Tuesday, October 25, 2011

HỒI KÝ 10 * DƯƠNG THU HƯƠNG -- LƯU CÔNG NHÂN-HỮU THỈNH-NGUYỄN HUY THIỆP



Chương XXII: Dương Thu Hương


Tôi không nhớ rõ đã quen Dương Thu Hương từ bao giờ. Có lẽ từ hồi
chị học trường viết văn Nguyễn Du chăng (1981)?. Tôi được mời dậy trường
này mấy khoá đầu. Dương Thu Hương học khoá một cùng với Ngô Thị Kim
Cúc, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Hữu Thỉnh, Chu Lai, Nguyễn Khắc
Trường... Hôm làm lễ bế giảng, chị mặc áo dài trắng, khoác tay tôi cho Hoàng
Kim Đáng chụp. ấy là năm 1982.
Dương Thu Hương là một phụ nữ có tính cách rất dữ dội và ngang
tàng.
Tôi nhớ trong một cuộc họp rất đông văn nghệ sĩ nghe Hoàng Tùng nói
chuyện, ở câu lạc bộ báo chí xế xế Nhà hát lớn. Có lẽ nghe chán quá, nhiều
người bỏ xuống tấng trệt giải khát. Giữa chỗ đông người, Dương Thu Hương
nói lớn: “Trừ anh Hoàng Ngọc Hiến là thày tôi, anh Nguyễn Đăng Mạnh là
người tôi kính trọng, còn tất cả bọn phê bình đều là dòi bọ. Riêng Phan Cự Đệ
là con chó ngao”.
Hồi tôi còn ở nhà B10, khu tập thể Đồng Xa, chị có đến vài lần. Một lần
chị đến với đạo diễn điện ảnh Tiến. Tôi đi vắng. Khi về, thấy có một mảnh giấy
gài ở cửa, ghi mấy chữ: “Em đến anh cùng với Tiến để trao đổi về tác phẩm của
nhà văn trâu bò của chúng ta (tức cuốn Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành
của Nguyễn Minh Châu, chị muốn chuyển thành kịch bản phim). Rất tiếc, anh
đi vắng. Ngày mai em lại đến. Nếu anh không có nhà thì cái trường Đại học Sư
phạm của anh sẽ bị đốt”.
Hồi chị viết Bên kia bờ ảo vọng, ban đầu đưa đến nhà xuất bản Lao
động. Lúc ấy Ma Văn Kháng làm giám đốc. Kháng ngại không in, có lẽ vì sợ
đụng đến Nguyễn Đình Thi. Chị đưa cho nhà xuất bản Phụ nữ và được chấp
nhận. Trên đường đi về, tình cờ chị gặp Ma Văn Kháng và một anh nữa cũng ở
Nhà xuất bản Lao động. Họ đi xe đạp ngược chiều nhau. Dương Thu Hương gọi
hai anh kia đỗ xe lại và nói dõng dạc: “Này hai thằng mặt dày, sách của tao in
rồi!”.
Trong một cuộc hội thảo khoa học kỷ niệm 35 năm văn học cách mạng
(1980), Dương Thu Hương lên diễn đàn, chị phát biểu “Đôi điều suy nghĩ về
nhân cách của người trí thức”, phê phán nhiều văn nghệ sĩ tư cách rất hèn. Chị
cũng phàn nàn về đời sống nhà văn. Chị nói: “Viết một tác phẩm rất khó nhọc
mà nhuận bút thấp. Nếu tôi không say mê văn chương thì tôi đi làm thợ may hay
bán bánh rán còn sống tốt hơn. Cả hội nghị đói, anh nào cũng mặt xanh nanh
vàng cả. Ta có quá nhiều nhà thơ và anh hùng mà thiếu người làm kinh tế...”
Lại nhớ một lần tôi cùng Dương Thu Hương, Hoàng Ngọc Hiến,
Nguyễn Văn Hạnh được trường Đại học Sư phạmViệt Bắc mời nói chuyện.
Hôm Dương Thu Hương đăng đàn diễn thuyết, tôi có đến nghe. Chị vừa nói vừa
đi đi lại lại rất hiên ngang. Tôi nhớ loáng thoáng, mở đầu chị phê phán Hồ Chí
Minh: “Năm điều bác Hồ dạy, không nói yêu cha mẹ nên bây giờ trẻ con hư
278
hỏng hết.”
Lúc đó có một anh cán bộ giảng dạy đứng lên hỏi, đại khái, có phải tác
phẩm nào đấy của chị là kết quả của chuyến đi thực tế ở đâu đó không? Chị
mắng luôn anh cán bộ nọ: “Lẽ ra tôi không thèm trả lời. Việc gì tôi phải đi thực
tế! Chỉ có bọn cán bộ lãnh đạo quan liêu mới phải đi thực tế chứ! Chính tôi là
thực tế, còn phải đi đâu?”
Có một lần tôi đến Dương Thu Hương lúc chị còn ở Ngô Thì Nhậm.
Chị nói, ông Đỗ Mười có sai một anh thư ký đến mời chị đến gặp. Chị trả lời :
“Ông Đỗ Mười hay Đỗ mười một muốn gặp tôi thì đến đây mà gặp”.
Tôi và Dương Thu Hương có một cuộc dong chơi có thể gọi là một
cuộc “bát phố” Hà Nội rất thú vị. Từ Ngô Thì Nhậm, chị rủ tôi đi bộ. (Dương
Thu Hương rất cảnh giác, không đi xe đạp, không đi xe máy, sợ bị thủ tiêu).
Chúng tôi cứ đi lang thang từ phố này sang phố khác. Thỉnh thoảng chị lại chỉ
nhà này nhà nọ, hỏi tôi: “Anh có biết nhà ai đây không?”. Tôi không biết. Chị
nói: “Cớm đấy!” Theo chị, Trần Quốc Vượng, Phạm Hoàng Gia cũng là cớm.
Đi mãi, mỏi chân, chúng tôi vào ăn ở một cái quán ven đường Trần Quốc Toản
chỗ giáp Trần Bình Trọng. Ăn xong, tôi rủ Dương Thu Hương đến nhà Văn
Tâm chơi. Văn Tâm ở Phan Bội Châu, gần đấy. Hương nói: “Văn Tâm là thằng
khốn nạn, không đến!”. Tôi ngạc nhiên nói, Văn Tâm không phải thế đâu, cũng
là người tử tế. Chị nói: “Thôi được, đã là bạn của anh thì đến cũng được”.
Văn Tâm hôm ấy hơi mệt, vào thấy đang nằm trên giường. Vợ chồng
Văn Tâm thấy Dương Thu Hương đến thì cảm động lắm, vội vàng tiếp đón
niềm nở.
Nhìn thấy bức tranh Lưu Công Nhân vẽVăn Tâm treo trên tường, tôi
nói: “Tranh của Lưu Công Nhân”. Dương Thu Hương nói “Lưu Công Nhân là
thằng khốn nạn!”. Từ Đà Lạt, nó dám viết thư gọi: “Em vào đây với anh –
Thằng khốn nạn!”
Chị Cam, vợ Văn Tâm nói: “Chị uống ca cao nhé!”
Dương Thu Hương : “Không, uống cà phê”
Chị Cam: “Cà phê chúng tôi cũng có nhưng để bị hả mất rồi!”
Dương Thu Hương : “Thì ra ngoài phố uống!”.
Vợ chồng Văn Tâm phải nài khéo chị mới ở lại.
Bỗng Dương Thu Hương chỉ mặt Văn Tâm nói: “Anh là thằng khốn
nạn!”
Văn Tâm ớ người, không hiểu sao.
Dương Thu Hương giải thích: “Anh làm thầy dùi phá đám cuộc tình
của Cao Xuân Hạo và Phương Quỳnh phải không? (Lúc này Dương Thu
Hương còn chơi thân với Phương Quỳnh).
Văn Tâm phân trần: Anh không hề can thiệp gì đến cuộc tình ấy. Thậm
chí anh còn cho đấy là mối tình đầu tiên thật sự là tình yêu của Cao Xuân Hạo.
Chẳng qua là vợ Hạo trong Nam doạ sẽ thuê bọn voi xanh voi đỏ ra phá tan nhà
Phương Quỳnh, vì thế họ phải chia tay.
Dương Thu Hương không nói gì nữa.
279
Đấy khẩu khí của Dương Thu Hương là như vậy. Thế mà khi đến nhà
tôi, vợ tôi thấy chị có vẻ rất hiền. Cười rất tươi.
Tính cách Dương Thu Hương như vậy, nên viết văn cũng dữ dội lắm.
Hồi ấy tôi viết bài Những phiên toà của Dương Thu Hương (1986) là muốn diễn
tả cái chất văn quyết liệt ấy. Chất văn này mà được phát huy trong thể văn bút
chiến, tranh luận thì phải biết! Sau này quả là chị đã trở thành ngòi bút chính
luận rất sắc sảo. Sắc sảo hơn văn tiểu thuyết. Chính Dương Thu Hương cũng
không đánh giá cao văn tiểu thuyết của mình. Có lần chị nói với tôi: “Văn của
em là văn cải lương, anh đọc làm gì!”. Dương Thu Hương rất có ý thức viết
văn không vì mục đích văn chương mà vì mục đích chính trị, mục đích chiến
đấu cho lợi ích dân tộc, cho chân lý – chị tuyên bố như thế.
Hồi Dương Thu Hương mới ở tù ra, tôi tình cờ gặp ở quán cà phê vỉa
hè chỗ 51Trần Hưng Đạo. Không hiểu sao chị lại ngồi với một nữ trung uý công
an rất xinh xắn (Dương Thu Hương là nữ mà lại mê những cô gái đẹp). Đối với
những người có liên quan đến chị mà phải làm việc với công an khi chị bị tù,
chị nghi ngờ tuốt và khinh tuốt, như Đỗ Đức Hiểu (từng dạy chị tiếng Pháp),
Nguyễn Huy Thiệp, cả Nguyên Ngọc và người bạn gái xinh đẹp và thân thiết
của chị là Phương Quỳnh. Chị hỏi tôi: “Này, có phải Nguyễn Huy Thiệp sợ vãi
đái ra phải không?”.
Dương Thu Hương thích nói năng kiểu dân dã, kể cả nói tục. Thích
giọng đời. Không thích giọng văn chương. Coi nhiệm vụ công dân lúc này là
cao hơn nhiệm vụ làm văn.
Nhân chuyện Hoàng Ngọc Hiến nghe Đỗ Chu nói dối đi hội chen về
mà tưởng thật, và chuyện anh dại dột tham gia vào một đảng nào đấy, Dương
Thu Hương gọi Hiến là đồ ngốc, “nếu là đàn bà thì chửa hoàng hàng tỉ lần”.
ở Dương Thu Hương, dường như nói bạo, nói thô, nói tục là để át đi
một cái gì có thực trong lòng là những tình cảm đằm thắm, là sự nhạy cảm về lý
tưởng, do đó tự thấy là yếu đuối. Con người dữ mà thực ra lành. Đốp chát đấy
mà hay nể người. Rất cảnh giác mà lại cả tin. Dễ bị lừa. Thách thức kẻ thù, hiên
ngang đối mặt với kẻ thù, sẵn sàng cô độc giữa bầy sói, nhưng lại cần tình bạn.
Ôi! Tình bạn vô tư, chân thật sao mà hiếm có trên đời, nhất là đối với một cô
gái xinh xắn trên đất Việt Nam này! Cho nên viết văn là nhu cầu tất yếu, là lẽ
sống, để có thể có người tri kỷ mà không có tình dục xen vào. Văn chương là
người bạn vô tư. Dương Thu Hương hay viết về tình yêu - đúng ra là những vụ
án tình. Nhưng trong truyện của chị, xem ra không hề có tình yêu tốt đẹp, được
ngợi ca như là hạnh phúc đời người. Tình yêu trong tác phẩm Dương Thu
Hương, hoặc chỉ là tình yêu ảo vọng của những cô gái ngây thơ và lãng mạn,
hoặc chỉ là thứ “tình chài gái, lừa gái” của những gã Sở Khanh hiện đại.
Dương Thu Hương tuyên bố thoải mái: “Tôi là con đàn bà lại đực
(Còn Nguyễn Khải là thằng đàn ông lại cái)”. Chị thích chơi với bạn trai nhưng
rất ghét những thằng cứ muốn chuyển sang tình yêu nam nữ, như Lê Đạt, Trần
Đĩnh... Khi nhận thấy có biểu hiện như thế, lập tức chị đuổi luôn. Dương Thu
Hương cũng không thích phiền luỵ đến những gia đình mà do chồng có quan hệ
280
với chị mà vợ chồng lủng củng. Có lần Dương Thu Hương rủ Nguyễn Duy Tiến
(một tiến sĩ toán có giúp đỡ gì đó đối với con hay cháu của chị) đi nhậu cho vui.
Nhưng khi biết vợ Tiến có ý nghi ngờ, ghen tuông, chị cắt luôn, không chơi với
nữa. Riêng tôi và Hoàng Ngọc Hiến vẫn được chị coi là bạn vô tư. Với chúng
tôi, chị có thể nói như nam giới với nhau về thói dâm ô của người này người
khác, như chuyện Hoàng Tùng nửa trên, nửa dưới như thế nào đó...
Một người có vẻ sắc sảo và luôn cảnh giác như thế mà đã nhiều phen
bị lừa... Chẳng hạn chuyên làm nhà làm cửa gì đấy với Lam Luyến, hay chuyện
mua phải thuốc bổ rởm (làm bằng thuốc tăng trọng lợn) bị phù và lở loét khắp
người.
Tóm lại Dương Thu Hương có vẻ giầu nam tính – tính cách mạnh, ăn
nói ngổ ngáo – nhưng thực chất vẫn là một phụ nữ giầu tình cảm và luôn có
mặc cảm của một cô gái trong xã hội Việt Nam với những thành kiến, những
định kiến về người phụ nữ. Ăn nói tạo tợn dữ dội, bốp chát, ngang tàng, đúng là
một cách để che dấu sự mềm yếu của nữ tính và để đối phó với những định kiến
xã hội nói trên. Cho nên chị mới phải “tự thiến” (Uống thuốc diệt dục). Có ba
điều dễ mắc phải và dễ bị lợi dụng, bị vu khống là danh, lợi, tình dục. Danh lợi
chị không thèm. Nhưng tình dục thì phải “tự thiến”.
Dương Thu Hương đã từng có lúc tưởng chỉ còn vất vào nhà xác (uống
nhầm aspirine bị chảy máu dạ dầy). Hai lần uống thuốc tự tử. Lấy phải thằng
chồng vũ phu, bị nó đánh có thương tích (Nguyễn Văn Hạnh nói, có lần Dương
Thu Hương dùng mưu trả thù: lừa chồng chui đầu vào gầm giường nhặt hộ cái
gì đó, rồi lấy gậy quật thật lực).
Dương Thu Hương không dấu tôi chuyện gì. Hỏi gì cũng nói: Hương
sinh ở Thái Bình (quê nội) được một năm thì nhà chuyển đi Bắc Giang, chỗ
giáp Bắc Ninh (Việt Yên). Nhà bị bom, chuyển vào thị xã Bắc Ninh cho đến hết
kháng chiến chống Pháp. Học trường Hàn Thuyên cho đến 1964. Sau đó học
trường lý luận nghiệp vụ Bộ văn hoá. Từng cắn máu tay viết đơn xin đi tuyến
lửa Quảng Bình (1966- 1975). Chín năm ở tuyến lửa. Khi chiến thắng thì vỡ
mộng: lý tưởng vấp phải thực tế đầy tiêu cực, bị phá sản. Những thần tượng bị
sụp đổ. Tự coi như bị lừa dối, chị từ bỏ thơ, xoay ra viết văn xuôi để lên án
những kẻ đã làm vấy bùn lên lá cờ lý tưởng của mình. Từ nay, tất cả đều phải
cảnh giác, chỉ tin ở mình thôi. Chấp nhận sống cô độc, chấp nhận sống giữa kẻ
thù để chiến đấu.
Nhưng thật ra có tin ở một cái gì mới hăng hái chửi bới, phủ định như
thế chứ! Chín năm ấy dẫn đến sự vỡ mộng, nhưng cũng là chín năm rèn luyện
một niềm tin ở mình và cuộc sống.
Dương Thu Hương kể chuyện với tôi, chị lấy phải một thằng chồng thô
bỉ mà mãi không bỏ được. Ông bố là một sĩ quan quân đội rất phong kiến,
không cho bỏ chồng. Ông bắt con phải kiểm điểm chỉnh huấn theo kiểu Tầu,
học được ở Quế Lâm. Con gái lớn mà bắt đứng úp mặt vào tường. Li dị chồng
rồi vẫn thế (Dương Thu Hương thế mà lại là đứa con ngoan, rất sợ bố).
Mãi sau ông cụ mới hiểu ra. Sáng sớm hôm ấy, ngồi đầu giường con
281
đang ngủ, hút thuốc lào, nhìn con, thương con, ông hối hận. Giờ ông mới hiểu,
do biết thằng rể thực chất là một thằng đểu. Mười bốn năm sống với nó, còn gì
là đời con gái!.
Có lần Nguyễn Tuân mời Dương Thu Hương đến chơi. Chị từ chối, vì
thấy ông ấy kiêu ngạo quá. Nguyễn Tuân nhắc lại. Chị nói: “Cháu chè, thuốc,
rượu, chả biết”. Vậy là Dương Thu Hương không thích quan hệ trên dưới kiểu
gia trưởng. Con người này sinh ra thích bình đẳng, có máu dân chủ.
Dương Thu Hương đặc biệt căm ghét bọn trí thức hèn nhát, trí thức
quý tộc đi Volga mà hèn. Căm ghét khái niệm “đi thực tế”. Bọn quan lại: đi ôtô,
xa thực tế mới cần đi thực tế. Còn nhà văn là phải sống với thực tế cả đời chứ!
Đâu còn loại nhà văn tháp ngà!
Sau khi đi tù về, Dương Thu Hương ở một căn hộ thuộc một chung cư
ở Trung Tự (A8, B17). Sống một mình. Hai con có chồng có vợ, trưởng thành cả
rồi. Chị hay mời tôi với Hoàng Ngọc Hiến (gần đây thêm Nguyễn Thị Bình) đi
ăn, khi ở nhà hàng Phú Gia, khi ở nhà hàng Vân Nam, thường vào dịp đầu xuân
hay sau một chuyến đi nước ngoài về. Chị không muốn có quan hệ với bạn mới,
sợ liên luỵ đến người ta.
Gần đây, Dương Thu Hương luôn tự nhận mình là giặc, và là một
người đàn bà nhà quê, răng đen, mắt toét, mặc váy. Chị nói, dân tộc Việt Nam
thực ra là một dân tộc nông dân. Chị thích văng tục vì đấy là ngôn ngữ nông
dân. Phải nói bằng ngôn ngữ nông dân mới diễn đạt được đích đáng mọi sự thật.
Nhưng Dương Thu Hương là người rất công bằng. Có lần chị được
mời sang Pháp. Một đám Việt kiều ở một tỉnh nào đó mời đến nói chuyện. Bọn
này muốn chị mạt sát Hồ Chí Minh. Nhưng chị vẫn đánh giá Hồ Chí Minh, dù
sao cũng là một nhân vật vĩ đại. Thế là chúng tức tối, có thằng đến khách sạn
doạ đánh chị. Dân Việt Nam là thế, hay bè phái. Mà bè phái thì bất chấp chân
lý, bất chấp lẽ phải.
Hồi ấy nhiều người cứ tưởng Dương Thu Hương ở lại Pháp không về.
Thực ra đúng thời hạn, chị về ngay.
Gần đây, chị lại sang Pháp. Lần này chị chủ trương ở lại. ở trong nước,
bị quấy nhiễu quá, không làm việc được. Có hồi người ta cắt cả điện thoại của
chị.
Viết truyện, Dương Thu Hương thường hay luận về vấn đề hạnh phúc
của những cô gái trẻ. Những cô gái hợm hĩnh và lãng mạn, chẳng hiểu tình yêu
và hạnh phúc là gì, cứ chạy theo những tình yêu mơ mộng và huyền hoặc, để
cuối cùng đánh rơi mất tình yêu và hạnh phúc thực của mình. Dương Thu
Hương từng luận về hạnh phúc như một người đầy trải nghiệm: nó như quân
xúc sắc trong trò chơi. Cần thì không đến. Không cần lại đến. Nhưng nó đến mà
đánh rơi nó, đánh mất nó như chơi. Hạnh phúc phải do chính mình quyết định.
Là ý thức, là hiểu biết, nhưng nó cũng là sự hồn nhiên, chân thực, thật thà, trước
hết với mình. Đừng có dại nghe ai xúc xiểm – vì hạnh phúc chỉ có cá nhân mình
mới hiểu được.
Không rõ Dương Thu Hương tự thấy đời mình thế nào, còn theo tôi,
282
chị chưa bao giờ có hạnh phúc. Đời người đàn bà như thế là khổ lắm.
Tôi thật sự khâm phục Dương Thu Hương. Cảm phục sự dũng cảm của
chị – sự dũng cảm đã phải trả giá rất đắt: một người yêu đời, rất cần tình bạn và
sự cảm thông, mà phải sống cô độc, một mình chống chọi với cả một Nhà nước.
Tôi cũng thật sự thương Dương Thu Hương, một người đàn bà như thế là khổ
lắm.
Hiện nay Dương Thu Hương đang ở Pháp.
Nghe nói tiểu thuyết Chốn vắng của chị được dịch và Những thiên
đường mù sắp được chuyển thành kịch bản phim.
Xin chúc mừng chị.
Láng Hạ 01.5.2007


Chương XXIII: Lưu Công Nhân


Tôi quen Lưu Công Nhân từ hồi cùng học với nhau ở trường Trung
học kháng chiến, đóng tại Đào Giã, Thanh Ba, Phú Thọ (vốn là trường Chu Văn
An ở Hà Nội sơ tán lên từ thời kháng chiến chống Pháp).
Hiệu đoàn học sinh có ra đều kỳ một tờ nội san, viết tay.
Tôi hay vẽ vạch lăng nhăng, nên được cử đi trang trí, minh hoạ cho tờ
nội san này. Tôi gặp Lưu Công Nhân cũng đến làm công việc này.
Tất nhiên, không như tôi, Lưu Công Nhân là một tài năng thực sự. Tôi
nhớ anh thường lấy một mẩu cành cây chỉ bằng ngón tay, dùng dao cắt, gọt mấy
nhát, thành ngay một hình người nhỏ xíu xinh xinh.
Tôi với Lưu Công Nhân học cùng một khoá (1947 – 1950). Anh học
ban sinh ngữ, tôi học ban Toán Lý Hoá. Hình như anh đang học dở dang thì bỏ
đi học hoạ, khoá Tô Ngọc Vân.
Bẵng đi từ đó, tôi không lần nào gặp anh nữa, tuy có xem tranh của anh
ở bảo tàng mỹ thuật và biết anh đã là một hoạ sĩ nổi danh.
Sau 1975, tôi thỉnh thoảng có được mời vào dạy cho mấy trường đại
học ở Sài Gòn và Cần Thơ. Biết anh ở Sài Gòn, tôi tìm đến chơi.
Dưới đây, tôi tường thuật lại cuộc gặp mặt đầu tiên của tôi với Lưu
Công Nhân ở Sài Gòn. Anh nói nhiều, nói liên miên. Nên cuộc trò chuyện giữa
tôi và anh hầu như chỉ là một cuộc độc thoại của Lưu Công Nhân.
Tôi nhớ đấy là một ngày đầu năm 1983.
Lưu Công Nhân lúc này ở đường Tự Đức. Nhà hai tầng, rộng rãi và
khá sang trọng.
Tôi chờ đợi một thái độ lạnh nhạt và xem thường của ông bạn cũ. Vì
nghe nói hắn giầu lắm, danh vọng lắm, khinh người lắm. Điều này thì tôi đã có
kinh nghiệm rồi, nên coi như chuyện thường. Nó khinh mình thì cái giá trị thực
của mình thế nào thì vẫn thế thôi. Mà mình trông bộ dạng nhếch nhác thế này
nó khinh cũng là phải. Tôi cứ gõ cửa. Mình vào cốt để xem tranh của hắn, thế
thôi – tôi rất thích hội hoạ.
Nhưng tôi đã lầm. Lưu Công Nhân nhận ra tôi ngay. Hắn rất nhớ bạn
cũ. Hắn đọc nhiều sách lắm. Sách hội hoạ, điêu khắc của Pháp, đọc cả sách văn
học Việt Nam. Có đọc cả nhiều bài viết của tôi. Và cũng biết tôi có cuốn Nhà
văn, tư tưởng và phong cách và nói đang đi tìm mua. Hắn khen tôi viết về
Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng rất khá.
Lưu Công Nhân quả là một tay kiêu ngạo. Xem thường tuốt. Tự coi
mình là một maitre, cỡ quốc tế. Nhưng nụ cười thì rất tươi, hiền và trẻ cách lạ.
Tôi rất thích nụ cười của Lưu Công Nhân. Hắn người cao to. Cởi trần. Quần
đùi. Lưng gù gù, lòng khòng. Nhưng đẹp trai, ăn nói rất thoải mái, hay văng tục.
Mới gặp nhau đã mày tao luôn. Không ngờ Nhân còn nhớ tôi ngày xưa từ dáng
đi đến cả cái áo mặc thời kháng chiến.
Nhân nhận xét Nguyễn Tuân là hám danh ,nên mất cái hồn nhiên, tự
284
nhiên – nghệ sĩ chân chính phải tự nhiên như ruồi ấy chứ (Nhân hay nói “tự
nhiên như ruồi”). Đằng này kiểu cách, bộ dạng quá. Vào Sài Gòn tại sao phải
tìm đến Trịnh Công Sơn? Mà Trịnh Công Sơn cũng háo danh nốt, nên lấy làm
tự hào lắm.
Nhân chê Nguyên Hồng hèn. Trước Mười Hương, Nguyễn Đức Thuận,
tại sao lại nói năng có vẻ kính sợ quá, bái phục quá, tự hạ nhân cách nghệ sĩ
trước nhân cách chính trị. Đó là hai loại anh hùng, hai sự dũng cảm khác nhau
chứ!
Lưu Công Nhân nói, từng bỏ biên chế năm 1959, lúc biên chế còn đầy
tiền đồ. Phan Kế An sợ không dám, cho là biên chế còn có giá trị lớn trong
tương lai.
- Mình bỏ biên chế – Nhân nói- Đạp xe từ Thanh Hoá lên tận Nam
Quan, rồi từ Nam Quan về, xem kiến trúc thay đổi thế nào. Vẫn cổng chữ môn,
ngói âm dương, căn bản không khác gì. Thế mà càng lên đến gần biên giới,
càng thấy Tầu hơn. Rất lạ!
- Này nhiều thằng đến đây gạ xem tranh của tao. Tao đuổi. Nhưng cho
mày xem. Nào lên đây.
Hắn đưa tôi lên lầu. Tranh các loại treo la liệt. Hắn lại treo thêm lên
mấy bức nữa cho tôi xem.
Có một bức khá to, vẻ lằng nhằng như lửa lan ra tất cả tấm toan lớn:
“Khi bầy tranh nơi công cộng thì tao nói là bắn máy bay Mỹ. Thực ra là mon
rêve”.
Có bức vẽ thuốc nước, một cô gái chở đò ở một kênh rạch miền Nam.
Đẹp. Có tranh vẽ một thiếu phụ bế con. Mấy lá tre, cành tre lơ thơ. Một bức hoạ
mùa đông. Lá bàng đỏ, lốm đốm một chút xanh. Đỏ đúng màu lá bàng úa,
nhưng không rõ lá cành gì hết.
Nhân nói: “Mẹ tao mất, năm bà 82 tuổi – Hắn chỉ một bức tranh, nói:
“Hommage à ma mère. Bức tranh lệ. Nước mắt”. Nhưng tôi không nhìn ra gì
hết.
Một bức ký hoạ còn trên giá vẽ: nhà bè, kiểu nhà sàn, nơi một cái bến
sông của một vùng Hậu Giang, Tiền Giang gì đó.
Một bức sơn dầu lớn, vẽ cảnh chiều thu. Hơi buồn. Một quán tranh bên
đường, cạnh một cái lô cốt của Pháp thời kháng chiến. Cánh đồng lúa xanh tận
chân trời. Tôi thấy đẹp, rất thích.
Lưu Công Nhân còn lấy ra cho xem một số tranh thuốc nước vẽ đường
làng, cổng làng cổ kính và vắng vẻ của miền Bắc. Một số tranh vẽ bò của Lưu
Công Nhân. Nói chung, tôi rất nhạy cảm với cảnh nông thôn ngày xưa. Đẹp mà
buồn. Mà sao rất thương!
Lưu Công Nhân nói liên miên về lịch sử hội hoạ, về hội họa Việt Nam
và thế giới.
- Tranh lợn gà làng Hồ không phải tranh dân gian. Đấy là những
maitre, những artiste vẽ đấy chứ! Diệp Minh Châu tạc sao nổi tượng Phật
nghìn mắt nghìn tay! Đó là anonyme không phải folklore. Tinh thần anonyme là
285
truyền thống nghệ thuật Việt Nam.
- Nghệ sĩ nó có một cái gì rất tự nhiên. Ăn uống, nước trà, chơi hoa...
rất tinh tế, sành sỏi. Không phải cố làm ra thế, tự nhiên thế thôi. Các cụ ta là
thế. Bây giờ khác rồi. Không có. Dốt. Không ai dạy... Lo cho thế hệ sau quá!
Muốn học vẽ, không có sách mà học. Ăn phở lại cho mùi tầu vào, khó chịu quá,
không có cái tinh tế nghệ sĩ.
- Hội hoạ rất cần có phê bình. Nghệ sĩ đẻ ra phê bình. Phê bình đẻ ra
nghệ sĩ. Nghệ sĩ sáng tạo, phê bình tổng kết ra trường phái này, trường phái nọ.
Và giữa hội hoạ và văn học có ảnh hưởng lẫn nhau.
- Việt Nam không vẽ chân dung. Kiêng. Cho vẽ thì bị thu mất thần. Tàu
có truyền thống này từ lâu đời. Hiện còn để lại một bức tranh về một hoạ sĩ
đang vẽ một cô công chúa hay hoàng hậu gì đó. Một maitre râu dài ngồi vẽ, các
cung tần mỹ nữ xúm xít đứng xem.
Phương Đông không có réalisme kiểu Tây, nghĩa là vẽ giống
naturalisme. Phương Đông không bao giờ chịu nô lệ sự thật. Không chủ trương
vẽ hình xác, muốn truyền lại linh hồn của tạo vật.
Việt Nam không có dessin, vẽ chì than, ký hoạ. Phương Đông không có
esprit documentaire. Phương tây nó triển lãm dessin riêng của một hoạ sĩ và
coi là đã đủ là một phòng tranh rồi. Phương Đông vẽ là vẽ ngay trên lụa, đục
ngay vào gỗ, vào đá.
Thời Phục Hưng, Tây đã chịu ảnh hưởng phương Đông. Do route de
soie, tranh vẽ Tàu đã sang Tây lâu rồi.
Phục Hưng không hề ảnh hưởng tới Việt nam. Việt Nam chỉ chịu ảnh
hưởng tranh của Tây thế kỉ XIX, XX thôi.
Tính dân tộc là bản chất của nghệ thuật. Thằng Tây sang Tàu học lối
vẽ Tàu, dù thành thạo đủ ngón vẫn không vẽ ra được như tranh Tàu.
- Mỗi hoạ sĩ có một univers của nó. Để thể hiện cái univers ấy, nó cần
vẽ cái này, cái kia, dùng chất liệu này, chất liệu khác... Mình coi sơn mài là
quốc hoạ là vô nghĩa. Phê bình theo sujet là không đúng. Hội hoạ phê bình xã
hội khác. Thời Hitler chiếm đóng, palette của Picasso toàn màu tối, sau giải
phóng palette Picasso màu tươi sáng.
- Việt nam xưa thế mà tinh tế: có cái kiến trúc vui (proportion
heureuse). Có kiến trúc buồn. Có kiến trúc nghiêm trang khắc khổ.
- Vừa rồi nó bảo tao khai thành tích để phong giáo sư, phó giáo sư hay
khen thưởng nghệ sĩ ưu tú... Tao không thèm, gửi trả lại giấy tờ ngay lập tức.
Phó chứ đến giáo sư tao cũng coi ra cái gì. Cho đi nước ngoài, bắt làm hộ
chiếu, tao không thèm. Gọi cả nước Liên Xô sang đây tạo dạy cho, việc gì tao
phải đi học Liên Xô.
- Nghệ sĩ là người sáng tạo theo tài năng, sở trường của mình, không
cần biết giá trị đến đâu, thế nào. Nhưng thằng Critique thì phải làm công việc
đánh giá, xếp hạng theo vị trí của mỗi nghệ sĩ trong lịch sử nghệ thuật. Cần có
một cuốn Nhà văn, tư tưởng và phong cách trong hội hoạ. Mày làm được đấy.
Mày đi vào nghệ thuật hội hoạ đi. Hiện nay trong hội hoạ toàn thằng ngu,
286
không có chữ.
Mày cứ viết luôn về cái rencontre của mày với Lưu Công Nhân cũng
thành một bài có giá trị đấy. Hai maitre gặp nhau.
Nhân nói đến đó thì có một người đến nhờ vẽ bìa sách. Nhân lấy chì
sáp viết thoắng một chữ , rồi lấy bút lông chấm mực vạch đè lên trên mấy nét.
Xong rồi, nói:
Thế mà người ta khen đẹp đấy và tới tấp đến nhờ tao vẽ bìa.
Thấy đã muộn, tôi đứng lên, đi về. Lưu Công Nhân nói: “Phải có
équipe, có bè, có cánh, có thế. Thí dụ, Hoàng Ngọc Hiến bị đánh thì có Nguyễn
Tuân lên tiếng bênh vực. Và phải có giới thiệu nhau, bình luận sáng tác của
nhau.
Nhớ lại ngày xưa, đã có lúc tôi định xin học hoạ. Nếu học thì cũng
cùng một khoá với Nhân và trở thành đồng nghiệp của hắn. Không biết số phận
sẽ ra sao!.
* *
*
Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng vào Sài Gòn, tôi lại đến Lưu
Công Nhân chơi.
Mấy năm nay hắn yếu đi nhiều. Bị chứng run, gọi là bệnh liệt rung
(parkinson). Chân tay run rẩy, đi đứng khó khăn.
Nhưng hắn vẫn vẽ. Hắn tặng tôi một tập tranh, chỉ đề mấy chữ: vẽ, vẽ,
và vẽ...
Hôm ấy, tôi đến Nhân. Đâu vào đầu năm 2002. Hắn nói, nhiều khi
đứng mãi mà không nhấc chân đi được. Tay run. “Nhưng tao vẫn vẽ. Renoir vẽ
cho đến lúc chết. Lão bị goutte, không vẽ được, người ta phải buộc bút vẽ vào
tay, vào chân để vẽ.
Các thế hệ hoạ sĩ thường kỵ nhau. Renoir nổi tiếng trước Matisse.
Matisse khi nổi danh đem tranh đến cho Renoir xem, Renoir chê không ra gì.
Picasso cũng thế, không chấp nhận thế hệ sau mình.
Mình sang Balan, có một tay hoạ sĩ hỏi, ở Việt Nam có phê bình hội
hoạ không. Tao bảo có rất ít. Tay hoạ sĩ Ba Lan nói, thế là hạnh phúc. ở Ba
Lan, một hoạ sĩ có hàng trăm thằng phê bình. Sợ quá ! Khổ quá! Có ít phê bình
là hạnh phúc đấy!”
Lưu Công Nhân cho dân tộc Việt Nam bao giờ cũng mô phỏng nước
ngoài, xưa là Tầu – kể cả tranh khắc gỗ làng Hồ hay Hàng Trống cũng chịu
ảnh hưởng Tầu (đấy là những maitre vẽ chứ không phải dân gian). Sau này bắt
chước Tây, bắt chước Mỹ. Việt Nam không có création hoàn toàn. Bắt chước
không đạt tới nơi, thì thành bản sắc Việt Nam, thành hồn Việt Nam. Trong đầu
mỗi hoạ sĩ Việt Nam thế nào cũng có một mẫu ngoại quốc. Nhưng khác ngoại
quốc là có cái hồn Việt Nam.
Lịch sử hội hoạ Việt Nam không phải bắt đầu từ khi có trường Mỹ
thuật Đông Dương mà có từ tranh khắc gỗ vẫn gọi là tranh dân gian. Thực ra
đó không phải là dân gian mà là hoạ sĩ hẳn hoi, phải làm bản vẽ ngược lên gỗ
287
mới khắc được thành bản in chứ.
Tầu nó khắc ngà voi rất nhiều lớp lồng vào nhau rất tinh vi. Ta không
bắt chước được. Còn thì bắt chước tuốt: kiến trúc, chạm gỗ, ngói âm dương,
tượng Kim Cương, phật Quan Âm...
Trẻ con vẽ là hoạ trẻ con. Không nên cho trẻ con vẽ đã là có năng
khiếu. Phải trưởng thành mới biết. Vì vấn đề là mắt, không phải là trí óc như
Văn, Nhạc. Thần đồng không có ở hội hoạ. Lớp trẻ bây giờ không có ngoại ngữ,
không phát triển được. Phải tiếp xúc với nước ngoài mới mở rộng được tầm
mắt...
Lưu Công Nhân nói liên miên. Vả lại tôi có biết gì về hội hoạ đâu mà
nói. Cho nên vẫn chỉ có một thằng độc thoại. Mà hắn thì chỉ cần có một đối
tượng nào đấy để trút ra những suy nghĩ của mình.
* *
*
Mấy năm nay. Tôi không có dịp gặp Lưu Công Nhân lần nào nữa. Hắn
không còn ở Sài Gòn mà đã lên Đà Lạt. Nghe nói ở đấy, hắn có một biệt thự rất
đẹp.
Mùa xuân năm nay, tôi vào Sài Gòn, bỗng được tin Lưu Công Nhân
mất. Buồn vô cùng. Cứ thấy hụt hẫng, trống vắng thế nào!
Nhớ lần gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi ở Sài Gòn, Nhân có ý muốn tôi
ghi lại cuộc trò chuyện hôm ấy.
Nguyện vọng đó của Nhân, tôi đang thực hiện đây.
Tiếc rằng Nhân chẳng còn sống để mà đọc!
Quan Hoa, cuối thu năm 2006
Sài Gòn cuối xuân năm 2007


Chương XXIV: Hữu Thỉnh

Hữu Thỉnh có máu làm quan, chỉ cố chí leo lên cho được một cái ghế
lãnh đạo thật cao. Hắn tin ở tướng số, ở tử vi. Đi đâu cũng xem giờ xuát hành và
thắp hương khấn vái.
Một hôm, Trung Đức, nhà ở Tràng Tiền , mời Thỉnh và tôi đến nhậu.
Hữu Thỉnh tự khoe tướng của mình rất tốt: “Em lông mày lưỡi mác, em còn
lên” – Thỉnh vừa nói vừa chọc chọc ngón tay lên cao. Lúc ấy Thỉnh mới là uỷ
viên chấp hành Hội nhà văn. Thỉnh xoay ra xem tướng tôi: “Anh có cái nốt ruồi
bên trái mũi. Nếu ở vào giữa sống mũi thì anh đi tù rồi. Nếu ở đầu mũi, anh đi
ăn mày!” Thỉnh nói dứt khoát như thế.
Năm 1983, tôi và Thỉnh từ Hà Nội đi Hải Phòng dự cuộc hội thảo về
Nguyên Hồng, nhân ngày giỗ của ông (Nguyên Hồng vốn là chủ tịch Hội văn
nghệ Hải Phòng). Đi đến chân cầu Phú Lương, Thỉnh cho đỗ xe, xuống thắp
hương cho vợ chồng Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ một cách rất thành kính.
Thắp hương hai chỗ: chỗ bị tai nạn và chỗ quàn tạm thi thể hai vợ chồng.
Từ ngày ấy, không biết có phải nhờ trời phật phù hộ không mà Thỉnh
cứ lên vùn vụt. Từ uỷ viên chấp hành lên Tổng thư kí. Xuýt nữa vào nhà đỏ.
Thực ra mẹo của Thỉnh là lấy lòng cả làng, nịnh tuốt. Đối với người già, Thỉnh
tổ chức chúc thọ đầu năm, lập Hội nhà văn cao tuổi. Đối với bọn làm thơ đang
chẳng có ai thèm đọc, hắn tổ chức Hội thơ xuân. Thỉnh đúng là một “Thiên tài
hiếu hỷ” – Nguyễn Huy Thiệp nói đúng. Ai có cha già mẹ héo, ai ốm đau hay
gặp tai nạn gì, Thỉnh đến ngay và có phong bì. Vừa rồi, họp đại hội nhà văn lần
thứ 7, tôi bị ngã. Hôm sau Thỉnh đã đến thăm rồi.
Thỉnh có cách phát biểu ca ngợi người khác rất tâm huyết. Được khen
một cách đầy tâm huyết, ai chả thích!
Nhớ một lần gặp tôi ở khách sạn nổi Hồ Tây – hôm ấy Hội Nhà văn có
liên hoan gì đó. Thỉnh ôm lấy tôi, nói lớn: “Nhà phê bình nghệ sĩ!”. Những lời
lẽ tâm huyết như thế, chắc Thỉnh ban phát cho nhiều người.
Từ Đại hội nhà văn lần thứ III, Thỉnh là uỷ viên cháp hành phụ trách
công tác nhà văn trẻ. Anh thường mời tôi cùng đi bồi dưỡng những cây bút trẻ ở
các nơi. Tôi để ý thấy Thỉnh rất chú ý mời các vị đàn anh trong đoàn lên tiếp
các quan chức cấp tỉnh, còn mình thì giữ phận đàn em, rất khiêm tốn.
Một lần, tại Mộc Châu, tôi ở cùng phòng với Thỉnh. Có một cây bút trẻ
đến đọc thơ cho Thỉnh nghe. Hai tay ngồi trên cái giường một, còn tôi ngồi ở
cái bàn cạnh cửa sổ. Thỉnh thoảng tôi lại giật mình vì Thỉnh vỗ đùi nói lớn:
“Tuyệt!”. Đối với một cây bút cấp tỉnh, cấp huyện, được một nhà thơ trung
ương, uỷ viên chấp hành Hội, khen thơ mình như thế thì sướng quá rồi còn gì!
ở Vĩnh Phúc, có anh giáo viên dạy chuyên văn tên là Khoái biết Thỉnh.
Anh nói với tôi, Thỉnh nịnh cả vợ nhà văn địa phương. Đến thăm một nhà văn ở
Vĩnh Yên, gặp vợ anh này, tự nhiên Thỉnh kêu to: “Ôi, Xuân Quỳnh!” – Chị
289
này chẳng hiểu gì cả. Hoá ra Thỉnh khen chị ta xinh đẹp như Xuân Quỳnh.
Thỉnh thoảng Thỉnh lại điện cho những cây bút địa phương gửi bài đến
để anh đăng trên báo trung ương. Đối với các cây bút tỉnh lẻ, được đăng bài trên
báo trung ương là danh giá lắm!.
Nhưng có điều này thì Thỉnh lại cứng rắn hơn ai hết, nguyên tắc hơn ai
hết: đừng đụng đến cái ghế của anh ta, đừng cản trở con đường thăng quan tiến
chức của anh ta. Về mặt này Thỉnh sẵn sàng đổi trắng thay đen, trở mặt như bàn
tay, thậm chí sẵn sàng làm những điều bậy bạ, vô nguyên tắc, sẵn sàng vất vỏ
chân lý, đạo lý.
Trên kia tôi đã nói đến chuyến đi Hải Phòng với Thỉnh dự cuộc hội
thảo về Nguyên Hồng. Lúc ấy Nguyên Ngọc bắt đầu bị cấp trên để ý. Lãnh đạo
tỏ ra khó chịu về cái vai tổng biên tập báo Văn nghệ khá bất trị của anh, và
muốn tìm người thay. Một trong những người được các vị nhắm tới là Hữu
Thỉnh. Hôm ấy, cùng Thỉnh đi dạo trên hè phố Hải Phòng, Thỉnh nói với tôi dứt
khoát: “Em với anh Nguyên Ngọc, đời nào em lại muối mặt ngồi vào chỗ anh
ấy”. Vậy mà chỉ ít ngày sau, đã thấy Thỉnh nhận chức Tổng biên tập Văn nghệ.
Con người này, đúng là không thể tin cậy được.
Thỉnh ngang nhiên bợ đỡ Mai Quốc Liên và Trần Mạnh Hảo, vì biết
cấp trên đang tin dùng hai tay này. Mặt khác đó là những kẻ rất hung hăng và to
mồm, biết cách nịnh trên nạt dưới, rất có thể gây khó dễ cho Thỉnh. Thỉnh còn
cho Văn nghệ trẻ đăng nhiều bài rất nhảm nhí của Hoàng Xuân Tuyền, vu cáo
những người biên soạn sách giáo khoa, vì thấy xu thế đánh vào ngành giáo dục
đang được trên khuyến khích. Nhớ hồi Bộ giáo dục chủ trương biên soạn hai bộ
sách giáo khoa môn văn PTHT (sách cải cách giáo dục) và bị lãnh đạo cho là có
vấn đề. Chính Thỉnh, trong quốc hội, đã gào lên như là phẫn nộ lắm: “Một nước
thống nhất, mà sao lại có hai bộ sách giáo khoa?” - ý nói có một âm mưu chính
trị muốn chia rẽ đất nước. Không biết Thỉnh có tìm hiểu gì không, nhưng điều
chắc chắn là hắn thấy chiều hướng quốc hội (tất nhiên cũng là chiều hướng của
Đảng) như thế, nên tập tức tỏ thái độ hưởng ứng kịp thời.
Thỉnh ra sức che chắn cho Trương Vĩnh Tuấn (phụ trách Văn nghệ trẻ)
vì Tuấn rất cần cho Thỉnh, tuy Tuấn là thằng cha láo lếu, mất dạy (hình như
thằng cha này xoay tiền rất giỏi). Hắn phát biểu như một thằng điên khùng:
“Tôi căm thù những người viết sách giáo khoa” – Hắn nói thẳng với cô Hoàng
Hoà Bình như thế, khi Bình đề nghị hắn giải thích về những bài xuyên tạc sách
giáo khoa trên Văn nghệ trẻ. Những chuyện như thế nếu có ai gặp Thỉnh trực
tiếp phê phán thì Thỉnh lại tìm cách xuê xoa, nói là đi vắng, không biết, và hứa
sẽ xử lý”.
Thỉnh kết nạp hội viên hay tổ chức giải thưởng hàng năm của Hội cũng
rất bừa bãi, cốt củng cố cho chắc cái ghế của mình. Thỉnh bầy ra cái trò bầu đi
bầu lại giải thưởng Hồ Chí Minh một cách vô lối cho Hồ Phương và Hà Minh
Đức. Tuy thừa biết Hồ Phương và Hà Minh Đức viết lách như thế nào, nhưng
mặc, Thỉnh cứ tổ chức bầu đi bầu lại, cốt tỏ ra quan tâm tới quyền lợi của anh
em. Nịnh trên, nịnh dưới – thực chất là lừa dối anh em bằng những lời đường
290
mật, đó là đường lối chiến lược cơ bản của Thỉnh.
Nhưng xem chừng con đường hoan lộ của Thỉnh cũng chỉ đến thế thôi,
tuy Thỉnh đã phải trả giá bằng biết bao công sức và mồ hôi của tâm não, cũng
như... biết bao hương khói khấn vái Trời, đất, thần, Phật...
Cách đây dễ đến sáu, bẩy năm, trong một cuộc họp có mặt Thỉnh, Đỗ
Chu nhìn tướng Thỉnh, nói với tôi: “Thỉnh trán hóp dần lên trên, không lên
được nữa đâu!”. Không biết Thỉnh có thấy tướng mình như thế không?
* *
*
Tôi viết xong bài về Hữu Thỉnh được ít lâu thì Nguyễn Văn Hạnh ở Sài
Gòn ra đến chơi. Hạnh nói cũng vừa gặp Thỉnh. Anh hoàn toàn tán thành những
nhận xét của tôi về Thỉnh, đặc biệt là những thủ đoạn lấy lòng tất cả mọi người
và thói hứa hão, hứa đầu lưỡi, sau đó quên ngay.
Nhưng Hạnh có nói điều này khiến tôi phải ngẫm nghĩ. Có lẽ những
nhận xét của mình về Thỉnh có phần thiếu công bằng chăng?
So sánh Thỉnh với những ông Tổng thư ký tiền nhiệm xem., người ta
dễ có ấn tượng Thỉnh thua kém, rất thua kém. Nhưng thử nghĩ mà xem, các ông
Nguyễn Đình Thi, Vũ Tú Nam, Nguyễn Khoa Điềm có gì hơn Thỉnh nào? Các
vị đã làm được gì có ích cho đồng nghiệp của mình? Đã làm được gì để bảo vệ
anh em những lúc bị quy chụp chính trị bừa bãi, thậm chí bị tù oan? Đã làm gì
để giúp Hữu Loan trong những ngày khốn khổ ở Thanh Hoá? Đã làm gì để bênh
vực Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Phùng Quán, Lê Đạt... trong vụ Nhân văn –
Giai phẩm? Đã làm gì để cứu Nguyễn Hữu Đang, Thuỵ An, Trần Thiếu Bảo,
Trần Dần, Hoàng Cầm, và sau này Dương Thu Hương khỏi đi tù? Đã làm gì để
giúp đỡ gia đình Nguyên Hồng trong những ngày đói khát ở Nhã Nam? Đã làm
gì để bảo vệ danh dự cho Trần Độ, đến lúc chết vẫn còn bị vu cáo?...v.v...
Té ra tất cả, từ Nguyễn Đình Thi, Vũ Tú Nam, Nguyễn Khoa Điềm đến
Hữu Thỉnh đều là một lũ bù nhìn, đều vô tích sự như nhau cả thôi.
Nhưng riêng Hữu Thỉnh thì có điều này cũng nên tính công cho hắn
chứ: Thỉnh quả có cố gắng tạo cơ sở vật chất cho Hội. Như gần đây hắn đổ khá
nhiều tâm huyết vào việc xây dựng trụ sở mới, trại sáng tác mới của Hội và Bảo
tàng nhà văn ở Quảng Bá. Tôi vừa lên xem, rất hoành tráng.
Các vị Nguyễn Đình Thi, Vũ Tú Nam, Nguyễn Khoa Điềm đã làm
được gì tương tự như thế chưa?
Vậy thì nếu so sánh, ai hơn ai?
Láng Hạ 10. 4. 2008

Chương XXV: Nguyễn Huy Thiệp

Thiệp có tài bịa chuyện như thật. Không phải chỉ trong văn đâu, trong
đời sống cũng vậy.
Ngày khánh thành pho tượng Phật của anh, anh mời tôi đến đánh chén.
Anh hỏi tôi khi đứng ngắm pho tượng: “Anh thấy mặt tượng giống nam hay
giống nữ?”. Tôi nói, giống nữ. Thiệp bảo: “Thế là nam tính của anh mạnh. Nếu
thấy giống nam là nữ tính mạnh” (Có người lại thấy giống Phạm Thị Hoài).
Thiệp đưa tôi xem bức ảnh chụp buổi lễ gọi là hô thần nhập tượng và
nói, hôm ấy chúng em mời thế nào mà có hai vị Hoà thượng cùng đến một lúc,
mà vị nào cũng quên không mang chuông mõ. Em và Hồng Hưng (Hồng Hưng
là hoạ sĩ kiêm điêu khắc, cùng làm tượng với Thiệp) phải chia nhau mỗi người
một ngả đi mượn ở những ngôi chùa quanh vùng. Đến đâu cũng thấy nhà chùa
đã sắp sẵn chuông mõ giao cho, nói là: “Đêm qua đức Phật báo mộng, có người
đến thu chuông mõ”.
Thiệp lại kể, khi tượng Phật sắp hoàn thành, bỗng thấy có một bà nhà
quê ở đâu đến, thấy tượng vội sụp lậy như tế sao. Hỏi thì nói, bà ta có con bị
ốm. Mời thầy cúng đến. Ông thầy nói, bà yên tâm, gần đây người ta đang xây
tượng Phật, ma quỷ sẽ phải chạy hết, nay mai con bà khỏi thôi. Quả đúng như
vậy.
Một hôm khác, tôi nhớ là ngày giỗ ông thân sinh của Thiệp. Anh mời
chúng tôi đến uống rượu. Hôm ấy khá đông khách. Thiệp cho biết, ở Hà Nội, có
những bà đồng cứ nhận mình là Ngô Thị Vinh Hoa – một nhân vật huyền thoại
của Thiệp trong truyện Phẩm tiết. Thiệp nói, hôm ấy, anh ra Hà Nội, gặp một bà
đồng đang đi với ông tiến sĩ Hoàng Phương, một chuyên gia về khoa học thần
bí. Đó là một trong những bà đồng tự nhận mình là Ngô Thị Vinh Hoa. Trông
thấy Thiệp, bà ta bỗng lăn đùng ra đất, mồm hộc máu. Thiệp hoảng hồn, bỏ
chạy vì sợ liên luỵ.
Thiệp viết thì hay, nhưng nói chuyện thì không hấp dẫn lắm. Anh có tật
nói lắp. Người đen, có vẻ phong trần – Hồi Thiệp mới xuất hiện, nổi lên như
cồn, nhiều kẻ sinh đố kỵ. Khi Thiệp viết Phẩm tiết, bị quy là xúc phạm Quang
Trung, nhiều tay liền xúm vào đả kích, chửi bới. Đỗ Chu, trong một cuộc họp ở
Hội nhà văn, nói: “Mặt nó như cái ruộng nẻ, nó dám xúc phạm anh hùng dân
tộc, sao không bỏ tù nó đi!”.
Thiệp vốn là một giáo viên dạy sử, nhưng thực sự là con người của
cuộc đời phong trần, bụi bặm, thực sự vật lộn với cuộc sống để mưu sinh. Anh
từng buôn gỗ, có lúc làm trang trí nội thất thuê, có thời gian vẽ gốm cho lò gốm
Bát Tràng, rồi vẽ bìa sách cho nhà xuất bản Giáo dục... Khi mới được chuyển từ
Sơn La về Hà Nội (Nhà xuất bản Giáo dục), Thiệp xin với Nguyễn Đức Nam,
Giám đốc nhà xuất bản, cho vợ anh, đang dạy học ở Từ Sơn, về Nhà xuất bản.
Thiệp mặc cả với Đức Nam sẽ có cách đưa được con Nam từ Hà Tây về Hà
Nội. Nam nói, chuyện của tao, tự tao giải quyết được. Thiệp phải dắt gái
292
cho Nam ba lần, Nam mới đồng ý. Hiện vợ Thiệp vẫn chữa morát cho nhà xuất
bản Giáo dục.
Thiệp hai lần mở quán ăn. Một lần ở Gia Lâm, gọi là quán Nhà Sàn
Hoa Ban. Một lần ở số 1 Láng Hạ, gọi là nhà hàng Hưng Thịnh. Tôi có được
mời dự lễ khai trương. Quán Hoa Ban thì do quan hệ giữa chủ đầu tư và Thiệp
không hợp thế nào đó, nên Thiệp bỏ. Còn quán Hưng Thịnh thì không hiểu sao
vừa mở được ít ngày đã sập tiệm.
Vừa rồi, Thiệp viết bài Trò chuyện với hoa thuỷ tiên, bị bọn làm thơ
ghét lắm. ở đại hội nhà văn lần thứ bẩy, anh nói với tôi, tưởng chúng nó không
bầu mình làm đại biểu, thế mà hoá ra cũng đủ phiếu.
Nguyễn Khải cho biết, ở trong Nam, có một người đàn bà họ Đinh,
kinh doanh rất giỏi, giầu lắm. Chị này rất quý Nguyễn Huy Thiệp. Thỉnh thoảng
Thiệp vào Sài Gòn được cung phụng sướng như vua.
Thiệp là một trong những nhân vật hấp dẫn đối với khách nước ngoài.
Tôi đến anh, thường gặp, khi thì một ông Tây, khi thì một ông Tàu hay một bà
Nhật, khi thì một trí thức Việt kiều ở Pháp, ở Mỹ về nước...
Hoàn cảnh ấy khiến Thiệp sinh chủ quan, kiêu ngạo. Tôi cho đấy là
dấu hiệu thiếu bản lĩnh. Trong nhiều bài viết, Thiệp cứ xưng xưng tự khoe là
người tài, người nổi tiếng, là nhà văn lớn. Một lần có một doanh nhân trẻ mới
phất lên. Anh ta quen một người học trò của tôi và tỏ ra cũng thích văn chương
nghệ thuật. Có lẽ do ảnh hưởng của anh học trò của tôi (một nghiên cứu sinh),
anh doanh nhân này muốn đóng vai Mạnh Thường quân, mời tôi, Hoàng Ngọc
Hiến và Nguyễn Huy Thiệp đi chơi một chuyến lên vùng Xuân Mai, Hoà Lạc.
Anh ta nhờ tôi mời hộ. Tôi gọi điện cho Hiến. Hiến nhận lời ngay. Tôi gọi điện
cho Thiệp. Thiệp từ chối: “Anh phải cẩn thận, nhiều kẻ nó muốn lợi dụng
chúng mình đấy!” – Thiệp khuyên tôi qua điện thoại như vậy. Tôi nghĩ bụng, rõ
vớ vẩn. Nó lợi dụng mình để làm gì chứ! ở cái nước này, trí thức văn nghệ sĩ có
giá gì đâu mà sợ bị lợi dụng. Đúng là Thiệp càng ngày càng thấy mình to quá,
lớn quá, quan trọng quá.
Vào những năm 80 của thế kỷ trước, Nguyễn Huy Thiệp nổi lên như
một sự kiện quan trọng, có tiếng vang ra cả nước ngoài. Người đầu tiên giới
thiệu Thiệp một cách công phu là Hoàng Ngọc Hiến với một bài viết có cái đầu
đề khá kiểu cách: “Tôi không chúc anh thuận buồm xuôi gió” (Bài giới thiệu
tập truyện Tướng về hưu lần đầu tiên in ở NXB trẻ thành phố Hồ Chí Minh,
1988). Năm 1990, Thiệp nhờ tôi viết lời tựa cho một tập truyện ngắn khác của
anh. Bài viết của tôi không được dùng vì Thiệp nói, có lệnh của công an không
cho in lời tựa cho tác phẩm này (Thiệp từng bị công an theo dõi, có thời gian bị
khám nhà và quản thúc). Tôi gửi bài viết cho tạp chí Sông hương, đăng vào năm
1991.
ý kiến của tôi và Hiến khác nhau. Hiến cho rằng trong truyện của
Thiệp có sự đối lập giữa các nhân vật nam và nhân vật nữ: Nữ là chính diện,
nam là phản diện. Từ đó cho rằng tinh thần phê phán xã hội của Thiệp là xuất
phát từ quan điểm gọi là “thiên tính nữ”. Tôi không tán thành ý kiến ấy, vì thấy
293
không có sự đối lập này trong nhiều tác phẩm tiêu biểu của Thiệp. Nhận xét của
tôi là sự đối lập về tư tưởng – tiêu cực và tích cực của các nhân vật trong truyện
của Thiệp - không phải giữa nam và nữ, mà giữa những nhân vật sống gần với
tự nhiên (thường ở trong nhà, thậm chí trong xó bếp, hoặc ở nông thôn hay
trong thẳm rừng), nên vẫn giữ được bản chất thiên nhiên, bản chất tạo hoá tự
nhiên của mình, với những nhân vật đi vào xã hội, bị xã hội hoá - trong tác
phẩm của Thiệp, xã hội hoá đồng nghĩa với tha hoá. Tôi đưa ra một loạt dẫn
chứng và khẳng định hầu như không có ngoại lệ: Tướng về hưu, Những bài học
nông thôn, Những người thợ xẻ, Không có vua, Trái tim hổ, Muối của rừng...
Hôm ấy, sau cuộc nhậu ở nhà Thiệp, khánh thành pho tượng Phật, tôi
và Hiến tranh luận với nhau. Hiến vẫn giữ ý kiến của mình. Anh nói: “Cậu nên
nhớ, con khỉ dạy cho ông Diểu bài học làm người (trong truyện Muối của rừng)
là con khỉ cái nhé – nghĩa là vẫn đúng với luận điểm “thiên tính nữ”.
Thiệp ngồi quan sát tôi và Hiến tranh luận. Anh chỉ cười.
Hình như càng ngày, Thiệp càng cố tình tạo ra trong tác phẩm của
mình những cảnh đời quái đản, tăm tối, với những con người, từ thế xác tới tâm
hồn, như chui từ bùn rác, cống rãnh lên – Một thái độ hư vô chủ nghĩa, nhạo
báng tuốt, nói ngược lại tuốt, cố tình gắn cái cao cả với cái thấp hèn, cái to tát
với cái bé mọn, cái trinh trắng với cái bẩn thỉu tục tĩu... Một thứ nihilisme –
Dieu est mort – kiểu Nietzsche. Và hành văn cũng theo lối phán truyền của
Nietzsche (style parabolique). Hình như Thiệp có hứng thú (và có sở trường)
ném ra những lời như sấm ngôn, như thánh phán, với những mệnh đề triết lý tù
mù, bí hiểm, có thể suy ra nhiều nghĩa. Tôi ngờ rằng, chưa chắc Thiệp đã có tư
tưởng gì thật sự nên mới làm ra thế để loè thiên hạ, đồng thời che giấu bản chất
còn mù mờ của tư tưởng mình. Người đọc có thể thấy đây đó những điều có vẻ
loé sáng, nhưng không bao giờ thấy có ngọn lửa chân lý hẳn hoi.
Gần đây đã có không ít người nói đến dấu hiệu đuối sức, cạn tài của
Thiệp. Tôi cho chỗ hay nhất của Thiệp vẫn là lối viết táo bạo nhưng chân thật,
hồn nhiên, bản năng. Gần đây Thiệp có truyện Ông Móng viết về cái chợ đêm
bán phân người ở Hà Nội. Người ta khoắng tay vào thùng phân để kiểm tra.
Phân cũng làm hàng giả. Nên mua phân cũng phải khoắng tay để kiểm tra. Cuộc
sống thật quyết liệt, tối tăm, một nhân loại cùng khổ đến thế là cùng. Đúng là
những nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp, là thế giới nghệ thuật của Nguyễn Huy
Thiệp. Cứ phải xục xuống bùn, xục sâu xuống tận đáy cho đục ngầu hẳn lên...
Tôi thấy truyện này rất tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách Thiệp – một chủ
nghĩa hiện thực “không có vua”... Tài nghệ và tư tưởng của Thiệp đã tìm được
một đề tài thích hợp.
Có lẽ nhược điểm của Thiệp là thường thuật kể theo các hành vi ngoại
hiện của nhân vật, ít đào sâu vào đời sống nội tâm của các vai truyện. Vì thế
không viết được tiểu thuyết chăng? Ngày xưa Nguyễn Công Hoan cũng có
nhược điểm này. Nhưng dù sao tiểu thuyết của cụ Hoan cũng không quá dở như
của Thiệp.
Cuối năm 1988, Nguyễn Minh Châu bấy giờ đã mệt lắm. Anh vào
294
Nam chữa bệnh không có hiệu quả lại trở ra Bắc. Tôi đến thăm anh ở 108. Anh
nói với tôi: “Bây giờ có ai nghiên cứu về cái đề tài này cũng hay đấy nhỉ: Từ
Đỗ Chu đến Nguyễn Huy Thiệp”. Anh không nói gì thêm nữa. Tôi chắc anh
nghĩ đến hai cái mốc đánh dấu hai thời kỳ văn học nước ta, bằng hai tài năng trẻ
cùng viết truyện ngắn: Đỗ Chu là người thể hiện chất thơ của miền Bắc xã hội
chủ nghĩa, còn Nguyễn Huy Thiệp thì thể hiện chất văn xuôi phàm tục và chất
bi hài của chủ nghĩa xã hội hiển lộ ra từ thời kỳ đổi mới.
Nguyễn Thị Huỳnh 9. 7. 2007.



Chương XXVI: Trần Đăng Khoa

Trần Đăng Khoa từ bộ dạng, cách nói năng (lẫn lộn n với l), đến thói
quen ăn uống đều đặc nông dân: chỉ thích món thịt lợn kho, cá kho, rau muống
luộc, lòng lợn chấm mắm tôm, không thích thịt bò, gà vịt, hải sản, không thích
bia...
Vào khoảng năm 1975, báo Phụ nữ Việt nam có đặt tôi viết một bài về
trường ca Tiếng hát người anh hùng của Trần Đăng Khoa. Bài ấy, tôi ký tên con
gái tôi: Nguyễn Thị Thanh Thuỷ. Nội dung cơ bản của bài viết là khẳng định
Trần Đăng Khoa là nhà thơ nông dân. Tất cả tài năng của anh đều do nông thôn
bồi dưỡng nên. Thành công hay thất bại của tác phẩm đều là do Khoa hoặc nói
bằng tâm hồn và ngôn ngữ nông dân của mình, hoặc mượn ý tưởng, cách nói
của tầng lớp xã hội khác.
Tôi tiếp xúc với Khoa lần đầu tại nhà Khoa ở Nam Sách. Lúc ấy Khoa
học lớp Tám ở trường cấp III Nam Sách (Hồi ấy cấp III gồm 3 lớp 8, 9, 10).
Một đoàn sinh viên sư phạm Hà Nội về đấy thực tập. Tôi về thăm đoàn thực tập
này và nhân tiện tạt về nhà Khoa một lát.Tôi thấy Khoa ứng xử, tiếp đón, nói
năng với khách rất đàng hoàng, chững chạc, không có vẻ một cậu học trò lớp
Tám. Về sau này chính Khoa nói với tôi: “Người ta cứ bảo em hồi nhỏ rất hồn
nhiên, nay không còn hồn nhiên nữa. Không đúng. Hồi nhỏ em chẳng hồn nhiên
gì cả.Nói dối như ranh. Và Khoa kể chuyện này: “Một lần có một cuộc hội nghị
y tế toàn miền Bắc họp ở tỉnh Hải Hưng. Các ông phụ trách hội nghị đưa Khoa
đến để khoe “thần đồng” của tỉnh. Thường họ đề ra cho em làm thơ để thử tài.
Ông Phạm Ngọc Thạch, bộ trưởng Bộ Y tế, tặng em một cái bật lửa. Không
hiểu sao lại tặng mình bật lửa? Tặng trẻ con, lại tặng bật lửa để làm gì! Đúng
là dớ dẩn. Em nghĩ bụng thế. Nhưng em lại phát biểu trước hội nghị: “Bác tặng
em cái bật lửa là rất có ý nghĩa. Đây là ngọn lửa tượng trưng cho lý tưởng cách
mạng. Em nguyện sẽ mang ngọn lửa này trong suốt cuộc đời mình...” Cả hội
trường vỗ tay ầm ĩ, khen thằng bé giỏi quá!
Từ ngày Khoa học trường viết văn Nguyễn Du, tôi tiếp xúc với Khoa
luôn. Có năm Khoa đến ăn Tết với gia đình tôi, quan hệ rất thân mật.
Khoa đúng là có tài, rất thông minh. Có lẽ Khoa có ý thức mình là thần
đồng nên chịu khó đọc sách, đọc sáng tác, đọc phê bình, để có một vốn tri thức
đàng hoàng, có thể ăn nói với đời. Khoa tỏ ra rất hoạt bát. Mồm mép ghê gớm,
phát biểu rất có chủ kiến, đầy tự tin, có phần kiêu ngạo nữa. Những năm gần
đây, tôi với Khoa thường được mời tham gia hội đồng chung khảo của những
cuộc thi sáng tác văn học do Nhà xuất bản Giáo dục, Hội nhà văn hay tổ chức
Văn hoá doanh nhân của Lê Lựu tổ chức. Tôi thấy Khoa rất to mồm, nhiều khi
tỏ ra muốn áp đặt tư tưởng của mình đối với hội đồng.
Khoa thường nói giọng khẳng định dứt khoát, nhiều ý kiến sắc sảo,
nhưng cũng lắm nhận định không chính xác do vốn kiến thức còn lắm lỗ hổng.
Tuy thế tôi vẫn thích nghe Khoa nói. Tôi thích người nói thẳng thắn, có chủ
296
kiến riêng, dù không đúng cũng gợi cho mình suy nghĩ.
Dưới đây, tôi tường thuật vài đoạn Khoa nói chuyện với tôi (tôi muốn
ghi lại đúng giọng điệu, khẩu khí của Khoa):
“Văn học đang đổi mới. Không thể viết như cũ được nữa. Tất cả cũ
rồi, Các nhà thơ thời chống Mỹ vẫn khá hơn cả, song cũng tắc rồi. Nguyễn Duy
triển lãm thơ bằng cách vất thơ vào rổ rá, cối xay... là vớ vẩn lắm rồi! Nguyễn
Huy Thiệp cũng tắc. Vàng Anh cũng hết – một hồi ta đề cao hơi quá. Phạm Thị
Hoài có khá hơn.
Nhưng cái mới chưa có, chưa xuất hiện. Văn xuôi có khá hơn. Thơ thì
có lẽ thời buổi này không phải là thời của thơ. Đây là thời của truyện, của kịch,
của phim, của tivi...”
“ Hồ Xuân Hương không có. Không có Hồ Xuân Hương! Đàn bà
không tả cái của đàn bà hấp dẫn như thế “Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng”,
đàn ông mới nói thế: “Cô gái ngủ ngày” là đàn ông viết”.
“Em đã ghép mười câu thơ của mười nhà thơ lại thành một bài hoàn
chỉnh. Chứng tỏ thơ ta một thời rất giống nhau, cùng một gương mặt. Em cũng
ghép lại những câu thơ của Huy Cận lại thành một bài thơ về vũ trụ. Lại ghép
bốn nhà thơ, mỗi ông bốn câu, thành một bài hoàn chỉnh.
“Ngoài sân rơi cái lá đa, Lá rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Nhiều
người khen, Thực ra không hay lắm, câu thơ trung bình thôi. Chỉ tả cảm giác.
Thơ hay là nói cái nội tâm, cái tình, cái hồn. Như câu “Mái tranh ơi hỡi mái
tranh, Trải bao mưa nắng mà thành quê hương”.
“Phê bình văn học chỉ có ba người: Hoài Thanh, Nguyễn Đăng Mạnh,
Lê Ngọc Trà. Trà thực ra là nhà lý luận. Cụ Mạnh lý luận không phải chỗ
mạnh. Chỗ mạnh là phê bình tác phẩm. Cụ rất tinh”.
Em không thích bài Lá đỏ của Nguyễn Đình Thi, cả bài Lá Diêu Bông
của Hoàng Cầm. Chả có gì hay. Cụ phản biện đi, hay ở chỗ nào?”. Tôi nói:
“Thơ hay không phân tích, không giảng được”. Khoa: “Không phải thế. Nếu
hay là cụ phân tích được hết”.
Khoa khen bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, không có gì mà hay. Tôi
nói: “Đấy cậu nói không có gì mà hay đấy thôi!” Khoa: “Không phải, hai
chuyện khác nhau, cụ đánh tráo khái niệm”. Nhật có bài thơ tên là Tiếng thu.
Có bốn câu khác hẳn. Nguyễn Vỹ dịch ra giống thơ Lưu Trọng Lư, rồi người ta
tưởng là Lưu Trọng Lư ăn cắp. Một vụ án văn học, oan cho Lưu Trọng Lư”.
“Nhà cổ Hà Nội không gọi là nhà cổ được. Một trăm năm, cổ gì! Tốt
nhất là phá hết khu phố cổ Hà Nội đi. Hội An mới thực là nhà cổ”.
Khoa khi nói hay đế chữ “đấy!” như là một thứ dấu chấm câu vậy:
“Thầy hình dung không?
Em nói thật với thày, đấy!
Nguyễn Khải, Chế Lan Viên thông mình, là đầu bảng - đấy!
Cụ Mạnh viết ra tấm ra món. Thẩm văn rất tinh. Có văn. Nhiều người
có ý mà không có văn. Có ý mà không tải được ra văn, cứ tải ra chữ lại hỏng -
đấy! Cụ Hiến phát hiện thì đúng, nhưng triển khai ra thì như hụt hơi, như ngắn
297
lưỡi - đấy! TĐX tiếp xúc tay bo thì rất khá. Nhưng viết ra thì không ra sao cả -
đấy! Phải có mắt xanh, ông Xuân Diệu gọi là đầu mày cuối mắt”.
Phạm Xuân Nguyên thông minh, nhưng thẩm văn kém.
Mai Quốc Liên cũng vậy - đấy
Sử có học, nhưng thẩm văn xoàng...”
Nói chung Khoa không thích văn trí thức như văn Nguyễn Tuân,
Nguyễn Đình Thi. Khoa nói dứt khoát với tôi: “Đấy rồi thầy xem, mươi năm
nữa người ta không đọc Nguyễn Tuân nữa đâu!”.
Trong Chân dung và đối thoại, Khoa chê Nguyễn Tuân không biết
uống nước trà. Bà Ân con gái cả của Nguyễn Tuân tức lắm. Bà nói: “Cái thằng
ấy chỉ biết ăn cua ăn cáy chứ nó biết uống trà là cái gì mà dám chê ông cụ tôi.
Tôi đã phục vụ ông cụ uống trà, tôi biết chứ. Pha trà phải kén nước giếng ở một
ngôi chùa là chuyện có thật (trong truyện Nguyễn Tuân gọi là chùa Đồi Mai).
Rồi hầm củi ủ than để đun nước pha trà như thế nào... Nó biết cái gì mà dám
nói láo!”. Hôm ấy, dự lễ trao giải thưởng Nguyễn Tuân cho sinh viên Đại học
Sư phạm Hà Nội, bà nói sôi sục. Anh Nguyễn Xuân Đào, con trai út Nguyễn
Tuân, phải can mãi.
Nhưng Khoa là tay chống chế rất giỏi. Trong Chân dung và đối thoại,
Khoa chê cụ Ngô Tất Tố, trong Tắt đèn cho chị Dậu bán con, so sánh với
Fantine củaV.Hugo bán tóc, là vô nhân đạo. Khoa bị phê phán là không hiểu
ngày xưa người nông dân phải bán vợ đợ con là chuyện phổ biến. Khoa chắc
thấy mình đuối lý nên tìm cách chống chế. Hôm ấy tôi và Khoa được trường
chuyên Hùng Vương (Việt Trì) mời lên giao lưu với học sinh. Khoa nói: “Tôi
không phải không biết chuyện bán vợ đợ con của nông dân nghèo ngày xưa.
Chính tôi có một bà cô phải bán con. Nhưng cụ Ngô Tất Tố cho chị Dậu đem
con đến nhà Nghị Quế, khi nó bắt cái Tý ăn cơm của chó, lẽ ra phải thôi, đem
con về, chấm dứt luôn truyện ở đấy. Ai lại mẹ thấy con phải ăn cơm của chó mà
chịu được!”.
Tôi biết đấy là mồm mép chống chế của Khoa, chứ trong Chân dung
và đối thoại , Khoa có viết thế đâu!
Khoa có một hồi được mời đi nói chuyện khắp. Người nghe rât thích.
Khoa biết cách nói rất hấp dẫn. Một trong thuật hấp dẫn của Khoa là giỏi hài
hước.
Khoa ghét cái gì là chế giễu rất ác.
Thí dụ, Khoa định nghĩa thơ Lê Đạt: Người ta nói “Tôi đi ăn cơm”, thì
Lê Đạt viết “Cơm đi ăn tôi”.
Trong một cuộc nói chuyện, Khoa dẫn thơ của Hoàng Hưng, Dương
Tường để giễu cợt:
Anh lang thang em...
Anh mini em...
Anh xanh xao em...
Anh tiết canh em...
Khoa cố tình tách những cụm từ ấy ra khỏi văn cảnh, biến chúng thành
298
khôi hài.
Khoa có cách diễn đạt rất tinh quái khi nhận xét lối phê bình của
Nguyễn Hoà: “Nguyễn Hoà là tay phê bình nghiệp dư, nhưng là nhà bóp dái
chuyên nghiệp. Hoà thực hiện được hai “cú” rất ngoạn mục: bóp vú Hà Minh
Đức và bóp dái Đoàn Thị Đặng Hương”.
Khoa kể câu chuyện này cũng vui: có một cô gái ở Sài Gòn kém Khoa
hàng chục tuổi, nhưng vẫn tưởng Khoa là một em thiếu nhi làm thơ. Cô gửi thư
cho Khoa gọi Khoa là em, muốn kết nghĩa chị em và khuyên Khoa chăm học,
nghe lời cha mẹ, tập thể dục buổi sáng...
Nghe Khoa nói, chỉ nên tin một nửa. Rất có thể chỉ là bịa cho vui.
Khoa đặc biệt có tật nói dối. Nói dối chẳng để làm gì cả. Một thói quen thế thôi.
Thí dụ Khoa khoe, tập II Chân dung và đối thoại đã viết xong. Có một bài viết
về Nguyễn Đăng Mạnh. Có những bài trả lời những người phê phán Chân dung
và đối thoại tập I... Sách in như thế nào, bìa ra sao, nhuận bút bao nhiêu. Khoa
còn nói cho biết cả nội dung các bài viết nữa. Khoa nói với tôi chuyện này dễ đã
sáu, bẩy năm rồi mà tới nay vẫn chẳng thấy mặt mũi tăm hơi gì. Mà khi nói,
Khoa toàn báo cho biết sắp in đến nơi.
Tôi nhớ cách đây dăm năm, mồng một Tết, Khoa có đến tôi (ở Quan
Hoa, Cầu Giấy). Khoa có kể cho vợ chồng tôi nghe anh sắp viết một vở kịch
vui: “Thị Nở cưỡi trâu ra tỉnh”. Cho đến nay vẫn chưa thấy viết.
* *
*
Người ta thường xì xào về chuyện sinh lý của Khoa, giống như Xuân
Diệu. Đã có người làm vè chế giễu.
Nhưng Khoa đã lấy vợ. Tôi có được mời tới dự. Ngay hôm cưới, Lê
lựu, bạn chí cốt của Khoa, vẫn không tin Khoa có thể làm ăn được gì. Anh nói
với tôi ngay ở tiệc cưới như thế. Nhưng vợ Khoa có mang và sinh con gái. Khoa
được thể nói phét: “Mình từng rắc con nhiều nơi, con rơi con vãi của mình nay
đã lớn, có thể bồ bịch với Trần Đăng Xuyền được”. Khoa nói với tôi hôm ấy ở
Cần Thơ, có mặt Trần Đăng Xuyền.
Khoa bây giờ là tay khôn ngoan có tiếng, đối đáp rất sắc sảo. Tô Hoài
nói, Khoa là quân sư quạt mo của Hữu Thỉnh. Trong ban chấp hành Hội nhà văn
khoá 7, Vàng Anh hay gây sự với Hữu Thỉnh. Khoa là người đứng ra gỡ bí cho
Hữu Thỉnh.
Theo chỗ tôi biết, Khoa còn là quân sư quạt mo cho Lê Lựu nữa trong
việc điều hành tổ chức Văn hoá doanh nhân.
Hai tay nông dân này hợp nhau trên mọi phương diện.
Láng Hạ 15.6.2007.
299
Kết luận


Kết luận
Tôi năm nay 77 tuổi. Tuổi âm lịch 78 (canh ngọ)
Nhìn lại, thấy cuộc đời mình cũng có thể xem là may mắn. Đất nước
đánh nhau 30 năm, hàng triệu người chết. Mình không chết. Thế là một cái
may.
Xã hội mình, pháp luật lỏng lẻo. Bao nhiêu người bị bắt oan. Mình
không bị bắt. Thế là hai cái may.
Nhớ lại hôm có mấy nhà văn Thuỵ Điển sang Việt Nam, đưa tin thất
thiệt tôi bị bắt. Tôi được Hội nhà văn mời ra gặp mấy ông Thuỵ Điển. Trên
đường về, tôi tạt qua Nhà xuất bản Giáo dục, thuật chuyện này với Nguyễn
Khắc Phi, lúc ấy làm tổng biên tập. Phi nói gọn lỏn: “Anh bị bắt là đáng lắm!”.
Như vậy, chuyện tôi bị bắt là một khả năng thật sự, nghĩa là rất có thể xảy ra.
Hồi ở Đồng Xa, vào năm 1987, tôi từng “được” một anh A25 đến thăm
hỏi. Họ cũng luôn đến lục lọi hồ sơ lý lịch của tôi ở phòng tổ chức Đại học Sư
phạm Hà Nội. Các vị ở phòng tổ chức cán bộ cho biết như vậy. Nhưng rồi cũng
chẳng sao. Vẫn được đủ thứ: giáo sư, nhà giáo nhân dân, giải thưởng Nhà
nước... Đúng là số tôi có quý nhân phù trợ.
* *
*
Có lẽ tôi có gien của ông bố: ham chơi, vui đâu chầu đấy, thích hưởng
lạc. Từ 14, 15 tuổi đã tập hút thuốc lá. Rồi thích đọc văn NguyễnTuân viết về
những thú hưởng lạc. Tôi chủ trương, trời cho hưởng cái gì, không bao giờ từ
chối, không việc gì phải từ chối. Nhưng không có thì thôi. Tôi có thể sống kham
khổ mà vẫn vui. Và thực tế, tôi đã sống như vậy. Thuở nhỏ, bố mẹ và các anh
chị cho tôi là một thằng bé rất dễ tính về chuyện ăn uống. Tôi có thể ăn cơm
nguội với muối trắng mà vẫn thấy ngon. Có một lần, nhà có quả bưởi sần, múi
khô, mọi người chê ăn như nhai rơm. Thế mà tôi vẫn chén hết. Lớn lên, trong
chiến tranh, tôi từng phải ăn cháo sắn, thậm chí ăn củ chuối trừ bữa. Tôi rất ghét
những tay cay cú, cố đấm ăn xôi, của trời muốn vơ vét hết...
* *
*
Đánh giá con người, tôi có hai tiêu chuẩn. Một là tiêu chuẩn đạo đức.
Hai là tiêu chuẩn thẩm mỹ. Có những loại người tôi rất ghét, tuy không ác, thậm
chí còn tỏ ra tử tế đối với tôi nữa. Ghét vì tầm thường, nhạt nhẽo, vô duyên,
nhàm chán, phi thẩm mỹ. Tất nhiên loại người này không thể hoàn toàn lương
thiện được. Song đó không phải nét nổi bật của họ. Tôi rất lấy làm thú vị khi
tình cờ tìm được cách diễn tả loại người này, nhân đọc Thần khúc của Dante.
Nhà thi hào được Virgile dẫn xuống địa ngục. Ông thấy có một hạng người bị
giam trong một khu riêng. Từ xa đã nghe chúng khóc rống lên thảm thiết.
Họ là ai mà cực độ đau thương?
300
Những linh hồn nhàm chán,
Sống không hèn nhưng chẳng dám khen chê,
Không phản Chúa nhưng cũng chẳng trung với Chúa,
Chỉ vì mình, chỉ vì chúng mà thôi!
Thiên đình tống chúng đi
để Thượng giới khỏi giảm phần tươi đẹp
Địa ngục thẳm sâu
cũng chẳng thèm nhận chúng
Vì sợ đám tội đồ lại có cớ để vênh vang...
Khúc III Thần khúc địa ngục.
Có người đề nghị tôi thử chỉ cho xem một người nào đó trong khoa
Văn Đại học Sư phạm Hà Nội, đúng với tiêu chuẩn “phi mỹ học” nói trên.
Thực ra đưa tiêu chuẩn này, tôi, khởi sự, đâu phải xuất phát từ lý thuyết. Tôi
bao giờ cũng từ thực tế cuộc sống mà khái quát lên, sau đó mới tìm trong sách
vở cách diễn đạt phù hợp. Cho nên tôi có thể chỉ ra ngay mấy mẫu người người
tiêu biểu trong thực tế. Đó là NTH và BVB. Trớ trêu thay, họ lại là cán bộ khoa
Văn, nên suốt đời nghiên cứu và giảng dạy văn học, nghĩa là luôn tiếp xúc với
cái đẹp và bàn về cái đẹp mà chính họ là kẻ phản lại. Nhưng thôi, bọn người
này chỉ nghĩ đến đã đủ chán đời lắm rồi, chả nên quan tâm làm gì! Còn vô lý thì
trên đời này thiếu gì chuyện vô lý!
Ngoài ra có một loại người, tôi cũng không ưa. Cũng là một dạng “phi
mỹ học”, tuy không đáng ghét lắm. Tôi gọi là những người có “bộ mặt thoả
mãn”, lúc nào cũng tươi rói và sáng bóng lên, thể hiện sự thoả mãn hoàn toàn
với bản thân mình. Bộ mặt như muốn nói với mọi người: tôi là người tài đức
vẹn toàn, không có gì phải phấn đấu thêm nữa. Tôi chỉ muốn có dịp dạy dỗ mọi
người về những điều hay lẽ phải. Đương nhiên là tôi phải được mọi người kính
trọng. Ai không kính trọng tôi thì hoặc là kẻ hỗn láo, hoặc là quá ngu xuẩn. Bộ
mặt như thế ở đứa trẻ con thì rất hồn nhiên, đáng yêu. Nhưng ở người lớn thì
thật khôi hài. Tôi có đọc một cuốn sách về tâm lý học, sách này nói về một thứ
bệnh gọi là autosuffisance. Có lẽ chính là bệnh của loại người này chăng? Loại
người này không bao giờ tự vấn xem, trong biển học mông mênh, đâu là giới
hạn của mình, đâu là chỗ ngu dốt của mình. Không được người ta coi trọng, loại
người này rất dễ nổi nóng. Lúc đó anh ta thường tìm ra những cái chẳng đâu
vào đâu của mình rồi đề lên như là chỗ ưu việt, hơn đời: này ngày xưa tôi học
giỏi nhất lớp nhé, có lúc đã được làm trưởng lớp nhé! Thi tốt nghiệp đại học, tôi
đỗ đầu nhé! Lúc tôi bắt đầu dạy đại học và nghiên cứu thì anh còn ngồi ghế sinh
viên nhé!... Nhìn loại người này lúc nổi nóng, thấy không hơn gì một đứa con
nít.
ở khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội có ai như thế không? Tất nhiên
là có, vì chính từ họ mà tôi khái quát ra loại người này. Nhưng thôi nói ra làm
gì. Loại người này, ngoài cái tật nói trên, bụng dạ cũng không đến nỗi xấu. Chỉ
cần được phỉnh nịnh, được tâng bốc là lập tức có thể làm nhiều điều tốt cho bạn.
* *
301
*
Tôi cho rằng, con người ta dù tài giỏi đến đâu cũng phải hiểu cái giá
của mình thế nào trong con mắt của người đời. Đừng có chủ quan, tự thị. Những
giá trị vật chất, dù ở đâu, với ai, cũng không thay đổi bao nhiêu. Nhưng những
giá trị tinh thần thì khác, giá trị, thân phận anh trí thức thì khác. ở chỗ này, được
coi là vàng bạc, là kim cương, thậm chí vô giá. Nhưng ở chỗ khác, chỉ đáng vất
đi. Trần Đức Thảo, không ít người coi là một đại trí thức, một triết gia cỡ quốc
tế. Nhưng ở Việt Nam, thời Nhân văn – giải phẩm, các ông lãnh đạo chỉ coi như
một thằng chăn bò (ở nông trường Ba Vì).
Đối với đời sống thông thường cũng thế. Quan hệ với giới này, người
này, anh có thể rất được quý trọng. Nhưng quan hệ với giới khác, người khác,
anh cũng chẳng là gì hết, thậm chí bị khinh bỉ. Tôi cho đó là chuyện thường. Mà
khinh hay trọng cũng đều có lý của nó cả. Cho nên bị ai khinh bỉ, chẳng nên tức
tối, buồn khổ làm gì. Còn được ai quý trọng thì phải coi là một sự may mắn,
một ân huệ đời đã ban tặng cho mình.
Và khinh trọng thì cái giá trị thực của mình vẫn thế thôi.
* *
*
Phương châm sống của tôi là phải biết quý trọng cái tài, cái đẹp, lòng
tốt. Người tài, người đẹp, người tử tế là những của quý hiếm trên đời. Không
biết quý trọng ba loại người đó là thiếu văn hoá, là thô bỉ. Viết nghiên cứu,
dựng chân dung văn học, tôi chỉ viết về người tài, người tốt, và chỉ coi là nhà
văn thật sự, những cây bút có tư tưởng, có cá tính và phong cách riêng. Đó mới
là những người có thực tài. Mà trong lĩnh vực văn chương, người tài là người
tạo ra cái đẹp. (Tôi gọi người tài là nhân tài, người đẹp là thiên tài – vì đó là sự
sáng tạo của Tạo hoá, là tài của Tạo hoá).
* *
*
Nhiều người nhận xét, tôi tuy tuổi đã cao, nhưng tính vẫn trẻ, văn cũng
trẻ. Chu Văn Sơn gọi tôi là Cụ Mết. Đỗ Lai Thuý và nhiều người khác không
tán thành. Quả là tôi không thích giao du với cánh già. Chỉ thích chơi với đám
trẻ. Tôi rất ghét thói gia trưởng, tính hách dịch, đầu óc bảo thủ. Đó cũng thường
là tính cách của bọn già. Rất may là tôi làm nghề dạy học, luôn luôn được tiếp
xúc với tuổi trẻ. Cho nên tôi rất yêu nghề dạy học.
Thực ra có hai việc, hay gọi là hai nghề, mà tôi rất thích: dạy học và
nghiên cứu, phê bình văn học. Hai nghề không tách rời nhau và có chỗ thống
nhất: cùng được phát biểu những tìm tòi, suy nghĩ riêng của mình.
Lên lớp được nói những điều tâm đắc với thế hệ trẻ, sướng lắm!
Viết xong một bài văn vừa ý, ngồi đọc lại, sửa câu này, chữ khác cho
thật hoàn chỉnh, cũng rất sướng..
Cả hai công việc trên tôi đều đạt được một số thành tựu. Điều tôi cảm
thấy sướng nhất là được khá đông giới sáng tác yêu mến và rất nhiều học trò
quý trọng.
302
Nhưng cả hai công việc trên đều có vinh, có nhục, có sướng, có khổ.
Suy nghĩ về một vấn đề gì đó, lắm lúc thấy bí, bất lực, cảm thấy tài năng đã bỏ
mình mà đi rồi. Buồn vô cùng! Dạy học cũng vậy. Không nghĩ ra cái gì mới mẻ,
hay ho để nói với học sinh, cũng buồn vô cùng!
Nhưng buồn nhất, thậm chí cảm thấy chán đời, chán mình, là có những
lúc bỗng nhiên nhìn lại công việc của mình, thấy vô nghĩa quá! Văn chương
đúng là chuyện vớ vẩn. Tản Đà gọi thứ văn hay nhất, thứ văn đích thực là văn
của mình là “văn chơi”. Thảo nào các bậc thánh hiền ngày xưa đều cho rằng
“lập thân tối hạ thị văn chương”.
Vậy mà không hiểu sao các nhà lãnh đạo cộng sản cứ ra sức bơm to vai
trò của thứ trò chơi này khiến nhiều kẻ trong đám cầm bút tỏ ra rất vênh vang,
vênh vang một cách vô lối hết sức. Trong lĩnh vực này, nói như Giả Bình Ao,
“Thiên tài và thằng hề (...) dường như không thể phân biệt rõ”.
Có lẽ Nguyễn Khải nói đúng: các ông cộng sản quan trọng hoá văn
chương vì các ông ấy chủ yếu làm cách mạng bằng tuyên truyền. Mặt khác lại
rất sợ sự thật. Văn chương hay đụng đến sự thật. Cho nên, các ông ấy quản lý
rất chặt mấy thằng viết văn, tuy bọn này có làm được trò trống gì đâu và chúa là
hèn nhát.
* *
*
Tập hồi ký của tôi, trong phần tư liệu riêng, không thấy có mặt một cán
bộ giảng dạy đại học nào – trừ Hoàng Ngọc Hiến. Có người hỏi tôi, vì sao vậy?
Đây là loại người cậu tiếp xúc hàng ngày, am hiểu nhiều nhất. Trong đó cũng có
nhiều tay hấp dẫn đấy chứ! Đúng như thế thật. Nhưng tôi không nghiên cứu họ,
không quan sát, ghi chép gì về họ.
Duy có hai người tôi rất quý trọng. Hai người đồng tuế (canh ngọ).
Cũng tuổi già mà tính vẫn trẻ. Cả hai đều giống nhau ở chỗ, tuy chuyên môn rất
giỏi – một người chuyên về lý luận, gần đây rất say triết học cổ phương Đông
(Hoàng Ngọc Hiến), một người chuyên về văn học trung đại Việt Nam (Phạm
Luận) – nhưng chẳng được phong bất cứ một chức vụ khoa học nào. Sự có mặt
của hai ông bạn này trên đời khiến tôi rất yên tâm. Nghĩa là không cảm thấy cô
đơn, tuy chúng tôi ít khi gặp nhau. Mà có gặp thì cũng không trao đổi tâm sự gì.
Chúng tôi đều không thích tâm sự. Đúng như Xuân Diệu nói: “Chúng mình
hiểu nhau mà không cần phải nói ra”.
Hoàng Ngọc Hiến, tôi đã viết ở trên rồi. Còn Phạm Luận, tôi thấy chỉ
cần nói một câu: đấy là một đấng trượng phu quân tử của thời hiện đại, một cốt
cách đường hoàng, một phong thái thung dung , thật sự coi thường danh lợi:
Bạc tiền gió thoảng thơ đầy túi,
Danh lợi bèo trôi, rượu nặng nai.
(Tản Đà)
Quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh 4.7.2007.

http://phusaonline.free.fr/ButViet/Hoi_ky_Nguyen_Dang_Manh%5B1%5D.pdf


NGUYỄN ĐĂNG MẠNH * HỒI KÝ IX * NGUYỄN ĐỈNH THI- NGUYỄN KHẢI - NGUYÊN NGỌC-


 HOI LY1 IX



 NGUYỄN ĐỈNH THI- NGUYỄN KHẢI - NGUYÊN NGỌC-
Phần năm - Tư liệu riêng về một số

nhà văn Việt nam hiện đại (Tiếp theo)
246
Chương XVIII: Nguyễn Đình Thi



Tôi đã viết hai bài thuộc dạng chân dung văn học về Nguyễn Đình Thi:
bài Nguyễn Đình Thi như tôi biết và bài Từ lần gặp ấy, tôi đã hiểu thêm Nguyễn
Đình Thi.
Nay tôi kể thêm mấy mẩu chuyện khác về anh.
1. Nguyễn Đình Thi từ thời thơ ấu đến bài thơ Đất nước.
Người ta thường nói Nguyễn Đình Thi sinh ở Luang Prabang (Lào).
Nhưng chính Nguyễn Đình Thi lại nói với tôi, anh sinh ở Phongxalỳ. Anh nói
rất cụ thể, hồi ở với tôi tại Đà Nẵng (tháng 7.2000)
Bố anh là một nhân viên bưu điện sơ cấp bị điều sang Lào, phụ trách
một trạm bưu điện ở Phong xa lỳ. ở đây ông lấy con gái một Việt kiều vốn là
một đầu bếp, người Đông Thái, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Ông này trốn sang Lào vì có
dính vào vụ Hà Thành đầu độc. Dân ở đây rất lạc hậu, một dân tộc thiểu số của
Lào gọi là Phù Nọi. Dân Phù Nọi ăn cả đất. Thi từng bắt chước họ ăn đất.
Phong xa lỳ là một khu vực quân sự (territoire militaire). Toàn lính là
lính, lính Tây, lính ta, khố xanh, khố đỏ, và tù chính trị. Xa nước, nên từ nhỏ
Nguyễn Đình Thi hay nghĩ về đất nước, hay tưởng tượng về đất nước. Nhưng
đất nước trong tâm trí cậu bé là thế: một đám tù chân xiềng tay xích, lính giải đi
làm cỏ vê hàng ngày.
Thi lên 6 tuổi, bố thấy con sắp thành dân Phù Nọi đến nơi, muốn đưa
anh về nước. Rất may, năm 1930, bố anh được điều về Việt Nam. Mẹ anh
thường cưỡi ngựa. Bà cưỡi ngựa, đi hàng trăm cây số. Bóng bà đi ngựa leo dốc
còn in mãi trong trí nhớ anh sau này – anh nói đó l à một hình ảnh rất thơ.
Gia đình anh về nước, đi từ Phong xa lỳ, qua Luang Prabang, Tà Khẹt,
về Hà Nội. Lần đầu nhìn cái ôtô, anh gọi là cái nhà biết đi. Lúc đầu gia đình ở
Hà Nội, phố Bạch Mai. Sau đi Hải Phòng, rồi lại trở về Hà Nội. Anh tự thấy là
một chú nhãi Hà Nội, thuộc đủ ngõ ngách, phố xá của Hà Nội.
Gia đình Nguyễn Đình Thi không phải trí thức. Không biết chữ Hán.
Coi như ngoại đạo đối với văn học. Trong đám sách vở nghèo nàn của bố, anh
chỉ được đọc và nhớ có một câu thơ của Bà huyện Thanh Quan: “Ngàn mai gió
cuốn chim bay mỏi”. Sau này ngẫm lại cuộc đời mình, anh thấy đời anh cũng
chỉ là “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Ngoài ra có được đọc bản dịch
Những người khốn khổ của V. Hugo. Cảm động nhất là đoạn Jean Valjean tìm
Cosette. Cosette trong đêm tối mù mịt, xách xô nước, tự nhiên thấy nhẹ bỗng đi.
Té ra Jean Valjean xách hộ. Anh nghĩ, suốt đời chỉ mong xách hộ xô nước cho
một đứa bé nhà nghèo.
Anh biết rất ít văn học Việt Nam. Mãi sau này mới đọc Đoạn tuyệt,
Nửa chừng xuân. Đến ba mươi tuổi mới đọc Tam quốc, Thuỷ hử.
Không biết chữ Hán, không biết Thơ mới, không biết Tự lực văn đoàn.
Không cảm được cái hay của ngôn từ chữ Hán. Không thích “Viễn phố” bằng
“bến xa”, nghe gợi nhiều hơn, không thích “lâm tuyền”, thích nói “suối xa”.
247
Cho nên làm thơ ngoài luồng Thơ mới, ngoài luồng Tự lực văn đoàn, cảm thấy
thế nào cứ làm như thế, điếc không sợ súng.
(Nghe tôi nói lại lời Nguyễn Đình Thi như thế, Nguyên Ngọc không
tin, cho là Thi nói dối. Nguyên Ngọc dứt khoát không tin ở sự thật thà của
Nguyễn Đình Thi).
Nguyễn Đình Thi rất thích cảnh rừng núi – anh nói thế – vì anh đã ở
Phong xa lỳ, nên về sau lên Việt Bắc thấy quen thuộc như đã biết từ bao giờ rồi.
Mẹ Nguyễn Đình Thi là một người đàn bà rất đảm. Khi gia đình ở Hải
Phòng, bố anh lại bị điều vào Sài Gòn (Chợ Lớn). Bà không theo vào. Bà mở
một xưởng làm kẹo bột. Về Hà Nội cũng làm kẹo.Đi kháng chiến , bà trồng hẳn
một quả đồi sắn. Nguyễn Đình Thi nói “ Bà ghê lắm, giỏi lắm!” (Thế mà hình
như bà mù chữ ).
ở Hải Phòng, anh chứng kiến Nhật đổ bộ. Anh nói: “Nhục lắm! Nó đi
đâu cũng ra hiệu hỏi nơi có đĩ”. Anh lớn lên vào lúc cuộc đại chiến thứ hai.
Nhật vào. Phong trào Việt Minh. Thời thế đặt ra những câu hỏi lớn. Nguyên
Hồng gọi là “thời kỳ đen tối” (1940- 1945). Theo Nguyễn Đình Thi, đây là thời
kỳ trắng đen, thật giả lẫn lộn. Vì thế dễ lầm lẫn (Nguyễn Công Hoan, Nguyễn
Tuân đã lầm lẫn), phải suy nghĩ tợn. Suy nghĩ về đời, về đất nước, về sự sống,
về chân lý, về đường đi... Cho nên Nguyễn Đình Thi thích đọc và viết triết học.
Anh viết Kant năm 1942, lúc 18 tuổi. Tiếp đó là nhạc. Mãi sau mới làm thơ và
viết văn.
Như thế là Nguyễn Đình Thi đi từ triết đến nhạc rồi mới đến thơ văn.
Thơ văn có cấu trúc nhạc. Ông bố Nguyễn Đình Thi ngày xưa có chơi đàn
nguyệt, đàn bầu. Còn anh thì tự học nhạc chỉ bằng một cái đàn mandoline và
một cuốn nhạc phổ thông. Có một buổi học nhạc một mục sư. Nói chung là tự
học.
Từng chứng kiến cảnh mất nước từ ở Lào, rồi cảnh Nhật vào Hải
Phòng, đến hiệp định 6/3 lại chứng kiến Pháp kéo vào từ Hải Phòng, theo
đường số 5 (Trường Chinh giao nhiệm vụ cho Nguyễn Đình Thi đi đả thông
đồng bào hai bên đường số 5: không đón tiếp, mặc nó, nhưng không gây sự).
Vì thế, được làm chủ đất nước, sướng lắm – “Trời xanh đây là của
chúng ta! Núi rừng đây là của chúng ta!”.
Hồi học trường Bưởi, Nguyễn Đình Thi thích nằm ngửa ở sân trường
nhìn trời xanh không biết chán. Sau này nhớ lại: “Trời xanh đây là của chúng
ta!”.
Kháng chiến, Nguyễn Đình Thi có chuyện buồn: hai người thân mất
(vợ và cô em vợ - định gả cho Thi), cộng thêm nỗi đau đất nước bị dày xéo:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Giây thép gai đâm nát trời chiều”
Anh nói, tám năm kháng chiến mới viết được hai câu ấy. Khắp nơi giặc
chăng giây thép gai: Hành quân ở Bắc Giang, nhìn lên đồi cao thấy giây thép
gai in trên nền trời đỏ như máu.
Hành quân liên miên, đi ngày, đi đêm. Toàn đi bộ, một ngày có khi 50
248
cây số, từng qua vùng thượng Lào: “Ngày nắng cháy, đêm mưa dội”, cứ thế đi
dưới trời mưa.
Vì thường hành quân đêm nên có hai hình ảnh rất ấn tượng đối với
anh: lửa và sao. Lửa đốt sưởi lúc nghỉ chân. Không phải đèn mà lửa:
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây.
(Nhớ)
Đến chiến dịch Điện Biên Phủ, lính đi trong chién hào ngập nước có
khi tới ngực. Mặt mũi đen nhẻm vì chỉ có bùn và khói súng, cười răng trắng
xoá, từ bùn vụt lên: “Rũ bùn đứng dậy sáng loà”. Nguyễn Đình Thi nói:
“Nguyễn Tuân rất thích hình ảnh này. Còn chị Mộng Tuyết gặp anh lần đầu,
kêu lên: “A, anh rũ bùn đứng dậy sáng loà đấy à!”
Bài thơ Đất nước làm ở Việt Bắc từ 1948. Ghép hai bài thơ kháng
chiến với nhau. Sau bẵng đi đến 1955 mới làm tiếp ở Thái Nguyên – xã Phú
Minh, bên sông Cầu (làm tiếp bài thơ Đất nước và bắt đầu viết tiểu thuyết Vỡ
bờ)
Anh nói, bài Đất nước kết cấu theo âm nhạc. Chủ âm a từ mở bài, thân
bài đến kết bài:
Tôi nhớ những ngày thu đã xa...
(...)Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
(...) Nước Việt Nam từ máu lửa,
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
1.Nguyễn Đình Thi tập viết tiểu thuyết.
Năm 1968(20.11.1968), Nguyễn Đình Thi có một cuộc nói chuyện với
cán bộ và sinh viên khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội. Lúc ấy tôi còn dạy ở
Đại học Sư phạm Vinh. Nhân ra Hà Nội, tôi đến nghe ghé.
Nguyễn Đình Thi nói về những ngày đầu anh tập viết truyện, viết tiểu
thuyết. Anh nói, con đường vào nghề văn của anh là đi từ ngọn xuống gốc – con
đường không thuận. Bắt đầu viết từ năm 1942. Viết sách khảo cứu trước. Vào
Việt Minh, bắt đầu biết chủ nghĩa Mác, học được gì viết nấy: viết tiểu luận, viết
về ca dao..., vẫn làm lý luận trước. Khác với con đường của Nguyên Hồng, Tô
Hoài, từ vốn sống thực tế mà sáng tác. Thực ra, anh nói, nếu không có cách
mạng thì cũng có thể đi từ gốc đến ngọn, viết theo vốn sống tự nhiên của mình.
Song vừa vào nghề đã gặp cách mạng, cách mạng yêu cầu phải có vốn sống về
quần chúng cơ bản, về nông thôn. Do xuất thân gia đình viên chức tiểu tư sản,
toàn ở thành thị, lúc bé lại ở Lào, về nước chỉ đi học, vốn sống về quần chúng
công nông không có gì. Thành ra phải có cả một quá trình đi theo cách mạng, về
nông thôn, vào bộ đội, vốn sống phải thu nhặt dần dần, từ 1942 đến 1955, chín
năm phấn đấu mới viết được cuốn tiểu thuyết đầu tay: cuốn Xung kích.
249
Những năm kháng chiến, tại chiến khu Việt Bắc, Nguyễn Đình Thi ở
chung với mấy ông lãnh đạo văn nghệ: Tố Hữu, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao.
Anh thử viết một truyện ngắn, viết xong mời mấy vị đàn anh đến đọc cho nghe.
Họ ngồi quanh bếp lửa nhà sàn. Đọc xong thấy các vị chẳng nói gì, chỉ liếc
nhau, tủm tỉm. Biết là hỏng rồi. Các vị ngại chê nên không nói gì. Lại thử lần
nữa. Vẫn thất bại. Buồn quá. Làm mấy bài thơ thì bị phê bình. Viết văn cũng bị
chê. Chủ yếu do viết không hay, không sâu – anh tự thấy như thế.
Thi biết nhược điểm của mình. Tuy cũng tiếp xúc với thực tế, nhưng
không sao nhớ được những chi tiết cụ thể của đời sống (nói như Tô Hoài, con
mắt anh không sao chọc thủng được tờ giấy. Nghĩa là cứ bị sách vở che khuất).
Mà văn xuôi thì rất cần chi tiết. Anh nghĩ cách khắc phục. Anh cho rằng cơ thể
con người ta là một thể thống nhất. Nếu tay ghi lại thì óc cũng lưu giữ được.
Lần này anh đi theo chiến dịch Trung du (cuối 1950, đầu 1951). Anh
hạ quyết tâm phải thành công. Nếu lại thất bại thì bỏ nghề, xin công tác khác.
Anh đi với tiểu đoàn 29 (tiểu đoàn Lũng Vài), tiểu đoàn này đánh công kiên, tức
đánh đồn, rất giỏi - đánh công kiên là khó nhất. Mở chiến dịch Trung du là lần
đầu ta đánh công kiên. Anh đem theo rất nhiều sổ tay để ghi chép. Vừa đi vừa
ghi chép, ghi la liệt như máy.Anh nói, nếu có ai nhìn anh vừa hành quân vừa ghi
ghi chép chép thì chắc buồn cười lắm. Cái gì cũng ghi: lá nguỵ trang đầy
đường. Có ba con bò gặm cỏ ở bờ đê. Một cái vạc nước sôi sùng sục trên ba
tảng đá... ghi tuốt. Lúc bao vây đồn giặc, anh cũng đào một hố công sự bên
cạnh anh chỉ huy (Thái Dũng, Tây gọi là Commandant manchot – quan tư cụt
tay). Pháo chưa nổ. Im lặng hầu như tuyệt đối. Anh lắng nghe và ghi: tiếng gà
gáy ở một xóm xa, tiếng gió thổi, tiếng mõ, tiếng chó sủa ở một làng tề... Khi bộ
đội bắt đầu rót pháo, anh nhổm lên quan sát đồn giặc bốc lửa ra sao rồi thụp
xuống ghi. Xung kích vào đồn, anh chạy theo và ghi những gì nhìn thấy. Ghi
mò nguệch ngoạc – chưa nhập tâm thì cứ phải ghi hết – anh nghĩ thế. Tất nhiên
vẫn chưa đủ. Trận đánh kết thúc, anh theo bộ đội ra ngoài đồng xem họ tập trận
để ghi các động tác lăn lê bò toài, cách ném lựu đạn thế nào... Phải hiểu cả các
loại vũ khí và cách tổ chức của quân đội. Điều này không được viết ra vì phải
giữ bí mật. Không được viết, nhưng vẫn phải biết, vẫn phải ghi để có sens du
réel, phải có sens du réel mới viết được. Các cuộc họp tổng kết kinh nghiệm
củachiến dịch cũng phải dự và ghi. Sinh hoạt của bộ đội mình nói chung là họp,
anh ghi thành hẳn một cuốn sổ về các cuộc họp. Nhưng chỉ biết một trận đánh,
một đơn vị chưa đủ. Đằng sau tiểu đoàn 29 mà anh bám sát, chẳng những có cả
một chiến dịch mà còn có cả một xã hội nữa.
Chiến dịch Trung du kết thúc, trên giao cho anh viết một bài tường
thuật. Nhân tìm hiểu để viết bài này, anh có được cái nhìn bao quát cả trận đánh
và cả cái nền rộng rãi đằng sau trận đánh.
Khi thấy đã tạm đủ rồi, anh trở về, nói dối các vị đàn anh là đi công tác
(người ta không tin mình viết được, nên nói đi sáng tác thì ngượng, ngồi ở nhà
sáng tác trước mặt mọi người lại càng ngượng), kì thực anh tìm đến ở nhờ nhà
một đồng bào ở chân núi Tam Đảo để viết. ấy là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của
250
anh: cuốn Xung kích.
Anh dự định viết một truyện vừa. Sắp xếp một loạt bức tranh những
đám đông. Muốn biểu hiện chiến tranh nhân dân, phải tả những đám đông.
Nhân vật chính nói chung đều phỏng theo người thực. Thí dụ, chính trị viên cụt
tay là Thái Dũng, vốn là một ông giáo, chỉ huy tiểu đoàn 29. Promotype của
Kha là một anh học sinh ở Hải Phòng, trẻ, có tài, chưa vợ con, vẫn có tính học
sinh. Nhân vật Sản thì có nhiều nguyên mẫu góp vào: Thái Dũng, một anh công
nhân ở Hải Phòng và một anh khác vốn là học sinh trường cơ khí (école
pratique) phụ trách chính trị viên tiểu đoàn 29. Có một nhân vật phụ mà thành
công hơn cả nhân vật chính: chú bé Luỹ. Một em bé đi lính tự nhiên đem lại
một cái gì rất cảm động cho bộ đội ta.
Mở đầu chương một, anh nói, mình tìm cách sút gôn mà loay hoay mãi
không được. Sau mới nghĩ ra:Đưa luôn vào cảnh hành quân của bộ đội, dân
công. Thế là trót lọt – Viết một mạch ba tuần lễ, xong.
Viết xong, rất hồi hộp. Đọc thử cho bộ đội nghe. Họ thích nhất cảnh bộ
đội cởi truồng lội suối, cảnh dân công, bộ đội đối đáp nhau. Thích hơn các đoạn
tả đánh nhau. Vậy là tả đánh nhau không đạt lắm. Tả sinh hoạt khá hơn vì gần
với tâm trạng mình hơn. Tuy vậy vẫn không tự đánh giá được, thấy vẫn cần
phải đưa cho ai đó đọc. lần này không dám đưa cho mấy vị đàn anh trong nghề
nữa. Các vị khó tính quá. Anh chủ trương trước hết đưa cho những người mà
anh gọi là “nhà văn một nửa”. Người đầu tiên là Xuân Thuỷ. Xuân Thuỷ cho là
được, chỉ chê một số chỗ chưa đúng ngôn ngữ quần chúng. Thí dụ, đoạn tả bộ
đội dân công đi lại qua cầu chen chúc nhau, có một cô dân công mắng một anh
bộ đội sờ soạng mình: “Cái anh này sao lại cứ sờ sờ vào người ta như thế!”.
Xuân Thuỷ nói, đàn bà người ta không nói như vậy. Và ông chữa cho là: “Đồ
phải gió, chân với tay”. Mắng mà vẫn nội bộ. Câu trước là do Nguyễn Đình Thi
bịa ra, thô quá! Anh nói, vậy là văn chương mà thô hơn quần chúng. Tiếp theo
anh đưa cho cụ Lành. Ông Lành khuyên cho mấy đoạn: đoạn tả hành quân và
chi tiết anh đại đội trưởng ngồi tính giờ, ghi vào nắm tay. Tố Hữu còn thêm cho
một chi tiết: Sản nói với Kha trước khi Kha tắt thở: “Tao hôn mày” để biểu
hiện tình cảm một cách văn minh.
Cuối cùng anh đưa cho Trường Chinh. Trường Chinh khen có tính
đảng: tả đúng chiến tranh nhân dân, có sự phối hợp giữa chi bộ quân đội và cấp
uỷ đảng địa phương, như thế là ở đâu cũng có đảng lãnh đạo. Nguyễn Đình Thi
nói, thực ra lúc viết, anh không có ý thức như vậy. Đây là ý thức của một ông
lãnh đạo đảng. Ngoài ra cũng có người phê tả thương vong hơi nhiều, e không
có lợi, sợ ảnh hưởng đến tư tưởng quân đội (ý kiến này là của một cán bộ chính
trị trong quân đội).
Trường Chinh giục in luôn để phục vụ kịp thời.
Thành công này đã làm cho Nguyễn Đình Thi tin tưởng. Anh viết tiếp
Vào lửa, Mặt trận trên cao, Vỡ bờ.
Thực ra tiểu thuyết không phải chỗ mạnh của Nguyễn Đình Thi: Tô
Hoài, Nguyễn Khải trước sau vẫn cho Nguyễn Đình Thi không viết được tiểu
251
thuyết.
Năm 1970 tôi có được nghe Nguyễn Đình Thi nói về tiểu thuyết Vỡ bờ
(ở trụ sở báo Văn nghệ). Anh nói Vỡ bờ tập I, anh còn viết dưới cái cánh che
chở của ông Tolstoi già. Tập II đã thoát được cái cánh ấy. Thực ra Vỡ bò tập II
rất dở. Tập I còn đỡ hơn. Mới biết dù thông minh đến đâu, con người ta cũng
khó đánh giá đúng văn của mình – “văn mình – vợ người” – văn mình bao giờ
chả hay.
2. Vịt giời và vịt nhà.
Nguyễn Đình Thi có lần ví mình như con vịt. Bơi được một tí, bay
được mấy mét và chạy lạch bạch dưới đất. Một ví von có ý tự trào về sự nghiệp
của mình. Tôi chắc anh đã suy nghĩ nhiều về sự ví von này. Vì nó rất đúng với
thành tựu nghệ thuật của anh và có hàm ý mỉa mai, cay đắng. Nhưng sự ví von
này còn che dấu một ý khác. Anh nói, không chỉ có nghĩa khiêm tốn đâu, nếu là
con vịt giời thì nó bay cao, bay xa lắm đấy.
Theo tôi, sự ví von này chứa đựng một mâu thuẫn có thực trong cuộc
đời nghệ thuật của anh.
Một thanh niên trí thức, tuổi trẻ, tài cao. Mười tám tuổi đã viết sách
triết học. Rồi soạn nhạc, làm thơ. Lại lớn lên đúng vào một thời kì lịch sử đầy
bão táp, chẳng những chứng kiến mà còn đích thân tham gia vào những sự kiện
trọng đại có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của đất nước: Phong trào Việt
Minh, Cách mạng tháng Tám, cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
Một con người như thế, gặp thời thế như vậy, tất nhiên có nhiều ước
vọng lớn, muốn bay cao, bay xa, thật cao, thật xa.
Nhưng tổng kết cuộc đời mình, anh để lại được những gì? Nhạc một ít,
thơ một chút, kịch dăm vở, tiểu thuyết mấy cuốn, lý luận vài tập. Nói đa tài thì
đa tài thật. Nhưng chẳng tài nào được đẩy đến nơi đến chốn, được phát huy đến
tột đỉnh. Cho nên có lần Xuân Diệu nói với tôi: “Không biết nên gọi Nguyễn
Đình Thi là nhà gì nhỉ”.
Vì sao vậy? Có phải anh không chịu phấn đấu đâu. Trái lại thế. Không
phải ngẫu nhiên mà anh đã tổng kết đời mình bằng câu thơ rất buồn của Bà
huyện Thanh Quan: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”.
Giải thích tình trạng này, tôi cho rằng chính những tìm tòi suy nghĩ của
anh đã khiến anh luôn luôn đi chệch ra khỏi đường ray chính thống, và vì thế
luôn luôn bị phê phán, bị huýt còi. Một con người suốt đời đi theo đảng mà luôn
luôn va vấp với đường lối văn nghệ của đảng. Một con đường nghệ thuật quả là
không thông thuận.
Tôi cho rằng một trong những người hiểu sâu sắc Nguyễn Đình Thi là
Nguyễn Khoa Điềm.
Cuối năm 1982, nhân ra Hà Nội học Nguyễn ái Quốc, Nguyễn Khoa
Điềm có đến thăm tôi (Đồng Xa, ngày 21.11.1982). Anh đánh giá rất cao
Nguyễn Đình Thi mà anh cho có thể trở thành một trí tuệ lớn của thời đại. Anh
nói: “Thời nay, cái quyết định là trí thức, là trí tuệ, chứ không phải kinh nghiệm
thực tế. Từ 1930 đến nay, các nhà văn ta chỉ đi từ thực tế, rồi dùng tài, dùng
252
tâm mà viết. Chưa có trí tuệ lớn để tổng kết: “Đã đến lúc cần có một nhà văn
có trí tuệ như thế. Người đó là Nguyễn Đình Thi chăng?”
Và Điềm có một so sánh giữa Nguyễn Đình Thi và Huy Cận. Anh nói:
“Huy Cận chỉ đứng ngoài thực tế mà phản ánh và triết lý. Triết lý ngày xưa của
Lửa thiêng còn gây được một cái gì mênh mông, rộng xa. Triết lý bây giờ của
Huy Cận chả có nội dung gì cả”. Anh khẳng định: “Nguyễn Đình Thi thì khác.
Anh muốn triết lý như một người trong cuộc”.
Đúng thế, Nguyễn Đình Thi tham gia cách mạng, vừa đi vừa tìm
đường, “nhận đường”. Một con người thực sự nhập cuộc. Trước 1945, hai lần
nếm cơm tù đế quốc. Đến kháng chiến, gia nhập bộ đội, dự nhiều trận đánh.
Thời chống Mỹ, vào Nam, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh.
Cũng vào cuối năm 1982 (Đại học Sư phạm Hà Nội, ngày 19.11.1982),
tôi được nghe Nguyễn Đình Thi kể rất tỉ mỉ về những nếm trải của anh cùng bộ
đội, nhân dân trong những ngày gian khổ nhất: Ăn đói, mặc rét (ở Thái Nguyên,
gặp Tố Hữu. Trời rét. Tố Hữu lấy cái áo dạ của mình khoác cho, nhưng sau phải
trả lại vì không được phép mặc áo cấp phát của cán bộ Trung ương). Nhiều
phen hút chết vì bom mìn, vì kiết lỵ. Anh nói, có phải được chết oai phong gì
đâu, mà chết dấm chết dúi trong bờ trong bụi. Dọc đường Trường Sơn, bao
nhiêu nấm mồ vô danh. Tự thấy mình may mắn, còn được sống mà viết. Nhiều
cái chết rất thảm: chết vì đói rét, chết vì cây đổ, chết vì rắn độc...
Anh tự thấy mình cũng chẳng dũng cảm gì, vậy mà từng phải sống
những giây phút hết sức căng thẳng, giữa cái sống cái chết ranh giới chỉ là một
sợi tóc. Nhưng vì thế mà càng thương, càng kính phục nhân dân mình. Anh kể
chuyện hôm giải phóng Sài Gòn, anh đi cùng một số đồng bào từ Mỹ Tho vượt
qua sông Cửu Long, quãng Bến Tre, rồi băng qua lộ 4. Có nhiều chị phụ nữ địu
con. Trạm trưởng cũng là một nữ. Khi qua sông, các chị vẫn đùa nhau một cách
rất hồn nhiên: “Này người yêu của mày nó đang nằm lòi ruột ra kia kìa!” Qua
lộ 4 là qua cửa tử. Vì đồn địch chỉ cách có trăm mét. Chẳng có ai bảo vệ cả, vì
không phải cán bộ to. Một giao liên đón, anh ta quan sát xem địch có phục kích
không, rồi vẫy tay một cái, thế là chạy thục mạng. Nguyễn Đình Thi đau dạ dày,
ôm bụng chạy. Đằng sau các chị địu con chạy sòng sọc... Địch mà biết, nó chỉ
lia một băng là chết hết.
Nguyễn Đình Thi không như ai kia, chỉ đứng ngoài cuộc, nấp cho kín
mà vỗ tay ca ngợi nhân dân anh hùng.
Từ thực tế ấy anh suy nghĩ về dân tộc, về nhân dân, về con người, về
văn học nghệ thuật. Về sự hi sinh không bờ bến của quân đội và nhân dân mình.
Hy sinh không cần ai biết đến, không cần Tổ quốc ghi công. Anh nói, viết được
sự thật này, chết không uổng. Có thực tế, anh lại có trí thức, đọc rộng, hiểu
nhiều. Tôi đã từng được nghe anh nói về tiểu thuyết Pháp, tiểu thuyết Nga, về
thơ Baudelaire, thơ Tagore, về tư tưởng của Nguyễn Trãi, về thơ ca, vũ đạo,
điêu khắc của Việt Nam, về nền văn hoá rất cao của dân tộc ta nên có thể tồn tại
được bên cạnh hai nền văn hoá lớn là Trung Quốc và ấn Độ. Như vậy là tư duy
của anh không bị bó hẹp trong một cái khuôn văn hoá chật hẹp nào.
253
Những ý nghĩ của anh, vì thế, không giáo điều, không hẹp hòi, máy
móc. Nhưng chính vì thế mà chệch ra khỏi đường lối văn nghệ của đảng.
Về điểm này, một lần nữa tôi lại thấy Nguyễn Khoa Điềm hiểu rất
đúng về Nguyễn Đình Thi. Có điều hồi ấy anh phải diễn đạt một cách dè dặt,
cho đúng khuôn phép: “Nguyễn Đình Thi có chỗ chông chênh, song anh muốn
nói một cái gì về chủ nghĩa nhân văn, với một tầm nhìn lâu dài, tạo ra những
giá trị tư tưởng lâu dài. Cái thiên hướng đó chưa nhịp nhàng với xã hội hiện
nay nên bị đánh giá sai đi, bị hiểu lầm”.
Tôi thì nói thẳng, những suy nghĩ tìm tòi của anh chính vì không hẹp
hòi, máy móc, giáo điều nên thường chệch ra ngoài đường lối văn nghệ của
đảng.
Trước hết là thơ. Anh chủ trương một lối thơ không phụ thuộc vào vần
điệu bên ngoài, vần điệu ngoài tai, chỉ cần nhịp điệu bên trong. Không phải cứ
hết vần là hết thơ. Thơ không vần vẫn là thơ dân tộc. Anh nói, đúng là âm thanh
của ngôn ngữ có khả năng miêu tả được sự vật. “Xè xè nấm đất bên đường”,
“xè xè” là tả cái gì thấp. “Nhưng thơ hiện đại nên bớt “xè xè” đi, càng bớt
được nhiều càng tốt”. Anh muốn thơ thực sự là lời nói bằng thứ ngôn ngữ bình
thường giản dị nhất. Anh đề cao thơ trí tuệ, thơ tư tưởng. Thơ tất nhiên phải có
tình cảm, nhưng tư tưởng phải sâu sắc, sáng rõ, còn tình cảm thì nên kín đáo.
Anh nói, “thơ của ta, tư tưởng thường mù mờ , tình cảm thì lộ liễu”. Quan niệm
của anh có thể mở ra một cuộc cách mạng về thơ ca phù hợp với thời đại. Ngày
nay ai nấy đều thấy như thế. Nhưng hồi ấy (1948, 1949) anh đã bị phê phán
kịch liệt. Vì trái với đường lối văn hoá dân tộc, khoa học, đại chúng hiểu theo
nghĩa thô thiển nhất. Có kẻ còn tỏ ra phẫn nộ, như Lưu Trọng Lư, hò hét muốn
đuổi anh ra khỏi vương quốc thơ ca.
Về tiểu thuyết thì cuốn Xung kích coi như trót lọt. Nhưng đến Vỡ bờ thì
sinh chuyện. Anh ném ra cô Phượng, một nhân vật tư sản khá phức tạp nhưng
có cảm tình với cách mạng. Anh muốn nói cách mạng tháng Tám là cuộc cách
mạng của toàn dân tộc, trong đó có giai cấp tư sản. Anh rất tâm đắc với nhân
vật này, một nhân vật được sống thật là mình. Nhưng người ta cho anh đi theo
dòng tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Cô Phượng là nhân vật Tự lực văn đoàn.
Lôi thôi trầy trật nhất là kịch. Hầu như vở nào cũng bị phê phán. Tôi đã
được nghe anh than phiền về chuyện này ở Đà Nẵng (31.7.2000).
Anh nói kịch của anh kết cấu theo diễn biến tình cảm hơn là theo xung
đột kịch. Đúng là kịch của anh, do đó, giầu chất thơ. Tôi cho rằng kịch của
Nguyễn Đình Thi là kịch tư tưởng, có thiên hướng về chủ nghĩa nhân văn. Một
lối kịch tượng trưng thường dùng biểu tượng tượng trưng để ném ra tư tưởng
này khác.
Kịch như thế là trái hẳn với đường lối văn nghệ của Trường Chinh: văn
nghệ phải phục vụ chính trị (hồi ấy chủ nghĩa nhân văn cũng bị phê phán vì cho
là thuộc phạm trù ý thức hệ tư sản), chủ đề phải rõ ràng, không được dùng biểu
tượng hai mặt.
Cho nên Con nai đen bị cấm diễn. Hoàng Văn Hoan chê chủ đề không
254
rõ. Ông ta nói, ta đang đói. “Dân đói thì như nồi nước sôi. Phải thận trọng!”
Nguyễn Trãi ở Đông quan thì cho là ám chỉ Trung ương họp. Người ta
còn đặt vấn đề: Sao không viết Nguyễn Trãi ở Lam Sơn, Nguyễn Trãi anh hùng,
Nguyễn Trãi chiến thắng, mà lại viết Nguyễn Trãi bị cầm tù. Còn nhân vật cô
Câm thì muốn nói gì? ức mà không nói được? Thâm lắm đấy! Tác phẩm này
cũng bị cấm. Thực ra lúc bấy giờ anh muốn nêu vấn đề trí thức. “Thời ấy nổi
lên mấy vở kịch về trí thức: Kịch Khuất Nguyên là trí thức và vấn đề trong đục;
Kịch Galilée là trí thức và vấn đề chân lý; Nguyễn Trãi ở Đông quan là trí thức
và vấn đề dân tộc”.
Đến Giấc mơ anh muốn đưa ra một vở kịch thật hiện đại: một anh
thương binh ngất đi, mơ thấy nhiều cái chết: cái chết của Tần Thuỷ Hoàng, cái
chết của Cléopâtre, cái chết của Chử Đồng tử, cái chết của anh thương binh. Vở
kịch có một cuộc đối thoại với một gã lái buôn. Nó đi đâu cũng đem theo cái
bàn tính và tay nải tiền. Cái gì nó cũng mua được hết, nhưng cuối cùng không
mua được khóm tre của anh thương binh. Kịch rắc rối, lại pha huyền thoại như
thế tất nhiên cũng không được chấp nhận.
Rừng trúc thì viết theo lối cổ điển thôi, nhưng có gài một chủ đề có ý
nghĩa nhân văn (bên cạnh chủ đề đoàn kết đánh giặc) đặt vào lời Chiêu Thánh:
“Việc nước là quan trọng, nhưng việc của con người cũng không là nhỏ”.
Còn Hoa và Ngần thì đề cập đến chuyện một cô gái, chồng đi chiến
trường đã báo tử. Nhưng khi cô yêu người khác thì chồng lại trở về. Trong
chiến tranh, nội dung kịch như thế tất nhiên cũng không được diễn.
Thật ra nếu những tác phẩm trên của Nguyễn Đình Thi đạt tới phẩm
chất nghệ thuật cao, là những kiệt tác, thì không ai có thể phủ nhận được, không
gì giết chết được. Có chôn xuống đất đen thì nó cũng sẽ đội đất chui lên. Như
Giông tố, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, như Vang bóng một thời của Nguyễn
Tuân...
Nhưng tất cả chỉ mới là những thử nghiệm. Nếu anh cứ tiếp tục thử
nghiệm thì rồi có thể có lúc sẽ đạt tới độ chín, và biết đâu đấy, có thể tạo được
những tác phẩm chẳng những có giá trị lâu dài mà còn mở ra được mội thời đại
mới cho nền văn nghệ Việt Nam hiện đại.
ấy là nói giả thiết thế thôi. Sự thật thì Nguyễn Đình Thi đã chùn bước.
Anh sợ – Dương Thu Hương thì nói thẳng: Nguyễn Đình Thi là thằng hèn, một
trí thức hèn, từng ví mình như hạt bụi (chị nói trong cuộc gặp mặt của Nguyễn
Văn Linh với văn nghệ sĩ – 10.1987).
Không rõ bản thân Nguyễn Đình Thi có thấy mình là hèn hay không,
chỉ biết có lần , trong một buổi nói chuyện ở Đại học Sư phạm Hà Nội, anh tự
cho là người luôn luôn bị lỡ tàu.
Hôm ấy anh nêu lên ý kiến của Goethe về sự xuất hiện những tác phẩm
lớn. Goethe nêu lên ba điều kiện:
- Dân tộc có gì lớn để viết?
- Có thiên tài để viết không?
- Thiên tài có được viết ở thời kì sung sức nhất không? Hay cứ bị lỡ
255
tầu hoài.
Thì ra anh hiểu lỡ tầu là như thế.
Nhưng liệu anh có phải là thiên tài không? Và tàu nó không đợi anh,
hay anh không dũng cảm bước lên tàu?
3. Chuyện con cua và con ếch.
Năm 1983, Hà Xuân Trường thay Trần Độ làm trưởng ban văn hoá văn
nghệ Trung ương. Nguyễn Văn Hạnh tiếp tục ở lại một thời gian làm phó cho
Hà Xuân Trường. Các vị tổ chức một cuộc hội thảo trong ba ngày về văn học
nghệ thuật. Cuộc hội thảo tập hợp rất đông văn nghệ sĩ thuộc các ngành nghệ
thuật khác nhau. Nguyễn Đình Thi có đến dự. Hôm ấy tôi được chứng kiến
Nguyễn Đình Thi sợ Tố Hữu như thế nào. Ba ngày liền các đại biểu tự do đăng
kí phát biểu. Hôm đầu, tôi hỏi Nguyễn Đình Thi có phát biểu không. Anh nói
không. Nhưng đến buổi cuối cùng, anh lại nói.
Giới văn nghệ nói chung rất phục Nguyễn Đình Thi (trừ bọn viết văn).
Anh lại có thuật nói hấp dẫn. Anh bước lên, đứng trước cái bàn có phủ khăn.
Đứng im, không nói gì. Mọi người im phăng phắc chờ đợi. Tưởng như con
muỗi vo ve cũng nghe thấy. Bỗng anh bước ra khỏi cái bàn, vung tay hỏi hội
nghị: “Chúng ta đang làm cái gì thế này?” Mọi người ngơ ngác tự hỏi: họp
bangày, không biết mình làm cái gì nhỉ? Càng cảm phục và chờ đợi. Thi vung
tay nói lớn: “Chúng ta đang làm một nền văn nghệ lớn. Và chúng ta cũng lớn!”
Đúng lúc ấy Tố Hữu đi vào. Hà Xuân Trường theo sau. Tố Hữu ăn mặc
xuềnh xoàng, áo sơ mi bỏ ra ngoài quần. Người nhỏ bé.
Nguyễn Đình Thi đang hùng hồn bỗng cụt hứng, xỉu hẳn lại, không nói
được nữa.
Tố Hữu ngồi ngay ghế đầu, vẫy tay nói với Thi: “Anh cứ nói tiếp đi!”.
Nhưng Thi chỉ nói lý nhí mấy câu gì đó không nghe rõ, rồi bỏ đi xuống.
Tôi hình dung con cua đang giơ hai càng một cách hiên ngang như
muốn thách thức với cả trời đất. Con ếch tới, vỗ nhẹ vào mai một cái, con cua
vội co dúm người lại. Nguyễn Đình Thi là con cua, Tố Hữu là con ếch.
Thảm hơn nữa là sau đó, khi Tố Hữu phát biểu, Thi thỉnh thoảng lại đế
vào một câu để tỏ ra rất tán thưởng ý kiến của Tố Hữu. Một thái độ nịnh hót rất
lộ liễu. Lưu Trọng Lư cũng thế. Rất tội!
Nguyễn Đình Thi là một trí thức, đọc rộng, biết nhiều – lại có nhiều
trải nghiệm trong thực tế và có quan hệ với các cấp trung ương, những ông lãnh
đạo đảng và quản lý nhà nước. Vì thế anh có nhiều ý kiến ngược dòng chính trị,
có tầm khái quát khá táo bạo. Nhưng cứ phải dấu đi, cứ phải ngậm miệng.
Trong vở kịch Nguyễn Trãi ở Đông Quan, anh đưa ra một nhân vật mắc bênh
câm. Cô Câm. Chắc hẳn anh muốn nói cái khổ của anh trí thức, của bản thân
mình: biết đủ thứ, muốn nói mà không nói được.
Nhưng tâm lý con người ta là thế, khi trong bụng có lắm ý kiến lấy làm
tâm đắc, thì thế nào cũng có lúc phát ra chỗ này chỗ khác.
Tôi đã được nghe khá nhiều ý kiến như thế của Nguyễn Đình Thi.
Chẳng hạn những ý kiến như thế này:
256
“Tổng bí thứ Đảng là ông vua cộng với ông Thánh, là Hoàng đế cộng
với giáo hoàng. Phong kiến nó tách ra làm hai. Cộng sản chỉ có một, nên đẻ ra
Staline và Mao Trạch Đông. Vua thì phải giết kẻ kế cận. Mao, Staline đều chặt
đầu kẻ ngang mình. Hồ Chí Minh cũng được thờ như ông thánh, nhưng không
tự nhận là thánh, không giết kế cận. Đấy là chỗ may cho dân tộc mình”.
“ Ta hiện nay có tình trạng người có quyền không biết chuyên môn. Kẻ
có năng lực thì không có quyền. Kẻ biết không được nói. Kẻ nói thì không biết”.
“ Trong chiến tranh, văn học cứ phải đánh trống thổi kèn. Toe, toe,
toe, tiến lên! Phải lên giây cót. Không lên giây cót là mất nước ngay. Văn học vì
thế là văn học tuyên truyền, đánh trống thổi kèn. Phê bình thì đánh giá lẫn lộn,
cái hay bảo dở, cái dở bảo hay, làm sai lạc hết tiêu chuẩn”.
“ Văn nghệ sĩ như đám cung nữ, múa hát cho vua xem. Còn phê bình
là lũ hoạn quan, lũ thái giám, chuyên bảo vệ các cung nữ”.
“ Ta không được nói cái nhỏ, không được nói bóng tối, không được nói
đời tư. Con người đối diện với mình là rất văn học. Nhưng ít được nói đến. Vì
thế văn học trào phúng không phát triển được”.
“Đường lối văn nghệ có thể sai, nhưng sáng tác vẫn có thể có sáng tạo
do gắn với đời sống. Còn lý luận phê bình thì phụ thuộc hơn vào đường lối.
Đường lối sai ảnh hưởng đến lý luận phê bình.
Người sáng tác có tài vẫn tìm cách khơi được dòng để sáng tạo. Có
đièu kiện thì nói thẳng, không có điều kiện thì nói quanh co, song vẫn nói được,
nếu có tài và gắn với đời sống”.
“Phê bình kém vì chỉ có một cái đầu được nghĩ thôi. Không ai được
nghĩ. Tự do không có. Không phải phê bình kém mà vì phê bình không được
nghĩ và nói theo cái đầu của mình. Hiện nay chỉ có phê bình đề tài, không phê
bình tác phẩm”.
“Văn học cho đến nay, về phương diện phản ánh chiến tranh vẫn còn ở
dạng hồi ký. B. Polévoi, Simonov cũng thế thôi. Viết về chiến tranh phải có gan
viết về cái chết. Người anh yêu nhất chết. Và cái chết phải vượt ra ngoài vấn đề
chiến tranh. Không dám nói cái tình trong chiến tranh thì kể bao nhiêu sự kiện
cũng không hay ho gì. Phải lùi xa mà phản ánh hiện thực, và phải có tầm nhân
loại. Mà nhà văn ta sợ không dám khái quát ở tầm cao, tầm trung ương”.
“Có hai cái gây ra drame và tạo cho nhân vật một destinée: tình yêu
và lí tưởng. Tiểu thuyết ta không dám đặt ra vấn đề gì cả. Vì hai vấn đề trên
phải tránh. Thành ra nói như sách, nói theo đáp án định sẵn”.
Những ý kiến như thế cứ “thòi” ra chỗ này chỗ khác, hoặc trong những
cuộc nói chuyện ở đâu đó, hoặc dùng lối biểu tượng hai mặt để “xì” ra một cách
bóng gió trong tác phẩm của mình (chủ yếu là kịch).
Thành ra Tố Hữu rất ghét Thi. Vì Tố Hữu là tay thông minh, thừa biết
Thi thực bụng nghĩ gì. Vả lại những ý kiến kể trên của Thi, thế nào chẳng có
thằng tâu với Tố Hữu. Ghét nhưng vẫn dùng. Vì Thi biết sợ. Lãnh đạo ngại nhất
là thằng không biết sợ. Sai không sao, ngại nhất là thằng bướng. Thằng bướng
thì phải diệt ngay (như Nguyên Ngọc chẳng hạn)
257
Nguyễn Đình Thi sợ Tố Hữu có lẽ còn do nguyên nhân khác: Từ rất trẻ
anh đã được ngồi ghế cao: Lãnh đạo văn hoá cứu quốc, Tổng thư kí hội nhà
văn, Hội văn nghệ, Đại biểu quốc hội khi mới ngoài 20 tuổi. Thi không quen
ngồi dưới đất. Một tính cách dở dang: vừa muốn làm nghệ sĩ, vừa muốn làm
quan. Đã muốn làm quan, đã muốn có ghế và giữ ghế thì tất phải sợ cấp trên –
cấp trên trực tiếp là Tố Hữu.
Hoàng Ngọc Hiến thì cho rằng, Nguyễn Đình Thi chắc có một cái vết
gì đấy trong lý lịch nên sợ. Những tay nịnh hót đảng, lên gân lên cốt về chính
trị, nói chung là đều có vết gì đó trong lý lịch như Hoàng Xuân Nhị, Lê Văn
Thiêm, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Nam Mộc, Phan Ngọc...
* *
*
Năm 2000, tôi vào Sài Gòn. Một buổi sáng tôi ngồi uống cà phê với
anh Hoài Thanh (Cán bộ giảng dạy Đại học Sư phạm Sài Gòn) ở một cái quán
vỉa hè đường Nguyễn Du, thấy Nguyễn Đình Thi đứng ngay gần đấy. Anh đứng
trông ra đường, chắc đang đợi xe đến đón đi đâu đó. Tôi gọi anh và mời anh
uống cà phê. Hoài Thanh nói: “Trông Bác vẫn trẻ lắm!”. Nguyễn Đình Thi nói:
“Tôi lúc trẻ người ta bảo là già, lúc già người ta lại khen là trẻ”. Hỏi anh về
sức khoẻ, anh nói bị tuần hoàn não.
Khi anh ốm nặng (2004) tôi có đến thăm. Hôm ấy anh vừa được uống
cổ linh chi, một thứ thuốc quý hiếm, được coi là thần dược. Người khoẻ lại hẳn.
Chân tay co duỗi thoải mái. Anh thử biểu diễn cho tôi xem, có vẻ vui và tin
tưởng lắm. Chị Tuệ Minh chăm sóc anh. Anh nói nhỏ với tôi: “Anh đến thăm
tôi thế này là quý hoá lắm!” Rồi anh giới thiệu tôi với chị Tuệ Minh.
Vậy mà chỉ mấy ngày sau, anh qua đời.
* *
*
Về sáng tác và nhất là về con người Nguyễn Đình Thi, kẻ khen không
ít, người chê cũng nhiều.
Điều ấy chắc anh biết rõ. Nhưng anh không bao giờ thanh minh, không
bao giờ tự bào chữa.
Hoàng Ngọc Hiến cho đó là một chỗ rất được của Nguyễn Đình Thi.
Láng Hạ, ngày 1.1.2008
258


Chương XIX: Nguyễn Khải


Nguyễn Khải khác hẳn Nguyên Ngọc. Thiết thực, không phiêu lưu
mạo hiểm, không muốn chết, không muốn đi tù. Anh tự nhận luôn là thằng hèn
cho người ta khỏi phải bàn tán lôi thôi.
Sau cuộc hội nghị nhà văn đảng viên, bản đề cương của Nguyên Ngọc
bị Tố Hữu đánh, Nguyễn Khải vốn nhất trí với Nguyên Ngọc trong vụ này, nên
sợ quá. Anh nói thẳng với Nguyên Ngọc: “Tao nhát lắm, chưa đánh đã khai.
Cho tao chạy đi thôi, mày thông cảm, đừng khai tao ra nhé”.
Nguyễn Khải rất thiết thực và tỉnh táo, vậy mà cũng có lúc mê muội.
Tôi gọi là dại – tôi đã viết như thế về Nguyễn Khải trong bài Dại khôn Nguyễn
Khải. Mới biết cái danh, cái lợi cũng dễ mê hoặc lắm. Hồi được gọi ra Hà Nội
để chuẩn bị Đại hội nhà văn lần thứ tư (Trần Độ, Nguyễn Văn Hạnh dự định sắp
đặt Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc làm chánh, phó Thư kí Hội Nhà văn). Nguyễn
Khải xem ra cũng hăng hái lắm. Anh nói với tôi y như là sẽ làm Tổng thư ký
đến nơi: Anh phẩy tay “Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên thì phế cả đi! Còn về lý
luận phê bình thì anh phụ trách cho tôi. Nhưng ta phải khôn khéo, đổi mới
nhưng phải khôn khéo. Trần Độ cứng quá, cứ ỉa ra đấy cho người ta phải dọn.
Chính trị ghê gớm lắm, không đùa được đâu! Nếu cần quỳ xuống lậy, ta cũng
phải quỳ”.
Trong bài viết về Nguyễn Khải, tôi có nhắc đến chi tiết này, cho là một
cái dại của anh và hạ một câu: “Bây giờ nghĩ lại, xấu hổ chết được!”. Tôi tưởng
anh giận tôi, hoá ra anh lại thích thú. Thích vì thấy hiểu mình quá. Tôi rất quý
cái thành thực ấy của Nguyễn Khải. Có một cô nghiên cứu sinh tên là Tuyết
Nga làm luận án về Nguyễn Khải. Cô tìm gặp anh để tìm hiểu. Anh đưa cô xem
bài viết của tôi, nói là cứ đọc bài này là hiểu anh. Và anh cầm bài viết đọc luôn
cho cô ta nghe. Đến chỗ “Bây giờ nghĩ lại xấu hổ chết đi được!”, anh đỏ bừng
mặt và cười hô hố – Cô nghiên cứu sinh kể lại với tôi như vậy.
Trong bài viết nói trên, tôi có nói đến một bậc đàn anh trong nghề dạy
tôi phải đào nhiều hang. Ta là con chuột, lấp hang này, ta chui hang khác. Đó là
Đinh Gia Khánh. ở bài này, tôi dẫn câu Nguyễn Khải nói, có một nhà văn, trước
1975, chẳng có tư tưởng gì cả. Đấy là Nguyễn Minh Châu. Đúng là trước 1975,
tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu cũng chỉ là minh hoạ đường lối, tư tưởng của
đảng. Sau 1975 mới có tư tưởng. Tư tưởng Nguyễn Minh Châu đặt ở nhân vật
Khúng trong Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát. Tôi cũng dẫn lời anh chê một
nhà thơ viết hồi ký, đọc lúc đầu có không khí, sau chẳng thấy có tư tưởng gì. Đó
là A T(Hồi ký Từ bến sông Thương). Tôi còn dẫn ra câu anh nói về một giáo sư
danh tiếng mà đọc (hồi ký) cũng chả thấy có tư tưởng gì. Đó là ĐTM.
Như vậy là đọc văn hay viết văn, Nguyễn Khải rất chú ý đến tư tưởng
của tác phẩm. Nhưng ở anh, có một mâu thuẫn: một mặt muốn phát biểu tư
tưởng riêng, vì ý nghĩa của văn chương là ở đấy. Nhưng mặt khác lại muốn
sống yên ổn với đời nên chỉ có thể mạnh dạn nửa vời, mạnh dạn trong một
259
khuôn khổ nào đấy thôi. Chính trị ghê gớm lắm, không đùa được đâu, chắc anh
luôn luôn tự dặn mình như thế. Vả lại nghĩ đi nghĩ lại, anh không thể quên công
ơn của cách mạng đối với mình. Từ một cậu bé con rơi con vãi, sinh ra đã bị
khinh bỉ, bị lăng nhục, sau cách mạng trở thành nhà văn có danh, có lợi đủ cả.
Cũng phải biết điều một chút chứ!.
Thông minh và tỉnh táo, Nguyễn Khải luôn có ý thức về thân phận của
mình, về cái giá trị của mình đối với đời. Anh kể chuyện, hồi anh là đại biểu
quốc hội, đi ôtô từ Ba Đình về nhà khách. Đến chỗ đường tàu, xe phải dừng lại
cùng một số đồng bào đi xe đạp, xe máy. Anh nhìn xuống, thấy rợn người: có
một tay đang nhìn lên anh, cặp mắt đầy căm thù. Anh nghĩ mình cũng chỉ là loại
nghị gật, vô tích sự, thằng ăn hại, dân nó khinh ghét là phải.
Chiến thắng 30.4.1975, anh đi vào Nam. Gặp Nguyên Ngọc, Nguyễn
Trọng Oánh. Anh cảm thấy Ngọc và Oánh nhìn mình như muốn nói: “ Mình
chiến đấu gian khổ bao lâu không thấy mặt nó đâu, bây giờ chiến thắng rồi, nó
vào. Rồi nó sẽ viết nhiều, viết hay hơn mình cho mà xem!”. Nguyễn Khải nói:
“Biết thân phận thế, tôi cứ ngồi len lén, không dám nói năng gì”.
Mà cái tài của Nguyễn Khải là thế thật, có cần đi thực tế gì đâu. Trước
1975, anh chỉ ngồi ở ngoài Bắc mà viết về HoàVang chiến đấu như thật. Cho
nên có ai đó đã làm vè giễu anh:
Anh đi anh lại về ngay,
Hoà Vang cũng ở ngoài này đó em.
* *
*
Khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, Nguyễn Khải đưa gia đình
vào Sài Gòn. Lúc đầu xem chừng sinh hoạt còn khó khăn. Anh ở quận Bốn
(448B/9, phường 18, Nguyễn Tất Thành) tôi có đến thăm. Nói chuyện với tôi,
thấy anh cứ nhấp nhổm chạy ra chạy vào: gia đình bán giải khát và cho thuê
điện thoại. Có khách đến, phải chạy vội ra phục vụ. Mấy năm nay thì khá hơn
rồi. Anh có người con (Nguyễn Khải Hoàn ) kinh doanh nhà đất, kiếm được.
Nhưng nhà cứ mua đi bán lại, nên anh cứ phải chuyển chỗ ở luôn. Mỗi lần tôi
vào Sài Gòn, lại thấy anh ở một chỗ khác. Biết tôi vào Sài Gòn, thế nào anh
cũng mời đến uống rượu.
Đến Nguyễn Khải, lúc nào cũng có rượu. Anh nói, bây giờ rượu Tây
sẵn, nghĩ thương ông Nguyễn Tuân. Ngày xưa mỗi lần họp, thấy ông lấy ra một
cái bi đông rượu, rót vào cái nắp, mời vị này, vị khác. Nay rượu Tây đầy ra đấy,
ông không còn để mà uống.
Nói chuyện với Nguyễn Khải, tôi không ngờ hồi mới vào Sài Gòn, loại
văn nghệ sĩ cỡ Chế Lan Viên, Nguyễn Khải mà khổ đến thế: “Vũ Thị Thường
nói, đi đường chỉ mong nhặt được tiền ai đó đánh rơi. (Hệt như câu nói của
Hoàng Ngọc Hiến hồi ấy: “Đi đường thấy có một đồng xu rơi cũng phải nhặt.
Kiếm đâu ra một xu bây giờ!”)
“Chế Lan Viên ở quận Tân Bình chỉ thèm ăn một bữa ngon, phải ra
tận quán bà luật sư Huỳnh Ngọc Đại để được bà ấy đãi một bữa cơm Tây. Ai
260
mời, đâu mời cũng đi. Chỉ để kiếm bữa ăn thế thôi, và xách về một chai nước
mắm hay mấy cân gạo nó cho. Nguyễn Khải cùng đi với Chế Lan Viên. Một
thằng làm thơ, một thằng viết ký, một ca sĩ đi theo hát. Tôi gọi là hai kép, một
cô đầu cùng đi kiếm bữa ăn và ngồi nghe mấy tay giám đốc dốt nát vào đấy ba
hoa. Nó có tiền nên hai nhà văn cứ phải gật gù nghe nó dạy dỗ”.
Nguyễn Khải có nhiều ý kiến rất táo bạo:
“Đảng không bao giờ coi trọng trí thức, biến trí thức như Hoàng Xuân
Nhị thành hèn hạ. Mà bị nó khinh. Tôi từng gặp Hoàng Xuân Nhị ở nhà Tố
Hữu. Tố Hữu không thèm nói chuyện với ông ta, cứ để cho ông ta ngồi một
mình. Tóc bạc phơ. Tố Hữu chỉ nói với tôi là một thằng còn rất trẻ. Trần Đức
Thảo thì bị biến thành một thằng thần kinh. Sang Pháp, bao nhiêu Việt kiều mời
đến, không đến, cứ ở Đại sứ quán, tuy bị nó khinh như chó.
Thuỵ An thì bị tù. Trong tù đi lao động, ngã vào dây thép gai, bị mù
một mắt. Nay vẫn ở Sài Gòn, sống rất khổ. Không đi Pháp vì là con gái lớn
phải ở lại nuôi mẹ già...”
“Chúng ta thuộc lứa người bị bỏ phí cả một thời trai trẻ để học theo
một cái lý thuyết vớ vẩn, chả nghĩ ra được cái gì, chẳng làm ra được cái gì
trong giới hạn của chủ nghĩa Mác – Lê - một thứ triết học của người cầm
quyền. Mà có hiểu Mác – Lê thực đâu. Toàn nghe lãnh tụ nói và nói theo. Trong
cái khung của một ý thức hệ, còn ai nghĩ ra được cái gì nữa. Chủ nghĩa Mác
thành ra một thứ tôn giáo. Tin mà không hiểu. Bao người hy sinh vì cái lý
thuyết vớ vẩn ấy. Chủ nghĩa xã hội toàn đẻ ra những con người quái gở như
Mao Trạch Đông, Staline, Pônpốt, rồi Nguyễn Chí Trung..., toàn lũ điên”.
“ Ta có một thời cứ tin tưởng ở cái không có. Như tin ở chủ nghĩa xã
hội”.
“Chính trị và quan điểm giai cấp trùm lên tất cả. Con người không có
tình bạn. Bạn bè mà có vấn đề chính trị là không được quan hệ”.
“Chủ nghĩa xã hội nếu không thay đổi thì con người thành mọi rợ,
rừng rú. Từ ăn, ỉa, mặc, ở... Sợ quá!”
Nguyễn Khải nói về uy quyền ghê gớm của Lê Đức Thọ một thời. Anh
chứng kiến Sáu Bắc (Lê Đức Thọ) tiếp Sáu Nam (Lê Đức Anh). Hôm ấy, Thọ
gọi một số văn nghệ sĩ đến hỏi chuyện. Thọ đang tiếp khách. Bọn Khải phải
ngồi đợi ở phòng bên cạnh. Lát sau, khách ra về. Hoá ra khách là lê Đức Anh.
Nguyễn Khải thấy Lê Đức Anh đi ra, cứ đi giật lùi, giật lùi ra mãi giữa sân mới
dám quay đít lại. Thọ tiếp chúng tôi. Đúng lúc ấy thấy Phạm Hùng đi sang.
Hùng đề nghị gặp Thọ một lát. Thọ phẩy tay: “Để lúc khác nhé, giờ đang bận
tiếp khách văn chương”. Thọ coi Hùng chẳng là cái gì, tuy Hùng lúc đó là thủ
tướng, thay Phạm Văn Đồng ”.
“Nói chung cộng sản coi văn nghệ sĩ như rác. Lê Duẩn coi Tố Hữu
cũng chỉ như một con hát. Nhưng lại sợ văn nghệ. Vì chỉ dùng tuyên truyền,
dùng nước bọt mà giành được nước. Chỉ nói, có làm gì đâu. Nói đủ cả, chẳng
làm gì. Thí dụ, cứ nói phê bình tự phê bình mà chưa bao giờ phê bình tự phê
bình cả. Có dám nói thật đâu mà phê bình tự phê bình. Chỉ toàn đào tạo gia
261
nhân, đầy tớ, bọn nịnh hót. Sợ văn học cũng vì thế. Vì văn nó nói sự thật, nó lật
tẩy. Rất sợ biểu tượng hai mặt. Chỉ đề cao văn tuyên truyền, đề cao vè. Thật ra
bọn nhà văn nói chung nhát, không dám chống chế độ đâu!”.
“ Chế Lan Viên một thời, dựa thế Tố Hữu cũng hách lắm. Tô Hoài gọi
là thằng nặc nô của đảng. Hồi chỉnh huấn văn nghệ sĩ, Chế Lan Viên làm tổ
trưởng, nói với Nguyễn Tuân: ông tưởng ông to lắm à? Tôi phụ trách ông kia
mà! Họp chấp hành, ý kiến Chế Lan Viên là quyết định. Thí dụ, ban chấp hành
bàn có nên kết nạp Phan Quang không? Mọi người chờ ý kiến của Chế Lan
Viên. Chế lan Viên đi đái vào, nói: “Thằng Thép Mới nó còn ở ban chấp hành
được thì thằng Phan Quang sao không cho vào hội được!”. Ai cũng gọi là
thằng tuốt; Thằng Nguyễn Đình Thi, thằng Tô Hoài, thằng Hoàng Trung
Thông, chẳng sợ ai cả. Không thể đối đáp kịp mồm Chế Lan Viên. Phải về nhà
mới nghĩ ra cách bác lại, nhưng hôm sau, không còn lý do để tranh cãi nữa, vì
lão ấy lại nói chuyện thân mật”.
“Nhưng Chế lan Viên chết rất khổ. Vũ Thị Thường phục vụ rất mệt.
Gần chết hay quát tháo vợ con. Vũ Thị Thường nói chỉ thèm được ngủ, khi Chế
lan Viên chết, việc đầu tiên là ngủ bù một giấc, dạy mới có sức mà khóc”.
Nguyễn Khải có một ưu điểm là có óc liên tài thật sự. Rất phục người
tài. Tôi đã được nghe anh phục Đỗ Chu như thế nào khi Chu mới xuất hiện. Đối
với Nguyễn Huy Thiệp lại càng phục hơn nữa.
Anh nói: “Kim Lân là con đẻ của đất Kinh Bắc. Đỗ Chu cũng thế. Trẻ
con có học hành gì đâu mà viết rất hay: Thung lũng cò, Hương cỏ mật... Vợ
nhặt của Kim Lân thì văn tuyệt hay. Con người Kim Lân rât thích. Hồn nhiên,
chân thật, tiếp xúc không phải ý tứ gì. Có Kim Lân, mình cũng bớt lố bịch, cứ
lấy ông ta làm chuẩn. Nguyễn Tuân còn điệu bộ, làm dáng. Tôi rất ghét uốn éo,
điệu bộ. Rất ghét cái ông Vũ Kỳ bắt chước Cụ Hồ: áo bà ba, đi guốc mộc tiếp
khách.
Muối của rừng, Thiệp viết rất giỏi. Hêminhuê viết Ông già và biển cả
còn dài dòng. Thiệp viết cực ngắn. Đi săn, trang bị đầy đủ. Cuối cùng cởi
truồng trở về. Lại còn bị lũ khỉ giễu cợt. Không có vua có cái chi tiết bố chồng
dòm con dâu tắm. Sợ quá!
Nhưng bây giờ xem ra hết tài rồi. Viết tiểu thuyết "Tuổi 20 yêu dấu",
rồi truyện võ hiệp, thành ngòi bút khác mất rồi.
Ma Văn Kháng là dân Hà Nội, viết về dân tộc thiểu số cứ xôm cốp bên
ngoài thế thôi. Phải viết về dân tộc mình, về cái mình thuộc, mình am hiểu chứ.
Tô Hoài thì rất tinh quái, rất hóm. Nguyễn Đình Thi đẹp trai, hấp dẫn
gái, thế mà toàn ăn của thừa. Mình phải ăn từ bếp lên chứ! Này, có lần tôi đến
LM gọi cửa mãi, thấy đi ra, khuy ngực xốc xếch. Bên trong thấy có Tô Hoài.”
Nguyễn Khải cho kết quả của Đại hội nhà văn lần thứ 7 là tốt: “Ban
chấp hành như thế là khác trước rồi. Trước đây, vào chấp hành, thằng nào
cũng để kiếm chác một cái gì đó: một chỗ dựa, một chỗ có tiền, một suất đi
nước ngoài... Giờ bọn Vàng Anh, Hồ Anh Thái nó chẳng cần gì! Đừng hòng
Hữu Thỉnh, Nguyễn Khoa Điềm bảo được nó. Nó không nghe đâu!”.
262
Nguyễn Khải cho viết văn là phải có tư tưởng. Vì thế anh chịu khó đọc
sách, gần đây hay đọc triết. Hình như có một bậc thánh hiền nào đó nói rằng,
đọc sách mà không nghĩ thì vô dụng, nghĩ mà không đọc sách thì nghĩ lung tung
rất nguy hiểm. Nguyễn Khải chịu đọc và chịu nghĩ.
Một lần tôi đến anh, thấy anh đặt trên bàn cuốn "Tinh thần pháp luật "
của Montesquieu. Anh nói: “Lâu nay chúng ta chỉ đi bên cạnh nền văn minh
nhân loại. Nói thế là đủ hiểu. Chẳng biết gì. Phủ nhận tất cả những cái gọi là
phi vô sản. Bây giờ mình mới được đọc những Montesquieu, Voltaire,
Rousseau...
Đọc triết học phương Đông từ Cao Xuân Huy, Nguyễn Hiến Lê... đến
khi đọc bản dịch của Hoàng Ngọc Hiến, cuốn "Bàn về tính hiệu quả", mới ngộ
ra được. Phải nhìn từ xa, tuân theo quy luật tự nhiên. Gò ép nó, cải tạo nó là
hỏng. Liên Xô cứ đòi uốn nó, cải tạo nó. Cải tạo sao được con người. Con
người không thể cải tạo được. Bây giờ đấy: đủ cả mafia rất ghê gớm”.
Hoàng Ngọc Hiến dịch triết rất hay mà chả thấm được triết. Cứ tức
tối, căm thù. Tôi rất quý Hoàng Ngọc Hiến, nhưng đọc bài của Hiến (có lẽ là
bài trên Talawas) tôi không thích nữa.
Về điểm này, tôi chưa thật hiểu rõ ý của Nguyễn Khải.
Tôi nhớ ông Tolstoi già trong Chiến tranh và hoà bình có luận về tình
yêu của con người và tình yêu của Thượng đế. Khi yêu bằng tình yêu của con
người thì có thể từ yêu thương chuyển sang thù ghét, còn tình yêu của Thượng
đế thì có thể thương yêu cả kẻ thù, thậm chí cảm thấy vui sướng khi thương yêu
kẻ thù. Ăngđré Bôncônxki, trong giờ phút hấp hối, đã thấy mình bỗng có được
tình yêu đó. Anh ta vui sướng khi thấy mình thương cả Anatole là kẻ tình địch
của mình.
Nguyễn Khải muốn có thứ tình yêu cao cả đó chăng, mà anh gọi là thái
độ triết học?
Điều đó có phải là một điềm gở ở anh không?
* *
*
Tôi gặp Nguyễn Khải lần cuối cùng ngày 24.7.2007 (cùng với Hồ
Quốc Hùng). Tất nhiên khi anh mất rồi mới biết đấy là lần cuối cùng: Thật
không ngờ! Tôi cứ tưởng sẽ còn nhiều lần được gặp anh. Anh với tôi cùng sinh
một năm (1930), nhưng anh còn sinh sau tôi tới chín tháng (tôi sinh đầu năm –
tháng ba, anh sinh cuối năm – tháng chạp).
Anh đi đâu về. Trông thấy anh, tôi bấm bụng cười thầm vì chợt nghĩ
đến nhận xét rất đúng nhưng rất tục của Đỗ Chu hồi nào: “Răng hơi hô, trông
lúc nào cũng như hớn hở, đi ngực ưỡn, hai tay ve vẩy, trông như con đàn bà
nứng l”.
Nhưng bây giờ thì anh có vẻ yếu rồi, chống ba toong, cao lênh khênh,
đi lòng khòng.
Anh vẫn nói nhiều. Nào chuyện tướng tình báo Phạm Xuân ẩn, kho tài
liệu giúp anh viết về chính quyền Sài Gòn, nào chuyện cải cách ruộng đất xoá
263
sạch thành tích cách mạng, chuyện Chế Lan Viên chết rất khổ. Khổ mà rất khí
khái, không xin xỏ gì hết, tuy Tố Hữu, Hà Xuân Trường đến thăm luôn, chuyện
Nguyễn Tuân, chuyện Nguyễn Huy Thiệp, chuyện Cụ Hồ và tướng Giáp rất
giỏi nín nhịn...
Anh nói đang viết một bài gọi là sự hình thành một bút pháp. Từ thực
tế sáng tác của mình mà viết. Xưa đã thấy người nông dân cần có tầm mắt nhìn
xa vượt ra khỏi sự hẹp hòi của hợp tác xã. Nhưng vượt ra bằng cách nào chưa
biết. nay mới thấy có điều kiện: kinh tế thị trường giải phóng cho nông dân...
Anh nói rất nhớ Hà Nội. Thèm không khí Hà Nội. Vào Sài Gòn anh
chẳng chơi với một bạn mới nào. Ra Hà Nội bây giờ cũng lại chỉ đến những bạn
cũ đã già. Không nói chuyện với đám trẻ được. “Người ta nói sáu mươi tuổi thì
tính năm, bẩy mươi tính tháng, tám mươi tính ngày... Tôi muốn sống lâu để xem
thời thế ra sao. Lịch sử do con người làm ra, làm sao biết trước được!”
Tôi nhớ lại ngày xưa anh đã có một câu nói gở rất thiêng về Nguyễn
Tuân. Anh khen Nguyễn Tuân đẹp lão và nói: “Đẹp lão thế là sắp sửa đấy!”.
Ba ngày sau Nguyễn Tuân qua đời.
Bây giờ anh nói bẩy mươi tuổi tính tháng.
Anh nói ngày 24.7.2007.
Năm tháng sau, ngày 15.1.2008, nghe tin anh qua đời.
Đúng là tuổi bẩy mươi tính tháng.
* *
*
Ngay sau khi Nguyễn Khải mất, tôi có anh bạn (Hoàng Dũng) trong
Nam ra Hà Nội, nói Nguyễn Khải chết không có đất chôn.Đúng ra là không
được chôn ở nghĩa địa Sài Gòn (tại Thủ Đức), phải đưa lên nghĩa địa Củ Chi rất
xa. Tiêu chuẩn được chôn ở Thủ Đức, ngoài những ông thành uỷ viên hay trung
ương uỷ viên không kể, phải có 65 năm tuổi đảng. Trần Duy Châu, nguyên hiệu
phó Đại học Sư phạm Sài Gòn, khi chết mới có 58 tuổi đảng, không đủ tiêu
chuẩn, phải đưa đi Củ Chi. Nguyễn Khải tất nhiên cũng phải đưa đi Củ Chi.
Võ Văn Kiệt thấy thế chắc lấy làm xấu hổ, nên can thiệp. Ông tuyên bố
nhường suất chôn ở Thủ Đức của ông cho Nguyễn Khải.
Láng Hạ 23.1.2008



Chương XX: Nguyên Ngọc

Trong một bài chân dung viết về Nguyên Ngọc, tôi gọi anh là con
người lãng mạn. (Nguyên Ngọc, con người lãng mạn).
Cũng có thể nói, Nguyên Ngọc là người của cái tuyệt đối. Anh không
chấp nhận sự nửa vời, trạng thái lừng chừng. Phải tuyệt đối anh hùng, phải tuyệt
đối trong sáng. Không phải anh chỉ nghĩ thế, mà còn sống như thế. Rất dũng
cảm, thích mạo hiểm. Anh từng đi đánh thổ phỉ ở Tây Bắc. Từng đi ngựa theo
một đoàn buôn thuốc phiện lậu từ Cao Bằng đi Lai Châu. Đi B dài cùng Nguyễn
Thi. Nguyên Ngọc ở lại khu Năm, còn Nguyễn Thi thì vào tuốt Nam Bộ. Họ
chia tay nhau bên một khu rừng xà - nu bạt ngàn, hẹn trở về phải đi đường số
một. ở khu Năm, Nguyên Ngọc sống và chiến đấu như một anh hùng. Một nhà
văn như thế thì tìm đâu ra nhân vật trong đời sống thực tế quanh mình. Mà nhất
thiết anh phải viết về chủ nghĩa anh hùng. Đó là quan niệm thẩm mĩ của anh.
Viết Đất Quảng, anh tìm được một nguyên mẫu mà anh cho là lý tưởng. Viết
đến tập II, thì được tin cái anh nguyên mẫu nọ té ra cũng dao động, lập tức đốt
ngay bản thảo.
Tìm đâu ra những con người tuyệt đối như thế? Phải bịa ra sao?
Không, Nguyên Ngọc tìm lên núi cao và ra tận biển khơi. Anh tìm đến những
con người như thuộc thời hồng hoang nguyên thuỷ, cái thời chưa có kinh tế thị
trường, chưa có chuyện danh và lợi làm vẩn đục lòng người...Sống như tự
nhiên, như tảng đá, gốc cây, con thú rừng. ấy là Đinh Núp, Thnú ở Tây Nguyên,
là Thào Mỵ ở Hà Giang, Mèo Vạc, là những chiến sỹ anh hùng trong Đường
mòn trên biển...
Nguyễn Khải thường nhắc lại lời Nguyễn Minh Châu nói với Nguyên
Ngọc khi Ngọc vừa trở ra Bắc sau 1975: “Bọn mình cố phấn đấu để trở thành
anh hùng, còn ông thì cố phấn đấu để trở thành người bình thường”.
Đầu óc Nguyên Ngọc chỉ có cái tuyệt đối, cái phi thường mới lọt vào
được. Cho nên nói chuyện với anh, thấy anh toàn say sưa kể những chuyện như
sử thi, như thần thoại vậy.
Anh cho bài viết của tôi về anh, đã nói đúng cái môi trường có tác
động tới anh từ nhỏ: phố cổ Hội An và bãi biển Cửa Đại, nơi còn giữ được
trong thời hiện đại không khí hoang sơ, hoang dã, với những con người rất đỗi
hồn nhiên, trong sáng. Từ đó, năm 17 tuổi, cuộc kháng chiến đã đưa anh lên
tuốt Tây Nguyên, lên tận đỉnh Ngọc Linh. Hồi ấy, tâm hồn lãng mạn của anh đã
từng mơ ước gặp được một mối tình sơn nữ.
Nguyên Ngọc trên đường đời đã vớ được cây xà nu. Anh liền lấy nó
làm nhân vật tư tưởng của anh. Anh đích thực là một cây xà nu, thẳng băng,
nhọn hoắt, chọc thẳng lên trời.
Con người như thế, tuy người ta rất phục, nhưng không ai chịu nổi,
không ai theo được. Sống thế mệt quá, căng thẳng quá! Anh mà làm lãnh đạo
thì kể cũng khó đoàn kết được quần chúng. Hôm tôi trò chuyện với Nguyễn
265
Đình Thi trên đường đi Tam Kỳ (năm 2000), Nguyễn Đình Thi cho biết, hồi
bọn Tàu đánh ta ở biên giới, Nguyên Ngọc lúc ấy làm bí thư đảng đoàn Hội nhà
văn, định đưa anh em lên mặt trận biên giới đấy.
Một con người không biết mềm mỏng trong giao tiếp, rất cứng. Anh rất
ghét Nguyễn Đình Thi, cho là thằng giả dối. Trong hội nghị, hễ Thi phát biểu,
anh bỏ ra ngoài. Anh rất khinh Huy Cận. Anh cho con người nhân cách bẩn như
thế viết hay sao được. Người ta nói, thơ Huy Cận trước cách mạng hay đấy chứ!
Anh nói dứt khoát: “không hay!”. Anh rất ghét bọn chấp hành Hội nhà văn từ
khoá năm, khoá sáu và tờ Văn nghệ của Hữu Thỉnh. Văn nghệ đưa đến, anh vất
ngay vào sọt rác. Hội cấp tiền bồi dưỡng sáng tác cho anh, anh từ chối. Nhà anh
ở khu tập thể quân đội số 8 – Lý Nam Đế. Từ cổng đi vào gặp rất nhiều nhà văn
quen thuộc. Anh đi một mạch thẳng, chẳng trò chuyện với ai, khinh tuốt.
Nguyễn Văn Hạnh nói, Nguyên Ngọc không có tâm lý làm nhân vật số
hai. Anh chỉ có thể làm nhân vật số một. Tất nhiên Tố Hữu rất ghét Nguyên
Ngọc. Tố Hữu từng nói với Tô Hoài: “Nguyên Ngọc cứ để nó làm bí thư đảng
đoàn thì nó sẽ làm vua”. Nguyên Ngọc thì bướng. Tố Hữu thì hách, tất nhiên rất
ghét nhau.
Hồi Nguyên Ngọc làm bí thư đảng đoàn Hội nhà văn, anh tổ chức một
cuộc hội nghị nhà văn đảng viên. Anh đưa ra một bản đề cương chống giáo
điều, đổi mới văn học. Tố Hữu đến, lên phát biểu đã phê phán quyết liệt bản đề
cương coi là hiện tượng ngược dòng. Vậy mà khi kết luận hội nghị, Nguyên
Ngọc vẫn khẳng định bản đề cương đã được hội nghị nhất trí tán thành. Rõ ràng
là bất chấp thái độ Tố Hữu.
Tối hôm đó ở 4 Lý Nam Đế (Trụ sở Văn nghệ quân đội), Nguyên Ngọc
đang ngồi với Nguyễn Khải, Nguyễn Chí Trung, Nguyễn Trọng Oánh, Giang
Nam, thì Chế Lan Viên đi bộ từ 51 Trần Hưng Đạo đến: “Tôi khuyên các anh
đến xin lỗi anh Tố Hữu, tôi đưa các anh đến”. Không ai nói gì. Nguyên Ngọc
trả lời: “Cám ơn anh, tôi tự thấy chả có gì phải xin lỗi cả. Còn nếu cần đến anh
Tố Hữu thì tự tôi đến cũng được, không cần anh phải dẫn đi. (Chế Lan Viên
ghét Nguyễn Đình Thi, muốn đưa Nguyên Ngọc lên để hạ Nguyễn Đình Thi. Vì
thế không muốn Nguyên Ngọc đổ).
Nguyên Ngọc yêu ghét rất phân minh. Người anh ghét chủ yếu là
những nhân cách xấu: Nguyễn Đình Thi, Huy Cận, Vũ Quần Phương, Phạm
Tiến Duật, Đào Vũ, Hà Xuân Trường, Phan Cự Đệ... Anh rất quý Trần Độ,
Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Hoàng Ngọc Hiến...
Nhưng Nguyên Ngọc hoàn toàn không phải là con người khắc khổ. Tôi
bia bọt với anh nhiều lần. Anh sống rất thoải mái. Có chất nghệ sĩ. Tô Hoài từng
đi một chuyến công tác với Nguyên Ngọc lên Tây Bắc. Ông nhận xét, Nguyên
Ngọc về tình cảm thì mềm, chỉ lý luận và cách ứng xử thì cứng. Nguyên Ngọc
là đối tượng hấp dẫn của một cô gái Mèo xinh đẹp tên là Vàng Thị Mỹ ở Đồng
Văn, Mèo Vạc, Hà Giang. Cô làm phiên dịch cho bộ đội. Tô Hoài nói, ba mươi
năm gặp lại Vàng Thị Mỹ, thấy vẫn đẹp. Cô ghi vào cuốn sổ tay của mình:
“Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng ơi! (Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng là tên một
266
tác phẩm của Nguyên Ngọc ). Chắc nhớ và yêu Nguyên Ngọc lắm mới viết như
thế. Và Nguyên Ngọc chắc cũng yêu cô. Vì anh tả Thào Mỵ đẹp tuyệt vời, đẹp
như tiên “Khi im lặng trầm uất như một ngọn núi Mèo cô độc, khi lẳng lơ như
những bông hoa thuốc phiện quyến rũ, khi phấp phới như ngọn gió ào ạt trên
đỉnh Săm Pun...” Văn như thế thì cũng đa tình đáo để. Cho nên, Nguyên Ngọc
tư tưởng rất cấp tiến, thích những lý thuyết mới mẻ, cởi mở. Rất ghét giáo điều.
Yêu cầu dân chủ và đổi mới thật sự. Cho nên Nguyên Ngọc tán thưởng Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu, Chiều chiều, Ba
người khác của Tô Hoài...
Nguyên Ngọc và Nguyễn Khải là hai tính cách đối lập. Một đằng rất lý
tưởng, rất lãng mạn. Một đằng thiết thực và tỉnh táo. Một đằng dũng cảm, một
đằng thì nhát. Nhưng Nguyên Ngọc thích Nguyễn Khải vì Nguyễn Khải chân
thật.
Nguyên Ngọc và Tô Hoài cũng là hai cực đối nghịch. Một đằng quan
niệm con người là con người, tầm thường vậy thôi. Một đằng quan niệm con
người là thiên thần, là thơ, là lý tưởng. Nhưng họ gặp nhau ở tư tưởng câp tiến.
Nguyên Ngọc nói với tôi nhiều lần: “Chế độ này thế nào cũng sụp đổ.
Nhưng không biết nó sẽ sụp đổ theo kịch bản nào”.
* *
*
Hiện nay Nguyên Ngọc đang giúp Quảng nam xây dựng một trường
Đại học dân lập ở Hội An. Tôi hỏi anh, xây dựng trường theo kiểu gì? Anh nói
vắn tắt: “Theo kiểu Mỹ”. Nguyễn Khải cho là ảo tưởng, là phiêu lưu. Nguyễn
Văn Hạnh thì nói: “Nguyên Ngọc có thể gọi là một nhà tư tưởng, có thể đặt tên
phố như một danh nhân. Nhưng quản lý một trường học thì không được.”
Nguyên Ngọc mời anh làm hiệu trưởng. Anh từ chối.
Nguyên Ngọc trước sau vẫn là một con người lãng mạn.
Láng Hạ, 9.1.2008


Chương XXI: Hoàng Ngọc Hiến


Hoàng Ngọc Hiến là một trong hai người bạn đồng tuế thân nhất của
tôi (người thứ hai là Phạm Luận, cán bộ giảng dạy ở Đại học Việt Bắc). Có thể
gọi là tri âm tri kỉ, hiểu nhau từ cái hay đến cái dở, chỗ mạnh và chỗ yếu, hoàn
toàn tin cậy nhau, luôn quan tâm bảo vệ nhau.
Tôi với Hoàng Ngọc Hiến như có duyên trời xe kết vậy.
Anh ở tận Nghệ Tĩnh, tôi ở Việt Bắc. Thế mà tình cờ gặp nhau. Tôi
cùng gia đình tản cư từ Bắc Ninh lên Thái Nguyên hồi kháng chiến chống Pháp,
anh thì chạy cải cách ruộng đất cũng vọt lên đấy. Anh có một người học trò tên
là Lới, trong đoàn uỷ cải cách ruộng đất, báo cho biết phải chạy ngay lên Việt
Bắc vì lý lịch xấu, có thể nguy. Và anh ta lấy quyền đoàn uỷ viên giải quyết
ngay cho Hiến (Trong cải cách, bố Hoàng Ngọc Hiến bị quy địa chủ và bị tù).
Lên Thái Nguyên, anh dạy văn ở trường Lương Ngọc Quyến. Còn tôi lúc đó là
cán bộ Sở giáo dục Việt Bắc thường đến Lương Ngọc Quyến là trường trọng
điểm của Sở, để kiểm tra, theo dõi về chuyên môn.
Dạy ở Lương Ngọc Quyến ít lâu, anh được gọi về trường Đại học Hà
Nội. Thầy Nguyễn lương Ngọc cho Hiến có hiểu biết về triết học, bố trí làm trợ
lý cho Trần ĐứcThảo. TRần Đức Thảo thấy Hiến là đảng viên, không nhận. Vì
thế Hiến phải chuyển sang làm trợ lý cho Hoàng Xuân Nhị dạy văn học Nga Xô
viết.
Từ Đại học Sư phạm Hà Nội, Hiến được cử sang Liên Xô làm nghiên
cứu sinh. Tôi thì chả đi đâu cả, chỉ quanh quẩn ở trong nước. Nhưng rồi tình cờ
tôi và Hiến lại gặp nhau ở Đại học Sư phạm Vinh. Tôi thì bị điều từ Hà Nội vào.
Hiến lẽ ra được ở Hà Nội, vì Đại học Hà Nội cử đi học, nay đỗ phó Tiến sĩ trở
về, phải được ở Hà Nội. Nhưng Đỗ Đức Uyên bí thư đảng uỷ và Hoàng Dung bí
thư liên chi cho Hiến mắc chủ nghĩa xét lại Khrútxốp, không nhận lại nữa, tống
anh vào Vinh.
Từ Vinh, tôi được chuyển ra Hà Nội trước. Hiến ra sau. Nhưng rồi lại
gặp nhau ở trường Viết văn Nguyễn Du. Anh phụ trách trường này, còn tôi
được mời đến dạy.
Rồi nhờ có Phan Ngọc Thu, một học trò cũ của tôi, lúc đầu ở Đại học
Sư phạm Huế, sau ở Đại học Đà Nẵng, tổ chức đào tạo giáo viên cấp II lên trình
độ đại học và bồi dưỡng giáo viên chuyên văn, thường mời tôi và Hiến vào
giúp. Thế là lại gặp nhau luôn, khi ở Huế, khi ở Đà Nẵng, khi ở các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long. Tôi thích đi, Hiến cũng thế. Tôi là thằng ham chơi, vui
đâu chầu đấy, Hiến cũng vậy, cứ ới là đi, để tán chuyện, để đánh chén. Ngoài ra
tôi hay mời anh đến làm phản biện cho nghiên cứu sinh của mình. Mời là anh
đến ngay...
Tuy nhiên tôi và Hiến có những chỗ không giống nhau. Anh dạy văn
học nước ngoài, thích lý luận, thiên về tư duy trừu tượng, say mê triết học Đông
Tây. Tôi chỉ dạy văn học Việt Nam và thiên về nghiên cứu văn học sử và phê
268
bình văn học.
Hiến rất thích nhận xét khái quát, đúc thành những mệnh đề chắc nịch,
tuy có phần cực đoan, chẳng hạn:
- Đặc điểm người Nghệ Tĩnh: “Cái gì cũng biết, trừ hạnh phúc.”
- Phân loại cán bộ giảng dạy đại học: “Có hai loại động vật và thực
vật. Loại động vật, suốt ngày lăng xăng, chạy từ đề tài này sang đề tài khác,
không nghiên cứu được cái gì nên hồn, dù thông minh, cũng chỉ có những ý kiến
loe loé thế thôi, chẳng làm nên sự nghiệp gì. Loại thực vật, ngồi yên kiên trì suy
nghĩ, như cái cây cắm rễ xuống đất thật sâu, có thế mới làm khoa học được.”
- ý kiến sinh viên nhận xét thầy: “Nói chung chê thì đúng, khen thì
thường sai...”
Hiến cái gì cũng muốn giải thích, cũng tìm quy luật. Thí dụ:
Anh nói:
“ Lê Hoài Nam nếu cao hơn 5 phân, số phận khác hẳn”. Lê Hoài Nam
là chủ nhiệm khoa Văn Đại học Sư phạm Vinh, sau là bí thư đảng uỷ trường và
Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Quy Nhơn. Anh người thấp lùn, hơi dị dạng.
Hiến cho rằng vì đặc điểm cơ thể như vậy nên Lê Hoài Nam rất ngại xuất hiện ở
chỗ đông người, nơi thành phố lớn, nên cứ lùi dần, lùi dần vào nơi hẻo lánh:
Vinh, rồi Quy Nhơn.
Có lần tôi nhận xét, các danh nhân thế giới thường là người ở các tỉnh
nhỏ, nhưng về Thủ đô thì thành danh nhân. Danh nhân người gốc ở Thủ đô rất
ít. Như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Hồ Chí Minh, như Marx, Tolstoi, Lomonosov, Napoléon... Hiến giải
thích luôn: “Vì ở Thủ đô lắm cái hấp dẫn làm cho con người ở đây phung phí
hết tinh lực, Người các địa phương tinh lực không mất, về Thủ đô được phát
huy lên”.
Vì sao Hồ Chí minh chết đúng vào ngày Tuyên ngôn độc lập 2.9? Hiến
giải thích : “Vì ông cố tình chết vào ngày ấy. Ông Hồ là đáo để lắm. Chỉ cần
dứt đứt các giây dợ ở ống thở ôxy là chết chứ gì”.
Hiến thường có những nhận xét rất gọn và rất ác về người này người
khác trong giới đại học. Hồi ở Đại học Sư phạm Vinh, tôi với Hiến thường đạp
xe đi về cùng đường với nhau (Hà Nội – Vinh hay Hà Nội – Thanh Hoá) dọc
đường, thường “luận anh hùng” trong thiên hạ. Thường tôi hỏi, Hiến trả lời. Thí
dụ:
- NĐN (một giáo sư tiến sĩ được đánh giá rất cao ở Đại học Sư phạm
Hà Nội) chỉ là một giáo viên cấp III giỏi.
- Không nên đánh giá ĐVK (giáo sư tiến sĩ của Đại học tổng hợp Hà
Nội) là giỏi hay dốt. Anh ta là người không có trí khôn.
- HL (cán bộ dạy sử của Đại học Sư phạm Vinh) kết tinh mọi cặn bã
của dân Nghệ Tĩnh.
- Có một giáo sư văn học, trước khi dự lớp, anh đánh giá là một con sư
tử (về chuyên môn, khoa học), khi dự lớp về, anh nói: chỉ là một giáo viên phổ
thông.
269
- Một vị giáo sư văn học khác, anh cho chẳng hiểu văn là gì cả.
- Anh nhận xét ĐT, một cây bút phê bình khá tài hoa ở hải ngoại, chỉ là
một ông chánh tổng Annam ở Paris.
- PTL (giáo sư trường Đại học Sư phạm Hà Nội). Hiến nói: “Một điều
nhục nhã của mình là đồng hương với PTL. Thậm chí chỉ quen biết PTL thôi
cũng đã là một sai lầm, một sai lầm không thể sửa chữa được”.
Hiến có những nhận xét rất cảm tính, nghĩa là chưa có căn cứ đầy đủ.
Nhưng anh rất tin ở trực cảm của mình.
Trường Đại học Sư phạm Vinh có chủ trương cán bộ giảng dạy phải
theo sát thực tế phổ thông. Ai đã đi hướng dẫn thực tập sư phạm thì không nói
làm gì, những những người không hướng dẫn thực tập cũng phải về ở một đoàn
thực tập nào đấy khoảng một tuần lễ, gọi là tham quan thực tập. Hiến cũng phải
về một đoàn, anh chọn một đoàn ở gần chỗ khoa Văn sơ tán, do LBH phụ trách.
Đêm ấy, LBH và Hiến cùng ngủ trong một căn phòng kê hai cái giường song
song. LBH hỏi Hiến một cách trịnh trọng: “Anh là người sâu sắc, từ ngày anh
về trường này, anh nhận xét tôi là người thế nào?”. Hiến trả lời luôn: “Cậu là
người thiếu nhân cách”. LBH ắng đi một lúc vì nhận xét quá bất ngờ của Hiến.
Nhưng rồi gặng hỏi Hiến: “Anh cho dẫn chứng?”. Hiến bí không tìm ra dẫn
chứng. Mãi sau cũng cố đưa ra một ví dụ: “Chẳng hạn, cậu không biết tiếng
Pháp mà cứ làm như biết”.
Trong quan hệ hàng ngày với tập thể cán bộ, sinh viên, Hiến rất hồn
nhiên, chân thật, dễ tính, nên được anh em mến. Nhưng hình như anh có máu
phiến loạn, thích gây sự với lãnh đạo.
Hồi những năm 60 của thế kỷ trước, tôi nhớ Phạm Văn Đồng có viết
một bài về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Bài ấy, người khác có thể
coi là thường, không hay hoặc chưa đúng chỗ này chỗ khác. Nhưng Hoàng ngọc
Hiến thì phải nói: “Phạm Văn Đồng viết bài ấy là thiếu văn hoá”.
ở Đại học Sư phạm Vinh, Hiến bị lãnh đạo quy tội thiếu quan điểm
giáo dục, vì không chịu đi thực tế, luôn luôn bỏ ra Hà Nội, lẩn tránh việc hướng
dẫn sinh viên thực tập sư phạm. Hôm ấy, chi bộ họp kiểm thảo Hiến về khuyết
điểm này, có Lê Hoài Nam là đảng uỷ viên của trường xuống dự. Hiến nói: “
Tôi cho rằng không đi thực tế mà nắm được thực tế mới giỏi. Tôi kém, nên còn
phải đi thực tế một lần. Anh Lê Hoài Nam không đi lần nào mà nắm được thực
tế mới giỏi chứ!”
Những câu nói như thế, tôi chắc Hiến đều có nghiền ngẫm cẩn thận.
Phóng ra những đòn như thế, Hiến bao giờ cũng chuẩn bị rất chu đáo. Tôi biết
rõ điều này. Vì cùng được mời đi nói chuyện với anh nhiều lần, tôi thấy anh bao
giờ cũng chuẩn bị bài bản rất cẩn thận.
Trở lại tính thích gây sự của Hiến đối với lãnh đạo. Như đã nói, Hiến ít
ở khoa (Đại học sư phạm Vinh), hay ra Hà Nội. Có lần anh vắng mặt đúng vào
dịp công đoàn khoa văn xếp loại cán bộ theo ba mức A, B, C. Tiêu chuẩn cũng
nhẹ nhàng thôi. Loại A chỉ là không có khuyết điểm gì đáng kể thôi. Hầu như cả
khoa không có trường hợp nào phải xếp loại B cả. Tổ công đoàn, được sự chỉ
270
đạo của chi bộ Đảng, lập kế hoạch: khi Hiến ở Hà Nội vào thì họp xếp loại. Chủ
trương của Chi bộ là phải, nhân cuộc xếp loại này, nghiêm khắc kiểm điểm
Hiến về tư tưởng. Trình tự cuộc xếp loại được dự kiến như sau: người được xếp
loại tự xếp loại trước. Anh em trong tổ có ý kiến sau. Người ta đoán chắc Hiến
sẽ tự nhận loại A. Lúc đó anh tổ trưởng sẽ điều khiển tổ viên phân tích thiếu sót
của Hiến, đại khái như sau: Anh Hiến chỉ đáng xếp loại B thôi, vì khuyết điểm
này, khuyết điểm khác... Nhưng gần đây anh đã tỏ ra có tiến bộ, thí dụ như gánh
nước uống cho anh em tập tự vệ, vậy ta chiếu cố xếp lên loại A...
Nhưng, bất ngờ, Hiến chỉ tự xếp loại B. Bài bản đã dự kiến thế là bị
phá sản. Tuy thế, tổ trưởng là tay khá thông minh, anh ta vẫn tìm được cách
thực hiện phương án cũ: “Đúng, anh Hiến tự xếp mình loại B là đúng (Phân tích
khuyết điểm của Hiến một chập). Nhưng vì gần đây có một vài tiến bộ nên ta
chiếu cố xếp lên loại A”. Hiến nhất định không nghe, chỉ nhận loại B thôi. Anh
nói: “Đối với tôi A hay B cũng thế thôi. Và tôi chẳng tiến bộ gì cả. Còn nếu các
anh muốn tìm chỗ tiến bộ thật sự của tôi thì tôi xin mách: tôi rất tiến bộ về
chuyên môn, soạn bài rất kỹ”. Mà đúng như vậy thật. Tôi đã dự giờ Hiến dạy
một lần. Anh soạn bài rất nghiêm túc. Anh muốn ý tưởng của mình phải được
trình bầy thật sáng rõ, rành mạch, gây ấn tượng và có sức thuyết phục.
Hoàng Ngọc Hiến có một phản ứng khá dữ dội, chung quanh vụ “hiện
thực phải đạo” (Hoàng Ngọc Hiến viết bài Về một đặc điểm của văn học nghệ
thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua đăng Văn nghệ số 23 (9.6.1979) có luận
điểm nổi tiếng “hiện thực phải đạo”). Hồi ấy anh còn ở Triệu Việt Vương. Tôi
đến anh một buổi chiều. Anh kể một câu chuyện vừa xẩy ra với anh: sau bài
“hiện thực phải đạo”, anh bị đánh rất mạnh. Trên tạp chí cộng sản, Hà Xuân
Trường có bài đả Hiến. Hiến viết bài tranh luận lại. Tạp chí cộng sản không
đăng, cho người đến mời anh lại toà soạn để nói chuyện. Tay phái viên đến mời
anh, nói xong, lấy cái điếu cầy định làm một hơi. Hiến quát ngay: “Thôi, không
hút. Đi ngay, không hút sách gì cả!”. Đến toà soạn tạp chí, mấy biên tập viên đã
chờ sẵn: “Nào mời anh lên gác. Chuyện văn chương phải nói nơi kín đáo”.
Hiến lại bác lại ngay: “Chuyện văn chương không việc gì phải kín đáo!”.
Hiến giải thích với tôi: “ấy đối với bọn này cứ phải tấn công như thế,
tấn công ngay từ thằng đến mời”.
Ban biên tập tạp chí Cộng sản giải thích với Hiến: “Hiện nay bọn Tàu
đang gây sự ở biên giới. Tạp chí phải dành giấy để đăng bài phê phán chủ
nghĩa bá quyền Bắc Kinh, không đăng bài của anh được”. Hiến phản ứng ngay:
“Tại sao ta thừa giấy để đánh bọn cường bạo nước ngoài, lại thiếu giấy để
đánh bọn cường bạo trong nước!”.
Năm 1980, người ta tổ chức một cuộc hội nghị khoa học đặt ở Viện
bảo tàng cách mạng xế xế Nhà hát lớn Hà Nội. Hội nghị toàn quốc, rất đông.
Tôi có gặp một số bạn quen ở Vinh, Huế ra họp.
Hoàng Ngọc Hiến hôm ấy nói buông mà rất rành mạch, hấp dẫn. anh
nhắc lại cái câu đã nói ở trụ sở tạp chí cộng sản: “Tại sao ta thừa giấy để đánh
bọn cường bạo nước ngoài, mà lại thiếu giấy để đánh bọn cường bạo trong
271
nước!”.
Đến giờ nghỉ. Mọi người, hoặc tản ra dạo chơi ngoài vườn hoa, hoặc
ngồi trò chuyện với nhau trong hội trường. Tôi cũng ngồi lại trong hội trường
nói chuyện với mấy anh bạn cũ ở Vinh, ở Huế. Hiến cũng ở lại hội trường,
nhưng ngồi một mình cách vài hàng ghế, trước mặt chúng tôi. Hà Xuân Trường
lững thững từ hàng ghế đầu đi xuống chỗ Hiến, vỗ vai anh thân mật. Hiến gạt
phắt tay Trường ra: “Tôi không phải hạng người cho anh vỗ vai nhé!”. Trông
Hiến lúc ấy rất dữ. Hà Xuân Trường sững người và hơi ngượng. Anh phân bua
với chúng tôi: “Đấy, các anh xem, anh Hiến anh ấy như thế đấy!”.
Buổi trưa hôm ấy, Hiến rủ tôi về nhà ăn cơm. Trong bữa cơm, Hiến hỏi
tôi: “Sao, cậu thấy mình nói có được không?”. Tôi khen: “Khá lắm!”. Chị Tố
Nga, vợ Hiến, mách luôn: “Lẩm bẩm suốt đêm làm gì mà không khá!”.
Thì ra Hiến không phải chỉ chuẩn bị ý, mà còn luyện nói nữa.
Hiến thế mà cũng là một tay đấu khẩu khá nhanh trí và đáo để.
Cũng vào khoảng trước sau năm 1980, khoa Văn Đại học Sư phạm Hà
Nội có tổ chức một cuộc hội thảo khoa học, đề tài: giáo dục tư tưởng qua giảng
dạy văn học. Hiến lúc đó vẫn còn ở Đại học Sư phạm Vinh. Anh ra dự hội nghị.
Không biết bản báo cáo viết của anh gửi ra như thế nào, nhưng anh trình bầy
miệng thì khá gai góc, và hình như anh lại cố tình diễn đạt cho thật ấn tượng về
cái ý rất gai góc của mình. Anh cứ thủng thẳng nói đi nói lại: “Những gì chi bộ
Đảng, đoàn thanh niên, đài phát thanh, báo Đảng đã nói hay viết, thì trong lớp
ta không nói. Ta chỉ nói những điều chi bộ Đảng, đoàn thanh niên, đài phát
thanh, báo Đảng không nói, không viết”.
ý kiến của Hoàng Ngọc Hiến đã gây chấn động hội nghị. Những người
lãnh đạo hội nghị rất lo ngại (lãnh đạo hội nghị là Nguyễn Văn Hạnh quyền chủ
nhiệm khoa và Trần Thanh Đạm phó chủ nhiệm khoa). Đạm thấy nhất thiết phải
uốn nắn lại. Anh động viên Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thị Hoàng lúc đó là đảng
viên dự bị hay cảm tình đảng gì đó lên phê phán Hiến. Tôi không nhớ ý kiến
của cô Hoàng thế nào, chỉ nhớ một câu mỉa mai của Châu: “Đứa trẻ con ngồi
trên vai bố, cứ tưởng mình cao hơn bố”.
Hoàng Ngọc Hiến giơ tay xin phát biểu. Anh cố tình tự khoe: “Tôi đã
góp phần làm cho hội nghị thành công. Vì một hội nghị khoa học có tranh luận
học thuật thì mới là một hội nghị có kết quả. Tôi đã gây được cuộc tranh luận
cho hội nghị. Ngoài ra tôi rất sướng vì đã được ngồi trên vai anh Đỗ Hữu
Châu”.
Sau hội nghị này, Trần Thanh Đạm gửi giấy cho chi bộ Đảng của khoa
Văn Đại học Sư phạm Vinh phản ánh về sự “lệch lạc tư tưởng” của Hiến.
ít ngày sau, tôi đến chơi Hiến – Anh vẫn ở Triệu Việt Vương. Một căn
phòng rất hẹp, chỉ độ 16 mét vuông. Kê được hai cái ghế salon và một cái bàn
nước nhỏ. Tôi và Hiến ngồi ở salon. Chị Tố Nga, vợ Hiến giải chiếu ngồi trên
nền nhà. Chị cứ chỉ tay vào mặt Hiến mà nói đi nói lại xa xả: “Tôi không thấy
có ai ngu như anh Hiến!”. Nói mãi chán, chị bỏ ra đi. Hiến thủng thẳng nói với
tôi: “Hắn nói thế mà đúng. Như ta vẫn nói đế quốc Mỹ là ngu ấy mà!”. Té ra,
272
anh lại ngẫm nghĩ về lời nói của vợ, như một đối tượng nghiên cứu.
Chị Tố Nga, vợ Hiến, là một người cũng khá đặc biệt: chuyên môn mạt
sát chồng trước mặt khách khứa bạn bè, thậm chí trước cả học trò của chồng.
Nhưng đám học trò của anh đã có kinh nghiệm: bà ấy nói thầy Hiến thì được,
chứ người khác tưởng bở, cũng phụ hoạ theo, nói theo, là chết với bà ấy. Còn
Hoàng Ngọc Hiến thì coi thường, bỏ ngoài tai, xem như nói ai đó, chẳng dính
dáng gì đến mình.
Hoàng Ngọc Hiến, tư duy khoa học thì tỏ ra sâu sắc, nhưng trong đời
sống thực tế, nhiều khi rất nhẹ dạ, cả tin.
Vào khoảng 1987, Hội văn nghệ Quảng Nam- Đà Nẵng có mời tôi và
Hiến vào nói chuyện với giới văn nghệ trong ấy. Chúng tôi ở với nhau độ một
tuần lễ, sau đó, Hiến vào Sài Gòn, tôi ra Hà Nội.
ít ngày sau, tôi đang ngồi ở nhà (tại Đồng Xa) thì thấy Hiến đạp xe tới.
Lúc đó mới độ 8 giờ sáng. Tôi hỏi ra bao giờ. Anh nói ra sáng nay, tàu 7 giờ
sáng tới Hà Nội. Tôi ngạc nhiên: vừa về Hà Nội đã vội đến tôi làm gì! Hoá ra
anh vừa tham gia một đảng gọi là đảng “Nhân dân hành động” và ra Hà Nội để
phát triển Đảng. Người đầu tiên anh định kết nạp là tôi. Anh nói, không sợ gì
cả. Tay thủ lĩnh là một tay tiến sỹ ở Mỹ về. Rất trí thức. Đảng này đã thống nhất
với cộng sản chuẩn bị ra đa đảng. Trong đảng này có một uỷ viên bộ chính trị
và một thiếu tá công an cộng sản. Đảng phát triển chủ yếu vào trí thức.
Anh lại hỏi, thằng Thanh nhà ông vào Sài Gòn đã có việc làm và nhà
cửa gì chưa, để anh lo giải quyết cho.
Tôi không tin, từ chối: “Cậu định làm chính trị à? Không sợ công an
à?”
Hiến có vẻ xem thường, cho tôi là thằng nhát.
ít lâu sau tôi được biết đảng này phát triển mạnh ở vùng Vĩnh Long,
vừa bị bắt một loạt. Tôi vào Cần Thơ, Dạ Ngân bảo thế.
Một thời gian sau, tôi gặp lại Hiến ở trụ sở văn nghệ.
Tôi hỏi Hiến: “Biết gì chưa?”
Hiến: “Biết rồi! Biết rồi!”
Tôi lại hỏi: “Có sao không?”
Hiến: “Không sao, không sao – Nhưng này, đừng nói với ai nhé!”
Dương Thu Hương khi biết chuyện này, nói với tôi: “Ông Hiến mà là
đàn bà thì chửa hoang hàng tỉ lần”.
Tôi cho rằng Hoàng Ngọc Hiến có số “quý nhân phù trợ”. Nghĩa là
luôn gặp may. Tôi ví anh với nhân vật Pie Bêdukhốp trong Chiến tranh và hoà
bình của L.Tolstoi. Người to lớn, ra trận cứ trương ngực ra mà đi giữa chiến
trường, nhưng tên đạn cứ tránh không dính. Đấu súng tuy không biết bắn súng,
mà lại thắng một tay thiện xạ... Hiến cũng thế. Ăn nói táo tợn với người có chức
có quyền, hành động nhiều khi dại dột. Nhưng chẳng sao cả. Vẫn đi Pháp, đi
Mỹ đều đều. Anh kể tôi nghe cái vụ “phải đạo” của anh hồi 1980, anh có một cú
thoát hiểm rất ngoạn mục. Người ta tổ chức hẳn một cuộc hội nghị để đánh anh.
Lê Đức Thọ trực tiếp chỉ đạo. Loại có vấn đề như tôi, không được mời. Hơn 50
273
người được mời có chọn lọc để nhằm phê phán Hiến. Hiến là người thứ 50
(avant dernier) được phép phát biểu. Người cuối cùng là Chế Lan Viên (thứ 51)
. Người ta bố trí một tay sắc sảo như thế để có thể đập tan ý kiến của Hiến và
hội nghị kết thúc luôn.
Giờ nghỉ, Lê Đức Thọ trò chuyện với Hiến mới biết Hiến là người
đồng hương với mình. Cùng quê Đức Thọ, Hà Tĩnh (Lê Đức Thọ ở Nam Định,
nhưng quê gốc ở Đức Thọ, Hà Tĩnh, anh em Lê Đức Thọ đều lấy biệt danh có
chữ Đức hoặc chữ Thọ: Đinh Đức Thiện, Mai Chí Thọ, Lê Đức Thọ)
Thế là Hiến gặp may. Vì tình đồng hương, Lê Đức Thọ đã cứu anh. Ai
đó trong hội nghị nói Hiến chịu ảnh hưởng tư tưởng mỹ học của Kant. Thọ
dõng dạc khẳng định trước hội nghị: “Hoàng Ngọc Hiến chẳng kăng kiếc gì hết,
Hoàng Ngọc Hiến là Mác Lênin”.
Tình thế thành ra đảo ngược. Chế Lan Viên chót đánh Hiến, thấy thế,
đâm hoảng, bèn lảng qua chỗ Hiến đang ngồi với Lê Đức Thọ, nói khẽ với anh:
“Lúc nãy tôi có nói điều gì quá, anh bỏ qua đi cho nhé!”.
Sau này, Chế Lan Viên còn nhờ tôi nhắn lại với Hiến hai lần như thế.
Lại còn nói phách “Tôi có trọng anh Hiến thì tôi mới tranh luận với anh ấy
chứ!”.
Có lẽ vì hay gặp may mà Hiến luôn luôn lạc quan.
Lại vẫn cái vụ “hiện thực phải đạo”. Tôi nhớ giáp Tết âm lịch năm ấy,
Khái Vinh có mời tôi, Hiến và Xuân Diệu ăn thịt chó ở Hàng Lược. Lúc đó, dân
Nhật Tân đã lục tục đem đào tới bán. Khái Vinh nói, anh Hiến là người có tài
mà khổ, bị đánh dữ quá!. Xuân Diệu nói: “Con người ta có trải qua đau khổ thì
mới nên người”. Nhưng Hiến lại phát biểu một cách đắc ý: “Những điều tôi
được nhiều hơn những điều tôi mất”. Và anh dẫn chứng: “Đứa con gái tôi vào
Sài Gòn, giáp Tết bị mắc kẹt ở đấy không ra được vì giao thông khó khăn. Có
một anh phi công cho lên ngồi ghé phụ bay ra không mất tiền, vì biết là con
ông “hiện thực phải đạo”. Cũng con bé ấy học đến lớp cuối cấp, sắp thi đại
học, rất cần có người luyện cho môn toán. Rất may, có một cô giáo tự nguyện
đến luyện giúp miễn phí vì biết là con ông “hiện thực phải đạo”. Đó là chưa kể
nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đến tận nhà Hiến tặng hoa. Và bài “hiện thực phải
đạo” đã làm cho anh nổi tiếng một thời và được nể trọng trong giới trí thức cấp
tiến.
Đúng là Hoàng Ngọc Hiến có quý nhân phù trợ thật.
Hồi Hiến sang Mỹ, có một bọn Việt kiều chống cộng quá khích định
hành hung anh. May sao lại có một thượng nghị sĩ Mỹ phái một vệ sĩ của ông ta
tới bảo vệ – Mới đây Hiến kể với tôi như vậy.
* *
*
Tôi rất tin cậy Hoàng Ngọc Hiến. Nên chịu ảnh hưởng Hiến về nhiều
mặt, đặc biệt là trong việc dùng thuốc. Thuốc huyết áp, thuốc bổ, thuốc loãng
xương... Tất nhiên tôi có chịu ảnh hưởng anh cả về tư duy khoa học. Hiến có tài
liệu nào anh cho là hay hoặc nghĩ ra điều gì có vẻ tâm đắc, đều trao đổi với tôi.
274
Trò chuyện với Hiến bao giờ cũng có ích, dù ít dù nhiều, đối với cái nghĩ của
mình. “Dữ quân nhất dạ thoại, thắng độc thập niên thư”. Người xưa nói thế,
vận dụng vào trường hợp Hoàng Ngọc Hiến e có hơi quá. Nhưng quả là trò
chuyện với Hiến bao giờ cũng thu lượm được một cái gì đó có ích. Hiến rất ghét
giáo điều và nghĩ cái gì thì nghĩ đến nơi đến chốn. Tôi cho rằng, mấy phát biểu
sau đây của Hiến là những ý kiến nghe được:
Nghiên cứu khoa học, quan trọng nhất là nghĩ bằng cái đầu của mình
và viết bằng lời văn của mình. Đọc người khác rất cần, song phải thấm thế nào
đó để trở thành của mình, để khi nghĩ là nghĩ bằng cái đầu của mình và viết
bằng lời văn của mình.
Quán tính của con người là thường quy những điều chưa biết vào cái
sơ đồ có sẵn, sơ đồ biết rồi. Do lười nghĩ. Quán tính rất mạnh, lay chuyển được
quán tính, được cách nghĩ là khoa học.
Khoa học trước hết là đặt vấn đề đích đáng. Tìm ra cái mới hoàn toàn
rất khó. Thường chỉ chỉnh lại một tý. Vấn đề đặt ra đúng, nhưng chưa đúng
hẳn. Chỉnh lại một tý như chỉnh ti vi cho hình nét hơn, âm rõ hơn.
Thí dụ, nói Đam Săn anh hùng dũng cảm là đúng. Nhưng thực ra tính
cách Đam Săn phong phú hơn: hồn nhiên, trung thực, lãng mạn, ngỗ nghịch...
đặc biệt là một cá tính tự do.
Nói Số đỏ đả kích những ông chủ bà chủ của xã hội cũ là đúng, nhưng
đâu chỉ có thế. Số đỏ là cả một xã hội hài hước gồm đủ hạng người, ai cũng
buồn cười, một xã hội ngớ ngẩn, nhí nhố, lố bịch... , kể cả bình dân.
Hiến khẳng định vai trò quan trọng của cảm hứng và trực giác. Tôi
cho rất đúng. Anh nói, cảm hứng lay động toàn bộ năng lực tinh thần của người
nghiên cứu. Trong giây phút ấy, con người, cùng một lúc, có vô số liên tưởng,
kể cả liên tưởng vô thức. Do đó rất sáng suốt. Nhưng phải băn khoăn nhức nhối
về nhân sinh, về văn học mới có cảm hứng dẫn tới tìm tòi phát hiện. Cảm hứng
làm cho câu, chữ có hồn. Cảm hứng phát huy trực giác, khiến cảm nhận được
cái mới. Mọi tìm tòi đều bắt đầu bằng trực giác. Sau đó mới dùng suy lý lôgic
chỉnh lại (vì thế Hiến rất phục những phán đoán trực giác của ai đó, chỉ ra chính
xác bản chất một đối tượng nào đấy, không cần lý lẽ chứng minh gì hết).
Phân tích tác phẩm gay nhất là đọc hết cuốn sách mà chẳng thấy có ý
gì cả. ý là một ý nghĩa mới đích đáng trả lời một câu hỏi ta đang tìm tòi, đang
suy nghĩ để giải đáp. Tác phẩm chẳng giải đáp được một câu hỏi nào cần thiết,
là vô nghĩa.
Phân tích tác phẩm là phân tích chi tiết. Phải chọn chi tiét có vấn đề.
Phân tích một chi tiết mà mở ra cả một vấn đề về đạo lý, về triết lý. Phân tích
một chi tiết như thế có sức thuyết phục và sang trọng hơn là phân tích tràn lan.
Cuối cùng phải tìm từ, tìm chữ đích đáng để diễn đạt. Một bài viết hay
là có được một hai từ đích đáng kết tinh được cái hiểu, cái ý của mình. Đó là
cái thần của bài viết.
Hiến nghĩ thế nên rất chăm chỉ học chữ, học từ.
Có khi học ở dân gian. Thí dụ, anh rất khoái vì học được chữ “bõ hờn”
275
của một ông người Mường tên là Cò Lửa, chủ nhà chúng tôi ở nhờ hồi kháng
chiến chống Mỹ tại Thạch Thành, Thanh Hoá. Phần nhiều học ở sách vở. Thí dụ
chữ “hương nguyện”, “phường hương nguyện” anh học được của Mạnh Tử khi
nghiên cứu triết học cổ phương Đông. Có lẽ tương đương với chữ philistin
chăng?
Có những chữ thông thường nhưng anh đem đến cho nó một nghĩa mới
nào đấy. Như “kể lại nội dung” và “viết nội dung”. (Bài “Kể lại nội dung và
viết nội dung” (Văn học gần ...và xa. NXB giáo dục 2003). Hay như chữ “trí
thức bình dân” trong bài anh giới thiệu Tuyển tập Nguyễn đăng Mạnh (NXB
Giáo dục 2006)... Có thể gọi trường hợp này là sáng tạo từ mới.
Gần đây Hoàng Ngọc Hiến say mê đọc Nho, Phật, Đạo qua sách của
Francois Fulien. Anh lấy làm khoái chí học được ở F.Julien, sự phân biệt giữa
tư duy Đông và Tây. Tây là chân lý (Vérité). Đông là dịch lý (transformation).
Một đằng cứ cãi nhau về chân lý, về đúng hay sai. Một đằng chủ trương “cùng”
hay “thông”. Đúng sai không quan trọng, quan trọng là không bế tắc, là thông,
là được việc, là có hiệu quả thực tế...
* *
*
Như đã nói, Hoàng Ngọc Hiến sống rất hồn nhiên, tự nhiên.
Hồi chống Mỹ, sơ tán ở Thạch Thành, Thanh Hoá, không mấy khi có
được miếng thịt mà ăn. Hôm ấy, anh em kiếm được một đĩa thịt. Hiến vừa ăn,
vừa xụt xịt mũi, vừa gật gù: “Ăn thịt ngon thật!”.
Tối tối, anh rất chịu khó cùng với tôi xách đèn đi bắt ốc sên về cải
thiện, tin rằng ba con ốc sên bằng một quả trứng vịt (Hồi ấy có kẻ phao lên như
vậy).
Hiến hay nghĩ ra những chuyện kỳ cục và buồn cười để đùa vui. Thí dụ
như chuyện phân loại cán bộ khoa văn trường Đại học Sư phạm Vinh thành ăn
cướp và ăn cắp. Hình như tư duy khoa học mãi, nghĩ mãi những điều có nghĩa
lý, người ta phải thư giãn đầu óc bằng những chuyện vô nghĩa lý.
Hiến đúng là vui đâu chầu đấy.
Có một lần Ngô Thảo nhân quen một Việt kiều về nước, mời tôi, Hiến
và Hoàng Cầm đến đánh chén ở một nhà hàng. Xe đón tôi trước, đón Hiến sau.
Trên xe, tôi gọi điện cho Hiến chuẩn bị ra ngõ để đón xe. Chị Tố Nga, vợ Hiến,
cầm máy trả lời: “Lão ấy mời đi họp thì đến chậm, nhưng mời đi ăn thì đúng
giờ lắm!”.
Một lần khác, mới năm ngoái đấy thôi, anh Vũ Văn Viết ở Việt Trì
mời chúng tôi lên dự lễ khai trương ngôi trường phổ thông dân lập do anh vừa
xây dựng. Anh cần nhiều người ở Hà Nội lên dự cho thật long trọng. Nhưng
hôm ấy nhiều người trong danh sách mời không đi được vì bận việc hay đang đi
công tác xa. Ngồi trên xe thấy vắng vẻ quá, tôi nẩy ra ý mời Hiến, tuy Hiến
chẳng quen biết gì Vũ Văn Viết cả. Và Viết cũng không mời Hiến.Tôi gọi điện.
Hiến nhận lời ngay, và lập tức đáp xe ôm đến chỗ hẹn.
Cái giống nghệ sĩ thật sự bao giờ cũng rất tự nhiên – nói như Lưu Công
276
Nhân, “tự nhiên như ruồi”. Họ rất khó tính trong sáng tạo, nhưng rất dễ tính
trong sinh hoạt đời thường. Khoa học cũng là một hoạt động sáng tạo, nhà khoa
học cũng là một loại nghệ sĩ, nhất là khoa học về văn chương.
Vì thế Hoàng Ngọc Hiến cũng rất hồn nhiên, tự nhiên, “tự nhiên như
ruồi”.
Hiến là dân Nghệ Tĩnh nhưng lại chê dân Nghệ “cái gì cũng biết, trừ
hạnh phúc”. Nhưng chính Hiến cũng rất Nghệ. Một tay đầy nghị lực. Tập thể
dục rất kiên trì. Nghiện cả thuốc lá, thuốc lào mà bỏ hẳn (Bỏ mà vẫn cho hút
thuốc lá là thích nhất. Anh nói “Khi nào sắp chết sẽ hút lại”). Gần 80 tuổi vẫn
cả ngày ôm cái máy vi tính để lấy thông tin và luyện ngoại ngữ. Rồi đọc sách,
dịch sách, viết sách... Tôi là dân Bắc Kỳ, kém xa Hiến về mặt này.
Hiến đích thực là dân Nghệ, đúng thế, nhưng là một tay Nghệ “cái gì
cũng biết, kể cả hạnh phúc”. Vì tôi biết chưa bao giờ anh từ chối một lạc thú
trần thế, trần tục nào.
Láng Hạ, 20.5.2007