Thursday, November 5, 2015

NGUYỄN TƯỜNG BÁCH * VIỆT NAM MỘT THẾ KỶ QUA I

 


VIỆT NAM MỘT THẾ KỶ QUA: 
NGUYỄN TƯỜNG BÁCH




1 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

MỤC LỤC
Thay Lời Nói Đầu - Cuốn 1: 1916-1946
Mấy Lời Ngõ Cùng Bạn Đọc - Cuốn 1: 1916-1946
Lời Giới Thiệu Của Nguyễn Sĩ Tế - Cuốn 1: 1916-1946
Chương 1 - Đầu Thế Kỷ, Phố Cẩm Giàng
Chương 2 - Đất Thăng Long
Chương 3 - Gia Đình Chúng Tôi Trong Thời Kỳ Sôi Động 1927-1931
Chương 4 - Trại Cẩm Giàng - Phong Hóa
Chương 5 - Phong Hoá Bộ Mới Ra Đời -
Chương 6 - Toà Báo Phong Hóa: Anh Khái Hưng, Mấy Họa Sĩ Nguyễn Gia Trí, Trần Bình Lộc,
Lemur
Chương 7 - Gặp Tú Mỡ Thế Lữ -
Chương 8 - Thăm Chùa Cổ Bắc Ninh - Tự Lự C Văn Đoàn
Chương 9 - Trường Trung Học Albert Sarraut -
Chương 10 - Đời Sống Y Khoa - Đoạn Tuyệt.
Chương 11 - Trường Thuốc - Tình Thế Chuyển Động
Chương 12 - Ngày Tết Quê Hương - Xem Mặt.
Chương 13 - Những Ngày Êm Ấm Trước Khi Gió Bão
Chương 14 - Bước Vào Con Đường Hoạt Động Cách Mạng - Đại Việt Dân Chính - Quân Nhật
Chương 15 - Thạch Lam Qua Đời
Chương 16 - Trước Cơn Bão Táp - Giai Phẩm
Chương 17 - Bắt Đầu Nổi G1ó
Chương 18 - Thế Chiến Thứ Hai Sắp Chấm Dứt
Chương 19 - Quan Hệ Giữa Các Đảng Phái Việt Nam
Chương 20 - Những Ngày Tháng Tám 1945
Chương 21 - Những Giờ Phút Quyết Liệt
Chương 22 - Sóng Ngầm
Chương 23 - Chuyển Động Đầu Tiên
Chương 24 - Những Nhân Vật Hải Ngoại Về Nước: Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh Công Khai
Chống Việt Minh
Chương 25 - Gia Đình
Chương 26 - Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế Tổ Về Tới Hà Nội
Chương 27 - Đàm Phán Gay Go Thoả Thuận Về Một
Chương 28 - Quốc Hội Và Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến
Chương 29 - Tại Bộ Tổ Chức Việt Nam Quốc Dân Đảng - Tổ Chức Biểu Tình Đòi Chính Phủ Không
Để Pháp Đổ Bộ
Chương 30 - Đồng Sàng Dị Mộng Hiệp Nghị Trung- Pháp
Chương 31 - Đệ Tam Khu Chỉ Huy Bộ
Chương 32 - Trường Chinh 250 Lý Của Việt Quốc
Chương 33 - Từ Yên Bái - Đến Lào Cai
Giới Thiệu Tác Giả

.

2 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net



THAY LỜI NÓI ĐẦU - CUỐN 1: 1916-1946
Hơn 60 năm trước đây, tôi sinh ra tại một huyện lỵ nhỏ trên con đường xe lửa Hà Nội - Hải Dương, miền Bắc Việt nam. Lúc đó, không ai ngờ được là ngày hôm nay tôi ngồi tại một thành phố nước ngoài, xa hàng ngàn dặm, để nghiêng xuống dĩ vãng xa xăm của đời mình. Bao nhiêu hình ảnh của đất nước, của gia đình, của xã hội Việt nam yêu dấu, bao nhiêu sự kiện lịch sử mà tôi đã tự trải qua, lại dồn dập hiện ra như mới một ngày nào.


Cả một thời kỳ trong cuộc đời của một dân tộc, từ những giờ phút tối tăm, bi đát, gần như tuyệt vọng dưới thời Pháp thuộc, cho đến những ngày sôi nổi 1929-1931 và cơn bão táp 1955-1956 mà gia đình tôi và tôi, dù muốn hay không cũng đã bị lôi cuốn vào. Chúng tôi ít nhiều cũng đã đóng một vai trò trên sân khấu lịch sử, đã tham gia vào những phong trào văn nghệ, xã hội, chính trị và những biến cách hồi ấy. Chúng tôi từng gặp những nhân vật lịch sử có một không hai đã góp vào sự quyết định vận mệnh của một dân tộc, đã trải qua những cảnh ngộ độc đáo mà chỉ có thể gặp ở những thời đó. Và ngày nay, chỉ có ngày nay, tôi mới có một tâm hồn rỗi rãi để ôn lại quá khứ.


Viết cuốn Hồi ức này, tôi không muốn gì khác là làm sống lại một phần nào quãng đời đã qua, để hiến cho những ai còn quan tâm đến quá khứ của Việt nam và những người còn nhớ tới thời thanh niên của mình - và những người trẻ tuổi muốn biết thêm vài khía cạnh của xã hội, về văn nghệ (Tự lực Văn đoàn, nhóm Phong Hoá) về những diễn biến văn nghệ trước và sau quân Nhật đầu hàng, về sự đấu tranh giữa những phái Quốc gia và cộng sản trong hai năm vật lộn, với sự thất bại cuối cùng của phái quốc gia trong một hoàn cảnh quốc tế thật đặc biệt.


Những sự kiện sẽ thuật lại là sự thật hoàn toàn, nhưng tôi không có ý viết lại một cuốn lịch sử. Đương nhiên, người ta có thể đứng vào nhiều khía cạnh khác nhau để nhìn vào các sự kiện. Những cuốn sách lịch sử hay hồi ức đã viết về hồi ấy ở Việt nam chứng tỏ điều này. Tôi không có ý gì biện luận với những tác giả quyền uy, cũng không có ý biện bạch cho một quan điểm nào, tuy trong khi viết tôi có thể không tự giác mà đồng tình với những cái gì. Nhưng nếu khi đọc xong cuốn hồi ức này, người xem thu được một cảm tưởng thú vị và có ích, không đến nỗi phí thì giờ, thì tôi tự cho là may mắn quá rồi.


Hồi ức này có liên cập đến rất nhiều nhân vật trong đủ các giới cách mệnh, chính trị, xã hội, văn nghệ của một thời đại. Muốn tránh những sự không tiện có thể xày ra trên thế giới ngày nay cho một số người, tôi không nêu rõ tên họ hay chỉ dùng tên hiệu thay vào, xin các bạn bè thông cảm. Đánh giá những nhân vật ấy không phải là mục đích chính của cuốn hồi ức này, và nếu có cũng chỉ là ý kiến cá nhân của riêng tôi.


Nếu có gì sai lầm hay không vừa lòng một ai thì tôi xin lỗi trước, vì rất ít khả năng đính chính được.


Tác giả
Đầu năm 1980




 3 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net


MẤY LỜI NGÕ CÙNG BẠN ĐỌC - CUỐN 1: 1916-1946

Vào năm 1980, tôi viết cuốn hồi ký đầu tiên, lấy lên là Việt nam những ngày lịch sử - Hồi
ký của gia đình Nguyễn Tường. Với cuốn đó, tôi không có ý viết tường tận về mọi mặt,
mà do hoàn cảnh đương sống lúc ấy tại Quảng Đông, Trung quốc, tôi chỉ kể sơ sài có giới
hạn về gia đình anh em tôi và những dữ kiện chung quanh gia đình mà thôi.
Xin nói thêm rằng, không biết vì lẽ gì mà người xuất bản sách, ông bạn Nguyễn Khắc
Ngữ (nay đã quá cố) khi in ra đã bỏ đi câu Hồi Ký về gia đình Nguyễn Tường, mong các
bạn hiểu cho, và thông cảm với những điểm thiếu sót hay lầm lẫn trong hoàn cảnh đó.
Tám năm sau đó, tôi đã sang sinh sống tại Hoa Kỳ. May đã gặp được nhiều người thân
trong đại gia đình và nhiều bạn hữu cũ và mới. Có một số vẫn ngỏ ý muốn tôi viết lại hồi
ký cho đầy đủ hơn, từ lúc còn nhỏ cho tới tận nay. Những thân hữu ấy cho rằng trong
gần thế kỷ, cuộc đời của tôi và gia đình cũng đã trải qua nhiều cảnh ngộ đa dạng, có
những điều đáng ghi nhớ về câ văn nghệ, xã hội, chính trị trong cơn gió lốc kinh hoàng
đã cuốn vào cả một dân tộc.
Được khuyến khích, nên dù có bận bịu nhiều thứ, hay dù tuổi đã ngà về chiều -nhiều hơn
cả thời hạn mà ông Đỗ Phủ ngày xưa đã ấn định cho mình, tôi cũng cố gắng cầm lại cây
bút. Thực ra, với hứng thú viết báo, viết văn từ lúc còn trẻ, dù ở nơi nào, tôi cũng không
ngừng viết. Điều này, chắc nhiều bạn cũng biết. Gần đây, để có một sáng tác xứng đáng
hơn về mặt nghệ thuật tôi cho ra đời cuốn tiểu thuyết dài Trên sông Hồng cuồn cuộn
dâng cho độc giả. Có nhiều người hỏi tôi: đó là tiểu thuyết, hay là hồi ký?
Tôi đã xin trả lời rằng, đó là tiểu thuyết, không phải là hồi ký, tuy những dữ kiện và nhân
vật hư cấu có dựa phần nào trên đời sống thực. Cũng như cuốn Cuốn theo chiều gió -
Gone with the wind- hay Bác sĩ Zhivago -Doctor Zhivago- mà thôi.
Vì vậy, tôi thấy cũng nên viết lại Hồi Ký, để góp phần làm sống lại một thời kỳ đặc biệt,
với những sự kiện mà tôi được biết rõ hơn nhiều người, như thế, cũng có thể giúp cho
những ai quan tâm đến quá khứ, có thể thành một ít sử liệu, và hai nữa, giúp được người
đọc mua vui một vài trống canh, nếu bạn có hứng thú.
Là con người, ai cũng có một quá khứ, dù ngắn hay dài, và cũng luyến tiếc quá khứ. Quá
khứ lúc nào cũng theo đuổi chúng ta như hình với bóng, vì quá khứ chính là mình được
tạo thành bởi bao nhiêu cảnh ngộ, bao nhiêu cảm xúc, bao nhiêu đắng cay hay ngọt bùi,
ưu sầu hay phấn khởi, thất bại hay thành công, mà chỉ có tự mình mới cho thể cảm thấu




4 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

được. Chỉ có một ngọn cỏ, một cánh hoa, một rặng tre, một chuyến tàu, hay một làn gió
thoảng, một ánh mắt, một nụ cười, một tiếng than thở, một giọt lệ dù chỉ có thế cũng là
một cuộc sống đã ăn sâu vào da thịt, vào xương tủy của mỗi con người -mà chỉ có của
con người đó thôi. Mà trong quá khứ 80 năm, tôi cũng đã có bao nhiêu cảm xúc, trong
bao nhiêu cảnh ngộ!
Hôm nay trời lạnh, mưa rơi trắng xoá làm mờ cá đường phố và các cụm cây bên thềm.
Tôi lại nhớ, nhớ da diết đến quá khứ, nhớ đến con đường xa xăm đã phải đi từ thủa còn
nhỏ tại quê hương, rồi cứ đi, đi mãi. Thuở ấy, có người lấy số Tử Vi cho tôi, bảo là rất tốt,
tương lai sẽ tươi sáng, bay nhẩy, nhưng không ai đoán đúng được số phận long đong,
gian nan thực khó lường của tôi và của nhiều người trong gia đình. Xem ra, vẫn chỉ có
nhà thơ Nguyễn Du là nói gần đúng nhất.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao


Đến bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu nổi tại sao cậu bé con ngơ ngác trên phố huyện Cẩm
Giàng lầy lội, lại bôn ba nơi hải ngoại, và sau gần thế kỷ, lại đến ngồi tại cái đất Nam Cali
ấm áp, tại bên bờ Thái Bình Dương, cách quê hương hàng vạn dặm?
Trong cảnh lưu lạc tha hương, người ta hay nghĩ tới cố nhân. Những lúc cô đơn bước giữa
những tâm hồn xa lạ, tôi vô vàn ngậm ngùi nhớ tới những người thân đã sớm bỏ ra đi,
vĩnh viễn...


Ngàn năm bạc mệnh, một đời tài ba... Biết bao nhiêu người có tâm huyết, biết bao nhiêu
tài hoa xuất chúng, biết bao nhiêu anh em... nay nằm ở đâu? Bao người trong gia đình
đã qua đi mà không hề gặp được lại mặt, tôi chỉ biết ở xa mà cúi đầu, hoài niệm. Những
tài hoa yểu mệnh, như Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Đặng Thế Phong, Hàn Mặc Tử.... do
tật bệnh cướp đi, Nguyễn Tường Cẩm - Khái Hưng, đều mất tích, nạn nhân của tội ác.
Hoàng Đạo chết trong lưu lạc, Nhất Linh, tự kết liễu cuộc đời. Còn bao nhiêu nhà thơ,
nhà văn, nghệ sĩ nữa. Còn bao nhiêu anh em chống đế quốc, chống độc tài, đã hy sinh
trên chiến trường hay tại đất nước người.


Biết bao nhiêu đau khổ, éo le đè nặng trên đầu người dân Việt bé nhỏ. Và đồng thời,
trong thế kỷ, cũng đã biết bao nhiêu nhân vật thần kỳ đã xuất hiện rồi biến đi trong
những chuyển mình vĩ đại của đất nước. Ôi! quá khứ triền miên đè nặng trên tâm hồn
mỗi người chúng ta, không sao thoát gỡ được. Tôi rất muốn nhấc ngòi bút lên để tả,
nhưng với ngòi bút nhỏ nhoi, yếu ớt của tôi, làm sao mà tả nổi, mà tâm hồn cũng đã cằn
cỗi.

Làm sao mà tâ nổi cả cảnh huống lầm than, nghèo cùng, quạnh hiu, bi thương của cả
một dân tộc? Làm sao mà tả nổi, trong những ngày hầu như vô vọng, đã có bao anh
hùng, chí sĩ quật khởi đứng lên chiến đấu, đã có bao hy sinh oanh liệt?
Làm sao tả nổi những chuyển biến lớn lao trong xã hội Việt nam, những xô chạm giữa
các giá trị văn hóa truyền thống và tân tiến, và ngay dưới ách cùm kẹp của thực dân,
một thời kỳ vàng son của văn chương, nghệ thuật -gồm cả hội họa, âm nhạc, kịch nghệ-
có một không hai trong lịch sử? 



5 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
\
Làm sao tả nổi những ngày kỳ diệu, long trời lở đất trước sau tháng tám 1945, và cuộc
vật lộn giữa các thế lực đối chọi nhau, đưa tới kết cục bi thảm là lại một thứ gông cùm
khác lại trùm diết trên đầu người Việt vô tội?
Làm sao tả nổi những cuộc chạy nạn chưa từng có, để lại bao tang tóc trên đường và đến
tận nay, hàng triệu người bơ vơ, mất gốc, rạt vào bốn phương trời trên thế gian. Đau
thương, nhục nhã vẫn triền miên cho người Việt chúng ta, và cho biết bao nhiêu con
người khác trong nhân loại? Nhưng, cứ cầm bút lên, gắng ghi được phần nào hay phần
ấy, để tự an ủi và ít ra, cũng góp phần gợi lại những kỷ niệm vì một thời gian đã qua, để
không cho mình quên.

Quên đi quá khứ của mình, quên đi đau thương nhục nhã của mình, của đất nước, có
nghĩa là quên mất nguồn gốc, và quên mất cà chính mình, trở thành một kẻ không còn
tâm hồn. Quá khứ dù đau thương cay đắng đến đâu, nhưng nó vẫn sẽ kích động chúng
ta bước lên, chỉ cần quyết tâm nhìn lại chính mình và thoát bỏ được những lầm lỗi, lạc
hướng ta đã phạm. Cuốn Hồi Ký này xuất bản làm hai phần:
- Phần I, viết về từ đầu thế kỷ cho tới tháng 8-1946, nội dung chủ yếu thuật về thuở nhỏ,
gia đình, đời học trò, thời kỳ làm ăn, làm báo cùng hoạt động của nhóm phong Hoá, Ngày
Nay, Tự lực văn đoàn, những biến chuyển trong xã hội, rồi tới những hoạt động cách
mạng chống thực dân với Đại việt dân chính, Việt nam Quốc Dân đảng, quân Nhật đầu
hàng, Việt minh cướp chính quyền, cuộc chiến tranh quốc gia cộng sân khốc liệt.
- Phần II, viết về từ tháng 8-46 trở đi, cuộc đấu tranh với Việt minh, một số anh em lưa
vong sang Trung quốc, rồi sang Hoa Kỳ.
Phần vì thời gian quá dài, phần vì trí nhớ suy kém, nên trong cuốn sách tất sẽ có thiếu
sót, lầm lẫn, ra ngoài ý muốn của tác giẫ. Xin hoan nghênh mọi ý kiến phê bình xây
dựng, bổ túc hay chỉ chính.
Tác giả
Tháng 12-1996




6. Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

Lời giới thiệu của Nguyễn Sĩ Tế
cuốn 1: 1916-1946


Tôi được hân hạnh đọc và giới thiêu một thiên hồi ký đặc biệt của một tác giả thuộc hàng huynh trưởng nổi danh, cuốn Việt nam, Một Thế Kỷ Qua (cuốn l: 1916-46) của Nguyễn Tường Bách.


Nơi một quốc gia, sau một thời kỳ đại loạn với muôn ngàn biến cố mà ý nghĩa cùng chính sự việc còn là đối tượng truy cứu và đề tài tranh luận của nhiều người, thường khi người ta thấy xuất hiện một loại văn chương gắn bó với lịch sử trong đó, thể tài hồi ký xem ra được lưu tâm hơn cả. Cuốn Mémoires - Hồi Ký - của tướng De Gaulle- Pháp-quốc, anh hùng kháng chiến chống Đức, viết sau thế chiến II, là một thí dụ điển hình. Cũng thế, trong cuộc đời của một nhân vật quan trọng mà thân phận phải thăng trầm theo biến thiên xã hội, chính nhân vật đó trong lúc rằnh rỗi về sau, chép lại những kỷ niệm riêng tư của mình nối kết với bối cảnh lịch sử trên. Sách này cũng là hồi ký. Điển hình cho loại hồi ký này là cuốn Mémoires doutre tombe - Hồi ký bên kia nấm mồ - của Chateaubriand, một văn tài thế kỷ 19 Pháp, rời quê hương lưa lạc tại Anh quốc và Mỹ quốc, kể lại chuyện đời mình.


Cuốn Việt nam, Một Thế kỷ Qua của Nguyễn Tường Bách là một thiên hồi ký đứng lưng chừng giữa hai loại hồi ký nói trên. Một mặt, nó cho ta theo dõi cuộc đời của một người sinh ra, lớn lên, học hành, yêu đương, viết văn, làm chính trị từ hồi đầu thế kỷ trở về sau (1916-1946). Mặt khác, nó soi sáng nhiều sự việc chung quanh một người đã tham dự, làm chứng nhân và nạn nhận của một sân khấu chính trị ung nhọt đầy xảo trá của phe đối nghịch. Tác giả đã có cái may mắn làm em út trong một gia đình có tiếng - gia đình Nguyễn Tường - mà mấy ông anh đã sớm thành công trong lãnh vực văn học và là thành viên sáng lập của một văn đoàn - Tự lực văn đoàn - có một chủ trương văn hóa tiến bộ. Để rồi chẳng bao lâu, tác giả lại làm một thành viên của một đảng phái chính trị - Việt nam Quốc Dân đảng - đã có một quá trình và thành tích đấu tranh từ hai thập kỷ trước.


Dù theo khuynh hướng biên niên (annales, chroniques) hay khuynh hướng tự thuật (autobiographie) thì hồi ký vẫn không phải là lịch sử. Lịch sử có vấn đề sử quan và phương pháp khoa học trong viễn tượng của một thứ lịch sử đại đồng. Hồi ký giới hạn vâo hành động riêng tư, cung cách biện minh và diẽn giải chủ quan của người viết. Lịch sử sử dụng tư duy và lý hội (comprebension) một cách thanh quang của một hay nhiều người, ít




7 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net



 nhiều đứng ở ngoài lịch sử. Hồi ký xoay chung quanh sự sống toàn diện với ý nghĩ và cảm quan sôi động của người viết. Thế mà từ sự nghĩ đên sự sống, con đường còn xa - du pensé au vécu, il y a loin. Đó cũng là cái sở trường và sở đoản tương đối của hai bộ môn văn học trên đối với người thưởng ngoạn văn chương hay người đi tlm chân tướng của quá khứ.


Tôi yêu cái thế tình - humain trong câu chuyện tâm sự của Nguyễn Tường Bách. Thiên hồi ký của ông mở ra cho chúng ta thấy cái bản chất uyển chuyển và đa dạng không dấu diếm trong con người của ông: một bác sĩ - nhà văn - nhà báo - nhà hoạt động chính trị. Trong một bản chất phức tạp, một số thành tổ thường làm ngáng trở cho nhau, nhất là chất nhà văn và chất nhà chính trị. Viết trong những năm tuổi tác đã cao, chuyện áo cơm danh vọng không còn là mối lo, kỷ niệm xưa lắng đọng, nhận thức quan thanh thỏa, tác giả của thiên hồi ký đã phục hồi được cái khí thế của văn tài của ông trong những năm đầu.


Ông bước vào làng văn qua cửa ngõ của Tự lực văn đoàn. Hồi ký bao giờ cũng là của một nhân vật đã tác động hay chứng kiến một thời quá khứ không xa xưa. Trong tư thế đó, cuốn Việt nam, Một Thế Kỷ Qua có mang phần cống hiến lịch sử của nó. Cống hiến cho người đọc văn học Việt nam thời hiện đại về chủ trương, đường lối, thành viên, bằng hữu, việc làm và công trình của một văn đoàn tiên phong, có tổ chức quy mô. Cống hiến cho người nghiên cứu hay tham khảo lịch sử Việt nam thời hiện đại về một số sự việc chưa được biết tới một cách tường tận, hoặc còn ẩn khuất trên sân khấu chính trị cực kỳ rối ren của nước nhà hồi 1946 trở về trước: - các đảng phái, các liên minh, hoạt động trong và ngoài nước của họ, thái độ của thành phần nho gia, trí thức mới trước thời cuộc... Nhất là trong tình trạng của môn sử học đầy dẫy những mạo tác, những xuyên tạc của các nhà cầm quyền trong chế độ độc tài. Đối với thứ lịch sử tuyên truyền đó, Việt nam, Một Thế Kỷ Qua của Nguyễn Tường Bách là một phản bác hùng hồn vậy. Lại nữa, muốn lý hội cho trọn vẹn một thiên hồi ký, ta phải lắp nó vào cái bối cảnh lịch sử toàn diện của nó (contexte historique). Một cái nhìn đối chiếu và tổng hợp các sử liệu, một động viên trí nhớ của toàn dân cho ta rõ ngay về cái bối cảnh đó: quang cảnh của một dân tộc lầm than dưới ách thống trị của thực dân Pháp và trong ánh sáng tranh tối, những hoạt động của các hội kín làm chính trị, của các văn đoàn, báo chí, học sinh, sinh viên... tranh đấu cho tự do của giống nòi. Kế đó, trong cao điểm chung quanh năm 1945, với sự bại trận của thực dân quân phiệt Nhật hất chân thực dân Pháp, lịch sử Việt nam đã ghi nhận một tấn thảm kịch vô cùng xót xa của một dân tộc vừa mới thấy bình minh của độc lập ló rạng thì đã sa vào một cuộc chiến tranh ý hệ, huynh đệ tương tàn mà rơi dần vào trong bàn tay sắt của Đệ Tam Quốc tế . Dân tộc bị phản bội, người có ý hướng cứu nguy rời xa, chiến tranh đế quốc kéo dài... Thiên Việt nam, Một Thế Kỷ Qua đã gióng lên một tiếng nói trong lành trong tiếng nói của toàn dân Việt đã bị đẩy tới cái ý nghĩa tận cùng của tấn thảm kịch trên: họa vong quốc. ích lợi trong việc đi tìm cái chân và cái thiện của mọi người Việt nam sinh sau - nhất là các bạn trẻ ly hương - nơi tác phẩm của Nguyễn Tường Bách không phải là nhỏ.


 
8 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

Cách đây hai năm, trong lời phát biểu vào dịp lễ ra mắt cuốn tiểu thuyết dài Trên Sông Hổng cuồn cuộn của Nguyễn gia, tôi có nhấn mạnh về cái mối xúc động thẩm mỹ bao trùm của sáng tác phẩm đó ở nơi cái đau và cái đẹp của một sự thất bại bất công - danh từ bất công hiểu theo nghĩa nặng của người Tây Phương. Tôi thấy chuyển qua thiên hồi ký Việt nam, Một Thế Kỷ Qua, nhận định của tôi cũng đúng. Để kết thúc, tôi cũng xin ghi lại sau đây một bài thơ tứ tuyệt tôi làm cách đây chừng một năm chưa đề tặng ai, nay xin tặng người bạn già, tác giả bài thơ Chiều đăng ở cuối sách, cùng ly hương trên đất Mỹ như tôi. Gọi là để nói lên cái tâm sự héo hon chỉ còn biết đặt trọn niềm hy vọng và tin tưởng vào ý chí của các bạn trẻ, những người đến sau tôi trong cuộc cờ nhân thế.


CựU Mộng
Mây trắng vẫn là mây trắng cũ,
Trời xanh đâu cô khác trời xưa.
Giêng sâu ấp ủ lòng thương nhớ
Đôi cánh chim bằng tạt đậu thưa.

(G.G. 22-4-98)


Nguyễn Sỹ Tế







= Chương 1 ==


Đầu thế kỷ , phố Cẩm Giàng

Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng…(Nguyễn Du)


Vào một buổi tối cuối tháng chạp năm Bính Thìn, trời rét. Gió bấc thổi vi vu trên phố huyện nhỏ, Cẩm Giàng, trên đồng ruộng mênh mang chung quanh, và trên mái căn nhà tranh năm gian đơn sơ của gia đình. Đó là lúc tôi lọt lòng mẹ, và oa tiếng khóc đầu tiên để chào đời. Trời đã xếp đặt cho tôi thành đứa con út trong một gia đình bảy anh chị em – gia đình Nguyễn Tường – và từ đó số phận của tôi đã được quyết định.


Chị Thế tôi kể là lúc ấy, trông tôi như một con mèo con, tôi không tin lắm vì nếu sinh với tuổi Thìn, đáng lẽ tôi phải giống như con rồng con mới phải.


Chị tôi kể: Một buổi tối, bà tôi đánh thức chúng tôi dậy, bảo dậy mà xem em bé, nó bé tí, cả người chỉ bàng con mèo, chỉ thấy hai con mắt và cái miệng nhỏ tí xíu. Chị tôi luôn miệng hỏi bà em bé ở đâu đến thế, ai cho vậy? Bà bảo đừng có nói bậy, em bé mẹ cháu mới đẻ đấy. Chị tôi lại hỏi thế đẻ ở đâu hở bà? Bà vội gắt lên, đẻ ở nách chứ còn ở đâu nữa! Từ đó, chị tôi cứ đinh ninh là đẻ ở nách ra.


Vì là thứ bẩy, nên bà nội luôn tiện đặt cho cái tên Bẩy. Về sau, cũng chẳng biết ai đổi thành cái tên Bách mà ngày nay, tôi phải mang, từ bẩy nhẩy tới một trăm. Nghe nói, cũng có tích nữa, như sau:



9.  Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Thụy Cẩm Tam Long Vinh Bách Thế


Thụy Cẩm, Tam, Long, Vinh là tên mấy anh trên tôi, còn Thế là chị Năm tôi.


Câu vè trên nghe cũng hay, nhưng hơi bất công và đượm mùi trưởng giả. Theo đó, thì chỉ có bốn người trên là được vinh quang trăm đời, còn ba người sau thì không. Chị Thế là thứ năm, nhưng lại cho xuống cuối cùng, đủ biết thành kiến trọng nam khinh nữ trầm trọng. Còn tại sao lại cứ phải vinh quang mới được, rõ là óc háo danh truyền thống.


Có một điều chắc chắn, tôi là một quái thai đẻ ở nách ra. Sống sót tới ngày nay, kể cũng kỳ lạ. Tuy giống con mèo, nhưng lại là tuổi Thìn, nên số là phải chạy loăng quăng, rồi bay nhẩy lung tung ngoài sức tưởng tượng. Đó là chuyện về sau. Đích xác, từ bao giờ, gia đình chúng tôi đến định cư ở đây, tôi cũng không rõ, và tính tôi cũng không để ý gì nhiều tới nguồn gốc của mình. Sau này, có người nói, tôi mới biết là vốn từ tận Quảng Nam ra. Tôi cũng thấy vài người trong họ hàng từ miền Trung ra thăm. Nghe nói, ông nội tôi lúc trước đến làm tri huyện ở đất này, và đã mất ở đây, người ta vẫn còn gọi bà tôi là cụ Huyện. Và hồi xưa, trong các cụ tổ, cũng đã có cụ là bậc khai quốc công thần, có vị đã từng đi sứ sang bên Trung quốc. Xem ra, gia thế như vậy thì không đến nỗi kém ai…


Anh em chúng tôi không có ai chú ý tới gia thế. Thực ra, ngày xưa, thường những gia đình như vậy mới có thể có điều kiện cho con cháu được hưởng giáo dục tốt. Nhưng, từ khi ông tôi mất, gia cảnh bắt đầu sa sút, một lạc, gặp nhiều khó khăn. Thầy tôi nhờ học được chữ quốc ngữ và dăm câu tiếng Pháp, nên cũng tìm được một chân thư ký, thông phán trong sở. Mẹ tôi cũng buôn bán vặt để thêm vào duy trì sinh hoạt và nuôi nấng mấy con.


Nếu bên nội là giòng giõi văn quan, thì bên ngoại, mẹ tôi, lại là giòng võ tướng. Vì tôi thấy ai cũng gọi bà ngoại tôi là bà quản. Một bên nho nhã, một bên võ biền, nhưng tại sao cả hai bên lại gặp nhau ở đây và kết thân với nhau, tôi cũng chưa rõ. Và sự kết thân này, với hai tính cách khác nhau đó tất cũng đã có ảnh hưởng đến tương lai của chúng tôi. Thầy tôi, tôi chỉ được nhìn qua ảnh chụp, có một khuôn mặt trái soan, văn nhã trong bộ áo dài, còn mẹ tôi thì giống bà ngoại, hay cậu Cả tôi, dáng người rắn rỏi. Tiếng nói lớn, bà có tính cách cả quyết trong mọi việc. Có lẽ chúng tôi đã thừa hưởng cả hai thứ tính cách đó.


Sau này, nghe người ta kể, tôi mới rõ chúng tôi ở đâu ra, từ đâu đến, nói thực là về nguồn. Thì ra giòng giõi họ chúng tôi cũng có lịch sử khá phức tạp. Hơn hai trăm năm trước đây, tổ tiên chúng tôi còn mang họ Nguyễn, nhưng lại là Nguyễn Văn.Một ông tổ, đi theo Nguyễn Phúc Chủng (tức Nguyễn Phúc Ánh, năm 1802 lên ngôi với niên hiệu Gia Long). Một hôm tới địa phận Quảng Nam, Nguyễn Phúc Ánh chỉ một ngọn núi cao hỏi tên là núi gì. Ông đáp là núi Phước Tường. Nguyễn Phúc ánh nói: Nguyễn Phước là họ của ta. Ta ban cho ngươi họ Nguyễn Tường.


Cụ tổ ấy bèn đổi họ sang Nguyễn Tường, và chọn nơi Cẩm Phổ, Hội An, Quảng Nam làm phát tường địa (chỗ phát tnển tốt lành). Đó là cụ Nguyễn Tường Vân, có tên ghi trong Đại Nam Liệt truyện, và từng giữ chức Binh Bộ Thượng Thư, phó Tổng Trấn Bắc Thành…




10.  Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

thì ra chúng tôi cũng là giòng giõi quan to, không kém gì ai! Tuy anh em chúng tôi không ưa giới quan lại chút nào cả.


Cụ Nguyễn Tường Vân có một người con là Nguyễn Tường Phổ, nhiệm chức. Giáo thụ phủ Điện Bàn. Cụ Phổ sinh ra cụ Nguyễn Tường Tiếp, sau có chức vụ là đồng Tri phủ lãnh Thụy Nguyên huyện Tri Huyện ghi trong gia phả. Đó là ông nội chúng tôi – và tôi cũng không rõ ông đến làm tri huyện Cẩm Giàng từ thời nào và ông mất năm nào. Mà tôi cũng không biết cha tôi là con út của cụ Tiếp. Cũng không biết tên cha tôi là Nguyễn Tường Chiến với tên húy là Nhu, tôi chỉ biết cái tên sau thôi. Tôi cũng chỉ biết giòng ngoại họ Lê, không rõ là giòng họ Lê này ở Duy Phước, Duy xuyên, tỉnh Quảng Nam. Ông ngoại làm đến chức Lãnh binh, và cũng đến Cẩm Giàng. Đó thực là một duyên phận Kỳ ngộ. Một điều đáng tiếc là chúng tôi không rõ cuộc hôn nhân của cha và mẹ chúng tôi là do phụ mẫu xếp đặt hay do tự do luyến ái. Dù sao, cả hai bên đều là khách ly hương, xa quê nhà ở mãi tận miền Trung. Nghe nói, khi cha tôi sắp qua đời, có trăn trối để lời với các con.


- Sau này, dù thế nào các con cũng phải tìm về lại quê cha đất tổ.


Sau này, các anh chị tôi đều có ghé thăm Cẩm Phổ. Năm 1930, anh Nguyễn Tường Long có về thăm quê và đã cúng vào Văn Miếu làng, nhà thờ tộc bên nội và tộc bên ngoại -mỗi nơi một bức hoành.


Từ năm 1954 về sau, nghe nói trong họ hàng có đi lại nhiều, nhưng tiếc lúc ấy chúng tôi đã đi xa.


Trước khi tôi ra đời, thầy tôi bỗng không may mất việc thông phán ở Hà Nội. Mẹ tôi phải thu xếp về buôn bán ở quê ngoại, huyện Cẩm Giàng.


Đây là một huyện lỵ nhỏ, bình thường, nghèo nàn, nằm bên con đường sắt Hà Nội – Hải Dương, miền đồng bằng Bắc Kỳ, trong thời kỳ những ngày Pháp thuộc âm thầm tại đầu thế kỷ thứ hai mươi. Chung quanh là đồng ruộng im vắng, với tận xa, những lũy tre xanh Việt Nam bao bọc các làng mạc nằm ở trong từ mấy ngàn đời.


Nơi chôn rau cắt rốn của các anh chị em trong gia đình, nơi chúng tôi đã lớn lên, tiếp xúc đầu tiên với xã hội. Một cánh đồng, một gốc cây, một góc phố, một cái lều trơ vơ, đến nay chúng tôi vẫn không quên được.


Gian nhà chúng tôi ở một bên trông ra cái ga nhỏ, một bên trông ra con phố hẹp lầm lội mỗi khi trời mưa. Nhà ga nhỏ xám, hai bên trồng găng. Mỗi khi có xe hoả lên xuống, cả ga, cả phố xá lại như vùng dậy, rộn rịp hẳn lên. Nhưng đến tối, chỉ còn nghe thấy tiếng còi tàu vẳng từ xa đến rồi biến đi trong đêm lặng.


Mấy dẫy phố lèo tèo, với vài căn nhà gạch, hai cửa tiệm bán tạp hóa của người Hoa Kiều. Cuối phố, rẽ xuống bến đò Sông Sen, ai đi qua cũng phải ngó vào cổng nha Huyện xám xịt, với chú lính lệ đứng gác, tượng trưng cho uy quyền của nhà nước.


Thủa bé, chúng tôi thường chạy ra, theo đường sắt, đứng trên cái cầu sắt bắc ngang trên sông Sen êm đềm trôi giữa hai rặng tre, tới đồng lúa xanh ngắt. Ban đêm, dân phố vẫn lắng nghe tiếng xe hoả chạy rầm rập trên cầu, phá vỡ cả một vùng tịch mịch.




11 . Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net


Thế giới của tôi khi mới lò cò chạy đi là căn nhà năm gian rộng rãi dưới mắt một đứa bé con, cửa hàng xép trông ra phố Chợ với những lều không chống bầng nứa, cái sân gạch đằng sau nhà, đưa tới ngôi nhà gạch bên ngoại. Qua cái nhà gạch đó là chỗ tôi thích đứng ngám nhất, dù còn quá bé – một vườn hoa nhỏ, có trồng hoa nhài trắng và thơm dịu, với những bụi tóc tiên. Rồi tới cái ao nhỏ, nước phẳng lặng, thỉnh thoảng mới có ít bọt nước sủi lên do cá đớp động dưới đám bèo hoa. Và một cây sung cổ kính, già nua không biết trồng từ năm nào, thân cây to ngả trên mặt nước, một cái cầu ao bằng tre bắc ngay dưới bóng sung.


Mấy rặng găng cao chia cách bên chúng tôi với nhà láng giềng. Khi mùa tới, những quả găng đỏ hồng trông rất hấp dẫn, nhưng dù trẻ con, cũng ít khi hái mà ăn, vì mùi vị quá lợ.


Cuộc sống đúng là vô tư lự, hạnh phúc, tuy thiếu thốn, cho đến một ngày:


Tôi cảm thấy không khí trong nhà khác hẳn, rộn rịp, các anh về đầy đủ, người ra vào tấp nập. Xen lẫn vào, là tiếng khóc – chắc là của bà nội. Tôi ngơ ngác trước đèn, nến trên bàn thờ đã thắp lên sáng choang. Mùi hương khói, mùi giấy đốt trùm cả trong nhà.


Không nhớ có phải do mẹ tôi chỉ không, mà tôi tiến dần đến bàn thờ, nhìn vào một cái hòm dài dưới gẳm bàn. Hình ảnh cái tiểu sành, trong đó xếp mấy ống xương màu vàng bùn, tất cả những di vật còn lại của thầy tôi – giữa hương khói nghi ngút, tôi còn nhớ như ngày hôm qua. Đó là lần đầu tiên tôi đứng trước cái chết. Nhưng trong đầu tôi chỉ thấy lạ lùng, không có cảm giác đau thương. Và đó cũng là lần đầu và lần chót tôi được trông thấy thầy tôi. Về sau, khi lớn lên, nhớ lại hình ảnh đó, tôi mới suy nghĩ về cuộc đời của con người, của sự sống và sự chết, tôi mới cảm thấy một thứ hư không vô hạn. Cái cảm giác hư không ấy sẽ theo đuổi tôi sau này, mỗi lúc tôi đứng trước những cảnh trạng sống chết luôn luôn phải gặp.


Sau khi tôi ra đời hơn năm thì thầy tôi phải đi làm xa, với việc thông ngôn cho một viên Công Sứ, sang tận đất Sầm Nưa bên Lào – thiên sơn vạn thủy, ma thiêng nước độc, vì sinh kế. Lúc đầu ông cho biết ở bên đó công việc nhàn hạ, khí hậu cũng tốt, làm cho mọi người yên tâm. Nhưng đến một ngày mùa đông, hai anh Thụy và Cẩm bỗng đột ngột đáp xe hoả từ Hà Nội về báo tin dữ: thầy đã mất vì bệnh bên Lào rồi, tin như sét đánh. Vừa nghe nói, bà nội đã ngất xỉu ngay giữa vườn rau. Bà khóc thảm thiết cho mãi tới khuya.


Thầy tôi mất vào ngày 23 tháng 10 năm Mậu Ngọ, tức năm 1918, hưởng thọ 37 tuổi, vào lúc ông hãy còn trẻ quá. Ông mất đi, bên cạnh chỉ có mỗi mình mẹ tôi, để lại mẹ già, vợ goá và một đám con còn nhỏ bơ vơ.


Tang tóc bất ngờ đã để lại một vết thương âm ỷ, sâu xa trong lòng cả anh em chúng tôi. Cảnh mồ côi bố không phải không có ảnh hưởng. Sinh sống khó khăn, lại thiếu sự dậy dỗ chỉ bảo hay dìu dắt của người bố, bà mẹ bận về tìm cách làm ăn, sao cho nuôi dưỡng được bẩy đứa con cho thành người, những cái đó có lẽ đã rèn luyện anh em chúng tôi tinh thần tự giác, độc lập trong cuộc đời phức tạp, đầy gian nan. Ngôi mộ thầy tôi cũng không ở xa lắm đối với phố huyện. Nghe kể lại, lúc đó đã mướn một thầy địa lý đi nhiều nơi tìm chỗ tốt, mang tới phú quý cho gia đình. Cuối cùng, thầy chọn được một nơi tại



 12.Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

làng Trữ La, mà thầy bảo là ở ngay giữa miệng con rồng. Có người lại nói là ở đúng trên lưng một con phượng.


Theo chỗ tôi ngắm, thì không giống miệng con rồng chút nào mà phải giầu tưởng tượng mới cho là lưng con phượng được. Còn ông thầy địa lý đó chắc cũng phải ngẫm nghĩ, nếu ông biết gia đình chúng tôi sau này chẳng thấy phú quý ở đâu cả, mà toàn là long đong.


Nhưng dù sao, tôi cũng vẫn còn nhớ nơi mà thầy tôi an nghỉ vĩnh viễn. Đó là một cảnh rất nên thơ. Là nơi rất thân thiết đối với chúng tôi, từ lúc còn nhỏ cho đến khi trưởng thành. Ra khỏi bụi găng ở đầu ga, chúng tôi hay chạy trên con đường sắt thẳng tắp, hai bên là đồng ruộng. Bên tay mặt, trên con sông Sen, một cây cầu sắt gẫy không biết tự bao giờ vẫn đứng trơ trơ qua ngày tháng. Bên trái, cánh đồng Kinh nguyên, một dải mộ địa im vắng.


Rời bỏ đường sắt, rẽ vào một con đường đất, chẳng bao xa thì tới một gốc cây đa cổ thụ, cành lá xoè ra, trùm lên cả một khoảng rộng. Đó là cây đa mâm xôi – như người vùng đó thường gọi. Bóng cây đa đã từng che mát cho bao nhiêu dân làng gần xa. Từ chỗ này, qua mấy thửa ruộng, là tới mộ thầy tôi Và sau này, bà nội tôi cũng đến yên nghỉ ngay bên cạnh cây đa. Hai mẹ con cuối cùng cũng đã nằm gần nhau tại mảnh đất này. Mộ nằm trên một gò đất, trước mặt là hai ao nhỏ và con đường vắng, lá tre rụng đầy đưa vào trong làng, và vào một ngôi chùa cổ kính, đầy rêu, một ngôi chùa Việt Nam chân chính. Hai bên có giải đất dài, dẫn xuống mấy thửa ruộng đằng sau. Chung quanh nhiều khóm cây rũ bóng trên mặt nước. Về sau, có khi tôi đến ngồi bên mộ, không nghĩ ngợi gì, để ngắm cảnh làng quê im lừn, xa vắng.


Thời kỳ ấy, chính vào lúc đệ nhất thế chiến đã kết thúc, nước Pháp đại thắng. Chữ quốc ngữ, chữ Pháp càng đưọc dùng nhiều thay vào chữ Nho, chữ Nôm. Những ông đồ nho chi hồ giả dã dần dần cảm thấy hết thời, bị những ông Ký, ông Thông, Phán thay vào, làm trung gian giữa người Pháp cai trị và người dân Việt. Những công việc này cũng nhàn nhã, lương hậu. Các nhà trường cần nhiều giáo viên, nghề gõ đầu trẻ tuy lương bổng thấp hơn, nhưng cũng không quá vất vả.


Cảnh nghèo nàn thiếu thốn trong gia đình, dù mẹ tôi và bà tôi cố gắng xoay sở, cũng chưa giải quyết được vì đông con. Tôi còn nhỏ quá nên chưa thấy rõ những phiền muộn, éo le, xung đột trong nhà. Tuy cũng cảm thấy nhiều khi, có bầu không khí nặng nề giữa người trong gia đình qua những cuộc cãi cọ, đấu khẩu.


Tại chung quanh, cảnh nghèo khổ, tiêu điều trong các gian nhà lụp sụp, cảnh chân lấm tay bùn của nông dân cặm cụi trên đồng ruộng lầm lội, những người chỉ có một cái khố che thân, cảnh phiên chợ lèo tèo… cảnh mưa phùn gió bấc, mưa bão trên những lều tranh đầu phố… tất cả những cái đó đã ăn sâu vào trí óc chúng tôi. Về sau, đã thúc giục chúng tôi muốn viết lên, muốn làm một cái gì để thay đổi tình trạng đó. Không phải là ngẫu nhiên, mà chúng tôi đã từng có cảm xúc mạnh – Mệnh vận của mỗi người có thể khác, nhưng chúng tôi có chung sự đồng tình, lòng trắc ẩn sâu xa đối với những đau khổ của cuộc đời.




13 . Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net


Hồi đó, tôi lại được quen với những thứ mùi lạ mà ít người khác được biết, đó là mùi rượu lậu. Mỗi khi nấu rượu thì mọi cửa ngõ đều phải đóng kín hết, mọi người thay nhau ra gác đề phòng Tây Đoan đột nhiên đến khám. Thường thường là chị tôi hay anh Sáu đứng ở cổng trông ra đường ga hay trông ra phía chợ. Anh Sáu bắc một cái ghế ngồi, giả vờ đương đọc sách một cách chăm chú. Nấu rượu cũng là bất đắc dĩ để duy trì một gia đình đông con.


Song, đi đêm lắm cũng có ngày gặp ma.


- Tây đến! Tây đến!


Đương nằm thiu thiu trên chõng, tôi bỗng bị mấy tiếng kêu lớn vọng từ ngoài cổng vào đánh thức, ngồi dậy, ngơ ngác. Tức thì một cảnh hỗn loạn khuân vác, dẹp chạy khẩn cấp diễn ngay ra. Nồi niêu, thùng sắt được khuân ngay ra đằng sau phố. Một người dẹp tắt lửa trên bếp, một cài cửa ngang. May mà hôm đó, Tây Đoan đã không xông tận vào nhà trong, chỉ lục lọi ở ngoài một lúc rồi bỏ đi khám nơi khác. Nguyên do cũng vì anh Sáu ngồi lâu quá buồn ngủ thiếp đi, nên bọn Tây Đoan đến gần mới phát giác, gây ra cảnh hoảng loạn kể trên…


Nhưng Tây Đoan cũng không vừa. Đã có kinh nghiệm, lại có tay trong, nên lần sau chúng chia người vây nhà, rồi xông vào bắt được quả tang tại chỗ, phạt tiền, tịch thu môn bài ruợu. Việc kinh doanh trái phép này phải ngừng, và quay về buôn bán hàng xép, cùng cân gạo. Sinh hoạt gia đình càng khó khăn hơn.


Sau đó, nhờ hai anh lớn đỗ bằng Thành Chung, (tục gọi là đíp-lôm) rồi xin được chân giáo viên tiểu học, giúp gia đình sinh sống tạm được yên ổn, tuy vẫn thiếu thốn. Chăm học, lại thông minh, các anh lớn đều học giỏi và đỗ sớm cả. Bẩy năm thủa bé của tôi đã qua trong khuôn cảnh phố ga Cẩm Giàng. Trong ký ức, tôi không nhớ rõ lắm về hình ảnh ba anh lớn, Thụy, Cẩm, Tam – có lẽ vì bận học và công việc, nên ít về nhà. Chỉ có anh Long (Tư) là hay về chơi, nhất là vào dịp nghỉ hè. Thường ở nhà chỉ có chị Thế và anh Sáu, lúc đó học ở tru,ờng huyện. Đó là những ngày vô tư vô lự của đám trẻ. Chúng tôi thường rủ nhau đuổi bắt những loại bướm màu sặc sỡ bay lưọn trên bụi găng, rồi cùng mấy cô em họ tinh nghịch chạy ra cánh đồng, đánh cỏ gà, một lối chơi rất thú vị, hoặc ngắt những bông hoa thài lài xanh trên bờ ruộng.


- Đi câu cá, đi anh!


Vì biết anh Tư thích câu cá, cô Tám, một cô em kéo anh ra bờ ao nhìn ra cánh đồng xa. Chỗ này mát mẻ, dưới một gốc sung già da sần sùi. Chúng tôi đào giun hay đi xúc tép dưới bèo đề làm mồi. Hai anh Tư và Sáu ngồi trên thân cây hay trên cầu ao, ung dung đợí cá rô đến đớp. Mấy cô gái trèo thoăn thoắt lên cây, rồi ngồi vắt vẻo trên cành là trên mặt nước. Một cô em hái mấy quả sung đưa các anh ăn, quả nào cũng chín, màu tím, và ngọt lịm. Nhưng chúng nó lạỉ chỉ hái mấy quả còn xanh, lấy ít muối chấm ăn, rất thích thú, tuy đắng chát tê cả lưỡi. Mỗi khi ai kéo lên được một con cá rô đen hay một con cá mại bụng trắng tinh, là mọi người đều nhẩy lên reo mừng y như trước một chiến thắng lớn.






14


Chán rồi, lại kéo nhau ra la cà tại các quán chợ, nếu đến phiên, nhiều người gồng gánh từ chung quanh mang hàng tới bán. Chỉ có mấy viên kẹo vừng hay kẹo lạc cũng đủ làm chúng tôi vui vẻ hạnh phúc nhất là khi trong túi có thêm mấy xu, có thể làm được mấy bát cháo dương – thứ cháo bột nấu với ít sườn- ngon tuyệt vời, có lẽ ngon hơn tất cả những thứ sơn hào hải vị trên thế gian này.


Nhưng rồi những ngày êm ả tuổi thơ tại Cẩm Giàng cũng đến lúc phải hết. Bắt đầu là cậu học trò bé bị mẹ xua đuổi tới nhà trường. Tôi ngồi im thin thít trên ghế trong lớp, như một sự phản kháng thầm lặng, vì thế tôi được tiếng là một học sinh ngoan ngoãn. Một năm sau, vì hoàn cảnh biến đổi, gia đình dọn lên Hà Nội ở. Một thời kỳ mới bắt đầu trong cuộc đời anh em chúng tôi.




Chương 2 ==
Đất Thăng Long – Những cuộc gặp gỡ đầu tiên .



Chuyến xe hoả sình sịch chạy qua cầu Giàng, trên con sông Sen êm đềm. Tôi ngoảnh đầu, cố nhìn lại con sông hiền lành của thời thơ ấu, cái phố huyện, mấy căn nhà tranh lèo tèo, cái nhà ga xám nhỏ, căn nhà năm gian của mình, cái sân nhỏ trồng tóc tiên và hoa nhài, cây sung trên bờ ao, cây đa mâm sôi, và nấm mộ của thầy tôi trên đồng ruộng im vắng. Đối với tôi, Hà Nội tuy đông vui thực, nhưng chỉ là những đường phố bụi bậm, khô khan. Từ ở phố Sinh từ chật chội, trên vỉa hè đầy những người buôn thúng bán mẹt, chúng tôi lại dọn đến hàng Bún, trong một ngõ cụt vắng vẻ hơn. Tôi vào học trong một trường tiểu học gần đó, và không cần nói, tôi vẫn chưa thấy có hứng thú đối với làm bài, đọc sách. Tôi vẫn tính nào tật ấy. Trước đây, hay đòi ăn thịt mỡ, nay lại giở chứng, đòi ăn lạp xường, cao cấp hơn.


- Tao làm gì có tiền để mua lạp xường cho mày ăn! Tiền mua rau cũng chưa đủ!


Một hôm mẹ tôi nổi giận, gắt.


- Thì bán cả mẹ đi là đủ tiền mua chứ sao! – tôi không chịu nhượng bộ.


Mọi người trong nhà đều phì cười về yêu cầu quái dị của tôi. Sau đó, bà nội lẳng lặng lấy tiền của mình mua mấy đôi lạp xường và nấu một nồi cơm nếp cho cả nhà ăn.


Tất nhiên, với tính xấu như vậy, năm sau, tôi đi thi bằng sơ học yếu lược sau hai năm tiểu học – một thứ bằng duy nhất ở Việt Nam Pháp thuộc mới có! Tôi đã ngồi ngậm cán bút sắt trước bài toán thi – trượt vỏ chuối. May mà không ai trong nhà nói câu nào- không ai thèm để ý đến một việc nhỏ như vậy.


Năm đó, tôi cùng gia đình xuống Thái Bình cùng ở với anh Cả đương làm đốc học trường huyện Thư Trì, ngay bên sông Hồng Hà. Lần đầu tiên, tôi được thấy giòng sông Hồng cuồn cuộn, mênh mang, đỏ lừ chẩy về xuôi, qua những bãi cát dài, những vườn ngô thẳng tắp và ở xa, những làng mạc đồng quê. Cảnh con sông Hồng đã in sâu vào trí óc tôi, và hơn nữa, vào trái tim non nớt của tôi.





15

Chiếc tàu Phi Phượng ghé vào bến Tân Đệ. Chúng tôi – mẹ, chị tôi và tôi đến ở một làng gần ngay huyện và nhà trường. Một căn nhà tranh nhưng cao ráo, sáng sủa. Trong vườn sau cổng vào, hai cây cam lớn, với quả vàng óng chĩu chịt khiến tôi thèm muốn. Nhưng thất vọng rất nhanh, vì cam chua quá. Ở đó con người, kể cả những bạn học lớn của tôi, đều rất thành thực, chất phác. Có khi, tôi theo bạn học qua con đê lớn, xuống những làng xóm nằm đưới chân đê. Họ hái cho tôi những quả táo ta vàng nuột khi chín, rất ngọt -táo ở vùng này có tiếng là to và ngon, gọi là táo cống.


May mắn, qua một năm, lần này tôi thi đỗ cái bằng đó. Có bằng đó rồi, thì đã ngang với hàm Cửu phẩm văn giai, mà nhiều người lấy làm hãnh diện, treo ngay trong phòng khách. Thời đó hình như đỗ tú tài thì có thể xin hàm lục phẩm và nếu làm tri huyện thì được hàm Ngũ phẩm triều đình. Nhưng rồi không lâu, vì cãi cọ với viên tri huyện, anh Thụy tôi phải đổi đi nơi khác. Chắc là bị trù, nên lần này đổi lên tận Cao Bằng, mãi tận vùng Đông Bắc núi cao rừng rậm. Gia đình lại trở về Hà Nội. Lúc đó, tôi đương học lớp nhì tại trường học tỉnh Thái Bình. Một lần, ông giáo hỏi tôi một câu gì, tôi trả lời hơi chậm chạp, ông bèn phê luôn một câu bằng tiếng Pháp:


- Những học trò ở quê lên, thường là ngớ ngẩn!


Chạm vào lòng tự ái, tôi thấy ông giáo này không công bằng và có ý khinh miệt những người nhà quê. Để kháng nghị, tôi bỏ học và hôm sau bỏ Thái Bình về Thư Trì, nhân dịp nhà trở về Hà Nội, đúng lúc. Hai mươi năm sau, tình cờ, tôi lại gặp ông giáo đó tại Hà Nội, hai người bắt tay nhau, cùng cười xoà. Chắc trong bụng, ông vẫn cho tôi là ngớ ngẩn.


Bước vào giữa thập niên 20, tình hình Việt Nam đã rục rịch những biến chuyển mới, theo tình hình trên thế giới và những thay đổi trong xã hội.


Sau thế chiến thứ nhất, với tư cách kẻ chiến thắng, nước Pháp đã duy trì được nền thống trị trên các thuộc địa. Nhưng do sự tiếp xúc, giao lưu với thế giới bên ngoài đã tăng mạnh, nhất là về những phong trào đòi độc lập ở Á Châu, Phi Châu, phong trào đòi dân chủ tự do, và một mặt là ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng Sản cùng mọi thuyết dân chủ xã hội tại âu, Mỹ, người dân Việt cũng như dân các nước bị trị khác – đã cảm thấy đến lúc phải đứng lên hoạt động, và kế thừa tinh thần của các phong trào ái quốc được khơi dậy bởi những thế hệ tiền bối, như Đông Kinh Nghĩa Thục, Việt Nam Quang Phục Hội.


Nói chung, thanh niên hồi đó chịu ảnh hưởng của ba luồng tư tưởng trong quốc tế. Một là ảnh hưởng của cuộc cách mạng Tân Hợi Trung Hoa đã thành công năm 1911, và việc quật khởi của nước Nhật Bản cường thịnh. Hai là của những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái do cuộc Cách Mạng Pháp nêu lên, và của Tuyên Ngôn về Hiến Pháp của Hoa Kỳ. Ba là của cuộc cách mạng tháng 10 ở Nga, đưa đến thành lập Liên Bang Xô Viết,với khẩu hiệu giai cấp vô sản liên kết với nhân dân các nước bị áp bức do Lenin đưa ra. Những luồng tư tưởng dân tộc, dân chủ và đấu tranh cho giai cấp vô sản ít nhiều đã tràn vào Việt Nam, dù bọn thực dân có muốn cũng không ngăn cản được. Trong nội bộ Việt Nam, đã xuất hiện những giai tầng kinh doanh, trí thức mới, vận dụng chữ quốc ngữ và chữ Pháp, hấp thụ đưọc những quan niệm mới tự do, phóng khoáng hơn, đẩy lui dần những



 16

quan niệm Khổng Nho cũ, những gò bó quân thần phụ tử, tam tòng tứ đức phong kiến lỗi thời mà một số người khư khư cho là khuôn vàng thước ngọc. Đây là giai đoạn phôi thai cho một nền văn học mới. Một số báo chí có khuynh hướng trung dung như Trung Bắc Tân Văn, Hữu Thanh tạp chí ra đời. Trên mặt văn đàn, những tên tuổi như Tãn Đà Nguyễn Văn Vĩnh… và sau đó Phạm Quỳnh đã lần lưọt xuất hiện. Những tác phẩm thời kỳ đó, tôi đã từng đọc, tuy chưa là hay lắm, nhưng cũng có phần nào thoát được lối văn cũ. Những bài thơ hài hước của Tú Xương, hay những bài dịch ngụ ngôn của La Fontaine của Nguyễn Văn Vĩnh, theo ý tôi, rất đặc sắc và có giá trị riêng, tôi rất thích đọc.


Chính giai đoạn này là lúc chớm nở những tài hoa xuất chúng, sửa soạn đi tới một thời kỳ toàn thịnh của nền văn nghệ Việt Nam sau năm 30. Tôi có may mắn được gặp gỡ mấy nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn sau này trong lúc sáng tác của các anh đó còn trong thời kỳ sơ khai – Nhất Linh, Tú Mỡ, Khái Hưng.


Thực ra, lúc còn bé, sự tiếp xúc giữa hai anh em không nhiều. Trong ký ức, hồi đó, anh Tam là một người cao, hơi gầy, mặt xương xương, đôi mắt sâu như tất cả các anh chị em trong nhà. Mắt sâu nhưng sáng, hay nhìn đăm đăm về phía trước. Từ trẻ, anh đã suy nghĩ về nhiều vấn đề mà thường thường, những thanh niên khác không chú ý ngoài việc đi học, đi làm, lấy vợ.


Đặc biệt, người ta hay để ý tới cái mũi của anh, sống mũi cao, đầu mũi hơi to và hiện ra những mạch máu đỏ li ti. Vì thế, rất sớm, anh đã có biệt hiệu là Tam mũi đỏ. Còn một biệt hiệu nữa trong nhà và bạn hữu đặt cho, là Tam muối vừng: không biết vì lười hay cho là ăn như thế mới ngon, anh hay tự giã muối vừng đã rang, rồi từ cối múc ra để ăn cơm. Lại thêm biệt hiệu Tam cối nữa.


Tính tình anh hiền từ, chưa bao giờ tôi thấy gắt gỏng to tiếng, hay cãi lộn với ai, cũng như các anh em khác trong gia đình. Có thể nói hiền lành, ít nói là một đặc tính chung cho chúng tôi.


Tác phẩm đầu tiên của anh là mấy bài dịch thơ Đường đăng trên báo Trung Bắc Tân Văn. Thơ Đường đã có ít nhiều ảnh hưởng đối với anh cũng như đối với các nhà văn nhà thơ Việt Nam. Nhưng anh không có hứng thú làm thơ, mà có hứng thú viết truyện hơn.


Năm 1926, tôi được đọc cuốn truyện đầu lòng của Nhất Linh. Chỉ còn nhớ cuốn sách đó in trên giấy bản, gáy sách đóng bằng chỉ. Là một cậu học trò nhỏ tuổi, tôi chưa đủ trí óc để phán đoán. Truyện một cô gái gặp khó khăn, nhưng hiền hậu đảm đang, cố gắng giúp chồng đỗ đạt, làm nên… thực có vẻ nho phong, tuy chưa thoát khỏi được lề lối cũ, song lối hành văn có vẻ trong sáng hơn, ít sáo ngữ hơn. Có lẽ vì thế nên đặt tên truyện là Nho Phong.


Một buổi chiều (không nhớ là vàng hay tím), tôi cắp sách về tới nhà. Một người bạn đương ngồi trong phòng khách. Ông bạn này người cũng hơi cao, gầy, da mặt ngăm ngăm đen. Đôi mắt rất thông minh, miệng cười có duyên, có vẻ hóm hỉnh. Ông đương rít một hơi thuốc lào, nước kêu lộc sộc, rồi thở ra một cách khoan khoái. Độ ấy, nhiều người hút thuốc lào, kể cả Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Thạch Lam, trong đó Tú Mỡ, Thế Lữ là nghiện cụ. Anh Hoàng Đạo ngoan trai hơn, không thuốc lào cũng không thuốc lá. Lớn lên,\



 17

tôi cũng tập tễnh hút. Phải thú thực, thuốc lào đưa đến cho người ta một thứ say sưa, khoái cảm đặc biệt.


Thoạt trông, anh Hồ Trọng Hiếu có vẻ chất phác, không có gì nổi bật khiến người ta chú ý. Hiền hậu, khiêm tốn, ít nói về mình, ai cũng mến anh. Anh và anh Tam cùng làm trong sở Tài chánh, có lẽ vì tính tình hợp với nhau, nên rất tâm đắc. Nhìn anh, không ai nghĩ đây là một nhà thơ trào phúng xuất chúng sau này.


Không phải là Tú Mỡ chỉ viết sau khi gặp anh Tam. Trước đó anh đã có một số bài thơ đăng trên các báo, hay vài bài tạp ký. Nhưng phải nói là Nhất Linh đã cổ võ anh rất nhiều về sự nên chuyên vào làm thơ trào phúng, và chỉ có qua Phong Hóa, Ngày Nay, tài hoa của anh mới được phát triển đầy đủ và được độc giả ưa chuộng. Tiện đây, xin nói là sau này, khi bắt buộc phải tự kiểm thảo lên án công dân Nguyễn Tường Tam về tội phản động, một mặt vẫn còn đủ can đảm và lương tâm để khẳng định rằng không có Nguyễn Tường Tam thì không có Tú Mỡ và chính Nguyễn Tường Tam đã tạo nên Tú Mỡ. Nhưng, ngược lại, nếu không có Tú Mỡ cộng tác và khuyến khích, thì sự nghiệp văn học của Nhất Linh chắc cũng không thuận lợì như hồi đó, và cũng không có Tự Lực Văn Đoàn sau này.


Có thể vì hoàn cảnh, hai anh lớn -Thụy và Cẩm không có duyên với nghiệp văn chương. Anh Thụy từ giáo viên đổi sang tự học đỗ tú tài, rồi sau thi vào làm một chức tham tá Bưu Chánh ở sở Bưu điện Hà Nội. Còn anh Cẩm thì tốt nghiệp trường Cao Đẳng CanhNông, và đưọc bổ đi làm tham tá tại nhiều nông trường ở miền Nam, ở Lào. Chán đời cạo giấy tại sở Tài Chánh, anh Tam xin vào học trường Y sĩ Đông Dương- lúc đó chưa có trường Y khoa Đại Học- nhưng chắc số anh không phải là đeo ống nghe, tiêm thuốc, vả tâm hồn nghệ sĩ không ăn khớp với cái nghề khô khan không chút thi vị này, anh lại vội nhảy sang học trường Mỹ Thuật Đông Dương.


Nàng Mỹ Thuật có lẽ hợp với anh hơn, vì anh có khiếu về vẽ. Trong trường, anh cũng là một học trò giỏi. Một lần, cùng mẹ, tôi đi xem cuộc triển lãm hội họa của nhà trường tổ chức. Thưởng thức mọi loại tranh từ trên lụa cho tới sơn dầu, thủy mặc. Cuộc triển lãm này cũng là một bước đánh dấu sự phát triển của nền hội họa Việt Nam. Văn học và mỹ thuật cùng chớm nở và trưởng thành trong một thời kỳ, hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên, mà vì xã hội đã hội đủ những điều kiện cho sự trưởng thành ấy.


Mẹ tôi và tôi dừng bước trước một bức tranh truyền thần vẽ bằng bút chì, chân dung một bà cụ già.


- Tranh của anh mày vẽ đấy, có biết vẽ ai không?- mẹ tôi chỉ vào bức tranh hỏi.


Tôi nhìn lại, mới nhận ra là người trong tranh vẽ chính là bà nội mình. Tôi thấy vẽ giống thực và đẹp thực. Mẹ tôi lại gật gù tấm tắc:


-Vẽ giống quá! Tinh thần, tinh thần lắm!


Con vẽ, mẹ khen hay, tưởng cũng tự nhiên thôi.


Hồi ấy, nếu anh Tam cứ theo đuổi nghề vẽ, thì tất có thể trở nên một Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh hay Nguyễn Gia Trí, một nghệ sĩ tài hoa, nhưng lúc đó sẽ không còn nhân vật Nguyễn Tường Tam – Nhất Linh, và không có Phong Hóa, Tự Lực Văn Đoàn. Người ta có lúc không thể không tin ở số phận. Cũng may, lý tưởng chính của anh vẫn là viết văn.




 18

 Năm sau, cuốn Người Quay Tơ ra đời. Một tập truyện ngắn, với nhiều đề tài khác nhau. Lúc đó, tôi đọc, thấy thích thú hơn cuốn Nho Phong. Lối viết đã gọn ghẽ, sáng sủa, ít có văn sáo rỗng tuếch như nhiều tác phẩm đương thời. Đặc tính văn chương đã lộ ra, đó là lòng nhân đạo, vị tha, nhạy cảm trước những éo le, mâu thuẫn của con người. Khuynh hướng xã hội trong văn chương Nhất Linh đã chớm nở.


Đọc Người Quay Tơ tôi thích nhất là mấy bài Nô Lệ, Sư bác chùa Kênh. Chàng nông phu trong Nô Lệ vốn có mấy mẫu ruộng, nhưng sau mất dần vào tay một chủ đồn điền, cuối cùng lâm vào cảnh tá điền phải thuê ruộng để cầy cấy. Chỉ còn chiều đến, đứng dưới chân đồi nhìn lên toà nhà ông chủ mà than: ấy đèn ông chủ, ấy chó ông chủ. Nhà sư trong Sư bác chùa Kênh ngẫu nhiên tìm thấy một số vàng chôn dưới gốc cây, thì, ba năm sau, người ta thấy ông ra ứng cử nghị viên thành phố Hà Nội… số ông không phải đi tu.


Tuy có tiến bộ, nhưng tác phẩm của Nguyễn Tường Tam không được chú ý bằng những áng văn kiểu lãng mạn, trữ tình, khóc than sướt mướt như bài Giọt Lệ Thu khóc chồng của bà Tương Phố, hay cuốn tiểu thuyết Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọc Phách. Ai đã sống qua thời đó, cũng nhớ rằng mấy tác phẩm ấy đã khiến cho bao người, đặt biệt là phái nữ đa sầu đa cảm phải rơi bao nhiêu là nước mắt. Ngay khi tôi đọc Giọt Lệ Thu cũng không khỏi thấy mắt cay cay. Mỗi lần thu sang em lại rầu lòng than khóc- câu văn ai oán này có khi lại vẳng bên tai tôi với tiếng khóc chồng bi đát của thiếu phụ tuyệt vọng. Sao mà bi ai đến thế?


Còn Tố Tâm và Đạm Thủy, một đôi người yêu bị tục lệ phong kiến gia đình cấm đoán không lấy được nhau, cuối cùng đều tự vẫn chết. Cũng tựa như bi kịch Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài ở Trung Hoa hay Romeo và Juliette tại âu Châu. Đông Tây không như Rudyard Kipling nói- vẫn có thể gặp nhau, vì dù ở đâu, cũng có tình người.


Những áng văn rầu rĩ ấy, cũng lạ, ra đời trong lúc mà xã hội đương rung động sau vụ liệt sĩ Phạm Hồng Thái hy sinh tại đầm Bạch Nga, Quảng Châu, nhà chí sĩ Phan Chu Tnnh qua đời, cụ Phan Bội Châu bị bắt và đưa ra toà, cùng những cuộc biểu tình, bãi công khắp nước, đánh dấu cho sự trỗi dậy của dân chúng Việt Nam. Nỗi niềm bi quan trong những tác phẩm kể trên tất nhiên cũng phản ánh những mâu thuẫn có thực trong xã hội, trong những tầng lớp trung lưu hay những tầng lớp đã một lạc, sa sút, và mâu thuẫn giữa quan niệm cổ hủ với quan niệm mới yêu cầu tự do cá nhân. Tình trạng ấy không riêng cho Việt Nam, mà là chung cho nhiều dân tộc trên thế giới, khi ảnh hưởng của nền văn minh Tây Phương lan tràn tới khắp nơi. Cùng với những sự xâm lược bằng vũ trang tân tiến, trên các nước Á Châu hồi đó một nền công nghiệp dựng trên khoa học kỹ thuật mới đã đem lại tầng trí thức càng ngày càng đông đã dễ dàng hấp thụ những tư tưởng quan niệm mới khác hẳn với quan niệm truyền thống phong kiến dựa trên Khổng giáo, nhất là tại Trung quốc, Việt Nam hay Nhật Bản, Đại hàn.


Song An Hoàng Ngọc Phách, tác giả cuốn Tố Tâm, cũng từng nhận xét về ảnh hưởng của thay đổi xã hội tới nền văn chương, mà ông cho thời kỳ này là lúc Âu-Á giao thời. Cùng một thời kỳ 1920-1940, tại Trung quốc cũng đã nẩy nở ra một nền văn học mới, viết bằng lối bạch thoại sáng sủa, khác hẳn với lối viết cổ văn khó hiểu và gò bó trước đây.





 19

Những nhà văn có tiếng thời ấy như Ba Kim -nhà tiểu thuyết, Mâu thuẫn- tiểu thuyết và tạp văn,Lỗ Tấn – nhà tư tưởng, hay Tào Ngu – tác giả kịch Lôi Vũ, cũng đều có những tác phẩm phê phán những lạc hậu, cổ hủ của xã hội cũ và đưa ra những ý kiến cải cách xã hội, mong đưa tới một lối sống rộng rãi, nhân đạo, tự do hơn.


Với tính chất dân tộc đặc biệt của mỗi quốc gia, nền văn hóa có thể khác nhau nhưng cũng là chịu ảnh hưởng của trào lưu tiến hóa chung của nhân loại. Văn học vẫn chịu ảnh hưởng sâu xa và trực tiếp của nền văn hóa Pháp, và cả nền văn hóa Âu Tây, như Đức, Anh, Nga, Mỹ. Mặc dầu thực dân Pháp cố nhồi vào đầu óc người Việt những tư tưởng nô đòi “Nos ancêtres, les Gaulois” (Tổ tiên chúng ta là người Gaulois) – yêu nước Pháp, yêu nhà nước bảo hộ… nhưng chúng không thể không đồng thời nêu ra khẩu hiệu Tự do, bình đẵng, bác ái dính liền với danh hiệu Cộng hòa Pháp. Cũng không thể không mang lại những tên tuổi như Voltaire, Jean Jacque Rousseau, Montesquieu, hay những nhà văn như Lamartine, Victor Hugo, Balzac, Paul Verlaine, Beaudelaire, Romain Rolland, Sartre,v.v… cùng một số tên tại các nước khác như Shakespeare, Byron, Goethe, Tolstoi, Dostoieski và ngay cả Maxims Gorki, Mark Twain…


Do đó, người ta không lấy làm lạ khi, trong nền văn học Việt Nam, đã xuất hiện đủ các khuynh hướng: bảo thủ, hiện thực, lãng mạn – kể cả thứ gọi là hiện thực xã hội chủ nghĩa dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa Mácxít. Trên một khía cạnh nào đó, chính người Pháp đã gieo những mầm mống chống đế quốc, và tự do, dân chủ, nhân quyền trong dân chúng người Việt.


Câu danh ngôn của Ruyard Kipling, một tác giả người Anh :”Đông là Đông, Tây là Tây, Đông Tây không bao giờ gặp nhau”, thực ra chỉ là một suy nghĩ quá cổ xưa.


Lúc ấy, tôi chỉ là một cậu học trò mười mấy tuổi, thích đọc tiểu thuyết đủ mọi hạng. Trước hết, là những bản văn của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, hãy còn mang lối viết sáo và còn thô sơ, rồi những truyện kiếm hiệp khá hấp dẫn. Ngoài ra, tôi còn nhớ được đọc cuốn Tuyết Hồng Lệ Sử dịch ra tiếng Việt. Cuốn này cũng là một tác phẩm sướt mướt, chắc là tiền bối của những áng văn đẫm nước mắt. Bây giờ nghĩ lại, những áng văn ấy đã có ảnh hưởng sâu xa đến đầu các thanh niên nam nữ thời đó – trong đó có cả tôi một độc giả trung thành. Nhiều người đã không khỏi nhiễm những tư tưởng ủy mị, lãng mạn, cá nhân, trong một thời kỳ cần tới ý thức dân tộc, đấu tranh hơn. Tất cả những luồng quan niệm trái ngược trong xã hội đã có ảnh hưởng sâu xa tới thế hệ trẻ nói chung, và tới anh em chúng tôi nói riêng. Ai cũng đều phải suy nghĩ và tìm một con đường cho mình. Có người thì buông mình trôi theo chiều gió, có người hăng hái hơn, muốn góp sức vào việc thay đổi tình trạng sao cho tốt đẹp hơn, lý tưởng hơn.


Chúng tôi ít nhiều cũng thuộc vào hạng người sau. Và anh Tam là con người tiêu biểu nhất, có ý chí, lý tưởng mạnh mẽ và đi tiên phong trong việc thực hiện ý nguyện ấy. Tôi thường thấy anh hay ngồi viết hay suy nghĩ, nhiều khi tới nửa đêm. Thành công trong sự nghiệp văn chương hay xã hội sau này không phải là ngẫu nhiên, tuy lúc đó, anh chưa tìm thấy rõ rệt con đường để đi.




20


Nếu là tiên phong trong công việc văn hoá, thì anh Tam lại là tiên phong trong việc lấy vợ, trước cả anh Cả. Theo ý muốn của bà nội và mẹ, năm 20 tuổi anh đã phải lấy vợ. Cô dâu là con gái một gia đình buôn bán ở đầu phố Cầu gỗ, trông ra bến xe điện Hà Nội – Hà Đông. Trong cuốn Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường, chị Thế tôi đã thuật rất cặn kẽ về đám cưới cũng khá long trọng này. Tôi là một chứng nhân lịch sử mới mười tuổi, hãnh diện trong áo đoạn xanh, và một thẻ bài ngà đeo trước ngực giống như một quan lớn, ngồi trong xe kéo để đi đón dâu. Chú rể ở đầu phố, cô dâu ở cuối phố, quá gần. Thực là:


Thiếp tại Tương Giang đầu, quân tại Tương Giang vĩ,


Tương tư bất tương kiến, đồng ẩm Tương Giang thủy


Câu thơ Đường tôi nhớ mang máng, bèn phỏng theo mà đổi là:


Thiếp tại đầu Cầu gỗ, chàng tại đuôi Cầu gỗ…


Nếu có tương tư thì cũng rất tiện, chỉ cách nhau có năm phút đi bộ. Mà muốn tương kiến thì chỉ cần đi ngang qua cửa hàng cau là thấy mặt nhau ngay.


Cũng vì cách nhau quá gần, nên đoàn xe đón dâu không đi đường thẳng mà lại mua đường, đi riễu phố một vòng qua Bờ Hồ rồi mới quay về nhà. Đám cưới ông Nhất Linh tương lai có khác:


Ngồi lâu hay chóng đối với tôi không quan trọng. Tôi chỉ quan tâm đến sự được ăn cỗ bát: bóng, mực, bồ câu… rất hiếm hoi trong đời. Tối hôm ấy thì có cỗ cưới linh đình đủ các món. Việc lấy vợ cũng có ảnh hưởng đến tương lai anh Tam. Sẵn nghề buôn cau trong tay, chị Tam đã giúp được chồng cáng đáng gia đình, để anh không bị trói buộc vào những công việc khô khan. Rồi, nhờ ở đó và sự giúp đỡ của một hội đoàn, anh có đủ điều kiện để đi du học ở Pháp, một điều anh đã mong ước từ lâu


Theo ý nguyện của anh, việc đi Pháp không phải là chỉ lấy được bằng cấp của Tây, kiếm được việc tốt, mà quan trọng nhất là sang được một phương trời mới văn minh, tiến bộ, mở rộng được tầm con mắt, hiểu biết về thế giới ở ngoài.


Trước khi đi Pháp vào đầu năm 1927, anh bỏ trường Mỹ Thuật vào Sài-gòn rồi đi Nam Vang. Ở đó, anh làm nghề vẽ phông (màn kịch) cho rạp hát để kiếm thêm một số tiền, theo lời chị tôi kể.


Giai đoạn này, gia đình đã dọn tới một căn nhà gác tại Ô Cầu Rền, dưới chợ Hôm, đối diện với trường Yên Thành, và có đường xe điện chạy qua. Một đường phố và cửa Ô đông đúc, náo nhiệt, dân cư phần lớn là thợ thuyền nghèo.


Mẹ tôi và chị tôi lại mở một cửa hàng tạp hoá, bán đủ các thứ, từ gạo đến nước mắm, nến hương. Tôi thì đi học tại trường Hàng Vôi, mỗi hôm phải đi bộ mấy lượt. Hôm nào cũng đi qua mấy phố Tây, phủ Thống sứ, khách sạn Métropole sang nhất Hà Nội, vườn hoa Paul Bert với bức tượng tay thực dân này. Vườn hoa con Cóc trông ngộ nghĩnh hơn, với những con cóc phun nước ngay trước cửa nhà băng Đông Dương. Thỉnh thoảng có thì giờ, tôi và mấy bạn học rẽ sang bờ Hồ Gươm, đứng trên cầu Thê Húc ngắm làn nước xanh như rêu. Hay quay sang phố Tràng Tiền, phố đẹp nhất thời đó, dán mũi vào những tủ kính bày hàng của nhà Gô-Đa (tức tổng hợp bách hoá). Cuối phố, Nhà Hát Tây – sau






 21


gọi là Nhà Hát Lớn- thực ra không đồ sộ lắm, nhưng dưới mắt chúng tôi, là toà kiến trúc đẹp nhất Hà Nội.


Ngã tư Tràng Tiền với phố bờ Hồ có thể cho là một góc hiện đại nhất của thành phố hồi ấy. Buổi tối những ngày nghỉ, đó là nơi dạo gót tất yếu của thanh niên nam, nữ. Nếu chỉ nhìn bề mặt, thì thực là một cảnh thanh bình, trai thanh gái lịch vô tư lự. Nhưng đối với những người biết suy nghĩ một chút, thì không thể không nhìn thấy cảnh những ông tây bà đầm phè phỡn, ngạo mạn, những tay cảnh sát đeo dùi cui ngạo nghễ đi tuần, và cảm thấy có cái gì căng thẳng, nặng nề. Tuy còn là học trò tiểu học, chúng tôi cũng đã có cảm tưởng như vậy, và chắc còn nhiều người nữa. Số người thương nữ bất tri vong quốc hận chắc là không đông. Thực ra, tôi cũng không rõ lắm về hoạt động của anh Tam hồi trước khi đi Pháp. Có tác giả đã viết anh từng gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng. Điều này không chính xác vì năm 1926 Việt Nam Quốc Dân Đảng chưa thành hình, chỉ có Nam Đồng Thư Xã. Song có thể anh đã gia nhập một nhóm bí mật nào, và để tránh bị khủng bố, phải rời vào Nam. Năm 1926, một số tổ chức như Phục Việt Tân Việt Cách Mệnh Đảng, hay Việt Nam thanh niên Cách Mệnh đồng chí hội đã bắt đầu hoạt động.


Hoạt động Cách Mệnh cùng hoạt động văn hóa đều đã bắt đầu mạnh mẽ hơn, đó Ià đặc điểm quan trọng nhất từ 1925 trở đi.


Trong lúc đó, du học Pháp là một mốc quan trọng trong đời anh Nguyễn Tường Tam, có ảnh hưởng sâu xa tới sự nghiệp văn hoá và chính trị của anh sau này.




Chương 3 ==
Gia đình chúng tôi trong thời kỳ sôi động

( 1927 – 1931 )


Lại một đám cưới nữa. Lần này tôi được trang sức bằng áo gấm và ngực đeo khánh vàng (tất nhiên là vàng giả), cùng ngồi trên xe kéo để đi đón dâu, song không cần đi vòng quẹo nữa, vì nhà gái ở tận ấp Thái Hà, khá xa, trên con đường đi Hà Đông. Người em thứ ba đã cưới vợ rồi, thì hai ông anh nghĩ sao đây?


Anh Cả đâu chịu lạc hậu mãi. Lại một cuộc hôn nhân do mối manh, không có gì gọi là tự do luyến ái cả. Anh kể lại, đi xem mặt chỉ thoáng một lát, chưa trông thấy rõ mặt, chỉ thấy người cũng tròn trặn, phúc hậu, thì cũng bằng lòng rồi. Một điều kỳ cục là mấy ông sau này hăng hái bênh vực tự do luyến ái lại toàn là lấy vợ do gia đình xếp đặt cả. Có lẽ vì thế họ vẫn hằng mơ tưởng một cuộc tình lãng mạn thực sự.


Hôm đó, đoàn xe khá dài, riễu phố khá lâu, mãi tới quá trưa mới về tới nhà. Trong ký ức tôi, chị Cả là một phụ nữ hiền lành, ít nói. Chồng đi dạy học xa, chị chỉ sống loanh quanh trong nhà. Tôi biết lờ mờ là chị sống trong chịu đựng, vì những xung đột có khi vì những so bì rất nhỏ mọn, giữa mấy thế hệ.





22


Hơn năm sau, vì đẻ khó, chị đã từ trần ba ngày sau khi sanh ra một cháu gái. Thiếu mẹ, đứa bé cũng theo mẹ luôn ba tháng sau đó. Bà mẹ chị, theo lời chị tôi kể, đã khóc con rồi khóc cháu rất thảm thiết, khóc hết nước mắt, vì chị là con một.


Sau đám tang của thầy tôi, đây lại là hai đám tang nữa. Tuy còn nhỏ, nhưng tôi không khỏi cảm thấy ngậm ngùi. Chị Cả, như là một cái bóng đau thương vụt qua rất nhanh trong đời sống gia đình.


Anh Cả cùng một lúc, đã mất cả người vợ và đứa con. Một hôm, ngẫu nhiên trong một cuốn sách để trên bàn của anh, giở trang đầu, tôi đọc một câu viết tiếng Pháp.


Me plonger dans l’étude comme dans une mer d’oublie.


dịch nghĩa


Trầm mình trong học hành như trong một bể lãng quên.


Từ đó, anh đã vùi đầu học hành để thi lấy bằng Tú Tài Tây. Vì cố gắng, anh đã thi đỗ, vài năm sau anh vào làm trong sở Bưu-chánh Hà Nội. Đời sống được sung túc hơn. Dù thế nào, cũng cần quên đi quá khứ. Lại nhờ mối manh, anh đã tục huyền. Anh đi xem mặt ở cửa hàng sách. Cô gái tuy hơi nhỏ, thấp nhưng cũng xinh xắn dễ coi, hai người đều bằng lòng.


Chị Cả hai này, tôi thấy có vẻ vui tính, hay nói hơn chị Cả trước. Và lần này, anh Cả tôi đã gặp may mắn hơn, gia đình con cái đầy đàn đến nỗi tôi không nhớ nổi tên của mỗi cháu, trừ mấy cháu lớn. Cuộc hôn nhân này mỹ mãn và dài lâu. Vậy thì còn anh Hai ra sao? Dạo đó, anh đổi vào Sàigòn làm việc và kết hôn ở đó. Chị Cẩm người cũng thấp nhỏ và hiền lành, sau sanh một cháu gái.


Nhiều khi tôi thấy ái ngại cho anh, những lúc trở giời, đổi sang lạnh hay nóng. Lúc ở căn nhà đường Giám, anh thường hay lên cơn suyễn, ho sù sụ và tức thở, chảy cả nước mắt, nước mũi, mặt có khi đỏ gay, khi trắng bệch. Lúc đó, anh phải đốt một thứ xì gà thuốc để hít lấy hơi, dần dần mới hạ được cơn. Có lúc anh phải tự tiêm một ống thuốc, hay nhờ anh Sáu (Vinh) tiêm hộ. Về sau, anh lại trở vào Nam, vì ở đó khí hậu ấm hơn, cơn bệnh giảm bớt.


Anh Cẩm hơi khác chúng tôi ở chỗ cao lớn hơn một chút, mặt vuông. Anh thuộc hạng người dễ dãi, điềm đạm, không nói nhiều. Vì anh hay xa nhà, tôi lại còn quá nhỏ, nên anh em ít trò chuyện với nhau. Nhưng tôi biết, anh cũng thích viết, và có khiếu về viết, như sau này trong báo Ngày Nay họa ảnh. Hoàn cảnh đã khiến anh trở thành một nhà báo, nhà văn… lâm thời, trong một thời gian ngắn ngủi mà thôi.


Con người có đời sống quy củ hơn cả trong gia đình, phải kể anh Long (Hoàng Đạo), ít ra dưới con mắt tôi. Một chàng trai khôi ngô, trắng trẻo, học giỏi, tính cách bình dị. Cũng như đa số anh em, anh không màng công danh, lợi lộc. Từ trường Luật ra, anh không xin làm quan như một số bạn học. Thời đó, nếu muốn một chân tri huyện, tri phủ, chắc cũng không khó gì lắm, chỉ cần quen thuộc với vài mánh khoé trong quan trường. Trong anh em chúng tôi, không ai thích làm quan, và cũng không thích quan. Chúng tôi không thích quan liêu, quyền qúy, cũng như trọc phú chỉ biết trục lợi, không thích tnều đình phong kiến và những kẻ cộng tác với bọn thực dân.




23


Anh Long không khỏi chịu ảnh hưởng của luồng tư tưởng ái quốc. Tôi không rõ anh có gia nhập hay có liên hệ với tổ chức Cách Mệnh nào, nhưng chắc chắn là đã bị đương cục thực dân nghi ngờ nên đã bị đổi đi tận Đà Nẵng, miền Trung, làm tham tá lục sự. Một năm sau, anh lại đổi về Hà Nội giữ việc tham tá ở toà án. Buổi tối hay ngày nghỉ, anh thường hay đọc sách, nghiên cứu về xã hội, chính trị nhiều hơn là về văn chương. Người sống bình thường nhất và thầm lặng hơn cả trong gia đình, là người con gái duy nhất – chị Thế. Truyền thống trọng nam khinh nữ vẫn còn trong thời kỳ này. Trong lúc gia đình gặp khó khăn, chị không được đi học nữa và về nhà giúp mẹ trong việc buôn bán. Phận con gái thường thường là thế, không có gì lạ, cũng phải chịu đựng thôi. Thế nào rồi cũng đi lấy chồng, sinh con đẻ cái. Chị cần cù, đảm đương mọi việc trong gia đình, đã giúp đỡ không ít để các anh em yên tâm học hành, làm việc. Ít khi thấy chị than phiền hay gắt gỏng điều gì. Nhưng đối với các anh em lớn nhỏ, bao giờ chị cũng chân thành, quan tâm, dù ở trong cảnh huống gia đình khó khăn, thiếu thốn. Ở căn nhà phố Giám, tôi cũng không nhớ rõ anh Sáu (Vinh) học gì hay làm gì. Chỉ nhớ, một hôm, anh đứng ở phòng khách dưới nhà, đương nhồi thuốc lào vào điếu, sửa soạn hút một hơi thì mẹ tôi ở trên gác xuống.


Tôi và bà nội ngồi ở trong, lúc đầu không nghe rõ hai người nói gì, nhưng sau dần dần thấy mẹ tôi to tiếng hơn:


- Lâu nay không biết mày làm gì? Nhà đương túng bấn mà sao không mang được một đồng về?


Có lẽ vì anh bỏ trường rồi chưa làm việc gì. So với các anh lớn có thể anh không làm cho mẹ vừa lòng lắm. Hai mẹ con cãi cọ một lúc, rồi không biết tại sao cả hai đều khóc. Ngạc nhiên, chúng tôi chạy ra ngoài.


- Con xin lỗi mẹ, con sẽ đi làm


Anh vừa nói vừa gạt nước mắt, trông cũng đáng thương. Chắc anh nghĩ rằng mình cũng chưa làm gì để giúp mẹ.


- Ừ, thì, mẹ cũng tha lỗi cho con. Nếu muốn đi học, thì dù thiếu thốn, cả nhà cũng sẽ giúp.


Bà tôi đứng bên cũng phải rơi nước mắt. Lúc đó, mới thấy anh châm thuốc lào để hút.


Anh Sáu cao hơn các anh em, cũng mắt sâu và ngang, lông mi dài, mặt trông hao hao giống như Tây lai… đẹp trai nhất nhà, mà cũng tài hoa nhất nhà – không phải là tài năng của anh cao nhất, mà là về âm nhạc, thể dục anh rất có khiếu, đánh quần vợt giỏi, bóng bàn cũng giỏi, và chơi cờ tướng cũng cao. Người thông minh, học giỏi, mọi anh em trong gia đình Nguyễn Tường được người ta khen là học giỏi – nhưng chỉ học hai năm, anh đã đỗ bằng Thành Chung. Có người tặng thơ như sau:


Gửi lời mừng bác Nguyễn Tường Vinh.


Đúng bác thần đồng bọn học sinh
Năm trước vừa đến kỳ tốt nghiệp
Năm sau liền đỗ bậc Chung Thành.
Văn hay phúc ấm nhờ tiên tổ,





24

Cũng bởi công phu gắng học hành. Điều lạ hơn cả, anh không phải là gạo suốt ngày đọc sách. Gần đến ngày thi, ban tối, anh đốt cái đèn Hoa Kỳ con trong màn để tránh muỗi, học đến quá nửa đêm.


Anh Sáu vốn là đa sầu đa cảm, dễ rung động trước đau khổ, bất công của đời người, điều này ảnh hưởng tới việc sáng tác của anh về sau.


Đa sầu đa cảm, cũng là tính nết chung của anh em, vì vậy mới thích viết văn, nhưng cùng lúc chúng tôi có những điểm chung nữa là hay suy nghĩ và ưa đưa những điều suy nghĩ sang hành động… Những tính nết chung này sẽ quyết định tương lai của chúng tôi.


Hồi đó, vì sinh sau đẻ muộn, mới mười mấy tuổi, nên tôi bị coi là một chú bé không hiểu gì về cuộc đời, ngoài việc cắp sách đến trường. Có lẽ vì trong nhà thiếu một người cha, nên chẳng có ai quản giáo tôi cả, thành thử tôi gần như hoàn toàn tự động tự giác. May mà tôi cũng thuộc vào hạng trò ngoan, học thì cũng khá, nhất là về tiếng Pháp, còn được giải thưởng danh dự toàn trường Hàng Vôi, ra nhà Hát Lớn lãnh thưởng – một chồng sách cao phải khó nhọc lắm mới vác được xuống bục.


Không rõ tại sao, qua việc đọc những tác phẩm thời ấy, tôi cũng thấy ngứa tay, và viết bừa ra mấy truyện ngắn khi còn 11 -12 tuổi. Cố nhiên, đặt đầu đề rất kêu, theo mốt lúc đó như Một Kiếp Người và Bóng Chiều Trên Mặt Biển, nhưng không hoàn tất được vì hết vốn và bận thi… phải quăng bản thảo vào một ngăn kéo. Không ngờ, một hôm mấy anh lôi ngăn kéo, tò mò lấy ra xem. Ai cũng cười lăn cười lộn, chỉ có anh Long là gật gù tấm tắc. Sau đó, anh cho biết là anh tán thưởng nhất một đoạn tôi viết về đi chơi cô đầu, trong đó có câu:


- Nào, em xăng-tê với quan nào!


Xăng-tê dịch âm từ chữ Pháp “santé” sang, có nghĩa là mời rượu, chúc sức khỏe, một tiếng người ta hay dùng, và tôi đã học mót từ một cuốn truyện nào đó, và đi cô đầu, thì khách nào cũng được phong làm quan tuốt. Chữ nhà xăng-tê lúc đó còn có nghĩa là nhà tù… có nghĩa là ở đó bị hỏi thăm sức khỏe…


Sau 1925, là một giai đoạn rung động mạnh trong xã hội Việt Nam, và cũng rung động đến cả tầng lớp học sinh nhỏ. Không nên nghĩ là học trò chỉ biết đọc sách, làm bài hay đá cầu. Những tiếng đồn về các hội kín chống Pháp, về những truyền đơn bí mật như tờ Hồn Nước, in bằng thạch mà chúng tôi truyền nhau đọc, những cuộc bãi công, biểu tình, cái tên Nam Đồng thư xã v.v… đều ít nhiều khơi dậy lòng yêu nước của những tâm hồn trẻ thơ.


Vụ ám sát tên Bazin, một người Pháp chuyên mộ phu đi các đồn điền cao su và đất Tân Thế Giới – Caledonia, Tahiti xa xăm, làm giầu trên mồ hôi và máu của bao nhiêu dân Việt cùng khổ, cũng chấn động cả Việt Nam lúc đó. Hành động này tất nhiên phải từ một tổ chức bí mật mà ra. Hai tiếng hội kín thần mật rất có sức hấp dẫn đối với những đứa trẻ. Và một bầu không khí đặc biệt hình như đè nặng trên thành phố Hà Nội. Một hôm, cùng đi với một bạn học, trên bờ hồ Hoàn Kiếm, anh chỉ cho tôi một toà nhà hai tầng bờ bên kia, tại phố hàng Trống. Trên cửa, một bảng lớn ghi tên Hanoi Hôtel – Khách sạn Hà Nội.


- Hiệu ăn cơm Tây mà, có gì lạ? tôi hỏi.




25

Trông thì cũng chẳng khác gì những tiệm cơm khác. Anh bạn nhìn tôi một cách thần bí, rối ghé vào tai tôi:


- Của… của Việt Nam Quốc Dân Đảng đó!


Tôi ngạc nhiên. Việt Nam Quốc Dân Đảng? Đây là cơ sở liên lạc của một tổ chức Cách Mệnh? Nhưng sao lại ở ngay gần bóp Cảnh sát Hàng Trống? Một bóp lớn, nhiều cảnh sát, mật thám ra vào. Có lẽ càng gần cảnh sát, người ta càng không chú ý chăng?


Sau đó, không bao lâu, Hanoi-Hôtel đã đóng cửa. Năm 1929, tôi thi vào trường Bưởi – tên chính thức là Trung Học Bảo Hộ. Chỉ có mỗi con đường này thôi, vì nếu không thi đỗ tất phải theo học tại những trường tư thục, như Thăng Long, Gia Long, vừa tốn tiền vừa không dễ thi lấy được bằng Thành Chung. Còn trường Albert Sarraut – trường trung học cao cấp, thì rất khó xin vào, tiền học rất cao, thường chỉ có người Pháp hay một số ít gia đình giàu có đặc biệt mới có con em vào học. Trường Albert Sanaut là một trường hỗn hợp cả học sinh trai và gái. Ngoài ra, thời đó còn có những trường riêng cho nữ sinh như trường hàng Bài hay trường Félix Faure ở gần Cột Cờ.


Nói đến Cột Cờ, ở Hà Nội ai cũng biết, đây là một cái đài cao độ mười lăm mét, là chỗ cắm cờ tam tài, biểu hiệu cho nền thống trị Đại Pháp. Nó khiến cho người ta suy nghĩ tại sao ở đất nước mình lại không thấy có một lá cờ Việt Nam nào, mà toàn cờ của Tây? Cột Cờ còn được người ta chú ý là vì, ngay bên cạnh, có bãi đá bóng gọi là sân Mangin… Người Hà Nội thích xem đá bóng tròn, thường thường người xem đứng chật ních khi có những trận nẩy lửa. Trong những khán giả tích cực ấy cũng có tôi. Găng nhất là những trận đấu giữa một đội banh người Việt với đội người Pháp – thường là đội của nhà binh- rất gay go, vì những tiếng reo hò của khán giả người Việt rất đông làm át cả phía người Pháp, bất kể thua hay thắng. Đây có phải là một lối trả thù dân tộc không? Trường Bưởi gồm mấy toà nhà ba tầng, quét vôi màu vàng, nằm ngay bên cạnh Hồ Tây, và một bên là đường xe điện chạy lên Bưởi. Từ đường Quan Thánh đi lên, một bên là phủ Toàn Quyền, với đằng sau là vườn Bách thú (tên gọi hồi ấy). Một chòi lính canh sơn màu tam tài đứng ngay cạnh lối vào vườn. Ở đây có những lối đi rộng, hai bên trồng cây um tùm. Giữa vườn, trên một gò nhỏ, có chuồng hổ, chuồng khỉ, và chim. Chỗ này hấp dẫn được một số du khách, cũng là một nơi hẹn hò tốt của những đôi nam nữ.


Nếu rẽ sang bên Hồ Tây, thì qua đền Quan Thánh, sẽ bước vào con đường lịch sử: đường Cổ Ngư, nằm giữa hai mặt hồ Trúc Bạch và hồ Tây. Con đường nên thơ này không rõ có từ bao giờ, nhưng hồi đó nó đã là một chỗ dạo chơi của người Hà Nội, nhất là về mùa hè nóng nực, là một nơi để bơi lội. Chiều tối nhiều cánh buồm phất phơ trên mặt nước mênh mang mãi tới rặng cây Nghi Tàm xa xa – một cảnh tượng êm đềm. Người thi vào trường Bưởi rất đông, nhưng năm đó chỉ chọn lấy 130 người. Hy vọng mỏng manh, gia đình khuyến khích thì tôi đi thi xem sao, không ngờ lại may mắn trúng tủ tôi đỗ với số 28, nhờ ở bài Pháp văn.


Để đón tiếp ngày vào trường, ở nhà may cho một cái áo dài trắng và một áo the mới. Dạo đó, chưa có mốt mặc quần áo tây. Thành ra, học trò nào cũng súng sính như những ông đồ nho, trông đạo mạo như ông cụ non.





26

Ngày khai trường, học trò mới qua cổng lớn tụ tập ở sân trường, giữa những gốc bàng và gốc sấu cao. Người đầu tiên chúng tôi gặp là một ông giáo sư Pháp cao lênh khênh, cưỡi một cái xe đạp không tương xứng với thân hình. Nhưng ông này xem có vê thân thiện, mỉm cười trước những học trò còn ngơ ngác. Sau này mới biết tên là Foulon, giáo viên địa dư và lịch sử.


Một ông khác mập hơn, vẻ mặt nghiêm khắc hơn, tới bắt chúng tôi xếp hàng và đứng im để đợi viên hiệu trưởng tới huấn thị. Chúng tôi đã nghe đồn ông Autigeon có tiếng là nghiêm khắc khó xơi, nên hồi hộp đứng chờ.


Một lát, một người mập, to ngang, mặt tròn từ trong bước ra thềm. Mọi người đều răm rắp bỏ mũ. Hiệu trưởng đưa mắt gườm gườm ngang trên đám học trò mới rồi cất giọng nói ồm ồm không chút cảm tình, về kỷ luật, về những điều phải tuân thủ. Không biết những bạn khác nghĩ ra sao, chứ riêng tôi thấy khó chịu và cả không khí chung quanh nặng nề khó thở. Một bầu không khí thực dân… tôi nghĩ. Tôi liên tưởng đến những truyền đơn, báo bí mật và những tiếng đồn về các hội kín chống Pháp. Trong đầu óc tôi, Autigeon, tuy chỉ là một ông đốc trường, nhưng cũng là một nhân vật tiêu biểu đáng ghét. Từ ngày ấy, đối với nhà trường, tự nhiên tôi đã không có thiện cảm.


Cũng như mấy anh lớn trước đây, tôi đến trọ ở nhà một ông cụ trong làng Bưởi. Ở đây, thường thường được ăn cá tươi do ông bắt được bằng đinh ba, ban đêm – vì chính ông lại là người coi cá ở hồ này. Ở đây, một bạn học năm thứ ba có đến tìm tôi và đưa một tờ truyền đơn ký tên là thanh niên ái quốc rủ tôi vào một tiểu tổ lúc đó thành lập ngay trong trường. Tôi tỏ ý tán thành. Anh hẹn sẽ liên lạc sau này khi có công việc cần làm. Nhưng sau, tình hình khẩn trương. Mật thám đã chú ý khắp nơi, và mọi tiếp xúc đều phải tạm ngừng. Không bao lâu sau, là cuộc khủng bố lớn đối với Việt Nam Quốc Dân Đảng. Từ đó, tôi không gặp lại người bạn ấy, và nghe nói có mấy người lớp trên bỏ học.


Về thành tích học hành, thực ra tôi không đến nỗi kém quá, nhưng tôi cũng không là một học trò ngoan. Cùng lớp, tôi nhớ có anh Đinh Gia Trinh, một học trò giỏi, viết bài tiếng Việt cũng rất hay. Thầy giáo dạy tiếng Pháp ông Ch…, lại trông như một ông đồ nho trong bộ áo the dài, và khăn xếp, đeo kính trắng: ông vẫn ưa tôi về Pháp văn. Song một lần, không hiểu tại sao, tôi lại giở chứng, muốn châm chọc một chút. Đầu đề bài luận ông ra là: “viết bức thư cho ông bố ở xa.”


Trong bài viết, ngoài hỏi thăm ông bố ra, tôi thêm câu “chắc thầy được dạo cảnh sông Hương núi Ngự tuyệt vời rất thích thú”, và câu sau này trong tái bút:


“Thầy không phải lo cho các con, vì chúng con khi rỗi thường vẫn dạo chơi bên bờ hồ Hoàn Kiếm, nhìn người qua lại, trong đó có những thiếu nữ mặc quần trong như thủy tinh…” (nguyên văn tiếng Pháp: des jeunes filles aux pantalons transparents comme de verre)


Đến tận bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại tinh nghịch và bạt mạng như vậy, không nghĩ đến ảnh hưởng. Tức thì, chấm bài xong, ông giáo mang bài tôi ra đọc trong lớp như một gương xấu, phạt tôi một ngày, chủ nhật phải về trường ôn tập, và phê một câu trên bài “Anh lớn gan thực (vous avez du cran!)”. May mà ông cũng còn thương, chưa đưa lên ông giám thị! Nhưng bài đó, chắc cũng được nhiều người bàn tán.




27

Chính trong những ngày đó, anh Tam từ Pháp trở về với cái bằng Cử nhân Vật lý học. Một nghệ sĩ mà lại đi học môn khoa học chán ngắt này? Đáng lẽ, anh nên học khoa văn chương, như Nguyễn Mạnh Tường chẳng hạn. Nhưng nghĩ cho cùng, tốt nghiệp môn gì thì cũng vậy thôi. Tôi nghĩ điểm chính là anh đã tốt nghiệp tại Đại Học xã hội Pháp, đã được nhìn thấy tận mắt một nền văn minh tiền tiến và dân chủ, đã hiểu thấu thế nào là tự do, bình đẳng, bác ái – khẩu hiệu mà bọn thực dân Pháp dù không muốn, cũng phải đưa ra, ngay trong các nước thuộc địa. Khẩu hiệu này thực là khôi hài, đối với dân các nước bị trị.


Qua sự tiếp xúc với nền văn hoá, nghệ thuật của nước Pháp, với bộ óc nhạy cảm, anh học được nhiều kinh nghiệm và nẩy ra quyết tâm làm thế nào để cải cách xã hội Việt Nam. Người du học ở Pháp về không phải là ít, nhưng có hoài bão lớn và có quyết tâm hành động, cũng không bao nhiêu. Không phải ngẫu nhiên mà sau này Nguyễn Tường Tam đã trở thành Nhất Linh.


Đường Giám. Một ngày tháng 2 năm 1930. Đầu xuân, trời hơi lạnh. Buổi tối, độ chín mười giờ. ánh sáng vàng khè của mấy ngọn đèn điện lù mù chiếu trên đường phố vắng tanh. Bên kia đường, dẫy tường gạch, đằng sau là Văn Miếu tối om om. Bà, mẹ tôi đã đi ngủ. Nhớ lại, còn ngồi trên gác đọc sách có anh Tam, anh Sáu và tôi. Anh Cả đi làm ca đêm vắng nhà. Chung quanh im lặng. Bỗng, đột ngột, vẳng từ xa đến mấy tiếng nổ, xem ra lớn hơn tiếng súng thường. Tiếng gì đây, mọi người sửng sốt. Súng? Bom, tạc đạn? Trong thời kỳ bất thường này, chúng tôi nghĩ ngay đến một cuộc nổi dậy. Anh Tam chạy ra phía cửa sổ, hé mở cánh cửa nghe ngóng. Vài tiếng nổ thêm, lác đác. Trong thâm tâm, chúng tôi hy vọng đây sẽ là một cuộc tấn công lớn của Cách Mệnh, đều khát vọng cuộc khởi nghĩa sẽ đưa tới chấm dứt sự thống trị hung tàn của thực dân, giành được độc lập tự do cho dân tộc. Tiếng nổ hình như vọng tới từ trên, phía bờ sông.


Nhưng rất nhanh, im lặng lại trở lại. Chung quanh có tiếng xì xào. Có người chạy ra ngoài đường để quan sát. Nhưng qua độ mươi lăm phút, đã thấy tiếng ồn ào khắp nơi. Rồi đến những tiếng quát tháo chung quanh, tiếng gót giầy nặng chình chịch từ phố bên tới. Vội vàng, chúng tôi đóng cửa sổ lại. Qua khe cửa, thấy một tốp lính cao lớn -chắc là Lê Dương (légion – lính đánh thuê) chạy rầm rập vào phố, dừng lại, xem xét chung quanh, rồi cắt lính cầm lưỡi lê gác đầu và cuối đường. Anh em chúng tôi chờ một thời gian, không thấy có động tĩnh gì khác, lại đặt mình xuống giường. Không ai nói với ai một câu nào, nhưng đều biết là suốt đêm trằn trọc không ngủ được. Có lẽ ai cũng đã cảm thấy thất vọng sâu xa.


Buổi sáng sớm, anh Thụy mới về đến nhà. Anh nói là trên đường phố vắng ngắt, vì vừa mới giải nghiêm. May anh có tấm căn cước nhà Bưu Chánh cấp cho, nên cũng thuận lợi trên đường.


Hôm sau, nới biết là mấy nhà Cách Mệnh đã ném tạc đạn vào bóp cảnh sát Hàng Đậu, định chiếm một số vũ khí, nhưng đã không thành công, và hai, ba người đã bị bắt. Mặc dầu thất bại, nhưng tấm gương anh hùng ấy vẫn luôn luôn in mãi trong trí óc anh em chúng tôi. Rồi sau, biết tin cuộc khởi nghĩa Yên Bái oanh liệt đã bị bọn thực dân đàn áp một cách tàn bạo, dã man. Bao nhiêu án tử hình, khổ sai đè lên đầu những người Việt




 28

bất khuất. Và bao nhiêu biểu tình, bãi công khác của thợ thuyền, nông dân cũng đã bị đàn áp. Bọn đế quốc thực dân với sự hợp lực của bọn tay sai người Việt đã tàn sát, hành hạ những phần tử đi tiên phong cho hạnh phúc của dân tộc, trong giai đoạn tàn khốc 1929-1932.


Không ai có thể quên những điều trên, và cũng không có quyền quên. Những tấm gương quật cường và hy sinh cao cả của bao anh hùng liệt sĩ đã ảnh hưởng mạnh tới toàn dân, đặc biệt tới lớp trẻ giàu lòng nhiệt tình, và kích thích tất cả đứng lên chống mọi khó khăn, vì dân, vì nước.


Tinh thần này không những sẽ phản ảnh trong các cuộc Cách Mệnh sau này, mà còn sẽ phản ảnh về các lĩnh vực văn hoá, xã hội. Nếu không có tinh thần này, thì nói riêng, cũng sẽ không có Nhất Linh, Phong Hóa, Tự Lực Văn Đoàn. Không có một tâm hồn cao thượng, vị tha, thì sẽ không có những tác phẩm có giá trị chân chính, và nếu có chằng qua là để cho người ta đọc sách mua vui một vài trống canh mà thôi.


Filed under: HỒI KÝ - BÚT KÝ, Nguyễn Tường Bách: Việt Nam Một





== Chương 4 ===
Trại Cẩm Giàng – Phong Hóa

Bà Nội mất
1931.



Suy nghĩ vài tháng rồi, tôi lấy một quyết định mạo hiểm: bỏ học về nhà. Tôi sợ nói ra, mẹ tôi và các anh chị sẽ phê bình tới tấp và sẽ ngăn cản. Vì có ai dại mà đi bỏ một trường học tốt như vậy, không dễ thi vào. Và nếu tự học thì có làm nổi không, bằng Tú Tài đâu phải là dễ lấy, mà tôi lúc này mới lên năm thứ hai.


Khác hẳn với dự đoán của tôi, các anh tôi chẳng ai cho là việc đáng bàn, còn mẹ tôi sau khi do dự, cũng bằng lòng:


- Ừ, thì mày về nhà mà học lấy. Nhưng phải chăm mới được!


Bà sợ tôi về nhà lêu lổng, nhưng cũng tin ở khiếu học hành của các con.


Tôi vác đơn xin thôi học, không ngờ, một ông giáo người Pháp xưa nay có tiếng là ác, bắt học trò phải ngồi im như phỗng trong khi ông giảng lịch sử, và bị tôi ghét nhất, xem đơn của tôi lại tỏ ra rất ân cần, giữ tôi ở lại:


- Anh có gì khó khăn? Anh là một học sinh giỏi, có tương lai mà! Đừng nên bỏ trường! – Ông nói.


- Thưa ông, vì gia đình tôi phải dọn về quê, nên rất tiếc không đi học ở đây được nữa- tôi vin cớ giải thích.


- Đáng tiếc thực. Sau này, có dịp trở lại, tôi sẽ nói với ông hiệu trưởng.


Lúc này, tôi không thấy ông đáng ghét như trước. Thì ra, chỉ nhìn qua bề ngoài, không thể hiểu được tính cách của con người.


Sự thực, cớ chính là tôi ghét không khí nhà trường và cũng vì muốn tránh gò bó, hãy được tự do bay nhẩy đã, vì bản tính tôi cũng lười.




29



Ngày đó, nhờ dành dụm được ít vốn liếng, và các anh lớn giúp một phần, mẹ tôi đã gắng thực hiện nguyện vọng một đời của mình: có nhà, có vườn, có ít mẫu ruộng. Trở lại đất Cẩm Giàng, bà mua được mấy thửa ruộng gần nhà ga, ngay bên cạnh đường xe lửa.


Căn nhà chính bằng gỗ, trát vách, kiểu mới cao ráo, có hiên bốn bên, mái lợp tranh rất dầy. Tuy nhỏ, nhưng cũng đủ phòng khách, bàn thờ, phòng ngủ. Chung quanh trồng những luống tóc tiên, hoa cúc, cây đào. Ngoài vườn, bắt đầu trồng cây ăn quả chuối, na hay ổi.


Bên cạnh, là hai căn nhà ngang thấp hơn, lợp tranh, là phòng ngủ, bếp. Đằng trước, trồng hàng rào tre, đằng sau, trông ra cánh đồng thẳng tắp đến tận những làng xa. Cũng vắng vẻ cô quạnh, nếu không có một nhà láng giềng và ngôi trường tiểu học bên cạnh, ban ngày học trò ra vào đem lại một chút náo nhiệt. Nơi này là chỗ tốt nhất để tĩnh dưỡng, ôn tập bài vở.


Mỗi ngày có mấy lần tàu lên tàu xuống chạy ngang qua cổng nhà. Trẻ con thường chạy ra cổng để ngó xem, đến tận lúc con tàu đã khuất bóng sau rặng tre, chỉ để lại làn khói trắng bay lên trời. Đêm đến, khi tiếng còi tàu cuối cùng và tiếng bánh xe rầm rập rên đường sắt đã mất dần ở xa rồi, chỉ còn nghe thấy muôn tiếng côn trùng rỉ rả chung quanh trại – bao nhiêu đời cũng vẫn thế.


Thêm tôi về ở Trại Cẩm Giàng, bà mẹ và chị tôi đều mừng rỡ và bớt vắng vẻ. Tôi mua đủ các sách giáo khoa để tự học, kể cả cái tiếng Anh xa lạ. Buổi chiều, học xong, dạo chơi theo đường sắt, nghe gió thổi vu vu qua cột giây thép, hay đến ngồi dưới bóng cây đa mâm sôi ngắm ra đồng ruộng. Những ngày gặt hái tấp nập, tôi cũng theo mọi người ra ruộng. Lúc nghỉ cùng ăn cơm nếp hành mỡ thơm nóng với những người dân quê chất phác. Mùa lạnh tới, mưa phùn gió bấc tạt ngang trên các gốc rạ đồng khô, không gì dễ chịu bằng chui vào ổ rơm ấm áp.


Đêm ba mươi Tết, anh em ở Hà Nội về, quây quần trước mấy thùng bánh chưng, thức suốt đêm để nấu. Tối hôm ấy, các bà, các chị bận tấp nập về việc làm cỗ, bầy bàn lễ tổ tiên, hương nến sáng trưng lẫn với mùi thơm ngát của bát thủy tiên, của hoa đào cây nhà lá vườn.


Sáng mồng một Tết đã đến. Mọi người trịnh trọng tập họp ở nhà trên. Bà tôi và mẹ tôi ngồi trên sập giải chiếu cạp đỏ, để con cháu mừng tuổi, lãnh phong bao. Tối đến, rủ nhau vào nhà ông cậu. Năm nào ở đó cũng mở sòng sóc đĩa, rất đông người trong phố đến đánh. Nếu không đánh sóc đĩa, thì cùng mấy cô em họ làm một canh bấc miệt mài cho tới khuya. Nhưng thú vị nhất đối với tôi vẫn là một mình đi thơ thẩn tới các làng xóm chung quanh, những túp nhà tranh âm thẳm nấp sau lũy tre xanh. Trời nắng, tôi đi vào những con đường đất nhỏ, êm mát giữa hai rặng tre bên bờ ao vắng đọng. Thỉnh thoảng, một căn nhà gạch lẩn sau cây bưởi và mít, với bể nước bên cây cau thẳng vút đầy vẻ Việt Nam. Vào buổi trưa im ả, chỉ nghe thấy liếng ru con vẳng tới hay vài tiếng giã gạo, tiếng đập nước của vài cô gái giặt áo trên cầu ao. Đời sống im lìm và nghèo nàn, ai cũng sống như vậy không biết đã bao nhiêu đời. Về sau này, tôi đã bôn ba nhiều nơi, đã tới nhiều nơi đô thị phồn hoa, giàu sang, náo nhiệt trên thế giới. Nhưng lúc nào tôi cũng không





 30


quên những làng xóm thôn quê ở cố hương. Ngay hy vọng giản dị là về sống một cuộc đời thanh bạch trong làng xóm Việt Nam cũng hình như không bao giờ thực hiện được. Có phải đó là số phận không?


Trong thời gian có thể gọi là êm ả này, bỗng nhiên một sự bất hạnh xẩy ra, một tang tóc đau thương mà tới nay mỗi lần nhớ đến tôi cũng vẫn ngậm ngùi khó nguôi: đó là cái chết của bà tôi, cái chết làm cho tôi xúc động sâu xa, rất lâu mãi về sau này vẫn không ngớt.


Từ lúc còn nhỏ, tôi luôn luôn đồng tình với bà tôi, vì bà sống chịu đựng, đắng cay hơn ai hết trong phần cuối đời, người con trai duy nhất đã mất, tất cả đều do con dâu tẳn tảo làm ăn. Bi kịch mẹ chồng nàng dâu không một gia đình nào lúc đó tránh nổi. Niềm an ủi duy nhất của bà là lòng thương mến của các cháu: và sáng nào bà cũng thắp hương, châm ngọn đèn con trên bàn thờ, rồi ngồi yên niệm Phật với chuỗi tràng hạt đen bóng.


Không biết tại những ngày cuối cùng của đời mình, bà đã nghĩ những gì. Tôi mong tự đáy lòng là bà đã tìm được hạnh phúc trước khi nhắm mắt.


Chính những xung đột nghiệt ngã trong gia đình chúng tôi giữa mấy lớp mẹ chồng nàng dâu, cùng với nhiều nỗi bất hạnh của phụ nữ bị trói buộc trong lễ giáo phong kiến lạc hậu trên xã hội, đã là đề tài cho nhiều tác phẩm sau này – thí dụ như cuốn Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Riêng tôi, lúc đó, tôi thấy băn khoăn, không hiểu tại sao người ta không sống hoà hợp chung với nhau được, mà lại khắt khe với nhau về những thứ quá nhỏ nhoi không có một giá trị gì, và ganh tị với nhau về những cái vô ý thức mà ai cũng khư khư ôm lấy.


Anh em chúng tôi đứng trước những cảnh trạng éo le, bi đát trong xã hội và ngay trong gia đình, ít nhiều đều có phản ứng tâm lý sâu xa. Và do đó, tánh cách phóng khoáng, nhạy cảm trước sự vật dần dần thành hình. Quan niệm về dân tộc, về xã hội, về văn hóa ấy đã quyết định những hành động sau này. Cuộc đời của chúng tôi đã bước sang một giai đoạn mới, với sự xuất hiện của tờ báo Phong Hoá bộ mới do Nguyễn Tường Tam sáng lập.


Võng anh đi trước, võng nàng đi sau


Câu ca dao này đã quen thuộc quá đối với người Việt rồi, nên không ai thắc mắc gì. Nhưng nếu suy nghĩ cho kỹ, thì nó đại biểu cho một quan niệm phong kiến hủ bại, đầy óc danh lợi cá nhân, óc làm quan, óc ăn trên ngồi chốc, óc khinh miệt phụ nữ…


Cho nên, khi anh Tam về nước, anh không màng đi kiếm công việc lương cao, mà chọn đi dạy học ở trường tư thục Thăng Long. Cũng như anh Long đã từ bỏ cơ hội có thể đi làm quan.


Một thanh niên có tâm hồn, có chí khí cao thượng, tất không chạy theo những thứ dục vọng tầm thường như làm quan, làm giầu, vinh thân phì gia. Từ nhỏ, chúng tôi không ưa những thứ đó, chúng tôi không ưa quyền thế.


Một điểm chung nữa là mấy anh em đều thích viết, và đều có khiếu về viết. Thêm vào đó, có hai người bạn cùng chí hướng và cùng có tài – anh Tú Mỡ và anh Khái Hưng. Với nhóm người nòng cốt này, một tập hợp văn chương ít có – và có lẽ ít có trên cả thế giới nữa – hoàn toàn có thể ra một tờ báo có giá trị và được độc giả ưa thích.




31


Mặc dầu lúc đó đã có một số báo, tạp chí ra đời, nhưng nói chung, trình độ còn thấp và cũng lẻ tẻ, chưa gây ảnh hưởng mạnh. Phần nhiều, lối văn viết và nội dung chưa thoát được kiểu cách sáo rỗng cũ, chưa đưa ra được những ý kiến, chủ trương mới, táo bạo.


Mặt khác, 1932 có hoàn cảnh thuận lợi hơn cho sự phát triển của văn nghệ. Dù sao, sau cuộc đàn áp tàn bạo, xã hội cũng yên tĩnh hơn. Bọn thực dân cũng cảm thấy cần phải nới tay một chút để dẹp bớt bất mãn của dân chúng, còn khuyến khích thể thao, đua xe đạp, thi ngựa, hội chợ, cùng ca nhạc, điện ảnh.


Sau này, có khi ngồi rỗi, bàn đến lý do tại sao các anh bị đưa đẩy vào nghiệp viết văn, viết báo trong khi hoàn toàn có thể kiếm được nghề khác đủ danh lợi, thì không ai trả lời rõ rệt cả. Như anh Khái Hưng, có một bạn hỏi đùa tại sao với gia cảnh anh – ông thân sinh là Tuần Phủ và bên vợ là Tổng Đốc- anh không chạy một chân tri huyện nào đó mà lại làm nghề báo bấp bênh, nghèo kiết này, thì anh chỉ cười nói:


- Cũng chẳng hiểu vì sao cả. Thích viết thì viết!


Từ chỗ thích đến chỗ thành nghề nghiệp một đời, cũng không xa lắm.


Nguyện vọng mãnh liệt cải cách xã hội cộng với tài hoa viết văn đã tạo nên nhóm Tự Lực Văn Đoàn.


Giữa năm 1932, tôi còn ở Cẩm Giàng, thấy anh Tam và anh Long có bàn qua về việc ra một tờ báo, lấy tên là Tiếng Cười. Phỏng theo tờ Le Rire (Tiếng Cười) và tờ báo trào phúng Le Canard enchainé (Con vịt bị buộc) là mấy tờ rất được độc giả hoan nghênh bên Pháp ở Hà Nội chúng tôi cũng đã từng đọc qua. Những bài châm biếm không những làm cho người ta cười, mà còn có ý nghĩa châm chọc những thứ xấu rởm trong xã hội. Nhưng sau tờ Tiếng Cười không được cấp giấy phép, vì thực dân đâu muốn cấp cho một người đã từng du học ở Pháp về . Theo chính anh Tú Mỡ viết về sau này. Phàm những người chân chính học ở Pháp về đều có tư tưởng bài Pháp thực dân… nó thực dân sợ tờ báo cười tung trời sẽ làm đảo lộn cả trật tự của cái xã hội thối nát mà chúng nó duy trì để dễ cai trị. Nhưng anh Tam không chịu bó tay. Vẫn lời Tú Mỡ, anh Tam đâu có chịu bó tay. Anh xoay và xoay rất cừ. Bấy giờ, nhân có tờ báo của anh Phạm Hữu Ninh… anh Tam đề nghị… nhường lại cho mình làm chủ bút, chỉ cần mất chút tiền thuê báo. Người viết, bài vở lúc đó cũng đã sẵn sàng.


Sự kỳ ngộ may mắn trong lịch sử văn học, dưới sự chỉ dẫn và tổ chức của Nhất Linh, đã tạo nên một nhóm cây viết, một văn đàn gắn bó với nhau, tiến tới một trào lưu văn hoá độc đáo. Ngay trong nhà đã có ba cây viết rồi, cộng với Tú Mỡ là bốn, lại vừa kéo thêm được một tài năng nữa, đó là Khái Hưng. Cuộc đời của Khái Hưng cũng có thể gọi là kỳ lạ. Anh đã đậu Tú Tài ban Triết Học – độ ấy rất hiếm – nhưng không ra làm quan hay công chức gì. Nhà văn sĩ lãng mạn tương lai quay ra đi… buôn, làm đại lý cho một hãng dầu, chắc muốn giàu to. Song óc nghệ sĩ của anh có lẽ không thích hợp với buôn bán quét quéo nên đã thua lỗ rồi từ Ninh Giang lên Hà Nội, Trần Khánh Giư (tên thật) vào làm giáo sư trong trường tư thục Thăng Long. Ngay hồi đó, anh đã viết cho tờ báo Duy Tôn những truyện vui hay xã thuyết, cùng với mấy nhà văn Lãng Nhân Phùng Tất Đắc và Tchya (tôi chẳng yêu ai?) Đái Đức Tuấn. Một số bài nữa đã đăng trên tờ Phong Hoá (cũ)






 32

 và tờ Văn Học tạp chí của anh em Dương Bá Trạc. Nhất Linh sau đó lại vào dạy trường Thăng Long. Hai người rất tâm đắc, có cái nhìn chung về xã hội, về văn nghệ, và có chung hoài bão dùng ngòi bút của mình để canh tân văn nghệ cùng văn hoá đất nước.


Nhóm 5 người này quyết tâm sáng tạo một đường lối mới, cả về hình thức lẫn nội dung, mà họ tin chắc là sẽ thành công. Họ sẽ bỏ lối viết sáo rỗng, nặng nề, hay đạo mạo dậy đời, để dùng một lối văn trong sáng, bình dân hơn. Họ sẽ chống lại những thứ mà họ cho là xấu xa, rởm đời, hay lạc hậu, cổ hủ, họ sẽ dám phê phán cả chính sách quan liêu, bất công, bằng lời văn châm biếm sắc bén can đảm. Họ sẽ đưa một bầu không khí mới mê, tươi tắn, lạc quan vào trong cái ao tù bảo thủ truyền thống vẫn đè nặng lên con người từ trước tới nay. Họ muốn thay đổi, canh tân. Họ có cái mà các nhóm khác thiếu sót – đó là cái lửa.


Không có cái lửa về muốn viết, về cải cách xã hội, về giúp ích cho dân chúng, thì không có Phong Hoá, Ngày Nay hay Tự Lực Văn Đoàn.


Muốn ra được và duy trì một tạp chí, tất phải có số vốn. Mà anh em lúc đó toàn nghèo xơ, làm gì có đủ tiền? Chị tôi kể rằng ban đêm anh Tam cặm cụi viết bài, lại lo ế không bán được. Một hôm không biết đùa hay thực, anh đề nghị nếu báo ế thì bắt cả nhà vừa đi vừa rao bán sao cho kỳ hết. Mẹ tôi trả lời một cách thản nhiên: Khó gì mà phải lo! Bán không hết thì mang về cho anh ấy (tức chị Tam) gói cau càng tiện.


Nhưng, nhờ trời, số phận tờ Phong Hoá chưa đến nỗi khốn khổ như vậy.


Việc đầu tiên là phải quảng cáo cho mọi người biết đã. Theo tài liệu, Phong Hoá số 13 đề ngày 8-9-1932, có đăng:


Một cuộc hoán cải lớn trong báo Phong Hoá,
Một sự lạ trong làng báo.
Một cái mới.
Đến ngày thứ năm 22-9-1932
Báo Phong Hoá sẽ ra số mới.


Bàn một cách vui vẻ về các vấn đề cần thiết,
xã hội, chính trị, kinh tế.
Nói rõ về hiện tượng trong nước.


Có 15 tranh vẽ, nhiều truyện vui.
Cần thiềt
Hoạt động.
Vui vẻ





Ai cần xem báo! Ai thích đọc báo!
Nên đọc Phong Hoá!


Chắc có nhiều người đón chờ cái sự lạ này xem ra thế nào.


Và đúng hạn, ngày 22-9-1932, tờ Phong Hoá bộ mới, số 14 đã ra mắt độc giả.




33.  Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

Chương 5 ==
Phong Hoá bộ mới ra đời
Tôi rời trại Cẫm Giàng.


Đúng như nhà văn N.V đã kể lại trẻ con ôm báo để bán rong, vừa chạy vừa la inh ỏi, khắp cả phố phường Hà Nội. Thiên hạ tò mò xem, báo bán chạy như tôm tuơi .


Số báo đầu Phong Hóa mới được đưa về Cẩm Giàng. Tôi cũng tò mò đọc. Tôi thấy, trước hết khác với những tờ báo đã có, tờ Phong Hoá là tờ đầu tiên đưa ra tôn chỉ rõ ràng, tỏ ra nhóm chủ trương có mục đích, đường lối đàng hoàng, như:


- Hăng hái theo con đường mới, tìm lý tưởng mới.


- Không chịu khuất phục thành kiến.


- Không làm nô lệ ai, không xu phụng một quyền thế nào


- Lấy thành thực làm căn bản.


- Lấy trào phúng làm phương pháp.


Giống như một tuyên ngôn, thể hiện ý chí tự lập, quật cường. Với tôn chỉ như thế, tất sẽ được độc giả mến phục, nhưng tất mình sẽ có những kẻ thù hận.


Mục Từ Nhỏ Đến Nhớn ở trang 2, có những bài châm biếm những hiện tượng xấu xa, xu nịnh, quyền thế trong xã hội, bênh vực cho công lý, cho những kẻ thấp cổ bé họng, là mục trụ cột của tờ báo. Có những tên tác giả Nhất Linh, Nhị Linh (Khái Hưng), và Tú Ly (Hoàng Đạo sau này)… Tiếng cười ở đây có ý nghĩa, không giống như những tiếng cười thô tục, vô ý thức nhan nhản trên một số báo thời đó. Ngoài ra, những mục truyện ngắn, tiểu thuyết không những đưa ra sự thực, lột được những mâu thuẫn trong gia đình xã hội, giữa cái mới và cái cũ, giữa công lý và bất công, tả về những bi kịch của đời người, mà bằng một lối văn sáng sủa, trữ tình, dễ đi sâu vào lòng độc giả. Mặc dầu còn có những chỗ non nớt, thiếu sót, nhưng người đọc quả đã thấy một cái gì mới lạ, tỏ ra những người viết này đã có lòng chân thành, tính can đảm, có đầu óc cao thượng hơn là viết để chỉ mua vui cho độc giả hay để sinh sống.


Ngay trong số đầu, nhóm Phong Hoá đã tỏ ra có chủ đích và rất tự tin trong ý muốn đưa lại một luồng sinh khí mới cho làng báo. Bài thơ sau đây đã tỏ ra có khí phách, khi đụng chạm tới hai nhân vật lão thành quyền uy. Một là Nguyễn Văn Vĩnh với tờ Trung Bắc Tân Văn và Đông Dương tạp chí, hai là Phạm Quỳnh với tờ Nam Phong… Hai ông Vĩnh và Quỳnh quả thực có tài nhưng người ta đã thấy họ quá ư đạo mạo, cũ kỹ đối với lớp trẻ phóng khoáng hơn. Chủ trương chính trị trực trị của ông Vĩnh hay lập hiến của ông Quỳnh cũng chỉ là những biện pháp cải lương trong khuôn khổ thực dân. Người ta cần cái gì trẻ trung, mạnh bạo hơn.


Nước Nam có hai người tài.
Thứ nhất xừ Ỉnh, thứ hai xừ Uỳnh.
Một xừ béo núng rung rinh,
Một xừ lểu đểu như hình cò hương
Không vốn liếng, chẳng ruộng nương.




 34 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net


Chỉ đem dư luận bán buôn làm giàu
Bây giờ đang xiả xói nhau
Người câu lập hiến, kẻ câu trực quyền.
Thưa các ngài, thực vi tiên.
Muốn xem chiến đấu, quẳng tiền vào đây


Chế riễu Vĩnh và Quỳnh bán buôn dư luận có thể hơi quá đáng, nhưng châm biến các ông đó về quan niệm chính trị là đúng. Ông Vĩnh về sau qua đời còn Phạm Quỳnh tới 1933 thì được triệu vào làm Lại bộ Thượng Thư cho triều đình Bảo Đại, trong mắt những lớp người mới, không còn ai nhắc tới nữa.


Trên báo Phong Hoá, còn thêm mục phóng sự, tả thực về các hiện tượng xã hội đáng chú ý. Tôi nhớ có thiên Hà Nội Ban Đêm của Việt Sinh (Thạch lam) và Trường Khanh (một bạn viết). Trường Khanh ghi được nhiều tài liệu sống động của đời sống những giới sống về đêm… thuốc phiện, cờ bạc, ma cô, đĩ điếm… và Việt Sinh đã viết thành văn đã làm cho độc giả thấy được những bí ẩn, éo le, đau khổ của những hạng người đặc biệt ấy.


Những bài thơ châm biếm của Tú Mỡ lại là một đặc sắc khác của tờ báo, dễ đi vào trong các tầng lớp người đọc, và có vẻ Việt Nam nhất, so với những truyện ngắn, thơ mới phảng phất có mùi vị Âu Tây.


Nghe nói báo bán rất chạy, rất được hoan nghênh, cả nhà bớt lo, không phải đưa báo ế về cho chị Tam gói cau nữa. Bà nội chúng tôi được đưa ra an táng tại mảnh đất do một thầy địa lý chọn ở gần gốc cây đa mâm xôi, cách mộ con trai bà không xa lắm. Đứng ở cổng trại nhà tôi, có thể nhìn thấy cây đa lớn ấy. Ban đêm, về khuya, có thể nhìn thấy những con ma trơi lấp loé bên gốc đa. Không biết trong đó có linh hồn bà tôi hay thầy tôi không? Và đến bây giờ, hai nấm mộ còn nằm nguyên ở chỗ cũ không?


Mấy tang tóc liên tiếp tại trại Cẩm Giàng – đứa con gái thứ hai của anh chị Tam và đứa con gái của anh chị Hai đều bất hạnh qua đời, khiến tôi cảm thấy buồn thương vô hạn. Nhất là đến đêm, bóng tối đã trùm lên tất cả cánh đồng hiu quạnh, trong nhà chỉ còn mấy người cô đơn, càng thấy cô đơn.


Gia đình quyết định dọn lên Hà nội để sống, vả lại tôi cũng cần lên để sửa soạn thi Tú Tài. Lần này, do các anh góp tiền, chúng tôi thuê được một căn nhà hai tầng, cao ráo, rộng rãi, có cổng sắt có đường lát sỏi hai bên trồng hoa, cùng na, ổi. Đây lại rất gần nhà báo Phong Hóa vì cùng một phố Quan Thánh.


Các anh Cả, Hai, Ba đã thành gia thất cả rồi. Tất nhiên phải đến lượt anh Tư (Long). Sau một thời gian mối manh, xem mặt (lại xem mặt!) một cô gái nhà con một, ông bố đã mất, chỉ có hai mẹ con ở với nhau. Dù sao cũng là dịp hay đối với tôi, vì nghỉ hè năm ấy, hai gia đình hẹn nhau ra tắm bể Sầm Sơn, một nơi nghỉ mát có tiếng ở Thanh Hoá.


Cùng với mẹ, chị Cả, anh Tư và chị Thế, đến Thanh Hoá rồi chúng tôi ngồi xe tới Sầm Sơn. Con đường rộng rãi, hai bên trồng những cây phi lao xanh rờn, gió biển từ xa thổi vào khiến người ta cảm thấy không khí tươi mát khác hẳn với thành phố.


Nhà gái có một biệt thự ở gần bờ bể, còn chúng tôi thì thuê một căn nhà hơi xa một chút. Đêm nằm nghe tiếng sóng đổ ầm không ngừng ở ngoài khơỉ, và gió thổi vi vu qua ngọn



 35 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien


cây phi lao. Sáng sớm, ra bờ bể, đằng sau rặng cây, mặt biển mênh mang hiện ra, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Ngoài xa, những cánh buồm nâu của dân chài. Tại một đầu bãi bể, một mỏm núi cao đứng chắn những làn sóng bạc xô đẩy nhau từ xa vào bờ.


Chỗ này do người Pháp khai thác, những biệt thự đẹp toàn là của Pháp hay một số ít người Việt giàu có. Du khách đa số mướn phòng hay thuê ngay những nhà lều dựng trên bãi cát. Chiều hôm đó, chúng tôi ra bãi biển. Đã có không ít nam nữ mặc áo tắm chạy tung tăng hay đương bơi rỡn dưới nước. Chị Long tương lai là một thiếu nữ cao, hơi gầy, trắng trẻo. Mới đầu còn hơi ngượng ngùng, ít nói nhưng không bao lâu sau, do không khí vui vẻ chung quanh, tất cả đã thành ra như quen thuộc từ lâu. Chúng tôi chạy trên bãi cát, đuổi theo những chùm cỏ rối bay theo gió, hay rình bắt những con dã tràng nhỏ xíu mỗi khi nước biển rút ra lại nhô lên để xe cát – một công việc không bao giờ ngừng.


Buổi sáng, là lúc dân chài kéo lưới lên bắt cá. Đứng xa, nhìn hình tượng những người cởi trần giống như những bức tượng đồng vạm vỡ dưới nắng sớm. Có lẽ nhân vật Vọi trong một truyện của Khái Hưng là do đi tắm bể mà nên – nhưng đời sống cực nhọc, kham khổ thực của người dân chài quanh năm vật lộn với sóng gió có nhiều thứ đáng tả hơn là một mối tình lãng mạn miễn cưỡng giữa những lớp người khác nhau. Vụ đi tắm bề Sẳm Sơn đã đưa lại kết quả tốt đẹp, một đám cưới vui tươi. Vì cô dâu là con một, anh Tư bằng lòng ở gửi rể, tại căn nhà ở phố Hàng Vôi, xế cửa với trường tiểu học cũ tôi học.


- Chú xem, đầu đề tờ báo viết thế này có được không?


Anh Nguyễn Kim Hoàn, lúc ấy giữ việc quản lý trong ban trị sự nhà báo, đưa một xếp giấy hỏi tôi. Một điều ít người biết, là anh rất thích làm báo, và thích có riêng một tờ của mình. Tờ này, anh cùng một người bạn cộng tác, nội dung gồm vấn đề xã hội, văn hoá, thông tin, khổ nhỏ, độ tám trang. Tôi sẵn lòng giúp về trình bày, và viết một bài tạp ký – lúc đó tôi đã bắt đầu viết trong báo Phong Hoá. Tên tờ báo tôi còn nhớ, và về sau, nó cũng chết yểu vì thiếu vốn và cũng thiếu bài nữa.


Nhưng sau, anh trở thành anh rể tôi. Sau khi anh Tư kết hôn, mẹ tôi đã trở về ở Cẩm Giàng. Hai vợ chồng chị Năm và anh Sáu dọn đi, thuê một căn nhà ở bên đê Yên Phụ. Đây là một căn nhà vuông vắn, nằm dưới bờ đê, bên một lạch nước và nhìn ra đình làng Yên Phụ, và qua đình làng lên mặt nước Hồ Tây rung rinh mỗi khi trời nắng. Cảnh hồ nên thơ, thêm vào đó, hoa đào thường nở rộ về mùa xuân trong làng Yên Phụ, Cũng khiến cho người ta quên một phần nào cảnh nghèo nàn trong đời sống.


Từ đó, chúng tôi kết duyên với làng Yên Phụ và Hồ Tây cho tới mãi mười mấy năm sau, khi thời thế chuyển động kinh hoàng.


Tây Hồ có danh sĩ,
Nhà thì ở nhà tranh (Huyền Kiêu)


Mái nhà tranh này, tới nay cũng vẫn không mờ trong ký ức tôi. Vì nó liên hệ tới bao nhiêu kỷ niệm vui buồn trong đời sống gia đình, và riêng trong đời sống của tôi. Danh sĩ kể trên là anh Sáu – Thạch Lam. Không biết từ ngày nào, anh ra ở riêng, mà anh lấy vợ lúc nào tôi cũng không nhớ. Không giống nhiều gia đình cổ truyền, anh em chúng tôi ít khi chú ý đến việc riêng của mỗi người. Một mái nhà tranh ngay đầu làng Yên Phụ, bên bờ Hồ Tây,




 36 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net


 từ đê xuống rẽ vào con đường gạch, qua đình làng là tới. Căn nhà nhỏ nên thơ, nấp đằng sau hàng rào tre, có cổng gỗ ra vào. Nhà ba gian, cũng cao ráo, sáng sủa. Có thềm rộng trông ra mặt hồ. Ngồi trên đó nhấp chén trà, nhìn xuống mặt hồ mênh mông, với trước mặt là trường Bưởi, bên trái là con đường Cổ Ngư, nghe nước vỗ nhẹ vào bờ dưới chân, thì cảm giác như ở xa trần tục.


Chị Sáu là một người đàn bà hiền hậu, chất phác, rất niềm nở đối với các bạn văn chương của chồng, thường hay đến tụ họp uống trà hay cà phê, có người đến học bơi hay bơi thuyền. Đời sống chị Năm hay anh Sáu cũng thanh đạm như nhau, vì lương rất ít. Lương ở toà báo chỉ đủ để duy trì quần áo tối thiểu, ngày hai bữa cơm với rau đậu, với ít thịt cá dành cho các con nhỏ. Chỉ có khi nào xuất bản một cuốn sách, đời sống mới được đầy đủ hơn một chút.


Đến đây, tất có bạn hỏi, thế thì còn rớt lại người em út thân phận ra sao? Tôi còn nhỏ tuổi, lại đương đi học, tất nhiên là độc thân rồi. Không có chỗ ở nhất định, cố nhiên là phải đánh du kích, nay nhờ nhà này, mai nhà kia. Nhiều khi không tiện, thì đi ở trọ. Một lối sống thông thường cho học sinh thời ấy, tuy có vẻ kém nền nếp và lông bông dưới con mắt của một số người. Mẹ tôi có vẻ dễ dãi hơn:


- Mẹ về Cẩm Giàng rồi, con muốn ở đâu cho tiện học là được.


Bà có vẻ tin tưởng ở tôi sẽ không hư hỏng. Còn các anh tôi theo thói quen, chẳng ai đả động gì.


Tôi đến ở với một số bạn, xem ra toàn là đồ qủy sứ cả, tứ chiếng giang hồ – nghĩa là ở mấy nơi khác tới. Năm đó, thi bằng Tú Tài phần thứ nhất, tôi đã trượt vỏ chuối tuy đã cuốc bở hơi tai trước kỳ thi. Nguyên nhân là khi khẩu thí, gặp ông giám khảo hắc búa, bắt tôi đọc một đoạn truyện David Copperfield của Dickens. Tôi gân cổ đọc, còn ông chỉ ngồi cười. Sau tôi mới hiểu, vì ông chẳng nghe hiểu gì hết với cái tiếng Anh lạ tai của tôi. Tất nhiên là trượt, về nhà học lại. Được tin tôi trượt, gặp tại nhà báo, anh Tam vỗ vai tôi an ủi:


- Thắng bại là sự thường cho nhà binh. Sang năm, tôi tin chắc chú sẽ thành công!


Một điều an ủi cho tôi là, trong số anh em cùng trọ, không chỉ có tôi đã trượt vỏ chuối, mà phần lớn cũng chung một số phận. Một chàng tên là Nhung, trước ngày thi, chắc mẩm lần này sẽ đỗ bằng Thành Chung, sẽ về quê vinh quy bái tổ và cưới vợ ngay, nhưng lúc treo bảng lại không thấy tên mình, tuyệt vọng, về nhà bỏ cả bữa cơm và nằm lì suốt hai ngày không nói năng. Một chàng nữa, thi Tú Tài bản xứ phần thứ hai, cũng bị đánh rớt, nhưng vẫn thản nhiên, tối đến cùng mấy bạn xuống phố Khâm Thiên để giải sầu. Xin nói rõ là trong bọn đó không có tôi, vì còn quá nhỏ tuổi, chưa đủ tư cách. Thế là lại phải cuốc một năm nữa. Phải nhai lại những bài cũ nhất là tiếng Anh khô khan. Cũng may, năm ấy, tôi bắt đầu bước vào nghề viết báo, làm thơ, nên thì giờ cũng dễ trôi qua. Một cách chật vật, tôi cũng qua được phần thứ nhất bằng Tú Tài Tây, nhờ ông giáo chấm tiếng Anh dễ dãi, cho một điểm không đến nỗi quá thấp. Nhưng, phải đối diện với phần thứ hai, làm
sao đây? Theo ý kiến của các bạn, muốn ăn chắc, nên xin vào học trong trường Trung
Học Albert Sanaut. Đây là một trường qúy tộc hơn, nhưng gia đình cũng đồng ý cho tôi




 37 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net


vào học, dù tiền học phí hơi cao. Mùi thực dân của trường này tất sẽ nặng nề, nhưng đành phải chịu.

Nằm ở trên mạn Cửa Bắc và gần phủ Toàn Quyền trường này trông cao ráo, lịch sự hơn trường Bưởi nhiều. Mấy toà nhà ba tầng vây chung quanh một sân rộng rãi sỏi. Học sinh có người Pháp, nhưng đa số vẫn là người Việt. Lớp Triết học của tôi có một điểm lạ là có năm nữ sinh người Pháp, trông cũng dễ coi, nên đỡ buồn tẻ. Có cái là mấy cô đều có vẻ lạnh nhạt, nếu không nói là khinh người. Lạ nhất là trong bọn, một cô xinh đẹp nhất, đôi mắt xanh trong, má hồng, thân hình như một cô đào xi-nê trên màn ảnh Mỹ dạo đó – mà chắc các chàng trai trong lớp đều thầm yêu – lại có vẻ hoà nhã và dễ dàng nói chuyện nhất. Điều này có người làm chứng: một bạn học cùng lớp may mắn sống đến tận ngày hôm nay, anh Trần Trung Dung. Quả đất nhất định là không to lắm, và chắc con Tạo xoay vắn, nên qua 60 năm sau, anh Trần và tôi lại gặp nhau tại quận Cam, Hoa Kỳ, và cùng uống cà phê tại nhà một bạn già ở Huntington Beach. Mỗi người một cảnh ngộ, nhưng đường nào cũng đưa tới quận Cam, và chắc đều còn nhớ tới cô bạn học hoa khôi thuở còn trẻ. Anh Trần Trung Dung nay đã ra người thiên cổ, anh mất và an táng tại quận Cam, miền nam Califomia, Hoa Kỳ.


Đáp lại thái độ của mấy cô đầm, chúng tôi chỉ giữ một thứ im lặng cao ngạo. Vì chúng tôi có cách trả thù dân tộc bằng chiếm ưu thế trong việc học. Thành tích của các cô lạc hậu khá xa. Vì trước kia, tôi đã ưa đọc những sách triết học, nên được ông giáo sư dạy môn Triết mến, những tác văn của tôi thường thường ông chỉ sửa chữa rất ít và khuyến khích. Việc này giúp cho tôi rèn luyện lối suy nghĩ khoa học và đào sâu vào mọi vấn đề


Một ông giáo nữa, cũng đáng ghi nhớ đối với tôi, là giáo sư Lê Thành Ý. Ông Lê dạy Việt Văn, và ông hay theo dõi báo chí và văn chương thời đó. Có một lần, ông hỏi tôi, không phải về bài học, mà là về tình hình tờ Phong Hoá, và khuyến khích tôi nên cố gắng viết nhiều hơn nữa. Người cao lớn, bệ vệ, nhưng giọng nói ông lại rất ôn tồn.


Cuối năm, dù không dốc hết sức để ôn tập các bài vở, nhưng may mắn tôi cũng được giải nhất trong lớp và tương đối dễ dàng qua được phần thứ hai bằng Tú Tài, trước vẻ hân hoan của mọi người.



Chương 6 
- Toà Báo Phong Hóa: Anh Khái Hưng, Mấy Họa Sĩ Nguyễn Gia Trí, Trần Bình Lộc, Lemur



ào cuối năm 1932, tôi đến thăm toà báo Phong Hoá.
Toà nhà có thể gọi là lịch sử này cả về mặt văn hoá lẫn chính trị, đã chứng kiến bao sự kiện đã từng xẩy ra trong mười lăm năm. 80, phố Quan Thánh, ngay góc đường Quan Thánh và Hàng Bún. Có hàng rào sắt, có cổng lớn ra vào. Mấy câyy bàng cao trồng hai bên đường, mùa thu tới, lá bàng đỏ thường rụng và bay vào trong sân. Con đường xe điện Bưởi chạy ngang trước cổng.





 38 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

Một toà nhà hai tầng, có sân rộng bao bọc. ở giữa, bước lên thềm, là phòng trị sự và nhà in: Muốn lên toà soạn ở trên gác, thường rẽ sang bên cạnh, qua một khóm tre Đằng Ngà thân màu vàng. Chỗ này, mọi người lúc rỗi thường bắc ghế ngồi chuyện trò, hay đánh bóng bàn.
Đằng sau có thang lên gác, bên trái là phòng của hai vợ chồng Khái Hưng, còn ở giữa là toà soạn. Gian giữa để làm việc, gian bên là phòng khách. Trong cùng, còn có hai buồng nhỏ để tài liệu, máy móc cần thiết.
Tôi chưa gặp Khái Hưng bao giờ. Nên khi bước vào phòng khách, một người thấp nhỏ, da mặt ngăm ngăm đen quay ra, tôi ngờ ngợ không biết có phải là anh không. Khi có một anh giới thiệu, chúng tôi bắt tay nhau. Trong lúc bắt tay rất chặt, không hời hợt như một số bạn khác, tôi cảm thấy anh là người rất nhiệt tình, dù đối với một người trẻ như tôi. Đôi mắt anh lanh lợi, đôi môi hơi trễ xuống, nhưng cười nói rất có duyên, nhanh nhẩu. Vì gầy nhỏ, môi lại hơi thâm, nên có người nói anh nghiện thuốc phiện, thực ra oan cho anh. Từ lúc đầu, thái độ anh rất chân thành, coi tôi như người bạn và cũng là em út trong nhóm, không hề lên mặt người lớn. Thành ra, tôi cảm thấy dễ chịu như trong anh em một nhà. Hôm đó, Thạch Lam có mặt, Khái Hưng nhanh nhẩu tự pha cà phê cho chúng tôi uống. Thứ cà phê đen đặc, vị rất nồng. Truyện trò một lúc, mấy người giở bàn cờ tướng ra. Khái Hưng hỏi tôi có thích đánh cờ tướng không.
- Cứ thử xem, anh cho với nó một ván đi. - Thạch Lam gợi ý.
Khái Hưng xem ra có vẻ khinh địch, bầy cờ xong thì vừa đi nước vừa gật gù truyện gẫu. Nhưng đi năm nước rồi mới biết mình hố, lâm vào thế yếu, sau khó nhọc lắm mới gỡ hoà cờ.

- Hậu sinh khả úy- anh nói.
Anh không biết tuy còn ít tuổi tôi cũng đã đọc qua cuốn quất trung bí. Ván sau, chơi với Thạch Lam, anh lại phải chịu thua. Một đặc điểm chung cho Khái Hưng, Thạch Lam hay Tú Mỡ, Thế Lữ, như Nguyễn Tuân thường đùa, là đều có bộ ngực Omega cả, có nghĩa là lép kẹp như chiếc đồng hồ đeo tay mỏng dính. Song điểm này chằng phải là độc quyền của các anh, mà như Vũ Trọng Phụng, Vũ Hoàng Chương mấy anh khác cũng vậy. Đủ rõ đời sống của họ thời ấy ra sao.

Vì ở luôn trong tòa báo, nên Khái Hưng có thể coi như Tổng thư ký tòa soạn. Thạch Lam cũng thường xuyên ở đó và kiêm những bài phóng sự. Nhất Linh xử lý công việc chung và xếp đặt kế hoạch nội dung mỗi số. Còn Hoàng Đạo vì bận đi làm nên buổi tối hay ngày nghỉ mới tới. Nhiều khi anh em phải làm việc tới khuya mới ra kịp báo. Một điểm mà Phong Hóa chú trọng nhiều là những tranh vẽ, hoạt họa, khiến cho tờ báo linh động hơn và hấp dẫn hơn.

Lúc đầu, người vẽ chính là Nhất Linh - ta còn nhớ anh đã học tại trường Mỹ Thuật. Sau đó, mời thêm một số họa sĩ giúp việc.
Có người đưa ra y kiến, làm một số Xuân đặc biệt, với bìa màu, nhiều tranh vẽ. Người vẽ tranh bìa là họa sĩ Trần Bình Lộc. Gặp anh lần đầu, tôi rất có cảm tình với nhà họa sĩ thấy lùn nhưng vui tính, hay nói đùa. Còn nhớ, tranh bìa năm ấy vẽ hai thiếu nữ áo dài thướt \




 39 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

tha, yểu điệu, đứng bên gốc mai hái hoa bỏ vào lẵng. Thực tình, bức tranh chưa có trình độ nghệ thuật cao, nhưng vì mới mẻ nên nhiều người thích. Dưới bức tranh, có bài thơ cảm đề của Thạch Lam, bài Ngày Xuân hái hoa:
Ngày xuân, chị em đi hái hoa,
Rừng mai, đứng dưới gốc mai già...
Hoa mai trắng xóa trong xuân tươi,
Một chị một em xuân mấy mươi
Gió xuân! dịu dàng tà áo lay,
Gió xuân! hoa mai tan tác bay!
Em tay nâng gió chị vin cành
Bẻ đóa hoa mai với lá xanh
Ngày xuân cánh hoa đượm hạt móc
Hái hoa, hoa rơi vương mái tóc
Tiếc hoa nên hái giỏ hoa đầy
Một giỏ hoa xuân nặng chĩu tay
Người về tiếc xuân biết còn ai?
Còn lại trong vườn xuân với mai.
Tranh và thơ đều nhuốm vẻ êm đềm, dịu dàng, trữ tình hợp với tâm tình của những thanh niên - hay không thanh niên- ở các thành phố. Số báo xuân bán rất chạy. Sau đó nhiều báo cũng ra số xuân, có thơ, có tranh thiếu nữ - thành một thứ mốt còn truyền đến tận bây giờ, nửa thế kỷ sau.
Rất tiếc là về sau, Trần Bình Lộc mất quá sớm. Nhưng có mấy anh Tô Ngọc Vân, Cát Tường (tức Lemur - tiếng Pháp là bức tường) Nguyễn Gia Trí giúp việc.
Tô Ngọc Vân, chuyên về tranh sơn dầu, là một trong những họa sĩ tài năng nhất. Anh người còn bé nhỏ hơn cả Trần Bình Lộc, tính tình điềm đạm dễ thương.
Lemur là một chàng dong dỏng cao, nhanh nhẹn, vui vẻ. Anh khét tiếng không vì tài họa của anh, mà vì anh đã nghĩ ra những mẫu kiểu áo tân thời cho phụ nữ, gọi là kiểu áo Lemur. Hoàn cảnh xã hội đã thay đổi, tương đối yên ổn. Nên các thứ vui chơi, thể dục, văn nghệ có môi trường để phát triển. Tại các thành phố, nhất là tại Hà Nội ngàn năm văn vật đất Thăng Long, giới trung lưu có những nhu cầu riêng. Phụ nữ có nhiều dịp để phô trương sắc đẹp, quần áo kiểu cũ- áo cánh trắng, quần lĩnh đen đã lỗi thời. Tại các phố hàng Ngang, hàng Đào, Tràng Tiền tối đến tấp nập thanh niên đi dạo phố.
Mình ơi, có đi bờ Hồ,
Cùng ta ăn kem kẹo dừa,
Cứ đi đi mình nhé...
Câu Lưu Thủy Hành Vân này rất thịnh hành lúc đó. Lại cần có quần áo lộng lẫy hơn khi đi xem hát, xem điện ảnh
Thương nữ bất tri vong quốc hận...
Chắc nhiều người sống ở thời ấy đã biết kiểu áo Lemur là thế nào. Đó là một thứ quần, áo dài Việt nam đổi kiểu, phỏng theo lối đầm. Ai đã xem qua phim Số Đỏ thì cũng rõ. Mới




 40 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net


hì mới thực, nhưng quá lai căng, rườm rà, như cổ áo quá cao, vai bồng, eo lưng quá thất, lại thêm viền đăng ten diêm dúa, làm mất vẻ đẹp tự nhiên của chiếc áo dài Việt nam. Nên không bao lâu sau, nó đã thành ra cổ lỗ hơn cả những kiểu áo cũ.
Một lần, Lemur, Thế Lữ và tôi, cùng một thiếu nữ đi chảy hội chùa Hương, với mục đích làm một bài phóng sự. Lemur bận về vẽ phác cảnh núi rừng, còn chúng tôi về ngắm cảnh thiên nhiên, chùa, động.


Khi ngồi nghỉ ở chùa ngoài, Thế Lữ tò mò hỏi cô bạn về cái kiểu áo Lemur, thì không ngờ cô bĩu môi một cách tinh nghịch:
- Những mẫu áo ấy à? Thì anh ấy có biếu em, em cũng không mặc.
Lemur ngồi im, không nói gì. Và chính anh sau đó, cũng gác các kiểu áo anh vẽ vào tủ.
Còn anh Nguyễn Gia Trí thì lại khác hẳn. Thoạt mới gặp, thực khó nghĩ đây là một nghệ sĩ tài hoa. Tướng anh rất đặc biệt. Tôi liên tưởng đến Trương Phi. Người cũng thấp, tóc bờm sờm, lông mày rậm, bộ râu quai nón lồm xồm chung quanh đôi môi hơi dầy. Đôi mắt anh cũng khác người, màu xanh biếc và long lanh như mắt mèo. Nhưag biết anh rồi, mới rõ bản tính hiền lương và khiêm tốn của anh. Anh ít nói, càng ít tranh chấp hay kể gì về mình.

Lúc trước anh vẽ sơn dầu, sau đổi sang chuyên về sơn mài, và anh đã thành công vượt bực. Một lần, tôi đến thăm xưởng vẽ của anh ở chân đê Thụy Khê. Xưởng vẽ thực là lộn xộn, vô trật tự. Những bức tranh, bình phong vẽ chưa xong để bừa bãi khắp nơi trên mặt bàn, đất, đủ các thứ bút, giấy, các thứ màu để vẽ vàng, bạc thực và rất nhiều vỏ trứng vứt lung tung. Nên nhớ, đối sơn mài, vỏ trứng là một vật liệu rất quan trọng.

Hôm ấy, chúng tôi gặp một cô người mẫu, coi có vẻ đồng ruộng nhưng cũng mảnh khảnh, yểu điệu... có lẽ vì thế mà những nhân vật trong tranh của anh phần lớn là những thiếu nữ bay bướm tung tăng, hay những nàng tiên múa trong mây. Hình tượng Lý Toét đầu tiên do Nhất Linh vẽ, sau đó do Gia Trí sửa đổi đôi chút. Còn Xã Xệ và Bang Bạnh thì do anh Gia Trí nghĩ kiểu. Nhiều độc giả lúc đó thích vì chê cười những cái ngờ nghệch, ấu trĩ, nhà quê hay hống hách, quan dạng. Nhưng cũng có người cho rằng không nên chế diễu quá đáng, những thứ ngớ ngẩn, ấu trĩ không phải là lỗi ở nông dân bản thân mà do xã hội, chế độ thực dân kìm hãm trong tình trạng lạc hậu mà ra. Bang Bạnh quả thực nên chế diễu. ý thức nhạo báng những cái gọi là nhà quê, xét cho kỹ, cũng là nhận xét thiên lệch của những tầng lớp ở thành thị đối với những người thôn quê.


Tờ Phong Hoá được hoan nghênh về tinh thần sáng tạo, cái cách, và tiến bộ, và đồng thời về giá trị văn chương cao, về những tác phẩm xuất chúng. Nhiều ưu điểm hợp lại, lại là một tập hợp của nhiều tác giả tài hoa đã khiến cho nhóm này trở thành đại biểu cho cả một trào lưu văn nghệ mới.
Nhưng ngược lại, cũng có một số người khư khư ôm lấy quá khứ nên bực dọc, bất mãn, ngoài ra còn một số ghen ghét, ganh tị. Có người vỗ ngực than thân Ôi! Phong Hóa suy đồi! (Tờ Phong Hoá phá hoại phong hóa). Cái đó cũng tự nhiên thôi.

Nói cho khách quan một chút, Phong Hoá và Tự lực văn đoàn ra đời vào một thời điểm đặc biệt trong lịch sử Việt nam dưới thời thực dân. Nhưng năm 1927 cho tới 1932, nhiều cơn gió bão đã đưa tới xáo trộn nặng nề trong xã hội, mà cao điểm là cuộc khởi nghĩa




 41 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net


của Việt nam Quốc Dân đảng năm 1930 và những vận động của nông dân tại Nghệ Tĩnh do đảng cộng sản Đông dương thúc đẩy. Cả hai phía đều bị thực dân Pháp đàn áp tàn ác với bao nhiêu bản án tử hình, khổ sai chung thân và trại tập trung. Tình thế ổn định tiếp theo sau là ổn định dựng trên khủng bố, một thứ ổn định bề mặt.
Chính bọn thống trị người Pháp cũng cảm thấy như thế, nên đổi sang dùng sách lược an dân để xoa dịu bất mãn và lôi kéo dân chúng sang những hoạt động vô hại. Chúng đưa vua Bảo Đại về hồi loan và reo rắc những hy vọng duy tân lừa gạt vào nhà vua trẻ này cùng với sử dụng học giả Phạm Quỳnh làm bung xung. Một mặt, chúng hô hào những phong trào thể thao hấp dẫn như thi đua xe đạp suốt Đông dương hay những cuộc đua quần vợt với Chim-Giao. Ngoài ra, còn phong trào ăn chơi, mặc quần áo đẹp, nhây đầm, bàu hoa khôi. Phong trào quần áo kiểu Lemur cũng bắt nguồn từ đó. Lại còn phong trào đua đi nghỉ mát, lên núi, đi tắm biển Đồ Sơn, Sẳm Sơn, Cap Saint Jacque... Những tiệm nhảy, chơi cô đầu, thậm chí tiệm thuốc phiện, sòng bạc mọc ra nhan nhản. Tại đất ngàn năm văn vật, thanh niên kéo nhau tới những chỗ tên tuổi như Khâm Thiên, Ngã Tư Sở, Bạch Mai và những ngõ hẻm giữa thành phố. Các rạp điện ảnh cũng chật ních người háo hức xem những phim hiệp sĩ, cao bồi miền Tây Hoa Kỳ hay những phim lãng mạn với những cô đào Mỹ, Pháp tuyệt sắc.
 
Chương 7 - Gặp Tú Mỡ Thế Lữ -

ạo đó, nhà anh Tú Mỡ ở bên đê, không rõ gần Ô Cầu Giấy hay Láng. Một hôm, ngày nghỉ, anh rủ các anh em đến thăm nhà anh. Chưa bao giờ, tôi thấy sốt ruột như thế, vì anh đạp xe một cách quá ư từ tốn, như đi dạo mát, làm cho mọi người thường phải dừng lại để đợi.
- Anh đạp nhanh hơn một chút có được không?- Gia Trí hỏi gắt.

- Việc gì mà vội? - Tú Mỡ điềm nhiên đáp - Sắp tới rồi. Đạp nhanh quá, nhỡ có hòn đá nào trên đường mà vấp vào thì chết...
Mọi người đều phải cười.
- Cẩn thận vô áy náy- Khái Hưng xuề xoà, tỏ vẻ đồng tình.
Cuối cùng, rồi cũng tới đích. Một căn nhà nhỏ, cũ kỹ, nhưng thoáng mát. Chung quanh có đất trồng cây. Trong nhà đồ đạc đơn sơ. Đời sống nhà thơ nghèo, thanh đạm quá. Số lương thấp, tiền nhuận bút cũng không được bao nhiêu. Nhưng anh thấy là đầy đủ: gia đình êm thấm, thơ được nhiều người yêu chuộng.

Tú Mỡ là một nhân vật đặt biệt. Trông bề ngoài, không ai nghĩ một ông phán bình thường Sáng vác ô đi, tối vác về lại có tài viết thơ châm biếm như thế. Vả lại, tính tình anh hiền lành, khiêm tốn, ít nói.
Bữa cơm gia đình khiêm tốn, chỉ có thịt lợn luộc, lòng heo, đậu rán chấm tương. Thêm vào, một ly bia Hommel hay rượu Văn Điển. Sau càphê đen là tới món thuốc lào





 42 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

quốc hồn quốc tuý. Nhìn anh, thực gầy như con hạc. Vì thế, vấn đề biệt hiệu Tú Mỡ của anh vẫn được người ta băn khoăn. Nghe nói, trước khi lấy tên này, anh cũng đã nghĩ đi nghĩ lại. Tú thì được rồi, nhưng Tú gì mới được chứ?
- Có Tú Xương rồi, hay ta lấy chữ Tú Mỡ để đối lại, người ta dễ nhớ - Khái Hưng gợi ý.


- Tú Mỡ à? Nghe không ổn lắm.
Thạch Lam cho rằng chữ Tú Mỡ kém bề thanh nhã. Người gầy, mặt xương xương, bộ ngực lép, không hợp lắm.
Nhưng sau rồi, anh Hiếu cũng chọn tên Tú Mỡ, để khiến người đọc chú ý.
Tuy bận học thi, tôi cũng thấy ngứa tay, muốn thử viết. Mới đầu là mấy bài bàn luận ngắn về hiện tượng xã hội, và phóng sự ngắn về đời sống dân nghèo, hoặc về những nơi hội hè, du lịch. Rồi, tôi cũng bước vào làng thơ mới.
Thơ mới xuất hiện chậm hơn đối với các thể văn khác. Trước 1930, là thiên hạ của thể thơ Đường, hay thơ lục bát với nội dung nhạt nhẽo, không làm ai rung động. Những bài thơ lãng mạn, tình cảm, như Lamartine khóc cho Graziella, hay Beaudelaire, Verlaine ủ rũ.

Tôi đi theo gió xấu, đưa tôi đi đây đi đó,
giống như chiếc lá khô... (tạm dịch từ Pháp văn).
Hay thì hay nhưng quả thực ủy mị quá, không thích hợp cho lắm đối với những thanh niên Việt đương sống cuộc đời nô lệ dưới ách thực dân và còn bao nhiêu những cùng khổ. Nhưng tại các tầng lớp thành thị, trong hoàn cảnh tương đối yên ổn, những văn thơ lãng mạn, than khóc đã tìm được thị trường.

Xe chạy tới ga Lăng Cô, câu thơ nào đó của Phan Khôi, thực ra nó ngộ nghĩnh, và chưa là mới lắm, chỉ mới thoát khỏi quy luật cũ. Một số nhà thơ bỏ Đường Luật, làm theo lối tám chữ một câu - thể Sonnet của Pháp, dễ diễn đạt tư tưởng, không gò bó. Sau này là thể dùng nhiều nhất cho thơ mới.
Tôi gặp Thế Lữ lần đầu tiên cũng ở toà soạn, cũng đương ngồi đánh cờ. Người không cao, mặt hơi vuông, cũng gầy, miệng cười rất có duyên. Tuy gầy, nhưng cái bắt tay của anh rất chặt, tỏ ra anh rất nhiệt tình. Giống như Khái Hưng, anh mặc bộ âu phục màu xám, đội mũ dạ, ăn nói nho nhã, chậm rãi. Vì thân hình gầy ốm, vì nước da xam xám, nên nhiều người cho anh là nghiện thuốc phiện - việc này có thực, nhưng lúc đó anh đã cai được.

Do việc gửi mấy bài thơ đến báo Phong Hoá, Nhất Linh đã hẹn anh đến toà báo. Gặp mấy anh Khái Hưng, Tứ Ly (Hoàng Đạo) anh được cổ võ vì thái độ nhiệt thành của các anh em. Về sau, Nhất Linh đã nhiệt liệt giới thiệu Thế Lữ trong bài Nguyễn Thế Lữ, một nhân vật mới trong làng thơ mới
Bài thơ đầu tiên đáng chú ý của anh là Con người vơ vẩn trên báo số Tết. Cùng trong số đó, có bài Thiên Thai của anh, một bài nữa, đầu đề là Cảnh đào Xuân - tôi làm, ký tên Trường Bách, và còn bài của vài nhà thơ khác.

Thế Lữ, cả về nội dung và hình thức đều mang lại một luồng gió mới cho làng thơ. Hồi đó, làm thơ còn có Phạm Huy Thông, Bàng Bá Lân, và vài thi sĩ khác.



 43.  Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

Chính tôi cũng không hiều tại sao lại thích làm thơ mới.

Đúng ra thì đối với tôi, văn xuôi thích hợp hơn. Lúc còn bé tôi đã từng viết truyện ngắn, và lúc đầu, trên tờ Phong Hoá, tôi cũng đã góp ít bài vào mục Từ nhỏ đến nhớn, mục Hạt đậu dọn. Có lẽ lúc đó có dịch thơ -dịch đây có nghĩa là một bệnh dịch - theo sau dịch làm báo, dịch viết văn... và sau những ngày gay go, căng thẳng mấy năm vừa qua, đầu óc người ta, nhất là thanh niên các thành thị, đã lãng mạn hoá. Người ta thích ngắm trăng và mây, tả hoa và nước, tình cảm nam nữ trước đây bị trói buộc, nay đã được dễ dàng đưa lên trên mặt giấy. Người ta, đặc biệt giới đẹp, biến thành đa sầu đa cảm. Cho nên thi sĩ cũng đua nhau ra đời.

Phan Khôi, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư... rồi có Phạm Huy Thông, sau đó một tụi nhỏ hơn, đồng thời là Tường Bách, Bàng Bá Lân, Trần văn Kiện- thơ hay nhưng đời thơ quá ngắn ngủi. Riêng đối với tôi chẳng có ai cổ võ, hay hướng dẫn tôi trong nghề văn thơ. Có người nghĩ rằng, trong gia đình Nguyễn Tường, chắc là do Nhất Linh dìu dắt, chỉ bảo các em mà thành tài. Sự thực không đúng như vậy.\

Nhất Linh là người đi tiên phong, có óc sáng tạo và dám làm, dám nêu ra những ý kiến cải cách, đồng thời lại có óc tổ chức. Nhưng về tư tưởng cải cách, về đường hướng văn nghệ, theo chỗ tôi biết, thì các anh em cũng đều có ý nghĩ chung. Về lối viết thì hoàn toàn mỗi người có một sắc thái riêng. Cá tính tôi lúc đó không thiên về những thứ tình cảm cá nhân, cho nên thơ đều tả về cảnh thiên nhiên. Bài đầu, tôi nhớ mang máng lấy tện là Cánh đào đầu xuân nói về hoa lá, cảnh trời đất trong lúc đi xuân. Không ngờ lại được một số người để ý. Họa sĩ Cát Tường cho là trong có nhiều hình tượng đẹp và do đó, về sau anh vẽ một bức họa đầu xuân.

Hậu sinh khả uý, một lần tại toà soạn, Khái Hưng phát biểu ý kiến. Anh không ngờ tôi lại biết làm thơ mới... Còn Thế Lữ thì lúc nào cũng xuề xoà, mỉm cười rất có duyên, anh không sợ cạnh tranh.
Việc học hành quá bận, nên sau đó tôi chỉ sáng tác thêm mấy bài, trong đó có bài Nắng trưa hè, tả về cánh đồng làng quê dưới ánh nắng buổi trưa mùa hạ. Ngày đó, bài này rất được chú ý, vì ít nhà thơ nào chuyên về ca tụng tự nhiên. Phạm Huy Thông có viết bài về thơ tả tự nhiên và dần dần, có độc giả gọi tôi là tiểu Leconte de Lisle một nhà thơ Pháp xuất chúng.

Tiếc rằng đời sáng tác thơ mới của tôi cũng quá ngắn ngủi, phần vì bận rộn, phần vì đã hết hồn thơ, đầu óc trống rỗng, khô khan - không đúng như lời Đinh Hùng đã viết: là một trong ba tiểu qủy - Huyền Kiêu, Đinh Hùng, Tường Bách tuy học bác sĩ nhưng có óc nghệ sĩ không kém các anh em. Tuy về sau, tôi có viết vài truyện ngắn và phóng sự, nhưng đời sáng tác văn nghệ đã phải đứt đoạn theo biến chuyển của tình thế. Và từ đầu thập niên 40 trở đi, đã đổi sang viết bình luận xã hội, chính trị, tuy trong thâm tâm tôi vẫn thích viết thơ văn. Trong cuộc đời lăn lộn và sóng gió, đó là phần nuối tiếc nhất. Có lẽ chính vì tôi đã chót chọn nghề y, một nghề đòi hỏi quá nhiều thì giờ và quá vật chất...\

Sau khi ra số Xuân, mấy anh em, trong đó có Khái Hưng, Nhất Linh, Thế Lữ, hoạ sĩ Lemur -người vẽ tranh trong số này- kéo nhau đi dạo phố, rồi rẽ sang đường Cổ Ngư dưới hai



44 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net


rặng cây xanh qua đền Quan Thánh, chùa Trấn Quốc. Một bên là hồ Trúc Bạch xinh xắn, một bên là hồ Tây mênh mang.
Từ trên đê Yên Phụ nhìn xuống, những ngôi nhà nhỏ nằm giữa làn nước long lanh và những vườn hoa đủ màu sắc. Mùa xuân, trăm hoa đua nở. Vào sâu trong làng, vườn nào cũng trồng đào, màu đỏ hay hồng nổi lên trong màu xanh lá cây. Ngoài ra, còn đủ màu cúc, thược dược, hoa mai...

- Đây thức là một Đào Nguyên- Thế lữ nói.
- Đẹp thực. Nhiều hình tượng, nhiều màu sắc, giống như trong mấy bài thơ. - Lemur chỉ vào mấy luống hoa bên đường, bảo tôi.

Chắc là chợt nhớ tới một bài thơ, Khái Hưng gợi ý:
- Nhưng tiếc là chỉ thấy hoa, mà không thấy người, chưa đủ, Rồi, như muốn thử kiến thức của Lemur, anh đọc hai câu thơ, khi chúng tôi ngồi nghỉ bên bờ hồ.
Trước sau nào thấy bóng người.
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
- Ai viết ra câu thơ này? - anh hỏi.
Ai cũng đều biết cả chỉ có nhà họa sĩ đồng ý là có bóng người thì tuyệt, để thêm vào tranh vẽ, nhưng anh chịu không biết ai là tác giả. Cả đến thơ Kiều anh cũng không thuộc.\

Lúc đó, trên Hồ Tây phẳng lặng, mặt nước lấp lánh dưới ánh mặt trời, chỉ có mấy chiếc buồm phất phơ ngoài xa. Thế Lữ vẫn là người trầm lặng nhất, ngồi trông ra cảnh thiên nhiên trước mặt. Những phút đó, có lẽ là những phút êm đềm, trong lòng nhẹ nhàng nhất của chúng tôi, vì ít phiền não nhất. Tôi còn nhớ mang máng hai câu thơ của anh:
Mặt hồ nước phẳng nghiêm như giận,
Một áng hương đưa, khói toả mờ.
Không biết có phải bắt nguồn từ lúc này không?

Số phận long đong của văn nghệ sĩ thời ấy, một phần vì suốt đời phải đi ở thuê. Thế Lữ cũng kiếm nhà ở ngoại thành, vì rẻ hơn và tĩnh hơn. Còn nhớ, căn nhà nhỏ của anh thuê ở ngay đường cái, xế trước ấp Thái Hà và gò Đống Đa có đường xe điện Hà Nội - Hà Đông ngang qua cửa. Nhà cũng thoáng mát.
Đồ đạc cũng đơn sơ. Phòng ngoài, một tấm phản lớn để tiếp khách, một bàn làm việc, mấy chiếc ghế gỗ.

Nghèo, nghèo thực. Còn nghèo hơn cả nhà Tú Mỡ. Đó là chỗ ở của hai danh sĩ một thời. Thế Lữ và Song Kim, nhà kịch sĩ có tiếng. Nhà Thạch Lam, nhà chị Thế tôi cũng nghèo, có khi còn nghèo hơn. Riêng tôi thì cũng quen với cành nghèo, trong cuộc đời ở trọ nay đây mai đó. Nhưng tôi vẫn thấy ái ngại về hoàn cảnh thiếu thốn của các anh em. Và, với Vũ Trọng Phụng hay Nguyên Hồng, tình trạng cũng gần như thế và còn hơn nữa. ấy là chưa kể tới một số nhạc sĩ, họa sĩ tài năng nhưng suốt đời sống trong cảnh thiếu thốn.

Có hiểu biết những tình trạng thực tế như trên, thì mới hiểu được sự cố gắng vượt bực của văn nghệ sĩ thời đó, và đánh giá chính xác về tác phẩm và tác giả.
Không phải là một người đẹp, nhưng chị Song Kim có đôi mắt to, rất niềm nở, cởi mở. Tuy một chân hơi thọt, nhưng chị vẫn đóng được nhiều vai trong nhiều vở kịch, và đóng




 45.  Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

rất giỏi. Chẳng ai rõ Thế Lữ - Song Kim chung sống từ bao giờ, và không ai hỏi đến. Cuộc tình duyên trước sau kể cũng éo le. Dù thế nào, không có Song Kim thì đã không có ban kịch Thế Lữ, và cuộc tình duyên của hai người thế mà cũng đã đi vào lịch sử văn nghệ, tuy khó tránh được dị nghị của những người khó tính.

Một hôm, nhân tiện, chúng tôi đến thăm Thế Lữ rồi kéo sang ấp Thái Hà đến thăm nhà anh Vũ Ngọc Phan, anh Phan có nhã ý mời tới ăn cơm trưa. Chị Phan sẽ làm món ốc hấp tuyệt diệu để thết chúng tôi.

Qua những bậc gạch, chúng tôi trèo lên gò Đống Đa. Gió thổi mạnh trên những ngọn cây, xì xào như tiếng than thở của những vong hồn chôn ở dưới chân. Lịch sử như sống lại sau hơn thế kỷ đã qua. Chung quanh, đồng ruộng gần xa vẫn im lặng. Dưới chân, những mái nhà trong ấp Thái Hà thấp thoáng giữa rặng cây, bên lạch nước trắng. Yên tĩnh, như một nơi ẩn dật.

Qua cổng gỗ, vào một sân nhỏ, trồng nhiều cây, có cau, bưởi, mít. Căn nhà không lớn, nhưng ngăn nắp, sạch sẽ. Vũ Ngọc Phan, người nhỏ nhắn, nho nhã. Mới trông cũng đoán được là một học giả. Độ ấy, anh đã viết bài phê bình văn chương: Cái đó ai cũng biết. Nhưng có một điều mà tới nay, tôi vẫn không quên: đó là một món ốc hấp do chị làm, với lá gừng. Trái với tôi nghĩ, ốc rất mềm, không dai, vị ngọt và thơm. Về sau, không bao giờ tôi được nếm một món ốc ngon như thế nữa. Cũng không được gặp lại anh chị Phan nữa.

Trong làng thơ hồi ấy, tôi không được quen anh Phạm Huy Thông cùng anh Lưu Trọng Lư. Nhưng trong ký ức bề bộn, tôi không thể quên để mấy giòng nhắc tới một người bạn trẻ, bạn thơ thân thiết - anh Bàng Bá Lân. Vì hoàn cảnh khác nhau, chúng tôi đã không liên lạc được. 40 năm sau, khi đã sang Hoa Kỳ ngụ cư, mới có người cho biết anh vẫn ở Sàigòn. Song đáng buồn là anh bị bệnh nặng phải nằm liệt trên giường. Anh có gởi cho tôi hai bức thư rất chân tình, đầy cảm xúc. Hai người bạn trẻ xưa nay đã đầu bạc. Cầm thư anh, bất giác tôi nghĩ đến câu thơ Đường tả cảnh tiễn bạn già trên con sông Dương Tử:

Sóng bạc đầu quanh khách bạc đầu
Thực là thương cảm. Nhưng sóng đây lại là sóng Thái Bình Dương. Rồi về sau, lại nghe tin anh mất. Một người bạn cố tri, một thi tài đất nước đã ra đi. Tôi may mắn vẫn còn ở trên đời, nhưng biết bao nhiêu người thân, bao nhiêu tài hoa, xuất chúng mà tôi đã có dịp gặp nay đã đều vĩnh viễn ra đi. Đau thương ngày càng đè nặng lên những người còn sống.
Ngàn năm bạc mệnh, một đời tài hoa...
Câu Kiều đó lại vẳng bên tai.
Mấy ngày tôi gặp anh lần cuối cùng là ở ga Kép, Bắc Giang. Anh mời tôi lên chơi. Nhà anh cao ráo, lại có cửa tiệm ăn trông ra đường phố ga.

Phố này ngày phiên chợ đông đúc, đủ cả người Kinh, người Thổ, đủ các màu sắc rực rỡ trên quần áo những cô gái dân tộc thiểu số. Anh Lân thết chúng tôi mộc chầu phở đặc biệt, ở dưới vùng xuôi không có, là phở xá xíu, ăn lạ miệng. Nhà anh có vườn cam Bố Hạ



 46 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net



 gần đó. Vườn rất rộng, nằm trên sườn đồi. Từ xa đã thấy vàng óng cả một vùng. Đi trong các vườn cam, không khí thoáng mát, đượm mùi thơm dịu của cam. Cắt mấy quả cam, vừa ăn vừa nhìn ra đồng, núi xa xa. Màu cam rất đẹp, nhưng tiếc là hơi chua, không ngọt như cam Xã Đoài.
Trở về nhà, anh bảo tôi đi cưỡi ngựa. Tôi vừa thích vừa run, lo gặp một con ngựa bất kham thì rầy rà. Người ta bắt đến một con ngựa thấp bé hiền lành, có vẻ dễ thương nữa. Tôi yên lòng, nhẩy lên yên, bỏ lỏng cương. Thì nó cũng từ tốn bước đi nhưng mà quá từ tốn, thúc thế nào nó cũng không đi nhanh. Rồi nó tự rẽ vào một cổng chùa bên đường, và ung dung cúi xuống gậm cỏ, mặc tôi muốn dật cương hay thúc chân, nó vẫn đứng lì. Cuối cùng, anh Lân phải đến lôi nó đi, cứu tôi ra khỏi cảnh bê bối đó. Tôi bèn liều nhảy xuống đất, thoát nạn. Từ đó, tôi không dám cỡi ngựa nữa.
Đến bây giờ, những kỷ niệm êm đềm trên vẫn còn phảng phất trước mắt tôi, với hình ảnh anh Bàng Bá Lân đứng dưới gốc cam, sáu mươi năm về trước.
 

Chương 8 - Thăm Chùa Cổ Bắc Ninh - Tự Lự C Văn Đoàn
ột ngày trong năm 1933. Vừa đến toà soạn chơi, Khái Hưng đã hỏi tôi.
- Tuần này anh có rỗi không?
- Có việc gì, anh?- Tôi hỏi lại. Kỳ thực, lúc nào tôi cũng bận và cũng rỗi cả, vì tự học một mình.
- Đi lễ chùa, ở Bắc Ninh. - Anh cười.
Lễ chùa? Xưa nay, Khái Hưng đâu phải là một Phật tử nhiệt tâm. Vì mấy anh em dự định đi thăm phong cảnh Bắc Ninh và đặc biệt là mấy ngôi chùa cổ có tiếng như Bút Tháp, Phật Tích.
Hôm đó, có Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Gia Trí và tôi. rrước hết, chúng tôi đáp xe hỏa đến một ga gần chùa Bút rháp. Đây là một ngôi chùa cổ, có tháp cao cổ kính nhiều tầng. Rồi thuê một chiếc thuyền rộng, xuôi giòng sông đào tới miền đồi Lim.

Cảnh thực nên thơ. Chiếc thuyền lướt nhẹ trên mặt nước chẩy êm, giữa hai cánh đồng dâu biền biệt. Xa xa là những rặng đồi núi thấp. Chung quanh im vắng, thỉnh thoảng mới có một chiếc thuyền nhà chài vắt lưới bên bờ. Cảnh đồng quê Việt nam sao mà êm đềm thế, hình như ngủ im đã hàng thế kỷ.
Mọi người ngồi yên, ngắm cảnh. Không có nước trà, nhưng có nước vối rất hợp vị.
- Giá lúc này, có ai làm một bài thơ tả cảnh sông nước thì hay.- Anh Gia Trí đương ngồi ở một đầu thuyền, hí hoáy phác những nét chì, đề nghị. Không ai tức cảnh làm thơ cả. Khái Hưng bèn đọc hai câu thơ của Lý Bạch:
\
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường giang thiên tải lưu
- Nhưng đó là thơ Đường, mà đây đâu phải Trường Giang?- Nhất Linh nói.



 47.  Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien
Thế Lữ ngẫm nghĩ một lát, rồi nhỏ nhẹ nói:
- Trước đây, lâu lắm, tôi có làm một bài, xin đọc để các anh nghe, được không?

Mọi người hoan nghênh. Anh từ tốn ngâm một bài thơ tám câu, trong đó tôi chỉ còn nhớ bốn câu sau cùng:
Trời lặng, én nghe chèo vỗ nước.
Nhớ nhung, ai tiếc cánh buồm xa.
Cô hàng đâu biết ta buồn nhỉ.
Đon đả ra chào hỏi khách qua.
Chùa Phật Tích nằm trên một sườn đối. Một ngôi chùa nóc, tường rêu phủ. Đằng sau chùa, rải rác nhiều tháp lớn nhỏ, chứng tỏ đã bao đời nhà sư đã tu hành ở nơi vắng lặng này. Đứng trên đồi, dưới gốc thông reo, nhìn xuống những xóm làng nhỏ bé núp sau lũy tre, cảm giác lâng lâng như đương lui về quá khứ.

Rời chùa Phật Tích, theo con đường nhỏ, chúng tôi rẽ sang chùa Bách Môn gần đồi Lim... Cũng nằm trên sườn đồi, có đường rộng dẫn vào, chùa Bách Môn kém bề cổ kính, có nhiều cửa to nhỏ ra vào, nhưng đếm đi đếm lại cũng không đủ một trăm.
Song, ngôi chùa này đã đượv Khái Hưng để ý và chọn làm nơi chàng trai trẻ Ngọc đã gặp chú tiểu Lan trong mối tình của cuốn tiểu thuyết đầu tay. Liên tưởng đến truyện ngày xưa, Lê Thánh Tôn đã gặp một nàng tiên tại một ngôi chùa nào đó. Câu thơ được truyền tụng tới nay:
Gió thông đưa kệ tan niềm tục,
Hồn buớm mơ tiên lẩn sự đời.

Vì đó mới có cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên, hiện đại hoá và lãng mạn hoá cuộc gặp gỡ kể trên. Truyện viết thì hay thực. Nhưng đối với tôi, thì cảnh đồng quê, sông núi, chùa chiền cổ kính, và tất cả những con người đã sống âm thầm trên mảnh đất quê hương này, bên gốc thông reo vi vút - giang sơn Việt nam yêu mến mới thực gây xúc động sâu xa trong tâm khảm tôi như một phần của linh hồn đất nước, chưa có một ngòi bút nào tả nổi.

Hồn bướm mơ tiên là cuốn tiểu thuyết in ra đầu tiên của Tự lực văn đoàn. Cùng một hoài bão về văn hoá và cải cách xã hội, mấy anh đã tổ chức một tập hợp trên chủ trương tự lực, cả về tinh thần lẫn vật chất, không ỷ lại, không khuất tất. Có chí hướng cao thượng, lại tập hợp được những nhân tài xuất chúng, đó là nguyên nhân tại sao Tự lực văn đoàn đã thành công và gây được ảnh hưởng sâu xa trong xã hội Việt nam.

Lúc đó, còn là học sinh mới mười bây tuổi, tôi phải chuyên chú về thi cử. Tự lực văn đoàn gồm sáu người tức Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Tú Mỡ, Thạch Lam, Thế Lữ - Anh Gia Trí không ở trong văn đoàn, tuy góp nhiều về tranh vẽ và ý kiến. Sau này cũng chỉ thêm một thành viên là Xuân Diệu, cộng thành Thất tinh hay Thất hiền.
Một điều đặc biệt trong Văn đoàn là tất cả đều như anh em một nhà, gắn bó và nâng đỡ lẫn nhau, không hề có xích mích, ganh tị. Tôi chưa thấy giữa các anh em có cãi cọ, to tiếng bao giờ, cũng không có tranh chấp về tiền tài. Tài năng đa dạng của nhóm đã làm thoả mãn mong muốn của phần đông độc giả các giới.




 48 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Dưới đây kể lại mấy điều kinh nghiệm trong làm báo, làm văn: Muốn được vui vẻ, khoan khoái thì có những bài trào phúng, hoạt hoạ sống động Muốn có truyện ngắn, truyện dài để xem thì có đầy đủ, và viết rất hấp dẫn.
Muốn thấy phê bình, đả kích những cái bất công, xấu xa, rởm đời thì có nhiều mục châm biếm. Có nhân vật như Bang Bạnh, Sa tiền (Thống sứ Chatel)

Mục Bùn lầỳ nước đọng bày tỏ những khốn khổ của dân nghèo. Mười điều tâm niệm đưa ra một quan niệm về công bằng xã hội, đạo lý làm người.
Hạt đậu dọn phơi bầy những thứ cẩu thả trong văn chương, những thứ kỳ cục.
Chọn vài đoạn tiêu biểu:
Trong một truyện đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy, có đoạn.
Từ lúc gặp Liễu Dương (sic), Hùng Phong chợt thấy trái tim mình, trái tim từ trước vẫn câm lặng, bắt đầu ú ớ chẳng khác một đứa trẻ bập bẹ lời nói đầu tiên.
P.H bình: Thế thì trái tim ấy nó sắp sửa vòì kẹo ấy.
Một đoạn nữa:
Nàng chưa bị tiếng sét của tình yêu đánh cháy lòng
P.H bình: Văn kêu như sét. Nàng chưa bị chết cháy.
Một đoạn văn của nhà lý thuyết Trương Tửu:
Khi mảnh yếm rơi xuống
Thì người đàn bà phải thay nó bằng cái coóc xê!

Mảnh yếm là của thời đại cũ. Cái coóc xê là của thời đại mới...
và sau đó.
Khi mảnh yếm rơi xuống,
thì người dàn bà không mặc được nó lên ngực nữa
P.H bình: Còn chúng tôi, đọc hết dòng này, quẳng sách và ôm nhau cười.
Tự lực văn đoàn có can đảm chỉ trích cả giới thực dân: Toàn Quyền, Thống đốc, Đốc Lý và giới triều đình: nhà vua, Hoàng Trọng Phu, Phạm Quỳnh. Phê bình những chủ trương thoả hiệp với nhà nước Bảo Hộ. Tất nhiên, những chỉ trích ấy không thể trực tiếp, rõ ràng dưới chế độ chuyên chế. Vậy mà Phong Hoá, Ngày Nay đã nhiều lần bị kiểm duyệt, cảnh cáo, bị treo giò... anh em mấy lần bắt buộc phải đi nghỉ mát. Một lần, Ngày Nay ra một số đặc biệt. Tranh bìa, anh Gia Trí vẽ cảnh một tứp lều lụp xụp, rách nát, ngoài cửa, một người đàn bà lam lũ, mấy đứa nhỏ gầy đét, ỏng bụng đương bò lê.
Dưới đề một câu là (tôi chỉ nhớ có một câu) Bố cu mẹ đĩ rúc vào nằm
Phòng kiểm duyệt rất nhanh kết tội nói xấu chính phủ Bảo hộ, báo phải đình bản ba tháng và định truy cứu Nhất Linh ra toà, nhưng sau đổi ra cảnh cáo nặng.

Vẫn không chừa, mấy tháng sau, người ta lại bàn tán về một hoạt họa trên báo, vẽ Lý Toét từ nhà quê ôm một con gà mái đưa biếu ông Sa tiền (Thống sứ). Gà mái, dịch ra tiếng Pháp có nghĩa bóng là kỹ nữ. Ông Thống sứ này có tiếng là hiếu sắc. Song chắc cũng không muốn làm to truyện, ông ta đành lờ đi.
Cách châm biếm, hài hước nhiều khi rất tài tình. Như ông Bùi X.H. chủ nhiệm tờ Hà Thanh Ngọ báo, tới một nơi hội họp, bị người ta cản lại hỏi. Ông cáu sườn vì bị coi rẻ,




 49 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

 bèn lớn tiếng bằng Pháp văn Je suis quelquun (ý nói ta là một người có tên tuổi đây) Phong Hoa khi nhắc lại truyện này, bèn nhại tiếng quelquun đổi sang Je suis King Kong (gần đồng âm), King Kong là tên con khỉ đột khổng lồ trong một phim ảnh nổi tiếng mà ai cũng biết.

Vì vậy Tự lực văn đoàn đã gặp khó dễ, công kích, chê bai từ mọi phía, cũng không có gì lạ. Theo chỗ bản thân tôi thấy thì Phong Hoá, Ngày Nay có khi chủ quan, lầm lẫn, hay châm chọc hơi quá đáng, nhưng không có ác ý, không muốn dìm ai xuống để tranh giành cái gì. Bản tính các anh em là vô tư, hiền hậu, đồng thời cũng kiên quyết trong việc bênh vực công lý, chống đối bất công, xấu xa. Tôi thấy, nếu không có tâm hồn như vậy, thì không có Tự lực vănđoàn
 
Chương 9 - Trường Trung Học Albert Sarraut -


gày ngày đạp xe tới trường Albert Sarraut, cũng phải đi qua phố Cửa Bắc, chứng kiến dấu vết đạn đế quốc Pháp bắn vào cửa thành. Tôi không khỏi thắc mắc, dù có súng thần công và lưỡi lê, làm sao trước đây Francis Gamier hay Henri Rivière, hai võ quan Pháp với độ 2-3 trăm quân mà có thể thắng được một đạo quân hàng mấy nghìn người Việt? Tại sao không thể đánh lối du kích, tỉa dần hay bao vây thì quân giặc chóng chầy cũng phải rút chạy?
Toán quân Cờ đen chẳng đã lừa được Henri Rivière vào chỗ phục kích và diệt được hắn? Và tại sao cả một nước lại không mua nổi ít súng ống, huấn luyện một quân đội có sức chiến đấu? Tại sao triều đình Huế lại không học hỏi tại người Nhật dưới thời Minh Trị, biết canh tân để tự cường?


Cùng với văn chương, hội họa, nền âm nhạc mới cũng bắt đầu nẩy nở.
Chúng tôi đều ưa thích nhạc Tây Phương, thích hơn những âm điệu cải lương Nam Kỳ, và những điệu ca Huế nghe buồn ủ rũ như tiếng khóc mất nước của Chiêm Thành. Chúng tôi đều là nhạc sĩ tài tử cả. Mỗi người đều chơi đàn theo lối mình thích, không cần đúng nết hay đúng điệu. Âm nhạc Tây Phương lúc đó rất thịnh hành với Mozart, Schubert, Schumann, Toselli hay điệu valse của Strauss.
Tay nghề nhất lại là Nhất Linh, với cái hắc quản (clarinette) không biết học thổi từ bao giờ. Nhưng xem ra cũng khá thành thạo. Ngay đến mười lăm năm sau, khi phải lánh sang Quâng Châu, anh bắc ghế trước cửa nhà, chiều tới hấp dẫn không ít người đến ngồi nghe. Nhân dịp, ở đây, cũng phải nhắc tới anh Đỗ Đình Đạo thổi clarinette hay saxophone còn giỏi hơn anh Tam, còn được nhiều người hoan nghênh hơn. Anh em anh Đạo rất có khiếu về âm nhạc.

Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo cũng đều chơi măng-đô-lin (mandoline) hay băng-giô (banjó). Cao hứng lên, chúng tôi vác đàn ra họa với nhau, với những bài hát thịnh hành hồi ấy, như Serenata, L Paloma, Cest à Capri, bài Jai deux amous (tôi có hai mối tình,




 50.  Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net


quê tôi và Pans), hay những bài hát của Tino Rossi v.v... Chắc chắn là lạc điệu, hỗn loạn nhưng ai cũng gật gù khen hay.
Nền âm nhạc đã bắt đầu đổi mới với anh Nguyễn Xuân Khoát. Bây giờ, tôi chỉ còn nhớ anh là một người tầm thước, hơi gầy hiền lành. Tôi được xem tác phẩm đầu tiên của anh, phổ nhạc Tây Phương vào những bài hát ả đào. Rồi sau đó, đã nẩy nở nhiều tài năng xuất sắc như Đặng Thế Phong, Văn Cao, Lê Thương Những bài ca như Thiên Thai, Con thuyền không bên, Biệt ly, Quê nhà tôi, Giọt mưa thu v.v... đã đạt tới một mực cao. Báo Phong Hoá vẫn bán rất chạy, nhưng vì thế nguy cơ bị đình bản càng gần. Đã mấy lần bị treo giò tạm thời rồi, nếu không chừa ông kiểm duyệt tất sẽ ra tay.
Đã đến lúc thấy cần ra một tờ báo khác để thay vào trong trường hợp bị treo giò lâu hơn. Tờ này tất phải có một vẻ mặt hiền lành hơn, với thể tài và nhân sự hơi khác đôi chút. Vừa đúng lúc đó, anh Hai Cẩm- vì lý do sức khoẻ đã về Hà Nội nghỉ. Và tuy đương bận học, tôi cũng bị các anh gọi tới bàn soạn công việc. Mọi người đồng ý nên bỏ bớt phần trào phúng, châm biếm, và chuyên về bình luận xã hội, phóng sự cùng một phần tiểu thuyết, thơ ca, để tạm hoà hoãn. Dựa vào một mô thức như tờ Match của Pháp, có tranh ảnh, bài viết ngần gọn. Chắc chắn là tốn kém hơn, nhưng cứ thử đã xem sao.

Tờ này được đặt tên là Ngày Nay. Chủ nhiệm là anh Cẩm, ngoài Thạch Lam và tôi, còn tìm được mấy ký giả trọ giúp như Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng. Cách làm việc thay đổi theo nhu cầu mới. Phải bỏ lối ngồi bàn giấy vắt óc nặn ra bài, đổi sang cách bước xuống đường, vào xã hội, đi phỏng vấn, làm phóng sự các nơi.

Muốn có tranh ảnh, phải tự vác lấy máy ảnh đi chụp. Nhà báo mua máy ảnh, và cả một bộ máy rửa ảnh, rồi xếp đặt một phòng tối riêng ở dưới nhà: Thế là chúng tôi lại kiêm cả nghề thợ ảnh nữa. Tối đến, thường thường phải cặm cụi tới nửa đêm. Tuy vậy, cũng tốt, vì nếu lâm vào thất nghiệp, thì ra mở cửa tiệm chụp ảnh cũng kiếm ăn được.

Vả lại, vác máy ảnh đi khắp nơi cũng là một thú vị. Thành thị, thôn quê, từng núi, đâu có việc là đi. Có những cảnh vui như hội hè, đình đám, người đọc cũng chú ý đến những bài phóng sự về từth trạng nghèo khổ của dân quê, của các xóm thợ thuyền. Từ tính chất giải trí, nội dung tờ báo chuyển sang tính chất xã hội.

Thực ra, từ 1935-36 trở đi, tình hình thế giới đã có biến chuyển mạnh với những trào lưu chính trị mới ở Pháp, Anh. Sự quật khởi của phong trào phát xít hay quân phiệt ở ý, Đức, Nhật cùng lúc với sự lan tràn của chủ nghĩa quốc tế cộng sản. Một mặt, xã hội Việt nam cũng đã thay đổi, dưới ảnh hưởng của tình hình thế giới, người dân chú ý tới những vấn đề xã hội, dân tộc cấp thiết hơn là những éo le trong gia đình hay tình yêu nam nữ.

Cái gì phải đến đã đến. Báo Phong Hoá bị đình bản, vì mấy bài đả động tới chính phủ Bảo hộ và viên Tổng đốc Hoàng Trọng Phu. Lần này bị treo giò sáu tháng. Không ai ngạc nhiên nhiều.
Sau đó không lâu, Ngày Nay tranh ảnh cũng tạm đình, vì vốn in quá cao, lại trở về lối thường. Anh Cẩm lại trở về Sàigòn. Còn tôi, lại bận thi Tú Tài phần thứ hai. Máy ảnh phải tạm gác một xó.



 51 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net


Xuân Diệu có dáng dấp một thi sĩ hơn là Huy Cận. Một chàng trai trẻ, tóc bờm xờm, mặt tròn trặn, ăn nói cũng nhỏ nhẹ Còn Huy Cận thì cũng thấp, nhưng to ngang hơn, vẻ mặt hơi thô, thoạt trông không có vẻ gì là nhà thơ, cũng không có vẻ học trò.

Xuân Diệu có nguồn cảm xúc khác với Thế Lữ, anh đi sâu vào thế giới cảm tình, tình yêu hơn. Huy Cận có sắc thái khấc, nghiêng về xúc cảm trước thiên nhiên nhiều hơn. Hai nhà thơ khác mà tôi gặp, không nhớ rõ là bao giờ, nhưng sau đã trở thành bạn thân, đó là Huyền Kiêu và Đinh Hùng. Tôi chỉ biết tên thật Huyền Kiêu là Kiều. Anh chàng làm thơ này có dáng vóc một lực sĩ, khác hẳn với cốt cách tiên hạc của các nhà văn khác. Cao lớn, mặt hồng hào, hay nói to, nhưng tính tình hiền hậu. Ngược lại, Đinh Hùng đứng bên cạnh anh thì trông như một cậu bé. Nhỏ con, gầy gò, tóc dài để tới gáy, quần áo xốc xếch. Ngực kiểu Omega, dáng như nghiện, đó là đặc điểm của nhà văn thời đại.

Trong cuốn Đốt lò hương cũ Đinh Hùng có kể lại những buổi tụ họp tại nhà anh Thạch Lam, bàn truyện văn chương, đánh bài, uống trà. Đôi khi có đồ nhậu, uống rượu say mèm, lăn cả ra đất mà ngủ. Đối với những anh lớn hơn như Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Thạch Lam, thì chúng tôi là ba tiểu qủy
Ngồi trên thềm nhà, nhìn ra mặt hồ, thì một cốc cà phê, một đĩa hạt dưa, vài chiếc kẹo dừa cũng đủ gợi hứng. Tất cả đều nghèo, nhưng đôi khi trong túi có chút tiền, thì ở lại tối, thêm đĩa thịt heo luộc hay lòng heo, giàu chút nữa, thêm được con gà luộc chấm muối chanh.

Lần mà Đinh Hùng nói là cả bọn kéo nhau đi Khâm Thiên, tôi không nhớ là ai khởi xướng. Chắc là Khái Hưng, người có chút kinh nghiệm. Đi hát ả đào hồi đó đã từ một thú vui thanh nhã đổi dần sang tục tằn hơn.
Khâm Thiên, một xóm ăn chơi lớn nhất Hà Nội. Ngoài đi cô đầu ra, còn có nhiều tiệm nhảy, tùy ý khách lựa chọn. Thanh niên thì thích đi nhẩy hơn, nhưng nhẩy xong kéo sang nghỉ ngơi bên nhà cô đầu cũng rất tiện, nếu trong túi đầy một chút. Một số nhà văn hồi ấy sống một cách phóng đãng, nhưng chúng tôi cũng có thể liệt vào hạng đứng đắn cả, tuy không phải là mẫu mực. Các anh Tú Mỡ, Hoàng Đạo, Nhất Linh xem ra quy củ hơn cả.
 

Chương 10 - Đời Sống Y Khoa - Đoạn Tuyệt.


hất qủy, nhì ma, thứ ba học trò thực không ngoa. Nhưng đúng ra, học trò bao giờ cũng là nhất. Vì có ai gặp ma hay quỷ thực bao giờ đâu? Mà học trò lại ở trọ lại càng quỷ hơn cả. Chỉ có mấy tay trời đánh với nhau không có ai dòm ngó, kể cả gia đình. Tha hồ mà nói truyện, truyện gì cũng có thể được. Tha hồ đi chơi, đi đạo phố, có đêm trời lạnh, ngồi trùm chăn đọc sách, hay đánh tam cúc, đánh bất, mà có tiếng rao mía nóng, lục tàu xá (chè đỗ xanh), hay xôi lạp sường thì tuyệt. Những thứ quà đủ ngon và hợp với túi tiền của học sinh.


 52 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien
Thỉnh thoảng, nếu ai có vợ từ xa hay bạn gái tới thăm, thì mọi người rất tự giác bỏ ra đi, không cần nhắc nhở.
Một nan đề đứng trước mặt tôi, một lựa chọn khó khăn. Sau khi đỗ Tú Tài phần thứ hai, tôi sẽ tìm việc làm hay lên học Đại Học? Mà nếu đi học, thì học môn gì?

Phi Cao đẳng bất thành phu phụ, nếu lên học được thì sẽ có nghề nghiệp vững vàng và... dễ lấy vợ hơn. Học Luật, thì chỉ cần ba năm, không khó nhọc lắm, nhưng ra làm ông tham cạo giấy hay nhảy vào quan trường thì không thích hợp với cá tính tôi. Vậy chỉ còn con đường học Thuốc, ra làm một chân đốc tờ xem ra tốt hơn cả. Nghe nói học khá chật vật, sáu bẩy năm, mà quá ư duy vật, không nên thơ chút nào cả. Tôi không khỏi do dự. Nhưng sau rốt cũng phải nhắm mắt đưa chân. Triết lý thực dụng cho tôi biết trên đời không có gì là hoàn mỹ. Tôi đã chọn đúng, vì nghề bác sĩ về sau này đã giúp tôi vượt qua khó khăn bất ngờ -đúng là cần câu cơm, như người ta thường nói.

Ai đã học qua tại trường Cao đẳng Hà Nội cũng còn nhớ những con đường rộng ở khu phố Tây, hai bên đều trồng cây um tùm, những mùa thi đầy hoa phượng đỏ rụng trên mặt đất, và toà nhà chính của trường với nhà lầu nguy nga ở giữa, đồ sộ nhưng lại mỏng manh. L Université lndochinoise na que la facade - trường Đại Học Đông dương chỉ có bề mặt - tới nay tôi vẫn còn nhớ câu nói đó.

Lớp tôi lúc bắt đầu có độ hơn ba mươi người - lớp P.C.B (sinh lý, hoá học, vật lý), đủ các hạng người, đủ các nơi Nam Bắc, Lào, Mên. Nhưng tiếc rằng không có một phái đẹp nào. Nhìn đi ngoảnh lại, cũng chỉ thấy bóng dáng kiều diễm của một bạn học - cô J. O. người Nam Kỳ- nhưng lại ở lớp trên, không thể không cảm thấy buồn tẻ.

Cả toàn bộ Đông dương mới có mấy lớp sinh viên như vậy, nên chúng tôi cũng tự coi là may mắn quá rồi. Bẩy năm sau, khi tốt nghiệp ra, chỉ còn vẻn vẹn có mười mấy người mà thôi. Có bạn đã bỏ học, có bạn đã qua đời. Trong số bạn đã tốt nghiệp, nay đã có bốn người sang sống ở Hoa Kỳ. Một điều dù nằm mê cũng khó tưởng tượng được lại gặp nhau ở bên kia bờ Thái Bình Dương, và mỗi người một cảnh ngộ ly kỳ.

Thực ra đầu óc những người sinh viên trường Thuốc không đến nỗi quá vật chất và khô héo như người ta tưởng. Họ có cảm tlnh, có xúc động, mà nhiều khi còn sâu đậm hơn những người khác. Vì họ đã phải đứng trước nhiều cảnh bệnh tật, đau khổ, tuyệt vọng, tang tóc, chia ly - những cảnh thương tâm nhất trong đời người. Những cảm thụ ấy ăn sâu vào trong tim óc. Cho nên, trong lịch sử các nước, trong giới bác sĩ đã nẩy nở ra nhiều nhà văn xuất chúng, hay những nhà cách mạng kiên cường, cũng không có gì là lạ.

Thời kỳ này, có thể gọi là đỉnh cao của Tự lực văn đoàn với nhiều tác phẩm phong phú và đa dạng. Cuốn Nửa Chừng Xuân có thể gọi là sáng tác tiêu biểu của Khái Hưng, và về sau, với Những Ngày Vui, Thoát Ly, Gia Đình... Khái Hưng là người sáng tác tiểu thuyết phong phú nhất, được độc giả, đặc biệt phái nữ, yêu chuộng.

Song, tác phẩm gây ảnh hưởng sôi động nhất, tiêu biểu cho quan niệm xã hội của cả nhóm, có lẽ là cuốn Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Trong cuốn Nửa Chừng Xuân, mâu thuẫn mới chỉ được đưa ra và giải quyết nửa chừng. Đến cuốn Đoạn Tuyệt, thì mới thực là đoạn



 53.  Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net


tuyệt. Nhất Linh có đầu óc quyết liệt với cái cũ hơn Khái Hưng. Bi kịch trong cuộc hôn nhân Loan-Thân là sản phẩm tất nhiên của đầu óc đó. Nhiều người cũng thấy xung đột giữa các thế hệ giữa mẹ chồng nàng dâu, là do quan niệm quân thần phụ tử và tam tòng tứ đức, một quan niệm bóp nghẹt quyền tự do được sống, được phát triển của con người, và nhất là đối với phụ nữ, ép buộc họ phải chịu đựng đau khổ trong một khuôn khổ cổ hủ mà có người cho là đạo lý, luân thường bất khả di dịch. Đoạn Tuyệt bản thân là một bản tuyên ngôn ly kỳ, lại thêm một mối tình dang dở lãng mạn với một nhân vật cách mạng nên được người ta chú ý hơn. Một nhân vật chính trong Nửa Chừng Xuân -Lộc- lại là một quan huyện, nên có người không ưa lắm, mặc dầu nhân vật Dũng trong Đoạn Tuyệt hoạt động có vẻ tài tử giang hồ hơn là một chiến sĩ cách mạng thực sự, nhưng có vẻ hợp thời hơn.

Tất nhiên, cũng gặp nhiều người công kích, cho là phá hoại truyền thống, phá hoại tôn ti trật tự. Những công kích đó không những đến tự những người già nua, mà còn cả đến một số người tự cho là tiến bộ như Trương Tửu, hay Nguyễn Công Hoan.
Chỗ đặc biệt của Nhất Linh là nhạy cảm trước những biến chuyển của thời đại, và muốn đưa ra những ý kiến về cải cách xã hội. Nhưng đó cũng là chỗ yếu của cuốn Đoạn Tuyệt, vì có lúc phải uốn nắn đời sống để cho thích hợp với luận đề đã đặt ra, trong truyện không tránh được những đoạn kém tự nhiên.

Ngược lại, những tác phẩm của Tự lực văn đoàn lại bị soi xét dưới một con mắt khác bởi những người Mác-xít. Họ gán nhãn hiệu lãng mạn, ủy mị tiểu tư sản, xa rời quần chúng và đưa quần chúng vào con đường xa lánh đấu tranh. Người cộng sản có cái nhìn cực đoan, phủ định tất cả các thứ văn chương không đúng với đường lối đấu tranh giai cấp như họ muốn, nên đã phủ định giá trị nhân bản, tiến bộ và giá trị văn học của Tự lực văn đoàn, nhất là về sau này, khi một số trong nhóm gia nhập những đảng phái quốc gia.

Các nhà văn không thể thoát ra khỏi khuôn cảnh đời sống thực tế của mình. Phần lớn văn nghệ sĩ hồi ấy đều xuất thân từ những gia đình nghèo hay trung lưu. Và nhiều người bản thân nghèo, hay rất nghèo túng. Suy nghĩ về anh em chúng tôi và các văn nghệ sĩ khác, đời sống có ảnh hưởng trực tiếp tới nội dung các tác phẩm. Nếu Vũ Trọng Phụng viết được những sách như Số Đỏ, có thể cũng vì anh nghèo xác xơ, tiếp xúc với những hạng người ở dưới đáy xã hội.

Lấy thí dụ nữa với Thạch Lam. Từ nhỏ, hoàn cảnh nghèo, sa sút của gia đình đã gây ấn tượng sâu xa trong tâm hồn anh em, và chúng tôi cũng thường tiếp xúc với cảnh nghèo khổ chung quanh. Trưởng thành, Thạch Lam cũng đã sống một đời nghèo túng khó khăn, và sẵn có lòng nhạy cảm đối với những cảnh ngộ đáng thương trong xã hội. Nếu có gì là đặc sắc trong tác phẩm của anh, thì phải nói là tấm lòng trắc ẩn đối với con người.

Nếu để ý, thì sẽ thấy những nhân vật chính trong tác phẩm của Thạch Lam rất ít có những cụ Thượng, ông Tuần, quan Huyện, hay ông Nghị, ông Tham đầy rẫy trong những tác phẩm của nhiều tác giả khác, ngay cả trong Tự lực văn đoàn. Một tác phẩm đáng quý là ở chỗ có những cảm thụ chân thành, xâu xa đối với những đau thương, những bất hạnh,



54 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

 bất công trong đời sống. Tính chất này ít hay nhiều, bàng bạc trong sáng tác của Tự lực văn đoàn, cho nên được độc giả yêu chuộng.

Riêng chỗ tôi thấy, dù mỗi người đều có thiếu sót, các anh em trong nhóm đều là những người bản tính hiền hậu, hoà nhã, giàu lòng thương người, không tham danh tham lợi. Tôi chưa thấy bao giờ to tiếng cãi cọ, cũng không ai áp đặt ý kiến mình lên người khác. Tất cả đều mang hoài bão làm được một cái gì có ích cho đồng bào, đều ghét những tệ đoan, bất công trong xã hội. Khi xẩy ra ý kiến khác nhau về công việc, thì bàn luận với nhau để giải quyết. ý kiến của Nhất Linh thường được chú ý hơn cả.

Đoàn ánh Sáng ra đời cũng vì tâm trạng trên. Ai đã đọc Người Quay Tơ của Nhất Linh chắc cũng biết truyện Giấc Mộng Từ Lâm trong đó tả một nơi sống mơ tưởng. Với ý tốt muốn đưa người dân ra khỏi chỗ tối tăm bùn lầy nước đọng và ổ chuột, các anh em đưa ra ý kiến trước hết hãy góp sức, cổ động các giới giúp xây dựng những khu nhà ánh Sáng để làm gương mẫu, bắt đầu cho một phong trào rộng lớn. Theo ý định của Nhất Linh, đây không chỉ là xây dựng mấy căn nhà, mà là khởi đầu phong trào cải cách, để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nghèo khó... Phong trào được nhiều bạn hưởng ứng, như kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp, Vũ Đình Hoà, Tôn Thất Bình, Phạm Văn Bính (từ Thái Bình lên). Anh Hoàng Đạo viết bài mô tả khu ánh Sáng tương lai.

Chính Huỳnh Tấn Phát sau này cũng phải công nhận là phòng kiến trúc Luyện - Tiếp - Đức đã đưa ra kiểu nhà ánh Sáng bền chắc, rẻ tiền, văn minh hợp vệ sinh... được dư luận đồng tình và báo chí giới thiệu rộng rãi, gây nên tiếng vang lớn trong nước và ở một số nước Châu Phi.

Dù kết quả thực tế không nhiều, dựng được mấy khu nhà ở bãi Phúc Xá, bờ sông Hà Nội, rồi sau phong trào tắt dần, nhưng cũng đã là một việc có ích. Ai cũng biết là, muốn giải quyết vấn đề nghèo khó, thì cần phải trừ bỏ ách thực dân và do người Việt tự quản lý đất nước. Phong trào ánh Sáng trên tính chất, chỉ là một việc trên ngọn. Trong buổi trình diễn tại nhà Hát Lớn thành phố, tôi và mấy bạn có đến dự. Nhưng khi mục kích tay Thống sứ Bắc Kỳ tiền hô hậu ủng, khệnh khạng bước lên chỗ ngồi, rồi tất cả đều đứng nghiêm để nghe bài quốc ca Pháp - La Marseillaise - thì chúng tôi thấy lợm giọng, bấm nhau bỏ ra ngoài. Miả mai nhất là bài La Marseillaise hô hào bảo vệ tổ quốc - lại tấu lên cho những kẻ bị thống trị nghe? Trong lúc đó, những nữ sinh diêm dúa bắt đầu cầm những rỏ hoa đi lần lượt bán cho các quan khách Pháp, Việt, để mong họ bớt ít của cho những dân nghèo... Tôi cảm thấy đó không phải là con đường chính để đi.

Tuy vậy, phong trào ánh Sáng cũng đã đánh dấu một giai đoạn mới, không toàn ở giá trị bản thân, mà chính ở chỗ nhóm Ngày Nay. Tự lực văn đoàn đã từ địa hạt thuần tuý văn chương, bước vào hành động. Với thời cục chuyển động, từ 1937 trở đi, dù muốn hay không, công việc sáng tác, làm báo đã dần dần đi xuống. Một giai đoạn khác sẽ bắt đầu.




 55. Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net


CHƯƠNG 11 - TRƯỜNG THUỐC - TÌNH THẾ CHUYỂN ĐỘNG

Trong đời tôi, có lẽ một sự lầm lẫn trong nhiều lầm lẫn khác, là việc vào học y khoa. Lấy
nó làm một cái cần câu cơm hạng tốt, không hơn không kém. Vì tôi cũng như một số bạn
hữu khác, lúc mới vào học, rất ít nghĩ đến tính chất cứu nhân độ thế hay là những câu
châm ngôn của Hippocrate.
Chế độ học Y là một chế độ tàn nhẫn, nhất là của Pháp. Ai đời mới lên học năm thứ nhất,
chân ướt chân ráo chưa biết gì mà sáng nào từ 7 giờ cũng đã phải đạp xe tới bệnh viện
để kiến tập. Nếù đi nhà thương Phủ Doãn thì còn khá, nhưng nếu phải đi đến tận nhà
thương Bạch Mai thì khổ, nhất là khi trời nắng chang chang hay mưa rét cóng cả người.
ở đó, cho tới mười hai giờ trưa mới nghỉ, chỉ đủ thì giờ để nuốt một bát cơm hay một ổ
bánh mì, vì tới một giờ đã phải vội vã cuốc đi Viện giải phẫu ở tận vùng Hàm Long, gần
Đồn Thủy. Viện giải phẫu trông bề ngoài không có gì khủng bố lắm. Nhưng đã bước vào
trong thì ai cũng phải mất hết hứng thú về cuộc đời.
Tầng dưới là nhà xác thành phố, lạnh lẽo, âm u. Những tấm đá dài nằm song song, trên
nằm đủ các thây người vô thừa nhận, da trắng bệch, hay tím bầm, xám xịt, đầu tóc rũ
rượi hay lởm chởm, nằm thẳng cẳng hay co quắp đủ các hình trạng. Có người mắt còn
mở trừng trừng như muốn nhìn vào những kẻ ra vào.
Còn tầng trên là nơi học giải phẫu, một môn học cơ sở. Nghe giảng bài xong, sinh viên
khoác áo dài, lấy túi dụng cụ mổ rồi bước vào gian phòng giải phẫu rộng lớn. Cảnh tượng
ở đây vừa khủng bố vừa hỗn độn. Vì đây xác không thành xác nữa, xác người đã thành
ra những con vật kỳ lạ. Xác đã tiêm thuốc vào mạch máu rồi nên khô đét như mắm, da
đen xám lại. Mặt đã co rúm. Có vài cái xác còn nguyên mới mang lên, nhưng phần nhiều
đã bị tiả mổ, cắt xén, chỉ còn lại xương sọ lủng củng, những sợi gân lòng thòng, những
cánh chân cánh tay vô trật tự, những đầu lâu trơ trọi. Ôi! con người sao đến nỗi thế này?
Trong lúc các bạn chia nhau từng tốp để mổ xẻ, thì tôi thấy khựng lại. Một cảm giác lạ
lùng bỗng nhói trong ngực. Tôi tránh không nhìn vào hai lỗ mắt sâu trũng, không còn
con ngươi nữa, nhưng tôi cảm thấy rõ ràng là người chết này như đang muốn nói truyện
gì với mình. Mà đây là ai? đã sống ra sao? và tại sao lại nằm chết khô ở đây?


Nhưng chung quanh, vẫn thấy tiếng cười nói rộn rã, tiếng dao kéo vô tmh chạm với nhau
leng keng. Trong đó, tiếng cười lanh lảnh của cô bạn học quý phái nổi bật lên, lạc loài
trong bầu không khí âm u, trong mùi hăng hắc của thuốc trừ trùng. Bốn giờ chiều, lại
phải đạp vội về trường học để nghe giảng, may mà trường cũng gần. Nhiều khi mỏi mệt,
buồn ngủ díu cả mắt. Bẩy giờ, cuốc về đến nhà thì trời đã tối, nằm lăn ra giường, không
buồn ăn uống gì. Những ngày tháng trôi qua trong các bệnh viện -những phòng bệnh làm
phúc xám xịt, những giường sắt lạnh lẽo, những người bệnh già trẻ nằm ngồi buồn bã,
mùi thuốc toả ra khắp phòng... Những cảnh u buồn, tuyệt vọng... Nhưng thôi, rồi cũng
quen đi, cũng phải chịu đựng. Nghĩ cho cùng, đây cũng là một dịp rèn luyện con người
cho thích họp với đời sống phức tạp, khó khăn.


56 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Trong khối sinh viên, có lẽ sinh viên trường Thuốc là miệt mài hơn cả về học hành, và
cũng ít thì giờ để quan tâm đến những việc khác. Nhưng, đứng trước tình hình khẩn
trương trên thế giới và trong nước, người sinh viên hay người trí thức nói chung không
khỏi bị ảnh hưởng và bắt buộc phải suy nghĩ. Hoạt động chính trị đã sôi nổi tại Việt nam
với sự thắng thế của mặt trận Bình Dân ở Pháp đưa lại một chút cởi trói tại Đông dương.
Tại Nam Kỳ, tự do báo chí, tự do kết hội được cho phép trong giới hạn, tại miền Bắc và
Trung thì rất ít thay đổi. Một số đảng phái được phép hoạt động, đảng cộng sản Đông
dương ngấm ngầm thúc đẩy một Đông dương Đại hội để đòi hỏi cải cách về mặt lao công.
Song việc này lại gặp sự phân đối của phái Đệ Tứ Trotzky, vốn không chủ trương liên kết
với giai cấp tư sản, và chỉ tiến hành cái mà họ gọi là cách mệnh vô sản thường trực, bất
kể dân tộc có độc lập hay không và do ai thống trị.
Tại miền Bắc, không cho phép đảng phái hoạt động, nhưng trên báo chí đã có thể đưa ra
những ý kiến yêu cầu câi cách nhẹ nhàng, đối đãi tốt hơn với người bản xứ, cải thiện chế
độ lao công. Việc này đã dẫn đến một cuộc đình công của thợ thuyền nhà máy dệt Nam
Định. Thừa cơ hội, trên tờ Ngày Nay, cũng đưa ra một số bài nghiên cứu về xã hội, chính
trị nhẹ nhàng.
Nhìn trên thế giới, khuynh hướng phát xít ở ý với Mussolini, và quốc xã tại Đức với Hitler,
đã lên rất mạnh, đã bắt đầu uy hiếp tới sự sinh tồn của chế độ dân chủ Tây Phương. Từ
1937, sau khi chiếm đóng Mãn Châu trước sự bất lực của hội Quốc Liên, đế quốc Nhật
tấn công thẳng vào lục địa Trung Hoa và uy hiếp cả vùng Đông Nam á, ngay cả đến
những thuộc điạ của Mỹ (Phi Luật Tân), Hồng Kông và Đông dương. Nguy cơ chiến tranh
đã tới gần. Đế quốc Pháp sẽ đi tới đâu? Không ai bảo ai, nhưng đều mơ hồ cảm thấy một
vận hội mới sẽ đến với đất nước. Cuộc cách mạng dân tộc sẽ có cơ thành công. Đối với
Nhật bản, vì cùng là da vàng mũi tẹt, nên có người từng đợi họ đến giải phóng cho mình,
và chủ trương nên dựa vào Nhật để đánh đuổi người Pháp trước đã. Cũng có những nhóm,
chói mắt trước sự hùng cường của Đức Nhật, tán đồng một chủ trương độc tài, để lãnh
đạo dân chúng theo ý muốn của mình. Đảng cộng sản, thì nhất định phải theo đường lối
chống phát xít của Đệ Tam Quốc tế, của Liên Xô, rồi sau này theo con đường Đồng minh
với các nước dân chủ tư sản.
Các đảng phái quốc gia lúc đó, không có một đảng nào hoạt động công khai trong nước.
Các đảng viên Việt nam Quốc Dân đảng vẫn chỉ nằm trong bí mật, nhưng đã bắt đầu có
liên lạc với những phần tử cách mạng lưa vong ở Trung quốc, ở Nhật và ở Thái. Tại Trung
quốc, Việt nam Quốc Dân đảng, Phục Quốc đồng minh hội đương cố gắng chỉnh đốn lại
tổ chức trong trường hợp khó khăn. Nhật quân đã tiến xuống miền Hoa Nam, đây là bước
sửa soạn cho một trận tuyến kết hợp những nhà ái quốc tại ngoài nước - Việt nam cách
mệnh đồng minh hội.
Nhưng, trong hàng ngũ người Việt chủ trương giải phóng dân tộc giành độc lập, đã có
những chia rẽ sâu xa về ý thức hệ, về sách lược và đường lối hoạt động, mà tuyệt đại đa
số người dân chưa cảm giác thấy.


57 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
ở ngoài nước, từ năm 1944, đã có một tập hợp các anh em ở hải ngoại, với sự khởi xướng
của mấy vị như Nguyễn Hải Thần, Hồ Học Lãm, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, một số
nhân vật các nhóm khác, và lấy tên là Việt nam Độc lập đồng minh hội (tên này sau đó
bị đảng cộng sản sử dụng viết tắt là Việt minh vào năm 1941).
Không bao lâu sau, trong đó, một số đảng viên cộng sản trá hình định dẫn tổ chức sang
khuynh hướng cộng sản, nên sự tập họp này đã tự giải tán. Tiếp theo, Việt nam Quốc
Dân đảng tại Côn Minh thành lập Hải ngoại chấp hành ủy viên Hội, với những người cầm
đầu Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Chu Bá Phượng, Lê Khang... Chu Bá Phượng được
phái về quốc nội hoạt động.


Vì Việt nam quốc dân đảng chưa gây lại một hệ thống đảng chặt chẽ ở trong nước, và
không có nỗ lực tuyên truyền để ảnh hưởng tới quần chúng, nên đồng bào tuy vẫn mến
mộ danh nghĩa của đảng, song thấy cần phải có tổ chức khác để cổ động dân chúng đứng
lên hành động. Đó là nguyên do của sự nẩy nở một số đảng phái bí mật trong nước bắt
đầu từ 1938 trở đi. Nhiều phần tử trí thức và sinh viên, bị thôi thúc bởi lòng yêu nước, sẽ
kế tiếp nhau tham dự vào những phong trào chống Pháp, hoặc cộng sản hoặc không cộng
sản. Có những bạn cùng đường, cùng một lớp, ngay trong cả một nhóm văn nghệ, một
văn đoàn sẽ tham gia vào những khuynh hướng khác nhau, thậm chí sẽ trở thành thù
địch trong những ngày khó quên mấy năm sau.

 


CHƯƠNG 12 - NGÀY TẾT QUÊ HƯƠNG - XEM MẶT.


Chuyến xe hoả Hà Nội - Hải Dương dần dần chạy chậm lại, qua con cầu bắc trên sông
Sen quen thuộc, rồi từ từ vào trong ga Cẩm Giàng.
Đã lâu lắm tôi chưa về quê. Năm nay phải về ăn tết. Vẫn cái nhà ga nhỏ, xám. Những
người gồng gánh lên xuống. Sau ga, con đường lát đá gồ ghề, mấy hàng quán lêo tèo.
Tôi bước trên con đường sắt thẳng tắp đi về chân trời, bên phải vẫn là cây đa mâm xôi.
Chỗ bà nội tôi yên nghỉ ở gần đó. Chung quanh, những xóm làng luỹ tre bao bọc không
khác gì xưa.


Bước vào trong cổng nhà, cây cối đã mọc nhiều, um tùm trong vườn. Có rặng chuối, có
mấy cây ổi, còn cả cây na. Những luống tóc tiên đã bờm xờm, vì thiếu người cắt xén. Cây
mít trước gian nhà gạch cũng đã lớn nhiều, quâ dính vào thân cây: Chân tường nhiều rêu
phong hơn trước. Mái ngói đã đổi màu. ít người sống ở đây, nên cảm giác có vẻ hiu quạnh
cô đơn giữa cánh đồng không. Không biết tại sao tôi cảm thấy xa lạ, hình như có dấu
hiệu báo trước sẽ có gì thay đổi đối với cái trại Cẩm Giàng này.


Chỉ có mẹ tôi ngồi trên phản, trong buồng khách. Hình như có điều gì chịu đựng trong
đôi mắt, trên khuôn mặt đã nhiều nết răn của bà. Con cái đã trưởng thành cả, đỗ đạt,
làm nên, thành công, tuy phần nhiều vẫn nghèo. Nhưng ai nấy đều bận rộn, và ít khi về
thăm nhà. Bà chỉ còn hy vọng vào mấy ngày Tết, giỗ. Ngay đứa con út là tôi, đã hơn hai
mươi tuổi đầu, nhưng vẫn lông bông, làm những cái gì bà cũng chẳng biết. Trong lúc ngồi


58 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.netănăn cơm, tôi cảm thấy mình ích kỷ, ít khi nghĩ đến mẹ. Và tôi không khỏi cười một mình,
nghĩ đến những lúc bà muốn dạm vợ cho tôi. Nào cô này xinh và hiền hậu lắm, cô khác
cũng coi được, phúc đức và là con một, nhà có hai trăm mẫu ruộng... Kể thì hấp dẫn
thực, nhưng khổ nỗi tôi chưa thấy hứng thú trong việc lấy vợ. Một lần, còn nhớ, bị mẹ
thúc dục quá, nhờ trung gian của một bà bạn, tôi phải đi xem mặt một cô gái! Đến tận
nay, tôi vẫn không hiểu tại sao mình lại đi làm một việc vô ý thức như vậy, cho tới nay,
tôi vẫn trách mình. Vào một căn nhà ở phố hàng Tre, tôi được bà chị cô gái tiếp đãi khá
niềm nở, khiến tôi thấy ngượng ngập. Song vì người ta biết mình cũng là nhà báo, nên
cũng cố đối đáp trôi chảy được những câu hỏi khó trả lời. Hàn huyên xong, tôi bị dẫn
xuống nhà ngang, và lại phải đối diện với cô gấi một cách gượng gạo. Trò truyện một vài
câu nhát gừng, cô cứ ngồi cúi mặt xuống. Cô ta không đẹp lắm, nhưng cũng dễ thương,
rất có thể là một người vợ hiền, nếu chính tôi đã muốn cưới vợ...

Cơm trưa xong, tôi vượt qua đường sắt, qua con đường đất quen thuộc, đi giữa đồng
ruộng còn trơ gốc rạ. Nơi này có bao nhiêu kỷ niệm. Những đứa trẻ chạy tung tăng trên
bờ ruộng, hắi những cánh hoa cúc vàng dại, cùng những hoa thài lài mầu xám lơ, rồi
đánh cỏ gà. Khi mệt, cùng ngồi nghỉ trên rễ cây đa, nhìn ra con sông nhỏ chảy xuôi.
Mộ bà tôi vẫn nằm gần đấy, hướng về Đông Nam, như mộ con trai bà. Một cuộc đời đã
tẩt trong cô đơn, im vắng, như một định mệnh. Trên gò Phụng, mộ thầy tôì, mấy ngọn
cỏ may vẫn lay lắt theo gió. Vẫn ngôi chùa cổ kính rêu phong, con đường nhỏ không một
bóng người. Gió thổi lạnh qua những cành tre xao xác, bên những nhà tranh buồn tê. Tôi
ngồi bên cạnh ngôi mộ, mộ người cha mà tôi chưa bao giờ trông thấy mặt. Thời gian đọng
lại như lui về dĩ vãng. Bao nhiêu thế hệ đã qua, đã sống trên đồng ruộng hiu quạnh, đã
nằm xuống ở mảnh đất này? Tiếng thân tre kẽo kẹt khi chạm vào nhau đôi khi tới nay
vẫn còn văng vẳng bên tai tôi.

Hai hôm sau, cảnh tượng trong nhà rộn rịp hẳn lên. Mấy người em họ từ trong ga ra chơi.
Chuyến xe trưa lại đưa xuống một số anh em văn báo, đã hẹn trườc năm nay cùng về
đây ăn Tết cho vui.

Ra ga đón có cả Khái Hưng, Thế Lữ, Xuân Diệu, và hai bạn nối khố, Huyền Kiêu và Đinh
Hùng. Trong nhà có Nhất Linh, vợ chồng chị Thế, Thạch Lam và tôi, đủ mặt anh tài. Mọi
người chia nhau đi tham quan vườn nhà, những người trẻ thì chạy ra đồng, ngắm cảnh
đồng quê, rồi theo con đê đi mãi tới bờ con sông Sen. Già hơn một chút, thì ngồi nhấp
nước trà, với mứt và kẹo vừng.

Đã lâu, không được nhìn lại ánh đèn trắng măng xông chiếu sáng khắp nhà trong cảnh
ba mươi tết. Trên bàn thờ, khói nến sáng choang, mùi hương ngây ngất lẫn với màu hồng
của hoa đào, làm tăng thêm không khí ấm cúng trong nhà. Thêm vào đó một mâm cơm
cỗ bát cũng khá đầy đủ, suốt năm mới được ăn một hai lần. ăn xong, mấy anh lớn tuổi
ngồi lại đánh bất, sát phạt lẫn nhau để đợi tới phút giao thừa. Bọn trẻ chúng tôi xuống
nhà bếp, để giúp nấu bánh trưng. Hai thùng sắt đầy ắp bánh. Công việc chúng tôi là thêm
củi hay thêm rơm vào lò để duy trì lửa đủ mạnh. Trời rét, ở ngoài mưa phùn nhẹ, gió bấc
thổi qua phên liếp, nhưng ở trong ấm áp, lửa chiếu vào mặt ai cũng đỏ hồng. Đây là\

 
59 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
những phút cuối năm thú vị nhất, vừa đun bánh, vừa ngồi cắn hạt dưa, bàn đủ mọi truyện
Đông Tây, kim cổ. Vừa đến nửa đêm thì bánh vừa chín tới. Mùi thơm bánh chín toả ra
khắp buồng. Ai cũng mong chóng tới giao thừa, đợí cúng xong sẽ được ăn bánh. Cuối
cùng thì giờ đó cũng tới. Một tràng pháo nổ lên. Tất cả đều chạy lên nhà trên, làm lễ
trước bàn thờ. Rồi đến chúc tuổi bà mẹ. Tôi còn nhớ anh Khái Hưng, người nhiều tuổi
nhất, thay mặt các bạn nâng cốc rượu hồng - độ ấy có những thứ ruợu ngọt đủ màu sắcđể
mừng tuổi, rồi đến các con, cháu. Mỗt người đều được một phong bao nhỏ... để tiêu
Tết, đủ để ban ngày chơi đánh đáo.

Cỗ giao thừa được bầy ra, món chính là bánh trưng chín tới, vừa cắt ra còn bốc khói, màu
xanh mịn, dậy mùi tiêu. Đương đói, ai cũng ngốn nghiến, không làm khách. Nhưng phải
kể riêng về hai kiện tướng: Huyền Kiêu và Xuân Diệu. Lực sĩ Huyền Kiêu thực là kinh
người nuốt hết miếng này tới miếng khác dưới sự cổ động của mọi người. Sau rốt, lực sĩ
cũng phải bỏ cuộc, đầu hàng, chỉ còn thi sĩ tiếp lên chiến đấu, đoạt giâi quán quân. Song,
thực ra, cũng không đến bốn chiếc bánh như người ta kể trong truyền thuyết.

Hôm sau, mọi người lục tục cáo biệt trại Cẩm Giàng ra về, tiếp nối công việc hàng ngày.
Riêng tôi, lại trở về nhà trọ và trường học.
Một hôm, chúng tôi đáp xe điện đi thăm đôi bạn Thế Lữ - Song Kim ở ngoại thành. Thế
Lữ đã bắt đầu tổ chức một ban bầu kịch. Và Song Kim là một phụ tá đắc lực, kiêm một
diễn viên chính.
ở đây, tập hợp một số người trê, nam có nữ có. Tất cả đều hăng hái tập dượt, bàu không
khí phấn chấn, vui vẻ. Họ diễn kịch, ngâm thơ, đàn hát. Tuy kịch nói, kịch thơ lúc đó chưa
thịnh hành, nhưng các anh em đều rất nỗ lực, và tin tưởng rằng sẽ có thành tích trong
một lĩnh vực văn nghệ mới.

Tại sao anh Thế Lữ lại chọn nghề làm kịch? Tôi cũng không rõ lắm. Có thể vì đến lúc đó
nguồn thơ đã cạn dẳn với những bài như cảm đề truyện Đoạn Tuyệt. Nàng Thơ đã dần
dần lui xa... Sau tập Mấy Vần Thơ, không thấy ra một tập thơ nào khác. Và cũng có thể
là ảnh hưởng của Song Kim, không rõ chị đóng kịch từ hồi nào.

Trước kia, trên sân khấu, được quần chúng thích nhất là hát tuồng - những tuồng cổ theo
lối kịch Bắc Kinh hay Quảng Đông, thương diễn trên sân khấu rạp Quảng Lạc. Thuở nhỏ,
tôi thường trố mắt nhìn những ông tướng đầu đội mũ cắm lông dài, vai cắm những lá cờ
ngũ sắc múa may, tay cầm một thứ roi giả vì làm ngựa cưỡi, trong trống kèn inh ỏi đinh
tai nhức óc. Những thứ tuồng cổ ấy về sau bị gọi chung mộttên là tuồng Quảng Lạc.
Rồi xuất hiện kịch hát cải lương, hình như lan từ trong Nam ra nghe hay và dễ hiểu hơn
tuồng, có vẻ tân thời hơn, với những tên tuổi như Năm Châu, Phùng Há, ái Liên. Nhưng
dù sao, cũng vẫn có vẻ tuồng... cải lương. Kịch nói sinh sau đẻ muộn, mô phỏng theo
kịch nói Tây Phương, với những đề tài hiện đại, xã hội, hay lịch sử. Ban kịch Thế Lữ đã
đưa ngành kịch Việt nam vào một giai đoạn mới.


Nói vẻ nguồn thơ, thì không những Thế Lữ mà không lâu, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy
Cận xem ra cũng cạn dần. Sau này, cũng thêm được Tế Hanh, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Hồ Dzếnh, 



60

Vũ Hoàng Chương... Thi sĩ Huyền Kiêu sau khi đi lấy vợ - tôi có hân hạnh
được làm phù rể- nghe như đã tắt cảm hứng.
Chỉ còn nhà thơ Đinh Hùng viết vài bài não nuột. Thời thế không họp với thứ văn thơ sướt
mướt nữa, nhưng nhà thơ cũng vẫn cố gắng sướt mướt. Điều trên cũng có thể áp dụng
đến trào lưu sáng tác văn xuôi kể cả Tự lực văn đoàn.
Sau cuốn Đoạn Tuyệt, cuốn Lạnh Lùng của Nhất Linh cũng gây ra nhiều luồng dư luận.
Lần này là câu truyện của một thiếu phụ ở goá bị dằn vặt giữa quan niệm phụ nữ đấu
tranh lấy quyền sống tự do và hạnh phúc cho mình. Lại có một số người lên tiếng chỉ
trích -trong đó lại có ông Trương Tửu- là phá hoại luân thường đạo đức. Nhưng Nhất Linh
được phe phụ nữ và giới trẻ ủng hộ. Họ chống đối truyền thống phu quyền, hỏi tại sao
đàn ông goá vợ lại có thể tái kết hôn mà đàn bà lại phải thủ tiết vô lý. Xã hội vẫn tiến
lên, và về sau đàn bà goá đi lấy chồng đã thành sự thường.



Trong Đôi Bạn, hai nhân vật chính vẫn là tài tử giai nhân, lần này Dũng tuy là con một
ông Tuần, nhưng đã tham gia vào hàng ngũ cách mạng dân tộc, nên hai người bắt buộc
phải xa nhau. ở đây, rõ rệt tư tưởng dân tộc đã ảnh hưởng đến tác giả. Và vì thế, không
giống như các nhà văn khác, Nhất Linh đã sẵn sàng từ tiểu thuyết bước vào hành động.
Khác với Nhất Linh, Khái Hưng chuyên tâm viết về những mâu thuẫn xã hội, và sáng tác
nhiều hơn với những cuốn Gia đình, Thoát ly, Băn khoăn v.v.. Ngoài ra còn viết kịch thơ
Tục lụy. Chủ trương của Khái Hưng, Hoàng Đạo vẫn là những tác giả có khuynh hướng
cải cách xã hội. Họ cũng thấm nhuần quan niệm dân tộc và dân chủ trong khi hấp thụ
những giá trị tinh thần từ xã hội Tây Phương, và từ lịch sử đấu tranh chống thực dân của
các bậc tiền bối. Cho nên, bước đường đi về sau của Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng
và cả của Nguyễn Gia Trí, người ta đã có thể mường tượng ngay từ lúc này.


 CHƯƠNG 13 - NHỮNG NGÀY ÊM ẤM TRƯỚC KHI GIÓ BÃO

Sống ở nhà trọ thì tự do thực, nhưng nhiều khi cũng buồn. Ngày nghỉ, lắm lúc không biết
đi đâu. Muốn đi chơi, đi xem điện ảnh, nhưng bạn nào cũng bận, người thì về với vợ,
người thì đi du lịch.
Một chiều thứ bảy, ăn cơm xong, không còn ai ở lại. May mà vừa có một người bạn, anh
Thành ghé qua. Thấy tôi ngồi một mình ở dưới nhà, vỗ vai hỏi tôi:
Làm gì mà ngồi thừ ra đó? Sao hôm nay lại ngoan ngoãn thế?
Thực ra, lúc đó tôi cũng chưa biết đi đâu.
- Chẳng tính đi đâu cả, ngồi đọc sách thôi! - tôi đáp.
- Tối thứ bẩy mà ngồi một mình à? Thành tỏ vẻ ái ngại, rủ tôi - Hay là đến nhà tao chơi
đi. Tối nay, cùng đi xem chớp bóng. Muốn đi không mày?



61 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.
Chúng tôi thường gọi nhau bằng mày tao.
- Phim gì?
- Phim Đường Tơ Chưa Dứt hay lắm. - Thành đáp.
Đường Tơ Chưa Dứt. Nghe cũng hấp dẫn. Có bản nhạc hoà tấu của Schubert lại thêm tài
tử duyên dáng Martha Eggerth trong câu truyện bi ai. Thấy tôi ngần ngại, anh tiếp:
- Nhà tao chỉ có mấy người, không phiền gì đâu. Cùng đi cho vui.
Chúng tôi đạp xe về nhà anh ở phố Cửa Bắc. Một ngôi nhà xinh xắn hai tầng, có hàng
rào sắt, có con đường lát sỏi, hai bên trồng hoa. Trong nhà, có bà mẹ, em trai và em gái
Thành. Cả nhà rất nhiệt tình. Em trai Thành còn bé, còn cô em gái - được giới thiệu tên
là Vân- mới mười sáu tuổi, đôi mắt mở to hơi ngơ ngác, miệng cười chúm chím trên khuôn
mặt tròn trĩnh, đúng còn là một cô học trò Trung Học ngây thơ. Chúng tôi ngồi xe điện
cho thoải mái, cái xe điện cổ điển từ tốn của Hà Nội. Phim Đường Tơ Chưa Dứt thực là
cảm người. Mối tình trong trắng giữa ông giáo dạy âm nhạc và cô học nhạc qúy tộc đã
phải đứt duyên vì gia đình phong kiến phản đối. Trong đau khổ, nhạc sĩ đã sáng tác ra
bản nhạc bất hủ Ave Maria. Bất giác, tôi nhìn sang Vân, đôi mắt trẻ thơ của Vân long
lanh nước mắt. Một tuần sau, tôi được mời tới nhà Thành dự buổi mừng sinh nhật bà mẹ.
Xong tiệc, vừa định cáo từ, thì Thành giữ lại dự khiêu vũ gia đình. Mới tập tễnh vào làng
nhẩy, tôi định xin kiếu, nhưng trước đôi mắt khuyến khích của Vân, tôi thấy không thể
khước từ.



Rồi, từ đó, tôi trở thành một thành viên trong lứa trẻ ấy. Lúc thì đi chèo thuyền, đi bơi,
lúc thì đạp xe ra ngoài thành phố ngắm cảnh đỗng quê, đồi núi. Một ngày hè, chúng tôi
cùng ra Sầm Sơn tắm bể. Mặc các bạn vẫy vùng dưới nước, Vân kéo tôi chạy trên bãi cát,
rồi theo dặng phi lao dài, cứ đi mãi cho tới cửa sông Mã mênh mông, nước chẩy cuồn
cuộn. Nắng rát đỏ cả lưng, chúng tôi ngồi dưới gốc thông, cùng nhìn những cánh buồm
nâu lơ lửng ngoài khơi.
Một lần, ngồi trên bờ cỏ, nhìn ra mặt hồ rung rinh dưới nầng, hai người không nói gì hết,
và cũng không thấy cần nói gì hết, không tính toán gì hết, không nghĩ về quá khứ cũng
như về tương lai. Đây có phải là một mối tình duyên không lời, trong cái buổi ban đầu
lưu luyến ấy không? Chỉ có một lần, Vân ngước mắt lên, như muốn nói cái gì, nhưng rồi
lại thôi. Đôi mắt to và đen gần, gần quá, trông rõ hàng mi mắt trên dài và cong. Tôi đánh
bạo đặt một nụ hôn nhẹ trên trán cô, Vân vẫn ngồi yên. Lúc đứng dậy ra về, sắp tới nhà,
Vân vội ấn vào trong tay tôi một chiếc khăn tay trắng, rồi chạy vụt đi.



Truyện đến đây chỉ có thế, và về sau cũng chỉ có thế mà thôi. Hai người tiếp tục phải đi
học. Mỗi người một hoàn cảnh. Thời thế biến chuyển không ngờ. Tôi bận quá nhiều việc.
Vân thì còn bé quá. Có những thứ vô hình ngăn cách. Bèo nước tương phùng.
Tôi không còn rỗi để đến chơi nhà Thành nữa, không biết Vân có giận không? Ngẫu nhiên,
có lắn đạp xe, tự nhiên đi tới con phố vắng trồng cây gần trường nữ trung. Tôi đột nhiên
dừng xe lại, bóng Vân cắp sách cùng mấy cô bạn học đương bước trên hè: Vân vẫn hồn
nhiên cười nói, giọng cười nói quen thuộc ngày nào: Tôi chỉ còn cách né vào đằng sau
một gốc cây sấu, nhìn Vân dần dần khuất đi.


62 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Người ta thường dễ quên, nên vài năm sau, trong những ngày kỳ lạ, gian nan, người ta
không có cả thì giờ để thở nữa, ngẫu nhiên chúng tôi lại gặp nhau trong thoáng giây. Đôi
mắt Vân vẫn mở to, nhưng không biết có nhận được ra tôi không, lúc đó tóc bờm sờm
không cắt, râu mọc xồm xoàm. Còn cô thì cao hơn, lớn hơn, con gái hơn, mặt bầu bĩnh
hơn. Tuy không ai nói năng gì, nhưng chắc trong ánh mắt, cả hai đều đã nhìn thấy quá
khứ.
Nhưng, quá khứ đã qua, thì cứ để cho nó đi qua. Bây giờ khói lửa, loạn lạc. Vân, nay ở
đâu?


Ai đã từng là sinh viên hồi ấy, tất cũng nhớ tới mỗi năm một lần, có đại hội sinh viên, với
một buổi diễn kịch, mấy hôm hội chợ và có năm, đoàn xe hoa riễu trong thành phố. Theo
quy định, những hoạt động ấy chỉ có mục đích mua vui, giải trí và gây quỹ cho Tổng Hội
Sinh Viên. Buổi diễn kịch có thể gọi là long trọng và hấp dẫn, nhiều người mong đợi, nhất
là nam thanh nữ tứ Hà Thành và cả từ các thành phố khác tới. Người ta thích những kịch
cổ điển như Đường Quý Phi, Đường Minh Hoàng, Tây Thi Phạm Lãi,... sau đó hình như
còn có Mỵ Châu Trọng Thủy. Trong một bầu không khí qúy phái, nhất định phải có mấy
vị tai to mặt lớn nhà nước Bảo hộ, và phải có những nữ sinh xinh xắn đi bán hoa.
Ca nhạc mới cũng bắt đầu xuất hiện và được hoan nghênh. Không nhớ rõ năm nào, một
bài ca đã làm thính giả rung động, đó là bài Con Thuyền Không Bến của Đặng Thế Phong,
do một thiếu nữ hát. Người nghe tựa như cùng tiếng ca trôi với chiếc thuyền cô đơn trên
con sông Thương nước chẩy đôi giòng.


Đặng Thế Phong là một kỳ tài âm nhạc, cùng với Văn Cao, Lê Thương. Tôi không được
gặp nhạc sĩ, nhưng khi nghe tin nhạc sĩ chết yểu vì bệnh, tôi thấy cảm thương sâu xa,
cũng như trước sự ra đi của Vũ Trọng Phụng, Hàn Mặc Tử... nhiều tài năng xuất chúng
đã sớm đi vì nghèo, vì yếu, trong cuộc sống khó khăn.


Những bài ca như Con Thuyền Không bền, Thiên Thai, Gtọt Mưa Thu, Biệt Ly v.v... đã
đánh dấu một thời kỳ phồn thịnh của ca nhạc Việt nam, với âm nhạc Tây Phương thay
vào những điệu khúc dân gian cũ. Sự dung hợp của nền văn hóa dân tộc với những nét
tinh hoa từ thế giới đến đã gây thành một trào lưu văn hóatrào lưu văn hóa đặc biệt có một không hai
trong lịch sử đất nước.
Điều này chứng tỏ sức sống mãnh liệt của văn hóa, dù ngay ở trong hoàn cảnh ác liệt, bị
kìm hãm như dưới ách thực dân thời đó. Một năm nào đó, khi bầu lại ban Chấp Hành
Tổng Hội Sinh Viên, không rõ tại sao tôi và anh Vũ Văn C... được anh em đề cử vào. Thực
ra, tôi cũng đã làm gì nhiều cho hội đâu? Và tôi cũng không rõ lắm về nhiệm vụ, tôn chỉ
của Tổng Hội. Nếu chỉ có tổ chức diễn kịch, chợ phiên để mua vui thì cũng không có giá
trị gì nhiều. Nhưng đã bị cử ra, thì cũng phải làm một cái gì đó.
Họp ban chấp hành để phân công, anh Th... ở trường Luật được bầu làm chủ tịch, vì lẽ
giản dị là sinh viên trường Luật rỗi rãi hơn trường Thuốc nhiều và... mồm mép hơn. Thí
dụ như Phan Anh, Dương Đức Hiền, những nhân vật hoạt động chính trị sau này, đều tốt
nghiệp trường Luật ra cả. 


63 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

 Anhem định giao cho tôi nhiệm vụ văn hoá, làm tờ đặc san của Hội: Song viết bằng tiéng
Pháp, lại bị giới hạn không được đả động đến các vấn đề chính trị, xã hội nhạy cảm, mất
nhiều công mà ảnh hưởng sẽ rất ít, ăn nói gì đây? nên tôi không nhận lời. Tuy thế, mấy
anh em cũng dự định cải cách công việc của hội, tăng thêm những điều có ích cho xã hội.
ảnh hưởng của thời cục cũng phản ảnh vào nội dung các hoạt động của sinh viên. Thí dụ
như có lần, ban chấp hành quyết định bỏ vở kịch Dương Quý Phi, soạn một vở kịch lấy
tên là Người thanh niên Việt nam qua lịch sử, trong đó có màn về hai bà Trưng, vua
Quang Trung, cổ võ người thanh niên rứt bỏ lối sống cá nhân, ủy mị hay lãng mạn để học
ý chí quật cường của các tiền bối. Không trực tiếp nói lên được, thì mượn lịch sử để diễn
đạt một cách gián tiếp, bọn thực dân tuy biết nhưng cũng không làm gì được.



Trong các chợ phiên, ngoài những gian bày trò chơi ra, thì tổ chức thêm những buổi nói
truyện về thường thức y học, về vấn đề xã hội, có khi mạnh dạn nói về ý thức dân tộc.
Ngoài ra, còn anh em phát truyền đơn, đi ra các làng xóm ngoại thành để nói truyện về
vệ sinh thường thức, khám bệnh miễn phí, phổ cập về pháp luật... Nhiều anh em rất hăng
hái trong những việc công ích, khác với nhiều sinh viên khác chỉ miệt mài về học hành,
thi cử.

 


CHƯƠNG 14 - BƯỚC VÀO CON ĐƯỜNG HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
- ĐẠI VIỆT DÂN CHÍNH - QUÂN NHẬT



Dù muốn hay không, bánh xe lịch sử cũng phải chuyển động và lôi cuốn con người vào
trong những cơn gió lốc không ngờ. Thời thế tạo anh hùng câu nói này chỉ có ý nghĩa là
hoàn cảnh khách quan chi phối vận mệnh con người.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao (Kiều)
Những năm 1938-39 là những năm đã quyết định vận mệnh của nhiều người Việt, trong
đó có chúng tôi.
Thế giới chiến tranh bùng nổ với việc quân Đức quốc xã xâmĐức quốc xã xâm chiếm Tiệp Khắc, rồi Ba Lan.
Cùng lúc, quân Nga Xô cũng tiến vào Ba Lan, chiếm một nửa phía Đông nước này. Dân
Ba Lan khốn khổ phải sống dưới hai tròng tàn bạo. Dân Do Thái tại các nước này bị tàn
sát, khủng bố dã man. Cuộc diệt chủng đã làm kinh hồn cả thế giới. Hai nước Anh, Pháp
sau khi đã thoả hiệp với Đức để Đức dễ dàng xâm lăng Tiệp, Ba Lan, áo, nay thấy không
thể lui được nữa, buộc lòng phảỉ tuyên chiến với Đức. Nhưng quân Đức quá mạnh, không
bao lâu sau đã chọc thủng phòng tuyến Maginot, tiến vào miền Đông Bắc Pháp, uy hiếp
Paris và cả nước Anh.


64 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Phát xít thắng lợi không phải là điều tốt. Nhưng Anh, Pháp thua kém có thể đưa lại cơ hội
hiếm có cho những nước bị thực dân thống trị. Tại Việt nam, một số nhân vật có ý thức
dân tộc mạnh mẽ, có ý chí quật cường, thấy thời cơ đã đến, thành lập những tổ chức
cách mạng để lãnh đạo phong trào. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là một trong những
người đi tiên phong, cùng với Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Long và một số bạn thân khác,
bí mật bàn thảo việc tổ chức. Một ngày cuối năm, anh rủ tôi ra nói truyện ở ngoài sân
nhà báo, bày tỏ ý kiến muốn thành lập một đảng với mục đích đâu tranh cho độc lập tự
do của dân tộc, đánh đuổi giặc Pháp, phế bỏ chế độ vua quan dựng nên một nước Việt
nam cộng hoà, tiến tới dân giàu nước mạnh.


Thực ra, tuy chưa nói lên trước đây, nhưng mọi anh em đều có sẵn tinh thần yêu nước,
nay chỉ cần bước vào hành động trực tiếp và cụ thể. Tôi ngỏ ý tán thành và tham gia vào
công việc, cả hai đều biết rõ rằng sẽ khó khăn và nguy hiểm. Cương lĩnh chính trị nhấn
mạnh vào việc toàn dân đoàn kết để giành độc lập, nhưng không đề cập nhiều đến vấn
đề tự do dân chủ, có lẽ vì chịu ảnh hưởng của sức mạnh bề mặt của các nước phát xít và
Nhật bản. Về đường lối đấu tranh, do lối nhìn hạn chế, thiếu chính sách cụ thể về các
tầng lớp xã hội và về vấn đề quốc tế. Khuynh hướng dựa vào Nhật bản lúc đó cũng ảnh
hưởng tới đường lối hành động của đảng, vì chưa trông rõ tương quan lực lượng giữa Trục
Đức-ý-Nhật và Đồng minh, cũng chưa nhận thấy rõ bản chất của khối Trục. Do trên, Đại
việt dân chính về sau chỉ phát triển được trong giai tầng trí thức, công chức, giáo viên,
và tại thành phố, thiếu sự tham gia tích cực của các lớptham gia tích cực của các lớp thợ thuyền nông dân.

Các anhem đều nhiệt tình, hăng hái, sẵn lòng hy sinh, nhưng phải công nhận là thiếu kinh nghiệmvề hoạt động cách mạng, và thiếu học hỏi nghiên cứu về hiện tình thế giới, thiếu huấn
luyện cho đảng viên. Anh em cảm thấy khó khăn trong việc dấy động dân chúng để chuẩn
bị một cuộc nổi dậy, mà không mắc vào người thiếu sót của những cuộc cách mạng trước
đây. Tôi được giao việc phát triển tổ chức trong tầng lớp sinh viên Đại Học. Chi bộ toà
soạn gồm có Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và tôi -Tú Mỡ. Thế Lữ, vì không
muốn tham dự hoạt động chính trị, nên không gia nhập. Thạch Lam cũng vậy


Ngoài Đại việt dân chính ra, cùng thời được tổ chức bí mật có Phục Quốc đồng minh hội,
Đại việt Quốc Dân đảng, Đại việt Quốc xã, và Đại việt duy dân. Đại việt Quốc Dân đảng
với người sáng lập - Trương Tử Anh và chủ thuyết Dân tộc sinh tồn, phát triển nhiều hơn
cả trong trường Đại Học. Tại trường Thuốc, có anh Nguyễn Sỹ Dinh, bạn cùng lớp và bạn
thân với tôi - và mấy người học lớp dưới, anh Nguyễn Tiến Hỷ tức Phan Trâm- sau này
có dạo giữ chức Tổng thư ký Quốc dân đảng Việt nam, anh Nguyễn Tôn Hoàn, và Đặng
Văn Sung. Ngoài ra còn có anh Bùi Diễm. Những người này về sau đều đã đóng vai trò
quan trọng trong chính trường Việt nam. Anh Đặng Văn Sung nay đã qua đời. Về phần
Việt nam quốc dân đảng, các anh em quốc nội bắt đầu khôi phục tổ chức bí mật, và do
Chu Bá Phương, Lê Khang, nối lại liên lạc với Hải ngoại bộ ở ngoài nước. Các đảng phái
quốc gia tuy nhiều, nhưng nói chung, vì thiếu tuyên truyền về cương lĩnh, đường lối, quá
chú trọng về bí mật, nên ảnh hưởng tới quần chúng không rộng. Và cũng chưa kết hợp
được thành một lực lượng đủ lớn mạnh để vận dụng thời cơ




65 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Nói tóm lại, thời kỳ 1938-39 đánh dấu cho sự xuất hiện những phong trào chống thực
dân Pháp cả ở trong và ngoài nước, báo hiệu cho một thời kỳ đấu tranh lớn và gay go
sắp tới trong khung cảnh chiến tranh thế giới mở rộng đến toàn cầu. Phong trào cách
mạng này không những đối với người Pháp, mà còn để chống đối với những nhóm người
Việt thân Pháp, những nhóm chủ trương thoả hiệp với mục đích duy trì chế độ thuộc địa,
và những mưa mô lôi cuốn dân Việt vào con đường phi chính trị, hưởng lạc, miệt mài về
những hoạt động thể dục, vui chơi, hay văn chương đồi trụy. Ngọn lửa đấu tranh dân tộc
từ đó được nuôi dưỡng âm ỷ trong lòng các tầng lớp dân chúng từ Bắc chí Nam.
Những chuyển động trong xã hội Việt nam và trên thế giới cũng có trực tiếp ảnh hưởng
đến sinh hoạt văn nghệ nói chung và của nhóm Ngày Nay -Tự lực văn đoàn nói riêng. Sẽ
không còn là thời kỳ tương đối êm đềm, lãng mạn sáu bẩy năm vừa qua. Vai trò của văn
nghệ sẽ dần dần phai nhạt trong những giờ phút gay cấn, hoang mang. Chính trong hàng
ngũ văn nghệ sĩ cũng sẽ xuất hiện sự phân hoá tất nhiên không thể tránh được, Tự lực
văn đoàn cũng vậy.


Cục thế biến chuyển nhanh hơn người ta tưởng.
Tại Trung quốc, quân Nhật đã chiếm miền Hoa Nam, rồi đảo Hải Nam ở ngay bên cạnh
Việt nam, uy hiếp tỉnh Quâng Tây. Quân đội Trung Hoa vì yếu kém, phải rút về gần biên
giới Việt Trung. Quân Pháp ở Đông dương cảm thấy uy hiếp tới gần. Tưởng Giới Thạch
rút về phiá Tây, đóng đô ở Trùng Khánh. Còn Hồng Quân Trung Hoa, sau cuộc chạy dài
Vạn Lý Trường Chinh, đã tới chiếm căn cứ Diên An tại Thiểm Tây. Một số đảng viên đảng
cộng sản Đông dương từng đã lánh sang vùng này để học tập, chuẩn bị trở về nước hoạt
động.


1940. Quân Hitler tiến vào thủ đô Pháp, Paris. Một chính phủ bù nhìn với thống chế Pétain
đứng đầu được thành lập. Ngay sau đó, phong trào kháng chiến Pháp nổi lên, tướng De
Gaulle thành lập chính phủ lưu vong Pháp tại Luân Đôn. Mặc dầu chính phủ Pétain tuyên
bố vẫn có quyền quản hạt đối với các thuộc địa, nhiều người Pháp sống ở các thuộc địa
cũng bí mật theo phe kháng chiến, một số chạy trốn sang các nước khác. Có tin đồn quân
Nhật bản sắp đánh vào Đông dương. Có một phần người Việtthấy cổ võ, vì tin rằng
quân Pháp nhất định sẽ bại. ít nhất, ách thống trị thực dân sẽ sụp đổ. Dù người Nhật nắm
quyền, ta cũng được hả dạ vì được thấy bọn da trắng hung hăng sẽ phải cúi đầu khúm
núm trước người da vàng. Có người tin rằng Nhật bản tuy là quân phiệt, nhưng có thể
giúp cho ta độc lập: bao nhiêu chí sĩ Việt nam chẳng đã từng lánh sang Nhật bản, và Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để chẳng vẫn còn ở Đông Kinh?


Dù sao, người Việt cũng phải chuẩn bị để ứng phó với thời thế. Một buổi tối, tôi từ trường
học đạp thẳng lên toà báo. Hoàng Đạo, Khái Hưng và một bạn nưa, anh Ph... đương ngồi
đánh bài. Khái Hưng nhanh nhẹn lấy bánh mì và một đĩa thịt mặn để trên bàn, rồi bảo:
- Đói quá rồi, tạm ăn thế này cho đủ sức mà bàn truyện.
Bánh và thịt thường mua ngay ở một hiệu tạp hoá Khách xế cửa toà báo, là chỗ chúng
tôi hay sang nghỉ ngơi và uống bia sau giờ làm việc.
Mỗi người thêm một cốc bia, rồi sang buồng nhỏ bên cạnh.



66 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Thay mặt bộ chỉ huy, Hoàng Đạo truyền đạt ý kiến ở trên và cho biết tin đặc biệt quân
Nhật từ đất Quảng Tây đã chia mấy ngả tiến về phía Lạng Sơn. Dân ở thị xã rất hoang
mang, nhiều người sửa soạn lánh ra ngoài.
Phải đặt vấn đề: ngay trước đây Nhật - Pháp vừa ký với nhau một bản thoả thuận, sao
bây giờ lại xung đột? Hoàng Đạo giải thích: Có thoả thuận thực, nhưng tướng Nishihara
tới Hà Nội tuần qua chỉ để yêu cầu việc đình chỉ giao thông từ Bắc Việt tới Vân Nam, chặn
đường tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch.


Mọi người suy đoán, quân Nhật một mặt thương thảo thoả thuận, một mặt gây áp lực
bằng quân sự, bắt buộc đương cục ở Hà Nội phải tiếp nhận những điều kiện nặng nề hơn.
Nếu xẩy ra chiến tranh, tất cả đều phải chuẩn bị ứng phó và khai thác tình hình.
Hôm sau, được biết một tin quan trọng là một toán quân của Phục Quốc Quân - thuộc
Việt nam Phục Quốc đồng minh hội vẫn hoạt động tại biên giới Trung Việt trước đó - cũng
đã tiến vào địa phận Lạng Sơn. Chúng tôi rất phấn khởi, vì đây là một toán quân của
người Việt mình. Nếu mà chiếm được Lạng Sơn- dù với sự hỗ trợ của quân Nhật- cũng sẽ
gây được một tiếng vang lớn, lôi cuốn được sự hưởng ứng từ nhiều nơi trong tình cảnh
nao núng của quân Pháp.


Từ lâu, nay mới có một cơ hội tốt đẹp như vậy. Tôi lại chợt nhớ tới những ngày tráng liệt
đời xưa, phong trào Cần Vương Đề Thám, Việt nam quốc dân đảng. Trước mặt, còn bao
nhiêu gian nan, nhưng cũng tràn trề hy vọng, vì Pháp nay đã suy yếu. Nhưng sẽ phải làm
gì, mà phải làm gấp... Các anh em được thông báo, chờ lệnh hành động.
Phần lớn dân chúng tại Hà Nội vẫn có thái độ chờ đợ, e ngại. Chiến tranh sẽ gây ra xáo
loạn, rủi ro cho cuộc sống. Có người e quân Nhật quá tàn bạo... Nghe nói có nhiều vụ tàn
sát người Trung quốc tại Nam Kinh, tại Hồng Kông. Hình ảnh võ quan Nhật cưỡi ngựa,
đeo kiếm dàí bên hông và chém người như ngóe thực ra rất khủng bố. Tránh được beo
lại gặp phải hổ. Số phận những dâdân tộc yếu ớt trước bạo lực thực đáng thương..
Nghĩ lại hồi đó, dân tộc Việt nam lại gặp cảnh bi đát, lại thêm một kinh nghiệm đau
thương. Hai đế quốc cấu kết với nhau để cấu xé người dân vô tội. Chỉ hai hôm sau, Nhật
và Pháp lại ký kết một thoả hiệp nữa. Lần này, Pháp bằng lòng chịu để quân Nhật đến
đồn trú tại Đông dương và được tự do vận chuyển -có nghĩa là trên thực tế, Nhật đã
chiếm đóng đất này, với điều kiện là để Pháp toàn quyền quẫn lý nội bộ- có nghĩa là sẽ
vẫn đàn áp mọi sự phản kháng của các dân tộc Đông dương.
Sau đó, tức khắc việc gì phải đến đã đến. Nhật rút ra khỏi Lạng Sơn, và nhường cho quân
Pháp bao vây, tấn công rồi tiêu diệt toán Cách mạng Phục Quốc Quân. Vì thiếu súng đạn,
mấy trăm chiến sĩ không chống cự nổi. Hai vị lãnh tụ là Trần Trung Lập, Đoàn Kiểm Điểm
và một số anh em bị sát hại. Đại đa số bị bắt. Số còn lại chạy thoát khỏi vòng vây, sang
Trung quốc. Đó là một thảm kịch bi ai trong lịch sử chiến đấu của người Việt bất khuất,
một thảm kịch đầy nước mắt và máu. Cho đến tận nay, mỗi khi nhớ lại đoạn sử đó, tôi
không khỏi ngậm ngùi, thương tiếc những người đi trước. Bao nhiêu người con ưu tú của
dân tộc đã bất hạnh ra đi. Là một thanh niên còn có tâm hồn, không thể không xúc động
mạnh, không thể không vừa ngậm ngùi vừa căm phẫn trước mọi tàn bạo, mọi bất công.



67 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Người thanh niên ấy đứng trước những đau khổ, éo le của con người, của nhân loại, không
thể không suy nghĩ về nguyên nhân sâu xa, những quy luật trong lịch trình triền miên
mà nhân loại phải đi, để tìm thấy một con đường hành động. Trong trường đại học và
ngoài xã hội, nhiều người hoang mang. Anh em Đại việt dân chính cũng bối rối. Trong
một buổi họp ngắn ngủi của chi bộ, ý kiến ở bộ chỉ huy xuống là: mọi người hãy tạm
ngừng hoạt động để tránh bất trắc. Hồi đó tôi ở chỗ gác trọ trong ngõ Chân Hưng, gần
ga Hàng Cỏ Chỗ này cũng gần ngay Sở Mật Thám Hà Nội. Trừ đi học ra, tôi tránh không
gặp mấy anh em sinh viên đã vào đảng, cũng không đến toà báo nữa.


Nhưng, nhanh hơn chúng tôi đoán, tai họa đã đến ngay. Một hôm, vừa ăn cơm chiều
xong, thì bỗng có người gọi tôi xuống đường, ra chỗ vắng, và báo tin là Pháp đã bắt đầu
khủng bố. Ba anh Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí đã bị bắt. Về anh Nhất Linh,
thì không có tin tức gì, cũng không biết ở đâu. Lúc đó, chỉ biết tin có thêm vài anh em bị
bắt. Mọi người cần tạm lánh đi nơi nào kín đáo, rồi sẽ tìm cách liên lạc sau. Qua một đêm
không ngủ, sáng sau tôi không đến bệnh viện tập sự nữa -bệnh viện Phủ Doãn- mà đi
liên lạc xem tình thế xác thực ra sao. Cũng mừng, là vì một số lớn đảng viên trí thức,
công chức hay sinh viên vẫn chưa việc gì.


Bọn mật vụ có tới khám xét tòa báo, nhưng ở đó không có tài liệu nào về tổ chức bí mật.
Báo tất nhiên phải đình chỉ. Công việc nhà xuất bản, nhà in do anh Thạch Lam điều hành.
Anh không dính dấp gì tới công việc chính trị, nên cũng không lo ngại lắm.
Dựa trên tin tức lượm được, và phán đoán trên tình thế, chúng tôi cho rằng tuy bọn Pháp
trong tay có tài liệu, nhưng cũng không muốn làm to truyện quá, không có lợi khi quân
Nhật vừa tới, nên chỉ bắt mấy người xuất đầu lộ diện để dẹp phong trào và ngăn ngừa
người Việt nam tiếp xúc với Nhật.


Tuy vậy, tình hình vẫn cấp bách. Tôì lánh đi ra ngoại thành, tạm trú ở nhà một người
bạn, trong một làng nhỏ gần Đại Từ trên con đường đi Vãn Điển. Ngày ngày chỉ có việc
đọc tiểu thuyết cùng đánh cờ tướng với ông cụ thân sinh anh bạn. Không thấy có gì lạ
sau một thời gian, tôi lại trở về nhà trọ. Một buổi sáng, tôi đến nhà thương, bị mọi người
xúm xít hỏi vì sao mất tích mấy hôm. Có cô y tá hóm hỉnh hỏi: Nghe nói, quan về nhà
quê cưới vợ, phải không? Nghe tiếng gọi quan, đương buồn bực, tôi cũng phải bật cười,
cố đáp:
- Quan muốn lấy vợ lắm, nhưng tiếc rằng chẳng có ai muốn lấy cả.
Một buổi tối sau, có người lên gác trọ tìm tôi. Nhìn rõ, mới biết là anh Dương Đức Hiền.
Chúng tôi vui mừng xiết tay nhau. Hiền, ngăm ngăm đen, rất tráng kiện, cứng cáp, tính
tình thẳng thắn, được bạn hữu mến. Cả hai đều chưa bị khó dễ. Anh Tam vẫn mất tích.
Sau có tin báo là anh đã trốn ra ngoàì nước, đi Quảng Châu. Hai chúng tôi đồng ý tạm
thời hãy nằm im, xem tình thế biến chuyển ra sao.


Tình thế hầu như tuyệt vọng. Tổ chức gần như tan rã. Song chúng tôi cũng vẫn cố gắng
giữ những đường giây liên lạc bí mật. Sự kiện này đã dạy cho chúng tôi một bài học đắng
cay, và cũng mở mắt cho những người chỉ trông mong vào ngoại bang, nhất là vào một
đế quốc quân phiệt. Một kinh nghiệm xương máu. Đói với tôi, đây là ký ức thấm thía đầu


68 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
tiên, không bao giờ quên. Tôi mang máng thấy rằng, một sự nghiệp lớn không thể chỉ có
sốt sắng và dấn thân mà có thể làm thành. Cách mạng là cả một khoa học, và cần học
hỏi không ngừng nếu không muốn thất bại.
Một sự bất ngờ nữa, sáng hôm sau, đợi tôi ngay cửa phòng cấp cứu bệnh viện Phủ Doãn.
Theo tin riêng, chúng tôi đã biết tình hình của anh Long anh Khái Hưng và anh Gia Trí, bị
giam trong sở Mật Thám. Các anh bị tra tấn tàn nhẫn, kể cả bằng roi điện. Tìm cách lung
lạc mấy tên mật thám người Việt, nhưng không ảnh hưởng nổi mấy tay mật thám đầu sỏ
Pháp để cứu các anh em.


Tôi vừa mặc áo khoác, đến cửa phòng cứu cấp thì thấy hai người y tá đẩy một xe cáng
tới, trên nằm một người bệnh không trông rõ mặt... Nhưng một điểm khiến tôi chú ý, là
đi sau xe cáng, có hai người đàn ông mặc quần áo thường đi kèm sát tù nhân? Bất giác,
tôi đi theo xe vào trong phòng. Đầu tóc bệnh nhân cắt ngắn, lởm chởm. Tôi bỗng rợn
mình. Bác sĩ thường trực đã đến khám. Người bệnh quay mặt lại. Hai luồng mắt người đó
và của tôi chạm nhau. Lạ là tôi còn tự kiềm chế được, không thốt lên tiếng nào, vì đó
chính là anh Gia Trí! Dù có thay đổi thế nào, tôi cũng nhận được ra anh, tóc lởm chởm,
bộ râu quai nón. Đôi mắt trong và xanh như mắt mèo của anh nay lờ đờ, mệt mỏi như
mất hồn. Tôi nén sự xúc động của mình, cố giữ tự nhiên, giúp bác sĩ, xem những vết
thương do tra tấn của anh. Bề ngoài, những vết thương ấy không sâu, nhưng vết thương
do điện thực ra ảnh hưởng sâu xa tới thần kinh và tinh thần của kẻ bị hại. Mỗi khi bị tra
tấn, tù nhân buốt rùng khắp mình, đầu óc đau rức, mắt choáng lên một cách ghê sợ, rú
lên một cách thê thảm.


Cũng may, hai tay hộ tống không biết tôi là ai, và cũng không ngờ vực gì. Bác sĩ bảo tôi
băng bó. Đây là một dịp tốt vô cùng, có thể trao đổi bằng ám hiệu. RRất mừng là thấy anh
tinh thần vẫn còn vững.
Lần sau, anh tới băng bó, thừa dịp, anh đút nhanh cho tôi một mảnh giấy mỏng. Nhờ đó,
ở ngoài chúng tôi biết rõ tình hình các anh em ở trong, và ngược lại.
ít lâu sau, chúng tôi được tin một số anh em, trong đó có Hoàng Đạo, Khái Hưng, Gia Trí
đã bị giải đi tập trung tại Hoà Bình, cùng với một số người trong các tổ chức khác. Một
nhiệm vụ khó khăn đè nặng trên vai chúng tôi là vận động để các anh em được chóng
tha về.


Tôi và anh N.L đảm nhiệm việc tiếp xúc với đại diện của Nhật bản ở Hà Nội. Viên Công
sứ Nhật này đóng ở ngay Viện Nghiên cứu quang tuyến phóng xạ (radium) bên phố
Trường Thi. N.L biết tiếng Nhật và quen thuộc với một số người Nhật trong đó. Ngồi đợi
một lúc, thì được đưa vào bàn giấy ở trong. Viên Công sứ độ khoảng năm mươi tuổi, để
râu mép -nhiều người Nhật để râu lối ấy- và cũng như nhiều người Nhật, quần áo âu phục
nhưng xốc sếch, lôi thôi. Bề ngoài thì hắn ta cũng chăm chú nghe nói, nhưng thỉnh thoảng
lại đứng lên, đi tới một cái lồng chim treo bên cửa sổ, ngắm nhìn hai con bạch yến nhảy
đi nhảy lại. Sau rốt, hắn hẹn sẽ nghiên cứu và tìm cách giúp đỡ các người bị bắt.
Lúc ra ngoài, N.L. và tôi nhìn nhau, nhếch mép cười. ấn tượng sâu sắc nhất của chúng
tôi về buổi gặp mặt đó có lẽ là hai con chim ở trong lồng. Và kết luận không ai nói ra, là



69 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
chỉ nên trông mong ở mình mà thôi. Cứu tinh Nhật bản miệng nói lớn giúp đỡ các dân tộc
bị trị á Châu, nhưng mặc nhiên để cho đế quốc Pháp tiêu diệt khủng bố những người yêu
nước Việt nam. Đó là thực tế.


Khỏi cần nói, một bàu không khí lo buồn trùm lên gia đình. Vì mấy anh bị bắt, anh Tam
đã lưu vong, bôn ba nơi hải ngoại, biết ngày nào mới trở về? Anh em còn lại, toà báo,
đều bị mật thám theo rõi gắt gao.
Duy trì nhà báo và nhà xuất bản, do anh Thạch Lam gánh vác: anh Hoàn giúp việc quản
trị. Thạch Lam là một nhà văn giầu tình cảm, nhưng không phải là một nhà kinh doanh
tháo vát. Anh Tú Mỡ, Thế Lữ và tôi cố hỗ trợ phần nào. Không còn tờ báo nữa, thì xuất
bản sách cũ hay nhận in sách mới để duy trì cơ sở và đồng lương tối thiểu cho các nhân
viên.


Lúc này, trên thế giới, cuộc đại chiến đã bước vào một giai đoạn gay go và tàn khốc, Anh,
Pháp, Liên Xô đã kết đồng minh với nhau để chống lại tử thù Đức, ý đương hung hăng.
Quân Đức đã tiến sâu vào nội địa Liên Xô, uy hiếp thành phố Stalingrad, và bao vây Mạc
Tư Khoa, Leningrad. Quân Nhật đã tiến xuống miền Đông Nam á, rồi tấn công Cảng Trân
Châu, tại Hawaii, Hoa Kỳ, và do đó, Mỹ bắt buộc phải tuyên chiến với Nhật. Khói lửa tung
trời đã lan đến chung quanh Việt nam. Mệnh vận của toàn nhân loại sẽ ra sao? và của
các dân tộc nhỏ yếu ở Đông dương sẽ ra sao? Quân Nhật và quân Đồng minh có sẽ xâu
xé nhau trên ngay cõi đất này không? Máy bay Hoa Kỳ chẳng đã bắt đầu bay lưọn trên
bàu trời Hà Nội?



Nhưng trên đường phố Hà Nội, bên cạnh mấy tên cảnh sát Pháp, và thỉnh thoảng dáng
vài tên lính Nhật ngạo nghễ, người dân Việt vẫn phải làm ăn, sinh sống. Hàng Đào, hàng
Ngang vẫn còn tấp nập người đi dạo vỉa hè, trên bờ hồ Gươm, những cô gấi yểu điệu vẫn
đon đả chào mời khách qua đường ghé vào ăn kem.
Trong tâm lý hoang mang trước tình thế, người Việt nam sẽ phản ứng ra sao?


CHƯƠNG 15 - THẠCH LAM QUA ĐỜI

Mỗi lần về sau, có dịp rẽ xuống con đường gạch đưa vào làng Yên Phụ, là mỗi lần bóng
dáng người anh cao, gầy trong bộ âu Phục cũ, với cái mũ dạ xám bốn mùa, từ tốn bước
chân lại hiện ra trước mắt.
Nếu so về thông minh và tài hoa thì có lẽ anh hơn cả mọi người trong gia đình. Nhưng
nếu về sức khỏe thì từ ngày làm báo trở đi, mỗi ngày một sút kém. Có người cho rằng,
khác với anh em, anh đã bước vào một cuộc sống lãng mạn, phóng túng hơn, ra ngoài
quy củ thường tình, cũng giống như một số văn nghệ sĩ thời ấy. Có thể anh đã tiếp xúc
với nhiều tầng lớp, nhất là tầng lớp dưới trong xã hội. Đáng buồn nhất là anh đã mắc
nghiện thuốc phiện.

Có lẽ chính vì thế mà anh có những cảm xúc riêng, và tác phẩm của anh có một phong
cách riêng, bình dân, giản dị và đầy lòng trắc ẩn, đồng tình với những con người nghèo
khổ hơn là những truyên của Nhất Linh, Khái Hưng. Mai hay Lộc trong Nửa Chừng Xuân


70 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
hay Loan, Dũng trong Đoạn Tuyệt, dù sao cũng là con cái những gia đình khá giả, hay
quan lại. Nhưng nhân vật người phu xe già trong một truyện ngắn của Thạch Lam làm
cho người ta rung động sâu xa, thấm thiá hơn. Và ngay trong phóng sự Hà Nội ban đêm
cùng viết với Trường Khanh, tình trạng chân thực của những kẻ bất hạnh, sa ngã, trụy
lạc đã làm cho độc giả thông cảm và đồng tình dưới ngòi bút đầy tình cảm. Tôi còn nhớ
hai câu Kiều lẩy trong đó:
Liễu bồ nấp bóng cây tùng,
Thuyền quyên còn đợi anh hùng... lĩnh lương


Đời sốnggia đình anh thực là thanh bạch, anh vẫn giữ được phẩm cách không màng danh
màng lợi chung của gia đình. Vài tấm phản, mấy chiếc ghế đơn sơ, một bàn làm việc là
tất cả gia sản của nhà văn.
1941, gia đình, anh em tan tác. Chỉ có bên anh Cả là yên ổn một chút, nhưng lại quá
đông con, cũng vất vả. Anh Hai vẫn làm tại nông trường ở Bolovens, bên Lào. Đôi khi,
chúng tôi lên biệt thự Hồ Tây để mượn rượu giải sầu, và riêng tôi cũng để né mắt bọn
mật thám.

Bạn rượu thường xuyên nhất là Đinh Hùng, Huyền Kiêu và tôi. Nếu trong túi có được ít
tiền, thì mua ít đồ nhắm lên theo. Song Đinh Hùng lúc nào cũng thấy nghèo kiết xác xơ,
Huyền Kiêu may mắn thỉnh thoảng được gia đình tiếp tế. Thịnh soạn nhất là khi nào chị
Thạch Lam tìm được con cá chắm tươi vừa đánh lên, hay một khúc thịt cầy, thêm vào có
bia, hay chút rượu Văn Điển. Nấu xong, mấy anh em ngồi vừa nốc rượu vừa ngâm thơ
để chờ trăng lên, nhìn ánh trăng xen qua lá liễu chiếu xuống mặt nước. Tuy không đến
nỗi say túy lúy nhưng cũng ngây ngất, mặt Đinh Hùng thì tái xanh, mà Huyền Kiêu thì
mặt đỏ hơn gấc, chưa uống cũng đã phải chịu phạt rồi. Thạch Lam thì không dám uống
nhiều, mà tôi cũng vậy. Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng theo chị tôi kể. Tết năm đó, trời
lạnh, anh về tới Cẩm Giàng là cần ngay một hỏa lò than hồng để sưởi. Có chăn và nệm
hẳn hoi mà anh vẫn kêu rét. Sau phải đốt một đống củi lớn ở giữa nhà, trải ổ rơm chung
quanh, mọi người ngồi đánh bất để đợi giao thừa. Khi cả nhà ngỗi vào mâm để uống rượu
mừng năm mới, anh có vẻ buồn, lặng lẽ ngồi nhìn khói trầm tỏa lên cao. Đó là cái Tết
cuối cùng của anh.

Những giây phút như thế cũng không kéo dài được bao lâu. Căn bệnh phổi quái ác đã
dần dần gậm nát cơ thể anh. Tôi giục anh đi khám bệnh và chụp lại phổi. Tấm ảnh quang
tuyến X của anh khiến tôi và người bạn cùng lớp, anh Đ. phải giật mình. Nhưng thời đó
chưa phát minh được thuốc chữa bệnh lao có hiệu quả. Muốn đưa anh đi Đà Lạt dưỡng
bệnh, nhưng ông giáo sư khoa truyền nhiễm không đồng ý, sợ bịnh tăng kịch. Ông khuyên
nên tĩnh dưỡng và cai nghiện, uống thuốc. Bắt buộc, tôi phải thay anh trông nom việc
xuất bản dù còn đương đi học, và luôn luôn đến thăm anh. Chị Sáu lại có mang đứa con
thứ ba. Mặc dầu mọi người trong gia đình tận lòng săn sóc, bệnh tình của anh cứ nặng
dần. Sang giữa năm sau, đã có lúc anh không đủ sức trở dậy, ra ngồi bên thềm nữa. Mẹ
tôi từ quê lên cùng chị Thế giúp săn sóc hai đứa trẻ thơ. Tình trạng ngày càng xuống.


71 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Anh đã bắt đầu tức thở, thường thường phải ngồi dậy, dựa vào mấy chồng gối. Một hôm
anh hỏi tôi:
- Tôi hút thuốc lại có được không, chú! - Tôi chỉ im lặng gật đầu, rồi quay mặt đi.
Đến một ngày tháng 7 năm 1942, hơi thở của anh lả dần, đôi mắt đã hơi lờ đờ. Mẹ tôi,
vợ con anh, anh Cả, chị Năm và tôi đều đứng chung quanh giường. Đến gần trưa, anh
vẫn tỉnh táo nhưng không nói ra được tiếng nữa. Anh tự biết sắp đi đến tận cùng con
đường mình đi. Ai nấy đều muốn khóc, nhưng không ai khóc ra tiếng. Run tay, tôi tiêm
một ống thuốc cường tâm cuối cùng, thì anh bỗng mở to mắt ra hiệu cho mọi người đỡ
anh ngồi dậy. Mẹ tôi ngồi đằng sau đỡ anh lên. Nhưng không còn ảo tưởng gì nữa. Thấy
vợ khóc, theo lời chị tôi thuật anh còn đủ sức nói anh đã chết đâu mà khóc. Nhưng lúc
đó, thú thực, tôi cũng không nghe thấy gì. Không bao giờ tôi quên được Cảnh tượng lâm
chung của người anh ruột thân yêu đồng thời cũng là người anh trong sự nghiệp văn bút.
Anh đưa mắt lờ đờ nhìn mọi người như muốn nói lên một điều gì trước khi từ biệt. Hình
như anh gọi tên tôi, tôi nghe không rõ.


Bỗng anh nấc lên một tiếng, lên cơn suyễn rồi hai
mắt nhắm lại. Hơi thở cuối cùng của nhà văn Thạch Lam đã dứt. Anh ngả về đằng sau,
rồi dưới sự nâng đỡ của mẹ và vự, anh nằm xuống giường, hai chân đã duỗi thẳng. Người
anh thân yêu đã vĩnh viễn bỏ cuộc đời khi mới ba mươi ba tuổi. Trong những tiếng khóc
thê thảm chung quanh, muốn tránh nhìn lại anh, tôi vội bước ra ngoài cửa, mặc hai giòng
nước mặt tuôn trên hai má.


 Chưa bao giờ tôi khóc nhiều như hôm ấy. Vài hôm sau, chúng
tôi im lặng đi sau xe tang, đưa anh đến nghĩa địa Hợp Thiện, gần Ô Đống Mác, nơi đã
chôn chị Cả đầu tiên và những người trong họ. Mọi người đã ra về, tôi còn ngồi lặng bên
mộ anh rất lâu, dưới rặng cây âm u, nhưng nỗi thương cảm về cái chết đầu tiên trong
anh em bẩy người, cũng như về bao xa cách, biệt ly -làm sao có thể khuây khoả được.
Anh là nhà văn giàu tình cảm nhất trong giòng họ Nguyễn Tường, nhưng lúc nào anh
cũng cố gắng để vượt qua mọi khó khăn. Trong một cuốn sách tặng anh, nhà văn Lê Văn
Trương có đề Tặng anh Thạch Lam, một nghị lực phi thường trong một thân thể còm cõi.
Tôi tin chắc rằng Thạch Lam đã được người đời chấp nhận và đã có một vị thế xứng đáng
trong lịch sử văn học Việt nam, sau một cuộc đời quá ngắn ngủi và đầy thương cảm.


Trong những ngày khó khăn, tan rã, cái chết của Thạch Lam đã để lại một vết thương
không gì hàn gắn nổi. Trong lo buồn, tôi đứng ra làm giám đốc nhà xuất bản Đời Nay, lại
vừa tiếp tục đi học năm thứ năm trường Thuốc. Ngoài ra, còn phải lo việc trong nội bộ tổ
chức chưa bị phá vỡ liên lạc với ngoài nước. Thi cử đối với chúng tôi, đã không phải là
nhiệm vụ quan trọng nhất.

Với thời cục chuyển biến mạnh mẽ, phe Đức ý bắt đầu suy thoái ở âu Châu, quân Nhật
gặp nhiều khó khăn tại Trung quốc và á châu. Máy bay Mỹ luôn luôn đe dọa bầu trời Việt
nam. Người Việt cảm thấy không chóng thì chày sẽ bị cuốn vào trong một luồng thác lũ.
Những đợt sóng kinh hoàng sẽ đến sớm hơn là người ta tưởng. Do biệt ly, tang tóc, thời
đại hoàng kim của nhóm Tự lực văn đoàn -Ngày Nay, và do thời thế đã khác nên đã đi
qua rồi, không bao giờ trở lại nữa. Các nhóm văn nghệ khác cũng dẳn dần suy đồi theo thời gian.



72 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net

CHƯƠNG 16 - TRƯỚC CƠN BÃO TÁP - GIAI PHẨM
1
1943, đời sinh viên của tôi sắp kết thúc, nhưng kết thúc trong bị thương, lo buồn. Các
bạn học của tôi miệt mài ứng phó thi cử, tôi cũng miễn cưỡng quá quan, thành tích không
mấy đẹp đẽ. Các bạn đều thông cảm với tôi, giúp cho tôi thêm can đảm để bước lên con
đường đã chọn.


Lớp học của tôi, từ hơn ba mươi người nay chỉ còn mười mấy người. Một tổ đã bỏ học. Có
hai bạn đã sớm qua đời, mà lạ, cả hai đều vì chết đuối. Anh X. thì tại Hồ Tây, do từ thuyền
bơi nhảy xuống hồ bơi, bất hạnh chìm xuống dưới mắt của ngay người em ruột. Anh rất
xuề xoà, vui tính, và rất thích nói truyện với tôi. Tôi còn nhớ ngày hôm qua, lúc buổi sáng
hôm đó, sau khi được vớt lên, anh nằm trên bãi cỏ xanh, mặt ngửa như nhìn lên trên
lrờt, ngay trước cổng đền Quan Thánh. Tôi đứng lặng bên anh, rất lâụ, nghĩ tới những
người thân của anh từ miền Trung ra. Rồi, sau đó, tất cả đều lặng lẽ đi sau quan tài, đưa
anh tới nơi yên nghỉ cuối cùng.


Gần đến tốt nghiệp, lại thêm một bạn học, anh Bửu... đáp tàu thủy không may, tàu đắm.
Từ đó, không bao giờ tôi gặp lại mặt anh nữa, một người bạn thẳng thắn, hiền hậu.
Trong thời kỳ tạm coi nhà xuất bản, chúng tôi cho in ra mấy cuốn sách mới. Cuốn Bạch
Tuyết và bảy thằng lùn do Tú Mỡ soạn bằng thơ, in màu rất đẹp, là một cuốn có giá trị
nghệ thuật.


Ngoài ra, một số sách Hồng cho trẻ em đọc. Còn có thơ của Hồ Dzếnh và Vũ Hoàng
Chương:
Tôi còn nhớ mấy câu thơ của Hồ Dzếnh:
Trời đẹp như trời mới tráng gương,
Chân sim bóng nắng rợn ven đường.
C6 ai bên cửa ngồi hong tóc,
Cho chảy lan thành một suối hương.
Và tôi cũng xúc động trước hai câu của Vũ Hoàng Chương, trong một bài bát cú:
Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết?
Một ván cờ thua, ngả cuộc đời.


Nhưng chưa bao giờ tôi hỏi anh viết hai câu đó có phải để khóc Thạch Lam không? Vũ
Hoàng Chương, một người cao, gầy, nho nhã trong bộ áo dài Việt nam, hôm đó đến gặp
tôi ở toà báo. Anh đưa tôi bản thảo cuốn Mây và muốn tôi cho ý kiến.
Sau đó, nhà xuất bản đồng ý in ra cuốn ấy.
Bây giờ, cũng như Thạch Lam, Bàng Bá Lân sau này, và Đinh Hùng, Thế Lữ, Xuân Diệu,
anh cũng đã thua ván cờ của anh trong những trường hợp bi ai.
Ôi! những bạn văn thơ thương mến của tôi, nay ở đâu? Cũng vì ý kiến của anh, cùng với
các anh Thế Lữ, Nguyễn Tuân, mà chúng tôi thấy nên cho ra đời một tuyển tập gồm sáng


73 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
tác của những nhà văn hồi đó. Tập này, như nhiều người biết, đặt tên là Giai Phẩm, có
đủ thơ, truyện ngắn, bình luận. Tôi có viết một tuyện ngắn trong đó, đầu đề là Tha hương
miêu tả về cảnh ngộ phúc tạp giữa cái sống và cái chết tại một bệnh viện, và ảnh hưởng
tới tâm tư của người sinh viên. Vì quá bận rộn, bôn ba và đầu óc đã khô héo, chính tôi
cũng quên bẵng mất. Điều không ngờ là hơn bốn mươi năm sau, khi đã di dân sang Hoa
Kỳ, còn có nhiều bạn tôi chưa hằng quen biết, lại nhắc tôi truyện đó, nhắc tới triết lý về
nhân sinh bàng bạc trong đó. Các bạn đó cũng tiếc cho tôi không viết nhiều hơn.
Nhiều anh em muốn theo đuổi sự nghiệp văn chương đến cùng. Song hoàn ảnh không
cho phép ngồi yên, cũng không còn tâm hồn thảnh thơi để sáng tác nữa. Về sau, nếu có
viết, thì lại chuyển sang mặt khác: viết bình luận xã hội, chính trị, vì nhiệm vụ, và chính
tôi, nhiều lúc nghĩ lại, cũng thấy tiếc.


Nguồn thơ của Thế Lữ có lẽ đã gần cạn. Anh quay sang nghề kịch. Thế Lữ có tài đa dạng:
làm thơ, viết truyện, viết báo, làm kịch. Với sự cộng tác của một số nghệ sĩ trẻ, anh lập
ra ban kịch Thế Lữ. Ban kịch dọn tới bên cạnh đầm Sét, thuê một căn nhà gỗ năm gian
cao ráo, trước sau đều có đất rộng rãi. Trụ sở ban kịch lại thành ra chỗ tập hợp của nhiều
văn nghệ sĩ. Đặc biệt là sau khi quân Mỹ bắt đầu phái máy bay đến oanh tạc Hà Nội, lại
càng nhiều người kéo nhau xuống tránh nạn. Có thể đạp xe, hay đi xe điện, rồi đi bộ tới
đầm Sét. Đầm này rất dài, có thuyền chở vào trong, giữa hai rặng cây và những mái nhà
thấp thoáng, rất nên thơ. Tránh bom ở đây, lại được xem các kịch sĩ luyện tập. Mấy vở
kịch đóng xong như Kinh Kha, hay Tục Lụy -truyện nàng tiên xuống trần gian- do Khái
Hưng soạn thơ, sau này diễn tại nhà Hát Lớn, rất được hoan nghênh.


Mỗi khi có báo động, mọi người đều chạy ra vườn ngóng nhìn máy bay tới. Một cảm giác
hiếm có trong đời là khi nằm ở đằng sau nhà, giữa những gốc dâu thưa, ngửa mặt nhìn
lên bầu trời xanh ngắt. Một lúc, tiếng vang ầm ầm, mấy chiếc oanh tạc lớn từ từ bay
ngang trên đầu, chung quanh nhào lộn những chiếc chiến đấu cơ nhỏ nhanh như con cắt.
Chúng tôi ai nấy đều nín thở, nhưng mãi khi máy bay tiến tới thành phố mới nghe tiếng
pháo cao xạ nổi lên, đạn nổ như những bông hoa trắng chung quanh máy bay. Sau đó,
là tiếng bom nổ ầm ầm trong thành phố, mang đến tử thương cho người dân vô tội,
nhưng thường không gây thiệt hại gì nặng cho quân Nhật. Chiến tranh, ly loạn, nhưng
người ta vẫn phải sống, vẫn phải làm ăn, yêu đương. Bệnh viện buồn tễ thực, nhất là về
đêm. Song lại là nơi xe mối tình duyên của nhiều đôi lứa. Không nói đâu xa, ngay trong
lớp học chúng tôi, ít ra cũng có hai bạn đã tìm thấy hạnh phúc. Một là anh Đ., anh chàng
người miền Trung, trắng trẻo đẹp trai lại học giỏi, một sinh viên mẫu mực. Và một là anh
C., chăm chỉ, học giỏi, sốt sắng về công việc chung. Cả hai đều có tài năng, sau này đều
giữ chức vụ cao trong ngành y tế chỉ khác là một ở miền Nam cộng hoà, một ở miềm Bắc
cộng sản, và giống nhau ở chỗ đều có bạn trăm năm cùng trong nghề. Anh Đ. nay sống
ở Hoa Kỳ, nhưng anh C. đã ra người thiên cổ.


Còn câu truyện của tôi lại khác. Tôi không phải là một sinh viên mẫu mực, cũng sống
một cuộc đời hơi khác. Và cuộc gặp gỡ giữa tôi và Liên cũng hơi đặc biệt. Một hôm, tại
nhà thương Phủ Doãn, khi đi theo giáo sư khám các phòng, tôi bỗng để ý tới giữa đám
74 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
sinh viên, một cô gái nhỏ nhắn, mặt tròn trĩnh với đôi mắt ngây thơ. Tuy cũng mặc áo
khoác trắng, nhưng xem ra cô chỉ độ hơn mười lăm tuổi. Làm gì có sinh viên nhỏ tuổi
như vậy?


Mà xem ra, cô rất tự nhiên, hình như quen thuộc với cả mọi người ở đây.
Sau tôi mới biết cô là con một gia đình Hoa Kiều, bố là người Hoa, mẹ người Việt. Mẹ cô
mắc bệnh nằm nhà thương khá lâu, cô thành ra một người khách đặc biệt. Với tính tình
hồn nhiên còn trẻ con, mọi người đều coi cô như em gái nhỏ, đặc biệt sau khi bà mẹ từ
trần. Haì người thân nhất trong đời cô là bà ngoại và mẹ đã kế tiếp nhau ra đi, ông bố lại
ở xa, nên cô học trò trường trung Học Trung Hoa thường chạy vào nhà thương chơi, có
khi theo bác sĩ đi vào các phòng bệnh. Rất tự nhiên, có lẽ vì tính tình cởi mở giống nhau,
chúng tôi thích nói truyện với nhau, rồi trở nên bạn thân. Liên coi tôi như người anh lớn
thông cảm với cô trong tình trạng cô đơn. Gia cảnh đau buồn khiến cô có những ý tưởng
mới về vai trò bình đẳng tự lập của phụ nữ.


Với tư tưởng ái quốc, trong tuổi còn nhỏ, cô dấn thân vào phong trào học sinh Hoa kiều
chống Nhật bản xâm lược, và đã bị quân Nhật bắt giam cùng với một số thanh niên khác.
Trong hoàn cảnh từ tội ác liệt, lại bị tra vấn nghiêm ngặt, qua một thời gian cô mới được
thả ra nhờ vận động của các giới. Cùng ở trong cảnh ngộ, để tìm khuây khoả, tôi và
những bạn học của cô thường đưa cô đi những nơi thắng cảnh, như chùa Hương, chùa
Trầm, Phật Tích. Không rõ từ lúc nào, tình bạn hay tình anh em đã đổi thành cảm tình
khăng khít, mặc dầu có những cách biệt về bối cảnh xã hội. Chúng tôi cảm thấy không
thể rời xa nhau được nữa, tuy tương lai vẫn còn bất định. Không nói ra, nhưng chúng tôi
đã ngầm ước hẹn sẽ chung sống với nhau mãi mãi.


Liên lại là một người cộng tác đắc lực trong việc làm báo Bình Minh, báo Ngày Nay bộ
mới sau này, sau khi Nhật bản đảo chính quân Pháp, về việc thu lượm tin tức các nơi và
thông dịch tài liệu cần thiết. Trong lúc đó, cô vẫn sống rự lập bằng nghề dậy học. Nhưng,
dù có giàu tưởng tượng thế nào đi nữa, cô cũng không thể biết trước vận mệnh sẽ lôi
cuốn mình vào một con đường kỳ lạ không ai nghĩ tới.
Cho tới về sau này, tới những ngày nguy nan, những ngày lưu vong đầy khó khăn, trắc
trở, chúng tôi bao giờ cũng vẫn là bạn đồng hành cùng chung chí hướng, khuyến khích
lẫn nhau vượt qua mọi sóng gió.


CHƯƠNG 17 - BẮT ĐẦU NỔI G1Ó

Nếu Cho rằng những ngày tháng 8-1945 đã quyết đinh mệnh vận Việt nam trong nửa thế
kỷ sau, thì cũng nên nhận rằng những ngày từ 1940-1945 đã có ảnh hưởng rất lớn. Vì
chính trong thời kỳ này, không những cục thế toàn cầu đã thay đổi mà xã hội Việt nam
cũng đã biến hoá. Hai đế quốc, Pháp và Nhật vẫn còn đó, còn cấu kết với nhau, nhưng
nội bộ hàng ngũ đấu tranh cho độc lập dân tộc đã dần dần chia thành hai phe khác nhau,
và đối địch lẫn nhau. Một tiến trình, mà ngày nay xét lại, không thể đảo ngược được.


75 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Hồi tưởng lại những năm đó, nhiều thanh niên đầy nhiệt huyết nhưng chưa đủ khả năng
nhìn rõ sự thực, đã bị lôi cuốn vào trong giòng thác lũ như những chiếc lá rơi, mà không
biết sẽ đi tới đâu

Mấy anh Hoàng Đạo, Khái Hưng, Gia Trí vẫn còn bị tập trung tại Vụ Bản, Hoà Bình. Theo
tin tức nhận được, anh Tam đã qua Hồng Kông rồi đến Quảng Châu. ở đây, anh được mục
kích những cảnh tàn bạo do Hoàng Quân Nhật gây ra đối với dân chúng. Anh hiểu rằng
Nhật không có thực tâm giúp đỡ các nước á Châu độc lập, mà chỉ lợi dụng họ để giành
thắng lợi trong chiến tranh và mở rộng phạm vi quyền lực của đế quốc. Do đó, anh và
anh em quyết tâm dùng phương pháp quyết liệt, thoát khỏi sự kiềm chế của Nhật bản và
tay sai. Anh em rời Quảng Châu chạy tới Liễu Châu, tỉnh Quảng Tây. Chỗ này quân của
Tưởng Giới Thạch còn giữ được. Tướng chỉ huy ở đây là Trương Phát Khuê, tư lệnh chiến
khu số bốn, Trương được chỉ định nắm việc liên lạc, tiếp xúc với những nhà cách mạng
Việt nam, với sự phụ tá của tướng Tiêu Văn, chủ nhiệm bộ chính trị quân khu. Trương và
Tiêu là hai nhân vật có ảnh hưởng mạnh tới cục thế Đông dương.


Nhưng, vừa sang tới đó, vì từ khu Nhật chiếm đến, anh bị hoài nghi là phần tử thân Nhật,
nên bị tống giam vào ngục. Liễu Châu lúc đó cũng là nơi tập trung của nhiều người Việt
đấu tranh Việt nam. Tháng 10 năm 1942, một tổ chức kết hợp người Việt lấy tên là Việt
nam cách mệnh đồng minh hội được thành lập, với đại diện của Việt nam quốc dân đảng,
Phục Quốc, Việt nam Độc lập đồng minh hội (Việt minh), và một số không đảng phái.
Chủ nhiệm lúc đầu là Trương Bội Công, và sau đó do Nguyễn Hải Thần thay thế. Anh Tam
lúc này lấy tên là Nguyễn Tường Dũng (đúng như tên anh chàng Dũng trong truyện Đoạn
Tuyệt, bị giam vào một hang đá gần Liễu Châu...


Một ngẫu nhiên kỳ lạ là trong hang đá ấy, còn một người Việt bị giam nữa, với cái tên là
Hồ Chí Minh.
đồng minh hội cử hai anh Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ đến thăm Nguyễn Tường Tam
để hiểu rõ lai do. Về sau Hội quyết định yêu cầu tướng Trương Phát Khuê trả tự do cho
anh Tam, và cẫ người Việt cùng bị giam, Hồ Chí Minh, vì đều là người Việt yêu nước phải
lưa vong tới đây. Cả hai đều được đưa về hội quán, nhưng không ai rõ Hồ Chí Minh tức là
Nguyễn ái Quốc.


Trước đây, Nguyễn ái Quốc đã từng hoạt động ở Quảng Đông dưới tên là Lý Thụy, trợ tá
cho Borodine, cố vấn Liên Xô cho đảng cộng sản Trung quốc trước và sau công xã Quảng
Châu. Vào năm 1944 Việt nam cách mệnh đồng minh hội đặt kế hoạch hoạt động trong
nước, phái cán bộ về với một số tiền hoạt động, Hồ Chí Minh chủ động nhận nhiệm vụ,
lãnh người và tiền về nước, hoạt động ở biên giới Cao Bằng, tiến tới lập căn cứ sau này.
Còn Nguyễn Tường Tam cũng rời Liễu Châu đi Côn Minh, sau khi bộ Tư Lệnh Quân khu 4
phải rút về gần biên giới Việt nam. Tại đó, anh bắt đầu hợp tác với Vũ Hồng Khanh cùng
Hải ngoại bộ Việt nam quốc dân đảng, cùng liên lạc với trong nước. Một hôm, tại địa điểm
liên lạc bí mật, một anh em ở ngoài về đưa cho tôi một lá thư nhỏ viết trên giấy mỏng.
Đúng là chữ của Nhất Linh, những chữ viết lăn tăn nhỏ tí như dính với nhau. Trong thư
chỉ có mấy hàng, anh vẫn được yên ổn khoẻ mạnh, buôn bán làm ăn khá hơn trước, đừng



76 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
lo. Nhưng thế là đủ rồi, sau khi biệt tích hơn hai năm. Mọi người trong gia đình, các bạn
hữu đều vui mừng khi biết anh còn yên ổn. Lúc ấy, lại thêm một tin mừng: các anh Long,
Khái Hưng, Gia Trí và một số anh em khác được thả về, nhưng bị quản thúc. Có lẽ bọn
Pháp thấy không nên quá ư hà khắc, cần phải lấy lòng giới trí thức người Việt. Tuy trông
gầy yếu và xanh xao, nhưng cũng còn đều khoẻ mạnh. Bộ râu rậm của anh Gia Trí đã
mọc tua tủa hơn trước.
Nghỉ ngơi một thời gian, anh em lại bắt tay vào việc. Anh Khái Hưng chuyên trông coi
nhà xuất bản, nhà in. Còn anh Hoàng Đạo và tôi kiêm về việc liên lạc trong, ngoài.
Một sự kiện quan trọng khiến chúng tôi phấn khởi, đó là việc kết hợp giữa Đại việt dân
chính đảng và Việt nam quốc dân đảng. Tại Côn Minh, Nguyễn Tường Tam đã thoả thuận
cùng Vũ Hồng Khanh về việc này. Hải ngoại bộ Việt nam quốc dân đảng đã đồng ý. Anh
em ở ngoài đều chấp thuận việc bỏ danh xưng Đại việt dân chính, có nghĩa là chỉ dùng
tên Việt nam quốc dân đảng.
Chỉ còn cần ý kiến của đảng bộ trong nước. Quyết nghị được do một anh em theo đường
Hà Giang qua biên giới, về tới Hà Nội giao cho chúng tôi. Trong một buổi họp giới hạn,
toàn thể chúng tôi chấp thuận. Từ đó, không còn danh xưng Đại việt dân chính nữa. Về
sau, có nhiều sách ghi chú tới năm 45, có đại diện Đại việt dân chính trong các hội nghị
đảng phái hay trong Chính phủ là không đúng sự thực, có thể vì việc kết họp này không
tuyên bố công khai.


Các anh em dân chính tán thành việc này, một phần cho rằng Việt nam quốc dân đảng
có chính danh và uy tín để lãnh đạo quốc dân hơn, một phần chủ trương đi với Đồng
minh, với phe các nước dân chủ là chính xác. Nhật bản không có thành ý giúp đỡ công
cuộc độc lập của Việt nam, và cũng đương thất bại trên mặt chiến trường.


Trên thực tế, tại quốc nội, các anh phụ trách Việt nam quốc dân đảng như Chu Bá Phương,
Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Xuân Tùng cũng đồng ý thực hiện việc họp nhất. Một bộ chỉ
huy được thành lập. Song các chi bộ ở dưới vẫn hoạt động riêng trong phạm vi của mình.
Công việc chung là đưa một số cán bộ trẻ sang Trung quốc huấn luyện, thiết lập mấy khu
bí mật tại biên giới và tại Bắc Giang, Đông Triều, nhưng chưa thành căn cứ võ trang củng
cố. Một công tác quan trọng, là tuyên truyền, dấy động quần chúng vẫn chưa được thúc
đẩy mạnh, trong khi Việt nam Độc lập Đồng minh hội (tức Việt minh) do đảng cộng sản
thành lập đã bắt đầu khai triển tuyên tuyền chủ truơng chống Pháp, chống Nhật và đặt
căn cứ ở Cao Bằng, Bắc Cạn. Sự kết hợp giữa Đại việt dân chính và Việt nam quốc dân
đảng là một bước đầu đáng kề, vì Việt nam cách mệnh đồng minh hội chỉ có danh mà
không có thực, lại thiếu lãnh đạo. Vấn đề đoàn kết giữa các lực lượng quốc gia từ trước
tới nay vẫn là một vấn đề nan giải. Năm 1944, đứng trước tình thế cấp bách và những
hoạt động của Việt minh, các anh em ở hải ngoại có thảo ra một văn kiện nói về việc
thống nhất gửi về trong nước, vừa để báo cáo vừa để yêu cầu quốc nội tích cực hành
động (nguyên văn đăng ở sau).\


Bản này do các vị Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Lý Đông A và một
vị nữa không rõ là ai, ký tên, do anh Tam chính tay viết. Về phần cương lĩnh thống nhất
77 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
các đảng phái, bản văn đưa ra khẩu hiệu một chủ nghĩa, một chỉ buy, và đối ngoại thì
muôn mặt
- Một chủ nghĩa, lấy Duy dân chủ nghĩa của Phan Bội Châu (đổi mới).
- Một chỉ huy, một tổ chức.
- Ngoại giao muôn mặt, tùy tiện lợi mà lấy tên riêng, như Việt nam quốc dân đảng ở hải
ngoại, Đại việt quốc dân đảng đối với dân chúng trong nước.
- Một lá cờ, một đảng ca.
Về hành động, đề nghị trong nước lập ngay ban Chấp Hành Trung ương, lập các tỉnh đảng
bộ, các trạm giao thông, tổ chức một đội cách mệnh nhà nghề v.v.
Bản văn kêu gọi Ngày giờ đã khẩn cấp! Mau lên mới kịp đối phó. Chiến tranh thế giới sắp
tới hồi quyết định, sự hưng vong của nòi giống Đại việt ta là ở lúc này đây.


Câu cuối cùng trong bức thư, anh Tam viết: ở ngoài, ở trong cùng hết sức để rồi có ngày
kia băt tay nhau ở đất nước nhà, trong cái không khí tưng bừng của ngày Quốc Hội, ngày
đầu tiên của nước Đại việt độc lập. Bức thư này ký tên ngày 12 tháng 1 năm 1945.
Không phải là anh em trong nước không nghĩ đến việc kết hợp thành một trận tuyến
chung. Năm 1944, một mặt trận lấy tên là Đại việt Quốc gia Liên minh gồm có đại diện
Tân Việt nam quốc dân đảng, Đại việt quốc xã, Đại việt dân chính, Đại việt quốc dân đảng
được thành lập. Căn cứ trên tình hình đặc biệt trong nước, Liên minh này có khuynh
hướng dựa vào thế lực của Nhật để đánh đổ sự thống trị của Pháp trước đã. Nhưng lúc
đó, muốn lợi dụng thế lực của ngoại quốc, trước hết bản thân mình phải có tổ chức chặt
chẽ và có lực lượng thích ứng. Các đảng phái quốc gia tuy nhiều, nhưng lực lượng không
mạnh, chỉ huy không nhất trí, thiếu sách lược cụ thể và quyết đoán khi thời cơ tới, nên
đã bỏ lỡ nhiều cơ hội hiếm có, khiến đảng cộng sản Đông dương, với Mặt Trận Việt minh
thống nhất hơn, có hệ thống hơn, đã nắm được thời cơ. Đây là một bài học đắng cay và
bi đát không bao giờ có thể quên. Đại việt Quốc gia Liên minh lại thiếu tuyên truyền
mạnh, không ảnh hưởng sâu vào quần chúng.

Đảng cộng sản có nhiều thủ đoạn tuyên truyền để lôi kéo quần chúng. Họ cũng học được
một số kinh nghiệm về hoạt động đảng vụ do Liên Xô, Đệ Tam Quốc tế, và Trung Cộng
truyền cho. Những người quốc gia hồi ấy đã đánh giá quá thấp đảng cộng sản và thiếu
biện pháp để đánh bạt ảnh hưởng của đối phương. Trước dân chúng hồ hởi và dễ tin, Việt
minh tưng ra khẩu hiệu Chống Pháp, chống Nhật có vẻ quyết liệt, hấp dẫn, tung ra tin
có Đồng minh ủng hộ, tin đã chiếm được bảy tỉnh miền Tây Bắc, tin nông dân đói nổi lên
khởi nghĩa, diệt bọn cường hào ác bá tích trữ lúa gạo... Đồng thời, lại tung ra những lời
vu cáo các phái quốc gia, Đại việt, toàn là thân Nhật, phản động, khiến dân chúng có ấn
tượng xấu. Nhiều thanh niên, trí thức đã tham gia vào hàng ngũ Việt minh. Xuân Diệu,
Huy cận... trong nhóm Ngày Nay, Tự lực văn đoàn, và ngay Dương Đức Hiền đã trở thành
một lãnh tụ đảng Dân chủ, một đảng bung sung trong Việt minh. Một đảng khác, trong
Việt minh, đảng Xã Hội, cũng do một số trí thức, chuyên môn thành lập.. Trong những
địp tiếp xúc bí mật, tôi còn nhớ những khuôn mặt lãnh đạo các đảng phái khác, đặc biệt
là của Việt nam quốc dân đảng và Đại việt quốc dân đảng lúc đó còn hoạt động r


78.   Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien

Lần đầu tiên, gặp mấy anh em Việt Quốc tại một ngôi nhà nhỏ trong làng Nghi Tàm, nằm
bên bờ đê và mặt trông ra một góc Hồ Tây. Nghi Tàm, một nơi quen thuộc đối với thanh
niên nam nữ Hà Nội, hay tới đó bơi lội. Trong số anh em đó, một người trạc bốn mươi
tuổi, hơi thấp, mặt tròn, để râu mép, đôi mắt rất thông minh, ăn nói chậm rãi, mới trông
thọat như một ông thầu khoán, đó là anh Chu Bá Phượng. Anh Phượng trước đã từng làm
cho công ty Hỏa xa Vân Nam, giữ việc liên hệ giữa trong và ngoài nước. Tính tình điềm
đạm, nhưng bàn luận rất mạch lạc, rất thực tế.


Chúng tôi bàn luận về việc cộng tác và họp nhất, và đồng ý do anh Phượng phụ trách
công tác tổ chức chung. Từ đó, trên thực tế, anh Phượng là nhân vật trọng yếu nhất về
nội vụ trong Việt nam quốc dân đảng. Anh Hoàng Đạo chủ yếu nắm công tác đối ngoại
và tuyên truyền, vì có uy tín cao trong xã hội. Tôi cũng được may mắn gặp anh em Đại
việt quốc dân đảng, đứng đầu là anh Trương Tử Anh, trong một buổi họp cấp cao, tại một
căn nhà gần phố chợ Hôm. Anh là một người có dáng vóc trung bình, khuôn mặt vuông,
người rắn chắc, đôi mắt đầy vẻ cương nghị và tự tín. Anh nói không nhiều, nhưng mỗi
câu đều chắc nịch, có sức thuyết phục. Hai bên đồng ý trên nguyên tắc về việc cộng tác,
nhưng chưa đề cập tới việc kết họp hẳn, vì còn đợi ý kiến của cả quốc ngoại. Một phái
đoàn ngoại giao dự bị đi Trung quốc vào đầu năm 1945. Một nhân vật Đại việt quốc dân
đảng rất tích cực lúc đó, anh Nguyễn Tiến Hỷ, tự Phan Trâm, bạn học dưới tôi một lớp,
chuẩn bị cầm đầu phái đoàn. Và trong phái đoàn, còn có anh Nguyễn Sĩ Dinh, cùng học
một lớp với tôi.
Ngoài ra, còn có mấy anh Nguyễn Tôn Hoàn, Đặng Văn Sung, Phạm Khải Hoàn tức Hy
Tống. Nguyễn Tôn Hoàn, Đặng Văn Sungđều là sinh viên y khoa, cùng lớp với Phan Trâm.

No comments: