Tin quân Đồng minh đại thắng tại âu Châu, phát xít ý bị 1 diệt, Đức quốc xã bị dồn vào
bản thổ, Bá Linh bị Hồng Quân bao vây, Nhật bản đã mất Phi Luật Tân, và Okinawa bị uy
hiếp mạnh- đưa lại một tình trạng phức tạp chưa biết sẽ kết cục ra sao.
Nếu thời cục đưa lại hy vọng cho người Pháp ở Đông dương, trước sự bại trận chắc chắn
sẽ tới của quân Nhật, thì người Việt nam đứng trước khó khăn. Pháp nhất định sẽ nắm
vững quyền lực, không để cho hỗn loạn xẩy ra. Đồng minh có muốn can thiệp cho tự do,
độc lập của các nước Đông dương cũng khó vì Pháp lại là một trong Đồng Mình. Nghĩ cho
kỹ, tình hình cũng không lạc quan lắm.
Còn người Nhật cũng đứng trước cảnh hầu như tuyệt vọng, vừa sợ Đồng minh tấn công
vừa lo quân Pháp thừa cơ lật mặt. Song họ còn ngoan cố, chưa chịu bó tay, tiếp tục kháng
cự, với hy vọng là điều đình, giữ lại một phần đất đai đã chiếm được. Bất thình lình, sau
một tối hậu thư của tướng Matsumoto gửi cho viên Toàn quyền Decoux, yêu cầu lực lượng
79 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Pháp phải chịu sự chỉ huy của quân đội Nhật, ngay tối hôm mồng 9 tháng 3 quân Nhật
mở cuộc tấn công cấp tốc vào các cơ sở quân sự của Pháp ở khắp Đông dương.
Hôm đó, tôi ở phố hàng Bè, Hà Nội. Gần nửa đêm bỗng nghe thấy tiếng súng nổ vang,
hình như ở phía Cột Cờ, ở chỗ trại lính phố Cửa Bắc đưa tới, rồi dần dần lan ra chung
quanh. Không ai dám ra ngoài, đường phố vắng ngắt. Không một bóng người. Nhưng tất
cả đều cũng đoán được sự gì đã xẩy ra. Gần sáng, tiếng súng đã tất hẳn. Từ cửa sổ trông
ra, đầu đường đã có mấy tên lính Nhật tuốt lưỡi lê đứng canh. Sau đó, họ rút về trại. Sự
phản kháng yếu ớt của Pháp đã bị đàn áp rất nhanh. Xem ra người Pháp cũng không dại
gì chống cự kịch liệt vô ích, chỉ thêm thiệt hại nhiều, trong khi chỉ cần chờ đợi một thời
gian nào đó thôi là Nhật tất sẽ bại.
Mọi công việc làm ăn vẫn tiếp tục như thường. Thành phố rất nhanh trở lại yên tĩnh, chỉ
có khác là trên đường phố chỉ thấy bóng lính Nhật, không thấy bóng dáng của người Pháp
nữa. Bây giờ, Nhật bản trục tiếp thống trị, và tuyên bố long trọng trao trả độc lập cho
Việt nam, Nhật bản không có tham vọng gì về Đông dương. Chính phủ Bảo Đại thực ra
không có quyền hành gì, trừ việc quản lý nội bộ. Dù sao, đây cũng là một cơ hội có một
không hai trong lịch sử, vì nền đô hộ của Pháp đã sụp đổ. ít ra, tạm thời cũng thoát được
một ách gông cùm. Dân chúng hồ hởi về những vụ reo hò độc lập, hạ cờ Pháp, lật đổ
tượng Paul Bert tại vườn hoa, đổi tên đường phố, và một số chính trị phạm được tha về.
Nhưng những người có nhiệm vụ, cần phải nhìn xa, trông rộng hơn, Cần phải tiên đoán...
Thời thế bắt đầu có, nhưng anh hùng cũng có thể tạo thêm thời thế.
có khác là trên đường phố chỉ thấy bóng lính Nhật, không thấy bóng dáng của người Pháp
nữa. Bây giờ, Nhật bản trục tiếp thống trị, và tuyên bố long trọng trao trả độc lập cho
Việt nam, Nhật bản không có tham vọng gì về Đông dương. Chính phủ Bảo Đại thực ra
không có quyền hành gì, trừ việc quản lý nội bộ. Dù sao, đây cũng là một cơ hội có một
không hai trong lịch sử, vì nền đô hộ của Pháp đã sụp đổ. ít ra, tạm thời cũng thoát được
một ách gông cùm. Dân chúng hồ hởi về những vụ reo hò độc lập, hạ cờ Pháp, lật đổ
tượng Paul Bert tại vườn hoa, đổi tên đường phố, và một số chính trị phạm được tha về.
Nhưng những người có nhiệm vụ, cần phải nhìn xa, trông rộng hơn, Cần phải tiên đoán...
Thời thế bắt đầu có, nhưng anh hùng cũng có thể tạo thêm thời thế.
Mục tiêu của người Việt lúc này là tích súc lực lượng để khi quân Nhật thất bại, thừa cơ
nắm lấy chính quyền trước khi người Pháp có thể trở lại. Trông mong vào Bảo Đại không
phải là một phương thức tốt, tuy rằng cũng là một yếu tố quan trọng nếu triều đình Huế
nắm được lực lượng và tích cực chống Pháp. Trong lúc thúc đẩy việc chỉnh đốn các đảng
bộ địa phương ở miền Bắc và miền Trung, theo đề nghị trước đây của anh em hải ngoại,
do các anh em bên Đại việt quốc dân đảng tổ chức phái đoàn ngoại giao, trong đó có anh
Nguyễn Tiến Hỷ, Phạm Khải Hoàn, Nguyễn Sĩ Dinh v..v. theo đường Lao Cai tiến sang
Trung quốc. Tới Côn Minh, các anh em đó hợp với một số anh em Việt nam quốc dân
đảng Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế Tổ, Lê Khang, thành một phái
đoàn thống nhất của người Việt nam quốc gia. Các anh em còn có nhiệm vụ thảo luận về
việc đoàn kết, thống nhất các lực lượng quốc gia.
Để tranh thủ dân chúng, lợi dụng tình thế đặc biệt, chúng tôi quyết định tăng cường việc
tuyên truyền cho công cuộc giành độc lập của dân tộc. Lúc đầu, qua tờ Bình Minh, rồi sau
đó, cho tái bản tờ Ngày Nay, với mục đích truyền bá tư tưởng ái quốc, dân chủ và cải
cách xã hội. Tất nhiên, lúc này, không thể công khai đả động tới người Nhật hay chính
phủ Huế. Các anh em cử tôi làm giám đốc tờ báo, anh Khái Hưng phụ trách toà soạn, anh
Nguyễn Trọng Trạc, một đảng viên đảng Xã hội Pháp, giữ việc trị sự. Nội dung tờ báo
khác trước ở chỗ thiên về bình luận chính trị, xã hội, văn hoá, có tính chất hướng dẫn và
xây dựng. Lúc này không còn là lúc làm thơ văn khóc sướt mướt, đầy tình cảm lãng mạn
nữa, mà là lúc đánh thức, dấy động lòng yêu nước, ý chí đấu tranh của mọi tầng lớp.
80 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Quần chúng trong thời kỳ chuyển tiếp này, cũng mong muốn được nghe những tiếng nói
có tính chất cổ võ và chỉ đường.
Chủ trường của Ngày Nay bộ mới phù hợp với nhiều tầng lớp trong xã hội. Những bài xã
luận có tính chất hô hào, những phân tích về tình hình trong ngoài, hay phóng sự về
những vấn đề sôi nổi làm cho độc giả cảm thấy mới lạ, nên được hoan nghênh. Tôi còn
nhớ khi ra số đầu tiên, ngay trên bìa vẽ tranh về thời sự, phần trên vẽ mấy người giơ tay
hoan hô Độc lập! Độc lập phần dưới lại vẽ những người chết đói ngắc ngoải với đầu đề
Đói! Đói! bộc lộ thực trạng cay đắng trước mắt độc giả. Bức tranh đó được nhiều người
tán thưởng. Với sự cố gắng và tinh thần làm việc của các anh em, báo bán rất chạy, qúa
sự mong muốn của chúng tôi, in ra tới số kỷ lục từ trước tới nay-- hơn mười ngàn số một
kỳ.
Những ngày đầu năm 1945, một năm trọng đại trong lịch sử nước ta và cả thế giới, sự
thống khổ của dân ta dưới hai tròng áp bức và bóc lột đã lên tới tột điểm, nhưng lại thêm
tại họa mới: nạn chết đói khủng khiếp ở miền bắc Việt nam. Ai đã từng sống những ngày
đó tại Bắc Việt đều chắc không bao giờ quên cảnh trạng có một không hai ấy. Cảnh này
cũng đã có nhiều người, nhiều sách tường thuật rồi.
Tôi còn nhớ như in những xác chết nằm còng queo tại gầm cầu Hà Nội, tại bờ sông, gần
các chợ và trong những ngõ hêm, hay rải rác trên ven những đường từ ngoại thành vào.
Cũng không quên được những xác sống đủ già, trẻ, lớn, bé, mắt hõm sâu tay chân chỉ
còn là mấy ống xương, nằm dụi vào nhau tại vỉa hè hay đi lởn vởn gần những gánh hàng
ăn. Những người đáng thương ấy nhiều khi liều mạng cướp giật chiếc bánh hay đồ ăn
trong tay người khác rồi chạy đi, không rõ có sức mạnh gì khiến họ còn làm nổi việc ấy.
Tội phạm trong vụ làm người chết đói tới hàng triệu này không ai khác là bọn Pháp, bọn
Nhật cưỡng bách mua thu hết với giá giết người, gạo để trong kho và cung cấp xuất khẩu,
và còn bọn gian thương, một số địa chủ cũng thừa cơ tích trữ gạo để bán ra với giá cầt
cổ. Chết đói nhiều nhất tất là nông dân, điều này giải thích tại sao nông dân đã nổi lên
tại nhiều nơi để tìm đường sống.
Thảm trạng nạn chết đói càng làm cho nhiều người hiểu rằng không giải trừ được nạn
ngoại quốc thống trị thì dân tộc còn phải chịu nhiều đau thương. Lòng căm phẫn trước
khổ nạn là một nguyên do khiến muôn ngàn người đã dấn thân vào cách mạng giải phóng
dân tộc, không cần rõ là do ai lãnh đạo.
CHƯƠNG 19 - QUAN HỆ GIỮA CÁC ĐẢNG PHÁI VIỆT NAM
81 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Một hôm, vào tháng 6, tôi đương ngồi sửa bài tại tòa soạn thì ở dưới đưa lên một người
lạ mặt. Anh ta bảo có thư riêng của một người bạn thân nhờ đưa đến. Rồi anh rút từ ống
giầy ra một tờ giấy mỏng. Dưới ký tên một người mà tôi cũng không ngờ đến: Anh Dương
Đức Hiền. Đã hơn một năm, tôi không được nghe tin tức gì về anh. Rất mừng, tôi vội hỏi:
- Anh Hiền hiện nay ở đâu? Có thể cho biết không?
- Địa chỉ anh ấy ở đâu tôi không rõ lắm. Chỉ biết anh ấy lên miền Bắc đã lâu, nhưng gần
đây thì đã về Hà Đông. Anh cứ theo đúng ngày giờ và địa điểm, nhất định sẽ gặp.
Mừng vì có tin tức của bạn trong đảng ngày trước, nhưng lại e ngại vì trong thư nói anh
đại diện cho Việt minh để bàn luận về việc cộng tác trong công cuộc chung.
Lúc đó, anh Long vắng mặt, nên anh em cử tôi và anh Khái Hưng đi gặp Dương Đức Hiền.
Chỗ hẹn là một nơi ở cách Hà Đông độ năm cây số. Chúng tôi đạp xe, gần đến Hà Đông
thì rẽ vào một con đường nhỏ, lầy lội, có khúc phải vác cả xe lên vai, lội bùn mà đi. Gắn
đến bờ sông Nhuệ, tới một tòa miếu cổ, thì thấy một người mặc quần áo nâu ra đứng
đợì. Tuy quần áo khác, nhưng vẫn nhận ra được anh Hiền, gầy hơn, mặt đen sạm, nhưng
hai hàm răng lại quá trắng, chẳng cần phải là mật thám cũng biết đây là một nông dân
giả hiệu.
Chúng tôi ngồi trên thềm miếu, nhìn xuống giòng sông Nhuệ nhỏ nước chảy êm đềm,
trông hao hao giống con sông Sen ở quê nhà. Chung quanh vắng không có bóng người,
chỉ có một người ngồi sau rniếu, có lẽ là một tay súng hộ vệ. Sau vài lời hàn huyên, anh
cho biết là đã gia nhập vào Việt Minh, với tư cách lãnh đạo đảng Dân chủ, và khuyên
chúng tôi cùng các anh em Dân chính khác cũng nên tham gia Việt minh, không nên đứng
lừng khừng nữa. Anh cầm tờ Ngày Nay trong tay, phê bình chủ trương của nó không triệt
để, không cách mạng theo đường lối công nông. Anh nói Việt minh nay đã phát triển
mạnh, có căn cứ quân sự, được Đồng minh ủng hộ. Như vậy, tôi biết anh chưa rõ về việc
Đại việt dân chính đã hợp nhất với Việt nam quốc dân đảng, và cũng đã đứng về phía
Đồng minh. Vì nguyên tắc bí mật, chúng tôi chỉ nghe, không giải thích gì. Có lẽ vì thế mà
anh thất vọng, rằn giọng nói:
- Nếu các anh cứ lừng khừng như thế mãi, thì có ngày Nhật sẽ beng đầu các anh, mà nếu
không thì cách mạng sẽ beng đầu các anh!
Đó là nguyên văn lời nói. Chúng tôi hơi ngạc nhiên, vì lại chính do một đồng chí cũ đưa
ra. Tôi và Khái Hưng chỉ cười, đưa mắt nhìn nhau: tuyên truyền anh em cũ vào tổ chức
mình mà lại dùng cách đe dọa thì thực là hạ sách. Và lối nói tự kiêu, chỉ có mình mới là
cách mạng thì thực là chủ quan, và tỏ ra rằng anh cũng không biết gì về hoạt động của
các đảng phái quốc gia. Tôi đáp lời:
- Cách mạng Việt nam thì có nhiều con đường để đi, không nhất định là phải tham gia
vào Việt minh. Song về việc hợp tác, chúng tôi sẽ về bàn với các anh em rồi sẽ trả lời
sau.
Kết cục, hẹn một tuần sau sẽ gặp lại. Nhưng sau đó, lại nhận được thư của anh Hiền, nói
là phải đi lên miền trên có việc cần và sẽ liên lạc sau. Từ đó, không được tin tức của anh
nữa, và mấy tháng sau, không ngờ lại gặp anh trong một buổi họp các đảng phái, mà từ
82 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
bạn hữu đã trở nên đối địch. âu cũng là định mệnh. Chúng tôi cũng muốn hợp tác vì công
cuộc chung, góp sức với nhau để đuổi quân xâm lăng ra khỏi nước. Song, thực ra, hai
bên có thể chân thành cộng tác với nhau không, lại là một vấn đề khó giải.
Qua cuộc gặp gỡ trên, có những điều, mà nếu lúc đó phe quốc gia phân tích và suy xét
kỹ, thì cũng có thể giúp ích trong công việc. Một là, Việt minh không biết rõ lắm về hoạt
động của Đại việt Dân chính và Việt nam quốc dân đảng, cùng Đại việt quốc dân đảng,
điều này chứng tỏ việc tuyên truyền của đảng phái quốc gia không được mạnh. Hai là,
Việt minh đương sửa soạn một cuộc hội nghị quan trọng ở Tân Trào, Thái Nguyên, mà
tình báo của Việt nam quốc dân đảng chưa biết tới. Theo chỗ tôi thấy, vì tổ chức nội bộ
chưa được kiện toàn nên việc tình báo đối địch và đối với những nhóm người Việt khác
cũng chưa có kế hoạch cụ thể, lại không có một sách lược toàn diện về mọi mặt nội,
ngoại, và nhiều khi phải ứng phó, nước đến chân mới nhẩy. Đây cũng là một kinh nghiệm
quan trọng mà người đấu tranh cần phải rút ra qua những thất hại đắng cay. Thất bại
tuy không phải là điều mình mong muốn, song đáng sợ nhất là thất bại mà không biết
sửa đổi, mà vẫn tự cho mình là thiên hạ đệ nhất.
Một lý do khiến cho các đảng phái quốc gia không nắm được thời cơ đúng lúc, là tin rằng
Nhật bản còn đủ sức để chống cự một thời gian dài nữa, nên không cấp tốc chuẩn bị một
cuộc tổng hành động hay một cuộc đảo chính khi cơ hội tới.
Phái đoàn ngoại giao từ trong nước ra họp với anh em ở hải ngoại tại Côn Minh và Trùng
Khánh. Tất cả đồng ý trên nguyên tắc thống nhất tổ chức. Còn danh xưng thì ở trong lấy
tên Đại việt quốc dân đảng, ở ngoài lấy tên Việt nam quốc dân đảng. Song nguyên tắc
ấy, theo chỗ tôi thấy, chưa được thực hiện trên thực tế và chỉ được biết trong vòng một
số người cầm đầu.
Chiến tranh tại âu Châu đã kết thúc. Hitler và vợ đã tự sát. Chỉ còn lại đế quốc Nhật có
quân tác chiến, tứ bề thù địch. Những binh lính Thiên Hoàng hiện không còn có vẻ uy
phong lẫm lẫm như trước nữa.
Hội nghị Potsdam đưa ra cảnh cáo, yêu cầu Nhật bản đầu hàng vô điều kiện, đồng thời
cũng có quyết nghị về vấn đề độc lập hay tự trị của các nước bị đô hộ, và phân công
trong việc tiếp quản các nơi bị Nhật chiếm đóng khi Nhật đầu hàng. Viễn ảnh quân Đồng
minh sẽ nhập Việt đã mang đến hy vọng cho người Việt, nếu sau này quân Trung Hoa
tiến vào thay quân Pháp. Dù thất bại dồn dập, quân Nhật vẫn ngoan cố kháng cự. Tháng
7-1945, sau những trận đánh khốc liệt, toàn bộ toán quân tử thủ đảo Okinawa đã trận
vong. Bom Mỹ ném xuống như mưa tại các thành phố Nhật, gồm cả Đông Kinh, uy hiếp
đến tính mệnh của Nhật Hoàng và đến Chính phủ Đông Điều.
Tại Trung quốc, tại Đông Nam á, quân Trung Hoa, quân Anh mở cuộc phản công dữ dội,
quân Liên Xô tấn công Mông Cổ, trực tiếp uy hiếp đến Mãn Châu, bản doanh của đội quân
Quan Đông tinh nhuệ của Nhật.
Đây thực là tứ bề Sở ca như Hạng Vũ bị vây khốn cùng Ngu Cơ tại Cai Hạ trước khi nhẩy
xuống sông Ô Giang tự vẫn.
83 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Nhưng bọn quân phiệt Nhật vẫn chưa chịu bỏ súng. Thà chết chứ không đầu hàng, là một
khẩu hiệu lưu truyền trong các doanh trại Nhật. Đông Điều cự tuyệt lời hô hào của Đồng
minh, quyết tâm ngọc đá cũng tan.
Hàng triệu người dân trên thế giới, gồm người Việt nam, hồi hộp đợi chờ tình hình chuyển
động. Nếu Nhật chịu đầu hàng, thì sẽ tránh được tai nạn, nhưng nếu ngược lại, thì sẽ có
đổ máu, phá hoại khủng khiếp tại á Châu, và ngay tại Đông dương. Tai họa ghê gớm sẽ
rơi xuống đầu bao người dân vô tội.
Vận mệnh dân tộc Việt nam sẽ ra sao trong giờ phút lịch sử quyết liệt này. Và vận mệnh
của mỗi người cũng sẽ ra sao? Đó là vấn đề cấp thiết mà người dân Việt, đặc biệt là
những đảng phái Việt nam lúc đó, không thể không đối phó.
CHƯƠNG 20 - NHỮNG NGÀY THÁNG TÁM 1945
Để tiện làm việc, tôi đã dọn nhà tới ngõ Châu Long, ở phố Đỗ Hữu Vị, một căn nhà hai
tầng, có cổng bên, có sân ở đằng sau. Tôi ở trên gác, còn dưới nhà là anh Nguyễn Gia
Trí, và anh Phan Huy Đán. Cả ba người đều không ít truyện, nhưng thôi, khi nào có dịp
sẽ kể sau.
Đứng ở trên gác, nhìn qua bên kia ngõ, là trường học Hữu Vị, lúc đó bị quân Nhật chiếm
đóng. Có thể trông thấy rõ ràng lính Nhật ra vào trong trường, một toán bộ binh, nhưng
không hiểu nhiệm vụ của chúng là gì. Một anh lính gác trẻ thường vác súng đi lại từ cổng
trường sang đến ngõ chúng tôi ở. Trông anh ta còn trẻ măng, chỉ độ mười bẩy, mười tám
tuổi, dáng điệu không dữ dằn như những tên lính khác.
81. Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Một hôm, vào tháng 6, tôi đương ngồi sửa bài tại tòa soạn thì ở dưới đưa lên một người
lạ mặt. Anh ta bảo có thư riêng của một người bạn thân nhờ đưa đến. Rồi anh rút từ ống
giầy ra một tờ giấy mỏng. Dưới ký tên một người mà tôi cũng không ngờ đến: Anh Dương
Đức Hiền. Đã hơn một năm, tôi không được nghe tin tức gì về anh. Rất mừng, tôi vội hỏi:
- Anh Hiền hiện nay ở đâu? Có thể cho biết không?
- Địa chỉ anh ấy ở đâu tôi không rõ lắm. Chỉ biết anh ấy lên miền Bắc đã lâu, nhưng gần
đây thì đã về Hà Đông. Anh cứ theo đúng ngày giờ và địa điểm, nhất định sẽ gặp.
Mừng vì có tin tức của bạn trong đảng ngày trước, nhưng lại e ngại vì trong thư nói anh
đại diện cho Việt minh để bàn luận về việc cộng tác trong công cuộc chung.
Lúc đó, anh Long vắng mặt, nên anh em cử tôi và anh Khái Hưng đi gặp Dương Đức Hiền.
Chỗ hẹn là một nơi ở cách Hà Đông độ năm cây số. Chúng tôi đạp xe, gần đến Hà Đông
thì rẽ vào một con đường nhỏ, lầy lội, có khúc phải vác cả xe lên vai, lội bùn mà đi. Gắn
đến bờ sông Nhuệ, tới một tòa miếu cổ, thì thấy một người mặc quần áo nâu ra đứng
đợì. Tuy quần áo khác, nhưng vẫn nhận ra được anh Hiền, gầy hơn, mặt đen sạm, nhưng
hai hàm răng lại quá trắng, chẳng cần phải là mật thám cũng biết đây là một nông dân
giả hiệu.
Chúng tôi ngồi trên thềm miếu, nhìn xuống giòng sông Nhuệ nhỏ nước chảy êm đềm,
trông hao hao giống con sông Sen ở quê nhà. Chung quanh vắng không có bóng người,
chỉ có một người ngồi sau rniếu, có lẽ là một tay súng hộ vệ. Sau vài lời hàn huyên, anh
cho biết là đã gia nhập vào Việt Minh, với tư cách lãnh đạo đảng Dân chủ, và khuyên
chúng tôi cùng các anh em Dân chính khác cũng nên tham gia Việt minh, không nên đứng
lừng khừng nữa. Anh cầm tờ Ngày Nay trong tay, phê bình chủ trương của nó không triệt
để, không cách mạng theo đường lối công nông. Anh nói Việt minh nay đã phát triển
mạnh, có căn cứ quân sự, được Đồng minh ủng hộ. Như vậy, tôi biết anh chưa rõ về việc
Đại việt dân chính đã hợp nhất với Việt nam quốc dân đảng, và cũng đã đứng về phía
Đồng minh. Vì nguyên tắc bí mật, chúng tôi chỉ nghe, không giải thích gì. Có lẽ vì thế mà
anh thất vọng, rằn giọng nói:
- Nếu các anh cứ lừng khừng như thế mãi, thì có ngày Nhật sẽ beng đầu các anh, mà nếu
không thì cách mạng sẽ beng đầu các anh!
Đó là nguyên văn lời nói. Chúng tôi hơi ngạc nhiên, vì lại chính do một đồng chí cũ đưa
ra. Tôi và Khái Hưng chỉ cười, đưa mắt nhìn nhau: tuyên truyền anh em cũ vào tổ chức
mình mà lại dùng cách đe dọa thì thực là hạ sách. Và lối nói tự kiêu, chỉ có mình mới là
cách mạng thì thực là chủ quan, và tỏ ra rằng anh cũng không biết gì về hoạt động của
các đảng phái quốc gia. Tôi đáp lời:
- Cách mạng Việt nam thì có nhiều con đường để đi, không nhất định là phải tham gia
vào Việt minh. Song về việc hợp tác, chúng tôi sẽ về bàn với các anh em rồi sẽ trả lời
sau.
Kết cục, hẹn một tuần sau sẽ gặp lại. Nhưng sau đó, lại nhận được thư của anh Hiền, nói
là phải đi lên miền trên có việc cần và sẽ liên lạc sau. Từ đó, không được tin tức của anh
nữa, và mấy tháng sau, không ngờ lại gặp anh trong một buổi họp các đảng phái, mà từ
82 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
bạn hữu đã trở nên đối địch. âu cũng là định mệnh. Chúng tôi cũng muốn hợp tác vì công
cuộc chung, góp sức với nhau để đuổi quân xâm lăng ra khỏi nước. Song, thực ra, hai
bên có thể chân thành cộng tác với nhau không, lại là một vấn đề khó giải.
Qua cuộc gặp gỡ trên, có những điều, mà nếu lúc đó phe quốc gia phân tích và suy xét
kỹ, thì cũng có thể giúp ích trong công việc. Một là, Việt minh không biết rõ lắm về hoạt
động của Đại việt Dân chính và Việt nam quốc dân đảng, cùng Đại việt quốc dân đảng,
điều này chứng tỏ việc tuyên truyền của đảng phái quốc gia không được mạnh. Hai là,
Việt minh đương sửa soạn một cuộc hội nghị quan trọng ở Tân Trào, Thái Nguyên, mà
tình báo của Việt nam quốc dân đảng chưa biết tới. Theo chỗ tôi thấy, vì tổ chức nội bộ
chưa được kiện toàn nên việc tình báo đối địch và đối với những nhóm người Việt khác
cũng chưa có kế hoạch cụ thể, lại không có một sách lược toàn diện về mọi mặt nội,
ngoại, và nhiều khi phải ứng phó, nước đến chân mới nhẩy. Đây cũng là một kinh nghiệm
quan trọng mà người đấu tranh cần phải rút ra qua những thất hại đắng cay. Thất bại
tuy không phải là điều mình mong muốn, song đáng sợ nhất là thất bại mà không biết
sửa đổi, mà vẫn tự cho mình là thiên hạ đệ nhất.
Một lý do khiến cho các đảng phái quốc gia không nắm được thời cơ đúng lúc, là tin rằng
Nhật bản còn đủ sức để chống cự một thời gian dài nữa, nên không cấp tốc chuẩn bị một
cuộc tổng hành động hay một cuộc đảo chính khi cơ hội tới.
Phái đoàn ngoại giao từ trong nước ra họp với anh em ở hải ngoại tại Côn Minh và Trùng
Khánh. Tất cả đồng ý trên nguyên tắc thống nhất tổ chức. Còn danh xưng thì ở trong lấy
tên Đại việt quốc dân đảng, ở ngoài lấy tên Việt nam quốc dân đảng. Song nguyên tắc
ấy, theo chỗ tôi thấy, chưa được thực hiện trên thực tế và chỉ được biết trong vòng một
số người cầm đầu.
Chiến tranh tại âu Châu đã kết thúc. Hitler và vợ đã tự sát. Chỉ còn lại đế quốc Nhật có
quân tác chiến, tứ bề thù địch. Những binh lính Thiên Hoàng hiện không còn có vẻ uy
phong lẫm lẫm như trước nữa.
Hội nghị Potsdam đưa ra cảnh cáo, yêu cầu Nhật bản đầu hàng vô điều kiện, đồng thời
cũng có quyết nghị về vấn đề độc lập hay tự trị của các nước bị đô hộ, và phân công
trong việc tiếp quản các nơi bị Nhật chiếm đóng khi Nhật đầu hàng. Viễn ảnh quân Đồng
minh sẽ nhập Việt đã mang đến hy vọng cho người Việt, nếu sau này quân Trung Hoa
tiến vào thay quân Pháp. Dù thất bại dồn dập, quân Nhật vẫn ngoan cố kháng cự. Tháng
7-1945, sau những trận đánh khốc liệt, toàn bộ toán quân tử thủ đảo Okinawa đã trận
vong. Bom Mỹ ném xuống như mưa tại các thành phố Nhật, gồm cả Đông Kinh, uy hiếp
đến tính mệnh của Nhật Hoàng và đến Chính phủ Đông Điều.
Tại Trung quốc, tại Đông Nam á, quân Trung Hoa, quân Anh mở cuộc phản công dữ dội,
quân Liên Xô tấn công Mông Cổ, trực tiếp uy hiếp đến Mãn Châu, bản doanh của đội quân
Quan Đông tinh nhuệ của Nhật.
Đây thực là tứ bề Sở ca như Hạng Vũ bị vây khốn cùng Ngu Cơ tại Cai Hạ trước khi nhẩy
xuống sông Ô Giang tự vẫn.
83. Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien
Nhưng bọn quân phiệt Nhật vẫn chưa chịu bỏ súng. Thà chết chứ không đầu hàng, là một
khẩu hiệu lưu truyền trong các doanh trại Nhật. Đông Điều cự tuyệt lời hô hào của Đồng
minh, quyết tâm ngọc đá cũng tan.
Hàng triệu người dân trên thế giới, gồm người Việt nam, hồi hộp đợi chờ tình hình chuyển
động. Nếu Nhật chịu đầu hàng, thì sẽ tránh được tai nạn, nhưng nếu ngược lại, thì sẽ có
đổ máu, phá hoại khủng khiếp tại á Châu, và ngay tại Đông dương. Tai họa ghê gớm sẽ
rơi xuống đầu bao người dân vô tội.
Vận mệnh dân tộc Việt nam sẽ ra sao trong giờ phút lịch sử quyết liệt này. Và vận mệnh
của mỗi người cũng sẽ ra sao? Đó là vấn đề cấp thiết mà người dân Việt, đặc biệt là
những đảng phái Việt nam lúc đó, không thể không đối phó.
CHƯƠNG 20 - NHỮNG NGÀY THÁNG TÁM 1945
Để tiện làm việc, tôi đã dọn nhà tới ngõ Châu Long, ở phố Đỗ Hữu Vị, một căn nhà hai
tầng, có cổng bên, có sân ở đằng sau. Tôi ở trên gác, còn dưới nhà là anh Nguyễn Gia
Trí, và anh Phan Huy Đán. Cả ba người đều không ít truyện, nhưng thôi, khi nào có dịp
sẽ kể sau.
Đứng ở trên gác, nhìn qua bên kia ngõ, là trường học Hữu Vị, lúc đó bị quân Nhật chiếm
đóng. Có thể trông thấy rõ ràng lính Nhật ra vào trong trường, một toán bộ binh, nhưng
không hiểu nhiệm vụ của chúng là gì. Một anh lính gác trẻ thường vác súng đi lại từ cổng
trường sang đến ngõ chúng tôi ở. Trông anh ta còn trẻ măng, chỉ độ mười bẩy, mười tám
tuổi, dáng điệu không dữ dằn như những tên lính khác.
Một hôm, Liên đến nhà, lên gác, nhânLiên đến nhà, lên gác, nhân có một cái đàn dương cầm cũ, bèn học dạo vài bài cổ điển nhẹ nhàng, mà học sinh thường biết. Không ngờ anh lính Nhật từ dưới vẫy tay,tươi cười. Tuy ngôn ngữ không thông, nhưng cũng hiểu anh muốn lên chơi. Chúng tôi mời
anh ta lên, anh gác súng một bên, rồi đánh một ca khúc Nhật bản. Điệu ca buồn và vẻ
mặt trầm ngâm của anh chắc chắn biểu lộ tâm tình nhớ quê hương, xa người thân.
Chúng tôi cũng ngồi im lắng nghe. Người lính trẻ này cũng chỉ là một trong trăm ngàn
thanh niên Nhật bị bọn quân phiệt xô đẩy vào một cuộc chiến xâm lược. Thần chết lúc
nào cũng sẵn sàng đợi anh...
Mải làm báo và ứng phó với công việc, tôi cũng ít khi để ý tới gia đình. Chỉ biết mẹ tôi
vẫn ở trại Cẩm Giàng, và có chị Thạch Lam cùng mấy cháu bé về ở cùng cho đỡ cô quạnh.
Bà và ông em, cậu Cả tôi, đều hay đi lễ chùa, và có ý muốn tu tại gia. Sau này, hình như
ông cậu tôi đi tu ở ngôi chùa rhiên Thai, thuộc Bắc Ninh, mà trong những ngày nắng ráo,
đứng ở Cẩm Giàng có thể trông thấy ngọn đồi ấy. Anh cả tôi đã giữ chức giám đốc nha
Bưu Chính Hà Nội, đời sống vẫn như thường không có gì thay đổi. Anh Hai vẫn làm ở
nông trường gần Sài Gòn. Chị Tam vẫn giữ nghề buôn cau khô, nuôi mấy đứa con ăn học.
84 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Chị Thế dọn đến ở nhà Thạch Lam ở cũ và anh Hoàn cũng vẫn làm tại tòa báo. Vì thời
thế, nên đã làm chúng tôi cũng không có liên lạc với hai anh Tú Mỡ, Thế Lữ.
Cuối tháng 7, anh Hoàng Đạo bỗng nhiên mắc bệnh thương hàn, phải vào nằm bệnh viện,
trong lúc thời cục đương chuyển biến mau chóng. Gánh nặng gia đình do chị Long cáng
đáng. Công việc báo chí và chính trị, vì vắng mặt anh, cũng gặp nhiều khó khăn, trách
nhiệm đè lên đầu tôi và anh Khái Hưng. Trước đó, Phan Kế Toại được triều đình Huế cử
làm Khâm Sai Bắc Việt, cùng với Nguyễn Văn Sâm, làm Khâm Sai Nam Việt. Vì miền Bắc
là nơi hoạt động chính trị quan trọng nhất, nên Huế lại mời thêm ba nhân vật là Nguyễn
Xuân Chữ, Nguyễn Tường Long, Đặng Thái Mai họp thành một Hội đồng Cố Vấn, đồng
thời lại phong cho một số người là thanh niên ưu tú mong giúp vào việc xây dựng đất
nước. Lạ nhất là tôi cũng có tên trong số ưu tú ấy, tới nay tôi vẫn chưa hiểu vì cớ gì về
sau, lại đổi là ủy ban giám đốc chính trị miền Bắc để nắm quyền lãnh đạo thay vào viên
Khâm Sai, gồm có 5 người: Nguyễn Xuân Chữ, Phan Kế Toại, Trần Văn Lai, Nguyễn Tường
Long, Đặng Thái Mai. Song Đặng Thái Mai không hề tới dự - Đặng có quan hệ mật thiết
với Việt minh, Trần Văn Lai bận về công việc thị trưởng Hà Nội, Phan Kế Toại có thái độ
lừng khừng, còn anh Nguyễn Tường Long thì lại ốm nặng. Bác sĩ Chữ tuy được cử làm
chủ tịch, nhưng không nắm được thực quyền.
Anh Hoàng Đạo mắc bệnh lúc đó là một sự đáng tiếc, vì nếu cộng tác được với Nguyễn
Xuân Chữ, và lấy sức mạnh đảng phái quốc gia làm hậu thuẫn, thì có khả năng nắm đươc
thực quyền, nắm được đội Bảo an binh ở Hà Nội và các tỉnh, và cuộc đảo chính của Việt
minh sẽ không thể thành công. Nhưng đó chỉ là nếu. Nhiều cái nếu quá, bây giờ nghĩ lại
thì quá muộn. Nếu các đảng phái quốc gia mạnh hơn, có chiến lược và chiến thuật chính
xác hơn, nếu biết mạnh dạn và kịp thời hành động, nếu không ỷ lại quá đáng vào Đồng
Mtnh sẽ tới giúp mình chống cộng sản, nếu...
Anh em có họp vài lần để thảo luận về tình hình. Song tiếc rằng chưa đi tới một quyết
định rõ rệt, ngoài việc gọi một số người các nơi về tập trung ở Hà Nội, phái người đi
thuyết phục Bảo an binh, và liên lạc với anh em ở Vân Nam.
Thời thế biến chuyển nhanh hơn là người ta tưởng.
Đầu tháng 8, 1945. Chúng tôi vẫn miệt mài làm báo. Tờ Ngày Nay vẫn bán rất chạy, tuy
những tin tức dồn dập khiến mọi người hoang mang.
Một buổi chiều, công việc xong, tôi đương ngồi uống càphê, bỗng thấy Khái Hưng từ ngoài
vội vã bước vào trong tòa soạn:
- Mỹ ném bom nguyên tử! - anh nói.
- Xuống đâu? - tôi vội hỏi
- Hiroshima... mấy mươi vạn người đã ra tro.
Về những vũ khí tân tiến như phi cơ, hỏa tiễn V2, đã nghe đến nhiều, nhưng chưa bao
giờ nghe tới bom nguyên tử. Tôi không khỏi rùng mình trước sức tàn phá ghê gớm của
nó. Ai cũng xôn xao, hồi hộp để đợi một sự kiện gì nghiêm trọng sẽ đến. Nếu Nhật thua
thì Việt nam sẽ ra sao? Đại đa số dân chúng chỉ có ước vọng là Tổ quốc sẽ được độc lập,
dân tộc sẽ được tự do, có một chính phủ dân chủ, mọi người sẽ xây dựng một quốc gia
85 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
giàu mạnh, đời sống sẽ tươi đẹp hơn. Nhưng làm thế nào để thực hiện ước vọng ấy? Ngồi
yên đợi quân Đồng minh tới tiếp thu, rồi vẫn do chính phủ Bảo Đại cầm quyền? Hay là
đảng phái nào lên nắm quyền lực lúc đó? Và quân Pháp còn có thể trở lại không?
Ngày nay, nhìn lại những giờ phút ấy, người ta mới thấy rõ những yếu tố sâu xa của
những sự việc đã xẩy ra sau đó. Đó chính là sự đối chọi quyết liệt giữa những thế lực
khác nhau trong nội bộ dân tộc trong bối cảnh quốc tế đầy rẫy những âm mưa đặt lại ách
thực dân hay ách thống trị của những thế lực đen tối.
Dân Việt nam nói chung, và người quốc gia nói riêng, đã không chú trọng đúng mức đến
nguy cơ người Pháp sẽ trở lại Đông dương với sự hỗ trợ của Đồng minh, cũng như tới
nguy cơ người Cộng sản, dưới chiêu bài giải phóng dân tộc, sẽ mang nền chuyên chính
vô sản áp đặt trên đầu người dân. Dân Nhật chưa hoàn hồn thì quả bom nguyên tử thứ
hai đã rơi xuống Nagasaki. Quân đội Liên xô tiến công vào Mãn Châu. Hạm đội Mỹ đã gần
tới bờ biển Nhật, sửa soạn đổ bộ. Đế quốc Nhật đã lâm vào đường cùng.
Rồi, ngày 15 tháng 8 năm 1945, Thiên Hoàng Nhật tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Quân
Nhật tại khắp các nơi đều phải hạ khí giới. Thế chiến thứ hai chính thức hạ màn. Nhưng
chiến tranh khác tại nhiều nơi lúc này mới bắt đầu.
Không biết nên vui hay nên buồn. Bất giác, tôi nhìn sang trại quân Nhật bên cạnh. Toàn
trại im lặng như tờ. Sau đó, họ làm lễ để tang. Treo nhiều phướn trắng trên cửa, trên
một góc phố... Còn đâu là vẻ hung hăng ngạo mạn trước đây? Nhưng đáng thương nhất
là anh lính Nhật trẻ. Chiều hôm ấy, anh lại lên gác nghe đánh đàn dương cầm, rơm rớm
nước mắt. Anh mượn bút giấy viết mấy chữ Hán Ngã bại ngã sầu bi. Không biết anh khóc
cho thân phận mình hay là cho những người thân đã bỏ mình dưới bom đạn. Anh cũng
chỉ là nạn nhân, một con tốt của bọn đế quốc quân phiệt.
Nhật đã đầu hàng. Lịch sử Việt nam đã bước sang một trang hoàn toàn mới. Tất cả các
thế lực ở trong cũng như ở ngoài, sẽ chạm trán với nhau trên đất nước này. Từ đó cuộc
đời của tôi, của gia đình, cũng bước vào một giai đoạn khác hẳn, giai đoạn đấu tranh
chính trị, vật lộn và lưu vong, tang tóc.
15 tháng 8, 1945: Với trang sử mới đã lật, thới kỳ làm báo, làm văn từ 20 năm nay đã
coi như là kết thúc, với sự đình bản tự nguyện trước thời thế của tờ Ngày Nay vào hôm
sau.
Ngày hôm sau, 16 tháng 8, 1945. Chín giờ sáng, tôi đạp xe từ nhà đến tòa báo. Mọi người
đều có vẻ phấn khởi, đồng thời cũng tỏ ra thắc mắc về tương lai. Pháp đã chạy, Nhật đầu
hàng. Vậy thì, cục thế sẽ đi tới đâu?
Lên trên gác, hai anh Khái Hưng và Nguyễn Trọng Trạc đã ngồi ở tòa soạn, vẻ mặt băn
khoăn. Song Khái Hưng cũng đứng dậy, lấy cốc rót rượu ngọt màu hồng -thứ rượu nhẹ
86 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
chuyên dùng vào những ngày lễ tiết - đưa cho tôi và anh Trạc: - Chúng ta mừng quân
Nhật đã bại, phải đầu hàng. Bây giờ ta đã thực sự độc lập... anh nâng cốc. Chúng tôi
cùng cạn cốc
- Nhưng, chính phủ Trần Trọng Kim đã từ chức. Trạc nói. Nhật hạ khí giới, nhưng Triều
Đình Bảo Đại, không ai tin tưởng rằng có thể lãnh đạo đất nước trong những ngày giờ
khó khăn, bối rối này.
Và cả ba đều bất giác nghĩ đến việc quân Pháp có thể trở lại cùng với quân Đồng minh
đổ bộ lên Đông dương nay mai.
Ai cũng biết, Pháp là một thành viên trong khối Đồng minh, với chính phủ lưu vong De
Gaulle.
- Bọn Việt minh gần đây hoạt động mạnh- Trạc tiếp.
Thực vậy, khẩu hiệu Chống Pháp, chống Nhật, giành độc lập của Việt minh được tung ra
ở nhiều nơi, tỏ ra rằng họ chỉ coi triều đình Huế là bù nhìn của Pháp, rồi của Nhật, và chỉ
có họ mới có tư cách giành độc lập cho dân tộc mà thôi.
Khái Hưng và tôi đưa mắt nhìn nhau. Nguyễn Trọng Trạc một người thuộc đảng xã hội
Pháp (S.F.I.O), anh không phải không theo rõi tình thế. Anh lo ngại về mặt Việt minh
không phải là vô căn cứ. Và câu nói này cũng tỏ ra anh không am hiểu về tình hình các
đảng phái khác.
Tôi cảm thấy việc tuyên truyên của các đảng phái quốc gia trong quần chúng thực là yếu
kém. Không mấy những ai hiểu rõ Việt nam quốc dân đảng, Đại việt quốc dân đảng hay
Đại việt dân chính đương làm những việc gì, chủ trương ra sao mà chỉ nghe thấy đồn Đại
việt Quốc gia Liên minh hợp tác với Nhật. Không ít người, dưới sự xuyên tạc của Việt
minh, cho là Đại việt đồng nghĩa với thân Nhật, thân phát xít.
Nhớ tới việc Việt minh triệutập hội nghị ở Thái Nguyên với kế hoạch lập một ủy ban nhân dân cứu quốc, chúng tôicàng sốt ruột. Lời hiệu triệu đẩy mạnh công tác từ hải ngoại gửi về chưa được hưởng ứngmạnh mẽ. Một số thành viên cũ của các đảng phái quốc gia nay đã hoạt động trong Việt
minh, mà đại đa số người dân không hiểu Việt minh là do đảng cộng sản chi phối, hay dù
biết, cũng cho là người cộng sản cũng thành thực muốn tự do độc lập. Việc tuyên truyền
Việt minh đã có chiến khu trên bẩy tỉnh Việt Bắc càng mang tính chất thần bí lại càng có
vẻ hấp dẫn, coi Việt minh là tổ chức duy nhất có thể cứu nước.
Mãi tới tối hôm ấy mới có một anh em trong đảng đến liên lạc, do anh Chu Bá Phượng
phái tới. Vì anh Hoàng Đạo vẫn còn bệnh, và chúng tôi là biệt phái ra làm báo, nên chỉ
biết là các anh em sắp tập hợp chuẩn bị hành động, và kế hoạch chủ yếu sẽ là hợp tác
với Phan Kế Toại - Nguyễn Xuân Chữ, để tăng cường chính quyền hiện hữu. Đây là giờ
phút nghiêm trọng nhất, gấp bách nhất trong thời vận định đoạt số phận của cả một dân
tộc. Lúc này, từng giờ, từng phút, cần phải có sự quyết đoán kiên cường và hợp thời của
những người cầm đầu của đảng phái. Chỉ sai đi, chậm đi một vài giờ cũng làm mất cơ hội
lịch sử ngàn năm mới có một lần.
Và làm mất cơ hội lịch sử đó, đã khiến cho các anh em quốc gia lâm vào một cảnh khó
khăn, gian hiểm vô chừng, rồi đưa đến thất bại, hy sinh, lưu vong, đưa đến chỗ cả dân
87 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
tộcrơi vào ách chuyên chế, lầm than cộng sản, đưa đến một cuộc kháng chiến đẫm máu,
kéo dài, cộng với cảnh nồi da xáo thịt khủng khiếp.
Trong hai ngày 17 và 18 kế sau, những tin tức dồn dập và hỗn loạn tràn ngập cả nước
và ngay ở Hà Nội càng làm cho chúng tôi nóng ruột, ăn ngồi không yên. Trước hết là tin
một cuộc biểu tình tại Nhà hát lớn, nghe nói là do các công chức tổ chức để chúc mừng
độc lập và chống việc Pháp quay trở lại, cùng ủng hộ một bức thông điệp của vua Bảo
Đại gửi cho chính phủ các nước lớn trên thế giới. Song trong cuộc biểu tình này, cán bộ
Việt minh đã xuất hiện với cờ đỏ sao vàng và hô hào dân chúng ủng hộ.ý đồ vận động quần chúng để cướp chính quyền tại Hà Nội của Việt minh đã rõ ràng.
Một
mặt Việt minh cũng đã cho người đến vận động khâm sai Phan Kế Toại, và bác sĩ Nguyễn
Xuân Chữ, lúc đó đã thay Phan Kế Toại vào quản trị công việc ở Bắc Bộ Phủ. Đồng thời,
họ cũng đã dụ được đa số Bảo An Binh theo lời họ. Dưới mắt đa số người dân lúc đó, họ
chỉ thấy Việt minh là một tổ chức cách mạng có tiếng tăm, có hoạt động. Trong khi ấy,
các đảng phái quốc gia cũng có họp khẩn cấp, với đại diện của Đại việt Quốc gia Liên
minh, của Việt nam quốc dân đảng và Đại việt quốc dân đảng (hai tổ chức này đã kết
hợp dưới danh nghĩa Mặt Trận quốc dân đảng). Nhưng ý kiến phân vân, không đi tới được
một quyết định chung. Người thì chủ trương lợi dụng quân đội Nhật để nắm quyền ngay.
Người thì phản đối vì sợ như vậy sẽ bị Đồng minh nghi ngờ, không thừa nhận. Người thì
tin rằng Phan Kế Toại, Nguyễn Xuân Chữ sẽ nắm vững được quyền lực và Việt minh không
đủ sức để đảo chính. Có người lạc quan, cho là dù Việt minh có cướp được quyền cũng
không thành vấn đề lớn vì lực lượng không có bao nhiêu, nếu họ làm sai trái, ta sẽ vận
động nhân dân để truất họ đi. Vả lại quân Trưng Hoa sắp tới tiếp thu đầu hàng của Nhật.
Một số nhỏ anh em thì kiên quyết chủ trương hành động để nắm ngay lấy chính quyền
trước khi người cộng sản ra tay, có chính quyền, có quân đội trong tay thì không sợ Việt
minh đảo chính. Nếu để cộng sản nắm lấy quyền lực thì tất nhiên sẽ gặp khủng bố và
tiêu diệt, tai hoạ vô chừng.
Lấy danh nghĩa của đảng, anh Phan Trâm có tới giao thiệp với nhóm Bảo An Binh, nhưng
Việt minh đã nhanh tay hơn. Kết cục là các đảng phái quốc gia không có hành động cương
quyết và kịp thời, để lỡ mất cơ hội ngàn vàng, giành đủ thì giờ cho Việt minh lợi dụng
lòng tin của dân chúng và thái độ thụ động của chính phủ Bảo Đại, phát động cuộc biểu
tình và tuần hành ngày 19 tháng 8 để cướp chính quyền - sự kiện mà họ vẫn gọi là Cách
mạng tháng tám. Việc phát động cuộc biểu tình này một cách nhanh chóng và có hiệu
quả, theo chỗ tôi thấy, thực là bất ngờ và ra ngoài dự tính của chính phủ lúc đó và của
các đảng phái quốc gia, cũng như của quân đội Nhật bản.
Sáng hôm ấy, chưa được ý kiến gì mới từ các anh em, tôi vẫn theo lệ thường tới toà báo
để đợi tin tức, vả lại số báo Ngày Nay cuối cùng vẫn đương in. Anh Khái Hưng đã ngồi đợi
sẵn ở phòng khách. Hai chúng tôi không nói năng gì, đều cảm thấy nặng nề, mà không
biết vì cái gì. Anh lặng lẽ pha cà phê, đặt cốc cà phê đen nóng trước mặt tôi:
- Anh có thêm tin tức gì không?- Anh hỏi tôi.
88 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
- Cũng chưa có tin tức gì mới. - Ngừng một phút, tôi tiếp- à! Chắc anh cũng biết, hôm
qua biểu tình ở Nhà hát Tây, có cờ đỏ sao vàng...
Đó chính là điều mà chúng tôi thắc mắc nhất. Việt minh đã có hoạt động công khai ở đây.
Mục đích họ là gì? Tuy băn khoăn nhưng thú thực, lúc đó chúng tôi cũng chưa lo lắng gì
nhiều, vẫn nghĩ rằng tình thế chưa có biến đổi nhanh, chính phủ Trần Trọng Kim vẫn sẽ
như một nội các gác cửa, đợi quân Đồng minh kéo tới mới sẽ ngã ngũ. Các anh em ở
ngoài về lập chính phủ khác, do Trung quốc quốc dân đảng hỗ trợ. Và như thế, sẽ ngăn
cản được mưa mô trở lại của Pháp. Nhưng, chính trong lúc này, những tiếng ồn ào trong
thành phố từ xa vẳng đến tai chúng tôi. Khái Hưng đứng dậy, mở cửa sổ, tiếng động càng
ngày càng gần. Nhìn xuống phố Quan Thánh, đã thấy nhiều người tập hợp, qua mặt tòa
báo, dồn về phiá vườn hoa hàng Đậu. Có người cầm cờ đỏ nhỏ bằng giấy, có người hô
khẩu hiệu ủng bộ độc lập, đả đảo thực dân Pháp. Thỉnh thoảng có vài người đi kèm, họ
chia nhau rẽ vào các nhà bên đường xua người ra phố tham dự biểu tình. Vì vậy, người
xuống đường càng ngày càng đông, nam nữ, già trẻ đều có, vì nếu không hồ hởi để đi
biểu tình, cũng khó mà từ chối không dự vào một hoạt động để ủng hộ độc lập. Lần đầu
tiên, chúng tôi thấy đông người xuống đường như thế, đó là sức mạnh quần chúng.
Lúc đó, Khái Hưng chắc cũng cùng một cảm nghĩ với tôi: cuộc biểu tình đông đảo, nhưng
lại là do Việt minh tổ chức, không phải do các đảng phái bên mình. Đương bối rối, thì ở
dưới cổng, có hai người bước vào toà báo, yêu cầu mọi người tham gia. Cũng có một số
nhân viên ở tầng dưới theo raphố.
Hai người đó chỉ trỏ, hình như định lên trên gác. Nếu họ lên thực thì thực là khó nghĩ đối
với chúng tôi, không biết nên xử trí ra sao... Nhưng may, không hiểu vì sao không có ai
lên gác. Dù sao, trong lúc này, chúng tôi cũng cảm thấy cô độc. Nếu Việt minh thắng thế,
nắm được chính quyền thì sẽ gây khó khăn cho các phái khác. Tuy chưa hẳn là đối địch,
theo quan niệm của chúng tôi, nhưng lối tuyên truyền của Việt minh vu cáo chúng tôi là
thân Nhật đã làm cho một số dân chúng có ác cảm.
Mãi tới trưa, mới được tin Việt minh đã tiến chiếm Bắc Bộ Phủ. Bác sĩ Chữ bắt buộc phải
trao quyền. Còn có tin khi đoàn biểu tình tới bao vây Bảo an binh tại phố Đồng Khánh,
thì gặp một toán quân Nhật án ngữ. Sau một hồi giao thiệp, quân Nhật cho là việc nội bộ
của người Việt, không ảnh hưởng gì tới vị thế của họ cùng tới việc trị an của thành phố,
nên tự động mở đường. Trong Bảo an binh, đã sẵn có tay trong, nên đều phục tùng sự
chỉ huy của Việt minh. Đại diện của Quốc dân Đảng phái đi du thuyết quân Bảo An đã
không thuyết phục nổi ai.
Thế chính trị cùng thế võ trang đều đã mất, các đảng phái quốc gia lâm vào một bước
khó khăn nghiêm trọng, đành tạm nằm im đợi thời
Mải làm báo và ứng phó với công việc, tôi cũng ít khi để ý tới gia đình. Chỉ biết mẹ tôi
vẫn ở trại Cẩm Giàng, và có chị Thạch Lam cùng mấy cháu bé về ở cùng cho đỡ cô quạnh.
Bà và ông em, cậu Cả tôi, đều hay đi lễ chùa, và có ý muốn tu tại gia. Sau này, hình như
ông cậu tôi đi tu ở ngôi chùa rhiên Thai, thuộc Bắc Ninh, mà trong những ngày nắng ráo,
đứng ở Cẩm Giàng có thể trông thấy ngọn đồi ấy. Anh cả tôi đã giữ chức giám đốc nha
Bưu Chính Hà Nội, đời sống vẫn như thường không có gì thay đổi. Anh Hai vẫn làm ở
nông trường gần Sài Gòn. Chị Tam vẫn giữ nghề buôn cau khô, nuôi mấy đứa con ăn học.
84 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Chị Thế dọn đến ở nhà Thạch Lamở cũ và anh Hoàn cũng vẫn làm tại tòa báo. Vì thời
thế, nên đã làm chúng tôi cũng không có liên lạc với hai anh Tú Mỡ, Thế Lữ.
Cuối tháng 7, anh Hoàng Đạo bỗng nhiên mắc bệnh thương hàn, phải vào nằm bệnh viện,
trong lúc thời cục đương chuyển biến mau chóng. Gánh nặng gia đình do chị Long cáng
đáng. Công việc báo chí và chính trị, vì vắng mặt anh, cũng gặp nhiều khó khăn, trách
nhiệm đè lên đầu tôi và anh Khái Hưng. Trước đó, Phan Kế Toại được triều đình Huế cử
làm Khâm Sai Bắc Việt, cùng với Nguyễn Văn Sâm, làm Khâm Sai Nam Việt. Vì miền Bắc
là nơi hoạt động chính trị quan trọng nhất, nên Huế lại mời thêm ba nhân vật là Nguyễn
Xuân Chữ, Nguyễn Tường Long, Đặng Thái Mai họp thành một Hội đồng Cố Vấn, đồng
thời lại phong cho một số người là thanh niên ưu tú mong giúp vào việc xây dựng đất
nước.
Lạ nhất là tôi cũng có tên trong số ưu tú ấy, tới nay tôi vẫn chưa hiểu vì cớ gì về
sau, lại đổi là ủy ban giám đốc chính trị miền Bắc để nắm quyền lãnh đạo thay vào viên
Khâm Sai, gồm có 5 người: Nguyễn Xuân Chữ, Phan Kế Toại, Trần Văn Lai, Nguyễn Tường
Long, Đặng Thái Mai. Song Đặng Thái Mai không hề tới dự - Đặng có quan hệ mật thiết
với Việt minh, Trần Văn Lai bận về công việc thị trưởng Hà Nội, Phan Kế Toại có thái độ
lừng khừng, còn anh Nguyễn Tường Long thì lại ốm nặng. Bác sĩ Chữ tuy được cử làm
chủ tịch, nhưng không nắm được thực quyền.
Anh Hoàng Đạo mắc bệnh lúc đó là một sự đáng tiếc, vì nếu cộng tác được với Nguyễn
Xuân Chữ, và lấy sức mạnh đảng phái quốc gia làm hậu thuẫn, thì có khả năng nắm đươc
thực quyền, nắm được đội Bảo an binh ở Hà Nội và các tỉnh, và cuộc đảo chính của Việt
minh sẽ không thể thành công. Nhưng đó chỉ là nếu. Nhiều cái nếu quá, bây giờ nghĩ lại
thì quá muộn. Nếu các đảng phái quốc gia mạnh hơn, có chiến lược và chiến thuật chính
xác hơn, nếu biết mạnh dạn và kịp thời hành động, nếu không ỷ lại quá đáng vào Đồng
Mtnh sẽ tới giúp mình chống cộng sản, nếu...
Anh em có họp vài lần để thảo luận về tình hình. Song tiếc rằng chưa đi tới một quyết
định rõ rệt, ngoài việc gọi một số người các nơi về tập trung ở Hà Nội, phái người đi
thuyết phục Bảo an binh, và liên lạc với anh em ở Vân Nam.
Thời thế biến chuyển nhanh hơn là người ta tưởng.
Đầu tháng 8, 1945. Chúng tôi vẫn miệt mài làm báo. Tờ Ngày Nay vẫn bán rất chạy, tuy
những tin tức dồn dập khiến mọi người hoang mang.
Một buổi chiều, công việc xong, tôi đương ngồi uống càphê, bỗng thấy Khái Hưng từ ngoài
vội vã bước vào trong tòa soạn:
- Mỹ ném bom nguyên tử! - anh nói.
- Xuống đâu? - tôi vội hỏi
- Hiroshima... mấy mươi vạn người đã ra tro.
Về những vũ khí tân tiến như phi cơ, hỏa tiễn V2, đã nghe đến nhiều, nhưng chưa bao
giờ nghe tới bom nguyên tử. Tôi không khỏi rùng mình trước sức tàn phá ghê gớm của
nó. Ai cũng xôn xao, hồi hộp để đợi một sự kiện gì nghiêm trọng sẽ đến. Nếu Nhật thua
thì Việt nam sẽ ra sao? Đại đa số dân chúng chỉ có ước vọng là Tổ quốc sẽ được độc lập,
dân tộc sẽ được tự do, có một chính phủ dân chủ, mọi người sẽ xây dựng một quốc gia
85 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
giàu mạnh, đời sống sẽ tươi đẹp hơn. Nhưng làm thế nào để thực hiện ước vọng ấy? Ngồi
yên đợi quân Đồng minh tới tiếp thu, rồi vẫn do chính phủ Bảo Đại cầm quyền? Hay là
đảng phái nào lên nắm quyền lực lúc đó? Và quân Pháp còn có thể trở lại không?
Ngày nay, nhìn lại những giờ phút ấy, người ta mới thấy rõ những yếu tố sâu xa của
những sự việc đã xẩy ra sau đó. Đó chính là sự đối chọi quyết liệt giữa những thế lực
khác nhau trong nội bộ dân tộc trong bối cảnh quốc tế đầy rẫy những âm mưa đặt lại ách
thực dân hay ách thống trị của những thế lực đen tối.
Dân Việt nam nói chung, và người quốc gia nói riêng, đã không chú trọng đúng mức đến
nguy cơ người Pháp sẽ trở lại Đông dương với sự hỗ trợ của Đồng minh, cũng như tới
nguy cơ người Cộng sản, dưới chiêu bài giải phóng dân tộc, sẽ mang nền chuyên chính
vô sản áp đặt trên đầu người dân. Dân Nhật chưa hoàn hồn thì quả bom nguyên tử thứ
hai đã rơi xuống Nagasaki. Quân đội Liên xô tiến công vào Mãn Châu. Hạm đội Mỹ đã gần
tới bờ biển Nhật, sửa soạn đổ bộ. Đế quốc Nhật đã lâm vào đường cùng.
Rồi, ngày 15 tháng 8 năm 1945, Thiên Hoàng Nhật tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Quân
Nhật tại khắp các nơi đều phải hạ khí giới. Thế chiến thứ hai chính thức hạ màn. Nhưng
chiến tranh khác tại nhiều nơi lúc này mới bắt đầu.
Không biết nên vui hay nên buồn. Bất giác, tôi nhìn sang trại quân Nhật bên cạnh. Toàn
trại im lặng như tờ. Sau đó, họ làm lễ để tang. Treo nhiều phướn trắng trên cửa, trên
một góc phố... Còn đâu là vẻ hung hăng ngạo mạn trước đây? Nhưng đáng thương nhất
là anh lính Nhật trẻ. Chiều hôm ấy, anh lại lên gác nghe đánh đàn dương cầm, rơm rớm
nước mắt. Anh mượn bút giấy viết mấy chữ Hán Ngã bại ngã sầu bi. Không biết anh khóc
cho thân phận mình hay là cho những người thân đã bỏ mình dưới bom đạn. Anh cũng
chỉ là nạn nhân, một con tốt của bọn đế quốc quân phiệt.
Nhật đã đầu hàng. Lịch sử Việt nam đã bước sang một trang hoàn toàn mới. Tất cả các
thế lực ở trong cũng như ở ngoài, sẽ chạm trán với nhau trên đất nước này. Từ đó cuộc
đời của tôi, của gia đình, cũng bước vào một giai đoạn khác hẳn, giai đoạn đấu tranh
chính trị, vật lộn và lưu vong, tang tóc.
15 tháng 8, 1945: Với trang sử mới đã lật, thới kỳ làm báo, làm văn từ 20 năm nay đã
coi như là kết thúc, với sự đình bản tự nguyện trước thời thế của tờ Ngày Nay vào hôm
sau.
CHƯƠNG 21 - NHỮNG GIỜ PHÚT QUYẾT LIỆT
Ngày hôm sau, 16 tháng 8, 1945. Chín giờ sáng, tôi đạp xe từ nhà đến tòa báo. Mọi người
đều có vẻ phấn khởi, đồng thời cũng tỏ ra thắc mắc về tương lai. Pháp đã chạy, Nhật đầu
hàng. Vậy thì, cục thế sẽ đi tới đâu?
Lên trên gác, hai anh Khái Hưng và Nguyễn Trọng Trạc đã ngồi ở tòa soạn, vẻ mặt băn
khoăn. Song Khái Hưng cũng đứng dậy, lấy cốc rót rượu ngọt màu hồng -thứ rượu nhẹ
86 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
chuyên dùng vào những ngày lễ tiết - đưa cho tôi và anh Trạc: - Chúng ta mừng quân
Nhật đã bại, phải đầu hàng. Bây giờ ta đã thực sự độc lập... anh nâng cốc. Chúng tôi
cùng cạn cốc
- Nhưng, chính phủ Trần Trọng Kim đã từ chức. Trạc nói. Nhật hạ khí giới, nhưng Triều
Đình Bảo Đại, không ai tin tưởng rằng có thể lãnh đạo đất nước trong những ngày giờ
khó khăn, bối rối này.
Và cả ba đều bất giác nghĩ đến việc quân Pháp có thể trở lại cùng với quân Đồng minh
đổ bộ lên Đông dương nay mai.
Ai cũng biết, Pháp là một thành viên trong khối Đồng minh, với chính phủ lưu vong De
Gaulle.
- Bọn Việt minh gần đây hoạt động mạnh- Trạc tiếp.
Thực vậy, khẩu hiệu Chống Pháp, chống Nhật, giành độc lập của Việt minh được tung ra
ở nhiều nơi, tỏ ra rằng họ chỉ coi triều đình Huế là bù nhìn của Pháp, rồi của Nhật, và chỉ
có họ mới có tư cách giành độc lập cho dân tộc mà thôi.
Khái Hưng và tôi đưa mắt nhìn nhau. Nguyễn Trọng Trạc một người thuộc đảng xã hội
Pháp (S.F.I.O), anh không phải không theo rõi tình thế. Anh lo ngại về mặt Việt minh
không phải là vô căn cứ. Và câu nói này cũng tỏ ra anh không am hiểu về tình hình các
đảng phái khác.
Tôi cảm thấy việc tuyên truyên của các đảng phái quốc gia trong quần chúng thực là yếu
kém. Không mấy những ai hiểu rõ Việt nam quốc dân đảng, Đại việt quốc dân đảng hay
Đại việt dân chính đương làm những việc gì, chủ trương ra sao mà chỉ nghe thấy đồn Đại
việt Quốc gia Liên minh hợp tác với Nhật. Không ít người, dưới sự xuyên tạc của Việt
minh, cho là Đại việt đồng nghĩa với thân Nhật, thân phát xít. Nhớ tới việc Việt minh triệu
tập hội nghị ở Thái Nguyên với kế hoạch lập một ủy ban nhân dân cứu quốc, chúng tôi
càng sốt ruột. Lời hiệu triệu đẩy mạnh công tác từ hải ngoại gửi về chưa được hưởng ứng
mạnh mẽ. Một số thành viên cũ của các đảng phái quốc gia nay đã hoạt động trong Việt
minh, mà đại đa số người dân không hiểu Việt minh là do đảng cộng sản chi phối, hay dù
biết, cũng cho là người cộng sản cũng thành thực muốn tự do độc lập. Việc tuyên truyền
Việt minh đã có chiến khu trên bẩy tỉnh Việt Bắc càng mang tính chất thần bí lại càng có
vẻ hấp dẫn, coi Việt minh là tổ chức duy nhất có thể cứu nước.
Mãi tới tối hôm ấy mới có một anh em trong đảng đến liên lạc, do anh Chu Bá Phượng
phái tới. Vì anh Hoàng Đạo vẫn còn bệnh, và chúng tôi là biệt phái ra làm báo, nên chỉ
biết là các anh em sắp tập hợp chuẩn bị hành động, và kế hoạch chủ yếu sẽ là hợp tác
với Phan Kế Toại - Nguyễn Xuân Chữ, để tăng cường chính quyền hiện hữu. Đây là giờ
phút nghiêm trọng nhất, gấp bách nhất trong thời vận định đoạt số phận của cả một dân
tộc. Lúc này, từng giờ, từng phút, cần phải có sự quyết đoán kiên cường và hợp thời của
những người cầm đầu của đảng phái. Chỉ sai đi, chậm đi một vài giờ cũng làm mất cơ hội
lịch sử ngàn năm mới có một lần.
Và làm mất cơ hội lịch sử đó, đã khiến cho cácanh em quốc gia lâm vào một cảnh khó
khăn, gian hiểm vô chừng, rồi đưa đến thất bại, hy sinh, lưu vong, đưa đến chỗ cả dân
87 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
tộc rơi vào ách chuyên chế, lầm than cộng sản, đưa đến một cuộc kháng chiến đẫm máu,
kéo dài, cộng với cảnh nồi da xáo thịt khủng khiếp.
Trong hai ngày 17 và 18 kế sau, những tin tức dồn dập và hỗn loạn tràn ngập cả nước
và ngay ở Hà Nội càng làm cho chúng tôi nóng ruột, ăn ngồi không yên. Trước hết là tin
một cuộc biểu tình tại Nhà hát lớn, nghe nói là do các công chức tổ chức để chúc mừng
độc lập và chống việc Pháp quay trở lại, cùng ủng hộ một bức thông điệp của vua Bảo
Đại gửi cho chính phủ các nước lớn trên thế giới. Song trong cuộc biểu tình này, cán bộ
Việt minh đã xuất hiện với cờ đỏ sao vàng và hô hào dân chúng ủng hộ.
ý đồ vận động quần chúng để cướp chính quyền tại Hà Nội của Việt minh đã rõ ràng. Một
mặt Việt minh cũng đã cho người đến vận động khâm sai Phan Kế Toại, và bác sĩ Nguyễn
Xuân Chữ, lúc đó đã thay Phan Kế Toại vào quản trị công việc ở Bắc Bộ Phủ.
Đồng thời,họ cũng đã dụ được đa số Bảo An Binh theo lời họ. Dưới mắt đa số người dân lúc đó, họ
chỉ thấy Việt minh là một tổ chức cách mạng có tiếng tăm, có hoạt động. Trong khi ấy,
các đảng phái quốc gia cũng có họp khẩn cấp, với đại diện của Đại việt Quốc gia Liên
minh, của Việt nam quốc dân đảng và Đại việt quốc dân đảng (hai tổ chức này đã kết
hợp dưới danh nghĩa Mặt Trận quốc dân đảng). Nhưng ý kiến phân vân, không đi tới được
một quyết định chung. Người thì chủ trương lợi dụng quân đội Nhật để nắm quyền ngay.
Người thì phản đối vì sợ như vậy sẽ bị Đồng minh nghi ngờ, không thừa nhận. Người thì
tin rằng Phan Kế Toại, Nguyễn Xuân Chữ sẽ nắm vững được quyền lực và Việt minh không
đủ sức để đảo chính. Có người lạc quan, cho là dù Việt minh có cướp được quyền cũng
không thành vấn đề lớn vì lực lượng không có bao nhiêu, nếu họ làm sai trái, ta sẽ vận
động nhân dân để truất họ đi. Vả lại quân Trưng Hoa sắp tới tiếp thu đầu hàng của Nhật.
Một số nhỏ anh em thì kiên quyết chủ trương hành động để nắm ngay lấy chính quyền
trước khi người cộng sản ra tay, có chính quyền, có quân đội trong tay thì không sợ Việt
minh đảo chính. Nếu để cộng sản nắm lấy quyền lực thì tất nhiên sẽ gặp khủng bố và
tiêu diệt, tai hoạ vô chừng.
Lấy danh nghĩa của đảng, anh Phan Trâm có tới giao thiệp với nhóm Bảo An Binh, nhưng
Việt minh đã nhanh tay hơn. Kết cục là các đảng phái quốc gia không có hành động cương
quyết và kịp thời, để lỡ mất cơ hội ngàn vàng, giành đủ thì giờ cho Việt minh lợi dụng
lòng tin của dân chúng và thái độ thụ động của chính phủ Bảo Đại, phát động cuộc biểu
tình và tuần hành ngày 19 tháng 8 để cướp chính quyền - sự kiện mà họ vẫn gọi là Cách
mạng tháng tám. Việc phát động cuộc biểu tình này một cách nhanh chóng và có hiệu
quả, theo chỗ tôi thấy, thực là bất ngờ và ra ngoài dự tính của chính phủ lúc đó và của
các đảng phái quốc gia, cũng như của quân đội Nhật bản.
Sáng hôm ấy, chưa được ý kiến gì mới từ các anh em, tôi vẫn theo lệ thường tới toà báo
để đợi tin tức, vả lại số báo Ngày Nay cuối cùng vẫn đương in. Anh Khái Hưng đã ngồi đợi
sẵn ở phòng khách. Hai chúng tôi không nói năng gì, đều cảm thấy nặng nề, mà không
biết vì cái gì. Anh lặng lẽ pha cà phê, đặt cốc cà phê đen nóng trước mặt tôi:
- Anh có thêm tin tức gì không?- Anh hỏi tôi.
88 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
- Cũng chưa có tin tức gì mới. - Ngừng một phút, tôi tiếp- à! Chắc anh cũng biết, hôm
qua biểu tình ở Nhà hát Tây, có cờ đỏ sao vàng...
Đó chính là điều mà chúng tôi thắc mắc nhất. Việt minh đã có hoạt động công khai ở đây.
Mục đích họ là gì? Tuy băn khoăn nhưng thú thực, lúc đó chúng tôi cũng chưa lo lắng gì
nhiều, vẫn nghĩ rằng tình thế chưa có biến đổi nhanh, chính phủ Trần Trọng Kim vẫn sẽ
như một nội các gác cửa, đợi quân Đồng minh kéo tới mới sẽ ngã ngũ. Các anh em ở
ngoài về lập chính phủ khác, do Trung quốc quốc dân đảng hỗ trợ. Và như thế, sẽ ngăn
cản được mưa mô trở lại của Pháp.
Nhưng, chính trong lúc này, những tiếng ồn ào trong
thành phố từ xa vẳng đến tai chúng tôi. Khái Hưng đứng dậy, mở cửa sổ, tiếng động càng
ngày càng gần. Nhìn xuống phố Quan Thánh, đã thấy nhiều người tập hợp, qua mặt tòa
báo, dồn về phiá vườn hoa hàng Đậu. Có người cầm cờ đỏ nhỏ bằng giấy, có người hô
khẩu hiệu ủng bộ độc lập, đả đảo thực dân Pháp. Thỉnh thoảng có vài người đi kèm, họ
chia nhau rẽ vào các nhà bên đường xua người ra phố tham dự biểu tình. Vì vậy, người
xuống đường càng ngày càng đông, nam nữ, già trẻ đều có, vì nếu không hồ hởi để đi
biểu tình, cũng khó mà từ chối không dự vào một hoạt động để ủng hộ độc lập. Lần đầu
tiên, chúng tôi thấy đông người xuống đường như thế, đó là sức mạnh quần chúng.
Lúc đó, Khái Hưng chắc cũng cùng một cảm nghĩ với tôi: cuộc biểu tình đông đảo, nhưng
lại là do Việt minh tổ chức, không phải do các đảng phái bên mình. Đương bối rối, thì ở
dưới cổng, có hai người bước vào toà báo, yêu cầu mọi người tham gia. Cũng có một số
nhân viên ở tầng dưới theo ra phố.
Hai người đó chỉ trỏ, hình như định lên trên gác. Nếu họ lên thực thì thực là khó nghĩ đối
với chúng tôi, không biết nên xử trí ra sao... Nhưng may, không hiểu vì sao không có ai
lên gác. Dù sao, trong lúc này, chúng tôi cũng cảm thấy cô độc. Nếu Việt minh thắng thế,
nắm được chính quyền thì sẽ gây khó khăn cho các phái khác. Tuy chưa hẳn là đối địch,
theo quan niệm của chúng tôi, nhưng lối tuyên truyền của Việt minh vu cáo chúng tôi là
thân Nhật đã làm cho một số dân chúng có ác cảm.
Mãi tới trưa, mới được tin Việt minh đã tiến chiếm Bắc Bộ Phủ. Bác sĩ Chữ bắt buộc phải
trao quyền. Còn có tin khi đoàn biểu tình tới bao vây Bảo an binh tại phố Đồng Khánh,
thì gặp một toán quân Nhật án ngữ. Sau một hồi giao thiệp, quân Nhật cho là việc nội bộ
của người Việt, không ảnh hưởng gì tới vị thế của họ cùng tới việc trị an của thành phố,
nên tự động mở đường. Trong Bảo an binh, đã sẵn có tay trong, nên đều phục tùng sự
chỉ huy của Việt minh. Đại diện của Quốc dân Đảng phái đi du thuyết quân Bảo An đã
không thuyết phục nổi ai.
Thế chính trị cùng thế võ trang đều đã mất, các đảng phái quốc gia lâm vào một bước
khó khăn nghiêm trọng, đành tạm nằm im đợi thời cơ, để đảng cộng sản tung hoành tại
thủ đô và các tỉnh. Chỉ có một số anh em có võ trang, dưới sự chỉ huy của anh Lê Khang,
kéo lên Vĩnh Yên, phối hợp được với anh Đỗ Đình Đạo, thu phục được số Bảo an binh ở
đó, đuổi được cán bộ Việt minh đi và thành lập chính quyền, làm cơ sở tiên phong cho
Đệ Tam Chiến Khu của quốc dân đảng sau này. Trong lúc hỗn loạn, để tránh nguy hiểm
có thể xẩy ra, và để xem tình hình ở ngoài thực sự ra sao, tôi và anh Khái Hưng lấy xe
89 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
đạp ra ngoài phố. Trên đường, vẫn còn rớt những người đi tuần hành về, có người tay
còn cầm cờ đỏ. Tới một làng phía Đại Từ, định nghỉ chân ở nhà người quen Khái Hưng,
nhưng sau lại thấy có người ra vào dòm ngó, không ổn, nên chúng tôi lại trở về thành.
- Đâu cũng là Việt minh cả...
Anh Khái Hưng lắc đầu, chép miệng nói, trên con đường trở về.
Cảnh tượng rộn rịp ở trên đường phố, chưa bao giờ có một số người đông đảo như thế đổ
ra biểu tình, tuần hành, chính phủ đương triều phải nhường bước cho một đảng phái
chinh trị lên nắm quyền, thực là một sự kiện lớn, hãn hữu trong lịch sử đất nước.
Nhưng thực chất sự kiện này là gì? Có phải là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
giành được độc lập trong tay hai đế quốc Pháp - Nhật, gọi là cách mạng tháng tám như
đảng cộng sản vẫn lớn tiếng tuyên truyền từ trước tới nay hay không? Đứng trên khách
quan lịch sử, gạt bỏ lối nhìn đảng phái thiên kiến mà nhận xét, thì cái gọi là cách mạng
tháng 8 bất quá chỉ là một cuộc đảo chính, và cuộc đảo chính này đã đưa đến một chế
độ chuyên chế tai nạn cho dân tộc, một thời kỳ bi đát hàng nửa thế kỷ, tới nay chưa kết
thúc.
Đó không phải là một cuộc cách mạng giành được độc lập, vì lúc đó, Pháp đã bỏ
chạy, Nhật đã đầu hàng, chính phủ Bảo Đại - Trần Trọng Kim là cơ cấu quản trị đất nước,
dân tộc Việt nam đã độc lập thực sự. Không phải vì Việt minh cướp được quyền lực trong
tay Phan Kế Toại: Nguyễn Xuân Chữ mà Việt nam mới có độc lập, người ta có thể cho
rằng Bảo Đại - Trần Trọng Kim vốn là bù nhìn của Pháp, của Nhật, nhưng lúc Nhật đầu
hàng, chính phủ đó có tự do hành động, có quân đội dù nhỏ trong tay. Chỉ vì tự cho mình
là yếu kém nên mới khiếp đảm mà nhường quyền lực cho Việt minh. Ngày nay, nhìn trở
lại thời kỳ quyết định ấy, cộng sản Việt nam nhanh chân nắm được chính quyền, mà
không gặp trở ngại lớn, một nguyên nhân quan trọng chính là ở chỗ thiếu quyết tâm,
thiếu tổ chức và lực lượng nhất trí của người Việt không cộng sản.
Xét trên lịch sử của các nước Đông Nam á vào thời kỳ Nhật đầu hàng, thì hầu hết các
nước ấy đều lẳn lưọt giành được độc lập mà không rơi vào cùm kẹp cộng sản. Như tại
Nam Dương, lúc đầu chống lại việc quân Anh nâng đỡ quân đội Hoà Lan trở lại tái xâm
chiếm - là lực lượng dân tộc, trong đó có nhiều thành viên, do Sukarno đứng đầu. Sau
đó, đảng cộng sản Nam Dương cũng có lực lượng võ trang tham dự chống Hoà Lan, song
không đáng kể, và còn quấy phá hàng ngũ dân tộc nên thất bại. Quân Hoà Lan cuối cùng
phải rút và một chính phủ quốc gia được thành lập.
Cần phải khách quan để rút kinh nghiệm về những bài học lịch sử. Lực lượng các đảng
phái quốc gia Việt nam thiếu tổ chức có hệ thống chặt chẽ, thiếu lãnh đạo sáng suốt,
thiếu võ trang, tuyên truyền trong quần chúng, thiếu khu căn cứ, tới ngày quyết liệt lại
không mạnh dạn cướp lấy thời cơ trăm năm có một, kết quả lâm vào thế bị động và nguy
nan. Có anh em lại chủ trương không nên xung đột với Việt minh, gây đổ máu giữa người
Việt với nhau vô ích, đợi cộng sản lên cầm quyền rồi dần dần nó sẽ lộ chân tướng, và tất
sẽ bị nhân dân lật đổ. Một chủ trương quá lý tưởng và quá tin ở người khác. Vì không
nghiên cứu kỹ càng về sách lược, chiến thuật, nên không hiểu gì về câu châm ngôn của
cộng sản tất cả vì chính quyền - Có chính quyền là có tất cả. Đến bây giờ, người cộng
90 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
sản cũng vẫn coi trọng câu châm ngôn ấy, bám chặt chính quyền là vấn đề số 1 đối với
họ.
Nếu trước kia, các đảng phái quốc gia biết cách hợp tác với chính quyền Bảo Đại, dựng
một chính phủ vững mạnh, thì không những ngăn ngừa được nền chuyên chính của cộng
sản, mà còn có thể lãnh đạo toàn dân chống đế quốc Pháp quay trở lại.
Bất cứ một chính phủ dân tộc nào lúc đó cũng có khả năng chỉ huy cuộc kháng chiến,
cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới. Việc đảng cộng sản Việt nam ngụy biện là đã
đánh đuổi được hai đế quốc Pháp - Nhật, giải phóng cho dân tộc lúc ấy, chỉ là một thứ
tuyên truyền vô căn cứ, để mê hoặc dân chúng. Dựa vào lập luận ngụy biện này, đảng
cộng sản đã có thể lôi kéo dân chúng đi theo con đường tai họa xã hội chủ nghĩa và
chuyên chính vô sản. Thực ra, lúc này, Pháp đã bị Nhật tước quyền rồi, mà Nhật lại đã
đầu hàng.
Ngày 19 tháng 8, 1945, đích xác là một ngày tối quan trọng đối với tương lai của toàn
dân Việt nam. Những ngày 54 hay 75 sau này, trên thực chất, chỉ là kết quả và tiếp tục
của việc đảng cộng sản Đông dương cướp chính quyền trong ngày đó.
Tuyệt đại đa số những người dự vào cuộc biểu tình đều thực lòng tin rằng Việt minh là
một mặt trận ái quốc, tranh đấu cho độc lập tự do của dân tộc, và sự kéo tới Bắc Bộ Phủ,
Bảo An Binh (trại lính khố xanh tại đường Đồng Khánh) để cướp quyền là giành được độc
lập từ trong tay Nhật, Pháp. Không ít người thực sự hân hoan, phấn khởi.
Lực lượng của quốc dân đảng đã tập hợp ở Hà Nội trong mấy ngày đó, vì không nhận
được mệnh lệnh về hành động nên đã lục tực rút về các địa phương. Chúng tôi cũng chỉ
được tin ở trên bắn xuống, là trong tình hình đặc biệt, cứ vẫn tiến hành việc báo như
trước, để đợi tình thế ngã ngũ, sẽ có chỉ thị sau.
Khái Hưng và tôi trở lại toà báo làm việc. Còn có anh Nguyễn Gia Trí, vừa ốm khỏi, thỉnh
thoảng cũng tới bàn luận về thời cực nnh hmh chung quanh vẫn yên tĩnh. Một thông cáo
của ủy ban cách mạng nhân dân thành phố hô hào mọi người ùng hộ, tuân theo mệnh
lệnh của ủy ban, đề phòng mọi bọn phản động và phá hoại.
Tâm tình chúng tôi lúc đó thực mâu thuẫn. Vì nay quyền lực đã ở trong tay một đảng
khác. Mặc dầu, chưa có cảm giác là đối địch hẳn, vả lại hai bên đều cùng một mục đích
chống Pháp, giành độc lập, lúc này chưa phải là lúc quyết liệt với nhau... Nhưng chúng
tôi lại nhớ tới câu nói của Dương Đức Hiền, cảnh cáo đồng chí cũ của anh:
Nếu các anh cứ lừng khừng như thế mãi, thì có ngày Nhật sẽ bengđầu các anh, mà nếu
không thì cách mạng sẽ beng đầu các anh!
Cảnh cáo của anh, chúng tôi không cần nghe, nhưng tự xưng mình là cách mạng độc tôn
rõ ràng là bản chất của người cộng sản mà Dương đã học được, nhưng chỉ hơn mười năm
sau, dưới mắt cộng sản Việt nam, anh không còn là cách mạng nữa.
Vài ngày sau, lại một thông cáo nữa của Việt minh, đại ý nói các nơi đều phục tùng cách
mạng cả, chỉ có một vài địa phương một số thổ phỉ đã nổi lên làm loạn. Một vài điạ
phương đây chỉ vào Vĩnh Yên, hay Hà Giang mà lực lượng võ trang quốc gia đã chiếm cứ
được.
91 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Gọi các lực lượng quốc gia là thổ phỉ cũng chưa đủ, cuối cùng thông cáo còn thêm một
câu chiêu hồi: mong những kẻ đã đi lầm đường sớm tỉnh ngộ và quay về với tổ quốc.
Cho những đảng phái khác với mình là đi lầm đường và tự cho mình là tổ quốc, tỏ rõ rằng
Việt minh đã có thái độ độc tôn thế nào ngay lúc mới lên. Song những câu nói như vậy,
làm sao các đảng phái khác có thể chấp nhận được? Về sau này, mới càng rõ những đảng
cộng sản cầm quyền nào cũng tự hoá mình với tổ quốc, dân tộc.
Các đảng phái quốc gia rút vào bí mật, với mục đích là chỉnh đốn lại hàng ngũ, củng cố
một số chiến khu, và đợi quân đội Tnmg Hoa nhập Việt tiếp quản phần Bắc Việt nam từ
vĩ tuyến 17 trở lên. Các thành phần lưu vong tại hải ngoại cũng lục tực trở về nước để
hoạt động.
Thừa lúc không có ai chống đối mạnh, Việt minh ngay từ vài hôm sau đã tổ chức một số
nhân vật, trí thức, sinh viên đánh điện vào Huế yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị, nhường chỗ
cho một chính phủ cách mạng.
Như vào chỗ không người, đảng cộng sản đã thực hiện được mục đích nắm quyền trên
toàn quốc, tiến tới thành lập một chính phủ lâm thời.
Bức màn đen tối đã rủ lên đầu dân tộc, lên đất nước Việt nam thân yêu từ đó. Những
phút tưng bừng, phấn khởi, đầy hy vọng vừa qua đã biến thành những giờ phút đau
thương với chuyên chế, khủng bố, chiến tranh triền miên. Đó là chuyện về sau.
Trong lúc chuyền tiếp, Khái Hưng, Gia Trí và tôi đồng ý đình bản tờ Ngày Nay và thay
vào đó, ra một tờ báo hàng ngày trung dung hơn, làm cơ sở cho công việc tuyên truyền
sau này. Đó là tờ Việt nam Thời Báo do Nguyễn Trọng Trạc làm chủ nhiệm.
Anh Khái Hưng trở lại toà báo. Còn tôi về nhà ở phố Đỗ Hưũ Vị. Suốt đêm ấy, tôi trằn
trọc không ngủ. Tình thế khó lường được. Trong thành phố, toàn cờ đỏ sao vàng. Các anh
em đã rút vào bí mật, tạm mất liên lạc. Hai hôm sau, ủy ban cách mệnh Nhân Dân thành
phố Hà Nội của Việt minh tuyên bố thành lập Việc đầu tiên của họ là đưa ra một số khẩu
hiệu về độc lập tự do chống Pháp, bắt các nhà trong Hà Nội đều phải giăng, dán biểu ngữ
ủng hộ cách mệnh.
Khái Hưng và tôi trở lại toà soạn làm Việc. Anh em trong toà báo cũng giăng một số biểu
ngữ trên đầu đường Quan Thánh về ủng hộ độc lập, tự do chống Pháp. Không khí nói
chung có vẻ phấn khởi, vì lúc đó đại đa số không ai nghĩ tới tính chất cộng sản của Việt
minh.
Nhưng chúng tôi phải giấu nỗi lo âu. Một chính quyền như thế, chóng chầy cũng sẽ làm
khó dễ cho mình, mặc dầu chưa xẩy ra việc công khai đàn áp. Dù có mục tiêu chung về
92 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
dân tộc độc lập, chúng tôi vẫn cảm thấy khác thường vì từ trước tới nay việt Minh, để bài
bác các đảng phái quốc gia, đã gán cho các đảng phái này cái mũ thân Nhật - với tiếng
gọi chung là Đại việt thân Nhật, Nhật bản lúc đó là một đế quốc quân phtệt xâm lược,
chống với Đồng minh.
Làm cho chúng tôi đỡ lo ngại là niềm hy vọng vào chỗ Đồng minh - đặc biệt là Trung Hoa
- sẽ giúp cho phe quốc gia. Quân Trung Hoa sẽ tiến vào Việt nam nay mai để tước khí
giới Nhật. Thừa thắng tại Hà Nội, Việt minh liên tục cướp được chính quyền ở hầu hết
khắp nơi, mà không gặp những sự kháng cự đáng kể.
Chỉ có tại tỉnh Hà Đông, vị chỉ huy Bảo An Binh là Quản Dưỡng đã ngăn chặn được cuộc
biểu tình của Việt minh. Nhưng sau đó, cán bộ Việt minh uy hiếp Tổng Đốc Hà Đông
nhường vị, để thành lập ủy ban cách mệnh. Quản Dưỡng bị cô lập trước tình thế, định rút
lui khỏi tỉnh lỵ nhưng không may bị Việt minh cản trở và sau bị tống giam và bị xử bắn.
Người chiến sĩ kiên cường này đã tỏ ra bất khuất trước bạo ngược.
Ngày 22 tháng 8, anh Lê Khang cùng một số anh em Việt nam quốc dân đảng lên Vĩnh
Yên, hợp sức với anh Đỗ Đình Đạo, tranh thủ được Bảo An Binh ủng hộ, đuổi được cán bộ
Việt minh ra khỏi tỉnh lỵ lập nên chính quyền quân sự đầu tiên, cùng với tỉnh lỵ Hà Giang
- ở khu vực lớn từ Vĩnh Yên lên tới Lào Cai, sau này gọi là Đệ Tam Chiến Khu của quốc
dân đảng Việt nam. Trên thực tế, cứ điểm Vĩnh Yên vẫn bị cô lập.
Tại Hà Nội, cộng sản cũng bắt được Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, gán cho tội
phản động và thân Nhật, rồi đem thủ tiêu, đồng thời cũng lùa bắt một số lãnh tụ quốc
gia khác, nhưng không đạt tới mục đích.
Đồng thời, trên mặt báo cờ giải phóng của Việt minh, đăng lên bài hiệu triệu đoàn kết,
nhưng lại khuyên các đảng phái đi lạc đường hãy mau quay về với Tổ Quốc, rõ ràng tỏ ra
chỉ có Việt minh mới là đại biểu cho tổ quốc, cho cách mệnh, còn tất cả những đảng phái
quốc gia, những người yêu nước không cộng sản là đã đi lạc vào con đường phản bội!
Thái độ độc tôn của cộng sản Việt nam đã rõ ràng. Dù muốn đoàn kết dân tộc để chống
Pháp, giành độc lập, các đảng phái quốc gia nhất định không thể chấp nhận được những
lời lẽ ngang ngược ấy.
\
Cầm tờ báo trên tay, Khái Hưng, Gia Trí và tôi đưa mắt nhìn nhau, tức giận. Theo thói
quen, Khái Hưng hất tay lên, giận dữ nói:
- Bọn chúng huênh hoang quá!
Cả ba đều cảm thấy bối rối, vì chưa thấy chỉ thị ở trên xuống nên đối phó ra sao. Nhưng
cũng đều biết rằng nên kiên nhẫn, đợi các anh em ở hải ngoại về để tập hợp lại, và chờ
quân Trung Hoa tới tiếp quân, lúc đó sẽ có hành động chung. Bàn luận một hồi, chúng
tôi thấy phải đình bản tờ Ngày Nay, vì trong tình thế Việt minh thống trị, không thể viết
như mình muốn được. Song nhà xuất bàn và nhà in thì vẫn duy trì, để mấy chục nhân
viên còn giữ được sinh kế.
Các anh em trong toà trị sự và ở nhà in, tuy vậy, vẫn tỏ ra bình tĩnh và vẫn làm việc như
thường.
93 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Tuy chính phủ Huế lúc đó vẫn còn nguyên vẹn, và nghe nói được quân đội Nhật ngỏ ý
ủng hộ, nhưng đứng trước khí thế Việt minh đã lập được ủy Ban cách mệnh tại nhiều nơi,
trước một số thanh niên đã biểu tình ngay tại Huế đòi phế bỏ Triều Đình, trước cảnh các
triều thần đã bỏ đi gần hết, Bảo Đại đã phải chấp nhận thoái vị.
Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Bảo Đại trịnh trọng trao quốc ấn, quốc kiếm cho đại biểu
của Việt minh là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận. Hoàng đế Bảo Đại đã trở thành Công dân
Vĩnh Thụy. Thế là kết thúc chế độ quân chủ của hoàng triều nhà Nguyễn!
Không còn một trở lực lớn nào từ Bắc chí Nam, và trước nguy cơ quân Đồng minh sẽ nhập
Việt, Việt minh ráo riết và cấp tốc chuẩn bị thành lập một chính phủ lâm thời, với mục
đích củng cố quyền lực, có quyền ăn nói đối với quốc tế và đặt Đồng minh dù là Tàu, Mỹ,
hay là Anh trước một sự đã rồi. Mấy hôm sau, có tin đồn đội quân Giải Phóng từ Việt Bắc
về sẽ tiến vào thành phố. Dân chúng nhiều người hiếu kỳ muốn nhìn rõ những toán quân
cách mạng đã từng đánh du kích trên các chiến khu miền rừng núi, đượm một vẻ thần
bí. Mà đây có thể gọi là đội quân đầu tiên của người Việt, mặc dầu không thể gọi là mạnh.
Sáng hôm ấy, chúng tôi cũng ra phố đầu Cầu, thì vừa gặp một toán quân từ trên cầu
Long Biên đi xuống. Toán này chừng năm chục người, mặc quân phục vàng, quần ngắn,
không oai phong lắm nhưng cũng khá chỉnh tề. Xem ra hành quân đã lâu nên ai nấy đều
gầy đen, trông có vẻ rắn rỏi. Vũ khí đơn sơ với súng trường và một khẩu súng máy nhẹ.
Hồi đó, có một toán quân mấy chục tay súng không phải là dễ dàng.
Báo chí, truyền đơn hô hào dân chúng đi dự lễ tuyên thệ của Chính phủ lâm thời vào
ngày 2 tháng 9, tại quảng trường Ba Đình. Hồ Chí Minh - tức Nguyễn ái Quốc, tuyên đọc
bản Tuyên ngôn Độc lập.
Ai cũng biết, bản tuyên ngôn đó dựa trên bản tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ hai thế kỷ
trước đây, với những khẩu hiệu độc lập, bình đẳng, tự do, nhấn mạnh về quyền của con
người. Vấn đề là ở chỗ khi đọc tuyên ngôn đó, Hồ Chí Minh đã rầp tâm tiêu diệt tất cả
mọi phái đối lập hay bất đồng ý kiến, để tiến tới một chế độ vô sản chuyên chính theo
đúng giáo điều Mác Lê và chỉ thị của Stalin với Đệ Tam Quốc tế, cùng tư tưởng Mao Trạch
Đông vạch ra trong cuốn Luận chủ nghĩa tân dân chủ.
Sự thực, rất đông người đã đi dự buổi lễ đó, và đã hoan hô chính phủ mới. Trên cơ sở võ
trang toàn quốc và cơ sở quần chúng ủng hộ, Việt minh đã tiến được một bước lớn trước
khi phải ứng phó với quân Đồng minh tiến vào và quân Pháp chắc chắn sẽ quay trở lại,
cùng với sự đe dọa của các phe quốc gia lúc đó nhất định sẽ trỗi dậy chống đối.
Nhiều người quốc gia tin tưởng vào chỗ Việt minh cộng sản tất sẽ không thể đứng vững
được sau khi quân Đồng minh tiến vào. Niềm tin tưởng đượm màu vọng ngoại này đã
khiến cho họ không cố gắng phát triển tổ chức và vũ trang bản thân, quên mất rằng tuy
ngoại viện quan trọng, nhưng yếu tố quyết định vẫn là lực lượng của mình.
Hai nữa, người ta quên rằng đằng sau cộng sản Việt nam có Liên Xô hùng mạnh, một
trong những nước chiến thắng, và Trung Cộng, mà ảnh hưởng, lực lượng đã tăng trưởng
rất nhanh sau thế chiến.
Một số cán bộ cộng sản Việt nam đã từng được Trung Cộng giúp đỡ và huấn luyện.
94 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Tình hình chung mấy ngày đó, trên bề mặt, tạm thời có vẻ ổn định. Nhưng chẳng bao
lâu, những đợt sóng ngầm sẽ nổi lên, đẩy toàn đất nước vào một cơn bão táp chưa từng
thấy.
CHƯƠNG 23 - CHUYỂN ĐỘNG ĐẦU TIÊN
Đời sống dân chúng sau ngày Việt minh cướp chính quyền không có gì thay đổi nhiều, vì
không có chiến tranh hay hỗn loạn, trừ một vài vụ xung đột nhỏ.
Gia đình chúng tôi vẫn ai ở nhà nấy. Anh Cả, Nguyễn Tường Thụy vẫn làm tại sở Bưu
chính Hà Nội. Anh Hai, Nguyễn Tường Cẩm, làm việc và lấy vợ tại Sài Gòn. Anh Tam ở
bên Vân Nam, nghe tin nói sắp về cùng quân Hoa nhập Việt. Anh Long ở một nơi ngoại
thành, chị Thế vẫn ở ngôi nhà nhỏ bên bờ Hồ Tây.
Mọi người đều chờ đợi quân Đồng minh tới tước khí giới quân Nhật.
Thái độ họ sẽ ra sao? Họ sẽ làm gì và ở lại bao lâu? Họ có can thiệp vào nội bộ của Việt
nam không? Trước những câu hỏi ấy, mỗi phe phái đều có dự đoán và ước vọng riêng
của mình. Ai cũng hy vọng rằng Đồng minh sẽ giữ lời hứa, sẽ tôn trọng nền độc lập của
các dân tộc bị trị, và sẽ giúp đỡ chúng ta thực hiện độc lập tự do.
Tại miền Bắc, có vẻ lạc quan hơn vì quân Trung Hoa tuyên bố không có tham vọng gì vềlãnh thổ cả. Nhưng, cùng lúc, họ lại là Đồng minh của Pháp. Họ sẽ có thái độ thế nào nếu
quân Pháp lại đổ bộ lên Đông dương? Quân Anh sẽ vào miền Nam. Anh và Pháp cùng là
đế quốc kỳ cựu, cùng là Đồng minh. Việc quân Anh sẽ hỗ trợ Pháp tái chiếm Việt nam
chắc chắn sẽ xẩy ra.
Cả Hà Nội đương xôn xao về tin tổ đại biểu Đồng minh đầu tiên sẽ nhẩy dù xuống. Tổ
này là tổ người Mỹ, đại diện cho Đồng minh. Tin này ít nhiều cũng làm phấn khởi phe
quốc gia, dù có tin phao ra trước đây là Việt minh được sự trợ giúp của Hoa Kỳ tại chiến
khu.
Hai hôm sau, đương ngồi tại toà soạn, ở dưới toà trị sự lên báo cho tôi là có một người
Pháp muốn gặp. Điều này hơi ngạc nhiên đối với chúng tôi. Một người Pháp đến tìm vì lẽ
gì? Người này trạc hơn 40 tuổi, tự xưng là thuộc đảng Xã hội Pháp, chi nhánh Đông
dương. Ông nói:
- Tôi có một bức thư của anh ông, ông Nguyễn Tường Tam, từ Côn Minh đưa về, do đại
úy Patterson nhờ chúng tôi chuyển cho ông.
Thư của anh Tam? Nhìn vào mấy chữ trên phong bì, không thể lầm được.
- Đại úy muốn gặp ông để nói truyện.
95 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Tôi cám ơn ông ta. Nội dung bức thư đại ý nói quân đội Trung Hoa sắp tiến vào Bắc Việt
và nhiều anh em sẽ cùng đi về nước. Bên trong cần chuẩn bị để đón tiếp. Vì còn bận mấy
việc quan trọng, anh Tam cần ở lại Côn Minh một thời gian, rồi sẽ về sau.
Tại một toà nhà rộng, hai tầng ở phố hàng Trống, mặt trông ra hồ Hoàn Kiếm, tôi gặp
ông Patterson, một người còn trẻ, hoà nhã, vui tính, nói tiếng Pháp rất thạo. Chúng tôi
ngồi nói chuyện, trong khi dưới đường, có nhiều toán mang cờ đỏ, hô khẩu hiệu đương
đi diễu qua. Không biết là tình cờ, hay hữu ý để biểu dương lực lượng dân chúng ủng hộ
cho đại biểu Đồng minh xem. Patterson nói anh Tam vẫn khỏe mạnh, và quân Đồng minh
sẽ giúp đỡ cho Việt nam được độc lập, nhưng nhiệm vụ của toán ông chỉ là liên lạc và
xếp đặt việc thu khí giới của Nhật, cùng xem tình hình chung ra sao. Những việc khác sẽ
do quân Trung Hoa và quân Anh xử lý. Tạm thời, Đồng minh chưa có ý công nhận chính
phủ nào ở Đông dương, kể cả chính phủ Hồ Chí Minh.
Cuối cùng, ông đưa tôi ra cửa sổ, trỏ tay xuống đường, mói một cách thâm trầm bằng
tiếng Pháp: Tout est rouge. (Cái gì cũng đỏ cả). Chúng tôi nhìn nhau. Không cần nói năng
gì. Để đối phó với tình thế, quốc dân đảng mở cuộc hội họp lâm thời cấp Trung ương. Do
tình hình đặc biệt, chỉ có một số người đến họp, trong đó có anh Trương Tử Anh, Phan
Trâm Nguyễn Tiến Hỷ, anh Chu Bá Phượng, Nguyễn Văn Chấn (Chấn đen), Hoàng Đạo,
Xuân Tùng và tôi. Trong cuộc họp, việc chính là bàn về vấn đề có nên hợp tác với Việt
minh hay không, vì Tổng Bộ Việt minh có ngỏ ý muốn gặp gỡ để thảo luận về việc cộng
tác chống Pháp tái xâm lăng. Lúc đó do quân Anh giúp đỡ, toán quân Pháp do Cédille chỉ
huy cùng đổ bộ lên Sài Gòn đã bắt đầu hành động, với cái gọi là khôi phục lại trật tự hạn
chế mọi hành động của người Việt và chuẩn bị tước khí giới của các nhóm tự vệ.
Nguy cơ Pháp tái xâm lăng đã rõ ràng. Một thiểu số anh em tán thành đoàn kết dân tộc,
cộng tác với Việt minh để chống Pháp trước đã, nhưng đa số e ngại nếu hợp tác thì kết
quả chỉ có thề là đầu hàng hay sẽ bị tiêu diệt vì thế mình quá yếu. Cuối cùng, đi tới một
kết luận tạm thời là trên mặt giữ liên lạc với Việt minh, tiếp tục hoạt động bí mật, chờ
Đồng minh tới và các anh em ở hải ngoại về sẽ ra hoạt động công khai. Hội nghị không
đưa ra một chương trình hành động cụ thể và thực tế, để tăng cường nội bộ hay gây ảnh
hưởng trong quần chúng.
Lúc đó, vấn đề nội bộ, theo chỗ tôi thấy, rất quan trọng song không được chú ý, đó là
việc làm sao có một cương lĩnh chính trị thống nhất. Mặc dầu một số người lãnh đạo trong
Việt nam quốc dân đảng, Đại việt quốc dân đảng và Đại việt dân chính đã đồng ý hợp
nhất dưới danh xưng Quốc Dân đảng, nhưng điều này không được truyền đạt tới các cấp
đảng viên. Cho nên, đảng viên Việt nam quốc dân đảng đa số vẫn tin vào chủ nghĩa Tam
Dân của Tôn Dật Tiên, đảng viên Đại việt vào chủ nghĩa Dân Tộc sinh tồn do anh Trương
Tử Anh đề xướng, còn anh em Đại việt dân chính thì đa số tin ở một thứ dân chủ xã hội
không độc tài. Tuy vậy, tất cả đều đứng dưới một ngọn cờ quốc gia, không chấp nhận
độc tài cộng sản. Nhưng yếu tố thất bại đã nẩy mầm, từ chỗ thiếu cương lĩnh chính trị
thống nhất để hiệu triệu và tổ chức quần chúng, lại thiếu chương trình thực tế để đương
đầu với Việt minh đương lợi dụng chiêu bài kháng chiến, thiếu sự kiên quyết gia cường
96 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
lực lượng của mình mà quá ỷ lại vào người ngoài, không nhìn rõ được bản chất của các
nước Đồng minh dù sao cũng vì lợi ích bản thân của họ trước hết. Riêng về các đảng viên
Đại việt dân chính cũ, tôi thấy có một điều đáng buồn là số còn hoạt động Việt nam quốc
dân đảng rất ít, một phần nằm im, một phần đã chạy sang với Việt minh, có người đã
tham gia vào nội các Hồ Chí Minh.
Về mặt công khai, tờ Ngày Nay đã đình bản, Hoàng Đạo, tôi và Khái Hưng thương lượng
ra một tờ báo hàng ngày. Lần này cử anh Nguyễn Trọng Trạc làm giám đốc, Khái Hưng
và tôi phụ trách biên soạn. Mục đích là duy trì một cơ cấu ngôn luận của mình, nhưng
dưới bề mặt trung dung, chỉ đăng tin tức và hô hào bảo vệ độc lập, tự do.
Quân Anh tới Sài Gòn rất nhanh, nhưng quân Trung Hoa ở ngay bên cạnh lại rất chậm
chạp... người ta không hiểu. Giữa những tay quân phiệt Trung quốc thường có nhiều âm
mưu qủy kế. Tưởng Giới Thạch muốn nhân cơ hội này điệu quân Vân Nam sang Việt nam
rồi sau đó điệu đi Đông Bắc chống quân Trung Cộng, quân đội Nam Kinh thừa cơ khống
chế Vân Nam. Song, nghe nói Long Vân làm phản, nên trước hết phải giải quyết Long
Vân. Vì thế, mãi tới gần tháng 10, quân Lư Hán mới qua đường Lào Cai, Hà Giang nhập
Việt, đồng thời quân của Trương Phát Khuê từ Đệ Tứ chiến khu Quảng Tây tiến tới Lạng
Sơn.
Thú thực, ấn tượng của tôi đối với quân đội Trung Hoa không lấy gì làm tốt đẹp lắm. Ngẫu
nhiên, trên con đường Gambetta, tôi gặp một đạo quân Hoa từ ga Hàng Cỏ tiến tới. Tuy
cũng khá đông, song không kèn không trống, đội ngũ kém chỉnh tề, kém oai phong, quần
áo xốc xếch. Vũ khí mang theo chỉ có súng trường và ít súng máy. Không có xe cơ giới
lớn nào. Chỉ có mấy xe Jeep của mấy ông tướng. Sau rốt, là bộ phận cấp dưỡng với gồng
gánh, nồi niêu trông càng luộm thuộm. Người Việt đứng xem với con mắt hoài nghi. Song,
nhiều khi sẽ lầm nếu chỉ nhìn bề ngoài. Có những đội quân đánh du kích, tác chiến rất
cừ. Như tại mấy tháng sau, khi có vụ chạm trán với quân Pháp tại Hà Nội, đội quân Cảnh
Bị đã lanh lẹn chiếm những vị trí cần thiết trên mái nhà, sau gốc cây, và uy hiếp quân
Pháp có xe thiết giáp trợ lực phải rút lui có trật tự.
Quân đội Trung Hoa tiến vào Việt nam với nhiệm vụ là tiếp thu khí giới của Nhật, giữ gìn
trật tự không để xẩy ra hỗn loạn, nhưng không can thiệp trực tiếp vào nội bộ Việt nam.
Họ đứng trước vấn đề đối xử với Chính phủ Hồ Chí Minh như một thực thể hiện hữu. Mặc
dầu không công nhận nó, họ cũng không thể giải tán nó nếu không có hỗn loạn xẩy ra
uy hiếp đến trật tự
Một mặt, vấn đề Đông dương tất nhiên phảỉ có ảnh hưởng của Pháp, vốn vẫn tuyên bố là
có chủ quyền. Dù trên bề mặt, Trung quốc không thể không tuyên bố ủng hộ nền độc
lập, tự trị của các thuộc địa cũ, nhưng cùng là Đồng minh, chầc chắn đã có Hiệp Định
ngầm với Pháp về vận mệnh Đông dương, tuy rằng họ không muốn Pháp toàn quyền
thống trị như trước kia. Nam Kinh thừa biết chính phủ Hồ Chí Minh thực chất là cộng sản.
Hồ Chí Minh, tức Nguyễn ái Quốc là một thành viên trong Quốc tế cộng sản, đã từng hoạt
động tại Trưng Quốc nhiều lần. Nhưng họ cần đến chính phủ sẵn có này để cung cấp
lương thực và vật liệu cần thiết, rồi mau chóng rút về, đưa quân lên Đông Bắc.
97 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Bài học quan trọng lúc này là các đảng phái quốc gia người Việt đã không ý thức rõ rệt
về tính chất phức tạp của tình hình quốc nội và quốc tế, nên đã không có một đối sách
hữu hiệu, và lâm vào cảnh bị động.
Cần công nhận rằng sách lược của Việt minh tỏ ra mềm dẻo và khôn khéo, dùng đủ mọi
cách để lách được con thuyền vượt qua thác ghềnh liên tiếp đổ tới.
Ngày nay, nghĩ lại những bài học ấy vẫn còn thấm thía. Một chính đảng hay một con
người, nếu chỉ biết chủ quan, tự đại, không nghiêm khắc với mình, không biết tự kiểm
thảo, cùng chỉ cho mọi lời phê bình là nói xấu mình, thì nhất định sẽ lạc hậu và thất bại
mãi mãi.
CHƯƠNG 24 - NHỮNG NHÂN VẬT HẢI NGOẠI VỀ NƯỚC: NGUYỄN
HẢI THẦN, VŨ HỒNG KHANH CÔNG KHAI CHỐNG VIỆT MINH
Những ngày đầu tháng mười năm 1945, một sự kiện đặc biệt làm người Hà Nội chú ý.
Tại một toà nhà góc đường Quan Thánh và phố hàng Bún, xế cửa tòa báo Ngày Nay trước
đây một cái loa lớn ngày nào cũng ra rả lớn tiếng hô hào độc lập tự do dân chủ, chỉ trích
chính sách độc tôn của chính phủ Hồ Chí Minh. Nó hấp dẫn được một số có khi rất đông
đứng trên hè nghe, đa số là công chức, trí thức, giới trung lưu hay những kẻ hiếu kỳ.
Toà nhà đó lại có những vệ binh mặc quần áo màu đen, trong đó có cả nữ binh lạ mắt.
Đó là trụ sở của Việt nam cách mệnh đồng minh hội - gọi tắt là Việt cách - một tổ chức
do người Việt lưu vong thành lập tại Quảng Tây, nay đã trở về nước hoạt động, sau khi
bôn ba nơi hải ngoại đã nhiều năm trời.
Việt cách lúc thành lập, bao gồm rất nhiều đảng phái và nhân sĩ, trong đó có cả Hồ Chí
Minh. Nhưng sau đó, Hồ Chí Minh đã mang một số cán bộ và tiền, lãnh sứ mạng của Hội
để về nước hoạt động. Hồ và đảng cộng sản đã hoạt động riêng rẽ, lập ra Việt nam Độc
lập đồng minh hội (gọi tắt Việt minh) -thực ra cái tên này đã sẵn có từ trước.
Chủ tịch Việt cách là cụ Nguyễn Hải Thần, với một số cán bộ như Tạ Nguyên Hối, Bồ Xuân
Luật, lại có Nhượng Tống, Nguyễn Triệu Luật gia nhập góp sức. Về mặt quân sự, có đạo
quân Vũ Kim Thành, nhưng đóng ở miền Quảng Yên và Hải Ninh.
Ngoài ra, các anh em Phục Quốc cũng gia nhập Việt cách. Trên danh nghĩa, Việt nam
quốc dân đảng cũng là một thành viên của Việt cách, song trên thực tế quốc dân đảng là
một phái lớn mạnh nhất, vẫn có hoạt động riêng của mlnh. Trong một buổi họp nội bộ,
lần đầu tiên tôi được gặp cụ Nguyễn Hải Thần, một nhà cách mạng lão thành đã lưu vong
ở hải ngoại gần 40 năm, đã từng làm giáo viên tại trường võ bị Hoàng Phố ở Quảng Châu,
một trường đã đào tạo ra nhiều nhân vật cách mạng Trung quốc.
Cụ đã già, mắt đeokính, trông dáng mặt thì biết là một người đã từng trải, chịu nhiều phong sương. Là một hậu sinh trong số các anh em Việt Quốc, Phục Quốc, và cả Đại việt Quốc xã, tôi cố ý quan
sát nhà lãnh đạo có tiếng này. Trong khi bàn luận vấn đề thời cuộc, thú thực tôi cảm thấy\
98 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
bối rối, và hơi thất vọng, vì cụ nói tiếng khó nghe hiểu và chậm chạp, và không được
nghe cụ đưa ra những nhận xét hay phân tích sâu sắc hay đề ra một đường lối hành động
có kế hoạch để hướng dẫn mọi người.
Lúc đó, chúng tôi cần nhất là được hiểu rõ thêm về tình thế quốc tế liên quan tới Việt
nam, và một sách lược đối nội, đối ngoại sao cho thích ứng với hoàn cảnh khó khăn của
phe quốc gia đứng trước sự đe dọa lớn lao của cả hai phe Việt minh và Pháp. Tuy cụ
không phải là một chiến lược gia giỏi, nhưng cụ có lập trường vững và khí tiết trong việc
phê bình những sai lầm của cộng sản.
Trong lúc này, tại toà báo, tự nhiên một hôm có một vị khách không ngờ: Xuân Diệu. Đã
lâu không gặp, trông anh ta đã già hơn trước, nhưng bộ tóc vẫn còn để bồng bềnh.
- Sao hôm nay rồng đến nhà tôm vậy?- Tôi vừa cười vừa hỏi.
- Các anh mới là rồng chứ! - Xuân Diệu trả lời, vừa nhìn vào bản bài báo maquette - Làm
báo thì phải học các anh thôi!
Truyện trò bâng quơ một lát, Xuân Diệu cáo từ. Chúng tôi hỏi qua về Huy Cận, thì anh
lắc đầu bảo Huy Cận bận nhiều công tác quá tuy chỉ giữ chức Bộ trưởng không có bộ.
Không biết Xuân Diệu có mục đích gì khác không. Song một tuần sau, một số người cầm
đầu bên Việt minh có mời anh em bên này đến dự tiệc trà đoàn kết cùng một số nhân
vật trí thức trong xã hội. Tiệc này, vì có việc bận cần đi xa nên tôi không đến đự được,
nghe nói, mấy vị bên Việt minh tỏ ý rất lấy làm tiếc, trong đó có cả Võ Nguyên Giáp.
Các anh em quốc dân đảng đã đặt một trụ sở ở trường Tiểu Học Đỗ Hữu Vị -trước là một
nơi đóng binh của Nhật- cách nhà chúng tôi ở một ngõ hẹp. Thực là tiện để hoạt động.
Tuy có trụ sở nhưng chỉ có các đảng viên Việt nam quốc dân đảng (kể cả chúng tôi đã
gia nhập) ra vào, với mấy anh Trung ương như Chu Bá Phượng, Nguyễn Văn Chấn,
Nguyễn Xuân Tùng, Phạm Văn Hể, Hoàng Đạo và tôi. Trong trường, độ ba chục anh em
làm việc, và có một toán vệ sĩ mang súng trường cùng súng ngắn. Toán vệ sĩ này còn
bảo vệ cả toà báo, nhất là về sau này, tờ báo Việt nam Thời Báo đã bị đảo chính thành
tờ Việt nam, cơ quan ngôn luận của Việt nam quốc dân đảng.
Tới chỗ này, cần phải nói rõ mấy điểm. Tuy trên từng lớp Trung ương, đại diện ba đảng
VQ, Đại việt quốc dân đảng và Đại việt dân chính đã đồng ý tại quốc nội lấy danh xưng
chung là quốc dân đảng, nhưng các anh em Đại việt quốc dân đảng từ anh Trương Tử
Anh trở đi vẫn chưa ra công khai ở Hà Nội, và rất ít khi tới trụ sở Đỗ Hữu Vị. Nếu cần họp
chung thì tìm địa điểm khác bí mật hơn.
Tờ bấo Việt nam cũng lấy danh nghĩa là cơ quan của Việt nam quốc dân đảng. Các đảng
bộ địa phương cũng lấy danh nghĩa Việt Quốc, song trong sinh hoạt, các thành phần vẫn
lấy danh xưng riêng.
Giữa tháng mười năm 46, anh Vũ Hồng Khanh cùng một số cán bộ mới trở về tới Hà Nội.
Sở dĩ chậm trễ là vì khi tới Lào Cai, anh em bị quân Trung Hoa, nhận một số vàng hối lộ
của Việt minh, làm khó dễ, bị trở ngại tới một tháng. Việc về tới Hà Nội của nhóm cán bộ
hải ngoại làm tăng sự phấn khởi và lòng tin tưởng của anh em trong nước. Trên đường
về, anh em đã giành được từ trong tay Việt minh mấy địa điểm để làm căn cứ như Lào
99 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Cai, Yên Bái, Việt Trì, đặt cơ sở cho Đệ Tam Chiến Khu sau này từ Vĩnh Yên lên tới Hà
Giang, dưới sự hỗ trợ của quân đội Trung Hoa.
Ngày đó, hai anh Tam và Nghiêm Kế Tổ vẫn chưa về được. Tại trụ sở, đặt một bữa tiệc
nhỏ để đón mừng anh Vũ và các anh em mới. Được nghe nói tới anh Vũ đã lâu, bây giờ
mới được gặp, Vũ Hồng Khanh, tức Giáo Giản, một chiến hữu cạnh liệt sĩ Nguyễn Thái
Học, để phải lánh ra ngoài nước đúng mười lăm năm. Mười lăm năm gian truân, vật lộn,
đã từng bị tù tội ngay tại Vân Nam, nhưng vẫn kiên trì chiến đấu và duy trì được đảng bộ
hải ngoại, không có nghị lực phi thường thì không làm nổi. Do anh Chu Bá Phượng giới
thiệu, chúng tôi xiết chặt tay nhau. Người anh không cao, nhưng thân hình chắc nịch, đôi
mắt hơi nhỏ song đầy vẻ rắn giỏi, tỏ ra là một người đã từng trải nhiều. Tôi cảm thấy anh
là một người gan dạ, bình tĩnh. Hai hàng anh em trẻ ở ngoài về, mặc quân phục gọn ghẽ,
đeo súng tay, diễu qua trước mặt chúng tôi. Rồi đồng thanh hát bài đảng ca trước bàn
thờ Tổ Quốc nến hương nghi ngút. Tôi cảm thấy xúc động, nhưng đồng thời lại lo âu vì
lực lượng còn quá nhỏ yếu, kể cả ở Hà Nội và ở những địa phương đã ra hoạt động công
khai.
Mọi người mời anh Vũ phát biểu ý kiến. Tôi đợi anh phun châu nhả ngọc, nói ra những
điều cao siêu, nhưng anh chỉ nói rất ngắn gọn mấy điều chung chung. Về sau, chúng tôi
cũng rõ rằng về lý luận và nghiên cứu các vấn đề sách lược, anh cũng không đi sâu lắm,
ngoài phạm vi của chủ nghĩa Tam Dân. Phải công nhận đây là sự thiếu sót chung của các
phái quốc gia. Do số anh em phát triển, Việt Quốc lấy thêm Khu Ngũ Xã bên bờ hồ Trúc
Bạch để làm chỗ trú ngụ và huấn luyện cho cán bộ.
Việc ra công khai của đảng tại Hà Nội và nhiều tỉnh đòi hỏi tăng cường công tác tuyên
truyền. Ngoài việc truyền thanh và rải truyền đợn ra, cần phải có một tờ báo để phổ biến
cương lĩnh chính trị và đường lối của đảng, cùng mọi tin tức về hoạt động các nơi. Đứng
trước nhu cầu, sau khi bàn luận với anh Hoàng Đạo, tôi và Khái Hưng liền thực hành ngay
một hành động rất cách mạng: đổi ngay tờ Việt nam Thời Báo sang tờ Việt nam, cơ quan
ngôn luận của Việt nam quốc dân đảng mà không báo trước cho ông chủ nhiệm là Nguyễn
Trọng Trạc biết, vì sợ nếu Trạc phản đối sẽ kéo dài thời giờ.
Để bảo đảm cho tờ báo phát hành đều đặn, chúng tôi thực hành việc quản chế toà báo
và nhà in, bằng cách đặt vệ binh gác cổng, không ai được ra ngoài nếu không có giấy
phép. Thực là một tờ báo cách mạng đầu tiên của phe quốc gia, lại có binh gác.
Lẽ tất nhiên anh Trạc kháng nghị nghiêm trọng, và đòi bồi thường thiệt hại, do số vốn
anh đã bỏ ra, nhưng tất cả đều biết kháng nghị lấy lệ, vì trong tay anh còn số tiền chục
ngàn của nhà đại lý đặt báo trước đây.
Trung ương đặt tôi làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo, vó nhiệm vụ giữ vững đường lối
đấu tranh: bảo vệ độc lập, tự do, dân chủ, liên kết với các nước dân chủ, phê bình chính
sách sai lầm của chính phủ, Việt nam theo con đường cộng sản nhất định sẽ bị cô lập và
có nguy cơ đế quốc Pháp trở lại thống trị.
Đương nhiên, trái với quy định của Việt minh, chúng tôi ra báo không cần xin phép ai
cả... Dù hai bên có đấu khẩu kịch liệt, chính phủ HCM cũng không thể ra lệnh cấm, vì vô
100 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
ích. Họ bèn dùng một phương pháp bất lịch sự và nhỏ mọn là chuyên tịch thu báo của
những đứa trẻ bán báo. Vì có nhiều người hiếu kỳ nên báo Việt nam cũng khá chạy, nên
luôn luôn xẩy ra xung đột giữa trẻ bán báo với cảnh sát hay những tay khủng bố.
Thực là một cảnh hiếm có trong đời làm báo của chúng tôi. Làm báo Việt nam, quả là
một cuộc đấu chọi rất găng hàng ngày. Luôn luôn phải tìm ra những vấn đề gay go, phải
công kích những luận điệu xuyên tạc của tờ Cờ Giải Phóng hay tờ Độc lập.
Toà báo hầu như trở thành một thành trì. Về ăn uống thì mọi nhân viên đều phải ăn lối
cách mạng, toàn là rau với chút ít thịt cá, đậu phụ... trừ công nhân nhà in có thể tự do
ăn uống do người nhà mang tới.
Có điều dù khắt khe như vậy hẳu hết đều tỏ ra nguyện ý ở lại làm việc. Chỉ có một người
thừa cơ nhẩy qua hàng rào chạy đi.
Vì gần như bị giam lỏng ở đây, chẳng bao lâu ai nấy đầu tóc, râu ria đều mọc dài ra gắn
như Robinson Crusoe trong tiểu thuyết. Có lần về đến nhà, người nhà không nhận được
ra là ai, và gọi ngay thợ húi tóc đến cắt tóc, cạo mặt cho nó sáng sủa một chút. Vì ít ngủ
quá, nên tôi lăn ra giường làm một giấc no mãi tới trưa mới dậy.
Trông anh Khái Hưng gầy nhom, bây giờ lại càng gầy, đôi má hóp lại, nhưng anh có tài
chịu đựng, viết lách và sửa bài in đêm nào cũng tới rất khuya. Thỉnh thoảng, chúng tôi
tạm ngừng vài tiếng, làm cốc càphê đen đặc và một ván cờ tướng. Chúng tôi làm báo
khẩn trương như vậy, trong một hoàn cảnh khủng bố bất ổn đặc biệt của thành phố Hà
Nội thời bấy giờ. Đã có một số anh em phái quốc gia bị bắt cóc, hay đột nhiên mất tích.
Thỉnh thoảng lại nghe có tiếng súng nổ ở xa. Nhưng chắc bên Việt minh cũng chịu cảm
giác khủng bố không kém, vì quân Trung Hoa đã kéo đến nhiều, chia nhau chiếm các vị
trí chủ chốt. Đồng thời, hoạt động của phe quốc gia cũng càng ngày càng nổi lên bề mặt.
Việt minh tuy muốn trừ khử ngay nhưng chưa thể làm được.
CHƯƠNG 25 - GIA ĐÌNH
Công việc bận rộn và gay cấn khiến cho chúng tôi không còn thì giờ để nghĩ tới gia đình.
Liên vẫn đi dạy học ở trường Trung Hoa. Gia đình anh chị Cả vẫn sống bình yên. Chị Tam
vẫn buôn cau. Chị Sáu (Thạch Lam) thì về ở trại Cẩm Giàng cùng với mẹ chồng, nhưng
sau, thấy không ổn, mẹ tôi phải lánh vào một ngôi chùa ở, chúng tôi cũng không rõ là ở
đâu.
Có khi ngồi nghĩ tới tình thế mọi người trong gia đình, tôi cảm thấy lo ngại. Vì thế nào
Việt minh cũng sẽ làm khó dễ, mặc dầu chỉ là đàn bà, con trẻ. Nhất là tại các địa phương,
có những tên lưu manh hay cực đoan, cái gì chúng cũng có thể hạ thủ được. Mẹ tôi và
các chị sống trong sợ hãi, phải ẩn nấp, trốn tránh, nay đây mai đó, tuy rằng hoàn toàn
không có liên quan gì đến công việc của chúng tôi.
101 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Là những người thanh niên yêu nước, chúng tôi chỉ nghĩ tới làm sao cho dân tộc được độc
lập, người dân được sinh sống trong tự do và góp sức vào việc tự tay mình xây dựng một
đất nước hoà bình, giàu mạnh. Tôi không ngờ được rằng, vừa mới thoát khỏi ách đế quốc
Pháp, Nhật lại rơi vào ngay cảnh cùng là đồng bào mà đã thành đối địch với nhau.
Đa số dân chúng hồi đó không có hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa cộng sản, họ chỉ biết
nay đã có một chính phủ cộng hoà trong độc lập và chính phủ đó tuyên bố chống Pháp
bảo vệ độc lập, không theo chính phủ này thì theo ai? Nhiều nhà trí thức tham dự vào
chính phủ Hồ Chí Minh cũng nghĩ như vậy, họ không phải là đi theo chủ nghĩa Mác, Lê.
Có người tán thành chống tư bản bóc lột, giải phóng công nông, tiến tới một xã hội bình
đẳng. Người ta chưa hiểu thấu gì về cái gọi là chuyên chính vô sản, cũng chưa hiểu thấu
thế nào là dân chủ thực sự. Cho nên, đại đa số dân chúng ủng hộ Việt minh và cho các
phe quốc gia là muốn tranh giành quyền vị, cũng là tự nhiên. Huống hồ, nắm chính quyền
trong tay, Việt minh vận dụng bộ máy tuyên truyền chỗ nào cũng vu cáo phe quốc gia là
thân Nhật, phản động, phá hoại an ninh, theo gót ngoại quốc... Việc hoạt động của các
đảng phái quốc gia trong tình hình nguy hiểm khó khăn như thế khó mà phát triển thuận
lợi. Quân Trung Hoa chỉ đóng ở một số nơi cần thiết, và sự giúp đỡ của họ cũng chỉ có
hạn.
Những viên tướng Trung Hoa, theo lệnh của Nam Kinh, đứng ra hô hào các phe phái Việt
nam đoàn kết hợp tác để thành lập một chính quyền thống nhất, có đủ danh nghĩa đối
nội cũng như đối quốc tế và tạo nên một hoàn cảnh ổn định có lợi cho nhiệm vụ tiếp quản
của họ. Họ chỉ có thể che chở cho phe quốc gia khỏi bị Việt minh thẳng tay đàn áp, nhưng,
nếu như một số người mong muốn không thực tế lắm - mong họ dẹp được chính quyền
Việt minh và đưa phe quốc gia lên cầm quyền thì không đúng với chủ trương của họ và
cũng là một lối mong mỏi quá ỷ lại vào ngoại bang.
Người đứng ra dàn xếp là tướng Tiêu Văn, chủ nhiệm bộ chính trị của quân đoàn Đệ Tứ
Chiến Khu do TrươngPhát Khuê làm tư lệnh. Ông này là một nhân vật quen thuộc với
các nhà cách mạng người Việt hải ngoại, và đã từng tham dự vào làm cố vấn cho Việt
nam Cách Mạng đồng minh hội ngay lúc bắt đầu thành lập tại Liễu Châu. Kể cả từ Nguyễn
Hải Thần, Trương Bội Công cho tới Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Nguyễn Tường Tam,
và Hồ Chí Minh.
Dù muốn hay không, các lãnh tụ người Việt cũng phải tham dự những cuộc đàm phán.
Theo chỉ thị, trên tờ Việt nam cũng nhấn mạnh tới sự cần thiết của sự đoàn kết tất cả các
đảng phái để nhất trí chống Pháp, bảo vệ độc lập. Đứng trên lập trường đoàn kết kháng
chiến. Vì lúc đó, quân Pháp với sự giúp đỡ của quân Anh, đã chiếm đóng hầu hết những
thành phố quan trọng tại miền Nam và cũng đã tiến vào miền Nam Trung kỳ. Những
nhóm võ trang, gồm cả của Việt minh hay những phái quốc gia, đều phải rút lui về hậu
phương.
Không phải là phe quốc gia không chú ý tới vấn đề nếu chịu ngồi thảo luận hợp tác với
Việt minh, thì sẽ có lợi cho cộng sản, giúp cho chính phủ Hồ Chí Minh có danh nghĩa chính
thức hơn. Nhưng một là lực lượng của mình so với Việt minh còn quá yếu kém, quân đội
102 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
quá ít và vũ khí thiếu thốn, tổ chức ở các địa phương còn rời rạc, không phải là lúc ra
mặt quyết liệt được, hai là áp lực của quân đội Trung Hoa rất mạnh, nên mọi người đồng
ý cần đàm phán với Việt minh để tỏ thiện chí đoàn kết dân tộc trước quốc dân, và tranh
thủ một thời gian hoà hoãn để tăng cường nội bộ nhất là tãng cường lực lượng võ trang,
với mục đích có thể chống cự với Việt minh một khi quân Tưởng rút lui...
Có những người nghĩ rằng lúc đó phe quốc gia phải chống đối Việt minh đến cùng vì mình
có đủ lực lượng và có quân Tưởng ủng hộ, điều đó chỉ là mong mỏi chủ quan và không
thực tế. Vả lại, quân dân tại miền Nam sự thực đương kháng chiến và hy sinh, nếu không
tán thành đoàn kết dân tộc tất nhiên sẽ bị quốc dân chỉ trích hay hoài nghi, và các anh
em ở các địa phương tất sẽ bị Việt minh lấy cớ để khủng bố mạnh. Một điều thiếu sót rõ
rệt trong sách lược quốc dân đảng hồi đó là đã không chú ý tới đẩy mạnh phong trào tự
động chống Pháp tại miền Nam.
Tại đây có nhiều nhóm dân quân không chiụ sự chỉ huy
của Việt minh, trong đó Đệ Tam Sư Đoàn, do một đảng viên Việt nam quốc dân đảng -
Nguyễn Hoà Hiệp chỉ huy, là một lực lượng đáng kể, và đã đối chọi trong nhiều trận đối
quân Pháp. Những nhóm kháng chiến đó, vì thiếu lãnh đạo đúng mức và thiếu cộng tác
trong hành động, nên đã suy yếu dần giữa sức ép của Pháp và của cộng sản. Đồng thời,
đã không được các nhà lãnh đạo tại miền Bắc giúp đỡ tối thiểu về đường lối chính trị,
sách lược cần thiết đối với thời cục phức tạp. Nếu có đường lối, sách lược đúng đắn để
kết hợp thành một khối mạnh -mạnh hơn lực lượng quốc gia tại ngoài Bắc, vì số quân đội
theo tài liệu hồi đó, có thể đạt tới 20.000-30.000 người- thì cả Việt minh lẫn Pháp đã
không hoành hành được như hồi ấy.
Những cuộc đàm phán tay ba bắt đầu. Những đại biểu chủ yếu bên phe quốc gia là
Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Long, Chu Bá Phượng. Không có anh
em Đại việt tham gia, vì theo nguyên tắc chỉ có anh em Việt nam quốc dân đảng mới
hoạt động bề nổi mà thôi.
Tôi được cử làm một đại biểu trong hội nghị liên tịch các đẫng phái, gồm có đại diện của
Tổng bộ Việt minh (người cộng sản), đảng Dân chủ (Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hoè, Đỗ
Đức Dục..). Việt nam Cách Mạng đồng minh hội (Nguyễn Hải Thần, Tạ Quang Hối, Bồ
Xuân Luật) Việt nam quốc dân đảng (Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Long, Chu Bá
Phượng, Nguyễn Tường Bách) -lúc đó anh Tam và anh Nghiêm Kế Tổ chưa về tới Hà Nội
- Đại diện trung lập có Huỳnh Thúc Kháng, Phan Anh. Trừ Hồ Chí Minh ra, những đại diện
thường gặp là Phạm Văn Đồng, Trần Văn Giàu, Võ Nguyên Giáp...
Đầu tháng 11 năm 1945, người ta bỗng thấy một thông cáo trên mặt báo, nghe cũng
giật gân: Đảng cộng sản Đông dương tự giải tán, lại thêm một đầu đề nhỏ nữa là Hội
nghiên cứu chủ nghĩa Mác được thành lập. Nhưng cái trò này không lường gạt được ai tại
trong nước cũng như trên quốc tế. Được tin, chúng tôi chỉ nhìn nhau, mỉm cười, Hôm sau,
một bài bình luận, trào phúng và một bức tranh khôi hài xuất hiện trên tờ Việt nam.
Tất nhiên, phe bên kia cũng không chịu kém. Trên tờ Độc lập, một bức tranh hí họa vẽ
mấy người nhô con đứng đằng sau một anh lính Trung Hoa, với cái tít: Cách mạng chân
chính!
103 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Cuộc đấu khẩu trên mặt báo càng ngày càng kịch liệt trong lúc các cuộc đàm phán vẫn
kéo dài. Báo Việt nam kết án Việt minh là phát xít với hình ảnh thập tự quốc xã chồng
lên ngôi sao vàng.
Nhưng, các cuộc đàm phán cũng có những phút đặc biệt. Một là những phút tranh luận
gay cấn và hai, những bữa tiệc thịnh soạn.
Dự những bữa tiệc không những được ăn ngon, mà còn được hàn huyên với những tướng
tá Trung Quóc. Tiêu Văn khổ người hơi thấp và mập, đôi mắt khá tinh nhanh và nói truyện
rất hùng hồn -mặc dầu chúng tôi không nghe hiểu tiếng Tàu. Còn tướng Diệp, viên phó
tư lệnh của đạo quân 52 hay 53 gì đó, thì điềm đạm, ít nói hơn.
Một lần, theo lối quen huấn thị một viên tướng đứng dậy diễn thuyết. Ông cứ nhắc đi
nhắc lại (có người làm thông dịch viên) mãi làm cách mạng rất khó khăn, gian khổ, phải
đổ máu mới thành công giống như đàn bà đẻ con phải đau đớn, phải đổ máu mới sinh ra
được. Điều này quá sáo, chúng tôi từng nghe đã nhiều, nên ông nói thì cứ nói, chúng tôi
vẫn không quên gắp đồ ăn lia lịa, tuy hơi bất lịch sự song nhìn chung quanh hầu hết ai
cũng làm như mình.
\
Đại diện Việt minh - tôi không nhớ là ai, thường phát biểu hô hâo đoàn kết dưới sự lãnh
đạo của chính phủ kháng chiến và phê bình có những người gây trở ngại cho sự đoàn kết.
Một lần, vì hơi nóng mặt trưởc những lời khiêu khích đó, tôi nói thẳng là nếu muốn đoàn
kết thực thì trước hết Việt minh phải đình chỉ mọi sự khủng bố, đàn áp tại các địa phương,
và phê bình chính sách chia rẽ ở miền Nam đã đưa tới chỗ quân Pháp xâm chiếm mau
chóng.
Rút cục, cuối tháng 11, hai bên đồng ý cho ra một bản tuyên cáo chung với nhan đề Tinh
Thành Đoàn Kết, đại ý nói các đảng phái, các tầng lớp nhân dân đều chân thành đoàn
kết hợp tác để giữ vững độc lập tự do với sự bảo trợ của Đồng minh.
Bản tuyên cáo này được đăng lên tất cả các báo hồi đó. Xin thú thực, độ ấy trình độ Hán
văn của tôi rất kém, nên vắt óc cũng không hiểu ý nghĩa hai chữ tinh thành là thế nào?
Anh Gia Trí bình phẩm:
- Đoàn kết thì là tốt, nhưng sao lại phải tinh thành sao không nói nôm na là tinh thần
đoàn kết cho có vẻ Việt nam và dễ hiểu hơn?
Phải công nhận là Hồ Chí Minh nói truyện giản dị và dễ hiểu, gọn ghẽ hơn. Còn Nguyễn
Hải Thần thì dùng nhiều danh từ chữ Hán, nghe lạ tai và khó hiểu.
Trên thực tế, các phe phái có thực lòng tinh thành hay không, tất nhiên không do một
bản tuyên cáo mà thành. Sự thực, đây chỉ là một kế hoãn binh. Nếu đoàn kết chân chính
thực hiện, thì sẽ ngăn cản được quân Pháp tiến thêm và sẽ tránh được nội chiến sau này,
tránh được bao nhiêu hy sinh đau khổ cho dân tộc. Bảo tất cả đều là giữ miếng, trong
bụng đều một bồ dao găm thì cũng không đúng. Có rất nhiều người thành thực tin rằng
phải đoàn kết chân thành để cứu nước, và cũng tin rằng có thể đoàn kết với nhau, dù có
chủ trương khác nhau. Vấn đề then chết ở đây là có những người chủ trương độc tôn, độc
tài, không thể dung thứ những ai thách thức quyền lực của họ. Bên Việt minh, họ vừa
đàm phán vừa tổ chức những tuẳn lễ vàng vừa sửa soạn cho một cuộc tổng tuyển cử.
104 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Ai cũng biết, lấy danh nghĩa mộ quyên cho cuộc kháng chiến thần thánh, chính phủ đã
thâu lượm được một số vàng và tiền khá lớn. Một phần số vàng đó, nghe nói đã dùng để
hối lộ bọn tướng Tnmg Hoa, cầu nới tay... Do đó, mới có cái gọi là tinh thành đoàn kết ra
đời.
Còn một việc nữa, tổ chức tổng tuyển cử với mục đích hợp pháp hoá, chính thức hoá
chính quyền với bộ mặt dân chủ, tự do. Thực ra, nắm được quyền trong tay, kiểm soát
được gẳn toàn bộ dân chúng, ứng cử viên đã do Việt minh tuyển lựa chu đáo, thì cuộc
tổng tuyển cử cũng chỉ là một trò đã xếp đặt trước để bầy hàng.
Vì vậy, các phe quốc gia đều phủ nhận tổng tuyển cử một chiều, cho là không có giá trị,
đặc biệt là trong không khí khủng bố, những phe phái đối lập thì chỉ là phản dân chủ mà
thôi. Trên mặt báo, chúng tôi tuyên bố không chấp nhận kết quả của cuộc tuyển cử và
hô hào dân chúng tẩy chay.
Do sự phản đối nhiều mặt, Hồ Chí Minh phải nhượng bộ, và tuyên bố hoãn ngày tuyển cử
cho đến tháng giêng năm 1946. Đàm phán và đối chọi, đó là đặc điểm của một thời kỳ
giằng co giữa hai phái dưới sự bảo trợ của quân đội Trung Hoa.
CHƯƠNG 26 - NGUYỄN TƯỜNG TAM, NGHIÊM KẾ TỔ VỀ TỚI HÀ
NỘI
Anh Tam về nước hơi muộn, là vì còn mắc mấy việc, trong đó có vụ Ba Viên.
Ai cũng đã nghe qua vụ Ba Viên làm phản và sau đó bị Việt nam quốc dân đảng thi hành
bản án tử hình.
Ba Viên vốn là một thiếu úy trong quân đội Pháp. Hồi quân Nhật đảo chính tháng 3-1945,
Viên mang một toán quân chạy sang Vân Nam, trú ngụ ở Mông Tự trên đường xe lửa Côn
Minh - Lào Cai. Muốn tăng thêm lực lượng quân sự, anh Tam thuyết phục Ba Viên mang
quân về với Việt nam quốc dân đảng. Viên tình nguyện hợp tác và đưa toán binh sĩ của
mình, có đủ khí giới do nhà chức trách Vân Nam trả lại, các anh em ở Hải Ngoại Bộ Côn
Minh và ở Hà Giang tin rằng Viên thực lòng, muốn quy nhập nên đồng ý thương lượng
với nhà chức trách cho phép toán quân đó trở về Hà Giang.
Nhưng Ba Viên theo mật lệnh của Pháp đã rắp tâm lợi dụng cơ hội để làm phản. Như mọi
người đều biết, quân của Viên đột nhiên vây bắt những anh em, cán bộ đảng viên ở đó,
rồi đón bộ đội cộng sản vào thành. Những anh em ấy sau đều bị cộng sản giết. Anh Tam
đã rời khỏi Hà Giang trước khi xẩy ra việc biến loạn, rồi về tới Hà Nội. Còn anh Nghiêm
Kế Tổ về tới đích xác vào ngày nào, tôi không nhớ rõ. Thế là hầu hết các nhân vật quan
trọng tại hải ngoại đã trở về quê hương. Đã gần 5 năm rồi, tôi mới gặp lại anh Tam, cả
nhà đều vui mừng, tất nhiên người vui nhất là chị Tam cùng các con và bà mẹ. Trong
mấy năm vừa qua, anh quả đã trải nhiều gian truân trốn được khỏi bàn tay người Nhật
tại Quảng Châu, nhưng lúc đến Liễu Châu lại bị quân Trung Hoa tống giam vào ngục vì
105 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
nghi là gián điệp của Nhật - đồng thời với Nguyễn ái Quốc - sau nhờ mấy nhà cách mạng
lưu vong giao thiệp mới được thả ra, và đi Vân Nam. Chàng Dũng trong Đoạn Tuyệt này
đã thành một chiến sĩ thực thụ bôn ba nơi hải ngoại. Chúng tôi mong có người anh trong
đảng về chỉ dẫn hành động trong lúc khó khăn.
Trông anh cũng không khác trước mấy, hơi gầy và đen hơn, nhưng rắn giỏi, bớt vẻ thư
sinh nho nhã trước kia. Điều mà anh khác trước kia là đã biết quay sang dựa vào Đồng
minh và kết hợp với Việt nam quốc dân đảng.
Lúc đó, chúng tôi đứng trước hai vấn đề trọng yếu: Một là vấn đề chủ nghĩa và cương
nnh chính trị chung cho toàn quốc dân đảng, hai là vấn đề đường lối và chương trình
hành động trong cục thế hiện nay. Theo chỗ tôi biết, trong ban Trung ương, chưa có một
lần nào thảo luận và quyết định cho triệt để về những vấn đề trên. Có thể cục thế quá
gay go và nguy hiểm đã không cho phép làm như vậy, song chính vì thế mà trong hoạt
động, đảng thiếu kế hoạch cụ thể để cứu nguy, đặc biệt về phương diện củng cố và phát
tnển hàng ngũ, tăng cường tính chiến đấu và kỷ luật không thể thiếu cho một tổ chức
cách mạng trong nguy cơ bị tiêu diệt.
Đa số thành viên Việt nam quốc dân đảng vẫn tin tưởng ở chủ nghĩa Tam Dân, nhưng
không được huấn luyện gì về mặt này, nhất là đối với những người mới vào. Chủ nghĩa
dân tộc sinh tồn cũng vẫn ở trong phạm vi những anh em Đại việt, chưa thấy Trung ương
phổ biến lý thuyết này trong toàn đảng. Trên thực tế, mấy phái trong quốc dân đảng đã
có đồng thuận trên cơ sở độc lập, tự do, không cộng sản và một nền kinh tế tư hữu.
Trước tình hình đó Trung ương có ủy thác ban tuyên huấn chúng tôi soạn thảo một cương
lĩnh chính trị chung, do tôi, Khái Hưng phụ trách, anh Hoàng Đạo góp ý. Bản sơ thảo ấy
được Trung ương chấp thuận và đưa ra toàn thể đảng viên góp ý kiến, và đã đăng trên
mặt báo Việt nam, đồng thời cũng in thành văn bản phát cho đảng bộ các nơi.
Bản cương lĩnh này là một sản phẩm dung hòa giữa các chủ thuyết, với chủ điểm là dân
tộc dân chủ, bỏ những chủ truơng độc tài và bên cạnh phần đoàn kết toàn dân, giành
độc lập hoàn toàn, chủ trương toàn dân bình đẳng, có đủ quyền tự do, bao gồm quyền
tuyển cử quốc hội, chính phủ, tự do kinh tế, nhưng cũng chú trọng bảo đảm quyền lợi tất
yếu của công nông. Trên tính chất, nó áp dụng những nguyên lý của nền dân chủ Tây
Phương kết hợp với sắc thái dân tộc Việt.
Song, thực ra lúc đó không có đủ thời giờ và điều kiện để mở một cuộc thảo luận rộng
rãi. Nhưng nguyên tắc dân tộc dân chủ đã hình thành từ lúc ấy, và trừ ngoại lệ, hầu hết
các tổ chức quốc gia đều có cương lĩnh trong phạm trù dân tộc và dân chủ (cho tới tận
nay, cuối thế kỷ -tác giả ghi nhận) Còn trên sách lược trước mắt, mọi người ý kiến có
khác nhau, chủ yếu trong việc có nên họp tác với Việt minh hay không?
Theo chỗ tôi biết, trong nội bộ Trung ương, không thấy ai công khai phản đối việc hợp
tác, đoàn kết để chống Pháp tái xâm lăng, bảo vệ độc lập. Trong một buổi họp tháng 11,
trong đó có cả các anh Truơng Tử Anh, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tiến
Hỷ, Chu Bá Phượng, tôi, anh Xuân Tùng... có bàn về việc này, và về ý kiến của cụ Nguyễn
Hải Thần đề nghị nên hợp tác. Cũng như đã thuật ở trên, dưới áp lực của các tướng Trung
106 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Hoa, áp lực của dư luận dân chúng muốn thấy các phái đoàn kết, và nguy cơ bị đàn áp
trong khi chưa đủ lực lượng để tự vệ, ai cũng thấy cần phải hoãn binh. Khi tạm thời hòa
hoãn được rồi, tạo được cơ hội cho các địa phương hoạt động.
Cái hại cho công cuộc là sự hợp tác sẽ mang một bộ mặt tốt đẹp hơn cho Hồ Chí Minh,
để lung lạc quốc dân và quốc tế. Cân nhắc hai phiá, hội nghị cuối cùng cũng đồng ý đoàn
kết hợp tác, nhưng cần thận trọng, vận dụng cơ hội để tăng cường lực lượng rồi sau tùy
cơ ứng biến. Theo tài liệu các nơi báo cáo về, tình hình phe quốc gia có thể tóm tắt như
sau:
1. Phe quốc dân đảng nói chung, gồm Việt nam quốc dân đảng, và Đại việt quốc dân
đảng. Phe Đại việt dân chính không còn tồn tại nữa, vì đã sát nhập hoàn toàn vào Việt
nam quốc dân đảng. Việt nam quốc dân đảng và Đại việt quốc dân đảng tuy đã ước định
lấy danh nghĩa chung là quốc dân đảng, và tại nhiều nơi, hai bên đã hoạt động hỗn hợp
chung với nhau, nhưng tại những nơi khác và ngay trong những nơi hành động chung
vẫn có hoạt động riêng rẽ hay bộ phận riêng rẽ. Riêng về những người nguyên là Đại việt
dân chính chúng tôi thì không có thành kiến hay phân biệt đối đãi nào, coi Đại việt hay
Việt nam cũng chỉ là một.
Vào thời kỳ tháng 11, sau khi Nguyễn Tường Tam và Nghiêm Kế Tổ đã về tới Hà Nội, một
cuộc hội nghị khoáng đại đã được mở tại một địa điểm gần hồ Bẩy Mẫu (không phải là
Ôn Như Hầu) và đã cử ra một ban lãnh đạo Trung ương. Cuộc đề cử này do các anh
Trương Tử Anh, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam chủ tọa. Theo chỗ tôi nhớ, thì tuy
là khoáng đại nhưng vì tình thế khẩn trương, nên cán bộ tới họp chừng độ hơn 30 người,
trong đó có một số cán bộ các tỉnh. Trong số 12 ủy viên Trung ương hôm ấy, tôi được
anh em đề cử, và sau đó, được giao nhiệm vụ bộ trưởng bộ Tuyên Truyền. Ban thường
vụ gồm có Trương Tử Anh (chủ tịch) Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tiến
Hỷ, Chu Bá Phượng, Nguyễn Tường Long, Phạm Khải Hoàn.
Đảng kỳ, một lá cờ sao trắng, và đảng ca Việt nam minh châu trời đông cũng được xác
nhận trong hội nghị. Tuy vậy một điều gây ra mâu thuẫn là, trên mặt công khai, vẫn
dùng danh xưng Việt nam quốc dân đảng, và có nhiều địa phương vẫn dùng danh từ này,
mà không dùng danh từ QD Đảng. Điều này tỏ ra về mặt tổ chức, quyết nghị từ trên chưa
được thi hành triệt để, song trong thời kỳ đó, khó tránh được sự hỗn độn. Việc liên lạc
với các tỉnh cũng rất khó khăn, liên lạc đối miền Nam lại càng thưa thớt. Một số đảng bộ
ở miền trung đã được thành lập trong điều kiện gian nan.
2. Phe Việt nam Cách Mạng đồng minh hội: phe này do cụ Nguyễn Hải Thần đứng đầu,
gồm có một số người trước đây ở Trung quốc về, đa số là anh em Phục Quốc đồng minh
hội, có cơ sở tại vùng Lạng sơn. Ngoài ra còn nhóm Vũ Kim Thành và Vệ An Quốc đóng
tại miền Hòn Gai, Tiên Yên, Móng Cái.
Việt nam cách mạng đồng minh hội hoạt động tại Hà Nội, còn có một số đảng viên. Đại
việt Quốc xã cộng tác.
Nói chung, lực lượng Việt nam cách mạng đồng minh hội không nhiều và cũng thiếu lực
lượng võ trang mạnh, và thiếu ảnh hưởng rộng trong dân chúng.
107 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
3- Đại việt duy dân đảng - với người sáng lập và lãnh tụ là Lý Đông A - còn có tên là
Nguyễn Hữu Thanh - được thành lập năm 1942 lý thuyết chính trị là chủ nghĩa duy dân,
duy dân Đảng về sau phát triển ở trong nước, hoạt động bí mật. Đại việt duy dân là một
trong những chính đảng Việt nam ở hải ngoại đã hội họp với nhau năm 1943 và đồng ý
đoàn kết hợp tác
4- Tân Việt nam quốc dân đảng và Đại việt Quốc gia Liên minh thành lập vào năm 1944,
vì thời cục đã biến chuyển mạnh, một phần vì nhiều thành viên bị Việt minh khủng bố,
nên hầu như đã tan rã hay ngừng hoạt động, một số thành viên tham gia vào hàng ngũ
Việt cách hay quốc dân đảng.
5. Tại miền Nam, để hoạt động độc lập với Việt minh, một Mặt Trận Đoàn Kết Quốc gia,
kết hợp những lực lượng Cao Đài Hòa Hảo, Việt nam quốc dân đảng, Phục Quốc... có võ
trang, và chiếm cứ một số vùng ở đồng bằng sông Cửu Long, trong khi quân Pháp chiếm
được Sàigòn và những tỉnh lỵ. Trong những lực lượng dân quân kháng chiến, đáng kể
nhất là Đệ Tam Sư Đoàn do Nguyễn Hoà Hiệp, một đảng viên Việt nam quốc dân đảng
chỉ huy. Đệ Tam Sư Đoàn bị ép giữa hai thế lực Pháp và Cộng Sàn, nên tuy cố gắng khai
triển du kích chiến, nhưng cũng không phát triển được mạnh.
Có một điều đáng chú ý là, trong mặt Trận Quốc gia này, lại có những phần tử Đệ Tứ
Quốc tế (trotzkistes) tham gia hợp tác vì tuy là một hệ phái cộng sản, họ lại là tử địch
của cộng sản Đệ Tam. Tạ Thu Thâu đã bị Việt minh bắt được và thủ tiêu... Tổ chức Đệ Tứ
lực lượng không có mấy, lại không có võ trang. Tại Hà Nội, chỉ có một số nhỏ người hành
động trong bí mật, nhưng có liên lạc với chúng tôi
.
Đầu tháng 12 năm 1946, Trung ương quốc dân đảng, cụ Nguyễn Hâi Thần và một số
nhân sĩ vô đảng phái, qua một cuộc hội nghị, nhận thấy cần phải xúc tiến một trận tuyến
quốc gia mới để tăng cường ảnh hưởng và hiệu triệu dân chúng chống Pháp, chống độc
tài.
Chúng tôi đưa ra đề nghị thành lập một tổ chức lấy tên Mặt Trận quốc gia Thống Nhất,
đối chọi với Mặt Trận Việt minh, để có tính chất rộng rãi hơn, vì Việt cách lúc đó trên thực
tế chỉ là một đoàn thể, và cái danh xưng ấy không còn thích hợp với thời thế.
Mặt Trận quốc gia Thống Nhất Việt nam ra đời. Trong nội bộ, vẫn đề cử Nguyễn Hải Thần
làm chủ tịch, phó chủ tịch là Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam. Việc thành lập Mặt
Trận Quốc gia được đăng trên báo Việt nam. Mặc dầu việc này không thúc đẩy được công
việc nhiều, nhưng nó có ảnh hưởng tượng trưng. Đây là MặtTrận Quốc gia Thống Nhất
đầu tiên trong lịch sử Việt nam.
Với danh xưng này, Nghiêm Kế Tổ được cử làm ủy viên Ngoại giao, chuyên trách việc
giao thiệp với các tướng Trung Hoa trong việc mong họ giúp đỡ thiết thực và cung cấp võ
khí cho mình.
Anh Tổ là một người vóc trung bình, dáng dấp có vẻ chững chạc, nói tiếng quan thoại rất
lưu loát, và xem ra cũng mồm mép hơn anh Vũ. Tuy nhiên, đối với đảng vụ, về lý luận,
kế hoạch, hay hành động cụ thể, không thấy anh đưa ra những ý kiến thiết thực. Có lần
108 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
chính anh chép miệng nói với tôi, khi trao đổi ý kiến về việc hợp tác với Việt minh và đối
sách của mình:
- Cũng phải hợp tác thôi. Nhưng chúng ta không có toàn bàn kế hoạch để mà hành động...
- Vậy ý kiến anh thế nào, sao không đưa ra?- Tôi hỏi.
- Khó, khó lắm. - Anh lắc đầu, rơi im lặng, khiến tôi hơi thất vọng.
Hợp tác với Việt minh chỉ là một chiến thuật. Nhưng trong, và sau khi hợp tác toàn đảng
cằn làm thế nào? Quân Pháp tới, hay quân Tàu rút, thì ngay bây giờ cần phải chuẩn bị
những gì? Làm thế nào để xoay chuyển cục thế bị động của mình? Tất cả những vấn đề
phức tạp và khẩn thiết này đều không được đưa ra để thảo luận và đi tới một chương
trình rõ ràng.
Trung ương quốc dân đảng lúc đó quá chú trọng tới những công việc đàm phán. Huống
hồ, chính trong Trung ương lại không được nhất trí. Công tác tuyên huấn của tôi nhiều
khi gặp khó khăn và thiếu tài liệu để chuyển xuống đàng viên các nơi.
Đảng vụ không được kiện toàn, lại thiếu kinh phí. Chỉ trông mong vào đảng viên và vào
một số nhỏ Mạnh thường Quân, làm sao cung cấp nổi cho mọi việc, đặc biệt là việc mua
võ khí tối thiểu. Các anh em ở Hà Nội chỉ có súng ngắn và một số tiểu liên (kiểu Thompson
của Mỹ), và tại các chiến khu, thì thiếu súng máy. Súng cối và đạn cũng thiếu thốn.
Không trông rõ nguy cơ sẽ xẩy ra khi quân Trung Hoa rút, là nguyên nhân sẽ trở tay
không kịp ngay nửa năm sau.
CHƯƠNG 27 - ĐÀM PHÁN GAY GO THOẢ THUẬN VỀ MỘT
Đã lâu không về căn nhà ở phố Châu Long. Lần này, bước 1ên thang gác, người bếp cũ
vẫn còn ở đấy, lộ vẻ vui mừng thấy tôi về. Tôi ít khi về nhà, nhưng Liên vẫn thường tới,
dọn dẹp đồ đạc, quần áo. Dưới nhà, hai anh bạn là Phan Huy Đán và Nguyễn Gia Trí vẫn
còn ở.
Liên bảo, có khi anh Tam cũng đến đây nghỉ, vì ngay bên cạnh trụ sở quốc dân đảng.
Chiều hôm ấy, tôi được hưởng một bữa cơm ngon miệng, tuy đơn sơ, khác hẳn với những
món tại toà báo.
Có thịt gà luộc và lạp xường. Do đương đàm phán tinh thành đoàn kết nên tình thế cũng
tạm yên, ra ngoài đường không sợ bị bắt cóc.
Anh Đán và anh Gia Trí đều có vợ cả rồi, những truyện gia đình của các anh ấy tôi cũng
không biết rõ, vì quá bận túi bụi. Tôi còn nhớ, hình như tôi có nhờ anh bếp cắt hộ tóc, vì
đã quá dài, còn râu thì cũng nhân dịp rỗi cạo cho nó nhẵn nhụi một chút.
Sáng hôm sau, cùng với anh Chu Bá Phượng, tôi tới Bắc bộ phủ để bàn về mấy vấn đề
quan trọng. Trụ sở quốc dân đảng có hai chiếc xe hơi, chúng tôi ngồi một chiếc xe Ford
màu đen chạy khá êm. Nên nhớ lúc đó ngồi xe nhà là một điều hiếm có. Ngồi trên xe,
nhìn qua các đường phố, thấy có vẻ vắng im hơn trước, nhưng các cửa hàng đều vẫn mở
tại hàng Ngang, hàng Đào. Qua vườn hoa Paul Bert cũ, (tôi không nhớ lúc ấy đã đổi tên
109 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
là gì) rẽ vào cổng lớn Bắc bộ phủ -tức phủ Thống Sứ cũ. Xế cửa, vẫn có nhà khách sạn
Metropole sau đổi tên là khách sạn Thổng Nhất - Xe chúng tôi vừa vào đến trong cổng
thì trong có một chiếc xe chạy ra. Người ngồi trên vẫy tay, nhìn không rõ đó là Phạm Văn
Đồng hay Võ Nguyên Giáp. Từ cửa bên, lên gác, vào một phòng khách rộng, giữa bầy
một bàn lớn. Hồ Chí Minh từ một phòng bên ra tiếp, vẫn mặc một bộ áo kaki vàng theo
lối Trung Sơn cổ đứng, thái độ rất điềm đạm. Cùng với ông, có một cán bộ nữa, tôi không
nhớ tên.
Lần thảo luận này chỉ có hai vấn đề: một là xếp đặt cho một cuộc họp rộng, thảo luận về
thành lập Chính phủ Liên hiệp, hai là thảo một bản thông cáo chung, cho cả các tổ chức
địa phương của hai bên, về thực thi việc đình chỉ công kích lẫn nhau về hành động cũng
như về ngôn luận, cùng thành lập những ủy ban hỗn hợp của cả hai bên để duy trì trật
tự.
Vấn đề thứ hai được giải quyết rất nhanh nhưng thực ra về sau có thực hiện hay không
lại là một truyện khác. Còn vấn đề thứ nhất thì lại quá phức tạp và khó giải: nguyên tắc
đoàn kết chung, thành phần trong chính phủ Liên hiệp, vấn đề quốc hội, quốc kỳ và quốc
ca, vấn đề thống nhất quân đội. Nhiệm vụ của chúng tôi hôm ấy chỉ là đúc kết chi tiết
cần thảo luận sau này, không phải là vì cách giải quyết, nên sau cũng kết thúc bằng một
đề nghị về chương trình nghị sự.
Những cuộc hội họp diễn ra sau đó đưa tới thỏa thuận chính là thành lập một chính phủ
kháng chiến lâm thời để tỏ quyết tâm tinh thành đoàn kết, hiệu triệu quốc dân nhất trí
kháng Pháp, và cổ võ tinh thần đồng bào đương chiến đấu tại Nam bộ.
Cuộc tổng tuyển cử được hoãn tới đầu tháng Giêng năm 1946. Do tình thế đặc biệt, phe
quốc gia không đủ thời gian để chuẩn bị ứng cử tại toàn quốc, nên Việt minh đề nghị
giành 70 ghế trong Quốc Hội cho phe quốc gia, trong đó 50 ghế cho quốc dân đảng và
20 ghế cho Việt cách. Nhận thấy chưa đủ lực lượng và điều kiện để cản trở cuộc tuyển
cử, phe quốc gia chấp nhận giải pháp này.
Việc lá cờ và quốc ca không thể thỏa thuận được. Vì nếu chấp nhận cờ đỏ sao vàng và
bài Tiến Quân Ca thì cũng như đầu hàng rồi, mà Việt minh không thấy có lý do gì để thay
đổi lá cờ và bài ca sẵn có.
Gay cấn nhất vẫn là việc thống nhất quân đội. Việt minh nhất định đòi quân đội phe quốc
gia phải sát nhập vào Vệ Quốc quân.
Bên này thì đòi lấy tên Quốc Dân quân. Song dù lấy tên gì đi nữa, thì trên thực tế, số
lượng quân đội của quốc dân đảng và của Việt cách rất nhỏ và yếu so với Việt minh có
cả chính phủ trong tay, nếu sát nhập thì chẳng bao lâu sẽ tiêu vong.
Tuy đều biết việc đoàn kết chỉ là trên bề mặt, nhưng một chính phủ kháng chiến lâm thời
đã được thành lập. Đây là chính phủ liên hiệp đầu tiên, vào đầu tháng 1-1940 chính phủ
lâm thời này sẽ từ chức khi quốc hội họp, lúc đó một Chính Phủ Liên hiệp chính thức sẽ
được ra đời.
110 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Vấn đề cờ và quốc ca sẽ giao cho Quốc Hội quyết định. Việc thống nhất quân đội thì sẽ
do một hội nghị liên tịch của đảng phái giải quyết sau. Tốn nhiều thì giờ nhất là việc phân
chia các ghế bộ trưởng.
Tuy tôi không dự nhiều về những buổi cãi cọ ấy, song có lần, một đại biểu Việt minh đã
phàn nàn thẳng thừng:
- Các anh có ít mà lại cứ đòi nhiều, vô lý!
- Nhưng vô lý hay không, nếu ai đòi được thì cứ đòi chứ.
Cuối cùng, danh sách các vị trong Chính Phủ Lâm Thời gồm có những nhân vật chính như
sau (vì đã lâu quá mà thiếu tài liệu để tham khảo, tôi chỉ nhớ được một số nhân vật)
cũng không khác với Chính Phủ chính thức sau này mấy.
Chủ Tịch: Hồ Chí Minh
Phó Chủ Tịch: Nguyễn Hải Thần
Cố vấn tối cao: Vĩnh Thụy
Bộ trưởng bộ Nội Vụ: Huỳnh Thúc Kháng
Bộ trưởng bộ Ngoại Giao: Nguyễn Tường Tam
Bộ trưởng bộ Tài Chánh: Lê Văn Hiến
Bộ trưởng bộ Quốc Phòng: Phan Anh
Bộ trưởng bộ Kinh Tế: Nguyễn Tường Long
Bộ trưởng bộ Tư Pháp: Vũ Trọng Khánh
Bộ trưởng bộ Thanh niên: Dương Đức Hiền
Quốc Phòng ủy viên hội Chủ Tịch: Võ Nguyên Giáp
Quốc Phòng ủy viên Phó Chủ Tịch: Vũ Hồng Khanh.
Trên nguyên tắc, những bộ quan trọng chia đều cho các phe và những nhân vật không
đảng phái.
Tôi được cử vào tiểu ban dự thảo bản Tuyên Ngôn của Chính Phủ Liên hiệp lâm thời.
Không ngờ, trong buổi họp tại nhà Khai Trí Tiến Đức, tôi lại gặp lại anh Dương Đức Hiền.
Đã hơn nửa năm rồi, hai người lại gặp nhau trong một trường hợp kỳ lạ, không thể ngờ
tới.
Trông anh không có gì khác trước, chỉ bớt đen đi một chút. Anh rất ít nói, không biết có
phải vì sự có mặt của tôi hay không? Hai người bạn, đồng chí thân thiết mấy năm trước
đây, nay đã trở thành đối địch, trở thành phải e dè, giữ miếng với nhau. Tại sao cùng
một chí hướng mà thành ra thế này? Chắc anh còn nhớ tới những ngày chạy tránh bọn
Pháp, ngày anh tới thăm tôi mệt trên cái gác trọ ngõ Chân Hưng, ngày ngồi trên bờ sông
Nhuệ anh khuyên tôi và Khái Hưng gia nhập Việt minh, nếu lừng khừng thì cách mạng sẽ
beng đầu các anh!. Quả nhiên hiệu nghiệm. Bây giờ anh đã thuộc phái cầm quyền, sức
mạnh ở về phe anh...
Chắc anh không tin gì nhiều về cái đoàn kết trong một chính phủ... Tuy vậy, mọi người
cũng cố gắng bàn cãi, cho tới khi bản tuyên ngôn đó ra đời, và được công bố trên toàn
quốc.
111 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Vì chính phủ lâm thời này chỉ là quá độ, nên không có tuyên truyền rùm beng, dân chúng
cũng ít chú ý. Nhưng việc này phần nào cũng đưa tới hòa hoãn. Trong đầu năm, tại một
số tỉnh như Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Yên, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Nam định, Phát Diệm,
Thanh Hoá và khu từ Thừa Thiên tới Quảng Nam, Phú Yên... tiếp tục thành lập đảng bộ
Việt nam quốc dân đảng. Tại Đệ Tam Khu, tức từ Vĩnh Yên tới Lào Cai, các cơ cở sẵn có
cũng được củng cố và tăng cường, mặc dầu vẫn bị phong toả.
CHƯƠNG 28 - QUỐC HỘI VÀ CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP KHÁNG CHIẾN
Thời kỳ hai tháng đầu năm 1946 rất phức tạp với sự đối chọi của nhiều thế lực. Phe quốc
gia lúc đó giống như một con thuyền chênh vênh giữa sóng thác rập rềnh, mà hai bên lại
là vách đá cheo leo. Chỗ dựa quốc tế duy nhất là Trung quốc, nhưng quân đội Tưởng
không có ý muốn dẹp hẳn cộng sản Việt minh -mà dù có muốn cũng gặp nhiều trở ngại,
nhất là về phía Liên Xô. Đồng thời, việc cấp thiết cho họ là nguy cơ quân Mao Trạch Đông
đương tràn lấn khắp nơi, Tưởng không muốn sa lầy tại Việt nam, thà để cho Pháp chế
ngự cộng sản Việt nam!
Mà số khí giới họ giúp theo chỗ tôi biết, thì bất quá là vài trăm
khẩu súng của Nhật hay của Pháp đã cũ, nhiều cây không dùng được và thiếu đạn dược...
ứng phó thế nào khi quân Hoa rút? Phe Việt minh tuy nắm chính quyền, có số lính Bảo
An, một số lính khố đỏ, có vũ khí dồi dào hơn, và đương mộ binh riết để huấn luyện,
nhưng hãy còn non nớt, thiếu vũ khí hạng lớn. Theo lời của mấy lãnh tụ cộng sản hồi đó,
họ rất lo lắng vì bị kẹp giữa ba lực lượng: quân Hoa, phe quốc gia, và quân Pháp đương
đe dọa đổ bộ lên miền Bắc. Sách lược của Hồ Chí Minh tất phải là tạm hoà hoãn để tránh
xung đột với quân Tàu, đòi họ rút về nước rồi thừa cơ Pháp chưa chiếm vững, sẽ dốc lực
lượng để tiêu diệt đội quân nhỏ yếu của người quốc gia. Sách lược này rõ ràng, rất nguy
hiểm.
Và cũng rất rõ ràng, phe quốc gia chỉ có một con đường để thoát khỏi diệt vong, là cấp
tốc tăng gia quân đội và mở rộng, củng cố chiến khu, lợi dụng mâu thuẫn trong quốc tế
để duy trì và phát triển, lãnh đạo dân chúng chiến đấu. Phải kiên quyết hành động bằng
mọi cách, trong một chương trình chung cho mọi đoàn thể.
Có lẽ một phần còn hy vọng việc kết hợp còn kéo dài được, một phần cho rằng trước sự
đe dọa của quân xâm lăng Pháp, Việt minh chưa dám quyết liệt và còn e lòng dân phản
đối, nên đa số các người cầm đầu phe quốc gia vẫn còn bận rộn về việc tham gia Quốc
Hội đề cử thành phần Hội đồng Bộ trưởng. Trung ương không phái cán bộ cao cấp tới các
địa phương để lãnh đạo việc đảng. Mặt khác, một số thành phần trong đảng bất đồng ý
kiến, đã có những hành động riêng rẽ, ảnh hưởng tới việc dốc sức vào gây dựng lực lượng
chung. Còn có ít phần tử mới tham gia đàng vì thời cục xô đẩy, thiếu ý chí và thiếu kỷ
luật
112 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Tất cả những thiếu sót trên khiến phe quốc gia đã chưa xây dựng được lực lượng mạnh
thống nhất, có sức chiến đấu để đương đầu với những ngày gay go về sau. Dù có những
đánh phá, chỉ trích, cuộc tuyển cử vẫn cứ cử hành vào đầu tháng 1-1946. Vì có sửa soạn
trước, đã chỉ định ứng cử viên, và đã lôi kéo người đi bầu theo lối xua gà, lại cũng có kèn
có trống nên tỉ lệ đi bầu cũng khả quan.
Ngày họp ở Nhà hát lớn thành phố, vào cuối tháng 2-46 tôi có đến xem tình hình như
một ký giả, chứ không như một đại biểu, và rút lui rất nhanh. Trong bụng tôi nghĩ, chẳng
qua cũng là một màn kịch đóng trò thống nhất, song đủ mặt anh tài.
Quốc hội kỳ ấy đã phê chuẩn danh sách chính phủ Liên hiệp kháng chiến, đã biểu quyết
giữ lại cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ và bài Tiến quân ca làm quốc ca.
Thành phần của chính phủ này ai cũng đều biết, chỉ xin nhắc lại sau đây để tham khảo:
Chủ Tịch chính phủ: Hồ Chí Minh
Phó Chủ Tịch chính phủ: Nguyễn Hải Thần
Cố vấn chính phủ: Vĩnh Thụy
Bộ trưởng Nội Vụ: Huỳnh Thúc Kháng (trung lập)
Quốc Phòng: Phan Anh (trung lập)
Ngoại Giao: Nguyễn Tường Tam (quốc dân đảng)
Tài Chánh: Lê Văn Hiến (cộng sản)
inh Tế: Chu Bá Phượng (quốc dân đảng)
Giáo dục: Đặng Thái Mai (cộng sản)
Tư Pháp: Vũ Đình Hoè (Dân Chủ Đảng)
Canh nông: Bồ Xuân Luật (Việt cách)
Công chính: Trần Đăng Khoa (Dân Chủ Đảng)
Y tế: Trương Đình Tri (Việt cách)
ủy ban kháng chiến, chủ tịch: Võ Nguyên Giáp (cộng sản)
Phó chủ tịch: Vũ Hồng Khanh (quốc dân đảng)
Sau đó, chính phủ Liên hiệp đã ra mắt quốc dân trên bao lơn gác nhà Hát Lớn. Hồ Chí
Minh tuyên bố vài câu về việc thành lập và cương lĩnh của chính phủ, sau tới lưọt ông
Nguyễn Hải Thần diễn thuyết. Nhưng có lẽ vì ở ngoài lâu quá, nên ông nói rất khó nghe
và đệm nhiều chữ Hán, khiến người ta thất vọng.
Chính phủ này khi ra đời lập tức phải đương đầu với những khó khăn ghê gớm, đối nội
cũng như đối ngoại.
Lúc đó, với một thỏa hiệp ngầm, Trung quốc đòi thỏa thuận với Pháp, sẽ rút đi bắt đầu
ngày 28-2-46, Pháp có một số nhượng bộ cho Trung quốc về các tô giới, ngược lại Trung
quốc đồng ý quân Pháp sẽ thay thế mình tại Bắc Việt. Để thu xếp ổn thỏa việc này, tránh
chiến tranh xẩy ra. Trung quốc đã đồng ý thành phần của chính phủ Liên hiệp này, và
khuyên Pháp-Việt hai bên nên thảo ra một bản hiệp định về quan hệ giữa hai nước.
Quan điểm của Pháp lúc đó là chỉ để cho Việt nam là một quốc gia tự do trong khuôn khổ
Liên hiệp Pháp. Mặc dầu muốn thỏa hiệp, Hồ Chí Minh cũng không thể chấp nhận quan
113 Việt
điểm ấy vì bị nhiều phe, kể cả trong nội bộ đảng cộng sản, chống đối cho là đầu hàng,
phản bội dân tộc và sẽ bị quốc dân nổi lên chống đối.
Cuộc thảo luận vì thế giằng co rất lâu và không dám đưa ra công khai. Trọng điểm ở chỗ
Pháp nhìn nhận Việt nam là độc lập hay chỉ là tự do, có quyền thế nào về mặt quân sự
và ngoại giao, quân Pháp sẽ đóng tại đây bao lâu mới rút, và Nam Kỳ có tự trị hay không?
Hắc búa nhất vẫn là tranh chấp về quân đội. Ai cũng hiểu một quốc gia chỉ có thể có một
quân đội thống nhất, nếu không sẽ hỗn loạn, và lúc đó muốn đánh Pháp, cần thống nhất
chỉ huy quân đội mọi phái. Nhưng võ trang lại là vấn đề sinh tử không còn võ trang thì
chỉ ngày mai là sẽ phải đi chầu Diêm Vương thôi, ở trong một chế độ vô pháp vô thiên,
giết người như ngoé.
\
Việt minh, căn cứ vào nguyên tắc thống nhất trong chính phủ liên hiệp, đòi tất cả các võ
trang đều phải sát nhập vào Vệ Quốc Quân, bỏ danh nghĩa Quốc Dân Quân và đeo dấu
hiệu cờ đỏ sao vàng. Điều này, không một cán bộ nào trong phái quốc gia có thể chấp
nhận được. Nhìn trên lịch sử, những cuộc liên hợp Quốc-cộng đều kết thúc bằng sự đầu
hàng của một bên nào đó, hay là chiến tranh trường kỳ.
Việt nam cũng không thể thoát ra khỏi quy luật này. Rút cục chóng chầy cũng sẽ đi tới
bắn lẫn nhau thôi. Sau chiến tranh chống ngoại xâm, bi kịch chung cho Việt nam và các
nước cộng sản khác là nội chiến, tàn sát lẫn nhau. Kết quả tất nhiên của các chính sách
chuyên chính cực đoan của đảng cộng sản - cũng như tại Trung Cộng, Bắc Hàn, Cuba.
Không bao giờ có thể đoàn kết, hoà giải chân chính với người cộng sản, trừ phi họ không
có vũ khí trong tay, đó là bài học kinh nghiệm lịch sử.
Vì anh Chu Bá Phượng được cử làm bộ trưởng bộ Kinh Tế thay anh Hoàng Đạo, Trung
ương lại điều động tôi về bên trụ sở Tổng Bộ, giữ nhiệm vụ bộ tổ chức của đảng. Nhiệm
vụ bộ tuyên truyền giao cho anh Khái Hưng giữ.
Đó là vào hồi tháng 2 năm 46. Mới có nửa năm qua đi, mà đã có bao nhiêu thay đổi.
Chính phủ Hồ Chí Minh, Bảo Đại thoái vị, các anh em ở hải ngoại về. Quân Trung Hoa tới
tiếp quản. Đảng vụ quốc dân đảng phát triển, một số nơi có đảng bộ, có võ trang. Việt
minh khủng bố tàn ngược. Quân Pháp xâm chiếm miền nam, và nay lăm le đổ lên miền
Bắc. Dân chúng hoang mang. Nhiều nơi vẫn còn nạn đói rớt lại.
Chưa bao giờ, chưa bao giờ chúng tôi - trước đây mấy năm chỉ là thư sinh, nhà văn nhà
báo nho nhã - đứng trước một tình thế phức tạp, khẩn trương và nguy nan như vậy.
Trước mặt toàn là những kẻ địch gian hiểm, tàn ác khó lường, mà trong đó trước đây đã
có những bạn cùng chiến đấu cho dân tộc. Một điều không ngờ lại nghe nói rất nhiều về
những chiến sĩ lưu vong ở hải ngoại, đinh ninh là có lực lượng mạnh và có tài kinh luân
cái thế để giải phóng và xây dựng đất nước, song sự thực đã không được như thế. Phải
kính phục tinh thần hy sinh, chịu đựng của các vị đó, song về mặt hoạt động thì lại kém
nhóm cộng sản.
Đặt quá nhiều hy vọng vào quân Trung Hoa, song hy vọng nhiều thì thất vọng cũng
nhiêu. Bảo là quân Trung Hoa không giúp được gì cho phái quốc gia thì cũng không đúng,
không có quân Hoa yểm trợ thì đã không thể xây dựng được một số đảng bộ và khu căn
114 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
cứ. Trung quốc có mục tiêu và lợi ích của nước họ. Không có ai làm cỗ cho mình sơi cả,
mà phải tự mình kiếm gạo, kiếm thịt trước đã. Đây cũng là một bài học kinh nghiệm lịch
sử quá cay đắng.
Hôm đó, trời còn lạnh. Tôi đến toà báo lần cuối. Lá bàng vẫn rụng trên sân và trên hè
đường. Bụi tre Đằng Ngà vẫn còn đứng tại một bên sân.
Lấy ít giấy má rồi, cùng anh Khái Hưng cáo biệt. Đến nay, hình ảnh nhà văn gầy nhỏ vẫn
còn như trước mắt tôi, Qua mấy tháng làm việc ngày đêm, căng thẳng trong đấu tranh
anh lại gầy thêm, thêm mấy nét răn trên trán. Cũng như tôi, anh bị lôi cuốn vào một cơn
bão táp không biết bao giờ mới ngừng.
Nhưng anh vẫn lạc quan, đôi mắt anh vẫn sáng, vẫn hay pha trò.
Con người nhiều khi cũng kỳ lạ. Một nhà trí thức hiền từ đã biến thành một chiến sĩ kiên
cường, bất khuất, chống đế quốc, chống độc tài.
Đối với tôi một người trẻ nhất trong các anh em, Khái Hưng như là một người anh lớn.
Chỉ với sự hiện diện của anh với tinh thần chịu đựng của anh, cũng là một sự cổ võ vô
hình cho tôi. Và tờ Việt nam là thành quâ lớn của sự cố gắng của anh cùng các anh em
cộng sự.
Thực tình, tôi không muốn rời toà nhà này, nơi mà tôi đã làm báo, viết văn, làm việc
chung mười ba năm dài. Đã có biết bao vui buồn, thành công và thất bại ở đây. Dù sao,
những tờ báo Phong Hoá, Ngày Nay, Tự lực Văn Đoàn, phong trào ánh Sáng, Đại việt dân
chính, và bây giờ, 1946, tờ Việt nam cũng đã đi vào lịch sử. Và giá trị của toà nhà này
cũng vì đã là một nơi tập hợp hiếm có cả về văn hoá lẫn chính trị của bao nhiêu anh tài
đất nước. Trong đó có một số người dù muốn dù không, trước và sau người ngày biến
chuyển kinh thiên động địa, cũng đã tham gia vào sự nghiệp chung của đất nước trong
khi một thời đại cũ biến đi, một thời đại mới bắt đầu.
Cùng anh Vương Các Đạo, một anh em trong nhóm cảnh vệ lúc đó, chúng tôi sang trụ sở
Đỗ Hữu Vị, rất gần đây. Anh Vương Các Đạo, thân hình đặc biệt cao lớn, da ngăm ngăm
đen, trước đây trong Bảo An Binh, một người rất thẳng thắn, trung hậu. Trong lúc nói
truyện, anh tỏ vẻ rất tin tưởng, tuy anh biết đương gặp nhiều khó khăn. Nhưng tôi cũng
không muốn nói cho anh biết tình hình thực ra còn khó khăn hơn anh tưởng nhiều, và
bao mối đe dọa đương ở trên đầu phe quốc gia.
CHƯƠNG 29 - TẠI BỘ TỔ CHỨC VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG - TỔ
CHỨC BIỂU TÌNH ĐÒI CHÍNH PHỦ KHÔNG ĐỂ PHÁP ĐỔ BỘ
Trụ sở Tổng Bộ Việt nam quốc dân đảng đặt tại trường tiểu học Đỗ Hữu Vị, vừa trước đây
cũng là một trại binh của Nhật. Cũng như các trường học khác ở Hà Nội, trường có sân
rất rộng, trồng nhiều cây bàng. Mỗi lần nhìn thấy cây bàng, lá bàng rụng trên sân, tôi
không khỏi nhớ lại quãng đời học sinh thơ ấu và hồn nhiên. Tuy nói là bộ tổ chức, những
115 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
cũng chỉ có một phòng lớn ở ngoài và một gian nhỏ ở trong để họp bí mật. Hồ sơ các địa
phương cũng rất ít vì lúc đó đa số phải tự lực cánh sinh, có khi phải trốn tránh không có
chỗ trú nhất định. Anh em giao thông cũng hiếm, cần lắm mới phải dùng đến... Liên lạc
không những khó khăn mà nguy hiểm. Chỉ có một số địa phương phái người lên xin ý
kiến, trong đó có người đến rồi sau không về được nữa, hay là đã mất liên lạc với địa
phương mình. Ngay tại Hà Nội, lực lượng đảng cũng rất thưa thớt. Chỉ có một số ít đảng
viên Việt nam quốc dân đảng cũ trước kia nay lại bắt liên lạc.
Phần lớn anh em Đại việt dân chính cũ cũng nằm im, không Cộng tác với quốc dân đảng,
một số đi với Việt minh. Bàn với anh Nguyễn Tường Long, anh cũng lắc đầu.
Tình hình nội vụ xem ra không lạc quan. Trung ương Việt nam quốc dân đảng quyết định
tổ chức biểu tình ở các nơi để dấy động quần chúng. Khẩu hiệu được đưa ra là Chính phủ
phải kháng chiến thực sự, Chống việc quân Pháp đổ bộ lên miền Bắc, Đoàn kết toàn dân,
đình chỉ khủng bố
Tại Hà Nội, cuộc biểu tình thu hút được độ 2 ngàn người diễu qua Bắc Bộ Phủ, bờ hồ Hoàn
Kiếm, không được như ý muốn vì người dân còn sợ Việt minh khủng bố. Theo tin ở mấy
nơi ở các địa phương, thì gặp rất nhiều trở ngại do Việt minh phá hoại, ngăn trở, nên đã
không thành công mấy. Bên Việt minh có đoàn Thanh niên Cứu Quốc, lôi cuốn được nhiều
học sinh, sinh viên tích cực. Bàn với Trung ương rồi, cùng với mấy anh em trẻ như anh
Trần Văn Tuyên, Phan Kích Nam v.v.. từ miền Trung ra, tôi soạn thảo ra bản cương lĩnh
và nội quy của một đoàn thanh niên, với mục đích đấu tranh cho dân tộc, thực hiện hoàn
toàn độc lập, tiến tới xây dựng một tổ quốc giàu mạnh. Phản đối đấu tranh giai cấp và
chủ nghĩa cộng sản quốc tế
Đoàn Thanh niên này lấy tên là Quốc gia Thanh niên đoàn. Tôi làm Đoàn trưởng, hai phó
đoàn trưởng là Trần Văn Tuyên, Phan Kích Nam, về sau khi tôi rời Hà Nội, lại thêm một
phó đoàn trưởng là anh Mai Ngọc Liệu (hiện nay anh Liệu và một số anh em Quốc gia
Thanh niên đoàn cũ đã sang sống tại Hoa kỳ). Sau đó ít lâu, tôi bận nhiều việc tại Trung
ương, anh Tuyên bận việc Chánh văn phòng bộ Ngoại Giao với anh Tam, nên việc Đoàn
thực tế do anh Phan Kích Nam (Phan Xuân Thiện), người Quảng Nam đảm nhiệm. Nam
là một cán bộ rất sốt sắng và có tài tổ chức. Lấy danh nghĩa phe quốc gia để hiệu triệu,
thanh niên đến tham dự cũng đông. Buổi lễ khai mạc khoá đầu tiên ở Ngũ Xã, tôi có đến
nói truyện, và sau đó giữ mục Đường lối cách mạng Việt nam, theo đúng chủ trương dân
tộc dân chủ và đoàn kết kháng chiến.
Không ngờ, người tham gia đoàn thanh niên này cũng khá đông, đủ các giai tầng, và gồm
cả một số nữ thanh niên. Họ đều hăng hái, sốt sắng, tuy thiếu kinh nghiệm và không
hiểu biết nhiều về chính trị. Đa số đều phản đối Việt minh, song cũng có một số tán thành
mọi phái đều nên hợp tác để chống Pháp trước đã. Họ không ưa quân Trung Hoa, song
họ lại mong Hoa quân trực tiếp giúp phe quốc gia để chống lại với Việt minh. Tình thế
phức tạp và gay go lúc đó, chúng tôi chưa thể nói hết cho các anh em biết rõ. Vì chính
chúng tôi cũng chưa biết sẽ biến chuyển ra sao. Vậy đối với thanh niên, lúc này trước hết
cần huấn luyện riết về chính trị cũng như về quân sự tối thiểu, để có thể ứng phó với mọi
116 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
thay đổi. Như vậy, sau này các đoàn viên quốc gia Thanh niên Đoàn đã đóng góp nhiều
vào công việc, và khi lên chiến khu cũng đã thành những chiến sĩ thực sự không kém gì
các anh em đảng viên.
Ngoài đoàn Thanh niên Quốc gia, tôi cùng với một số anh em tổ chức một đoàn tự vệ bí
mật, để bảo vệ cho rrung ương và những cơ quan trọng yếu. Ngày đó, có thể nói chúng
tôi hoạt động trong vòng khủng bố, lúc nào nguy hiểm cũng có thể xẩy ra. Trong thành
phố Hà Nội và nhiều nơi khác, thường thường xẩy ra những vụ bắt cóc hay ám sát, đa số
đối với những cán bộ trung cấp. Ra khỏi trụ sở là phải đi hai, ba người một tốp, có súng
càng tốt. Buổi tối, nhất luật không được ra ngoài, trừ có việc cần thiết.
Các anh em không ai tỏ ra sợ hãi, phần lớn rất bình tĩnh như không có gì nguy hiểm.
Nhưng dù sao, cũng vẫn ở trong một vị thế đối địch, luôn luôn khẩn trương. Mọi người
đều nghĩ tới ngày quân Tàu sẽ rút lui, nhưng không ai công khai nói ra.
Điều kỳ lạ là, sau khi đất nước đã độc lập, mối đe dọa hàng ngày không phải từ người
ngoại quốc tới, không phải từ quân Hoa, vì họ sẽ rút đi, không phải từ người Pháp, vì họ
chưa tới, mà dù có tới thì cũng chỉ là một trường chiến đấu, sống hay chết nào có quan
hệ gì.
Mà lại chính ngay từ người mình, cùng một dân tộc. Chúng tôi làm cách mạng để
chống thực dân, chứ không phải để chống lại người Việt nam. Chúng tôi hoàn toàn thực
lòng muốn hợp tác với tất cả các phe người Việt khác trong mục đích chung. Kể cả người
cộng sản. Bi kịch của thời ấy là chính quyền không may đã rơi vào tay đảng cộng sản
Việt nam, được thấm nhuần bởi lý thuyết Mác-Lê-Stalin, giai cấp đấu tranh và chuyên
chính vô sản. Giành độc lập chỉ là một bước để thực hiện lý thuyết đó. Họ không thể chia
quyền với các phái khác, và cái gọi là đoàn kết của họ chỉ là bắt mọi người đều phải phục
tùng.
Dù trên bề mặt, có đưa ra những khẩu hiệu Độc lập, tự do, dân chủ, bình đẳng, cốt
lõi chính sách của họ vẫn là thuận ta thì sống, nghịch ta thì chết. Tuy vậy, một mặt, cũng
phải công nhận là đảng cộng sản Việt nam có đấu tranh chống thực dân Pháp, vì họ hiểu
ràng Việt nam không độc lập thì không thực hiện được mục đích. Đó là chỗ chủ trương
của họ khác với nhóm Đệ Tứ, nhóm này cho rằng giai cấp vô sản vẫn có thể đấu tranh
dưới bất cứ kẻ thống trị nào, dân tộc hay ngoại bang. Vì nhóm Đệ Tứ đi ngược lại với chủ
trương của họ, và Đệ Tứ lại là nhóm có khả năng đoạt quyền lãnh đạo của giai cấp thợ
thuyền nhất, nên mấy lãnh tụ như Tạ Thu Thâu đã bị cộng sản thủ tiêu ngay trong những
ngày đầu.
Cũng như Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn... hay Phạm Quỳnh, Ngô
Đình Khôi đã thành nạn nhân sớm nhất của cộng sản. Một phần đồng bào tin tưởng rằng
Chính phủ Hồ Chí Minh thực sự kháng chiến, nên cho là người đảng phái quốc gia nhẩy
ra quấy rối, vì quyền lợi địa vị, lại dựa vào thế lực quân ngoại quốc. Dân chúng rất dễ tin
những người bị bắt, bị thủ tiêu là phản động, cường hào ác bá, là Việt gian. Phải công
nhận thủ đoạn tuyên truyền và vu cáo của người cộng sản rất có mánh lới. Trình độ hiểu
biết của quần chúng chưa đủ để nhận ra, nhất là giới thanh niên bồng bột. Thêm vào đó,
việc tuyên truyền của phe quốc gia chỉ giới hạn vào những giai tầng trí thức, trung lưu,
mà không đi vào sâu được những giới thợ thuyền, dân nghèo, nông dân nghèo khổ.
117 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Những hoạt động của phe quốc gia không lôi cuốn được nhiều quần chúng cũng vì những
lẽ trên. Ngay tại Đệ Tam Khu, tức là từ Vĩnh Yên cho tới Lào Cai, là nơi lực lượng quốc
dân đảng tụ tập đông nhất, mạnh nhất, cũng có nhiều vấn đề rất đáng lo ngại. Nhìn vào
những tài liệu anh Phượng để lại, và quan sát trên bản đồ Bắc Kỳ, thì việc đập ngay vào
mắt tôi là những cứ điểm của quốc dân đảng giống như mấy cù lao nhỏ giữa đại dương
Việt minh. Trừ khu Lào Cai - Bảo Hà chiếm được một mảnh địa bàn - khá rộng nhưng
toàn rừng núi - tất cả đều chỉ là mấy thị xã tỉnh lỵ cô đơn. Mỗi chỗ chỉ có vài trăm anh
em, và số súng trường mỗi nơi cũng không quá một trăm khẩu. Không cần phải học qua
quân sự cũng hiểu rằng đây là một điều tối kỵ trong cách bố trí trận tuyến. Việt minh lúc
nào cũng có thể tới quấy nhiễu, lại còn việc tiếp tế lương thực, đạn dược, lấy đâu ra?
Ngay tại Hà Nội, việc duy trì sinh hoạt tất yếu của ban Trung ương và các trụ sở cũng
đương gặp khó khăn. Anh Chấn, phụ trách về tài chính, cho biết rằng nguồn thu nhập
nay chỉ còn trông vào việc mộ quyên, và vài cơ sở kinh doanh cũng không thuận lợi lắm.
Chinh Phủ Liên hiệp Kháng Chiến đã thành lập. Nhưng nguy cơ hỗn ìoạn không vì thế mà
giảm đi, nguy cơ ngày càng gần.
CHƯƠNG 30 - ĐỒNG SÀNG DỊ MỘNG HIỆP NGHỊ TRUNG- PHÁP
Phe Việt minh và phe quốc gia tuy hợp tác trong một Chính Phủ Liên hiệp, nhưng đó chỉ
là đồng sàng dị mộng. Mộng của Việt minh là mong cho các ông tướng Trung Hoa sớm
rút đi để họ rảnh tay xử trí những kẻ đối địch làm gai trước mắt. Còn mộng của phe quốc
gia là làm sao có được nhiều quân và súng, mở rộng được chiến khu, để có thể tự vệ sau
này. Một số quần chúng tin tưởng ở tinh thành đoàn kết để kháng chiến, song giấc mộng
trên đều là bí mật công khai đối với hai bên. Có thể ví như một cuộc chạy đua, và hiển
nhiên phe quốc gia chậm chân và lép vế.
Về phần người Pháp thì mong đặt chân lên đất Bắc rồi đứng vững đã, đợi quân Tàu đi
khỏi rồi muốn làm gì cũng không muộn. Tại miền Nam, họ đã dựng một chính quyền bù
nhìn, hội đồng Tư Vấn Nam Kỳ. Dã tâm của Pháp vẫn là nuốt lại Đông dương trọn vẹn,
dưới một hình thức tự trị nào đó. DArgenlieu là một tay cứng rắn, hắn mong cho hai phe
người Việt tàn sát lẫn nhau.
Một ngày hạ tuần tháng Hai, tôi và anh Xuân Tùng, anh Chấn đương ngồi trong phòng
họp. Hai anh Khanh và Tổ ngồi xe ở ngoài về, vội chạy vào trong. Nét mặt hai anh tỏ vẻ
giận dữ, lo âu rõ rệt.
- Thế nào, các anh?
118 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
XuânXuân Tùng chậm rãi hỏi, anh lúc nào cũng chậm rãi và lúc họp cũng phải có một ống điếu
thuốc lào trước mặt. Anh không phải là một người nổi bật lên, nhưng rất thực tế và chịu
khó làm những việc khô khan như tổng vụ, kinh tế.
Nghiêm Kế Tổ không nói gì. Vũ Hồng Khanh dằn giọng nói:
- Tệ quá! không ngờ họ tệ đến thế!
- Ai?
Mọi người đều hỏi. Vì hôm nay, hai anh có nhiệm vụ tìm bộ Tư Lệnh Hoa để giao thiệp về
sự giúp đỡ đã hứa.
- Mấy tướng Tàu, chứ còn ai.
Anh Tổ tiếp lời, giải thích:
- Hôm nay đã gặp tướng Diệp, phó tư lệnh, và được Diệp cho biết Trùng Khánh cùng Pans
đã thoả thuận với nhau để nay mai quân Pháp đổ bộ lên miền Bắc thay vào quân Hoa.
Cũng đã nghe tin đồn lâu, nhưng bây giờ họ mới cho mình biết, quá vội. Mà chưa thấy có
gì cụ thể trong việc giúp đỡ phe quốc gia. Ngay việc cho biết tin để ứng phó cũng không
làm. Lúc ấy, Vũ có tỏ ý kháng nghị và phẫn uất:
- Đối với người Việt chúng tôi, việc cho phép bọn thực dân đã thua trận bỏ đi nay lại trở
lại thống trị, là không đúng với điều Đồng minh đã hứa. Chúng tôi không thể chấp nhận.
- Việc này không phải do chúng tôi, mà do cả Đồng minh quyết định.- Diệp đấp Chúng
tôi chỉ thừa hành lệnh trên.
Dừng một giây, ông tiếp
- Chúng tôi rất đồng tình các ông, nhưng chỉ có thể làm trong phạm vi nào đó mà thôi.
Những lời nói đãi bôi, tuy Vũ và Nghiêm từng đã quen biết Diệp ở bên Tàu. Nhưng quen
thuộc và tình nghĩa cách mạng đâu so được với những thứ khác mà phe quốc gia làm gì
có để cung ứng.
Họ có hứa hẹn sẽ cấp cho 1000 khẩu súng, nhưng rút cục, thực tế theo chỗ đã nhận
được, chỉ có độ hai trăm khẩu súng trường cũ, mà phần lớn đã hoen rỉ, không dùng được.
Vậy mà, anh Chấn nói, mình cũng đã tốn kém không ít.
Mấy hôm sau, tướng Tiêu Văn mời đại diện của Việt Quốc và Việt cách đến nói chuyện,
chính thức thông cáo là ngày 28 tháng 2, hai chính phủ Trung-Pháp đã ký kết một hiệp
ước: quân Trung Hoa rút về nước, nhường cho quân Pháp vào tiếp thay. Ngược lại, bên
Pháp nhượng bộ một số quyền lợi kinh tế và trao trả lại các tô giới đương chiếm cho Trung
quốc.
Đến nay, tôi còn nhớ bộ mặt tròn trĩnh, bảnh bao, cố làm ra nhiệt tình của Tiêu Văn. Ông
nói:
- Các ông thấy, chúng tôi đã làm hết sức mình để giúp cho Việt nam. Các ông đã có một
chính phủ đoàn kết..
Tiêu trầm ngâm một lát rồi tiếp:
- Tôi nghĩ, các ông nên chú ý xếp đặt công việc tương lai, và vận dụng được sự đoàn kết
ấy trước người Pháp.
Cuối cùng, Tiêu nói nhỏ:
119 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
- Chúng tôi chỉ có thể làm đến thế, để giúp các ông. Đạo quân đến tiếp quản việc đầu
hàng của quân Nhật không có quyền can thiệp vào nội bộ các nước.
Chúng tôi cũng chỉ biết nghe mà thôi. Mọi người đều đã tin tưởng quá đáng vào đội quân
tiếp quản, vào Trung quốc quốc dân đảng. Nhưng nghĩ lại cho cùng, không nên trách ai
cả và chỉ nên tự trách mình trước. Đã không biết gây dựng lực lượng của mình trước thời
cơ, lại có óc ỷ lại thiếu tinh thần tự lập tự cường, thì dù có người giúp thế nào đi nữa cũng
sẽ đi đến thất bại thôi.
Bài học này thấm thía cho đến tận ngày nay, khi cầm bút viết đoạn lịch sử bi đát nửa thế
kỷ trước kia. Quân Tưởng sắp rút đi. Quân Pháp sắp tới. Mối đe dọa của Việt minh càng
ngày càng cảm thấy nặng nề, tuy đã liên hiệp. Những ngày đầu tháng 2 năm 1946 đòi
hỏi một sự quyết định cấp tốc và chính xác ở phe quốc gia, để xoay đổi cục thế, thoát
khỏi bị động. Cần phải có những hành động cách mạng phi thường. Nếu do dự, lừng
khừng, thì tất sẽ bị luồng sóng thời cục lôi cuốn và sẽ trôi rạt hay chìm đắm. Tình thế tuy
phức tạp, nhưng xét cho cùng, chỉ có hai con đường: chiến hay hoà, tùy ý chọn một.
Đúng theo lập trường cách mạng chống Pháp, thì khi Pháp tái xâm lăng, người Việt nam
phải toàn thể đứng lên kháng chiến đến cùng. Lúc đó, nếu cả người quốc gia, cộng sản
hợp tác nhất trí dẹp bỏ mọi thủ đoạn chia rẽ khủng bố, hiệu triệu toàn dân, thì dù vũ khí
thô sơ kém quân Pháp, nhưng cả nước một lòng, lại có sự ủng hộ tinh thần của thế giới,
thì chưa chắc Pháp đã thắng nổi.
Nếu người quốc gia bản thân chống lại chủ trương thỏa hiệp của cộng sản, can đảm đứng
ra hô hào kiên quyết kháng chiến, thì rất có thể được dân chúng hưởng ứng, gây nên
phong trào lớn, chuyển bị động sang chủ động, tránh được thế bị dồn vào góc tường.
Hai chủ trương trên đã không được bàn đến kỹ càng trong buổi họp Trung ương quốc dân
đảng và buổi họp cùng với ban lãnh đạo Việt cách. Đa số các anh em, nhất là mấy người
trong chính phủ, đều đương chú trọng vào những điều kiện được mang ra điều đình giữa
Hồ Chí Minh và Sainteny, đại diện của D Argenlieu.
Sự thiếu sót của một đường lối hành động quả quyết và kịp thời lúc đó của phe quốc gia
đã tạo cơ hội cho Việt minh nầm lấy, chọn con đường thoả hiệp với Pháp, tìm cách hoãn
binh, hy vọng vẫn duy trì được quyền tự trị nội bộ và thanh toán phe đối địch khi quân
Tàu rút đi.
Trên thực tế, binh lực của Pháp lúc ấy quá mạnh, khó có lực lượng nào ngăn chặn được
chúng đổ bộ. Hồ Chí Minh muốn tránh một sự đụng chạm rất có thể đưa tới sự tan rã của
Việt minh. Đó là nguyên nhân tại sao Hồ Chí Minh vội vã tiếp nhận những điều kiện do
Sainteny đưa ra, và chỉ trong một tuần sau, một Hiệp Định sơ bộ đã được ký kết với Pháp,
ngày 6-3-1946. Hiệp định sơ bộ này rất quan trọng vì là hiệp ước đầu tiên giữa Việt nam
và Pháp, theo đó Pháp công nhận Chính Phủ Liên hiệp Việt nam là một thực thể có chính
quyền tự trị trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp... với một tư chế mỹ danh là tự do chứ không
phải là độc lập như toàn dân mong muốn, Hiệp ước có điều khoản quân Pháp được đóng
trên miền Bắc trong một thời hạn là năm năm.
120 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Ký kết Hiệp Định này thực ra là một hành động rất mạo hiểm. Không có gì bảo đảm rằng
quân Pháp không sẽ mượn cớ này cớ khác để dẹp hẳn quân lực Việt nam và đặt lại nền
thống trị cũ như ở Nam Bộ: Trước sau, cũng vẫn sẽ là chiến tranh mà thôi. Mặt khác, việc
ký kết không khỏi gặp sự phản đối của dân chúng, và bị kết tội là đầu hàng.
Hồ Chí Minh đã khôn khéo lôi kéo được Vũ Hồng Khanh cùng ký tên vào Hiệp Định ấy để
chứng tỏ mọi phe phái đều đã đồng ý: Việc này đã gây ra tranh luận kịch liệt trong nội
bộ các đảng phái quốc gia. (Lúc đó, Nguyễn Tường Tam đã gửi thư xin từ chức Bộ trưởng
Bộ Ngoại Giao cho Hồ Chí Minh ngày 5- 3-46 và không có mặt tại Hà Nội. Bản sao bức
thư in trong sách này. Tuy vậy, theo trí nhớ không rõ ràng của tác giả, Nguyễn Tường
Tam sau đó có thể được Hội đồng Chính Phủ lưu nhiệm một thời gian).
Thiếu sót quan trọng trong việc ký kết là mấy đại diện trong chính phủ của Việt Quốc và
Việt cách đã không đủ thận trọng trong một sự kiện quan trọng như vậy, và đã không
lấy ý kiến của Trung ương trước khi để anh Vũ ký. Vũ Hồng Khanh cũng không bàn kỹ
với các anh em, khi thấy đa số bộ trưởng trong chính phủ đồng ý ký kết. Việc này chứng
tỏ phe quốc gia thiếu kinh nghiệm và thiếu thận trọng trong những việc có quan hệ trọng
đại của đất nước.
Phản ứng của một số anh em trong Việt Quốc thực là kịch liệt ở trong, vừa triệu tập hội
nghị Trung ương cấp thời, thì ở ngoài có tiếng ồn ào. Tôi vội chạy ra. Từ cửa lớn bước vào
độ hai chục anh em, già có trẻ có, hô lên:
Phản đối hiệp định đầu hàng, phản đối quân Pháp đổ bộ!.
Vài ủy viên Trung ương vừa giải thích là Trung ương đương họp hội đồng để bàn, thì hai
người xua ngay tay: Hội đồng gì? Hội đồng chuột!...
Chưa bao giờ tôi thấy đảng viên quần chúng mà lại công kích Trung ương như vậy. Nhưng
riêng tôi, tôi lại đồng ý với các anh em. Và ngay trong hội nghị Trung ương, đa số ủy viên
cũng nghĩ như vậy. Song, chính đại diện của mình cũng đã ký tên vào rồi mà!
Mặc dầu vậy, ngay tối hôm ấy, mấy anh em trong Trung ương, cùng với tôi, cũng quyết
định phát động và tổ chức một cuộc biểu tình, gồm những đảng viên các khu, đoàn viên
Quốc gia Thanh niên Đoàn, kết hợp với quần chúng để chống đối hiệp định. Còn nhớ hôm
ấy, tôi ngồi trong phòng giấy bộ Tổ Chức, cắt đặt một số đảng viên và đoàn viên tham
gia biểu tình, và luôn luôn nghe tin tức truyền về. Toán biểu tình gồm mấy trăm người
vốn định tiến về Bầc Bộ Phủ, nhưng khi đi gần tới sở Cảnh Sát Hàng Đậu thì Việt minh
đã cho cảnh sát dàn ngang trên phố, ngăn chặn và đòi giải tán.
Do đám biểu tình không nghe lời, rất nhanh xẩy ra xô xát, xung đột. Năm người bị bắt,
trong đó có ba đoàn viên Quốc gia Thanh niên Đoàn, vì mấy đoàn viên hăng hái đi đầu
và biện luận kịch liệt với cảnh sát. Biểu tình bị giẵi tán do bạo lực. Sau đó, toà án Hà Nội
đưa mấy người bị bắt ra xử vì tội quấy rối trị an và xung đột với cảnh sát. Nhân danh
đoàn trưởng, tôi có cho ra một bản tuyên cáo bênh vực hành động của anh em và yêu
cầu trả tự do ngay. Song tòa án Việt minh vẫn cố tình kết án anh em mỗi người mấy
tháng tù.
121 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Cũng vì sự thiếu nhất trí trong nội bộ, nên phong trào chống đối không lan rộng được.
Ngay trong chính phủ, ý kiến cũng xung đột lẫn nhau. Một lần, tới nhà Phan Anh, một số
chúng tôi tỏ ý phản đối hiệp nghị, nhưng Phan Anh cho rằng chính phủ đã quyết định thì
mọi người cần phải theo quyết nghị chung.
Triệu chứng phân biệt trong cái gọi là Tinh thần đoàn kết đã rõ ràng. Cùng lúc, viễn cảnh
đội quân thiết giáp Leclercq đổ bộ nay mai không thể không ám ảnh đầu óc mọi người...
ai cũng phải tìm một lối đi...
Nhưng, riêng đối phe quốc gia, lối đi sẽ như thế nào?
Quân Tưởng đã bắt đầu rút, quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng rồi sau tiến tới Hà Nội. Nhiều
vụ đụng độ nhỏ đã xẩy ra giữa quân Pháp và quân Tàu. Để quân địch lên đồn trú tại tận
thủ đô quả là một thất sách lớn, một uy hiếp lớn lao. Người dân vẫn hô lớn những khẩu
hiệu độc lập, nhưng tránh sao được lo âu khi thấy lính Pháp với đủ vũ khí hiện đại, ngang
nhiên dậm trên đường phố. Một buổi tối, chính tôi đã phải rạt sang một bên vỉa đường,
để tránh một xe thiết giáp khổng lồ, chạy ầm ầm trên phố. Tụi Pháp thường tỏ ý rằng họ
không chỉ có ý đồn trú mà thôi, và họ mới chính là chủ nhân ông của đất này.
Nhưng cậy mạnh thì thường khinh địch. Quân Pháp đã gặp sự thách đố không ngờ của
đạo quân 53 thuộc hệ phái Nam Kinh. Toán quân này đã tỏ rất thiện chiến đối quân Nhật.
Trong một cuộc đụng độ bất ngờ tại giữa Hà Nội, chỉ có vũ khí nhẹ, nhưng toán quân này
đã mau lẹ chiếm những nóc nhà và nấp sau gốc cây lớn, giữ vị thế có lợì, khiến xe bọc
sắt Pháp cũng phải ngừng lại, và rồi rút lui vì sợ bị bao vây.
Cục thế đã đến lúc quyết liệt. Việt Quốc cùng Việt cách họp hội nghị liên tịch. Theo dự
đoán tình thế, sau khi quân Tưởng rút hết, quân Pháp sẽ tiến công và chiếm cả Hà Nội.
như thế ta sẽ phải lựa chọn: một là hợp tác hẳn với Việt minh để chống Pháp, hai là rút
lui về những khu căn cứ để hành động riêng rẽ, và như vậy khả năng lớn nhất là Việt
minh sẽ tấn công trong khi Pháp chưa đặt vững chân. Tình thế gian nan bầy ngay trước
mắt. Hợp tác hẳn với Việt minh thì không thể được, họ đòi phải thống hợp quân đội dưới
sự chỉ huy duy nhất của bộ Quốc Phòng. Như thế, số quân quốc gia phải sát nhập vào
biên chế Vệ Quốc Quân, sẽ hoàn toàn bị khống chế, thậm chí bị giâi tán dần dần. Việt
Quốc, Việt cách cũng sẽ thành ra những đảng bù nhìn.
Nhưng nếu tách ra khỏi chính phủ, thì lập tức sẽ bị tấn công với tội chống đối chính phủ,
và các khu bộ địa phương tất bị khủng bố ngay.
Hội nghị liên tịch chưa đạt tới một quyết định thực tế nào. Trên thực tế, bên Việt cách
không đưa ra một kế hoạch hợp tác cụ thể. Và sau đó, ông Nguyễn Hâi Thần rút về biên
giới lúc nào cũng không báo trước cho anh em Việt Quốc biết. Không lâu sau, đội quân
Vũ Kim Thành cũng bỏ căn cứ rút về Quảng Tây, Trung Hoa, sau vài trận xung đột nhỏ
với Việt minh.
Đã đến lúc chúng tôi phải định đoạt lấy vận mệnh của mình. Tình trạng lúc này cũng
giống như bên Trung quốc, nhưng đảo ngược lại: quân quốc dân đảng chiếm 9/10 đất
đai, có 8 triệu quân (nhưng đa số ô hợp), Cộng quân của Mao Trạch Đông chiếm một
122 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
vùng hẹp tại Tây Bắc và chỉ có độ một triệu quân, song có tinh thần chiến đấu vững,
được rèn luyện trong chiến tranh du kích.
Binh lực Việt Quốc lúc này tập trung tại Đệ Tam Chiến Khu, gồm các tỉnh lỵ Vĩnh Yên, thị
xã Việt Trì, Phú thọ, Yên Báy, và một phần tỉnh Lào Kai. Gọi là chiến khu, nhưng sự thực
chỉ chiếm đóng được mấy thị xã cô lập, ngoài thị xã, nông thôn vẫn thuộc quyền kiểm
soát của chính quyền Việt minh. Mỗi nơi đều có đảng bộ Việt Quốc, võ trang gồm có số
Bảo An Binh cũ còn lại và một số anh em có súng tiểu liên nhỏ hay súng lục, con số tay
súng mỗi nơi độ trên dưới năm, sáu chục người. Tại miền Lào Kai và lân cận Hà Giang,
còn có một toán quân người Thổ do anh Triệu Quốc lộc chỉ huy.
Với một số lượng như vậy, và hạn hẹp về nguồn nhân sự, tài chánh, thuế má thu vào rất
ít, không thể so sánh với lực lượng Việt minh. Họ có thể huy động binh lực các tỉnh chung
quanh đến vây khốn rất dễ dàng.
Binh lực Việt Quốc, thực ra về huấn luyện quân sự cũng rất thiếu sót, chỉ biết giặc đến là
bắn trả, không biết chủ động tiến ra ngoài chiếm lĩnh địa bàn, tuyên truyền và thu phục
nhân tâm. Cũng không đưực học hỏi về chiến thuật du kích - chiến thuật của kẻ yếu đối
kẻ mạnh, không biết dương đông kích tây, hay khi cần, phải bỏ một nơi cố định để vận
chuyển linh hoạt hơn.
Có một lần, anh em ở Yên Báy đã chủ động mang quân tiến chiếm Nghĩa Lộ, một thung
lũng trù phú. Nhưng sau, thiếu tiếp viện, nên lại rút về tỉnh lỵ và bị bao vây.
Tóm lại, lực lượng võ trang thưa thớt và bị động, lại phạm vào điều tối kỵ của binh pháp,
là hoàn toàn cô lập với nhau, lúc cần đến khó tiếp viện. Đã đến lúc phải thay đổi hẳn
chiến lược và bố trí lại các đơn vị. Nhưng cần thừa nhận là hành động quá muộn và quá
chậm từ trước thời cục, hãm vào cảnh nước đến chân mới nhẩy, đưa tới hậu quả nghiêm
trọng sau đó
Tháng 3-1946, trong khi anh Tam dẫn đầu một phái đoàn, cùng Võ Nguyên Giấp tới Đà
lạt để đàm phán về điều kiện cụ thể của Việt nam trong khối Liên hiệp Pháp, thì một hội
nghị Trung ương của Việt Quốc lại họp suốt một ngày tại một căn phòng nhỏ ở Ngũ Xã.
Buổi họp này, tôi còn nhớ có đủ mặt các anh Vũ Hồng Khanh, Chu Bá Phượng, anh Long,
Chấn, Xuân Tùng, Nghiêm Kế Tổ, Lê Ninh và tôi. ở đây cần nói rõ rằng vì bộ phận Đại
việt, theo quyết định chung, lui vào bóng tối hoạt động, nên không có mặt các anh Trương
Tử Anh, Phan Trâm, Phạm Khải Hoàn. Cũng nên nói thêm là từ đó, tôi không còn gặp lại
anh Trương Tử Anh nữa, và mãi tới gần hai năm sau, mới gặp lại mặt anh Phạm tại quốc
ngoại.
Quyết định chủ yếu của hội nghị là củng cố và tăng cường các khu căn cứ. Đồng thời vẫn
duy trì sự hiện diện trong chính phủ để mua thời gian và bảo hộ các địa phương triệt
thoái dần. Khu một (Móng Cái, Quảng Yên, Hải Dương) và khu hai (Bắc Ninh, Bắc Giang,
Lạng Sơn) võ trang của đảng không đáng kể.Vậy thì cần tập trung vào khu Đệ Tam.
Hội nghị quyết nghị thành lập một bộ chỉ huy mới - Đệ Tam Khu Chỉ Huy Bộ- để chỉnh
đốn toàn diện tổ chức trong khu và chuẩn bị dời cả Trung ương lên đó. Cùng với vài cán
bộ Trung ương, tôi được cử lên Vĩnh Yên để giúp điều chỉnh việc đảng bộ trên khu.
123 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Cùng với việc thiết tiệc long trọng tiễn đưa các tướng tá Trung quốc, chúng tôi cũng sửa
soạn lên đường. Trong những tiếng ồn ào chúc rượu, từ gĩa, cảm ơn, của những nhân vật
mọi phía đã từng cùng đóng kịch trên sân khấu lịch sử Việt nam - và cả thế giới, tôi ngồi
yên, trong lòng ngậm ngùi và chĩu nặng lo âu về lương lai.
Trong một ngày mưa rơi tháng 5, tôi lên xe hơi với vài vệ sĩ. Hà nội - Vĩnh Yên tuy gần,
nhưng làm sao lọt qua được những chặng gác của Việt minh~ Chúng tôi bèn mượn mấy
bộ quần áo nhà binh vàng xanh của quân Trung Hoa, nghiễm nhiên như tướng sĩ của ông
Tưởng. Nhờ vậy, trên dọc đường mọi sự rất thuận lợi. Hai bên đường, tình hình vẫn yên
tĩnh như chưa hề xẩy ra một sự gì. Vẫn những làng xóm êm đềm, những cổng gạch xen
vào lũy tre xanh, những dân quê cúi mình trên ruộng lúa sắp chín. Thỉnh thoảng lắm mới
có vài dân binh, tự vệ vác khẩu súng trường canh gác. Việt nam đáng lẽ được có cuộc
sống yên bình và no ấm, song vẫn chưa thực hiện, vẫn có khói lửa. Tại sao?
Gần đến tỉnh lỵ Phúc Yên. Trước mắt là một chòi gác, một cây tre bắc ngang chặn đường.
Một tay vác súng đứng ở bên đường đương nhìn vào chiếc xe đi tới. Mấy tướng tá giả hiệu
này trong bụng cũng hơi lo. Nhưng anh lái xe rất bình tĩnh, bóp còi đòi mở chắn. Thêm
hai ba dân quân đeo súng chạy ra nhòm, xem dáng bộ họ muốn xét hỏi nhưng còn ngần
ngại thấy trên xe toàn sĩ quan Trung Hoa. Tôi ngồi trang nghiêm, dự tính đối phó với một
cuộc đối thoại gay go, thì một vệ sĩ xuống ngay xe, nói một tràng tiếng Tàu, không ai
hiểu là anh nói gì. Rồi điềm nhiên tự mình hất lên cây tre chắn đường, ra hiệu cho xe tiến
lên, trươc con mắt ngơ ngác của mấy vị dân quân, không có một phẫn ứng nào.
Thế rồi xe lại nghiễn nhiên bon đi. Chúng tôi không khỏi cười thầm và khâm phục tài
đóng trò của mình, chẳng kém gì những diễn viên chính thức. Và còn điều lạ hơn nữa là,
về sau này tôi vẫn thường mặc bộ quần áo màu lục ấy cho tới khi ra đi xa.
Tôi không khỏi đôi chút hồi hộp khi đến gần tỉnh lỵ Vĩnh Yên. Vì đây là khu căn cứ đầu
tiên của quốc dân đảng, đồng thời cũng có quân Việt minh bao vây, chắn đường. Nhưng
không thấy có gì xảy ra.
Chiến khu... ngày trước chúng tôi tưởng tượng là đầy thơ mộng. Chiều nay, trên chiến
khu, trong rừng chiều... câu hát trong bản nhạc của Văn Cao lại vẳng bên tai. Nhưng
chiến khu này chẳng thơ mộng chút nào cả. Đây chỉ là một thị xã nhỏ đồng bằng yên
tĩnh, có những phố hẹp vắng hai bên trồng cây.
Và cũng rất có vẻ hoà bình nếu không có những binh sĩ đội mũ sao trắng, vành xanh
đứng gác trên đường vào tỉnh lỵ.
Chúng tôi trước hết ghé vào nhà anh Đỗ Đình Đạo, nằm bên cạnh một con đường mát
mê. Nghỉ ngơi, ăn nhẹ rồi tới trụ sở Đệ Tam Khu, đặt tại dinh Công sứ cũ, trên một ngọn
đồi thấp... Một ngôi nhà khá to, có nhiều cây bao bọc.
Chỉ ở chỗ này, chúng tôi mới có cảm giác đầu tiên là sống trên đất của mình, có cảm giác
độc lập thực sự tuy chỉ vỏn vẹn có mươi cây số vuông.
Thế sự thăng trầm. Đất này nguyên là của Việt nam, sau rơi vào tay Pháp gần một thế
kỷ, rồi một năm trước, bị Nhật chiếm, nhưng chỉ mấy tháng sau, người Việt đoạt được
lại. Gặp anh Lê Ninh, người phụ trách lúc đó. Sau bữa cơm rau thanh đạm với các anh
124 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
em, chúng tôi đi dạo trong thị xã xem tình hình. Song không thể ra cách xa ngoài thị trấn
được.
- Anh xem, ta có cách nào phát triển ra ngoài thêm hay không? Tôi hỏi anh Ninh, khi
dừng lại dưới một gốc cây lớn đầu tỉnh.
- Khó lắm.- Anh lắc đầu.- Quân Tàu rút đi, bây giờ muốn giữ vững cũng đủ chật vật rồi.
Người, tiền, võ khí đều thiếu. Đạn dược cũng cạn dần. Quân địch không cần đánh, chỉ
cần vây rồi bắn tỉa vào là đủ chết mòn, nếu cứ như thế này mãi. May có mấy sĩ quan
Nhật đào ngũ giúp huấn luyện anh em về tác chiến và tình báo, nên mấy lần sau cùng
còn có thể đẩy lui địch thủ.
Được cái, tinh thần các anh em thanh niên vẫn hăng hái, mặc dầu đời sống kham khổ và
tương lai đầy bất trắc. Mọi người đều chịu đựng, rất ít nghe thấy ta thán. Kỷ luật rất tốt,
ít khi có lỗi xâm phạm vào dân chúng. Vì đa sổ những người tham dự hàng ngũ còn tin
tưởng vào lý tưởng chiến đấu của mình. Và những người cầm đầu cũng cùng một lý tưởng,
một ý chí đó. Không phải vì làm quan, làm tướng, nên trên dưới nói chung vẫn cùng chịu
gian khổ với nhau. Nói thế, không phải là không có một số phần tử thiếu ý chí, thiếu kỷ
luật lẫn lộn trong hàng ngũ.
Tình hình ở các căn cứ Việt Trì, Phú Thọ, Yên Bái cũng tương tự. Mấy cứ điểm cô độc, chỉ
có thể liên lạc bằng con đường xe hoả duy nhất. Đường bộ bị Việt minh kiểm soát. Ai
cũng còn nhớ, ngày đó, những chuyến xe hoả chạy ỳ ạch bằng đốt củi, không có than để
dùng, có lẽ là phá kỷ lục chạy chậm nhất trên thế giới.
Trước triển vọng bị diệt từng cụm vì đầu đuôi khó tiếp ứng được với nhau, tôi và anh Ninh
bàn bạc nhiều lần, cảm thấy khó giải. Và chưa tìm ra được một phương án thực tế nào.
Một phương án sai lầm có thể đưa tới tai nạn. Với tình thế phức tạp lúc đó cần phải có
một kế hoạch can đảm dựa trên sự đánh giá chính xác mọi sự kiện các mặt, lại phải có
lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết. Nhưng thực ra, thời cục chuyển biến rồn rập, nên dù
có muốn, cũng không có sức gì xoay chuyển nổi nguy vận của phe quốc gia...
Anh Ninh và tôi trở về Hà Nội để báo cáo với Trung ương, trong khi quân Trung Hoa lục
tục rút khỏi Việt nam bằng hai đường chính, đường thủy từ Hải phòng và đường bộ từ
Lạng sơn về Quảng Tây.
Đã đến lúc phải quyết đoán, phải có hành động cấp tốc.
CHƯƠNG 31 - ĐỆ TAM KHU CHỈ HUY BỘ
Hà Nội, đầu tháng 6, 1946.
Cảnh tay tư đã kết thúc. Quân Tưởng đã rút. Quân Pháp vẫn ngang nhiên tuần tiễu trên
các đường phố. Việt minh chưa đám tấn công trực tiếp vào các cơ cấu Việt Quốc hay Việt
cách, vẫn còn duy trì bề mặt Liên hiệp của Chính Phủ. Nhưng đã bắt đầu tấn công vào
những nơi xa xôi như Yên bái, Bảo Hà, và phong toả những trụ sở phe quốc gia tại các
125 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
tỉnh, bắt buộc anh em phải tự rút lui. Các đảng, bộ tại miền Trung hay miền Nam đều bị
khủng bố và lui vào bí mật. Liên lạc với Trung ương dần dần thưa thớt.
Bên Việt cách thì đã rút về biên giới Quảng Tây. Anh đi đường anh, tôi đi đường tôi vì
chắc đã tuyệt vọng trước tình thế, rút về Trung quốc để đợi thời cơ. Các đảng phái khác
cũng đành nằm im, một số anh em bị bắt, nên không còn có thể hoạt động gì nữa. Toán
quân Vũ Kim Thành cũng đã bỏ cuộc. Một bàu không khí đặc biệt, nặng nề bao trùm lên
cả thủ đô. Những ngày đó, mọi anh em muốn ra ngoài trụ sở đều phải đề phòng, không
bao giờ đi một mình. Chúng tôi có ra phố vì công việc, đều phải ngồi xe hơi. Tình trạng
này không thể kéo dài.
Hội Nghị Trung ương lâm thời họp kín, quyết định conđường đi cho toàn đảng. Đây là
một buổi họp rất quan trọng, có quan hệ tới vận mạng của toàn thể đảng viên và đến
cục thế Việt nam. Một số ủy viên có ý kiến vẫn nên ở lại trong Chính Phủ, đợí thời thế
thay đổi ra sao sẽ có đối sách thích hợp. Nhưng đại đa số chủ trương rút lên chiến khu,
bâo vệ thực lực và tránh bị tiêu diệt tất cả ban đầu não của đảng. Thực ra, lúc đó không
còn con đường nào khác.
Hội nghị đồng ý cử tôi và anh Ninh lên trước đề chuẩn bị và chỉnh đốn lại Đệ Tam Khu.
Thành lập bộ Chỉ Huy Đệ tam Khu để thực hiện, tôi được đề cử giữ nhiệm vụ chủ nhiệm
chỉ huy Bộ. Sau đó, vì anh Lê Ninh mắc bệnh, phải về Hà Nội chạy chữa. Anh Vũ Hồng
Khanh, theo ý kiến của Trung ương, bí mật rời Hà Nội lên Vĩnh Yên để tăng cường ban
lãnh đạo. Anh Nguyễn Tường Tam lúc đó còn bận việc ngoại giao. Việc trong chính phủ
do anh Chu Bá Phượng và anh Nghiêm Kế Tổ ứng phó. Anh Hoàng Đạo đảm nhiệm liên
lạc với các đảng phái khác, tổ chức kết hợp bí mật. Sự phân liệt trong khối Tinh thành
đoàn kếtJ, của người Việt đã không thể tránh khỏi, chỉ nửa năm sau khi mới bắt đầu. Chỉ
một thời gian rất ngắn, nội chiến đã bùng nổ. Trách nhiệm về ai trước lịch sử?
\
Nhưng tất cả, đều phải đi trên con đường định mệnh. Đã đâm lao thì phải theo lao...
Trên trụ sở Đệ Tam Khu, Vĩnh Yên, đầu tháng 6 năm 1946. Sau khi đi thăm địa thế Vĩnh
Yên một lần nữa, và thăm các anh em Bảo An Binh cũ, chúng tôi nhận thấy chỗ này là
đồng bằng, lại gần Hà Nội, không thể giữ lâu được. Tốt nhất là tìm một nơi nào thích hợp,
có thể tiến thoái, và tập trung lực lượng, mở rộng địa bàn.
Một buổi sáng, anh Vũ và tôi cùng vài anh em có võ trang, ngồi xe hơi lên Việt Trì. Nơi
này cách Vĩnh Yên không xa, nhưng vị trí, giao thông tiện lợi hơn, lại có thể vận dụng
khu đồi núi hiểm trở nếu cần. Việt Trì nằm ngay ở một ngã ba sông Hồng và sông Lô.
Trên đường cái, hai bên toàn là đồng ruộng thẳng tắp, không gặp một sự trở ngại nào.
Tới Bạch Hạc, xuống xe, chúng tôi đứng trên bờ đê, nhìn cảnh sông nước mênh mang.
Đằng sau là những aẫy đồi liên tiếp, cây cỏ xanh rờn, không khỏi cảm thấy giang sơn tổ
quốc tươi đẹp và đáng yêu biết bao: Qua một cầu sắt gẫy, xuống phà qua bên phố Việt
Trì. ở đây có vài dẫy phố nhà nhỏ thấp, song buôn bán có vẻ phồn thịnh hơn Vĩnh Yên.
Thời loạn, đâu cũng đượm vẻ tiêu điều, song ở dưới bến cũng có nhiều thuyền bè. Tại
Việt Trì đã có khu đảng bộ, chủ nhiệm lúc đó là anh Bảo Ng., với một số cán bộ rất tích
cực. Chúng tôi tạm đóng bản doanh cũng ở dinh Công sứ cũ, một toà nhà hai tầng, có
126 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
sân rộng trồng nhiều cây lớn và trông ra mặt sông Hồng nước đỏ lừ lừ chây xuôi... Nếu
sống ở đây thì cũng nên thơ, có sông, có đồi núi, ruộng đất êm đềm. Gần đó, trên một
ngọn đồi cao hơn, là trại binh, với vài chục binh sĩ. Khi tôi đến thăm, chuyện trò rất cởi
mở, các anh em đều có tinh thần, nhưng lúc đó, ai cũng lo âu về tương lai. Mặc dầu vậy,
trong lúc nguy kịch, không có ai đào ngũ. Một trung sĩ người Nhật làm cố vấn, ngày ngày
huấn luyện quân sự, một người ít nói, nhưng rất gan dạ, tiếc rằng sau đó đã hy sinh trong
một nhiệm vụ đặc biệt. Ngoài ra, còn có một trại huấn luyện thanh niên, đa số trong đó
là anh em Quốc gia Thanh niên Đoàn từ Hà Nội lên. Về võ trang và tài chánh, Việt Trì hơn
Vĩnh Yên nhiều. Nhưng chúng tôi cảm thấy vẫn chỉ là một cô đảo, phạm vi thế lực không
ra ngoài thị xã hai cây số. Gần nhất, là cứ điểm Phú Thọ, với một số anh em không nhiều,
rất có nguy cơ bị Việt minh dứt điểm dễ dàng.
Tôi và anh Vũ họp cùng mấy anh em phụ trách. Ai cũng thấy là cứ ngồi yên thế này mãi
thì chỉ là đợi bị tiêu diệt hay phong toả nghẹt thở, khoanh tay đầu hàng. Chúng tôi đồng
ý một kế hoạch là bỏ Vĩnh Yên, tập trung lục lượng lên khu Việt Trì và Phú Thọ đã, lập
một phòng tuyến vững chắc hơn, mở rộng địa bàn và tăng cường võ trang.
Kế hoạch nghe thì đẹp đẽ. Đánh điện về Hà Nội thỉnh thị Trung ương, nhưng Trung ương
do dự không quyết định, vì lẽ không muốn bỏ một căn cứ có sẵn. Những người ở Vnh yên
cũng chống đối ý kiến này, sợ phải bỏ nhà cửa, bỏ gia quyến. Cứ trần trừ mãi không có
quyết định rõ ràng, trong khi quân Hoa đã rút đi hết. Việt minh nắm ngay lấy thời cơ, mở
cuộc tấn công đột nhiên vào toàn tuyến từ Vĩnh Yên cho tới Yên Bái. Đợt đầu tiên chưa
mạnh lắm, có thể vì mục đích gây áp lực buộc Việt Quốc phải chấp nhận thống nhất dưới
chỉ huy của chúng.
Đồng thời, họ cũng tấn công vào các trụ sở Việt Quốc ở khắp nơi, trù Hà Nội, khiến một
số anh em phải rút về bí mật, một số tại Đệ Nhị Khu - tức Bắc Ninh, Bắc Giang phải chạy
sang Trung quốc theo đường Lạng Sơn, rồi tới Quảng Tây trú ngụ.
Cuộc nội chiến trên miền Bắc Việt nam đã bùng nổ, đưa đến sự thất bại của phe quốc gia
và sự phá sản của cái gọi là Chính Phủ Liên hiệp Kháng Chiến.
Kỳ thực, nếu so sánh với những cuộc chiến tranh sau này trên đất nước ta, thì về quy
mô, về vũ khí đều là thô sơ lạc hậu. Nhưng trên ý nghĩa, trên tính chất thì cuộc chiến này
rất đặc biệt, rất sâu rộng, ảnh hưởng cho mãi tới nay.
Đó là vì những người lãnh đạo đôi bên đều đã từng là từ thời kỳ giải phóng dân tộc, chống
đế quốc Pháp mà ra, mặc dầu chính kiến khác nhau. Hai là vì những người chỉ huy quân
sự đôi bên không phải là nhà quân sự nhà nghề, chính quy, mà toàn là quân sư cách
mạng tài tử. Thứ ba, là vì, tuy quy mô nhỏ, thô sơ, nhưng ảnh hưởng rất sâu xa. Có thể
nói là, sự thất bại của phe quốc gia năm 1946 đã khiến cho đảng cộng sản Việt nam đặt
được nền tảng thống trị trên toàn quốc. Những sự kiện 54, 75 bất quá chỉ là kết quả xa
của năm 46 mà thôi.
Nhất thất túc thành thiên cổ hận -chỉ lỡ một bước mà thành hận ngàn thu... Người quốc
gia Việt nam đã bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng những năm trước 1945 và 1946, cho nên phải
ôm hận mãi tới nửa thế kỷ sau.
127 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Từ từ tới nay, tôi không sao ngờ được lại bước vào một cuộc chiến tranh, mà lại là đánh
nhau giữa người Việt, trong lúc đáng lẽ phải đánh nhau với thực dân Pháp. Mục đích chính
của tôi hay các anh em thanh niên tham gia đấu tranh là để chống Pháp. Nhưng thời cục
đã đưa đẩy đến chỗ bế tắc, thành kiến, mâu thuẫn đã tới chỗ không thể không giải quyết
bằng võ lực, bằng không chỉ có đầu hàng mà thôi.
Là nhà báo nhà văn và bác sĩ, tôi không am hiểu về quân sự nhưng trước đây tôi có
nghiên cứu về những sách lược cách mạng, đã đọc một số tác phẩm về chiến tranh cách
mạng, trong đó có nói về chiến thuật du kích. Cuộc chiến chống quân Nhật tại Trung
quốc, và của Hồng quân chống quân Quốc Dân đảng, cho người ta thấy những kinh
nghiệm quân sự có thể giúp cho kẻ yếu vận dụng. Chúng tôi không dám đi tới biện pháp
quyết liệt bỏ căn cứ cô lập, mang quân đội hành động một cách linh hoạt, đồng thời cũng
tuyên truyền phát động dân chúng. Anh Vũ xem ra chỉ hiểu biết về chiến thuật trận địa
chiến. Nhóm Bảo An Binh đương nhiên không chủ động, chỉ biết địch đến là đánh. Hoàn
toàn bị động.
Tờ mờ sáng, chúng tôi bị tiếng súng nổ tại bên kia sông, dẫy phố Bạch Hạc, đánh thức
dậy. Tiếng úng gẳn gũi và ròn rã của cả hai bên. Mọi người đều trấn tĩnh một cách không
ngờ. Trận tuyến còn ở ngoài đê, và nghe tiếng súng, quân địch cũng không nhiều lắm.
Theo báo cáo về, đại khái có một đại đội Việt minh chia làm hai mũi đánh vào Bạch Hạc.
Còn ở bên Việt Trì này, chỉ có mấy tiếng súng lẻ tẻ.
Chúng tôi bèn động viên các thanh niên ra tiếp ứng mặt trận, và dân chúng làm việc tiếp
tế cơm nước, việc cứu thương. Xem ra tinh thần mọi người còn hăng hái, có quyết tâm
bảo vệ thị trấn. Hai bên cầm cự cho tới gần trưa, tiếng súng ngớt dần.
Buổi sáng, nhận được mấy điện báo cáo cấp ở Vĩnh Yên, Phú Thọ và Yên Bái. Chúng tôi
phân tích tình hình chung, cho rằng đây là loạt tấn công để cảnh cáo và thăm dò thực hư
của Việt minh, để làm hậu thuẫn cho yêu cẳu bắt Việt Quốc hoàn toàn tưân theo chính
phủ. Nhìn xuống bản đồ thị trấn Việt Trì, một anh em chỉ huy đưa câu hỏi:
- Thưa các anh, sao chúng chỉ tấn công vào bên Bạch Hạc mà thôi? Có mục đích gì?
Anh Vũ cho rằng Việt minh chưa điều động đủ binh lực để đánh vào cả hai mặt. Nhìn kỹ
vào bản đồ Bạch Hạc, tôi thấy có một ngọn đồi nằm gần phố, sát với đường đi Vĩnh Yên.
- Có thể họ có ý đồ chiếm Bạch Hạc, đồng thời cắt đứt liên lạc của ta với Vĩnh Yên, khiến
ta không tiếp ứng được lẫn nhau.- Tôi nói - ý đồ cô lập dần các cứ đíểm của ta rồi tập
trung lực lượng để diệt đã thấy rõ. Chúng tôi nghĩ trước tiên tới Phú Thọ, ở đó ta chỉ
chiếm được một phần của thị xã.
Chúng tôi đánh điện về Hà Nội để báo cáo và kháng nghi việc đột nhiên tấn công, phá
hoại đoàn kết của Việt minh, một mặt đề nghị Trung ương cấp tốc gửi thêm người và
súng lên cứu viện.
Buổi trưa, tiếng súng lại nổi lên. Tôi, anh Vũ cùng mấy anh em ngồi thuyền qua sông
Hồng để quan sát tình hình mặt trận. Ra khỏi đầu phố Bạch Hạc là tới bờ đê đi vòng
quanh, đằng trước là ruộng đất và xa hơn một chút, mấy làng xóm nhỏ. Quân địch nấp
đằng sau các mô đất ở ruộng bắn lên đê, còn quân phòng thủ thì nấp sau bờ đê để bắn
128 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
trả lại. Nhưng vẫn có nhiều chỗ qua lại trống trải, quân phòng thủ không biết đào hào
giao thông để tránh đạn, nên có hai người bị thương. Chúng tôi đi qua đó phải cúi rạp
mình, trên đầu tiếng đạn bay vút vít kể cũng khá sợ. Nhưng hú vía vì nhờ Trời Phật phù
hộ, và thực ra quân địch cứ bắn vút lên trời cả nên chưa sứt mẻ gì. Một anh em bảo tôi:
Bắn như thế này, nếu là Nhật thì nó sẽ cưỡi ngựa ung dung vừa đi vừa cười...
Quả thật, hai bên đều không có kinh nghiệm chiến trường. Quân phòng thủ chỉ biết nằm
bò sau bờ đê để bắn ra một cách máy móc, còn quân tấn công thì lại nằm trên ruộng
trống không, những mô đất không đủ che thân, nên bị thương nhiều hơn mà tiến được
rất ít.
Chúng tôi nằm ở một góc quãng đê cong, quan sát địa hlnh, nhận thấy tuy địch không
tiến được mấy nhưng cứ như thế này thì cũng nguy cho ta, vì ta sẽ hết đạn. Cần phải
thay đổi cách đấnh tích cực hơn và phải tiết kiệm đạn. Ngay lúc đó, có lẽ vì không thấy
ăn thua gì nên họ mang từ đâu đến một khẩu đại bác 75, đặt bên góc ruộng rồi bắn rát
lên đê. Đại bác! Kể cũng đáng gờm. Vì trong đời tôi chưa bao giờ trục diện với một đại
bác sắp nổ vào chỗ mình nấp. Tuy vậy, lúc đó chúng tôi vẫn bình tĩnh một cách không
ngờ, cũng không thấy trái tim đập mạnh. Tôi ra hiệu cho mấy anh em nằm lui xuống và
nép mình sát vào bờ đê. Và lạ, người bắn làm ăn ra sao mà đạn cứ tránh chỗ chúng tôi,
nếu không rơi vào trước đê thì cũng rơi lụp đụp vào mấy cái ao phía sau đê, nước bắn lên
tung toé.
Đạn ngừng. Hay là hết đạn? Hoặc đương điều chỉnh Thừa lúc địch đương mệt mỏi, không
chú ý, thấy có một làng ở gần đê cũng không xa quân địch lắm, tôi bàn với anh chỉ huy
xuất kỳ bất ý phái một toán quân nhỏ lén vào làng đó, rồi đánh thọc vào cạnh sườn địch,
tất địch phải hoang mang.
Từ bờ đê, chúng tôi thấy rõ ràng anh em tiến vào làng mà không bị phát hiện, rồi đột
nhiên từ ven làng vừa bắn ra, vừa reo hò để trợ uy. Địch bị tấn công bất ngờ, lại thấy
một toán người đột ngột xông đến, nên hốt hoảng, vội bỏ chạy về đằng sau, bỏ lại khẩu
đại bác không kịp mang đi. Một tay pháo thủ chạy không kịp, giơ tay xin hàng.
Quân ta kéo cỗ súng về, cùng với vài khẩu súng trường và một tù chiến tranh đầu tiên.
Kết cục, không ngờ trận đầu ta đã thắng vẻ vang với rất ít thiệt hại. Chỉ tiếc khẩu đại bác
đó đã hết đạn. Nhưng thắng lợi đã cổ võ tinh thần mọi người. Cũng đã chứng tỏ rằng cần
phải có chiến thuật linh hoạt, lợi dụng mọi cơ hội, không thể bị động, mới mong chuyển
sang thế có lợi.
Nhưng tình hình vẫn chưa yên. Hôm sau, quân địch tấn công và chiếm được ngọn đồi ở
ngoài Bạch Hạc, một cao điểm quan trọng. Rồi ngay hôm sau, họ đã kéo đến đông gấp
bội. Lần này, khôn khéo hơn, họ chia làm mấy mũi đánh dồn vào bờ sông, khiến quân
phòng thủ vốn không nhiều, đã phải chia làm mấy mặt để chống giữ. Các anh em thanh
niên, trong đó Quốc gia Thanh niên Đoàn đóng vai trò nòng cốt, ai có súng đều phải ra
mặt trận để giúp sức. Tình thế cấp bách.
Từ Hà Nội, Trung ương đánh điện lên bảo phải cố thủ vì sẽ có một đoàn đại biểu hỗn hợp
của Chính Phủ lên điều đình. Nhưng quân địch vẫn tấn công rất gấp. Đạn đã ít dần, tôi
129 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
cho thử khẩu đại liên mà chính tôi đã điều đình để mua được từ tay quân Hoa. Đặt trên
mặt đê, bắn sả vào một chỗ tụ hợp của địch. Quả nhiên là lợi hại, quân Việt minh không
chịu đựng nổi, phải rạt ra xa. Nhưng, phiền nỗi, đạn lại có hạn, bắn không lâu đã hết.
Buổi chiều, họp ban chỉ huy khẩn cấp. Muốn tránh thất bại, cần phải chủ động, tập trung
lực lượng đánh mạnh vào một điểm. Nếu cứ ngồi mọi nơi chống giữ từng chỗ thì tất nhiên
sẽ bị diệt. Sau khi bàn luận kỹ càng, chúng tôi đồng ý kế hoạch bỏ Vĩnh Yên, kéo quân
từ đó lên Việt Trì để tập họp thành lực lượng lớn. Đồng thời, cũng để các anh em ở Phú
Thọ lui về Việt Trì, vì đã cô lập và lực lưọrng quá ít. Như vậy, với một tập hợp tương đối
mạnh, rất có thể đẩy lui Việt minh và phát triển ra ngoài.
Ngày 1 tháng 6-46, lấy danh nghĩa Trung ương và Bộ Chỉ Huy Đệ Tam Khu, anh Vũ và
tôi hạ lệnh cho đảng bộ Vĩnh Yên kéo quân lên Việt Trì vào nửa đêm. Đồng thời ở đây sẽ
phái hai tiểu đội dự bị cuối cùng đánh từ Việt Trì ra để tiếp ứng và ngăn quân địch từ trên
cao điểm xuống chặn đường. Hai tiểu đội này do viên Trung Sĩ Nhật chỉ huy. Nhưng, kế
hoạch tốt đẹp nhiều khi khó thực hiện. Suốt đêm hôm ấy, chúng tôi ngồi đợi tin tức. Hai
tiểu đội Việt Trì đã xuất phát, gần sáng có một loạt tiếng súng nổ. Nhưng không thấy
bóng dáng của binh sĩ Vĩnh Yên, mà hai tiểu đội đó sau khi đụng độ với Việt minh chắc
đã tan rã bất ngờ. Và viên Trung sĩ Nhật cũng mất tích.
Truy cứu nguyên nhân thất bại, chủ yếu là do các cấp chỉ huy ở Vĩnh Yên không nhất trí
nên không chấp hành mệnh lệnh, sau lại biện luận là bị quân Việt minh ngăn cản không
tiến ra ngoài được. Bộ phận Vĩnh Yên này sau đó không lâu đã phải ra hàng Việt minh...
áp lực của địch càng ngày càng mạnh, quân phòng thủ bắt buộc phải bỏ Bạch Hạc, rút
qua sông về phía bên Việt Trì. Đạn từ bờ bên kia sông đã vèo vèo bay sang bên này.
Tiếng đạn xiết qua lá cành ngay trước trụ sở, lẫn với cành lá rụng lă tả xuống đất. Quân
địch vượt qua sông chỉ là vấn đề thời gian. Tình thế quẫn bách vô cùng nghiêm trọng,
chúng tôi lâm vào nguy cơ bị vây hãm rất mau chóng. Vì qua tình báo, các lãnh tự Việt
minh chắc đã biết bộ chỉ huy khu và mấy nhân vật trọng yếu của Việt Quốc đang ở Việt
Trì. Chỉ cần giải quyết Việt Trì là Trung ương Việt Quốc không còn hậu thuẫn mạnh nữa,
chắc chắn sẽ tan rời.
CHƯƠNG 32 - TRƯỜNG CHINH 250 LÝ CỦA VIỆT QUỐC
Cũng như nhiều người, trước kia tôi được nghe nói về cuộc Trường Chinh 25.000 lý của
Hồng Quân Trung quốc năm 1934 từ Giang Tây tới Thiểm Tây, do cặp Chu-Mao lịch sử
cầm đầu (Chu Đức, tổng tư lệnh và Mao Trạch Đông, chủ tịch đảng cộng sản) Trong nửa
năm trời, dưới bị quân Tưởng đuổi riết, trên bị máy bay bắn phá, một đạo quân từ 300
130 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
ngàn người khi đến vùng Diên An chỉ còn có gần 30 ngàn, nhưng bảo tồn được lực lượng
nòng cốt để chống cự lâu dài đối Quốc dân đảng. Ngờ đâu, hơn mười năm sau, một cuộc
trường chinh lại tái diễn, nhưng tại Việt nam, tuy quy mô và thời gian nhỏ ngắn hơn
nhiều. Và đảo ngược lại, lần này là quân Quốc Dân đảng Việt nam phải rút chạy dưới áp
lực của quân Việt minh. Lộ trình chỉ có từ Việt Trì đến Yên Bái. Kết cục: chúng tôi cũng
đã rút tới mục đích, nhưng với thiệt hại không nhiều, tuy cũng khá gian truân, sau một
cuộc trường chinh độ mươi hôm. Quyết định bỏ Việt Trì để rút lên Phú Thọ có thể gọi là
can đảm và cần thiết để bảo tốn binh lực của Việt Quốc, tránh bị tiêu diệt hay bị vây
quẫn, cô lập. Mấy toán quân Việt Trì, Phú Thọ hợp được với đội binh Yên Bái có thể thành
một lực lượng khả quan. Sau một cuộc tranh luận kịch liệt nhưng rất lý trí, anh Vũ tôi và
đại đa số cán bộ đồng ý rút lui, lập phòng tuyến khác.
Cũng có người không đồng ý, cho rằng quá mạo hiểm, và nên đợi phái đoàn Trung ương
đến sẽ hay. Nhưng biết bao giờ phái đoàn mới tới? Nếu đợi lâu sẽ cạn đạn dược và sẽ
không còn đường chạy nữa. Theo tin trinh sát, phía bên này sông chưa có quân Việt minh
tập hợp đông và trên đường đi Phú Thọ cũng chỉ có một ít dân quân, tự vệ, không khó
đột vi. Tôi cảm thấy trách nhiệm nặng đè lên hai vai, vì không những quyết định này có
quan hệ đến mấy trăm người ở đây, mà còn có ảnh hưởng tới cục thế chung. Vả, rút lui
bao gìờ cũng rất nguy hiểm, rất dễ bị tấn công bất ngờ, bị phục kích không có lối tránh.
Nhưng, nếu không có quyết định can đảm, không có mạo hiểm thì không có cách thoát,
không thể cứu vãn nguy cơ. Trước sau rồi cũng bị diệt. Đến đêm, trừ một số ít binh sĩ
chặn hậu, tất cả mọi anh em và gia quyến đều được chỉ thị chuẩn bị lên đường một cách
khẩn truơng. Chỉ được mang những đồ tùy thân cần thiết, cái gì nặng, vướng đều phải
bỏ lại. Thực ra, mọi chiến sĩ làm gì có nhiều hơn là mấy bộ quằn áo cũ. Một điều lạ là trừ
vài tiếng khóc của phụ nữ, ai nấy xem ra đều trấn tĩnh. Cũng có một số thanh niên tỏ vẻ
lo âu, thất vọng vì không ngờ thất bại lại đến nhanh, song họ cũng hiểu rõ tình thế khó
khăn, sau khi những anh em ở trên giải thích.
Tờ mờ sáng hôm sau, mọi người tụ tập tại đầu đường lớn lên Phú Thọ, chuẩn bị chỉnh
đốn hàng ngũ để xuất phát thì bỗng nhiên, nhiều tiếng reo hò ở đằng xa vẳng tới. Tôi
giật mình, nghĩ nếu Việt minh đánh từ phía này xuống thì nguy to, không còn lối tẩu
thoát nữa. Nhưng sau có anh em đi dò đường chạy về báo cáo, mới biết là toán anh em
ở Phú Thọ rứt xuống, chạm trán, xuýt nữa choảng nhau to... May vì trời đã hơi sáng,
nhận ra được dấu hiệu mũ sao trắng. Cả hai toán đều không có vẻ gì là quân tấn công.
Vả lại, gần đây anh em ở Phú Thọ bị áp lực mạnh của Việt minh, cũng đã sửa soạn rút
đi. Vì máy điện báo hỏng, nên không thể liên lạc với nhau được. Sự kiện bất ngờ này
khiến chúng tôi vừa lo vừa mừng. Mừng vì tất cả đã hội họp an toàn, chỉ tổn thất rất ít.
Lo là vì dự định tạm chiếm Phú Thọ làm phòng tuyến đã thành không tưởng.
Các anh em Phú Thọ cũng hoang mang, vì chỉnh đại bản doanh Việt Trì cũng không giữ
được, vậy thì nay đi về đâu? Lúc này cần phải bình tĩnh, và phải hành động cương quyết,
cấp tốc. Nếu không, thì kết cục không thể lường được, rơi vào tay địch, số mệnh như thế
nào không cần phải đoán. Điều kiện mới có lợi là thêm được một số tay súng, không
131 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
nhiều nhưng đủ để đối phó với tình thế trước mắt, để phá vỡ vòng vây, trù phi địch điều
động được thêm viện binh tới.
- Cần phải quyết định gấp- Tôi hỏi riêng anh Vũ - ý anh thế nào?
Anh cũng đương suy nghĩ ráo riết. Trách nhiệm của một người lãnh đạo thực là nặng nề.
Nhưng lúc này không thể do dự. Anh nhìn tôi, hỏi lại:
- Anh nghĩ sao Vì ở đây, trọng trách ở cả hai người, thay mặt cho Trung ương, cần phải
nhất trí, mới đem lại ý chí cho tất cả mọi người.
- Theo kế hoạch đã định, nhưng rút thẳng lên Yên Bái- tôi đáp.
Anh Vũ im lặng, chỉ gật đầu. Thực ra không còn con đường nào khác. Và hy vọng là Yên
Bái còn đứng vững. Ngồi trên một mô đất bên đường, chúng tôi triệu tập mấy anh em
chỉ huy. Nhìn vào địa đồ hành quân, con đường tiện nhất là theo công lộ đi Tuyên Quang,
rồi rẽ trái sang Yên Bái. Ước độ 70-80 cây số, nếu đi nhanh chỉ 2 ngày là tới. Nhưng với
một đội ngũ hỗn tạp như thế này, khó mà vận động nhanh chóng được. ấy là không kể
gặp quân địch cản trở, vì thế càng cần đi gấp.
Một toán quân do anh M. tổng chỉ huy dẫn đầu làm tiền phong mở đường. ở giữa là anh
em cán bộ, sau là gia quyến và toán đoạn hậu. Một đoàn người hỗn họpcó cả đàn bà trẻ
em. Lúc đầu, chúng tôi tiến ra một cách đàng hoàng không gặp ngăn cản gì, cho đến lúc
gần trưa, đi qua một làng cạnh đường. Bỗng nhiên, tiếng súng nổ lên đoành đoành, nghe
như từ hai bên bắn vào, nhưng chưa rõ đích xác từ đâu. Mọi người phải rạt ra hai bên,
nấp đằng sau những mái nhà tranh.
Đứng quan sát tình hình, tiếng súng vẫn tiếp tục, nhưng không rồn rập lắm. Thỉnh thoảng
mới có mấy viên đạn lạc bay vèo qua những cây dâu. Một anh em từ trước. chạy về báo
là quân địch nấp ở trên ngọn đồi bên cạnh đường bắn xuống. Chúng tôi đoán đó không
phải là quân chính quy, mà chỉ là sự quấy nhiễu của một số dân quân lê tẻ. Quả nhiên,
sau khi phái một tiểu đội đi tắt đánh ngang lên sườn đồi thì chẳng bao lâu tiếng súng đã
im.
Buổi trưa, chúng tôi đã đến gần đền Hùng Vương. Nới này phong cảnh thực là nên thơ.
Những ngọn núi nhỏ, những đồi chè xanh mưọt, những mảnh ruộng nhỏ thấp cao chung
quanh con đường dựa chạy song song với con đường sắt đưa lên mạn Bắc. Cảnh tượng
trung du quê hương Việt nam đẹp biết bao, nhiều màu dạng hơn so với miền đồng bằng.
Trong giây phút, tâm hồn nghệ sĩ lại trở lại với tôi, quên mất cả mình đương ở trong một
toán quân thất bại... Nhưng cũng chỉ trong giây phút, lại phải trở về với thực tại.
Một điều may là không thấy có bộ đội địch truy kích. Có lẽ vì họ biết tin chậm nên khi
sang chiếm Việt Trì thì trời đã muộn, và cũng có thể binh lực họ không nhiều. Trừ gặp
một vài toán lê tê quấy nhiễu dọc đường, cũng có thể gọi là bình an vô sự. Gần tối, tới
một làng lớn bên cạnh tường, ra lệnh tạm nghỉ, và chia nhau tìm chỗ ngủ. Dân làng đây
cũng rất tốt, không tỏ vẻ sợ sệt sau khi nghe chúng tôi giải thích là sẽ cam đoan không
làm phiền nhiễu. Nhà cửa ở đây đa số cũng rộng rãi, sạch sẽ. Tuy chúng tôi mang lương
khô (hàng Nhật) ra ăn, nhưng cũng có một số gia đình mang khoai, bắp ngô nướng tặng
anh em ăn thêm và nhất định không lấy tiền. Phải nói, kỷ luật đột ngũ anh em lúc này
132 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
rất tốt. Tôi thấy, khi đi xem mấy nơi tạm trú, quan hệ với dân chúng rất là thoải mái, êm
thuận.
Sáng hôm sau, không ngờ, khi gần tới chỗ rẽ sang đường đi Phú Thọ, thì đằng trước một
chiếc xe hơi chạy tới, lập tức bị toán anh em đi đầu vây lấy, chĩa súng vào. Chiếc xe này
cũng lạ mũi xe một bên cắm cờ đỏ sao vàng. Chúng tôi chạy tới, mới biết đây là xe của
phái đoàn hỗn hợp lên để điều đình. Đột nhiên, bị toán người kỳ lạ này vây chặt, chắc
những người trong xe cũng hết hồn... Người đầu trong xe bước ra là một người mặc quân
phục, đội mũ Việt minh, đại diện cho Việt minh, đó chính là tướng Hoàng Văn Thái, và
người thứ hai bước xuống là không ai xa lạ, chính là anh Nguyễn Tường Long, đại diện
cho Việt Quốc. Một người nữa thuộc phái trung lập, tôi không nhớ rõ tên.
Tướng Hoàng bị một số anh em chỉ mặt, chất vấn về việc Việt minh phá hoại đoàn kết,
chiếm đoạt Phú Thọ, Việt Trì. Hoàng có vẻ sợ hãi, mặt tái mét, nhìn chúng tôi cầu cứu.
Nhưng dù sao, anh ta cũng là một sứ thần, có nhiệm vụ điều đình, nên chúng tôi bảo các
anh em lui sang một bên. Tôi trách Hoàng lên chậm quá, và phái đoàn chỉ là một vở kịch
vụng về. Vì nếu thực muốn đình chỉ xung đột, Việt minh chỉ cần đánh một điện báo lên
cho quân mình là sẽ hoà bình ngay. Giao Hoàng cho người giữ, chúng tôi nói truyện riêng
với anh Long. Trông anh gầy đi đôi chút, nhưng vẫn rất bình tĩnh, cương nghị như chưa
hề xẩy ra sự gì. Anh cho biết tại Hà Nội, quân Trung Hoa chỉ còn lại một số đại diện.
Quân Pháp càng ngày càng tỏ vẻ ngang ngược. Vì chưa đến lúc giờ tay khắp nơi nên Việt minh
chưa tấn công lớn vào ta, nhưng nếu ta không chịu đưa quân đội vào biên chế chính phủ
thì nhất định sẽ phá liệt. Tại Trung ương, hiện nay chỉ còn lại các anh Tam, Chu Bá
Phượng, Nghiêm Kế Tổ... Và sau đó, anh Tam cũng phải lánh sang Trung quốc.
Tương lai trước mắt là: cứ điểm Vĩnh Yên nhất định sẽ mất nay mai. Chỉ có cách củng cố
căn cứ từ Yên Bái đến Lào Cai, tìm viện trợ từ Trung quốc. Các đảng bộ chính phải lui về
bí mật, tìm cách bảo tồn lực lượng, chờ cơ hội.
Đoàn người lại tiếp tực lên đường. Hoàng bị buộc phải đi trước dẫn đầu, để quân Việt
minh khỏi cản trở. Còn chiếc xe hơi sau bị vứt một bên đường.
Chiều đến, cắm trại nghỉ ở một làng ven đường. Dân chúng ở đây không tỏ vẽ sợ hãi. Cả
nhân viên trong ủy ban xã cũng ra tiếp đón và xếp đặt chỗ nằm chu đáo cho tất cả mấy
trăm người. Hai ngày đường mệt mỏi, được ngâ lưng trên phản gỗ và uống bát nước vối,
chưa bao giờ tôi thấy sung sướng và thú vị như thế quên bẵng mình đương ở trong cảnh
ngộ nguy hiểm, tùy thời có thể bị trúng đạn hay bị bắt bất cứ lúc nào.
Quân Việt minh tùy thời nửa đêm ập đến đánh úp, đoàn người này rất dễ tan tác, song lạ là lúc đó tôi
không hề nghĩ đến. Còn có thì giờ mua một con heo để làm thịt, bồi dưỡng cho mọi người
đương đói meo và mệt mỏi, vì buổi trưa ai cũng chỉ được một khúc cơm nắm và một gói
lương khô lót lòng. Được nghỉ ngơi và thêm bát cơm nóng, cùng với thịt heo hay lòng
heo, sự mệt mỏi về thể xác giảm bớt, về tinh thần cũng thấy phấn chấn hơn.
Cái gối bằng mây của chủ nhà cho mượn tuy cứng, nhưng chúng tôi vẫn ngủ được rất
ngon. Đến nửa đêm, mắt còn rít lại, nhưng vẫn phải cố gắng chồi dậy đi tuần các nơi,
133 Việt
xem canh gác và động tĩnh ra sao... Nhờ trời, vẫn yên tĩnh, không thấy tiếng súng nào
nổ, chỉ nghe tiếng chó sủa đâu đây và tiếng gió rạt rào trong rặng tre.
Sáng sớm tờ mờ, chúng tôi dậy nghiên cứu thêm về lối đi. Mất Phú Thọ rồi, nếu đi thẳng
theo con đường cái lên Tuyên Quang rồi mới rẽ sang Yên Bái, thì tất nhiên sẽ gặp nguy
hiểm, vì sẽ gặp những chỗ có đồn trú quân địch. Vả lại lộ trình quá dài. Nhìn trên địa đồ,
tôi thấy có một con đường tắt nhỏ lên Yên Bái, sau khi tới ngã ba Đoan Hùng và Tuyên
Quang. Hỏi người ở đây, họ cho biết là có con đường đó, gần hơn nhưng khó đi hơn.
Chúng tôi quyết định bỏ đường lớn, đi đường nhỏ. Đây là một quyết định đúng, song trên
đường đi cũng gặp những sự bất ngờ... Cũng giống như cuộc Vạn Lý Trường Chinh của
Hồng Quân trước đây, Mao Trạch Đông cả quyết vứt bỏ các thứ nặng nề, bỏ đường lớn
dễ đi mà đổi sang những đường tắt treo leo, nhờ đó mà tránh được sự săn đuổi của quân
Tưởng Giới Thạch, đạt tới mục đích: Diên An...
Sau khi cho người đi trước thăm dò tình hình, không thấy bóng dáng quân địch, chúng
tôi rẽ sang bên trái rồi vào một con đường nhỏ hơn. Đây vẫn còn thuộc địa phận Phú Thọ.
Con đường gập ghềnh quanh co giữa những cánh đồng, làng xóm có lũy tre bao bọc rất
nên thơ. Tối đến, đến một làng khá lớn, có tên là làng Yên Kỳ.
Không thể quên cảnh tượng khi bước vào con đường chính giữa làng. Hai bên đường, dân
quê sắp hàng mang đuốc soi cho chúng tôi đi, không khác gì những cảnh ở Phi Châu mà
trước đây đã được xem trong phim ảnh. Nhưng thực sự họ muốn giúp chúng tôi hay là có
ý đồ gì khác, thì cho tới nay vẫn chưa rõ. Người làng cuối cùng dẫn tất cà đoàn người lạ
lùng này tới đình làng, một cái đình khá rộng, cao ráo, chứng tỏ đây là một làng trù phú.
Đình có hai tầng, trước sau có đất rộng, trồng mấy cây to.
Nhưng vị trí ở giửa quãngtrống, ba bên đều có thể bị tiến công dễ dàng, đó là điều mà vì thiếu cảnh giác, chúngtôi đã không đề phòng cẩn mật, canh gác sơ sài. Bữa cơm tối đó cũng có đủ thịt thà. Dân
làng lại còn giúp hấp xôi. Cắt đặt canh gác hai người trong phái đoàn hoà giải, chúng tôi
qua một đêm yên tĩnh, không có gì đáng chú ý. Tờ mờ sáng, lại trở dậy tấp nập sửa soạn
lên đường. Chúng tôi chia xôi nắm và lạ, có thêm cả bánh giò anh em mua của dân làng
chia cả cho hai viên đại biểu đương ăn rất ngon lành thì... bỗng đoành đoành, hai tiếng
súng nổ ở ngoài xé tan bàu không khí yên lặng, làm mọi người giật mình đứng phắt dậy.
Tiến tới, súng nổ liên tiếp, từ hai bên đình đạn bắn vào như mưa, không rõ có bao nhiêu
quân địch, nhưng mọi người hoảng hốt, tranh nhau nấp vào những góc đình an toàn, có
những người xô đẩy nhau hỗn loạn, mặc kệ lời hò hét của ban chỉ huy. Thực ra lúc đó tôi
cũng khấ hoảng, bản năng nép ngay vâo một góc tường để tránh đạn, nhưng cũng rất
nhanh lấy lại được bình tĩnh, dù sao một người chỉ huy cũng không có quyền hoảng sợ.
Đạn từ phía xế trước đình bắn tới, vài anh em rất gan dạ, cầm súng chạy ngay ra sân
đình núp sau những gốc cây để bắn trả lại, hay đằng sau một con ngựa chở hành lý bị
đạn nằm tại một góc sân.
Nhìn rõ tình hình rồi, chúng tôi phái một tiểu đội dàn ra trước mặt đình để cản trở địch,
và một toán rẽ sang sau để bảo hộ mọi người rút lui ra khỏi làng. Nhưng trong lúc rối
loạn, đạn vẫn tới tấp xỉa ngang đầu, chúng tôi lại bắt buộc phải nằm sát mặt đất bên
134 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
cạnh sàn đình. Đình này dựng trên nhiều cọc gỗ lớn, chắc để tránh nước lụt. Lúc này, vài
anh em bất hạnh bị trúng đạn. Chỉ cách tôi không xa, độ mươi thước, một viên đạn lạc
đã xỉa vào trúng đầu một anh em vệ sĩ. Tôi chỉ kịp thấy người anh co rút mấy cái rồi nằm
đờ, duỗi thẳng chân, tay rời khẩu tiểu liên. Rất nhanh, một người bạn bò đến cạnh, lấy
tay vuốt mắt cho anh, rồi còn rơm rớm nước mắt, lấy ngay cây tiểu liên, lánh sang một
bên rồi chĩa súng, bắn lia lịa vào phía địch. Lúc đó, dưới áp lực của súng bên ta, đạn địch
đã bớt, tôi phất tay làm hiệu cho mọi người còn lại cấp tốc rời khỏi chỗ trống, rút về đằng
sau.
Nhưng phải để lại vài người chết và những hành lý nặng. Còn hai thành viên phái
đoàn điều đình thì, nhân lúc rối loạn, đã thừa cơ cao chạy xa bay. Họ chắc phải cảm tạ
Thượng Đế đã ban phước lành. Rút khỏi sau đình, thì gặp anh Long đương tổ chức mọi
ngưộỉ rứt ra đường cái. Chúng tôi và một số anh em thành tốp đo hậu. Nhiệm vụ này
không phải dễ dàng, vì phải qua một cánh đồng bùn lầy với những bờ ruộng trơn như
mỡ. Nhiều người ngã oanh oách trong rất tức cười. Quái ác nhất là ở không xa, có mấy
tay dân quân Việt minh ngồi núp trên cây cao bắn tiễn đường, nhưng may chẳng trúng
ai hết.
Phải vất vả lắm, toàn thể mới yên ổn ra đến đường lớn. Tuy quần áo đầy bùn lấm,
nhưng cũng may chúng tôi chưa xầy da rớt máu. Xem ra, toán phục kích này không đông,
cũng không phải la quân chính quy, nếu không, họ chỉ cần đuổi bắn ở đằng sau là đủ làm
phiền rồi. Nghĩ lại, quân Việt minh cũng thiếu kinh nghiệm. Nếu họ đánh úp vào nửa đêm
thì chắc đoàn quân triệt thoái sẽ hỗn loạn hơn nhiều. Hoặc nếu họ tổ chức những tiểu tổ
quấy rối nhiều hơn nữa ở dọc đường... Thoát nạn, chúng tôi chỉ còn cắm đầu bước nhanh,
qua đồi gò và đồng ộng, buổi chiều tiến vào địa phận tỉnh Yên Bái. Tạm ngủ trong một
rừng nứa cao chót vót, bên cạnh có con suối chắy róc rách. Vừa mệt, vừa khát, may còn
cơm nắm và lúa với nươc sối mát ngọt khiến trong người cảm thấy dễ chịu, tinh thần trở
lại.
Rồi lại đi vào những núi đá cao hơn, những rừng cây rậm và ướt át, trên mặt đất phủ đầy
cỏ khô. Rồi những rặng lau dài, nhữn thung lũng nhỏ với những mânh ruộng xếp thang
bên sườn đới. Làng xóm thưa thớt, nằm ép dưới chân hay lưng chừng núi. Dân cư cũng
lê tẻ, thỉnh thoảng một vài bóng áo chàm. Đã bắt đầu bước vào khung cảnh mạn ngược.
Do bị tấn công bất ngờ, tiếp theo là gấp rút hành quân, hàng ngũ đã hơi rối loạn. Lại vừa
mệt vừa đói, có một số bị thương, bệnh sốt rét, lại thêm phụ nữ, già lão. Nên hàng ngũ
kéo dài hàng cây số, mặc dầu có những anh em trẻ giúp đỡ họ.
Băng thuốc lại càng thiếuthốn, nên một số bị thương nhẹ cũng nhiễm trùng, lâu khỏi may mà không có ai quánặng. Nhưng, một lần, đương đi trên đường, bỗng thấy một thanh niên ngồi xệp ở lề
đường, không bước lên được nữa. Dừng lại mới biết đó là một anh em trong Quốc gia
Thanh niên Đoàn, bị thương ở tay vì trúng đạn ở đình làng. Lại thêm lên cơn sốt rét nặng,
cả người run lên cầm cập. Chắc là nhiễm trùng, có một ít thuốc thì lại bỏ quên ở đằng
sau. Trông thấy tôi, chưa kịp hỏi han gì thêm thì anh đã mở miệng, xin cho ngay một
phát súng vào đầu để đỡ bị đau đớn và không làm liên lụy tới các anh em khác. Tôi và
các anh em phải khuyên nhủ mãi, rồi cho người cõng anh đi, tìm thuốc cho anh uống.
Tình cảnh khiến ai cũng phải bùi ngùi. Lại còn một tiểu đội trưởng, bị thương ở mắt, anh
135 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
em cũng phải thay nhau dìu đi. Theo báo cáo, có một vài người không theo nổi đã dần
dà tụt về sau, rồi đến tối không còn thấy mặt nữa, không có cách gì tìm được. Số phận
những người đó ra sao... nhưng trong lúc rút chạy không thể chờ đợi lâu. Cuộc rút lui nào
cũng không tránh được tổn thất, tránh được bi kịch. Đội ngũ vẫn còn gần như toàn vẹn,
là may mắn lắm rồi.
Đi gấp. Buổi tối, tới một thung lũng nhỏ, tất cả đều đã mệt nhoài. Sợ bị phục kích. chúng
tôi không dám vào trú tại các làng gần đấy, và quyết định nghỉ ở ngoài trời. Thăm dò địa
hình rồi, mọi người ngả lưng trên một sườn đồi kín đáo và khô ráo, ở dưới có con suối
nước trong và ngọt. Lương thực chỉ còn vỏn vẹn có lương khô và ít gạo sống, phần lớn
đã phải bỏ lại tại Yên Kỳ. May mà trời không lạnh và không mưa, nên nằm trên bờ cỏ
cũng thấy dễ chịu.
Tuy lârn vào cảnh màn trời chiếu đất, song tinh thần mọi người nói chuyện vẫn hăng hái
và lạc quan, chịu đựng. Cả đến những vị tú tài như chúng tôi cũng không kém. Giải áo đi
mưa nhà binh n cỏ, mấy anh em ngồi truyện trò rất lâu, như khi đi picnic chùa Hương
hay chùa Bách Môn. Nhưng vệc chính phải là kiểm điểm lại mọi thiếu sót, sơ hở đã phạrn,
đã không phòng bị đủ trước tấn công đột ngột của một số địch không đông.
Anh Long vẫn còn có thì giờ để viết về cuộc hành trình này trong cuốn bút ký của anh.
Rất tiếc là về sau cuốn đó đã mất. Ngày nay, chính tôi lại làm công việc anh đã bỏ dở, ít
ra cũng để cho người đi sau biết rõ về những ngày đặc biệt của lịch sử.
Mặc dầu tình thế nguy hiểm, tôi vẫn ngủ được một giấc khá ngon. Sáng hôm sau trở dậy,
xuống dưới suối rửa mặt với nước mát lạnh.
Lại đi, không bao lâu đến chỗ có làng mạc. Chúng tôi vừa định nghỉ chân mua gạo thổi
cơm, bỗng thấy đằng trước nhiều tiếng xôn xao. Có lẽ vì quá đói, quên cả kỷ luật, một
số binh sĩ không đợi lệnh trên, tự tiện vào nhà dân chúng lấy cơm, khoai ăn. Đôi việc vi
phạm kỷ luật này, bộ chỉ huy cấp thời ra lệnh ngăn ngừa, tuy có sự chống đối của vài
người, lấy cớ là không có lương thực làm sao có thể đánh nhau được. Chúng tôi tổ chức
ngay mua gạo, khoai để thổi cơm cho các anh em binh sĩ ăn trước, bộ chỉ huy đợi đến
cuối cùng mới ăn. Tuy thế, vẫn còn thòm thèm, trên đường đi, một vài người không nhịn
được thỉnh thoảng phải vốc trộm gạo sống nhai ngấu nghiến. Gần về chiều, bước vào một
cánh rừng nứa giữa rặng núi âm u. Những cây nứa cao vút, thẳng tắp, chân giẫm lên nền
lá khô xào xạc có cảm giác như vào một thế giới khác hẳn.
Ước chừng còn độ hai mươi cây số thì tới Yên Bái, nếu bây giờ rẽ ra đường cái thì e không
kịp vì tối và nguy hiểm. Đương lúc tiến thoái lưỡng nan, may gặp một người dân chỉ
đường đến một làng nhỏ nấp sau rừng.
Được cái dân chúng ở đây không biết gì về sự xung đột giữa hai phái, và cũng thấy đoàn
người kỳ quặc này không đến nỗi hung ác quá, nên cũng đón tiếp cởi mở. Chắc cũng có
người nghĩ chúng tôi là một tụi phản động nhưng cũng không dám đụng chạm làm gì.
Chung quanh làng này không thấy động tĩnh gì đáng chú ý, theo chỗ dò biết thì tại vùng
Yên Bái có tiếng súng nổ nhưng Quốc Dân đảng vẫn còn chiếm thị xã. Đây là chặng nghỉ
cuối cùng, chúng tôi đặt thêm trạm gác, có chỗ phải cắt cả phụ nữ đứng canh.
136 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Sương mù vẫn che phủ những ngọn núi âm u chung quanh. Xa lắm có tiếng thác nước
đổ ầm ì. Nếu không phải là đương ở trong cảnh chiến tranh thì không khác gì ngủ trên
đồi Chapa hay gần động Tam Thanh.
Đêm nay vẫn yên ổn, ngủ được. Buổi sáng trơ dậy, ăn một bữa cơm no, nai nịt gọn ghẽ
để bắt đầu chặng cuối cùng của cuộc Trường Chinh. Mọi người trong lòng đầy hy vọng,
chắc chắn sẽ vào được Yên Bái. Gần trưa, thì chuyển vào con đường cái rộng rãi, hai bên
đường là đồi cao nhưng không giốc lắm. Trên đồi, cỏ mọc đặc, với ít cây cối lơ thơ. Không
biết sẽ may rủi ra sao Đường vắng tanh, thỉnh thoảng lắm mới có một vài nông dân đứng
bên đường nhìn vào đoàn người này một cách kinh ngạc.
Đột nhiên, đến một chỗ đường quẹo, đằng trước hiện ra một cánh đồng nhỏ, thì bỗng nổ
ra nhiều tiếng súng đì đoành. Đội tiên phong đã vấp phải quân địch, và đương nép hai
bên đường để bắn trả lại. Chúng tôi dừng ngay tại chỗ để quan sát, và cũng rạt cả sang
hai sườn đồi, thì bỗng tắc bộp tắc bộp, mấy tiếng súng trường nổ rất gần, ở ngay trên
đỉnh đồi chỗ chúng tôi đứng. Rồi thêm tiếng đạn vèo vèo ngay trên đầu, sói vào vây cỏ
ở sườn đồi, rất gần, khiến chúng tôi phải nhanh chân tìm nhưng mô đất ở sát cạnh đường
để nấp. May mà chưa có ai bi thương.
Tuy đột ngột, nhưng không hoảng hết, mấy anh em định thần nhìn lên đỉnh đồi. Súng
bắn ra từ một nhà chòi dựng trên núi, thấp thoáng có bóng người không nhiều sau mấy
tảng đá. Trong lúc toán tiên phong rồn rập bắn lên, chúng tôi cho một tiểu đội thiện chiến
trèo lên sườn đồi, lén sang đằng sau đánh thốc lên. Rút kinh nghiệm từ việc bị đánh úp
tại làng Yên Kỳ, lần này không vội vã rút chạy mà việc phản kích được tổ chức một cách
tích cực.
Quân đich ở đây rất có thể là đội quân giữ ngoại vi Yên Bái. Sau khi bị tấn công ở hai
mặt, họ phải rút lui. Đồng thời, về phía xa hơn lại nổi lên tiếng súng ròn rã, đây chắc là
anh em trong thị xã đánh ra tiếp ứng, giải nguy. Một lát sau, trên mặt đường đã không
còn đạn bay. Thừa cơ, cả đoàn người được lệnh cấp tốc chạy nước rút lên đằng trước.
Không bao lâu, đã tới gần thiết lộ, trông thấy cái cầu sắt đưa vào ga thị xã. Gần đó, tiếng
súng vẫn ròn rã nổ.
Giữa lúc đó, toán đoạn hậu dẫn tới hai dân quân Việt minh bị bắt trên đồi. Hai anh này
trông còn trẻ măng, chỉ độ 17, 18 tuổi, nói tiếng bản địa rất khó nghe. Chất vấn họ, được
biết rằng chủ lực quân Việt minh còn ở bờ bên kia sông Hồng, bên này lực lượng ít, nhưng
có thể phong toả con đường vào Yên Bái. Cần nhất là phải vượt qua được cầu sắt trên
đường thiết lộ đưa vào thị xã. Sau khi tước khí giới rồi thả hai người này, chúng tôi quyết
định bỏ đường cái trống trải, rẽ sang bên đường sắt, nấp sau bờ đường để tránh đạn.
Đây là giờ phút quyết định, quan trọng nhất của cuộc trường chinh. Nếu bị cản trở tại
bên này cầu thì sẽ lâm vào cảnh kẹt vào giữa hai luồng đạn của địch mà không nơi ẩn
nấp.
Đã đến cách cầu chỉ độ nửa cây số, đã trông thấy rõ ràng dẫy phố bên kia. Đây là một
cánh đồng rộng, bên này là công lộ và đường sắt, bên kia là con sông Hồng nước chẩy
rất gấp về xuôi, bên kia sông, mấy dẫy đồi thấp kéo dài. Hiển nhiên, quân địch bên đó
137 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
đã phát hiện chúng tôi, nên đạn bắt đầu bay vèo vèo trên đường sắt để cản trở. Nhưng
nhờ con đường sắt khá cao nên không trúng ai. Chỉ có khi qua một vài chỗ trống là phải
nép mình lội qua. Đằng trước, tiểu đội tiên phong đã tiến đến chân cầu. Nhưng không th
xông lên được vì trên cầu rất trống, nguy hiểm. Mà đằng sau, đã nổi lên tiếng súng địch
quấy nhiễu. Thực là nguy kịch!
Chúng tôi nhìn nhau. Trong khi nguy cấp lại thường sinh ra diệu kế. Thay vì phân tán lực
lượng để bắn trả, chúng tôi cho tập trung hoả lực, cả mấy khẩu súng máy còn lại, bắn
riết vào mấy vị trí gần nhất của địch. Quả nhiên, chịu không nổi, toán quân địch đó phải
rút khỏi bờ sông, lui xuống đồng ruộng để bắn chỉ thiên bừa bãi. Vì thế, áp lực trên cầu
giảm bớt trông thấy, cũng nhờ vì hỏa lực trong phố bắn ra, phối hợp. Thần tốc lợi dụng
cơ hội, toán tiên phong xông lên cầu và qua cầu rất nhanh, hội họp với anh em bên ấy
trong tiếng hoan hô rầm rĩ. Thế là, dưới sự yểm trợ của hai toán quân, làn sóng người
thục mạng chạy thốc lên cầu.
Thực là hú vía. Thoát một nạn lớn. Nhưng trong lúc này, cũng có cảnh hỗn loạn, xô đẩy
nhau, bất chấp kỷ luật đã quy định là phải nhường cho thương binh, phụ nữ qua trước.
Tuy vậy, không ảnh hưởng gì nhiều vì cầu cũng ngắn. Chỉ có việc một anh em bị thương
ở mắt do người cõng cũng bị xô đẩy đến nỗi té xuống ruộng nước bên cạnh đường sắt,
trông rất đáng thương. Nhưng cũng không sao vì có người cứu ngay và đưa qua cầu bình
yên.
Cuối cùng với nhóm đoạn hậu, tôi chạy qua cầu, tiến vào dẫy phố nhỏ. Ai cũng thở dài,
nhẹ nhõm, như trút được bao nhiêu nguy hiểm, trút được gánh nặng trên vai trong những
ngày rút chạy có một không hai.
Trừ một vài anh em đã hy sinh, một số nhỏ thất lạc, còn thì đều yên ổn đạt tới mục đích:
Yên Bái. ít ra, ở đây còn có thể chống giữ một thời gian để tìm cách củng cố chiến khu.
Cuộc Trường chinh 250 lý của quân Quốc Dân đảng Việt nam có thể gọi là đã kết thúc
một cách thuận lợi không ngờ. Mấy anh em chỉ huy Yên Bái đã đứng đợi sẵn. Mọi người
tay bắt mặt mừng, vừa vui vẻ, vừa ngậm ngùi, chuẩn bị đối phó với những thử thách
mới. Nhưng trước mắt, còn sống để trông thấy nhau, là một điều kỳ diệu. Chắc trong
những người còn lại, không ai quên được những ngày vừa trải qua và cuộc hội sư hiếm
có tại đầu cầu thị xã Yên Bái. Cũng như Tào Tháo trong truyện Tam Quốc ngày xưa, thua
chạy phờ râu đến chỗ nào yên ổn một tí là vỗ đầu kinh ngạc tại sao chỗ này không có
quân địch mai phục, mấy anh em trong bọn tôi đứng ở đầu thị xã, ngoảnh nhìn lại con
đường dài song song vừa chạy qua, cùng nhìn nhau, bụng nghĩ: tại sao Việt minh biết rõ
ràng con đường rút lui của Việt Quốc, mà trong cả một tuần, không tập trung được một
số quân để truy kích hay chặn đường vào Yên Bái?
Mà chính ngay tướng Hoàng Văn Thái đã từng là thượng khách bất đắc dĩ của chúng tôi,
cũng đã được ăn cháo lòng và xôi nắm ở đình Yên Kỳ, tại sao không nghĩ tới việc ấy. Đến
bây giờ, tôi cũng chưa hiểu tại sao!
Cũng may, vì thế, mình mới còn sống đến bây giờ.
138 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
CHƯƠNG 33 - TỪ YÊN BÁI - ĐẾN LÀO CAI
Hội sư tại đầu cầu Yên Bái khiến tất cả đều phấn chấn. Lực lượng hợp lại này cũng khả
quan, có thể ứng phó với nguy cơ trước mắt. Anh em ở đây cũng mừng rằng có mấy anh
trong Trung ương lên cẳm đầu, chia sẻ gánh nặng với họ, và sẽ có kế hoạch chu toàn
hơn.
Đây chỉ là một thị trấn mạn ngược, nằm giữa một cánh đồng, chung quanh núi rừng bao
bọc, khác hẳn với Phú Thọ, Việt Trì. Núi đá xanh, cao chọc lên mây, rừng âm u rậm rạp.
Con sông Hồng quanh co, chẩy gấp. Bờ bên kia có con đường đi Nghĩa Lộ. Vị trí chiến
lược tốt, nhưng cô lập. Nếu nối đi liền với những khu Bảo Hà, Tuyên Quang, Nghĩa Lộ thì
sẽ là một nơi tiến thoái được, khi áp dụng một chiến thuật linh hoạt hơn, với tinh thần du
kích. Nhưng tiếc rằng lúc đó, không có ai có đủ bản lĩnh thực hiện.
Yên Bái... một thị trấn lịch sử, anh hùng, bi tráng với cuộc khởi nghĩa oanh liệt của Việt
nam Quốc Dân đảng. Trước đây chỉ nửa năm, không bao giờ ngờ tới chúng tôi lại dẫn một
toán quân Việt Quốc đến đóng ở đây. Nhưng địch thủ lần này không phải là người Pháp,
mà chính lại là người Việt.
Bi kịch của thời đại... dạo qua mấy dẫy phố nằm dọc theo bờ sông, những cửa hàng thưa
thớt, nhiều nhà đóng cửa im lìm vì chiến sự, tôi lại trầm ngâm nghĩ tới quá khứ, tới thủa
còn thơ, trong đau thương của dân tộc. Nhìn xuống bến sông, thuyền bè cũng ít. Có lẽ
chỉ có một nơi vui nhất là nhà ga khi có chuyến xe lên xuống. Vì ít chuyến nên hành
khách đông nghịt, toàn những người gánh gồng buôn bán.
Có người trèo cả lên nóc xengồi vắt vẻo, có thể nói, đây là chuyến xe lửa phá ký lục chạy chậm thế giới, vì nó ỳ ạch,sùi sụt một cách đáng thương. Vì có những xạ thủ quái ác luôn luôn xỉa vào các chỗ trống,nên đi lại trong thành phố cũng phải rất thận trọng. Mà bên này không đủ lực lượng để
qua sông đánh đuổi. Tuy vậy, chiến sự đã dịu bớt dần dần.
Có lẽ vì còn phải đối phó với Pháp, Việt minh chưa dám làm mạnh quá tại Hà Nội, nhưng
đã bắt đầu khủng bố, vây khốn các đảng bộ Việt Quốc ở địa phương.
139 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Lợi dụng tình hình, chúng tôi tổ chức một cuộc hội nghị của Đệ Tam Khu, gồm cả Yên
Bái, Bảo Hà, Lào kai và Hà Giang - chỉ trừ có Vĩnh Yên, để bàn về việc củng cố các căn
cứ địa. Dự hội nghị có đại diện đảng, chính, quân của các khu đó. Hội nghị này đặc biệt
ở chỗ là hội nghị lớn đầu tiên của Quốc Dân đảng, họp trong một chiến khu của mình.
Phòng hội nghị được trang trí nghiêm trang và giản dị. Sau khi bấo cáo về tình hình
chung, và trình bắy rõ ràng những khó khăn trước mắt, anh em các khu đều thảo luận
nhiệt liệt. Trên thực tế lực lượng các nơi đều ít ỏi, nền tài chính cũng nguy ngập.
Việc Vĩnh Yên, Việt Trì và Phú Thọ đã mất làm cho mọi người bối rối, nhưng nói chung
tinh thần các anh em vẫn còn vững, đồng ý cố gắng giữ vững những địa phương còn lại
và tìm cách tuyên truyền trong quần chúng, để có thêm hậu thuẫn. Sau một ngày thảo
luận, hội nghị quyết định đặt Bộ Chỉ Huy Đệ Tam Khu tại Lào Cai để chỉ đạo toàn khu, rời
trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn lên trên đó, đồng thời để tăng cường tiền tuyến, để lại
một số binh sĩ, cán bộ cùng súng đạn ở Yên Bái, đủ ứng phó với sự tấn công của quân
địch.
Kế hoạch cụ thể gồm có mở rộng địa bàn chiếm cứ tại Lào Cai - Sapa và một phần
Hà Giang, tại Yên Bái, gắng sức đánh ra ngoài, liên tiếp với Bảo Hà và Nghĩa Lộ.
Một buổi sáng sau, chúng tôi đáp một chuyến xe hoả đặc biệt, cùng một toán cán bộ,
binh sĩ và sinh viên sĩ quan lên Lào Cai. Một chuyến xe võ trang, chuẩn bị rất cẩn thận,
đề phòng bị tấn công trên đường.
Từ Yên Bái đến Lào Cai, hành trình độ 150 cây số. Nhưng chuyến xe này ỳ ạch, mất cả
một ngày. Nó vốn đã chậm, lại phải leo núi, và không có than, phải dùng củi để đun cho
nước sôi. Tuy vậy, chính cũng vì thế mà chúng tôi có thì giờ để ngắm thưởng phong cảnh
nên thơ ở dọc đường. ở đây thực là cảnh mạn ngược, toàn núi cao rừng rậm hoang vu.
Đằng xa là rặng núi Phan-si-pan cao ngất trời. Con sông Hồng cuồn cuộn chảy, bọt nước
nổi lên trắng xóa trên mặt đá ghềnh. Thỉnh thoảng có những bản làng con con nằm trên
lưng chừng núi, đôi khi thấy bóng váy thêu của mấy cô gái dân tộc thiểu số, những con
ngựa thồ len lỏi trên đường núi treo leo. Có lúc chuyến xe mệt mỏi, phải nghỉ lại giữa
rừng để lấy nước, lấy củi chúng tôi ra ngồi nghỉ bên bờ suối ngắm bóng nắng xuyên qua
các ngọn cây.
Thực giống như một cuộc du lịch, hơn là một cuộc hành quân. Anh Hoàng Đạo cũng nhân
cơ hội, viết mấy chữ trong bút ký, để ghi chép cuộc du lịch có một không hai trên thế giới
này.
Giữa trưa, bình an tới ga Bảo Hà. Một dẫy phố nhỏ nằm giữa rừng núi, là một ngã tư
đường quan trọng. ở đây chỉ có một toán quân nhỏ đồn trú, tình hình còn yên ổn. Đời
sống êm đềm của cư dân chỉ có mỗi ngày mấy lần bị tiếng còi tàu quấy phá. Nhưng gần
đến Lào Cai, tình hình có phần gay go hơn. Có người báo chỉ mấy hôm trước, một toán
Việt minh đã đột nhiên đánh chiếm một nhà ga nhỏ chỉ cách Lào Cai mươi cây số. Chúng
tôi dự tính phải chạm trán với một cuộc đụng độ trên đường, nhưng rút cục không xẩy ra
sự gì. Chuyến tàu qua ga đó một cách thuận lợì, không ai cản trở hay phục kích. Có lẽ
Việt minh không biết trên chuyến xe hôm nay có quân sĩ và yếu nhân Quốc Dân đảng,
hay họ sợ bóng sợ viá. Dù sao, đây cũng là dấu hiệu khu vực này không êm đềm lắm...
140 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
Gần tối, mọi người xôn xao, vui mừng. Đã trông thấy những nóc nhà thấp thoáng trong
cây, trên một thung lũng bằng phẳng hơn: Lào Cai. Đoàn xe từ từ tiến vào sân ga. Một
số đông người đứng đón sẵn, vẫy tay từ xa.
Một cảnh tượng náo nhiệt, các anh em ra đón đông đảo, với đủ cờ sao trắng, biểu ngữ
chào mừng. Tuy đi đường mệt nhọc, nhưng tất cả đều thấy phấn khởi. Có thể gọi đây lại
là một cuộc hội sư thứ hai, mang thêm lực lượng để tăng cường phòng thủ, dù không
nhiều.
Sau khi xếp đặt chỗ trú ngụ của mọi người, chúng tôi được đưa tới trụ sở Tỉnh chính phủ,
tức là dinh Công sứ cũ. Lạ thực! Sao mình vẫn có duyên với mấy tay Công sứ cũ và cứ
phải tiếp quản dinh thự của chúng? Đây mới chính là thay bực đổi ngôi. Nhưng rồi sẽ
đứng được bao lâu Dinh Công sứ cũ trên sườn đồi, nhiều cây cối bao vây mát mẻ. Vì thị
xã này như nằm trong lòng chảo, mùa nực nóng ghê gớm, cộng với những luồng gió Lào
thổi như quạt lửa vào mặt. Lào Cai giáp giới với Hà Khẩu bên Vân Nam, cách một con
sông Nan Ti (Nam Khê) nhỏ, trên có cầu thông đường sắt. Mấy dẫy phố lụp xụp, tiêu
điều.
Nhưng qua một con sông, thì tới khu Cốc Lếu, một khu buôn bán nhỏ, thịnh vượng
hơn, cũng là nhờ ở sự hiện diện của một sòng bạc. Lào Cai sống được về thuế thu của
sòng bạc và các phiên chợ... Một lần, buổi tối, anh Long và tôi vào sòng bạc xem tình
hình. Đèn sáng choang, khách tấp nập ồn ào, đủ các giống người, các thứ tiếng, đương
sát phạt nhau, như không có chiến sự gì cả. Có sòng bạc, tất nhiên có nhiều thứ bê bối,
ảnh hưởng không tốt tới dân chúng. Nhưng biết làm sao?
Nghỉ ngơi một hôm, phải bắt đầu vào công việc. ở đây, đã có Tỉnh đảng bộ, tỉnh chính
phủ và một quân khu như các tỉnh khác. Địa bàn cũng chỉ gồm một vùng không rộng
lắm. Tất cả cũng không tới một trăm tay súng, nhưng ngoài có toán quân của anh Triệu
Quốc lộc - người Thổ- có thể tiếp ứng.
Để điều chỉnh lại tổ chức địa phương, Bộ Chỉ Huy tnệu tập một hội nghị cán bộ, cổ võ
tinh thần đấu tranh của mọi anh em, nhưng đồng thời cũng trình bày rõ tình thế phức
tạp và khó khăn. Một mặt, cũng tổ chức một cuộc tập hợp và biểu tình của dân chúng,
có chức viên, học sinh và dân phố tham dự. Tôi đại diện cho Trung ương nói truyện với
dân chúng. Cũng có đủ cờ quạt kèn trống, biểu ngữ... song quần chúng không đông đảo
lắm.
Nhưng, thời cục biến chuyển quá nhanh.
Quân Trung Hoa rút hết. Quân Pháp ấn binh bất động. Việt cách đã rút khỏi miền duyên
hải về Quảng Tây. Quốc Dân đảng lâm vào cảnh cô lập chưa từng có. Việt Trì, Phú Thọ
đã mất. Vĩnh Yên như trứng để đầu đẳng.
Bỗng một hôm, một anh em đưa điện báo từ Hà Nội lên.
- Các anh xem. Tin gấp.
Tôi đưa bức điện cho anh Vũ và anh Long. Cả ba chăm chú đọc những hàng chữ:
Trụ sở Trung ương, tòa báo, và mấy trụ sở khác đã bị bủng bố. Một số anh em bị thương
và bị bắt- Anh Ba đã rời Hà Nội.
Liền ngay sau đó, lại có điện báo:
140 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien
Vĩnh Yên bị đánh riết... Khu bộ Bắc Ninh đã pbải rút theo đường Lạng Sơn... các nơi đều
lui vào bí mật.
Chúng tôi nhìn nhau. Việt minh đã bắt đầu tổng hành động. Tại Hà Nội, thế tất hoạt động
của Trung ương Việt Quốc sẽ bị tê liệt. Bộ phận Bắc Ninh - Đáp cầu, một khu bộ quan
trọng, không rõ có thể an toàn rút tới biên giới không? Cục thế nghiêm trọng. Nếu Vĩnh
Yên mất, và Yên Bấi bị cô lập thì rồi địa phương duy nhất còn lại sẽ là khu Bảo Hà-Lào
Cai. Với lực lượng mong manh hiện nay, có thể chống giữ được bao lâu. Cần tìm ngay
được biện pháp cứu vãn tình thế.
Để tăng cường hoạt động ngoại vận, tranh thủ Trung quốc và Đồng minh giúp đỡ cho
phái quốc gia Việt nam, chúng tôi đồng ý phái anh Long lên ngay Côn Minh để hợp tác
với anh Tam. Lúc này, Bảo Đại cũng đã sang bên Trung Hoa. Vì đường xe hoả từ Hà Khẩu
đến Mông Tự đã bị bóc hết trong thời kỳ chiến tranh, nên toán anh Long phải đi bằng
đường bộ tới Mông Tự, rồi từ đó đáp xe đi Côn Minh. Đường đi không những mệt nhọc
mà còn nguy hiểm vì thường bị thổ phỉ quấy nhiễu.
Thực tế ngoại giao lúc này cũng không có hy vọng đưa đến kỳ tích. Vì lực lượng người
Việt Quốc gia quá ít, quá yếu, lại thiếu hậu thuẫn quần chúng. Lãnh đạo thiếu sách lược
đúng đường, chủ động và có viễn kiến. Trong hàng ngũ các tổ chức quốc gia thiếu đoàn
kết, kỷ luật thống nhất. Nhiều anh em giầu lòng ái quốc, muốn hiến thân cho độc lập tự
do của dân tộc, nhưng rút cục cũng lâm vào cảnh bế tắc, thậm chí hy sinh nhưng không
đưa tới kết quả tốt đẹp. Nếu cứ như thế này mãi, thì sẽ đi tới đâu, thực là rõ ràng. Thất
bại, hy sinh, tan rời, trách nhiệm chính đương nhiên do những người câm đầu phải chịu,
tuy nhiên chính mọi anh em từ cấp trên xuống cấp đưới đêu là có tinh thần hy sinh, đều
đã chịu đựng nhiều gian khổ. Trong bao đêm liền, trên toà nhà góc đồi này, tôi không
chợp được mắt, để suy nghĩ về một lối ra trong cục thế trước mắt, và xa hơn nữa, về con
đường tương lai của đất nước. Việt nam cần phải đi con đường nào? Theo chủ trương thế
nào mới đạt tới tự do và hạnh phúc chân chính. Muốn củng cố, mở rộng chiến khu. Nhưng
khó lòng tìm ra người, ra súng, ra tiền? Trở về hợp tác với Việt minh để cùng chống quân
Pháp xâm lăng? Nhưng kết cục sẽ chỉ là bị tiêu diệt hay đầu hàng, đoàn kết chống giặc
không thể thực hiện được dù nghe rất hay trên lý thuyết.
Từ một năm nay, do dự, bị động, tự mãn đã là lỗi lầm chí mạng...
Rồi lại đến tin Vĩnh Yên bị tấn công rồn rập. Chẳng bao lâu, thủ quân vô viện phải ra
hàng và chịu nạp vào biên chế của Việt minh. Mấy người chỉ huy bị bắt giam.
Tình hình Yên Bái lại trở nên nguy ngập hơn bao giờ hết. Chúng tôi phải điều động một
số binh sĩ xuống trợ giúp, cố giữ tiền đồn trọng yếu này. Nhưng ngay lúc ấy, chung quanh
Lào Cai cũng đã bùng lên tiếng súng. Từ bên Hà Giang, toán binh của Triệu Quốc Lộc bị
tấn công, cũng phải rút chạy về vùng Bảo Hà. Chưa thấy có viện trợ từ ngoài vào. Đâu
đâu cũng cáo cấp.
Bộ chỉ huy và các anh em hội họp, cuối cùng quyết định không chờ đợi nữa, phái tôi và
một số cán bộ sang Vân Nam cầu viện, xem có thê trông mong gì về những tay quân
phiệt ở đó Nhưng đồng thời, một mục đích không công khai ra là để tìm hiểu các đảng bộ
142 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
của Việt Quốc ở hải ngoại để vạn nhất, tổ chức lại làm chỗ đứng sau này và đi tlm một
con đường khác mong thoát khỏi bế tắc.
Với một tâm tình phức tạp, tôi sửa soạn ra đi. Lúc đó, còn hy vọng phần nào về tương lai
khu căn cứ nhỏ này, cũng hy vọng có ít quân, ít súng đưa về để cầm cự một thời gian,
đọ cơ hội. Nhưng vấn đề chính không phải là binh với súng, mà ra ngoàí, còn có thể gắng
tìm một con đường hành động khác, gây ra một cục diện khác trong đó công tác trọng
tâm phải là chống Pháp, chứ không phải là chống Việt minh. Vì tôi nghĩ, nếu mình không
chống quân xâm lược, thì không sao lôi cuốn được quần chúng, không gây được thế lực
mạnh.
Cần phải tìm ra một chủ trương thích họp với nguyện vọng và khâ năng của đại đa số
dân chúng. Nhưng, trong đầu óc chúng tôi, tương lai vẫn còn mờ mịt. Đây là một con
đường cheo leo giữa hai thế lực mạnh, rất mong manh.
Song với lòng bồng bột của tuổi trẻ, người ta thường không suy nghĩ nhiều, thường dám
dấn thân vào mạo hiểm. Tôi nghĩ, nhiều lắm là vài tháng, một năm, tình hình sẽ có biến
đổi, lúc đó hãy tính sau. Nếu lúc đó, tôi đoán trước được là sẽ phải phiêu bạt nước ngoài
hàng mấy chục năm, thì có lẽ còn do dự hơn nữa.
Lại nghĩ đến những bậc tiền bối đã lưu lạc đất người từ đầu thế kỷ, đã có bao nhiêu người
không trở về với quê hương. Mệnh vận, nhiều khi cũng đắng cay, bất công: những người
có tâm huyết, có tài năng lại thường chịu đầy đọa nhất, còn những kẻ túi cơm áo giá,
tham danh vụ lọ lại vẫn sống đàng hoàng, hưởng thụ. Giá trị con người chính là ở chỗ
biết dấn thân, biết hy sinh, dù có thất bại.
Hình như hiểu thấu tâm lý trên, để khuyến khích chúng tôi, anh em làm một bữa tiệc để
đưa tiễn. Thực đơn rất giản dị nhưng cũng đủ món, và đồng thời cũng để thết đãi mấy
giáo quan người Nhật tại trường Lục Quân. Vì tôi nghĩ, mấy người Nhật này cũng là lưu
vong ở đây và có lòng giúp mình, nhờ họ mà công việc huấn luyện có kết quả tốt đẹp.
Một bữa cơm không thịnh soạn, nhưng chắc chắn là phong phú nhất đối với họ từ khi gia
nhập hàng ngũ Quốc Dân đảng. Anh Vũ, mọi anh em bịn rịn nâng cốc rượu trắng chúc
blnh an lên đường. Các sĩ quan Nhật cũng tỏ rất hào hứng, uống rất hăng. Vì lưu lạc,
sống chết không biết lúc nào, và rất có thể bị Đồng minh bắt, đem ra xử...
Giữa bữa tiệc, một sĩ quan - tên là Hùng - giáo vụ trưởng - tự động đứng ra múa kiếm,
rồi gõ chén hát một bài tạm biệt bằng tiếng Nhật. Tiếng hát, chúng tôi không nghe hiểu,
nhưng giọng hát bi thương, đặt biệt rền rĩ của tiếng Nhật khiến chúng tôi rung cảm. Chỉ
có những người trong cảnh gian truân, ly biệt mới nghe thấu được giọng hát ấy. Ba người
Nhật vừa hát theo dịp gõ vừa rơm rớm nước mắt. Trong thâm tâm, tôi cũng mong muốn
cho họ sớm được trở về với tổ quốc, với gia đình, sống được cuộc đời thường dân, quên
đứt những ngày tội lỗi đã qua.
Thế rồi, một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1946, chúng tôi tất cả tám người, rời bỏ dinh
Công sứ cũ Lào Cai, xuống đến đầu cầu sang Hà Khẩu. Một cái cầu sắt không dài, trên
sông Nam Khê. Đứng ở đầu cầu, nhìn lại giang sơn, núi rùng bát ngát, sông Hồng cuồn
cuộn, dẫy núi Hoàng Liên sừng sững ở xa xa. Đất nước rộng mênh mang như thế, nhưng
143 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
sao nay lại không một chỗ dung thân yên lành. Gạt bỏ những ý nghĩ bi quan, chia tay với
các anh em ra tiễn, chúng tôi bước thẳng qua cầu, sang đất Hà Khẩu.
Đây là chỗ mà tôi đặt chân đầu tiên lên đất Trung Hoa.
Cũng là một thị trấn nhỏ nằm trong một thung lũng, hai bên là núi rừng, ở giữa con sông
Nam Khê chẩy gấp. Con đường sắt lách mình giữa giòng sông và vách đá.
Có giấy giới thiệu chúng tôi vào dinh Đốc Biện (viên chức trấn thủ) làm giấy tờ nhập
cảnh. Rồi, do một anh em ngày trước có làm việc trong quân đội Trung Hoa dẫn đường,
chúng tôi men theo nền đường sắt, dọc sông, tiến lên, mở đầu cho một cuộc hành trình
đặc biệt gian nan nhưng cũng đầy thú vị: đi bộ từ Hà Khẩu lên Mông Tự, cách nhau 170
cây số.
Đến đây chấm dứt quãng đời ngắn ngủi chưa đầy hai tháng của tôi ở chiến khu ba...
Nhưng đó là một quãng đời khi rất hào hùng, khi rất nên thơ, một quãng đời đầy hy vọng
và đầy thất vọng. Không ai ngờ được là từ một nhà báo, một bác sĩ, thời cuộc đã xô đẩy
tôi nghiễm nhiên đóng vai một người chỉ huy cả văn lẫn võ trong một chiến khu, rồi lại
dẫn một cuộc trường chinh đến mục đích. Nhưng nay lại bắt đầu một cuộc hành trình
gian truân và sôi nổi khác, cuộc hành trình này sẽ gần như vô tận.
Vì đã mắc những lỗi lầm nghiêm trọng trong công cuộc đưa tới thất bại, chúng tôi không
khỏi thấy bùi ngùi vô hạn. Từ lúc tham gia cách mệnh tám năm trước đây với tấm lòng
chân thành, vô tư, không tham vọng, không màng danh lợi, bao nhiêu anh em nay mỗi
người một số phận. Nhưng chúng tôi không được phép bi quan. Hoài bão không thay đổi
là đi tìm chân lý, gắng tìm một con đường hạnh phúc cho cả dân tộc, trong đó có chính
mình. Không có gì có thể lay chuyển được ý niệm này, mặc dầu thần vận mệnh vẫn không
ngừng theo rõi chúng tôi và sẽ đưa tới những bờ bến không ai ngờ tới.
Cái cầu sắt Lào Cai, sông Hồng, núi rừng quê hương, đã dần dần mất hút tận chân trời,
khi tôi tạm dừng bước, quay đầu lại...
Tạm biệt, cố hương!
----------------------- Hết------------------------
Nguồn:http://isach.info/story.php?story=viet_nam_mot_the_ky_qua__nguyen_tuong_
bach&chapter=036
Giới Thiệu Tác Giả
Bác sĩ Nguyễn Tường Bách (1916-2013)
FOUNTAIN VALLEY, California (NV) - Cụ Nguyễn Tường Bách, người con út của gia đình
Nguyễn Tường đầy tài năng về văn học đã xuất bản hai tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay
cùng thành lập Tự Lực Văn Ðoàn từ thập niên 1930 của thế kỷ trước, vừa qua đời tại bệnh
viện Fountain Valley, Nam California, vào lúc 2 giờ 15 phút chiều ngày 11/5/2013, hưởng
144 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
thọ 97 tuổi. Tin từ gia đình cho hay cụ mất vì tuổi quá cao, thời gian gần đây ngày càng
yếu dần, và đã thanh thản ra đi hôm nay.
Cụ Nguyễn Tường Bách. (Hình: Gia đình cung cấp)
Cụ Nguyễn Tường Bách sinh năm 1916 tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, từ một
gia đình gốc làng Cẩm Phô, phủ Ðiện Bàn, tỉnh Quảng Nam dời ra sinh sống tại miền
Bắc từ hai đời trước. Trừ người anh cả Nguyễn Tường Thụy là công chức không dính líu
đến văn nghệ và chính trị, các người em em còn lại: Nguyễn Tường Cẩm, Nhất Linh -
Nguyễn Tường Tam, Tứ Ly, Hoàng Ðạo - Nguyễn Tường Long, Nguyễn Thị Thế, Thạch
Lam - Nguyễn Tường Lân, và người em út, Viễn Sơn - Nguyễn Tường Bách, đều là
những người tham dự vào văn chương.
Từ thời trẻ, Nguyễn Tường Bách đã viết báo, làm thơ, viết truyện ngắn đăng trên hai tờ
báo Phong Hóa và Ngày Nay.
Từng theo học trường Bưởi, trường Albert Saurraut, đại học Y Khoa Hà Nội, tốt nghiệp
bác sĩ năm 1944.
Năm 1939, cụ tham gia đảng Ðại Việt Dân Chính cùng Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Gia
Trí, Khái Hưng, Nguyễn Tường Long, v.v... Năm 1942 Thạch Lam qua đời, Nguyễn
Tường Bách phụ trách nhà xuất bản Ðời Nay.
Năm 1943 Ðại Việt Dân Chính hợp nhất với Việt Nam Quốc Dân Ðảng.
Năm 1945 VNQDÐ kết hợp với Ðại Việt Quốc Dân Ðảng dưới danh nghĩa chung Quốc
Dân Ðảng.
Tháng Ba năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, cụ làm giám đốc tờ Ngày Nay bộ
mới với sự cộng tác của Khái Hưng, Hoàng Ðạo, hô hào độc lập, dân chủ.
Tháng Năm năm 1945 Việt Minh cướp chính quyền, cụ cùng với Việt Nam Cách Mệnh
Ðồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Ðảng ra hoạt động công khai. Ông giữ chức ủy viên
trung ương, phụ trách tờ Việt Nam chống đối chính sách của đảng Cộng Sản, rồi phụ
lui vào bí mật.
Chúng tôi nhìn nhau. Việt minh đã bắt đầu tổng hành động. Tại Hà Nội, thế tất hoạt động
của Trung ương Việt Quốc sẽ bị tê liệt. Bộ phận Bắc Ninh - Đáp cầu, một khu bộ quan
trọng, không rõ có thể an toàn rút tới biên giới không? Cục thế nghiêm trọng. Nếu Vĩnh
Yên mất, và Yên Bấi bị cô lập thì rồi địa phương duy nhất còn lại sẽ là khu Bảo Hà-Lào
Cai. Với lực lượng mong manh hiện nay, có thể chống giữ được bao lâu. Cần tìm ngay
được biện pháp cứu vãn tình thế.
Để tăng cường hoạt động ngoại vận, tranh thủ Trung quốc và Đồng minh giúp đỡ cho
phái quốc gia Việt nam, chúng tôi đồng ý phái anh Long lên ngay Côn Minh để hợp tác
với anh Tam. Lúc này, Bảo Đại cũng đã sang bên Trung Hoa. Vì đường xe hoả từ Hà Khẩu
đến Mông Tự đã bị bóc hết trong thời kỳ chiến tranh, nên toán anh Long phải đi bằng
đường bộ tới Mông Tự, rồi từ đó đáp xe đi Côn Minh. Đường đi không những mệt nhọc
mà còn nguy hiểm vì thường bị thổ phỉ quấy nhiễu.
Thực tế ngoại giao lúc này cũng không có hy vọng đưa đến kỳ tích. Vì lực lượng người
Việt Quốc gia quá ít, quá yếu, lại thiếu hậu thuẫn quần chúng. Lãnh đạo thiếu sách lược
đúng đường, chủ động và có viễn kiến. Trong hàng ngũ các tổ chức quốc gia thiếu đoàn
kết, kỷ luật thống nhất. Nhiều anh em giầu lòng ái quốc, muốn hiến thân cho độc lập tự
do của dân tộc, nhưng rút cục cũng lâm vào cảnh bế tắc, thậm chí hy sinh nhưng không
đưa tới kết quả tốt đẹp. Nếu cứ như thế này mãi, thì sẽ đi tới đâu, thực là rõ ràng. Thất
bại, hy sinh, tan rời, trách nhiệm chính đương nhiên do những người câm đầu phải chịu,
tuy nhiên chính mọi anh em từ cấp trên xuống cấp đưới đêu là có tinh thần hy sinh, đều
đã chịu đựng nhiều gian khổ. Trong bao đêm liền, trên toà nhà góc đồi này, tôi không
chợp được mắt, để suy nghĩ về một lối ra trong cục thế trước mắt, và xa hơn nữa, về con
đường tương lai của đất nước. Việt nam cần phải đi con đường nào? Theo chủ trương thế
nào mới đạt tới tự do và hạnh phúc chân chính. Muốn củng cố, mở rộng chiến khu. Nhưng
khó lòng tìm ra người, ra súng, ra tiền? Trở về hợp tác với Việt minh để cùng chống quân
Pháp xâm lăng? Nhưng kết cục sẽ chỉ là bị tiêu diệt hay đầu hàng, đoàn kết chống giặc
không thể thực hiện được dù nghe rất hay trên lý thuyết.
Từ một năm nay, do dự, bị động, tự mãn đã là lỗi lầm chí mạng...
Rồi lại đến tin Vĩnh Yên bị tấn công rồn rập. Chẳng bao lâu, thủ quân vô viện phải ra
hàng và chịu nạp vào biên chế của Việt minh. Mấy người chỉ huy bị bắt giam.
Tình hình Yên Bái lại trở nên nguy ngập hơn bao giờ hết. Chúng tôi phải điều động một
số binh sĩ xuống trợ giúp, cố giữ tiền đồn trọng yếu này. Nhưng ngay lúc ấy, chung quanh
Lào Cai cũng đã bùng lên tiếng súng. Từ bên Hà Giang, toán binh của Triệu Quốc Lộc bị
tấn công, cũng phải rút chạy về vùng Bảo Hà. Chưa thấy có viện trợ từ ngoài vào. Đâu
đâu cũng cáo cấp.
Bộ chỉ huy và các anh em hội họp, cuối cùng quyết định không chờ đợi nữa, phái tôi và
một số cán bộ sang Vân Nam cầu viện, xem có thê trông mong gì về những tay quân
phiệt ở đó Nhưng đồng thời, một mục đích không công khai ra là để tìm hiểu các đảng bộ
142 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
của Việt Quốc ở hải ngoại để vạn nhất, tổ chức lại làm chỗ đứng sau này và đi tlm một
con đường khác mong thoát khỏi bế tắc.
Với một tâm tình phức tạp, tôi sửa soạn ra đi. Lúc đó, còn hy vọng phần nào về tương lai
khu căn cứ nhỏ này, cũng hy vọng có ít quân, ít súng đưa về để cầm cự một thời gian,
đọ cơ hội. Nhưng vấn đề chính không phải là binh với súng, mà ra ngoàí, còn có thể gắng
tìm một con đường hành động khác, gây ra một cục diện khác trong đó công tác trọng
tâm phải là chống Pháp, chứ không phải là chống Việt minh. Vì tôi nghĩ, nếu mình không
chống quân xâm lược, thì không sao lôi cuốn được quần chúng, không gây được thế lực
mạnh.
Cần phải tìm ra một chủ trương thích họp với nguyện vọng và khâ năng của đại đa số
dân chúng. Nhưng, trong đầu óc chúng tôi, tương lai vẫn còn mờ mịt. Đây là một con
đường cheo leo giữa hai thế lực mạnh, rất mong manh.
Song với lòng bồng bột của tuổi trẻ, người ta thường không suy nghĩ nhiều, thường dám
dấn thân vào mạo hiểm. Tôi nghĩ, nhiều lắm là vài tháng, một năm, tình hình sẽ có biến
đổi, lúc đó hãy tính sau. Nếu lúc đó, tôi đoán trước được là sẽ phải phiêu bạt nước ngoài
hàng mấy chục năm, thì có lẽ còn do dự hơn nữa.
Lại nghĩ đến những bậc tiền bối đã lưu lạc đất người từ đầu thế kỷ, đã có bao nhiêu người
không trở về với quê hương. Mệnh vận, nhiều khi cũng đắng cay, bất công: những người
có tâm huyết, có tài năng lại thường chịu đầy đọa nhất, còn những kẻ túi cơm áo giá,
tham danh vụ lọ lại vẫn sống đàng hoàng, hưởng thụ. Giá trị con người chính là ở chỗ
biết dấn thân, biết hy sinh, dù có thất bại.
Hình như hiểu thấu tâm lý trên, để khuyến khích chúng tôi, anh em làm một bữa tiệc để
đưa tiễn. Thực đơn rất giản dị nhưng cũng đủ món, và đồng thời cũng để thết đãi mấy
giáo quan người Nhật tại trường Lục Quân. Vì tôi nghĩ, mấy người Nhật này cũng là lưu
vong ở đây và có lòng giúp mình, nhờ họ mà công việc huấn luyện có kết quả tốt đẹp.
Một bữa cơm không thịnh soạn, nhưng chắc chắn là phong phú nhất đối với họ từ khi gia
nhập hàng ngũ Quốc Dân đảng. Anh Vũ, mọi anh em bịn rịn nâng cốc rượu trắng chúc
blnh an lên đường. Các sĩ quan Nhật cũng tỏ rất hào hứng, uống rất hăng. Vì lưu lạc,
sống chết không biết lúc nào, và rất có thể bị Đồng minh bắt, đem ra xử...
Giữa bữa tiệc, một sĩ quan - tên là Hùng - giáo vụ trưởng - tự động đứng ra múa kiếm,
rồi gõ chén hát một bài tạm biệt bằng tiếng Nhật. Tiếng hát, chúng tôi không nghe hiểu,
nhưng giọng hát bi thương, đặt biệt rền rĩ của tiếng Nhật khiến chúng tôi rung cảm. Chỉ
có những người trong cảnh gian truân, ly biệt mới nghe thấu được giọng hát ấy. Ba người
Nhật vừa hát theo dịp gõ vừa rơm rớm nước mắt. Trong thâm tâm, tôi cũng mong muốn
cho họ sớm được trở về với tổ quốc, với gia đình, sống được cuộc đời thường dân, quên
đứt những ngày tội lỗi đã qua.
Thế rồi, một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1946, chúng tôi tất cả tám người, rời bỏ dinh
Công sứ cũ Lào Cai, xuống đến đầu cầu sang Hà Khẩu. Một cái cầu sắt không dài, trên
sông Nam Khê. Đứng ở đầu cầu, nhìn lại giang sơn, núi rùng bát ngát, sông Hồng cuồn
cuộn, dẫy núi Hoàng Liên sừng sững ở xa xa. Đất nước rộng mênh mang như thế, nhưng
143 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
sao nay lại không một chỗ dung thân yên lành. Gạt bỏ những ý nghĩ bi quan, chia tay với
các anh em ra tiễn, chúng tôi bước thẳng qua cầu, sang đất Hà Khẩu.
Đây là chỗ mà tôi đặt chân đầu tiên lên đất Trung Hoa.
Cũng là một thị trấn nhỏ nằm trong một thung lũng, hai bên là núi rừng, ở giữa con sông
Nam Khê chẩy gấp. Con đường sắt lách mình giữa giòng sông và vách đá.
Có giấy giới thiệu chúng tôi vào dinh Đốc Biện (viên chức trấn thủ) làm giấy tờ nhập
cảnh. Rồi, do một anh em ngày trước có làm việc trong quân đội Trung Hoa dẫn đường,
chúng tôi men theo nền đường sắt, dọc sông, tiến lên, mở đầu cho một cuộc hành trình
đặc biệt gian nan nhưng cũng đầy thú vị: đi bộ từ Hà Khẩu lên Mông Tự, cách nhau 170
cây số.
Đến đây chấm dứt quãng đời ngắn ngủi chưa đầy hai tháng của tôi ở chiến khu ba...
Nhưng đó là một quãng đời khi rất hào hùng, khi rất nên thơ, một quãng đời đầy hy vọng
và đầy thất vọng. Không ai ngờ được là từ một nhà báo, một bác sĩ, thời cuộc đã xô đẩy
tôi nghiễm nhiên đóng vai một người chỉ huy cả văn lẫn võ trong một chiến khu, rồi lại
dẫn một cuộc trường chinh đến mục đích. Nhưng nay lại bắt đầu một cuộc hành trình
gian truân và sôi nổi khác, cuộc hành trình này sẽ gần như vô tận.
Vì đã mắc những lỗi lầm nghiêm trọng trong công cuộc đưa tới thất bại, chúng tôi không
khỏi thấy bùi ngùi vô hạn. Từ lúc tham gia cách mệnh tám năm trước đây với tấm lòng
chân thành, vô tư, không tham vọng, không màng danh lợi, bao nhiêu anh em nay mỗi
người một số phận. Nhưng chúng tôi không được phép bi quan. Hoài bão không thay đổi
là đi tìm chân lý, gắng tìm một con đường hạnh phúc cho cả dân tộc, trong đó có chính
mình. Không có gì có thể lay chuyển được ý niệm này, mặc dầu thần vận mệnh vẫn không
ngừng theo rõi chúng tôi và sẽ đưa tới những bờ bến không ai ngờ tới.
Cái cầu sắt Lào Cai, sông Hồng, núi rừng quê hương, đã dần dần mất hút tận chân trời,
khi tôi tạm dừng bước, quay đầu lại...
Tạm biệt, cố hương!
----------------------- Hết------------------------
Nguồn:http://isach.info/story.php?story=viet_nam_mot_the_ky_qua__nguyen_tuong_
bach&chapter=036
Giới Thiệu Tác Giả
Bác sĩ Nguyễn Tường Bách (1916-2013)
FOUNTAIN VALLEY, California (NV) - Cụ Nguyễn Tường Bách, người con út của gia đình
Nguyễn Tường đầy tài năng về văn học đã xuất bản hai tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay
cùng thành lập Tự Lực Văn Ðoàn từ thập niên 1930 của thế kỷ trước, vừa qua đời tại bệnh
viện Fountain Valley, Nam California, vào lúc 2 giờ 15 phút chiều ngày 11/5/2013, hưởng
144 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.net
thọ 97 tuổi. Tin từ gia đình cho hay cụ mất vì tuổi quá cao, thời gian gần đây ngày càng
yếu dần, và đã thanh thản ra đi hôm nay.
Cụ Nguyễn Tường Bách. (Hình: Gia đình cung cấp)
Cụ Nguyễn Tường Bách sinh năm 1916 tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, từ một
gia đình gốc làng Cẩm Phô, phủ Ðiện Bàn, tỉnh Quảng Nam dời ra sinh sống tại miền
Bắc từ hai đời trước. Trừ người anh cả Nguyễn Tường Thụy là công chức không dính líu
đến văn nghệ và chính trị, các người em em còn lại: Nguyễn Tường Cẩm, Nhất Linh -
Nguyễn Tường Tam, Tứ Ly, Hoàng Ðạo - Nguyễn Tường Long, Nguyễn Thị Thế, Thạch
Lam - Nguyễn Tường Lân, và người em út, Viễn Sơn - Nguyễn Tường Bách, đều là
những người tham dự vào văn chương.
Từ thời trẻ, Nguyễn Tường Bách đã viết báo, làm thơ, viết truyện ngắn đăng trên hai tờ
báo Phong Hóa và Ngày Nay.
Từng theo học trường Bưởi, trường Albert Saurraut, đại học Y Khoa Hà Nội, tốt nghiệp
bác sĩ năm 1944.
Năm 1939, cụ tham gia đảng Ðại Việt Dân Chính cùng Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Gia
Trí, Khái Hưng, Nguyễn Tường Long, v.v... Năm 1942 Thạch Lam qua đời, Nguyễn
Tường Bách phụ trách nhà xuất bản Ðời Nay.
Năm 1943 Ðại Việt Dân Chính hợp nhất với Việt Nam Quốc Dân Ðảng.
Năm 1945 VNQDÐ kết hợp với Ðại Việt Quốc Dân Ðảng dưới danh nghĩa chung Quốc
Dân Ðảng.
Tháng Ba năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, cụ làm giám đốc tờ Ngày Nay bộ
mới với sự cộng tác của Khái Hưng, Hoàng Ðạo, hô hào độc lập, dân chủ.
Tháng Năm năm 1945 Việt Minh cướp chính quyền, cụ cùng với Việt Nam Cách Mệnh
Ðồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Ðảng ra hoạt động công khai. Ông giữ chức ủy viên
trung ương, phụ trách tờ Việt Nam chống đối chính sách của đảng Cộng Sản, rồi phụ
145 Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua - Nguyễn Tường Bách www.vietnamvanhien.
trách công tác tuyên truyền, công tác tổ chức đảng.
Cụ sáng lập Quốc Gia Thanh Niên Ðoàn, giữ chức nhiệm đoàn trưởng.
Tháng Năm, 1946, tình thế cấp bách cụ lên Ðệ Tam Chiến Khu (gồm từ Vĩnh Yên tới Lao
Kay), phụ trách chỉ huy bộ cùng với Vũ Hồng Khanh. Tháng Sáu, 1946, Việt Minh tăng
cường vũ trang công kích, Tháng Bảy phải rút lên Yên Bái, Lao Kay. Tháng Tám, 1946
cụ sang Trung Quốc hoạt động ngoại viện và liên lạc với các tổ chức người Việt ở hải
ngoại.
Cuối năm 1946 cụ lập gia đình với bà Hứa Bảo Liên tại Côn Minh.
Năm 1947, cụ từ Vân Nam sang Hồng Kông. Quốc Dân Ðảng không tán thành giải pháp
Bảo Ðại với những điều kiện Pháp đưa ra và chủ trương tiếp tục hoạt động bí mật.
Tháng Tám, 1948, Hoàng Ðạo đột nhiên mất trên xe lửa từ Hồng Kông về Quảng Châu.
Tình thế Trung Quốc biến chuyển. Một số anh em trở về quốc nội. Vì không muốn trở về
khu Pháp, cụ cùng một số anh em ở lại Trung Quốc. Từ năm 1950 cụ hành nghề bác sĩ
tại Phật Sơn, Quảng Ðông, cho tới khi về hưu.
Năm 1988 cụ di dân sang Hoa Kỳ, định cư tại Nam California.
Ở hải ngoại cụ tiếp tục hoạt động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam, góp
sức vào sự đoàn kết và tổ chức một số phong trào liên minh và mặt trận. Cụ là một
trong những sánglập viên, và sau giữ chức cố vấn của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt
Nam và là tác giả cuốn tiểu thuyết Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn và tập hồi ký Việt Nam
Một Thế Kỷ Qua phần I (1998) và phần II (2001), 40 Năm Sống Ở Trung Quốc. Cụ viết
nhiều bài bình luận và bút ký cho một số báo hải ngoại, dưới bút hiệu Viễn Sơn.
Cụ Nguyễn Tường Bách qua đời, như đánh dấu là người cuối cùng của một thời đại văn
học rực rỡ nhất của Việt Nam trong thế kỷ 20, và đó cũng là thời đại của hoạt động
chính trị cách mạng phức tạp đưa Việt Nam vào nhiều ngõ rẽ, mà ảnh hưởng đến ngày
nay vẫn chưa chấm dứt.
(Nguồn Người Việt)
Nguồn: http://www.dutule.com/D_1-2_2-94_4-5246/bac-si-nguyen-tuong-bach-quadoi.
html
Cụ sáng lập Quốc Gia Thanh Niên Ðoàn, giữ chức nhiệm đoàn trưởng.
Tháng Năm, 1946, tình thế cấp bách cụ lên Ðệ Tam Chiến Khu (gồm từ Vĩnh Yên tới Lao
Kay), phụ trách chỉ huy bộ cùng với Vũ Hồng Khanh. Tháng Sáu, 1946, Việt Minh tăng
cường vũ trang công kích, Tháng Bảy phải rút lên Yên Bái, Lao Kay. Tháng Tám, 1946
cụ sang Trung Quốc hoạt động ngoại viện và liên lạc với các tổ chức người Việt ở hải
ngoại.
Cuối năm 1946 cụ lập gia đình với bà Hứa Bảo Liên tại Côn Minh.
Năm 1947, cụ từ Vân Nam sang Hồng Kông. Quốc Dân Ðảng không tán thành giải pháp
Bảo Ðại với những điều kiện Pháp đưa ra và chủ trương tiếp tục hoạt động bí mật.
Tháng Tám, 1948, Hoàng Ðạo đột nhiên mất trên xe lửa từ Hồng Kông về Quảng Châu.
Tình thế Trung Quốc biến chuyển. Một số anh em trở về quốc nội. Vì không muốn trở về
khu Pháp, cụ cùng một số anh em ở lại Trung Quốc. Từ năm 1950 cụ hành nghề bác sĩ
tại Phật Sơn, Quảng Ðông, cho tới khi về hưu.
Năm 1988 cụ di dân sang Hoa Kỳ, định cư tại Nam California.
Ở hải ngoại cụ tiếp tục hoạt động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam, góp
sức vào sự đoàn kết và tổ chức một số phong trào liên minh và mặt trận. Cụ là một
trong những sánglập viên, và sau giữ chức cố vấn của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt
Nam và là tác giả cuốn tiểu thuyết Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn và tập hồi ký Việt Nam
Một Thế Kỷ Qua phần I (1998) và phần II (2001), 40 Năm Sống Ở Trung Quốc. Cụ viết
nhiều bài bình luận và bút ký cho một số báo hải ngoại, dưới bút hiệu Viễn Sơn.
Cụ Nguyễn Tường Bách qua đời, như đánh dấu là người cuối cùng của một thời đại văn
học rực rỡ nhất của Việt Nam trong thế kỷ 20, và đó cũng là thời đại của hoạt động
chính trị cách mạng phức tạp đưa Việt Nam vào nhiều ngõ rẽ, mà ảnh hưởng đến ngày
nay vẫn chưa chấm dứt.
(Nguồn Người Việt)
Nguồn: http://www.dutule.com/D_1-2_2-94_4-5246/bac-si-nguyen-tuong-bach-quadoi.
html
No comments:
Post a Comment