấm giúp đỡ.” Rồi cậu ấy bỏ ra về liền cho kịp. Đến tối, cậu ấy trở lại ngủ trong Bệnh viện bên Tôi, và cho biết : “-Mọi việc đã xong. Sáng mai Bác sĩ Nam sẽ khám mắt cho Tôi, và ông ta sẽ đích thân làm phẫu thuật. Sau khi mổ, ông ấy sẽ cho nằm điều trị đủ 21 ngày, cắt chỉ rồi mới phải xuất Viện. Nhưng phải giữ kín đừng nói cho ai biết. Các bệnh nhân khác, thường là 7 ngày sau khi mổ phải xuất Viện. Rồi mỗi tuần mỗi trở lại khám một lần, cho đến khi đủ 21 ngày thì cắt chỉ.”
Trong Khu Nhãn Khoa II có 3 Bác sĩ. Hàng ngày họ thay phiên nhau khám, và cấp thuốc điều trị cho các bệnh nhân nội trú của Khu. Sáng hôm nay Tôi mới được gặp có 2 người. Bác sĩ Nam Trưởng Khu có ca mổ, nên Tôi chưa được gặp.
Sáng hôm sau Bác sĩ Nam khám mắt cho Tôi. Ông cấp phiếu giới thiệu sang Khu Tim Mạch khám bổ túc, vì Tim của Tôi đập loạn nhịp cần xác định trước khi quyết định mổ mắt. Tôi cầm giấy đi sang Khu Tim Mạch, ở bên cánh phải cùng một tầng lầu với Khu Nhãn Khoa II. Bác sĩ trưởng Khu Tim Mạch và mấy Bác sĩ phụ tá, thay phiên nhau đặt ống nghe, khám đi khám lại rất kỹ. Sau khi bàn luận với nhau, Bác sĩ trưởng Khu cấp giấy giới thiệu cho Tôi ra Trung tâm chuyên khoa, đo tim mạch bằng máy điện tử, gần bệnh viện Bình Dân tại Khu Bàn Cờ, làm ECG tức là Điện Tâm Đồ. Ngay sau bữa cơm trưa, cậu con trai chở Tôi đi bằng xe Honda đến Trung tâm đo tim mạch, đứng xếp hàng làm thủ tục đóng tiền, và chờ đến lượt vào phòng máy cho chuyên viên đo. Dân chúng bị bệnh tim mạch đến chờ đông nghẹt, chen nhau như đi lãnh đồ phát chẩn những năm đói, tại các Tỉnh miền Bắc Việt Nam, dưới thời Pháp-Nhật chiến tranh đầu thập niên 1940 mà Tôi đã thấy.
Sau khi đo xong, phải đứng ngoài sân dưới trời nắng gay gắt, đợi hai tiếng đồng mới có kết quả. Tôi đem về nộp cho Bác sĩ Khu Tim Mạch trong Bệnh viện. Sau khi xem kết quả “điện tâm đồ”, Bác sĩ kết luận Tôi bị “Suy mạch vành, ngoại tâm thu thất”. Chu kỳ đập của tim lỗi nhịp, chỉ cần điều trị hàng ngày bằng thuốc điều hoà nhịp tim, và ca mổ có thể tiến hành không trở ngại. Ông Bác sĩ trưởng Khu cấp cho Tôi toa mua thuốc Rythmodan uống. Đây là loại thuốc ngoại, giá hơi đắt, trong Bệnh viện không có, phải xuống Phòng bán thuốc riêng, ngay bên cạnh cổng Bệnh viện để mua.
Tôi nhập viện ngày Thứ Hai, đến chiều ngày Thứ Tư, trong giờ thân nhân và bạn bè cũ đến thăm đang ngồi nói chuyện, Dì Phước xuất hiện trước cửa phòng bệnh, nói : “-Ông Hùng có quen gì với Bác sĩ Trưởng Khu không? Tại sao đã sắp xếp Bác sĩ Y. mổ, mà ông lại yêu cầu Bác sĩ Trưởng Khu đích thân mổ mắt cho ông vậy?” Tôi thủng thẳng trả lời : “-Thưa Sơ, Tôi không quen biết Bác sĩ nào trong Bệnh viện này cả. Nhưng chắc Con trai Tôi làm Y sĩ tại Phường trong Quận Phú Nhuận, có thể quen biết Bác sĩ Nam. Bạn bè Y sĩ với nhau có thể họ nói chuyện nhờ vả gì nhau hay không, Tôi thật tình không biết.” Dì Phước nói tiếp : “-Ngày mai có phái đoàn Bác sĩ chuyên khoa về mắt, từ bên Pháp tới “tham quan” Bệnh viện. Tất cả mọi ca mổ dự trù, đều đình không thực hiện. Nhưng riêng phần ông, kể từ 12 giờ đêm nay không được ăn uống gì nữa. Nhịn đến 1 giờ trưa mai, Bác sĩ Trưởng Khu sẽ mổ mắt cho ông.” Tôi trả lời Dạ! Dì Phước nói tiếp : “-Chúc ông may mắn.” và rời phòng bệnh.
Thực ra, Tôi chẳng có người con nào làm Y sĩ tại Phú Nhuận cả. Cậu trai lớn hồi trước 30-4-1975 đang học Đại học Y khoa Minh Đức năm thứ 3, vào khoảng tháng 8 năm 1975 đang đi học, khi không bị bắt nhốt trong “sà lim” Khám Chí Hoà cả 2 năm, vì nghi vấn có theo Phục Quốc chống Chính quyền Cách mạng. Ốm tong ốm teo gần chết mới được tha về, còn phải tình nguyện đi làm không công tại Phòng Y tế Phường mấy năm liền, mới được cho nhập Hộ khẩu. Bây giờ, cậu ấy đang phải chạy xe chở bia và nước ngọt, đi bỏ mối cho các quán ăn trong thành phố hàng ngày để kiếm sống.
Những bệnh nhân cũ nằm cùng phòng, ai cũng có thân nhân phải đi cải tạo, nên họ rất thương mến Tôi. Nghe tin Bác sĩ trưởng Khu đích thân mổ cho Tôi, ai cũng mừng rỡ chia vui. Họ cho biết có nhiều người phải ra vào Bệnh viện 2, 3 lần mới được mổ. Tôi được đặc biệt “chiếu cố” mổ ngay vào ngày có phái đoàn “tham quan”, tất cả các ca mổ đều bị đình hoãn là hên lắm.
Đúng 12 giờ trưa ngày hôm sau, Tôi và cậu con trai được phép ở trong Nhà thương nuôi bệnh, đến phòng “Tiền giải phẫu” làm thủ tục chuẩn bị chờ giờ lên bàn mổ. Cô Y tá thực hiện các việc : cân, đo thân nhiệt, huyết áp, nhịp tim, rồi cho Tôi uống viên thuốc, chắc là thuốc ngủ. Một lúc sau, dẫn Tôi vào phòng mổ, để nằm trên một chiếc bàn phủ khăn trắng toát, phía trên có một giàn đèn. Sau đó, cô ấy dán mấy đầu dây của máy điện tử theo dõi nhịp tim và huyết áp, lên da cổ chân, đầu ngón tay và trên ngực của Tôi. Tiếp theo, Cô ấy tìm tĩnh mạch nơi nhượng tay trái, để đâm kim truyền serum (huyết thanh) vào máu cho Tôi. Sau cùng, Cô ấy nhẹ nhàng cột 2 cổ tay và 2 cổ chân Tôi dính xuống bàn, phủ lên người Tôi một tấm drap mầu xanh da trời lợt, từ cổ xuống chân, để chờ đến giờ Bác sĩ vào làm phẫu thuật.
Đúng 1 giờ, Bác sĩ Nam cùng mấy người phụ tá vào phòng mổ. Mắt Bác sĩ liếc xem hồ sơ, miệng chỉ thị người nào làm việc nào..., rồi quay lại nhìn Tôi nói : “-Bác đã sẵn sàng chưa? Chúng ta bắt đầu mổ.” Tôi mơ mơ màng màng trả lời : “-Thưa Bác sĩ, Tôi đang chờ đợi đây.” Bác sĩ nói tiếp : “-Nhẹ nhàng lắm, không đau đớn gì đâu, Bác đừng lo.” Tiếp đó, người ta phủ lên mặt Tôi một miếng vải khác, chỉ có một lỗ hở để lộ mắt trái thôi. Mắt phải bị vải che kín, Tôi chẳng còn trông thấy gì, chỉ cảm thấy mọi sự diễn ra qua ghi nhận của thính giác và xúc giác mà thôi.
Bác sĩ nói : “-Mở cả 2 mắt ra.” Tôi làm theo, và cảm thấy có những cái đầu đang cúi chụm vào nhau, phía trên mặt. Những bàn tay, ngón tay đụng vào khu chung quanh con mắt trái của Tôi. Thế rồi, có mũi kim chích đâm vào làm đau từng chỗ, nối tiếp nhau trên khung xương vòng quanh con mắt trái. Đến lúc không thấy kim chích nữa, thì vùng mặt bên trái tê đi không cảm thấy gì nữa. Rồi có một vật gì, banh 2 mí mắt trái ra sát tận khung xương lỗ chứa con ngươi. Tôi vẫn tỉnh không ngủ, nhưng lơ mơ nằm im không nói năng gì, nghe Bác sĩ vừa mổ vừa giảng giải cho các Phụ tá những gì Bác sĩ đang làm. Tôi chẳng nhớ được gì ngoài mấy câu : thấm máu đi, đưa kẹp... Họ loay hoay cũng rất lâu, những bàn tay ngón tay đụng đụng trên mặt, trên chán, trên mũi, cũng cả tiếng đồng hồ chớ không ít. Thế rồi bỗng dưng, Tôi thấy có ánh sáng làm chói mắt trái, nhưng không nhìn thấy gì. Một lúc sau, nghe thấy Bác sĩ ra lệnh đưa chỉ. Chắc là việc mổ, kẹp lấy thủy tinh thể đục ra, và đặt thủy tinh thể nhân tạo vào thay thế đã xong. Mọi người đang lo may vết mổ trên con mắt lại, rồi nhỏ thuốc mỡ và dán băng. Miếng vải phủ trên mặt được nhấc ra. Các bàn tay gỡ các dây trói chân tay, lột các miếng băng keo dán các đầu dây máy điện tử trên người, nhấc bổng Tôi lên đặt sang chiếc bàn khác và đẩy đi. Thế là ca mổ đã xong xuôi tốt đẹp. Chẳng biết khi lành có nhìn thấy bình thường như cũ không. Phải chờ ít nhất là một tuần lễ mới rõ kết quả.
Hai bữa liền không thấy Cán bộ đi canh gác Tôi ghé Bệnh viện, ông ta cũng không ở tại nhà chúng tôi, chẳng biết đi đâu. Bỗng dưng đúng vào lúc người ta đang đẩy xe đưa Tôi từ trong phòng mổ ra, thì ông ấy xuất hiện. Hai mắt của Tôi bị bịt băng kín mít không thấy gì, chỉ nghe cậu Con trai đi theo nói nhỏ : “-Anh Công An đi theo canh Bố đã đến kia.” Tôi nằm im không nói gì như mình đang ngủ.
Về đến phòng, người ta bê Tôi sang giường, chích một mũi thuốc vào bên cạnh đùi, và nghe lơ mơ có lời dặn : “-Không được kê thêm gối dưới đầu, không được làm đầu quay lắc rung chuyển mạnh, không được nằm nghiêng, không được ngồi dậy, cho đến khi nào Bác sĩ cho phép mới được. Nếu cần tiểu hay đại tiện thì lấy bô giúp cho giải quyết tại chỗ nằm.” Con trai tôi trả lời : “-Dạ! Dạ!” Tiếng bánh xe và tiếng chân người xa dần. Mũi thuốc an thần vừa mới chích, bắt đầu thấm đưa Tôi chìm vào giấc ngủ nhẹ nhàng êm đềm.
Trong 2 ngày tiếp theo, Tôi cứ phải nằm ngửa trên giường, không được quay dở lắc lư đầu mạnh, nhưng may mắn thay mình và chân tay còn được phép cựa quậy. Nệm giường bọc bằng vải nhựa, lưng nóng như nung, mồ hôi ra làm ẩm ướt, nằm lâu mình mẩy nhức mỏi ngứa ngáy khó chịu vô cùng. Đến lúc này, Tôi mới cảm thông được nỗi đau khổ của các thương binh, phải băng bó cùng mình, nằm liệt trên giường cả tháng, có khi 3, 4 tháng để điều trị.
Những ngày phải nằm liệt tại chỗ, Bác sĩ và Y tá đến tận giường khám xét, theo dõi tình trạng con mắt mới mổ, nhỏ thuốc thay băng mỗi buổi sáng. Đến ngày thứ ba sau ngày mổ, được phép ngồi lên và xuống giường đi lại nhẹ nhàng trong phòng. Mỗi sáng khoảng 9 giờ, sang phòng điều trị chung, cho Bác sĩ khám bệnh, Y tá nhỏ thuốc thay băng. Cả 2 mắt vẫn còn bịt băng kín mít, mỗi lần di chuyển phải có người dắt dẫn đường.
Cái hôm được xuống giường nhờ Con dắt sang phòng điều trị khám, là ngày sung sướng nhất của đời Tôi. Ngày hôm đó, nhằm đúng phiên Bác sĩ Nam Trưởng khu khám cho bệnh nhân nội trú. Lúc Bác sĩ gỡ băng ra để khám mắt mới mổ, Tôi thấy mờ mờ loang loáng khuôn mặt Bác sĩ hiện ra. Tôi nghẹn ngào mừng rỡ reo lên : “-Tôi đã nhìn thấy rồi, cám ơn Bác sĩ, cám ơn Bác sĩ, rất nhiều.” Ông ấy cười vui vẻ nói : “-Lần lần rồi sẽ nhìn thấy như thường. Ở đây, không có loại thủy tinh thể nhân tạo có độ điều chỉnh. Sau này khi lành hẳn, khoảng 3 tháng nữa, Bác phải trở lại đây đo mắt làm kính điều chỉnh để đeo, hơi nặng nơi sống mũi.” Tôi cười nói : “-Trước kia Tôi vẫn phải đeo kính cận thị quen rồi, bây giờ đeo kính cũng không sao.” Bác sĩ nói thêm : “-Trước kia đeo kính cận chỉ có một tròng, bây giờ phải có tới 2 tròng, một để nhìn xa đi đường, và một nhìn gần để đọc sách, vì thế kính sẽ rất dầy và nặng làm mỏi sống mũi, Bác chịu được không?” Không cần suy nghĩ, Tôi trả lời ngay : “-Đành phải chịu, lâu dần rồi cũng quen, miễn được nhìn đời bằng 2 mắt vẫn hay hơn là nhìn bằng 1 mắt.”
Đêm nào 2 cậu Con trai cũng nằm trong bệnh viện với Tôi. Vào một buổi sáng, sau 6 ngày mổ mắt, 2 cậu con vừa rời Bệnh viện về nhà được một lúc. Tôi đang nằm trên giường bệnh, bỗng thân nhân người bệnh nằm chung phòng, chạy vào báo : “-Anh Công An theo canh Bác, đang ngồi trong Văn phòng nói chuyện gì với bà Bác sĩ Bí thư Đảng ủy của Khu.” Một lát sau, Cán bộ X. vào phòng hỏi : “-Anh đã khoẻ chưa? Mai xuất viện về Trại được chưa?” Tôi trả lời : “-Tôi chưa thấy Bác sĩ nói gì, nên không biết.” Ông ấy nói tiếp : “-Chuẩn bị sẵn sàng, mai có xe của Trại đón anh về Trại.” Rồi bỏ đi. Tôi chỉ trả lời gọn lỏn một tiếng : Dạ!
Đến giờ khám bệnh, Tôi sang phòng điều trị, gặp phiên bà Bác sĩ Bí thư khám bệnh. Khám song, bà Bác sĩ nói : “-Mắt ông Hùng tốt rồi, mai có thể xuất viện về nhà. Hàng tuần trở lại khám, cho đến đủ 21 ngày cắt chỉ.” Tôi hơi xửng sốt, nhưng giữ bình tĩnh thản nhiên trả lời một tiếng cụt lủn : Dạ! Trở về phòng bệnh, Tôi nhờ ngay một trong các thân nhân bệnh nằm cùng phòng, tức tốc chạy đến nhà Tôi, nhắn người Con trai nhỏ vào gặp Tôi gấp. Một giờ sau cậu Con vào tới, Tôi kể lại mọi chuyện, cậu ấy lập tức đi ngay. Đến tối cậu ấy vào Bệnh viện ở qua đêm bên Tôi, cho biết : “-Bố yên tâm, Con đã gặp đích thân Bác sĩ Nam tại phòng mạch riêng rồi. Bố sẽ nằm tại đây cho tới ngày thứ 21 cắt chỉ. Nếu tới ngày đó chưa có lệnh tha ra khỏi tù, mình sẽ tính chuyện tiếp theo.”
Mười giờ sáng hôm sau, Cán bộ X. trở lại, thấy Tôi vẫn mặc quần áo nhà thương, chỉ còn mắt trái phải băng, mắt phải được bỏ băng để nhìn đường. Ông ta nhìn Tôi ngạc nhiên hỏi : “-Sao anh chưa chuẩn bị về, lẹ đi xe đang chờ dưới sân kia.” Tôi trả lời : “-Bệnh viện đâu có làm thủ tục cho Tôi xuất viện mà chuẩn bị. Cán bộ sang Văn phòng hỏi xem sao.” Ông ta đi về phía Văn phòng. Mấy thân nhân bệnh nằm cùng buồng, đi theo rình coi việc gì sẽ xẩy ra. Một lúc khá lâu, không thấy Cán bộ trở lại phòng. Mấy người đi rình theo dõi trở về phòng, kể lại những gì họ nghe và thấy được như sau : “Anh Công an sang Văn phòng, hỏi tại sao không cấp giấy xuất viện cho anh Hùng nằm phòng số 4? Cô Y tá nói chưa có lệnh của Bác sĩ trưởng Khu. Anh ấy đòi gặp Bác sĩ trưởng Khu. Họ để ngồi chờ một lúc lâu mới đi mời Bác sĩ đến gặp. Bác sĩ hỏi : -Ông là gì của ông Hùng? Anh ta nói là Đại diện Trại cải tạo, đưa anh Hùng về mổ mắt, muốn anh Hùng phải xuất viện hôm nay, có xe của Trại đến áp giải về, đang chờ dưới sân. Bác sĩ nói : -Mắt của ông Hùng cần phải nằm tiếp tục điều trị tại đây, để chăm sóc hàng ngày cho đến khi cắt chỉ xong mới xuất viện được. Anh ta nói : -Tại sao những người khác mổ xong, 7 ngày sau Bệnh viện cho về nhà, sao anh Hùng lại phải nằm lại đây? Bác sĩ nói : -Nhà người ta có điều kiện chăm sóc cẩn thận hàng ngày, lỡ có biến chứng thì vào Bệnh viện coi lại ngay. Còn ở Trại các anh làm sao có đầy đủ phương tiện, cứu chữa không kịp hư mắt người ta ai chịu trách nhiệm? Anh về trình với Thủ trưởng của anh, là Bệnh viện mổ mắt cho Ông Hùng, có trách nhiệm lo chăm sóc cho đến khi lành hẳn, cắt chỉ xong mới cho xuất viện được. Tôi là Bác sĩ mổ mắt cho Ông Hùng, Tôi có trách nhiệm phải thể hiện đúng chức năng “Lương y như từ mẫu” của Tôi. Nói xong Bác sĩ bỏ đi đến các phòng thăm bệnh. Anh Công An tiu nghỉu bỏ xuống lầu, lên xe đi tuốt.”
“Cẩn tắc vô ưu”, Tôi liền viết ngay một tờ đơn, gửi cho “Ban” Nhu Trưởng Trại Z30D, để cám ơn và tường trình về kết quả ca mổ mắt thành công. Tôi không quên ca ngợi, khả năng kỹ thuật ưu hạng của các Bác sĩ Xã hội Chủ nghĩa. Ngoài ra Tôi còn trình thêm, nhờ việc chẩn bệnh rất khoa học của các Bác sĩ chuyên khoa, và các máy móc điện tử tân tiến, đã phát giác ra Tôi đang mắc bệnh tim mạch trầm trọng. Song song với việc điều trị mắt, Bệnh viện cũng đang điều trị bệnh tim “Suy mạch vành, ngoại tâm thu thất” cho Tôi. Cuối đơn, Tôi xin “Ban” Nhu mở lượng hải hà, cho Tôi được phép ở lại Bệnh viện, điều trị tiếp cho bệnh tim được ổn định sẽ trở về Trại. Viết xong, Tôi nhờ Vợ Con tức tốc mang quà trả ơn lên ngay Trại gặp “Ban” Nhu, đồng thời trình nộp đơn xin cho ở lại Bệnh viện tiếp tục điều trị bệnh tim. Thật không may, ngày Vợ Con tôi lên Trại, “Ban” Nhu không có mặt tại Trại, đành phải xin gặp Cán bộ Y tế nhờ nhận đơn, trình lại giùm ngay khi “Ban” trở về.
Trong những ngày kế theo, thân nhân nuôi bệnh ở cùng phòng, lúc nào cũng canh chừng. Hễ thấy bóng anh Công An đi canh Tôi, xuất hiện nơi cổng Bệnh viện, là họ chạy lên báo cho Tôi và mọi người biết trước. Để Tôi ngưng kể truyện, về những điều cam go khổ cực nhục nhằn, anh em Tù phải chịu đựng trong các trại giam.
Ba ngày sau khi Vợ con tôi lên trại nộp đơn, Cán bộ Y tế Trại Z30D ghé Bệnh viện thăm Tôi, vào khoảng 2 giờ chiều. Ông ấy đưa cho Tôi tờ đơn có bút phê, chữ ký tên của “Ban” Nhu Trại trưởng, và dấu ấn của Trại giam. Lời phê như sau : “Ông X. (ám chỉ Cán bộ Cảnh vệ đi theo canh giữ Tôi) cho nằm điều trị đến hết bệnh mới xuất viện”. Đồng thời Cán bộ Y tế cũng nói thêm : “-“Ban” Nhu dặn anh cứ yên tâm nằm điều trị, đến khi nào khỏi hẳn hãy xuất viện. Có thể trong khi anh đang nằm điều trị, lệnh tha về tới vào dịp Tết, anh sẽ về thẳng nhà, không phải trở lại Trại.” Tôi cầm tờ đơn đọc, rồi gật đầu nói lời cám ơn, và ca ngợi lòng tốt đầy “tình người” của “Ban” Nhu và Cán bộ Y tế. Ông ấy nhoẻn miệng cười vẻ hãnh diện, chìa tay ra bắt tay Tôi rồi đi ra một cách vội vã, chắc còn phải đi nhiều việc khác trước khi trở về Trại.
Thật là một chuyện lạ, từ gần mười ba năm nay, đây là lần đầu tiên Tôi được Cán bộ Cai Tù, vui vẻ bắt tay một cách lịch thiệp như vậy.
Mười ngày sau, Tôi được chuyển sang nằm trong phòng số 2, chỉ có 2 giường bệnh, gần sát ngay bên cạnh phòng điều trị của Khu. Tại đây Tôi gặp một Bác sĩ tuổi còn rất trẻ đang nằm điều trị. Ông ta cho biết là mắt phải bị cườm không nhìn thấy mới có vài tháng nay, được Nhà Nước “chiếu cố đặc biệt” cho nhập viện, để phái đoàn Bác sĩ chuyên khoa mắt từ Pháp đến “tham quan” Bệnh viện, thực hiện việc giải phẫu mắt cho ông ấy. Chẳng biết mắt bệnh tật ra sao, mổ xong bây giờ mù luôn không trông thấy gì nữa. Ông Bác sĩ giáo sư người Pháp, có kinh nghiệm mổ cả ngàn ca rồi chớ phải tay mơ đâu. Ca mổ này được thực hiện, vào cùng một ngày Bác sĩ Nam mổ mắt cho Tôi. Giật mình hú vía, Tôi tạ ơn Trời Phật đã thương, không bắt Tôi phải tật nguyền như ông bạn trẻ này. Thật là “bôn ba chẳng qua số Trời”. Mắt của Tôi bị cườm không nhìn thấy gì một năm rưỡi trời, Trưởng Trại Cải tạo Đại diện Đảng và Nhà Nước không cho đi mổ, là muốn cho Tôi phải chịu cảnh mù trột luôn. Các Cụ thường nói “ở hiền gặp lành”, nên cuộc giải phẫu mắt cho Tôi đã thành công rất mỹ mãn. Đúng là “chỉ có Trời hại mới chết, người ta hại không bao giờ chết”.
Hai mươi ba tháng Chạp, theo tục lệ cổ truyền Việt Nam, nhà nhà lo mua sắm bánh, mứt, kẹo thèo lèo, mũ mão ông Công, tiền vàng mã, rượu, hoa trái, và đặc biệt là con cá chép sống thả trong chậu nước, để chiều tối cúng tiễn Ba Vợ Chồng Táo Quân lên Trời. Các Con tôi cũng mang vào Bệnh viện một lô quà Tết, gồm : mứt, trái cây, trứng gà tươi, và mì gói ăn liền, nhờ Dì Phước biếu toàn thể Bác sĩ và nhân viên phục vụ tại Khu Nhãn Khoa II, để tỏ lòng cám ơn đã giúp đỡ chăm sóc Tôi, suốt những ngày điều trị tại Khu này.
Một ngày trước ngày dự trù cắt chỉ mắt, Tôi đưa Dì Phước xem tờ đơn có bút phê của Trại trưởng Z30D. Rồi nhờ Dì Phước dẫn Tôi qua Khu Tim Mạch, nơi đang cấp thuốc trị tim hàng ngày cho Tôi, để xin Bác sĩ Trưởng Khu chấp nhận cho làm thủ tục đóng tiền vào nằm điều trị, kể từ ngày xuất Khu Nhãn Khoa II. Tôi thành thật trình bầy hoàn cảnh của mình, đưa tờ đơn có bút phê của Trại trưởng Z30D cho Bác sĩ Trưởng Khu Tim Mạch xem. Dì Phước tiếp lời nói giúp thêm, ông Bác sĩ già rất tốt bụng, người Bắc mới vào Nam sau 30-4-1975, bằng lòng nhận. Dì Phước dẫn Tôi trở lại Khu Nhãn Khoa II, nhờ cô Y tá làm giấy cho Tôi xuống Khu Hành chánh, nộp tiền Viện phí chuyển qua Khu Tim Mạch kể từ ngày hôm sau. Mọi việc xong xuôi êm đẹp, Tôi yên tâm ngủ một đêm ngon lành, để sáng sớm hôm sau cắt chỉ mắt.
Đúng ngày thứ 21, tính từ ngày mổ mắt, vào lúc 9 giờ sáng, Bác sĩ Nam cắt chỉ mắt cho Tôi xong, nói : “-Kể từ ngày mai, Bác sang Khu Tim Mạch điều trị, hàng ngày qua đây các cô Y tá sẽ đổi băng nhỏ thuốc cho. Một tuần lễ sau không cần phải bịt băng bảo vệ mắt nữa, nhưng phải đeo kính mát cho khỏi bị chói. Sau đó mỗi tuần một lần trở vào đây theo ngày giờ hẹn trong giấy xuất Viện, để khám và theo dõi mắt. Ba tháng sau sẽ đo mắt để đi mua kính điều chỉnh là hoàn tất mọi việc.”
Ngày hôm sau lúc 9 giờ, Dì Phước dẫn Tôi qua trình diện Khu Tim Mạch. Trước khi chia tay, Bà không quên chúc lành và cầu xin Ơn Trên đoái thương cho Tôi sớm được tha về với gia đình. Thật là một nhà tu hành nhân hậu, cả gia đình chúng tôi chẳng bao giờ quên.
Trong lúc Tôi đang ngồi trước Văn phòng Khu Tim Mạch, chờ được xếp phòng nằm, Cán bộ X. từ Khu Nhãn Khoa II chạy sang. Thấy Tôi ngồi đó, ông ta ngạc nhiên hỏi : “-Anh làm gì ngồi đây?” Tôi trả lời : “-Khu Mắt chuyển qua đây, để tiếp tục điều trị bệnh Tim.” Rồi Tôi móc túi đưa cho ông ấy tờ đơn có bút phê của “Ban” Nhu, và nói : “-Mấy bữa trước, Cán bộ Y tế đem xuống và có dặn thêm là, “Ban” Nhu nhắn Tôi cứ yên tâm nằm điều trị cho khỏi hẳn mới phải về Trại. Từ hôm đó đến nay, Cán bộ không vào đây, nên Tôi vẫn giữ chưa đưa cho Cán bộ được.” Ông ta cầm tờ đơn có bút phê của “Ban” Nhu, đọc rồi chạy vào văn phòng gặp Bác sĩ, một lúc lâu trở ra đi thẳng không nói gì với Tôi.
Ông ta đi rồi, cô Y tá văn phòng Khu Tim Mạch dẫn Tôi vào nằm trong phòng Cấp Cứu Hồi Sinh. Nơi đây toàn là bệnh nhân trong tình trạng trầm trọng, phải tiếp “huyết thanh” vào máu, tiếp dưỡng khí thường xuyên qua lỗ mũi. Người nào cũng có thân nhân ngồi bên canh chừng, để kịp thời kêu Y tá cấp cứu mỗi khi cần. Trong phòng có 10 giường, đang có 7 bệnh nhân, Tôi là người thứ 8. Cửa vào phòng Cấp Cứu Hồi Sinh lúc nào cũng khép kín, treo một bảng thông cáo ghi rõ ràng : “Những người không phận sự cấm vào”.
Sáng hôm sau, khoảng 9 giờ, lúc Bác sĩ đang khám bệnh trong phòng, không biết làm thế nào mà Cán bộ X. cũng vào được tận chỗ Tôi nằm. Ông ta nói : “-Anh phải nằm trong phòng Cấp cứu Hồi sinh, tại sao Bác sĩ không cho truyền thuốc vào máu như mọi người?” Tôi nói : “-Bác sĩ có toàn quyền quyết định việc điều trị, làm sao Tôi biết.” Ông ấy nói tiếp : “-Sao anh không xin?” Tôi nói : “-Là bệnh nhân, làm sao Tôi biết mình cần được điều bằng thuốc gì mà xin.” Ông ta ra đứng bên cửa sổ nhìn xuống đường, hồi lâu quay lại đến gần Tôi, nói : “-Chắc là bệnh của anh không trầm trọng, chiều nay có xe của Trại lên công tác, để Tôi nói Bác sĩ cho anh xuất viện về Trại, nằm điều trị trong Bệnh xá cũng được.”
Tôi nổi nóng nói lớn tiếng, cốt ý cho Bác sĩ và các người đang có mặt trong phòng cùng nghe : “-Tôi bệnh, Thủ trưởng của ông cho đi Bệnh viện điều trị. Ông chỉ có bổn phận đi canh gác Tôi không trốn Tù mà thôi. Tại sao ông cứ kiếm chuyện áp lực làm khủng hoảng tinh thần Tôi hoài vậy? Tôi nhắc cho ông nhớ một điều, tờ đơn xin nằm điều trị có bút phê của “Ban” Nhu Trại trưởng mà Tôi đưa cho ông, đã được chụp in ra nhiều bản sao. Nếu ông làm cách áp lực Bệnh viện phải cho Tôi xuất viện đi về Trại. Lỡ dọc đường hoặc sau này Tôi có mệnh hệ nào, gia đình tôi sẽ làm đơn kiện lên Ông Tổng Bí Thư Đảng, lên Viện Giám sát, lên Cục Trại giam, quy mọi tội lỗi lên đầu ông ráng mà chịu. Bác sĩ điều trị đang khám bệnh, và thân nhân các bệnh nhân đang có mặt tại đây, sẽ là nhân chứng cho Tôi, ông không thể chạy tội được đâu. Ông đi đi, muốn làm gì thì làm, đừng phiền hà Tôi nữa.”
Ông ta bỏ đi ra khỏi phòng, vừa đúng lúc Bác sĩ tới bên giường khám bệnh cho Tôi. Mặc dù biết là Bác sĩ cũng đã nghe và thấy mọi việc đã xẩy ra, nhưng Tôi vẫn trình bầy lại tỷ mỉ cho ông biết rõ ràng đầy đủ hơn. Bác sĩ ôn tồn nhỏ nhẹ khuyên : “-Liệu mà thu xếp với họ cho ổn thoả thì hơn.” Khám xong, Bác sĩ rời phòng bệnh nhân được chừng mươi phút, cô Y tá đem bịch “huyết thanh” đến truyền vào máu cho Tôi.
Khoảng 2 giờ chiều Cán bộ X. trở lại, thấy Tôi đang được truyền nước biển, ông ta hỏi : “-Anh hết nóng giận chưa?” Tôi nhếch miệng cười không trả lời. Lúc đó có Con Gái Tôi đang đứng bên giường, cô ấy cất tiếng : “-Chào Cán bộ!” Ông ấy cười, nói : “-Anh Hùng có lệnh tha rồi. Tôi có đem hồ sơ giấy tha lại đây cho Anh ký nhận, không phải trở lại Trại nữa.” Lúc đó Tôi mới lên tiếng : “-Cả tuần lễ trước, “Ban” Nhu đã cho Cán bộ Y tế lên báo cho biết là Tôi sẽ được tha vào dịp Tết, và cho tiếp tục nằm điều trị đến ngày có lệnh tha. Tôi có bệnh tim mạch nên tính tình đôi lúc thất thường. Sáng nay có hơi nặng lời với ông, xin thông cảm đừng buồn nhé. Tôi còn khoảng gần nghìn đồng lưu ký tại Trại chưa dùng, để Tôi ký giấy xin nhờ ông lãnh giùm, rồi giữ lấy mà tiêu Tết cho vui vẻ.”
Trao bản lệnh tha và nhận tờ giấy ủy quyền lấy tiền của Tôi xong, ông ta vội vã ra đi, trước sự hân hoan của Cha Con Tôi và thân nhân các bệnh nhân nằm cùng phòng. Mọi người chạy lại chia vui, và chúc Tết may mắn khoẻ mạnh. Tôi nhờ Con sang Văn phòng trình Bác sĩ Trưởng Khu rõ sự việc, và xin cho Tôi xuất viện về nhà ăn Tết. Bác sĩ chấp thuận ghi hồ sơ cho xuất viện ngay không trở ngại gì.
Lúc đó là 5 giờ chiều ngày cuối năm Âm lịch Đinh Mão (con mèo). Chỉ còn 7 tiếng đồng hồ nữa là sang đầu năm Mậu Thìn (con rồng) giữa tháng 2 năm 1988. Hai Cha Con Tôi chào chia tay, và chúc mọi người qua năm mới an khang, may mắn. Trước khi xuống lầu rời Bệnh viện, Cha Con Tôi không quên ghé sang Khu Nhãn Khoa II, báo tin mừng và chào tạm biệt Dì Phước nhân hậu giầu lòng bác ái. Bà nắm tay Tôi vỗ vỗ mừng rỡ chia vui, miệng không ngớt lời tạ ơn Chúa, đã thương ban Ơn Lành cho Tôi được tai qua nạn khỏi, về đoàn tụ với Vợ Con đúng lúc năm hết Tết đến.
Cha Con tôi thuê xe xích lô đạp chở về nhà, trong lúc thành phố Saigon đang chìm dần vào cảnh tranh tối tranh sáng, của buổi hoàng hôn cuối năm. Mọi người đang tất bật tìm về nơi mái ấm gia đình, sau một ngày lao động vất vả cam go. Nhưng cũng có những người không nhà không hộ khẩu, lang thang tìm mái hiên quen thuộc bên vỉa hè, để nằm đỡ qua đêm gió sương lạnh lẽo.
Khi xe bắt đầu đến ngã tư Yên Đổ rẽ vào đầu đường Trương Minh Giảng, một mùi chua chua hắc hắc thối thối tràn lan nồng nặc. Chạy thêm trăm mét nữa mới thấy, ngay bên trái đường, giữa mấy dẫy nhà lầu và những túp nhà sàn trên bãi sình, gần đầu cầu Trương Minh Giảng, một đống rác cao 3, 4 mét, dài chừng 50 mét. Trước 30-4-1975, vào những ngày Chủ Nhật Tôi vẫn thường lái xe chở Vợ Con qua lối này, đi tới đường Lý Thái Tổ vùng ngã Bẩy Bàn Cờ ăn sáng, chưa bao giờ thấy đống rác nào như vậy giữa thành phố.

HẾT ĐẠI NẠN CẢI TẠO.

Bệnh hoạn đem Ta khỏi Trại tù,
Giã từ lang sói chốn âm u.
Cú, diều, khỉ đột tha hồ hú,
Suối, thác, mưa rừng mặc sức ru.
Thoát cảnh chim lồng đầy tử khí,
Nhập khung ốc đảo đặc quân thù.

Tai qua nạn khỏi vui đoàn tụ,
Rượu Tết đầy bình mặc sức tu.

Nhà 206A, đường Lê văn Sỹ (Trương Minh Ký) Phường 10, Quận Phú Nhuận, Saigon.
17-2-1988. Đêm trừ tịch đón Tết Mậu Thìn. 


No comments: