KINH TẾ TRIẾT HỌC II
Norman Barry
Kinh tế học và triết học của chủ nghĩa xã hội
Nguyễn Đức Thành dịch và chú thích
1 2
3. Lập luận của Mises
Trong
bài viết năm 1920 cũng như những tác phẩm về sau của mình, Mises hiểu
chủ nghĩa xã hội đơn giản là một hệ thống trong đó phương tiện sản xuất
thuộc sở hữu của một chính quyền trung ương nào đó: thế thì vấn đề còn
bỏ ngỏ là liệu hệ thống sản xuất có nên được định hướng theo những cứu
cánh mang tính cá nhân hay không (giống như lý thuyết của chủ nghĩa xã
hội thị trường được đề cập trên kia) hay là theo những cứu cánh một phần
bị quyết định bởi các nhà lãnh đạo chính trị. Theo quan điểm của Mises,
trong cả hai trường hợp đều xuất hiện vấn đề tính toán. Lý do là vì
giải pháp cho vấn đề kinh tế đòi hỏi một thước đo giá trị nếu phương
tiện sản xuất muốn được sử dụng một cách có hiệu quả nhằm đạt tới bất cứ
một cứu cánh nào. Mises lập luận rằng chỉ có hệ thống thị trường, trong
đó cơ chế giá cả phản ánh mức hy sinh tương đối của các nhân tố sản
xuất, mới có thể làm được điều đó. Nếu thiếu hệ thống báo tín hiệu này,
các chính quyền trung ương sẽ không có gì để lấy làm hoa tiêu cho hành
động của họ, và thế là các quyết định của họ nhất định mang tính tuỳ
tiện. Do đó lập luận của Mises về “tính bất khả thi" của chủ nghĩa xã
hội là một luận đề cực đoan đặc biệt vì nó cho rằng ngay cả khi các nhà
lãnh đạo chính trị, chứ không phải của những người tiêu dùng cá biệt,
quyết định được đâu là mục tiêu cuối cùng, thì vẫn còn một vấn đề về
phân bổ nguồn lực cho quá trình sản xuất ra những kết quả cuối cùng ấy
khi không có các mối quan hệ thị trường đan xen trong toàn bộ các hoạt
động kinh tế.
Đối với Mises, xã hội loài người khác xa
một thể hữu cơ bị chi phối bởi những quy luật máy móc: xã hội ấy được
kết thành từ những cá nhân hoạt động không ngừng, đang mong muốn thoả
mãn nhu cầu của bản thân, mà hành động và lựa chọn của họ là ngọn nguồn
của mọi giá trị. [1] Cho dù, hành động con người có mang tính kinh tế
xét theo nghĩa hẹp hay không, tức là liên quan đến việc tối đa hoá những
lợi lộc nhãn tiền đo bằng tiền bạc, thì vẫn luôn là hợp lý trong chừng
mực nó liên quan đến việc sử dụng các phương tiện để đạt tới những cứu
cánh được quyết định một cách chủ quan. Tuy nhiên, trong giới hạn của
khoa học, chúng ta có thể đánh giá các phương tiện được lựa chọn nhằm
đạt tới các cứu cánh ấy. Do đó, Mises dễ dàng chứng minh rằng một xã hội
rộng lớn đòi hỏi một thị trường nhằm thiết lập các tỷ lệ trao đổi khách
quan và một chế độ tiền tệ để truyền tải các thông tin về những giá trị
ấy. Chỉ trong một nền rất kinh tế nhỏ, như một hộ gia đình, thì đầu óc
con người bình thường mới có thể tự biết được các giá trị. [2] Hơn nữa,
nếu chúng ta có thể giả định ý thích hay công nghệ sản xuất là ít hoặc
không thay đổi thì tri thức kinh tế tương ứng với việc tổ chức một thứ
như nền kinh tế hộ gia đình mới có thể được cụ thể hóa và trở nên có giá
trị đối với một hình thức kế hoạch hoá hợp lý. Tuy nhiên, như chúng ta
sẽ thấy một cách chi tiết hơn dưới đây, điều này là mô tả hoàn toàn sai
lầm về những nền kinh tế hiện hành, không chỉ theo nghĩa về kích thước,
mà, quan trọng hơn, theo nghĩa chúng là những thể biến động không ngừng
và có tính bất trắc. Chính tính không thể dự đoán trước được của xã hội,
so với một hệ vật lý ổn định, khiến việc kế hoạch hoá là không thể khả
thi.
Tất nhiên, Mises thừa nhận rằng ngay cả trong một
xã hội xã hội chủ nghĩa thì vẫn có hàng tiêu dùng cá nhân có giá cả gắn
liền với chúng, và do đó, được cung cấp qua các mối quan hệ tiền tệ.
Nhưng vì mức độ dùng tiền sẽ bị hạn chế rất chặt chẽ nên tác dụng của sự
tính toán duy lý kinh tế sẽ bị bóp nghẹt. Điều này có nghĩa là vì các
nhân tố sản xuất không được định giá thông qua thị trường nên sự phân
phối thu nhập cho mỗi nhân tố buộc phải bị quyết định một cách tuỳ tiện
bởi nhà nước. Và điều này ngăn cản không cho thông tin về cách sử dụng
tối ưu các nguồn lực đến được các tác nhân kinh tế.
Những
thông tin này chỉ có được trong một thế giới bất biến: một thế giới
trong đó chi phí sản xuất có thể được coi như không đổi theo thời gian.
Chính thế giới kinh tế này được mô tả dưới hình thức đại số trong lý
thuyết kinh tế chính thống về so sánh tĩnh. Nhưng điểm cốt tuỷ mà Mises
muốn làm rõ là một nền kinh tế không phải là một thực thể tĩnh với những
đặc điểm được tái tạo đi tái tái tạo lại theo một cơ chế máy móc. Trong
một cuộc thảo luận công khai về lý thuyết chính thống, Mises nói rằng
trong thế giới tĩnh, vấn đề tính toán không còn tồn tại vì lúc này
“những sự kiện giống hệt nhau trong đời sống kinh tế cứ lặp đi lặp lại
liên tục". [3] Trong một tác phẩm sau này, Mises viết:
Một
hệ thống mà con người trong đó không mắc sai lầm bao giờ, thì đó là một
thế giới của những người máy câm lặng không biết suy nghĩ; đó không
phải xã hội loài người, đó là một tổ kiến. [4]
Ngược
lại những mô tả trên, đối với Mises một nền kinh tế không tự nhân bản
liên tục như một bộ gen đã được sắp đặt trước, mà chịu sự chi phối của
những thay đổi thường hằng trong đó mỗi hành động của con người không
phải sự lặp lại, mà mang tính suy đoán (speculative). [5] Do đó, lý
thuyết kinh tế giải thích những hành động có tính toán ấy được phối hợp
với nhau như thế nào theo thời gian; nó không mô tả một thế giới hài hoà
tuyệt đối trong đó mọi quá trình nêu trên đã hoàn toàn chấm dứt. Tất
nhiên là một thế giới như thế khiến cho sự cạnh tranh thực thụ trở thành
vô dụng.
Thế nhưng, khi các nhà kinh tế xã hội chủ
nghĩa chĩa mũi giáo tấn công Mises, họ quên mất điểm này và lại giả định
rằng các “quy luật" của kinh tế học, cái mà các dự án xã hội chủ nghĩa
nhất định phải tuân theo, là các quy luật diễn tả một thế giới cân bằng
tĩnh. Đây đúng là cái mà Mises xem là các định lý kinh tế, ví dụ, luật
cung và cầu, lợi ích cận biên giảm dần, lợi suất giảm dần của nhân tố,
v.v., những cái được xem như là những chân lý tiên nghiệm, nhưng ông lại
quan tâm chủ yếu đến việc hành động con người, hành động nhằm theo đuổi
những mục đích có tính toán của các chủ doanh nghiệp, vận hành ra sao
trong cương giới được thiết lập bởi những chân lý ấy. Trong bối cảnh
này, những thể chế xã hội như sở hữu tư nhân, tiền tệ, và các “hãng" trở
thành các khí cụ để ứng phó với sự thay đổi và tính bất trắc của một
thế giới tất yếu không hoàn hảo.
Đây là lúc Mises thể
hiện sự chống đối của ông đối với chủ nghĩa xã hội một cách hoàn toàn rõ
ràng, thực sự với một mức độ gần giống những người hay cáu kỉnh, ông
chưa bao giờ làm rõ hẳn ra toàn bộ cở sở lý thuyết và triết học rốt ráo
của những phê phán của ông về cái thiên kiến nghiêng về sự cân bằng của
kinh tế chính trị học chính thống; cái mà về sau Hayek sẽ làm. Một lý
thuyết chính thống về sự xác định giá cả thông qua thị trường ít hay
nhiều bị pha trộn với một lý thuyết cực đoan (radical) về hành động con
người và quá trình thị trường.
Lý do của khiếm khuyết
này chủ yếu mang tính lịch sử. Các giải pháp xã hội chủ nghĩa phức tạp
nhất cho vấn đề tính toán, cái phụ thuộc vào kỹ thuật phân tích cân
bằng, xuất hiện sau khi bài tiểu luận đầu tiên của Mises được công bố.
Hơn nữa, trong tác phẩm tăng cường cho phê phán của mình, cuốn Chủ nghĩa
xã hội đồ sộ và buồn tẻ, Mises đã che đi một kho báu phân tích lý
thuyết tuyệt hảo do đã trùm lên đó một tấm màn dày đặc những xã hội học
và tâm lý học tư biện cao độ (hiểu theo nghĩa lý thuyết). Mọi bệnh tật
của thế giới hiện đại, từ sự đảo điên trong quan hệ tình dục đến chế độ
bạo chúa ở Nga, dường như đều là sản phẩm của tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Tại điểm này, chủ nghĩa xã hội bị tố cáo là “... không gì khác ngoài sự
suy lý phô trương của những cơn oán giận nhỏ nhen". [6] Không nghi ngờ
gì nữa, chính cái phong cách hiếu chiến quá đáng này đã làm suy giảm tác
động to lớn của những lập luận của Mises. Đơn giản là trong suốt nhiều
năm trời, chúng không được xem xét tới một cách nghiêm túc.
Tuy
nhiên, vẫn có nhiều điều đáng khai thác trong chiều sâu thẳm của tác
phẩm Chủ nghĩa xã hội nhằm tìm ra kho báu chứa đựng những điều thông
thái. Sử dụng các thuật ngữ kinh tế, Mises nhấn mạnh rằng chức năng của
tinh thần doanh nghiệp (entrepreneurship), tức là việc phối hợp các hoạt
động kinh tế thông qua một quá trình kinh tế cạnh tranh, nhất định phải
được thực hiện trong một xã hội xã hội chủ nghĩa. Điều này là kết quả
trực tiếp từ những nhận định của Mises rằng tri thức kinh tế không phải
là gì bất biến với công nghệ cho trước. Nhưng tất nhiên, cấu trúc chính
trị của xã hội xã hội chủ nghĩa ngăn cản việc hình thành một giai cấp
các nhà doanh nghiệp chuyên nghiệp. [7] Bởi vì giai cấp này, luôn năng
động về mặt kinh tế, nhất định phải mạo hiểm với tài sản của chính họ,
nên sự vắng mặt quyền sở hữu tư nhân về phương tiện sản xuất làm xuất
hiện vấn đề động lực khuyến khích làm việc cực kỳ nan giải cho một xã
hội bị kế hoạch hoá. Như chúng ta sẽ thấy dưới đây, các lý thuyết gia
“duy lý" của một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nhận thức được rất rõ vấn
đề tinh thần doanh nghiệp và động lực làm việc.
Xa hơn
nữa, Mises đặc biết nhấn mạnh rằng các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hiện
hành không thể đạt được một mức năng suất nào đó, chính xác là vì vấn
đề tính toán đã được giải quyết từng phần bởi những nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa xung quanh, những nền kinh tế cung cấp các tín hiệu giá cả.
[8] Điều này cũng đúng với các doanh nghiệp quốc doanh trong các nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa, chúng có khả năng mua lao động và nguyên liệu ở
mức giá đã được thiết lập trong một môi trường mang tính thị trường.
Ở
một mức độ chính trị tổng quát hơn, Mises thách thức chủ nghĩa bình
quân của tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Cần phải lưu ý rằng, vì Mises là một
người theo chủ nghĩa thực chứng không khoan nhượng và không phải là
người theo chủ nghĩa kinh nghiệm trong những lĩnh vực liên quan đến giá
trị đạo đức, nên không phải trên cơ sở của đạo đức học, mà chính từ
những lập luận kinh tế vị lợi, ông cho rằng sự bất bình đẳng giữa sự
phân công lao động là cần thiết để thu hút các nhân tố đến nơi có thể sử
dụng chúng với năng suất cao nhất. [9] Ông đả phá sự phân chia giữa sản
xuất và phân phối thu nhập của các nhà xã hội chủ nghĩa và cả những
người không phải xã hội chủ nghĩa, như John Stuart Mill chẳng hạn. Quan
điểm của ông là sự phân phối thu nhập giữa các nhân tố hoàn toàn là kết
quả của sự đóng góp của chúng vào quá trình sản xuất. Lại một lần nữa,
với chủ nghĩa chủ quan về đạo đức của Mises, không thể có một nguyên lý
đạo đức ngoại biên nào ủng hộ cho các mức thu nhập khác nhau.
Trên
thực tế, Mises đã có một quan điểm đơn giản về bản chất con người –
“tính vị kỷ (egoism) là quy luật của xã hội’. [10] Nhưng trong khi các
triết gia chính trị vẫn thường suy diễn từ cái quan niệm về con người
hám lợi rằng một chế độ hùng mạnh toàn diện nhất định phải tạo ra một
cách nhân tạo một trật tự bất tự nhiên đối với con người, thì Mises lại
tuyên bố rằng tính vị kỷ không những vô hại, mà còn là thiết yếu đối với
sự tiến hoá tự nhiên của một trật tự kinh tế. Trên thực tế, ông phê
phán mạnh mẽ cái mà ông nghĩ là đạo đức về nghĩa vụ và đức hy sinh kiểu
Kant tiêu cực; ông coi cái đức hạnh “ngu xuẩn" này như là mầm mống của
đức tin xã hội chủ nghĩa. [11] Tuy nhiên, cần lưu ý rằng phân tích của
Mises về mối liên hệ qua lại giữa đức hạnh và chủ nghĩa tư bản phảng
phất sự tinh tế của Adam Smith.
Thế nhưng, điều quan
trọng là nỗ lực của Mises muốn tái lập quan điểm tự do cổ điển truyền
thống rằng các nguyên lý thị trường không nằm trong quyền lợi của những
người hữu sản, mà rất nhiều trong số họ là những kẻ chuyên cần tìm kiếm
những đặc quyền do vị thế của họ mang lại, mà vì lợi thế của các thành
viên vô danh trong bất cứ xã hội nào. Chắc chắn là bản thân Mises chưa
bao giờ nghĩ tới vần đề hợp pháp hoá việc đòi quyền sở hữu tài sản lúc
nguyên khai [12] , một vấn đề đã gây khó dễ cho các triết gia của phái
tự do cổ điển sau này, nhưng, dù sao thì chúng ta cũng không nên đánh
giá thấp cách giải thích đậm tính công cụ của ông về tầm quan trọng của
quyền tư hữu tài sản như là một lực lượng thúc đẩy tiến bộ của nền kinh
tế. Tuy nhiên, thực tế rằng sự biện hộ ban đầu của ông đối với xã hội tư
bản chủ nghĩa, rằng một người bất kỳ nào cũng có lợi hơn từ xã hội ấy
so với các hình thức xã hội khác từng được biết, tự nó làm nảy sinh một
số vấn đề. Chính tính chất vô danh đó của xã hội tư bản chủ nghĩa đồng
nghĩa với việc không một cá nhân nào có động cơ trực tiếp thúc đẩy hoặc
bảo tồn xã hội ấy. Thực vậy, điều mà Mises cứ khăng khăng bảo vệ, là
tính phổ quát của chủ nghĩa vị kỷ, cũng đồng nghĩa rằng mỗi cá nhân
không thể bị lên án (mang tính đạo đức) do kiếm chác được những đặc
quyền đặc lợi từ vị thế của họ, mà điều này, như trong một phân tích của
những người theo Mises cho thấy, có tính phá hoại chính xã hội ấy trong
dài hạn. Do đó, tồn tại vấn đề “hàng hoá công cộng" nan giải hầu như
không thể giải quyết được trong triết học chính trị tự do cổ điển.
Một
sự thật hiển nhiên là các lý thuyết gia xã hội chủ nghĩa phi Marxist
cảm thấy bối rối trước những hàm ý nêu ra trong bài báo đầu tiên của
Mises; Lange đã ca ngợi gần như thái quá nhãn quan sáng suốt của Mises
về bản chất vấn đề tính toán. Nhưng rõ ràng là họ đã không hiểu một cách
chính xác cái ông đang công kích. Họ nhất trí rằng một nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa sẽ phải giải quyết cùng những vấn đề mà thị trường đang
thường xuyên giải quyết cho chủ nghĩa tư bản, nhưng họ lại nghĩ là, dưới
hình thức này hay hình thức khác, các kỹ thuật phân tích kinh tế truyền
thống có thể được áp dụng cho một nền kinh tế không có các thể chế xã
hội mang tính tư bản chủ nghĩa như quyền tư hữu, các hãng và thị trường
vốn; mà lại có ít hơn những bất bình đẳng đáng phải loại trừ của các xã
hội tư bản chủ nghĩa truyền thống. Mặc dù có chú ý đến điểm cuối cùng
này, nhưng hầu như tất cả đều nhất trí rằng vẫn cần phải có sự bất bình
đẳng nhất định trong thu nhập: nhưng chỉ ở mức độ cần thiết nhằm hấp dẫn
nhân tố lao động tới những nơi sử dụng chúng có năng suất cao nhất mà
thôi.
Sự đáp trả của các nhà xã hội chủ nghĩa đối với
Mises thể hiện dưới hai hình thức có quan hệ mật thiết với nhau. Hình
thức thứ nhất, một mô hình “thống kê", giả định rằng vấn đề kinh tế nhằm
thoả mãn các nhu cầu của người tiêu dùng ở mức chi phí thấp nhất có
thể, có thể được giải quyết một cách trực tiếp nhờ những giải tích kinh
tế không cần tới thị trường, và hình thức thứ hai, được Lange phát triển
tới một trình độ cao, chấp nhận thể chế thị trường nhưng giả định là
một xã hội dựa vào thị trường có thể vận hành được mà không có các đặc
điểm tệ hại của xã hội tư bản chủ nghĩa như vẫn thấy. Cách tiếp cận sau
tỏ ra có nhiều ảnh hưởng hơn, nhưng cả hai đều chứa đựng những đặc điểm
tương tự nhau về cấu trúc.
Vấn đề trên liên quan mật
thiết đến bản chất của tri thức kinh tế, nghĩa là, thông tin về sở thích
của người tiêu dùng và chi phí sản xuất. Trong thực tế, lúc này các nhà
xã hội chủ nghĩa nói rằng, nếu một người biết tất cả những dữ liệu này,
thì vấn đề kinh tế trở thành vấn đề tính toán sắp xếp các nhân tố sản
xuất và do đó có thể sản xuất ra một đầu ra cho trước một cách máy móc.
Một “trạng thái cứu cánh" (‘end-state’) [13] của hợp tác kinh tế hoàn
hảo được thiết lập, trong đó không thể chuyển dời một nhân tố sang một
hoạt động khác mà không gây nên sự thiệt hại ròng trong sự thoả mãn của
người tiêu dùng. Trạng thái này có thể được định nghĩa là một “trạng
thái cứu cánh" cân bằng. Một trong những nhân vật đương đại xuất sắc đại
biểu cho quan điểm này, Frank Hahn, trình bày vấn đề súc tích hơn nhiều
các lý thuyết gia của thập niên 1930 trong một đoạn như sau:
Sự
cân bằng của nền kinh tế là một trạng thái tại đó các quyết định độc
lập của các hộ gia đình và hãng là tương thích với nhau. Do đó, có một
bộ giá cả sao cho nếu chúng phát huy tác dụng, thì có một lựa chọn tối
đa hoá lợi nhuận của các hãng và một lựa chọn tối đa hoá lợi ích của các
hộ gia đình sao cho tổng cầu về bất cứ hàng hoá nào cũng bằng với số
lượng vốn có của chúng, cộng với số lượng được sản xuất ra. [14]
Trong
mô hình này, thời gian, tính bất trắc, và sự kém hiểu biết bị loại bỏ
và mỗi người tham gia giao dịch được giả định là người chấp nhận giá,
nghĩa là không thể gây ảnh hưởng đến giá cả mà buộc phải chấp nhận mức
giá do một thị trường phi nhân tính đưa ra. Do vậy, mọi giá cả đều
“chính xác".
Đây chính là cái trạng thái hoàn hảo mà
Taylor, Lange và Dickinson đã cố gắng phấn đấu làm sáng tỏ trong các
phiên bản về chủ nghĩa xã hội của họ. Đó là lời giải cho vấn đề tính
toán. Nhưng nếu như vậy, vì sao họ phản đối xã hội thị trường? Thật đầy
nghịch lý, câu trả lời là, về mặt logic, không đòi hỏi phải có thị
trường mới tạo ra được cái trạng thái cứu cánh hài hoà và lý tưởng ngầm
định trong lý thuyết về thị trường hoàn hảo. Trong nhãn quan của các nhà
xã hội chủ nghĩa (và điều này tất nhiên là đúng) các thị trường trong
thực tế chẳng bao giờ hoàn hảo cả. Bỏ sang một bên vấn đề bất bình đẳng
về nguồn lực, rõ ràng là trong các thị trường thực, độc quyền sẽ tồn tại
và những yếu tố công nghệ nào đó có thể đem lại cho các hãng một lợi
thế mà sự cạnh tranh không thể nào loại trừ được; do đó, kết quả là
nhiều người tham gia giao dịch sẽ có khả năng gây ảnh hưởng đến giá cả.
Không phải tất cả những thứ kém hoàn hảo này đều là kết quả của sự can
thiệp của nhà nước. Thêm vào đó, sự bất trắc và kém hiểu biết có mặt ở
khắp mọi nơi ngăn không cho sự điều chỉnh xảy ra tức thời như trong lý
thuyết thuần tuý. Tất cả những điều này nhất định dẫn tới việc thu nhập
của các nhân tố (tiền công, địa tô và tiền lãi, v.v) sẽ không đúng bằng
lượng cần thiết để giữ chúng hoạt động, hay nói cách khác, sẽ có cơ hội
cho lợi nhuận thuần tuý. Các nhà xã hội chủ nghĩa khẳng định rằng những
khiếm khuyết này có thể được loại trừ mà không làm giảm sản lượng.
Đây
chính là vấn đề trọng yếu mà những đối thủ của Mises gặp phải. Nỗ lực
đầu tiên và kém thành công nhất nhằm tái tạo trạng thái cứu cánh lý
tưởng này, trên thực tế, mang tính kinh tế lượng thuần tuý và cố gắng bỏ
qua hoàn toàn các ý niệm gần gũi về hành động kinh tế của con người.
Trong mô hình đầu tiên của Taylor [15] , một cơ quan trung ương sẽ tinh
toán “bằng kỹ thuật cao" sao cho vấn đề kinh tế quen thuộc là lựa chọn
(một cách chủ quan) giữa các cách sử dụng khác nhau cùng một nguồn lực
trở thành một vấn đề “thiết kế máy móc", vấn đề dàn xếp từ những phương
tiện cho trước đạt tới những cứu cánh cho trước. Mô hình này cho rằng
nhờ một quá trình ước lượng phức tạp, về mặt lý thuyết có thể có khả
năng tái tạo những kết quả giống như được các thị trường hoàn hảo tạo ra
và do đó loại bỏ được những mất mát phúc lợi tất yếu đi liền với các
thị trường không hoàn hảo hiện thời.
“Giải pháp" trên
cho vấn đề tính toán đã được Hayek xem xét trong bài luận nổi tiếng của
ông về chủ nghĩa xã hội, bài “Tình trạng hiện thời của Cuộc tranh luận".
Nhưng trong bài viết này, Hayek đã thừa nhận một điều quan trọng mà đã
bị cả những người ủng hộ lẫn không ủng hộ thị trường hiểu nhầm. Về giải
pháp toán học, ông viết: “Bây giờ phải thừa nhận rằng đây không còn là
điều bất khả thi xét theo nghĩa cho đó là một mâu thuẫn về mặt logic"
[16] . Ông tiếp tục nói rằng: “để loại bỏ giải pháp này với tư cách một
giải pháp không khả thi và phi thực tế về mặt nhân văn, ta chỉ cần thử
mường tượng xem trên thực tế sự áp dụng phương pháp này sẽ hàm ý điều
gì" [17] . Việc có thể chứng minh được tính chặt chẽ về logic của một mô
hình kinh tế hài hoà nhân tạo như được thảo luận trên đây nằm ngoài
phạm vi cuộc tranh cãi, nhưng điều này khác xa với việc nói rằng có thể
tạo ra một lý thuyết xã hội vạch ra cách hiện thực hoá điều này khi
không có các thể chế tư bản chủ nghĩa tiêu biểu. Vì vậy, lập luận của
Hayek không phải là những khó khăn chỉ đơn thuần là những khó khăn thực
tiễn: mà nó nói rằng chính những bất cập về lý thuyết đã làm những khó
khăn này trở nên dễ thấy và không thể khắc phục được.
Do
đó, mặc dù trong bài viết của ông, Hayek nói đến những khó khăn thực tế
của việc thu thập số liệu - “chỉ riêng nhiệm vụ xây dựng bảng biểu
thống kê thôi đã vượt xa bất cứ mọi nhiệm vụ kiểu này từ xưa tới nay"
[18] – và của việc phải giải một lượng khổng lồ các phương trình khi hệ
thống sản xuất của nền kinh tế hiện đại bị tập trung hoá, với hàng triệu
loại mặt hàng, nhưng những đoạn quan trọng hơn lại là những đoạn liên
quan đến các vấn đề mang nặng tính lý thuyết hơn. Lý do tại sao những
khó khăn thực tế này nhất định nảy sinh bắt nguồn từ bản chất phân tán
của thông tin kinh tế, bản chất liên tục thay đổi của nhưng dữ liệu này
(một ví dụ là không thể nào giám sát được khẩu vị của người tiêu dùng)
và từ thực tế là cơ quan trung ương không thể tự có những kiến thức về
chi phí sản xuất, mà những kiến thức này phải được phát hiện ra nhờ các
tác nhân kinh tế.
4. Những lập luận của Lange
Trên
thực tế, cách tiếp cận kinh tế lượng thuần tuý đã bị loại bỏ trong
những cống hiến quan trọng nhất cho cuộc tranh luận, điều này được thể
hiện qua những bài viết của Lange vào năm 1936 và 1937 [19] . Lange thừa
nhận rằng giải pháp toán học là không thực tế, mặc dù ông có vẻ không
hiểu vì sao lại thế. Thật lạ lùng, rất lâu sau khi cuộc tranh luận đã
chấm dứt, Lange [20] công bố một bài viết quan trọng trong đó ông nhất
định cho rằng giải pháp toán học trước kia bây giờ đã khả thi nhờ vào sự
phát triển của máy tính - cái đã giúp cho việc xử lý số liệu trở nên dễ
hơn rất nhiều.
Tuy nhiên, trong những bài viết năm 1936 và 1937,
Lange công khai để thị trường làm công việc tính toán: sau đó ông nhận
ra rằng đó chính là cái thể chế đang liên tục giải quyết các vấn đề kinh
tế. Việc thừa nhận như vậy mở đường cho cuộc phản công, rằng nếu chương
trình xã hội chủ nghĩa chỉ có thể khả thi thông qua sự kết hợp với
những thể chế phi xã hội chủ nghĩa, thì phải chăng chính điều đó phủ
nhận sự tồn tại của chủ nghĩa xã hội? Đó chẳng phải là chúng ta trở lại
sự phản đối (iii) và chấp nhận một cách đơn thuần các nguyên lý đạo đức
ngoại biên của hệ thống thị trường tư bản chủ nghĩa? Đó không phải là
câu trả lời của Lange (mặc dù ông thực sự đã đưa một thành tố bình quân
chủ nghĩa vào mô hình của ông), bởi vì chúng tôi sẽ cho thấy ông vẫn chủ
trường rằng các thị trường tư bản chủ nghĩa tạo ra những bất hiệu quả
kinh tế, mà sự tái tổ chức "hợp lý" nền kinh tế có thể khắc phục được
điều ấy. Tuy nhiên, Lange thừa nhận rằng nghiệm của các phương trình mà
quá trình sản xuất đòi hỏi có thể đạt được tốt hơn dưới một số dạng thức
của thị trường. Trong mô hình của Lange, thị trường được thể hiện dưới
hai hình thức: thị trường thực thụ và bán thị trường. Có các thị trường
thực thụ cho hàng tiêu dùng, mà giá cả trên thị trường đó được quyết
định bởi cung và cầu. Hơn nữa, tiền công được xác định bởi thị trường và
do đó sẽ nhất định gặp phải vấn đề bất bình đẳng. Tuy nhiên, thu nhập
của người tiêu dùng sẽ không chỉ bao gồm tiền công, mà còn gồm cả khoản
tiền trả từ một Quỹ Cổ tức Xã hội. Khoản thu nhập thứ hai này là khả thi
vì trong hệ thống sản xuất xã hội chủ nghĩa, "lợi nhuận", sản phẩm của
quyền tư hữu về nguồn lực, sẽ bị thủ tiêu. Lange giả định rằng điều kiện
này sẽ mang lại cho các cấp chính quyền xã hội chủ nghĩa một quyền tự
do định đoạt đáng kể khi quyết định các mức thu nhập: quyền tự do định
đoạt chỉ bị giới hạn bởi thực tế là những phương tiện bình quân chủ
nghĩa như vẫn được coi là đáng quý ấy sẽ không có ảnh hưởng gì đến phân
bổ lao động giữa các ngành nghề. Sự phân bổ này nên được quyết định bởi
sự lựa chọn tự do. Nếu thu nhập được trả cho các nhân tố theo năng suất
cận biên của chúng và các nguyên tắc quản lý được thay thế cho động lực
lợi nhuận, thì nhóm các hàng hoá mà người tiêu dùng mong muốn sẽ được
sản xuất ở mức chi phí thấp nhất có thể. Ngoài lao động và hàng tiêu
dùng, tất cả các mức giá khác (hàng hoá dùng cho sản xuất, đất đai, v.v)
sẽ bị cố định bởi một Hội đồng Kế hoạch Trung ương (HĐKHTƯ).
Lange
nhất định cho rằng giá cả phải có "chức năng tham số"; nghĩa là chúng
phải thể hiện sự hy sinh tương đối của hàng hoá để đảm bảo sự phân bổ
hiệu quả. Tuy nhiên, điều nan giải là cách giải thích của Lange về việc
định giá hàng hoá dùng cho sản xuất lại không có vẻ gì nhất quán với
điều này. Ông viết: “giá của hàng tư bản và các nguồn lực sản xuất không
phải lao động là những mức giá hiểu theo nghĩa tổng quát hoá, tức là,
các chỉ số thay thế là có sẵn, được cố định vì lý do hạch toán." [21]
Nói cách khác, giá của các hàng hoá này có thể được cố định và điều
chỉnh một cách khá tuỳ tiện bởi HĐKHTƯ vào cuối mỗi kỳ hạch toán nhất
định nhằm loại bỏ sự thiếu hụt hoặc thặng dư nếu xảy ra. Đây là bản chất
của cách tiếp cận "thử và sai". Trên thực tế, HĐKHTƯ có trách nhiệm
phải đóng vai trò của người bán đấu giá kiểu Walras [22] trong mô hình
cân bằng tổng quát: tập hợp giá cả làm cân bằng cung và cầu trong mọi
thị trường được tìm ra bởi một chính quyền trung ương chứ không phải
thông qua một quá trình liên tục của sự cạnh tranh khốc liệt giữa các
tác nhân con người. Chỉ vì lý do này thôi, mô hình của Lange cũng có thể
bị phê phán là tĩnh chứ không phải động.
Người quản lý của Lange
không phải là các doanh nhân, nhưng hệ thống của ông phải cung cấp một
cơ chế qua đó họ hành động như thể họ là các doanh nhân nhưng không có
các động lực khuyến khích truyền thống đi liền với tinh thần doanh
nghiệp. Nhìn bề ngoài, điều này dường như là một nhiệm vụ bất khả thi;
phải chăng ông đã cắt bỏ độ trễ của những người tham gia giao dịch kinh
tế và rồi đòi hỏi họ phải chạy với tốc độ cực kỳ nhanh? Trên thực tế,
đây chính là mục đích đằng sau hai nguyên tắc mà các nhà quản lý xã hội
chủ nghĩa nhất định bị buộc phải tuân theo. Chúng có thể được tóm tắt
như sau. Nguyên tắc thứ nhất là những nhà quản lý ấy sẽ phải kết hợp các
nhân tố sản suất (tại những mức giá cho trước) nhằm sản xuất ra ở mức
chi phí thấp nhất. Nguyên tắc thứ hai là quy mô của đầu ra bị cố định ở
điểm tại đó chi phí cận biên ngang bằng giá của sản phẩm.
Sự
chỉ trích quá trình thử và sai của Lange-Taylor nhấn mạnh vào sự bất
lực của nó khi giải quyết các vấn đề gắn liền với các nền kinh tế trong
thế giới thực. Trong một thế giới luôn đổi thay và có nhiều bất trắc,
những mức giá bị cố định bởi HĐKHTƯ nhất định phải biến động chậm hơn
những mức giá ấy trong thị trường tự do thực thụ, và do đó sẽ không phản
ánh được một cách chính xác mức độ hy sinh tương đối; nói cách khác,
giá cả sẽ không thực sự đóng vai trò tham số. Thêm vào đó, sự trao đổi
trên thị trường là sự trao đổi phi tập trung, trong đó các cá nhân nỗ
lực tìm kiếm những cơ hội mang lại lợi nhuận: nó không phản ứng một cách
tự động trước các mức giá đã bị quyết định từ trung ương. Các mức giá
này chẳng phải gì khác ngoài những phỏng đoán, như cách nói của Hayek,
“những hoàn cảnh đặc biệt về thời điểm và địa điểm sẽ không còn giá trị
gì nữa" [23] . Chúng chỉ có ý nghĩa và vai trò trong một thế giới tĩnh
không có sự thay đổi về thị hiếu và kỹ thuật sản xuất mà thôi.
Những
xem xét tương tự cũng được áp dụng cho các nguyên tắc mà người quản lý
doanh nghiệp nhà nước phải tuân theo. Mệnh lệnh tối thiểu hoá chi phí
chỉ có ý nghĩa trong một thế giới có các mức chi phí đã biết trước,
nhưng khi không còn các chi phí “cho trước", đó chỉ là một khẩu hiệu
rỗng tuếch. Nếu các nhà quản lý được trả lương, thì hầu như chắc chắn là
họ sẽ không khai thác những cơ hội mang lại lợi nhuận tồn tại trong
hoạt động kinh tế. Trên thực tế, những cơ hội lợi nhuận này, cái thể
hiện phần thu được thuần tuý của các doanh nhân (tương phản với thu nhập
trả cho một nhân tố sản xuất để giữ nó hoạt động), sẽ không tồn tại
trong thế giới cân bằng kinh tế của Lange. Tuy nhiên, vấn đề căn bản là
làm thế nào đạt tới một thế giới như vậy. Chắc chắn không phải nhờ các
cấp chính quyền sáng chế ra giá cả và các nhà quản lý tuân theo nguyên
tắc. Vì các nhà quản lý, những người không phải chủ sở hữu tài sản,
không thể không bảo vệ quyền lợi của mình trước những hành động mạo
hiểm, nên họ có xu hướng thận trọng trong hành động của mình. Hầu như
chắc chắn rằng họ sẽ che đậy bản chất thực sự của các chi phí.
Do
đó, các vấn đề của trật tự xã hội chủ nghĩa liên quan đến động lực làm
việc và tri thức. Tất nhiên, tính toán kết quả của một trật tự cạnh
tranh hài hoà tuyệt đối trong đó không có lợi nhuận có thể khả thi về
mặt logic, nhưng điều này khác xa một lý giải mang tính lý thuyết. Sự lý
giải mang tính lý thuyết phải xem xét tới thực tế là xã hội con người
bao gồm những người đang hành động, họ đòi hỏi một khuôn khổ thể chế phù
hợp để tiềm năng của họ được thể hiện ra. Những khoản lợi nhuận “bất
thường" của các doanh nhân được biện minh trên một cơ sở vị lợi, rằng
chính chúng truyền lực cho một hệ thống mà thiếu chúng sẽ không còn động
lực nào nữa. Như thế, lập luận bình quân chủ nghĩa của Lange, cái cho
rằng sự loại bỏ lợi nhuận tư nhân cho phép xuất hiện khoản Cổ tức Xã hội
để trả cho các cá nhân, là vô giá trị vì trong các thị trường thực,
không thể nào tách một thứ Cổ tức kiểu đó ra khỏi bản thân quá trình
kinh tế. Thực vậy, có thể hình dung ra ảnh hưởng của cái viễn cảnh khi
mọi người nhận được trợ cấp từ quỹ Cổ tức sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng ra
sao đến việc cung ứng lao động, bất chấp sự phủ nhận ngoan cố của Lange.
Về
vấn đề tri thức kinh tế, mô hình xã hội chủ nghĩa rất dễ bị tổn thương
trước sự phản đối mang tính nhận thức luận, được đưa ra sau khi cuộc
chiến đầu tiên đã nguội đi, bởi nhiều người mà đáng kể nhất trong số đó
là Hayek, Polanyi và Oakeshott [24] [25] . Hayek nhiều lần nhắc đi nhắc
lại sự khác nhau giữa tri thức tập trung và phân tán, còn Polanyi thì là
giữa tri thức công khai và ngầm ẩn, và Oakeshott là giữa tri thức thực
tiễn và kỹ thuật; nhưng tất cả bọn họ đều muốn nói tới một hiện tượng
rất giống nhau. Đó là toàn bộ tri thức của con người không chỉ nằm trong
những thứ có thể được tuyên bố lên một cách rõ ràng. Polanyi khẳng định
rằng tri thức, ... được thể hiện qua văn tự hay hình ảnh, hoặc qua công
thức toán học, chỉ là một hình thái của tri thức mà thôi; trong khi đó
tri thức không được hình thức hoá, ví như ta thu được một cái gì đó khi
đang hành động, cũng là một hình thái khác của tri thức. [26]
Oakeshott
(và Hayek) thường đề cập đến di sản tư tưởng của Đề-các trong triết học
châu Âu, hệ thống quan điểm cho rằng trí óc có thể thu nhận được mọi
kinh nghiệm (với thành kiến) và do đó tạo ra các nguyên tắc hành động
được suy diễn trực tiếp từ những tiền đề đúng tuyệt đối. Trong khi nỗ
lực làm như thế, chúng ta vô tình loại bỏ toàn bộ “tri thức thực tiễn"
(‘practical knowledge’), những thứ bao gồm, nói ví dụ, hoạt động kinh tế
và quản trị, những thứ làm đời sống xã hội đầy ý nghĩa. Hoạt động kinh
tế là một hình thức hoạt động thực tiễn không thể được truyền dạy hay
tái tạo một cách chính xác vì nó bao hàm các tri thức không thể hình
thức hoá.
Một dấu hiệu rõ nét chứng tỏ Lange không nhận
thức được sự khác biệt trên có thể được tìm thấy trong bài viết với
nhiều suy ngẫm hơn và được công bố rất lâu về sau, bài “Máy tính và Thị
trường". Ở đây, ông đề cập trở lại một cách rành mạch khuyến nghị ban
đầu cho rằng sự tính toán bằng toán học có thể giải quyết được các vấn
đề kinh tế, do đó chẳng cần tới thậm chí một hình thức hao hao cơ chế
thị trường. Năm 1967 ông viết: “quá trình thị trường cùng với sự dò dẫm
(tatonnements) [27] phiền hà của nó dường như đã trở thành lỗi mốt. Thực
vậy, có thể coi nó như một phương tiện tính toán của thời đại tiền-điện
tử mà thôi." [28] Nói cách khác, ông nhìn nhận thị trường với tư cách
nó đang làm việc với loại tri thức là đối tượng làm việc của máy tính,
nhưng thị trường làm theo cách thức thật kém hiệu quả và tốn thời gian.
Ông gợi ý thêm rằng máy tính hiện đại có thể giải các bài toán về sự
không hoàn hảo của thị trường và các chu kỳ kinh doanh một cách chính
xác bởi vì nó có khả năng truy cập tức thời tới các thông tin, mà nếu để
các tác nhân kinh tế là con người giao dịch với nhau thì còn lâu chúng
mới xuất hiện. Ngay cả ở chỗ ông thừa nhận rằng thị trường vẫn có thể ưu
việt hơn máy tính, ông cũng chỉ cho rằng bởi vì “có thể có (và có) các
quá trình kinh tế phức tạp, theo nghĩa số lượng mặt hàng và chủng loại
phương trình rất lớn, đến nỗi không một máy tính nào có thể xử trí hết
được," [29] chứ không phải vì một đặc điểm khác biệt nào đó ngay trong
nội tại bản chất của tri thức kinh tế.
Tất nhiên, ở đây
có một số điểm tương đồng rõ rệt giữa các hoạt động máy móc của máy
tính và của thị trường. Thị trường là một hệ thống truyền đạt thông tin
vận hành qua cơ chế “phản hồi thụ động" (‘negative feedback’), nhưng
thông tin được truyền tải không phải là tri thức “cho trước" hay “khách
quan", mà là tri thức phân tán và ngầm ẩn. Vấn đề kinh tế không chỉ là
vấn đề phân bổ, trong đó các phương tiện khan hiếm được định hướng một
cách máy móc tới các cứu cánh khác nhau, mà đó là vấn đề phối hợp, được
đặc trưng bởi các cá nhân sử dụng phần tri thức của riêng họ cho các mục
đích của riêng họ, vì thế sản sinh ra một kết quả chung không phải là
bộ phận của một mục tiêu có chủ đích của bất cứ ai. Nhưng, về nguyên
tắc, cái tri thức về căn bản mang tính chủ quan này không có khả năng
được chuyển đổi thành tri thức khách quan, nghĩa là thị trường quyết
không phải một dụng cụ giải phương trình, mặc dù nó chính là phương pháp
để giải quyết vấn đề.
Người ta chỉ có thể chấp nhận
một hệ thống kiểu Lange hoạt động trong bối cảnh của sự quá độ từ một hệ
thống tư bản chủ nghĩa, trong đó mọi mức giá đều đã bị quyết định trước
bởi một thị trường đang hoạt động đầy đủ: những mức giá này sẽ cung cấp
tín hiệu cho các nhà lập kế hoạch ở trung ương. (Những mức giá này sẽ
phản ánh tri thức ngầm ẩn.) Nhưng do sự thay đổi không ngừng, một hiện
tượng đặc trưng của xã hội kinh tế loài người, những thông tin ấy sẽ
nhanh chóng trở nên lỗi thời. Như chúng tôi đã chứng minh, quá trình thử
và sai, cái lẽ ra phải được thực hiện ngay khi thiếu hụt hoặc thặng dư
xảy ra, không thể đóng vai trò của một thị trường thực thụ. Mô hình của
Lange chỉ có thể hoạt động trong một thế giới tĩnh, ở đó ít hay nhiều
thì những kết quả giống hệt nhau cứ được tái sản sinh ra mãi.
Tất
nhiên, trong các nền kinh tế kế hoạch hoá hiện nay, không có hệ thống
nào hoạt động theo mô hình của Lange. Lựa chọn của người tiêu dùng không
đóng vai trò quyết định trong quá trình sản xuất ra hàng hoá và các nhà
quản lý không tuân theo các nguyên tắc được thiết kế để tái sản xuất ra
các trạng thái cân bằng. Tuy nhiên, ngay cả trong các hệ thống này, tri
thức ngầm vẫn được lan truyền: dưới hình thức tham nhũng và qua các tín
hiệu giá cả quốc tế từ các nước tư bản chủ nghĩa xung quanh. Thực vậy,
khi không có các nguồn tri thức kinh tế này, rất khó nhận ra bất cứ cơ
sở hợp lý nào đằng sau các hệ thống kế hoạch hoá. Trên thực tế, không có
chúng, các hệ thống này có thể sụp đổ dễ dàng và quan điểm sơ khởi của
Mises rằng chủ nghĩa xã hội không hề khả thi về mặt lý luận sẽ được minh
chứng. Các bằng chứng thực tế vào giai đoạn sơ kỳ của lịch sử kinh tế
Liên bang Xô Viết có thể coi như một ví dụ tốt. Còn gì làm các lý thuyết
gia xã hội chủ nghĩa bối rối hơn khi một hệ thống được cho là hợp lý
như của Lange, trong chừng mực nó làm suy giảm dòng tri thức ngầm, lại
đơn thuần chỉ dựa trên tham nhũng và các tín hiệu giá cả quốc tế để sống
còn?
5. Một số suy ngẫm chung
Các
cuộc tranh luận kinh tế giữa những người xã hội chủ nghĩa và những
người phi xã hội chủ nghĩa chấm dứt vào quãng năm 1948: từ đó về sau,
chúng tiến triển theo nhiều hướng khác nhau. Trong khi các triết thuyết
xã hội tổng quát được phát triển bởi Hayek, Polanyi và những người khác
có khuynh hướng hậu thuẫn cho luận điểm kinh tế tổng quát của chúng, thì
các nhà triết học xã hội chủ nghĩa lại không làm được như vậy. Trên
thực tế, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã tiến triển theo cách thức làm xói
mòn một số tiền đề chủ yếu của các nhà xã hội chủ nghĩa thị trường. Đáng
kể nhất là sự loại bỏ giả định về tính tự định của người tiêu dùng. Đơn
giản là các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa đương đại không chấp nhận
rằng sở thích là sản phẩm của một ý chí tự định mà nương theo đó các nhà
sản xuất bước theo, mà họ nhấn mạnh đến sự phụ thuộc lẫn nhau của tiêu
dùng và sản xuất. Điều này đồng nghĩa với việc người sản xuất có thể tạo
ra nhu cầu, do đó các thể chế tư bản chủ nghĩa hiện đại trở thành những
ông chủ đi cưỡng bức chứ không phải những tên nô lệ phục tùng các chủ
thể tự do.
Chính điều này đã khiến cuộc tranh luận giữa
các nhà xã hội chủ nghĩa và những người phi xã hội chủ nghĩa trở nên
rất khó phân định. Bởi vì, nếu những quan niệm cách nhau như trời vực về
cái tôi nằm trong bản chất sâu xa nhất của cơ sở lý luận tư bản chủ
nghĩa và xã hội chủ nghĩa, thì đến bao giờ cuộc tranh luận mới có thể ăn
khớp được với nhau? Thực tế rằng hệ thống sản xuất xã hội chủ nghĩa
không thể “tính toán" một cách đầy đủ sẽ có tác động rất ít tới các nhà
tư tưởng chủ trương rằng cách “tính toán" tư bản chủ nghĩa dẫn tới việc
các cá nhân thụ động bị tấn công bởi những mặt hàng tiêu dùng họ “không
cần tới". Mặc dù, có lẽ, nếu có thể nói rằng quan điểm cực đoan của
Mises (và thực sự cũng là của Polanyi) cho rằng hệ thống sản xuất xã hội
chủ nghĩa thực sự bất khả thi, thì cũng có thể suy diễn tiếp rằng không
thể làm thoả mãn ngay cả các nhu cầu “khách quan".
Một
hàm ý sâu xa hơn nữa của kiểu suy lý này là một lập luận phụ của Hayek
cho rằng hệ thống sản xuất xã hội chủ nghĩa là không tương thích với sự
tự do (liberty) cũng kém phần thuyết phục đối với các nhà xã hội chủ
nghĩa. Lập luận kiểu Hayek luôn luôn thuộc loại lập luận vị lợi, nghĩa
là ngay cả khi các nhà xã hội chủ nghĩa chấp nhận giá trị của sự tự do
theo nghĩa là lựa chọn cá nhân, thì một hệ thống kế hoạch hoá, do nó xét
đến cùng liên quan đến việc “chính trị hoá" hay đến mọi hành động kinh
tế, sẽ nhất định phải thủ tiêu những mảng rộng lớn của sự lựa chọn này.
Điều này được thể hiện rõ ràng nhất qua sự thừa nhận của Lange rằng tỷ
lệ tiêu dùng/thu nhập của một hàng hoá là sự ưu tiên theo thời gian của
các cá nhân. [30] Nhưng chỉ khi các triết gia xã hội chủ nghĩa không
chấp nhận rằng sự tự do cá nhân là tương đương với sự lựa chọn, và nhất
định cho rằng lời giải thích đúng đắn về tự do phải bao gồm cả sự diễn
tả cái bối cảnh trong đó các lựa chọn được thực hiện, thì những phê phán
kiểu Hayek mới chỉ gần trúng mục tiêu. Tuy nhiên, đây không phải là lúc
thảo luận chi tiết, hay thậm chí là đánh giá, các quan niệm khác nhau
về tự do.
Thậm chí nếu các lý thuyết gia theo chủ nghĩa tự do (cổ
điển) và xã hội chủ nghĩa đương đại có thể nhất trí với nhau về các quan
niệm tự do và chủ thể cá nhân (personal agency), thì vẫn còn những vấn
đề đạo đức học mãi mãi chia cắt họ. Những vấn đề này tất yếu dẫn họ trở
lại tiêu chuẩn của sự phân phối công bằng. Xét một cách thận trọng, cuộc
tranh cãi được thảo luận trên kia không liên quan gì đến các vấn đề đạo
đức học, mặc dù chủ nghĩa bình quân rõ ràng là ý thức hệ chính của
những người xã hội chủ nghĩa. Cả hai bên đều chấp nhận lý thuyết năng
suất cận biên như là tiêu chuẩn của phân phối thu nhập: nhưng, tất
nhiên, đó là một nguyên lý về tính hiệu quả chứ không phải là một nguyên
lý đạo đức học. Sự khác nhau nằm ở chỗ các nhà xã hội chủ nghĩa cho
rằng lợi nhuận kinh doanh không được phép truyền lực cho cỗ máy kinh tế.
Lại một lần nữa, những người phi xã hội chủ nghĩa không đề cập tới bất
cứ một “quyền" sở hữu tài sản mang tính đạo đức nào có được nhờ một quá
trình trao đổi: nó đơn thuần là sự cần thiết mang tính phương tiện.
Cơn
thịnh nộ của các nhà xã hội chủ nghĩa đương đại đổ lên đầu lợi nhuận
kinh doanh thực ra không đúng chỗ, bởi vì các nhà xã hội chủ nghĩa thị
trường đã thừa nhận rằng một cái gì thế chỗ cho động lực lợi nhuận là
cần thiết cho nền kinh tế tập thể chủ nghĩa: tiếc thay, trên thực tế,
động lực này đã biến thành động lực chính trị chứ không phải kinh tế.
Thật đáng buồn là các nhà xã hội chủ nghĩa đã để tâm chú ý tới sự phân
phối bất công của quyền lực chính trị, kết quả của sự xoá bỏ tinh thần
kinh doanh, ít hơn so với việc chú trọng vào cái mà họ cho là bất bình
đẳng về thu nhập và của cải, đặc điểm tiêu biểu của chủ nghĩa tư bản.
Một
hướng nghiên cứu hữu ích hơn (nếu điều này được các nhà xã hội chủ
nghĩa chấp thuận) lẽ ra nên hướng về vấn đề lý lẽ biện minh mang tính
đạo đức học cho những quy ước đầu tiên về quyền sở hữu để từ đó quá
trình trao đổi bắt đầu. Bởi vì, xét về mặt logic, thì quá trình trao đổi
phải bắt đầu với những đối tượng bản thân nó không phải là sản phẩm của
sự trao đổi. Bất kể bản chất sâu xa, mang tính kinh tế hay đạo đức, của
sự bất bình đẳng về sở hữu nảy sinh từ các quá trình thị trường là thế
nào chăng nữa, thì cũng không thể phủ nhận được sự thực là triết học
chính trị và kinh tế tự do cổ điển thiếu đầy đủ hiểu theo nghĩa là nó
không đưa ra được một cơ sở hợp lý cho quyền sở hữu tài sản đầu tiên.
Lưu ý rằng đây không phải một lập luận được hiểu theo nghĩa là chủ nghĩa
tự do cổ điển đòi hỏi một học thuyết bình đẳng về cơ hội để những phê
phán về bình đẳng về thành quả trở nên hữu hiệu. Chắc chắn là, những
người theo chủ nghĩa tự do kiên định phải thừa nhận quyền thừa kế (của
những tài sản có được một cách hợp pháp) nếu học thuyết của anh ta không
trở nên bị đồng nhất với nền dân chủ xã hội. Do đó, một cách tất yếu,
chủ nghĩa tự do đòi hỏi sự bất bình đẳng về cơ hội.
Những
vấn đề thực tế liên quan đến tính hợp pháp của tài sản đang trong quá
trình chuyển giao thừa kế. Phải chăng một người sẽ không được quyền sở
hữu tài sản đã từng có được nhờ vũ lực, bất kể sự chiếm hữu đã xảy ra từ
lúc nào trong quá khứ xa xôi? Liệu các cá nhân có thể chiếm đoạt làm
của riêng những tài sản cần thiết cho sự sinh tồn của những người khác
hay không? Liệu thực tế rằng đất đai là có cung cố định và đem lại tô
kinh tế thuần tuý cho người chủ may mắn, có khiến nó trở thành một hàng
hoá kinh tế đặc biệt và phù hợp một cách lạ lùng cho sự tái phân phối
tập thể nào đó hay không?
Tôi không có ý định thử trả
lời những câu hỏi này: chúng đã được thảo luận rất nhiều trong các bài
viết về triết học chính trị trong suốt mời năm qua [31] (tất nhiên,
chúng đã được nêu lên từ hàng thế kỷ trước). Chỉ có điều quan trọng cần
lưu ý là mối liên hệ của chúng với cuộc tranh luận kinh tế và triết học
giữa các nhà xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa. Mặc dù vào những
năm 1930 điều này đã được nêu lên trong hàng ngũ của những người theo
chủ nghĩa vị lợi nói chung (thực ra thì mọi loại kinh tế học ứng dụng
đều mang tính vị lợi), nhưng rõ ràng là các vấn đề liên quan đến việc
đòi quyền sở hữu ban đầu không thể được giải quyết một cách dễ dàng đến
thế nhờ những nghiên cứu mang tính hệ quả luận. Đi chứng minh rằng, vì
những lý do lý thuyết chặt chẽ, các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa không
thể tính toán một cách hữu hiệu như các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa,
không phải là đi chứng minh cho hiện trạng chính trị và đạo đức của chủ
nghĩa tư bản. Phải chăng điều này có nghĩa là chúng ta lại một lần nữa
trở lại luận điểm rằng các nhà xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa
nhất định phải tranh cãi từ những tiền đề khác nhau, cho nên sẽ không
thể nào đạt được sự nhất trí giữa hai bên?
Tôi tin rằng
xét đến cùng thì điều trên là đúng: nhưng chỉ là xét đến cùng mà thôi.
Nghĩa là, không có lý do nào trong cái logic tại sao một người không nên
mong muốn từ bỏ mọi lợi thế mang tính vị lợi của chủ nghĩa tư bản trên
cơ sở hoặc vì những bất bình đẳng về thu nhập nhân tố, cái tất yếu là
một phần của chủ nghĩa tư bản, đơn giản là không thể chấp nhận được;
hoặc vì nó thiếu một lý thuyết đầy đủ về quyền sở hữu. Nhưng những cuộc
tranh cãi truyền thống không phải lúc nào cũng đạt tới mức này, ít ra là
nằm ngoài cái không gian tế nhị của triết học chính trị và đạo đức. Như
những thảo luận trong cuộc tranh luận của thập niên 1930 cho thấy, các
nhà xã hội chủ nghĩa đã hiểu nhầm bản chất của quá trình kinh tế và giả
định rằng, dưới một dạng duy lý điển hình, cái “động tính" (‘animal
spirits’) [32] của chủ nghĩa tư bản có thể được thay thế bằng những hành
động của một nhà kế hoạch toàn giác và nhân từ. Nhưng dĩ nhiên điều này
không phải là một lập luận đạo đức học.
Chính sự thất
bại trong việc phân biệt rõ các phạm trù khác nhau của cuộc tranh luận
đã đẩy cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đến
chân tường. Các phạm trù này có thể được tóm tắt lại như sau: các lập
luận mang tính thực nghiệm thuần tuý như những hoạt động quan sát được
của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, các lập luận
mang tính lý thuyết như những lý do của những hoạt động ấy, và các lập
luận đạo đức học như nền tảng đạo đức cho mỗi hệ thống. Bài viết này mới
chỉ quan tâm đến loại lập luận thứ hai trong số các loại trên. Đối với
tác giả, dường như một sự xem xét về cuộc tranh luận thực thụ duy nhất
giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đã được giải quyết thông qua
loại lập luận sau cùng. Nhưng một phần của cái có vẻ đúng đắn của trường
hợp xã hội chủ nghĩa lại bắt nguồn từ thực tế là những suy xét xuất
phát từ đạo đức đã bị pha trộn mà không tài nào gỡ ra được với những thứ
đi liền với kinh tế học theo chủ nghĩa vị lợi và hệ quả luận.
Ghi chú cá nhân:
Dịch xong ngày 22 tháng Chín 2003 tại Hà Nội.
Sửa chữa và chú thích: ngày 6-10 tháng Ba 2004 tại Tokyo.
Chỉnh lý gần đây nhất: ngày 17 tháng Sáu 2004 tại Tokyo.
© 2004 talawas
[1]Chủ nghĩa xã hội, tr. 113.
[2]‘Tính toán kinh tế trong Khối thịnh vượng chung xã hội chủ nghĩa’, tr. 103.
[3]Sđd, tr. 109.
[4]Hành động con người, New Haven, Nxb trường Đại học Yale, 1963, tr. 248.
[5]Chủ nghĩa xã hội, tr. 205-208.
[6]Sđd, tr. 457.
[7]Sđd, tr. 212-216.
[8]Sđd, tr. 119.
[9]Sđd, tr. 181-184.
[10]Sđd, tr. 402.
[11]Sđd, tr. 430-434.
[12]Nghĩa là vấn đề về quyền sở hữu ở thời điểm đầu tiên trong lịch sử nảy sinh quan hệ sở hữu. (ND)
[13]Hoặc “trạng thái khi đạt được mục đích cuối cùng." (ND)
[14]‘Lý
thuyết Cân bằng tổng quát’, trong D. Bell và I. Kristol (eds.), Cuộc
khủng hoảng trong lý thuyết kinh tế, New York, Basic Books, 1981, tr.
125. In nghiêng trong nguyên bản.
[15]‘Định hướng sản xuất trong một Nhà nước xã hội chủ nghĩa’, tr. 7-9.
[16]‘Tình hình hiện thời của cuộc tranh luận’, trong Kế hoạch hoá kinh tế tập thể chủ nghĩa, tr. 207.
[17] Sđd, tr. 208.
[18] Sđd, tr. 209-210.
[19]Oskar
Ryszard Lange (1904-1965) là một trong những nhà kinh tế xã hội chủ
nghĩa lớn nhất trong thế kỷ XX, từng là học trò của Joseph Schumpeter
trong thời gian du học ở Đại học Havard, sau đó giảng dạy ở nhiều trường
đại học lớn của Mỹ như Michigan, Chicago. Trong những năm sau Thế
chiến, Lange tham gia thành lập chính quyền mới tại Ba Lan. Ông lần lượt
nắm giữ các chức vụ Đại sứ Ba Lan tại Hoa kỳ, đại biểu của Ba Lan tại
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, đại biểu quốc hội, và Uỷ viên Trung ương
Đảng Lao động Ba Lan. Năm 1948 Lange trở lại với cuộc sống học thuật,
giảng dạy tại Trường Kế hoạch và Thống kê Trung ương tại Warsaw và sau
đó tại Đại học Warsaw. (ND)
[20]‘Máy tính và thị trường’, C. H.
Feinstein (ed.), Chủ nghĩa tư bản, Chủ nghĩa xã hội và Tăng trưởng kinh
tế, Nxb trường Đại học Cambridge, 1967, tr. 158-161. In lại trong Kinh
tế học xã hội chủ nghĩa, tr. 401-405.
[21]‘Về Lý thuyết kinh tế của Chủ nghĩa xã hội’, tr. 93.
[22]Marie-Ésprit
Léon Walras (1834-1910) nhà kinh tế học vĩ đại người Pháp, cha đẻ của
phương pháp phân tích cân bằng tổng quát trong kinh tế học. Hàm ý to lớn
trong lý thuyết của ông là luôn tồn tại một trạng thái cân bằng trên
toàn bộ các thị trường của nền kinh tế. Trước khi đến với kinh tế học,
Walras đã thử qua nhiều nghề, trong đó có viết tiểu thuyết, nhưng đều
thất bại. Những tranh luận của phái Lange dựa nhiều vào tư tưởng cân
bằng tổng quát của Walras, và đã thu được nhiều thắng lợi tạm thời trên
bình diện lý luận. (ND)
[23]‘Giải pháp cạnh trạnh’, trong Chủ nghĩa cá nhân và trật tự kinh tế, tr. 193.
[24]Karl
Polanyi (1886-1964) nhà triết học, xã hội học, sinh ra ở Viena, lớn lên
ở Budapest, sau Thế chiến I di cư sang Anh từ năm 1933 đến 1947. Trong
giai đoạn ở Anh, ông nổi tiếng thế giới với kiệt tác The Great
Transformation (1944). Năm 1947 Đại học Columbia mời ông sang giảng dạy,
nhưng vì vợ ông, một yếu nhân trong Cuộc cách mạng bất thành ở Hungary
những năm đầu thập kỷ 1920, bị từ chối cấp visa vào Mỹ, nên hai ông bà
đã chuyển sang Canada và sống ở đó đến cuối đời.
Michael Oakeshott
(1901 - 1990) nhà triết học chính trị và lịch sử chính trị người Anh.
Ông làm giáo sư Khoa học Chính trị tại Trường Kinh tế London (LSE) từ
năm 1951 đến năm 1969. (ND)
[25]Xem các công trình về sau của
Hayek về triết học xã hội, đặc biệt là, Hiến pháp của Tự do, London,
Routledge, 1960, và Nghiên cứu về Triết học, Chính trị học và Kinh tế
học, London, Routledge, 1967; Michael Oakeshott, Chủ nghĩa duy lý trong
Chính trị học, London, Methuen, 1962; và Michael Polanyi, Logic của Tự
do, Chicago, Nxb trường Đại học Chicago, 1951, Tri thức cá nhân, London,
Routledge, 1958, và Nghiên cứu về con người, Chicago, Nxb trường Đại
học Chicago, 1959.
[26]Nghiên cứu về con người, tr. 12.
[27]Thuật
ngữ có nguồn gốc từ Walras. Các lực lượng thị trường sẽ tương tác với
nhau, liên tục chuyển từ trạng thái không cân bằng này sang trạng thái
không cân bằng khác (dò dẫm), mà không phụ thuộc vào ý chí hoặc mục đích
của các cá nhân. Sau một thời gian, chúng tất yếu tự tiến tới trạng
thái cân bằng, không chỉ trên một thị trường mà toàn bộ các thị trường.
(ND)
[28]‘Máy tính và thị trường’, tr. 402.
[29]Sđd, tr. 403.
[30]‘Về Lý thuyết Kinh tế của Chủ nghĩa xã hội’, tr. 100-101.
[31]Tác giả viết bài này vào năm 1984. (ND)
[32]Thuật
ngữ bắt nguồn từ Keynes (xem The General Theory 1936, trang 161-162),
cho đến nay vẫn gây nhiều tranh cãi. Nhưng hàm ý chủ yếu là trong nhiều
tình huống kinh tế, con người hành động theo tình cảm bi quan hay lạc
quan tức thời, chứ không nhất định phải dựa vào các suy tính chính xác
của toán học hay thống kê. (ND)
No comments:
Post a Comment