Thursday, November 5, 2015

NGUYỄN HUY HÙNG * HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO VIỆT NAM III

Bia sách Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam
Giới Thiệu Tác Giả
NGUYỄN-HUY HÙNG
Cựu Ðại Tá Quân lực Việt Nam Cộng hoà.

Chương 19

VỀ MIỀN ĐẤT TỔ HÙNG VƯƠNG
TRỞ THÀNH TÙ KHÔNG ÁN



Nhóm 20 anh em chúng tôi tại K2 (Trại Cây Khế) được lựa đưa đi, so với tổng số đang bị giam tại K2 chỉ bằng hơn mười phần trăm. Toàn những người thuộc thành phần bị Cộng sản liệt vào hạng nguy hiểm, “có nợ máu sâu đậm với Nhân dân” hơn các thành phần khác. Vì thế, đêm nằm thao thức suy nghĩ mung lung đủ thứ chuyện, không ngủ được.
Với Việt Cộng gian manh xảo quyệt, làm sao đoán được chuyện gì sẽ xẩy đến trong ngày mai. Lúc nào họ cũng “ngọt sớt mía lùi”, như sẵn sàng đổ thóc giống cho mình ăn. Thế rồi lại trơ trẽn nuốt lời ngay tức khắc, chả biết đâu mà lường mà tin cho được.
Trằn trọc mãi, vừa mới chợp được mắt, Cán bộ Quản giáo Đội đã tới, lôi chân những người phải ra đi thức dậy. Rồi dẫn xuống bếp, lãnh thực phẩm ăn đường cho cả ngày. Mỗi người lãnh phần ăn cho cả 3 bữa (sáng, trưa, tối), gồm cơm nắm và thịt heo kho, bọc sẵn trong lá chuối. Nước chín để uống được lấy thả giàn, 2, 3 Gô hoặc Bi đông tùy theo khả năng cơ hữu của mỗi người. Không hạn chế như ngày thường, mỗi buổi chỉ được lãnh 1 Gô hay 1 Bi đông mà thôi.
Trời còn tối, chưa tới giờ báo thức của cả Trại. Anh em ra đi lục đục thu dọn hành trang, khiến các bạn nằm gần bên cũng bị thức giấc. Bạn bè thân xúm xít tiếp tay người ra đi, gói ghém hành trang cho thật gọn gàng, và luôn mồm nhắc nhở coi kỹ xem còn sót gì không.
Hai anh bạn cùng Tổ rất thương mến giúp đỡ Tôi xưa nay (các Đại tá Nguyễn quang Chiểu và Vũ quang Chiêm, trước 30-4-1975 làm ở Phủ Tổng Thống), đến gần giúi cho bọc kẹo lạc và bọc bánh quy, gia đình gửi cho từ hôm trước Tết còn để dành chưa ăn hết. Cả 2 người cùng xúc động, ôm ghì lấy Tôi chúc lên đường bình an, may mắn. Tôi nghẹn ngào, rưng rưng lệ nói những lời cám ơn chân tình. (Từ ngày đến định cư tỵ nạn Cộng sản tại California, Tôi có dịp gặp anh Nguyễn quang Chiểu cũng đang định cư tỵ nạn tại đây. Nghe nói Anh Vũ Quang Chiêm cũng đã sang định cư tỵ nạn tại California, nhưng Tôi chưa có dịp gặp lại.)
Cán bộ hối lên đường, và dẫn mấy anh em phải ra đi, tay xách vai mang tư trang rời Láng, xuống tập trung nơi cổng Trại. Đến nơi tập trung, thấy trong nhóm phải ra đi, có cả Linh mục Nguyễn văn Thịnh, Giám đốc Nha Tuyên úy Công giáo, và Mục sư Dương Kỳ, Giám đốc Nha Tuyên úy Tin Lành thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Sau khi Phó trưởng trại, trưởng Toán áp tải dặn dò mọi người về “Quy luật phải thi hành trong khi hành quân” xong xuôi, còn nhắn nhủ thêm : “Đến nơi mới, các anh phải thương yêu đoàn kết giúp đỡ nhau, để mà cải tạo cho nó tốt”. Những điều này làm Tôi suy tư lo lắng. Xưa nay, ông ta vốn là người xuề xoà dễ tính đối với anh em. Nay nhắc nhở như vậy, chắc chắn trong những ngày sắp tới, sẽ có nhiều điều không may đến với chúng tôi.
Các bộ đội áp giải hối chúng tôi : “Lên đường! Khẩn trương!”. Anh em khệ nệ vác hành trang, kẻ trước người sau nối đuôi nhau đi bộ 1 cây số từ K2 (Trại Cây Khế) ra đường cái. Tới ngã 3, nơi có Bệnh xá Liên trại, rẽ sang phải chừng nửa cây số, thấy một đoàn 4 xe tải Molotova có căng mui và bạt 2 bên hông, đang đậu chờ chúng tôi.
Đến đây, gặp thêm một nhóm anh em ở trong K3 (Trại Cốc), cũng bị đưa đi một lượt với chúng tôi. Trời còn tối mờ sương, không nhận được mặt nhau, trừ những người cùng đi chung trên một xe.
Cán bộ áp tải của K2 và K3 bấm đèn Pin, đi quanh kiểm điểm nhân số Tù xong, ra lệnh 15 người lên một xe. Mỗi xe có 3 cảnh vệ mang súng AK đi áp tải. Một người ngồi nơi buồng lái bên cạnh tài xế. Hai người còn lại ngồi phiá sau xe với Tù, chặn ngay nơi bửng lên xuống.
Hành lý của Tù xếp gọn thành một đống, phiá trong cùng thùng xe nơi sát buồng lái. Anh em ngồi bệt xuống sàn, tập trung ở khoảng giữa, không được ngồi gần phiá bửng sau xe, nơi Cảnh vệ ngồi trấn tại đó.
Đặc biệt lần di chuyển này, tấm bạt phiá sau xe được cuốn lên để cho thoáng hơi. Nhờ thế, anh em có thể trông thấy được rõ ràng, cảnh rừng núi 2 bên đường lùi xa dần phiá sau xe.
Sau hồi còi lệnh của trưởng đoàn áp tải, đoàn xe nổ máy, bật “đèn mắt mèo”, chuyển bánh và lần lần tăng tốc độ. Vài phút sau bắt đầu lao đi vùn vụt, lắc qua lắc lại, vòng vèo xuống dốc theo các sườn núi, rừng rậm mịt mù trong sương đêm lành lạnh.
Trời còn tối chẳng trông thấy gì, mệt mỏi ngồi ôm gối, tựa lưng nhau, mắt nhắm nghỉ ngơi, mặc cho thời gian trôi. Tiếng động cơ và không khí do lực chuyển động của chiếc xe tạo nên, reo đều đều, ù ù, vụt vụt, ào ào, ru anh em thiêm thiếp chìm vào giấc ngủ.
Chẳng biết thời gian ngủ được bao lâu. Bỗng dưng xe giảm tốc độ đột ngột, làm mọi người bị xô dồn về phiá trước tỉnh giấc. Mở mắt nhìn ra ngoài, thấy mặt trời đã lên khá cao. Đoàn xe đang di chuyển ngang qua một dẫy phố, có lẫn lộn nhà ngói nhà tranh.
Người hàng phố thưa thớt, đứng ngó đoàn xe chạy ngang, dơ tay vẫy vẫy. Chắc họ tưởng đoàn Bộ đội nào đi công tác miền núi trở về. Cả chiều dài của khu phố chỉ khoảng 200 mét. Đằng sau các căn nhà là những bụi tre và cây cối um tùm. Chắc đây là khu trụ sở Xã hay Hợp Tác Xã nào đó, thuộc vùng ráp ranh miền núi và đồng bằng.
Qua khỏi khu phố nhỏ, đoàn xe tiếp tục lấy tốc độ trở lại, vùn vụt tung bụi mù, băng ngang những cánh đồng không người.
Khoảng xế trưa lại gặp một Thị trấn nhỏ khác. Nhà cửa nằm dọc dài theo một bên đường. Phiá bên kia đường là những thửa ruộng, đang có người cầy bừa.
Không phải các toán máy cầy hay máy bừa đất, như trong các cuốn truyện mà anh em đã đọc tại Thư viện của Liên trại 1. Mà là những hàng người khòm lưng kéo cầy thay trâu. Họ đứng thành 2 hàng ngang. Hàng trước cách hàng sau chừng 3 mét. Hàng sau là 5 người cầm 5 chiếc cầy. Phiá trước hàng người cầm cầy, là một hàng người đông gấp đôi, quàng vào vai những sợi dây kéo cầy. Những hàng người này cứ thong thả theo nhau, đi vòng hết ruộng này qua ruộng khác. Từ xa trông như những người máy, đã được hiệu chỉnh cho di chuyển tự động. Rất nhiều nhóm người làm việc như vậy, rải rác trên khắp các thửa ruộng. Chẳng thấy bóng dáng một con trâu nào.
Đoàn xe chạy qua Thị trấn được chừng mươi phút, thấy nơi giữa đồng có một khu nhà tiền chế 2 tầng bằng tôn, cửa sổ dát kính phản chiếu ánh mặt trời sáng loáng. Gần bên có một bồn chứa nước lớn cao khoảng 7, 8 mét, và mấy dẫy nhà gạch 2 tầng lợp tôn, trông như một chung cư hay cơ xưởng sản xuất nhỏ. Theo Bộ đội áp tải nói : “Đấy là khu nhà của Cố vấn Liên Sô, và chung cư của công nhân.”
Đoàn xe tiếp tục, băng qua một vùng 2 bên đồng khô, rồi vòng vèo theo các triền núi đồi, cây cối cằn cỗi pha lẫn tre gai sơ xác. Đến lúc mặt trời chiếu xéo hông xe, đoàn xe ngừng lại. Trên sườn núi ngay bên đường, có một xóm nhà tranh, không thấy bóng người. Cán bộ cho Tù xuống tiểu tiện, nếu ai có nhu cầu, còn không thì cứ ngồi yên trên xe. Thực ra nhu cầu chính yếu không phải vậy. Cần ngưng để xe đầu đợi các xe sau đến, tập trung đầy đủ trước khi tiếp tục di chuyển. Đồng thời lợi dụng thời gian này, cho Tù và Cán bộ áp giải, xuống đất giải quyết nhu cầu vệ sinh cá nhân, vì đã phải nín suốt cả chục tiếng đồng hồ. Mọi người ào ào nhẩy xuống xe, kề ngay vào các bụi lau, cây dại bên đường xả “xúp bắp”. Người tiểu tiện, kẻ đại tiện. Lúc này mới thấy rõ ý nghĩa xác thực, của 1 trong TỨ KHOÁI ở trên đời (ăn, ngủ, đụ, ỉa), dân gian thường truyền tụng.
Ngừng xe hút chưa tàn điếu thuốc, lại có lệnh lên xe tiếp tục cuộc hành trình. Để tiết kiệm, những người đang hút dở phải dụi tắt điếu thuốc bỏ vào bao, để sau này hút tiếp cho khỏi uổng. Chẳng như hồi trước 30-4-1975, dù là thuốc “3 con 5” (555) mới bập có vài hơi, khi không thích hút nữa là quẳng ngay không luyến tiếc.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau, đoàn xe chạy ngang một xóm có nhiều nhà ở dọc 2 bên đường. Quanh nhà nào cũng có hàng rào cây gai và cổng tre. Phiá sau nhà có những bụi chuối um tùm. Nhưng tuyệt nhiên chẳng thấy bóng người nào qua lại trên đường.
Qua khỏi xóm dân cư chừng 2 cây số, xa xa bên phiá trái cách đường khoảng 1 cây số, thấy một khu nhà tôn nhà ngói lẫn lộn, trông như một cơ sở Hợp tác xã. Phiá trước khu nhà có một cổng lớn, với chiếc Bảng hiệu to tướng đề hàng chữ “Công an Nhân dân”. Gần bên khu nhà này khoảng 300 mét, là một khu bao quanh bởi một hàng tường cao, có giăng giây kẽm gai trên đỉnh. Sau hàng tường thấy những mái nhà tôn san sát bên nhau, xếp theo hàng lối dọc ngang đều đặn. Nơi góc các dẫy tường đụng nhau, có những tròi canh mái lợp tôn, có người mặc áo mầu vàng ôm súng ngồi. Chắc hẳn đây là khu trại giam tù.
Trước khi đoàn xe bắt đầu chui vào quãng đường vòng vèo, leo theo sườn núi 2 bên dầy đặc cây rừng rậm rạp âm u, lại thấy xa xa bên kia bờ sông, một khu trại giam khác kiến trúc tương tự. Đoàn xe chúng tôi không rẽ vào 2 nơi này, tiếp tục chạy. Chừng 45 phút di chuyển vòng vèo trong rừng, đoàn xe dừng hẳn lại trước một khu trại, cũng có tường cao bao quanh với hàng dây kẽm gai giăng trên đỉnh, y như 2 trại đã thấy trước.
Chúng tôi phải ngồi yên trên xe chờ khoảng 10 phút, mới được lệnh xuống xe. Mọi người vác hành trang theo nhau hàng một, vào qua khung cửa nhỏ của chiếc cổng sắt lớn. Cán bộ mặc đồ kaki mầu vàng đứng tại buồng canh, đếm đầu kiểm ghi tổng số người vào trại.
Ngay phiá sau cổng là một sân tập họp hình chữ nhật thật lớn, đủ chỗ ngồi cho cả ngàn người. Anh em chúng tôi được lệnh ngồi tập trung thành 2 hàng dọc, vào một góc sân. Một hàng rào Công an cầm súng, đứng vây quanh cách chúng tôi chừng 5 mét để canh chừng. Đoàn bộ đội áp tải ngồi lại bên xe, đậu phiá ngoài cổng trại.
Nơi cuối sân, thấy một nhóm khác cả trăm người không biết từ đâu đến. Họ cũng phải ngồi theo hàng lối, bên cạnh những gói tư trang, chờ như chúng tôi. Có bạn trong nhóm chúng tôi nhìn thấy người quen, mới biết là cùng “Phe Ta” với nhau. Nhóm anh em ấy thuộc cấp bậc Trung tá, Thiếu tá.
Trong khi ngồi chờ đợi Trưởng toán áp tải đi “làm việc” với Ban Chỉ huy, chúng tôi có thì giờ quan sát cảnh trí bên trong trại giam. Phiá cuối sân tập họp có một toà nhà lớn lợp tôn, chắc là Hội trường. Trại giam được chia ra 2 khu giam riêng biệt. Khu bên phải, có một dẫy tường cao 3 mét, suốt chiều dài của sân. Khoảng giữa bức tường, có 2 cửa nhỏ rộng 1 mét, cao 2 mét để ra vào. Trong khu này có những dẫy nhà vách gỗ mái tôn, và gần sát tường phiá cổng lớn có dẫy nhà gạch. Bên phiá sân đối diện, có 1 hàng rào kẽm gai cao 2 mét, để ngăn cách năm sáu dẫy nhà vách gỗ mái tôn với sân tập họp.
Ngồi đợi khoảng một tiếng đồng hồ tại sân tập họp, chúng tôi nghe một hồi kẻng oang oang nổi lên phiá ngoài cổng. Sau đó thấy 2 cánh cửa sắt lớn được mở rộng ra, và lục tục từ ngoài cổng trại, từng Đội, từng Đội Tù nối đuôi nhau đi vào. Họ phải bỏ nón ra khỏi đầu, khi đi ngang điếm canh tại cổng.
Những Đội đi vào phiá Phải, khu có tường quây, gồm toàn những Tù tuổi sồn sồn, dáng mệt mỏi, lặng lẽ cặp đôi, theo nhau rảo bước vào khu giam. Có vài người chỉ trỏ về phiá đám Tù đang ngồi giữa sân vẫy vẫy tay, chắc là nhận được mặt người quen.
Những Đội rẽ vào bên trái, khu nhà sau hàng rào kẽm gai, tuổi cỡ choai choai trên dưới 20, nói năng xấc láo, ồn ào, cũng có đôi người lớn tuổi. Sau này mới biết đó là đám Tù Hình sự, chuyên trộm cắp giết người cướp của, hãm hiếp phụ nữ, in bạc Cụ Hồ giả, băng đảng chém giết nhau... Chúng là loại “tù chuyên nghiệp”, từng ra vào khám nhiều lần. Những đứa trẻ tuổi, bị giam nhiều năm trong trại giáo hoá thiếu nhi phạm pháp. Khi đến tuổi trưởng thành, chúng bị chuyển qua trại tù của người lớn, tiếp tục thi hành nốt những năm còn lại của bản án, đã tuyên phạt từ hồi còn vị thành niên.
Chúng tôi phải tiếp tục ngồi chờ cho đến sẩm tối. Sau hồi kẻng điểm danh, nhốt hết Tù cũ vào các phòng giam của họ xong, Cán bộ Công an và mấy người “Trật tự”, mới đến dẫn chúng tôi vào 1 dẫy nhà trống, trong Khu có tường bao quanh.
Cán bộ Công an, mặt lạnh lùng chẳng nói chẳng rằng. Nhưng mấy người “Trật tự” đi theo, cầm xâu khoá và chià thì luôn mồm hối thúc “khẩn trương”. Sau này mới biết họ là Tù bên khu Hình Sự, được tin cậy lựa chọn chỉ định làm “Thi Đua”, đi theo để đôn đốc Tù thi hành lệnh sai bảo của Cán bộ. Họ còn có trách nhiệm, nghe ngóng thâu nhặt những tin tức sinh hoạt của Tù, qua hệ thống “ăng ten” riêng để báo cáo cho Cán bộ.
Người sau cùng trong chúng tôi, vừa bước lọt chân vào qua ngưỡng cửa, nghe một tiếng rầm phiá sau lưng. Hai cánh cửa sắt duy nhất ra vào nhà bị đóng lại, gài thanh sắt chận ngang bên ngoài và móc ổ khoá. Mọi người bàng hoàng xúc động tái tê đôi phút. Không ngờ kể từ giờ phút này, mình chính thức trở thành Tù. Mặc dù chưa hề nghe đọc, hoặc nhìn thấy mặt mũi cái án lệnh dành cho mình như thế nào, hình thể mầu sắc của nó ra sao? Nhưng rồi ai nấy cũng bình tĩnh trở lại, mò mẫm thu xếp chỗ nằm, trong bầu không khí lạnh lùng tối tăm của NHÀ TÙ XÃ HỘI CHỦ NGHIÃ.
Một tiếng đồng hồ sau, bóng đèn điện treo ở giữa căn nhà bật sáng, anh em mới thấy rõ mặt nhau, ai cũng dáng vẻ bơ phờ mệt mỏi.
Nhờ có ánh sáng vàng vàng của chiếc bóng đèn điện, mới thấy được ở phiá cuối nhà có một ngăn riêng để 3 thùng gỗ cho Tù đại tiện, tiểu tiện ban đêm ngay trong nhà. Thật may mắn, đêm nay chắc là được ngủ yên, không bị đánh thức bởi những tiếng hô báo cáo đi tiểu tiện, đại tiện, của Tù như trong suốt 2 năm vừa qua.
Nhưng, qua đêm rồi mới biết mình mừng hụt, “thoát vỏ dưa, gặp phải vỏ dừa” còn tệ hơn. Bầy RỆP đói lâu ngày, trong kẽ sàn gỗ chui ra thi nhau hút máu. Đau nhoi nhói, hết chỗ này đến chỗ kia trên toàn thân thể, lo gãi ngứa rà rà giết rệp cả đêm không ngủ được.
Điện chỉ rọi sáng được một tiếng đồng hồ sau thì tắt, cùng một lúc với những tiếng kẻng trại báo giờ ngủ bắt đầu. Sau này mới biết mỗi tối có điện sáng 1 tiếng đồng hồ trước giờ ngủ, để từng Đội Tù ngồi tập họp trong buồng, “phê bình, kiểm thảo, xây dựng, giúp nhau sửa sai những lầm lỗi vi phạm nội quy trại trong ngày, để mọi người cùng cải tạo được mau tiến bộ”, chớ không phải để cho Tù có ánh sáng thu dọn chỗ ngủ.
Sáng ngày hôm sau, khi mọi Tù cũ ra khỏi phòng giam đi lao động hết, mới đến lượt chúng tôi được mở cửa cho ra, làm vệ sinh cá nhân và lãnh phần ăn sáng. Xong xuôi, lại đóng gói hành trang ra xếp hàng tại sân tập họp lớn của Trại, để trình diện làm thủ tục bàn giao giữa các Cán bộ Quân đội và Công an.
Họ gọi từng người lên, trả lại giấy biên nhận giữ các vật tư của Tù (đồng hồ, nhẫn, dây truyền vàng bạc…) do Trại cũ cấp, lãnh giấy biên nhận của Trại mới. Những gói Âu Dược riêng của anh em buộc phải gửi Trại cũ giữ, nay 2 nhóm Cán bộ chuyển giao cho nhau. Sau này mất luôn, Tù chẳng bao giờ được sử dụng để trị bệnh riêng mỗi khi cần, như hồi còn ở bên Trại Quân đội quản lý.
Nhờ vậy biết được đây là phân trại K1, thuộc Trại Tân Lập, Tỉnh Vĩnh Phú. Ban chỉ huy Trại Tân Lập đóng tại K5, Khu trại có tấm bảng hiệu “Công an Nhân dân”, đoàn xe của chúng tôi đã chạy ngang, hồi chiều hôm qua trước khi đến đây.
Tỉnh Vĩnh Phú là nơi có đền thờ Quốc Tổ Hùng Vương, của Dân tộc Việt Nam từ mấy ngàn năm nay. Tôi nhớ có đọc, tại Thư viện Liên trại 1, một tài liệu tâng bốc Hồ Chí Minh của một văn nô Cộng sản Việt Nam, ghi lại câu chuyện Hồ Chí Minh đến thăm Đền Hùng. Anh ta nói khi viếng Đền Hùng, Bác Hồ có tức cảnh đề mấy vần thơ, trong đó có đoạn dùng những từ ngữ rất hỗn xược ngạo mạn như sau : “...Ngày xưa Bác dựng nước, Ngày nay Tôi giữ nước...”
Bàn giao xong, Bộ đội Cụ Hồ phủi tay ra đi, để chúng tôi ở lại cho Công an Nhân dân quản lý. Họ bắt đầu đọc tên “biên chế” thành Đội mới. Nhóm chúng tôi có anh Dương Hiếu Nghĩa được cử làm Đội trưởng Đội làm gạch, gồm toàn Linh mục, Thượng Tọa, Đại Đức Tuyên úy Quân đội VNCH. Linh mục Nguyễn văn Thịnh cũng sang Đội gạch với anh Nghĩa, còn Mục sư Dương Kỳ thì ở lại với nhóm chúng tôi.
Nhóm chúng tôi được chỉ định là Đội Nông Nghiệp, và được tăng cường thêm 3 người lạ : 1 Trung úy Bộ binh, 1 Đại úy Công binh, và 1 Đại úy Cảnh sát Quốc gia (Tôi không nhớ rõ Họ Tên của các bạn này).
Chúng tôi được dẫn vào giam tại dẫy nhà “cách ly”, trong khu giam Tù miền Nam có tường bao quanh. Dẫy nhà gạch này được chia ra 3 ngăn có lối vào riêng, có tường gạch phân cách giữa các ngăn không thông thương được với nhau, cũng như cách biệt hẳn với các dẫy nhà gỗ trong khu.
Đội chúng tôi bị giam ở ngăn giữa. Đội Gạch của các vị Tuyên úy trong ngăn bên phải, phiá sát gần sân tập họp lớn. Ngăn bên trái chúng tôi, là Phòng Kỷ Luật giam những Tù vi phạm các Điều lệ Nọâi quy Trại giam. Cửa vào ngăn này, ở phía đằng sau dẫy nhà, phiá ngoài tường rào của khu.
Ngăn giam chúng tôi, chỉ có một cửa ra vào bằng sắt, có chốt móc khoá cửa ở phiá bên ngoài. Bên trong, có 2 dẫy sàn nằm 2 tầng chồng lên nhau bằng gỗ. Phiá cuối ngăn, có một phòng nhỏ bề ngang 1 mét rưỡi, để một thùng gỗ đựng phân, cho Tù giải quyết nhu cầu vệ sinh ban đêm.
Chúng tôi ở đây được một tuần lễ, bỗng một buổi sáng đang ngồi tập họp chờ gọi xuất trại đi lao động, anh em rì rầm truyền tai nhau, tin Linh mục Hiệu chết trong Nhà Kỷ Luật. Biết được là nhờ anh em Đội Mộc, hồi đêm có người phải “đột xuất” ra xưởng đóng áo quan, cho một nhóm Tù khác đem chôn. Trại phao tin Linh mục Hiệu tự tử chết. Theo anh em Công giáo, đây là tin bịa đặt hoàn toàn, vì hành động này không bao giờ có thể xẩy ra đối với một Linh mục.



NHÀ TÙ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.

Tự do thâu gọn một căn nhà,
Cửa sắt ngăn đường chặn lối ra.
Quanh Láng nhởn nhơ toàn bóng Qủy.
Đêm dài lởn vởn đặc hình Ma.
Không gian co cụm sau tường gạch.
Không khí bao trùm chục thước vuông.
Sàn gỗ hai tầng, người sáu tấc.
Theo nhau tha thẩn Rệp đầy buồng.
Tù Người Tù Rệp nằm chung ván,
Tranh đấu ngày đêm chẳng nhịn nhường.
Rệp hút máu Người no để sống,
Người lo diệt Rệp nát như tương.
Người, Rệp, chung nhau cảnh đoạn trường,
Không cùng lý tưởng, hoá không thương.
Rệp chuyên hút máu, nên Người diệt,
Để tránh cho đời, nọc bệnh vương.

TÙ KHÔNG ÁN.

Từ đây cách trở sơn khê,
Kiếp Tù không án, ngày về hẳn xa.
Trầm luân đâu một mình Ta,
Trăm ngàn chiến sĩ Cộng hoà chịu chung.
Bên nhau trong bước đường cùng,
Giữ sao khí phách anh hùng không phai.
Mặc cho Quỷ Đỏ thị oai,
Kệ thây bầy thú vô loài dương uy.
Vượng, Suy, Trời định có kỳ,
“Sắc không, không sắc”, lo chi!… nản lòng?

K1, Trại Tân Lập, Vĩnh Phú, tháng 11-1977.



HOME


(Còn tiếp..)







                                                                        Chương 20
                                 ỐC ĐẢO TÂN LẬP (VĨNH PHÚ) ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN

Kẻng báo thức sáng, Cán bộ Trực Trại dẫn “Thi Đua” đi mở cửa các nhà giam. Họ đi vòng hết nhà này đến nhà kia, mãi 30 phút sau mới đến lượt Đội Đại tá chúng tôi được mở cửa cho ra sau cùng. Anh Trực Nhà và 2 anh trực phụ (thay phiên hàng ngày), tất tưởi dắt nhau chạy đi lãnh phần ăn sáng và nước uống chín về chia cho anh em.
Chia vội vã vừa xong, kẻng tập họp đi lao động cũng bắt đầu gióng lên. Ai nấy cầm phần ăn của mình, vừa đi ra sân tập họp vừa ăn. Người nào ăn chưa kịp hết, phải bỏ vào túi, chờ lúc ra khỏi cổng trại vừa đi vừa ăn tiếp. Nếu không ăn như vậy, ra tới hiện trường phải lao động ngay, đói không làm việc được “năng nổ”, tối về sẽ bị “phê bình xây dựng”. Nếu bị anh em góp ý kiến “xây dựng” hoài, hậu quả tai hại sẽ đến với bản thân.


Phần “sắn duôi” ăn sáng chẳng được bao nhiêu, ém gọn lại được vừa bằng một nắm tay. Chỉ đôi người có dạ dầy yếu, phải nhai chậm rãi như Tôi mới gặp trở ngại. Còn nhiều bạn khác bụng dạ khoẻ, ăn uống nhậm lẹ thì chả thấm tháp gì.
Sáng nào cũng vậy, trong thời gian ngồi chờ Cán bộ Trực Trại, đến đọc lệnh gọi các Đội lần lượt xuất trại, mấy người “Thi Đua” đi vòng “kiểm tra” xem áo quần của ai chưa đóng dấu sơn “ám số Trại”. Họ đem con dấu bằng gỗ to dài hơn bàn tay, tẩm sơn đen pha lẫn dầu, đến đóng lên lưng áo và 2 bên ống quần. Người nào quầo áo đã đóng dấu, nhưng lâu ngày sơn bị phai bạc mờ đi, thì đóng chồng lên cho được rõ ràng. Đây là biện pháp phân biệt Tù với người thường ngoài trại, và dễ lùng bắt nếu Tù trốn trại.


Đội chúng tôi và nhóm anh em mới tới, xuất trại lao động lần đầu tiên, được “Thi Đua” “quan tâm” “chiếu cố” trước nhất. Họ đến đóng dấu sơn “ám số trại” lên quần áo chúng tôi, ngay khi chúng tôi vừa tới ngồi tại sân tập họp.
Sau này Trại phát cho mọi người, loại quần áo Tù bằng vải thô Nam Định. Cả áo lẫn quần đều bị may ghép lẫn lộn, bằng những mảnh vải nhuộm 2 mầu khác nhau. Nếu nửa thân và tay áo bên Phải mầu xanh nước biển, thì nửa thân và tay áo bên Trái mầu trắng. Quần cũng một ống trắng, một ống xanh. Thật rõ ràng lồ lộ chẳng lẩn đi đâu lọt, thế mà cả quần lẫn áo vẫn phải đóng dấu “ám số trại”. Cứ mỗi 6 tháng được lãnh 1 bộ. Nếu rách sớm hơn thời gian quy định, phải vá víu mà mặc. Có thể dùng quần áo riêng của mình, nhưng phải đóng dấu sơn “ám số trại” lên trên.



Đội chúng tôi bắt đầu tham gia lao động tại K1, Trại Tân lập, bằng công tác đi chặt cây xim và cây muông, đem về làm củi đun cho Nhà Bếp. Xim được chặt trên những ngọn đồi cách trại 3 cây số, bó gánh về chất đống dài sát tường phiá ngoài cổng trại giam. Nhà Bếp Tù ra lấy vào dùng, đun nấu thực phẩm và nước uống chín phát cho Tù. Nhà bếp của Cán bộ canh Tù, cũng lấy củi ở đây về dùng.
Trước khi lên đường, anh em phải ghé vào đống củi cao như núi bên cạnh tường ngoài cổng trại, lấy mỗi người 1 cây dài 2 mét, đường kính khoảng 10 phân, đem theo làm đòn gánh củi mang về.






Củi xim thân cây nhỏ, cỡ lớn nhất chỉ bằng ngón chân cái, xum xuê cành con và nhiều lá, cao chừng 1 mét rưỡi. Chặt củi chẳng khó khăn gì. Nhưng muốn có dây để cột củi thành từng bó, phải cắt cỏ tranh dài, bện, nối lại với nhau. Không biết cách cột cho chắc, khi xốc đòn vào đưa lên vai bó củi sẽ xổ tung ra, hoặc rơi vãi từ từ dọc đường rất phiền phức. Nhờ hồi còn nhỏ Tôi tham gia Đoàn Hướng Đạo Sinh, đã có dịp học cách bện dây và cột bó củi, nên mọi việc hoàn tất suông sẻ. Làm phần mình xong, Tôi lén đến tiếp tay các bạn, đang lúng túng vì chưa làm bao giờ. Anh Trịnh Đình Đăng (Tôi quen từ hồi ở Trại Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hoà) cũng rất thạo việc này, cũng đã giúp đỡ nhiều anh em khác hết mình. Chúng tôi phải làm lén, vì nếu Cán bộ thấy được sẽ bị “kỷ luật”.
Gom xếp một gánh củi nặng độ 2 chục kí lô, với 2 bó nhỏ, vừa với sự chịu đựng của bắp thịt vai mình, thì coi không được. Cán bộ nhìn thấy chỉ trích là : “Bó củi gì mà chỉ bằng nắm tay, trẻ con nó còn chê nhẹ”. Nếu gom bó đủ lớn coi cho vừa mắt, dọc đường về sẽ bị chiếc đòn gánh, và sức nặng của 2 bó củi, hiệp nhau hành hạ bắp thịt vai, cổ, cột xương sống lưng của mình đau đớn chịu không nổi.
Không biết gánh, lúc nào cũng phải gồng vai, gân cổ lên chịu sức nặng, cắn răng bước đi dồn dập như chạy. Mỗi bước chân đạp xuống đường là một nhát dao cứa trên vai, đau buốt vào óc, dồn xương sống, mỏi hông ngang thắt lưng. Ráng hết sức, cũng chỉ đi được khoảng trăm mét, lại phải quăng gánh củi xuống đất để nghỉ. Sau mỗi lần nghỉ, lúc đưa gánh củi lên vai đi tiếp cho kịp bạn bè, là một lần khổ nạn. Cảm thấy hình như gánh củi nặng gấp đôi trước, bắp vai nóng rát đau chẳng khác nào bị vọp bẻ (chuột rút), chịu hết muốn nổi. Bị bắt buộc phải làm mãi, rút kinh nghiệm lần rồi cũng “giác ngộ” biết được, khi gánh phải hơi cúi đầu khòm lưng về phiá trước, để cho đòn gánh đè tréo từ giữa bả vai bên này, qua u thịt sau cổ, sang gần bả vai bên kia, bắp thịt vai sẽ không bị đau. Bước đi phải nhịp nhàng, theo đà nhún nhẩy lên xuống của 2 bó củi, ở 2 đầu đòn gánh.
Nhiều bạn cả đời chưa có dịp phải gồng gánh, thấy những người buôn thúng bán bưng làm hàng ngày, cứ tưởng dễ dàng như mình ngồi lái xe hơi. Nay phải làm mới thấm thiá, và thán phục cái tài xốc vác chịu đựng của những người “lao động chân tay” trần ai cực nhọc đến mức nào.



Đi cắt củi được hơn một tuần lễ, Trại phát động Kế hoạch “Thi đua làm Cách mạng xanh”. “Mục đích yêu cầu” là làm cho tất cả những khoảng đồi núi trong phạm vi đất dành cho Trại, đang trơ trụi không cây cối, phải được phủ kín bằng một mầu xanh của các ruộng sắn (khoai mì gồm 2 loại khác nhau : 1.-công nghiệp, 2.-để ăn), và miá re (thân nhỏ, vỏ cứng, nhưng rất ngọt, ép lấy nước cô thành “mật đường” để cất rượu trắng). Đây là “kế hoạch làm kinh tế” để Trại tự túc, có tiền nuôi Tù và Cán bộ canh Tù, theo lệnh Nhà nước ban hành từ hồi đầu năm 1977.


Đội chúng tôi phải đi đào hố trồng sắn, ngay trên những ngọn đồi đã chặt củi xim. Mỗi buổi lao động, sáng cũng như chiều, mỗi người phải đào 15 hố, vuông cạnh 70 phân, sâu 80 phân. Các hố phải đào cách nhau một mét. Trên mặt đồi, cỏ dại cỏ tranh dầy đặc cao cả thước, phải phát sạch trước khi đào hố. Đất đỉnh đồi cứng chắc nịch, lẫn đá lổn nhổn. Không có xẻng, mỗi người phải múc đất từ dưới lòng hố lên bằng cuốc của mình. Vất vả vô cùng cho những người lãnh phải cây cuốc cũ, lưỡi bị mòn nhỏ, cùn hoặc xứt mẻ. Chỉ có 3 anh bạn Tù cấp úy tăng cường nhân số Đội, và vài người khác khoẻ như anh Đội trưởng Lê Đình Luân, Mục sư Dương Kỳ, Tôn Thất Hùng... là đạt chỉ tiêu quy định. Buổi lao động nào họ cũng dư ít phút ngồi nghỉ ngơi. Còn đa số anh em, chẳng bao giờ hoàn tất đủ “chỉ tiêu” trước lúc mãn giờ lao động.


Mỗi người tham gia lao động, được Quản giáo Đội “ghi điểm tính công” hàng ngày. Ai đau ốm nghỉ bệnh nhiều, không tham gia đủ số ngày công, hay lao động hàng ngày không “đạt chỉ tiêu”, sẽ bị phạt giảm mức ăn quy định hàng tháng xuống. Những người lao động “năng nổ vượt chỉ tiêu”, hàng đêm được anh em trong Đội “bình bầu” là “gương mẫu” nhiều lần, sẽ được Quản giáo quyết định thưởng tăng phần ăn. Người được thưởng sẽ được ăn tăng thêm 2 kí lô một tháng. Người bị phạt, phải giảm mức ăn xuống còn 11 kí lô, tức là bớt đi 1 kí lô. Mức ăn quy định cho mỗi người bình thường, hàng tháng là 12 kí lô ngũ cốc (gạo, hoặc các loại khác như : bột mì, hột bo bo, sắn, bắp, khoai).



Thời gian chúng tôi tới trại này, phần gạo được thay thế bằng “sắn duôi”, theo tiêu chuẩn một đổi một, tức là 1 kí lô “sắn duôi” khô, tính bằng trị giá 1 kí lô gạo. “Sắn duôi” là sắn tươi bào thành sợi nhỏ như sợi bánh phở, sấy hoặc phơi khô cho bốc hết hơi nước. Tôi không biết tại sao gọi là “sắn duôi”, nghe anh em Tù cũ tại đây gọi vậy, thì nhận biết như vậy. Để làm cho “sắn duôi” chín, người ta để vào các vỉ tre đan, hấp từng trồng nhiều vỉ một lượt, trên những vạc nước đun sôi. Lúc còn sống “sắn duôi” mầu trắng đục rời rạc như gạo. Khi chín, trở thành trong và dính quện với nhau như cơm nếp. Những sợi sắn không chín, vẫn giữ nguyên mầu trắng đục. Không biết tại sao, lúc nào “sắn duôi” hấp cũng bị nửa chín nửa sống.



Phần “sắn duôi” ăn sáng, được nấu cùng lúc với phần ăn chiều, đong riêng ra để qua đêm đến sáng mới phát. Gặp mùa lạnh thì không sao. Đến mùa nắng thời tiết oi nồng qua đêm, “sắn duôi” bị thiu nhơn nhớt và có mùi chua, ăn vào nhiều người yếu dạ bị đau bụng tiêu chẩy. Tù vẫn phải lãnh về ăn, vì chẳng có gì khác để nhồi vào bao tử, cho có sức chịu đựng mà lao động.


Việc hớt tóc cho Tù ở K1 trại Tân Lập này, khác hẳn với bên các Trại do Quân đội quản lý. Ở đây, Trại mua 1 bộ đồ hớt tóc, gồm Tông-đơ, kéo và lược, trao cho Ban “Thi Đua” cất giữ. Hàng ngày, theo lịch trình quy định luân phiên cho các Đội mượn, đem ra “hiện trường lao động” hớt tóc cho nhau. Hồi còn ở K2 - Liên trại 1 – Việt Cường Yên Bái, sau khi bị sốt vàng da hành không chết, Tôi mất sức nhiều không ra ngoài lao động nặng được. Quản giáo Đội đã trình Phân trại trưởng, cho Tôi ở trong trại phụ trách phòng hớt tóc một thời gian. Anh em trong cùng Đội hiện nay, ai cũng biết. Do đó, ngày nào đến phiên Đội được xử dụng bộ đồ hớt tóc, anh Đội trưởng cũng trình Quản giáo Đội cho Tôi miễn lao động, để hớt tóc cho anh em.



Quản giáo bằng lòng, nhưng buộc anh em trong Đội, phải gồng mình làm bù đắp phần của Tôi, nhằm “bảo đảm chỉ tiêu chung” của Đội phải “đạt” trong ngày. Giống hệt trường hợp anh phụ trách nấu nước chín tại “hiện trường lao động”, anh em cũng phải làm nhiều hơn để bao phần “chỉ tiêu” hàng ngày của anh ấy.
Việc hớt tóc giữa trời, có nhiều kỷ niệm khó quên, cho cả thợ hớt và người được hớt. Không có ghế cho khách ngồi, nên cả thợ lẫn khách đều phải đứng. Hai người cao xấp xỉ ngang nhau, do đó khách buộc phải đứng dưới ruộng hoặc rãnh bên luống, chịu đựng ướt chân và quần, nhường cho thợ đứng trên bờ đất cao, không phải vói tay nghển cổ mới hớt được dễ dàng.
Thời tiết dù mưa hay nắng, cả 2 người cùng phải đứng giữa đồng mà hớt cho nhau, không có một tán cây bóng mát nào để núp. Lúc nắng còn đỡ, gặp trời mưa thì thật là một cực hình cho cả 2 người, mặc dù ai cũng có khoác áo mưa. Khách phải để đầu trần, nước mưa xối xả trôi qua cổ áo vào trong người, làm ướt hết cả áo trong lẫn áo ngoài lạnh cóng. Thợ luôn luôn phải giơ 2 tay cao ngang vai, nước mưa cũng tự do theo 2 cổ tay áo trôi vào nách, làm ướt mọi lớp áo và mình, lạnh chẳng thua gì khách.



Chúng tôi đến đây được hơn một tháng, bắt đầu có dịch kiết lỵ lan tràn trong trại. Các khu vệ sinh công cộng dùng thùng đựng phân lộ thiên, ruồi nhặng sinh sôi nẩy nở nhanh chóng, bay đi khắp trại, nhất là khu nhà bếp. Có thể trăm phần trăm nhân số Tù mắc bệnh. Những người khoẻ sức đề kháng trong cơ thể còn mạnh, chỉ bị sơ sơ vài 3 ngày rồi hết. Những người suy nhược nhiều sức đề kháng yếu, bệnh ngày một tăng, từ đi đại tiện có phân, lần lần chỉ còn nước nhờn và máu. Ngày đêm đi liên tục cả 2, 3, 4 chục lần, mệt mỏi hốc hác tiều tụy mà vẫn phải đi lao động như thường. Chỉ những ai ngày đêm đi từ trên năm mươi lần ra toàn máu, và thêm sốt nóng lết đi không nổi nữa, Đội trưởng mới ghi danh cho đi khám bệnh.



Khi nộp sổ khám bệnh, Tù “Thi đua” làm Y tá tại Bệnh xá buộc phải ra góc sân, rặn ra mũi và máu còn nóng hổi trình cho Cán bộ Y tế thấy rõ ràng, mới được cho vào Bệnh xá nằm chữa trị. Rất nhiều anh em khai bệnh, nhưng không được Cán bộ Y tế cho vào điều trị tại Bệnh Xá, chỉ được cấp thuốc uống tại chỗ, rồi theo Đội tiếp tục đi lao động, mặc dù họ rất mệt mỏi đuối sức.
Những người bị kiết lỵ nặng, nhưng không bị phù thũng thì có hy vọng sống. Còn những ai vừa kiết lỵ vừa phù thũng, thì chỉ ít ngày sau là đi về với Tổ tiên. Cũng có người chỉ bị phù thũng vì thiếu dinh dưỡng chớ không bị kiết lỵ. Tôi đã bị ở trong trường hợp kiết lỵ và sốt nặng, đến nỗi bị ngất xỉu bên thùng phân trong phòng giam ban đêm, phải kêu cấp cứu mới được đưa vào Bệnh xá nằm điều trị.
Bệnh xá có 2 phòng, mỗi phòng rộng khoảng 16 mét vuông. Mỗi phòng có 5 giường nhỏ loại 1 người nằm. Tôi và những người kiết lỵ nằm trong phòng “bệnh truyền nhiễm”. Lúc cấp cứu đưa vào, Tôi phải nằm tạm dưới đất, vì tất cả 5 giường đều đã có 2 người nằm chung. Gần sáng có người chết, sau khi bệnh nhân khiêng anh ấy ra túp lều chứa xác chết, nơi giữa bãi đất trống phiá sau Bệnh xá, Tôi được lên giường nằm thế vào đó.




Thuốc chữa trị hàng ngày, chỉ là 1 bát nước đủ loại lá thuốc Nam do nhân viên bệnh xá lên rừng kiếm về, băm nhỏ, phơi khô, bỏ vào vạc ninh nhừ để qua đêm, đến sáng phát cho bệnh nhân. Đây là loại thuốc trị Bá Bệnh. Ai đau ốm ra sao không cần biết, hễ cứ đến xin khám bệnh là được cho uống 1 bát. Nếu ai có sốt thì được thêm dăm chục viên Xuyên Tâm Liên, mầu vàng xậm như nghệ trộn với gì không biết, vê viên tròn nhỏ bằng hột đậu xanh, mùi vị hắc hắc the the lưỡi.
Ban ngày, mưa cũng như nắng, ở góc sân Bệnh xá phiá sau gần bếp có một thùng gỗ, để cho bệnh nhân ra xếp hàng thay phiên nhau ngồi rặn è è, ôm bụng rên đau quằn quại. Còn ban đêm, cửa các phòng bệnh bị khoá trái bên ngoài y như các láng giam, nên có một thùng gỗ để nơi góc phòng. Lúc nào cũng có 4, 5 người ngồi chồm hổm ôm bụng, chụm đít quanh thùng nhăn nhó rặn, cổ bạnh ra mặt mũi đỏ gay.



Tại Bệnh xá, có anh Tù Hình Sự được Cán bộ Y tế dùng làm “Thi Đua”, cho ở thường xuyên ngày đêm trong Bệnh xá kiểm soát bệnh nhân thay Cán bộ. Nếu bệnh nhân nào không gọi anh ta là Bác sĩ, hoặc không khéo lời tâng bốc anh ta, thì dù bệnh tình chưa thuyên giảm, cũng sẽ bị đề nghị cho xuất viện ngay để nhường chỗ cho người khác. Ai biết điều và nịnh bợ anh ấy, thì dù đã hết bệnh rồi cũng vẫn được ở nghỉ thêm vài 3 ngày mới phải rời Bệnh Xá.



Theo tin tức thâu lượm được qua những anh em nằm tại Bệnh xá trước Tôi, và phối kiểm qua những lời ba hoa của anh ta trong thời gian Tôi nằm tại Bệnh xá, biết được anh Tù Hình Sự này bị án tù trung thân, vì tội “làm giấy bạc Cụ Hồ giả”. Hồi còn ở ngoài xã hội, anh ta làm nghề Chăn Nuôi, chuyên trách về thiến Heo, thiến Gà trống, nên anh ta tự coi mình là Bác sĩ Thú Y.
Có một chuyện ly kỳ liên quan đến anh “Thi Đua” này, làm anh em Đội chúng tôi hoảng sợ không bao giờ quên được. Số là, Đại tá Tô văn Vân phụ trách nấu nước ngoài “hiện trường lao động” của Đội chúng tôi, một đêm kia tự nhiên bị đau bụng giữ dội phiá bên Phải, nghi là sưng ruột dư, phải kêu cấp cứu và được đưa vào Bệnh xá.



Sáng hôm sau, là ngày Chủ nhật nghỉ lao động, Đội chúng tôi bị tập họp lên Hội trường, để nghe anh “Thi Đua” này cùng Cán bộ Y tế, nói cho nghe về tình trạng nguy kịch của anh Vân, cần phải giải phẫu gấp nếu không thì chết. Họ đưa ra “phương án hành động khẩn trương, thực hiện ca mổ ngay tại Phân trại”, vì thời gian chuyển qua K5 (Trại trung ương) làm thủ tục đưa ra Tỉnh e không còn kịp. Họ tỏ ra rất tự tin, nhờø có rất nhiều kinh nghiệm về mổ sẻ súc vật (cũng chẳng khác gì người ta), nên rất bảo đảm không có gì phải lo ngại.
Họ yêu cầu chúng tôi góp ý kiến quyết định, đồng thời hỏi ai có lưỡi dao bào râu còn mới, thì cung cấp cho họ xử dụng làm dao mổ. Chúng tôi ngỡ ngàng, dứt khoát xin miễn góp ý kiến, vì mạng sống của anh Vân không thuộc phần trách nhiệm của chúng tôi quyết định. Đây là việc thuộc quyền quyết định của Nhà nước và thân nhân của anh ấy. Hơn nữa, trong chúng tôi không ai có lưỡi dao bào râu còn mới để cung cấp.



Buổi trưa ngày hôm sau là Thứ Hai, khi anh em đi lao động về, anh Trực Buồng cho biết, hồi sáng lúc đi ngang qua khu Bệnh Xá xuống bếp lãnh thực phẩm cho bữa trưa, đã gặp anh Vân đứng bên bờ rào Bệnh xá. Anh Vân cho biết đã hết đau, nhờ hồi hôm mửa ra mấy nùi giun đũa, trước khi mửa có con đã chui ra từ lỗ mũi. Thật khủng khiếp !!! Sau khi hết đau bụng, không biết anh Vân làm cách nào, được “biên chế” vào Bệnh xá phụ giúp anh “Thi đua” nấu thuốc, cháo, và nước uống chín cho Tù nằm điều trị tại đây.


Trong thời gian nằm tại Bệnh xá, Tôi còn phải chứng kiến một anh kiết lỵ nằm chung giường, chết rất thương tâm. Anh ấy được đưa vào nằm cạnh Tôi sau giờ khám bệnh buổi chiều, đến nửa đêm thì chết. Ngay sau khi được vào Bệnh xá, anh ấy mở vali quần áo ra kiểm điểm lại mọi thứ. Cầm những lá thư và ảnh của Vợ Con ra khoe Tôi, và chăm chú đọc lại rất vui vẻ, yêu đời.
Tôi thấy anh ấy còn giữ 2 hộp sữa bò đặc hiệu con chim, và một hộp bánh quy. Tôi nói chúng ta bị bệnh là do thiếu dinh dưỡng mà ra, sao anh không dùng sữa và bánh mà “bồi dưỡng” cho nó khoẻ, để dành làm gì. Lỡ chết vì đói kiệt sức cơ thể không chống nổi bệnh hoạn, thì chẳng phụ lòng Vợ Con lắm sao? Anh ấy cười trả lời chưa cần, Tôi còn đủ sức chịu đựng mà!



Đến khuya anh ấy lên cơn sốt nóng như lửa, rồi mê man. Tôi phải kêu cứu và xuống đất nằm, để nhường nguyên chiếc giường cho anh ấy. Anh “Thi Đua” nằm ở phòng khám bệnh kế bên, nói vọng sang trả lời để sáng sẽ tính. Đến gần sáng, anh Tù bệnh lịm dần, không nghe tiếng rên rỉ nữa. Anh ấy đã ra đi vĩnh viễn. Anh ấy là một Sĩ quan cấp Úy thuộc Công binh, Tôi không nhớ tên và đơn vị.
Phải đợi đến kẻng báo thức sáng, Cán bộ Trực Trại vào mở khoá cửa phòng giam bệnh, và Cán bộ Y tế đến lập biên bản xong, mới ra lệnh cho chúng tôi, để anh chết nằm vào chiếc chăn dạ của anh ấy, khiêng ra bỏ tại túp lều tranh chứa xác giữa bãi cỏ hoang, cách Bệnh xá khoảng một trăm mét. Người ta đem anh ấy đi chôn lúc nào không ai thấy, chắc là ban đêm.
Tôi nằm Bệnh xá được một tuần lễ thì bệnh kiết lỵ thuyên giảm. Không biết nhờ 2 bát nước thuốc Nam và 60 viên Xuyên Tâm Liên mỗi ngày, hay nhờ 2 bát cháo gạo lỏng nêm muối, Bệnh xá cho Tù bệnh ăn thay vì “sắn duôi”, hay nhờ được nghỉ không phải lao động?


Theo quy định của trại, Tù bệnh nằm điều trị tại Bệnh xá, được phát mỗi bữa 3 muổng đường để ăn với cháo. Nhưng anh “Thi Đua” chặn lấy dùng riêng, và nói rằng kiết lỵ mà ăn đường bệnh sẽ tăng chữa không được. Chẳng ai dám tố cáo, vì sợ bị anh “Thi Đua” hại ngầm thì thiệt thân. Tôi biết được là nhờ anh Tô văn Vân, nói nhỏ lúc anh em gặp nhau tại bếp của Bệnh xá. (Anh Vân và Tôi biết nhau từ năm 1967, khi anh ấy còn là Thiếu tá được đưa về làm Chánh văn phòng cho Đại tá Hoàng Gia Cầu Tổng cục Trưởng Địa phương quân và Nghĩa quân tại Bộ Tổng Tham mưu, thay thế Đại tá Trương văn Xương thuyên chuyển đi Vùng 4 Chiến thuật ở Cần Thơ. Lúc đó Tôi đang giữ chức vụ Tổng cục Phó.)
Những người nằm điều trị kiết lỵ trước Tôi, khi nào họ hết hẳn không đi cầu ra máu nữa thì mới phải ra viện. Nhưng phần Tôi, không biết vì sao bệnh chỉ mới thuyên giảm chưa dứt, ngày đêm vẫn còn đại tiện ra mũi và máu khoảng 6, 7 lần, gầy ốm hốc hác, mệt đi bộ xa chưa nổi. Thế mà Cán bộ Y tế nói là Cán bộ Quản giáo Đội đến yêu cầu, phải cho Tôi ra khỏi Bệnh xá theo Đội đi lao động để bảo đảm ngày công quy định.











Tôi ra theo Đội đi phát cỏ và vun gốc sắn. Trong thời gian này, các anh Phạm Tài Điệt, Trần văn Thăng (An ninh quân đội), Nguyễn văn Phúc (Chính huấn Tổng cục Chiến tranh Chính trị) vì lao động lơ là kém năng xuất, và Tôi (Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị, Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến) còn thêm cái tội nằm Bệnh xá lâu không bảo đảm đủ ngày công, nên bị phạt giảm mức ăn hàng tháng xuống còn 11 kí lô. Hai người khác trong Đội “lao động năng nổ”, được thưởng tăng mức ăn lên 13 kí lô là Mục Sư Dương Kỳ và anh Tôn Thất Hùng.
Bốn người bị phạt giảm mức ăn, để tăng mức ăn cho 2 người lao động giỏi được thưởng, thật là bất ngờ làm mọi người xửng sốt. Người bị phạt buồn đã đành, người được thưởng cũng xốn xang áy náy.
Thoạt đầu các vị này chỉ muốn cố gắng “năng nổ lao động” để được coi là “ cải tạo tiến bộ” sớm được tha. Đâu ngờ Cách Mạng lại thâm độc áp dụng luật bù trừ, lấy của người bị phạt thưởng cho người “lao động năng nổ”, để gây thù hận chia rẽ giữa anh em Tù với nhau.


Việc xẩy ra rồi, 2 người được thưởng mới tỏ ra hối hận, vì biết đã bị lừa mắc bẫy của “Vẹm” (chữ lóng dân chúng dùng để ám chỉ Việt Minh từ hồi 1946). Anh Tôn Thất Hùng thỉnh thoảng đưa nguyên phần ăn một bữa của anh ấy, tăng cường cho chúng tôi để tỏ lòng hối hận. Còn Mục sư Kỳ thì không dám. Ông nói qua trung gian cho anh em biết, sợ làm như anh Hùng, Cán bộ bắt được sẽ buộc tội vi phạm Nội quy, Điều lệ của Trại, nguy hiểm cho cả người nhận lẫn người cho.
\


Mới tới K1 Tân Lập được khoảng 2 tháng, ai nấy đã hốc hác, nhất là sau dịch kiết lỵ phù thủng. Mọi người suy xụp rõ ràng, chỉ còn da bọc xương, bơ phờ. Ai cũng sụt đi phân nửa cân nặng của mình, trông chẳng khác nào những hình “nộm bù nhìn” trong những bộ quần áo tế thần lụng thụng. Ngày đi trình diện tập trung Tôi cân nặng 67 Kí lô, đến lúc này chỉ còn được 30 kí. Chiếc thắt lưng da mang theo, bây giờ muốn dùng để giữ quần cho khỏi bị tụt xuống, phải đục thêm lỗ cách lỗ cũ khoảng 20 phân. Biết chắc là mình chỉ còn nặng đúng 30 kí lô, vì thời gian Đội chúng tôi phụ trách phơi đong cân thóc cất vào kho, anh em đã lén đứng lên chiếc cân bàn để cân, trước khi cân các bao thóc.
Lúc nào cũng đói, lại phải lao động vất vả với “chỉ tiêu” cao, thiếu dinh dưỡng trầm trọng, nên trong khi lao động ở ngoài đồng, hễ thấy sinh vật nào nhúc nhích ăn được là vồ ngay. Ngoé, nhái, ễnh ương, chằng hiêu, cóc, thằn lằn, rắn, cào cào, châu chấu, rế cơm, rế mèn, chuột nhắt, gì cũng chộp hết, ngoại trừ điả và giun. Mặc dù biết làm như vậy là vi phạm Điều lệ, Nội quy Trại giam, mọi người đã phải học thuộc lòng, nhưng vẫn làm. Thà mưu sinh để sống còn cho tới ngày được cứu thoát, còn hơn tôn trọng Nội quy để chết, trước khi thấy “ánh sáng ló dạng nơi cuối đường hầm”.




Thoạt đầu, bắt được nhái ngoé còn bỏ túi chờ tới giờ giải lao, mò đến chỗ nấu nước giả bộ hút thuốc lào, để bỏ vào đống than nướng chín rồi mới ăn. Nhưng về sau, anh nấu nước sợ vạ lây không cho, đành lột da ăn sống tại chỗ, hoặc nhét vào túi đem về ngâm nước muối trại phát 3 thià canh mỗi bữa, ăn với “sắn duôi”. Ăn vào thấy cũng rất ngon chẳng khác gì thịt gà cá gỏi.


Có lẽ trong số anh em mưu sinh linh tinh bất hợp pháp này, Tôi là người “năng nổ” nhất. Nên thỉnh thoảng được anh Tổ trưởng (trước 30 tháng 4 năm 1975 làm Tỉnh trưởng Bình Dương) thương, lo lắng cho sức khoẻ của Tôi, chiếu cố xây dựng hoài trong các giờ họp “kiểm thảo, phê và tự phê” trong Đội ban đêm, luôn luôn có sự rình nghe của “Thi Đua” và Quản giáo Đội từ phiá ngoài cửa sổ phòng giam.


Anh ấy cũng thường xuyên bị anh em bắt gặp, lén mưu sinh như Tôi và nhiều bạn khác, nhưng chẳng ai góp ý kiến “xây dựng” anh ấy bao giờ. Có lẽ anh ấy làm như vậy, vì phải thi hành trọn vẹn trách nhiệm do Quản giáo giao phó cho các Tổ trưởng và Đội trưởng, là phải theo sát anh em trong Đội để báo cáo thì mới được coi là “cải tạo tiến bộ”. Tuy nhiên, anh ấy cũng rất khôn. Mỗi lần “xây dựng” Tôi mưu sinh linh tinh, anh ấy “tự phê” trước, nhận rằng bản thân cũng có vi phạm, nhưng hứa sẽ “khắc phục” không tái phạm. Anh ấy cũng phân bua, sở dĩ phải “xây dựng” anh em vì thương, muốn anh em giữ được sức khoẻ tốt, “cải tạo cho mau tiến bộ” để về với Vợ Con.
Qua đầu năm 1979, chúng tôi bị chuyển về K5 (nơi có Ban Chỉ huy Trung ương Trại Tân Lập). Vài tháng sau thì anh ấy bị cảm sốt nặng, được vào Bệnh xá điều trị không hết, lại biến chứng ho sưng phổi, rồi chết vì ngộp không thở được. Người ta phải đâm kim vào ngực rút nước ở buồng phổi ra để cứu nhưng vô hiệu.



Vấn đề vệ sinh cá nhân ở K1, mỗi tuần lễ Tù chỉ được đưa ra sông, cách trại khoảng 2 cây số để tắm rửa giặt giũ quần áo có một lần, vào sau giờ lao động chiều thứ bẩy. Ngày thường, sau buổi lao động chiều, Tù được đưa tới hồ nước bên Đội Gạch cách trại 2 cây số để tắm rửa. Đây là hầm lấy đất làm gạch, lâu ngày sâu dần xuống và rộng ra thành hồ chứa nước mưa tù đọng, rong rêu cỏ rác đủ thứ xà bần dơ bẩn hôi tanh. Thế mà vẫn phải nhào xuống tắm rửa, cho sạch mồ hôi bụi bặm và bùn đất bám đầy chân tay mặt mũi, sau cả ngày lao động vất vả. Cả ngàn con người chờ đợi nối đuôi nhau. Mỗi đợt chỉ cho 2 Đội cỡ 80 người xuống, trong vòng 5 phút là phải lên. Những người xuống sau bao giờ cũng phải tắm rửa nước bùn đục ngầu. Vì phải đứng gần ven bờ, ra xa một chút là hụt chân ngập đầu không đứng được.




Làm xong các ruộng sắn, Đội chúng tôi đổi công tác. Đến kho phụ trách việc đập, vò, đạp các bó luá cho thóc rơi ra, ban mỏng trên sân gạch, phơi cho khô, dồn vào bao, cân và cất vô kho. Trước khi dồn thóc vào bao, còn phải quạt bỏ thóc lép. Một người xúc thóc vào thúng, nâng để lên một bên vai, từ từ nghiêng thúng cho thóc chẩy xuống đất. Người khác đứng kế bên, 2 tay cầm chiếc mẹt quạt liên tục, cho thóc lép bay ra khỏi dòng thóc mẩy đang chẩy xuống. Công việc phải làm giữa sân gạch nắng chang chang cả ngày, bụi bặm bám đầy người, phải dùng khăn bịt mồm mũi để bảo vệ buồng phổi. Những bó rơm đã rụng hết thóc, phải chất thành đống cao cả chục mét ở góc sân, gọi là cây rơm, sau này dùng làm gì không biết.
Lúa thóc do Tù reo, cấy, trồng, gặt, đập, phơi khô, xay xát ra gạo, cho Cán bộ canh Tù ăn hàng ngày. Còn Tù thì quanh năm ăn toàn sắn, bắp. Trong mùa thâu hoạch ồ ạt sắn, bắp, thì một phần cấp cho Tù ăn tươi hàng ngày. Phần còn lại, bắp thì phơi khô tách hạt ra khỏi cùi, sắn thì lột vỏ sắt lát mỏng hoặc chặt thành những khúc ngắn sấy khô, xong xuôi đem cất kho, phát ra ăn dần về sau.



Sau khi hết lúa để đập, để phơi, Đội chúng tôi được chỉ định vào quét dọn hót cám lẫn trấu, trong nhà máy cà xát lúa ra gạo, nhồi vào bao tải. Cả ngày chìm đắm trong bụi bậm mịt mù, vất vả hơn đập phơi lúa ngoài sân rất nhiều. Nhưng được cái may, hàng ngày mỗi người được “bồi dưỡng” một túi cám lẫn trấu, đem về sàng rây bỏ trấu đi, còn lại cám lẫn tấm nấu chín mà ăn




.
Quản giáo Đội cho phép anh đun nước, giúp anh em nấu chín trong giờ lao động. Ai muốn nhờ thì đổ tấm cám và nước vào Gô riêng, giao cho anh nấu nước vào lúc đầu giờ lao động. Đến giờ nghỉ giải lao giữa buổi, là có cháo bột tấm cám chín sền sệt để ăn. Mùi vị hơi đăng đắng hôi hôi khó ăn, nhưng phải ráng mà nuốt, cho cơ thể có thêm chất bổ của cám để chống phù thũng.
Một tai họa thảm thương đã xẩy ra, làm ai nấy đau đớn và lo sợ vô cùng. Có anh ở một đội khác bị trướng bao tử, nghẽn ruột và chết vì ăn cám. Trong khi anh em chúng tôi cũng ăn, mà chưa có người nào làm sao cả. Sau này có tin từ Bệnh xá loan ra cho biết, anh bạn tử nạn vì không rây bỏ trấu vụn lẫn trong cám tấm, cứ để nguyên như vậy nấu ăn cho được nhiều, trấu không tiêu làm nghẽn đường tiêu hoá bể ruột chết. Cũng kể từ đấy, Tù không được mót cám về “bồi dưỡng” nữa.



Kho vừa hết “sắn duôi” cung cấp cho Nhà Bếp, thì vừa đúng mùa thâu hoạch sắn tươi. Mọi người được ăn sắn tươi luộc dài dài, ngày 3 bữa. Sắn tươi dùng thay gạo theo tiêu chuẩn 4 kí lô sắn còn cả vỏ bằng 1 kí lô gạo. Ăn sắn tươi có một số người bị say. Nghe anh em nói, sắn trồng trên đồi tranh, củ nào bị rễ tranh xuyên qua, ai chẳng may ăn phải những củ này thì khoảng 2 tiếng đồng hồ sau khi ăn là bị say. Khi say sắn, cơ thể cảm thấy nao nao buồn tiểu đại tiện, nôn khan, hoa mắt chóng mặt, người bải hoải như bị trúng gió. Say nặng có thể ngất xỉu vài phút sau mới tỉnh lại. Tôi chẳng may bị say sắn tới 2 lần.
Lần đầu vào khoảng 9 giờ đêm, lúc mọi người chuẩn bị đi ngủ. Tôi mót đại tiện, mò vào góc nhà, khu để thùng cho Tù đi vệ sinh ban đêm, đứng xếp hàng chờ. Tự nhiên Tôi thấy ánh sáng ngọn đèn dầu đổi mầu, từ vàng trong sang vàng đục, rồi đỏ và tối xầm đi, không biết gì nữa. Anh bạn đứng sau, thấy Tôi đang đứng bỗng dưng xỉu và ngã gục xuống đất, phải xốc nách bế đặt đại lên một chỗ nằm kế đó, hô hoán kêu mọi người xúm lại cạo gió cấp cứu, vài phút sau thì tỉnh lại.




Lần thứ 2 nguy hiểm hơn, nó xẩy ra vào khoảng quá nửa đêm. Chỗ ngủ của Tôi ở sàn gỗ trên cao cách mặt đất 2 mét, đang ngủ tự nhiên thấy bụng quặn đau mót đại tiện.Tôi chui ra khỏi mùng, bò men theo bià sạp, phiá chân của 3 bạn nằm bên, để tới cái cột có các cục gỗ nhỏ làm thang, bấu chân vào tụt xuống đất. Sau khi đạp được đầu bàn chân trái lên mẩu gỗ thứ nhất, bắt đầu xoay người tụt xuống để đặt đầu bàn chân phải lên cục gỗ kế theo, thì Tôi thấy choáng váng, chân tay bủn rủn không kiểm soát được và rớt xuống đất cái rầm, rung động cả nền nhà làm mọi người giật mình thức giấc, tưởng có động đất.



Tai nạn này đã làm cổ chân phải của Tôi sưng vù, đau đớn không đứng được bằng 2 chân, và cũng không leo lên chỗ ngủ ở tầng sạp trên cao của Tôi được. Anh Đội trưởng đã phải nói khó với các bạn nằm ở sạp dưới, vui lòng đổi chỗ cho Tôi nằm tạm qua đêm.
Sau vài phút im lặng, có một bạn tốt bụng đã đáp ứng lời yêu cầu, khiến Tôi vô cùng cảm kích, và nhớ ơn bạn ấy đến bây giờ vẫn chưa quên. Ngày hôm sau, bạn ấy còn quyết định cho Tôi nằm tạm trên chiếc nệm cao su bơm hơi của bạn ấy thêm mấy ngày, đến khi Tôi chống gậy đi và leo lên sàn cao được mới thôi. Người tốt bụng này là Đại tá Nguyễn văn Hãn (An ninh Quân đội). Tôi chưa có dịp quen trước 30-4-1975. Anh Hãn không những bị cận thị nặng hơn Tôi nhiều, mà lại còn bị loạn thị nữa, thật vất vả, làm gì cũng phải sờ sờ mò mò gần như người khiếm thị vậy.




Mỗi buổi sáng, ngay sau khi cửa phòng giam được mở, Tôi phải 2 tay vịn chiếc đòn gánh dư của anh trực nhà cho mượn, co chân phải lên, cà nhắc nhẩy từng bước một với chân trái, để xuống Bệnh xá khám bệnh. Khám xong lại vội vã cà nhắc nhẩy về sân tập họp, trình sổ khám bệnh cho anh Đội trưởng biết là mình được nghỉ lao động ngày hôm đó.
Những Tù bệnh được nghỉ không phải theo Đội ra ngoài lao động. Nhưng sau khi các Đội xuất trại hết, phải tập trung vào một nhà giam riêng ở cuối sân bên khu Hình Sự, cửa khóa trái bên ngoài, cho đến hết giờ lao động các Đội trở về nghỉ mới được thả ra.


Khoảng 2 tuần lễ sau, tình trạng chân của Tôi hết sưng, có thể đi lại với chiếc gậy nạng, Cán bộ Y tế coi là lành không cho nghỉ nữa, phải theo Đội đi lao động. Cũng may, lúc này Đội không còn làm Nông Nghiệp nữa, mà phụ trách Cưa xẻ và Lò rèn, ở sát ngay bên cạnh Đội Mộc (đóng giường, tủ, bàn, ghế...) cách cổng Trại giam chừng 500 mét. Chúng tôi xẻ những cây gỗ to tướng ra ván cung cấp cho Đội Mộc, và nung sắt làm cuốc, xẻng, dao... theo “yêu cầu” của Trại. Tôi được cử vào toán Rèn do anh Đại úy gốc Cảnh sát làm Toán trưởng. Anh Trịnh Đình Đăng phụ tá quai buá tạ. Tôi lo nhóm Lò, kéo Bễ thổi lửa cho than đá lúc nào cũng hồng, đủ độ nóng để nung sắt.








Ít lâu sau, cổ chân của Tôi bình thường trở lại. Tổ Rèn không còn nhiều việc để làm, Tôi được chuyển qua Tổ Cưa xẻ gỗ, cặp với anh Phan Trọng Thiện. Vì anh Thiện đã làm lâu rành kỹ thuật kéo cưa xẻ gỗ, nên đứng trên cao để giữ mực cưa đi được thẳng tắp, cho bề dầy của ván đều đặn. Còn Tôi mới vào nghề nên phải đứng phiá dưới, phụ nâng cưa lên và kéo cưa xuống cho được nhịp nhàng, đều đặn. Cái khổ của người đứng phiá dưới xúc gỗ đang xẻ là, từ lúc bắt đầu kéo cho đến khi ngưng, lúc nào cũng bị mạt cưa rớt ra bay phủ đầy người từ đầu xuống đến chân, miệng và mũi phải dùng khăn quàng bịt kín để lọc cho bụi không lọt vào phổi, nên rất khó thở và mau mệt.
Từ ngày làm trong xưởng, không còn dịp mưu sinh linh tinh các sinh vật ngó ngoáy ngoài đồng nữa, anh em chờ giờ giải lao chạy ra các bãi cỏ sát hàng rào quanh sân để mót rau má, rau tầu bay đem về ăn độn với “sắn nút chai”. Đây là sắn nguyên củ, sau khi lột bỏ vỏ, chặt thành từng khúc ngắn cỡ 2 đốt ngón tay, đem phơi hoặc sấy khô, cất kho. Những mẩu sắn khô đổi mầu từ trắng sang nâu xám, trông như những mẩu gỗ dùng để nút miệng chai. Muốn làm chín để ăn, người ta dùng nước luộc như luộc khoai. Thấy ngoài mặt các cục “sắn nút chai” luộc đổi mầu từ đục sang trong, tưởng là đã chín nhưng lúc ăn mới thấy, trong lõi cục nào cũng còn sống nguyên.



Mùa Hè năm 1978, có lẽ là mùa tử vong cao nhất tại K1 trại Tân Lập-Vĩnh Phú. Có hôm, trong khi các Đội ngồi phơi nắng cả tiếng đồng hồ, chờ gọi xuất trại lao động buổi chiều, có đến 3, 4 người ngất xỉu vì say nắng giữa sân tập họp, được anh em xốc nách đem vào Bệnh xá cấp cứu. Tối lao động về nghe tin 2 người đã chết. Một buổi khác, một anh Đội trưởng Nông Nghiệp cũng cải thiện linh tinh, ăn thịt Cóc và trứng Cóc vào bữa trưa, đến chiều ra tập họp đi lao động bị ngất xỉu. Anh em cõng vào Bệnh xá cấp cứu không được, anh ấy đã vĩnh viễn ra đi trước mọi người.






Đi lao động bị tai nạn chết tại K1, Tân Lập, Vĩnh Phú, có trường hợp Trung tá Hưng (trước 30-4-1975 làm Tham mưu trưởng Trường Đại học Chiến tranh Chính trị ĐàLạt). Nghe anh em bạn cùng đi với anh Hưng, theo xe tải của Trại công tác ngoài lãnh thổ trại giam trở về kể lại : “-Xong công tác, lúc xe quay trở về trại trời đã tối mịt. Xe phải lội qua khúc sông cạn đá lổn nhổn. Bánh xe bị kẹt ở giữa dòng sông nước chảy xiết, không nhúc nhích được. Anh em Tù phải xuống xúm chung quanh đẩy cho xe tiến tới, anh Hưng chẳng may bị hụt chân chìm mất tích. Mãi mấy ngày sau mới tìm được xác. Trại loan tin anh Hưng không biết bơi nên bị chết đuối.”





Nữ Văn sĩ Bích Huyền là vợ Trung tá Hưng, hiện đang định cư tỵ nạn tại Nam California, đã viết một tuyển tập “Lối cũ chẳng sao quên”. Trong đó có đoạn kể lại chuyện đi thăm nuôi anh Hưng tại K1 Tân Lập- Vĩnh Phú, phải lặn lội gian nan khổ cực như thế nào. Ít lâu sau có người nhắn tin về nhà cho biết là anh Hưng đã chết, chị ấy lại phải đi cùng 3 người anh ở Hà Nội (theo Cách mạng từ 1945) trở ra Tân Lập. Khi đến Phân Trại gặp anh Hưng lần trước, người ta nói anh Hưng đã chuyển trại, nhưng không cho biết tên trại mới. Mấy anh em phải chạy ngược chạy xuôi qua hết các Phân trại, chẳng nơi nào nhận đang “quản lý” anh Hưng. Sau cùng phải đến Ban chỉ huy Trại Tân Lập tại K5, mới xin được phép bốc hài cốt anh Hưng đem về cải táng. Vào đêm thứ Sáu, mồng 7 tháng 1 năm 1994, Bà Bích Huyền đã được Tổng Hội Ái hữu Chiến tranh Chính trị Quân lực Việt Nam Cộng hoà Hải ngoại tại Nam California, bảo trợ tổ chức Ra Mắt cuốn “Lối cũ chẳng sao quên” lần đầu tiên tại Vũ trường Ritz ở Quận Orange. Lúc đó Trung tá Nguyễn Ngọc Thông (còn sống) là Chủ tịch Tổng hội, Nhạc sĩ Nguyễn Hiền Phó Chủ tịch Nội vụ, và Tôi là Phó Chủ tịch Ngoại vụ. Nhân dịp tổ chức Dạ Vũ Ra Mắt sách này, Tôi đã cảm đề một bài Thơ tặng Bà Bích Huyền như sau:


DÒNG KỶ NIỆM ĐẸP

Bích Huyền “Lối cũ chẳng sao quên”,
Lẻ bóng duổi dong một chiếc thuyền.
Xã hội nhiễu nhương lòng sắt đá,
Tình đời trao đảo dạ trung kiên.
Chồng đền nợ nước gương anh dũng,
Vợ giữ gia phong tiếng nữ hiền.
Trí sáng khéo ghi dòng kỷ niệm,
Bút tài giỏi họa khúc chuân chiên.
Quận Cam, Nam Cali, 7-1-1994




Anh em Tù chết bệnh tại K1 thì nhiều, nhưng cấp bậc Đại tá chỉ có anh Phạm văn Sơn, tác giả cuốn “Việt Nam tranh đấu sử Cận đại”. Anh Sơn chết vì bệnh tiểu đường biến chứng. Trước 30-4-1975 anh Sơn là một trong những người có công lớn trong việc nghiên cứu, biên soạn, và ấn hành tập “Quân Sử Việt Nam Cộng hoà”, do Phòng 5 Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH chủ trương. Hiện nay thấy mấy tập Quân sử này được in lại và bầy bán tại các nhà sách trong Khu Little Saigon, Quận Cam, Nam California.



Sau đợt Trung Cộng tấn công các Tỉnh biên giới Bắc Việt vào năm 1978, rất nhiều Tù bị giam tại các vùng Sơn La, Lào Kay, được chuyển về K1. Nhờ thế Tôi có dịp gặp Trung úy Nguyễn Trung Hoà, bút hiệu Huy Vân, Chủ bút tờ Nhật báo Tiền Tuyến thời Tôi làm Chủ nhiệm trước 30-4-1975. Khoảng 1 tháng sau khi chúng tôi gặp nhau thì Huy Vân phải chuyển sang Phân trại khác cũng thuộc trại Tân Lập. Đến đầu năm 1979, Đội các Đại tá chúng tôi bị chuyển về K5, gặp Tù quen thuộc ngành Chiến tranh Chính trị cho biết, anh Huy Vân đã qua đời trong mùa Hè chết chóc kinh khủng vừa qua, vì bệnh không thuốc chữa.



NỖI LÒNG TÙ KHÔNG ÁN.

Hùng Vương Quốc Tổ thấy không ?
Đồng bào cùng giống Tiên Rồng diệt nhau.
Vì không thần phục Nga Tầu,
Không theo Bác Đảng làm trâu kéo cầy.
Sa cơ bắt nhốt vào đây,
Hoà mình chịu nhục cùng bầy ác gian.
Đọa đầy cực khổ cơ hàn,
Sức mòn lực tận tiêu tan xác phàm.
Người vì Chính nghĩa chịu giam,
Bọn vô nhân đạo lên làm Chủ dân.
Giang sơn gấm vóc tiêu lần,
Nhân tài yêu nước chung thân ngục tù.
Đình, Chùa, Lăng, Miếu, Nhà Thờ,
Hoang tàn vì thuyết Tam Vô bạo tàn.
Nhân dân đói khổ lầm than,
Bởi bầy Cộng sản ác gian lọc lừa.
Nỡ nào Quốc Tổ làm ngơ,
Để cho lang sói dòng Hồ hại dân ?

K1-Tân Lập-Vĩnh Phú, Mùa Đông 1978
.

Chương 22
MUỐN TRAO ĐỔI LẤY ĐÔ LA,

CHO GIA ĐÌNH NUÔI TÙ MẬP




Nhiều đợt phát Bưu kiện thực phẩm từ miền Nam gửi ra, đã được Trại ra tỉnh lãnh về phát hàng tuần. Hầu hết các bạn trong Đội, ai cũng có phần. Mỗi tháng Trại chỉ cấp cho mỗi người một Phiếu Bưu Kiện để gửi về gia đình, thế mà Đội chúng tôi có vài anh, kỳ nào phát Bưu kiện cũng được gọi tên lãnh. Có người còn được nhận 3, 4 Bưu kiện một lúc.
Sau 2 tháng các Bưu kiện ào ạt tới Trại, trong Đội chỉ có tôi và khoảng 5 bạn khác nữa, chưa nhận được một Bưu kiện nào. Mấy bạn quen thân, thấy tôi cũng mới nhận được thư của gia đình, gửi đến trong đợt học tập vừa qua, mà sao không có Bưu phẩm, thắc mắc, đến gần thủ thỉ hỏi xem gia đình có gặp trở ngại gì không? Tôi buồn, lo lắng, lấy thư của con đem ra đọc đi đọc lại, cố tìm cho ra manh mối, chẳng thấy tin gì khác lạ. Ngoài cái tin con gái lớn, được đi làm ở Bệnh viện Nguyễn văn Cội vùng Củ Chi, cách Saigon vài chục cây số, và tin người con trai kế, trước 30-4-1975 học Y Khoa Minh Đức, được Phòng Y tế Phường cử đi chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào của Quận, đang công tác tại khu Thủy lợi Lê Minh Xuân.
Mọi người đoán già đoán non, an ủi rằng : “đi làm xa Saigon”, “đi công tác tại khu Thủy lợi”, không chừng đây là những lời bóng gió báo tin là 2 người con của tôi, đã gặp được mối tổ chức “đi vượt biên” rồi. Nếu đúng thì là điều đáng mừng, vì nhiều bạn trong chúng tôi, cũng từng được gia đình gửi thư nói như vậy, để báo tin con đã “vượt biên” ra khỏi Việt Nam. Chắc là vợ của tôi ở nhà bận bịu lo cho con như vậy, nên chậm trễ trong việc đi gửi Bưu kiện, không có gì đáng lo, trước sau gì rồi cũng có quà. Có người đề nghị cho tôi mượn mì ăn liền “bồi dưỡng” đỡ, khi nhận được quà trả lại sau. Tôi từ chối không nhận, vì chẳng biết hoàn cảnh thật của vợ con ra sao, lỡ không có quà lấy gì để trả nợ.
Tôi kiên nhẫn chịu đựng, tiếp tục mưu sinh linh tinh cho qua cơn đói khổ. Anh Tổ trưởng của tôi không còn quan tâm góp ý kiến “xây dựng” cho tôi, trong những buổi kiểm thảo ban đêm của Đội nữa. Vì chính bản thân anh ấy cũng chưa nhận được Bưu kiện nào như tôi, và đang mưu sinh linh tinh còn bạo hơn tôi. Qua những mẩu chuyện tâm sự của anh ấy, tôi cảm đoán được hình như trước 30 tháng 4 năm 1975, anh ấy có chuyện gì lủng củng trong gia đình, giữa 2 bà vợ lớn vợ nhỏ sao đó, nên bây giờ chẳng ai lo cho. Thật tội nghiệp!
Ngày rồi lại ngày cứ lặng lẽ trôi qua. Bỗng một hôm, một cơn mưa thật lớn đổ xuống suốt cả buổi nghỉ trưa. Đến giờ tập họp đi lao động chiều mưa mới dứt. Nước úng không rút kịp, tràn ngập đầy sân tập họp, lõng bõng cao tới mắt cá chân. Không ngồi chồm hổm trên mặt đất được, mọi người phải đứng chờ đợi lệnh xuất trại. Ánh sáng mặt trời le lói hun đốt, làm cho mảng sân tập họp bốc hơi, nồng nồng mùi mốc mốc tanh tanh. Tự nhiên nghe thấy anh em Tù, đồng loạt phát ra một âm thanh vui vẻ ồ.ồ.ồ!!!, làm tôi giật mình chú ý nhìn về phiá Cổng trại. Cán bộ phụ trách phát Bưu kiện xuất hiện, đọc tên những người được nghỉ lao động ở nhà lãnh quà gia đình gửi tới.


Có tên tôi, mấy bạn quen thân reo mừng nhắc gọi, sợ tôi không nghe được. Tôi rời hàng ra đứng ở cuối sân chờ các Đội xuất Trại xong, cùng một số Tù khác đến Hội trường, đợi lệnh gọi lần lượt vào ký lãnh Bưu kiện. Sau khi ký tên vào sổ, phải đem Bưu kiện của mình mới nhận tới một bàn dài, trải tấm ni-lông che mưa của mình trên mặt bàn, mở gói quà ra, bầy tất cả mọi thứ lên trên, rồi đứng đợi Cán bộ tới xét từng món một.
Cán bộ không đích thân tới xét, mà là anh “Thi Đua” (tù Hình Sự) làm thay. Những bịch nào chưa kịp mở banh ra sẵn sàng cho anh ấy coi, anh ấy lấy con dao nhọn dọc rách bao ni-lông, rồi bới tung ra tìm tìm kiếm kiếm vật gì chẳng biết. Gặp bịch mì ăn liền vụn còn đỡ, chẳng may gặp bịch sữa bột hay bịch đường cát, coi như tiêu mất hết phần tư. Bột sữa và đường, còn dính tùm lum sang các bịch khác bê bết, sẽ là mồi cho kiến đánh hơi bu đến làm tổ trong bao đựng quần áo, nơi cất thực phẩm tại đầu xạp ngủ chỗ mình nằm.
Hộp sữa đặc, có nhãn hiệu ghi bằng chữ Việt Nam rõ ràng, anh “Thi Đua” cũng lấy dao đâm thủng một đầu hộp, thọc đũa vào ngoáy ngoáy tìm kiếm xem có vật gì lạ khác dấu ở trong không. Keo mắm ruốc xào khô với thịt bằm và xả ớt, anh “Thi Đua” cũng đổ ra bới bới để kiểm tra. Nước mỡ chẩy tùm lum, mùi mắm kho thơm nồng nặc, làm con tỳ con vị trong bao tử nôn nao phát ứa nước miếng nuốt không kịp...
Sau khi kiểm tra kỹ càng tất cả mọi món xong, anh “Thi đua” đến báo cáo Cán bộ là không có gì. Cán bộ gật đầu cho phép thu vén lại “khẩn trương” đem đi, nhường chỗ cho người khác trình quà của họ. Nếu có thư gia đình để trong gói quà, phải nộp để Cán bộ giữ lại kiểm duyệt. Vài ngày sau Quản giáo Đội mới phát cho, nếu được phép nhận để đọc.
Thời gian đợi đến lượt vào ký nhận quà thì lâu, chớ thời gian kiểm tra chẳng bao lâu. Bưu kiện chỉ có 5 kí lô, 2 hộp sữa đặc là 1 kí, nửa kí đường thẻ, nửa kí đường cát vàng, 1 kí mì vụn loại ăn liền để trong 2 bọc, 1 kí bánh mì xấy khô cũng để trong 2 bọc, nửa kí bột đậu xanh hay đậu nành, còn nửa kí đồ linh tinh như thuốc đánh răng, xà bông tắm giặt, khăn mặt, tem thư, giấy viết thư, bút nguyên tử, âu dược chữa bệnh, thuốc bổ tăng cường các loại sinh tố...là hết. Chỉ những người được lãnh 2, 3 Bưu kiện một lúc, lỉnh kỉnh lắm thứ mới mất nhiều thời giờ. Ngoài mấy thứ chính như mì ăn liền, bánh tổ, cốm dẹp, cơm sấy khô, biscot, còn nào là thịt chà bông, lạp xưởng, các hộp thịt bò, thịt heo, thịt gà, cá mòi ngâm dầu hoặc sốt cà chua, kẹo, bánh ngọt, bơ, margarine, phó mát, trà ướp hoa lài hay hoa sen, cà phê, thuốc lá thơm...
Thường anh em chỉ xin gia đình cung cấp cho những thứ có chất bột, chất đạm, chất béo và chất ngọt, đang là nhu cầu chính yếu cần thiết nhất cho cơ thể. Còn thuốc lá thơm, trà, cà phê thuộc loại xa xỉ phẩm, đang ở trong tù có hay không cũng được. Nhưng đối với những bạn ghiền nặng, gia đình dư giả tiền, thì các món đó cũng là nhu cầu cần yếu không thể thiếu được. Ngoài ra các món đó còn là những thứ cần có, để mua cảm tình của Quản giáo Đội, để được đối xử dễ dãi hơn các bạn bè, trong việc gửi nhận thơ đều đặn hàng tháng...
Mãi về sau, một vài bạn tốt bụng mới rỉ tai riêng cho nhau biết là, ở Saigon người ta in Phiếu Bưu Kiện đúng hệt như mẫu phiếu do các Trại phát cho Tù gửi về nhà, bán công khai ngay trước sân nhà Bưu điện Saigon, gần bên Nhà Thờ Đức Bà. Người ta cũng bầy bán đầy đủ những gói, những keo, những hộp thức ăn khô đủ loại, được Bưu điện chấp nhận cho gửi, để thân nhân Tù mua tại chỗ cho tiện đỡ mất công làm lấy. Nếu ai mua toàn bộ đủ 5 kí lô những thứ họ bán để gửi đi, họ còn gói cột chắc chắn đàng hoàng, mình chỉ việc ghi Tên địa chỉ người gửi và người nhận xong, là họ đem vào gửi giùm đỡ phải đứng xếp hàng chờ đợi cả ngày. Dĩ nhiên khách hàng phải tỏ ra sởi lởi, chi tiền đầy đủ theo đòi hỏi của họ. Hẳn là họ phải có đường dây riêng làm tay trong, do Cán bộ Bưu điện Nhà Nước cầm đầu, mới dám công khai hành động như vậy.
Không phải bà vợ nào cũng dư giả tiền, và dám thử liều gửi lậu như vậy. Vì sợ chẳng may bị lừa, hoặc bị Công an gài bẫy bắt thì nguy. Ngoài ra còn e ngại sợ gửi nhiều hơn quy định, không biết Trại có cho nhận không? Lỡ quà ra đến nơi, Trại không cho nhận, còn hạch hỏi làm sao ở nhà có nhiều phiếu gửi quà như vậy? Rồi phạt không cho Tù nhận quà nữa, mới là khốn nạn khó gỡ.
Sau này khi được tha về, vợ của tôi cho biết là ở nhà cũng biết chuyện ấy, nhưng vì hoàn cảnh kiếm sống hàng ngày nuôi các Con rất chật vật. Nên mỗi tháng chỉ lo chắt bóp gửi cho tôi được 1 gói quà 5 kí lô, đã là một cố gắng hết sức rồi.
Khoảng sau Noel năm 1978, nhóm Đại tá chúng tôi được lệnh rời K1 di chuyển về K5, nơi có Ban Chỉ huy Trại Tân Lập. Đồ đạc được chất lên xe chuyên chở, còn người đi bộ theo sau. Cán bộ cảnh vệ đeo súng đi dẫn đầu và tập hậu để áp tải, đề phòng Tù lủi trốn vào rừng. Trên dọc đường, tại những khúc quanh không nhìn thấy được từ xa, còn có thêm cảnh vệ ôm súng đứng phục sẵn trong sâu để canh chừng.
Con đường đá rộng 4 mét, dẫn vòng vèo theo sườn núi, thoai thoải xuống dốc từ từ. Dưới khe, nước suối chảy rì rầm đều đều như tiếng cối xay lúa. Cây rừng cao dầy đặc 2 bên đường. Những cây thấp nhỏ, phải nghiêng mình vươn nhô ra mặt đường trống, để đón nhận ánh sáng mặt trời.
Đoàn Tù gầy ốm chỉ còn da bọc xương, mặt hốc hác, lầm lũi, mũi thở ra khói, co ro run rẩy nối đuôi nhau 2 hàng dọc, lê bước di chuyển bên lề phải đường. Thỉnh thoảng đôi con chim đang còn ngủ trong tàn lá, nghe tiếng động của đoàn người đi ngang, giật mình bay vụt lên cao, rồi biến mất trong rừng già.
Chín giờ sáng mà không khí vẫn còn lạnh cóng. Sương mù còn phủ đặc rừng cây. Hương thơm của hoa rừng thoang thoảng, hoà lẫn với mùi mông mốc của lá mục, làm tôi tưởng nhớ lại thuở ấu thơ theo Đoàn Hướng Đạo Sinh đi cắm trại, tìm hiểu thiên nhiên vạn vật vào mùa Đông ở Lạng Sơn. Một tỉnh địa đầu miền thượng du Bắc Việt, ráp ranh với Trung Hoa, nơi có di tích lịch sử Ải Nam Quan, Chợ Đồng Đăng, Phố Kỳ Lừa, núi Nàng Tô Thị với Chùa Tam Thanh.
Mê mải nhìn cảnh vật, chìm trong màn sương đang lộ dần dưới ánh mặt Trời ban mai, suy nghĩ miên man quên cả hiện tại. Tôi vấp chân nhằm một hòn đá lớn, lồi trên mặt đường ngã chúi về phiá trước, lăn quèo mấy vòng trên đất làm mọi người ngạc nhiên. Tỉnh mộng, tôi lồm ngồm đứng lên vừa đi vừa phủi quần áo dính đầy đất và lá khô vụn, nhoẻn miệng gượng cười thẹn đỏ gay cả mặt mũi, 2 tai nóng bừng bừng.
Khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau khi rời K1, chúng tôi ra khỏi các khúc quanh của núi rừng. Một thung lũng chừng 3 cây số bề dài, 1 cây số bề rộng hiện ra trước mặt, có con sông lòng đầy sỏi đá lớn nhỏ uốn khúc rì rầm chảy ngang. Xa xa bên kia sông có một phân trại (tôi không biết đó là K mấy). Phiá bên này cách đường lớn khoảng 1 cây số, sát ngay bên bờ sông là K5. Ban chỉ huy Trại Tân Lập trụ tại đây, với tấm bảng hiệu Công An Nhân Dân to tướng. Chúng tôi đã có dịp nhìn thấy cả năm về trước, khi đoàn xe Quân đội đưa chúng tôi chạy ngang không dừng lại.
Cách ngã ba đầu đường dẫn vào K5 chừng 300 mét, về phiá tay phải có một khu nhà lá gồm 3 căn nho nhỏ cất riêng rẽ, vây quanh miếng sân vuông chục mét mỗi cạnh. Sau này mới biết là Nhà Thăm Nuôi, nơi Tù và thân nhân được phép đến thăm gặp nhau.
Phiá trước khu Nhà Thăm Nuôi, ngay sát bên đường vào K5 là một nhà canh, có Cán bộ ngồi kiểm soát việc ra vào Trại. Cán bộ áp tải chúng tôi đến tiếp xúc, rồi dở cần tre cản ngang đường lên cho chúng tôi đi qua. Hai bên con đường đất rộng 4 mét, dài khoảng một cây số dẫn vào K5 là ruộng để trồng luá.
Trụ sở của Ban Chỉ huy Trại Tân Lập và K5, ở phiá sau chiếc cổng có bảng hiệu Công An Nhân Dân, gồm nhiều nhà mái ngói mái tôn lẫn lộn, với những đường đi nhỏ cắt dọc ngang như một xóm dân cư ngụ. Khu gia binh cho Công an có gia đình ở tít phiá sau gần bờ sông. Chúng tôi được dẫn đi đến khoảng còn chừng vài trăm mét, trước khi tới chiếc cổng treo bảng hiệu Công An Nhân Dân, thì rẽ sang phải theo con đường dẫn vào trại giam K5.
Bên trong Trại giam K5, thiết trí kiến trúc cũng tương tự như trại giam K1, nhưng rộng lớn và nhiều nhà giam hơn. Chung quanh cũng có tường rào bằng gạch cao 4 mét, thêm hàng kẽm gai trên đỉnh. Sườn hướng Đông của Trại nằm dọc theo sông, cách bờ chừng 100 mét.
Vào qua cổng sắt lớn là một sân tập họp vuông rộng. Cuối sân có một vườn hoa và Hội trường chứa được cả ngàn người, với một cây cổ thụ xum xuê cành lá xanh tươi quanh năm. Chung quanh gốc cây cổ thụ là nơi Tù được phép tới đó vào ngày Chủ nhật nghỉ lao động, để nấu nướng, hâm xào lại các thực phẩm khô do gia đình gửi tới cho ăn dần khỏi bị hư thối.
Ngay sau cổng vào, ở phiá bên trái sân tập họp là một dẫy nhà tường gạch mái tôn, khu biệt giam Tù Hình Sự. Dẫy nhà này có tường rào bằng gạch cao 3 thước bao quanh, và phân cách từng ngăn riêng không thông thương được với nhau. Mỗi ngăn chứa được khoảng 30 người. Nhóm Đại tá chúng tôi bị giam vào ngăn áp chót trong dẫy nhà này. Các Linh mục và Đại đức Tuyên úy Quân đội bị giam ở ngăn kế bên chúng tôi.
Các ngăn không thông thương được với nhau ở dưới đất, nhưng bức tường trong nhà để phân cách các ngăn, nơi sát mái nhà có chừa một lỗ tò vò người chui lọt, không biết để làm gì. Từ nền nhà lên đến mái để trống hốc, không làm trần cản hơi nóng. Ngay lỗ tò vò và dọc dài trên dàn kèo nhà sát mái tôn, có căng giây kẽm gai. Sau này, bọn Tù Hình Sự thường lẻn chui qua ban đêm, lúc anh em ngủ say, lấy trộm quần áo và thực phẩm của chúng tôi để ở trên giàn sát mái nhà.
Chỉ những người nằm ở sàn ngủ tầng trên cao mới bị mất trộm. Tôi bị móc mất chiếc áo len cao cổ dài tay mầu hoa cà còn mới tinh, do vợ tôi đan theo kiểu riêng, ngoài chợ không có bán, nhất là ở ngoài Bắc thì không thể nào có được. Nhiều bạn khác cũng mất quần áo và còn mất cả thực phẩm khô. Có thể là bọn Hình Sự đã chui qua ăn trộm nhiều lần, nhưng anh em không biết, vì không ai ngờ chúng dám cả gan làm như vậy.
Nhờ một hôm vào khoảng quá nửa đêm, có anh bạn đang ngủ thấy có chất nước nhờn xền xệt, rớt qua đình mùng ni-lông xuống mặt làm giật mình ngồi nhỏm dậy. Mở mắt nhìn thấy thoáng có bóng người, chạy chuyền trên các đà gỗ sát mái nhà về phiá cuối phòng, nơi để chiếc thùng cho Tù giải quyết vấn đề vệ sinh ban đêm. Đây là điểm ráp ranh giữa phòng giam chúng tôi và phòng giam bọn Tù Hình Sự. Quan sát kỹ thêm, anh ấy thấy một vật gì nặng làm võng đình mùng nên chui ra lấy xuống, mới biết đó là hộp sữa đặc bị đục thủng lỗ và sữa ở trong đã cạn gần hết. Túi đựng quần áo và thực phẩm khô của anh ấy để trên giàn bị mở tung.
Sáng hôm sau, sự việc được báo cáo anh Đội trưởng báo động cho anh em đề phòng, và rình để bắt quả tang nếu chúng tái diễn.
Một tuần sau, có bạn nằm tầng trên sát bên tường, đi tiểu đêm vào lúc gần sáng xong vừa trèo trở lên chỗ nằm, nghe tiếng động trên giàn kèo nhà, ngẩng lên thấy bóng người đang chui qua lỗ tường, anh ta vùng ra khỏi mùng chụp lấy chân kẻ trộm. Hắn dẫy mạnh chân vuột ra khỏi tay anh bạn, và chui tuốt qua bên kia tường luôn, nhưng chân của hắn bị kẽm gai gây thương tích rất nặng, máu chảy ra dính đầy trên tường và trên kèo gỗ.
Đến sáng, ngay khi Cán bộ Trực Trại đến mở cửa phòng giam cho chúng tôi ra, anh Đội trưởng vội vã báo cáo ngay sự việc đã xẩy ra lúc ban đêm. Cán bộ ghi nhận và khi sang mở khoá phòng giam Hình Sự bên cạnh, đã khám xét từng người trước khi bước ra khỏi cửa. Ông ấy đã bắt được người có vết thương nơi chân còn mới nguyên. Ông ấy giữ tất cả bọn Hình Sự trong phòng giam, rồi lần lượt bắt từng đứa một đem tư trang ra sân khám xét, và cho chúng tôi những ai biết là mình bị trộm, tới nhận diện những vật đã bị đánh cắp để lấy lại.
Qua khỏi khu biệt giam chúng tôi, là một khoảng đất trống đang trồng rau, rồi đến mấy dẫy nhà vách gỗ mái tôn, giam anh em Tù miền Nam. Phòng giam dành riêng cho Ban Thi Đua nằm ở ngay nhà đầu của khu này, có thể trông được toàn cảnh vật chung quanh khu sân tập họp ra tuốt đến cổng trại giam.
Ở phiá cuối khu là nhà vệ sinh công cộng, cho Tù xử dụng trong ban ngày, được xây cất bằng gạch mái lợp tôn, có cửa lửng che trước mỗi ngăn ngồi đại tiện, có hàng hiên dài phiá trước để không bị hắt ướt vào mùa mưa, trong khi ngồi làm nghiã vụ nộp phân bón hàng ngày cho Trại.
Bên phiá đối diện, tức là phiá bên phải sân tập họp đứng từ cổng nhìn vào, là khu Bệnh xá và Nhà bếp. Kế theo là một khu bao quanh bởi bức tường gạch cao, với một lối ra vào duy nhất, gồm nhiều nhà gỗ mái tôn cũng dùng để giam Tù miền Nam. Vào tháng 1 năm 1980, nhóm Đại tá chúng tôi được chuyển từ khu biệt giam Hình Sự sang khu này ở một ngày một đêm. Trước khi chúng tôi bị áp giải lên đường đi Trại Thanh Phong, trong vùng rừng núi Trường Sơn thuộc huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá, miền Trung Việt Nam.
Thoạt mới tới K5, nhóm Đại tá chúng tôi được chỉ định là Đội Nông Nghiệp, có một số thứ tự riêng để gọi nhưng Tôi không nhớ.
Mùa Đông năm 1978, Bắc Việt có một đợt lạnh chết người. Theo lời các Cán bộ già, hiện tượng này chưa từng xẩy ra trong vòng mấy chục năm qua, trên đất Bắc Xã hội Chủ nghiã.
Để làm mùa vụ Đông Xuân, Trại có khu ruộng mạ giống, ngay bên đường phiá trước Nhà Thăm Nuôi, cần phải nhổ gấp cho khỏi bị chết cóng. Đội chúng tôi được huy động làm “khẩn trương”. Buổi sáng khi Đội ra tới “hiện trường lao động”, thấy ở phiá bên kia đường, một con trâu trẻ mập nằm gục chết cóng ngay giữa ruộng. Thế mà anh em chúng tôi vẫn phải bỏ giầy, vắn quần đến đầu gối, vén tay áo tới cùi chỏ, lội xuống ruộng nhổ mạ, bó lại đem về ủ trong nhà kho cho mạ khỏi chết. Dưới nước, điả cũng cóng thun vòi bám vào gốc mạ, không tung tăng bơi đi tìm chân người hút máu như những lúc trời ấm áp.
Giao việc cho Đội xong, cả Quản giáo Đội lẫn Cảnh vệ đều co ro cúm rúm mò đến ngồi bên bếp lửa, hơ tay xoa mặt, hút thuốc lào, và chờ anh phụ trách nấu nước của Đội pha trà Tầu, nấu mì cung phụng cho ăn để hâm nóng cơ thể.
Chúng tôi tự động thay phiên nhau, xuống ruộng làm trong 5 phút rồi lại lên, đến bên lò nấu nước để hơ chân tay cho khỏi cóng. Và cứ tiếp tục như vậy trong suốt buổi lao động, không cần xin ý kiến của Cán bộ. Ông ta nhìn thấy, cũng lẳng lặng đồng tình không nói năng gì.
Thật là một đầy đọa vô cùng dã man, may mà không ai trong chúng tôi chết cóng tại chỗ. Nhưng ngày hôm sau, hầu như cả Đội bị cảm hàn, ho, sổ mũi, khản đặc nói không ra tiếng. Nhiều người bị sốt cao, đau cổ họng phải xin đi khám bệnh. Ngặt nỗi, mỗi ngày Trại chỉ cho phép mỗi Đội ghi tên 2 người đi khám bệnh, nên anh em phải tùy trường hợp nặng nhẹ mà nhường nhau.
Cũng rất may tại Trại này, âu dược do gia đình gửi trong các Bưu kiện không bị tịch thu, nên ai nấy dùng thuốc riêng điều trị cả chục ngày mới qua khỏi. Riêng anh Tổ trưởng của tôi (Đại tá Nguyễn văn Của, trước 30-4-1975 làm Tỉnh trưởng Bình Dương) bệnh không thuyên giảm. Mỗi ngày anh em phải nhường cho ghi tên đi khám bệnh, và được nghỉ lao động ở trong Trại cả tuần lễ vẫn không hết. Sau cùng anh ấy được vào nằm điều trị tại Bệnh xá, một thời gian tương đối lâu.
Một hôm, vào sáng Chủ nhật cả Trại nghỉ lao động, anh ấy ghé về Láng ở của Đội thăm anh em, hớn hở khoe rằng ở Bệnh xá được ăn cơm trắng thay vì ăn sắn. Thấy sắc diện anh ấy cũng khá hơn trước, bạn bè ai cũng mừng chúc anh ấy mau lành để sớm trở về với Đội. Mục đích chính anh ấy về thăm anh em là để xin âu dược Streptomicine trị bệnh, vì bệnh xá không có. Nhưng thật đáng tiếc là anh em cũng không có. Anh ấy buồn bã ỉu xìu trở lại Bệnh xá trong lo lắng. Hai ngày sau, một tin đau lòng đã đến với anh em chúng tôi, anh Của chết vì sưng phổi làm ngộp thở, cứu không được.
Sau vụ làm mùa Đông Xuân, Đội chúng tôi được điều động đi phát cỏ khu đất cao dọc bên bờ sông, để trồng khoai rong giềng (trong Nam gọi là củ bột mì tinh). Các công tác tiếp theo là dọn cỏ ruộng miá, rồi đi đốn miá, chất lên xe nộp cho Lò ép lấy nước nấu “mật đường”, để cất rượu trắng cho Trại bán.
Trong số 5, 6 người chưa có quà của thân nhân, hoặc mới chỉ nhận được một gói như tôi, vẫn phải lén cải thiện linh tinh. Chẳng may vào một buổi sáng trời mây ảm đạm âm u, anh Đại tá Trần Kim Hoa (trước 30-4-1975 làm tại Văn Phòng của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm) bị Cán bộ cảnh vệ bắt gặp, đang ngồi trong giữa ruộng ăn lén một khúc miá. Cảnh vệ nạt nộ, dẫn anh ấy ra giữa đường đi trong ruộng miá, nơi anh em đang ngồi nghỉ giải lao, bắt phải ngồi ăn và nuốt hết cả bã lẫn nước khúc miá, đã lấy trộm của Xã hội Chủ nghiã và Nhân dân trong khi lao động. Thật tàn bạo hết chỗ nói.
Anh Hoa ngồi ì ra đó, nhất định không làm theo lời buộc vô lý của Cảnh vệ, tuổi còn non choẹt cỡ con của chúng tôi. Anh Cảnh vệ tức tối hăm he dùng đủ mọi thứ tiếng tục tằn, để sỉ nhục chung cả chúng tôi chớ không riêng một mình anh Hoa. Nào là : “-Đồ bán nước, cặn bã của Xã hội. -Cha mẹ chúng bay không biết dậy dỗ, để chúng bay đi làm Ngụy tay sai cho Đế quốc. -Chúng bay ăn gì mà ngu thế... Trong khi đó Quản giáo Đội chúng tôi chẳng nói gì, bỏ đi chỗ khác, hình như không muốn dính vào vụ cãi cọ giữa Cảnh vệ hung hăng phi lý đối với Tù.
Mọi người lo cho anh Hoa, có thể bị kỷ luật vì việc này. Nhưng rồi chẳng thấy gì, sự việc êm ả qua đi trong quên lãng của mọi người.
Ngày hôm sau, Đội chúng tôi được đưa vào làm tại lò ép miá. Một số anh em ngồi gióc vỏ cây miá trước khi cho vào trục ép. Một số khác luân phiên nhau, đẩy cần quay trục ép miá thay cho trâu.
Rút kinh nghiệm vụ anh Hoa, anh em ai thấy cần cải thiện chất ngọt thì xin Cán bộ, cho nhặt những khúc gốc và ngọn miá vứt dưới hố rác bên lò nấu mật, đem ra sông rửa sạch trong giờ đi rửa chân tay trước khi trở về trại nghỉ, và ăn ngay bên bờ sông, hoặc dấu vào bị đem về trại ăn sau vào buổi tối.
Từ Tết Kỷ Mùi (1979) trở đi, Tù được ăn độn hàng ngày theo “tiêu chuẩn” 75 phần trăm “sắn duôi” và 25 phần trăm cơm trắng. Theo thông lệ, tới khoảng tháng 4 (tháng giáp hạt) là thời gian hè không trồng được lúa, phải trồng hoa mầu phụ như đậu, cà, bắp, Tù thường phải ăn “sắn nút chai”. Nhưng không biết vì sao, năm nay Trại bắt đầu được cung cấp hạt Bo Bo và bột Mì do nước ngoài viện trợ, cho Tù ăn thay “sắn nút chai”.
Phải chăng đây là kết quả Hội nghị tại Genève, do Liên Hiệp Quốc triệu tập theo yêu cầu của Hoa Kỳ, để giải quyết vấn đề nhân đạo đối với Tù chính trị miền Nam ?
Cán bộ Quản giáo Đội Nhà Bếp ở đây, cũng chỉ dẫn cho Tù cách nhồi bột Mì với nước, đóng theo khuôn gỗ tròn, luộc chín phát cho Tù y như bên Trại Quân đội trước kia. Chắc đây là “kỹ thuật đồng bộ”, Nhà Nước Xã hội Chủ nghiã nghiên cứu và truyền dạy cho Quân Cán cả nước cùng theo.
“Tiêu chuẩn” phần ăn hàng ngày vẫn ít ỏi, không trang trải đủ nhu cầu cần yếu của cơ thể. Nạn đói vẫn tiếp tục hành hạ những người như tôi, không được gia đình tiếp tế sung túc đầy đủ như các bạn khác. Nên ngoài việc cải thiện linh tinh lén lút thường xuyên hàng ngày, một số anh em còn phải lấy một vài vật dụng riêng như khăn rửa mặt, hoặc thuốc lào trại phát hàng tháng... để trao đổi cho bọn Hình Sự lấy Bánh Mì Luộc hoặc Bo Bo để ăn. Dĩ nhiên chỉ có mấy đứa “Hình Sự Đầu Nậu” trong tù, mối lái móc ngoặc với anh em để làm việc này, chớ không phải tất cả bọn Hình Sự.
“Tiêu chuẩn” ăn hàng tháng của bọn Hình Sự được quy định là 11 kí lô, ít hơn phần ăn của Tù Chính trị miền Nam là 12 kí lô. Thế mà ngày nào chúng cũng có dư phần ăn để đem trao đổi, vào buổi sáng trong thời gian mọi người chờ đợi ra sân tập họp đi lao động. Chắc là bọn Hình Sự phục dịch ngoài Bếp Cán bộ, đến khuya mới trở vào Trại ăn cắp đem về cung cấp cho bọn “Đầu Nậu” trao đổi.
Tôi thấy anh bạn nằm bên cạnh (Đại tá Nguyễn ngọc Thanh trước 30-4-1975 làm tại Phủ Tổng Thống) cũng có đổi hoài, nên hỏi thăm và nhờ anh ấy chỉ mối để đổi chiếc khăn mặt mới lấy chiếc bánh mì luộc. Ngay sau khi trao đổi, tôi lanh lẹ lỉnh vào Láng ngủ, dấu chiếc bánh mì xuống dưới đống các bao tải đựng quà anh em cất trong kho, nơi gần khu có thùng vệ sinh ban đêm. Vừa xong thì ngoài cửa có tiếng anh Đội trưởng (Đại tá Lê Đình Luân, Đơn vị 101 thuộc Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu) gọi tôi, và cho biết là Cán bộ Trực Trại kêu tôi phải trình diện ngay tại Văn phòng Ban Thi Đua.
Mọi người nhìn tôi lo lắng, vì thấy cậu Hình Sự đổi bánh cho Tôi bị bắt dẫn lên Văn phòng Thi Đua, vừa đi vừa bị đánh túi bụi. Riêng tôi thì đã chuẩn bị sẵn cách ứng phó, nên tỉnh khô lặng lẽ đi trình diện. Vừa bước chân vào văn phòng Thi Đua, Cán bộ Trực chỉ mặt tôi nạt lớn : “-Thằng này nó vừa đưa cho anh cái gì?” tôi nhanh nhẹn trả lời ngay là không có. Nó thấy tôi cầm chiếc khăn mặt lông định lót thêm dưới mũ đội cho ấm đầu. Nó năn nỉ xin để cuộn cổ cho ấm vì lạnh quá. Tôi vừa mới được gia đình gửi quà cho 2, 3 cái, nên cũng dư, thấy nó tội nghiệp cũng muốn cho. Nhưng đang còn lưỡng lự, vì sợ vi phạm Quy luật Trại giam, chưa quyết định. Nó liều giật đại rồi chạy tuốt vô khu ở của nó, chớ có đổi chác gì đâu. Không tin Cán bộ khám người tôi và đồ đạc nơi ngủ của tôi xem có gì không. Nếu có thì tôi sẽ chịu “kỷ luật”. Vừa nói tôi vừa thọc tay vào túi quần móc ra nửa miếng bánh mì luộc, và phân bua đây là phần “tiêu chuẩn” sáng của tôi, mới lãnh xong hãy còn nguyên chưa kịp ăn.


Cán bộ Trực Trại đấm đá thằng Hình Sự túi bụi, và hỏi nó : “-Có đúng vậy không?” May mắn làm sao, nó gật đầu và quỳ xuống đất chắp tay vập đầu lạy Cán bộ lia lịa, năn nỉ xin tha. Ông ta dơ cao chân đạp vào ngực nó ngã ngửa ra phiá sau, vừa đúng lúc hồi kẻng tập họp xuất trại nổi lên. Lập tức ông ấy quay lại xiả mạnh tay vào ngực tôi, và nói : “-Anh liệu hồn, thôi đi đi.” 

Thật là xui xẻo hú hồn hú viá, người ta đổi hoài chẳng sao, mình mới thử lần đầu tiên đã mắc kẹt ngay. Đây là lần đầu và cũng là lần cuối, tôi liều lĩnh lén lút tiếp xúc trao đổi với tụi Hình Sự. Chuyện không may đã xẩy đến với tôi, nhưng may mắn không việc gì, vì tôi đã chuẩn bị đề phòng trước.
Vào cuối mùa Hè ở vùng này thường có những đợt mưa rào, nước trên Trời trút xuống xối xả như thác đổ. Mỗi ngày có đến 2, 3 cơn mưa lâu cỡ vài tiếng đồng hồ mới dứt. Có những đợt mưa kéo dài 3, 4 ngày, và sau mỗi cơn mưa mặt trời trở lại nắng gắt oi ả hơn, không một ngọn gió, nóng nực kinh khủng. Tiếp theo những cơn mưa rừng chừng vài tiếng đồng hồ, bao giờ cũng là một tai họa khủng khiếp. Thác lũ nước nguồn dồn xuống, bứng cây cuốn theo phá hoại hoa mầu, nâng mực nước sông lên cao tràn ngập mênh mông. Nước lũ cứ cuồn cuộn vài ngày đêm như vậy mới lần lần thoát hết. Tất cả những gì con người đã khổ công reo trồng vun bón, ở 2 bên sông chưa tới ngày thâu hoạch, bị nước lũ cuốn trôi theo dòng xuống đồng bằng ra biển cả ráo trọi. Chỉ còn lại một lớp phù xa đỏ ngầu, ngập lút đầu gối.


Oái oăm thay, cũng chính vào cái mùa mưa lũ này, các bà vợ từ miền Nam lẻ tẻ được phép đến Trại “thăm nuôi”, cung cấp tiếp tế thực phẩm cho Chồng “bồi dưỡng” lấy lại sức khoẻ. Thời gian Vợ Chồng gặp nhau chỉ được có 15 phút, chuyện gia đình con cái ra sao trao đổi còn chưa đầy đủ, thời giờ đâu mà tả cảnh khổ cực dọc đường cho các Ông nghe.
Tuy nhiên cũng có những anh Đội trưởng, những anh Nấu Nước ngoài “hiện trường lao động” cho Đội, được Quản giáo Đội “chiếu cố” đề nghị Trưởng trại cho thăm 2 tiếng đồng hồ buổi trưa. Có người còn được ở lại bên vợ 24 giờ đồng hồ, tại Nhà Thăm Nuôi. Không có sự hiện diện kiểm soát của Cán bộ, Vợ Chồng tha hồ tâm sự nhỏ to đủ mọi chuyện.

Nhờ thế, những tin tức về các cuộc họp tại Genève, liên quan đến các phương thức giải quyết vấn đề Tù miền Nam, luôn luôn được cập nhật hoá, và là đề tài xì xầm hàng ngày giữa anh em Tù miền Nam trong cả Trại. Đây là những liều thuốc bổ hữu hiệu nhất, để chữa căn bệnh thất vọng của anh em đã phải chịu đựng trong suốt mấy năm qua.

ỐC ĐẢO TÂN LẬP-VĨNH PHÚ.

Nắng hạn khô da nứt nẻ đồng,
Mưa nguồn lũ cuốn, khổ bần nông.
Cầm hơi lao động, lưng ca sắn,
Khắc phục bệnh thời, nắm lá xông.
Hung hãn Cai tù hăm hở nạt,
Hững hờ Cải tạo lạnh lùng trông.
Rừng hoang đất sỏi chen vồng miá,
Núi trọc hầm vôi dựng đá chồng.

K5 - Trại Tân Lập - Vĩnh Phú, Hè 1979.

 
 Chương 24
NHỮNG NGÀY CUỐI, TRONG ÐỊA NGỤC TRẦN GIAN

 “TÂN LẬP - VĨNH PHÚ”



Cho đến giữa năm 1978, tại Phân trại K1 Trại Tân Lập tỉnh Vĩnh Phú, anh em Tù chưa được nhận quà qua Bưu điện, gia đình chưa được phép đến trại giam thăm nuôi tiếp tế thực phẩm để “bồi dưỡng”. Trong những ngày Chủ nhật nghỉ lao động, để cho quên cơn đói lúc ở không, một số anh em Ðội chúng tôi thường tụm lại trong phòng giam, ghi chép cách bào chế thức ăn, do một vài bạn sành nghề nấu nướng truyền lại.
Ðây là phương thức ăn “hàm thụ” để quên đói, ngoài việc hút những bi thuốc lào làm cho con tì con vị say lơ mơ, không quậy phá xôn xao trong bao tử.
Trong thời gian này, có Bạn bầy tỏ ước nguyện của mình một cách rất chân thành mộc mạc là, khi được tha, sẽ mua ngay một lúc 5 kí lô sắn luộc, để ăn cho thật no căng bụng, thoả thê, khoái khẩu.
Nhưng đến năm 1979 tại K5, sinh hoạt ngày Chủ nhật nghỉ lao động của anh em chúng tôi lại khác hẳn. Ða số đều có quà tiếp tế qua đường bưu điện hàng tháng, và mỗi 3 tháng gia đình đến thăm nuôi cung cấp thêm, nên cảû ngày mọi người bận bịu bu quanh Cây Cổ Thụ bên Hội trường. Người lo nấu nướng ăn uống. Người lo hâm xào lại các món thịt kho, mắm kho, cho khỏi bị hư hỏng, vì phải lưu trữ lâu ngày để ăn dần…
Lúc này, chẳng còn ai nghĩ tới việc hút thuốc lào cho quên đói nữa. Vì nó là một loại ma túy nhẹ, tạo nguy cơ cho buồng phổi và trái tim, gây nguy hại cho sức khoẻ. Việc ghi chép cách biến chế thực phẩm, trong những giờ nhàn rỗi để quên đói, cũng không còn giá trị thực tiễn nữa. Nó bị chìm lần trong lãng quên của mọi người.
Một hôm, nếu Tôi nhớ không lầm là ngày 19 tháng 6 (Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà), Tù không phải xuất trại lao động. Tất cả ở trong trại để kiểm tra tư trang. Mọi người phải đem hết tư trang của mình ra khỏi phòng giam, ngồi xếp hàng dài vòng quanh sân, bầy mỏng trên mặt đất như bán chợ trời, chờ Cán bộ đến kiểm tra từng người một. Trong khi các Quản Giáo xét tư trang của Tù thuộc Ðội mình phụ trách, các Cán bộ An ninh vào lục soát trong các phòng giam, đã trống trơn không người không đồ đạc, để tìm kiếm thứ gì chẳng biết. Ai được kiểm tra xong, phải “khẩn trương” thu xếp đồ của mình lại sẵn sàng chờ di chuyển. Kiểm tra suốt từ sáng tới gần chiều mới xong, lập tức có lệnh các Ðội chuyển đổi Láng ở và phòng giam.
Sáng hôm sau, có tin một bạn Tù gốc Hành Chánh bị nhốt vào Nhà Kỷ luật, vì tội gửi lén thư ra ngoại quốc tố cáo sự tàn ác của Việt Cộng, đối với anh em Tù Chính trị miền Nam bị đưa ra Bắc.
Trong thời gian này, đủ thứ tin tức mới về các cuộc họp tại Genève, giải quyết số phận Tù Chính trị miền Nam giữa Hoa Kỳ và Cộng sản. Ðây là những đề tài nóng hổi, rì rầm truyền tai nhau hàng ngày, tại bờ sông trong thời gian tắm giặt sau giờ lao động chiều.
Nào là, Ðại diện Hoa Kỳ : “Yêu cầu Chính quyền Việt Nam Cộng sản thả hết những người đã phục vụ trong Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà trước đây, hiện đang bị giam giữ suốt từ 30 tháng 4 năm 1975 đến nay ra.” Việt Cộng trả lời : “Họ là những thành phần có nhiều nợ máu với Nhân dân, mầm mống gây nguy hiểm cho Xã hội Chủ nghiã Việt Nam, nên không thả được.”
Hoa Kỳ liền đưa ý kiến : “Nếu vậy, Hoa Kỳ bằng lòng nhận lãnh những người đó đưa sang định cư tại Hoa Kỳ.” Việt Cộng đặt điều kiện : “Hoa Kỳ phải bồi thường thiệt hại cho Chính quyền Cộng sản Việt Nam như sau : -1. Mỗi đầu Tù thả ra là 20 ngàn Ðôla; -2. Cộng thêm tiền nuôi ăn suốt thời gian bị giam giữ, là 5 Ðôla một ngày cho mỗi đầu người.”
Hoa Kỳ : “Ðồng ý, nhưng với điều kiện : -1. Các phái đoàn đại diện Hoa Kỳ phải được vào gặp Tù ngay trong các Trại giam để lập danh sách. -2. Hoa Kỳ sẽ bốc Tù thẳng từ các Trại giam đưa đến nơi định cư. -3. Sau khi bốc hết Tù ra khỏi các Trại giam, Hoa Kỳ sẽ bốc Vợ Con của Họ thẳng từ nơi đang cư ngụ đi đoàn tụ với Chồng. -4. Trong khi chờ đợi, cho ngay các đoàn Hồng Thập Tự Quốc tế vào thăm và khám sức khoẻ cung cấp thuốc men cho Tù.”
Trong khi Việt Cộng còn đang ngần ngừ theo chỉ thị “Trì hoãn chiến” do Liên Xô chỉ đạo, thì Trung Cộng xua quân xâm chiếm một số Tỉnh biên giới Bắc Việt, và rút hết Cố vấn Kỹ thuật về nước. Tuyên bố là để cho Việt Công một bài học, về tội dám đưa quân qua Cam Bốt triệt hạ phe Khmer Ðỏ (đàn em của Trung Cộng), lập tay em của Việt Cộng thân Liên Xô lên cầm quyền. Nhưng thực ra, Trung Cộng thực hiện cuộc xâm lăng nhằm mục đích áp lực Việt Cộng phải chấp nhận những đề nghị của Hoa Kỳ. Vì hình như Trung Cộng được Hoa Kỳ “đi đêm”, hứa nếu giúp hoàn thành xong việc này, sẽ dành cho một số ưu đãi gì đó về kinh tế.
Sau bài học dằn mặt của đàn anh Trung Cộng ở sát bên nách, “sông liền sông, núi liền núi, như răng với môi” đáng sợ hơn là đàn anh Liên Xô ở quá xa, Việt Cộng phải ưng chịu, với phản đề nghị : “Bằng lòng thả Tù về “đoàn tụ” với Vợ Con tại địa phương. Sau đó mới lần lượt cấp Hộ chiếu xuất cảnh cho toàn thể gia đình, đi định cư cùng một lúc theo đơn xin.”
Hoa Kỳ chấp nhận đề nghị này của Việt Công. Tổng Thống Hoa Kỳ đề cử Tướng Vessey làm Ðặc Sứ, tiếp xúc thường xuyên với Chính quyền Cộng sản tại Hànội, để sắp xếp việc thực hiện Chương trình Nhân đạo (Humanitarian Operation). Nhờ thế, kể từ năm 1989 trở đi, toàn Thế giới biết đến cái tên Chương trình H.O., đem các Tù Chính trị miền Nam Việt Nam được Việt Cộng thả ra khỏi các trại tập trung, cùng gia đình Vợ Con sang định cư tỵ nạn tại Hoa Kỳ, sống cuộc đời Tự do.
Mặc dù cho đến nay, không có điều kiện và cơ hội tìm hiểu thêm để biết rõ mức độ chính xác của các tin đồn hồi đó, nhưng Tôi vẫn ghi lại. Vì trong thời gian có các tin đồn nêu trên, cũng có nhiều sự việc sau đây đã thực sự xẩy ra đối với Tù trong Trại giam, cho phép nghĩ rằng những tin đó có thật, chớ không phải là bịa đặt đồn nhảm.
1.- Khoảng giữa năm 1978, bỗng dưng có một Ðoàn Y tế khá hùng hậu của Cộng sản, từ Hà Nội đến tận các Phân trại thuộc Trại Tân Lập, kiểm tra sức khoẻ tổng quát cho anh em Tù miền Nam. Ít ngày sau, lại có phái đoàn Bộ Nội vụ của Chính quyền Hànội đến tổ chức học tập, buộc Tù phải làm “Bản Tự khai Tự lên án mình”. Sau khi các đoàn đã hoàn tất công tác và rời khỏi Trại, Trưởng Trại Tân Lập, Thiếu tá Nguyễn Thùy, rao truyền là Nhà Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam sẽ làm cuộc “Cách Mạng Hồng”, để “bồi dưỡng” cho Cải tạo viên “hồng đôi má” mà cải tạo cho mau “tiến bộ” sớm về “đoàn tụ” với gia đình.
Nhờ thế, hàng tháng Tù được Trại phát cho một Phiếu Bưu Kiện, và cho viết thư để chuyển về xin gia đình gửi 5 kí lô thực phẩm khô qua đường Bưu điện mà “bồi dưỡng”. Rồi Nhà Nước lại chỉ thị các Chính quyền địa phương cấp giấy phép di chuyển, cho thân nhân đến tận Trại giam “thăm nuôi”, cung cấp thêm cả nửa tạ thực phẩm cho Tù mỗi 3 tháng, ngoài các Bưu kiện gửi hàng tháng.
2.- Cách cư xử của Cán bộ Trại giam đối với Tù, bớt khắt khe hơn trước. Trong thời gian nghỉ giải lao giữa buổi lao động, Tù được phép gom góp những bó củi nhỏ, đem vào Trại nấu nướng thực phẩm “bồi dưỡng” trong ngày Chủ nhật nghỉ lao động. Hàng ngày đến bữa ăn, từng toán nhỏ 3, 4 người, được phép góp thực phẩm ngồi ăn chung với nhau, không còn bị cấm túm năm tụm ba ăn uống nói chuyện như hồi trước nữa. Trong giờ lao động, anh phụ trách nấu nước ngoài “hiện trường lao động” được phép nấu giùm thức ăn riêng cho các bạn trong Ðội, để “bồi dưỡng” tại chỗ trong giờ giải lao, hoặc đem vào trại ăn tăng cường cho thực phẩm do trại cấp.
3.- Tại miền đồng bằng sông Hồng, có các phái đoàn Hồng Thập Tự thuộc tổ chức Liên Hiệp Quốc, đến các Trại giam tiếp xúc nói chuyện với Tù.
4.- Lẻ tẻ có những đợt nhiều Tù được tha cùng một lúc, với lý do đã “cải tạo tiến bộ”. Có người đang bị Trại phạt nhốt trong Nhà Kỷ Luật, khi có lệnh tha cũng được thả ra về thong thả.
5.- Có nhiều đợt hàng ngàn Tù, được chuyển từ các Trại giam ở miền Bắc về các Trại giam tại miền Nam, để tiếp tục cải tạo chờ lệnh tha.
6.- Bộ Nội vụ của Chính quyền Cộng sản Hànội, chính thức công khai loan báo trên báo chí và đài phát thanh của Nhà Nước, việc thành lập phái đoàn Cục Trại Giam, có dẫn theo Trung tướng Quân lực Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Hữu Có đang cải tạo, vào miền Trung Việt Nam, nghiên cứu địa hình địa vật vùng Thanh Cầm thuộc huyện Như Xuân tỉnh Thanh Hoá, ở giữa vùng rừng già trong dẫy Trường Sơn, ráp ranh Việt Nam - Hạ Lào. Mục đích thực hiện Kế hoạch đem hết Tù Chính trị miền Nam vào đó khai phá rừng, thành lập khu Kinh Tế Mới. Rồi sẽ ký lệnh thả Tù, và buộc đem hết Vợ Con vào định cư vĩnh viễn tại đó...
Theo kinh nghiệm và hiểu biết của Tôi, không bao giờ Cộng Sản Việt Nam (CSVN) lại dám tập trung tại một nơi, cả trăm ngàn Sĩ quan các cấp của Quân lực Việt Nam Cộng hoà như vậy, mặc dù là ở giữa nơi rừng núi hoang vu. Vì bị CSVN tập trung hành hạ khổ nhục dã man, bỏ đói khát bệnh tật cho chết lần mòn suốt từ mấy năm qua, mối căm thù trong thâm tâm tập thể Sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hoà đối với CSVN rất sâu đậm. Tập thể này có thể gắn bó với nhau, vùng dậy thành lập khu chiến chống Chính quyền, kêu gọi Thế giới can thiệp, sẽ là một tai họa lớn khó giải quyết.
Do đó, nếu bình tâm suy nghĩ phân tích cẩn thận sẽ thấy rõ ràng, kế hoạch này chỉ là một “Ðòn Tháu Cáy” do Cộng sản Việt Nam xảo quyệt gian ngoan tung ra, nhằm 2 mục đích :
-1. Ðoán biết được Hoa Kỳ đang bị lương tâm đạo đức cắn rứt, vì đã phản bội bỏ rơi Ðồng minh. Những bạn Ðồng minh đã từng hy sinh cộng tác với Thế giới Tự do, đứng nơi “tuyến đầu” ngăn cản làn Sóng Cộng sản tràn xuống Vùng Ðông Nam Á, đang bị Cộng sản Việt Nam hành hạ khổ nhục trong các trại Tập trung. Bằng mọi giá phải cứu cho thoát cảnh tù đầy. Cộng sản Việt Nam liền lợi dụng, nèo co giá cả được càng nhiều càng tốt.
-2. Trung Cộng đang “cơm không lành canh không ngọt” với cả Liên Xô lẫn Việt Cộng. Nhân được Hoa Kỳ nhờ vả hứa cho lợi lộc nào đó, có thể bất thần ồ ạt đưa Quân hùng Tướng mạnh vượt biên giới lần nữa, để cướp Tù Chính trị miền Nam giao cho Hoa Kỳ thì sao? Nên “cẩn tắc vô ưu”, lập chương trình kế hoạch đem Tù vào giam nơi vùng rừng núi âm u giữa lòng Trường Sơn, xa biên giới Bắc Việt-Trung Hoa là yên tâm nhất.
-3. Ông Nguyễn Hữu Hạnh, một Cán bộ Cộng sản nằm vùng tại miền Nam Việt Nam, với cấp bậc Chuẩn tướng trong Quân lực Việt Nam Cộng hoà, sau 30-4-1975 làm Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc do Việt Cộng dựng lên tại Saigon, được đưa đến “tham quan” Trại Tân Lập. Không biết mục đích cuộc thăm viếng này để gặp những ai? nói về chuyện gì? Sở dĩ chúng tôi biết được, là nhờ đúng ngày ông Hạnh tới Trại, Ðội chúng tôi đang phải làm công tác dọn rác rưởi, nhổ cỏ các vườn hoa, vét mương rãnh, bên các đường đi chung quanh các cơ sở Văn phòng và Kho của Ban Chỉ huy Trại. Khi đi ngang ông Hạnh ngừng lại bắt tay chào anh em. Không phải tất cả Ðội cùng thấy, chỉ có mấy bạn đang làm tại khu vực ông Hạnh đi ngang thấy, trong đó có anh Trần văn Thăng (Ðại tá An ninh Quân đội). Sau giờ lao động về Trại, anh Thăng kể lại cho anh em cả Ðội cùng biết.
Vài tuần sau ngày ông Hạnh “tham quan” Trại Tân Lập, Ðội chúng tôi được đổi công tác. Bỏ nghề nông và tạp vụ để làm Ðội Ðan Lát. Cả ngày ngồi trong Láng có mái che mưa nắng, để sản xuất mành tre, đan thúng, nong nia, rổ rá, và chuốt đũa... Láng đan lát của chúng tôi ở sát ngay bên xưởng cưa xẻ gỗ, sản xuất bàn ghế giường tủ, của Ðội Mộc, ở phía Tây ngoài Trại giam, cách khu Nhà Thăm Nuôi chừng nửa cây số.
Anh Chu văn Sáng (Ðại tá An ninh Quân đội) được anh Ðội trưởng đề nghị Quản giáo chỉ định làm Anh Nuôi, chuyên nấu nước chín cho anh em uống trong giờ lao động, và hâm nấu giùm các Gô, soong đồ ăn riêng của anh em. Anh Ðội trưởng cũng giao thêm trách nhiệm cho anh Sáng phục dịch nước trà, món ăn, và thuốc lá thơm cho Quản giáo Ðội và Cảnh vệ trong giờ lao động, để anh em được thoải mái không bị kiểm soát đôn đốc gắt gao, như hồi còn đi làm nông nghiệp và tạp vụ linh tinh ngoài đồng.
Cũng nhờ thế, dịp anh Sáng có thân nhân đến “thăm nuôi”, Quản giáo đã xin cho được phép gặp gia đình lâu hơn bình thường. Anh ấy được Quản giáo đưa ra gặp thân nhân trong suốt 2 tiếng đồng hồ nghỉ lao động buổi trưa, cộng thêm 15 phút thăm nuôi chung với mọi người trong giờ lao động buổi chiều.
Anh em chúng tôi cũng được Quản giáo Ðội cho phép viết thư ngoại lệ. Nộp cho ông ấy kiểm tra ngay trong giờ lao động sáng, tại “hiện trường lao động”. Sau đó, ông ấy đích thân mang ra Nhà Thăm Nuôi, giao cho thân nhân anh Sáng, nhờ mang tay về tận nhà chúng tôi tại Saigon.
Khoảng tháng 11 năm 1979, có một đợt hơn trăm Tù miền Nam, bên khu phiá Tây của Phân trại K2 của chúng tôi, được di chuyển ra khỏi Trại Tân Lập. Theo tin đồn, anh em được di chuyển về miền Nam, mọi người đều “hồ hởi phấn khởi” chia sẻ nỗi vui mừng với những người ra đi.
Cuối tháng 12 năm 1979, sau khi Trại dồn xếp lại nơi ăn ở của các Ðội còn lại, bên khu phiá Tây Phân trại xong. Ðội Ðại tá chúng tôi và Ðội các Tuyên Úy, đang bị giam trong các phòng thuộc dẫy nhà khu Hình Sự, được di chuyển qua dẫy nhà ngay đầu khu Tù miền Nam, nơi gần khu Bệnh xá và Nhà Bếp.
Ðêm giao thừa 1979 bước qua 1980, sau khi từng Ðội họp “kiểm điểm, phê, tự phê, và xây dựng” cho nhau “khắc phục” những ưu khuyết điểm trong ngày xong, anh em được phép đàn đúm vui ca, những bài hát Cách mạng để mừng đón năm mới, suốt từ tối cho đến nửa đêm.
Cả phòng giam cùng vỗ nhịp tay, cao giọng đồng ca rất nhiều bài đã phải học thuộc lòng bấy lâu nay. Lúc ca bài “Saigon giải phóng” của Văn nô Cộng sản đẻ ra sau 30-4-1975, có mấy anh lấy Gamen và Ca uống nước bằng nhôm ra gõ nhịp, gây tiếng động rổn rảng ầm ĩ, đến nỗi Cảnh vệ đi tuần tra đêm, lo lắng, đi báo cáo Trực Trại tới ra lệnh buộc phải chấm dứt.
Ngày hôm sau, nhiều người bị gọi lên gặp Cán bộ An ninh để “làm việc”. Chung cuộc, chỉ có anh Vĩnh Biểu (Ðại tá Bộ binh) và Ðại Ðức Tuyên Úy Phật giáo nguyên thuộc Vùng 4 Chiến thuật (Cấp bậc Ðại Úy, Họ Trần, Tôi không nhớ Tên) bị phạt nhốt vào Nhà Kỷ Luật. Hình như có người báo cáo rằng, trong lúc hát bài “Saigon giải phóng” đến chỗ có câu “quét cho sạch nó đi”, 2 Vị này lại cao giọng hét lớn hơn mọi người là “giết cho sạch nó đi”, nên mới mang hoạ bị nhốt để tiếp tục điều tra.
Khoảng vài ngày sau, Ðội Ðại tá chúng tôi và Ðội các Tuyên Úy Quân đội (Công giáo và Phật giáo) được lệnh chuẩn bị “hành quân” rời Trại Tân Lập. Riêng Mục Sư Dương Kỳ (nguyên Giám đốc Nha Tuyên Úy Tin Lành) ở lại, sau này được chuyển theo các đợt khác về Nam Hà vùng đồng bằng sông Hồng.
Chúng tôi không biết sẽ bị chuyển đi đâu, nhưng mọi người đều mừng rỡ hân hoan. Vì ai cũng đang mong được ra khỏi cái Trại Tân Lập “Ðịa ngục Trần gian” này, sớm chừng nào tốt chừng nấy.



TÌNH NGHIÃ ÐỒNG MINH CHỐNG CỘNG.

Ta thông cảm, vì chiến lược toàn cầu.
Bạn “Cờ Hoa” phải dứt tình cuốn gói.
Nghe “Bồ” gọi, vẫn ngoảnh mặt làm ngơ.
Bỏ “be bờ”, phá Liên Xô tận gốc.
Hai tay gộc, cần loại bớt một tên.
Gây chia rẽ, để dễ bề hạ độc.
Ðổi đòn mới, nhằm xoay chuyển thời cơ.
Quên lương tâm, khiến Bạn đường vương lụy.
Ta buồn hận, nhưng dũng cảm kiên trì.
Sống âm thầm, đợi biển dâu đổi dạng.

Ðồng minh phản bội thoát thân,
Mặc Ta chịu cảnh phong trần bấy lâu.
Gió sương mưa nắng dãi dầu,
Thảm thương tiều tụy như trâu ngựa già.
Âm thầm đếm tháng ngày qua,
Kiên tâm chịu đựng để mà đợi trông.
Qua cơn nước lũ hãi hùng,
Mài gươm tiếp tục vẫy vùng đó đây.
Xoá màn đêm giữa ban ngày,
Cho giang sơn Việt tràn đầy tình thương.
Tự do rực mọi nẻo đường,
Nhân quyền toả khắp quê hương an bình
Cầu xin Quốc Tổ hiển linh,
Ðộ Trăm Họ thoát cực hình Tam Vô.
Sớm khôi phục lại cơ đồ,
Việt Nam Dân chủ Tự do Phú cường.

K5-Tân Lập-Vĩnh Phú, Ðầu năm 1980.
 HOME

 

Chương 25


TUNG LÁ BÀI "THÁU CÁY" ÐỂ NÈO CO GIÁ CẢ.


Vài ngày sau khi mừng đón Tân niên 1980 tại Phân trại K5 trại Tân Lập, Ðội Ðại tá chúng tôi và Ðội các Tuyên Úy không phải xuất trại đi lao động buổi chiều, ở lại trong Trại chuẩn bị thu xếp tư trang gọn ghẽ sẵn sàng “hành quân”.
Mọi người bị nhốt trong Láng giam không được ra ngoài. Ðến tận lúc trời tối mò, Cán bộ Hậu Cần mới vào phòng giam, đổi giấy biên nhận cũ ghi các vật quý của Tù, bị Trại lưu giữ từ ngày chuyển tới đây, lấy giấy biên nhận mới, do một Cán bộ khác ký không ghi rõ tên.
Anh Ðại tá Vĩnh Biểu và Ðại Ðức Tuyên Úy Phật Giáo bị cùm trong Nhà Kỷ Luật, vì đêm giao thừa 1979-1980 đã đập Gamen và Ca nhôm ầm ĩ làm nhịp gây náo động phòng giam, lúc cùng anh em vui hát đón mừng Tân niên, được thả ra để chuẩn bị lên đường một lượt với chúng tôi.
Ăn cơm tối xong, mọi người đã sẵn sàng, ngồi tựa lưng vào hành trang của mình, ngủ gà ngủ gật tại chỗ nằm trong Láng. Mãi đến nửa đêm, đèn bật sáng, mọi người thức dậy lãnh thực phẩm ăn đường cho cả ngày hôm sau, và đem tư trang ra sân tập họp. Cán bộ đọc tên “biên chế” thành từng Ðội 30 người, tập trung bên nhau thành từng nhóm đợi giờ “Hành quân”. Mọi người ngồi giữa sân phơi sương đêm lạnh lùng, tới gần sáng mới có những chiếc xe Bus chuyên chở hành khách của Nhà Nước, rầm rầm chạy tới trại đón đưa đi.
Mỗi Ðội được chỉ định lên một xe. Tất cả Vali, túi đeo lưng, rương, thùng thiếc, bao đựng tư trang và thực phẩm khô, đều đưa lên xếp trên nóc xe, có phủ một tấm vải bạt lớn che mưa, và cột dây kỹ càng cho không bị rơi rớt dọc đường.
Mỗi xe chỉ có một lối lên, ở phiá trước bên tay phải buồng lái của tài xế. Trong xe có 2 dẫy ghế đôi, gắn dọc theo chiều dài thân xe, phân cách bởi 1 lối đi hẹp chính giữa. Ghế ngồi và lưng dựa đều có nệm bọc da giả (simili cuir). Dọc 2 bên hông xe có hàng cửa kính, đẩy qua lại được để thông thoáng gió.
Hai hàng ghế ngay cửa lên xuống và sau lưng tài xế, dành cho Cán bộ áp giải ngồi. Anh em, từng đôi một bị khoá tay chung một chiếc còng số 8, ngồi các hàng ghế phiá sau.
Tất cả lên xe xong, một hồi còi dài ra lệnh cho đoàn xe chuyển bánh. Ánh mặt Trời chưa thấy rạng ở hướng Ðông. Ðoàn xe ù ù nối đuôi nhau chạy ra khỏi Trại giam K5, đi ngược lại con đường đã đưa chúng tôi tới đây khoảng 2 năm về trước. Mặc dù chẳng biết mình đang bị đưa tới đâu, liệu có khá hơn chốn này hay tệ hơn, nhưng ai nấy đều vui mừng được giã biệt cái Trại Tân Lập “Ðịa ngục Trần gian” này, không một mảy may nào luyến tiếc.
Trời còn tối, cảnh vật chìm đắm trong sương mù, chẳng nhìn thấy gì ngoài những bóng đen lù lù mờ ảo của cây rừng, nối tiếp nhau xa dần 2 bên đường. Các cửa kính 2 bên hông xe đóng kín. Hơi người toả ra làm bầu không khí trong xe âm ấm. Mệt mỏi vì phải thức từ nửa đêm, mọi người thiu thiu chìm trong giấc ngủ theo nhịp ru vo vo, đều đều của giàn máy xe. Ngoại trừ anh tài xế và các Cảnh vệ áp giải phải thức không dám ngủ, vì trách nhiệm nặng nề do Nhà Nước giao phó đang đè nặng trên vai.
Vài giờ sau, ánh sáng ban mai dần dần soi rõ cảnh vật. Ðoàn xe ra khỏi đoạn đường rừng vòng vèo lên xuống, tiếp tục bon bon chạy trên đường nhựa lớn. Ðến lúc mặt Trời chiếu xéo ngang vai, đoàn xe lần lượt băng qua một vài Thị trấn, chẳng mấy gì sầm uất, nhà cửa cũ kỹ thiếu trùng tu. Không có bảng hiệu hướng dẫn nên chẳng biết là nơi nào, nhưng chắc vẫn trong địa phận tỉnh Vĩnh Phú. Hai bên đường và phiá trước mặt thấy toàn là đồng ruộng, nên đoán là đoàn xe đang chạy về miền đồng bằng sông Hồng.
Tới lúc mặt Trời gần đứng bóng, thấy phiá xa xa đằng trước, xeo xéo bên phải con đường, xuất hiện một cây cầu đúc lớn, cao và dài như loại cầu Xa lộ Saigon-Biên Hoà. Ðây là một cây cầu mới, Tôi chưa được thấy trước năm 1954. Nghe loáng thoáng qua các mẩu đối thoại giữa Cán bộ áp giải với anh tài xế, đó là cây cầu mới băng qua sông Hồng, tại vùng Trèm, Vẽ, do Trung Cộng viện trợ xây cất. Nhưng từ ngày Trung Cộng xua quân xâm lăng một số tỉnh biên giới, rút hết Cố vấn kỹ thuật về nước, thì các đồng chí Liên Xô thay thế, yểm trợ tiếp tục công trình đang bỏ dở.
Tôi hoàn toàn bị mất phương hướng, chẳng nhận ra được đâu là đâu. Vì suốt từ cuối năm 1950 đến nay 1980, đã mấy chục năm qua đi, Tôi chưa bao giờ có dịp trở lại quanh vùng Hànội.
Ðoàn xe tiếp tục chạy tới vùng Gia Lâm, mọi người xì xào chỉ trỏ nhận ra chiếc cầu sắt quen thuộc. Cầu Long Biên (Pont Doumer) băng ngang sông Hồng vào Hànội, với nhiều nhịp nối tiếp nhau dài trên ngàn mét. Lúc đoàn xe chạy trên cầu đến khoảng giữa, nhìn xuống 2 bên thấy Bãi Phúc Xá, như một hòn đảo dài nổi lên chia đôi dòng sông, làm Tôi nhớ lại những kỷ niệm hồi thập niên 1940. Tôi đã có dịp đi bộ trên suốt nửa cây cầu, rồi lần mò theo các bậc thang sắt xuống xóm nhà trên Bãi, vui chơi trong những ngày chủ nhật mùa Hè, để ăn bắp luộc, tắm nước sông trộn đầy phù xa hồng hồng mát rượi.
Qua hết cầu, đoàn xe vòng xuống chui qua gầm đầu cầu, chạy theo con đường dọc bờ sông, đi về phiá Văn Miếu. Bên trái đường, cái Bến xe hồi nào sầm uất đưa đón khách từ Hànội đi các Tỉnh và ngược lại, nay vắng hoe, thưa thớt có đôi nhóm người dắt xe đạp thồ hàng hoá tụ tập. Những dẫy nhà hai tầng dọc bên phải đường, trước kia tầng trên để ở, tầng dưới mở cửa hàng buôn bán, nay thấy vôi sơn cũ kỹ loang lổ, tưởng như bỏ hoang lâu ngày không người cư ngụ.
Lúc xe chạy ngang một ngã 3, nhìn vào con đường nhỏ bên phải, thấy nhiều người dắt xe đạp chất đầy trên tay lái và phiá sau yên ngồi, những bao và giỏ đựng hàng hoá, đi lại hoặc tụ tập 2 bên lề đường. Tưởng là khu chợ trời nhưng không phải, họ dắt nhau đi vào cửa sau Chợ Ðồng Xuân ở tận cùng con đường. Cái cổng cũ kỹ của Thành Thăng Long xưa kia, rêu phong cổ kính vẫn nằm lù lù ngay giữa con đường, chẳng có gì thay đổi.
Xe tiếp tục chạy qua các phố dọc bờ sông phiá sau Nhà Hát Lớn, qua khu Nhà Thương của Pháp trước kia, qua Chợ Mơ, Ngã Tư Cống Vọng khu Bạch Mai, rẽ xuống hướng Văn Ðiển trên đường đi Nam Ðịnh. Ðến gần khu ga xe hoả Văn Ðiển, nơi có ngã ba rẽ vào Hà Ðông, đoàn xe ngừng lại bên trái đường, cho Tù xuống xe, ngồi bên vệ đường nhìn ra đồng trống không bóng người, nghỉ ngơi ăn bữa trưa. Chúng tôi lấy thực phẩm Trại phát, và bánh mì khô, thịt, cá hộp do gia đình tiếp tế để ăn. Khi đang ăn, có mấy người dân địa phương hiếu kỳ, lảng vảng dưới ruộng lân la đến gần nhòm ngó. Họ nhặt và quan sát những chiếc hộp thiếc hết thức ăn, chúng tôi vừa vứt xuống bờ ruộng, rồi chỉ chỉ trỏ trỏ nói với nhau những gì không rõ.
Chính tại ngã ba đường này, hồi đầu năm 1948, Ðại đội 4 Vệ Binh Bắc Kỳ của Tôi, được di chuyển từ Ngã Tư Cống Vọng tới đóng 1 đồn lớn, 2 đồn nhỏ, theo thế chân vạc. Hàng rào tre và kẽm gai chung quanh đồn làm chưa hoàn tất, thì một đêm quân Việt Minh đến tấn công. Họ lặn ao lách qua hàng rào bao chung quanh đồn, mò sát tận chân tường phòng thủ, ném lựu đạn và xung phong hỗn chiến với cả 3 đồn một lúc. Nhờ có Pháo Binh vị trí bắn yểm trợ sát ngay chung quanh hàng rào, Việt Minh đã bị đẩy lui không chiếm được đồn nào.
Giữa 3 đồn không có phương tiện liên lạc bằng Vô tuyến, đường dây điện thoại duy nhất bị cắt đứt. Ðến lúc tiếng súng vừa lắng dịu, Ðại đội trưởng người Pháp ra lệnh cho Tôi, một mình ra khỏi đồn Chỉ huy, đến tiếp xúc với 2 đồn Con tìm hiểu tình hình. Sở dĩ Tôi được chọn làm công tác nguy hiểm này, vì Tôi nói được cả 4 ngôn ngữ thông dụng của các thành viên trong Ðại đội : tiếng Kinh là tiếng Mẹ đẻ, tiếng Thổ vùng Lạng Sơn (sau này Việt Minh gọi là tiếng Tầy), tiếng Tầu vùng Móng Cáy, và tiếng Pháp.
Tổng kết cả 3 đồn chúng tôi có 4 bị thương, một rất nặng bể nát ống quyển chân trái cần tản thương ngay. Ðại đội liên lạc Vô tuyến về Phân khu xin trực thăng không được. Tôi phải buộc Garrot ở ngang đùi để ngăn máu cho anh ấy, chờ tới mờ sáng đoàn xe Thiết giáp mở đường xuống tản thương. Khi đoàn xe vừa đến đồn, cũng là đúng lúc anh bạn bị thương (người Thổ Lạng Sơn) trút hơi thở cuối cùng. Tôi rất buồn và đau khổ, với 2 bàn tay không đã phải chăm sóc an ủi anh ấy suốt nửa đêm trường. Ðến lúc có phương tiện đem anh ấy đi cứu chữa, thì anh ấy lià đời để lại một vợ và 2 con nhỏ. Sau trận đánh này, Ðại đội trưởng đề nghị xin ân thưởng Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao đồng của Pháp, cho một số anh em đã chiến đấu gan dạ, đẩy lui quân Việt Cộng tấn công đồn, trong đó có Tôi. Nhưng Tôi đã từ chối không nhận, chỉ xin được nghỉ phép 7 ngày về Hànội chơi cho thoải mái. Ðại đội trưởng đã thăng cho Tôi từ hạng Binh Nhì lên hạng Binh Nhất, không cho đi phép, vì đơn vị cần người làm thông dịch viên thường trực.
Ðoàn xe chúng tôi nghỉ ngơi được chừng 45 phút, ăn uống xong lại lên đường, chạy song song phiá bên trái đường xe hoả. Ðến khoảng gần Phủ Lý, đoàn xe băng ngang đường sắt, tiếp tục chạy trên Quốc lộ 1 đi hướng Nam. Có người đoán là chuyển đến Trại Nam Hà. Nhưng không phải, vì đoàn xe tiếp tục chạy qua Thị xã Ninh Bình, qua cầu sông Ðáy, nơi gần dẫy núi đá tên Thúy, hồi cuối tháng 5 năm 1951 đã xẩy ra trận chiến rất khốc liệt giữa quân Việt Minh và quân Viễn chinh Pháp. Trận chiến này Pháp đặt tên là “Trận bên bờ sông Ðáy”, mở màn ngày 29 tháng 5 kéo dài tới khoảng giữa hạ tuần tháng 6 năm 1951 mới dứt, cả Thế giới đều biết. Trong “trận bên bờ sông Ðáy”, Tướng de Lattre de Tassigny, Cao Ủy Pháp kiêm Tư Lệnh đoàn quân viễn chinh Pháp tại Ðông Dương, đã mất người con trai yêu quý duy nhất là Trung úy Bernard de Lattre, tử thương ngay tại ngôi Ðền trên lưng chừng sườn núi Thúy, nơi đặt Bộ chỉ huy của đơn vị.
Lúc trận chiến “trên bờ sông Ðáy” xẩy ra, Tôi đang là Thiếu úy du học bổ túc chuyên nghiệp Sĩ quan, tại Trường Thực hành Chiến thuật Bộ Binh (Ecole d’application de l’Infantery) nằm trong cùng một doanh trại của Trường Sĩ quan Lục quân Saint Cyr, ở vùng Coetquidan thuộc Bretagne, Tây Bắc nước Pháp.
Qua khỏi vùng núi Thúy, đoàn xe tiếp tục chạy suôi hướng Nam, chẳng gặp chiếc xe nào lưu thông cùng chiều hay ngược chiều. Dưới trời nắng trang trang, tung bụi mịt mù, đoàn xe băng qua Bỉm Sơn, vùng Phố Cát, Ðèo Ngang, thuộc Tỉnh Thanh Hoá. Phong cảnh Ðèo Ngang làm sống dậy 2 sự kiện, ghi đậm nét trong trí nhớ của Tôi từ thuở thơ ấu, không bao giờ phai nhoà.
Thứ nhất, là bài thơ vịnh Ðèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, phải học thuộc lòng trong giờ Việt Văn của chương trình Tiểu học.
“ Bước tới Ðèo Ngang bóng xế tà,
“ Cỏ cây xen đá, lá chen hoa.
“ Lom khom dưới núi Tiều vài chú,
“ Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
“ Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
“ Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
“ Dừng chân đứng lại Trời Non Nước,
“ Một mảnh tình riêng Ta với Ta.
Thứ hai, là câu chuyện Ðền Sòng. Bà Ngoại của Tôi gốc người Nam Ðịnh kể cho nghe, vào những buổi tối thời tiền chiến, lúc cả nhà thanh thản quây quần ngồi ngoài sân, uống trà ngắm trăng sao trên nền Trời miền Thượng du Bắc Phần.
Theo chuyện kể : « Tại Sòng Sơn, có ngôi Ðền thờ một trong TỨ THÁNH BẤT TỬ của Việt Nam, gọi là Ðền Sòng thờ Bà Liễu Hạnh Công Chúa. Bà là Tiên Chúa thứ hai trên Trời tên gọi Quỳnh Nương, phạm lỗi bị giáng xuống Trần, làm ái nữ của vợ chồng một Hiền nhân tên Lê Thái Công ở Thôn An Thái, xã Vân Cát, Huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Ðịnh.
Sau khi chết Bà đã hiển Thánh và thường hiện ra ở nhiều nơi để phù hộ cho quần chúng thoát qua nhiều tai ách hiểm nghèo. Dựa theo lời tâu của Dân chúng địa phương và Quần thần trong Triều, thời Hoàng đế Lê Huyền Tông cũng như thời Vua Cảnh Hưng, cả hai Vị đều ra Chỉ Chiếu cho Công Bộ của Triều đình, đến lập Ðền thờ và phong Tước Hiệu cho Bà tại 3 nơi : Sòng Sơn, Phố Cát, và Ðèo Ngang, để dân chúng thờ phượng hương khói lễ bái sùng kính.
Tại xã Vân Cát, Huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Ðịnh nơi Bà được sinh ra đời cũng có đền thờ. Hàng năm Dân chúng tổ chức Lễ Hội rất linh đình suốt từ mồng 1 đến mồng 10 tháng 3 Âm lịch, gọi là Hội Phủ Giầy. »
Ở Thị xã Lạng Sơn, nơi Tôi được Cha Mẹ sinh ra và nuôi dưỡng lớn lên, cũng nghe nói Tiên Chúa Quỳnh Nương đã có lần hiện lên đối đáp Văn Thơ cùng danh nhân Phùng Khắc Khoan. Dân chúng sùng kính lập đền thờ, gọi là Ðền Thánh Mẫu Vân Hương tại phố Cửa Nam. Hàng năm tổ chức Lễ Hội từ ngày 20 tháng 3 và kéo dài trong 5 ngày, để quần chúng thập phương tới lễ bái, dâng hương cầu xin Bà phù hộ cho làm ăn hanh thông phát đạt. Những cặp vợ chồng hiếm muộn, hoặc sinh con khó muôi, tìm đến lạy cầu Bà độ trì cho được toại nguyện.
Mỗi kỳ Lễ Hội, người ta tổ chức rước Kiệu Linh Vị Bà đi thăm xã giao 4 Vị Thần Linh khác, cũng được Dân chúng dựng Ðền thờ phượng, tại những khu phố ở chung quanh bên ngoài Cổ Thành Lạng Sơn.

TỨ THÁNH BẤT TỬ của Việt Nam là :

1.-Thánh Gióng, tức Phù Ðổng Thiên Vương, giúp vua Hùng Vương thứ 6 dẹp giặc Ân, có Ðền thờ Ngài tại làng Phù Ðổng, Huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh (quê Nội của Tôi).
Những năm cuối Thập niên 1930, Tôi đã có dịp theo Cha về thăm quê và dự Hội vào ngày 8 tháng 4 Âm lịch. Cuối năm 1949, là Thiếu úy thuộc Ðại đội 2, Tiểu đoàn 2 Việt Nam, đóng tại làng Phù Lưu, Tỉnh Bắc Ninh, Tôi đã được Ðại đội giao phó chỉ huy một cuộc hành quân tuần tiễu về tới gần làng Phù Ðổng, nhưng không ghé thăm làng vì ngoài khu vực nhiệm vụ quy định.
Sau khi Cộng sản Việt Nam có toàn quyền cai trị miền Bắc hồi cuối năm 1954, họ đã chuyển làng Phù Ðổng từ huyện Tiên Du phủ Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, sang địa hạt Huyện Gia Lâm thuộc Thành phố Hànội.
2.- Chữ Ðồng Tử, Chồng của Công Chúa Tiên Dung con vua Hùng Vương thứ 3. Hai vợ chồng hiển Thánh tại Ðầm Nhất Dạ và Bãi Tự Nhiên vùng Chử Xá.
3.- Tản Viên Sơn Thần (Núi Tản Viên còn gọi là núi Ba Vì, trong địa hạt Làng Và, Huyện Bất Bạt, Tỉnh Sơn Tây). Ðức Tản Viên Sơn Thần chính là Sơn Tinh, chồng của Công Chúa Mị Nương con vua Hùng Vương thứ 18, trong chuyện Cổ tích Sơn Tinh và Thủy Tinh của dân tộc Việt Nam.
4.- Liễu Hạnh Công Chúa, tức là Tiên chuá Quỳnh Nương, Vị Thánh Bất Tử thứ Tư theo truyện Cổ Tích của dân tộc Việt Nam, lưu tuyền từ thời Nhà Lê.

Trong khi xe chạy ngang vùng Ðèo Ngang, Tôi cố đảo mắt tìm bóng dáng ngôi Ðền thờ, cũng như những chú tiều phu lom khom dưới núi, nhưng chẳng thấy gì, chỉ toàn là rừng cây âm u rậm rạp.
Mặt trời miền Trung bắt đầu xuống thấp, đoàn xe chúng tôi băng qua cầu Hàm Rồng trên sông Mã, qua Thị xã Thanh Hoá, tới khoảng giữa đồng không mông quạnh nơi ngoại ô, dừng lại bên phiá Trái đường, chẳng biết để làm gì. Tù không được xuống xe.
Chừng mươi phút sau, có một đoàn người độ hơn chục đứa trẻ nít cả trai lẫn gái, do một bà tuổi chạc trên dưới 30, chắc là Cô giáo, dẫn giắt di chuyển về hướng Thị xã. Tới ngang chỗ đoàn xe chúng tôi đang đậu, bầy trẻ nhỏ dừng lại nhìn ngó, chỉ chỉ trỏ trỏ. Một lúc sau có thêm mấy người đàn ông đứng tuổi, người vác cuốc, kẻ cằm đòn xóc đi tới, ngừng lại nói chuyện với người đàn bà. Thế rồi tự nhiên thấy người đàn bà bắt đầu xỉa xói vào chúng tôi, cất tiếng chửi rủa những câu rất tục tỉu. “Chém cha đẻ mẹ chúng bay, khi không sao lại pháo kích, xâm lấn đất đai của Nhân dân Việt Nam anh hùng của bà? Chúng bay mà rơi vào tay bà, thì bà phanh thây xé xác chúng bay ra.”... Rồi bà ta xúi giục bọn trẻ ném đá vào xe chúng tôi. Mấy người đàn ông cũng hung hăng xấn đến sát xe, dơ đòn gánh và cuốc tính đập vào dẫy cửa kính, nơi chúng tôi đang ngồi. Cán bộ Công an áp giải phải chạy ra can thiệp. Họ giải thích với nhau những gì, chúng tôi không nghe được, vì cửa kính đã phải đóng kín từ lúc bọn họ ném đá.
Mọi việc êm xuôi, Cán bộ bước lên xe giải thích : “-Họ thấy các anh mặc áo bông và đội mũ bông bịt tai chống lạnh của Quân đội Tầu, tưởng là tù binh Trung Hoa bị bắt tại các trận vùng biên giới giải vào, mới làm giữ như vậy.” Thật là phiền, những áo bông và mũ lạnh chúng tôi đang mặc, do Liên Trại 1 tại xã Việt Cường, Yên Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn, phát cho từ hồi đầu năm 1977, đã kể rõ trong một đoạn trước.
Ðộ mươi phút sau vụ lộn sộn, đoàn xe nổ máy tiếp tục cuộc hành trình, nhưng không chạy theo Quốc lộ 1 nữa, rẽ vào đường dẫn tới vùng núi rừng Trường Sơn. Ðoàn xe vòng vo, ngoằn ngoèo, qua các triền đồi khe suối, đến nhá nhem tối gặp một ngã ba đường, có một khu nhiều nhà sau một chiếc cổng lớn. Không đọc được trên bảng hiệu ghi gì vì trời đã tối, lại không có đèn soi sáng. Phiá đằng sau hàng rào, có rất nhiều bóng người đứng lố nhố. Họ la hò ỏm tỏi và ném đá vào xe chúng tôi đang chạy ngang. Cán bộ Công an áp giải văng tục, càu nhàu cho biết đây là Trung tâm huấn luyện của Bộ đội.
Ðoàn xe tới ngã ba rẽ theo hướng Trái. Sương rừng đêm bắt đầu dầy đặc. Quang cảnh chìm trong tăm tối mịt mù, chẳng còn thấy gì ngoài 2 luồng ánh sáng rọi trước đầu xe. Anh tài xế giải thích cho Cán bộ biết, rẽ sang Phải dẫn đến Huyện lỵ Như Xuân. Có bạn trong chúng tôi tỏ vẻ thông thạo, cho biết hướng phải đi Trại Ðầm Ðùn. Tôi chưa có dịp tới đây bao giờ, nên ai nói sao nghe vậy, không dám quyết đoán.
Suốt mấy tiếng đồng hồ tiếp theo, lắc qua lắc lại, lao xuống bò lên, băng qua 15, 16 con suối, đoàn xe ngừng lại giữa một Khu trại có nhà 2 bên đường, độ 20 phút sau lại tiếp tục di chuyển. Chạy được mươi phút đoàn xe lại ngừng, để từng chiếc một chậm chạp rà rà băng ngang một dòng sông cạn, rộng khoảng 100 mét. Sau khi toàn bộ đã qua sông, cả đoàn chạy tiếp chừng mười lăm phút tới một khu nhà, có hàng rào ghép bằng cọc tre cao bao chung quanh. Xe chạy qua cổng lớn vào trong, ngừng lại giữa bãi sân rộng. Anh em được lệnh xuống xe. Cán bộ tới mở khoá còng tay, mọi người tiếp nhau rỡ hành lý.
Lúc đó vào khoảng 12 giờ đêm, người ta đốt đuốc soi cho chúng tôi gom tư trang, hướng dẫn di chuyển vào một dẫy nhà tôn ở phiá trong cùng của khu giam. Vách nhà bằng phên nứa đan, sàn nằm hai tầng cũng bằng phên nứa đan, có một cửa gỗ ra vào duy nhất, then chốt sắt khoá ở bên ngoài.
Anh em tiếp tay nhau khuân vác đem tư trang vào Láng giam xong, phải ra ngoài xếp 2 hàng dọc theo vách phiá trước cửa nhà. Cán bộ đếm đầu người, cho từng đôi một đi vào phòng giam. Ðầy đủ không thiếu ai, cửa đóng lại, khoá trái bên ngoài. Mọi người lo thu vén đồ đạc riêng, và sắp xếp chia nhau chỗ ngủ.
Nhà nền đất, khoả đại khái không đập nén bằng phẳng nên chỗ lồi chỗ lõm, đêm tối đi lại vấp té lên té xuống. Cuối Láng giam có một Phòng Vệ Sinh dài 3 mét, rộng suốt bề ngang căn nhà. Nền phòng vệ sinh láng xi măng, có 3 bệ gạch cao để 3 thùng gỗ phiá dưới cho Tù giải quyết vệ sinh ban đêm, và một rãnh dẫn nước tiểu chẩy ra hồ chứa ở ngoài đầu nhà. Ngay nơi cửa ngăn cách Phòng Vệ Sinh và 2 hàng sạp nằm 2 tầng cho cả trăm người, có treo một ngọn đèn dầu làm bằng chai thủy tinh, leo lét cháy chập chờn cả đêm. Lục đục thu xếp chỗ nằm, căng mùng, cả tiếng đồng hồ sau, mọi người mệt mỏi chìm vào giấc “mộng Hoàng Lương” đầu tiên, giữa lòng rừng núi Trường Sơn. Cho tới lúc kẻng báo thức sáng, ai nấy ngủ ngon, nhờ sàn nằm bằng phên nứa không có rệp hút máu ngứa ngáy, như hồi ở Trại Tân Lập tỉnh Vĩnh Phú ngoài Bắc.
Thức giấc rồi, chúng tôi phải ở trong Láng giam đợi, cho đến lúc toàn thể Tù cũ xuất trại lao động hết, Cán bộ mới đến mở cửa cho ra. Một anh “Trật Tự” cùng với 2 bạn Tù thuộc Ðội Nhà Bếp, khiêng phần ăn sáng đến tận nơi phát cho từng Ðội. Trong 3 anh bạn Tù này có 1 người Tôi quen. Trung tá Chung trước 30-4-1975 làm Sĩ quan Phụ tá Trưởng Khối Tổ chức thuộc Tổng Cục Chiến tranh Chính trị tại Saigon.
Ðến trưa, khoảng 30 phút trước khi Trại đánh kẻng báo hết giờ lao động buổi sáng, anh Chung lại khiêng đồ ăn đến phát cho chúng tôi. Không có Cán bộ và anh “Trật Tự” đi theo, Tôi men đến gần anh Chung, chào và hỏi thăm tin tức về Trại mới này.
Qua câu chuyện trao đổi chớp nhoáng, Tôi biết được đây là K2 thuộc Trại Thanh Phong. Trưởng Phân trại này là một Ðại úy Công an Nhân dân gốc người Thiểu số. Trưởng Trại Thanh Phong là Trung tá Nguyễn Thùy (nguyên Trưởng Trại Tân Lập ở Vĩnh Phú). Ban Chỉ huy Trại đặt tại K1, nơi mà tối hôm qua đoàn xe của chúng tôi phải chạy ngang để vào đây. Tại K1 người ta giam cả trăm anh em Biệt Kích Dù, nhẩy ra Bắc từ những năm đầu Thập niên 1960 bị bắt. Anh em đã bị kết án tù trung thân khổ sai. Ngoài Trại Thanh Phong, trong vùng này còn có 2 Trại khác nữa là Trại Thanh Cầm và Trại Thanh Lâm.
Nghe cái tên Trại Thanh Cầm, làm chúng tôi suy tư bàn tán nhiều về cái Kế hoạch tập trung tất cả Tù Chính trị miền Nam và gia đình vào lập Khu Kinh tế mới, đồn đãi om sòm từ hồi còn ở Trại Tân Lập. Nhưng, chúng tôi vẫn yên tâm lạc quan, tin rằng đây chỉ là mánh khoé của Việt Cộng, tung lá “bài tháu cáy” để nèo co giá cả với Hoa Kỳ trong các cuộc thương thuyết tại Genève, về việc thả hết Tù Chính trị miền Nam đem đi định cư tại Hoa Kỳ mà thôi.
Dẫy nhà giam chúng tôi cách xa các nhà khác khoảng 100 mét, tại vị trí đất thấp nhất trong góc cùng của khu trại. Quanh nhà có sân rộng 10 mét và hàng rào kẽm gai đan ô vuông cao 2 mét. Chắc dẫy nhà này mới được dựng thêm để đón chúng tôi, chung quanh còn đầy cỏ dại rác rến bừa bãi dơ dáy.
Suốt cả ngày sau đêm mới tới, chúng tôi được ở trong trại dọn dẹp sạch sẽ, san nện nền nhà cho bằng phẳng. Ngày hôm sau, chúng tôi được đưa ra ban đất, phá đá sườn đồi để làm Sân Bóng Tròn cho Trại. Sân banh nằm giữa Nhà Thăm Nuôi cạnh khe suối cạn, và Khu nhà Cán bộ Phân trại K2 ở trên đỉnh đồi.
Khu giam chúng tôi ở phiá dưới chân đồi sát bên bờ suối, cách Khu Cán bộ chừng 500 mét về hướng Ðông Nam. Từ trong khu giam, chúng tôi có thể nhìn thấy các sinh hoạt tại Nhà Thăm Nuôi, ở về hướng Tây xa chừng 1 cây số. Khu giam gồm khoảng 8 dẫy nhà tôn, một Nhà Bếp, và một Trạm Y tế nhỏ với vài giường bệnh. Một Bác sĩ Quân y Việt Nam Cộng Hoà, tập trung cải tạo, được chỉ định lo toan, với một bạn Tù khác phụ trách châm cứu (gốc Sĩ quan Truyền Tin). Hai người làm việc dưới sự chỉ đạo của Nữ Cán bộ Y tế Công an Nhân dân.
Hàng ngày, cứ vào khoảng chừng 10 phút trước hạn mãn giờ lao động trưa cũng như chiều, Tù được Quản Giáo Ðội và Cảnh vệ dẫn xuống suối, tắm giặt trước khi trở vào khu giam. Nên anh em Tù khác Ðội có thể gặp nhau nói chuyện thoải mái, ở giữa dòng suối.
Mấy ngày sau, chúng tôi được ở trong trại 1 ngày, làm thủ tục “khai báo lý lịch”, “kiểm tra tư trang”, “biên chế” lại Ðội. Nhóm Ðại tá chúng tôi bị chia làm hai để hoà đồng cùng các Tuyên úy Công Giáo, Phật Giáo và Tin Lành, lập thành 2 Ðội riêng rẽ. Một Ðội Rau Xanh và một Ðội Nông Nghiệp.
Tôi thuộc thành phần Ðội Nông nghiệp, do anh Lê Ðình Luân (Ðại tá Ðơn vị 101-P2 Bộ TTM) làm Ðội trưởng, anh Dương Hiếu Nghiã (Ðại tá Thiết Giáp) làm Ðội phó, anh Tô văn Vân (Ðại tá Bộ Binh) làm Anh Nuôi, anh Hồ Hồng Nam (Ðại tá Chiến tranh Chính trị) làm Thư ký Ðội, và một người dân sự tên Khuông, gốc Tây Ninh, (trước 30-4-1975 là Cán bộ Nghiệp Ðoàn thuộc Tổng Liên đoàn Lao công Saigon) cũng là Tù Chính trị miền Nam bị đưa ra Bắc như chúng tôi, làm Trực Nhà cho Ðội.
Sau khi “kiểm tra và biên chế” xong, phải “khẩn trương” di chuyển đến ở 2 dẫy nhà trong Khu Cách Ly, sát bên cổng ra vào. Khu Cách Ly được phân cách với các dẫy nhà khác trong trại giam, bởi một con đường rộng 5 mét và hàng rào kẽm gai. Sau này chúng tôi phải làm lại bằng tre nguyên cây, cao 2 mét, dựng sát nhau, chôn sâu xuống đất 1 mét. Tù trong các nhà khác bị cấm, không được lai vãng vào khu giam chúng tôi.
Khu Cách Ly của chúng tôi nằm sát bên sân tập họp, chỉ có một lối ra vào ngay gần Cổng lớn, Cán bộ Cảnh vệ ngồi canh gác ngày đêm, nên chẳng ai dám léo hảnh tới. Dịp duy nhất anh em có thể liên lạc nói chuyện với nhau, là trong thời gian xuống suối tắm giặt sau những buổi lao động sáng, và chiều hàng ngày.
Ngay bên ngoài hàng rào trại giam, nhìn vào Khu Cách Ly của chúng tôi có 1 dẫy nhà, một phần dành cho các Cán bộ Trực Trại cư ngụ, một phần là Văn phòng làm việc của các Cán bộ An ninh, và Giáo Dục (tức là Quản Giáo) của Phân trại K2.
Có 2 điểm đặc biệt tại Phân trại K2 này là : 1.- Anh em Ðội Nhà Bếp phải khiêng thực phẩm và nước chín, đến từng Nhà giao cho Trực Nhà của Ðội nhận lãnh, chớ Trực Nhà không phải xuống Bếp lãnh như vẫn áp dụng tại các Trại khác trước đây. 2.- Trong trại giam không có Tù Hình Sự ở chung với chúng tôi.
Môi trường cải tạo hoàn toàn mới, với rừng già núi cao khe sâu âm u chưa hề khai phá. “Chỉ tiêu lao động” hàng ngày nặng nề gian khổ hơn. Ngày hai buổi, dù thời tiết nắng nóng như nung, hay mưa gió lạnh buốt như cắt da xé thịt, vẫn phải lặn lội xông pha đốn cây phá rừng, trồng sắn, trồng bắp, trồng miá, trồng lúa, trồng rau, để tự nuôi mình theo “tiêu chuẩn” dành cho Tù, và để nuôi Cán bộ canh gác mình, theo quy định của Nhà Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam.
“Kế hoạch Chương trình làm Kinh tế” chính của Phân trại K2 này là, phá rừng lập các nương trồng sắn, bắp, luá, trà, chăn nuôi trâu bò, phá đá nung vôi, đào nhồi đất xét làm gạch ngói nung chín, trồng miá ép làm mật đường, cất rượu, để Trại đem bán lấy tiền nộp cho Nhà Nước. Chẳng khác nào một khu đồn điền tư nhân, rộng lớn thời Pháp thuộc. Cán bộ Nhà Nước là chủ nhân ông, Tù Cải Tạo là bọn nô dịch phu đồn điền.
Ngoài công tác sản xuất, còn phải lo xây dựng thêm Nhà cho Cán bộ ở được khang trang hơn, có thêm nhà giam đón nhận Tù các nơi khác sẽ dồn tới, có một Hội trường đủ rộng để chứa 6, 7 trăm người.
“Tiêu chuẩn thực phẩm” ăn hàng ngày của Tù, vẫn nghèo nàn tồi tệ chẳng khác gì những Trại trước. Chỉ có số anh em được gia đình tiếp tế bằng Bưu kiện hàng tháng, và đến thăm nuôi đều đặn từng 3 tháng, là không lo đói. Những bạn có dư giả này, được dịp tỏ tình chiến hữu thương yêu đùm bọc nhau, bằng cách không dùng đồ ăn Trại phát hàng ngày, để tặng cho những bạn đang gặp hoàn cảnh kẹt thiếu thốn.
CUỘC SỐNG TẬP TRUNG CẢI TẠO



Môi trường cải tạo cheo leo,
Ðo rừng Yên Bái, đếm đèo Trường Sơn.
Sắn khô lưng chén thay cơm,
Ðọt lang dăm cọng, muối om nửa thià.
Nắng nung nối bước nhau đi,
Mưa phùn gió bấc, lầm lì Cán theo.
Vắt kim, điả đói bám đeo,
Muỗi mòng khát máu mừng reo cả bầy.
Run run những tốp thân gầy,
Bên nhau lặng lẽ đốn cây phá rừng.
Ðói phi bi thuốc môi rung,
Lơ mơ theo khói mung lung chuyện đời.
Trợn trừng Cán nạt thị oai,
Lăm lăm nòng thép hăm đòi cùm chân.
“Chỉ tiêu tối thiểu định phần,
“NÀM” chưa đạt mức, “NẦN” khân nghỉ hoài.”
Tù trong chịu phép Tù ngoài,
“Ếch ngồi đáy giếng coi Trời bằng vung.”
Xót thương Chiến sĩ anh hùng,
Sa cơ đành chịu sống cùng bọn ngu.

K2, Trại Thanh Phong, Thanh Hoá, tháng 1-1980.



 Chương 26
MÚT MÙA LAO KHỔ GIỮA LÒNG TRƯỜNG SƠN

 (Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam)

Nguyễn Huy Hùng



Sau khi làm sân banh K2 Trại Thanh Phong xong, Ðội chúng tôi được đưa lên sườn đồi ở bên kia con suối nhỏ, đối diện Nhà Thăm Nuôi, để chỉnh trang vun sửa các rãnh trà đã có từ trước, và trồng thêm những hàng trà mới. Anh em mừng thầm, tưởng Ðội được giao phó công tác trồng trà, hái trà, xấy trà, như đã thấy quý Vị Tướng Quân lực Việt Nam Cộng hoà học lao động cải tạo, tại Liên trại 1, Xã Việt Cường, Yên Bái, Tỉnh Hoàng Liên Sơn, hồi những năm 1976-77, thì cũng đỡ.
Nhưng vẫn còn nghi hoặc chưa chắc, vì Ðội không có Nhà Lô riêng, quanh khu vực K2 không thấy cơ sở lò xấy trà. Ðồi trà hiện hữu mới có chừng mươi luống dài khoảng 50 mét, từ dưới chân đồi lên gần sát đỉnh bên sườn Ðông. Bên phiá sườn Tây còn bỏ hoang chưa phát quang, chưa đào rãnh để chuẩn bị trồng.
Giờ giải lao, mò lên ngồi nghỉ trên đỉnh đồi, nơi Anh Nuôi của Ðội đào lò dã chiến đun nước chín, nhìn xuống chung quanh, thấy quang cảnh tựa như một thung lũng đồn điền nhỏ, gồm 3 quả đồi (A,B,C) nằm nối tiếp nhau từ Tây sang Ðông. Tôi tạm đặt tên là “Ðồn điền 3 đồi” để gọi cho có vẻ thơ mộng, và quên đi những nỗi đắng cay nhục nhằn của kiếp sống tù đầy, đang phải chịu hàng ngày.
Vòng theo chân “Ðồn điền 3 đồi” là con sông uốn khúc, với hai con suối nhỏ, từ 2 khe giữa 3 đồi chẩy nhập vào. Bao quanh vùng “Ðồn điền 3 đồi” là những dẫy núi cao sườn dốc, cây rừng rậm rạp, nối tiếp nhau vô tận.
Ngọn đồi B nằm chính giữa, là Khu nhà của Ban chỉ huy Phân trại K2 (Chủ đồn điền) ở trên đỉnh. Phiá chân đồi phiá Nam sát bờ sông, là Khu các nhà giam Tù (Nô lệ phu đồn điền). Chân đồi phiá Ðông Bắc, có một khối núi đá nhô lên, là địa bàn hoạt động của Ðội Lò Vôi. Chân đồi phiá Ðông Nam, có cái đập nhỏ dài 100 mét chặn ngang khe suối giữa đồi B và đồi C, vừa để ngăn giữ nước cho Ðội gạch, vừa dùng làm đường sang đồi mía. Sát đầu đập bên chân đồi B, có Nhà Ăn Tập Thể của Cán bộ (Cai đồn điền).
Ngọn đồi C, nằm bên hướng Ðông ngọn đồi B, là khu trồng miá với cơ xưởng ép miá, lò nấu mật, lò cất rượu, và dẫy nhà Lô của Ðội Miá. Sườn phiá Tây chân đồi C, ngay bên khe suối nhỏ đổ ra dòng sông, là “hiện trường lao động” của 2 Ðội Gạch, với sân phơi gạch mới đóng khuôn, nhà chứa gạch đã phơi khô, và lò nung gạch. Nhà Lô của Ðội gạch gồm 1 gian 2 trái, mái tranh vách phên, dựng sát bên đường ngay gần bờ sông, trông như một quán nước chờ đón khách thập phương qua lại.
Tất cả các Ðội Gạch, Miá, Vôi, Rau xanh, Mộc, đều có Nhà Lô riêng, dựng ngay tại “hiện trường lao động” của mỗi Ðội. Nhà Lô vừa dùng làm kho cất các dụng cụ của Ðội, vừa dùng làm nơi cư ngụ cho Quản giáo Ðội. Theo Tôi, mục đích chính có lẽ dùng làm tiền đồn, canh phòng an ninh xa chung quanh trại giam.
Các Ðội Lâm sản, Nông nghiệp không có nhà Lô riêng. Dụng cụ lao động cất nơi kho chung của Phân trại. Mỗi khi Ðội chúng tôi xuất trại đi lao động, Quản giáo Ðội dẫn 3 anh, do Ðội trưởng chỉ định thay phiên hàng ngày, đến kho lãnh dụng cụ, vác ra hiện trường lao động chia cho anh em dùng. Hết giờ lao động gom lại, để mấy bạn trực ngày hôm đó bó vác về kho hoàn trả, trước khi Ðội đi tắm giặt và trở vào trại giam.
Ngọn đồi A trồng trà, nằm bên hướng Tây của “Ðồn điền 3 đồi”. Ðây là cao điểm, cửa ngõ kiểm soát con đường đất duy nhất, dẫn từ K1 vào K2. Con đường chạy vòng theo chân đồi từ Tây sang Ðông, qua một cầu gỗ sang đồi B (trung ương) có khu Nhà Thăm Nuôi, khu Cán bộ ở, và khu nhà giam Tù. Rồi tiếp tục qua đồi C (phiá Ðông) có hiện trường lao động của 2 Ðội Gạch, Ðội Miá, và băng qua sông nơi khúc cạn đầy sỏi. Sau này mới biết, con đường băng qua sông dẫn đến Xóm Hoán Bù, cách “Ðồn điền 3 đồi” chừng 7 cây số. Qua xóm Hoán Bù, đi thêm chục cây số nữa tới K3, nơi giam Tù Hình Sự của trại Thanh Phong
Trước khi băng qua chiếc cầu gỗ, bắc ngang con suối nhỏ giữa đồi trà (đồi A) và đồi trung ương (đồi B), con đường chẽ ra làm hai. Ði thẳng qua cầu, gặp khu Nhà Thăm nuôi, sân đá bóng tròn (do Ðội chúng tôi mới ban), khu Cán bộ K2, và trại giam. Còn rẽ trái, vòng theo bờ suối đi về hướng Bắc, dẫn đến Bản (làng) của đồng bào Thiểu số Thái Ðen, cách “Ðồn điền 3 đồi” độ 3 cây số.
Thái Ðen, không phải người Thái da mầu đen, mà là mầu của vải may xiêm (váy) y (áo) của phụ nữ. Mẫu kiểu thêu, dệt và may xiêm y giống như của Thái Trắng. Ðiểm khác duy nhất để phân biệt là, cả xiêm lẫn y của Thái Ðen dùng toàn một mầu đen, còn Thái Trắng thì xiêm mầu đen, y mầu trắng. Ðây là ghi nhận dựa theo lời giải thích của đồng bào Thái, Tôi có dịp tiếp xúc lén, trong lúc đi khiêng cây rừng cho Ðội Gạch.
Từ chân phiá Nam đồi trà (đồi A) ra tới đường cái, có một khu đất rộng quây rào kẽm gai, với một truồng bò nằm chính giữa. Bên kia đường là dẫy Nhà Lô của 2 Ðội Rau Xanh, và Khu trồng rau nằm dọc theo bờ sông. Bên bờ sông có một bánh guồng to tướng kết bằng tre, mang những đốt vầu múc nước, lừ đừ quay liên tục ngày đêm, đem nước từ lòng sông đổ vào hồ chứa. Nhờ vậy việc gánh nước tưới các luống rau xanh nhanh chóng hơn, là phải xuống gánh từ sông lên.
Trong vòng 2 tuần lễ liền làm việc tại đồi trà, chúng tôi tu sửa cắt tiỉa các rãnh trà cũ bên sườn Ðông, chặt dọn gốc các bụi tre gai đốt cháy không hết bên sườn Tây, sửa soạn đào thêm các rãnh trồng những hàng trà mới. Làm việc tại Ðồi trà, chúng tôi bị 2 lần hoảng sợ, nhưng may mắn không ai mắc nạn.
Lần thứ nhất, trên đường đi lao động buổi sáng, khi sắp tới cây cầu gỗ bên khu Nhà Thăm Nuôi, thấy bên vệ đường, có một khúc đen mốc mốc tròn to cỡ bắp đùi, dài hơn 3 mét. Anh em tưởng là khúc cây, không dè đi gần đến nơi mới thấy đầu con trăn ngóc lên, rồi nó tuồn thật nhanh xuống suối, băng qua bên kia lẩn vào các bụi bên đường phiá dẫn lên đồi trà. Cán bộ Cảnh vệ cằm súng xăm xăm chạy tới, xục xạo hồi lâu không thấy gì. Anh em tiếp tục dắt nhau qua cầu, leo lên “hiện trường lao động” trên sườn đồi. Không biết các bạn khác nghĩ sao, riêng Tôi vẫn nơm nớp lo sợ. Trong lúc lao động, con trăn có thể nấp đâu đó phóng ra, mổ cuốn nuốt mình làm một bữa cho thoả thê thì thật vô phúc.
Lần thứ 2, cũng trong giờ lao động sáng nơi sườn Tây của đồi trà, Tôi bị một vố sợ toát mồ hôi hột, mặc dù thời tiết đã bắt đầu Lập Xuân nhưng khí hậu vẫn còn lạnh cóng. Chúng tôi chia nhau chặt những gốc tre cháy chưa hết, bứng gốc các bụi tre cho quang, để đào rãnh trồng trà. Lúc Tôi vác mấy khúc tre vừa chặt xong, đem đến chỗ tập trung thành một đống lớn, đốt lấy tro làm phân bón sau này. Khi đi ngang chỗ lò nấu nước của anh Vân, thấy anh ấy chỉ tay vào Tôi khua hất lia lịa, miệng la thất thanh : “vứt đi! vứt đi!”. Tôi ngơ ngác chẳng hiểu gì cả, nhưng phản ứng tự nhiên đoán là có điều nguy hiểm bất thường, Tôi vội vàng vứt mấy khúc tre xuống đất, và nhìn anh ấy hỏi : -Chuyện gì vậy?
Chẳng nói chẳng rằng thêm lời nào, anh Vân cằm một khúc tre khác chạy ào đến bên Tôi, đập túi bụi vào đám cỏ ngay bên chân Tôi. Chưa hết ngạc nhiên, Tôi cúi nhìn xuống mới thấy một con rắn mầu trắng, thân chỉ to bằng ngón tay, dài cỡ 30 phân, đầu tam giác, nằm quằn quại trên mặt đất. Lúc đó tim Tôi như muốn ngừng đập, mặt tê lạnh toát, mình sởn gai ốc. Giây phút hoảng sợ toát mồ hôi qua đi, hoàn hồn hết xúc động, Tôi mới nói được nên lời : - Cám ơn anh!
Anh Vân chậm rãi kể cho biết, lúc anh ấy lấy mấy khúc tre chẻ làm củi đun nước, có một con rắn trắng nhỏ đầu tam giác (loại rắn độc) rớt ra từ lòng khúc tre. Nên khi thấy ở thân khúc tre Tôi đang vác, có một vật trắng đang chui ra, từ từ trườn về phiá cổ của Tôi, anh ấy mới vội ra hiệu báo động cho Tôi vứt đám tre xuống tránh nguy hiểm. Anh Vân nói vừa dứt lời, Tôi cúi xuống rạch bụng con rắn lấy túi mật, to bằng hạt gạo mầu xanh trong như lá mạ, bỏ mồm nuốt chửng.
(Anh Ðại tá Tô văn Vân là người sinh trưởng tại miền Nam, rất khôn khéo và hoà nhã, đã có dịp làm việc chung với Tôi tại Tổng cục Ðịa phương quân và Nghiã quân vào thời gian 1967-68 ở Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trại Trần Hưng Ðạo, Tân Sơn Nhất, Phú Nhuận, Saigon. Về sau anh ấy theo học Khoá 1 Quân Chính, mãn khoá được bổ nhiệm đi làm Phó Nội An cho anh Ðại tá Dương Hiếu Nghiã Tỉnh trưởng Long Xuyên ở miền Tây Nam phần.)
Con rắn trắng nhỏ này không phải loại rắn Hổ, cũng không phải rắn Lục hay rắn Ráo, Tôi bèn đặt cho nó cái tên rất là Kiếm hiệp “Trúc Bạch Xà”, để ghi nhớ cái kỷ niệm sợ thất thần, không bao giờ quên được trong cuộc đời tù đầy của mình tại K2 trại Thanh Phong.
Sự việc lập tức được truyền tiếp cho toàn thể anh em trong Ðội biết, để lưu tâm đề phòng nguy hiểm. Cũng kể từ đó về sau, hễ anh em gặp rắn dù thuộc loại độc hay không, sau khi đập chết đều gọi Tôi đến để cho lấy túi mật nuốt. Theo mấy ông thầy thuốc Bắc, mật rắn độc là vị thuốc rất tốt cho Thận và làm sáng mắt, nên người ta thường hoà mật rắn Hổ với rượu để uống cho khoẻ. Thời gian khoảng 2 năm ở K2 trại Thanh Phong, Tôi có dịp nuốt cỡ 50 chiếc mật rắn. Không có rượu đành chiêu bằng nước chín, chẳng biết có hiệu nghiệm được như người ta nói không.
Nhưng ít lâu sau, một hiện tượng đặc biệt đã xẩy ra cho chính bản thân, không cần đeo kính cận thị, Tôi vẫn nhìn được mọi vật xa gần rất rõ ràng. Tôi suy nghĩ mãi không biết nhờ mật rắn, hay do sự biến đổi tự nhiên của cơ thể con người theo phân giải của cơ thể học. (Lúc về già con ngươi mắt xẹp bớt đi, khuyết tật cận thị nhờ thế sẽ được tự động điều chỉnh lại.) Sự việc xẩy ra trong một buổi đi phát cây rừng, cặp kính cận thị Tôi đang đeo bị rớt văng xuống đất. Tôi nhướng mắt nhìn quanh để tìm, chẳng may có bạn khác vô tình đi tới đạp lên, làm gẫy gọng không đeo được nữa. Tôi lo buồn vô cùng, vì không có kính, mắt mờ sẽ dễ gặp tai nạn lao động nguy cho bản thân. Nhưng không ngờ từ lúc không mang kính, Tôi vẫn nhìn thấy tinh tường, chẳng khác gì đang đeo kính cận từ nhiều năm nay.
Công việc dọn sạch sườn Tây của đồi trà, đang chậm rãi tiến hành. Ðùng một cái, Ðội chúng tôi được huy động đi tăng cường khiêng thân và cành cây rừng, đã đốn ngã tại các sườn núi bao quanh “Ðồn điền 3 đồi”, đem về nộp cho Ðội Gạch dùng để nung mẻ gạch mới đang vào lò. Sau đó lại tăng cường đi dọn cỏ trong đồng miá, rồi đốn miá chất lên xe bò đem về cho Ðội Miá, ép, nấu làm mật đường và cất rượu.
Sau Tết Canh Thân -1980, toàn thể các Ðội Nông Nghiệp, trong đó có cả Ðội chúng tôi, “ra quân thi đua đầu năm”. Tập trung đi chiếm đất rừng càng nhiều càng tốt, để trồng bắp và khoai mì, tại các khu triền núi bên phải con đường dẫn ra K1, đã được đốn cây và đốt quang từ trước. Sở dĩ Tôi quyết đoán là “tập trung đi chiếm đất” vì, khi vừa dẫn Ðội chúng tôi tới hiện trường, Quản giáo Ðội vội vã chạy đi tìm người đại diện của đồng bào Thái để tiếp xúc, quy định ranh giới của đôi bên, trước khi cho chúng tôi khởi công trồng bắp.
Khi chúng tôi đến làm ở triền núi bên này, đã có một nhóm đồng bào thiểu số Thái đang reo lúa lốc, nơi triền núi bên đối diện. Họ có khoảng hai chục người, đứng từng cặp kẻ trước người sau, thành một hàng ngang dài từ chân núi lên cao dần theo triền núi. Họ đi lần từng bước một, từ ranh bên phải qua mút ranh bên trái khu nương đã khai phá. Người đi trước hai tay cằm một cây gậy, dơ lên đâm xuống mặt đất, tạo một lỗ sâu chừng mươi phân. Người đi sau dùng tay phải, móc hạt giống đựng trong chiếc giỏ cầm nơi tay trái, vứt xuống lỗ rồi dùng bàn chân gạt ngang khỏa đất lấp, thế là việc reo lúa hoàn tất. Triền núi dốc đứng khoảng 60 độ, thế mà họ đi đứng thấy vững vàng, làm việc nhanh nhẹn nhịp nhàng đồng loạt bên nhau, tiến tới đều đặn như những người máy trên xa bàn.
Chừng năm mười ngày sau khi reo hạt, các bụi mạ bắt đầu vươn lên khỏi mặt đất, và dần dần theo thời gian mọc cao thành các khóm lúa um tùm xanh tươi. Sau ba tháng kể từ ngày reo thì lúa chín, gặt đem về cất ăn dần. Ðây là loại “lúa ba giăng“ tức là 3 lần trăng tròn (ba tháng). Loại gạo này có lẫn lộn cả hạt đỏ và hạt trắng, nấu thành cơm ăn hơi sượng y như còn sống, không dẻo mềm như loại gạo trồng ở vùng đồng bằng.
Kỹ thuật hướng dẫn cho chúng tôi trồng bắp, giống hệt kỹ thuật trồng lúa lốc của đồng bào Thái. Mỗi lỗ phải vứt vào 2 hột bắp, để bảo đảm lỡ hột này không nẩy mầm còn có hột kia. Nhưng anh Nghiã Ðội phó dặn nhỏ chúng tôi, nên vứt vào mỗi lỗ tối thiểu 3, 4 hột cho chắc ăn, vì thấy mã hạt giống không được mẩy tốt.
Nhóm đồng bào Thái nói tiếng Kinh rất thạo. Họ có tư thái rất tự nhiên, dễ thương, vui vẻ, bộc trực, thật thà, không lạnh lùng kỳ thị thủ thế, xa cách với chúng tôi như các Cán bộ Công an. Cả toán đồng bào Thái chỉ có hai người đàn ông đứng tuổi, còn toàn là nữ giới, già sồn sồn 4, 5 chục tuổi, trẻ mơn mởn đôi ba mươi. Họ vừa lao động, vừa cười nói bông đùa vang cả đồi núi. Họ cất cao giọng ca những câu “hát quan họ” vùng Bắc Ninh, để ghẹo chúng tôi. Chẳng hạn : “Anh Cả, anh hai, đó ơi ờí!... Hoa Mơ, hoa Mận, hoa Ðào,... Ba hoa chụm lại hoa nào đẹp hơn?...”, rồi họ khúc khích cười với nhau. Lâu không thấy chúng tôi lên tiếng trả lời, họ lại cất tiếng hát những câu khác, có ý chê bai chúng tôi nhát không dám đối chuyện, chắc sợ lúc về nhà sẽ bị “sư tử Hà Ðông” ghen cấu xé... Thật tội nghiệp, họ đâu có biết vì Quy luật Trại giam cấm, nên chúng tôi phải chịu ngậm tăm, chớ bình thường đâu có ngán ngẩm gì việc đối đáp, mua vui giữa hai phe Nam Nữ.
Nhóm đồng bào Thái, chỉ được phép chiếm có một khoảnh sườn núi, vòng theo hướng Bắc của đồi trà. Còn tất cả những khoảng sườn núi khác, dọc bên đường đi K1, thuộc quyền sở hữu của “Ðồn điền 3 đồi”. Chúng tôi phải đào những hàng hố sâu 8 tấc, vuông 7 tấc, cách nhau 1 mét để bỏ hom trồng khoai mì (sắn).


Công tác mở mang diện tích “Ðồn điền 3 đồi” thêm vài cây số về hướng Tây, phải hoàn tất khẩn trương trong vòng 2 tuần lễ. Sau đó, Ðội chúng tôi được giao phó trách nhiệm tu sửa lại con đường dài khoảng 5 cây số, suốt từ K2 ra tới bờ sông gần đến K1 cho thêm rộng, có rãnh thoát nước, và phát quang một khoảng rộng cỡ năm chục mét dọc 2 bên lề đường.
Khi công tác sửa đường hoàn tất, Ðội chúng tôi lại đổi địa bàn hoạt động, đi khai phá mở mang khu trồng đậu phụng (lạc), dọc theo bờ sông nơi chân đồi miá, bên hướng Ðông của “Ðồn điền 3 đồi”. Quả đồi C này rộng lớn sườn thoai thoải, từ lưng chừng lên đến đỉnh trồng miá, còn phần dưới xuống đến sát bờ sông, bên hướng Ðông và Nam, chưa khai phá trồng trọt gì cả.
Dòng sông chẩy vòng theo chân đồi chẳng biết tên gì, có khúc rộng chừng 50 mét, khúc hẹp 20 mét, thành bờ 2 bên thẳng đứng, cao cỡ 10 mét so với mặt nước. Trong mùa khô, dòng nước cạn thu hẹp bề ngang, từ bờ này sang bờ kia chỉ khoảng 5 đến 10 mét, trông như một lạch suối nhỏ, trong vắt nhìn thấy đáy. Nhưng tới mùa mưa lũ, nước dâng cao tràn bờ, mặt sông trở nên rộng mênh mông, từ chân núi bên này tuốt tới chân núi bên kia khu thung lũng. Dòng nước đục ngầu, cuồn cuộn chẩy xiết nghe ào ào như thác đổ, cuốn theo đủ loại cây rừng lớn nhỏ bị trốc cả rễ, cành lá còn xum xuê.
Mỗi năm có một mùa mưa lũ, vào các tháng 7, 8, và 9 Dương lịch. Sau mỗi cơn lũ, đất bờ ở những khúc cong bị dòng nước xoáy phá lở, làm bề ngang sông rộng thêm cả 2, 3 mét. Ðất cát từ bên bờ lở, một phần bị cuốn đi theo dòng nước, một phần bồi qua phiá bên không lở, tạo thành những bãi nổi dài, làm thay đổi hình thái và mức độ nông sâu của dòng sông.



Chung quanh chân của bãi bồi giữa dòng sông, là môi trường sinh sống của các loài sò hến, chen chét. Những khúc sông sâu, là nơi cư trú sinh sản của các loại cá lớn nhỏ. Ðây là những loại thực vật cung cấp chất dinh dưỡng không mất tiền mua, ngoài các loại muông thú hoang dã khác của thiên nhiên, dành cho những người thiếu may mắn phải sống cách biệt với xã hội loài người vùng đồng bằng. Nhưng không phải dành cho Tù, vì Tù đâu có được tự do đi lang thang săn bắt ăn, như Cán bộ canh Tù thường làm hàng ngày.


Suốt bề ngang đáy lòng sông toàn là đá sỏi, lớn nhỏ đủ cỡ đủ màu sắc, hình thù khác nhau, bao bọc bởi rêu xanh trơn trợt, và các loại “ốc mút” tròn dài. Mực nước có chỗ sâu ngập lút đầu, chỗ nông chỉ tới ngang đầu gối lội qua được. Luồng nước chẩy lúc nào cũng rất xiết, vô ý trượt chân là bị cuốn phăng đi hàng chục thước không đứng lên nổi, ướt sũng từ đầu đến chân. Trong mùa Hè còn đỡ, gặp mùa Ðông là cả một cực hình. Không quần áo khô thay ngay, sẽ bị cóng lạnh cảm hàn, biến chứng sưng phổi ho không thuốc chữa, Thần Chết bắt đi dễ như chơi.
Mấy tuần cuốc đất lên luống reo đậu phụng (lạc) hoàn tất, Ðội chúng tôi được đưa trở lại đồi trà, tiếp tục công tác đang bỏ dở.



Tới định cư tại K2 Thanh Phong được chừng 4 tháng, những bạn Tù nghèo quà tiếp tế hết dự trữ, bắt đầu phải cải thiện linh tinh. May thay, quà Bưu kiện lại bắt đầu tới. Anh Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh xưa nay đoạt giải quán quân, nhận nhiều Bưu kiện hàng tháng hơn mọi người, cũng vẫn là người may mắn nhận nhiều Bưu kiện trước nhất. Nhiều đến nỗi, Cán bộ An ninh Phân trại cũng như các Cảnh vệ đi theo canh gác Ðội chúng tôi, ai cũng thuộc tên và tỏ vẻ quan tâm đến anh Quỳnh. Hầu như không đêm nào tránh khỏi, sau giờ điểm danh Tù vào Láng giam buổi tối, Cán bộ đến bên ngoài cửa sổ đầu Láng, nhỏ nhẻ nhắn gọi muốn gặp anh Quỳnh. Họ xin thuốc Tây để trị bệnh, hoặc xin vài con “sâu mỡ” (lạp xưởng) đem về nướng, nhậu thử với các đồng chí khác cho biết mùi...



Thật là một tai vạ cho anh Quỳnh, nhưng lại là điều tốt cho anh em trong Ðội. Vì nhờ vậy, họ không đối xử khắt khe với anh em trong giờ lao động như trước nữa. Ngoài ra, số anh em vì lý do nào đó bị kẹt chưa nhận được Bưu kiện, còn được hưởng một ân huệ đặc biệt “gửi thư chui” trong giờ lao động. Anh em viết thư thật ngắn gọn mang theo, gom lại trong giờ lao động, nhờ Cán bộ chận đưa tận tay thân nhân những bạn “thăm nuôi” xong, đang trên đường rời K2, để các Bà đem về giao thẳng tới nhà giùm. Ðây là những “thư ngoại lệ” gửi bao nhiêu lần cũng được, ngoài bức thư hợp pháp đã trình Quản giáo kiểm duyệt chuyển đi hàng tháng.


Tôi cũng là một trong những người bị kẹt. Anh em được nhận Bưu kiện trở lại cả 2, 3 tháng rồi, phần Tôi vẫn chưa có gì. Nhờ cái ân huệ hạn hữu này, “thư chui” của Tôi đã được giao cho 2 cô con gái của anh bạn Ðại tá Nguyễn Ngọc Ðiệp, ở tận Bến Tre đến thăm Cha, mang giùm về tận nhà đưa cho Vợ Con Tôi ở Saigon. Một tháng sau, Tôi nhận được Bưu kiện gia đình gửi tới, có thư kèm bên trong. Thư gia đình cho biết, dịp Tết Canh Thân-1980, đúng 3 tháng sau khi dẫn Vợ Tôi tới “thăm nuôi” tại K5 trại Tân Lập, Bà Chị Vợ tốt bụng lại cùng cậu con trai đến K5 xin “thăm nuôi” Tôi. Cán bộ cho biết Tôi đã được di chuyển về Nam. Bà Chị nhanh nhẩu biên thư gửi vào Saigon, báo tin cho Vợ Con Tôi ngay. Vì thế, gia đình cứ đợi thư của Tôi, để có địa chỉ trại mới gửi quà hoặc xin phép đi “thăm nuôi”. Chờ mãi chẳng thấy gì, cho đến ngày con gái anh bạn Ðại tá Ðiệp đến đưa thư tay, mới biết


Tôi đang ở trại Thanh Phong, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá, miền Trung Việt Nam, chớ không phải miền Nam. Gia đình vội vã đến trước Nhà Bưu điện Saigon, mua quà và thuê người bán gói cột làm thủ tục, gửi cho Tôi 4 Bưu kiện liền một lượt.
Ðang làm việc thong thả trên đồi trà, Ðội chúng tôi lại bị điều động đi khai phá triền đồi C, bên phiá Ðông của “Ðồn điền 3 đồi”ù. Dọn đất cuốc rãnh trồng thêm miá, vãi phân, vun gốc các rãnh miá cũ đang vươn mình trở lại, sau vụ thâu hoạch hồi trước Tết.
Thời gian này là giữa mùa Hè, miá đang vươn lên cao, phải tiả các lá gốc cho cây tăng trưởng mạnh. Làm việc trong ruộng miá, không khí nóng nực ngột ngạt khó chịu vô cùng. Lúc nào mình cũng ướt đẫm mồ hôi, bỏ áo ở trần không được. Cạnh lá miá sắc bén như dao, cứa rách da thịt chẩy máu rất nguy hiểm. Bụi phấn lông lá miá rụng ra, bám trên da làm ngứa ngáy, cào gãi xây sát sinh ghẻ lở, cũng phiền hà không kém. Ngoài ra, việc để mình trần còn bị nạn muỗi rừng nhiều vô kể, vằn đen trắng to bằng đầu tăm, bâu đốt đau như bị kim chích, sưng u lên từng cục tròn đỏ rất khó chịu. Nếu chẳng may bị truyền bệnh sốt rét rừng độc hại, còn có thể dẫn đến tử vong.
Quần áo trại phát mỗi 6 tháng một bộ, may bằng vải thô nhuộm mầu xanh chàm, sản phẩm của nhà máy dệt Nam Ðịnh, chỉ mặc được chừng 2 tháng là bợt rách. Chúng tôi đã phải vận dụng óc sáng tạo, chế ra một loại áo lao động rất bền và rẻ tiền, mùa hè thoáng mát, mùa đông giữ được hơi ấm thêm cho cơ thể, để xử dụng trong những giờ lao động. Ðó là những bao sợi pha ni-lông màu xám rất bền không thấm nước, trước kia Quân đội miền Nam dùng đựng đất cát, đắp bờ tường chống đạn quanh các vị trí phòng thủ. Nay thân nhân mua đựng thực phẩm khô gửi qua đường Bưu điện. Lấy những bao này khâu nối lại với nhau, thành một mảnh giáp dài có lỗ chui đầu ở giữa. Nửa mảnh che trước ngực, nửa mảnh phủ sau lưng, cột dây hai bên nách.
Những anh em được thân nhân tiếp tế dư giả loại quần áo lính cũ dầy bền, không bao giờ cần biết đến việc sản xuất và xử dụng loại áo kiểu mới này. Nhưng thấy chúng tôi dùng, anh em cũng lịch sự khen, có óc sáng tạo rất ư là Cách mạng. “Lao động là sáng tạo” mà. Cách mạng Vô sản đã khẳng định như vậy, làm sao sai được.”
Một Gô nước chín trại phát trước khi xuất trại, cộng thêm một Gô do Anh Nuôi của Ðội cung cấp tại “hiện trường” vào giờ giải lao, không bao giờ đủ giải quyết những cơn khát, trong thời gian lao động tại đồng miá. Anh em đành phải liều chặt lén miá ăn, vừa để giải khát vừa thêm chất ngọt “bồi dưỡng” cho cơ thể.
Ðồng miá rộng bao la, được phân thành nhiều lô bởi những con đường, rộng 3 mét, thẳng tắp từ đầu này sang đầu kia, theo hướng Ðông Tây. Các rãnh trồng miá cách nhau 1 mét, dài trăm mét, nằm vuông góc giữa các con đường, theo hướng Bắc Nam. Khi anh em vào sâu trong luống làm việc, đứng ngoài đường quan sát chẳng thấy gì, chỉ nghe những tiếng gậy phạt soạt soạt, lẫn với bước chân người đạp lên lá miá rào rạo mà thôi. Cảnh vệ và Quản Giáo cũng chẳng muốn chui vào đồng miá, theo sát bên anh em đôn đốc làm gì cho cực. Họ ngồi ngoài đường dõi nghe tiếng động, cũng biết anh em có lao động liên tục hay không, và đang hiện diện tại khu nào trong đồng miá.
Nhờ vậy, chúng tôi có thể thong thả chọn lựa cây miá nào mập, đốt dài, nằm bên rià luống, rồi mới dùng cuốc bập cho đứt mà không làm rung động cả bụi miá. Sau đó chặt phân thành 4, 5 khúc, phần ngọn đem cắm xen vào giữa các gốc bụi khác gần đó. Rồi tước vỏ các khúc miá nạc, cắt thành từng khúc ngắn cỡ 2 đốt ngón tay, chẻ tư bỏ túi để vừa lao động vừa ăn. Bã miá nhả ra vùi xuống dưới những đống lá trong rãnh. Ngoài việc chặt miá lén ăn ngay trong ruộng, Tôi còn liều lĩnh dấu đem về trại cho anh bạn Khuông Trực Nhà của Ðội, mỗi buổi 2 khúc để “bồi dưỡng”, vì anh này không có quà tiếp tế của gia đình.
Trong thời gian mọi người ra ngoài lao động, anh Khuông được ở nhà, ngoài công việc dọn dẹp vệ sinh trong ngoài láng, lãnh thực phẩm và nước chín hàng ngày cho Ðội, còn trồng được một luống rau “cải thiện” bên hàng rào. Do đó Tôi cung cấp gia vị và các thực phẩm khô như mì ăn liền, gạo xấy, thịt cá mực tôm khô..., để anh ấy nấu nướng biến chế thêm những món ăn chung, ngày 2 bữa cho cả 2 người. Nhờ vậy nắng cũng như mưa, sau khi đi lao động về nghỉ ngơi chừng nửa tiếng đồng hồ, Tôi có đồ ăn nóng sốt mà không phải vất vả lo việc nấu nướng, cũng như sau khi ăn không phải lo rửa soong, gàmèn...như các anh em khác. Chẳng riêng gì Tôi, nhiều người khác cũng giúp các Bạn nghèo tiếp tế của gia đình, theo lối ăn chung như vậy. Vì thế có đôi người keo kiệt khó tánh, nói ra nói vào bắn tiếng phê bình : “-Ở tù mà còn bầy đặt dùng “Tà loọc”.
Chúng tôi ăn miá lén được cả tháng trời, mới bị Cán bộ Cảnh vệ phát giác. Chỉ có Tôi và 3 bạn nữa, cùng trong một nhóm làm gần nhau bị mắc nạn. Quản giáo Ðội gọi chúng tôi ra “làm việc” ngay tại chỗ, và buộc đến tối phải “tự phê” trong buổi họp kiểm thảo hàng đêm của Ðội. Chúng tôi phải viết tờ kiểm điểm nhận tội “ăn cắp của cải Xã hội Chủ nghiã”, và cam kết hứa không tái phạm. Chúng tôi không ghi là “ăn cắp” mà ghi là “ăn vụng”, hy vọng tội sẽ nhẹ đi. Nhưng chắc là Ban Giám Thị Trại đã có lệnh mới, về việc đối xử với Tù sao đó, nên anh em chúng tôi không ai bị kỷ luật. Vụ việc coi như cho “chìm xuồng” luôn không thấy nhắc tới.
Ðội chỉ được cấp một chiếc thùng, cho Anh Nuôi nấu nước chín, cung cấp cho anh em trong giờ lao động. Vì thế, ngày nào cũng có một người được chỉ định thay phiên, tiếp anh ấy khiêng thùng đi, về, cũng như xuống sông lấy nước. Một hôm đến phiên Tôi đi phụ. Vào đầu giờ lao động buổi chiều trời nắng gay gắt, chúng tôi vừa xuống tới bờ sông, gặp một cảnh thật ngoạn mục, hiếm có hiện ra trước mắt. Phiá trên bến lấy nước, nơi đầu dòng khoảng giữa sông, chỗ nông nổi đầy đá, có 2 cô Thái ngồi chồm hổm ngâm nửa người dưới nước. Cả 2 người cùng cuốn váy cao ngang ngực, mặt hướng nhìn về phiá ngược dòng nước chẩy, nên không biết có chúng tôi xuống bến. Ðợi một lúc lâu chẳng thấy các cô ấy động tĩnh gì, chúng tôi đành phải đập mạnh vào thùng sắt, tạo tiếng động cho các cô ấy giật mình quay lại. Thấy chúng tôi, các cô ấy tỉnh khô từ từ đứng lên thả váy xuống, và thong thả đi lên bờ. Chúng tôi chào và hỏi : -Các Cô bắt gì vậy? Các cô nhoẻn miệng cười thản nhiên, trả lời : “-Tắm cho mát thôi!”


Khoảng 5, 6 tháng sau ngày chúng tôi tới K2, một số anh em đến trước, bị di chuyển đi trại Thanh Cầm. Một tuần lễ sau, lại có một số khác từ miền Bắc chuyển vào. Mọi người hơi nao núng bàn tán, phải chăng cái Kế hoạch lập Vùng Kinh tế Mới, định cư Tù Chính trị miền Nam vĩnh viễn tại Thanh Cầm là chuyện thật? Và trại Thanh Phong này là điểm chuyển tiếp?
Các biến động làm hoang mang tinh thần mọi người vừa tạm ổn định, một việc buồn khác lại “đột xuất” xẩy ra tại K2. Một hôm, lúc gần đến giờ điểm danh vào Láng giam buổi tối, trong Khu Cách Ly của chúng tôi, có một bạn trẻ thân hình to lớn khoẻ mạnh bị ngất xỉu, được anh em cõng xuống Bệnh xá cấp cứu. Sáng hôm sau được tin anh ấy đã chết vì ngộ độc, do ăn hột trái “guốc” luộc.


Theo anh em Ðội Vôi, ở chung Láng giam với chúng tôi cho biết, vùng này có một loại trái rừng nhỏ, hình thù cấu tạo y như trái vải (lechi), đồng bào Thái gọi là trái “guốc”. Cùi chung quanh hạt, lột ra ăn ngon ngọt như cùi trái vải. Hột đem luộc ăn bùi béo như hột mít. Ăn chơi dăm ba hột thì không sao. Nếu ăn nhiều từng Gô cho no bụng, như ăn hột mít luộc thay cơm, sẽ bị ngộ độc chết không cứu được. Chỉ sau khi ăn một lúc lâu, mới bắt đầu cảm thấy say choáng váng, vì chất độc hoà vào máu chuyển lên não bộ. Dù có thụt nước rửa ruột hoặc làm mọi cách mửa bã ra cũng vô ích. Cách duy nhất là truyền huyết thanh (serum) pha trộn thuốc giải độc vào máu để cứu, nhưng trong Trại tù làm gì có.


Dịp lễ Ðộc Lập 2 tháng 9, Phân trại K2 tổ chức một buổi văn nghệ mừng rất rôm rả, có Trung tá Nguyễn Thùy Trưởng trại Thanh Phong dẫn đoàn Cán bộ Trung Ương đến tham dự. Chương trình văn nghệ do anh em Ðội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ, gồm một số Vị Tuyên úy Công giáo, Phật giáo, cùng mấy anh em gốc Chiến tranh Chính trị, sửa soạn tập dượt thực hiện.
Ðặc biệt trong chương trình có mục ngâm bài thơ của bồi bút Tố Hữu, Phó Thủ tướng Chính phủ Hànội. Bài thơ tuyên dương kỳ công của Phạm Tuân, Ðại tá phi công Cộng sản Việt Nam theo phi hành đoàn Liên Xô Vĩ đại, lên con tầu Vũ trụ của Nga đi vào không gian, thử nghiệm tình trạng phát triển của Bèo Hoa Dâu Việt Nam trong trạng thái Vô Trọng Lượng. Giọng ngâm của anh bạn Tô kiều Ngân, một Sĩ quan thuộc ngành Chiến tranh Chính trị, thật điêu luyện và lôi cuốn người nghe. Chẳng thua gì hồi bạn ấy thi thố tài năng trong giờ Thi văn Tao đàn, phát trên làn sóng của các đài phát thanh tại Saigon trước 30-4-1975.


Lúc bạn ấy ngâm đến câu : “Mang dép lốp bước lên tầu vũ trụ”, nơi hậu trường có một tiếng pháo nổ thật lớn làm mọi người giật mình xửng sốt, đồng thời đèn điện chớp nhoá thật nhanh, và một chiếc hoả tiễn vẽ trên giấy cứng được kéo từ chân sân khấu bên này vụt lên tréo sang đỉnh sân khấu bên kia. Tiếng vỗ tay nổi lên vang dậy cả Hội trường, xen trong đó có một bạn lớn tiếng thêm câu thòng : “-Nhớ đem về cho vài kí sắn !” Tiếng vỗ tay trong Hội trường rào rào vang dậy lớn hơn, để biểu lộ sự tán đồng lời riễu cợt. Lập tức có tiếng còi của Cán bộ An ninh, tiếng gạn hỏi xôn xao ở phiá cuối Hội trường, làm ngưng bặt tiếng vỗ tay. Trên sân khấu, bạn Tô Kiều Ngân vẫn tiếp tục, ngân nga trầm bổng theo tiếng sáo dật dìu, ngâm cho hết bài thơ.


Chúng tôi được xếp ngồi ở khoảng giữa Hội trường, thành ra đến tận lúc mãn buổi văn nghệ ra về, mới được nghe anh em thì thầm cho biết. Người nói câu đó là một bạn Tù trẻ, Sĩ quan cấp úy gốc Thiểu số miền Cao Nguyên Trung phần tên Ðiểu Côn, đã bị bắt đem đi giam trong Nhà Kỷ Luật.
Theo nhận định của riêng Tôi, buổi sinh hoạt văn nghệ này được tổ chức theo chỉ thỉ của Trại trưởng Trại Thanh Phong, Trung tá Nguyễn Thùy, để khoe cùng các Ðàn anh ở Trung Ương, về cái tài giỏi của ông ta trong việc giáo hoá Tù Chính trị miền Nam. Không những ông ta khiến được mọi người ngoan ngoãn quy thuận, hăng say khai phá rừng sâu để sản xuất thêm nhiều của cải cho Xã hội Chủ nghiã, theo đúng đường lối chính sách của Nhà nước. Mà còn lôi cuốn được Tù sáng tạo các chương trình văn nghệ rất có ý nghiã, để thúc đẩy tinh thần thi đua lao động cải tạo, cũng như tin tưởng biết ơn Ðảng, Nhà Nước, và các anh hùng Xã hội Chủ nghĩa.


Mấy ngày sau buổi văn nghệ, một số anh em được Ðoàn Cán bộ Trung Ương kêu lên “làm việc”. Thành phần được gọi toàn là dân Phòng Nhì, An ninh Quân đội, Chiến tranh Chính trị, những khuôn mặt quen thuộc, trong đó có Tôi, đến Trại nào cũng bị gọi lên “làm việc”. Dĩ nhiên, Cán bộ tra vấn không phải những người cũ, đã gặp trong các lần “làm việc” tại các Trại trước.
Lần này Tôi bị hỏi và phải viết chi tiết về Tổ chức, Nhiệm vụ, của hệ thống Chiến tranh Chính trị, từ Trung ương xuống Ðịa phương, và trong các Ðơn vị tác chiến. Ðề tài này họ đã buộc Tôi viết, từ hồi còn ở Trại Suối Máu, Biên Hoà năm 1976. Sau 4 năm, họ lại hỏi nữa, chắc là để kiểm tra sự “thành khẩn khai báo” của mình, xem có “trước sau như một không”? Tôi coi như “pha” chẳng có gì lo lắng. Lỡ lần này viết có không giống lần trước “tiền hậu bất nhất” cũng chẳng sao. Mức độ đầy đọa khủng bố tinh thần đến mức tối đa đã qua rồi, mình vẫn sống nhăn chưa chết. Huống chi lúc này, mình đang là con mồi để kiếm Ðô-La, họ đâu dám hành hạ cho mình “chết dở sống dở” nữa mà sợ.


Thấm thoát ngày tháng qua đi thật mau. Khi rừng bắt đầu đổi mầu loang lổ xanh, vàng, hung đỏ, nâu, trông như một tấm vải gấm ngũ sắc vĩ đại, phơi mình dưới ánh nắng vàng úa của mùa Thu, các Bà vợ Tù bắt đầu xuất hiện ở khu Nhà Thăm Nuôi. Thường các Bà được xe vận tải Trại Thanh Phong, chở tới K2 vào buổi chiều tối. Nhưng sau khi “thăm nuôi” xong ra về, các Bà phải đi bộ gần năm cây số từ K2 ra K1, nơi có Ban Chỉ huy Trại Thanh Phong, để chờ thuê xe đưa trở ra ga Thanh Hoá.
Trong số anh em Ðội chúng tôi, cũng lẻ tẻ có thân nhân đến “thăm nuôi”. Có anh ngỡ ngàng khi thấy người đến thăm mình là Bà vợ lớn ở Hànội, đã xa nhau từ mấy chục năm, nay bỗng dưng có dịp gặp lại. Có anh Vợ ở Saigon ra, mang theo một giấy giới thiệu của Cán bộ Chính quyền Ðịa phương, yêu cầu Trại giam “chiếu cố” cho ở lại qua đêm bên nhau. Thật bất ngờ, anh bạn này không thuộc thành phần lao động “xuất sắc” hoặc “Tự quản đội”, để được hưởng ân huệ “thăm nuôi đặc biệt”. Sau này nhờ anh ấy tiết lộ tâm tình riêng với các bạn thân, anh em mới biết được hoàn cảnh éo le. Một trong các cô Con gái của anh ấy, đã kết hôn với Cán bộ thi hành chính sách “Tam cùng” của Ðảng và Nhà Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam. Theo chính sách này, Cán bộ Cộng sản phải “tranh thủ” đoạt Vợ Con Ngụy Quân Ngụy Quyền làm chiến lợi phẩm, nhằm mục đích phá tan hoang nền nếp gia đình của Tư sản.


Hình như Cấp Trung Ương Ðảng Cộng sản Việt Nam, mới có chỉ đạo đặc biệt sao đó, nên tại Trại Thanh Phong, Trung tá Nguyễn Thùy Trại trưởng quy định thời gian “thăm nuôi” là nguyên cả ngày. Tù và thân nhân được ở bên nhau từ sáng sớm cho đến tối, để có dịp cùng ăn một bữa cơm trưa do chính thân nhân sửa soạn. Mỗi gia đình “thăm nuôi” được cấp một phòng riêng có giường nằm, có bàn ghế, và đặc biệt có cửa đóng kín, tha hồ trò chuyện thoải mái, không có Cán bộ canh chừng. Trường hợp được đặc biệt “chiếu cố”, thì Tù và thân nhân được ở thêm bên nhau qua đêm. Trong một dịp ghé thăm gia đình “thăm nuôi” tại K2, Trung tá Thùy có giải thích : “-Ðể đền bù công lao khó nhọc vất vả đi hàng ngàn cây số của các Bà, nên “chiếu cố đặc biệt”cho Cải tạo viên và thân nhân ở bên nhau cả ngày cho thoải mái.”


TRƯỜNG SƠN, XUÂN LƯU ÐẦY.
Xuân vẫn là Xuân, Ta vẫn Ta,
Khác chăng là ngoại cảnh rừng già.
Lăng xăng ngoài giậu, Công an đỏ,
Lặng lẽ trong rào, Cải tạo gia.
Khỉ, Cú trẽn trơ nhìn nước đổ,
Anh hùng sầu muộn nhớ thời qua.
Mưa Phùn gợi nỗi thương Dân tộc,
Gió Bấc khơi lo vận nước nhà.
K2, Thanh Phong, Xuân Canh Thân – 1980.

GÓI ƯU TƯ MÙA THU
Gió đưa nhẹ lá vàng rơi,
Nghiêng nghiêng nắng ngả bóng đời vào Thu.
Lom khom ven núi đoàn Tù,
Khua dao, múa cuốc, ngất ngư vạn sầu.
Gió sương hun bạc mái đầu,
Rừng hoang ngăn lối, thấy đâu đường về.
Âm thầm ngày tháng lê thê,
Mây ngàn thăm thẳm bóng quê mịt mù.
Xuyên trời vụt bóng chim cu,
Làm sao gửi gói ưu tư nghẹn ngào ???
Mùa Thu 1980.
K2, Trại Thanh Phong, Như Xuân, Thanh Hoá.
   



Chương 27

KẾT QUẢ CÁCH MẠNG XÃ HỘI, CỦA BÁC HỒ VÀ ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM

(Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam)

Nguyễn Huy Hùng



Mùa mưa lũ năm 1980 tại Thanh Phong, đã làm gián đoạn lưu thông giữa Trại và bên ngoài nhiều lần. Mỗi lần lâu từ một tuần lễ đến 10 ngày. Ban Hậu Cần không nhận được tiếp tế đều hoà đúng kỳ hạn, nên trong những dịp này cả Trại cùng chịu thiếu đói như nhau. Cán bộ K2 phải ăn ngày 2 bữa cháo độn khoai tây. Anh em Tù chỉ được phát thực phẩm mỗi ngày một lần, vào buổi sáng trước khi đi lao động. Mỗi phần ăn dành cho cả ngày, được khoảng chục củ khoai tây luộc, to bằng trái trứng gà.
Đa số anh em Tù nhờ có Bưu kiện tiếp tế, của gia đình gửi hàng tháng để tích trữ, nên vẫn đầy đủ ngày 3 bữa no nê. Chỉ tội cho các bạn không có tiếp tế, thiếu đói nặng phải cải thiện linh tinh, nhưng không thấy Cán bộ làm khó dễ. Quản giáo Đội cũng thông cảm, trong mỗi buổi lao động thường cho 2 người lén lội qua sông, đào trộm sắn non của Trại, đem về nấu cho Quản giáo và Cảnh vệ ăn no tại chỗ. Anh em Tù trong Đội cũng được chia phần “bồi dưỡng” chút đỉnh, nên vui vẻ cả làng, không ai báo cáo ai. Những người có dư giả, nhường phần “bồi dưỡng” của mình cho các bạn thiếu thốn, để bầy tỏ tình tương thân tương ái “miếng khi đói bằng gói khi no”.
Sau nhiều cơn hoạn nạn, Cán bộ và Tù đã có dịp cùng nhau chia sẻ ngọt bùi thiếu đói, nên tình cảm cư xử với nhau đổi khác hẳn. Cũng nhờ thế, không khí chuẩn bị mừng đón Tết Tân Dậu-1981, có vẻ rôm rả đầm ấm hơn năm trước. Cán bộ mạnh rạn xin Tù cho quần áo Trại phát không dùng, đem đi đổi lấy thịt chó về vui nhậu trong 3 ngày Tết. Ngược lại, Tù cũng nhờ Cán bộ đem quần áo đi đổi giùm, lấy gạo nếp, đậu xanh và trứng gà, để tăng cường các món ăn đầu năm của mình thêm phần phong phú. Việc này thực hiện được, nhờ quần áo Nhà Nước phát cho Tù 6 tháng một bộ, không may pha lộn 2 mầu xanh trắng như hồi còn ở Trại Tân Lập, không đóng dấu ám hiệu Trại giam trước khi phát, vải nhuộm toàn một mầu xanh chàm, đồng bào Thái ở gần Trại có thể dùng được không trở ngại gì.
Trong 2 Đội Rau Xanh, có 1 Đội gồm toàn các Tuyên úy Quân đội, Đại tá, và anh em gốc Chiến tranh Chính trị, được đặt tên là Đội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ. Đội này, ngoài việc trồng rau, phải dàn dựng tập dượt các chương trình Văn Nghệ. Buổi thử lửa trình diễn đầu tiên, vào dịp mừng Lễ Độc Lập 2 tháng 9, thành công rất mỹ mãn. Nên vào ngày mồng 3 Tết Tân Dậu-1981, Phân trại K2 tổ chức “xuất quân Thi Đua đầu năm” với một chương trình Văn Nghệ lưu động, thúc đẩy tinh thần anh em lao động rất hào hứng. Có múa Lân, có toán Nhạc nhẹ và Ca sĩ lần lượt đến từng khu vực lao động, trình diễn giúp vui cho anh em hăng hái, xông pha phát bụi rậm, cỏ tranh, cỏ bông lau, còng lưng cuốc đào đất bỏ hom trồng khoai mì, trên sườn núi hai bên quãng đường dài 4 cây số, bên kia sông hướng đi tới Xóm Hoán Bù.
Có những bài hát của miền Nam, sau 30-4-1975 bị cấm vì Cộng sản Việt Nam coi là Nhạc Vàng phản động, nhưng thấy Ban Văn Nghệ hoà tấu không lời ca, cho anh em thưởng thức. Anh em thích thú hoan hô nhiệt liệt và rất ngạc nhiên, không biết vì sao Ban Văn Nghệ giám liều lĩnh đến thế. Trong giờ nghỉ lao động ở trong trại, Tôi tìm gặp Linh Mục Tuyên úy, Đội trưởng Rau Xanh kiêm Văn Nghệ để hỏi. Ngài cho biết : “-Mọi tiết mục trong chương trình đều phải trình Cán Bộ Quản Giáo duyệt trước. Mình nói là nhạc Liên Xô và nhạc Cu Ba, họ hân hoan gật đầu ngay. Họ đâu có biết khỉ khô Ất Giáp gì nhiều về ca nhạc, ngoài mấy bài hát do Đảng và Nhà Nước nhồi vào sọ hàng ngày. Còn anh em chúng mình, chắc chắn không ai đi tố cáo, nên chẳng có gì để mà sợ.”
Để tới “hiện trường lao động thi đua đầu năm” Con Gà Mới (Tân Dậu), mọi người phải đi theo con đường từ khu trại giam qua Đội Gạch bên đồi miá, xuống chân đồi băng qua sông chỗ khúc cạn ngập ngang đầu gối. Dòng nước lúc nào cũng chẩy rất xiết, lòng sông đầy sỏi đá rêu bao trơn trợt. Anh em phải nắm tay nhau, kẻ trước người sau dò đi từng bước một. Tội nghiệp cho các Bạn đến phiên trực, phải vác các bó cuốc ra hiện trường cho Anh Em dùng, thật vất vả. Nếu lỡ trợt chân, bị nước cuốn băng đi cả chục mét. Khi gượng đứng lên được, bị ướt sũng từ đầu đến chân, chẳng khác nào tắm gội không cởi bỏ quần áo.
Mỗi Đội được giao khoán phát quang, đào hố, bỏ hom trồng khoai mì (sắn), trên một khoảng đất bề dài 1 cây số, sâu vào 2 bên lề chừng 200 mét, dọc theo con đường đi Xóm Hoán Bù. Đội nào làm xong trước nhất, được thưởng mỗi người 1 kí lô sắn “bồi dưỡng”. Dĩ nhiên Đội các bạn trẻ bao giờ cũng dành phần thắng lợi. Đội chúng tôi già yếu, chỉ cố gắng làm cho không bị chỉ trích chây lười là tốt rồi.
Nhưng cũng may, trong kỳ “thi đua” này Trại đặt ra một biệt lệ, phát “giải thưởng bồi dưỡng” 5 cây miá cho cá nhân nào được Đội trưởng ghi nhận là “lao động năng nổ vượt chỉ tiêu” trong ngày. Đội trưởng, Đội phó và Thư ký Đội chúng tôi bàn luận với nhau, rồi cho anh em biết là, mỗi ngày sẽ trình danh sách 5 người “lao động xuất sắc”, để thay phiên nhau lãnh thưởng về chia đều cho cả Đội. Anh em phải kín đáo, âm thầm tiếp tay cho các “anh hùng lao động” này hoàn thành “vượt chỉ tiêu”, tối thiểu từ 5 đến 7 hố sắn nhiều hơn những người khác. Anh em vui vẻ “nhất trí”, nhờ vậy ngày nào toàn thể Đội chúng tôi cũng có miá “bồi dưỡng”.
Một hôm, khi đang phát bụi rậm trong buổi lao động sáng, Tổ chúng tôi gặp phải một tổ ong vàng. Chúng bay toả ra đốt túi bụi, anh em bỏ chạy tán loạn la ôi ối. Cán bộ Quản giáo thấy vậy, chạy đến vơ nắm cỏ tranh bện làm một nùi đuốc, đốt lên đem đến chỗ bụi rậm hun, xua ong bay tản đi chỗ khác, rồi vạch tìm lấy tổ ong đưa cho chúng tôi.
Chúng tôi xé tổ ong, chia nhau mỗi người một mảnh, lấy một ít xáp và ong nhộng chà lên những chỗ bị ong chích để giải độc. Chỗ còn lại, gồm cả ong nhộng và mật, bỏ vào miệng ăn tươi rất bùi béo ngọt. Từ đó về sau, mỗi khi đi phá bụi rậm, anh em lại mong được gặp tổ ong càng lớn càng tốt, để có nhiều mật tươi ăn cho nó bổ. Cũng may, chúng tôi gặp phải tổ ong cỏ hay ong đất gì đó, mầu vàng như nghệ, thân ngực to bằng hột đậu xanh, khúc bụng to dài hơn hột đậu đen một chút, thế mà chúng đốt đã nhức nhối đau rát, y như bị phỏng lửa chịu không nổi. Nếu gặp nhằm tổ ong Vò Vẽ (mình vằn đen vàng), nọc độc của nó làm cho bị nóng sốt mê man, xưng phù, nếu không có thuốc giải cứu kịp thời có thể vong mạng. Thật là hú viá!
Trong rừng núi Trường Sơn, thời gian giao mùa hết Đông sang Xuân, sáng sớm đi làm, sương đêm đọng đầy trên cỏ, đụng vào lạnh cóng. Trưa nắng chói chang, lao động mau mệt, vã mồ hôi, khô cổ họng. Xế chiều, vừa tới giờ nghỉ lao động, mặt trời đã vội vã lỉnh xuống phiá sau các đỉnh núi cao rừng rậm, khí lạnh toả ra rất nhanh. Cả buổi lam lũ, bụi đất bụi cỏ bám đầy từ đầu đến chân, người đẫm mồ hôi, không tắm thì dơ bẩn ngứa ngáy sinh ghẻ lợ. Còn tắm, phải cởi quần áo lội xuống nước lạnh rùng mình, rất dễ bị nhuốm bệnh cảm. Sổ mũi nhức đầu, mệt mỏi bải hoải, nhưng không sốt cao độ, chẳng bao giờ được nghỉ lao động. Đằng nào cũng khổ, nhưng nhu cầu giữ vệ sinh là ưu tiên số một nên phải liều, cơ thể phải tự thích ứng lần, và cuối cùng trở thành quen dày dạn chẳng sao.
Một hôm, giữa buổi lao động chiều, chúng tôi đang ngồi bên lề đường nghỉ giải lao, có 3 người đàn bà Kinh đứng tuổi, mặc váy đen, áo cánh nâu, chít khăn đen mỏ quạ đã bạc mầu, đi ngang. Bỗng, một người đang đi ngồi thụp xuống, ôm đầu nhăn nhó, mặt mày xanh lợt. Anh Đại tá Trần văn Thăng (gốc An ninh Quân đội) tới gần hỏi : “-Bà làm sao vậy?”. Bà ấy trả lời : “-Thưa, tự nhiên Em thấy choáng váng, chóng mặt nhức đầu quá!”. Anh Thăng lấy hộp sáp dầu Cù Là hiệu Macshu của Singapore (Dân chúng miền Nam ưa dùng), đưa cho Bà ấy bôi vào 2 bên thái dương, trán và sau gáy để trị trúng gió. Sau khi bôi được chừng vài phút, Bà ấy tỉnh hẳn ra, mặt mày hồng hào trở lại, cám ơn rối rít rồi đứng lên đi tiếp cho kịp 2 Bà bạn kia.
Một lúc sau, một trong 3 người đàn bà quay trở lại, chià tay xin chút thuốc trị trúng gió. Anh Thăng nói : “-Hồi nãy đã cho Bà rồi!” Bà ta lý nhí nói : “-Thưa, lúc nãy Anh cho Chị kia chớ không phải Em.” Anh Thăng lấy hộp sáp Cù là mở nắp, thấy còn rất ít dính đáy hộp, bèn đưa luôn cho Bà ta và nói : “-Chỉ còn có chút đỉnh thôi, Bà cầm lấy luôn để mà chia nhau xài.” Bà ta ngước mắt ngạc nhiên, lắc đầu nói : “-Không dám, xin Anh một tý dùng thử cho biết mùi thôi.” Sợ nói chuyện lâu với thường dân, Cán bộ lại buộc tội vi phạm Nội Quy trại thì phiền, Anh Thăng nói nhanh : “-Tôi cho Bà luôn đấy, thôi đi đi kẻo Cán bộ rầy rà thêm phiền phức.” Mắt Bà ấy sáng rực lên, gật đầu lia lịa, cám ơn rối rít, cầm hộp xáp Cù là chạy vội đi khỏi chỗ chúng tôi.
Cảnh tượng này, khiến tất cả anh em chúng tôi vô cùng xót xa thương cho số phận người dân, sống trong Thiên đường Xã hội Chủ nghiã bấy lâu nay tại miền Bắc Việt Nam.
Đợt “Thi đua” trồng sắn đầu năm vừa dứt, Đội chúng tôi được chỉ định khai quang, và đắp sửa con đường băng qua xóm Hoán Bù cho đủ rộng, để xe vận tải có thể lưu thông được.
Xóm Hoán Bù gồm khoảng chục căn nhà vách đất mái rạ, nằm dọc theo sát bên trái con đường. Trong thời gian lao động tại khu này, sáng cũng như chiều, chúng tôi không thấy bóng một Nam Nữ trẻ tuổi nào, ngoài vài ông bà già và ít đứa con nít dưới 5 tuổi. Chúng tôi không quan tâm tìm hiểu tại sao lại đặt tên là xóm Hoán Bù, và hai chữ Hoán Bù có ý nghĩa gì?
Tình cờ trong giờ giải lao giữa buổi lao động sáng, sương mù chưa tan hết, không khí còn ẩm lạnh căm căm, bà cụ nhà ở sát bên đường đon đả mời Cán bộ Quản giáo và Cảnh vệ, vào uống trà tươi và khoai luộc còn nóng hổi cho ấm lòng. Đúng lúc đó, một ông cụ từ bià rừng về tới, xà xuống bên chúng tôi, xin điếu thuốc lào hút cho ấm dạ. Chúng tôi phải mặc 2, 3 tầng áo len áo bông dài tay, còn cảm thấy lạnh. Trong khi ông già chỉ phong phanh có 1 bộ quần áo “kiểu bà ba” nâu, bằng vải mỏng đã bạc mầu, bên ngoài phủ chiếc “áo bông chấn thủ” cụt tay, đã rách phải vá víu nhiều chỗ. Da mặt ông cụ xám ngoét, môi tím bầm, co ro cúm rúm, xoa 2 tay vào nhau cho đỡ lạnh.
Một anh trong chúng tôi hỏi : “-Cụ năm nay đã đến 70 chưa, già nua vậy mà vào rừng chi sớm vậy?” Ông cụ trả lời : “-Cám ơn Trời cho năm nay mới được 60 thôi! Sống trong Xã hội Chủ nghiã, ai cũng phải lao động mới được chấm công, để lãnh phần “tiêu chuẩn” quy định hàng ngày. Chúng tôi dẫn trâu của Hợp tác xã đi ăn cỏ. Lợi dụng trong lúc chúng kiếm ăn, mình mò về kiếm chút khoai sắn đỡ dạ vậy mà. Bà nhà tôi ở nhà chăm sóc nhà trẻ cho xóm. Các cháu cỡ 6, 7 tuổi trở lên, phải đi hót phân cắt cỏ cho trâu ăn. Mỗi người một việc Qúy ông ạ!”
Chúng tôi lại hỏi : “-Phiếu vải được Nhà Nước cấp hàng năm để may quần áo đâu, sao Cụ không mua mà dùng?” Ông cụ trả lời : “-Ấy, hàng năm Nhà Nước có cấp Phiếu cho đấy. Nhưng vài năm nay, mỗi lần đến Hợp Tác Xã đều nói chưa có hàng về, nên mình phải đợi thôi! Từ ngày chấm dứt chiến tranh, không còn viện trợ của các nước anh em Xã hội Chủ nghiã nữa, cái gì cũng thiếu.”
Trong lúc nói chuyện, có dịp quan sát kỹ khuôn mặt ông cụ, Tôi ngờ ngợ thấy hình như mình đã có dịp gặp ông cụ này ở đâu, nhưng không nhớ ra được. Bèn hỏi : -Cụ và bà con Xóm này ở đây bao lâu rồi, mà trông các mái rạ còn mới quá vậy? Ông cụ trả lời : “-Ấy cũng chưa lâu lắm đâu. Trước chúng tôi ở vùng Yên Bái, Hoàng Liên Sơn, đủ hạn kỳ Nhà Nước lại điều động đến đây khai phá làm ăn sinh sống.” Tôi hỏi tiếp : -Gia đình cụ tình nguyện đi lập vùng Kinh tế mới ở đây à? Ông cụ lắc đầu, đảo mắt liếc quanh không thấy bóng Cán bộ nào gần chỗ chúng tôi đang trò chuyện, mới hạ thấp giọng nói tiếp : “-Trước năm 1954, Cha của tôi làm Lý trưởng vùng Tề ở Thái Bình. Sau tháng 7 năm 1954, toàn miền Bắc được giải phóng khỏi tay Tây và phe Quốc gia, Cha tôi bị Toà án Nhân dân xử tử, vì tội Việt gian bán nước. Cả đại gia đình họ Nội, họ Ngoại chúng tôi được Nhà Nước khoan hồng tha tội chết, nhưng phải đi lao động tại các vùng Kinh tế mới. Cứ 4, 5 năm lại rời nơi lao động, miết từ bấy đến nay chẳng biết bao giờ mới được ở yên một chỗ. Khi còn ở Yên Bái, gia đình chúng tôi ở Hợp tác xã trong vùng Xã Việt Cường. Hồi đó, chúng tôi cũng đã có dịp gặp bạn bè của Qúy ông đến đắp đập cho Hợp tác xã. Gia đình chúng tôi phải hàng ngày cung cấp sắn bồi dưỡng cho các ông ấy đấy!”
Thảo nào! Tôi nhớ ra rồi và bây giờ mới hiểu, tại sao ông cụ này hồi đó cư xử rất tử tế với chúng tôi, trong khi nhiều người khác luôn luôn có thái độ căm thù. Hồi còn ở Liên trại 1, Đội chúng tôi được chỉ định đi đắp đập thuê ở quanh vùng xã Việt Cường, Yên Bái (Tôi đã kể trong một đoạn trước). Hàng ngày, Tôi được Đội trưởng cử đi cùng 1 bạn khác, theo Quản giáo Đội vào Hợp Tác Xã để nhân viên đưa đi đào sắn sống. “Tiêu chuẩn bồi dưỡng” Hợp Tác Xã cho mỗi người 1 kí lô một ngày. Chúng tôi lãnh đem ra trao cho anh Nấu nước của Đội, rửa luộc chia đều cho anh em “bồi dưỡng” trong giờ giải lao, sau khi đã lựa mươi củ to ngon để Quản Giáo Đội và Cảnh Vệ dùng trước. Chính ông cụ này, đã được Chủ nhiệm Hợp Tác Xã giao cho việc đưa chúng tôi ra ruộng sắn tự đào củ, và cân cho chúng tôi. Bao giờ ông cụ cũng cho chúng tôi lấy nhiều hơn số cân lượng quy định.
Công việc sửa sang đường, băng qua xóm Hoán Bù vừa được chừng 1 cây số, Đội chúng tôi được điều động đi rẫy cỏ phá bụi trồng lúa nương, ngay bên kia bờ sông đối diện với khu trại giam. Đoạn đường còn lại chưa sửa, không biết do Đội nào tiếp tục phụ trách.
Đường đi đến khu lao động mới rất gần. Chúng tôi chỉ phải lội qua sông nơi khúc cạn, nước cao ngang đầu gối, ngay khu bến tắm hàng ngày của Anh Em Tù, sát hàng rào Nhà Bếp của Trại giam ngó xuống.
Làm việc tại khu này, cá nhân Tôi học được một kinh nghiệm hú viá để đời. Một buổi sáng ra lao động, thấy trên khúc gỗ mục mọc đầy nấm, mầu nâu non đẹp y như nấm Đông Cô. Đúng loại nấm anh bạn thuộc Đội khác ở chung Láng, chiều nào cũng nấu cả Gô đầy. Bạn ấy ăn ngon lành và khen rất ròn ngọt, chẳng thua gì nấm Đông Cô trong các Nhà hàng ăn của Tầu. Tôi liền hái một lố cỡ đầy 2 Gô, rửa sạch sẽ đem về trại giam. Chuẩn bị bữa ăn trưa, Tôi lấy một nửa số nấm hái được, nấu chung với bánh mì luộc trại phát, cắt miếng vuông nhỏ bằng đốt ngón, và mì vụn gia đình gửi tới để ăn thử. Quả không sai, nước súp rất ngọt y như có bỏ bột nêm, miếng nấm ăn rất ròn ngon lạ thường.
Anh bạn nằm kế bên, Đại tá Nguyễn Quốc Di (Trưởng Khối Tài Chánh của Tổng cục Chiến Tranh Chính trị) thuộc số anh em nghèo quà của gia đình, thấy Tôi tấm tắc khen ngon, ngỏ ý muốn nếm thử. Tôi múc ra tặng một Ca, bạn ấy chỉ lấy phân nửa, ý chừng sợ gặp nấm độc không dám ăn nhiều. Thấy mấy Bạn khác nằm gần đưa mắt nhìn chúng tôi ăn, Tôi mời nếm thử, nhưng họ lắc đầu không ai dám liều.
Ăn vừa xong bữa, Tôi cảm thấy đầu bừng bừng lâng lâng. Giật mình nghi là bị say nấm, Tôi bèn báo cho Đội trưởng và các Bạn nằm kế bên biết, để lỡ bất tỉnh thì các Bạn đem đi Bệnh xá cấp cứu. Sau đó, Tôi chạy vào nhà vệ sinh trong Láng móc cổ họng cho mửa ra, nhưng chỉ nôn ra được có chút đỉnh thôi. Người bắt đầu cảm thấy lảo đảo như say rượu, phải vội vã lấy đường và bột đậu xanh ra hoà đầy một ca uống giải độc. Hai mắt mỏi xụp xuống buồn ngủ vô cùng. Tôi cố hoạt động để cưỡng lại, sợ ngủ có thể ngất lịm đi luôn, không ai biết thì nguy. Cứ nằm xuống ngồi lên, Tôi múc từng muổng đường cát cho vào miệng ngậm. Cho đến giờ kẻng tập họp đi lao động buổi chiều trổi lên, cảm thấy dễ chịu hơn, Tôi sửa soạn đi lao động như thường. Dĩ nhiên phải mang theo Gô đường cát đầy nhóc, để tiếp tục ngậm liên tục từng muổng một, cho mau giải say. Anh bạn Di ăn ít nên chẳng sao.
Trên đường đi đến hiện trường lao động, lúc lội ngang sông, Tôi trầm mình xuống nước cho ướt sũng cả quần áo và đầu. Hy vọng cái lạnh làm thay đổi thân nhiệt đột ngột, sẽ giúp cho cơ thể trở lại bình thường nhanh hơn. Nhưng cái nạn buồn ngủ vẫn đè nặng trên đầu. Tôi phải cố gắng lao động liên tục, hăng hái hơn bình thường, cho mồ hôi vã ra thật nhiều để thải độc. Lạ một điều, lao động hăng hơn bình thường, mà không cảm thấy mệt. Vừa lao động vừa suy nghĩ “thật chẳng cái dại nào giống cái dại nào” như các Cụ thường ví von, nên Tôi cứ tủm tỉm cười một mình hoài. Anh Bạn Di bông đùa, đặt cho loại nấm mà chúng tôi ăn, một cái tên thật kỳ lạ : “khích tiếu nấm”, tức là loại nấm kích thích cho mình phải cười hoài.
Chiều về, Tôi mang chỗ nấm còn lại chưa dùng bỏ thùng rác. Anh Bạn khác Đội ở chung láng, chạy lại xin để ăn. Tôi nói không nên, nấm này ăn làm say nguy hiểm. Lúc đó anh Bạn mới tiết lộ cái bí quyết sửa soạn loại nấm đó ăn không bị say, và đêm ngủ ngon thẳng giấc y như uống thuốc ngủ. Đó là, phải luộc thật kỹ, đổ bỏ nước, chỉ ăn xác nấm đã luộc chín như ăn rau, và chỉ ăn vào buổi tối. Thảo nào, thấy anh Bạn ấy ăn hàng ngày không sao, mình vừa mới thử đã bị say làm sợ hết hồn hết vía.
Mặc dù được anh Bạn chỉ cho bí quyết rõ ràng, nhưng từ đó trở đi Tôi không bao giờ dại dột thử lần thứ hai, kể cả nấm mối hay nấm trứng vẫn thường ăn xưa nay, ngoại trừ nấm mèo (mộc nhĩ). Vùng này có nhiều mộc nhĩ to bằng bàn tay và dầy, chúng tôi thường lấy về xắt nhỏ, nấu với đậu xanh làm chè ăn rất ngon.
Một hôm, bỗng dưng toàn K2 được nghỉ lao động buổi sáng, tập trung lên Hội trường nghe “Ban” Thùy (Giám thị Trưởng Trại Thanh Phong) từ K1 vào nói chuyện. Ông ta vòng vo Tam quốc về tình người, về lòng nhân đạo..., để đi đến kết luận : “-Trại sẽ đem khoảng một trăm Tù Hình Sự trong K3 (vùng tử địa), đang bệnh hoạn không đủ khả năng lao động, về ở chung tại K2. Để cứu sống nhóm “đầu lâu chân tay” này, Trại sẽ trích bớt phần “tiêu chuẩn” ăn hàng ngày của anh em, tăng cường “bồi dưỡng” cho bọn chúngï trong vòng 2 tháng. Theo tinh thần Dân Chủ, Trại yêu cầu anh em cho biết ý kiến, để kịp thời quyết định.”
Thật là “nhân nghĩa Bà Chuá Đễ”, ai cũng biết là không đồng ý cũng chẳng được, lại mang tiếng Vô Nhân Đạo, nên mọi người vui vẻ vỗ tay “nhất trí”. Thế là Ban Giám Thị đã đạt được “mục đích yêu cầu” một cách dễ dàng vẻ vang, mà không mang tiếng độc tài đảng trị.
Kể từ hôm sau, mấy Đội nông nghiệp (dĩ nhiên có cả Đội chúng tôi) được tập trung thực hiện một hàng rào tre cao 2 mét, để nguyên cây ken sát bên nhau, chôn sâu xuống đất 80 phân. Hàng rào nằm dọc theo bên này con đường rộng 6 mét, phân cách Khu Cách Ly giam chúng tôi và Khu sẽ giam Hình sự. Sau 1 tuần lễ lao động “khẩn trương”, hàng rào hoàn tất. Bọn “Đầu lâu chân tay” được xe tải chuyển từ K3 về K2, nhốt trong 2 dẫy Láng ở góc sân thấp nhất của Trại giam. Nơi mà chúng tôi bị đưa vào giam, từ đêm mới đến hồi đầu năm 1980, đến khi “biên chế” lại và chuyển sang Khu Cách Ly hiện tại.
Bọn Tù Hình Sự này còn rất trẻ, ốm tong teo chỉ thấy da bọc xương, ghẻ lở cùng mình, quần áo rách rưới bẩn thỉu hôi hám, đầy chí rận. Chúng được ở trong trại “bồi dưỡng” khoảng 2 tuần lễ, tạm coi như đã tỉnh táo trở lại, nên phải đi tham gia lao động. Một nhóm đi làm tại Khu trồng rau xanh, một nhóm sang làm gạch, và làm mía. Chúng bị cấm ngặt không được “quan hệ” với chúng tôi. Nhưng tại hiện trường lao động, cũng như tại bến tắm sau giờ lao động, chúng luôn luôn tìm cách mon men đến gần chúng tôi, để xin thức ăn, thuốc hút, đồ dùng lặt vặt như khăn mặt, quần áo cũ... Ai tỏ ra hào hiệp sởi lởi, được chúng nịnh Bố Bố Con Con ngọt sớt. Còn ai lạnh lùng làm ngơ không đáp ứng lời năn nỉ, chúng đổi giọng hỗn xược, chửi thẳng thừng “Đ..M.. Bố già keo kiệt”. Thật là mất dậy hết chỗ nói.
Đa số trong bọn Tù Hình Sự này toàn là thành phần băng đảng, ăn cắp, cướp của, hãm hiếp, giết người ngoài Xã hội, đã bị bắt tập trung trong các Trại Cải Tạo Thiếu Nhi từ thuở còn thơ ấu. Đến khi chúng hết tuổi vị thành niên, phải chuyển sang Trại Cải tạo của người lớn, tiếp tục cải tạo cho đến hết án phạt.
Có đứa rất tội nghiệp, vì hoàn cảnh gia đình đông anh em túng thiếu, cha mẹ bệnh hoạn, phải lập bọn tổ chức ăn cắp của Hợp Tác Xã nên bị bắt Cải Tạo, lúc nào cũng mong cho mau hết hạn trở về với gia đình. Nhưng cũng có đứa thuộc loại “cải tạo chuyên nghiệp”, ra vào tù như đi chợ. Ngoài xã hội, chữ nghiã ăn đong, nghề nghiệp chuyên môn không có, lại thích sống phè phỡn như các cậu ấm cô chiêu con Đảng viên Cán bộ Nhà Nước, nên phải chuyên hành nghề bất hảo, trấn lột của người mà tiêu dùng cho đỡ cực nhọc. Cướp một lần sống thoải mái rong chơi đàn đúm đĩ đượi cả tháng, rồi mới chuẩn bị làm mẻ khác. Nếu chẳng may bị thộp, thì vào cải tạo ít lâu đâu có sao! Mấy đứa này, thường là các tay “anh chị đầu nậu” hiếp đáp tù khác trong trại, để được cung phụng sống chẳng khác nào Cán bộ cai tù. Trường hợp trại giam có 2, 3 đứa thuộc loại này cùng bị nhốt một lượt, thì chúng lập phe cánh riêng, chém giết nhau để tranh giành ảnh hưởng, làm Chúa tể trong Láng ngủ.
Từ ngày có bọn Hình Sự về ở chung trong K2, anh em chúng tôi gặp cái nạn bị mất đồ lặt vặt thường xuyên nơi bến tắm. Cán bộ Cảnh Vệ bắt được, đánh đập chúng rất tàn nhẫn. Họ dùng báng súng đánh vào đầu cho ngã lăn ra đất, xỉa đầu mũi súng vào ngực vào bụng, đá vào mặt vào đầu. Chúng co rúm người lăn lộn trên mặt đất, chịu đòn kêu la xin tha tội, nhưng chẳng được “chiếu cố”. Một người đánh chưa đủ, họ xúm nhau 2, 3 người ùa vô đánh “đòn hội chợ”, thấy mà khủng khiếp. Thế mà chúng cũng chẳng sợ, chứng nào vẫn tật nấy.
Mánh khoé cướp đoạt công khai giữa ban ngày, của bọn Hình Sự này rất tinh vi. Muốn lấy cả đôi “dép râu” của mình, chúng lén lấy một chiếc giấu vô trong bờ bụi quanh bãi rác bên bờ sông. Khi tắm song lên, nạn nhân bị đánh cắp thấy chỉ còn một chiếc dép, tìm hoài không thấy chiếc kia, đành vứt quách chiếc còn lại vào đống rác đi chân đất về trại. Thế là buổi tắm kế theo, thằng qủy sứ mò đến đống rác, công khai đi lượm trước mặt các Cán bộ Cảnh Vệ, cả 2 chiếc dép mang ra để làm của riêng, chẳng ai làm gì được nó. Thật vô cùng tinh khôn bịp bợm. Phải chăng, đây là nền văn hoá giáo dục mà chúng đã tiêm nhiễm được, từ khi còn nằm trong lòng mẹ trước khi ra đời?
Trong giờ lao động, bao giờ chúng tôi cũng nhờ anh Nuôi của Đội, nấu chín giùm những Gô mì, cơm, hoặc các thức ăn phụ khác, để đem vào trại tăng cường cho các bữa ăn của mình. Hết giờ lao động, trước khi trở vào khu giam, tất cả các Đội đều được tập trung xuống bến sông tắm. Trong khi mình tắm, mấy thằng Hình Sự ốm đói đảo tới khu để quần áo, lén lấy những Gô đồ ăn chạy ra bên đống rác, bốc bỏ miệng ăn ngấu nghiến cho kỳ hết, rồi vứt lon Gô không vào đống rác. Trường hợp có người trông thấy tri hô lên, Cán bộ Cảnh Vệ xấn tới đánh nó túi bụi, nó vẫn tỉnh khô chịu đòn và tiếp tục nhồi nuốt cho hết mới thôi. Cũng có đứa chậm chạp hơn, chiếc Gô đang ăn dở bị giật ra, để trả lại cho sở hữu chủ. Nhưng, ai mà dám ăn chỗ còn lại, đành phải đổ đi. Lập tức có một đứa khác chạy ùa tới, bốc cho vào miệng ăn lấy ăn để.
Từ đó về sau, mỗi khi xuống sông tắm, chúng tôi phải tổ chức cử người thay phiên nhau, đứng canh chừng bên khu quần áo và đồ đạc cho yên bụng.
Một buổi trưa đi lao động về, anh em đang chuẩn bị ăn, nghe nhiều hồi còi huýt toét toét liên tục. Rồi thấy nhiều Cán bộ từ ngoài cổng Trại, rầng rầng chạy vào Khu giam Tù Hình Sự. Khoảng 10 phút sau, thấy dẫn ra 2 đứa tay bị còng quặt ra sau lưng. Một đứa, vừa đi vừa bị đánh túi bụi ngã xấp ngã ngửa. Đứa kia, máu me đầy áo quần nơi bụng. Buổi chiều đi lao động hỏi ra mới biết, 2 tay “anh chị đầu băng đảng” thanh toán nhau, vì chuyện xích mích giành đàn em phục vụ.
Đứa đâm người, là “Bụi đời” gốc Hà-nội, bị án tù chung thân vì tội bắt cóc, hiếp và giết chết cô gái con của ông Lãnh Sự thuộc Toà Đại sứ Đông Đức, đồng minh của Nhà Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Đứa bị đâm, là “Anh hùng” khét tiếng của Hải phòng, từng nổi danh đem một toán bạn về tra khảo Bà Nội của chính nó để đòi tiền ăn chơi, rồi thay phiên nhau hiếp dâm và giết để phi tang.
Từ khi có bọn Hình Sự giam tại K2, các Cán bộ Cảnh vệ có dịp được mua vui thoả thích tại “hiện trường lao động” một cách dã man, y như ta thường thấy các đoạn giải trí của Vua Chúa thành La Mã trong các phim truyện cổ, trích từ Kinh Cựu Ước. Họ treo giải thưởng 1 củ sắn, để cho 2 đứa đánh đấm vật đá nhau kịch liệt. Đứa nào, đánh được đứa kia hộc máu mồm máu mũi phải quỳ lạy xin thua, thì được lấy giải thưởng. Lúc nào cũng có 2 đứa hăng hái ra đấu để tranh giải.
Thật khủng khiếp, kết quả “to lớn” của nền giáo dục Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đấu tranh san bằng giai cấp, đem lại công bằng xã hội, nhập cảng từ Liên xô Trung Cộng, và “Chính sách trăm năm trồng người” của Bác Hồ áp dụng trong suốt hai mươi mấy năm, độc quyền cai trị tại miền Bắc là như vậy sao?
Một buổi sáng trời trong vắt, anh em đang chuẩn bị ra tập họp xuất Trại lao động, có lệnh An ninh yêu cầu các anh Đại tá Lê Đình Luân (Đơn vị 101 thuộc P.2 Bộ TTM), Phạm văn Phô (Đội phó), Trịnh Bảo Chương, Tôn Thất Hùng (dân gốc Phòng Nhì) ở lại Láng làm việc với Cán bộ. Đến trưa mãn lao động vào trại, mới biết các anh ấy đã được Cán bộ từ Hànội tới chở đi khỏi Trại. Đến tối, trong giờ sinh hoạt kiểm thảo, Quản Giáo Đội đứng ngoài cửa sổ chuyển lệnh, chỉ định anh Đại tá Lê Phú Phúc làm Đội trưởng thay thế anh Luân. (Anh Phúc gốc Truyền Tin, hồi những năm đầu thập niên 1960, Tôi là Thiếu Tá Cục Phó Cục Truyền Tin Quân lực Việt Nam Cộng Hòa tại Saigon, anh Phúc là Đại Úy Liên Đoàn trưởng Liên đoàn Truyền Tin. Cơ sở Liên đoàn đóng tại gần Trường đua ngựa Phú Thọ.)
Mấy ngày sau, bất thần có cuộc tổng xét tư trang Tù Chính trị miền Nam toàn K2. Bọn Tù Hình Sự vẫn xuất trại đi lao động như thường. Sau buổi xét tư trang, có anh Trung tá (Chiến tranh Chính trị thuộc Không Quân), ở một Láng trong cùng Khu Cách Ly của chúng tôi, bị bắt giam vào Nhà Kỷ Luật. Hình như Cán bộ bắt được quả tang, anh ấy xé và vứt xuống hố nước tiểu, nơi đầu nhà phía sau Láng chúng tôi, mấy tờ giấy có ghi chép những điều liên quan tới vụ thành lập Chính phủ lưu vong, hay một Hội Cựu Tù Nhân Chính trị gì đó.
Những ngày kế theo, nhiều người bị gọi lên “làm việc” với Cán bộ An ninh. Đội chúng tôi có anh Đại tá Nguyễn văn Lương (gốc Địa phương Quân) cũng bị gọi lên “làm việc”, hình như anh ta có ghi danh nhận một chức vị gì đó trong Ban Chấp hành của tổ chức dự trù thành lập. Linh Mục Phan Phát Hườn thuộc Đội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ, cũng bị gọi lên điều tra, vì nghe nói Ngài cũng có nhận một chức vị nào đó trong Ban Chấp hành. (Hồi những năm đầu thập niên 1960, lúc Tôi làm Cục Phó Cục Truyền Tin Bộ Tổng Tham mưu, Linh Mục Hườn là Tuyên úy của Binh chủng Truyền Tin. Ngài đã giúp cho Binh chủng xây dựng được một Nhà Nguyện, và một Trường Trung học đệ Nhất Cấp “Tinh Thần”, tại Trại Gia binh của Tiểu đoàn Truyền Tin, ở ngay phía sau toà Nhà Chánh của Bộ Tổng Tham Mưu. Đức Tổng Giám Mục Nguyễn văn Bình đến Chủ lễ Khánh thành,)
Ngay sau buổi xét tư trang, Đội chúng tôi có sự thay đổi lớn. Một số bạn Đại tá được chuyển qua Đội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ. Ngược lại, một số Đại Đức Tuyên úy Phật Giáo và Linh Mục Tuyên úy Công Giáo trẻ khoẻ, thuộc Đội Rau Xanh được tăng cường vào Đội chúng tôi. Sau vụ “biên chế” này, Đội chúng tôi chấm dứt công tác Nông Nghiệp, trở thành Đội Mía. Chúng tôi làm trong lò mía, chớ không làm ngoài đồng mía như hồi trước. Đội được chia thành 4 toán (gọi là Khâu) để thực hiện 4 công tác khác nhau. Khâu Róc Vỏ Mía và chuyển vào phòng ép mía. Khâu Ép Mía, chia thành 2 toán thay phiên nhau làm việc từng đợt 30 phút. Mỗi đợt 2 người làm trâu đẩy cần quay, 1 người ngồi đẩy mía vào giữa 2 trục ép, và 1 người lo chuyển miá vào cho người ép, và đem các thùng nước mía đã ép đổ đầy vào các vạc lớn để trên lò. Khâu Nấu Mật, lo đun các vạc nước miá, liên tục suốt ngày đêm, cho sôi đến độ cạn quánh thành “mật đường”. Khâu sau cùng, gồm anh Dương Hiếu Nghĩa (Đội phó) và một bạn phụ tá, lo ủ nước mía sống cho lên men, để cất rượu trắng.
Mỗi Khâu làm việc có những vất vả nguy hiểm khác nhau. Khâu Róc Mía phải làm thật nhanh, mới kịp đủ mía cho Khâu Ép không phải ngồi đợi. Thân cây mía nhỏ cầm nơi tay trái, tay phải cầm dao róc. Làm không cẩn thận, sẽ vạt đứt luôn mấy đầu ngón tay trái như chơi. Róc bỏ vỏ dầy quá, sẽ bị kiểm điểm phung phí của Xã hội Chủ nghĩa.
Công tác của Khâu Ép Miá, có lẽ nặng nhọc vất vả nhất trong các Khâu. “Bộ phận” đẩy cần trục ép gồm 2 người. Mỗi người đứng ở một đầu cây cần gỗ dài, đi vòng tròn đuổi theo nhau, đẩy cho 2 trục ép bằng kim khí cao 1 mét, đường kính rộng 50 phân, đầu trục có răng cưa xoay ngược chiều nhau. Khi nào giữa khe của 2 trục không có những cây miá mới đẩy vào để ép, việc đẩy trục quay thấy nhẹ nhàng, không tốn sức bao nhiêu. Nhưng đến khi có những cây mía mới được đẩy vô ép, sức cản trở nên nặng vô cùng. Muốn cho trục quay, cả 2 người đẩy phải để 2 bàn tay ngang ngực đè vào cần trục, bấm các đầu ngón chân xuống đất ra sức đẩy về phía trước theo thứ tự từng chân một. Cứ mỗi 30 phút, các người đẩy cần trục quay phải được thay phiên, nếu không chẳng còn sức mà tiếp tục. Tôi được chia vào toán phụ trách “bộ phận” đẩy trục ép mía, thật vất vả hết chỗ nói.
Người chuyên ngồi đẩy mía vào giữa 2 trục ép, ngó thấy có vẻ không vất vả, nhưng lại có nhiều rủi ro nguy hiểm hơn cả. Phải làm sao đưa đều đều liên tục từng ôm 4, 5 cây mía, vào khe giữa 2 trục ép một lúc. Nếu không cẩn thận, bàn tay có thể bị dính cuốn theo, và bị ép nát cả cánh tay như chơi. Còn một điều khó khác nữa là, phải giữ làm sao cho không cây mía nào đẩy vào ép, rắt vào các răng cưa của trục. Dù chỉ 1 răng cưa bị rắt, trục cũng sẽ khựng lại không quay được. Mỗi lần trục đang quay ngon trớn, bị kẹt khựng lại là một đòn nặng đánh dồn vào ngực, của những người đẩy cần trục ép, đau tức ê ẩm như muốn gẫy bộ xương lồng ngực.
Khâu Nấu Mật có những nguy hiểm vất vả khác. Mỗi khi có vạc đầy nước mía bắt đầu đun, phải thay phiên nhau tiếp củi, giữ lửa cháy liên tục đều đều suốt ngày đêm, đến khi cạn quánh thành “mật đường” mới hoàn tất nhiệm vụ. Trong khi đun còn phải dùng cây bơi chèo, thong thả khuậy nước mía sôi trong vạc, liên tục theo chiều quay của kim đồng hồ, cho mật không bị lắng khê nơi đáy vạc. Trong lò nấu lúc nào cũng có 2, 3 vạc sôi sùng sục, khí nhiệt toả ra nóng nực kinh khủng hơn cả phơi nắng ngoài trời vào giữa trưa mùa Hạ. Khi nước mật bắt đầu xệt lại, việc đứng bên mép miệng vạc cầm gậy khuậy tròn, được coi là lúc nặng nề khó khăn nguy hiểm nhất. Sơ ý có thể bị té vào vạc mật chết phỏng như không. Trước khi Đội chúng tôi vào làm trong lò mật, đã có một Tù Hình Sự bị phỏng nặng vì tai nạn này.
Công tác của Đội Miá vất vả nguy hiểm như vậy, nên Ban Giám Thị K2 “chiếu cố” chỉ thị Quản Giáo, cho chúng tôi một đặc ân làm chúng tôi rất ngạc nhiên. Hàng ngày, mỗi buổi lao động, mỗi người trong Đội chúng tôi, được “bồi dưỡng” 1 Gô đầy nước mía ép. Có thể để uống tươi như vậy, hoặc đun sôi lên rồi mới uống, tùy ý. Nhờ thế, sau vài tuần làm tại lò miá, anh em chúng tôi ai cũng có đôi má hồng hồng như thoa phấn.
Nhưng, cuộc sống Tù có bao giờ được phẳng lặng, xuôi dòng êm ả theo mong muốn đâu. Thường xuyên lúc nào cũng có những tai ách bất ngờ, hoặc do người hoặc do Trời đem đến, khiến cho mạng sống của Tù mong manh chẳng khác nào “trứng treo đầu chỉ”. Vào một buổi trưa Chủ Nhật, mọi người đang chuẩn bị nấu nướng thêm những món ăn “cải thiện”, tăng cường cho ca Bo Bo luộc do Trại phát (loại thực phẩm dành cho ngựa, của Ấn Độ viện trợ, ghi rõ bằng Anh ngữ ngoài bao đựng), thì từ Khu bếp lộ thiên bên hàng rào phía cuối Khu Cách Ly của chúng tôi, có tiếng xôn xao náo động. Rồi thấy một toán 3, 4 người xúm nhau khiêng một anh mập mạp hôn mê bất tỉnh, xuống Bệnh Xá cấp cứu. Tôi chạy ra coi, thấy đang khiêng anh Đại tá Nguyễn Ngọc Điệp (trước 30-4-1975 làm Tỉnh trưởng Bặc Liêu, từng nổi danh là “Hùm Xám Rừng Đước”). Đến gần tối, mới thấy xe tải từ Phân trại K1 chạy vào, di tản anh Điệp ra Bệnh Xá Trại Thanh Phong điều trị, vì Bệnh Xá K2 không đủ phương tiện cứu chữa.
Theo tin tức từ Bệnh Xá, do bạn Tù (Bác sĩ Quân Y của QLVNCH) phụ tá cho Cô Cán bộ Y tế của K2 cho biết : “-Anh Điệp bị hôn mê có lẽ vì bị đứt mạch máu não do cao áp huyết. Tình trạng rất nguy kịch. Với phương tiện nghèo nàn về Y Tế của Trại không biết có cứu được không? Không biết Trại có cho di tản, ra Nhà Thương Thanh Hoá cấp cứu kịp không?”
Chúng tôi rất buồn, thương cho hoàn cảnh không may của anh Điệp. Mọi người chẳng làm gì hơn được, chỉ biết cầu nguyện cho Bạn tai qua nạn khỏi. Sống chết, đều do mệnh Trời sắp đặt riêng cho mỗi người, chẳng ai biết trước mà tránh.
Chừng mươi ngày sau, anh bạn Tù (Bác sĩ) Phụ tá tại Bệnh Xá K2, có dịp theo Cán bộ Y tế ra K1 lãnh thuốc về cho biết : “-Anh Điệp nằm mê man nơi Bệnh Xá Trại Thanh Phong cả tuần sau thì hồi tỉnh. Nay anh ấy đã bắt đầu cử động được, nhưng chậm chạp khó khăn, nói năng phát âm hơi ngọng nghịu, quên không biết mình là ai, cũng như không nhận ra được bạn bè cũ. Thường xuyên nói chuyện với những người vô hình, y như người bị bệnh tâm thần trong các nhà thương điên.” Thật tội nghiệp. Nhưng Trời chưa bắt chết là mừng rồi, sau này được tha chắc chắn bệnh sẽ hết.
Hai tháng sau anh Điệp lành hẳn, đi lại nói năng được bình thường, trí nhớ phục hồi được khoảng 80 phần trăm. Rời Bệnh xá Trại tại K1 trở về K2, anh Điệp được Ban Giám Thị Phân trại “chiếu cố”, đặc biệt giao cho phụ trách chăm sóc vun tưới vườn bông, và vườn rau “cải thiện” nhỏ của các Cán Bộ Trực Trại, ngay bên trước cổng Khu giam.
Lúc này anh bạn Tù (Bác sĩ) mới giải thích : “-Anh Điệp bị trường hợp Nhũn Não (stroke), chớ không phải đứt mạch máu não, nên mới có may mắn như vậy.”
Sau anh Điệp, ở K2 còn có thêm 2 người nữa cũng bị trường hợp y như vậy. Một là Linh Mục người gốc Trung Hoa cao lớn mập mạp (trước 30-4-1975 cai quản Đặc Khu Hải Yến, gồm toàn người Trung Hoa vùng Quảng Tây chạy sang Việt Nam tỵ nạn, từ khi toàn Lục địa Trung Hoa Dân Quốc của ông Tưởng Giới Thạch lọt vào tay Trung Cộng Mao Trạch Đông. Đặc Khu Hải Yến là một vùng biệt lập hẻo lánh giữa ranh giới Cà Mâu và Rạch Giá tại miền Tây Nam Việt. Cư dân có tinh thần chống Cộng rất mãnh liệt.) Sau nhiều ngày bị nằm liệt vì Nhũn Não tại Bệnh Xá K1, Linh Mục cũng hồi tỉnh trở lại bình thường, trả về K2 làm chung công tác lo vườn hoa với anh Điệp. Ngày ngày đi xuống leo lên con dốc nghiêng 50 độ, dài chừng 50 mét, để sách từng thùng nước sông lên tưới rau và hoa trước cổng Khu Giam. Người thứ hai là Trung tá Nguyễn Thủy Chung thuộc Đội Nhà Bếp (trước 30-4-1975 làm Phụ tá Trưởng Khối Tổ chức Tổng Cục Chiến tranh Chính trị, Tôi đã có dịp nói đến trong một đoạn trước). Số mệnh anh Chung không may bằng 2 vị kia, nên bị “bán thân bất toại”, nói ngọng. Một thời gian sau được tha về, và đã qua đời tại Saigon. Chẳng biết sau này Vợ Con của anh Chung, có được Chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận cho đi định cư tỵ nạn theo diện H.O. hay không ?


CƯ DÂN XÓM HOÁN BÙ.
Sửa đường xuyên xóm Hoán Bù,
Phùn giăng Bấc thổi mịt mù rừng hoang.
Tranh nghèo mươi mái chắn ngang,
Thành phần Đảng buộc bỏ làng đến đây.
Xưa kia Cha ruột theo Tây,
Thuộc dòng “Tư Sản” phải đầy cách Dân.
Bốn năm chuyển chỗ một lần,
Thâm sơn cùng cốc, trước gần sau xa.
Quần quây Nam, Nữ, Trẻ, Già,
Bên nhau cả Họ tham gia cuốc cầy.
Thiếu nhi tuổi trẻ thơ ngây,
Gom phân, cắt cỏ hàng ngày định công.
Tuổi già sáu chục lưng cong,
Trăn trâu, giữ trẻ, vợ chồng chia lo.
Sắn, ngô độn bữa đói no,
Thân choàng áo đụp co ro cơ hàn.
Ốm đau, lá ngải xông than,
Mệnh chung, chiếu cuộn xác quàn bờ gai.
Sống nay chẳng biết đến mai,
Cuộc đời tăm tối, nào ai thấu cùng?
Tiếng than dâng thấu Thiên Cung,
Hỡi Trời! thấy cảnh não nùng này chăng?

Xuân Tân Dậu-1981.
Trên đường đi K3,
Trại Thanh Phong, Như Xuân, Thanh Hoá.

 
HOME
 

No comments: