Chương XXII: Dương Thu Hương
chị học trường viết văn Nguyễn Du chăng (1981)?. Tôi được mời dậy trường
này mấy khoá đầu. Dương Thu Hương học khoá một cùng với Ngô Thị Kim
Cúc, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Hữu Thỉnh, Chu Lai, Nguyễn Khắc
Trường... Hôm làm lễ bế giảng, chị mặc áo dài trắng, khoác tay tôi cho Hoàng
Kim Đáng chụp. ấy là năm 1982.
Dương Thu Hương là một phụ nữ có tính cách rất dữ dội và ngang
tàng.
Tôi nhớ trong một cuộc họp rất đông văn nghệ sĩ nghe Hoàng Tùng nói
chuyện, ở câu lạc bộ báo chí xế xế Nhà hát lớn. Có lẽ nghe chán quá, nhiều
người bỏ xuống tấng trệt giải khát. Giữa chỗ đông người, Dương Thu Hương
nói lớn: “Trừ anh Hoàng Ngọc Hiến là thày tôi, anh Nguyễn Đăng Mạnh là
người tôi kính trọng, còn tất cả bọn phê bình đều là dòi bọ. Riêng Phan Cự Đệ
là con chó ngao”.
Hồi tôi còn ở nhà B10, khu tập thể Đồng Xa, chị có đến vài lần. Một lần
chị đến với đạo diễn điện ảnh Tiến. Tôi đi vắng. Khi về, thấy có một mảnh giấy
gài ở cửa, ghi mấy chữ: “Em đến anh cùng với Tiến để trao đổi về tác phẩm của
nhà văn trâu bò của chúng ta (tức cuốn Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành
của Nguyễn Minh Châu, chị muốn chuyển thành kịch bản phim). Rất tiếc, anh
đi vắng. Ngày mai em lại đến. Nếu anh không có nhà thì cái trường Đại học Sư
phạm của anh sẽ bị đốt”.
Hồi chị viết Bên kia bờ ảo vọng, ban đầu đưa đến nhà xuất bản Lao
động. Lúc ấy Ma Văn Kháng làm giám đốc. Kháng ngại không in, có lẽ vì sợ
đụng đến Nguyễn Đình Thi. Chị đưa cho nhà xuất bản Phụ nữ và được chấp
nhận. Trên đường đi về, tình cờ chị gặp Ma Văn Kháng và một anh nữa cũng ở
Nhà xuất bản Lao động. Họ đi xe đạp ngược chiều nhau. Dương Thu Hương gọi
hai anh kia đỗ xe lại và nói dõng dạc: “Này hai thằng mặt dày, sách của tao in
rồi!”.
Trong một cuộc hội thảo khoa học kỷ niệm 35 năm văn học cách mạng
(1980), Dương Thu Hương lên diễn đàn, chị phát biểu “Đôi điều suy nghĩ về
nhân cách của người trí thức”, phê phán nhiều văn nghệ sĩ tư cách rất hèn. Chị
cũng phàn nàn về đời sống nhà văn. Chị nói: “Viết một tác phẩm rất khó nhọc
mà nhuận bút thấp. Nếu tôi không say mê văn chương thì tôi đi làm thợ may hay
bán bánh rán còn sống tốt hơn. Cả hội nghị đói, anh nào cũng mặt xanh nanh
vàng cả. Ta có quá nhiều nhà thơ và anh hùng mà thiếu người làm kinh tế...”
Lại nhớ một lần tôi cùng Dương Thu Hương, Hoàng Ngọc Hiến,
Nguyễn Văn Hạnh được trường Đại học Sư phạmViệt Bắc mời nói chuyện.
Hôm Dương Thu Hương đăng đàn diễn thuyết, tôi có đến nghe. Chị vừa nói vừa
đi đi lại lại rất hiên ngang. Tôi nhớ loáng thoáng, mở đầu chị phê phán Hồ Chí
Minh: “Năm điều bác Hồ dạy, không nói yêu cha mẹ nên bây giờ trẻ con hư
278
hỏng hết.”
Lúc đó có một anh cán bộ giảng dạy đứng lên hỏi, đại khái, có phải tác
phẩm nào đấy của chị là kết quả của chuyến đi thực tế ở đâu đó không? Chị
mắng luôn anh cán bộ nọ: “Lẽ ra tôi không thèm trả lời. Việc gì tôi phải đi thực
tế! Chỉ có bọn cán bộ lãnh đạo quan liêu mới phải đi thực tế chứ! Chính tôi là
thực tế, còn phải đi đâu?”
Có một lần tôi đến Dương Thu Hương lúc chị còn ở Ngô Thì Nhậm.
Chị nói, ông Đỗ Mười có sai một anh thư ký đến mời chị đến gặp. Chị trả lời :
“Ông Đỗ Mười hay Đỗ mười một muốn gặp tôi thì đến đây mà gặp”.
Tôi và Dương Thu Hương có một cuộc dong chơi có thể gọi là một
cuộc “bát phố” Hà Nội rất thú vị. Từ Ngô Thì Nhậm, chị rủ tôi đi bộ. (Dương
Thu Hương rất cảnh giác, không đi xe đạp, không đi xe máy, sợ bị thủ tiêu).
Chúng tôi cứ đi lang thang từ phố này sang phố khác. Thỉnh thoảng chị lại chỉ
nhà này nhà nọ, hỏi tôi: “Anh có biết nhà ai đây không?”. Tôi không biết. Chị
nói: “Cớm đấy!” Theo chị, Trần Quốc Vượng, Phạm Hoàng Gia cũng là cớm.
Đi mãi, mỏi chân, chúng tôi vào ăn ở một cái quán ven đường Trần Quốc Toản
chỗ giáp Trần Bình Trọng. Ăn xong, tôi rủ Dương Thu Hương đến nhà Văn
Tâm chơi. Văn Tâm ở Phan Bội Châu, gần đấy. Hương nói: “Văn Tâm là thằng
khốn nạn, không đến!”. Tôi ngạc nhiên nói, Văn Tâm không phải thế đâu, cũng
là người tử tế. Chị nói: “Thôi được, đã là bạn của anh thì đến cũng được”.
Văn Tâm hôm ấy hơi mệt, vào thấy đang nằm trên giường. Vợ chồng
Văn Tâm thấy Dương Thu Hương đến thì cảm động lắm, vội vàng tiếp đón
niềm nở.
Nhìn thấy bức tranh Lưu Công Nhân vẽVăn Tâm treo trên tường, tôi
nói: “Tranh của Lưu Công Nhân”. Dương Thu Hương nói “Lưu Công Nhân là
thằng khốn nạn!”. Từ Đà Lạt, nó dám viết thư gọi: “Em vào đây với anh –
Thằng khốn nạn!”
Chị Cam, vợ Văn Tâm nói: “Chị uống ca cao nhé!”
Dương Thu Hương : “Không, uống cà phê”
Chị Cam: “Cà phê chúng tôi cũng có nhưng để bị hả mất rồi!”
Dương Thu Hương : “Thì ra ngoài phố uống!”.
Vợ chồng Văn Tâm phải nài khéo chị mới ở lại.
Bỗng Dương Thu Hương chỉ mặt Văn Tâm nói: “Anh là thằng khốn
nạn!”
Văn Tâm ớ người, không hiểu sao.
Dương Thu Hương giải thích: “Anh làm thầy dùi phá đám cuộc tình
của Cao Xuân Hạo và Phương Quỳnh phải không? (Lúc này Dương Thu
Hương còn chơi thân với Phương Quỳnh).
Văn Tâm phân trần: Anh không hề can thiệp gì đến cuộc tình ấy. Thậm
chí anh còn cho đấy là mối tình đầu tiên thật sự là tình yêu của Cao Xuân Hạo.
Chẳng qua là vợ Hạo trong Nam doạ sẽ thuê bọn voi xanh voi đỏ ra phá tan nhà
Phương Quỳnh, vì thế họ phải chia tay.
Dương Thu Hương không nói gì nữa.
279
Đấy khẩu khí của Dương Thu Hương là như vậy. Thế mà khi đến nhà
tôi, vợ tôi thấy chị có vẻ rất hiền. Cười rất tươi.
Tính cách Dương Thu Hương như vậy, nên viết văn cũng dữ dội lắm.
Hồi ấy tôi viết bài Những phiên toà của Dương Thu Hương (1986) là muốn diễn
tả cái chất văn quyết liệt ấy. Chất văn này mà được phát huy trong thể văn bút
chiến, tranh luận thì phải biết! Sau này quả là chị đã trở thành ngòi bút chính
luận rất sắc sảo. Sắc sảo hơn văn tiểu thuyết. Chính Dương Thu Hương cũng
không đánh giá cao văn tiểu thuyết của mình. Có lần chị nói với tôi: “Văn của
em là văn cải lương, anh đọc làm gì!”. Dương Thu Hương rất có ý thức viết
văn không vì mục đích văn chương mà vì mục đích chính trị, mục đích chiến
đấu cho lợi ích dân tộc, cho chân lý – chị tuyên bố như thế.
Hồi Dương Thu Hương mới ở tù ra, tôi tình cờ gặp ở quán cà phê vỉa
hè chỗ 51Trần Hưng Đạo. Không hiểu sao chị lại ngồi với một nữ trung uý công
an rất xinh xắn (Dương Thu Hương là nữ mà lại mê những cô gái đẹp). Đối với
những người có liên quan đến chị mà phải làm việc với công an khi chị bị tù,
chị nghi ngờ tuốt và khinh tuốt, như Đỗ Đức Hiểu (từng dạy chị tiếng Pháp),
Nguyễn Huy Thiệp, cả Nguyên Ngọc và người bạn gái xinh đẹp và thân thiết
của chị là Phương Quỳnh. Chị hỏi tôi: “Này, có phải Nguyễn Huy Thiệp sợ vãi
đái ra phải không?”.
Dương Thu Hương thích nói năng kiểu dân dã, kể cả nói tục. Thích
giọng đời. Không thích giọng văn chương. Coi nhiệm vụ công dân lúc này là
cao hơn nhiệm vụ làm văn.
Nhân chuyện Hoàng Ngọc Hiến nghe Đỗ Chu nói dối đi hội chen về
mà tưởng thật, và chuyện anh dại dột tham gia vào một đảng nào đấy, Dương
Thu Hương gọi Hiến là đồ ngốc, “nếu là đàn bà thì chửa hoàng hàng tỉ lần”.
ở Dương Thu Hương, dường như nói bạo, nói thô, nói tục là để át đi
một cái gì có thực trong lòng là những tình cảm đằm thắm, là sự nhạy cảm về lý
tưởng, do đó tự thấy là yếu đuối. Con người dữ mà thực ra lành. Đốp chát đấy
mà hay nể người. Rất cảnh giác mà lại cả tin. Dễ bị lừa. Thách thức kẻ thù, hiên
ngang đối mặt với kẻ thù, sẵn sàng cô độc giữa bầy sói, nhưng lại cần tình bạn.
Ôi! Tình bạn vô tư, chân thật sao mà hiếm có trên đời, nhất là đối với một cô
gái xinh xắn trên đất Việt Nam này! Cho nên viết văn là nhu cầu tất yếu, là lẽ
sống, để có thể có người tri kỷ mà không có tình dục xen vào. Văn chương là
người bạn vô tư. Dương Thu Hương hay viết về tình yêu - đúng ra là những vụ
án tình. Nhưng trong truyện của chị, xem ra không hề có tình yêu tốt đẹp, được
ngợi ca như là hạnh phúc đời người. Tình yêu trong tác phẩm Dương Thu
Hương, hoặc chỉ là tình yêu ảo vọng của những cô gái ngây thơ và lãng mạn,
hoặc chỉ là thứ “tình chài gái, lừa gái” của những gã Sở Khanh hiện đại.
Dương Thu Hương tuyên bố thoải mái: “Tôi là con đàn bà lại đực
(Còn Nguyễn Khải là thằng đàn ông lại cái)”. Chị thích chơi với bạn trai nhưng
rất ghét những thằng cứ muốn chuyển sang tình yêu nam nữ, như Lê Đạt, Trần
Đĩnh... Khi nhận thấy có biểu hiện như thế, lập tức chị đuổi luôn. Dương Thu
Hương cũng không thích phiền luỵ đến những gia đình mà do chồng có quan hệ
280
với chị mà vợ chồng lủng củng. Có lần Dương Thu Hương rủ Nguyễn Duy Tiến
(một tiến sĩ toán có giúp đỡ gì đó đối với con hay cháu của chị) đi nhậu cho vui.
Nhưng khi biết vợ Tiến có ý nghi ngờ, ghen tuông, chị cắt luôn, không chơi với
nữa. Riêng tôi và Hoàng Ngọc Hiến vẫn được chị coi là bạn vô tư. Với chúng
tôi, chị có thể nói như nam giới với nhau về thói dâm ô của người này người
khác, như chuyện Hoàng Tùng nửa trên, nửa dưới như thế nào đó...
Một người có vẻ sắc sảo và luôn cảnh giác như thế mà đã nhiều phen
bị lừa... Chẳng hạn chuyên làm nhà làm cửa gì đấy với Lam Luyến, hay chuyện
mua phải thuốc bổ rởm (làm bằng thuốc tăng trọng lợn) bị phù và lở loét khắp
người.
Tóm lại Dương Thu Hương có vẻ giầu nam tính – tính cách mạnh, ăn
nói ngổ ngáo – nhưng thực chất vẫn là một phụ nữ giầu tình cảm và luôn có
mặc cảm của một cô gái trong xã hội Việt Nam với những thành kiến, những
định kiến về người phụ nữ. Ăn nói tạo tợn dữ dội, bốp chát, ngang tàng, đúng là
một cách để che dấu sự mềm yếu của nữ tính và để đối phó với những định kiến
xã hội nói trên. Cho nên chị mới phải “tự thiến” (Uống thuốc diệt dục). Có ba
điều dễ mắc phải và dễ bị lợi dụng, bị vu khống là danh, lợi, tình dục. Danh lợi
chị không thèm. Nhưng tình dục thì phải “tự thiến”.
Dương Thu Hương đã từng có lúc tưởng chỉ còn vất vào nhà xác (uống
nhầm aspirine bị chảy máu dạ dầy). Hai lần uống thuốc tự tử. Lấy phải thằng
chồng vũ phu, bị nó đánh có thương tích (Nguyễn Văn Hạnh nói, có lần Dương
Thu Hương dùng mưu trả thù: lừa chồng chui đầu vào gầm giường nhặt hộ cái
gì đó, rồi lấy gậy quật thật lực).
Dương Thu Hương không dấu tôi chuyện gì. Hỏi gì cũng nói: Hương
sinh ở Thái Bình (quê nội) được một năm thì nhà chuyển đi Bắc Giang, chỗ
giáp Bắc Ninh (Việt Yên). Nhà bị bom, chuyển vào thị xã Bắc Ninh cho đến hết
kháng chiến chống Pháp. Học trường Hàn Thuyên cho đến 1964. Sau đó học
trường lý luận nghiệp vụ Bộ văn hoá. Từng cắn máu tay viết đơn xin đi tuyến
lửa Quảng Bình (1966- 1975). Chín năm ở tuyến lửa. Khi chiến thắng thì vỡ
mộng: lý tưởng vấp phải thực tế đầy tiêu cực, bị phá sản. Những thần tượng bị
sụp đổ. Tự coi như bị lừa dối, chị từ bỏ thơ, xoay ra viết văn xuôi để lên án
những kẻ đã làm vấy bùn lên lá cờ lý tưởng của mình. Từ nay, tất cả đều phải
cảnh giác, chỉ tin ở mình thôi. Chấp nhận sống cô độc, chấp nhận sống giữa kẻ
thù để chiến đấu.
Nhưng thật ra có tin ở một cái gì mới hăng hái chửi bới, phủ định như
thế chứ! Chín năm ấy dẫn đến sự vỡ mộng, nhưng cũng là chín năm rèn luyện
một niềm tin ở mình và cuộc sống.
Dương Thu Hương kể chuyện với tôi, chị lấy phải một thằng chồng thô
bỉ mà mãi không bỏ được. Ông bố là một sĩ quan quân đội rất phong kiến,
không cho bỏ chồng. Ông bắt con phải kiểm điểm chỉnh huấn theo kiểu Tầu,
học được ở Quế Lâm. Con gái lớn mà bắt đứng úp mặt vào tường. Li dị chồng
rồi vẫn thế (Dương Thu Hương thế mà lại là đứa con ngoan, rất sợ bố).
Mãi sau ông cụ mới hiểu ra. Sáng sớm hôm ấy, ngồi đầu giường con
281
đang ngủ, hút thuốc lào, nhìn con, thương con, ông hối hận. Giờ ông mới hiểu,
do biết thằng rể thực chất là một thằng đểu. Mười bốn năm sống với nó, còn gì
là đời con gái!.
Có lần Nguyễn Tuân mời Dương Thu Hương đến chơi. Chị từ chối, vì
thấy ông ấy kiêu ngạo quá. Nguyễn Tuân nhắc lại. Chị nói: “Cháu chè, thuốc,
rượu, chả biết”. Vậy là Dương Thu Hương không thích quan hệ trên dưới kiểu
gia trưởng. Con người này sinh ra thích bình đẳng, có máu dân chủ.
Dương Thu Hương đặc biệt căm ghét bọn trí thức hèn nhát, trí thức
quý tộc đi Volga mà hèn. Căm ghét khái niệm “đi thực tế”. Bọn quan lại: đi ôtô,
xa thực tế mới cần đi thực tế. Còn nhà văn là phải sống với thực tế cả đời chứ!
Đâu còn loại nhà văn tháp ngà!
Sau khi đi tù về, Dương Thu Hương ở một căn hộ thuộc một chung cư
ở Trung Tự (A8, B17). Sống một mình. Hai con có chồng có vợ, trưởng thành cả
rồi. Chị hay mời tôi với Hoàng Ngọc Hiến (gần đây thêm Nguyễn Thị Bình) đi
ăn, khi ở nhà hàng Phú Gia, khi ở nhà hàng Vân Nam, thường vào dịp đầu xuân
hay sau một chuyến đi nước ngoài về. Chị không muốn có quan hệ với bạn mới,
sợ liên luỵ đến người ta.
Gần đây, Dương Thu Hương luôn tự nhận mình là giặc, và là một
người đàn bà nhà quê, răng đen, mắt toét, mặc váy. Chị nói, dân tộc Việt Nam
thực ra là một dân tộc nông dân. Chị thích văng tục vì đấy là ngôn ngữ nông
dân. Phải nói bằng ngôn ngữ nông dân mới diễn đạt được đích đáng mọi sự thật.
Nhưng Dương Thu Hương là người rất công bằng. Có lần chị được
mời sang Pháp. Một đám Việt kiều ở một tỉnh nào đó mời đến nói chuyện. Bọn
này muốn chị mạt sát Hồ Chí Minh. Nhưng chị vẫn đánh giá Hồ Chí Minh, dù
sao cũng là một nhân vật vĩ đại. Thế là chúng tức tối, có thằng đến khách sạn
doạ đánh chị. Dân Việt Nam là thế, hay bè phái. Mà bè phái thì bất chấp chân
lý, bất chấp lẽ phải.
Hồi ấy nhiều người cứ tưởng Dương Thu Hương ở lại Pháp không về.
Thực ra đúng thời hạn, chị về ngay.
Gần đây, chị lại sang Pháp. Lần này chị chủ trương ở lại. ở trong nước,
bị quấy nhiễu quá, không làm việc được. Có hồi người ta cắt cả điện thoại của
chị.
Viết truyện, Dương Thu Hương thường hay luận về vấn đề hạnh phúc
của những cô gái trẻ. Những cô gái hợm hĩnh và lãng mạn, chẳng hiểu tình yêu
và hạnh phúc là gì, cứ chạy theo những tình yêu mơ mộng và huyền hoặc, để
cuối cùng đánh rơi mất tình yêu và hạnh phúc thực của mình. Dương Thu
Hương từng luận về hạnh phúc như một người đầy trải nghiệm: nó như quân
xúc sắc trong trò chơi. Cần thì không đến. Không cần lại đến. Nhưng nó đến mà
đánh rơi nó, đánh mất nó như chơi. Hạnh phúc phải do chính mình quyết định.
Là ý thức, là hiểu biết, nhưng nó cũng là sự hồn nhiên, chân thực, thật thà, trước
hết với mình. Đừng có dại nghe ai xúc xiểm – vì hạnh phúc chỉ có cá nhân mình
mới hiểu được.
Không rõ Dương Thu Hương tự thấy đời mình thế nào, còn theo tôi,
282
chị chưa bao giờ có hạnh phúc. Đời người đàn bà như thế là khổ lắm.
Tôi thật sự khâm phục Dương Thu Hương. Cảm phục sự dũng cảm của
chị – sự dũng cảm đã phải trả giá rất đắt: một người yêu đời, rất cần tình bạn và
sự cảm thông, mà phải sống cô độc, một mình chống chọi với cả một Nhà nước.
Tôi cũng thật sự thương Dương Thu Hương, một người đàn bà như thế là khổ
lắm.
Hiện nay Dương Thu Hương đang ở Pháp.
Nghe nói tiểu thuyết Chốn vắng của chị được dịch và Những thiên
đường mù sắp được chuyển thành kịch bản phim.
Xin chúc mừng chị.
Láng Hạ 01.5.2007
Chương XXIII: Lưu Công Nhân
Tôi quen Lưu Công Nhân từ hồi cùng học với nhau ở trường Trunghọc kháng chiến, đóng tại Đào Giã, Thanh Ba, Phú Thọ (vốn là trường Chu Văn
An ở Hà Nội sơ tán lên từ thời kháng chiến chống Pháp).
Hiệu đoàn học sinh có ra đều kỳ một tờ nội san, viết tay.
Tôi hay vẽ vạch lăng nhăng, nên được cử đi trang trí, minh hoạ cho tờ
nội san này. Tôi gặp Lưu Công Nhân cũng đến làm công việc này.
Tất nhiên, không như tôi, Lưu Công Nhân là một tài năng thực sự. Tôi
nhớ anh thường lấy một mẩu cành cây chỉ bằng ngón tay, dùng dao cắt, gọt mấy
nhát, thành ngay một hình người nhỏ xíu xinh xinh.
Tôi với Lưu Công Nhân học cùng một khoá (1947 – 1950). Anh học
ban sinh ngữ, tôi học ban Toán Lý Hoá. Hình như anh đang học dở dang thì bỏ
đi học hoạ, khoá Tô Ngọc Vân.
Bẵng đi từ đó, tôi không lần nào gặp anh nữa, tuy có xem tranh của anh
ở bảo tàng mỹ thuật và biết anh đã là một hoạ sĩ nổi danh.
Sau 1975, tôi thỉnh thoảng có được mời vào dạy cho mấy trường đại
học ở Sài Gòn và Cần Thơ. Biết anh ở Sài Gòn, tôi tìm đến chơi.
Dưới đây, tôi tường thuật lại cuộc gặp mặt đầu tiên của tôi với Lưu
Công Nhân ở Sài Gòn. Anh nói nhiều, nói liên miên. Nên cuộc trò chuyện giữa
tôi và anh hầu như chỉ là một cuộc độc thoại của Lưu Công Nhân.
Tôi nhớ đấy là một ngày đầu năm 1983.
Lưu Công Nhân lúc này ở đường Tự Đức. Nhà hai tầng, rộng rãi và
khá sang trọng.
Tôi chờ đợi một thái độ lạnh nhạt và xem thường của ông bạn cũ. Vì
nghe nói hắn giầu lắm, danh vọng lắm, khinh người lắm. Điều này thì tôi đã có
kinh nghiệm rồi, nên coi như chuyện thường. Nó khinh mình thì cái giá trị thực
của mình thế nào thì vẫn thế thôi. Mà mình trông bộ dạng nhếch nhác thế này
nó khinh cũng là phải. Tôi cứ gõ cửa. Mình vào cốt để xem tranh của hắn, thế
thôi – tôi rất thích hội hoạ.
Nhưng tôi đã lầm. Lưu Công Nhân nhận ra tôi ngay. Hắn rất nhớ bạn
cũ. Hắn đọc nhiều sách lắm. Sách hội hoạ, điêu khắc của Pháp, đọc cả sách văn
học Việt Nam. Có đọc cả nhiều bài viết của tôi. Và cũng biết tôi có cuốn Nhà
văn, tư tưởng và phong cách và nói đang đi tìm mua. Hắn khen tôi viết về
Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng rất khá.
Lưu Công Nhân quả là một tay kiêu ngạo. Xem thường tuốt. Tự coi
mình là một maitre, cỡ quốc tế. Nhưng nụ cười thì rất tươi, hiền và trẻ cách lạ.
Tôi rất thích nụ cười của Lưu Công Nhân. Hắn người cao to. Cởi trần. Quần
đùi. Lưng gù gù, lòng khòng. Nhưng đẹp trai, ăn nói rất thoải mái, hay văng tục.
Mới gặp nhau đã mày tao luôn. Không ngờ Nhân còn nhớ tôi ngày xưa từ dáng
đi đến cả cái áo mặc thời kháng chiến.
Nhân nhận xét Nguyễn Tuân là hám danh ,nên mất cái hồn nhiên, tự
284
nhiên – nghệ sĩ chân chính phải tự nhiên như ruồi ấy chứ (Nhân hay nói “tự
nhiên như ruồi”). Đằng này kiểu cách, bộ dạng quá. Vào Sài Gòn tại sao phải
tìm đến Trịnh Công Sơn? Mà Trịnh Công Sơn cũng háo danh nốt, nên lấy làm
tự hào lắm.
Nhân chê Nguyên Hồng hèn. Trước Mười Hương, Nguyễn Đức Thuận,
tại sao lại nói năng có vẻ kính sợ quá, bái phục quá, tự hạ nhân cách nghệ sĩ
trước nhân cách chính trị. Đó là hai loại anh hùng, hai sự dũng cảm khác nhau
chứ!
Lưu Công Nhân nói, từng bỏ biên chế năm 1959, lúc biên chế còn đầy
tiền đồ. Phan Kế An sợ không dám, cho là biên chế còn có giá trị lớn trong
tương lai.
- Mình bỏ biên chế – Nhân nói- Đạp xe từ Thanh Hoá lên tận Nam
Quan, rồi từ Nam Quan về, xem kiến trúc thay đổi thế nào. Vẫn cổng chữ môn,
ngói âm dương, căn bản không khác gì. Thế mà càng lên đến gần biên giới,
càng thấy Tầu hơn. Rất lạ!
- Này nhiều thằng đến đây gạ xem tranh của tao. Tao đuổi. Nhưng cho
mày xem. Nào lên đây.
Hắn đưa tôi lên lầu. Tranh các loại treo la liệt. Hắn lại treo thêm lên
mấy bức nữa cho tôi xem.
Có một bức khá to, vẻ lằng nhằng như lửa lan ra tất cả tấm toan lớn:
“Khi bầy tranh nơi công cộng thì tao nói là bắn máy bay Mỹ. Thực ra là mon
rêve”.
Có bức vẽ thuốc nước, một cô gái chở đò ở một kênh rạch miền Nam.
Đẹp. Có tranh vẽ một thiếu phụ bế con. Mấy lá tre, cành tre lơ thơ. Một bức hoạ
mùa đông. Lá bàng đỏ, lốm đốm một chút xanh. Đỏ đúng màu lá bàng úa,
nhưng không rõ lá cành gì hết.
Nhân nói: “Mẹ tao mất, năm bà 82 tuổi – Hắn chỉ một bức tranh, nói:
“Hommage à ma mère. Bức tranh lệ. Nước mắt”. Nhưng tôi không nhìn ra gì
hết.
Một bức ký hoạ còn trên giá vẽ: nhà bè, kiểu nhà sàn, nơi một cái bến
sông của một vùng Hậu Giang, Tiền Giang gì đó.
Một bức sơn dầu lớn, vẽ cảnh chiều thu. Hơi buồn. Một quán tranh bên
đường, cạnh một cái lô cốt của Pháp thời kháng chiến. Cánh đồng lúa xanh tận
chân trời. Tôi thấy đẹp, rất thích.
Lưu Công Nhân còn lấy ra cho xem một số tranh thuốc nước vẽ đường
làng, cổng làng cổ kính và vắng vẻ của miền Bắc. Một số tranh vẽ bò của Lưu
Công Nhân. Nói chung, tôi rất nhạy cảm với cảnh nông thôn ngày xưa. Đẹp mà
buồn. Mà sao rất thương!
Lưu Công Nhân nói liên miên về lịch sử hội hoạ, về hội họa Việt Nam
và thế giới.
- Tranh lợn gà làng Hồ không phải tranh dân gian. Đấy là những
maitre, những artiste vẽ đấy chứ! Diệp Minh Châu tạc sao nổi tượng Phật
nghìn mắt nghìn tay! Đó là anonyme không phải folklore. Tinh thần anonyme là
285
truyền thống nghệ thuật Việt Nam.
- Nghệ sĩ nó có một cái gì rất tự nhiên. Ăn uống, nước trà, chơi hoa...
rất tinh tế, sành sỏi. Không phải cố làm ra thế, tự nhiên thế thôi. Các cụ ta là
thế. Bây giờ khác rồi. Không có. Dốt. Không ai dạy... Lo cho thế hệ sau quá!
Muốn học vẽ, không có sách mà học. Ăn phở lại cho mùi tầu vào, khó chịu quá,
không có cái tinh tế nghệ sĩ.
- Hội hoạ rất cần có phê bình. Nghệ sĩ đẻ ra phê bình. Phê bình đẻ ra
nghệ sĩ. Nghệ sĩ sáng tạo, phê bình tổng kết ra trường phái này, trường phái nọ.
Và giữa hội hoạ và văn học có ảnh hưởng lẫn nhau.
- Việt Nam không vẽ chân dung. Kiêng. Cho vẽ thì bị thu mất thần. Tàu
có truyền thống này từ lâu đời. Hiện còn để lại một bức tranh về một hoạ sĩ
đang vẽ một cô công chúa hay hoàng hậu gì đó. Một maitre râu dài ngồi vẽ, các
cung tần mỹ nữ xúm xít đứng xem.
Phương Đông không có réalisme kiểu Tây, nghĩa là vẽ giống
naturalisme. Phương Đông không bao giờ chịu nô lệ sự thật. Không chủ trương
vẽ hình xác, muốn truyền lại linh hồn của tạo vật.
Việt Nam không có dessin, vẽ chì than, ký hoạ. Phương Đông không có
esprit documentaire. Phương tây nó triển lãm dessin riêng của một hoạ sĩ và
coi là đã đủ là một phòng tranh rồi. Phương Đông vẽ là vẽ ngay trên lụa, đục
ngay vào gỗ, vào đá.
Thời Phục Hưng, Tây đã chịu ảnh hưởng phương Đông. Do route de
soie, tranh vẽ Tàu đã sang Tây lâu rồi.
Phục Hưng không hề ảnh hưởng tới Việt nam. Việt Nam chỉ chịu ảnh
hưởng tranh của Tây thế kỉ XIX, XX thôi.
Tính dân tộc là bản chất của nghệ thuật. Thằng Tây sang Tàu học lối
vẽ Tàu, dù thành thạo đủ ngón vẫn không vẽ ra được như tranh Tàu.
- Mỗi hoạ sĩ có một univers của nó. Để thể hiện cái univers ấy, nó cần
vẽ cái này, cái kia, dùng chất liệu này, chất liệu khác... Mình coi sơn mài là
quốc hoạ là vô nghĩa. Phê bình theo sujet là không đúng. Hội hoạ phê bình xã
hội khác. Thời Hitler chiếm đóng, palette của Picasso toàn màu tối, sau giải
phóng palette Picasso màu tươi sáng.
- Việt nam xưa thế mà tinh tế: có cái kiến trúc vui (proportion
heureuse). Có kiến trúc buồn. Có kiến trúc nghiêm trang khắc khổ.
- Vừa rồi nó bảo tao khai thành tích để phong giáo sư, phó giáo sư hay
khen thưởng nghệ sĩ ưu tú... Tao không thèm, gửi trả lại giấy tờ ngay lập tức.
Phó chứ đến giáo sư tao cũng coi ra cái gì. Cho đi nước ngoài, bắt làm hộ
chiếu, tao không thèm. Gọi cả nước Liên Xô sang đây tạo dạy cho, việc gì tao
phải đi học Liên Xô.
- Nghệ sĩ là người sáng tạo theo tài năng, sở trường của mình, không
cần biết giá trị đến đâu, thế nào. Nhưng thằng Critique thì phải làm công việc
đánh giá, xếp hạng theo vị trí của mỗi nghệ sĩ trong lịch sử nghệ thuật. Cần có
một cuốn Nhà văn, tư tưởng và phong cách trong hội hoạ. Mày làm được đấy.
Mày đi vào nghệ thuật hội hoạ đi. Hiện nay trong hội hoạ toàn thằng ngu,
286
không có chữ.
Mày cứ viết luôn về cái rencontre của mày với Lưu Công Nhân cũng
thành một bài có giá trị đấy. Hai maitre gặp nhau.
Nhân nói đến đó thì có một người đến nhờ vẽ bìa sách. Nhân lấy chì
sáp viết thoắng một chữ , rồi lấy bút lông chấm mực vạch đè lên trên mấy nét.
Xong rồi, nói:
Thế mà người ta khen đẹp đấy và tới tấp đến nhờ tao vẽ bìa.
Thấy đã muộn, tôi đứng lên, đi về. Lưu Công Nhân nói: “Phải có
équipe, có bè, có cánh, có thế. Thí dụ, Hoàng Ngọc Hiến bị đánh thì có Nguyễn
Tuân lên tiếng bênh vực. Và phải có giới thiệu nhau, bình luận sáng tác của
nhau.
Nhớ lại ngày xưa, đã có lúc tôi định xin học hoạ. Nếu học thì cũng
cùng một khoá với Nhân và trở thành đồng nghiệp của hắn. Không biết số phận
sẽ ra sao!.
* *
*
Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng vào Sài Gòn, tôi lại đến Lưu
Công Nhân chơi.
Mấy năm nay hắn yếu đi nhiều. Bị chứng run, gọi là bệnh liệt rung
(parkinson). Chân tay run rẩy, đi đứng khó khăn.
Nhưng hắn vẫn vẽ. Hắn tặng tôi một tập tranh, chỉ đề mấy chữ: vẽ, vẽ,
và vẽ...
Hôm ấy, tôi đến Nhân. Đâu vào đầu năm 2002. Hắn nói, nhiều khi
đứng mãi mà không nhấc chân đi được. Tay run. “Nhưng tao vẫn vẽ. Renoir vẽ
cho đến lúc chết. Lão bị goutte, không vẽ được, người ta phải buộc bút vẽ vào
tay, vào chân để vẽ.
Các thế hệ hoạ sĩ thường kỵ nhau. Renoir nổi tiếng trước Matisse.
Matisse khi nổi danh đem tranh đến cho Renoir xem, Renoir chê không ra gì.
Picasso cũng thế, không chấp nhận thế hệ sau mình.
Mình sang Balan, có một tay hoạ sĩ hỏi, ở Việt Nam có phê bình hội
hoạ không. Tao bảo có rất ít. Tay hoạ sĩ Ba Lan nói, thế là hạnh phúc. ở Ba
Lan, một hoạ sĩ có hàng trăm thằng phê bình. Sợ quá ! Khổ quá! Có ít phê bình
là hạnh phúc đấy!”
Lưu Công Nhân cho dân tộc Việt Nam bao giờ cũng mô phỏng nước
ngoài, xưa là Tầu – kể cả tranh khắc gỗ làng Hồ hay Hàng Trống cũng chịu
ảnh hưởng Tầu (đấy là những maitre vẽ chứ không phải dân gian). Sau này bắt
chước Tây, bắt chước Mỹ. Việt Nam không có création hoàn toàn. Bắt chước
không đạt tới nơi, thì thành bản sắc Việt Nam, thành hồn Việt Nam. Trong đầu
mỗi hoạ sĩ Việt Nam thế nào cũng có một mẫu ngoại quốc. Nhưng khác ngoại
quốc là có cái hồn Việt Nam.
Lịch sử hội hoạ Việt Nam không phải bắt đầu từ khi có trường Mỹ
thuật Đông Dương mà có từ tranh khắc gỗ vẫn gọi là tranh dân gian. Thực ra
đó không phải là dân gian mà là hoạ sĩ hẳn hoi, phải làm bản vẽ ngược lên gỗ
287
mới khắc được thành bản in chứ.
Tầu nó khắc ngà voi rất nhiều lớp lồng vào nhau rất tinh vi. Ta không
bắt chước được. Còn thì bắt chước tuốt: kiến trúc, chạm gỗ, ngói âm dương,
tượng Kim Cương, phật Quan Âm...
Trẻ con vẽ là hoạ trẻ con. Không nên cho trẻ con vẽ đã là có năng
khiếu. Phải trưởng thành mới biết. Vì vấn đề là mắt, không phải là trí óc như
Văn, Nhạc. Thần đồng không có ở hội hoạ. Lớp trẻ bây giờ không có ngoại ngữ,
không phát triển được. Phải tiếp xúc với nước ngoài mới mở rộng được tầm
mắt...
Lưu Công Nhân nói liên miên. Vả lại tôi có biết gì về hội hoạ đâu mà
nói. Cho nên vẫn chỉ có một thằng độc thoại. Mà hắn thì chỉ cần có một đối
tượng nào đấy để trút ra những suy nghĩ của mình.
* *
*
Mấy năm nay. Tôi không có dịp gặp Lưu Công Nhân lần nào nữa. Hắn
không còn ở Sài Gòn mà đã lên Đà Lạt. Nghe nói ở đấy, hắn có một biệt thự rất
đẹp.
Mùa xuân năm nay, tôi vào Sài Gòn, bỗng được tin Lưu Công Nhân
mất. Buồn vô cùng. Cứ thấy hụt hẫng, trống vắng thế nào!
Nhớ lần gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi ở Sài Gòn, Nhân có ý muốn tôi
ghi lại cuộc trò chuyện hôm ấy.
Nguyện vọng đó của Nhân, tôi đang thực hiện đây.
Tiếc rằng Nhân chẳng còn sống để mà đọc!
Quan Hoa, cuối thu năm 2006
Sài Gòn cuối xuân năm 2007
Chương XXIV: Hữu Thỉnh
Hữu Thỉnh có máu làm quan, chỉ cố chí leo lên cho được một cái ghếlãnh đạo thật cao. Hắn tin ở tướng số, ở tử vi. Đi đâu cũng xem giờ xuát hành và
thắp hương khấn vái.
Một hôm, Trung Đức, nhà ở Tràng Tiền , mời Thỉnh và tôi đến nhậu.
Hữu Thỉnh tự khoe tướng của mình rất tốt: “Em lông mày lưỡi mác, em còn
lên” – Thỉnh vừa nói vừa chọc chọc ngón tay lên cao. Lúc ấy Thỉnh mới là uỷ
viên chấp hành Hội nhà văn. Thỉnh xoay ra xem tướng tôi: “Anh có cái nốt ruồi
bên trái mũi. Nếu ở vào giữa sống mũi thì anh đi tù rồi. Nếu ở đầu mũi, anh đi
ăn mày!” Thỉnh nói dứt khoát như thế.
Năm 1983, tôi và Thỉnh từ Hà Nội đi Hải Phòng dự cuộc hội thảo về
Nguyên Hồng, nhân ngày giỗ của ông (Nguyên Hồng vốn là chủ tịch Hội văn
nghệ Hải Phòng). Đi đến chân cầu Phú Lương, Thỉnh cho đỗ xe, xuống thắp
hương cho vợ chồng Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ một cách rất thành kính.
Thắp hương hai chỗ: chỗ bị tai nạn và chỗ quàn tạm thi thể hai vợ chồng.
Từ ngày ấy, không biết có phải nhờ trời phật phù hộ không mà Thỉnh
cứ lên vùn vụt. Từ uỷ viên chấp hành lên Tổng thư kí. Xuýt nữa vào nhà đỏ.
Thực ra mẹo của Thỉnh là lấy lòng cả làng, nịnh tuốt. Đối với người già, Thỉnh
tổ chức chúc thọ đầu năm, lập Hội nhà văn cao tuổi. Đối với bọn làm thơ đang
chẳng có ai thèm đọc, hắn tổ chức Hội thơ xuân. Thỉnh đúng là một “Thiên tài
hiếu hỷ” – Nguyễn Huy Thiệp nói đúng. Ai có cha già mẹ héo, ai ốm đau hay
gặp tai nạn gì, Thỉnh đến ngay và có phong bì. Vừa rồi, họp đại hội nhà văn lần
thứ 7, tôi bị ngã. Hôm sau Thỉnh đã đến thăm rồi.
Thỉnh có cách phát biểu ca ngợi người khác rất tâm huyết. Được khen
một cách đầy tâm huyết, ai chả thích!
Nhớ một lần gặp tôi ở khách sạn nổi Hồ Tây – hôm ấy Hội Nhà văn có
liên hoan gì đó. Thỉnh ôm lấy tôi, nói lớn: “Nhà phê bình nghệ sĩ!”. Những lời
lẽ tâm huyết như thế, chắc Thỉnh ban phát cho nhiều người.
Từ Đại hội nhà văn lần thứ III, Thỉnh là uỷ viên cháp hành phụ trách
công tác nhà văn trẻ. Anh thường mời tôi cùng đi bồi dưỡng những cây bút trẻ ở
các nơi. Tôi để ý thấy Thỉnh rất chú ý mời các vị đàn anh trong đoàn lên tiếp
các quan chức cấp tỉnh, còn mình thì giữ phận đàn em, rất khiêm tốn.
Một lần, tại Mộc Châu, tôi ở cùng phòng với Thỉnh. Có một cây bút trẻ
đến đọc thơ cho Thỉnh nghe. Hai tay ngồi trên cái giường một, còn tôi ngồi ở
cái bàn cạnh cửa sổ. Thỉnh thoảng tôi lại giật mình vì Thỉnh vỗ đùi nói lớn:
“Tuyệt!”. Đối với một cây bút cấp tỉnh, cấp huyện, được một nhà thơ trung
ương, uỷ viên chấp hành Hội, khen thơ mình như thế thì sướng quá rồi còn gì!
ở Vĩnh Phúc, có anh giáo viên dạy chuyên văn tên là Khoái biết Thỉnh.
Anh nói với tôi, Thỉnh nịnh cả vợ nhà văn địa phương. Đến thăm một nhà văn ở
Vĩnh Yên, gặp vợ anh này, tự nhiên Thỉnh kêu to: “Ôi, Xuân Quỳnh!” – Chị
289
này chẳng hiểu gì cả. Hoá ra Thỉnh khen chị ta xinh đẹp như Xuân Quỳnh.
Thỉnh thoảng Thỉnh lại điện cho những cây bút địa phương gửi bài đến
để anh đăng trên báo trung ương. Đối với các cây bút tỉnh lẻ, được đăng bài trên
báo trung ương là danh giá lắm!.
Nhưng có điều này thì Thỉnh lại cứng rắn hơn ai hết, nguyên tắc hơn ai
hết: đừng đụng đến cái ghế của anh ta, đừng cản trở con đường thăng quan tiến
chức của anh ta. Về mặt này Thỉnh sẵn sàng đổi trắng thay đen, trở mặt như bàn
tay, thậm chí sẵn sàng làm những điều bậy bạ, vô nguyên tắc, sẵn sàng vất vỏ
chân lý, đạo lý.
Trên kia tôi đã nói đến chuyến đi Hải Phòng với Thỉnh dự cuộc hội
thảo về Nguyên Hồng. Lúc ấy Nguyên Ngọc bắt đầu bị cấp trên để ý. Lãnh đạo
tỏ ra khó chịu về cái vai tổng biên tập báo Văn nghệ khá bất trị của anh, và
muốn tìm người thay. Một trong những người được các vị nhắm tới là Hữu
Thỉnh. Hôm ấy, cùng Thỉnh đi dạo trên hè phố Hải Phòng, Thỉnh nói với tôi dứt
khoát: “Em với anh Nguyên Ngọc, đời nào em lại muối mặt ngồi vào chỗ anh
ấy”. Vậy mà chỉ ít ngày sau, đã thấy Thỉnh nhận chức Tổng biên tập Văn nghệ.
Con người này, đúng là không thể tin cậy được.
Thỉnh ngang nhiên bợ đỡ Mai Quốc Liên và Trần Mạnh Hảo, vì biết
cấp trên đang tin dùng hai tay này. Mặt khác đó là những kẻ rất hung hăng và to
mồm, biết cách nịnh trên nạt dưới, rất có thể gây khó dễ cho Thỉnh. Thỉnh còn
cho Văn nghệ trẻ đăng nhiều bài rất nhảm nhí của Hoàng Xuân Tuyền, vu cáo
những người biên soạn sách giáo khoa, vì thấy xu thế đánh vào ngành giáo dục
đang được trên khuyến khích. Nhớ hồi Bộ giáo dục chủ trương biên soạn hai bộ
sách giáo khoa môn văn PTHT (sách cải cách giáo dục) và bị lãnh đạo cho là có
vấn đề. Chính Thỉnh, trong quốc hội, đã gào lên như là phẫn nộ lắm: “Một nước
thống nhất, mà sao lại có hai bộ sách giáo khoa?” - ý nói có một âm mưu chính
trị muốn chia rẽ đất nước. Không biết Thỉnh có tìm hiểu gì không, nhưng điều
chắc chắn là hắn thấy chiều hướng quốc hội (tất nhiên cũng là chiều hướng của
Đảng) như thế, nên tập tức tỏ thái độ hưởng ứng kịp thời.
Thỉnh ra sức che chắn cho Trương Vĩnh Tuấn (phụ trách Văn nghệ trẻ)
vì Tuấn rất cần cho Thỉnh, tuy Tuấn là thằng cha láo lếu, mất dạy (hình như
thằng cha này xoay tiền rất giỏi). Hắn phát biểu như một thằng điên khùng:
“Tôi căm thù những người viết sách giáo khoa” – Hắn nói thẳng với cô Hoàng
Hoà Bình như thế, khi Bình đề nghị hắn giải thích về những bài xuyên tạc sách
giáo khoa trên Văn nghệ trẻ. Những chuyện như thế nếu có ai gặp Thỉnh trực
tiếp phê phán thì Thỉnh lại tìm cách xuê xoa, nói là đi vắng, không biết, và hứa
sẽ xử lý”.
Thỉnh kết nạp hội viên hay tổ chức giải thưởng hàng năm của Hội cũng
rất bừa bãi, cốt củng cố cho chắc cái ghế của mình. Thỉnh bầy ra cái trò bầu đi
bầu lại giải thưởng Hồ Chí Minh một cách vô lối cho Hồ Phương và Hà Minh
Đức. Tuy thừa biết Hồ Phương và Hà Minh Đức viết lách như thế nào, nhưng
mặc, Thỉnh cứ tổ chức bầu đi bầu lại, cốt tỏ ra quan tâm tới quyền lợi của anh
em. Nịnh trên, nịnh dưới – thực chất là lừa dối anh em bằng những lời đường
290
mật, đó là đường lối chiến lược cơ bản của Thỉnh.
Nhưng xem chừng con đường hoan lộ của Thỉnh cũng chỉ đến thế thôi,
tuy Thỉnh đã phải trả giá bằng biết bao công sức và mồ hôi của tâm não, cũng
như... biết bao hương khói khấn vái Trời, đất, thần, Phật...
Cách đây dễ đến sáu, bẩy năm, trong một cuộc họp có mặt Thỉnh, Đỗ
Chu nhìn tướng Thỉnh, nói với tôi: “Thỉnh trán hóp dần lên trên, không lên
được nữa đâu!”. Không biết Thỉnh có thấy tướng mình như thế không?
* *
*
Tôi viết xong bài về Hữu Thỉnh được ít lâu thì Nguyễn Văn Hạnh ở Sài
Gòn ra đến chơi. Hạnh nói cũng vừa gặp Thỉnh. Anh hoàn toàn tán thành những
nhận xét của tôi về Thỉnh, đặc biệt là những thủ đoạn lấy lòng tất cả mọi người
và thói hứa hão, hứa đầu lưỡi, sau đó quên ngay.
Nhưng Hạnh có nói điều này khiến tôi phải ngẫm nghĩ. Có lẽ những
nhận xét của mình về Thỉnh có phần thiếu công bằng chăng?
So sánh Thỉnh với những ông Tổng thư ký tiền nhiệm xem., người ta
dễ có ấn tượng Thỉnh thua kém, rất thua kém. Nhưng thử nghĩ mà xem, các ông
Nguyễn Đình Thi, Vũ Tú Nam, Nguyễn Khoa Điềm có gì hơn Thỉnh nào? Các
vị đã làm được gì có ích cho đồng nghiệp của mình? Đã làm được gì để bảo vệ
anh em những lúc bị quy chụp chính trị bừa bãi, thậm chí bị tù oan? Đã làm gì
để giúp Hữu Loan trong những ngày khốn khổ ở Thanh Hoá? Đã làm gì để bênh
vực Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Phùng Quán, Lê Đạt... trong vụ Nhân văn –
Giai phẩm? Đã làm gì để cứu Nguyễn Hữu Đang, Thuỵ An, Trần Thiếu Bảo,
Trần Dần, Hoàng Cầm, và sau này Dương Thu Hương khỏi đi tù? Đã làm gì để
giúp đỡ gia đình Nguyên Hồng trong những ngày đói khát ở Nhã Nam? Đã làm
gì để bảo vệ danh dự cho Trần Độ, đến lúc chết vẫn còn bị vu cáo?...v.v...
Té ra tất cả, từ Nguyễn Đình Thi, Vũ Tú Nam, Nguyễn Khoa Điềm đến
Hữu Thỉnh đều là một lũ bù nhìn, đều vô tích sự như nhau cả thôi.
Nhưng riêng Hữu Thỉnh thì có điều này cũng nên tính công cho hắn
chứ: Thỉnh quả có cố gắng tạo cơ sở vật chất cho Hội. Như gần đây hắn đổ khá
nhiều tâm huyết vào việc xây dựng trụ sở mới, trại sáng tác mới của Hội và Bảo
tàng nhà văn ở Quảng Bá. Tôi vừa lên xem, rất hoành tráng.
Các vị Nguyễn Đình Thi, Vũ Tú Nam, Nguyễn Khoa Điềm đã làm
được gì tương tự như thế chưa?
Vậy thì nếu so sánh, ai hơn ai?
Láng Hạ 10. 4. 2008
Chương XXV: Nguyễn Huy Thiệp
Thiệp có tài bịa chuyện như thật. Không phải chỉ trong văn đâu, trongđời sống cũng vậy.
Ngày khánh thành pho tượng Phật của anh, anh mời tôi đến đánh chén.
Anh hỏi tôi khi đứng ngắm pho tượng: “Anh thấy mặt tượng giống nam hay
giống nữ?”. Tôi nói, giống nữ. Thiệp bảo: “Thế là nam tính của anh mạnh. Nếu
thấy giống nam là nữ tính mạnh” (Có người lại thấy giống Phạm Thị Hoài).
Thiệp đưa tôi xem bức ảnh chụp buổi lễ gọi là hô thần nhập tượng và
nói, hôm ấy chúng em mời thế nào mà có hai vị Hoà thượng cùng đến một lúc,
mà vị nào cũng quên không mang chuông mõ. Em và Hồng Hưng (Hồng Hưng
là hoạ sĩ kiêm điêu khắc, cùng làm tượng với Thiệp) phải chia nhau mỗi người
một ngả đi mượn ở những ngôi chùa quanh vùng. Đến đâu cũng thấy nhà chùa
đã sắp sẵn chuông mõ giao cho, nói là: “Đêm qua đức Phật báo mộng, có người
đến thu chuông mõ”.
Thiệp lại kể, khi tượng Phật sắp hoàn thành, bỗng thấy có một bà nhà
quê ở đâu đến, thấy tượng vội sụp lậy như tế sao. Hỏi thì nói, bà ta có con bị
ốm. Mời thầy cúng đến. Ông thầy nói, bà yên tâm, gần đây người ta đang xây
tượng Phật, ma quỷ sẽ phải chạy hết, nay mai con bà khỏi thôi. Quả đúng như
vậy.
Một hôm khác, tôi nhớ là ngày giỗ ông thân sinh của Thiệp. Anh mời
chúng tôi đến uống rượu. Hôm ấy khá đông khách. Thiệp cho biết, ở Hà Nội, có
những bà đồng cứ nhận mình là Ngô Thị Vinh Hoa – một nhân vật huyền thoại
của Thiệp trong truyện Phẩm tiết. Thiệp nói, hôm ấy, anh ra Hà Nội, gặp một bà
đồng đang đi với ông tiến sĩ Hoàng Phương, một chuyên gia về khoa học thần
bí. Đó là một trong những bà đồng tự nhận mình là Ngô Thị Vinh Hoa. Trông
thấy Thiệp, bà ta bỗng lăn đùng ra đất, mồm hộc máu. Thiệp hoảng hồn, bỏ
chạy vì sợ liên luỵ.
Thiệp viết thì hay, nhưng nói chuyện thì không hấp dẫn lắm. Anh có tật
nói lắp. Người đen, có vẻ phong trần – Hồi Thiệp mới xuất hiện, nổi lên như
cồn, nhiều kẻ sinh đố kỵ. Khi Thiệp viết Phẩm tiết, bị quy là xúc phạm Quang
Trung, nhiều tay liền xúm vào đả kích, chửi bới. Đỗ Chu, trong một cuộc họp ở
Hội nhà văn, nói: “Mặt nó như cái ruộng nẻ, nó dám xúc phạm anh hùng dân
tộc, sao không bỏ tù nó đi!”.
Thiệp vốn là một giáo viên dạy sử, nhưng thực sự là con người của
cuộc đời phong trần, bụi bặm, thực sự vật lộn với cuộc sống để mưu sinh. Anh
từng buôn gỗ, có lúc làm trang trí nội thất thuê, có thời gian vẽ gốm cho lò gốm
Bát Tràng, rồi vẽ bìa sách cho nhà xuất bản Giáo dục... Khi mới được chuyển từ
Sơn La về Hà Nội (Nhà xuất bản Giáo dục), Thiệp xin với Nguyễn Đức Nam,
Giám đốc nhà xuất bản, cho vợ anh, đang dạy học ở Từ Sơn, về Nhà xuất bản.
Thiệp mặc cả với Đức Nam sẽ có cách đưa được con Nam từ Hà Tây về Hà
Nội. Nam nói, chuyện của tao, tự tao giải quyết được. Thiệp phải dắt gái
292
cho Nam ba lần, Nam mới đồng ý. Hiện vợ Thiệp vẫn chữa morát cho nhà xuất
bản Giáo dục.
Thiệp hai lần mở quán ăn. Một lần ở Gia Lâm, gọi là quán Nhà Sàn
Hoa Ban. Một lần ở số 1 Láng Hạ, gọi là nhà hàng Hưng Thịnh. Tôi có được
mời dự lễ khai trương. Quán Hoa Ban thì do quan hệ giữa chủ đầu tư và Thiệp
không hợp thế nào đó, nên Thiệp bỏ. Còn quán Hưng Thịnh thì không hiểu sao
vừa mở được ít ngày đã sập tiệm.
Vừa rồi, Thiệp viết bài Trò chuyện với hoa thuỷ tiên, bị bọn làm thơ
ghét lắm. ở đại hội nhà văn lần thứ bẩy, anh nói với tôi, tưởng chúng nó không
bầu mình làm đại biểu, thế mà hoá ra cũng đủ phiếu.
Nguyễn Khải cho biết, ở trong Nam, có một người đàn bà họ Đinh,
kinh doanh rất giỏi, giầu lắm. Chị này rất quý Nguyễn Huy Thiệp. Thỉnh thoảng
Thiệp vào Sài Gòn được cung phụng sướng như vua.
Thiệp là một trong những nhân vật hấp dẫn đối với khách nước ngoài.
Tôi đến anh, thường gặp, khi thì một ông Tây, khi thì một ông Tàu hay một bà
Nhật, khi thì một trí thức Việt kiều ở Pháp, ở Mỹ về nước...
Hoàn cảnh ấy khiến Thiệp sinh chủ quan, kiêu ngạo. Tôi cho đấy là
dấu hiệu thiếu bản lĩnh. Trong nhiều bài viết, Thiệp cứ xưng xưng tự khoe là
người tài, người nổi tiếng, là nhà văn lớn. Một lần có một doanh nhân trẻ mới
phất lên. Anh ta quen một người học trò của tôi và tỏ ra cũng thích văn chương
nghệ thuật. Có lẽ do ảnh hưởng của anh học trò của tôi (một nghiên cứu sinh),
anh doanh nhân này muốn đóng vai Mạnh Thường quân, mời tôi, Hoàng Ngọc
Hiến và Nguyễn Huy Thiệp đi chơi một chuyến lên vùng Xuân Mai, Hoà Lạc.
Anh ta nhờ tôi mời hộ. Tôi gọi điện cho Hiến. Hiến nhận lời ngay. Tôi gọi điện
cho Thiệp. Thiệp từ chối: “Anh phải cẩn thận, nhiều kẻ nó muốn lợi dụng
chúng mình đấy!” – Thiệp khuyên tôi qua điện thoại như vậy. Tôi nghĩ bụng, rõ
vớ vẩn. Nó lợi dụng mình để làm gì chứ! ở cái nước này, trí thức văn nghệ sĩ có
giá gì đâu mà sợ bị lợi dụng. Đúng là Thiệp càng ngày càng thấy mình to quá,
lớn quá, quan trọng quá.
Vào những năm 80 của thế kỷ trước, Nguyễn Huy Thiệp nổi lên như
một sự kiện quan trọng, có tiếng vang ra cả nước ngoài. Người đầu tiên giới
thiệu Thiệp một cách công phu là Hoàng Ngọc Hiến với một bài viết có cái đầu
đề khá kiểu cách: “Tôi không chúc anh thuận buồm xuôi gió” (Bài giới thiệu
tập truyện Tướng về hưu lần đầu tiên in ở NXB trẻ thành phố Hồ Chí Minh,
1988). Năm 1990, Thiệp nhờ tôi viết lời tựa cho một tập truyện ngắn khác của
anh. Bài viết của tôi không được dùng vì Thiệp nói, có lệnh của công an không
cho in lời tựa cho tác phẩm này (Thiệp từng bị công an theo dõi, có thời gian bị
khám nhà và quản thúc). Tôi gửi bài viết cho tạp chí Sông hương, đăng vào năm
1991.
ý kiến của tôi và Hiến khác nhau. Hiến cho rằng trong truyện của
Thiệp có sự đối lập giữa các nhân vật nam và nhân vật nữ: Nữ là chính diện,
nam là phản diện. Từ đó cho rằng tinh thần phê phán xã hội của Thiệp là xuất
phát từ quan điểm gọi là “thiên tính nữ”. Tôi không tán thành ý kiến ấy, vì thấy
293
không có sự đối lập này trong nhiều tác phẩm tiêu biểu của Thiệp. Nhận xét của
tôi là sự đối lập về tư tưởng – tiêu cực và tích cực của các nhân vật trong truyện
của Thiệp - không phải giữa nam và nữ, mà giữa những nhân vật sống gần với
tự nhiên (thường ở trong nhà, thậm chí trong xó bếp, hoặc ở nông thôn hay
trong thẳm rừng), nên vẫn giữ được bản chất thiên nhiên, bản chất tạo hoá tự
nhiên của mình, với những nhân vật đi vào xã hội, bị xã hội hoá - trong tác
phẩm của Thiệp, xã hội hoá đồng nghĩa với tha hoá. Tôi đưa ra một loạt dẫn
chứng và khẳng định hầu như không có ngoại lệ: Tướng về hưu, Những bài học
nông thôn, Những người thợ xẻ, Không có vua, Trái tim hổ, Muối của rừng...
Hôm ấy, sau cuộc nhậu ở nhà Thiệp, khánh thành pho tượng Phật, tôi
và Hiến tranh luận với nhau. Hiến vẫn giữ ý kiến của mình. Anh nói: “Cậu nên
nhớ, con khỉ dạy cho ông Diểu bài học làm người (trong truyện Muối của rừng)
là con khỉ cái nhé – nghĩa là vẫn đúng với luận điểm “thiên tính nữ”.
Thiệp ngồi quan sát tôi và Hiến tranh luận. Anh chỉ cười.
Hình như càng ngày, Thiệp càng cố tình tạo ra trong tác phẩm của
mình những cảnh đời quái đản, tăm tối, với những con người, từ thế xác tới tâm
hồn, như chui từ bùn rác, cống rãnh lên – Một thái độ hư vô chủ nghĩa, nhạo
báng tuốt, nói ngược lại tuốt, cố tình gắn cái cao cả với cái thấp hèn, cái to tát
với cái bé mọn, cái trinh trắng với cái bẩn thỉu tục tĩu... Một thứ nihilisme –
Dieu est mort – kiểu Nietzsche. Và hành văn cũng theo lối phán truyền của
Nietzsche (style parabolique). Hình như Thiệp có hứng thú (và có sở trường)
ném ra những lời như sấm ngôn, như thánh phán, với những mệnh đề triết lý tù
mù, bí hiểm, có thể suy ra nhiều nghĩa. Tôi ngờ rằng, chưa chắc Thiệp đã có tư
tưởng gì thật sự nên mới làm ra thế để loè thiên hạ, đồng thời che giấu bản chất
còn mù mờ của tư tưởng mình. Người đọc có thể thấy đây đó những điều có vẻ
loé sáng, nhưng không bao giờ thấy có ngọn lửa chân lý hẳn hoi.
Gần đây đã có không ít người nói đến dấu hiệu đuối sức, cạn tài của
Thiệp. Tôi cho chỗ hay nhất của Thiệp vẫn là lối viết táo bạo nhưng chân thật,
hồn nhiên, bản năng. Gần đây Thiệp có truyện Ông Móng viết về cái chợ đêm
bán phân người ở Hà Nội. Người ta khoắng tay vào thùng phân để kiểm tra.
Phân cũng làm hàng giả. Nên mua phân cũng phải khoắng tay để kiểm tra. Cuộc
sống thật quyết liệt, tối tăm, một nhân loại cùng khổ đến thế là cùng. Đúng là
những nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp, là thế giới nghệ thuật của Nguyễn Huy
Thiệp. Cứ phải xục xuống bùn, xục sâu xuống tận đáy cho đục ngầu hẳn lên...
Tôi thấy truyện này rất tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách Thiệp – một chủ
nghĩa hiện thực “không có vua”... Tài nghệ và tư tưởng của Thiệp đã tìm được
một đề tài thích hợp.
Có lẽ nhược điểm của Thiệp là thường thuật kể theo các hành vi ngoại
hiện của nhân vật, ít đào sâu vào đời sống nội tâm của các vai truyện. Vì thế
không viết được tiểu thuyết chăng? Ngày xưa Nguyễn Công Hoan cũng có
nhược điểm này. Nhưng dù sao tiểu thuyết của cụ Hoan cũng không quá dở như
của Thiệp.
Cuối năm 1988, Nguyễn Minh Châu bấy giờ đã mệt lắm. Anh vào
294
Nam chữa bệnh không có hiệu quả lại trở ra Bắc. Tôi đến thăm anh ở 108. Anh
nói với tôi: “Bây giờ có ai nghiên cứu về cái đề tài này cũng hay đấy nhỉ: Từ
Đỗ Chu đến Nguyễn Huy Thiệp”. Anh không nói gì thêm nữa. Tôi chắc anh
nghĩ đến hai cái mốc đánh dấu hai thời kỳ văn học nước ta, bằng hai tài năng trẻ
cùng viết truyện ngắn: Đỗ Chu là người thể hiện chất thơ của miền Bắc xã hội
chủ nghĩa, còn Nguyễn Huy Thiệp thì thể hiện chất văn xuôi phàm tục và chất
bi hài của chủ nghĩa xã hội hiển lộ ra từ thời kỳ đổi mới.
Nguyễn Thị Huỳnh 9. 7. 2007.
Chương XXVI: Trần Đăng Khoa
Trần Đăng Khoa từ bộ dạng, cách nói năng (lẫn lộn n với l), đến thóiquen ăn uống đều đặc nông dân: chỉ thích món thịt lợn kho, cá kho, rau muống
luộc, lòng lợn chấm mắm tôm, không thích thịt bò, gà vịt, hải sản, không thích
bia...
Vào khoảng năm 1975, báo Phụ nữ Việt nam có đặt tôi viết một bài về
trường ca Tiếng hát người anh hùng của Trần Đăng Khoa. Bài ấy, tôi ký tên con
gái tôi: Nguyễn Thị Thanh Thuỷ. Nội dung cơ bản của bài viết là khẳng định
Trần Đăng Khoa là nhà thơ nông dân. Tất cả tài năng của anh đều do nông thôn
bồi dưỡng nên. Thành công hay thất bại của tác phẩm đều là do Khoa hoặc nói
bằng tâm hồn và ngôn ngữ nông dân của mình, hoặc mượn ý tưởng, cách nói
của tầng lớp xã hội khác.
Tôi tiếp xúc với Khoa lần đầu tại nhà Khoa ở Nam Sách. Lúc ấy Khoa
học lớp Tám ở trường cấp III Nam Sách (Hồi ấy cấp III gồm 3 lớp 8, 9, 10).
Một đoàn sinh viên sư phạm Hà Nội về đấy thực tập. Tôi về thăm đoàn thực tập
này và nhân tiện tạt về nhà Khoa một lát.Tôi thấy Khoa ứng xử, tiếp đón, nói
năng với khách rất đàng hoàng, chững chạc, không có vẻ một cậu học trò lớp
Tám. Về sau này chính Khoa nói với tôi: “Người ta cứ bảo em hồi nhỏ rất hồn
nhiên, nay không còn hồn nhiên nữa. Không đúng. Hồi nhỏ em chẳng hồn nhiên
gì cả.Nói dối như ranh. Và Khoa kể chuyện này: “Một lần có một cuộc hội nghị
y tế toàn miền Bắc họp ở tỉnh Hải Hưng. Các ông phụ trách hội nghị đưa Khoa
đến để khoe “thần đồng” của tỉnh. Thường họ đề ra cho em làm thơ để thử tài.
Ông Phạm Ngọc Thạch, bộ trưởng Bộ Y tế, tặng em một cái bật lửa. Không
hiểu sao lại tặng mình bật lửa? Tặng trẻ con, lại tặng bật lửa để làm gì! Đúng
là dớ dẩn. Em nghĩ bụng thế. Nhưng em lại phát biểu trước hội nghị: “Bác tặng
em cái bật lửa là rất có ý nghĩa. Đây là ngọn lửa tượng trưng cho lý tưởng cách
mạng. Em nguyện sẽ mang ngọn lửa này trong suốt cuộc đời mình...” Cả hội
trường vỗ tay ầm ĩ, khen thằng bé giỏi quá!
Từ ngày Khoa học trường viết văn Nguyễn Du, tôi tiếp xúc với Khoa
luôn. Có năm Khoa đến ăn Tết với gia đình tôi, quan hệ rất thân mật.
Khoa đúng là có tài, rất thông minh. Có lẽ Khoa có ý thức mình là thần
đồng nên chịu khó đọc sách, đọc sáng tác, đọc phê bình, để có một vốn tri thức
đàng hoàng, có thể ăn nói với đời. Khoa tỏ ra rất hoạt bát. Mồm mép ghê gớm,
phát biểu rất có chủ kiến, đầy tự tin, có phần kiêu ngạo nữa. Những năm gần
đây, tôi với Khoa thường được mời tham gia hội đồng chung khảo của những
cuộc thi sáng tác văn học do Nhà xuất bản Giáo dục, Hội nhà văn hay tổ chức
Văn hoá doanh nhân của Lê Lựu tổ chức. Tôi thấy Khoa rất to mồm, nhiều khi
tỏ ra muốn áp đặt tư tưởng của mình đối với hội đồng.
Khoa thường nói giọng khẳng định dứt khoát, nhiều ý kiến sắc sảo,
nhưng cũng lắm nhận định không chính xác do vốn kiến thức còn lắm lỗ hổng.
Tuy thế tôi vẫn thích nghe Khoa nói. Tôi thích người nói thẳng thắn, có chủ
296
kiến riêng, dù không đúng cũng gợi cho mình suy nghĩ.
Dưới đây, tôi tường thuật vài đoạn Khoa nói chuyện với tôi (tôi muốn
ghi lại đúng giọng điệu, khẩu khí của Khoa):
“Văn học đang đổi mới. Không thể viết như cũ được nữa. Tất cả cũ
rồi, Các nhà thơ thời chống Mỹ vẫn khá hơn cả, song cũng tắc rồi. Nguyễn Duy
triển lãm thơ bằng cách vất thơ vào rổ rá, cối xay... là vớ vẩn lắm rồi! Nguyễn
Huy Thiệp cũng tắc. Vàng Anh cũng hết – một hồi ta đề cao hơi quá. Phạm Thị
Hoài có khá hơn.
Nhưng cái mới chưa có, chưa xuất hiện. Văn xuôi có khá hơn. Thơ thì
có lẽ thời buổi này không phải là thời của thơ. Đây là thời của truyện, của kịch,
của phim, của tivi...”
“ Hồ Xuân Hương không có. Không có Hồ Xuân Hương! Đàn bà
không tả cái của đàn bà hấp dẫn như thế “Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng”,
đàn ông mới nói thế: “Cô gái ngủ ngày” là đàn ông viết”.
“Em đã ghép mười câu thơ của mười nhà thơ lại thành một bài hoàn
chỉnh. Chứng tỏ thơ ta một thời rất giống nhau, cùng một gương mặt. Em cũng
ghép lại những câu thơ của Huy Cận lại thành một bài thơ về vũ trụ. Lại ghép
bốn nhà thơ, mỗi ông bốn câu, thành một bài hoàn chỉnh.
“Ngoài sân rơi cái lá đa, Lá rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Nhiều
người khen, Thực ra không hay lắm, câu thơ trung bình thôi. Chỉ tả cảm giác.
Thơ hay là nói cái nội tâm, cái tình, cái hồn. Như câu “Mái tranh ơi hỡi mái
tranh, Trải bao mưa nắng mà thành quê hương”.
“Phê bình văn học chỉ có ba người: Hoài Thanh, Nguyễn Đăng Mạnh,
Lê Ngọc Trà. Trà thực ra là nhà lý luận. Cụ Mạnh lý luận không phải chỗ
mạnh. Chỗ mạnh là phê bình tác phẩm. Cụ rất tinh”.
Em không thích bài Lá đỏ của Nguyễn Đình Thi, cả bài Lá Diêu Bông
của Hoàng Cầm. Chả có gì hay. Cụ phản biện đi, hay ở chỗ nào?”. Tôi nói:
“Thơ hay không phân tích, không giảng được”. Khoa: “Không phải thế. Nếu
hay là cụ phân tích được hết”.
Khoa khen bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, không có gì mà hay. Tôi
nói: “Đấy cậu nói không có gì mà hay đấy thôi!” Khoa: “Không phải, hai
chuyện khác nhau, cụ đánh tráo khái niệm”. Nhật có bài thơ tên là Tiếng thu.
Có bốn câu khác hẳn. Nguyễn Vỹ dịch ra giống thơ Lưu Trọng Lư, rồi người ta
tưởng là Lưu Trọng Lư ăn cắp. Một vụ án văn học, oan cho Lưu Trọng Lư”.
“Nhà cổ Hà Nội không gọi là nhà cổ được. Một trăm năm, cổ gì! Tốt
nhất là phá hết khu phố cổ Hà Nội đi. Hội An mới thực là nhà cổ”.
Khoa khi nói hay đế chữ “đấy!” như là một thứ dấu chấm câu vậy:
“Thầy hình dung không?
Em nói thật với thày, đấy!
Nguyễn Khải, Chế Lan Viên thông mình, là đầu bảng - đấy!
Cụ Mạnh viết ra tấm ra món. Thẩm văn rất tinh. Có văn. Nhiều người
có ý mà không có văn. Có ý mà không tải được ra văn, cứ tải ra chữ lại hỏng -
đấy! Cụ Hiến phát hiện thì đúng, nhưng triển khai ra thì như hụt hơi, như ngắn
297
lưỡi - đấy! TĐX tiếp xúc tay bo thì rất khá. Nhưng viết ra thì không ra sao cả -
đấy! Phải có mắt xanh, ông Xuân Diệu gọi là đầu mày cuối mắt”.
Phạm Xuân Nguyên thông minh, nhưng thẩm văn kém.
Mai Quốc Liên cũng vậy - đấy
Sử có học, nhưng thẩm văn xoàng...”
Nói chung Khoa không thích văn trí thức như văn Nguyễn Tuân,
Nguyễn Đình Thi. Khoa nói dứt khoát với tôi: “Đấy rồi thầy xem, mươi năm
nữa người ta không đọc Nguyễn Tuân nữa đâu!”.
Trong Chân dung và đối thoại, Khoa chê Nguyễn Tuân không biết
uống nước trà. Bà Ân con gái cả của Nguyễn Tuân tức lắm. Bà nói: “Cái thằng
ấy chỉ biết ăn cua ăn cáy chứ nó biết uống trà là cái gì mà dám chê ông cụ tôi.
Tôi đã phục vụ ông cụ uống trà, tôi biết chứ. Pha trà phải kén nước giếng ở một
ngôi chùa là chuyện có thật (trong truyện Nguyễn Tuân gọi là chùa Đồi Mai).
Rồi hầm củi ủ than để đun nước pha trà như thế nào... Nó biết cái gì mà dám
nói láo!”. Hôm ấy, dự lễ trao giải thưởng Nguyễn Tuân cho sinh viên Đại học
Sư phạm Hà Nội, bà nói sôi sục. Anh Nguyễn Xuân Đào, con trai út Nguyễn
Tuân, phải can mãi.
Nhưng Khoa là tay chống chế rất giỏi. Trong Chân dung và đối thoại,
Khoa chê cụ Ngô Tất Tố, trong Tắt đèn cho chị Dậu bán con, so sánh với
Fantine củaV.Hugo bán tóc, là vô nhân đạo. Khoa bị phê phán là không hiểu
ngày xưa người nông dân phải bán vợ đợ con là chuyện phổ biến. Khoa chắc
thấy mình đuối lý nên tìm cách chống chế. Hôm ấy tôi và Khoa được trường
chuyên Hùng Vương (Việt Trì) mời lên giao lưu với học sinh. Khoa nói: “Tôi
không phải không biết chuyện bán vợ đợ con của nông dân nghèo ngày xưa.
Chính tôi có một bà cô phải bán con. Nhưng cụ Ngô Tất Tố cho chị Dậu đem
con đến nhà Nghị Quế, khi nó bắt cái Tý ăn cơm của chó, lẽ ra phải thôi, đem
con về, chấm dứt luôn truyện ở đấy. Ai lại mẹ thấy con phải ăn cơm của chó mà
chịu được!”.
Tôi biết đấy là mồm mép chống chế của Khoa, chứ trong Chân dung
và đối thoại , Khoa có viết thế đâu!
Khoa có một hồi được mời đi nói chuyện khắp. Người nghe rât thích.
Khoa biết cách nói rất hấp dẫn. Một trong thuật hấp dẫn của Khoa là giỏi hài
hước.
Khoa ghét cái gì là chế giễu rất ác.
Thí dụ, Khoa định nghĩa thơ Lê Đạt: Người ta nói “Tôi đi ăn cơm”, thì
Lê Đạt viết “Cơm đi ăn tôi”.
Trong một cuộc nói chuyện, Khoa dẫn thơ của Hoàng Hưng, Dương
Tường để giễu cợt:
Anh lang thang em...
Anh mini em...
Anh xanh xao em...
Anh tiết canh em...
Khoa cố tình tách những cụm từ ấy ra khỏi văn cảnh, biến chúng thành
298
khôi hài.
Khoa có cách diễn đạt rất tinh quái khi nhận xét lối phê bình của
Nguyễn Hoà: “Nguyễn Hoà là tay phê bình nghiệp dư, nhưng là nhà bóp dái
chuyên nghiệp. Hoà thực hiện được hai “cú” rất ngoạn mục: bóp vú Hà Minh
Đức và bóp dái Đoàn Thị Đặng Hương”.
Khoa kể câu chuyện này cũng vui: có một cô gái ở Sài Gòn kém Khoa
hàng chục tuổi, nhưng vẫn tưởng Khoa là một em thiếu nhi làm thơ. Cô gửi thư
cho Khoa gọi Khoa là em, muốn kết nghĩa chị em và khuyên Khoa chăm học,
nghe lời cha mẹ, tập thể dục buổi sáng...
Nghe Khoa nói, chỉ nên tin một nửa. Rất có thể chỉ là bịa cho vui.
Khoa đặc biệt có tật nói dối. Nói dối chẳng để làm gì cả. Một thói quen thế thôi.
Thí dụ Khoa khoe, tập II Chân dung và đối thoại đã viết xong. Có một bài viết
về Nguyễn Đăng Mạnh. Có những bài trả lời những người phê phán Chân dung
và đối thoại tập I... Sách in như thế nào, bìa ra sao, nhuận bút bao nhiêu. Khoa
còn nói cho biết cả nội dung các bài viết nữa. Khoa nói với tôi chuyện này dễ đã
sáu, bẩy năm rồi mà tới nay vẫn chẳng thấy mặt mũi tăm hơi gì. Mà khi nói,
Khoa toàn báo cho biết sắp in đến nơi.
Tôi nhớ cách đây dăm năm, mồng một Tết, Khoa có đến tôi (ở Quan
Hoa, Cầu Giấy). Khoa có kể cho vợ chồng tôi nghe anh sắp viết một vở kịch
vui: “Thị Nở cưỡi trâu ra tỉnh”. Cho đến nay vẫn chưa thấy viết.
* *
*
Người ta thường xì xào về chuyện sinh lý của Khoa, giống như Xuân
Diệu. Đã có người làm vè chế giễu.
Nhưng Khoa đã lấy vợ. Tôi có được mời tới dự. Ngay hôm cưới, Lê
lựu, bạn chí cốt của Khoa, vẫn không tin Khoa có thể làm ăn được gì. Anh nói
với tôi ngay ở tiệc cưới như thế. Nhưng vợ Khoa có mang và sinh con gái. Khoa
được thể nói phét: “Mình từng rắc con nhiều nơi, con rơi con vãi của mình nay
đã lớn, có thể bồ bịch với Trần Đăng Xuyền được”. Khoa nói với tôi hôm ấy ở
Cần Thơ, có mặt Trần Đăng Xuyền.
Khoa bây giờ là tay khôn ngoan có tiếng, đối đáp rất sắc sảo. Tô Hoài
nói, Khoa là quân sư quạt mo của Hữu Thỉnh. Trong ban chấp hành Hội nhà văn
khoá 7, Vàng Anh hay gây sự với Hữu Thỉnh. Khoa là người đứng ra gỡ bí cho
Hữu Thỉnh.
Theo chỗ tôi biết, Khoa còn là quân sư quạt mo cho Lê Lựu nữa trong
việc điều hành tổ chức Văn hoá doanh nhân.
Hai tay nông dân này hợp nhau trên mọi phương diện.
Láng Hạ 15.6.2007.
299
Kết luận
Kết luận
Tôi năm nay 77 tuổi. Tuổi âm lịch 78 (canh ngọ)
Nhìn lại, thấy cuộc đời mình cũng có thể xem là may mắn. Đất nước
đánh nhau 30 năm, hàng triệu người chết. Mình không chết. Thế là một cái
may.
Xã hội mình, pháp luật lỏng lẻo. Bao nhiêu người bị bắt oan. Mình
không bị bắt. Thế là hai cái may.
Nhớ lại hôm có mấy nhà văn Thuỵ Điển sang Việt Nam, đưa tin thất
thiệt tôi bị bắt. Tôi được Hội nhà văn mời ra gặp mấy ông Thuỵ Điển. Trên
đường về, tôi tạt qua Nhà xuất bản Giáo dục, thuật chuyện này với Nguyễn
Khắc Phi, lúc ấy làm tổng biên tập. Phi nói gọn lỏn: “Anh bị bắt là đáng lắm!”.
Như vậy, chuyện tôi bị bắt là một khả năng thật sự, nghĩa là rất có thể xảy ra.
Hồi ở Đồng Xa, vào năm 1987, tôi từng “được” một anh A25 đến thăm
hỏi. Họ cũng luôn đến lục lọi hồ sơ lý lịch của tôi ở phòng tổ chức Đại học Sư
phạm Hà Nội. Các vị ở phòng tổ chức cán bộ cho biết như vậy. Nhưng rồi cũng
chẳng sao. Vẫn được đủ thứ: giáo sư, nhà giáo nhân dân, giải thưởng Nhà
nước... Đúng là số tôi có quý nhân phù trợ.
* *
*
Có lẽ tôi có gien của ông bố: ham chơi, vui đâu chầu đấy, thích hưởng
lạc. Từ 14, 15 tuổi đã tập hút thuốc lá. Rồi thích đọc văn NguyễnTuân viết về
những thú hưởng lạc. Tôi chủ trương, trời cho hưởng cái gì, không bao giờ từ
chối, không việc gì phải từ chối. Nhưng không có thì thôi. Tôi có thể sống kham
khổ mà vẫn vui. Và thực tế, tôi đã sống như vậy. Thuở nhỏ, bố mẹ và các anh
chị cho tôi là một thằng bé rất dễ tính về chuyện ăn uống. Tôi có thể ăn cơm
nguội với muối trắng mà vẫn thấy ngon. Có một lần, nhà có quả bưởi sần, múi
khô, mọi người chê ăn như nhai rơm. Thế mà tôi vẫn chén hết. Lớn lên, trong
chiến tranh, tôi từng phải ăn cháo sắn, thậm chí ăn củ chuối trừ bữa. Tôi rất ghét
những tay cay cú, cố đấm ăn xôi, của trời muốn vơ vét hết...
* *
*
Đánh giá con người, tôi có hai tiêu chuẩn. Một là tiêu chuẩn đạo đức.
Hai là tiêu chuẩn thẩm mỹ. Có những loại người tôi rất ghét, tuy không ác, thậm
chí còn tỏ ra tử tế đối với tôi nữa. Ghét vì tầm thường, nhạt nhẽo, vô duyên,
nhàm chán, phi thẩm mỹ. Tất nhiên loại người này không thể hoàn toàn lương
thiện được. Song đó không phải nét nổi bật của họ. Tôi rất lấy làm thú vị khi
tình cờ tìm được cách diễn tả loại người này, nhân đọc Thần khúc của Dante.
Nhà thi hào được Virgile dẫn xuống địa ngục. Ông thấy có một hạng người bị
giam trong một khu riêng. Từ xa đã nghe chúng khóc rống lên thảm thiết.
Họ là ai mà cực độ đau thương?
300
Những linh hồn nhàm chán,
Sống không hèn nhưng chẳng dám khen chê,
Không phản Chúa nhưng cũng chẳng trung với Chúa,
Chỉ vì mình, chỉ vì chúng mà thôi!
Thiên đình tống chúng đi
để Thượng giới khỏi giảm phần tươi đẹp
Địa ngục thẳm sâu
cũng chẳng thèm nhận chúng
Vì sợ đám tội đồ lại có cớ để vênh vang...
Khúc III Thần khúc địa ngục.
Có người đề nghị tôi thử chỉ cho xem một người nào đó trong khoa
Văn Đại học Sư phạm Hà Nội, đúng với tiêu chuẩn “phi mỹ học” nói trên.
Thực ra đưa tiêu chuẩn này, tôi, khởi sự, đâu phải xuất phát từ lý thuyết. Tôi
bao giờ cũng từ thực tế cuộc sống mà khái quát lên, sau đó mới tìm trong sách
vở cách diễn đạt phù hợp. Cho nên tôi có thể chỉ ra ngay mấy mẫu người người
tiêu biểu trong thực tế. Đó là NTH và BVB. Trớ trêu thay, họ lại là cán bộ khoa
Văn, nên suốt đời nghiên cứu và giảng dạy văn học, nghĩa là luôn tiếp xúc với
cái đẹp và bàn về cái đẹp mà chính họ là kẻ phản lại. Nhưng thôi, bọn người
này chỉ nghĩ đến đã đủ chán đời lắm rồi, chả nên quan tâm làm gì! Còn vô lý thì
trên đời này thiếu gì chuyện vô lý!
Ngoài ra có một loại người, tôi cũng không ưa. Cũng là một dạng “phi
mỹ học”, tuy không đáng ghét lắm. Tôi gọi là những người có “bộ mặt thoả
mãn”, lúc nào cũng tươi rói và sáng bóng lên, thể hiện sự thoả mãn hoàn toàn
với bản thân mình. Bộ mặt như muốn nói với mọi người: tôi là người tài đức
vẹn toàn, không có gì phải phấn đấu thêm nữa. Tôi chỉ muốn có dịp dạy dỗ mọi
người về những điều hay lẽ phải. Đương nhiên là tôi phải được mọi người kính
trọng. Ai không kính trọng tôi thì hoặc là kẻ hỗn láo, hoặc là quá ngu xuẩn. Bộ
mặt như thế ở đứa trẻ con thì rất hồn nhiên, đáng yêu. Nhưng ở người lớn thì
thật khôi hài. Tôi có đọc một cuốn sách về tâm lý học, sách này nói về một thứ
bệnh gọi là autosuffisance. Có lẽ chính là bệnh của loại người này chăng? Loại
người này không bao giờ tự vấn xem, trong biển học mông mênh, đâu là giới
hạn của mình, đâu là chỗ ngu dốt của mình. Không được người ta coi trọng, loại
người này rất dễ nổi nóng. Lúc đó anh ta thường tìm ra những cái chẳng đâu
vào đâu của mình rồi đề lên như là chỗ ưu việt, hơn đời: này ngày xưa tôi học
giỏi nhất lớp nhé, có lúc đã được làm trưởng lớp nhé! Thi tốt nghiệp đại học, tôi
đỗ đầu nhé! Lúc tôi bắt đầu dạy đại học và nghiên cứu thì anh còn ngồi ghế sinh
viên nhé!... Nhìn loại người này lúc nổi nóng, thấy không hơn gì một đứa con
nít.
ở khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội có ai như thế không? Tất nhiên
là có, vì chính từ họ mà tôi khái quát ra loại người này. Nhưng thôi nói ra làm
gì. Loại người này, ngoài cái tật nói trên, bụng dạ cũng không đến nỗi xấu. Chỉ
cần được phỉnh nịnh, được tâng bốc là lập tức có thể làm nhiều điều tốt cho bạn.
* *
301
*
Tôi cho rằng, con người ta dù tài giỏi đến đâu cũng phải hiểu cái giá
của mình thế nào trong con mắt của người đời. Đừng có chủ quan, tự thị. Những
giá trị vật chất, dù ở đâu, với ai, cũng không thay đổi bao nhiêu. Nhưng những
giá trị tinh thần thì khác, giá trị, thân phận anh trí thức thì khác. ở chỗ này, được
coi là vàng bạc, là kim cương, thậm chí vô giá. Nhưng ở chỗ khác, chỉ đáng vất
đi. Trần Đức Thảo, không ít người coi là một đại trí thức, một triết gia cỡ quốc
tế. Nhưng ở Việt Nam, thời Nhân văn – giải phẩm, các ông lãnh đạo chỉ coi như
một thằng chăn bò (ở nông trường Ba Vì).
Đối với đời sống thông thường cũng thế. Quan hệ với giới này, người
này, anh có thể rất được quý trọng. Nhưng quan hệ với giới khác, người khác,
anh cũng chẳng là gì hết, thậm chí bị khinh bỉ. Tôi cho đó là chuyện thường. Mà
khinh hay trọng cũng đều có lý của nó cả. Cho nên bị ai khinh bỉ, chẳng nên tức
tối, buồn khổ làm gì. Còn được ai quý trọng thì phải coi là một sự may mắn,
một ân huệ đời đã ban tặng cho mình.
Và khinh trọng thì cái giá trị thực của mình vẫn thế thôi.
* *
*
Phương châm sống của tôi là phải biết quý trọng cái tài, cái đẹp, lòng
tốt. Người tài, người đẹp, người tử tế là những của quý hiếm trên đời. Không
biết quý trọng ba loại người đó là thiếu văn hoá, là thô bỉ. Viết nghiên cứu,
dựng chân dung văn học, tôi chỉ viết về người tài, người tốt, và chỉ coi là nhà
văn thật sự, những cây bút có tư tưởng, có cá tính và phong cách riêng. Đó mới
là những người có thực tài. Mà trong lĩnh vực văn chương, người tài là người
tạo ra cái đẹp. (Tôi gọi người tài là nhân tài, người đẹp là thiên tài – vì đó là sự
sáng tạo của Tạo hoá, là tài của Tạo hoá).
* *
*
Nhiều người nhận xét, tôi tuy tuổi đã cao, nhưng tính vẫn trẻ, văn cũng
trẻ. Chu Văn Sơn gọi tôi là Cụ Mết. Đỗ Lai Thuý và nhiều người khác không
tán thành. Quả là tôi không thích giao du với cánh già. Chỉ thích chơi với đám
trẻ. Tôi rất ghét thói gia trưởng, tính hách dịch, đầu óc bảo thủ. Đó cũng thường
là tính cách của bọn già. Rất may là tôi làm nghề dạy học, luôn luôn được tiếp
xúc với tuổi trẻ. Cho nên tôi rất yêu nghề dạy học.
Thực ra có hai việc, hay gọi là hai nghề, mà tôi rất thích: dạy học và
nghiên cứu, phê bình văn học. Hai nghề không tách rời nhau và có chỗ thống
nhất: cùng được phát biểu những tìm tòi, suy nghĩ riêng của mình.
Lên lớp được nói những điều tâm đắc với thế hệ trẻ, sướng lắm!
Viết xong một bài văn vừa ý, ngồi đọc lại, sửa câu này, chữ khác cho
thật hoàn chỉnh, cũng rất sướng..
Cả hai công việc trên tôi đều đạt được một số thành tựu. Điều tôi cảm
thấy sướng nhất là được khá đông giới sáng tác yêu mến và rất nhiều học trò
quý trọng.
302
Nhưng cả hai công việc trên đều có vinh, có nhục, có sướng, có khổ.
Suy nghĩ về một vấn đề gì đó, lắm lúc thấy bí, bất lực, cảm thấy tài năng đã bỏ
mình mà đi rồi. Buồn vô cùng! Dạy học cũng vậy. Không nghĩ ra cái gì mới mẻ,
hay ho để nói với học sinh, cũng buồn vô cùng!
Nhưng buồn nhất, thậm chí cảm thấy chán đời, chán mình, là có những
lúc bỗng nhiên nhìn lại công việc của mình, thấy vô nghĩa quá! Văn chương
đúng là chuyện vớ vẩn. Tản Đà gọi thứ văn hay nhất, thứ văn đích thực là văn
của mình là “văn chơi”. Thảo nào các bậc thánh hiền ngày xưa đều cho rằng
“lập thân tối hạ thị văn chương”.
Vậy mà không hiểu sao các nhà lãnh đạo cộng sản cứ ra sức bơm to vai
trò của thứ trò chơi này khiến nhiều kẻ trong đám cầm bút tỏ ra rất vênh vang,
vênh vang một cách vô lối hết sức. Trong lĩnh vực này, nói như Giả Bình Ao,
“Thiên tài và thằng hề (...) dường như không thể phân biệt rõ”.
Có lẽ Nguyễn Khải nói đúng: các ông cộng sản quan trọng hoá văn
chương vì các ông ấy chủ yếu làm cách mạng bằng tuyên truyền. Mặt khác lại
rất sợ sự thật. Văn chương hay đụng đến sự thật. Cho nên, các ông ấy quản lý
rất chặt mấy thằng viết văn, tuy bọn này có làm được trò trống gì đâu và chúa là
hèn nhát.
* *
*
Tập hồi ký của tôi, trong phần tư liệu riêng, không thấy có mặt một cán
bộ giảng dạy đại học nào – trừ Hoàng Ngọc Hiến. Có người hỏi tôi, vì sao vậy?
Đây là loại người cậu tiếp xúc hàng ngày, am hiểu nhiều nhất. Trong đó cũng có
nhiều tay hấp dẫn đấy chứ! Đúng như thế thật. Nhưng tôi không nghiên cứu họ,
không quan sát, ghi chép gì về họ.
Duy có hai người tôi rất quý trọng. Hai người đồng tuế (canh ngọ).
Cũng tuổi già mà tính vẫn trẻ. Cả hai đều giống nhau ở chỗ, tuy chuyên môn rất
giỏi – một người chuyên về lý luận, gần đây rất say triết học cổ phương Đông
(Hoàng Ngọc Hiến), một người chuyên về văn học trung đại Việt Nam (Phạm
Luận) – nhưng chẳng được phong bất cứ một chức vụ khoa học nào. Sự có mặt
của hai ông bạn này trên đời khiến tôi rất yên tâm. Nghĩa là không cảm thấy cô
đơn, tuy chúng tôi ít khi gặp nhau. Mà có gặp thì cũng không trao đổi tâm sự gì.
Chúng tôi đều không thích tâm sự. Đúng như Xuân Diệu nói: “Chúng mình
hiểu nhau mà không cần phải nói ra”.
Hoàng Ngọc Hiến, tôi đã viết ở trên rồi. Còn Phạm Luận, tôi thấy chỉ
cần nói một câu: đấy là một đấng trượng phu quân tử của thời hiện đại, một cốt
cách đường hoàng, một phong thái thung dung , thật sự coi thường danh lợi:
Bạc tiền gió thoảng thơ đầy túi,
Danh lợi bèo trôi, rượu nặng nai.
(Tản Đà)
Quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh 4.7.2007.
http://phusaonline.free.fr/ButViet/Hoi_ky_Nguyen_Dang_Manh%5B1%5D.pdf