Monday, November 2, 2015

VĨNH HẢO * CỞI TRÓI IB

CỞI TRÓI I 
(PHƯƠNG TRỜI CAO RỘNG 4)
truyện dài của Vĩnh Hảo
Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1997

coitroi1 

MỤC LỤC




CHƯƠNG TÁM


Nghe nhắc đến tên Như Tâm, nàng “a” lên một tiếng rồi gật đầu tỏ dấu như thể nàng đã hiểu chuyện gì rõ ràng lắm giữa tôi và Như Tâm vậy! Rồi im lặng một lúc, nhấp ngụm cà phê, lại nhấp một ngụm trà, nàng hỏi tôi, Như Tâm làm thế nào mà quen tôi.

Ó 

Thời gian trú ẩn trên căn gác nhỏ ở nhà bà Bàng, thỉnh thoảng tôi lại phải cải trang bằng bộ âu phục, với đầu tóc dài hơn hai tháng chưa cạo chụp lên một cái mũ lưỡi trai, đạp xe chạy một vòng đến mấy chỗ quen, tìm đường vượt biển. Mỗi lần đi như thế có thể từ sáng sớm khi khu xóm chưa thức giấc, hoặc vào giấc trưa vắng người, cho đến xâm xẩm tối mới về tới. Vì bà Bàng ít khi vắng nhà nên tôi đi đâu cứ đi, tối về thì có bà ra mở cửa. Nếu về bấm chuông mà lỡ không có bà thì đạp xe đi thêm một vòng, tìm một công viên hay quán nước nào đó, ngồi chờ. Nhiều lần như vậy đã quen, cả bà Bàng lẫn tôi đều thấy cần thiết là phải cóp-pi thêm một chìa khóa cửa sắt cho tôi.
Tối hôm ấy, sau một ngày đi vắng, tôi về bấm chuông. Chuông vừa mới bấm đã thấy tiếng chìa khóa tra vào ổ, vặn lách cách, rồi cánh cửa sắt được mở ra ngay. Tôi hài lòng về sự mau mắn hôm nay của bà Bàng vì mọi khi bà càng chậm tôi càng khổ–vì đứng chờ lâu ở ngoài chỉ tổ làm cho người ta chú ý, biết đâu có người báo cáo công an. Nhưng ngước nhìn lên lại thấy người mở cửa không phải là bà Bàng mà là một ni cô trẻ tuổi, trạc tuổi tôi. Cô gật đầu chào tôi, hơi tránh qua một bên, hỏi với giọng Huế nhỏ nhẹ:
“Phải thầy Khang không?”
“Dạ, phải,” tôi đáp.
“Dạ cái chi mà dạ. Bộ đây không biết Khang là ai sao mà dạ lễ phép y như là phật-tử rứa!”
Tôi cười, không nói, nhấc xe đạp, đẩy vào trong. Chưa kịp dựng xe để quay lại đóng cửa, tôi đã nghe tiếng những cái bánh xe nhỏ nghiến trên đường rây của cánh cửa sắt xếp. Cô ấy đã mau mắn làm công việc ấy rồi. Cô bước đến gần tôi, nói:
“Khi nãy đến chơi, tính về rồi nhưng bác Bàng giữ lại, nhờ coi nhà giùm để chờ thầy về mà mở cửa cho thầy vô. Bác Bàng phải đi công việc chưa biết khi mô về.”
Tôi cám ơn cô rồi bước nhanh vào nhà sau, leo bậc thang dẫn lên căn gác gỗ. Thay vội bộ âu phục thành bộ đồ tu xong, tôi ngồi nơi bàn đọc sách. Tôi và cô ấy không quen biết, tôi ngại phải bước xuống nhà dưới để tiếp cô. Vả lại, cô ấy không phải là khách của tôi, mà tôi cũng chẳng phải là chủ nhà, đâu có lý do gì để tôi phải xuống. Tưởng vậy là xong, chuyện ai nấy làm, đường ai nấy đi, nhưng không, tôi nghe có tiếng chân leo lên bực thang và sau một lúc ngập ngừng, ni cô xuất hiện ở cửa phòng. Tôi quay nhìn cô, chào. Cô đứng tựa ở bậc cửa, nhoẻn miệng cười rồi nói tự nhiên:
“Chắc Khang không biết đây là ai mô, nhưng Khang thì ai không biết. À, thầy Nguyên Hỷ có nhắc Khang biết là có một ni cô muốn lên kinh tế mới thăm Khang không?”
“Thầy Nguyên Hỷ hả? ờ…ờ…có nhắc, nhưng lâu quá không nhớ lắm.”
“Tệ ghê, cả thầy Nguyên Hỷ và Khang có ai thèm để ý gì người ta đâu. Là như ri, hôm đó thầy Nguyên Hỷ có nói sẽ lên chùa Long Quang kinh tế mới ở chơi với Khang một tuần. Nghe vậy tôi hỏi có phải Khang viết cuốn Mây Ngàn Nhẹ Bay không, thầy nói phải, tôi liền xin đi theo để biết tác giả, nhưng thầy nói đường lên kinh tế mới cực khổ lắm, phải lội bộ mấy cây số bụi bặm ngút trời… nên nhất định không cho đi theo. Chứ nếu đi hôm đó thì bây giờ là người quen rồi.”
“Ừ thì quen trước quen sau chi cũng vậy thôi mà! Cô là…”
“Như Tâm,” cô đáp nhanh, rồi hỏi tiếp, “Khang có nghe thầy Hỷ nói chứ hỉ?”
“À, có, có nghe, hình như cô ở chùa… Hoa Nghiêm?”
“Đúng rồi!” cô reo lên, giọng vui lắm, “Khang biết không–à, cho Như Tâm gọi bằng Khang, được không, chứ gọi bằng thầy nghe xa lạ quá. Khang là bạn của thầy Nguyên Hỷ thì cũng như bạn của Như Tâm thôi–cuốn truyện của Khang được chuyền tay khắp các chùa sư nữ, từ Hoa Nghiêm, Huệ Lâm, Huê Lâm, Từ Nghiêm, Bồ Đề Lan Nhã… cho đến Chơn Không, Viên Chiếu ở Long Thành… không ai mà không đọc, không ai đọc mà không thích. Như Tâm cũng đọc từ năm kia, có chép lại một số đoạn hay mà đọc đi đọc lại. Chao ôi, đọc mà cười, cười rồi khóc. Như Tâm cứ ước ao có ngày gặp được cái nhân vật xưng tôi trong truyện... ước ao là phải chi những lúc nhân vật ấy gặp hoàn cảnh hoạn nạn khổ sở như trong truyện, sẽ có Như Tâm bên cạnh chăm sóc, giúp đỡ… Thực đó, sau này lại nghe thầy Nguyên Hỷ nói Khang bỏ chùa Già Lam đi kinh tế mới, Như Tâm càng mến Khang nhiều hơn, Như Tâm muốn gặp Khang ghê nơi! Gần đây nghe đồn Khang bỏ kinh tế mới vì chuyện hoạt động chính trị, phải lang thang ẩn náu ở Sài Gòn, Như Tâm thấy xót xa làm sao… Như Tâm cũng có ý muốn gặp Khang để xem có giúp gì được cho Khang không nhưng biết Khang ở đâu mà kiếm; bất ngờ khi nãy tình cờ ghé thăm bác Bàng, nghe bác nói là Khang ở đây, Như Tâm giật mình… không ngờ cuối cùng Như Tâm cũng gặp. Thực Như Tâm vui hết sức đó.”
Tôi cười nói:
“Không gặp thì tốt hơn đó cô. Ai gặp tôi chỉ thấy phiền thôi, nhất là vào thời gian này.”
“Khang đừng nói vậy. Tâm tư của Khang và những chi Khang muốn làm hay đã làm, ai chẳng hiểu! Có những điều mà người ta muốn nói nhưng không nói được thì Khang đã nói thay cho họ trên giấy mực, có những điều mà người ta muốn làm mà không làm được, Khang đã thay họ một mình đứng ra làm và gánh hết…để đến nỗi như vậy… Như Tâm gặp Khang hôm nay lỡ có bị vạ lây thì cũng lấy làm điều vinh hạnh chứ có chi mô mà Khang nói phiền…”
Cô nói đến đó thì nghẹn, rồi nước mắt rưng rưng. Cô quay mặt ra ngoài, lấy khăn tay ra chậm nước mắt. Tôi chỉ biết im lặng, không nói được một lời. Khổ quá! Số tôi sao lạ, cứ mỗi lần tiếp xúc với các ni cô thì lại làm cho mấy cô khóc. Tôi có nói gì đâu, chỉ mấy cô nói, rồi mấy cô khóc! Chú Đức bạn tôi có hai người em gái đi tu, một cô tên Nguyên Anh, một cô tên Nguyên Xuân. Mỗi lần gặp tôi–có khi cô chị, có khi cô em, có khi cả hai–các cô tự động nhắc chuyện người anh, nhắc chuyện cuốn truyện của tôi, rồi tự động khóc rưng rức. Mà nếu cảnh đó diễn ra trước mặt một người nào đó thì tôi dễ bị hàm oan biết bao! Một thầy tăng và một ni cô đang nói chuyện với nhau thì ni cô khóc, vậy nghĩa là làm sao! Người ta chỉ ngó tôi lườm lườm rồi bỏ đi chứ có đứng lại hỏi để tôi có cơ hội giải thích đâu!
“Cô vui lên đi chứ không thôi bác Bàng về thấy, tưởng đâu tôi chọc ghẹo gì cô đó nghe,” cuối cùng thì tôi cũng phải lên tiếng.
Như Tâm bật cười, quay lại, vui ngay:
“Khang ở đây cần thứ gì thì nói Như Tâm biết nghe, đừng ngại, xem Như Tâm như bạn, hỉ? Nghe bác Bàng nói Khang đang lo đi vượt biên, chắc cũng cần đóng tiền cho người ta… Chuyện đó Khang lo tới đâu rồi? Nói Như Tâm nghe được không, để coi Như Tâm có phụ giúp chi được cho Khang không?”
“À, cũng đang chờ. Chưa biết lúc nào thì đi. Mọi chuyện lo hết rồi, chỉ chờ họ gọi thôi. Không phiền cô đâu.”
Cô đứng im, nhìn tôi, có vẻ suy nghĩ gì đó, rồi nhìn bâng quơ, rồi cô “vén tóc” mai. Vâng, cô vén tóc mai hay làm một điệu bộ tương tự như vậy. Cái mũ ni (tôi tạm gọi như vậy thay vì nói cái khăn đội đầu của mấy ni cô) là một miếng vải có hình thù như thế nào đó (mà tôi không làm sao biết được), khi trùm trên đầu, chit lại ở sau ót (bằng cách nào đó), sẽ thả xuống hai bên tai hai “cánh vải” như thể hai lọn tóc dài của các thiếu nữ thế tục; viền khăn phía sau thả xuống khỏi vai và hình như cũng được cắt theo hình dạng cong cong của mái tóc thề hay mảnh trăng hạ huyền. Rõ ràng là tôi thấy thỉnh thoảng cô lại vén cái “cánh vải” bên tai, hất ra sau, như cách một thiếu nữ thế tục vén tóc mai. Và đây là lần đầu tiên, tôi biết rằng có lẽ đa số ni cô dù đã xuất gia, cũng không bỏ được căn tính làm dáng của phái đẹp… Không có tóc thì họ cũng có cái khăn để vén, để hất ra sau, để vuốt…(Nói vậy không phải là chấp nhất, muốn các cô phải từ bỏ hết những điệu bộ nữ nhi, vì nếu điệu bộ các cô cũng thẳng đuột, khô khan, cứng nhắc như các thầy tăng thì…đâu là chỗ phân biệt và giới hạn giữa tăng ni nữa! Cái bình đẳng “ngay chừ” trên phương diện phái tính như thế dường như đâu phải là điều mà những con mắt nghệ thuật mong đợi trên thế gian này!)
Thấy điệu bộ làm dáng một cách tự nhiên của cô, tôi chợt có cảm nghĩ rằng hình như sự xuất gia của các ni cô đơn giản chứ không giống như tôi. Các cô vào chùa, cạo đầu ăn chay, sống đạm bạc không se sua, giữ giới luật và nội qui thật nghiêm chỉnh, tụng kinh đọc sách…gặp những thầy tăng có thể kết bạn được như tôi thì cứ kết bạn, kết bạn để nói chuyện đạo lý, văn chương…lòng không bợn chút tình duyên, cuộc sống nhà chùa êm đềm trôi, cứ thế mà tuần tự tiến đến niết-bàn, đơn giản như từ ni phòng bước lên chánh điện để tụng kinh. Dường như các cô đâu có nhu cầu giải thoát sinh tử, đốn ngộ nhập đạo…như các thầy tăng. Tự bẩm chất, từ căn tính tiềm tàng ngay từ khi lọt lòng, không phải rằng các cô dã cưu mang sẵn trong người cái chức năng làm mẹ, có nghĩa là sản sinh và hiến dâng tình cảm, chăm sóc tận tình kẻ khác đó sao? Với chức năng ấy, các cô vẫn hàm hữu cái quyền năng sáng tạo như một đấng Thượng Đế, nên đâu cần thắc mắc tìm cầu một cái gì bí nhiệm thẳm sâu. Các cô không cần thực tập từ bi quán để phát triển niềm thương yêu rộng lớn: vốn liếng thương yêu cúa các cô chỉ cần chuyển đối tượng là trở thành từ bi ngay! Các cô cũng đâu cần loay hoay đào xới ý nghĩa của sinh tử hay diệu lý của Tánh Không. Các cô đâu cần giải thoát! Chỉ những kẻ đa đoan nhiều chuyện như tôi, lúc nào cũng thấy cô đơn trơ trọi không vừa ý với cảnh đời huyễn mộng, lúc nào cũng muốn tìm biết cái căn nguyên sản sinh ra mình để rồi chạy rông trên bao ngả đường phương tiện, từ chối thực tại để vói lên, hướng lên, ước vọng, mong cầu, lục lọi tìm hiểu, phân tích, phán đoán, so đo…mới cần giải thoát mà thôi.
Trong khi tôi suy nghĩ bậy bạ như vậy thì Như Tâm cũng đang suy nghĩ gì đó. Chúng tôi cứ thế mà im lặng khá lâu. Đột nhiên cô nhoẻn miệng cười với tôi rồi lặng lẽ rời bậc cửa, xuống cầu thang. Một chốc, cô quay trở lại, bước đến chỗ bàn tôi, nói giọng thân mật:
“Khang ơi, Như Tâm phải về, Khang nói lại với bác Bàng giùm nghe. Nội qui của chùa Hoa Nghiêm gay lắm. Như Tâm muốn ngồi nói chuyện thêm với Khang một chập nhưng thôi để dịp khác. Như Tâm về nghe.”
“Chào cô,” tôi đáp.
Trước khi quay đi, cô để lại trên bàn một cái bì thư, bên ngoài đề tên người nhận là tôi, tên người gởi là cô. Cô không giải thích gì về cái bì thư đó, biến thật nhanh nơi cửa.
Những ngày kế tiếp, cô thường xuyên đến thăm tôi và luôn dẫn theo một ni cô khác nữa. Theo luật chùa thì ni cô đến thăm chùa thầy tăng phải đi hai người trở lên, thầy tăng đến thăm chùa ni cũng phải đi ít nhất hai người. Các cô giữ luật đó để đến thăm tôi. (Lần trước sở dĩ chỉ có mình cô gặp tôi là vì cô đến để thăm bà Bàng chứ không biết có tôi ở đó). Ni cô bạn của Như Tâm cũng người Huế, có vẻ lớn tuổi hơn một chút, tên là Như Nguyệt. Mỗi lần các cô đến đều có mang theo thức ăn chay, một vài món quà gì đó cho tôi, và cả sách đọc nữa. Các cô ở chơi khá lâu, đến giờ ăn thì yêu cầu bà Bàng dọn một mâm, mời tôi ngồi chung cho vui. Thường thì bà Bàng bưng cho tôi một mâm cơm chay, để tôi ăn một mình trên gác. Nay ngồi ăn chung, tôi không tự nhiên. Như Tâm tự tay bới cơm và gắp thức ăn cho tôi. Tôi thật ái ngại cứ nhìn chừng bà Bàng xem bà có phản ứng gì. Bà Bàng người Huế, ăn chay trường, suốt ngày tụng kinh niệm Phật, tôi nghĩ là khó tánh lắm, có thể không vừa lòng cái chuyện ni cô chăm sóc một thầy tăng quá đáng. Nhưng không, bà vui vẻ nói:
“Thầy Khang là rứa đó mấy cô ơi, suốt ngày im lìm, ăn uống lại ít, bao nhiêu ngày ở đây thầy chỉ nói với tôi vài câu. Tôi cứ sợ thầy buồn mà không biết làm sao. Tuần trước đem cái cát-xét ra-đi-ô để thầy nghe đài cho khuây khỏa, mà rồi cứ thấy thầy lặng lẽ buồn buồn làm sao ấy…Cái chuyến đi hôm nớ, mấy cô biết không, mạng thầy lớn lắm, không chịu đi, rồi sau ghe chìm chết hết…Từ đó, thầy càng buồn hơn. Bữa giờ có mấy cô đến chơi, thầy có bạn mới vui được chút chút đó. Gắp thêm món ni cho thầy nè, cô Như Tâm. Đậu ni ai kho mà ngon rứa?”
Lần cuối cùng đến thăm tôi, Như Nguyệt ngồi trò chuyện với bà Bàng ngoài phòng khách, Như Tâm đứng ở bậc cửa phòng tôi, nói:
“Như Tâm đau xót cho Khang quá. Con người của Khang phải như đại bàng tung rộng đôi cánh trên trời cao chứ đâu có lánh hoài trong căn gác bít bùng này! Phải chi… Như Tâm có mặt bên Khang mỗi ngày để Khang có người nói chuyện cho đỡ buồn. Không, phải chi Như Tâm có thể giúp Khang rời khỏi nước. Khang ơi, có chuyến nào sắp đi nữa không? Nói cho Như Tâm biết để Như Tâm lo.”
“Thôi, cám ơn cô, tôi tự lo được, không sao đâu. Mấy cái bì thư cô đưa từ hôm đó đến nay, tôi còn để kia kìa. Tôi ở trong nhà như vầy đâu có tiêu xài chi mà cô lo.”
“Nhưng khi rời khỏi nhà, hoặc đi vượt biên, ít nhất Khang cũng có tiền dằn túi, lỡ có gặp chuyện chi thì đưa cho họ mà chuộc thân. Khang phải giữ thân Khang, đừng để họ bắt, khổ lắm, không phải chỉ khổ Khang thôi đâu. Những người thân và bạn bè của Khang cũng đau khổ theo đó Khang à. Nói thực Khang nghe, Như Tâm đang tìm chỗ cho Khang đi. Mọi chuyện để Như Tâm lo hết, khi nào sắp đi thì đến báo cho Khang. Nhưng nếu Khang có chuyến nào kêu đi liền… thì Khang cứ đi, cầm theo tiền này để phòng thân, qua bên nớ rồi thì nhớ liên lạc cho Như Tâm biết để mừng.”
Rồi cô lại đặt lên bàn tôi một phong thư có ghi tên người gởi người nhận như lần trước, xong là biến ngay. Đàn bà con gái như vậy đó, giỏi để dành tiền lắm, nhưng khi thấy cần tiền thì chi ra chẳng biết tiếc tay. Mấy ni cô thì không có nhiều nhu cầu như những cô gái thế tục (không phấn son, không trang sức vòng vàng, y phục…) nên chuyện để dành càng giỏi hơn nữa. Vài ngày sau tôi quyết định rời khỏi ngôi nhà ấy để tìm đường thoát hoặc tiếp tục hoạt động đấu tranh. Tôi gom hành lý đơn sơ của mình và nghe lời Như Tâm, tôi gom luôn cả mấy cái bì thư của cô gởi tặng, mang theo mà phòng thân khi gặp bất trắc. Đó là lần đầu tiên trên đời tôi nhận tiền và lặng lẽ chịu ơn một người bạn khác phái.
Đáng tiếc là số tiền ấy cũng như ân nghĩa ấy không bảo vệ tôi nổi. Tuần sau tôi đến chỗ Hân tá túc, và cuối cùng bị Hân sắp xếp gài bẫy cho công an Sài Gòn vây bắt tôi ngoài đường.

Ó 

Buổi tối, nhân đám tù chính trị có tiệc trà, tôi mang bánh, kẹo mè xửng Huế ra đãi cả phòng. Quà thăm nuôi tôi, giống như đồ ăn tráng miệng chơi, so với đời sống tù thì toàn là những thứ xa xỉ. Không có món nào là món quen thuộc với nhà tù cả. Mà vì là thứ xa xỉ, chúng có mặt dường như với mục đích chính là để biểu hiện sự chăm sóc của người bên ngoài hướng về tôi, và biểu hiện phần phẩm lượng của từng món quà chứ không nhắm vào cái thực tế cần thiết trong nhà tù là phần số lượng, dung lượng, trọng lượng…(Trong nhà tù cộng sản, tù nhân bị bỏ đói, thiếu dinh dưỡng, nên họ chỉ mong sao gia đình gởi quà vào thật nhiều; vì thế, cái bánh thì dở cũng được, nhưng phải to, bột ngũ cốc không cần ngon, chỉ cần nhiều…) Cũng may, phòng giam bấy giờ, sau đợt thả tù trước lễ Quốc khánh 2-9, chỉ còn khoảng bốn mươi người, nên chuyện đãi bánh kẹo cũng chẳng phải là điều khó khăn gì lắm. Người nào có bánh thì khỏi ăn kẹo mè xửng, và ngược lại. Vậy là đủ. Mỗi người được chút đồ ngọt chẳng là bao mà tôi có cảm tưởng là không khí trong phòng vui vẻ lên. Hay đó chỉ là ảo giác của một người đang được hạnh phúc?
Tôi hạnh phúc thật. Tối đó thật khó ngủ. Tôi cứ nằm suy nghĩ. Tại sao lại có tên Như Tâm ghi nơi hộp bánh dẻo ấy? Nét chữ đó rõ ràng là nét chữ Như Tâm, như tôi từng thấy trên mấy cái phong bì mà cô biếu tôi. Như Tâm hay gia đình tôi đã đi thăm nuôi tôi? Như Tâm đâu quen biết các chị tôi, vậy tại sao tôi gởi thư cho các chị tôi mà quà thăm nuôi lại có Như Tâm góp vào?
Hôm sau thức dậy sớm, bỗng dưng tôi lại có cảm giác cuộc sống tù của tôi đến lúc này mới thực sự được ổn định, không còn lo lắng nữa. Trong khi các bạn tù còn ngủ vùi, tôi đi dọc theo “phi đạo,” cứ đến vách đầu này thì quay đầu đi ngược về vách đầu kia. Vừa đi vừa tụng thầm thời kinh công phu mà nhà chùa thường tụng vào giấc khuya. Nếu có ai thấy thì cũng tưởng tôi đi bộ tập thể dục thôi chứ không ai ngờ là tôi dang tụng niệm và “làm các hành vi tôn giáo.” Cứ như vậy, kể từ hôm có thăm nuôi, sức khỏe tôi dường như được hồi phục nhanh chóng, và tôi thấy có đủ phấn chấn để đi bộ hàng trăm vòng mỗi ngày trên phi đạo của phòng giam. Khi bạn tù còn ngủ, tôi tụng kinh, khi họ thức và sinh hoạt ồn ào, tôi niệm Phật hoặc quán thoại đầu, tham công án thiền. Chỉ một thời gian ngắn, tôi thấy cả thân lẫn tâm tôi đều nhẹ hẫng. Tôi không còn nhu cầu giải thoát nữa thì phải. Giải thoát ra khỏi nhà tù hay giải thoát ra khỏi luân hồi, đối với tôi lúc đó, dường như đều chẳng có ý nghĩa gì.


Ó


Đợt thăm nuôi kế tiếp nhằm ngày 15 tháng 9, tôi không có thăm nuôi nên không biết rõ chuyện thăm nuôi nửa tháng trước là do ai đứng ra thăm, gia đình tôi đã thực sự nhận thư và biết tôi ở tù hay chưa. Những dấu hỏi trên nẩy lên trong ngày thăm nuôi, rồi cũng qua đi ngay. Tôi không bận tâm lắm vì thấy cũng chẳng quan trọng gì. Tôi tiếp tục hỏi tôi: “Ai là người niệm Phật?” thay vì thắc mắc ai là người thăm nuôi. Quả là thời gian ấy, với sự chú tâm ngày đêm vào việc tham thiền và niệm Phật bằng cách đi bộ trên phi đạo, tôi tưởng chừng không còn vấn đề gì trên cuộc dời này đáng làm tôi bận tâm nữa. Nhưng bất ngờ, vào ngày 19 tháng 9, cán bộ vào gọi tên tôi ra “làm việc.” Tôi không bận tâm đời thì đời lại bận tâm đến tôi.
Theo viên cán bộ dẫn đường đến bàn trực của khu trại, tôi bắt gặp Hiền anh tôi. Anh cũng bị gọi ra “làm việc” như tôi vậy. Anh em chúng tôi được sắp thành hàng một, cùng vài tù nhân khác, theo một anh bảo vệ đi vòng vo một lúc rồi được tập trung tại một dãy phòng vấn cung mà trước nay tôi chưa từng đến. Chúng tôi đứng chờ ngoài hiên. Anh bảo vệ vào trong. Thừa lúc ấy, tôi hỏi nhỏ anh tôi:
“Anh khỏe không? Đã trốn ngoài đó rồi sao lại bị bắt vậy?”
“Trốn lâu thấy êm quá nên mò về nhà chơi vài hôm, công an vào bắt. Còn Khang thì sao? Bị hồi nào vậy?”
“Bị bắt ngoài đường cách nay bốn tháng.”
“Lâu dữ vậy! Hèn chi ở nhà không biết tin tức gì hết! Vậy là chưa có thăm nuôi phải không?”
“Mới có hồi đầu tháng này. Anh thì sao?”
“Bị bắt ở nhà nên gia đình biết, có thăm lúc còn ở trại giam Nha Trang. Chuyển vào đây thì gia đình chưa biết. À, vụ của mình hình như có nội gián nên chúng nó biết hết trơn. Khang có biết là ai không? Suỵt, nó ra kìa.”
 Vài viên cán bộ thẩm cung, thay nhau bước ra nhận người, dẫn đi. Chỉ còn mình tôi đứng đó. Anh bảo vệ lấy tờ giấy ra nhìn lại một lúc, rồi dẫn tôi đi ra văn phòng chính của trại. Bước lên thềm cao, tôi thấy Phương đứng xớ rớ ở hiên chẳng biết đang làm gì. Không rõ công việc chính của cô là gì mà lúc nào đến đây cũng thấy có vẻ rảnh rang. Chắc là chỉ lo về y tế, khi không có việc thì rảo rảo ở các phòng để phụ giúp quét dọn, pha trà linh tinh cho ông trưởng trại, phó trại… Anh bảo vệ để tôi đứng lại ngoài hiên, bước vào một trong các phòng. Phương thấy tôi từ xa thì làm bộ như tìm kiếm anh cán bộ nào, thủng thỉnh bước tới gần, mỉm cười, hỏi nhỏ:
“Anh Khang khỏe không? Tay hết bị ghẻ chưa? Ô, hết rồi, hay quá,” cô nhỏ giọng xuống chút nữa, “bữa nay anh gặp cán bộ Bộ Nội vụ ở Hà Nội vào đó.”
Nói rồi cô lảng đi. Anh bảo vệ bước ra, ngang chỗ tôi, dừng lại nói:
“Anh đứng đây, sẽ có cán bộ trong phòng kia ra nhận.”
Anh bảo vệ vừa quay đi, đã thấy hai viên cán bộ từ căn phòng mà anh vừa rời khỏi, bước ra, hướng về phía tôi. Một già, một trẻ. Già thì khoảng gần sáu mươi tuổi, trẻ thì khoảng hai mươi chín, ba mươi, lớn hơn tôi chừng vài tuổi. Viên cán bộ già có bộ mặt nhăn nhó rất ư khó chịu, da ngăm đen; thấy tôi, ông quan sát nhanh từ đầu đến chân bằng cặp mắt sắc lẻm vô cảm, chẳng nói một lời. Anh cán bộ trẻ thì da dẻ trắng trẻo, có vẻ dân thị thành, mặt mày sáng láng, điển trai, anh có vẻ cởi mở, vui tính, gật đầu chào tôi, nói:
“Anh là Vĩnh Khang phải không?”
“Vâng, là tôi,” tôi đáp.
“Chúng ta vào trong này đi,” anh bước đi trước, hướng dẫn tôi. Viên cán bộ già bước theo sau lưng tôi.
Đây là một phòng vấn cung nhỏ, nằm cùng dãy với văn phòng ông Lâu trưởng trại mà tôi có vào cách nay gần hai tháng. Phòng chẳng bày biện gì ngay cả một bức tranh nhỏ. Chỉ có chiếc bàn gỗ và hai cái ghế đẩu vuông, đặt sát cửa sổ, cạnh cửa ra vào. Anh cán bộ trẻ vào trước, ngồi vào một ghế, còn lại ghế kia, anh mời tôi. Ông cán bộ già đứng xớ rớ một lúc rồi đi ra ngoài kiếm ghế, mang vào, đặt một bên anh cán bộ trẻ. Cả hai cùng ngồi đối diện tôi. Qua cách hai cán bộ ngồi vào bàn, tôi biết ngay anh cán bộ trẻ có chức vụ cao hơn. Nhưng anh lại đưa tay ra dấu, tỏ ý để ông cán bộ già nói trước. Ông cán bộ khó tính ngập ngừng một lúc rồi nhập đề:
“Trường hợp phạm tội của anh là một trường hợp phức tạp,” ông ngưng để tằng hắng, rồi tiếp với giọng quan trọng hơn, ‘thế nên mặc dù Sở công an thành phố Hồ Chí Minh lẫn công an tỉnh Đồng Nai đã kết thúc hồ sơ của anh, chúng tôi vẫn thấy còn một số yếu điểm chưa được giải đáp thỏa đáng. Chúng tôi muốn điều tra lại từ đầu để phanh phui ra các manh mối rối bù ấy. Thứ nhất, tên Nguyễn Hữu Thiện–cái người ký tên trong bản hiệu triệu quốc dân của lực lượng Phục quốc–là ai, hiện đang ở đâu? Anh nói anh không biết chỗ ẩn náu của ông Trần Văn Lương, thế còn ông Thiện? Nguyễn Hữu Thiện là ai? Thứ hai, sao lại có cái vụ anh Thiện Đắc đòi tự thiêu chống phá ngày 30 tháng 4 năm nay thế nhỉ? Anh Thiện Đắc đang ở Sài Gòn sao lại chạy lên Long Thành với anh rồi nảy ra cái ý tự thiêu chống đối chính quyền nhân dân? Có phải do anh xúi giục anh ấy không?”
Tôi bật cười:
“Tôi chẳng biết ông Nguyễn Hữu Thiện là ai. Tôi chưa hề gặp ông ấy. Tôi chỉ biết ông Lương. Khi truyền đơn in rồi tôi mới thấy tên ông Thiện ký ở dưới, mà tôi cũng không thắc mắc làm gì cái tên ấy. Nguyễn Hữu Thiện là ai mà chẳng được. Một người không đồng quan điểm với nhà nước, chống lại nhà nước, vậy thôi. Còn Thiện Đắc là bạn tôi, từ Sài Gòn lên Long Thành thăm tôi thì có gì lạ, có luật nào cấm bạn bè thăm nhau? Còn chuyện Thiện Đắc tự thiêu chống phá ngày 30 tháng 4 hả, không làm gì có chuyện đó.”
Viên cán bộ già đập bàn, đứng dậy quát:
“Anh đừng có ngoan cố! Cái tội của anh, bày đầu chủ mưu, không khai báo thành thật thì trước sau gì chúng tôi cũng đem bắn bỏ! Chúng tôi từ Hà Nội vào tới đây không phải để nghe anh giỡn mặt đâu nhé!”
Tôi ngước mắt, nhìn thẳng vào mắt ông, nói tỉnh:
“Các ông có từ cung vua, từ Hà Nội, hay từ trong rừng đến đây thì cũng thế thôi, đối với tôi chẳng đáng kể gì. Còn chuyện vấn cung, các ông hỏi, tôi biết gì nói nấy, hỏi đàng hoàng thì nói đàng hoàng, chứ còn nạt nộ với hăm tử hình thì đâu đáng cho tôi trả lời. Huống chi tu sĩ chúng tôi xưa nay vốn xem sanh tử như trò đùa, nếu các ông đem tôi ra tử hình thì xin cám ơn.”
Cán bộ già quắc mắt, giọng run lên:
“Bố láo! Anh thật là ngoan bướng, ừ để coi anh cứng đầu đến cỡ nào!” Ông quay qua anh cán bộ trẻ nãy giờ ngồi im quan sát, như dò hỏi ý kiến, thấy anh cán bộ trẻ không tỏ thái độ gì rõ rệt, ông quay qua tôi nói tiếp, “tôi không cần tử hình anh đâu, tôi lệnh cho lính nó cùm anh trong biệt giam cho rạc xương anh là đủ rồi.”
Cách ông cán bộ già sừng sộ hăm dọa còn một người khác ngồi im quan sát làm tôi nhớ lại gần hai tháng trước, có hai viên cán bộ cũng tiếp xử với tôi y hệt. Có lẽ đó là chiêu thức “vừa đánh vừa xoa” trong ngành công an. Rồi đây, ông cán bộ già sẽ ra ngoài, và anh cán bộ trẻ sẽ xin lỗi hoặc nói nhỏ nhẹ với tôi…Quả nhiên, tôi vừa nghĩ đến đó đã thấy ông cán bộ già bước nhanh ra ngoài. Anh cán bộ trẻ ngồi lại, chần chừ một lúc rồi cũng đứng dậy, bước ra theo, không quên nói với tôi:
“Anh ngồi đây chờ một chốc, chúng tôi trở lại ngay.”
Họ ra ngoài hội ý với nhau gì đó khá lâu. Còn lại một mình trong phòng vấn cung, tôi nhớ lại câu nói của ông cán bộ già về Thiện Đắc. Hóa ra Thiện Đắc bị bắt vì tội tự thiêu. Làm gì có chuyện này! Lúc cùng Thiện Đắc bị trói chung trên xe do Dũng áp tải từ trại giam T20 Sài Gòn đến trại giam B5 này, tôi không có cơ hội để hỏi xem tại sao anh ấy bị bắt. Các cán bộ hỏi cung tôi trước đây cũng chưa hề đả động gì đến chuyện Thiện Đắc, như thể chuyện của anh`và của tôi không quan hệ nhau. Cho đến hôm nay ông cán bộ già mới khơi chuyện Thiện Đắc với tôi.

Ó 

Vào một ngày tháng 8 năm 1984, tức là cách nay hơn một năm, nhân có vụ nhà nước chiếm chùa Từ Quang ở quận 10 để lập trường phổ thông cơ sở cấp I và II Điện Biên, Thiện Đắc từ Sài Gòn lên Long Thành tìm tôi nhằm lúc Hân cũng từ Sài Gòn lên ở chơi với tôi vài ngày. Thiện Đắc đến lúc tôi đang tụng kinh nên Hân tiếp anh. Trong khi chờ đợi tôi, Thiện Đắc và Hân làm quen và trò chuyện với nhau. Tụng kinh ra, tôi thấy họ vẫn còn say sưa thảo luận, có vẻ tâm đắc lắm. Thiện Đắc thấy tôi thì vui mừng nói ngay:
“Khang à, tôi có việc lên tìm Khang đây. Cũng hay, nãy giờ ngồi chờ Khang mà quen với anh Hân, nói chuyện thú quá. Khang biết không, thầy Nguyên Hiền trụ trì chùa Từ Quang ở đường Phan Thanh Giản vừa bị bắt hôm kia. Công an lôi thầy ấy ra xe chở đi vì thầy không chịu ký tên vào biên bản giao nộp cơ sở chùa Từ Quang. Khang nghĩ có tức không, ngôi chùa người ta lâu nay sinh hoạt bình thường tự dưng chúng vào nói rằng chùa này do tiền Mỹ-Ngụy xây dựng nên, phải giao cho nhà nước quản lý. Vừa lôi thầy trụ trì ra xe buổi trưa thì buổi chiều đã thấy dựng bảng hiệu trường Điện Biên. Rõ ràng là chúng đã chuẩn bị trước rất chu đáo! Khi nãy tôi có nói với anh Hân đây, anh Hân cũng đồng ý với tôi.”
“Thầy Thiện Đắc này nhiệt tình lắm Khang à,” Hân chen vào, “tôi có hỏi thầy sao công an đàn áp Phật giáo, chiếm dụng chùa chiền, bắt bớ tăng sĩ… mà mấy thầy cứ lặng thinh không chịu lên tiếng hay làm một cái gì! Thầy Thiện Đắc nói sao Khang biết không, nói rằng phải tổ chức biểu tình, tuyệt thực, tự thiêu… để đòi trả tự do cho tu sĩ các tôn giáo bị giam cầm cũng như các cơ sở bất động sản của tôn giáo bị nhà nước chiếm.”
Tôi cười, nói đùa với Thiện Đắc:
“Tự thiêu nóng lắm, Thiện Đắc ơi. Nếu không định tâm được thì chịu không thấu đâu. Tôi hỏi thực, anh có chịu tự thiêu không?”
Thiện Đắc cười:
“Tự thiêu cũng được thôi, nhưng… mình để dành chuyện đó cho những người nào tự phát nguyện, còn mình thì phải góp phần trong việc tổ chức biểu tình này nọ nữa chứ. Ai cũng đòi tự thiêu mà không có người đứng ra tổ chức, điều hành cho việc tự thiêu đó mang lại kết quả mong đợi thì có tự thiêu cả trăm người cũng vô ích thôi. Mình là mẫu người tổ chức mà, Khang có thấy vậy không?”
“Ừ, thì thầy lo tổ chức đi, khi nào cần người tự thiêu thì cứ đến đây tìm tôi,” tôi nói.
“Ấy, Khang đâu thể tự thiêu được. Khang cũng là người có óc tổ chức, công việc tự thiêu đâu phải của Khang!”
Tôi xua tay, nghiêm giọng nói:
“Tự thân mình không có ý sẵn sàng tự thiêu thì đừng nghĩ đến chuyện tổ chức tự thiêu. Thôi, đừng bàn chuyện ấy nữa.”
Dù tôi nói vậy, Thiện Đắc và Hân vẫn tiếp tục bàn thảo sôi nổi về cách tổ chức đấu tranh biểu tình chống lại nhà nước. Tôi im lặng ngồi nghe và nhớ lại trước đó vài tháng tôi cũng đã có ý định tự thiêu nhân khi nghe tin cộng sản sẽ đưa thầy Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát ra tòa và sẽ tuyên án tử hình. Nhưng chuyện tự thiêu ấy đã không hề xảy ra một phần là tôi nghe lời khuyên của Thượng tọa Đức Nhân và một vài người bạn thân nhất, phần khác là bởi lý do nào đó, cộng sản đã không đưa thầy Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát ra tòa xử vào năm 1984 ấy.
Xét lại câu chuyện “dự tính” tự thiêu của tôi cũng như câu chuyện “bàn tính” tự thiêu của Thiện Đắc, tôi thấy không có lý do nào mà công an biết được. Chuyện tự thiêu của tôi thì khỏi phải bàn tới, vì chỉ có vài người bạn thân của tôi biết chuyện đó nhưng cả Hân và Thiện Đắc đều không biết; còn chuyện “bàn tán” về tự thiêu của Thiện Đắc thì chỉ có Hân và tôi nghe được lúc đó. Như vậy, tôi bị bắt, Thiện Đắc bị bắt, thì người khai cái chuyện tự thiêu ấy nếu không phải Hân thì là ai? Còn nếu như không phải là Hân thì ắt kẻ đó phải là Thiện Đắc. Vâng, Thiện Đắc là một tu sĩ nhiệt tình nhưng có cái tật là nói nhiều quá. Có thể anh mang họa vào thân vì cái tật cố hữu của anh.
Nhưng tại sao vấn đề tự thiêu do Thiện Đắc bàn đã xảy ra từ tháng 8 năm 1984 tại chùa tôi tại Long Thành mà đến tháng 4 năm 1985, gần chín tháng sau, mới tiết lộ tại Sài Gòn mà lại mang một mục đích kỳ cục: “chống phá ngày 30-4-1985, kỷ niệm 10 năm giải phóng”? Nếu Thiện Đắc có nói nhiều về chuyện này thì anh cũng đâu nói rằng chính anh sẽ tự thiêu! Khi bàn với tôi và Hân, Thiện Đắc nói anh chỉ muốn đứng ra tổ chức một cuộc biểu tình lớn nếu có người phát nguyện tự thiêu mà thôi. Không có người tự nguyện làm chuyện đó thì Thiện Đắc cũng không làm gì được.
Như vậy, lý do ở tù của anh, tôi có thể đoán mập mờ rằng: có lẽ chỉ tại Thiện Đắc nói với Hân nhiều quá về các quan điểm và kế hoạch biểu tình của anh nhằm chống lại nhà nước cộng sản. Và phải chăng anh đặc tình trung thành là Hân, vào dịp lễ lớn này, không biết lấy gì báo cáo lập công nên đã phịa ra chuyện “tự thiêu chống đối ngày 30-4” và đẩy con người năng nổ, nói nhiều là Thiện Đắc vào tù?

Ó 

Anh cán bộ trẻ trở vào một mình. Lẳng lặng ngồi xuống, vừa móc gói thuốc thơm trong túi áo ra. vừa nói:
“Đồng chí Tuân hơi nóng tính, chắc không thích hợp để làm việc với anh. Thôi thì anh em trẻ chúng mình nói chuyện với nhau thoải mái hơn. Anh hút thuốc không? Không à. Tôi nghĩ là những người viết văn làm thơ hay như anh thì hút thuốc dữ lắm chứ.”
“Tôi biết hút thuốc, không nghiện, và tôi đã bỏ rồi.”
“Thế à, tiếc thật,” anh bật lửa mồi thuốc, “tôi là Tri, cán bộ Bộ Nội vụ. Tôi vào công tác miền Nam chỉ với một việc duy nhất là gặp anh, cho nên nếu anh giúp tôi hoàn thành sớm công tác để tôi về quê thì tôi cám ơn anh lắm. Chuyện chẳng có gì, Cũng là khai lại những gì anh làm trong lực lượng Phục quốc và hai câu hỏi mà khi nãy đồng chí Tuân đã nêu ra. Anh có thể trình bày cho tôi rõ ràng hơn được không? Trước hết là vụ ông Nguyễn Hữu Thiện, xưng là Chủ tịch của Lực Lượng Phục Quốc Nội Biên, trên cả ông Trần Văn Lương, trung tướng Tư lệnh Liên Quân Phục Quốc. Anh biết ông Nguyễn Hữu Thiện là ai không?”
“Không, tôi không biết ông Thiện. Chỉ thấy cái tên ông ký dưới bản hiệu triệu quốc dân.”
“Vậy trước đó, tức là khi chưa tiếp xúc với lực lượng Phục quốc, anh đã từng nghe qua tên Nguyễn Hữu Thiện bao giờ chưa?”
“Chưa.”
“Anh cố nhớ lại thử xem, cái tên ấy không quen thuộc gì với anh sao?”
Tôi suy nghĩ một lúc, đáp:
“Có lẽ là tên giả. Ừ, cái tên thì bao giờ cũng giả cả.”
“Anh nói sao? Tôi không hiểu.”
Tôi cười:
“Cái tên thì lúc nào lại chẳng giả.”
“Ý anh nói… những tên ký trong các văn kiện ấy đều giả cả à? Ông Lương là có thật mà, các bản khai của anh cũng như những người trong Phục quốc đều công nhận là có một ông Lương, họ Trần. Chỉ có ông Thiện thì… anh chưa khai rõ thôi.”
Ngay lúc Tri nói câu ấy, tôi mới sực thấy tên ông Lương và ông Thiện ráp lại với nhau có một ý nghĩa hay hay; và từ ý nghĩa này, cũng như từ ý niệm về một cái tên giả (giả danh – cái tên tạm mượn nơi sự gá hợp của các nhân duyên mà gọi, hoặc cái mà ta chỉ mượn ngôn ngữ để đặt tên, nói nôm na thì là một cái tên giả – đây là một thuật ngữ của nhà Phật nói lên quan niệm phủ nhận tính chất thực hữu của vạn sự vạn vật trên thế gian), tôi lái nghi vấn của Tri sang hướng khác, nói nửa đùa nửa thật:
“Lương với Thiện chỉ là một biểu tượng của lực lượng Phục quốc mà thôi. Chẳng có ông Lương hay ông Thiện. Chỉ có tính LƯƠNG THIỆN được Phục quốc nêu ra như là biểu trưng của tinh thần đấu tranh của lực lượng để chiêu tập nhân sự.”
Tri hơi giật mình một chút, có vẻ bán tín bán nghi, nhưng rồi cũng cười nhạt một tiếng:
“Anh chỉ nói vậy thôi chứ ai lại chẳng biết là có hai nhân vật mang tên Lương và Thiện. Trần Văn Lương chính là ông Trương Văn Lân đó, cứ nói lái là biết ngay; còn Nguyễn Hữu Thiện…những người bị bắt trước anh đều khai rằng, đó chính là anh, nếu không phải vậy thì là anh Hiền, anh ruột của anh.”
 Tôi bật cười lớn, một lúc, tôi nghiêm giọng nói:
“Không phải tôi chối cãi cái tên Thiện là vì tôi sợ đâu. Nếu Nguyễn Hữu Thiện đó là tôi, tôi nhận; trước giờ có điều gì tôi làm mà lại chẳng chịu nhận đâu. Các anh vấn cung tôi khỏe quá mà, tôi làm gì thì khai nấy, chỉ còn cái tên Thiện thôi thì có gì phải chối cãi chứ. Có điều đó là cái tên đặt ra làm biểu tượng, làm sao có thể tìm được con người cụ thể để thay vào đó! Nhưng nếu các anh cứ một mực ép tôi phải nhận cái tên Nguyễn Hữu Thiện thì cũng được đi, tôi nhận, cùng lắm thì các anh hủy trừ được cá nhân tôi thôi, chứ làm sao tiêu diệt được cái THIỆN của dân tộc! Bởi vì sau tôi, sẽ còn nhiều người mang tên THIỆN khác đứng dậy nữa. Không lý tiêu diệt hết à?”
Tri cười nhạt, thả điếu thuốc xuống nền, lấy chân dí đầu thuốc cho tắt rồi ngước lên nhìn tôi, chậm rãi nói:
“Tôi nói anh Khang nghe điều này nhé: cái lẽ đúng-sai, chính-tà, thiện-ác…chắc chắn tôi sẽ tìm cơ hội thảo luận với anh trước khi về lại Hà Nội, còn bây giờ, chuyện mà tôi muốn làm với anh Khang chỉ là chuyện thẩm cung thôi. Anh Khang có biết không, cái vụ của anh thật là phức tạp… đến nỗi trong này không giải quyết được, phải đưa sự vụ lên trung ương để xử lý. Nếu anh không khai thật thì tôi cũng chẳng biết làm sao, chắc là cứ cù cưa cù nhầy kéo dài mãi ra.”
“Đó là do các anh đa nghi nên bày vẽ chuyện thành ra phức tạp chứ có phải là do tôi đâu. Anh nghĩ lại xem, chẳng hạn tôi nói rằng tôi là Nguyễn Hữu Thiện, anh tin rằng tôi nói thật, anh ghi vào biên bản, rồi đưa ra tòa xét xử, vậy có phải là đơn giản không. Đàng này, tôi nhận nhưng anh lại không tin; còn nếu tôi chối, anh cũng không tin nốt. Tôi biết làm sao?”
“Với anh thì nó đơn giản, nhưng với pháp luật, với lẽ công bình… thì nó không phải như vậy. Bởi vì nếu anh không phải là Nguyễn Hữu Thiện thì anh không được nhận anh là Nguyễn Hữu Thiện.”
“Ồ, nói vậy có nghĩa rằng anh không tin tôi là Nguyễn Hữu Thiện? Thế thì càng dễ tính hơn nữa. Tôi không phải Nguyễn Hữu Thiện thì đừng mất công hỏi tới hỏi lui chuyện đó với tôi nữa.”
“Anh không phải Nguyễn Hữu Thiện thì anh nên khai ra cho cơ quan công lực biết ai là Nguyễn Hữu Thiện. Chuyện nó là như thế.”
“Khi các anh không nghĩ rằng Nguyễn Hữu Thiện là tôi, tôi biết Nguyễn Hữu Thiện chỉ là một tên giả, một biểu tượng, khi các anh nghi ngờ rằng Nguyễn Hữu Thiện là tôi, tôi thấy đúng tôi là Nguyễn Hữu Thiện, vì tôi hay những người cùng chí hướng với tôi, mỗi người đều tự thấy mình là một phần tử hay một đại biểu của phong trào, do đó cái tên Nguyễn Hữu Thiện đó có thể là tên của bất cứ ai, nhưng trước nhất, ngay nơi đây, đó là tên tôi.”
Tri xua tay nói:
“Thôi được, tôi sẽ ghi theo cái ý đầu tiên của anh. Nguyễn Hữu Thiện chỉ là cái tên giả, không có nhân vật cụ thể mang tên Nguyễn Hữu Thiện. Bây giờ đến chuyện tự thiêu của Thiện Đắc, anh có thể cho tôi biết sự vụ đó như thế nào không?”
Câu hỏi của Tri lập tức khiến tôi nghĩ đến bao nhiêu bạn bè của tôi chỉ vì có liên hệ mật thiết với tôi mà phải khốn đốn qua vụ án Phục quốc này, nghĩ đến anh ruột tôi phải sa vòng tù tội, và cụ thể nhất là nhớ đến khuôn mặt khắc khổ tội nghiệp của Thiện Đắc với câu anh than với tôi là bị Sơn–trưởng phòng chính trị của Sở công an Sài Gòn–đập một báng súng lục vào mặt đến tươm cả máu miệng… tôi thấy chạnh lòng, đau xót. Tất cả vụng dại ngây thơ của tôi trong giao tiếp đã đẩy xô những bạn bè và người thân của tôi vào cảnh tù tội hoặc phải lang thang ẩn náu ở nhiều xó xỉnh khác nhau trên đất nước. Tất cả đều do tôi. Dù rằng trên thực tế, chuyện Thiện Đắc bị bắt chẳng dính dáng gì đến tôi cả, tôi vẫn thấy rằng tôi có lỗi. Bởi vì, nếu tôi không kết bạn và tin tưởng Hân thì Thiện Đắc đâu có làm quen và nói chuyện nhiều với Hân; Thiện Đắc không quen, không nói chuyện với Hân thì Thiện Đắc đâu có vào tù… Cho nên, chung qui cũng do tôi không biết chọn bạn hoặc do tôi quá vụng dại, quá tin người, để cho những bạn khác vì quá tin tôi nên cũng vụng dại theo! Kéo nhau cả đám vào vòng tù tội và trốn tránh lang thang cũng vì cái nhẹ dạ của tôi…
Tôi bình tĩnh nói:
“Tôi đã nói khi nãy với ông cán bộ kia, anh có nghe rồi, phải không? Tôi xin nhắc lại, Thiện Đắc chẳng bao giờ có ý định tự thiêu cả. Có thể một người nào đó báo cáo láo, hoặc báo cáo lầm về chuyện tự thiêu ấy.”
“Nhưng cũng có lửa thế nào mới có cái khói là Thiện Đắc dự tính tự thiêu chứ?”
“Lửa à? Thì đây, tôi, tôi là người có ý định tự thiêu đây. Người ta nói vô nói ra làm sao mà lộn qua Thiện Đắc.”
“Anh…anh định tự thiêu à?” Tri có vẻ hốt hoảng, kinh sợ khi nghe tôi nói vậy.
“Vâng, tôi có ý định tự thiêu đâu khoảng tháng 8 năm ngoái.”
Tri hơi xanh mặt, đốt một điếu thuốc khác, hỏi:
“Vậy rồi lý do gì anh… không tiến hành chuyện tự thiêu? À, là vì anh bắt được liên lạc với lực lượng Phục quốc.”
“Không phải vậy. Tôi không tự thiêu lúc đó là vì các anh không đưa vụ án Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát ra tòa.”
“Nghĩa là thế nào? Nếu chúng tôi xử án Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát thì anh sẽ tự thiêu?”
“Nếu các anh xử án nặng hai người đó, chẳng hạn tử hình, thì tôi sẽ tự thiêu.”
“Chứ không phải tự thiêu để chống phá ngày 30-4 à?”
“Làm gì có chuyện tầm phào là phá rối ngày 30-4? Anh nghĩ cái mạng tôi đây mà đem đổi cho một vụ phá rối thôi à?”
“Thì chống vụ án Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát cũng là phá rối, có khác gì đâu?”
“Đó không phải là phá rối mà là đổi mạng. Tôi muốn đổi cái mạng của tôi lấy mạng sống của hai người ấy.”
Tri hơi sững người một lúc, nói nhỏ giọng:
“Hai ông ấy lại quan trọng đối với anh đến thế à?”
“Quan trọng chứ, bởi vì, Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát không những là tinh hoa của riêng Phật giáo mà còn là tinh hoa của đất nước, của dân tộc.”
Tri bập thuốc, nhả khói liên tu, chớp mắt nhìn tôi, nói:
“Thật tình tôi không hiểu sao trong Phật giáo ở miền Nam lại có cái chuyện tự thiêu lạ lùng như thế. Anh theo đạo từ bi mà lại có hành vi có vẻ bạo động như thế!”
“Bạo động à? Anh lầm rồi. Anh hiểu chữ bạo động như thế nào? Bạo động là làm những hành động tàn bạo mang phương hại đến người khác, phải không? Như vậy, nếu tôi bạo động thì tôi phải đốt các anh chứ sao lại tự đốt tôi? Các anh nói mà tôi không đồng ý, không chịu nghe, các anh giết tôi, còn tôi nói, các anh không nghe, tôi đốt tôi để thức tỉnh các anh. Hành vi nào bạo động?”
“Nhưng hành vi tự thiêu có vẻ gì rùng rợn ghê gớm quá!”
Tôi nhún vai nói:
“Có gì ghê gớm lắm đâu, thưa anh. Không tổn hại đến sinh mệnh và quyền lợi của kẻ khác, Phật giáo chúng tôi gọi là bất bạo động. Trong khi đó, các hành vi gây thương tổn đến người khác như tra tấn, chặt đầu, chôn sống, treo cổ, mổ bụng, xử bắn… mới là man rợ đầy thú tính, chứ tự đốt thân thì có hại đến ai đâu. Chuyện đốt một phần thân thể hay đốt toàn thân bắt nguồn từ kinh Pháp Hoa của Phật giáo, trong đó người đốt thân dâng hiến thân mạng của mình để cúng dường chánh pháp, cúng dường cái gì mình tin tưởng. Hành vi đốt một phần hay toàn phần thân thể cũng là một phương pháp tu hành để dẹp trừ bản ngã. Nếu còn quí chuộng thân xác, còn mê đắm thế gian, còn thấy thế gian là những gì có thực, hoặc còn muốn bảo vệ sự tồn hữu của mình… thì không thể nào thực hiện được việc đốt thân cả. Tóm lại, tự thiêu là một nghĩa cử bất bạo động mà người theo Phật chúng tôi sử dụng vừa để thực hành hạnh vô ngã, vô úy, vừa để cúng dường chánh pháp, vừa nhằm thức tỉnh những kẻ u mê bạo ác đang làm khổ đời sống nhân quần.”
Tri gục gặc tỏ ý hiểu, nhưng tôi không dám chắc là anh hiểu hết ý tôi muốn nói. Anh lại dụi điếu thuốc, hí hoáy ghi chú vào giấy một lúc khá lâu rồi ngước lên, hỏi lại tôi một lần nữa:
“Anh cam đoan là chuyện tự thiêu do anh dự tính trong đầu chứ không tác động một người nào khác, cũng không có ai khác muốn nối gót anh hoặc muốn thay thế anh để tự thiêu, phải không?”
“Chỉ một mình tôi, hoàn toàn là tôi, không có bất cứ ai khác dính dự vào cả.”
Tri ngồi im một lúc, xếp tập hồ sơ lại, nói:
“Được rồi, ngày mai ta làm việc tiếp. Giờ anh về lại phòng há. À, khoan đã, anh có biết anh Thiện Đắc cũng bị giam ở đây không?”
“Biết, tôi có biết.”
“Anh nghĩ gì nếu anh ấy khai rằng anh ấy vô tội và trút tất cả lên anh?”
“Tôi mừng chứ sao, vì điều đó chứng minh anh ấy đã nói sự thật và nãy giờ tôi cũng đã khai sự thật.”
“Anh có muốn nhắn gì với anh ấy không?”
“Nhắn à? Tôi được phép sao?”
“Vâng, anh muốn nhắn gì cứ nói, tôi sẽ gặp anh ấy chiều nay.”
Tôi ngập ngừng một lúc rồi nói:
“Thôi, không cần, cám ơn.”

CHƯƠNG CHÍN
 Mặc dầu trời chưa sáng hẳn, khách đến uống cà phê càng lúc càng đông đến độ thiếu cả ghế ngồi. Tôi đứng dậy trả tiền để nhường ghế cho người ta rồi cùng nàng quay trở về nhà. Trên đường đi, cả hai chúng tôi đều im lặng. Xa mút ở đầu đường là phương đông, nơi mà mặt trời đang cố gắng phóng chiếu ánh sáng của nó để vạch đường mây mà ló dạng, vô tình tạo nên một góc trời hồng tía tráng lệ. Ở đầu đường đó, dường như quẹo trái là qua đường Nguyễn Huệ, có quán cà phê mở nhạc ngoại quốc mà có lần tôi và Mộng Huyền ghé vào sau một chuyến vượt biển thất bại… Mộng Huyền bây giờ là cố nhân, là cổ nhân, là người thiên cổ lụy. Tôi muốn được ngồi ở quán cà phê ấy ngay lúc này để dành một khoảng thời gian nào đó tưởng niệm đến Mộng Huyền nhưng làm vậy thì bất công với thiếu nữ đang bước đi bên cạnh tôi quá.
“Anh liều ghê, cái gì cũng nhận về phần mình!” bất chợt nàng nói.
“Tất cả thầy tu Phật giáo ở vào trường hợp của anh, đều sẽ làm như vậy.”
“Cũng tùy thôi anh ạ. Không phải ai cũng ứng xử theo cách của anh đâu. Ở xã hội này, liều như anh chỉ thiệt vào thân. May mà anh hãy còn sống… Nhưng xét cho cùng thì chuyện anh làm cũng đúng thôi. Tấm lòng của anh nó như vậy, thì cứ để nó như vậy, đâu cần uốn nắn hay chỉ bày nó cách tự vệ… Vậy rồi Tri xử sự ra sao với lời khai ấy của anh?”

Ó 

Ngày hôm sau và những ngày kế tiếp, Tri cho gọi tôi ra khai cung làm việc liên tục, từ thứ ba cho đến thứ sáu. Những ngày này vẫn chỉ có một mình Tri làm việc với tôi chứ không có ông cán bộ già khó tính nữa. Thứ ba và thứ tư, mỗi ngày Tri đều lập biên bản và đưa tôi ký tên. Biên bản lại ghi rõ những gì tôi đã đóng góp cho lực lượng Phục quốc của ông Trần Văn Lương. Sáng thứ năm, Tri đưa giấy bút cho tôi, bảo viết hai bản tự khai, một bản kể lại tuần tự theo thời gian các hoạt động của tôi từ năm 1982 đến năm 1984; một bản viết lại toàn bộ những gì tôi đã làm từ năm 1984, khi bắt đầu có dính líu với lực lượng Phục quốc. Chiều thứ năm, Tri lại bảo tôi viết thêm một bản tự khai về chuyện “dự tính” tự thiêu của tôi nhằm chống lại bản án tử hình thầy Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát (nếu có). Trong bản tự khai về việc tự thiêu, Tri yêu cầu tôi nói luôn cả ý nghĩa tự thiêu trong Phật giáo mà anh đã nghe tôi nói bằng miệng trước đó vài ngày. Bản tự khai ấy, dĩ nhiên tôi đã nhận hết lỗi về phần tôi để cứu Thiện Đắc. Qua ngày thứ sáu, dù tôi đoán rằng đã hết chuyện để khai–sau khi Tri lập ba biên bản và tôi viết ba bản tự khai–Tri lại gọi tôi ra.
Lần này, Tri đưa tôi vào một căn phòng khá rộng thuộc dãy nhà ngang nằm gần phía con lộ chính. Phòng này có vẻ như là một nhà kho hay phòng chứa tang vật gì đó. Phòng có hai cửa sổ trước và sau, cửa sổ trước mở ra sân trại, cửa sổ ở vách sau thì mở ra phía con lộ chính. Tôi thấy nhiều lớp rào kẽm gai bên ngoài cánh cửa sổ ấy. Dọc theo hai bên vách là nhiều hộc tủ lớn có nhiều ngăn, mỗi ngăn có đánh số. Tri đóng cánh cửa ra vào, cài then lại, rồi đến ngồi với tôi. Chưa bao giờ cán bộ chấp pháp làm việc khai cung mà lại đóng cửa như thế. Đã vậy, trên bàn có để sẵn hai tách cà phê nóng còn ngút khói. Tri cười thân mật, nói:
“Thực ra chúng ta đã làm việc xong từ chiều hôm qua. Anh khỏi cần khai cung hay viết tự khai gì nữa. Nhưng tôi muốn gọi anh ra để anh em mình có cơ hội nói chuyện cho vui. Ở trong dó tù túng lắm, phải không anh Khang? À, mời anh dùng cà phê cái đã. Đây là cá nhân tôi đãi anh chứ không phải của trại hay của nhà nước đâu, đừng ngại. Hút thuốc nhé. Anh nói là trước đây anh có hút nhưng đã cai mà, thế thì cũng biết hút chứ chẳng phải không. Thôi thì hút với tôi bữa nay cho vui. Chiều nay tôi về lại Hà Nội rồi.”
Bởi cái vẻ chí tình trong cách mời của Tri, tôi bưng tách cà phê, nhấp một ngụm nhỏ, rồi đón lấy một điếu từ gói thuốc của Tri đưa mời.
(Kỳ thực trong thời gian gần đây, tôi đã bắt đầu hút thuốc trở lại. Tôi biết rằng việc hút thuốc có hại cho thể chất, nhưng về mặt tinh thần, nó cho tôi chút cảm giác hạnh phúc nào đó. Một thứ khoái cảm lâng lâng nhè nhẹ. Một chút ngây ngất quên đời. Có người bảo đó chỉ là cách để chạy trốn thực tại, nhưng thực ra, tôi không chạy trốn thực tại mà là đắm mình trong cái thực tại của khói thuốc. Trong cái thực tại bừng cháy của cảm giác, hay ngay cả ảo giác, khi hút thuốc, tôi không cần biết cuộc đời vây bọc chung quanh. Vả chăng, cảm giác và khói thuốc chẳng phải là thành phần của cuộc đời hay sao? Cho nên, tôi sống trong thực tại khói thuốc chứ không phải chạy trốn thực tại cuộc đời–dù rằng đôi lúc cuộc đời đầy ưu phiền hệ lụy này cũng rất đáng quên. Tôi không ngoa ngụy để bào chữa cho việc hút thuốc của tôi trong thời gian ở tù đâu. Bởi vì có một lúc ngồi trầm tư, tôi nhận thấy rất rõ ràng cái điều mà một đạo nhân cần phải từ bỏ là tính chất mê, nghiện, say đắm… chứ không phải là các đối tượng quyến rũ của trần gian. Nói vậy không có nghĩa rằng cứ việc tự do đón nhận các đối tượng, nhưng để biết: một khi dục vọng (mẹ đẻ của mọi thứ say mê nghiện ngập) còn tồn tại thì bất cứ đối tượng nào để say mê đều mang cùng một tính chất như nhau cả. Như thế, giữa một thiền sư nghiện uống trà và tôi nghiện hút thuốc, chẳng có gì khác nhau lắm đâu, dù rằng trên hình thức, người ta thấy sự nghiện trà của vị thiền sư ấy có vẻ thanh nhã, đạo vị hơn việc hút thuốc của tôi rất nhiều. Chỗ quan trọng nhất là vị thiền sư và tôi phải dứt khoát trừ bỏ được dục vọng; và một khi dục vọng bị đánh tan rồi, tất cả các nỗi đam mê lớn hay nhỏ, thanh nhã hay thô lậu, thuần khiết hay nhơ bẩn… đều tự động rã ngũ.)
Tri bật lửa cho tôi. Tôi tự nghĩ, “chắc anh ta không có âm mưu gì đâu. Đã kết cung cả rồi và mọi chuyện đâu đã vào đó, anh ta đâu cần mua chuộc mình làm gì nữa. Nhưng biết đâu… chuyện lấy cung lại bắt đầu từ một buổi nói chuyện bâng quơ như vầy. Phải cẩn thận mới được.” Tôi vừa nghĩ đến đó thì Tri đã tiếp:
“Anh Khang à, ở trại này họ đối xử với anh như thế nào?”
“Đối xử như thế nào là sao? Thì đối xử như mọi tù nhân khác chứ có gì đâu.”
“Ý tôi muốn hỏi là chế độ ăn uống, thăm nuôi… ở đây như thế nào?”
“Có lẽ cũng như bao nhiêu trại giam khác trên đất nước này thôi. Anh làm trong ngành công an thì hẳn anh phải biết chứ.”
“Anh Khang nói vậy là không nắm rõ cơ cấu trong ngành nội vụ rồi. Tôi làm sao biết được chuyện của mấy trại giam vì nó thuộc phần vụ của Cục Quản lý Trại giam kia mà!”
“À, ra là vậy. Nói chung thì tôi không để ý lắm về chế độ ăn uống, thăm nuôi… Cứ đến giờ phát cơm thì nhận cơm, cho thăm nuôi thì nhận được quà, vậy thôi.”
“Nhưng tiêu chuẩn gạo hàng tháng là bao nhiêu cân, anh biết chứ?”
“Làm sao mà biết được?”
“Ồ, họ không cho anh biết à? Thế mỗi ngày được phát cơm mấy bữa, mỗi bữa được bao nhiêu cơm?”
“Mỗi ngày hai bữa, trưa và chiều, mỗi bữa được khoảng hơn một bát cơm!”
“Cái gì? Một bát cơm? Khiếp thế, làm sao mà sống nổi, đói chết!”
Tôi phì cười, nói nửa đùa nửa thật:
“Bộ anh ở cung vàng điện ngọc hay sao mà không biết cái hiện tình đói khổ của đất nước chứ hả? Đâu phải chỉ có tù nhân mới đói, thường dân thiên hạ ở ngoài cũng đói nhan nhản ra đó, có lạ lùng gì đâu. Có khi nào anh viếng thăm các vùng kinh tế mới không? Anh có biết cuộc sống của người dân trên kinh tế mới như thế nào không?”
“Có, tôi có lên Long Thành, vùng kinh tế mới mà anh lập chùa, hoạt động chống nhà nước… nhưng lên để điều tra về cơ sở của anh thôi, chứ không tìm hiểu về cuộc sống của người dân trên ấy.”
“Vậy thì anh và những đồng chí của anh nên dành thì giờ mà tìm hiểu thêm về đời sống nhân dân mọi thành phần. Chắc anh cũng thừa biết rằng nếu nhà cầm quyền không hiểu rõ được đời sống thực tế của nhân dân thì nhà cầm quyền đó chỉ tồn tại trên đất nước như một đám lục bình trôi trên sông.”
Tri im lặng, có vẻ suy nghĩ. Một lúc, anh gật đầu, nói:
“Anh nói có lý. Có lẽ vì cái chế độ này nó tạo ra chúng tôi như thế đấy. Chế độ thư lại giấy tờ mà. Tôi chỉ biết những con số và những dòng chữ rất giống nhau ở trên các bản báo cáo. Ồ thôi, nói cái chuyện đó chán quá, ta nói chuyện khác cho vui nhé. À, ông cụ bà cụ thân sinh của anh cũng khỏe lắm. Nói để anh yên tâm.”
“Sao? Anh có gặp ba mẹ tôi à?” tôi giật thót mình khi nghe Tri nói vậy. Có lẽ nào vì chuyện của tôi mà cả ba mẹ tôi đều vào tù? Thấy tôi có vẻ lặng người sửng sốt, Tri tiếp ngay:
“Vâng, trước khi gặp anh, tôi đã làm việc với anh Hiền, anh ruột của anh, rồi tôi ra Nha Trang gặp hai ông bà thân sinh của anh để hỏi thêm một vài vấn đề… Bà cụ tiếp tôi ở căn nhà nhỏ đường Hậu Giang. Ồ, bà cụ hiền lành, nhân hậu lắm; bà thật thông minh, tinh tế, nói năng hòa nhã lịch thiệp, khôn khéo, ai tiếp xúc qua là quý mến ngay. Tôi dự tính chuyến ra Bắc chiều nay sẽ ghé Nha Trang thăm bà cụ lần nữa. Anh ngạc nhiên à? Thì chuyến trước tôi đến bà cụ để điều tra chuyện hai anh em của anh, còn chuyến này thì ghé thăm, thăm thực sự như thăm một người thân hay một người mà mình quý mến, hay thăm một gia đình nhân sĩ trí thức ở miền Nam mà tôi có dịp biết đến. Có thể tôi sẽ kể chuyện của anh và anh Hiền để bà cụ đỡ lo. Anh có cần nhắn gì không?”
Tôi nhẹ nhõm mừng là ba mẹ tôi không can hệ gì nhưng cũng dụ dự chưa biết nói lời nào để nhắn, đành cười trừ. Tri nói giọng thân mật:
“Chắc anh Khang còn ngại vì mới hôm qua tôi là cán bộ điều tra, nay lại nói chuyện linh tinh… anh ngại cũng phải. Cái chế độ này, ở trong tù hay ngoài xã hội cũng thế thôi, cứ tạo nghi ngờ trong lòng mọi người, làm sao người ta trở thành anh em hay bạn bè của nhau!”
Tri ngưng một lúc, hớp cà phê, kéo một hơi thuốc, rồi tiếp:
“Nói thật anh Khang nghe, hơn mười năm làm việc trong ngành, tôi chưa bao giờ gặp một phạm nhân… à, một con người lạ thường như anh. Chỉ trong vòng vài ngày tiếp xúc mà tôi học được từ anh rất nhiều điều bổ ích. Tôi không nói về cái hữu ích về kiến thức liên quan đến ngành nghề của tôi, mà về thái độ và quan niệm sống của một người dân, hay của một con người trên cuộc đời. Dĩ nhiên tôi biết rằng một chế độ… khắt khe như chế độ ngoài Bắc thì chẳng làm sao mà đào tạo được cái gì xuất sắc, dị thường. Nhưng tôi vẫn lấy làm lạ là mảnh đất miền Nam, với chế độ mà ngoài tôi gọi là Mỹ-Ngụy tay sai, lại sản sinh ra nhiều con người tài hoa đến thế. Tôi chưa có cơ hội tiếp xúc nhiều với giới trí thức hoặc giới trẻ miền Nam nên không làm sao nắm được là thành phần nhân sĩ trí thức chiếm bao nhiêu phần trăm nhân số miền Nam, nhưng qua tiếp xúc những người trong gia đình anh khi tôi đến làm việc, tôi đã giật mình. Riêng anh và anh Hiền, mỗi bản tự khai các anh viết ra là cả một đoạn hồi ký hay. Tôi đọc mà say mê như đọc tiểu thuyết. Văn anh Hiền thì dữ dội, lôi cuốn, văn của anh thì trong sáng, nhẹ nhàng, mà đầy tự tin, đầy quyết tâm. Tôi nhận ra ở con người anh và con người anh Hiền, một cái gì na ná như là thái độ bất cần đời, nhưng không phải. Các anh vẫn sống hết mình vì cuộc đời. Nhất là anh, nói thực, nếu anh không ở trong hoàn cảnh này, tôi muốn liên lạc kết giao với anh thường xuyên… Anh Khang biết không, cho dù ông nội, ông ngoại tôi đều là Ủy viên Trung ương Đảng, bố tôi thì nằm trong ban Bí thư Trung ương, cho dù các anh chị em tôi đều được sinh ra và đào tạo từ chế độ xã hội chủ nghĩa, cho dù chúng tôi đang tận tụy công tác phục vụ Đảng và Nhà nước, tôi vẫn có thể nói với anh rằng,” Tri nói hơi nhỏ giọng xuống, “chế độ cộng sản giống như một nhà máy sản xuất thức ăn đóng lon–hình như trong Nam người ta gọi là đồ hộp phải không anh?–nhưng là loại đồ hộp để cất vào kho chứa chứ không phải loại để tiêu thụ. Tôi nói vậy tự anh hiểu. Tóm lại là chế độ ấy không đào tạo ra những con người. Nó nghiền nát nhân tính một cách tàn bạo, khủng khiếp. Tuổi trẻ miền Bắc, mấy thế hệ nối tiếp nhau, được nuôi lớn trong cái giàn máy khổng lồ ấy, thử hỏi anh, chúng tôi có thể làm gì! Chỉ làm đồ hộp thôi. Chỉ nằm ì ra đó thôi! Mỗi người chúng tôi có mối liên hệ chằng chịt hay một thứ bổn phận không thể từ chối đối với cái giàn máy đó: không chịu theo khuôn thì bị phế thải, vâng, bị phế thải. Anh đừng ngại, ở đây chẳng ai nghe đâu, mà có nghe cũng chẳng làm gì được mình đâu! Anh cho tôi nói chuyện nhé, vì về lại ngoài Bắc, tôi không nói được cảm nghĩ này với ai cả, ngay cả với những người trong gia đình… Đôi khi uất nghẹn muốn ra giữa chợ đời mà hét to lên một tiếng, hoặc muốn xách súng vào trung tâm điểm của cơ quan giàn máy, cứ lần lượt mà bắn hết từng bộ phận đầu não, cho đến từng cái lon đồ hộp! Ôi, cái uất nghẹn lặng lẽ ấy… ôm lâu trong lòng lại biến dạng thành một thứ ung nhọt kỳ quái, một thứ ung nhọt xơ cứng như băng…”
Nói đến đây, Tri có vẻ uất nghẹn thật. Mắt anh long lanh như khóc. Môi anh rung rung. Nhưng tôi thì thầm nghĩ rằng, Tri ví thân phận cán bộ của anh như là thành phần bị cái giàn máy nhà nước cộng sản nghiền nát thì không được chính xác lắm. Thực ra, không phải cán bộ nhà nước là thành phần trực tiếp bị cái giàn máy khổng lồ kia nghiền nát, chỉ có nhân dân mới bị nghiền nát; còn cán bộ thì là những con ốc tán hay những cơ phận giúp đỡ giàn máy đứng vững và hoạt động.
Tri bưng tách cà phê lên nhấp, rồi đốt thêm điếu thuốc khác. Anh đưa thuốc mời tôi, tôi đón, không từ chối. Chúng tôi im lặng hút thuốc. Nắng mai chiếu xiên vào cửa sổ sau lưng Tri. Từng đám bụi lấp lánh nắng, lăn tăn cuốn theo những chiếc lá vàng nhỏ rơi từng đợt từng đợt từ vài cành táo nhơn đong đưa sau dãy rào kẽm gai. Rảy tàn thuốc xuống sàn đất, Tri lại tiếp:
“Tôi nói điều này không biết anh Khang có đồng ý không. Như vầy, tôi nghĩ cái biến cố 30-4-1975 cũng là một dịp may, một cơ hội cho đất nước chúng ta chứ chẳng phải không đâu. Anh đừng cười, để tôi nói cho hết ý: tôi cho rằng trước đây miền Nam đã có cơ hội để mở mắt và để sống với tư tưởng tự do cũng như ý niệm về dân chủ của các nước văn minh khác trên thế giới, trong khi đó, nhân dân miền Bắc phải sống dưới một chế độ… độc tài khủng khiếp… Nếu không có cái ngày 30-4-1975 đó thì miền Bắc muôn đời vẫn thế, chẳng làm sao mà thay đổi được. Nhờ giải phóng miền Nam, nhìn thấy miền Nam, tiếp xúc với nhân dân cũng như các thành phần chính quyền cũ của miền Nam, người miền Bắc mới sáng mắt ra, mới thực sự nhận thức được rằng có một thứ đời sống khác hơn, tươi sáng hơn mà lâu nay họ tìm kiếm, mong đợi. Cho nên, có thể nói rằng miền Nam giải phóng miền Bắc thì miền Nam thắng, miền Bắc giải phóng miền Nam thì miền Nam vẫn cứ thắng như thường. Bởi vì lẽ thắng bại đôi khi không nằm ở chỗ chiếm lĩnh được cái vũ đài chính trị hay quân sự.”
“Mà phải chiếm lĩnh cái vũ đài nhân tâm,” tôi tiếp lời Tri.
Tri gật đầu tán đồng ngay:
“Đúng, phải được lòng dân. Khi quân đội miền Nam cũng như Hoa Kỳ rã ngũ và rút đi không đánh nữa thì chính cái tinh thần dân chủ tự do ở miền Nam đã tràn ngập ra Bắc, chiếm lĩnh trận địa nhân tâm, đánh thức bao nhiêu cái đầu óc đã mụ đi vì mù quáng hoặc vì sức ép của giàn máy. Những người cầm quyền miền Bắc sau ngày giải phóng miền Nam đã phải đối đầu với một đạo quân vô hình nhưng khủng khiếp hơn đạo quân chính qui của quân đội Việt Nam Cộng Hòa nhiều. Người ta không sợ tàn quân miền Nam nổi lên đánh lại đâu. Điều này làm sao xảy ra được chứ! Khi chưa tan rã thì quân đội hai miền còn đánh cầm cự với nhau mấy chục năm, còn bây giờ một bên thì tăng cường quân số, kiểm soát toàn lãnh thổ, một bên thì giải thể, tan rã hoàn toàn… lấy cái gì mà quật lại! Người ta chỉ sợ cái tinh thần tự do dân chủ thôi. Rồi đây, trên đất nước này, chỉ còn một cuộc chiến tranh duy nhất là cuộc chiến giữa chế độ độc tài và phong trào đòi hỏi tự do dân chủ dấy lên từ nhân dân. Nhân dân ở đây không phải là nhân dân miền Nam hay miền Bắc, mà là nhân dân Việt Nam. Anh Khang có đồng ý với tôi quan điểm ấy không?”
Tôi gục gặc, không nói, nhưng thật xúc động. Ý nghĩ của anh cộng sản trẻ này làm tôi phấn khởi và tin tưởng vào tương lai của đất nước vô cùng. Té ra miền Nam đang giải phóng ngược miền Bắc bằng tinh thần tự do dân chủ! Cái điều này đơn giản như thế mà lâu nay tôi hầu như không để ý đến. Nhưng có thực vậy chăng? Miền Nam có tự do dân chủ thực sự để làm công việc giải phóng miền Bắc không? Không.
Có thể nói rằng tinh thần tự chủ độc lập của dân tộc đã được nuôi dưỡng và phát triển liên tục từ các triều đại xa xưa của đất nước, điển hình là qua triều đại Lý-Trần, khi mà nhân dân được góp mặt trong các hội nghị quan trọng quan hệ đến sự sống còn của quốc gia. Tinh thần ấy bị mai một, lãng quên, hoặc bị dìm chết bởi các thế lực xâm lăng và thực dân nước ngoài cũng như đã bị tinh thần hủ nho đề cao trung quân ái quốc, tôn thờ lãnh tụ, cố tình đè bẹp đi. Cho nên, người ta thấy rằng hai chế độ Cộng hòa của miền Nam trước đây cũng chưa thực sự có tự do dân chủ; nhưng ít ra, tinh thần tự do dân chủ đã từ Tây phương trực tiếp theo chân quân đội viễn chinh Mỹ thâm nhập vào mảnh đất màu mỡ trù phú với cánh cửa luôn mở rộng của miền Nam. Miền Nam chưa có chế độ thực sự tự do dân chủ nhưng tinh thần tự chủ sẵn có từ ngàn xưa đã được đánh thức, được nhận dạng qua sự có mặt của nền văn hóa Tây phương. Tinh thần tự chủ đáng ra là vốn liếng thì bây giờ trở thành như là một thứ bài học mới. Dù sao, một bài học đã biết mà chưa áp dụng triệt để cũng còn đỡ hơn là không biết gì cả. Từ chỗ này, tôi thấy rằng, khi trình độ dân trí và văn hóa của hai khối dân chênh lệch nhau quá xa hoặc nền văn hóa bản địa quá vững chắc thì lúc va chạm, cái nhỏ sẽ tan biến trong cái lớn, cái thấp sẽ bị mất hút trong cái cao, cái ít bị chìm lỉm trong cái nhiều… Miền Bắc dưới chế độ cộng sản y như là một ông cụ già lụ khụ cứ quẩn quanh trong nhà để coi ngó; còn miền Nam thì cứ y như một chàng trai khỏe mạnh sung sức, thích bay nhảy tự do, thích hoạt động bên ngoài. Ai sẽ ảnh hưởng ai? Chàng trai sẽ ủ dột bi quan theo cụ già hay cụ già sẽ tươi tỉnh yêu đời lên bởi tính năng động của chàng trai? Rõ ràng là trước sau gì ông cụ cũng phải chịu thua, không thể trì níu kiểm soát gì được chàng trai trẻ.
Thấy tôi chẳng nói gì, Tri kín đáo thở dài một tiếng. Một lúc, anh nói:
“Hoàn cảnh xã hội đã tạo một bức màn ngăn cách giữa tuổi trẻ chúng ta. Có một bức tường thành kiến rõ rệt giữa nhân dân miền Nam và miền Bắc. Anh Khang có thấy vậy không? Anh nói tôi nghe về chuyện đất nước đi, hay anh còn ngại… chưa tin tôi, phải không?”
Tôi cười, nói:
“Anh lầm rồi. Anh không nhớ rằng những hoạt động trước đây của tôi, cùng với bao nhiêu bản tự khai của tôi viết cho các anh, đã là cách thẳng thắn bày tỏ quan điểm của tôi rồi đó sao? Nếu sợ thì tôi đã không làm, anh ạ. Có điều, lâu nay các anh chỉ giảng tôi nghe lập trường và quan điểm chủ nghĩa xã hội với lý tưởng cộng sản… nên tôi mới mở miệng nói lời đôi co. Nay anh nói theo cách khác, cách mà anh thực sự nghĩ trong đầu, thì tôi thích thú lắng nghe, ngạc nhiên mà lắng nghe, chứ không phải tôi không muốn trao đổi. Quan điểm của tôi thì quá rõ ràng rồi, anh đã đọc thấy trong các bản tự khai của tôi. Anh đâu cần phải nghe thêm. Bây giờ đến lượt anh nói đó. Anh nói tiếp đi, tôi thực sự muốn biết tuổi trẻ các anh, những người sinh ra và trưởng thành trong chế độ cộng sản thực sự nghĩ gì về hiện trạng khổ đau của dân tộc cũng như viễn ảnh tương lai của đất nước.”
Tri gật đầu, mắt sáng lên long lanh, hăng say nói:
“Theo một vài người bạn trẻ của tôi ở ngoài Bắc, thì đa phần người dân miền Nam cứ một mực cho rằng chúng tôi là thứ cần phải trừ khử, tiêu diệt, mới mong đem lại hạnh phúc, ấm no cho đất nước. Anh Khang có thấy đó cũng là một thứ thành kiến không? Khi người cộng sản nghĩ rằng chỉ có họ đúng, còn những người không cộng sản thì sai, họ đã có thành kiến nặng phải không anh? Thế thì khi những người không cộng sản một mực cho rằng cộng sản là sai, chẳng phải họ cũng có thành kiến đó sao?”
“Đúng là cả hai bên đều mang thành kiến.”
“Thế theo anh Khang, chúng ta phải làm gì để giải tỏa cái thành kiến đó? Chẳng phải rằng chúng ta, tuổi trẻ Việt Nam, phải ngồi lại nói chuyện với nhau để thảo luận về một hướng đi mới cho dân tộc không?”
Tôi vui mừng nói ngay:
“Phải, chúng ta phải đối thoại trong tinh thần dân chủ. Hai bên phải gạt bỏ hết những chủ thuyết, những lý tưởng, những lập trường này, lập trường nọ, để lắng nghe nhau, phác họa một con đường mới cho dân tộc. Chúng ta phải học cái tinh thần tự do dân chủ, vì chỉ có tự do dân chủ thực sự, chúng ta mới phá được cái bức tường thành kiến đó mà thôi. Nhưng đất nước chúng ta, hay nói cho đúng hơn, các nhà cầm quyền trên đất nước ta, chưa bao giờ biết áp dụng dân chủ. Người ta luôn luôn muốn đàn áp tinh thần dân chủ vì đó là cách duy nhất để bảo vệ quyền lợi chấp chính của họ. Cứ như vậy thì bảo sao có tiến bộ, có đổi thay… và làm sao trách được là có những lực lượng phản kháng nổi dậy.”
“Phải rồi, chắc chắn người miền Nam quen với nề nếp đấu tranh đòi cái quyền tự do bình đẳng sẽ không thể nào chịu ngồi yên trước một chế độ khắt khe như chế độ xã hội chủ nghĩa. Các anh đứng lên phản kháng là chuyện ắt phải có. Nhưng rồi anh cũng biết đấy, không có chính quyền nào chịu ngồi yên để cho các lực lượng phản kháng nổi dậy cả. Họ phải dập tắt để giữ gìn an ninh xã hội, cũng là cách để bảo vệ quyền bính của họ nữa chứ. Thành thử, kẻ phản kháng và chính quyền trở thành hai đối lực không thể ngồi chung với nhau được. Buồn là buồn ở chỗ đó. Chúng ta muốn nói chuyện với nhau, nhưng sẽ không bao giờ có cơ hội. Hoặc là các anh vào tù, hoặc là chúng tôi vào tù. Chúng tôi không muốn thất bại, không muốn mất quyền bính, thì chúng tôi phải dẹp các anh. Mà cái điều khổ cho thành phần tuổi trẻ, hay nói đúng hơn, thành phần cán bộ trẻ như tôi, là trong khi mình ôm cái hy vọng là có cơ hội bắt tay với những người trẻ khác trên khắp đất nước để tiến hành một cuộc vận động xây dựng kiến thiết xứ sở thì cấp trên…–ừ, mấy con ốc tán rỉ sét đã bám chân cứng ngắt vào giàn máy, không sao vặn mở ra nổi–cứ lệnh cho mình phải đi bắt, đi dẹp, đi xử… những anh em bạn bè của mình. Oái oăm là ở chỗ đó. Mình không làm thì mình chết, còn làm thì vô tình cứ trở thành kẻ thù, trở thành đối lực của nhau…” Tri đưa gói thuốc mời tôi, rồi rút một điếu khác, đưa lên môi, bật lửa, tiếp, “cho nên… anh Khang biết không, cấp trên bảo tôi vào Nam thẩm tra vụ án của anh Khang, tôi rất thích thú, và nói thật, tôi rất hân hạnh làm việc, nói chuyện với anh. Anh còn trẻ hơn tôi ba, bốn tuổi, nhưng tôi không dám nhìn anh như một người bạn… mà phải hơn thế kia. Anh như một người anh, một người thầy thì đúng hơn. Thảo nào nhiều người quý mến và nghe lời anh đến thế. Tôi không nhìn anh như các nhân sự khác trong lực lượng Phục quốc, bởi vì đa phần những người của lực lượng này đều ít nhiều có dính dấp đến chế độ cũ: hoặc là sĩ quan quân đội, hoặc là cán bộ công chức cao cấp. Những người ấy họ tham gia phong trào Phục quốc là để lấy lại những gì họ đã mất… Tôi đánh giá lực lượng Phục quốc như thế. Phục quốc là muốn lấy lại nước của họ, nước của họ là chế độ Cộng hòa miền Nam trước đây–một chế độ mà nhà nước miền Bắc không thể nào chấp nhận, và cũng chẳng phải là điều mà bọn trẻ miền Bắc chúng tôi mong đợi. Nếu lý tưởng Phục quốc là như thế thì… nói xin lỗi, cũng chẳng có gì đáng để tôi để bụng lắm đâu. Chẳng qua cũng giống như một số vụ án chống đảng, âm mưu lật đổ chính quyền nhà nước do những đảng viên Cộng sản điều động chủ trương. Họ cũng làm cách mạng đấy, nhưng cách mạng để hồi phục chỗ đứng, chỗ ngồi của họ… hoặc để đòi hỏi một thứ bình đẳng quyền lợi nào đó trong cái mâm cỗ ‘đảng viên ưu đãi’ mà họ nghĩ là họ phải được hưởng. Từ nhiều năm nay, cách mạng trong nước ta chỉ có ý nghĩa như thế: lấy lại những gì mình bị mất hoặc đòi hỏi ăn đồng chia đều! Hờ, cách mạng như thế thì chẳng có ý nghĩa gì cả trong mắt tôi. Nhưng chính vì trong lực lượng Phục quốc có anh, một tu sĩ Phật giáo đã lìa bỏ cuộc đời từ thuở bé, bản thân không dính dáng gì đến chính quyền cũ, nên mới khiến tôi có cái nhìn khác đi về lực lượng Phục quốc. Anh đứng lên làm công cuộc cách mạng không phải để ‘phục quốc’ hay hồi phục lại cái gì đã mất mà để tìm kiếm một cái gì đất nước này chưa từng được hưởng. Anh đứng lên vì tương lai đất nước chứ không phải vì cái dĩ vãng vàng son hiển hách nào đó của những người thuộc chế độ cũ. Và cũng chính vì ông Trần Văn Lương khôn khéo móc nối anh, nhờ anh đẻ ra cho Phục quốc một cương lĩnh cao đẹp nên mới tạo được cái chính nghĩa rực sáng cho lực lượng ấy thôi. Tự thân lực lượng Phục quốc chỉ có chính nghĩa đối với người dân miền Nam cảm tình với chế độ cũ hoặc những người không đội trời chung với cộng sản; nhưng nhờ ước vọng cao đẹp của anh về tương lai đất nước gói ghém trong đường hướng và cương lĩnh của lực lượng, nó trở nên có chính nghĩa, hoặc ít nhất là có một gợi ý hấp dẫn, đối với cả những người miền Bắc cấp tiến muốn thay đổi đất nước. Nói cho cùng thì ông Lương nắm tất cả nhân lực, nhưng tinh thần của Phục quốc thì do anh thổi vào. Một số nhân sự Phục quốc khai rằng họ thấy cương lĩnh Phục quốc hay và hợp lý quá nên tham gia chứ không biết ông Lương là ai cả. Từ ngoài Bắc, tôi có đọc qua số tài liệu tịch thu được của Phục quốc. Tôi thích lắm… Rất tiếc là tôi phải làm công tác của tôi thôi. Trách nhiệm mà. Nhưng anh Khang à… không sao đâu. Cái chuyện tôi vừa nói chỉ là nhận xét của tôi chứ cán bộ chấp pháp các cấp dưới không đánh giá anh như vậy đâu. Họ đánh giá theo chức vụ thôi. Cho nên anh thấy đó, trong biên bản kết cung đâu có nói gì… phải không? Chỉ nói đơn giản là anh có hợp tác, giúp soạn viết tài liệu… chứ không nhấn mạnh tầm quan trọng hay tác dụng của tài liệu đó. Tóm lại là… họ không kết án anh nặng lắm đâu. Dĩ nhiên chuyện án nặng hay nhẹ chẳng phải là điều anh quan tâm, tuy thế, ở cương vị tôi, một người bạn trẻ quý mến anh, tôi lại muốn làm một cái gì đó để giúp anh nhẹ bớt… chắc anh hiểu. Nhưng tôi cũng chẳng làm gì được. Cái chuyện xét xử thì do bên Viện Kiểm sát. Phần vụ của tôi là điều tra nội vụ, thụ lý hồ sơ thôi. Tôi đã cố gắng hết sức để tránh bớt được cho anh chừng nào hay chừng nấy… nhưng cũng có chừng mực thôi. Vả lại, các bản tự khai của anh nói thật quá, tôi chẳng làm sao khác hơn dược. Chẳng hạn cái vụ của anh Thiện Đắc, nếu anh không nhận thì cũng chẳng ai biết là anh. Đôi khi tôi muốn điều chỉnh hoặc góp ý anh… là nên khai như thế nọ thế kia cho nhẹ bớt tội, nhưng nghĩ lại thấy rằng điều đó chỉ tổ làm phụ lòng anh mà thôi. Anh đâu cần được giúp đỡ theo cách đó. Anh đã quyết định nói thẳng từ đầu đến cuối, quyết định chấp nhận mọi hậu quả thì phải để anh toại ý… Dù sao, tôi vẫn hy vọng một ngày rất gần, anh được tự do. Tôi sẽ theo dõi xem tình trạng mức án của anh để chờ đón anh. Tôi muốn gặp anh ở một hoàn cảnh khác, không phải trong một trại giam, cũng không phải trong cương vị một cán bộ ngành nội vụ với một người đối lập với chính quyền nhà nước. Ngày gặp nhau, sẽ là một ngày tươi đẹp, sáng sủa hơn bây giờ nhiều… Ngày ấy là ngày của tuổi trẻ chúng ta.”
Tri nói đến đó thì đôi mắt lại rưng rưng và cái mũi anh đỏ ửng lên. Tôi ngạc nhiên nhìn anh một cách kín đáo. Anh có vẻ là một anh chàng công tử bột hoặc một nhà thơ, một họa sĩ, chứ không phải là một cán bộ thuộc ngành nội vụ. Da dẻ anh trắng trẻo, một loại nước da láng mịn như con gái. Đôi mắt anh long lanh với hàng lông mi hơi cong. Mái tóc mềm với những sợi quăn cúp sát vào da đầu. Rõ ràng đó là cái tướng mít ướt đa cảm nhẹ dạ quen thuộc. Cái tướng đó nhạy cảm và dễ khóc, thương ai thì thương hết lòng, làm việc gì thì làm chí thú đam mê, lúc nào cũng nghĩ một cái gì tốt đẹp cho người khác mà quên cái hại sẽ rước vào thân… Ôi, cái hạng người ấy làm sao có thể tồn tại được giữa một xã hội khô khan cứng ngắt như “cái giàn máy” với những chiếc răng cưa khổng lồ từng phút từng giây nghiền nát mọi yếu tố thơ mộng riêng tư… Ôi, mảnh đất khô cằn với chất phân bón đầy độc tố ở ngoài kia, làm sao có thể sản sinh được một con người như thế kia nhỉ? Chắc còn nhiều người khác nữa chứ không phải một mình anh chàng Tri dối diện mình. Họ sinh ra và lớn lên trên mảnh đất cằn cỗi ấy, dưới sự chụp phủ của cái giàn máy khổng lồ ấy, thì tự dưng phải suy tư, nói và hành động theo khuôn. Nhưng ở đâu cũng vậy, phải có những ngoại lệ. Và ngoại lệ ấy thường khởi đi từ những con người dị cảm kiểu như Tri.
Thấy Tri im lặng vì còn đang cố che giấu cảm xúc, tôi nói:
“Tôi biết đợt khai cung với anh là đợt khai cung quyết định mức án của tôi: qua đó, tôi đã sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả có thể ảnh hưởng đến sinh mạng của tôi nữa. Vì vậy, tôi không có hy vọng được trả tự do sớm đâu. Nhưng tôi hy vọng rằng, tôi sẽ cùng với những người tuổi trẻ yêu thương đất nước này, nếu có nằm xuống thì xin nguyện làm chất phân bón tươi tốt để ươm mầm xán lạn hơn cho tương lai của các thế hệ sau vươn dậy.”
Nghe tôi nói vậy, Tri càng xúc động hơn. Tay anh run bần bật, cố gắng rút ra một điếu thuốc, ngậm vào môi, mặt cúi thấp, mồi lửa. Một lúc, anh nói:
“Tôi tiếc cho anh quá. Phải chi… phải chi… Hơ, tuổi trẻ chúng ta thật bất lực. Chúng ta chỉ có mặt để phục vụ cho người lớn.”
Tôi bật cười:
“Nếu không khéo, chúng ta cũng sẽ trở thành những người lớn và bắt bọn trẻ sau này phục vụ chúng ta đó.”
Tri cũng cười theo. Nụ cười thật buồn. Chúng tôi ngồi im lặng, hút thuốc. Không còn gì để nói nữa. Một lúc, Tri đứng dậy, bắt tay tôi:
“Thôi, anh về lại phòng nhé. Chúc anh nhiều sức khỏe. Mong gặp lại anh một ngày nào đó thật bất ngờ.”
Tôi gật đầu, không biết nói gì. Tri tiễn tôi đến dãy hiên ngoài của văn phòng trưởng trại, ở đó có Phương và một anh cán bộ đang ngồi lật sổ tính toán gì đó. Thấy Tri bước đi song song với tôi có vẻ thân mật bình đẳng, Phương nhìn với đôi mắt lạ lắm, như có một vẻ nghi kỵ gì đó. Chờ tôi và Tri bước lên bậc thềm, Phương nói với Tri:
“Đồng chí để anh ấy đây, tôi cho người đưa vào,” rồi Phương quay sang tôi, “anh Khang làm việc bữa nay với bộ nội vụ là kết thúc rồi hả? Khỏe rồi nghen.”
Tôi cười, không nói. Tri nhìn tôi lần cuối rồi lặng lẽ băng qua khoảng sân rộng, hướng về phía cổng trại. Tôi ngồi một lúc thì được một cán bộ bảo vệ đưa về phòng giam. Vừa vào tới khu vực sân chơi, tôi bỗng nhác thấy bóng dáng Thiện Đắc với bộ đồ vạt khách ngắn, tay xách giỏ, hướng về phía cán bộ trực. Có lẽ Thiện Đắc được trả tự do. Ôi, mừng thay cho anh ấy! Như vậy là bản tự khai về chuyện tự thiêu của tôi đã có tác dụng. Cám ơn Tri. Cám ơn Tri lắm.

Ó 

Về phòng giam, tôi là người ăn cơm sau cùng. Mọi người đang nghỉ trưa. Ăn xong, tôi giăng mùng mà không ngủ được. Cứ suy nghĩ vẩn vơ về những lời thổ lộ chân tình của Tri cũng như hình ảnh Thiện Đắc xách giỏ đi về. Có một cái gì buồn buồn thấm vào tim tôi theo làn gió buổi trưa chốc chốc làm lung lay nhè nhẹ cái mùng. Tôi như một người bị mất bạn, hay như một người chết bị bỏ lại một mình trong nghĩa địa sau cái đám tang rình rang những người thân và người phúng điếu. Hôm nào được tự do trở về, có lẽ tôi sẽ tìm được Thiện Đắc ở căn nhà trên đường Nguyễn Thiện Thuật. Còn Tri, anh chàng cán bộ Hà Nội làm cái ngành dữ tợn tráo trở không thích hợp với cá tính kia, về tới Hà Nội là chìm lỉm trong giàn máy, làm gì có cơ hội để gặp lại! Ôi, những người bạn trẻ đầy nỗi băn khoăn thao thức cho tương lai đất nước! Phải chăng chúng ta chỉ có thể nói với nhau đôi lời để ngậm ngùi, để thầm khóc, thầm uất nghẹn, rồi thôi? Và giàn máy cứ tiếp tục quay, tiếp tục nghiền nát bao nụ chồi xanh tươi? Còn có gì để nhắn nhủ với nhau nữa chăng?
Nằm một lúc thì kẻng báo thức đã vang lên từng hồi khô khan, chói tai. Phòng giam chộn rộn lên. Ai nấy lo thu dọn mùng chiếu theo nội qui. Tôi đang rửa mặt thì nghe tiếng vỗ tay bôm bốp. Lại có cán bộ vào.
“Vĩnh Khang, ra làm việc,” cán bộ cầm mẩu giấy gọi lớn.
Tôi bước vội ra ngoài. Quái lấy áo quần đưa ra phía cửa sổ cho tôi mặc thật nhanh để đi theo viên cán bộ.
Ra đến khu vực văn phòng trại, tôi lại gặp Phương. Phương nhoẻn miệng cười với tôi, nói:
“Tưởng vụ của anh đã xong hồi sáng rồi chứ. Không biết sao chiều nay đồng chí ấy lại quay trở lại. Anh đứng đây chờ một chút há, đồng chí ấy sẽ ra ngay.”
Phương vừa dứt lời đã thấy Tri từ phía căn phòng khi sáng chúng tôi ngồi nói chuyện bước vội về hướng tôi. Đến sát bên tôi, Tri nói nhỏ:
“Mình ra ngoài phòng ấy đi,” nói rồi Tri bước trước, tôi bước theo sau.
Vào phòng rồi, Tri đứng tần ngần nhìn ra ngoài trời một chốc rồi đóng cửa chính lại, mở hé cửa sổ phía sân trại, mở toang cửa sổ phía đường cái. Trở lại bàn, Tri vừa ngồi xuống vừa nói:
“Tôi bảo ông Tuân về trước bằng xe cơ quan ngay buổi xế hôm nay, còn tôi thì đến sáu giờ chiều mới đi bằng tàu hỏa ra Nha Trang có chút việc, sau đó mới ra ngoài Bắc. Như tôi có nói, tôi muốn ghé thăm ông bà cụ của anh. Anh Khang cần nhắn gởi gì không? Giấy bút với phong bì này, anh viết đi, viết tự do những gì anh muốn, tôi sẽ mang ra cho ông bà cụ.”
Tôi lắc đầu, cám ơn.
“Anh Khang vẫn chưa tin tôi sao?”
“Không phải vậy. Tôi… tôi không muốn lợi dụng bất cứ cái tình riêng nào để rồi phiền lụy đến người khác.”
Tri bật cười:
“Anh tưởng rằng mấy người cán bộ ở trại này dám lục xét tôi sao?”
“Không phải… nhưng…”
Tri dúi giấy bút vào tay tôi:
“Thôi, không nhưn nhị gì cả, viết đi, viết vài dòng cho ông bà cụ thấy được tuồng chữ của anh mà yên lòng. À, vừa viết vừa uống cà phê đi nhé. Trời nóng quá nên tôi mua cà phê sữa đá.”
Vẻ chân tình của Tri khiến tôi không ngần ngại nữa, cầm bút viết ngay vài dòng cho ba mẹ tôi. Viết xong tôi đưa cho Tri nguyên trang giấy không xếp lại, ngầm ý rằng Tri có thể đọc kiểm duyệt, nhưng Tri không đọc; anh xếp vội lá thư, bỏ vào bì rồi tự anh liếm phong bì, dán kín lại, đẩy phong bì đến phía tôi:
“Anh đề bì luôn.”
Tôi cảm động, cúi xuống viết lên bì rồi đưa Tri:
“Cám ơn anh.”
Tri xua tay, nói:
“Anh còn muốn nhắn gì thêm ngoài lá thư này không?”
“Không, nhưng tôi muốn biết một điều, chẳng biết anh có thể nói thực tôi nghe không?”
“Anh cứ tự nhiên.”
“Hồi trưa tôi thấy Thiện Đắc xách giỏ bước ra khỏi khu trại, có phải anh ấy được về không?”
“Phải, anh ấy được trả tự do. Thì cũng nhờ cái bản tự khai của anh xác nhận rằng chuyện tự thiêu là do anh chứ không có Thiện Đắc dính vào. Tôi tức tốc lo giải quyết vụ đó ngay, đây là ý kiến của anh mà, phải không?”
“Phải, cám ơn anh.”
“Có gì đâu. Thực ra chuyện Thiện Đắc bị bắt cũng là cái chuyện tầm phào của công an Sở thành phố Hồ Chí Minh. Họ chỉ làm cho có chuyện, làm để chứng tỏ sự tích cực trong dịp 30 tháng 4 mà thôi. Bỏ qua chuyện đó đi, mình nói chuyện khác há. Anh Khang còn muốn nói gì với tôi trước khi chia tay không?”
Tôi mỉm cười, chưa biết nói gì. Tri đưa thuốc mời tôi. Chúng tôi im lặng hút thuốc, uống cà phê. Nắng buổi chiều chiếu xiên vào cửa sổ phía sau lưng tôi, tạo một ô ánh sáng hình chữ nhật dưới đất, phản chiếu lên khuôn mặt Tri, cho thấy cái vẻ bịn rịn tội nghiệp của anh chàng cán bộ miền Bắc xa xôi này. Anh nhấc ly cà phê lên uống, đôi mắt lớn nhìn tôi như muốn khẩn cầu một điều gì. Một lúc, anh nói:
“Ở ngoài Bắc, tôi không có bạn,” ngưng một lúc, anh tiếp, “chỉ có các đồng chí.”
Tôi cười nói:
“Ở trong Nam này, tôi lại có rất nhiều bạn nhưng khá ít người đồng chí.”
“Như thế tốt hơn chứ, phải không? Đồng chí chỉ quan hệ với nhau qua công tác và một thứ lý tưởng nào đó, còn tình bạn thì thường khi khởi đầu bằng cái chân tình hay cái xúc cảm về… về cái… gì nhỉ?”
“Xúc cảm đồng phận,” tôi tiếp lời, rồi bỗng xúc cảm nói luôn một hơi, “chúng ta sinh ra trên đất nước này là để lớn lên trong cái đồng phận khốn khổ của tuổi trẻ quê hương… để rồi từ cái đồng phận khốn khổ mù lòa ấy, chúng ta cố tình hủy diệt nhau, vô tình chém giết nhau…”
“À, phải rồi, đồng phận, đồng phận, chữ hay quá. Tuổi trẻ Việt Nam có mặt một cách mù lòa, vô cảm theo chứng di truyền bệnh hoạn của một lũ người lớn cuồng si điên loạn…”
Nói đến đó, Tri hơi cúi mặt xuống, kéo dài một hơi thuốc, phà khói với đôi mắt lim dim, mặt đỏ lên như một anh chàng say, nói tiếp với giọng rưng rưng:
“Anh Khang ơi, anh có hiểu được nỗi khổ của tôi, của một người quý mến anh, cảm phục con đường anh chọn, nhưng phải ghi xuống trên văn bản những lời buộc tội anh không?”
Tôi cười:
“Đâu phải lỗi anh. Anh không lấy cung thì có người khác lấy cung. Huống gì tôi đâu hối tiếc về việc làm của tôi.”
Tri thở dài. Phà khói thuốc. Khói thuốc cuồn cuộn nổi lên theo luồng nắng.
“Nếu anh Khang cũng sinh ra và lớn lên ở ngoài Bắc như tôi, không biết anh sẽ ra sao nhỉ? Anh có giống tôi không? Anh sẽ làm gì anh nhỉ?”
“Tôi sẽ bỏ chùa đi làm cách mạng.”
“Ngoài Bắc không có tu sĩ trẻ như anh đâu, chỉ có mấy sư cụ bảy tám mươi tuổi, làm kiểng cho chính sách tự do tôn giáo của chế độ thôi. Anh không thể là tu sĩ đâu. Anh là một thi sĩ, một văn sĩ, hay là một cán bộ của nhà nước, như tôi vậy thôi. Vậy rồi anh làm gì, nói gì, nghĩ gì?”
“Lên đường làm cách mạng.”
“Anh sẽ chết anh Khang ạ.”
“Vâng, tôi sẽ chết, giống như bây giờ, tôi cũng sẽ chết.”
Tri nhìn sững tôi một lúc, rồi gật đầu nhẹ, mắt nhìn ra cửa sổ, suy nghĩ gì đó, một lúc, anh nói:
“Nhìn tướng anh thấy hiền, mà sao anh cứng rắn, liều mạng quá. Tôi… chuyến này về Bắc chắc tôi bị lây cái tính của anh! Không chừng một ngày nào đó tôi với anh Khang gặp nhau trong trại giam này với tình đồng chí, đồng nghiệp đó nghe.”
Chúng tôi cùng cười.
“Anh Khang à, khi trưa tôi có đi một vòng quanh chợ, mua cái này làm quà cho anh,” nói rồi, Tri đứng dậy lôi từ góc tủ ra một cái giỏ đệm cỡ nhỏ nhưng có vẻ khá nặng. “Đây chẳng có gì nhiều, chỉ là chút quà tôi biếu anh để gọi là tỏ lòng quý mến thôi. Nếu anh có thể xem tôi như một người bạn, xin anh vui mà nhận cho.”
Tôi xua tay nói:
“Không dược. Tôi không nhận đâu. Tình bạn thì nhận, còn quà này xin anh miễn cho.”
“Sao thế anh Khang? Anh không nhận tôi buồn lắm. Đây là của tôi biếu anh, có phải đâu là của đảng hay nhà nước. Quên phứt cái giàn máy, quên phứt đi cái chuyện tôi là cán bộ, anh là phạm nhân… nếu chúng ta là bạn, thì chút quà này chẳng phải là điều biểu lộ bình thường tự nhiên sao?”
“Không được. Tôi chẳng hiểu tại sao không được, nhưng tự trong lòng, tôi thấy bứt rứt khó chịu như thế nào đó. Tóm lại là tôi không thấy thoải mái để nhận giỏ quà của anh. Cám ơn anh và xin lỗi anh vậy.”
Tri chưng hửng một lúc rồi nói:
“Hay anh ngại sự dị nghị của bạn tù trong phòng giam?”
“Ơ… hình như đó cũng là một trong những lý do. Tôi không muốn công khai nhận một tình bạn mới–qua món quà vật chất–để đánh đổi bao nhiêu tấm lòng của những người bạn cùng cảnh ngộ. Cái tình bạn giữa anh và tôi… chẳng có thể giải thích được với ai. Thôi thì âm thầm ghi nhận. Không cần biểu lộ bằng cách này. Từ sáng đến giờ nói chuyện với anh khá nhiều, tôi đã hiểu được phần nào cá tính, tâm trạng và tấm lòng của anh. Vậy đủ rồi anh Tri ạ.”
Tri gục gặc nhưng mặt cũng buồn dàu dàu:
“Thôi thì theo ý anh vậy. Anh Khang, thôi mình chia tay. Anh giữ gìn sức khỏe nhé,” nói rồi Tri đứng dậy, đưa một tay ra bắt tay tôi. Anh xiết chặt tay tôi một lúc.
“Chào anh. Thượng lộ bình an nghe,” tôi nói.
Tri bỏ giỏ quà lại trong phòng đó, tiễn tôi băng qua sân trại để hướng về phía dãy văn phòng chính. Đi một khoảng ngắn, Tri dừng lại, ngập ngừng một lúc rồi nói nhỏ:
“Anh Khang à, nếu một ngày nào đó họ đưa anh ra xử án mà kết án tử hình… anh nhớ xin chống án nhé. Vì theo kinh nghiệm nghề nghiệp, tôi biết rằng nếu bị can xin chống án thì thường thường là được giảm án. Anh phải sống, anh Khang à. Đôi khi trong cuộc đời, mình cũng phải làm bộ yếu mềm, nhu nhược đi một chút mới tồn tại được để tiếp tục con đường mà mình chọn lựa. Cách duy nhất để tồn tại trong xã hội này là phải dối. Từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, đều phải dối nhau, giả đò tin tưởng nhau mà sống. Anh không sống được bằng cách đó thì cũng nên tự cho phép mình một lần vào dịp chống án đó, nhé anh.”
Tôi mỉm cười, gật đầu, nhưng không chắc là mình gật đầu ưng thuận về cái gì.
Đưa tôi đến thềm hiên, giao tôi cho Phương xong, Tri quay ra phía căn phòng khi nãy. Tôi đứng lại bên thềm hiên nhìn mây trắng bay qua khoảng trời xanh rộng bát ngát. Chỉ một lúc ngắn thì đã có anh chiến sĩ bảo vệ bước ra, dẫn tôi về lại phòng giam.
Chờ tôi cởi bỏ áo và quần dài ra rồi, anh trưởng phòng trờ tới tôi, hỏi:
“Sao, bữa nay đã kết thúc chưa? Thiệt tình chưa thấy ai bị kêu ra làm việc nhiều như thầy. Chúng nó quần ông thầy cả mấy tháng, hết đợt này tới đợt nọ. Thầy đạt kỷ lục khai cung của trại giam rồi đó.”
“Có lẽ bữa nay bắt đầu yên, chỉ còn chờ đưa ra tòa nữa thôi.”
Tôi vừa dứt lời đã nghe tiếng vỗ tay bôm bốp. Lại có cán bộ vào. Phòng giam im lặng chờ đợi. Khoa bước đến chỗ lồng khung, theo sau là một anh nuôi xách một cái giỏ đệm. Khoa đảo mắt nhìn quanh phòng một lúc rồi nói:
“Anh Khang, có gia đình thăm nuôi đột xuất,” nói rồi Khoa mở cửa cho anh nuôi đưa cái giỏ vào trong.
Khoa đi rồi, phòng giam nhốn nháo cả lên.
“Rồi, ông thầy lại có thăm nuôi!”
“Sao lại thăm đột xuất vậy ta? Tháng trước ông thầy đã được thăm nuôi thì gia đình phải biết thể lệ thăm nuôi là vào ngày 15 với 30, vậy sao lại thăm đột xuất?”
“Thôi, thắc mắc mà làm gì, ông ấy có thăm nuôi thì mừng cho ông ấy!”
Tôi lẳng lặng bước đến chỗ giỏ quà, nhìn thoáng là biết ngay giỏ quà của Tri đã đưa tôi khi nãy. Tôi chỉ đứng nhìn cái giỏ chứ không xách mang về chỗ của mình, cũng chẳng đụng vào nó. Tôi đứng lưỡng lự một lúc rồi nói:
“Cái giỏ này đột xuất có nghĩa là cái giỏ mà tôi không chờ đợi. Vậy tôi biếu hết cho mấy anh em chưa có thăm nuôi,” nói rồi tôi quay về chỗ tôi.
Cả phòng reo lên. Anh trưởng phòng chạy lại bên tôi, hỏi lại:
“Sao, vậy là sao? Làm cái gì kỳ cục vậy? Sao không nhận quà chứ?”
“Nhận rồi đó, nhận rồi biếu lại. À, hay anh giúp tôi phân chia giỏ quà ấy cho mấy người chưa có thăm nuôi, được không? Anh làm trưởng phòng thì anh làm chuyện đó hay hơn ai hết mà!”
Trưởng phòng ngó tôi:
“Thiệt sao?”
“Thiệt, giúp tôi đi.”
Vậy là anh trưởng phòng tập họp mấy người “mồ côi” lại, chia đều cái giỏ. Phòng giam bấy giờ chỉ còn ba người chưa có thăm nuôi. Chia xong, anh trưởng phòng trở lại chỗ tôi, nói:
“Nè, bộ của cô nào tặng hay sao mà không dám nhận, nhận thì sợ lụy tình sao chớ? Hì hì, nói giỡn với thầy chơi chứ không có ý gì đâu. Mấy chàng mồ côi vui dữ, tự nhiên lại trúng mánh. Có một hủ chao, một bình nước tương, một bịch đường cát trắng, một kí đường tán vàng, một kí muối bọt, lại có cả sáu gói thuốc Sông Cầu với nửa cây thuốc rê Tam Hiệp. Ông Lực với thằng Tân thì chia nhau mấy gói thuốc Sông Cầu, còn thằng Ken thì ôm trọn nửa cây thuốc rê. Đã quá. Không phải gia đình của thầy thăm, phải không? Ừ, tôi cũng đoán vậy, vì quà thăm nuôi không giống như tháng trước. Kỳ này mua đồ của chợ Biên Hòa thôi mà.”
Tôi không nói gì, sửa soạn ăn cơm chiều.
Sau khi điểm danh, cửa sắt đóng lại, đèn phòng bật lên, bỗng thấy Ken lần dò đến bên cạnh tôi, dúi vào tay tôi một mẩu giấy, nói nhỏ:
“Thầy Khang à, có một mẩu giấy nhét trong thuốc rê, chắc của gia đình nhắn tin với thầy đó. Thầy cầm đi, coi chừng có đứa biết nó báo quản giáo đó.”
Tôi vo mẩu giấy trong tay, vờ đi vòng vòng trong phòng giam một chặp rồi đến bên cửa sổ, đứng yên một lúc cho không ai để ý mới mở ra, đọc dưới ánh mờ của một ngọn đèn ngoài hiên hắt đến.
Anh Khang, xin lỗi anh nhé, tôi muốn anh nhận gói quà này. Tự tay tôi đi chợ mua sắm lấy để biếu anh, lẽ nào anh từ chối. Tôi nói với ban trực trại là của gia đình anh nhờ tôi mang vào giúp. Dĩ nhiên là họ không thể không nhận. Thế thì anh cũng vui lòng nhận cho tôi vui nhé. Cho dù cái giàn máy có nghiền nát tôi ở miền ngoài, tôi vẫn luôn nhớ rằng tôi có một người bạn rất cao đẹp ở miền trong, một người con chí hiếu của quê cha đất mẹ chứ không phải của bất cứ chế độ nào. Và dù thế nào đi nữa, tôi vẫn luôn tin tưởng rằng tương lai đất nước là của tuổi trẻ chúng ta. Mong ngày hội ngộ. T.”
Tôi vò mẩu giấy lại, nói thầm: “Vâng, tương lai đất nước là của những người tuổi trẻ chúng ta.”
Tôi bước đến tìm Ken:
“Anh Ken, cho tôi một điếu thuốc rê đi.”
”Đây nè, thuốc này của thầy cho tôi, thầy muốn lấy bao nhiêu lại chẳng được, lấy nguyên nửa cục này đi.”
“Không, một điếu thôi, một điếu để khỏi phụ lòng một người bạn phương xa.”
Rồi tôi đứng bên cửa sổ, phà khói thuốc vào màn đêm.






CHƯƠNG MƯỜI


 Tôi giúp nàng kéo cánh cửa sắt xếp qua một phía. Vào nhà. Nàng lại khóa cửa sắt từ phía trong. Đến ngang chỗ cầu thang dẫn lên lầu, nàng đứng lại, do dự. Dường như sau khi từ quán cà phê ở góc đường xôn xao tiếng người và xe cộ, về đến nhà, chúng tôi đều cảm thấy an ổn và thân thiết với nhau hơn trong khung cảnh riêng tư một nam một nữ như vầy. Một cảm giác vừa ấm cúng, thích thú, mà cũng vừa bồi hồi, lo sợ… Giống như có một bức tường ngăn mong manh mỏng mảnh giữa hai chúng tôi mà chỉ cần động nhẹ thì nó sụp đổ ngay. Cho nên, thay vì lên lầu trở vào căn phòng có chiếc giường nàng đã dọn sẵn chăn màn cho tôi đêm qua mà tôi chưa kịp ngã lưng, tôi ngồi lại ở xa-lông phòng khách. Thấy vậy, nàng cũng không bước lên lầu mà đi thẳng xuống nhà bếp, nấu nước sôi hay làm thứ gì đó. Chỉ một vài phút trống ngồi một mình, trong tôi đã lảng vảng nhập nhòa hai thứ cảm giác sâu đậm của tự do và mất mát. Tôi thấp thỏm, đứng dậy. Nàng từ dưới bếp bước lên.
“Anh định đi đâu hở?”
“Không, không đi đâu… Anh muốn tìm miếng nước.”
“Em đang nấu nước sôi chế trà, hay anh muốn uống nước lạnh?”
“Ừ, cho anh nước lạnh.”
Nàng quay xuống bếp rồi trở lại thật nhanh với ly nước lạnh cầm tay. Tôi đón ly nước. Tay chúng tôi chạm nhau.
“Anh có mệt không? Hôm nay anh dự trù đi đâu, để em chở anh đi há? Hay anh muốn nằm nghỉ rồi chiều hãy đi?”
“Chưa biết nữa… nhưng chắc không ngủ được đâu, phải đi. Chưa gặp mặt các bạn bè thì chưa yên lòng.”
“Anh không có người thân nào ở Sài Gòn thì đi công chuyện gì xong cứ về đây, em đưa anh một chìa khóa, nghe?”
“Có mấy người chị ruột, nhưng họ đều đi Nha Trang cả rồi.”
“A, các chị về quê ăn Tết à, sớm quá vậy?”
Tôi biết không phải các chị tôi về Nha Trang ăn Tết, nhưng không cải chính, im lặng ngồi xuống xa-lông. Nước sôi đang reo dưới bếp. Nàng quay đi. Càm giác mất mát đè ngộp tim tôi làm cho cảm giác tự do vuột mất. Tôi nhắm mắt định tâm một lúc. Nàng quay trở lại với cái khay nhỏ đặt bình trà và hai cái tách.
“Bây giờ hãy còn sớm, các bạn anh chắc còn ngủ chưa dậy đâu, thôi thì ngồi đây kể em nghe tiếp, rồi khi nào anh muốn đi, em đưa anh đi.”
“Em nghe chuyện cả đêm rồi chưa thấy mệt thấy chán sao?”
“Ô, thêm vài đêm thức trắng cũng được nữa kìa! Anh kể nữa đi. Đúng ra chuyện chưa hết thì em chưa cho anh rời khỏi nơi đây đâu!”
“Đến chỗ nào rồi?”
“Chia tay anh chàng cán bộ Hà Nội.”

Ó

Thấm thoát đã trải qua mấy kỳ thăm nuôi. Tôi được nhận quà hàng tháng của gia đình, nhưng chưa bao giờ được gặp mặt ai. Thỉnh thoảng trên hộp bánh có ký tên Như Tâm hoặc mẩu giấy nhỏ với ba nét chữ khác nhau dúi trong gói bột ngũ cốc cho biết rằng có sự quan hệ mật thiết giữa Như Tâm và gia đình tôi. Có lẽ mỗi tháng đến kỳ thăm nuôi thì Như Tâm mang quà đến nhà chị tôi (ở Sài Gòn) để gửi vào cho tôi. Có điều là chưa có dấu hiệu gì của những người bạn đồng học ở tu viện Già Lam, cũng như những người cùng sinh hoạt trong Đoàn Phật Tử Phụng Đạo hay Hội Lạc Long… Điều này làm tôi đâm lo lắng, băn khoăn, không biết bạn bè của mình có ai bị tù hay không.
Những băn khoăn thắc mắc của tôi được trả lời phần nào trong đợt thăm nuôi giữa tháng 11 của năm 1985. Ngày ấy đối với tôi thật bất ngờ, vì đó là lần đầu tiên tôi được phép gặp mặt một người thân của tôi sau hơn sáu tháng bị bắt vào tù.
Cũng với vài người khác được gọi tên, tôi xếp hàng, theo sự hướng dẫn của một viên cán bộ, bước ra một dãy nhà tôn nhỏ nằm cách khu trại giam chừng năm trăm thước. Cán bộ chỉ gọi tên xong rồi nói gọn một câu: “Ra gặp mặt!” Nói gọn như thế nên đám tù khó lòng biết được là mình sẽ gặp mặt ai, ngoại trừ những người đã được phép gặp mặt người thăm nuôi mình từ những đợt thăm nuôi trước.
Sau gần mười phút đứng đợi ở ngoài, bên cạnh một hàng rào thưa, tôi được gọi tên, bước vào một trong vài phòng của cái nhà tôn đó. Có hai cửa ra vào từ hai phía vách đối nghịch nhau: một từ phía trong trại giam bước ra, một từ phía đường cái bước vào. Một cái bàn dài và lớn đặt giữa hai phòng, hai đầu bàn giáp mí hai vách tường còn lại, chia phòng thành hai khu vực riêng biệt: khu vực của người thăm nuôi và khu vực của tù nhân. Mỗi khu vực có một viên cán bộ mặc đồng phục, đeo súng, đứng kiểm soát. Đám tù được gọi tên và bị thúc hối bước nhanh vào phòng, ngơ ngác nhìn trong đám người đến thăm ở phía đối diện để tìm một khuôn mặt quen thuộc; tìm thấy rồi mới vội vàng chọn chỗ ngồi mặt đối mặt với người ấy, bắt đầu nói chuyện.
Người đi thăm nuôi và gặp mặt tôi là chị Thuần, người chị ruột lớn hơn tôi hai tuổi. Chị ấy không biết gì về các hoạt động của tôi liên quan đến lực lượng Phục quốc, nhưng có một dạo, chị tình nguyện lên sống trên vùng kinh tế mới vài tháng, đảm trách hai lớp học bổ túc văn hóa miễn phí do chùa tôi tổ chức để giúp cho các trẻ em thất học trong vùng. Chị khá thân với tôi trong thời gian ấy. Nay vừa thấy tôi, chị đã mếu máo và chực bật khóc. Xa gia đình từ thuở nhỏ, tôi đã quen với sự tự chế về cách biểu lộ tình cảm và sự xúc động tâm lý nên tôi thật bỡ ngỡ khi thấy chị ấy khóc. Tôi ngồi im nhìn chị một lúc. Chị cố gắng lắm mới kềm được nước mắt, rồi mở lời:
“Khang khỏe không?”
“Khỏe,” tôi vừa gật đầu vừa đáp, nhưng thấy tiếng mình nhỏ quá, chìm hút giữa bao tiếng la hét của những người chung quanh, tôi cố gắng nói lớn lên một chút: “Khỏe!”
Chị gật đầu, suy nghĩ một lúc rồi cũng la lớn tiếng:
“Có nhận quà thăm nuôi mấy lần trước rồi hả? Đầy đủ không?”
Tôi chỉ cười nhẹ, rồi tự hỏi lại mình theo các thắc mắc mà các bạn tù chưa được gặp mặt người thăm nuôi thường nói với nhau trong phòng giam: Mấy lần trước là mấy lần? Đầy đủ là sao? Tháng nào nhận được giỏ quà thì biết là gia đình có đến thăm nuôi, tháng nào không nhận thì nghĩ là gia đình không đến. Đến hay không đến cũng chẳng đoán trước được. Có thư từ hay dấu hiệu gì để đoán trước hoặc kiểm chứng được rằng mình có nhận đủ quà thăm nuôi hay không! Mỗi tháng trại cho phép thăm nuôi hai lần, làm sao biết được gia đình đi thăm một lần hay là hai lần! Ngộ nhỡ gia đình thăm hai lần mà mình chỉ nhận được có một lần thì làm sao gia đình và làm sao chính mình biết là mình nhận đủ hay thiếu? Chưa hết, làm sao biết được là giỏ quà có đầy đủ tất cả những món đồ mà gia đình gởi vào? Mỗi tháng đến ngày thăm nuôi, tù nhân thấy anh nuôi xách vào một giỏ thức ăn, đặt xuống đất trước cửa phòng giam rồi rứt mẩu giấy nhỏ gắn ở miệng giỏ lên, gọi tên. Tên ai thì người đó đến nhận giỏ quà. Chỉ có thế. Không có giấy kê khai bao nhiêu món quà và bao nhiêu thức ăn thức uống trong giỏ. Vậy thì làm thế nào biết được giỏ quà có nhận đủ hay không?
Dù vậy, chuyện đó cũng chẳng quan trọng gì, nên tôi nói đại:
“Đầy đủ.”
“Anh Hiền cũng ở cùng một trại này với Khang, có biết không?”
“Biết.”
“Nhưng anh ấy mới chuyển từ Nha Trang đến trại này nên chưa được phép gặp mặt, chỉ được thăm nuôi thôi.”
Nhắm chừng anh cán bộ đứng cách chị tôi một khoảng khá xa không làm sao nghe rõ được lời tôi giữa bao tiếng nói cười lao xao chung quanh, tôi hỏi chị ngay:
“Cả nhà bình an hả?” – chị gật đầu, tôi tiếp, “vậy bạn bè của Khang thì sao? Chị có biết gì không?”
Chị tôi kín đáo đảo nhanh mắt một vòng rồi nói:
“Có cái thư gia đình gởi vào cho Khang, trong đó có vài hàng của bạn bè Khang viết nữa…”
“Bạn bè nào vậy?”
“Thầy Nguyên Lạc bạn của Khang đó mà. À, có Tửu và sư cô Như Tâm… tháng nào cũng mang quà đến. Đây là hai người chính lo chuyện thăm nuôi Khang đó,” chị nhỏ giọng xuống,” ở đây họ đâu cho phép đưa thư tay, phải không? Hình như phải qua khâu kiểm duyệt của ban quản giáo gì đó của trại… Mấy người đi thăm nuôi ở ngoài kia nói với chị như vậy, không biết có đúng không.”
“Chắc là phải vậy. Chị ra hỏi thử các cán bộ trực thăm nuôi xem sao.”
“Chị chưa nói hết: lá thư gởi Khang chị đã đưa cho cán bộ y tế rồi.”
“Sao vậy? Cán bộ y tế đâu có trách nhiệm nhận thư đâu mà đưa làm gì, coi chừng đó! Thư có viết gì… vi phạm nội qui không?”
“Chị có đọc qua rồi, không sao đâu. Nói ra bây giờ thì không được, nhưng đọc thư thì chắc Khang hiểu hết đó. Để chị kể lại Khang nghe: khi nãy chị gởi thuốc trị bệnh cho Khang nơi cán bộ coi về y tế thì cô ấy nói là có biết Khang. Cô ấy hỏi chị muốn nhắn hoặc có thư từ gì gởi cho Khang thì để cô đem vào đưa tận tay cho Khang. Chị mừng quà nên đưa luôn lá thư. Đưa xong ra ngoài sân đứng đợi tới phiên vào gặp mặt mới nghe mấy người kia nói lá thư thì phải đưa cán bộ quản giáo.”
“Cô ấy tên gì?”
“Tên là… à, đúng rồi, tên Phương, cô ấy mang kiếng cận, Khang quen không?”
Tôi phì cười:
“Có quen gì đâu! Biết thôi. Tại mỗi lần đi khai cung là gặp cô ấy nên phải biết.”
“Vậy… lá thư đó có sao không?”
“Không sao đâu.”
“Nhận thư và thuốc rồi, cô ấy cứ giữ chị ngồi đó, hỏi tùm lum chuyện làm chị cũng hơi sợ.”
“Chị đã nói gì với cô ấy?”
“Không có gì đâu. Cô ấy đâu có hỏi về ai khác, chỉ hỏi toàn là chuyện Khang, tính tình làm sao, là em thứ mấy trong gia đình, thích cái gì, làm gì, học hành ra sao… đại khái là hỏi về cá nhân Khang đó mà.”
“Vậy thì không sao. À, không phải thầy Nguyên Lạc đã đi xa rồi?”
“Không, thầy ấy không đi.”
“Thầy ấy có cho biết là có người bạn nào của Khang bị…?”
“Hình như có… Thôi, để đọc thư rồi biết. Hy vọng cô Phương sẽ đưa thuốc và kèm theo cả thư cho Khang, còn như không đưa thì cũng đừng gây phiền phức gì. Khang còn dặn dò gì nữa không?”
Tôi ngập ngừng một lúc, ngó trước ngó sau, rồi nói:
“Dặn các bạn bè của Khang… đừng đi lại nhiều mất thì giờ; ở đâu thì ở yên đó đi, vậy khỏe hơn.”
“Ừ, chị hiểu rồi.”
Rồi chị tôi rời chỗ ngồi, đến bên anh cán bộ đứng kiểm soát phòng nuôi, đưa một xấp tiền giấy lên, hỏi gì đó, anh cán bộ gật đầu. Chị quay trở lại, đưa tiền cho tôi, nói lớn:
“Cán bộ cho phép gởi tiền riêng cho Khang xài, Khang cất đi.”
Xong, chị xoay qua hỏi chuyện về quà thăm nuôi, cái chuyện thực tế rất cần thiết cho người ở tù. Chị muốn biết tôi cần món gì, thức ăn gì để mang đến vào đợt sau. Tôi vừa dặn dò chị xong thì hết giờ. Buổi gặp mặt ngắn ngủi hình như chưa đến mười phút.
Tối hôm ấy, phòng giam tổ chức văn nghệ như thường lệ. Tiếng chách-chùm vỗ nhịp của mấy anh Tàu Nùng nơi đáy thau nhựa và gà-mên nhôm dường như đã bồi thêm trong tôi một nỗi xôn xao, bất an, lo lắng. Khi sáng, tôi hỏi có người bạn nào của tôi bị tù không, chị tôi nói “hình như có.” Ba tiếng vừa mơ hồ vừa xác định ấy làm tôi hoang mang khôn tả. Tôi mong Phương sớm trao thư cho tôi để biết được tin tức chính xác hơn.
Tôi trằn trọc mãi với cái nghi vấn rằng ai trong số bạn bè tôi đã bị vào tù. Tôi không muốn bất cứ bạn nào của tôi phải chịu chung số phận với tôi cả. Một mình tôi gánh chịu, đủ rồi. Xin cho mọi người đều bình an…
Sáng hôm sau, đang ngồi trò chuyện với vài người bạn tù ở góc phòng, tôi nghe tiếng vỗ tay báo hiệu và vài tiếng to nhỏ xì xầm cho biết rằng Phương, cô nữ cán bộ đặc trách về y tế, đang bước đến phòng giam chúng tôi. Áo sơ mi lụa mỏng màu xanh lá cây với chiếc quần tây màu đen, ống hơi bó, Phương đủng đa đủng đỉnh tiến vào chỗ lồng khung trong sự im lặng chờ đợi và bao cặp mắt thèm khát của đám nam tù nhân dán vào cô. Phương thủng thỉnh ngồi xuống, soạn cái giỏ thuốc, lấy ra một cuốn sổ, vừa lật vừa nói mà chẳng nhìn ai:
“Hôm qua có một số thân nhân của các anh gởi thuốc vào. Tôi đọc tên người nào người đó đến lãnh thuốc nghen.”
Theo nội quy, có cán bộ vào đến phòng giam thì tù nhân phải im lặng, không được đi qua đi lại, nhưng đặc biệt đối với Phương, cô nữ cán bộ y tế, hình như tù nhân không bị bắt buộc phải im răm rắp và ngồi chết cứng một chỗ như đối với các cán bộ quản giáo. Tôi vẫn nghe được những tiếng xì xầm hoặc cười rúc rích to nhỏ. Tôi còn thấy vài anh tù dời chỗ, lom khom chạy đến gần lồng khung để được ngắm Phương rõ ràng hơn. Có lẽ vì Phương đến phòng giam trong tư cách y tá hơn là tư cách cán bộ thụ lý hồ sơ hoặc quản giáo nên nội quy không nghiêm khắc lắm.
Cô lật tới lật lui cuốn sổ một lúc rồi gọi tên, Khoảng bốn, năm người đến nhận thuốc rồi mà chẳng có tên tôi. Tôi nóng ruột lắm, nghĩ rằng lá thư gia đình gởi tôi đã bị cô này đưa ban quản giáo kiểm duyệt rồi dìm luôn.
“Hết rồi. Sinh hoạt bình thường đi. Nè, anh trưởng phòng, có ai bệnh nặng mà không thuốc chữa thì nhớ báo cáo gấp nghe,” Phương vừa đứng dậy vừa nói.
Rõ ràng là cô đã xếp sổ để cất vào giỏ và chuẩn bị rời phòng mà chẳng đá động gì đến lá thư tôi chờ đợi. Rõ ràng là đám tù đã đứng dậy, nói chuyện và theo sự cho phép của Phương: sinh hoạt bình thường. Bất chợt, như vừa sực nhớ ra, cô bước đến cửa thì quay trở lại, lôi cuốn sổ ra lại, nói:
“À, hình như còn một tên nữa. Để coi… đây rồi, Vĩnh Khang, có không?”
Tôi bước đến chỗ lồng khung. Vì Phương đã cho phép sinh hoạt bình thường, nên việc cô quay lại chút xíu để đưa thuốc cho tôi không bắt buộc cả phòng giam phải im lặng ngồi xuống như thường lệ. Chỉ một vài người tù đứng quanh lồng khung, bao nhiêu người khác cứ qua lại, nói cười. Té ra, Phương đã cố tình trao thuốc cho tôi bằng cách này: tránh được sự chú ý của cả phòng.
“Anh có gặp mặt người nhà hồi hôm qua rồi phải không? Sướng quá rồi há. Được thăm nuôi, được gặp mặt, rồi lại được nhận thuốc phòng bệnh, chữa bệnh nữa. Đây, có gói thuốc của người nhà anh gởi vào cho anh. Thuốc nhiều lắm, ở đây có ai nhận thuốc men nhiều như anh đâu. Đúng ra anh không được nhận thuốc nhiều như vầy mà chỉ được một vài thứ thông dụng thôi, bao nhiêu thứ khác phải gởi cán bộ y tế, khi nào cần thì đăng ký xin lấy. Nhưng đặc biệt cho anh, đưa hết một lần để tùy nghi sử dụng. Anh kiểm tra lại rồi ký tên vào sổ này,” nói rồi cô luồn gói thuốc vào cho tôi, sau đó đưa cuốn sổ và cây bút. Tôi còn hoang mang chờ đợi lá thư nên nhìn cô dọ hỏi và bắt gặp đôi mắt cô nhìn tôi đăm đăm. Tôi lờ đi, cúi xuống ký tên. Ký xong, tôi đưa trả cuốn sổ và cây bút, cô đón nhận thế nào đó mà mấy ngón tay cô lại đụng vào mấy ngón tay tôi. Xong, cô thọc tay vào giỏ xách, nhắm vào một chỗ cố định nào đó, lôi ra một phong thư, bước thêm nửa bước gần hơn về phía tôi, đôi mắt chớp chớp nhìn tôi như muốn nói một điều gì nhiều hơn trong vài lời ngắn gọn của cô:
“Lá thư này của chị Thuần gởi cho anh. Ưu tiên lắm mới nhận thư này đó nghe.”
Tôi đón lá thư, nói nhỏ:
“Cám ơn.”
Phương cười duyên, tần ngần đứng lại một lúc rồi quay đi.
Tôi mang lá thư về chỗ nằm của mình và ý thức thật rõ rằng Phương đã cố ý tạo một hoàn cảnh đặc biệt ít người chú ý để trao thuốc và thư cho tôi. Dù sao, một lá thư đưa tận tay như vậy cũng dễ gây ngộ nhận đối với vài bạn tù vây quanh tôi lúc ấy. Làm sao biết được thư này là của gia đình gởi tôi hay là thư của chính cô nữ cán bộ y tế lãng mạn trao cho một nam tù nhân? Hoặc là một thư mật báo hay thứ mật lệnh gì đó của cán bộ trại gởi vào cho một tay tình báo đang chịu khổ nhục kế trong tù? Thật là phiền nếu bị ngộ nhận như vậy. Tôi đảo mắt nhìn quanh một vòng xem thử có ai để ý đến mình không. Không ai cả. Mọi người đang sinh hoạt bình thường như mọi ngày. Không ai nhìn ngó gì đến tôi. Họ đang bận chơi cờ tướng, đánh domino, cười nói xì xầm hoặc om sòm với nhau từng cặp, từng tốp. Vài người ngồi hay nằm dài, im lặng trầm tư. Không khí không có vẻ gì là có một sự ngờ vực với tôi.
Tôi yên tâm ngồi tựa lưng vào tường, mở lá thư ra. Một lá thư nhưng mà có ba tuồng chữ. Mỗi tuồng chữ chỉ viết dăm hàng. Tuồng chữ của Thuần, người chị kế đi thăm nuôi và gặp mặt tôi hôm qua, là chính, vì được viết ngay theo trang giấy. Hai tuồng chữ còn lại thì có vẻ như là viết ké ở lề trái. Tôi chỉ nhìn thoáng qua, rồi lo đọc thư của chị Thuần trước. Lá thư được viết với sự e dè:
“Khang thương,
Ba mẹ và cả nhà đều bình an mạnh khỏe, không ai bệnh hoạn gì. Cả nhà chỉ mong Khang và anh Hiền ráng giữ sức khỏe, học tập và lao động tốt để sớm được về với gia đình. Có cần thứ gì thì xin cán bộ cho viết thư nói rõ để gia đình biết mà lo liệu.
Hải, Tửu và Tâm cũng thường ghé thăm nhà để gởi quà cho Khang. Thôi vài lời cho Khang biết đại khái chuyện nhà. Nhớ giữ sức khỏe, nghiêm chỉnh học tập đúng chính sách cải tạo để được trở về với gia đình.
Thương mến, Thuần.”
Thư chị ấy là chính nhưng chuyện nói ra thì chẳng có gì quan trọng lắm. Những lời chị viết có thể nói thẳng khi gặp mặt.
Tôi đọc tiếp qua hai dòng chữ viết bên lề trái của lá thư. Xem ra thì hai dòng chữ này viết ké nhưng có vẻ lại nói được nhiều chuyện tôi muốn biết. Như vậy, thư của chị Thuần chỉ là cái cớ để người khác nhắn lời vào mà thôi. Tuồng chữ thứ nhất rõ ràng là chữ của Nguyên Lạc, một người bạn thân đã từng âm thầm đứng sau lưng tôi trong các sinh hoạt có tính cách dấn thân tích cực. Vào những ngày cuối cùng tôi sắp bị bắt vào tù, Võ Quốc Linh–một người bạn thân khác của tôi–đến rủ tôi đi vượt biên, tôi đã nói Linh để Nguyên Lạc đi thế vào chỗ tôi. Chẳng hiểu sao nay Nguyên Lạc hãy còn đây để viết dòng chữ này cho tôi:
“Anh em ở ngoài đều khỏe và mong Khang được về sớm. Linh, Huy, Tuấn và Như đều về bên ngoại đi làm công nhân. Cháu Hân con chị Sở phá quá, chẳng ai răn dạy gì được. Bác Nhân và chú Thể, đã chuyển hộ khẩu đến sống ở kinh tế mới với các anh Sỹ, Siêu để lao động sản xuất rau tươi. Chúc Khang lúc nào cũng an lạc.”
Đọc xong, tôi thấy ngộp thở, bàng hoàng trong lòng. Câu chuyện Hân và bác Nhân khiến tôi đau lòng hết sức. Hân con chị Sở, thực ra là Hân làm việc cho công an Sở thành phố Sài Gòn, người đã giao nộp tôi cho công an mấy tháng trước. Bác Nhân chính là Thượng tọa Đức Nhân. Dọn đến ở với anh Sỹ (Tuệ Sỹ), anh Siêu (Trí Siêu – Lê Mạnh Thái) tức là cũng vào tù, vì hai người này đang ở tù, ai cũng biết. Thư nói rõ là Hân quấy phá, có nghĩa là bên ngoài, Hân đã công khai ra mặt như là một đặc tình của công an chứ không còn giấu giếm như trước nữa. Tôi biết Hân đang tận tụy làm điềm chỉ viên để báo cáo công an đi bắt quý thầy và các bạn bè có liên hệ với tôi.
Thượng Tọa Đức Nhân đã cao tuổi, bệnh hoạn, sức khỏe rất kém, vậy mà ngài vẫn sẵn sàng dấn thân để mưu tìm cho dân tộc một ngõ thoát ra khỏi cái vòng mê muội của các thứ chủ nghĩa phi nhân ngoại lai từng làm điêu đứng đất nước trong nhiều năm qua. Tôi nghĩ là Thượng Tọa chỉ ôm ấp cái hoài bão đó chứ chưa có cơ hội để thực hiện. Vậy mà hôm nay, vì lý do nào đó, ngài đã bị bắt. Phải chăng do Hân báo cáo láo như thế nào đó? Rõ ràng là Thượng Tọa không liên can gì đến các hoạt động của tôi cũng như vụ án của các thầy Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thái (vì nếu có liên can, hẳn Thượng Tọa đã bị bắt cùng lúc với các thầy kia từ tháng 3 năm 1984).
Còn chú Thể mà Nguyên Lạc viết trong thư tức là Nguyên Thể, khi xưa là một chú tiểu ở chung chùa Núi (Linh Phong) với tôi ở Nha Trang. Khi tôi vào học Cao đẳng Phật học ở Già Lam và Vạn Hạnh vào năm 1980, Nguyên Thể cũng rời Nha Trang sau đó, vào sống ở Long Khánh, vừa làm rẫy vừa tự học. Tháng 10 năm 1984, khi tôi mời một vài bạn bè tại Sài Gòn tụ họp tại chùa của tôi trên kinh tế mới Bàu Cạn để bàn thảo phương thức thành lập một tổ chức cứu nguy dân tộc–như là một cách xử thế hành đạo của người con Phật trước hiện trạng khổ đau của đất nước–thì Nguyên Thể cũng tình cờ đến thăm và dự tính ở lại chơi với tôi vài ngày. Bởi vì đã quen nhìn Nguyên Thể như một chú tiểu ngày nào còn để chỏm ở chung một chùa với tôi, và vì nghĩ rằng Nguyển Thể chỉ có mỗi mối đam mê là đọc sách, học hành, nên tôi không ngỏ một lời nào với Nguyên Thể về nguyên do các bạn bè khác của tôi tụ tập. Tôi sắp đặt cho Nguyên Thể nghỉ đêm ở một căn tịnh thất của chùa, cách biệt với thảo am của tôi, nơi chúng tôi sẽ hội họp. Hân thấy tôi không mời Nguyên Thể họp thì gợi ý:
“Sao Khang không mời Nguyên Thể tham dự?”
“Thôi,” tôi đáp.
“Thôi, là sao? Bộ Khang nghĩ Nguyên Thể không có khả năng à?” Hân hỏi dồn.
“Không phải vậy. Tôi chỉ cảm thấy là… nên để Nguyên Thể yên. Tôi không muốn chú ấy dây dưa vào chuyện này. Để chú ấy ăn học, tu niệm thuần túy thì hay hơn.”
“Hình như Khang vẫn coi Nguyên Thể như một đứa em trai nhỏ, lo sợ quá đáng cho nó. Vậy chứ Thiện Lạc, tuổi trẻ hơn Nguyên Thể nữa, sao Khang lại đồng ý cho vào họp?”
“Thiện Lạc hay Nguyên Thể, đối với tôi, đều là những đứa em còn ngây thơ lắm. Thực ra tôi cũng không có ý mời Thiện Lạc tham dự, tôi chỉ mời Tâm Huy, và Tâm Huy kéo Thiện Lạc theo. Vả lại, theo Tâm Huy nói, Thiện Lạc tuy trẻ nhưng có nhiệt huyết và có chí hướng dấn thân rõ rệt; còn Nguyên Thể thì… tôi thực sự chưa hiểu được tâm tình chú ấy ra làm sao cả. Tuy rằng tôi và chú ấy có sống chung chùa một thời gian ở Nha Trang, nhưng lúc đó chú ấy còn nhỏ xíu, vả lại chúng tôi chia tay nhau đã nhiều năm, đâu hiểu nhau nhiều…”
“Tôi có tìm hiểu rồi,” Hân nói với vẻ tự tin. Thấy tôi không nói gì, Hân tiếp, “khi nãy Khang bận tụng kinh, tôi có ngồi nói chuyện riêng với Nguyên Thể hơn một giờ đồng hồ. Nguyên Thể cũng có tinh thần dấn thân đấy chứ. Chú ấy có vẻ phật lòng vì Khang đã không ngỏ một lời nào với chú về chuyện hội họp hôm nay. Khi tôi trình bày ý định của Khang về việc vận động thành lập tổ chức đấu tranh, Nguyên Thể phấn khởi muốn tham gia ngay, nhưng còn ngại rằng Khang coi thường chú ấy, sẽ không đồng ý cho chú góp mặt. Theo tôi thì rất nên cho Nguyên Thể tham gia. Dù sao, trong thời buổi này, tìm được một người cùng chí hướng, có khả năng, đâu phải chuyện dễ; huống chi, Nguyên Thể cũng đã từng chung sống một thời gian với Khang dưới một mái chùa… Đồng ý đi há, để tôi nói với Nguyên Thể.”
“Ý kiến của mấy anh em khác thế nào?” tôi hỏi lại.
“Ai cũng tán đồng, chỉ chờ quyết định của Khang thôi.”
“Vậy bây giờ tôi đồng ý thì Nguyên Thể có tự ái gì không? Có nghĩ là tại sao tôi là người duy nhất chú ấy thân và quen biết trong số những người có mặt ở đây lại không mời chú tham gia lại để những người như anh…”
“Ối, khỏi lo. Đã có thiện chí thì đâu có chấp gì ba cái chuyện nhỏ đó. Thôi, Khang đồng ý rồi há. Tôi nói với Nguyên Thể đó nghe,” Hân thúc giục.
Tôi ái ngại đồng ý trong im lặng. Thế là Nguyên Thể tham gia, và cuối cùng, chú ấy đã vào tù, cùng chung số phận với tôi hôm nay. Như vậy, trước mắt có thể biết rõ là trong số bảy người sáng lập Hội Lạc Long lúc ấy, nay đã vào tù 3 người là tôi, anh tôi và Nguyên Thể. Hân thì khỏi phải bàn nữa. Còn Thiện Lạc và Đỗ Trí Dũng, chẳng rõ trôi dạt nơi đâu. Chỉ có duy nhất Tâm Huy là thực sự bình an. Tôi vừa buồn về chuyện Thượng Tọa Đức Nhân và Nguyên Thể vào tù, nhưng đồng thời cũng rất vui khi biết được tin tức về Tâm Huy qua vài dòng của Nguyên Lạc.
Mấy chữ của Nguyên Lạc báo tôi biết rằng Võ Quốc Linh, Tâm Huy, Hạnh Tuấn và Giác Như đã ra được nước ngoài. Hạnh Tuấn và Giác Như thì chẳng nói làm gì vì hai người này không liên can gì đến các hoạt động đấu tranh của thầy Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát mà cũng chẳng dính líu gì đến các hoạt động của tôi cả. Họ đều học chung một khóa với tôi tại tu viện Già Lam và Vạn Hạnh. Cả hai đều nổi tiếng là mọt sách, siêng năng, cặm cụi học hành chẳng biết mỏi mệt. Họ có từ ngoài Trung chạy vào Sài Gòn rồi từ Sài Gòn đi ra nước ngoài thì cũng để lo mạy mọ chuyện học mà thôi. Chỉ có Võ Quốc Linh, và nhất là Tâm Huy, lọt được ra nước ngoài mới là điều làm tôi sung sướng, thấy nhẹ nhõm trong lòng. Tôi thở phào một hơi thật dài, sung sướng mỉm cười.
Đã có một thời, tôi nghĩ rằng Tâm Huy là con mọt sách chỉ biết lo học, và điều này đã khiến tôi hơi buồn lòng. Dù sao, Tâm Huy có hứa hẹn với tôi là sẽ hết mình hợp tác làm việc sau khi anh học xong ở Già Lam. Trong thời gian tôi bỏ lớp học ra ngoài vận động nhân sự và tạo dựng các cơ sở ở vùng quê, kết hợp với các lực lượng chống cộng, thì Tâm Huy trong khóa học Già Lam đã chứng tỏ là một sinh viên tăng xuất sắc, và anh đã liên tục đỗ thủ khoa liên tiếp trong nhiều kỳ thi của chương trình Phật học này. Đầu năm 1984 thì anh được ban giáo thọ của Già Lam đề cử đảm trách dạy môn Câu Xá Luận cho các khóa học đến sau. Rồi khi lực lượng đấu tranh của Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát bị đổ vỡ trong cùng năm ấy, lớp học Già Lam tan rã, Tâm Huy đáp lời mời của tôi, đã đến chùa của tôi trên kinh tế mới, cùng tôi và năm người bạn đã nói ở trước, lập nên Hội Lạc Long.
Chẳng may, trong số bảy người lại có Hân, một đặc tình của công an Sở Sài Gòn. Bi kịch tan vỡ và phân ly bắt đầu từ đấy. Và suốt bao tháng lẩn trốn loanh quanh Sài Gòn rồi cuối cùng vào tù, tôi luôn mong mỏi sao những anh em còn lại khác đều được thoát, nhưng ngày lại ngày, tôi chẳng được một tin vui nào từ phía họ. Cho đến hôm nay mới nghe được tin Tâm Huy. Không những tôi vui vì Tâm Huy được thoát nạn, mà còn ấp ủ thêm một hy vọng rằng khi ra được nước ngoài, có thể Tâm Huy sẽ tiếp tục chí nguyện của anh, góp sức với các lực lượng đấu tranh ở hải ngoại để làm được điều gì đó cho quê hương ngày mai.
Dẫu vậy, niềm vui và hy vọng về Tâm Huy cũng bị cái chuyện chẳng vui của Thượng tọa Đức Nhân và Nguyên Thể làm cho nhạt bớt đi. Nghĩ đến hai người này, tôi thấy xót xa phiền não trong lòng vô cùng. Hân bán đứng tôi và Nguyên Thể, hai người em kết nghĩa của anh ta, thì thật là tán tận lương tâm; tuy thế, tôi vẫn chưa hề có ý nghĩa căm ghét hay hận thù gì Hân, và vẫn còn hy vọng rằng khi biết tôi im lặng không khai gì về Hân với công an Đồng Nai và cán bộ Bộ nội vụ, có thể một lúc nào đó, Hân sẽ phục thiện, thay đổi. Tôi vẫn còn hy vọng là lấy những năm tháng tù đày của tôi để cảm hóa Hân. Nhưng hôm nay, Hân nỡ bán đứng luôn cả Thượng tọa Đức Nhân thì hết nước nói rồi, không còn thuốc chữa nữa rồi. Anh ta đã giốc hết thể xác và linh hồn vào cái chỗ cùng tận của tính phi nhân. Tôi cảm nghe một dòng máu nóng ran, bốc dậy rùng rùng trong cơ thể. Bây giờ làm sao đây? Dưới sự kiểm soát và thúc đẩy của Sở công an Sài Gòn, hoặc trong cái tham vọng to lớn hay bé tí nào đó mà Hân cứ tiếp tục dẫn đường cho mấy anh công an nhà nước ruồng bố bắt giam lần lượt các tăng sĩ Phật giáo của giáo hội, thì tôi phải làm sao? Có lẽ ngoài tôi ra, không ai trong số bạn bè tôi có thể gặp và thuyết phục Hân từ bỏ hành động mê muội của anh. Tôi vẫn còn tin tưởng như vậy, vì không ai ngoài tôi, biết rõ chỗ Hân ở và công việc Hân làm. Nhưng tôi đang ở tù, làm thế nào để gặp Hân hoặc bằng cách nào đó, chặn đứng được Hân?
Tôi vừa thở dài bất lực vừa nhìn dòng chữ lạ viết kế bên lời nhắn của Nguyên Lạc. Tuồng chữ viết nét tròn này, tôi chưa từng thấy qua. Tôi thực không biết đó là chữ của ai, viết thật ngắn mà lại không ký tên: “Bệnh nặng có thể được về.
Ai đây? Ai viết cái ám hiệu gì đây? Bệnh nặng thì được về? Có thật thế không? Một tù nhân bị kết tội nặng như tôi có thể được công an trả tự do khi bệnh nặng chăng? Nhưng bệnh nặng thì nặng cỡ nào? Và làm sao có thể bệnh nặng nếu trên thực tế mình không bệnh gì cả? Câu nhắn gửi này có vẻ như xúi giục tôi phải giả đò bệnh nặng để được trả tự do vậy! Chi chứ chuyện giả đò thì tôi tệ lắm. Người ta đấm đá, mình làm bộ đau đớn và ngã quị mà còn khó nữa huống chi đương không lại ngã đùng ra mà bệnh nặng!
Chắc hẳn là gia đình và bạn bè tôi không bao giờ dám ghi dòng chữ ấy cho tôi qua một lá thư mà họ biết trước rằng sẽ có cán bộ trại giam kiểm duyệt. Vậy, dòng chữ ấy chỉ có thể là do một cán bộ nào đó viết. Và cán bộ đó là ai, tôi đoán được ngay: Phương. Đúng vậy, chỉ có Phương mới có cơ hội để viết cho tôi cái dòng chữ có vẻ yểu điệu con gái đó.
Phương muốn gì đây? Giúp tôi ư? Tại sao lại giúp? Cô là cán bộ y tế của trại giam, có thể cô biết được cách để tôi được trả tự do. Nhưng tôi tự do thì cô được cái lợi gì chứ? Chẳng phải cô là đảng viên, là cán bộ trung thành của nhà nước đó sao! Giúp làm gì một người chống lại cái guồng máy mà cô đang bảo vệ? Hay là… cô cũng như Tri, anh cán bộ Bộ nội vụ, đã chán chê “cái giàn máy khổng lồ” mà mình vừa phải giữ gìn vừa kinh tởm, muốn gián tiếp giúp đỡ kẻ khác thực hiện việc phá hủy giàn máy, hay ít ra cũng có cảm tình với những người đã thay mình làm việc đó, dù thành công hay thất bại?
Nhưng chuyện tự do bằng cách “bệnh nặng,” theo tôi nghĩ, chẳng phải điều đơn giản như câu “bí quyết” đầy vẻ quyến rũ của Phương ghi cho tôi đâu. Làm sao tôi có thể được tự do khi sự vụ của tôi chưa đưa ra tòa xét xử?
Tôi vừa nghi ngờ, nhưng cũng vừa hy vọng. Phải, ước mơ duy nhất của một người tù–cho dù là người có tư tưởng chấp nhận tù tội như tôi–là được trả tự do. Cho nên chỉ một câu ngắn ngủi của Phương cũng đã đem lại cho tôi rất nhiều hy vọng. Tôi đã ở tù hơn sáu tháng, đã học được khá nhiều điều hay, đã kinh qua những phút kề cận với nỗi chết, đã nếm cái mùi tủi nhục, đói khổ, thèm khát, bệnh tật, nóng bức, lạnh rét, ghẻ chóc, nhớ nhung, tù túng… vậy cũng tạm đủ rồi. Tôi không cần thiết phải học thêm bất cứ thứ gì trong tù nữa. Tôi nên được tự do để tiếp tục con đường dang dở, không cần phải chấp nhận hoàn cảnh tù tội này nữa! Huống chi, nghĩ đến hình ảnh Hân đang lăm lăm dẫn công an tìm bắt bạn bè tôi… tôi thấy bất nhẫn. Tôi có trách nhiệm về chuyện đó. Tôi có bổn phận phải đối phó với Hân. Tôi phải gặp mặt Hân, và tôi phải được tự do để thực hiện công việc đó.

Ó

Nửa tháng trôi qua, niềm hy vọng và nỗi háo hức được tung ra khỏi ngục tù trong tôi dù cao độ vẫn không nẩy ra được một sáng kiến nào cho việc “bệnh nặng.” Bệnh nặng mong được thuốc chữa, mong được hết bệnh, e còn dễ hơn là tự dưng khỏe mạnh lại muốn “bệnh nặng.” Mà bệnh nặng gì đây thì mới hội đủ điều kiện để được trả tự do? Chắc là chỉ tạm thời thả ra để điều trị, hoặc chỉ được đưa đến một bệnh viện nào đó bên ngoài, rồi tìm cách trốn. Có thể là vậy. Phương sẽ giúp tôi bằng cách đó sao?
Kỳ thăm nuôi cuối tháng 11, tôi có ý chờ đợi xem gia đình đến thăm gặp mặt có tiết lộ thêm điều gì mới có liên hệ đến dòng chữ “bệnh nặng có thể được về” không; nhưng gia đình tôi lại không thăm tôi vào ngày đó khiến cho sự việc cứ mờ mịt, nằm mãi trong nghi vấn.
Sau ngày thăm nuôi, Phương đem thuốc vào phòng giam, gọi những người có tên đến nhận. Phát thuốc rồi. Phương còn có vẻ nấn ná, ngồi đó lục soạn gì đó trong giỏ xách khá lâu. Cuối cùng, đứng dậy, Phương hỏi:
“Có ai bệnh nặng không?”
Ấp ủ hai chữ “bệnh nặng” nửa tháng qua như một công án, một thoại đầu của thiền, nay nghe Phương hỏi, tôi giật mình đánh thót một cái, thấy ngay một câu trả lời minh bạch hiện ra trong đầu, một câu trả lời không cần bất cứ một tính toán so đo nào, một cái gì vụt sáng lên trong tôi như thể thiền sinh được thiền sư điểm nhãn khai quang vậy. Tôi đưa tay lên, nói ngay:
“Có.”
Mọi người cùng quay nhìn về hướng tôi. Phương nhìn tôi hơi nở một nụ cười, nói giọng đầy khích lệ:
“Anh đến đây.”
Tôi bước đến gần khung cửa sắt.
“Anh bệnh nặng thế nào?”
“Tôi bị đau bao tử từ lúc nhỏ. Hiện giờ thì không đau, nhưng lâu lâu lại nổi lên, quặn thắt bên trong… đau lắm. Vậy có phải là bệnh nặng không?”
Phương ngập ngừng một lúc rồi nói:
“Đâu, anh bước đến gần đây, để tôi khám thử.”
Tôi bước thêm nửa bước, gần sát song sắt. Tù nhân chúng tôi lúc nào ở trong phòng giam cũng cởi trần mặc quần xà-lỏn nên cô y tá khỏi mất công chờ đợi tôi vén áo. Cô luồn tay vào giữa hai song sắt, dùng các đầu ngón nhấn nhấn nơi bụng tôi, nhấn bốn phía quanh rốn, rồi lần xuống hơi thấp ở khoảng gần hai bên xương chậu, dưới thắt lưng chút xíu. Tôi mắc cỡ, rụt lại một chút. Cô cười tủm tỉm, tiếp tục nhấn, dò tìm chỗ đau. Cô nhấn khá mạnh, phần khác cũng vì móng tay cô khá dài, nên tôi vừa đau vừa nhột, phải giật thót bụng mỗi khi cô nhấn vào chứ chẳng phải là bị đau ở bên trong. Cô dọ xét phản ứng của tôi khá kỹ, thấy tôi hơi run người một chút là nói ngay:
“Đau phải không? Đau chỗ này phải không?”
“Vâng, đau,” tôi đáp ngay mà thấy tức cười trong bụng.
Phương ngừng tay, lôi trong giỏ xách ra một cuốn sổ, lấy bút ghi chú gì đó, rồi nói:
“Chưa chắc là đau bao tử đâu, có thể liên hệ đến ruột đó. Tôi tình nghi là đau ruột dư. Cái bệnh này nguy hiểm lắm, có thể chết được nếu không phát hiện sớm và giải phẫu kịp thời. Tôi chỉ tình nghi thôi, chưa xác định. Hiện giờ chưa có đủ dụng cụ khám. Tôi sẽ sắp xếp anh ra bệnh xá của trại để khám lại. Anh có thuốc bao tử để uống không? Có hả. Ừ, thì tạm thời uống thuốc đó khi nào thấy đau, há. Thôi, sinh hoạt bình thường đi.”
Nói rồi, Phương xách giỏ quay đi.
Qua ngày hôm sau, Phương và Khoa, cùng hai anh nuôi bước đến phòng giam chúng tôi. Khoa nói:
“Anh Khang đâu, mang đồ đạc cá nhân ra đây.”
Tôi bước ra, Khoa hỏi Phương:
“Có cần khiêng cáng không vậy?”
Phương gật đầu, ra dấu cho hai anh nuôi kia giữ cáng. Tôi xua tay nói:
“À… xin khỏi, tôi bước đi được, không phiền hai anh đâu, để tôi đi theo được rồi. Hiện giờ tôi không thấy đau.”
Phương ngó tôi, hai mắt như lườm, muốn ra dấu tôi là hãy đồng ý leo lên nằm trên cáng cho anh nuôi khiêng đi. Tôi thấy kỳ cục quá vì mình đâu có “bệnh nặng” trong lúc này, nên nhất quyết không chịu leo lên. Khoa cười nói:
“Tánh anh Khang như vậy đó mà, ảnh không muốn phiền ai đâu. Thôi cứ để ảnh tự đi cũng được.”
Phương lầm bầm mà như cố ý cho Khoa và hai anh nuôi kia nghe:
“Khó tính quá! Thôi, đi.”
Vậy là tôi theo họ đi lòng vòng một lúc, hướng về một dãy nhà ngang có mấy cây phượng rợp bóng phủ kín ở hai bên và phía sau. Đó là bệnh xá của trại.
Tôi tạm thời trở thành bệnh nhân bị bệnh nặng của trại giam.




CHƯƠNG MƯỜI MỘT
Nàng đứng dậy, tính mang bình trà xuống bếp châm thêm nước sôi, nhưng nghĩ sao lại ngồi xuống, nói:
“Anh không sợ người ta gài bẫy gì sao?”
Tôi cười:
“Nếu mình đang ở ngoài đời thì còn sợ cạm bẫy; đàng này, vào tù tức đã vào trong bẫy rồi, còn sợ bẫy gì nữa chứ. Nhưng nói thì nói vậy chứ lúc đó cũng nghi ngại lắm. Chỉ do sự thúc đẩy của ý hướng tự do mà mình phải liều nhắm mắt đưa chân thôi. Biết đâu… lại có người tốt giúp mình, giống như thời ông Diệm, có rất nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo âm thầm giúp đỡ, báo tin, bảo vệ chư Tăng Ni Phật giáo trong những cơn nguy ngập, tù tội. Nhờ họ làm việc cho chính quyền nên biết cách giúp mình, thông báo cho mình những tin tức chính xác. Trong khối người làm việc cho chính quyền cộng sản, không lẽ không có một phật-tử?”
“Dĩ nhiên là có phật-tử rồi, nhưng cô cán bộ y tế này… e rằng không giúp anh một cách đơn giản đâu. Em chỉ sợ anh bị hại… Thôi anh kể tiếp đi, em muốn biết cô ta thế nào.”

Ó

Tại phòng trực của bệnh xá, sau khi Khoa và Phương cùng ký tên vào cuốn sổ gì đó, Khoa quay qua tôi nói:
“Anh tạm thời ở lại đây chữa bệnh nhé. Ráng đi, khi nào ban y tế xét thấy không gì nguy hiểm… ý tôi nói là bệnh tình của anh thuyên giảm, thì sẽ thông báo tôi cho anh trở về phòng ngay.”
Nói rồi, Khoa quay đi. Hai anh nuôi bước theo. Giọng Khoa có vẻ như cám cảnh tội nghiệp của tôi đã “bị” bệnh nặng và phải ra nằm ở bệnh xá buồn teo, không được vui nhộn như trong phòng giam tập thể. Tôi cười thầm trong bụng và khi Phương tằng hắng một tiếng nhỏ, tôi mới sực ý thức được là chỉ còn lại một mình tôi với Phương nơi phòng trực, tim tôi bắt đầu đập mạnh. Tôi biết từ bệnh xá này, tôi đang khởi sự bước vào cái chương hồi quan trọng nhất của vở kịch mưu tìm tự do. Mà vở kịch ấy, nếu Phương hay một nhóm cán bộ nào đó đóng vai chính thì tôi, lại thêm một lần nữa, trở thành nạn nhân dại khờ của một cạm bẫy. Còn nếu tôi có thể chủ động đóng vai chính, thì có lẽ tôi thành công theo hướng của tôi. Nhưng tôi mà vai chính thế nào đây khi đến nước này vẫn còn ôm nặng mối nghi với công án “Bệnh nặng có thể được về.” Nghĩ vậy, tự dưng tôi đâm rùng mình. Dường như đến phút này tôi mới thấy được cái liều lĩnh ngu dại của mình khi đâm đầu vào một ngõ thoát lờ mờ mà từ lối đi cho đến chung cục chẳng có cái gì thực sự rõ nét. Tôi cảm thấy hơi bấn loạn trong lòng.
Phương lại tằng hắng một tiếng nhỏ rồi kéo ghế, ngồi xoay mặt về hướng tôi, vén tóc mai, chậm rãi nói:
“Cuối cùng cũng có dịp để làm việc riêng với anh Khang há.”
Tôi chỉ cười, chưa biết nói gì. Phương tiếp:
“Anh bây giờ là bệnh nhân của em, phải nghe lời em thì mới hết bệnh, em bảo uống thuốc hay chích thuốc gì thì cứ làm theo chứ không được cứng đầu như xưa nay, nghe không? Hi hi…”
Nghe Phương đùa vui như vậy, tôi mạnh dạn chạm vào cái công án đang treo lơ lửng trong lòng:
“Nếu bệnh nặng quá không chữa khỏi thì sao?”
Thấy tôi đã mở miệng, Phương cười tươi, phấn khởi nói:
“Bệnh nặng có thể được về đấy chứ!”
Tôi giật mình nghe câu trả lời ấy. Dù bấy lâu nay tôi đã đinh ninh rằng Phương viết dòng chữ ngắn đó cho tôi trong lá thư của gia đình gởi vào, nhưng bây giờ chính miệng cô lặp lại, tôi mới xác định thêm cô là tác giả. Tôi run run hỏi:
“Bệnh nặng cỡ nào thì được về?”
Phương nhún vai:
“Nếu ban y tế trại xác nhận là bệnh nặng không chữa nổi thì… có thể đề nghị cho anh điều trị ở các bệnh viện lớn như bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Thống Nhất… ở Sài Gòn.”
“Chỉ được về một thời gian để chữa trị thôi chứ đâu phải trả tự do hoàn toàn, phải không?”
Phương cười hóm hỉnh, nói:
“Trả tự do à? Chẳng phải anh đang sống trong một xứ sở tự do hay sao?”
Tôi cười một tiếng khô. Phương cũng bật cười lên một tràng khanh khách. Một chặp, tôi hỏi:
“Cô thực sự tin rằng đất nước này có tự do à?”
 Phương không nói, hơi cúi mặt xuống. Một chặp, cô quay ngó ra sân. Đôi mắt buồn bã nhìn mông lung. Nắng trưa đổ chang chang trên khoảnh sân nhỏ của khu vực bệnh xá. Sau hàng giậu thưa, tôi thấy thấp thoáng con đường đất nhỏ dẫn đến khu phòng giam tập thể. Xa xa ở phía ấy, một cái bót gác nhô lên khỏi dãy tường rào. Dáng người lính gác nhỏ xíu, chỉ thấy một chấm đen đội cái mũ cối, ló ra khỏi mấy bao cát. Phương từ từ quay mặt vào, nhìn tôi như lựa lời một lúc, cũng với đôi mắt và vẻ mặt thật buồn, rồi cô nói một cách khẳng định:
“Tất cả chúng ta đều đi tìm tự do.”
Tôi lại một phen giật mình khi nghe Phương nói vậy. Lâu nay, dù chẳng nói ra hay biểu lộ một thái độ nào rõ rệt, nhưng quả là ở một góc nào đó của tâm hồn, tôi vẫn nhìn những người cộng sản kiểu như cô nữ cán bộ này bằng một thứ thành kiến cao ngạo nào đó. Tôi vẫn cho rằng đa số họ là những người dân quê ít học mà hay nói chữ, không tài đức mà thích ngồi cao, đã vậy còn hồ hởi đem cả cuộc đời mình để chạy theo một thứ chủ nghĩa lai căng không tưởng di hại cho không biết bao nhiêu đồng loại… Vậy thì có gì đáng để nói với họ! Nhưng bây giờ, Phương buông ra một câu với anh mắt như van cầu một sự cảm thông nào đó, tôi biết ngay là cô cũng có niềm ưu tư và nỗi khổ của cô trước hiện tình đất nước. Cũng như anh chàng cán bộ Tri ngoài Hà Nội vậy thôi, sinh ra trong nỗi loạn ly của đất nước, có thể Phương cũng là một người trẻ tuổi xông xáo đáp lời non sông, đi tìm một tương lai tươi đẹp, tự do, hạnh phúc… Cuối cùng, tuổi trẻ Việt Nam chúng tôi, trở thành những con cá dại khờ vùng vẫy từ cái rọ chủ nghĩa này đến cái rọ ý thức hệ kia, cắn xé nhau, tàn hại nhau, giam nhốt nhau, ganh tị nhau, hận thù nhau, khinh bỉ nhau… Chúng tôi đối xử với nhau, làm tất cả những điều ấy cho nhau, chỉ để làm vui lòng những ngư ông mà thôi.
Trước mắt tôi bây giờ, Phương như là một con người khác, không còn là cô nữ cán bộ nhà quê tham lam các khẩu hiệu hơn lúa bắp ngô khoai, Cô cũng giống như Tri, là một người bạn trẻ của tôi, “sinh ra trên đất nước này là để lớn lên trong cái đồng phận khốn khổ của tuổi trẻ quê hương.” Tôi gợi ý:
“Tuy rằng ai cũng muốn tìm tự do, nhưng khổ nỗi là người ta chỉ biết sử dụng những phương thức độc tài, chuyên chế, để mưu cầu tự do hoặc để bảo vệ một thứ tự do trong ảo tưởng mà thôi. Cái nhân nô lệ kềm kẹp thì không thể nào đưa đến cái quả tự do được cả. Chuyện đơn giản như vậy, nhưng chẳng ai để ý giùm cho.”
Phương ấp úng một lúc rồi nói:
“Có thể người ta cũng biết chứ anh, nhưng chưa có cách để chỉnh lại đấy thôi!”
“Biết đâu người ta chỉ mong cầu một hiện trạng như vậy. Độc lập, tự do, hạnh phúc… chỉ là những miếng mồi để câu những con cá nô lệ khổ đau mà thôi.”
Phương gục gặc tỏ sự đồng ý, rồi không nói lời nào, cô giơ ngón tay trỏ lên ra dấu yêu cầu tôi đừng nói nữa. Cô đứng dậy rời phòng, để tôi ngồi lại một mình trong phòng trực của bệnh xá. Cô đi qua lại nơi dãy hành lang một lúc rồi quay trở vào, nói ngay vừa đủ tôi nghe:
“Em phải đưa anh Khang vào phòng giam đặc biệt dành cho bệnh nhân, cũng kế bên đây thôi chứ không xa. Ngồi lâu ở đây không được đâu. Rồi mình sẽ nói chuyện tiếp. Ở đây ban ngày có cán bộ bảo vệ canh gác bệnh xá; họ chỉ thay nhau đi kiểm soát các cửa và các vách của dãy bệnh xá chứ chẳng biết gì về nhân số hay bệnh trạng của bệnh nhân; khi nào có trường hợp khẩn cấp thì họ gọi cán bộ y tế; còn ban đêm từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng của ngày kế tiếp thì có hai cán bộ trực tại bệnh xá là em và anh Thà, tụi em thay nhau mỗi người trực 3 đêm trong tuần, dư lại một ngày, cứ vậy mà đôn lên, cho nên nếu tuần này trực thứ hai, thứ ba, thứ tư, thì tuần sau trực vào chủ nhật, thứ hai, thứ ba… Đại khái phiên trực của em là như vậy, nói cho anh biết để anh cần gì thì cho em biết trong khoảng thời gian em trực, như vậy dễ hơn. Đêm nay là đêm trực đầu của em trong tuần này. Thôi, bây giờ đi theo em.” Cô nhỏ giọng xuống thấp hơn, “tối nay mình có cơ hội để nói chuyện nhiều hơn.”
Tôi xách giỏ đồ đạc cá nhân bước theo Phương ra khỏi phòng trực của khu bệnh xá. Nhìn trước nhìn sau, tôi thấy dãy bệnh xá có chừng sáu phòng nhỏ khác nằm hai bên phòng trực. Phương hướng dẫn tôi qua căn phòng nhỏ thứ hai, cách phòng trực một phòng. Bên ngoài có cánh cửa gỗ, bước vào trong thì có thêm một lớp song sắt, có khóa. Phương mở cửa, nói nhỏ:
“Anh nằm ở giường còn lại há. Người kia cũng là đồng nghiệp của anh đó.” Chờ tôi bước vào rồi, cô tiếp, giọng lớn lên như cố tình cho người ở bên trong nghe, “anh cứ uống tạm thuốc đó rồi chiều nay khám lại, tôi tìm cho thuốc khác, vậy nhé!”
Phương khóa cửa sắt rồi quay đi. Tôi đứng tần ngần một lúc rồi bước sâu vào. Phòng hẹp, chiều ngang khoảng bốn thước, chiều sâu khoảng sáu thước. Sau lưng tôi là song sắt, còn lại ba vách đều kín bưng không có cửa sổ. Có hai cái giường nhỏ đặt dọc theo hai vách hai bên. Cuối cái giường phía bên phải có một vách ngăn cao chừng một thước rưỡi, tạo thành một phòng nhỏ ở trong góc. Tôi đoán đó là chỗ để tắm rửa và làm vệ sinh. Cái giường bên trái còn trống. Giường bên phải thì có một người đang ngồi tựa lưng vào vách, hai đầu gối đưa lên, hai cánh tay gác trên hai đầu gối, hai bàn tay xương xẩu thỏng xuống, đong đưa. Một ông già tuổi xấp xỉ sáu mươi, mặc đồ tù màu lam sẫm. Đầu hớt lúp xúp như thầy tu. Khuôn mặt khắc khổ, nhăn nheo. Đôi mắt sáng quắc. Đầu mũi to, cánh mũi đầy, sóng mũi cao. Đôi môi hơi mỏng mím chặt lại vẫn không giấu được chiều kịch đặc biệt của một cái miệng rộng. Hai vành tai ép sát vào da đầu; trái tai dài như tai Phật. Quả là tưởng hảo của một dị nhân. Ông này là ai, làm gì, mà Phương nói là đồng nghiệp của mình nhỉ? Tôi tự hỏi như thế khi cúi đầu chào ông già. Ông chỉ nhìn tôi, từ đầu đến chân, một thoáng thật nhanh, rồi gật đầu nhẹ một cái. Bây giờ tôi nhìn rõ mặt ông hơn. Ông nhăn nhó, chàu bàu như thể đang phải chịu đựng một cơn đau nào đó. Cũng có thể tại vì vẻ mặt ông vốn như vậy–vẻ mặt của một cụ già khó tính, bẳn gắt.
Tôi đặt giỏ xuống đất, cạnh cái giường trống phía bên trái mà tôi biết là chỗ Phương đã sắp đặt cho tôi. Rồi tôi cũng leo lên giường, ngồi xếp bằng, tựa lưng vào vách. Ông già ngó tôi chăm bẳm một lúc rồi đứng dậy, rời giường nằm đi vào góc phòng, khạc nhổ. Xong, ông quay ra, bước ngang chỗ tôi, đến khung cửa, vịn hai tay vào song sắt, nói bâng quơ, hay nói với tôi mà mắt nhìn đâu ở ngoài:
“Tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Cái thế giới khùng điên này, chạy lòng vòng một hồi rồi cũng gặp toàn là oan gia trái chủ mà thôi…”
Tôi nghe ông nói vậy thì đâm hiếu kỳ, chú tâm chờ đợi lắng nghe ông nói thêm. Nhưng ông không nói nữa, lại quay trở về chỗ nằm, leo lên giường, ngồi tựa lưng vào vách, hai chân duỗi ra, đưa tay xoa cái đầu xưng xửng tóc bạc. Một chặp lâu ông mới hỏi:
“Chú mày có hút thuốc không?”
“Dạ cháu biết hút thuốc, nhưng chỉ thỉnh thoảng mới hút với bạn bè cho vui, không ghiền.”
“Có nghĩa là chú mày không có mang thuốc hút theo đây?” ông già hỏi với vẻ thất vọng.
“Dạ… không. Nhưng cháu có tiền mặt, có thể gởi mua được. Bác thường hút loại nào?”
“À… à, Đà Lạt, Hoa Mai hay thuốc rê gì cũng được mà. Nhưng chờ chú mày gởi mua được thuốc thì còn gì là hứng thú. Hây, chán chú mày quá đi mất! Ở tù mà không hút thuốc thì buồn thúi ruột đi được. Chú mày còn tiền, vậy mà không thủ một bao thuốc trong giỏ để đi đâu xách theo! Hừ, tiền là cái gì chứ! Chỉ là giấy thôi. Thuốc hút mới là đồ giá trị. Ai lại bo bo giữ tiền còn thuốc thì để ngoài chợ! Thiệt là uổng phí. Bây giờ ngồi đây, rảnh tay rảnh chân, làm cái chó gì! Với lại ở đây không phải có tiền là muốn mua cái gì cũng được đâu. Cái tụi cán bộ y tế trực ở đây không có bổn phận mua thuốc hút cho bệnh nhân. Nhờ chúng mua thì chỉ tổ chọc chúng chửi. Chỉ có thể gởi được mấy thằng anh nuôi thôi, nhưng gởi tụi này thì phải chờ đợi lâu lắc lâu lơ. Ôi trời, sao lại cho tôi gặp cái thằng công tử bột không ghiền thuốc vậy trời!”
Tôi bật cười, nói:
“Thôi, đừng rầu nữa bác, để một chặp cháu gởi mua một cây thuốc rê to tổ bố như cái bắp chân, mặc sức bác hút.”
Ông già trố đôi mắt sáng quắc, nhìn tôi, gục gặc cái đầu:
“Ừ, chú mày ngon, chú mày chơi được. Nhưng bây giờ tính gởi ai mua thuốc đây?”
“Ừm coi nào, gởi cô y tá khi nãy đưa cháu vào đây, được không?”
“Cái con trung úy khỉ đó hả? Nó thì tốt lắm nhưng tốt ở cái chuyện chăm sóc, cho thuốc trị bệnh, lo cơm nước cho bệnh nhân đầy đủ… chứ không phải để sai nó đi mua thuốc hút đâu.”
Tôi cúi xuống lôi cái giỏ dưới đất lên, lấy tiền ra. Từ ngày chị Thuần đưa một nghìn đồng lúc thăm nuôi gặp mặt, tôi chỉ gởi mua một ít rau tươi vào dịp trưởng phòng theo cán bộ đi chợ. Nay hãy còn khá nhiều tiền.
“Để trưa hay chiều cô ấy có việc ghé vào đây, cháu sẽ nhờ cô ấy mua giúp. Có lẽ cô ấy không từ chối đâu.”
Ông già cười tươi, vừa nằm xuống vừa nói:
“Cần gì phải chờ đến chiều. Chú mày chịu chi tiền thì tao gọi nó đến ngay. Tao gọi nó vào khám bệnh, còn bổn phận chú mày là gởi mua thuốc đó nghe.”
Nói rồi, ông già la lớn lên:
“Báo cáo cán bộ, ớ cán bộ…!”
Nghe cái giọng khàn đặc của ông, tôi vừa buồn cười vừa thấy tội nghiệp cho ông, tính đứng dậy để hô giúp ông thì đã thấy Phương lật đật cầm xâu chìa khóa chạy đến.
“Gì vậy? Có sao không?” vừa hỏi Phương vừa nhìn tôi rồi nhìn ông già.
Tôi ấp úng nói:
“Không biết ông ấy bị cái gì...”
“Gì vậy bố già?” Phương tử tế hỏi.
Ông già làm bộ trở mình khó nhọc, rồi ngước mặt hướng về phía Phương, nói thều thào, giọng thiểu não:
“Thì nó đau lại đó mà…”
“Thuốc tôi đưa cho bố còn mà.”
“Còn, nhưng thuốc này tôi thấy chẳng ăn thua gì cả.”
“Ráng đi bố ơi, chỉ có thuốc đó thôi. Con đã nói rồi, đang chờ ở trên cứu xét cho gởi thuốc tốt xuống mà. Bây giờ thấy nhói dữ lắm hả?”
“Khi nãy nhói lắm, nhưng bây giờ cũng dịu rồi, thôi cám ơn. Để tôi ngủ một giấc là êm…”
Phương cười, quay qua nói với tôi:
“Cái bệnh của ổng là vậy đó, cứ lâu lâu nổi cơn đau bất tử, rồi hết ngay, nhưng cũng làm mình hết hồn! À, trưa nay anh Khang có muốn ăn cháo không? Ăn cơm bình thường hả? Khi nào anh muốn ăn cháo thì nói cho biết há. Cháo cho bệnh nhân ở đây, Phương xin được tiêu chuẩn cao lắm đó. Có thịt bằm hoặc cá. Ủa, mà anh… có ăn thịt cá được không vậy? Ở trong này đâu cần phải ăn chay làm gì cho mất sức. Quen rồi hả? Thôi kệ, ráng đi. À, sau giờ cơm trưa Phương không trực ở đây mà làm việc ngoài văn phòng trại, chiều tối mới quay trở lại để trực ca đêm cho bệnh xá. Cho nên anh Khang có cần gì thì nói để Phương lo chứ cán bộ trực buổi chiều không phải là y tá đâu, anh ta chỉ có nhiệm vụ gác thôi.”
“Phải rồi, tôi thường gặp cô ngoài văn phòng trại kia mà. Làm sao cô có thì giờ trực bệnh xá? Cô làm nhiều việc vậy?”
“Thì tại thiếu cán bộ nên phải kiêm nhiệm cái ngành y tế này, chứ thực ra công việc của Phương là lo hồ sơ và ba cái việc linh tinh ngoài văn phòng trại kia. Anh cần gì không?”
“Cần mua thuốc hút, cô mua giúp được không?”
“Anh cũng hút thuốc à?”
“Không được sao?”
“Không phải không được. Nhưng… hi hi… cái tướng anh, cầm điếu thuốc thấy đâu có hợp!”
Ông già nghe lóm được câu đó, liền xen vào:
“Xì, mấy thằng đàn ông không hút thuốc thì có làm nên trò trống gì đâu cà!”
“Vừa thôi bố già ơi! Thiếu gì người không hút thuốc mà có sao đâu. Điếu thuốc đâu có làm nên đàn ông, phải không? Hi hi…”
Ông già nói lầm bầm gì đó, rồi quay mặt vào vách. Tôi đưa tiền cho Phương, nói:
“Mua giùm một cây thuốc rê Tân Phú, được không?”
“Một cây? Một cây thuốc rê là thứ người ta quấn lại một tảng to như cái gối đó phải không? Hút gì dữ vậy! Ho chết đó anh Khang à. Mua vài gói có đầu lọc được rồi, nghen. Với lại Phương đâu biết thuốc rê Tân Phú là thuốc như thế nào.”
“Thôi, vậy mua cho một cây thuốc Đà Lạt, một cây thuốc Hoa Mai.”
“Một cây là mười gói, một gói hai chục điếu, phải không? Sao anh mua làm gì một lúc nhiều quá vậy?”
“Tại vì ở trong này khó mua thuốc lá lắm, mỗi lần nhờ được ai mua thì phải nhờ mua nhiều như vậy. Mua sớm giùm đi, ở căn-tin của trại có bán đó,” vừa nói, tôi vừa đưa tiền cho Phương.
“Thôi, anh cất đi, để Phương mua cho.”
“Bậy, cầm tiền đi, bằng không tôi không nhận thuốc đâu à nghen!”
Phương cười, vênh mặt lên, nói nhỏ:
“Em bắt anh phải nhận. Em là y tá mà, bắt bệnh nhân dùng thuốc gì thì phải dùng thuốc đó, không được cãi. Khi nãy em có nói điều lệ đó cho anh nghe rồi mà, anh quên rồi sao?”
Nói rồi nàng cười tình tứ với tôi, quay đi. Tôi chưng hửng đứng lại nơi cửa sắt, chẳng biết đối phó làm sao. Đang còn phân vân đứng đó thì ông già ngồi vùng dậy, bước đến bên tôi, vỗ vai tôi, nói:
“Khà khà… chú mày đó nghe! Con nhỏ mê mệt chú mày rồi!”
“Không có gì đâu,” tôi nói cho có lệ.
“Không có gì? Chú mày tưởng tao đui tao điếc à. Chẳng phải chú mày đưa tiền mà nó không chịu lấy sao. Nhờ nó đi mua thuốc đã là chuyện khó rồi, còn khiến cho nó tự nguyện bỏ tiền túi ra mua nữa thì hết nói!”
“Chút nữa mình đưa trả tiền lại cho cô ấy chứ đâu có lấy thuốc khơi khơi như vậy, kỳ cục!”
“Xì, sống kiểu quân tử như chú mày tao chán quá đỗi! Việc gì phải dằn co, cà thụt cà thò bởi ba cái chuyện lắt nhắt. Chớ chú mày cũng chẳng biết rằng tạo cơ hội cho chúng sanh bố thí cúng dường cũng là điều tốt sao! Có gì mà phải bận tâm!”
Tôi giật mình, quay lại ngó sững ông già:
“Cái gì? Bác nói gì?”
Ông già xua tay, vừa quay trở về chỗ nằm vừa nói:
“Có gì đâu. Đã nói là oan gia trái chủ, chạy lòng vòng một hồi cũng gặp nhau mà.”
“Nhưng… mới vừa rồi bác nói cái gì khác kia.”
“Ộ, cái gì quan trọng đâu, nói là chúng sanh bố thí cúng dường thì cứ hoan hỷ nhận, miễn họ tự nguyện là được rồi, mình có ép họ đâu. Tất cả hành động nào trên đời, hễ mà dính tới nguyện, thì tự nhiên không dính tới nhân quả. Ạ, hà hà, ý chú mày muốn hỏi tại sao tao dùng cái ngôn ngữ nhà chùa ra mà nói chứ gì! Hứ, bộ dạng chú mày chẳng phải thầy tu thì cũng là thầy chùa thôi chứ chạy đi đâu, hả thầy chùa con!”
Tôi run người leo lên giường, ngó ông già chăm bẳm, vừa kinh ngạc vừa hơi khớp sợ ở trong lòng. Ngôn ngữ, điệu bộ của ông, giống như một lão gàn tham lam, mà kỳ thực ẩn sâu phía sau là cái vẻ phong quang khoáng đạt, rất mực tự tại giải thoát. Ông làm tôi nhớ đến thi sĩ Bùi Giáng.

Ó

Năm 1982, vào thời gian cuối cùng trước khi tôi rời bỏ Sài Gòn để đi kinh tế mới, thi sĩ Bùi Giáng có ghé vào tu viện Già Lam, ngồi chơi ở cái bục xi măng xây quanh gốc vú sữa to lớn giữa sân. Lúc đó đã qua khỏi giờ ngọ, tăng chúng đã thọ trai xong và đang nghỉ trưa. Tôi là người trực báo chúng nên không nghỉ trưa. (Trực báo chúng tức là đảm trách việc đánh kẻng, khai bảng, rung chuông… nói chung là căn cứ vào thời khắc sinh hoạt đã qui định trong ngày của tu viện để sử dụng pháp lệnh mà báo cho tăng chúng biết; chẳng hạn đến giờ thọ trai thì gõ ba tiếng mộc bảng, đến giờ tụng kinh hay học thì thỉnh ba tiếng báo chúng–loại chuông nhỏ treo trên giá– v.v…). Lúc ấy cũng sắp đến giờ báo thức, tôi đi dạo nơi sân chùa và tình cờ bắt gặp nhà thơ đang ngồi dưới gốc vú sữa. Ban đầu tôi không biết ông là ai. Nhờ mấy chú tiểu chọc ghẹo kêu tên ông, tôi mới biết. Tôi ngưỡng mộ ông từ lâu, nay có dịp gặp, tôi vui lắm, bước tới chào ông và thật xúc động thấy ông ăn bận rách nát, dơ dáy như một gã hành khất lang thang. Tôi từng nghe đồn đãi về cái gàn điên của ông, nhất là từ những năm sau 1975, nhưng đối diện ông, tôi mới thực sự thấy được cái vẻ tự tại thong dong của một thiền gia cư sĩ đang nhập thế hành đạo. Tôi ngồi xuống ở cùng cái bục xi măng mà ông ngồi, kín đáo quan sát. Một vài thầy đến bắt chuyện, đọc thơ người này người nọ rồi yêu cầu ông đọc thơ cho nghe để mua vui. Rồi lần lượt họ bỏ vào trong, để ông ngồi lại đó một mình. Ông lẩm bẩm nói gì đó rồi bất chợt bắt gặp tôi ngồi im một chỗ ngắm nhìn ông, ông bèn cười, nói:
“Chú ơi, chú hiền như con nai tơ ấy. Sao chú im lặng quá vậy hả?”
Tôi cười rồi chắp tay cung kính chào ông. Ông chắp tay chào lại. Hai bàn tay dơ dáy đầy cáu bẩn ghép lại với nhau tạo thành một đóa sen nhàu nát, như thể từng bị vùi dập trong một bãi sình. Rõ ràng trước mắt tôi là một thi sĩ Bùi Giáng trang nghiêm, trầm lặng, không cà rỡn gàn điên như lời đồn lâu nay tôi nghe. Có lẽ nhiều năm nay, từ khi lũ trẻ khắp các phố phường Sài Gòn đều biết danh ông Bùi Giáng Điên, người ta khó tìm thấy ông trong những giây phút bình thường này, giây phút mà người ta mệt mỏi không nhìn ngó gì đến ông nữa.
Ông nhìn tôi bằng đôi mắt lạ lắm, có vẻ như ngắm nghía, tìm hiểu, rồi ông thu hai bàn chân lên, đặt trên bục xi măng. Hai bàn chân không mang dép, đầy bụi đất và nhiều chỗ sưng vù, tróc da chảy máu. Ngồi trong tư thế xếp bằng xong, ông nói:
“Chúng sinh thời nào cũng vậy, gặp mình là hỏi thơ, xin thơ, bàn thơ, luận thơ, tán thơ, xổ thơ… Làm như thể chỉ có ngôn ngữ mới là thơ thôi vậy. Hì hì, cho nên tôi thích chú lắm, tôi thích được ngồi bên một con vật, một tảng núi hoặc một người im lặng như chú.”
“Thầy đi lang thang như vậy có mệt không? Có đói không?” tôi hỏi.
“Sao chú gọi tôi bằng thầy?”
“Kính quí ai thì gọi người đó bằng thầy. Thầy có đói không? Tôi đem cơm ra đây thầy dùng nghen?”
Ông chắp tay, mắt nhắm lại, nói:
“Mô Phật, cám ơn, cho tôi xin một bát, chút xíu thôi cũng được.”
Tôi xuống nhà bếp xin cơm. Giờ đó mà đi xin cơm thường bị mấy dì vải dưới bếp từ chối, nhưng may là chị Vẻ, nhân vật chủ chốt của nhà bếp, rất quí tôi, nên chuyện xin một tô cơm không khó. Chị Vẻ vừa bới cơm vào cái tô, vừa nói với tôi với giọng ái ngại:
“Chú Khang xin cơm cho ông Bùi Giáng đó hả? Chú có biết là lâu lâu nổi khùng lên, ổng chửi hết mấy thầy không?”
Cho đến năm ấy, mặc dù đang tham dự khóa Cao đẳng Phật học tại Già Lam, tôi vẫn còn là một chú Sa-di chưa thọ giới Tỳ kheo, nên mọi người trong tu viện, kể cả những dì vải dưới bếp và các phật-tử chuyên đến chùa, đều gọi tôi bằng “chú.” Tôi nói với giọng hơi đùa với chị Vẻ:
“Bao nhiêu người khinh bỉ, chửi mắng ông hằng ngày, ông chịu được; lâu lâu ông chửi mình một tí, không lý ôm giữ trong lòng?”
Chị Vẻ nghe vậy thì không nói gì nữa, lo múc thức ăn cho vào tô cơm, và múc thêm một bát canh riêng; xong, chị nói:
“Chú Khang đi trước đi, để tôi bưng ra cho ổng.”
“Thôi, khỏi. Chị lo việc của chị đi, để tôi bưng.”
“Chú nói ổng ăn rồi đem cái tô trả lại cho nhà bếp chứ đừng vất ngoài sân thầy trụ trì la chết!”
“Tôi sẽ đem vào mà, đừng lo.”
Tôi mang cơm và canh ra, đặt lên cái bục xi măng, mời ông. Ông bưng tô cơm, nói một tiếng cám ơn rồi ăn ngay, không khách sáo. Ông ăn để trị cơn đói chứ không thưởng thức. Nhưng trong lúc ông đang ăn, tôi bỗng thấy máu rịn một dòng nhỏ, từ mái tóc bạc của ông kéo xuống đầu chân mày. Tôi hốt hoảng kêu lên:
“Ấy chết, thầy bị thương trên đầu, phải không? Máu chảy kìa.”
Ông đưa một tay lên rờ đúng ngay vết thương nhỏ nằm lẩn dưới tóc, xoa xoa vài cái, nhìn máu dính trên tay, chùi đại vào quần, bình thản nói:
“Không sao, không sao. Tụi con nít khi nãy chúng chọi đá đó mà. Sống ở cõi Ta bà này, mình phải biết kham nhẫn. Phải hết sức kham nhẫn mới được…”
Nghe ông nói đến đó tự dưng nước mắt tôi ứa ra, chảy thành dòng. Tôi quay mặt chỗ khác che giấu xúc cảm của mình. Một lúc, tôi nói:
“Thầy dùng cơm xong, ngồi đây một chút chờ tôi trở lại nha. Để tôi lên phòng lấy dầu và thuốc xức cho thầy.”
Ông đang ngốn cơm, không nói gì, chỉ nhướng mắt lên ngó tôi một chút rồi cúi xuống ăn tiếp. Tôi vội vã trở về phòng riêng, kéo hộc bàn lấy hết số tiền còm của tôi, rồi xin bông gòn và dầu gió của thầy quản chúng, lật đật đem xuống sân. Nhưng trễ rồi. Nơi chỗ ông ngồi, chỉ còn lại hai cái tô không. Tôi đi quanh sân tìm ông một lúc cũng chẳng thấy đâu. Đến trước cổng nhìn ra xa, cũng chẳng thấy. Ông biến dạng đi đâu rồi. Tôi buồn bã quay trở vào, đem hai cái tô trả lại cho nhà bếp. Lòng bâng khuâng, muốn khóc.
Vài tháng sau, tôi rời tu viện Già Lam, lên sống ở vùng kinh tế mới, không bao giờ gặp lại dị nhân Bùi Giáng nữa. nhưng có thể nói, phong thái tự tại vô ngại của ông cứ theo tôi mãi. Mỗi khi nhớ lại ông hoặc đôi khi phải đối đầu với một nghịch cảnh, tự dưng tôi nhớ đến hình ảnh ông lang thang giữa chợ đời, bị bao nhiêu người ném đá chửi rủa mà cứ một mực vui cười, giỡn cợt, lòng bình thản chịu đựng… Cái hình ảnh đó, là một bài học sống động in sâu vào tâm khảm tôi, như một thứ hành trang mà tôi có thể đem theo suốt đời, xài hoài không cạn, không hết: Kham nhẫn, kham nhẫn.

Ó

Ông già ngồi trước mặt tôi thì không có những hành động cử chỉ khác thường như thi sĩ Bùi Giáng, chỉ có ngôn ngữ của ông nghe qua như nói khơi khơi mà kỳ thực thì có vẻ muốn nhắn gửi điều gì với tôi vậy. Nhìn ông một lúc, tôi hỏi:
“Sao bác bị bắt vào đây vậy?”
“Có gì đâu, tao không thích thì tao chửi, ừ, chửi cán bộ nhà nước. Thế còn chú mày? À, chắc là chửi chế độ.”
“Không phải là chửi…”
“Hậy, chống hay cự, bất mãn hay bất bình, viết hay nói, suy nghĩ hay hành động, cũng đều là một hình thức chửi cả, chú mày ạ. Chửi cái gì thối nát, tào lao. Đại khái là như vậy, phải không nà?”
“Cho là vậy đi,” tôi cười đáp, rồi hỏi tiếp. “Gia đình bác ở đâu?”
“Gia đình à?” ông vùng dậy, bước xuống giường, vào góc nhà xí, khạc nhổ, tiểu tiện. “Chú mày có gia đình sao?”
“Ơ… xuất gia rồi thì chẳng có gia đình, chỉ có chùa thôi. Dù sao, gia đình thế tục hãy còn chứ có mất đi đâu.”
“Có nghĩa là chưa hề cắt đứt?” ông từ nhà xí bước ra, vừa hỏi vừa đi nhanh đến cửa sắt. “Con nhỏ đi mua thuốc gì mà lâu vậy? Hơ, tao nghe nói xuất gia là cắt đứt liên hệ gia đình rồi mà.”
“Thì cắt đứt chứ…”
Tôi nói đến đây thì tự xấu hổ trong lòng. Hình như cho đến lúc này, khi mở miệng ra để nói với ông già khó tính này, tôi mới thấy rằng tôi chưa thực sự cắt đứt liên hệ gia đình, nhất là trong khoảng thời gian bị bắt vào tù. Khi được cán bộ cho gửi thư ra ngoài, tôi đã gửi thư cho gia đình thay vì gửi cho chùa. Tôi có lý do để trả lời rằng lúc ấy chùa tôi không còn ai và nếu còn, cũng không chắc là những người ở ngôi chùa kinh tế mới xa xôi ấy có thể làm đơn xin thăm nuôi tôi được. (Thủ tục thăm nuôi hình như không cho phép người dưng nước lã đứng đơn thăm, chỉ cho phép gia đình ruột thịt thôi. Những người cùng ở một chùa, trong con mắt của cán bộ nhà nước, chỉ là những người dưng với nhau. Vả lại, với tội trạng là “âm mưu lật đổ chính quyền,” tôi không muốn gửi thư cho bất cứ ai không phải là ruột thịt của mình, vì làm như vậy chỉ là hại người đó mà thôi–sự đa nghi truyền thống của công an nhà nước khiến tôi phải dè dặt không dám phiền đến kẻ khác). Nhưng cái lý do nêu trên, xét cho cùng, cũng không thích đáng đối với những người xuất gia quyết chí thoát ly gia đình. Cho nên, đáng ra khi vào tù, tôi không nên liên lạc với gia đình mới phải. Liên lạc để làm gì? Theo ông Trọng–người bạn tù già ở trại giam Phan Đăng Lưu trước đây–, liên lạc để gia đình biết chắc mình đang ở đâu mà yên tâm. Nhưng ngoài mục đích tinh thần đó, còn có một mục đích thực tế nữa là muốn gia đình thăm nuôi để ổn định vấn đề thực phẩm hàng tháng. Gia đình ruột thịt, cuối cùng vẫn là chỗ dựa gần gũi, dễ dàng cho một kẻ xuất gia khi lâm nạn. Thật là oái oăm, buồn thảm thay! Cái bể sâu tâm lý của tôi, dù có khỏa lấp bằng bao nhiêu lý do, vẫn cứ ảnh hiện sự thực tầm thường đó: sau mười lăm năm bỏ nhà đi tu, đời tôi hãy còn nối kết với gia đình ruột thịt bằng một sợi dây tình cảm vô hình mà đến những lúc hoạn nạn, hay những lúc buồn tủi nhất mới thấy được sự tồn tại bền bỉ keo sơn với nó. Như thế, nói theo chân nghĩa của sự xuất gia, tôi vẫn chưa phải là kẻ đã thực hiện được một cách nghiêm chỉnh. Đó là chỉ mới nói xuất gia theo nghĩa hạn hẹp nhất–tức là từ bỏ gia đình thế tục–chứ chưa nói đến ý nghĩa từ bỏ gia đình phiền não, gia đình tam giới… Tuy nhiên, tôi vẫn có thể tự bào chữa cho tôi được vì tôi biết rằng tôi đã xả giới hoàn tục, không còn là người xuất gia nữa. Nhưng đâu cần thiết phải phân bua với ai chuyện đó. Dù thế nào thì người ta vẫn đinh ninh tôi là người xuất gia mà.
“Cắt đứt? Chú mày nói đã cắt đứt liên hệ với gia đình, phải vậy không?” ông già mỉa mai hỏi lại tôi.
Tôi ấp úng nói:
“Trên hình thức là vậy.”
Ông già bật cười:
“Chỉ trên hình thức thôi? Vậy cái tâm chú mày vẫn còn để ở gia đình à?”
“Đôi khi không thể đánh giá được cái tâm bằng cái hình thức bề ngoài.”
“Cha, khá lắm, chú mày nhớ câu nói đó nghe. Tất cả đều do tâm tạo, ý chú mày nói vậy; ba cái hình thức lẻ tẻ thì ăn thua gì, phải không? Nhớ nhé!”
Ông càng nói tôi càng thấy lúng túng. Ngôn ngữ của ông già này thật lợi hại, chúng vây tôi, rồi dồn tôi vào ngõ bí, rồi lại khiêu khích, thách thức. Tôi thấy mệt, không muốn nói chuyện nữa, nằm dài xuống giường. Vừa lúc ấy, Phương bước vào:
“Anh Khang, quà cho anh nè.”
Tôi vừa ngồi dậy, chưa kịp nói gì, đã thấy ông già sẵn đứng nơi cửa sắt, mở lời ngay:
“Được rồi, cám ơn, để tôi nhận giùm nó, nó ngủ rồi.”
“Xí, bố già đừng có ham, cái này của anh Khang gởi mua. Kìa, ảnh ngồi dậy chứ có ngủ đâu.”
“Thì đưa đây, tôi đem vô cho nó, cần gì phải đưa tận tay chứ. Vả lại nó với bố già này coi như một nhà thôi, cô em không biết vậy à?”
Phương nhất định không đưa thuốc cho ông già, chờ tôi bước đến. Ông già đưa hai tay lên trời, vừa quay vào vừa nói:
“Hớ, đúng là… oan gia, đúng là oan gia!”
Tôi đưa tiền ra cho Phương, nói:
“Cám ơn cô, tiền thuốc đây, cô không nhận thì tôi không lấy thuốc mà từ nay tôi cũng không dám nhờ vả cô điều gì nữa đâu.”
Phương ngẫm nghĩ một lúc ngắn, rồi đón lấy mấy tờ bạc trên tay tôi, nói:
“Thôi được, em lấy, nhưng không nhiều như vầy đâu. Nè, anh cất bớt số này. Bây giờ em phải ra trực ngoài văn phòng. Chiều tối gặp lại anh nha, sẽ khám bệnh anh đó. Coi anh bệnh nặng cỡ nào.”
Phương cười duyên rồi quay đi. Ông già trờ tới ngay:
“Tốt, tốt, đi cho khuất mắt để chư thiên còn hưởng nhàn nữa chứ! Coi nào, thuốc gì đây, Hoa Mai, Đà Lạt, tốt, tốt lắm. Khui ra làm liền đi chú mày!”
Ông bóc cây thuốc Đà Lạt, lấy ra một gói, rút một điếu ngậm lên môi. Tôi giật mình nói:
“Ấy chết, cháu không có hộp quẹt! Quên dặn cô ấy mua luôn hộp quẹt diêm.”
Ông già cười, xua tay nói:
“Khỏi lo, tao thiếu thuốc hút chứ đâu có thiếu lửa. Mình không có khả năng mua thuốc thì phải biết giữ gìn lửa mồi chứ. Tao có bốn, năm cái hộp quẹt để dành trong giỏ. Cứ mỗi thằng bạn tù được trả tự do, tao chỉ xin cái quẹt lửa… Có lúc bọn tù thiếu lửa, tao bắt mỗi thằng phải cho một điếu thuốc thì tao mới cho mồi lửa. Mục đó tạm gọi là có lửa thì mới có khói. Khà khà, những lúc như vậy mới thấy cái hữu dụng của hộp quẹt, phải không? Nè, chú mày cũng làm một điếu đi, gọi là chào nhau giây phút tao phùng, mù mịt khói tỏa, mê cung lịm vào… Ha ha! Chờ một chút, tao lấy hộp quẹt.”
Ông già quay vào trong, lôi một cái hộp quẹt ga từ trong giỏ xách của ông, bật lửa mồi thuốc, rồi ngoắc tôi lại, đưa hộp quẹt cho tôi. Xong, ông leo lên giường, ngồi tựa lưng vào vách, hai chân duỗi ra phía trước, kéo sâu liên tục những hơi thuốc. Lim dim đôi mắt để tận hưởng điếu thuốc đầu, hình như ông không còn thấy biết gì về sự hiện hữu của tôi nữa. Tôi lặng lẽ đặt hai cây thuốc trên đầu nằm của ông rồi trở về chỗ giường nằm của mình. Ngồi im, thích thú quan sát ông một lúc, tôi đưa bật lửa lên, quẹt.
Gần tàn điếu thuốc, ông già mở mắt ra, thấy hai cây thuốc để gần, ông đưa tay rút một điếu khác đặt lên môi, lấy điếu trước mồi cho điếu sau. Lại tiếp tục lim dim đắm mình trong làn khói hư ảo. Trông ông lúc ấy vừa có cái vẻ đam mê của một nghệ sĩ trong phút xuất thần, vừa có cái vẻ thoát tục của một hành giả đang vào thiền định. Tôi có cảm tưởng hình như ở trạng thái này, ông mới thực sự là ông, còn suốt từ sáng đến giờ, ông lăng xăng ngổ ngáo chỉ là đóng kịch mà thôi.
Ông lại mồi đến điếu thuốc thứ ba. Im lặng hút, không nói một lời. Cũng không hé mắt ra nhìn tôi một thoáng nào. Sau hơn một giờ chộn rộn tiếp chuyện, nghe chuyện, bây giờ tự dưng đang thức mà lại im bặt ngang xương, không lời báo trước hay chào biệt, tự dưng tôi thấy như mình bị bỏ lại nơi phòng giam này một mình. Trơ trọi lẻ loi hết sức. Ông già giống như làn khói mỏng, tan đi, biến đi theo khói thuốc; còn tôi, tên thầy chùa nhà quê nặng nề này, cứ ngồi đây, tầm thường quá đỗi! Và bỗng dưng, trong vài hơi thuốc cuối cùng của ông nơi điếu thứ ba, tôi có linh cảm rằng ông sắp sửa nói với tôi điều gì quan trọng. Mắt ông đã hé mở và ông đang bặp thuốc liên tục. Khi đốm lửa trên điếu thuốc cháy gần sát đến hai đầu ngón tay, ông mới vứt xuống đất ở gần đó, ngồi im, ngó ra phía song cửa sắt. Đôi mắt lắng sâu vào một nỗi ưu tư khó hiểu nào đó.
Ngoài sân ngập nắng. Hàng giậu ngoài kia, với những cành lá xác xơ, như gắng sức vươn thẳng lên để chịu cơn thử thách thiêu đốt của mặt trời đứng bóng. Hình như không có con chim nào lang thang đậu xuống khu vực trại giam này. Xa xa, trên đầu tháp canh là những phiến mây trắng mỏng kéo ngang trên nền trời xanh lơ dịu mắt.
“Có một điều mà hình như chú mày không chịu để ý,” ông đột ngột nói câu ấy như là đang tiếp tục một cuộc đối thoại chưa hề gián đoạn. “Rằng một khi ái dục chưa dẹp được hết thì tất cả ngôn ngữ, cử chỉ, hành động và nhất là cái dạng tướng bề ngoài, đều phơi bày, một cách kín đáo hay lộ liễu, cái vẻ lôi cuốn dụ hoặc của dục tình. Dục lại chiêu cảm cái dục, giống như nhụy hoa và bông phấn, như nam châm và sắt. Thỏi nam châm đâu cần phát tiết hay mời gọi sắt mà sắt cũng tự đâm đầu vào. Nếu nam châm không có sức hút của nó, thì làm gì sắt bị kéo lôi. Hễ dục vọng của chú mày còn y nguyên đằng sau cái vẻ hiền hòa nghiêm trang kia thì nó, con ma dục vọng, vẫn còn lợi dụng được chú mày như thường. Nó luôn luôn mời gọi, quyến rũ những đối tượng đồng tình, đồng cảnh. Đứa nào dục vọng càng mạnh, càng bị chú mày hút mau, hút nhanh. Hậy, ôm cái thỏi nam châm đó mà lăn lộn với đời hay ẩn tu trong cửa chùa đi nữa, chú mày vẫn cứ thu hút, hết thỏi sắt này đến thỏi sắt nọ. Đôi mắt chú mày là đôi mắt của dục vọng, đôi môi chú mày là đôi môi khát ái. Hai thứ đó đi đôi với nhau, hờ, phiền lắm, khổ lắm! Chỉ tự chuốc họa vào thân mà thôi.”
Tôi cười nhạt, bào chữa:
“Cháu không hề có ý quyến rũ dụ hoặc ai. Đối với phái nữ, cháu thuộc loại nhát gan, gặp họ cháu còn lo tránh né nữa là khác.”
“Hô hô, tránh né của chú mày chỉ là sự di động tinh quái của dục vọng, chú mày không biết à? Cứ lấy thỏi nam châm xoay nó một vòng dưới đất đi, xem kết quả ra sao? Chẳng phải càng di động, tránh né, nó càng hút được nhiều vật à! Phải đánh nó từ cái gốc. Hờ, thôi, cái này chú mày tự biết phải làm sao. Tao chỉ cảnh cáo cho chú mày biết là cái gì nó khiến chú mày lận đận, vậy thôi. Chuyện đánh dẹp là chuyện của chú mày.”
Tôi ngồi sững, vả mồ hôi khắp người. Dị nhân nào trước mặt tôi đây? Một lão thi sĩ gàn? Một thầy tướng số? Một đạo nhân? Một triết gia? Một thiền gia? Hay một bồ tát hiện thân để điểm đạo cho tôi? Chưa bao giờ cái dục vọng tàng ẩn trong tôi lại bị kẻ khác điểm mặt và đánh thẳng những đòn cân não như lúc này. Tôi thực sự là muốn bước xuống, đến bên cạnh ông già, sụp lạy ông, bất kể ông là hạng người nào. Nhưng chẳng biết sao tôi cứ ngồi ì ra đó, không nhúc nhích nổi. Có một sức cưỡng chống nào đó trong tôi, kềm tôi lại. Và tôi cứ ngồi một chỗ, nhìn ông già, không nói được lời nào nữa.
Bất chợt có một anh nuôi bước vào, nói lớn:
“Ông già, cán bộ Phương nói ông chuẩn bị đồ đạc cá nhân, chút nữa có cán bộ đưa ông trở về phòng.”
Nói rồi, anh nuôi quay đi ngay, Ông già xua tay, nói:
“Vậy sao? Hứ, tụi bây làm như tao không biết vậy. Tao còn bệnh mà đưa tao về phòng, không cho ở bệnh xá nữa hả? Thì thôi, cũng được thôi, có sao đâu. Hừ, dàn cảnh, toàn là dàn cảnh!”
“Nghĩa là sao, thưa bác?”
“Thì… con Phương, cái con y tá nó muốn dọn sạch chỗ này để còn lại chú mày một mình, dễ làm ăn hơn.”
“Cái gì? Không có đâu, không phải vậy đâu.”
“Ha ha, gì mà sợ dữ vậy. Không sao đâu, đừng sợ. Chuyện gì rồi cũng qua hết. Khà khà, chú mày có số nhờ đàn bà lắm nghe. Để coi nào, à biết rồi, biết rồi, số chú mày đó hả, đàn bà gặp thì tự nhiên muốn giúp đỡ, còn đàn ông gặp thì muốn nhờ vả. Cái số chú mày là như vậy. Cũng tốt nhưng cũng không tốt. Ăn thua là chú mày thôi. Nhớ lời tao nè: con nhỏ đó có ý tốt với chú mày, chẳng hại gì chú mày đâu; nhưng chú mày khôn hồn thì đừng có làm bất cứ cái gì bất thường. Tao chỉ nói vậy, chú mày tự hiểu. Cái phòng này, từ nay là phòng của chú mày, tao giao lại đó. Mà cũng từ cái phòng này, nếu chú mày quyết định một cái gì bất thường thì tự dưng mở ra một ngã rẽ cho cuộc đời mày đó. Tao chẳng nói cuộc đời đó tốt hay xấu, chỉ tóm tắt một câu là… nó thực sự không phải là cái chú mày tìm kiếm đâu.”
Bất ngờ một cán bộ bước vào, vừa mở cửa vừa hối thúc:
“Hoàng Ngọc Chân, phòng này phải không? Là ông đó hả? Lấy đồ đạc cá nhân.”
Ông già đứng dậy xách cái giỏ, thấy hai cây thuốc tôi để nơi đầu nằm của ông, ông cầm lên cây thuốc Đà Lạt đã bóc ra một gói, quay qua hỏi ý tôi. Tôi vội vàng bước đến, dúi hết hai cây thuốc vào giỏ của ông.
“Bác đem theo hút, cháu không hút đâu. Hẹn ngày gặp lại.” tôi xúc động nói nhỏ được vài lời như vậy.
Ông không khách sáo từ chối hai cây thuốc, chỉ mỉm cười đưa một tay lên vỗ nhẹ vai tôi, rồi vẫy chào một cái từ biệt, bước ra.
Tôi bước theo đến cửa sắt, nhìn theo dáng ông hơi khòm, bước thấp bước cao theo chân viên cán bộ. Tôi tự nhủ, “Ôi, nếu có ông ở chung một phòng giam thì hẳn là học được nhiều điều bổ ích lắm. Ông ấy là ai vậy kìa?”
Đến chiều, khoảng sau sáu giờ, mới thấy Phương đến cửa, hỏi:
“Anh ăn cơm chiều chưa?”
“Rồi,” tôi lạnh lùng đáp.
“Sao anh có vẻ buồn vậy?”
“Không có gì. À, cô Phương, ông già ở đây… tại sao phải trở về phòng? Ông ấy còn bệnh mà.”
“Hết bệnh lâu rồi, tại ổng thích ở đây cho yên tịnh nên em để ổng nấn ná một thời gian đó thôi. Ổng ở đây hay ở trong phòng tập thể thì cũng chừng đó chuyện, chừng đó thuốc, có gì thay đổi đâu. Ổng có kể chuyện của ổng cho anh nghe không?”
“Không. Ông ấy là ai vậy? Ý tôi muốn hỏi… ở ngoài đời ông ấy làm gì vậy?”
“Anh thực sự không biết à? Đồng nghiệp của anh đó. Ông ấy là thầy tu như anh vậy.”
“Cái gì? Thầy tu à!”
Tôi nhũn người ra, thấy tức đau đáu trong lòng. Chưa lúc nào trong đời tôi thấy tôi ngu đần đến mức không nhận ra một vị cao tăng hiện diện trước mắt mình. Rõ ràng là có nhiều lúc trên đời, tôi chỉ nhìn, chỉ đánh giá con người qua cái dáng vẻ và hành xử bề ngoài. Tôi đã mất cơ hội được sống bên cạnh một bậc thiện tri thức ngay trong ngục tù.
Tôi lặng người không nói gì nữa. Phương ái ngại ngó tôi một lúc rồi nói:
“Ông ấy cũng hoạt động chống lại nhà nước, giống như anh vậy. Nhưng ông vào đây từ năm 1980 kìa. Anh Khang à, thôi bây giờ mình nói về chuyện bệnh của anh há.”



CHƯƠNG MƯỜI HAI


Nàng nghe chăm chú lắm, nhưng đưa tay ra dấu tôi ngưng một lúc, để nàng xuống bếp lấy bình thủy nước sôi. Tôi ngồi nhìn theo dáng nàng quay đi. Bước tự nhiên, không làm điệu bộ, vậy mà tha thướt uyển chuyển làm sao!... Cái duyên nào đẩy đưa nàng và tôi trở thành bạn với nhau một cách tự nhiên và nhanh chóng như vầy nhỉ? Rõ ràng là nàng làm quen tôi trước, nàng tạo ra cái duyên đó. Nhưng cũng không hẳn như vậy. Nói theo cách ông thầy già ấy thì “dục lôi kéo dục…” Nếu ở cái phút ban đầu, tôi vô tâm vô tình thì có lẽ nàng đã không dám làm quen tôi… Chính vì đôi mắt và tia nhìn đầy khát dục của tôi đã mở đường cho mọi duyên nợ vây theo, đeo bám.
“Em nghĩ là vị thầy kia nhận xét đúng,” nàng quay trở lại, vừa châm nước sôi vào bình trà, vừa nói.
“Đúng ở điểm nào?” tôi nghi ngại hỏi lại.
“Nhiều điểm lắm, nhưng đặc biệt là… đối với cô cán bộ y tế đó, anh không nên làm điều gì bất thường; bởi vì… đó không phải là điều anh mong đợi tìm kiếm. Em rất đồng ý với ông thầy già ấy.”
Tôi phì cười, nói:
“Bất thường là thế nào? Em hiểu chữ bất thường của ông ấy muốn nói là gì không? Chính anh cũng không hiểu nổi. Chỉ đến khi mọi chuyện qua rồi mới biết ông ám chỉ cái gì…”

 Ó

Phương nói vậy, nhưng cô không nói chuyện ngay. Cô bước ra ngoài, đi dọc theo hành lang của dãy bệnh xá một vòng từ đầu này qua đầu kia, lại đi ngược từ đầu kia đến đầu này, như là đi canh gác. Rồi cô bước ra phía sân, đi dọc theo hàng giậu, lượm mấy nhánh cây khô nhỏ và vài miếng giấy rác, mắt cô kín đáo liếc nhìn xung quanh. Xong, cô mới trở vào, lại đi dọc theo hành lang một vòng rồi mới bước đến chỗ tôi,
“Anh Khang đau bao tử hồi nào vậy?”
“Hình như từ hồi mười một tuổi.”
“Tức là khoảng thời gian anh mới đi tu đó hả?”
“Cô cũng biết tôi đi tu lúc đó sao?”
Phương cười:
“Lý lịch của anh, em nắm vững lắm mà!”
Tôi cười nhạt:
“Ừ, thì công an nhà nước rảnh rỗi, cứ dành hết thì giờ mà nghiên cứu lý lịch của nhân dân thôi.”
“Không phải vậy. Thực ra em đâu có bổn phận nghiên cứu lý lịch của anh Khang. Chuyện đó đã có người khác lo rồi. Em chỉ hiếu kỳ, đọc cho biết anh Khang như thế nào thôi. Nè, hồi chiều anh Khang ăn cơm với thứ gì vậy? Anh còn thức ăn không?”
“Còn.”
“Anh ăn chay từ hồi mới đi tu đến giờ, vậy anh thấy trong người thế nào? Có khỏe không?”
“Khỏe chứ. Không những khỏe mà còn thấy nhẹ nhàng nữa.”
“Lạ há. Nhưng em thấy anh gầy quá. Hồi ở ngoài anh có gầy như vầy không?”
“Chẳng để ý nữa.”
“Cơm tù phát đâu có đủ. Dù có gia đình thăm nuôi thêm, vẫn thiếu dinh dưỡng như thường, phải không anh?”
Không thích nghe Phương nói loanh quanh những chuyện chẳng quan trọng, tôi chụp cơ hội này, mớm ý ngay:
“Dù không bị tù, dù có dinh dưỡng đầy đủ, mà thiếu tự do thì cũng coi như thiếu tất cả.”
Phương cười buồn, nói giọng cám cảnh:
“Em hiểu. Con người của thời đại nào, đất nước nào, lại chẳng yêu chuộng tự do. Nhất là anh, một người sống nếp sống thong thả nhẹ nhàng trong chùa, đáng ra không vướng bận chuyện thế gian, mà cuối cùng phải vào đây… Xã hội phải có cái gì không được ổn nên anh mới phải như vậy, em nói đúng không? Anh Khang à, em thực sự là muốn giúp anh đó.”
Tôi bắt đầu thấy run từng hồi trong người, dè dặt nói:
“Tại sao cô muốn giúp tôi?”
Phương im một lúc rồi nói nhỏ giọng:
“Thực ra thì trong khi làm việc, em giúp được ai thì giúp, chẳng phải với riêng anh. Nhưng, ở trường hợp anh, có một cái gì đó… khó nói lắm. Em chỉ thấy là… em muốn giúp anh, không muốn thấy anh phải lâm vào hoàn cảnh như vầy.”
“Có nghĩa là cô muốn giúp tôi được tự do?”
“Phải, em muốn vậy.”
“Điều này sẽ nguy hiểm cho bản thân cô hoặc sẽ phương hại gì đến nghề nghiệp của cô.”
Phương cười:
“Nếu em bám lấy nghề nghiệp chức vụ thì bị mất chúng, mới gọi là phương hại. Còn bản thân em hả, một khi từ bỏ mọi công tác, tìm một đời sống mới ở một nơi xa xôi nào đó, hẳn là không phiền hà gì, trái lại còn vui vẻ hạnh phúc hơn. Nói thiệt với anh, em đã muốn từ bỏ nơi này từ lâu. Má em không thích em làm việc trong ngành này. Bà nói em làm công việc thất nhơn thất đức, ăn rồi chỉ biết chằm hăm làm hại người ta thôi. Thực ra thì công việc của em đâu phải như vậy. Em chỉ lo về hồ sơ, với lại lo chăm sóc bệnh nhân tù thôi mà. Nhưng theo suy nghĩ của má em: hễ ở trong ngành công an thì nếu không trực tiếp cũng gián tiếp hăm dọa, khủng bố, bắt bớ, giam cầm kẻ khác. Hi hi, anh có thấy vậy không?”
“Cũng tùy thôi. Nếu mình thực tâm thương người, giúp người, thì ở trong ngành nghề hay hoàn cảnh nào mình cũng có thể làm lợi ích được cho người.”
“Hay quá, phải như em biết nói được câu đó với má em từ lâu thì có lẽ bà không cằn nhằn em hoài. Nhưng mà… anh biết sao không? Ban đầu em tưởng má em nói gì thì nói, chẳng ảnh hưởng gì đến em đâu, nhưng càng lúc em càng thấy rằng em bị thấm cách suy nghĩ của bà… đến độ nhiều khi, em cảm thấy rằng em như một thứ người xấu xa, tàn ác, bất nhân thế nào đó.” Phương ứa nước mắt, mặt hơi cúi xuống. “Đã nhiều năm em sống trong thứ mặc cảm đó, cái mặc cảm cho rằng mình sống trên đời chỉ mang lại đau khổ cho kẻ khác. Bước ra đường, hay cả khi về đến nhà, em đều có cảm tưởng là mọi người tránh né em, sợ hãi em, thù ghét em, khinh bỉ em.” Phương tháo gỡ cặp kiếng cận, đưa tay quẹt nước mắt. “Em ước mơ làm được một cái gì để thay đổi hoàn cảnh, để được sống một cuộc đời mới, nhưng thực tình là em chưa biết làm cái gì cho ý nghĩa. Cho đến khi gặp anh, theo dõi hồ sơ khai cung và các bản tự khai của anh… Anh khai cung và viết tự khai rất thẳng thắn, không che đậy. Nhờ vậy, em hiểu được lý tưởng và ước vọng cao đẹp của anh. Ôm ấp và suy nghĩ mãi về những gì anh làm, băn khoăn về hậu quả khổ đau mà riêng anh phải gánh, em thấy trong lòng khó chịu thế nào ấy. Rồi một hôm nọ, em bỗng thấy, bỗng hiểu rất rõ là cái lý tưởng của anh, ước vọng của anh, mới chính là những gì mà em mong muốn, chứ không phải là… mỗi ngày đến đây, gián tiếp bảo vệ một chế độ mà mình không còn tin tưởng.”
Phương ngưng ngang đó, quay mặt chỗ khác, lấy tay áo lau nước mắt. Xong, cô bước ra ngoài, đi dọc hành lang một vòng nữa như thăm dò động tịnh rồi trở vào, thút thít nói tiếp:
“Anh biết không, ba em đi tập kết bị chết trên Trường Sơn, má em thì hồi đó có giúp đỡ cho mấy người cán bộ nằm vùng bạn của ba em trốn trong hầm nhà, nên sau ngày giải phóng, gia đình em được coi là gia đình liệt sĩ có công với cách mạng. Em nhờ vậy mà được nhà nước cho tiếp tục ăn học, được ra làm việc, chứ thực ra em có lý tưởng cộng sản hay lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa gì đâu! Trước giải phóng, em còn nhỏ, đi học; giải phóng rồi, lại tiếp tục đi học. Học xong ra làm việc, đơn giản như vậy. Lý tưởng cộng sản đối với em chỉ là cái ước mơ chung không bao giờ với tới được của những người nghèo khổ. Gia nhập đảng cộng sản trong hoàn cảnh mới của đất nước, đối với em, chỉ là cách để làm vững công ăn việc làm và chân đứng của xã hội của mình mà thôi. Cuộc đời em cứ thế mà tiến tới một cách thuận lợi theo sự phấn đấu cá nhân cũng như sự hỗ trợ của lý lịch gia đình. Em không biết ở ngoài cái vòng đai an ổn của chức năng nghề nghiệp và giai tầng xã hội mà em được ưu đãi, người dân bên ngoài đang phải uất nghẹn sống dưới một chính thể bất công, thiếu tự do, thiếu mọi thứ… Mà chắc anh cũng hiểu, chức vụ nhỏ nhoi của em, khả năng bé nhỏ của em, có đáng gì đâu, làm sao xoay chuyển được gì cả một guồng máy khổng lồ và chằng chịt những kẻ cảm tử sẵn sàng bảo vệ nó. Cho nên, em cứ như vậy mà sống, cố gắng tránh hại người khác, chứ cũng chẳng dám nói là làm lợi gì được cho ai. Bây giờ đối với chuyện của anh, em đã suy nghĩ khá nhiều, và… em có ý nghĩ muốn giúp anh ra khỏi nơi này.”
Tôi xúc động lắng nghe câu chuyện của Phương, đến câu chót thì tim tôi đập loạn xạ lên, hồi hộp nghĩ đến chân trời tự do đang chuẩn bị mở ra trước mắt. Một lúc tôi mới lấy lại được bình tĩnh, nói:
“Cám ơn lòng tốt của cô. Nhưng có thể nói, tôi là tù nhân có trọng án của chế độ, cô dây vào chuyện tôi chỉ chuốc họa vào thân, không những phiền cô mà còn lụy đến gia đình cô nữa.”
Phương cười:
“Em đã đoán trước điều này: nội chuyện thuyết phục cho anh nhận lời cũng khó rồi chứ chưa nói đến kế hoạch thoát ra khỏi nơi đây. Anh luôn quan tâm đến kẻ khác, chứ không phải thấy lợi cho mình là nhảy vào. Đó là điều mà em không bao giờ có thể tìm thấy được trong những đồng chí mà em từng gặp gỡ hoặc quen biết. Anh Khang à, anh không thể ở mãi trong này đâu. Anh nói đúng, mức án của anh, em biết là nặng lắm. Người ta sẽ đày đọa anh, cố ý giết anh một cách có âm mưu, để anh chết dần chết mòn, hoặc chết trong một cơn bệnh nặng, hoặc chết vì đói khát, chết vì kiệt sức. Nếu anh có may mắn sống còn đi nữa, anh cũng tàn thân, không còn đủ sức lực hay ý chí để đấu tranh, hoặc anh sẽ bị họ giam cho đến bạc đầu, còn gì để nói để làm nữa… Mà một người như anh, em thực không cam lòng để cho phải chôn vùi oan uổng như vậy. Em suy nghĩ về chuyện này cũng nhiều ngày rồi và em có tâm sự với má em, bà nói, nếu em giúp được anh là em đã làm một việc rất phước đức. Nhưng em không mong cầu phước đức, em chỉ mong là giúp được anh, vậy là đủ rồi. Má em cứ khuyến khích, hỏi chừng em hoài về chuyện anh. Bà có vẻ thương anh lắm, nói anh tội nghiệp, tu hành mà phải lao đao, khổ nhọc. Má em cũng ăn chay trường như anh đó anh Khang à. Bà nói bà có cách đối phó nếu người ta hỏi đến. Bà đồng ý ở lại một mình trong một thời gian ngắn rồi sẽ bỏ Biên Hòa, về quê sống với bà con bên chồng, tức là bên ba em, ở Tây Ninh; còn em thì đưa anh đi trốn về quê của má, tức là ở Tân Châu, Châu Đốc, sống ẩn dật, cải tên đổi họ, rồi tìm cách đưa anh vượt biên giới, qua Campuchea, hay Thái Lan mà sống. Chuyện gặp lại bà thì tính sau. Anh… anh nghĩ sao?”
Tim tôi đập mạnh. Những gì Phương nói hoàn toàn vượt sức tưởng tượng của tôi. Từ khi liều lĩnh tìm cách tạo cơ hội để gặp riêng Phương mà thăm dò cái câu ”bệnh nặng có thể được về,” tôi vẫn có hy vọng tìm được một lối thoát nào đó, nhưng tôi không làm sao có thể tưởng được có một kế hoạch, một con đường mênh mông, cao rộng như thế. Đề nghị của nàng dĩ nhiên là mở ra cho tôi một chân trời mới lạ, khiến tôi ngay lúc đó, tự dưng cảm thấy rằng tôi không thể chịu đựng được nữa cái giới hạn của những bức tường, những chấn song tù hãm chung quanh. Tôi mường tượng một vùng Thất Sơn với bảy ngọn núi sừng sững như những vị thần từ xa đứng nhìn về những nhánh Cửu Long cuồn cuộn chảy xiết từ ngọn nguồn của Hy Mã Lạp Sơn anh linh huyền bí. Ngày ở chung phòng giam với ông Trọng ở T20, Sài Gòn, tôi và ông Trọng đã từng ước hẹn với nhau về chuyện đi vào Thất Sơn, nếu không lập được nghĩa quân đủ mạnh để giành lại quê hương thì ít nhất cũng làm những nam nhi sống tự do với rừng núi bạt ngàn cho thỏa chí tang bồng hồ thỉ, hoặc làm những đạo nhân chay tịnh, sống thong dong trong chốn rừng già hoang sơ… Bây giờ Phương đề nghị đưa tôi đi về hướng đó, cái hướng Thất Sơn huyèn hoặc kỳ bí từng khơi dậy trong tôi bao giấc mộng vẫy vùng.
Tôi chưa kịp quyết định hay nói một lời nào đã nghe tiếng giày gõ cồm cộp ở đâu đó ngoài hành lang. Phương vội vã bước ra, chào hỏi một người nào đó. Rồi có tiếng một người đàn ông nói nói cười cười với Phương. Giọng người đàn ông trầm xuống, chỉ nghe âm không nghe được lời; còn tiếng của Phương thì trong, cất cao lên, dường như là cố tình cho tôi nghe:
“Đâu phải phấn đấu làm thêm giờ! Chỉ tại có một bệnh nhân bị đau bao tử hay đau ruột gì đó, em đem thuốc đến cho uống thôi.”
“Ra thế à! Bệnh nhân nào mà tốt phước quá nhỉ. Phải như anh đây cũng được em chăm sóc như thế!”
Họ đứng đâu đó trước văn phòng trực của bệnh xá, nói với nhau thêm đôi điều nữa rồi cùng đi dọc theo hành lang. Tôi rút vào trong, leo lên giường, nằm xuống. Đèn phòng đã được bật sáng từ công tắc chung ở văn phòng trực. Giờ này có lẽ vào khoảng bảy giờ tối. Phương và người đàn ông kia–dĩ nhiên phải là một cán bộ–đang bước ngang cửa phòng giam tôi. Hình như họ ngừng lại, nhìn vào một chút rồi tiếp tục đi.
Dự tính, hay nói đúng hơn, kế hoạch mà Phương đưa ra, giống như một chuyến tàu tốc hành bất ngờ vụt qua trước hiên nhà. Nó đến quá sớm, quá nhanh, khiến tôi không kịp thì giờ suy nghĩ chín chắn. Nó dường như thúc giục tôi phải trả lời, phải quyết định thật nhanh, trước khi một trở lực hay một sự đổi ý nào đó xảy đến. Nó đã sắp sẵn những lý do rất hợp tình hợp lý như là hành trang đi xa cho người lữ hành phóng lên chuyến tàu vội vàng ấy. Phương đã túm vén cho tôi vài thứ để yên tâm lên đường: tự do, cơ hội để tiếp tục đấu tranh, cứu nàng ra khỏi hoàn cảnh của nàng. Đó là cơ hội ngàn năm một thuở mà có lẽ ít có tù nhân án nặng nào lại từ chối. Tôi nghĩ đến cái án và cơ hội tự do của mình. Hai thứ nay giống như hai kẻ thù không chịu ngó mặt nhau. Cả hai đều tuyên bố với tôi rằng nếu tôi chấp nhận chọn kẻ kia thì không thể có được kẻ này. Đó là hai cô dâu mà mỗi tù nhân chỉ được quyền chọn một để ôm ấp dài lâu trong cuộc sống của hắn. Án tù, giống như cô dâu có bộ mặt dữ tợn xấu xí của một ác quỷ, chẳng có tù nhân nào thích chọn, nhưng lại không có chút quyền hạn nào để từ chối vì nó thuộc quyền của tòa án nhà nước–một thứ tòa án không luật sư biện hộ cho bị cáo, chỉ xuất hiện trong những xã hội man rợ mà quan tòa và bồi thẩm đoàn chính là những kẻ được đề cử ra từ cái nền của sự mê muội cuồng tín, cái nền của thứ tín lý một chiều gợi nhớ những tòa án dị giáo thời trung cổ. Chỉ có tự do mới là cô dâu có bóng dáng kiều diễm và e lệ như một tiên nữ mà tù nhân nào cũng yêu thương, mong ước. Nhưng cơ hội nào, cái giá nào, để có được nàng tiên như vậy? Chẳng phải chọn lựa là được. Án tù và tự do là hai thứ mâu thuẫn đối nghịch nhưng chính cái mâu thuẫn đó cũng là chỗ liên hệ khắng khít mật thiết với nhau: được tự do có nghĩa là án tù đã mãn hoặc được hủy bỏ; lãnh án tù có nghĩa là bị tước đoạt tất cả quyền tự do. Như vậy, một khi án tù, nhất là cái án chính trị của một nhà tu, đã bị treo trên đầu thì cái mong ước về tự do là điều hoang tưởng. Tôi đã vào tù, có nghĩa là không còn cơ hội để chọn lựa. Người ta chỉ có thể chọn lựa khi còn ở bên ngoài xã hội chứ không thể chọn lựa lúc ở trong tù. Ở tù có nghĩa là chín mươi chín phần trăm chấp nhận lấy cô gái mặt quỷ làm cô dâu. Phải ôm lấy cô ấy để sống với niềm hãi sợ, kinh hoàng cho đến một ngày nào đó, chính cô ta chán ngán muốn buông bỏ mình.
Nhưng bây giờ, rõ ràng là tôi có một cơ hội hy hữu để chọn lựa con đường tự do. Nàng tiên tự do của tôi đã hiện thân làm một cô nữ công an, nữ cán bộ y tế, không đẹp nhưng tốt bụng, biết điều phải quấy. Phương sẽ mở đường cho tôi bằng một cách nào đó để ra khỏi nhà tù này, và tôi sẽ đi với cô, sống ẩn lánh ở vùng biên giới Việt-Miên. Có phải là sống chung không nhỉ? Phương chỉ nói trông trổng rằng sẽ đưa tôi đi trốn, cải đổi tên họ, sống ẩn dật,… chứ không nói rõ là sống ẩn dật như thế nào, sống một mình tôi hay sống có cô bên cạnh. Suy ngẫm một lúc, tôi thấy rõ rằng, nếu Phương cứu tù nhân chính trị như tôi, lại bỏ ngành công an để đưa tôi đi xa hẳn nhiên là bản thân cô cũng có tội và lo ẩn lánh. Cả Phương và tôi đều trở thành những kẻ tội đồ của chế độ thì phải trốn chung, sống chung. Phương từng làm việc trong ngành công an, sẽ biết cách luồn lách thế nào để giải thoát được màng lưới chằng chịt của tình báo; sẽ biết cách làm giấy tờ giả cho cô và cả cho tôi để sống yên ổn dưới chế độ công an trị của Việt Nam hay Campuchea. Phương cũng quen thuộc những ngõ ngách ở vùng biên giới, sẽ biết cách tìm được chỗ ẩn thân an toàn. Như vậy, mọi thứ tôi đều bị lệ thuộc Phương, tôi phải theo Phương, để cô lo liệu sắp đặt tất cả. Tôi phải bám theo cô để tự tồn. Nghĩ đến điều này, tôi thấy rùng mình.
Ông thầy già hồi sáng hình như có thuật bói toán: ông đã thấy trước cái gì sắp xảy đến cho tôi. Ông đã nói gì nhỉ? À, à, “con nhỏ đó có ý tốt chứ chẳng hại gì chú mày đâu…” Gì nữa? À, “một ngả rẽ cho cuộc đời chú mày sẽ bắt đầu từ cái phòng này nếu chú mày có một quyết định bất thường nào đó.” Chao ôi, ông già này, thực là một dị nhân tinh xảo, phi thường!
Nhưng, biết đâu chỉ là một sự dàn cảnh! Tôi làm sao quên được tôi bị bắt vào tù bởi vì đã tin vào Hân, bạn tôi, và tin luôn ông Thầy Tư do Hân giới thiệu để rồi bị hai người này dàn cảnh cho công an Sài Gòn bắt tôi ngoài đường. Suy từ chuyện đó thì sự việc Phương và ông thầy già mà tôi tiếp xúc hôm nay, đều có thể là những diễn viên xuất sắc đang đóng một màn kịch lừa dối tôi, gài bẫy tôi sa vào một cái tội khác hòng bồi nặng thêm cho cái án tù của tôi, hoặc có cớ để xử bắn tôi–như nhiều người trốn trại khác trước đây đã bị bắn trước khi ra được khỏi tường rào của nhà giam. Trong xã hội này, những người đối xử với mình tốt nhất có thể là những người tàn tệ xấu xa nhất đang giăng bẫy để hại mình. Ai cũng có thể là người trung thành của đảng, sẵn sàng chỉ điểm, bán đứng, lừa gạt, thủ tiêu mình để bảo vệ sự cai trị bền vững dài lâu của đảng trên đất nước này. Tại sao tôi lại được Phương đưa vào cái phòng có ông thầy già để tôi được nghe những lời khuyên của ông ấy? Tại sao không đưa vào phòng khác có một nhân vật ù lì không thèm nói chuyện, hoặc không biết tiên tri, bói toán? Có thực là những phòng khác đều hết chỗ nên mới đưa tôi vào chung phòng với ông thầy già? Tại sao ông thầy già vừa nói xong những gì cần thiết với tôi là bị đưa qua chỗ khác ngay, để lại tôi một mình cho Phương dễ bàn việc riêng? Mà tôi một mình ở lại đây thì quá dễ dàng cho công an nhà nước thủ tiêu, chích thuốc, xiết cổ (như đã làm vậy đối với Thượng Tọa Thiện Minh trước đây), rồi phao tin là tôi bệnh chết hoặc tự tử bằng cách thắt cổ… Chuyện như vậy đơn giản, thuận lợi quá, cần gì phải dùng một “mỹ nhân” không đẹp bỏ công khuyến dụ tôi trốn thoát rồi sau đó hại tôi!
Tóm lại, tất cả những gì Phương và ông thầy già nói, đều có thể là thực hay giả, đều có thể là tốt hay xấu. Tôi băn khoăn không biết nên tin Phương hay tin ông thầy già, hoặc tin cả hai, hoặc không tin ai cả.
Không biết phải quyết đoán thế nào, tôi ngồi bật dậy, xếp bằng trong tư thế tọa thiền, hít thở nhiều hơi dài, buông bỏ hết mọi thứ, giữ tâm vắng lặng không cho bất kỳ một ý niệm nào dấy lên. Và tôi ngồi im như thế không biết bao lâu. Cho đến khi có tiếng gọi nho nhỏ vọng đến:
“Anh Khang, anh Khang…”
Tôi từ từ mở mắt ra, lại nghe tiếng ấy phát ra, từ phía song cửa sắt:
“Anh Khang, lại em nói này.”
Tôi xoa hai chân, vừa hỏi:
“Có việc gì nữa vậy? Không phải đã đến phiên trực của cán bộ khác rồi sao?”
“Cán bộ khác? Đâu có, đêm nay em trực mà. Còn ông cán bộ hồi chiều đến đây là thượng úy Sáu của ban quản giáo, ổng đến để nói chuyện, tán tỉnh em chứ có phải đến để thay phiên trực đâu… Ông ấy đã ngoài bốn mươi, có một đời vợ chết trong chiến tranh. Ông thích em, đòi cưới em hoài… mà em đâu có chịu. Em không thích ổng. Em đã muón bỏ ngành thì chọn làm gì cái ông trung thành với ngành như ổng. Với lại má em cũng không thích em lấy chồng công an. Bây giờ ở dãy bệnh xá này chỉ có mình em trực, nhưng cứ trong vòng một tiếng đồng hồ thì có người của ban bảo vệ đi ngang đây một lần. Họ vừa mới đi qua đó, cho nên em mới đến nói chuyện với anh một chút. Anh bước ra đây đi. Em muốn nói tiếp chuyện hồi chiều với anh cho xong.”
Tôi bỏ hai chân xuống giường, xỏ chân vào dép, từ từ tiến lại chỗ Phương. Trong lúc bước đi, tôi bỗng thấy tỉnh táo hết sức. Dường như bao nỗi băn khoăn khó xử trước đây đều tan biến hết. Và tôi có cảm tưởng những bước chân của tôi khi bước đến Phương là những bước chân của con voi chúa khi lâm trận–một hình ảnh oanh liệt hùng dũng trong kinh Pháp Cú dùng để mô tả bậc trí tuệ phạm hạnh trước sự tấn công vũ bão của gươm giáo thế gian.
“Có chuyện gì?” tôi hỏi.
Phương hơi khựng một lúc, nói:
“Sao anh nghiêm quá vậy?”
“Có gì đâu, cũng bình thường thôi.”
“Em… em muốn hỏi lại anh về chuyện hồi chiều. Anh cho em biết ý của anh đi. Anh thấy chuyện em đề nghị thế nào? Anh chỉ cần đồng ý là em sắp xếp lo hết mọi việc. Chuyện này hệ trọng không phải cho riêng anh mà cho cả em nữa, cho nên dĩ nhiên là em phải hết sức cẩn thận… Em bảo đảm là thành công, không sao đâu.”
Tôi bình thản nói:
“Cám ơn cô có lòng tốt tìm cách giúp tôi. Tôi có suy nghĩ về chuyện đó, thấy rằng cô không cần phải làm vậy.”
“Không làm vậy chứ phải làm sao bây giờ? Anh muốn tự do, em sẵn sàng giúp anh. Nhưng chuyện em làm cũng không phải làm cho riêng anh, mà cho cả em nữa. Em cũng muốn tự do, muốn thay đổi. Anh không tin em sao?”
“Tin, nhưng tôi không muốn được tự do theo cách đó.”
“Vậy chứ anh có cách gì hay hơn sao?”
“Ơ… không có cách gì.”
“Vậy thì để em lo, anh chỉ việc làm theo lời em dặn là được rồi.”
“Không phải vậy. Ý tôi muốn là… tôi chỉ muốn được tự do mà không phải gây phiền lụy và nguy hiểm đến người khác, chẳng hạn bản thân cô và má cô”.
“Em với má em đều bằng lòng làm vậy mà.”
“Nhưng tôi không yên lòng.”
“Vậy chứ làm cách nào anh mới yên lòng?”
“À… chẳng hạn cô chỉ việc ký giấy bệnh, cho xe đưa tôi đến bệnh viện nào đó, rồi tôi sẽ tự tìm cách lẻn trốn trên đường xuống bệnh viện thành phố, hoặc trong thời gian được chữa trị tại bệnh viện…”
Phương cười:
“Anh làm như dễ lắm vậy. Anh chưa biết cách công an dẫn độ và phòng vệ một tù nhân đi đường hay ở bệnh viện. Không đơn giản như anh tưởng đâu. Lúc nào cũng có lính theo gác chứ có phải chỉ có mấy người y tá của bệnh viện thôi đâu. Từ trại này đi xuống bệnh viện cũng có cán bộ bảo vệ đi theo. Ở bệnh viện, anh sẽ được cho nằm trong một phòng khám đặc biệt có lính gác. Chưa hết, ở trên xe cứu thương và ở trên giường của bệnh viện, một chân và một tay của anh sẽ bị còng, khóa vào chân giường sắt. Anh vác nổi cái giường đi theo anh không? Hi hi… Còn như phải dùng vũ lực để áp chế mấy anh bảo vệ rồi trốn, cho dù anh có khả năng đó đi nữa, em chắc là anh cũng không muốn làm, phải không? Vậy thì đừng nghĩ đến cái kế đó, anh ơi!”
“Vậy chứ kế của cô ra làm sao, nói tôi nghe thử xem?”
Phương suỵt một tiếng, để tôi đứng đó, bước ra ngoài hành lang, đảo một vòng rồi quay trở lại, nói nhỏ giọng:
“Những đêm trực bệnh xá, cứ đến khoảng gần sáu giờ sáng là em rời trại để về nhà lo tắm rửa thay áo quần, lấy thức ăn mang vào trại làm việc ngày kế tiếp. Cái khoảng thời gian đó là thời gian vắng vẻ nhất ở khu vực văn phòng và cổng trại vì chưa đến giờ làm việc. Chỉ có một hoặc hai cán bộ bảo vệ trong bót gác kiểm soát sự ra vào nơi cổng trại mà những người này thì thường thường chẳng biết hết mặt mũi cán bộ trong ban quản giáo và các ban ngành khác. Tuy vậy, họ đặc biệt biết mặt em vì em là nữ, lại là người ra vào thường xuyên, ra vào ở cái giờ vắng vẻ nhất nên họ dễ nhớ. Cho nên em chỉ việc lái xe chạy đến chỗ cây cần gỗ chặn ngang, đưa tay lên vẫy chào là cán bộ bảo vệ vẫy tay lại, cho em chạy ra ngay.”
“Như vậy cũng chưa chắc là tôi cũng đi lọt ra được.”
“Em chưa nói hết. Em sẽ cho anh mặc đồng phục của công an. Sáng sớm anh sẽ đi theo em từ đây ra đến cổng trại. Đi cho thật tự nhiên, vừa đi vừa nói chuyện. Ra đến chỗ để xe, à, anh biết chạy xe Honda nữ không vậy? Biết hả, vậy thì tốt quá. Này nhé, ra đến chỗ để xe, anh nổ máy chở em ra cổng trại, dừng lại ở chỗ cây cần gỗ, em đưa tay vẫy với cán bộ gác cổng, nếu họ cho đi thì mình cứ việc đi thẳng; còn họ không chịu giở cây gỗ lên thì anh cứ việc ngồi yên trên xe, dừng tắt máy, còn em sẽ xuống xe, đến chỗ họ để trình giấy. Em làm việc ở văn phòng mà, làm một tờ giấy giả để đi công tác đâu có khó khăn gì. Trình giấy xong là mình đi thôi, họ chẳng hỏi gì đến anh đâu. Ra khỏi trại, mình cố gắng chạy thật nhanh về Sài Gòn, tìm một địa điểm nào đó để thay đổi y phục, mang theo giấy tờ giả, rồi trà trộn với thường dân, ra bến xe mà về Châu Đốc. Trường hợp ở cổng trại mà bị họ làm khó gì đó, sẵn em đứng gần cây gỗ, em sẽ kéo cây giây nhấc nó lên, và anh cứ việc phóng xe chạy thẳng ra ngoài, anh thoát một mình đi, đừng ngần ngừ nán lại mà nguy hiểm.”
“Ứ, không được đâu. Đã nói là tôi không muốn vì chuyện tự do của mình mà làm hại đến người khác. Tôi dứt khoát là không lái xe bỏ chạy một mình đâu.”
“Vậy là… vậy là anh đồng ý rồi phải không? Đồng ý theo kế hoạch đó nhưng không đồng ý lái xe một mình trốn thoát bỏ lại em một mình?”
“Ơ… tóm lại là tôi chưa quyết định gì hết. Tôi chỉ muốn nói là giả dụ như gặp trường hợp bị làm khó dễ trước cổng trại, tôi sẽ không bao giờ lái xe bỏ chạy để cô ở lại chịu trận. Vậy thôi.”
Nói rồi, tôi lại thầm nghĩ: huống chi, chưa chắc tôi lái xe chạy một mình ở Biên Hòa mà có thể thoát được sự đuổi bắt của công an. Biên Hòa đối với tôi là một thành phố xa lạ, biết chạy đường nào, hướng nào…
Nhưng Phương nghe tôi nói vậy thì mỉm cười, có vẻ sung sướng. Một lúc cô nói:
“Sống chết có nhau, nhất định há!”
Tôi im, ngó lơ chỗ khác. Phương tháo kẹp tóc phía sau, thả tóc cô xuống. Tóc chấm ngang vai. Lần đầu tiên tôi thấy Phương thả tóc ra như vậy. Phương vén tóc mai, rồi lại túm những lọn tóc lên, kẹp lại. Tôi chẳng hiểu tại sao mở ra rồi lại kẹp vào nữa, mất công quá. Tôi nói:
“Thôi, cô trở về văn phòng trực đi, ở đây lâu có sao không vậy?”
Phương nhìn đồng hồ, nói:
“Cán bộ bảo vệ lại sắp đi ngang qua đây. Em phải ra, còn anh, anh suy nghĩ lại rồi cho em biết há. Biết sớm, em sẽ đủ thời gian lo liệu chu đáo hơn. Dù sao cũng không nên kéo dài thời gian anh ở lại bệnh xá này, sẽ gây nghi ngờ trong đám quản giáo đó, nhất là ông Sáu, ông ấy để ý em lắm?”
Trở về chỗ nằm, tôi lại ngồi xếp bằng, tọa thiền. Lần này, tâm tôi tán loạn, không định được. Trước mắt tôi cứ hiện ra mãi hình ảnh mình cải trang làm công an, phóng xe gắn máy ra khỏi cổng trại, Nỗi vui sướng của giấc mộng tự do bừng bừng dâng dậy làm nhẹ hẫng cả người tôi. Nhưng cái hình ảnh phóng xe vượt thoát đó, dù sinh động và sáng rỡ trong trí tưởng của tôi, vẫn không hề mang theo bóng dáng Phương ngồi phía sau. Một mình tôi lái xe đi thôi. Hình như tôi quên nghĩ đến Phương, mà chỉ nghĩ đến tự do của riêng mình. Ngay cả đến việc cố gắng mường tượng một người con gái ngồi phía sau xe, tay ôm choàng lấy bụng mình, tôi vẫn chỉ thấy một dáng người không có mặt mũi. Tôi không thể hình dung ra được khuôn mặt của Phương. Phương đã đến với tôi bằng một hình ảnh nhập nhòa, mờ nhạt, không có gì đặc biệt, và bây giờ, nhắm mắt lại. tôi không nhớ mặt cô như thế nào nữa.
Phương là ai? Phải chăng nàng là hiện thân của một thứ tự do vô hình, vô dạng, vô ảnh, vô tích? Phải chăng cô là hiện thân của một tấm lòng thương yêu không cần trang điểm, tô chuốc? Tại sao ở đâu, thời gian và địa điểm nào, tôi cũng có cơ hội để bắt gặp một con người tốt bụng sẵn sàng giúp đỡ mình? Tôi có xứng đáng để được phần thưởng đó không? Tôi có thể đón nhận sự giúp đỡ của một người tự nguyện chịu thiệt thân vì mình mà lại không nhớ nỗi khuôn mặt ấy như thế nào ư?
Nhưng Phương có thực sự là tự nguyện đến giúp tôi không? Có một thứ cạm bẫy nào đó trong sự việc Phương giúp tôi chăng? Thôi, cứ cho là Phương thực lòng đi–thà cứ tin tưởng hoàn toàn vào lòng tốt của một người dù người ấy có thể hại mình, còn hơn ôm mối hoài nghi và gán lầm cho người ấy những tính xấu mà mình không biết chắc là họ có–, vậy rồi cuộc đời tôi sẽ ra sao nếu cùng Phương thoát khỏi trại này, trốn xuống vùng biên giới, cải đổi lý lịch, sinh sống như người bình thường? Lúc đó chúng tôi sẽ chia tay mạnh ai nấy sống hay là theo nhu cầu sinh nhai ở đời mà tôi vốn không phải là người dễ dàng thích nghi, chúng tôi phải nương nhau mà sống? Rồi sống thế nào? Tôi và Phương sẽ đóng vai gì với nhau trong cái đời sống bình thường ấy? Như anh em? Như bạn bè? Như tình nhân hay vợ chồng? Nghĩ đến đó, tôi lại thêm một lần nữa, thấy run sợ và cảm nghe trái tim mình như co rút lại. Nhưng chỉ khoảnh khắc sau đó, trong tôi lại nóng lên một thứ lửa không ngọn, như những luồng điện nhỏ, kéo nhau chạy rần rần khắp châu thân. Người tôi bừng bừng. Tai tôi ù. Tôi bất chợt nhớ đến lời cảnh cáo của ông thầy già về dục vọng của tôi. Ừ, cái dục vọng này, không dẹp trừ đi thì dù ở hoàn cảnh nào cũng cứ chiêu cảm, níu kéo, khơi dậy những dục vọng từ kẻ khác. Tôi vùng dậy, xuống giường vươn vai, làm vài động tác thể dục rồi vào nhà xí múc nước rửa mặt.
Khi tôi trở ra, đã thấy Phương đứng nơi cửa sắt tự bao giờ. Phương cười, nói:
“Nãy giờ em qua mấy lần đều thấy anh ngồi tụng kinh hay niệm Phật gì đó, không dám kêu. Anh ngồi như vậy không thấy mỏi hả ? Nè, em nói anh nghe, ở đây cũng giống y như ở trong phòng giam tập thể, với em thì không sao, thấy anh ngồi yên như ông Phật em càng thích, nhưng anh đừng để mấy ông bảo vệ thấy được thì phiền lắm. Hồi nãy em phải giả đò ra đón, nói chuyện với anh bảo vệ để ảnh khỏi nhìn phòng này đó. Cái đèn phòng này sáng lắm, nhìn vào là thấy ngay. Anh muốn ngồi thì treo mùng lên, có thể khó thấy hơn, nghe anh.”
Tôi gật đầu. Phương vén tóc mai, lựa lời một lúc rồi bất chợt hỏi:
“Anh Khang à, hồi ở ngoài anh có quen bạn gái không? Em biết em hỏi không trúng, vì anh tu ở chùa thì dĩ nhiên là không có… nhưng ý em hỏi là có những cô gái nào đó thường đến chùa thăm anh, làm quen với anh không? Chắc có nhiều lắm hả?”
“Cô hỏi làm gì vậy?”
“Thì… hỏi cho biết vậy thôi. Tại vì em nghĩ là những người con gái đó thật may mắn, đến thăm và nói chuyện với anh thoải mái chứ đâu phải như em bây giờ…”
Tôi cười:
“Cũng vậy thôi, khác chi đâu!”
“Khác chứ anh, em bây giờ chỉ được nói chuyện với anh qua mấy cái song sắt này, lại vừa nói vừa sợ có bảo vệ đi ngang… Chỉ hi vọng là một ngày nào đó, anh được tự do, em sẽ có nhiều cơ hội gần gũi anh hơn. Em còn cần phải học nơi anh nhiều thứ nữa đó anh Khang. Nhất là chuyện tu hành, học giáo lý. Má em nói những người biết tu thì ở đâu họ cũng tu và dạy kẻ khác tu được…”
Tôi ngắt lời:
“Tôi đã suy nghĩ kỹ về chuyện mà cô bàn với tôi hồi chiều.”
“Vậy hả? Anh quyết định làm sao?”
“Tôi không trốn trại đâu.”
Phương chưng hửng:
“Sao vậy anh Khang? Hay là… tại anh không tin em?”
“Không phải. Chỉ tại tôi không muốn gây phiền lụy. Tôi thực sự là không muốn để cho bất cứ ai bị dây dưa vào chuyện của tôi. Vả lại, nghĩ đến chuyện phải sống ẩn náu trong hình thức người thế tục ở vùng biên giới… tôi thấy cũng chẳng phải là giải pháp tốt đẹp. Điều mà tôi muốn tìm kiếm không phải là như vậy. Tôi cám ơn cô nhiều lắm, cô Phương, nhưng tôi không thể nào nhận lời đâu.”
Phương im lặng một lúc, cười một nụ cười buồn, vừa mỉa mai thế nào đó, rồi nói:
“Anh hãy khoan nghĩ đến cái gì đằng sau sự tự do, hãy nghĩ đến tự do cái đã. Không phải rằng một khi anh được tự do ở một nơi chốn nào đó thì không có cái gì có thể ép uổng anh được nữa hay sao? Lúc đó, anh muốn quyết định thế nào, đi đâu và làm gì, đều là quyền của anh cả, không phải vậy sao?”
Thấy tôi im lặng không nói gì, Phương tiếp, giọng dịu xuống, tình cảm:
“Thực ra, từ khi nẩy ý giúp anh tự do, em đã có quyết định riêng của em rồi. Nếu có duyên thì còn gặp nhau, không duyên thì đành chia tay thôi. Em đâu có ý bắt buộc anh phải thế này thế kia. Anh có lý tưởng của anh, em biết chứ. Em đâu thể cầm chân anh. Chỉ cần giúp anh được chút gì là em vui rồi. Một điều nữa, cho dù anh không chấp nhận việc trốn đi với em, em vẫn sẽ bỏ ngành, bỏ thành phố Biên Hòa này, cùng má đi về quê làm lại cuộc đời. Thôi, để anh đi nghỉ há. Anh nhớ treo mùng lên nếu muốn ngồi niệm Phật hay tụng kinh gì đó. Như vậy tốt hơn. Còn chuyện kia, anh cứ suy nghĩ lại lần nữa đi. Anh còn nhiều thời gian để quyết định mà.”
Nói rồi Phương buồn bã quay đi. Tôi đứng tại chỗ một lúc, nhìn xa, thấy mấy vì sao chớp nháy trên bầu trời đen kịt.

Ó

Phương không đến gặp tôi trong hai ngày trực kế tiếp của cô. Có lẽ cô muốn cho tôi thời gian yên tĩnh để suy nghĩ và cũng có thể cô không muốn sự có mặt thường xuyên của cô khiến tôi nghĩ rằng cô cần tôi chứ không phải tôi cần cô. Sau hai ngày đó, đến phiên trực của cán bộ Thà. Anh cán bộ y tế này cũng hiền lành, dễ thương đúng như chức năng y tá mà anh đảm nhận. Anh thăm hỏi bệnh tình của tôi luôn khiến đôi lúc tôi thấy lúng túng–vì thực ra trong suốt thời gian ở bệnh xá, tôi chẳng bị bất cứ một căn bệnh hay cơn đau nào hành hạ cả. Rồi chính vì cái mặc cảm là mình giả dối trong việc khai bệnh, cái ước vọng tự do bừng cháy trong tôi những ngày trước bỗng dưng dịu xuống, chìm lắng đi, cơ hồ không còn hấp lực hay dẫn lực nào cho tinh thần tôi nữa. Đến nỗi, tôi muốn được trở về phòng giam tập thể, không muốn nằm lại ở bệnh xá. Buổi tối, nhân lúc Thà đi kiểm soát các phòng, tôi nói với anh điều đó. Thà nói phải chờ Phương quyết định, vì Phương là người đề nghị đưa tôi ra nằm bệnh xá.
Ngay trưa hôm sau, Phương đến gặp tôi, nói nhỏ:
“Nghe anh Thà nói anh muốn trở về phòng giam tập thể, phải vậy không? Có nghĩa là anh đã quyết định… Được rồi, em sẽ đưa anh về. Nhưng anh ráng nán lại đây vài hôm nữa đi, cho đến mấy ngày trực của em để em còn bàn với anh thêm vài chuyện nữa trước khi anh về phòng tập thể và trước khi em rời bỏ Biên Hòa. Vậy nhé.”
Tôi chờ. Đến phiên trực, Phương bước vào, đem cho tôi một giỏ thức ăn nhỏ, cô nói:
“Không phải của em hay của bất cứ cán bộ nào của trại này đâu mà anh từ chối. Đây là thức ăn chay của má em, tự tay bà nấu để… cúng dường anh đó. Má em dặn là phải nói vậy: cúng dường, không phải cho hay biếu. Má em nói là anh sẽ vui lòng nhận, vì tăng sĩ không có lý do để từ chối vật sản cúng dường của thí chủ thành tâm. Anh cất vào trong đi, rồi em nói chuyện.”
Phương nói với tôi với cái vẻ nhí nhành ngây thơ của một người em gái nhỏ. Cử chỉ của cô làm tôi chợt nhớ đến hai cô em gái của tôi, hoặc nhớ một bóng dáng yêu kiều nào đó trong quá khứ. Dường như mọi người nữ trên đời, dù già hay trẻ, xấu hay đẹp, thân hay sơ, đều mang cái vẻ nhõng nhẽo dễ thương như vậy trước phái nam. Đôi khi cái tính ấy đã phả lấp đi tất cả những khuyết điểm của họ. Tôi nói với Phương:
“Tôi cầu chúc hai mẹ con cô tìm được một cuộc sống mới an tịnh, hạnh phúc, luôn luôn gặp điều may mắn.”
Phương bùi ngùi cám ơn tôi một tiếng nhỏ, rồi tiếp:
“Em và má em sẽ bỏ đi thực đó anh Khang. Em có nói với má là anh quyết định không đi. Má nói: đừng ép thầy, chắc thầy có lý do chính đáng của thầy. Nhưng em cứ thấy tức trong lòng là sao anh lại không chịu… Anh Khang ơi, còn việc này nữa em muốn hỏi anh, anh có muốn em giúp anh bất cứ điều gì trước khi em bỏ ngành về quê không? Chẳng hạn về việc truy tìm hồ sơ, liên lạc với ai đó cần thiết, hay nhắn nhủ gì đó với thân nhân bạn bè anh ở ngoài…”
Tôi nói mà lòng không tin tưởng mấy:
“Chắc cũng có, nhưng để tôi suy nghĩ lại xem.”
Phương gật đầu rồi lặng lẽ từ giã.
Sáng sớm ngày mai, Phương xách giỏ đi ngang. Thấy tôi, Phương dừng chân, hỏi;
“Anh cần gì không? Em về nhà, khoảng tám giờ mới trở vào.”
Tôi nói ngay:
“Hôm qua cô có hỏi tôi cần nhắn nhủ gì bên ngoài, bây giờ tôi nói với cô được khong?”
Phương ghé sát vào chỗ cửa sắt, nói:
“Em sẵn sàng, anh nói đi.”
“Hai tháng trước, tôi thường ra khai cung làm việc với một cán bộ trẻ của Bộ nội vụ, tên là Ngô Ngọc Tri, từ Hà Nội vào, cô Phương biết anh ấy mà, phải không? Hồi đó, mỗi lần tôi ra làm việc với anh ấy, cô là người bàn giao mà.”
“Biết, em biết chứ. Cái anh chàng nhà văn đó mà.”
“Cái gì? Nhà văn nào?”
“Thì càn bộ Tri, anh ta là nhà văn, bút hiệu là Hoàng Bình Minh, viết truyện viết báo, có ra sách do nhà xuất bản Công An Nhân Dân in đó mà.”
“Vậy à? Hèn gì…” tôi nói đến đây thì ngưng, thầm nghĩ, “hèn gì các biên bản hỏi cung cũng như kết cung của anh ta thật rõ ràng, minh bạch, văn hoa, khác với tất cả những biên bản của những cán bộ trước đó mà mình đọc.”
“Bộ anh ấy không giới thiệu cho anh biết anh ấy là nhà văn hả? Sao, anh muốn nhắn gì với anh nhà văn à?”
“Tôi muốn gặp mặt anh ấy, có đôi điều muốn nói.”
Phương hơi ngạc nhiên, nhíu mày, nhưng rồi cô cũng nói:
“Chuyện đó dễ thôi, để em tìm cách liên lạc, nhắn anh ấy. Coi nào, chắc là phải điện thoại chứ viết thư hay đánh điện tín thì không rõ ràng mà lại không ổn nữa. Nhưng mà… anh nghĩ là chỉ cần nhắn vài lời như vậy thôi sao, không nói thêm chi tiết nào nữa hả? Biết anh ấy có chịu khó chạy vào đây không vì mấy lời nhắn đơn sơ như vậy? Chuyện không rõ ràng thì làm sao anh ấy tin lời em.”
“Cô cứ nhắn tôi muốn gặp anh ấy gấp, nếu anh ấy hỏi gặng nhiều thì nói tôi muốn phản cung, khai lại tất cả từ đầu. Vậy thôi.”
“Được rồi, em sẽ làm ngay. Anh cho em vài hôm nghe. Em cũng phải tìm xem số điện thoại của anh ta, ở đâu là tiện nhất để nhắn.”
Rồi Phương quày quã quay đi.
Phương hẹn vài hôm, nhưng ngay tối hôm sau, cô đã bước vào chỗ tôi, nói ngay:
“Anh Khang à, không được anh ơi.”
“Không được là sao, không có địa chỉ hay anh ấy không vào được?” tôi hỏi dồn.
“Không phải. Anh ấy bị… cách chức, khai trừ, tước thẻ Đảng, rồi sau đó, hình như còn bị bỏ tù nữa đó. Anh ấy bị giam ở nhà giam nào cũng chẳng ai biết. Có người nói là không chừng anh ấy bị thủ tiêu rồi.”
“Cái gì!” tôi sững sờ đứng lặng bên song cửa, chẳng biết nói gì thêm.
Phương nhìn tôi, ái ngại nói tiếp:
“Nghe đâu anh ấy điều tra hồ sơ cũ, đòi cứu xét lại mấy vụ án nổi danh ngoài đó. Anh ta còn viết truyện, làm thơ chống lại chế độ, tạo một phong trào đòi đổi mới trong giới cán bộ đảng viên trẻ, làm cho trung ương e ngại… Đó là những điều em điều tra được qua mấy con bạn đồng nghiệp đang làm việc ngoài đó. Tụi nó cũng thích anh Tri lắm đó anh. Tiếc là anh ấy chưa làm được gì nhiều. Anh ấy làm việc có vẻ gấp rút, sôi nổi quá; chỉ trong vòng mấy tháng mà làm ùm chuyện lên… thất bại là cái chắc. Anh Khang ơi, anh có sao không vậy?”
“Không sao. Cám ơn cô. Thôi cô lo việc của cô đi há.”
“Có việc gì vào giờ này đâu. Em đứng đây với anh một chút, nghen. Anh Khang nè, anh nghĩ em có thể giúp gì được anh thay cho anh Tri không? Anh nói đi, thực sự anh muốn nhờ anh Tri chuyện gì, biết đâu em cũng giúp được anh.”
“Thôi, phiền lắm. Cô lo phòng thân đi, không khéo lại bị… như anh Tri. Tôi sẽ ân hận cả đời.”
“Anh đừng nói vậy. Không phải tại anh Tri tiếp xúc với anh mà bị nạn đâu. Anh ấy khẳng khái làm những chuyện đụng chạm cấp trên như vậy thì tự dưng phải bị khai trừ, đâu có liên hệ gì đến anh mà anh ray rứt.”
“Với anh Tri thì tôi không liên hệ, nhưng nếu tôi nhờ cô hôm nay thì có liên hệ đấy chứ.”
“Nhưng chuyện anh nhờ không phải là chuyện công khai chống lại nhà nước, em đoán vậy, có đúng không? Nếu vậy thì đâu có sao, đâu đến nỗi nguy hiểm dữ vậy. Anh nói đi, em sẽ làm cho.”
Tôi đắn đo một lúc rồi nói:
“Đây là chuyện tôi muốn nhờ anh Tri, tôi kể lại cô nghe, nếu cô thấy có thể làm được thì làm giúp, còn không thì bỏ qua, há. Chuyện như vầy, trước đây tôi có người bạn khá thân. Tôi không biết anh ấy làm đặc tình cho công an Sài Gòn nên có nhiều điều tôi chẳng che giấu gì anh ấy cả. Cuối cùng, anh ấy gài bẫy cho công an Sài Gòn bắt tôi. Tôi vụng dại thì tôi chịu, không hối hận. Nhưng khổ nỗi, không phải chỉ bắt được tôi là xong, anh ấy còn tiến xa hơn, tiếp tục dẫn đường cho công an Sài Gòn đi lùng bắt những người bạn khác của tôi. Tôi sợ một lúc nào đó, vì hết chuyện để báo cáo, hết chuyện để lập công, có thể anh ấy bịa đặt ra chuyện này chuyện nọ để gán ép tội vạ cho các vị cao tăng trong Phật giáo… Mà anh ấy càng làm vậy, tôi càng ray rứt đau khổ như chính tôi đã làm hại cho đồng đạo của tôi vậy, bởi vì anh ta đã từng là bạn của tôi. Hờ, càng lúc anh ấy càng lộng hành, không để cho các chùa được yên, nên tôi thực là không chịu đựng nổi. Tôi muốn anh ấy chấm dứt ngay chuyện này.”
“Vậy có nghĩa là anh muốn ngăn cản cái anh bạn kia bằng cách…”
“Tôi chẳng biết phải bằng cách nào. Tôi chỉ muốn gặp Tri, hỏi ý anh ấy xem có thể làm gì được. Cô nghĩ nếu anh Tri biết việc này, sẽ đối phó làm sao?”
Phương cười:
“Bắt nhốt hắn ta chứ đối phó làm sao nữa.”
Tôi lắc đầu:
“Không có lý do gì để bắt nhốt. Anh ta làm tình báo đặc biệt cho công an Sài Gòn, có làm gì đâu mà bắt nhốt!”
“Nhưng hắn là thứ điệp đôi nguy hiểm, vừa làm đặc tình cho công an Sài Gòn vừa tham gia Phục quốc, vừa kết nghĩa lập Hội Lạc Long với anh. Nếu muốn có lý do thì chừng đó đã đủ rồi.”
Tôi giật mình đánh thót một cái, hỏi:
“Cô cũng biết việc đó nữa à?”
“Biết chứ sao không, anh Khang. Em có nói với anh là em đã nghiên cứu, đọc kỹ hồ sơ vụ án của anh rồi mà. Em đọc mà em tức anh dễ sợ! Người ta hại anh mà anh không biết, vào tù rồi vẫn khăng khăng chẳng chịu khai hắn ra. Anh bảo vệ ai thì được chứ sao lại bảo vệ hắn để hắn tiếp tục hại hết người này đến người kia. Hắn tên là Hân chứ gì, phải không? Anh tưởng anh không khai thì chẳng ai biết hết sao, anh lầm rồi, có vài bản khai cung khác sau anh, đã khai toạc tên Hân ra. Nhưng cái vụ của Hân cũng rắc rối lắm, công an Đồng Nai muốn bắt mà không bắt được vì Hân được công an thành phố Hồ Chí Minh bảo vệ, với lại cũng chẳng biết Hân ở đâu mà bắt.”
“Tôi biết chỗ của Hân trước đây, nhưng không nhớ địa chỉ, và có lẽ sau chuyện dàn cảnh bắt tôi, Hân đã được công an Sài Gòn thưởng công, cho hộ khẩu hay chỗ ở khác rồi. Tôi nghĩ là chuyện bắt Hân không phải dễ đâu, vì Hân làm việc cho công an Sài Gòn, Nhưng tôi không bao giờ mong muốn cho Hân bị bắt; tôi chỉ muốn nhờ một người nào đó gặp Hân. Mà bây giờ muốn gặp Hân, chỉ có cách là chờ đợi ở cổng ra vào của Sở công an Sài Gòn, hoặc vào Sở mà hỏi thăm, may ra có thể gặp. Chuyện này không thể nhờ vả bất cứ thường dân nào làm được, nên tôi mới có ý nhờ Tri đến nhắn lời riêng với Hân…”
“Vậy anh chỉ muốn nhắn lời thôi chứ không phải nhờ anh Tri bắt giam Hân?”
“Phải, không cần bắt giam, chỉ cần nói với anh ấy những gì tôi muốn nhắn.”
“Nhắn làm sao? Anh Khang à, bây giờ không có anh Tri, em làm chuyện nhắn Hân giúp anh há, chịu không?”
Tôi dụ dự một lúc rồi quyết định:
“Thực ra cũng đâu cần nhắn gì nhiều. Chỉ cần nói với Hân là tôi đã biết tất cả sự vụ, nhất là chuyện tôi bị bắt, là do Hân mà ra. Anh ấy tưởng tôi không biết nên còn làm tới. Nay tôi cho anh ấy biết là tôi đã biết rõ rồi thì tự dưng anh ấy xấu hổ, phải ngưng việc với công an Sài Gòn thôi.”
Phương cười tủm tỉm nói:
“Đơn giản vậy thôi à?”
“Ừ, chỉ vậy thôi. Nói rõ cho Hân biết rằng chuyện tôi bị bắt ngoài đường cũng do một tay Hân dàn cảnh. Tôi không oán hận Hân, nhưng tôi chỉ yêu cầu Hân từ bỏ ngay cái nghề đặc tình thất đức kia đi.”
Phương ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
“Sao em thấy nghi ngờ là lời nhắn của anh chẳng kết quả gì lắm.”
Tôi tự tin nói:
“Tôi có thể lầm không hiểu thấu sự gian đối của bạn bè chứ không lầm về những tình cảm hướng thiện của họ đâu. Gian ác đến đâu cũng còn có trái tim cô Phương ạ. Tôi luôn tin tưởng như vậy. Lúc còn ở ngoài, tôi không biết là Hân sẽ sợ cái gì hơn vũ lực. Bây giờ thì tôi biết, anh ta sợ sự khinh bỏ của tôi… bởi vì tôi là kẻ cuối cùng trong số những bạn bè của Hân, người cuối cùng mà Hân nghĩ là còn tin tưởng Hân.”
“Hy vọng anh nghĩ đúng. Vậy, nếu anh giao em làm chuyện đó, bắt đầu ngày mai trở đi, tức là nội trong tuần này, em sẽ tìm cách đi Sài Gòn.”
“Cô đâu biết mặt Hân ra sao mà nhắn, ngộ nhỡ nhắn lầm người thì sao?”
“Đừng lo anh Khang, em có hai nhỏ bạn cùng khóa làm việc ở Sở Công an thành phố Hồ Chí Minh mà. Mọi chuyện sẽ từ đó mà tiến.”
“Nhưng… nhớ là chỉ nhắn lời, đừng làm chuyện gì thất đức đó nghe, dù là đối với Hân.”
Phương cười:
“Biết rồi anh à, có muốn làm chuyện thất đức cũng không được đâu à. Em đây là cán bộ tỉnh Đồng Nai ghé chơi Sở công an thành phố Hồ Chí Minh, lấy tư cách gì mà bắt Hân! Anh yên tâm đi…” rồi cô nói nhỏ giọng xuống. “Thật thà ơi là thật thà, người ta hại mình đến vậy mà còn lo sợ người ta bị bắt!”

Phương đi rồi, tôi đứng lại ở cửa sắt nhìn sao trời lấp lánh xa xa. Tôi biết tôi không còn thật thà nữa. Nghĩ ra được cái chuyện nhắn lời để ngăn chặn Hân thì tâm ý tôi đã không còn đơn giản, ngây thơ như xưa. Tôi không muốn Hân bị nạn như tôi chẳng qua vì tôi vốn không có tâm địa trả thù, không có tâm địa làm tổn hại ai. Hân bội phản bạn bè, bán đứng sinh mệnh của các vị cao tăng trong Giáo hội thì đó là cái nghiệp nhân do chính anh tự gieo và sẽ tự gặt lấy cái nghiệp quả tương ứng vào một thời gian nào đó. Tôi không cần phải làm bất cứ điều gì đối với Hân ngoại trừ một lời nhắn nhủ để cảnh tỉnh anh dừng lại.


CHƯƠNG MƯỜI BA
Nàng nhấp nhóm ngồi không yên. Một tay đưa lên đặt nơi ngực, nói:
“Ghê quá! Sao em vẫn chưa thấy có gì đáng tin nơi cô cán bộ kia cả. Vậy mà anh vẫn tin được, thiệt lạ!”
“Phải đối diện, nói chuyện, mới cảm là tin được hay không. Anh thấy cô ta không đến nỗi hại anh đâu.”
“Dù gì thì đề phòng tối đa vẫn hơn chứ, phải không?”
“Ừ, thì đề phòng, nhưng… đã ở trong cửa tử rồi thì còn đề phòng hiểm nạn gì nữa đây. Chỉ còn một cách là loay hoay tìm đường thoát thôi.”
“Nhưng chuyện nhắn lời với Hân, em không sợ là nguy hiểm gì cho cô cán bộ mà chỉ sợ nguy hiểm cho anh thôi… Vậy rồi chuyện anh nhờ cô ta, tiến hành thế nào?”

Ó 

Buổi tối vào mùng, tôi chợt nhớ đến Tri. Lòng quặn đau tưởng chừng vừa bị mất đi một người thân. Tuổi trẻ chúng tôi ở đâu cũng vậy, vật vờ lạng quạng ở những đáy sâu vực thẳm u tối của quê hương, những mong tìm thấy tương lai và ánh sáng, nhưng chỉ nghe được tiếng vọng của những cơn gào thét bi thảm về nỗi khát khao tự do lan đi lòng vòng trên những vách đá cheo leo, và chỉ thấy được mây hoàng hôn suốt ngày mù mịt phủ xuống, nặng nề, choáng ngộp…
Hôm sau lại đến phiên trực của Thà. Thà trực ba hôm rồi, tưởng đâu tôi sẽ gặp Phương, không ngờ lại gặp Thà nữa. Vậy là Phương đã nhờ Thà trực thay. Có lẽ cô đã xin nghỉ phép để đi Sài Gòn, tôi nghĩ vậy.
Phương vắng mặt được bốn ngày rồi thì đến ngày thăm nuôi giữa tháng 12. Tôi ở bệnh xá, tưởng đâu sẽ được gặp mặt gia đình, không ngờ chỉ nhận được giỏ quà. Điều này còn khiến tôi băn khoăn lo lắng hơn. Tôi lại tự hỏi, có khi nào tôi và cả Phương nữa, đang bị lậm sâu vào một thứ cạm bẫy của công an, và bây giờ người ta đang theo dõi Phương, nghi ngờ tôi, đang cắt đứt mọi liên lạc của tôi với bên ngoài?
Hai ngày sau ngày thăm nuôi, Phương mới trở lại. Vị chi Phương đã đi Sài Gòn khoảng một tuần lễ. Lúc đó mặt trời đang đứng bóng và kẻng báo ngủ buổi trưa vừa điểm một hồi. Tôi nghe tiếng Phương nói chuyện với Thà ở văn phòng trực của bệnh xá. Tiếng nói cười của hai người im bặt khi tiếng kẻng gióng lên. Tôi đứng ở cửa sắt nhìn ra khoảng sân cháy nắng. Một chốc, Phương bước ngang qua hành lang, chỉ liếc nhìn tôi, đầu hơi gật một cái, miệng mỉm cười, mặt tỉnh queo. Nhờ cái mặt tỉnh queo đó, tôi mới thấy yên tâm là không có gì trục trặc. Phương không ghé vào nói chuyện với tôi mà đi thẳng, đến chiều tối Phương mới trở lại để nhận phiên trực. Sau khi đi một vòng đủ các phòng để phát thuốc uống cho các bệnh nhân điều trị tại bệnh xá (như thường lệ của mỗi cán bộ y tế), Phương đến gặp tôi, lôi trong giỏ xách ra một lọ thuốc trị bao tử (làm bằng bột nghệ nhào với mật ong), vừa đưa tôi, Phương nói ngay:
“Thuốc này anh cất dùng, mỗi ngày 2 viên như họ dặn, cứ uống lúc bình thường, không cần chờ đến lúc đau. Ừm, anh Khang à, em chậm hơn anh Tri một bước rồi.”
“Nghĩa là sao?”
“Cái vụ của Hân, mặc dù anh không khai ra nhưng những người trong nhóm anh và lực lượng Phục quốc đã khai. Anh Tri căn cứ vào các lời khai đó, vào Sài Gòn bắt Hân. Bắt từ hai tháng trước rồi. Hân hiện bị giam ở T20. Có lẽ Tri thấy anh không đá động gì đến Hân trong các bản tự khai và những lúc khai cung nên âm thầm bắt Hân mà không cho anh biết.”
“Vậy sao? Hân cũng bị bắt sao!”
“Chứ anh không mừng à? Cái thằng cha quỷ sứ hại anh như vậy mà tội nghiệp cho hắn làm gì!”
“Anh ấy… cuộc đời anh ấy cũng thảm lắm!”
“Xì, anh Khang à, anh đừng có nhẹ dạ như vậy được không. Bây giờ Hân bị giam ở trại T20 thì có nhằm nhò gì đâu! Trại đó trực thuộc công an Sở thành phố Hồ Chí Minh, vậy thì cũng giống như nhà của hắn thôi, lo cho hắn làm gì chứ. Em nói thiệt với anh, đối với cái hạng phản phúc bội bạc đó, em chẳng muốn nương tay chút nào, Nè, nghe nói vụ Hân cũng phức tạp lắm chứ không phải dễ đâu. Khi anh Tri đi Sài Gòn điều tra vụ Hân, công an thành phố Hồ Chí Minh cố tình che giấu, bao che Hân, bảo là không biết người nào như vậy cả. Anh Tri mới âm thầm làm công việc đi bắt Hân rồi giao cho công an thành phố Hồ Chí Minh giam đó. Tri phục bắt Hân ngoài đường, trên đường từ Sở công an thành phố Hồ Chí Minh về Bình Thạnh. Có một điều hơi lạ là không biết sao anh Tri lại không giao Hân cho công an tỉnh Đồng Nai xử lý–vì xét cho cùng thì Hân đâu có phạm tội gì ở thành phố Hồ Chí Minh đâu, ngược lại chính Hân đã cộng tác với công an thành phố Hồ Chí Minh và vẫn còn là con tốt lợi dụng được của cơ quan này trong việc đi lùng xét các chùa kia mà; nếu có phạm tội chăng thì Hân phạm tội ở Đồng Nai vì có liên hệ với Phục quốc. Mà Tri giao Hân cho thành phố Hồ Chí Minh thì chẳng khác gì nhờ mẹ coi sóc giùm con. Nếu không dẫn độ Hân về Đồng Nai mà cứ giữ mãi ở thành phố Hồ Chí Minh thì chẳng hiểu người ta sẽ lấy cái tội gì để kết cho Hân đây. Cuối cùng rồi, công an thành phố Hồ Chí Minh, nhân một dịp nào đó, cũng sẽ thả Hân ra để tiếp tục làm việc cho họ thôi. Nhất là trong thời gian này, anh Tri bị bắt ngoài Hà Nội vì tội chống lại đảng, thì công an thành phố Hồ Chí Minh có quyền thả Hân, phải vậy không? Cho nên, em đang tìm cách làm thế nào để công an Đồng Nai biết rằng Hân đã bị bắt giam tại T20 và lập hồ sơ yêu cầu dẫn độ Hân về đây trước khi công an thành phố Hồ Chí Minh thả hắn ra lại. Chuyện này không đơn giản bằng cách em nói toạc ra là em biết Hân bị bắt. Chắc anh Khang hiểu mà, phải không? Cho nên em có nhờ một đứa đàn em của em đang làm việc ở Sở công an thành phố Hồ Chí Minh lo liệu giùm chuyện đó. Hiện giờ thì nó chưa nghĩ ra kế gì. À, nó cũng nói với em, cái chuyện anh Tri làm, chính nó cũng thấy lạ nữa đó. Tại sao anh Tri quyết tâm bắt cho được Hân? Tại sao bắt được lại không giao cho tỉnh Đồng Nai lại giao cho thành phố Hồ Chí Minh?”
“Giao chỗ nào thì cũng là công an, cũng thuộc Bộ nội vụ thôi.”
“Đúng, nhưng khác đó anh Khang à. Thì như hồi nãy em nói đó: Hân vừa là đặc tình của công an thành phố Hồ Chí Minh vừa là can phạm của công an tỉnh Đồng Nai. Đặc tình thực ra chẳng là cái gì cả, công an muốn bắt lúc nào mà chẳng được. Nhưng công an thành phố Hồ Chí Minh lấy lý do gì để bắt Hân khi đang sử dụng Hân làm đặc tình! Chỉ có công an Đồng Nai mới bắt, mới kết tội Hân được thôi. Hân có thể nói với công an thành phố Hồ Chí Minh là hắn tham gia Phục quốc tức đang làm công tác tình báo cho Sở công an thành phố Hồ Chí Minh, chứ không thể nói với công an Đồng Nai điều đó được. Chuyện Hân làm đặc tình cho công an thành phố Hồ Chí Minh chẳng có giá trị gì với công an Đồng Nai cả, vì công an thành phố Hồ Chí Minh có cấp giấy tờ gì xác nhận Hân là nhân viên của Sở công an đâu. Đặc tình đâu phải là nhân viên. Đặc tình chỉ là thường dân thôi, mà thường thường lại là thứ thường dân bị án treo hoặc thành phần bất hảo, thành phần có vấn đề với chế độ, chưa phục hồi quyền công dân. Trở lại cái khúc mắc về việc giam Hân ở T20, em đoán mập mờ là anh Tri chỉ đưa lý do nào đó để buộc công an thành phố Hồ Chí Minh phải giam Hân nếu không thì anh sẽ lập hồ sơ chuyển giao Hân về Đồng Nai; công an thành phố Hồ Chí Minh đồng ý và đã giam Hân ở T20 như là một cách xử lý nội bộ của Sở công an thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng tại sao anh Tri làm vậy? Có thể anh Tri chỉ muốn bắt giam Hân để chận đứng việc làm của Hân theo ý anh Khang mà thôi.”
“Tôi không bao giờ nói với Tri cái ý gì như vậy cả.”
“Nhưng qua bao nhiêu lần khai cung, bao nhiêu bản tự khai, của anh Khang và của những người khác cùng vụ với anh Khang, hẳn anh Tri phải đoán ra rằng anh Khang vừa muốn che giấu bảo vệ những người đồng phạm, kể cả Hân, mà cũng vừa lo lắng về chuyện Hân tiếp tục chỉ điểm báo cáo, phải vậy không? Anh Tri thừa biết anh Khang và Hân thân nhau, cùng làm việc với nhau, dù trước đây anh Khang không biết Hân là đặc tình cho công an thì khi bị bắt rồi, anh Khang cũng phải biết chứ. Biết thì phải lo. Anh Tri giúp anh dẹp mối lo đó. Chặn đứng việc làm của Hân cũng là cách mà anh Tri muốn đóng góp, muốn ủng hộ cho những người cùng chí hướng với anh Khang đang còn ở ngoài đó mà, Em chỉ đoán như vậy thôi, vì thấy có những khúc mắc khó hiểu trong vụ này. Anh Khang với anh Tri chắc là tâm đầu hơp ý với nhau lắm hả. Gặp anh Khang rồi, anh Tri ra Bắc tự dưng xoay chiều, chống lại đảng, viết báo đòi cải tổ này nọ… À, anh Khang có biết không, thực ra không phải anh Tri là người mở đầu duy nhất đâu nghen! Cái xu hướng cởi trói, đổi mới, hình như manh nha ở Liên xô, rồi đang dần dần lan ra khắp nước mình, mà hình như là bắt nguồn từ thành phần cán bộ miền Nam đó. Em nghe phong thanh là sẽ có một lực lượng ly khai ở miền Nam, cầm đầu là những người cựu kháng chiến. Ô, em nói chuyện lung tung quá hả. Trở lại chuyện Hân, theo ý em, dù thế nào thì cũng nên bắt giam Hân, anh Khang ạ. Đó là cách tốt nhất để ngăn hắn ta làm điều thất đức đối với các chùa và các bạn của anh, anh đồng ý không? Hân phải vào tù, còn anh thì phải được tự do. Cái lý đúng nhất là phải như vậy chứ không thể ngược lại. Em nói anh Tri bắt Hân theo ý anh Khang là vậy đó.”
Thấy tôi chỉ ngồi thừ ra chứ không nói hay biểu lộ điều gì rõ rệt, Phương có vẻ ái ngại, suy nghĩ gì đó, một lúc, cô tiếp:
“Thôi, chuyện của Hân, coi như tạm xong rồi há. Nhưng trên thực tế, chuyện đó chẳng phải do em làm. Vậy anh Khang còn muốn em làm chuyện gì khác nữa không? Em muốn làm một cái gì đó cho anh trước khi em giải nghệ.”
Tôi xua tay, nói:
“Cảm ơn cô Phương. Thôi, như vậy đủ rồi. Tôi không cần gì nữa. Tôi thực sự là cám ơn cô cho biết tin tức về Tri và Hân. Ngày mai cô cho tôi về lại phòng tập thể đi. Còn nữa, chúc cô và má cô mọi sự hanh thông như ý nguyện.”
Phương ngần ngừ một lúc rồi dợm chân bước đi, nhưng ra đến bậc cửa, cô quay trở lại, nói:
“Anh cho em một lời khuyên hay một câu kinh Phật gì đó để làm kỷ niệm, được không?”
Tôi cười:
“Một lời khuyên thì không dám, nhưng một đoạn kinh Phật thì có. Cô nghe để thực hành, phải vậy không? Chứ giữ làm kỷ niệm thì chẳng ích gì đâu.”
“Dạ, để thực hành, ý em muốn nói vậy.”
“Ừm, đây là bốn câu ngắn gọn tóm tắt giáo lý nền tảng của Phật, cô lấy giấy bút đi chứ không lại quên mất. Như vầy: Đừng làm các điều ác, Hãy làm các việc thiện, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy. Cứ theo đó mà thực hành thì chắc chắn đem lại được hạnh phúc cho bản thân mình và xã hội.”
“Làm sao em biết được việc nào ác để tránh, việc nào thiện để làm?”
“Việc ác thì gây tổn hại đến mình và kẻ khác, việc thiện thì đem ích lợi đến mình và kẻ khác, trong hiện tại và trong tương lai. Đó cũng là lời giải thích trong kinh điển, tôi chỉ nhớ mà nói lại thôi.”
“Giữ tâm ý trong sạch là giữ làm sao, hở anh Khang?”
“Đại khái là đừng nghĩ việc ác, đừng để những thứ như tham lam, sân hận, si mê làm hoen ố tâm tư và ý nghĩ của mình.”
“Cám ơn anh Khang. Thôi, anh đi nghỉ há. Khoảng trưa mai em sẽ đưa anh về phòng tập thể.”
Tôi gật đầu. Phương nhìn tôi một lúc, có vẻ như muốn nói gì nữa, nhưng rồi cô im lặng, bước ra.
Vào mùng, tôi lại nhớ đến Tri rồi lại nghĩ đến Hân. Một người không phải là bạn mà cuối cùng lại trở thành bạn. Còn người kia là bạn mà cuối cùng hại mình, hại cả những bạn bè khác của mình, chà đạp lên tình bạn, coi tình bạn chẳng ra gì nữa. Tình người sao mà rắc rối, khó hiểu quá! Bây giờ, cả hai người–không, kể cả tôi nữa thì phải là ba–cả ba người đều ở tù. Mỗi người mỗi phương trời tù tội. Chống lại cái ác hay xu nịnh cái ác, cũng vào tù cả. Nhưng kẻ chống lại cái ác để rồi bị vào tù thì chẳng có gì phải ân hận. Chỉ có những người xu nịnh cái ác mà rồi cuối cùng cũng bị bắt giam mới là kẻ thực sự đau khổ. Tôi ngồi xếp bằng, cầu nguyện cho tất cả những người tù trên cuộc đời sớm được tự do, và nếu ngày nào còn ở tù thì cũng tự tìm được niềm bình an, hạnh phúc nào đó cho tâm hồn.

Ó 

Nửa khuya tôi bỗng giật mình thức giấc, và ngay khi đó, tự dưng một mối nghi ngờ lại hiện ra chập chờn trong đầu óc tôi. Tôi ngồi vùng dậy, ôm trán suy nghĩ. Phải vậy không? Phải vậy không? Có phải Phương đã hại Tri và Hân không? Tại sao mình nhờ Phương liên lạc với ai thì ngay sau đó Phương cho biết tin là người đó ở tù. Phải chăng ai có liên hệ với mình đều bị tình nghi, bị bắt vào tù hết? – Chắc không phải vậy đâu. Với tư cách là công an tỉnh Đồng Nai, Phương có thể lén bắt được Hân trên một đường phố ở Sài Gòn, hoặc bằng cách nào đó, gài bẫy bắt Hân trên địa phận tỉnh Đồng Nai, chứ không làm gì có bản lãnh và thẩm quyền để bắt Tri là một cán bộ Bộ nội vụ đang làm việc ở tận Hà Nội! Chỉ trừ khi Phương là một thứ tình báo đặc biệt hạng nặng nào đó của trung ương Đảng… Nhưng xét lại cách Phương nói chuyện, tâm sự đời tư, khóc, điệu bộ làm dáng và ánh mắt đưa tình… đều có vẻ thật khó mà giả được. Dù suy ra như vậy, mối nghi trong tôi vẫn không sao tẩy xóa hết được. Xã hội man trá lừa đảo đã dạy cho tôi nỗi hoài nghi nhỏ mọn này làm vũ khí tự vệ. Có điều, tôi vẫn còn là một học sinh ở mức tồi tệ: chỉ biết áp dụng bài học nghi kỵ của mình một cách muộn màng, khi mà mọi sự đã đâu vào đấy!
Ngồi một lúc khá lâu trên giường, bỗng thấy đèn phòng tắt. Đèn trong các phòng giam cũng như các phòng của bệnh xá đều được thắp lên từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng kế tiếp. Nhưng bây giờ, trời bên ngoài còn tối mịt mà tự dưng điện lại tắt. Phân vân một lúc ngắn, tôi bỗng có linh tính gì đó, liền vùng dậy, mò mẫm vén mùng rời khỏi giường, không mang dép, bước nhẹ đến chỗ cuối cái giường trống đối diện–giường nằm trước đây của ông thầy già–, khoảng gần nhà xí, đứng nép sát vào tường, giương mắt cố nhìn ra phía ngoài.
Ánh sáng mờ nhạt của những ngôi sao lác đác trên khoảnh trời nhỏ phía trước chỉ vừa đủ làm một cái nền lòa nhòa phản hiện mấy cái chấn song của cửa sắt. Không khí bên ngoài yên tĩnh và có vẻ lạnh theo màn đêm dày đặc. Đâu chừng một phút sau thì mắt tôi bắt đầu quen với bóng tối, và tôi nhìn thấy một bóng đen đang lò dò bước vào cửa phòng, đến bên khung cửa sắt. Tim tôi đập mạnh. Mắt tôi như hoa lên một lúc giữa bóng đêm và bóng đen. Tôi cố nhìn xem ở phía cửa là một người hay một tốp người đang tiến vào. Ai làm gì đây mà bước đến phòng tôi giờ này khi điện đèn tắt hết? Phải chăng người ta muốn thủ tiêu tôi? Tôi rùng mình, chưa biết nên đứng im hay bước ra chặn đón, chưa biết nên im lặng hay nên lên tiếng. Bỗng nghe tiếng chìa khóa tra thật nhẹ vào ổ, và sau đó là tiếch lách cách se sẽ, rồi tiếng của cánh cửa sắt kéo ra chầm chậm. Một bóng đen có lẽ đang đi chân không, rón rén bước về phía chỗ nằm của tôi. Hình như người ấy vừa vén mùng vừa kêu lên nho nhỏ một tiếng gì đó. Tôi đứng im, không nhúc nhích, chờ xem động tịnh. Bỗng nghe tiếng người kia nói trong hơi gió:
“Anh Khang, anh ở đâu vậy? Anh Khang, em là Phương đây.”
Tôi thờ phào một cái, hơi yên tâm, nhưng cũng chưa hẳn là hết nghi ngại, nên không trả lời, cứ việc đứng im tại chỗ, không lên tiếng. Lại nghe tiếng Phương:
“Anh Khang, em muốn gặp anh một chút. Em, Phương đây.”
Bấy giờ tôi mới lên tiếng:
“Sao cô vào đây giờ này, lại tắt điện tối thui như vậy?”
“Anh Khang, anh ở trong đó hả? Ô, xin lỗi anh, vậy em ra há.”
“Cô chưa trả lời tôi. Tại sao cô vào đây giờ này, lại tắt điện?”
“Ủa, anh đang ở ngoài này hả? Em tưởng anh trong nhà vệ sinh. Anh Khang, suốt đêm qua em không ngủ được… tại em nghĩ trưa mai anh trở về phòng giam tập thể em sẽ không có dịp gặp nói chuyện với anh như nửa tháng qua… nên em qua đây thăm anh một chút để từ giã…”
“Nhưng cô đâu cần phải tắt điện, cũng đâu cần phải bước vào đây.”
“Em biết, em không nên làm vậy. Nhưng… em đâu có gọi anh được vào giấc này, nên đành phải tự động bước vào. Anh Khang, anh bước ra đây đi. Em muốn đứng gần anh, nói với anh một chút chuyện, được không?”
“Đừng, cô Phương ạ. Cô có chuyện gì muốn nói thì cứ bước ra ngoài, bật đèn lên, kẻo cán bộ bảo vệ đi ngang thấy được là phiền lắm đó!”
“Họ mới đi ngang khi nãy, giờ này gần sáng rồi, họ không trở lại nữa đâu. Mà họ có thấy cũng đâu có sao! Anh la đau thì em cũng có quyền chạy vào đây để thăm bệnh anh mà! Được rồi, em sẽ đi ra đây. Nhưng anh, anh cũng bước ra đây với em một chút đi.”
Nghe cái giọng năn nỉ tội nghiệp của Phương, tôi cũng hơi xiêu xiêu muốn bước ra; phần khác, tôi cũng không muốn dây dưa nói qua nói lại, khiến Phương cứ đứng lâu trong phòng này, càng nguy hiểm hơn. Tôi bước ra, vừa tránh Phương vừa tiến về phía cửa sắt. Phương bước theo sau tôi. Đến cửa sắt tôi dừng, rồi quay lại, hỏi:
“Sao, cô có việc gì muốn nói vậy?”
Phương đứng im một lúc rồi bước một bước gần về phía tôi hơn. Tôi lùi nửa bước, lưng chạm vào khung cửa sắt:
“Anh Khang ơi, anh đừng sợ em như vậy. Em… em chỉ muốn được đứng bên anh, đứng gần anh một chút rồi mai mình chia tay.”
Tôi đứng im, không nhúc nhích, không nói. Bất chợt Phương ngả vào tôi, choàng hai tay ôm lấy vai cổ tôi, rồi tựa đầu mặt nàng nơi ngực tôi, im lặng. Tôi lúc ấy như một pho tượng, hai tay níu lấy hai song sắt phía sau. Dù mở mắt tôi vẫn không thấy được gì ngoài cảm giác như có một tấm lụa mịn láng hay một khối bông mềm, quấn lấy mình. Tôi không thấy được khuôn mặt của Phương. Tôi cũng không nhớ gì đến nét mặt của nàng. Nàng, trước sau vẫn là một cô gái không có đặc điểm. Không có gì đáng để nhớ trên khuôn mặt ấy ngoài cặp kiếng cận. Bây giờ nàng ôm lấy tôi, tựa vào tôi, mà tôi vẫn không hình dung được vẻ mặt của nàng. Nàng không có mặt mũi. Chỉ thấy một khối lụa mềm, nóng, áp sát vào người mình. Tôi run lên bần bật.
Một lúc thì Phương buông tôi ra, nói lí nhí một thứ giọng yếu đuối quen thuộc của một người nữ mới biết yêu và muốn được bày tỏ sự phục tòng:
“Anh còn muốn em làm điều gì nữa không? Em sẵn sàng làm tất cả cho anh, vì anh.”
“Cám ơn cô… tôi không cần gì hết.”
“Ngay cả bây giờ, nếu anh quyết định trốn ra ngoài, em cũng có thể giúp anh được nữa. Em có mang sẵn một bộ đồ công an cho anh để anh cải trang. Anh muốn đi thì chút nữa mình đi, như trước đây em có bàn đó.”
“Không, đã nói rồi, tôi không đi đâu. Cám ơn cô… bây giờ cô ra ngoài kẻo có chuyện phiền.”
“Anh thực sự không muốn đi thì thôi, em đành chia tay anh vậy. Khang ơi, em biết anh không tin em, hoặc là anh sợ em sẽ ràng buộc anh… Anh không hiểu em gì hết. Nhưng em không trách anh đâu. Ở xã hội đầy gian dối này, anh cần có thêm một chút nghi kỵ, cố thủ, vậy vẫn tốt hơn là nhẹ dạ dễ tin như anh xưa nay. Khang ơi, em tiếc cho anh quá… Mai sau, nếu có dịp nào, hy vọng gặp nhau ở Long Xuyên hay Châu Đốc, anh há. À này. Anh đừng gọi em bằng cô nữa, được không? Gọi em bằng tên đi.”
Tôi không nói. Phương đứng im một lúc rồi bước ra, đóng cửa, khóa lại. Chúng tôi lại đứng im lặng người trong người ngoài như thế khá lâu. Trời bây giờ đã sáng lên nhờ nhờ. Tôi và Phương đã có thể nhìn thấy bóng dáng nhau rõ ràng hơn một chút. Phương đứng phía ngoài, dụ dự không muốn đi, lại nói:
“Khoảng một tuần hay trễ nhất là nửa tháng, em sẽ từ bỏ nơi này, không gặp lại anh được nữa. Anh có điều gì muốn dặn em không? Anh có muốn nhắn gì với gia đình anh không?”
“Không… à, tại sao đợt thăm nuôi vừa rồi tôi không được gặp mặt gia đình?”
“Vậy sao! A, phải rồi, vì lúc ấy lấy phép đi Sài Gòn, em vội quá nên quên dặn bạn trực thăm nuôi là cho anh được ra gặp mặt gia đình. Chuyện này lỗi em. Vì khi bàn giao anh cho bệnh xá, quản giáo trong kia tạm thời không chịu trách nhiệm quản lý anh. Như vậy anh được gặp mặt gia đình hay không là do em đăng ký với mấy cán bộ trực thăm nuôi trong tháng. Chắc anh cũng biết, mấy ông ngoài đó cũng lười lắm, mấy trường hợp đặc biệt của bệnh xá mà không đăng ký rõ ràng thì mấy ổng cho qua luôn, chẳng chịu khó sắp xếp cho người vào gọi tên. Thôi anh ráng đi, kỳ sau anh ở trong phòng tập thể, không có gì trục trặc đâu. Anh muốn dặn em làm gì nữa không?”
Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói:
“Ông thầy già hôm trước dưỡng bệnh ở đây, cô cho ông ấy trở lại phòng này, được không? Vì tôi thấy ông ấy có vẻ như muốn được yên tĩnh ngoài bệnh xá chứ không muốn bị đưa trở về phòng giam tập thể.”
“Anh thích ông thầy già đó lắm hả? Được, anh yên tâm, anh thích, anh quan tâm đến ổng thì em cũng sẽ lo cho ổng hết mình. Để em đưa ổng ra bệnh xá lại, ngay ngày hôm nay. Anh chỉ muốn vậy thôi hả, còn gì nữa không?”
“Ừm… tôi mới được thăm nuôi mấy ngày trước, muốn chia sớt cho ông ấy một ít quà, cô chuyển lại giùm nghe, cám ơn cô nhiều lắm. Tôi sẽ để sẵn một giỏ đồ cho ông ấy, để ở phía bên giường của ổng. Vậy há. Thôi, chúc cô lên đường may mắn nghe.”
“Anh đừng gọi em bằng cô nữa, được không?”
Tôi cười, nói lại:
“Chúc Phương thượng lộ bình an, tìm được đời sống mới thích hợp”
“Cám ơn anh. Còn anh, nhớ giữ gìn sức khỏe nghe, đừng để bệnh hoạn nhiều sẽ kiệt sức, không chống nổi cuộc sống tù đâu. À, em muốn dặn anh điều này… Ở đời đôi khi anh cũng cần phải mềm dẻo một chút, đừng có lúc nào cũng cứng rắn, khăng khăng giữ ý kiến của mình, như vậy chỉ thiệt hại vào thân. Chẳng hạn như khi người ta đưa anh ra tòa xử, vặn hỏi điều này điều nọ, hoặc kết án anh nặng, anh cũng đừng nói thẳng thừng công khai chống lại họ, nghe anh. Còn lỡ như người ta có kết án… tử hình, anh nhớ chống án nghe. Nhịn họ một bước, chẳng hổ mặt đâu. Như vậy anh mới còn sống để mai sau tiếp tục làm những gì anh mơ ước chứ, phải không?”
Tôi gật đầu đại, không suy nghĩ. Phương đưa một bàn tay luồn vào giữa song sắt, có ý muốn bắt tay tôi. Tôi lưỡng lự khá lâu rồi cũng đưa tay, bắt lấy tay nàng. Phương nắm chặt tay tôi một lúc khá lâu. Mắt cô ứa lệ. Rồi cô vội quay đi. Có tiếng kẻng báo thức vang lên, dội theo những bước chân của Phương. Trời đã mờ sáng.
Còn lại một mình, tôi bắt đầu thu dọn “hành lý” để chuẩn bị chuyển về phòng tập thể. Vừa san sớt giỏ quà cho ông thầy già tôi vừa suy nghĩ, có lẽ mức án của tôi sau này sẽ nặng lắm. Cả Tri và Phương khi chia tay tôi đều dặn dò tôi một câu tương tự: nếu bị kết án tử hình, anh chớ chống án… Tôi mỉm cười với chính mình, tự nói: “Ta đâu có dễ chết như vậy! Ta sẽ được tự do, một ngày nào gần đây thôi!”
Khoảng mười giờ sáng, Khoa đến bệnh xá nhận đưa tôi về phòng giam tập thể. Phương mở cửa cho tôi bước ra, nói giọng tự nhiên:
“Anh cứ về phòng há, khi nào đau dữ lắm thì báo cáo quản giáo xin ra lại.”
Theo Khoa bước đi một khoảng, tôi thấy một cán bộ bảo vệ khác đang dẫn đường cho ông thầy già từ khu trại giam bước vào khu vực bệnh xá. Tôi mỉm cười chào ông già khó tính. Ông nheo mắt với tôi, cười cười, không nói gì.
Ở phòng giam, bạn tù reo hò lớn tiếng đón mừng tôi, làm như thể tôi được tự do vậy. Thực ra, ở phòng giam tập thể thì vui vẻ nhưng đôi khi cũng thấy mệt nhọc lắm vì suốt ngày cứ phải sống trong sự chộn rộn ồn ào của mấy chục con người nam phái, nóng nảy, cộc cằn. Ở bệnh xá thì êm đềm, yên tĩnh, dễ chịu hơn. Con người và khung cảnh ở đó, đều êm dịu. Tôi treo cái giỏ đồ của mình lên sợi dây căng dài theo vách và bỗng nhớ lại chuyện Phương vào phòng tôi hồi khuya. Một cảm giác êm nhẹ lâng lâng đến phút này mới xâm chiếm lòng tôi. Dường như chưa bao giờ cảm giác của tôi lại bộc phát muộn màng như vậy. Tôi nhớ tôi đã đứng cứng ngắt như khúc gỗ khi Phương ôm tôi. Vậy mà cảm giác vừa dễ chịu vừa bừng nóng đáng ra phải bùng vỡ từ cái phút ấy đến bây giờ mới ập đến. Tôi hoa mắt, ngồi xuống, tựa lưng vào vách. Con người ấy, cái bóng dáng hiện thân của tiên nữ tự do ấy, đã sà vào lòng tôi, tựa vào người tôi, quấn lấy tôi, nhưng đến giờ này, tôi vẫn không sao hình dung được rõ ràng khuôn mặt của người ấy. Tự do là như thế. Dù ở cái mức thực tế nhất, nó vẫn có vẻ như chỉ muốn thể hiện bằng một hình thức mờ ảo, không chân dung.
Vài người bạn tù lăng xăng xúm đến hỏi han đủ điều. Tôi trả lời cho có lệ, rồi nằm xuống. Thấy mệt trong người.


Ó


Tuần lễ sau, đã đến mùa Giáng sinh. Đêm 24 tháng chạp dương lịch, do cảm hứng được tác động từ mấy người bạn tù theo đạo Thiên Chúa, có một tiệc trà văn nghệ mừng Giáng sinh được bày ra từ khoảng 7 giờ tối cho đến giờ báo ngủ. Sau giờ báo ngủ, nhóm người theo đạo Thiên Chúa xì xầm to nhỏ với nhau thế nào đó rồi lén lút tổ chức làm lễ ở một góc phòng, có mấy cái mùng che lại phía ngoài.
Bấy giờ tôi đã được chuyển từ chỗ gần cửa sổ của đội 1 ra ngay khoảng chính của cửa sổ, vì mấy ngày trước Giáng sinh, anh bạn nằm ngay cửa sổ đã được trả tự do. Chỗ nằm ngay cửa sổ kể ra là một thứ ưu đãi cho tù nhân chứ không phải chơi, vì nó thoáng khí và có gió mát bên ngoài thỉnh thoảng thổi vào, mát rượi. Tuy nhiên, Khoa lâu lâu lại hỏi thăm chừng ai là người nằm ngay cửa sổ, ý chừng muốn nhắc trưởng phòng nên sắp đặt người nào đáng tin cậy, không có ý đồ trốn trại mới được nằm ngay cửa sổ. Hai hôm trước, được biết tôi nằm gần cửa sổ, Khoa hơi nhíu mày một chút, nhưng rồi nghĩ sao, anh bỏ qua.
Nhờ vậy, tôi vẫn được tiếp tục một mình đứng bên cửa sổ, hít thở không khí mát rượi buổi sớm khi mọi người còn đang ngủ. Đêm qua một số người tù sau khi làm lễ mừng Chúa giáng sinh đã thức khuya ngồi uống trà, hút thuốc, ăn bánh kẹo trong im lặng ở góc phòng. Bây giờ họ ngủ li bì, chẳng thấy ai dậy sớm để nấu nướng như mọi hôm. Tôi đứng nhìn trời đêm đang vén dần lên ớ phía đông. Gió sớm hắt hơi sương của đêm đông vào, có khi lạnh như cắt. Các ngôi sao ở góc trời xa càng lúc càng nhấp nháy yếu ớt như thể đã trút hết tinh hoa của mình trong đêm dài vừa qua. Bất chợt, có tiếng kẻng gióng lên từng chập hai tiếng, ba tiếng, vội vã, có vẻ mất bình tĩnh, rất khác thường. Đây không phải là kẻng bảo thức–vì kẻng báo thức đánh ba hồi từ chậm đến nhanh. Đồng lúc, lại có tiếng súng nổ. Tạch, tạch! Đạn lửa từ dưới khoảng sân nào đó của trại giam hay từ bót gác bay xẹt xẹt lên trời. Anh trưởng phòng từ góc tường đội 4 nhảy xổ đến chỗ tôi, nắm tay tôi kéo ngồi xuống, la lên:
“Thầy Khang, ngồi xuống ngay, đứng ló đầu lên là cán bộ tưởng mình có ý trốn trại, sẽ bắn đó!”
Dù nói vậy, anh cũng ngồi xôm xổm bên tôi, ló đầu nhìn ra cửa sổ, nói nhỏ bên tai tôi:
“Chắc có tù trốn trại hay là nhóm võ trang nào bên ngoài đánh vào phá trại tù. Kìa, thầy Khang, chỗ kia có đám cháy, khói lên dữ quá. Khoảng đó là sân trước, chỗ văn phòng chính của trại đó. Mình rút êm chứ đừng lấp ló ở đây mà ăn đạn.”
Đám tù trong phòng cũng nhốn nháo thức dậy cả. Ai nấy đều lo cuốn dọn mùng màn, xầm xì to nhỏ.
“Lâu quá mới nghe tiếng súng nổ há!”
“Rồi, rồi, Chúa cho về đúng ngày quá!”
“Chuẩn bị đồ sẵn kẻo chạy không kịp nghe anh em!”
“Chắc đại ca tới rồi!”
Anh trưởng phòng hét lên:
“Đừng có nói xàm! Coi chừng bị kỷ luật đó. Anh em ai ngồi yên đó đi. Đừng lộn xộn chạy qua chạy lại mà bị phạt oan! Chẳng có gì đâu.”
Tôi cười trong bụng. Anh trưởng phòng cảnh cáo anh em đừng nói bậy, vậy rồi anh cũng buột miệng nói “chẳng có gì đâu,” có nghĩa rằng anh cũng từng mong đợi một “cái gì đâu” xảy ra… Ý chí mong cầu tự do của bọn tù chúng tôi rất tội nghiệp! Đôi khi hăm hở chụp bắt những cơ hội và những lý do được thoát ngục một cách khó tin. Có khi súng bắn ở đâu đó xa lắc xa lơ, vài ba tiếng lẻ tẻ thôi rồi im bặt, cũng đủ làm nao cả niềm hy vọng ấp ủ lâu nay. Có khi được phát cho chút gạo hơi trắng và hơi nhiều hơn thường ngày tí xíu mà đã phỏng đoán đủ chuyện (nào là nhà nước đã bắt tay với tư bản Mỹ rồi, nào là chính phủ Mỹ bỏ tiền ra mua hết những tù nhân thuộc diện chính trị và vượt biên đang bị giam cầm trong các trại tù Việt Nam nên trại đang lo nuôi béo tù…).
Sau lời cảnh cáo của trưởng phòng, ai nấy im lặng, ngồi đâu ngồi yên đó, tựa vào các vách, tránh chỗ cửa sổ. Khói thuốc đầu ngày bắt đầu tuôn. Bên ngoài tiếng súng đã ngưng, thay vào đó là tiếng còi xe cứu hỏa hú từng hồi làm chột cả ruột gan. Anh trưởng phòng nhổm người ngó ra cửa sổ, rồi thụp xuống, nói nhỏ với tôi:
“Khỏi lửa đã được dập hết rồi. Chắc chỉ là hỏa hoạn chứ chẳng có gì!”
Tôi cười nói với Quái, anh bạn Tàu Nùng nãy giờ đang hớn hở mong đợi tin vui:
“Vậy là mặt trận miền đông và cả miền tây, vẫn yên tĩnh.”
“Vẫn yên tĩnh.” Quái lặp lại mấy chữ cuối với vẻ chịu đựng pha một chút thất vọng.
Nhưng Quái vừa dứt lời đã nghe tiếng kẻng báo thức gióng lên. Vậy có nghĩa là trại giam đã trở lại sinh hoạt bình thường, không có gì thay đổi. Cả phòng bắt đầu xôn xao qua lại, đun lò nấu bếp cho bữa ăn sáng. Chẳng có gì. Chẳng có gì đâu. Tiếp tục một ngày mới của trại giam.
Tưởng vậy là xong, nào ngờ quản giáo, cán bộ bảo vệ, từ đâu kéo vào sân trại tấp nập. Ai nấy đều mang súng ống. Mấy anh bảo vệ thì chia nhau đứng mỗi người mỗi góc, còn quản giáo thì bước vào từng phòng giam, ra lệnh tù nhân xếp hàng điểm danh–thường thì chỉ điểm danh vào mỗi buổi chiều, khoảng năm giờ rưỡi, trước khi đóng luôn cánh cửa sắt bít bùng bọc ngoài lớp cửa song sắt của lồng khung. Điểm danh vào buổi sáng sớm mới báo thức như lúc này quả là bất thường. Điểm danh xong, Khoa nhìn quanh trong phòng một vòng, và hình như anh có hơi để mắt vào tôi một tí–cũng có thể chỉ tại tôi cảm thấy như vậy. Xong, Khoa bước ra, ra lệnh sinh hoạt bình thường.
Buổi trưa, anh nuôi gánh cơm và nước mắm đến phòng giam, một người trong phòng gợi hỏi:
“Hồi sáng sớm có chuyện gì mà um sùm vậy anh?”
Anh nuôi lắc đầu, không dám trả lời. Vậy là chuyện đó vẫn còn nằm trong vòng bí mật, chưa ai nắm rõ được gì.
Xế chiều, Khoa gọi trưởng phòng ra ngoài làm việc đâu chừng nửa giờ đồng hồ. Sau đó, lại gọi phó phòng. Rồi gọi Bính công an. Rồi đến Lý đánh cá (anh chàng hăng hái bỏ công đan lưới để giúp thêm sinh kế cho cán bộ). Cuối cùng là tôi.
Một tốp công an ngồi nơi cái bàn dưới cây trứng cá, bàn tán. Thấy tôi theo Khoa bước ra, họ im lặng, chờ đợi. Tôi được đưa đến và chỉ định ngồi ở băng ghế trống đối diện với anh công an thấp người, mập mạp, một mình ngồi chiếm một băng ghế. Các anh công an còn lại thì đứng bao quanh phía sau. Anh công an chỉ huy này đã có lần gọi tôi ra để nhìn mặt và gặn hỏi đôi điều. Nếu tôi nhớ không lầm thì Phương có cho tôi biết anh cán bộ này tên Sáu, người từng theo đuổi Phương. Sáu là trưởng ban quản giáo của trại.
“Anh ngồi đi,” Sáu nói. Chờ tôi ngồi yên rồi, anh hỏi liền. “Anh có biết ông Hoàng Ngọc Chân không?”
“Hoàng Ngọc Chân? Tôi không biết.”
“Hoàng Ngọc Chân mà không biết à?” Sáu gặng hỏi, giọng cau có khó chịu, “cái ông thầy chùa già già ở bệnh xá, chung một phòng bệnh với anh đó!”
“À, ông ấy thì tôi biết.”
“Thế anh có biết là ông ấy… anh có biết ông ấy quê ở đâu không?”
“Không.”
“Ông ấy có nói chuyện với anh nhiều không?”
“Không.”
“Ông ấy có nói là sau này sẽ về quê sống ở đâu, làm gì không?”
“Không.”
“Vậy chứ ông ấy nói chuyện gì với anh mà cái gì anh cũng không biết!”
“Tôi với ông ấy chỉ gặp nhau chừng một vài tiếng đồng hồ là ông ấy chuyển về phòng giam tập thể.”
“Ủa, có chuyện đó à?” Sáu vừa hỏi vừa quay qua như hỏi ý một anh quản giáo đứng gần.
Anh kia nói:
“Báo cáo đồng chí, ông ấy về phòng số 3 vào ngày 2 tháng 12.”
“Mấy giờ? Quan trọng là mấy giờ?” Sáu gắt.
“Báo cáo… buổi xế, hơi chiều một chút,” anh quản giáo kia trả lời.
“Vậy anh Vĩnh Khang này ra nằm bệnh xá vào ngày mấy, mấy giờ?”
Khoa đáp xen vào:
“Cùng một ngày. Anh Khang vào buổi trưa.”
“Vậy có nghĩa là anh Khang với ông già kia chỉ gặp nhau vài tiếng đồng hồ, rồi anh Khang ở lại bệnh xá, còn ông già kia thì về phòng giam số 3?” Sáu hỏi lại.
“Vâng, chắc là như vậy,” anh quản giáo kia đáp.
“Rồi cái ngày anh Khang trở về phòng giam số 7 là ngày mấy?” Sáu ngó Khoa, hỏi.
“Báo cáo: ngày 18 tháng 12 ạ,” Khoa đáp.
“Vậy ông già kia ra lại bệnh xá ngày nào?”
“Báo cáo: ngày 18 tháng 12 ạ,” anh quản giáo phòng 3 đáp.
“Cũng cùng một ngày anh Khang trở về phòng số 7! Sao có trùng hợp lạ vậy? Hễ anh Khang ra thì ông ấy vào, anh Khang vào thì ông ấy ra. Đó, đó, chi tiết đó các đồng chí phải lưu ý. Ghi xuống ngay. Tôi hỏi nè, vậy rồi anh Khang và ông già kia lại gặp nhau thêm mấy giờ đồng hồ nữa, phải không?”
“Báo cáo: không ạ. Khi tôi ra bệnh xá nhận anh Khang để đưa vào phòng giam số 7 thì quản giáo Lên đang đưa ông già kia ra bệnh xá. Chúng tôi gặp nhau giữa đường. Họ không có cơ hội nói chuyện với nhau ạ.”
“Vậy à!” Sáu vừa nói vừa ngó tôi dò phản ứng; một chặp, anh đổi giọng hơi dịu xuống, hỏi tôi, “trong khoảng thời gian mới ra nằm bệnh xá vào ngày đầu tiên, anh có nghe cán bộ Phương nói chuyện gì với ông Chân không?”
“Không,” tôi đáp.
“Những ngày cuối cùng mà anh ở bệnh xá, cán bộ Phương có nói lý do tại sao quyết định đưa anh về phòng số 7 không?”
“Vì tôi thấy đỡ nhiều, yêu cầu cán bộ Phương cho trở về, không phải tự ý cô ấy cho tôi về. Tôi cũng có yêu cầu với cán bộ Thà trước đó vài ngày về chuyện xin trở về phòng 7, cán bộ Thà nói để cán bộ Phương quyết định.”
“A, ra thế à! Hây, vậy cán bộ Phương có nói chuyện gì với anh không, chẳng hạn nói sẽ về quê, hay là sẽ đi công tác xa ở đâu không?”
“Không hề,” tôi đáp và có cảm tưởng là mặt mình hơi đỏ lên.
“Thế cán bộ Phương có giúp đỡ anh điều gì không, chẳng hạn mua quà, gửi thư, liên lạc gì với ai đó?”
“Không, không có,” tôi đáp hơi lạc giọng một chút.
Sáu ngồi im một lúc như cố tìm cách tra hỏi tôi một câu bất ngờ nào đó. Cuối cùng, anh cầm cuốn sổ nhỏ trong túi áo ra, vừa lật vừa nói:
“Trong khoảng thời gian mới ra ở bệnh xá, anh có thấy một dấu hiệu bất thường giữa cán bộ Phương và ông già Chân không? Anh cứ thật tình nói. Không sao đâu, coi như anh giúp chúng tôi đó mà.”
“Dấu hiệu? Là sao, tôi không hiểu.”
“Chẳng hạn họ có nói chuyện to nhỏ với nhau… hay làm gì đó.”
“Không, tôi không thấy họ nói chuyện với nhau cho đến khi một cán bộ đến đưa ông Chân rời bệnh xá,”
“Thôi được, anh có thể về phòng.” Sáu nói rồi ra dấu cho Khoa đưa tôi đi.
Trở về phòng, tôi thấy bạn tù dường như ngó mình với cặp mắt dò xét hoặc chờ đợi một dấu hiệu gì đó trên nét mặt tôi. Tôi im lặng không bàn tán gì với ai, nhưng trong lòng dậy lên bao mối nghi hoặc, băn khoăn, lo lắng nghĩ về Phương và ông thầy già kia.
Mãi đến chiều tối, sau giờ điểm danh, Nhiều, anh trưởng phòng, đến đứng bên cạnh tôi chỗ cửa sổ, nói nhỏ:
“Nói cho thầy Khang nghe điều này, thầy đừng tiết lộ cho ai hết nghe. Hồi sáng ông Khoa có hỏi tôi nhiều câu về thầy đó. Hình như ông ấy và các cán bộ quản giáo nghi ngờ thầy Khang có dính líu đến chuyện cán bộ Phương.”
Tôi nghe vậy thì giật mình, chưa kịp nói gì, Nhiều đã tiếp, giọng vừa có vẻ lo mà cũng vừa phấn khởi:
“Nhưng suy cho cùng thì làm sao nghi thầy Khang được. Vì nếu có dính líu thì thầy Khang đâu còn ở đây., Ông Khoa còn cho tôi biết là cán bộ Phương đã giúp một ông già ở bệnh xá trốn trại.”
“Thực vậy sao? Có thành công không?”
“Thành công chứ. Họ trốn đi rồi. Chưa biết là sau này ra sao chứ trước mắt thì đã rời khỏi trại an toàn.”
“Họ? Anh nói họ tức là… cả cô Phương cũng trốn hả?”
“Chứ sao, cán bộ Phương trốn, dẫn ông già đó trốn theo. Còn nữa, vụ cháy ở văn phòng trại cũng tình nghi là do cán bộ Phương gây ra đó. Gây hỏa hoạn để lợi dụng lúc lộn xộn, cho ông già kia thoát ra luôn. Chẳng ai biết chính xác là thoát ra lúc nào, bằng cách nào. Chắc là lúc xe cứu hỏa đến, người ra kẻ vô lăng xăng… Hình như đến sáng, vào giờ làm việc, mới biết là vắng mặt cán bộ Phương, rồi kiểm tra lại bệnh xá, thấy thiếu luôn ông già kia.”
“Cho tôi một điếu thuốc,” tôi nói với Nhiều.
Tôi run run đốt điếu thuốc, phà khói ra chấn song cửa sổ. Ở vùng trời phía đông phản chiếu những sóng nắng đỏ hồng cuối ngày. Tôi nhớ cái dáng đi chân cao chân thấp của ông thầy già và đôi mắt sắc sảo tinh anh của ông. Tôi nhớ Phương, người nữ cán bộ nhiệt tình, thẳng thắn, tốt bụng, có vẻ sinh ra trên đất nước này là để hy sinh không chút đắn đo cho bất cứ thứ lý tưởng nào mà cô cho là cao đẹp. Nhiệt tình khiến cô sẵn sàng đánh đổi cả tuổi xuân và sinh mệnh của mình để đóng góp cho đại cuộc; thẳng thắn khiến cô đủ can đảm và sáng suốt để chọn lựa đúng-sai, phải-trái; tốt bụng khiến cô luôn luôn làm điều gì cũng nghĩ đến cái lợi ích của kẻ khác, cho dù có lúc kẻ đó không hoàn toàn tin ở tấm lòng của cô. Tôi hy vọng rằng Phương đã không giúp ông thầy già kia chỉ vì muốn chứng minh cho tôi tin và hiểu cô.
Từ nhiều ngày nhiều tháng qua, Phương đến và đi khỏi tâm tưởng tôi mà không để lại một đặc điểm hình thể hay sắc diện nào đáng nhớ. Chỉ có tấm lòng của cô, chân thành, tha thiết, nhưng tôi đã đón nhận một cách thờ ơ lạnh lẽo, kèm theo bao mối nghi kỵ. Bây giờ, tôi thực sự tin Phương. Phương không dối gạt hay giăng bẫy hại tôi. Phương là hiện thân của giấc mộng tự do, giấc mộng muôn đời của tuổi trẻ quê hương.

No comments: