CỞI TRÓI I
(PHƯƠNG TRỜI CAO RỘNG 4)
truyện dài của Vĩnh Hảo
Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1997
Xem online mục lục bên phải.
Download về nhà trọn tác phẩm Cởi Trói I trong dạng PDF:
CỞI TRÓI I (PHƯƠNG TRỜI CAO RỘNG 4) PDF
(PHƯƠNG TRỜI CAO RỘNG 4)
truyện dài của Vĩnh Hảo
Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1997
Xem online mục lục bên phải.
Download về nhà trọn tác phẩm Cởi Trói I trong dạng PDF:
CỞI TRÓI I (PHƯƠNG TRỜI CAO RỘNG 4) PDF
CỞI TRÓI I
(PHƯƠNG TRỜI CAO RỘNG 4)
truyện dài của Vĩnh Hảo
Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1997
CHƯƠNG MỘT
Có những ngày trong đời, người ta thả trôi lòng mình theo dòng cuốn dập dềnh bất định của bao cảm giác. Vui thì cười nói hồn nhiên, lộ vẻ sung sướng, buồn thì mặt dàu dàu cúi xuống để nước mắt rơi thành dòng. Điều đó chẳng có gì lạ, Còn vui buồn, còn cười khóc được thì hãy còn là con người.
Nhưng cũng có những đoạn đời mà ngay cả thứ hạnh phúc to lớn nhất hay thứ khổ đau nặng nề nhất, người ta cũng không được phép chọn lựa, bởi chúng nhập nhằng với nhau, lấn xô nhau, hủy diệt nhau trên từng khoảnh khắc để được tồn tại độc lập. Nhiều hạnh phúc nhỏ lót nền cho một khổ đau lớn, hay nhiều khổ đau nhỏ mở đường cho một hạnh phúc lớn, thì còn dễ chấp nhận, vẫn có thể tiếp tục sống thanh thản khi xúc cảm dịu đi. Chỉ khi nào cả hai thứ cảm giác ấy đều to lớn và cùng xô đến một lượt, người ta mới bị sức nặng của chúng đè chụp xuống, nén xuống, thành một cái gì như vô tri, vô hồn, vô cảm… thành một thứ người ngợm gì giống như một gã điên tinh quái, khó mà phân giải được đâu là cảm quan và thức giác thực của hắn.
Nàng lẩn quẩn ở hành lang, chờ tôi vừa từ phòng tắm ra là đã bước tới, mời tôi xuống lầu để dùng cơm tối.
Ở cái bàn rộng có sấu cái ghế dựa, nàng dọn cho tôi một bữa ăn đơn sơ. Nàng đã dùng cơm từ hồi chiều, nàng nói vậy. Trong khi tôi dùng cơm, nàng ngồi xéo góc ở phía đối diện, có vẻ muốn tránh nhìn tôi ăn để tôi được tự nhiên, nhưng thỉnh thoảng nàng lại ngước nhìn tôi với đôi mắt lạ lùng lắm. Giống như là thương hại mà cũng giống như là ngưỡng mộ; giống như là quý mến mà cũng giống như là tình yêu. Nàng tránh không hỏi chuyện tôi trong bữa ăn. Chỉ khi tôi xong bữa, nàng mới bắt
đầu, lần lượt nêu từng thắc mắc một cách thú vị, đặt từng câu hỏi một cách ngây thơ. Và trong cái tình bạn nhanh chóng sớm sủa như từng thân nhau từ thuở nào, tôi bỏ quên những biến động to lớn vừa xảy ra cho tôi ngày hôm nay, tuần tự kể lại nàng nghe câu chuyện của tôi năm ấy… Tôi kể thật vắn tắt, nhưng từ kho tàng ký ức của tôi, từng nét mặt, từng câu nói nụ cười, từng nỗi đau lặng lẽ sâu kín, từng hình ảnh khô khốc thê lương hay thơ mộng huy hoàng… bỗng chốc hiện rõ ràng trước mắt tôi. Tôi cơ hồ sống lại với chúng lần nữa…
Câu chuyện bắt đầu từ khi tôi tham gia lực lượng Phục quốc hoạt động tại Long Thành, tỉnh Đồng Nai; lực lượng bị đổ vỡ, tôi ẩn lánh ở nhiều gia cư tại Sài Gòn, cuối cùng bị Hân và ông thầy Tư– hai đặc tình mật báo của công an–chỉ điểm và sắp đặt cho công an đón bắt tôi ngoài đường, đưa tôi vào trại giam T20 thuộc Sở công an thành phố Hồ Chí Minh, rồi từ trại giam đó, tôi và một người bạn tu khác bị công an tỉnh Đồng Nai áp giải về trại tạm giam B5 ở Biên Hòa.
Ó
Sau hơn nửa giờ chạy nhanh trên xa lộ rồi vòng vo qua các đường phố lớn nhỏ, xe tiến từ từ vào cổng trại giam B5, Biên Hòa. Cổng trại từ từ khép lại sau lưng chúng tôi. Dũng đậu xe sát vào dãy nhà ở trung tâm, nơi có văn phòng trưởng trại và các văn phòng chính của trại giam. Dũng mở còng cho tôi trước, rồi tháo gút giây điện, mở trói cho tôi và Thiện Đắc.
Còng mở ra rồi, hai cườm tay tôi còn in hằn hai vòng đỏ lửng, giống như hai lắc tay bằng hổ phách. Dù rằng trong vòng nửa giờ đồng hồ trước, tôi như tìm thấy một ngõ thoát và nỗi bình an cho chính mình… thì ngay lúc được tháo còng cởi giây trói này, tôi lại chợt cảm thấy rằng cái tâm thức mê muội của tôi vẫn còn trơ ra đó, tự quấn lấy mình bằng nhiều vòng giây oan khiên mê chấp. Giây trói hữu hình thì hoàn toàn tùy thuộc vào những người đang nắm quyền lực, nhưng giây trói vô hình kia, chỉ riêng chính tôi mới có thể tự tháo gút, cởi bỏ. Không ai làm thay được. Tôi biết tôi còn phải nỗ lực nhiều hơn.
Chúng tôi bước xuống, ngồi ở bậc thềm, chờ đợi Dũng vào văn phòng làm thủ tục bàn giao tù để chúng tôi nhập trại. Dũng vào trong một lúc thì cùng hai công an một nam, một nữ kéo ra. Nam khoảng ba mươi ngoài, nữ xấp xỉ tuổi tôi. Có lẽ chức vụ cũng khá cao. Dũng nói gì đó rồi chỉ tôi. Hai người công an kia chăm chú ngó tôi một lúc, xì xầm. Cô nữ công an đứng nhìn tôi trân trân như đứa con nít hiếu kỳ nhìn ngắm sự kiện lạ nó chưa từng thấy. Hình như cô nhoẻn miệng cười với tôi thì phải. Tôi hơi ngỡ ngàng không dám cười đáp lại, chỉ thoáng có nhận xét rằng cô là người nữ cán bộ mang kiếng cận đầu tiên mà tôi gặp trên đời (ở xứ này người ta tránh mang kiếng cận không phải vì nghèo, mà vì sợ bị lên án là thành phần trí thức; vâng, cặp kiếng cận là thứ linh vật tiêu biểu cho dáng vẻ trí thức của bọn tư bản thành thị đáng ghét, đáng nghiền nát–vậy mà mấy tháng trước tôi đã ngu xuẩn đến độ trốn tránh công an bằng cách mang kiếng cận!). Dù cô nữ cán bộ cố tình ăn mặc đơn giản, cặp kiếng cận và khuôn mặt khá thông minh của cô cũng cho thấy cô có dáng vẻ của một cô giáo hay một nữ sinh viên loại chăm chỉ, cặm cụi đèn sách, chứ không phải là một cán bộ công an thực thụ.
Một chập, cô bước đến gần, hỏi một câu mà tôi nghĩ là cô đã biết sẵn câu trả lời:
“Anh là Vĩnh Khang phải không?”
“Phải,” tôi đáp.
Cô im một lúc, hình như chẳng biết nói câu gì tiếp theo. Bất chợt, cô nghĩ ra được thêm một câu hỏi khác:
“Anh mới bị bắt hôm nay à?”
“Không, cách đây hơn một tháng rồi.”
“Có thăm nuôi chưa?”
“Thăm nuôi à? Chưa.”
Cô đứng im như cố tìm thêm một câu hỏi nào đó, nhưng rồi chắc là không còn câu hỏi nào nữa, cô quay về chỗ Dũng. Công tác áp tải tù nhân của Dũng đã xong, anh lên xe, lái đi mất. Cô nữ công an nói:
“Anh Khang ngồi chờ ở đây một chút nghe, sẽ có cán bộ bảo vệ đưa anh vào trong. Anh uống nước nhé, nước trà được không?”
Không chờ tôi trả lời, cô vào rót nước trà, đem cho tôi một tách.
“À, còn anh kia nữa, để tôi lấy thêm một tách,” cô đem cho Thiện Đắc một tách trà khác.
Tôi và Thiện Đắc đón lấy tách trà cô nữ công an đem đến cho mỗi người, chẳng có gì mà phải từ chối. Bên thềm hiên của trại giam, chúng tôi cùng nhấp trà, chờ đợi anh chiến sĩ bảo vệ nào đó áp giải vào phòng giam.
Nắng chiều màu vàng nghệ chiếu nghiêng ở sau hàng me phía bên phải của trại, tạo nên những luồng sáng chấp chóa, lung linh. Cô nữ công an cứ tò mò đi ra đi vào, liếc nhìn tôi, cười tủm tỉm. Tôi chẳng hiểu nổi ý nghĩa của nụ cười đó.
Thấy họ có vẻ thả lỏng chúng tôi trong thời gian chờ đợi này, Thiện Đắc hỏi nhỏ tôi:
“Khang có bị chúng nó đánh không?”
“Không.”
“Tôi bị Sơn đập một báng súng vào mặt.”
“Dữ vậy? Anh có sao không?”
“Chảy cả máu mồm. Hắn còn xé áo tôi, không cho tôi mặc đồ tu nữa chứ!”
Tôi thở dài, chua xót. Chợt nghĩ, mình là kẻ bày đầu mà không bị đánh đập, trong khi Thiện Đắc chẳng làm gì lại bị hành hung, bất công quá! Điều này khiến tôi cảm thấy như mình có làm một điều gì sai trong cung cách khai cung hoặc đối diện với bạo lực. Phải chăng tôi phải như Thiện Đắc, nói và hành động như thế nào đó để họ đánh đập, tra tấn… thì mới đúng. Không bị tra tấn có vẻ như có sự thỏa thuận như thế nào đó với bạo lực rồi! Tại sao họ không chịu đánh tôi để có cơ hội chia sẻ với bao tăng sĩ và chiến hữu khác? Tôi cũng cãi lại Long và Sơn, sao họ chỉ gườm chứ không vung tay vung chân? Tôi là người đáng đánh nhất, đáng tra tấn nhất, sao họ không chịu đánh đập lại đi đánh đập một người vô tội như Thiện Đắc!
“Khang chưa có thăm nuôi à? Sao đi tay không vậy?”
Tôi cười, đưa cái ca nhựa với cái muỗng nhựa lên.
“Cái ca đó thì tôi biết rồi. Vậy mà tôi tưởng Khang đã có thăm nuôi nên Khang chia sẻ thức ăn và phiếu tiền cho tôi mấy tuần trước. Té ra giờ Khang lại đi tay không! Tôi cũng chưa được thăm nuôi. Phiếu tiền Khang nhờ anh nuôi đưa tôi bên trại Phan Đăng Lưu, tôi gởi mua cả giỏ thức ăn kìa. Để tôi chia bớt cho Khang nghe.”
“Thôi, không cần đâu… Anh cứ giữ lấy mà dùng. Trước sau gì tôi cũng có người thăm nuôi mà. Vả lại, có thể họ giam mình chung một phòng, chia sớt làm gì mất công.”
Khi anh bảo vệ được văn phòng trại điều tới thềm văn phòng, cô nữ công an ra lệnh anh cho tôi vào phòng mấy, Thiện Đắc vào phòng mấy. Vậy là chúng tôi bị giam riêng. Thiện Đắc biết vậy bèn dúi vào cái ca nhựa của tôi một gói đường non một kí. Anh còn nhét vào túi áo tôi một gói thuốc lá Đà Lạt.
“Tôi không hút đâu.”
“Cầm vào, sẽ có lúc cần đến, với lại hút thuốc thấy đỡ buồn đó Khang à,” Thiện Đắc cứ dúi thuốc cho tôi.
Cô nữ cán bộ đứng ngó, chẳng làm khó dễ gì chúng tôi chuyện trao đổi này. Chờ chúng tôi xong việc, cô mới gật đầu ra dấu cho anh bảo vệ đưa chúng tôi đi. Hôm ấy, nhằm ngày 10-6-1985. Tôi nhớ được ngày ấy vì qua ngày mai là đúng ngày kỷ niệm hai mươi hai năm Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu và cũng là mười lăm năm ngày xuất gia của tôi.
Con đường ngoằn ngoèo dẫn qua một số dãy nhà, vườn rau, trại chăn nuôi… cuối cùng, chúng tôi đến trước một khu trại có tường vách kiên cố. Trên nóc trại có mấy cái bót gác. Một anh lính mang súng đứng trên nhìn xuống chúng tôi, đôi mắt không có cảm giác.
Anh bảo vệ bảo tôi đứng chờ ở một góc tường rồi anh đưa Thiện Đắc vào một phòng giam phía bên kia dãy rào. Sau đó, anh trở lại, mở khóa cho tôi vào phòng giam tập thể số 7.
Phòng giam đang ồn ào thì bỗng im phăng phắc khi anh bảo vệ đưa tôi đến bên song sắt. Những tù nhân vây quanh cửa sắt cũng dạt ra hai bên, cùng ngồi cả xuống đất.
Cửa sắt lách cách mở ra, tôi bước vào. Anh bảo vệ khóa lại rồi lạnh lùng quay đi. Lúc đó, phòng giam mới rộn rã tiếng nói cười trở lại. Đám tù gần sáu chục người vây lấy tôi, họ đều cởi trần mặc quần đùi, chẳng khác gì tôi và ông Trọng trong hơn một tháng trước ở trại giam T20, nhưng bỗng dưng, tôi có cảm giác như bị vây bởi một bầy khỉ.
Họ réo ầm lên, bảo tôi cởi áo quần ngoài. Tôi làm theo. Và khi tôi cởi xong cái áo thì mặt trời cũng vừa khuất sau dãy tường phía tây, chỉ để lại một vùng đỏ úa cuối chân mây.
Có một người tù mới vào, dường như không khí trong phòng giam được sinh động, vui vẻ hơn thì phải. Ngày ngày đứng lên ngồi xuống, lãnh cơm, tắm rửa, tán gẫu, hy vọng, thất vọng, thở dài… chẳng có gì mới mẻ và hứng thú hơn là đón tiếp một tù nhân mới – hy vọng có thêm một vài tin tức gì đó về tình hình chính trị bên ngoài có thể ảnh hưởng đến mức ăn; hoặc ít nhất là tình hình kinh tế khả quan của đất nước ảnh hưởng đến giỏ đồ thăm nuôi mà gia đình sẽ mang đến mỗi nửa tháng.
Đám tù xúm xít quanh tôi, người nói câu này, người hỏi câu kia, tôi chẳng biết phải nói gì, trả lời với ai. Tôi im lặng đứng mãi một chỗ, để cho họ hỏi và tự trả lời với nhau thay tôi luôn.
“Ê, mới bị bắt hay là từ trại nào chuyển đến vậy?”
“Đi hai tay không như vậy thì chắc là mới bị bắt rồi. Nếu từ trại khác chuyển đến thì phải có mang theo giỏ đồ chứ!”
“Thì đó, anh ta mang cái ca có đựng cái gói gì trong đó kìa! A, đường cát bây ơi.”
“Cha, thằng này da dẻ trắng trẻo hồng hào, có vẻ con nhà quá hả! Chắc là tội vượt biên rồi!”
“Chưa chắc, có thể là tội buôn bán hàng lậu hay móc nối bán bãi gì đây!”
“Không có đâu, tướng anh ta hiền như nhà giáo!”
“Xì, giống một tay nghệ sĩ ăn chơi thì đúng hơn!”
“Nghệ sĩ gì, bộ vó hắn cũng có hạng đấy chứ!”
“Nhưng bàn tay hắn nhỏ xíu!”
“Ừ nhỉ, tay như tay con gái. Tay này số sướng, chắc chẳng biết lao động chân tay bao giờ.”
“Ê, có chị hay em gái chưa chồng không vậy hả?”
“Thôi mấy cha nội ơi, để người ta đến làm việc với trưởng phòng cái đã rồi muốn hỏi gì thì hỏi.”
Theo sự hướng dẫn của một anh tù hơi trọng tuổi, tôi tiến đến văn phòng của người trưởng phòng. Văn phòng của anh ta thực ra chỉ là chỗ mà anh trải chiếu để ngủ mỗi đêm, và có treo cái giỏ đồ đạc cá nhân ở trên đầu nằm. Tôi gật đầu chào anh, anh cũng chào tôi rồi moi trong giỏ đồ của anh ta một tập vở học trò với cây bút nguyên tử. Anh ngồi xuống trước và cũng mời tôi ngồi xuống đất để “làm việc.” Khoảng bảy tám người tù khác cũng tụm đến, vây quanh anh trưởng phòng với tôi vào trong một vòng tròn nhỏ. Anh trưởng phòng hỏi với giọng Bắc, thứ giọng Bắc rất nặng mà tôi mới nghe được từ sau năm 1975:
“Anh tên gì đấy nhỉ?”
“Vĩnh Khang”
“Vĩnh Khan? Ô, tên nghe hay thế. Ấy, mà Khang có g hay Khan không g?”
“Khang có g,” tôi đáp.
Anh cúi xuống hí hoáy ghi vào tập, đằng hắng lấy giọng rồi hỏi tiếp:
“Tội gì?”
“Chính trị.”
Đám tù vây quanh “ồ” lên một tiếng, rồi phao lên ầm ĩ cho cả phòng biết:
“Chính trị!”
“Tù chính trị! Tay này trẻ mà cũng dữ thần ta ơi!”
Anh trưởng phòng yêu cầu im lặng, rồi anh hỏi tiếp, giọng ra vẻ quan trọng và muốn chứng tỏ hiểu biết:
“Nhưng chính trị là chính trị thế nào?”
“Thế nào là sao? Tôi chẳng hiểu ý anh,” tôi hỏi lại.
“Anh là đảng viên, cán bộ nhà nước, làm sai đường lối chính sách hay là ngụy quân ngụy quyền chống phá cách mạng?”
“Tôi chẳng phải đảng viên hay cán bộ nhà nước, cũng chẳng phải ngụy quân ngụy quyền gì hết. Tôi là người dân.”
“Người dân, ai lại chẳng phải dân! Thôi cũng được, nhưng anh làm cái gì mà gọi là tội chính trị?”
“Tôi có bị bắt buộc trả lời không vậy? Theo tôi biết, những điều tôi làm chỉ có thể nói với cán bộ vấn cung thôi mà.”
Một giọng Bắc từ đám tù vây quanh xen vào:
“Cha, cái thằng nầy, mầy ở ngoài mới vào mà nói ngon thế à! Đại ca hỏi thì lo trả lời, còn hỏi vặn vẹo lý sự gì cơ chứ!”
Tôi ngước lên thấy một anh tù híp mắt nhìn xuống. Cặp mắt anh có vẻ như đang lim dim ngủ, chúng hé ra tí xíu thôi, đủ để lộ hai tròng đen từ hai phía nhập vào nhau như là bị lé. Đầu mày anh đang nhíu lại, nhìn tôi với cái dáng vẻ của một người đang suy tư hay tính toán gì đó. Cặp môi anh mỏng lét, tím rịm, mím chặt lại trông như hai con đĩa nằm chồng lên nhau. Anh có vẻ là một tên nịnh thần trong các truyện vua chúa ngày xưa. Thấy tôi ngước nhìn, anh làm bộ hùng hổ xấn tới, nhưng có các người tù khác giữ anh lại.
Anh trưởng phòng mặt mày tái mét, hình như đang nén cơn giận, xua tay với anh tù kia, rồi dịu giọng với tôi, có lẽ vì nghi rằng tôi là cán bộ hay đảng viên gì đó của nhà nước nên mới dám nói lý với anh:
“Ừ thì dĩ nhiên là anh muốn trả lời cũng được, không cũng được, nhưng dù sao cũng phải rõ ràng để tôi ghi vào sổ chứ. Anh coi nầy, mấy người đến trước, tội gì thì ghi tội đó cả. Cả tên và tuổi, nghề nghiệp, sinh quán, đều ghi rõ chứ có phải tôi lạm quyền cán bộ để lấy cung anh đâu.”
“Tôi đã nói khi nãy, bên trại T20, mấy người bạn tù gọi chung chung cái tội của tôi là chính trị. Chẳng biết còn cách gọi nào khác thích hợp hơn không.”
“Có phải anh hoạt động chống lại chính sách của nhà nước, đòi tự do… hay đại loại như thế, phải không?”
Tôi gật đầu. Đám tù vây quanh lại la ầm lên:
“Thứ dữ! Thứ dữ!:
“Thế thì là cướp rồi!” anh tù mắt lươn có vẻ nịnh thần lại nói.
Thấy tôi nhìn với ý muốn nghe lại câu ấy, anh lặp lại:
“Tôi nói tội của anh là tội cướp ghế mới đúng.”
“Cướp ghế?” tôi hỏi lại.
“Ừ, cướp ghế, tức là cướp chính quyền đó mà, chẳng phải sao?”
Tôi bật cười. Rõ ràng là trên xứ sở này, bởi hoàn cảnh thay ngôi đổi chủ quen thuộc, bởi những tham vọng và thù hận trường kỳ của cá nhân hay các bè nhóm khác nhau, người ta mặc nhiên hiểu vai trò của những kẻ cầm quyền hay những kẻ hoạt động chính trị đối lập như là vai trò của những kẻ cướp. Suy ra, những kẻ cầm quyền chỉ là những kẻ thành công trong cuộc tranh giành xâu xé chiếc ghế quyền lực và quyền lợi. Người Trung Hoa cướp chính quyền của Giao Châu, người Pháp cướp chính quyền của An Nam, người Nhật cướp chính quyền Việt Nam qua tay người Pháp, Việt Minh cướp chính quyền Việt Nam qua tay người Nhật… cho đến những chính quyền sau đó, ở cả hai miền, đều là những chính quyền cướp giật được manh động dựng nên từ lòng tham và thù hận. Đặc biệt là từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay, sự cướp giật càng lúc càng khoác mặc những lớp áo chính nghĩa cao kỳ như là chống đế quốc xâm lược, giành độc lập dân tộc v.v… mà kỳ thực vẫn là cướp.
Chưa có chính quyền nào thực sự là của nhân dân, hay ít ra là vì nhân dân. Cái nghiệp dĩ nặng nề oái oăm nào đó của dân tộc đã khiến cho xử sở này, cứ mỗi lúc có biến động, có đổi thay chính quyền mới, thì đều lọt vào tay những tên cướp, tức là những người có tham vọng về quyền lực và quyền lợi, chứ không lọt vào tay người dân thực lòng yêu nước. Những phong trào cách mạng hay đảng phái thực sự nghĩ đến dân tộc thì thường thất bại, tan vỡ. Trong khi đó, đảng cướp thì lại dễ dàng thành công hơn. Thành công không ở tấm lòng mà ở những quỷ kế, ma thuật. Ai có nhiều mưu ma chước quỷ thì thắng! Ai có lòng thì phải thất bại, lao lý, hoặc chết mất xác! Cái nghiệp gì mà thảm thương đến thế? Vậy ra, đất nước này cứ mãi sống dưới sự múa rảy bùa phép của một bọn phù thủy đầy tà thuật sao! Điều đáng tởm lợm nhất là tên cướp nào cũng khoe khoang mục đích công ích, vì dân, cho dân, hứa rằng sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến cá nhân mình, gia đình mình hay phe nhóm mình, đảng phái mình! Với bao nhiêu chính nghĩa và lý tưởng cao vời đưa ra, mục đích cũng chỉ để mê hoặc và ru người dạt trôi dật dờ vào những ảo tưởng hạnh phúc huyễn hoặc, mà trên thực tế, cái khổ, cái đói, cái nghèo, cái bất công, cái tù hãm nô lệ, vẫn cứ sờ sờ trước mắt. Đó là chưa kể những tên cướp đầu đàn, những đại ca ở bên ngoài, xúi dục và đòi nộp xâu hay chia chác khi cuộc cướp giật thành công. Chiếc ghế đang ngồi chưa bao giờ là những chiếc ghế giành được từ chính sức lực của mình, của người dân, mà đều do sự sắp đặt giúp đỡ của các đại ca. Xua đại ca Pháp-Mỹ, rước đại ca Nga-Tàu, hay ngược lại, đều là cái ngu xuẩn nô lệ của những tên cướp hèn hạ chỉ biết bái vọng cái gì đồ sộ hung hăng ở bên ngoài chứ không biết cúi nhìn mảnh đất khiêm nhường mà thân thuộc dưới chân mình.
Vậy rồi được ngồi trên ghế, những tên cướp ấy lúc nào cũng nhởn nhơ phè phỡn với lợi danh, có quyết tâm đánh đuổi những kẻ khác thì cũng chỉ để bảo vệ cái lợi danh mà mình đang hưởng, hoặc vì muốn tóm thâu thêm những quyền lợi chưa có khác, chứ không phải để bảo vệ và xây đắp cái yên bình no ấm của người dân. Hết chính quyền tham lam này đến chính quyền háu đói khác, thay nhau nổi lên, đày ải người dân, bắt họ phục vụ và bảo vệ chiếc ghế của mình. Cứ như vầy thì bảo sao dân không nhìn các chính quyền, những người cầm quyền, như là những tên cướp! Mà cũng có thể lời hô toáng lên “cướp, cướp” được khởi đi từ chính miệng những tên cướp chứ chẳng phải từ người dân.
Tôi nhìn kỹ lại người tù đã phát ngôn rằng tôi có âm mưu cướp ghế. Anh ta là một người dân bị bỏ tù như tôi hay anh ta là cán bộ, đảng viên cộng sản? Người dân đã quen chuyện bọn cướp giành giật nhau những chiếc ghế chính quyền, có biết thì cũng yên phận làm thinh, phát biểu cũng chẳng lợi ích gì, chẳng thay đổi được gì–vì tên cướp nào ngồi trên ghế, người dân vẫn khổ như nhau thôi. Chỉ có mấy anh cướp mới lo sợ bị mất cái ghế của mình nên hết lòng đề phòng và gán đặt ý đồ cướp giật cho bất cứ kẻ nào có hành động phương hại đến quyền lợi của chúng mà thôi. Cho nên, hôm nay, tôi, một ông thầy tu, dù có ôm ấp bất cứ cái hoài bão tốt đẹp nào, như đòi hỏi tự do dân chủ, đòi hỏi ấm no cho dân tộc thì vẫn cứ bị coi như có ý đồ hay tham vọng cướp giật quyền bính của chính quyền.
Anh trưởng phòng, cười nói:
“Anh ấy nói đùa thôi, tội của anh phải ghi là phản cách mạng,” nói rồi anh ghi ngay vào sổ.
Ba chữ “phản cách mạng” ấy tôi đã bị cán bộ trực dãy C3 ở trại T20 ghi vào sổ một lần trước đây. Mặc dù đối với tôi, sự gán đặt từ ngữ ấy chẳng ảnh hưởng gì lắm đối với thực tế ở tù, nhưng tự thân tâm, tôi biết việc tôi làm chẳng dính gì với từ phản cách mạng ấy. Tôi có theo con đường cách mạng của mấy anh cộng sản đâu mà nói là tôi phản. Nếu chữ phản có nghĩa là chống thì sao không ghi là “chống cách mạng” cho dễ hiểu, khỏi nhầm lẫn, mà cũng có thể tránh bớt từ Hán-Việt như văn hóa cách mạng chủ trương! Còn riêng ý tôi, tôi tự hiểu việc làm của tôi là “làm cách mạng,” hay “hoạt động cách mạng.” Như vậy chính xác hơn nhiều. Vì “cách mạng” đâu phải của riêng ai, riêng bè nhóm nào. Con người nào, xã hội nào, lại không cần tiến hành công cuộc cách mạng để tiến đến cái toàn thiện, toàn mỹ. Tiến trình cách mạng là một chuỗi vận động trường kỳ của các đối lực sinh-diệt để thành tựu một hiện thể mới mẻ hơn. Cái này diệt để cái kia sinh. Cái này sinh để cái kia diệt. Không có cái sinh mãi mãi. Không có cái diệt mãi mãi. Không có cái sinh tự nó sinh. Không có cái diệt tự nó diệt. Cái này sinh cho cái kia diệt. Cái kia diệt cho cái này sinh. Cái này sinh bởi cái kia diệt. Cái kia diệt bởi cái này sinh. Không có cái cách mạng chết khô trên giấy tờ, trên biểu ngữ, trên sự dừng đứng bền vững của một đường hướng, một chính sách hay một chế độ cầm quyền.
Một cuộc cách mạng toàn diện đúng nghĩa phải được phát động để đẩy con người và xã hội tiến đến phía trước mà nhận ra cái ý nghĩa hiện hữu của mình; và cũng chỉ bằng cái nhận thức về ý nghĩa đó, con người và xã hội mới tồn tại. Con người sở dĩ chết là vì các tế bào trong cơ thể chỉ diệt mà không còn sinh nữa. Xã hội cũng chết khi các phần tử cá nhân trong nó không còn khả năng làm cách mạng–tức là mất đi khả năng tự do chọn lựa sự sáng tạo và hủy diệt đối với các ý niệm của chính mình và xã hội mình đang sống. Ý niệm vay mượn âm sắc của ngôn ngữ để hiện hữu; nhưng trong khi động năng của ý niệm là liên tục vận chuyển trong diễn trình sinh diệt để vươn tới mà ngôn ngữ cứ nằm ì trên biểu ngữ hoặc lặp lại mãi trên môi mép, thì ý niệm cũng phải bị trùng lặp, lẩn quẩn, hoặc khô cứng theo. Hệ luận của nó là cách mạng sẽ chết khi người ta không đủ can đảm dẫm lên cái cũ để dọn đường cho cái mới hiện hữu, không biết diệt để được sinh. Thế giới này chưa bao giờ có cách mạng thực sự mà chỉ có những biến động, những cuộc cướp giật với các biểu ngữ và tiêu đề hào nhoáng, bộng rỗng.
“Thế anh làm nghề gì bên ngoài nhỉ?” anh trưởng phòng hỏi.
“Thất nghiệp,” tôi đáp.
“Thất nghiệp? Anh… như vầy mà thất nghiệp à? Thế trước khi thất nghiệp cũng có cái nghề gì chứ?”
“Làm rẫy.”
“Làm rẫy? Anh… như vầy mà làm rẫy à? Mà thôi, được rồi, thủ tục nhập phòng đã xong. Bây giờ để tôi sắp xếp chỗ nằm cho anh nhé!” Anh trưởng phòng nói rồi, đứng dậy, cất cuốn sổ và cây bút vào giỏ.
Tôi cũng đứng dậy theo. Nhưng hai anh tù khác đến vỗ vai tôi, Một anh người Nam có khuôn mặt mà hình như cái gì cũng muốn lộ ra ngoài, đưa về phía trước: mắt lộ, mũi hếch, miệng hô. Anh khác chính là anh chàng người Bắc có khuôn mặt nịnh thần khi nãy đã gán cho tôi hai chữ “cướp ghế.”
“Này, có nghề không? Thủ tục nhập phòng không phải chỉ có ghi tên là xong đâu, còn phải qua cái mục đấu võ nữa chứ!” anh người Bắc nói.
Anh người Nam mắt lộ tiếp lời:
“Theo thông lệ của phòng giam, anh có quyền chọn bất cứ người nào trong phòng này để đấu. Thua thì phải chọn người khác, cho đến khi nào thắng thì mới xong thủ tục.”
Nghe họ nói vậy tôi mới nhớ lại vài hình ảnh sinh hoạt rất dã man trong những câu chuyện mà tôi từng đọc thấy trong tiểu thuyết. Vậy mà hơn tháng nay, ở chung với ông Trọng ở phòng biệt giam tại T20, tôi đã không hề nhớ nghĩ gì đến các chuyện ấy. Hình như ở bất cứ nhà tù nào trên thế giới cũng gặp cái tình trạng “ma cũ hiếp ma mới,” hoặc gặp những tay anh chị làm chủ phòng giam, thậm chí làm chủ hết các phòng của trại giam mà bọn tù gọi là “đại ca,” “anh Hai,” và xưng tụng như là một “đại bàng.” Tôi chẳng rõ ở đây lại có “đại bàng” không. Nếu có, hẳn là đám đàn em thuộc hạ của anh “đại bàng” đó sẽ bắt tôi đến trình diện, hoặc hùa nhau đập tôi một trận để dằn mặt trước. Hay “đại bàng” là anh trưởng phòng khi nãy? Anh ấy cũng có vẻ dữ dằn lắm: Tay xăm con rồng, ngực xăm trái tim với mũi tên xuyên ngang. Tôi đang còn phân vân thì anh người Bắc nói tiếp:
“Sao, muốn chọn ai đây?” vừa nói, anh vừa múa hai tay, nhứ hai quả đấm trước mặt tôi.
Anh ấy cao và mập hơn tôi chút, nhưng bộ ngực lép kẹp, bụng lại hơi õng ra. Đó không phải tướng của người mạnh, cũng không phải tướng của con nhà võ. Anh chỉ có cái bề ngoài hung hăng, háu đá mà thôi. Một cái gì động đậy trong tim tôi. Hừ, tôi chẳng sợ gì đâu, dù rằng chút võ Thiếu lâm lem nhem không chịu tập luyện của tôi cũng chẳng ra làm sao cả, nhưng ít nhất nó cũng có thể bảo vệ được tôi, hoặc cho tôi chút tự tin, bình tĩnh. Vả lại. cái thằng tôi này tuy hiền lành, chẳng bao giờ làm hại ai, nhưng đối với anh chàng nịnh thần đang múa may hai tay mà hạ bộ để trống, bộ cước không vững thế kia, tôi chỉ cần xấn vào giữa, đánh hai chõ một trên một dưới, một thuận một nghịch, rồi sẵn nắm tay phải nằm thuận ngang tầm hạ bộ đối phương, bồi thêm một cái nhẹ là anh sụm ngay. Nếu điều lệ của phòng được tôn trọng đúng mức theo lời anh người Nam mắt lộ nói, tôi chỉ cần thắng anh nịnh thần, khỏi cần phải đánh đấm gì với ai khác. Tôi vừa suy nghĩ, vừa đề phòng sẽ bị tấn công bất ngờ. Có thể họ không bỏ qua tôi bằng một điều kiện đơn giản như vậy đâu. Bất chợt, một thằng tôi khác trong tôi lại nhú đầu lên, xỉ vả: “Vứt hết cái tâm hiếu chiến tầm thường của nhà ngươi đi! Cần gì phải thắng chứ! Chứ không phải mi vốn lì đòn hay sao!”
Tôi giật mình như vừa tỉnh mộng. Phải rồi, tôi đâu cần phải vung tay đấm đá ai. Tôi là một tu sĩ, không phải một anh chàng thất nghiệp hay một anh nông dân thế tục, không phải anh giáo viên hay chàng nghệ sĩ. Tất cả những con người, những nghề nghiệp nói trên, chỉ là tạm thời thôi, chỉ là đóng kịch thôi. Thực tế, tôi vẫn còn là một tu sĩ, dù tóc có dài mà hình thức đã thay, dù mình trần trùng trục với cái quần xà-lỏn độc nhất che thân. Tôi phải ẩn nhẫn, chịu đựng tất cả những đau đớn khổ nhục của thế gian chụp phủ lên thân phận mình như mặt đất từng cưu mang và chịu đựng tất cả sức nặng của cuộc đời. Tôi thoáng nhớ lại một kỷ niệm, hay một kinh nghiệm của năm năm trước, tức vào đầu mùa hè năm 1980.
Ó
Lúc ấy, sau một chuyến vượt biên thất bại, tôi đến chùa Tỉnh hội Nha Trang thăm các bạn cũ. Các bạn chơi thân với tôi trước kia có chú Đức, Mỹ và Thân. Chú Đức thì đã rời Nha Trang, khi vượt biên thất bại tại Phan Thiết rồi mang bệnh về Huế mà chết trong bệnh viện. Chú Thân thì rời chùa, tự túc đi làm rẫy, sống một mình với rừng núi bạt ngàn của khu Đồng Bò. Chỉ còn chú Mỹ (lúc này đã là đại đức, trước kia chúng tôi quen gọi là chú Mỹ đen vì da chú khá đen so với chú Mỹ khác trùng tên, da trắng). Sau một lúc chuyện trò, tôi mới biết thầy Mỹ có người em ruột tên Pháp, có ghe đánh cá ở Tu Bông. Ý muốn vượt biên của tôi bừng bừng sống lại ngay lập tức. Vậy là tôi nhờ Mỹ giới thiệu để tổ chức một chuyến vượt biên. Mỹ không có ý vượt biên, nhưng sẵn sàng giúp tôi. Chúng tôi đón xe đi Tu Bông, đến nhà của Pháp, vào lúc trưa. Sau một lúc bàn bạc, Pháp đồng ý lo ghe và bãi, còn phần xăng dầu và lương thực thì tôi và một số bạn bè khác ở thành phố chịu trách nhiệm. Chuyến đi dự trù thật ít người: chỉ có tôi và thêm một hay hai người góp tiền, cùng đi với gia đình của Pháp.
Ở lại chơi đến chiều tối thì chúng tôi được Pháp và vợ của anh, đưa ra ga xe lửa để trở về Nha Trang. Chờ tàu lâu quá, Pháp lại kéo chúng tôi tách xa đám đông ở sân ga, đến ngồi xổm ở một khoảng vắng, vừa chờ vừa đợi tàu, vừa bàn bạc thêm một vài điều cần thiết trong việc tổ chức chuyến đi. Chúng tôi đã cẩn thận tìm chỗ vắng như vậy mà cũng không tránh được một chàng du kích đã nghe lóm. Quả đúng là tai vách mạch rừng. Anh chàng du kích xã bị đau bụng đau dạ thế nào đó mà ra ngồi trong bụi rậm trước khi chúng tôi kéo đến ngồi xì xầm nói chuyện. Thế rồi, khi tàu xầm xập chạy vào ga, vợ chồng Pháp ra về, tôi và thầy Mỹ sắp sửa leo lên tàu thì hai anh thanh niên thấp người trờ tới gần, một anh hỏi:
“Các anh đi Nha Trang hả?”
Mỹ trả lời:
“Ừ, Nha Trang.”
“Các anh ra Tu Bông có việc gì vậy?”
Nghe hỏi vậy, Mỹ tỏ vẻ khó chịu, nói:
“Chuyện của chúng tôi có can hệ gì đến mấy anh mà hỏi? Đi chơi hay đi thăm bà con, không được sao?” vừa nói Mỹ vừa dợm chân, tính bước bên tàu.
Anh thanh niên lúc này mới sừng sộ móc từ lưng quần ra một khẩu súng ngắn, chĩa ngay vào thầy Mỹ, nói nghiến trong răng:
“Các anh đi theo tôi về trụ sở.”
Tôi xoay qua, bước gần tời anh du kích, nhìn kỹ vào mặt anh, hỏi:
“Cái gì vậy?”
Anh thanh niên ngỡ tôi sắp tấn công anh, liền lui một bước, đưa họng súng về hướng tôi, quát lên:
“Các anh đứng yên, các anh đã bị bắt.”
Vừa lúc đó, thanh niên còn lại cũng móc súng ngắn ra, chĩa về hướng chúng tôi. Mỹ cười to, nói:
“Kỳ cục chưa, mấy anh này! Chúng tôi làm gì mà anh bắt? Mấy anh là ai?”
“Chúng tôi là công an của xã này. Chúng tôi có lệnh bắt các anh. Cứ theo chúng tôi về trụ sở làm việc rồi sẽ biết. Đi!”
Vậy rồi họ lùa chúng tôi đi trước hàng nghìn con mắt của hành khách đứng ngồi chen chúc trên tàu, trên sân ga. Một anh công an dẫn đường, một anh đi phía sau. Hai anh đều cầm súng lăm lăm trên tay. Lúc ấy cũng khoảng mười giờ đêm. Sân ga náo nhiệt nhưng trên đường nhựa và các gia cư đều vắng hoe, cửa đóng im ỉm, Chúng tôi vừa ra khỏi khu vực ga thì tàu đã hú còi, chuẩn bị chạy.
Họ đưa chúng tôi di đường tắt, băng ngang đường rầy, quanh co qua đồng ruộng, các vườn rau, các khu nhà thắp đèn dầu tù mù, để tránh sự dị nghị của đồng bào trong vùng về chuyện bắt bớ thầy tu (lúc ấy tôi để tóc dài, mặc thường phục, nên chỉ có Mỹ là mang hình thức tu sĩ). Chuyện phải chĩa súng vào chúng tôi ở sân ga trước đám đông hành khách là bất đắc dĩ, vì nếu họ không làm áp lực mạnh thì tôi và thầy Mỹ đã ung dung leo lên tàu rồi.
Trên đường đi, Mỹ cứ nhắc đi nhắc lại mấy câu:
“Buồn cười mấy anh này thiệt, tự dưng bắt chúng tôi! Chúng tôi làm cái gì sai chứ? Đi ăn giỗ ba tôi mà cũng có tội nữa sao?”
Anh công an phía sau im im chẳng nói gì, nhưng anh phía trước thì kinh nghiệm hơn, quay lại bảo im, cấm nói, vì biết rằng Mỹ cố tình nói vậy để nhắc tôi phải khai với công an cho thống nhất giữa tôi và thầy ấy khi bị họ chia ra để hỏi cung riêng từng người.
Cuối cùng, chúng tôi được đưa vào một cái đình. Chung quanh nhà cửa thưa thớt. Khu này không có điện nhưng ánh trăng tờ mờ đêm hạ huyền cũng cho chúng tôi nhìn thấy được tên của ngôi đình được viết bằng sơn màu vàng trên tấm bảng đỏ loét. Đình Tân Mỹ. Bên trong cửa đóng im ỉm, không có ánh đèn nào được thắp thì phải. Chúng tôi được đưa lên thềm đình, leo năm, sáu bậc cấp. Ở thềm hiên, họ bảo tôi và thầy Mỹ đưa hai tay lên cho họ lục soát. Xong, một anh công an đứng lại canh chừng chúng tôi, một anh đi lấy chìa khóa để mở cửa vào trong đình, đồng thời kéo thêm vài anh công an khác trong xã. Tôi chẳng hiểu sao họ lại không mang chúng tôi đến trụ sở công an hay ủy ban nhân dân xã, lại đưa chúng tôi đến ngôi đình.
Phải chăng có một sự mờ ám nào đó, chẳng hạn muốn làm tiền, nên không muốn chia chác với những cán bộ khác của ủy ban? Hay là chúng tôi đã bị bắt bởi hai tên cướp? Mấy anh công an du kích của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa này mặc thường phục, không mang theo cái gì để chứng minh các anh là công an–cho nên các anh và bọn cướp trộm thường có khuôn mặt của những anh nhà quê vừa dữ dằn mà lại vừa kiêu hãnh, lúc nào cũng có cảm tưởng mình là thứ gì cao tột. Đối với việc điều tra, kiểm soát, giữ an nình trật tự xã hội, các anh cứ việc đưa súng ra, nói rằng mình là công an, thì dân phải nghe, phải theo, đâu dám đòi hỏi các anh phải đưa ra cái gì chứng minh. Họng súng chĩa vào người không đủ sao còn hỏi!
Đâu chừng mười lăm phút sau, một tốp chừng bảy người kéo đến đình. Họ cũng mặc thường phục như dân, chẳng có đồng phục. Họ mở cửa, vào trong thắp cái đèn dầu lớn rồi đưa chúng tôi vào, ngồi nơi cái bàn dài ở giữa, ngay trước bàn thờ (Thành hoàng, Thổ địa hay công thần nào đó mà chỉ thấy cái bài vị viết chữ Hán, trong chỗ lờ mờ tôi không đọc được). Bắt đầu làm biên bản. Đến lúc này, tôi mới thực sự tin rằng chúng tôi bị bắt bởi công an chứ không phải ăn cướp.
Một anh công an hỏi cung thầy Mỹ, một anh khác hỏi tôi. Khi hai tờ biên bản ghi tên tuổi và nghề nghiệp chúng tôi làm xong, họ bắt đầu nạt nộ, buộc tội chúng tôi là có ý đồ tổ chức vượt biên. Chúng tôi đều một mực chối cãi, khai rằng chỉ đi ăn giỗ ba của thầy Mỹ. Họ thì thầm với nhau một lúc rồi cho ba người khác đi bắt hai vợ chồng Pháp. Bốn người chúng tôi đều bị tập trung nơi đình. Nhưng sau một lúc tra hỏi, họ thả hai vợ chồng Pháp ra–có lẽ vì hai vợ chồng này là dân địa phương, có anh ruột là cán bộ cao cấp của huyện. Tôi và thầy Mỹ bị giữ lại. Hình như họ quyết tâm phải moi móc được bất cứ thứ gì từ chúng tôi, nếu không phải là lời thú nhận có ý đồ tổ chức vượt biên thì ít ra cũng phải là chút ít tiền bạc, đồng hồ hay vàng vòng gì đó.
Vặn hỏi mãi mà không được kết quả gì, họ giữ thầy Mỹ ngồi lại nơi cái bàn đó với hai anh công an hình như là có chức vụ cao, sáu anh công anh kia thì kéo tôi ra sân đình. Nơi đây, tôi bị họ vây quanh, quát tháo, nạt nộ đủ điều mà tôi cứ nhất mực chẳng chịu khai điều gì, và họ xúm lại, cùng đánh đấm tôi túi bụi. Dưới bóng trăng mờ, tôi chỉ thấy loáng thoáng những khuôn mặt đanh đá, lạnh lùng, lúc người này, lúc người kia, khuôn mặt mập, khuôn mặt ốm, người cao, người lùn, những quả đấm, những cánh tay, những cẳng chân, những chiếc giép cao su hay giày ống, vung lên loạn xạ, tới tấp… Tôi loạng choạng bên này bên kia nhưng không lúc nào té ngã xuống. Sắp té rồi lại gượng đứng dậy, cứ vậy, tôi thụ động chịu đòn một lúc khá lâu, chẳng rõ là bao nhiêu phút. Xong đợt quần thảo đó, họ rút vào năm người, để lại một người, tiếp tục dọa nạt, đánh đập tôi.
Rồi thay người khác, hết lượt người này đến phiên người kia, theo kiểu xa luân chiến. Có người đưa cả mũi súng vào cổ tôi, hét lớn: “Khai mau, không tao bắn bỏ mẹ mày!” Anh công an bắt và dẫn đường chúng tôi từ sân ga, hình như là người hung hăng nhất và cũng là người ghét tôi nhất thì phải: anh thường đánh những đòn độc địa như muốn thí nghiệm đòn ngón của anh trên thân tôi lúc còn ở sân rộng, nhưng đòn nào độc quá thì cái bản năng tự vệ của tôi lại bén nhạy cung cấp cho tôi ngay một phản ứng tránh né thích hợp, có khi giả vờ loạng choạng để thủ lấy hạ bộ. Anh ức lắm. Nay tới lượt một mình anh, anh túm lấy cổ áo tôi, quát tháo rồi kéo giật tôi về hướng anh để đánh một chõ vào mặt tôi, nhưng anh thấp người quá mà tôi lại hơi nghiêng mặt một chút nữa, nên cái chõ chẳng trúng vào đâu. Anh bực quá, túm lấy đầu tóc tôi, dộng mấy cái vào tường. Lúc ấy tôi mới thấy rằng phải chi lúc ấy tôi đừng cải trang người thế tục, cứ cạo đầu như thường lệ thì đỡ biết mấy! Không có tóc thì lấy đâu để anh túm mà dộng vào tường!
Trong khi tôi bị đánh đập liên tục và thằng tay ngoài sân, thầy Mỹ bình an ngồi bên trong, đối đáp với anh trưởng công an. Dù sao, họ cũng là những anh du kích công an trong làng xóm, ít nhiều đều có tín ngưỡng nên chưa đến nỗi ra tay đụng vào hình thức đầu tròn áo vuông của thầy Mỹ.
Không khai thác gì được tôi, anh công an khi nãy dộng đầu tôi vào tường kéo tôi ra chỗ khoảng trống, bảo tôi đứng yên. Anh còn kêu một công an khác cầm súng chĩa mũi vào tôi, dặn rằng:
“Nó mà nhúc nhích hay né tránh, bỏ chạy, mày bắn nó què giò cho tao!”
Tôi đứng im giữa sân chờ đợi, chẳng biết anh muốn gì. Anh lùi lại, cách tôi chừng ba bước, hỏi:
“Bây giờ mày chịu khai chưa? Mày với ông kia định tổ chức vượt biên, có không?”
“Không,” tôi đáp.
Lập tức anh nhún người lấy trớn, tung một đạp vào người tôi, đúng ngay tim. Tôi bật kêu lên một tiếng “hự”, hơi lảo đảo, rồi gượng đứng lại. Anh bước tới, tát tôi mấy cái nữa:
“Cái thằng này lì lợm, cứng đầu quá sức! Mày giỏi lắm, mày có nghề mà, phải không? Tao bỏ súng xuống, cho mày tự do chơi luật giang hồ đó, chơi không! Tay đôi thôi, tao với mày, không ai xía vào đâu!”
Tôi chẳng đáp. Anh nhổ nước bọt xuống đất rồi khoát tay ra lệnh mấy anh công an khác đưa tôi vào trong đình. Họ xì xầm bàn với nhau một lúc rồi quyết định giam chúng tôi, chờ ngày mai làm việc tiếp. Họ nhốt kỹ chúng tôi, khóa cửa đình rồi lục tục kéo về.
Chúng tôi bị giam trong cái kho phía bên phải của bàn thờ đình. Bên trong đầy bụi bặm. Đứng im một lúc trong bóng tối, chúng tôi nhìn ra một số đồ linh tinh như phướng, cột, vải vóc hay biểu ngữ gì đó, nằm ngổn ngang dưới đất. Tôi và Mỹ phủi bụi sơ sơ rồi ngồi xuống. Trong kho cũng khá rộng, đủ chỗ cho chúng tôi nằm, nhưng dơ quá, chúng tôi đành lót giép mà ngồi.
“Hình như hồi nãy tụi nó đánh Khang dữ lắm phải không? Tôi ngồi trong mà nghe cả tiếng bình bịch.”
“Ừ, có đánh. Họ vừa đánh vừa vuốt, ông công an lớn tuổi khuyên tôi hãy khai thật, cho rằng tôi là thanh niên mới lớn, nhỏ dại, đi theo ông thầy chứ không biết gì, nên khai thật để được tha về, chuyện của người lớn thì để người lớn chịu!”
“Hì hì, họ đâu biết chính Khang mới là tên bày đầu! Sao, chúng nó đánh vậy Khang thấy trong người thế nào?”
“Chẳng biết nữa. Lúc đó cho đến bây giờ, tôi chẳng có cảm giác gì cả. Đánh chiều nào, theo chiều nấy.”
Mỹ nhìn tôi có vẻ thương cảm. Một chập, anh hỏi:
“Hình như Khang có võ, tôi đoán có đúng không?”
“Xì, lem nhem chút ít thôi, chẳng có gì đáng kể. Không phải tôi chịu đựng được vì có võ đâu. Tôi quán thân tôi như một cục đất, muốn hất đâu thì hất. Có vậy mới chịu nổi chứ. Ờ, anh biết bài thơ về cục đất của Đặng Cước không? Tôi nhớ mang máng là như vầy: Thân tôi như cục đất, Ai hất thì cứ hất, Hất qua rồi hất lại, Mà tôi cứ cười ngất. Bài thơ của anh Cước nói được tâm địa nhẫn nhục của đạo nhân, rõ ràng quá hả! Còn võ thuật thì tôi có học chút ít đòn Thiếu lâm nhưng lâu nay chẳng tập luyện vì chẳng có thì giờ, với lại thấy mình cũng không bao giờ cần dùng đến.”
Chúng tôi thức trắng đêm ấy. Sáng sớm mờ mờ, công an kéo đến, mở cửa đình, cho chúng tôi được tự do ra vào trước thềm hiên, bảo chờ lệnh ở trên. Chúng tôi chẳng bỏ trốn vì giấy tờ (dù giấy tờ của tôi là giấy tờ giả) đã bị giữ hết, vả lại có trốn cũng chẳng làm sao mà thoát vì chúng tôi không biết đường. Đến trưa thì có vợ chồng Pháp mang bánh mì nhét đậu hủ kho và nước uống đến cho chúng tôi dùng. Pháp nói:
“Tụi nó chỉ tình nghi thôi, không có chứng cớ quả tang gì. Chỉ sợ là chiều nay chúng đưa thầy và anh Khang lên công an huyện thì phiền lắm. Bây giờ còn ở xã ấp, mình có lo được thì phải lo gấp. Tôi có nhắn anh Trung rồi, anh ấy đang lo.”
Trung là người anh lớn nhất của Mỹ và Pháp. Anh ấy là cán bộ của huyện, quen biết khá nhiều. Chúng tôi ngồi ở thềm đình đến chiều thì anh Trung đạp xe đến cùng một người công an khác, nói rằng chúng tôi được tự do ra về. Họ trả lại giấy tờ và tiền bạc cho chúng tôi. Mỹ nói chúng tôi không cần về vội, có thể ở lại một đêm tại nhà Pháp rồi sáng mai đón xe đò đi Nha Trang. Buổi tối ở nhà Pháp, gia đình anh bắt tôi cởi áo ra để Pháp xoa bóp rượu thuốc và dầu nóng. Đến lúc đó, nhờ Pháp nói, tôi mới biết là có khá nhiều vết bầm tím trên khắp người tôi. Vừa xoa, Pháp vừa nói:
“Đáng lẽ anh Khang phải giả đò đau đớn, té lăn dưới đất, chứ không nên đứng ì ra mà chịu đòn. Tụi nó đánh mà mình có vẻ không đau chỉ tổ chọc tụi nó tự ái mà tức giận thêm lên, đánh càng mạnh, càng độc hơn. Phải giả đò la khóc, quằn quại, té lên té xuống mới được! Anh biết tụi nó nói với nhau sao không? Nói rằng anh giống như cục đá, đánh hoài chẳng thấy anh rên rỉ hay đau đớn gì! Thằng Bảo nó nói với em chứ ai. Nó cũng là du kích xã đó. Thiệt khổ thân anh! Lần sau anh đừng gắn gượng chịu đòn như vậy nữa nghe. Nếu anh có chịu được thì cũng phải giả đò là không chịu được, như vậy chúng mới không đánh nữa.”
Tôi ừ, nhưng chẳng biết là có lần sau nữa để giả đò không, và liệu rằng tôi có năng khiếu giả đò chăng, hay rồi cứ như cục đất, ai hất thì cứ hất, hất qua rồi hất lại, mà tôi cứ cười ngất!
Bây giờ nhìn lại đám tù vây quanh, tôi biết tôi phải đối diện với cái lần sau đó. Đám tù này đông hơn đám công an du kích của năm năm trước. Họ khoảng trên sáu chục người. Tôi đảo mắt nhìn quanh một lúc rồi buông thõng hai tay xuống. Ừ, thì đánh đi, đấm đi, đá đi, chà đạp đi, vừa đánh vừa chửi đi, nguyền rủa đi. Thân tôi đây, như một cục đất. Tâm tôi đây, cũng là cái tâm được nhào nặn bằng đất, hãy vùi dập nó đi. Sáu chục người hay sáu chục triệu người của cả nước cũng được nữa, cứ việc dày xéo cái thân cái tâm này, tôi sẽ chịu đựng hết, và quyết không chống trả, không tránh né, không bật ra một tiếng than hay tiếng rên nào, cũng không nẩy lên bất cứ một ý niệm thù oán nào. Tôi xin tự nguyện nằm xuống để mọi người đứng dậy. Suốt đời tôi, sẽ không giơ tay giơ chân làm đau đớn ai, cũng không đem cái tâm này hay cái miệng này làm tổn thương ai. Tôi là đất. Đất cũng chẳng làm hại ai. Chỉ có người ta hại đất mà thôi. Mà cũng chẳng phải người ta hại đất nữa, vì đất có bao giờ bị tổn thương đâu mà nói là hại đất!
Anh nịnh thần người Bắc múa tay múa chân. Tôi nhìn thẳng vào mắt anh bằng đôi mắt từ bi, không hận thù. Tôi đứng yên chờ đợi. Bỗng thấy một bàn tay vỗ lên vai tôi. Quay lại, tôi bắt gặp anh trưởng phòng. Anh cười nói:
“Họ nói đùa đấy. Không có cái thủ tục chào phòng kiểu đó đâu. Tôi sắp anh nằm ở chỗ kia nhé, đấy, kế bên bức vách ngăn nhà cầu. Buổi tối anh ngủ đấy. Thủ tục nhập phòng thực ra là như vầy: mỗi người mới vào phải ca ba bản hoặc kể ba câu chuyện ngắn. Hôm nay có hai người mới, anh chàng kia và anh. Tối nay anh sẽ làm thủ tục chào phòng ở trước cái lồng khung kia.”
Anh chỉ tôi thấy một người tù trẻ, như đứa con nít, đang ngồi ủ rũ ở góc gần cầu tiêu; rồi anh chỉ tôi cái mà anh gọi là lồng khung. Phòng giam có hai cửa, trong và ngoài. Cửa ngoài bằng sắt, bít bùng, có hai ổ khóa, giống như cửa sắt phòng biệt giam ở trại T20. Từ ngoài bước vào cửa sắt đó, có một khoảng trống hình chữ U, được rào bằng một lồng khung bằng sắt, kéo từ dưới nền lên đến trần nhà; nơi khung có thêm một cửa thứ hai, tức là cửa trong, có then cài và một ổ khóa khác. Cửa ngoài được mở ra suốt ngày từ lúc sáu giờ sáng cho đến sáu giờ chiều. Cửa trong chỉ mở khi nào có cán bộ quản giáo xuống gọi tù nhân đi khai cung, làm việc–mở ra để lấy người đi rồi đóng khóa lại ngay.
Tôi mang áo quần và cái ca nhựa có bịch đường cát của tôi đến chỗ nằm thì bắt gặp một khuôn mặt quen thuộc nằm kế chỗ tôi. Người ấy ngước nhìn tôi, nói:
“Mới bị bắt hôm nay thôi hả?”
“Hơn một tháng trước rồi,” tôi ngồi xuống đáp.
“Anh Hai có sao không?”
“Anh Hai nào?”
“Anh Lương.”
“À, tôi mất liên lạc với anh ấy từ hôm Tết,” nói đến đây thì tôi nhớ ra người tù ấy là ai.
Anh ấy tên Vận, là người ở chung một xã với tôi trên kinh tế mới. Tôi biết anh cách đây sáu tháng, vào lúc quay in truyền đơn, tài liệu cho lực lượng Phục quốc, tại một cái chòi tranh ở xã Long Phước. Vào đêm trước khi khởi sự in truyền đơn, tôi và ông Lương cùng ngủ lại trên hai cái giường đặt sát nhau ấy. Sáng sớm, Vận và hai người khác đến, và theo lời yêu cầu của ông Lương, tôi trực tiếp hướng dẫn họ quay tài liệu bằng cái máy quay ronéo tự chế. Anh Vận đã có năm con, trên bốn mươi tuổi. Anh và một số khá đông nhân sự của lực lượng Phục quốc do ông Lương cầm đầu đều là người theo đạo Thiên Chúa. Lúc đến đó, tôi cải trang làm người thế tục, đầu đội mũ cát-két, yêu cầu ông Lương giữ bí mật, không cho người khác biết tôi là vị thầy trụ trì của chùa Long Quang. Ông Lương bảo mọi người gọi tôi là anh Ba. Nói rằng tôi từ Sài Gòn lên. Dù vậy, anh Vận cũng tinh mắt lắm, biết ngay tôi là ai từ buổi sáng đó. Tôi biết anh nhận ra tôi vì trong lúc trò chuyện, thỉnh thoảng anh lỡ miệng gọi tôi bằng “thầy.”
“Anh bị bắt lúc nào?” tôi hỏi Vận.
“Ngay từ ngày ba mươi Tết cùng lúc với ông Bản, ông An đấy! Lúc đó thầy ở đâu?”
Tôi xuỵt một tiếng, nói nhỏ với Vận:
“Đừng gọi tôi bằng thầy. Cứ coi tôi như một thanh niên đời thôi. Tôi muốn được đối xử bình đẳng như mọi người tù khác. Một mình anh biết được rồi. À, trở lại chuyện anh hỏi, lúc đó tôi vẫn ở chùa, cho đến nửa tháng sau mới lánh về Sài Gòn. Tôi cũng có ý gặp ông Lương nhưng chẳng biết đâu mà tìm. Hy vọng ông ấy chưa bị bắt.”
“Chưa bị bắt đâu. Có mấy người bị bắt sau cho biết là ông tiếp tục hoạt động và cho rải truyền đơn ở Sài Gòn, các tỉnh miền Tây, vài tỉnh miền Trung nữa. Hình như ông ấy cũng đang tìm kiếm thầy… à, tìm kiếm anh đó.”
“Rất tiếc là chúng tôi không cách nào để gặp lại nhau từ ngày lực lượng bị đổ bể trên Long Thành. Nhưng như vậy cũng tốt, khỏi bị dính chùm. Ông ấy mà gần tôi không chừng lại bị bắt.”
“Nhưng anh gần ông ấy, biết đâu chẳng bị bắt. Ông ấy có nhiều chỗ để trốn, khắp các tỉnh.”
“Chẳng biết được là may hay rủi. Thôi thì cứ cầu cho ông ấy bình an. Phần mình thì đâu vào đó rồi.”
Buổi tối, khi đèn lên, anh trưởng phòng vỗ tay ba cái, cả phòng im lặng. Anh trưởng phòng giới thiệu hai người tù mới, gọi tôi và anh tù trẻ tuổi đến đứng ở lồng khung. Sau đó, anh tù trẻ chào phòng bằng ba câu chuyện tiếu lâm mà nếu muốn tôi cười, e phải thọc lét thêm khá nhiều. Đến lượt tôi, cả phòng nhao nhao nói:
“Đừng kể chuyện nữa, ở đây chuyện tiếu lâm nghe nhiều lắm rồi, nghe đi nghe lại chán quá!”
“Hát đi, hát vài bản nhạc vàng đi!”
“Hát vài bản đỡ buồn đi anh ơi!”
Tôi nhìn qua anh trưởng phòng dọ ý. Anh trưởng phòng khích lệ:
“Ở đây hát nhạc vàng được, không sao đâu! Nếu anh thuộc bản nào, cứ hát. Đừng hát nhạc chống đảng, chống nhà nước là được rồi. Nhạc tình đi, tự do!”
Lúc anh bạn trẻ kể chuyện tiếu lâm, tôi đã suy tính trước là ca vài bản nhạc vô thưởng vô phạt thì tốt hơn là kể vài câu chuyện cười, vì chuyện cười đời nay ai mà biết được truyện nào là truyện không thể bị suy diễn thành truyện chống đảng chống nhà nước! Đã cố ý suy diễn thì cái gì cũng đi ngược lại với chủ trương và chính sách cả.
Tôi tựa lưng vào cánh cửa ở lồng khung, đứng im một lúc để chọn một bản nhạc thích hợp–thích hợp với không khí nhà tù, thích hợp với lòng mình lúc ấy mà lỡ có bị ai báo cáo lên cán bộ thì cũng không tội vạ gì. Vậy là tôi nghĩ ngay đến những tình khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, một sư tổ của tình ca Việt Nam và cũng là một anh nghệ sĩ có chân khá vững dưới chế độ cộng sản lúc ấy. Tôi hát nhạc của anh,
Sau khi hát chào phòng, tôi trở về chỗ nằm thì một nhóm vài người kéo đến, vỗ vai khen thưởng, mời tôi đến chỗ họ uống trà. Tôi từ chối, ngồi im một chỗ.
Dường như từ lúc cất tiếng ca, lòng tôi rưng rức quặn lại thế nào ấy, Trước đám đông ồn ào của đủ mọi thành phần tù nhân, tôi chợt thấy một cái gì đó trống rỗng, hoang vắng, quạnh hiu kinh khủng.
Tôi ngồi một lúc thì kẻng đánh giờ báo nghiêm. Cả phòng tôn trọng nội quy nghiêm chỉnh, lục tục trở về chỗ nằm trong yên lặng.
Tôi nằm khoảng giữa nhà cầu với lồng khung. Đèn trên trần hơi chếch chỗ nằm của tôi, rất chóa mắt. Tôi khó ngủ. Nhắm mắt lại cũng thấy trống rỗng. Mở mắt ra cũng thấy trống rỗng.
Cái khổ của con người là hủy diệt cả thế giới thì sợ hư vô, mà hủy diệt luôn cả hư vô thì tâm thần bất an hãi sợ là chẳng còn biết nương gá nơi nào để tồn hữu; nhưng chấp nhận thế giới, chấp nhận hư vô, thì vẫn chứ chạm trán với bộ mặt hư vô như thường. Ôi, nghĩ gì lung tung quá! Chào đêm đen. Chào hư vô. Ta không sợ mi đâu.
CHƯƠNG HAI
Nàng say sưa nghe tôi kể chuyện, mắt nhìn tôi không rời. Bằng một thứ nhạy cảm rất vô minh của mình, tôi biết nàng gởi theo đôi mắt ấy một cái gì nồng nàn, tha thiết lắm. Tôi sợ. Không phải sợ nàng, mà sợ chính tôi. Sau hai năm tù, vừa được tự do đã nghe hung tin từ gia đình, tôi thực sự là muốn ngã quị, muốn sà vào lòng của bất kỳ một người bao dung và thông cảm nào. Nàng có hai đức tính ấy. Vẻ bao dung của người mẹ và sự thông cảm hiểu biết của người bạn thân. Nàng có vẻ như sẵn sàng dang đôi tay để chờ đón tôi ngã vào. Tôi đưa mắt tìm kiếm một điểm nào đó trên tường để tránh nhìn nàng. Nàng cũng lúng túng thế nào đó, rồi đứng dậy, đến cái bàn gần đó, lấy chai
nước lạnh rót thêm vào cái ly sắp cạn của tôi. Nàng hỏi tôi muốn dùng trà không. Tôi gật đầu. Nàng nấu nước sôi và tráng cái bình tích chế trà. Trong khi chờ đợi nước sôi, nàng giục tôi kể tiếp
Tôi nhập trại chiều thứ bảy, nghi ngơi được ngày chủ nhật. Qua thứ hai, một cán bộ mặc đồng phục công an đến phòng giam. Có tiếng vỗ tay lốp bốp của những anh tù ngồi gần cửa khi phát hiện sự xuất hiện của cán bộ. Cả phòng đang vui chơi, ồn ào, nghe tiếng vỗ tay thì phải ngưng lại, im lặng, và ngồi xuống, không ai được đứng khi cán bộ bước vào cái lồng khung hình chữ U thẳng góc đó. Anh công an này tên là Hón, dáng cao ráo, vạm vỡ, nhưng vẻ mặt thì hơi nhăn nhó khó chịu. Trên tay anh có cầm tờ giấy. Mọi người đều biết là anh đến gọi tên một người tù nào đó ra văn phòng trại để “làm việc,” tức là đi khai cung. Cán bộ gọi tên ai, người đó phải hô “có” thật lớn, rồi đứng dậy, lấy áo quần, giày giép, bước ra ngoài lập tức. Nếu lấy đồ không kịp thì cứ ra ngoài, để cán bộ khóa cửa xong, nhờ bạn tù khác đưa ra giùm qua cửa sổ hay qua chấn song sắt ở lồng khung. Không được để cán bộ chờ đợi, đó là qui luật về sự lễ phép của tù nhân.
Hình như cán bộ Hón phải đánh vần một lúc rồi mới bật được ra lời với một ít nghi ngại, không mấy tin tưởng là mình đúng:
“Tu sĩ.”
Cả phòng giam im lặng không có tiếng đáp lại, cũng chẳng ai đứng dậy lấy áo quần bước ra. Tu sĩ đâu phải là cái tên. Chắc cán bộ đọc lộn hàng rồi. Cái hàng đó là hàng nói về nghề nghiệp. Thấy chẳng ai rục rịch gì, cán bộ nhìn lại vào tờ giấy, khá lâu, rồi bật thêm mấy chữ khác:
“Thít Tam Quan.”
“Có,” tôi hô lên rồi đứng dậy, lấy áo quần bước ra.
Trong khi tôi đang mặc áo quần, Hón nhìn tôi, hỏi:
“Tên anh là Thít Tam Quan à?”
“Không, Thích Tâm Quang.”
“Thích Tâm Quang, à, ra là anh ấy! Anh còn có tên cha mẹ đặt nữa là Vĩnh gì đấy mà, phải thế không?”
“Vĩnh Khang,” tôi đáp,
Tôi mặc xong áo quần, xỏ chân vào giày. Anh ngó tôi một lúc rồi hỏi tiếp:
“Anh đi tu được bao năm rồi?”
“Mười lăm năm,” tôi đáp.
Anh lắc đầu, nguýt tôi một cái:
“Trong Nam này thật lộn xộn, sao lại cho những người trẻ đi tu thế này! Ngoài Bắc chỉ có sư cụ thôi, làm gì có sư mà tuổi thanh niên! Thanh niên thì phải lo lao động sản xuất xây dựng đất nước chứ! Mà đã đi tu thì phải lo tụng niệm, quét dọn chùa chiền, chứ sao lại làm chuyện phản động thế kia! Thôi, đi!”
Tôi bước theo anh băng ngang sân chơi, đi vòng vo một lúc rồi ra lại khu vực văn phòng gần cổng trại. Đến thềm văn phòng, anh bảo tôi bước lên mấy bậc cấp rồi đứng chờ ngoài hiên. Anh vào trong, nói với ai đó:
“Tôi giao tên phản động cho đồng chí làm việc nhé, tôi vào à.”
Có tiếng một giọng nữ nào đó ngồi khuất sau vách, nói lại với anh, một chập, anh cùng người ấy bước ra. Tôi không nhìn họ. Chỉ thấy cán bộ Hón quay trở vào trong, và tiếng guốc gỗ khua nhè nhẹ đến gần tôi:
“Ô, tưởng ai, té ra là anh Khang. Sao, ở dưới phòng thế nào?”
Tôi quay lại thì nhận ra cô công an cận thị mà tôi và Thiện Đắc đã gặp lúc mới nhập trại. Cô tỏ vẻ thân thiện với tôi một cách khó hiểu. Cô muốn gì đây? Phải chăng cô có ý đồ thực hiện một công tác nào đó trong ngành công an của cô bằng mỹ nhân kế? Nhưng mỹ nhân kế làm sao có thể áp dụng với tù nhân được! Mà mỹ nhân kế cũng đâu cần thiết áp dụng để đối phó với tù nhân. Tù nhân là kẻ đã vào tròng, vào bẫy rồi, cần gì phải bẫy nữa chứ! Huống gì qua con mắt của một đạo nhân chưa đắc quả và khá nhạy cảm về vấn đề phân biệt giới tính, tôi thấy cô đâu phải là mỹ nhân!
Tôi cười không đáp. Cô chỉ cái ghế ở gần chỗ tôi đứng, nói:
“Anh Khang ngồi đó đi. Chờ một chút sẽ có người đến lấy anh.”
“Lấy tôi?” tôi ngạc nhiên hỏi.
Cô bật cười lên một tràng, rồi nói giả lả:
“Đừng có lo, chẳng phải lấy chồng lấy vợ gì đâu. Lấy là lấy người đi làm việc đó mà. Hi hi, anh Khang ngồi đi. Để coi nào, hôm nay ai lấy anh, à, ông phó trại.”
Cô bước vài bước đến cái bàn lớn đặt khoảng giữa thềm hiên, rót một tách trà, đem đến cho tôi.
“Anh uống trà đi. Một chặp là ông ấy tới liền. Anh Khang nè, sao anh lại đi làm thầy tu vậy hả?”
Tôi đón tách trà của cô, đặt lên lan can. Tù nhân mà được cán bộ rót trà mời uống như tôi hình như là một trường hợp ưu đãi đặc biệt. Tôi nghĩ, có thể họ cố tình đối xử với tôi như vậy để tỏ rằng họ cũng biết tôn trọng tu sĩ.
Cô bước qua bước lại trước mặt tôi mà thấy tôi cứ nhìn xuống đất, có vẻ như chẳng lưu ý gì, bèn đến tựa nơi lan can, nói bâng quơ:
“Trời nóng quá hả.”
“…”
“Khi nào anh về lại chùa, rảnh rảnh tôi ghé thăm anh được chứ hả? Ở Long Thành phải không? Chỗ đó dễ kiếm không vậy? Ồ, nhớ rồi, mấy ngày trong Tết, công an tỉnh phối hợp cả bộ đội nữa, được huy động tảo thanh vùng đó mà. Hờ, cũng buồn chứ. Đi kiếm anh Khang mà lại đem lực lượng võ trang kiểu đó thì có vui gì. À, anh Khang, nhà tôi cũng có thờ Phật đó. Hồi nhỏ tôi cũng có đi chùa, bây giờ thì bận công tác quá, chẳng biết chùa chiền gì nữa. Ô, ông phó đến rồi kìa,” cô xuống thấp giọng, hơi cúi nghiêng về hướng tôi một chút, “ông này khó tính lắm, anh làm việc với ông phải cẩn thận từng lời chứ không ổng xì nẹt lớn tiếng, mệt lắm!”
Tôi nhìn về hướng cổng trại, thấy một cán bộ mang mắt kiếng lão, đứng tuổi, khoảng gần sáu mươi, mặc sơ mi trắng ngắn tay thả ra ngoài cái quần dài màu cà phê sữa, bước vội đến, gọi tôi theo ông vào văn phòng riêng của ông nằm sát cổng trại.
Bàn làm việc của ông đầy hồ sơ, giấy tờ. Ông bảo tôi ngồi vào cái ghế dựa trước mặt, rồi dọn sơ một khoảng trống trên bàn, ngay chỗ tôi, vừa rót trà vào hai tách, vừa nói với giọng Bắc:
“Biên bản kết cung có chữ ký của anh do Sở Công an thành phố Hồ Chí Minh chuyển đến đã nói rõ hành vi phạm tội của anh.” Ngưng một lúc để đưa tách trà qua phía tôi, ông tiếp, “nhưng đấy là phần việc của bộ phận thành phố HCM. Chúng tôi ở đây cũng phải theo thủ tục của tỉnh Đồng Nai, lấy cung lại từ đầu. Vả lại, anh vẫn có quyền phản cung, tức là chối bỏ biên bản của công an thành phố HCM nếu xét thấy rằng vì lý do nào đó, biên bản ấy không phản ánh đúng lời khai của anh. Có thể cách làm việc của cán bộ thành phố HCM khác với chúng tôi nên biên bản cũng chưa phải là hoàn chỉnh lắm. Thôi thì chúng ta làm việc lại từ đầu. Chủ trương nhân đạo khoan dung của nhà nước xã hội chủ nghĩa là xử nhẹ hoặc giảm mức án tối đa cho những bị can thành khẩn cung khai sự thật. Tôi nhắc lại để anh biết mà chọn lựa thái độ khai cung thích đáng.”
“Tôi không nhớ biên bản đó như thế nào, nhưng tôi nghĩ rằng tôi đã ký tên vào đó rồi, chắc là không cần phân cung gì đâu. Còn việc tôi đã khai sự thật với cán bộ Sài Gòn, và cũng sẽ khai sự thật với cán bộ ở đây, đó là vì tôi vốn tôn trọng sự thật, chẳng muốn che giấu gì cái việc tôi đã làm, chứ không phải tôi khai sự thật để được giảm án.”
Ông đặt tách trà xuống, ngó tôi một lúc:
“Tôi chả cần biết là tự anh thành thật hay thành thật theo yêu cầu, đàng nào thì khai sự thật vẫn là con đường tốt nhất để được tự do sớm mà về với gia đình. Anh còn trẻ mà, nên tôi nghĩ những gì anh làm chỉ là sự bồng bột nhất thời thôi. Anh có biết là trong cái đám Phục quốc, anh là người trẻ tuổi nhất không? Họ là những người lớn tuổi, có liên can đến chế độ ngụy nên chống lại chế độ ta; còn anh là thanh niên trưởng thành trong chế độ mới, sao lại đi theo họ chứ! Anh bị họ dụ dỗ mà không biết, có phải thế không! Ừ thì lầm lỡ đi vào con đường tội lỗi, nay chúng tôi nhắc anh khai mọi sự thật, khẩn trương hối cải để còn trở về với xã hội mà làm người công dân tốt chứ! Hừ, tôi thật chẳng hiểu sao một người ở chùa, có ăn học như anh mà lại đi theo cái bọn phản động đó! Mà kể cũng lạ nhỉ, đa phần họ là người theo đạo Thiên Chúa, thế sao lại lọt anh vào? Ai giới thiệu anh, ai móc nối anh thế?”
“Ai móc nối đâu! Chúng tôi ở chung một ấp, một xã, bước ra bước vào thì gặp nhau, quen nhau, hiểu nhau, vậy thôi.”
Ông gở mắt kiếng xuống, nâng tách trà lên nhấp một ngụm rồi tiếp:
“Anh gặp ông Trần Văn Lương lần cuối cùng vào lúc nào, gặp ở đâu?”
“Ngày 22 hay 23 tháng 12 năm ngoài, gần lễ Giáng Sinh. Gặp tại chùa tôi.”
“Sau đó thì sao?”
“Không còn gặp nữa.”
“Thế anh có biết ông ấy đang ở đâu không?”
“Không.”
“Đồng bọn Phục quốc của anh đều khai rằng anh là cố vấn của ông Lương, vậy mà anh với ông ấy lại chẳng gặp nhau nữa à?”
“Không.”
“Vì sao?”
“Vì sao? Vì không nữa chứ sao ạ.”
“Trong khi những người khác bị bắt gần hết mà anh và ông ấy lại cùng trốn thoát, vậy chẳng phải là anh với ông ấy đi chung, hoặc dược thuộc hạ thông báo, bảo vệ, che giấu để trốn tránh sự lùng bắt của chúng tôi hay sao?”
“Tôi chẳng được ai trong lực lượng Phục quốc thông báo hay hướng dẫn đi trốn cả. Ông Lương rời Long Thành trước Giáng Sinh, còn tôi rời Long Thành sau Tết nửa tháng. Tự tôi bỏ Long Thành đi Sài gòn… rồi cuối cùng bị bắt chứ chẳng có ai thông báo hay che giấu gì cả.”
Tôi nói vậy và tự biết rằng trong câu nói ấy, đã có phần không thật, vì vào sáng ba mươi Tết, tôi đã được thông báo để đi trốn. Tôi thoáng nhớ lại những ngày cuối cùng của tôi ở chùa Long Quang trên kinh tế mới.
Lúc đó tôi đang cạo tóc ở sân chùa. Một thanh niên Phật tử thân cận của chùa, bước vào, nói:
“Thầy ơi, không biết chuyện gì mà công an du kích vào nhà ông Bản, lục xét rồi bắt ông ấy đi rồi. Bây giờ họ lại kéo vô nhà ông An nữa. Nghe nói họ bắt nhiều người khác nữa đó thầy.”
“Vậy sao?”
Tôi nhìn ra đường, thấy có nhiều tốp công an và du kích cầm súng chạy qua chạy lại. Chừng mười lăm phút sau, một người con ông Bản đến chùa gặp riêng tôi, nói:
“Bạch thầy, má con bảo con đến trình thầy biết là ba con bị bắt rồi, thầy tính xem nếu chuyện đó có ảnh hưởng đến thầy thật thì thầy nên đi lánh gấp kẻo không kịp.”
Tôi nói lời cám ơn, nhưng tôi không đi lánh. Tôi ở lại.
Suốt ngày ba mươi Tết ấy, có tiếng loa phóng thanh ở khắp nơi, kêu gọi những người có liên quan đến lực lượng Phục quốc ra đầu thú. Các loa phóng thanh di động trên xe lam, xe bò, xe đạp. Loa cầm tay, loa gắn các nơi tập trung đông người. Làm rộn cả làng xã.
Buổi tối, khoảng bảy giờ, Hiền, anh ruột tôi, đến chùa. Tôi thúc anh trốn về Nha Trang. Anh nói:
“Hai anh em đi trốn chung luôn, chứ Khang ở lại làm gì!”
Lúc đó, phần vì có ý niệm chấp nhận bị bắt, phần vì thấy ngày Tết đến mà Phật tử địa phương không có thầy hướng dẫn, nên tôi không muốn rời chùa. Thực ra chùa tôi lúc đó còn có một vài thầy khác nhưng họ đã về Sài Gòn trước đó vài ngày cả rồi.
“Thôi, anh đi trước đi. Tôi cần lo một ít việc cho chùa nữa. Mấy ngày Tết mà chùa không có thầy, tội nghiệp đồng bào ở đây lắm.”
“Bỏ quách cho rồi. Không có Khang, Phật tử buồn một thời gian ngắn, nhưng rồi cũng có thầy khác đến thay thế, hoặc khi tình hình thấy êm, Khang có thể trở lại; chứ bây giờ ở nán, tụi nó bắt bỏ tù làm sao!”
Dù anh cố gắng thuyết phục, tôi vẫn không đổi ý:
“Anh đi trước, có thể mai mốt gì tôi cũng rời Long Thành.”
Nghe tôi hứa là sẽ trốn sau, anh mới chịu từ giã. Giây phút chia tay lúc ấy, tôi không bao giờ quên. Đêm ba mươi trời tối mịt. Trước sân chùa, người qua kẻ lại nườm nượp. Tôi bắt tay anh lần cuối dưới gốc cây bạch dương mé phải của chánh điện.
Nhà tôi khá đông anh chị em nhưng tôi đi tu từ nhỏ nên tình cảm giữa tôi với người trong gia đình không được gắn bó lắm. Lúc tôi đi tu, anh tôi vào lính. Người khoác quân phục, người mặc tăng bào. Ai cũng có hoài bão đóng góp gì đó cho xã hội, cho con người. Thế rồi, chính quyền miền Nam sụp đổ, sụp đổ luôn tất cả ước vọng tuổi trẻ của thanh niên miền Nam. Anh đi học tập sơ sơ rồi được trả về với đời mà làm cu li bốc vác, thợ lò đường… thay vì làm thơ, viết văn như giấc mơ từ nhỏ của anh. Tôi thì như người câm không điếc, không mù; thấy nghe tất cả mà chẳng nói được với ai. Nhìn đất nước đổi thay, nhân tâm ly tán, bao tang thương tủi nhục chụp xuống đầu cổ dân hèn, lòng uất lên, đôi khi sôi sục cả máu, và cả lệ, nhưng cổ họng cứ tắc nghẽn, miệng lưỡi cứ đớ ra, không biết tỏ cùng ai. Cuối cùng, tôi và Hiền, hai anh em ruột, hai đứa bé trai ở chung một nhà hồi đó, một anh lính và một thầy tu, trở thành chiến hữu. Anh ở Nha Trang, tôi rủ anh vào Sài Gòn.
Thầy Tuệ Sỹ cũng biết khả năng của anh, bảo tôi giới thiệu anh cho lực lượng của thầy. Nhưng anh không hợp với Tuệ Sỹ. Rồi tôi kéo anh lên Long Thành. Hai anh em trao đổi quan điểm và phương thức làm việc. Hợp nhau quá. Bèn vận động thành lập lực lượng. Hội Lạc Long có mặt từ đó, làm khởi điểm cho những hoạt động dấn thân về sau. Đang khi Lạc Long vừa mới hình thành, lực lượng Phục quốc phát động mạnh tại Long Thành. Lực lượng này do ông Trần Văn Lương cầm đầu. Ông này trước năm 1975 là một sĩ quan Cảnh sát đặc biệt, con một ông trùm giáo xứ Tân Cang, một ấp thuộc Hố Nai. Ông nhờ ông Bản (một đạo hữu của chùa tôi, cũng là một sĩ quan Cảnh sát đặc biệt của chế độ Cộng hòa, bây giờ là cánh tay phải của ông Lương trong lực lượng Phục quốc) giới thiệu đường hướng và chủ trương của lực lượng, mời tôi tham gia. Tôi không nhận lời nhưng hứa đóng góp, giúp đỡ bất cứ điều gì có thể làm được để ủng hộ lực lượng ấy.
Nhân sự cốt lõi của Lạc Long bấy giờ gồm bảy anh em kết nghĩa mà chỉ có hai người có mặt tại Long Thành là hai anh em tôi mà thôi. Khi ông Lương và ông Bản ba lần bảy lượt kêu gọi tôi trực tiếp tham gia Phục quốc, tôi liền đi Sài Gòn để bàn hỏi với anh em khác của Lạc Long, nhưng tình hình lúc ấy căng thẳng quá, ai cũng đồng ý việc tôi cộng tác hoặc hỗ trợ cho lực lượng Phục quốc mà chẳng thấy ai thực sự hưởng ứng. Cuối cùng, chỉ có Hân hứa sẽ theo tôi về Long Thành để tìm hiểu thêm về Phục quốc. Hân ở lại chùa tôi một thời gian, cùng anh tôi và tôi tiếp xúc với ông Lương. Hân cho là lực lượng Phục quốc khá tốt, nên cộng tác; nhưng theo đề nghị của anh tôi và một số bạn bè khác, tôi không nên dính vào.
Có hai lý do họ khuyên can tôi: thứ nhất, lỡ Phục quốc có đổ bể hoặc chỉ là một tổ chức cò mồi của cộng sản để gài bẫy thành phần đối lập thì chỉ có anh tôi và Hân liên can, giữ được an toàn cho tôi để còn tiếp tục phát triển Lạc Long; thứ hai, hình thức một tu sĩ đang chịu trách nhiệm trụ trì một ngôi chùa của tôi không thích hợp để góp mặt công khai vào một lực lượng đấu tranh có tính cách võ trang nhằm lật đổ chính quyền hiện tại như tổ chức Phục quốc. Anh tôi và Hân đã thay tôi, hỗ trợ nhiều việc cho ông Lương. Nhưng vào cuối tháng 11 năm 1984, ông Bản đến gặp tôi, cho biết lực lượng Phục quốc dự tính tung truyền đơn kêu gọi toàn dân đồng loạt nổi dậy hưởng ứng công cuộc đấu tranh chống lại chế độ cộng sản và vì tính cách quan trọng đó, ông Lương cần trực tiếp gặp tôi để thảo luận vài việc trước khi quyết định. Ông Bản nài nỉ mãi, tôi nhận lời.
Ngoài ông Bản tháp tùng ông Lương đến gặp tôi còn có cả anh tôi nữa. Tôi tiếp họ tại thư viện nhỏ của chùa tôi. Hai việc ông Lương cần tôi giúp là: thứ nhất, hướng dẫn làm máy quay roméo bằng tay; thứ hai, góp ý vào bản cương lĩnh và đường hướng hoạt động của lực lượng Phục quốc cũng như chính sách xây dựng kiến thiết xứ sở trong tương lai. Công việc thứ nhất, tôi bày ông Bản chế tạo cái máy in truyền đơn thô sơ bằng khung gỗ căng lụa với trục quay là ống nước bằng sắt; khi tiến hành việc quay truyền đơn, tôi sẽ có mặt để hướng dẫn kỹ thuật trong vài chục bản in thử. Công việc thứ hai, ông Lương chỉ ngồi tại thư viện chùa tôi, hỏi ý kiến tôi từng vấn đề về việc xây dựng và kiến thiết đất nước trong thời kỳ hậu cộng sản; ông hỏi tới đâu, tôi góp ý đến đó. Anh tôi đúc kết, và cuối cùng, anh soạn viết các tài liệu.
Tài liệu viết xong, ông Lương đích thân đến gặp tôi, yêu cầu tôi xem lại, góp ý hiệu đính. Và cuối cùng, tài liệu được in ra hàng mấy chục nghìn bản, Cách thực hiện in truyền đơn cũng như kỹ thuật in khá đơn giản nên ông Lương và các thuộc cấp của ông đều tự làm được sau khi tôi hướng dẫn qua một lần; và thay vì tập trung in truyền đơn tại Long Thành, lực lượng Phục quốc dã cho in truyền đơn tại nhiều địa điểm ở các tỉnh khác để tránh việc vận chuyển truyền đơn ngoài đường. Lo xong việc in truyền đơn, ông Lương rời Long Thành vào những ngày trước Giáng sinh để về miền Tây Nam bộ hướng dẫn các cơ sở Phục quốc dưới đó. Hân thì đến ngày hai mươi ba Tết từ Sài Gòn lên Long Thành, dụng ý là để gặp ông Lương nhưng chỉ gặp được ông Bản.
Không biết ông Bản nhờ Hân hay tự ý Hân đề nghị, giao anh ấy một số truyền đơn để mang về rải ở Sài Gòn. Vậy là từ khoảng sau Giáng sinh đến gần Tết Nguyên Đán, lực lượng Phục quốc đã cho tung truyền đơn khắp các tỉnh. Nhưng đến sáng sớm ngày ba mươi Tết thì cơ sở Phục quốc tại Long Thành, chẳng rõ vì lí do gì, bị đổ vỡ. Công an tình Đồng Nai, phối hợp cả bộ đội, vây kín vùng kinh tế mới Long Phước và Bàu Cạn. Ông Lương không bị bắt vì đã rời Long Thành trước. Ông Bản và hầu hết các nhân sự Phục quốc tại Long Thành đều bị bắt.
Hai anh em tôi vì chỉ làm việc trực tiếp với ông Lương và ông Bản, nên cho đến tối giao thừa vẫn không bị công an phát hiện. Dù vậy, tôi cũng lo cho anh tôi, bèn thúc giục anh đi. Anh rời khỏi Long Thành ngay tối hôm đó, và cũng từ đó, anh em tôi mỗi người mỗi ngả, không có dịp gặp lại nhau lần nào.
Ông Văn cầm cây bút, ghi vài dòng vào tờ giấy trắng trước mặt. Ông thở dài một cái, thả cây bút xuống, một tay chống cằm, một tay vỗ nhẹ trên trán mấy cái. Trán ông nhíu lại tạo từng rãnh sâu chạy ngang trên đôi lông mày giống như nét ký họa về một con sông nhỏ. Ông hỏi:
“Tại sao ngày ba mươi Tết, công an và bộ đội Đồng Nai bố ráp bắt những phần tử Phục quốc phản động rồi cho hạn kỳ mười ngày để những người chưa bị bắt tự ra trình diện, đầu thú, anh không chịu ra đầu thú, lại trốn về thành phố HCM để đầu thú công an dưới đó?”
“Cái gì? Tôi đầu thú công an Sài Gòn à? Làm gì có chuyện đó. Họ chận bắt tôi ngoài đường mà.”
“Bắt ngoài đường à? Ở đâu?”
“Gần ga xe lửa Bình Triệu, trên đường đi Thủ Đức.”
“Lạ thế! Không phải anh ra đầu thú à?”
“Tuyệt đối không.”
“Nhưng đầu thú thì cũng tốt thôi, như vậy nhẹ tội hơn là anh trốn chạy. Có điều, tôi chỉ thắc mắc là sao anh phạm tội ở tỉnh này, lại không đầu thú công an tỉnh này mà vào thành phố HCM…”
“Tôi không hề đầu thú công an Sài Gòn, cũng không hề có ý đầu thú gì công an Đồng Nai cả. Lúc công an Đồng Nai phóng loa kêu gọi những người Phục quốc ra đầu thú khắp các huyện, tôi đang có mặt tại chùa, chẳng trốn tránh, cũng chẳng muốn trình diện. Tôi ở đó suốt nửa tháng đầu năm để chờ các ông vào bắt mà. Các ông không bắt thì tôi đi, vậy thôi.”
Nói đến đó, tôi chợt hiểu là tốp công an Sài Gòn vì lý do nào đó, đã nói với công an tỉnh Đồng Nai rằng tôi ra trình diện đầu thú tại Sài Gòn. Tôi chẳng rõ công an Sài Gòn nói vậy thì có lợi gì cho họ. Phải chăng họ muốn tránh khơi chuyện ông thầy Tư và Hân đã sắp đặt cho họ bắt tôi để rồi sinh rầy rà với công an Đồng Nai? – Vì nếu tôi khai ra chuyện bị ông thầy Tư và Hân lừa gạt, không chừng công an Đồng nai sẽ bắt hai người đó sau khi truy thêm lý do rõ ràng để rồi xì ra chuyện Hân có liên can đến Phục quốc, còn ông thầy Tư thì khoe khoang có mật khu của Mặt trận Hữu thần… Hay chuyện ấy là do Hân muốn tôi được nhẹ tội hơn nên yêu cầu công an Sài Gòn nói rằng tôi đã ra đầu thú? Mà thôi, dù sao, tôi cũng chẳng cần phải có ý kiến gì về chuyện ấy.
Tôi đã bị bắt rồi. Bị bắt bởi công an Sài Gòn hay công an Đồng Nai thì cũng vậy thôi, có khác gì đâu. Họ đều là cán bộ nhà nước cả mà. Chỉ có danh tính và hành tung của ông thầy Tư và Hân là còn mập mờ đối với công an tỉnh Đồng Nai thôi. Hai người này là đặc tình của công an Sài Gòn, chẳng có gì bảo đảm là họ khỏi bị công an Đồng Nai bắt nếu tôi thành thật khai rằng ông Tư khoe khoang có mật khu chống cộng để gạt tôi ra đường. Hân thì cùng hoạt động với tôi trọng lực lượng Phục quốc cũng như Hội Lạc Long… Nhưng thôi, tôi đâu cần phải phản cung đánh ngược lại để trả thù hai người ấy. Họ có vợ con, có nỗi khổ riêng, và hãy còn là những chúng sinh yếu hèn… nên họ có hại tôi thì cũng là điều dễ hiểu, có thể chấp nhận, có thể thông cảm và tha thứ; còn tôi, tôi không có lý do nào để biện minh bào chữa cho mình nếu tôi đáp lại họ bằng một tâm địa hèn hạ y hệt. Tôi có quyền khai thật về những gì tôi làm, không cần phải khai thật về những gì kẻ khác làm.
“Anh thật không biết hiện giờ ông Lương ở đâu hết à?” ông Văn lấy tay đẩy gọng kiếng lão cho nhích lên sát với cặp lông mày rậm bạc, ngoan cố hỏi lại.
“Không,” tôi đáp dứt khoát.
“Anh có biết tại sao ông Lương rời Long Thành trước ngày Giáng sinh không?”
“Không,” tôi đáp.
Trả lời không rồi, tôi lại đâm nghi. Không rõ câu hỏi của cán bộ Văn có ngầm ly gián tôi với ông Lương chăng! Hình như ông Văn muốn tôi nghĩ rằng ông Lương là một gián điệp của công an, đã vờ lập ra lực lượng Phục quốc, bày ra đủ chuyện để lôi kéo những người yêu nước nhẹ dạ đi theo, cuối cùng ông ấy tránh mặt, báo công an đến vây bắt… Điều này cũng đáng nghi thật. Nhưng mối nghi này vừa nẩy ra, tôi liền xua ngay. Tôi tin ông Lương không phải đặc tình hay một thứ cò mồi nào đó của cộng sản. Nỗ lực của công an Sài Gòn lẫn Đồng Nai từ những lần hỏi cung tôi, đều nhắm vào chuyện điều tra tông tích và nơi ẩn náu của ông Lương. Cách họ điều tra và nhắc đến ông Lương có vẻ khẩn trương, nóng ruột lắm. Vả lại, từ nhiều tháng nay, từ lúc chưa bị bắt cho đến khi vào tù, tôi vẫn cứ nghe tin đồn là truyền đơn của Phục quốc tiếp tục tung rải ở nhiều tỉnh khác.
Ông Lương đến đâu, nơi đó có truyền đơn. Ông chưa bị bắt thì công an chưa ăn ngon ngủ yên. Những người tù mới bị bắt vào sau cũng cho tôi biết về những tờ truyền đơn Phục quốc mà chính họ lượm được, hoặc được người khác chuyền tay cho đọc. Tôi không thể nghi ngờ gì ông Lương được. Cho nên, mối nghi về ông Lương bất chợt chuyển hướng, dẫn tôi đến một đối tượng khác–đối tượng này, cả công an Sài Gòn lẫn Đồng Nai đều cố ý tránh nhắc đến, hoặc không hề biết đến, nhưng đối với tôi, lại vô cùng rõ ràng, nhất là từ lúc ông Văn nhắc đến chuyện ông Lương rời Long Thành trước Giáng Sinh. Đối tượng đó là Hân. Không phải đến lúc này tôi mới nghi ngờ Hân, mà là xác định rõ hơn về hành tung của Hấn đối với việc đổ vỡ của Phục quốc tại Long Thành cũng như việc công an Sài Gòn bắt tôi ngoài đường ngay khi tôi vừa rời khỏi chỗ của Hân. Cứ tuần tự theo thời gian, tôi thử phác vẽ bước đi của Hân trong vai trò một đặc tình của công an Sài Gòn như sau:
- từ khi hai thầy Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát bị bắt vào cuối tháng 3 năm 1984, rồi Hòa thượng Trí Thủ viên tịch đột ngột một tuần sau đó trong bệnh viện của nhà nước. Hân biết trước sau gì tôi cũng có phản ứng, bèn tìm gặp tôi tại Long Thành, kết chặt thêm tình thân, tạo thêm niềm tin nơi tôi, để rồi xâm nhập vào các hoạt động của tôi về sau;
- tháng 8 năm 1984, khi tôi vận động các bằng hữu để thành lập một lực lượng đấu tranh đòi tự do dân chủ cho Việt Nam, Hân xâm nhập vào ngay từ những bước đầu phôi thai;
- trong cuộc họp đầu tiên thảo luận về cương lĩnh và danh xưng của một lực lượng mới này, Hân đề nghị lấy danh xưng Lực Lượng Việt Nam Tự Do cũng như cương lĩnh có sẵn của lực lượng đó (lực lượng này do Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát chủ trương); điều này có nghĩa rằng Hân muốn chúng tôi trở thành một nhóm tiếp nối lực lượng đấu tranh của Tuệ Sỹ, như vậy, chúng tôi sẽ bị cộng sản kết tội dễ dàng và nhanh chóng hơn, vì chúng tôi chỉ cần sử dụng danh xưng đó là trở thành tội phạm ngay, không cần phải chờ đợi hành động mới có tang chứng để công an bắt; (nhưng thay vì lấy danh xưng Lực Lượng Việt Nam Tự Do của Tuệ Sỹ, chúng tôi đã lấy tên là Hội Lạc Long);
- khi lực lượng Phục quốc mời tôi tham gia, Hân biết được bèn khuyến khích tôi cộng tác đồng thời giới thiệu Hân với Phục quốc–khuyến khích tôi cộng tác để tôi dễ bị kết tội, nhưng tôi đã không tham gia trực tiếp, chỉ đứng ngoài hỗ trợ và giới thiệu Hân cộng tác;
- sáng ngày 23 Tết, nhân dịp về Sài Gòn mua sắm đồ Tết cho chùa, tôi có đến gặp Hân, cho Hân biết về chuyện truyền đơn của Phục quốc sẽ bắt đầu rải từ những ngày cận Tết, và có thể sớm hơn tùy theo địa phương; nghe vậy, thay vì đi chợ Tết với tôi như đã hứa, Hân lại nói rằng có việc khác phải làm, rồi một mình Hân đi Long Thành mà không cho tôi biết;
- ngày 24 Tết tôi trở lại Long Thành thì được ông Bản cho biết về sự có mặt bất ngờ của Hân hôm qua; ông Bản cho biết Hân hỏi gặp ông Lương nhưng ông Lương đã rời Long Thành từ những ngày trước Giáng sinh; Hân nài nỉ ông Bản cho biết chỗ ở của ông Lương hoặc bằng cách nào đó để gặp ông Lương; không được ông Bản tiết lộ những điều đó, Hân nhờ ông Bản nhắn với ông Lương rằng Hân muốn gặp gấp ông Lương tại nhà Hân ở Sài Gòn; cũng theo lời ông Bản, Hân có mang theo một số truyền đơn về Sài Gòn;
- ngày 30 Tết, công an và bộ đội bố ráp khu vực xã Long Phước và Bàu Cạn, nơi phát xuất truyền đơn, bắt trọn lực lượng Phục quốc cơ sở Long Thành; chỉ có ông Lương, anh tôi, tôi và Hân là không bị can hệ gì vào đợt đó;
- ngày 14 tháng giêng âm lịch, tức sau Tết gần nửa tháng, Hân nhờ một người học trò tôi từ Sài Gòn lên Long Thành, nhắn tôi về Sài Gòn gấp; tại Sài Gòn, tôi hỏi Hân tại sao nhắn tôi về gấp, Hân nói Thượng tọa Đức Nhân không muốn tôi bị bắt nên nhờ Hân nhắn tôi đến gặp Thượng tọa; Thượng tọa nói ngài không nhắn, chỉ có hỏi thăm về tình hình an nguy của tôi mà thôi; vài ngày sau thì tôi được người thân tín ở Long Thành về Sài Gòn báo tin cho biết rằng công an Đồng Nai vào chùa tìm bắt tôi ngay buổi tối 14, đúng cái ngày mà tôi rời bỏ Long Thành;
- Hân không muốn tôi bị bắt trên Long Thành không phải vì bảo vệ tôi, mà vì muốn nộp tôi cho công an Sài Gòn, nơi mà Hân nhận công tác làm đặc tình, để được thưởng công; Hân tìm gặp ông Lương cũng cùng một mục đích trên, tức là Hân muốn cả tôi và ông Lương đều bị bắt bởi công an Sài Gòn chứ không phải công an Đồng Nai…
Lúc còn ở trại T20 chưa chuyển đến trại này, với sự “điểm nhãn” của người bạn tù là ông Trung, tôi đã hiểu ra là Hân gạt tôi, nhưng bây giờ suy lại theo thứ lớp thời gian một lần nữa, tôi thấy sự việc tường tận hơn. Rõ ràng là tôi đã bị Hân gạt. Hân hoàn toàn đóng kịch với tôi. Nhưng thôi, giận trách làm gì ở nước này! Vào tù rồi mới nhận hiểu thì đã quá muộn. Thực ra, tôi ngu dại không nhận biết gì hết thì hay hơn. Thà mình vô tư, nhẹ dạ, chẳng hiểu chẳng biết gì, cứ bị gạt, bị nạn, để lúc nào cũng còn thấy có bạn tốt trên đời, còn hơn hiểu ra tất cả, nghi ngờ tất cả, để rồi sống trong đau khổ, buồn rầu, thất vọng… Tôi nhớ mang máng Voltaire có nói rằng “ngờ vực tức là làm cho người khác phản bội mình.” Có thể đối với Hân, tôi đã không hết lòng tin anh ngay từ lúc đầu. Hành tung của anh lạ lắm: anh đến với ai, người đó cũng đâm nghi ngờ anh–ngay cả một người cả tin nhẹ dạ như tôi mà còn vậy nói chi người khác! Như vậy, Hân gạt tôi, phản bội tôi, cũng đáng đời tôi lắm rồi!
Kể từ hôm nay, tôi tự rút ra một bài học nghìn vàng để sống giữa xã hội này: tin tưởng và thương yêu mọi người thì sẽ chết, mà nghi ngờ và thù ghét hết mọi người thì cũng chết! Vậy thì, mắc gì phải sống bằng cái tâm lý phủ định rất ư cùn mằn nhỏ mọn kia! Cứ hết lòng mà tin tưởng và thương yêu đi chứ, vì đằng nào cũng chết mà!
Ồ, nói vậy hóa ra cái nhẹ dạ lầm lỡ của tôi lâu nay cũng hợp lý với bài học trên một cách không cần tính toán! Cứ tiếp tục nhẹ dạ, dễ tin, thương yêu mọi người mà sống, dù cho họ sẽ hại mình, xô đẩy mình vào hỏa ngục…
Ông Văn lên tiếng, làm tôi hơi giật mình trở về với thực tại là đang ngồi khai cung:
“Này anh Khang, thôi tôi cho anh về phòng, khi nào có gì cần, chúng tôi sẽ hỏi lại anh nhé!”
Tôi hơi ngạc nhiên vì khi nãy ông nói sẽ không tính kể biên bản kết cung của công an Sài Gòn và sẽ lập biên bản khác của Đồng Nai, nhưng bây giờ rõ ràng là ông chẳng lập biên bản gì cả. Có lẽ ông chỉ muốn điều tra về ông Lương, chỗ ẩn náu của ông Lương, mà các chi tiết đó, dù tôi có muốn thành thật tối đa hơn hoặc trời phú thêm cho tôi tính hèn nhát đi nữa, cũng chẳng biết gì để khai thật.
Ông Văn trả tôi về lại chỗ văn phòng chính của trại, nơi có cô công an ngồi trực thường xuyên.
“Anh Khang à, nếu ở dưới phòng có gì rắc rối, lộn xộn, hoặc anh có bệnh gì, cứ xin quản giáo cho gặp tôi nghe. Tôi là Phương, cán bộ thụ lý hồ sơ nhân sự, cũng đặc trách về y tế của trại này,” cô nữ công an hình như đã dự trù sẽ nói với tôi những điều ấy nên ông Văn vừa rời đi, cô đã nói luôn một hơi không vấp váp.
Tôi gật đầu.
Trở về phòng giam, tôi gặp ngay phản ứng khác lạ từ đám tù chung phòng. Khi sáng cán bộ Hón vặn hỏi tôi mấy câu trước mặt mọi người và đã vô tình tiết lộ cái tông tích thầy tu của tôi. Bạn tù vây quanh tôi, người câu này, người câu kia, rộn lên:
“Nè, anh là tu sĩ hả?”
“Ổng là thầy tu mà, phải gọi ổng là thầy.”
“Thầy chùa đó mà!”
“Tu mười lăm năm rồi, khiếp, sao mà chịu nổi ta ơi!”
“Thít Tam Quan! Thích Tâm Quang!”
“Ông thầy, ông thầy!”
Tôi chẳng nói gì, lẳng lặng trở về chỗ của mình, ăn trưa. Phần cơm của tôi, anh Vận lãnh giúp khi tôi vắng mặt. Tôi chẳng có thức ăn gì ngoài gói đường cát Thiện Đắc chia. Ừ thì ăn cơm với đường, cũng sang quá cỡ–đường cát là thứ thức ăn xa xỉ và quí nhất của tù! Cơm tù có đạm bạc gì đâu!
Ăn xong chén cơm đầy thóc (phải lựa trước khi ăn, nhưng tôi ăn trễ, chẳng có thời gian lựa thóc) thì kẻng báo giờ nghỉ trưa. Mọi người im lặng ai về chỗ nấy, kẻ trải chiếu, người giăng mùng (để tránh ruồi), không ngủ cũng phải nằm yên một chỗ, không được ồn ào. Tôi cũng nằm xuống chỗ tôi, bên cạnh cái nhà cầu khai ngấy mùi nước tiểu. Một nỗi buồn nhỏ kéo đến đúng lúc sự im lặng lấp đầy phòng giam.
Buổi trưa nắng cháy. Bên ngoài không một bóng cây. Thỉnh thoảng, gió nhè nhẹ đưa vào, lung lay cái mùng treo gần cửa sổ và chỗ lồng khung. Mới đó đã có người ngáy pho pho. Những dạng người mình trần trùng trục, nằm xếp thành hàng lớp như những con mực dang được phơi khô trên vĩ. Đội 1 và đội 2 đưa đầu ra ngoài, đưa chân vào phía trong; đội 3 và đội 4, đưa đầu vào trong, đưa chân ra ngoài. Chân đối chân, chỉ cách nhau cái khoảng đường ở giữa để qua lại (trong tù gọi là phi đạo). Đầu thì xa nhau bằng khoảng cách chiều ngang của phòng giam. Xã hội chủ nghĩa này cũng xây dựng một xã hội người ngợm tiếp xử với nhau cùng một cách thế ấy: miễn là có lập trường cách mạng như nhau (hay ít nhất cũng gần nhau) là đủ; còn tư tưởng, có xa cách nhau bao nhiêu lại chẳng được, đừng biểu lộ chúng ra ngoài là yên ổn rồi.
Không phải tôi học theo đường hướng tiếp xử đó. Tôi chỉ theo cảm tính tự nhiên của mình, không muốn biểu lộ bất cứ hình thái tư duy hay hình thức lý tưởng nào của mình cho những người bạn tù. Như đã nói, ngay từ lúc bị bắt vào trại T20, sống bên cạnh một người bạn tù duy nhất là ông Trọng, tôi còn không muốn tự giới thiệu, tự phơi bày tông tích của mình, huống gì cả một đám tù trên sáu mươi người, phức tạp như ở đây! Tôi muốn hòa nhập trọn vẹn với họ trong sinh hoạt, nhưng rồi cũng bị đẩy dội ra. Rõ ràng là khi những bạn tù trong phòng giam này phát giác ra rằng tôi là tu sĩ, tự dưng tôi lại thấy mất tự nhiên. Quả là tôi có chấp nhận việc đi tu thật, nhưng không phải trong cách thế một nhà tu mà ai nhìn vào cũng phải nẩy ra một thứ định kiến (tốt hoặc xấu) nào đó.
Tôi muốn là giọt nước tan vào chậu nước bẩn, hạt bụi rớt vào đống cát sạn, chứ đâu muốn làm ông thầy tu lủi vào đám tù! Có thể do bản tính cố chấp, cực đoan, muốn cái gì thì rõ ràng cái đó, nên tôi chỉ có thể tự tại trong cửa thiền khi tôi là một nhà tu, còn muốn tự tại trong cuộc đời thì tôi phải là người thế tục! Mà có thể vì một lý do dễ hiểu hơn: tôi chưa đắc đạo; tôi hãy còn là một ông thầy tu dở, kém đạo hạnh. Một kẻ tu hành còn chấp trước, còn lăng xăng thụt thò trước những cám dỗ của ái dục, còn đặt nặng hình thức, còn coi trọng dư luận tha nhân, còn bảo vệ cả một cái bản ngã to tướng, thì làm gì có được cái tâm tự tại vô ngại! Bởi nếu có được cái tâm tự tại ấy thì sống ở đâu, hoản cảnh nào lại chẳng thấy an lạc!
Trở ngại rõ ràng trước mắt là mang hình thức thế tục, hình thức một tù nhân mà phải sống như một tu sĩ, tôi cảm thấy gượng gạo, lúng túng. Không phải tôi muốn che giấu tông tích thầy tu để được tự tung tự tác, đánh mất tư cách hay những oai nghi tế hạnh mà lâu nay tập luyện ở chùa đâu! Những thứ ấy, một khi đã tập luyện thuần thục rồi, trở thành một thứ bản năng thứ hai, làm sao mà đánh mất được! Dù có đi đứng nằm ngồi một cách tự nhiên, không thèm để ý đến tư cách đi nữa, người khác vẫn cứ thấy ông thầy tu có tư cách như thường! Nhưng tôi thực sự muốn được người khác nhìn mình như là một con người rất bình thường, không có bất cứ nhãn hiệu đạo đức hay tư cách gì để dán phủ lên mình hết! Đạo đức, tác phong, thực ra chẳng là cái gì cả. Cũng chỉ là hình thức bề ngoài thôi, chẳng dính nhập gì đến đạo quả giải thoát.
Đạo quả giải thoát có thể đẻ ra muôn vàn thứ đạo hạnh nhưng muôn vàn thứ đạo hạnh thì vô phương vói đến đạo quả giải thoát. Cho nên, tại sao trong hoàn cảnh những con người cởi trần mặc quần xà-lỏn sống theo sinh hoạt nội qui trại giam một cách bình đẳng suốt ngày đêm ở dây, tôi lại phải đón nhận thêm làm gì cái trách nhiệm thể hiện đạo đức tác phong, giữ gìn thể diện của chiếc áo tăng sĩ! Tôi chỉ muốn thể nghiệm cái tính Phật và giữ gìn cái tính Phật sẵn có trong tôi mà thôi. Tôi thực sự là không cần và không thích phải đóng vai một thầy tu trong nhà tù. Tôi chỉ muốn làm một tù nhân bình thường, làm một anh nông dân, một anh công nhân viên, một nhà buôn, hay một nghệ sĩ… Tôi có bình thường được như những người đồng tù chung quanh thì họ mới sống thực được với tôi.
Tôi quá ngán ngẫm cái cuộc sống giả tạo mà trong đó, tín đồ cứ đòi hỏi thầy tu phải như thế này, như thế kia, còn thầy tu thì dù biết rằng những thứ đòi hỏi trên chỉ là hình thức bề ngoài nhưng vẫn cứ phải giữ gìn từng li từng tí để chiều lòng tín đồ. Càng đáp ứng những đòi hỏi của tín đồ nhiều chừng nào, ông thầy tu càng nổi tiếng đạo hạnh chừng đó; mà đạo hạnh càng cao, càng xa cách tín đồ. Một khi những bạn tù biết tôi là thầy tu, họ sẽ xa cách tôi. Họ sẽ đề phòng, thủ thế, giữ ý tứ, không sáp gần đến tôi được. Tôi giữ gìn được cái tư cách và hình thức của tôi thì cũng đồng thời mặc nhiên yêu cầu họ tôn trọng cái tư cách và hình thức đó. Tôi bị hình thức bao bọc thì họ cũng bị hình thức ảnh hưởng. Rốt cuộc, cả tôi và họ chỉ sống cho cái hình thức, không bao giờ sống thực với nhau cả.
Tôi phải làm sao đây? Bao giờ tôi mới được thực sự là tôi, bao giờ thì người ta mới nhìn nhận tôi như một con người bình thường, gần gũi với họ? Làm sao tôi có thể xoay chuyển được con người và xã hội chung quanh mà không cần đến sự trợ giúp của các thứ nhãn hiệu đạo đức, tác phong…? Phải chăng chỉ bằng cách từ chính tôi, tự do chọn lựa đường bay và ngõ thoát của riêng mình? Vâng, có lẽ phải như vậy. Tôi muốn lột hết những nhãn hiệu thầy tu, đạo đức, tư cách, tác phong… ra khỏi con người mình để được gần gũi với con người hơn. Và cơ hội ở tù, cũng như những bạn tù chung quanh, chính là mảnh đất thiêng liêng để tôi thí nghiệm con đường dấn thân tìm cầu ngõ thoát của tôi.
Không. Không thể được. Bây giờ không thể làm như vậy được. Tôi đã mất cơ hội để chọn lựa rồi. Cán bộ Hón đã cho mọi người biết tôi là tu sĩ Phật giáo. Và kể từ hôm nay, mọi người trong phòng giam này bắt đầu chú ý tôi, nhìn tôi như là một biểu tượng của Phật giáo. Người ta bắt đầu đánh giá Phật giáo hay tăng sĩ Phật giáo qua con người và cách sống của tôi. Tôi hãy còn cái trách nhiệm bảo vệ chiếc áo nhà tu của mình. Như vậy, điều trước mắt, dù thế nào đi nữa, dù nhân danh một thứ an lạc tự tâm, một thứ lý tưởng siêu việt trên mọi hình thức, tôi vẫn phải tiếp tục đóng vai một ông thầy tu có đạo đức, có tư cách riêng–mà cái tư cách đạo đức của thầy tu theo nhận xét thiển cận của quần chúng Việt Nam thì ngoài tác phong đạo đức, có hai yếu tố quan trọng là phải ăn chay và không lấy vợ.
Các vấn nạn trên không cho tôi ngủ được giấc trưa êm đềm của trại giam hôm ấy. Tôi nằm trăn trở một lúc thì một nỗi cô đơn khủng khiếp kéo đến, đè lấy ngực tôi. Một nỗi buồn nào da diết như là nhớ nhung ai, nhớ nhung một cái gì đó mơ hồ đã mất dấu trong ký ức… Hình như tôi muốn khóc. Tôi thấy tôi nhỏ bé lại như thuở lên chín, lên mười, lúc chưa xuất gia. Tôi nhớ nhà.
CHƯƠNG BA
Nàng châm thêm nước sôi vào bình trà đã cạn. Tôi nói
nếu nàng buồn ngủ thì nàng có thể đi ngủ trước. Nàng cười, lắc đầu, nói
rằng nàng có thể thức mấy đêm cũng được, để nghe chuyện tù của tôi. Nếu
anh cần nghỉ thì anh đi nghỉ, nàng nói. Tôi cũng lắc đầu, nói rằng có lẽ
sẽ không ngủ được đêm nay. Thôi thì ngồi nói chuyện. Nàng vui vẻ lấy
thêm một cái tách để uống trà với tôi. Nhìn sau lưng nàng, tôi bỗng thấy
nhớ Mộng Huyền. Dáng cao, thon thả, tóc dài ngang lưng, bồng bềnh. Tôi
nhắm mắt lại một lúc. Tự dưng thấy cần một điếu thuốc. Tự trưa đến giờ,
tôi đã không đốt một điếu thuốc nào dù rằng trong túi tôi hãy còn nửa
gói. Tôi hỏi nàng tôi có thể hút thuốc được không. Nàng gật đầu nói để
nàng đi mua.
Tôi nói không cần, rồi đứng dậy bước lên lầu, quay trở
vào căn phòng mà nàng chỉ định như là phòng ngủ của tôi đêm nay, lấy gói
thuốc và cái hộp quẹt ga. Tôi lại hỏi nàng có ghét những người hút
thuốc không. Nàng nói, nếu ghét thì phải ghét nhiều người quá. Mỗi sáu
tháng, khi đi thăm nuôi ba nàng ở trại cải tạo, nàng gởi vào cho ông
khoảng mười cây thuốc điếu và mấy kí thuốc rê. Nàng hiểu những người ở
tù cần thức ăn cho bao tử và cần thuốc lá để an ủi tinh thần. Nàng loay
hoay tìm cái gạt tàn đâu đó trong tủ chén bát, đem ra đặt trước mặt tôi,
nhoẻn miệng cười rồi chống cằm nhìn tôi đốt thuốc. Nhìn khuôn mặt vừa
ngây thơ vừa lãng mạn của nàng ẩn hiện qua làn khói thuốc mỏng, tôi tự
hỏi: có cần phải thoát ly một cái đẹp không thực trong một thế giới
không thực? Nếu thế giới này thực thì cái đẹp kia cũng thực, vậy thì đâu
cần phải từ bỏ cái thực! Nếu thế giới này là giả thì cái đẹp kia cũng
là giả, vậy thì cần gì phải từ bỏ một cái giả! Nó đã giả rồi thì tự nó
trình hiện rồi tự nó tan biến, đâu cần phải phí công vượt thoát nó!
Anh đang nghĩ gì mà ngó em trân trân vậy? Anh kể tiếp
đi, nàng nói. Tôi giật mình, rảy thuốc vào gạt tàn. Tới đâu rồi nhỉ? À,
thời gian khai cung ở trại B5…
Những ngày kế tiếp, dù tôi đã một mực nói rằng tôi
không biết gì về chỗ ẩn náu của ông Lương, ông Văn cứ cho “lấy” tôi ra
làm việc. Hỏi tới hỏi lui, cũng chừng nấy câu hỏi. Cuối cùng, ông lập
một biên bản khá chi tiết, đưa tôi đọc lại trước khi ký. Tưởng vậy là
xong, không ngờ vài ngày sau, ông lại gọi tôi, bắt viết bản tự khai về
các hoạt động của tôi trong lực lượng Phục quốc. Có lẽ vì chỉ dựa theo
biên bản kết cung của công an Sài Gòn, ông Văn không biết gì đến các
hoạt động khác của tôi trong Đoàn Phật Tử Phụng Đạo, Hội Lạc Long… Điều
này có nghĩa rằng: công an Sài Gòn muốn xóa hết vết tích của Hân, hoặc
là các hoạt động ấy của tôi không có gì quan trọng, không bị kể như là
những hành vi phạm tội rõ ràng đối với nhà nước. Và vì ông ấy không đá
động gì đến Đoàn Phật Tử Phụng Đạo hay Hội Lạc Long, tôi cũng không tội
gì mà thành thật nhắc đến.
Tôi chỉ viết về chuyện tôi tham gia lực lượng Phục quốc.
Tôi viết rất thành thật như tôi đã khai với Long, với Sơn ở T20. Tôi có
làm điều gì, tôi khai điều nấy, miễn không khai gì liên lụy đến những
kẻ khác trong cuộc là được rồi. Vậy mà sự viết tự khai này cũng không
đơn giản chút nào. Ông Văn đọc xong, bắt tôi viết lại, rồi viết lại,
viết lại… chẳng biết bao nhiêu lần mà cứ bắt viết lại. Nhiều khi cầm bút
lên tôi thấy ớn trong cổ như thể bị buộc phải ăn món gì có chất béo
trong khi bụng đang no đầy.
Nhưng cuối cùng cũng có ngày tôi được yên thân, không
có cán bộ nào xuống gọi tên đi “làm việc” nữa. Bấy giờ tôi mới rảnh rang
cả thể xác lẫn tâm trí để sống theo sinh hoạt của trại giam tập thể.
Trại giam tập thể được chia làm ba khu, mỗi khu có ba
phòng giam lớn với tường bao bọc và một sân chơi riêng. Phòng giam tôi ở
là phòng 7, cùng với phòng 8 và 9 nhập thành một khu. Mỗi khu có chung
một giếng nước đục ngầu vì đất có phèn. Giếng nước có lẽ do tù nhân đào
lấy bằng tay, chẳng có thành giếng đàng hoàng như những cái giếng ngoài
xã hội, vì vậy, mỗi lúc có mưa lớn, nước ngập lênh láng chung quanh,
ngập luôn cả giếng, và người ta sẽ chẳng thấy miệng giếng ở đâu. Dù sao,
trong suốt những ngày bị giam, cái giếng ấy cũng là nguồn sống chính
của tù nhân chúng tôi. Ba phòng giam với khoảng hai trăm người, mỗi ngày
được túa ra sân một giờ đồng hồ, xúm xít vắt kiệt đến xô nước cuối
cùng. Chúng tôi lấy nước dội cầu, rửa nền nhà và để rửa chén bát đều từ
cái giếng nhỏ xíu ấy. Từ mặt đất đến đáy giếng, chưa tới hai thước. Nước
giếng để yên một đêm chưa ai động đến thì nước cũng khá trong và mực
nước dâng lên gần đến miệng giếng.
Mỗi phòng do một cán bộ quản giáo trực tiếp quản lý.
Quản giáo phòng 7 chúng tôi tên là Khoa. Anh này mập mạp, người miền
Nam, trông có vẻ hiền lành, dễ chịu. Mỗi ngày anh xuống mở cửa phòng
giam, cho chúng tôi ra sân chơi một tiếng đồng hồ. Trong khi phòng chúng
tôi ra chơi, hai phòng 8 và 9 phải ở trong. Chúng tôi vào phòng rồi,
một trong hai phòng đó mới được cho ra. Như vậy, phòng nào ra trước thì
được hưởng nước trong. Hai phòng ra sau chịu nước đục ngầu mà có khi
nước mạch ra không kịp, chẳng lấy được miếng nước nào. Cho nên, ba quản
giáo quản lý ba phòng cũng phải hội ý với nhau, chia thời khóa biểu thế
nào để ba phòng chúng tôi thay phiên nhau mà được ra sân chơi trước.
Sân của khu chúng tôi hình chữ nhật, hai cạnh phía
trong chạy dọc theo mặt trước của ba phòng giam tạo thành chữ L, hai
cạnh còn lại là tường thành cao có rào thép gai phía trên. Chiều dài
khoảng bốn chục thước, chiều ngang khoảng hai chục thước. Giữa sân, có
lưới để đánh bóng chuyền. Lưới do tù nhân thích chơi bóng của ba phòng
góp tiền nhờ quản giáo mua giúp. Banh thì mỗi phòng mua riêng, cũng do
những thành viên chơi bóng góp tiền. Mỗi lúc mở cửa cho chúng tôi ra sân
chơi, quản giáo mang trái banh theo. Chơi xong, rửa sạch, trả banh lại
cho quản giáo cất giùm. Bóng chuyền là trò chơi duy nhất của tù nhân ở
ngoài trời. Những người không chơi bóng thì đi qua đi lại, phơi nắng,
trồng rau, tán gẫu… Phòng được chia làm bốn đội (dựa theo bốn bục xi
măng làm chỗ nằm trong phòng: ai được trưởng phòng sắp xếp nằm trên bục
nào thì thuộc về đội đó).
Mỗi đội lại chia làm nhiều tổ, mỗi tổ có ba hoặc bốn
người. Các tổ thay phiên nhau chịu trách nhiệm lau chùi sạch sẽ cái bục
nằm của đội. Riêng đội trực lo vệ sinh của phòng (trong tù gọi là đội
trực sinh) thì vừa lo vấn đề chia cơm, còn chịu trách nhiệm chuyền nước
từ giếng đổ đầy bồn cầu của phòng, và dĩ nhiên là làm vệ sinh nhà cầu
cùng phi đạo (tức là con đường hình chữ thập ở giữa bốn bục nằm; chữ
thập này có một cạnh dài, một cạnh ngắn: cạnh dài chạy dọc theo chiều
dài của bốn bục nằm, cạnh ngắn dọc theo chiều ngang của bốn bục và nối
liền nhà cầu với cửa sắt ra vào).
Mỗi phòng có trên sáu chục con người mà chỉ lo có mỗi
cái việc chung trong ngày là làm vệ sinh, thì dĩ nhiên kết quả mong đợi
phải là kết quả tốt. Thực vậy, vấn đề vệ sinh của phòng giam cũng khá so
với những trại khác mà tôi nghe bạn tù kể lại. Mỗi ngày trong giờ ra
chơi, đội trực sinh của phòng và các tổ trực sinh của đội lau chùi sạch
sẽ từ trong phòng ra đến thềm hiên. Lau chùi bằng nước cho đến khi nền
xi măng bóng loáng lên. Nền phòng vừa khô thì cũng vừa lúc quản giáo đến
điểm danh để cho tù nhân trở vào phòng. Từ sân chơi bước vào mọi người
đều phải rửa chân. Trong phòng giam không được mang dép, không được rảy
tàn thuốc xuống đất, khạc nhổ hay xả rác bừa vãi. Vậy là đủ sạch cho đến
giờ chơi của ngày kế tiếp.
Sinh hoạt trại giam nơi đây khá giống với sinh hoạt của
chùa. Tiếng kẻng trại khiến tôi cảm thấy sự tương đồng ấy. Từ tiếng
kẻng, tôi lại xét nghiệm, so sánh các sinh hoạt thường nhật khác giữa
nhà tù với nhà chùa nữa. Ôi, nếu ở tù mà biết tu, hẳn là dễ đắc đạo biết
bao! Hoàn cảnh ở tù so với ở chùa, e còn thích hợp hơn nhiều cho một
nhà tu, nhất là nhà tu khổ hạnh. Này nhé, trước tiên là tiếng kẻng: ăn
cơm, làm việc, ngủ trưa, báo thức ngủ trưa, báo nghiêm… rất giống tiếng
kẻng của một Phật học viện. Còn nữa, học thuộc lòng và đọc nội qui điều
lệ hàng tuần hoặc hàng nửa tháng: giống như ở chùa học thuộc lòng các
giới luật, các oai nghi phép tắc (không được làm điều này, không được
làm điều kia…) và tụng giới nửa tháng một lần.
Y phục đơn giản: tù nhân ở trần mặc quần đùi quanh năm
suốt tháng, chỉ mặc áo quần đàng hoàng khi đi ra ngoài khai cung với cán
bộ thôi–còn đơn giản hơn thầy tu. Hớt tóc nửa tháng một lần, hớt xưng
xửng hay hớt trọc: y hệt thầy tu ở chùa! Và những anh nuôi của trại được
phát bộ đồ tù màu lam, đầu hớt cao, nhìn chẳng khác mấy ông thầy tu ở
chùa. Nằm ngủ dưới đất: có thể tù nhân nằm đất trường kỳ hơn các nhà tu.
Ăn uống đạm bạc: tù nhân mỗi ngày được phát hai lần cơm, mỗi lần một
chén rưỡi, ăn với nước muối, lâu lâu được chút nước luộc rau muống làm
canh; uống thì uống nước giếng–đạm bạc hơn thầy tu thời nay.! Hoặc những
chuyện chỉ giống ở bề ngoài như không dâm dục: cả hai giới tu và tù đều
bị cấm, nhưng đạo nhân bị cấm bằng giới luật và lý tưởng, còn tù nhân
thì bị cấm tuyệt một cách tức tưởi!...
Bịch đường mà Thiện Đắc cho tôi đã hết nhẵn từ nhiều
ngày trước. Những ngày đầu tiên mới vào phòng giam, anh trưởng phòng cứ
rà tới chỗ tôi, hỏi xin đường để khuấy bột. Tôi nhập trại với tài sản
duy nhất là bịch đường cát trắng quí giá đối với người tù, làm sao anh
ấy quên được. Mà tánh tôi cũng chẳng biết từ chối ai khi họ xin mình,
cho nên, chỉ vài ngày là đã hết bịch đường. Vậy là tôi không còn tí thức
ăn nào để ăn với cơm. Tôi muốn nhận phần nước mắm mà trại giam có chia
cho mỗi người mấy muỗng vào mỗi bữa ăn, nhưng một anh bạn tù la lớn: “Ấy
chết, ông thầy à, nước mắm này có bỏ tép ở trong đó, không ăn chay được
đâu!” Vậy là tôi ngượng nghịu tay không quay trở về chỗ của mình, ăn
cơm không.
Tôi không biết giải thích như thế nào để sáu mươi mấy
người bạn tù hiểu rằng thực ra chuyện ăn cơm với chút nước mắm này chẳng
có hao tổn hay trở ngại chi cho tiến trình giải thoát giác ngộ cả.
Nhưng thôi, người ta nói vậy là muốn nhắc mình phải giữ gìn chiếc áo tu
sĩ đó mà. Tu sĩ Phật giáo đâu có được ăn nước mắm, dù rằng đó chỉ là nồi
nước muối đun sôi, chỉ có lèo tèo mấy con tép khô cho có chút mùi. Vậy
là tôi cứ xúc cơm không mà ăn. Cơm trại được nấu bằng thứ gạo mốc, nhiều
thóc, ăn không năm sáu lần còn chịu được, đến lần thứ bảy thì thấy ngán
thật ngán. Lúc đó, tôi thèm được tí muối bọt để ăn mà chẳng biết xin
ai. Thầy tu mà, không lý ngửa tay đi xin mấy anh tù nghèo kiết mà anh
nào anh nấy đều cố gắng tiết kiệm từng tí từng chút, đâu muốn chia sẻ
cho ai! Nếu tôi xin, họ không cho mà còn chửi thì xấu hổ mình, còn nếu
họ nể mình mà phải cho thì hóa ra mình ép họ! Thôi thì đành ngồi tại
chỗ, ăn cơm không.
Ôi, ngày xưa thái tử Tất Đạt Đa chứng đạo còn mang bình
bát đi xin ăn khắp phố phường, khắp các quốc gia, vậy mà nay, một đệ tử
tầm thường chưa đắc đạo của ngài lại xấu hổ không dám đi xin ăn! Hạnh
khất thực là hạnh cao quý của sa môn ngày xưa. Khất thực để có cơ hội
tiếp xúc với chúng sinh mà hóa độ họ. Khất thực để tạo cơ hội cho chúng
sinh làm phước. Khất thực để dẹp trừ cái tâm kiêu ngạo. Cao quí vậy đó,
mà nay tôi chẳng thực hành được. Tôi cứ ngồi đây, ngồi một chỗ, xúc cơm
mà ăn không. Nói thật, đã có lúc tôi cầm ca cơm mà không muốn ăn, dù
bụng khá đói. Đừng tưởng tôi không quen ăn uống đạm bạc nhé! Lúc còn tu
học ở chùa Long Tuyền, Hội An, tôi cũng ăn cơm với tương hột vừa mặn
chát vừa chua loét hết ngày này qua ngày nọ, đâu có sao. Ngoài những bữa
cơm đó, có khi đâu có chất ngọt hay chua nào được đưa thêm vào cơ thế,
mà vẫn thấy bình thường.
Nhưng bây giờ thì quá khác, vì suốt nhiều ngày không có
chất ngọt, chất chua và cả chất mặn, thử hỏi phải làm sao? Những anh bạn
tù có hoặc không có thân nhân thăm nuôi chỉ thèm ngọt, còn tôi thì thèm
luôn cả chất mặn, muốn có được tí muối để ăn cơm. Mà cũng lạ, hồi tôi
còn bịch đường cát với gói thuốc Đà Lạt mà Thiện Đắc biếu, nhiều người
đến hỏi han, bắt chuyện với tôi lắm. Bây giờ, họ tản xa hết. Chỉ cần một
tuần lễ trôi qua kể từ ngày nhập trại, nếu không có gia đình gởi quà
thăm nuôi vào thì coi như không ai thèm nhìn ngó tới mình nữa. Mình trở
thành đứa bé mồ côi–trong trại gọi đích xác danh từ “mồ côi” cho những
ai không có thân nhân thăm nuôi. (Mà muốn có thăm nuôi, đâu phải dễ!
Phải khai cung xong xuôi, phải xóa hết những nghi vấn trong đầu các cán
bộ thụ lý hồ sơ của mình.
Tôi đã làm việc suốt hơn một tuần với ông Văn phó trại
mà vẫn chưa kết thúc. Nửa tháng nay ông không gọi tôi ra ngoài nữa nhưng
tôi biết ông đang còn điều tra xem những gì tôi khai có đúng sự thật
không. Khi nào ông xếp hồ sơ của tôi lại, không còn điều tra nữa, lúc ấy
tôi được phép viết thư liên lạc với gia đình hay bạn bè bên ngoài!).
Thậm chí anh Vận là người mà trong tù gọi là đồng lõa, đồng phạm với
tôi, cũng quên mất là gần một tháng trời tôi ăn uống như thế nào. Cho
đến một hôm, thấy tôi có vẻ không muốn ăn cơm, anh mới hỏi:
“Sao không ăn?”
“À… chưa đói,” tôi đáp nhưng liền lúc ấy tôi biết rằng
câu nói ấy không thực chút nào, vì ở tù cộng sản thì phải đói liên tục,
làm gì có chuyện chưa đói.
Anh cầm ca cơm của tôi lên nhìn vào, nói:
“Không có thức ăn phải không? Anh ăn tương hột không, để tôi lấy cho.”
Nói rồi anh lôi trong giỏ lát ra một bình tương hột nhỏ,
múc cho tôi một muỗng. Tội nghiệp anh, gia đình nghèo sống ở kinh tế
mới, có tiền bạc đâu mà thăm nuôi đầy đủ. Anh cho tôi một muỗng tương là
quá quí rồi. Tôi cám ơn anh cho tôi được một bữa ăn ngon. Kể từ đó, cứ
đến bữa ăn, anh xúc cho tôi một muỗng tương hột, nhưng chừng vài ngày
thì anh không đủ khả năng để chia sẻ với tôi nữa. Và tôi, vì tư cách nhà
tu, hay vì tư cách cá nhân, đã không bước qua bước lại xin xỏ hay nhờ
vả bất kỳ ai trong phòng giam để được tí muối hay tương. Có khi tôi thầm
trách là mình quá hèn yếu, không dám đạp trên dư luận để nhận một chén
nước mắm trại mà ăn. Nhưng tôi liền nghĩ lại rằng, có một chút trở ngại
đó mà không ráng vượt qua, lại dày mặt dày mày đi nhận nước mắm trại để
rồi mang tiếng cho giới tăng sĩ là phạm trai! Tăng sĩ Phật giáo Bắc tông
phải ăn chay, ai cũng biết vậy, và người ta còn nghĩ rằng khi tu sĩ
không ăn chay nữa thì đã là người chẳng ra gì rồi.
Trong khi đó, nếu theo Phật giáo Nam tông thì ăn thịt cá
tự nhiên, chẳng ai thắc mắc, mà tăng sĩ phái này vẫn cứ đạo hạnh như
thường. Tôi là tăng sĩ Bắc tông, tôi phải giữ gìn chuyện ăn chay, dù có
lúc chẳng cần thiết phải giữ gìn, chẳng hạn như lúc này! Vậy là tôi cứ
tiếp tục đóng vai người đạo hạnh, cố gắng gìn giữ trai giới. Bưng ca cơm
mốc không có thức ăn, tôi quán tưởng đó là bát cam lồ. Cam lồ thì ngọt,
thơm, béo bổ… Nhưng pháp quán tưởng nào cũng không đủ sức xoay chuyển
được cái thực tế là tôi thiếu dinh dưỡng, thiếu thức ăn, thiếu đủ thứ…
Tôi đói. Tôi kiệt sức, và tôi đổ bệnh.
Cái bệnh thông thường mà khủng khiếp nhất của tù nhân
là bệnh kiết lỵ. Đám tù hãi sợ nhất là bệnh này, vì thấy nó chẳng gì
trầm trọng nhưng có thể chết người được. Nhiều tù nhân đã chết bởi cái
bệnh hiểm nghèo quái ác đó. Nghe rằng chỉ cần mười ngày kiết lỵ mà không
chữa khỏi là biết chắc hắn sẽ thành người thiên cổ trong một phút rất
gần. Nhưng lúc đó, tôi chưa được nghe kể và cũng chưa có kinh nghiệm về
cái bệnh kiết lỵ kéo dài ấy. Tôi nhớ lúc còn ở ngoài, mỗi lần bị bệnh
này, hình như trong vòng ba ngày là hết, có khi chỉ cần uống một ly cà
phê đen không đường là cầm ngay. Vả lại, cũng có khá nhiều loại thuốc để
chữa trị. Còn ở tù, tôi chẳng biết phải trị thế nào. Mỗi ngày hai chén
cơm không, cứ thế mà đưa vào bụng, lại uống nước phông-tên, hay nước
giếng đục ngầu dơ bẩn… thử hỏi bụng dạ nào chịu nổi. Mấy ngày đầu bị
kiết lỵ, tôi phân vân chẳng biết có nên ăn cơm, hay cứ nhịn đói. Có thể
nhịn đói sẽ trị được bệnh.
Nhưng cơ thể tôi lúc ấy hình như không còn tuân theo ý
chí tôi nữa: nó đòi ăn, nó không muốn nhịn chút nào. Tôi đói cào ruột,
tôi phải ăn. Ăn vào, tôi đau thêm. Bộ phận tiêu hóa của tôi hình như đã
mất đi chức năng của nó. Thức ăn tôi đưa vào, nó chẳng tiêu, cũng chẳng
hóa. Cứ năm mười phút, tôi lại phải lê thân vào nhà xí. Có khi suốt cả
đêm nó hành tôi đi ra đi vào nhà xí năm mười bận. Trong vòng năm ngày,
tôi xọp người xuống. Mặt mày xanh lét. Tay chân lỏng khỏng, nổi cả gân
xanh. Lúc đó chẳng hiểu sao tôi cũng chẳng biết được là tôi có quyền báo
với anh trưởng phòng rằng tôi bệnh nặng, cần được chữa trị. Tôi bệnh và
tôi cứ nằm đó. Khi nào bị bắt buộc phải vào nhà xí thì tôi lụm khụm lết
vào. Tôi chẳng nói với ai.
Anh Vận nằm kế tôi dĩ nhiên cũng có biết đó, nhưng anh
thuộc loại thụ động, suốt ngày lầm lì ngồi một chỗ. Thấy tôi bệnh anh
chỉ thương hại, vậy thôi. Cả phòng ồn ào náo nhiệt, sáu mươi mấy người
đi qua đi lại trước mặt tôi suốt ngày, vẫn không ai thấy cần thiết là
hỏi han, đề nghị uống thuốc, chữa trị thế nào. Cũng có lẽ một phần lỗi
tại tôi. Tôi bệnh mà không chịu nhăn nhó, kêu than, làm mặt sầu não ủ
dột… Tôi bệnh mà tôi cứ im lặng, bình thản nhìn người qua lại, mỉm cười.
Mỉm cười tươi tắn thì đâu phải bệnh nặng! Không cất tiếng kêu than thì
đâu phải bệnh nặng! Không chịu nằm liệt bỏ ăn thì đâu phải bệnh nặng! Bộ
không thấy anh chàng công nhân ăn cắp nhiên liệu nhà nước bị cảm gió mà
nằm ì mấy ngày không chịu làm công tác hay sao?
Bộ không thấy anh chàng ăn trộm bị sốt rét mà rên hừ hừ
cả đêm chẳng ai ngủ được hay sao? Bộ không thấy anh chàng vượt biên bị
răng sâu la rống như bị thọc huyết đó sao? Bệnh nặng thì phải biểu lộ
sức đau đớn khổ sở vô cùng của mình! Tôi không chịu biểu lộ thì ai mà
biết! Không ai biết. Thực sự là không ai biết cho đến ngày thứ chín, thứ
mười, khi từ bệnh kiết lỵ, bụng dạ tôi chuyển sang thứ bệnh tôi chưa
từng gặp trên đời và cũng chưa từng thấy ai mắc phải bao giờ: bệnh trống
tràng! Phải, bệnh trống tràng, đó là cái tên mà ông cụ Vương cho tôi
biết.
Ông Vương đã ngoài sáu mươi, là một tay “địa chủ” có
vườn cam lớn ở Hố Nai. Ông mới bị bắt vào đâu chừng vài tháng trước tôi
vì bị tố cáo là có liên quan tới vụ án Vinh Sơn do linh mục Vàng lãnh
đạo (vụ này bị đổ vỡ từ khoảng 1976-1978). Ông Vương là người được thăm
nuôi đầy đủ nhất trong phòng giam, nhưng bạn tù nói rằng ông “kẹo” lắm,
chưa bao giờ ông biết chia sẻ thức ăn hay bất cứ thứ gì với ai. Thấy tôi
bị bạn tù chửi vì làm hôi thối phòng giam suốt ngày, ông Vương lân la
đến chỗ tôi.
“Ông thầy bệnh nặng như thế đã uống thuốc gì chưa nhỉ?”
“Thưa chưa, có thuốc đâu mà uống.” tôi cười đáp.
“Có phải ông bị trống tràng không?”
“Trống tràng là sao thưa bác?”
“Trống tràng là ăn vào thứ gì nó cho ra thứ nấy.”
“Chắc là vậy,” tôi đáp.
Ông ngưng một lúc rồi ngần ngại nói:
“Không chữa thì vài ngày nữa là chết. Gia đình có biết tin chưa? Chưa có thăm nuôi phải không?”
“Thưa chưa,” tôi đáp, và thật xấu hổ, ngay lúc đó, tôi
có chút hy vọng rằng ông ấy thấy tội nghiệp sẽ cho tôi xin vài viên
thuốc hay chút muối hay chút nước tương gì đó.
Nhưng không. Ông ấy chẳng bao giờ có ý làm chuyện đó
cả. Ông chỉ hỏi thăm bệnh tình và thông báo cái nguy hiểm sắp đến với
tôi mà thôi. Dù sao, tôi cũng đón nhận được cái tình người tối thiểu qua
sự thăm hỏi mà chỉ có ông là người bạn tù dành cho tôi lúc ấy. Ông nói
nhỏ:
“Cái đám thằng Đương với thằng trưởng phòng là bọn đầu
trộm đuôi cướp, bọn cán bộ cộng sản hủ lậu vô thần, chúng nó chửi ông,
ông đừng bận tâm để ý làm gì! Mình đau cầu thì đi cầu, không ai có quyền
cấm! Thằng Đương là đảng viên đấy, là bộ đội phục viên, về làm công
nhân nông trường, ăn cắp vật liệu bán ra ngoài. Thứ quỉ đó nó ghét bọn
tù chính trị như mình lắm. Còn thằng trưởng phòng đấy à, cũng một nòi
như thằng Đương thôi, nó tên gì nhỉ, à tên Cang, cũng là bộ đội phục
viên, làm ăn cướp trên tàu hỏa. Thằng Lý thì là thằng đánh cá, có đạo mà
bị ma đưa lối quỉ đưa đường, bỏ Chúa mà theo mấy thằng cán bộ, suốt
ngày lo đan lưới cho chúng nó, báo cáo chuyện trong phòng cho chúng nó
nghe để được về sớm! Tụi này có chửi ông cũng chẳng đáng gì, phải không!
Đừng thèm nói lại tiếng nào với tụi nó. Cứ im lặng như lâu nay ông làm
là được rồi. Cũng đừng bao giờ tâm sự trao đổi gì với tụi nó. Tụi nó báo
cáo đấy!”
Ông Vương còn nói là sở dĩ ông không dám đến gần tôi,
không dám thân thiện với tôi vì tôi là một tù nhân chính trị mới vào
phòng, lại là một tu sĩ Phật giáo nữa, ông đến gần sẽ bị bọn tù ăng-ten
báo cáo cho cán bộ quản giáo.
Vào những ngày kế tiếp, tôi cứ lãnh phần cơm nhưng thực
tình là không còn sức để ăn nữa. Phần cơm không có thức ăn, không có
chút mắm hay muối, đến thời gian này, đã trở thành một thứ hình phạt,
một thứ gì thật kinh khủng đối với vị giác của tôi. Suốt một tháng trời
ăn những bữa ăn lạt lẽo không đường, không muối, không tương, không
chao… như vậy, miệng tôi đã quá lạt lẽo, và trong cơn bệnh, dường như nó
tiết ra trong lưỡi một chất gì đó đắng chát, khó chịu. Tôi không muốn
ăn cơm nữa, trừ khi có ai cho một chút đường, hay một chút muối. Nhưng
chẳng ai cho đâu, Thôi thì cứ để phần cơm đó, nhịn đói. Những ngày trước
đó, tôi tự nghĩ: “ăn cơm không trị được bệnh, không ăn chút nào cũng
chẳng trị được bệnh, thôi thì cứ ăn.”
Nay thì tôi nghĩ ngược lại: “ăn vào cũng chẳng hết bệnh,
không ăn cũng chẳng hết bệnh, thôi thì nhịn ăn mà chết cho nhẹ nhàng!”
Vậy là tôi nhịn ăn, Chỉ có cái bản năng tự tồn hay thứ “bản năng thèm
khát ăn uống” vẫn cứ giục tôi hãy ăn. Tôi không chìu ý nó nữa. Tôi chỉ
uống nước cầm hơi. Và tôi hãy còn sống, còn thở liên tục nhiều ngày kế
tiếp. Đã đến ngày thứ mười lăm kể từ ngày tôi bị kiết. Tôi bần thần mệt
mỏi lắm, không nhích nổi tay chân. Suốt ngày tôi chỉ muốn nằm. Đến giờ
ra chơi, tôi gắng gượng bước ra ngoài, tránh chỗ cho người ta chùi rửa
phòng. Tìm một chỗ ngồi tựa lưng vào tường, chờ giờ vào phòng. Về đến
chỗ là nằm ì một đống. Tôi có cảm tưởng bây giờ tôi là một bộ xương biết
đi.
Một ngọn gió nhẹ cũng có thể lay ngã được thân xác khô
gầy của tôi. Lúc chưa vào tù, tôi nặng khoảng năm mươi sáu kí lô, bây
giờ tôi phỏng chừng còn nặng khoảng ba mươi sáu kí là cùng! Không ăn,
chỉ uống nước, vậy mà tôi vẫn bị thúc bách phải vào nhà xí. Dường như
tất cả sinh lực gì của tôi nếu còn, cũng theo chất phân nhờn ghê tởm ấy
mà ra ngoài. Dù vậy, tinh thần tôi hãy còn tỉnh táo lạ thường! Tất cả
thì giờ trong suốt ngày đêm, tôi trì tụng kinh chú, quán tưởng, thiền
định dù đang lê thân vào nhà xí hay nằm một chỗ.
Đến ngày thứ mười tám, tôi cơ hồ không gượng dậy nổi
nữa. Tôi nằm liệt một chỗ. Đôi lúc tôi thử cử động tay chân để xem lại
hơi sức của mình. Quả thật là tôi không nhấc nổi đôi chân. Ngay cả cánh
tay gầy guộc cũng không rục rịch gì nữa. Toàn thân tôi có vẻ tê cứng.
Hay đúng hơn, tôi không còn đủ sức lực để chuyển vận nữa. Phòng giam có
hai cửa sổ và nhiều lỗ gió ở sát trần, chạy dọc theo hai chiều dài của
phòng; nắng chiều theo những khoảng trống ấy chiếu từng vệt sáng vào
phòng giam, rọi ngay mặt tôi.
Thường thường cứ đến giờ nắng chiều vào phòng, các tù
nhân nằm cùng dãy với tôi đều xê dịch xuống, hoặc tránh qua một bên, Nay
tôi không rục rịch nổi, nên cứ để cho nắng rọi ngay vào mặt. Tôi nhắm
mắt. Luồng nắng này cũng khó chịu lắm chứ chẳng êm ả gì. Tôi phải quán
tưởng ánh nắng ấy như một luồng hào quang ấm áp, êm dịu, từ bên ngoài
tỏa vào, từ bên trong phát ra, giao thoa với nhau, quyện vào nhau. Một
chập, tôi không còn thấy có cái thân đón nhận luồng nắng, cũng chẳng có
cái cảm giác khó chịu hay dễ chịu đối với luồng nắng. Chỉ có sự tỏa
chiếu của ánh sáng…
“Thầy Khang, thầy Khang à, sao không dịch qua đây một
chút mà tránh nắng? Dịch không nổi hả? Để tôi dịch thầy qua nhé?” tiếng
anh Vận kế bên tôi nói.
Tôi mở mắt ra, mỉm cười với anh ấy, không nói gì. Anh
nhìn tôi một lúc rồi không chờ tôi đồng ý hay không, tự động xích tôi
qua phía không nắng. Tôi không phản đối làm gì. Đối với tôi lúc ấy, một
cử chỉ xua tay từ chối, một lời nói không hay cám ơn cũng không cất lên
nổi. Dường như xác thân tôi đã không còn hiệu hữu nữa. Tôi có vẻ như chỉ
có mặt bằng cái tâm chứ không phải bằng cái xác thân rã bệu khô kiệt
kia nữa. Xê dịch tôi xong, anh cũng nằm xuống kế bên tôi. Anh ấy cũng
yếu người lắm, dù rằng chẳng bệnh hoạn gì–chỉ thiếu ăn thôi.
“Thầy Khang à, ráng lên nghe. Mệt thì nghỉ nhưng đừng có
ngủ nhé,” Vận nói nhỏ giọng bên tai tôi, “ngủ là đi luôn đó. Thầy Khang
phải sống để còn tiếp tục đấu tranh cho đất nước nữa, phải không? Ráng
lên.”
Tôi mỉm cười đáp lời anh ấy. Tiếng nói cười lao xao của
bạn tù trong phòng có vẻ như lắng xuống, hoặc âm thanh bên ngoài đang
dần dần rời bỏ thính quan của tôi. Ánh nắng, luồng sáng cũng biến mất.
Cảm giác trong thân cũng mất. Mùi hôi khai của nhà xí, mùi mồ hôi của tù
nhân, cũng không còn. Vị đắng chát hay lạt lẽo trong lưỡi không có. Tất
cả đều vắng mặt. Năm căn, năm trần đã vắng mặt. Không, hãy còn ý căn và
thức trần. Hãy còn cái dòng ý thức đang tuôn chảy bất tận. Một người
chỉ hiện hữu trên thế gian bằng ý thức thì là loại chúng sinh nào nhỉ?
Một loài tiên, một loài trời ở cõi Vô Sắc chăng?
Ta sắp chết rồi sao? Ông Vương nói vậy mà. Bệnh kiết lỵ
mười ngày chuyển sang trống tràng, không thuốc chữa thì chết chắc. Mới
hai mươi sáu tuổi, chưa làm được gì cho đời, chưa đạt được những gì mình
muốn vói đến… Ớ, tại sao sinh ra ở đời thì phải làm một cái gì đó cho
đời chứ hả? Tại sao sinh ra ở đời phải có một lý tưởng gì đó để đạt đến!
Trật tự của thế gian, như người nào đó từng nói, vốn là như vậy, cần gì
phải hì hục dấn thân điều chỉnh, sửa đổi! Cái rối loạn bất an của thế
gian này là như vậy. Rối loạn chính là dấu hiệu của một sự điều chỉnh,
để tiến đến ổn định. Cứ để yên nó như vậy.
Thế gian tự tạo ra rối loạn và tự ổn định lấy nó. Rối
loạn là sự ổn định của nó. Ổn định là sự bất an của nó. Thật buồn cười.
Có gì mà phải lo lắng, tân toan. Hãy để nó như vậy. Chỉ có sự rối loạn
hay yên bình nơi chính ta mới là điều quan trọng thôi. Ta phải sống để
thành tựu con đường giải thoát. Ta chưa giải thoát mà! Ha, ta còn gì để
giải thoát nữa chăng? Ta có vướng bận gì nữa đâu mà bảo cần giải thoát?
Ta đâu còn vướng bận gì nữa đâu! Quốc gia, dân tộc, giáo hội, chùa
chiền, bạn bè, gia đình… và con người… Những thứ ấy có thực sự cần thiết
để ta vướng bận chăng? Ồ, tất cả, tất cả những thứ ấy, đều là mộng
huyễn cả. Mình nghĩ chúng quan trọng thì chúng quan trọng. Quay lưng với
chúng thì chúng chẳng là gì cả.
Nhưng làm sao quay lưng được kìa! Chúng đang sờ sờ ra
đó. Mà có cần thiết phải quay lưng không? Quay lưng đi có phải là đã
giải thoát được chăng? Mà ai là kẻ quay lưng? Ai ở nơi cái xác thân rã
rời vô cảm giác? Chỉ có cái dòng ý thức này. Chỉ có cái tâm này. Những
hình ảnh, những đối tượng, những suy tưởng… chính là nó, vậy thì làm gì
có sự quay lưng của nó đối với cái gì khác! Vả lại, giải thoát đâu phải
là một hành động quay lưng giũ bỏ! Giải thoát là không đắm trước, không
cột trói mình vào đối tượng chứ có phải là chạy trốn hay quay lưng!
Mình hãi sợ, xua đuổi các hình ảnh thì chứng tỏ mình
còn vướng bận. Không, thực ra giải thoát cũng chẳng phải là không đắm
trước, không cột trói vào đối tượng! Có đối tượng để không đắm trước, có
hình ảnh để không cột trói, thì làm gì có giải thoát! Có sự giải thoát
ra khỏi một đối tượng thì đâu phải là giải thoát! Ôi dào, nhà ngươi chỉ
quen lý luận! Phải nhìn tận mặt chúng. Đừng suy luận, đừng nhiều lời.
đừng phán đoán. Hãy nhìn, hãy ngắm. Hãy quan sát.
Coi nào, còn có cảnh trí hay con người thơ mộng nào
trên cõi đời này lảng vảng lưu dấu trong ta? Có chăng một thứ ân tình
nào níu kéo ta, ràng rịt ta ở lại với trần gian này? Ôi, có gì đâu, có
gì đâu! Ta ra đi cũng đúng rồi, vừa rồi. Có ta, đời vẫn thế. Không có
ta, đời vẫn thế. Hai triệu người hiếp đáp sáu mươi ba triệu người. Chủ
nghĩa hiếp đáp con người. Danh nghĩa tập thể hiếp đáp cá nhân thực tế.
Thế giới đại đồng hủy diệt thế giới riêng tư. Báng súng đánh dập ngòi
bút. Biểu ngữ và chính sách đè bẹp lời nói ngay thực.
Nụ cười kiêu hãnh phủ lấp giọt lệ hờn căm. Thù hận dìm
chết thương yêu. Hoài nghi lấn lướt tin tưởng. Cái ác trêu cười cái
thiện… Vâng, đời sẽ như thế, dù có ta hay không có ta. Thực là điên
khùng cái xã hội này! Ta nhỏ nhoi, tầm thường quá, chẳng làm sao chuyển
vận nổi cái bầu trời đen tối nặng trĩu kia. Thôi thì cứ chết đi, nói như
Hiền, ông anh ruột của tôi, tất cả cái thiện hãy chết đi, tự trầm đi,
để cho cái ác tự do sinh sôi nẩy nở tràn lan trên mặt đất, và rồi sau
đó, chính cái ác sẽ tự hủy diệt nó. Sáu mươi ba triệu người hãy chết đi
thì tự khắc hai triệu người nọ không còn đất sống.
Có thật thế chăng? Có thật là ta nên chết chăng? Có thể nào ta chết trong lúc này chăng?
Chứ không phải là cùng với sự vươn dậy của ta, thế giới
sẽ chuyển hóa ngay lập tức? Chứ không phải rằng hai vai của ta đã thề
nguyện gánh cả trần gian thống khổ này sao? Tại sao phải chết! Tại sao
phải chết chứ!
Tôi mở bừng mắt dậy. Những bạn tù chung phòng giam đang
tụm năm tụ ba dưới mấy ngọn đèn vàng tập trung ở khoảng lồng khung và
nhà xí. Tôi nằm sát nhà xí. Không ai biết tôi sắp chết hay sẽ đứng dậy
tiếp tục cuộc sinh tồn. Họ đang đánh cờ, chơi domino, ca hát, uống trà,
tâm sự, nghe kể chuyện kiếm hiệp Kim Dung… Rõ ràng là không có tôi, đời
vẫn thế.
Vận thấy tôi mở mắt, lấy tay khoèo, nói:
“Này, ráng thêm một đêm nữa đi. Ngày mai là ngày thăm
nuôi, thế nào cũng có người có thuốc kiết lỵ hay tiêu chảy. Để tôi hỏi
xin người ta cho thầy thuốc nhé. Còn không thì báo cáo với y tá của
trại. Không thể để mãi như vầy, chết mất!”
Nghe Vận nói vậy, tôi sực nhớ đến Phương, cô công an
mang kiếng cận. Hơn nửa tháng trước, cô ấy có dặn tôi khi nào có chuyện
cần hoặc bệnh hoạn gì thì cứ xin gặp cô. Hình như cô ấy đoán được rằng
một lúc nào đó tôi sẽ ngã bệnh nặng. Phải chăng vì cán bộ trại cố tình
giấu nhẹm chuyện tôi bị vào tù, cắt đứt liên lạc giữa tôi với xã hội bên
ngoài, nên cô ấy biết ngay trong tình trạng đó, thế nào tôi cũng phải
bệnh. Làm y tá nhiều năm cho tù nhân của trại đã cho cô kinh nghiệm ấy
thì phải. Và nếu tôi bệnh nặng, cầu cứu đến cô, tất nhiên cô sẽ có cơ
hội thay mặt đảng và nhà nước, ban phát ân huệ chữa và điều trị, hay ban
ân cứu tử cho tôi. Có lẽ là vậy.
Hay là có một âm mưu gì khác? Một thứ âm mưu tình cảm để
khai thác tin tức, hay một âm mưu điều trị để khai thác tình cảm? Ôi,
cũng có thể cái tâm này đã quen lề thói nghi kỵ học được từ xã hội, nên
đụng chuyện gì cũng nảy nghi vấn! Biết đâu chẳng có âm mưu gì cả ngoài
một chút cảm tình thông thường của phụ nữ đối với phái nam, đối với một
nhà tu khờ khạo chưa biết gì về đời như tôi? Ha, bận tâm làm gì chuyện
đó chứ. Dù có âm mưu hay thực tình chăm sóc thì cũng chẳng lay chuyển gì
được cái thân và cái tâm bất động này. Cô ấy không cứu nổi tôi đâu.
Cũng không có bất cứ thứ thuốc của tù nhân nào có thể
cứu được tôi đâu. Cái bệnh này, đã mười tám ngày không có thuốc rồi, bây
giờ đã qua khỏi giai đoạn can thiệp của thầy thuốc và dược liệu. Chỉ có
tôi mới vượt qua nổi nó mà thôi. Tôi biết vậy. Tôi chấp nhận chết thì
tôi sẽ chết. Tôi quyết định sống thì tôi sẽ sống. Lúc này, trong cái
khoảng thời gian vất vưởng la đà của tâm thức trước hai bờ sinh tử,
không có cái lực nào có thể khủng bố đe dọa tôi được.
“Tôi không sao đâu, anh Vận à. Cám ơn anh nghe, anh đừng
xin thuốc làm gì mất công, tôi tự lo được mà,” tôi cố gắng thì thào với
Vận.
“Đừng nói vậy. Bệnh nước này thì phải trị. Thực ở đây tệ
quá! Nằm liệt mấy ngày mà chẳng chịu báo cáo. Thằng trưởng phòng mỗi
ngày ra gặp cán bộ quản giáo bộ hắn chẳng biết nói giùm một tiếng là ông
thầy bệnh sao chứ! Cái quân giết người.”
Tôi muốn nói thêm vài lời với Vận nhưng mệt quá, miệng
lưỡi tôi cứng đờ, chẳng buồn nhếch được đôi môi. Tôi lại nhắm mắt. Chẳng
cố gắng tập trung tư tưởng hay niệm Phật gì. Tôi chỉ nằm im đó. Cái gì
hiện ra trong tâm tưởng thì cứ tha hồ.
Chùa Long Quang, ngôi chùa tranh vách đất trên kinh tế
mới. Đó là ngôi chùa thờ Phật xiêu vẹo nhất của Việt Nam, chắc là vậy.
Nhưng dù sao thì đất cũng khá rộng, có dãy nhà kho cùng hai phòng tăng,
có dãy trai đường và một phòng nhỏ khác, có nhà bếp riêng, có ba cái am
tranh nằm biệt lập. có thư viện xây bằng đất sét đúc… tất cả đều có mái
lợp bằng tranh, có nền và vách bằng đất, nằm rải rác trên một khu đất
rộng khoảng năm mẫu tây. Cây vườn đã bắt đầu lớn và kết đợt trái lứa
đầu. Ngôi chùa ấy bấp bênh, èo uột, tàn xiêu, vì người chủ của nó, hay
đúng hơn, người chịu trách nhiệm chăm sóc nó–người ta gọi là thầy trụ
trì–lông bông và có khuynh hướng không vụ hình thức. Chỉ có những cây
vườn chung quanh là vươn lên, tạo cảnh đẹp mát mẻ và yên tĩnh. Gió thổi
qua vườn rì rào suốt ngày đêm.
Chạy dọc theo chiều dài phía đông của đất chùa là đồng
ruộng bao la với những ngọn lúa xanh mơn mởn chỗ cao chỗ thấp nhấp nhô
giạt theo chiều gió. Cây tràm cổ thụ khô trụi sừng sững bên mé ruộng như
một cụ già loạn tưởng bi quan, đứng run rẩy ở đầu sông bến nước. Sau
lưng và dọc theo chiều dài phía tây của vườn chùa là rừng tre gai và cỏ
tranh mọc um tùm, từ xa nhìn chỉ thấy như một dãy liên sơn trùng trùng
điệp điệp. Vườn chùa yên tĩnh, hiu quạnh kinh khiếp. Đôi khi tôi có cảm
giác bùng lỗ tai vì cái vắng lặng không một tiếng động đó. Nhất là vào
mỗi trưa, khi trời đứng bóng, thế giới này trở thành một thế giới không
có âm thanh; có chăng một thứ tiếng động nhỏ nào thì đó là tiếng gió lùa
qua cây nghe xào xạc, xào xạc thật nhẹ, thật nhỏ, như thể được vọng đến
từ một cõi trời xa lăng lắc nơi đâu.
Ban đêm thì rộn ràng hơn, ngoài tiếng lá xao xác, có thể
nghe tiếng ếch nhái kêu oàm oạp, tiếng côn trùng rúc rích, tiếng chim
đêm chíu chít và thỉnh thoảng, một tiếng chó hay chồn tru lên u ú, tưởng
chừng rừng đêm lúc ấy là một sân khấu rộng cho dàn nhạc đại hòa tấu của
muông thú. Nhưng vào những đêm mà ánh trăng dịu dàng choàng lớp áo sáng
mỏng của nó xuống khắp ruộng đồng và rừng sâu, vạn vật bỗng dưng trở
thành tĩnh vật. Chim muông như thành khẩn ngước cổ lên mà lắng nghe tấu
khúc vô thanh của trăng vàng. Không có tiếng kêu tầm thường bé mọn nào
thấy cần thiết cất lên vào những đêm trăng ấy. Và tôi, khi đứng lặng một
mình dưới rừng trăng, thường cảm thấy rằng mọi thứ khát dục như gội rửa
bới những giọt trăng thuần khiết sáng trong vô ngần.
Và nếu sau đó có trở lại với thực tế rằng đất nước cần
sự góp mặt của mình, tôi vẫn thường tự hẹn rằng, mai sau thái bình tôi
sẽ trở lại ẩn cư nơi thảo am và vui vầy với thế giới hoang sơ cô tịch
nơi đây… Tôi sẽ trở lại. Đất nước yên bình, tôi sẽ trở lại.
Tôi lại mở mắt. Tiếng kẻng báo nghiêm vừa dứt. Mọi
người trong phòng giam lục tục thay nhau vào nhà xí. Tiếng những vòi
nước thiếu oai nghi, tồ tồ rót xuống lỗ cầu giống như ai đang châm nước
sôi vào bình thủy. Có tiếng ai suỵt suỵt bảo ngồi xuống mà rót cho khỏi
văng và khỏi kêu. Tiếng dội nước nhè nhẹ. Tiếng những bước chân trần
lăng xăng trở về chỗ nằm. Mọi người phải im lặng vào mùng dù chưa muốn
ngủ. Tôi và một số người khác vì chưa có thăm nuôi nên chẳng có mùng mà
treo. Cũng may phòng giam bít bùng, ít muỗi. Vận cũng không có mùng,
nhưng có tấm chăn mỏng để đắp. Anh ngần ngừ hỏi tôi:
“Đắp chăn không? Đắp chung với tôi nhé?”
“Thôi, cám ơn. Anh đắp một mình đi,” tôi xua tay nói với giọng hơi, chỉ từ chối chứ không đủ sức giải thích lý do.
Tôi không quen đắp chung chăn với người khác đâu. Nếu
giải thích, tôi sẽ giải thích như thế. Từ ngày đi tu, tôi chưa đắp chăn
chung với ai, ngoại trừ Mộng Huyền.
“Nhớ nghe ông thầy. Ráng thêm một đêm, ngày mai là ngày thăm nuôi rồi,” Vận nhắc tôi.
Tôi gật nhẹ. Nhắc vậy là sao, nghĩa là muốn tôi đừng
ngủ đấy à? Ngủ thì sẽ không thức dậy nữa? Sao vậy? Tại bệnh nặng, nhịn
đói, kiệt sức, nằm chơ chỏng dưới nền đất lạnh không mùng màn? Tù nhân
chỉ có một cách chống lại cái chết là đừng ngủ mê thôi à? Cám ơn anh bạn
tù tốt bụng. Tôi không dễ chết đâu anh ạ. Tâm ý tôi hãy còn tỉnh táo,
sáng suốt lắm. Những ảnh tượng trôi trong dòng ý thức của tôi cũng còn
rõ ràng, thứ lớp lắm. Tôi có hôn mê tán loạn gì đâu mà bảo tôi chết!
Tôi ngồi ngả lưng nơi chiếc xa lông. Mộng Huyền đánh
đàn dương cầm, một bản nhạc quen thuộc của Schubert hay Beethoven, tôi
không dám chắc lắm. Mặc dù thích nghe nhạc cổ điển Tây phương, tôi chưa
có cơ hội học cho biết tên các nhạc phẩm, chỉ biết ngồi thưởng thức.
Thực ra cũng chẳng phải là thưởng thức nữa. Tâm tôi lúc ấy không được
thanh thản. Tôi ngồi đó không phải để nghe nhạc mà để nhìn, để ngắm Mộng
Huyền, hay để trắc nghiệm tình cảm của tôi. Ngưng bản nhạc, Mộng Huyền
tiến đến ngồi sát bên tôi, gạn hỏi thêm về chuyện đời tư của tôi. Té ra
trước lúc chúng tôi ngồi nơi xa lông ấy nàng đã được mẹ nàng cho biết
rằng tôi là tu sĩ, tôi chính là ông thầy tu đi trong chuyến vượt biên
của nàng. Nhưng nàng lại nghịch ngợm giả lơ cái thực tế đó. Tôi không tự
nói mình là tu sĩ thì nàng cứ tiếp xử với tôi như một chàng trai thế
tục, hay như một tình nhân trong mắt nàng.
“Anh có tin rằng tụi mình có cái duyên gì đó với nhau
không? Em thấy lạ lắm. Tại sao hôm ấy mình nằm chung với nhau ngoài
trời, rồi lại đắp chung chăn trên giường của chị Thu…”
“Thôi, nói chuyện đó làm chi nữa. Tại vì có một cái
chăn thì phải đắp chung chứ có chi đâu. Với lại… vượt biên đổ bể phải
nương nhau mà trốn tránh công an thôi.”
“Sao không chứ! Nam nữ thọ thọ bất thân. Anh với em đắp
chung chăn, nằm ngủ chung một giường suốt một đêm thì không phải có
duyên gì với nhau sao! Hì hì.”
“Có duyên anh em với nhau đó. Anh thấy em giống như đứa em gái của anh vậy.”
“Không. Em nghĩ không phải vậy đâu,” nàng vừa nói vừa
đưa tay vân vê cánh tay áo sơ mi ngắn tay của tôi. “Anh chỉ tự dối lòng
mà thôi. Em biết anh sẽ không chịu nói ra sự thực của lòng anh đâu. Ừ
thì lý do nào đó, em chẳng biết, nhưng em biết là nếu yêu, anh sẽ biểu
lộ tình yêu của anh một cách thụ động, thụ động hơn cả con gái nữa.”
Tôi giật mình nhìn thẳng vào mắt nàng. Mẹ nàng nói nàng
dại khờ, nhút nhát, vô tư như con nít. Tôi không nghĩ vậy. Nàng đã hai
mươi bốn tuổi, không thể còn con nít được. Thấy tôi im lặng không nói
gì, nàng đan hai bàn tay tì lên vai tôi, đặt cái cằm nhỏ của nàng lên
ấy, nhỏ nhẹ nói:
“Nếu anh không nói gì, hoặc nếu anh là một người tình
câm em cũng vui nữa. Em sẽ nói thay cho anh tất cả những gì anh muốn nói
mà không nói ra được.”
Tôi cúi mặt, bẻ nắn mấy ngón tay của mình. Hai bàn tay
tôi run run. Tim tôi đập mạnh từng hồi. Nàng đưa một bàn tay lên ngực
trái của tôi:
“Đây nè, trái tim của anh, nó đang nói gì đó. Để em xem…
à nghe rồi, hiểu rồi, em biết tim anh nói gì rồi. Anh muốn em dịch lại
cho anh nghe không?”
Tôi bật cười không đáp. Nàng cười theo. Đôi mắt nàng
long lanh như ướt lệ. Nàng ngả đầu vào vai tôi, hai tay ôm choàng lấy
tôi, một tay vòng qua vai, một tay ngang ngực. Chúng tôi im lặng một
lúc. Một phía ngực của nàng áp vào cánh tay tôi nóng ran. Và nàng hôn
nhẹ vai tôi:
“Anh sẽ nói em lãng mạn. Anh sẽ đánh giá rằng em vội
vàng quá, mới quen nhau chưa đầy nửa tháng, hay đúng hơn, mới quen nhau,
gần nhau qua một đêm vượt biên… nhưng em mặc kệ anh nghĩ gì. Em biết
đôi mắt anh, trái tim anh, không bao giờ từ chối em cả. Chỉ có thứ lý
tưởng nào đó mà anh hằng ôm ấp mới từ chối em mà thôi. Nhưng anh nghĩ
xem có đúng không, dù anh đeo đuổi thứ lý tưởng nào đi nữa thì bên cạnh
em, anh vẫn cứ là một chàng trai độc thân… đâu có gì ngăn cản em yêu
anh…”
Nói đến đó, nàng ngước mặt lên nhìn vào mắt tôi để xem
phản ứng của tôi. Tôi nhắm mắt, chẳng nói gì. Tôi bỗng nhớ lời dạy của
Thượng tọa Đức Nhân qua lời nhắn của Tửu, bạn thân tôi: “Nói chú Khang
rằng chuyện chú bị công an ruồng bắt phải bỏ chùa đi cũng là cái duyên
mới, cứ vui vẻ chấp nhận. Lâu nay chú ấy đã có tâm nguyện dấn thân thì
nay đã đến lúc cho chú thực sự dấn thân rồi đấy. Nếu chú Khang cần xả
giới tỳ kheo để thuận lợi vào đời thì bảo chú cứ đứng trước bàn Phật, tự
xả bỏ, rồi đem pháp y đến đây thầy cất cho, sau này muốn phục giới, sẽ
có thầy chứng minh.” Sau đó, nơi bàn thờ Phật nhà bà Bàng, tôi đã tự xả
giới, phát nguyện dấn thân hành đạo bằng con đường nhập thế. Trên hình
thức cũng như trên mặt giới luật, tôi không còn là tăng sĩ nữa.
Nhưng trên thực tế, tâm tư và hành động của tôi kể từ
ngày ấy vẫn chẳng có vẻ gì thay đổi. Tôi không thấy có sự khác biệt nào
trong tôi giữa hai giai đoạn giữ giới và xả giới. Hình như tôi vẫn cứ
như vậy, chẳng thêm chẳng bớt gì cả. Cho nên, đáng ra lúc gần gũi Mộng
Huyền, rung động trước sắc đẹp và tình yêu chân tình của nàng, tôi có
quyền tự do yêu đương và biểu lộ khát dục của tôi; nhưng tôi vẫn không
làm được. Không phải vì giới luật. Cũng không phải vì lý tưởng đấu tranh
đòi hỏi đời sống độc thân để giốc toàn thời gian vào. Có lẽ chỉ vì một
thứ linh cảm mơ hồ nào đó chen vào ngăn trở. Cái linh cảm bật ra từ
duyên nợ bẽ bàng ngắn ngủi giữa hai chúng tôi. Cũng có thể vì một thứ
nghiệp dĩ hay nguyện lực của chính tôi đã đẩy tôi tách khỏi nàng ngay từ
lúc này.
Nàng ngã đầu nằm xuống hai bắp vế tôi, ngửa mặt nhìn
lên, mỉm cười. Một lúc sau, nàng đưa hai tay bá lấy cổ tôi, vừa kéo tôi
xuống vừa kéo người nàng lên. Nàng hôn môi tôi. Rồi hôn tới tấp trên
mặt, trên cổ tôi.
“Khang ơi, em yêu anh. Em biết anh cũng yêu em mà. Nói đi, nói anh yêu em đi. Khang ơi, yêu em, yêu em đi anh!”
Tôi run người bần bật. Hai chân tôi giật bắn lên từng
hồi. Cả người tôi rùng lên từng cơn. Tôi sắp sa ngã. Tôi gần như không
tự kềm chế được nữa. Nhưng tại sao phải kềm chế kìa! Lý do gì? Không có
lý do gì cả. vậy mà bỗng dưng tôi lại kềm chế. Tôi đỡ nàng dậy, và tôi
đứng lên, bước đến bên khung cửa sổ lộng kính. Nàng bước theo, đến phía
sau tôi. Tì bàn tay nhỏ trên vai tôi.
“Anh sợ hả?”
Tôi không nói. Chỉ quay lại, đưa một tay vuốt nhẹ trên má nàng. Tôi gỡ mấy sợi tóc mai của nàng trong im lặng.
“Anh phải về,” tôi nói.
Nàng xụ mặt xuống, giọng buồn bã:
“Thôi cũng được. Hẹn gặp anh trong chuyến tới.”
“Ừ, chỉ vài ngày nữa thôi, phải không?”
“Dạ, anh nhớ đi, chuyến này tốt lắm, chắc thành công.”
Chúng tôi chia tay. Và mãi mãi chia tay. Khi biết nàng
bỏ thân trên biển, tôi luôn nhớ đến nàng ở hình ảnh cuối cùng trên chiếc
xa-lông ấy. Nàng bá lấy cổ tôi, níu kéo, biểu lộ khát khao chinh phục
và được chinh phục. Người nàng như oằn lên. Giống như kẻ bị đắm, nhoài
lên để cầu cứu. Tôi đã không cứu nàng.
Chuyến đi ấy không tốt, không thành công. Nếu hôm ấy
tôi ôm nàng và sẵn sàng nhập cuộc yêu đương với nàng, có thể tôi sẽ
không bị bắt vào tù. Nếu tôi và nàng yêu nhau, tôi đã có mặt trên cùng
một chuyến tàu của nàng, và tôi sẽ chìm sâu theo nàng trong lòng biển
rộng. Những trường hợp giả sử ở trên đều không xảy ra.
Thực tế là tôi đang ở tù, và sắp chết vì bệnh kiết lỵ
tiêu chảy, một cái bệnh có tên gọi và nội dung không mấy đẹp đẽ. Tại sao
tôi phải chọn một cái chết ít thơ mộng như vậy nhỉ? Chí sĩ thì chết
trong ngục tù. Ừ, cũng xứng đáng lắm, nhưng tôi đâu cần cái xứng đáng
ấy. Tôi không phải chỉ là một chí sĩ có mặt trong tù để bảo vệ lý tưởng
và sự liêm sỉ. Tôi còn là một đạo sĩ–dù giữ giới hay đã xả giới–có mặt
nơi đây để vun trồng và khai mở hạt giống bồ đề, biến địa ngục thành
tịnh độ niết bàn. Tôi chưa kịp làm gì cả, lý đâu lại nằm ì ra rồi chết
một cách đơn giản. Tôi phải phấn đấu. Không thể gục ngã dễ dàng như vậy!
Một căn bệnh thì nghĩa lý gì! Muôn triệu ma chướng, muôn triệu ác
nghiệp, muôn triệu nỗi thống khổ đớn đau của trần gian có chụp phủ lên
đầu cũng phải đứng thẳng mà chống đỡ, mà chịu đựng, không thể quỵ ngã.
Tôi phải sống.
Tôi gượng ngồi dậy. Đêm đã khuya lắm rồi. Cứ nhìn cảnh
bạn tù nằm im, ngáy pho pho là biết. Tôi gắng lần dò vào nhà xí rồi trở
ra, ngồi xếp bằng thế hoa sen. Từ ngày vào trại giam này, tôi đã tránh
không ngồi thiền hay niệm Phật một cách lộ liễu trước mặt mọi người–các
bạn tù chính trị vào trước đã nhắc tôi biết điều đó. Nhưng hôm nay,
trong khi mọi người đang ngon giấc, và trong trường hợp thật cần thiết
đối với tôi, tôi muốn ngồi thiền trong suốt đêm nay. Bằng tất cả sự dũng
mãnh quyết tâm, bằng sức tập trung tư tưởng thuần thục sẵn có, tôi lại
lần nữa, đạt đến trạng thái nhất tâm bất loạn, vắng bặt tất cả mọi động
dụng vận chuyển của bản ngã và khát dục.
Buổi khuya, khi có người lục tục trở dậy, tôi xả thiền, rồi nằm xuống ngủ.
Sáng ra, người tôi thấy khỏe lắm. Tôi biết tôi không thể
nào chết. Tôi có thể đi lại chầm chậm trong phòng. Nhưng một lúc thì
cũng thấm mệt, bèn trở về chỗ nằm. Ông Vương thấy tôi lại nằm ì như mọi
hôm thì trờ tới, vỗ vai tôi, hỏi nhỏ:
“Hỏi thật, có khi nào ông thấy cần rửa tội không nhỉ?”
Tôi ngạc nhiên và cũng thật buồn cười ngước nhìn ông:
“Tại sao bác hỏi vậy?”
“Thì… ở đời ai lại chẳng có lúc thấy cần nương tựa, cần
được bề trên cứu rỗi. Khi nào ông muốn rửa tội, cứ nói tôi biết, tôi sẽ
có cách, nhé.”
Tôi cười. Định nói với ông vài câu, nhưng thấy không cần
thiết lắm, bèn lẩm bẩm với chính mình: “Nếu thật là tôi có cái tội gì
đối với thế gian này, cũng chẳng con người nào hay bất cứ thần linh nào
đủ thẩm quyền cứu rỗi tôi được, ngay cả đức Phật mà tôi hằng kính
ngưỡng. Còn nếu cần phải nương tựa ai, nương tựa cái gì để đứng lên, để
tồn tại, tôi nghĩ chỉ có mảnh đất đầy đau thương và máu lệ của trần gian
mới đủ sức chịu đựng nổi cái chống tay gượng dậy của tôi!”
Nói theo cách người xưa, tôi đã té xuống đất này thì tôi phải chống tay nơi đất này mà gượng dậy.
CHƯƠNG BỐN
Tôi kể ngang đó thì nàng có vẻ ngồi không yên. Nàng
đứng dậy, bước đến chỗ bàn nước lấy cái bình thủy, lại châm thêm nước
sôi vào bình trà. Tôi lặng lẽ nhìn theo. Đầu mày nàng nhíu lại, lộ một
tí bất mãn, một tí hoài nghi. Hình như nàng muốn nói điều gì đó mà chưa
nói được hoặc đang lựa lời mà nói. Chờ nàng ngồi trở lại vào ghế, tôi
đốt thêm điếu thuốc khác, định kể tiếp thì nàng bất chợt hỏi.
“Anh thực sự đã xả giới, không còn là thầy tu trước khi vào tù? Trước cả khi quen Mộng Huyền?”
“Ừ,” tôi đáp.
“Như vậy…” nàng do dự không nói hết câu.
“Như vậy đâu cần phải gìn giữ chuyện ăn chay cho nhọc xác rồi đổ bệnh, phải không?”
“Phải rồi, với lại… anh đâu cần từ chối tình yêu của Mộng Huyền… Hay chỉ là lúc đó? Sau này gặp lại Mộng Huyền thì anh khác?”
“Đó là lần chót, sau này không bao giờ gặp nữa. Mộng Huyền đã chết trên biển.”
Nàng sửng sốt một lúc không nói nên lời. Tôi xua tay tỏ ý
là chuyện ấy đã qua lâu rồi, không quan trọng lắm đâu. Và tôi tiếp tục
kể câu chuyện tù dang dở.
Ó
Tôi ngủ thêm được một giấc ngắn, cho đến khi kẻng báo
thức gióng vang. Tôi ngồi dậy, nhìn quanh cảnh phòng giam, tự dưng thấy
mới. Hơn một tháng vào phòng giam, vừa xong chuyện khai cung lại rơi vào
những ngày bệnh nằm liệt, tôi hầu như không để ý gì lắm đến những bạn
tù chung phòng. Họ có đó mà như không. Bây giờ, tự dưng tôi thấy họ là
những người bạn mới, gần gũi. Tôi ngồi im một lúc, mỉm cười chào những
người bước qua bước lại.
“Thầy Khang hôm nay có vẻ khỏe nhiều đó nghen,” Vận nói.
Ban đầu tôi dặn anh đừng gọi tôi bằng “thầy” anh làm theo, nhưng sau
đó, thấy cả phòng ai cũng biết tôi là tu sĩ cả, anh gọi tôi bằng “thầy”
trở lại.
“Vâng, thấy khỏe lắm,” tôi đáp.
Vận ngồi vấn điếu thuốc rê, hỏi tôi hút không, tôi nói
không. Anh đi mồi thuốc nơi những anh tù người Hoa ngồi tụm một góc, hút
thuốc phì phà sau bữa điểm tâm. Một chập anh trở lại, vừa cười vừa nói
một câu gì đó mà tôi không nghe rõ. Tôi hỏi lại, anh nói:
“Chưa chắc thấy khỏe trong người là đã qua khỏi cái chết
đâu nghe. Cái ông Tàu lớn tuổi kia nói vậy đó. Nói gì mà hồi quang phản
chiếu đó… tức là lúc gần chết, người ta thường trải qua một giai đoạn
rất tỉnh táo, khỏe khoắn lạ lùng…”
Tôi bật cười:
“Không đâu. Tôi sẽ qua.”
Vận rít thuốc, nghiêng đầu về phía tôi, nói nhỏ:
“Hồi tối hình như thầy Khang có ngồi thiền hay cầu
nguyện gì đó, phải không? Chuyện đó phải tránh không thôi tụi nó báo cáo
lên cán bộ thì nguy lắm. Tôi nói với thầy hôm đầu tiên mới vào rồi mà.”
“Tôi biết, nhưng lúc ấy khuya rồi, vả lại, tôi chỉ cần một lần thôi, sau này không làm vậy nữa đâu.”
“Chỉ nhắc thầy vậy thôi. À, hôm nay thầy có hy vọng là được thăm nuôi không?”
“Thăm nuôi? Không đâu. Ở chùa hay gia đình tôi chưa
biết chuyện tôi bị bắt, làm gì có chuyện thăm nuôi. Tôi bị bắt ngoài
đường, tôi quên nói anh biết vậy.”
“Ngoài đường à? Vậy là có chỉ điểm hoặc bị theo dõi rồi.
Ớn thật, cái chuyện hoạt động này, sao tôi thấy nghi quá. Hình như có
nội gián. Nè, thầy Khang biết không, trong phòng này còn có mấy người
Phục quốc nữa đó. Như tay Hà Văn Giang kia kia, nằm nơi góc đó. Hắn ta ở
Bàu Cạn, trước 1975 là người nhái, hải quân. Còn ông già ngồi gần cửa
sổ kia, tên là Trịnh Viết Bình. Mới vào mấy ngày trước, cũng tham gia
Phục quốc. Ông này là trùm giáo xứ Tân Cang, Hố Nai.”
“Cái gì? Trùm giáo xứ Tân Cang à?” tôi hỏi lại.
“Vâng, thầy Khang biết ông ấy sao?”
“Không. Nhưng tôi có một cơ sở hơn một mẫu điều ở Tân
Cang… vả lại, tôi biết anh Lương có cha ruột là ông trùm giáo xứ ở đó.
Nhưng ông Lương thì họ Trần, còn ông già này, anh nói là họ Trịnh, phải
không?”
“Vâng, họ Trịnh. Hờ, tôi nói thiệt thầy Khang nghe, đôi
lúc tôi nghi ngờ ông Lương là tay tình báo của cộng sản, giả đò dựng
lên Phục quốc để lưới hết đám đối lập tụi mình đó.”
Tôi giật mình khi nghe Vận nói vậy. Mới hôm nào tôi mới
vào, chính anh nói là tin tưởng ông Lương tuyệt đối, bây giờ đã có mầm
nghi hoặc rồi. Chế độ công an trị của cộng sản cứ gây tạo hết mối nghi
này đến mối nghi khác trong lòng người dân, thậm chí vào tù rồi cũng
không khỏi. Tôi nghĩ nếu một chí sĩ bị bắt vào tù mà cứ nghi là mình bị
ông lãnh tụ gạt thì còn đâu ý chí để phấn đấu và làm gì chịu đựng nổi
thử thách ngục tù, Tôi có nhiều lý do để sống còn mà không cần niềm tin
vào lãnh tụ (ông Lương không hề là biểu tượng hay là lãnh tụ gì đối với
lý tưởng và tinh thần đấu tranh của tôi cả), nhưng Vận thì cần lắm. Anh
theo Phục quốc vì tin tưởng lãnh tụ Lương. Tôi an ủi:
“Đừng nghĩ vậy. Theo cách cán bộ Sài Gòn và Đồng Nai hỏi
cung tôi lâu nay, tôi tin ông Lương không phải của cộng sản đâu. Ông ấy
có lòng thực đó. Công an đang cố công tìm bắt ông ấy, cứ hỏi tôi nơi ẩn
náu của ông ấy hoài.”
“Vậy hả, thầy tin ông ấy thực hả?” Vận hỏi lại.
“Tin,” tôi đáp, nhưng ngay sau đó, một thoáng nghi ngờ nổi lên trong tôi.
Có lẽ nào Vận là ăng-ten của cộng sản, muốn điều tra
tôi chăng? Xì, lại nghi ngờ bậy bạ nữa rồi! Mới kêu gọi niềm tin của
Vận, giờ lại nghi ngờ Vận! Thiệt là hết chỗ nói. Cái xã hội đa nghi này
không ngờ cũng ảnh hưởng tâm tình mình dễ sợ như vậy! Tôi xua ngay ý
nghi kỵ của mình bằng cách nói thêm với Vận:
“Nói anh nghe này, nếu bây giờ được thả ra mà gặp lại
ông Lương, tôi cũng sẽ tiếp tục cộng tác với ông ấy, bày keo khác. Tôi
tin ông ấy thực đó.”
Vận gật gù. Hình như đến lúc này anh ta mới thực sự lấy
lại được niềm tin đối với lãnh tụ của anh. Chúng tôi ngồi im lặng nhìn
bạn tù lăng xăng qua lại. Hôm nay ngày thăm nuôi, cán bộ không mở cửa
cho các phòng ra sân chơi. Tù nhân, anh nào anh nấy đứng ngồi không yên.
Những người có gia đình thăm nuôi định kỳ, biết trước hôm nay có gia
đình mang quà đến, thì tủm ta tủm tỉm ngồi chờ anh nuôi xách giỏ vào đọc
tên. Những người chưa được thăm nuôi lần nào thì cứ vây quanh lồng
khung, hoặc bu ở hai cửa sổ, nhìn mấy cái giỏ lát do anh nuôi xách vào,
hy vọng có chút thân thuộc gì của gia đình gởi gắm nơi đó. Hết giỏ thăm
nuôi này đến giỏ thăm nuôi khác được đưa đến tận phòng. Mỗi lần có một
hai giỏ để xách vào, mọi người yên lặng lắng nghe đọc tên. Ai có tên thì
hí ha hí hửng bước đến lồng khung kéo cái giỏ vào trong; giỏ lớn quá
không luồn qua song sắt được thì lấy ra từng món. Ai không có tên thì
chuyển niềm hy vọng vào giỏ đồ kế tiếp. Anh nuôi vào thì hy vọng anh
xách theo giỏ quà thăm nuôi mình. Cán bộ vào thì hy vọng gọi tên mình ra
ngoài gặp mặt gia đình. Nguyên ngày thăm nuôi là ngày của hy vọng. Và
tôi, mặc dù đã nói với Vận rằng tôi bị bắt vào đây không người thân nào
biết, nhưng tôi vẫn cứ hy vọng là biết đâu, bằng một cách nào đó, gia
đình hay vài người bạn tu nào đó của tôi, đã hay tin và sẽ mang quà đến
thăm! Sự đói thiếu và kiệt sức khiến tôi cũng có cái hy vọng hão huyền
và vô lý như vậy. Mà không phải đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến cảnh
thăm nuôi ở phòng giam này đâu. Đây là lần thứ ba. Ở đây nửa tháng được
thăm nuôi một lần vào ngày 15 và 30; trong hai ngày thăm nuôi đó, có một
ngày được gặp mặt gia đình, có nghĩa là một tháng được gặp mặt gia đình
một lần. Tôi vào đây ngày 10-6 mà bây giờ là 15-7, tức là đã trải qua
ba lần thăm nuôi. Cả ba lần ấy, tôi đều ít nhiều đặt hy vọng vào. Thảm!
Mãi đến chiều, khi kẻng báo hết giờ làm việc, những
người giàu tưởng tượng và hy vọng–trong đó có tôi–mới chịu buông bỏ giấc
mơ được quà. Dù sao, từ sáng đến giờ, đã có nhiều người bạn tù mang quà
đến biếu tôi. Chẳng rõ vì sao hai lần thăm trước không ai nghĩ đến việc
biếu tôi chút muối hay chút tương, mà bây giờ, tự dưng lại đồng loạt
kéo đến, kẻ món này, người món nọ… Có người lại biếu cả cái giỏ lát để
tôi đựng thức ăn nữa. Vậy là tôi bắt đầu có chút tài sản để trên chỗ đầu
nằm. Này nhé, trong giỏ tôi có nửa hủ tương bột, nửa kí muối đậu, nửa
kí muối trộn ớt bột và tiêu, một xấp bánh tráng chừng mười hai cái, hai
vắt miến khô, một gói mì ăn liền, mấy trái chuối già hương, một gói kẹo
cau nhỏ, hai miếng bánh cốm. Chưa có gia đình thăm nuôi mà có một giỏ
như vậy thì kể cũng là đầy đủ lắm. Dù rằng tâm thức có thể bay bổng ở
một phương trời cao rộng nào, thân xác của tôi nơi đây vẫn cứ thèm khát
và đòi hỏi những nhu cầu có khi rất nhỏ nhặt chẳng đáng là bao. Nhưng
chuyện biếu quà cho tôi không phải là thông lệ chia sớt cho những người
“mồ côi” của phòng giam mỗi kỳ thăm nuôi–vì cái thông lệ ấy chỉ xảy ra
vào buổi tối, sau khi điểm danh, cửa sắt đóng lại và đèn phòng được bật
lên. Vào mỗi tối của ngày thăm nuôi, anh trưởng phòng thường đứng ở lồng
khung, nhắc lại vài vấn đề liên quan nội qui, dặn dò đôi điều cán bộ
quản giáo nhắn nhủ, nêu lên vài ưu hay khuyết điểm của vài cá nhân nào
trong phòng giam, và cuối cùng là kêu gọi “lá lành đùm lá rách.” Ai có
thăm nuôi thì hãy nghĩ đến những người chưa hoặc không được thăm nuôi.
Rồi một cái thau nhựa được đặt ra ở giữa phòng, những người có thăm nuôi
lần lượt đem quà đến bỏ vào đó. Nhưng vì chính anh trưởng phòng cũng là
một anh “mồ côi” (tức là không bao giờ được thăm nuôi), mà kẻ “mồ côi”
này lại không chiếm được chút tình cảm nào của phòng, nên lời kêu gọi
của anh trở nên gượng gạo, chẳng mang lại kết quả gì. Cái thau để giữa
phòng vẫn cứ trống không, có chăng chỉ là vài viên kẹo để ngậm cho vui.
Đêm nay, anh trưởng phòng lại vỗ tay bôm bốp, kêu gọi mọi người yên lặng để nghe anh nói:
“Thưa anh em, hôm nay lại thêm một ngày vui của phòng
giam. Có thêm vài người mới liên lạc được với gia đình và đã được thăm
nuôi. Con số mồ côi trong phòng giảm xuống. Hy vọng trong thời gian ngắn
nữa thôi, phòng chúng ta ai nấy đều có thăm nuôi đầy đủ, có thế đời
sống cải tạo mới được hồ hởi. Tuy nhiên, phòng chúng ta hãy còn một số
anh em chưa được phép liên lạc với gia đình, và vì thế mà chưa được thăm
nuôi. Quản giáo nhắn lời bảo các anh em ấy nên thành thật khai báo, học
tập cải tạo tốt, để được viết thư cho gia đình mà xin quà. Trường hợp
của tôi thì khác, gia đình tôi ở tuốt ngoài Bắc nên chuyện thăm nuôi hơi
bị trở ngại. Có anh em nghĩ tôi mồ côi chứ thực ra tôi chẳng có mồ côi
đâu! À, nhân tiện nói chuyện mồ côi, tôi cũng xin kêu gọi anh em nào may
mắn được thăm nuôi, hãy chia sẻ chút quà gì đó cho mấy anh em kém may
mắn. Cái thau đâu rồi, để ra đây! Đấy, chúng ta gom góp, mỗi người một
ít, của ít lòng nhiều, để biếu mấy người kém may mắn. Không phải tôi kêu
gọi cho tôi đâu. Trong phần đóng góp của anh em, tôi không dám nhận bất
cứ món gì. Tôi chỉ kêu gọi cho mấy anh em mồ côi thực sự kìa. Vâng,
chẳng hạn như anh Lương, anh Danh, anh Đương… A, đây là món quà đầu tiên
của ông Năm tình nguyện chia sẻ… Cứ bỏ vào thau. Thay mặt anh em kém
may mắn, cám ơn ông Năm. À này, trong khi anh em đóng góp quà biếu, tôi
cũng xin nhắc lại vài nội qui quan trọng trong sinh hoạt phòng. Thứ
nhất, không được nói chuyện thì thầm riêng với nhau, có nói gì thì cứ
nói tự nhiên, nói sao mà người đi qua đi lại cũng nghe được, chứ xầm xì
kiểu đó thì quản giáo lại bảo rằng mình đang có âm mưu gì. Điểm thứ nhì,
trong phòng giam không được thực hành các nghi lễ tôn giáo như tụng
kinh, cầu nguyện… Các anh đã biết rồi mà, ngay cả chuyện làm dấu thánh
giá trước khi ăn cũng không nên làm, hoặc có làm thì cũng kín đáo một
chút. Các anh đừng tưởng tôi không có tôn giáo nên mới nói vậy. Thực ra
tôi cũng có đạo đấy chứ có phải người lương đâu. Nhưng ở đây ta không
nên thực hành các nghi thức tôn giáo ấy. Không phải ý kiến của tôi đâu,
nội qui cấm hẳn hoi mà. Sở dĩ tôi nhắc vậy là vì hôm qua có người ngồi
tụng kinh cầu nguyện suốt đêm. Gì chứ cái đó thì dứt khoát không được.”
Đôi mắt anh đảo nhanh một vòng, phớt qua tôi. Nhiều cặp mắt đổ về hướng tôi. Tôi đưa tay lên, xin nói:
“Đêm qua tôi ngồi, không gây bất cứ tiếng động nào, cũng
chẳng phiền gì đến ai. Tôi không thốt ra một lời nào thì sao gọi là
tụng kinh? Tôi không quỳ lạy, không chắp tay, không ngước cổ lên trời mà
cầu khẩn, không làm một dấu hiệu gì của tôn giáo, sao gọi là cầu
nguyện? Chắc anh lầm thôi. Nhưng nếu chuyện tôi ngồi xếp bằng im lặng
như vậy cũng bị cấm, tôi xin lỗi vậy.”
“Ô, có gì đâu mà xin lỗi. Anh chẳng có lỗi gì với tôi
cả. Tôi chỉ nhắc về chuyện nội qui phòng thôi. Vì những gì anh làm thế
nào quản giáo cũng biết. Quản giáo biết thì quản giáo khiển trách cả tôi
lẫn anh đấy. Anh nói ngồi im lặng như thế không phải nghi thức tôn
giáo, thế nó là nghi thức gì đây? Chẳng phải anh ngồi xếp bằng, mắt lim
dim như Phật Tổ đấy à? Còn chuyện im lặng thì ai lại chả biết là anh
tụng kinh hay cầu nguyện thầm chứ!”
Tôi định giải thích về chuyện ngồi thiền, nhưng một giọng nói từ cuối phòng chen vào:
“Thôi, vừa rồi. Người ta bệnh cả tháng, sắp chết tới
nơi, ngồi im lặng được thêm mười đêm nữa cũng nên khuyến khích chứ một
đêm ăn nhằm gì chứ!”
Cả phòng quay nhìn về hướng người ấy. Đây là một anh
trong đám tù người Hoa, thường tụm lại với nhau ở góc tường bên phải
lồng khung, thuộc đội 1, đối diện với đội 4 của tôi. Anh tù này tên
Quái. Anh không cao, nhưng người vạm vỡ. Đuôi mày xếch, mắt hơi nhỏ, mũi
lớn. miệng rộng, cằm vuông, tóc cứng như dựng ngược lên. Anh cười thì
thấy hiền khô, nhưng khi nghiêm mặt thì thấy cũng dữ dằn lắm.
Anh trưởng phòng nhìn Quái, hỏi lại:
“Anh nói sao? Anh xúi dục chuyện tụng kinh cầu nguyện trong phòng giam à?”
“Mẹ, xúi dục cái gì chứ! Người ta là ông thầy tu, bệnh gần chết, ngồi niệm Phật trước khi chết, không được sao!”
“Anh chửi thề tôi đấy à? Anh nói đ. mẹ ai? Anh muốn bị kỷ luật đấy à!”
Quái đứng dậy:
“Tao nói mẹ chứ có nói đ. mẹ mầy đâu mà mầy lấy kỷ luật ra hù tao! Mầy đừng có tưởng làm trưởng phòng là ngon nghen!”
Hai ba người tù ngồi gần đó cũng đứng dậy, níu Quái lại,
kéo anh ngồi xuống. Phía lồng khung, anh trưởng phòng cũng sừng sộ bước
ra giữa phi đạo như muốn chờ đợi, thách thức. Đương, anh phó phòng (tức
là anh chàng có khuôn mặt giống nịnh thần), cùng với Lý (anh chàng cặm
cụi ngày đêm đan lưới để tặng không cho các cán bộ, và cũng là anh chàng
có vẻ mặt nhăn nhó như là chẳng bao giờ vừa ý cái gì trên đời), xúm xít
can ngăn anh trưởng phòng. Tôi thấy vì chuyện nhỏ của mình mà thành
chuyện lớn trong phòng thì cũng nhột lắm, đứng dậy định nói một lời nào
đó, nhưng chưa kịp nói, đã bị anh trưởng phòng nạt:
“Thôi, hôm nay ngày thăm nuôi, bàn chuyện này nữa làm
không khí trong phòng mất vui. Bỏ qua đi. Nhưng với anh Khang, tôi nhắc
anh rõ điều đó để đừng tái phạm. Anh có nghe hay không thì tùy anh, cán
bộ xử lý anh thì anh thiệt chứ phần tôi cũng chẳng được lợi hay hại gì
đâu. Thưa các anh em, bây giờ bắt đầu tiết mục văn nghệ. Anh em nào muốn
ca hát gì thì cứ tự do, ca lên cho vui nào!”
Dứt lời, anh trưởng phòng quay về chỗ anh. Phòng giam
bắt đầu rộn ràng tiếng nói cười. Dù anh trưởng phòng đề nghị chuyện ca
hát, cũng chưa thấy ai tình nguyện bước đến chỗ lồng khung để mở màn.
Tiệc vui của phòng bắt đầu bằng chuyện ăn uống. Nhóm nào chơi theo nhóm
nấy. Nhai bột chóp chép. Nhấp trà rột rột. Rít thuốc lào phì phò. Có một
nhóm ngồi với nhau thành một vòng chữ nhật thật lớn, chạy theo bốn cạnh
của cái bục xi măng của đội 1. Nhóm này có mấy anh người Hoa làm chủ
tiệc. Tiệc trong tù cũng giống như tiệc ngoài xã hội, có lời mời của chủ
thì khách mới đến dự. Họ có mời anh trưởng phòng nhưng anh này từ chối,
có lẽ vì còn ngại chuyện xảy ra khi nãy, mà cũng có thể vì anh biết
rằng đám người Hoa này chỉ mời lấy lệ theo phép lịch sự thôi chứ họ
chẳng ưa gì anh. Tôi thấy có tất cả bảy người Hoa, ba người thuộc đội 1,
hai người thuộc đội 2 và hai người thuộc đội 3. Số còn lại, đa phần là
tù chính trị, một vài tù lớn tuổi không biết tội gì, và một người xăng
xái chịu làm công tác phục dịch, nấu nước, rửa chén… Họ từ các đội kéo
đến theo lời mời của nhóm tổ chức chứ không phải đều là người của đội 1.
Một số người thuộc đội 1 không được mời, cũng bỏ đi vòng vòng chơi chỗ
khác để nhường chỗ cho người ta làm tiệc. Hai anh trong nhóm tổ chức
bước đến chỗ tôi, mời với giọng thân tình:
“Sư phụ, mời qua uống miếng trà với tụi này đi.”
Tôi chưa kịp phản ứng gì thì một anh nắm lấy tay tôi kéo lên, anh kia đẩy sau lưng, dìu tôi đến chỗ đội 1.
Ngồi vào vòng, tôi được hai anh này tự giới thiệu là
Sang và Dưỡng, hai chiến sĩ thuộc tổ chức Nghĩa Quân Phục Quốc của Trần
Cao Hùng. Quái và một thanh niên người Hoa khác, tên Dần, cũng thuộc tổ
chức ấy. Bốn người này gốc “Tàu Nùng”. Ba người Hoa còn lại có một người
lớn tuổi, tên Thai, hai người còn trẻ, một người tên Vinh, một người
tên Soái, đều tội vượt biên. Ông Thai và anh Vinh là người Hoa Chợ Lớn;
Soái là người Hoa ở Bạc Liêu. Cụ Trịnh Viết Bình, trùm giáo xứ Tân Cang,
cùng với Vận, Giang, Vàng, Lưu, cũng có mặt; họ đều thuộc lực lượng
Phục quốc của ông Lương. Hai người khác là Nhiễu và Danh, dân Tân Phú,
cũng thuộc Nghĩa Quân Phục Quốc như đám người Hoa. Ông Vương thuộc tổ
chức của linh mục Vàng nổi tiếng trong vụ nhà thờ Vinh Sơn năm 1976 thì
không thấy có mặt trong tiệc, một phần vì ông chẳng uống trà, một phần
vì ông rất sợ chuyện giao tiếp với thành phần tù chính trị để rồi bị vạ
lây, phần khác là vì ông nổi tiếng keo kiệt, không được cảm tình của bất
cứ ai trong phòng. Lại có hai anh cựu quân nhân chế độ trước, bị bắt vì
tội vượt biên–hai chàng này rất tán thưởng tôi hát và đã mời tôi uống
trà vào ngày tôi mới nhập phòng. Nhìn lại thành phần tham dự, tôi mới
thấy đây là lực lượng hùng hậu nhất của phòng giam chứ không phải từ
phía quyền lực “chính danh” của anh trưởng phòng. Số tù nhân còn lại
trong phòng giam không tham dự tiệc trà này, tội vượt biên là nhiều
nhất. Mà tội vượt biên, trước kia thường gọi là “phản quốc trốn ra nước
ngoài” thì nay được gọi bằng một hỗn danh là “chính trị xu hướng” nên
xem ra cũng gần gũi với đám tù chính trị chúng tôi lắm. Vậy là, phòng
giam này, và có thể là cả trại giam này, tù hình sự chỉ là thiểu số; tù
chính trị đối lập với nhà nước hoặc gián tiếp chống đối nhà nước mới
thực sự là đông đảo. Suy ra, các trại giam khác có thể cũng đều như vậy.
Sang, Dưỡng, Quái và Dần, bốn anh Tàu Nùng, thuộc nhóm
tàn quân của Lý A Sáng, có chiến khu ở Tân Phú. Lực lượng võ trang của
Lý A Sáng bị hai tiểu đoàn bộ đội cộng sản càn quét đánh tan ở Tân Phú
vào năm 1979. Lãnh tụ Lý A Sáng bị thương và bị bắt trong đợt đó, nhưng
kể về sau, không ai nghe được tin tức gì về ông cả. Đa số tàn quân đều
chết trận, số còn lại bị bắt (như Dần, Quái, Dưỡng) hoặc tiếp tục gia
nhập lực lượng võ trang Nghĩa Quân Phục Quốc của Trần Cao Hùng (như
Sang).
Sau sự tan rã của lực lượng Lý A Sáng, năm 1980, Trần
Cao Hùng đứng ra thành lập và lãnh đạo Nghĩa Quân Phục Quốc, cũng đóng
trong rừng Tân Phú, lôi kéo được một số sĩ quan quân đội Cộng hòa, khá
nhiều thanh niên Tàu Nùng và kể cả một số cán bộ cộng sản miền nam như
ông Tân cha ruột của Nhiều (trước làm Tỉnh ủy tỉnh Sông Bé), Nhiều
(thượng úy bộ đội, làm việc trong Ban chỉ huy Huyện đội huyện Tân Phú),
Danh (một đàn em của Nhiều, cũng thuộc huyện đội Tân Phú). Đến năm 1981,
cánh nội gián của Nghĩa Quân Phục Quốc hoạt động tại huyện Tân Phú bị
phá vỡ khiến ông Tân, Nhiều, Danh… (tức là những cán bộ cộng sản nằm
vùng cho Phục quốc) bị bắt; nhưng cánh võ trang trong chiến khu vẫn được
bảo toàn, rút sâu hơn vào rừng già Tân Phú. Đến năm 1983, ông Trần Văn
Lương, lãnh tụ Lực Lượng Việt Nam Phú Quốc tìm cách liên kết với lực
lượng Nghĩa Quân Phục Quốc của Trần Cao Hùng. Hùng mến phục Lương, đem
lực lượng võ trang của mình sát nhập vào Lực Lượng Phục Quốc của Lương
và trở thành cánh tay trái của Lương về quân sự. Cuối năm 1984, Lương
đến gặp tôi để nhờ góp ý soạn thảo cương lĩnh của Phục Quốc, rồi mở rộng
mặt tuyên truyền kêu gọi toàn dân đứng dậy. Bị nội gián, cánh của Lương
tại Long Thành cũng như lực lượng võ trang của cánh Trần Cao Hùng tại
Tân Phú bị bắt gần hết, ngay cả Trần Cao Hùng và Lê Văn Của (cánh tay
mặt của Hùng) cũng vào trại giam B5, nơi chúng tôi đang ngồi uống trà
với nhau. Nghe nói cả Hùng và Của đều bị biệt giam.
Trà khá ngon. Nội qui thăm nuôi không cho người ngoài
gởi trà và cà phê vào, nhưng lại được phép đưa thẳng tiền mặt cho tù
nhân mỗi khi được gặp mặt. Tù nhân cất tiền, khi nào cán bộ quản giáo
dẫn trưởng phòng và vài tù nhân tin tưởng đi chợ tại căng-tin của trại
giam, thì gởi mua trà, cà phê, thuốc lá, rau tươi, tương, chao, nước
mắm… các thứ. Những lần như thế, nhóm Nghĩa Quân Phục Quốc đều có mua
trà. Nhóm này vì gia đình có đất vườn mênh mông tại Tân Phú nên đời sống
lúc ở ngoài lẫn khi vào tù đều khá giả. Họ không bao giờ bị đói thiếu,
do đó mới có cái thú tiêu khiển thượng đẳng của đời sống tù là uống trà.
Còn chuyện nấu nướng trong phòng giam cũng là chuyện
đặc biệt đáng kể. Anh chàng người Nam đòi đấu võ với tôi lúc tôi mới vào
phòng, tên là Hiệp–nhưng trong phòng cứ gọi biệt danh anh là Ken, vì
anh bị bắt với tội sử dụng cô-ken (cocaine, ma tủy)–luôn luôn có mặt
trong các tiệc trà của bất cứ đội nào, nhóm nào. Anh ở tù lâu, không có
thăm nuôi, nên tự biết cách xoay xở để sống. Anh xin ở đâu được hai lon
nhôm (loại lon đựng sữa bột guigoz): một cái để nguyên dùng làm xoong;
một cái được cắt thành cái lò có ba chân đưa lên, chĩa ra ba phía để
chịu đựng cái lon nấu nước đặt lên trên, khoét một lỗ lớn ở thân lon,
giữ lại đáy lon để làm lò nấu bằng “hỏa tốc”. (Hỏa tốc, chẳng biết là từ
lóng được nặn ra từ đâu mà lại trở thành một danh từ nhằm để chỉ cho
một thứ nhiên liệu chứ không phải là một phó từ chỉ sự khẩn cấp, nhanh
chóng, nhạy bén. Hỏa tốc nói cho rõ thì chỉ là nhựa cao su bị đốt; nội
qui trại không cho mang củi, xăng dầu, than… vào phòng giam nên tù nhân
gom góp các bịch ni-lông, các bình nhựa, can nhựa, để thay dầu hỏa mà
nấu nước hay nấu chín thức ăn. Muốn nấu bằng hỏa tốc, cũng phải biết
cách chứ không phải ai cũng nấu được. Phải biết để dành vải sợi và ni
lông. Vải cắt thành từng miếng nhỏ vừa gọn lòng bàn tay, xếp thành lớp,
lót ở dưới đáy lò, ni-lông đốt cháy đặt trên vải để lửa được cháy bùng
và giữ được lâu. Phải có cái dùi hay đũa thép làm bằng cọng kẽm gai đập
lại cho ngay, mài nhọn ở đầu để khều nhựa trong lò (trong tù gọi là dùi
hỏa tốc). Người nấu phải ngồi canh chừng và chêm ni-lông vào khi cần để
giữ lửa đừng tắt). Ken có lò, có xoong, lại sẵn sàng chịu bỏ công nấu
nướng, nên nhiều người nhờ anh nấu thứ này thứ nọ rồi chia cho anh một
phần. Các tiệc trà, anh xung phong làm người nấu, và anh cũng ngồi một
bên vòng tròn, uống ké.
Trà pha hơi đậm, rót một chén đầy; cứ xoay vần, hết
người này đến người khác, mỗi người nhấp một ngụm nhỏ. Hai gói thuốc rê
loại ngon đặt ở giữa phòng, người dự tiệc tự do hút. Nghe nói thuốc rê
Tân Phú là thuốc ngon nhất trong các loại thuốc rê có trong tù. Thuốc
này của các anh tù thuộc nhóm Nghĩa Quân Phục Quốc, do gia đình gởi vào
cứ mỗi nửa tháng, mỗi người được một cây, mỗi cây quấn được khoảng gần
một ngàn điếu thuốc nhỏ. Thuốc do gia đình họ trồng từng rẫy lớn để bán.
Sang nghiêng người qua phía tôi, nói nhỏ:
“Thầy Khang đừng giận trách tụi này nghe. Tháng vừa qua,
thầy mới vào, tụi này còn ngại lắm. Nghe thầy là tù chính trị, lại dính
líu đến lực lượng của tụi này thì phải đón mừng chứ, nhưng vẫn ngại là
cán bộ gài người vào để điều tra nên tụi này cứ tảng lờ. Với lại thấy
thầy cứ bị cán bộ kêu ra ngoài làm việc, cũng ớn lắm.”
Quái ngồi kế Sang, chen vào:
“Sau này thấy thầy bệnh nặng sắp chết mà chẳng có cán bộ
hay thằng ăng-ten nào trong phòng này dòm ngó, tụi này mới tin thầy là
thứ thiệt.”
Dưỡng ngồi gần Quái cũng xen vào:
“Thấy thầy ngồi xếp bằng một đêm, tụi này càng tin tưởng
hơn. Thằng cộng sản có thể chịu khổ nhục kế được, có thể đóng đủ thứ
kịch được, nhưng không thể bệnh đến tàn thân mà còn ngồi suốt một đêm
như thế được. Thầy Khang à, nói nhỏ thầy nghe: tụi này đang căng thẳng
với thằng trưởng phòng, muốn lụi nó từ lâu rồi. Thầy biết không, nó cứ
đi báo cáo từng chuyện nhỏ. Tụ tập nói chuyện nó cũng báo cáo. Đón tù
mới nó cũng báo cáo. Cho nên, tụi này đâu dám xúm xít đón thầy khi thầy
mới vào. Khi nãy thằng Quái hù nó một tiếng là tụi này muốn chơi thẳng
đó. Cái nước này, một là nó phải đổi qua phòng khác, hai là tụi này vào
kỷ luật. Để vài ngày nữa rồi thầy biết. Cái thằng khốn nạn đó, nó chỉ là
thằng cướp cạn trên tàu hỏa thôi, vậy mà làm trưởng phòng, thầy nghĩ có
tức không! Không phải tụi này muốn tranh gì cái chức trưởng phòng,
nhưng thực sự là chẳng muốn nó ngồi đó mà đì mình, Cho thằng nào lên làm
trưởng phòng lại chẳng được, miễn là biết điều một chút thôi. Thằng này
không biết điều, nó tận tụy khai báo lập công, làm sao mình sống nổi
chứ. Không khí trong phòng từ khi nó lên làm trưởng phòng, tự nhiên căng
thẳng, ngứa ngáy vô cùng!”
Tôi nghe vậy thì cũng gật gù chứ chẳng biết nói chi.
Quái hỏi về chuyện hoạt động và nguyên do vào tù của tôi. Tôi kể ngắn
gọn. Ông Bình, trùm giáo xứ Tân Cang, người tù cao tuổi nhất trong
phòng, ngồi kế tôi, nghe xong chuyện, bèn nghiêng qua tôi, nói nhỏ:
“Thằng Lưỡng nó có nói chuyện về thầy cho tôi nghe. Tôi
quí thầy lắm, hân hạnh được gặp thầy. Ôi chao, nó nói rằng thầy trẻ lắm,
nhưng tôi đâu ngờ là trẻ cỡ nầy!”
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
“Lưỡng nào vậy bác?”
“À, Lưỡng tức là Lương đó mà. Nó là con trai trưởng của tôi đấy.”
“A, anh Lương nói có cha ruột ở Tân Cang, té ra là bác đây. Nhưng… anh ấy họ Trần mà, còn bác thì họ Trịnh?”
“Nó lấy tên giả thôi. Tên thật của nó là Trịnh Viết
Lưỡng. Nó cứ lấy ba chữ T, V, L, mà đặt tên, cho nên có khi để là Trương
Văn Lân, có khi là Trần Văn Lương, cũng là nó cả. Hờ, Lưỡng nó mến thầy
lắm, nó nói lâu nay nó đâu có quen thầy tu bên Phật giáo, vậy mà rồi
quen thầy, nó thấy thân mật, gần gũi, thích thú lắm! Tiếc rằng thầy phải
vào đây, chứ nếu còn ở ngoài, cùng với nó làm việc thì hay biết mấy,”
ông nói nhỏ giọng hơn một chút, “Lưỡng bây giờ đang hoạt động ở lục
tỉnh, chưa bị bắt đâu. Truyền đơn bên ngoài rải nhiều nơi lắm, náo động
cả lên. Bọn cộng sản cuống cuồng lo tìm bắt Lưỡng.”
Ở lồng khung, đã có người tự nguyện lên ca hai bản. Cả
phòng tôn trọng, im lặng lắng nghe. Nhóm uống trà cũng có người góp vui,
ca hát và dùng cả thau nhôm thau nhựa để vỗ nhịp thay trống nữa. Anh
Ken chủ lò thì lúc nào cũng vậy, chẳng ca hát, nhưng đóng góp bằng màn
biểu diễn võ thuật với bài Tứ môn quyền của Thiếu lâm. Màn văn nghệ kéo
dài đến giờ báo nghiêm. Rời chỗ tiệc trở về chỗ nằm, tôi thấy vui vui
trong lòng. Tôi biết thành phần đối lập với chính quyền như chúng tôi
chẳng bao giờ cô đơn cả.
Ó
Hai ngày kế tiếp nhằm cuối tuần, cán bộ quản giáo chỉ
xuống mở cửa buổi sáng, đóng cửa buổi chiều, chứ không cho chúng tôi ra
sân chơi. Hai ngày đó, tôi không còn bị bệnh kiết lỵ đày đọa nữa. Tôi
trở lại bình thường thật nhanh chóng.
Qua ngày đầu tuần, quản giáo xuống mở cửa gọi trưởng
phòng ra ngoài làm việc đâu chừng một giờ đồng hồ. Trả trưởng phòng về
phòng giam, quản giáo gọi Đương, anh phó phòng, ra làm việc nửa giờ; sau
đó, gọi cả Lý, anh chàng đan lưới lập công. Trả Lý về phòng, quản giáo
gọi Quái ra ngoài. Vậy là chúng tôi đoán biết có chuyện sắp xảy ra.
Quái theo quản giáo mấy tiếng đồng hồ rổi mà chẳng thấy
trở lại. Đến xế chiều, quản giáo đến phòng một mình, bảo đưa giỏ đồ của
Quái cho anh đem đi. Trong phòng biết rằng Quái đã bị phạt kỷ luật. Một
là tội chửi thề, “phạm thượng” đối với anh trưởng phòng; hai là, có ý
bênh vực một thành phần tu sĩ phạm trọng tội đối với chính quyền như
tôi.
Quái bị kỷ luật, tôi đoán là sẽ đến lượt tôi một lúc
nào đó. Tôi chờ đợi, nhưng chẳng thấy gì xảy ra. Từ ngày tôi nhập trại
này, chỉ có cán bộ thụ lý hồ sơ gọi tôi đi khai cung chứ chưa bao giờ
quản giáo gọi tôi ra làm việc về chuyện sinh hoạt trong phòng giam cả.
Theo thông lệ, bất cứ người tù nào, nhất là tù mới, cũng đều bị quản
giáo gọi ra ngoài để vặn hỏi thêm các chi tiết cần thiết có liên quan
đến tội trạng của người ấy hầu cung cấp cho cán bộ thụ lý hồ sơ; có khi
quản giáo muốn khai thác tin tức trong phòng giam nơi từng cá nhân bị
gọi ra; có khi quản giáo tìm thêm người để giao công tác làm ăng-ten.
Vậy mà quản giáo chưa hề đá động gì đến tôi từ hơn một tháng nay. Tôi có
cảm giác là anh quản giáo này vì lý do gì, muốn tránh né nói chuyện với
tôi. Dù vậy, qua các bạn tù nói lại, tôi biết anh gọi ai ra ngoài cũng
hỏi người đó một cách cặn kẽ về tôi.
Tôi có ý chờ đợi quản giáo gọi ra nói chuyện để may ra
có thể hiểu thêm về chuyện Quái bị kỷ luật biệt giam. Tôi áy náy mãi
trong lòng là Quái đã vì chuyện của tôi mà chịu phạt.
Quả nhiên, hai ngày sau khi Quái bị biệt giam, quản
giáo Khoa gọi tên tôi. Anh dẫn tôi ra khỏi khu nhà giam tập thể, đến một
dãy bàn bằng gỗ thô kệch, băng ghế dài đóng dính vào bàn, đặt ngoài
trời, ở một khoảng khá vắng vẻ dưới bóng mát của mấy cây trứng cá. Theo
hướng dẫn của anh, tôi ngồi vào băng ghế đối diện. Anh ngập ngừng một
lúc, hai tay xoa vào nhau, nở một nụ cười cố gắng thân thiện, khá hiền
lành. Tuổi anh khá lớn, xấp xỉ bốn mươi. Cằm vuông, trán hơi vồ, mắt lớn
và lộ. Anh có một mụt ruồi đen khá to mọc ở gần khoé miệng bên trái,
ngang cánh mũi. Có lẽ mụt ruồi làm cho nét mặt anh có một vẻ dịu dàng
giống đàn bà. Trước mặt anh không có hồ sơ hay bất cứ mảnh giấy nào.
“Làm việc” với quản giáo là vậy, không giống như lúc đi khai cung với
các cán bộ thụ lý hồ sơ, lúc nào cũng thấy biên bản, giấy má, bút, tập…
“Anh Khang năm nay bao nhiêu tuổi rồi?”
“Hai mươi sáu,” tôi đáp.
“Anh còn trẻ lắm. Nghe nói anh là nhà sư trụ trì của
chùa gì đó trên Long Thành, phải không? Anh ở chùa thì lo tu niệm, dính
dáng làm gì đến bọn Phục quốc phản động để rồi cản trở chuyện tu
hành!... Theo tôi biết, anh vẫn còn trong thời kỳ khai cung, vì hồ sơ
của anh chưa chuyển qua viện Kiểm sát tỉnh. Chuyện khai cung của anh kéo
dài, không đơn giản như các bị can khác, có phải vì anh không thành
thật khai báo?”
“Tôi có làm điều gì thì đã khai và nhận biết điều đó, chỉ tại cán bộ chưa muốn kết thúc đó thôi.”
“Anh chỉ thành thật phần nào về bản thân và các hoạt
động của anh thôi, chứ chưa thành thật về các tên đồng lõa khác. Nếu anh
tăng gia sự thành thật đúng mức thì may ra hồ sơ kết thúc sớm, từ đó
anh mới được phép liên lạc với gia đình để được thăm nuôi, lo học tập
cải tạo tốt mà trở về với xã hội làm người công dân mới.”
Tôi lặng thinh. Anh cũng im một lúc như lựa lời, rồi tiếp:
“Anh thấy sinh hoạt trong phòng giam thế nào? Có thoải mái không?”
“Cũng thường. Tôi mới vào, chưa nắm rõ sinh hoạt trong phòng lắm.”
“Nhưng chắc anh cũng cảm thấy có những chuyện lộn xộn này nọ xảy ra trong phòng giam chớ?”
Câu hỏi của anh làm tôi sực nhớ đến Quái. Tôi nghĩ thật nhanh trong đầu, rồi hỏi lại:
“À, anh muốn nói đến chuyện lộn xộn của anh Cang trưởng phòng và anh Quái, phải không?”
“Không phải chỉ chuyện đó, tôi muốn hỏi chung về tình hình trong phòng, anh thấy có gì bất thường không?”
“Tôi chưa rõ tình hình trong phòng, tôi chỉ biết cái
chuyện vừa xảy ra giữa anh Cang và anh Quái. Chuyện đó, tôi nghĩ chắc có
hiểu lầm.”
“Lầm làm sao được. Anh Quái có chửi thề, lớn tiếng đôi co với trưởng phòng, chuyện rõ ràng như vậy mà.”
“Chằng qua anh Quái lớn tiếng vì muốn bênh vực tôi
thôi. Nếu cán bộ cũng như anh trưởng phòng, cho rằng chuyện tôi ngồi
thiền suốt đêm là vi phạm nội qui thì xin phạt tôi, cho anh Quái được
trở về phòng. Tôi nói thực đó.”
Khoa có vẻ tái mặt thấy rõ. Anh không ngờ tôi dám cả gan đòi đi biệt giam kỷ luật. Anh nhìn tôi một lúc rồi nói:
“Đâu được. Chuyện kỷ luật trong trại giam, ai vi phạm
người ấy bị phạt, không có chuyện thay thế. Nếu cả anh và anh Quái vi
phạm thì hai người cùng chịu kỷ luật. Vậy tôi hỏi, có phải anh nhận là
anh có ngồi cầu nguyện trong phòng giam không?”
“Tôi có ngồi thiền chứ không ngồi cầu nguyện.”
“Thì ngồi thiền hay cầu nguyện có khác gì đâu.”
“Khác chứ. Cầu nguyện là xin xỏ phép lạ hay quyền năng
của một đấng thần linh nào đó ở ngoài, đến cứu rỗi hay giải thoát cho
hoàn cảnh của mình; ngồi thiền là hình thức trau luyện tâm, phát triển
sức mạnh tinh thần. Điều này tôi nghĩ rất cần thiết, giống như con người
cần thiết chuyện tập thể dục để bảo vệ sức khỏe của thân xác vậy.”
“Tập thể dục thì đúng rồi, đảng và nhà nước rất sáng
suốt, theo đúng nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, mỗi ngày đều cho các
anh ra sân chơi để tập thể dục năm phút. Chứ còn chuyện phát triển sức
mạnh tinh thần, anh muốn nói cái tinh thần nào đây? Ở đây chỉ có duy
nhất cái tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa, biết hối cải, ăn năn, học
tập tốt theo đường lối chính sách của nhà nước; chỉ duy nhất con đường
cải tạo tinh thần đó, các anh mới được trở về xã hội, phục hồi quyền
công dân mà thôi. Tóm lại là ngồi thiền hay ngồi cầu nguyện đều là các
hình thức sinh hoạt tôn giáo bị cấm trong nội qui của trại. Anh không
được áp dụng bất cứ thứ lễ nghi tôn giáo nào trong phòng giam.”
“Đó là anh giải thích thêm vậy thôi chứ trong bản nội
qui mà tôi nghe trong phòng đọc, ở phần nói về các lễ nghi tôn giáo,
không hề nhắc đến hai chữ ‘ngồi thiền.’ Chỉ cấm cầu nguyện, tụng kinh,
chắp tay hay làm dấu thánh giá… Mà ngồi thiền, thực ra không phải lễ
nghi tôn giáo. Ngồi thiền cũng giống như tập thể dục thôi, một cái thì
tập cho tâm, một cái thì tập cho thân, cán bộ khuyến khích tôi mới phải
chứ.”
Anh lúng túng một hồi, rồi bất chợt dịu giọng hỏi:
“Vậy cách ngồi thiền của anh thế nào, anh diễn tả lại tôi xem thử.”
“Đại khái là tôi chỉ ngồi xếp bằng, im lặng, không bật
lên một tiếng tụng kinh hay cầu nguyện nào, Tôi cũng không chắp tay,
không làm dấu, không cúi lạy ai. Tôi chỉ ngồi như thế.”
“Trong khi ngồi anh suy nghĩ cái gì?”
“Không suy nghĩ gì cả. Tôi dẹp hết mọi suy nghĩ tính toan thường ngày.”
“Như vậy thì… vô ích quá! Có lợi gì đâu mà anh phải làm thế.”
“Những suy nghĩ làm mệt nhọc đầu óc, ảnh hưởng không
tốt đến thể xác. Dẹp bỏ suy tưởng cũng giống như dọn dẹp sạch sẽ một căn
phòng. Phòng sạch sẽ thì mát mẻ, thoải mái. Thân và tâm đều thoải mái
thì hết bệnh.”
“Cái đó có vẻ duy tâm quá, chẳng thực tế chút nào. Mà anh ngồi không như vậy cả đêm à?” quản giáo hỏi lại.
”Vâng, cứ ngồi như vậy. Cán bộ nghĩ xem, ngồi như vậy có làm thiệt hại ai đâu chứ.”
“Ờ, không thiệt hại ai, nhưng… người khác nhìn thấy
hình như trong lòng có nẩy sinh một sự cảm mến nào đó… mà như vậy thì
không tốt cho chuyện học tập cải tạo của anh và cho những người trong
phòng giam.”
“Cán bộ nói sao, tôi không hiểu.”
“Vì… vì nếu ai trong phòng giam cũng có cảm tình riêng
với anh thì sinh hoạt trong phòng không còn bình thường nữa, sẽ có sự
thiên vị, mất đi tính cách bình đẳng.”
Tôi cười thầm trong lòng, chẳng biết nói gì nữa, làm bộ gật gù lấy lệ. Quản giáo chớp chớp mắt, nói:
“Cho nên, nghe nói là ngày thăm nuôi vừa rồi, tự dưng
nhiều người mang quà đến biếu tặng anh, cả một giỏ đầy, vừa có thăm là
nghĩ ngay đến anh, chẳng cần ai kêu gọi mà anh cũng chẳng cần mở miệng.
Anh cứ ngồi một chỗ mà mọi người tự động đem quà đến, trong khi xưa nay,
trưởng phòng kêu gọi đóng góp giúp các anh em chưa có thăm nuôi khác
thì chẳng ai chịu đóng góp, hoặc có đóng góp thì đóng góp cho có lệ
thôi. Anh có thấy sự việc này là trở ngại cho đời sống tập thể phòng
giam không?”
Tôi giật mình, tự thấy cái lý do tôi muốn ẩn mình che
giấu tông tích tu sĩ của tôi trước đây quả thật là hợp lý. Rõ ràng là
trên thực tế, khi tôi lộ diện là một tu sĩ, sự tiếp xử của những người
chung quanh trở nên khác, không còn bình thường nữa. Tôi ăn cơm không,
ngồi im lìm một đống, nằm liệt một chỗ, đứng trần truồng trong nhà tắm
như mọi tù nhân, đi cầu hôi thối như mọi người, chẳng ai thèm để ý;
nhưng khi tôi ngồi thiền–chưa biết là tôi ngồi thiền có tập trung hay
không–cả phòng đã thay đổi thái độ.
Bây giờ thì tôi gật gù thật, tôi nói:
“Tôi không để ý chuyện đó. Chẳng qua chỉ tại tôi bị kiết
lỵ kéo dài gần hai mươi ngày, không có thuốc chữa trị, tôi bèn dùng
phương pháp ngồi thiền để tự điều chỉnh sự bất ổn của thân xác và tinh
thần tôi mà thôi. Tôi không cố ý chinh phục cảm tình của người khác. Còn
nếu chuyện ngồi thiền của tôi phạm nội qui, xin cứ phạt. Tôi chỉ xin
cán bộ một điều là trả anh Quái trở về phòng, bởi tôi không muốn vì
chuyện của tôi mà anh ấy phải bị phạt.”
“Thôi, anh hiểu điều đó và đừng tái phạm là được rồi.
Chuyện của anh không đáng bị kỷ luật đâu. À, anh nghĩ là anh Quái có
chửi thề với anh trưởng phòng không?”
“Anh ấy không văng tục, chỉ nói với giọng bất bình, hơi cộc thôi.”
Quản giáo gục gặc, xoa hai bàn tay, nhìn đồng hồ, nói:
“Thôi, được rồi. Tôi chỉ yêu cầu là anh đừng bao giờ
ngồi thiền trong phòng giam nữa, dù chuyện ngồi thiền không phải là nghi
thức tôn giáo.”
“Tôi hứa.”
“Tôi đưa anh về phòng,” vừa nói, quản giáo đứng dậy.
Tôi đứng dậy theo. Khoa bảo tôi đi trước, về hướng phòng giam. Đi một đoạn, anh bỗng kêu tôi đứng lại, hỏi:
“Anh có biết là trong phòng giam có sự căng thẳng ngấm ngầm giữa nhóm này nhóm nọ không?”
Tôi biết anh thừa sức để có nhận xét ấy, nhưng cứ nói “không.” Anh hơi ngờ vực nhìn tôi một lúc, nói:
“Tôi hỏi điều này chẳng phải là hại gì các anh em trong
đó đâu. Tôi muốn phòng giam do tôi quản lý phải có không khí vui vẻ, anh
em bạn tù phải hòa hợp với nhau, vui vẻ cùng học tập tốt, đừng vi phạm
nội qui kỷ luật của trại, vậy là tốt rồi; chứ nếu cứ căng thẳng xảy hết
chuyện này đến chuyện nọ, người này vừa hết bị kỷ luật lại đến người
khác, vậy thì chán quá. Các phòng giam khác đâu có tình trạng đó. Tôi bị
ở trên khiển trách là không biết cách quản lý các anh. Anh nói thật tôi
nghe ý kiến của anh đi. Anh là thầy tu mà, tôi nghĩ anh có thể góp ý
kiến tốt.”
“Tôi chưa hiểu cán bộ muốn nói về chuyện gì. Tôi muốn biết rõ ràng hơn thì mới góp ý được.”
“Vậy tôi hỏi anh, theo anh nghĩ, anh Cang làm trưởng phòng có được anh em mến phục, chịu nghe không?”
Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói:
“Theo tôi thì phòng giam hay cả trại giam này cũng giống
như đất nước xã hội bên ngoài, nếu người lãnh đạo không đủ tài đức thì
khó tạo được đời sống vui vẻ hòa thuận.”
“Anh muốn nói rằng anh Cang không đủ tài đức?”
“Tôi mà nói thẳng ra thì e cán bộ cho rằng tôi thiên vị, hoặc cho là tôi có thành kiến với anh Cang hay cả anh Đương nữa.”
“Không, anh cứ nói. Tôi đã nói tôi tin tưởng anh mà.”
“Vậy tôi xin nói ý kiến của tôi vầy: phòng giam của tôi
ba phần tư là thành phần có ăn học, có đời sống xã hội ổn định, chỉ bất
đồng quan điểm với nhà nước… ý tôi muốn nói là làm những việc trái với
đường lối chính sách nhà nước, nên phải vào tù thôi; vậy mà phải chịu sự
kiểm soát và răn dạy của hai người ăn cướp như Cang và Đương, thử hỏi
không khí trong phòng làm sao khỏi căng thẳng!”
“Phải rồi, anh nói đúng, ủa, mà nãy giờ anh nói vậy là có ý gì đây?”
“Là ý như vậy đó, Cang và Đương không đủ tài đức để làm
gương cho tập thể, bảo sao có sự ổn định cho phòng giam. Tình trạng này
kéo dài, sẽ còn nhiều người khác bị kỷ luật nữa chứ không phải chỉ anh
Quái. Mà không chừng ngày nào đó có thể nguy hiểm cho anh Cang anh Đương
nữa đó!”
Khoa nhìn tôi với đôi mắt nửa nghi ngại nửa tin tưởng.
Một lúc sau, anh mới gật đầu, ra dấu bảo tôi tiếp tục đi về hướng phòng
giam.
CHƯƠNG NĂM
Ngoài đường, tiếng xe cộ qua lại đã dứt từ lâu. Khuya
lắm rồi. Thỉnh thoảng mới vẳng lại tiếng một chiếc xe hàng chầm chậm
chạy ngang. Tôi mang bình trà đã cạn nước đến thùng rác, lấy xác trà ra.
Nàng đứng dậy theo, giành làm việc ấy. Rồi nàng bỏ trà mới vào bình,
nấu thêm nước sôi. Chúng tôi trở lại bàn, ngồi im một lúc. Nàng vén tóc
bằng hai tay, túm gọn thành một lọn ra phía sau gáy rồi dùng kẹp tóc,
kẹp lại. Tôi ngắm nàng trình diễn điệu bộ muôn thuở của phái đẹp ấy, thử
mường tượng khuôn mặt này không có tóc trên đầu thì sẽ ra sao. Hay chít
một chiếc khăn trên đầu như ni cô thì thế nào… Ôi, người đẹp thì làm
sao cũng đẹp. Có tiếng chó sủa đâu đó làm tôi giật mình, quay nhìn về
hướng đường cái, nghe ngóng.
“Không sao đâu anh. Con chó bên nhà đó nó như vậy đó,
thấy gì cũng sủa, rác bị gió thổi nó cũng sủa nữa! Ở đây an ninh lắm.
Mấy người công an khu vực này em quen hết.”
Sợ câu ấy có thể làm tôi hiểu lầm, nàng giải thích thêm:
“Từ khi mẹ em và hai đứa em đi vượt biên, em một mình lo
đi thăm nuôi ba ở trại cải tạo, em quen luôn mấy người công an khóm,
phường, cho đến thành phố. Cứ mỗi lần đi chứng đơn xin thăm nuôi, em đều
mua quà cáp gì biếu họ, từ đó họ quen và dễ dãi với em luôn. Có khi
bốn, năm sư cô từ xa đến đây nghỉ đêm, em chỉ cần thông báo cho công an
khu vực một tiếng, cho một gói thuốc thơm, vậy là anh ta cho nghỉ lại cả
tuần hay nửa tháng, khỏi cần lên tới phường hay thành phố. Lâu lâu có
đợt khám xét hộ khẩu, công an khu vực cũng đến báo trước cho em hay để
em khỏi chấp chứa khách trong nhà. Mà khách của em là ai đâu, toàn mấy
sư cô không à, họ đều biết vậy. Chỉ có hôm nay là đặc biệt tiếp anh,
người khách phái nam đầu tiên… Thôi, anh kể tiếp đi. Rồi cán bộ quản
giáo có làm theo đề nghị của anh không?”
Ó
Cho tôi vào phòng giam xong, quản giáo quay đi, đâu
chừng một giờ đồng hồ sau thì trở lại, gọi anh trưởng phòng ra ngoài.
Không khí trong phòng có vẻ căng thẳng. Nhóm Nghĩa Quân Phục Quốc xầm xì
bàn tán. Sang trờ tới hỏi nhỏ tôi:
“Quản giáo gọi thầy Khang chắc có nói chuyện về thằng trưởng phòng với Quái hả?”
“Có. Ông ấy hỏi ý kiến tôi, tôi đã góp ý, hy vọng ông ấy nghe.”
“Thầy Khang góp ý sao?”
“Đại khái là sẽ còn lộn xộn hoài nếu cứ để một tên cướp hình sự làm trưởng phòng…”
“Chết, thầy nói vậy là nguy rồi.”
“Sao vậy? Tôi nói có sai đâu.”
“Thằng Cang với thằng Đương dù có tội ăn cướp nhưng tụi
nó gốc là bộ đội ngoài Bắc, chẳng chừng lại là đảng viên nữa; thầy đụng
tới tụi nó lỡ quản giáo bênh vực tụi nó thì phiền cho thầy lắm. Không
những phiền cho thầy mà còn phiền cho đám tụi này nữa. Ổng đì bọn tù
chính trị đến chết chứ chẳng giỡn đâu! Đó, ông ấy kêu thằng Cang ra
ngoài rồi, biết đâu lại chẳng nói chuyện thầy góp ý… rồi thằng trưởng
phòng trở lại đây, kiếm chuyện với thầy đó. Dĩ nhiên là tụi này không để
cho nó đụng tới sợi lông chân của thầy đâu, tụi này bị kỉ luật hoài chứ
đâu phải chưa, có bị thêm cũng chẳng ăn nhằm gì, nhưng… chỉ sợ quản
giáo mượn tay thằng trưởng phòng để quậy cho rối cái phòng này, hoặc
mượn tay nó để chơi ông thầy đó. Thầy nghĩ coi, cái cỡ đầu trộm đuôi
cướp như nó mà đem chọi với thầy, chỉ có thầy lỗ thôi chứ chúng nó có
mất mát gì đâu.”
“Cũng có thể, nhưng tôi thấy hình như không phải vậy. Ông ấy yêu cầu tôi góp ý tự do mà.”
“Xì, mấy ổng lúc nào lại chẳng nói như vậy, nhưng nếu mình góp ý thẳng thừng thì lại có chuyện. Phiền lắm!”
“Vậy à!”
Tôi bật lên hai tiếng ấy rồi, mới tự trách, sao mình cứ
nhẹ dạ dễ tin người như vậy! Thấy người ta thành thật yêu cầu thì nghĩ
là nên thành thật đáp ứng. Té ra sống trong xã hội này, nói láo và che
đậy mới là khôn, mới là biết sống. Dối trá là cách tiếp xử vừa lợi mình,
vừa lợi người chứ không phải sự thành thật. Dối trá cũng là cách tự vệ
hay nhất. Sự dối trá và phóng đại thực tế đem lại cho con người ảo giác
về sự vĩ đại của bản thân và xã hội. Sự dối trá khiến người ta mạnh dạn
dẹp bỏ đi những mặc cảm thấp kém, bất tài. Chỉ có sự thành thật mới là
điều xa xỉ, vô bổ. Thành thật là tự nện đầu vào cái búa tạ. Ôi, nhưng
biết làm sao đây, cái đầu tôi cứng quá, nên bao nhiêu cái búa ấy vào đầu
mà tính nhẹ dạ, tin người cứ trơ ra đó, mở miệng ra là cứ đòi nói sự
thật! Ừ, mà có sao đâu! Làm gì tôi phải sợ chứ. Tôi góp ý là thật sự
muốn cứu Quái ra khỏi biệt giam mà cũng là nhắc nhở cho anh công an kia
biết cái hiện trạng của phòng giam này; điều đó nên làm, cần gì phải hối
hận. Cả cái guồng máy u mê của nhà nước, của cái đảng hai triệu thành
viên với bao cuồng vọng quyền lực và kiêu hãnh thắng lợi mà tôi còn muốn
đưa đầu mình ra để chọi thì cái trại giam này, quản giáo này, kỷ luật
biệt giam này, cho đến anh tướng cướp làm trưởng phòng này… có đáng sá
gì chứ! Tôi sẵn sàng. Tôi luôn sẵn sàng. Chẳng phải tôi ăn thịt gì người
ta, nhưng tôi biết chấp nhận, biết chịu đựng, biết đứng thẳng trên đôi
chân mình, và nếu có quỵ ngã thì hãy còn đôi tay để chống đỡ; bằng đôi
tay và đôi chân trần của chính mình, tôi sẽ đứng dậy giữa sự chụp phủ
của bao nghiệp chướng trần gian…
“Kìa, quản giáo với thằng Cang trở lại,” Sang nói tôi biết rồi lảng đi chỗ khác.
Một anh tù ngồi chơi ở lồng khung, vỗ tay hai tiếng để
báo hiệu cho cả phòng yên lặng ngồi xuống “đón” quản giáo đến phòng.
Ngoài xã hội, để tỏ sự kính trọng trước uy đức hay quyền lực, dù tự
nguyện hay bị bó buộc, người ta đứng dậy để đón chào; trong tù cộng sản
thì ngược lại: cán bộ bước tới phòng giam thì tù nhân đang qua lại, đang
đứng tắm, hay đang làm bất cứ việc gì cũng phải ngưng lại, im lặng, và
nhất là phải ngồi thấp xuống, không được đứng thằng lưng hoặc lom khom.
Có hai lý do giải thích điều lệ ấy: thứ nhất, đứng thẳng hay đứng khom
đều là tư thế dễ dàng tấn công cán bộ; thứ hai, đứng thẳng hay đứng khom
cũng là tư thế dễ dàng chạy ra ngoài khi cán bộ mở cửa phòng giam.
Cho Cang vào phòng giam rồi, Khoa đứng ở lồng khung nói:
“Từ nay anh Cang được ra ở với đội lao động, không còn
sinh hoạt ở phòng này nữa. Anh Đương tiếp tục làm phó phòng, còn ai làm
trưởng phòng thì để tôi xét lại.”
Cang lấy đồ đạc cá nhân đi theo Khoa ra ngoài. Một chập,
Khoa trở lại, có cả Quái xách giỏ đồ đi theo. Quái được trả về phòng.
Tôi mừng quá, biết rằng đề nghị của tôi có phần nào tác dụng.
Mở cửa cho Quái vào phòng giam, Khoa không nói lời giải
thích nào. Anh chỉ kêu từng người ra “làm việc.” Những người bị gọi ra
đều là tù chính trị và là loại có án tù khá lâu, hoặc là tù kỳ cựu của
phòng giam; trong số đó, chỉ có tôi là tù mới mà thôi. Khoa không gọi
những người tù vượt biên vì số vượt biên chỉ ở trong phòng một thời gian
ngắn là đã chuyển trại hoặc được tha về, không phải là loại ở tù lâu.
Có lẽ việc gọi tôi ra ngoài không giống với những người
tù chính trị khác, vì thời gian quản giáo gọi tôi ra ngoài chỉ đâu
chừng năm phút, hỏi thật vắn tắt rồi cho trở về phòng giam. Những người
khác thì từ mười lăm đến ba mươi phút. Không khí phòng giam trong ngày
ấy thật ngột ngạt, vì chẳng ai hiểu chuyện gì đang xảy ra. Giống như
đang có một cuộc cách mạng vừa bùng nổ, hoặc một cuộc chỉnh lý nội bộ
nào đó trong guồng máy lãnh đạo quốc gia!
Tôi là người thứ ba bị Khoa kêu ra ngoài. Vừa ngồi vào
băng ghế–cũng cái băng ghế gỗ ngoài vườn, dưới cây trứng cá–Khoa đã hỏi
ngay:
“Theo nhận xét của anh, ai là người xứng đáng làm trưởng phòng nhất?”
“Tôi mới vào tù một thời gian ngắn, không nắm vững được chuyện này đâu, cán bộ ạ.”
“Nhưng hồi sáng anh đề nghị chọn người có uy tín tức là
trong đầu anh đã có nghĩ đến một người nào đó trong phòng rồi, phải
không?”
“Không, trong đầu tôi không nghĩ trước một người nào
cả. Tôi chỉ cảm thấy rằng bầu một người có uy tín làm trưởng phòng là
điều cần thiết. Còn nếu tôi có tin tưởng một người nào đó trong phòng
thì đó cũng chỉ là ý kiến cá nhân của tôi thôi, đâu bằng ý kiến của tập
thể.”
“Ý anh muốn nói là… để cho các anh trong phòng bầu lên một trưởng phòng à?”
“Đúng rồi, một xã hội dân chủ thì phải được xây dựng theo cách đó.”
“Nhưng các anh là tù nhân, làm gì có quyền tự do bầu cử hay ứng cử. Các anh đã mất quyền công dân rồi.”
“Tù nhân chỉ mất quyền công dân đối với xã hội bên
ngoài, còn trong phòng giam thì cũng có quyền sống, có quyền tự do nào
đó để xây dựng đời sống của tập thể phòng giam, làm sao thiếu được. Đã
gọi là tập thể thì phải có lãnh đạo và quần chúng; có lãnh đạo và quần
chúng thì nguyên tắc dân chủ cần được áp dụng. Như vậy mới có sự ổn định
và tiến bộ được.”
“Cái chuyện dân chủ thì tôi biết quá rồi. Nước ta cũng
là nước dân chủ mà. Nhân dân được làm chủ đời sống tập thể. Nhưng để
khỏi lầm đường lạc lối, tốt hơn hết là làm chủ đời sống tập thể theo sự
lãnh đạo của đảng và nhà nước.”
“Nói vậy thì cứ theo nguyên tắc nhân dân làm chủ, nhà
nước quản lý, đảng lãnh đạo, cắt cử người nào theo ý cán bộ là được rồi,
đâu cần phải hỏi ý tôi là người nào xứng đáng.”
“Dĩ nhiên là khi quản lý các anh, chúng tôi biết hết quá
trình hoạt động của các anh, bao gồm cả khả năng và cá tính của từng
anh nữa. Cho nên, trong đầu tôi đã có dự trù sẵn một vài người; bây giờ
tôi chỉ muốn hỏi ý anh để xem nhận xét của anh về một người tài đức xứng
đáng có giống như nhận xét của tôi không.”
Tôi chẳng hiểu sự thăm dò này của quản giáo có phải là
một âm mưu gì không. Lời nhắc nhở của Sang khi nãy, dù chẳng thay đổi gì
cái tính cương ngạo muốn nói thẳng sự thật của tôi, cũng khiến tôi thận
trọng hơn một chút. Bất cứ sự thật nào được nói ra trong chế độ này
cũng đều có thể phạm vào một thứ tội trạng nào đó. Nhưng tôi là kẻ đã
phạm “trọng tội” đối với nhà nước thì hà tất phải sợ phạm tội nữa! Nghĩ
vậy, tôi liền nói:
“Tôi đã nói trước khi nãy, tôi mới vào phòng giam hơn
một tháng, không dám có ý kiến về chuyện ấy. Còn như được phép góp ý,
tôi chỉ xin nói rằng, nếu việc chọn trưởng phòng hoàn toàn do quyết định
của cán bộ, tù nhân trong phòng giam không có quyền lựa chọn và bầu cử,
thì ít nhất cán bộ cũng cố gắng làm sao chọn được người nào không những
có khả năng làm ổn định trật tự của phòng giam mà còn có những sáng
kiến hay để giúp phòng giam được tiến bộ, phát triển mọi mặt.”
Khoa cười khô một tiếng, nói:
“Anh làm như phòng giam là một xã hội hay đất nước bên ngoài vậy!”
“Y hệt xã hội bên ngoài thôi cán bộ ạ. Phòng giam cũng là một xã hội thu nhỏ lại thôi mà.”
“Anh nghĩ anh Nhiều làm trưởng phòng được không?”
“Tôi không dám có ý kiến. Anh đã nắm vững hết mọi cá
tính, mọi quá trình hoạt động của tất cả tù nhân trong phòng giam thì
hẳn biết chọn người nào thích hợp rồi.”
“Thôi được, tôi đưa anh về,” Khoa đứng dậy.
Trên đường về phòng giam tôi biết tôi còn nhiều điều
chưa nói ra được với cán bộ. Thực ra, cần gì phải chọn lựa trưởng phòng
kỹ lưỡng như vậy hỡi anh cán bộ nhà nước! Trưởng phòng có quyền hạn gì
đâu! Chẳng qua chỉ là một anh đại diện tù nhân để đi báo cáo sinh hoạt
trong phòng cho cán bộ nghe mà thôi. Trưởng phòng có tài đức hay không
thì có quan hệ gì đến cái án tù của tù nhân đâu chứ! Đã là một tù nhân
cúi đầu làm theo lệnh cán bộ thì dù có ba đầu sáu tay, anh trưởng phòng
cũng chẳng làm sao cải thiện đời sống phòng giam, đưa phòng giam đến một
mức sống cao hơn, tiến bộ hơn được. Phòng giam vẫn cứ là phòng giam.
Nếp sống tù hãm vẫn cứ là nếp sống tù hãm. Tù nhân làm chủ đời sống tập
thể trong phòng giam, trưởng phòng và các ăng-ten có trách nhiệm quản
lý, và cán bộ quản giáo thì lãnh đạo. Ôi, từ trong tù ra tới xã hội, từ
ấp xã cho đến trung ương nhà nước, cứ theo cái nguyên tắc dân chủ theo
chính sách và tinh thần làm chủ tập thể theo mệnh lệnh như vậy thì đất
nước này đời nào mới cải thiện được. Từ trong ra ngoài, từ dưới lên
trên, cũng chỉ là một nhà tù thôi.
Ó
Anh Nhiều được chọn làm trưởng phòng. Phó phòng vẫn là
Đương, nhưng đâu chừng vài ngày sau, Đương xin quản giáo cho đổi qua
phòng khác. Quản giáo chấp nhận ngay, và chọn Sang làm phó phòng. Đương
xin đổi qua phòng khác vì sợ uy thế đang lên của thành phần chính trị
trong phòng. Thực ra, uy thế đó có chăng cũng là để xoa dịu tâm lý thành
phần đa số để tạo sự ổn định trong sinh hoạt tập thể, chứ mọi thứ
nguyên tắc nội qui, nề nếp kỷ luật, mức án tù, thể lệ thăm nuôi, tiêu
chuẩn cơm và nước mắm, cũng chẳng có gì đổi thay hay tiến bộ hơn, Chọn
Nhiều làm trưởng phòng, có lẽ Khoa cũng đã cân nhắc kỹ lưỡng rồi–vì tuy
Nhiều có tội chạy theo Nghĩa quân Phục quốc chống lại nhà nước nhưng gia
đình anh đã từng có công với cách mạng, còn bản thân anh thì làm việc
trong ban Chỉ huy Quân sự Huyện đội Tân Phú; ít ra cái gốc gác của anh
cũng cho phép quản giáo tin tưởng anh hơn là những thành phần dính dáng
hoàn toàn với chế độ cũ.
Dù sao, không khí trong phòng quả là có sự vui vẻ, hòa
hợp thấy rõ kể từ khi thay đổi hai người trưởng và phó phòng. Tù nhân
tha hồ tụ tập nói chuyện, lớn tiếng hay xầm xì cũng chẳng lo bị ai báo
cáo. Cũng không thấy ai vi phạm kỷ luật đến nỗi bị biệt giam. Vui chơi
ca hát mỗi ngày, mỗi đêm với cờ tướng, domino, nhạc vàng, nhạc xanh…
thậm chí còn nhảy đầm, hát nhạc phản chiến, nhạc chống cộng ở hải ngoại…
Tù nhân mà có được không khí ấy thì tưởng cũng đỡ tủi lắm rồi, chẳng
còn muốn đòi hỏi gì hơn. Họ biết trưởng phòng chẳng có quyền hạn gì,
nhưng ít ra, cũng là người có lý tưởng, biết điều, biết tôn trọng đồng
bạn trong cảnh sa cơ.
Nhiều thật xuất sắc trong vai trò trưởng phòng. Anh lầm
lì ít nói, vừa đủ nghiêm trang để tạo nét uy và làm gương cho bạn tù,
nhưng cũng không thiếu cái vẻ bình dị mộc mạc của người dân quê Nam bộ
quấn khăn rằn, vui vẻ hòa hợp với mọi người. Khuôn mặt anh dài. Hai mắt
và hàm răng trắng sáng nổi bật trên nước da đen kịn. Anh có nét dễ cảm,
có lẽ một phần cũng bởi cái tính trung thực và biết tôn trọng nếp sống
tập thể.
Sang, anh phó phòng mới, cũng thủ đúng vai người phụ tá
trưởng phòng về chuyện trật tự. Sang cao ráo, có bộ lông mày rậm và đôi
mắt xếch lên như Quái nhưng hàm râu hùm bao quanh đôi môi tím ngắt còn
tạo thêm cho anh vẻ uy dũng của một võ tướng. Nhìn anh, tôi mường tượng
đến hình ảnh một chiến sĩ Mông cổ trường chinh trên lưng ngựa của một
thời xa xưa nào.
Như vậy, chỉ trong vòng chưa đầy một tháng thay đổi
trưởng và phó phòng, sinh hoạt trong phòng giam nhanh chóng trở thành
một thứ sinh hoạt xã hội có vẻ như “dân chủ pháp trị.” Tù nhân tương đối
được tự do vui chơi và sinh hoạt trong phạm vi phòng giam, dễ thở hơn
là ở cái không khí ngột ngạt nghi kỵ hãi sợ sự báo cáo và bắt buộc phải
câm lặng của thời gian trước. Tiếng nói tiếng cười và các trò chơi coi
mòi rộn rã tưng bừng. Tôi cũng vui lây, đôi lúc quên luôn cái thực tế
rằng dù thế nào đi nữa, đời sống tù vẫn cứ là đời sống tù, không có cái
vui hay cái sinh hoạt nào đáng gọi là của tự do nếu chúng cứ bị giới hạn
bởi bao nhiêu vòng đai kềm tỏa của kẽm gai, tường vách, kỷ luật, nội
quy, khuôn thước nói năng cũng như lề lối suy tưởng… Và dù thế nào đi
nữa, tôi và bạn tù, cứ là những tù nhân đang chờ thẩm cung và xét án.
Trại giam B5 của Biên Hòa chỉ là một trại tạm giam
nhưng khá nhiều người bị “tạm giam” ở đó trên bốn năm–chẳng hạn như
Nhiều và Danh, bị giam từ năm 1981; Hiệp bị giam từ năm 1982; ông Vương
bị giam từ năm 1983… Chưa ai được đưa ra tòa xét xử. Chẳng làm sao mà
đoán được lúc nào mình sẽ ra tòa, mà vì chưa ra tòa nên cũng chẳng làm
sao đoán được là đến ngày nào mới được tự do. Tù nhân nào cũng muốn được
ra tòa để hiểu được cái thân phận tù đày của mình, dù là mười năm, hai
mươi năm hay là chung thân khổ sai tại các trại lao động cải tạo, còn
hơn là cứ đứng đứng ngồi ngồi mãi trong một cái phòng nhỏ bé, nhìn ra
ngoài chỉ thấy cái sân ngập nắng hay tràn nước mưa, mà chẳng biết thời
hạn nào, bao nhiêu cuốn lịch nữa mới được tự do hoặc được nhìn ngắm cỏ
cây hoa lá và đất trời bao la ở hiện trường lao động. Cho nên, hễ có
người nào được nhận “Bản Cáo Trạng” của viện Kiểm sát Nhân dân gởi vào
đề đích danh tên mình thì lại sung sướng tở mở, làm như thể được nhận
lệnh tha vậy! Thực ra, bản cáo trạng là cái tờ buộc tội của tòa án thôi
chứ có gì mà phải mừng!
Sau khi khai cung với cán bộ thụ lý hồ sơ của trại tạm
giam, hồ sơ khai cung của bị can được chuyển qua cho viện Kiểm sát thẩm
cung cứu xét, viện Kiểm sát xét rồi, buộc tội, viết thành văn bản, gởi
vào cho bị can xem trước để chuẩn bị hầu tòa. Bản cáo trạng tóm lược
những nét chính trong lý lịch cá nhân bị can, cùng các chi tiết về
nguyên do và hành vi phạm tội. Những người còn bị giam tại trại giam B5
đều được gọi là bị can theo thủ tục hành chánh (chứ trên thực tế thì tù
nhân ở trại kiểu nào cũng tự biết mình là tù nhân), đến khi ra tòa nhận
bản án rồi mới thực sự trở thành phạm nhân; và đã thành phạm nhân rồi
thì trước sau gì cũng được chuyển ra các trại lao động khổ sai, nơi đó
sẽ được gọi bằng một từ ngữ lịch sự văn minh khác là cải tạo viên! Chế
độ xã hội chủ nghĩa “không có tù nhân và trại tù” một phần cũng từ chỗ
đó–chỉ có bị can với trại tạm giam, phạm nhân trước tòa án và cải tạo
viên trong trại cải tạo! Bị can nào nhận bản cáo trạng buộc tội và thông
báo ngày ra tòa thì trăm phần trăm biết rằng sẽ bị kết án tù, chỉ có
nặng hoặc nhẹ chứ không có vô tội trắng án. Cái “Tòa án Nhân dân” thực
ra chỉ là cái tòa nhà do tiền của nhân dân đổ ra để xây dựng và nuôi cán
bộ nhà nước chứ nó hoàn toàn không quan hệ gì đến quyền lợi của nhân
dân cả; nó có mặt để phục vụ cho đảng và nhà nước–tội phạm nào có mặt ở
tòa thì chẳng qua vì tội phạm đó cố ý đụng tới quyền lợi hay ảnh hưởng
cúa nhà nước hoặc vô tình muốn đóng tiền phạt để có thể xây đắp vững
chãi thêm cho sự giàu mạnh của nhà nước. Thế nên, phải hiểu rằng, những
ngài chánh án hay luật sư làm việc nơi ấy, không làm gì có thì giờ rảnh
để nghễu nghện trên bục cao mà xét những vụ vô tội hoặc trắng án! Đã
nhận bản cáo trạng tất biết ngày giờ ra tòa, mà đã ra tòa thì tất biết
là có phạm tội. Vô tội thì đã có các cán bộ thụ lý lý hồ sơ ở trại giam
hoặc các ngài ở viện Kiểm sát cấp địa phương xét hồ sơ và thả ra trước
rồi. Nhưng chuyện thả ra này cũng tùy hứng và cũng tùy nơi phần số may
mắn hay rủi ro của bị can mà thôi. Ai không phạm tội thì bỗng dưng có
một ngày đẹp trời, cán bộ trại giam và viện Kiểm sát rảnh rang và có
hứng cảm làm việc, sẽ lục lại hồ sơ cũ thấy còn một xấp vô tội, bèn cho
cán bộ mang giấy vào phòng giam, gọi tên trả tự do.
Riêng “bị can” tôi thì chưa xong phần khai cung. Bẵng
đi hơn một tháng không thấy cán bộ nào gọi ra ngoài hỏi cung (kể từ đợt
làm việc với ông Văn phó trại), tôi đã tưởng chuyện khai cung vậy là
xong; nào ngờ, đến đầu tháng 8, tôi bị gọi ra ngoài, khai cung liên tục
trong suốt nửa tháng với hai anh cán bộ trẻ, cao hơn tôi chừng một vài
tuổi, chẳng biết rõ xuất xứ hay chức vụ. Họ không tự giới thiệu trước họ
là ai như những cán bộ trước đây từng làm việc với tôi. Đợt khai cung
này khá lạ lùng ở chỗ có tới hai cán bộ cùng lúc ngồi đối mặt với tôi,
hết người này tra hỏi lại đến người kia chất vấn. Họ bắt tôi khai lại từ
đầu đến duôi những việc mà tôi đã khai cả chục lần với Long và Sơn ở
T20 Sài Gòn và ông Văn ở trại này.
Những ngày ấy, bầu trời vần vũ những đám mây xám xịt
buồn bã, và cứ một ngày hơi tạnh thì có một ngày khác mưa tầm tã đổ
xuống. Có khi anh cán bộ bảo vệ đang dẫn tôi đi nửa đường thì gặp cơn
mưa đột ngột trút xuống, cả anh và tôi đều chịu ướt sũng. Có lần ngồi
trước cán bộ hỏi cung, tôi run lên cầm cập vì mưa lạnh ướt sũng cả áo
quần, thấm vào thịt da, chẳng làm sao nói năng cho rõ ràng mạch lạc. Một
anh cán bộ khó chịu, nạt nộ ầm ĩ. Bực quá, tôi nghiêm giọng chỉnh lại:
“Tôi lạnh thì tôi run, làm sao mà trách tôi được. Các
anh là cái gì chứ? Chẳng phải các anh ăn lương nhân dân để phục vụ nhân
dân như tôi sao? Tôi là nhân dân đây.”
“Nhân dân? Anh vào đây rồi thì còn công dân với nhân dân gì nữa đấy nhỉ?”
“Tội trạng tôi chưa rõ rệt, đang còn điều tra, tôi cũng
chưa ra tòa, chưa bị kết án, làm sao nói được là tôi đã mất quyền công
dân? Các anh có cái lệnh hay án tòa nào xác định tội trạng của tôi chưa?
Mà cho dù tôi có mất quyền công dân trên hiến pháp, tôi vẫn cứ là nhân
dân, là con người của đất nước này chứ, phải không? Nếu tôi đã không
phải là công dân, cũng chẳng phải nhân dân, vậy thì tôi đâu còn lệ thuộc
gì với đất nước xã hội này, các anh lấy quyền hạn gì để xử tôi hả?”
Một anh cán bộ nghe tôi nói vậy thì ngồi im trố mắt ra mà nghe, anh khác thì run cầm cập như bị mắc mưa đứng dậy quát:
“Anh này… anh thật quá đáng đó nghe, anh không có quyền lý sự với chúng tôi đâu. Tôi cùm anh kỷ luật!”
Nói rồi anh đi vội ra ngoài, để tôi và anh cán bộ kia
ngồi lại. Có lẽ anh đi qua văn phòng trưởng trại hay văn phòng của một
cán bộ có thẩm quyền nào đó. Tôi nghe tiếng anh văng vẳng vọng lại, chữ
được chữ mất. Anh cán bộ trẻ còn ngồi lại với tôi, nhún vai, nói:
“Tánh anh ấy hơi nóng, anh hút thuốc không?”
“Không,” tôi đáp rồi ngồi im, cố gắng định tâm để chống cơn lạnh.
Ở đâu đó trên dãy hành lang, tiếng la lối của anh cán bộ
nóng tính còn gắng gượng bật lên vài tiếng rồi dịu xuống dần. Có tiếng
bàn tán nho nhỏ giống như lời khuyên can. Rồi có tiếng guốc gỗ ngoài
hành lang hướng về chỗ tôi ngồi. Phương xuất hiện.
“A, lại anh Khang nữa. Tưởng ai? Chuyện gì vậy anh
Khang, ô, áo quần anh ướt hết rồi kìa! Như vậy bệnh chết. Để tôi lấy
nước trà nóng, anh đi hả, ờ, vậy anh đi lấy giùm nhé.”
Anh cán bộ ngồi đối diện tôi, ngậm điếu thuốc đứng dậy,
bước ra ngoài để đi lấy trà. Phương ngồi xuống một cái ghế trống, nói
nhỏ với tôi:
“Anh Khang đừng giận nha, mấy anh này chưa có kinh nghiệm làm việc với tù chính trị…” cô thấp giọng hơn, “đang thực tập mà.”
“Cái gì? Đang thực tập à?” tôi cười nhạt một tiếng, nói
tiếp với cô nữ cán bộ vốn cố ý dễ dãi với tôi từ những ngày đầu, “bộ
mấy người hết chuyện làm, hết người để thực tập hay sao lại đem tôi ra
mà thực tập?”
“Ấy chết, anh Khang đừng nói như vậy mấy ảnh nghe được
thì phiền lắm. Không phải thực tập đâu, cũng là điều tra thực đấy chứ,
có điều… ý tôi nói là mấy anh này ít kinh nghiệm thôi. Cái vụ của anh
Khang phức tạp lắm… sẽ còn nhiều bộ phận khác cao cấp hơn, đến điều tra
nữa chứ không phải chỉ mấy anh khi nãy. Anh Khang còn chưa gặp cán bộ
bên viện Kiểm sát của tỉnh mà, phải không? Hờ, vậy thì còn lâu lắm. Cho
nên anh Khang khai thật một lần cho xong, khỏi dây dưa kéo dài, nhức đầu
nhức óc lắm. À, còn chuyện khi nãy anh Tám nói sẽ cùm kỷ luật anh
Khang, đó là nóng giận mà nói vậy thôi. Người hiền lành như anh Khang mà
ai lại đem cùm kỷ luật bao giờ, phải không?”
Nói rồi cô nhoẻn miệng cười duyên. Tôi ngó lơ chỗ khác.
Anh cán bộ khi nãy đem vào một tách trà nóng, đặt trước mặt tôi. Phương
đẩy tách trà gần về hướng tôi, nói:
“Anh Khang uống trà cho ấm người đi rồi chốc nữa làm việc với anh Bảo, há.”
Phương đứng dậy, bước ra, nhường chỗ cho Bảo ngồi vào
ghế. Chờ tôi uống gần hết tách trà, Bảo bắt đầu làm việc trở lại. Cũng
xào tới xào lui mấy câu hỏi về lực lượng Phục quốc và chỗ ẩn náu của ông
Lương. Tôi biết là họ thay phiên nhau tra vấn để tìm chỗ sơ hở của tôi
mà phanh phui ra thêm những chi tiết chưa được tôi tiết lộ. Và bởi tôi
khai rất thành thật về những chuyện tôi đã làm, cũng như tôi không hề
biết gì về chỗ ẩn náu của ông Lương, nên chuyện khai tới khai lui của
tôi không mấy khó khăn: tôi không cần phải ghi nhớ đợt trước ra sao để
đợt sau ăn khớp như những bạn tù khác. Tôi không cần phải cố gắng thành
thật hay thành tâm hối cải. Tôi khai trước sau như một, chẳng thêm chẳng
bớt. Có điều là khai mãi một sự thật cũng nhàm và mệt mỏi lắm.
Khi tôi bắt đầu quen thuộc với sinh hoạt phòng giam tập
thể rồi, dù không cố ý, bỗng dưng tôi lại trở thành một thứ nam châm
cuốn hút những anh tù, từ anh giết người đến kẻ ăn cướp, từ anh nghiện
xì-ke đến anh tài xế gây tai nạn lưu thông, từ những thanh niên vượt
biên đến những ông già chống cộng, từ anh Nghĩa quân Phục quốc đến chàng
cựu sĩ quan quân đội Cộng hòa, thậm chí những anh công nhân viên hay
cán bộ nhà nước “thối hóa”… Họ đến với tôi không phải để nghe rao giảng
về giáo lý–bởi vì không bao giờ tôi mở miệng nói chuyện Phật pháp hay
bất kỳ cái kinh nghiệm tu tập nào của tôi; họ cũng không đến với tôi vì
thứ quyền lợi vật chất nào cả –vì cho đến lúc này, tôi vẫn chưa được
phép liên lạc với bên ngoài để có thăm nuôi. Họ chỉ đến với tôi để kể về
chuyện đời của họ, và đặc biệt là kể về nguyên do mà họ phải vào tù. Kể
chuyện riêng của mình cho một người tù khác là điều mà nội qui có cấm,
nếu một ăng-ten nào đi báo cáo cho quản giáo thì cả người kể lẫn người
nghe đều bị kỷ luật, hoặc bị khiển trách. Vậy mà người ta cứ thích kể
cho tôi nghe. Có nhiều người không bao giờ hé miệng với bất cứ ai, nhưng
lại tìm cơ hội để bộc bạch với tôi, làm như thể tôi có một thứ thẩm
quyền nào để thay đổi phần số hay tội trạng của họ vậy. Thực ra, tôi
biết, chẳng qua người ta thích nói chuyện với tôi chỉ vì họ cảm thấy tôi
là người luôn luôn chú tâm lắng nghe, thông cảm được nỗi đau khổ của
họ. Họ thấy yên tâm và thoải mái để bộc bạch nỗi lòng của họ cho tôi như
thể trút được những thùng rác dơ xuống lòng sông, hay cất được gánh
nặng trên vai xuống đất. Có khi tôi cho họ một vài lời khuyên, có khi
tôi không biết nói gì, chỉ im lặng vỗ vai họ. Tôi không có khả năng hoán
chuyển vận mệnh của từng thân phận hay của cả định mệnh khốn cùng của
quê hương, nhưng tôi nguyện là sông, là đất, lặng lẽ đón nhận và gánh
chịu tất cả những oan khiên nghiệp chướng cuộc đời.
Những tù nhân chính trị thì chẳng có gì đáng nói. Họ
vào tù vì lý do rõ rệt là không bằng lòng chính sách cai trị độc tài của
chế độ này, vì muốn mưu cầu một tương lai xán lạn nào đó cho quê hương.
Khi kể lại những hoạt động của họ đưa dẫn đến chuyện vào tù, họ đã kể
với một giọng kiêu hãnh, đầy hào khí. Chỉ có mấy anh tù hình sự, tù vượt
biên, là thường mang bộ mặt sầu não, hay than thân trách phận. Còn mấy
anh cán bộ và công nhân viên nhà nước mà vào tù thì biết ngay là họ phạm
phải một trong những tội sau đây: tham nhũng, hối lộ, thâm lạm tài sản
của nhà nước… nói cụ thể hơn thì là bán bãi vượt biên, nhận tiền đút lót
hoặc tống tiền nhân dân bằng cách làm khó về mặt hành chánh hay khủng
bố bằng bạo lực, làm giấy tờ giả, ăn cắp vật liệu của nhà nước… Cán bộ,
đảng viên nhà nước vào tù không hề mang mặc cảm phạm tội. Họ không ngần
ngại tự khoe mình nắm giữ chức vụ gì, có cơ ngơi nhà cửa vườn tược thế
nào trong xã hội; thậm chí còn hãnh diện kể lại những vụ trúng áp-phe,
những “mánh mung” lừa đảo mà họ có cao kiến nghĩ ra để thu vét tiền của
vào hầu bao không đáy… Chẳng hạn như anh Bính–một công an cấp tỉnh, có
liên hệ với giám đốc công an tỉnh Đồng Nai trong các vụ bán bãi vượt
biên ở Long Hải, Vũng Tàu v.v… vào tù rồi mà vẫn không ngớt tự hào về
những thành tích trấn lột, lường gạt khách vượt biên. Bính còn cho biết
sếp của anh, ông giám đốc công an tỉnh, sở dĩ bị đổ bể và bị bắt chẳng
qua vì ăn chia không đều với anh em mà bị tố giác. Vụ án này hình như
tôi có nghe được lúc còn ở ngoài. Tin đồn (nói là đọc thấy trên báo Nhân
Dân) rằng công an trực thuộc bộ Nội vụ từ Hà Nội vào, vây bắt ông giám
đốc công an tỉnh Đồng Nai ngay tại tư dinh đồ sộ có lính canh gác, tịch
thu cả “tấn” vàng giấu đầy trong vách sau lớp gạch men ngụy trang nơi
cái phòng tắm nguy nga hiện đại kiểu Âu-Mỹ; ông giám đốc này cặp với bà
vợ bé cũ của cựu Tổng thống Thiệu một thời gian, lo cho bà này đi vượt
biên trước (rồi sẽ trốn qua sau để cùng chia sẻ tài lợi thu hoạch được),
không ngờ bà này qua được nước ngoài, gởi thư về cám ơn, gởi khắp cơ
quan công quyền để gián tiếp tố cáo ngược. Vậy là đổ bể. Hàng chục công
an thuộc hạ, trong đó có Bính, cũng bị kết tội đồng lõa. Hầu hết các vụ
vượt biên sử dụng các bãi biển thuộc tỉnh Đồng Nai, đều do ông trùm công
an này đứng mũi chịu sào cho đàn em tổ chức. Vụ này còn kéo theo cả các
ông chủ tịch Ủy ban nhân dân ấp, xã, huyện, tỉnh liên hệ. Bính không
những chỉ kể lại tôi nghe, mà còn kể cho nhiều bạn tù khác trong phòng
giam. Rõ ràng trong giọng kể của anh có cái vẻ tự hào hiếm có của một
người không hề biết liêm sỉ là gì. Dường như anh và các đồng chí của
anh, đều “tự nguyện” cho phép mình tin tưởng rằng hễ làm công an cán bộ
nhà nước, thì phải có quyền “làm tiền” nhân dân và thụ hưởng tối đa
những đặc quyền đặc lợi do tính ưu việt của chủ nghĩa mang đến.
Quả là không ngoa khi nói rằng xã hội Việt Nam ngày
nay–xã hội được xưng tụng bằng những ngoa ngôn buồn cười là “trung tâm
của nhân loại” hay “đỉnh cao trí tuệ loài người”–được phản ánh rõ ràng
qua những tỷ lệ về số lượng, thành phần và tội trạng con người có mặt
trong các nhà tù. Những nhân dân thực sự là nhân dân thì vào tù với cái
tội phi lý là đã có mặt và đóng góp nghĩa vụ công dân trong chế độ cũ
(hàng trăm ngàn sĩ quan và công viên chức chế độ Cộng hòa phải vào các
trại tập trung cải tạo từ năm 1975), không cùng chính kiến với chế độ
mới, tích cực và trực tiếp “chống lại chính quyền nhân dân”; hoặc tiêu
cực và gián tiếp hơn: bất hợp tác với chính thể mới, chấp nhận lìa bỏ
quê hương bằng cách trốn đi bằng thuyền nhỏ vượt đại dương, băng rừng
già biên giới với hai tay không để đối phó bao hiểm nạn. Trong khi đó,
những người ăn lương hưởng lộc nhà nước, có liên hệ ít nhiều với đảng và
nhà nước, thì cứ dựa vào ưu thế thắng trận và cầm quyền, hoặc dựa vào
cái “chính nghĩa” vì nhân dân, vì đường lối chính sách của đảng, vì cứu
cánh xây dựng xã hội chủ nghĩa mà tha hồ giết người, cướp của, hối lộ…
Vậy mà hầu hết các mỹ từ nào có trong bách khoa từ điển, đều đã được
triệt để sử dụng để tô vẽ, sơn phết từng lớp dày trên cái xã hội “vượt
thường,” “siêu việt” ấy!
Sau vụ cải cách ruộng đất ngoài Bắc hậu bán thập niên
1950, đảng Cộng sản thu vét hầu hết tài sản của nhân dân vào tay, không
những vậy, còn gây bao tang tóc chết thảm cho hàng triệu người với những
tội danh cố tình gán ghép vì tư thù, vì ganh tị, vì muốn tăng phần
chính nghĩa cho chính sách bạo ngược phi lý này. Vụ cải cách sai lầm ấy,
mấy chục năm qua, đảng vẫn chưa ngỏ một lời nhận lỗi và xin lỗi. Tháng
tư năm 1975, đảng may mắn có cơ hội chiếm được trọn miền Nam, con mồi
béo bổ mà đảng từng thèm thuồng, nhưng dĩ nhiên là không thể thu vét tài
sản nhân dân miền Nam bằng cách tái áp dụng chính sách cải cách ruộng
đất từng gây căm phẫn của hai mươi năm trước, bèn nảy ra sáng kiến “đánh
tư sản mại bản.” Đồng thời với chiến dịch “bài trừ văn hóa Mỹ-ngụy”
nhằm thiêu hủy toàn bộ sách báo của chế độ cũ, chiến dịch đánh tư sản
mại bản cũng tiến hành, kéo dài suốt mấy năm cuối thập niên 1970, đẩy
thêm hàng triệu người dân miền Nam Việt Nam vào đại dương thực tế cũng
như đại dương thống khổ. Có vẻ như là đảng và nhà nước muốn nhân dân
khắp nước nhanh chóng trở thành một khối vô sản thực sự để dễ bề thực
hiện chính sách cai trị bằng “bánh mì”–nói theo Trung Hoa và Việt Nam
thì phải nói là bằng “nồi cơm,” hoặc thích hợp với thực tế hơn nữa là
“khoai mì.” Có tài sản là có tội. Có buôn bán là có tội. Vậy là nhà cửa,
vườn tược, xe cộ, tiền bạc, máy móc… cho đến vàng và hột xoàn (những
thứ mà nhà nước cho là xa xỉ không ích lợi gì cho đời sống nhân dân!)
cũng bị nhà nước thâu đoạt hết. Công an cán bộ từng tốp vào nhà từng
người dân, bắt khai báo, kiểm kê toàn bộ tài sản. Nghi ngờ dân cất giấu
bớt thì họ đào nền nhà, phá rui mè hay trần nhà để tìm kiếm. Ngoại trừ
một ít tiền vặt để đi chợ, tất cả đều nộp cho nhà nước. Thậm chí gạo,
thức ăn, cũng không được cất chứa nhiều. Cất chứa là đầu cơ, là một hình
thức của xã hội tư bản. Nhân dân vô sản trong chủ nghĩa xã hội không
cần cất chứa tài sản, lương thực. Việc đó đã có nhà nước lo liệu, đảm
trách (vì cán bộ nhà nước đã được huấn luyện tinh thần “chí công vô tư
và đạo đức cách mạng cao” để cất giữ và quản lý tất cả giùm cho nhân dân
và điều động phân phối tài sản chung đó sao cho công bằng theo giá trị
lao động của từng cá nhân!). Vậy là, lịch sử nước nhà lại ghi thêm một
thảm họa kinh hoàng đầy máu và nước mắt cho bao lương dân vô tội. Hàng
triệu người bị lùa đi các vùng kinh tế mới, bỏ lại nhà cửa vườn tược cho
cán bộ nhà nước thụ hưởng, hàng triệu người ồ ạt trốn ra khỏi nước trên
những chiếc thuyền con ọp ẹp, hoặc băng rừng sâu vượt biên giới qua
Cam-bốt và Thái Lan. Những người không trốn đi được, cũng không muốn đi
kinh tế mới (vì biết có đến kinh tế mới cũng đói rét và chết) thì chấp
nhận sống lang thang vỉa hè, hoặc trở thành ăn mày, ăn trộm, ăn
cướp–đảng viên cán bộ nhà nước cướp nhà cướp của nhân dân trắng trợn
giữa ban ngày được thì còn có lý do nào để người dân nhỏ bé từ chối việc
ăn trộm những thứ nhỏ bé của kẻ khác! Có câu truyền miệng với nhau
rằng: “Thà ăn mày, ăn trộm, ăn cướp chứ không ăn năn.” Ăn năn gì? Ăn năn
là đã không chịu tận lực làm ăn mày hay ăn trộm để kiếm gạo về nuôi cha
mẹ già và lũ con thơ. Đã có thể nghĩ và nói lên được câu ấy thì đạo đức
bấy giờ chỉ còn là một thứ bóng ma vô dụng của lịch sử. Cả nước, từ
chính quyền đến nhân dân, đều sống bằng các nghề ăn xin, ăn trộm và ăn
cướp. mà tích cực nhất vẫn là đảng và nhà nước: ăn xin các nước tư bản
mà mình hằng to miệng đánh đuổi và coi như kẻ thù; ăn trộm của nhân dân
bằng các mánh lới tham nhũng hối lộ, áp-phe chia chác; ăn cướp của nhân
dân bằng thuế khóa, đấu tố, chiếm đoạt tài sản, độc tài kinh tế và độc
quyền tư hữu… Dân nào tủi nhục không muốn hạ mình làm ăn xin hay ăn trộm
thì đành chịu chết đói (đã có nhiều gia đình tự sát tập thể, để lại nhà
cửa cho nhà nước, chết rồi còn bị tòa án xử phạt vì tội “ngu”), hoặc
cũng liều đưa chân đi kinh tế mới, đem sức lao động ra thi thố với núi
rừng hoang sơ mà giành lấy miếng ăn. Bao nhiêu chiến dịch, bao nhiêu
chính sách đưa ra, đều nhằm củng cố quyền lực và quyền lợi của giai cấp
đảng viên và cán bộ nhà nước. Càng đưa ra nhiều chừng nào, đảng và nhà
nước càng no đủ, mạnh mẽ hơn lên, và dân càng nghèo đói cùng kiệt thêm.
Thậm chí cả những người từng đi theo cách mạng, hoặc thuộc gia đình liệt
sĩ có đóng góp xương máu cho cách mạng, nhưng yếu thế quá hoặc không
biết chen chân thì cũng lâm vào hoàn cảnh đói khổ có khi còn tệ hại hơn
thường dân.
Lượng là tù nhân trẻ nhất trong phòng giam (đâu chừng
mười tám tuổi). Lượng đã cùng chào phòng chung một lần với tôi bằng ba
câu chuyện tiếu lâm không tức cười vào ngày tôi mới nhập trại B5. Vừa
nhận bản cáo trạng của viện Kiểm sát gởi vào, Lượng đã mang đến nhờ tôi
đọc giùm ngay. Lượng nói rằng em cũng biết đọc chữ chứ chẳng phải không,
nhưng trong bản cáo trạng có nhiều chữ, nhiều câu em không hiểu. Tôi
đọc qua một lượt. Hơi rùng mình. Lượng giết người bằng cuốc chĩa. Cuốc
chĩa là loại cuốc vừa để xới cỏ, vừa để đào khoai củ dưới đất. Cuốc chĩa
không phải loại cào cỏ. Cuốc chĩa có ba hoặc năm răng nhọn, mỗi răng có
bề ngang gần hai phân, bề dày khoảng từ ba đến năm ly, chiều dài từ một
tấc đến gang tay tùy theo loại lớn nhỏ; khoảng cách giữa các răng khá
thưa (đâu chừng ba đến bốn phân) chứ không khít như cây cào cỏ. Lượng
dùng cuốc chĩa năm răng, bổ vào đầu một người đàn ông. Lượng kể lại tôi
nghe đầu đuôi câu chuyện dù rằng trong bản cáo trạng đã ghi lại khá rõ.
Nhưng với giọng kể của Lượng, tôi mới thực sự hiểu được tâm tình và quan
niệm sống của em.
Gia đình Lượng quê ở huyện Long Đất. Ba của Lượng đi
theo cách mạng, bỏ xác trên Trường Sơn. Mẹ của Lượng sống vậy nuôi hai
con, một gái một trai, vừa tiếp tục đóng góp cho cách mạng bằng cách
nuôi chứa cán bộ nằm vùng trong hầm nhà. Năm 1975, vừa hồ hởi vẫy cờ đón
rước đoàn quân giải phóng xong, chỉ một thời gian ngắn sau đó, chẳng
may mẹ của Lượng bệnh chết khi hai chị em hãy còn nhỏ xíu. Chị mười hai
tuổi, em tám tuổi. Nhà nước cấp giấy chứng nhận chị em Lượng thuộc gia
đình liệt sĩ và đặc trách cán bộ ủy ban nhân dân tại địa phương “nghiên
cứu” giúp đỡ. Hai chữ “nghiên cứu” ghi trên các văn bản hành chánh của
chế độ cộng sản là một thứ lệnh khá mơ hồ: nó hoàn toàn ủy quyền cho
người thi hành giải quyết sự việc theo cảm tính và khả năng của người
ấy–và nếu có xảy ra điều gì sai trái lầm lỗi, người ra lệnh chẳng phải
chịu trách nhiệm gì, cứ việc đổ thừa cho người thi hành; trong khi đó,
người thi hành cũng có thể vịn vào hai chữ “nghiên cứu” để bào chữa với
nạn nhân của cái lệnh ấy rằng “chúng tôi chỉ nhận lệnh ở trên, nghiên
cứu giải quyết.” Nghiên cứu là thăm dò, tìm hiểu, điều tra chứ có phải
là hành vi giúp đỡ có tính cách quyết định đâu. Như vậy, hoàn cảnh của
hai chị em Lượng được “nghiên cứu” một thời gian. Hai đứa bé mồ côi được
làng xóm láng giềng bảo bọc một thời gian ngắn với lòng tốt vốn bị giới
hạn theo mức kinh tế tệ lậu của cả nước trước bậc thềm của “tiến trình
nhảy vọt.” Nửa năm sau, sau một vòng từ dưới đề nghị lên trên cứu xét,
từ trên ra lệnh bên dưới nghiên cứu, rồi từ dưới lại đệ đơn lên trên xin
chứng nhận, rồi từ trên đưa lệnh chứng nhận xuống dưới–từ dưới là từ
cấp ấp, từ trên là cấp tỉnh (hay trung ương Hà Nội); có nghĩa là phải đi
bốn chặng đường xuôi ngược: ấp, xã, huyện, tỉnh… tỉnh, huyện, xã,
ấp–hai chị em Lượng mới được nhận giấy chứng nhận là thuộc “gia đình
liệt sĩ.” Nhờ cái giấy chứng nhận ấy, mỗi tháng hai chị em có được mấy
trăm bạc và tiêu chuẩn gạo mắm để sống cầm hơi. Nhưng hẳn nhiên là không
đủ. Trên thực tế, tem phiếu hay tiền thưởng của nhà nước cấp cho cũng
có tính cách tượng trưng như là cái bằng liệt sĩ treo trên vách. Liên,
chị của Lượng, bấy giờ mới được mười ba tuổi, phải đóng vai một người mẹ
trẻ nuôi đứa em trai chín tuổi. Hai chị em bắt chước hàng xóm trồng
khoai, trồng bắp trong mảnh vườn nhỏ do cha mẹ để lại. Những người hàng
xóm tương đối tốt bụng bây giờ không nhìn ngó đến hai chị em Liên-Lượng
nữa, vì cho rằng chúng thuộc gia đình liệt sĩ đã có nhà nước lo đầy đủ
rồi. Vậy rồi, theo luật tự nhiên trời sinh voi sinh cỏ, người ta sống
được thì hai chị em cũng lây lất sống được qua ngày. Cho đến các năm
1978-79, cả nước lâm vào cảnh đói rét, phần gạo khoai cầm hơi do nhà
nước cấp dưỡng cho hai chị em bị giảm xuống, mùa màng lại bị thất thu,
hai chị em bị thiếu ăn, buổi tối phải đi trộm khoai bắp của vườn rẫy của
người khác. Ăn trộm liên tục từ tháng này qua tháng nọ để sống. Ăn trộm
mãi mà chỉ bị nghi ngờ chứ chưa bị phát hiện, hai chị em cứ tiếp tục
vừa tự lo sản xuất ban ngày, vừa đi trộm thêm ban đêm, quen thành thói
tật, không chừa bỏ được. Năm 1981, tức là cách nay bốn năm, vào một đêm
tối mịt, hai chị em chia nhau, chị đào trộm khoai lang ở rẫy này, em nhổ
trộm khoai mì ở rẫy khác. Liên đang lui hui bới đất bẻ khoai (nghĩa là
chỉ đào bên hông vồng khoai, bẻ lấy củ chứ không động đến giây lá trên
mặt đất–làm vậy, chủ nhân miếng vườn sẽ không phát giác được là đã bị
trộm) thì một bóng người to lớn từ đâu nhảy bổ đến, cầm đòn gánh quất
túi bụi vào đầu vào cổ. Liên không chuẩn bị trước nên chẳng làm sao mà
chạy được, chỉ biết nằm lăn trên đất mà chịu đòn, rồi vì đau và sợ chết
quá, Liên mới gắng la to kêu cứu: “Lượng ơi, Lượng… cứu chị!” Lượng từ
một rẫy khoai mì gần đó, vội vàng xách cuốc chĩa nhắm hướng có tiếng la
của chị mà chạy đến. Thấy ông Bảy, một người bộ đội phục viên trong xóm,
đang mạnh tay phang đòn gánh một cách chẳng nương tay xuống thân người
mềm nhũn của chị dưới đất, Lượng không còn kịp suy nghĩ gì nữa, vung
cuốc chĩa, bổ vào đầu ông ấy. Ông loạng choạng chút rồi ngã quỵ xuống
đất, máu phun thành vòi từ sau gáy và khoảng vai cổ. Lượng bỏ mặc ông
ấy, lo dìu chị về nhà. Hàng xóm lúc đó mới túa ra, phát giác ông Bảy nằm
dưới đất, lại phát giác hai chị em Lượng mặt mày xanh lét với cây cuốc
chĩa còn dính máu. Cả ông Bảy và Liên đều được y tá của địa phương lo
cứu chữa băng bó trong khi chờ đợi người ta đi gọi xe cấp cứu của bệnh
viện huyện. Liên thì bị mấy chục vết bầm tím từ vai đến chân. Ông Bảy bị
ba răng nhọn của cuốc chĩa phạm vào sau ót, cổ và vai, hai lưỡi còn lại
cắm vào phần lưng. Bác sĩ nói, may mà Lượng chỉ là một thiếu niên 14
tuổi, ốm tong teo, không đủ sức vung mạnh cây cuốc chĩa khá nặng ở đầu
lưỡi, chứ không thì ông Bảy chết ngay lập tức, không thể cứu được như
bây giờ. Ủy ban nhân dân và công an địa phương đến giải quyết sự vụ bằng
cách giải hòa gia đình nạn nhân của hai bên mà theo họ, đều có công với
cách mạng, đều là người nhà với nhau cả. Ông Bảy im lặng bỏ qua, nhưng
bốn năm sau ông chết vì vết thương ở sọ não. Vợ ông truy tố hai chị em
Lượng ra tòa. Tội ăn trộm được bỏ qua, nhưng tội giết người thì phải
lãnh. Lượng đi tù một mình.
Vụ án của Lượng lại gợi tôi nhớ đến chuyện tôi được
nghe kể lúc còn ở vùng kinh tế mới Bàu Cạn. Các thanh niên xã này kể
rằng vào năm 1978, toàn quốc thiếu lương thực vì mùa màng bị thất thu
(thực ra đó là nói theo lối giải thích đổ thừa và chạy tội của nhà nước
thay vì nói thực là do những sai lầm liên tục của nhà nước trong các kế
hoạch phát triển kinh tế để chuẩn bị cho “bước nhảy vọt” đến thiên đường
cộng sản); dân các tỉnh, từ đô thị đến thôn quê, đều lâm vào cảnh đói,
huống gì dân ở các vùng kinh tế mới–là những nơi lưu đày khốn khổ và đói
nghèo hạng nhì (sau nhà tù) trên đất nước. Dân kinh tế mới là những
người bị bắt buộc phải nghèo đói một cách trắng trợn qua sự hăm dọa,
khủng bố, hoặc khuyến dụ của nhà nước, bỏ lại nhà cửa vườn tược đã ổn
định từ lâu của mình để nhà nước trưng dụng phân phát cho cán bộ đảng
viên, chân ướt chân ráo đến định cư và tranh thủ sống còn trước cái hùng
vĩ ma quái của thiên nhiên nơi những vùng ma thiêng nước độc, sơn lam
chướng khí. Tại đây, họ được cấp một số lượng gạo rất khiêm nhường theo
mỗi đầu người (trẻ em 6 kí lô, người lớn 12 kí lô một tháng) trong vòng
sáu tháng để ra công khai phá rừng già mà lập vườn rẫy sản xuất. Tiêu
chuẩn gạo như thế kể ra đã thật là quá ép, vì trên thực tế, một người
lao động nặng cần phải có ít nhất mỗi ngày một kí gạo, vị chi một tháng
phải có 30 kí mới gọi là đủ; nếu vì tiết kiệm phải độn thêm khoai hay
sắn khô trong nồi cơm thì cũng phải có khoảng 20 kí gạo và 10 kí khoai
khô. Vậy mà nhà nước cứ việc tính thẳng là 12 kí mỗi đầu người, ai thiếu
ráng chịu! “Ráng chịu” với nghĩa đen là phải chịu nhịn đói thực sự, chứ
không biết đào đâu ra số lượng thực phẩm thiếu hụt (ngoại trừ phải đi
ăn trộm, ăn cướp; nhưng cả vùng kinh tế mới đều đói thiếu như nhau thì
ai trộm của ai, ai cướp của ai?). Sau thời hạn sáu tháng tằn tiện khoai
bắp trừ bữa để trồng tỉa hoa màu lúa má, dân kinh tế mới phải hoàn toàn
tự túc, có nghĩa là sống bằng mảnh đất mảnh vườn của họ; trồng được bao
nhiêu, ăn bấy nhiêu, thiếu thì nhịn, còn nếu lao động tích cực đến nỗi
thu hoạch quá dư thì bị bắt đóng thuế hoặc phải bán bớt cho nhà nước với
giá thật rẻ mà nhà nước qui định. Trong hoàn cảnh tách biệt với đô thị
và các vùng dân cư khác, dân kinh tế mới Bàu Cạn không còn con đường nào
khác hơn là phải nỗ lực ngày đêm vào việc sản xuất để tạo được một nền
kinh tế tự túc ổn định, không phải nhờ cậy đến các địa phương khác. Vậy
mà vào năm 1978, khi cả nước lâm vào nạn đói, dân kinh tế mới Bàu Cạn
cũng không khỏi bị lây họa, nhất là một số gia đình mới dọn đến, còn nằm
trong thời hạn sáu tháng được nhà nước cấp gạo tiêu chuẩn. Gạo cấp cho
những gia đình này tự dưng bị cúp ngang, hỏi đến thì cán bộ đổ thừa cho
“ở trên” không đưa gạo xuống thì có đâu mà phát. Hợp tác xã chuyên bán
và đổi gạo lấy khoai bắp của dân kinh tế mới cũng đóng cửa vì không có
gạo ngoài huyện đưa vào, phần khác vì sợ dân đói làm liều nên tránh mặt
luôn. Vậy là đói. Người lớn nhịn ăn nhường cho trẻ em. Nhịn được vài
ngày thì cả nhà nhịn. Rồi cả xóm nhịn. Trẻ em, người già, chết như rạ.
Không thể ngồi im chịu chết, dân Bàu Cạn rủ nhau đi ăn trộm. Ban đầu đi
vài người, sau thành cả tập đoàn đông đảo. Ban đầu đi ăn trộm vào ban
đêm, sau trở thành ăn cướp vào ban ngày. Họ lên đường từ sáng sớm, mỗi
người tay cầm cuốc hay rựa, tay mang bao bị, đi sang các xã lân cận (tức
những xã không thuộc vùng kinh tế mới). Trên đường đi, thấy ruộng lúa
sắp gặt hoặc đang gặt thì xúm lại cắt lúa, gặp rẫy khoai thì tụm lại đào
khoai, bất kể chủ nhân ruộng vườn ấy là ai. Các vị chủ nhân thấy đoàn
người đói rách liều mạng này tự tiện “thu hoạch” hoa mầu của mình cũng
không dám nói năng chửi bới gì. Họ chỉ nói đôi lời nhỏ nhẹ, xin lại một
ít để ăn thì may ra được yên thân và còn giữ lại lương thực cho vài ngày
sau. Một vài vụ ấu đả, xảy ra án mạng chỉ vì chủ nhân các ruộng rẫy cố
sức kháng cự để bảo vệ quyền lợi của mình. Sự kháng cự trong trường hợp
này là vô ích vì đoàn người đói không sợ bất kỳ một trở lực nào, ngay cả
chính quyền địa phương gồm công an, du kích, cán bộ các cấp. Ruộng vườn
của cán bộ nhà nước cũng bị xâm phạm công khai mà không ai dám lên
tiếng, chỉ vờ làm lơ hoặc đóng cửa cài then, trốn trong nhà. Họ kiếm
lương thực bằng cách đó trong vòng mấy tháng, mỗi ngày xách bị cầm cuốc,
kêu réo nhau tập họp thành đoàn mà đi. Càng lúc càng phải đi xa hơn,
nhưng họ không nệ hà gì: họ phải giải quyết cái đói của họ và của bầy
con nheo nhóc ở nhà. Họ nói lúc ấy họ sẵn sàng giết người, nhất là những
cán bộ nhà nước giàu có nếu những cán bộ này cản trở việc ăn cướp hoặc
có ý bắt bớ họ. Họ tin tưởng rằng họ hành động như vậy là đúng, chẳng có
gì sai trái. Quá đói và sẽ đói đến chết. Đó là lý do chính đáng để ăn
cướp, giết người. Xin thì không ai cho. Trộm vặt thì bị bắt và bị đánh
đập, bắt giam. Đành ăn cướp tập thể. Họ làm vậy và kể lại tôi nghe một
cách tự nhiên, không xấu hổ. Tôi từng khuyên họ đừng trộm cắp, nhưng
cũng chỉ biết cười trừ với lý do trộm cướp của họ. Quả là trong trường
hợp này, người ta bảo “chân lý nằm trong bao tử” không phải là quá đáng.
Nghiệm câu chuyện của Lượng và câu chuyện đói của dân
kinh tế mới Bàu Cạn, tôi vừa lạnh mình nghĩ đến sự tàn bạo của con
người, vừa thương cảm cho những nạn nhân của một xã hội đói nghèo cả
thực phẩm lẫn đạo đức lương tri. Một khi giá trị lao động và vật chất
được đề cao như là nền tảng của cuộc sống và tiến bộ xã hội thì hệ quả
tất nhiên là mọi giá trị đạo đức tinh thần bị xếp vào hàng thứ yếu nếu
không nói là không cần thiết. Xã hội từ đó như một người bệnh phung, mất
dần từng phần thân thể trước khi bị hủy hoại hoàn toàn. Tôi đã không
thể trách người dân Bàu Cạn, thì cũng không thể trách ông Bảy, không thể
trách chị em Lượng. Họ đều là nạn nhân của một cơn bệnh, một hệ thống
hay một quan niệm sống của xã hội hiện tại. Tâm tình người dân quê nước
tôi xưa nay đâu có tiếp xử với nhau tàn bạo và thiếu tình cảm như vậy.
Nhưng điều đáng e ngại nhất vẫn là con người trong xã hội ấy, như đã nói
ở trước, không hề mang chút mặc cảm phạm tội nào sau khi đã gây tội ác.
Cách người dân Bàu Cạn, nhất là cách mà Lượng kể chuyện tôi nghe chẳng
khác gì Bính công an: không hề nghĩ rằng mình đã làm một điều gì tội
lỗi, và không hề đếm xỉa gì đến tâm tình và hoàn cảnh của nạn nhân phía
kia. Lượng nói:
“Tại vì ông Bảy là bộ đội phục viên, cũng gia đình cách mạng, chứ không thôi đâu làm gì được em. Em gia đình liệt sĩ mà!”
Rõ ràng là trong sự đói khổ, khốn cùng, Lượng hay Bính
công an đều còn bám vào niềm tự hào mình là “dân cách mạng” để ngước mặt
mà sống. Và dân cách mạng thì có quyền thụ hưởng các ưu tiên về địa vị
và lợi dưỡng của xã hội, có quyền gây tội ác, có quyền nhoi người lên
đạp đầu đám dân hèn đói rét bất lực mà sống còn. “Sống chết mặc bây,” là
quan niệm sống thật đơn giản của cái gọi là “hiện thực xã hội chủ
nghĩa.”
Tôi ngao ngán buồn bã rút về góc phòng, ngồi im một lúc.
Đất nước tôi đang lún dần vào một cái vực lầy tưởng chừng không lối
thoát. Tôi từng chấp nhận hoàn cảnh tù đày để làm một cuộc cách mạng tự
tâm, nhưng tự dưng bây giờ, tôi lại thấy nôn nả bồn chồn, muốn vượt
thoát khỏi trại giam này, xông ra ngoài tiếp tục con đường cứu nguy cho
dân tộc. Không thể bó tay ngồi im như vậy được. Tôi phải được tự do! Tôi
phải ra khỏi nhà tù này!
CHƯƠNG SÁU
Thôi, chuyện tạm ngưng ở đây há. Tôi nói vậy để dọ thử
phản ứng của nàng chứ tự thâm tâm, tôi thấy vẫn còn hứng cảm để kể tiếp.
Không dễ gì có một người chịu khó lắng nghe câu chuyện tù tội nhàm chán
quen thuộc trên xứ sở này như nàng.
Nàng lắc đầu nguầy nguậy một cách trẻ con, như một đứa
trẻ phụng phịu đòi quà, bắt tôi phải tiếp tục. Nàng không muốn rời tôi
để đi ngủ thì tôi cũng muốn ngồi lại đây để kể chuyện.
Chúng tôi đã uống khá nhiều trà, có chia tay để ai về
phòng nấy cũng chẳng làm sao ngủ được. Nhất là tôi. Tôi biết rằng tôi
đang cố gắng chạy trốn một sự thực. Ngồi nói chuyện với nàng, tâm ý tôi
sẽ bận bịu, không còn chỗ trống để sự thực đó hiện bày. Tôi chưa đủ can
đảm để đối diện với sự thực ấy. Tôi sợ nằm một mình trong căn phòng kia.
Tôi sợ bóng đêm bao vây mình gợi dậy hình ảnh mình không dám nghĩ đến.
Tôi sợ cô đơn. Tôi sợ rất nhiều thứ… Tôi muốn ngồi với nàng, dưới ánh
sáng của ngọn đèn nê-ông đêm nay cho đến khi mặt trời mọc. Vậy là tôi
lại tiếp tục kể chuyện.
Ó
Không có bất cứ một dấu hiệu tự do nào cho trường hợp
bị giam của tôi. Đối với nhà nước, tôi là kẻ phạm trọng tội và thuộc
thành phần nguy hiểm nhất của chế độ. Tu sĩ các tôn giáo là những kẻ nắm
được quần chúng bằng đạo đức và uy tín của họ–trong khi người cộng sản
chỉ biết dùng vũ lực để chèn ép, nhưng vẫn không sao thu phục được nhân
tâm. Người cộng sản thù ghét và sợ hãi thành phần tu sĩ là vì thế. Đó là
chỉ nói đến những tu sĩ thuần túy, chưa hề lên tiếng hay có thái độ
phản đối chế độ; chứ còn tu sĩ như tôi, từng lập hội này hội nọ chống
nhà nước, lại cộng tác với lực lượng võ trang Phục quốc, thì nhà nước
còn ghét cay ghét đắng hơn nữa. Cho nên, tôi chỉ là người tù mới bị bắt
giam ba tháng, chưa kết thúc chuyện khai cung, chưa được phép liên lạc
với gia đình bên ngoài, chắc chắn không có hy vọng gì về vấn đề tự do.
Mơ ước tự do của tôi chỉ là phản ảnh hão huyền của một thứ tâm thức tội
nghiệp đang lẩn quẩn trong một xác thân tù hãm.
Loay hoay với ước muốn tự do trong vài ngày, tâm tôi
mới thực sự quay về với đời sống tù trước mắt. Tôi phải tiếp tục đối
diện với những vấn đề thực tế hơn: cơn đói và sự thèm thuồng chất ngọt.
Hai thứ này hành hạ tôi khá nhiều mỗi khi tôi nhìn thấy kẻ khác ăn uống
hoặc bị hâm nóng một thứ gì làm bốc mùi lên. Kể cũng lạ! Tôi đã từng tập
nhịn đói nhiều ngày không ăn lúc còn ở chùa. Vậy mà bây giờ, mỗi ngày
đều có ăn một vài chén cơm với muối hay tương, vẫn cứ thèm thuồng ăn
uống một cách thảm thương! Ôi, cơn đói thiếu triền miên trong tù đã làm
cho nhiều bạn tù trong phòng giam này trở thành những người hèn mọn, mất
tư cách. Mà ngay cả những bạn tù có gia đình thăm nuôi, không đến nỗi
đói thiếu, cũng vô tình bị buộc phải trở thành những người tồi tệ không
kém: tằn tiện, bủn xỉn một cách nhỏ mọn hoặc kiêu kỳ phách lối một cách
bất nhân. Ngồi một chỗ, tôi quan sát kỹ lưỡng cử chỉ và câu nói của từng
người bạn tù đối xử với nhau. Và đôi khi tôi bật cười một mình. Tôi
biết mọi người, dĩ nhiên là kể cả tôi, đang bị một con ma hành hạ. Nó
chẳng phải là con ma đói, ma khát, ma thèm, ma keo kiệt, ma kiêu căng gì
đâu. Tất cả những thứ ma nói trên chỉ là tiểu yêu. Con ma quỷ quyệt và
ranh mãnh nhất, sinh sản bao thứ tiểu yêu kia chính là con ma dục vọng.
Mặc dù có bạn tù giúp đỡ phần nào về “thực phẩm” (đúng
ra chỉ là các thứ gia vị muối trắng hoặc nước tương), sức khỏe của tôi
cũng không khá hơn được. Tôi vẫn cứ ốm tong ốm teo vì thiếu dinh dưỡng.
Đôi lúc tôi thấy xây xẩm chóng mặt, muốn ngất xỉu vào những ngày nóng
bức. Cũng may là thể chất và ý chí của tôi cũng thuộc loại chai lì nên
không chịu ngã quị bởi cái khó khăn thuần vật chất. Tôi tự nhắc nhở mình
mỗi giờ mỗi phút như thế. Đối với đạo nhân, thiếu ăn hay thiếu dinh
dưỡng không phải là “chướng ngại” gì to lớn trong việc hành đạo. Đôi khi
chúng lại còn là những duyên lành giúp đỡ (thuật ngữ Phật giáo gọi là
trợ duyên) đạo nhân cái cảm thức nhạy bén và sâu xa hơn về nỗi khổ và
niềm đau cũng như sự tương quan giữa xác thân và ý chí. Càng đói thiếu
thực phẩm, càng khô gầy về thể xác, tôi càng thấy ý chí mình vươn mạnh
hơn lên.
Nhưng ý chí thực ra là cái gì vậy? Nó vươn lên để làm
gì? Tôi tự hỏi nhiều lần mỗi khi hai mắt mỏi mệt muốn nhắm lại vĩnh viễn
cho yên phận với ngàn thu. Rồi tôi mở bừng mắt ra, tự trả lời: nó là
con ma dục vọng từng chiếm lĩnh nội tâm con người; nó muốn tồn tại bằng
bất cứ giá nào, nên nó kêu gọi và thúc đẩy sự chiếm hữu. Khi nào khuynh
hướng chiếm hữu được đáp ứng thỏa mãn thì điều này đã tự chứng minh sự
tồn tại của dục vọng. Hoặc ngay cả khi chưa có sự chiếm hữu và thỏa mãn,
ngay cả khi nỗi khao khát hãy còn nằm trong dạng thái một thứ động lực
hay tiềm lực, nó vẫn chứng tỏ sự hiện hữu của con ma dục vọng ấy. Người
ta sẽ nói là ý chí muốn sống, hay bản năng sinh tồn… những cái thúc đẩy
con người trồi dậy để tự vệ. Nhưng dù có đặt thêm cho nó hàng trăm cái
tên khác nhau tùy theo khuynh hướng vươn lên và thể cách biểu hiện của
nó, chẳng hạn khát vọng, tham vọng, tham muốn, ái dục, tự ngã, bản ngã,
lòng vị kỷ… thậm chí những đức tính và thái độ có những tên gọi đẹp đẽ
như khiêm cung, ít muốn và biết đủ, lòng thương xót tội nghiệp, phong
cách lịch sự nhã nhặn… tôi vẫn cứ thấy rõ chúng là những biểu hiện khác
nhau của cùng một thứ bản chất: dục vọng. Học kinh Phật, tôi biết dục
vọng thường ra vào năm cửa ngõ: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và
ngủ nghỉ. Nay tôi nhìn thấy rõ ràng hơn: không phải nó chỉ muốn đi bằng
các cửa ngõ “quang minh chính đại” ấy mà còn biết tùy theo lúc theo
cảnh mà chọn lựa lối đi của nó nữa. Khi tôi chận đánh và ngăn cản nó ở
năm cửa ngõ nói trên, nó có thể chui qua những cửa sổ nhỏ hơn; ngăn bít
các cửa sổ này, nó lại tinh quái len lỏi và sinh xuất từ những khe hở bé
xíu khác (có khi được coi là những đam mê tao nhã: thưởng hoa, uống
trà, đọc sách, ngắm cảnh, hút thuốc, thèm một viên kẹo nhỏ…). Mà sự ra
vào của dục vọng nơi các khe hở bé xíu này mới thực là tinh tế, đến nỗi
đôi khi tôi đã tự an lòng rằng nó đã chết đi rồi, kẻ thù quỷ quyệt của
bãi chiến nội tâm! Nhưng thực ra, nó vẫn còn đó. Cánh cửa lớn hay nhỏ
chẳng phải là điều quan trọng. Dục vọng sẵn sàng xuất nhập qua bất cứ
ngõ ngách nào, miễn là có lối đi cho nó vận hành là đủ. Và một khi nó
còn vận hành, êm nhẹ hay bạo tợn, thì nó còn tồn tại. Kẻ ít tham muốn
hay người nhiều tham muốn đều như nhau, Họ giống nhau ở một điểm là chưa
thực sự giải thoát. Và nếu có khác nhau thì không khác ở kết quả dẹp
trừ dục vọng mà chỉ khác trên mặt hiện tượng, nghĩa là chỉ sai biệt ở
cung cách chọn lựa lối đi cho dục vọng của mình mà thôi. Sự chọn lựa đó
tạo thành những dáng vẻ đa thù của đời sống xã hội. Từ nhà đạo đức cho
đến tên ăn cướp, đều tuân hành mệnh lệnh của dục vọng. Kẻ thấp hèn thì
thường nghênh ngang chọn lối đi rộng lớn; người thanh cao thì mạnh dạn
chui rúc qua những kẻ hở (hoặc nói cho đúng hơn: kẻ nghênh ngang chọn
lối đi rộng lớn thì bị coi là xấu xa nhỏ mọn; còn người công khai chui
rúc qua những kẻ hở thì được ca tụng là nhà đạo đức thanh cao!).
Nhận thức được điều đó, tôi tập trung tất cả con người
và thời giờ của mình ra để chiến đấu với nó. Trận chiến này, tôi từng áp
dụng triệt để vào những ngày còn tụ tập ở chùa Long Tuyền Hội An, từ
sau năm 1975, nay mới có cơ hội bày ra lại một cách quyết liệt hơn. Suốt
ngày tôi chỉ nhìn vào tâm tôi, bất cứ cái manh động nào của tự ngã chồi
dậy, tôi đều điểm mặt đặt tên cho nó. Nó như một tên trộm chịu khó và
có quyết tâm tấn công vào một ngôi nhà rộng có nhiều ngõ ngách, thất bại
ngả này thì lại tìm ngả khác, nhưng khi bị chủ nhà phát hiện thì chỉ
biết lặng lẽ rút lui. Cứ như vậy trong suốt nhiều ngày, tâm tôi thanh
tịnh trong suốt như một phiến băng. Hầu như suốt ngày đêm, chỉ có một
niềm vui lặng lẽ to lớn, tràn ngập trong lòng. Không còn một thúc dục
nào. Không còn một vọng tưởng nào. Không còn một ý niệm nào. Chỉ có một
tâm thức mang mang không bợn một chút duyên trần. Ngay cả xác thân tôi,
cũng trở nên nhẹ hẫng, khinh khoái. Vào những ngày ấy, đã có khi tôi
nghĩ, “kể từ hôm nay, ta không còn hãi sợ bất cứ tên giặc trong hay giặc
ngoài nào.” Nhưng rồi ngay cả cái ý niệm tự hãnh và hài lòng với chiến
công dẹp trừ dục vọng ấy, cũng bị tôi mổ xẻ, điểm mặt. Và trong tôi chỉ
còn một cái tâm vắng lặng như hư không.
Ó
Mới đó đã đến tuần cuối cùng tháng 8 dương lịch. Như
vậy, kể từ khi bị bắt đến nay, tôi đã ở tù gần bốn tháng. Tôi đã có trên
một trăm ngày ăn cơm với muối và thỉnh thoảng được chút tương hột. Có
khi cả muối và tương của bạn tù giúp cho cũng hết nhẵn nên phải ăn cơm
không trong nhiều ngày, vắt cơm lại thành một nắm nhỏ cho dễ nuốt. Có
khi phải ăn cơm với muối bọt trong cái bình muối dùng để đánh răng của
kẻ khác. Mấy anh bạn tù chính trị dù quý mến tôi cách mấy cũng không sao
đùm bọc tôi đến cùng được. Vài người bạn tù chính trị thân nhất mới
biết rằng sở dĩ tôi chưa liên lạc được với bên ngoài chẳng qua là do hồ
sơ của tôi chưa kết thúc. Dưỡng và Quái, là hai trong số những bạn tù
chính trị chơi thân với tôi nhất, có khi đã nói với tôi với giọng bất
lực: “Phải chi thầy Khang ăn mặn được thì đỡ biết mấy. Tụi này có món
này món nọ muốn chia sớt cho thầy mà không dám.” Có lẽ trong cách nói
ấy, họ thử gợi ý xem tôi có chịu ăn mặn (tức là ăn thịt cá) hay không.
Nhưng đầu óc bảo thủ của tôi nghĩ rằng đã vượt qua được trên trăm ngày
thì tiến tới nữa, chịu đựng thêm nữa, có sao đâu. Vậy là tôi lắc đầu,
quyết định là cứ ăn chay để giữ cái thể diện tối thiểu của một tăng sĩ
Phật giáo Bắc tông. Tôi có bệnh rũ liệt cả tay chân, ghẻ chóc cùng mình,
chết lên chết xuống, cũng không sao, không ai để ý gì lắm đâu; nhưng
nếu tôi dùng thịt cá của bạn tù cho hoặc nhận nước mắm nấu bằng tép khô
của trại thì cả phòng sẽ trố mắt lên, sửng sốt, xầm xì, mai mỉa, trêu
chọc, rồi tiếng đồn sẽ lan đến tai các cán bộ, đến các phòng giam khác,
đến xã hội bên ngoài, và biết đâu chừng lại đi vào một trang báo trang
sách nào đó của cán bộ văn hóa nhà nước. Tôi không thích vậy. Dù cho tôi
có đởm lược chịu đựng dư luận đến đâu, tôi cũng không đủ dày mày dày
mặt làm mang tiếng chung cho tập thể tăng sĩ mà tôi từng tham dự.
Rồi bất chợt sáng hôm ấy, sau gần một tháng rưỡi được
yên thân không bị gọi ra ngoài khai cung, tôi bị cán bộ Hón gọi tên và
đưa ra đến dãy văn phòng chính của trại. Đến một phòng nằm ở đầu dãy,
Hón bảo tôi đứng chờ ở hành lang rồi bước vào trong. Chỉ một lúc ngắn,
Hón trở ra ngay với một cán bộ xấp xỉ năm mươi tuổi. Viên cán bộ này mặc
áo sơ mi ngắn tay màu vàng, quần tây màu cà phê, mang mắt kiếng mát,
trông có vẻ khác với lối ăn mặc thông thường của những cán bộ mà tôi
từng tiếp xúc (thường là áo sơ mi dài tay màu trắng với quần xanh hay
đen). Da ông xạm đen, dáng trung bình, người rắn chắc, nét mặt vui tươi
cởi mở. Ông bước đến chỗ tôi, cúi đầu chào một cái thật nhanh như thể
ông sợ người khác bắt gặp. Hón quay đi. Viên cán bộ mời tôi bước theo
ông. Phòng ông chia làm hai gian, trước và sau. Phần trước có một dãy
bàn dài với nhiều ghế, chắc là dùng để họp. Phần sau chính là văn phòng
riêng của ông. Nhiều tủ hồ sơ bao quanh một cái bàn làm việc lớn chất
đầy giấy tờ. Cửa sổ nhỏ bên hông không đủ soi sáng căn phòng, ông bật
cái đèn nê-ông lên.
“Mời ngồi đi, tự nhiên,” ông nói với giọng miền Nam rất thân mật, không chút kiểu cách, không chút trịch thượng.
Tôi ngồi xuống chiếc ghế dựa quay lưng ra ngoài cửa
phòng. Ông ngồi quay mặt ra, định nói câu gì đó nhưng rồi lại xoa xoa
hai tay, sắp xếp lại mấy chồng hồ sơ trên bàn. Sắp qua sắp lại như thế
nào đó mà cuối cùng, tôi có cảm tưởng là chẳng có gì khác với trước đó
cả. Xong, ông đẩy mắt kiếng mát lên một chút, nói:
“Thầy là… anh là Vĩnh Khang, phải không?”
“Vâng,” tôi đáp.
“Tôi là Nguyễn Lâu, trưởng trại… À, à… hồ sơ của anh do
ông Văn phó trại kết thúc từ tháng trước, tôi đã theo dõi kỹ lưỡng từ
đầu đến cuối. Tạm thời… à, à… hôm nay tôi đặc trách làm việc với anh về
chính sách và đường lối của nhà nước đối với phạm nhân…” nói đến đây,
ông có vẻ hết lời, chẳng biết nói gì nữa.
Ông đứng dậy, bước qua cái bàn nhỏ đặt sát cửa sổ, bật
nút cái lò điện nhỏ để nấu nước sôi, bốc một nạm trà bỏ vào bình tích;
xong, ông quay lại chỗ ngồi, xoa xoa hai tay, lúng búng một vài chữ gì
đó tôi không nghe rõ, rồi bất chợt, ông nói luôn một hơi dài:
“Đáng lẽ tôi sẽ thay mặt trại nói về đường lối chính
sách của đảng và nhà nước cũng như của trại đối với anh, nhưng tôi nghĩ
những cái đó chắc anh biết hết rồi, tôi không cần phải lặp lại làm gì.”
Tôi ngạc nhiên hết sức. Đây là lần đầu tiên một cán bộ
cộng sản nói với tôi một câu “tiêu cực” như vậy. Thường thường thì họ cứ
nói càn nói bừa, nói như vẹt những điều họ thuộc lòng, chẳng cần biết
đối tượng trước mặt là ai, có muốn nghe hay không, đã biết hay chưa biết
về những điều họ nói. Bổn phận của họ chỉ là nói. Nay ông trưởng trại
giam tự kết luận trước là tôi đã biết hết rồi, khỏi cần phải nói, thì kể
cũng lạ, và cũng mừng nữa! Phải, tôi mừng thầm, vì không cần phải tốn
thì giờ ngồi nghe những khẩu hiệu.
Ông Lâu lại xoa tay, đứng dậy, đến bàn nước, châm nước
sôi vào bình trà. Ông mang đến hai cái tách tráng men khá đẹp, đặt trên
hai cái dĩa nhỏ đồng bộ. Một cho tôi, một cho ông. Rồi ông mang bình trà
đến, đặt trên bàn giấy, mở nắp bình trà ra nhìn, rót một ít ra tách của
ông để xem trà đã ra chưa. Tất cả động tác của ông đều có cái vẻ gì
lúng túng. Tôi có cảm tưởng là ông rất e ngại hoặc có gì khó xử khi phải
tiếp tôi.
“Chờ một chút cho trà ra… hút thuốc không? Hì hì, tôi
không hút thuốc điếu, chỉ vấn thuốc rê thôi. Nhưng thuốc rê này ngon
lắm, thuốc Tân Phú đó, hút còn ngon hơn 555 nữa,” ông bắt đầu tự nhiên.
Tôi xua tay từ chối cái hộp thuốc ông đưa tới và cám ơn
ông bằng một nụ cười. Ông im lặng vấn thuốc khá lâu. Tôi cũng ngồi im
chờ đợi. Một lúc, ông nói, khói thuốc bay theo tiếng ông từng chặp:
“Tuổi trẻ ai cũng có lần mơ ước đóng góp xây dựng đất
nước, ai cũng mong đất nước sẽ như vầy như kia… Ba mươi năm trước, tôi
cũng vậy chứ có khác gì đâu… Nhưng mà thực tế cuộc đời nó không phải như
vậy, anh Khang đồng ý không? Cái ước mơ của mình nó càng đi ngược với
thực tế chừng nào thì nó càng nguy hiểm cho mình chừng đó. Tôi nói vậy
chắc anh Khang hiểu hết rồi. À, trà đậm rồi, uống miếng trà đi.”
Ông rót trà cho tôi, cho ông. Chúng tôi im lặng uống.
Chốc chốc, ông lại đứng dậy rót thêm trà vào tách tôi, rồi ngồi xuống,
tiếp tục uống trong im lặng. Tôi nghe tiếng gõ đều đặn của cái đồng hồ
treo trên tường. Tiếng cái quạt máy kêu vù vù, cứ mỗi lần quạt ngang bàn
làm việc của ông trưởng trại thì làm cho những góc giấy của các chồng
hồ sơ há ra. Có tiếng điện thoại reo. Ông Lâu bắt lên:
“Vậy à, phải đi bây giờ sao? Chiều không được hả? Ừ, cứ
tới đi,” ông cúp điện thoại, nhìn tôi một lúc như lựa lời. “Chút nữa tôi
phải đi công tác chừng một tiếng đồng hồ, cũng có thể chừng nửa tiếng
thôi. Tôi nhờ anh Khang làm cho việc này được không? Như vầy, trong khi
tôi đi vắng, anh ngồi viết giùm một bản tự khai, kể lại những gi anh làm
trong thời gian ở Long Thành, tức là cái vụ Phục quốc đó mà, được
không?”
Dĩ nhiên là phải được rồi. Lần trước, ông Văn bắt tôi
viết đi viết lại bao nhiêu lần cái bản tự khai cho đến khi nào ông không
còn thắc mắc mới thôi. Ông Văn bắt buộc tôi viết, ra lệnh tôi phải
viết, chứ đâu có “nhờ vả” lịch sự như ông trưởng trại này. Vậy là theo
sự hướng dẫn của ông ấy, tôi trở ra cái bàn dài ở gian trước. Ông mang
một xấp giấy trắng và một cây bút theo sau, đặt trên bàn, bảo tôi ngồi ở
một cái ghế gần cánh cửa bước vào phòng làm việc của ông, mặt hướng ra
phía một cửa sổ rộng không có chấn song. Rồi ông đem bình trà, cái tách,
hộp thuốc rê với cái hộp quẹt ga, một cái gạt tàn, đặt trước mặt tôi:
“Anh cứ viết thong thả, khi nào xong thì xong, không cần
phải gấp. Hút thuốc cho vui. Tôi mà ngồi làm việc hay viết cái gì là
tôi hút dữ lắm. Tôi đi một chặp là về, vậy nha, xin lỗi nha.”
Nói rồi, ông quay bước ra sân. Cửa ra vào chỉ đóng một
cánh. Cánh còn lại cho tôi nhìn thấy một chiếc xe hơi màu trắng đậu ở
trước. Hình như đó là chiếc xe đã áp tải tôi và Thiện Đắc từ trại giam
T20 ở Sài Gòn đến trại giam B5 này. Ông vừa lên xe là viên tài xế đã
phóng xe đi ngay ra cổng, gấp gáp. Còn lại một mình, tôi không vội viết.
Tôi nghe lời ông, thong thả, không gấp. Ông không bắt buộc viết nhanh,
không ngồi trước mặt, không đi qua đi lại sau lưng, tội gì tôi phải gấp.
Tôi viết cho xong mấy hàng đầu theo yêu cầu phải có của một tờ tự khai:
“CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM. ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC. BẢN
TỰ KHAI” rồi chống viết để đó, nhìn ra cửa sổ.
Lâu lắm mới được ngồi im một mình, nhìn mây trắng bay
qua khung cửa sổ. Tôi không tận hưởng giây phút rảnh rỗi với khung cảnh
mới này thì chốc nữa trở lại phòng giam tập thể, chung đụng với sáu mươi
mấy gã đàn ông ồn ào nhốn nháo suốt ngày đêm, sẽ chẳng bao giờ có được
cơ hội nữa.
Đúng ra thì lúc còn ở vùng kinh tế mới, thỉnh thoảng tôi
cũng ngồi bên cửa sổ có mấy chấn song bằng tre của cái thảo am, ngước
nhìn mây trắng bay qua; nhưng lúc ấy tôi chỉ thấy vui vui trong lòng một
chút chứ chẳng có cái cảm nghĩ gì. Khi được tự do sống giữa một vừng
rừng núi bao la, chuyện nhìn mây qua cửa là điều họa hoằn mới có. Bao
giờ cảm thấy trong lòng tù túng, tôi chỉ cần bước ra sân là đã có thể
hưởng được cả một bầu trời xanh ngát điểm vài bóng mây, đâu cần phải
ngắm trời mây qua khung cửa chật hẹp. Cho nên, chỉ từ khi vào tù, tôi
mới thực sự là quen thuộc với cảnh nhìn mây bay qua khung cửa sổ. Quen
thuộc nhưng không phải lúc nào cũng giống nhau, dĩ nhiên. Khung cửa có
cái lớn cái nhỏ, cái có song cái không song, cái thì cao cái thì thấp;
vị trí người ngồi bên cửa có lúc gần lúc xa; tâm trạng người ngắm lúc
thư thả lúc bồn chồn; dáng mây lúc hình này, lúc hình nọ, có cụm dày cụm
thưa; trời cao có lúc quang đãng có khi xám xịt… Bao nhiêu yếu tố sai
biệt đó đã có thể vẽ nên được nhiều bức tranh mới lạ, với nhiều ý nghĩa
khác nhau. Nhưng điều làm tôi thích thú nhất là lúc nào tôi cũng tìm
thấy được con người và vận mệnh tôi trong sự chuyển dịch nhanh chóng và
không ngừng của những tán mây lướt qua cái khuôn nhỏ của cửa sổ. Đứng
ngoài trời, ở một vị trí khoảng khoát mà ngước nhìn mây, người ta có cảm
tưởng là mây bất động hoặc nếu có chuyển động chăng nữa thì cũng chỉ là
sự chuyển động lặng lờ của một khối bông sữa mênh mông hùng vĩ, hòa
nhập trong cái vô cùng tận của vũ trụ, Trong khi đó, mây qua khung hẹp
cửa sổ là những phiến nhỏ, những tiểu thể bị chia cắt, từng phần từng
phần lướt qua một không gian bé xíu bằng những chớp nhoáng phù du. Vừa
xuất hiện là đã choáng hết cả khoảnh trời hạn cuộc. Hút sau cạnh cửa thì
đã biệt mù tăm dạng. Sự biến hiện vô thường ấy vừa khiến lòng tôi chùng
xuống với một nỗi buồn thâm trầm về thân phận con người, mà kỳ lạ là nó
cũng đồng thời đẩy tôi đến tận cùng cái chỗ mấp mé giữa thực tại và hư
vô, để rồi nó cho tôi cái cảm thức hết sức lôi cuốn rằng nếu tôi buông
mình vào bờ này thực tại hay bờ kia hư vô, tôi đều có thể nếm được cái
hương vị mang mang vô cùng của tự tánh. Tất cả ý niệm về sự còn mất sinh
diệt của tự ngã hay của một bóng mây ngang qua khung cửa hẹp, đều la ảo
tưởng, đều là mộng tưởng…
“Chào đồng chí, thủ trưởng đâu rồi, cho tôi gặp ông ấy
được không?” một giọng Bắc của anh cán bộ trẻ nào đó cất lên phía sau
lưng tôi.
Tôi giật mình trở về với thực tế là tôi đang ngồi nơi
cái bàn họp ở gian trước của văn phòng ông trưởng trại để viết bản tự
khai. Tôi quay ngước lại trả lời người cán bộ mới vào:
“Ông ấy đi vắng rồi.”
Anh cán bộ bấy giờ mới nhìn rõ tôi, hơi giật mình, rồi
bằng vẻ tò mò không giấu giếm, anh trố mắt nhìn tôi một lúc rồi bước
ngang phía sau lưng tôi, tiến sâu đến cánh cửa phòng riêng mở vào bên
trong, nơi bàn làm việc và cất chứa hồ sơ của ông trưởng trại. Anh đảo
mắt nhìn rồi quay ra, tay khép cánh cửa lại, đến đứng cạnh tôi, nhìn xấp
giấy trước mặt tôi:
“Đồng chí viết cái gì thế nhỉ? Ủa, là phạm nhân à, sao viết bản tự khai?”
Tôi chưa kịp nói gì, anh đã lầu bầu:
“Thủ trưởng này làm việc sao mà tắc trách sơ hở quá! Ai đời lại để phạm nhân ngồi một mình nơi đây chẳng ai coi ngó!”
Nói rồi anh hùng hổ bước qua bước lại, đến đóng cánh cửa
sổ mà nãy giờ tôi đang thả hồn ngắm mây, xong anh ôm cặp rời khỏi
phòng, không quên đóng cánh cửa ngoài mở sẵn từ nãy giờ.
Còn lại một mình, tôi định cúi xuống viết nhưng không
viết được vì phòng khá tối. Chưa được hai phút sau, anh cán bộ trở lại,
có cả Phương bước theo.
“Đấy, đồng chí coi, ông ấy để phạm nhân ngồi đây viết tự
khai, cửa ngoài cũng mở, cửa sổ cũng mở, cửa kia cũng mở, cái phòng đầy
hồ sơ và đủ thứ vật dụng linh tinh trong đó! Bây giờ đồng chí sắp xếp
làm sao cho nó qua phòng khác hay ít nhất cũng cho người ngồi đây mà
trông nó chứ!”
Phương thấy tôi thì ồ lên một tiếng:
“Không sao đâu, đồng chí bình tĩnh. Thủ trưởng biết phải
làm cái gì mà. Anh Khang đây tôi cũng biết nữa. Không có gì đâu. Người
của ổng lấy ra thì cứ để yên cho ổng, đụng vào làm gì. Ông ấy bảo anh
ngồi đây hả anh Khang?”
“Vâng, tôi đâu có tự tiện được chứ,” tôi đáp.
Phương cười, nói với anh cán bộ kia:
“Yên chí đi mà. Thôi, ra ngoài này đi. Đồng chí gặp thủ trưởng có việc gì, tôi giúp được không?”
Họ cùng kéo ra ngoài. Phương không quên bật công tắc
điện cho tôi có ánh sáng. Tôi cúi xuống viết thật nhanh bản tự khai. Một
lúc lâu, Phương trở lại một mình. Bước ngang sau lưng tôi rồi đến mở
tung cánh cửa sổ khi nãy bị viên cán bộ kia cẩn thận đóng lại. Từ cửa
sổ, Phương quay lại, đối diện tôi, nhoẻn miệng nói:
“Đủ sáng chứ hả, anh Khang?”
Tôi ngước lên, đáp:
“Vâng, cám ơn,” và bất ngờ nhìn thấy thân hình của
Phương, sau chiếc áo bà ba bằng lụa mỏng, phơi lộ ra giữa vùng nắng chói
lòa từ cửa sổ rọi vào, hình dạng một chiếc đục bình hai bên cong vào
một chút ở phần giữa, hay như hai vòng eo của thùng đàn ghi-ta… Tôi vội
cúi mặt xuống, viết tiếp.
Phương cứ đứng đó. Tôi có cảm tưởng là cái bóng của cô đổ vào trang giấy trước mặt tôi, Tôi lại ngước lên nói:
“Cô mở cửa sổ cho tôi có ánh sáng nhưng rồi cô lại đứng che mất rồi.”
Phương cười nhẹ, nói:
“Ô, xin lỗi anh Khang,” nói rồi cô đứng dạt sang một
bên, tiếp, “anh Khang hôm nay viết tự khai cho ông trưởng trại thì chắc
chắn hồ sơ sắp kết thúc rồi đó.”
“Vậy hả?”
“Vâng, hồ sơ kết thúc ở đây rồi thì anh sẽ được liên
lạc với gia đình để thăm nuôi hay gặp mặt. Nhưng còn chuyện ra tòa thì
phải chờ bên viện Kiểm sát tỉnh cứu xét nữa.”
“Cám ơn cô cho biết điều đó.”
“Có gì đâu anh Khang. Bị can nào cũng có thể biết được
điều đó mà, chỉ tại em… à, chỉ tại tôi biết anh Khang không rành mới
giải thích cho anh thôi. Ô kìa, bàn tay anh Khang sao nhỏ xíu vậy há,
lại trắng nữa, tay anh là tay con gái mà! Nhưng… hình như anh bắt đầu bị
ghẻ rồi đó.”
Tôi mắc cỡ rụt tay lại, bỏ dưới gầm bàn, giống như đứa
học trò nhỏ bị cô giảo quở về bàn tay dơ đầy bụi đất hay dính mực của
mình. Phương cười, nói:
“Trong trại mà bị ghẻ thì cũng thường thôi. Anh chưa có
thăm nuôi thì chắc là không có thuốc xức ghẻ? Để mai mốt tôi đem thuốc
xuống phòng cho anh. Đâu, anh đưa tay tôi coi nào.”
Tôi ngập ngượng một lúc rồi để bàn tay lên bàn. Phương
bước tới một bước cho gần hơn, nhìn rồi cầm bàn tay tôi, lật qua lật lại
rồi chặc lưỡi, lắc đầu, không nói gì. Tôi chẳng hiểu ý nghĩa của những
cái chặc lưỡi ấy của cô.
“Thôi, anh Khang tiếp tục làm việc há. Bữa nào Phương
xuống phòng, đem thuốc xức cho anh. À, anh cần thuốc gì nữa không? Hay
là… anh có cần cái gì không?”
“Không, cám ơn.”
Phương chậm rãi rời chỗ tôi, đến ngang cửa phòng cô đưa
tay tắt điện (mà khi nãy cô bật lên cho tôi khi phòng bị anh công an
kia đóng hết các cửa), nhìn tôi mỉm cười lần nữa, và đầu cô vẫn cứ lắc
nhẹ như tiếc rẻ hay chua xót cho một điều gì.
Tôi cúi xuống tiếp tục viết một lúc nữa thì ông Lâu về. Từ sân, ông bước nhanh vào, ngang chỗ tôi thì đứng lại, hỏi:
“Anh đã xong chưa? Chưa xong thì cứ viết, thong thả, không gấp đâu. Viết đầy đủ là được rồi, không cần nhanh.”
“Tôi viết xong rồi,” tôi nói.
“Vậy hả? Tốt quá, thôi được, để tôi nói người ta đưa anh
về lại phòng–này đồng chí, cho tôi một bảo vệ.” Ông bước ra bậc cửa nói
với ai đó ở ngoài hành lang, xong quay trở lại, đến chỗ tôi, cầm bản tự
khai lên, liếc sơ, nói nhỏ giọng, “cám ơn, cám ơn… dài như vầy mà anh
viết nhanh quá, lại sạch sẽ rõ ràng nữa! Ở dưới đó, có việc gì cần, anh
nói quản giáo là anh muốn gặp tôi nhé. Tôi cũng sẽ dặn tất cả cán bộ
quản giáo là… thôi, tóm lại là khi nào muốn gặp tôi, anh cứ nói với quản
giáo. Được rồi, anh theo cán bộ kia về phòng há.”
Tôi được một cán bộ đeo súng ngắn dẫn đi. Về khu trại
giam, vừa bước vào văn phòng trực–nơi có một chiếc bàn dành cho cán bộ
trực ngồi kiểm soát tù nhân mới xuất và nhập trại hoặc đi khai cung–tôi
bất ngờ bắt gặp một dáng mặt quen thuộc của một tù nhân cởi trần mặc
quần cụt, đang đứng trước mặt viên cán bộ trực. Đang cúi đầu bước đi,
vừa suy nghĩ vớ vẩn gì đó, tôi không kịp nhận thức ra anh ấy là ai; đến
khi anh bảo vệ bảo tôi đứng lại để bàn giao cho cán bộ trực, tôi mới
ngước lên, nhìn kỹ lại thì sực nhận biết người ấy chính là Hiền, anh
ruột tôi. Hai anh em tôi nhìn nhau, vừa mừng vừa tủi, cùng nở một nụ
cười để chào thăm nhau. Nhưng viên cán bộ trực quát lên:
“Cười cái gì? Các anh muốn thông cung hả? Các anh quen
nhau à? Anh ở Nha Trang mới chuyển trại đến đây mà quen với anh này hả?
Sao các anh cười?”
Hai anh em tôi chưa kịp giải thích gì thì viên cán bộ đã hướng về tôi, hỏi:
“Mầy ở phòng nào?”
“Phòng 7,” tôi đáp.
“Đi vào mau,” cán bộ xua tôi đi nhanh.
Tôi không kịp nói gì với anh mình. Bước vào đứng nơi
mái hiên bên ngoài phòng giam, chờ đợi cán bộ mở cửa vào phòng, tôi nghe
như có lệ ứa trong lòng. Tôi luôn có cảm giác hoàn cảnh anh tôi phải
gánh chịu hôm nay đều do một tay tôi gây nên dù rằng những gì anh ấy làm
trước đây đều do anh tự nguyện. Anh là một nhà thơ hiền lành, ít nói.
Hoàn cảnh đất nước biến anh thành một người cầm súng để bảo vệ mảnh đất
miền Nam; rồi hoàn cảnh đất nước khi thống nhất hai miền trong chính thể
mới lại biến anh thành một chiến sĩ văn hóa sử dụng ngòi bút của mình
để lên tiếng thay cho những người dân yêu chuộng tự do và công bình. Anh
em tôi ít khi nào có cơ hội để ngồi trao đổi riêng với nhau về tâm cảnh
và mơ ước riêng của mỗi người, nhưng từ lúc cùng dấn thân trong các
hoạt động chính trị, chúng tôi đã gần lại với nhau nhiều hơn. Bấy giờ
tôi càng thấy rõ rằng quả thật đạo sĩ và nghệ sĩ lúc nào cũng gần gũi
với nhau, không những ở khuynh hướng tìm hiểu và khai phá thực tại qua
sự sáng tạo nghệ thuật hay khai mở thức tâm giác ngộ, mà còn ngay trong
những hoài bão sâu kín đối với thực tại xã hội. Anh tôi đã tự nguyện dấn
thân, chẳng phải do tôi khích lệ hay lèo lái gì; nhưng chính sự nhẹ dạ
kết bạn và dễ tin người của tôi đã đẩy xô anh tôi vào hậu quả tù tội hôm
nay qua sự giới thiệu vào tổ chức một đặc tình công an như Hân.
Tôi là người đáng tội nhất. Tất cả an nguy của những
người khác có liên hệ đến tôi, đều là do một mình tôi gánh chịu. Tôi
phải gánh chịu. Tôi tự giao cho mình trách nhiệm ấy. Vâng, tôi phải gánh
chịu tất cả.
Ó
Bây giờ là tuần thứ tư của tháng 8, chỉ còn vài ngày
nữa là tới đợt thăm nuôi cuối tháng. Đợt thăm nuôi cuối tháng 8 là một
trong những đợt thăm nuôi có nhiều hy vọng nhất của tù nhân. Không phải
chỉ hi vọng được thăm nuôi và gặp mặt thân nhân mà còn hy vọng được trả
tự do nữa, vì sau ngày 30 tháng 8 ấy hai ngày thì đúng vào dịp lễ Quốc
khánh của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam–ngày 2 tháng 9, cái
ngày mà nhúm cộng sản Việt Nam thao túng tổ chức Việt Minh, ma lanh đứng
lên cướp chính quyền Việt Nam khỏi tay quân đội Nhật sau vụ hai quả bom
nguyên tử khiến Nhật đầu hàng Đồng minh năm 1945. Nhà nước cộng sản
thường nhân những dịp lễ lớn (như sinh nhật ông Hồ Chí Minh, lễ Quốc
khánh, Tết Nguyên đán), trả tự do cho một số tù để những người tù này
cảm thấy mang ơn Bác và Đảng. Cho nên, những ngày cuối tháng 8 là những
ngày đầy hy vọng. Đã có một vài người trong phòng 7 được trả tự do thực.
Bắt đầu từ ngày 23 tháng 8, mỗi ngày đều có người được gọi tên cho về.
Phòng giam được rộng rãi hơn, nhưng cũng vì cái tự do của người khác mà
mình không được dự phần, nó cũng trở nên trống vắng buồn tẻ hơn.
Ngày 25 tháng 8, Khoa gọi tôi ra ngoài “làm việc”. Nơi
hai cái bàn lớn thô kệch sơn màu đỏ nằm dưới bóng râm của mấy cây trứng
cá, tôi thấy đầy một tốp công an vận đồng phục, kẻ ngồi người đứng, bàn
tán nói chuyện sôi nổi. Thấy Khoa đưa tôi từ xa đến, họ ngưng tiếng ồn,
cùng quay nhìn. Khoa đưa tôi hướng về phía họ. Đến nơi tôi mới thấy rằng
nơi hai chiếc bàn với bốn cái băng ghế dài mà chỉ có một anh công an
mập mạp, cỡ bốn mươi tuổi, có lẽ là người chỉ huy, ngồi chễm chệ một
mình trên một băng ghế; những người còn lại, chừng mười lăm người, đều
đứng xúm xít chung quanh. Họ quan sát tôi từ đầu đến cuối, xầm xì to
nhỏ. Khoa đến trước mặt viên công an kia, nói:
“Báo cáo đồng chí, đây là Vĩnh Khang, tức là Thích Tâm Quang đó.”
Anh công an mập ra dấu bảo tôi ngồi xuống ở băng ghế đối diện. Tôi ngồi xuống.
“Anh thực sự là Thích Tâm Quang hả?”
“Vâng,” tôi đáp.
“Trẻ quá vậy đó! Anh có biết là anh làm phiền chúng tôi
lắm không hả?” viên công an nói với giọng hơi đùa. Cả tốp công an đứng
sau đều cười. Viên chỉ huy có vẻ sung sướng được đàn em hỗ trợ bằng
tiếng cười, hứng thú hỏi tiếp:
“Anh đi tu bao lâu rồi?”
“Mười lăm năm,” tôi đáp.
“Dữ vậy đó. Tức là anh đi tu trước năm 1975 chứ không phải mới sau này?”
“Vâng.”
“Bộ ở chùa dạy anh hoạt động phản cách mạng hả?”
“Không, chùa chỉ dạy tôi nên nói, làm và suy nghĩ đúng với sự thật.”
“Vậy thì sự thật đó có quan hệ gì đến chuyện hoạt động phản cách mạng đâu kìa, sao anh lại đi phản cách mạng?”
“Từ sự thật đó mà suy ra, tôi thấy cái gì bất công thì
tôi nói là bất công, thấy cái gì đau khổ thì tôi nói là đau khổ, thấy
cái gì sai thì biết là sai, thấy cái gì đúng thì biết là đúng. Rồi tôi
quyết định nói và làm những gì tôi nghĩ là đúng.”
“Ôi chà, nói gì mà lòng vòng quá. Anh có tài giảng đạo,
viết văn, làm báo… tôi biết, nhưng không cần phải văn chương triết lý ở
đây. Tôi chỉ muốn hỏi là… là… thôi, dẹp đi, khỏi cần nữa. Thế tôi hỏi
anh, hôm Tết vừa qua, anh bỏ Long Thành chạy đi đâu, sao không chịu ra
đầu thú để rồi bây giờ lại bị bắt vào đây vậy hả?”
“Tôi về Sài Gòn thăm bà con sau khi lo xong công chuyện ở chùa ba ngày Tết.”
“Chứ không phải có ai thông báo cho anh biết để anh trốn sao?”
“Không.”
“Anh đi đường nào, vào lúc nào mà chúng tôi không thấy? Anh ở chùa có học phép thuật gì không vậy hả?”
Cả tốp công an cười ồ lên theo giọng hỏi đùa của viên chỉ huy. Tôi cũng cười theo, nhưng không trả lời.
Những người cộng sản vô thần này đa phần xuất thân từ
thôn quê, ít học, nên thường có thói quen suy đoán sự việc theo xu hướng
thần bí. Cứ việc gì xảy ra mà vượt khỏi khả năng suy luận thì lại ngờ
đó là do huyền thuật tâm linh. Trước đây, ở trại T20, Hùng công an cũng
đã thay mặt tốp trinh sát Sài Gòn hỏi tôi một câu tương tự chỉ vì họ
không bắt được tôi sau suốt một ngày canh gác bao vây khu xóm nhỏ nơi
tôi ẩn náu. Họ là những người mê tín dị đoan, tin tưởng thần quyền nhiều
nhất, nhưng cứ làm bộ chống lại thần quyền. Tính chất mê tín thần quyền
thực ra chỉ có thể nẩy nở trong giới bình dân thiển cận. Vậy mà rồi
chính giới này lại phải đứng ra phát động chiến dịch bài trừ mê tín,
tiêu diệt thần quyền. Cái buồn cười nhất trong xã hội cộng sản chủ
trương vô thần là ở chỗ đó. Họ không biết rằng cây đa đầu làng sở dĩ
linh thiêng là do niềm tin của dân làng đặt vào đó, chứ không phải vốn
tự nó có sự linh thiêng; cho nên thay vì dẹp bỏ sự mê tín, họ lại đi
chặt cây đa, phá nơi thờ tự, diệt Phật, chống Chúa. Rốt cuộc thì mê tín
vẫn cứ là mê tín. Lòng người còn mê thì có thể đẻ ra muôn vạn thần linh
chứ nói gì chỉ một thần linh! Đó là lý do tại sao Karl Marx, Lenine,
Staline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh… trở thành thần thánh để “sống mãi
trong sự nghiệp” của họ.
Mà cũng không trách họ được. Tôi nghe một chú tiểu ở
chùa Long Quang trên kinh tế mới chạy về Sài Gòn cho biết rằng vào ngày
14 tháng giêng sau Tết vừa qua, công an tỉnh Đồng Nai phối hợp với công
an địa phương vây chùa để bắt tôi; mấy chú tiểu nói tôi đã đi Sài Gòn;
công an không tin, hoặc nghĩ rằng nếu tôi đi Sài Gòn thì cũng về lại
chùa vào buổi tối, nên họ cắt người ở lại đêm tại chùa để canh gác, chờ
tôi lộ diện. Buổi khuya, có hai anh công an đói quá rủ nhau lên chánh
điện lấy trái cây dâng cúng trên bàn thờ, ngồi ăn ngay trước Tổ đường.
(Chùa tôi mái lợp bằng tranh, vách tô bằng đất; ngõ trước đi vào chánh
điện có một cửa rộng ba mét, phía sau hai bên Tổ đường có hai cửa mỗi
cửa rộng hơn một mét, cả ba cửa đều chỉ là ba cái khung vuông, không có
cánh để đóng hay khóa, ai muốn vào thì vào, muốn ra thì ra). Ăn xong,
các anh ngồi hút thuốc, xả vỏ chuối và rác rến bừa bãi trên chánh điện.
Nhưng khi vừa bước ra khỏi chánh điện, bỗng dưng cả hai lại té lăn ra
đất, ói mửa liên hồi, chân tay co giật như mắc kinh phong. Các đồng chí
của hai anh vội tìm xe đưa các anh ra bệnh viện cấp cứu. Chuyện ấy có
thể giải thích đơn giản rằng hai anh gặp một luồng gió độc nào đó từ
trong khu rừng phía tây thổi qua, hoặc vào giờ giấc khuya lạnh như thế
mà ăn nhiều trái cây, ăn đầy bụng, khó tiêu, bội thực thì phải ói. Nhưng
đồng bào Phật tử địa phương cũng như mấy anh du kích ấp xã thì phải
giải thích theo cách nghĩ của tín ngưỡng dân gian, chẳng hạn cho rằng
mấy anh bị cô hồn các bác “vật”, hoặc bị long thần hộ pháp trừng trị để
dằn mặt cái tội không tôn trọng nơi thờ tự trang nghiêm–thậm chí có
người còn cho rằng các anh bị phạt vì cái tội đã dám tới chùa để rình
bắt nhà sư trụ trì! Từ câu chuyện bị trừng phạt ấy, ắt hẳn là đồng bào
địa phương được dịp thuật lại cho mấy anh công an nghe rằng trước đây có
kẻ ăn trộm thùng phước sương của chùa, ra chưa khỏi tam quan đã bị vật
té, dãy đành đạch dưới đất, chưa kịp khui thùng phước sương để lấy tiền
cúng của thập phương bá tánh; một kẻ trộm khác lấy cặp chân đèn bằng
đồng nơi bàn thờ Phật đem ra chợ huyện bán thì bị bắt, chân đèn trả lui
lại cho chùa. Những chuyện này cộng thêm chuyện mấy anh công an trúng
gió trúng thực, đã bồi thêm vẻ huyền hoặc linh thiêng của chùa Long
Quang, và dĩ nhiên là cũng khiến cho các nhà vô-thần-mê-tín thầm kín
nhìn tôi như một con người có linh thuật đáng sợ.
Thấy tôi chẳng nói gì, anh công an chỉ huy cười rồi đứng
dậy, rời dãy bàn. Đám công an kia cũng lục tục kéo theo, ra khỏi khu
vực trại giam, hướng về phía văn phòng trại. Chỉ Khoa ở lại, ngồi thay
vào chỗ của viên chỉ huy khi nãy.
“Anh Khang nhập trại bao lâu rồi vậy?”
“Khoảng ba tháng,” tôi đáp.
“Nghe nói anh từ trại T20 Sài Gòn chuyển lên, phải không? Vậy là anh xa gia đình hơn ba tháng rồi.”
“Phải.”
“Anh có muốn liên lạc với gia đình không?”
“Dĩ nhiên là muốn.”
Ngập ngừng một lúc, anh nói tiếp mà mắt chớp lia chớp lịa, có vẻ như không muốn nhìn thẳng vào mắt tôi:
“Thường thì bị can phải học tập tốt và có tích cực đóng
góp trong việc xây dựng đời sống trại giam thì mới được phép liên lạc
thư từ với gia đình…”
“Vậy à? Tôi tưởng khai cung xong thì tất nhiên phải được quyền liên lạc chứ.”
“Ai nói với anh điều đó?”
“Ơ… tôi không nhớ rõ lắm… hình như là cán bộ phó trại
hay trưởng trại gì đó,” tôi vừa nói xong thì nhớ ngay rằng người nói cho
tôi biết điều đó chính là Phương chứ không phải hai ông cán bộ kia; tôi
định chỉnh lại nhưng thấy cũng chẳng cần thiết gì, vì tôi nghĩ cán bộ
nào nói lại chẳng được. Không ngờ cái uy của hai ông cán bộ kia lại
khiến Khoa e dè. Anh có vẻ hơi lúng túng một chút, nhưng cuối cùng cũng
đưa lý lẽ của anh:
“Trên nguyên tắc thì là vậy… nhưng đó là ở trên văn
phòng, với ban chấp pháp, còn thực tế ở phòng giam dưới này thì lại
khác. Anh thử nghĩ coi, nếu một người cứ bị phạm kỷ luật hoặc không chịu
học tập tốt thì ban quản giáo chúng tôi làm gì cho phép viết thư về gia
đình chứ hả?”
“Té ra là như vậy. Tôi không biết. Thôi thì khi nào anh thấy được thì cho tôi gởi thư, chưa được thì thôi.”
“Tôi chỉ nói cái thông lệ ở đây thôi, còn trường hợp
anh thì được chứ. Trên đã thông báo cho chúng tôi biết là hồ sơ khai
cung của anh đã kết thúc. Tôi cho anh biết để anh về phòng viết thư cho
gia đình. Anh có giấy bút chứ hả? Nếu dưới đó không có thì nói tôi biết.
Viết xong, nhờ trưởng phòng đem ra cho ban quản giáo duyệt lại rồi sẽ
dán tem gởi đi cho anh.”
“Cám ơn…”
“Có điều… tôi muốn anh cũng chứng tỏ là anh sẵn sàng
giúp đỡ ban quản giáo trong việc kiểm tra xây dựng sinh hoạt trong trại
giam, buồng giam.”
“Nghĩa là sao?”
“Nghĩa là… nếu ở dưới phòng có chuyện gì lộn xộn, hoặc
có thành phần nào đáng nghi là phản động, có âm mưu vượt trại trốn trại,
chống lại ban quản trại… thì anh báo cáo lên cho chúng tôi biết sớm,
được không?”
“Có nghĩa rằng tôi phải làm công việc báo cáo đó thì mới được liên lạc với gia đình à?”
“Không, không phải vậy. Đã nói là trường hợp của anh
thì trại đã cho phép. Đây là cá nhân tôi và ban quản giáo nhờ riêng anh
thôi. Có gì đâu, hễ trong phòng cỏ cái gì không bình thường thì khi thấy
tôi, anh cứ việc giong tay xin ra ngoài gặp… rồi báo cáo tình hình.”
“Tôi nghĩ đó là công việc của các anh trưởng phòng, phó
phòng. Tôi không quen và cũng không thích hợp để làm chuyện đó đâu. Nếu
vì tôi không nhận việc mà anh không cho viết thư thì thôi vậy. Tôi đã bỏ
gia đình đi xuất gia mười lăm năm rồi, nếu bây giờ không liên lạc cũng
chẳng sao đâu.”
“Anh đừng nói vậy chứ. Tôi có nói rồi, anh đã được phép
viết thư… Thôi, được, tôi đưa anh trở về phòng. Nhưng anh nên nhớ cho
rằng bất cứ lúc nào anh muốn gặp để nói chuyện riêng với tôi, cứ việc
giong tay lên nha.”
Ó
Anh trưởng phòng, cho tôi một tờ giấy viết thư rứt ra
từ một cuốn tập vở cho học sinh đi học; màu giấy vàng xì, đôi chỗ dính
cả vỏ cây hoặc một thứ lông nhỏ của con gián hay dế gì đó; có chỗ lại
nổi lên một cục bột hay cục gì cứng ngắt; có chỗ loang một khoảnh dầu mỡ
hay nhựa cây màu lòng trắng trứng gà, mũi viết đến ngang đó thì trợt
tới trợt lui, chẳng làm sao mà xuống mực. Nhưng không sao, giấy xấu cách
nào thì cũng đọc được mà!
Trưởng phòng còn cho tôi một bì thư và cho mượn cây bút
nguyên tử để viết thư. Anh dặn: đừng viết gì liên hệ đến những người
trong tù hoặc những người đồng phạm, đừng than khổ, đừng tả cuộc sống
trong trại, đừng nói gì bóng gió xa xôi… và nhớ đừng dán bì thơ lại, vì
đó là công việc của quản giáo chứ không phải của người viết thư!
Lâu lắm tôi mới có dịp viết thư cho gia đình. Không phải
từ lúc bị bắt mà từ lâu lắm rồi, lúc còn ở chùa Long Quang trên kinh tế
mới. Trên ấy không có bưu điện nên tôi rất lười viết thư, vả lại thói
quen của người xuất gia khiến tôi thấy cũng chẳng có gì quan trọng để
viết cho gia đình ngoại trừ hỏi thăm sức khỏe mỗi người vào mỗi ba
tháng, có khi sáu tháng hay một năm… Bây giờ viết gì nhỉ? Và viết cho ai
đây? Ba mẹ và một số anh chị em của tôi ở Nha Trang, một vài anh chị
lớn khác ở Sài Gòn. Suy tính một lúc, tôi quyết định viết cho hai người
chị ở Sài Gòn. Họ sống trong một căn nhà nhỏ ở quận Tân Bình. Thỉnh
thoảng từ kinh tế mới về Sài Gòn, tôi vẫn thường đến đó để nghỉ trưa và
thăm hỏi tin tức gia đình.
CHƯƠNG BẢY
Trà uống nhiều đã thấm, cả hai chúng tôi đều sáng mắt
ra, không thấy buồn ngủ. Tôi để hết tâm vào câu chuyện kể, sống lại với
những ngày tháng qua bằng vẻ tự tin của một người từng trải đối với một
thính giả ngây thơ, hay của một người đang loay hoay tìm kiếm sự hân
thưởng cái hạnh phúc của hiện tại bằng cách khơi dậy niềm đau quá khứ.
Chuyện càng kéo dài, chúng tôi càng thấy thân mật, tự nhiên với nhau
hơn.
“Anh đói bụng lại chưa, em thấy đói quá; tại hồi chiều em ăn sớm. Hay để em làm cái gì sơ sơ cho hai đứa ăn hả?” nàng hỏi.
“Ơ… mất công không?”
“Không đâu, chỉ là mì gói thôi mà, nhanh lắm.”
Ăn xong, tôi gần như mất cái hứng để kể tiếp. Trong khi tôi ngồi trầm tư, nàng vừa dọn rửa chén bát vừa nói:
“Ở ngã tư đàng kia có một quán cà phê vỉa hè, anh muốn ra đó ngồi uống không?”
“Thôi, mất công. Ở nhà cho khỏe.”
“Ra ngoài thay đổi không khi một chút. Em đi với anh.”
“Bây giờ mới có ba giờ sang, biết họ đã mở cửa chưa?”
“Họ có cửa đâu mà mở, hi hi, chỉ chở bàn ghế xếp đến, bày ra vỉa hè thôi. Bán từ khoảng 2 giờ sáng đến sáng bửng thì dẹp.”
“Sao em rành quá vậy?”
“Tại hồi đó có mấy người bạn đến đây ở lại đêm để đi
vượt biên, khuya nhờ em đưa ra đường để chờ người đến đón. Lang thang
trên đường thấy kỳ quá tụi em ghé vào cái quán vỉa hè đó. Chỉ miễn cưỡng
ngồi đó thôi, nhưng rồi thấy cũng thú vị lắm. Từ đó, thỉnh thoảng dậy
sớm mà không có hứng thú làm gì, em đi bộ ra đó ngồi uống một mình, nhìn
xe cộ qua lại, cho đến khi mặt trời mọc mới trở về.”
“Cũng khá hoang nghịch đó nghe! Em uống cà phê được sao?”
“Được chứ. Anh không biết uống à?”
“Dĩ nhiên là biết.”
“Vậy thì thay đồ đi uống há. Từ nhà đi bộ đến đó đâu
chừng năm, mười phút. Sở công an nằm gần đây nên khu vực này an ninh
lắm, chẳng có cướp bóc gì đâu.”
“Nhưng công an có thể để ý làm phiền mình đó chứ.”
“Mình là công dân hợp pháp của đất nước mà, sợ gì chứ!”
“Cái đó chẳng bàn được đâu. Họ muốn bắt lúc nào chẳng được.”
Tôi nói đến đó thì thoáng nhớ đến chuyện xưa khi tôi đến
chỗ Hân và bị Hân sắp đặt ông thầy Tư đến rủ tôi ra đường, rồi công an
chận bắt. Nhưng nàng không đến nỗi tệ như vậy đâu. Nàng thích và quý
tôi, tôi thừa biết điều đó. Không phải hạng người nào trong xã hội này
cũng phải bị uốn nắn theo khuôn để trở thành những con người hiểm ác,
độc địa, dối trá, hèn hạ, lường gạt và hại nhau. Có những hạng người
sinh ra để sống như đời một hoa sen.
Chúng tôi cùng rảo bộ trên hè phố vắng. Sương khuya
phảng phất mờ trắng trên đường. Nàng khoác cái áo gió mỏng màu vàng tươi
và đã cho tôi mượn cái áo khoác gió màu ka-ki trước khi ra đường, vậy
mà cả hai đều có vẻ lạnh. Thấy nàng chéo hai tay ôm lấy hai vai, tỏ vẻ
lạnh, đôi lúc tôi muốn choàng tay ôm nàng cho ấm nhưng ngại. Xe cộ đã
bắt đầu qua lại thưa thớt trên đường. Mấy chiếc xích lô rung chuông mời
gọi. Chúng tôi im lặng, thong thả bước. Chị chủ quán đang quạt lò, thấy
chúng tôi đến thì lên tiếng mời chào. Chúng tôi chọn cái bàn sát với một
khu đất trống và khá xa với chị chủ quán. Rồi cùng với ngụm trà nóng
rất ư sảng khoái giữa trời sương, tôi nhỏ giọng kể, như là thủ thỉ tâm
tình với nàng.
Ó
Trời bây giờ đã vào thu. Tôi biết vậy chẳng phải nhờ
nhìn thấy sự úa màu của cây lá bên ngoài đâu; mà chính vì bầu trời xám
xịt bên trên với những đám mây đen kịt lướt qua thật nhanh phía sau cái
bót gác cao ở góc trại. Vả lại, bây giờ là cuối tháng 8 thì phải là mùa
thu.
Từ cửa sổ nhìn ra sân trại, tù nhân chúng tôi chẳng
thấy có bóng cây nào to lớn để có thể mang lại tín hiệu rõ rệt cho bốn
mùa. Chỉ có một cây mai tứ quý èo uột, khẳng khiu như một anh tù ốm đói,
trơ trọi đứng một mình nơi vồng hoa của sân chơi. Vồng hoa chạy song
song với chiều dài của phòng giam. Mà cái vồng này thực ra lại chẳng có
thứ hoa nào được trồng cả; chỉ thấy những rau là rau: rau muống, rau
răm, rau diếp cá, rau húng, rau thơm… và vài cây ớt hiểm do mấy anh tù
trồng lấy để “cải thiện đời sống.” Tôi mới đến, không dám tin là cây mai
tứ quý có thể nở hoa vào mỗi đầu xuân hay không–nói chi đến chuyện nở
hoa bốn mùa như tên gọi của nó! Hiện giờ thì chẳng thấy nụ hoa hay cuống
hoa nào còn lưu lại trên cây. Chỉ có lá lưa thưa, trông tội nghiệp.
Phải chăng các thứ rau mọc sàn sàn quanh chân nó đã tranh nhau hút lấy
nhựa sống khan hiếm còn sót lại trên cuộc đời cằn cỗi của sân trại? Và
cây mai quân tử kia, vì không chịu hạ mình tranh sống với những thứ rau
cỏ tầm thường nên chỉ có mỗi một cách để sinh tồn là cố gắng vươn lên
giữa không gian cao rộng? Hay vì chính nó là một loài thực vật cao kỳ
vốn sinh ra và tồn hữu bằng thứ dinh dưỡng duy nhất là cái tiết hậu tuần
hoàn luân lưu của bốn mùa sinh diệt nên người ta gọi nó là mai tứ quý?
Đang trầm tư về cốt cách của cây mai, tôi chợt thấy
Phương từ phía cổng của khu trại bước vào sân, hướng về phía phòng giam
chúng tôi, tay xách một cái giỏ. Một vài anh tù lăng xăng kháo với nhau:
“Ê, chị Phương vào kìa. Đã quá bây ơi!”
“Tránh chỗ, tránh chỗ.”
Họ tranh nhau xúm xít ngồi gần chỗ lồng khung để được
“gần” với người nữ cán bộ này hơn. Có ba tiếng vỗ tay bôm bốp thật lớn
làm hiệu cho cả phòng im lặng và tất cả cùng ngồi xuống. Nhất là mấy anh
tù đang đứng tắm tồng ngồng trong nhà vệ sinh, phải ngừng dội nước,
ngồi thấp xuống sau hai bức tường ngăn, ló đầu lên nhìn ra hướng lồng
khung. Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến cảnh bạn tù đón tiếp nữ cán
bộ. Quả là có khác với khi mấy nam cán bộ đến phòng. Chỉ mấy người tù
già và vài người tù đứng đắn là không hăm hở đón tiếp Phương, số còn lại
giương những cặp mắt đau đáu, nhìn Phương một cách thèm thuồng. Thật
chẳng khác những con cọp đói bị nhốt trong chuồng thú, thấy con hoẳng
mập mạp và nung núc mỡ đi qua đi lại trước mặt.
Phương bước đến sát bên cửa sắt, không mở khóa, chỉ đứng ngoài, đặt cái giỏ xuống đất, rồi vén tóc mai, nói:
“Phòng này có ai bệnh hoạn gì cần xin thuốc không? Có ai bệnh nặng xin ra nằm bệnh xá không?”
Anh Nhiều trưởng phòng vội bước đến chỗ lồng khung, nói:
“Báo cáo phòng này không ai bệnh, thưa cán bộ.”
Phương gục gặc không nói gì. Không khí im phắc. Cơ hồ
chỉ có tiếng áo lụa của cô nữ cán bộ là kêu lên những tiếng sột soạt nhỏ
theo sau cử động của cánh tay đưa lên đưa xuống, làm điệu bộ trước mấy
chục con mắt đàn ông xa gia đình.
“Có chắc là không ai cần thuốc men không đó?” Phương hỏi lại một lần nữa.
Chẳng ai lên tiếng. Chỉ có tiếng đôi guốc của Phương
nghiến nhè nhẹ trên nền xi măng. Phương cúi xuống xách cái giỏ lên, quay
ra, nhưng vừa tới bậc cửa, cô quay lại:
“À, anh Khang đâu rồi? Có phải anh Khang ở phòng này không?”
Trưởng phòng vội nói:
“Báo cáo cán bộ, ở đây có một Khang. Vĩnh Khang phải không ạ? Anh Khang, cán bộ muốn gặp anh.”
Tôi bước tới chỗ lồng khung. Phương kín đáo nhìn tôi từ
đầu tới chân–lần đầu tiên cô thấy tôi cởi trần mặc quần cụt–rồi bằng một
giọng tự nhiên, cô nói:
“Cán bộ chấp pháp nhờ tôi đem thuốc xức ghẻ xuống cho
anh. Nghe nói anh mới bị nổi ghẻ ở hai bàn tay, phải không? Có bị chỗ
nào khác không?”
“Không,” tôi đáp.
Đám tù cười. Phương cũng cười rồi tự nhiên đỏ mặt. Thực
ra tù nhân chỉ dám cười trước mặt cô nữ cán bộ phụ trách về y tế này
thôi chứ đối với các cán bộ khác, chưa bao giờ tôi thấy họ cười như vậy.
Phương ngồi xuống, soạn trong giỏ ra một gói bông gòn
nhỏ và một lọ thuốc xức ghẻ. Hình như cô định chờ tôi đưa tay ra cho cô
xức nhưng thấy tôi cứ ngồi yên, cô đổi ý, bèn đưa bông gòn và thuốc vào
cho tôi.
“Anh cất cái này mà xức. Ở phòng giam đông người như vầy
dễ bị lây ghê lắm. Mỗi ngày ra chơi, anh nhớ ra ngồi phơi nắng chứ đừng
có nấp trong bóng mát. Hết thuốc anh nhắn tôi biết nha.”
Một anh tù từ đâu chồm tới, ngay sau lưng tôi, nói:
“Báo cáo cán bộ, tôi cũng bị ghẻ nhiều lắm, đầy cả người.”
“Sao nãy tôi hỏi chẳng ai báo cáo?” Phương khó chịu.
“Dạ tại vì tưởng cán bộ hỏi bệnh gì nặng chứ còn ghẻ thì gần hết cả phòng đều bị, mà bị nặng hơn anh Khang nữa, thưa cán bộ.”
“Ồ, vậy sao? Nhưng mà các anh có gia đình thăm nuôi,
nhắn gia đình gởi thuốc vào chứ trại đâu có lo hết cho các anh được.
Trường hợp anh Khang… là vì cán bộ thụ lý hồ sơ biết rằng anh chưa có
thăm nuôi…”
Tôi quay lại nói với người bạn tù:
“Không sao đâu, thuốc và bông gòn này là của chung, ai bị ghẻ thì cứ lấy xức.”
Phương liếc nhìn tôi, tỏ ý can ngăn tôi về việc đưa bông thuốc ra xài chung, rồi cô trợn mắt ngó anh tù kia, nói:
“Các anh lộn xộn quá. Thôi được, để tôi nói với quản
giáo của các anh ghi tên người nào muốn có thuốc xức ghẻ để tôi tìm cách
đưa xuống, nhưng nhớ là chỉ anh nào không có gia đình thăm nuôi thôi
nhé!” Nói rồi Phương nhìn tôi, nhỏ giọng, “anh cứ lo xức phần anh đi, có
một lọ đó mà xức chung thì chẳng ai hết ghẻ được đâu.”
Phương kín đáo gởi cho tôi một cái nhìn trìu mến lạ lùng
trước khi xách giỏ rời khỏi phòng giam. Cô vừa khuất thì trong phòng ồn
ào trở lại.
“Nhớ vợ quá, mèn đét ơi!”
“Em Phương đã thiệt!”
“Tao sắp điên rồi, thấy em là chịu không nổi!”
Và đâu đó trong những tiếng than trời kia, tôi nghe được lời một người nào đó:
“Chị Phương chịu ông thầy rồi bây ơi!”
Rồi một người khác:
“Ừ, lạ nghe! Mình muốn cô cô chẳng chịu nhìn, lại nhìn cái người tu hành tuyệt dục mới kỳ chứ!”
Ó
Thư tôi viết xong đã nhờ anh trưởng phòng đem ra nộp
cho quản giáo cùng lúc với vài lá thư của những bạn tù khác trong phòng.
Trưởng phòng theo quản giáo ra ngoài khá lâu. Khi trở về, anh thông báo
chung cho những người khác biết là đã được quản giáo chấp thuận cho gởi
thư; nhưng với tôi, anh kéo riêng vào góc phòng–nơi làm việc và là chỗ
ngủ của anh–nói nhỏ:
“Thư của thầy chưa biết có trót lọt không. Quản giáo
Khoa thì dễ, ông đã chấp thuận; nhưng ông Hón cứ nói: thư của tên thầy
chùa này phải xét kỹ từng chữ mới được, hắn viết cái gì cũng có ý nghĩa
sâu xa bên trong, coi chừng hắn thông cung ra ngoài đó! Theo tôi thì
đừng cho hắn liên lạc gì với bên ngoài là tốt nhất!”
“Rồi kết quả ra sao?”
“Chưa biết. Có lẽ chờ mấy ổng hội ý với nhau.”
Tôi phì cười:
“Bộ mỗi thư đều bị tất cả các quản giáo kiểm duyệt trước khi gởi đi à?”
“Đâu có, quản giáo của phòng nào thì kiểm duyệt thư của
phòng đó thôi. Nhưng cái thư của thầy chẳng biết sao lại đưa ra hỏi ý
kiến chung của cả ban quản giáo. Tôi sợ không được.”
“Nhưng nếu không được thì ông Khoa sẽ xuống đây bảo tôi viết lại thư khác chứ, phải không?”
“Thường thường là vậy. Nhưng biết đâu đối với trường hợp thầy, ông ấy lại im luôn, chẳng gởi đi, cũng chẳng cho viết thư khác!”
Thấy tôi im lặng, Nhiều nghĩ rằng tôi buồn nên nói lời an ủi:
“Ráng đi. Có lẽ tại thầy là tu sĩ Phật giáo, lại nắm giữ chức vụ quan trọng trong lực lượng Phục quốc nên mới bị họ đì như vậy.”
Tôi phì cười:
“Đâu có sao. Chẳng phải tôi lo buồn đâu. Tôi đang nghĩ
cách nào thông báo ra ngoài mà thôi. Còn chuyện Phục quốc, tôi có nắm
chức vụ gì đâu, chỉ tại họ nghĩ rằng có tham gia, có đóng góp thì phải
có chức vụ nên mới đoán mò vậy thôi.”
“Ông Khoa hỏi tôi có biết ông thầy nắm chức vụ gì trong
lực lượng Phục quốc không. Tôi nói không. Ông ấy nói rằng thầy là lãnh
tụ, hoặc là cố vấn tối cao của ông Trần Văn Lương đó. Ông còn dặn hãy
coi chừng, đừng để ông thầy móc nối các thành phần phản động trong phòng
giam…”
Tôi bật cười, không nói gì. Nhiều tiếp:
“Có lẽ vì vậy mà mấy quản giáo dìm thư của thầy đó. Nè,
nói thiệt thầy nghe, kỳ thăm nuôi trước tôi có dặn bà xã gởi cho tôi
nhiều đậu hũ và tương chao trong kỳ thăm nuôi tới. Tôi dặn vậy là để
thầy có thêm thức ăn đó. Còn như thầy muốn nhắn gì ra ngoài… tôi cũng có
thể nhờ bà xã tôi được.”
“Cám ơn anh. Tôi chỉ sợ liên lụy cho anh và gia đình anh, không tốt đâu.”
“Xì, có gì đâu. Bà xã tôi lanh lắm. Bên ngoài lại có má
tôi và mấy đứa em gái nữa. Muốn nhắn gì, làm gì, họ cũng làm được hết.
Đàn ông của gia đình tôi đều bị dính vào lực lượng Nghĩa quân Phục quốc.
Còn lại toàn đàn bà con gái, tự sinh sống và thăm nuôi cho mấy người
đàn ông trong tù. Gia đình tôi là gia đình cách mạng mà, tôi kể rồi bộ
thầy không nhớ sao! Hồi xưa, ông già tôi theo cách mạng, còn lại bao
nhiêu người trong nhà đều làm giao liên hoặc chứa chấp mấy ông Việt cộng
nằm vùng… Sau giải phóng, ông già tôi làm Tỉnh ủy tỉnh Sông Bé, nhưng
rồi bất mãn chế độ, ông từ chức, đem gia đình bỏ về Tân Phú làm rẫy. Sau
đó, gia nhập Nghĩa quân Phục quốc. Khi ông quyết định theo Phục quốc,
cả nhà ủng hộ, rủ rê thanh niên trai tráng trong huyện vào rừng cầm
súng. Súng thì do tôi móc nối mua lại của tụi huyện đội, đem chở vào
rừng cho nghĩa quân. Đàn bà con gái nhà tôi lại trở thành giao liên cho
Phục quốc. Thầy thấy không, nhờ mấy người giao liên này nhắn một cái tin
thì dễ như móc đồ trong túi. Thầy muốn nhắn gì cứ nói tôi biết, bao
nhiêu chuyện bà xã tôi cũng nhớ hết. Bà ấy không làm được thì dặn mấy
đứa em gái tôi làm.”
“Tôi cũng chẳng nhắn gì rườm rà đâu. Chỉ cần cho gia
đình tôi biết rằng tôi bị bắt, vậy là đủ rồi. Thà biết như vậy còn hơn
mù mù tăm tăm chẳng rõ tôi còn phiêu dạt ở đâu hay đã chết mất xác…”
“Dĩ nhiên là phải cho gia đình biết rồi, có ai ở tù mà
lại chẳng muốn thông báo cho gia đình đâu, nhất là ở tù cộng sản, chẳng
bao giờ đủ cơm ăn, áo mặc, thuốc uống… Để tôi bảo bà xã tôi đến nhà thầy
báo tin. Thầy yên tâm đi. Đó là chuyện nhỏ thôi mà. Gặp chuyện lớn cần
hy sinh, tụi này còn sẵn sàng làm cảm tử quân nữa mà!”
Tôi im lặng, cảm kích sự nhiệt thành của gia đình anh
Nhiều, cái gia đình nông dân miền Nam, sống cởi mở hồn nhiên và sẵn sàng
chết một cách anh hùng để bảo vệ đất đai phì nhiêu trù phú của tổ tiên
để lại. Cái nhiệt thành của gia đình anh luôn luôn có lợi cho các công
cuộc cách mạng. Cộng sản thành công trong việc xâm chiếm miền Nam một
phần cũng nhờ những gia đình mà từ chồng đến vợ, từ cha đến con, đều
giốc cả thì giờ và sinh mệnh của họ ra mà đóng góp. Chỉ đáng tiếc một
điều là những người dân Nam bộ này đã ủng hộ đến thành công một tập đoàn
hại nước hại dân, và khi nhận thức mình sai lầm, họ đã ủng hộ một lực
lượng có chính nghĩa nhưng lại thất bại thê thảm để rồi cả nhà phải sa
vào vòng tù tội. (Cái nghiệp dĩ khổ đau của Việt Nam từ trăm năm đổ lại
đây là hễ lực lượng nào có chính nghĩa thì lại thường thất thời, thất
thế, thất thủ, thất trận, thất vận, thất vọng, thất bại… Còn những lực
lượng nào phản dân tộc thì lại dễ thành công để rồi mặc tình làm những
điều thất học, thất sách, thất đức, thất tín, thất nghĩa, thất nhân tâm…
Suy vong của đất nước cứ theo cái đà nghịch thường ấy mà diễn tiến thì
dân tộc này biết đến lúc nào mới có thể vươn dậy?)
Nhiều kể rằng ban đầu cả nhà anh đều bị bắt vào tù, một
tháng sau đó do khai cung khéo léo, tốp đàn bà con gái được thả về. Anh
còn cho biết hồi trước năm 1975, gia đình anh theo cách mạng, làm giao
liên, là để ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, chứ không phải ủng hộ
cộng sản, gia đình anh chỉ muốn đánh Mỹ để bảo vệ mảnh đất miền Nam chứ
không phải đánh Mỹ để rước cộng sản Bắc Việt vào. Và cuộc đấu tranh tham
gia Nghĩa quân Phục quốc của gia đình anh sau năm 1975 cũng chỉ mang
một mục tiêu đơn giản là bảo vệ mảnh đất miền Nam khỏi sự thống trị của
cộng sản Bắc Việt. Anh không nghĩ chuyện xa xôi là sẽ giải phóng miền
Bắc. Ước mơ và hoài bão của anh đối với đất nước (có nghĩa là miền Nam
Việt Nam) rất đơn giản, đơn giản như ước mơ của một nhà nông đối với
mảnh vườn miếng ruộng của mình. Ai đụng chạm đến mảnh vườn của mình thì
mình chống lại họ. Hồi đó nghe tuyên truyền là Mỹ muốn lấy đất lấy vườn
của mình: chống Mỹ! Cách mạng thành công mới biết rằng cái đế quốc tư
bản dù sao hãy còn dành đất lại cho mình cày cấy, còn đế quốc cộng sản
thì thu tóm hết, vơ vét hết, đất vườn này biến thành đất vườn chung do
nhà cầm quyền Bắc Việt quản lý: chống Cộng! Trong khi người cộng sản Bắc
Việt nhìn mảnh đất miền Nam và con người miền Nam như là một phần cơ
thể ung nhọt cần được dẫn dắt và điều trị bởi đỉnh cao trí tuệ của chủ
nghĩa Mác-Lê thì người nông dân miền Nam (điển hình là gia đình của
Nhiều) nhìn người cộng sản Bắc Việt như là những người ngoại quốc, những
kẻ xâm lăng vừa tham lam, vừa tàn bạo, vừa ích kỷ, cướp lấy miền Nam để
nuôi béo những cán bộ ngoài Bắc. Phục quốc chiêu mộ nghĩa quân để chống
lại cộng sản thì gia đình Nhiều tham gia, tham gia để bảo vệ mảnh đất
miền Nam, cụ thể là để bảo vệ vườn tược và nếp sống yên bình từng có
trước khi chủ nghĩa cộng sản có mặt tại Việt Nam. Lý tưởng của anh chỉ
đơn giản như vậy.
Tôi nhắc cho Nhiều nhớ rằng Bắc hay Nam cùng chung một
nhà, đều là anh em cả, và thống nhất đất nước trong một tiến trình hòa
hợp không gây thương tổn cho nhau quả là điều tốt đẹp, nên thực hiện…
Điều đáng tiếc là Việt Nam chỉ được thống nhất ở mặt địa
lý chứ không thống nhất ở mặt nhân tâm. Cái nghiệp dĩ phân ly của năm
1954 là một đường cắt đau lòng trên vận mệnh quê hương, nhưng nếu chúng
ta biết chấp nhận và lợi dụng nó để cùng lúc tiến hành một cuộc “thi đua
hạnh phúc” thì cái nghiệp dĩ đau thương sẽ chuyển thành ước vọng và
hiện thực tươi đẹp. Thử tưởng tượng, chính quyền của hai miền Nam-Bắc
tranh đua nhau làm lợi ích cho dân trong xứ mình và nhân dân của hai
miền tranh đua nhau xây dựng kiến thiết xứ sở mình đang sống thì đại
hạnh biết bao! Đằng này, hai khối chính quyền đều u mê chấp chặt vào hai
thứ chủ nghĩa ngoại lai, biến chúng thành lý tưởng để rồi đẩy xô hàng
triệu sinh dân vào chỗ thù hận chém giết nhau, gây bao tang tóc ê chề
cho cả hai miền suốt mấy chục năm. Thay vì mấy chục năm kiến thiết,
chúng ta nhảy vào mấy chục năm phá hoại, hủy diệt, từ cơ sở vật chất đến
sinh mệnh và cả tâm thức của lương dân. Một cuộc phá hoại trường kỳ
xuẩn động!
Không cần phải đổ thừa chuyện phân chia hai miền (hay
ba kỳ) là do các thế lực thực dân đế quốc. Cái mầm phân chia đã nẩy ra
từ sự bám chặt vào ý thức hệ. Khi ý thức hệ cộng sản đi vào Việt Nam, có
người theo, có người chống, thì ý niệm phân chia ranh giới đã khởi
động. Mà thực ra, sự phân chia Nam-Bắc đâu phải chỉ bắt đầu từ năm 1954!
Không phải rằng Việt Nam đã từng bị chia hai từ đầu thế kỷ 17 bởi cuộc
phân tranh Trịnh-Nguyễn? Ở thời ấy, sự phân chia bắt nguồn từ tranh chấp
quyền lực của hai thế lực công thần Trịnh-Nguyễn. Sự phân chia ấy có
thể xóa được dễ dàng khi một trong hai thế lực ấy thắng thế, hoặc hai
thế lực ấy bị dẹp tan hay thống nhất bởi một thế lực khác (chẳng hạn nhờ
vào sự nổi dậy của lực lượng Tây Sơn và cuộc thống nhất đất nước của
Gia Long). Nhưng còn sự phân chia bắt nguồn bởi ý thức hệ với sự tuyên
truyền rộng rãi của các phương tiện truyền thông cũng như chính sách văn
hóa giáo dục của quốc gia thì ăn sâu vào tâm thức người dân của nhiều
thế hệ, thật khó mà giải tỏa.
Từ năm 1954, Việt Nam chúng ta ngậm ngùi biến thành hai
nước đeo đuổi hai thứ “lý tưởng” khác nhau mà phía nào cũng cho là mình
đúng, bên kia sai, rồi tự phong cho mình sứ mệnh hay bổn phận “giải
phóng” phía bên kia. Đáng ra, ở cơ hội đình chiến hiếm hoi trong thời
điểm hiệp định Ba-lê, chính phủ hai miền nên tranh thủ nhân tâm để tiến
đến tổng tuyển cử, thống nhất đất nước trong hòa bình. Nhưng các thế lực
đế quốc gườm nhau, ngăn trở tiến trình này, để rồi hai miền thay vì
mong đợi một cuộc tổng tuyển cử, lại tiến hành một cuộc xâu xé nồi da
xáo thịt. Từ đó, lại nẩy sinh những thứ chính nghĩa và lý tưởng giải
phóng dân tộc. Bên nào cũng cho rằng bên kia bị nô lệ bởi đế quốc hay
chủ nghĩa. Lý tưởng “giải phóng” bắt đầu phôi thai. Ý niệm giải phóng
phía kia là lẽ tự nhiên, vừa hợp tình vừa hợp lý–nếu thực sự người dân
miền Nam với chính sách và chủ trương nào đó có thể đem lại thái bình và
thịnh vượng cho đất nước thì người miền Nam nên cứu lấy miền Bắc để
chia sẻ cái hạnh phúc mà mình gặt hái được; và ngược lại, người dân miền
Bắc cũng nên giúp người dân miền Nam thực hiện con đường cứu quốc và
kiến quốc nếu họ thực sự tìm thấy hạnh phúc bằng con đường cộng sản.
Nhưng đừng bao giờ khư khư chấp chặt vào những ý thức hệ, những chiêu
bài, những chiến lược hay chiến thuật, những phương châm, những khẩu
hiệu, những chúc thư, những ảo vọng hy hiến và đổi chác với thần linh…
của bất cứ lãnh tụ hay tập đoàn tổ chức nào để rồi cứ một mực cho rằng
bên kia phải nghe bên này và chẳng bao giờ chịu tìm hiểu hay lắng nghe
bên kia.
Thực ra, thống nhất hai miền chẳng bao giờ là lý tưởng
của con đường cách mạng dân tộc. Sự cắt chia hai miền cũng chẳng phải là
cái hiểm họa gì ghê gớm lắm cho đất nước. Chân lý của ông Hồ Chí Minh
“nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” là thứ chân lý bá đạo
của kẻ có tham vọng nới rộng tầm ảnh hưởng thống trị của mình, nó được
dựng lên chỉ để che đậy dã tâm nhuộm đỏ đất nước chứ chẳng phải là chân
lý của người dân. Người dân chỉ cần sống bình yên trên mảnh vườn của họ,
không cần thống nhất… Không hề có một thứ chân lý của sự thống nhất,
cũng không hề có lý tưởng thống nhất. Không thống nhất hai miền cũng
chẳng phải là hiểm họa.
Có chăng là lý tưởng đấu tranh, xây dựng hầu mang lại
hạnh phúc ấm no thực sự cho dân tộc. Hiểm họa là hiểm họa vong thân, tôn
thờ chủ nghĩa ngoại lai để dày xéo chà đạp lên tình tự dân tộc. Nếu
chia cắt ở mặt địa lý nhưng thống nhất ở mặt tinh thần và ý chí thì sao?
Chẳng phải rằng tự nhiên hai miền sẽ thống nhất một cách êm thuận à?
Chống cộng chẳng bao giờ là một lý tưởng. Chống cái tham tàn, sân hận,
si mê như là nguồn cội của phân tranh để giữ được mảnh đất quê hương do
tổ tiên gầy dựng và tạo được hạnh phúc ấm no thực sự cho dân tộc mới
chính là lý tưởng mà mọi người dân nên theo đuổi. Như vậy, nếu có hai
nước Việt Nam thái bình thịnh trị thì đã sao? Chết chóc gì ai? Miễn sao
hai nước ấy biết thương yêu nhau như anh em, đừng thù hằn nhau, đừng
chém giết nhau, đừng chèn ép nhau, đừng ngăn trở nhau trong việc xây
dựng kiến thiết đất nước là được rồi. Hai anh em sống chung một nhà cũng
tốt, nhưng nếu đã trưởng thành cần sống riêng và có thể sống riêng mà
vui được thì cứ sống riêng, tại sao bắt buộc phải sống chung một nhà mà
rồi cứ ép uổng nhau! Cái sai lầm là luôn luôn tưởng rằng “nếp sống” của
mình là hay nhất, hết lòng đem vũ lực mà bắt buộc người anh em khác phải
tuân theo, sống theo. Hệ lụy phân tranh từ địa lý cho đến tâm thức từ
đó kéo đến.
Giải phóng hay thống nhất đất nước theo lề thói đó thì
phỏng có ích gì? Rõ ràng là người ta đã đắm đuối chạy theo hết cái mê
lầm này đến cái mê lầm khác. Mê lầm rằng có một thứ chủ nghĩa, một thứ ý
thức hệ (hay ngay cả một thứ tôn giáo) vô địch bách chiến bách thắng có
thể xây dựng được một thiên đàng ngay trên trần gian. Mê lầm rằng ai
không tin cái chủ nghĩa ấy thì đáng phải chết. Mê lầm rằng cái chủ nghĩa
ấy không bao giờ sai và không bao giờ lỗi thời lạc hậu. Mê lầm rằng chỉ
có giải phóng và thống nhất hai miền thì mới có hạnh phúc. Mê lầm rằng
chỉ có một nước Việt Nam suốt từ Bắc vào Nam, như là chân lý bất di bất
dịch! (Thực ra, có cái gì bất di bất dịch được đâu? Nếu miền Nam đã
không là vương quốc bất di bất dịch của Chiêm Thành thì đâu nhất thiết
phải có nước Việt Nam thống nhất Nam-Bắc bất di bất dịch? Nếu nước Việt
Nam là một từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau là chân lý bất di bất dịch thì
lẽ nào lại có một nước Chiêm Thành trong lịch sử? Nếu là chân lý bất di
bất dịch thì nước Việt Nam phải đứng mãi ở miền Bắc chứ đâu có được mở
mang thêm ở miền Trung và Nam!). Vì mê lầm như thế mà phải dùng mọi thủ
đoạn mưu chước để áp đặt niềm tin của mình lên người khác, không biết
rằng công cuộc giải phóng và thống nhất đất nước theo cách đó chẳng bao
giờ là điều mong đợi của cả nhân dân hai miền.
Lý tưởng của anh Nhiều đơn giản quá: chỉ cần bảo vệ
mảnh đất miền Nam sao cho có hạnh phúc. Ban đầu mới nghe qua, tôi sợ
rằng thứ lý tưởng mộc mạc này sẽ tiếp tục góp phần phân chia đất nước
hai miền, nhưng xét cho cùng, tôi lại phần nào đồng ý với anh ấy rằng,
mỗi người tự lo xây dựng toàn hảo khu vườn của mình thì tự khắc toàn
vùng sẽ trở thành màu mỡ trù phú. Nếu ta chưa lo tròn được trách nhiệm
đem lại hạnh phúc và ấm no cho phần đất của ta thì đừng bao giờ xía vào
phần đất của người khác, dạy khôn cho người khác, hoặc ép buộc người
khác phải đi theo cái lầm lỡ đói nghèo khổ đau mà ta đã kinh qua… Ôi,
cái bi kịch phân tranh và thống nhất của đất nước này, nói sao cho cùng!
Ó
Thêm một vài người trong số tù hình sự và vượt biên
được lần lượt gọi tên trả tự do trước ngày thăm nuôi cuối tháng 8. Tính
tổng cộng từ giữa tháng 8 đến nay đã có khoảng 12 người được thả về. Họ
về thì tốt cho họ mà cũng tốt cho những người ở lại vì phòng giam sẽ
rộng rãi hơn.
30 tháng 8, ngày thăm nuôi, mới sáng sớm chưa mở cửa
sắt đã thấy mấy anh tù chính trị lâu năm như Nhiều, Dưỡng, Quái, Sang,
Danh… dậy sớm tắm rửa sạch sẽ, rồi ngồi uống trà hút thuốc, chờ đợi cán
bộ vào gọi tên. Họ biết chắc sẽ được thăm nuôi và gặp mặt gia đình vợ
con, nên sắp sẵn áo quần, trải dài dưới đất cho thẳng và cũng để cán bộ
gọi tên là có ngay, khỏi mất thì giờ lục soạn giỏ xách. Đây là trại tạm
giam nhốt tù chưa có án nên tù nhân còn được giữ lại những áo quần riêng
của họ (mỗi người được phép giữ hai bộ) chứ không mặc đồ tù. Quanh năm
suốt tháng chỉ ở trần mặc quần đùi. Áo quần thì cất trong giỏ, chỉ lấy
mặc khi đi khai cung, gặp quản giáo làm việc, hoặc gặp mặt gia đình ngày
thăm nuôi.
Từ lúc Nhiều đưa thư của tôi cho Khoa và ban quản giáo
kiểm duyệt, tôi có ý chờ nhưng chưa thấy nói là được hay không. Nếu thư
tôi được Khoa lặng lẽ gởi đi rồi, có lẽ hôm nay tôi nhận quà thăm nuôi
của gia đình, mà không biết chừng lại còn được gặp mặt nữa. Tôi đặt hy
vọng vào lá thư gởi đi cũng như việc nhận quà trong ngày thăm nuôi hôm
nay nhiều lắm. Phần vì sự đói thiếu của thân xác, phần vì muốn tin tức
tôi bị bắt vào tù chính thức đến tai các bằng hữu khác của tôi. Tôi bị
bắt ngoài đường bốn tháng trước, đã có ai hay tin đâu! Nếu không biết
tin tôi đã bị bắt và không biết được Hân là kẻ đặc tình cho công an Sài
Gòn, nhiều bạn bè khác của tôi sẽ bị sa lưới.
Tám giờ sáng đã có anh nuôi xách giỏ đem vào phòng, gọi
tên. Rồi lần lượt hết anh nuôi này đến anh nuôi khác, tay xách những
giỏ nặng hay những bao tải, đưa vào, gọi tên. Những khuôn mặt nhận quà
hí hửng. Những cái miệng nhồm nhoàm nhai thức ăn. Những điếu thuốc thi
nhau thả khói mịt mù phòng giam. Tiếng nói cười rôm rả. Phòng giam rộn
ràng như buổi họp chợ. Vài tù nhân đứng tựa cửa sổ ngóng nhìn ra sân
trại, dán mắt vào những giỏ đồ trên tay các anh nuôi đang xách vào. Một
đám tù nhân ngồi xúm xít ngay ở lồng khung, nơi mà các anh nuôi sẽ bước
vào đặt giỏ xuống đất, đọc tên người nhận.
Tôi ngồi uống trà với nhóm tù chính trị ở góc phòng
thuộc đội 1, ngay chỗ nằm của Quái và tôi. Đội 1 và đội 2 nằm ở phía
ngoài, hai bên cửa sắt và lồng khung, mỗi đội có một cửa sổ nhìn ra sân
trại. Đội 3 và đội 4 bên trong không có cửa sổ. Mấy tháng đầu tôi ở đội
4; từ lúc có nhiều người được trả tự do, tôi được Nhiều, anh trưởng
phòng đổi qua đội 1, cùng một đội với Quái. Quái nằm sát vách, tôi nằm
kế bên. Chỗ tôi cách cửa sổ chừng một thước tây, thỉnh thoảng có gió lùa
vào cũng thoải mái.
Đám tù chính trị ngồi uống trà với nhau, từng người một
rời phòng đi gặp mặt gia đình và nhận quà thăm nuôi. Vẫn chưa thấy anh
nuôi nào đọc cái tên hai chữ quen thuộc của tôi. Đến trưa, tốp chính trị
dọn cơm ăn chung với nhau như thường lệ vào những ngày thăm nuôi. Họ
bày một bữa ăn thịnh soạn, mỗi người hai hoặc ba món, mười người thì
tràn lan, chiếm gần một nửa diện tích của đội 1.
“Thầy Khang, ngồi vào đây đi,” Quái kéo tay tôi.
“Tôi có đậu hũ chiên cho thầy nè, còn rau sống, cải
tươi, để thầy nấu canh ăn cho mát, nhưng những thứ đó để tính sau đi,
bây giờ ăn cơm với đậu hũ cái đã, há,” Dưỡng nói.
“Xì dầu đây, số dzách đó, sư phụ cất để dành mà ăn, tôi
thì dễ lắm, có nước mắm với đồ ăn đủ thứ rồi,” ông Thai, một người Hoa ở
Chợ Lớn bị tình nghi tổ chức vượt biên, chuyển bình xì dầu đến chỗ tôi.
Tôi ngồi xuống bên cạnh Nhiều. Họ mời nhau một tiếng lịch sự rồi bắt đầu bữa ăn vui vẻ. Một lúc, Nhiều nói nhỏ vào tai tôi:
“Đã nhờ bà xã nhắn về nhà thầy rồi. Yên tâm.”
Sau bữa ăn, họ cứ ngồi đó hút thuốc, tán gẫu. Có
mấy bịch cà phê đen gia đình đưa cầm tay mang vào, họ rót ra mấy cái
chén nhỏ, uống chung. Tôi ngồi đó mà vẫn thấp thỏm, chờ đợi, hy vọng.
Rồi nắng bớt gay gắt trên sân. Ánh nắng chiếu xiên qua
cửa sổ, lọt vào thềm phòng giam. Vẫn chưa thấy anh nuôi nào gọi tên tôi,
dù rằng nhiều cái giỏ khác đã được đưa vào lồng khung.
Rồi bữa cơm chiều của trại đã phát. Sau đó chừng mười
phút, đám tù chính trị lại bày mâm cơm thứ hai trong ngày. Họ lại mời
tôi ngồi vào ăn chung. Đậu hũ chiên ăn với xì dầu. Ở chùa thành phố, món
này thường thôi; nhưng ở chùa thôn quê, kể ra ăn chay như vậy cũng là
khá sang. Vừa ăn vừa ngóng chừng anh nuôi gọi tên. Đám tù chính trị
dường như cũng hy vọng giùm tôi. Thấy anh nuôi đem giỏ vào là họ xì xầm:
“Chắc của thầy Khang?”
“Rồi, giỏ của thầy Khang…”
“Ô kiểu giỏ lát này chỉ có dân Sài Gòn… chắc của thầy Khang đây!”
Vậy mà rồi chẳng thấy cái giỏ nào mang tên tôi. Tôi
không ngờ có một lúc trên đời, tôi lại có những hy vọng chờ đợi rất tội
nghiệp vào một cái giỏ quà như vậy! Trước đó, tâm tôi bình lặng, lắng
đọng mỗi ngày, dù đói thiếu. Nhưng kể từ khi được Khoa cho viết thư cho
gởi đi, tôi lại bắt đầu vọng động, mơ tưởng. Trọn ngày thăm nuôi, hình
như không có một ý tưởng nào đẹp đẽ hiện ra trong đầu óc tôi ngoài cái
mơ tưởng về một giỏ quà thăm nuôi do gia đình gởi vào. Cái giỏ thăm nuôi
bấy giờ có vẻ như là cả lẽ sống của đời tôi vậy.
Cuối cùng, kẻng báo hết giờ làm việc. Cửa sắt đã đóng,
đóng luôn cả niềm hy vọng của tôi và vài bạn tù không có thăm nuôi khác.
Sẽ không có chuyện một cái giỏ nào đến trễ sau giờ đó. Đèn phòng được
bật sáng, và bên ngoài, đêm buông xuống dần.
Buổi tối, phòng tổ chức văn nghệ. Ngồi uống trà nghe
các bạn ca hát, nhảy nhót, tôi vui lây và quên luôn thực tế là tôi vẫn
chưa liên lạc được với gia đình. Cái gia đình ấy tôi đã từ bỏ để đi tu
trên mười lăm năm, không vướng bận gì nhiều lắm, bây giờ lại trở nên một
cái gì rất thân thiết và cần thiết cho đời sống tù của tôi. Vâng, hình
như đến giây phút cuối ngày ngồi tư lự bên chén trà nóng uống chung với
những người bạn tù tứ hải giai huynh đệ, tôi mới nhận ra rằng cái giỏ
quà thăm nuôi không phải chỉ đơn thuần là “thực phẩm cứu trợ” mà còn là
biểu tượng thực tế chứng minh cái thâm tình cốt nhục thiêng liêng giữa
tôi và gia đình. Rõ ràng là bao nhiêu tình cảm mà tôi cố tình cắt đứt để
đi tu năm xưa đã ùn ùn hồi sinh trong tôi từ những tuần đầu vào tù.
Điều này phải chăng vì cửa ngục đã cắt đứt ý chí xuất trần của tôi để
nối tôi về lại với gia đình thế tục, hay vì tâm chí tôi lâu nay chỉ xuất
gia trên mặt hình thức chứ không xuất gia trong ý nghĩa rốt ráo nhất là
vượt bỏ những ràng buộc của ba cõi luân hồi? Phải chăng đây cũng là một
thứ thử thách để trắc nghiệm sợi dây tình cảm của tôi đối với cuộc đời?
Thật ra, một người xuất gia như tôi đáng lý phải gởi
thư về bạn bè thân quen ở các chùa chứ không cần phải gửi thư cho gia
đình. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ, thấy rằng sự kiện viết thư cho các chùa
chỉ thêm phiền cho các người bạn tu của tôi mà thôi. Công an sẽ nghi ngờ
là những người bạn này có dính líu gì đến Phục quốc. Thôi, dù gì thì
chuyện liên lạc với gia đình vẫn là điều tự nhiên, không ai thắc mắc. Vả
lại, khi viết thư cho gia đình, rõ ràng tôi đã thật xúc động, thấy
thương nhớ cha mẹ già mà tôi chưa có dịp phụng dưỡng báo ân. Tôi đã viết
một lá thư rất thực tế (vì chỉ nói chuyện sức khỏe, dặn dò chuyện gởi
thức ăn) và rất “đời” (vì nó thuần túy là lời lẽ nói lên xúc cảm của một
đứa con đối với gia đình thân yêu). Vậy mà lá thư đó đã bị kiểm duyệt
thế nào đó để rồi ngày thăm nuôi vừa qua, không có một dấu hiệu gì cho
thấy là gia đình đã nhận được…
Ó
Qua ngày 01 tháng 9, nhằm ngày chủ nhật, trại giam
không làm việc, cán bộ không mở cửa cho tù nhân ra sân chơi; vào cái
ngày mà không ai còn chút hy vọng gì về chuyện thăm nuôi nữa (chỉ hy
vọng vào ngày 15 sắp tới thôi), thì bốn giờ chiều, anh nuôi xách một cái
giỏ vào phòng giam, đứng ở lồng khung, lôi miếng giấy nhỏ trong túi ra,
lẩm nhẩm một lúc rồi hô:
“Vĩnh Khang, có thăm nuôi.”
Tôi giật mình, ngạc nhiên, vui mừng đến rưng nước mắt.
Các bạn tù trong phòng la ó lên như thể chính họ được trúng số hay được
trả tự do vậy. Không phải chỉ có tôi mới chờ đợi cái giỏ quà ấy. Các bạn
tôi cũng chờ đợi giùm cho tôi. Tôi có thể đọc thấy trong mắt họ, dù tôi
là một nhà tu khổ hạnh, trong phòng giam này chưa có người tù nào chịu
đựng thời gian không thăm nuôi kéo dài đến nỗi bệnh hoạn thập tử nhất
sinh và đau khổ như tôi cả…
Tôi đón cái giỏ, kéo qua khoảng trống giữa hai song sắt,
đem về chỗ nằm của mình. Run run soạn ra, tìm xem có một bức thư hay
một mẩu giấy nào trong đó không. Ngoài cái mùng nhỏ và một tấm chăn
mỏng, chỉ có thức ăn. Thức ăn gói ghém của một gia đình chưa có kinh
nghiệm thăm nuôi. Thức ăn gì mà mỗi thứ một chút, toàn là thứ đắt tiền
mua ở tiệm (chứ không phải mua ở chợ). Giỏ quà thăm nuôi này ngó qua là
biết giỏ quà của dân thành thị, và có thể là của một gia đình phong kiến
gốc Huế, gói ghém giống như dọn ăn trên bàn, thứ gì cũng tí tẹo, gắp
một đũa là hết. Không có một miếng giấy nào có thể cho tôi biết ai là
người đã gởi giỏ quà này đến cho tôi. Chưa chắc là gia đình tôi gởi! Lấy
gì chứng minh là gia đình tôi gởi nào? Nhưng không phải gia đình tôi
thì còn ai vô đó? Thôi thì cứ mở đại cái hộp bánh Bảo Hiên Rồng Vàng có
thắt cái nơ hồng sang trọng kia để đãi bạn bè cái đã!
Ô, trong hộp bánh, nơi mặt sau của nhãn hiệu, có ghi hai chữ: Như Tâm.
No comments:
Post a Comment