CỞI TRÓI II
tức PHƯƠNG TRỜI CAO RỘNG 5
truyện dài của Vĩnh Hảo
Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1997
MUC LỤC
- Chương 14
- Chương 15
- Chương 16
- Chương 17
- Chương 18
- Chương 19
- Chương 20
- Chương 21
- Chương 22
- Chương 23
- Chương 24
- Chương 25
- Chương 26
- Chương 27
CỞI TRÓI II
(PHƯƠNG TRỜI CAO RỘNG 5)
truyện dài của Vĩnh Hảo
Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1997
(PHƯƠNG TRỜI CAO RỘNG 5)
truyện dài của Vĩnh Hảo
Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1997
CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT
Lịch sử thăng trầm của bệnh xá trại tù có cái vẻ gì
tương đồng với lịch sử chiến tranh của đất nước tôi. Dường như phải có
nhiều người gánh lấy bao tủi nhục đắng cay hoặc bất hạnh nằm xuống để mở
ra một lối thoát, một tương lai cho những người còn sống khác.
Trong số tù chính trị ở trại B5 chuyển đến K4, không
phải chỉ có anh Vận chết vì bệnh. Ông Trợ còn cho biết là ông Vương có
nằm bệnh xá một thời gian vì bệnh bao tử, càng lúc càng nặng, cán bộ tạm
tha về nhà để chữa trị; ông về đâu chừng một tuần thì chết tại nhà. Một
bệnh nhân chính trị khác mà tôi vừa quen vào dịp nằm bệnh xá đợt trước
là ông Phùng Xuân Mỹ, cựu Trung tá Không quân chế độ trước, bị bệnh
đường ruột, cũng chết trên giường bệnh ở bệnh xá trong vòng một tuần sau
anh Vận.
Đó chỉ là nói những người tù chính trị mà tôi biết. Còn
tù vượt biên, hình sự thì khỏi nói, đếm không được. Giống như có một cơn
dịch thổi qua bệnh xá. Những bệnh nhân mang các cơn bệnh khác nhau, lần
lượt rủ nhau mà chết. Ngày nào cũng có người chết. Ngày nào cũng có cán
bộ y tế (cũng là công an) và cán bộ quản trại đến bệnh xá lập “biên bản
tử vong” và quy trách đổ lỗi ấy cho ban y tế bệnh xá. Ông Trợ, trưởng
ban y tế, được coi là có tay nghề vững vàng hơn ông Nguyên và ông Mậu,
nhưng cũng giơ hai tay lên trời, xin đầu hàng. Ông thưa với cán bộ:
“Báo cáo cán bộ, có nhiều lý do khác chứ không phải vì
chúng tôi không chữa trị đàng hoàng cho bệnh nhân. Lý do trước nhất là
thuốc men không đầy đủ. Lý do thứ hai là khí hậu… vùng này độc địa, gió
máy, yếu một chút là trúng gió chết ngay. Thứ ba là có những bệnh quá
nặng, cần giải phẫu, cần bác sĩ chuyên môn ở các bệnh viện tối tân bên
ngoài, chúng tôi ở đây không làm sao chữa trị được. Xin cán bộ hiểu cho
điều đó.”
Viên cán bộ phụ trách quản lý bệnh xá ngồi gật gù, nói
rằng để trình lên trên xét xem có cách gì ngăn chận bớt nhân số tử vong
của trại hay không. Khổ cái là viên cán bộ này không biết đọc chữ, lại
chẳng biết chút gì về y học. Bao nhiêu đơn xin cấp thuốc, đơn báo cáo
bệnh, biên bản tử vong, bệnh án v.v… ông đều cầm lên nhìn giống như thầy
bói mù xem tranh, rồi gật gù—cái gật gù khó hiểu, không rõ là đồng ý
hay không đồng ý—rồi mang đi, nói là để trình cấp trên. Vậy rồi chẳng có
gì thay đổi. Có người khác chết, ông lại chạy xuống, nhìn, lắng nghe
báo cáo, gật gù, rồi lại cầm biên bản chạy đi. Cứ như vậy, hết bệnh nhân
này tới bệnh nhân khác, rơi rụng như lá mùa thu, như gà trong mùa dịch.
Cuối cùng, cán bộ nhận chỉ thị ở đâu từ cấp trên, đưa
xuống bệnh xá, bảo lập danh sách các bệnh nhân bệnh nặng không thể chữa
trị. Ông Trợ mừng lắm, cùng ban thư ký kê khai một danh sách ba tờ lớn
gồm một trăm hai mươi bệnh nhân, trong đó có cả những bệnh nhân không
nằm ở bệnh xá (vì bệnh xá đã hết chỗ), và trong đó có cả tôi. Ông Trợ
nói nhỏ với tôi:
“Kệ, tôi cứ ghi tên anh vào đây, nếu họ cho về thì tốt,
không cho về cũng đâu có sao. Tù chính trị như anh thì khó thật đấy,
nhưng biết đâu!”
Tôi nghe vậy thì ngạc nhiên vô cùng, hỏi lại:
“Ủa, danh sách này là danh sách bệnh nhân bệnh nặng… cần
được chữa trị, cần được cấp thuốc men đầy đủ chứ có phải là danh sách
được trả tự do đâu.”
“Anh khờ quá, trên bảo lập danh sách bệnh nặng không
chữa trị được có nghĩa là trên đầu hàng rồi! Trên muốn tống khứ đám tù
kiệt sức, bệnh nặng, đã không lợi gì cho công tác lao động mà còn tốn
kém cơm gạo, thuốc men, lại thêm mang tiếng cho trên là không chăm sóc
cẩn thận để tù nhân chết nhiều quá! Đó, lý do là thế. Cho nên danh sách
này cũng là danh sách được về đó anh à!”
Ôi, tôi nghe đến đó thì trong lòng khấp khởi vui mừng
biết bao. Té ra cái linh cảm về tự do của tôi cũng đâu có sai. Rõ ràng
là tôi vẫn luôn tin tưởng một điều rất phi lý là tôi sẽ được tự do sớm
chứ không chết rục trong tù. Bây giờ, dấu hiệu tự do bắt đầu chớm nở từ
mấy tờ giấy thô sơ ghi chép bằng tay của ban thư ký bệnh xá.
Danh sách đã lập, đã được ông Trợ, ông Nguyên, ông Mậu,
cùng ký ở dưới, xác nhận rằng những bệnh nhân với những căn bệnh nan y ở
trên là đúng. Lại có chữ ký của cán bộ phụ trách y tế (ký bằng cách vẽ
chữ thập vì ông này không biết chữ). Rồi ba tờ giấy ấy được cán bộ mang
đi.
Những thủ tục xét hồ sơ khá lâu của các ban ngành thuộc
chế độ xã hội chủ nghĩa vốn cũng là một thứ bệnh nan y khó chữa. Cho
nên, trong khi chờ đợi danh sách được chứng nhận, bao nhiêu căn bệnh
giết người khác đã hoành hành, cướp đi thêm nhiều mạng người trong bệnh
xá, mà căn bệnh giết nhiều người nhất vẫn là căn bệnh thuộc về bộ phận
tiêu hoá: kiết lỵ, loét bao tử, đau ruột, trống tràng, đau ruột dư… mà
ban y tế chữa mãi (bằng thuốc dân tộc) cũng không sao trị dứt. Đến khi
bệnh nhân chết thì khai báo theo sự bàn bạc và quyết định của công nhân
hay cán bộ. Một cụm từ bao quát, chung chung, được ban y tế sử dụng để
gọi tên những căn bệnh thuộc bộ tiêu hóa mà bệnh xá không chữa trị được:
rối loạn tiêu hóa. Trên hai mươi bệnh nhân chết vì bệnh này,
trong đó có một trường hợp đặc biệt mà người ta nghĩ là cán bộ trại sẽ
hí hửng thông báo cho gia đình người chết và có thể sẽ đăng một tờ báo
nào đó của nhà nước để thông tri chế độ ăn uống no đủ của trại cải tạo
K4: chết vì bội thực!
Nạn nhân là một tù hình sự, tên là Hùng, mang tội ăn
trộm. Anh này chừng hai mươi tuổi. Mặt mày hung dữ, đầu to, mặt tròn,
mắt lộ, đôi ngươi trắng dã. Anh nằm ở dãy phía trong của bệnh xá. Dãy
này được xỏ cùm bằng cây sắt dài ngang với cây sắt của các phòng giam
bình thường—tức là có thể xâu được ba mươi người. Anh nằm ở bệnh xá khá
lâu (chẳng rõ bệnh gì) nên được ông Trợ cắt nhiệm vụ rút cùm, xỏ cùm cho
đám bệnh nhân nằm chung một sàng gỗ với nhau. Vào ngày thăm nuôi giữa
tháng 10, ngày mà tôi được gặp mặt gia đình (sẽ kể sau), không rõ có
nhằm quốc lễ hay là một lễ gì đó của riêng trại giam (chẳng hạn sinh
nhật ông trưởng trại) mà bỗng dưng mỗi tù nhân được lãnh mỗi người một
miếng thịt heo (đúng ra là một “mẩu” thịt) “to” bằng ngón tay út. Thịt
được nhà bếp kho một nồi lớn rồi đem phân phát cho cho khoảng một ngàn
rưỡi tù nhân ở khắp các phòng giam của Khu C; đặc biệt bệnh xá là nơi
được hưởng nhiều ưu tiên nhất theo cán bộ chỉ thị, tức là phải chia thịt
nơi đây khá hơn các phòng giam một chút, chẳng hạn thay vì mẩu thịt to
cỡ ngón tay út của con gái thì cho cỡ ngón tay út của con trai, thay vì
một muỗng thịt kho thì cho hai muỗng. Bấy giờ hai anh nuôi của bệnh xá,
một anh đã được trả tự do, anh còn lại được thăm nuôi và gặp mặt gia
đình, vui quá không muốn làm công tác chia cơm, bèn lãnh nguyên thùng
cơm với xoong thịt đem về bệnh xá, giao cho Hùng chia giúp. Hùng bị giam
lâu ngày không có thăm nuôi nên gặp bữa thịt mỡ thì ham quá, chia cho
bệnh nhân mỗi người vừa đúng một mẩu thịt nhỏ, số dư lại không chịu chia
tiếp, đem trút hết vào ca riêng của mình. Phần cơm Hùng cũng chia nhín
nhín để dư lại cho mình thì thầu hết. Một số bệnh nhân dùng cháo, Hùng
chia xong, dư lại cũng cất luôn. Đã vậy, bệnh nhân ở bệnh xá lúc ấy có
khá nhiều người được thăm nuôi ngay trong ngày đó nên đa phần không nhận
phần cơm trại, cũng không thèm nhận phần thịt ít oi, nên Hùng hí hửng
gom hết các phần cơm và thịt ấy, đem về một góc phòng, lui hui dồn cơm
thịt vào giỏ xách cẩn thận, cho một ít cơm vào tráng cái xoong thịt dính
nước mỡ, rồi hăm hở thanh toán từng phần cơm, phần cháo. Buổi tối khi
mọi người ngủ ngon, tôi đang ngồi thiền (trong cùm sắt), cũng nghe tiếng
Hùng lục đục ngồi dậy, xúc cơm ăn. Sáng mai thức dậy, ban y tế bảo rút
cùm cho bệnh nhân ra hồ sen để tắm, ai nấy hồ hởi rời khỏi sàng mà Hùng
cứ nằm ngay đơ thẳng cẳng ra đó. Đến nhìn kỹ lại thì thấy Hùng mắt trợn
tròng, miệng sùi bọt mép liên tục. Ông Trợ đến xem, gõ cái bụng cứng anh
ách của Hùng nghe bùm bụp như trống làng. Ông Trợ lắc đầu, nói:
“Bội thực! Báo lên ban chỉ huy Khu ngay.”
Hùng được khiêng ra khỏi chỗ nằm, đặt ở giường cấp cứu,
chờ cán bộ quản lý bệnh xá đến, lập biên bản tử vong, rồi quấn trong một
cái chiếu, đưa lên xe kéo, kéo ra khu D (tức nghĩa trang của trại).
Sau cái chết của Hùng, lần lượt có thêm vài tù nhân
chết vì kiết lỵ hoặc trống tràng (cái bệnh mà tôi mắc phải lúc ở trại
B5). Cái chết bấy giờ trở thành một cái gì rất quen thuộc đối với bệnh
nhân của bệnh xá. Ngày nào cũng có người chết thì còn lạ gì nữa. Mới
thấy người này người kia hôm qua gây cãi, tắm rửa, vấn thuốc ngồi hút…
mà bây giờ đã nằm dưới lòng đất! Tử khí vây bọc khu vực bệnh xá. Có bệnh
nhân cho rằng buổi tối thấy những người ấy đi qua đi lại ở khu vực tăm
tối thuộc dãy trong bệnh xá.
Ó
Cho đến ngày thăm nuôi giữa tháng 10 hôm ấy, chân tôi
vẫn chưa bước đi được một cách bình thường. Đoạn đường từ bệnh xá đến
phòng thăm nuôi cũng khá xa, vì vậy, tôi được cán bộ cắt cho một người
khoẻ mạnh cõng tôi đi rồi người này cũng sẽ cõng tôi về lại bệnh xá.
Đây là lần thứ nhì tôi được gặp mặt thân nhân. Đã ở ba
trại giam, một năm rưỡi, vậy mà tôi chỉ mới gặp được gia đình có hai
lần. Cứ hết chuyển trại tới khai cung, hết khai cung tới tình nghi, hết
tình nghi tới biệt giam kỷ luật, hết biệt giam kỷ luật lại tới chuyển
trại, rồi vào nhà đá… Những thay đổi liên tục này cắt đứt sự liên hệ
giữa tôi với gia đình. Bây giờ, ngồi ở hiên sau của phòng thăm nuôi chờ
đợi gọi tên, tôi vừa xúc động, vừa nôn nả hồi hộp. Xúc động là sắp được
gặp mặt người thân thay mặt gia đình đến thăm; nôn nả hồi hộp là vì
trong tôi, nỗi hoài vọng về tự do đang tràn lấp mọi thứ tình cảm hay lý
lẽ thông thường khác. Cái hoài vọng ấy khiến tôi trở nên vô tình và vị
kỷ vô cùng trong dịp gặp gỡ người thân hôm nay. Trong đầu óc tôi lúc ấy,
chỉ nghĩ đến một điều là làm sao nói gia đình lo làm đơn xin cho tôi
được tạm tha về nhà để chữa trị. Ông Trợ cho tôi biết, đó là cách hay để
chứng tỏ cho cán bộ trại tin rằng mình bị bệnh nặng thực sự; và cũng là
cách để thúc đẩy cán bộ khiến họ không còn ngần ngại trong việc cứu xét
việc tạm tha—bởi vì đơn xin bảo lãnh của gia đình cất bớt một phần
trách nhiệm cho ban quản trại. Đó là cách nghĩ của ông Trợ thôi, nghĩ
rằng làm vậy thì chắc ăn hơn, nhất là đối với một tù nhân chính trị mang
trọng án như tôi, chứ trên thực tế, việc lập danh sách bệnh nhân bệnh
nặng là do chỉ thị của ban quản trại đưa ra nhằm giải quyết vấn đề tử
vong quá cao trong trại. Chính vì vậy, dù có đơn xin bảo lãnh của thân
nhân bệnh nhân hay không, ban quản trại vẫn cứ cứu xét danh sách do bệnh
xá xác nhận như thường.
Bất ngờ nhất cho tôi là trong buổi gặp mặt thân nhân
này, có ba tôi đến cùng chị Thuần, người chị thường lo việc thăm nuôi
tôi mỗi tháng. Tôi và ông đã không nói được gì nhiều với nhau vì cha con
tôi không quen ăn nói lớn tiếng—mà khung cảnh phòng thăm nuôi thì đòi
hỏi người ta phải hét lên. Và tôi chỉ cố gắng nói với ông mỗi một điều
mà tôi cho là quan trọng: làm đơn bảo lãnh cho tôi được tạm tha để chữa
trị bệnh. Ba tôi có hỏi về cái áo len màu nâu mà gia đình đã gởi cho tôi
tháng trước, sao không thấy tôi mặc. Tôi trả lời dối là tôi đã cất
trong bệnh xá vì chưa thấy lạnh. Ông nói:
“Áo đó chị Trang bên Mỹ gởi về cho ba, ba nhường cho con đó, ba ở ngoài không bị lạnh như con trong này đâu.”
Sau chuyện đó, chúng tôi trao đổi thêm vài chuyện nhỏ
nhặt khác, rồi chia tay. Chiếc áo len ba tôi nhường cho tôi, tôi đã tặng
ông Thi. Tôi tặng ông thì đúng, chẳng ân hận gì cả; nhưng chỉ tiếc là
tôi đã không mặc nó ít nhất một lần, để khỏi phụ lòng người cha già đã
quan tâm nhớ nghĩ đến mình.
Rời phòng thăm nuôi, tôi được anh tù kia cõng về bệnh
xá, một anh tù khác thì xách giùm tôi hai giỏ quà. Ba tôi đứng lại ở sân
trước, nhìn theo. Hình ảnh cuối cùng tôi còn ghi được lúc đó là đôi mắt
lo âu, buồn bã, bất lực kèm theo đôi môi mếu máo của ông khi thấy tôi
không bước đi được bình thường. Đôi mắt ấy cũng đã gởi theo tôi tất cả
thương yêu của ông, làm ấm tim tôi trong những ngày vào đông năm ấy.
Ó
Trong khi “danh sách tù nhân bệnh nặng không thể chữa
trị” được gửi đi và chờ cứu xét, bệnh xá nhận thêm khá nhiều bệnh nhân
từ các Khu khác chuyển về, trong đó có cả Khu Ruộng ở huyện Xuân Phước.
Bệnh xá Khu C trở thành một thứ nhà thương thí tập trung tất cả những
loại bệnh trạng vô cùng ghê rợn kỳ quái và vô cùng đau khổ của cuộc đời.
Nào là anh chàng sưng dái mặc quần lúc nào cũng xẻ đáy để lộ ra cả cái
“bọc điều” căng phồng, lớn như quả dừa xiêm; nào là anh chàng bị sạn
thận đứng ngồi nhấp nhỏm, vừa tiểu tiện vừa khóc; nào là anh chàng bị
bướu cổ; nào là anh chàng bị bướu lưng; nào là anh chàng sắp mù mắt; nào
là anh chàng viêm mũi, máu mủ chảy ròng ròng; nào là hai ông già đói
nhất, trơ xương nhất, cao trên một mét bảy mươi mà nặng có hai mươi sáu
ký; nào là anh chàng bệnh xơ gan cổ trướng, da vàng vàng nhợt nhợt, bụng
to như trống chầu… Tất cả những người bệnh trên, có khi cũng không được
nghỉ ngơi dưỡng bệnh. Tuần nào cũng có một vài cuộc “càn quét” của đám
cai tù nhằm vào bệnh xá để lùa người đi lao động. Đám cai tù vừa hăng
say lập công với cán bộ mà cũng vừa ganh tị với những người bệnh nên cứ
tìm hết công việc này đến công việc khác để bắt bệnh nhân làm việc. Bệnh
nặng thì làm việc nhẹ! Chủ trương của họ như vậy. Việc nhẹ là xe dây
thừng, xúc dòi ở cầu tiêu đem nuôi vịt, quét dọn và nhổ cỏ quanh sân
trại… Bệnh nhân cũng bị cai tù đánh đập tàn nhẫn khi cơ thể mệt nhọc làm
việc không nổi. Hai ông già kiệt sức lì đòn nhất, bắt mấy ông đập đá,
mấy ông cứ cầm búa ngồi đó, lâu lâu dùng hai tay nhấc búa lên rồi thả
xuống. Cai tù dùng roi đánh, hai ông nói:
“Đánh nữa đi, đánh đi! Không làm nữa đâu, mệt quá, không làm nổi nữa!”
Roi quất vào người hai ông, nghe côm cốp chứ không nghe
bình bịch như người khác. Hai ông lần lượt chết ở bệnh xá vì kiệt sức,
và đã chết trước khi danh sách tù nhân bệnh nặng được cứu xét có kết
quả.
Một nửa nhân số liệt kê trong danh sách, khoảng gần sáu
mươi người, lần lượt được gọi tên lên văn phòng Ban chỉ huy Khu C trong
vòng một vài ngày. Không có tên tôi. Những người được trả tự do đều là
tù hình sự hoặc vượt biên, án nhẹ. Chưa có tù nhân chính trị nào được
thả.
Ông Nguyên, nhân một lúc đưa bệnh nhân đi tắm giặt, ngồi với tôi bên bờ hồ, nói nhỏ:
“Có lẽ tù nhân chính trị thì chậm hơn, nhưng theo tôi
thì trước sau gì cũng được thả. Bệnh xá chết nhiều quá, ban quản trại
quíu lên rồi!”
Im một lúc, ông Nguyên nói tiếp:
“Này, nhà con ở đâu, cho bố địa chỉ, khi nào về được bố ghé thăm.”
Ông Nguyên vẫn xưng hô thân mật với tôi như thế. Tôi
nói địa chỉ hai người chị của tôi ở Sài Gòn. Ông có vẻ ngập ngừng, nghi
ngại một lúc, rồi mới lẩm nhẩm học thuộc lòng.
Hai ngày sau, lại thêm mười mấy người được thả, trong
đó có ông Nguyên và cả Tính, anh phó thư ký của bệnh xá. Ông Nguyên líu
quíu thay áo quần, rồi kéo tôi nhanh vào một góc bệnh xá, nói:
“Tôi sẽ cố gắng lo chạy cho thầy ra, thầy yên tâm.”
Tôi sửng sốt nhìn ông. Ông cười, nói:
“Thầy tưởng tụi này không biết thầy là ai sao? Ông Trợ,
ông Mậu cũng biết đó. Thằng Liệt, thằng Sinh cũng biết nữa. Thôi, tôi về
nghen, mong có dịp gặp lại thầy ở bên ngoài.”
Tôi không nói được gì với ông ngoài một lời chúc bình
an. Liên tiếp nhiều ngày sau, không còn tù nhân nào trong bệnh xá được
gọi tên ra về nữa. Dù sao, kể từ khi có bảy chục người được trả tự do,
bệnh xá đã được rộng rãi hơn, mau chóng lấy lại được không khí sinh hoạt
yên bình, nhẹ nhàng như trước.
Nhưng bẵng đi một tuần không còn thấy ai nhắc gì đến
chuyện danh sách bệnh nặng nữa thì tự dưng lại có thêm nhiều người chết.
Không những vậy, càng lúc càng có nhiều bệnh nhân mắc bệnh nan y từ các
Khu khác chuyển về, hoặc từ các phòng giam xin được vào bệnh xá. Lịch
sử tử bệnh vô thường của bệnh xá lại tái diễn chu kỳ cũ. Cán bộ chạy ra
chạy vào, hỏi thăm tử số. Công nhân, cai tù cũng lăng xăng chạy tới chạy
lui, tìm thêm người bệnh ở các phòng, đưa vào bệnh xá. Ban y tế bây giờ
còn ông Trợ, ông Mậu, muốn tìm người phụ giúp thêm. Ông Trợ ngó tôi,
hỏi ý:
“Anh ra phụ giúp ông Cảnh một tay được không?”
“Dĩ nhiên là được,” tôi đáp.
Nhưng ông Cảnh nói:
“Tôi có chuyện gì đâu mà giúp. Cần là cần bác sĩ, y tá thôi, chứ thư ký thì dễ ẹt, tôi làm được rồi!”
Vậy rồi ông Trợ và ông Cảnh gây nhau. Tôi tảng lờ, không muốn xen vào.
Nhân số bệnh xá bây giờ lại tăng như cũ. Những chỗ
trống bây giờ được lấp. Nhiều bệnh nhân phải nằm tại phòng giam. Hai
người bệnh lao ở phòng cách ly cũng lần lượt chết. Phòng cách ly bỏ
trống. Tôi và Thành, một anh nuôi của bệnh xá, được cắt công tác làm vệ
sinh phòng cách ly sau khi khiêng xác anh bạn tù ho lao về đặt trên
giường cấp cứu của bệnh xá để chờ quấn chiếu đem đi chôn. Anh tù ho lao
này bị cụt chân, mang tội dùng ma tuý và hiếp dâm đưa con gái ruột mười
bốn tuổi của anh. Còn người tù ho lao bị cách ly đã chết trước anh là
ông già khoảng năm mươi tuổi, ngoài tội giết người còn phạm cả tội hiếp
dâm đặc biệt, gọi bằng cái tên dài dòng là “hiếp dâm người quá cố” (đại
khái theo lời khai của ông thì ông đã hãm hiếp và giết đứa con dâu của
ông lúc con trai ông đi vắng; giết xong ông đi uống rượu, uống rượu xong
trở về lại hiếp dâm cái xác chết của cô con dâu lần nữa). Tôi nghe kể
chuyện mà rùng mình. Từ một góc tù, tôi có thể nhìn được tình trạng suy
đồi đạo đức trên đất nước tôi đã xuống thấp đến mức nào. Ở trên thì đảng
viên cán bộ nhà nước mặc sức tham nhũng, hối lộ, bán tài nguyên đất
nước để thủ lợi riêng cho cá nhân, cướp đoạt trắng trợn tài sản của nhân
dân với những chính sách rừng rú bất định, sống dối trá với nhau để tồn
tại, chia chác quyền lợi mà hưởng thụ; ở dưới thì dân đen nghèo khổ
thống hận, cướp bóc giành giựt nhau, rượu chè bài bạc, nghiện ngập xì ke
ma túy, không còn tin tưởng nhau, phá hết kỷ cương đạo đức… Chưa có
thời đại nào trong suốt nhiều ngàn năm của đất nước lại tàn hại đến mức
này.
Trở lại vấn đề của bệnh xá. Người bệnh ở đây càng lúc
càng nhiều. Người này vừa chết đã có người khác thay chỗ nằm. Bệnh xá
rộn lên. Bệnh nhân chúng tôi cũng bị căng thẳng lây, không sao yên nghỉ
được vì mỗi giờ cứ phải nhìn cảnh chết chóc, cảnh cán bộ khiển trách ban
y tế, cảnh công nhân đi qua đi lại để nhìn mặt từng bệnh nhân như dò
tìm những người khai bệnh dối. Cuối cùng, cán bộ y tế lại đến bệnh xá,
bảo ông Trợ cho lập một danh sách mới cho tù nhân bệnh nặng không thể
chữa trị. Ông Trợ bấy giờ mặc nhiên trở thành một nhân vật khá quan
trọng, có thể gián tiếp ban phát ân huệ tự do cho những bệnh nhân nằm
quanh ông. Ông cùng ông Cảnh đi một vòng bệnh xá, ghi tên những người
nào xét thấy bệnh nặng. Danh sách đợt này thực ra là danh sách những
người đợt trước chưa được cứu xét, bổ sung thêm một số tên mới; và dĩ
nhiên là với cảm tình sẵn có của ông Trợ dành cho tôi cộng với sự chẩn
đoán của ông là tôi bị bệnh tim, danh sách đợt này cũng có cả tên tôi.
Tuy nhiên, với cái khuôn mẫu kê khai rõ ràng danh tính, căn bệnh và kèm
theo cả tội phạm kia, tôi không thấy nhiều hy vọng như trước đây nữa. Có
lẽ đối với nhà nước, cái tội “phản cách mạng” dù ở tình trạng bệnh nặng
thế nào thì cũng đáng đời, khó tha thứ!
Danh sách này lập khá lâu và khá cẩn thận. Cán bộ phụ
trách y tế đã xem qua hai ba lần rồi mà vẫn chưa chịu ký, cứ bảo ông Trợ
xét kỹ lại, đừng để sót người bệnh nặng nào để rồi phải mất công lập
thêm một danh sách khác nữa. Cán bộ muốn đây là danh sách chót, giải
quyết toàn bộ tù nhân bệnh nặng, phải cho về hết! Ông Trợ hăm hở kể lại
tôi nghe như vậy, và ông nheo mắt với tôi, nói rằng:
“Trước sau gì anh cũng được về, đừng lo!”
Lời ông đem lại cho tôi niềm hi vọng đã mất từ những ngày trước. Tiếp tục chờ đợi. Danh sách đang còn bổ sung.
Một chiều nọ, cán bộ y tế đưa vào bệnh xá hai tù nhân
bệnh xơ gan cổ trướng. Bệnh này trước đây đã có một người được trả tự
do. Hai người này cùng một bệnh, e còn nặng hơn trước, tưởng là may mắn
được đưa đi bệnh viện Chợ Rẫy tại Sài Gòn để chữa trị nhưng hóa ra là
xui xẻo hơn anh tù xơ gan nằm ở bệnh xá. Tại bệnh viện Chợ Rẫy, các bác
sĩ giỏi kể cả một vài bác sĩ nước ngoài, khối xã hội chủ nghĩa, cũng
đành bó tay với căn bệnh đã tới lúc không còn cứu chữa của hai anh. Bác
sĩ Chợ Rẫy cho trả hai anh về trại giam, yêu cầu thả họ về để sống với
gia đình những ngày tháng cuối cùng trước khi chết. Nhưng muốn được như
vậy cũng phải chờ đơn xin cứu xét, chờ ban quản trại lập thủ tục tha
hoặc tạm tha. Vậy là ông Trợ ghi tên hai anh tù xơ gan này vào danh sách
bệnh nặng. Trong thời gian chờ đợi hoàn chỉnh danh sách ấy, cán bộ y tế
đã bày hai anh hãy viết thư cho gia đình, rồi cán bộ sẽ mang thư đến
tận nhà, hướng dẫn gia đình làm đơn xin bảo lãnh gấp để hai anh được ban
quản trại cho về, không cần phải chờ Cục Quản Lý Trại Giam của tỉnh
Đồng Nai duyệt theo danh sách bệnh nặng đang còn tiến hành. Một trong
hai anh đã được về bằng cách đó.
Anh còn lại tên Tuấn, không được gia đình bảo lãnh, đã
sống nốt đời anh trên giường của bệnh xá. Mỗi lần đi đại tiểu tiện, anh
rất khổ sở, ì à ì ạch mang cái bụng tròn quay và to hơn những cái bụng
đồ sộ nhất của bất cứ người đàn bà chửa nào trên thế giới (lời của
Thành, anh nuôi của bệnh xá nằm kế tôi đã nói vậy), đi qua đi lại trước
mặt chúng tôi mỗi giờ đồng hồ. Có lẽ vì cơn đau thể xác và sự phiền nhọc
của cái bụng nặng, anh đâm ra bẳn gắt, cau có, đụng chuyện gì cũng chửi
bới, la toáng lên. Anh đi qua đi lại trong bệnh xá để tiểu tiện được
vài ngày thì hết sức, nằm liệt luôn trên giường, phóng uế tại chỗ dù
rằng anh hãy còn tỉnh táo. Cán bộ y tế, các công nhân và các cai tù vào
bệnh xá, thấy tình trạng anh như vậy đều lắc đầu. Ông Trợ báo cáo cán bộ
rằng anh Tuấn đang nằm chờ chết. Cán bộ có vẻ lo quắn lên vì chuyện
này, lẩm bẩm như trách cứ ai, rồi đột nhiên quay qua Sinh, anh công nhân
cố vấn Ban Chỉ huy Khu C, nói:
“Anh phụ trách chuyện lo cho anh Tuấn trong thời gian này nhé. Cần thứ gì thì báo cáo.”
Nói rồi, cán bộ rời bệnh xá ngay. Sinh ngồi lại nơi văn phòng bệnh xá, bàn việc với ban y tế. Sinh hỏi ông Trợ:
“Theo ông, bây giờ anh Tuấn cần thứ gì?”
Ông Trợ lắc đầu, nhỏ giọng nói:
“Cần gì nữa đâu. Nằm liệt đó cho đến khi chết thôi. Chỉ
hơi phiền là… chúng tôi lo việc chữa trị cho biết bao nhiêu bệnh nhân
khác, không có thì giờ chăm sóc anh ấy như nhu cầu.”
“Như nhu cầu nghĩa là sao?”
“Nhu cầu đòi hỏi một y công ngồi trực bên giường bệnh
của anh Tuấn suốt ngày, săn sóc mọi thứ, nhất là chuyện đại tiện tiểu
tiện, giặt giũ quần áo, đút cháo, đưa thuốc, v.v… Những công việc này
cũng bận rộn suốt ngày chứ chẳng phải chơi. Chúng tôi mà làm việc ấy thì
còn thì giờ đâu mà chữa bệnh cho những bệnh nhân khác.”
“Vậy thì cắt một người ra làm y công, bệnh xá đông như vầy mà không có người ư?”
“Thưa anh, ban y tế chúng tôi chỉ còn ba người là tôi,
ông Mậu, ông Cảnh; còn anh nuôi thì lấy từ một người từ bệnh nhân. Trên
nguyên tắc… bệnh nhân nằm điều trị và chữa bệnh ở đây không bị bắt buộc
phải nhận công tác của bệnh xá, chúng tôi đâu có dám cắt cử hay chỉ thị
ai.”
“Thì biết rằng vậy, nhưng sao không thử tìm xem có ai
chịu tình nguyện làm y công giúp đỡ anh Tuấn?” Sinh nói đến đó thì đảo
mắt một vòng, nhìn quanh hai dãy giường cặp hai bên chiếc bàn làm việc
của ban y tế.
Tôi định giơ tay tình nguyện nhưng nghĩ lại, thấy chưa
đúng lúc, bèn ngồi im. Tôi biết người nào nhận việc chăm sóc cho Tuấn sẽ
được tháo cùm suốt ngày, tự do đi lại nhiều hơn trong phạm vi Khu hoặc
ngoài bờ ao (để giặt giũ) như các nhân viên của ban y tế. Cái chuyện như
vậy tốt nhất là để người ta yêu cầu chứ đừng có dại mà giong tay tình
nguyện để rồi bị nghi là có ý đồ trốn trại—nhất là một người tù chính
trị có án nặng như tôi.
“Nhưng ngoài chuyện chăm sóc ăn uống, giặt giũ, đưa thuốc uống ra, anh Tuấn còn cần thứ gì nữa?” Sinh hỏi ông Trợ.
“Thưa anh, có lẽ cũng cần chút ít thức ăn hay bột gì đó
chứ giỏ đồ của anh Tuấn hình như đã cạn khi mới về tới đây. Gia đình anh
ấy đã bỏ mặc, không thăm nuôi anh nữa.”
“Anh ấy vẫn còn ăn uống được bình thường sao?”
“Hiện thời thì có thể ăn cháo và bột.”
“Vậy thì ban y tế cứ viết phiếu xin cấp dưỡng đặc biệt,
kê khai những gì cần thiết, đưa lên văn phòng Khu nhờ chuyển lên trên
cứu xét như cán bộ đã nói lúc nãy. Vậy há!”
Nói rồi, Sinh ngồi suy nghĩ một lúc, rồi nói tiếp với giọng cố ý lớn để mọi người trong bệnh xá có thể nghe được:
“Nhưng khi anh Tuấn được cấp dưỡng mọi thứ rồi thì cái
người y công giúp đỡ chăm sóc anh phải là người y công có lòng, đặc biệt
là phải có thăm nuôi, phải không?” Sinh cười một tiếng. “Chứ không thì y
công ăn hết đồ của bệnh nhân sao! Cho nên, phải tuyển chọn y công cho
kỹ mới được! Không phải chỉ có lòng không thôi mà còn phải có thăm nuôi
đầy đủ nữa.”
Tôi nghe vậy thì hầu như không còn ý định tình nguyện
giúp đỡ anh Tuấn nữa. Ban đầu, lòng thương của tôi đối với người bệnh
liệt giường kia đã bị lý do chính trị ngăn chận; bây giờ, lại lý do kinh
tế cản trở. Thôi, tôi thầm nhủ, để người khác làm vậy. Nhưng rõ ràng là
khi nói xong những lời ấy, Sinh đã hướng cặp mắt nhìn về phía tôi. Dĩ
nhiên đã từng sống chung với tôi một phòng giam ở nhà đá, Sinh thừa biết
tôi là tu sĩ. Sinh không muốn công khai yêu cầu tôi làm y công vì làm
như vậy có vẻ như là bất kính với một tu sĩ khác đạo với Sinh; nhưng có
lẽ anh thấy không thể tìm người nào khác hơn để làm công việc ấy.
Theo hướng nhìn của Sinh, ông Trợ ngó tôi, hiểu ý ngay, bèn đứng dậy, bước về chỗ tôi, hỏi:
“Chuyện này chắc ngoài anh Khang ra, chẳng ai đủ tiêu chuẩn gánh vác. Anh giúp Tuấn được không?”
Tôi không trả lời ngay, chỉ nhìn Sinh dọ ý. Sinh thấy tôi nhìn thì cũng đứng dậy, bước một bước tới chỗ tôi, nói:
“Giúp dùm đi, ở đây không ai khác làm được đâu.”
Tôi gật đầu. Vậy là Sinh bảo anh nuôi rút sắt, tháo cùm, cho tôi ra ngoài.
Ó
Công việc tôi làm bây giờ là công việc mà ông Mậu và
ông Cảnh đã thay phiên nhau làm trong những ngày trước một cách khổ nhọc
đến độ hai ông cứ cãi vả, phân bì nhau người làm ít, người làm nhiều.
Thấy có tôi đảm nhận, họ vui mừng giao cho tôi một xấp giấy bỏ (loại
giấy để viết đơn từ đã xài rồi) như là “dụng cụ” nghề nghiệp căn bản của
người y công vậy.
“Giấy này để làm gì?” tôi hỏi.
“Để chùi đít thằng Tuấn,” ông Cảnh mau mắn đáp.
À, té ra là như vậy. Công việc chính trong ngày của tôi
đối với Tuấn có nhiều thứ lắm, nhưng chùi đít và giặt áo quần dơ là
chuyện chính.
Giường của Tuấn nằm là giường cấp cứu, đặt ở giữa văn
phòng bệnh xá, ngay cửa ra vào. Tuấn còn tỉnh táo, biết những gì xảy ra
chung quanh, nhưng không ngồi dậy nổi, chỉ nằm tại chỗ. Thời gian ban y
tế thay nhau làm y công, Tuấn đại tiện mỗi ngày chừng ba lần. Đến khi
tôi lo việc chăm sóc anh thì tình trạng tồi tệ hơn: cứ ba mươi phút anh
phóng uế một lần. Phân của anh lúc bấy giờ là một thứ chất lỏng, đo đỏ
như máu và nhờn nhờn như đàm, tanh hôi khủng khiếp. Dường như có cái mùi
của thây chết phun theo những dòng nước lỏng bầy nhầy ấy. Mỗi lần anh
đại tiện, cả bệnh xá nhăn mặt nhăn mày, né đi nơi khác. Tôi xé những
trang giấy lớn thành từng miếng nhỏ vừa một bàn tay, vo cho nhàu để giấy
được mềm đi một chút rồi lại trải ra, để sẵn bên hông Tuấn. Khi nào
Tuấn khều tay tôi, chỉ xuống dưới là tôi lập tức kéo quần anh xuống lót
một tờ giấy lớn vào, chờ anh phóng uế xong, lấy những mẩu giấy nhỏ đã vo
mềm, lau cho anh. Lau xong, gói gọn lại bỏ vào lon, chờ có dịp ra bờ ao
đổ phân thì mang đi.
Hôm ấy, trong thời gian tôi vắng mặt năm phút để đi đổ
phân, Tuấn đã đại tiện thêm lần nữa ngay trong quần, tôi phải cởi ra
thay cho anh quần khác (anh có hai bộ đồ tù) rồi mang quần kia đi giặt.
Giặt quần kia xong, phơi chưa kịp khô thì quần này lại tràn ngập phân
lỏng. Tôi lấy một quần xà-lỏn của tôi để mặc cho anh. Nhưng rồi cái quần
xà-lỏn cũng dính đầy phân. Đến lúc đó, tôi mới sực biết là anh không
còn kiểm soát chuyện đại tiểu tiện nữa, hoặc đã mất cảm giác ở bộ phận
bài tiết. Hình như anh còn tỉnh táo ở nửa phần người phía trên. Anh biết
tôi đang làm gì, nhưng anh không biết trước là anh sắp đại tiểu tiện.
Tuy vậy, điều tôi đoán hình như không đúng lắm, vì rõ ràng là anh biết
đau. Anh nổi cáu văng tục chửi tôi một tràng rồi nói:
“Lau nhẹ nhẹ một chút được không mày!”
“Xin lỗi, xin lỗi nghe, tôi không cố ý đâu.”
Tôi biết là do giấy dày cứng quá mà lại lau chùi một chỗ
quá nhiều lần trong ngày nên vùng hậu môn bị trầy xước thế nào đó, bây
giờ chỉ cần đụng nhẹ vào là đau. Đã vậy, giấy mà ban y tế cung cấp cho
tôi chùi hậu môn Tuấn cũng sắp hết khiến tôi đâm lúng túng, chưa biết
tính sao. Tôi hỏi ông Cảnh thư ký thì ông này nói:
“Hết giấy chùi đít thì chịu thua thôi chứ biết làm sao bây giờ. Hay là để tôi làm đơn xin trại cấp giấy chùi đít.”
“Dạ, chú nhớ xin vài cuộn giấy vệ sinh đàng hoàng chứ đừng xin ba thứ giấy bỏ như vầy cứng lắm, anh ấy chịu không nổi đâu!”
Ông Cảnh cười, lắc đầu nói:
“Biết giấy cứng đã có chưa mà đòi giấy mềm! Ở tù mà làm
như ở cung điện vậy! Bộ không nhớ lâu nay bọn mình chỉ xài lá cây với
cành cây thôi sao!”
“Nhưng mà… đây là trường hợp đặc biệt, người ta bệnh
nặng… Thôi, trong khi chờ đợi trại cho giấy, ban y tế cũng ráng tìm giúp
cho một ít giấy nghe.”
“Hết rồi, bao nhiêu giấy trong văn phòng này đã dồn hết
vào cái đít kia rồi, anh không biết sao! Ngày nào cũng vét giấy! Bây
giờ chỉ còn hồ sơ bệnh án, đâu có đụng vào đó được!”
“Ơ… vậy chú làm đơn xin giấy dùm gấp gấp một chút nghe!”
“Gấp? Mình làm đơn gấp nhưng người ta cứu xét từ từ thì cũng như không!”
“Thì cứ làm đi mà!” tôi năn nỉ.
Cái ông Cảnh này, thật là bi quan, khó tính! Nói cái gì
cũng bàn ra. Ông từng là thư ký của Ủy Ban Nhân Dân xã và bây giờ cũng
là thư ký của bệnh xá, vậy mà ông chẳng tin gì vào hiệu năng của đơn
xin, của giấy tờ!
Tôi đến ngồi bên giường bệnh của Tuấn nhìn anh ngủ. Ông
Trợ nói sơ cho tôi nghe rằng Tuấn có vợ và một đứa con. Anh nghiện ma
túy rồi bị bắt vào tù. Ở tù, bị bắt buộc phải cai thuốc, rồi do thiếu
dinh dưỡng, anh bị xơ gan (?). Ba người bị cùng chúng bệnh xơ gan cổ
trướng phình lên hết mức, đều là người có sử dụng ma túy trước khi vào
tù. Tôi không rành về y khoa để hiểu nguyên do nào mà họ đều mắc chứng
bệnh nan y và phải đi đến cái chết như vầy. Một cái chết từ từ một cách
tàn nhẫn. Hai người kia may mắn hơn Tuấn, đã được trả tự do để sống
quãng đời cuối với sự chăm sóc và mai táng của gia đình. Chỉ còn lại
Tuấn, không ai bảo lãnh. Cán bộ trại đã nói chuyện với gia đình Tuấn
nhưng gia đình anh yêu cầu cứ để anh ở lại trong trại. Họ không muốn
nhận anh trở về. Ngay cả mẹ ruột của anh cũng từ chối. Tôi không hiểu
đâu là lý do chính của sự từ chối này. Có lẽ họ quá nghèo, không đủ sức
lo cho Tuấn; cũng có lẽ là lúc trước Tuấn làm khổ họ quá nhiều, bây giờ
họ không muốn nhìn mặt anh nữa…
Tuấn chợt mở mắt ra, nhăn mặt một lúc rồi la:
“Đồ quỉ sứ, còn ngồi đó mà ngó nữa à. Sao không lo lau cứt cho tao!”
Tôi giật mình nhìn xuống phía dưới vùng hạ bộ của Tuấn,
thấy phân lỏng đã chảy ra một vũng lênh láng lầy nhầy. Giường nằm của
Tuấn cũng được đóng bằng gỗ, chỗ nằm lót ván ép, không có đường cho phân
và nước tiểu rút xuống đất. Phân và nước tiểu chảy tràn trên mặt ván,
phải dùng giấy cào dồn, túm lại rồi vất vào lon. Mà lau chùi bằng giấy
thì không thể nào sạch hết được, phân vương lại, thấm lại trên mặt ván,
hôi tanh nồng nặc, ruồi nhặng đánh hơi bay vào từng đàn, đập cánh nghe
vù vù. Tôi xin giẻ để lau giường, bệnh xá không có. Muốn dời Tuấn qua
giường khác để chùi rửa giường này, bệnh xá cũng không cho, bảo rằng cứ
để Tuấn nằm yên đó, không dời đi đâu. Lau chùi cho Tuấn xong, tôi ngồi
quạt ruồi cho anh. Cảm thấy bất lực. Cảm thấy như mình không làm tròn
trách nhiệm. Trong lòng bứt rứt vô cùng mà chẳng biết phải làm gì. Cứ
ngồi đó quạt. Quạt mạnh tay để đuổi ruồi thì bị Tuấn la chửi, bảo rằng
lạnh. Quạt hơi thưa thì ruồi bâu vào, Tuấn cũng la mắng, bảo rằng nhột
hoặc nóng, bảo rằng tôi làm biếng. Đôi khi bất bình, tôi muốn bỏ cuộc
nhưng thấy tội nghiệp anh ta nên không đành. Có khi tôi phải niệm Phật
để trấn át cái tâm sân hận sắp bùng nổ trong tôi. Có khi tôi phải quán
tưởng rằng mình là một bà mẹ đang chăm sóc đứa con bệnh nặng để vượt qua
những tủi nhục uất ức rất bạc bẽo mà Tuấn dành cho tôi. Có khi tôi phải
tưởng tượng rằng Tuấn chính là đứa em ruột của tôi đang nằm chờ chết…
Đơn xin cứu xét những bệnh nhân bệnh nặng không thể chữa
trị lần thứ hai đã có hiệu quả. Cán bộ vào bệnh xá đọc tên, mấy chục
người hí hửng rời giường bệnh tập trung ở văn phòng Khu. Đợt này có cả
tên của Tuấn. Tuấn nghe đọc tên, chỉ ngước mặt nhìn cán bộ một lúc rồi
nhắm lại. Tổng cộng khoảng bốn chục người được thả trong đợt này. Theo
ông Trợ cho biết thì danh sách gởi đi là một trăm hai mươi người; vậy là
chỉ mới được cứu xét khoảng một phần ba.
“Yên chí đi, anh sẽ được về mà. Còn khoảng tám mươi người nữa, không lý lại chẳng có tên anh!” ông Trợ an ủi tôi.
Ông Trợ nói rồi tôi mới sực nhớ rằng tên tôi cũng có
trong danh sách xin cứu xét của bệnh xá. Hóa ra nhiều ngày nay ngồi bên
giường bệnh theo dõi và chia sẻ nỗi đau khổ thể xác lẫn tinh thần của
Tuấn, cái bản ngã của tôi và tất cả niềm hoài vọng tự do của nó như thể
bị teo rút lại, nhường chỗ cho một thực trạng thống khổ mênh mang giăng
ngập trong lòng. Mọi thứ đối với tôi lúc ấy, không quan trọng nữa. Tôi
đã quên tất cả. Trước mắt tôi chỉ có Tuấn và cơn đau của anh, những biến
thái trên nét mặt và cơ thể anh. Có một cái gì gắn bó tôi với công việc
chăm sóc Tuấn. Nó không phải chỉ là trách nhiệm hay bổn phận. Nó cũng
không đơn thuần như là lòng thương. Nó dường như là sự cúi đầu của tự
ngã xuống niềm đau cuộc đời. Nó dường như là sự hồi hộp bâng khuâng của
tâm thức trước ngưỡng cửa của thực tại tối hậu—cái thực tại mà lâu nay
tôi ngỡ là phải nhìn lên, cất cao lên để vươn tới, thì bây giờ, nó ở
ngay bên dưới, phải cúi đầu, phải nhìn xuống…
Ó
Tôi thực sự là không còn mẩu giấy nhỏ nào để lau chùi
cho Tuấn. Chưa thấy giấy vệ sinh của trại đưa đến, mà bệnh xá cũng không
còn bất cứ giấy tờ bỏ nào. Ban y tế lắc đầu, xuôi tay, phó thác chuyện
đó cho tôi, coi như Tuấn là cái gì thuộc về tôi, không còn liên hệ gì
đến họ. Tôi ngồi cạnh Tuấn một lúc thì bất chợt nẩy ra sáng kiến hay.
Tôi vội lôi giỏ xách của mình, lấy ra cái mùng vải và tấm khăn bàn bằng
ni-lông (được gia đình tôi gởi vào, dùng làm tấm lót trải dưới chiếu để
cản hơi đất khi tôi còn ở trại B5 Biên Hòa), và tấm chăn (cũng bằng vải
mỏng). Tôi mượn cây kéo của ban y tế, cắt cái mùng vải của tôi ra thành
cả trăm mảnh nhỏ; còn tấm ni-lông thì cắt thành mười miếng hình chữ nhật
mỗi miếng lớn bằng cái khăn lau mặt. Vải thì dùng để lau chùi hậu môn
cho Tuấn, vừa để thay giấy vệ sinh, vừa khỏi làm đau anh; còn ni-lông
thì lót sẵn dưới mông Tuấn để phân lỏng khỏi dính vào ván giường và cũng
tiện cho việc giặt rửa; còn tấm chăn thì đắp cho Tuấn, che phần hạ bộ
cho anh để tránh chướng mắt người ra kẻ vào ở bệnh xá, vì ông Trợ bảo
đừng mặc quần cho anh nữa. (Tấm chăn này cũng thuộc loại chăn vải mỏng,
tôi dự định là nếu xấp vải mùng kia thiếu, cũng sẽ cắt nó ra thành trăm
mảnh để lau chùi cho Tuấn, hy vọng cầm cự được cho đến ngày có giấy vệ
sinh của trại giam đưa tới.)
Đến giai đoạn này thì Tuấn đại tiện khoảng 15 phút một
lần, và đang dần dần đi vào hôn mê. Bụng anh xẹp đi khá nhiều so với
mười ngày trước. Điều này ông Trợ không nói, nhưng tôi có cảm tưởng là
cái bụng phình trướng ấy chứa đầy phân và máu mủ. Tuấn đại tiểu tiện
càng nhiều thì bụng anh càng xẹp bớt. Và bây giờ, anh không đi ra phân
lỏng nhờn nhờn như đàm dãi nữa, mà đi ra máu, máu tươi. Máu vọt ra khỏi
hậu môn như một cái miệng núi lửa phun bắn ra những dòng phún xuất
thạch. Máu vừa ra khỏi người anh, tôi chưa kịp lau xong đã thấy khô thật
nhanh trên vải. Tôi nói với ông Trợ. Ông Trợ đến nhìn rồi kéo tôi ra
nói riêng:
“Giai đoạn cuối rồi đó.”
Ông Trợ không cho Tuấn ăn cháo lỏng từ mấy ngày trước mà
chỉ cho uống nước gạo rang. Mỗi ngày tôi theo anh nuôi của bệnh xá
xuống bếp rang gạo rồi đổ nước vào nấu một xoong nhỏ đem lên cho Tuấn,
đút cho anh húp từng muỗng nhỏ. Ngoài nước gạo rang, tôi cũng cho Tuấn
uống thuốc Nam do ông Mậu nấu, mỗi ngày ba lần, từ nhiều ngày nay (vì cả
bác sĩ Chợ Rẫy lẫn ban y tế của bệnh xá đều nói là nhà nước không có
loại thuốc Tây nào để trị cho căn bệnh này—nhất là đã đến thời kỳ nghiêm
trọng, gọi là hết thuốc chữa).
Sau hai ngày hôn mê và đi ra máu tươi, Tuấn bỗng tỉnh
dậy vào buổi trưa hôm nay. Nằm im tại chỗ, mắt mở lớn, nhìn tôi đăm đăm,
một lúc Tuấn nói:
“Anh tên gì vậy?”
“Khang”, tôi đáp.
“Anh giúp tôi một chuyện được không?”
“Chuyện gì cũng được, anh nói đi,” tôi khích lệ.
“Tôi thèm ngọt quá anh Khang ơi! Anh làm sao nói cán bộ cấp cho tôi bột hay đường gì đó, được không?”
Tôi lúng túng, nói:
“Không rõ họ có cho phép ăn uống như vậy không, vì nghe nói… bệnh của anh phải uống thuốc và chỉ uống nước gạo rang…”
“Xì, nước gạo rang, nước gạo rang, ngày nào cũng nước
gạo rang! Người ta chết đến nơi rồi, ăn uống thứ gì vào cũng vậy thôi!
Chẳng ăn thua gì đâu.”
Ông Trợ nghe Tuấn nói chuyện với tôi thì bước tới sờ trán, rồi vừa bắt mạch vừa nói:
“Anh muốn ăn gì?"
“Cho xin một ca bột đi bác sĩ ơi!”
“Được rồi, được rồi, để tôi nói anh Cảnh viết đơn xin cấp dưỡng gởi đi ngay.”
Tuấn sáng mắt lên một lúc rồi lại tỏ vẻ thất vọng, nói lầm bầm:
“Lại là đơn xin! Biết chừng nào mới có!”
“Nếu bệnh xá cho phép, để tôi lấy bột của tôi,” tôi nói.
“Anh còn bột không?” ông Trợ quay nhìn tôi, hỏi.
“Còn một ít, để tôi khuấy cho anh ấy nghe.”
“Tốt lắm, anh cho xin đi.” Ông Trợ nói.
Tôi vội đi khuấy bột, đút từng muỗng cho Tuấn ăn.
“Ngon quá, bột của anh hình như chỉ có đậu xanh trộn với
sữa bột và đường, ăn khoái lắm! Tôi chưa từng ăn ca bột nào thơm ngon
như vậy,” Tuấn nói.
Nói rồi, đâu chừng nửa phút sau anh lịm vào giấc ngủ.
Và máu nơi hậu môn anh tiếp tục tuôn ra, từng dòng, từng dòng, càng lúc
càng nhiều hơn. Tôi liên tục lau chùi và thay ni-lông trong suốt buổi xế
hôm ấy. Đến chiều, khi trời sắp tắt nắng, Tuấn lại thức tỉnh, mở mắt
nhìn tôi quan sát một lúc, rồi nói:
“Anh Khang có vợ con không?”
“Không,” tôi đáp.
“Anh bao nhiêu tuổi mà chưa vợ con?”
“Hai mươi bảy rồi.”
Tuấn gật gù, nằm suy nghĩ một lúc rồi tiếp:
“Hai mươi bảy tuổi mà chưa vợ con thì cũng lạ đó chớ.
Nhưng không có thì càng tốt đó anh Khang à. Em nhỏ tuổi hơn anh, có vợ
con sớm, mà rồi bây giờ nằm xuống có được vợ con nhìn mặt đâu. Em đâu có
đòi hỏi gì nhiều! Hôm trước em nhờ cán bộ nhắn về là chỉ xin gặp mặt
lần cuối thôi mà vợ em cũng từ chối, không cho gặp. Thực ra thì em cũng
chẳng nhớ vợ lắm đâu, chỉ nhớ đứa con, muốn nhìn nó một lần trước khi
chết… Vậy mà cũng không cho. Em nhắn xin gặp mẹ em, mẹ em cũng lờ luôn,
không trả lời gì hết.”
“Chắc tại gia đình bị trở ngại chuyện gì…” tôi an ủi.
“Không phải đâu, không có trở ngại gì đâu. Đi gặp mặt
chứ có phải đi thăm nuôi quà cáp mà trở ngại! Em biết chỉ vì gia đình
không ai thương em nữa. Gia đình em mà còn như vậy thì đủ biết tất cả
những con người trên đời này, không có ai thương em hết… Mẹ em, vợ em,
con em, cả gia đình em đều ghét em, không một người nào còn thương em,
cho đến mấy ông cán bộ, bác sĩ, y tá, công nhân, chức năng, bạn tù, bệnh
nhân trong bệnh xá này… ai cũng nhìn em bằng cặp mắt khinh bỉ, ghê tởm…
Người ta bịt mũi, nhắm mắt, không muốn nhìn em. Tất cả, không một người
nào trên cuộc đời này còn chút tình người! Em không hiểu tại sao em lại
có mặt trên cuộc đời khốn nạn này để rồi chết cô đơn như vầy…” Nói đến
đây, Tuấn bắt đầu khóc, khóc lặng lẽ bằng hai giọt nước mắt lăn nhanh từ
cuối đuôi mắt, rơi xuống cái gối bẩn thỉu. Một chốc, Tuấn chớp mắt nhìn
tôi, nói, “Không, thực ra có một người thương em, có một người thương
em, em biết, đó là anh đó, anh Khang.”
Tôi im lặng không biết phải an ủi Tuấn bằng lời nào. Một lúc, tôi nói được một câu không hay lắm:
“Đừng nghĩ như vậy, lo dưỡng bệnh đi. Một người bệnh nặng, đau khổ như Tuấn, ai lại chẳng thương.”
“Anh đừng bênh vực cho họ nữa anh Khang à. Em biết hết
rồi, em hiểu hết rồi. Cuộc đời này là như vậy. Hừ, anh Khang biết không,
có một lúc nào đó, tự dưng mình cảm thấy cô đơn kinh khủng, rồi cảm
thấy rằng tại sao mình phải gánh chịu cái khổ đau của cuộc đời này một
cách thật vô lý… mình nghe lời bạn bè đi tìm vui, mình đốt một điếu
thuốc, mình tiêm một mũi thuốc… rồi cuộc đời mình bắt đầu đi xuống, đi
xuống đến tận cùng cái đáy khổ đau và cô đơn nhất, ở đó, không còn ai
khứng nhận mình nữa. Đời em là như vậy đó. Xoay trước xoay sau, không
còn con đường nào để đi.”
Tuấn lại khóc. Một lúc, anh chùi nước mắt, cười với tôi, nói:
“Em khùng quá hả anh Khang, đương không lại đi nói ba cái chuyện như vậy với anh.”
“Không, Tuấn cứ nói đi, tôi thực sự muốn nghe, muốn biết lắm.”
“Em đã nói hết rồi. Đời em chỉ có như vậy, đâu có như
anh Khang, phải không anh? Anh Khang à, sao anh có thể thương được em
vậy? Em chỉ là con người hư đốn phá làng phá xóm. Em chỉ là người dưng
nước lã của anh thôi mà! Thương em, anh đâu có lợi lộc gì đâu! Em có cái
gì đâu mà anh thương.”
Tôi lúng túng không biết nói gì. Một khắc sau tôi mới nói được một câu rất nhỏ, không chắc là Tuấn có nghe được không:
“Em có tất cả nỗi đau khổ của cuộc đời.”
Tôi nói đến đó thì mắt tôi cũng rưng rưng và ngay trong
giây phút ấy, tôi trực nhận một thứ ánh sáng rực rỡ thanh khiết như bừng
tỏa một cách tràn đầy từ tự tâm tôi, mà cửa ngõ hay nguồn cội của nó
chính là ở chỗ lấp lánh long lanh của giọt nước mắt chưa kịp tuôn.
“Anh Khang ơi, em thèm nước đá lạnh quá! Anh nói họ cho em xin vài cục đá lạnh đi.”
Tôi nói với ông Trợ. Ông Trợ nói với ông Cảnh. Ông Cảnh
chạy qua văn phòng Khu, nói với Ban chỉ huy. Ban chỉ huy cử người qua
nhà hàng của trại giam để xin đá lạnh.
“Anh Khang ơi, anh là ai vậy? Anh làm gì ở ngoài đời mà phải vào đây?”
Tôi cười, không nói.
“Anh hiền quá. Đáng lẽ anh đâu có bị tù. Nhưng mà… anh
có vẻ là con người không đau khổ, dù anh đang ở tù như em và mọi người ở
đây. Anh bình an quá. Làm sao em có được sự bình an như anh? Anh theo
đạo gì vậy, anh có thể dạy em nghe vài lời gì đó không?”
Nhìn dấu thánh giá xâm nơi cánh tay của Tuấn, tôi thấy
không cần thiết phải nói tôi đạo gì. Tôi im một lúc, nhớ lại đoạn kinh
ngắn tôi đã đọc cho Phương, cô nữ công an ở trại B5, tôi nói:
“Đây là điều tôi học được từ người khác, nếu Tuấn muốn nghe, tôi đọc cho Tuấn há: Đừng làm việc ác, hãy làm việc lành, giữ tâm trong sạch. Quan trọng nhất là giữ tâm trong sạch.”
Khi đọc cho Phương, tôi đọc đủ bốn câu vì Phương biết
tôi là tu sĩ, và Phương cũng theo đạo Phật. Bây giờ đọc cho Tuấn, tôi bỏ
bớt câu cuối “Đó là lời Phật dạy.”
Tuấn nằm im, có vẻ suy nghĩ một lúc, rồi hỏi:
“Làm sao giữ tâm trong sạch khi em thấy rõ những điều
lỗi mà em đã làm trong quá khứ?... Càng lúc em càng thấy rõ chúng hơn.
Chẳng hạn em thấy em la mắng chửi bới anh… Em xin lỗi nghe anh Khang.
Anh tha thứ cho em nghe.”
“Đừng nhớ chuyện cũ, tôi không chấp đâu. Bỏ qua hết đi,
cứ nhìn những gì hiện ra trong đầu óc mình như đang xem chiếu phim vậy,
đừng tránh né, cũng đừng nhập vai với chúng. Phải biết là chúng không
có thật. Nhớ là giữ tâm bình tĩnh, như người ngồi xem phim. Nhớ nghe,
chúng không có thật đâu.”
Tuấn gật đầu rồi liền sau đó, chìm vào cơn hôn mê. Tôi buồn bã đứng dậy, đến hỏi ông Trợ về chuyện đá lạnh.
“Thì cho người đi xin rồi, chờ đem đến, chắc là sẽ có
ngay. Hờ, thèm gì mà thèm bất nhân quá! Đòi đá lạnh giờ này làm sao mà
có, chiều tới nơi rồi. Mà đây là bệnh xá nhà tù chứ có phải bệnh viện
Chợ Rẫy đâu chứ!”
Tôi quay ra chỗ Tuấn, ngồi bên giường, lấy quạt xua
ruồi. Tuấn có vẻ đang ngủ một giấc ngon, êm đềm. Gương mặt anh bây giờ
hồn nhiên như trẻ nít. Bên ngoài, các toán lao động vừa tắm dưới hồ sen
lên, xếp hàng đếm số để vào phòng. Bệnh nhân ở bệnh xá lục tục lấy ca ra
nhận phần cơm chiều. Ráng hoàng hôn vô tình rực sáng một màu hồng tía ở
phía trời tây. Tôi lặng lẽ ngồi đó, cầu nguyện cho Tuấn. Và trong khi
mọi người đang lăng xăng chia cơm, lãnh cơm, ăn cơm, Tuấn bừng mắt dậy,
nhìn tôi, mỉm cười. Ông Trợ đi ngang thấy vậy bèn ghé xuống tai Tuấn
nói:
“Sắp tới rồi, đá lạnh sắp tới rồi, sẽ có ngay, rán chờ một chút nữa đi!”
Tuấn có vẻ không để ý lời ông Trợ, chỉ ngước mắt nhìn tôi đăm đăm một lúc.
“Em không cần gì nữa hết anh Khang ạ. Anh Khang cúi xuống đây em nói nhỏ với anh cái này đi.”
Tôi cúi mặt xuống, kê sát tai vào miệng Tuấn. Tự dưng
Tuấn đưa hai tay, bá lấy đầu cổ tôi, kéo xuống thấp hơn, hôn lên má tôi
một cái thật lâu, rồi thả tôi ra, nhìn tôi, cười nụ cười đầu tiên mà tôi
thấy trên môi anh từ nhiều ngày qua. Tuấn nói nhỏ:
“Anh Khang ơi, sau này anh sướng lắm đó nghe.”
Đó là lời chúc phúc cuối cùng của Tuấn dành cho tôi,
nhưng lúc ấy tôi vụng về, không hiểu. Tôi đã không biết nói gì, làm gì
để đáp lại lời cuối của anh. Chỉ đưa một bàn tay lên, sờ trán anh, rồi
áp nhẹ bàn tay ấy vào má anh như vỗ về một đứa em bất hạnh. Tuấn nhắm
mắt, nụ cười giữ lại trên môi một lúc. Từ đó anh đi vào cơn hôn mê thực
sự, kéo dài từ khoảng sáu giờ chiều đến tám giờ tối mới hắt ra hơi thở
cuối cùng.
CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI
Chắc mình phải về anh ơi, ngồi đây em không chịu nổi. Nàng nói. Sao vậy, có chuyện gì không. Tôi hỏi.
“Ngồi đây, chỗ đông người, em không khóc được. Mình về nhà, anh há!”
“Ừ, về. Ủa, đôi giép của anh đâu rồi?”
Tôi ngồi trên băng đá khom người xuống dò tìm dưới đất. Nàng đứng dậy, nhìn quanh, nói:
“Vậy là người ta ăn cắp giép anh rồi. Chắc cái thằng hồi
nãy, em thấy nó đi ngang phía sau lưng mình, nhưng đâu có ngờ nó khoèo
đôi giép anh. Tài thật!”
“Bây giờ… làm sao đây? Chẳng lẽ lại đi chân không ngoài đường?”
Nàng nhìn tôi một lúc rồi bật cười lên khanh khách. Ôi,
nàng cười hồn nhiên, dễ thương làm sao! Nhưng tôi thì dở khóc dở cười.
Ngồi kể chuyện hăng say, thả giép dưới đất, chân đong đưa cho mát một
chút, vậy rồi đặt chân xuống đất thì đôi giép đã thành tài sản của người
khác.
“Em chở anh đi bằng Honda, đâu có sao, không ai thấy đâu.!”
“Dị hợm quá! Ai lại đi chân không ngoài đường!”
“Thời xưa Phật cũng đi chân không khắp nơi khắp chốn mà. Anh ngồi xe, em chạy thật mau, chẳng ai để ý đâu mà lo. Thôi mình về.”
Hồi xưa (chẳng xưa lắm, chừng mười năm trước), lúc ở Hội
An, dù có đi ra ngoài ruộng hoặc kéo xe bò xin phân chuồng ở nhà người
ta, tôi vẫn không bao giờ chịu đi chân không. Ra ruộng thì bỏ giép trên
bờ mà lội xuống sình, lên bờ thì mang giép vào lại. Mà giả như lúc đó có
đi chân không thì cũng chẳng sao, áo quần tu lem luốc, rách nát, tay
chân nhơ nhớp sình lầy, lại còn vác cuốc trên vai, hợp quá đi chứ! Đàng
này, ở trung tâm thành phố Sài Gòn, thành phố lớn nhất Việt Nam, mặc áo
quần đàng hoàng tươm tất, lại đi chân không! Coi làm sao được.
Xe chạy đi cả đoạn rồi mà nàng vẫn cứ cười. Nàng tìm
đường vắng xe cộ để chạy nhanh. Vậy mà tôi cũng phải xấu hổ đến đỏ mặt.
Tôi giấu mặt không nhìn ai trên đường, và đầu trán tôi tựa vào vai nàng.
Nàng ngưng cười. Có mùi của một loài hoa nào đó phảng phất trên tóc
nàng.
Nàng tấp xe nhanh vào một tiệm giày trên đường Lê Thánh
Tôn. Tôi bước vào nhanh, lựa một đôi xăn-đan quai nâu. Nàng giành trả
tiền, tôi không chịu. Túi tôi hãy còn dày cộm tiền, tôi móc ra trả.
Về đến nhà, chúng tôi lại ngồi ở phòng khách, soạn bày bình trà ra.
“Chút nữa em chở anh đến nhà bạn anh, lo việc của anh
xong, em chở anh về lại đây há. Anh cứ ở đây cho đến ngày hai đứa mình
đi Nha Trang, chạy tới chạy lui ở đâu làm gì cho mệt. Ở đây yên lắm, em
nói với anh rồi.”
“Để coi đã. Gặp bạn bè rồi mới biết.”
“Em cũng cần đến chùa Hoa Nghiêm bữa nay để nhờ mấy sư
cô thay phiên đến trông nhà giùm trong thời gian em đi thăm nuôi, anh
muốn đi chung không?”
“Anh cần ở chơi lâu với bạn bè… chắc là một vài hôm,
trước khi ra Nha Trang. Như vậy, có thể chút nữa em bỏ anh ở chỗ Tửu rồi
em đi công việc của em.”
Nàng xụ mặt, lộ vẻ buồn một chút rồi tươi lại ngay, nói:
“Thôi cũng được, nhưng bất cứ lúc nào anh muốn đến đây
thì đến nghe. Em ít khi đi vắng lắm. Các mối quen của em, họ đều đến đây
để giao hàng. Hơ, hồi nãy ngồi ở bến Bạch Đằng, em muốn khóc dễ sợ
nhưng tức cười chuyện anh mất giép, bây giờ thấy hết khóc rồi. Thôi, anh
kể chuyện tiếp đi.”
“Kể tiếp để được khóc đó hả? Đàn bà con gái mấy người làm như là thích nghe kể chuyện gì đau khổ lắm vậy!”
Ó
Sau cái chết của Tuấn, lại thêm mười mấy bệnh nhân khác
ở bệnh xá lần lượt nằm xuống vì bệnh đường ruột. Ông Trợ cứ ghi chung
chung một thứ bệnh: rối loạn tiêu hóa. Cán bộ phụ trách y tế cằn nhằn ông Trợ:
“Anh lại bảo là mấy người này mắc chứng rối loạn tiêu
hóa! Sao ai cũng rối loạn tiêu hóa hết vậy! Rối loạn là sao, ý anh muốn
nói là phản động đó hả?... Thì cứ nói là phản động chứ cần đếch gì phải
nói rối loạn, rắc rối thế! Còn tiêu hóa là cái đít, tôi hiểu. Thế nhưng
phản động cái đít là phản động thế nào chứ?”
Ông Trợ lật đật giải thích. Lại giải thích! Đã giải
thích rồi, bây giờ cán bộ lại quên. Tiêu hóa đâu phải là cái đít! Chắc
cán bộ lộn với chữ hậu môn rồi! (Mà hậu môn cũng không phải là cái đít!
Hậu môn thì người ta nói chữ khác kia!) Cái đít nói cho lịch sự là cái
mông, còn lịch sự hơn nữa thì gọi đó là bàn tọa đó, thưa cán bộ. Như
vậy, “rối loạn tiêu hóa” có nghĩa là bị rối loạn bộ phận tiêu hóa. Rối
loạn là không làm việc bình thường nữa, chứ không có dính gì đến phản
động chính trị cả. Còn bộ phận tiêu hóa là gì hả? Lại phải giải thích
nữa. Bộ phận tiêu hóa là cái bộ phận thu nạp và đào thải… Không, phải
nói như vầy thì cán bộ dễ hiểu hơn, đó là bộ phận tiếp thu và xử lý thực
phẩm trong cơ thể con người; nói cách khác là…
“Dân ngụy các anh dùng chữ rắc rối luộm thuộm quá, không bắt kịp cách nói mạch lạc văn minh của chế độ xã hội chủ nghĩa!”
Vậy rồi, cán bộ đi họp với trên sao đó mà bẵng đi mấy
ngày không thấy ghé bệnh xá, chỉ có lệnh từ văn phòng ban chỉ huy Khu
đưa đến là chuẩn bị dời bệnh xá. Dãy phòng rộng nhất của trại giam nằm
sát vách với văn phòng ban chỉ huy Khu C được sử dụng làm nơi chứa bệnh
nhân; còn văn phòng Ban chỉ huy Khu thì trở thành văn phòng bệnh xá. Từ
nay bệnh xá đã có văn phòng riêng, lịch sự, khang trang, có một cửa trổ
qua phòng bệnh nhân. Phòng bệnh rộng lớn như một cái kho, mái cao, rất
khoảng khoát, có bốn cạnh vuông vức. Trừ một cạnh dành cho hai cánh cửa
ra vào, ba cạnh còn lại được đóng và dựng lên ba dãy sàng gỗ đồ sộ, rộng
rãi, mỗi dãy lại có tầng trên và tầng dưới, vị chi sáu hàng giường
bệnh, mỗi hàng dài mười lăm thước, có thể chứa từ một trăm rưỡi đến hai
trăm bệnh nhân nếu nằm san sát nhau. Chuyện dời bệnh xá qua khu vực này,
có thể là do người ta nghĩ rằng khu vực bệnh xá cũ khá tối tăm, nằm
ngay luồng gió độc, hoặc đã “nhiễm trùng” vì sự mất vệ sinh do nhiều tù
nhân có bệnh nan y đã chết tại đó… Lại có lời đồn: cán bộ trại sợ khu
vực bệnh xá có ma quỉ lôi kéo, khiến nhiều người bệnh rủ nhau mà chết.
Không những bệnh xá đổi chỗ mà còn đổi luôn cả cán bộ
trông coi. Cán bộ y tế hình như đã từ chức hoặc đã bị cách chức và thay
vào đó là một cán bộ người miền Nam, khá trẻ tuổi, tên là Phong. Cũng
như người trước, Phong không có chút kiến thức gì về y khoa, nhưng tánh
tình Phong hiền lành, vui tính, cởi mở, biết thương bệnh nhân, biết quí
trọng ban y tế; vậy thì cũng đỡ vất vả cho bệnh xá rồi. Tuy nhiên, Phong
khá nghiêm khắc trong việc sổ sách giấy tờ. Và điều này thì kẹt cho ông
Cảnh.
Mỗi ngày Phong đều có mặt khá lâu ở bệnh xá để bảo ông
Cảnh cho xem bệnh án này, hồ sơ kia, rồi lại quan sát cách ông Cảnh quản
lý tủ thuốc công, tủ thuốc tư nơi bệnh xá. Ông Cảnh rất lúng túng. Thấy
công việc ông Cảnh làm không được hiệu quả, Phong bực dọc khiển trách,
buộc ông trong vòng hai ngày phải sắp đặt ngăn nắp thứ tự hồ sơ bệnh án
của bệnh xá và hai tủ thuốc, sao cho khi hỏi đến là phải tìm được ngay
chứ không ấp a ấp úng lục lọi suốt ngày như bây giờ. Phong rời bệnh xá
rồi, ông Trợ đề nghị với ông Cảnh:
“Nhờ anh Khang giúp cho một tay chứ không thì bị phạt kỷ luật cả ban y tế luôn cho xem!”
“Có gì đâu mà phải nhờ người này người nọ, mất công. Chuyện của tôi để tôi làm!”
Ông Cảnh vẫn thường bướng bỉnh và tự ái vặt như thế. Có
lẽ ông tự hào đã từng là thư ký của Ủy ban Nhân dân xã nên không cần nhờ
một “nhân dân” nào giúp tay. Rồi ông lụi hụi sắp xếp đống giấy tờ lộn
xộn trong ngăn tủ. Chẳng biết ông sắp xếp theo nguyên tắc nào mà phải từ
sáng đến chiều mới xong. Qua ngày thứ hai, ông Cảnh mới xoay qua hai tủ
thuốc: một cái tủ công (tức thuốc của trại giam giao cho ban y tế dùng
để chữa trị bệnh nhân), một cái của tư (tủ thuốc đựng tất cả thuốc men
riêng tư của mỗi tù nhân do gia đình của họ gởi vào; tôi cũng có một gói
thuốc riêng trong ấy). Ông Cảnh cứ loay hoay lôi ra, cất vào, tốn
nguyên buổi sáng vẫn thấy hoàn là một núi lùm xùm ngổn ngang những bịch
ni-lông cái lớn cái nhỏ chồng đống lên nhau như một đống rác.
Đến trưa, Phong cầm tờ giấy chạy tới văn phòng bệnh xá,
vui vẻ đọc tên một số bệnh nhân nan y được trả tự do. Đây là số người có
tên trong danh sách của đợt II (mà nửa tháng trước đã cứu xét cho về
một phần ba), nay được gọi thêm khoảng một phần ba nữa. Phong có vẻ vui
lây khi đọc to từng tên một trong danh sách, vừa đọc vừa thú vị nhìn vẻ
hớn hở mừng vui của tù nhân như thể chính anh là người ban ân huệ tự do
cho họ vậy. Cả bệnh xá lăng xăng, rộn rịp lên. Người được đọc tên thì
run rẩy thay quần áo (bỏ đồ tù, mặc đồ dân sự nếu có), người ở lại thì
chồm qua chồm lại xin đồ của những người may mắn để lại. Có cả tên ông
Cảnh, nhưng không có tên tôi. Ông Trợ lại an ủi, nói rằng danh sách bệnh
nhân nan y chưa hết, còn khoảng bốn mươi người nữa đang còn chờ cứu
xét.
Ông Cảnh được trả tự do với bệnh “đau bao tử cấp tính.”
Tuy nhiên, trong khi tất cả những người được đọc tên ra tập trung ở văn
phòng trại để chờ nhận giấy lệnh tha thì Phong bắt ông Cảnh ở lại bệnh
xá, buộc phải thanh toán cho xong công việc làm ngăn nắp tủ thuốc và hồ
sơ của bệnh xá trước khi rời trại. Ông Cảnh có trình cho Phong xem tủ hồ
sơ mà ông đã cặm cụi sắp xếp lại nguyên ngày hôm trước. Phong hỏi tới
hỏi lui vài câu, ông Cảnh không trả lời được, Phong lớn tiếng:
“Làm lại, sắp xếp lại! Chưa được. Như vầy mà anh bảo là
đã ổn định sao! Vậy anh lấy tôi xem hồ sơ bệnh án của anh coi nào? Đó,
đó, thấy chưa, lại đi tìm, đi tìm, mất thì giờ quá! Làm lại cho tôi, cho
tới khi nào tôi thấy được mới cho về. Với lại, trước khi về anh phải
bàn giao công việc cho người khác, mà bàn giao thì phải bàn giao đầy đủ
mọi thứ chứ lộn với thiếu tùm lum như vậy thì bàn giao cho ai!”
Vậy là ông Cảnh ở lại, mằn mò ghi ghi chép chép, kiểm
soát và thống kê số thuốc hiện có trong tủ. Dù sao thì ông cũng đã có
tin vui. Ông bỏ ăn trưa, ngồi mãi nơi bàn giấy của văn phòng bệnh xá mà
làm việc. Trong lúc đó, ban y tế hỏi ý ban chỉ huy Khu xin đề cử một thư
ký bệnh xá thay thế ông Cảnh. Ý kiến qua lại như thế nào đó mà cuối
cùng, ông Sinh và ông Trợ đến kêu gọi tôi nhận lời làm việc. Và tôi lại
được tháo cùm, ra khỏi giường bệnh, chuẩn bị nhận sổ sách và hai tủ
thuốc do ông Cảnh bàn giao. Nhưng khác với ông Cảnh, tôi không phải chỉ
làm thư ký mà còn cáng đáng luôn việc làm anh nuôi của bệnh xá (vì anh
nuôi Thành đã được trả tự do cùng ngày hôm nay).
Hai giờ chiều mà ông Cảnh vẫn chưa làm xong công việc
của ông. Cuối cùng, ông mới nhờ đến tôi. Tôi hướng dẫn ông sắp xếp hồ sơ
và hai tủ thuốc theo phân loại mẫu tự thông thường mà ai cũng có thể
biết. Công việc chỉ tốn chừng một giờ đồng hồ để cho vào thứ tự hơn một
ngàn hồ sơ bệnh án. Các hồ sơ của người chết thì để riêng một ngăn, cũng
sắp theo vẫn mẫu tự. Văn phòng bệnh xá thiếu mọi thứ tiện nghi để có
thể gọi là “văn phòng.” Bìa cứng không có, tôi lấy giấy trắng xếp lại
rồi viết hai mươi bốn mẫu tự thật to để kẹp các hồ sơ. Tủ thuốc cũng
chia theo từng ngăn chứ không thồn đại vào như ông Cảnh trước đây. Tôi
cũng giúp ông tổng kết thuốc tồn kho, loại bỏ những chai lọ cũ đã quá
hạn, chiếm nhiều chỗ trong ngăn tủ.
Bốn giờ chiều thì thực sự ổn định công việc của văn
phòng bệnh xá. Phong nãy giờ chạy ra chạy vào nhìn tôi làm việc giúp ông
Cảnh, hài lòng lắm. Phong nói với ông Cảnh:
“Nếu ông nhờ người ta sớm hơn một chút thì bây giờ đã ở
nhà với vợ con rồi. Thôi, thay đồ lẹ lẹ ra văn phòng Khu gặp tôi lấy
lệnh tha mà về!”
Nói rồi Phong bỏ đi. Ông Cảnh vội xuống hậu cần lấy đồ
ký gửi rồi trở lại với bộ đồ tây, bỏ hai bộ đồ tù lại cho mấy anh bệnh
nhân đang nằm ở bệnh xá tranh nhau. Ông từ giã ông Trợ và ông Mậu rồi
đến bên tôi, ngỏ lời cám ơn. Sau lời cám ơn, ông ngập ngừng một lúc rồi
ghé vào tai tôi nói nhỏ:
“Cái hôm công an vây bắt lực lượng Phục quốc ở xã mình,
rồi sau đó vây chùa Long Quang để bắt thầy Khang, tôi hoàn toàn không
biết, vì vụ bố ráp đó đột xuất, bí mật, do công an tỉnh Đồng Nai tiến
hành. Cả công an huyện còn không biết trước huống gì tụi tôi chỉ là hàng
xã.”
Tự dưng đến lúc chia tay ông đột ngột gọi tôi là “thầy”
và nói cái chuyện của “xã mình” mà đáng ra ông có nhiều cơ hội để nói
trong suốt nhiều ngày trước, khi tôi bắt đầu nằm ở bệnh xá. Có lẽ lúc ấy
ông hãy còn sợ sự liên hệ với tôi. Thảo nào ông cứ tránh né, không muốn
tôi phụ giúp ông. Đến khi gần về rồi mới chịu xuống nước. Tôi cười nói:
“Đâu có sao, nếu lúc đó chú đi bắt tôi cũng được thôi, lệnh mà.”
“Không phải, tôi nói không phải để phân bua gì đâu. Ý
tôi muốn nói là vụ của thầy Khang hôm ấy là có người báo trực tiếp với
công an tỉnh Đồng Nai. Nghe nói là từ Sài Gòn báo lên đó. Thôi tôi về
nghe. Chúc thầy cũng được về sớm.”
Tôi ngồi lại nơi văn phòng bệnh xá, nhìn theo dáng ông
hí hửng bước ra văn phòng Khu. Khi nào thì đến lượt mình đây? Tôi tự hỏi
và thấy lòng chùng xuống. Tù chính trị, lại là tu sĩ, làm thế nào được
về sớm mà cứ mong đợi, cứ hy vọng? Linh cảm ư, hay chỉ là vọng tưởng?
Tôi lấy thuốc ra hút. Ông Cảnh hàm ý gì nữa đây khi nói cho tôi biết là
có người từ Sài Gòn báo cáo hoạt động của lực lượng Phục quốc cho chính
quyền tỉnh Đồng Nai. Bây giờ tôi biết rõ thêm chuyện đó thì sao chứ? Có
lợi gì đâu. Biết là có người tố giác chuyện mình làm, xác định thêm sự
bội phản của Hân, ích gì chứ! Gông cùm xiềng xích đã đóng kín tương lai,
chôn vùi dĩ vãng trong tôi. Tôi không còn thì giờ để bận tâm cái gì ở
phía trước hay ở sau lưng nữa. Công việc của tôi bây giờ là ngồi ở văn
phòng này, chờ đợi có ai đến xin lấy thuốc (của họ) hay xin thuốc (của
bệnh xá) thì lấy cho họ. Gần đến giờ ăn thì đi cùng hai anh nuôi và một
bệnh nhân xuống nhà bếp để nhận phần cơm cho cả bệnh xá hơn trăm người.
Tôi ngồi một lúc thì Phong từ ngoài bước vào, cười cười, nói:
“Tôi mệt cái ông Cảnh đó quá. Bây giờ có anh Khang làm
thư ký, tôi hy vọng mọi chuyện sẽ êm xuôi hơn. Nè, anh Khang nằm dưỡng
bệnh ở đây bao lâu rồi? Hai tháng rưỡi hả. Vậy chắc cũng nắm được phần
nào sinh hoạt ở đây, theo anh thì để tránh bệnh hoạn, nhất là tránh chết
chóc thì bệnh xá phải làm sao?”
“Ơ… chuyện đó thì phải hỏi mấy ông bác sĩ mới được.”
“Bác sĩ à? Hứ, ở đây có bác sĩ nào đâu. Ông Trợ hay ông
Mậu đều là y tá Đông y sĩ cà tàng thôi. Dĩ nhiên là mấy ổng rành chuyện
chữa bệnh hơn mình, nhưng mà… chỉ chữa bệnh chứ không biết gì khác. Hỏi
ý mấy ổng làm sao để tránh chết chóc nhiều trong trại thì mấy ổng không
biết. Có ai bệnh đem đến đây thì chữa, vậy thôi. Nhưng chữa sao mà cứ
hết đợt này tới đợt khác. Hay là… ngoài chuyện bệnh hoạn còn có thứ tà
khí độc địa vô hình nào đó chăng? Anh nghĩ sao? Nghe đồn là có mấy người
đã chết ở bệnh xá cũ, đêm đêm xếp hàng đi ra hồ sen mà tắm! Có thể họ
phá những người sống không? Anh có cách gì trừ chuyện đó không?”
Tôi cười thầm trong bụng. Phong hỏi vậy tất anh biết tôi
là tu sĩ, và anh đã đồng hóa tu sĩ Phật giáo với ông thầy tụng, thầy
đám, thầy pháp nào đó ở làng xã anh thì phải. Cán bộ cộng sản ngày nay
cũng còn biết tin và sợ ma quỉ! Thảo nào không lo hỏi bác sĩ mà lại hỏi ý
tôi! Do bởi Phong tin tưởng mà hỏi tôi như vậy, tôi lợi dụng cơ hội ấy,
muốn đề nghị một số vấn đề của bệnh xá mà lâu nay tôi hằng ưu tư. Tôi
nói:
“Thực ra thì cái chuyện này mấy ông y sĩ phải biết rành
hơn tôi, có điều họ không dám nói ra đó thôi. Nói ra thì sợ bị kết tội
là… nói xấu, xuyên tạc chế độ, rồi bị cùm biệt giam kỷ luật đến bại liệt
hay rục xương.”
“Vậy có nghĩa là anh có biết, anh có thể nói ra không? Không có chuyện cùm phạt kỷ luật đâu.”
Thấy Phong có vẻ khẩn khoản, tôi mạnh dạn:
“Nói được chứ. Anh hỏi thì tôi nói. Như vầy: cái bệnh
chung của cải tạo viên nơi trại này là bệnh suy dinh dưỡng. Suy dinh
dưỡng ảnh hưởng đến sức khỏe, khiến vi trùng bệnh dễ xâm nhập. Vi trùng
xâm nhập mà cơ thể không đủ sức kháng cự thì cơ thể sụm. Bệnh nhẹ cũng
chết, bệnh nặng càng dễ chết hơn. Đó là chưa nói đến chuyện thiếu thốn
thuốc men. Nếu có thuốc tốt đưa đến đây nhưng bệnh nhân ăn uống không đủ
chất dinh dưỡng, lại nằm trong một bệnh xá dơ dáy, thiếu vệ sinh, thiếu
mọi tiện nghi, lạnh không có mền đắp, nóng không có quạt thổi, thì
thuốc tiên cũng thành vô dụng. Còn nữa, mỗi ngày đi tắm ở hồ sen, chỗ
cuối dòng nước chảy; nước ở phía bên kia khu trại gia súc chảy ngang qua
khu nhà tròn, rồi đổ về hướng này. Tất cả bệnh nhân, tất cả tù nhân ở
đây đều tắm ở cái chỗ cuối dòng nước chảy đó, hứng hết bao nhiêu rác
rưới dơ bẩn từ đầu nguồn đổ xuống. Tắm xong lên bờ không có gì lau. Trời
lạnh trời nóng gì cũng hụp xuống cái ao đó. Ăn uống xong không có nước
rửa chén bát. Thức ăn mỗi ngày không đầy bụng mà lại bỏ quá nhiều sức ra
để lao động—điều này là mầm bệnh lao lực, kiệt sức. Chuyện nấu nướng
của nhà bếp cũng phải xét lại. Tôi thấy anh nuôi của nhà bếp rửa rau, vo
gạo ngay tại cái hồ sen nuôi đầy cá tra với bông lau chuyên môn ăn phân
người đó. Anh thử nghĩ xem, vậy thì bệnh tật làm sao tránh khỏi. Không
phải chỉ những người nằm nơi bệnh xá này mới mang bệnh mà có thể là tất
cả tù nhân trong trại này đều có bệnh, nhiều hoặc ít. Đống hồ sơ bệnh án
dầy cộm của bệnh xá chứng minh điều đó. Tôi biết nói ra điều này cũng
chẳng thay đổi được gì vì nó nằm ở ngoài khả năng của anh, nhưng tôi
cũng cứ nói để anh thấy rõ phần nào cái tình trạng của bệnh xá. Không
phải tà khí hay ma quỉ gì đâu. Chỉ vì cái gì cũng thiếu mà thôi.”
Phong chớp đôi mắt, ngó lơ ra cửa một lúc rồi quay mặt vào, nhìn tôi một lúc, nói:
“Đúng là cái này nằm ngoài khả năng của tôi. Nhưng có
thể một ngày nào đó, tôi sẽ đề đạt ý kiến này lên ban quản trại để cải
thiện lại sinh hoạt trại giam… Anh nói cũng đúng, đa số các trường hợp
bệnh chết tại đây đều là đau bao tử, đau ruột, và nhất là kiệt sức. Có
nghĩa là có vấn đề trong chuyện vệ sinh và ăn uống, phải không? Cám ơn
anh phát biểu trung thực.”
“Còn một điều này nữa, không biết anh có để ý không:
những người bệnh kiệt sức chỉ còn trơ lại bộ xương, vậy mà khi nằm dưỡng
bệnh ở bệnh xá, họ cũng chỉ được phát phần cơm hay cháo ít hơn phần cơm
tiêu chuẩn của những người lao động bên ngoài. Điều này đúng theo cách
nói ‘tay làm hàm nhai,’ không lao động thì ăn ít; nhưng cũng không đúng
lắm trong trường hợp các bệnh nhân kiệt sức vì họ đang cần lấy lại sức,
phải tẩm bổ cho họ chứ. Nếu trại không cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho
họ thì ít nhất cũng cho họ ăn cơm hay cháo nhiều một chút. Đã có mấy
người kiệt sức, vào đây nằm, rồi chết. Chết thật vô lý. Tôi tin rằng nếu
cho họ ăn tương đối đầy đủ và được nghỉ dưỡng một thời gian thì tự dưng
họ hết bệnh.”
“Chuyện đó… bây giờ phải làm sao? Bệnh xá phải báo cáo hoặc làm đơn xin cấp dưỡng gì đó thì ở trên mới giải quyết được chứ.”
“Trước đây tôi thấy ông Cảnh có làm đơn xin thuốc men,
nhưng chưa hề thấy làm đơn xin cấp dưỡng thực phẩm cho các bệnh nhân
kiệt sức. Tôi không biết là nếu từ hôm nay, tôi làm đơn xin cấp dưỡng
thực phẩm với chữ ký chứng nhận của ban y tế, thì có cơ quan hay bộ phận
nào của trại cứu xét không?”
“Ô, ý kiến hay đó. Sẽ có ban lương thực của trại cứu xét cấp dưỡng.”
“Nhưng mà… làm như vậy lâu lắm. Đơn từ gởi đi rồi chờ
cứu xét, thực phẩm chưa kịp tới nơi thì bệnh nhân đã chết. Cho nên, tốt
hơn hết là ban lương thực của trại trích sẵn một số lượng thực phẩm đủ
loại nào đó trong mỗi tháng, đưa vào kho hậu cần của Khu; khi bệnh xá
gởi phiếu xin cấp dưỡng thì cầm tay đem qua văn phòng Khu—mất có hai
mươi bước; văn phòng Khu chứng nhận rồi cầm tay đưa xuống hậu cần—mất
bảy chục bước; ban hậu cần sẽ lãnh trách nhiệm mang thực phẩm cấp dưỡng
đó đến bệnh xá—mất năm chục bước. Như vậy chỉ trong vòng cao lắm là một
giờ đồng hồ, đơn xin cấp dưỡng đã có hiệu quả. Tôi không biết đề nghị
này có quá đáng, có thiếu thực tế lắm không? Anh nghĩ sao?”
“Được, chắc là được. Để tôi đề nghị. Tôi ghi nhận ý kiến của anh.”
Thấy Phong có vẻ sốt sắng chịu để ý đề nghị của mình, tôi hứng thú nói thêm:
“Tôi có thể tóm tắt ý kiến của tôi lần nữa không? Điều
này anh cũng như mọi người đều thấy rõ và cũng như tôi đã nói trước khi
nãy: phòng bệnh tốt hơn chữa bệnh. Bệnh xá trước đây chỉ lo việc chữa
bệnh chứ không bao giờ có một kế hoạch hay chương trình gì về chuyện
phòng bệnh. Cứ khi nào có người bệnh nặng sắp chết thì mới thấy cõng vào
bệnh xá, đến lúc ấy thì chuyện chữa trị đã trở thành muộn màng, khó
khăn, ít hi vọng. Ban y tế không bao giờ có cơ hội khám bệnh tổng quát
cho tù nhân. Buổi tối ban y tế đi dạo một vòng các phòng giam, chỉ hỏi:
‘Có ai bệnh hoạn gì cần khai báo hay xin thuốc uống không?’ Hỏi như vậy
đâu phải là khám. Bệnh nhân làm sao biết mình có bệnh gì mà khai. Có khi
họ mang trọng bệnh trong người mà không biết, cho đến khi bác sĩ phát
hiện được thì đã trầm trọng, quá trễ. Có người đang lao động ngoài trời
bỗng ho ói ra máu rồi mới đưa vào bệnh xá. Đâu phải là căn bệnh bắt đầu
từ lúc ói ra máu mà đã bộc phát từ trước đó nữa chứ, phải không? Cho
nên, ít nhất cũng phải tổ chức cho ban y tế có cơ hội khám bệnh tổng
quát cho mọi người mỗi tháng một lần, không thể khám một lần trong ngày
tất cả bệnh nhân thì chia ra từng đợt, ngày nào cũng có khám, mỗi ngày
khám cho một phòng giam thì mỗi tháng cũng khám được hết cho toàn trại…
Không hiểu chuyện đó có thể thực hiện được không?”
“Ý kiến hay lắm… Không biết sao trước đây chẳng ai nghĩ
tới vậy kìa!” Nói câu ấy rồi, Phong có vẻ như thấy rằng mình vừa lỡ
lời, liền chữa lại. “Thực ra kế hoạch y tế của nhà nước ta lúc nào cũng
quan tâm đến chuyện phòng và chữa bệnh, cũng như việc khám bệnh tổng
quát cho nhân dân hàng ngày hàng tháng đó chớ, chỉ có điều là chưa hề áp
dụng cho trại cải tạo đó thôi.”
Tôi cười nói:
“Chuyện anh nói là chuyện của các thành phố thôi. Nhưng
không phải ai cũng có sổ khám bệnh; mà dù cho có sổ khám bệnh đi nữa,
cũng xếp hàng suốt ngày để được khám, rồi được phát một bọc xuyên tâm
liên chứ có thuốc gì khác hơn đâu. Bệnh gì cũng uống xuyên tâm liên,
thuốc trị bá bệnh đó mà. Còn nữa, ở các vùng kinh tế mới không có bệnh
viện, bệnh xá hay trạm y tế gì cả. Mỗi lần có bệnh gì phải lội bộ cả
chục cây số mới đến được một trạm y tế nhỏ. Tóm lại là vấn đề y tế của
nước mình còn yếu kém quá cho nên không trách gì các trại cải tạo, phải
chịu vậy thôi! Tôi góp ý nhưng nghèo quá thì cũng chẳng thực hiện được
đâu.”
“Được chứ, được chứ, phải khắc phục được hết.”
Nói rồi, Phong có vẻ ưu tư suy nghĩ một lúc, rời bệnh xá. Hôm sau, Phong trở lại, vui vẻ nói với tôi:
“Anh có thể làm đơn xin cấp dưỡng cho những người bị
kiệt sức rồi đó. Đây nè, có một số loại trái cây, thịt, cá, lúa, bắp,
đậu… mà trại có thể cung cấp, ngoài số này thì phải chờ lâu một chút, vì
những thứ kê khai nơi đây là trại có sản xuất. Anh dựa theo cái danh
sách này mà viết đơn nghe. Đơn viết xong, đưa ban y tế duyệt ký rồi đưa
qua văn phòng Khu, ở đó có tôi ký rồi anh có thể mang thẳng xuống kho
hậu cần. Dĩ nhiên không phải lúc nào tôi cũng có mặt ở văn phòng Khu
nhưng nội trong ngày, thế nào cũng có tôi ở đó hoặc ở đây. Nhớ nhé. Công
việc này tôi tin tưởng mà để anh làm chứ chưa chắc người khác tôi đã
đồng ý đâu. Còn chuyện khám bệnh cho toàn trại thì ở trên đang còn
nghiên cứu kế hoạch thực hiện. Tôi hy vọng sẽ được duyệt xét.”
Kể từ hôm đó, bệnh xá có vẻ có sinh khí hơn. Các người
bệnh nặng được chăm sóc kỹ lưỡng. Mấy anh kiệt sức đều được tẩm bổ thịt,
cá, trái cây, bột. Mặc dù phần cấp dưỡng ấy chẳng là bao, nhưng có còn
hơn không. Bệnh xá tạm thời cứu sống được một số bệnh nhân èo uột chỉ
còn trơ lại bộ xương. Những bệnh nhân này đều không có hoặc chưa có quà
thăm nuôi của gia đình từ lâu. Không phải chỉ những người kiệt sức được
cấp dưỡng theo phiếu đề nghị mà cả những bệnh nhân khác trong bệnh xá
đều được nhận phần cơm hay cháo nhiều hơn. Ngoài ra, mỗi tuần anh nuôi
hậu cần đều có mang vào bệnh xá một thúng trái cây giao tôi chia đều cho
các bệnh nhân. Thường thường là đu đủ và cam chín rụng hoặc sắp hư hay
bán không hết, nhặt từ vườn cây trái và nhà hàng của trại—mà trước đây
đem đổ hay bán tháo ở đâu không biết, bây giờ dành cho bệnh xá. Điều này
chưa hề xảy ra trong quá khứ. Tôi nghĩ có lẽ lời tôi đề nghị với Phong
đã có kết quả. Kết quả không phải là cải cách lớn lao gì lắm, nhưng dù
sao, tôi hy vọng rằng đây sẽ trở thành một tiền lệ sáng sủa hơn cho bệnh
xá. Vả lại, cái chuyện bé xíu ấy xét cho cùng thì cũng khai thác được
chỗ dụng cho những trái cây và thực phẩm thặng dư của trại. Những trái
cây và thực phẩm cấp dưỡng ấy có bầm dập hay meo mốc đến mức nào đi nữa
thì xem ra vẫn còn chút tươi mát, chút sinh khí dinh dưỡng, dễ nhìn và
lôi cuốn hơn những anh chàng bệnh nhân ốm đói của bệnh xá.
Ó
Từ khi ông Cảnh được về, danh sách bệnh nhân nan y cần
được trả tự do để chữa trị—còn lại mấy chục người chưa cứu xét—bỗng dưng
đứng khựng lại, cơ hồ không còn dấu hiệu gì là sẽ được đá động tới. Tôi
không còn chút hy vọng gì về danh sách ấy nữa, chỉ biết sống và làm
việc từng ngày trong trách nhiệm của mình nơi bệnh xá. Nhưng ông Trợ thì
chưa chịu thua, mỗi lần thấy tôi ngồi im lặng nơi bàn giấy của bệnh xá,
ông trờ tới, lại an ủi:
“Chắc đang còn cứu xét, vì số người chưa được cứu xét đa phần là tù nhân vượt biên và chính trị, phải chậm hơn chứ.”
Tôi chỉ cười, không có ý kiến gì. Nhưng ngay ngày hôm
sau, bỗng thấy một ông già cán bộ mặc sắc phục xanh của công an, theo
Phong vào bệnh xá, ra lệnh tất cả bệnh nhân có tên trong danh sách bệnh
nan y và cả những bệnh nhân đang nằm điều trị tại bệnh xá, tập trung tại
văn phòng, để ông già ấy khám bệnh. Ông Trợ gọi ông ấy là cán bộ bác sĩ.
Chẳng biết bác sĩ già này tốt nghiệp trường lớp nào mà cách khám bệnh
coi mòi khá đơn giản, nhanh chóng, lẹ tay, ít mất thì giờ, e có thể so
được với Tuệ Tĩnh hay Hoa Đà. Ông chỉ sử dụng cái ống nghe, đặt nơi vùng
ngực vài chỗ, vùng lưng vài chỗ, là đã có thể ghi được bệnh. Vâng, bệnh
gì cũng vậy, cũng chỉ nghe là có thể luận được rồi. Ông cũng chẳng cần
bảo bệnh nhân hít mạnh thở sâu, thở vào thở ra gì cả. Vọng, văn, vấn, thiết
(nhìn, nghe, hỏi, bắt mạch—bốn phương cách chẩn bệnh của y sĩ), ông chỉ
sử dụng “văn” theo cái nghĩa là nghe bằng ống nghe của ngành y học Tây
phương chứ không phải “văn” là thăm dò thanh âm giọng nói của bệnh nhân
cũng như những lời tự khai về triệu chứng của chính bệnh nhân ấy. Cái
ống nghe đối với ông cán bộ già này có vẻ như là cây đèn thần, chiêc đũa
tiên, hay viên ngọc như ý. Dường như với ông, chức năng của ống nghe
không phải là nghe bệnh mà là chữa bệnh. Vâng, xem cách ông trân trọng
“cung thỉnh” cái ống nghe từ trong hộp đồ nghề y khoa ra, người ta có
cảm tưởng là ông sắp ra tay cứu độ bệnh nhân, tiêu diệt các căn bệnh
hiểm nghèo. Cũng không có gì trách ông, vì trên thực tế, dụng cụ y khoa
rất hiếm: ống nghe chỉ dành cho cán bộ y tế cao cấp và các bác sĩ. Bởi
hiếm hoi, nó được xem như là một trong những vật biểu trưng sáng chói
của nền văn minh và tiến bộ nhảy vọt của chế độ xã hội chủ nghĩa; móc nó
vào cổ thì tự dưng con người trở nên sáng giá, cao kỳ, vĩ đại hơn lên.
Khám đến tôi, ông già đặt cái “dĩa nghe” (tôi tạm gọi
cái vật tròn tròn nơi ống nghe của y sĩ như vậy vì thực chẳng biết thuật
ngữ chuyên môn y khoa gọi nó thế nào), nơi ngực tôi một lúc thì có vẻ
ngạc nhiên, tỏ vẻ khó hiểu, ngước nhìn tôi một cái, rồi cúi xuống lắng
nghe trở lại. Hình như ông không nghe gì cả. Ông tháo ống nghe ra khỏi
tai, nhìn hồ sơ bệnh án của tôi do ông Trợ chẩn đoán trước đó; rồi ông
đặt ống nghe vào tai trở lại, bảo tôi hít thở sâu. Tôi làm theo lời ông,
hít thở thật mạnh. Ông vẫn không nghe gì thì phải. Tôi biết lúc ấy trái
tim của tôi nó không chịu đập. Nó đứng yên không nhúc nhích gì cả như
nó đã từng làm như vậy nhiều lần trước đây. Ông giật mình gỡ hai tuýp
nghe ra khỏi tai, đưa một tay lên sờ trên ngực tôi:
“Lạ nhỉ, trái tim anh này nó không đập! Hít thở đều coi nào, hít mạnh, thở mạnh! Kỳ khôi thế nhỉ!”
“Báo cáo cán bộ, anh ấy bị lớn tim… cái van tim bị chèn hay là bị hở đấy ạ,” ông Trợ đứng bên liền nói vào.
Ông cán bộ già gật gù vừa nói vừa lấy viết ghi mấy chữ vào cuốn sổ mới do Phong cung cấp cho ông:
“Tôi biết mà, nghe qua là tôi biết ngay.”
Sau khi ông cán bộ y tế già đích thân khám bệnh cho bệnh
nhân ở bệnh xá, Phong ôm luôn cuốn hồ sơ bệnh do ông cán bộ già ghi,
cùng ông rời khỏi bệnh xá. Từ hôm đó, bệnh xá im lìm, không có sự cố gì
xảy ra ngoài việc đón nhận và chăm sóc một anh tù chính trị tên là Nam,
bị cán bộ, công nhân và cai tù đánh ngất xỉu trước sân trại. Nam được
đưa vào nằm ở bệnh xá từ buổi trưa, đến chiều tối thì tắt thở. Cái chết
của Nam gây dư luận xôn xao trong trại khiến cho ban quản trại e dè, ra
chỉ thị ngăn cấm bàn tán, rồi còn dặn dò phải khai báo như thế nào nếu
có cán bộ tỉnh vào điều tra. Công việc lập biên bản tử vong đáng ra là
công việc của ông Trợ và tôi thì lại để cho ông cán bộ y tế già và người
phụ tá của ông thực hiện. Xác của Nam thay vì để ở bệnh xá thì đem ra
văn phòng Khu để chờ cán bộ y tế tỉnh vào khám nghiệm.
Buổi tối hôm ấy, vào giờ báo nghiêm, trong khi bệnh
nhân chúng tôi đã lên giường và bị xích chân vào cùm sắt để ngủ thì
Phong vội vã bước vào, bảo mở cùm cho tôi ra, đến làm việc tại văn phòng
của bệnh xá. Phong đưa tôi bản sao (bằng tay) đơn xin cứu xét những
bệnh nhân nan y của đợt trước (trong số đó có một số người chưa được cứu
xét trả tự do) cùng với cuốn sổ bệnh mới mà ông cán bộ y tế già vừa mới
lập, bảo tôi làm một đơn xin cứu xét kèm danh sách mới. Danh sách này
dựa theo danh sách đợt trước, loại trừ những người đã được về, giữ lại
những người chưa được cứu xét và thêm một số tên mới. Và dĩ nhiên là tên
tôi, một lần nữa được ghi vào. Phong cho thời hạn là trong vòng đêm nay
phải làm xong để sáng sớm ngày mai anh mang đi. Danh sách bệnh nhân
tổng cộng gần một trăm bốn mươi người, ghi rõ tên họ, tuổi tác, sinh
quán, nguyên quán, nghề nghiệp, tội trạng, căn bệnh… của mỗi người. Có
một số tên ở đâu lạ lắm, không thuộc số bệnh nhân đang nằm điều trị ở
bệnh xá này. Tôi nghĩ có lẽ họ ở bệnh xá của các Khu khác. Làm xong bản
danh sách lại phải sao thêm hai bản khác, sao bằng tay.
Trong khi tôi đang ngồi lập bản danh sách gốc, Phong
hãy còn đi qua đi lại hoặc ngồi nói chuyện với ông Trợ để chờ đợi. Thấy
công việc không thể xong ngay, Phong bước đến chỗ tôi, ngồi im nhìn tôi
làm việc một lúc rồi nói, giọng nhỏ, vừa cho tôi nghe:
“Những gì anh nói với tôi trước đây, tôi thấy đúng lắm,
nhưng trong khả năng của tôi, tôi cũng chẳng làm được gì để cải thiện
nổi. Chỉ còn cách là đề nghị cứu xét tạm tha, tạm tha hết những người
bệnh nặng thì may ra tránh được những cái chết vô lý. Cái chết của anh
Nam mấy ngày trước… anh Khang có chứng kiến không?”
Ngừng bút, mắt không ngước lên, tôi nói:
“Tôi còn bị bắt buộc phải chứng kiến cảnh người ta dùng
roi để đánh anh Nam nữa kia. Đánh cho đến ngất xỉu, đem nước lạnh dội
cho tỉnh lại, rồi đánh tiếp. Tám người cầm roi vây đánh một người bị
còng tay. Tôi không hiểu ban quản trại muốn gởi đến tù nhân chúng tôi
cái thông điệp gì đây.”
“Lúc đó tôi đang lo họp về vụ bệnh nhân của bệnh xá,
không có ở đây. Vả lại, đó là việc của ban quản giáo và ban chỉ huy Khu,
tôi không can dự. Nhưng tôi cũng hoàn toàn không đồng ý chuyện xử phạt
tù nhân trốn trại bằng cách đó. Dã man quá. Đó, rồi anh Khang cũng biết,
thêm một người chết trong bệnh xá làm cho tôi lại mang tiếng. Thực ra
anh Nam đâu phải là bệnh nhân của bệnh xá. Tôi kiện lắm ban quản trại
mới đem xác anh ấy ra văn phòng ban Chỉ huy Khu đó.”
Phong vừa nói đến đó thì ông Trợ bước vào, kéo ghế ngồi cạnh tôi, nói:
“Để tôi đọc giúp anh cho nhanh nhé.”
Phong ngồi một lúc rồi đứng dậy, bước ra, ngang chỗ tôi ngồi, Phong đứng lại, vừa nói vừa cười:
“Anh Khang này giỏi lắm nghe, phải không ông Trợ? Làm việc gì cũng tận tâm, hết mình, mà lại nhanh chóng nữa.”
“Báo cáo cán bộ, đúng vậy đó, anh ấy giỏi lắm. Ở bệnh
xá này, bệnh nhân thương quý anh ấy hơn cả tôi và mấy y sĩ ở đây nữa
kia.”
Phong vỗ vai tôi, cười, rồi nói:
“Mai này có về đừng ăn chay nữa nghe. Ăn chay hoài làm sao đủ sức khỏe, cho nên mới bệnh đó, phải không?”
Nói rồi, Phong rời bệnh xá. Câu nói của Phong dù không
có gì chắc chắn lắm, nhưng cũng gợi ý cho tôi ít nhiều cái viễn cảnh
tươi đẹp của tự do, trả lại cho tôi niềm hy vọng đã chìm mất từ những
ngày trước.
Trước lễ Giáng Sinh hai ngày, trong khi tôi đang ngồi ở
bệnh xá thì Lộc bước vào, tay cầm một tờ giấy. Thấy tôi, Lộc mừng lắm,
reo lên:
“A, anh Khang, anh lúc này khỏe không? Trời ơi, em có
nghe nói là bây giờ anh làm thư ký bệnh xá mà chưa có dịp nào ghé thăm
anh. Bận quá anh Khang ơi. À, có cái danh sách này, ông Liệt giao em đi
lấy mấy người ở bệnh xá, vậy anh Khang đọc dùm em đi, em đâu có biết
chữ.”
Tôi cầm tờ giấy. Lộc vỗ tay ba tiếng bảo bệnh xá im lặng:
“Lắng nghe nè, ai có tên thì mang đồ đạc cá nhân tập trung ở văn phòng ban Chỉ huy Khu. Rồi, đọc đi anh Khang.”
Tôi đọc lớn. Danh sách có tên tôi. Lộc nghe thì giật mình, hỏi:
“Vĩnh Khang là tên anh, phải không?”
“Ừ.”
“Mẹ bà tụi nó! Anh Khang như vầy mà…”
Ông Trợ nghe vậy thì bước tới, hỏi dồn:
“Danh sách này là danh sách gì vậy anh Lộc? Nói tôi nghe đi. Cho về hay là đi đâu vậy?”
Lộc ngập ngừng một lúc rồi nói:
“Đâu phải danh sách về! Đây là danh sách vô nằm nhà đá đó!”
“Úy trời, vậy thì không được! Tôi không cho các anh lấy
anh Khang đi đâu. Anh ấy bị bệnh tim nặng lắm, có cán bộ y tế của trại
chứng nhận mà, không đi nhà đá được đâu. Đi lần này là chết chắc! Tôi
nói rồi đó, tôi không chịu trách nhiệm đâu nghen. Hay là anh trình cho
cán bộ Phong biết ngay đi để cán bộ Phong can thiệp. Cán bộ Phong cũng
biết anh Khang bệnh mà.”
Lộc nghe vậy thì cũng mừng, nói:
“Được rồi, được rồi, có lý do như vậy thì tốt, để tôi
báo cáo lên là anh Khang bệnh nặng không thể vào nhà đá, có ban y tế xác
nhận.”
Vậy là tôi không phải vào nhà đá. Ông Trợ nói rằng danh
sách bệnh nhân nan y đang chờ cứu xét, nếu tôi vào nhà đá thì không có
cơ hội để được nghe đọc lệnh tạm tha—có thể là trong những ngày sắp tới.
Người ta không bao giờ trả tự do cho những phần tử đang bị giam ở nhà
đá bao giờ.
Và trong khi mấy chục người bị lùa vào nhà đá trong dịp
lễ Giáng Sinh thì vài ngày sau đó, khoảng gần năm mươi người ở bệnh xá
và Khu C được gọi tên lên văn phòng ban chỉ huy Khu để nhận lệnh tạm
tha; và lại không có tên tôi… Cả ông Trợ cũng được về trong đợt này dù
rằng ông không có trong danh sách bệnh nan y. Bàn giao công việc của
bệnh xá cho anh Oai và ông Mậu xong, ông Trợ nói riêng với tôi ở văn
phòng bệnh xá, lại với giọng an ủi:
“Danh sách kỳ này một trăm bốn mươi người, anh biết rồi
đó, hôm nay cho về chưa tới năm mươi, vậy thì vẫn còn cơ hội. Chắc là
nay mai thôi. Anh sẽ về đó, tin tôi đi. Thôi, tôi về trước nghe.”
“Nhưng… xin hỏi chú một câu chót: có thực là tôi bị bệnh tim không?”
“Ư… thực ra thì tôi không biết anh bị bệnh gì, chỉ thấy
là quanh vùng tim có tiếng lạ lắm, không giống như người khác. Đại khái
là có cái gì bất thường nơi trái tim anh đó. Cái dấu hiệu đó giống như
là bị hở van tim, mà có khi lại giống như là bị nghẽn van… khó nói lắm.
Tôi chịu thua. Nhưng tốt hơn là cứ kết luận là bị đau tim để phòng ngừa
chuyện anh làm việc nặng hay xúc động mạnh mà bị chết bất đắc kỳ tử.”
Tôi cám ơn ông đã giúp tôi trong thời gian qua. Ông cười, nói:
“Có gì đâu. Anh em cùng hội cùng thuyền thì giúp nhau
thôi mà. Vả lại, anh bệnh thì tôi khám, tôi chữa, đó là công việc của
tôi, có gì đặc biệt đâu mà cám ơn.”
Nói rồi ông vẫy tay, bước ra. Tôi không rõ ‘cùng hội
cùng thuyền’ là như thế nào. Ông bị tù vì vượt biên, tôi bị tù vì hoạt
động chính trị. Ông ấy là y sĩ, tôi là tu sĩ. Cùng cái hội nào, cùng cái
thuyền nào? Cái hội tù nhân, cái thuyền K4 hay cái hội nhân dân trong
cái thuyền Việt Nam… thì ai lại chẳng cùng. Thôi thì cứ ghi nhận. Cám ơn
ông, một y sĩ xoàng nhưng có lương tâm, một hộ pháp thiện thần hiện
thân để cứu giúp tôi suốt nhiều tháng qua.
Ông Trợ về rồi, Phong cắt Oai thay thế làm trưởng ban y
tế của bệnh xá Khu C. Anh Oai bị bắt vì tội vượt biên. Anh khai là y tá
của chế độ trước, nhưng nhìn cách anh chữa bệnh, tôi không nghĩ anh chỉ
là y tá. Cỡ ông Nguyên ông Mậu so với anh Oai thì chẳng ra làm sao cả.
Đến anh Oai này mới thật là y sĩ giỏi. Bao nhiêu căn bệnh khó trị mà ông
Trợ bó tay để bệnh nhân nằm ì tại bệnh xá, anh Oai xăn tay chữa hết.
Anh nhờ tôi làm đơn xin cấp một số thuốc tây đặc biệt để trị các căn
bệnh hiểm nghèo. Trong đơn xin cấp thuốc, anh cũng cần thuốc gây mê và
các dụng cụ giải phẫu. Các loại thuốc khác đều được cung ứng theo nhu
cầu của bệnh xá, ngoại trừ thuốc tê và dụng cụ đặc biệt cho ngành giải
phẫu. Có lẽ ban quản trại sợ nhân viên bệnh xá dùng thuốc mê và các dụng
cụ bén nhọn này để ám sát cán bộ (?). Cho nên, anh chàng bị sạn bàng
quang sau khi được anh Oai cho uống loại thuốc gì đó để tống hòn sạn
theo đường tiểu ra đầu dương vật, đã nằm rên la thảm thiết đến độ không
ai trong bệnh xá mà cầm lòng cho được. Anh Oai, hỏi bệnh nhân có chịu
cho giải phẫu không có thuốc tê không. Anh kia đau quá nhận lời đại. Vậy
là theo sự hướng dẫn của anh Oai, bệnh nhân cởi quần ra, đứng dưới đất,
một chân gác lên mép giường, không một mũi thuốc tê nào, chịu đựng cho
anh Oai dùng lưỡi dao mổ duy nhất của bệnh xá, nhúng cồn để tẩy trùng
rồi xẻ đầu dương vật, lôi ra hòn sạn to bằng đầu ngón tay giữa. Lôi sạn
ra rồi, anh Oai còn dùng kim chỉ để khâu đầu dương vật của bệnh nhân
lại. Không một chút thuốc tê nào!
Một tuần sau khi ông Trợ về thì đến Tết dương lịch của
năm 1987. Dịp này, lại thêm một đợt thả tù bệnh nan y, giải quyết gần
hết cái danh sách sau cùng mà Phong bảo bệnh xá thực hiện. Nhưng vẫn
chưa có tên tôi. Những người chưa được cứu xét còn lại trong bệnh xá là
những người tù chính trị và án nặng. Điều này ngoài Phong và ban quản
trại ra, có lẽ chỉ có mình tôi là người thấy rõ, vì chính tay tôi viết
và sao danh sách cứu xét (có giữ lại một bản cho bệnh xá). Tù chính trị
và án nặng thì khó được trả tự do. Tôi đã nghĩ đến điều ấy trước đây
nhưng đến lúc này, sau nhiều đợt tha có tính cách chắt lọc thành phần tù
án nhẹ và chừa lại thành phần tù án nặng, tôi mới thấy sự kiện một cách
rõ rệt hơn. Niềm hy vọng của tôi càng lúc càng giảm nhiều.
Hôm sau, Phong cùng bốn tù nhân mang vào văn phòng bệnh
xá một cái cân lớn và bốn, năm thùng cạc-tông chất đầy những cuốn sổ
khám bệnh cá nhân (loại này nhà nước có in sẵn để phát cho nhân dân có
hộ khẩu chính thức đi khám bệnh ở các bệnh viện công). Phong cười, nheo
mắt riêng với tôi rồi giao cho thư ký bệnh xá lập sổ bệnh cho tất cả tù
nhân của trại. Công việc văn phòng bệnh xá từ hôm ấy là đón nhận từng
đoàn tù nhân ở các phòng giam xếp hàng bước vào để lập sổ bệnh riêng cho
mỗi người. Sổ khám bệnh ghi tên tuổi và lý lịch tổng quát của mỗi người
kèm theo tội trạng của họ. Chúng tôi cũng lo việc cân sức nặng và đo
chiều cao của mỗi người rồi ghi vào sổ của họ, phát sổ ấy cho mỗi người
giữ lấy. Công việc ấy không cần tới anh Oai và ông Mậu mà do tôi và vài
bệnh nhân biết chữ khác đảm trách. Tôi vui vẻ làm công việc này suốt cả
ngày cho tới tối gần giờ báo nghiêm mới nghỉ mà không biết mệt.
Buổi tối nằm trong cùm, nghĩ tới anh cán bộ miền Nam
cởi mở như Phong, tôi có giả thiết rằng nếu những người cầm quyền hiện
nay biết gạt bỏ chuyện chủ nghĩa, ý thức hệ, đảng phái… qua một bên,
biết lắng nghe và tiếp nhận ý kiến đóng góp của người dân trong việc xây
dựng và kiến thiết xứ sở… thì đất nước này đâu đến nỗi phải suy vong
lụn bại như thế này. Tôi luôn luôn có cảm nghĩ rằng đất nước tôi không
phải là mảnh đất thích hợp để gieo trồng duy nhất một loại hạt giống nào
đó, nhất là loại hạt giống mang khả tính hủy diệt các hạt giống khác
loại với nó. Vậy mà người ta cứ hăm hở xun xoe rước về những hạt giống
xấu đã từng tàn phá những mảnh đất màu mỡ của vườn khác, đem về đây mà
phá hoại vườn nhà. Càng phá hoại và làm đau khổ kẻ khác nhiều chừng nào,
người ta càng vun bón làm giàu thêm chất tưởng tượng siêu phàm vô địch
trong đầu họ chừng nấy, để rồi cứ bập bềnh trong giấc mộng hãnh tiến,
không bao giờ chịu nhìn lui, nhìn lại, nhìn xuống, nhìn ngay, nhìn
trước… chỉ có nhìn lên mà thôi. Vâng, nhìn lên thật cao, cái đỉnh cao
chót vót của nền văn minh duy vật đã đánh bại tất cả các nền văn minh cổ
xưa hay hiện đại của thế giới! Và thời đại hôm nay mà chúng tôi đang
sống là thời đại thăng hoa vượt bực của diều giấy mộng tưởng. Trong khi
các vệ tinh nhân tạo đã có thể bay vòng vòng chung quanh trái đất và các
phi thuyền đang nhắm vào các vì tinh tú xa xăm thì nơi đây, chúng tôi
vác búa liềm và cuốc rựa lên vai, miệng đồng loạt mỉm cười, hân hoan,
tin tưởng, tự hào: phóng lên trời cao tất cả tinh hoa trí tuệ của một
dân tộc may mắn được sự hướng dẫn của Bác-Đảng, phấp phới hồ hởi theo
đôi cánh tung hoành ngạo nghễ của con diều giấy vô địch. Ôi là mộng
tưởng ấu thời! Ôi là vinh quang chói lọi của ngọn cờ bách chiến bách
thắng!
Ó
Buổi sáng của ngày kế tiếp, ban y tế chúng tôi tiếp tục
cân đo và lập sổ bệnh cho nhiều tù nhân từ các Khu khác kéo về. Văn
phòng bệnh xá chật chội, chúng tôi khiêng bàn và cái cân ra ngoài sân.
Phong đem đến thêm một cái cân khác và vài sợi thước dây (dùng đo vòng
ngực bệnh nhân) để chúng tôi làm việc nhanh hơn. Và trong khi chúng tôi
đang cặm cụi làm công việc ấy thì Phong đang sắp xếp những bệnh nhân đã
có sổ bệnh bước vào một căn phòng nằm xéo góc với văn phòng bệnh xá, đối
diện văn phòng ban chỉ huy Khu. Tôi không hiểu có gì xảy ra ở đó. Mãi
đến khi lập xong hết sổ bệnh, tôi mới biết rằng mọi tù nhân đều phải xếp
hàng để vào căn phòng đó, có các bác sĩ của tỉnh Đồng Nai từ Thủ Đức
tới khám bệnh. Các vị bác sĩ này hiện đang làm việc ở một bệnh viện lớn
nhất của tỉnh. Họ gồm mười ba người, mười bác sĩ và ba người khác là y
tá lo ghi chép lập hồ sơ bệnh, hầu hết trẻ tuổi. Riêng bác sĩ trưởng thì
cao tuổi nhất nhưng cũng chỉ đâu chừng trên dưới năm mươi.
Trong khi sắp xếp cho bệnh nhân đang điều trị tại bệnh
xá xếp hàng vào khám, tôi nghe vị bác sĩ trưởng nói chuyện với Phong
bằng giọng Huế. Bỗng dưng một cảm giác thân mật, gần gũi nào đó bừng dậy
trong tôi. Đã lâu lắm rồi tôi không nghe được cái giọng Huế nhỏ nhẹ dễ
thương. Cái giọng Huế ấy sao mà giống cái giọng của ba tôi. Ở nhà tôi,
chỉ có ba người nói tiếng Huế là ba tôi và hai chị lớn. Nhưng trong cái
kho tàng ký ức của tôi, dường như chỉ có cái giọng Huế nhỏ nhẹ của ba
tôi là tràn đầy và còn có thể gợi nhớ, còn có thể mường tượng ra được,
bởi vì ngoài thì giờ làm việc ở sở, ba tôi dành rất nhiều thời giờ còn
lại của ông để nựng nịu và nói lời thương yêu với từng đứa con trong
nhà.
Đến lượt bác sĩ trưởng rảnh tay thì đúng lúc tôi bước vào. Vừa ra dấu tôi ngồi xuống giường, bác sĩ xem sổ bệnh.
“Tên là Vĩnh Khang à?”
Tôi chỉ gật đầu. Bác sĩ nhìn xuống phần lý lịch cá nhân,
hơi giật mình ngạc nhiên một lúc rồi mặt ông thoáng hiện vẻ xúc động.
Một lúc, ông lại hỏi nhỏ:
“Nghề nghiệp để là tu sĩ, vậy tu sĩ ở chùa hay tu sĩ ở nhà thờ đây?”
“Thưa, ở chùa.”
“Tội PCM là gì vậy?”
“Thưa, phản cách mạng.”
Bác sĩ im lặng, có vẻ ưu tư. Một lúc, ông xăn tay, cầm ống nghe lên, hỏi:
“Trong sổ ghi là bệnh đau tim, vậy đó là do ban y tế của trại khám hay do có bệnh từ trước mà biết?”
“Bác sĩ của trại khám nhiều lần đều cho là đau tim.”
“Có biết vì nguyên do nào không? Chẳng hạn trước khi vào đây, hay lúc nhỏ, có bị đau tim hay yếu tim sẵn không?”
“Tôi không nhớ, nhưng… có lần tôi bị người ta đánh đập,
một người đạp mạnh vào ngay tim, chỗ này.” (Tôi nhớ trận đòn vượt biên ở
Vạn Giã mà từ sau ngày đó, giọng nói và nhịp thở của tôi không còn mạnh
mẽ như hồi thiếu niên nữa.)
Bác sĩ có vẻ xúc động mạnh, đưa mặt sát về hướng tôi một tí, hỏi nhỏ:
“Sao người ta lại đánh đập vậy?”
Có lẽ ông tưởng rằng tôi bị cán bộ hay cai tù đánh.
“Không có chuyện gì đâu. Đó là chuyện trước khi vào đây.”
“Thôi nằm xuống đi, thở mạnh, thở mạnh… Được rồi, được rồi, ngồi dậy đi.”
Ông ghi gì đó vào cuốn sổ bệnh của tôi rồi đem qua đưa
cho Phong, hai người nói qua nói lại to nhỏ với nhau gì đó, tôi không
nghe được. Tôi có ý đứng lại chờ đợi kết quả chẩn bệnh, nhưng Phong bước
tới nói:
“Anh về lại bệnh xá được rồi.”
Tôi bước ra. Một lúc, Phong đến bệnh xá:
“Anh Khang, anh có thể lên phòng khám bệnh giúp làm thư
ký cho bác sĩ trưởng, được không? Vì trên đó ba thư ký cho mười bác sĩ,
không đủ. Bác sĩ trưởng cần xin một người làm thư ký riêng cho ổng. Anh
lên đi há, giúp dùm đi cho nhanh.”
Tôi vội lên phòng khám. Từ đó tôi ngồi cạnh bác sĩ
trưởng cho đến khi ông khám xong những bệnh nhân cuối cùng. Trong lúc
đang làm việc, ở một góc bàn khác có hai anh công an một anh đọc hồ sơ
bệnh, một anh đang đánh máy. Hình như là các hồ sơ bệnh nặng đều tập
trung vào cái bàn của hai anh công an này. Tôi nghe một anh đọc lớn tên
tôi, tôi giật mình quay lại. Phong đứng gần đó cũng quay nhìn về hướng
hai anh công an kia, rồi lật đật chạy tới, nói nhỏ nhưng tôi đoán nghe
được:
“Xuỵt, đọc nhỏ, có người này ở đây.”
Vậy là phần bệnh trạng của tôi do bác sĩ trưởng xác
nhận, họ không muốn cho tôi nghe. Cái phần đó là phần quyết định. Tôi
đoán rằng trại muốn trả tự do cho những tù nhân có bệnh nan y nhưng vì
trong số này có tù chính trị án nặng nên trại phải mời các bác sĩ của
bệnh viện tỉnh vào khám để dựa vào sự xác nhận của các bác sĩ này mà thả
tù.
Buổi chiều, khi việc khám bệnh xong xuôi, bác sĩ trưởng
quay qua bắt tay tôi và nói lời cám ơn. Tôi cũng cám ơn ông lần nữa. Ông
nói với Phong:
“Thư ký bệnh xá này giỏi quá, các ký hiệu y khoa đều
biết hết trơn! Giống như người học ngành y khoa vậy!” (Thực ra cách ghi
các ký hiệu vắn tắt này, tôi chỉ mới học lóm được một ít từ anh Oai chứ
chẳng biết gì khá hơn).
Phong cười có vẻ thích chí lắm, nói:
“Giỏi chớ. Tôi biết anh ấy giỏi mới kêu lên đây đó.”
Tôi còn tần ngần đứng chờ Phong đưa trở về bệnh xá (vì
tôi không thể tự động đi một mình ở trong trại) thì bác sĩ trưởng nhân
lúc Phong quay qua hướng dẫn hai anh công an kia làm việc, lại vỗ vai
tôi, nói nhỏ:
“Về được thầy nhớ đi khám bệnh, bảo người ta đo điện tâm đồ để biết rõ thêm căn bệnh nhé. Chúc thầy may mắn.”
Ó
Thứ hai ngày 05-01-1987, hai hôm sau ngày tổng khám, hơn
một trăm bệnh nhân được trả tự do. Nhiều bệnh nhân không có tên trong
danh sách bệnh nan y do ban y tế bệnh xá lập trước đây mà do mười bác sĩ
của bệnh viện tỉnh mới chứng nhận trong đợt tổng khám. Thật là một ngày
đại xá vui vẻ chưa từng thấy ở trại giam. Tôi hồi hộp chờ nghe tên mình
suốt cái danh sách dài, vẫn không thấy. Tôi chưa được tự do.
Thằng bé tên Bảy, mười tám tuổi, nhỏ con và khẳng khiu
như một con nai con, là một bệnh nhân bị kiệt sức nằm lâu ở bệnh xá,
được gọi tên thì mừng quýnh lên, nhảy cỡn một lúc rồi chạy tới ôm chầm
lấy tôi, cười nói:
“Anh Khang ơi, em được về rồi, em được về rồi!”
Tôi sung sướng nhìn Bảy, xoa đầu nó. Nó nhón lên hôn nơi má, nói:
“Cám ơn anh Khang nhiều lắm nghe, em về trước, anh về sau há!”
Vậy rồi khi ra xếp hàng ngoài sân chờ vào văn phòng ban
chỉ huy Khu để nhận giấy tha, Bảy ngất xỉu, chúng tôi phải cõng em vào
bệnh xá. Anh Oai nói Bảy bị kiệt sức lại bị xúc động mạnh, rồi đứng xếp
hàng chờ lâu ngoài nắng nên chịu không nổi, phải cho em ở lại bệnh xá
bồi dưỡng vài ngày trước khi về. Tôi cấp tốc viết phiếu xin cấp dưỡng
cho em. Nhưng buổi chiều cùng ngày, sau khi ăn xong phần cháo nấu với
khoai tây và thịt bằm, em nằm một lúc thì tự dưng rùng mình, nói mệt,
mệt lắm. Anh Oai đến khám, nói mạch đập em yếu hết sức, chắc là không
qua nổi. Tôi nghe vậy thì tức muốn khóc. Đã được tha rồi mà còn về không
được nữa sao, Bảy ơi, cái nghiệp gì mà nặng quá vậy! Tôi ngồi bên cạnh
Bảy, chẳng biết làm gì khác hơn là cầu nguyện cho em. Một lúc, Bảy nắm
lấy tay tôi, nói thì thào:
“Anh Khang ơi, sao anh tốt với em quá vậy?”
Tôi ngăn em, nói:
“Nghỉ ngơi, đừng nói nhiều mất sức. Cầu nguyện đi.”
“Có, em có cầu nguyện Chúa đó anh Khang.”
“Giỏi lắm, nhưng em biết cầu nguyện sao cho tốt không?”
“Anh nói em nghe đi.”
“Gạt bỏ hết mọi suy nghĩ, tập trung vào lời cầu nguyện. Đừng để tâm phân tán đủ chuyện, hiểu không?”
Bảy gật đầu nhẹ, rồi nhắm mắt lại. Một lúc, Bảy mở mắt
ra, vói tay lôi từ giỏ xách của em một cái mũ cát-két màu cà phê sữa,
đưa tôi, em nói:
“Cái mũ này của anh Khang cho em… Bây giờ em trả lại cho anh. Em xin lỗi anh. Em cũng cám ơn anh nhiều lắm, nghe anh Khang.”
Cái mũ ấy đúng ra là Bảy ăn cắp từ giỏ xách của tôi, bị
người ta bắt được đòi tố em đi biệt giam kỷ luật; tôi bênh em, nói là
tôi đã cho để em khỏi bị phạt.
“Không, em không cần phải xin lỗi. Cái mũ này anh cho em thật mà. Nó thuộc về em đó.”
“Nhưng bây giờ anh nhận nó đi. Em tặng lại anh để anh có
mà đội cho khỏi nắng, với lại bữa nào về… anh có mà đội chứ để cái đầu
như vầy thấy không đẹp. Em… chắc em không thể về được đâu.”
Tôi cười đau khổ, thương xót cho Bảy mà chẳng biết nói
gì để an ủi em. Theo lời anh Oai nói, tôi biết là Bảy sắp chết. Phong
đang nhắn gia đình Bảy đến nhận em về. Tôi đưa tay lên sờ cái đầu hớt
kiểu tù của mình rồi đội cái mũ lên. Bảy cười, nói:
“Đó, như vậy, đẹp quá rồi.”
“Thôi, em cầu Chúa đi, đừng nói chuyện nhiều há.”
“Anh cũng cầu Chúa cho em với nghe, anh Khang.”
“Ừ, anh cũng cầu nguyện cho em.”
Buổi tối, tôi nằm trong cùm, ở một chỗ khá gần Bảy, bỗng
thấy một con bọ ngựa màu xanh lá cây từ đâu bay tới, rớt ngay trước
mặt. Tôi nâng nó lên xem thì thấy nó cứng đờ, chỉ ngọ nguậy đôi râu và
đôi càng một lúc rồi chết. Tôi xoay qua nhìn Bảy, thấy em vẫn còn thở
nhè nhẹ. Ngay lúc ấy, bất chợt một mối xốn xang bâng quơ nào đó dâng dậy
trong tôi. Con bọ rơi chết trước mặt tôi có vẻ như một điềm báo chẳng
lành. Tôi chẳng hiểu là điềm gì. Nâng con bọ ngựa chết trên tay, tôi chỉ
thấy lòng buồn vời vợi, một cái buồn sâu lắng vào trong, đục khoét con
tim.
Đêm đó tôi nằm ngủ trong giấc mộng chập chờn hình ảnh ba
tôi, chỉ duy nhất ba tôi, đến ôm hôn tôi, xoa đầu tôi. Tôi bé nhỏ và sà
vào lòng ông, đòi quà, đòi được dẫn đi xem xi-nê. Rồi bất chợt tôi lớn
lên, trở thành tù nhân đứng trong khung cửa sắt. Ba tôi cùng vài người
cảnh sát bước tới, mở cửa cho tôi ra. Tôi vui mừng quá lại đến ôm ông
nhưng ông biến thành mẹ tôi. Mẹ tôi khóc. Mẹ tôi mang vành tang trắng,
ngồi khóc lặng lẽ, nước mắt chảy thành dòng.
Tôi giật mình thức dậy thì đã qua một ngày mới. Bảy chết
trên giường bệnh. Tờ giấy tha còn nắm trong tay. Đêm qua trước khi ngủ
tôi không thấy em cầm tờ giấy ấy. Có lẽ em đã thức dậy nửa đêm, nằm đọc
tới đọc lui tờ giấy tha cho đỡ buồn.
Hôm sau, ngày 07-01-1987 (nhằm ngày mùng 8 tháng chạp âm
lịch), tôi đang ngồi làm sổ sách ở văn phòng bệnh xá thì Phong từ ngoài
bước vào nhanh, thấy tôi thì dừng lại, cười cười, nói:
“Anh Khang, biết gì không?”
Tôi ngước lên nhìn Phong, chờ đợi. Phong cười rất vui, nói:
“Anh được về rồi đó.”
Tôi ngồi lặng một lúc, tưởng chừng như đang còn đắm mình
trong một cơn mộng ban ngày. Cái phút ấy, tôi chờ đợi đã từ lâu, tin
tưởng nó sẽ đến, nhưng bây giờ vẫn vô cùng ngạc nhiên để đón nhận. Tôi
đứng dậy:
“Thật hả?”
“Thật đó, chuẩn bị đồ đạc mà về. Tôi đọc tên nghe.”
Phong bước một bước đến ngạch cửa, cái cửa ăn thông giữa văn phòng bệnh xá và phòng bệnh.
“Bệnh xá im lặng lắng nghe nè. Nguyễn Mậu, Vũ Quang
Minh, Trần Quang, Lê Trực, Lê Văn Năm, Vĩnh Khang.” Đọc đến đây, Phong
quay qua nhìn tôi, mỉm cười, rồi tiếp, “tất cả những người này lập tức
lên văn phòng ban chỉ huy Khu nhận lệnh tha.”
Tôi bủn rủn rời khỏi bàn giấy, bước qua dãy phòng bệnh. Phong vỗ vai tôi, nói:
“Về giữ gìn sức khoẻ, đừng làm chuyện gì chống trái với
pháp luật nhà nước nữa nghe anh Khang. Anh làm việc giỏi lắm, anh giúp
bệnh xá này và giúp tôi nhiều lắm, nhưng tôi không muốn gặp mặt anh ở
trại này nữa đâu.”
Tôi bàn giao sổ sách cho ông Nghị, một phụ tá thư ký của
tôi ở bệnh xá, rồi xuống kho hậu cần lấy bộ đồ tây và đôi giép da mới
mà gia đình gởi vào trong một đợt thăm nuôi trước đây. Trong sổ của kho
hậu cần, tôi hãy còn một giỏ thức ăn khô chưa dùng hết và mấy trăm đồng
chưa xài tới. Tôi mang vào bệnh xá, phân phát hết thức ăn, chỉ giữ tiền
để đón xe về Sài Gòn, rồi thay bỏ bộ đồ tù (mà ông Trợ đã cấp cho tôi
trước đây). Chào tất cả, bước ra văn phòng ban chỉ huy Khu. Ở đây, Phong
dặn dò sáu người tù chính trị chúng tôi về chính sách của trại cải tạo,
sau đó anh phát cho chúng tôi lệnh tạm tha. Các điểm được nhấn mạnh
trong lệnh này là “lệnh này chỉ có giá trị trong vòng 3 tháng kể từ ngày
ký; đương sự có thể bị hồi triệu về trại giam trong trường hợp có lệnh
báo khẩn cấp; trong thời gian ở ngoài để điều trị bệnh, mỗi ngày đương
sự phải đến trình diện với cơ quan chính quyền địa phương.”
Riêng với tôi, Phong nói:
“Lệnh ở trên là anh Khang phải trở về với gia đình ở Nha
Trang, không được trở về chùa của anh ở Long Thành hay bất cứ ngôi chùa
nào ở bất cứ tỉnh nào khác. Anh nhớ nghe. Đó là lệnh ở trên, tôi chỉ có
bổn phận nhắc anh thôi.”
Tôi nhận lệnh tạm tha, đọc lại, và thấy quả đúng là
người ta đã chỉ định nơi cư trú của tôi. Chỉ định cư trú như thế, phải
ngầm hiểu rằng người ta không cho tôi ở chùa làm người xuất gia nữa.
Nhưng điều này cũng chẳng có gì đáng phàn nàn đối với tôi lúc ấy. Tôi
cần tự do cái đã, chuyện cư trú tính sau.
Theo lệnh tạm tha ghi, nơi tôi phải đến tạm trú là căn
nhà năm xưa có giàn bông giấy đỏ, nằm ở khu chợ Đầm thuộc thành phố biển
thơ mộng Nha Trang.
CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI
Chắc mình phải về anh ơi, ngồi đây em không chịu nổi. Nàng nói. Sao vậy, có chuyện gì không. Tôi hỏi.
“Ngồi đây, chỗ đông người, em không khóc được. Mình về nhà, anh há!”
“Ừ, về. Ủa, đôi giép của anh đâu rồi?”
Tôi ngồi trên băng đá khom người xuống dò tìm dưới đất. Nàng đứng dậy, nhìn quanh, nói:
“Vậy là người ta ăn cắp giép anh rồi. Chắc cái thằng hồi
nãy, em thấy nó đi ngang phía sau lưng mình, nhưng đâu có ngờ nó khoèo
đôi giép anh. Tài thật!”
“Bây giờ… làm sao đây? Chẳng lẽ lại đi chân không ngoài đường?”
Nàng nhìn tôi một lúc rồi bật cười lên khanh khách. Ôi,
nàng cười hồn nhiên, dễ thương làm sao! Nhưng tôi thì dở khóc dở cười.
Ngồi kể chuyện hăng say, thả giép dưới đất, chân đong đưa cho mát một
chút, vậy rồi đặt chân xuống đất thì đôi giép đã thành tài sản của người
khác.
“Em chở anh đi bằng Honda, đâu có sao, không ai thấy đâu.!”
“Dị hợm quá! Ai lại đi chân không ngoài đường!”
“Thời xưa Phật cũng đi chân không khắp nơi khắp chốn mà. Anh ngồi xe, em chạy thật mau, chẳng ai để ý đâu mà lo. Thôi mình về.”
Hồi xưa (chẳng xưa lắm, chừng mười năm trước), lúc ở Hội
An, dù có đi ra ngoài ruộng hoặc kéo xe bò xin phân chuồng ở nhà người
ta, tôi vẫn không bao giờ chịu đi chân không. Ra ruộng thì bỏ giép trên
bờ mà lội xuống sình, lên bờ thì mang giép vào lại. Mà giả như lúc đó có
đi chân không thì cũng chẳng sao, áo quần tu lem luốc, rách nát, tay
chân nhơ nhớp sình lầy, lại còn vác cuốc trên vai, hợp quá đi chứ! Đàng
này, ở trung tâm thành phố Sài Gòn, thành phố lớn nhất Việt Nam, mặc áo
quần đàng hoàng tươm tất, lại đi chân không! Coi làm sao được.
Xe chạy đi cả đoạn rồi mà nàng vẫn cứ cười. Nàng tìm
đường vắng xe cộ để chạy nhanh. Vậy mà tôi cũng phải xấu hổ đến đỏ mặt.
Tôi giấu mặt không nhìn ai trên đường, và đầu trán tôi tựa vào vai nàng.
Nàng ngưng cười. Có mùi của một loài hoa nào đó phảng phất trên tóc
nàng.
Nàng tấp xe nhanh vào một tiệm giày trên đường Lê Thánh
Tôn. Tôi bước vào nhanh, lựa một đôi xăn-đan quai nâu. Nàng giành trả
tiền, tôi không chịu. Túi tôi hãy còn dày cộm tiền, tôi móc ra trả.
Về đến nhà, chúng tôi lại ngồi ở phòng khách, soạn bày bình trà ra.
“Chút nữa em chở anh đến nhà bạn anh, lo việc của anh
xong, em chở anh về lại đây há. Anh cứ ở đây cho đến ngày hai đứa mình
đi Nha Trang, chạy tới chạy lui ở đâu làm gì cho mệt. Ở đây yên lắm, em
nói với anh rồi.”
“Để coi đã. Gặp bạn bè rồi mới biết.”
“Em cũng cần đến chùa Hoa Nghiêm bữa nay để nhờ mấy sư
cô thay phiên đến trông nhà giùm trong thời gian em đi thăm nuôi, anh
muốn đi chung không?”
“Anh cần ở chơi lâu với bạn bè… chắc là một vài hôm,
trước khi ra Nha Trang. Như vậy, có thể chút nữa em bỏ anh ở chỗ Tửu rồi
em đi công việc của em.”
Nàng xụ mặt, lộ vẻ buồn một chút rồi tươi lại ngay, nói:
“Thôi cũng được, nhưng bất cứ lúc nào anh muốn đến đây
thì đến nghe. Em ít khi đi vắng lắm. Các mối quen của em, họ đều đến đây
để giao hàng. Hơ, hồi nãy ngồi ở bến Bạch Đằng, em muốn khóc dễ sợ
nhưng tức cười chuyện anh mất giép, bây giờ thấy hết khóc rồi. Thôi, anh
kể chuyện tiếp đi.”
“Kể tiếp để được khóc đó hả? Đàn bà con gái mấy người làm như là thích nghe kể chuyện gì đau khổ lắm vậy!”
Ó
Sau cái chết của Tuấn, lại thêm mười mấy bệnh nhân khác
ở bệnh xá lần lượt nằm xuống vì bệnh đường ruột. Ông Trợ cứ ghi chung
chung một thứ bệnh: rối loạn tiêu hóa. Cán bộ phụ trách y tế cằn nhằn ông Trợ:
“Anh lại bảo là mấy người này mắc chứng rối loạn tiêu
hóa! Sao ai cũng rối loạn tiêu hóa hết vậy! Rối loạn là sao, ý anh muốn
nói là phản động đó hả?... Thì cứ nói là phản động chứ cần đếch gì phải
nói rối loạn, rắc rối thế! Còn tiêu hóa là cái đít, tôi hiểu. Thế nhưng
phản động cái đít là phản động thế nào chứ?”
Ông Trợ lật đật giải thích. Lại giải thích! Đã giải
thích rồi, bây giờ cán bộ lại quên. Tiêu hóa đâu phải là cái đít! Chắc
cán bộ lộn với chữ hậu môn rồi! (Mà hậu môn cũng không phải là cái đít!
Hậu môn thì người ta nói chữ khác kia!) Cái đít nói cho lịch sự là cái
mông, còn lịch sự hơn nữa thì gọi đó là bàn tọa đó, thưa cán bộ. Như
vậy, “rối loạn tiêu hóa” có nghĩa là bị rối loạn bộ phận tiêu hóa. Rối
loạn là không làm việc bình thường nữa, chứ không có dính gì đến phản
động chính trị cả. Còn bộ phận tiêu hóa là gì hả? Lại phải giải thích
nữa. Bộ phận tiêu hóa là cái bộ phận thu nạp và đào thải… Không, phải
nói như vầy thì cán bộ dễ hiểu hơn, đó là bộ phận tiếp thu và xử lý thực
phẩm trong cơ thể con người; nói cách khác là…
“Dân ngụy các anh dùng chữ rắc rối luộm thuộm quá, không bắt kịp cách nói mạch lạc văn minh của chế độ xã hội chủ nghĩa!”
Vậy rồi, cán bộ đi họp với trên sao đó mà bẵng đi mấy
ngày không thấy ghé bệnh xá, chỉ có lệnh từ văn phòng ban chỉ huy Khu
đưa đến là chuẩn bị dời bệnh xá. Dãy phòng rộng nhất của trại giam nằm
sát vách với văn phòng ban chỉ huy Khu C được sử dụng làm nơi chứa bệnh
nhân; còn văn phòng Ban chỉ huy Khu thì trở thành văn phòng bệnh xá. Từ
nay bệnh xá đã có văn phòng riêng, lịch sự, khang trang, có một cửa trổ
qua phòng bệnh nhân. Phòng bệnh rộng lớn như một cái kho, mái cao, rất
khoảng khoát, có bốn cạnh vuông vức. Trừ một cạnh dành cho hai cánh cửa
ra vào, ba cạnh còn lại được đóng và dựng lên ba dãy sàng gỗ đồ sộ, rộng
rãi, mỗi dãy lại có tầng trên và tầng dưới, vị chi sáu hàng giường
bệnh, mỗi hàng dài mười lăm thước, có thể chứa từ một trăm rưỡi đến hai
trăm bệnh nhân nếu nằm san sát nhau. Chuyện dời bệnh xá qua khu vực này,
có thể là do người ta nghĩ rằng khu vực bệnh xá cũ khá tối tăm, nằm
ngay luồng gió độc, hoặc đã “nhiễm trùng” vì sự mất vệ sinh do nhiều tù
nhân có bệnh nan y đã chết tại đó… Lại có lời đồn: cán bộ trại sợ khu
vực bệnh xá có ma quỉ lôi kéo, khiến nhiều người bệnh rủ nhau mà chết.
Không những bệnh xá đổi chỗ mà còn đổi luôn cả cán bộ
trông coi. Cán bộ y tế hình như đã từ chức hoặc đã bị cách chức và thay
vào đó là một cán bộ người miền Nam, khá trẻ tuổi, tên là Phong. Cũng
như người trước, Phong không có chút kiến thức gì về y khoa, nhưng tánh
tình Phong hiền lành, vui tính, cởi mở, biết thương bệnh nhân, biết quí
trọng ban y tế; vậy thì cũng đỡ vất vả cho bệnh xá rồi. Tuy nhiên, Phong
khá nghiêm khắc trong việc sổ sách giấy tờ. Và điều này thì kẹt cho ông
Cảnh.
Mỗi ngày Phong đều có mặt khá lâu ở bệnh xá để bảo ông
Cảnh cho xem bệnh án này, hồ sơ kia, rồi lại quan sát cách ông Cảnh quản
lý tủ thuốc công, tủ thuốc tư nơi bệnh xá. Ông Cảnh rất lúng túng. Thấy
công việc ông Cảnh làm không được hiệu quả, Phong bực dọc khiển trách,
buộc ông trong vòng hai ngày phải sắp đặt ngăn nắp thứ tự hồ sơ bệnh án
của bệnh xá và hai tủ thuốc, sao cho khi hỏi đến là phải tìm được ngay
chứ không ấp a ấp úng lục lọi suốt ngày như bây giờ. Phong rời bệnh xá
rồi, ông Trợ đề nghị với ông Cảnh:
“Nhờ anh Khang giúp cho một tay chứ không thì bị phạt kỷ luật cả ban y tế luôn cho xem!”
“Có gì đâu mà phải nhờ người này người nọ, mất công. Chuyện của tôi để tôi làm!”
Ông Cảnh vẫn thường bướng bỉnh và tự ái vặt như thế. Có
lẽ ông tự hào đã từng là thư ký của Ủy ban Nhân dân xã nên không cần nhờ
một “nhân dân” nào giúp tay. Rồi ông lụi hụi sắp xếp đống giấy tờ lộn
xộn trong ngăn tủ. Chẳng biết ông sắp xếp theo nguyên tắc nào mà phải từ
sáng đến chiều mới xong. Qua ngày thứ hai, ông Cảnh mới xoay qua hai tủ
thuốc: một cái tủ công (tức thuốc của trại giam giao cho ban y tế dùng
để chữa trị bệnh nhân), một cái của tư (tủ thuốc đựng tất cả thuốc men
riêng tư của mỗi tù nhân do gia đình của họ gởi vào; tôi cũng có một gói
thuốc riêng trong ấy). Ông Cảnh cứ loay hoay lôi ra, cất vào, tốn
nguyên buổi sáng vẫn thấy hoàn là một núi lùm xùm ngổn ngang những bịch
ni-lông cái lớn cái nhỏ chồng đống lên nhau như một đống rác.
Đến trưa, Phong cầm tờ giấy chạy tới văn phòng bệnh xá,
vui vẻ đọc tên một số bệnh nhân nan y được trả tự do. Đây là số người có
tên trong danh sách của đợt II (mà nửa tháng trước đã cứu xét cho về
một phần ba), nay được gọi thêm khoảng một phần ba nữa. Phong có vẻ vui
lây khi đọc to từng tên một trong danh sách, vừa đọc vừa thú vị nhìn vẻ
hớn hở mừng vui của tù nhân như thể chính anh là người ban ân huệ tự do
cho họ vậy. Cả bệnh xá lăng xăng, rộn rịp lên. Người được đọc tên thì
run rẩy thay quần áo (bỏ đồ tù, mặc đồ dân sự nếu có), người ở lại thì
chồm qua chồm lại xin đồ của những người may mắn để lại. Có cả tên ông
Cảnh, nhưng không có tên tôi. Ông Trợ lại an ủi, nói rằng danh sách bệnh
nhân nan y chưa hết, còn khoảng bốn mươi người nữa đang còn chờ cứu
xét.
Ông Cảnh được trả tự do với bệnh “đau bao tử cấp tính.”
Tuy nhiên, trong khi tất cả những người được đọc tên ra tập trung ở văn
phòng trại để chờ nhận giấy lệnh tha thì Phong bắt ông Cảnh ở lại bệnh
xá, buộc phải thanh toán cho xong công việc làm ngăn nắp tủ thuốc và hồ
sơ của bệnh xá trước khi rời trại. Ông Cảnh có trình cho Phong xem tủ hồ
sơ mà ông đã cặm cụi sắp xếp lại nguyên ngày hôm trước. Phong hỏi tới
hỏi lui vài câu, ông Cảnh không trả lời được, Phong lớn tiếng:
“Làm lại, sắp xếp lại! Chưa được. Như vầy mà anh bảo là
đã ổn định sao! Vậy anh lấy tôi xem hồ sơ bệnh án của anh coi nào? Đó,
đó, thấy chưa, lại đi tìm, đi tìm, mất thì giờ quá! Làm lại cho tôi, cho
tới khi nào tôi thấy được mới cho về. Với lại, trước khi về anh phải
bàn giao công việc cho người khác, mà bàn giao thì phải bàn giao đầy đủ
mọi thứ chứ lộn với thiếu tùm lum như vậy thì bàn giao cho ai!”
Vậy là ông Cảnh ở lại, mằn mò ghi ghi chép chép, kiểm
soát và thống kê số thuốc hiện có trong tủ. Dù sao thì ông cũng đã có
tin vui. Ông bỏ ăn trưa, ngồi mãi nơi bàn giấy của văn phòng bệnh xá mà
làm việc. Trong lúc đó, ban y tế hỏi ý ban chỉ huy Khu xin đề cử một thư
ký bệnh xá thay thế ông Cảnh. Ý kiến qua lại như thế nào đó mà cuối
cùng, ông Sinh và ông Trợ đến kêu gọi tôi nhận lời làm việc. Và tôi lại
được tháo cùm, ra khỏi giường bệnh, chuẩn bị nhận sổ sách và hai tủ
thuốc do ông Cảnh bàn giao. Nhưng khác với ông Cảnh, tôi không phải chỉ
làm thư ký mà còn cáng đáng luôn việc làm anh nuôi của bệnh xá (vì anh
nuôi Thành đã được trả tự do cùng ngày hôm nay).
Hai giờ chiều mà ông Cảnh vẫn chưa làm xong công việc
của ông. Cuối cùng, ông mới nhờ đến tôi. Tôi hướng dẫn ông sắp xếp hồ sơ
và hai tủ thuốc theo phân loại mẫu tự thông thường mà ai cũng có thể
biết. Công việc chỉ tốn chừng một giờ đồng hồ để cho vào thứ tự hơn một
ngàn hồ sơ bệnh án. Các hồ sơ của người chết thì để riêng một ngăn, cũng
sắp theo vẫn mẫu tự. Văn phòng bệnh xá thiếu mọi thứ tiện nghi để có
thể gọi là “văn phòng.” Bìa cứng không có, tôi lấy giấy trắng xếp lại
rồi viết hai mươi bốn mẫu tự thật to để kẹp các hồ sơ. Tủ thuốc cũng
chia theo từng ngăn chứ không thồn đại vào như ông Cảnh trước đây. Tôi
cũng giúp ông tổng kết thuốc tồn kho, loại bỏ những chai lọ cũ đã quá
hạn, chiếm nhiều chỗ trong ngăn tủ.
Bốn giờ chiều thì thực sự ổn định công việc của văn
phòng bệnh xá. Phong nãy giờ chạy ra chạy vào nhìn tôi làm việc giúp ông
Cảnh, hài lòng lắm. Phong nói với ông Cảnh:
“Nếu ông nhờ người ta sớm hơn một chút thì bây giờ đã ở
nhà với vợ con rồi. Thôi, thay đồ lẹ lẹ ra văn phòng Khu gặp tôi lấy
lệnh tha mà về!”
Nói rồi Phong bỏ đi. Ông Cảnh vội xuống hậu cần lấy đồ
ký gửi rồi trở lại với bộ đồ tây, bỏ hai bộ đồ tù lại cho mấy anh bệnh
nhân đang nằm ở bệnh xá tranh nhau. Ông từ giã ông Trợ và ông Mậu rồi
đến bên tôi, ngỏ lời cám ơn. Sau lời cám ơn, ông ngập ngừng một lúc rồi
ghé vào tai tôi nói nhỏ:
“Cái hôm công an vây bắt lực lượng Phục quốc ở xã mình,
rồi sau đó vây chùa Long Quang để bắt thầy Khang, tôi hoàn toàn không
biết, vì vụ bố ráp đó đột xuất, bí mật, do công an tỉnh Đồng Nai tiến
hành. Cả công an huyện còn không biết trước huống gì tụi tôi chỉ là hàng
xã.”
Tự dưng đến lúc chia tay ông đột ngột gọi tôi là “thầy”
và nói cái chuyện của “xã mình” mà đáng ra ông có nhiều cơ hội để nói
trong suốt nhiều ngày trước, khi tôi bắt đầu nằm ở bệnh xá. Có lẽ lúc ấy
ông hãy còn sợ sự liên hệ với tôi. Thảo nào ông cứ tránh né, không muốn
tôi phụ giúp ông. Đến khi gần về rồi mới chịu xuống nước. Tôi cười nói:
“Đâu có sao, nếu lúc đó chú đi bắt tôi cũng được thôi, lệnh mà.”
“Không phải, tôi nói không phải để phân bua gì đâu. Ý
tôi muốn nói là vụ của thầy Khang hôm ấy là có người báo trực tiếp với
công an tỉnh Đồng Nai. Nghe nói là từ Sài Gòn báo lên đó. Thôi tôi về
nghe. Chúc thầy cũng được về sớm.”
Tôi ngồi lại nơi văn phòng bệnh xá, nhìn theo dáng ông
hí hửng bước ra văn phòng Khu. Khi nào thì đến lượt mình đây? Tôi tự hỏi
và thấy lòng chùng xuống. Tù chính trị, lại là tu sĩ, làm thế nào được
về sớm mà cứ mong đợi, cứ hy vọng? Linh cảm ư, hay chỉ là vọng tưởng?
Tôi lấy thuốc ra hút. Ông Cảnh hàm ý gì nữa đây khi nói cho tôi biết là
có người từ Sài Gòn báo cáo hoạt động của lực lượng Phục quốc cho chính
quyền tỉnh Đồng Nai. Bây giờ tôi biết rõ thêm chuyện đó thì sao chứ? Có
lợi gì đâu. Biết là có người tố giác chuyện mình làm, xác định thêm sự
bội phản của Hân, ích gì chứ! Gông cùm xiềng xích đã đóng kín tương lai,
chôn vùi dĩ vãng trong tôi. Tôi không còn thì giờ để bận tâm cái gì ở
phía trước hay ở sau lưng nữa. Công việc của tôi bây giờ là ngồi ở văn
phòng này, chờ đợi có ai đến xin lấy thuốc (của họ) hay xin thuốc (của
bệnh xá) thì lấy cho họ. Gần đến giờ ăn thì đi cùng hai anh nuôi và một
bệnh nhân xuống nhà bếp để nhận phần cơm cho cả bệnh xá hơn trăm người.
Tôi ngồi một lúc thì Phong từ ngoài bước vào, cười cười, nói:
“Tôi mệt cái ông Cảnh đó quá. Bây giờ có anh Khang làm
thư ký, tôi hy vọng mọi chuyện sẽ êm xuôi hơn. Nè, anh Khang nằm dưỡng
bệnh ở đây bao lâu rồi? Hai tháng rưỡi hả. Vậy chắc cũng nắm được phần
nào sinh hoạt ở đây, theo anh thì để tránh bệnh hoạn, nhất là tránh chết
chóc thì bệnh xá phải làm sao?”
“Ơ… chuyện đó thì phải hỏi mấy ông bác sĩ mới được.”
“Bác sĩ à? Hứ, ở đây có bác sĩ nào đâu. Ông Trợ hay ông
Mậu đều là y tá Đông y sĩ cà tàng thôi. Dĩ nhiên là mấy ổng rành chuyện
chữa bệnh hơn mình, nhưng mà… chỉ chữa bệnh chứ không biết gì khác. Hỏi
ý mấy ổng làm sao để tránh chết chóc nhiều trong trại thì mấy ổng không
biết. Có ai bệnh đem đến đây thì chữa, vậy thôi. Nhưng chữa sao mà cứ
hết đợt này tới đợt khác. Hay là… ngoài chuyện bệnh hoạn còn có thứ tà
khí độc địa vô hình nào đó chăng? Anh nghĩ sao? Nghe đồn là có mấy người
đã chết ở bệnh xá cũ, đêm đêm xếp hàng đi ra hồ sen mà tắm! Có thể họ
phá những người sống không? Anh có cách gì trừ chuyện đó không?”
Tôi cười thầm trong bụng. Phong hỏi vậy tất anh biết tôi
là tu sĩ, và anh đã đồng hóa tu sĩ Phật giáo với ông thầy tụng, thầy
đám, thầy pháp nào đó ở làng xã anh thì phải. Cán bộ cộng sản ngày nay
cũng còn biết tin và sợ ma quỉ! Thảo nào không lo hỏi bác sĩ mà lại hỏi ý
tôi! Do bởi Phong tin tưởng mà hỏi tôi như vậy, tôi lợi dụng cơ hội ấy,
muốn đề nghị một số vấn đề của bệnh xá mà lâu nay tôi hằng ưu tư. Tôi
nói:
“Thực ra thì cái chuyện này mấy ông y sĩ phải biết rành
hơn tôi, có điều họ không dám nói ra đó thôi. Nói ra thì sợ bị kết tội
là… nói xấu, xuyên tạc chế độ, rồi bị cùm biệt giam kỷ luật đến bại liệt
hay rục xương.”
“Vậy có nghĩa là anh có biết, anh có thể nói ra không? Không có chuyện cùm phạt kỷ luật đâu.”
Thấy Phong có vẻ khẩn khoản, tôi mạnh dạn:
“Nói được chứ. Anh hỏi thì tôi nói. Như vầy: cái bệnh
chung của cải tạo viên nơi trại này là bệnh suy dinh dưỡng. Suy dinh
dưỡng ảnh hưởng đến sức khỏe, khiến vi trùng bệnh dễ xâm nhập. Vi trùng
xâm nhập mà cơ thể không đủ sức kháng cự thì cơ thể sụm. Bệnh nhẹ cũng
chết, bệnh nặng càng dễ chết hơn. Đó là chưa nói đến chuyện thiếu thốn
thuốc men. Nếu có thuốc tốt đưa đến đây nhưng bệnh nhân ăn uống không đủ
chất dinh dưỡng, lại nằm trong một bệnh xá dơ dáy, thiếu vệ sinh, thiếu
mọi tiện nghi, lạnh không có mền đắp, nóng không có quạt thổi, thì
thuốc tiên cũng thành vô dụng. Còn nữa, mỗi ngày đi tắm ở hồ sen, chỗ
cuối dòng nước chảy; nước ở phía bên kia khu trại gia súc chảy ngang qua
khu nhà tròn, rồi đổ về hướng này. Tất cả bệnh nhân, tất cả tù nhân ở
đây đều tắm ở cái chỗ cuối dòng nước chảy đó, hứng hết bao nhiêu rác
rưới dơ bẩn từ đầu nguồn đổ xuống. Tắm xong lên bờ không có gì lau. Trời
lạnh trời nóng gì cũng hụp xuống cái ao đó. Ăn uống xong không có nước
rửa chén bát. Thức ăn mỗi ngày không đầy bụng mà lại bỏ quá nhiều sức ra
để lao động—điều này là mầm bệnh lao lực, kiệt sức. Chuyện nấu nướng
của nhà bếp cũng phải xét lại. Tôi thấy anh nuôi của nhà bếp rửa rau, vo
gạo ngay tại cái hồ sen nuôi đầy cá tra với bông lau chuyên môn ăn phân
người đó. Anh thử nghĩ xem, vậy thì bệnh tật làm sao tránh khỏi. Không
phải chỉ những người nằm nơi bệnh xá này mới mang bệnh mà có thể là tất
cả tù nhân trong trại này đều có bệnh, nhiều hoặc ít. Đống hồ sơ bệnh án
dầy cộm của bệnh xá chứng minh điều đó. Tôi biết nói ra điều này cũng
chẳng thay đổi được gì vì nó nằm ở ngoài khả năng của anh, nhưng tôi
cũng cứ nói để anh thấy rõ phần nào cái tình trạng của bệnh xá. Không
phải tà khí hay ma quỉ gì đâu. Chỉ vì cái gì cũng thiếu mà thôi.”
Phong chớp đôi mắt, ngó lơ ra cửa một lúc rồi quay mặt vào, nhìn tôi một lúc, nói:
“Đúng là cái này nằm ngoài khả năng của tôi. Nhưng có
thể một ngày nào đó, tôi sẽ đề đạt ý kiến này lên ban quản trại để cải
thiện lại sinh hoạt trại giam… Anh nói cũng đúng, đa số các trường hợp
bệnh chết tại đây đều là đau bao tử, đau ruột, và nhất là kiệt sức. Có
nghĩa là có vấn đề trong chuyện vệ sinh và ăn uống, phải không? Cám ơn
anh phát biểu trung thực.”
“Còn một điều này nữa, không biết anh có để ý không:
những người bệnh kiệt sức chỉ còn trơ lại bộ xương, vậy mà khi nằm dưỡng
bệnh ở bệnh xá, họ cũng chỉ được phát phần cơm hay cháo ít hơn phần cơm
tiêu chuẩn của những người lao động bên ngoài. Điều này đúng theo cách
nói ‘tay làm hàm nhai,’ không lao động thì ăn ít; nhưng cũng không đúng
lắm trong trường hợp các bệnh nhân kiệt sức vì họ đang cần lấy lại sức,
phải tẩm bổ cho họ chứ. Nếu trại không cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho
họ thì ít nhất cũng cho họ ăn cơm hay cháo nhiều một chút. Đã có mấy
người kiệt sức, vào đây nằm, rồi chết. Chết thật vô lý. Tôi tin rằng nếu
cho họ ăn tương đối đầy đủ và được nghỉ dưỡng một thời gian thì tự dưng
họ hết bệnh.”
“Chuyện đó… bây giờ phải làm sao? Bệnh xá phải báo cáo hoặc làm đơn xin cấp dưỡng gì đó thì ở trên mới giải quyết được chứ.”
“Trước đây tôi thấy ông Cảnh có làm đơn xin thuốc men,
nhưng chưa hề thấy làm đơn xin cấp dưỡng thực phẩm cho các bệnh nhân
kiệt sức. Tôi không biết là nếu từ hôm nay, tôi làm đơn xin cấp dưỡng
thực phẩm với chữ ký chứng nhận của ban y tế, thì có cơ quan hay bộ phận
nào của trại cứu xét không?”
“Ô, ý kiến hay đó. Sẽ có ban lương thực của trại cứu xét cấp dưỡng.”
“Nhưng mà… làm như vậy lâu lắm. Đơn từ gởi đi rồi chờ
cứu xét, thực phẩm chưa kịp tới nơi thì bệnh nhân đã chết. Cho nên, tốt
hơn hết là ban lương thực của trại trích sẵn một số lượng thực phẩm đủ
loại nào đó trong mỗi tháng, đưa vào kho hậu cần của Khu; khi bệnh xá
gởi phiếu xin cấp dưỡng thì cầm tay đem qua văn phòng Khu—mất có hai
mươi bước; văn phòng Khu chứng nhận rồi cầm tay đưa xuống hậu cần—mất
bảy chục bước; ban hậu cần sẽ lãnh trách nhiệm mang thực phẩm cấp dưỡng
đó đến bệnh xá—mất năm chục bước. Như vậy chỉ trong vòng cao lắm là một
giờ đồng hồ, đơn xin cấp dưỡng đã có hiệu quả. Tôi không biết đề nghị
này có quá đáng, có thiếu thực tế lắm không? Anh nghĩ sao?”
“Được, chắc là được. Để tôi đề nghị. Tôi ghi nhận ý kiến của anh.”
Thấy Phong có vẻ sốt sắng chịu để ý đề nghị của mình, tôi hứng thú nói thêm:
“Tôi có thể tóm tắt ý kiến của tôi lần nữa không? Điều
này anh cũng như mọi người đều thấy rõ và cũng như tôi đã nói trước khi
nãy: phòng bệnh tốt hơn chữa bệnh. Bệnh xá trước đây chỉ lo việc chữa
bệnh chứ không bao giờ có một kế hoạch hay chương trình gì về chuyện
phòng bệnh. Cứ khi nào có người bệnh nặng sắp chết thì mới thấy cõng vào
bệnh xá, đến lúc ấy thì chuyện chữa trị đã trở thành muộn màng, khó
khăn, ít hi vọng. Ban y tế không bao giờ có cơ hội khám bệnh tổng quát
cho tù nhân. Buổi tối ban y tế đi dạo một vòng các phòng giam, chỉ hỏi:
‘Có ai bệnh hoạn gì cần khai báo hay xin thuốc uống không?’ Hỏi như vậy
đâu phải là khám. Bệnh nhân làm sao biết mình có bệnh gì mà khai. Có khi
họ mang trọng bệnh trong người mà không biết, cho đến khi bác sĩ phát
hiện được thì đã trầm trọng, quá trễ. Có người đang lao động ngoài trời
bỗng ho ói ra máu rồi mới đưa vào bệnh xá. Đâu phải là căn bệnh bắt đầu
từ lúc ói ra máu mà đã bộc phát từ trước đó nữa chứ, phải không? Cho
nên, ít nhất cũng phải tổ chức cho ban y tế có cơ hội khám bệnh tổng
quát cho mọi người mỗi tháng một lần, không thể khám một lần trong ngày
tất cả bệnh nhân thì chia ra từng đợt, ngày nào cũng có khám, mỗi ngày
khám cho một phòng giam thì mỗi tháng cũng khám được hết cho toàn trại…
Không hiểu chuyện đó có thể thực hiện được không?”
“Ý kiến hay lắm… Không biết sao trước đây chẳng ai nghĩ
tới vậy kìa!” Nói câu ấy rồi, Phong có vẻ như thấy rằng mình vừa lỡ
lời, liền chữa lại. “Thực ra kế hoạch y tế của nhà nước ta lúc nào cũng
quan tâm đến chuyện phòng và chữa bệnh, cũng như việc khám bệnh tổng
quát cho nhân dân hàng ngày hàng tháng đó chớ, chỉ có điều là chưa hề áp
dụng cho trại cải tạo đó thôi.”
Tôi cười nói:
“Chuyện anh nói là chuyện của các thành phố thôi. Nhưng
không phải ai cũng có sổ khám bệnh; mà dù cho có sổ khám bệnh đi nữa,
cũng xếp hàng suốt ngày để được khám, rồi được phát một bọc xuyên tâm
liên chứ có thuốc gì khác hơn đâu. Bệnh gì cũng uống xuyên tâm liên,
thuốc trị bá bệnh đó mà. Còn nữa, ở các vùng kinh tế mới không có bệnh
viện, bệnh xá hay trạm y tế gì cả. Mỗi lần có bệnh gì phải lội bộ cả
chục cây số mới đến được một trạm y tế nhỏ. Tóm lại là vấn đề y tế của
nước mình còn yếu kém quá cho nên không trách gì các trại cải tạo, phải
chịu vậy thôi! Tôi góp ý nhưng nghèo quá thì cũng chẳng thực hiện được
đâu.”
“Được chứ, được chứ, phải khắc phục được hết.”
Nói rồi, Phong có vẻ ưu tư suy nghĩ một lúc, rời bệnh xá. Hôm sau, Phong trở lại, vui vẻ nói với tôi:
“Anh có thể làm đơn xin cấp dưỡng cho những người bị
kiệt sức rồi đó. Đây nè, có một số loại trái cây, thịt, cá, lúa, bắp,
đậu… mà trại có thể cung cấp, ngoài số này thì phải chờ lâu một chút, vì
những thứ kê khai nơi đây là trại có sản xuất. Anh dựa theo cái danh
sách này mà viết đơn nghe. Đơn viết xong, đưa ban y tế duyệt ký rồi đưa
qua văn phòng Khu, ở đó có tôi ký rồi anh có thể mang thẳng xuống kho
hậu cần. Dĩ nhiên không phải lúc nào tôi cũng có mặt ở văn phòng Khu
nhưng nội trong ngày, thế nào cũng có tôi ở đó hoặc ở đây. Nhớ nhé. Công
việc này tôi tin tưởng mà để anh làm chứ chưa chắc người khác tôi đã
đồng ý đâu. Còn chuyện khám bệnh cho toàn trại thì ở trên đang còn
nghiên cứu kế hoạch thực hiện. Tôi hy vọng sẽ được duyệt xét.”
Kể từ hôm đó, bệnh xá có vẻ có sinh khí hơn. Các người
bệnh nặng được chăm sóc kỹ lưỡng. Mấy anh kiệt sức đều được tẩm bổ thịt,
cá, trái cây, bột. Mặc dù phần cấp dưỡng ấy chẳng là bao, nhưng có còn
hơn không. Bệnh xá tạm thời cứu sống được một số bệnh nhân èo uột chỉ
còn trơ lại bộ xương. Những bệnh nhân này đều không có hoặc chưa có quà
thăm nuôi của gia đình từ lâu. Không phải chỉ những người kiệt sức được
cấp dưỡng theo phiếu đề nghị mà cả những bệnh nhân khác trong bệnh xá
đều được nhận phần cơm hay cháo nhiều hơn. Ngoài ra, mỗi tuần anh nuôi
hậu cần đều có mang vào bệnh xá một thúng trái cây giao tôi chia đều cho
các bệnh nhân. Thường thường là đu đủ và cam chín rụng hoặc sắp hư hay
bán không hết, nhặt từ vườn cây trái và nhà hàng của trại—mà trước đây
đem đổ hay bán tháo ở đâu không biết, bây giờ dành cho bệnh xá. Điều này
chưa hề xảy ra trong quá khứ. Tôi nghĩ có lẽ lời tôi đề nghị với Phong
đã có kết quả. Kết quả không phải là cải cách lớn lao gì lắm, nhưng dù
sao, tôi hy vọng rằng đây sẽ trở thành một tiền lệ sáng sủa hơn cho bệnh
xá. Vả lại, cái chuyện bé xíu ấy xét cho cùng thì cũng khai thác được
chỗ dụng cho những trái cây và thực phẩm thặng dư của trại. Những trái
cây và thực phẩm cấp dưỡng ấy có bầm dập hay meo mốc đến mức nào đi nữa
thì xem ra vẫn còn chút tươi mát, chút sinh khí dinh dưỡng, dễ nhìn và
lôi cuốn hơn những anh chàng bệnh nhân ốm đói của bệnh xá.
Ó
Từ khi ông Cảnh được về, danh sách bệnh nhân nan y cần
được trả tự do để chữa trị—còn lại mấy chục người chưa cứu xét—bỗng dưng
đứng khựng lại, cơ hồ không còn dấu hiệu gì là sẽ được đá động tới. Tôi
không còn chút hy vọng gì về danh sách ấy nữa, chỉ biết sống và làm
việc từng ngày trong trách nhiệm của mình nơi bệnh xá. Nhưng ông Trợ thì
chưa chịu thua, mỗi lần thấy tôi ngồi im lặng nơi bàn giấy của bệnh xá,
ông trờ tới, lại an ủi:
“Chắc đang còn cứu xét, vì số người chưa được cứu xét đa phần là tù nhân vượt biên và chính trị, phải chậm hơn chứ.”
Tôi chỉ cười, không có ý kiến gì. Nhưng ngay ngày hôm
sau, bỗng thấy một ông già cán bộ mặc sắc phục xanh của công an, theo
Phong vào bệnh xá, ra lệnh tất cả bệnh nhân có tên trong danh sách bệnh
nan y và cả những bệnh nhân đang nằm điều trị tại bệnh xá, tập trung tại
văn phòng, để ông già ấy khám bệnh. Ông Trợ gọi ông ấy là cán bộ bác sĩ.
Chẳng biết bác sĩ già này tốt nghiệp trường lớp nào mà cách khám bệnh
coi mòi khá đơn giản, nhanh chóng, lẹ tay, ít mất thì giờ, e có thể so
được với Tuệ Tĩnh hay Hoa Đà. Ông chỉ sử dụng cái ống nghe, đặt nơi vùng
ngực vài chỗ, vùng lưng vài chỗ, là đã có thể ghi được bệnh. Vâng, bệnh
gì cũng vậy, cũng chỉ nghe là có thể luận được rồi. Ông cũng chẳng cần
bảo bệnh nhân hít mạnh thở sâu, thở vào thở ra gì cả. Vọng, văn, vấn, thiết
(nhìn, nghe, hỏi, bắt mạch—bốn phương cách chẩn bệnh của y sĩ), ông chỉ
sử dụng “văn” theo cái nghĩa là nghe bằng ống nghe của ngành y học Tây
phương chứ không phải “văn” là thăm dò thanh âm giọng nói của bệnh nhân
cũng như những lời tự khai về triệu chứng của chính bệnh nhân ấy. Cái
ống nghe đối với ông cán bộ già này có vẻ như là cây đèn thần, chiêc đũa
tiên, hay viên ngọc như ý. Dường như với ông, chức năng của ống nghe
không phải là nghe bệnh mà là chữa bệnh. Vâng, xem cách ông trân trọng
“cung thỉnh” cái ống nghe từ trong hộp đồ nghề y khoa ra, người ta có
cảm tưởng là ông sắp ra tay cứu độ bệnh nhân, tiêu diệt các căn bệnh
hiểm nghèo. Cũng không có gì trách ông, vì trên thực tế, dụng cụ y khoa
rất hiếm: ống nghe chỉ dành cho cán bộ y tế cao cấp và các bác sĩ. Bởi
hiếm hoi, nó được xem như là một trong những vật biểu trưng sáng chói
của nền văn minh và tiến bộ nhảy vọt của chế độ xã hội chủ nghĩa; móc nó
vào cổ thì tự dưng con người trở nên sáng giá, cao kỳ, vĩ đại hơn lên.
Khám đến tôi, ông già đặt cái “dĩa nghe” (tôi tạm gọi
cái vật tròn tròn nơi ống nghe của y sĩ như vậy vì thực chẳng biết thuật
ngữ chuyên môn y khoa gọi nó thế nào), nơi ngực tôi một lúc thì có vẻ
ngạc nhiên, tỏ vẻ khó hiểu, ngước nhìn tôi một cái, rồi cúi xuống lắng
nghe trở lại. Hình như ông không nghe gì cả. Ông tháo ống nghe ra khỏi
tai, nhìn hồ sơ bệnh án của tôi do ông Trợ chẩn đoán trước đó; rồi ông
đặt ống nghe vào tai trở lại, bảo tôi hít thở sâu. Tôi làm theo lời ông,
hít thở thật mạnh. Ông vẫn không nghe gì thì phải. Tôi biết lúc ấy trái
tim của tôi nó không chịu đập. Nó đứng yên không nhúc nhích gì cả như
nó đã từng làm như vậy nhiều lần trước đây. Ông giật mình gỡ hai tuýp
nghe ra khỏi tai, đưa một tay lên sờ trên ngực tôi:
“Lạ nhỉ, trái tim anh này nó không đập! Hít thở đều coi nào, hít mạnh, thở mạnh! Kỳ khôi thế nhỉ!”
“Báo cáo cán bộ, anh ấy bị lớn tim… cái van tim bị chèn hay là bị hở đấy ạ,” ông Trợ đứng bên liền nói vào.
Ông cán bộ già gật gù vừa nói vừa lấy viết ghi mấy chữ vào cuốn sổ mới do Phong cung cấp cho ông:
“Tôi biết mà, nghe qua là tôi biết ngay.”
Sau khi ông cán bộ y tế già đích thân khám bệnh cho bệnh
nhân ở bệnh xá, Phong ôm luôn cuốn hồ sơ bệnh do ông cán bộ già ghi,
cùng ông rời khỏi bệnh xá. Từ hôm đó, bệnh xá im lìm, không có sự cố gì
xảy ra ngoài việc đón nhận và chăm sóc một anh tù chính trị tên là Nam,
bị cán bộ, công nhân và cai tù đánh ngất xỉu trước sân trại. Nam được
đưa vào nằm ở bệnh xá từ buổi trưa, đến chiều tối thì tắt thở. Cái chết
của Nam gây dư luận xôn xao trong trại khiến cho ban quản trại e dè, ra
chỉ thị ngăn cấm bàn tán, rồi còn dặn dò phải khai báo như thế nào nếu
có cán bộ tỉnh vào điều tra. Công việc lập biên bản tử vong đáng ra là
công việc của ông Trợ và tôi thì lại để cho ông cán bộ y tế già và người
phụ tá của ông thực hiện. Xác của Nam thay vì để ở bệnh xá thì đem ra
văn phòng Khu để chờ cán bộ y tế tỉnh vào khám nghiệm.
Buổi tối hôm ấy, vào giờ báo nghiêm, trong khi bệnh
nhân chúng tôi đã lên giường và bị xích chân vào cùm sắt để ngủ thì
Phong vội vã bước vào, bảo mở cùm cho tôi ra, đến làm việc tại văn phòng
của bệnh xá. Phong đưa tôi bản sao (bằng tay) đơn xin cứu xét những
bệnh nhân nan y của đợt trước (trong số đó có một số người chưa được cứu
xét trả tự do) cùng với cuốn sổ bệnh mới mà ông cán bộ y tế già vừa mới
lập, bảo tôi làm một đơn xin cứu xét kèm danh sách mới. Danh sách này
dựa theo danh sách đợt trước, loại trừ những người đã được về, giữ lại
những người chưa được cứu xét và thêm một số tên mới. Và dĩ nhiên là tên
tôi, một lần nữa được ghi vào. Phong cho thời hạn là trong vòng đêm nay
phải làm xong để sáng sớm ngày mai anh mang đi. Danh sách bệnh nhân
tổng cộng gần một trăm bốn mươi người, ghi rõ tên họ, tuổi tác, sinh
quán, nguyên quán, nghề nghiệp, tội trạng, căn bệnh… của mỗi người. Có
một số tên ở đâu lạ lắm, không thuộc số bệnh nhân đang nằm điều trị ở
bệnh xá này. Tôi nghĩ có lẽ họ ở bệnh xá của các Khu khác. Làm xong bản
danh sách lại phải sao thêm hai bản khác, sao bằng tay.
Trong khi tôi đang ngồi lập bản danh sách gốc, Phong
hãy còn đi qua đi lại hoặc ngồi nói chuyện với ông Trợ để chờ đợi. Thấy
công việc không thể xong ngay, Phong bước đến chỗ tôi, ngồi im nhìn tôi
làm việc một lúc rồi nói, giọng nhỏ, vừa cho tôi nghe:
“Những gì anh nói với tôi trước đây, tôi thấy đúng lắm,
nhưng trong khả năng của tôi, tôi cũng chẳng làm được gì để cải thiện
nổi. Chỉ còn cách là đề nghị cứu xét tạm tha, tạm tha hết những người
bệnh nặng thì may ra tránh được những cái chết vô lý. Cái chết của anh
Nam mấy ngày trước… anh Khang có chứng kiến không?”
Ngừng bút, mắt không ngước lên, tôi nói:
“Tôi còn bị bắt buộc phải chứng kiến cảnh người ta dùng
roi để đánh anh Nam nữa kia. Đánh cho đến ngất xỉu, đem nước lạnh dội
cho tỉnh lại, rồi đánh tiếp. Tám người cầm roi vây đánh một người bị
còng tay. Tôi không hiểu ban quản trại muốn gởi đến tù nhân chúng tôi
cái thông điệp gì đây.”
“Lúc đó tôi đang lo họp về vụ bệnh nhân của bệnh xá,
không có ở đây. Vả lại, đó là việc của ban quản giáo và ban chỉ huy Khu,
tôi không can dự. Nhưng tôi cũng hoàn toàn không đồng ý chuyện xử phạt
tù nhân trốn trại bằng cách đó. Dã man quá. Đó, rồi anh Khang cũng biết,
thêm một người chết trong bệnh xá làm cho tôi lại mang tiếng. Thực ra
anh Nam đâu phải là bệnh nhân của bệnh xá. Tôi kiện lắm ban quản trại
mới đem xác anh ấy ra văn phòng ban Chỉ huy Khu đó.”
Phong vừa nói đến đó thì ông Trợ bước vào, kéo ghế ngồi cạnh tôi, nói:
“Để tôi đọc giúp anh cho nhanh nhé.”
Phong ngồi một lúc rồi đứng dậy, bước ra, ngang chỗ tôi ngồi, Phong đứng lại, vừa nói vừa cười:
“Anh Khang này giỏi lắm nghe, phải không ông Trợ? Làm việc gì cũng tận tâm, hết mình, mà lại nhanh chóng nữa.”
“Báo cáo cán bộ, đúng vậy đó, anh ấy giỏi lắm. Ở bệnh
xá này, bệnh nhân thương quý anh ấy hơn cả tôi và mấy y sĩ ở đây nữa
kia.”
Phong vỗ vai tôi, cười, rồi nói:
“Mai này có về đừng ăn chay nữa nghe. Ăn chay hoài làm sao đủ sức khỏe, cho nên mới bệnh đó, phải không?”
Nói rồi, Phong rời bệnh xá. Câu nói của Phong dù không
có gì chắc chắn lắm, nhưng cũng gợi ý cho tôi ít nhiều cái viễn cảnh
tươi đẹp của tự do, trả lại cho tôi niềm hy vọng đã chìm mất từ những
ngày trước.
Trước lễ Giáng Sinh hai ngày, trong khi tôi đang ngồi ở
bệnh xá thì Lộc bước vào, tay cầm một tờ giấy. Thấy tôi, Lộc mừng lắm,
reo lên:
“A, anh Khang, anh lúc này khỏe không? Trời ơi, em có
nghe nói là bây giờ anh làm thư ký bệnh xá mà chưa có dịp nào ghé thăm
anh. Bận quá anh Khang ơi. À, có cái danh sách này, ông Liệt giao em đi
lấy mấy người ở bệnh xá, vậy anh Khang đọc dùm em đi, em đâu có biết
chữ.”
Tôi cầm tờ giấy. Lộc vỗ tay ba tiếng bảo bệnh xá im lặng:
“Lắng nghe nè, ai có tên thì mang đồ đạc cá nhân tập trung ở văn phòng ban Chỉ huy Khu. Rồi, đọc đi anh Khang.”
Tôi đọc lớn. Danh sách có tên tôi. Lộc nghe thì giật mình, hỏi:
“Vĩnh Khang là tên anh, phải không?”
“Ừ.”
“Mẹ bà tụi nó! Anh Khang như vầy mà…”
Ông Trợ nghe vậy thì bước tới, hỏi dồn:
“Danh sách này là danh sách gì vậy anh Lộc? Nói tôi nghe đi. Cho về hay là đi đâu vậy?”
Lộc ngập ngừng một lúc rồi nói:
“Đâu phải danh sách về! Đây là danh sách vô nằm nhà đá đó!”
“Úy trời, vậy thì không được! Tôi không cho các anh lấy
anh Khang đi đâu. Anh ấy bị bệnh tim nặng lắm, có cán bộ y tế của trại
chứng nhận mà, không đi nhà đá được đâu. Đi lần này là chết chắc! Tôi
nói rồi đó, tôi không chịu trách nhiệm đâu nghen. Hay là anh trình cho
cán bộ Phong biết ngay đi để cán bộ Phong can thiệp. Cán bộ Phong cũng
biết anh Khang bệnh mà.”
Lộc nghe vậy thì cũng mừng, nói:
“Được rồi, được rồi, có lý do như vậy thì tốt, để tôi
báo cáo lên là anh Khang bệnh nặng không thể vào nhà đá, có ban y tế xác
nhận.”
Vậy là tôi không phải vào nhà đá. Ông Trợ nói rằng danh
sách bệnh nhân nan y đang chờ cứu xét, nếu tôi vào nhà đá thì không có
cơ hội để được nghe đọc lệnh tạm tha—có thể là trong những ngày sắp tới.
Người ta không bao giờ trả tự do cho những phần tử đang bị giam ở nhà
đá bao giờ.
Và trong khi mấy chục người bị lùa vào nhà đá trong dịp
lễ Giáng Sinh thì vài ngày sau đó, khoảng gần năm mươi người ở bệnh xá
và Khu C được gọi tên lên văn phòng ban chỉ huy Khu để nhận lệnh tạm
tha; và lại không có tên tôi… Cả ông Trợ cũng được về trong đợt này dù
rằng ông không có trong danh sách bệnh nan y. Bàn giao công việc của
bệnh xá cho anh Oai và ông Mậu xong, ông Trợ nói riêng với tôi ở văn
phòng bệnh xá, lại với giọng an ủi:
“Danh sách kỳ này một trăm bốn mươi người, anh biết rồi
đó, hôm nay cho về chưa tới năm mươi, vậy thì vẫn còn cơ hội. Chắc là
nay mai thôi. Anh sẽ về đó, tin tôi đi. Thôi, tôi về trước nghe.”
“Nhưng… xin hỏi chú một câu chót: có thực là tôi bị bệnh tim không?”
“Ư… thực ra thì tôi không biết anh bị bệnh gì, chỉ thấy
là quanh vùng tim có tiếng lạ lắm, không giống như người khác. Đại khái
là có cái gì bất thường nơi trái tim anh đó. Cái dấu hiệu đó giống như
là bị hở van tim, mà có khi lại giống như là bị nghẽn van… khó nói lắm.
Tôi chịu thua. Nhưng tốt hơn là cứ kết luận là bị đau tim để phòng ngừa
chuyện anh làm việc nặng hay xúc động mạnh mà bị chết bất đắc kỳ tử.”
Tôi cám ơn ông đã giúp tôi trong thời gian qua. Ông cười, nói:
“Có gì đâu. Anh em cùng hội cùng thuyền thì giúp nhau
thôi mà. Vả lại, anh bệnh thì tôi khám, tôi chữa, đó là công việc của
tôi, có gì đặc biệt đâu mà cám ơn.”
Nói rồi ông vẫy tay, bước ra. Tôi không rõ ‘cùng hội
cùng thuyền’ là như thế nào. Ông bị tù vì vượt biên, tôi bị tù vì hoạt
động chính trị. Ông ấy là y sĩ, tôi là tu sĩ. Cùng cái hội nào, cùng cái
thuyền nào? Cái hội tù nhân, cái thuyền K4 hay cái hội nhân dân trong
cái thuyền Việt Nam… thì ai lại chẳng cùng. Thôi thì cứ ghi nhận. Cám ơn
ông, một y sĩ xoàng nhưng có lương tâm, một hộ pháp thiện thần hiện
thân để cứu giúp tôi suốt nhiều tháng qua.
Ông Trợ về rồi, Phong cắt Oai thay thế làm trưởng ban y
tế của bệnh xá Khu C. Anh Oai bị bắt vì tội vượt biên. Anh khai là y tá
của chế độ trước, nhưng nhìn cách anh chữa bệnh, tôi không nghĩ anh chỉ
là y tá. Cỡ ông Nguyên ông Mậu so với anh Oai thì chẳng ra làm sao cả.
Đến anh Oai này mới thật là y sĩ giỏi. Bao nhiêu căn bệnh khó trị mà ông
Trợ bó tay để bệnh nhân nằm ì tại bệnh xá, anh Oai xăn tay chữa hết.
Anh nhờ tôi làm đơn xin cấp một số thuốc tây đặc biệt để trị các căn
bệnh hiểm nghèo. Trong đơn xin cấp thuốc, anh cũng cần thuốc gây mê và
các dụng cụ giải phẫu. Các loại thuốc khác đều được cung ứng theo nhu
cầu của bệnh xá, ngoại trừ thuốc tê và dụng cụ đặc biệt cho ngành giải
phẫu. Có lẽ ban quản trại sợ nhân viên bệnh xá dùng thuốc mê và các dụng
cụ bén nhọn này để ám sát cán bộ (?). Cho nên, anh chàng bị sạn bàng
quang sau khi được anh Oai cho uống loại thuốc gì đó để tống hòn sạn
theo đường tiểu ra đầu dương vật, đã nằm rên la thảm thiết đến độ không
ai trong bệnh xá mà cầm lòng cho được. Anh Oai, hỏi bệnh nhân có chịu
cho giải phẫu không có thuốc tê không. Anh kia đau quá nhận lời đại. Vậy
là theo sự hướng dẫn của anh Oai, bệnh nhân cởi quần ra, đứng dưới đất,
một chân gác lên mép giường, không một mũi thuốc tê nào, chịu đựng cho
anh Oai dùng lưỡi dao mổ duy nhất của bệnh xá, nhúng cồn để tẩy trùng
rồi xẻ đầu dương vật, lôi ra hòn sạn to bằng đầu ngón tay giữa. Lôi sạn
ra rồi, anh Oai còn dùng kim chỉ để khâu đầu dương vật của bệnh nhân
lại. Không một chút thuốc tê nào!
Một tuần sau khi ông Trợ về thì đến Tết dương lịch của
năm 1987. Dịp này, lại thêm một đợt thả tù bệnh nan y, giải quyết gần
hết cái danh sách sau cùng mà Phong bảo bệnh xá thực hiện. Nhưng vẫn
chưa có tên tôi. Những người chưa được cứu xét còn lại trong bệnh xá là
những người tù chính trị và án nặng. Điều này ngoài Phong và ban quản
trại ra, có lẽ chỉ có mình tôi là người thấy rõ, vì chính tay tôi viết
và sao danh sách cứu xét (có giữ lại một bản cho bệnh xá). Tù chính trị
và án nặng thì khó được trả tự do. Tôi đã nghĩ đến điều ấy trước đây
nhưng đến lúc này, sau nhiều đợt tha có tính cách chắt lọc thành phần tù
án nhẹ và chừa lại thành phần tù án nặng, tôi mới thấy sự kiện một cách
rõ rệt hơn. Niềm hy vọng của tôi càng lúc càng giảm nhiều.
Hôm sau, Phong cùng bốn tù nhân mang vào văn phòng bệnh
xá một cái cân lớn và bốn, năm thùng cạc-tông chất đầy những cuốn sổ
khám bệnh cá nhân (loại này nhà nước có in sẵn để phát cho nhân dân có
hộ khẩu chính thức đi khám bệnh ở các bệnh viện công). Phong cười, nheo
mắt riêng với tôi rồi giao cho thư ký bệnh xá lập sổ bệnh cho tất cả tù
nhân của trại. Công việc văn phòng bệnh xá từ hôm ấy là đón nhận từng
đoàn tù nhân ở các phòng giam xếp hàng bước vào để lập sổ bệnh riêng cho
mỗi người. Sổ khám bệnh ghi tên tuổi và lý lịch tổng quát của mỗi người
kèm theo tội trạng của họ. Chúng tôi cũng lo việc cân sức nặng và đo
chiều cao của mỗi người rồi ghi vào sổ của họ, phát sổ ấy cho mỗi người
giữ lấy. Công việc ấy không cần tới anh Oai và ông Mậu mà do tôi và vài
bệnh nhân biết chữ khác đảm trách. Tôi vui vẻ làm công việc này suốt cả
ngày cho tới tối gần giờ báo nghiêm mới nghỉ mà không biết mệt.
Buổi tối nằm trong cùm, nghĩ tới anh cán bộ miền Nam
cởi mở như Phong, tôi có giả thiết rằng nếu những người cầm quyền hiện
nay biết gạt bỏ chuyện chủ nghĩa, ý thức hệ, đảng phái… qua một bên,
biết lắng nghe và tiếp nhận ý kiến đóng góp của người dân trong việc xây
dựng và kiến thiết xứ sở… thì đất nước này đâu đến nỗi phải suy vong
lụn bại như thế này. Tôi luôn luôn có cảm nghĩ rằng đất nước tôi không
phải là mảnh đất thích hợp để gieo trồng duy nhất một loại hạt giống nào
đó, nhất là loại hạt giống mang khả tính hủy diệt các hạt giống khác
loại với nó. Vậy mà người ta cứ hăm hở xun xoe rước về những hạt giống
xấu đã từng tàn phá những mảnh đất màu mỡ của vườn khác, đem về đây mà
phá hoại vườn nhà. Càng phá hoại và làm đau khổ kẻ khác nhiều chừng nào,
người ta càng vun bón làm giàu thêm chất tưởng tượng siêu phàm vô địch
trong đầu họ chừng nấy, để rồi cứ bập bềnh trong giấc mộng hãnh tiến,
không bao giờ chịu nhìn lui, nhìn lại, nhìn xuống, nhìn ngay, nhìn
trước… chỉ có nhìn lên mà thôi. Vâng, nhìn lên thật cao, cái đỉnh cao
chót vót của nền văn minh duy vật đã đánh bại tất cả các nền văn minh cổ
xưa hay hiện đại của thế giới! Và thời đại hôm nay mà chúng tôi đang
sống là thời đại thăng hoa vượt bực của diều giấy mộng tưởng. Trong khi
các vệ tinh nhân tạo đã có thể bay vòng vòng chung quanh trái đất và các
phi thuyền đang nhắm vào các vì tinh tú xa xăm thì nơi đây, chúng tôi
vác búa liềm và cuốc rựa lên vai, miệng đồng loạt mỉm cười, hân hoan,
tin tưởng, tự hào: phóng lên trời cao tất cả tinh hoa trí tuệ của một
dân tộc may mắn được sự hướng dẫn của Bác-Đảng, phấp phới hồ hởi theo
đôi cánh tung hoành ngạo nghễ của con diều giấy vô địch. Ôi là mộng
tưởng ấu thời! Ôi là vinh quang chói lọi của ngọn cờ bách chiến bách
thắng!
Ó
Buổi sáng của ngày kế tiếp, ban y tế chúng tôi tiếp tục
cân đo và lập sổ bệnh cho nhiều tù nhân từ các Khu khác kéo về. Văn
phòng bệnh xá chật chội, chúng tôi khiêng bàn và cái cân ra ngoài sân.
Phong đem đến thêm một cái cân khác và vài sợi thước dây (dùng đo vòng
ngực bệnh nhân) để chúng tôi làm việc nhanh hơn. Và trong khi chúng tôi
đang cặm cụi làm công việc ấy thì Phong đang sắp xếp những bệnh nhân đã
có sổ bệnh bước vào một căn phòng nằm xéo góc với văn phòng bệnh xá, đối
diện văn phòng ban chỉ huy Khu. Tôi không hiểu có gì xảy ra ở đó. Mãi
đến khi lập xong hết sổ bệnh, tôi mới biết rằng mọi tù nhân đều phải xếp
hàng để vào căn phòng đó, có các bác sĩ của tỉnh Đồng Nai từ Thủ Đức
tới khám bệnh. Các vị bác sĩ này hiện đang làm việc ở một bệnh viện lớn
nhất của tỉnh. Họ gồm mười ba người, mười bác sĩ và ba người khác là y
tá lo ghi chép lập hồ sơ bệnh, hầu hết trẻ tuổi. Riêng bác sĩ trưởng thì
cao tuổi nhất nhưng cũng chỉ đâu chừng trên dưới năm mươi.
Trong khi sắp xếp cho bệnh nhân đang điều trị tại bệnh
xá xếp hàng vào khám, tôi nghe vị bác sĩ trưởng nói chuyện với Phong
bằng giọng Huế. Bỗng dưng một cảm giác thân mật, gần gũi nào đó bừng dậy
trong tôi. Đã lâu lắm rồi tôi không nghe được cái giọng Huế nhỏ nhẹ dễ
thương. Cái giọng Huế ấy sao mà giống cái giọng của ba tôi. Ở nhà tôi,
chỉ có ba người nói tiếng Huế là ba tôi và hai chị lớn. Nhưng trong cái
kho tàng ký ức của tôi, dường như chỉ có cái giọng Huế nhỏ nhẹ của ba
tôi là tràn đầy và còn có thể gợi nhớ, còn có thể mường tượng ra được,
bởi vì ngoài thì giờ làm việc ở sở, ba tôi dành rất nhiều thời giờ còn
lại của ông để nựng nịu và nói lời thương yêu với từng đứa con trong
nhà.
Đến lượt bác sĩ trưởng rảnh tay thì đúng lúc tôi bước vào. Vừa ra dấu tôi ngồi xuống giường, bác sĩ xem sổ bệnh.
“Tên là Vĩnh Khang à?”
Tôi chỉ gật đầu. Bác sĩ nhìn xuống phần lý lịch cá nhân,
hơi giật mình ngạc nhiên một lúc rồi mặt ông thoáng hiện vẻ xúc động.
Một lúc, ông lại hỏi nhỏ:
“Nghề nghiệp để là tu sĩ, vậy tu sĩ ở chùa hay tu sĩ ở nhà thờ đây?”
“Thưa, ở chùa.”
“Tội PCM là gì vậy?”
“Thưa, phản cách mạng.”
Bác sĩ im lặng, có vẻ ưu tư. Một lúc, ông xăn tay, cầm ống nghe lên, hỏi:
“Trong sổ ghi là bệnh đau tim, vậy đó là do ban y tế của trại khám hay do có bệnh từ trước mà biết?”
“Bác sĩ của trại khám nhiều lần đều cho là đau tim.”
“Có biết vì nguyên do nào không? Chẳng hạn trước khi vào đây, hay lúc nhỏ, có bị đau tim hay yếu tim sẵn không?”
“Tôi không nhớ, nhưng… có lần tôi bị người ta đánh đập,
một người đạp mạnh vào ngay tim, chỗ này.” (Tôi nhớ trận đòn vượt biên ở
Vạn Giã mà từ sau ngày đó, giọng nói và nhịp thở của tôi không còn mạnh
mẽ như hồi thiếu niên nữa.)
Bác sĩ có vẻ xúc động mạnh, đưa mặt sát về hướng tôi một tí, hỏi nhỏ:
“Sao người ta lại đánh đập vậy?”
Có lẽ ông tưởng rằng tôi bị cán bộ hay cai tù đánh.
“Không có chuyện gì đâu. Đó là chuyện trước khi vào đây.”
“Thôi nằm xuống đi, thở mạnh, thở mạnh… Được rồi, được rồi, ngồi dậy đi.”
Ông ghi gì đó vào cuốn sổ bệnh của tôi rồi đem qua đưa
cho Phong, hai người nói qua nói lại to nhỏ với nhau gì đó, tôi không
nghe được. Tôi có ý đứng lại chờ đợi kết quả chẩn bệnh, nhưng Phong bước
tới nói:
“Anh về lại bệnh xá được rồi.”
Tôi bước ra. Một lúc, Phong đến bệnh xá:
“Anh Khang, anh có thể lên phòng khám bệnh giúp làm thư
ký cho bác sĩ trưởng, được không? Vì trên đó ba thư ký cho mười bác sĩ,
không đủ. Bác sĩ trưởng cần xin một người làm thư ký riêng cho ổng. Anh
lên đi há, giúp dùm đi cho nhanh.”
Tôi vội lên phòng khám. Từ đó tôi ngồi cạnh bác sĩ
trưởng cho đến khi ông khám xong những bệnh nhân cuối cùng. Trong lúc
đang làm việc, ở một góc bàn khác có hai anh công an một anh đọc hồ sơ
bệnh, một anh đang đánh máy. Hình như là các hồ sơ bệnh nặng đều tập
trung vào cái bàn của hai anh công an này. Tôi nghe một anh đọc lớn tên
tôi, tôi giật mình quay lại. Phong đứng gần đó cũng quay nhìn về hướng
hai anh công an kia, rồi lật đật chạy tới, nói nhỏ nhưng tôi đoán nghe
được:
“Xuỵt, đọc nhỏ, có người này ở đây.”
Vậy là phần bệnh trạng của tôi do bác sĩ trưởng xác
nhận, họ không muốn cho tôi nghe. Cái phần đó là phần quyết định. Tôi
đoán rằng trại muốn trả tự do cho những tù nhân có bệnh nan y nhưng vì
trong số này có tù chính trị án nặng nên trại phải mời các bác sĩ của
bệnh viện tỉnh vào khám để dựa vào sự xác nhận của các bác sĩ này mà thả
tù.
Buổi chiều, khi việc khám bệnh xong xuôi, bác sĩ trưởng
quay qua bắt tay tôi và nói lời cám ơn. Tôi cũng cám ơn ông lần nữa. Ông
nói với Phong:
“Thư ký bệnh xá này giỏi quá, các ký hiệu y khoa đều
biết hết trơn! Giống như người học ngành y khoa vậy!” (Thực ra cách ghi
các ký hiệu vắn tắt này, tôi chỉ mới học lóm được một ít từ anh Oai chứ
chẳng biết gì khá hơn).
Phong cười có vẻ thích chí lắm, nói:
“Giỏi chớ. Tôi biết anh ấy giỏi mới kêu lên đây đó.”
Tôi còn tần ngần đứng chờ Phong đưa trở về bệnh xá (vì
tôi không thể tự động đi một mình ở trong trại) thì bác sĩ trưởng nhân
lúc Phong quay qua hướng dẫn hai anh công an kia làm việc, lại vỗ vai
tôi, nói nhỏ:
“Về được thầy nhớ đi khám bệnh, bảo người ta đo điện tâm đồ để biết rõ thêm căn bệnh nhé. Chúc thầy may mắn.”
Ó
Thứ hai ngày 05-01-1987, hai hôm sau ngày tổng khám, hơn
một trăm bệnh nhân được trả tự do. Nhiều bệnh nhân không có tên trong
danh sách bệnh nan y do ban y tế bệnh xá lập trước đây mà do mười bác sĩ
của bệnh viện tỉnh mới chứng nhận trong đợt tổng khám. Thật là một ngày
đại xá vui vẻ chưa từng thấy ở trại giam. Tôi hồi hộp chờ nghe tên mình
suốt cái danh sách dài, vẫn không thấy. Tôi chưa được tự do.
Thằng bé tên Bảy, mười tám tuổi, nhỏ con và khẳng khiu
như một con nai con, là một bệnh nhân bị kiệt sức nằm lâu ở bệnh xá,
được gọi tên thì mừng quýnh lên, nhảy cỡn một lúc rồi chạy tới ôm chầm
lấy tôi, cười nói:
“Anh Khang ơi, em được về rồi, em được về rồi!”
Tôi sung sướng nhìn Bảy, xoa đầu nó. Nó nhón lên hôn nơi má, nói:
“Cám ơn anh Khang nhiều lắm nghe, em về trước, anh về sau há!”
Vậy rồi khi ra xếp hàng ngoài sân chờ vào văn phòng ban
chỉ huy Khu để nhận giấy tha, Bảy ngất xỉu, chúng tôi phải cõng em vào
bệnh xá. Anh Oai nói Bảy bị kiệt sức lại bị xúc động mạnh, rồi đứng xếp
hàng chờ lâu ngoài nắng nên chịu không nổi, phải cho em ở lại bệnh xá
bồi dưỡng vài ngày trước khi về. Tôi cấp tốc viết phiếu xin cấp dưỡng
cho em. Nhưng buổi chiều cùng ngày, sau khi ăn xong phần cháo nấu với
khoai tây và thịt bằm, em nằm một lúc thì tự dưng rùng mình, nói mệt,
mệt lắm. Anh Oai đến khám, nói mạch đập em yếu hết sức, chắc là không
qua nổi. Tôi nghe vậy thì tức muốn khóc. Đã được tha rồi mà còn về không
được nữa sao, Bảy ơi, cái nghiệp gì mà nặng quá vậy! Tôi ngồi bên cạnh
Bảy, chẳng biết làm gì khác hơn là cầu nguyện cho em. Một lúc, Bảy nắm
lấy tay tôi, nói thì thào:
“Anh Khang ơi, sao anh tốt với em quá vậy?”
Tôi ngăn em, nói:
“Nghỉ ngơi, đừng nói nhiều mất sức. Cầu nguyện đi.”
“Có, em có cầu nguyện Chúa đó anh Khang.”
“Giỏi lắm, nhưng em biết cầu nguyện sao cho tốt không?”
“Anh nói em nghe đi.”
“Gạt bỏ hết mọi suy nghĩ, tập trung vào lời cầu nguyện. Đừng để tâm phân tán đủ chuyện, hiểu không?”
Bảy gật đầu nhẹ, rồi nhắm mắt lại. Một lúc, Bảy mở mắt
ra, vói tay lôi từ giỏ xách của em một cái mũ cát-két màu cà phê sữa,
đưa tôi, em nói:
“Cái mũ này của anh Khang cho em… Bây giờ em trả lại cho anh. Em xin lỗi anh. Em cũng cám ơn anh nhiều lắm, nghe anh Khang.”
Cái mũ ấy đúng ra là Bảy ăn cắp từ giỏ xách của tôi, bị
người ta bắt được đòi tố em đi biệt giam kỷ luật; tôi bênh em, nói là
tôi đã cho để em khỏi bị phạt.
“Không, em không cần phải xin lỗi. Cái mũ này anh cho em thật mà. Nó thuộc về em đó.”
“Nhưng bây giờ anh nhận nó đi. Em tặng lại anh để anh có
mà đội cho khỏi nắng, với lại bữa nào về… anh có mà đội chứ để cái đầu
như vầy thấy không đẹp. Em… chắc em không thể về được đâu.”
Tôi cười đau khổ, thương xót cho Bảy mà chẳng biết nói
gì để an ủi em. Theo lời anh Oai nói, tôi biết là Bảy sắp chết. Phong
đang nhắn gia đình Bảy đến nhận em về. Tôi đưa tay lên sờ cái đầu hớt
kiểu tù của mình rồi đội cái mũ lên. Bảy cười, nói:
“Đó, như vậy, đẹp quá rồi.”
“Thôi, em cầu Chúa đi, đừng nói chuyện nhiều há.”
“Anh cũng cầu Chúa cho em với nghe, anh Khang.”
“Ừ, anh cũng cầu nguyện cho em.”
Buổi tối, tôi nằm trong cùm, ở một chỗ khá gần Bảy, bỗng
thấy một con bọ ngựa màu xanh lá cây từ đâu bay tới, rớt ngay trước
mặt. Tôi nâng nó lên xem thì thấy nó cứng đờ, chỉ ngọ nguậy đôi râu và
đôi càng một lúc rồi chết. Tôi xoay qua nhìn Bảy, thấy em vẫn còn thở
nhè nhẹ. Ngay lúc ấy, bất chợt một mối xốn xang bâng quơ nào đó dâng dậy
trong tôi. Con bọ rơi chết trước mặt tôi có vẻ như một điềm báo chẳng
lành. Tôi chẳng hiểu là điềm gì. Nâng con bọ ngựa chết trên tay, tôi chỉ
thấy lòng buồn vời vợi, một cái buồn sâu lắng vào trong, đục khoét con
tim.
Đêm đó tôi nằm ngủ trong giấc mộng chập chờn hình ảnh ba
tôi, chỉ duy nhất ba tôi, đến ôm hôn tôi, xoa đầu tôi. Tôi bé nhỏ và sà
vào lòng ông, đòi quà, đòi được dẫn đi xem xi-nê. Rồi bất chợt tôi lớn
lên, trở thành tù nhân đứng trong khung cửa sắt. Ba tôi cùng vài người
cảnh sát bước tới, mở cửa cho tôi ra. Tôi vui mừng quá lại đến ôm ông
nhưng ông biến thành mẹ tôi. Mẹ tôi khóc. Mẹ tôi mang vành tang trắng,
ngồi khóc lặng lẽ, nước mắt chảy thành dòng.
Tôi giật mình thức dậy thì đã qua một ngày mới. Bảy chết
trên giường bệnh. Tờ giấy tha còn nắm trong tay. Đêm qua trước khi ngủ
tôi không thấy em cầm tờ giấy ấy. Có lẽ em đã thức dậy nửa đêm, nằm đọc
tới đọc lui tờ giấy tha cho đỡ buồn.
Hôm sau, ngày 07-01-1987 (nhằm ngày mùng 8 tháng chạp âm
lịch), tôi đang ngồi làm sổ sách ở văn phòng bệnh xá thì Phong từ ngoài
bước vào nhanh, thấy tôi thì dừng lại, cười cười, nói:
“Anh Khang, biết gì không?”
Tôi ngước lên nhìn Phong, chờ đợi. Phong cười rất vui, nói:
“Anh được về rồi đó.”
Tôi ngồi lặng một lúc, tưởng chừng như đang còn đắm mình
trong một cơn mộng ban ngày. Cái phút ấy, tôi chờ đợi đã từ lâu, tin
tưởng nó sẽ đến, nhưng bây giờ vẫn vô cùng ngạc nhiên để đón nhận. Tôi
đứng dậy:
“Thật hả?”
“Thật đó, chuẩn bị đồ đạc mà về. Tôi đọc tên nghe.”
Phong bước một bước đến ngạch cửa, cái cửa ăn thông giữa văn phòng bệnh xá và phòng bệnh.
“Bệnh xá im lặng lắng nghe nè. Nguyễn Mậu, Vũ Quang
Minh, Trần Quang, Lê Trực, Lê Văn Năm, Vĩnh Khang.” Đọc đến đây, Phong
quay qua nhìn tôi, mỉm cười, rồi tiếp, “tất cả những người này lập tức
lên văn phòng ban chỉ huy Khu nhận lệnh tha.”
Tôi bủn rủn rời khỏi bàn giấy, bước qua dãy phòng bệnh. Phong vỗ vai tôi, nói:
“Về giữ gìn sức khoẻ, đừng làm chuyện gì chống trái với
pháp luật nhà nước nữa nghe anh Khang. Anh làm việc giỏi lắm, anh giúp
bệnh xá này và giúp tôi nhiều lắm, nhưng tôi không muốn gặp mặt anh ở
trại này nữa đâu.”
Tôi bàn giao sổ sách cho ông Nghị, một phụ tá thư ký của
tôi ở bệnh xá, rồi xuống kho hậu cần lấy bộ đồ tây và đôi giép da mới
mà gia đình gởi vào trong một đợt thăm nuôi trước đây. Trong sổ của kho
hậu cần, tôi hãy còn một giỏ thức ăn khô chưa dùng hết và mấy trăm đồng
chưa xài tới. Tôi mang vào bệnh xá, phân phát hết thức ăn, chỉ giữ tiền
để đón xe về Sài Gòn, rồi thay bỏ bộ đồ tù (mà ông Trợ đã cấp cho tôi
trước đây). Chào tất cả, bước ra văn phòng ban chỉ huy Khu. Ở đây, Phong
dặn dò sáu người tù chính trị chúng tôi về chính sách của trại cải tạo,
sau đó anh phát cho chúng tôi lệnh tạm tha. Các điểm được nhấn mạnh
trong lệnh này là “lệnh này chỉ có giá trị trong vòng 3 tháng kể từ ngày
ký; đương sự có thể bị hồi triệu về trại giam trong trường hợp có lệnh
báo khẩn cấp; trong thời gian ở ngoài để điều trị bệnh, mỗi ngày đương
sự phải đến trình diện với cơ quan chính quyền địa phương.”
Riêng với tôi, Phong nói:
“Lệnh ở trên là anh Khang phải trở về với gia đình ở Nha
Trang, không được trở về chùa của anh ở Long Thành hay bất cứ ngôi chùa
nào ở bất cứ tỉnh nào khác. Anh nhớ nghe. Đó là lệnh ở trên, tôi chỉ có
bổn phận nhắc anh thôi.”
Tôi nhận lệnh tạm tha, đọc lại, và thấy quả đúng là
người ta đã chỉ định nơi cư trú của tôi. Chỉ định cư trú như thế, phải
ngầm hiểu rằng người ta không cho tôi ở chùa làm người xuất gia nữa.
Nhưng điều này cũng chẳng có gì đáng phàn nàn đối với tôi lúc ấy. Tôi
cần tự do cái đã, chuyện cư trú tính sau.
Theo lệnh tạm tha ghi, nơi tôi phải đến tạm trú là căn
nhà năm xưa có giàn bông giấy đỏ, nằm ở khu chợ Đầm thuộc thành phố biển
thơ mộng Nha Trang.
CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI
Chắc mình phải về anh ơi, ngồi đây em không chịu nổi. Nàng nói. Sao vậy, có chuyện gì không. Tôi hỏi.
“Ngồi đây, chỗ đông người, em không khóc được. Mình về nhà, anh há!”
“Ừ, về. Ủa, đôi giép của anh đâu rồi?”
Tôi ngồi trên băng đá khom người xuống dò tìm dưới đất. Nàng đứng dậy, nhìn quanh, nói:
“Vậy là người ta ăn cắp giép anh rồi. Chắc cái thằng hồi
nãy, em thấy nó đi ngang phía sau lưng mình, nhưng đâu có ngờ nó khoèo
đôi giép anh. Tài thật!”
“Bây giờ… làm sao đây? Chẳng lẽ lại đi chân không ngoài đường?”
Nàng nhìn tôi một lúc rồi bật cười lên khanh khách. Ôi,
nàng cười hồn nhiên, dễ thương làm sao! Nhưng tôi thì dở khóc dở cười.
Ngồi kể chuyện hăng say, thả giép dưới đất, chân đong đưa cho mát một
chút, vậy rồi đặt chân xuống đất thì đôi giép đã thành tài sản của người
khác.
“Em chở anh đi bằng Honda, đâu có sao, không ai thấy đâu.!”
“Dị hợm quá! Ai lại đi chân không ngoài đường!”
“Thời xưa Phật cũng đi chân không khắp nơi khắp chốn mà. Anh ngồi xe, em chạy thật mau, chẳng ai để ý đâu mà lo. Thôi mình về.”
Hồi xưa (chẳng xưa lắm, chừng mười năm trước), lúc ở Hội
An, dù có đi ra ngoài ruộng hoặc kéo xe bò xin phân chuồng ở nhà người
ta, tôi vẫn không bao giờ chịu đi chân không. Ra ruộng thì bỏ giép trên
bờ mà lội xuống sình, lên bờ thì mang giép vào lại. Mà giả như lúc đó có
đi chân không thì cũng chẳng sao, áo quần tu lem luốc, rách nát, tay
chân nhơ nhớp sình lầy, lại còn vác cuốc trên vai, hợp quá đi chứ! Đàng
này, ở trung tâm thành phố Sài Gòn, thành phố lớn nhất Việt Nam, mặc áo
quần đàng hoàng tươm tất, lại đi chân không! Coi làm sao được.
Xe chạy đi cả đoạn rồi mà nàng vẫn cứ cười. Nàng tìm
đường vắng xe cộ để chạy nhanh. Vậy mà tôi cũng phải xấu hổ đến đỏ mặt.
Tôi giấu mặt không nhìn ai trên đường, và đầu trán tôi tựa vào vai nàng.
Nàng ngưng cười. Có mùi của một loài hoa nào đó phảng phất trên tóc
nàng.
Nàng tấp xe nhanh vào một tiệm giày trên đường Lê Thánh
Tôn. Tôi bước vào nhanh, lựa một đôi xăn-đan quai nâu. Nàng giành trả
tiền, tôi không chịu. Túi tôi hãy còn dày cộm tiền, tôi móc ra trả.
Về đến nhà, chúng tôi lại ngồi ở phòng khách, soạn bày bình trà ra.
“Chút nữa em chở anh đến nhà bạn anh, lo việc của anh
xong, em chở anh về lại đây há. Anh cứ ở đây cho đến ngày hai đứa mình
đi Nha Trang, chạy tới chạy lui ở đâu làm gì cho mệt. Ở đây yên lắm, em
nói với anh rồi.”
“Để coi đã. Gặp bạn bè rồi mới biết.”
“Em cũng cần đến chùa Hoa Nghiêm bữa nay để nhờ mấy sư
cô thay phiên đến trông nhà giùm trong thời gian em đi thăm nuôi, anh
muốn đi chung không?”
“Anh cần ở chơi lâu với bạn bè… chắc là một vài hôm,
trước khi ra Nha Trang. Như vậy, có thể chút nữa em bỏ anh ở chỗ Tửu rồi
em đi công việc của em.”
Nàng xụ mặt, lộ vẻ buồn một chút rồi tươi lại ngay, nói:
“Thôi cũng được, nhưng bất cứ lúc nào anh muốn đến đây
thì đến nghe. Em ít khi đi vắng lắm. Các mối quen của em, họ đều đến đây
để giao hàng. Hơ, hồi nãy ngồi ở bến Bạch Đằng, em muốn khóc dễ sợ
nhưng tức cười chuyện anh mất giép, bây giờ thấy hết khóc rồi. Thôi, anh
kể chuyện tiếp đi.”
“Kể tiếp để được khóc đó hả? Đàn bà con gái mấy người làm như là thích nghe kể chuyện gì đau khổ lắm vậy!”
Ó
Sau cái chết của Tuấn, lại thêm mười mấy bệnh nhân khác
ở bệnh xá lần lượt nằm xuống vì bệnh đường ruột. Ông Trợ cứ ghi chung
chung một thứ bệnh: rối loạn tiêu hóa. Cán bộ phụ trách y tế cằn nhằn ông Trợ:
“Anh lại bảo là mấy người này mắc chứng rối loạn tiêu
hóa! Sao ai cũng rối loạn tiêu hóa hết vậy! Rối loạn là sao, ý anh muốn
nói là phản động đó hả?... Thì cứ nói là phản động chứ cần đếch gì phải
nói rối loạn, rắc rối thế! Còn tiêu hóa là cái đít, tôi hiểu. Thế nhưng
phản động cái đít là phản động thế nào chứ?”
Ông Trợ lật đật giải thích. Lại giải thích! Đã giải
thích rồi, bây giờ cán bộ lại quên. Tiêu hóa đâu phải là cái đít! Chắc
cán bộ lộn với chữ hậu môn rồi! (Mà hậu môn cũng không phải là cái đít!
Hậu môn thì người ta nói chữ khác kia!) Cái đít nói cho lịch sự là cái
mông, còn lịch sự hơn nữa thì gọi đó là bàn tọa đó, thưa cán bộ. Như
vậy, “rối loạn tiêu hóa” có nghĩa là bị rối loạn bộ phận tiêu hóa. Rối
loạn là không làm việc bình thường nữa, chứ không có dính gì đến phản
động chính trị cả. Còn bộ phận tiêu hóa là gì hả? Lại phải giải thích
nữa. Bộ phận tiêu hóa là cái bộ phận thu nạp và đào thải… Không, phải
nói như vầy thì cán bộ dễ hiểu hơn, đó là bộ phận tiếp thu và xử lý thực
phẩm trong cơ thể con người; nói cách khác là…
“Dân ngụy các anh dùng chữ rắc rối luộm thuộm quá, không bắt kịp cách nói mạch lạc văn minh của chế độ xã hội chủ nghĩa!”
Vậy rồi, cán bộ đi họp với trên sao đó mà bẵng đi mấy
ngày không thấy ghé bệnh xá, chỉ có lệnh từ văn phòng ban chỉ huy Khu
đưa đến là chuẩn bị dời bệnh xá. Dãy phòng rộng nhất của trại giam nằm
sát vách với văn phòng ban chỉ huy Khu C được sử dụng làm nơi chứa bệnh
nhân; còn văn phòng Ban chỉ huy Khu thì trở thành văn phòng bệnh xá. Từ
nay bệnh xá đã có văn phòng riêng, lịch sự, khang trang, có một cửa trổ
qua phòng bệnh nhân. Phòng bệnh rộng lớn như một cái kho, mái cao, rất
khoảng khoát, có bốn cạnh vuông vức. Trừ một cạnh dành cho hai cánh cửa
ra vào, ba cạnh còn lại được đóng và dựng lên ba dãy sàng gỗ đồ sộ, rộng
rãi, mỗi dãy lại có tầng trên và tầng dưới, vị chi sáu hàng giường
bệnh, mỗi hàng dài mười lăm thước, có thể chứa từ một trăm rưỡi đến hai
trăm bệnh nhân nếu nằm san sát nhau. Chuyện dời bệnh xá qua khu vực này,
có thể là do người ta nghĩ rằng khu vực bệnh xá cũ khá tối tăm, nằm
ngay luồng gió độc, hoặc đã “nhiễm trùng” vì sự mất vệ sinh do nhiều tù
nhân có bệnh nan y đã chết tại đó… Lại có lời đồn: cán bộ trại sợ khu
vực bệnh xá có ma quỉ lôi kéo, khiến nhiều người bệnh rủ nhau mà chết.
Không những bệnh xá đổi chỗ mà còn đổi luôn cả cán bộ
trông coi. Cán bộ y tế hình như đã từ chức hoặc đã bị cách chức và thay
vào đó là một cán bộ người miền Nam, khá trẻ tuổi, tên là Phong. Cũng
như người trước, Phong không có chút kiến thức gì về y khoa, nhưng tánh
tình Phong hiền lành, vui tính, cởi mở, biết thương bệnh nhân, biết quí
trọng ban y tế; vậy thì cũng đỡ vất vả cho bệnh xá rồi. Tuy nhiên, Phong
khá nghiêm khắc trong việc sổ sách giấy tờ. Và điều này thì kẹt cho ông
Cảnh.
Mỗi ngày Phong đều có mặt khá lâu ở bệnh xá để bảo ông
Cảnh cho xem bệnh án này, hồ sơ kia, rồi lại quan sát cách ông Cảnh quản
lý tủ thuốc công, tủ thuốc tư nơi bệnh xá. Ông Cảnh rất lúng túng. Thấy
công việc ông Cảnh làm không được hiệu quả, Phong bực dọc khiển trách,
buộc ông trong vòng hai ngày phải sắp đặt ngăn nắp thứ tự hồ sơ bệnh án
của bệnh xá và hai tủ thuốc, sao cho khi hỏi đến là phải tìm được ngay
chứ không ấp a ấp úng lục lọi suốt ngày như bây giờ. Phong rời bệnh xá
rồi, ông Trợ đề nghị với ông Cảnh:
“Nhờ anh Khang giúp cho một tay chứ không thì bị phạt kỷ luật cả ban y tế luôn cho xem!”
“Có gì đâu mà phải nhờ người này người nọ, mất công. Chuyện của tôi để tôi làm!”
Ông Cảnh vẫn thường bướng bỉnh và tự ái vặt như thế. Có
lẽ ông tự hào đã từng là thư ký của Ủy ban Nhân dân xã nên không cần nhờ
một “nhân dân” nào giúp tay. Rồi ông lụi hụi sắp xếp đống giấy tờ lộn
xộn trong ngăn tủ. Chẳng biết ông sắp xếp theo nguyên tắc nào mà phải từ
sáng đến chiều mới xong. Qua ngày thứ hai, ông Cảnh mới xoay qua hai tủ
thuốc: một cái tủ công (tức thuốc của trại giam giao cho ban y tế dùng
để chữa trị bệnh nhân), một cái của tư (tủ thuốc đựng tất cả thuốc men
riêng tư của mỗi tù nhân do gia đình của họ gởi vào; tôi cũng có một gói
thuốc riêng trong ấy). Ông Cảnh cứ loay hoay lôi ra, cất vào, tốn
nguyên buổi sáng vẫn thấy hoàn là một núi lùm xùm ngổn ngang những bịch
ni-lông cái lớn cái nhỏ chồng đống lên nhau như một đống rác.
Đến trưa, Phong cầm tờ giấy chạy tới văn phòng bệnh xá,
vui vẻ đọc tên một số bệnh nhân nan y được trả tự do. Đây là số người có
tên trong danh sách của đợt II (mà nửa tháng trước đã cứu xét cho về
một phần ba), nay được gọi thêm khoảng một phần ba nữa. Phong có vẻ vui
lây khi đọc to từng tên một trong danh sách, vừa đọc vừa thú vị nhìn vẻ
hớn hở mừng vui của tù nhân như thể chính anh là người ban ân huệ tự do
cho họ vậy. Cả bệnh xá lăng xăng, rộn rịp lên. Người được đọc tên thì
run rẩy thay quần áo (bỏ đồ tù, mặc đồ dân sự nếu có), người ở lại thì
chồm qua chồm lại xin đồ của những người may mắn để lại. Có cả tên ông
Cảnh, nhưng không có tên tôi. Ông Trợ lại an ủi, nói rằng danh sách bệnh
nhân nan y chưa hết, còn khoảng bốn mươi người nữa đang còn chờ cứu
xét.
Ông Cảnh được trả tự do với bệnh “đau bao tử cấp tính.”
Tuy nhiên, trong khi tất cả những người được đọc tên ra tập trung ở văn
phòng trại để chờ nhận giấy lệnh tha thì Phong bắt ông Cảnh ở lại bệnh
xá, buộc phải thanh toán cho xong công việc làm ngăn nắp tủ thuốc và hồ
sơ của bệnh xá trước khi rời trại. Ông Cảnh có trình cho Phong xem tủ hồ
sơ mà ông đã cặm cụi sắp xếp lại nguyên ngày hôm trước. Phong hỏi tới
hỏi lui vài câu, ông Cảnh không trả lời được, Phong lớn tiếng:
“Làm lại, sắp xếp lại! Chưa được. Như vầy mà anh bảo là
đã ổn định sao! Vậy anh lấy tôi xem hồ sơ bệnh án của anh coi nào? Đó,
đó, thấy chưa, lại đi tìm, đi tìm, mất thì giờ quá! Làm lại cho tôi, cho
tới khi nào tôi thấy được mới cho về. Với lại, trước khi về anh phải
bàn giao công việc cho người khác, mà bàn giao thì phải bàn giao đầy đủ
mọi thứ chứ lộn với thiếu tùm lum như vậy thì bàn giao cho ai!”
Vậy là ông Cảnh ở lại, mằn mò ghi ghi chép chép, kiểm
soát và thống kê số thuốc hiện có trong tủ. Dù sao thì ông cũng đã có
tin vui. Ông bỏ ăn trưa, ngồi mãi nơi bàn giấy của văn phòng bệnh xá mà
làm việc. Trong lúc đó, ban y tế hỏi ý ban chỉ huy Khu xin đề cử một thư
ký bệnh xá thay thế ông Cảnh. Ý kiến qua lại như thế nào đó mà cuối
cùng, ông Sinh và ông Trợ đến kêu gọi tôi nhận lời làm việc. Và tôi lại
được tháo cùm, ra khỏi giường bệnh, chuẩn bị nhận sổ sách và hai tủ
thuốc do ông Cảnh bàn giao. Nhưng khác với ông Cảnh, tôi không phải chỉ
làm thư ký mà còn cáng đáng luôn việc làm anh nuôi của bệnh xá (vì anh
nuôi Thành đã được trả tự do cùng ngày hôm nay).
Hai giờ chiều mà ông Cảnh vẫn chưa làm xong công việc
của ông. Cuối cùng, ông mới nhờ đến tôi. Tôi hướng dẫn ông sắp xếp hồ sơ
và hai tủ thuốc theo phân loại mẫu tự thông thường mà ai cũng có thể
biết. Công việc chỉ tốn chừng một giờ đồng hồ để cho vào thứ tự hơn một
ngàn hồ sơ bệnh án. Các hồ sơ của người chết thì để riêng một ngăn, cũng
sắp theo vẫn mẫu tự. Văn phòng bệnh xá thiếu mọi thứ tiện nghi để có
thể gọi là “văn phòng.” Bìa cứng không có, tôi lấy giấy trắng xếp lại
rồi viết hai mươi bốn mẫu tự thật to để kẹp các hồ sơ. Tủ thuốc cũng
chia theo từng ngăn chứ không thồn đại vào như ông Cảnh trước đây. Tôi
cũng giúp ông tổng kết thuốc tồn kho, loại bỏ những chai lọ cũ đã quá
hạn, chiếm nhiều chỗ trong ngăn tủ.
Bốn giờ chiều thì thực sự ổn định công việc của văn
phòng bệnh xá. Phong nãy giờ chạy ra chạy vào nhìn tôi làm việc giúp ông
Cảnh, hài lòng lắm. Phong nói với ông Cảnh:
“Nếu ông nhờ người ta sớm hơn một chút thì bây giờ đã ở
nhà với vợ con rồi. Thôi, thay đồ lẹ lẹ ra văn phòng Khu gặp tôi lấy
lệnh tha mà về!”
Nói rồi Phong bỏ đi. Ông Cảnh vội xuống hậu cần lấy đồ
ký gửi rồi trở lại với bộ đồ tây, bỏ hai bộ đồ tù lại cho mấy anh bệnh
nhân đang nằm ở bệnh xá tranh nhau. Ông từ giã ông Trợ và ông Mậu rồi
đến bên tôi, ngỏ lời cám ơn. Sau lời cám ơn, ông ngập ngừng một lúc rồi
ghé vào tai tôi nói nhỏ:
“Cái hôm công an vây bắt lực lượng Phục quốc ở xã mình,
rồi sau đó vây chùa Long Quang để bắt thầy Khang, tôi hoàn toàn không
biết, vì vụ bố ráp đó đột xuất, bí mật, do công an tỉnh Đồng Nai tiến
hành. Cả công an huyện còn không biết trước huống gì tụi tôi chỉ là hàng
xã.”
Tự dưng đến lúc chia tay ông đột ngột gọi tôi là “thầy”
và nói cái chuyện của “xã mình” mà đáng ra ông có nhiều cơ hội để nói
trong suốt nhiều ngày trước, khi tôi bắt đầu nằm ở bệnh xá. Có lẽ lúc ấy
ông hãy còn sợ sự liên hệ với tôi. Thảo nào ông cứ tránh né, không muốn
tôi phụ giúp ông. Đến khi gần về rồi mới chịu xuống nước. Tôi cười nói:
“Đâu có sao, nếu lúc đó chú đi bắt tôi cũng được thôi, lệnh mà.”
“Không phải, tôi nói không phải để phân bua gì đâu. Ý
tôi muốn nói là vụ của thầy Khang hôm ấy là có người báo trực tiếp với
công an tỉnh Đồng Nai. Nghe nói là từ Sài Gòn báo lên đó. Thôi tôi về
nghe. Chúc thầy cũng được về sớm.”
Tôi ngồi lại nơi văn phòng bệnh xá, nhìn theo dáng ông
hí hửng bước ra văn phòng Khu. Khi nào thì đến lượt mình đây? Tôi tự hỏi
và thấy lòng chùng xuống. Tù chính trị, lại là tu sĩ, làm thế nào được
về sớm mà cứ mong đợi, cứ hy vọng? Linh cảm ư, hay chỉ là vọng tưởng?
Tôi lấy thuốc ra hút. Ông Cảnh hàm ý gì nữa đây khi nói cho tôi biết là
có người từ Sài Gòn báo cáo hoạt động của lực lượng Phục quốc cho chính
quyền tỉnh Đồng Nai. Bây giờ tôi biết rõ thêm chuyện đó thì sao chứ? Có
lợi gì đâu. Biết là có người tố giác chuyện mình làm, xác định thêm sự
bội phản của Hân, ích gì chứ! Gông cùm xiềng xích đã đóng kín tương lai,
chôn vùi dĩ vãng trong tôi. Tôi không còn thì giờ để bận tâm cái gì ở
phía trước hay ở sau lưng nữa. Công việc của tôi bây giờ là ngồi ở văn
phòng này, chờ đợi có ai đến xin lấy thuốc (của họ) hay xin thuốc (của
bệnh xá) thì lấy cho họ. Gần đến giờ ăn thì đi cùng hai anh nuôi và một
bệnh nhân xuống nhà bếp để nhận phần cơm cho cả bệnh xá hơn trăm người.
Tôi ngồi một lúc thì Phong từ ngoài bước vào, cười cười, nói:
“Tôi mệt cái ông Cảnh đó quá. Bây giờ có anh Khang làm
thư ký, tôi hy vọng mọi chuyện sẽ êm xuôi hơn. Nè, anh Khang nằm dưỡng
bệnh ở đây bao lâu rồi? Hai tháng rưỡi hả. Vậy chắc cũng nắm được phần
nào sinh hoạt ở đây, theo anh thì để tránh bệnh hoạn, nhất là tránh chết
chóc thì bệnh xá phải làm sao?”
“Ơ… chuyện đó thì phải hỏi mấy ông bác sĩ mới được.”
“Bác sĩ à? Hứ, ở đây có bác sĩ nào đâu. Ông Trợ hay ông
Mậu đều là y tá Đông y sĩ cà tàng thôi. Dĩ nhiên là mấy ổng rành chuyện
chữa bệnh hơn mình, nhưng mà… chỉ chữa bệnh chứ không biết gì khác. Hỏi
ý mấy ổng làm sao để tránh chết chóc nhiều trong trại thì mấy ổng không
biết. Có ai bệnh đem đến đây thì chữa, vậy thôi. Nhưng chữa sao mà cứ
hết đợt này tới đợt khác. Hay là… ngoài chuyện bệnh hoạn còn có thứ tà
khí độc địa vô hình nào đó chăng? Anh nghĩ sao? Nghe đồn là có mấy người
đã chết ở bệnh xá cũ, đêm đêm xếp hàng đi ra hồ sen mà tắm! Có thể họ
phá những người sống không? Anh có cách gì trừ chuyện đó không?”
Tôi cười thầm trong bụng. Phong hỏi vậy tất anh biết tôi
là tu sĩ, và anh đã đồng hóa tu sĩ Phật giáo với ông thầy tụng, thầy
đám, thầy pháp nào đó ở làng xã anh thì phải. Cán bộ cộng sản ngày nay
cũng còn biết tin và sợ ma quỉ! Thảo nào không lo hỏi bác sĩ mà lại hỏi ý
tôi! Do bởi Phong tin tưởng mà hỏi tôi như vậy, tôi lợi dụng cơ hội ấy,
muốn đề nghị một số vấn đề của bệnh xá mà lâu nay tôi hằng ưu tư. Tôi
nói:
“Thực ra thì cái chuyện này mấy ông y sĩ phải biết rành
hơn tôi, có điều họ không dám nói ra đó thôi. Nói ra thì sợ bị kết tội
là… nói xấu, xuyên tạc chế độ, rồi bị cùm biệt giam kỷ luật đến bại liệt
hay rục xương.”
“Vậy có nghĩa là anh có biết, anh có thể nói ra không? Không có chuyện cùm phạt kỷ luật đâu.”
Thấy Phong có vẻ khẩn khoản, tôi mạnh dạn:
“Nói được chứ. Anh hỏi thì tôi nói. Như vầy: cái bệnh
chung của cải tạo viên nơi trại này là bệnh suy dinh dưỡng. Suy dinh
dưỡng ảnh hưởng đến sức khỏe, khiến vi trùng bệnh dễ xâm nhập. Vi trùng
xâm nhập mà cơ thể không đủ sức kháng cự thì cơ thể sụm. Bệnh nhẹ cũng
chết, bệnh nặng càng dễ chết hơn. Đó là chưa nói đến chuyện thiếu thốn
thuốc men. Nếu có thuốc tốt đưa đến đây nhưng bệnh nhân ăn uống không đủ
chất dinh dưỡng, lại nằm trong một bệnh xá dơ dáy, thiếu vệ sinh, thiếu
mọi tiện nghi, lạnh không có mền đắp, nóng không có quạt thổi, thì
thuốc tiên cũng thành vô dụng. Còn nữa, mỗi ngày đi tắm ở hồ sen, chỗ
cuối dòng nước chảy; nước ở phía bên kia khu trại gia súc chảy ngang qua
khu nhà tròn, rồi đổ về hướng này. Tất cả bệnh nhân, tất cả tù nhân ở
đây đều tắm ở cái chỗ cuối dòng nước chảy đó, hứng hết bao nhiêu rác
rưới dơ bẩn từ đầu nguồn đổ xuống. Tắm xong lên bờ không có gì lau. Trời
lạnh trời nóng gì cũng hụp xuống cái ao đó. Ăn uống xong không có nước
rửa chén bát. Thức ăn mỗi ngày không đầy bụng mà lại bỏ quá nhiều sức ra
để lao động—điều này là mầm bệnh lao lực, kiệt sức. Chuyện nấu nướng
của nhà bếp cũng phải xét lại. Tôi thấy anh nuôi của nhà bếp rửa rau, vo
gạo ngay tại cái hồ sen nuôi đầy cá tra với bông lau chuyên môn ăn phân
người đó. Anh thử nghĩ xem, vậy thì bệnh tật làm sao tránh khỏi. Không
phải chỉ những người nằm nơi bệnh xá này mới mang bệnh mà có thể là tất
cả tù nhân trong trại này đều có bệnh, nhiều hoặc ít. Đống hồ sơ bệnh án
dầy cộm của bệnh xá chứng minh điều đó. Tôi biết nói ra điều này cũng
chẳng thay đổi được gì vì nó nằm ở ngoài khả năng của anh, nhưng tôi
cũng cứ nói để anh thấy rõ phần nào cái tình trạng của bệnh xá. Không
phải tà khí hay ma quỉ gì đâu. Chỉ vì cái gì cũng thiếu mà thôi.”
Phong chớp đôi mắt, ngó lơ ra cửa một lúc rồi quay mặt vào, nhìn tôi một lúc, nói:
“Đúng là cái này nằm ngoài khả năng của tôi. Nhưng có
thể một ngày nào đó, tôi sẽ đề đạt ý kiến này lên ban quản trại để cải
thiện lại sinh hoạt trại giam… Anh nói cũng đúng, đa số các trường hợp
bệnh chết tại đây đều là đau bao tử, đau ruột, và nhất là kiệt sức. Có
nghĩa là có vấn đề trong chuyện vệ sinh và ăn uống, phải không? Cám ơn
anh phát biểu trung thực.”
“Còn một điều này nữa, không biết anh có để ý không:
những người bệnh kiệt sức chỉ còn trơ lại bộ xương, vậy mà khi nằm dưỡng
bệnh ở bệnh xá, họ cũng chỉ được phát phần cơm hay cháo ít hơn phần cơm
tiêu chuẩn của những người lao động bên ngoài. Điều này đúng theo cách
nói ‘tay làm hàm nhai,’ không lao động thì ăn ít; nhưng cũng không đúng
lắm trong trường hợp các bệnh nhân kiệt sức vì họ đang cần lấy lại sức,
phải tẩm bổ cho họ chứ. Nếu trại không cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho
họ thì ít nhất cũng cho họ ăn cơm hay cháo nhiều một chút. Đã có mấy
người kiệt sức, vào đây nằm, rồi chết. Chết thật vô lý. Tôi tin rằng nếu
cho họ ăn tương đối đầy đủ và được nghỉ dưỡng một thời gian thì tự dưng
họ hết bệnh.”
“Chuyện đó… bây giờ phải làm sao? Bệnh xá phải báo cáo hoặc làm đơn xin cấp dưỡng gì đó thì ở trên mới giải quyết được chứ.”
“Trước đây tôi thấy ông Cảnh có làm đơn xin thuốc men,
nhưng chưa hề thấy làm đơn xin cấp dưỡng thực phẩm cho các bệnh nhân
kiệt sức. Tôi không biết là nếu từ hôm nay, tôi làm đơn xin cấp dưỡng
thực phẩm với chữ ký chứng nhận của ban y tế, thì có cơ quan hay bộ phận
nào của trại cứu xét không?”
“Ô, ý kiến hay đó. Sẽ có ban lương thực của trại cứu xét cấp dưỡng.”
“Nhưng mà… làm như vậy lâu lắm. Đơn từ gởi đi rồi chờ
cứu xét, thực phẩm chưa kịp tới nơi thì bệnh nhân đã chết. Cho nên, tốt
hơn hết là ban lương thực của trại trích sẵn một số lượng thực phẩm đủ
loại nào đó trong mỗi tháng, đưa vào kho hậu cần của Khu; khi bệnh xá
gởi phiếu xin cấp dưỡng thì cầm tay đem qua văn phòng Khu—mất có hai
mươi bước; văn phòng Khu chứng nhận rồi cầm tay đưa xuống hậu cần—mất
bảy chục bước; ban hậu cần sẽ lãnh trách nhiệm mang thực phẩm cấp dưỡng
đó đến bệnh xá—mất năm chục bước. Như vậy chỉ trong vòng cao lắm là một
giờ đồng hồ, đơn xin cấp dưỡng đã có hiệu quả. Tôi không biết đề nghị
này có quá đáng, có thiếu thực tế lắm không? Anh nghĩ sao?”
“Được, chắc là được. Để tôi đề nghị. Tôi ghi nhận ý kiến của anh.”
Thấy Phong có vẻ sốt sắng chịu để ý đề nghị của mình, tôi hứng thú nói thêm:
“Tôi có thể tóm tắt ý kiến của tôi lần nữa không? Điều
này anh cũng như mọi người đều thấy rõ và cũng như tôi đã nói trước khi
nãy: phòng bệnh tốt hơn chữa bệnh. Bệnh xá trước đây chỉ lo việc chữa
bệnh chứ không bao giờ có một kế hoạch hay chương trình gì về chuyện
phòng bệnh. Cứ khi nào có người bệnh nặng sắp chết thì mới thấy cõng vào
bệnh xá, đến lúc ấy thì chuyện chữa trị đã trở thành muộn màng, khó
khăn, ít hi vọng. Ban y tế không bao giờ có cơ hội khám bệnh tổng quát
cho tù nhân. Buổi tối ban y tế đi dạo một vòng các phòng giam, chỉ hỏi:
‘Có ai bệnh hoạn gì cần khai báo hay xin thuốc uống không?’ Hỏi như vậy
đâu phải là khám. Bệnh nhân làm sao biết mình có bệnh gì mà khai. Có khi
họ mang trọng bệnh trong người mà không biết, cho đến khi bác sĩ phát
hiện được thì đã trầm trọng, quá trễ. Có người đang lao động ngoài trời
bỗng ho ói ra máu rồi mới đưa vào bệnh xá. Đâu phải là căn bệnh bắt đầu
từ lúc ói ra máu mà đã bộc phát từ trước đó nữa chứ, phải không? Cho
nên, ít nhất cũng phải tổ chức cho ban y tế có cơ hội khám bệnh tổng
quát cho mọi người mỗi tháng một lần, không thể khám một lần trong ngày
tất cả bệnh nhân thì chia ra từng đợt, ngày nào cũng có khám, mỗi ngày
khám cho một phòng giam thì mỗi tháng cũng khám được hết cho toàn trại…
Không hiểu chuyện đó có thể thực hiện được không?”
“Ý kiến hay lắm… Không biết sao trước đây chẳng ai nghĩ
tới vậy kìa!” Nói câu ấy rồi, Phong có vẻ như thấy rằng mình vừa lỡ
lời, liền chữa lại. “Thực ra kế hoạch y tế của nhà nước ta lúc nào cũng
quan tâm đến chuyện phòng và chữa bệnh, cũng như việc khám bệnh tổng
quát cho nhân dân hàng ngày hàng tháng đó chớ, chỉ có điều là chưa hề áp
dụng cho trại cải tạo đó thôi.”
Tôi cười nói:
“Chuyện anh nói là chuyện của các thành phố thôi. Nhưng
không phải ai cũng có sổ khám bệnh; mà dù cho có sổ khám bệnh đi nữa,
cũng xếp hàng suốt ngày để được khám, rồi được phát một bọc xuyên tâm
liên chứ có thuốc gì khác hơn đâu. Bệnh gì cũng uống xuyên tâm liên,
thuốc trị bá bệnh đó mà. Còn nữa, ở các vùng kinh tế mới không có bệnh
viện, bệnh xá hay trạm y tế gì cả. Mỗi lần có bệnh gì phải lội bộ cả
chục cây số mới đến được một trạm y tế nhỏ. Tóm lại là vấn đề y tế của
nước mình còn yếu kém quá cho nên không trách gì các trại cải tạo, phải
chịu vậy thôi! Tôi góp ý nhưng nghèo quá thì cũng chẳng thực hiện được
đâu.”
“Được chứ, được chứ, phải khắc phục được hết.”
Nói rồi, Phong có vẻ ưu tư suy nghĩ một lúc, rời bệnh xá. Hôm sau, Phong trở lại, vui vẻ nói với tôi:
“Anh có thể làm đơn xin cấp dưỡng cho những người bị
kiệt sức rồi đó. Đây nè, có một số loại trái cây, thịt, cá, lúa, bắp,
đậu… mà trại có thể cung cấp, ngoài số này thì phải chờ lâu một chút, vì
những thứ kê khai nơi đây là trại có sản xuất. Anh dựa theo cái danh
sách này mà viết đơn nghe. Đơn viết xong, đưa ban y tế duyệt ký rồi đưa
qua văn phòng Khu, ở đó có tôi ký rồi anh có thể mang thẳng xuống kho
hậu cần. Dĩ nhiên không phải lúc nào tôi cũng có mặt ở văn phòng Khu
nhưng nội trong ngày, thế nào cũng có tôi ở đó hoặc ở đây. Nhớ nhé. Công
việc này tôi tin tưởng mà để anh làm chứ chưa chắc người khác tôi đã
đồng ý đâu. Còn chuyện khám bệnh cho toàn trại thì ở trên đang còn
nghiên cứu kế hoạch thực hiện. Tôi hy vọng sẽ được duyệt xét.”
Kể từ hôm đó, bệnh xá có vẻ có sinh khí hơn. Các người
bệnh nặng được chăm sóc kỹ lưỡng. Mấy anh kiệt sức đều được tẩm bổ thịt,
cá, trái cây, bột. Mặc dù phần cấp dưỡng ấy chẳng là bao, nhưng có còn
hơn không. Bệnh xá tạm thời cứu sống được một số bệnh nhân èo uột chỉ
còn trơ lại bộ xương. Những bệnh nhân này đều không có hoặc chưa có quà
thăm nuôi của gia đình từ lâu. Không phải chỉ những người kiệt sức được
cấp dưỡng theo phiếu đề nghị mà cả những bệnh nhân khác trong bệnh xá
đều được nhận phần cơm hay cháo nhiều hơn. Ngoài ra, mỗi tuần anh nuôi
hậu cần đều có mang vào bệnh xá một thúng trái cây giao tôi chia đều cho
các bệnh nhân. Thường thường là đu đủ và cam chín rụng hoặc sắp hư hay
bán không hết, nhặt từ vườn cây trái và nhà hàng của trại—mà trước đây
đem đổ hay bán tháo ở đâu không biết, bây giờ dành cho bệnh xá. Điều này
chưa hề xảy ra trong quá khứ. Tôi nghĩ có lẽ lời tôi đề nghị với Phong
đã có kết quả. Kết quả không phải là cải cách lớn lao gì lắm, nhưng dù
sao, tôi hy vọng rằng đây sẽ trở thành một tiền lệ sáng sủa hơn cho bệnh
xá. Vả lại, cái chuyện bé xíu ấy xét cho cùng thì cũng khai thác được
chỗ dụng cho những trái cây và thực phẩm thặng dư của trại. Những trái
cây và thực phẩm cấp dưỡng ấy có bầm dập hay meo mốc đến mức nào đi nữa
thì xem ra vẫn còn chút tươi mát, chút sinh khí dinh dưỡng, dễ nhìn và
lôi cuốn hơn những anh chàng bệnh nhân ốm đói của bệnh xá.
Ó
Từ khi ông Cảnh được về, danh sách bệnh nhân nan y cần
được trả tự do để chữa trị—còn lại mấy chục người chưa cứu xét—bỗng dưng
đứng khựng lại, cơ hồ không còn dấu hiệu gì là sẽ được đá động tới. Tôi
không còn chút hy vọng gì về danh sách ấy nữa, chỉ biết sống và làm
việc từng ngày trong trách nhiệm của mình nơi bệnh xá. Nhưng ông Trợ thì
chưa chịu thua, mỗi lần thấy tôi ngồi im lặng nơi bàn giấy của bệnh xá,
ông trờ tới, lại an ủi:
“Chắc đang còn cứu xét, vì số người chưa được cứu xét đa phần là tù nhân vượt biên và chính trị, phải chậm hơn chứ.”
Tôi chỉ cười, không có ý kiến gì. Nhưng ngay ngày hôm
sau, bỗng thấy một ông già cán bộ mặc sắc phục xanh của công an, theo
Phong vào bệnh xá, ra lệnh tất cả bệnh nhân có tên trong danh sách bệnh
nan y và cả những bệnh nhân đang nằm điều trị tại bệnh xá, tập trung tại
văn phòng, để ông già ấy khám bệnh. Ông Trợ gọi ông ấy là cán bộ bác sĩ.
Chẳng biết bác sĩ già này tốt nghiệp trường lớp nào mà cách khám bệnh
coi mòi khá đơn giản, nhanh chóng, lẹ tay, ít mất thì giờ, e có thể so
được với Tuệ Tĩnh hay Hoa Đà. Ông chỉ sử dụng cái ống nghe, đặt nơi vùng
ngực vài chỗ, vùng lưng vài chỗ, là đã có thể ghi được bệnh. Vâng, bệnh
gì cũng vậy, cũng chỉ nghe là có thể luận được rồi. Ông cũng chẳng cần
bảo bệnh nhân hít mạnh thở sâu, thở vào thở ra gì cả. Vọng, văn, vấn, thiết
(nhìn, nghe, hỏi, bắt mạch—bốn phương cách chẩn bệnh của y sĩ), ông chỉ
sử dụng “văn” theo cái nghĩa là nghe bằng ống nghe của ngành y học Tây
phương chứ không phải “văn” là thăm dò thanh âm giọng nói của bệnh nhân
cũng như những lời tự khai về triệu chứng của chính bệnh nhân ấy. Cái
ống nghe đối với ông cán bộ già này có vẻ như là cây đèn thần, chiêc đũa
tiên, hay viên ngọc như ý. Dường như với ông, chức năng của ống nghe
không phải là nghe bệnh mà là chữa bệnh. Vâng, xem cách ông trân trọng
“cung thỉnh” cái ống nghe từ trong hộp đồ nghề y khoa ra, người ta có
cảm tưởng là ông sắp ra tay cứu độ bệnh nhân, tiêu diệt các căn bệnh
hiểm nghèo. Cũng không có gì trách ông, vì trên thực tế, dụng cụ y khoa
rất hiếm: ống nghe chỉ dành cho cán bộ y tế cao cấp và các bác sĩ. Bởi
hiếm hoi, nó được xem như là một trong những vật biểu trưng sáng chói
của nền văn minh và tiến bộ nhảy vọt của chế độ xã hội chủ nghĩa; móc nó
vào cổ thì tự dưng con người trở nên sáng giá, cao kỳ, vĩ đại hơn lên.
Khám đến tôi, ông già đặt cái “dĩa nghe” (tôi tạm gọi
cái vật tròn tròn nơi ống nghe của y sĩ như vậy vì thực chẳng biết thuật
ngữ chuyên môn y khoa gọi nó thế nào), nơi ngực tôi một lúc thì có vẻ
ngạc nhiên, tỏ vẻ khó hiểu, ngước nhìn tôi một cái, rồi cúi xuống lắng
nghe trở lại. Hình như ông không nghe gì cả. Ông tháo ống nghe ra khỏi
tai, nhìn hồ sơ bệnh án của tôi do ông Trợ chẩn đoán trước đó; rồi ông
đặt ống nghe vào tai trở lại, bảo tôi hít thở sâu. Tôi làm theo lời ông,
hít thở thật mạnh. Ông vẫn không nghe gì thì phải. Tôi biết lúc ấy trái
tim của tôi nó không chịu đập. Nó đứng yên không nhúc nhích gì cả như
nó đã từng làm như vậy nhiều lần trước đây. Ông giật mình gỡ hai tuýp
nghe ra khỏi tai, đưa một tay lên sờ trên ngực tôi:
“Lạ nhỉ, trái tim anh này nó không đập! Hít thở đều coi nào, hít mạnh, thở mạnh! Kỳ khôi thế nhỉ!”
“Báo cáo cán bộ, anh ấy bị lớn tim… cái van tim bị chèn hay là bị hở đấy ạ,” ông Trợ đứng bên liền nói vào.
Ông cán bộ già gật gù vừa nói vừa lấy viết ghi mấy chữ vào cuốn sổ mới do Phong cung cấp cho ông:
“Tôi biết mà, nghe qua là tôi biết ngay.”
Sau khi ông cán bộ y tế già đích thân khám bệnh cho bệnh
nhân ở bệnh xá, Phong ôm luôn cuốn hồ sơ bệnh do ông cán bộ già ghi,
cùng ông rời khỏi bệnh xá. Từ hôm đó, bệnh xá im lìm, không có sự cố gì
xảy ra ngoài việc đón nhận và chăm sóc một anh tù chính trị tên là Nam,
bị cán bộ, công nhân và cai tù đánh ngất xỉu trước sân trại. Nam được
đưa vào nằm ở bệnh xá từ buổi trưa, đến chiều tối thì tắt thở. Cái chết
của Nam gây dư luận xôn xao trong trại khiến cho ban quản trại e dè, ra
chỉ thị ngăn cấm bàn tán, rồi còn dặn dò phải khai báo như thế nào nếu
có cán bộ tỉnh vào điều tra. Công việc lập biên bản tử vong đáng ra là
công việc của ông Trợ và tôi thì lại để cho ông cán bộ y tế già và người
phụ tá của ông thực hiện. Xác của Nam thay vì để ở bệnh xá thì đem ra
văn phòng Khu để chờ cán bộ y tế tỉnh vào khám nghiệm.
Buổi tối hôm ấy, vào giờ báo nghiêm, trong khi bệnh
nhân chúng tôi đã lên giường và bị xích chân vào cùm sắt để ngủ thì
Phong vội vã bước vào, bảo mở cùm cho tôi ra, đến làm việc tại văn phòng
của bệnh xá. Phong đưa tôi bản sao (bằng tay) đơn xin cứu xét những
bệnh nhân nan y của đợt trước (trong số đó có một số người chưa được cứu
xét trả tự do) cùng với cuốn sổ bệnh mới mà ông cán bộ y tế già vừa mới
lập, bảo tôi làm một đơn xin cứu xét kèm danh sách mới. Danh sách này
dựa theo danh sách đợt trước, loại trừ những người đã được về, giữ lại
những người chưa được cứu xét và thêm một số tên mới. Và dĩ nhiên là tên
tôi, một lần nữa được ghi vào. Phong cho thời hạn là trong vòng đêm nay
phải làm xong để sáng sớm ngày mai anh mang đi. Danh sách bệnh nhân
tổng cộng gần một trăm bốn mươi người, ghi rõ tên họ, tuổi tác, sinh
quán, nguyên quán, nghề nghiệp, tội trạng, căn bệnh… của mỗi người. Có
một số tên ở đâu lạ lắm, không thuộc số bệnh nhân đang nằm điều trị ở
bệnh xá này. Tôi nghĩ có lẽ họ ở bệnh xá của các Khu khác. Làm xong bản
danh sách lại phải sao thêm hai bản khác, sao bằng tay.
Trong khi tôi đang ngồi lập bản danh sách gốc, Phong
hãy còn đi qua đi lại hoặc ngồi nói chuyện với ông Trợ để chờ đợi. Thấy
công việc không thể xong ngay, Phong bước đến chỗ tôi, ngồi im nhìn tôi
làm việc một lúc rồi nói, giọng nhỏ, vừa cho tôi nghe:
“Những gì anh nói với tôi trước đây, tôi thấy đúng lắm,
nhưng trong khả năng của tôi, tôi cũng chẳng làm được gì để cải thiện
nổi. Chỉ còn cách là đề nghị cứu xét tạm tha, tạm tha hết những người
bệnh nặng thì may ra tránh được những cái chết vô lý. Cái chết của anh
Nam mấy ngày trước… anh Khang có chứng kiến không?”
Ngừng bút, mắt không ngước lên, tôi nói:
“Tôi còn bị bắt buộc phải chứng kiến cảnh người ta dùng
roi để đánh anh Nam nữa kia. Đánh cho đến ngất xỉu, đem nước lạnh dội
cho tỉnh lại, rồi đánh tiếp. Tám người cầm roi vây đánh một người bị
còng tay. Tôi không hiểu ban quản trại muốn gởi đến tù nhân chúng tôi
cái thông điệp gì đây.”
“Lúc đó tôi đang lo họp về vụ bệnh nhân của bệnh xá,
không có ở đây. Vả lại, đó là việc của ban quản giáo và ban chỉ huy Khu,
tôi không can dự. Nhưng tôi cũng hoàn toàn không đồng ý chuyện xử phạt
tù nhân trốn trại bằng cách đó. Dã man quá. Đó, rồi anh Khang cũng biết,
thêm một người chết trong bệnh xá làm cho tôi lại mang tiếng. Thực ra
anh Nam đâu phải là bệnh nhân của bệnh xá. Tôi kiện lắm ban quản trại
mới đem xác anh ấy ra văn phòng ban Chỉ huy Khu đó.”
Phong vừa nói đến đó thì ông Trợ bước vào, kéo ghế ngồi cạnh tôi, nói:
“Để tôi đọc giúp anh cho nhanh nhé.”
Phong ngồi một lúc rồi đứng dậy, bước ra, ngang chỗ tôi ngồi, Phong đứng lại, vừa nói vừa cười:
“Anh Khang này giỏi lắm nghe, phải không ông Trợ? Làm việc gì cũng tận tâm, hết mình, mà lại nhanh chóng nữa.”
“Báo cáo cán bộ, đúng vậy đó, anh ấy giỏi lắm. Ở bệnh
xá này, bệnh nhân thương quý anh ấy hơn cả tôi và mấy y sĩ ở đây nữa
kia.”
Phong vỗ vai tôi, cười, rồi nói:
“Mai này có về đừng ăn chay nữa nghe. Ăn chay hoài làm sao đủ sức khỏe, cho nên mới bệnh đó, phải không?”
Nói rồi, Phong rời bệnh xá. Câu nói của Phong dù không
có gì chắc chắn lắm, nhưng cũng gợi ý cho tôi ít nhiều cái viễn cảnh
tươi đẹp của tự do, trả lại cho tôi niềm hy vọng đã chìm mất từ những
ngày trước.
Trước lễ Giáng Sinh hai ngày, trong khi tôi đang ngồi ở
bệnh xá thì Lộc bước vào, tay cầm một tờ giấy. Thấy tôi, Lộc mừng lắm,
reo lên:
“A, anh Khang, anh lúc này khỏe không? Trời ơi, em có
nghe nói là bây giờ anh làm thư ký bệnh xá mà chưa có dịp nào ghé thăm
anh. Bận quá anh Khang ơi. À, có cái danh sách này, ông Liệt giao em đi
lấy mấy người ở bệnh xá, vậy anh Khang đọc dùm em đi, em đâu có biết
chữ.”
Tôi cầm tờ giấy. Lộc vỗ tay ba tiếng bảo bệnh xá im lặng:
“Lắng nghe nè, ai có tên thì mang đồ đạc cá nhân tập trung ở văn phòng ban Chỉ huy Khu. Rồi, đọc đi anh Khang.”
Tôi đọc lớn. Danh sách có tên tôi. Lộc nghe thì giật mình, hỏi:
“Vĩnh Khang là tên anh, phải không?”
“Ừ.”
“Mẹ bà tụi nó! Anh Khang như vầy mà…”
Ông Trợ nghe vậy thì bước tới, hỏi dồn:
“Danh sách này là danh sách gì vậy anh Lộc? Nói tôi nghe đi. Cho về hay là đi đâu vậy?”
Lộc ngập ngừng một lúc rồi nói:
“Đâu phải danh sách về! Đây là danh sách vô nằm nhà đá đó!”
“Úy trời, vậy thì không được! Tôi không cho các anh lấy
anh Khang đi đâu. Anh ấy bị bệnh tim nặng lắm, có cán bộ y tế của trại
chứng nhận mà, không đi nhà đá được đâu. Đi lần này là chết chắc! Tôi
nói rồi đó, tôi không chịu trách nhiệm đâu nghen. Hay là anh trình cho
cán bộ Phong biết ngay đi để cán bộ Phong can thiệp. Cán bộ Phong cũng
biết anh Khang bệnh mà.”
Lộc nghe vậy thì cũng mừng, nói:
“Được rồi, được rồi, có lý do như vậy thì tốt, để tôi
báo cáo lên là anh Khang bệnh nặng không thể vào nhà đá, có ban y tế xác
nhận.”
Vậy là tôi không phải vào nhà đá. Ông Trợ nói rằng danh
sách bệnh nhân nan y đang chờ cứu xét, nếu tôi vào nhà đá thì không có
cơ hội để được nghe đọc lệnh tạm tha—có thể là trong những ngày sắp tới.
Người ta không bao giờ trả tự do cho những phần tử đang bị giam ở nhà
đá bao giờ.
Và trong khi mấy chục người bị lùa vào nhà đá trong dịp
lễ Giáng Sinh thì vài ngày sau đó, khoảng gần năm mươi người ở bệnh xá
và Khu C được gọi tên lên văn phòng ban chỉ huy Khu để nhận lệnh tạm
tha; và lại không có tên tôi… Cả ông Trợ cũng được về trong đợt này dù
rằng ông không có trong danh sách bệnh nan y. Bàn giao công việc của
bệnh xá cho anh Oai và ông Mậu xong, ông Trợ nói riêng với tôi ở văn
phòng bệnh xá, lại với giọng an ủi:
“Danh sách kỳ này một trăm bốn mươi người, anh biết rồi
đó, hôm nay cho về chưa tới năm mươi, vậy thì vẫn còn cơ hội. Chắc là
nay mai thôi. Anh sẽ về đó, tin tôi đi. Thôi, tôi về trước nghe.”
“Nhưng… xin hỏi chú một câu chót: có thực là tôi bị bệnh tim không?”
“Ư… thực ra thì tôi không biết anh bị bệnh gì, chỉ thấy
là quanh vùng tim có tiếng lạ lắm, không giống như người khác. Đại khái
là có cái gì bất thường nơi trái tim anh đó. Cái dấu hiệu đó giống như
là bị hở van tim, mà có khi lại giống như là bị nghẽn van… khó nói lắm.
Tôi chịu thua. Nhưng tốt hơn là cứ kết luận là bị đau tim để phòng ngừa
chuyện anh làm việc nặng hay xúc động mạnh mà bị chết bất đắc kỳ tử.”
Tôi cám ơn ông đã giúp tôi trong thời gian qua. Ông cười, nói:
“Có gì đâu. Anh em cùng hội cùng thuyền thì giúp nhau
thôi mà. Vả lại, anh bệnh thì tôi khám, tôi chữa, đó là công việc của
tôi, có gì đặc biệt đâu mà cám ơn.”
Nói rồi ông vẫy tay, bước ra. Tôi không rõ ‘cùng hội
cùng thuyền’ là như thế nào. Ông bị tù vì vượt biên, tôi bị tù vì hoạt
động chính trị. Ông ấy là y sĩ, tôi là tu sĩ. Cùng cái hội nào, cùng cái
thuyền nào? Cái hội tù nhân, cái thuyền K4 hay cái hội nhân dân trong
cái thuyền Việt Nam… thì ai lại chẳng cùng. Thôi thì cứ ghi nhận. Cám ơn
ông, một y sĩ xoàng nhưng có lương tâm, một hộ pháp thiện thần hiện
thân để cứu giúp tôi suốt nhiều tháng qua.
Ông Trợ về rồi, Phong cắt Oai thay thế làm trưởng ban y
tế của bệnh xá Khu C. Anh Oai bị bắt vì tội vượt biên. Anh khai là y tá
của chế độ trước, nhưng nhìn cách anh chữa bệnh, tôi không nghĩ anh chỉ
là y tá. Cỡ ông Nguyên ông Mậu so với anh Oai thì chẳng ra làm sao cả.
Đến anh Oai này mới thật là y sĩ giỏi. Bao nhiêu căn bệnh khó trị mà ông
Trợ bó tay để bệnh nhân nằm ì tại bệnh xá, anh Oai xăn tay chữa hết.
Anh nhờ tôi làm đơn xin cấp một số thuốc tây đặc biệt để trị các căn
bệnh hiểm nghèo. Trong đơn xin cấp thuốc, anh cũng cần thuốc gây mê và
các dụng cụ giải phẫu. Các loại thuốc khác đều được cung ứng theo nhu
cầu của bệnh xá, ngoại trừ thuốc tê và dụng cụ đặc biệt cho ngành giải
phẫu. Có lẽ ban quản trại sợ nhân viên bệnh xá dùng thuốc mê và các dụng
cụ bén nhọn này để ám sát cán bộ (?). Cho nên, anh chàng bị sạn bàng
quang sau khi được anh Oai cho uống loại thuốc gì đó để tống hòn sạn
theo đường tiểu ra đầu dương vật, đã nằm rên la thảm thiết đến độ không
ai trong bệnh xá mà cầm lòng cho được. Anh Oai, hỏi bệnh nhân có chịu
cho giải phẫu không có thuốc tê không. Anh kia đau quá nhận lời đại. Vậy
là theo sự hướng dẫn của anh Oai, bệnh nhân cởi quần ra, đứng dưới đất,
một chân gác lên mép giường, không một mũi thuốc tê nào, chịu đựng cho
anh Oai dùng lưỡi dao mổ duy nhất của bệnh xá, nhúng cồn để tẩy trùng
rồi xẻ đầu dương vật, lôi ra hòn sạn to bằng đầu ngón tay giữa. Lôi sạn
ra rồi, anh Oai còn dùng kim chỉ để khâu đầu dương vật của bệnh nhân
lại. Không một chút thuốc tê nào!
Một tuần sau khi ông Trợ về thì đến Tết dương lịch của
năm 1987. Dịp này, lại thêm một đợt thả tù bệnh nan y, giải quyết gần
hết cái danh sách sau cùng mà Phong bảo bệnh xá thực hiện. Nhưng vẫn
chưa có tên tôi. Những người chưa được cứu xét còn lại trong bệnh xá là
những người tù chính trị và án nặng. Điều này ngoài Phong và ban quản
trại ra, có lẽ chỉ có mình tôi là người thấy rõ, vì chính tay tôi viết
và sao danh sách cứu xét (có giữ lại một bản cho bệnh xá). Tù chính trị
và án nặng thì khó được trả tự do. Tôi đã nghĩ đến điều ấy trước đây
nhưng đến lúc này, sau nhiều đợt tha có tính cách chắt lọc thành phần tù
án nhẹ và chừa lại thành phần tù án nặng, tôi mới thấy sự kiện một cách
rõ rệt hơn. Niềm hy vọng của tôi càng lúc càng giảm nhiều.
Hôm sau, Phong cùng bốn tù nhân mang vào văn phòng bệnh
xá một cái cân lớn và bốn, năm thùng cạc-tông chất đầy những cuốn sổ
khám bệnh cá nhân (loại này nhà nước có in sẵn để phát cho nhân dân có
hộ khẩu chính thức đi khám bệnh ở các bệnh viện công). Phong cười, nheo
mắt riêng với tôi rồi giao cho thư ký bệnh xá lập sổ bệnh cho tất cả tù
nhân của trại. Công việc văn phòng bệnh xá từ hôm ấy là đón nhận từng
đoàn tù nhân ở các phòng giam xếp hàng bước vào để lập sổ bệnh riêng cho
mỗi người. Sổ khám bệnh ghi tên tuổi và lý lịch tổng quát của mỗi người
kèm theo tội trạng của họ. Chúng tôi cũng lo việc cân sức nặng và đo
chiều cao của mỗi người rồi ghi vào sổ của họ, phát sổ ấy cho mỗi người
giữ lấy. Công việc ấy không cần tới anh Oai và ông Mậu mà do tôi và vài
bệnh nhân biết chữ khác đảm trách. Tôi vui vẻ làm công việc này suốt cả
ngày cho tới tối gần giờ báo nghiêm mới nghỉ mà không biết mệt.
Buổi tối nằm trong cùm, nghĩ tới anh cán bộ miền Nam
cởi mở như Phong, tôi có giả thiết rằng nếu những người cầm quyền hiện
nay biết gạt bỏ chuyện chủ nghĩa, ý thức hệ, đảng phái… qua một bên,
biết lắng nghe và tiếp nhận ý kiến đóng góp của người dân trong việc xây
dựng và kiến thiết xứ sở… thì đất nước này đâu đến nỗi phải suy vong
lụn bại như thế này. Tôi luôn luôn có cảm nghĩ rằng đất nước tôi không
phải là mảnh đất thích hợp để gieo trồng duy nhất một loại hạt giống nào
đó, nhất là loại hạt giống mang khả tính hủy diệt các hạt giống khác
loại với nó. Vậy mà người ta cứ hăm hở xun xoe rước về những hạt giống
xấu đã từng tàn phá những mảnh đất màu mỡ của vườn khác, đem về đây mà
phá hoại vườn nhà. Càng phá hoại và làm đau khổ kẻ khác nhiều chừng nào,
người ta càng vun bón làm giàu thêm chất tưởng tượng siêu phàm vô địch
trong đầu họ chừng nấy, để rồi cứ bập bềnh trong giấc mộng hãnh tiến,
không bao giờ chịu nhìn lui, nhìn lại, nhìn xuống, nhìn ngay, nhìn
trước… chỉ có nhìn lên mà thôi. Vâng, nhìn lên thật cao, cái đỉnh cao
chót vót của nền văn minh duy vật đã đánh bại tất cả các nền văn minh cổ
xưa hay hiện đại của thế giới! Và thời đại hôm nay mà chúng tôi đang
sống là thời đại thăng hoa vượt bực của diều giấy mộng tưởng. Trong khi
các vệ tinh nhân tạo đã có thể bay vòng vòng chung quanh trái đất và các
phi thuyền đang nhắm vào các vì tinh tú xa xăm thì nơi đây, chúng tôi
vác búa liềm và cuốc rựa lên vai, miệng đồng loạt mỉm cười, hân hoan,
tin tưởng, tự hào: phóng lên trời cao tất cả tinh hoa trí tuệ của một
dân tộc may mắn được sự hướng dẫn của Bác-Đảng, phấp phới hồ hởi theo
đôi cánh tung hoành ngạo nghễ của con diều giấy vô địch. Ôi là mộng
tưởng ấu thời! Ôi là vinh quang chói lọi của ngọn cờ bách chiến bách
thắng!
Ó
Buổi sáng của ngày kế tiếp, ban y tế chúng tôi tiếp tục
cân đo và lập sổ bệnh cho nhiều tù nhân từ các Khu khác kéo về. Văn
phòng bệnh xá chật chội, chúng tôi khiêng bàn và cái cân ra ngoài sân.
Phong đem đến thêm một cái cân khác và vài sợi thước dây (dùng đo vòng
ngực bệnh nhân) để chúng tôi làm việc nhanh hơn. Và trong khi chúng tôi
đang cặm cụi làm công việc ấy thì Phong đang sắp xếp những bệnh nhân đã
có sổ bệnh bước vào một căn phòng nằm xéo góc với văn phòng bệnh xá, đối
diện văn phòng ban chỉ huy Khu. Tôi không hiểu có gì xảy ra ở đó. Mãi
đến khi lập xong hết sổ bệnh, tôi mới biết rằng mọi tù nhân đều phải xếp
hàng để vào căn phòng đó, có các bác sĩ của tỉnh Đồng Nai từ Thủ Đức
tới khám bệnh. Các vị bác sĩ này hiện đang làm việc ở một bệnh viện lớn
nhất của tỉnh. Họ gồm mười ba người, mười bác sĩ và ba người khác là y
tá lo ghi chép lập hồ sơ bệnh, hầu hết trẻ tuổi. Riêng bác sĩ trưởng thì
cao tuổi nhất nhưng cũng chỉ đâu chừng trên dưới năm mươi.
Trong khi sắp xếp cho bệnh nhân đang điều trị tại bệnh
xá xếp hàng vào khám, tôi nghe vị bác sĩ trưởng nói chuyện với Phong
bằng giọng Huế. Bỗng dưng một cảm giác thân mật, gần gũi nào đó bừng dậy
trong tôi. Đã lâu lắm rồi tôi không nghe được cái giọng Huế nhỏ nhẹ dễ
thương. Cái giọng Huế ấy sao mà giống cái giọng của ba tôi. Ở nhà tôi,
chỉ có ba người nói tiếng Huế là ba tôi và hai chị lớn. Nhưng trong cái
kho tàng ký ức của tôi, dường như chỉ có cái giọng Huế nhỏ nhẹ của ba
tôi là tràn đầy và còn có thể gợi nhớ, còn có thể mường tượng ra được,
bởi vì ngoài thì giờ làm việc ở sở, ba tôi dành rất nhiều thời giờ còn
lại của ông để nựng nịu và nói lời thương yêu với từng đứa con trong
nhà.
Đến lượt bác sĩ trưởng rảnh tay thì đúng lúc tôi bước vào. Vừa ra dấu tôi ngồi xuống giường, bác sĩ xem sổ bệnh.
“Tên là Vĩnh Khang à?”
Tôi chỉ gật đầu. Bác sĩ nhìn xuống phần lý lịch cá nhân,
hơi giật mình ngạc nhiên một lúc rồi mặt ông thoáng hiện vẻ xúc động.
Một lúc, ông lại hỏi nhỏ:
“Nghề nghiệp để là tu sĩ, vậy tu sĩ ở chùa hay tu sĩ ở nhà thờ đây?”
“Thưa, ở chùa.”
“Tội PCM là gì vậy?”
“Thưa, phản cách mạng.”
Bác sĩ im lặng, có vẻ ưu tư. Một lúc, ông xăn tay, cầm ống nghe lên, hỏi:
“Trong sổ ghi là bệnh đau tim, vậy đó là do ban y tế của trại khám hay do có bệnh từ trước mà biết?”
“Bác sĩ của trại khám nhiều lần đều cho là đau tim.”
“Có biết vì nguyên do nào không? Chẳng hạn trước khi vào đây, hay lúc nhỏ, có bị đau tim hay yếu tim sẵn không?”
“Tôi không nhớ, nhưng… có lần tôi bị người ta đánh đập,
một người đạp mạnh vào ngay tim, chỗ này.” (Tôi nhớ trận đòn vượt biên ở
Vạn Giã mà từ sau ngày đó, giọng nói và nhịp thở của tôi không còn mạnh
mẽ như hồi thiếu niên nữa.)
Bác sĩ có vẻ xúc động mạnh, đưa mặt sát về hướng tôi một tí, hỏi nhỏ:
“Sao người ta lại đánh đập vậy?”
Có lẽ ông tưởng rằng tôi bị cán bộ hay cai tù đánh.
“Không có chuyện gì đâu. Đó là chuyện trước khi vào đây.”
“Thôi nằm xuống đi, thở mạnh, thở mạnh… Được rồi, được rồi, ngồi dậy đi.”
Ông ghi gì đó vào cuốn sổ bệnh của tôi rồi đem qua đưa
cho Phong, hai người nói qua nói lại to nhỏ với nhau gì đó, tôi không
nghe được. Tôi có ý đứng lại chờ đợi kết quả chẩn bệnh, nhưng Phong bước
tới nói:
“Anh về lại bệnh xá được rồi.”
Tôi bước ra. Một lúc, Phong đến bệnh xá:
“Anh Khang, anh có thể lên phòng khám bệnh giúp làm thư
ký cho bác sĩ trưởng, được không? Vì trên đó ba thư ký cho mười bác sĩ,
không đủ. Bác sĩ trưởng cần xin một người làm thư ký riêng cho ổng. Anh
lên đi há, giúp dùm đi cho nhanh.”
Tôi vội lên phòng khám. Từ đó tôi ngồi cạnh bác sĩ
trưởng cho đến khi ông khám xong những bệnh nhân cuối cùng. Trong lúc
đang làm việc, ở một góc bàn khác có hai anh công an một anh đọc hồ sơ
bệnh, một anh đang đánh máy. Hình như là các hồ sơ bệnh nặng đều tập
trung vào cái bàn của hai anh công an này. Tôi nghe một anh đọc lớn tên
tôi, tôi giật mình quay lại. Phong đứng gần đó cũng quay nhìn về hướng
hai anh công an kia, rồi lật đật chạy tới, nói nhỏ nhưng tôi đoán nghe
được:
“Xuỵt, đọc nhỏ, có người này ở đây.”
Vậy là phần bệnh trạng của tôi do bác sĩ trưởng xác
nhận, họ không muốn cho tôi nghe. Cái phần đó là phần quyết định. Tôi
đoán rằng trại muốn trả tự do cho những tù nhân có bệnh nan y nhưng vì
trong số này có tù chính trị án nặng nên trại phải mời các bác sĩ của
bệnh viện tỉnh vào khám để dựa vào sự xác nhận của các bác sĩ này mà thả
tù.
Buổi chiều, khi việc khám bệnh xong xuôi, bác sĩ trưởng
quay qua bắt tay tôi và nói lời cám ơn. Tôi cũng cám ơn ông lần nữa. Ông
nói với Phong:
“Thư ký bệnh xá này giỏi quá, các ký hiệu y khoa đều
biết hết trơn! Giống như người học ngành y khoa vậy!” (Thực ra cách ghi
các ký hiệu vắn tắt này, tôi chỉ mới học lóm được một ít từ anh Oai chứ
chẳng biết gì khá hơn).
Phong cười có vẻ thích chí lắm, nói:
“Giỏi chớ. Tôi biết anh ấy giỏi mới kêu lên đây đó.”
Tôi còn tần ngần đứng chờ Phong đưa trở về bệnh xá (vì
tôi không thể tự động đi một mình ở trong trại) thì bác sĩ trưởng nhân
lúc Phong quay qua hướng dẫn hai anh công an kia làm việc, lại vỗ vai
tôi, nói nhỏ:
“Về được thầy nhớ đi khám bệnh, bảo người ta đo điện tâm đồ để biết rõ thêm căn bệnh nhé. Chúc thầy may mắn.”
Ó
Thứ hai ngày 05-01-1987, hai hôm sau ngày tổng khám, hơn
một trăm bệnh nhân được trả tự do. Nhiều bệnh nhân không có tên trong
danh sách bệnh nan y do ban y tế bệnh xá lập trước đây mà do mười bác sĩ
của bệnh viện tỉnh mới chứng nhận trong đợt tổng khám. Thật là một ngày
đại xá vui vẻ chưa từng thấy ở trại giam. Tôi hồi hộp chờ nghe tên mình
suốt cái danh sách dài, vẫn không thấy. Tôi chưa được tự do.
Thằng bé tên Bảy, mười tám tuổi, nhỏ con và khẳng khiu
như một con nai con, là một bệnh nhân bị kiệt sức nằm lâu ở bệnh xá,
được gọi tên thì mừng quýnh lên, nhảy cỡn một lúc rồi chạy tới ôm chầm
lấy tôi, cười nói:
“Anh Khang ơi, em được về rồi, em được về rồi!”
Tôi sung sướng nhìn Bảy, xoa đầu nó. Nó nhón lên hôn nơi má, nói:
“Cám ơn anh Khang nhiều lắm nghe, em về trước, anh về sau há!”
Vậy rồi khi ra xếp hàng ngoài sân chờ vào văn phòng ban
chỉ huy Khu để nhận giấy tha, Bảy ngất xỉu, chúng tôi phải cõng em vào
bệnh xá. Anh Oai nói Bảy bị kiệt sức lại bị xúc động mạnh, rồi đứng xếp
hàng chờ lâu ngoài nắng nên chịu không nổi, phải cho em ở lại bệnh xá
bồi dưỡng vài ngày trước khi về. Tôi cấp tốc viết phiếu xin cấp dưỡng
cho em. Nhưng buổi chiều cùng ngày, sau khi ăn xong phần cháo nấu với
khoai tây và thịt bằm, em nằm một lúc thì tự dưng rùng mình, nói mệt,
mệt lắm. Anh Oai đến khám, nói mạch đập em yếu hết sức, chắc là không
qua nổi. Tôi nghe vậy thì tức muốn khóc. Đã được tha rồi mà còn về không
được nữa sao, Bảy ơi, cái nghiệp gì mà nặng quá vậy! Tôi ngồi bên cạnh
Bảy, chẳng biết làm gì khác hơn là cầu nguyện cho em. Một lúc, Bảy nắm
lấy tay tôi, nói thì thào:
“Anh Khang ơi, sao anh tốt với em quá vậy?”
Tôi ngăn em, nói:
“Nghỉ ngơi, đừng nói nhiều mất sức. Cầu nguyện đi.”
“Có, em có cầu nguyện Chúa đó anh Khang.”
“Giỏi lắm, nhưng em biết cầu nguyện sao cho tốt không?”
“Anh nói em nghe đi.”
“Gạt bỏ hết mọi suy nghĩ, tập trung vào lời cầu nguyện. Đừng để tâm phân tán đủ chuyện, hiểu không?”
Bảy gật đầu nhẹ, rồi nhắm mắt lại. Một lúc, Bảy mở mắt
ra, vói tay lôi từ giỏ xách của em một cái mũ cát-két màu cà phê sữa,
đưa tôi, em nói:
“Cái mũ này của anh Khang cho em… Bây giờ em trả lại cho anh. Em xin lỗi anh. Em cũng cám ơn anh nhiều lắm, nghe anh Khang.”
Cái mũ ấy đúng ra là Bảy ăn cắp từ giỏ xách của tôi, bị
người ta bắt được đòi tố em đi biệt giam kỷ luật; tôi bênh em, nói là
tôi đã cho để em khỏi bị phạt.
“Không, em không cần phải xin lỗi. Cái mũ này anh cho em thật mà. Nó thuộc về em đó.”
“Nhưng bây giờ anh nhận nó đi. Em tặng lại anh để anh có
mà đội cho khỏi nắng, với lại bữa nào về… anh có mà đội chứ để cái đầu
như vầy thấy không đẹp. Em… chắc em không thể về được đâu.”
Tôi cười đau khổ, thương xót cho Bảy mà chẳng biết nói
gì để an ủi em. Theo lời anh Oai nói, tôi biết là Bảy sắp chết. Phong
đang nhắn gia đình Bảy đến nhận em về. Tôi đưa tay lên sờ cái đầu hớt
kiểu tù của mình rồi đội cái mũ lên. Bảy cười, nói:
“Đó, như vậy, đẹp quá rồi.”
“Thôi, em cầu Chúa đi, đừng nói chuyện nhiều há.”
“Anh cũng cầu Chúa cho em với nghe, anh Khang.”
“Ừ, anh cũng cầu nguyện cho em.”
Buổi tối, tôi nằm trong cùm, ở một chỗ khá gần Bảy, bỗng
thấy một con bọ ngựa màu xanh lá cây từ đâu bay tới, rớt ngay trước
mặt. Tôi nâng nó lên xem thì thấy nó cứng đờ, chỉ ngọ nguậy đôi râu và
đôi càng một lúc rồi chết. Tôi xoay qua nhìn Bảy, thấy em vẫn còn thở
nhè nhẹ. Ngay lúc ấy, bất chợt một mối xốn xang bâng quơ nào đó dâng dậy
trong tôi. Con bọ rơi chết trước mặt tôi có vẻ như một điềm báo chẳng
lành. Tôi chẳng hiểu là điềm gì. Nâng con bọ ngựa chết trên tay, tôi chỉ
thấy lòng buồn vời vợi, một cái buồn sâu lắng vào trong, đục khoét con
tim.
Đêm đó tôi nằm ngủ trong giấc mộng chập chờn hình ảnh ba
tôi, chỉ duy nhất ba tôi, đến ôm hôn tôi, xoa đầu tôi. Tôi bé nhỏ và sà
vào lòng ông, đòi quà, đòi được dẫn đi xem xi-nê. Rồi bất chợt tôi lớn
lên, trở thành tù nhân đứng trong khung cửa sắt. Ba tôi cùng vài người
cảnh sát bước tới, mở cửa cho tôi ra. Tôi vui mừng quá lại đến ôm ông
nhưng ông biến thành mẹ tôi. Mẹ tôi khóc. Mẹ tôi mang vành tang trắng,
ngồi khóc lặng lẽ, nước mắt chảy thành dòng.
Tôi giật mình thức dậy thì đã qua một ngày mới. Bảy chết
trên giường bệnh. Tờ giấy tha còn nắm trong tay. Đêm qua trước khi ngủ
tôi không thấy em cầm tờ giấy ấy. Có lẽ em đã thức dậy nửa đêm, nằm đọc
tới đọc lui tờ giấy tha cho đỡ buồn.
Hôm sau, ngày 07-01-1987 (nhằm ngày mùng 8 tháng chạp âm
lịch), tôi đang ngồi làm sổ sách ở văn phòng bệnh xá thì Phong từ ngoài
bước vào nhanh, thấy tôi thì dừng lại, cười cười, nói:
“Anh Khang, biết gì không?”
Tôi ngước lên nhìn Phong, chờ đợi. Phong cười rất vui, nói:
“Anh được về rồi đó.”
Tôi ngồi lặng một lúc, tưởng chừng như đang còn đắm mình
trong một cơn mộng ban ngày. Cái phút ấy, tôi chờ đợi đã từ lâu, tin
tưởng nó sẽ đến, nhưng bây giờ vẫn vô cùng ngạc nhiên để đón nhận. Tôi
đứng dậy:
“Thật hả?”
“Thật đó, chuẩn bị đồ đạc mà về. Tôi đọc tên nghe.”
Phong bước một bước đến ngạch cửa, cái cửa ăn thông giữa văn phòng bệnh xá và phòng bệnh.
“Bệnh xá im lặng lắng nghe nè. Nguyễn Mậu, Vũ Quang
Minh, Trần Quang, Lê Trực, Lê Văn Năm, Vĩnh Khang.” Đọc đến đây, Phong
quay qua nhìn tôi, mỉm cười, rồi tiếp, “tất cả những người này lập tức
lên văn phòng ban chỉ huy Khu nhận lệnh tha.”
Tôi bủn rủn rời khỏi bàn giấy, bước qua dãy phòng bệnh. Phong vỗ vai tôi, nói:
“Về giữ gìn sức khoẻ, đừng làm chuyện gì chống trái với
pháp luật nhà nước nữa nghe anh Khang. Anh làm việc giỏi lắm, anh giúp
bệnh xá này và giúp tôi nhiều lắm, nhưng tôi không muốn gặp mặt anh ở
trại này nữa đâu.”
Tôi bàn giao sổ sách cho ông Nghị, một phụ tá thư ký của
tôi ở bệnh xá, rồi xuống kho hậu cần lấy bộ đồ tây và đôi giép da mới
mà gia đình gởi vào trong một đợt thăm nuôi trước đây. Trong sổ của kho
hậu cần, tôi hãy còn một giỏ thức ăn khô chưa dùng hết và mấy trăm đồng
chưa xài tới. Tôi mang vào bệnh xá, phân phát hết thức ăn, chỉ giữ tiền
để đón xe về Sài Gòn, rồi thay bỏ bộ đồ tù (mà ông Trợ đã cấp cho tôi
trước đây). Chào tất cả, bước ra văn phòng ban chỉ huy Khu. Ở đây, Phong
dặn dò sáu người tù chính trị chúng tôi về chính sách của trại cải tạo,
sau đó anh phát cho chúng tôi lệnh tạm tha. Các điểm được nhấn mạnh
trong lệnh này là “lệnh này chỉ có giá trị trong vòng 3 tháng kể từ ngày
ký; đương sự có thể bị hồi triệu về trại giam trong trường hợp có lệnh
báo khẩn cấp; trong thời gian ở ngoài để điều trị bệnh, mỗi ngày đương
sự phải đến trình diện với cơ quan chính quyền địa phương.”
Riêng với tôi, Phong nói:
“Lệnh ở trên là anh Khang phải trở về với gia đình ở Nha
Trang, không được trở về chùa của anh ở Long Thành hay bất cứ ngôi chùa
nào ở bất cứ tỉnh nào khác. Anh nhớ nghe. Đó là lệnh ở trên, tôi chỉ có
bổn phận nhắc anh thôi.”
Tôi nhận lệnh tạm tha, đọc lại, và thấy quả đúng là
người ta đã chỉ định nơi cư trú của tôi. Chỉ định cư trú như thế, phải
ngầm hiểu rằng người ta không cho tôi ở chùa làm người xuất gia nữa.
Nhưng điều này cũng chẳng có gì đáng phàn nàn đối với tôi lúc ấy. Tôi
cần tự do cái đã, chuyện cư trú tính sau.
Theo lệnh tạm tha ghi, nơi tôi phải đến tạm trú là căn
nhà năm xưa có giàn bông giấy đỏ, nằm ở khu chợ Đầm thuộc thành phố biển
thơ mộng Nha Trang.
CHƯƠNG HAI MƯƠI BA
Thở phào một hơi thật dài, nàng ngước nhìn tôi với vẻ vừa thương tâm vừa trìu mến lạ. Mắt nàng rưng rưng lệ, nhưng mặt nàng tươi lên. Tôi biết nàng khóc sung sướng về sự tự do của tôi. Tôi có cảm tưởng nàng, chính nàng, mới là người đầu tiên, thấu hiểu, vui mừng và chia sẻ trọn vẹn được niềm vui tự do của tôi. Nhưng nỗi đau nặng trịch đè nghiêng một nửa tim tôi, nàng vẫn hồn nhiên chưa biết đến. Nàng lặp đi lặp lại hai lần, chúc mừng anh, em mừng cho anh… Rồi nàng để tự nhiên cho nước mắt xuôi thành dòng, chạy quanh hai gò má bầu bĩnh trắng hồng, rơi lã chã trên hai bàn tay đặt trên đầu gối. Nàng là người bạn mới nhất của tôi chứng kiến và chào đón bước chân trở về của tôi. Nàng đang sung sướng như thể chính nàng vừa được thoát ra khỏi cái phóng ảnh của nơi chốn khổ đau nhục nhằn mà tôi gieo vào trí tưởng nàng từ suốt đêm qua đến giờ. Chính nỗi sung sướng trong ngần đẹp đẽ ấy của nàng đã ngăn chận tôi, không cho tôi bộc lộ tiếp niềm đau to lớn mà tôi cố gắng đè nén, vùi chôn vào tận đáy sâu tâm mình. Tôi quyết định không nói nàng nghe. Tôi giữ niềm đau ấy lại cho tôi. Và trong khi ngồi im với nàng nơi căn phòng khách vắng lặng này, tôi một mình đào sâu xuống đáy tim, moi lên niềm đau khổ của tôi…
Ó
Trên đường ra cổng trại, tôi ngang qua chỗ một tốp tù
chính trị án nhẹ đang dọn vệ sinh (vì tù chính trị án nặng đang còn bị
giam nhà đá từ trước lễ Giáng Sinh cho đến qua Tết nguyên đán). Tôi bắt
gặp ông Bình, ông trùm giáo xứ Tân Cang, cha ruột của ông Lương, lãnh tụ
lực lượng Phục quốc, một người bạn tù già ở chung trại B5 Biên Hoà với
tôi trước đây. Mới hôm qua, một bản danh sách bệnh nan y khác được anh
Oai đi khám các phòng và lập, tôi có đề nghị ghi tên ông Bình vào. Danh
sách mới lập, chưa cứu xét, nên ông hãy còn lum khum nhổ cỏ ở đây. Tôi
hy vọng một ngày rất gần, ông cũng sẽ được tha. Thấy tôi đã cởi bỏ đồ
tù, cầm tờ giấy bước về hướng cổng trại, ông ngước nhìn tôi với đôi mắt
kinh ngạc khó hiểu. Ông không biểu lộ rõ nỗi vui hay gởi gắm một dấu
hiệu chúc mừng nào với tôi, không biết là do ông sợ bị cai tù bắt phạt
hay vì ông đang nghi vấn về sự tự do quá đơn giản của tôi. Một vài người
tù chính trị án nhẹ khác, đa phần đều biết tôi, cũng nhìn theo tôi với
những đôi mắt ngờ vực. Tôi chợt cảm thấy rằng sự tự do trước khi bị kết
án và được mãn án của tôi có vẻ như một thứ đặc ân mà một người tù chính
trị không nên đón nhận, vì đón nhận thì giống như bội phản những người
cùng chí hướng với mình. Một người tù chính trị dưới chế độ cộng sản—mà
ai cũng đoán là sẽ lãnh cái án rất nặng như tôi—mà chỉ bị giam tổng cộng
có 613 ngày, chưa trọn hai năm, thì khó tin quá. Chính từ nơi đôi mắt
ông Bình và những người bạn tù kia nhìn mình, tôi nhận ra ngay một cái
gì oái oăm, phũ phàng hơn, đang chờ đón mình bên ngoài cánh cửa tù này.
Nhưng mặc kệ, tôi thầm nghĩ, còn có nỗi khổ đau nào to lớn hơn nỗi đau
của nô lệ tù hãm? Tôi đang được trả tự do, cho dù là thứ tự do tạm thời
và đầy giới hạn. Tôi có lý do để tồn tại, để hân hoan thư thới bước ra
khỏi khu nhà giam này.
Tôi xúc động đứng lại ở bên đường nhìn xe cộ và người ta
qua lại tấp nập. Cái gì cũng có vẻ mới lạ và đáng yêu trong mắt tôi lúc
này. Tôi lững thững rảo bước dọc theo quốc lộ, hướng về phía bến xe
Long Khánh. Trước tôi, đã có người ra khỏi trại giam với bộ đồ tù rách
nát, nói rằng “lo gì, cứ leo đại lên bất cứ chiếc xe đò nào, không ai
đòi tiền mấy thằng tù đâu!” Tôi may mắn là không cần phải xin xỏ làm
phiền bất cứ chiếc xe chở khách nào. Cái mũ lưỡi trai màu cà phê sữa mà
Bảy tặng lại tôi hãy còn mới, áo sơ mi màu cà phê sữa và cái quần jean
màu đen, cùng đôi giép da màu nâu cũng còn mới (vì ba thứ này đều ký gởi
nơi kho hậu cần, chưa dùng tới). Tôi vừa ra khỏi trại tù là đã lột xác
nhanh chóng thành một thị dân khá bảnh bao ở quận lỵ nhỏ bé này. Trong
túi tôi còn lại một ít tiền để đi xe đò, như vậy tôi khỏi phải xin quá
giang miễn phí như nhiều người tù khác.
Nhưng chưa kịp đến bến xe, tôi gặp ngay hai nhà tu trẻ
đang dắt xe đạp từ tiệm sửa xe bước ra. Đó là Nguyên Phương và Nguyên
Lộc, hai vị sư đệ đồng môn của Nguyên Lạc, bạn tôi. Họ nhận ra tôi ngay.
Họ rủ tôi ghé vào chùa Long Thọ chơi và cho biết hôm nay đúng là ngày
vía đức Phật Thích Ca Thành Đạo. Ai cũng nói tôi về đúng ngày Thành Đạo
là điềm lành. Ở đây, các huynh đệ xúm xít thăm hỏi tôi, mua bún, rau
tươi và đậu hủ chiên làm một tiệc nhỏ để đãi tôi bữa trưa. Tôi hỏi thăm
Nguyên Lạc thì được biết anh đã bị tù vì tội vượt biên. Các huynh đệ rủ
tôi ở chơi đến chiều cho khoẻ rồi hãy về Sài Gòn, nhưng tự dưng tôi thấy
nóng ruột, muốn ra bến xe ngay. Có một thứ linh cảm gì đó khó hiểu làm
bồn chồn khó chịu trong lòng tôi. Một cái gì đó lôi kéo tôi về phía
trước, và một cái gì đó như rượt đuổi tôi ở phía sau. Tâm tôi bất an.
Tôi nói lời từ giã với người ở chùa. Các bạn gom tiền biếu tôi, tôi từ
chối cách mấy cũng bị họ dúi tiền vào túi.
Ngồi trên xe, tôi chợt nẩy sinh nghi ngờ về đợt trả tự
do sáu người tù chính trị hôm nay. Có gì mờ ám chăng trong vụ trả tự do
này? Tại sao họ không thả chúng tôi hai ngày trước cùng lúc với một trăm
bốn mươi người trong danh sách tù nhân bệnh nan y? Phải chăng ồ ạt cùng
ra khỏi nhà tù họ sẽ khó khăn trong việc phân biệt ai là ai, khó theo
dõi và kiểm soát? Có chàng cán bộ công an nào âm thầm bám theo tôi trên
đường từ đây về Sài Gòn rồi từ Sài Gòn ra Nha Trang chăng? Bám theo để
làm gì? Để truy bắt những đồng phạm khác của tôi, hay để ám sát tôi bằng
một cách nào đó?
Về đến Sài Gòn, chỗ duy nhất mà tôi muốn ghé vào để từ
đó ra Nha Trang (theo lệnh ghi trên giấy tạm tha) là nhà của các chị
ruột tôi, nhất là chị Thuần, người đi thăm nuôi tôi mỗi tháng. Nhưng tôi
đến nơi thì thấy cửa khoá bên ngoài. Một người hàng xóm của chị tôi đã
nhận ra tôi, ái ngại cho biết ba tôi đã mất hai ngày trước và các chị
tôi đều kéo ra Nha Trang dự tang. Tôi loạng choạng rời chỗ đó, đi lang
thang trên đường Trương Minh Giảng ồ ạt xe cộ.
Ba tôi mất thật rồi sao? Mới hôm nào, chưa đầy một tháng
trước đây, ông lặn lội đường xa đến thăm tôi ở trại giam, khuôn mặt lo
âu, đôi mắt buồn bã, thương cảm mà không nói nên lời, muốn ôm hôn con mà
chỉ được ngồi xa mà nhìn, muốn nghe con bày tỏ ít nhiều thì chỉ được
nghe yêu cầu mỗi một điều là làm đơn bảo lãnh nó về… Cho tới lúc này,
tôi mới thấy là tôi bất công, vô tình, tàn nhẫn… đối với gia đình tôi,
nhất là đối với ba tôi, người vừa mới nằm xuống, không còn cơ hội nào để
tôi biểu lộ tình thương yêu và hiếu cảm của tôi nữa. Dường như trên
đường xuất gia hành đạo của tôi, lòng từ bi đã được vận dụng và mở ra
cho những con người đau khổ khác mà không đếm kể gì đến gia đình ruột
thịt của mình. Có chăng một thứ bi mẫn vô điều kiện khi còn phân biệt kẻ
thân với người sơ? Khi người xuất gia nghĩ tưởng chăm lo đến kẻ thân
thuộc của mình mà lơ là người xa lạ thì ai cũng cười, cho rằng họ không
làm đúng hạnh xuất gia; nhưng khi họ chăm lo cho người xa lạ mà bỏ lơ
gia đình ruột thịt thì chẳng thấy ai chê cười mà còn ca ngợi nữa! Ca
ngợi sự vô tư, không thiên vị! Có thực là vô tư không thiên vị chăng?
Nếu vô tư thì người thân kẻ sơ đều thương yêu và đối xử như nhau chứ.
Đàng này, tôi đã không màng gì đến niềm đau nỗi khổ của gia đình từ
nhiều năm qua. Nói rõ hơn, tôi đã chưa lo việc báo hiếu một cách cụ thể
như một đứa con thường tình đối với cha mẹ tôi trong giai đoạn khốn khó
chật vật nhất của gia đình. Tôi lạnh lùng với ba tôi. Tôi không hề biết
ba tôi thích gì, cần gì, yêu cái gì, muốn cái gì, nuối tiếc cái gì, mơ
tưởng cái gì, hy vọng cái gì… Bây giờ nhớ về ông, tôi chỉ nhớ khuôn mặt
hiền lành và đau khổ của ông, nhớ là ông luôn luôn muốn biểu lộ rằng ông
rất thương tôi. Từ khi xuất gia rời xa gia đình, hình như tôi chưa bao
giờ bày tỏ một cái gì cho thấy là tôi cũng thương ông vô cùng.
Tôi bước đi mãi, đi mãi, dọc theo lề phố rộng trong khi
nắng chiều đuổi theo sau lưng. Tôi cúi gầm mặt xuống, dẫm trên bóng
mình, bước tới. Chưa biết đi về đâu. Tôi vừa nghĩ đến ba tôi, lại vừa
nghĩ đến một chỗ tá túc tạm thời cho qua đêm nay. Ai có thể chứa chấp
tôi đây? Lệnh tha chỉ định nơi cư trú là nhà ba tôi ở Nha Trang, vậy thì
có ai ở Sài Gòn này dám chứa chấp tôi! Mà một người tù chính trị, cho
dù đã được trả tự do với một tờ giấy tạm tha, cũng khó lòng được người
khác an lòng và vui vẻ đón nhận vào nhà họ. Các chùa lại càng khó hơn vì
thường bị công an kiểm soát. Huống chi, ngoài tờ giấy ra tù, tôi chẳng
còn bất cứ mảnh giấy tùy thân nào khác để chứng minh rằng tôi chính là
người có tên trong tờ giấy tạm tha ấy. Ai cầm tờ giấy này lại không
được! Chẳng lẽ ai cầm tờ giấy này thì đều là Vĩnh Khang cả sao? Ôi, hóa
ra được tha rồi mà cũng chưa thực sự an toàn giữa cái xã hội mà đi đâu, ở
lại đâu, cũng phải có giấy tờ chứng minh. Không chứng minh được thì lại
bị bắt vào đồn bót công an...
Tôi thực sự là chẳng biết đi đâu. Lang thang một lúc,
tôi mới sực nhớ rằng từ lúc vào tù, mối dây liên hệ giữa tôi với xã hội
bên ngoài hầu như chỉ được kết nối qua những giỏ quà thăm nuôi, còn mọi
thứ đều bị cắt đứt. Như vậy, ngoài gia đình ruột thịt của tôi ra, chỉ có
người nào gởi quà thăm nuôi cho tôi thì người đó mới có thể đón nhận và
vui mừng cho sự trở về của tôi mà thôi. Tôi nghĩ ngay đến Tửu và Như
Tâm. Các giỏ quà gửi vào cho tôi lúc nào cũng có vài chữ của hai người
này. Tửu đang ở đâu nhỉ? Tôi thực sự không nhớ, không biết. Mới chưa
được hai năm mà sao đã quên hết vậy kìa! A, hình như anh ở chùa Bửu Đà,
nhưng chùa ấy phức tạp lắm, người ra kẻ vào tấp nập, biết ai người tốt
người xấu mà lường. Vả lại, quý thầy ở đó đều biết tôi ở tù, tôi vác mặt
tới chỉ tổ làm họ e ngại. Thôi, vậy thì tìm Như Tâm. Như Tâm ở chùa Hoa
Nghiêm. Chùa này tôi chưa hề đặt chân tới bao giờ nhưng biết nó nằm ở
đâu. Nơi đó ngoài Như Tâm và Như Nguyệt bạn thân của cô ra, không ai
biết mặt tôi, vậy thì dễ thở hơn. Tôi gọi một chiếc xích lô. Suốt dọc
đường từ đường Trương Minh Giảng đến chùa Hoa Nghiêm, tôi chỉ lo nghĩ
đến một chỗ tá túc qua đêm, hầu như quên khuấy chuyện ba tôi đã mất.
Sư cô tri khách bảo tôi ngồi chờ ở bàn khách để cô lên
lầu ba gọi Như Tâm. Bàn khách ở lầu hai, đặt ở khoảng hành lang trống
giữa chỗ bậc cấp dẫn xuống tầng trệt và dẫn lên tầng thứ ba. Trời đã bắt
đầu tối dần mà chẳng thấy ngọn đèn nào ở hành lang bật lên. Có lẽ nội
qui của chùa này không cho tiếp khách ban đêm nên không có chuyện bật
đèn hành lang. Thảo nào sư cô tri khách có vẻ không vui khi thấy tôi là
một người nam đến chùa giờ này để đòi gặp một sư cô. Tôi thấy bứt rứt,
khó chịu, chỉ mong gặp Như Tâm một chút rồi đi ngay, khỏi phiền ni chúng
ở đây. Bây giờ tôi mới sực nhớ lại là trong luật, tăng đến chùa ni hay
ni đến chùa tăng đều phải đi hai người trở lên, không được đi một mình.
Dù tôi không còn là tăng nữa, cũng phải ý thức chuyện đó.
Chỗ tôi ngồi khá tối trong khi đèn ở phòng phát hành
kinh sách gần đó thì sáng trưng. Ở khoảng đèn sáng, tôi thấy một thiếu
nữ đang đứng nói chuyện với một sư cô. Thiếu nữ có mái tóc dài thả xuống
ngang lưng. Khuôn mặt hơi bầu bĩnh. Đôi mắt to tròn đen láy nhưng đượm
một vẻ buồn thầm kín. Đôi mắt buồn quen quen. Nét mặt quen quen. Dường
như tôi đã bắt gặp cô một lần ở đâu đó. Hay chỉ là phóng ảnh của một thứ
dục vọng nào chôn chặt trong tôi, bây giờ vùng dậy, tìm kiếm... Tôi
nhắm mắt lại một lúc. Khang ơi, ba mi vừa mất, mi có nhớ chăng?
Như Tâm chưa kịp xuống thì sư cô và thiếu nữ từ phòng
phát hành kinh sách đã bước ra, đi ngang chỗ tôi để chuẩn bị xuống lầu.
Thấy tôi ngồi trong bóng tối, sư cô cố nhướng mắt nhìn, rồi lên tiếng
hỏi:
“Ai vậy? Anh cần gặp ai?”
“Thưa, tôi cần gặp sư cô Như Tâm.”
“Đã gặp chưa, có ai đi kêu chưa?” sư cô lại hỏi.
“Thưa có một sư cô đi kêu nhưng lâu quá sao chẳng thấy cô Như Tâm xuống.”
Sư cô kia làu bàu gì đó trong miệng rồi nói:
“Anh tên gì nói tôi biết để tôi đi kêu.”
“Thưa, tên Khang, Vĩnh Khang,” tôi đáp.
“A, thầy Khang hả? Thầy đó sao?”
“Ơ... sư cô là Như Tâm đây hả?”
“Không, tôi không phải Như Tâm. Thầy không biết tôi đâu,
nhưng tôi biết thầy chứ. Tôi là Như Liên. Thôi, thầy ngồi đây, tôi kêu
Như Tâm rồi xuống ngay. À, em chờ chị một chút nghen,” sư cô quay qua
nói với thiếu nữ, rồi bước nhanh lên lầu ba.
Thiếu nữ hơi dợm chân muốn theo sư cô nhưng nghĩ sao lại
thôi, đứng lại tần ngần trước mặt tôi, đưa tay vén tóc, rồi cầm cuốn
kinh hay cuốn sách gì đó lật lật xem xem trong bóng tối. Một lúc, thiếu
nữ kéo chiếc ghế trống đối diện, vừa ngồi xuống vừa hỏi:
“Thầy khỏe không?”
“À... cũng thường,” tôi hơi lúng túng đáp.
“Không ngờ cuối cùng cũng được gặp thầy.”
“Cô biết tôi sao?”
“Biết cũng khá lâu rồi, nhưng chỉ biết qua cuốn Mây Hồng Nhẹ Bay
thôi chứ chưa bao giờ gặp thầy cả. Cuốn truyện đó của thầy, các chùa
chuyền tay nhau đọc, có người chịu khó sao chép lại nữa, thích lắm. Thầy
bây giờ... không còn ở chùa nữa hả?”
“Ừm... không còn nữa, từ hai năm trước rồi.”
“Vì đi vượt biên nên cải trang chứ đâu phải là... hoàn tục, phải không thầy?”
Tôi chưa kịp đáp thì sư cô khi nãy bước xuống, nói:
“Thầy Khang ngồi chơi một chút nữa nghe, Như Tâm xuống liền,” rồi quay qua thiếu nữ, “rồi, em về há! Chị đưa em ra cổng.”
Thiếu nữ thoáng dụ dự rồi đứng dậy, chào tôi, đi theo sư
cô kia xuống lầu. Trong tôi thoáng một chút tiếc nuối khi chia tay với
thiếu nữ ấy. Tiếc vì cả tôi và nàng đều không lưu lại một dấu hiệu nào
để còn có thể gặp lại nhau.
Nhưng tôi liền dẹp ngay ý nghĩ đó, nhớ về cái chết của
ba mình. Ba ơi, sao ba không chờ con về. Ba có làm giấy bảo lãnh cho
con, phải không, cho nên con mới được về sớm đó mà. Cảm ơn ba. Nhưng...
sao ba không ráng chờ đợi kết quả của tờ đơn bảo lãnh, hở ba? Con về
được rồi đây này. Con được tự do rồi. Đều nhờ ba hết đó. Ba có vui
không? Ba có vui không? Vui sao ba không sống lâu thêm để con còn có dịp
nói chuyện với ba, vâng, còn rất nhiều chuyện cha con mình chưa kịp nói
với nhau...
Một sư cô nào đó từ lầu ba bước xuống thang cấp, thấy
tôi cô cũng nhướng mắt nhìn một cái rồi đi luôn. Chắc cô cận thị không
nhìn ra tôi trong bóng tối. Tôi cũng không rõ đó có phải là Như Tâm
không nên không dám gọi, vì đã hai năm rồi, tôi không dám chắc là tôi
còn nhớ mặt Như Tâm. Vả chăng, những lần tôi gặp Như Tâm ở nhà bà Bàng,
Như Tâm luôn chít khăn, nay ở chùa các sư cô đều để đầu trần, khó mà
mường tượng ra mặt mũi Như Tâm thế nào trong bóng đêm.
Sư cô đi dọc theo hành lang, qua phía phòng phát hành kinh sách rồi quay trở lại, vừa đi vừa lẩm bẩm:
“Có ai đâu!”
Cô trở lại ngang chỗ tôi ngồi, nhìn tôi lần nữa, rồi hỏi:
“Anh đi với ai vậy?”
“Tôi đi một mình. Tôi ngồi chờ sư cô Như Tâm.”
“Như Tâm đây nè, vậy có phải Khang đó không?”
“Tôi đây.”
“Trời ơi, Khang về thật hở? Thật không? Sao mà về hay quá vậy!” Như Tâm kéo chiếc ghế đối diện, ngồi xuống, giọng run un.
“Thì bệnh nặng, người ta cho về để chữa.”
“Thật hả Khang?” cô cứ hỏi.
“Thật chứ sao không. Chứ ai ngồi trước mặt cô?”
Như Tâm cười, một lúc cô hỏi:
“Họ có cấp cái giấy gì cho Khang không?”
“Có, lệnh tạm tha,” tôi móc túi lấy tờ giấy ra, đưa cô, rồi bất chợt thấy buồn.
Tôi cảm thấy là Như Tâm có vẻ chẳng tin tôi, không mong
đợi sự tự do của tôi. Tôi nản lắm, muốn từ giã cô ngay. Nhưng cô cứ cầm
tờ lệnh tha của tôi mò mẫm đọc tới đọc lui kỹ lưỡng trong bóng tối, nên
tôi cứ ngồi đó, im lặng chờ. Đọc xong, cô trả tờ giấy lại cho tôi. Và
chúng tôi im lặng. Phải một lúc lâu, cô mới hỏi:
“Khang mới được về hồi chiều nay thôi, phải không? Vậy bây giờ Khang về đâu?”
“Họ bắt buộc phải về Nha Trang.”
“Biết rồi, nhưng Khang đâu có đi Nha Trang liền bữa nay được, vậy tối nay Khang về đâu, nhà chị Thuần hở?”
Tôi im lặng. Một lúc, tôi đứng dậy nói lời giã từ. Như
Tâm cũng im lặng, không nài, không cản, cũng không còn thắc mắc là tôi
sẽ đi đâu đêm nay. Bằng nỗi e ngại phiền lụy đến kẻ khác, tôi cho rằng
cô và có thể là những người bạn nào khác của tôi, sẽ không ai muốn gặp
và tiếp xúc với tôi nữa. Mọi người sẽ thủ thế, sẽ sợ hãi và xa lánh tôi.
Ừ thôi, thì cũng được đi. Tôi luôn luôn mong ước mọi người được an lạc
thì không lý do nào tôi tìm đến họ để gieo nghi kỵ và sợ hãi. Tôi sẽ
không phiền ai đâu. Tôi sẽ đi. Sau khi gặp Tửu để thăm hỏi mọi chuyện
xảy ra ngoài xã hội trong hai năm qua, tôi sẽ đi. Đi đâu không cần biết.
Có thể đi rông cho đủ ba tháng, không có chỗ nào để sống yên thì quay
trở lại trại cải tạo, tiếp tục làm anh thư ký quèn của bệnh xá...
Tôi đi vài bước thì nghe tiếng Như Tâm đứng nơi cầu thang hỏi vói theo:
“Tối nay Khang về đâu?”
“Chưa biết nữa. À, Như Tâm biết Tửu bây giờ ở đâu không?”
“Ở nhà anh Cường. Ừ, Khang đến ở tạm với Tửu được đó.
Nhà anh Cường ở trong hẻm đường Ngô Tùng Châu, quận Nhứt. Khang biết chỗ
đó không?”
“Biết, nhưng không chắc là còn nhớ chỗ. Cô có địa chỉ không?”
“Không, nhưng chỗ nhà của Thanh Nga đầu hẻm, Khang đi
thẳng vào khoảng hai trăm thước, nhìn bên trái có cái chuông treo đầu
cái hẻm nhỏ, đó là lối dẫn vào nhà anh Cường. Vào đó thì Khang biết rồi
chứ gì?”
Tôi gật đầu, cám ơn cô rồi xuống lầu. Nhà Thanh Nga là nhà nào nhỉ? Tôi có bao giờ biết nhà cô đào Thanh Nga đâu kìa!
Tôi ra đến giữa sân thì sư cô Như Liên đã tiễn thiếu nữ
kia đi và đang một mình bước vào, cười chào tôi, tôi chào lại rồi thẳng
bước.
Đêm chụp xuống khu phố nghèo vừa lên đèn. Những trụ điện
hắt ánh đèn vàng vọt xuống mặt đường đầy rác rưới và bụi bặm. Tôi bước
thật nhanh, cố nhớ lại căn nhà của anh Cường, nơi tôi có đến thăm vài
người bạn tu ẩn nấp trên căn gác gỗ nhỏ từ hai năm trước. Tôi tưởng
tượng Tửu gặp tôi sẽ mừng lắm. Tửu là bạn thân của tôi từ năm chúng tôi
còn học ở Phật học viện Quảng Nam và chung lớp ở trường Bồ Đề Hội An.
Tửu cũng là Đoàn phó Đoàn Phật Tử Phụng Đạo do tôi sáng lập. Có lẽ anh
cũng là người duy nhất trong số bạn thân của tôi, đến nhà chị Thuần để
lo tiếp viện thăm nuôi tôi mỗi tháng. Hy vọng Tửu sẽ không sợ hãi tôi.
Nhưng không biết anh Cường, người chủ căn nhà mà Tửu đang xin tá túc, có
vui vẻ đón nhận tôi vào nhà anh, cho tôi ngủ tạm một đêm không?
Tôi vừa bước nhanh vừa miên man suy nghĩ thì có tiếng
máy xe Honda nổ xình xịch phía sau. Chiếc xe có vẻ như đang chạy chầm
chậm và bám sát phía sau tôi. Gì đây? Phải chăng đã đến lúc một anh công
an nào đó ra tay thủ tiêu tôi, tạo một hoạt cảnh cướp bóc hay tai nạn
gì ở khoảng đường khá vắng này? Tôi rời xa chỗ lòng đường, định bước sát
về phía hành lang của khu phố thì có giọng một người nữ gọi:
“Khang ơi!”
Tôi quay lại thì thấy thiếu nữ ban nãy tôi gặp ở chùa Hoa Nghiêm. Cô dừng xe lại bên lề đường chờ đợi tôi bước đến.
“Khang đi đâu vậy?” Cô hỏi nhỏ khi tôi đứng gần.
“Ơ... đi tới nhà bạn.”
“Chỗ nào, để em chở Khang đi,” nàng nói dứt khoát, có vẻ như không nghĩ rằng tôi sẽ từ chối.
“Ở đường Ngô Tùng Châu, khoảng gần công viên gì... gần nhà Thanh Nga... nhưng tôi định đi bộ một khoảng rồi thuê xích lô.”
“Thôi, đừng đón xích lô, em nói nhỏ Khang nghe nè, có
công an giả đò đạp xích lô nữa đó nghe. Anh lên xe đi. Hay anh muốn lái?
Anh lái xe này được không?”
“Được, nhưng bỏ lâu quá, ngại lắm. Cô cầm lái đi.”
Tôi ngồi phía sau, tay vịn vành yên, cố giữ một khoảng
cách để không đụng chạm vào người cô. Thiếu nữ phóng xe đi. Gió đêm nhè
nhẹ gửi hương tóc dịu dịu ngây ngây của cô đến cánh mũi phập phồng rung
động của tôi.
“Sợ người ta chú ý nên không dám gọi bằng thầy, chỉ gọi tên để họ nghĩ rằng mình quen nhau từ lâu. Đừng có la nghe.”
“Đâu có sao. Gọi tôi bằng tên đi, vậy thoải mái hơn. Tôi không còn ở chùa nữa, lại mang hình thức như vầy, gọi thầy làm gì cho thêm rắc rối, chỉ khiến kẻ khác thêm dị nghị mà thôi. Cô tên gì vậy?”
“Phương.”
“Lại là Phương,” tôi cười nói.
“Sao, trùng tên với bạn gái nào à?”
“Không phải bạn gái, mà là một cô cán bộ y tế tốt bụng.”
“Khang ở tù như vậy chắc cũng hai năm rồi hở?”
“Phương biết à?”
“Chỉ mới biết khi nãy thôi, do cô Như Tâm nói. Chuyện là
như vầy: trên đường về nhà, em sực nhớ là chưa lấy địa chỉ của Khang
nên quay trở lại chùa. Té ra cô Như Tâm nói Khang vừa mới ra. Em tưởng
không có cơ hội gặp Khang nữa nhưng khi nghe cô Như Tâm cho biết sơ
chuyện của Khang, em vội chào cô, lái xe chạy dọc theo mấy con đường gần
chùa, rồi thấy Khang. Em nghĩ nên chở Khang đi thì tốt hơn. Ở tù mới ra
chân ướt chân ráo, làm gì tìm được một chỗ qua đêm.”
“Cám ơn Phương,” tôi xúc động nói. Không ngờ Phương tinh tế hiểu ngay hoàn cảnh bối rối bất an của tôi trong đêm nay.
“Nếu Khang tìm nhà bạn không ra, hoặc vì lý do nào đó mà không ở lại nhà bạn được... thì Khang có thể đến chỗ em.”
Tôi im lặng. Tim tôi rộn rã lên khi nghe lời đề nghị của
Phương, nhưng liền sau đó đã thoáng dậy chút nghi vấn. Sao dễ dàng vậy?
Trong khi Như Tâm là bạn có quen trước thì e ngại đón tiếp tôi, còn
Phương chỉ mới biết hôm nay, chỉ mới đâu chừng nửa giờ đồng hồ trước đó,
lại sẵn sàng rước tôi về nhà cô. Đâu là động lực đẩy người bạn mới này
đến với tôi? Cảm mến? Thương hại? Hay ý gì khác? Phương là ai? Làm gì?
“Nhà Phương ở đâu?”
“Ở đường Trần Hưng Đạo, cũng quận Nhứt. Em nói thật đó. Nếu anh không tìm được chỗ nào tốt, cứ đến em.”
“Sao Phương tốt với tôi vậy? Phương không sợ ư?”
“Sợ? Sợ cái gì chứ? Anh là người tù được trả tự do hợp pháp, anh đến ở tạm nhà em, có gì sai trái đâu.”
“Cái nguyên tắc đó chẳng có gì là đảm bảo cả. Người ta
có đủ thứ lý do để bác bỏ chuyện hợp pháp của anh. Muốn hợp pháp thì lập
tức trở thành hợp pháp, muốn bất hợp pháp thì lập tức trở thành bất hợp
pháp. Chẳng cãi được đâu.”
“Nhưng chỗ em an toàn lắm. Chắc anh biết mà, Sở công an
thành phố cũng nằm trên đường Trần Hưng Đạo; nhà em ở khá gần chỗ đó nên
an ninh lắm. Càng gần chỗ nguy thì càng an.”
“Phương nói nghe oai như Tôn Tử đó nghe, chỉ sợ là... Kìa, hình như chỗ này, Phương quẹo vào đây đi.”
Phương im lặng cho xe chạy từ từ vào con hẻm rộng. Nhà
cửa san sát nhau. Con nít chạy giỡn la hét om sòm. Người lớn bắc ghế
ngồi chơi trước những cánh cửa mở rộng. Ai thấy chúng tôi chạy xe vào
cũng giương mắt ngó. Cái xóm này, người lạ đi vào là biết ngay. Vậy mà
nghe nói trong nhiều năm qua, anh Cường đã chứa chấp biết bao là thầy tu
trẻ ở căn gác nhà anh, để lần lượt các vị này đều vượt biên. Anh đúng
là một bồ tát hóa thân, lấy an nguy của gia đình mình ra mà bảo vệ các
tăng sĩ tương lai của giáo hội.
“Đây rồi, ngừng đi Phương, chỗ đầu hẻm này. Có cái
chuông nhỏ treo phía trước, đúng rồi. Thôi... cám ơn Phương nghe, tôi
vào há, Phương về đi.”
“Không được. Anh vào tìm bạn anh, dù được hay không cũng ra đây cho em biết, em chờ ngoài này.”
“Phương ở ngoài này chẳng biết có an toàn không... hay là cùng vào?”
Phương ngập ngừng một lúc rồi gật đầu, dắt xe cùng tôi bước vào cái hẻm nhỏ mà tôi tin là dẫn tới nhà anh Cường.
Căn nhà có hàng rào gỗ bao quanh khoảng sân vuông nhỏ
phía trước. Ánh đèn nê-ông trong nhà hắt ra cửa sổ cho tôi thấy thấp
thoáng hai bóng người bên trong. Tôi đẩy nhẹ cánh cổng nhỏ, bước vào sát
cánh cửa ra vào, bấm chuông. Một con chó nhảy chồm lên thành cửa sổ,
sủa inh tai, rồi gầm gừ khi chủ nhà lên tiếng. Người ra mở cửa cho tôi
là một người đàn ông trung niên, ốm, cao, để râu mép khá rậm. Tôi không
nghĩ ông ta là anh Cường. Trong trí nhớ kém cỏi cũng như sự tưởng tượng
của tôi, anh Cường hơi thấp người, không có râu, mặt hiền hòa phúc hậu,
vui tính... chứ đâu có lầm lì vô cảm như người này. Người đàn ông chỉ ló
nửa đầu ra cánh cửa mở hờ, lạnh lùng hỏi:
“Anh hỏi ai?”
“Xin hỏi có anh Tửu ở đây không?”
“Nhưng anh là ai?”
“Tôi... tôi là bạn của anh Tửu.”
“Bạn ở chùa đó phải không?”
“Phải.”
“Anh Tửu đi học Anh văn chưa về. Thường thì khoảng chín
giờ rưỡi đêm mới có mặt ở nhà. Anh có thể trở lại vào ngày mai, khoảng
sáng sớm thì dễ gặp hơn.”
“Cám ơn,” tôi nói nhỏ rồi rầu rĩ quay ra. Không biết có
phải đó là anh Cường không. Nếu là anh Cường thì chắc là tôi sẽ không
xin ở lại đâu. Dù sao, cũng phải gặp Tửu cái đã rồi hẵng tính.
Phương thấy tôi quay ra thì nói ngay:
“Không được phải không? Thôi, theo em về nhà em đi.”
“Không phải không được. Bạn tôi đi vắng chưa về. Chắc phải chờ đến chín rưỡi.”
Đạp cho nổ máy xe xong, Phương nói:
“Lên xe đi Khang. Mười giờ là giờ giới nghiêm công an có
thể xét nhà và bắt những người cư trú bất hợp pháp vào giờ đó, anh trở
lại đây nếu không có bạn anh, hoặc có nhưng bạn anh không dám cho anh
ngủ lại thì anh đi đâu?”
“Vậy thì...”
“Đến chỗ em,” Phương dứt khoát.
Tôi lại leo lên xe, vịn cứng thành yên. Xe chạy một
khoảng đường xa mà cả hai chúng tôi đều im lặng, chẳng ai nói với ai một
lời nào. Tôi thấy lo quá. Cho đến lúc này, tôi vẫn chưa biết rõ Phương
là ai, sẽ chở tôi đi đâu. Chuyện trả tự do cho tôi là chuyện của ông
công an K4, tỉnh Đồng Nai; nếu công an Sài Gòn không đồng ý chuyện thả
tôi, muốn bắt lại, họ cũng có quyền bắt lại, tôi nói gì được với họ!
“Phương à... nếu tôi gặp Tửu thì chắc chắn là Tửu sẽ nói với anh Cường cho tôi ở lại một đêm.”
“Nhưng cái ông hồi nãy thấy có vẻ khó chịu quá. Ông ấy đâu muốn anh ở lại, bảo anh sáng mai trở lại mà.”
“Ông đó không phải anh Cường chủ nhà đâu, chắc là bà con
nào của anh Cường đó. Hay là mình ghé vô quán cà phê nào ở đầu hẻm một
lúc, để coi Tửu có chạy ngang không. Đến gần mười giờ mà không thấy Tửu
về thì...”
“Sao anh không đến chỗ em, sáng mai đi hãy gặp Tửu?”
“Ơ... thấy ngại quá.”
Phương im lặng dừng xe lại nơi một quán cà phê có đèn
màu, bàn ghế bày ra choán cả lề đường rộng phía bên kia đường Ngô Tùng
Châu. Chúng tôi chọn một cái bàn gần phía con hẻm nhất.
“Em quên hỏi Khang dùng tối chưa,” ngồi vào bàn rồi, Phương nói.
“Chưa, nhưng không thấy đói, chỉ mong lo xong chỗ ngủ đêm. Ăn uống chẳng cần lắm đâu.”
Phương nhìn tôi, đôi mắt long lanh, lộ vẻ thương cảm.
“Anh có dùng mặn được không?”
“Được. Mấy tháng cuối cùng ở tù, tự dưng gia đình gởi
thức ăn mặn vào, từ đó ăn mặn luôn. Có lẽ do Tửu hay Như Tâm đề nghị như
vậy vì sợ tôi thiếu dinh dưỡng. Thôi, đừng bàn chuyện ăn uống nữa,” tôi
bắt đầu muốn tìm hiểu Phương rõ ràng hơn, để ngộ nhỡ đêm nay không gặp
Tửu, có thể tôi sẽ phải nhờ vả đến cô. “Phương đang đi học hở?”
“Khang nhìn em đoán em bao nhiêu tuổi mà bảo em còn đi học?”
“Mười chín hoặc hai mươi.”
“Em đâu mà trẻ dữ vậy Khang. Em hai mươi lăm rồi, đã thôi học từ lâu.”
“Vậy chắc Phương đang làm việc cho cơ quan.. nhà nước?”
“Ô, hạng như em chỉ vô dụng đối với nhà nước thôi. Hiện
thời, em tự sinh sống bằng cách chạy thuốc tây, tức là mua lại thuốc tây
của những người lãnh hàng nước ngoài rồi đem bỏ cho vài mối quen ngoài
chợ. Công việc chỉ có vậy. Còn anh, chắc cũng cỡ tuổi em hở?”
“Hơn Phương hai tuổi. Phương họ gì vậy?”
“Họ Hà. Hà Thị Nam Phương.”
“Hà Thị Nam Phương? Tên hay quá! Ưm, tên em nếu chỉ đọc âm theo chữ Hán-Việt thì có cái nghĩa lạ lắm.”
“Đâu là phương nam? Phương nam là gì? Anh muốn nói vậy, phải không?”
“Ừ, phải rồi, em cũng biết chữ Hán?”
“Em học lóm mấy sư cô ở chùa thôi. Em quen hết mấy sư cô ở chùa Hoa Nghiêm đó.”
“Thảo nào em cũng có nét gì giống như là sư nữ.”
Phương cười phá lên một cách hồn nhiên, rồi bất chợt
giọng nàng chùng xuống, tay khuấy khuấy cái muỗng giỡn với mấy cục đá
lạnh, nói:
“Có thực em có nét giống ni cô không? Giống chỗ nào, ở
mái tóc này sao?” vừa nói nàng vừa đưa hai tay vấn tóc lên thành một búi
nhỏ sau ót, dùng cái trâm hay cái kẹp gì đó trong giỏ xách, kẹp lại.
Tôi cười không nói. Chúng tôi nhanh chóng trở thành bạn,
gọi nhau bằng “anh, em” tự lúc nào không biết, nghe như thân nhau từ
lâu. Nàng vừa có vẻ gì hồn nhiên như Như Như, lại vừa có vẻ gì lãng mạn
một cách tinh nghịch như Mộng Huyền. Cả ba người đều ngang tuổi nhau và
nhỏ hơn tôi hai tuổi. Cái tuổi đó không biết theo tướng số thì hợp hay
khắc với tôi mà sao chỉ thấy phân cách, biệt ly... Hay chỉ vì chính tôi
ngay từ cái tâm thức được trau luyện quen trong môi trường giới luật, đã
tự cách ly, tự chối bỏ sự hiện hữu của tình yêu và nhan sắc?
Tôi vừa hớp cà phê vừa kín đáo nhìn kỹ lại nàng. Ngoại
trừ đôi mắt ướt, tinh anh và rất đa tình, khuôn mặt nàng là hiện thân
của một cái đẹp trong veo, đức hạnh. Cánh mũi cao, đầy đặn như là chừng
mực để giảm chế và ngăn chặn không cho tình cảm bộc phát quá độ từ đôi
mắt. Miệng cười rất từ bi, phóng khoáng. Nàng có vẻ là một sư nữ nhập
thế, một người có đủ bản lĩnh nội lực để tự phác vẽ con đường và hướng
đi của chính đời mình.
Phương im lặng khá lâu rồi bùi ngùi kể:
“Thực ra em có xuất gia ở chùa một thời gian, chẳng bao
lâu đâu. Có tám năm thôi. Trước khi xuất gia, mỗi tháng em theo mẹ và bà
nội đến chùa Hoa Nghiêm để sám hối. Sau, bà nội em mất, em thương nội
nên đến chùa thường xuyên hơn để cầu siêu cho bà. Từ đó em quen quý sư
cô nhiều hơn, được nghe giảng pháp, được đọc kinh sách, rồi dần dần nhận
ra cái vẻ cao đẹp của con đường xuất gia... Em được ba mẹ cho xuất gia
năm em mười bốn tuổi. Ở chùa Hoa Nghiêm cho đến năm em hai mươi hai, sắp
sửa được thọ giới tỳ kheo thì gia đình em có chuyện,” nàng ngưng một
lúc, cúi mặt xuống như che giấu nước mắt. “Mẹ em đòi dẫn cả nhà đi vượt
biên, kéo cả em đi theo, nhưng em không chịu. Vì sao anh biết không?”
“Ờ... vì em chỉ muốn tu ở Việt Nam, không muốn xuất ngoại chứ sao.”
“Không phải,” nàng lắc đầu nguầy nguậy. “Nếu đi được cả
gia đình thì em mừng, bản thân em được qua Mỹ thì em cũng vui, cũng tu
được bên đó chứ. Đàng này, em phải ở lại vì em không thể bỏ ba em trong
trại cải tạo được. Đi hết thì ai thăm nuôi ba, tuốt ngoài Bắc. Cho nên,
em nói mẹ cứ dẫn hai đứa em trai của em đi trước, em sẽ ở lại với ba.
Đó, nguyên do là vậy. Ban đầu em phải về nhà sống một thời gian với gia
đình trước khi mẹ và hai đứa em lên đường, để phòng hờ họ đi không thành
công, đồng thời giữ lại căn nhà của ba. Đến khi biết chắc mẹ và hai đứa
nhỏ qua được trại tỵ nạn Galang, Nam Dương một cách an toàn, em có ý
định bán căn nhà để có thể rảnh tay trở lại chùa, lại có tiền thăm nuôi
ba dài lâu, khỏi mất công coi giữ. Trong thời gian chờ bán nhà, mẹ em
đem hai đứa nhỏ qua được Mỹ rồi bất ngờ cho biết bà không thể chờ đợi ba
được nữa, và đã lấy chồng khác bên đó. Em giận quá, không nhận quà hay
liên lạc thư từ gì với bà nữa. Rồi em dành dụm vốn, tự nuôi mình vừa lo
thăm nuôi ba... Câu chuyện của em là như vậy. Nghe chán quá hở anh.”
“Đừng nói vậy. Hoàn cảnh em đáng thương lắm. Em thật có
hiếu với ba. Em có cơ hội báo hiếu, phụng dưỡng ba... em sẵn sàng bỏ
đường tu để lo cho ba... Những việc em làm, anh không bao giờ làm được.”
Phương im một lúc, nhìn tôi, có vẻ suy nghĩ. Nàng chưa
hiểu tôi muốn nói gì. Nàng không biết tôi có người cha vừa mất, chỉ mới
cách đây hai ngày thôi.
“Mấy giờ rồi vậy Phương?”
“Sắp chín giờ rưỡi rồi. Hay anh vào đó một lần nữa xem sao. Có thể nhắn bạn anh là sáng mai anh tới, được không?”
Tôi im lặng, đứng dậy. Phương lại chở tôi vào con hẻm,
đậu ở trước cửa nhà anh Cường, chờ đợi. Tôi bấm chuông lần nữa. Lại gặp
anh chàng râu mở cửa. Thấy tôi, anh nói ngay, không chờ tôi hỏi:
“Anh Tửu chưa về, không chừng chẳng về đêm nay đâu. Bây giờ sắp mười giờ rồi,” vừa nói vừa đưa đồng hồ tay lên xem.
“Vậy xin hỏi anh có phải anh Cường không ạ?” tôi hỏi nhanh.
“Không, tôi là cháu của ổng. Ổng đi làm chưa về, phải mười giờ rưỡi mới có mặt ở nhà.”
“Vậy thôi, cám ơn anh.”
“Anh có muốn nhắn gì không?”
“Ơ... không cần đâu.”
Tôi quay ra với Phương. Phương vui mừng ra mặt, liền nổ máy xe, nói:
“Cuối cùng em cũng rước được anh.”
Tôi lại leo lên xe, ngồi phía sau, vịn thành yên. Nghe
hương tóc nàng thơm bay. Phương thì vui lắm, nàng bắt đầu nói huyên
thuyên:
“Anh cứng đầu quá à! Phải chi nãy giờ anh đồng ý với em
thì bây giờ anh đã đánh một giấc ngon rồi, đâu còn chạy ngoài đường như
vầy. Ra tù từ sáng đến giờ mà anh còn chưa kịp nghỉ ngơi nữa. Thôi,
quẳng hết gánh lo âu đi anh. Bây giờ về nhà em, nghỉ ngơi, đừng suy nghĩ
gì nữa. Mọi chuyện ngày mai hãy tính. À, anh có nhớ những gì anh viết
trong cuốn Mây Hồng Nhẹ Bay không? Đọc cuốn đó từ ba năm trước,
lúc mới rời chùa, em đã ước gì có thể rước anh chàng tu sĩ trẻ lang
thang khờ khạo trong truyện đó về nhà em từ lâu rồi. Em không muốn anh
lang thang không có chỗ ăn chỗ ngủ như anh chàng trong truyện đâu. Khờ
như anh... làm sao mà sống nổi trong xã hội này. Trước sau gì lại bị
người ta gạt nữa! Em sẽ bảo vệ anh, không để ai gạt anh nữa đâu.”
Ó
Nhà Phương là một căn lầu hai tầng, chiều ngang không
rộng lắm, nhưng khá sâu vào phía trong. Phương mở cửa sắt, tôi đẩy xe
vào. Nàng kéo cửa sắt khóa lại cẩn thận.
“Còn ai ở nhà này ngoài em ra không?” tôi e ngại hỏi.
“Dĩ nhiên là không rồi. Em ở có một mình, đã kể anh nghe
rồi. Để em dẫn anh lên lầu. Ở dưới này là phòng khách với nhà bếp. Các
phòng ngủ đều ở trên lầu. Đây, theo em. Nè, anh có thể nghỉ ở phòng này,
hồi đó là của hai đứa em trai của em. Thỉnh thoảng có mấy sư cô bạn em
ghé ngủ đêm cũng nghỉ ở phòng này. Phòng em kế bên. Phòng rộng bên kia
là của ba mẹ. Xa hơn nữa là chỗ thờ Phật và ông bà tổ tiên. Anh không có
đồ thay... em lấy tạm mấy bộ pi-gia-ma cũ của ba em hồi đó, được không?
Hay là anh muốn mặc đồ tu của em cho thoải mái. Thường em vẫn mặc đồ
vạt hò ở nhà đó anh.”
“Thôi, thôi, cho anh mượn đỡ đồ của ba em rồi chỉ cho anh phòng tắm.”
“Được rồi, chờ em tí.”
Tôi ngồi trên một chiếc giường, chờ đợi Phương lấy áo
quần. Phòng của hai cậu em trai Phương có hai giường nệm nhỏ, hai đầu
giường kê hai cái bàn học. Cửa sổ ở giữa còn đóng kín. Phòng sạch sẽ như
được quét dọn hàng ngày. Cách Phương hỏi chọn áo quần cho tôi có vẻ tự
nhiên, vô tư, xem tôi như người anh lớn trong nhà khiến tôi yên lòng.
Tôi đang có đại tang. Tôi không muốn một thứ tình cảm nào tấn công làm
rung động tôi trong thời gian này. Tôi còn chưa kịp có thời giờ để tưởng
nhớ hay tụng niệm cho ba tôi.
“Sao anh có vẻ buồn vậy. Đây, đồ này chắc anh mặc vừa.
Khăn và bàn chải đánh răng này chưa xài qua. Em đưa anh qua phòng tắm
nghe.”
Nàng bước vào trước, dọn sơ ba cái đồ linh tinh gì đó, ôm gọn trong lòng rồi quay ra, nói:
“Từ ngày mấy ổng vô, điện nước cúp hoài, mấy ống nước hư
ở đâu chẳng rõ, chỉ có rô-bi-nê này là còn chảy, cho nên em hứng vào lu
và thùng phuy để tắm chứ không xài vòi sen hay bồn tắm được nữa. Thôi,
anh cứ tự nhiên há, để em đi làm thức ăn.”
Dội nước lạnh vào người, tôi bắt đầu thấy tỉnh táo, nhẹ
nhàng trong lòng. Hình như đến tận giây phút này, tôi mới thực sự ý thức
được toàn vẹn nỗi hạnh phúc to lớn của sự tự do mà đáng ra tôi có quyền
đón nhận từ hồi chiều. Trên đoạn đường từ Long Khánh về Sài Gòn, tôi đã
mường tượng là sẽ được sự chia sẻ mừng vui của các chị trong gia đình
hay của bạn bè thân, nhưng tôi đã không gặp ai. Niềm vui chưa kịp bùng
vỡ ra đã phải nén lại bởi nỗi đau mất đi người cha hiền, cộng thêm nỗi
lo âu về một chỗ nghỉ đêm. Bây giờ tôi đứng đây, một mình trần truồng
trong phòng tắm, quên khuấy luôn tất cả mọi người, tôi nhìn tôi trong
kiếng và nhoẻn miệng cười một mình. Vâng, tôi phải sống. Cho dù ba tôi
có nằm xuống bằng cách thế nào đi nữa, ông vẫn mong như thế. Tôi phải
sống.
CHƯƠNG HAI MƯƠI BỐN
Nàng chở tôi đến chỗ nhà anh Cường để gặp Tửu. Chúng
tôi chia tay nhau ở đầu hẻm. Nàng dặn dò tôi đủ thứ. Đi đứng cẩn thận,
coi chừng lại bị người ta gạt. Nhớ khi nào gặp gì trở ngại cứ chạy đến
nhà em. Thứ Năm tuần tới cùng đi với em ra Nha Trang, vậy anh phải đến
nhà em trước ngày đó...
Tôi gõ cửa nhà anh Cường. Một người đàn ông trung niên, thấp người, mặt mày hiền từ, giọng nói ôn tồn lịch sự:
“Anh cần chi ạ?”
“Anh Cường đây phải không?”
“Vâng, tôi đây. Sao... thầy biết tôi?”
“Anh không biết tôi nhưng tôi biết anh chứ. Tôi là Khang, bạn của Tửu.”
“A, thầy Khang, tôi cũng biết thầy mà! Tôi và Tửu tụng kinh cầu nguyện cho thầy mỗi đêm. Thầy vào đi.”
Theo sự hướng dẫn của anh Cường, tôi lên gác, gõ cửa
phòng Tửu. Tửu mở cửa thấy tôi thì sửng sốt một lúc rồi reo lên, nhào
tới ôm lấy tôi, khóc.
Ngày tôi chưa vào tù, Tửu hãy còn hình thức tu sĩ, bây
giờ Tửu cũng như tôi, tóc dài, áo sơ mi, quần tây. Mới hôm nào, chúng
tôi còn là những chú tiểu, tu học chung với nhau dưới mái Phật học viện,
san sẻ chia sớt với nhau bao niềm vui học Phật hoặc nỗi khổ nhọc trong
nếp sống đạm bạc đói nghèo của xứ Quảng cằn khô để cùng nuôi dưỡng chí
nguyện xuất trần; rồi chúng tôi lớn lên cùng với nỗi mơ ước đến xứ Phật,
với giấc mộng làm hành khất lang thang du hóa, bình bát ca-sa dạo chơi
trên đường mây xa ngút... Thoắt cái đã mười mấy năm, hai chú tiểu thuở
ấy trở thành hai thanh niên thế tục, xếp cất ca-sa, chôn bao giấc mộng
cũ để dấn mình vào cơn gió bụi.
Tôi cũng muốn được khóc như Tửu, nhưng không rơi nổi
một giọt lệ. Chờ Tửu bình tâm trở lại, tôi mới hỏi thăm tình hình bên
ngoài trong vòng hai năm qua.
Trước tiên là chuyện Tửu vượt biên. Mới đêm qua, Tửu đi
thất bại quay trở về lúc 2 giờ khuya. Tửu nói lúc lên đường xuống bãi,
anh bỗng thấy ray rứt là bỏ đi khi tôi còn ở tù. Có lẽ cũng chính vì cái
ray rứt này mà khi chuyện vượt biên không thành, anh chẳng thấy buồn gì
hết. Quay trở về không ngờ lại được gặp tôi.
Tửu còn cho biết có nhiều bạn bè của tôi cũng phải cải
trang làm người thế tục để đi vượt biên như Tửu. Đây chẳng phải là điều
gì mới lạ đối với tôi, vì trước khi vào tù, tôi cũng đã từng gặp gỡ khá
nhiều tăng sĩ cải trang người thế tục, ẩn lánh trong nhà phật-tử, cho
đến khi nào đi được ra nước ngoài mới cạo đầu khoác ca-sa, quay lại hình
thức cũ. Đối với họ, cuộc sống trong nước đã trở thành cuộc sống tạm
bợ. Người dân nước tôi sống tạm bợ chờ ngày đi ngước ngoài thì tăng sĩ
trẻ nước tôi cũng vậy, vừa tu tập, vừa chờ đợi một chuyến đò sang sông. Ở
đời sống này, cái gì cũng bấp bênh. Mọi người sống tạm để chờ cơ hội
lên đường. Thực ra, tu sĩ chúng tôi được giáo dục từ nhỏ rằng thế gian
này hiện hữu như một giấc mộng (kinh Lăng Già) hay như nhà lửa (kinh Pháp Hoa),
thì đáng lẽ không e ngại gì một cảnh sống bấp bênh, hực lửa cả; vậy mà
chúng tôi cứ phải lên đường tị nạn, bỏ nơi hực lửa này để tìm đến chỗ
hực lửa khác. Chúng tôi biết ở một nơi nào đó ngoài xứ này thì vẫn không
ngoài cái nhà lửa và giấc chiêm bao như trong kinh nói, vậy mà chúng
tôi vẫn cứ loay hoay với trò chơi trốn tìm rượt bắt. Cái thảm cảnh này,
ngoại nhân nhìn vào e sẽ lắc đầu khó hiểu. Chỉ có thể giải thích được
rằng ở nơi chốn khác trong cùng căn nhà lửa của thế gian này, có thể
ngọn lửa sẽ êm dịu hơn, vừa đủ cho chúng tôi hít thở và bình tâm để tìm
một ngõ thoát chắc chắn hơn.
Tình hình sinh hoạt của Phật giáo trên toàn quốc bây giờ khá căng thẳng mặc dù đang có luồng gió đổi mới với chủ trương Glasnost (cởi mở) và Pertroika (cải
cách) từ Liên Xô thổi qua và có lẽ đang được cánh cán bộ cộng sản miền
Nam tiến hành từng phần; nhân vật tiêu biểu cho phong trào đổi mới có vẻ
như là Nguyễn Văn Linh. Ông này nắm chức Tổng Bí Thư Đảng vào Đại hội
VI năm 1986 khi tôi còn trong tù. Tửu đưa tôi đọc thử vài tờ báo. Tôi
chỉ đọc lướt vài chỗ, thấy loáng thoáng những lời kêu gọi “cởi trói văn
nghệ,” “tự do báo chí,” v.v... nhưng không tin tưởng gì mấy ở hiệu quả
của lời kêu gọi cũng như sự thành thật của người kêu gọi. Vẫn chỉ là
những lời lẽ, ngữ ngôn, khẩu hiệu máy móc rêu rao và ca tụng vẻ vinh
quang chói lọi của giấc mộng không tưởng. Những lời kêu gọi kiểu này đã
khởi phát từ năm 1986, không biết đã thay đổi gì cho xã hội bên ngoài,
nhưng những người ở tù như tôi không thấy bất cứ một dấu hiệu nào của sự
đổi mới hay cởi trói ấy; chỉ thấy một người tù được thả thì mười người
tù khác bị bắt thay vào. Tù chính trị càng lúc càng tăng. Cựu sĩ quan và
công chức chế độ cũ giam mãi không được về. Nhân số tù không bao giờ
giảm xuống mà chỉ có một hướng đi lên. Có đổi mới hay cởi trói chăng là
đổi mới và cởi trói trong hệ thống Đảng, để đòi hỏi sự bình đẳng quyền
lực và quyền lợi trong giai tầng đảng viên, đòi hỏi áp dụng “dân chủ”
trong sự ứng cử và bầu cử giữa những phe cánh đảng viên... những đòi hỏi
này chẳng dính nhập gì đến nhân dân và tù nhân chúng tôi cả. Ê-kíp Bộ
chính trị trung ương nào lên hay xuống thì cũng thế thôi—như tôi đã một
lần với Nhiều: hoán chuyển vị trí và vai trò giữa nhóm cán bộ trại giam
và Bộ chính trị trung ương Đảng, thì vẫn thế, chẳng có gì thay đổi. Và
đời sống quanh tôi, vẫn cứ như vậy, dù tôi ở tù hay không ở tù. Tăng sĩ
chúng tôi, già và trẻ, tiếp tục theo chân nhiều con người yêu chuộng tự
do khác, lên đường vượt biển, đem cả sinh mệnh mình đổi lấy bầu trời
quang đãng ở một phương xa lạ.
Tôi lùa đống báo xuống đất, rủ Tửu đi thăm bạn bè. Tửu
chở tôi đi ăn trưa ở tiệm cơm chay đối diện Việt Nam quốc tự. Ngồi đây
chúng tôi có thể nhìn thấy hoạt cảnh oái oăm ngậm ngùi mà chính ngôi
tháp đồ sộ của Việt Nam quốc tự phải cưu mang. Năm 1975, ngôi tháp đang
còn xây cất chưa hoàn chỉnh thì miền Nam bị cộng sản chiếm, và mọi dang
dở của thời ấy đến nay vẫn tiếp tục dở dang: các tầng trên của ngôi tháp
hiện giờ còn trơ khung, trống vách, có thể nhìn xuyên qua được để nhìn
thấy bầu trời ảm đạm của một ngày cuối năm; hai tầng dưới cùng của ngôi
tháp thì bị nhà nước trưng dụng để làm một nhà hàng ăn uống rất ư “hoành
tráng” của quận 10. (Ừ thì nhà cửa, kiến trúc trong miền Nam này, thứ
gì cũng to lớn đồ sộ, thứ gì cũng khiến cho các quan chức và thần dân
Bắc Hà phải thất thần kinh hãi muốn cất lên lời ngưỡng mộ; nhưng ngôn
ngữ phong nhiêu tú lệ nào có được trong dòng văn chương nước nhà thì đều
đã sử dụng để ca tụng các lãnh tụ rồi, còn đâu để ca ngợi cái gì
khác—chẳng hạn muốn nói cái gì “vĩ đại” thì lại e phạm nhằm chữ “húy kỵ”
dành riêng cho Bác [không lẽ trên đời này lại có cái gì vĩ đại ngang
bằng với Bác!] — vậy là ta phải nói né đi, hoặc tìm chữ khác! Sáng tạo
tập thể hay sáng tạo thông qua tập thể, quả là một thứ sáng tạo tồi tệ
nhất của loài người. Các nhà thông thái từ cao cấp đến hạ cấp của xã hội
này đang nở mặt nở mày cất lên hàng loạt những từ ngữ được lắp ráp như
cách lắp ráp phụ tùng xe đạp rất phổ biến trên khắp nước từ những ngày
sau năm 1975)
Đó là phía ngôi tháp bên trái, còn phía phải của khuôn
viên Việt Nam quốc tự, người ta dựng lên một rạp hát lớn lấy tên là Hòa
Bình—nghe nói là do kiến trúc sư Liên Xô vẽ kiểu, và chỉ một năm sau khi
hoàn thành, người ta phát giác là ngôi hí viện “hoành tráng” này bị
nghiêng một bên, có thể sụm trong một ngày nào đó. Có lẽ thực tế thì
không đến nỗi tệ như vậy. Mà cho dù đó là sự thực thì nhà nước cũng phải
lo bênh vực đàn anh, đổ thừa dân miền Nam vì không ưa thích đế quốc
Liên Xô nên đồn đãi không trung thực cho bõ ghét thôi. Hy vọng chỉ là
lời đồn. Nhưng đồn sao mà ác! Nhiều ẩn ý quá, mà hai ẩn ý nguy hiểm nổi
bật là: thứ nhất, cơ cấu kiến trúc của Liên Xô sắp bị sụm; thứ hai, ngôi
nhà Hòa Bình của xã hội chủ nghĩa xây trên nền đất miền Nam e không
vững! (Mà nền đất này lại là nền đất của Việt Nam quốc tự!)
Ăn xong, tôi muốn đi gặp Thiện Đắc. Tửu cản, bảo đừng đi.
“Sao vậy? Thiện Đắc được tự do lâu rồi mà.”
“Nhưng... có thể Thiện Đắc không còn ở chỗ cũ,” Tửu ấp úng nói, có vẻ muốn che giấu điều gì.
“Thì cứ tới nhà anh ruột của Thiện Đắc ở đường Nguyễn
Thiện Thuật, hỏi thăm thì tự khắc biết Thiện Đắc ở đâu. Nếu tôi đến
không tiện thì để tôi ngồi ở một quán nước nào đó, anh vào gọi Thiện Đắc
ra,” tôi thúc.
Thấy tôi có vẻ không kềm được ý muốn tìm gặp bạn bè chung tù, cuối cùng Tửu nói thật:
“Tốt hơn là Khang không cần gặp Thiện Đắc lúc này. Để khi nào mọi hiểu lầm được giải tỏa hết rồi hãy tìm thăm.”
“Hiểu lầm? Hiểu lầm cái gì?”
“À... thì Thiện Đắc ở tù ra, gặp ai cũng nói rằng chỉ
tại Khang mà anh ta bị bắt bỏ tù; rồi còn đồn là Khang khai báo tùm lum
để cho anh em đồng bạn bị mắc nạn, ở tù lâu!”
“À, té ra là vậy. Thôi, hay mình đến ông Trọng, bạn tù của tôi ở trại giam T20.”
“Khang có nhất thiết phải đến thăm không?”
“Anh hỏi vậy là ý gì? Bạn bè ở tù ra, thăm nhau, có gì lạ đâu.”
“Chỉ sợ công an theo dõi, để ý, thấy mấy người ở tù liên lạc với nhau tưởng mình móc nối làm chuyện gì...”
“Nếu tôi muốn làm một chuyện thì sao? Anh có chở tôi đi không?”
“Chở chứ, nhưng Khang ơi, tạm thời gác chuyện đó lại
đi. Khang ở tù, ai cũng nóng ruột, bây giờ Khang ra được, hãy lo chuyện
an cư lạc nghiệp cho rồi, đừng toan tính chuyện ấy nữa...”
Tôi thở dài nói:
“Anh nhìn xem, mọi thứ chung quanh chẳng có gì thay đổi.
Đất nước này sẽ như vậy mãi, bước đi lạch đạch như vịt vào cái vũng khổ
đau tăm tối.” Tôi nhớ hình ảnh tù nhân cải tạo bị lùa xuống ao để tắm
mỗi chiều. “Phải làm cái gì chứ! Huống chi lệnh tạm tha của tôi chỉ có
giá trị 3 tháng, anh không nhớ sao? Tôi muốn làm một cái gì hoặc tìm một
ngõ thoát trước khi hết hạn.”
“Nhưng Khang nói tôi nghe là họ dặn ‘khi nào ra lệnh trình diện thì phải có mặt’ mà.”
“Có nghĩa là họ muốn gọi trình diện bất cứ lúc nào thấy
cần, chứ không phải đợi đúng 3 tháng. Chính vì vậy mình phải tính một
nước nào... trước thời hạn 3 tháng, hoặc sớm chừng nào tốt chừng đó.”
“Vậy... Khang gặp ông Trọng để hợp tác bày keo khác à?”
“Chuyện đó gặp ông rồi tính sau. Bây giờ tôi muốn thăm
ông và để xem thử có thể cùng ông vào chiến khu Bảy Núi của lực lượng
Hòa Hảo để tạm thời ẩn lánh không.”
“Có chiến khu trong đó không, hay chỉ là lời đồn?”
“Tôi tin là ông ấy nói thật. Có thể chiến khu chỉ là
một vùng an ổn bí mật trên Thất Sơn, không bị sự kiểm soát của chính
quyền chứ chẳng phải là cái gì to lớn vững mạnh như người ta nghĩ đâu.
Dù sao thì nơi đó thích hợp cho tôi hơn, ít nhất là trong hoàn cảnh
này... Tôi không muốn vào tù trở lại. Tôi còn nhiều việc phải làm. Nếu
lực lượng Hòa Hảo còn yếu, tôi sẽ làm cho nó mạnh lên.”
Tửu nhìn tôi một lúc khá lâu, không nói gì. Có lẽ anh
muốn khuyên can nhưng chưa có cách. Tửu chở tôi đến đường Bà Lê Chân ở
Tân Định, tìm nhà ông Trọng. Căn nhà nằm trong một hẻm nhỏ của một xóm
nghèo. Cửa mở toang hoang. Tôi đứng ở ngạch cửa, gõ mấy tiếng ở cánh cửa
bằng tôn. Không ai trả lời. Tôi bước tới một bước nhìn vào trong. Nhà
trống hoang không bóng người. Góc trái của căn nhà một gian này là một
chiếc giường rộng có treo mùng sẵn, chân mùng vắt lên trên trần mùng.
Chung quanh dường như không có vật dụng gì đáng chú ý hơn là sự có mặt
của chiếc giường ấy. Tài sản của gia đình này hình như chỉ chừng đó. Bên
cạnh xó bếp, một cái bàn gỗ cũ kỹ, đen xỉn, bày trên đó là một cái ca
nhựa vàng ố đặt cạnh một cái bát trống, còn dính vài hạt cơm. Ruồi nhặng
xúm xít đậu quanh miệng bát. Sau cái bàn có một buồng nhỏ được ngăn
bằng tấm tôn rỉ sét. Có thể là nhà vệ sinh hay buồng tắm. Tôi đứng im
chờ một lúc. Tửu giục:
“Lên tiếng đi người ta mới biết là có khách chứ,” rồi Tửu lớn tiếng gọi. “Có ai ở nhà không?”
Không có tiếng trả lời. Căn nhà lạnh ngắt. Chúng tôi định quay về thì một thiếu phụ từ đâu lối xóm chạy đến, gọi:
“Mấy anh tìm ai vậy?”
Tôi quay lại. Thiếu phụ mặc áo bà ba màu cam, quần đen,
không trang sức, trông còn trẻ và nét mặt dường như hãy còn hồn nhiên,
không biết đau khổ.
“Thưa chị, đây có phải là nhà chú Trọng không?” tôi hỏi.
“Dạ phải, đây là nhà ổng,” thiếu phụ đáp.
“Chú Trọng đâu rồi, thưa chị?” tôi hồi hộp hỏi.
“Ơ... ổng bị tù... chưa về. Mấy anh không biết hở? Xin hỏi mấy anh là ai?”
“À... à... tôi có ở chung tù với chú... Tưởng đâu chú được về rồi.”
“Chưa, chưa về được đâu,” thiếu phụ nói, rơm rớm nước
mắt. Nước mắt cô rơi thật nhanh. Mới thấy hồn nhiên khi nãy bây giờ đã
đổi thành sầu thảm, đớn đau.
“Anh ở chung trại K3 với ổng hở?”
“Chú ấy qua K3 à? Hồi nào? Tôi ở chung trại T20 với chú có một tháng thôi, sau đó thì chia tay. Chị là... con của chú?”
“Không, tôi là bà xã của ổng,” thiếu phụ đáp.
“Xin lỗi, lâu quá tôi quên là chú ấy sống ở đây với ai.”
Tôi ấp úng một lúc rồi đổi cách xưng hô. “Thím có được thăm nuôi chú
mỗi tháng không?”
“Có, mỗi tháng một lần,” thiếu phụ đáp.
“Vậy cho tôi gởi chút ít quà cho chú nghe. Nói với chú ấy rằng tôi là Vĩnh Khang, đã được về, tôi đang chờ đợi chú...”
Tôi vừa nói vừa móc hết tiền trong túi, đưa cho thím
Trọng, rồi cùng Tửu quay đi ngay, không để cho thím có được một giây để
từ chối hay cám ơn.
Tửu chở tôi đi một khúc đường mới nói:
“Một chút tôi đưa tiền cho Khang dằn túi nghe. Nghe tin
Khang ở tù, một vài bạn bè ở các tỉnh gom tiền gởi đến Khang, nhất là
thời gian sau này, khi biết rõ Khang ở trại giam nào. Tiền thăm nuôi
Khang trong mấy tháng tới, để tôi đưa hết Khang. Hiện giờ cũng có một số
quà từ nước ngoài gởi về cho Khang nữa đó, nhưng quà chưa đến, chỉ có
thư báo trước thôi.”
Tôi không quan tâm lắm về chuyện Tửu nói. Tôi đang buồn và suy nghĩ vẩn vơ đến Thiện Đắc và ông Trọng.
Ông Trọng nói với tôi ông chỉ bị tình nghi và sẽ về
sớm. Tôi ngỡ là ông sẽ về trước cả Thiện Đắc. Vậy mà, cho đến khi tôi
được tự do, ông hãy còn trong tù. So với những người tù khác, tôi đã may
mắn được về sớm; nhưng may mắn này lại có một cái gì đó, bất ổn. Tửu và
Nam Phương chỉ biết mừng tôi về, không thắc mắc lý do tại sao tôi về
sớm. Nhưng còn người khác thì sao? Họ sẽ nghĩ gì?—nhất là những người
lên án, trút lỗi cho tôi như Thiện Đắc?
Chợt nhẩm lại thời gian ở tù của mình—613 ngày—chính
tôi cũng lấy làm lạ. Hình như đến lúc này tôi mới thấy ngạc nhiên về sự
tự do dễ dàng sớm sủa của tôi. Tôi là người tù chính trị mà ai cũng nghĩ
là phải mang trọng án, vậy mà tôi lại được về sớm, sớm hơn cả ông Trọng
là người chỉ bị tình nghi. Tôi chợt thấy một cái gì bất công—chứ không
phải là bất ổn—trong sự tự do của tôi so với những bạn tù khác. Phải
chăng có người nào đó đã lo lót hối lộ hay bằng cách nào đó, cứu tôi ra
khỏi tù sớm, hay chỉ vì tôi có tên trong danh sách những tù nhân bệnh
nan y vô dụng và tốn kém cơm gạo mà cán bộ quản trại cần thiết muốn loại
bỏ khỏi danh sách lao động của trại giam? Phải chăng có Thiện Chí? Ông
Nguyên? Ông Trợ? Ông Cảnh? Phương và ông thầy già? Ông bác sĩ trưởng?
Hay là đơn xin bảo lãnh của ba tôi đã cứu tôi? Phải chăng có một sự phù
hộ vô hình nào đó từ ba tôi? Ông chết trước khi tôi về hai ngày. Có thể
trước khi hóa thân sang một kiếp khác, ông đã phù hộ tôi, phù hộ thằng
con mà ông nghĩ là cần thiết phải được tự do cho dù là đổi cả mạng sống
của ông? Ông có hai đứa con ở tù chứ đâu phải chỉ riêng tôi. Vậy ông có
cứu luôn cả Hiền, anh ruột tôi không? Ôi, cái ngày ông mất, tôi tính
lại, rõ ràng là trùng với ngày thằng bé tên Bảy cầm cái lệnh tha trong
tay mà chết—ngày mà có một con ngựa trời từ đâu bay tới, rớt ngay chỗ
tôi, cựa quậy vài cái rồi hóa kiếp. Đêm ấy tôi mơ thấy ba tôi ôm hôn tôi
thuở tôi còn bé, rồi thấy mẹ tôi mang vành tang trắng... Ai, năng lực
nào, đã cứu tôi?
Còn Thiện Đắc thì phiền trách tôi, cho rằng chỉ vì tôi
mà bao nhiêu bạn bè bị hại... Ôi, cái lẽ này không phải khi vào tù,
chính tôi từng tự nhận lỗi về phần mình đó sao! Nhưng bây giờ, bị một
người khác lên án, tự dưng lòng tôi lại thấy nặng trĩu, mệt nhọc. Sau
hai năm tù rã rời thân xác, bại liệt cả hai chân đến bây giờ hãy còn bủn
rủn như nai con mới lọt lòng mẹ, những tưởng được ra về với vẻ huy
hoàng tươi sáng của bao nỗi vui mừng từ người thân đến bạn bè gởi
trao... nào ngờ đến tận giờ này, tôi vẫn chưa hân thưởng được trọn vẹn
cái đẹp mênh mông của tự do mà tôi hằng ôm ấp. Mà cũng lạ! Con người
tôi, ngay từ khi rời khỏi trại giam, lập tức trở thành yếu đuối, nhạy
cảm, cần được vỗ về, chăm sóc, quan tâm, an ủi... giống như bất cứ đứa
trẻ tầm thường nào khác. Dường như tất cả những chí nguyện, thệ nguyện,
hạnh nguyện, đại nguyện nào từng được nuôi dưỡng và cất lên một cách tự
nhiên trong vũng lầy thống khổ của trại giam, bây giờ đã rời khỏi tôi,
xa lánh tôi, bỏ tôi lạc lõng ở chốn phồn hoa này. Chúng như những con
đại bàng cùng nhấc bổng tôi khỏi mặt đất, đưa tôi lên tận những bờ mây
cao thẳm rồi thả tôi xuống thế giới lúc nhúc con người và những cỗ máy
xầm xập đêm ngày lặp đi lặp lại âm thanh và biểu tượng của tự do hạnh
phúc... Ôi, chỉ mới hai năm mà tôi đã không còn thích hợp với cuộc đời
này nữa. Tôi vẫn làm mọi thứ như người ta, nhưng tôi không còn cảm giác.
Tôi chỉ tiếp nhận con người và thế giới một cách lấy lệ. Tôi chỉ muốn
con người đón nhận tôi. Và dù Nam Phương đã chăm sóc tôi, dù rằng Tửu đã
ôm tôi mà khóc mừng, tôi vẫn chưa thấy mình được đón nhận hoàn toàn.
Vẫn còn một ngăn cách nào đó.
Ó
Chạy một vòng thăm vài chỗ quen, chúng tôi trở về nhà
anh Cường vào lúc chập choạng tối. Vừa mở cửa cho chúng tôi, anh Cường
đã nói:
“Thầy Khang có khách chờ ở trong.”
Tôi bước vào thì thấy Như Tâm ngồi sẵn nơi bàn khách,
đứng dậy chào đón tôi. Thái độ của cô khác hắn với tối hôm qua khi tiếp
tôi ở chùa Hoa Nghiêm khiến tôi cảm thấy bỡ ngỡ. Bây giờ, cô mới thực là
sư cô Như Tâm, người bạn mới nhất trước khi vào tù của tôi. Tửu ngồi
với tôi và Như Tâm một lúc rồi lên lầu. Gia đình anh Cường cũng lui hết
phía sau để nhường phòng khách cho tôi và Như Tâm trò chuyện.
“Hôm qua Khang đến chùa Hoa Nghiêm, Như Tâm thực sự là
sửng sốt, mất bình tĩnh... không biết nói gì. Đến khi Khang đi rồi, Như
Tâm mới tỉnh hồn, ân hận là đã không giữ Khang lại một chút rồi lo tìm
chỗ giúp Khang nghỉ qua đêm, hay ít nhất là đưa xe đạp cho Khang mượn...
Như Tâm tệ quá.”
Thấy mắt cô đỏ hoe, tôi lúng túng, nói:
“Có gì đâu. Tôi về bất ngờ quá, lại đến chùa vào ban
đêm, cô khó xử là phải. Tôi còn quên cám ơn những món quà cô gởi vào tù
cho tôi đó.”
Như Tâm bây giờ mới cười; lấy khăn chậm nước mắt.
“Thực ra thì Như Tâm không bao giờ tưởng tượng là có thể
được gặp lại Khang. Ai cũng nghĩ... người ta sẽ chôn Khang trong ngục
tối.” Cô ngưng một lúc, lại lau nước mắt. “Đôi khi trong đêm, Như Tâm
khóc thầm, thương cho Khang. Khi nào đến nhà các chị của Khang để gởi
quà thăm nuôi, Như Tâm đều hồi hộp, lo sợ... cứ sợ là các chị của Khang
sẽ báo một tin buồn nào đó. Chẳng hạn... từ nay không cần thăm nuôi nữa.
Ôi, hễ thấy các chị vui vẻ đón chào, Như Tâm mới thở phào, yên lòng.
Gia đình Khang còn lo chuyện thăm nuôi có nghĩa là Khang hãy còn sống.
Vậy rồi, Khang đột ngột xuất hiện. Như Tâm bàng hoàng như người trong
mộng—cái giấc mộng hão huyền mà Như Tâm từng ôm ấp. Thực đó, Như Tâm
thường tưởng tượng nếu một ngày nào đó Khang trở về, đến chùa thăm, Như
Tâm sẽ vui mừng biết bao! Ước chừng có thể ôm chầm lấy Khang nữa kia!
Nhưng rồi, khi sự thực đến, Như Tâm chỉ biết lặng người, hỏi đáp vu vơ,
đầu óc như mụ đi, không kịp suy nghĩ một cái gì thiết thực. Đêm qua
Khang đi rồi, Như Tâm trở về phòng, khóc rồi thức cả đêm, có ngủ được
đâu.”
Tôi lặng thinh không nói gì. Biết là hôm qua mình đã
hiểu lầm Như Tâm. Giờ nghe những lời bày tỏ của cô, tôi cảm động và thầm
cám ơn một tình bạn chân thành, chưa nhạt mất theo thời gian—thời gian
hai năm có là bao, mà nghe chừng đằng đẵng như hai mươi năm; thời gian
ấy chưa cuốn đi toàn bộ ý lực của tôi, nhưng dìm tôi mềm nhũn trong dòng
cuồng lưu của xúc cảm và luyến ái. Vâng, con người tôi hôm nay thật
đáng ghét, như một kẻ giang hồ lãng du đã hứng chịu nhiều cay đắng gian
khổ, trở về với bộ mặt bụi bặm lầm lì, trơ trơ trước nỗi chết và niềm
đau nhân thế, hay chính niềm đau nỗi chết của người thân. Nhưng cái vẻ
lạnh lùng đó chỉ là giả tạo. Giả tạo, ôi là giả tạo! Bộ mặt giả tạo dù
cố ý hay vô tình, dù trưng bày với mục đích nào, dù che đậy thứ gì thanh
cao hay bẩn thỉu bên trong, cũng luôn luôn là một cái mặt nạ tởm lợm
buồn nôn. Tôi che giấu cái gì đây? Nhìn vào đi, hãy nhìn thật sâu vào
đáy tim nhà ngươi! Cái gì ở trong ấy? — không có gì cả. Hoặc là có một
cái gì đó trỗng rỗng, hoang vu, u ám như một đám mây đen, hay một dải
sương mờ. Đàng sau đó nữa là cái gì, tôi không biết; hay là cố tình ngu
ngơ không biết.
“Hồi sáng đến giờ... có ai đến gặp cô không?” tôi đột ngột hỏi.
“Không,” Như Tâm trả lời với vẻ mặt ngơ ngác đầy nghi vấn. “Sao Khang hỏi vậy? Khang có nhờ ai đến gặp Như Tâm à?”
“Không có, chỉ hỏi vậy thôi.”
Ngưng một lúc, Như Tâm bất ngờ nhớ ra điều gì, liền nói:
“À, hôm qua, lúc Khang rời chùa Hoa Nghiêm đâu chừng
năm, mười phút, có Nam Phương quay trở lại tìm Khang. Như Tâm có nói
chuyện với Nam Phương một lúc. Nam Phương có vẻ quan tâm, muốn giúp
Khang đó. Khang... đã gặp Nam Phương chưa? Theo cách Nam Phương nói
chuyện, hình như hai người có quen nhau trước rồi, phải không?”
Quen nhau trước? Có thể, nhưng không phải trước đây, mà
là kiếp trước nào đó nên bây giờ mới gặp đã thấy thân mật lắm. Tôi tự
hỏi, rồi tự trả lời.
Thấy tôi im lặng, Như Tâm tiếp:
“Nam Phương tốt lắm. Lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ người
khác. Hồi còn ở chùa, Nam Phương là một ni sinh giỏi, thông minh, giới
hạnh; khi hoàn tục rồi, Nam Phương trở thành một trong những thí chủ
nhiệt tâm, giúp đỡ cho chùa nhiều lắm; nhất là cả gan chứa chấp nhiều ni
cô đi vượt biên hoặc không có giấy tờ hợp lệ. Mỗi lần công an đến chùa
báo trước là sắp có đợt xét hộ khẩu thì một số ni cô chạy xuống nhà Nam
Phương tá túc. Nam Phương là vậy đó, giống như anh Cường ở đây vậy. Giúp
cho Tăng thì có anh Cường, giúp cho Ni thì có Nam Phương. Ừm... nếu
Khang cũng là ni cô thì có thể tạm ẩn náu ở nhà Nam Phương trong thời
gian này là ổn nhất. Khang có định là trở lại chùa không?”
“Chùa nào?”
“Chùa gì đó của Khang trên kinh tế mới.”
“Không. Họ bắt buộc phải về Nha Trang, sống với gia đình.”
“Vậy có nghĩa là ép buộc hoàn tục rồi.”
“Họ đâu có ép mình được... bởi vì, tôi đã tự ý hoàn tục trước đó rồi.”
“Vậy à! Hồi nào?”
“Trước khi vào tù. Tôi chưa nói cô biết à?”
Như Tâm có vẻ lặng người buồn tiếc thay cho tôi. Một lúc cô ái ngại hỏi:
“Vậy bây giờ... Khang phải ra Nha Trang?”
“Có lẽ là vậy. Tôi cũng muốn thăm gia đình...”
“Vậy ra đó một thời gian, Khang xin trở lại chùa Hải Đức đi.”
“Ư... để coi đã. Bây giờ chẳng đoán trước được cái gì đâu. Thôi, tối rồi, cô về kẻo chùa đóng cửa vô không được đó.”
“Đâu có, bây giờ chưa được bảy giờ; thôi được rồi, được rồi, để Như Tâm về, đừng có đuổi.”
“Không phải, ai mà đuổi cô đâu. Chỉ tại tôi mệt, buồn
ngủ. Thực đó, buồn ngủ quá, từ lúc ra khỏi tù đến giờ, chưa được chợp
mắt. Xin lỗi cô nghe. Hôm nào rảnh tôi đến thăm cô ở chùa Hoa Nghiêm.”
“Ờ, ờ, Khang đi ngủ đi. Như Tâm về há. Đây này, Khang ơi, Khang cất cái này để có tiền xe mà về.”
Cô đưa tôi một cái bì thư. Tôi xua tay, đứng dậy, tỏ ý từ chối.
“Vậy nhờ Khang kêu Tửu xuống đây cho Như Tâm gặp có
chuyện một chút. Khang giữ sức khỏe nghe, đi đường cẩn thận. Có việc gì
cần cứ đến tìm Như Tâm há.”
Tôi gật đầu, bước lên lầu, gọi Tửu xuống gặp Như Tâm,
rồi thay đồ—bộ vạt hò của người tu mặc trong chùa do Tửu đưa—, rồi nằm
xuống cái giường độc nhất trong phòng Tửu, nhìn vu vơ trên trần nhà. Đầu
óc tôi lại trống hoang. Không hẳn là buồn; không hẳn là vui. Chỉ thấy
một nỗi cô quạnh man man. Tôi nằm một lúc thì hình ảnh ba tôi hiện ra.
Ông mất đã ba ngày rồi, vậy hôm nay có thể đã chôn. Tôi không có cơ hội
nhìn mặt ông lần cuối. Chân tôi còn yếu như vầy, làm sao đứng được trên
tàu chợ hay ngồi lâu trên xe đò. Hôm qua mới ở tù ra, tôi cũng chưa nắm
vững tình hình bên ngoài, đâu có lên tàu lên xe mà đi ngay được! Vả lại,
tiền trong túi mà quý thầy ở Long Khánh dúi cho, tôi nào biết là có đủ
tiền xe ra Nha Trang hay không. Tóm lại là tôi có nhiều lý do để chưa đi
Nha Trang được ngay... Nhưng hình như, tất cả những lý do ấy đều chỉ là
những cái cớ. Nguyên do chính tôi không về Nha Trang ngay có thể chỉ vì
tôi không đủ can đảm để nhìn mặt ba tôi lần cuối. Tôi tiếc tôi không
được nhìn mặt ông nhưng tôi sợ phải nhìn một khuôn mặt thân yêu đã lạnh
cứng không còn cảm giác. Mười bảy năm qua, từ khi vào chùa đến giờ, tôi
đã tiễn đưa biết bao nhiêu là người chết xuống huyệt lạnh, đôi khi lòng
cũng đau xót xúc động theo nỗi bi ai thống thiết của thân nhân người
chết, và thường khi thì giữ được cái tâm bất động; nhưng tôi không dám
tin rằng tôi có thể bất động trước cái chết của cha mẹ mình. Tôi nhớ có
một lần, lúc đó tôi hãy còn bé xíu, đâu chừng năm hay sáu tuổi; đang
ngồi quan sát mẹ trang điểm còn ba thì đang chải đầu, tôi chợt hỏi: “Ba
mẹ ơi, ba mẹ có sống hoài không?” Mẹ tôi cười, đáp: “Sống hoài chứ.” Tôi
nói: “Dạ, ba mẹ sống hoài với con nghe, chứ nếu ba mẹ chết, con không
biết con có chịu nổi không. Con sợ ba mẹ chết giống như ông ngoại quá
à!” Ba tôi nghe vậy thì giật mình quay lại nhìn tôi, rồi ông bước đến ôm
lấy tôi, vừa hôn vừa dỗ dành: “Ba mẹ không chết đâu. Ba mẹ sẽ sống hoài
với con.” Vậy mà bây giờ, ba tôi không sống hoài với tôi. Ông không giữ
lời hứa. Ông ra đi trước cả khi tôi được tự do. Có lẽ ông biết tôi sẽ
không chịu đựng nổi. Không phải chỉ vì tôi là đứa bé trai nhạy cảm nhất
nhà trong mắt ông thuở đó, mà còn vì nỗi vui được tự do của một gã tù là
một bó đuốc lớn đang rực cháy sáng rỡ; còn nỗi đau có một người thân
nằm xuống thì giống như một trái bom. Đem ngọn lửa ấy mà xáp lại với
trái bom kia, tôi sẽ nổ tan tành ra mây khói. Thương tôi, ba tôi sẽ
không muốn bất cứ điều gì bất hạnh xảy ra cho tôi và chính tôi cũng
không muốn trở thành một gã điên ngay lúc này dù rằng khuynh hướng muốn
điên đang quẫy mạnh trong tôi, xúi giục tôi rằng điên bây giờ thật là
đúng lúc, đúng cảnh ngộ nhất.
Tửu trở lại giơ cái bì thư lên, nói gì đó, tôi không
chú ý lắm, chắc là nói Như Tâm gởi bì thư tiền biếu tôi. Đi xuống ăn cơm
tối, hình như Tửu có nói vậy. Không, không ăn đâu. Tôi từ chối. Tôi cần
ngủ. Tôi mơ màng nói vậy. Và tôi mệt mỏi đi vào giấc ngủ. Trong giấc mơ
ngắn ngủi, tôi thấy mấy anh công an xúm lại còng tay, trói chân tôi,
khiêng ném vào phòng biệt giam. Tôi giật mình thức dậy thì Tửu đang đứng
bên cạnh giường. Cảnh trí chung quanh lạ quá, tôi phải ngồi sửng một
lúc mới nhớ sực lại là mình đã được tự do và đang ở nhà anh Cường.
“Khang à, Khang dậy được không? Có chú Thuận đến thăm.”
“Sao chú biết tôi ở đây? Bây giờ mấy giờ rồi?” tôi dụi mắt hỏi.
“Mới tám giờ rưỡi tối. Chú Thuận đi cùng thầy Nguyên Hỷ,
chú vào một mình, thầy Nguyên Hỷ thì ngồi ngoài quán cà phê chờ Khang
ra. Có lẽ thầy ấy nghe được tin qua Như Tâm. Để tôi gọi chú Thuận lên
đây nghe.”
Tửu chưa kịp xuống lầu đã thấy chú Thuận từ dưới bước
nhanh lên. Thấy tôi, chú chắp tay chào rồi cũng giống như Tửu hồi sáng,
chú nhào đến ôm lấy tôi, khóc.
“Thầy Khang ơi, mừng quá, thầy được về rồi hả! Thầy khỏe không?”
Tôi xoa đầu chú, không nói gì. Chú Thuận là sư đệ đồng
môn với Nguyên Lạc bạn tôi. Chú và người anh song sinh đã mồ côi cha mẹ
từ lúc nhỏ và cả hai cùng ở chùa từ lúc ba, bốn tuổi cho đến bây giờ,
mười tám tuổi. Chú biết tôi, thương quí tôi, là qua Nguyên Lạc. Tuy là
huynh đệ đồng môn với Nguyên Lạc, chú coi Nguyên Lạc như thầy. Cả tôi và
Nguyên Lạc đều đi tù, chú bơ vơ chạy tìm chỗ ở và phải sống một thời
gian với thầy Thiện Giác, một nhà sư mà ai cũng biết là có cộng tác gì
đó với Sở công an Sài Gòn. Thời gian gần đây, chú gây gổ với thầy Thiện
Giác rồi rời khỏi chùa, sống tạm ở nhà người quen. Tửu đã kể tôi nghe
những chuyện ấy từ hồi chiều. Thấy chú còn mặc đồ tu, tóc không cạo sạch
nhưng cũng còn dáng đầu tròn, tôi yên lòng. Ở chùa Long Quang trên kinh
tế mới, tôi có ba chú tiểu nhỏ hơn chú Thuận, trong đó có Duy là cháu
ruột của tôi từ Sài Gòn lên, đều đã hoàn tục trong thời gian tôi vào tù.
Tửu cho tôi biết vậy. Khi tôi xả giới để thực sự dấn thân vào đời, tôi
dặn các chú phải nương quý thầy ở Long Thành để tu tập, nhưng rồi các
chú lại lần lượt nối gót tôi: vào đời. “Thầy nào trò nấy,” là vậy. Tôi
tự cảm thấy mình có lỗi vì thiếu trách nhiệm đối với các chú.
“Thầy Nguyên Hỷ chờ thầy ngoài quán cà phê, thầy ra gặp thầy ấy một chút được không?”
“Sao không mời thầy vào đây?” tôi hỏi.
“Thầy ấy không muốn kéo đến đây đông, gây sự chú ý của
hàng xóm, sẽ bất lợi cho quí thầy trong này. Bây giờ thầy ra ngay đi.
Con ngồi chơi với thầy Tửu một chút rồi về luôn.”
Tôi lại thay đồ rồi theo sự chỉ dẫn của Thuận, đi bộ ra
khỏi con hẻm, đến đầu đường nhìn qua lề bên kia, nơi quán cà phê dọn bàn
ghế chiếm lề đường mà tôi vừa ngồi với Nam Phương tối hôm qua. Một
thanh niên mặc áo sơ mi trắng, quần tây đen, đội mũ lưỡi trai đưa tay
ngoắc khi tôi băng qua đường. Đó là Nguyên Hỷ, một nhà tu hiền lành, dễ
thương, sống nhẹ nhàng trên đời như một áng mây. Vậy mà rồi anh cũng
phải cải trang làm người thế tục để đi vượt biên. Nguyên Hỷ lớn hơn tôi
bốn tuổi, là tăng sĩ thường trú tại tu viện Già Lam. Anh không trực tiếp
tham gia Lực Lượng Việt Nam Tự Do của thầy Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ,
nhưng vào năm 1977, anh là người từ Sài Gòn ra Nha Trang đưa thầy Tuệ Sỹ
vào Sài Gòn để cộng tác với lực lượng nói trên. Lúc lực lượng này bị
tan vỡ, anh không bị bắt vì không dính líu. Khi thầy Tuệ Sỹ ra tù vào
năm 1980 và tái hoạt động, anh cũng không tham gia. Chung quy là vì mẫu
người của anh không thích hợp để dấn thân, vậy thôi. Nhưng anh luôn tán
trợ con đường dấn thân của tôi, kể cả việc thành lập Đoàn Phật Tử Phụng
Đạo lẫn việc hoạt động chính trị; và nhất là vấn đề sáng tác văn thơ.
Anh thường nhắc: “Khang làm gì thì làm, cũng phải sáng tác nghe, đừng bỏ
uổng.” Hai năm trước, trong khi tôi cải trang để lẩn tránh công an thì
anh cũng cải trang để vượt biên và thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau ở nhà
một người phật-tử thân tín. Sau hai năm, anh vẫn còn đó, chưa rời được
khỏi nước.
Tôi bắt tay Nguyên Hỷ rồi kéo ghế ngồi xuống. Tôi không nói gì, nhưng anh thì như vừa khóc vừa cười, không giấu nổi xúc động:
“Khang về được rồi, Khang về thật rồi, hay quá là hay...”
Chúng tôi cùng ngồi uống cà phê nói chuyện đến chín giờ
rưỡi tối thì chia tay. Dắt xe đạp tiễn theo tôi một đoạn, Nguyên Hỷ nói
vài lời cuối:
“Khang không cần phải bận tâm lời đàm tiếu của người khác làm gì. Làm chuyện lớn thì đừng để tiểu tiết chi phối mình.”
“Ý anh muốn nói...?”
“Chuyện mấy anh em đồn đãi không tốt về Khang. Kệ họ,
đừng nghĩ đến làm gì mệt lắm. Con đường thênh thang của Khang, họ hiểu
sao thấu mà bàn bạc.”
Tôi định hỏi thêm cho biết nhưng nghĩ sao lại thôi.
Chúng tôi chia tay. Tôi dặn lòng, cứ theo lời nhắc nhở của Nguyên Hỷ: kệ
họ, đừng nghĩ đến làm gì, mệt lắm. Nhưng khi về đến chỗ của Tửu, vừa
thay đồ xong, tôi lại thấy khó chịu, không cưỡng nổi hiếu kỳ, liền hỏi
Tửu:
“Anh nói thật đi, từ ngày tôi cải trang để ẩn lánh rồi vào tù hai năm nay, bạn bè anh em đã nghĩ và bàn tán gì về tôi vậy?”
Tửu hơi giật mình, có vẻ e ngại, nhìn tôi một lúc, rồi nói:
“Đại khái một số người khác cũng nghĩ và nói như Thiện
Đắc—mà tôi có kể Khang nghe sơ khi sáng rồi—cho rằng Khang... bán đứng
anh em, lôi kéo anh em vào vòng tù tội. Lúc nào họ đề cập đến chuyện
Khang mà có ý chê trách, tôi đều tìm lời giải thích cho họ hiểu, nhưng
rồi họ cũng chẳng làm sao hiểu nổi; cứ nói là trăm chuyện lỗi tại Khang
nên họ mới lao đao. Mấy người thăm nuôi Nguyên Thể ở trại T20, nghe
Nguyên Thể nói sao đó rồi cũng lên án Khang, nói rằng Khang hèn nhát,
khai huỵch toẹt mọi thứ cho công an để vạ lây cho anh em. Thực ra thì...
Khang à, đừng quan tâm miệng lưỡi thế gian. Ngày nào đó người ta sẽ
hiểu Khang mà. Nếu họ thông minh một chút thì họ phải thấy rằng Khang mà
khai tất cả sự thực hoặc có ý bán đứng anh em thì trước nhất là tôi,
rồi Nguyên Quảng, Nguyên Hòa, Hạnh Trí, Tâm Hải, Tâm Tưởng, Tâm Hòa, Tâm
Tường, Nguyên Lạc, Thiện Lạc, Thông Trí... và nhiều anh em khác nữa
cũng đã vào tù hết rồi. Khang không nhớ rằng thời gian mình vận động tổ
chức Đoàn Phật Tử Phụng Đạo, cũng đã có nhiều người xì xầm bàn tán, chê
trách chuyện mình làm đó sao. Họ không làm nhưng thấy người khác làm thì
phê bình, chỉ trích. Còn như đã chấp nhận làm thì phải sẵn sàng đón
nhận mọi hậu quả chứ, phiền trách gì ai! Nói thật Khang nghe điều này,
mấy người đó toàn là miệng hùm gan sứa! Thệ nguyện dấn thân, hành bồ tát
đạo đủ thứ, nhưng gặp trở ngại một chút là đã trút tội người này, đổ
lỗi người kia! Vậy thì làm sao độ được người! Cá nhân tôi đã không trực
tiếp tham dự chuyện Khang làm trước đây, nhưng đó là nghe theo lời yêu
cầu của Khang, cùng Tâm Hải đứng ngoài để duy trì Đoàn Phật Tử Phụng
Đạo; chứ nếu Khang cho tôi tham gia, tôi sẵn sàng ở tù và chấp nhận bất
cứ bản án nào. Cho dù họ không bắt được tôi nhưng nếu Khang và các bạn
khác đều bị bắt, tôi cũng xin tự nguyện vào tù để chia xẻ với anh em,
đồng lao cộng khổ. Làm sao tôi có thể yên lòng khi Khang bị ngồi tù còn
mình thì ở ngoài lo tìm đường vượt biên, đã vậy còn đi nói xấu người bị
nạn!”
Tôi đưa tay ra dấu cho Tửu đừng nói nữa. Rồi tôi mệt
mỏi nằm xuống, ngó trân trân trên trần nhà. Niềm đau khổ về cái chết của
người cha hiền lành từ hôm qua đến nay bị dồn nén thành một cái nhọt
ung mủ, chưa bung vỡ ra được, bây giờ lại nặng trĩu thêm bởi nỗi oan là
người phản bội, là người vô tình, vô tâm, hèn nhát... Ôi, những thứ oan
khiên loại này trước kia tôi coi như là cỏ rác, sâu mọn, rất bé tí,
không chạm được tới đầu ngón chân của tôi nữa kia! Nhưng bây giờ, sao nó
lại to đến thế, nặng chình chịch đến thế! Tâm bồ đề của tôi ở đâu? Hạnh
nhẫn nhục của tôi ở đâu? Tôi đã trui luyện bao năm rồi mà bây giờ lại
đau khổ quằn quại với những lời đồn! Khóc đi Khang ơi! Ba mi đã chết và
bạn bè mi nguyền rủa mi! Khóc đi, khóc đi! Ôi, nước mắt tôi đâu rồi, sao
không chảy! Khang ơi, mi nhẹ dạ nhạy cảm lắm mà, dễ khóc lắm mà, mít
ướt lắm mà, vậy thì khóc đi! Khang ơi, hãy khóc đi, kẻo tim gan mi nổ
tung thành trăm mảnh!
Vậy mà tôi vẫn không khóc được. Chỉ thấy như có vật gì
đè nặng nơi ngực. Tửu hỏi tôi muốn ăn tối không, tôi nói không. Tôi nằm
im như thây chết. Tửu lặng lẽ bỏ mùng xuống cho tôi rồi anh ngủ trên
chiếc võng bằng vải dù quân đội treo gần đó.
Tôi nằm mãi không chợp mắt được dù rằng suốt đêm qua
tôi chưa ngủ và khi nãy tôi chỉ ngủ được đâu chừng một giờ đồng hồ. Tôi
muốn gợi trong trí mình một hình ảnh nào thật đau khổ để có thể khóc
được, mà mắt tôi vẫn cứ trơ ra như hai viên bi bằng chai của trẻ nhỏ.
Không phải tôi thành gỗ đá để mất đi cảm giác. Tôi chỉ không khóc được
mà thôi. Cảm giác của tôi, đau khổ của tôi, vẫn còn đó, vẫn còn tràn lấp
hay đang cô đọng lại thành một khối lù mù, âm u.
Nửa khuya tôi ngồi dậy, thay áo quần trong bóng đêm, định rời nhà anh Cường. Tửu thức dậy hỏi nhỏ:
“Khang định đi đâu à?”
“Tôi muốn ra ngoài.”
“Còn sớm lắm, mới có 3 giờ. Khang đi đâu thì chờ sáng tôi chở đi.”
“Không, tôi muốn đi ngay bây giờ.”
“Nhưng đi đâu, cho tôi biết với? Khang đi ra ngoài một mình tôi lo lắm. Lỡ có chuyện gì...” Tửu ngồi bật dậy.
“Đừng hỏi nữa được không. Tôi mở cửa ra ngoài, anh đóng
lại giùm. Cho tôi tự do, một mình tôi, đừng đi theo. Khi nào cần về, tôi
về.”
Tửu rời khỏi võng, vội đến chỗ tủ, lôi ra hai ba cái bì thư đến dúi vào túi quần tôi:
“Của Như Tâm và chú Thuận gởi biếu Khang dằn túi để đi
đường, cộng thêm số tiền của bạn bè góp thăm nuôi Khang, Khang cứ mang
theo, không xài chi thì cũng có mà phòng thân. Khang lấy xe đạp của tôi
mà đi nhé?”
“Không, tôi muốn đi bộ.”
CHƯƠNG HAI MƯƠI LĂM
Ngọn đèn từ trụ điện ở xa mút phía đầu đường hắt đến
một luồng sáng trắng nhòa nhòa, không đủ soi con hẻm vắng. Một con chó
vùng chạy ra xa rồi đứng lại sủa khi thấy tôi lầm lũi bước đi trong đêm.
Gió khuya lùa nhẹ qua hẻm làm lao xao những giấy rác. Ngoài đường lộ
chính cũng khá vắng. Xa xa có một chiếc xích lô chở khách chạy thật
nhanh trong khi một chiếc khác thì uể oải chạy từ từ trên đường. Người
phu xa bấm cái chuông nhỏ vài tiếng khi nhác thấy bóng tôi xuất hiện ở
vùng có đèn sáng. Tôi cúi đầu bước đi, không buồn ra dấu trả lời.
Tôi không biết đi đâu. Cứ nhắm một đường thẳng trước
mặt mà đi, đi mãi. Một cái gì rưng rức, rưng rức ở bờ tim tôi. Giống như
một con đê bị tức nước sắp vỡ. Giống như một cơn ngứa cồn cào ở cổ họng
bắt buộc phải ho. Hình như tôi muốn đến một chỗ nào thật vắng để có thể
hét lên một tiếng thật to. Hoặc là tôi muốn một cái gì đó na ná như ao
ước được điên. Vâng, sống ở thế giới này, tốt hơn hết là hãy điên. Ôi,
tôi thèm điên biết bao. Cho tôi điên đi, cho tôi quên hết đi, những lý
tưởng, những tính toan, những nghi kỵ oán hờn, những đau buồn mất mát,
những con người, những giao tình thân sơ đậm nhạt...
Hết con đường này, tôi lại qua con đường khác, bước
mãi, đi cho đến khi bất ngờ nhìn thấy chiếc tàu Tiền Giang lù lù bên bờ
sông Bạch Đằng, tôi mới giật mình là dường như trong vô thức, chân tôi
đã bước theo một vết tích quen thuộc nào đó.
Tôi tiếp tục lần dò men theo bờ sông trong khi trời vẫn
chưa có dấu hiệu gì là mặt trời sắp mọc. Tôi đến ngay chỗ băng ghế đá
mà tôi và Nam Phương cùng ngồi buổi sáng hôm qua. Dưới ánh đèn vàng từ
trụ điện gần đó soi tới, tôi thấy một thằng bé dơ dáy, chừng mười ba
tuổi, đang nằm co trên ấy. Nó đắp một tấm chăn ngắn lủng nhiều lỗ, kéo
ngang tới ngực, trong khi phía dưới, một bàn chân đầy bụi đất của nó
cũng ló ra khỏi chăn. Đầu tóc nó rồi bù, rít rắm, gối trên một đôi giày
xăn-đan của người lớn rất quen thuộc mà tôi không nhớ rõ đã thấy từ đâu.
Nó ngủ ngon lắm, không biết tôi đang đứng nhìn ngắm nó. Ôi, thằng bé
sao vô tư dễ thương chi lạ! Có lẽ nó mồ côi, không cha không mẹ, không
anh chị em, không cả những bạn bè thân thiết. Nó phải tự lo tìm sinh kế
để sống qua ngày, một thân một mình chống chọi với cuộc đời đầy man trá
hiểm ác để tồn tại, nhưng vẫn chưa đánh mất cái vẻ hồn nhiên tự tại. Ước
chi tôi được là một thằng bé mồ côi lang thang như vầy. Tôi đứng nhìn
nó một lúc thì một nỗi buồn nặng trịch đè nặng xuống tim. Nhìn quanh,
những băng ghế đá khác đều có người nằm hoặc một vài cái bao hành lý gì
của ai đặt trên ấy. Tôi thèm được nằm xuống bên sông này, nhìn lên trời
cao. Tôi đứng dựa vào lan can sắt chạy dọc bờ sông khá gần băng đá.
Thằng bé cục cựa trở mình rồi bỗng chớp mắt nhìn thấy tôi, nó giật mình
ngồi vùng dậy, một tay chộp lấy đôi giày xăn-đan, một tay cuốn nhanh cái
mền nhỏ làm một nùi dưới nách. Thấy tôi chỉ đứng im chứ không có dấu
hiệu gì là hành hung nó, nó yên tâm ngồi lại, ngó quanh một lúc. Tôi giơ
một bàn tay lên, chào nó:
“Em ơi, em tên gì vậy?”
Thằng bé lại ngó quanh một lúc để xác định lại là tôi hỏi nó hay ai khác. Thấy tôi chỉ hướng về nó, nó đáp giọng nhỏ nhẹ:
“Em tên Rơi. Anh là ai vậy?”
“Anh tên Khang.”
“Anh là công an hả?”
“Không, không phải.”
“Anh đến đây tập thể dục hả?”
“Không, anh chỉ muốn... nằm nơi băng đá mà em đang ngồi. Em có thể trao đổi với anh không?”
“Trao đổi cái gì?”
Tôi thọc tay vào túi quần, móc ra mấy cái bì thư mà Tửu
vừa nhét vào cho tôi khi nãy. Tôi bước tới một bước. Thằng bé có vẻ sợ
hãi, đứng dậy như muốn đề phòng và chuẩn bị bỏ chạy. Tôi đứng im để nó
yên tâm rồi đưa mấy cái bì thư, nói:
“Em nhường cho anh cái băng đá chừng một vài tiếng đồng hồ thôi, anh cho em mấy cái này.”
“Cái gì vậy?” thằng bé vừa ngạc nhiên vừa nhớm người
tới, hỏi. “Ô, tiền. Nhiều quá vậy. Thôi... anh cứ nằm đây đi, em chạy
chỗ khác được mà, không cần lấy tiền đâu.”
Tôi bước đến xoa đầu nó, nói:
“Cầm đi, anh cho em đó. Coi chừng người ta giựt nghe.”
Thằng bé run run đón lấy một trong ba cái bì, nửa tin nửa nghi, rồi bỗng thụt tay lại, nói:
“Hôm qua đói quá em không có tiền nên mới ăn cắp đôi
giày của anh để bán mà chưa bán được. Bây giờ em trả lại cho anh nè, anh
đừng bắt em nghe.”
Tôi cười, vỗ vai nó, cố gắng làm cho nó tin:
“Không, cho em đó. Cả tiền này nữa, cầm lấy rồi đi đâu
thì đi, anh không nhìn theo, không bước theo em đâu. Anh chỉ muốn nằm ở
đây.”
Tôi dúi nhanh mấy bì thư vào lưng quần nó, rồi không chờ
nó kịp phản ứng gì, bước đến băng đá, nằm xuống. Thằng bé cứ đứng mãi ở
đó, nhìn tôi, không chịu đi.
“Đi đi, em hứa tìm chỗ khác để ngủ rồi mà.”
Thằng bé không nói gì. Đứng một lúc bên cạnh băng đá rồi
bỗng bật khóc. Tôi vẫn nằm im, không nhìn nó. Chỉ nghe tiếng thút thít
rất tội nghiệp. Tiếng khóc nghẹn ngào và sung sướng như thể đã lâu lắm
nó mới được bật trào ra như vậy. Ôi, ai cũng khóc được một cách dễ dàng,
sung sướng, sao tôi lại chẳng khóc được nhỉ!
Hình như thằng bé ngồi bệt xuống đất gần đó, không chịu đi.
“Sao anh tốt với em vậy?” nó vừa hỏi rồi vừa lật mấy bao thư ra nhìn hay đếm, nghe tiếng giấy sột soạt.
Tôi im, không nói.
“Anh ơi, anh biết không, sáng mai em lấy tiền này đi mua
một cái thùng gỗ, rồi mua thuốc lá, mua vé số, để đi bán dạo. Em có vốn
rồi thì không sợ đói nữa. Em cám ơn anh lắm. Hôm qua em ăn cắp giày của
anh mà anh không ghét em hả? Bộ anh biết em hay ngủ ở đây hả? Nhà anh ở
đâu vậy? Sao anh không nói gì với em hết? Anh có muốn đắp mền cho đỡ
lạnh không? Sao anh buồn quá vậy?”
Tôi nhắm mắt, tiếp tục im lặng. Vừa thấy mệt, vừa thấy như có một cái gì nghẹn tức sắp òa vỡ ra từ lồng ngực.
Thằng bé đứng dậy, rục rịch làm gì đó rồi se sẽ bước đi, vừa nói với giọng rụt rè ái ngại:
“Em cám ơn anh, cám ơn anh nhiều lắm. Em đi đây nghe, để anh ngủ.”
Tôi đan hai tay gối đầu, mở mắt nhìn trời. Lâu lắm tôi
mới được giây phút tự do như vầy. Bầu trời quang mây, lấp lánh ánh ngàn
sao. Giữa rừng sao chằng chịt đan kết thành từng tụm như đua nhau tỏa
chiếu khắp nền trời đen kịt, tôi chú ý hai ngôi sao nhỏ bé đứng cạnh
nhau đang chớp nhè nhẹ như đôi mắt long lanh của ai đó nhìn tôi e ấp,
buồn bã, muốn nói một điều gì mà không nên lời. Chúng làm rung cả lòng
tôi một lúc. Và bất chợt, tôi thấy những giọt lệ rơi xuống từ đôi mắt
ấy, hay chính đôi mắt ấy đã rơi xuống khỏi nền trời cao thẳm, rơi vào
mắt tôi. Mắt tôi bỗng nhòa đi, và từng hàng lệ nóng tuôn chảy, tuôn
chảy, rơi ngang hai vành tai tôi. Nước mắt tôi đã rơi từng hàng, từng
dòng, cơ hồ bất tận, nhưng chúng rơi câm lặng, không kéo được nỗi đau
khổ ra khỏi tim tôi. Và cho đến lúc này, tôi vẫn biết tôi vẫn chưa thực
sự khóc. Khối chì đè nặng nơi ngực vẫn còn trơ ra đó, nghẹn cứng, khiến
tôi như khó thở.
Tôi nằm đó nhìn những vì sao cho đến khi chúng mất dạng
trên nền trời sáng dần với màu hồng tía của bình minh và khi tiếng loa
phóng thanh tập thể dục phát ra từ một góc nào đó. Tiếng hô của anh huấn
luyện viên thể dục làm tôi rùng mình thoáng nhớ lại những ngày chân còn
bị cùm ở trại K4. Tôi mỉm cười nhìn lại mình. Tôi ý thức được tôi đang
tự do. Tôi ngồi dậy, nhìn quanh. Một nhóm người Hoa đang tập Thái cực
quyền. Vài anh cán bộ thực hiện nếp sống văn minh, chạy tại chỗ ở khoảng
trống đưa xuống bến phà. Mặt trời hừng đỏ ở phương đông. Tôi đứng dậy,
tiếp tục lang thang trên hè phố, đi về hướng đường Trần Hưng Đạo. Đoạn
đường này sẽ đi ngang Sở công an thành phố. Hai ngày trước tôi còn e
ngại, sợ bị công an bắt lại, nhưng bây giờ, tôi mặc kệ. Tôi cứ đi ngang
đó, để đến nhà Nam Phương.
“Anh Khang! Ô, anh đến bất ngờ quá. Anh đi bằng gì vậy?”
Nam Phương hé mặt nơi cửa sắt vừa reo lên, rồi vội mở khóa, kéo cửa cho
tôi lách vào.
“Anh đi bộ hả! Từ đâu? Từ nhà anh Cường à?”
Tôi gật đầu.
“Trời đất! Sao anh không mượn xe đạp mà đi cho khỏe, hay
là kêu xích lô đến đây rồi em trả tiền. Khổ thân anh chưa! Chắc anh
chưa ăn sáng đâu hả?”
“Không, không ăn đâu. Anh muốn ngủ, anh muốn được nằm một mình. Anh mệt lắm.”
“Được rồi, được rồi. Anh nghỉ trên lầu há, cũng phòng bữa trước em dọn cho anh. Đi với em.”
Nàng bước đi trước, nhanh chóng dọn sơ chỗ nằm cho tôi.
Khi nàng ra dấu đã xong, tôi bước vào phòng, leo lên giường, nằm xuống
ngay. Nàng bước ra khép nhẹ cửa, nhưng rồi chỉ một chốc lát, nàng lại
vào, đem theo một cái chăn mỏng, đắp cho tôi. Tôi nhắm mắt nằm im để
nàng làm công việc chăm sóc đó. Rồi nàng bước ra với cảnh cửa khép lại
thật cẩn trọng. Tôi chỉ nằm một lúc ngắn thì ngủ say, không biết gì nữa.
Khi thức dậy, tôi thấy trong người nhẹ hẫng, khỏe
khoắn; tinh thần thì phấn chấn, sảng khoái lạ lùng. Tôi không biết lúc
này là mấy giờ. Chỉ thấy nắng bên ngoài luồn qua khe cửa sổ có vẻ sáng
chóa. Tôi bước đến cửa sổ, đẩy nhẹ hai cánh ra. Nắng ập vào phòng bồng
bềnh lung linh như reo múa quanh tôi. Bầu trời xanh ngát ở xa làm sân
chơi cho những cụm mây nhỏ nghịch ngợm rượt đuổi nhau, từ góc này đến
góc kia. Thấp phía dưới tầm nhìn của cửa sổ là sân chơi của một trường
mẫu giáo với mấy cái xích đu còn đong đưa kẽo kẹt trong khi bầy trẻ đã
vào lớp tập đánh vần ê a. Tôi cơ hồ quên khuấy đi mọi thứ trong giây lát
và trở thành một con người mới, yêu đời, hân hoan, vui phơi phới trong
lòng.
Có tiếng gõ cửa nhẹ nhẹ của Nam Phương, tôi quay người lại, thì nàng đã hé cánh cửa, ló đầu nhìn vào.
“Anh thức rồi hả? Em nghe tiếng cửa sổ mở ra,” nàng vừa nói vừa bước vào, thu dọn chăn gối.
“Để anh làm,” tôi bước tới giành lấy công việc đó.
“Thôi, em làm được mà. Anh thấy khỏe chưa? Em có nấu chay dọn sẵn dưới đó chờ anh. Bây giờ gần một giờ trưa rồi.”
Trong khi Nam Phương vừa nói vừa xếp chăn, tôi đứng gần
đó nhìn nàng đăm đăm và bất chợt một cơn đói khát thèm muốn bừng bừng
bốc dậy. Cơ thể tôi nóng ran, run rẩy, mắt tôi hoa lên, môi tôi mấp máy,
hơi thở tôi dồn dập... Tôi đưa một tay về hướng Nam Phương, tính đặt
lên vai nàng, hoặc chạm vào mái tóc óng ả của nàng, hoặc sờ nhẹ trên cần
cổ cao và trắng muốt của nàng; nhưng rồi tôi thụt tay ngay lại. Nam
Phương hình như cũng biết được tôi vừa làm cử động gì, nàng hơi né người
đi bằng cách cúi xuống chỉnh cho ngay lại cái gối nằm.
“Phương à, anh cần đi tắm, sau đó hãy ăn cơm trưa, được không?”
“Dạ, anh tắm cho khỏe, em chờ anh được mà.”
Nàng lại vào buồng tắm dọn dẹp sơ cho tôi bước vào.
Bữa cơm trưa ăn chung mâm, tự dưng tôi và nàng im lặng
không biết nói gì với nhau một lúc khá lâu. Hôm qua chúng tôi ngồi với
nhau ở quán cà-phê trên đường Nguyễn Huệ và băng đá công viên bên sông
Bạch Đằng, nói chuyện vui vẻ, thân mật lắm, mà tự dưng bây giờ lại có
điều gì e ngại khiến cho cả hai co rút như hai con ốc giấu mình vào vỏ
cứng. Tôi ân hận đã tỏ một cử chỉ khá sỗ sàng khi đưa một cánh tay về
phía nàng. Dù rằng cử chỉ đó đã bị tôi kịp thời kềm hãm lại, không đi
đến đâu, nhưng ít nhất trong ánh mắt và đôi môi thèm khát của tôi, nàng
cũng có thể nhận ra được rằng nếu nàng ngoan ngoãn hướng về phía tôi,
tôi sẽ ôm ghì lấy nàng với toàn bộ sức sống mãnh liệt bị dồn nén lâu
ngày nơi tôi.
“Anh rời chỗ nhà anh Cường từ lúc mấy giờ vậy?” nàng hỏi.
Tôi thấy nhẹ nhõm, biết nàng không chấp trách gì; tự nhiên nói:
“Từ lúc 3 giờ khuya.”
“Sớm vậy à. Mà sao 8 giờ mấy anh mới đến đây?”
“Anh đi một vòng xuống bến Bạch Đằng rồi quanh lại...”
“Xuống bến Bạch Đằng? Để làm gì giờ đó?”
“Không được sao?”
“Không phải là không được... nhưng em lo cho anh mà. Lỡ
họ thấy anh đi lang thang nửa khuya, chận lại hỏi giấy tờ thì phiền
lắm. Nhiều người đi vượt biên qua ngã sông Bạch Đằng đó. Cho nên khu vực
ven sông công an đi tuần nghiêm ngặt lắm.”
“Anh hết sợ chuyện đó rồi. Anh thấy anh thật ngu khi
phải sợ công an hỏi giấy tờ. Ở tù ra họ cấp cho mình có một tờ giấy tha
chứ không có tờ giấy nào khác kèm theo, vậy có hỏi đến thì đưa tờ giấy
độc nhất đó ra, có gì phải lo sợ tránh né chi cho mệt! Thủ tục hành
chánh giấy tờ của họ như vậy mà. Còn giả như có bắt vào đồn bót để điều
tra thì cuối cùng cũng tìm ra sự thực rằng anh là tù nhân được tạm tha
hợp lệ, có phải trốn trại đâu. Nước cùng là giam anh vào tù trở lại...
thì cũng được thôi. Trước sau gì cũng vào tù lại mà.”
“Đừng nói vậy. Anh không thể vào tù lại,” nàng nhăn mặt nói.
“Anh chưa được tự do thực sự, em biết rồi mà. Tờ giấy tha anh mang theo người chỉ là lệnh tạm tha thôi.”
“Nhưng... anh không thể vào tù lại. Em không muốn anh
bị ở tù lần nữa. Thời gian hai năm tù của anh, so với người khác là
ngắn, nhưng như vậy cũng đủ rồi. Anh không cần phải trau luyện hay thử
thách gì nơi đó nữa.”
Tôi im lặng. Nàng bới chén cơm khác và gắp thức ăn vào
chén cho tôi bằng đôi đũa của nàng. Cử chỉ thân mật đó làm tôi thấy ấm
lòng, dễ chịu. Tôi vui vẻ nói đùa:
“Vậy em nghĩ anh cần trau luyện ở môi trường khác hơn là trại giam, phải không?”
“Ở đâu lại chẳng là trường trau luyện. Cái đó anh thừa
biết, em đâu dám nhắc nhở hay khuyên răn gì. Nhưng em thấy... hình như
anh vẫn còn nỗi khắc khoải ưu tư hay một niềm đau nào đó chưa giải tỏa
hoàn toàn.”
Tôi giật mình kinh ngạc, lắp bắp nói:
“Em nhận ra được điều đó à?”
“Trên nét mặt anh,” nàng thản nhiên nói, rồi lại nhíu
mày, đổi giọng thiết tha. “Anh có một cái gì còn giấu ở bên trong, chưa
nói ra được, phải không? Sao anh không nói em nghe. Anh đã kể em nghe cả
hai năm tù của anh với bao đắng cay tủi nhục và sự phấn đấu để nhoài
mình ra khỏi thống khổ... vậy sao anh hãy còn giữ lại cái gì đó trong
lòng? Cái đó khó nói lắm sao?”
Sự tinh tế và vài lời khích lệ của nàng khiến tôi mạnh
dạn, muốn tuôn ra hết những gì tôi chưa muốn nói cho bất cứ ai tôi gặp
từ ngày ra tù đến giờ: nàng, Như Tâm, Tửu, Nguyên Hỷ, anh Cường, chú
Thuận hay thằng bé Rơi. Hai ngày qua, tôi không có chút hứng thú hay lý
do thích đáng nào để kể lể với kẻ khác rằng tôi có người cha vừa mới
chết. Không phải tôi muốn phủ nhận hay chạy trốn sự thực đó. Tôi chỉ cảm
thấy rằng nói ra điều đó với mọi người, cũng chẳng có gì thay đổi cho
tôi cả. Nghe chuyện cha tôi chết, người ta sẽ làm gì, nói gì? Chắc là:
“Ôi, tội nghiệp cho Khang!”
“Thật vậy à, thành thật chia buồn với Khang.”
“Sao mà nhanh thế, thôi giờ mình lo cầu nguyện cho ông cụ chứ biết sao. Đời vô thường mà...”
Đại khái tôi sẽ được đón nhận những lời như vậy. Tôi
không thấy cần thiết những lời an ủi, chia buồn, dù rằng tôi tin tưởng
và ghi nhận tấm chân tình của những người bạn nói trên dành cho tôi.
Khối đau đó dường như là một cái gì trân quí mà tôi ích kỷ chỉ muốn chôn
chặt vào tận đáy lòng, chẳng muốn chia sẻ cùng ai, để một mình gặm nhấm
cho thấm thía đến cùng cực. Hoặc chỉ có thể vì con người lì lợm thường
tự hào có nghị lực như tôi, không muốn òa khóc, không muốn biểu lộ cảm
xúc đau khổ trước mặt kẻ khác. Nhưng người bạn mới, Nam Phương, lại là
người bén nhạy lạ thường đến nỗi ngay lúc nàng khơi mào cho tôi bộc lộ,
tôi có cảm tưởng rằng chỉ có nàng mới chính là nơi chốn thân yêu, là
chiếc nôi an lành, là vòng tay dịu dàng bao dung nhất... để tôi ngã vào
như một đứa trẻ.
Dù vậy, hãy còn một động lực ương ngạnh kiêu kỳ nào đó
trấn ngự nơi cửa ải xúc cảm của tôi. Lợi dụng thời gian nhai cơm, tôi
không vội nói gì với nàng. Tôi đắn đo tự hỏi lòng mình, nơi đây và lúc
này có phải là thời điểm, là nơi chốn, là đối tượng, để tôi bộc bạch
chăng. Không. Một tiếng “không” vang mạnh trong tôi làm tôi dứt khoát,
bỏ đũa xuống, nói:
“Thực ra cũng chắng có gì quan trọng.”
Phương ngó tôi, quan sát, rồi nói với giọng buồn buồn:
“Anh chưa có hứng thú để nói thì thôi, em không nài. Em
chỉ muốn anh biết rằng, em rất muốn nghe, rất thích nghe, tất cả những
gì liên quan đến đời anh.”
“Để làm gì!”
“Để làm gì? Ha, con người đầy ắp những lý tưởng này nọ
như anh lúc nào cũng muốn đặt một mục đích nào đó cho những hành động
của mình. Không lẽ không có mục đích thì không có hành động sao? Lý
tưởng và mục đích làm cho đời anh chết cứng, chỉ biết đi ngay ngó thẳng,
không nhu nhuyến uyển chuyển được trong hành động. Anh đau khổ nhiều
cũng vì vậy mà thôi.”
Tôi lại một lần nữa giật mình kinh hãi. Nam Phương không
hoàn toàn chỉ là con người dịu dàng, nghiêm trang pha chút lãng mạn như
tôi nghĩ. Nàng có những nhận xét sắc bén của một người giàu mạnh cả lý
trí và cảm tính, nhưng quân bình được cả hai thứ đó; còn tôi thì thường
rơi vào một trong hai cực đoan: đôi khi như một nhà mô phạm, đôi khi như
một nghệ sĩ. Khi như một nghệ sĩ, tôi không hoàn toàn đóng vai nghệ sĩ
vì luôn ý thức mình là một nhà tu hay một nhà mô phạm; khi như một nhà
mô phạm, tôi không trọn vẹn là nhà mô phạm vì cảm tính nghệ sĩ luôn kéo
lôi tôi vào dòng xúc cảm mạnh mẽ dị thường trước thiên nhiên và con
người.
“Ơ, xin lỗi anh, chắc em nói không đúng... Anh đừng để tâm nghe,” thấy tôi im lặng, nàng nói vậy.
“Không, em nói đi. Anh nói với em hôm qua đã nhiều rồi, bây giờ đến lượt em đó. Anh muốn nghe chuyện của em.”
Nàng cười một tiếng thật khô:
“Đời em, ngoài chuyện xuất gia không thành, chẳng có gì quan trọng đâu mà kể.”
Sau câu ấy của nàng, chúng tôi hết chuyện nói. Và tôi biết, cái khát khao muốn bộc lộ của tôi đã chìm tắt.
“Anh phải đi bây giờ,” tôi nói.
“Anh đi đâu vậy? Anh có thể ở lại đây được mà.”
“Được, nhưng anh cần đi một vài chỗ trước khi ra Nha Trang.”
“Vậy em chở anh đi há?
“Thôi, không phiền em đâu. Anh đi xa lắm, tận Long Thành.”
“A, anh muốn thăm lại chùa của anh trên kinh tế mới đó hả? Em chở anh đi bằng Honda, được không?”
“Không được, đường xá trên đó bụi bặm, đầy ổ gà; với lại trên đó vắng vẻ, thiếu an ninh, em đi không tốt đâu.”
“Anh lúc nào cũng tìm cớ từ chối, không cho em theo...”
nàng phụng phịu một cách trẻ nít làm tôi ngạc nhiên, ngỡ như lúc nãy và
bây giờ là hai con người khác nhau.
“Hôm nào đi Nha Trang, em đi với anh; còn bây giờ, để mình anh, nói thật đó.”
“Vậy... anh muốn đi bằng xe Honda của em không?”
“Không. Để anh đi xe đò thì khỏe hơn, khỏi vướng bận.”
“Anh sợ đi chiếc xe của em thì vướng bận em à?”
“Không phải. Anh sợ mang xe em theo lỡ có chuyện gì xảy ra trên đó... lại mất luôn chiếc xe của em.”
“Có chuyện gì là sao? Bộ trên đó ghê lắm hả? Vậy thì anh đừng đi.”
“Nhưng... anh thực sự muốn thăm lại chùa cũ trước khi ra Nha Trang... Anh muốn xem thử trên đó cần giúp gì không.”
“Anh nhờ Tửu hay ai đó đi thay không được à! Em không
cho anh đi đâu. Thực đó. Em nói khi nãy rồi: em không muốn anh bị tù lần
nữa.”
Phương nói như thể nàng có một liên hệ thật khắng khít
hay một thứ thẩm quyền tình cảm nào đó đối với tôi vậy. Điều này làm tôi
buồn cười mà cũng vừa thích thú ngầm. Tôi đùa khiêu khích nàng:
“Em lấy gì để cản được chân anh mà bảo là không cho đi?”
Nàng hơi khựng một chút rồi đưa tay tóm lấy đuôi tóc
được kẹp túm lại từ phía sau, đưa ra trước, áp lọn tóc đen dày nơi mũi
như ngửi hương tóc của mình mà kỳ thực là để che lấy nụ cười chúm chím,
bẽn lẽn. Nàng chỉ làm vậy, không nói gì. Ôi, chỉ ngần ấy dáng điệu là
tôi đã muốn đình chỉ mọi chuyến đi để chiều lòng nàng. Tôi nói:
“Nói giỡn chơi vậy thôi. Không đi Long Thành cũng được,
nhưng ít nhất trong vòng tuần lễ còn ở Sài Gòn, anh phải tranh thủ làm
một số công việc, vì khi ra Nha Trang... chẳng biết có được rời khỏi
thành phố đó nữa hay không. Họ bắt buộc phải trình diện mỗi ngày ở bót
công an địa phương thì làm sao cục cựa...”
Nàng nguýt tôi một cái dài rồi nói với giọng hơi bất mãn:
“Anh thật là đa đoan, ôm đồm nhiều chuyện quá! Anh thử
nghĩ xem, nếu anh không may mắn được ra tù sớm thì những việc anh muốn
làm hôm nay sẽ như thế nào? Chúng vẫn diễn tiến theo cái hướng nhất định
của chúng. Anh không nhất thiết phải cưu mang. Cứ coi như anh đang còn
ngồi tù đi, mọi người ở ngoài tự lo lấy chuyện của họ. Nếu những người
thân với anh ở bên ngoài có điều gì cần phải làm trong thời gian này,
thì đó là nên quan tâm đến an nguy của anh, một người tù mới được tự do,
hai bàn tay trắng, không có nơi dung thân chắc chắn... chứ không phải
là chờ đợi anh quan tâm lo lắng cho họ. Bây giờ, thực tế hơn, anh lo vấn
đề của anh trước đã.”
“Nói vậy cũng không đúng. Cái thực tế trước mắt là anh
đang ở đây, ngoài vòng tù tội: anh phải làm cái gì có thể làm được chứ!
Khi không làm được gì, anh chịu thúc thủ; còn bây giờ, thấy có thể làm
được vài chuyện, không lý ngồi yên!”
“Nói gì thì nói, chẳng qua là vì tánh anh như vậy, cứ
muốn ôm đồm, bao sân, tự gánh cho mình những trách nhiệm hay bổn phận.
Có khi nào anh nghĩ rằng những thứ bổn phận hay trách nhiệm đó níu kéo,
vây bủa anh, đánh mất sự tự giải thoát của anh không!”
“Có khi nào em nghĩ rằng khi một người buông xả hết tất
cả trách nhiệm với đời thì sẽ bị vướng mắc vào vòng trói buộc của một
cái bản ngã to tướng vị kỷ hay không!”
“Thôi, thôi, em nói không lại anh đâu. Để anh tự quyết định đi. Anh muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm.”
“Em giận anh hả?”
“Em có quyền giận anh à!”
“Anh nghe rằng bồ-tát không biết giận.”
“Em đâu phải bồ-tát!” nàng đứng dậy bưng chén bát đến chỗ bếp.
“Có tâm cứu vớt độ người là bồ tát rồi,” tôi vừa nói vừa giúp nàng dọn dẹp bàn ăn.
“Em chưa từng cứu vớt ai.”
“Em cứu vớt anh.”
“Làm gì có chuyện đó.”
“Nói thực,” tôi đến sát bên nàng, “ít nhất em đã cứu vớt anh.”
“Làm gì mà bảo là cứu vớt?” Nàng tựa lưng vào tủ búp-phê, mắt nhìn dưới đất.
“Em ban cho anh sự an tâm vô úy lúc anh loay hoay tìm chỗ trú đêm khi mới ra tù.”
“Anh có biết sợ ai đâu mà bảo là em cho anh sự vô úy.”
“Anh không sợ ai nhưng sợ em đấy chứ.”
“Xạo,” nàng trách yêu.
Tôi đưa một tay lên vuốt tóc nàng. Nàng đứng im, mặt
cúi xuống, tay chân líu quíu. Thấy nàng có vẻ run rẩy, ngượng ngập, tôi e
ngại rụt tay lại, nói:
“Thôi, để anh đi nghen.”
“Dạ,” nàng đáp nhỏ.
Tôi vào buồng tắm rửa tay, súc miệng rồi bước xuống lầu.
Nàng cầm chìa khóa bước theo. Đến ngang phòng khách, nàng như sực nhớ
điều gì, quay lại nói:
“Anh vẫn còn giữ ý định đi Long Thành hở?”
“Anh cần đi,” tôi quả quyết.
“Anh thực sự không cần xe của em hở?”
“Không, anh sẽ đi xe đò.”
“Anh ra bến xe bây giờ hay là về chỗ Tửu rồi mới đi?”
“Ra bến xe bây giờ.”
“Vậy em chở anh ra bến xe, nhé.”
“Ừ.”
“Còn điều này nữa, anh có tiền để trả xe đò không?”
“Có...” tôi đáp rồi giật mình nhớ lại là trong túi áo
tôi chỉ còn vỏn vẹn một tờ giấy xếp tư, đó là giấy tạm tha; còn ở hai
túi quần phía trước thì thọc vào chỉ đụng vải.
“Chứ không phải anh hết sạch tiền nên mới đi bộ từ nhà Tửu xuống bến Bạch Đằng rồi từ bến Bạch Đằng đi bộ đến đây sao?”
“Tại anh thích đi bộ vậy thôi,” tôi chống chế.
“Vậy đưa tiền của anh cho em đếm thử, coi có đủ cho hai
vòng xe đò không. Giá tiền đi xe cũng khác hai năm trước khi anh vào tù
nữa đó anh à.”
Tôi thọc hai tay vào túi quần, cười trừ, chẳng biết nói gì, làm gì.
“Thấy chưa, anh hết tiền rồi, em biết mà! Để em đưa
anh... Anh không nhận thì không ra được khỏi nhà này đâu, chìa khóa em
giữ đây. Anh ngồi chờ một chút, em lấy bóp giấy tờ để còn chở anh đi nữa
chứ. Ngồi đi,” nàng đặt nhẹ tay nơi lưng tôi, đẩy về phía xa-lông, ấn
hai vai tôi, bắt ngồi xuống, rồi nàng quay trở lên lầu.
Ngồi lại một mình nơi phòng khách, tôi chợt thấy con
người mình bỗng teo rút, nhỏ bé lại một cách vừa thảm hại, vừa thích thú
chi lạ. Bên cạnh Nam Phương, dường như tôi không đủ sức kháng cự những
quyết định của nàng. Trong tâm cảnh của một người tù mới được tự do chưa
kịp thích nghi với đời sống xã hội, tôi trở nên một kẻ vô dụng, chỉ
biết nương tựa vào người lớn mà chơi, mà sống; và bây giờ, tôi ngồi đây
chờ đợi Nam Phương như một đứa trẻ chờ đợi mẹ hay chị lớn của nó thay đồ
rồi dẫn ra phố. Nam Phương nhỏ tuổi hơn tôi, trẻ trung, đôi khi cũng
nhí nhảnh nũng nịu như Mộng Huyền, nhưng ở mặt khác, ở con người nàng đã
hàm tàng chức năng của một người mẹ nhỏ. Chức năng đó luôn sẵn sàng ban
phát tình thương và cử chỉ chăm sóc. Chức năng đó tràn đầy thứ tình cảm
dễ chịu êm mát khiến cho những kẻ cứng đầu khô khan như gỗ đá bỗng trở
nên ngoan ngoãn dễ dạy, và những người lớn xác già cỗi cũng biến thành
bé thơ. Những thứ phụ tùng kiêu hãnh của đàn ông như lý trí, hoài bão,
thông minh, lịch thiệp, kinh nghiệm, tài năng, đởm lược... đều là đồ
chơi vụn vặt của trẻ con, có thể cất vào xó xỉnh nào đó, có thể đem vất
đi để đến với người đàn bà bằng cái đầu trống rỗng, bằng hai tay không,
bằng cái thân trần truồng, hết sức ngu độn, vô tư và hồn nhiên như trẻ
con.
“Mình đi anh há,” nàng trở xuống với chiếc áo kiểu tay phùng bằng lụa trắng, cổ áo xếp ly hơi cao, mặc với quần tây màu đen.
Tôi vừa đứng dậy thì nàng đã dúi nhanh một ít tiền vào
túi áo tôi, rồi bằng một bàn tay nhỏ nhắn, nàng vỗ nhẹ mấy cái lên ngực
tôi, nói như thể một người chị lớn dặn dò đứa em đi xa:
“Anh phải tập sống thực tế một chút. Làm từng việc, giải
quyết từng việc, bằng khả năng mà mình có, đừng phóng mộng ước đi quá
xa trong khi chân mình chưa kịp cất khỏi mặt đất này. Không phải em muốn
cản trở những gì anh muốn làm. Em chỉ thấy tội nghiệp anh, thấy thương
cho anh phải thay nhiều người để gánh cái gánh quá nặng... Em nói anh
đừng giận nghe: dù trong quá khứ, chuyện anh làm không thành, nhưng như
vậy đủ rồi anh ạ. Anh đã cố gắng, đã làm những gì có thể làm được, mà
hoàn cảnh vẫn không thay đổi thì đó chẳng phải lỗi anh đâu. Anh đi đâu
cứ đi, nhưng nên nhớ rằng em luôn chờ đợi, đón nhận anh. Nếu thế gian
này không còn chỗ nào an ổn cho anh dung thân, và nếu anh thích, hãy về
đây với em... Thôi, đi há.”
Tôi im lặng dắt xe ra ngoài giúp nàng, và im lặng cho
đến khi đến bến xe. Nàng ngồi yên trên xe, nói với tôi những lời cuối
trước khi chia tay:
“Thấy không có gì cần thiết thì về ngay, đừng ở lại lâu trên đó nguy hiểm nghe anh. Nhớ là còn đi Nha Trang với em nữa đó.”
Tôi gật đầu, định nói một lời gì mà chẳng biết nói làm
sao. Tôi đứng như trời trồng một lúc, vẫn chưa nghĩ ra câu gì thì nàng
lại ra dấu tôi bước lại gần nàng một tí, nói nhỏ:
“Cẩn thận đừng nói hay bàn gì chuyện chính trị nữa nghe.
Chỉ lên thăm rồi về. Chỗ núi rừng độc địa, anh ở trong nhà đừng ra
ngoài nhiều mà trúng gió, gặp bạn cũ đừng thức khuya, cũng đừng hút
thuốc nhiều quá, coi chừng bệnh, nghe anh.”
Ban đầu nàng dặn dò, tôi thích thú vì được quan tâm.
Nhưng nàng dặn kỹ quá làm tôi thấy mệt. Tôi cười, gật đầu lia lịa rồi
vẫy tay chào nàng, bước lên xe. Tưởng vậy là xong, nào dè nàng lại dựng
Honda, chạy tới bên cửa sổ xe đò, nói vói lên:
“Anh có tính đánh điện tín ra Nha Trang báo trước cho gia đình biết là anh sắp về không?”
“Không, không cần đâu,” tôi nói đại cho xong.
“Anh muốn về bất ngờ để làm gia đình ngạc nhiên hở?
Nhưng báo tin cho ba mẹ anh biết sớm một chút thì có phải là ông bà vui
sớm một chút, bớt lo một chút không! Há, chút nữa em đi đánh điện tín
cho anh nha, đọc tên và địa chỉ đi.”
Tôi do dự một lúc, rồi đọc tên ba tôi kèm theo địa chỉ
ngôi nhà xưa có giàn bông giấy đỏ rực con đường Nguyễn Thái Học Nha
Trang.
“Để tên ba anh thôi, khỏi cần để tên mẹ, phải không?”
“Ừ, để một tên được rồi. Thôi, em về đi, để còn tránh đường cho xe người ta chạy kìa.”
Nàng ngước nhìn tôi, mắt long lanh như ứa lệ, đưa một
tay lên vẫy ngoắc rồi đi. Ô kìa, sao nàng lại khóc nhỉ? Tôi về chứ có đi
luôn đâu. Tôi cũng đâu có nói chuyện ba tôi đã mất cho nàng nghe đâu!
Rõ thật là đàn bà, mau nước mắt quá. Tôi nghĩ thì nghĩ vậy chứ khi nàng
lái xe chạy vòng ra khỏi bến rồi, tôi nhìn theo cũng thấy lòng bịn rịn,
xao xuyến. Không rõ tôi xao xuyến vì chia tay nàng hay vì đã nhắc đến
tên ba tôi khi nhờ nàng đi đánh điện tín. Ba tôi chết rồi, sao tôi lại
đánh điện tín đề tên ông? Tôi không muốn ông chết khi tôi đang còn xa
Nha Trang gần năm trăm cây số. Tôi không muốn nhìn nhận cái chết của ông
trong lúc này. Hãy để tôi về đến căn nhà xưa ấy, nhìn tận mặt cái chết
của ông, nếm cái đau khổ thực sự của ly biệt ngay ở nơi chốn kỷ niệm của
một thời thơ ấu khi tôi còn trong vòng tay bảo bọc của ông.
CHƯƠNG HAI MƯƠI SÁU
on đường dẫn vào vùng kinh tế mới Bàu Cạn vẫn là con
đường lởm chởm ổ gà và đầy bụi đỏ. Hồi đó chúng tôi thường gọi đùa là
đường “hồng trần.” Bây giờ vẫn vậy, không gì thay đổi. Chỉ có những cây
dương và bạch đàn hai bên đường là cao vút, dầy đặc hơn, che mát gần một
nửa chiều ngang con đường xuôi ngược duy nhất của vùng này. Lúc tôi vừa
xuống xe đò, rời quốc lộ để đi bộ vào đường đất, mặt trời hãy còn chấp
chóa sau những tàng lá xào xạc đong đưa ở hướng tây, bên trái của tôi.
Đường này không có xe cộ ra vào thường xuyên. Mỗi ngày có vài chuyến xe
máy cày chạy ra chạy vào giữa xã Bàu Cạn và đầu đường ra quốc lộ; đến
bốn, năm giờ chiều thì không còn chuyến xe nào nữa. Ngoài loại xe máy
cày kéo theo một rờ-mọt chở khách, không có bất cứ loại xe nào chịu đựng
nổi sự dằn xóc của con đường lồi lõm bị cày nát bởi hàng trăm chiếc xe
bò với bánh sắt chạy qua suốt ngày đêm.
Tôi đi bộ vào hướng chùa. Khoảng ba cây số. Đi chừng
nửa đoạn đường thì mặt trời cũng sắp lặn sau những khóm tre và những mái
nhà tranh tỏa khói bếp.
Từ xa, tôi đã có thể nghe được tiếng mõ nhịp nhàng từ
phía chùa vọng đến, lúc được lúc mất theo từng cơn gió tiếp nối nhau
tung bụi mù mịt trên đường. Từ ngày tôi rời bỏ vùng này để ẩn lánh rồi
cuối cùng vào tù, không một người bạn nào của tôi lai vãng chùa này, cho
nên khi gặp Tửu hai ngày vừa qua, tôi cũng không được biết thêm gì về
tình hình nơi đây ngoại trừ chuyện mấy chú tiểu ở đây đều đã hoàn tục,
rời khỏi chùa. Nhưng bây giờ có tiếng mõ, tiếng chuông từ phía chùa vang
vọng đến. Tôi vừa ngạc nhiên, vừa xúc động, mà cũng vừa an lòng. Ít ra
thì chùa cũng chưa bị nhà nước tịch thu hay bị bỏ hoang.
Mặt trời đã lặn khi tôi tiến vào cổng chùa. Vào giờ
này, cũng như hơn nửa giờ đồng hồ trước trên đường đi, ít người qua lại
nên không ai phát giác sự có mặt của tôi. Hai cây bạch đàn do tôi trồng
hai bên pho tượng Quán Thế Âm lộ thiên bây giờ cũng đã cao vút khỏi mái
chùa và rũ bóng xanh sẫm làm nền cho pho tượng trắng nổi bật lên trong
khuôn viên chùa. Bây giờ thì tôi nghe rõ tiếng tụng kinh bên trong chánh
điện là của hai ni cô với giọng tụng khàn yếu của tuổi già. Tôi đến
trước pho tượng đức Quán Thế Âm lộ thiên, chắp tay cúi chào và bỗng dưng
xúc động với niềm ăn năn như thể tôi là đứa con hoang nghịch trở về sau
một chuyến rong chơi ngoài gió bụi.
“Thầy đó phải không thầy?” một giọng trẻ nít cất lên phía sau lưng tôi.
Tôi quay lại thì bắt gặp Thảo, con anh Hải và chị Tâm ở
đối diện chùa. Có lẽ con bé thấy tôi bước vào chùa nên chạy theo. Hai
năm qua rồi mà nó vẫn không lớn thêm được mấy tí dù tính theo tuổi thì
năm nay có lẽ bé đã lên mười.
“Thảo hở con? Đến đây thầy bảo.”
Con bé ngập ngừng một lúc rồi chạy a tới ôm lấy tôi, khóc mếu máo.
“Thầy ơi, thầy không có sao hở thầy? Thầy mới về hở thầy. Thầy đừng có đi nữa nghe. Để con về nói ba mẹ con nghe. Hu hu...”
“Khoan, thầy dặn nè, nói ba mẹ qua đây gặp thầy, đừng cho ai biết nhiều, nghe chưa.”
Con bé dạ một tiếng rồi chạy vù về nhà. Tôi bước vào
trong, vòng ra phía sau chánh điện, ngồi ở bàn khách (cũng là bàn ăn)
của chùa. Hai ni cô tụng kinh nên chùa chẳng ai coi ngó. Tôi ngồi im,
thoáng nhớ lại một thời sống vui cùng tăng chúng nơi đây. Lúc đó đất
chùa hãy còn trống hoang, tôi và các thầy các chú trẻ, ra công khai phá,
trồng trọt. Bây giờ chung quanh vườn chùa đầy những cây mít oằn trái và
những cây điều xum xuê cành lá. Vườn chùa trông mát mẻ hơn xưa rất
nhiều.
Tôi ngồi một lúc thì anh Hải, chị Tâm chạy qua chùa.
Tôi trò chuyện cùng họ đâu chừng mười phút sau thì đồng bào phật-tử lối
xóm lần lượt tụ đến đầy nghẹt, bao vây lấy tôi, người câu này người câu
nọ, hỏi thăm tới tấp. Tôi khá bỡ ngỡ khi xuất hiện trước mặt họ với hình
thức một người thế tục. Tôi dự tính chỉ cho vài người quanh khu vực
chùa biết, không ngờ người ta đồn với nhau quá nhanh, xóm trên xóm dưới
ùn ùn kéo về. Rồi hai sư cô tụng kinh xuống, nghe Phật tử giới thiệu tôi
thì đến chắp tay chào, yêu cầu tôi trở lại chùa để hướng dẫn họ và
phật-tử tu học. Theo lời một sư cô lớn tuổi thì giáo hội cử họ về đây để
tạm thời thay tôi coi sóc ngôi chùa cho đến khi nào tôi trở lại. Tôi
nói với hai sư cô đồng thời nói chung với đồng bào phật-tử chung quanh:
“Trong hai năm qua, tôi cứ lo lắng không biết ngôi chùa
này sẽ như thế nào khi tôi đi vắng; nay trở về nghe được tiếng chuông
mõ, gặp được hai sư cô, biết được mái chùa vẫn còn đây, tôi thật an
lòng. Tôi thành thật cám ơn quí sư cô đã thay tôi hướng dẫn phật-tử ở
đây trong nhiều tháng qua. Tôi cũng xin thỉnh cầu quí sư cô kể từ hôm
nay, chính thức đảm nhận việc trụ trì ngôi chùa này để tiếp tục giúp đỡ
Phật tử tu học, vì có thể hoàn cảnh hiện nay không cho phép tôi trở lại
đây được nữa. Trong nay mai tôi phải ra Nha Trang để trình diện công an
địa phương tại đó, không biết chừng nào mới gọi là ổn định... Riêng đối
với quí phật-tử ở đây, tôi mong quí vị hết lòng hỗ trợ hai sư cô để xây
dựng, kiến thiết ngôi chùa; và quan trọng nhất là phải siêng năng tu
tập, tụng kinh, lễ Phật mỗi ngày...” Có nhiều tiếng sụt sùi thút thít
trong đám đông khiến tôi phải ngưng một lúc. “Quí vị làm được điều đó
thì dù cách xa đến đâu, hoặc phải chịu một hoàn cảnh nào khó khăn hơn
trước, tôi cũng vui vẻ, yên tâm, biết rằng những hạt giống tốt tôi gieo
trồng nơi đây được chăm bón, phát triển, có thể chịu đựng được những
khắc nghiệt của thời tiết.”
Buổi tối ấy, tôi dùng cơm tại chùa rồi đi thăm một số
gia đình gần chùa nhất. Cuối cùng, tôi ngủ lại đêm ở một cái chòi của
gia đình chú tiểu Hòa—một gia đình rất thân với chùa vì có ba người đi
tu, trong đó hai người là đệ tử của tôi. Tôi không ngủ đêm tại chùa vì
hiện nay các tịnh thất nhỏ dùng làm chỗ nghỉ cho chư tăng đều đã bỏ
hoang nhiều ngày, cỏ gai mọc phủ cả mái; chỉ còn một gian nhà có hai
phòng nhỏ dành cho hai sư cô, tôi không muốn chiếm chỗ của quí sư cô;
phần khác, tôi muốn tránh ngủ đêm tại chùa, vì e rằng có thể công an đến
xét hỏi nửa đêm, làm khó tôi, làm phiền cho chùa. Lúc nãy nói chuyện
với phật-tử tụ họp tại chùa, biết đâu trong số đông đó lại có người của
công an.
Trong xã Bàu Cạn cách chùa hơn một cây số, nhà cửa thưa
thớt, rừng tre gai và cỏ tranh còn đầy. Căn chòi tôi ngủ đêm nằm sâu và
biệt lập trong vùng tre gai ấy. Gia đình chú Hòa phát dọn một lối đi
riêng từ nhà đến chòi. Họ kín đáo đưa tôi đến đó, tránh không cho nhiều
người biết. Sáng sớm hôm sau, khi mặt trời chưa mọc, anh chú Hòa sẽ chở
tôi bằng xe đạp, ra quốc lộ đón xe về Sài Gòn.
Đêm đó không ngủ được, nằm nghe rừng đêm dậy tiếng côn
trùng, lòng tôi chợt nẩy sinh một nỗi nao nức kỳ lạ, giống như có một sự
mời gọi nào đó thúc giục tôi ngồi dậy, ra ngoài. Tôi vén mùng bước khỏi
cái giường tre ọp ẹp, xỏ chân vào xăn-đan, bước đến khung cửa sổ nhìn
ra ngoài trời. Bây giờ là đêm mùng mười tháng chạp âm lịch. Trăng đã lên
sớm rồi lặn sớm. Màn trời đen kịt làm cho muôn sao như sa xuống gần,
càng lúc như rực sáng thêm lên. Mà ánh sao càng rực sáng, tôi càng thấy
nao nao, bấn loạn, bức xúc, như con cá thiếu vi, con chim thiếu cánh,
con mèo thiếu vuốt, con người thiếu tim—hay trái tim bị teo rút không
đập—để rồi quờ quạng, nghiêng đảo, sục tìm, sục kiếm, lăng quăng... Tôi
tìm gì đây? Tôi muốn gì đây? Tôi khát khao gì đây? Ôi, một cái gì trong
tôi đã mất hay một cái gì trong tôi chưa có, khiến tôi thèm nhớ chạy
rông!
Ngay lúc ấy tôi bỗng nghiệm ra rằng, dường như bầu trời
cao rộng trên đầu tôi luôn luôn là bãi đáp hoặc là cho mặt trời, hoặc
là cho mặt trăng, hoặc là cho các vì sao xa; và mỗi phiên lượt của chúng
đều thúc đẩy, khích động để bật dậy trong tôi một cái gì. Tôi từng nghĩ
mặt trời, mặt trăng thúc đẩy sự khởi sinh lý trí và tình cảm, ở dạng
thái quang minh sáng rỡ. Nhưng tôi chưa biết nỗi phấn khích lạ lùng khó
hiểu nào đó mà những vì sao đang đoanh vây tôi thúc gọi và đánh động.
Tôi đứng im ngước nhìn chúng, đẩy cánh cửa tre thưa ra, hồi hộp, xao
động bâng quơ một lúc, rồi băng mình vào đêm rừng ướt sương. Tôi đi thật
nhanh, đi như chạy, không nhắm một hướng nào nhất định. Và trong khi
chân tôi lập xập quàng xiên trên lối cỏ chập chùng sương giăng, tim tôi
cơ hồ bắt nhịp với tiết điệu mơ màng nguyên sơ của vũ trụ. Chân tôi tự
dưng bước chậm lại, chậm lại. Tôi đứng im tại chỗ hay tôi đang bước mà
nghe như đánh nhịp với thanh âm uyển chuyển nhẹ nhàng của tấu khúc đêm
hoang. Tôi múa và vũ trụ quanh tôi cũng múa. Tất cả đều múa, trong một
ẩn điệu êm dịu, nhè nhẹ, như mây, như sương, như cơn mưa lất phất rơi
trên hồ thu quạnh. Muôn sao lập lòe, lấp lóa. Tre gai rung mình, đong
đưa. Cỏ tranh xào xạc, lướt thướt. Đất trời xoay. Đất trời xoay...
Em đến như sương
Mờ ngập con đường xao xác gió khua đêm
Mờ ngập hàng cây lá biếc nghiêng mình
Mờ ngập tim anh nửa đời xô giạt
Mờ giấc mộng đeo đẳng cuốn anh đi
Lối trước mơ hồ, ngõ sau người rượt đuổi
Tuổi xuân lạc bước, chạy mãi đến bao giờ
Đất trời mang mang
Nằm xuống bên nhau quên đời thoáng chốc
Ôi nhớ nụ cười khúc khích rụng muôn sao
Ôm nhau đi, ôm nhau đi
Đất lạnh
Rừng hoang
Lòng người man trá
Ngủ giấc phù hư lây lất đêm này...
Ngày ngày thức dậy nhìn qua cửa
Mờ mịt khung trời khuất bóng trăng sao
Sóng dữ dập dồn, đẩy nhau đi tới
Em đi, anh đi, người người đi
Tan tác muôn phương tay không đưa vẫy
Lời riêng giữ lại, chưa kịp nói yêu nhau
Gác vắng nằm im,
Đưa tiễn âm thầm dáng sương mỏng mảnh
Đêm mịt mùng gió hú ngàn khơi
Ôi giấc mộng huyền, em thay anh chôn vào lòng biển
Và anh chôn em ở tận đáy tim này...
Cúi xuống niềm đau mà tìm quên lãng
Vết cắt chưa lành lại cứa thêm dao
Anh có cha già tựa hiên ngóng đợi
Hay anh mơ, mơ viển mơ vông?
Lụy tình man man vờ quên mất người thiên cổ
Anh nhếch môi cười với nỗi nhớ niềm đau
Nước mắt khô nhanh không kịp khóc người nằm xuống
Bi khúc vô thường anh múa với ngàn sao
Nam phương là đâu?
Mộng huyền là đâu?
Chỉ thấy đêm rừng quay quắt nhớ mắt ai nâu
Anh kiếm phương nam hay tìm giấc mộng hư hão
Mà góc trời này gục xuống với đêm sâu...
Xoay tít nữa đi, đêm không cùng tận
Đưa ta về cuối bãi hoang sơ...
Tôi đứng lại nơi hàng rào phía vườn sau của chùa. Mặc dù
khoảnh vườn sau của chùa—nơi có hai tịnh thất và một thư viện nhỏ của
chùa tôi—đã bị cỏ tranh phủ lấp không còn dấu vết gì của ngày cũ, tôi
vẫn nhận biết ngay bằng cảm giác thân thuộc năm xưa với con đường mòn
ngoằn ngoèo chạy dọc theo chiều dài của chùa, phân chia đất chùa với khu
nghĩa trang lác đác vài ngôi mộ của dân xã Bàu Cạn. Hóa ra trong điệu
vũ điên cuồng với sao đêm, bước chân tôi đã theo cái nghiệp thức ẩn tàng
nào đó mà đưa tôi đến đây lúc nào không hay. Tôi đứng im một lúc để
định hướng rồi đạp lên cỏ, vạch đường tiến sâu vào. Đây là thư viện, mái
tranh bị gió thổi tốc đi gần một nửa, để trơ trống ở trên một khoảnh
trời nhỏ lấm tấm sao. Nền vách thư viện được xây bằng gạch đúc (đất
sét), nên qua nhiều mưa nắng hãy còn giữ lại bậc thềm cao và bốn vách
thẳng đứng, vững chắc. Khung cửa chính và hai khung cửa sổ bằng gỗ với
chấn song sắt đã bị ai tháo gỡ làm trống mất một phần vách ở mặt tiền.
Tôi ngồi nơi bậc thềm ấy khá lâu, lặng nhìn vẻ tàn tạ của khung cảnh
chung quanh. Năm xưa chúng tôi tụ tập ở đây khoảng mười tăng sĩ trẻ và
mấy chú tiểu. Bây giờ mỗi người mỗi ngả. Cả một khu đất rộng với nhiều
loại cây ăn trái vây quanh hai tịnh thất và một thư viện, bây giờ là
đồng cỏ hoang. Các sư cô hiện ở chùa đã già yếu, không đủ sức khai phá
dọn dẹp. Tôi thở dài đứng dậy, men theo khoảng cỏ thưa đến tịnh thất của
tôi, nằm phía bên phải của thư viện. Căn tịnh thất hoàn toàn sụp đổ.
Chỉ thấy một đống lùm xùm không còn hình dạng một căn nhà, mà như một
đống rơm, một núi rác, mái tranh ôm vách đất, cỏ lau chen tre rừng. Tôi
chợt bật cười khan một mình. Dường như đến tận phút này tôi mới nhận
biết rằng đời tôi chưa làm được một cái gì nên chuyện. Tất cả những gì
tôi mơ ước, toan tính, thực hiện, hình thành, xây dựng... đều dở dang,
thất bại, tiêu tán, chìm khuất. Ngay cả cái chuyện rất nhỏ là cất ngôi
thảo am xiêu vẹo ở chốn hoang dã quê mùa này mà cũng không thành, không
giữ được thì nói chi đến đại sự khác như... như đại sự gì nhỉ? Không có
đại sự gì cả. Đời tôi chưa có đại sự. Bởi chính cái đại sự xuất gia,
thoát ly sinh tử để vói đến một phương trời cao rộng, là con đường cao
đẹp mà tôi đã dốc mười lăm năm tuổi trẻ tôi vào đó, cuối cùng cũng gián
đoạn, bỏ ngang, thì không còn có một thứ gì khác trong đời tôi đáng để
gọi là đại sự nữa! Tôi không ngờ tôi lại có mặt trên đời một cách vô
tích sự như thế.
May ra thì hãy còn một thành tựu, một thứ hiện hữu không
do tôi dựng nên, đã có mặt nơi đây trước khi tôi đến, và sẽ tồn tại sau
khi tôi đi, bởi nó không do sức tôi tạo nên, không do ý tôi mà thành:
cây tràm. Nó là cây tràm khô phía sau căn tịnh thất này, sâu về hướng bờ
ruộng khoảng năm trăm thước. Nó to lớn, đứng sừng sững nơi bìa rừng như
một hung thần dị dạng từ nhiều năm, không ai dám đưa tay đụng đến hoặc
nẩy sinh ý nghĩ đốn hạ. Chỉ có nó là kiên gan đứng mãi, ngoài cuộc dâu
bể tang thương này. Tôi ôm niềm tin đó, háo hức đạp bừa lên cỏ tranh,
chạy đến hướng ruộng. Cây tràm khô. Cây tràm khô. Tôi vừa chạy vừa lẩm
bẩm. Nhưng vượt khỏi đám cỏ cao ngút đầu, chạm mặt với đồng trống rồi,
tôi không thấy cây tràm đâu nữa. Cây tràm đã biến mất. Người ta đã đốn
ngã và dọn sạch nó, không còn một dấu vết nào. Tôi hụt hẫng, loạng
choạng ngồi phịch xuống một gò đất nhỏ gần đó. Đầu óc tôi ngay tức khắc
trống rỗng không còn một tì vết nào của niềm tin, hy vọng, ý niệm, cảm
thức, hồi ức, tri kiến... và ngay cả những cơ cấu kinh nghiệm làm nền
tảng cho sự phát sinh những thứ ấy. Tất cả đều tan biến và tôi ngồi đây
mà lọt thỏm vào hư không như kẻ ở trong trạng thái “huyền nhai tán thủ” (vách núi buông tay) hay “bách xích can đầu tu tiến bộ” (đầu sào trăm trượng bước thêm bước nữa).
Tôi ngồi lặng một mình ở cái gò đó cho đến khi gà trong
xóm gáy mới lững thững quay trở về căn chòi, rửa ráy, rồi trở lại Sài
Gòn.
a
Tôi bấm chuông rồi đứng đợi. Phương chồm người ra ở lan
can trên lầu để nhìn xuống, thấy tôi, nàng mau mắn chạy xuống mở cửa.
Tôi bước vào, lẳng lặng ngồi nơi xa-lông phòng khách. Nàng khóa cửa rồi
quay lại hỏi dồn:
“Sao anh, gặp lại mọi người có vui không? Ô, có chuyện
gì hả? Sao mặt anh buồn vậy?” nàng vừa nói vừa bước đến, ngồi sát bên
tôi, vẻ mặt quan tâm lo lắng.
“Cũng bình thường, không có gì quan trọng,” tôi lạnh nhạt nói.
“Có phải chùa anh... đã bị nhà nước dẹp?” Phương e dè hỏi.
“Không, đã nói không có gì mà. Hiện có hai sư cô đang ở đó trông coi.”
“Vậy tốt quá rồi, sao anh lại buồn?”
Tôi xua cả hai tay, lắc đầu nói:
“Không có gì, không có gì đâu. Anh muốn nằm một lúc.”
“Vậy anh lên lầu há?” nàng đứng dậy.
“Không, anh nằm dài ở đây, một chút thôi, được không? Em có chuẩn bị tiếp khách gì không?”
“Không, anh nằm đây cũng được, không sao, để em đi lấy gối cho anh.”
Nàng chạy lên lầu. Tôi nằm xuống, mở mắt nhìn trừng
trừng lên trần nhà. Vừa khi nàng định nâng đầu tôi để đưa cái gối vào,
tôi cầm lấy tay nàng, nói:
“Nam Phương, xin lỗi em nghe... về chuyện đi Nha Trang. Em đừng đi theo anh nhé, được không? Anh muốn đi một mình.”
Nàng chưng hửng nghiêm mặt ngó tôi một lúc, rụt tay lại:
“Sao vậy?”
“Không hiểu sao, nhưng anh linh cảm là chuyến đi này
không vui vẻ gì đâu. Em đừng đi chung với anh. Mình còn gặp nhau dịp
khác mà, phải không?”
Phương ngồi xuống ở chiếc ghế nệm đối diện, nói:
“Hình như anh thích hứa suông, thích bội ước, thích hủy
bỏ những cái hẹn cái thề... Không sao. Anh không thích có em đi chung
thì thôi, em đi riêng chuyện em như xưa nay, có gì đâu.”
“Đừng nói vậy. Anh... thực ra, anh cũng chẳng hiểu sao
nữa. Anh chỉ thấy là anh muốn đi một mình. Có lẽ một ngày nào đó, em sẽ
hiểu vì sao.”
“Thôi, anh không cần giải thích nữa. Em không giận đâu.
Anh nằm nghỉ đi, rồi chiều nay em chở anh đi phố, mua sắm một ít áo
quần hay đồ đạc gì cho anh trước khi lên đường.”
“Đâu có cần...” tôi nhỏm dậy nói.
“Xuỵt, nằm ngủ đi, đừng nói nữa,” nàng đưa một ngón tay
lên chận ở môi, nói vậy. Y như một bà mẹ trẻ. Tôi ngoan ngoãn nằm xuống
trở lại, nhắm mắt.
Nhưng nàng vừa quay đi một đoạn ngắn thì tôi đã ngồi bật dậy, gọi nàng lại:
“Phương à, anh phải đi bây giờ.”
“Cái gì? Bây giờ à! Tâm anh sao lại bất an vậy kìa! Làm
như ngồi trên lửa bỏng! Có chuyện gì thì cũng giải quyết từ từ, gì mà
vội vàng hấp tấp quá!”
“Anh vừa nghĩ ra một cách: khỏi cần đi Nha Trang!”
Phương lẳng lặng quay trở lại, ngồi vào xa-lông, chờ đợi tôi giải thích. Tôi phấn khởi nói:
“Anh không cần biết anh được tạm tha là do ban quản trại
xét danh sách tù nhân bệnh nan y rồi tự động thả hay là do cam kết của
ba anh trong đơn bảo lãnh mà anh dặn ông làm. Nếu anh về Nha Trang rồi
đi trình diện chính quyền địa phương, tất nhiên gia đình anh phải chịu
trách nhiệm về mọi hành tung của anh trong thời gian sống với gia đình;
còn như anh không về Nha Trang thì gia đình đâu chịu trách nhiệm! Phải
không? Anh đã xa gia đình từ nhỏ, không có tên trong hộ khẩu của gia
đình, chính quyền Nha Trang làm sao biết được là anh bị bắt rồi được
trại giam K4 thả ra! Còn công an ở Long Thành, nơi mà anh có hộ khẩu
chính thức, chính họ cũng không biết anh được trại giam K4 thả ra; vậy
thì làm sao họ kiểm soát anh! Chưa hết, trại giam K4 họ chỉ cấp lệnh tha
bắt buộc anh về Nha Trang, chứ có phải là cho xe đưa anh về tận Nha
Trang để giao cho công an ngoài đó quản thúc tại gia đâu. Như vậy, họ
làm sao biết được là anh có về Nha Trang hay không! Đoạn đường từ Long
Khánh về Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn ra Nha Trang, biết bao nhiêu là trạm
công an, biết bao nhiêu là bất trắc nguy hiểm gì đó xảy ra... biết đâu
anh bị công an ở địa phương nào bắt, bị cướp giết hay bị tai nạn xe cộ
gì đó. Vậy là có thể xóa tên anh trên cuộc đời được rồi.”
Phương gật đầu, tỏ vẻ đồng ý cách giải thích của tôi,
nhưng hình như nàng chưa hiểu hết, hoặc là nàng đang băn khoăn suy nghĩ
một điều gì khác.
“Em hiểu không?”
“Hiểu chứ.”
“Vậy làm sao em có vẻ... ngơ ra?”
“Em đang nghĩ những gì phải làm khi anh quyết định không ra Nha Trang trình diện.”
“Thôi, em không cần phải lo. Vả lại, chuyện đó em không lo được đâu.”
“Chuyện gì mà không lo được?”
“Ơ... để anh nói em nghe sau, bây giờ anh phải đi gặp Tửu cái đã,” tôi dợm chân tính đi.
Phương chận lại, nói:
“Khang à, làm gì thì làm, anh cũng tìm cách báo cho gia
đình anh biết để yên tâm. Ít nhất phải có một vài người nào đó ruột thịt
của anh, thấy anh, gặp mặt anh, bằng xương bằng thịt, chứ cái điện tín
em đánh đi hôm qua không chắc là sẽ làm ba anh tin đâu.”
Tôi gục gặc đồng ý và cám ơn nàng. Phương không thắc mắc
hỏi thêm chuyện gì nữa, có lẽ nàng biết là chẳng thay đổi gì được tôi.
Phương lấy xe gắn máy đưa tôi lái, nàng ngồi phía sau, ngồi một bên kiểu
phái nữ (kiểu này theo nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa thì đàn ông
cũng nên bắt chước!), tay phải vịn thành yên, tay trái níu nhẹ trên vai
tôi. Lâu quá mới cầm lái trở lại, tôi hơi loạng choạng lúc mới rời khỏi
nhà một đoạn. Ra khỏi đó rồi, tôi mới quen. Tôi không nhớ nàng đã buông
tay khỏi yên xe và ôm vòng ngang ngực tôi vào lúc nào. Đầu nàng hơi tựa
vào vai tôi và thỉnh thoảng áp sát ngực nàng vào lưng tôi, nóng lừng.
Đến đầu hẻm, tôi trao tay lái cho Phương lái về. Phương đưa tôi một chìa khóa, dặn:
“Em cóp–pi một chìa khóa cho anh nè, anh giữ để lỡ không
có em ở nhà thì cũng vào được để nghỉ ngơi, hoặc nhằm khi chỗ nhà anh
Cường không được an ninh. Nhớ đừng đi lại nhiều không tốt nghe anh.
Quyết định ra sao thì cho em biết, để em góp ý hay biết đâu em giúp được
anh chút gì đó. Thôi, em về.”
Tôi bước vào nhà. Tửu thấy tôi thì mừng lắm:
“Trời, Khang đi đâu mất biệt làm cho ai cũng lo! Có Như
Tâm đến đây hôm qua, ở lại ăn hai bữa cơm tại đây, ngồi chờ Khang suốt
ngày. Tôi thì đạp xe chạy lòng vòng mấy công viên hay mấy quán cà phê
vỉa hè, coi thử có Khang ngồi đâu đó không. Nhưng Sài Gòn mênh mông biết
Khang đâu mà gặp!”
“Tôi đi Long Thành thăm chùa Long Quang. Này Tửu à, tôi quên hỏi là lâu nay Thiện Chí có liên lạc với anh không?”
“Thiện Chí hả? Không. Mà chi vậy?”
“Thiện Chí có hứa với tôi là sẽ xuống Châu Đốc dò tìm
đường vào chiến khu Bảy Núi của lực lượng Hòa Hảo. Tôi muốn gặp anh
ấy... xem thử kết quả ra sao.”
“Khang vẫn còn giữ ý định đó à?”
“Không còn cách nào khác.”
“Vậy... vậy phải gặp Thiện Chí ở đâu?”
“Đến chùa Giác Sanh hỏi.”
Tửu chở tôi đi ngay buổi chiều hôm ấy. Ở chùa Giác Sanh,
người ta nói Thiện Chí không còn ở đó nữa mà cũng không biết rõ anh
hiện ở đâu, chỉ cho chúng tôi địa chỉ gia đình của anh ở gần chợ Tân An,
Long An, bảo đến đó hỏi thì tất biết.
Sáng sớm hôm sau, tôi và Tửu đón xe đò rời Sài Gòn,
xuống chợ Tân An, đến nhà Thiện Chí. Cô em gái của Thiện Chí cho biết
Thiện Chí hiện đang sống tạm trong nhà. Chúng tôi ngồi ở phòng khách chờ
cô lên lầu gọi Thiện Chí.
Thiện Chí gặp tôi, vui mừng vô kể, thăm hỏi rối rít.
Khi cơn vui dịu xuống rồi, anh cũng như những người bạn của tôi trước
đó, hỏi một câu giống nhau:
“Vậy trong những ngày sắp tới, Khang tính sao?”
“Tôi đến đây, vừa để thăm anh, vừa muốn hỏi xem chuyện Châu Đốc ra sao,” tôi nói ngay không úp mở.
Thiện Chí nói với giọng ái ngại:
“Từ sau ngày ra tù một hai tháng, tôi đã xuống Long
Xuyên mua lại một miếng đất rẫy, trồng bậy bạ rau đậu để dò la tin tức
nhưng không bắt được đường dây nào với lực lượng Hòa Hảo. Một vài người
thân tín ở vùng Bảy Núi cho rằng không làm gì có chuyện một lực lượng võ
trang Hòa Hảo còn tồn tại... Dường như cánh võ trang Bảo An đoàn đã rút
qua biên giới, trà trộn với dân, sống ở Cao Miên hay Thái Lan. Nhưng
này, Khang à, ở dưới đó có một bà phật-tử rất tiếng tăm, giàu có, chồng
con chết hết, chỉ còn bà ở lại chăm sóc mồ mả ông bà tổ tiên... Khang
biết không, bà ấy cũng có lòng với đất nước lắm. Nghe tôi kể chuyện của
Khang, bà cảm động, dặn tôi rằng khi nào Khang về được, tìm cách đưa
Khang xuống gặp bà. Bà nói, bao nhiêu tài sản còn lại của bà xin hiến
hết cho Khang làm cách mạng, làm lại từ đầu, không cần kết hợp với lực
lượng nào khác. Thực đó. Để rải rải tôi sắp xếp vài công chuyện ở đây
rồi đưa Khang đi xuống đó, nghe?”
Nghe Thiện Chí nói không có đường rút, tôi đã không còn
hứng thú gì để hỏi thêm. Chuyện một bà mạnh thường quân nào đó kể ra
cũng là một tia hy vọng cho một chí sĩ cách mạng đấy. Nhưng làm lại từ
đầu ư? — Cũng được. Tôi chưa mỏi mệt, chưa muốn bỏ cuộc. Nhưng ngay lúc
này thì chưa được. Bây giờ là lúc cần một chỗ ẩn thân, không phải lúc
toan tính, tổ chức này nọ... Toan tính gì đây, tổ chức gì đây với một
cái đầu trống rỗng như tôi bây giờ! Có một luồng gió dữ đang ùa tới,
chồm tới phía sau, tôi phải gấp rút ẩn thân. Tôi đang cần một chỗ ẩn
thân an toàn mà chỗ ấy không thể là những gia cư có hộ khẩu chính thức
của chế độ. Nó phải là một vùng đất, một thổ ngơi biên địa nào đó, nằm
ngoài vòng pháp luật.
Tôi từ giã Thiện Chí. Thiện Chí tiễn ra cửa, hỏi lại:
“Về chuyện bà phật-tử dưới Long Xuyên... Khang tính sao?”
“Cám ơn anh, và cám ơn tấm lòng của bà ấy... Chuyện đó hãy để nhân duyên đưa đẩy đi há.”
Trở về Sài Gòn, tôi tiếp khá nhiều bạn bè lần lượt đến
thăm. Họ đến thăm rồi vội vã cáo từ, không người nào ngồi lâu. Dường như
ai cũng sợ lây vạ vào thân, như thể tôi là một tên phung cùi ghẻ lở.
Tôi không trách họ. Đối với tôi, đó chỉ là chuyện nhỏ. Tôi đang tính
chuyện khác. Tôi bàn với Tửu chuyện đi Đà Lạt để thăm dò đường dây của
lực lượng FULRO (viết tắt từ danh xưng tiếng Pháp của một lực lượng
chính trị có võ trang của dân tộc thiểu số ở cao nguyên, có chủ trương
tách rời cao nguyên trung phần Việt Nam thành một nước tự trị ở trung
tâm Đông Dương; tôi chưa tìm hiểu kỹ về họ, chỉ nhớ mang máng có đọc đâu
đó rằng họ được chính phủ Pháp đỡ đầu trước đây nhằm tạo một trái độn
giữa ba nước Việt – Miên – Lào để dễ dàng kiểm soát các nước này hơn).
Xét cho cùng thì chủ trương của lực lượng này không phải là điều mong
đợi của tôi, nhưng ít ra họ cũng là thành phần đối lập với chính quyền
cộng sản. Lúc ở trại giam B5 Biên Hòa, tôi nghe vài người sống ở vùng
cao nguyên kể rằng lực lượng FULRO đã từng đụng độ nhiều trận với quân
đội chính qui Việt Nam ở ven biên giới Lào–Việt và ngay cả ở một vài thị
trấn giáp rừng già cao nguyên. Họ có chiến khu trong rừng già và thường
cho người về thành để móc nối, mộ quân, quyên góp lương thực. Nhiều
người Việt vùng cao nguyên đã hết lòng hỗ trợ họ vật chất, có gia đình
cho con trai đi theo họ thay vì cho đi bộ đội của chính phủ cộng sản
Việt Nam. Tôi chỉ cần được họ chấp nhận để ẩn thân tạm thời một thời
gian...
Tửu bây giờ mặc nhiên trở thành anh thủ quỹ riêng của
tôi: ai đến thăm hay biếu xén tiền bạc quà cáp gì cho tôi cũng qua sự
sắp xếp và đón nhận của Tửu. Chuyện tôi đi Đà Lạt, Tửu không ngăn cản,
cũng không đi cùng. Anh gom tiền của nhiều người biếu riêng cho tôi,
chuẩn bị chút ít hành trang gì đó cho tôi lên đường. Trước tiên là đi
mua tạm cho tôi một chiếc xe đạp cũ; có xe rồi, Tửu dẫn đường tôi đi may
hai bộ đồ tây, lại mua một đồ lính để mặc cho ấm và biết đâu có thể cần
khi bắt được đường dây với lực lượng FULRO (!).
Tửu cũng đến nhà các chị tôi, gọi chị Thuần ra quán
cà-phê gặp tôi (lúc đó, tôi tránh không đến nhà bất cứ người thân nào
trong gia đình để gia đình không chịu trách nhiệm về chuyện tôi bỏ đi,
không trình diện chính quyền). Các chị của tôi đã từ Nha Trang về lại
Sài Gòn sau khi lo xong đám tang ba tôi. Chị tôi kể rằng ba tôi bị cao
áp huyết, té nặng, chở vào bệnh viện nằm một vài ngày rồi mất trên
giường bệnh. Miệng ông vẫn còn mỉm cười khi vào áo quan. Tôi được kể sơ
với giọng mếu máo của người chị.
Chị tôi đưa một miếng vải đen nhỏ cho tôi đeo trước ngực
áo. Tôi từ biệt chị và nhờ chị nhắn lại với cả gia đình tôi, nhất là mẹ
tôi, để cả nhà yên tâm là tôi đã được về.
Thấy tôi đeo tang ở ngực áo, bạn bè nào đến gặp cũng đều
ngỏ lời chia buồn rồi nhìn tôi, ái ngại. Họ không ngờ rằng tôi đã biết
chuyện từ nhiều ngày trước mà không nói với họ.
Chuyện ba tôi mất bây giờ trở thành một thứ dĩ vãng đã
được tôi chôn thật nhanh rồi khỏa lấp vội vàng. Tôi chỉ còn miếng vải
đen nhỏ u ám gắn nơi ngực áo như là một cách biểu lộ khiêm tốn cái hiếu
cảm của tôi dành cho ông. Nhưng khi đạp xe tới nhà Nam Phương, tự dưng
tôi tháo bỏ miếng băng tang bỏ vào túi áo. Tôi không hiểu động lực nào
xúi tôi làm vậy. Trước đây tôi không hề muốn chia sẻ cái tang của tôi
cho cho các bạn bè khác nhưng đã sắp sửa chia sẻ với Nam Phương; còn bây
giờ các bạn bè khác của tôi đều đã biết thì tôi lại thấy chưa sẵn sàng
để bộc lộ với nàng. Dường như ở nơi Phương có một cái gì đó thầm kín,
khó hiểu, cho tôi cảm giác là đại tang của tôi chẳng quan trọng gì lắm.
Có thể từ cách suy nghĩ hay từ cách sống lặng lẽ độc lập của nàng nơi
căn nhà đó.
Tôi nói tôi sắp đi Đà Lạt. Nam Phương buồn bã, hỏi:
“Anh muốn đi một mình hở?”
“Ừ, đi một mình.”
“Lỡ chuyện gì xảy ra cho anh, ai mà biết được?”
“Có biết cũng làm gì được đâu.”
“Anh này thiệt tình đó, bộ anh tưởng rằng chuyện của
anh không can dự đến ai hở? Anh không biết rằng... em lo sợ, em quan tâm
đến anh lắm hay sao!”
Nàng khóc. Tôi dỗ. Rồi cuối cùng nàng cũng bằng lòng để tôi đi một mình.
“Em cũng sẽ đi vắng trong thời gian anh đi Đà Lạt. Em đi
thăm nuôi ba em. Vậy mình sẽ gặp lại vào dịp Tết nha. Anh nhớ về sớm,
ăn Tết với em, chở em đi hành hương các chùa. Được không? Đừng có hứa
lèo nhé.”
Nàng gom nhiều thứ linh tinh như thuốc cảm, thuốc ho,
dầu gió... vào một cái túi nhỏ, đưa tôi, dặn dò đủ thứ về chuyện giữ sức
khỏe. Rồi chúng tôi chia tay.
Lần đầu lên cao nguyên, tôi thích thú nhìn ngắm những
đồi thông trùng trùng điệp điệp nhoai lên trên những thảm cỏ xanh trải
dài cơ hồ bất tận. Trước mắt tôi là một thành phố màu xanh. Cái màu đó
hiếm khi thấy được trên những đường phố tấp nập xe cộ của Sài Gòn. Nhưng
mối bận tâm của tôi không cho tôi thưởng thức trọn vẹn thắng cảnh Đà
Lạt. Tôi xin ở lại chùa Linh Sơn vì ở đó có vài người bạn tu quen biết.
Từ đây, mỗi ngày tôi tìm đến một số người bạn khác do các bạn bè ở Sài
Gòn giới thiệu. Người ta bảo tôi chờ đợi, để giới thiệu với người này,
người kia. Mà rồi chờ hoài, chờ hoài, vẫn chưa có dấu hiệu gì là có thể
bắt được manh mối với FULRO. Đôi khi buồn quá, tôi lang thang một mình
trên vài đường phố lạ ở gần chùa Linh Sơn nhất. Thường thì ngồi ở một
quán cà phê nhỏ trên đồi, ngó xuống thác Cam Ly. Ban ngày lơ thơ lẩn
thẩn ngoài phố, ban đêm về gác tay nằm nghĩ chuyện tương lai. Cái tương
lai mù mịt không có một liên hệ manh mối nào với hiện tại. Cuối cùng,
những gì tôi mong đợi tìm kiếm ở thành phố cao nguyên này đều được trả
lời bằng con số không. Không có gì hết. Chuyện FULRO là chuyện quá khứ
lâu đời rồi. Họ đã bị tan vỡ, bị bộ đội cộng sản càn quét đánh dẹp hết
rồi. Một người bạn mới quen cho biết như vậy và khuyên tôi nên trở về
Sài Gòn, đừng nấn ná lâu tại Đà Lạt vì Sài Gòn dù sao hãy còn là thành
phố đông dân, phức tạp, có thể tạm an ổn trong một thời gian bất hợp
pháp. Giấy tạm tha của tôi, theo họ đề nghị, là nên cất luôn đừng đem ra
xài nữa, vì đưa ra cho công an sẽ bị bắt ngay. Lệnh tha buộc tôi về Nha
Trang trình diện trong vòng tuần lễ đầu, tôi không đi Nha Trang có
nghĩa là chống lệnh, chống lệnh tức là đã có âm mưu, có tội rồi. Người
ta giúp tôi có giấy đi đường bằng cách đưa tôi ra đồn công an, khai báo
là từ Sài Gòn lên Đà Lạt chơi bị kẻ gian đánh cắp mất hết giấy tờ và
tiền bạc. Công an hỏi tên, tôi khai tên và địa chỉ giả. Họ cấp cho tôi
một tờ giấy chứng nhận để đi đường và dặn là về Sài Gòn phải khai báo
ngay cho công an Sài Gòn để làm lại giấy tờ khác chứ tờ giấy họ cấp chỉ
có giá trị trong vòng một tháng. Lúc từ Sài Gòn lên, tôi đón xe cơ quan
nhà nước nên không đưa giấy tờ ra. Bây giờ, những người bạn ở Đà Lạt nói
chuyện đón xe cơ quan nhà nước hầu như không có ở đây vì đã có lệnh cấm
rất ngặt.
Tôi về Sài Gòn bình an. Bấy giờ đã cận Tết Đinh Mão.
Tửu cho biết có Tâm Hải từ Nha Trang vào Sài Gòn tìm tôi. Tâm Hải là
đoàn phó đặc trách nội vụ (trong khi Tửu đoàn phó đặc trách ngoại vụ)
của Đoàn Phật Tử Phụng Đạo do tôi thành lập năm 1982. Tôi đạp xe đi gặp
Tâm Hải. Chúng tôi nói chuyện với nhau khá lâu và cùng đi ăn cơm chay
ngoài tiệm. Buổi tối, Tâm Hải theo tôi đến chỗ anh Cường, ngủ lại đêm
với tôi và Tửu ở đó. Chúng tôi trò chuyện suốt đêm. Buổi khuya, Tửu đi
tụng kinh ở bàn thờ Phật của nhà anh Cường, Tâm Hải cũng hỏi tôi câu hỏi
mà mọi người trước đó đều hỏi:
“Vậy rồi Khang tính sao đây trước khi hết hạn tạm tha?”
“Nếu không còn đường nào, có lẽ mình lại phải vào tù chứ biết sao bây giờ.”
“Sao Khang không đi vượt biên?”
“Vượt biên à? Tôi không còn tin tưởng ở chuyện vượt
biên nữa. Hình như tôi có một thứ nghiệp dĩ oan khiên nào đó níu kéo tôi
ở lại với đất này. Chưa xóa cái oan khiên đó thì chưa dứt áo đi được.”
“Nhưng Khang phải đi, nơi này không còn đất sống cho Khang nữa đâu.”
“Sao lại không còn? Cho dù ở tù thêm hai mươi năm nữa, tôi vẫn cứ sống nhăn như thường thôi.”
“Dĩ nhiên là sống được chứ chẳng phải không, nhưng bởi
vì... bởi vì... đối với tôi, nếu tôi ở vào trường hợp của Khang, tôi sẽ
từ biệt tất cả mọi người để lên đường, không nấn ná ở lại một chút nào
nữa. Khang có biết người ta nói sao không?”
“Ố, lại là chuyện tôi vào tù khai báo huỵch toẹt cho
công an khiến cho bạn bè bị bắt và chạy tứ tán chứ gì! Chuyện đó tôi
biết rồi, chẳng nhằm vào đâu cả. Tôi không đau khổ vì nó đâu, cũng chẳng
cần giải thích đâu.”
“Không phải chuyện đó, còn chuyện khác nữa. Nhưng thôi,
không cần phải nói với Khang làm gì lúc này. Để khi nào Khang đi được
ra nước ngoài rồi tôi viết thư kể Khang nghe.”
“Tôi không đi nước ngoài đâu. Anh cứ kể đi.”
“Tôi sợ Khang... Thôi được, để tôi nói. Như vầy: một số
bạn bè, trong đó có cả những bạn bè rất thân với Khang, đã xì xầm nói
với nhau rằng... tội Khang làm rất nặng đối với nhà nước, Khang sẽ bị án
rất nặng, đáng lẽ bị tù chung thân hay ít nhất là hai mươi năm, vậy mà
Khang về sớm quá... chắc là công an thả Khang ra với điều kiện nào đó,
chẳng hạn giao Khang làm đặc tình, xâm nhập vào giáo hội để chỉ điểm báo
cáo giống như Hân đã làm trước đây vậy.”
Tôi hơi khựng một chút rồi bật cười lên một tràng, rồi tiếp tục cười như điên như dại. Tâm Hải ái ngại, cầm tay tôi, nói:
“Nhưng tôi nói thật, Khang ơi, nghe tôi nói này. Đối với
tôi, tôi luôn nhìn Khang như một con phượng hoàng đang sống giữa bầy
gà, hay như một viên ngọc nằm lẩn trong đá sỏi... Dù ở hoàn cảnh nào,
Khang cũng sẽ không bao giờ mất đi bản chất của Khang cả. Khang luôn
luôn là như vậy. Tôi nói chuyện đồn đãi bậy bạ đó không phải để Khang
quan tâm rồi buồn khổ. Tôi chỉ tức thay cho Khang, không muốn chứng kiến
cảnh Khang phải sống chung cái bầu trời nhỏ này với những người đã
khinh thị Khang đến mức đó. Cho nên tôi mới đề nghị là Khang nên lên
đường. Chỉ hành động lên đường vượt biển của Khang mới chứng minh được,
mới giải tỏa được mối oan đó mà thôi.”
“Không, tôi sẽ không chứng minh gì với ai nữa. Tôi sống
cuộc đời của tôi. Tôi có giấc mộng của riêng tôi, tôi cũng có nỗi khổ
đau sâu kín của tôi để chứng minh cho chính sự hiện hữu của tôi, chứ
không cần chứng minh sự trong sạch hay bất cứ tính chất cao đẹp nào đó
mà mọi người mong đợi, đòi hỏi. Tôi không có bổn phận phải chứng minh
bất cứ một cái gì của tôi cho mọi người.”
Nói cứng với Tâm Hải như vậy, nhưng vừa chia tay với anh
rồi, tim tôi như nghẽn cứng, không chịu đập. Tôi lấy xe đạp tới nhà Nam
Phương một cách không suy nghĩ. Xa nàng đã mười hai ngày, tôi thấy nhớ
và thấy cần phải gặp nàng, muốn gặp nàng vô cùng, nhất là trong lúc này.
CHƯƠNG HAI MƯƠI BẢY
Tôi lấy chìa khóa mà Phương đưa trước đây, run rẩy tra
vào ổ, vặn ba vòng. Đẩy nhẹ cánh cửa sắt, tôi dắt xe đạp bước vào thì
thấy một sư cô từ dưới nhà bếp bước vội lên. Sư cô này quen thuộc lắm,
chắc là tôi đã có gặp qua.
“A, thầy Khang, phải không?” sư cô hỏi.
“Dạ, tôi… tôi là Khang. Sư cô là…?”
“Tôi là Như Liên, gặp thầy ở chùa Hoa Nghiêm lần trước thầy không nhớ à? Tôi là sư tỉ, mà cũng là bạn thân của Nam Phương.”
“A, nhớ rồi. Hôm ấy tôi đến tìm sư cô Như Tâm, cô đã đi gọi giúp. Hôm nay cô đến chơi hả? Có Nam Phương ở nhà không vậy?”
“Nam Phương đi bỏ thuốc tây, chắc cũng phải chiều mới về
tới. Phương nhờ tôi xuống gói dùm bánh tét chay cho cô ấy. Không sao,
thầy cứ tự nhiên vào nghỉ ngơi chờ Phương về. Để tôi lấy nước thầy dùng
nhé? Thầy ngồi đi.”
Tôi chưa kịp nói gì thì Như Liên đã vội xuống bếp. Một
lúc cô trở ra với ly nước đá mát lạnh đặt trên cái đĩa nhỏ, đem đến cho
tôi, nói:
“Nam Phương quý thầy lắm. Đừng phụ lòng người ta đó nghe. Nghe nói thầy hay chọc cô ấy giận lắm hả?”
“Bộ chuyện gì… cô ấy cũng kể cô nghe sao?”
“Đâu có. Nam Phương nó sống đời bí mật, thầm kín lắm, có tâm sự gì thì cũng tùy chuyện thôi chứ. Ủa, thầy đeo tang ai vậy?”
“Ơ… tang cha,” tôi nhìn xuống mảnh vải tang, đáp.
“Sao Nam Phương không nói tôi nghe gì chuyện này hết vậy kìa! Chia buồn với thầy nghe. Ông cụ mất bao lâu rồi?”
“Cũng được hai mươi ngày rồi.”
“Vậy thì cũng mới đây thôi mà.”
“Vâng, mới đây.”
“Nam Phương biết ba thầy mất chứ?”
“Ơ… chắc là chưa.”
“Vậy có nghĩa là thầy cũng mới biết tin ông cụ mất thôi?”
“Không, tôi biết lâu rồi chứ.”
“Thế sao thầy không nói Nam Phương nghe?”
“Ơ… tại sao phải nói? Sinh tử là chuyện thường, có gì phải nói… Còn nhiều chuyện khác đáng nói hơn…”
“Thiệt đúng là hai người giống nhau như đúc!”
“Cái gì mà giống nhau?” tôi cười hỏi lại.
“Thì thầy với Nam Phương giống nhau chứ sao! Tánh tình
gì mà kỳ cục! Có đau có khổ gì thì nói cho nhau nghe, cứ nhận nó là sự
thực, chứ làm gì phải ôm mãi trong lòng cho nó dằn vặt, xâu xé mình!”
“Tôi không hiểu.”
“Vậy tôi hỏi thực thầy, Nam Phương có nói với thầy là ba cô ấy mất không?”
“Cái gì? Ba cô ấy mất rồi à! Mới đây hả?”
“Không, đã hơn ba tháng rồi.”
“Chứ không phải cô ấy vừa mới đi thăm nuôi sao!”
“Thăm nuôi gì mà thăm nuôi! Nam Phương chỉ đón xe chạy
tới chạy lui, chạy thật xa, để khuây khỏa đó mà. Thiệt là khổ cho em
tôi! Ngay cả chuyện lập bàn thờ ở nhà nó cũng không chịu làm nữa, cứ nói
là không cần, có khi lại nói là ba chưa chết… Tôi phải dỗ dành năn nỉ
lắm nó mới chịu lên chùa Hoa Nghiêm làm lễ cầu siêu ký linh, thờ ba ở
chùa.”
Tôi bàng hoàng nghe Như Liên kể lại chuyện ấy. Ôi, Nam
Phương của tôi đau khổ tội nghiệp như vậy sao! Thế mà bao nhiêu ngày
trước đây, tôi cứ đến để tâm sự, để nói chuyện của tôi, để được nàng an
ủi, chăm sóc, mà không cần biết gì đến nỗi khổ riêng của nàng cả. Ngay
hôm nay cũng vậy, tôi đến là để được nàng lắng nghe nỗi hàm oan đau khổ
mà tôi phải gánh. Tôi cứng rắn nói lời ngạo nghễ thách thức với bạn bè,
với cuộc đời, nhưng rồi tôi cũng muốn tìm đến nàng, bộc bạch với nàng,
trút đau khổ của tôi cho nàng nghe để lòng được khuây khỏa, an ổn. Tôi
chưa hề quan tâm thực sự đến tâm cảnh của nàng. Tôi luôn thấy tôi là cái
gì quan trọng, là nạn nhân đau khổ nhất cần được vỗ về an ủi! Tôi thật
hèn kém, ti tiện, khốn nạn, ích kỷ làm sao! Tại sao tôi không thấy,
không đoán, không biết được điều đó nhỉ? Thảo nào đôi mắt nàng dù lúc
cười đùa với tôi, vẫn vương vất một nỗi đau thầm kín…
Nhưng tại sao tôi với Nam Phương không cố tình mà ứng xử
một cách khá giống nhau? Nhiều người khác mất cha, mất mẹ, họ đau khổ,
họ khóc, họ nói, họ tâm sự với người khác một cách dễ dàng, rồi cuối
cùng nỗi khổ cũng vơi đi. Còn chúng tôi, những người từng học giáo lý
Phật, xem sinh tử như trò đùa, nhìn thế sự như hoa đốm giữa hư không,
thì không bộc lộ được cùng ai, không khóc được nên tiếng, không rơi được
giọt lệ, để rồi cứ ôm nỗi đau trong lòng, không tẩy xóa đi được! Phải
chăng chúng tôi muốn chứng minh một cái gì? Bản lĩnh? Sự bất động của
tâm trước nghịch cảnh tử biệt?
“Thầy Khang à, thầy có sao không vậy? Tôi nói thầy nghe
thầy đừng nói tôi nhiều chuyện. Tôi biết chỉ có thầy may ra mới giải tỏa
được nỗi khổ của Nam Phương, vì nó nghe lời thầy lắm, nó thương quý
thầy lắm. Từ lúc gặp thầy, tôi thấy nó có nét tươi tỉnh, sống động trở
lại, chứ trước đó hả, nói xin lỗi, nó giống như ngưởi bị bệnh tâm thần.
Nam Phương còn một nỗi đau khủng khiếp lắm… khủng khiếp đến nỗi tôi nghĩ
là nếu đặt tôi vào trường hợp đó, tôi phải điên chứ không thể nào bình
thường được. Nhưng Nam Phương dù rất đa cảm, mềm yếu, cũng là đứa con
gái khá cứng rắn, khá lì lợm, cho nên nó chịu đựng được. Nó đọc kinh,
đọc sách để lãng quên, để vượt qua. Dù sao, tôi nghĩ là cái khổ lụy đớn
đau kia của nó vẫn chưa được giải tỏa hoàn toàn. Nếu có thầy dùng lời lẽ
hay cách nào đó khơi chuyện cho nó nói ra hết, hoặc cho nó khóc thực
sự… thì may ra cái khổ không đeo đẳng mãi trong lòng nó. Từ lúc ba Nam
Phương chết, nó chưa thực sự khóc bao giờ. Nó chỉ khóc những chuyện cỏn
con của ai đó thôi. Đôi khi trong dịp cúng tuần ba nó tại chùa, tôi thấy
nó quỳ trước bàn thờ mà chỉ ứa lệ sơ sơ. Tội nghiệp nó… tôi là bạn thân
lắm mà vẫn chưa làm gì được để giúp nó khóc. Tôi không rõ nó có tâm sự
hết mọi chuyện cho thầy nghe chưa?”
“Ơ… không có. Tôi… tôi chỉ gặp Phương một chút rồi lại chạy đi, không có cơ hội để cô ấy ngồi tâm sự.”
“Vậy chứ nó có kể một chuyện gì thật đau khổ của nó hay của một người con gái khác cho thầy nghe chưa?”
“Chưa. Nam Phương có kể cô nghe hả?”
“Có, nhưng nó kể như là kể chuyện của người khác thôi,
rồi mặt mày nó tỉnh bơ, chỉ hơi run run chút thôi chứ không khóc. Đến
khi… thấy nó đổ bệnh, mặt mày xanh mét, tôi hỏi gặng nó mãi rồi kết hợp
hai ba câu chuyện do nó kể ra mới biết được là… thôi, chắc tôi không nói
được đâu, để Nam Phương nói. Thầy tìm cách khơi chuyện cho Nam Phương
nói thì tốt hơn.”
“Không, cô nói tôi nghe đi. Cô và tôi đều là bạn của Nam
Phương, chúng ta phải giúp cô ấy. Cô biết gì thì cứ nói thẳng ra chứ
đầu óc tôi trong thời gian này ngu độn, bấn loạn, không suy nghĩ được gì
đâu. Cô thương Nam Phương, muốn giúp cô ấy thì nói tôi nghe đi. Tôi năn
nỉ cô…”
“Được rồi, được rồi… nhưng phải khéo léo, đừng cho Nam
Phương biết là tôi nói… hoặc tốt nhất là thầy làm bộ như không biết,
nhưng tìm cách khơi chuyện cho nó nói. Thầy biết chuyện trước thì dễ cho
thầy hơn, phải không? Chuyện là như vầy…” Như Liên ngưng một lúc, nâng
ly nước lên uống một hớp, “Ba tháng trước, Nam Phương đi thăm nuôi ba nó
ngoài Bắc thì được cán bộ trại giam cho biết ba nó vừa mới chết, chôn ở
nghĩa trang phía sau trại. Nó xin được đem quà thăm nuôi ra cúng cho ba
nó ngoài mả, mục đích của nó là được chính mắt thấy mả ba nó, biết chắc
là ba nó thực sự chết. Hai cán bộ dẫn đường nó ra nghĩa trang. Ra đến
ngôi mộ chôn lấp sơ sài, thấy cái bảng gỗ đề tên và ngày mất của ba nó,
nó ngất xỉu ngay tại chỗ. Hai cán bộ ẵm nó vào một cái chòi gần đó… Rồi
nó bỗng tỉnh dậy, thấy… đau đớn, thấy… hu hu… người ta thay nhau… hu
hu…”
Tôi đứng phắt dậy, vùng chạy lên lầu, gọi:
“Nam Phương, Nam Phương!”
Như Liên chạy theo vài bước nói với theo:
“Đã nói rồi, Nam Phương đi vắng, chiều nó mới về, không có nó trên đó đâu thầy Khang à!”
Tôi ngơ ngác chạy xuống lầu, không một lời từ giã Như
Liên, phóng lên xe đạp, đạp nhanh trên đường phố, đạp mãi, đạp mãi, hết
con đường này rồi rẽ sang con đường khác, cứ thế mà chạy vòng vòng vô
định trên những con đường ngập xe, ngập người… Thế giới quanh tôi như
không còn hiện hữu. Tất cả những con người, những nhà cửa, xe cộ, hàng
quán, những trụ điện và giây điện, những gốc cây, những bờ cỏ, những
băng đá công viên, chim chóc, mây trời, tất cả, tất cả, đối với tôi đều
là con số không. Tôi không muốn nhìn nhận thế gian này nữa. Tôi muốn
chúng tan biến, hủy diệt hoàn toàn. Tôi không còn chút từ bi, chút tình
thương, chút kham nhẫn hay khoan dung nào hết. Tôi không cần bất cứ một
con người nào có mặt trên thế gian này. Tôi chỉ muốn gặp Nam Phương… Nam
Phương ơi!
Thật mỏi mệt tôi mới dừng xe ở công viên trước mặt Dinh
Độc Lập, tìm một băng đá, dựng xe, ngồi nghỉ. Tôi cứ ngồi đó, thất thần
như một gã điên, mắt nhìn trân trân một viên sỏi nhỏ bên gốc cây hòe.
Đến khi bóng chiều nghiêng xuống nhuộm vàng bãi cỏ lơ thơ trước mặt, tôi
mới giật mình đứng dậy. Không thấy chiếc xe đạp. Ai lấy mất rồi, hay là
tôi đã đi bộ đến đây? Bây giờ tiếp tục đi bộ đến nhà Nam Phương. Mất cả
tiếng đồng hồ.
Tôi tra chìa khóa, vặn mấy vòng, rồi kéo cửa bước vào.
Nhà có vẻ yên tĩnh. Trong bóng tối lờ mờ của ngọn đèn đường từ bên ngoài
hắt vào qua các kẽ hở của cửa sắt, tôi không thấy chiếc xe đạp của sư
cô Như Liên khi nãy dựng bên vách này nữa mà thay vào chỗ đó là chiếc xe
gắn máy của Nam Phương. Chắc Nam Phương đang ở trên lầu. Tôi ghé xuống
bếp nhìn qua để xem có nàng ở đó không. Không có. Tôi bước mau lên lầu.
Vừa kịp khi tôi bước hết các bậc thang thì Nam Phương từ phía phòng
riêng của nàng ló ra, đứng nơi ngạch cửa, nhìn về hướng tôi, chờ đợi.
Ánh đèn từ hướng ấy lùa theo sau lưng nàng, tỏa sáng một khoảnh hành
lang ngập bóng tối.
“Anh Khang, anh về rồi hả? Em chờ anh nãy giờ.”
Tôi bước đến gần nàng hơn. Nàng quay vào phòng và tôi
cũng theo nàng vào phòng. Căn phòng khá rộng, có nhiều sách vây quanh
một cái giường nệm lớn. Nhưng tôi không để ý lắm. Tôi bước sát đến nàng,
mặt đối mặt. Nàng run rẩy đưa một tay lên sờ cái băng tang màu đen nơi
ngực áo tôi.
“Như Liên nói với em… ba anh mất rồi, phải không vậy Khang?”
Tôi nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của nàng, xúc động nói:
“Ba em cũng mất rồi phải không?”
Nàng lưỡng lự một lúc:
“Dạ, ba em mất rồi.”
“Nam Phương ơi, em đau khổ lắm, phải không? Em đau khổ lắm, anh biết.”
Nàng cúi mặt xuống, hai vai rung lên một lúc, rồi bật
khóc, khóc thành tiếng nức nở. Tôi ôm lấy nàng kéo vào lòng, và cũng
khóc nấc lên. Chúng tôi, hai kẻ mồ côi, mất cha đã nhiều ngày rồi mà mãi
đến bây giờ mới được ôm nhau mà khóc. Nước mắt chúng tôi cứ tràn ra,
tràn ra, rơi vỡ trong nhau, hòa trong nhau, hàng nối hàng, đẫm ướt mặt
mũi, đẫm ướt hai ngực áo. Má chúng tôi áp vào nhau, lúc bên này, lúc bên
kia, như muốn nghiền nát những giọt lệ đang tuôn chảy bất tận. Rồi mắt
chúng tôi kề cận nhau, nhìn nhau, soi nhau, như bốn hồ nước long lanh
nghiêng đổ vào nhau tất cả nỗi đớn đau câm lặng một cách khốc liệt bị
nén ở tận đáy lòng. Tất cả bùng lên, bùng lên, như bị sức đẩy khủng
khiếp của lòng núi lửa đang sôi sục quá độ. Và ngay trong sự bùng vỡ của
nỗi khổ đau quằn quại ấy, bỗng dưng môi chúng tôi lại tìm đến nhau, gắn
vào nhau. Tôi say đắm hôn nàng, nàng cũng say đắm hôn tôi. Vòng tay
chúng tôi quấn chặt lấy nhau. Thân thể chúng tôi nóng bừng bừng, ép sát
vào nhau. Trong vòng siết cuồng nhiệt của đôi tay, tôi nghe như thể tất
cả sức động chuyển mãnh liệt của cơn khát dục tàn bạo trong tôi đã theo
nước mắt và nỗi đau khổ, trào dâng ngùn ngụt, phá vỡ tất cả mọi thành
trì của giới luật hay đạo đức từng cản ngăn kềm chế nó. Tôi và nàng bấy
giờ trở thành một khối vẹn tuyền của xúc cảm, hòa nhập làm một trong
nhau, và chính nỗi đau khổ của chúng tôi cùng với sự bốc dậy của khoái
lạc nhục cảm cũng tan biến vào nhau, kết thành một khối không thể phân
ly. Chúng tôi không còn cách ly nhau, không còn hãi sợ nhau, không còn e
lệ xấu hổ với nhau, không còn bất cứ thứ gì cần phải che giấu nhau.
Chúng tôi đã mượn sự tuôn chảy tràn trề của nước mắt để nói với nhau tất
cả những gì cần nói, và để mở tung tất cả những cánh cửa ngăn bít sự
biểu hiện toàn vẹn tinh thể của chúng tôi từ bao lâu. Nàng vừa hôn tôi,
vừa bá lấy cổ tôi, kéo về hướng chiếc giường. Nàng ngã xuống. Tôi nhoài
lên người nàng, tham lam hôn lên mắt, lên môi, lên má, lên cổ nàng. Tôi
thấy ngực nàng căng phồng hé lộ hai phần núi tuyết trắng muốt giữa hàng
nút vừa bật tung ở phía trên. Tôi vục mặt tôi vào khoảng trũng thấp ấy,
và nước mắt tôi vẫn còn tiếp tục rơi từng giọt, vương vãi, nhểu xuống.
Nàng ghì lấy đầu tôi kéo sát vào ngực nàng, và vẫn tiếp tục khóc, khóc
tỉ tê rồi lại khóc nấc lên từng tiếng. Tiếng khóc tức tưởi của nàng càng
lúc càng lớn đã đánh thức tôi, nhắc tôi nhớ lại vết thương lòng của
nàng và đại tang của hai đứa…
Tôi trở người, nằm nghiêng bên cạnh nàng, một tay chống
nâng mặt lên, một tay vỗ về hai gò má đẫm lệ của nàng, chờ đợi cho những
dòng nước mắt ấy vơi cạn dần cho đến khi không còn chảy nữa. Chúng tôi
nằm nghiêng hướng về nhau, im lặng, không nói một lời. Chúng tôi đã nói
với nhau quá nhiều bằng nước mắt, nụ hôn và vòng tay thèm khát chiếm
hữu. Bây giờ không cần nói gì nữa, ngay cả một lời yêu nhau.
Nàng nằm trên cánh tay tôi, tựa đầu vào một vai tôi, một
tay ôm choàng qua sau lưng tôi. Một lúc, nàng tự động kể lại chi tiết
câu chuyện của nàng vào ngày đi thăm nuôi và biết được cha đã chết. Nàng
cũng không che giấu gì về chuyện bị thất thân bởi những người cán bộ xa
lạ. Giọng kể của nàng bình thản, không oán hận, không trách cứ, và có
vẻ không còn đau khổ nữa.
“Anh biết làm thế nào em có thể chịu đựng nổi cái đau
nhục lúc ấy mà không bị điên loạn lên không? Ngay khi phát giác mình bị
cưỡng bức, em đã ra sức chống chọi nhưng không làm sao vùng vẫy ra khỏi
sức mạnh của hai người trai khỏe. Cuối cùng thì em đành xuôi tay chấp
nhận, và trong khi bị vùi dập đớn đau, tự dưng em nhiếp tâm, quán tưởng
thân em như là đất, cam chịu tất cả thống khổ đè nặng lên người, rồi em
nguyện suốt đời như một người mẹ khoan dung, tha thứ và thương yêu tất
cả sự ngỗ nghịch hoang đàng của chúng sinh, trong mọi hoàn cảnh… Đó, nhờ
vậy đó mà em vượt qua. Nhưng khi về đến nhà, nỗi đau tưởng đã tiêu tan
không ngờ lại âm ỉ lớn dần trong tim. Em tiếp tục phấn đấu để hóa giải
nó mà không nổi cho đến khi gặp anh, và cho đến đêm nay. Em nghĩ là kể
từ bây giờ, em không còn sợ hãi nữa.”
“Không còn sợ hãi nữa.” Tôi lặp lại câu ấy như để tự
chắc nhở chính mình. “Tất cả nỗi đau của cuộc đời, em đã nếm hết rồi, đã
nguyện gánh hết rồi, thì còn sợ cái gì nữa.”
Tôi đưa tay vuốt nhẹ tóc nàng. Rồi chúng tôi ôm nhau ngủ
lúc nào không hay. Thức dậy trước, tôi liếc thấy nàng nằm im, thở nhẹ.
Nàng đẹp như một thiên thần bé nhỏ. Tôi không dám cử động, sợ đánh thức
nàng, sợ đánh thức cả khát dục của chính tôi. Tôi nghĩ, nếu không mang
tang cha, có lẽ hai chúng tôi đã tiến xa hơn, thèm muốn nhau và chinh
phục nhau trọn vẹn hơn… Nhưng cũng có thể nói rằng, nếu không quá đau
khổ, chúng tôi đã không bao giờ tiến đến gần với nhau quá nhanh như vậy.
Khổ đau, dù ở mức độ cao hay thấp, luôn luôn là chất xúc tác cho một
mong đợi hạnh phúc.
Chín giờ tối, chúng tôi cùng thả bộ đến một quán ăn ở
đầu đường. Bước bên nhau chừng vài mươi bước, nàng đi sáp gần lại, ôm
vòng lấy một cánh tay tôi, kéo sát vào phía ngực trái của nàng, thân mật
vừa đi vừa tựa nghiêng mái đầu của nàng lên vai tôi. Chúng tôi đi chầm
chậm trên đường phố còn ồn tiếng động cơ xe cộ và bầy trẻ nhỏ hãy còn
bày nhiều trò chơi trên lề đường. Tôi cảm thấy như tôi đã sống trong một
chọn lựa tự nhiên, hoặc đang vô tình bắt đầu một cuộc sống mới, yên
bình, với một thứ hạnh phúc thật đơn giản, thực tế, dễ tìm kiếm. Tôi
biết tôi đã từng yêu, nhưng tôi chưa bao giờ tưởng được rằng có một lúc
trên đời, tôi lại nghĩ đến đời sống lứa đôi một cách tự nhiên mà không
cho là điều dung tục tầm thường, không rùng mình hãi sợ.
Chúng tôi về nhà trước mười giờ đêm, giờ tốt nhất cho
mọi công dân trên đất nước để tránh bị công an chận hỏi trên đường. Sau
khi thay phiên tắm rửa, chúng tôi chia nhau mỗi người mỗi phòng mà
ngủ—nàng lặng lẽ sắp xếp như vậy khi sửa soạn giường ngủ cho tôi ở căn
phòng mà tôi từng nằm trước đây. Cả hai chúng tôi đang còn né tránh một
sự đồng lõa vùng dậy của nỗi cám dỗ khoái lạc. Chúng tôi yêu nhau và đã
hôn nhau, nằm bên nhau khi nãy, còn sức gì có thể ngăn cản chúng tôi
được? Chỉ có cái tang của mỗi đứa chúng tôi mà thôi. Nàng chúc tôi ngủ
ngon rồi về phòng của nàng. Tôi nằm mãi không ngủ được dù rằng hai mắt
tôi khá đau rát vì khóc nhiều.
Đến khoảng một giờ khuya thì nàng ôm theo một cái gối,
vào phòng, vén mùng chui vào nằm với tôi, rúc đầu vào ngực tôi. Cả hai
chúng tôi đều không nói gì lúc ấy. Chỉ việc sung sướng ôm nhau và thấy
yên tâm để ngủ.
Kể từ đêm ấy, tôi không muốn rời khỏi căn nhà của nàng.
Chúng tôi quấn quít bên nhau như đôi uyên ương dù rằng chúng tôi vẫn
luôn luôn giữ gìn một khoảng cách mong manh—có chiều ngang bằng một
đường tơ—để không trở thành một cặp vợ chồng thực thụ. Sau cái đêm ngủ
chung ấy, tự dưng vào một lúc vui vẻ thuận tiện, tôi và nàng có giao ước
với nhau là đừng làm vậy nữa. Cả hai chúng tôi đều sợ rằng không có thứ
gì có thể ngăn cản được lòng dục nơi chính mình cũng như vẻ cám dỗ mời
mọc toát ra từ đối phương. Chúng tôi thường lấy chuyện để tang cha ra để
nhắc nhở nhau, để làm thành trì cuối cùng bảo vệ sự trong trắng hay vẻ
thơ mộng ban đầu của tình yêu chúng tôi. Ăn chung mâm, có khi hôn nhau,
nói lời yêu nhau, nhưng chúng tôi luôn luôn giữ gìn, bảo vệ cái thành
trì đó. Chúng tôi ít khi đi ra đường. Chỉ vào tối giao thừa, chúng tôi
mới cùng đi một vài chùa như nàng yêu cầu.
Gần một tháng sau, trong khi Nam Phương đi ra ngoài lo
công việc buôn bán của nàng, tôi gọi xích lô đến nhà anh Cường. Tửu gặp
tôi, lại mừng muốn khóc:
“Khang đi đâu mất biệt, đến giờ này mới về!”
“Không có gì. Tôi chỉ buồn, không muốn gặp ai trong thời gian ngắn. Có gì lạ không?”
“Có chuyện nguy tới nơi rồi Khang ơi. Ôi, tôi nóng ruột
nóng gan hết sức. Đã vậy Khang còn đi mất tiêu không một lời nhắn về,
chẳng biết đâu mà kiếm! Cứ tưởng Khang bị bắt lại rồi.”
“Chuyện gì thì nói đi, đừng vòng vo nữa,” tôi nóng nảy thúc giục.
“Đợt thăm nuôi vừa rồi, Thiện Hiền từ trong trại K4 nhắn
ra, bảo Khang lo trốn kỹ, trốn gấp, đừng bao giờ ló mặt ra đường, hay
tốt nhất là hãy vượt biên liền đi! Vì cán bộ Bộ nội vụ cùng viện Kiểm
sát tỉnh Đồng Nai mới vào trại K4 để đem Khang đi chụp hình quay phim
làm tài liệu rồi sẽ đưa Khang ra tòa vào tháng tới, chưa biết ngày nào.
Nghe cán bộ trại K4 nói đã thả Khang ra, họ không tin, vì cho rằng một
người như Khang không thể nào có thể được tạm tha bất cứ một phút nào!
Rồi biết sao không, họ lôi thầy Quảng Bình ra, điều tra lại lý lịch của
thầy ấy, xem thầy ấy có phải chính là Vĩnh Khang không. Họ tính đưa thầy
ấy đi chụp hình và ra tòa thay cho Khang đó—chắc là chỉ để khỏa lấp sơ
xuất đã thả lầm Khang—nhưng thầy ấy quyết liệt chống lại, chứng minh đủ
thứ mới được để yên. Cuối cùng, người ta tin là Khang đã rời trại thật
và đã khiển trách cán bộ quản trại ở đó dữ lắm. Bây giờ, công an đang ra
sức truy nã tìm bắt lại Khang đó. Tuần trước, tôi có nhắn chị của Khang
là nếu Khang có về Nha Trang thì bảo Khang đừng lộ diện vì công an sẽ
phong tỏa Nha Trang. Tóm lại là Khang phải đi! Tôi và Như Tâm có bàn với
nhau rồi, bữa giờ đang lo chạy tìm chỗ cho Khang vượt biên. Cũng sắp
khởi hành rồi đó. Tiền thì có Như Tâm giúp bằng cách xin hay mượn của
người anh ruột ở Pháp, cộng thêm số tiền và quà của bạn bè gửi biếu
Khang, chắc là đủ đóng cho Khang đi.”
Tôi ngồi sững, không nói gì. Mới khi sáng trước khi rời
nhà đi công việc, Nam Phương đã đưa ra một đề nghị rất hợp lý và nên thơ
cho tương lai của hai đứa chúng tôi, tôi đã đồng ý, coi như chuyện lo
liệu cho an nguy của tôi đã được sắp xếp, tạm ổn. Bây giờ, tự dưng lại
xáo trộn lên. Tôi nóng ruột, rối trí, đứng dậy định rời khỏi nhà anh
Cường để về lại nhà Nam Phương, nhưng nghĩ có về sớm cũng chẳng gặp được
nàng, tôi thôi, nằm xuống giường của Tửu, suy nghĩ mông lung. Bây giờ
có Nam Phương, có một dự tính tương lai với nàng, tôi càng không muốn bị
bắt lại vào tù.
“Chuyến vượt biên sắp tới khởi hành dưới Cà Mau,” Tửu
nói. “Khang đừng đi đâu nữa, ở yên đây chờ ngày đi, há? Chuyến này mỗi
đầu người đóng chừng hai lượng vàng. Như Tâm sẽ mượn để trang trải
trước, sau đó tôi sẽ bán sáu hộp quà từ nước ngoài sắp gửi về cho Khang
để hoàn lại, quà ấy cũng sắp tới rồi. Nhưng điều quan trọng là… Khang
đồng ý đi, há?”
“Bây giờ tôi chẳng suy nghĩ được gì cả. Mọi chuyện anh tính hết đi.”
“Có nghĩa là Khang đồng ý rồi, phải không?”
Tôi không đáp, cũng không gật đầu. Cứ nằm một chỗ, suy
nghĩ mông lung. Tôi chưa biết quyết định làm sao cả. Đề nghị của Nam
Phương khi sáng có thể thực hiện an toàn không? Chuyến vượt biên có tốt
đẹp không? Nếu vượt biên không hoàn thành thì còn tệ hại hơn là đổi tên,
ẩn tích ở một quận lỵ nào đó hơi xa Sài Gòn như Nam Phương gợi ý. Tôi
cứ xào tới xào lui, đắn đo mãi về chuyện đi hay ở. Cuối cùng, tôi nói
với Tửu:
“Thực ra bây giờ tôi vẫn chưa quyết định được là nên đi
hay ở. Nhưng chuyện vượt biên của tôi, nhờ anh và Như Tâm cứ tiến hành
lo giúp, qua được bên kia tôi kiếm tiền gởi về trả lại, chứ bây giờ tôi
như cụt tay cụt chân, đầu óc rối bời, không tính toán lo chạy được gì
đâu. Còn mấy hộp quà ở nước ngoài gởi về, sau này nhận được mà không gặp
lại tôi, anh cứ tùy tiện dùng để trang trải mọi tổn phí trong khi lo
chuyện vượt biên cho tôi, dư lại thì thăm nuôi mấy thầy đang ở tù, vậy
nhé. Bây giờ tôi phải đi. Tôi qua nhà cô bạn gái, chỗ đó an ninh hơn ở
đây, với lại tôi cũng cần nói chuyện với cô ấy trước khi lên đường… Anh
ghi địa chỉ nhà cô ấy, khi nào cần thì đến gọi tôi, được không?”
“Đọc đi, tôi ghi.”
Rời chỗ Tửu, tôi đón xích lô về lại nhà Nam Phương. Trên xe, tôi lại nhớ đến dự tính của Nam Phương vừa nói với tôi khi sáng.
Nam Phương dự tính bán căn nhà, chạy về Phú Lâm mua căn
nhà nhỏ hơn, đồng thời mua luôn cả hộ khảu mới, mua luôn giấy tờ tùy
thân với tên giả cho tôi, rồi làm luôn cả giấy hôn thú giả, rồi giả sống
với nhau như hai vợ chồng chính thức để tránh cho tôi khỏi bị bắt vào
tù trở lại sau khi hết hạn tạm tha. (Xã hội thời nay là vậy đó, một xã
hội đầy bất an, nhưng nếu có tiền, người ta cũng có cách mua được mọi sự
hợp lệ an ổn cho đời sống. Và hình như tất cả đều phải giả thì mới sống
được một đời sống thực) Đề nghị của Nam Phương như một bản giao hưởng
nhẹ nhàng du dương, ru êm mọi toan tính và ý chí dấn thân của tôi trước
đây. Tôi đã im lặng chấp nhận một cách thật hết sức đơn giản. Đó là
trước khi tôi đến nhà anh Cường.
Bây giờ, trên đường từ nhà anh Cường đến nhà Nam
Phương, ý hướng vượt biên trong tôi dường như mạnh mẽ lấn lướt chuyện
đổi tên ở lại sống ẩn lánh. Nhưng khi mở khóa bước vào căn nhà thân
thuộc đã cho tôi nhiều hạnh phúc êm đềm trong những ngày vừa qua, tôi
bỗng thấy khác: tôi không muốn vượt biên nữa. Tôi thèm được một mái ấm,
một chỗ dừng chân, một tháp ngà để ngủ giấc an lành. Cái đó đối với tôi
và Nam Phương, là cái trước mắt, dễ dàng, có thể nắm được, chắc chắn hơn
là một chuyến vượt biên xa xôi, chưa biết thành bại thế nào. Vâng, tôi
đã mệt mỏi, không muốn phấn đấu nữa. Tôi xin chấp nhận mọi sự xỉ vả chê
trách. Tôi xin chấp nhận làm người nhu nhược, an phận, nhìn vào cái gì
trước mắt, nhìn vào cái khổ, cái tang của tôi và Nam Phương, chứ không
cần phải nhìn ngó đếm xỉa cái tang chung của xã hội quanh tôi nữa.
Tôi dự tính không nói Nam Phương nghe, nhưng rồi tôi
cũng nói; nói rằng công an đang có lệnh truy nã tìm bắt tôi để đưa ra
tòa. Nỗi an phận tầm thường của tôi đã xui tôi nói sự thực với nàng như
là một cách để khích lệ nàng tiến hành xây dựng một mái ấm hạnh phúc cho
nàng và tôi, càng sớm càng tốt. Nhưng nghe vậy, nàng có vẻ bấn loạn,
run run nói:
“Vậy… em phải lo cho anh đi vượt biên ngay.”
“Tửu và Như Tâm đang lo cho anh chuyện đó, nhưng… anh
không muốn đi. Anh muốn ở lại, Nam Phương, anh đã vượt biên khá nhiều
lần trước đây rồi, anh không còn tin tưởng chuyện vượt biên có thể thành
công đối với anh nữa. Huống gì một khi vượt biên thất bại, anh càng dễ
dàng tiết lộ hành tung của anh cho người ta bắt.”
“Vậy thì sao bây giờ… Khang ơi, em lo quá! Em… em không
muốn anh vào tù trở lại. Thôi, để em chạy lo mua một cái hộ khẩu và
giấy tờ tạm thời cho anh trước đã. Em đi liền bây giờ, em biết một đường
dây ở Phú Lâm đó. Còn anh, kể từ hôm nay, ở nhà, tuyệt đối đừng ra
đường nữa nghe. Có chuyện gì thì để em chạy lo.”
Trong hai tuần lễ, Nam Phương lăng xăng lui tới để lo
chuyện hộ khẩu và giấy tờ cho tôi. Và cuối cùng tôi đã có một cái “hộ
khẩu ma” với địa chỉ của một căn nhà không hiện hữu trên đất nước. Giấy
tờ tùy thân của tôi cũng khá giống giấy tờ thật, vì được lăn tay chụp
hình đàng hoàng (ở nhà riêng một anh công an), và tên mới của tôi là
Nguyễn Mười, một cái tên khá nhà quê và dễ nhớ (vì tôi là con thứ mười
trong gia đình) do tôi tự chọn lấy.
Vừa tạm ổn với chuyện giấy tờ giả thì Tửu tìm đến. Tôi
tưởng Tửu đến gọi tôi đi vượt biên, nhưng không phải. Tửu báo cho biết
là Viện kiểm sát trung ương sẽ đưa vụ án Phục quốc ra tòa vào thứ Hai
ngày 16-3 tại Nhà hát Thành phố (Quốc hội), ở quận nhất, Sài Gòn. Báo
chí thành phố đăng tải nhiều loạt bài bôi nhọ “hành vi phản động” của
lực lượng này, và có nêu đich danh những nhân vật đầu não của lực lượng
trong đó có ông Trần Văn Lương và cả tôi. Tửu hỏi tôi đã quyết định về
chuyện vượt biên chưa, vì chuyến đi sắp khởi hành. Tôi chưa trả lời dứt
khoát. Tửu về rồi, không hiểu sao tôi lại bắt đầu thấy lòng an ổn, bớt
lo sợ. Cảm giác này có vẻ giống như lúc tôi vừa bị bắt đưa vào trại giam
T20 hai năm trước đây. Có lẽ phiên tòa xử hứa hẹn một giới hạn rõ rệt
của khổ đau đã cho tôi sự an lòng đó, hoặc là chính những giấy tờ giả,
tên giả, đã tách tôi ra khỏi quá khứ của tôi, tách tôi ra khỏi cái bản
ngã mà hằng lâu tôi bám víu, khiến tôi có thể bình tâm nhìn nó và khổ
đau ách nạn của nó như nhìn vào một cái bóng, một cái gì không thật.
Tôi không nói gì với Nam Phương về phiên tòa, nhưng
nàng đã đọc và nghe được tin tức. Những ngày phiên tòa xử diễn ra, nàng
lái xe đến tận nơi để tham dự. Khi tòa đã kết án, nàng về ôm tôi, khóc.
Ông Lương và tôi đều lãnh án tử hình, riêng tôi thì bị xử khiếm diện
(vắng mặt) với ghi chú kèm theo là “đương sự đã trốn trại, án sẽ thi
hành lập tức ngay khi nào bắt lại được.” Người ta kết án tử hình anh đó,
Khang ơi. Nam Phương vừa khóc vừa kể lại tôi nghe. Nàng đứng ngồi không
yên, cứ đi lên đi xuống, mặt thất thần, âu lo đến tội nghiệp. Và trong
suốt ngày đó, nàng im lặng như đang suy tính chuyện gì, hoặc muốn nói
một điều gì khó nói với tôi. Bữa ăn tối, nàng cũng im lặng một cách nặng
nề. Ăn xong, nàng mới bắt vào chuyện:
“Sao anh không nói gì hết vậy Khang? Cái bình thản như
vô sự của anh làm em sợ quá, nó cho em thấy là anh có vẻ như sẵn sàng
chấp nhận bản án, phải không? Không, Khang ơi, không thể như vậy được!
Anh phải giữ lấy thân, anh phải sống. Dù em có thể mất anh trong cuộc
đời, em vẫn muốn có anh tồn tại ở một phương trời nào đó. Khang ơi, em
tìm đường cho anh vượt biên, nghe anh!”
Tôi bước đến, đứng sau lưng nàng, đặt nhẹ hai tay lên hai vai nàng, nói:
“Thôi, đừng suy nghĩ nhiều, Phương ạ. Không cần phải lo
lắng đến như vậy. Thực ra thì ngục tù hay cái chết cũng không phải là
cái gì khủng khiếp lắm đâu. Mấy hôm trước ngồi nhẩm lại kinh Bát Đại Nhân Giác, anh thấy tinh thần anh vững mạnh, an ổn, không bị bức thúc nữa.”
“Nhưng dù gì thì cũng phải quyết định...” nàng níu lấy
hai tay tôi, nói. “Em thấy... hình như đi vượt biên thì tốt cho anh hơn.
Nhưng em sợ anh không hiểu, tưởng rằng em xua đuổi anh. Em cũng sợ nếu
chuyện không thành thì chính em là người đã xô đẩy anh vào cái chết.
Khang ơi, anh vượt biên đi há, có em đi chung với anh, để anh yên tâm là
em lúc nào cũng muốn ở bên cạnh anh, còn nếu chuyện bất thành để phải
vào tù hay chết, cũng có em chịu chung với anh.”
“Không, đừng làm vậy, Phương à. Anh sẽ đi. Nhưng em
không cần phải đi theo anh để chứng minh cái gì cả. Anh không muốn bất
cứ điều gì nguy hiểm xảy ra cho em. Em ở lại chờ mẹ và mấy đứa em của em
bảo lãnh, vậy tốt hơn. Hay là để anh qua đó rồi anh sẽ lo thủ tục bảo
lãnh em, chịu không? Em hứa là chờ đợi đi chính thức chứ đừng đi vượt
biên thì anh mới yên tâm, hứa đi.”
Nàng gật đầu, hôn hai tay tôi. Tôi cũng cúi xuống, hôn lên tóc, lên trán nàng.
Những ngày kế tiếp, tôi ở yên trong nhà nàng, không đi
đâu, suốt ngày chỉ ngồi đọc sách, rồi tụng kinh cầu siêu cho ba tôi, ba
nàng. Nam Phương cũng vắng nhà hầu như cả ngày, để vừa liên lạc thường
xuyên với Tửu và Như Tâm về chuyến đi ở Cà Mau, vừa chạy lo một chuyến
vượt biên khác phòng khi chuyến vượt biên kia tiến hành chậm quá.
Cuối cùng thì chuyến đi bên phía Tửu cũng khởi hành. Đó
là ngày 29 tháng ba, nhằm vào lúc đầu tháng ba âm lịch, không trăng;
cũng vừa kịp trước khi hết hạn ba tháng của lệnh tạm tha nếu cái lệnh ấy
thực sự có một giá trị pháp lý nào.
Những ngày trước khi khởi hành, theo như dặn dò của nhóm
tổ chức, Tửu và Như Tâm dặn Nam Phương chuẩn bị một ít thuốc men và
lương khô cho tôi trong một cái bọc nhỏ. Nam Phương cũng soạn đưa theo
cho tôi một cái áo nhật bình nâu và một tấm y (ca-sa) của tôi mà Như Tâm
đã lấy về từ nhà bác Bàng (tôi đã để lại đó khi tự động xả giới từ hai
năm trước). Nam Phương nói khi xếp thật gọn y phục tăng sĩ cho tôi để
nhét cho vừa một túi xách nhỏ:
“Em gói y áo theo cho anh... Nếu nhân duyên xuất gia của
anh hãy còn thì anh xin phục giới, trở lại chùa. Còn không thì y áo
cũng giúp anh phòng nạn hải tặc Thái Lan... Còn chuyện hai đứa mình có
gặp lại nhau sau này ở nơi chốn nào đó, cũng tùy thuận nhân duyên thôi,
anh há. Biết đâu hai đứa đều xuất gia trở lại.”
Bốn giờ sáng, Nam Phương chở tôi xuống bến Xa cảng Miền
Tây, vào quán uống với tôi một ly cà phê trong im lặng, rồi nàng cầm tay
tôi một lúc, vội vã chia tay. Có lẽ nàng sợ không chịu đựng nổi giây
phút biệt ly bịn rịn kéo dài. Tửu đến ngay sau đó vài phút, thay vào chỗ
ngồi của Nam Phương. Tửu dặn dò tôi đi theo người nào, đến đâu, chờ đợi
ở đâu để xuống bãi.
Lần đầu tiên tôi ngồi xe đò đi về hướng nam của đất
nước. Đến Cần Thơ thì đã chiều, phải ngủ lại quán trọ để sớm mai mua vé
đi Cà Mau. Quán trọ dơ dáy nghèo nàn không đòi hỏi xem giấy tờ gì của
tôi cả ngoại trừ ghi cái tên giả của tôi xuống một cuốn tập vàng ố.
Chiếc xe dằn xóc khổ sở trên con đường từ Cần Thơ xuống
Cà Mau. Đường hẹp, nhiều ổ gà. Nhà cửa hai bên san sát lòng đường. Đôi
chỗ có lúa phơi lấn chiếm đường đi. Đôi chỗ người qua kẻ lại tấp nập.
Gió cuốn bụi đất tung mù trước mũi xe. Những con kinh dài lúc chạy song
song, lúc rẽ về hướng thẳng góc với con đường. Đôi khi có một vài người
đàn ông thiểu số lội bì bõm dưới sông, trần truồng nhong nhỏng. Đôi khi
ruộng đồng bạt ngàn phơi màu lúa chín vàng trĩu ngọn đong đưa. Lòng tôi
như vô sự.
Người dẫn đường cùng tôi lên một chiếc ghe nhỏ, xuôi
theo sông Bồ Đề để xuống quận Năm Căn, một quận nằm ở doi đất cuối cùng
của tỉnh Minh Hải (tên mới của tỉnh An Xuyên sau năm 1975), cũng là chỗ
vùng đất cuối cùng của đất nước đâm ra biển Nam Hải. Sông khá rộng. Đôi
lúc người lái đò rẽ vào một con rạch nhỏ, nước cạn và đen màu sình, phải
chống cây sào dài mà đẩy ghe đi chứ không chèo được bằng mái dằm. Con
rạch đưa chúng tôi đi qua một vùng nhà cửa lưa thưa, bao bọc là rừng
đước, có khi là rừng sát hay tràm. Từ sông vào rạch rồi từ rạch lại ra
sông. Gió đông bắc từ biển thổi vào phần phật cái áo của người chèo đò
khiến anh có vẻ như đang run rẩy. Tôi nhìn mặt nước lặng lờ, uốn khúc
theo bờ đất ẩm ướt mọc đầy cỏ ống và những thứ cỏ lạ không biết tên.
Lòng tôi lăn tăn gợn lên một nỗi vui an ổn, hồn nhiên theo tiếng nước
khua nhẹ của mái dằm.
Cuối cùng, khi mặt trời vừa khuất bên phải chúng tôi,
ghe tấp vào một eo đất thỏm vào trong, có cái cầu ván nhỏ từ bờ nhoi ra
sông. Chung quanh vắng vẻ, toàn là cây rừng thấp lè tè, chỉ có một cái
chòi lợp bằng lá dừa nước hay một loại lá gì đó tờ tợ như vậy, nằm sâu
vào bên trong, cách bờ sông chừng hai trăm mét. Anh dẫn đường ngoắc tay
ra dấu tôi theo anh, hướng về cái chòi đó. Bên trong trống trơn, diện
tích gần hai mươi mét vuông mà chẳng có vật dụng gì ngoài một cái bàn cũ
kỹ đóng ráp bằng thứ ván sần sùi không được bào láng; chẳng có cái ghế
nào bên cạnh cái bàn đó. Trong góc chòi là một cái sàn đóng khá cao, có
bậc thang bước lên. Có lẽ là chỗ ngủ vì thấy có mùng treo sẵn trên đó.
Vậy thì nó là cái sàng chứ không phải là cái sàn. Người dẫn đường nói:
“Anh chui vào mùng ngồi kẻo muỗi đốt chịu không thấu đâu. Tối sẽ có người đến rước. Chắc bà xã anh đi chuyến khác, sẽ tới sau.”
“Cái gì? Bà xã nào? Chắc anh lộn người rồi đó!”
“Bà xã anh chứ bà xã nào. Chút bả tới ngay,” vừa nói anh vừa quay ra, bỏ tôi ngồi lại trong bóng tối buông dần của chòi hoang.
Tôi bỏ mùng xuống, ngồi xếp bằng. Khu rừng lạ cất lên
đầy những âm thanh mới lạ của những loài thú hay côn trùng nào tôi không
biết tên, hay là trong tôi đang mở ra một tâm thái mới mẻ, sáng trong,
bình lặng. Tôi ngồi một lúc khá lâu thì nghe tiếng chân người dẫm trên
đất sình khô nghe lụp phụp, hướng đến chòi. Tôi đoán là người ta đến đưa
tôi đi, nhưng cũng có thể là công an du kích đi tuần. Dù thế nào thì
tâm tôi vẫn bình thản lúc ấy. Tôi ngồi bất động, không chuẩn bị tư thế
trốn nấp hay rời sàng để bỏ chạy. Từ bóng tối nhìn ra, tôi thấy ba bóng
đen xuất hiện lờ mờ giữa khung cửa. Rồi một luồng sáng của đèn pin chiếu
xuống đất ngay trước chỗ họ đứng, hướng dần về phía sàng, rọi vào tôi.
Có tiếng nói đàn ông cất lên:
“Kìa, ông xã cô trên đó. Hai người ngồi im, có nói
chuyện thì nói nhỏ nhỏ chứ đừng lớn tiếng quá nghe. Cũng đừng chạy lạng
quạng ra ngoài chúng nó bắt đó. Khoảng một hai tiếng đồng hồ nữa có
người đến dẫn đi.”
Nói rồi, hai người kia quay đi ngay. Người còn lại chắc
là một người nữ, đang hướng về phía tôi. Tôi định lên tiếng trước để
người ấy biết tôi không phải là chồng của cô thì đã nghe người ấy bật
lên mấy tiếng:
“Khang, em nè.”
“Cái gì? Nam Phương à?” tôi vùng dậy, vén mùng nhoài
người ra. “Cẩn thận, cái thang phía bên phải, vịn chỗ này nè, nắm tay
anh, lên.”
Nhét vội mùng lại, chúng tôi ôm nhau mừng rỡ. Tôi vừa vui vừa lo, hỏi:
“Sao em liều quá vậy! Hứa không đi rồi cuối cùng lại đi.”
“Em tính kỹ rồi, nói trước thì anh đâu cho, thôi thì làm anh bất ngờ cho vui. Anh không thích có em đi chung hở?”
“Thích, nhưng... anh sợ nguy hiểm cho em.”
“Với lại có em thì khó cho anh quay trở lại con đường xuất gia, phải không?”
Tôi lắc đầu không nói, chỉ vuốt tóc nàng. Có lẽ tối quá
nàng không thấy cái lắc đầu của tôi. Nàng dựa đầu vào vai tôi. Cả hai
chúng tôi đều im lặng thật lâu. Cuối cùng nàng nhỏ nhẹ nói:
“Khang ơi, em luôn thấy trong mắt anh, một cái gì cao
rộng xa xăm, một khát vọng bền lâu tha thiết mà anh hằng theo đuổi. Em
biết chính cái đó mới làm cho anh tồn tại, bình thản giữa sóng gió cuộc
đời. Dù em có là người mà anh vô cùng yêu quí như anh từng nói, em vẫn
thấy rằng anh ôm em, say đắm em, như ôm siết cái khát vọng đó của anh mà
thôi. Anh thể nhập vào nó qua em và qua những khổ đau cuộc đời. Cho
nên, dù thế nào đi nữa, anh vẫn là con người của lý tưởng xuất trần. Em
không đến với anh hay đi chung với anh để níu kéo anh về với em. Em chỉ
muốn có mặt bên anh vào những giây phút cuối cùng của ly biệt, để nói
với anh rằng, em tin tưởng một cách thâm sâu: không có bất kỳ một thế
lực vô minh nào, một sức quyến rũ mê hồn nào, một đau khổ khốc liệt
khủng khiếp nào, có thể hủy diệt anh hay dìm mất anh trong lòng bi lụy
của cuộc đời. Em nói có phải không, hở Khang, nói em nghe đi.”
Tôi xúc động hôn lên trán nàng. Im một lúc mới nói:
“Thực ra thì chuyện hoàn tục hay xuất gia trở lại, đối
với anh không còn là vấn đề nữa. Anh không tự hào gì về một trong hai
chọn lựa đó. Anh chỉ biết sống hết mình với con đường nào anh chọn lựa.
Con đường nào cũng có vẻ đẹp của nó, nhưng vẫn là con đường: con đường
đi ngược và con đường đi xuôi; con đường đi thẳng hay con đường đi
quanh; con đường ngắn hay con đường dài; con đường bằng phẳng hay con
đường chông gai; con đường thanh thản hay con đường nhọc nhằn... Chúng
dẫn chúng ta đi những hướng khác nhau, hoặc trùng bước với nhau, ghé vào
những quán trọ khác nhau và giống nhau, thành tựu những đích đến khác
và giống nhau; nhưng ‘phương trời cao rộng’ thì nằm ở ngoài, ở sau, ở
trong, hay ở trên những con đường ấy. Anh ...”
Một tiếng súng, rồi một tràng súng nổ ở đâu đó vọng tới,
cắt ngang. Tôi xuỵt một tiếng giữ nàng lại, lắng nghe. Lại có tiếng la
lối om sòm từ phía bên trái của cái chòi. Có tiếng mái dằm khua vội vã
hay tiếng của nhiều đôi chân lội dưới nước bì bõm.
“Em ngồi yên ở đây, để anh ra ngoài xem thử,” tôi vừa
nói vừa leo xuống khỏi sàng, bước vội về hướng cửa, vừa nhìn vừa nghe
ngóng.
Từ phía bên kia bờ sông lại phát nhiều tiếng súng nổ,
lằn đạn xẹt từ đâu bắn lên tạo thành những ánh lửa đỏ vàng, vừa hiện
chớp lòe đó đã tan biến vào nền trời đen thẫm. Có tiếng chân người chạy
sầm sập dội theo tiếng la rượt đuổi. Đâu đó có một giọng đàn ông hét
lên: “Đứng lại, đứng lại!” Rồi một tiếng đàn ông khác có vẻ như nhắm vào
chúng tôi: “Chạy đi, chạy đi, đừng ngồi đó!” lại một hoạt cảnh của trò
chơi vượt biên. Tôi đã quá quen với cảnh này, lập tức quay vào trong,
gọi Nam Phương. Nàng quơ vội hai cái túi của hai chúng tôi, dồn vào làm
một rồi leo nhanh xuống. Tôi xách cái túi, một tay dắt nàng, vòng ra sau
căn chòi, chạy sâu vào rừng. Không có con đường nào rõ rệt cho chúng
tôi đi. Chỉ thấy khoảng trống ở đâu, chân chúng tôi dẫm lên chỗ đó. Gai
góc. Sình lầy. Đất trũng. Cỏ ướt. Rễ cây chằng chịt. Bụi rậm um tùm.
Những cây khô trơ cành. Những con thú lớn nhỏ vùng chạy hoặc chui rúc
vào hang. Muỗi từ đâu bay từng đàn, rượt đuổi theo chúng tôi nghe vo vo.
Một khoảng đồng lúa xạ. Một dải đất trống khô dờn dợn những sóng cát.
Tôi vừa chạy vừa ngước nhìn sao để dò đoán phương hướng. Nhưng mây mù
che kín nền trời, chẳng làm sao nhắm hướng được, đành chạy tới, chạy
tới. Có lẽ chúng tôi đang chạy ra biển. Biển ở đâu mà nghe sóng dội từ
cả hai ba phía. Tiếng sóng ì ầm như thịnh nộ. Gió đông từ biển ào ào
cuốn vào, thốc tung những bụi đất quất vào chúng tôi đau rát. Thỉnh
thoảng có một cơn trốt xoay tít như con vụ chạy lòng vòng trên đồi cát
rồi chui rúc vào rừng sâu, khua lá rào rạo. Bất giác, tôi thấy cảnh vật
trước mắt tôi có vẻ gì quen thuộc. Hay là cuộc đuổi chạy quen thuộc. Hay
là một thứ tâm trạng quen thuộc. Nó không giống cuộc đuổi chạy mà tôi
cùng Mộng Huyền trải qua trong rừng điều Bà Rịa. Nó giống những cuộc
đuổi chạy nào đó từng tái diễn trong quá khứ lịch sử xa xăm.
Kể ra thì chúng tôi đã chạy với một tốc độ khá nhanh.
Còn trống đường phía trước thì còn chạy tới. Còn nghe tiếng người phía
sau thì chưa dám ngừng chân. Cuối cùng, chúng tôi giáp mặt với biển đen.
Chúng tôi đang đứng ở bờ biển, trên một vùng đất mềm, có vẻ như chỉ là
cát, chỗ thì khô ráo, chỗ thì ẩm ướt. Đây có lẽ là doi đất bồi do những
luồng gió xuôi ngược tạo nên. Chung quanh không thấy nhà cửa. Tít ở phía
xa, giáp với cánh rừng đước, mới có một vài nóc gia im lìm. Biển đen
như màu đêm. Đất cũng đen màu đêm. Chỉ có những cơn sóng dồn dập kéo vào
bờ là tung lên những bọt trắng, đôi lúc chập chờn như bóng ma trơi. Hết
lối đi rồi, tôi kéo tay Nam Phương bước dọc theo bãi biển cong ngược ra
phía đại dương. Bờ biển ở đây không giống bờ biển mà tôi nhìn quen ở
Nha Trang—vì bãi Nha Trang thì cong vào, đầu bãi cuối bãi như hai cánh
tay dang ra để ôm lấy đại dương. Nam Phương vừa bước theo tôi, vừa quay
nhìn sau để xem còn ai rượt đuổi không. Một lúc, nàng thút thít khóc.
Tôi kéo nàng đến ngồi dưới một gốc cây tràm khô chết mà các cành nhánh
đã bị cắt tỉa trụi lủi, chỉ có khoảng gốc sần sùi nằm chơ vơ nghiêng đổ
trên nền cát. Chúng tôi ngồi thấp phía dưới ngó ra biển, gốc tràm lớn
che phía lưng. Nam Phương tiếp tục khóc. Tôi dỗ rồi ôm lấy vai nàng.
“Đừng sợ. Chắc không sao đâu. Để sớm mai mình tìm cách quay về.”
“Khang ơi, em không sợ cho em đâu, em chỉ sợ cho anh.
Người ta có bắt em về tội vượt biên thì cũng trong vòng vài ba tháng là
thả, nhưng nếu bắt được anh, họ sẽ... Ôi, em lo quá! Họ đang truy nã
anh, thế nào rồi họ cũng nhận ra anh. Làm sao đây Khang?”
“Không sao đâu, đừng sợ, đừng khóc nữa, em à. Không phải
lúc nãy em vừa nói em tin rằng không có sức mạnh nào hủy diệt được anh
hay sao? Nín đi. Chuyện gì tới thì tới. Bây giờ ngồi đây ngắm biển đêm
với anh đi. Chao ôi, muỗi nhiều quá! Em có bị cắn không? Em lạnh hả? Để
anh lấy tấm y của anh ra đắp há!”
Tôi soạn giỏ xách lôi tấm ca-sa, trùm kín cho cả hai.
Nàng cũng soạn lấy thuốc xoa trừ muỗi, xịt lên tay rồi xoa lên tay chân
tôi, tay chân nàng. Dù vậy, muỗi vẫn cứ bay lòng vòng, đảo tới đảo lui
trên đầu chúng tôi, cố gắng tìm chỗ hở để tấn công. Lúc ấy có sấm chớp
ngoài khơi, trên trời thì mây giăng đen kịt. Tôi ước có một cơn mưa
giông kéo tới để may ra xua được đàn muỗi hung tợn mà con nào con nấy to
gần bằng con ruồi. Bị hàng triệu giọt mưa rơi trên người e còn dễ chịu
hơn hàng ngàn con muỗi bám vào thân. Quả nhiên, khi vừa nhìn thấy những
vệt đèn pin từ phía sau, chỗ bìa rừng, quét qua quét lại, tôi nghiêng
người kéo Nam Phương rạp thấp xuống, thì ngay lúc đó, gió càng lúc càng
mạnh, đã xua muỗi cho chúng tôi, và cuối cùng thì một cơn mưa như trút
nước đổ ào xuống. Chỉ thoáng chốc, cả hai chúng tôi ướt như chuột lột.
Tôi kéo tấm ca-sa lên phủ đầu, choàng tay ôm kín vai lưng Nam Phương.
Nàng cũng gục xuống ngực tôi, vòng hai tay ôm lấy người tôi. Chúng tôi
đều lạnh run. Đất dưới chân chúng tôi ướt nhanh và nước mưa cùng với
nước biển dâng lên, nhanh chóng trở thành một bãi nước lênh láng. Mưa
rơi rào rào, đâu đó vẫn còn sấm chớp đì đùng và biển vẫn tiếp tục dậy
sóng. Tôi phải hét lên để hỏi Nam Phương:
“Chạy vào chỗ rừng cây kia không?”
“Không, vào đó cũng bị họ bắt thôi. Họ bắt trễ chừng
nào, mình còn gần nhau được chừng đó. Chi bằng ngồi đây với anh. Khang
ơi, chắc không thoát đâu, em thấy đèn pin của họ ở hướng đó mà. Thôi,
ngồi đây đi. Em thích ngồi bên anh.”
Tôi cảm động ôm siết vai nàng. Tôi không biết nàng có
khóc không, nhưng tôi khóc khi nghe nàng chấp nhận ngồi lại bên tôi, chờ
bị bắt. Nước mắt tôi rơi trên tóc nàng, hòa với những giọt mưa liên tục
chảy trên dòng tóc ướt. Rồi chúng tôi rời đất, ngồi hẳn lên gốc tràm để
tránh nước tràn ngập dưới chân. Tôi biết nếu những người công an đang
rượt đuổi mà còn đứng nấp dưới những tàng cây nơi bìa rừng, có thể họ sẽ
trông thấy được bóng dáng chúng tôi khi có sấm chớp lóe sáng từ hướng
biển. Cũng có thể họ đã rời khỏi nơi đó trước khi mưa đổ xuống. Nhưng
chúng tôi không cần biết họ nữa. Chúng tôi im lặng ngồi ôm nhau, qua
những lằn nước mưa chằng chịt đan nhau, nhìn ra biển, nhìn bầu trời đen u
ám, và những lằn điện xé rách trời để phóng mình xuống lòng biển khơi.
Bất chợt nàng quay mặt ngước nhìn tôi, hai tay bá lấy cổ tôi kéo thấp
xuống, hôn khắp mặt mũi tôi, một cách vội vã, tới tấp, cuồng nhiệt, hôn
như từ biệt, hôn như sợ mất, hôn như níu kéo... Tôi cũng hôn lại nàng,
say đắm, tham lam, mê muội, hôn nhanh như mưa xuống, như chớp lòe, như
gió lốc, như nước cuốn phăng phăng... Tôi thấy nàng là đất dang vòng tay
bao dung chịu đựng và ban phát. Tôi thấy tôi là trời cao cúi xuống
thấp, hút lấy tinh mật của muôn hoa trùng trùng vươn dậy. Đất trời níu
nhau, gió cuốn, mưa rơi, rừng thấp, mây cao, đảo xa và biển gần, chẳng
thấy đâu là bờ bến chia biệt. Và thêm một lần nữa, nước mắt chúng tôi
theo nhịp mưa mau, rơi từng dòng, gởi theo mưa ra lòng biển lớn. Chúng
tôi yêu nhau, ôm siết nhau, luôn luôn trong giọt lệ nóng chảy xuống cuộc
đời khổ đau quằn quại. Chúng tôi không có những hạnh phúc cá nhân.
Chúng tôi không có những khổ đau cá nhân. Chúng tôi cười và khóc trong
dòng sinh ly tử biệt trùng trùng bất tận của trái đất này.
Dải đất này, không phải của tổ tiên chúng tôi. Tổ tiên
chúng tôi đến từ phương bắc, tiêu diệt hoàn toàn những chủng tộc bản xứ
nơi đây để giành đất cho các thế hệ con cháu chúng tôi. Chúng tôi may
mắn được thừa hưởng và có bổn phận gìn giữ bởi vì công lao và xương máu
của tổ tiên chúng tôi đã đổ xuống rất nhiều; nhưng máu xương và nước mắt
của những người dân bản xứ Chiêm Thành thì nhiều hơn. Đất này chỉ toàn
là máu, là xương, là nước mắt, là tủi nhục, là uất hờn. Chúng tôi kính
nhớ tổ tiên nhưng chúng tôi thấy bất công, đau xót cho những phận người
vô tội, già trẻ lớn bé, đã kinh hoàng và uất hận, rùng rùng kéo chạy
trong bao cơn loạn lạc để tìm đất sống và cuối cùng đã nằm xuống đất
này, làm chất phân bón để nuôi lớn những nghiệp chướng oan khiên, tang
thương tàn khốc, trút lên số phận những người đến sau. Thù hận, chiến
tranh, chết chóc, cứ vậy mà tái diễn như vận hành của nước đầu nguồn
tuôn ra biển, từ bắc lấn vào nam. Ra đến biển thì trở lại đầu nguồn. Vào
tận cùng phía nam thì tái sinh lại ở bắc. Cái vòng lẩn quẩn đó không
bao giờ chịu dừng lại.
Và riêng tôi, giờ này đang ở chỗ tận cùng bờ cõi của đất
nước phía nam, với hai tay sắp bị trói lại, vẫn chưa hiểu ra là tôi có
thể làm được gì khi đi về phương nam theo sự thúc đẩy của thầy mình năm
xưa, và có lẽ trong những ngày sắp tới, tôi vẫn không hiểu được trọn vẹn
ý nghĩa tột cùng của giấc mộng phương nam ấy. Nhưng trong nỗi xúc cảm
sâu lắng rưng lệ của một người đứng trước biển rộng đen ngòm và ách nạn
đuổi tới sau lưng, tôi như nghe được tiếng khóc than ai oán hờn tủi của
cả một dân tộc bị diệt chủng năm xưa lồng theo tiếng mưa gào gió thét.
Tôi quỳ xuống thềm cát lai láng nước, cất lên thệ nguyện của mình: xin
kể từ hôm nay, thay mặt cho tổ tiên và cha anh nhiều thế hệ, sám hối với
những mạng người vô tội đã chết oan khuất trên khắp dải đất quê hương.
Nước mắt tôi đây, và cả sinh mệnh tôi đây, xin rơi xuống, xin chấp nhận
nằm xuống, để rửa sạch tất cả oan khiên nghiệp chướng ấy.
Cơn giông đã qua. Mưa đã tạnh và trời quang đãng. Ngôi
sao Mai vừa xuất hiện trên nền trời nửa đen nửa tím. Đâu đó ở phương
đông, đã thấy ánh hồng dần dần lan tỏa báo hiệu bình minh sắp ló dạng.
Nhìn sao Mai chớp sáng trên bầu trời cô tịch, tôi bây giờ mới sực hiểu
rằng sự xuất hiện của những vì sao không đánh động tình cảm và lý trí
thông thường như mặt trăng, mặt trời. Chúng nhảy múa để réo gọi sự phát
chiếu toàn vẹn của một thứ trí tuệ trong ngần vượt thoát khỏi mọi trói
buộc của trần gian.
Sự vật muôn đời vẫn thế, vắng lặng như sao trên trời
quạnh. Chính cái tâm đã cột trói thế giới thì cái tâm ấy sẽ cởi trói cho
thế giới. Mà thực ra, cũng chẳng có sự trói buộc nào cần phải tháo mở.
Có cái gì trói buộc được một cái tâm vắng lặng, giải thoát? Không có sự
cột trói và cởi trói. Không có sự giam cầm và thoát ly. Không có khổ đau
và hạnh phúc. Không có thiện và ác. Không có giả và chân. Không có sinh
và tử. Không có địa ngục và niết bàn. Không có bất cứ cái gì cần phải
thoát ra cả. Tôi ở đây, sống trên cuộc đời này, lao xao nói cười, làm
việc, tranh đấu, tu tập, yêu đương, mong đợi, tìm cầu, hạnh phúc, khổ
đau... nhưng luôn luôn, lúc nào cũng vậy, ở trong tôi, trên tôi, là
phương trời cao rộng kỳ tuyệt ấy.
Mặt trời vừa bừng lên thì từng đàn muỗi từ phía rừng
đước đã ùn ùn kéo đến. Chúng tôi có thể nghe được tiếng đập cánh rào rạo
của chúng và nhận dạng chúng từ xa như những đám mây đen nhỏ, lao
nhanh, lúc cao lúc thấp, hướng về chúng tôi. Chúng tôi đứng dậy, quay
nhìn về hướng rừng. Cách chúng tôi chừng năm trăm thước, một nhóm du
kích và công an xách súng, vừa chạy tới, vừa la lối với giọng hằn học,
nghiêm trọng lắm. Mũi súng hướng về chúng tôi.
Tôi đưa tay chậm cho khô giọt lệ cuối cùng còn đọng trên
khóe mắt Nam Phương. Chúng tôi ôm nhau một lúc ngắn, rồi khoác chung
tấm ca-sa, nắm lấy tay nhau, hướng về phía những người cầm súng. Bước
tới.
No comments:
Post a Comment