Tuesday, October 25, 2011

HỒI KÝ 5 * HỒ CHÍ MINH -TỐ HỮU- XUÂN DIỆU

Phần ba - Tư liệu riêng về một số nhà
văn Việt nam hiện đại
Nghiên cứu, phê bình văn học, tôi rất thích tiếp xúc với giới sáng tác.
Người tài, người đẹp bao giờ cũng có sức hấp dẫn đối với tôi.
Người tài, người đẹp, người tốt là những của quý hiếm trên đời, phải
biết nể trọng. Ai không biết nể trọng ba đối tượng ấy tôi cho là kẻ thô bỉ, thiếu
văn hoá.
Tôi tin ở người sáng tác – tất nhiên phải là những tài năng thật sự – hơn
là giới lý luận phê bình. Có lẽ vì khi tôi bắt đầu gia nhập vào giới nghiên cứu
phê bình văn học (1960) thì nhiều ông tiêu biểu, hay nói đúng hơn, được coi là
chính thống trong giới này, dường như đều không có tín nhiệm gì đối với những
người sáng tác: Vũ Đức Phúc, Nam Mộc, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Hà Xuân
Trường, Thành Duy, Thế Toàn, Đông Hoài, Hoàng Xuân Nhị... Lê Đình Ky,
Nguyễn Văn Hạnh có khá hơn, thì đều bị đánh – nghĩa là phi chính thống. Ngay
Hoài Thanh cũng không được ưa. Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan
Viên, Nguyễn Đình Thi đều ghét Hoài Thanh. Đến như Xích Điểu (Trần Minh
Tước) mà cũng nói giọng giễu cợt: “Hoài Thanh thấy Tố Hữu làm bài thơ nào
cũng: Hay lắm! Hay lắm!”- Ông vừa nói vừa vung tay.
Nguyên nhân sự chia rẽ giữa phê bình và sáng tác có lẽ bắt nguồn từ ý
kiến của Trường Chinh, cho rằng Đảng lãnh đạo văn nghệ thông qua phê bình.
Vậy là biến phê bình thành cán bộ tuyên huấn rồi còn gì! Và phê bình đóng vai
lãnh đạo, tự đặt mình lên trên sáng tác, cao giọng dạy dỗ sáng tác.
Ngoài ra, hồi ấy, tôi thấy lí luận có nhiều điều chẳng ăn nhập gì với
thực tế của văn học. Nghĩa là hết sức giáo điều. Vì thế tôi chủ trương phải tiếp
xúc trực tiếp với giới sáng tác. Từ kinh nghiệm thực tế của họ mà khái quát lên.
Tất nhiên cũng phải đọc lý luận, nhưng phải từ thực tế mà tiếp nhận lý luận.
Lúc đầu tiếp xúc với nhà văn, tôi chưa có ý thức tích luỹ tư liệu, nên
không ghi chép lại cẩn thận. Ngày nay, chỗ nhớ, chỗ quên, rất tiếc. Về sau thấy
có ích cho việc viết lách của mình, nhất là viết chân dung, tôi bèn ghi lại kín đặc
gần 40 cuốn sổ tay. Những nhà văn tôi không có điều kiện tiếp xúc trực tiếp thì
tôi tìm gặp những người từng có quan hệ với nhà văn ấy để khai thác. Như
trường hợp Hồ Chí Minh hay các nhà văn đã mất như Vũ Trọng Phụng, Nam
Cao...
Những tư liệu này tôi đã sử dụng một phần để viết những bài chân
dung. Khi viết, vì lý do tế nhị, nhiều trường hợp tôi phải dấu tên người này,
người khác. Ngoài ra có những tư liệu quá tục tĩu, không sạch sẽ, tôi không dám
dùng, hay nếu dùng thì cũng phải gột rửa đi.
Bây giờ tôi cứ bày tất cả ra. Tư liệu thì chỉ cần xác thực. Ai lại đi phân
biệt tư liệu thô và tư liệu tinh, tư liệu bẩn và tư liệu sạch!
Chắc có người thắc mắc, những tư liệu ấy thì có ý nghĩa gì? Tôi cho
120
rằng có ý nghĩa hay không là tuỳ ở người biết sử dụng.
Vâng, tôi cứ bầy ra đây những ghi chép ở dạng thô mộc nhất, không gọt
rũa, tắm rửa gì hết, chỉ sắp xếp lại đôi chút cho mạch lạc mà thôi.
Tôi cứ trình bầy lần lượt từng nhân vật một. Tôi sẽ không nói lại những
điều người khác đã viết ra, như Tô Hoài viết về Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng,
Xuân Diệu... trong Cát bụi chân ai?, như Vũ Bằng viết về Nguyễn Tuân, Nam
Cao... trong Bốn mươi năm nói láo, như Trần Dân Tiên viết về Cụ Hồ trong
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, hay Vũ Thư Hiên viết
về Cụ Hồ trong Đêm giữa ban ngày...
Tôi chỉ viết những điều tôi trực tiếp nghe được, biết được- nghĩa là
muốn đây là những tư liệu riêng của tôi.
Đối với mỗi người, tôi viết nhiều hay ít, không phải do thái độ khinh
trọng khác nhau, mà đơn giản chỉ là tôi biết đến đâu thì viết đến đấy. Có người
tôi biết nhiều, có người tôi biết ít. Cũng có trường hợp, tôi biết không ít, nhưng
những điều tôi biết, tôi đã viết cả ra rồi trong một bài chân dung nào đấy, nên
không còn gì để viết thêm nữa. Đấy là lý do họ không có mặt trong hồi ký này,
như trường hợp Nguyễn Minh Châu, Chế Lan Viên, Quang Dũng, Nguyễn
Lương Ngọc.



Chương VII: Hồ Chí Minh
Tôi được tận mắt thấy Hồ Chí Minh hai lần.
Lần thứ nhất ngay sau Cách mạng tháng Tám. Sau cuộc khởi nghĩa
tháng tám 1945, bố tôi đưa cả gia đình từ Thái Bình về Thị xã Bắc Ninh. Tôi
tiếp tục học cấp II ở trường Hàn Thuyên.
Một hôm được tin Hồ Chủ Tịch về Bắc Ninh. Tôi và mấy bạn học được
nhà trường cử đi đón. Mỗi đứa được phát một lá cờ nhỏ bằng giấy, hễ Hồ Chủ
Tịch đến thì vẫy cờ và hô khẩu hiệu chào mừng.
Chúng tôi đứng xếp hàng trước cửa phòng thông tin thị xã, nơi Chủ tịch
Hồ Chí Minh tới.
Đợi một lúc thì có một chiếc xe ôtô con đỗ ngay mép đường, trước cửa
phòng thông tin. Tôi thấy có hai anh cảnh vệ vọt ra trước, cầm lăm lăm tiểu
liên, nhẩy lên đứng trên hai cái trụ của bức tường hoa thấp trước phòng thông
tin. Hai anh lia mũi súng sang trái, sang phải, vẻ mặt căng thẳng.
Hồ Chí Minh bước ra sau. Quần áo kaki. Giầy vải. Cầm batoong. Người
gầy, đen. Râu tóc cũng đen. Ông đứng lại ngay sát chúng tôi, nhưng không để ý
gì đến bọn trẻ con này cả, tuy chúng tôi ra sức phất cờ và hô “Hồ chủ tịch muôn
năm!”
Đứng lại một lát, liếc nhìn chung quanh một chút, mặt đầy cảnh giác,
rồi ông đi rất nhanh vào phòng thông tin. Lưng rất thẳng, gầy nhưng cứng cáp,
cử chỉ lanh lẹn – ấn tượng của tôi về Hồ Chí Minh là như thế.
Hồi đó, ở Bắc Ninh, Việt Nam Quốc dân đảng hoạt động khá mạnh. Đã
có những cuộc đụng độ vũ trang giữa lính quốc dân đảng và Vệ quốc đoàn ở
Thị Cầu. Chắc vì thế nên Ông Hồ và các vệ sĩ của ông rất cảnh giác.
Lần thứ hai tôi được thấy Hồ Chủ Tịch là vào khoảng 1961, 1962 gì đó,
hồi tôi công tác ở trường Đại học Sư phạm Vinh.
Ông Hồ vào Vinh. Người ta tổ chức cho Ông gặp đồng bào ở một cái
sân vận động của thị xã.
Họ dựng một cái kỳ đài bằng tre – có vẻ thô sơ thôi. Ông Hồ đứng trên
đó với một số cán bộ Tỉnh. Lúc hô khẩu hiệu, ông cùng vung tay hô như mọi
người:
- Đảng lao động Việt Nam Muôn năm!
- Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà muôn năm!
Ông Hồ vung tay rất cao.
Nhưng đến khẩu hiệu thứ ba:
- Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!
Ông Hồ cũng vung tay lên, nhưng chợt nhận ra họ hoan hô mình, vội
rụt tay xuống.
Tôi theo dõi không bỏ sót một cử chỉ nào của ông cụ hôm ấy.
Ông Hồ bắt đầu nói chuyện với đồng bào.
Hồ Chí Minh không hề tỏ ra là người hùng biện. Nói chậm, ngắn,
122
không lưu loát. Có chỗ lỡ miệng nói hớ, vội lảng sang ý khác. Tôi nhớ ông đang
nói dở một câu tục ngữ: “Thanh cậy thế, Nghệ cậy...” thì vội ngừng lại và lảng
sang ý khác. Có lẽ ông không muốn làm mất lòng người Nghệ Tĩnh chăng, vả
lại “cậy thần” là thần nào, thần Hồ Chí Minh à? Tôi chắc ông nghĩ thế nên
không nói tiếp câu ấy nữa.
Năm 1969, tôi chuyển ra công tác tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác, Hoàng Dung thay nhau làm tổ trưởng tổ Văn
học Việt Nam hiện đại. Các anh đều rất quan tâm đến việc nghiên cứu thơ văn
Hồ Chí Minh nên thường tổ chức cho chúng tôi gặp những người hiểu biết về
Hồ Chí Minh như Hoàng Văn Hoan, Lê Quảng Ba, hoạ sĩ Diệp Minh Châu, Vũ
Kỳ. Nhờ gặp các vị này, tôi được biết nhiều chuyện cụ thể về Ông Hồ, trước hết
là chung quanh sự kiện Ông Hồ bị bắt ở Quảng Tây, Trung Quốc và viết Nhật kí
trong tù.
Ông Hồ về PắcBó đầu năm 1941 ngày 28 – 01, tháng 8 – 1942 ông trở
lại Trung Quốc để vận động các cơ sở cách mạng bên ấy ủng hộ Việt Minh và
mua vũ khí về cho Việt Minh.
Ông Lê Quảng Ba cùng đi với Ông Hồ. Đến một địa điểm nào đó thuộc
Quảng Tây thì gặp núi lở, một tảng đá văng vào chân Lê Quảng Ba. Ba bị đau,
cố đi một cách khó khăn. Để động viên người đồng hành với mình, Ông Hồ vừa
đi vừa kể Chính phụ ngâm. Vừa kể vừa giảng. Té ra xa nước ba muơi năm, Hồ
Chí Minh vẫn thuộc lòng Chinh phụ ngâm.
Nhưng Lê Quảng Ba càng đi càng đau. Đến Tĩnh Tây thì phải nghỉ lại
tại một cơ sở cách mạng. Hôm sau, Ông Hồ tiếp tục lên đường. Cùng đi với ông
có một thanh niên Trung Quốc tên là Dương Đào – tất nhiên cũng là một cơ sở
cách mạng. Đến xã Túc Vinh, huyện Đức Bảo, tỉnh Quảng Tây thì bị bọn
Hương cảnh Trung Quốc bắt (ngày 27 – 8 – 1942).
Không phải Ông Hồ không có giấy tờ hợp lệ. Hồ Chí Minh không thể
sơ xuất như thế được. Hồ Chí Minh bị bắt vì khám trong người, cảnh sát Tầu
phát hiện có rất nhiều đôla. Nghe nói hồi ở PắcBó, có người đã thấy ông phơi
đôla cho khỏi ẩm mốc. Bây giờ qua Trung Quốc, ông đem đôla đi để mua vũ
khí cho Việt Minh.
Nhưng cảnh sát Tầu cho là Hán gian, là gián điệp của Nhật lúc bấy giờ
đang đánh Trung Quốc. Chỉ có gián điệp mới có đôla thôi chứ, người dân Trung
Quốc bình thường làm gì có lắm ngoại tệ thế! Điều này tác giả Nhật kí trong tù
cũng đã nói rõ trong thơ của mình:
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng
Lại bị tình nghi là Hán gian
(Đường đời hiểm trở)
Hôm nay xiềng sắt thay dây trói,
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp,
Mà như khanh tướng vẻ ung dung.
(Đi Nam Ninh)
123
Các vị lãnh đạo Đảng lúc bấy giờ ở Cao Bằng như Trường Chinh, Võ
Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt... nghe tin cụ Hồ bị bắt, hoảng quá, cho người
sang Tầu dò hỏi xem nó giam ở đâu, nhưng không tìm được. Qua mấy tháng bặt
tin tức, các vị bèn quyết định lật bài ngửa: điện cho Mạc Tư Khoa và cho Tưởng
Giới Thạch nói rõ đó là Nguyễn ái Quốc, thủ lĩnh Việt Minh, đề nghị thả ra.
Biết không phải là Hán gian, các nhà chức trách Trung Hoa bèn chuyển
Hồ Chí Minh sáng chế độ nhà tù khác. Trong Nhật kí trong tù, bài Bốn tháng
rồi có thể coi là bản tổng kết giai đoạn đầu của thời gian 14 tháng ở tù vô cũng
cực khổ của Ông Hồ – “Sống khác loài người vừa bốn tháng, Tiều tuỵ còn hơn
mười năm trời”
Chuyển sang chế độ nhà tù mới, Ông Hồ được tắm rửa, ăn uống khá
hơn, thỉnh thoảng được đi dạo quanh nhà lao, đặc biệt được cung cấp rất nhiều
sách báo. Tưởng Giới Thạch còn tặng ông một cuốn sách của mình. Điều này
ông Trần Dân Tiên đã có nói nhưng không giải thích lý do vì sao. Điều đáng
chú ý là, Nhật kí trong tù có tất cả 133 bài tuyệt cú thì bài Bốn tháng rồi là bài
thứ 103. Nghĩa là 10 tháng sau, tác giả chỉ làm thêm ba chục bài nữa thôi. Vì
sao vậy? Vì Hồ Chí Minh chỉ làm văn chương khi tuyệt đối không có điều kiện
làm chính trị, làm cách mạng. Mười tháng sau này, có điều kiện chuẩn bị cho
cách mạng, lập tức ông dồn sức vào đấy: đọc sách báo, dịch tác phẩm “Tam dân
chủ nghĩa” của Tôn Trung Sơn, đọc sách của Tưởng Giới Thạch tặng (Cuốn
“Trung Quốc đích mệnh vận”)...
Nguyên bản Nhật kí trong tù đâu chỉ có thơ. ở cuối tập Nhật kí còn có
tới 20 trang ghi kín tin tức thời sự lấy từ các báo chí được cung cấp gọi là Độc
báo lan, và những thu hoạch từ các sách đã đọc gọi là Độc thư lan
Mới biết, viết bài Mở đầu (Khai quyển) Nhật kí trong tù, Hồ Chí Minh
đã nói thật lòng mình:
Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây;
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
Hồ Chí Minh được bọn Tầu Tưởng thả về nước không phải ngẫu nhiên,
chắc ông phải khôn khéo thương lượng với chúng và với cánh Nguyễn Hải
Thần, Nguyễn Tường Tam như thế nào đó, nó mới thả cho về nước.
Hôm tiễn cụ Hồ về nước, Hầu Chí Minh (Trong Nhật kí trong tù ông Hồ
gọi là Hầu chủ nhiệm (Chủ nhiệm cục chính trị đệ tứ chiến khu)) cùng với
Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam có tổ chức một cuộc liên hoan hẳn hoi
(tháng 12 – 1943). Trong liên hoan, họ có thử tài nhau bằng thách đối.
Nguyễn Hải Thần đưa ra một vế đối khá hóc hiểm:
“Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai minh”
Ông Hồ xin đối:
“Nhĩ cách mệnh, ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách”
Mọi người tán thưởng. Hầu Chí Minh ca ngợi: “Đối hay lắm!”. Còn
Nguyễn Hải Thần thì cung kính nói: “Hồ Tiên Sinh tài trí mẫn tiệp, bội phục,
124
bội phục!”
Trong cuộc liên hoan, ông Hồ còn góp vui một tiết mục rất đặc biệt:
nhảy điệu Nga – la – tư. Một điệu vũ dân gian rất khoẻ của Nga.
Trong Nhật kí trong tù và hồi kí Vừa đi đường vừa kể chuyện, ông Hồ
có nói, khi mới ra tù “chân mềm như bún”, đi không được, phải tập leo núi rất
khó nhọc, phải bò, phải lết mãi mới đi được. Vậy sao lại có thể nhẩy điệu Nga –
la – tư?
Suy ra ta có thể hiểu như thế này: từ khi biết ông Hồ là ông Hồ, không
phải Hán gian, nhà chức trách Trung Quốc cho ông được hưởng chế độ quản
thúc. Nghĩa là chỉ không được ra khỏi vùng quản thúc thôi, còn thì có thể ra
ngoài nhà tù để leo núi, tập đi, tập luyện mắt (Cho nên mới có chuyện, ở Liễu
Châu, ông Hồ đi tắm sông, gặp tướng Tàu Trương Phát Khuê). Khoảng giữa
tháng 9 – 1943, sau một thời gian tập luyện, cuối cùng ông Hồ chẳng những đi
vững mà còn trèo được núi. Lần đầu tiên lên đỉnh núi, Ông cao hứng làm một
bài thơ chữ Hán:
Vân ủng trùng sơn sơn ủng vân
Giang tâm như kính tịnh vô trần
Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh,
Nam vọng trùng dương ức cố nhân
(Vừa đi đường vừa kể chuyện)
Bài thơ này cụ Hồ đã bí mật gửi về cho các đồng chí của mình ở Cao
Bằng (Viết lên mép trắng của một tờ Quảng Tây nhật báo). Võ Nguyên Giáp,
trong tập hồi kí Những chặng đường lịch sử cho biết: “Bữa ấy, tôi về cơ quan
hội báo tình hình thì thấy anh Đông, anh Vũ Anh và anh Lã đang xem xét quanh
một tờ báo. Các anh chuyển tờ báo và hỏi tíu tít:
- Anh xem có đúng là chữ của Bác không?
Đó là một tờ báo ở Trung Quốc mới gửi về, trên mép trắng có mấy hàng
chữ Hán viết tay. Tôi nhận ra ngay đúng là chữ Bác, Bác viết: “Chúc chư
huynh ở nhà mạnh khoẻ và cố gắng công tác. ở bên này bình yên”
Phía dưới lại có một bài thơ”.
Như thế bài thơ này đã được làm từ khá lâu (9 – 1943) trước cuộc liên
hoan tiễn chân nói trên 3 tháng (12 – 1943)
Sau này, Tô Hoài còn cho biết, trong buổi liên hoan tiễn cụ Hồ về nước
hôm ấy còn có mặt nhà thơ Quang Dũng nữa. Lúc này Quang Dũng đang đi
theo Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần.
Về tập Nhật kí trong tù, có người nói, ông Hồ đánh mất ngay sau khi ra
khỏi tù. Thực ra không phải.
Ngày 16 – 9 -1943, ông Hồ được trả lại tự do, cuốn Nhật kí trong tù vẫn
được ông giữ cẩn thận.
Ngày 14 – 9 – 1955, ông đưa tác phẩm này cho ông Nguyễn Việt,
trưởng ban tổ chức triển lãm cải cách ruộng đất tại phố Bích Câu: “Tôi có quyển
sổ tay cách đây mười mấy năm còn giữ được đến bây giờ, các cô, các chú xem
có triển lãm được thì dùng”. Nguyễn Việt đưa vào triển lãm, bầy ở phòng
125
“Ngọn đuốc soi đường của Đảng Cộng sản Đông Dương”
Nhật kí trong tù hiện được lưu giữ ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam.
Vào năm 1970, 1971 gì đó, anh Huỳnh Lý được biết hoạ sĩ Diệp Minh
Châu từng sống với Hồ Chủ Tịch sáu tháng ở Việt Bắc thời kháng chiến chống
Pháp, nên tổ chức cho chúng tôi gặp hoạ sĩ ở nhà riêng.
Hai vợ chồng cùng là hoạ sĩ và điêu khắc. Nhà cửa hết sức bề bộn, có
thể nói là tanh bành. Đất sét, thạch cao vung vãi. Nước đổ lênh láng trên nền
nhà. Khắp nơi lăn lóc những đầu người: đầu Nguyên Hồng, đầu Nguyễn Tuân...
bằng đất sét.
Cách trò chuyện của Diệp Minh Châu cũng vậy. Chuyện nọ sọ chuyện
kia, có lúc lại tạt ngang giới thiệu tranh của vợ.
ở đây tôi chỉ lọc ra những gì anh nói về Hồ Chí Minh.
Diệp Minh Châu ở với Hồ Chủ Tịch sáu tháng ở chiến khu Việt Bắc
trước khi ra nước ngoài học tiếp về hội hoạ, điêu khắc. Hằng ngày, anh cùng ăn
với Hồ Chủ Tịch.
Có một bữa, đến giờ ăn rồi mà mãi không thấy ông Hồ ra. Diệp Minh
Châu ngồi đợi. Cuối cùng ông cũng ra, nhưng lại châm điếu thuốc hút, nghĩa là
chưa ăn ngay. Thấy Châu ngồi đợi, ông bảo: “Chú cứ ăn trước đi”.Tất nhiên
Châu không dám, vẫn đợi. Một lát, ông Hồ nói thủng thẳng với hoạ sỹ: “Về sau
chú làm nghề gì thì làm nhé, đừng làm chủ tịch nước, khổ lắm!”
Diệp Minh Châu không bình luận gì. Tôi cho rằng, Hồ Chí Minh vừa
qua một cuộc họp trung ương, chắc có điều gì không thuyết phục nổi các đồng
chí của mình: Người ta đang sùng bái Staline, Mao Trạch Đông, không chịu
nghe Hồ Chí Minh, chắc thế.(Staline vốn không coi Hồ Chí Minh là cộng sản
chân chính. Ông Phạm Văn Đồng có lần nói với anh Hoàng Tuệ (khi hai người
cùng công tác ở Liên Xô): Năm 1950, Staline triệu Hồ Chí Minh sang gặp. Ông
ta không gọi Hồ Chí Minh là đồng chí (tavarich).
ở rừng Việt Bắc vào những đêm trăng đẹp, ông Hồ thường rủ Diệp Minh
Châu ra suối câu cá. Vừa câu vừa trò chuyện. Có lần ông nói về Nhật kí trong
tù: “Hồi ấy bị giam trong tù buồn quá, phải nghĩ ra cách gì để giải trí. Có ba
cách: một là nằm ngửa đếm ngói trên mái nhà, đếm hết lại phân loại ngói lành,
ngói vỡ. Hai là săn rệp ở những khe ván sàn xà lim. Ba là làm thơ”. Thì ra đối
với ông Hồ, làm thơ cũng chỉ là một trò giải trí như đếm ngói và săn rệp vậy
thôi. Thảo nào có ai hỏi ông về Nhật kí trong tù như một tập thơ, ông đều từ
chối không trả lời, vì coi đó chẳng phải thơ phú gì và bản thân ông cũng không
phải nhà thơ. Chẳng qua ở tù buồn quá, không biết làm gì, thì ghép vần chơi,
thế thôi. (Trong Vừa đi đường vừa kể chuyện, ông đã nói như thế).
Năm 1965, Mỹ cho không quân ra đánh phá miền Bắc. Cầu Hàm Rồng,
Thanh Hoá, là một trọng điểm oanh tạc của chúng. Anh chị em dân quân Nam
Ngạn, Hàm Rồng phối hợp cùng với pháo binh tải đạn và bắn máy bay giặc.
Nổi lên có hai nữ dân quân được tuyên dương công trạng xuất sắc: Ngô Thị
Tuyển và Nguyễn Thị Hằng.
Năm ấy, tôi phụ trách một đoàn sinh viên Đại học Sư phạm Vinh ra thực
126
tập ở trường Lam Sơn, Thanh Hoá, sơ tán ở ngoại ô thị xã. Tôi đưa mấy sinh
viên văn ra gặp Nguyễn Thị Hằng ở nhà riêng. Hằng là một cô gái quê mà rất
trắng trẻo, cao ráo. Cô cho xem bức hình chụp mặc quân phục trông rất đẹp đẽ,
oai phong. Cô khoe vừa được ra Hà Nội gặp Bác Hồ. Lần đầu tiên ra Hà Nội, đi
đâu cũng có một anh cảnh vệ hay công an đưa đi. Hành trình qua rất nhiều
chặng. Đến mỗi chặng, anh dẫn đường lại bảo, cô chờ ở đây, người khác sẽ đưa
đi tiếp. Chặng cuối cùng, anh dẫn đường nói, cô ngồi đây, Bác xuống bây giờ.
Một lát ông Hồ tới. Ông không vội hỏi han gì về thành tích chiến đấu
của Hằng. Câu hỏi đầu tiên của vị Chủ tịch nước là: “Cháu có buồn đi tiểu, Bác
chỉ chỗ cho mà đi”
Câu chuyện của Nguyễn Thị Hằng về chủ tịch Hồ Chí Minh hôm đó, tôi
nhớ nhất chi tiết này. Chi tiết rất nhỏ nhưng nói rất nhiều về con người Hồ Chí
Minh.
Tôi nghĩ đến câu nói của một nhân vật của Dostoievsky trong Anh em
nhà Karamadôp: “Tôi càng yêu nhân loại nói chung thì lại càng ít yêu con
người nói riêng, tức tách bạch ra từng người riêng rẽ. Những lúc mơ ước, nhiều
khi tôi đã có dự định say mê phụng sự nhân loại (...) thế những tôi lại không thể
sống chung với bất kì ai trong một căn phòng”. Đó là loại người mà
Dostoievsky gọi là chỉ có “ tình yêu mơ mộng” chứ không có tình yêu thực sự.
Ông Hồ một mặt yêu nhân loại rộng lớn, mặt khác, quan tâm rất cụ thể
thiết thực đến những con người cụ thể quanh mình.
Anh Trần Việt Phương có kể một câu chuyện khác cũng tương tự về ông
Hồ. Trước căn nhà sàn của chủ tịch luôn có một anh bộ đội đứng gác. Thương
anh lính trẻ đứng gác lâu chắc đói bụng, ông cụ đem một quả chuối xuống cho
anh ta ăn. Anh lính không dám ăn vì như thế là vi phạm luật nhà binh. Ông Hồ
nói: Vậy để bác gác cho cháu ăn, không sợ.
Hồ Chí Minh có điều này cũng rất quý: trong cách ứng xử với mọi
người, tỏ ra rất lịch sự, nghĩa là rất tôn trọng con người: Hồi kháng chiến chống
Pháp, hoạ sĩ Dương Bích Liên được cử đến ở với ông Hồ để vẽ. Sau một thời
gian, Tố Hữu đến xem tranh, cho là không đạt (Chắc là Dương Bích Liên thích
vẽ Hồ Chí Minh trong sinh hoạt đời thường, không thể hiện được tư thế lãnh tụ
chăng?). Tố Hữu quyết định cho Dương Bích Liên thôi việc và mời đi luôn. Khi
ông Hồ biết chuyện này thì Dương Bích Liên đã đi rồi. Hồ Chí Minh không
bằng lòng với cách đối xử như thế. Ông cho người đuổi theo mời hoạ sĩ trở lại
để có lời với anh và đưa tiễn đàng hoàng.
Tôi nghĩ Hồ Chí Minh thực bụng, không hề coi mình là ông thánh, nghĩa
là chỉ muốn được là người với những nhu cầu như của mọi người bình
thường.Cũng có thể trong tư cách nhà chính trị lại khác. Vì nhu cầu chính trị, có
khi Hồ Chí Minh cũng phải “diễn” những điều trái với bản chất của mình. Vì
thế tôi nói, thực bụng ông Hồ không thích làm thánh nhân chút nào. Thí dụ, mệt
cũng muốn nghỉ. Tố Hữu có lần đi với ông, thấy một khẩu hiệu trên tường:
“Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!”, ông nói: “Hồ Chí Minh chỉ muốn nằm!”
Ông Hồ cũng thích hút thuốc lá. Và chỉ quen hút thuốc lá ngoại, thuốc lá
127
Mỹ. Ông đã bị chi bộ phê bình và bắt hút thuốc nội. Sau thấy ông ho quá, lại
cho hút thuốc ngoại như cũ. Anh Hoàng Tuệ kể với tôi chuyện này: hồi kháng
chiến chống Pháp, đi công tác ban đêm, tình cờ anh đi cùng với một đoàn người
chở thuốc lá ngoại từ vùng tề ra cho cụ Hồ, có bộ đội đi kèm để bảo vệ.
Hoạ sĩ Dương Bích Liên, hồi cùng ở với ông Hồ ở Việt Bắc, thấy ông
thường hút thuốc lá ngoại, uống rượu Tây và uống sữa tươi (Người ta nuôi một
con bò để lấy sữa cho ông).
Theo Trần Đăng Ninh (Tô Hoài kể lại), ông Hồ ở phủ chủ tịch, thỉnh
thoảng lại đóng bộ complet, cravate, chống ba toong đi dạo một lúc trong khuôn
viên cho đỡ nhớ – hẳn là nhớ sinh hoạt hồi ở Paris.
Hà Huy Giáp cho biết: Một hôm linh mục Phạm Bá Trực gặp ông Hồ,
bảo ông là surnature - ông Hồ nói: “Chúng mình là contrenature”.
Hà Huy Giáp có một thời gian ở gần Hồ Chủ Tịch. Ông kể chuyện hồi
năm 1950, ông mới lấy vợ được một năm thì bị điều ra công tác tại Việt Bắc và
ở với Cụ Hồ. Ông hỏi ông Hồ: “Sao Bác không lấy vợ mà chịu được”. Ông Hồ
nói: “Mình cũng như các chú thôi, từ rốn trở xuống là 18 tuổi. Từ rốn đến cổ là
40 tuổi. Từ cổ đến đầu là 60 tuổi. Kinh nghiệm của dân ta là lao động suốt ngày,
mệt thì ngủ luôn. Không có việc gì thì đổ trấu ra xay. Buồn ngủ hãy ngủ. Tỉnh
ngủ, dậy liền, đừng có nằm mãi trong chăn. Đừng mặc đồ láng, mềm, mỏng.
Nên mặc quần áo vải. Có cán bộ lên công tác ở Việt Bắc, rỗi việc, ngồi tán gẫu.
Bác bảo cởi lạt sàn nhà ra, sau đó lại bảo buộc lại. Để khỏi “nhàn cư vi bất
thiện”.
Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác và Hoàng Dung còn tổ chức cho
chúng tôi gặp ông Vũ Kỳ, thư kí riêng của cụ Hồ.
Cuộc gặp Vũ Kỳ không giúp tôi biết thêm gì về Hồ Chí Minh. ấn tượng
để lại chỉ là hình ảnh của chính Vũ Kỳ. Ông bắt chước tác phong của cụ Hồ từ
cách ăn mặc, cách nói năng. Có cái áo Tôn Trung Sơn khoác ngoài không mặc
lại vắt lên vai. Đi guốc. Câu đầu tiên ông hỏi chúng tôi: “Các đồng chí có bao
nhiêu nữ?”
Anh Nguyễn Khải có lần gặp Vũ Kỳ cũng có nhận xét y như thế: Để râu
dài. áo cánh lụa. Đi guốc. Cầm quạt phe phẩy...
Tôi nghĩ bụng, đã là gia nhân thì bao giờ cũng là gia nhân. Gia nhân của
người thường hay gia nhân của vua chúa thì cũng thế.
Về chuyện làm thơ của Hồ Chí Minh, tôi vẫn cho rằng, ông Hồ có ý
thức sáng tác hai loại: một là loại thơ tuyên truyền thường dùng lối ca vè, cốt
minh hoạ đường lối chính trị. Những bài thơ chúc Tết, mừng xuân cũng thuộc
loại này. Thơ này không sáng tác theo quy luật nghệ thuật. Hai là loại thơ nghệ
thuật diễn đạt tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ. Loại này ông cốt làm để giải trí sau
những giờ làm việc căng thẳng, hoặc ở trong nhà tù, khi hoàn toàn không có
cách gì để làm việc cho cách mạng.
Nhiều thằng ngu hoặc cố tình không hiểu đã phê phán tôi về sự phân
biệt này: Thơ Bác Hồ, thơ nào chả là thơ nghệ thuật và thơ Bác là thơ cách
mạng sao lại bảo là để giải trí.
128
Tôi cho rằng chính cụ Hồ có ý thức phân biệt như vậy.
Người ta thường kể chuyện này để ca ngợi đức tính giản dị, khiêm tốn
của cụ Hồ: khi làm những bài thơ tuyên truyền, cụ Hồ thường chuyển cho nhiều
người xem, kể cả chú liên lạc, để nhờ góp ý sửa chữa cho thật dễ hiểu, dễ nhớ
đối với mọi người. Thế là thơ tuyên truyền chứ còn gì nữa. Tuyên truyền thì cốt
nhất là mọi người đều dễ hiểu, dễ nhớ, thế thôi. Nghệ thuật gì mà lại góp ý tập
thể như thế!
Trước kia, hàng năm, vào dịp 19/5, tôi thường được nhiều nơi mời đi
nói chuyện về thơ Hồ Chủ Tịch. Thường có chị Trần Thị Tuyết cùng đi để
ngâm thơ minh hoạ. Chị Tuyết cho biết, khi Hồ Chủ Tịch còn sống, vào dịp
cuối năm, chị thường được gọi đến để ngâm thơ chúc Tết của Chủ tịch và phát
luôn trên đài. Tới dự có cụ Hồ và mấy ông trong Bộ Chính trị. Khi ngâm thơ
chúc Tết, chị để ý thấy ông Hồ có vẻ không quan tâm lắm. Ngâm xong ông
thường bảo chị chuyển ngay sang ngâm Kiều. Tôi hỏi, thường chị ngâm đoạn
Kiều nào. Chị nói, thường Bác bảo ngâm đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Đây là đoạn Kiều nhớ nhà, nhớ người yêu, nhớ quê. Một đoạn thơ buồn.
* *
*
Chung quanh Hồ Chí Minh, đến nay vẫn còn rất nhiều điều bí ẩn không
biết đến bao giờ mới được làm sáng tỏ.
- Chẳng hạn, chuyện vợ con thế nào? Trung Quốc đã công bố Hồ Chí
Minh kết hôn với Tăng Tuyết Minh. Rồi chuyện cô Hà Thị Xuân người dân tộc
Tày và các con (Trung và Trinh gì đó). Ông Trần Độ cho biết, vì cô Xuân cứ
đòi chính thức hoá, người ta bèn giao cho Trần Quốc Hoàn thủ tiêu cả ba chị
em.
Chuyện này nhiều người biết. Có người đã viết ra như Vũ Thư Hiên
trong cuốn Đêm giữa ban ngày. Riêng tôi được biết do giáo sư Ngô Thúc Lanh
được ông Văn Tân kể cho nghe và truyền đạt lại, hai là do một giáo sư dạy Sử ở
Đại học Sư phạm Hà Nội, ba là Dương Thu Hương, bốn là ông Trần Độ. Nhưng
gần đây có người điều tra ra vụ việc này rất tỉ mỉ, rõ ràng, và công bố cụ thể
trên internet: cô Xuân bị thủ tiêu vì hai lý do: một là cô đòi chính thức hoá: điều
này phải do Đảng quyết định, mà Đảng thì không thể chấp nhận. Hai là cô bị
Trần Quốc Hoàn hãm hiếp nhiều lần. Hoàn tuy đã đe doạ cô, nhưng vẫn sợ bị
cô tố cáo. Hắn sai Tạ Quang Chiến đập chết, rồi ban đêm, đặt xác cô ở quãng
đường từ Nhật Tân đi Chèm, bố trí một xe ô tô cán lên, tạo ra một vụ tai nạn
giao thông giả. Còn ba chị em cô Xuân là ba chị em họ. Một cô tên Nguyệt, một
cô tên Vàng. Hai cô này cũng bị thủ tiêu vì đều biết chuyện. Nguyệt mất tích,
không rõ bị thủ tiêu ở đâu. Còn cô Vàng thì bị đập chết và quăng xác xuống
sông Bằng Giang, Cao Bằng.
Theo Tô Hoài, có một hồi người ta định lấy vợ cho cụ Hồ. Một số cô gái
đến cho ông chọn. Ông không chọn ai vì thấy đàn bà mà chẳng ý tứ gì, cứ phơi
quần, slip... rất vô ý. Có một cô người Huế, ông Hồ thích. Nhưng cô này hói
đầu, ông cũng không lấy. Ông nói, nếu có một cô công chúa nước nào thì lấy –
129
lấy vì mục đích chính trị – chắc ông nói cho vui.
Tô Hoài cũng cho biết, Phạm Văn Khoa thạo cả tiếng Pháp lẫn tiếng
Tầu, có lần cùng đi với Hồ Chí Minh sang Trung Quốc (đi xe lửa). Một buổi
sáng, Khoa thấy ông Hồ ở toilet ra, cầm slip vừa giặt, nói: “Không có vợ, khổ
thế!”
- Còn chuyện xuất dương của Hồ Chí Minh? Có phải lần đầu tiên ra
nước ngoài là đi Pháp từ cảng Nhà Rồng?
Anh Nguyễn Nguyên (tức Nguyễn Ngọc Lương), một cán bộ tình báo
cao cấp của ta, cho tôi biết, Nguyễn Tất Thành lần đầu ra nước ngoài là sang
Trung Quốc theo đường dây của Phan Bội Châu. Tất Thành đóng vai một người
bán nước mắm, từ Nghệ An ra – giao liên là cô Chu Bích Viêm, tức bà Cả
Chính (Nguyễn Nguyên đã gặp bà Cả Chính). Cơ sở cách mạng của Phan Bội
Châu ở Hải Phòng lúc bấy giờ là hai cô Nhung và Sâm. Còn cơ sở ở Móng Cái
là hai cô con gái ông Ký nhà đoan tên là Yến và Nhạn.
Bà Cả Chính đã từng đưa Nguyễn Tất Thành qua Hải Phòng, Móng Cái,
sang Trung Quốc gặp Lý Đông A ở Liễu Châu.
Hồi ấy, ở Việt Nam chưa có phong trào cộng sản.
Sau này, cụ Nguyễn Sinh Sắc mới nhờ cụ Phan Chu Trinh bảo lãnh cho
Nguyễn Tất Thành đi Pháp.
- Còn chuyện đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh?
Theo Hà Huy Giáp, người đầu tiên phê phán Nguyễn ái Quốc có khuynh
hướng dân tộc chủ nghĩa là Trần Phú. Ông Đào Phan cung cấp cho tôi một tài
liệu: khi thành lập đảng Cộng sản Việt Nam ở Hồng Kông, Nguyễn ái Quốc có
đưa ra một văn bản gọi là chính cương vắn tắt, phân tích tình hình giai cấp sát
với thực tế Việt Nam, nhất là về giai cấp địa chủ (chế độ công điền khiến địa
chủ không phát triển được, vì thế địa chủ ở Việt Nam có thể phân hoá được).
Staline bèn phái Trần Phú về nước, vất chính cương của Nguyễn ái Quốc đi,
thay bằng luận cương Trần Phú đã được đóng dấu ở Mạc Tư Khoa và đặt tên
đảng là Đảng Cộng sản Đông Dương. Staline còn chủ trương vô hiệu hoá
Nguyễn ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam.
Xem chừng Hồ Chí Minh thích tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên
hơn. ông từng dịch cuốn Tam dân chủ nghĩa hồi bị giam ở nhà tù Quảng Tây,
Trung Quốc. Và “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” chính là khẩu hiệu cách mạng
của Tôn Trung Sơn.
Lại có chuyện này: Nguyễn Hữu Đang có lần nói với Hoàng Ngọc Hiến:
Sau cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh có nói với Đang: Bảo Đại nó thoái vị
sớm quá! ý ông muốn Bảo Đại cứ tiếp tục làm vua để có thể thành lập ở Việt
Nam chính thể quân chủ lập hiến mà ông cho là thích hợp hơn với nước mình.
Sau khởi nghĩa tháng Tám, ông ở chiến khu về muộn, lúc đó phái đoàn Trần
Huy Liệu, Huy Cận đã lên đường vào Huế nhận ấn kiếm của Bảo Đại. Ông
muốn cho người đuổi theo để gọi trở lại, nhưng không kịp. Anh Phạm Tuyên
cho biết, ông cũng rất tiếc Phạm Quỳnh đã bị Việt Minh ở Huế thủ tiêu. Chuyện
lỡ rồi, ông chỉ còn biết mời mấy người con của Phạm Quỳnh ra gặp để an ủi
130
(ông gặp hai bà con gái của Phạm Quỳnh). Hồi mới sang Pháp, Nguyễn Tất
Thành đã từng gặp Phạm Quỳnh (cùng với Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường).
Chắc ông đã hiểu Phạm Quỳnh không phải người bán nước.
Ngoài ra, từ hồi dự hội nghị Fontainebleau ở Paris (1946), Hồ Chí Minh
đã muốn liên hệ với Mỹ và sau này muốn thương lượng hoà bình với chính
quyền Sài Gòn.
- Một bí ẩn nữa là vì sao Hồ Chí Minh đoán rất chính xác mấy thời điểm
lịch sử quan trọng: năm 1945, chấm dứt đại chiến thế giới thứ hai và cách mạng
tháng Tám thành công; năm 1954 chiến thắng giặc Pháp (đoán từ năm 1950);
năm 1975 chiến thắng giặc Mỹ (đoán năm 1960).
Theo Trần Quốc Vượng, vì ông có tử vi.
Năm 1943, khi Hồ Chí Minh viết câu kết bài Diễn ca lịch sử nước ta:
“Bốn nhăm sự nghiệp hoàn thành”, thì ở hội nghị Téhéran, thủ lĩnh ba siêu
cường trong phe Đồng Minh là Staline, Churchill, Roosevelt đoán, chiến tranh
chấm dứt năm1946.
Không lẽ gì Hồ Chí Minh ở Việt Bắc, với một cái đài bán dẫn rất thô sơ,
lại đoán thời cuộc thế giới chính xác hơn ba tay trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến
tranh chống phát xít với những thông tin phong phú, cập nhật và những dữ kiện
đầy đủ. Mà ba tay này đâu có dốt nát gì!
Trần Quốc Vượng kết luận: Cụ Hồ có tử vi.
Vượng cũng là tay rất sành sỏi tử vi. Anh nói, ở thư viện quốc gia có
cuốn Tử vi phú đoán của Lê Quý Đôn đã dịch. Vượng đến mượn. Cô thủ thư
nói sách không còn. Bố Trần Quốc Vượng có quen cụ Xước là giám đốc thư
viện, Vượng đến hỏi, cụ Xước nói: Ông Hoàng Minh Giám đến lấy cho Cụ Hồ
đọc rồi. Sách đang ở chỗ Cụ Hồ.
Anh Từ Sơn có tặng tôi tập Di bút của Hoài Thanh (bản đánh máy lúc
chưa xuất bản thành sách). Trong đó có đoạn viết: “Năm 1945, khi quân Tưởng
đã kéo vào dày đặc ở miền Bắc và quân Pháp đã bắt đầu đánh phá ở miền
Nam, anh Tố Hữu có dịp được gặp Bác. Anh thưa với Bác:
- Thưa cụ, một bên thì Tây, một bên thì Tàu, bên nào đáng sợ hơn?
- Tây cũng không đáng sợ. Tàu cũng không đáng sợ. Đáng sợ nhất là
các chú - Ông Hồ trả lời như vậy.
Ngẫm ra đây cũng là một tiên đoán thiên tài của Hồ Chí Minh. Ngày
nay Pháp, Mỹ đều rút hết rồi. Đất nước nếu còn khốn khổ thì đúng là do “các
chú”.
- Một câu hỏi khác đặt ra: Cụ Hồ có ý thức tự thần thánh hoá mình
không? Đã nói ông Hồ không thích làm ông thánh, nay lại nói ông có ý thức
thần thánh hoá? Tôi cho hai chuyện có chỗ khác nhau. Vì yêu cầu chính trị, có
khi phải dùng mưu mẹo, có khi phải diễn kịch nữa – Về mặt này, ông Hồ cũng
khá “siêu” đấy. Dân tộc Việt Nam là dân tộc nông dân nên có tâm lý trọng
người già và sùng bái thần thánh, chứ không tin ở người trẻ, người thường. Cho
nên ông Hồ, năm mươi tuổi đã để râu dài và xưng là già Hồ. Và cũng không
phản ứng gì khi người ta gọi là cha già dân tộc. Theo Trần Quốc Vượng, hồi
131
kháng chiến chống Pháp, Trung ương có giao cho ông Trần Huy Liệu bình tán
những câu sấm Trạng Trình ứng vào Cụ Hồ rồi cho truyền đi để tạo thành dư
luận quần chúng. Đó là chủ trương của Hồ Chí Minh hay chỉ là “sáng kiến” của
Đảng ngoài ý kiến của ông Hồ? Nhưng ông Trần Dân Tiên viết Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, có chỗ ví cụ Hồ như con rồng ẩn
hiện trong mây. Mà Trần Dân Tiên chính là ông Hồ chứ ai!.
- Như đã nói, vì lí do chính trị, Hồ Chí Minh nhiều khi phải diễn kịch,
sống cứ phải “diễn” như thế, kể cũng khổ. “Không có gì quý hơn độc lập tự
do”. “Diễn” tức là bị tước đi của mình quyền sống tự do chứ còn gì nữa! Liệu
đã ai hiểu cho ông cụ nỗi khổ này?
Những trò diễn của Hồ Chí Minh nói chung có tác dụng chính trị rất tốt
đối với tầng lớp bình dân. Nhưng đối với trí thức, có khi lại phản tác dụng. Năm
1946, Hồ Chí Minh ở hội nghị Fontainebleau về nước có Trần Hữu Tước và
một kỹ sư tên là Quang theo về. Trên tàu, Cụ Hồ diễn trò nhẩy son lá son với
các thuỷ thủ. Quang thấy thế lấy làm khó chịu, mất tin tưởng. Ông ta bỏ không
theo Hồ Chí Minh nữa. Theo Tô Hoài, ông ta sau này về sống ở Nha Trang.
Nhưng Hoàng Ngọc Hiến lại đưa ra một thông tin khác: Trần Hữu Tước sau này
có gặp Quang rửa xe máy ở Sài Gòn.
- Cuối cùng là ngày sinh và ngày mất của Hồ Chí Minh. Ngày sinh cũng
do ông tự đặt ra, ai cũng biết rồi. Còn ngày mất? Đúng cái ngày ông đọc Tuyên
ngôn độc lập (2/9)
Theo Hoàng Ngọc Hiến, ông Hồ chủ động chết vào cái ngày lịch sử ấy.
Ông ấy đáo để lắm đấy! Một người quyết lấy lại họ Hồ là dòng máu thật của
mình (Hồ Sĩ Tạo) thì cũng có thể quyết chết vào đúng ngày sinh của cả nước,
ngày mà ông đọc Tuyên ngôn độc lập.
- Nhưng chủ động chết làm sao được khi người ta luôn chầu chực quanh
mình – Tôi cãi lại Hiến.
- Thì cũng có lúc người ta ra ngoài chứ. Lúc ấy chỉ cần dứt hết những
dây dợ của cái ống thở ôxy là chết luôn chứ sao! – Hiến khẳng định thế.
Một phán đoán không phải là không có lý!
Hà Nội, ngày 6-7-2006


Chương VIII: Tố Hữu
Nhớ lại ba, bốn chục năm về trước, vào những năm 60, 70 của thế kỷ
vừa qua, biết bao thế hệ đã từng mê thơ Tố Hữu. Mê thật sự. Đọc những bài như
Bài ca mùa xuân 61 mà chảy nước mắt. Hồi ấy ông rất xứng đáng với danh hiệu
“Lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam”. Để phục vụ cách mạng và
kháng chiến, thơ ca hồi ấy bám rất sát từng nhiệm vụ chính trị, nên thường viết
chung một số đề tài: anh bộ đội, anh giải phóng quân, Bác Hồ, anh Trỗi, mẹ
Suốt, chị Trần Thị Lý, miền Nam thành đồng Tổ Quốc, miền Bắc tiến lên chủ
nghĩa xã hội... Ngẫu nhiên mà thành ra những cuộc thi thơ toàn quốc. Trong
những “cuộc thi” như thế, Tố Hữu hầu như đều chiếm giải nhất.
Vinh quang của Tố Hữu đâu chỉ ở tư cách nhà thơ. Về chính trị ông
cũng lên vòn vọt, có lúc tưởng như là người kế cận Lê Duẩn, thay Lê Duẩn đến
nơi. Cho nên ngày Tết, người ta xếp hàng nối đuôi nhau ra tận ngoài đường để
chúc Tết Tố Hữu. Loại như Nguyễn Văn Hạnh, Hà Xuân Trường thì phải xếp
hàng mãi tít ngoài đường, rất xa. Còn Hoàng Xuân Nhị thì chỉ rình rình chen
ngang... Lúc bấy giờ được viết về Tố Hữu cũng danh giá lắm! Tôi nhớ có lần
anh Lý Hải Châu, giám đốc nhà xuất bản Văn học có ngỏ ý giao cho tôi làm
Tuyển tập thơ Tố Hữu. Định thế thôi chứ đã giao thật đâu. Vậy mà tiếng đồn ra,
nhiều người đã mừng cho tôi. Anh Xuân Diệu gặp tôi, bắt tay chúc mừng: “Thế
là Mạnh bắt đầu được tiếp cận với nhà đỏ rồi đấy!”
Thế mà bây giờ! Không thể ngờ Tố Hữu xuống giá nhanh chóng và
thảm hại đến thế, ở cả hai tư cách: nhà chính trị và nhà thơ. Hầu như các thế hệ
làm thơ bây giờ không ai còn làm theo phong cách Tố Hữu nữa.
ở khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội (có lẽ khoa Văn các trường Đại
học khác cũng thế) có điều này, nếu Tố Hữu sống lại chắc buồn lắm: hàng năm
cán bộ giảng dạy phải hướng dẫn hàng trăm sinh viên cao học, hàng chục
nghiên cứu sinh làm luận án thạc sĩ, tiến sĩ. Đề tài ngày càng bí, quanh đi quẩn
lại khai thác mãi những Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nam
Cao, Thạch Lam, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh
Châu... hầu như đã cạn kiệt. Rất bí. Cả thầy lẫn trò đều bí. Vậy mà không ai
chịu làm về Tố Hữu, tuy Tố Hữu vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong chương
trình phổ thông và đại học như một tác gia lớn của nền văn học hiện đại Việt
Nam.
Kể cũng lạ! Tôi cho rằng hiện tượng này cần được giải thích, nhất là đối
với những thế hệ lớn lên sau 1975, đặc biệt là sau 1986, khi đất nước bước vào
thời kì đổi mới. Tất nhiên, giải thích theo quan điểm lịch sử.
Theo tôi tốt nhất là tôi thuật lại những lần được trò chuyện với Tố Hữu
trước 1986. Chính những lời phát biểu của ông về chính trị, về thơ ca sẽ giải
thích cụ thể sự thăng trầm của số phận ông. Ngoài ra cũng phải hiểu ông đã
quan niệm về thơ như thế nào và làm thơ như thế nào. Vì vẫn phải giảng thơ
ông trong nhà trường, vì dù sao ông cũng là một nhà thơ tiêu biểu nhất, vẻ vang
133
nhất, có vị trí quan trọng trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại và trong chương
trình môn văn ở các trường phổ thông và đại học.
Tôi được gặp riêng Tố Hữu hai lần, không kể những lần được nghe ông
nói chuyện ở các hội nghị.
Qua hai lần tiếp xúc với Tố Hữu, tôi thấy ông là người thông minh, nói
rất giỏi. Một nhà hùng biện. Ông rất tin ở những điều mình nói như là những
chân lý tuyệt đối. Nói rất sôi nổi, say sưa, không cho ai cắt ngang dòng biện
thuyết của mình.
Cuộc tiếp xúc lần thứ nhất là năm 1967. Địa điểm: nhà riêng Tố Hữu,
76 Phan Đình Phùng.
Hồi ấy gặp riêng Tố Hữu rất khó. Anh Huỳnh Lý, lúc ấy là chủ nhiệm
khoa Văn Đại học Sư phạm Vinh, đã liên hệ trước như thế nào đó mới xin phép
được. Rất tiếc cuốn sổ tay tôi ghi chép về cuộc tiếp xúc này tôi đã để thất lạc
mất thành ra chỉ còn lưu lại được trong óc một vài ấn tượng.
Tố Hữu nói về chính trị là chính. Ông say sưa ca tụng dân tộc mình
trong chiến tranh chống Mỹ vừa thông minh vừa anh hùng. Ông nói về Nguyễn
Văn Trỗi, Nguyễn Văn Bé. Ông rất lạc quan và hoàn toàn thoả mãn về Đảng, về
cách mạng Việt Nam chỉ có tiến lên theo đường thẳng. Con đường chỉ có toàn
ánh sáng. Cách mạng Việt Nam không hề có bi kịch.
Tố Hữu tỏ ra rất phục Lê Duẩn. Ông cho Lê Duẩn đúng là một penseur.
ấn tượng khó quên nhất của tôi là ông nói liên miên, nói rất nhiều. Tôi
nhớ ông nói từ khoảng hai ba giờ chiều. Nói rất bốc. Lúc đầu còn ngồi ngay
ngắn, sau co chân xếp bằng tròn trên salon. Tôi ngồi sát cạnh, thỉnh thoảng ông
còn vỗ mạnh vào đùi tôi, hỏi một câu gì đó. Hỏi không phải để nghe trả lời, mà
là cách gây chú ý, để nghe ông nói tiếp. Ông nói cho đến khoảng năm giờ chiều.
Anh thư kí riêng đi ra, xem đồng hồ, ý nhắc ông nghỉ cho đỡ mệt. Ông không
để ý, đứng dậy bật đèn, nói tiếp.
Thực tình lúc ấy tôi mót đi tiểu quá. Ngồi ngay cạnh ông, đứng lên
không tiện. Vả lại biết đi to Toalét ở chỗ nào! Mà cũng nghĩ ông sắp nghỉ rồi, vì
trời đã muộn. Nhưng ông cứ nói, nói liên miên, nói say sưa hào hứng. Lúc đó,
thực bụng tôi nghĩ: Trên đời không có gì nhảm nhí bằng chuyện văn chương,
chỉ có đi tiểu là quan trọng nhất.
Nhưng cuối cùng thì ông cũng nghỉ, có lẽ do cách nhắc khéo của anh
Huỳnh Lý. Ông bắt tay từng người. Đến lượt tôi, không hiểu sao, ông lại còn
giữ tay, nói tiếp mấy câu nữa. Sợ quá!
Cuộc tiếp xúc thứ hai. Địa điểm: ở ngôi nhà bát giác cạnh trường Chu
Văn An bên Hồ Tây, năm 1980.
Lần này do anh Đoàn Trọng Huy, phó chủ nhiệm khoa Văn Đại học Sư
phạm Hà Nội liên hệ được. Lúc này tôi đã được chuyển ra công tác tại Hà Nội.
Cũng như lần trước, Tố Hữu vẫn nói nhiều, nói liên miên. Ông nói về
chính trị, về thơ, về việc giảng dạy văn trong nhà trường. Sau năm 1975, tình
hình đất nước đã ít nhiều đổi khác. Vì thế ông cũng nói đến chuyện mở cửa, đến
chống chủ nghĩa Mao, đến mở rộng đề tài thơ và phát triển phong cách thơ.
134
Nhưng tinh thần vẫn như cũ, vẫn Đảng ta là đúng nhất, sáng suốt nhất,
nhân dân ta, dân tộc ta là tuyệt vời, Mác Lênin là chân lý tuyệt đối, và văn học
gắn với chính trị, phục vụ chính trị là chân lý muôn thuở.
Dưới đây là lời độc thoại triền miên của Tố Hữu, tôi ghi lại được:
" Vấn đề mối quan hệ giữa chính trị và văn nghệ, tưởng không còn
chuyện gì nữa, hoá ra không đơn giản. Vẫn còn có nhiều người chưa nhận ra cái
lẽ lớn ấy.
Văn học phải góp phần tạo ra con người mới, con người xã hội chủ
nghĩa, để bảo vệ và xây dựng đất nước. Với dân tộc ta, động viên hy sinh xương
máu dường như dễ hơn là động viên đổ mồ hôi, đổ trí óc để tăng năng suất lao
động, cải thiện đời sống cho mình.
Tiêu chuẩn đánh giá một nền văn học lớn là góp sức tạo ra con người
mới. Đó là thước đo, nói là cao nhất cũng được, nói là duy nhất cũng được.
Cũng có thể gọi đó là quan điểm thẩm mỹ của ta.
Đúng là các vấn đề văn học nên đưa ra tranh luận, kể cả với quan điểm
đối địch. Nên làm quen với những cách suy nghĩ khác nhau. Nên học cả những
vũ khí của địch. Muốn hay không muốn, trái đất cũng có những cuộc giao lưu
như thế. Không nên bịt cửa. Trong thời đại này, không có dân tộc nào sống như
thế. Chủ nghĩa Mao nẩy sinh trong sự bịt cửa, tự bịt cửa trong ngu dốt và tàn
bạo.
Phải mở cửa. Mở cửa để đón ánh sáng và gió mát chứ không phải để
đón ma quỷ. Vì đời có cả thiên thần và ma quỷ... Phải biết đóng cửa, mở cửa
một cách khoa học. Mở cửa cũng còn để trao đổi với ngoài. Có vay có trả, có
góp cho đời. Ta rất tự hào về văn học ta là văn học của một dân tộc tiên phong,
có vẻ đẹp của nó.
Quy luật từ xưa đến nay là quy luật riêng chung.
Xưa cái chung lấn át cái riêng.
Nay cái riêng lấn át cái chung.
Cần hoà hợp riêng chung. Cái chung mà không phát huy cái riêng, cái
riêng nó sẽ quay lại chống lại cái chung.
Làm chính trị là l’art des possibités. Làm sao sử dụng được đến ngón tay
út của con người. Tập thể là vô cùng. Con người cũng là vô cùng. Nói vượt
mình là không đúng. Nên nói phát huy khả năng của mình. Làm sao vượt mình
được! Chủ nghĩa Mác ý thức được khả năng vô tận của con người.
Con người là gì? Cuộc sống là gì?
Là vật chất, trí tuệ, tình cảm – là con – người – mới.
Khổng Tử phủ nhận “con” là dối trá. Thực ra Khổng Tử coi con người
là trâu chó.
Con người khác con vật là có trí tuệ và tình cảm. Có cái đầu pensant.
Mao không cần. Tư sản cần nhưng chỉ cần để phục vụ nó. Làm trái nó, nó chặt
đầu. Mọi chế độ bóc lột đều ngu dân ở những mức độ khác nhau, mức hạn chế
khác nhau, do lợi ích giai cấp. Chỉ có chủ nghĩa cộng sản là parti de
l’intelligence.
135
Cái “con” là nécessité. Nhưng trí tuệ, tình cảm mới là đặc trưng của
người. Chủ nghĩa xã hội là làm chủ tập thể cộng với công nghiệp hoá. Lênin thì
nói: Chính quyền Xô viết và điện khí hoá...
Bác Hồ thì nói độc lập tự do. Tự do là chuyện muôn đời. Nécessité
comprise là chuyện muôn đời. Vĩ nhân là làm chủ quy luật và chiến đấu cho tự
do. Đúng thế. Nhưng thực sự là người tự do, khó lắm! Hạnh phúc lớn nhất là tự
do, là làm chủ.
Uống ngụm nước suối trong đỡ khát
Trông trời cao mà mát tâm can.
Nước suối mà sao ngon? Vì đó là tự do, là nécessité, quy định bởi cái
nécessité cao hơn tức là cứu nước. Tôi chỉ nói tới nói lui những điều đã cũ,
không có gì mới. Vì không cần nói gì hơn.
“Bay vào vũ trụ” là nécessité
Dép lốp là nécessité.
Tôi thừa nhận dép lốp, cơm khoai, vì đó là nécessité. Song tôi cũng có
cái đầu để mơ ước chứ! Cho nên tôi thấy bay vào vũ trụ cũng là nécessité.
Nói vị nghệ thuật là dối trá. Ai chả vì cuộc sống này khác. Chỉ có người
cộng sản là nói ouvertement. Phong kiến, tư sản không dám nói. Còn tiểu tư sản
là tù binh của mọi nguồn, bơi trong mọi dòng nước, tự lừa dối mình. Tiểu tư sản
không có đời sống độc lập. Ta nói ouvertement vì ta nói sự thật và chỉ có ta mới
nói được.
Thanh niên bây giờ có xu hướng “Tây loăng quăng hoá”, dễ mất tính
dân tộc. Ông cha ta bản lĩnh lắm, mãnh liệt lắm nên mới tránh được Tây hoá.
Nhưng dân tộc phải nhịp theo thời đại. Đó là sự thật khách quan.
Thời đại là: ba dòng thác cộng với cách mạng khoa học kỹ thuật.
Nhật Bản đã trở thành 2 ème puissance vì có ba yếu tố:
1. Tinh thần Đại Nhật Bản (Đảng Cộng sản lẽ ra phải tranh lấy ngọn cờ
dân tộc. De Gaulle và tư bản Nhật nắm dân tộc hơn đảng cộng sản).
2. Cách mạng khoa học kỹ thuật
3. Quản lý xã hội, quản lý kinh tế rất khôn ngoan (quản lý theo lối tư
bản cộng với truyền thống gia trưởng)
Conscience và Science. Thời đại này có hai cái đó thì thắng. Trẻ con ta
có Conscience politique rất sớm. Nói phải có lý nó mới phục, nó mới nghe.
Tài nguyên thì ta có dầu, có sắt. Cho nên lắm kẻ đã ve vãn “xôn xao
ngoài cửa thiếu gì yến oanh”
Dân tộc ta có truyền thống rất mạnh. Tinh thần thời đại cũng mạnh. Hai
cái đều mạnh. Nhiều dân tộc phải xấu hổ vì ông cha của mình: ăn cướp, quân
phiệt, hoặc đầu hàng khiếp nhược.
Dân tộc ta, cái dominant là nhân dân. Không cần tư sản. Do chống ngoại
xâm mà hình thành dân tộc. Chống xâm lược trên quy mô lớn nên dân tộc lập
tức gắn với nhân dân.
Dân ta profondement – athée – vô thần – pratique. Lừa cả thần, lừa cả
Phật (Trạng Quỳnh). Bất chấp Khổng, Phật, Thiên Chúa. Rất matérialiste. Cái
136
nôi dân tộc ở chính Việt Nam. Nhân dân ta là miếng đất lí tưởng cho chủ nghĩa
cộng sản.
Dân tộc – Nhân dân – pratique. Lại có tính nhân dân nữa. Thừa nhận giá
trị con người rộng rãi lắm “Thương người như thể thương thân”. Nhân ái lắm!
Không lấy mình làm chuẩn như Khổng Tử “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”. Tình
làng xóm, cha con, vợ chồng rất khác đạo Nho. Tầu nói trọng nghĩa khinh tài,
đào viên kết nghĩa mà dối nhau, giết nhau.
Thời đại ta có chủ nghĩa Mác nên tránh được tự phát, tuỳ tiện. Cái yếu
nhất của ta là khoa học kĩ thuật. Đảng đề ra cách mạng khoa học kĩ thuật là then
chốt, trúng quá!
Cuộc thắng Mỹ của Việt Nam lớn lắm. ảnh hưởng đến nhiều dân tộc
trên thế giới. Họ không sợ Mỹ nữa. Mỹ không dám gây sự, không dám có một
Việt Nam thứ hai.
Tố Hữu ngừng lại một lát rồi tiếp: “Đấy là tất cả những gì tôi đã nghĩ và
đã nói bằng thơ.
Từ Từ ấy tôi vẫn nói thế thôi: lẽ phải, chân lý, tình cảm. Chân lý chói
qua tim. Chân lý phải qua tim mới dẫn tới hành động. Tình cảm lớn phải có
chân lý lớn chỉ đạo. Mao không có tim và chân lý. Tôi nói Mỵ Châu “Trái tim
lầm chỗ để lên đầu” làm mất nỏ thần. Mao thù. Tầu bay Việt Nam không cho
qua Trung Quốc.
Thơ Tố Hữu là nói lẽ phải lớn của dân tộc và thời đại. Tôi viết bài “Một
nhành xuân”. Có lẽ người ta đã quên lẽ phải lớn chăng, nên phải nói lại. Người
ta nói tầm bậy về Đảng quá. Apolitique nặng. Không biết lịch sử dân tộc do
Đảng đem lại. Chủ nghĩa công thần, tính công trạng mình nhiều quá mà không
tính công Đảng . Hoàng Văn Hoan tách Đảng, thành phản quốc. Còn gắn với
Đảng là mùa xuân vĩnh viễn.
Nhà văn phải có message nhắn gửi cho đời. Vấn đề là có cái gì đáng
nhắn gửi thật không? Chuyện văn là chuyện đời, chuyện lẽ phải.
Nghệ thuật phải có hình thức adéquate 100%. Nhưng đó là chuyện dĩ
nhiên. Art là personnel, không phải individualiste. Rất riêng song không cá
nhân chủ nghĩa.Bên cạnh hoàng anh, hoạ mi, phải có sẻ sẻ, chim chích, thích
chứ, vui chứ! Nhưng cá tính là gì? Cá tính có ý nghĩa thực là góp một tiếng nói
cho đời. Hoạ mi hót mà đời insensible thì phục vụ ai, có ích gì, vô nghĩa.
Có người chủ trương viết cho mai sau, không cần đời chấp nhận. Vô lý.
Mai sau ai sinh ra? Trên trời rơi xuống à? Người mai sau là ai? Chẳng qua là
trốn dư luận, ai biết mai sau là gì!
Nghệ sĩ phải sống với thời đại của mình. Có convention, có giao ước
của nó chứ! Rút lại phải sao cho người đương thời chấp nhận.
Có nhà thơ chỉ nói tình yêu, tình bạn, hoa đẹp. Thích chứ! Có người nói
thời buổi chiến tranh không nên vẽ phong cảnh, vẽ hoa. Tầm bậy! Cảm thụ
được cái đẹp của thiên nhiên muôn hình muôn vẻ, lớn lắm chứ! Nhưng phải bàn
thế nào là đẹp. Rút cuộc là trở về hunanisme.
Rất mừng là thế hệ trẻ đang lên. Lê Thị Kim có bài Cỏ. Tôi không viết
137
được. Yêu thiên nhiên và yêu tình yêu. Khánh Chi rất nên ủng hộ. Tuổi mình
không còn là tuổi tình yêu, nói gì được nữa.
Rất may là thời đại ta cùng tồn tại bốn thế hệ: thế hệ già, thế hệ thời
chống Pháp, thời chống Mỹ, thời xây dựng chủ nghĩa xã hội. Già có vẻ đẹp của
già (đừng có lẩm cẩm). Trẻ biết đâu mà nói. Mỗi thế hệ có vẻ đẹp riêng, có ưu
thế riêng. Hãy nói to lên những điều đẹp nhất của mình.
Tôi rất chú ý từ ngữ, âm điệu, nhạc điệu. Không dùng từ ẩu bao giờ.
Thơ phải tiết kiệm, không nói dài. Tôi không có khả năng sáng tạo từ mới. Từ
vựng của tôi nghèo lắm! Từ ít và không thông minh như của Chế Lan Viên.
Phạm Tiến Duật, Bằng Việt cũng lắm từ, chịu khó tìm tòi, sáng tạo ngôn ngữ.
Chỗ yếu của tôi là thường dùng từ ngữ quen thuộc. Không nói được điều
gì bất ngờ, làm nên sự giật mình về hình thức.
Nhạc điệu ngôn ngữ Việt Nam hay lắm. Âm thanh diễn đạt chính xác,
cụ thể, nhiều giọng điệu. Mỗi bài thơ phải tìm một giọng thích hợp: Emily con,
Kính gửi cụ Nguyễn Du, Theo chân Bác... Bác thích loại thơ rigoureux. Bác rất
Classique. Vì thế Theo chân Bác phải dùng thể thất ngôn mới thích hợp.
Nhịp sống thay đổi, cũng phải tạo nhạc điệu mới. Phải phá thể, phá
cách. Lục bát cũng thế:
“Thác, bao nhiêu thác cũng qua”
Các cụ xưa không làm thế.
Tôi rất nghiêm trong việc dùng chấm và phẩy. Học sinh bây giờ chấm
phẩy bừa quá. Phải học tính chính xác, khoa học, khẩn trương, hoạt bát. Ông bà
ta không làm được điều đó vì nhịp điệu nông nghiệp quen rồi.
Tôi cố gắng phục vụ mọi người. Xã hội ta có ba loại:
- Loại văn hoá thấp: Trình độ cấp I. Người lao động phần lớn ở mức độ
này.
- Loại trình độ cấp II, cấp III, tuổi 30, 40. Loại này cũng có hàng triệu
người.
- Loại đại học. Trí thức.
Bài Emily,con... phục vụ độc giả từ trung học trở lên. Viết cho loại này,
tiện, vì cùng loại với tác giả. Có thể làm một cách tự nhiên, không mất công.
Viết cho loại một cực lắm. Đối tượng là dân gian. Bài Ba muơi năm đời
ta có Đảng viết cho hàng chục triệu người. Gọi là vè rất đúng, là khen, vì dụng
ý của tôi là làm vè.
Bài Mẹ Suốt viết cho chính mẹ Suốt. Nhưng không giữ mức vè. Đó là
bài thành công với nhiều tầng lớp.
Bài Theo chân Bác phải vừa hợp phong cách Bác, vừa phục vụ toàn dân,
cho cả trí thức. Dùng thất ngôn có thể giải quyết được.
Bài Nước non ngàn dặm chủ yếu nói cho miền Nam. Cần gợi cảm nên
dùng lục bát là tiện. Nhưng có savant hơn một chút. Cấu tứ không khó lắm!
Khó là forme nào, giọng nào. Năm ba câu đầu mà bắt được giọng rồi thì dễ lọt.
Câu đầu lợi hại lắm. Bài Một nhành xuân tôi đã làm năm năm trước.
”Năm 20 của thế kỉ XX”. Sau nghĩ làm lý lịch làm gì, anh là gì mà khai lí lịch!
138
Tôi phải nghĩ hai câu mở đầu khác:
Vâng xin kể cùng Xuân đồng chí
Chuyện riêng chung một cuộc đời bình dị.
Thường khó làm câu đầu và câu cuối. Câu cuối phải gợi ra cái gì rộng
hơn cái mình nói trong thơ. Phải mở, không được đóng. Đóng lại là vô duyên.
Đọc câu cuối người ta còn nghĩ, còn vơ vơ vẩn vẩn, thế hay hơn.
Còn từ câu đầu đến câu cuối không biết trước, không tự giác. Trước khi
viết nghĩ nhiều. Khi viết quên đi và thả cho xúc cảm, cứ như tìm hoa trong đêm.
Thơ kị nhất đọc câu trước người ta đoán được câu sau. Chính mình cũng không
biết, không ngờ. Phải cho thơ tự nó sinh sôi, phát triển. Có ai đó nói rằng, nhà
thơ hoàn toàn biết rõ tiến trình sáng tác một bài thơ, hoàn toàn biết trước câu
thơ cuối cùng của tác phẩm. Tôi thì có khi làm xong bài thơ, cũng ngơ ngơ ngác
ngác về tác phẩm của mình. sáng tác là cảm xúc không luôn luôn tỉnh táo. Văn
xuôi có tỉnh hơn chăng? ở đây có những yếu tố ngẫu nhiên, tình cờ. Có khi cũng
không biết là hay hay dở nữa kia. Anh Xuân Diệu hỏi tôi, sao anh lại tạo ra
được hai câu: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi, Mà mưa xối xả trắng trời Thừa
Thiên”? Tôi cũng không biết sao mình lại tài thế!
Thơ có quy luật riêng của nó.
Phạm Tiến Duật là anh lính thì hay. Đến lúc luận là chết. Vòng trắng.
Sao đời lại tự tử! Hai lần tự tử! Giết anh và giết người chết rồi. Không hiểu đời
đã luận đời!
Trần Đăng Khoa đang dở dang, hết trẻ con, nhưng chưa thành người
lớn. Nói giọng ông già là trật.
Phải luôn đề cao thế giới quan, nhân sinh quan. Nhưng đối với lớp trẻ,
nó thấy khắc khổ quá. Phải nói đạo lý thế nào đấy không xa lạ với nó. Nên đề
cập đến tất cả những gì nó quan tâm. Đừng nói đại nghĩa trước mà phải đi từ
tiểu nghĩa trước (tình yêu, tình bạn). Từ bỏ tiểu nghĩa, nó không nghe đâu!
Không chấp nhận tình yêu và thơ tình là không đúng, là nihilisme. Thơ tình là
loại thơ khó nhất: nói được cái gì mới? Tôi không làm được.
Nói thơ Tố Hữu không nói hết mọi vấn đề là đúng. Nhưng cho rằng thơ
Tố Hữu chỉ nói cái to không nói cái nhỏ thì oan. Nhưng chuyện cụ thể chỉ là cái
cớ để nói cái to. Cái tật quen của tôi nó vậy. Tố Hữu có nói cả hoa và rác đấy
chứ. Nhưng phải có trách nhiệm, phải làm cách mạng, phải quét rác (Tiếng chổi
tre)...
Bài Hồ Chí Minh. Khi viết bài này, tôi chưa được thấy Bác, chỉ biết qua
về Bác, chưa đọc gì của Bác. “Vung gươm lắp súng” là nghĩ thế, viết thế.
Nhưng nói “Người lính già” là bạo, thế mà đúng. Lúc bấy giờ nói thế là bạo,
trái với xu hướng quan niệm về lãnh tụ, về vĩ nhân, lúc đó. Đúng, Bác là người
lính.
Bà má Hậu Giang. Có chuyện thật nghe nói ở Ban Mê Thuột: một bà
má nấu nồi cơm to, bị Tây chặt đầu. Còn phịa ra cả. Lúc đó Bắc Sơn thất bại,
Nam kỳ thất bại. Tư tưởng défaitisme, cần góp phần khôi phục lại niềm tin.
Ly rượu thọ. Có chuyện một viên tướng có bà mẹ yêu nước. Còn chuyện
139
chúc thọ là bịa.
Mẹ Suốt, có chuyện đẻ con bị xẩy, có chuyện vải màn nguỵ trang thật
và cũng có hỏi mẹ mấy câu. Nhưng đặt thêm ra lời hỏi và câu trả lời. “Cá tôm
cũng sướng” là bịa.
Nhân tiện thấy ông nói về những bài thơ cụ thể, tôi tranh thủ hỏi về bài
Ân hận tôi đọc trên báo thời Mặt trận dân chủ Đông Dương, đề tặng một “nàng
trinh nữ” nào đấy. Ông nói bài này làm trong nhà tù. Hồi ấy yêu một cô. Cô ấy
đi lấy chồng. Đơn giản thế thôi.
Nói mãi cũng mệt. Tố Hữu nghỉ, uống nước .
Qua ý kiến của Tố Hữu, thấy ông quả là một nhà thơ có kinh nghiệm.
Và không phải là không có tài.
Nhưng vì sao thơ ông không có giá trị lâu dài? Có lẽ vì ông chọn cho
mình con đường làm thơ chính trị. Ông đã đáp ứng xuất sắc tâm lý chính trị của
dân tộc một thời. Nhưng thời ấy đã qua rồi.
Thơ tuyên truyền chính trị nên phải đơn nghĩa. Và vì phải hướng chủ
yếu về đối tượng công nông binh, nên phải sử dụng những thể điệu truyền thống
kể cả lối ca vè và phải dùng những hình ảnh, những ngôn từ quen thuộc, tránh
sáng tạo hình ảnh và từ ngữ mới lạ.
Tố Hữu lại tiếp tục nói. Ông chuyển sang nói về giáo dục, về việc dạy
văn. Ông cho rằng muốn dạy tốt phải dựa trên nghiên cứu khoa học. Giáo viên
không được tiếp xúc với các công trình khoa học thì như người lính ra trận
không có vũ khí. Giáo viên văn học là giáo viên khổ nhất mà đáng lẽ sướng
nhất. Học sinh nộp bài như nộp thuế.
Ta còn thiếu những công trình khoa học có sức thuyết phục. Tôi chưa tin
có ai đã dạy Kiều, hiểu Kiều một cách đầy đủ. Và liệu đã có ai hiểu hết một bài
Bình ngô đại cáo. Bài văn lạ lùng trên nhiều mặt. Lượng thông tin ghê gớm.
Từng từ có giá trị xã hội, đại diện cho một thực thể xã hội. Trí tuệ, tư tưởng ghê
gớm lắm: “Lấy nhân nghĩa”, “lấy chí nhân”. “Chí nhân” thời ấy là gì? “Cường
bạo” nội dung thời ấy là gì? “Trúc chẻ ngói tan”phải là một chiến dịch ghê
gớm lắm. Bao nhiêu ý nghĩa nhận thức!
Thày giáo văn học là đắt nhất. Nghề này không chỉ đòi hỏi hiểu biết.
Anh phải sống đẹp. Thông tin văn học khác. Phải gây hiểu biết và xúc động thật
sự. Không cảm thụ được và truyền đạt được cảm xúc thì nghề dạy văn là vô
nghĩa.
“Đau đớn thay phận đàn bà”, không có gì sáng tạo cả mà hay, vì là
tiếng kêu giữa trời cho ba trăm năm sau. Thiên tài là sự nhuần thấm máu thịt
đến mức như như là cảm quan ngẫu nhiên, tạo ra cái đẹp mà không biết. “Long
lanh đáy nước in trời”. “Long lanh” sau mới thấy “đáy nước” và thấy “trời”.
Được nghe, hiểu một câu thơ như thế, chết cũng sướng.
Nếu loài người hiểu hết vẻ đẹp của mình thì là thiên thần. Là thoát ra
khỏi tấn bi kịch lớn. Bi kịch của loài người là không ý thức được vẻ đẹp của
mình, do mình tạo ra, và tất cả thấy cần phải sống đẹp như thế. Làm sao một
dân tộc rất đẹp như Campuchia lại bị tiêu diệt có vẻ dễ dàng như thế? Tôi vẫn
140
suy nghĩ mãi về điều đó.
“Phải đặc biệt coi trọng giáo dục, coi trọng văn học. Chủ nghĩa xã hội
đâu phải chỉ cần cơ sở khoa học kỹ thuật. Con người còn cần tâm hồn nữa chứ.
Nếu không chỉ là con thôi, một thứ con cao cấp thôi”.
ý kiến của Tố Hữu về giáo dục, về dạy văn nói chung là đúng, tuy không
có gì mới mẻ đặc sắc. Sức hấp dẫn vẫn chỉ là ở nhiệt tình sôi nổi và niềm tin
mãnh liệt, đã trở thành phong cách riêng, khẩu khí riêng của ông.
Lúc đó anh Đoàn Trọng Huy vừa mua được cuốn Tuyển tập thơ Tố Hữu
do Hà Minh Đức soạn. Anh xin chữ kí của Tố Hữu. Tôi đọc bài Mẹ Tơm, thấy
câu thơ “ Sống trên cát, chết vùi trong cát” in là “ Sống trên cát, chết hoà trong
cát”, bèn nhân tiện hỏi Tố Hữu: hoà hay vùi? Tố Hữu nói “vùi chứ hoà thì còn
văn chương gì nữa”. Ông tỏ ra tán thành lời bình của Hoài Thanh về chữ vùi
trong bài thơ này.
* *
*
Tố Hữu trông người nhỏ nhắn, nhẹ nhõm như một thư sinh. Nhưng rất
hách. Tôi đã nghe Hoàng Cầm nói, ông đã từng ra lệnh bắt Trần Dần, Tử Phác
bằng sáu tiếng ngắn gọn: “Gọi nó về, bắt lấy nó”. Tôi đã chứng kiến Nguyễn
Đình Thi sợ ông như thế nào, tôi ví như con cua co dúm người lại trước con
ếch.
Tôi đã nghe Hoàng Ngọc Hiến thuật lại về Tố Hữu trong cuộc họp nhà
văn đảng viên hồi tháng sắu năm 1979. Nguyên Ngọc trình bầy bản đề cương
chống Mao-ít. Tố Hữu đã quạt cho Nguyên Ngọc một trận, cho đây là hiện
tượng “ngược dòng”, ông có cách nói mỉa mai rất ác. Nhân thấy Nguyên Ngọc,
người thấp, nhân làm đổ cái micro trên bàn chủ tịch đoàn, ông nói: “Cái bục
này đối với tôi hơi cao, đối với anh Nguyên Ngọc thì cao quá!”. Ông còn đến
vuốt râu Nguyên Hồng: “Để râu sớm quá đấy, để trốn họp chi bộ chứ gì!”. Gần
đây Kim Lân còn cho tôi biết, hôm ấy, Tố Hữu đến chỗ Kim Lân, nói: “Dạo
này viết ít quá đấy!”. Kim Lân buột miệng nói: “Bác lại phê bình em rồi!”. Có
vậy thôi mà nghĩ sợ quá. Kim Lân nói: “Tôi nhớ trong truyện Tam quốc, có hai
anh bạn thân, sau một anh làm to, anh kia đến chơi, nói suồng sã về những kỉ
niệm thuở hàn vi. Sau bị tay kia cho người đuổi theo thủ tiêu – Sợ quá!”.
Tôi chắc Kim Lân sợ thì có sợ, nhưng làm gì đến nỗi thế. Bọn nhà văn
là chúa hay phóng đại.
Nguyễn Khải cũng kể lại, hôm ấy anh ngồi chủ tịch đoàn. Có một cậu
nói nhỏ với anh: “Ông Lành đang nói sao cậu lại cười?” Khải sợ quá, vội chối:
“Không, răng tôi nó hô đấy chứ, tôi có dám cười đâu!”.
Gần đây anh Hoàng Dũng cán bộ giảng dạy khoa Văn Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, học trò thân thiết của Nguyễn Tài Cẩn, cho biết, Tố
Hữu có lần gọi Huy Cận, bảo phải biên soạn cuốn từ điển về thơ Tố Hữu:
“Pouchkine có từ điển, sao Tố Hữu không có từ điển”. Huy Cận nhờ nhà ngôn
ngữ học Nguyễn Tài Cẩn giúp cho việc này. Cẩn từ chối không được, bèn dùng
141
mẹo, nhận nhưng không làm, tuy thỉnh thoảng lại giả vờ đến Tố Hữu “xin” ý
kiến về câu này, chữ khác của thơ ông. Bây giờ Tố Hữu chết rồi, chẳng có trang
từ điển nào cả. Anh đồ nghệ láu thật!
Năm 1986, Đại hội Đảng lần thứ VI. Tố Hữu mất hết mọi chức vụ. Tự
tột đỉnh vinh quang tụt xuống đất. Đau lắm! Từ Sơn đến chơi thấy nhà như có
tang. Ông nói với Từ Sơn: “ Chúng nó tiếc gì mà không cho mình làm cố vấn!”.
Rồi kéo Từ Sơn ra ngoài vườn như sợ có kẻ nào nghe trộm: “Có gan lên chiến
khu làm cách mạng lại không?” Đúng là cay cú đến mức điên rồ!
Tố Hữu rất ghét thi hoa hậu. Ông nói với Hoàng Điệp, Nhà xuất bản
Văn hoá thông tin: “Thi hoa hậu để khoe mông khoe đùi chứ gì! Làm như thế
những phụ nữ xấu người ta tủi. Sao không thi bắn súng?” Tất nhiên Tố Hữu rất
ghét Gooc bachốp. Chị Tố Nga, vợ Hoàng Ngọc Hiến, bắt chước giọng Huế của
ông rất vui: “Miềng có Hồ Chí Minh của miềng chứ! Thấy người ta chốp chốp,
cũng chóp chóp”.
Những năm cuối đời, ở Tố Hữu, có chuyện này cũng lạ: thường phủ
nhận những điều mình đã nói, đã làm. Trong cuốn Chân dung và đối thoại, Trần
Đăng Khoa nói đến chuyện Phù Thăng một thời bị qui chụp chính trị rất nặng.
Khoa cũng thuật lại cuộc phỏng vấn Tố Hữu về việc sáng tác bài Hoan hô chiến
thắng Điện Biên. Tố Hữu nói, không hề biết chuyện Phù Thăng, còn những điều
Trần Đăng Khoa hỏi ông về bài Chiến thắng Điện Biên là bịa. Thực ra Tố hữu
từng viét bài phê phán Phù Thăng, còn về cuộc phỏng vấn ông về bài Chiến
thắng Điện Biên thì Khoa nói với tôi: “Em có ghi băng hẳn hoi, đâu có bịa”
Lại có chuyện Nhật Hoa Khanh công bố một bài phỏng vấn Tố Hữu rất
dài. Đọc bài phỏng vấn này, thấy Tố Hữu nói ngược hẳn những điều ông nghĩ,
ông viết và ông làm trước đây đối với các nhà văn thuộc nhóm Nhân văn giai
phẩm. Ngược hẳn lại như quay 180 độ, khiến rất khó tin là có thật. Trần Đăng
Khoa cho rằng, Tố Hữu quả cũng hay phủ nhận những điều mình đã nói, đã
làm, nhưng không đến nỗi quá quắt như trong bài phỏng vấn của Nhật Hoa
Khanh. Tô Hoài thì nói, những sự kiện, những chi tiết trong bài phỏng vấn đều
có thật cả, chỉ có điều Tố Hữu nói ngược lại. Nhật Hoa Khanh thì nói, anh có
ghi âm, còn giữ băng ghi âm.
Hiện tượng này tôi vẫn thấy khó tin và cũng khó giải thích. Hay là giải
thích bằng tính cách của người Huế chăng: “Sơn bất cao, thuỷ bất thâm...”
Tố Hữu ngay khi đã mất hết chức vụ, vẫn rất hách. Trong một cuộc gặp
mặt của các nhà văn lão thành (Hữu Thỉnh hằng năm cứ vào đầu xuân lại mời
các nhà văn ở Hà Nội từ 70 tuổi trở lên đến gặp mặt để chúc Tết và mừng tuổi),
người đã đến đông, Tố Hữu đến sau, ông nhìn khẩu hiệu trên tường: “Hoan
nghênh các nhà văn lão thành cách mạng”, nói thủng thẳng: “Lão, nhưng liệu
có thành không chứ!”
Tính cách như thế nên nói chung văn nghệ sĩ không ưa. Khi ông có chức
có quyền, người ta sợ, người ta phải đến – như xếp hàng chúc Tết ông chẳng
hạn. Nay hết chức quyền rồi, người ta lảng hết. Tôi nhớ đám tang Lưu Quang
Vũ, Xuân Quỳnh ở 51 Trần Hưng Đạo, người đến viếng đông lắm. Viếng xong,
142
mọi người sang phòng bên uống nước và trò chuyện. Tôi thấy Tố Hữu ngồi một
mình. Chả có ai đến nói chuyện. Ông ngồi một lúc rồi lẳng lặng bỏ về.
Hết mọi quyền lực rồi, Tố Hữu vẫn có tật nói nhiều. Hôm báo Văn nghệ
tổ chức hội thảo về cuốn Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa, ông có
đến dự. Một mình ông nói hàng tiếng đồng hồ.
Lúc Tố Hữu đã mệt nặng, Nguyễn Khải có đến thăm. Khải nói, ông đã
mệt lắm, nói không ra tiếng, vậy mà miệng vẫn mấp máy, lắp bắp. Đúng là mắc
bệnh nói.
Hình như Gala cười có diễn một tiết mục văn nghệ về một anh chàng
mắc bệnh nói nhiều thì phải.
Ca dao có câu:
Rượu lạt uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm, dẫu hay cùng nhàm.
Láng Hạ, ngày 22 – 5 – 2007



Chương IX: Xuân Diệu


Hồi kháng chiến chống Pháp, có lần tôi đã được thấy Xuân Diệu. Lúc ấy
tôi đang học ở trường Trung học kháng chiến đóng ở Đào Giả - Phú Thọ. Tôi đi
khám bệnh ở một bệnh viện ở Đại Đồng. Hình như anh cũng đi chữa răng thì
phải. Có người biết Xuân Diệu, chỉ cho tôi. Anh đi xe đạp, mái tóc lượn sóng,
rất thi sĩ.
Từ ngày về Hà Nội học, rồi công tác ở Đại học, tôi có dịp đến Xuân
Diệu mấy lần cùng với Nguyễn Duy Bình và Hoàng Ngọc Hiến. Vào cuối
những năm 60, sang những năm 70 của thế kỉ trước, tôi luôn viết cho tạp chí
Tác phẩm mới do Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tô Hoài thay phiên nhau phụ
trách, vì thế luôn có dịp tiếp xúc với Xuân Diệu.
Xem chừng anh rất tín nhiệm tôi. Có lần tôi ngồi uống cà phê với anh ở
24 Điện Biên, bỗng anh nói: “Đây là hai tài nhân nói chuyện với nhau” (Anh
không nói nhân tài mà lại nói tài nhân)
Khi tập thơ Những năm 60 của Huy Cận ra đời, Xuân Diệu đặt tôi viết
bài phê bình đăng Tác phẩm mới. Anh nói, Huy Cận đang đi Pháp, Mạnh phải
viết thẳng tay, nêu rõ nhược điểm cho cậu ta đỡ chủ quan. Tập thơ nhiều bài
yếu lắm. Khi viết bài ấy, anh có trao đổi góp ý với tôi.
Biết anh mến tôi, tôi đến anh luôn.
Xuân Diệu là người rất chu đáo, thiết thực và tiết kiệm. Chu đáo, thiết
thực, tiết kiệm đến tỉ mỉ, chi tiết. Thấy tôi viết bản thảo kín cả hai mặt giấy, anh
cho tôi một cuốn giấy báo, bảo rọc ra, viết một mặt thôi (Hồi này đời sống khó
khăn đến nỗi giấy trắng để viết văn, viết báo cũng thiếu thốn. Tôi thường phải
dọc giấy để dùng làm bản thảo những tờ giấy bỏ thừa không viết hết ở cuối
những bài tập làm văn của học sinh, vợ tôi thường thu về nhà để chấm). Những
lần tôi đến anh vào buổi chiều, mải nói chuyện đến gần tối, anh thường giục tôi
về, vì đường thì xa, đi lại nguy hiểm. Anh nói: “Có thể ở nhà vợ lo bị cướp xe
đạp ấy chứ!”. Có lần trời nắng, đi qua nhà anh, tôi tạt vào mượn cái mũ. Anh
cho mượn cái mũ lá đã cũ (hình như của Hà Vũ, con Huy Cận), vậy mà vẫn dặn
phải giữ cẩn thận, khi nào ra Hà Nội trả lại anh. Có lần đang ngồi với anh, thấy
có người nhà đem sách báo cũ ra bán cho hàng đồng nát. Anh gọi với theo:
“Này, những cái bìa sách các tông đẹp, nhớ lấy lại mà dùng”. Thấy anh có một
u già giúp việc (U Khang), tôi tưởng mọi việc chợ búa, bếp núc, anh chẳng phải
quan tâm. Vậy mà không phải. Anh tỏ ra rất thạo giá cả thực phẩm ngoài chợ,
giá trứng, giá thịt. Có lần tôi đã được nghe anh tính toán rất tỉ mỉ: “ Ba quả
trứng gà 33 đồng, 2 quả trứng vịt lộn giờ 18 đồng một quả, nhân 3 là 36 đồng,
bổ hơn 3 quả trứng gà chứ, 3 lạng thịt bò nhiều hơn 3 lạng thịt lợn, vì thịt bò
nhẹ hơn. Nhưng 3 lạng thịt bò có bổ hơn 2 quả trứng vịt lộn không thì chưa rõ.
Nhưng cũng phải đổi món chứ...Còn thịt chó thì thịt lẫn xương 4 đồng rưỡi một
lạng, thịt nầm 6 đồng một lạng...” (Tính theo giá tiền đầu những năm 1980).
Thấy tôi nhiều khi có vẻ lơ đãng, cẩu thả, anh thường nói giễu: “Cậu đúng là
144
nhà văn lớn”, hoặc “cậu nghệ sỹ quá, nghệ sĩ hơn cả mình”.
Một lần tôi đến Xuân Diệu với con trai tôi là Nguyễn Đăng Thanh. Nó
sắp đi nước ngoài học. Tưởng tôi đưa con đến chào anh trước khi đi Liên Xô,
anh rất cảm động. Anh sôi nổi dặn dò cháu đến nửa tiếng đồng hồ.
Xuân Diệu thỉnh thoảng có một chuyến đi xa, như đi Liên Xô, Pháp hay
ấn Độ gì đó. Bao giờ anh cũng chú ý mua quà về cho những người thân. Nhưng
không tuỳ tiện mà lập danh sách hẳn hoi, và tuỳ từng người mà tặng các món
quà khác nhau. Tôi cũng được nằm trong danh sách ấy. Khi thì một cái áo sơ
mi, khi thì một bao thuốc lá ngoại, sang nhất là một cái đồng hồ đeo tay Liên
Xô hiệu Pơndốt.
Xuân Diệu làm việc rất cần cù. Một tấm gương lao động quyết liệt: đọc
sách, dịch sách, viết văn, làm thơ. Mùa hè, tôi thấy anh xoay trần ra viết. Nghỉ
ngơi cũng là học tập. Anh mở nhạc cổ điển ra nghe. Anh nói, cứ nghe nhạc mãi,
dù không hiểu nó cũng thấm vào người. Vậy mà có ai đến chơi, anh vội vàng
xếp cả lại, tiếp đón rất nhiệt tình. Kể cả người anh không ưa. Có một lần đang
nói chuyện với anh, thấy một người ghé vào. Anh tiếp rất niềm nở. Khi người
ấy về, anh nói với tôi: “Sao tôi ghét thằng cha này thế!”. Ghét mà vẫn tiếp chu
đáo? Đoán biết tôi thắc mắc thế, anh giải thích: “không tiếp nó lần sau nó không
đến nữa”. Tôi nhớ lại, có lần anh nói: “Người ta yêu vờ yêu vịt còn hơn là lạnh
như tiền. Người ta vỗ tay để lấy lòng mình thôi còn hơn là không vỗ tay”. Lại
nhớ câu thơ của anh:
Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ
Một giây cũng cam, một phút cũng đành.
Thì ra Xuân Diệu rất sợ cô độc. Rất lo không có ai thương mình, không
có ai nhớ mình, tìm đến với mình.
Xuân Diệu rất sợ chết. Có lần tôi đến anh. Anh chỉ bức ảnh bà má của
anh mắc vào giá sách, nói: “Bà má mình đấy. Bà ấy mất rồi. Không có bằng
chứng gì chứng tỏ bà đã từng sống ở trên đời”
Lần khác tôi đến anh khi Như Phong vừa chết. Anh nói, Như Phong
chủ quan, cho là mình khoẻ lắm. Không có doute méthodique về sức khoẻ của
mình. Anh lắc đầu, lè lưỡi: “cái chết ghê gớm thật, nó biến con người ta từ plus
infini thành moins infini!”.
Lúc đó tôi không biết nói gì. Nhớ đến cái chết của Nguyên Hồng, tôi
nói: “Nguyên Hồng cũng chết một cách đột ngột” (giống Như Phong)
Xuân Diệu ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Không, Nguyên Hồng chết rồi,
nhưng cái văn của anh ấy vẫn còn rên rỉ. Còn Như Phong, chết là không còn
dấu vết gì nữa. Mấy bài phê bình, ai đọc!”
Xuân Diệu ngay từ nhỏ đã rất có ý thức giữ gìn mọi tài liệu, bút tích của
mình. Anh còn giữ nguyên năm cuốn vở học sinh hồi học ở Quy Nhơn, ghi chép
linh tinh đủ thứ: nhật ký, những dòng suy nghĩ tản mạn, dịch thơ, tập sáng tác...
Trải qua bao biến thiên của cuộc đời, rồi những lần sơ tán trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ, vậy mà vẫn giữ nguyên, không sờn không rách.
Một con người có ý thức rất cao về bản thân mình.
145
Đọc mấy quyển vở ấy, tôi thấy có một bài thơ anh đặt tên là ”Những
người chết trẻ”. Chắc là một người bạn học của anh chết, anh xúc động làm bài
thơ này. Bài thơ khá dài, gồm nhiều đoạn, đoạn nào cũng chỉ xoay quanh cùng
một ý. Chẳng hạn, đoạn một nói về các bạn gái rất thương bạn, khóc. Nhưng rồi
yêu người này, người khác và quên. Đoạn hai, nói về các bạn trai, đoạn ba nói
về anh chị em ruột, ý vẫn thế thôi: lúc đầu thương, khóc, sau cũng quên. Đoạn
cuối cùng nói về cha mẹ. Cha mẹ thì không bao giờ quên con, nhưng cha mẹ sẽ
già và chết. Thế là hết, chẳng còn ai thương nhớ mình nữa:
Nhớ các anh hoài chỉ mẹ cha,
Song tro tàn lạnh không còn lửa,
Rồi đèn mờ tắt. Thế là thôi,
Không một người thương ở cõi đời.
Cùng một ý ấy – “Những người chết trẻ” – tôi còn thấy một bài thơ
khác ở dạng một bản nháp:
Vẻ đẹp và non và mạnh mẽ
... yêu như điên
Biết bao hình bóng đầy vẻ thơ
Biết bao khuôn mặt còn ngây thơ
Biết bao mái tóc còn như tơ
Biết bao cặp mắt đầy ước mơ
Sau cái màn quên đã mịt mờ!
.............................................
Biết bao chàng thanh niên đã chết
Đã chết! Tiếng sao mà gớm ghê!
Đã chết! Đã đi không còn về.
Mang theo lực, tài, xuân, hương, huê
Đã chết, tiếng sao mà thảm thê!
...................................................
Biết bao chàng thanh niên đã qua
Như gió xuân đi không để vết
.................................................
Thế đấy, biết bao chàng thanh niên
Đã chết trước khi chưa được sống...
Té ra, từ tuổi thiếu niên, Xuân Diệu đã nghĩ đến cái chết, đã lo đến khi
phải từ giã cõi đời này. Và điều đặc biệt là anh đã nghĩ cách chống lại cái chết,
nghĩa là trở thành bất tử – bất tử trong lòng người.
Chống lại cái chết bằng cách nào? Bằng cách làm thơ, anh gọi là “Thơ
trái tim”.
Trong quyển vở học sinh, quyển thứ ba (đề tập III, 1934), tôi thấy anh,
ngay từ tuổi học trò, đã có hẳn một lí thuyết về sự bất tử của thi ca. Anh viết
một đoạn văn dài, đặt dưới cái đầu đề: “Một bài thơ với một tên người”. Lập
luận của anh như sau:
“Thơ là đồ chơi, là đồ ru ngủ, là đồ không thiết thực, nghĩa là - sao
146
không nói hẳn?- đồ bỏ. Các nhà tận tâm về sinh kế của xã hội, các nhà thiết
thực, các nhà nghiêm khắc nói thế. Phải hay không tôi chẳng cần biết. Với
Fontenelle, tôi muốn cho rằng ai cũng phải cả (tout le monde a raison). Tôi chỉ
để ý mà thấy rằng: Ba ngàn năm qua chôn nắm xương tàn của Homère. Nói về
danh vọng và bất hủ, đã ba ngàn năm Homère vẫn được tôn sùng... Cái gì rồi
cũng qua đi. Đế quốc Lamã, đế quốc Charlemagne. Nhưng cái chết không diệt
được cái gì không phải là vật chất. Mà cái đầu tiên không phải là vật chất
chẳng phải là thơ sao? Thơ - cám dỗ của mơ màng...”
“Với những khúc anh hùng ca (épopée) Jliade, Odyssée, Homère sống
đến nay... Song thiên tài thời bất hủ là lẽ cố nhiên. Phải chăng thơ có cái ma
lực siêu việt thời gian, mà đến những người chỉ có tài (talent) cũng có thể sống
ở trong thơ, hơn nữa, trong một bài thơ?”
“Một bài thơ cứu một tên người, vớt một tên người ở trong giòng thời
gian nó lôi cuốn sự vật vào miền quên lãng?... Phẩm hơn lượng, le sonnet sans
défaut vaut, seul, un long poème... Nhưng vài câu thơ trong ấy rung động
những trái tim lại đáng giá bằng mấy bài sonnet không nhầm lỗi... Ta để ý xem,
những bài thơ cứu một tên người, khá nhiều là thơ tình cảm, thơ trái tim. Tư
tưởng có thể thay đổi, bây giờ còn ai muốn nghe những lời biện thuyết của
Luther, những bài thơ của Rousseau, bây giờ ai ưa?... Nhưng trái tim người...
khi nào cũng có những trẻ con, những bà mẹ, những cô gái, những mẹ già,
nghĩa là những con người, họ yêu thương, họ vui vầy, họ đau xót... Cho nên
tiếng kêu than của Trác Văn Quân vẫn còn tìm thấy tiếng vang trong lòng
những cô Bạch Lệ ảnh”.
“ở đây tôi không nói những danh sỹ như Ronsard, họ có dư thơ để mà
sống trường cửu. Tôi chỉ nói những nhà thi sĩ còn ở trong trí nhớ nhờ một bài
thơ. Những nhà thơ ấy cũng có làm nhiều bài, song chỉ được có một bài xuất
sắc. Trên dòng thời gian vô cùng tận, họ chỉ có một chiếc lá thả trôi đi. Tôi
không biết thơ Tàu cho nhiều. Song tôi vẫn nghe tiếng nàng Ban, ả Tạ. Tôi vẫn
còn nhờ ý tứ bài thơ vịnh quạt của Triệu Yến Phi. Có lẽ trong văn Tàu, người ta
cũng còn nhớ đến nàng, nhờ bài thơ kia”.
Còn ai không biết đến bài “Hồi văn” của Tô Huệ? ở đây mới đúng cái
trường hợp một bài thơ với một tên người...
Như vậy là đối với Xuân Diệu, điều quan trọng nhất không phải là
chuyện văn chương thơ phú mà là chuyện làm sao được sống mãi với đời, sống
mãi với nhân loại. Văn chương thơ phú chỉ là phương tiện để giúp anh sống mãi
trong lòng người, một thứ vũ khí để chống lại cái chết. Và tôi hình dung cả cuộc
đời lao động nghệ thuật quyết liệt của Xuân Diệu là một quá trình quyết đấu với
cái chết.
Trong mấy quyển vở học sinh ấy, tôi còn thấy điều đặc biệt này ở con
người Xuân Diệu: luôn đòi hỏi tình cảm cao độ, tình yêu mãnh liệt, yêu phải hết
mình. Trong mấy quyển vở nói trên, thỉnh thoảng lại thấy có một đoạn nhật kí.
Có một đoạn nhật kí như thế này: anh ghi tâm trạng rất đau khổ của
mình, đau khổ đến mức như là thất tình vậy. Lúc đầu tôi cứ tưởng thế, chắc là
147
một cô bạn gái nào đấy – vì anh viết tắt tên cái người mà anh cho là không còn
yêu anh nữa. Đọc tiếp mới biết không phải. Đó là một anh bạn trai. Và lí do rất
trẻ con: “Hôm ấy mình đến mượn B cái quần đùi. B. nói, chốc nữa mình đi đá
bóng, không cho mượn được”. Có thế mà đau khổ! (Khi trả lại mấy quyển vở,
tôi nói với Xuân Diệu như thế – Lúc đầu tưởng là bạn gái, hoá ra là bạn trai -
Xuân Diệu ngồi im một lát rồi bảo tôi: “Này, đừng nói với ai nhé, người ta hiểu
lầm!).
Mấy trang sau, tôi lại thấy một đoạn nhật ký nữa. Cũng vẫn là nỗi đau
khổ nói trên – Và vẫn là cái anh B. nào kia. Lần này, lý do khác: có một gánh
hát cải lương Nam kỳ ra biểu diễn ở Quy Nhơn. Học sinh mua vé đi xem. B.
không có tiền, vay một bạn nào đấy tiền mua vé. Xuân Diệu biết được. Thế là
lại đau khổ như là thất tình: bạn bè với nhau, không có tiền, không nói với mình
một tiếng, mà lại đi vay người khác.
Trong mấy quyển vở nói trên, Xuân Diệu tập viết đủ loại văn thơ nhưng
tôi để ý thấy, dù viết thể văn nào thì chủ yếu cũng quay quanh tình bạn. Và dù
là thơ hay văn xuôi, dù là dịch thơ Pháp, thơ Tầu thì cũng thể hiện sự khao khát
tình bạn đến cuồng si mà không được đền đáp xứng đáng. Một cái tôi cảm thấy
cô đơn, vắng người tri kỷ. Ví dụ, đây là một đoạn văn như thế:
“Tôi là một đứa si, gặp bạn thì yêu hết lòng, xa nhau một khắc thời lấy
làm nhớ, thế mà giứt mối tình một cách mau chóng như thế, làm sao mà chịu
nổi phẫn uất, lòng hận sầu? Đêm hôm ấy nằm mà thở dài một mình, sáng dậy
viết cái thư thật dài, gửi cho bạn:
Ôi! Nhân sự.
Trọng của nỡ khinh người!
Vẫn tưởng lòng son in một tấm
Đâu ngờ dạ thế trắng như vôi!
“Bao nhiêu tình đem tặng bạn tôi, bạn tôi đã không nhận mà quăng
xuống đất bùn trả lại cho tôi. Tôi chỉ xin nhặt lại, rửa cho tinh khiết như cũ, rồi
đem chôn kỹ trong một góc quả tim tôi vậy. Bây giờ tôi chưa quên được tình cũ,
song ngày qua tháng tới, có một ngày cũng sẽ quên. Than ôi! Vũ trụ mang
mang, nước non rộng lớn, từ đây đến lúc chết, suốt một đời há lẽ không kiếm
được khách thân bằng ư?”
Luôn luôn đòi hỏi tình cảm cao độ, nên Xuân Diệu thường dễ có mặc
cảm người ta lạnh nhạt với mình. Có một lần, lâu tôi không đến thăm anh. Khi
gặp, anh nói dỗi: “Cậu bây giờ nổi tiếng rồi nên chán mình chứ gì?”.
Tôi nhận thấy Xuân Diệu có một cái gì như là có chất đàn bà vậy – hay
hờn dỗi. Và khác hẳn với Nguyễn Tuân, anh hay bộc lộ thẳng tình cảm với
những người mà anh quý mến.
Thực tình tôi không hiểu sao Xuân Diệu lại có thể thân với Huy Cận. Họ
quả cũng có những chỗ hợp nhau. Nhưng Huy Cận đâu phải hạng người tử tế,
ngay cả trong tình bạn với Xuân Diệu.
Hai ông bạn, có chỗ này quả là giống nhau: cùng ăn rất khoẻ và chỉ
thích thịt cá, trứng vịt lộn, nghĩa là những thứ nhiều prôtit.
148
Hồi khoa văn Đại học sư phạm Việt Bắc đưa sinh viên về Hà Nội (đóng
ở Cổ Nhuế) để mời các nhà văn đến nói chuyện, tôi có được nhờ tiếp khách hộ.
Tôi thấy Xuân Diệu rất thích uống bia và húp trứng sống. Anh còn nói, tối nào,
cần viết một cái gì thì buổi chiều thế nào cũng phải mua ba lạng thịt chó để bồi
dưỡng. Có thế mới có sức viết (Xuân Diệu chết vì bị nhồi máu cơ tim, tức là
máu nhiễm mỡ, cần kiêng ăn nhiều thịt, trứng. Khi anh mất, Vũ Tú Nam nói,
Xuân Diệu đã bồi dưỡng nhầm là vì thế). Huy Cận cũng vậy. Phải nói là tham
ăn.
Nhưng điều rất vui là, tuy cùng ăn khoẻ mà Huy Cận thì được khen là
bình dân, còn Xuân Diệu thì bị chê là tham ăn. Nguyễn Khải thấy như thế, khi
tháp tùng hai cây bút đàn anh này vào tham quan Nam Ngạn, Hàm Rồng, mừng
thành tích bắn máy bay Mỹ (năm 1965). Họ chiêu đãi các vị. Quan ăn tham
(Huy Cận) thì gọi là bình dân, còn dân (Xuân Diệu) thì gọi là tham ăn. Đúng là
một dân tộc chỉ trọng quan lại.
Hai ông bạn còn có chỗ này cũng giống nhau: có ý thức giữ đầy đủ
những bản thảo các tập thơ làm trước cách mạng tháng Tám. Giữ nguyên cả
những bản nháp từng bài một. Một bài thơ có thể có tới ba bốn bản nháp, từ bản
này sang bản khác, sửa chữa thế nào cho đến bản cuối cùng khi bài thơ được
hoàn thiện. Chẳng hạn như bài Nguyệt Cầm của Xuân Diệu (lúc đầu đặt tên là
Đàn trong trăng sáng). Trước khi trở thành một thi phẩm tuyệt tác mà ta đều
biết, bài thơ đã trải qua nhiều bản nháp, trong đó có những câu còn rất thô sơ
vụng về như:
Nhỏ giọt vào trăng, đêm thuỷ tinh
Linh lung bóng sáng bỗng run mình
Vì nghe tới đoạn giai nhân chết
Xanh ngắt không mây nguyệt một mình.
Riêng câu kết, có tơi bốn lần nháp khác nhau:
... Đàn ơi, người đẹp đến tê mê
... Thôi mà! âm nhạc giết tôi đi!
... Dịu dàng âm nhạc giết tôi đi!
... Đàn ơi! Âm nhạc giết ta đi!
Cuối cùng mới tới được câu kết tuyệt vời này:
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê
Tài liệu này rất quý. Từ những bản nháp này, có thể nghiên cứu viết
được những công trình khoa học rất hay về ngôn ngữ thơ ca, về lao động nghệ
thuật... Xuân Diệu sẵn sàng cho tôi mượn. Rất tiếc hồi ầy chưa có photocopy dễ
dàng như sau này. Chép tay thì biết đến bao giờ, nhất là lại chép cả những chỗ
dập dập xoá xoá, viết đi, viết lại, rất ngại.
Bây giờ Xuân Diệu mất rồi. Tất cả ở trong tay Huy Cận.
Có lần tôi định dùng mẹo để lấy ra từ tay Huy Cận. Tôi hướng dẫn một
cô sinh viên làm luận văn cao học, tên là H T H, về Lửa thiêng. Cô này khá
xinh đẹp, lại khôn ngoan. Tôi giới thiệu cô đến Huy Cận để hỏi han, trao đổi,
dần dà thân mật, sẽ mượn cho tôi tập bản thảo kia, lúc đầu là bản thảo Lửa
149
thiêng của Huy Cận, sau đến bản thảo Thơ thơ, Gửi thương cho gió của Xuân
Diệu. Bây giờ sẵn photo rồi, chỉ cần mượn ra nửa tiếng đồng hồ là có thể chụp
được hết.
Tôi đã thất bại. Huy Cận tìm cách lợi dụng cô này mà không chịu mất
gì. Thái độ gạ gẫm lộ liễu, rất tởm, đại khái đặt tập bản thảo bên cạnh, cầm tay
cô và nói: “Phải thế nào mới cho mượn chứ!”. Sau này tôi mới biết, đừng hòng
lấy không một cái gì ở ông ta. Anh Hà Minh Đức đã bị một vố rất đau: trả ông
ta mấy triệu để lấy bút tích và bức ảnh của ông thời trẻ. Anh chỉ nhận được một
bản photo! ảnh cũng photo!
Tôi không hiểu sao Xuân Diệu lại có thể tin cậy Huy Cận đến thế. Ông
bạn này đã gây khó khăn cho người ta nghiên cứu Xuân Diệu, lại định dùng tài
liệu của Xuân Diệu để kiếm chác. Cái phòng ở của Xuân Diệu, dù cho vốn
thuộc quyền sở hữu của Huy Cận, lẽ ra cũng nên giữ nguyên để làm bảo tàng
ông bạn. Huy Cận đã xoá hết dấu vết, dọn dẹp đi hết. Rồi hai bố con tranh nhau.
Vậy là người có tội lớn nhất đối với Xuân Diệu lại chính là ông bạn thân thiết
số một của anh. Xuân Diệu muốn sống mãi trong lòng người. Đó là điều anh tha
thiết nhất lúc sinh thời. Vậy mà chính ông bạn “quý” kia đã phản lại anh ở
chính cái điều anh vô cùng tha thiết ấy.
Tuy nhiên tìm hiểu quan hệ giữa Huy Cận và Xuân Diệu, thấy tình bạn
thân thiết giữa hai người là có thật. Năm 1940, sau khi đỗ tú tài, Xuân Diệu học
luật một năm rồi thi vào ngạch tham tá nhà đoan và được điều vào làm việc ở
Mỹ Tho cho đến 1943. Thời gian này Huy Cận vẫn đi học. Khi Huy Cận đỗ kĩ
sư canh nông, có việc làm, Xuân Diệu liền xin thôi việc trở lại Hà Nội ở với
Huy Cận, sống nhờ vào lương Huy Cận. Nguyễn Công Hoan nghe nói chuyện
này, hỏi: “Thế không sợ Huy Cận nó đá đi à? Lúc ấy thì sống bằng gì mà bỏ
việc?” Xuân Diệu nói: “Lúc bấy giờ tôi không hề nghĩ đến tình huống đó”.
Đúng là lãng mạn! Tôi biết, thời Tây, tham tá (commis) thuộc loại viên
chức cao cấp, lương khá lắm. Bỏ đi dễ dàng như vậy quả là rất lãng mạn và tỏ
ra tin tưởng tuyệt đối ở tình bạn. Tuy nhiên tình huống “Huy Cận đá”, tôi nghĩ
khó xảy ra. Vì Huy Cận nhà nghèo, tuy có học bổng nhưng còn phải nuôi hai
em đang học ở Thanh Hoá. Xuân Diệu thường giúp đỡ bạn rất cụ thể. Thời gian
làm tham tá đoan ở Mỹ Tho, anh cứ đều đều gửi ra cho Huy Cận mỗi tháng 10
đồng. Khi Huy Cận tham gia cách mạng, Xuân Diệu còn vào tận quê Hà Tĩnh,
lo thu xếp gia đình cho Huy Cận để bạn an tâm công tác. Mặt khác, trong hoạt
động sáng tác, Huy Cận cũng cần một chỗ dựa là Xuân Diệu. Xuân Diệu sớm
có chân trong Tự lực văn đoàn, như vậy là có thanh thế lắm (Huy Cận tha thiết
xin vào Tự lực văn đoàn nhưng không được chấp nhận).
Tôi đã được chứng kiến Huy Cận sẵn sàng quy phục và tỏ ra phụ thuộc
vào Xuân Diệu như thế nào: Hôm ấy tôi đến Xuân Diệu, thấy Huy Cận ở trên
gác xuống, ăn mặc chỉnh tề, cứ loanh quanh ở căn phòng của Xuân Diệu. Thấy
tôi, Huy Cận khoe vừa dịch bài thơ tình của Arvers (Sonnet d’Arvers): “Mon
âme a son secret, ma vie a son mystère”. Bài này đã có một bản dịch rất được
truyền tụng của Khái Hưng “Lòng ta chôn một khối tình, Tình trong giây lát mà
150
thành thiên thâu...”. Huy Cận đã đọc cho tôi nghe bản dịch của anh và lấy làm
đắc ý: “Tôi dịch sát nghĩa hơn bản dịch của Khái Hưng chứ!”
Xuân Diệu mắng luôn: “Dịch sát nghĩa mà là hay à?”
Xuân Diệu rót nước ra cốc mời tôi uống. Huy Cận hỏi: “Nước mơ hả?”.
Lại bị Xuân Diệu mắng: “Mơ mơ cái gì, làm gì có mơ!”
Thấy Huy Cận cứ nói chuyện với tôi, Xuân Diệu lại mắng nữa: “Anh
Mạnh anh ấy đến chơi với tôi chứ, sao cứ nói mãi thế!”.
Tôi rất lấy làm lạ: Sao Xuân Diệu cứ mắng Huy Cận như mắng con nít
mà toàn chuyện chẳng đáng gì cả!
Thì ra sáng hôm ấy, Huy Cận hẹn với Quang Huy ở Nhà xuất bản Văn
học tới làm việc về một tuyển tập thơ của mình, cho nên ăn mặc chỉnh tề và cứ
loanh quanh ở tầng một, phòng Xuân Diệu.
Một lát, Quang Huy đến. Huy Cận ra làm việc với Quang Huy ở phòng
ngoài. Xuân Diệu giải thích với tôi: “Dạo này làm được mấy bài thơ, cứ hoắng
lên. Mình phải mắng cho cụt hứng đi, đỡ chủ quan. Cứ tưởng bở!”
Làm việc với Quang Huy một lát, Huy Cận chạy vào báo cáo với Xuân
Diệu, đại khái nói, Huy đề nghị bỏ mấy bài nào đấy và Cận thấy cũng phải.
Xuân Diệu nổi nóng: “Không bỏ! Sợ mất ghế thứ trưởng à?”
Huy Cận nhăn nhó: “Khổ quá, sợ gì đâu. Thấy Huy nó nói cũng có lý”.
Thì ra tuyển thơ của mình như thế nào, Huy Cận cũng phải báo cáo với
Xuân Diệu.
Xuân Diệu đúng là chỗ dựa của Huy Cận trong đời và trong sáng tác.
Nhưng khi ông bạn chết rồi thì còn cần gì nữa. Máu tham và thói ích kỉ, bần tiện
liền trỗi dậy và giết chết luôn tình bạn.
Xuân Diệu không chỉ cần cù đọc sách, làm thơ, anh còn rất chăm chỉ đi
nói chuyện. Đâu mời cũng đi. Đối tượng nào cũng nói. Các bà cấp dưỡng, các
nông trường viên mời cũng đi ngay. Lại còn gợi ý cho người ta mời nữa. Anh
thường nói với tôi khi lâu lâu tôi không mời anh nói chuyện với sinh viên:
“Phải khẩn trương khai thác mình đi chứ!”. Đối với mỗi đối tượng, anh đều rút
kinh nghiệm nói sao cho hấp dẫn. Anh tính toán rất tỉ mỉ, từ sự sắp xếp nơi nói
chuyện ra sao, cự li người ngồi nghe thế nào, mùa hè khác, mùa đông khác,
thỉnh thoảng lại phải xen vào một câu chuyện vui cho không khí đỡ tẻ. Đặc biệt
anh hay kết hợp phổ biến “sinh đẻ có kế hoạch” (không hiểu sao Xuân Diệu
luôn luôn lo lắng đến chuyện này). Anh nói một hồi mà không thấy vỗ tay, rất
dễ mất hứng. Nhiều khi không kiên nhẫn được nữa, anh hỏi thẳng người nghe:
“Sao, có thích không? Thích thì phải vỗ tay lên chứ!”
Xuân Diệu rất sợ thái độ lạnh nhạt, dửng dưng. Anh cho có nhiều thằng
đàn ông rất ngu, vợ nấu cho món ăn ngon, cứ chén hùng hục mà không biết
khen lấy một câu. Tôi nhớ câu thơ của anh:
Em có tài nấu nướng
Anh có tài ngợi khen.
Xuân Diệu thích nói chuyện với giáo viên nhất.
Đầu năm 1985, Hữu Thỉnh, sau đại hội nhà văn lần thứ III, là uỷ viên
151
chấp hành phụ trách nhà văn trẻ. Anh mời chúng tôi đi Tuyên Quang bồi dưỡng
một lớp nhà văn trẻ ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Đoàn có Xuân Diệu, Chính
Hữu, Lê Lựu, Nguyễn Thành Long, Vương Trí Nhàn và tôi.
Giáo viên trường Cao đẳng Sư phạm Tuyên Quang, nhân dịp này, mời
Xuân Diệu đến nói chuyện. Hôm sau họ lại mời tôi. Xuân Diệu bảo tôi: “Giáo
viên họ mời thì nên đi. Nói chuyện với giáo viên lợi lắm. Nói với người khác,
một người nghe là chỉ một người. Nói chuyện với giáo viên, một người nghe
bằng hàng trăm người. Vì các thày cô giáo lại nói lại với học sinh của mình”.
Đi nói chuyện là một yêu cầu tự thân của Xuân Diệu. Anh có nhu cầu
được tiếp xúc và trò chuyện với nhiều người, thật nhiều người. Cho nên ở mấy
ngày với anh ở Tuyên Quang, tôi thấy anh đi nói chuyện liên miên. Nói sáng,
nói chiều, nói tối, khản cả cổ. Được có thêm một người biết đến mình, anh
sướng lắm. Cho nên anh thường nhắc đi nhắc lại câu chuyện về một anh hàng
nước mía nào đấy ở Tuy Hoà (Phú Yên) biết anh là nhà thơ Xuân Diệu và đãi
anh một cốc nước mía bốn đồng: “Thi sĩ cỡ như tôi có thể được tổng thống mời
tiệc ấy chứ. Nhưng được một anh hàng nước mía biết đến, khó lắm!” Xuân Diệu
nói một cách đầy tự hào.
Xuân Diệu luôn luôn có ý thức bảo vệ Thơ mới và văn học lãng mạn. Ai
đụng đến Thơ mới là không xong với anh. Anh ghét Vũ Đức Phúc, Phạn Cự Đệ,
Lê Đình Kỵ là vì thế. Anh không ưa cả Hoài Thanh vì tác giả Thi nhân Việt
Nam vốn rất mê Thơ mới là thế mà nay lại quay ra phê phán Thơ mới quá gay
gắt (Tố Hữu cũng phải nói: “Hoài Thanh tát mình quá đau”). Anh cũng luôn
luôn đấu tranh cho sự tồn tại chính đáng của cái tôi cá nhân và thơ tình. Vấn đề
này, ngày nay chẳng ai còn thắc mắc. Phải là kẻ gàn dở hoặc ngu tối lắm mới
phủ định cái tôi cá nhân và thơ tình. Nhưng sinh thời Xuân Diệu, nghĩa là
khoảng đầu những năm 1980 trở về trước, đấu tranh cho sự khẳng định cái tôi
cá nhân và thơ tình là cả một thái độ dũng cảm. Tôi nhớ thời chống Mỹ, có lần
anh nói với tôi: “Mỗi lần in một tập thơ, mình phải đưa ra trước hàng loạt bài
chống Mỹ như một cái đầu tầu xe lửa, sau đó, xen vào những “toa” thơ chiến
đấu, lén lút mắc vào một cái “toa” thơ tình cho nó kéo ào đi”. Nhưng thơ tình
của anh lúc bấy giờ nhiều khi không hẳn là thơ tình, không dám là thơ tình thật
sự. Đó nhiều khi chỉ là thơ của cái nghĩa vợ chồng (Anh chờ em về ăn cơm, Đứa
con của tình yêu, Em làm bếp... Tôi gọi thế là thơ về “giai đoạn văn xuôi” của
tình yêu) hoặc phải gò theo khẩu hiệu “vui duyên mới không quên nhiệm vụ”
thường thấy giăng lên ở những phòng cưới thời chiến tranh...
Ngoài ra, về tình yêu, trái tim anh cũng không còn cái cuồng nhiệt, cái
mãnh liệt như thời trước. Mà không say đắm cuồng nhiệt thì làm sao tạo được
thơ tình thật sự!
Vào những năm 60, 70, 80 của thế kỉ trước, Xuân Diệu bỗng làm rất
nhiều thơ tình. Số lượng gấp bội so với thơ tình trước cách mạng. Vào năm
1961, ở anh dường như có một sự thức tỉnh trở lại về tình yêu. Anh nói: “Năm
1961, do một mối tình đến với mình mà mình cảm thấy tình yêu thật sự sống lại
mạnh mẽ. Hoá ra “Đáy chĩnh vét rồi, hãy còn hạt gạo” – giống như như câu
152
thơ của Baudelaire “Un brin de paille brille encore dans l’étable”. Anh định làm
một cuốn từ điển về đủ các trạng thái của tình yêu: nhớ, ghen, hờn – dỗi, rồi lúc
thức, lúc ngủ, khi ăn, khi uống...
Nhưng dư luận không đánh giá cao thơ tình của anh sau cách mạng. Tôi
cũng thấy như vậy. Nguyễn Kiên nói đúng, thơ tình Xuân Diệu sau cách mạng
dùng kỹ thuật nhiều hơn là có tình yêu thật với một đối tượng có thật. Cách làm
thường là thế này: dựa vào một chi tiết có thể có rồi phóng đại lên, ngoa ngôn
lên cho thành say đắm. Chẳng hạn, em gửi cho anh một bức thư, nói nhớ anh.
Thế là như đang đi giữa sa mạc bỗng thấy nhân loại quanh mình. Hoặc là, em
có vẻ lạnh nhạt, anh buồn quá. Nhưng một bữa cơm, em gắp cho anh một miếng
thịt bằng ngón tay, thế là:
Anh ăn như miếng ngọc
Dạ vui sướng nghẹn ngào
Nghĩ tình em vô tận
Khi bỏ vào bát anh...
Đúng thế, bản thân kỹ thuật không bao giờ tạo ra thơ. Trước cách mạng,
anh có dùng kỹ thuật gì đâu mà đúng là thơ tình:
Anh nhớ bóng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh,
Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!
Dù sao thì cũng có một thời, Xuân Diệu cũng đã từng là nhà thơ tình số
một ở nước mình. Và đến bây giờ, liệu đã có ai vượt được?
Có một hồi, người ta cứ đồn Xuân Diệu ái nam ái nữ. Không rõ hư thực
thế nào. Rồi anh cưới Bạch Diệp. ái năm ái nữ sao lại lấy vợ? Nhưng được mấy
tháng, Bạch Diệp bỏ luôn. Vậy là sao?
Thực ra Xuân Diệu chỉ mắc chứng đồng tính luyến ái và bất lực trong
quan hệ tình dục, chứ không ái nam ái nữ.
Hồi kháng chiến chống Pháp, tôi công tác với anh Lã Hữu Quỳnh ở Sở
Giáo dục Liên khu Việt Bắc (Anh Quỳnh là một nhạc sĩ, sau 1954, về Hà Nội
làm Hiệu phó trường nhạc trung cấp). Anh quê ở Bắc Giang. Trong thời gian
kháng chiến, các văn nghệ sĩ đi công tác qua, thường ghé vào nhà anh ngủ nhờ.
Một lần, Xuân Diệu và Trần Văn Cẩn vào ngủ nhờ. Nửa đêm, anh thấy Cẩn
đùng đùng dậy chửi mắng Xuân Diệu thậm tệ.
Anh Xuân Tửu một lần cùng Xuân Diệu ở trong một đoàn văn nghệ sĩ đi
thăm đảo Cô Tô. Chiều hôm trước họ nghỉ lại ở Móng Cái để hôm sau đáp tàu
ra đảo. Xuân Tửu muốn tắm truồng nên một mình lang thang ra biển tìm chỗ
vắng người. Nhưng rất phiền là cứ thấy Xuân Diệu lẽo đẽo đi đằng sau. Đi một
chập, Xuân Diệu biết ý Xuân Tửu, nói: “muốn tắm truồng phải không? Thì
cùng tắm”. Xuân Tửu mừng quá không phải vì được tắm, mà vì nhân dịp này,
biết đích xác Xuân Diệu có ái nam ái nữ hay không. Anh giương mục kỉnh để
nhìn cho rõ – Té ra rất đẹp! – Xuân Tửu nói với tôi như vậy.
Sau khi Bạch Diệp bỏ Xuân Diệu, anh Huỳnh Lý có một lần cùng ăn với
Xuân Diệu ở khách sạn Phú Gia. Huỳnh Lý gạ chuyện: “Mình có học với cậu từ
nhỏ (cấp II Quy Nhơn), mình biết chứ. Người ta cứ nói cậu ái nam ái nữ, nhưng
153
có phải đâu (trẻ con thằng nào ái nam ái nữ, nó vật ra khám ngay, dấu sao
được)
Xuân Diệu im lặng một lúc rồi nói: “Cái con Bạch Diệp trắng trợn! Để
rồi mình uống thuốc, sẽ khá lên dần. Nó bỏ luôn”.
Người làm mối Bạch Diệp cho Xuân Diệu là Nguyễn Đình Thi và Hằng
Phương. Hôm cùng đi vào Đà Nẵng, Nguyễn Đình Thi nói với tôi: “Tôi cứ bị cô
Bạch Diệp chửi mãi”
Thực ra, chuyện Xuân Diệu có vấn đề về sinh lý, Bạch Diệp cũng có
ngờ ngợ trước khi nhận lấy Xuân Diệu- Chị cẩn thận đi hỏi Tô Hoài là bí thư
Đảng đoàn văn nghệ – Tô Hoài nói, không biết và mách đi hỏi Huy Cận. Huy
Cận nói không có chuyện gì. Nhưng Bạch Diệp vẫn cảnh giác: Cưới rất to
nhưng không đăng kí kết hôn. Thành ra khi biết chuyện, bỏ luôn, không phải ra
toà lôi thôi.
Khi Xuân Diệu mất, Bạch Diệp viếng một vòng hoa trắng.
Hôm giỗ đầu Xuân Diệu (tháng 12 – 1986), người ta tổ chức một cuộc
hội thảo khoa học lớn ở câu lạc bộ lao động. Tôi được mời đọc báo cáo. Tôi đọc
bài: “Tư tưởng và phong cách một nhà thơ lớn: Xuân Diệu”. ở bài này, lần đầu
tiên tôi đưa ra mấy ý được hoan nghênh: tư tưởng nghệ thuật (idée poétique)
của Xuân Diệu là niềm khát khao giao cảm hết mình với cuộc đời trần tục, trần
thế này; Xuân Diệu là người đầu tiên đưa vào thơ ca Việt Nam, tình yêu thật sự
là tình yêu, nghĩa là sự giao cảm tuyệt đối từ nhục thể đến tâm hồn (khác với
thơ tình của Huy Cận, chỉ là tình yêu platonique); một cách tân quan trọng của
Xuân Diệu về thi pháp: coi con người giữa tuổi trẻ và tình yêu là chuẩn mực của
cái đẹp.
Chị Xuân Như, em Xuân Diệu, có mặt hôm ấy, đến gặp tôi, nói: “Anh
viết rất đúng về anh tôi”
Rất tiếc, giá mà Xuân Diệu đọc được!
* *
*
Nhớ lại, lần đầu tiên tôi đến Xuân Diệu ở 24 Điện Biên là vào năm
1966. Cuối năm 1985 thì Xuân Diệu qua đời. Hai mươi năm quan hệ mật thiết
với anh, tôi được tiếp chuyện anh không biết bao nhiêu lần. Đối với tôi, anh
không dấu điều gì. Từ chuyện đời, chuyện văn, chuyện yêu ghét người này,
người khác, chuyện ăn uống sao cho có sức khoẻ và sống lâu để viết, rồi chuyện
kinh nghiệm viết với đủ ngón nghề cụ thể. Cả chuyện khôn khéo luồn lách nữa
để có thể đối phó với đời... Anh đã cấp cho tôi biết bao tri thức và kinh nghiệm,
và đã khuyến khích tôi rất nhiều. Anh muốn tôi hiểu thật rõ, thật kĩ về anh để
viết thật tốt về anh. Và về phần mình, tôi cũng muốn như vậy.
Những lần trò chuyện với anh, nói chung, tôi đều có ghi lại. Giờ tôi
muốn chép ra đây một ít, cố truyền đạt lại chính xác từ ý tứ tới giọng điệu của
anh, mong muốn nhớ lại được con người cụ thể của anh, cá tính, tính cách cụ
thể của anh. Nhân tiện, qua cái cuộc trò chuyện, cũng thấy được tâm lí xã hội cụ
thể của giới cầm bút một thời và không khí lịch sử cụ thể của nền văn học ta
154
mấy chục năm về trước.
Tối 8 – 6 – 1966, tại 24 Điện Biên.
Tôi đề cập đến Thơ mới.
Xuân Diệu nói, không muốn nói chuyện Thơ mới. Mệt – Ngại lắm.
Hãy dồn tinh lực cho hiện tại, làm thơ chống Mỹ. Nhưng rồi anh lại nói
sôi nổi về Thơ mới.
Anh rất tự hào vì người ta vẫn chép thơ của anh. Đi bơm xe đạp, có một
anh bơm cho rất kỹ, rồi gạ chép Thơ thơ. Năm 1954, gặp anh Lê Duẩn ở bến
phà Ròn, Quảng Bình. Lê Duẩn nói: “Thơ trước cách mạng của anh, tôi mê, thơ
sau cách mạng của anh tôi chưa mê”.
Xuân Diệu cho vấn đề quyết định là vấn đề trái tim . Chúng tôi chỉ cần
trái tim. Trái tim là “chép thơ”. Có hai hệ thống tiếp nhận thơ mới: giảng
officiel trong nhà trường và việc chép thơ của thanh niên. Một điều rất bực là ở
trường phổ thông người ta cứ cho lãng mạn là xấu (Huy Cận có mặt lúc ấy, nói
xen vào “quần chúng công nông rộng rãi hơn các nhà nghiên cứu”). Tố Hữu đã
từng ngâm Vạn lý tình và Tương tư chiều... Thời gian sẽ ủng hộ những phần
tích cực của Thơ mới. ở Liên Xô, người ta công nhận cả ba nhà thơ: Blốc,
Êxênhin và Maiakôpxki. Nhưng quan điểm của ông anh thứ hai (Trung Quốc)
thì ghê quá! Tả còn hơn hữu, sợ quá! Nhưng mà thôi, chả cần bàn bạc làm gì,
chỉ cần người ta chép thơ tôi. Còn thầy giáo, đánh giá hay dở, tốt xấu, học sinh
nó không nghe đâu!
Xuân Diệu rất ghét người ta cho thơ tình của anh là truỵ lạc. Anh nói:
“Mình thuốc lá cũng không biết hút, có thể nói là nhà quê”. Anh cũng rất ghét
người ta cho anh là chịu ảnh hưởng symbolisme và André Gide. Anh nói: “Đây
là sự bắt gặp chứ không phải chịu ảnh hưởng. Khi tôi làm thơ, tôi chưa đọc
Gide, mãi đến khi ra Hà Nội, học lycée mới đọc”.
Xuân Diệu cho khẳng định ý nghĩa tích cực của sự ra đời của cái tôi cá
nhân là đúng. Còn mâu thuẫn giữa cái tôi và cộng đồng là mãi mãi. Cần hiểu ý
thức cá nhân khác với chủ nghĩa cá nhân.
Khi Xuân Diệu xuất hiện, Thế Lữ trở thành démodé, rồi người ta không
đọc anh nữa. Cái mốt lên tiên của Thế Lữ là évasion nặng: Phải hiểu Xuân Diệu
không phải tìm tòi về nghệ thuật mà là cố tìm cách nói cho chân thật, có khi lời
thơ sống sượng, Tây quá. Lúc đầu người ta không thừa nhận là thơ, là có âm
điệu, vì quen với cái du dương Thế Lữ rồi. Xuân Diệu muốn giao hoà với mọi
người mà không được. Cô độc. Buồn. Nhưng không thoả hiệp. Muốn quẫy ra
khỏi cái sầu, cưỡng lại cái sầu mà không được. Nhưng lòng yêu đời vẫn mạnh
hơn cái buồn.
Anh đồng ý với tôi: “Đúng là thơ Xuân Diệu có cái mâu thuẫn: mùa
xuân và tình yêu mâu thuẫn với chiều thu và đêm lạnh. Nhưng tuy không đi với
quần chúng, mình vẫn ghét bọn giầu sang và xã hội kim tiền. Mình đi tìm lối
thoát mà bế tắc. Nhưng nếu không cô đơn thì thoả hiệp, thoả mãn với xã hội
sao!”
Bỗng Xuân Diệu xoay ra nói đến cái chết của Nguyễn Bính. “ Nguyễn
155
Bính chết hồi Tết. Bất ngờ quá! Có lẽ do thiếu bồi dưỡng”. Anh tỏ ra rất lo lắng.
Tối 10 – 8 – 1966, tại 24 Điện Biên.
Xuân Diệu nói về tiểu sử của mình. Anh cũng nói nhiều về cái tôi cá
nhân cá thể (individu) và về Thơ mới.
“Đời ông tôi ở trong tứ hộ nổi tiếng hay chữ ở Hà Tĩnh. Bố tôi là một
ông tú kép, có vợ, vào Bình Định lấy bà hai làm nước mắm ở Gò Bồi. Ông cụ
học chữ Tây, đỗ primaire. Chỉ dạy học, không thích ra làm việc nhà nước và
không thích phải luồn cúi. Có học nghề thuốc bắc.
Mình học ở cha tính cần cù, lòng thương người, không thèm khát vươn
lên xã hội quyền quý.
1934 đỗ diplôme. 1935 ra Hà Nội học tú tài. Đỗ tú tài, học một năm
luật. Năm 1941 thi tham tá đoan. 1943 thôi làm đoan. 1944 tham gia Việt Minh.
Tuy có chân trong Tự lực văn đoàn, nhưng không tham gia tổ chức kinh tế với
cánh Ngày nay. Rất yêu quốc văn – Yêu quốc văn là có bao hàm lòng yêu nước
– vì tiếng Việt đương thời bị coi là tiếng vợ lẽ. ở trường học hồi ấy có ba môn bị
khinh bỉ: chữ Hán, tiếng Việt và Vẽ.
Rất thích làm thơ. Nhưng không évasion như Thế Lữ (tiên), Hàn Mạc Tử
(điên), Chế Lan Viên (ma), Huy Cận (siêu hình), Vũ Hoàng Chương (thuốc
phiện), Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Thứ (kín mít, cho chữ vào hũ, lắc rồi xếp
ra).
Nói Xuân Diệu là nói individu. Phạm trù individu tư sản thoát khỏi ý
thức hệ phong kiến là một tiến bộ, là dân chủ hơn so với tư tưởng trượng phu,
quân tử. Tất nhiên đói nghèo thì không đòi hỏi ý thức cá nhân được. Khi cá
nhân tách ra, tự riêng, tự phân biệt với đại gia đình phong kiến thì có vui nhưng
cũng có buồn. Tự biết mình, tự phân biệt mình với người thì cảm thấy cô đơn.
Ngày nay cũng thế thôi. Nhưng Xuân Diệu dừng lại ở đấy, không thoát ly và
vẫn lạc quan yêu đời, tuy cô độc. Vì vẫn bám lấy cuộc đời, không thoát ly nên
gặp cách mạng, theo cách mạng và làm thơ ngay.
Cái tôi Thơ mới như con bướm thoát xác. Lần đầu nó khám phá thiên
nhiên bằng con mắt tươi mới, không nhìn bằng ước lệ nữa – Thế Lữ vẫn chưa
thoát ước lệ.
Cơ sở xã hội của Thơ mới là tiểu tư sản, không phải tư sản.
Ông Trường Chinh nói với hoạ sĩ Lê Lam: “Đi qua sông Hồng, tôi nhớ
bài Tràng Giang của Huy Cận. Ông nói với Huy Cận, khi làm bài Là thi sĩ, tuy
có nói đến bài Cảm xúc của Xuân Diệu, nhưng không phải để đả Xuân Diệu mà
để vận động giác ngộ một người lúc đó là cai khố đỏ. Anh này mê thơ lãng mạn.
Có ba yếu tố tạo nên thơ Tố Hữu: Tố Hữu, cách mạng và Thơ mới. Tố Hữu chịu
ảnh hưởng thơ Xuân Diệu rất rõ “Ôi cô đơn thấm lạnh tâm tình!”, “Xuân bước
nhẹ trên cành non lá mới”...v.v...
Xuân Diệu khi tìm thấy cái tôi của mình thì đâm sợ, muốn thoát mình.
Bài Viễn khách, Lời kỹ nữ là thế. Kỹ nữ là Xuân Diệu. Xuân Diệu tự đặt mình
vào thân phận người bị dập vùi. Người con gái khổ mà không gào to như anh
đàn ông, tuy ít bị tình phụ hơn mà gào rất to, như Musset.
156
Tình yêu là cái tuyệt đích nên không bao giờ thoả mãn. “Nous mettons
l’infini dans l’ amour. Ce n’est pas la faute des femmes” Anatole France nói
thế. Vì thế nous souffrons. Đó là Xa cách, là Hi mã lạp sơn...
Thế Lữ nói được cái buồn “Buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn”. Huy
Thông thì romantique rất rõ: quay về quá khứ, về cái orient. Có hình ảnh cái
lầu La mã, cái rèm La mã. Mấy câu đầu của Tiếng địch sông Ô, Con voi già...
mở rất rộng, hay... Thơ Xuân Diệu cũ mà mới. Bài Viễn khách: “Đang lúc
hoàng hôn xuống, là giờ viễn khách đi”, có hơi hướng câu thơ cổ “Đương quân
hoài quy nhật, Thị thiếp đoạn trường thì”. Bài Nhị hồ, Vội vàng, Đây mùa thu
tới cũng thế, vừa cổ vừa kim. Tả mùa thu mà không hoàn toàn tàn lụi. Mùa thu
tropical, nhiệt đới. Baudelaire ca ngợi Phi Châu nhiệt đới. Mình ở vùng nhiệt
đới sao không ca ngợi cây cỏ tropical của mình. Còn cái cô đúc của thơ Xuân
Diệu thì bắt gặp Đường thi và Baudelaire, bắt gặp Symbolisme.
Cái quẫy của cá nhân thực ra có từ Hồ Xuân Hương, Lâm Đại Ngọc,
bắt đầu biết yêu theo kiểu cá nhân (mình – ta) nên buồn. Lâm Đại Ngọc chôn
hoa tức là chôn mình. L’Isolement của Lamartine, René của Chateaubriand là
thế...
Hàn Mạc Tử gắn với đời hơn Chế Lan Viên. Chế Lan Viên không được
độc giả chú ý lắm vì không nói gì liên quan đến họ.
Tình yêu phải là một phạm trù riêng. Không cứ phải nói tình yêu gắn
với sản xuất, chiến đấu. Cứ nói riêng nó thôi cũng được, miễn là lành mạnh.
Phải nâng tình yêu lên thành khái niệm. Hiện ta vẫn là giai cấp tự tại, tự nó,
chưa có ý thức về tình yêu. Ta lấy vợ mà chưa yêu. Chung thuỷ là vĩ đại thật,
song chưa có khái niệm về yêu thật sự. Yêu thật sự là mình với ta”.
Xuân Diệu xoay ra nói kinh nghiệm làm thơ.
“Làm thơ không chỉ có ý là được. Phải có xương thịt vật chất. Như cứ
lấy giọng rê rê rê rồi bắt gặp một nét nhạc thật sự. Có khi vì tìm được một câu
thơ, một điệu thơ nào đó mà làm thành cả một bài thơ. Khi nẩy ra một điệu nào
đó thì nhất định phải làm theo cái điệu ấy. Y như yêu mà chỉ có khái niệm trừu
tượng thì không phải là yêu thật. Phải trông thấy một người con gái, có cái mũi,
cái tai như thế nào đó rồi mới hình thành tình yêu...”
Ngày 4 – 7 – 1967. 24 Điện Biên
Xuân Diệu nói say sưa về cái anh gọi là “chiến thuật” nói chuyện với
quần chúng sao cho hấp dẫn. Từ bố trí nơi nói chuyện, ánh sáng thế nào, cửa
đóng cửa mở, đến xếp ghế ngồi, cự ly mùa hè, mừa rét... Và đối với người nghe
thì phải làm cho họ không chán. Anh nói: Phải “chim” quần chúng. Họ mê rồi
thì tha hồ kéo họ đi, đi Tây Bắc, Tây Nguyên, đâu cũng được.
Khi trời tối, phải nói ngầm, thì ví với vợ chồng ban đêm nói chuyện với
nhau, vợ nói anh chồng thỉnh thoảng phải ờ ờ lên để chứng tỏ chưa ngủ, vẫn
nghe. Khi nói một chập , quần chúng tỏ vẻ chán, thì lại hỏi: “Phành phạch trong
lòng đã chán chưa?”. Khi nói muộn quá thì ví cái tình của người ngoài 40 tuổi
như nắng quái chiều hôm còn mạnh hơn ban trưa, “vì yêu một cách truy lĩnh...”
Nhưng mở đầu thế thôi, chủ yếu vẫn nói về kinh nghiệm làm thơ. Anh
157
nói có yếu tố vô hình trong đời sống và trong thơ: “Nhìn một người yêu cụ thể
có mặt mũi, tóc tai, song khi yêu thì cảm thấy được một cái gì đấy khái quát và
vô hình, thí dụ một tâm hồn trong trẻo, tươi mát. Nhà thơ có khi tả một buổi
sáng mùa xuân, đi hái một bông hoa. Nhưng cái hữu hình đó lại cốt để diễn đạt
cái vô hình: chẳng hạn cái cảm giác thoải mái tươi mát của tâm hồn...
Cái vô hình còn là cái nhân tố không thú nhận inavoué. Trên đời, có
anh cứ nói loanh quanh mãi, thực ra có khi chỉ cốt đến để xin một bữa cơm. Cái
inavoué có khi rất tầm thường, có khi rất cao cả. Giảng thơ phải biết cái
inavoué, cái vô hình đó và căn cứ vào cái cái hữu hình mà phân tích ra.
Làm thơ cốt cho hay, phải có tài có sắc mới tồn tại được. Cần gì những
thành kiến lung tung. Cốt quần chúng đọc thơ, cốt hai trẻ yêu nhau, còn cô, dì,
chú, bác nói ra nói vào thì cần gì!
Nghiên cứu Xuân Diệu, phải nghiên cứu yếu tố thời gian. Xuân Diệu
luôn luôn băn khoăn về thời gian. Yêu cuộc sống, tất băn khăn về thời gian.
Con người sinh ra từ thời gian. Mà thời gian có không gian của nó. Tính toán,
cân nhắc điều gì, Xuân Diệu đều nghĩ đến cái chết. Sợ chết thì phải làm thơ cho
nhanh. Mẹ tôi mất, mẹ Huy Cận mất. Các bà ấy từng có lúc sống thật trên đời
không nhỉ? Nếu không tập hợp, giữ gìn di vật còn lại thì có thể là chưa bao giờ
từng sống.
Trong đời người ta có những phút giao cảm – gọi là giao cảm mới thật
đầy đủ, đầy đủ hơn là nói yêu. Có khi giao hợp, hôn nhau mà không giao cảm.
Có những lúc giao cảm thế mà sau thôi không yêu nữa. Là vợ chồng rồi có khi
mất cái phút ấy, thậm chí không lấy nhau, có khi trông thấy nhau cứ lạnh như
tiền. Lạ lắm ! Tình yêu muốn vô biên song cuộc đời, lòng người nó hữu hạn. Và
chết là hết cả. Như là cái tangente giữa plus infini và moins infini. Đó là nói
tình yêu bách niên giai lão. Có nhiều khi thay đổi người yêu. Vậy thì phải hồi
tưởng lại cái phút giao cảm ấy. Vợ chồng sở dĩ gắn bó với nhau là do họ nhớ
lại những phút giao cảm của tâm hồn ngày xưa. Kỷ niệm do đó rất quan trọng
trong đời sống tinh thần. Hiện nay, nhiều khi người ta sống chỉ để ăn uống thôi,
họ không có đời sống tinh thần. Tôi làm thơ để đem đến cho họ cái khoái lạc
tinh thần.
Thơ tình của tôi luôn là sự hồi tưởng lại cái phút giao cảm ấy, trong
thời điểm ấy, ngày ấy, buổi chiều ấy, con đường ấy, cái chỗ cong cong ấy ta đã
ngồi bên nhau (không gian có tính thời gian). Bây giờ đi qua một mình, muốn
dựng bia kỉ niệm ở chỗ ấy của cái tình đôi ta.
Pháp có ba bài thơ nói về kỉ niệm cũng nói đến cái không gian rất cụ
thể:
Tristesse d’ Olympio (V. Hugo)
Le premier regret (Lamartine)
Premier souvernir (Musset)
Có lúc mình muốn để dành tiền, nhưng nghĩ lúc chết thì có ý nghĩa gì.
Có lúc muốn ăn thêm một miếng thịt, nhưng ăn thêm rồi cũng chết. Để miếng
thịt ấy cho đứa em ở xa, gọi về cho nó ăn.
158
Tôi định lúc sắp chết sẽ viết tất cả những mémoires xấu của mình,
những cái tầm thường của mình. Hiện nay người ta ít viết về cái đó.
Làm thơ, mỗi bài thơ nó có cái vị riêng của nó như thịt bò thì phải làm
món ấy, cái đó phải cho vào nước chấm thịt vịt chứ cho vào nước chấm thịt gà
thì hỏng. Cho nên có tứ thơ nghĩ ra mà phải để dành đó đến lúc làm bài thơ
đúng món mới đưa vào được”.
Ngày 1- 12- 1981, 24 Điện Biên
Tôi đến thăm Xuân Diệu, anh mừng lắm: “Tưởng Mạnh giận mình
không đến nữa. Hôm ấy mình nóng, nói sẵng. Tưởng Mạnh giận”.
Thì ra anh hối hận vì bữa ấy tôi đến mời anh tới dự một cuộc hội thảo về
giảng thơ Hồ Chủ Tịch (anh Hoàng Dung tổ chức, nhờ tôi đến mời Xuân Diệu),
anh đã trả lời một cách thẳng thắn và gay gắt: “Còn có gì mà nói nữa về thơ Cụ
Hồ? Mình không đi đâu! Bây giờ mà còn bình với giảng về thơ Cụ Hồ là nhảm
nhí! nhảm nhí!”
Giờ thì anh rất niềm nở tiếp tôi.
Lần này anh nói nhiều về sự hình thành hồn thơ anh.
“Ông bố tôi sớm giác ngộ tân học. Ông tự học tiếng Pháp. Mua từ điển
học, ông còn tự học làm thuốc nữa. Sau ông xin được một chân dạy chứ Hán ở
Collège Quy Nhơn, lương 18 đồng. Một loại chargé de cours thôi. Mình học bố
đến hết cấp I, đỗ Certificat còn thiếu một tuổi, phải học lại. Sau lên học collège.
Đỗ diplôme năm 1934. Đúng lúc khủng hoảng kinh tế. Định đi thi làm thừa
phái nhưng không có điều kiện. May sao được gọi ra Bắc kỳ học trường Bưởi.
Biết Hà Nội. Biết Bắc Kỳ. Thấy được mùa thu và cái lạnh Hà Nội. Rất
thích, rất mê thiên nhiên Bắc kỳ. Mình dường như được bừng tỉnh trước vẻ đẹp
của đất trời, sững sờ trước những cành đào nở hoa ở chùa Sinh Từ... Theo tôi
romantisme chỉ có thể phát sinh, phát triển ở Bắc kỳ với tác động của thiên
nhiên bốn mùa phong phú. Hoa, hoa rất đẹp. Trại hoa Thuỵ Khuê, gần Bưởi.
Mùa thu Hà Nội tuyệt đẹp, lạnh hơn bây giờ. Trời trong, cao, nắng vàng...
Thiên nhiên Bắc kỳ, hoa Bắc kỳ đã đẻ ra văn Khái Hưng, Nhất Linh và thơ Thế
Lữ.
Thiên nhiên đi vào thơ tôi, có cảnh mùa thu, mùa đông, mùa xuân của
Bắc kỳ. Còn mùa hạ thì có trăng và biển Quy Nhơn. Gió nồm Quy Nhơn có một
cái gì rất sắc dục, rất charnel.
Mình học hết 2 ème secondaire thì Huế mở ban tú tài. Bèn vào học
2ème secondaire ở Huế. Thế là lại biết Huế. Mình ra Hà Nội đúng vào cái tuổi
l’âge de puberté, thấy có một cái gì rất sắc dục trong thiên nhiên và ở con
người. Huế cũng rất đẹp, cũng rất tình. Đặc biệt có cái lassif sắc dục rất Huế,
nhưng kín hơn. Giọng hò Huế mê ly...
Năm 1940 mình thi tham tá đoan và vào làm việc ở Mỹ Tho. 1943 Huy
Cận đỗ kỹ sư canh nông, mình xin thôi việc ra Hà Nội, học luật, ở với Huy Cận
ở 61 Hàng Bông. Phong trào Việt Minh phát triển. Huy Cận gặp Nguyễn Thành
Lê. Lê đưa Huy Cận vào Đảng Dân Chủ (Dương Đức Hiền lãnh đạo). Đảo
chính Nhật. Huy Cận gặp Dương Đức Hiền ở Hà Đông, được đưa lên chiến khu
159
hoạt động cách mạng chuyên nghiệp. Khoảng 17- 8 gì đó mình vào Hà Tĩnh lo
thu xếp hai bên gia đình (của mình và Huy Cận) để Huy Cận yên tâm đi chiến
khu – nếu cách mạng không thành công thì có thể phải đi xa (sang Tầu chẳng
hạn). Ngày 20 – 8, mình trở ra Hà Nội giữa cảnh cờ đỏ sao vàng bay trên các
mái nhà...
Mình lúc đầu ở đảng Dân chủ và tham gia quốc hội. Huy Cận làm bộ
trưởng. Lúc ấy mình không ưa Nguyễn Tuân và Nguyễn Tuân cũng không thích
mình. Anh ấy vẫn khăn xếp, áo gấm, rất chướng. In Nguyễn, đề “Kính tặng
Tôi”. Mình viết bài trên Tiên phong (kí tên Triều Mai) chế giễu: Nguyễn Tuân
tự đặt mình lên bàn thờ rồi sì sụp lễ bái mình. Kể cũng hơi hẹp hòi. Mình còn
viết bài phê phán Nguyễn Hải Thần là đứa con đi xa về chửi mẹ nó, không nhận
mẹ nó. Rồi làm thơ đả bọn Quốc dân đảng. Khi bọn Quốc dân đảng tổ chức
biểu tình “tổng đình công” chống tổng tuyển cử, mình dắt cái xe đạp
Hirondelle đi ở phía sau. Mình bảo đồng bào đừng đi theo bọn phản động.
Chúng nó thấy thế định bắt mình, mình vội bỏ xe đạp lẩn đi. Sau có người đem
xe đạp trả cho. Mình còn bảo đồng bào tập trung ở Bắc Bộ phủ để hoan nghênh
chính phủ lâm thời. Mình lúc ấy chỉ là Việt Minh, ở Văn hoá cứu quốc, chẳng
phải đảng viên. Cứ tự động, tự phát thế thôi”.
Rồi mình làm bài Ngọn quốc kì, ca ngợi cờ đỏ sao vàng. Nguyễn Huy
Tưởng ở văn hoá cứu quốc (đóng ở trụ sở Hội khai trí tiến đức, nay là Cục
Hàng không) commăng làm để đối lại với bọn phản động tung ra đủ thứ cờ táp
nham: sao trắng, ba gạch...
Có người cho mình là cơ hội chủ nghĩa. Báo Thiết thực của Quốc dân
Đảng (cánh Ngày nay) vẽ hình chế giễu: Cụ Hồ đứng như con cò câu cá ở suối.
Xa xa, Huy Cận tắm. Còn mình là con chim đầu xù ngồi trên cây hót. Mình lấy
làm tự hào về bức tranh này.
“Năm 1946, mình ở trong một đoàn văn nghệ đi vào Buôn Ma Thiêng,
Củng Sơn, đi sau đoàn Nguyễn Tuân. Trở ra Thanh Hoá, lúc Hồ Chủ Tịch đang
ở đó. Bác định lập một chiến khu ở Thanh Hoá. Bác ở một cái nhà Xéc (câu lạc
bộ) gì đó. Hôm sau bọn Pháp bắn súng vào cái nhà ấy. Hôm trước Bác nói
chuyện với đồng bào. Người ta chen nhau xem Hồ Chủ Tịch, có người bị gẫy
tay mà vẫn phấn khởi.
“Huy Cận thì theo chính phủ đi Hà Đông. Mặt trận Trúc Sơn vỡ, lại đi
Sơn Tây rồi lên Việt Bắc, ở Bắc Cạn thì phải. Mình cũng đi Bắc Cạn. Nó nhẩy
dù Bắc Cạn. Mình về Đại Từ. Rồi đi Phú Thọ, qua Bắc Giang, từng ở chỗ
Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố. Nhưng sau lên ATK làm đài phát thanh, trong khi
Tố Hữu, Nam Cao làm báo Cứu quốc”.
Nói đến đấy, Xuân Diệu dừng lại uống nước. Anh nghỉ hơi một lúc. Tôi
nhân đấy gợi ý anh chuyển hướng sang nói về thơ của anh.
Nói chuyện thơ, anh càng tỏ ra sôi nổi hơn:
“ Huy Cận là xúc giác
Xuân Diệu là mũi: khứu giác: “Hoa bưởi thơm rồi đêm đã khuya” –
Mình học Baudelaire.
160
Chế Lan Viên không có da, không có mũi.
Bài “Mông lung” rất Xuân Diệu. Có cái không thể xác định rõ ràng là
linh hồn hay xác thịt. Đằng sau linh hồn là cái nền xác thịt, sắc dục. Hít thở xác
thịt của vũ trụ, cảm thấy mùi da thịt của..., không biết của ai, song rõ ràng là
cảm thấy cái mùi vật chất da thịt của những Dương Quý Phi, của những người
đẹp tự thuở nào. Hương da thịt tẩm trong vũ trụ. Và nhớ, không biết nhớ ai,
nhưng nhớ da diết. Thơ Xuân Diệu cảm và diễn tả được cái không rõ mà rất rõ,
cái nửa linh hồn, nửa xác thịt, dâm mà trong sạch, trong sáng. Nó là cái rạo
rực, cái uể oải của Huế, cái hồng hào của Hà Nội, cái charnel trong gió nồm,
trong gió biển Quy Nhơn...
Thơ Xuân Diệu tả rất giỏi cái nước đôi:
Mưa trưa và chiều tà
Suy và thịnh
Lặng lẽ và động.
Có một cái gì đấy mà Thế Lữ không cảm nhận được. Chỉ Xuân Diệu,
Huy Cận mới có cái antenne ấy để bắt được những sợi giây vô hình của thiên
nhiên. Thơ Xuân Diệu là vũ trụ sắc dục, charnel. Là cái mê ly, là tạo
atmosphère chỉ bằng vài câu, vài chữ.
Thơ Xuân Diệu mở đầu đột phá ngay, ào ra ngay. Nhiều vần sắc. Mãnh
liệt. Đột xuất. ào ào.
Bài Xuân không mùa. Sentir được phong cảnh. Ngồi ở hồ Tĩnh Tâm,
Huế. Có âm vang của Huế, đẹp, kín, không sắc dục lộ liễu như thơ làm ở Hà
Nội.
Mình có một bài inédit nói về vũ trụ là xác thịt: thịt là hoa hồng, máu là
hoa nhài, xương – liễu, mày – lau, mắt – hồ.
Thế đấy, thơ Xuân Diệu là thế. Frisson da thịt, sensation, antenne cảm
nhận vũ trụ da thịt, hít thở da thịt thiên nhiên. Thơ có mũi.
Anh ngừng nói, và bỗng chuyển sang phàn nàn về đời sống. Hôm ấy là
mồng một tháng chạp năm 1981. Ôi những năm 80 của thế kỉ trước! Đời sống
quá khổ cực. Mà Xuân Diệu thì quan niệm cuộc đời rất cụ thể: Đối với anh,
cuộc đời là bán một cuốn sách cũ cho đồng nát, phải giữ lại cái bìa cứng và mấy
trang giấy trắng; là ăn món gì phải tính toán vừa bổ vừa rẻ, là thịt chó, thịt lẫn
xương 4 đồng rưỡi một lạng, thịt nầm 6 đồng một lạng; là ngồi nói chuyện thơ
mà vẫn phải chú ý theo dõi con gà mái đẻ. Nó có tật ăn trứng. Thành ra nó đẻ,
nhà thơ phải nhanh tay vồ lấy...
Vì thế anh rất bực bội: “Xã hội bây giờ cứ bắt người ta làm thiên thần,
nên giờ người ta làm con vật. Bắt làm ange mãi, giờ người ta làm bête. Cách
mạng chỉ tạo ra vinh quang thôi ư? Phải ăn nữa chứ! Vinh quang trong đói
khát mãi sao!”.
Ba giờ chiều, ngày 12 – 12 – 1981, 24 Điện Biên
Trời rét. Khô ráo. Cổng ngoài nhà anh (và Huy Cận) dạo này có thêm
liếp che bên trong song sắt cho kín đáo hơn. Chỉ khoét một lỗ vuông. Cửa sổ
phía trước thấy đóng. Tưởng Xuân Diệu không có nhà, tôi bỏ đi, nhưng tính
161
toán thế nào lại quay lại và cứ đẩy cửa vào. Cửa sổ phía đông mở, nhìn vào thấy
cửa buồng không khép, biết có người ở nhà.
Tôi vào phòng, thấy Xuân Diệu đang nằm ngủ, đắp chiếc chăn len hoa.
Tôi cảm thấy phiền, muốn quay ra. Hà Vũ gọi. Xuân Diệu trả lời, giọng hơi gắt:
“Cái gì thế? Ai thế?”. Sau thấy tôi, anh vội mời vào.
Tôi nói: “Chết, anh đang ngủ, tôi không biết”
Anh nói: “Không sao, chả mấy khi Mạnh đến”
Có lẽ anh nghĩ, từ ngày anh đi Paris về, bây giờ tôi mới đến, phải có
chút gì của Paris để đãi tôi. Anh cho ăn phomát, uống rượu vang đỏ, hút thuốc
lá Mỹ, lại cà phê nữa.
Anh phàn nàn: “Cuộc sống giờ khổ cực quá. Xã hội bây giờ như nhà
không có chủ” – Anh lè lưỡi, nhắm mắt, lại lè lưỡi – Sợ quá!”
Anh khoe tập giấy ghi lời cảm ơn của những nơi anh vừa làm việc ở
Pháp, và đưa tôi xem bản chương trình làm việc ở Paris 7, Sorbonne, Nice và
một tờ báo Đoàn kết của Việt kiều.
Anh nói có một người đàn bà Pháp ở Alger tên là Francoise Roger tập
thơ Xuân Diệu như là tập Kiều. Đàn bà Pháp mà rất giỏi tiếng Việt. Bà ta lấy
một người Brasil. Bà ta cóp nhặt bốn câu thơ Xuân Diệu ở bốn bài thơ khác
nhau, rồi ghép lại thành một bài tứ tuyệt. Và vận dụng thơ Xuân Diệu vào cuộc
sống. Thí dụ: chạy vội theo tầu điện: “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ!”. Bà
ta theo hồi giáo, hôm nay ăn thịt, ngày mai ăn chay: “Anh ơi anh, em rất sợ
ngày mai”... Francoise Roger coi thơ tình Xuân Diệu hay hơn cả thơ tình
Musset.
Anh chê tập tiểu luận của Lê Đình Kỵ viết về Tố Hữu: “Huy Cận đọc
cho biết chứ tôi chưa đọc. Khen Tố Hữu thì cứ khen, việc gì phải chê Thơ mới.
Làm gì mà phải hạ nhân cách. Hàn Tín luồn khố để làm đại tướng, để làm
vương sau này. Lê Đình Kỵ buồn khố để nó cho vào Sài Gòn gần vợ à? Hay nó
không in sách cho? Anh Lý hải Châu rất tốt . Anh ấy bảo Trương Chính, trong
bài giới thiệu Tuyển tập Hoài Thanh, đã tán thành Hoài Thanh phê phán Thơ
mới. Anh ấy cắt bỏ đi. Tôi bảo anh Châu, sao anh không cứ để nguyên như thế.
Anh làm thế là anh cứu Trương Chính đấy chứ! Thơ mới không cần thế đâu. Tôi
chả dại đi bênh Thơ mới làm gì, nhưng mà tôi cứ đi bình những bài Thơ mới
hay!
Rồi anh nói tiếp vẻ bực bội: “Ta cứ có cái lối bế quan toả cảng, không
cho ai đi ra nước ngoài. Như đứa trẻ cứ bịt mãi, che mãi, da thịt nó vẫn cứ lòi
ra. Tôi còn đánh du kích Khổng Tử nhiều. Không biết nếu chỉ có nước mình mà
không có các nước khác thì ra sao? Nguy thật! Không qua tư bản chủ nghĩa,
thiệt nhiều quá! Không cho nói yêu, nói hoa lá thì đợi đến thế giới đại đồng mới
nói à? Thế trước cách mạng tháng Tám, ai nói yêu, nói hoa lá đều là sai cả à?
Là cản trở cách mạng à?”
Tôi cứ cặm cụi chép mấy bản nháp thơ của anh thời Thơ mới, anh nói:
“Mạnh hãy tạm xếp cái này lại để viết bài văn xuôi cho Tuyển tập Xuân Diệu
đã. Mà phải vay tiền Tuyển tập Nguyễn Tuân đi mà bồi dưỡng để viết - lấy
162
ngắn nuôi dài”.
Rồi anh xoay ra nói về lớp thơ trẻ: “Bọn làm thơ trẻ bây giờ ngu dốt
quá! Nó như cái ôtô lên giây cót. Hết giây cót là không chạy được nữa. Như
những cô gái tuổi dậy thì, ra vẻ lắm, oai lắm – anh khuỳnh tay, vênh mặt, làm
bộ kiêu ngạo - đến lúc có chồng, có con là thôi hết”.
Trưa ngày thứ sáu 25- 12 – 1981, 24 Điện Biên
Tôi đến Xuân Diệu để báo hoãn cuộc gặp mặt với anh vào sáng thứ bẩy
26 – 12. Cổng ngoài đóng. Nghe tiếng, anh chạy ra. Không có việc gì phải vào,
sợ mở khoá lôi thôi, tôi nói với anh một câu rồi từ biệt. Anh thò tay qua lỗ
vuông khoét vào cái phên nứa che ngoài chấn song cửa, bắt tay tôi. Anh nói: Ca
dao Khu Năm có câu:
Thương em, anh đút cái ấy qua rào,
Đút qua đút lại gai nó cào rách da
Nói xong anh cười ha hả.
Chủ nhật, ngày 31 - 1 – 1982, 24 Điện Biên.
Tôi đến khoảng 4 giờ chiều. Xuân Diệu đang làm việc ngoài sân sát cửa
sổ, trông ra cổng, dưới bóng hoàng lan. Bàn ghế làm việc bằng trúc.
Như mọi lần, anh tiếp tôi vồn vã. Tôi nói: “Anh đang làm việc, bận”.
Anh gạt đi: “Làm việc thì bao giờ mình chả làm việc”.
Tôi vào nhà. Huy Cận đang nói chuyện điện thoại ở phòng ngoài, một
lúc vào nói chuyện vụ đắm tàu chết người ở Quảng Ninh. Vớt xác khó khăn.
Người ta vớt đồ đạc, quần áo, hành lý chứ không vớt người: “Mình quá tin ở tư
tưởng thì thành thế đấy. Mình là Mácxít, coi ý thức do tồn tại quyết định, vậy
mà lại duy tâm. Duy tâm nên bây giờ chịu hậu quả, quy luật nó quật lại. Nhưng
thôi không nói chuyện buồn làm gì. Ta nói chuyện khác”.
Huy Cận đọc cho tôi nghe hai bài thơ anh mới làm.
Xuân Diệu giục tôi viết bài về văn xuôi của anh. Anh nói: “Mệt quá!
Viết khó lắm!, mệt lắm! Nhưng phải cố gắng thôi. Thời gian! Mình 67 tuổi rồi!
Trong ta có vàng, nhưng không viết thì vàng cũng không có thể khai thác
được”.
Anh lại nói kinh nghiệm rất cụ thể: “Viết mỗi trang phải chừa lề rộng.
Viết một mặt giấy thôi. Chừa lại một nửa để sau bổ sung. Không phải cứ viết
tuần tự từ đầu đến cuối. Cứ viết từng đoạn rồi lắp ráp, như chuyện cây tre trăm
đốt. Có khi cứ viết bừa đi rồi chế biến sau. Đánh thọc sâu vào hầm Đờ Cát. Một
mũi thọc sâu, bắt lấy Đờ Cát đã, rồi quay ra giải quyết bọn còn lại không khó
gì lắm”.
Anh mời tôi uống hai ba thứ rượu vang của Pháp, Hung, Bungari. và hút
thuốc lá ngoại.
Anh phàn nàn có nhiều việc không đáng phải làm mà cứ phải làm, mất
bao nhiêu thì giờ – những việc linh tinh về sinh hoạt.
Anh lại nhắc tôi phải ăn uống cho tốt. Và động viên: “Chúng mình còn
được người ta giao việc cho mà làm, thế là còn hơn nhiều người không có việc
gì mà làm”.
163
Anh chê cuốn sách của tôi viết về thơ Hồ Chủ Tịch, bữa trước tặng anh:
“Bám vào Sóng Hồng nhiều quá và sao cứ phải gò thơ Bác vào hiện thực xã hội
chủ nghĩa làm gì! Thế chỉ hiện thực xã hội chủ nghĩa mới có giá trị sao? Đã
đến lúc ai cũng phải lột trần truồng cả ra mà xem xét bình đẳng như nhau”.
Không hiểu sao câu chuyện lại xoay sang Chế Lan Viên lúc nào không
biết. Anh nói: “ Nhà văn có tri thức, có văn hoá cao là Nguyễn Đình Thi và
Huy Cận. Chế Lan Viên chỉ tài chế biến ngay những sách vở đọc được, dùng trí
thông minh mà vận dụng ngay. Chỉ có ngọn, chưa có gốc, có nền. Cứ phân tích,
xé chẻ ra, thiếu tổng hợp. Chỉ có cái gì là tổng hợp mới còn lại lâu dài.
Lối viết của Chế Lan Viên là phải dựa, phải tựa vào một cái gì đối lập,
phải phê phán, đả kích nó thì mới đưa ra cái chính diện. Không có cái gì để mà
đả thì không viết nổi.”
Anh tán thành ý kiến của tôi là cần biết thật tỉ mỉ về tiểu sử của anh. Và
anh bắt đầu thuật kể. Anh nói, bà má của anh đã có một đời chồng trước khi lấy
ông thân sinh anh. Bà là người không chịu khó làm ăn. Khi anh lên hai tuổi thì
bà cả vào. Bà cả (anh gọi là mẹ già) chịu khó làm ăn tần tảo. Má anh không ở
được, phải đưa anh về với bà ngoại ở Gò Bồi. Năm anh sáu, bẩy tuổi gì đó, bố
anh đưa anh về Quy Nhơn ở với ông và bà cả “cho khỏi hư hỏng”. Anh phải xa
má từ đó. Má anh sau tập kết ra Bắc ở với anh. Bà mất năm 1966. Bà cả sinh
con trai. Nó kém tuổi anh nhưng anh vẫn phải gọi nó là anh. Thằng “anh” nhỏ
này hơi một tý là mách mẹ nó. Nó còn đánh anh nữa. Hồi sang Pháp, phát biểu
ở Paris 7, anh nói: “Nhờ bị thằng em (thằng “anh” nhỏ) đánh mà tôi biết thông
cảm với những người bị áp bức”. Anh còn phải xách giỏ đi chợ, rất sợ gặp bọn
bạn học, nhất là con gái, con những ông Ký, ông Phán. Nhiều khi phải nép vào
hàng rào, chui vào bụi cây, nhưng không tránh thoát.
Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu được đưa vào Quốc hội. Tháng 5 –
1946, được cử vào phái đoàn Phạm Văn Đồng - đi Paris (hội nghị
Fontainebleau) kháng chiến toàn quốc, anh lên Việt Bắc, vào Ban chấp hành
Hội văn nghệ. Anh tự thấy có một cuộc thức tỉnh về quần chúng. Anh nói: “Bài
Bầm ơi! của Tố Hữu ảnh hưởng lớn tới hướng đi về thơ của mình. Bài Bầm ơi!
là một sự phát hiện về nhân dân, được viết một cách nhuần nhị. Một sự chuyển
hướng về tình cảm và về ngôn ngữ thơ. Rồi mình đi nói chuyện. Cũng là một
cách quần chúng hoá, vì phải nói sao cho quần chúng hiểu. Rồi tham gia phát
động quần chúng giảm tô ở làng Còng, Vĩnh Lộc, Thanh Hoá và làm thơ về bần
cố nông”.
Sau cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu sáng tác nhiều. Riêng thơ tình
của anh, tính cho đến lúc này là 450 bài, cộng với các loại thơ khác, phải ngót
1000 bài. Anh nói: “Nếu cần chọn một bài tâm đắc nhất, mình chọn bài Biển.
Hình ảnh biển từ nhỏ đã đi vào mình. Biển đau thương, bể khổ trong thơ ca
truyền thống và thơ Xuân Diệu. Vậy mà nay biển vui, đầy sức sống. Cách mạng
và cuộc đời đã đem lại cho mình một tâm hồn tươi mới”.
Xuân Diệu nói tiếp về những nhân tố tạo nên hồn thơ anh: “Có lý do
năng khiếu bẩm sinh. Có lý do ở sức yêu mến cuộc đời. Sống hết mình, toàn
164
thân, toàn trí, toàn tâm, toàn giác quan. Mình cảm thụ đời rất cụ thể, bằng cả
xương thịt, da, mũi, mắt, tai và hồn. Mình nói chuyện, điệu bộ, nét mặt nhăn
nhó buồn cười lắm, chụp ảnh mới biết. Nghĩa là rất cụ thể. Cả con người nói.
Toàn thân tham gia vào câu văn, không phải chỉ có ý mà cả luồng cảm xúc tràn
vào bài văn. Cho nên sáng tác là sống cao độ nhất cá nhân mình. Vì thế mình
ham sáng tác nhất, dành nhiều thì giờ cho sáng tác.
Còn có lý do cần cù học tập nữa. Mình như là bà già, cái gì cũng nhặt
nhạnh, tích luỹ. Đứa cháu đi đâu về kêu đói, bà đã có ngay cái cho cháu ăn rồi.
Do viết thư nhiều, tự phân tích mình, dần dần mình viết được văn xuôi.
Do nói chuyện nhiều, phải lập luận, phải thuyết phục, phải làm cho
người ta đồng cảm, mình viết được phê bình văn học.
Xuân Diệu tự cho là mình dại – dại mà lại thành khôn. Anh nói: “Do
yêu cuộc sống nên tôi dại. Dại mà khôn. Nghĩa là được sống có ích cho đời, cho
mình, được sống đầy đủ từng giây, từng phút của mình. Tôi ít đi tán chuyện, tán
chuyện rồi nói xấu người này, người khác. Mình cũng chẳng cao đạo gì. Để thì
giờ đọc và viết”.
Anh phàn nàn: “Cuộc sống của ta chật hẹp, gò bó quá! Con người ta
bao giờ cũng sống một cách toàn diện, họ vẫn phải ăn, ngủ, giao hợp. Mình thu
hẹp thơ tình yêu lại thì người ta sẽ chỉ có giao hợp, giao hợp, giao hợp mà
không có tinh thần nữa. Không có tình yêu giữa hai con người thì chỉ còn là
quan hệ giữa hai con vật”.
Thấy trời đã xâm xẩm, tuy muốn tiếp tục nói nữa, nhưng thông cảm với
tôi đi đường xa, anh giục tôi về kẻo muộn.
Ngày 14 – 2 – 1982, 24 Điện Biên
Trong lần gặp này, Xuân Diệu nói nhiều chuyện rất tỉ mỉ về thời thơ ấu,
thời học sinh của anh.
Anh nói: “Về tuổi thơ ấu, tôi chỉ mới nói một chút. Cần lắm. Phong phú
lắm. Tôi chưa viết hồi kí. Rất cần tự mình phân tích những kỉ niệm tuổi thơ, rất
có ích cho những thế hệ sau. Người ta sống hời hợt lắm, không sống sâu bản
thân mình, sống không có ý thức gì. Ta chỉ lo giáo dục tư tưởng. Tư tưởng là lí
trí thôi. Phải giáo dục tâm hồn, giáo dục tinh thần nhân văn, nhân bản, humain.
Tại sao chỉ nói bình thường mà vĩ đại mới quý, bình thường mà sâu cũng quý
chứ! Tôi mà chỉ được giáo dục về tư tưởng thì tôi sẽ là anh hùng, không phải là
Xuân Diệu, nhà thơ nữa.
Thời thơ ấu của tôi có biết bao nhiêu chuyện nó luyện cho cái vốn nhân
đạo, vốn yêu đời, yêu người, yêu hoa lá, biển, thiên nhiên...
Thuở bé tôi hiền lắm, chả bao giờ dám vùng lên. Cứ bị cái thằng anh
kém hai tuổi nó bắt nạt mà chịu. Tôi có thằng em ruột rất khổ, tôi đã viết trong
Phấn thông vàng. Nó lêu lổng, vagabond, bỏ nhà đi lang thang. Có một hồi đi
phu ở Tây Nguyên. Giờ nó làm báo ở Sài Gòn. Nó viết hồi ký. Giá Mạnh đọc
được thì tốt lắm, hiểu thêm thời thơ ấu của tôi. Nó sống lang thang, rách rưới
như ăn mày, nay gọi là “bụi đời”. Nó đặt tên tập hồi ký là “Gió cuốn bụi đời”,
ngờ đâu lại thành đúng nghĩa bụi đời ta vẫn dùng ngày nay.
165
Lúc nhỏ tôi ở với má ở Gò Bồi là chỗ làm nước mắm, trại làm nước
mắm của bà ngoại tôi. Sau ở với bố ở Văn Quang, cách Gò Bồi độ 10 cây số.
Thỉnh thoảng tôi có về bà ngoại. Tôi nhớ dì Bốn. Dì ấy thương tôi lắm. Trông
thấy dì ấy chắp nối những vụn nhiễu làm cái gối mà tôi thấy phong phú màu sắc
quá, rất thích.
Về sau khoảng 1939, tôi và Huy Cận có đến nhà anh Nguyễn Xuân
Khoát bói bài Tây. Anh Khoát bói cho tôi, nói số tôi luôn có “protection des
femmes” (được phụ nữ bảo hộ, bảo trợ) . Giờ tôi muốn tán phụ nữ, nịnh phụ
nữ, tôi cứ nói số tôi có “protection des femmes” .
Vì thế tôi được dì Bốn thương. Lúc dì ấy đi làm giúp cho mợ Mười tôi,
xuống đò qua sông, tôi cứ khóc gọi theo: “Dì đừng bỏ cháu đi lấy chồng!”
Thực ra có phải dì ấy đi lấy chồng đâu.
Tôi có một bà mợ, mợ Năm gì đấy cũng rất khổ. Một buổi nhà có khách,
mợ Năm ra ngoài uống nước hay ăn gì đó, thế mà bị cậu Năm mắng đuổi vào.
Mợ ấy buồn vì bị mọi người hắt hủi. Một mợ khác đẻ non rồi chết. Người ta nói
tại mợ ấy trông thấy một cái hoa chuối có trái nhưng cây lại chết nên không
thành được buồng chuối. Mợ ấy đẻ non và chết là vì thế.
Những người phụ nữ ấy gây ra ở tôi ấn tượng rất tội về nỗi khổ của
người đàn bà. Người đàn bà Việt Nam thời trước khổ lắm. Cái gương mặt của
họ nhìn thấy khó, thấy tối thế nào. Sau ngày giải phóng, tôi có về Plâycu, dì
Bốn tôi ở đó. Tôi có làm bài thơ về dì Bốn in trong Hồn tôi đôi cánh. Tôi định
làm một bài về mợ Năm, nhưng chưa làm xong.
Học xong cấp I, tôi lên Quy Nhơn học, ở nhà chú tôi. Chú tôi làm thư kí
đoan, thuê nhà ông Chín Cược. Ông Chín Cược giầu lắm. Nhà có vườn rộng.
Có cái giếng rất sâu. Có trồng thựơc dược, hoa to, cánh xoà - “Vàng tươi,
thược dược cánh hơi xoà”. Có hoa nhài bờ giếng. Đêm trăng hoa nhài rất đẹp
và thơm. Tôi như sống với những bông nhài. Tôi cũng thích hoa huệ. Huệ trong
Bình Định gọi là lan. Tôi làm thơ về hoa lan, nhành lan như vút cao, bông hoa
như chóng mặt vì ngợp. Sau vì muốn cả nước mọi miền đều thông cảm được, tôi
đổi thành hoa huệ “Nhánh vút làm cho bông huệ ngợp”. Huệ trong kia không
trồng ruộng hàng sào, bán hàng chục dò như ở Bắc.
Tôi thuở bé giỏi trèo cây lắm. Trong vườn ông Chín Cược có cây ổi,
mọc sau cái miếu, bên bờ tường đầy rêu trơn. Thế mà tôi theo một thằng bạn
tập trèo và trèo được. Trèo lên cao thấy cả một thế giới mới lạ. Có một cành ở
xa, có quả, tôi bò ra hái. Cả một thế giới mở ra với đứa trẻ. Tôi còn trèo me, lấy
được trùm me chín cho thím tôi muối và kho cá trầu, thú vị lắm.
Tôi rất mê cải lương. Hồi vào làm việc ở Mỹ Tho, tôi ở chính quê hương
của cải lương, quê của Phùng Há, Năm Phỉ. Năm 1932, cải lương ra Bắc. Một
gánh cải lương thỉnh thoảng ra diễn ở Gò Bồi, tại một cái chợ nhỏ. Mê lắm! Có
một thằng bạn, nhà hiếm, gọi là thằng Chó (tên thật của nó là Đức) rất có
duyên, hát cải lương rất hay. ở Gò Bồi, mỗi nhà có ghe bầu riêng, bán cá, bán
nước mắm. Hàng đắt là do người bán có duyên, khéo nói. Mẹ thằng Chó là
người rất có duyên.
166
Tôi cũng học hát cải lương. Có một cái gì ở trong linh hồn của điệu hát
nó rất trữ tình, rất lãng mạn. Hành vân, vọng cổ, tứ đại oán... mê lắm (Anh
dừng lại hát cho tôi nghe mấy câu tứ đại oán). Cải lương là tiếng nói của
individu, khi mới ra đời nó có cái mélancolie, một cái buồn khác cái buồn cũ.
Nó là lãng mạn chủ nghĩa, đi trước Thơ mới, Tự lực văn đoàn. Có cái đau xé.
Cái đau đúc lại, cô lại rồi xé ra. Cải lương có ảnh hưởng đến thơ tôi. Có cái xé
lòng. Đúc lại, không thèm buồn. Đúc lại trước khi nổ ra, vỡ ra.
Hồi đi học, tôi là một cây hát trong lớp. Thích hát. Ai bảo là hát ngay:
cải lương, ca Huế, sa mạc, cả hát Tây “J’ai deux amours”. Nhạc vào thơ tôi
ghê lắm. Nhạc mà vẫn giữ ý, giữ lời nói, không âm nhạc chủ nghĩa.
Tôi có một ông chú người Nghệ Tĩnh – trong Nam cũng gọi là người
Bắc – hát sa mạc, kể sa mạc, tôi mê lắm. Cứ phải lấy hai hạt thóc nhổ cho ông
năm cái râu hay năm sợi tóc sâu mới được ông hát cho nghe mấy câu sa mạc.
Nói đến đây Xuân Diệu chuyển giọng nói với tôi như là kết luận cho câu
chuyện của mình hôm ấy: “Mạnh phải tích luỹ cho mình cái vốn nhân bản. Cái
đó quyết định nội dung viết của mình. Còn kiến thức thì cứ tích luỹ, thu nhận
dần dần. Cái chính là phải có vốn nhân bản, cái humanisme, thì sẽ làm ăn được
nhiều. Đó là cái vốn để viết lâu dài.
Tôi không thích giải thích nhà văn, nhà thơ bằng môi trường. Môi
trường không quan trọng gì lắm. Cái quan trọng là khiếu bẩm sinh, cái chất
người của nhà thơ, có cần gì môi trường. Tại sao bao nhiêu người cùng môi
trường mà không phải ai cũng thành nhà thơ?”
Anh tiễn tôi ra cửa. Vừa đi vừa than phiền: “Bán óc giờ rẻ quá! Mà
không ai có tiền mua. Mà mình cũng chả có gì bán ngoài cái đó. Nhưng thôi,
mỗi người sinh ra thế nào, bản chất thế nào thì cứ thế mà sống thôi. Còn
chuyện đời, chuyện chính trị chẳng biết thế nào, mặc!”.
Ngày 24 – 5 – 1982, 24 Điện Biên
Tôi đến Xuân Diệu đúng lúc anh tiễn khách ra cổng. Anh nói với tôi:
“Nào vào mà nghe người ta khen! Nguyễn Cao Luyện khen lắm (bài Thương
tiếc nhà văn Nguyên Hồng, đăng trên báo Nhân dân).
Anh vội đưa tôi vào nhà. Anh bóc bánh bích quy. Pha cà phê. Mời thuốc
lá đầu lọc: “Người ta đến tuổi nào đấy cũng phải có lúc ung dung mà hưởng lạc
một chút chứ, ăn miếng ngon, ngắm bông hoa đẹp. Đời Nguyên Hồng chỉ là một
rêve (C’est un mauvais rêve, một ác mộng!).
Nguyên Hồng là tài và tâm. Trí thì yếu. Tác phẩm hay hơn cả là gì nhỉ?
Những ngày thơ ấu? Nguyên Hồng chết đột ngột quá - Xuân Diệu lắc đầu, lè
lưỡi.
Anh chỉ tập bản thảo viết dở trên bàn: “Mình viết văn như người bị đòi
nợ. Đến hẹn mà không có xu nào trả. Bụng rỗng không! ấy thế mà rồi cũng viết
được đấy. Tập trung suy nghĩ mãi vào một điểm rồi nó bật ra. Lúc đầu tản mạn
linh tinh, tưởng không sao viết được. Sau tập trung vào một điểm thì viết được.”
Bỗng anh chuyển sang nhận xét mấy nhà thơ đương thời như Tế Hanh,
Lưu Trọng Lư, Giang Nam: “Tế Hanh cái gì cũng có cả, nhưng chả đọng lại
167
cái gì. Như giao hợp đánh xoạch một cái, chưa kịp thấy gì, đã mặc quần áo rồi
(anh cười to). Lưu Trọng Lư tản mạn quá, rồi chạy theo tiền để nuôi vợ con.
Đời có những nhân tố rất tầm thường mà hoá ra chi phối. Do thế mà viết ẩu. Lư
yếu vì vợ đẹp, yêu cầu sinh lý cao. Lư còn sống được như thế là giỏi rồi đấy. Lư
quanh quẩn rút lại chỉ có một mô hình: hát giặm, năm tiếng có vần giữa xen
vào. Thế thôi! Khi làm thơ thất ngôn thì có thay đổi tí chút. Tế Hanh, thơ như là
cuộc đời sẵn có cái gì thì lấy luôn làm câu thơ. Thơ không có xác, có chất,
không có gia công sáng tạo gì cho sâu sắc. Paul Valéry, câu thơ có xương cốt,
đứng vững lắm. Anna de Noailles là giande poétesse, vậy mà câu thơ cũng dàn
trải, không vững chãi. Lamartine cũng thế. Nhà thơ lớn thế mà câu thơ chưa
thật kiên cố. Thơ Verlaine vững lắm. Câu chữ không sao thay thế được, không
bỏ được chữ nào. Nhà văn phải đẻ ra chữ. Câu, chữ là của mình. Mình đẻ ra
câu chữ mới là nhà văn thật sự”.
Thơ Thanh Hải còn kém hơn thơ Giang Nam. Nhưng Giang Nam ngay ở
bài hay nhất là bài Quê hương cũng không có xác. Tình yêu không có xác. Như
câu chuyện kể ra thế thôi.
Hàn Mạc Tử đúng là đẻ ra chữ. Chữ của Hàn Mạc Tử vững chắc lắm,
cứ vọt ra. Thơ Tế Hanh như thứ trạm nổi nông, loại phù điêu. Cái gì cũng có
nhưng không sâu sắc, không nổi góc cạnh, hời hợt, nông choèn, tự nhiên nhĩ
nhiên, trời đất, đời sống cho thế nào thì nói thế, không gia công đào xới, nhào
nặn.”
Anh lại trở lại chuyện đời sống và phàn nàn: “Mình cứ viết hết bài nọ
đến bài kia, luôn luôn phải ở tình trạng phải cố sức. Như hòn bi phải có sức tác
động vào mới viết được. Thành ra lại phải quay ra lo chuyện ăn. Rất mệt!
Nhưng mà rất mừng là có một số người hiểu mình: Huy Cận, Nguyễn
Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đăng Mạnh. Phải tăng cường tìm hiểu
nhau, tăng cường tri âm tri kỷ.”
Anh mời tôi uống nước, hút thuốc lá. Anh nói: “Không phải ai mình
cũng mời thế đâu!”. Anh hạ giọng: “Này chuyện tình với bạn trai ngày xưa của
mình, Mạnh có nhận xét đấy, đừng viết ra làm gì, người ta hiểu sai đi không lợi.
Mạnh thân với Hoàng Ngọc Hiến, lúc nào nói với Hiến phải giữ mồm giữ
miệng. Người ta phản ánh đến anh Tố Hữu rồi đấy. Anh Lành anh ấy biết rồi
đấy. Khéo rồi họ lại thắt lại thì chết. Bây giờ đang có chiều hướng mở ra, khá.
Trường hợp Tuyển tập Nguyễn Tuân là thế. Ta cứ lặng lẽ mà ăn, mà ngoạm
từng miếng, nhưng đừng có nhai rau ráu ồn lên làm gì. Không phải sợ, không
phải hèn đâu, nhưng mà không cần phải thế”.
Xuân Diệu lại mời tôi hút thuốc lá: “Cứ hút đi! Biết rồi đến lúc nào
mình không còn nữa để đưa thuốc lá cho mà hút”.
Anh lại giục làm việc khẩn trương lên. Cái chết nó thúc đẩy mình.
Tôi ra về. Trời mưa. Thấy tôi không có mũ, anh cho mượn cái mũ lá cũ:
“Mũ cũ nhưng đừng vất đi đấy”.
Anh lại lấy cái cặp nhựa, cặp mép cái túi xách của tôi cho khỏi ướt sách
vở bên trong: “Mình như người vợ chăm sóc chồng. Thế mới biết người đàn bà
168
là cần”.
Ngày 8 – 4 – 1983, 24 Điện Biên.
Xuân Diệu mở cổng. Tôi nói, lâu quá không gặp anh. Xuân Diệu nói:
“Mạnh mà cũng biết sốt ruột kia à? Tưởng bây giờ đang lên, không thích mình
nữa?”. Anh cười: “ấy người ta có cái ghen chẳng có fondement gì cả như thế
đấy!”.
Tôi đến Xuân Diệu sau khi gặp Lưu Công Nhân ở Sài Gòn.
Tôi hỏi: “Anh có biết Lưu Công Nhân?”.
Xuân Diệu: “Có biết, nhưng không thân thiết lắm. Thế hắn sống bằng
gì? Có mấy con?”. Tôi nói, không biết, chỉ thấy giầu lắm. Xuân Diệu: “Cậu
đúng là nhà văn lớn, không để ý cái gì cụ thể cả”.
Tôi lại nói về chuyện vừa gặp Chế Lan Viên ở Sài Gòn. Xuân Diệu nói:
“Chế Lan Viên giờ buồn lắm. Sắc sảo, thông minh, song trong quan hệ với
nhau còn phải có tình người, chứ đâu chỉ chuyện tìm tòi chân lý. Chế Lan Viên
hay lấy lý át người ta, dồn người ta vào thế bí. Người ta ít gần. Sợ. Văn tiểu
luận của Chế Lan Viên có từng đoạn sắc sảo, hay. Nhưng nhìn toàn bộ thì
không vững, xộc xệch lắm.
Anh lại quay ra nói về Thơ mới. Anh cho rằng: “ Nói Thơ mới thoát thai
từ hát nói là ngu. Thơ mới đến độ kết tinh ổn định nào đấy thì gặp hát nói. Vả
lại câu tám tiếng, câu mở rộng của hát nói vẫn khác câu tám tiếng của Thơ
mới.
Còn song thất lục bát thì là thể ngâm, réo rắt, không hợp với Thơ mới.
Thơ mới có nhu cầu kéo dài câu thơ, vì nó phong phú, tràn đầy, nó cần
nói nhiều.”
Bỗng anh quay ra phê phán Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức: “Hết thời Phan
Cự Đệ, Hà Minh Đức rồi. Họ làm xong nhiệm vụ lịch sử rồi. Đệ viết về Thơ
mới, ca ngợi Thơ mới xong, bảo nó là con đĩ. Chơi gái mãi rồi bảo nó là con đĩ.
Đệ cứ dẫn ra những câu tương tự của Thơ Pháp và Thơ mới để tỏ ra là đọc
nhiều. Kỳ thực có sự gặp gỡ tự nhiên chứ không phải bao giờ cũng là mô phỏng
- Đối chiếu thơ Bác với thơ xưa nhiều khi cũng thế.”
Huy Cận đi làm về. Anh nói với tôi: “Ta phải gặp nhau nữa chứ. Tôi
mới nói sơ sơ thôi, còn nhiều điều chưa nói (trước đây ít lâu, tôi có một cuộc trò
chuyện với Huy Cận). Anh Đệ, anh Đức là nhà phê bình officiels. Tôi đã đọc
anh viết về Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, thấy có cái gọi là suy nghĩ. Còn nhiều
người viết chẳng có giá trị gì”.
Xuân Diệu tiếp tục nói về thơ mình. Càng nói càng sôi nổi: “Xuân Diệu
là individu. Cái day dứt nhất ở Xuân Diệu là cái “moi” và “non – moi”. Và
căng cho hết mình. Làm thơ để thực hiện cái le moi của mình là Xuân Diệu.
Tình yêu thực hiện được sâu sắc nhất cái cá nhân. Tình yêu gắn với
cuộc sống vật chất, trần gian, bản năng, lại rất cá nhân trong conscience.
Xuân Diệu không làm thơ “anh anh em em”, mà thực sự làm thơ trong
phạm trù tình yêu. Xuân Diệu thách với cả thế giới về thơ tình yêu. Xưa sôi nổi
thanh niên, nay sâu lắng, suy nghĩ hơn.
169
Vấn đề thời gian trong thơ Xuân Diệu lớn lắm: day dứt nhớ lại cái phút
ấy, phút thần tiên ấy, cái chỗ ấy, cái lúc ấy trong cả cuộc đời – cái phút thật là
yêu, của phạm trù tình yêu. Về sau chỉ là nghĩa, có nhiều cái ân tình khác,
nhưng thật sự là yêu chỉ có cái phút ấy. Thơ tình là vĩnh cửu hoá cái phút ấy.”
Anh chuyển sang giọng tâm tình thân mật: “Thơ tình Xuân Diệu có một
sự trỗi dậy, sống dậy vào khoảng sau Riêng chung, tức khoảng 1961 gì đó:
“Bỗng anh xoè bàn tay ra khoe: “Đấy, mont de Vénus của mình cao thế này
(anh chỉ chỗ bàn tay gồ lên gần ngón cái). Mont de lune của mình cũng rõ, giầu
mơ mộng, rất lãng mạn (anh chỉ phía gần ngón út), còn mont de soleil là danh
vọng cũng rất nổi (anh chỉ khoảng giữa bàn tay phía giáp các ngón).
Thực ra anh người mập, bàn tay múp míp, chỗ nào chả đầy, chả mọng
lên.
Anh lại khoe nhận được một lá thư nhờ làm hộ một bài thơ tình để tặng
người yêu. Anh cười: “Làm thơ tình thuê! Giá mấy hào một bài đây! Đấy, nhu
cầu thực tế của đời sống về thơ tình là thế đấy”
Tôi nói: “Anh Tố Hữu nói làm thơ tình rất khó”.
Xuân Diệu: “Khó ở chỗ phải chân thật, phải yêu thật”.
Chiều ngày 12 – 4 - 1985, 24 Điện Biên
Thấy tôi, Xuân Diệu mừng lắm: “Vài ba tháng gặp nhau một lần là quý
rồi. Cứ đi dép cho đỡ lạnh chân”. Anh mời tôi uống cà phê, hút thuốc lá như
thường lệ. Anh nói Như Phong chết làm anh hoảng quá. Như Phong chủ quan,
tự cho là khoẻ lắm. Cái chết! Thế là từ plus infini thành moins infini.
Tôi nói Nguyên Hồng chết sớm hơn và cũng đột ngột. Xuân Diệu nói:
“Nhưng mà Nguyên Hồng chết rồi, cái văn của anh ấy vẫn còn rên rỉ. Còn Như
Phong mất là không thấy dấu vết gì nữa”.
Anh xoay ra nói về giá cả đắt đỏ mà nhuận bút thấp quá: “Nhuận bút
tập sách viết 10 năm chỉ bằng một chỉ vàng. Nhận nhuận bút mà buồn. Đi một
chuyến lại hơn là nhuận bút. Quãng Ngãi chỉ có 180 đồng một cân thịt bò. Đời
sống hơn ngoài Bắc. Trong Nam đời sống cao hơn, khí hậu dễ chịu hơn. Nhưng
mà không được quên cái gốc. Trong Nam họ suốt ngày lo kiếm tiền thôi. Sống ở
Sài Gòn không chịu nổi. Không ai biết anh là ai. Con người lọt thỏm mất hút đi
trong cái biển người mênh mông”.
Anh lại xoay ra tính toán cụ thể giá thực phẩm: 3 quả trứng gà 33 đồng,
2 quả trứng vịt lộn 18 đồng một quả, nhân 3 là 36 đồng...
Bỗng anh ngắm nhìn tôi, nhận xét: “Mạnh để tóc thế này hay hơn. Mặt
mạnh nhỏ, để tóc thế này nó ôm lấy mặt, đỡ gầy.” Tôi nói, nhiều người cũng
khen như thế. Xuân Diệu cười: “Hoá ra mình nhận xét thế mà đúng với ý kiến
mọi người, “chúng khẩu đồng từ”.
Tôi nói, hình như Nguyễn Tuân vào Quảng Nam viết một bài được trả
nhuận bút cao lắm. Xuân Diệu nói: “Đúng là Quảng Nam Đà Nẵng nó trả
Nguyễn Tuân 10.000 đồng một bài. Bài có hai trang. Không hay lắm. Nguyễn
Tuân viết khó. Bây giờ viết khó hay lắm!”
Tôi hỏi anh có nghĩ gì về khái niệm phong cách.
170
Xuân Diệu nói: “Style là bút pháp và cũng là phong cách. “Khen rằng
bút pháp đã tinh. Nghe bút pháp có vẻ nặng hơn”.
Tôi nói, phong cách có lẽ rộng nghĩa hơn, toàn diện hơn, sâu hơn. Anh
đi tra từ điển: “Style: manière. Manière d’ exprimer sa pensée. ừ, phong cách
đúng hơn”.
Anh chê Nguyễn Xuân Nam, cho là không thật, không tốt. Tôi nghĩ
bụng chắc lại là cái chuyện Xuân Nam viết về Huy Cận. Xuân Nam bị ngờ là
bới móc Huy Cận. Xuân Diệu đã nói với tôi một lần rồi. (Xuân Nam viết một
bài về Huy Cận, anh ca ngợi sự chuyển biến tiến bộ về tư tưởng của Huy Cận,
đại ý: ngày xưa Huy Cận làm thơ thường đề tặng các nhà văn trong Tự lực văn
đoàn và cả con cái họ, nay anh làm thơ tặng nhân dân lao động, như tặng một cô
thợ mỏ, một anh thợ hàn chẳng hạn... Nhưng Xuân Diệu lại hiểu là Xuân Nam
có ý nói móc, xỏ xiên người bạn của anh ngày xưa từng nịnh hót cánh Tự lực
văn đoàn (Thực ra hồi ấy, Huy Cận từng tha thiết xin vào Tự lực văn đoàn mà
không được chấp nhận)).
Anh chê Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức viết không có nội dung: “Nội dung
là tình cảm. Không có tình cảm, không có nội dung. Tôi cứ ném thia lia, bắn tin
về Phan Cự Đệ. Tôi nói với Hà Xuân Trường: Đệ làm tổng biên tập Nhà xuất
bản Văn học thì chúng tôi sẽ đánh du kích 5 năm cho phải đổ. Nói với Việt cộng
phải nói bằng cách nói của Việt cộng họ mới sợ”.
Anh đọc tôi nghe bài thơ: “Nếu anh cứ thương nhớ em thì sao”. Bài thơ
ba khổ. Khổ đầu hay.
Tôi khen bài thơ hay.
Xuân Diệu nói: “Những câu thơ như thế phải đọc cho Mạnh nghe. Mình
đọc được cho Mạnh nghe cũng thấy thích. Bài “ Hoa anh ơi!” là một lời thơ đi
suốt. Cả bài thơ là một lời đi suốt”.
Anh nhắc tôi về kẻo muộn. Đi về, ra ngoại thành, sương xuống, chắc là
thấy cô đơn, buồn. Tôi nói, có lần ở nông trường 1 – 5 Nghệ An, thấy con bò đi
một mình buổi chiều, buồn quá! Anh nói: “Con bò nó cũng thấy buồn – và thế
là nó trở thành thi sĩ, trở thành người”.
Anh tiễn tôi ra cửa, nhắc thỉnh thoảng gặp nhau. ít ra một quý một lần,
hai tháng một lần càng tốt.
Tôi nói, có lúc ngửi một mùi hương, thấy nhớ một cái gì ghê quá. Anh
nói, thế là Marcel Proust. Hương và vị nữa.
Anh hỏi tôi về kết quả cuộc chấm thi truyện ngắn tôi có tham gia. Tôi
nói không có bài thật trội. Sàn sàn cả. Anh nói chủ nghĩa xã hội chỉ tạo ra cái
moyenne trung bình, bonne moyenne, không có bon talent.
Anh nói, trong cuộc thi thơ, Lâm Thị Mỹ Dạ thắc mắc sao không có giải
A. Tôi viết một bài lôi ra có bài loại B cũng không đáng. Lạm phát thơ. 150 nhà
thơ! Sao nhiều thế! Phải dọn bớt lại.
Anh động viên tôi: “Dù sao chúng mình còn có chỗ họ mời. Có người
không được thế. Mạnh và mình giữ được vị trí do thực lực. Cần gì giám đốc,
phó giám đốc. Rồi đổ ngay ấy mà! Cứ viết cho tốt. Nghệ Tĩnh Tết vừa qua Tỉnh
171
uỷ đi thăm Minh Huệ tuy Minh Huệ chưa bằng Trần Hữu Thung. Song biết
thăm ai? Thế là họ có chuyển”.
* *
*
Từ 1966 đến 1985, năm Xuân Diệu qua đời, tính ra tôi có tới vài chục
lần được trò chuyện với Xuân Diệu. Càng tiếp xúc càng thân, và anh càng cởi
mở hơn.
Chỉ riêng năm 1985, tôi gặp anh tới 5, 6 lần.
Nhưng tôi nhớ nhất ba lần sau đây:
1. Đầu năm 1985 cũng đi với anh lên Tuyên Quang bồi dưỡng những
cây bút trẻ ở vùng núi phía Bắc. Tôi nhớ đi qua đền Hùng đúng vào dịp hội. Xe
dừng lại, các anh trong đoàn (Chính Hữu, Lê Lựu, Nguyễn Thành Long, Hữu
Thỉnh, Vương Trí Nhàn và tôi) đều có đảo lên đồi xem một lát. Riêng Xuân
Diệu không lên. Anh ngồi lại trong xe. Chắc mệt, ngại leo dốc. ở Tuyên Quang,
chúng tôi nghỉ ở nhà khách của Tỉnh uỷ. Đêm, tôi để ý thấy Xuân Diệu thở rất
nặng nhọc, lắm lúc như hộc lên. Tim có vấn đề.
2. Lần thứ hai là ngày 5 – 10 – 1985. Tôi đến mời anh nói chuyện với
lớp sinh viên đặc biệt (gọi là lớp 5C) do tôi làm chủ nhiệm. Anh giữ tôi lại, tặng
tôi cái đồng hồ.
3. Lần thứ ba là ngày 10 – 10 1985. Tôi đưa 14 sinh viên đến phòng anh
ở 24 Điện Biên để nghe anh giảng thơ.
Đây là cuộc gặp cuối cùng với anh. Hai tháng sau, anh qua đời (ngày
18- 12 – 1985)
Cả ba cuộc gặp này, tôi đều đã đưa vào mấy bài chân dung viết về anh
nên không thuật lại nữa.
Quan Hoa 5 – 12 – 2006

No comments: