Friday, September 19, 2008

TUYẾT HUY * KHẢO CỨU VỀ SỰ THI TA

====

Tuyết Huy

===

Giới thiệu:
Tiên sinh tên thật là Dương Bá Trạc ( 1884-1944), quê ở làng Phú Thị, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, lá anh ruột của Dương Quảng Hàm, và Dương Tụ Quán .Tiên sinh đỗ cử nhân Hán học năm canh tí (1900) lúc 16 tuổi nhưng không ra làm quan, chỉ tích cực hoạt động cách mạng. Tiên sinh tham gia trường Đông Kinh Nghĩa Thục, năm mậu thân (1908) bị Pháp kết án 15 năm đày Côn Đảo.Sau tiên sinh về, cộng tác với Nam Phong tạp chí. Khoảng 1932, tiên sinh cùng Dương Tụ Quán lập Văn Học tạp chí tại Hà Nội (Tuyết Huy giữ chức chủ bút còn Dương Tụ Quán làm chủ nhiệm). Năm 1943, người Nhật đưa Tiên sinh cùng Trần Trọng Kim qua Singapore nhưng khi đến dây tiên sinh mất vì bệnh ung thư.

Tác Phẩm: +Tiếng Gọi Đàn (văn)
+ Nét Mực Tình (thơ)
+Chữ Nho Học Lãy
+Chức Trách Sĩ Lưu

Bài ''Khảo cứu về sự thi ta'' của tiên sinh đăng trong Nam Phong tạp chí số 23, tháng 5-1919, trang 373-385, nay gần 100 năm vẫn sáng ngời giá trị lịch sử, vì vậy người nghiên cứu xin được phép đưa vào GIA HỘI THƯ TRANG để độc giả tham khảo. Trong bài này, Tuyết Huy tiên sinh chú thích rất kỹ lưỡng (chữ đứng) , nếu cần, người nghiên cứu cũng xin chú thích thêm (chữ nghiêng.). cho rõ ràng..

Nguyễn Thiên Thụ

====




I. PHÁT ĐOAN


Xưa nay có nước tất phải có người làm việc nước bất luận nước nào cũng đều cần phải có quan trong quan ngoài, người giữ việc này, kẻ lo chức kia thì công việc trong nước mới đâu ra đãy được. Những hạng ngưòi ấy bởi đâu mà có? Đại khái bởi ba đường này:

(1). là do tiến cử, như lệ các quận quốc cử người hiền lương phương chính ở đời Hán bên Tàu, lệ quan Tổng lý nội các cử các viên ở nước Pháp, nước Anh bên Âu châu, lệ các quan kinh, tỉnh cử trí ở đời Lê và bản triều ta vậy.
(2). là do sự sát hạch trong trường học như phép tường tự học hiệu về đời Tam đại bên Tàu , phép hạch tốt nghiệp ở các trường học bên tây, phép học Giám của ta vậy.
(3). là do thi cử như thi hương, thi hội ở bên Tàu ở bên Tàu và bên ta, các sở thi lấy người làm việc ở Tây vậy.


Ba cách lấy ấy làm ra đều có thành hiệu mà cũng không có cách nào khỏi mối tệ: tiến cử thì thiện loại cùnbg nhau cất nhắc được nhưng có người lạm dụng cái quyền tiến cử của mình, bà con, quen thuộc, không khỏi cái tệ thiên tư; thi cử thì thủ xả khó điều tình vị được, nhưng bình thời không biết tài học của người ta, vàng thau ngọc đá, không khỏi có tệ hỗn hào; sát hạch trong trường học thì giỏi dở hơn kém, có thể biết tinh tường được, nhưng có nhiều người thác thỉ khôi kỳ, không chịu được khuôn khổ nhà trường thúc phọc cũng không khỏi cái tệ di tài. Tuy nhiên, so sánh trong ba cách ấy, có cái thành hiệu nhiều mà mối tệ it, có cái thành hiệu it mà mối tệ nhiều. Việc thiên hạ không gì toàn lợi cũng không gì toàn hại; chỉ tính cái phân số lợi hại nhiều ít mà làm là phải. Cách tiến cử thiên tư phần nhiều, chớ đắc nhân phần it, cách thi cử kiểu hãnh phần nhiều chớ thực tài phần it; duy cách sát hạch trong trường học hàng ngày vét được tính nết tốt xấu, công khóa hơn thua, tính nốt ( note) có sổ, lên lớp có thi, đến kỳ tốt nghiệp, sát hạch tất không lầm nữa; dù quan giám khảo có muốn tư vị đi nữa nhưng sức học hồi bình nhật, thầy giáo đã công nhận, đồng bối đã biết nhau, khoé gian cũng dễ lòi ra được, kẻ làm gian có chỗ sợ mà không dám làm lung nên so sánh trong các cách lựa lấy người, có cách sát hạch trong trường học là công chánh, có thành hiệu nhiều, mối tệ it hơn cả. Huống chi đời bây giờ sự giáo dục nước nào cũng mỗi ngày một tiến bộ, trong nước người nào cũng có ở qua trường học, làm nghề gì cũng phải có học trường học chuyên môn nghề ấy, thì những người thác thỉ kỳ khôi thì dù có cái tư cách không hợp ở trường học này, tất có hợp ở trường học khác, đã hợp tất chịu được quy củ trường ấy mà học đến tốt nghiệp thành tài; cái tệ di tài cũng không lấy làm quan ngại vậy. Các nước văn minh bây giờ, cách lựa lấy người đều dùng cách sát hạch trong trường học cả (NP 373) tuy cũng có cách tiến cử, cách thi nhưng vẫn lấy cách sát hạch trong trường học làm cốt; tiến cử chẳng qua cũng cử trong những người đã có trúng tuyển ở các trường học mà lựa ai là người có tài đức, có kinh lịch, xứng đáng về cái chức vụ ấy hơn hết thì cử đó thôi; thì chẳng qua cũng thi trong những người tốt nghiệp ở một cái trường chuyên môn nào đãy mà lựa ai đủ sức làm việc về nghề chuyên môn ấy thì lấy đó thôi.


Tàu và ta thuở nay, cách lựa lấy người, thịnh nhất là cách khoa cử. Từ năm Quang Tự duy tân biến pháp, Tàu đã bỏ thi hương, thi hội, đổi làm phép tưởng lệ trong các học đường rồi. Ta nhờ nhà nước Bảo hộ khai hóa dần dần, trường học một ngày một mở thêm, lấy học trò tốt nghiệp ở các trường trung học, đại học bây giờ mà thay vào những tiến sĩ cử nhân thời trước; thi hương ở Bắc kỳ đã bãi hẳn hai khoa rồi, mới năm ngoái đây lại có chỉ dụ bãi cả thi hương ở Trung kỳ, còn để thi nốt một khoa hội năm nay nữa là chung cục khoa trường. Nhân thế khảo cứu hết lai do về sự thi ta mà tỏ bày chỗ phải quấy, chỗ nên chỗ hư, để làm cái tài liệu sau này cho các nhà khảo cổ bình luận, tưởng cũng không phải là một chuyện vô ích vậy.




II. CÁI LỊCH SỬ KHOA CỬ Ở NƯỚC TÀU


Tên tiến sĩ có từ đời Chu nhưng đời ấy chưa đặt phép thi, còn lựa lấy ngừời ở trong trường học quan Hương đại phu lựa những người tuấn tú ở trong trường hương học, cử lên quan Tư đồ gọi là tuyển sĩ, quan Tư đồ lại lựa những người tuấn tú trong hạng tuyển sĩ gọi là tuấn sĩ; những người tuấn sĩ được vào trường quốc học gọi là tạo sĩ; quan Đại nhạc chính lại lựa những người tuấn tú trong hạng tạo sĩ gọi là tiến sĩ, những người ở trường hương học cử lên làm quan lại các hương, các toại ; những người ở quốc học cử lên dùng làm quan đại phu, quan sĩ , hai chữ "tiến sĩ" thủy từ đãy mà chưa phải là cái huy hiệu đỗ thi hội như đời sau. Tên cử nhân có từ đời Hán nhưng thời ấy cũng chưa đặt phép thi, còn dùng cách tiến cử, giao cho các quan ở quận quốc cử ba hạng người: một hạng "hiền lương phương chính", một hạng hiếu liêm'', một hạng bác sĩ đệ tử gọi là cử nhân quận này, cử nhân quận kia. Đời vua Hán Văn Đế mới bắt cử hạng người "hiếu liêm " và hạng " phương chính", đời Hán Vũ Đế mới bắt cử hạng người"hiếu liêm" và hạng người "bác sĩ đệ tử ". Tuy cũng có thi một bài đối sách như ông Tiều Thố đối sách đời vua Văn Đế, ông Đổng Trọng Thư, ông Công Tôn Hoằng đối sách đời vua Vũ Đế, nhưng phải do quận quốc cử lên trước mới được dự thí, không phải đặt hẳn ra một khoa thi, ai cũng có thể vào thi được. Hai chữ '' cử nhân'' thủy từ đãy, mà chưa phải là cái huy hiệu đỗ thi hương đời sau. Đến vua Tùy Dượng Đế mới đặt khoa thi tiến sĩ, thi phú và thơ. Tiến sĩ đời sau đó là tị tổ (NP, 374) .


Đến đời Đường phép thi càng tinh mật hơn, đại ước chia làm ba khoa: sinh đồ , cống cử và chế cử Các nhà học ở kinh sư và các trường học ở châu huyện, học trò đỗ tốt nghiệp, đưa lên thi ở tòa thượng thư gọi là sinh đồ. Những người không phải học trò các trường, chịu thi ở châu huyện trước, ai trúng tuyển cũng được đưa lên thi tại tòa thượng thư, gọi là cống cử. Ngoài ra có một khoa nữa để đãi những bậc phi thường, thì Thiên tử thân ra một bài đối sách cho thi thì gọi là chế cử. Đỗ khoa sinh đồ và khoa cống cử chia ba hạng: tú tài, tiến sĩ và minh kinh . Cách thi mỗi hạng mỗi khác. Hạng tú tài thi năm đạo văn sách hỏi về phương lược cầu trị; hạng tiến sĩ thi hai bài tạp văn, năm đạo văn sách hỏi về thời vụ; hạng minh kinh thì thi mười câu văn sách hỏi về nghĩa năm kinh. Ngoài ra lại xét đến khổ người: tiếng nói , chữ viết, lời phán: khổ người phải trọng hậu mà phương phi, tiếng nói phải biện bác mà đứng đắn, chữ viết phải lối chân tươi đẹp, lời phán phải văn lý ưu trường. Phép thi đời Đường thịnh hành có ba hạng ấy; thỉnh thoảng có đặt thêm khoa thi pháp luật, khoa thi toán học, khoa thi hiếu liêm, khoa thi sử học, khoa thi ba truyện Xuân Thu nhưng không phải lệ thường vậy.


Đến đời Tống phép thi đại lược cũng giống đời Đường mà thịnh hành nhất là khoa thi tiến sĩ: thi thơ, phú, tạp văn,sách luân và thiếp kinh, thi ban đầu mỗi năm mỗi thi, sau cách năm một lần, sau nữa mỗi ba năm một lần. Ba năm thi một kỳ là bắt đầu từ đó. Ông Vương An Thạch làm tướng vua Tống Thần Tông lấy thi phú tệ chỉ chuộng về từ chương thì thiếp kinh tệ chỉ thiên về ký tụng nên đổi phép thi lại, thi tiến sĩ không dùng thơ phú, chỉ hỏi nghĩa kinh; sau vì nhiểu người để thi phú, bàn luận phân vân, lại chia làm hai khoa, một khoa thi nghĩa kinh, một khoa thi thơ phú . Đời Tống hai khoa thi ấy tịnh hành: khoa chế cử, Tống cũng đặt theo như Đường , tự đời Tống Thần Tông bãi đi, sau đổi, thành khoa hoành từ, sau lại đổi làm khoa tử học kiêm mậu.


Người Mông Cổ chiếm được nước Tàu, việc cai trị mỗi cái mỗi sơ sài phép thi cũng không xêp đặt gì cả. Vua Nguyên Nhân Tông mới châm chước phép cũ, định mỗi ba năm, một lần thi, chia tiến sĩ ra hai bảng, bảng phía hữu người sắv mục giống Mông Cõ, phiá tả người Hán tộc. Ai đỗ phải biết chữ Mông Cổ và thông đạo giáo Hồi, ấy cũng là một cái lối cai trị người khác giống vây.

Đời Minh thì phép thi rất tường, chia làm hương thí, hội thí, đình thí; cứ năm tí , ngọ ,mão , dậu , học trò các tỉnh, ở tỉnh nào thi tỉnh nấy, gọi là hương thí, qua năm sửu , mùi , thìn , tuất , ai đỗ hương rồi thi tại bộ Lễ trong kinh, gọi là hội thí.

Đỗ hội rồi Thiên tử thân ra một bài đối sách thi ở điện đình, gọi là đình thí. Hương thí, hội thí, đình thí là bắt đầu từ đó. Nhà Thanh theo phép thi của nhà Minh chỉ đầu bài có hơi khác một chút. Đầu bài thi đình thì cũng theo như hồi đầu đời Minh, thi một đạo văn sách hỏi thời vụ. Đầu bài thi hương, thi hội hồi đời Minh, trường nhất thi hai bài nghĩa tứ truyện, bốn bài nghĩa ngũ kinh, Thanh đổi ba bài nghĩa tứ truyện, một bài thơ ngũ ngôn tám vần, trường nhì một bài luận, năm câu phán đổi (NP, 375) làm năm bài nghĩa ngũ kinh; trường ba năm đạo văn sách luận hỏi kinh sử và thời vụ, đổi làm năm đạo sách luận muốn hỏi đâu thì hỏi. Đỗ thi đình chia làm ba bậc: bậc nhất là nhất giáp, chỉ ba tên: tên đầu trạng nguyên, tên thứ nhì bảng nhãn, tên thứ ba thám hoa, đều cho là tiến sĩ cập đệ. Bậc nhì là nhị giáp, cho tiến sĩ xuất thân. Bậc ba là tam giáp, cho là đồng tiến sĩ xuất thân. Nhị giáp, tam giáp không định ngạch, tuỳ khi lấy ít lấy nhiều. Cách thi nước ta từ Lê đến giờ, tức bắt chước hơi giống như thế.




III. CÁI LỊCH SỬ KHOA CỬ Ở NƯỚC TA


Năm thứ tư niên hiệu Thái Ninh đời vua Nhân tông, khoa ất mão (lịch tây năm 1076), thi kén lấy người minh kinh bác học, người Gia Định, huyện Gia Bình, Bắc Ninh bây giờ), ông Lê Văn Thịnh đỗ đầu; khoa cử nước ta mới có từ đãy.

Một đời Lý thấy ở trong sử chỉ có sáu khoa: khoa thi ấy với khoa bính dần (lịch tây năm1087) thì kén người văn học sung vào viện Hàn lâm, khoa nhâm thân (lịch tây năm 1093) thi đình, khoa ất dậu (lịch tây năm 1110) thi học sinh, khoa ất tỵ (lịch tây năm1130), khoa quý sửu (lịch tây năm1138) đều thi kén người vào thị học. Khoa bính dần, sử chép người đứng đầu là Mạc Hiển Tích, khoa ất tị, sử chép ba tên đỗ đầu là Bùi Quốc Khái, ông Đỗ Thế Diên, và ông Đặng Nghiêm; ngoài ra không truyền. Tưởng chừng đời Lý nối sau đời Đinh, đời Lê lấy võ công làm trọng, phần thì khi ấy đạo Thích , đạo Lão đương thịnh hành; coi đời vua Lý Anh Tông (lịch tây năm1138-1155) còn lấy ba giáo thi học sinh thì biết. Cho nên lựa người bổ quan, phần nhiều còn lấy ở trong quân nhân và trong tăng đạo, phép thi thảo lược, chưa lấy gì làm tinh tường.

Đến đời Trần thì phép thi đã hơi kỹ. Vua Trần Thái Tông tức vị năm thú tư niên hiệu Thiên Ứng (lịch tây năm 1232) thi thái học sinh (tức như thi tiến sĩ đời sau ) chia làm ba giáp ( như phép thi hội đời Minh bên Tàu), năm thứ 11 (năm 1239) lại định hẳn bảy năm một khoa thi; thấy ở trong sử có chép một khoa lấy đỗ năm mươi mốt tên : ba tên tam khôi, bốn mươi lăm tên thái học sinh, mà ông Nguyễn Hiền mười ba tuổi đỗ trạng nguyên, ông Lê Văn Hưu mười tám tuổi đỗ bảng nhãn cũng là lắm vậy. Năm bính thìn ( 1248), lại chia người tứ chánh (Bắc kỳ bây giờ) là người kinh, người Hoan Ái (Thanh Nghệ bây giờ) là người trại, hai dằng lấy riêng ngạch đỗ, cũng đều có trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa; đường thời có cái danh hiệu "trạng nguyên kinh", và "trạng nguyên trại". Đời vua Trần Thánh Tông ( 1258- 1282), lại hợp kinh trại cùng thi làm một, lấy đỗ ba tên tam khôi, hăm bảy tên thái học sinh. Đầu bài thi trước kia thế nào, không xét được rõ. Tự năm thứ mười hai niên hiệu Hưng Long đời vua Trần Anh Tông ( năm 1311), định lại phép thi, chia làm bốn kỳ; kỳ thú nhất ám tả, kỳ thú nhì kinh nghĩa và thơ phú; kỳ thứ ba chế, chiếu, biểu; kỳ thú tư văn sách. Khoa ấy ông Mạc Đỉnh Chi đỗ trạng nguyện, ông Nguyễn Trung Ngạn đỗ hoàng giáp, nhi giáp gọi là hoàng giáp bắt đầu tự đãy. Năm thứ hai niên hiệu Long Khánh đời vua Trần Duệ Tông ( năm 1370), đổi thái học sinh gọi là tiến sĩ: trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa, hoàng giáp cho đến cập đệ xuất thân, tiến sĩ cho là đồng cập đệ xuất thân (NP, 376). Khoa ấy đình thí tại hành cung Thiên Trường (phủ Xuân Trường, Nam Định), lấy năm mươi tên tiến sĩ.

Phép thi hương cũng định từ đời ấy, trúng tuyển gọi là cử nhân, mới được dự vào thi hội. Sau lại định lại đầu bài thi hội, trường nhất bỏ ám tả, thi kinh nghĩa, trường nhì thơ phú, hai trường kia để như cũ. Phép thi lúc ấy, qua mấy lần sửa đổi, đã rất là tinh tường; tự Lê cho chí bản triều đều phỏng theo thế cả. Hồ Quý Ly cũng định lại phép thi, đặt thêm một kỳ toán pháp, cũng có ý hay. Vua Lê Thái Tổ bình Ngô dựng nước, sau vì loạn người Minh chiếm nước, điển lệ trong nước tán dật không còn. Năm thú hai niên hiệu Thuận Thiên ( năm 1489), mới thi quan viên sĩ dân thiên hạ tại Đông Đô (tại Hà Nội bây giờ), quan văn, quan võ trong ngoài từ tứ phẩm trở xuống có ai tinh thông kinh sử võ kinh, cho vào thi cả; năm thú tư lại thi chân nho chính trực, hai khoa ấy hoặc thi kinh nghĩa, hoặc luận phú, hoặc sách đề, đều tuỳ tài lấy đỗ, bất thứ cất dùng, mà khoa hương, khoa hội lúc ấy chưa kịp cử hành vậy.

Đến năm đầu niên hiệu Thiệu Bình đời vua Lê Thái Tông ( năm 1433), định lệ sáu năm thi một khoa, năm trước các đạo ( đời Lê gọi tỉnh là đạo), thi hương, năm sau thi hội, trúng tuyển ấy đều cho là tiến sĩ xuất thân. Đầu bài thi trường nhất một bài nghĩa kinh, bốn truyện mỗi truyện một bài nghĩa truyện, bài nào cũng hạn ba trăm chữ trở lên, trường nhì chế, chiếu biểu, trường ba thơ phú, trường tư một đạo văn sách, hạn một ngàn chữ trở lên. Năm thứ năm mới mở khoa thi, hơn một tháng thi đình, vua ngự điện đình hỏi một bài đối sách, duyệt quyển rồi sai quan đọc sắc xướng danh, lấy đỗ bảy tên vừa trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa, tiến sĩ, hai mươi ba tên phó bảng, mang ân mạnh ăn yến, lĩnh mũ đai xiêm áo vinh quy làng. Tiến sĩ vinh quy thành lệ từ đấy. Năm thú bảy niên hiệu Quang Thuận đời vua Lê Thánh Tông ( năm 1466) định lệ ba năm một khoa thi: năm tí, năm mão, năm ngọ, năm dậu thi hương, năm sửu, năm mùi, năm thìn, năm tuất thi hội. Ba năm một khoa thủy từ đãy.


Đầu bài thi: năm thứ ba niên hiệu Quang Thuận ( 1462), định thi hương trường nhất năm đạo kinh nghĩa, trường nhì chiếu chế biểu, dùng tứ lục cổ thể, trường ba thơ dùng luật Đường, phú dùng cổ thể và tao tuyển, hạn ba trăm chữ sắp lên, trường tư một đạo văn sách hỏi kinh sử và thời vụ, hạn một ngàn chữ sắp lên; năm thứ ba niên hiệu Hồng Đức đời vua Lê Thánh Tông ( năm 1462) định thi hội, trường nhất ra mỗi kinh ba bài nghĩa, học trò lựa lấy mỗi kinh một bài làm văn, duy kinh Xuân Thu hai bài phải làm cả, gộp thành một bài, mỗi truyện hai bài nghĩa, học trò lựa lấy mỗi truyện một bài làm văn; trường nhì chiếu chế biểu mỗi thứ ba bài; trường ba thơ phú đều một bài, trường ba một bài văn sách hỏi ý nghĩa kinh sách và chính trị lịch triều. Về sau các đời hơi thêm bớt, nhưng cũng không qua kinh nghĩa, tứ lục, thơ phú, văn sách, ra vào trong mấy lối văn ấy mà thôi (NP 377).




Bia tiến sĩ dựng tự đời Lê Thái Tông (năm 1433- 1442) bộ Công đục đá, văn thần soạn bia theo thứ tự đỗ cao thấp đề tên các ông nghè, ý để làm trọng cái thanh giá tiến sĩ, lưu cái công luận ngàn đời vậy.
Tiến sĩ đến đời Lê, lễ đãi rất là long trọng: quan Hồng lô truyền tờ chế vua, xướng những tên đỗ, quan Lại bộ ban ân mệnh, mũ áo, quan Lễ bộ bưng bảng vàng có phường nhạc dẫn đến cửa hoàng thành treo yết, các ông tiến sĩ được ban yến ở Lễ bộ đường, quan coi tàu ngựa sắp ngựa Ngự để đưa về quán ngụ, vinh diệu không gì bằng. Đến đời Hậu Lê, càng thêm long trọng nữa:cấp phẩm phục vinh quy, dân bản quán phải cờ trống tiếp rước, quan sở tại phải bắt dân hàng tổng làm dinh, tam khôi được vào viện Hàn lâm, đồng tiến sĩ cũng bổ chức khoa đạo, không phải đi làm phủ huyện; ra làm quan ngoài, được làm quan đường giữ ấn, không phải phó nhị ai; những cái ấy đều là ân vinh đặc biệt tự lúc có khoa mục đến giờ chưa từng có vậy.



Bản triều đức Thế tổ nhất thống nam bắc, phép thi cũng châm chước theo đời Lê: năm thứ sáu niên hiệu Gia Long ( năm 1807) mở khoa thi, đầu bài thi định bốn trường, trường nhất định một bài nghĩa kinh, một bài nghĩa truyện là túc quyển, trường nhì chiếu, chế, biểu; trường ba một bài thơ luật Đường, một bài phú, trường tư văn sách, quán quyển bốn trường mới lấy đỗ, đánh hỏng. Năm thứ sáu niên hiệu Minh Mạng (1825), định lệ quán quyển: bốn trường ưu cả là hơn nhất, thứ đến ba ưu một bình, thứ đến ba ưu một thứ, hoặc hai ưu hai bình, thứ đến hai ưu, một bình, một thứ, hoặc hai ưu, hai thứ, hoặc một ưu ba bình, hoặc ba ưu một liệt, thứ đến một ưu hai bình, một thứ, hoặc bốn trường bình cả, hoặc một ưu ba thứ, hoăc ba bình một thứ, hoặc hai bình hai thứ, hoặc một bình ba thứ, tính suốt bốn trường lấy người đậu trên đậu dưới.

Đời Tiền Lê đỗ hương gọi là cử nhân, tú tài. Đời Lê gọi cử nhân là hương cống, tú tài là sinh đồ; đờI Gia Long còn theo gọi như cũ, đến năm ấy lại đổi gọi là cử nhân, tú tài.

Năm thứ mười ba ( năm 1832), sửa lại phép thi: bốn trường rút bớt đi một trường, trường nhất kinh nghĩa, trường nhì thi hương một bài thơ thất ngôn, một bài phú tám vần, trường ba văn sách; thi hội một bài thơ ngũ ngôn, một bài phú cũng tám vần, trường ba văn sách. Năm thứ tư niên hiệu Thiệu Trị năm 1844), định phàm thi Hội thông ba trường được trên mười phân trở lên là trúng cách, bốn phân đến chín phân hoặc một trường bất cập phân mà hai trường kia lại được trên mười phân trở lên lấy đậu phó bảng; lại định các quan giáo, huấn có chân cử nhân, tú tài, đến kỳ thi hội, cũng bđược tình nguyện vào thi.

Năm thứ tu niên hiệu Tự Đức ( năm 1851) lại thi bốn trường, bỏ lệ quán quyển cả bốn trường mới lấy đậu đánh hỏng.; thi hương trường nhất trúng cách mới cho vào trường nhì, trường nhì trúng cách mới cho vào trường ba, trường ba trúng cách mới cho vào trường tư; trúng được bốn trường đậu cử nhân, chỉ trúng ba trường cũng được đậu tú tài; thi hội thì thông bốn trường dược tám phân trở lên là trúng cách, bốn phân đến bảy phân hoặc một trường bất cập phân mà ba trường kia được trên chín phân, lấy đậu phó bảng.

Lệ cũ phó bảng không được vào thì đình, tự năm ấy sắp về sau cho trúng cách cùng phó bảng đều được vào thi đình cả. Sau định thi hội thi bốn trường, thi hương chỉ thi ba (NP, 378) trường thôi: trường nhất kinh nghĩa, trường nhì chiếu chế biểu, luận, trường ba văn. Được it năm trường nhì lại bỏ thiếu, biểu, luận, thi, thơ phú như hồi năm Minh Mạng. Năm đầu niên hiệu Kiến Phúc định phàm thi hương quyển nào văn có ưu bình phải thi thêm kỳ phúc hạch xét coi văn lý nét chữ giống mấy kỳ trước thì lấy đậu cử nhân, văn lý kém đánh xuống tú tài, văn lý bất thông cùng vớI nét chữ không phù trích giao bộ Lễ cứu nghĩ. Năm đầu niên hiệu Đồng Khánh ( năm 1886), định trường Hà, trường Nam thi chung làm một, lấy đậu năm mươi ba cử nhân, một trăm năm mươi chín tú tài; từ năm thứ ba ( năm 1888) sấp về sau vì sĩ số tăng nhiều, mỗi khoa lại lấy thêm it tên nữa.



Ngoài thi hương, thi hội, lại còn có những bất thời mở ra thi như khoa hoành từ ?? đời Tiền Lê, khoa sĩ vọng ??, khoa tuyển cử ??., khoa đông các ?? đời Hậu Lê; khoa hoành từ, khoa cát sĩ ??, khoa nhã sĩ ??, khoa yêm bác ?? đời bản triều; đầu bài tùy khoa muốn ra thế nào thì ra, không thể lệ nhất định, người trúng tuyển danh vị cũng kể như ông nghè, có ý để đãi những người yêm trệ, có tài học phi thường, mở lối cầu hiền thật thấy rộng lắm.


Tóm lại cái lịch sử khoa cử nước ta, phép thi đời Lý, điều lệ chưa định, kỳ hạn chưa rành, còn sơ lược lắm; phép thi đời Trần, khoa kỳ hạn là bảy năm, ngạch đỗ chia là ba giáp, thể thức đã hơi tường; tự Lê đến bản triều đặt ra có trường quy, có văn thể, bài thi thì mấy trường quán quyển, kỳ thi thì ba năm một khoa, thể thức rất tường, thành cái phép nhất định, lấy khoa mục lựa ngườI cũng hệt y Minh Thanh Tàu vậy.





IV. CÁC ĐIỀU LỆ VỀ THI HƯƠNG

Phép thi hương có tự đời Trần mà điều lệ chưa được tinh mật lắm. Tự Lê sấp sau mỗi khoa mỗi ngày thêm tinh mật. Tới khoa thi, trước chín, mười tháng, hoặc trước năm, sáu tháng, lý trưởng các làng phải loại khai những tên học trò thi. Các quan đốc học các tỉnh phải hội đồng với quan tỉnh định ngày hạch học trò, các quan giáo huấn chấm sơ, quan đốc chấm phúc, quan tỉnh duyệt lại, tỉnh lớn lấy đỗ chừng năm sáu trăm, tỉnh nhỏ chừng hai, ba trăm, người nào đỗ hạch, trước ngày thi nửa tháng, phải nộp quyển thi tại quan đốc tỉnh mình, có thừa lễ thâu quyển.

Trước ngày thi sáu bảy hôm, quan tổng đốc các tỉnh đệ quyển tại trường thi, có quan đề điệu đốc sức lại phòng thâu quyển thi ( mặt quyển thi đề rõ họ tên, niên canh, quán chỉ và cung khai tam đại mình) đóng giấu diện, giấu giáp phùng, biên những tên học trò thi vào sổ trường, trước ngày thi một hôm. Yết bảng cửa, biên những tên nào vào vi nào. Trường chia làm bốn vi, mỗi vi hai cửa, đêm dạng ngày vào trường, tám cửa có tám ông quan lớn coi việc trường ngồi, lại phòng xướng tên từng người, đến lượt ai thì người ấy lĩnh quyển vào trường, tảng sáng ra đầu bài, học trò làm văn đến trưa phải viết chừng một phần quyển xin đem đóng giấu nhật trung, đến tối, trống thu không ba hồi, phải làm văn xong đem quyển nộp xin đóng giấu vỹ ở cuối quyển rồi ra trường, quá hạn thì bỏ ngoại hàm không được chấm.

Trường nhất chấm xong, ai không bị loại thì lại vào trường nhì, cho đến trường ba, trường tư đều vậy cả. Trong trường chia (NP 379) năm khu, bốn khu xung quanh là bốn vi chỗ học trò ngồi làm văn, mộ khu chính giữa là khu quan trường ở và làm việc, chính giữa khu ấy có một cái nhà thập đạo, nghĩa là các ngả đi thông tới cái nhà ấy được cả, các quan chủ khảo ngồi ra đầu bài, các người chức dịch làm công việc trường, học trò lấy giấu, nộp quyển đều ở đó cả.

Quan chánh, phó chủ khảo, quan phân khảo, quan ngự sử, quan đề điệu, quan giám khảo ở ngoại trường; các quan sơ khảo, phúc khảo ở nội trường. Quan chánh phó chủ khảo, coi hết việc trường và giữ quyền thủ xả, thường lựa quan triều tự tam phẩm sắp lên sung chức ấy.


Quan phân khảo giúp chánh phó chủ khảo về sự chấm quyển, tùy trường lớn nhỏ, có trường đặt một ông, có trường đặt đến hai ba ông, thường lựa quan triều tự ngũ phẩm sắp lên sung chức ấy. Quan ngự sử chủ việc xem xét gian phi, ngày thi giữa hai vi có một cái chòi , hai ông ngồi hai chòi coi cả các vi; khi chấm quyển trinh xát các quan có điều gì tình tiết, thường lựa quan triều từ ngũ phẩm sấp lên sung chức ấy. Các quan sơ khảo, phúc khảo, giám khảo chia phần việc nhau chấm quyển; tùy trường quyển thi nhiều, quyển thi ít, giám khảo lấy hai ông, hoặc ba ông, phúc khảo lấy bốn ông hoặc sáu ông, sơ khảo lấy mươi mười hai ông, hoặc mười bốn mười sáu ông, thường lựa các quan giáo, huấn hoặc tiến sĩ, cử nhân tại quán sung chức ấy.


Quan đề điệu chủ việc truyền bảo coi sóc các người lại phòng làm sổ thi, sổ lấy đậu, yết bảng, phát quyển, tống quyển chấm, v. v. . thường lựa quan võ tứ phẩm sấp lên sung chức ấy, mỗi kỳ thi học trò nộp quyển hết, quan đề điệu thu tất cả quyển thi bỏ vào rương, truyền lại phòng giọc phách, mã số hiệu rồi cất phách vào một rương niêm lại, tống quyển cho các quan sơ khảo chấm, sơ khảo chấm rồi đến các quan phúc khảo chấm, phúc khảo chấm rồi đến các quan giám khảo chấm, giám khảo chấm đến các quan chủ phân khảo chấm, đủ bốn dấu chấm rồi hợp phách lại xem quyển nào đậu, quyển nào hỏng, làm sổ gián bảng, yết ra cửa trường.

Thi đủ mấy kỳ quán quyển lại quyển nào văn lý vào hạng vừa thì lấy đậu tú tài, vào hạng tốt thì cho vào thi kỳ nữa gọi là kỳ phúc hạch lấy đậu Cử nhân , dư người nào thì bỏ xuống tú tài, có ngườI văn kỳ ấy xấu quá đánh hỏng tuột. Chấm quyển định đậu hỏng hơn kém, dùng bốn chữ phê ưu ?, bình ?, thứ ?, liệt ? ; ưu là nhất, bình là khá, thứ là vừa, liệt là hỏng hẳn. Lại còn trường quy nghiêm nhặt, ai phạm cũng không hòng đậu được: mang sách vào trường bị đuổi; trong vi người nọ chạy hỏi người kia bị đuổi; làm văn nhỡ viết chữ húy nhà vua, nhỡ nói câu gì lăng mạn đến nhà vua, bị tội; xóa, chữa, móc lên, móc xuống quá mười chữ bị đánh hỏng; lầm chỗ giấu cũng bị đánh hỏng; làm tỳ ố quyển bị đánh ; hỏng; lầm chữ đầu bài bị đánh hỏng; nói việc kim thờI gặp những chữ nhà vua hay kể đức tính vua không viết đài cao lên hàng bị đánh hỏng; ai giữ khỏi bấy nhiều đậu phạm mà văn lý lại tốt mới đậu được.


Hôm yết bảng đậu, các quan trường ngồi tại cửa giữa trường, lại trường xướng tên cử nhân, từ thủ khoa cho chí đội bảng, đến tên ai người ấy dạ mà vào, lĩnh mũ áo (NP. 380)., khâm cấp, cách hai ba ngày bận mũ áo tề chỉnh lạy tạ ơn vua tại hành cung, lễ xong được ban ăn yến. Những đồ vật dụng cung ứng các quan trường, tre nứa làm nhà cửa phên rậu trường, và mũ áo, cổ yến các cử nhân mớI đều trích tiền công khố, giao quan sở tại tỉnh có trường chu biện. Trường thi hương đời Lê định bẩy chỗ: Phuịng Thiên ( tức Hà Nội bây giờ, kinh đô đờI Lê), Sơn Nam (tức Hưng Yên, Nam Định bây giờ), Sơn Tây, Hải Dương Thanh Hóa và Nghệ An; đời bản triều định sáu chỗ: Thừa Thiên, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Gia Định, Nam Định và Bắc Thành ( Hà Nội bây giờ).


V. CÁC ĐIỀU LỆ VỀ THI HỘI

Điều lệ thi hội đến đời Lê đã rất là tinh mật, bản triều cũng châm chước làm theo: cứ năm trước thi hương năm sau thi hội . Năm sửu, thìn, mùi, tuất mùa xuân tháng ba mở khoa. Những cử nhân tại quán, ai không muốn đi thi phải làm giấy cáo, những người đi thi quan tỉnh phải kê tên vựng thành sách, đệ vào bộ Lễ và cấp giấy hộ chiếu cho từng người. Trước mười ngày, các người có tên thi phải nộp quyển thi tại bộ Lễ .

Những thể thức thu quyển, phát quyển, yết bảng cửa, học trò vào trường, làm văn, lấy giấu, nộp quyển cũng như thi hương. Các trường quy trong khi học trò viết quyển thì cũng phải giữ cho khỏi phạm. Trường cũng chia ra nội trường, ngoại trường, giữa nhà thập đạo, giống như trường thi hương, duy khác có chỗ học trò ngồi làm văn chia hai vi, có lều sẵn, lúc vào trường không đến nỗI cổ đeo vai vác lếc thếch như vào trường hương.


Quan trường: một quan chánh chủ khảo, một quan phó chủ khảo, một quan tri cống cử, sáu quan đồng khảo , quan chánh, phó đề điệu, quan giám đằng lục, quan giám đối độc, đều một viên, giám thí, tuần xát hai viên, nội liêm giám thí bốn viên, ngoại trường tuần sát bốn viên. Học trò vào trường, ra trường do quan đề điệu trông mở cửa, đóng cửa; quan giám đằng lục trông chép quyển lại, rồi điưa lại quan giám đối độc; quan giám đối độc soát quyển chép lại đúng hết, rồi đưa lại quan đề điệu phân phát cho các quan nội trường chấm trước, ngoại trường chấm sau; quan giám thí tuần sát giữ việc canh gác xem xét tất cả trong trường, ngoài trường có phi vi đâu thì bắt trị tội; quan nội liêm giám thí chủ việc cdò xét tệ lậu ở nội trường; quan ngoại trường tuần sát chủ việc dò xét tệ lậu ở ngoại trường. Quyển thi chấm xong hợp với nguyên quyển, quyển nào đúng phân thì lấy đậu, thiếu phân thì đánh hỏng. Xong bốn trường quán quyển, ra bảng trúng cách, định ngày vào thi đình.


Đến ngày sở quan thượng thiết bày ngự tọa ở chính giữa điện Cần chánh, đặt bàn hương án trước ngự tọa, để hai bên thềm điện hai cái bàn xếp quyển (NP 381) thi, nghiên, bút mực ở trên, một viên quan tuyên chế sách, một viên quan bộ Lễ đứng bên tả thềm điện; các quan đề điệu, tri cống cử, giám thí đứng hai bên thềm điện; các quan đề thí, lính Cẩm y vệ bày cờ xí trương hoàng; một hồi trống, các quan văn võ mặc đồ phẩm phục phân ban đứng ngoài cửa điện,, hai hồi trống, phụng ngự giá ra điện,: quan tự ban dẫn các quan ban văn vào thị lập bên tả thềm điện,ban võ bên hữu thềm điện, các viên trúng cách, cuốu ban bên tả. Làm lễ năm lạy xong, quan tự ban dẫn các viên trúng cách tiến vào quỳ giữa thềm điện; quan Lễ bộ tâu học trò thi hội trúng cách những tên này tên này phụng chỉ cho vào thi đình. Các quan trường cấp mỗi người quyển thi, nghiên, bút mực đều một cái; quan tuyên chế sách quỳ tâu tuyên chế, bưng tờ chế đứng tuyên; quan tuần củ dẫn các viên trúng cách mỗi người tới mỗi phòng ngồi làm văn. Quyển thi đình do các quan đọc quyển phụng nghĩ văn lý, ba phân sấp lên hoặc một hai phân mà đã đậu chánh trúng cách hộI cũng lấy chánh bảng.

Ngày truyền lô đặt lễ đại trào ở điện Thái hòa , các quan văn võ mặc phẩm phục chia ban thị lập , phụng Hoàng thượng ngự điện; quan giám thí và quan độc quyển truyền các viên tiến sĩ mới vào quỳ giữa bên tả thềm điện lĩnh mũ áo: quan truyền lô chiểu danh sách thứ tự trên dưới tuyên xướng, rồi phụng chỉ yết bảng những tên đậu tại lầu Phu văn ba ngày.Sau khi ra bảng, ban yến các viên tiên sĩ tại Lễ bộ đường, quan bộ Lễ và các viên tiến sĩ mới mặc mũ áo tề tựu chỗ ban yến vọng bái làm lễ tạ, phụng cho mỗi viên tiến sĩ một cành trâm hoa cài mũ. Yến xong, một quan bộ Lễ dẫn các viên tiến sĩ mới tới vườn Ngư xem hoa, đều mũ áo, lọng, ngựa chỉnh tề , xem hoa rồi
do cửa đông thành ra đi khắp các phố, ngày thứ các viên tiến sĩ mớI bệ từ về quán; quan Hồng lô phụng chỉ truyền ơn cho vinh quy.




VI. NHỮNG ĐIỀY HAY TRONG LỊCH SỬ KHOA CỬ NƯỚC TA.

Trong lịch sử khoa cử nước ta, cũng nhiều cái ý tình, cái phép tốt. Tiền Lê cứ lệ bảo kết, bản triều có lệ loại khai, người nào thực có đức hạnh, do chức dịch trong làng kết nhận, mới dược đi thi, những kẻ bất hiếu bất mục, loạn luân, điêu toa, dù có tài học văn chương, cũng không được dự tuyển: lựa người đức hạnh mà không chuyên chuộng về văn chương xét người cốt bình nhật mà không bằng chỉ một ngày; còn cái di ý người xưa ''hương cử lý tuyển''; một điều hay vậy. Phép thi văn sách theo như lối đối sách người Hán, ra bài vụ lấy đại thể hồn thuần mà không buộc những hiểm đề tuyệt cú ; chấm văn quý có đại tài yêm bác mà không hạn những hành xích tầm thường, coi những văn đối sách của ông Lương Thế Vinh, ông Vũ Công Duệ đời Tiền Lê, rộng rãi tung hoành, không phải cái văn tầm chương trích cú sánh nổi, văn học như thế, còn có thực dụng được nhiều, hai điều hay vậy.

Trước kỳ thi, học trò các nơi hạch tại tỉnh, quan đốc cùng quan giáo, huấn xét học trò trong hạt ai thực học hạnh khá mới cho đậu hạch đi thi, những trò (NP 382) vào thi duệ bạch hay bất túc hay bất thành văn lý, thuộc về hạt nào mấy tên thì quan giáo, huấn, đốc ở hạt ấy bị giáng mấy cấp, năm tên sấp lên là bị cách; coi đời Lê các quan phủ doãn, thừa ty, hiến ty ( bố chánh, án sát bấy giờ) như lũ ông Lê Doãn Bưu vì hạch học trò , có sót, có lạm đều bị biếm chức, thì biết phép khảo hạch rất tường như thế lựa lọc cũng đã kỹ lắm mà kiểu hãnh cũng đã bớt nhiều; ba điều hay vậy.

Việc trường mở của, đóng của, thu quyển, dọc phách, hợp phách ủy cho quan đề điệu xem xét trong ngoài ủy cho quan giám thí, mà những quan ấy dùng quan võ cả; nội trường, ngoại trường không được thông đồng đi lại; quan ngự sử trinh sát sự gian lậu của các quan trường, giám đốc lẫn nhau, khiên chế lẫn nhau, thiên vị cũng khó dụng tình mà gian ngụy cũng khó làm trôi được; coi quan trường đời Lê như ông Nguyễn Văn Phang, Lương Công Nghi, ông Ngô Sách Du đều vì lấy đậu không công bình bị tội thì biết cách giữ gian rất tinh; như thế cái lệ thi tiền cũng chẳng có mấy; bốn điều hay vậy. Mãy ngày học trò vào trường, các hưu quan, các cử nhân tại quán, các tú tài cáo thi đều phải tại tỉnh ứng điểm: coi một việc ông Nguyễn Văn Quang ( người làng Hội Xá, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương) đời Lê đậu trúng cách hội, đã ra bảng rồi, chỉ vị ngày thi hương khiếm ứng điểm, bị tước tên không được vào thi đình, thì biết lệ điểm nghiêm lắm; như thế cái tệ mượn người làm văn cũng chẳng có mấy; năm điều hay vậy.Đầu bài thi không ở quan trường ra, cứ đến ngày thi, vua triệu quan kinh nghĩ đầu bài thi trên lên ngự chấm rồi sai binh chạy ngựa trạm đem giao các trường như lệ đặt năm niên hiệu Vĩnh Thịnh đời vua Lê Dụ tông ( năm 1705) lấp cái đường chạy chọt với quan trường, tuyệt cài lối mua trước đầu bài, sáu điều hay vậy. Đăng khoa có sổ, tiến sĩ có bia, truyền làm thịnh sự đương thời, để lại vĩnh danh muôn thuở, người đời sau chỉ tên, chỉ họ, ông này trung, ông này nịnh, ông này ngay, ông này gian vừa lích khuyến mà vừa ngăn ngừa, khiến người ta biết lấy danh nghĩa làm trọng, bảy điều hay vậy.



ViI. NHỮNG ĐIỀU TỆ TRONG KHOA CỬ NƯỚC TA

Đại để việc thiên hạ không mấy cái là giữa khỏi tệ, lỗi khoa cử cũng có nhiều điều tệ bởi đó mà sinh ra, như lúc đời Hậu Lê thiu kinh nghĩa thì cho học trò chuyên trị tùng kinh, các bậc tiền bối soạn sẵn bài vở, hậu học cứ duyên tập lẫn nhau; thi văn sách thì đầu bài lựa những chỗ hiểm tích mà ra, may gặp chỗ nhớ, dù tài học tầm thường cũng đậu, không may phải chỗ quên thì dù tàI cao hoc rộng cũng cũng hỏng. Cụ Phạm Thạch Động có thơ rằng: Sinh đồ ba chuỗi nhờ hòn đất; Tiến sĩ nửa câu cậy bảng trời, ám chỉ cái tệ thi cử thời ấy; một điều tệ vậy. Phép thi lúc đời Tiền Lê, con cháu những nhà phường chèo, con hát, nghịch đảng, ngụy quan không được thi, nhân tài có hạn gì giống nòi, mà bó buộc như thế, thì lối cầu hiền khí hẹp hòi quá: Cụ Đào Duy Từ là một danh thần lúc Lê trung hưng, tài cao học rộng tới bực ấy mà khi thi Hội, con cháu đã đậu trúng cách, chỉ bị giác ra là con phường chèo đánh hỏng khuất ức biết là dường nào! Hai điều tệ vậy (NP, 383)


Lệ thi lúc cuối đời Hậu Lê, mỗi người nộp ba quan tiền vào thì khỏi phải khảo hạch, hôm vào trường đông quá, có kẻ bị dẫm đạp chết ở cửa trường, trong trường đem sách hỏi chữ, mượn người thi giùm, làm công nhiên không thể nào xét nét được, đương thờicó lời mỉa ''sinh đồ ba quan'', coi rẻ rúng quá; ba điều tệ vậy. Trường ốc là chỗ cân lường tài học, mà thần thế to quá, tình vị nặng quá, thường đánh đổ được lẽ công bình, tức như khoa thi năm thứ bảy niên hiệu Bảo Thái đờI vua Lê Dụ Tông ( năm 1711), con quan thượng thư Lê Anh Tuấn, con nuôi quan Thiếu Bảo Đỗ Bá Phẩm đều mang tiếng đậu gian, lúc phúc hạch quả bị truất; khoa thi Hội đời Lê HIển Tông, ông Nguyễn Duy Nghi, ngườI làng La Khê, Hà Nội), làm khảo quan, trường tư 18 quyển có chữ "trinh chu bách độ " đều đậu cả; ngách gian như lỗ chuột, giữ sao cho xiết; bốn điều tệ vậy.

Khoa thi tiến sĩ đời Hậu Lê, lễ đãi hậu quá, đến nỗi bắt dân bản quán phải làm dinh, trong tổng trong làng có người đậu làm khốn khổ; cụ Phạm Khiêm Ich khi đậu Đông Các, thương dân bản quán cùng, không bắt làm dinh, dân cảm ơn cụ, sau phụng làm hậu thần, xem thế thì biết dân đời bấy giờ cực về sự ấy lắm; năm điều tệ vậy. Trâm bào chơi phố, cờ biển vinh quy, chẳng qua là những cái hư vinh thế tục, mà tưởng lệ quá đáng như vậy, nuôi thành tập quán cho xã hội cái tính hiếu danh xằng; thậm chí những con gái giàu,xuất tiền trăm bạc ngàn mà mua lấy cái tiếng bà cử, bà nghè; các ông tân khoa vì thế mà mang điều sang đổi vợ, như ông Phạm Công Tiến, ông Vũ Tôn Diễm, ông Vũ Bá Tôn lúc đời Hậu Lê, đều vợ cả, vợ lẽ lôi thôi, phải một nết xấu trong chỗ danh giáo; đương thời có câu mỉa ''bà nghè cưới chồng'' nghe tức cười quá; sáu điều tệ vậy.



VIII. KẾT LUẬN VỀ SỰ THI TA

Nói tóm lại, cái cách lấy khoa cử cầu tài vẫn có nhiều khuyết điểm chỉ xét ở văn chương mà không xét tới phẩm hạnh thì làm sao biết được người dở người hay, coi như Ngô Thời Nhậm, Phan Thụ Ích đều là ông nghè có tiếng hay chữ đời Hậu Lê, mà sau ra làm quan với Tây Sơn, làm nhiều việc xấu quá.

Chỉ bằng về một ngày mà không xét tới bình nhật, thì làm sao định được ngừơi thực người hư? Coi như ông Lương Hữu Độ, là một vị danh thần lúc Lê trung hưng, văn chương, đức nghiệp hiển hách như thế, mà trước đi thi Hội mãi không đậu. Chỉ hạn có một cách mà không rộng lối cầu tài thì làm sao cho khỏi có kẻ trầm luân ức tắc; coi về đời Hậu Lê có giặc Đồ Càn, về bản triều có giặc Sử Thái cũng chỉ vì có tài thác thỉ, thi mãi không đậu, bức chí mà làm càn. Ấy là chính những cái tệ ở phép không hay, còn những cái tệ ở người không hay thì biết bao nhiêu mà kể cho xiết.

Song le, người trên đã mở cái đường ấy để lựa người thì người tài cũng do đường ấy mà ra cả. Tiến sĩ đời Trần, văn học như ông Hàn Thuyên, ông Nguyễn Trung Ngạn, chính sự như ông Trương Hán Siêu, ông Phạm Sư Mạnh, liêm khiết như ông Trương Đỗ, ông Mạc Đỉnh Chi. Tiến sĩ đời Lê văn chương như ông Đỗ Nhuận, ông Thân Nhân Trung, liêm trực như ông Vũ Tụ, ông Vũ Công Đạo, trung nghĩa như ông Lê Tuấn Mậu, ông Đàm Thận Huy. Cho đến ông Hà Tôn Quyền, ông Trương Quốc Dụng, ông Phạm Phú Thứ ở bản triều ta, đức vọng công danh, thực không thẹn với bảng vàng bia đá. Từ lúc có khoa cử, biết bao nhiêu dạo học, tiết nghĩa, hiền thần, liêm lại chói lọi (NP., 384) trong sử sách, công nghiệp với nước nhà. Khoa cử không phải không được nhân tài, thế mới biết tệ ở người phần nhiều, chớ tệ ở phép vẫn phần ít.

Bây giờ làm cái cách lựa lấy người ở trong trường học, thì phép thực là không tệ rồi; nhưng thiết tưởng cái tệ ỡ người thì dù phép hay đến đâu cũng không khi nào giữ hết được những cái tệ khoa cử ngày trước, gương tày liếp còn nên để soi chung. Miễn là người không tệ thì phép mới không tệ (NP, 385),

Tuyết Huy
(Nam Phong tạp chí số 23, tháng 5-1919, trang 373-385)

=====

No comments: